Nguyễn Minh Châu!Anh thay đổi rồi
NHỮNG ĐỔI MỚI TRONG QUAN NIỆM NGHỆ THUẬT VỀ CON NGƯỜI CỦA NHÀ VĂN NGUYỄN MINH CHÂU SAU NĂM 1975
Là một nhà văn suốt đời khao khát khám phá cái đẹp và sự chân thực của đời sống, Nguyễn Minh Châu đã cống hiến hết mình cho nghệ thuật và ông có một vị trí đặc biệt quan trọng – người "tiền trạm đổi mới", "người mở đường tinh anh" cho văn học Việt Nam sau 1975.
Con đường đổi mới nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu là con đường nhiều trăn trở và nhiều trải nghiệm sâu sắc. Trước 1975, là nhà văn mặc áo lính, Nguyễn Minh Châu ý thức sâu sắc về sứ mệnh cao cả, nhiệm vụ thiêng liêng của người cầm bút trong giai đoạn khốc liệt nhất của cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước. Tâm niệm sáng tác duy nhất của ông lúc này là hướng đến cuộc chiến đấu vì sự sống còn của cả dân tộc, đất nước. Do vậy, nhà văn đã dành gần hai chục năm sung sức của cuộc đời để tìm tòi, khám phá, thành tâm và say sưa ngợi ca vẻ đẹp lung linh, kỳ ảo của cuộc sống và tâm hồn con người trong chiến tranh.
Với quan niệm nghệ thuật về con người: "Mỗi con người đều chứa đựng trong lòng những nét đẹp đẽ kỳ diệu đến nỗi cả một đời người cũng chưa đủ để nhận thức khám phá tất cả những cái đó", hành trình sáng tạo của Nguyễn Minh Châu trước 1975 là hành trình "cố gắng đi tìm cái hạt ngọc ẩn giấu trong bề sâu tâm hồn con người". Đây chính là ngọn nguồn của sự tìm tòi, lòng tin, niềm lạc quan về vẻ đẹp con người, làm nên một cảm hứng lãng mạn bay bổng của Nguyễn Minh Châu khi khắc họa hình ảnh con người trong chiến tranh. Nhân vật của Nguyễn Minh Châu trước 1975 thường là những người chiến sĩ, anh hùng. Đó là Nguyệt, Lãm trong Mảnh trăng cuối rừng, là Lữ và đồng đội của anh trong Dấu chân người lính...Trong một cảm hứng ngợi ca đặc biệt, Nguyễn Minh Châu đã xây dựng nhân vật như những con người hoàn thiện hoàn mỹ, với vẻ đẹp của lý tưởng cao cả, với tinh thần xả thân, với tâm hồn lãng mạn sáng trong không tỳ vết. Đó là Nguyệt – cô thanh niên xung phong trong Mảnh trăng cuối rừng, không chỉ dũng cảm, kiên cường mà còn có một tâm hồn tuyệt đẹp với tình yêu chung thủy, với niềm tin diệu kỳ vào tình yêu và cuộc đời. Nguyệt hiện lên rạng rỡ trong một đêm trăng thượng tuần, từ ngoại hình "mát mẻ như từ sương núi tỏa ra" đến gương mặt "tươi mát ngời lên và đẹp lạ thường", từ giọng nói bình tĩnh trong trẻo đến tâm hồn đẹp như "một sợi chỉ xanh óng ánh". Đó là Lữ và đồng đội của anh (Dấu chân người lính) với tâm hồn lãng mạn bay bổng, từng say sưa choáng ngợp trước đêm trăng huyền ảo giữa đêm Trường Sơn sau cơn mưa nhưng cũng rất mạnh mẽ khi chọn lựa sự hy sinh.
Có thể nói, con người trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu là hiện thân cho một lớp thanh niên trẻ Việt Nam, tiêu biểu cho sức thanh xuân của dân tộc. Nói như Nikulin, đó là những con người "như được bao bọc trong một bầu không khí vô trùng" mà chiến tranh dường như không thể hủy hoại nổi vẻ đẹp của họ.
Sau 1975, Nguyễn Minh Châu trăn trở tìm tòi và sáng tạo để đổi mới nghệ thuật, và ông trở thành một người tiên phong, "người mở đường tinh anh" cho một giai đoạn văn học sau 1975. Điểm xuất phát và cũng là vấn đề cốt lõi nhất cho sự đổi mới nghệ thuật ấy, chính là quan niệm về con người của Nguyễn Minh Châu. Trăn trở với số phận con người sau chiến tranh, suy tư về con người khi họ hòa nhập vào cuộc sống đời thường với những mất mát, thua thiệt, đớn đau, và nhìn con người trong muôn vàn mối quan hệ phức tạp của đời thường, Nguyễn Minh Châu đã thay đổi quan niệm nghệ thuật về con người. Có thể nhận ra sự đổi mới ấy qua một số truyện ngắn tiêu biểu của ông sau 1975.
Trước hết, tiếp tục đề tài chiến tranh, Nguyễn Minh Châu trở lại với hình ảnh người lính. Trong Cỏ lau, đó là Lực, trong Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, đó là Quỳ, là Hòa, là những đồng đội của họ. Cũng vẫn là người lính rất dũng cảm (thậm chí là anh hùng, được coi như "thánh nhân"), nhưng đã được Nguyễn Minh Châu soi chiếu ở một góc độ khác, mới mẻ hơn, sâu sắc hơn, "con người hơn", và cũng nhiều chiều hơn. Đó là người lính trong chiến đấu và cả trong cuộc sống đời thường, người lính trong chiến tranh và sau chiến tranh, trong cái biểu hiện và cả trong chiều sâu tâm linh của họ. Từ đó, họ hiện ra chân thực hơn, ám ảnh hơn, khiến chúng ta phải trăn trở hơn. Hòa (Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành) là một trung đoàn trưởng anh hùng, "một thanh niên mới hăm chín tuổi nhưng đã được giao phó nắm sinh mệnh hàng ngàn chiến sĩ", một người "dũng cảm, đứng đắn, có tài năng, đẹp trai". Anh là người tạo nên những chiến công vang dội của trung đoàn. Ngay cả sự hy sinh của anh cũng lẫm liệt, một thân thể nát nhừ vì thương tích, hai bàn tay dập nát, vậy mà ánh mắt anh vẫn điềm tĩnh lạ lùng như một ánh thép, và nụ cười bí ẩn, khó hiểu trên môi khi anh từ giã cuộc đời. Nhưng không chỉ có vậy. Nguyễn Minh Châu còn để cho Quỳ, người yêu của anh, nhìn thấy ở anh những điều rất con người. Đó là khi anh sống cùng đơn vị với Quỳ, trong cuộc sống đời thường, Quỳ nhận thấy "anh ấy cũng mừng rỡ hí hửng khi được thăng cấp", 'cũng ăn, ngủ, đi lại, cũng chăn một đàn gà riêng, đánh một cái quần xà lỏn đi phát rẫy, cũng yêu người này, nói xấu người kia sau lưng". Và đôi bàn tay cầm súng oai hùng của anh lại "có mồ hôi tay, hai bàn tay lúc nào cũng dấp dính". Đó chính là hình ảnh của một con người bình thường trong cuộc sống đời thường, cũng có những cái tốt và chưa tốt, đẹp và chưa đẹp như tất thảy mọi con người. Quỳ đi tìm ở anh hình ảnh của một "thánh nhân", nhưng làm sao có một thánh nhân khi anh vẫn phải sống như một con người bình thường? Sự vỡ mộng này của Quỳ sau này đã khiến chị day dứt, ân hận và đớn đau. Nhưng phải chăng sự vỡ mộng ấy cũng chính là sự kết thúc của một quan niệm nghệ thuật về con người của Nguyễn Minh Châu ở một giai đoạn trước 1975?
Nhân vật Quỳ là nhân vật chính. Chị bước ra từ chiến tranh với quá khứ chưa một ngày nào thôi ám ảnh. Người đàn bà ấy đã sống hết tuổi trẻ của mình trong chiến tranh, cũng đã khát khao lý tưởng, đã dũng cảm cống hiến, đã yêu và đã tin như Nguyệt (Mảnh trăng cuối rừng), như bao người tuổi trẻ khác trong chiến tranh. Nhưng Nguyễn Minh Châu còn nhìn chị ở một góc độ khác, góc độ tâm linh với một đời sống nội tâm nhiều phức tạp. Đó là những đấu tranh dằn vặt của chị trong tình yêu với Hòa. Đó là nỗi đau đớn của chị khi đọc từng dòng nhật ký của những chàng trai đã hy sinh, ở đó, họ thổ lộ tình yêu lặng thầm với chị. Đó là nỗi ân hận giày vò khi chị chứng kiến cái chết của Hậu, càng ân hận hơn khi chị biết Hậu cũng lại là một chàng trai đã âm thầm yêu thương chị. Chiều sâu nội tâm với muôn vàn cung bậc cảm xúc của Quỳ trong và sau chiến tranh chính là biểu hiện của một kiểu con người đa diện, phức tạp. Chị chân thành trong tình yêu và cũng có lỗi trong tình yêu. Chị cống hiến hết mình trong chiến tranh và chính chị cũng thấm thía tất cả cái khốc liệt của chiến tranh. Chị là người chiến thắng bước ra từ chiến tranh nhưng chính chị cũng mang bi kịch của chiến tranh. Rõ ràng, ở góc độ này, nhân vật Quỳ được xây dựng hoàn toàn không giống mô hình của nhân vật Nguyệt (Mảnh trăng cuối rừng).
Trong Cỏ lau, Nguyễn Minh Châu lại tập trung khai thác cuộc sống của người lính sau chiến tranh. Lực là một người lính dũng cảm, anh đã chiến đấu và chiến thắng trở về. Nhưng ngày trở về, anh đối diện với nấm mồ của chính mình, đối diện với một gia đình (có người cha già và người vợ yêu quý của anh) mà ở đó anh trở thành người xa lạ. Ở Cỏ lau, sự ám ảnh của chiến tranh là hình ảnh của núi Đợi với những người đàn bà ôm con chờ chồng mỏi mòn hóa đá, là bãi cỏ lau hoang sơ có sức sống man rợ, là sự thất vọng chua chát, là cảm giác cô đơn của người lính quay lại quê hương sau cuộc chiến, đã bị "chặt lìa ra khỏi cuộc đời mình". Bên cạnh Lực là Thai, người phụ nữ đã ôm giữ lấy mối tình đầu tiên của mình mà sống tiếp cuộc đời, đi qua chiến tranh loạn lạc bằng những ngày giỗ chồng đẫm nước mắt. Để cuối cùng, giữa một bên là người chồng đã trở về bằng da bằng thịt, người đã chiếm giữ trọn vẹn trái tim chị suốt cả cuộc đời giông bão, một bên là người chồng đã chung sống và có với chị cả một đoàn con, chị chơi vơi ở giữa với đớn đau tê dại.
Đó là những con người được nhìn từ một góc độ khác với Lữ (Dấu chân người lính), Lãm và Nguyệt (Mảnh trăng cuối rừng). Họ hiện lên như những số phận. Họ hiện lên như những nỗi niềm. Họ hiện lên như những nạn nhân của chiến tranh, với những vết thương rớm máu. Rõ ràng, từ cách nhìn mới về con người, Nguyễn Minh Châu đồng thời thể hiện một cách nhìn mới về hiện thực.
Không chỉ tiếp nối đề tài chiến tranh với một góc nhìn khác, Nguyễn Minh Châu còn là người đi tiên phong khám phá vùng đất mới. Đó là đời sống con người trong thời bình với những góc khuất, những chỗ ẩn mờ của nó. Chiếc thuyền ngoài xa chính là tác phẩm tiêu biểu cho cái nhìn mới này.
Dự cảm lo âu của nhà văn về thân phận con người đã thôi thúc Nguyễn Minh Châu hướng đến thông điệp: sự ngu dốt tối tăm cùng với cuộc sống lao động cực nhọc có thể dẫn đến số phận bi đát của người nông dân. Trong Chiếc thuyền ngoài xa, gia đình hàng chài chính là một bức tranh thu nhỏ cho cuộc sống ấy. Một người đàn ông vì cực nhọc mưu sinh, vì nỗi khổ đói nghèo không thể giải tỏa đã trút lên tấm lưng vợ những trận đòn như đòn thù. Một người đàn bà cam chịu không một tiếng kêu rên những trận đòn roi ấy, vẫn cương quyết từ chối con đường giải thoát cho mình bằng ly hôn. Ở đây, con người hiện lên chân thực đến trần trụi trong một cuộc sống đói nghèo tăm tối – một kiểu nhân vật chưa hề có trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu trước 1975.
Nhưng Nguyễn Minh Châu không chỉ nhìn thấy con người ở phương diện nạn nhân của đói nghèo tăm tối. Khám phá ở một tầng sâu hơn trong những bí ẩn của con người, Nguyễn Minh Châu đem đến cho ta những bất ngờ. Người chồng ấy đâu chỉ là một tội nhân. Anh ta còn là ân nhân đã đem đến cho người đàn bà thô mộc xấu xí với gương mặt rỗ vì đậu mùa ấy một gia đình mà chị ta khao khát. Anh ta vốn cũng hiền lành. Anh ta còn là người chồng, người cha đã gồng lưng chèo chống con thuyền- gia đình hàng chài- giữa biển cả khi trời yên cũng như khi biển động để nuôi sống cả đàn con. Trên vai anh ta là cả một gánh nặng mưu sinh nhọc nhằn. Và, sự gồng gánh ấy chưa hề đứt đoạn. Còn người đàn bà, tưởng như ít học, mông muội (giơ lưng chịu đòn không một tiếng kêu la), lại là một người rất thấu hiểu lẽ đời, biết cảm thông và biết hy sinh. Chị chia sẻ cùng chồng gánh nặng mưu sinh bằng cách chìa tấm lưng ra chịu những trận đòn, hiểu rằng ấy là một cách giải tỏa những ấm ức cuộc sống. Chị chắt chiu cho mình và cho con những khoảnh khắc hạnh phúc hiếm hoi và quý giá. Chị biết giữ gìn cho con một tâm hồn hướng thiện khi xin chồng đưa mình lên bờ, đến quãng vắng mà đánh. Chị lại giữ cho con một gia đình trọn vẹn, một người cha gánh vác bằng một lời cầu xin thống thiết "đừng bắt con bỏ nó". Rõ ràng, đằng sau cái vẻ xù xì thô mộc ấy là những vẻ đẹp bất ngờ của con người, như một niềm tin của Nguyễn Minh Châu vào con người và cuộc đời.
Nhìn con người đa chiều trong nhiều mọi quan hệ, trong nhiều góc độ, trong chiều sâu ẩn khuất của nó là một cái nhìn mới của Nguyễn Minh Châu sau 1975. Nó không chỉ thể hiện sự tìm tòi đổi mới không ngừng của nhà văn, nó còn thể hiện chiều sâu nhân văn trong sáng tác của ông. Nguyễn Minh Châu xứng đáng là "người mở đường tinh anh" cho văn học thời kỳ đổi mới./.
THPT Chuyên Võ Nguyên Giáp (Quảng Bình)
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top