langbiang 3.14...

CHƯƠNG 14

CÁI CHẾT ĐƯỢC BÁO TRƯỚC 

Lúc trời sẩm tối thì bọn trẻ tới một khu rừng dày với những thân cây có hình thù rất lạ. Không dám tiến vào, cả bọn quyết định ngủ ngoài bìa rừng, chờ trời sáng. 

Suku, được sự giúp sức của Kan Tô, Bolobala, Tam và Mua đã biến cái khăn quàng cổ thành một túp lều đủ rộng cho cả bọn qua đêm, mặc dù trên nóc lều vẫn rách một lỗ toang hoác, qua đó Kăply có thể ngắm những vì sao đang lấp lánh bên trên những tàng cây như những con mắt hiếu kỳ nhòm vào trong lều. 

Quá mệt nên bọn trẻ vừa nằm xuống đã ngáy vang. Tụi nó có vẻ tin chắc trùm Bastu và Balibia sẽ không quay lại khi biết Đại phù thủy Păng Sur đang quanh quẩn ở vùng này. Chỉ có Kăply là trằn trọc gần như suốt đêm. Nó nhìn mãi những ngôi sao nhấp nháy trên bầu trời đen thẫm, tự nhiên thấy nhớ nhà, nhớ làng Ke ghê gớm. Tiếng gió đi u u trên mái lều khiến nó thao thức không sao ngủ được.

Kăply không nhớ chính xác nó đã lạc đến xứ Lang Biang bao lâu rồi, nó áng chừng không đến hai tháng nhưng bao biến cố thi nhau xảy đến dồn dập khiến nó có cảm giác nó xa nhà đã lâu lắm. Hằng ngày, đầu óc nó phải căng ra để đối phó với bao nhiêu là thử thách nên nó không có thì giờ để nhớ. Tình cảm dịu dàng với Mua, tình bạn chân thành và cảm động với Êmê, K’Tub, Suku, Păng Ting, Tam, Bolobala cũng giúp nó khuây khỏa rất nhiều, đến mức có lúc nó tưởng nó là một thằng nhóc Lang Biang chính hiệu và ý định đào thoát khỏi vùng đất lạ này nhạt nhòa dần trong tâm trí nó. 

Nhưng đêm nay, nằm day qua trở lại giữa rừng vắng, nghe hơi giá lạnh tràn vào trong lều, những tình cảm của một đứa nhóc làng Ke chợt thức dậy trong lòng Kăply, từ chỗ nào đó chắc rất là sâu thẳm. Nó đoán thế và thấy lòng bồi hồi quá đỗi. Những vì sao trên bầu trời Lang Biang cũng chẳng khác gì những vì sao trên bầu trời làng Ke thân yêu của nó và điều đó làm nó nhớ da diết đến những đêm nằm ngoài đồng cỏ cùng lũ bạn chờ bắt bọ rầy. 

Kăply lo lắng không biết đến lúc nào thì những chuyện rắc rối này mới kết thúc để nó và Nguyên có thể trở về nhà. Nó cảm thấy buồn cười khi tự nhiên nó và Nguyên bị vướng vào một cuộc tranh chấp thực ra không liên quan gì đến tụi nó, vậy mà tụi nó không những mắc kẹt trong đó mà còn tham gia với tư cách những nhân vật chính - gánh trên vai sứ mạng trọng đại của cái chiến binh giữ đền gì gì đó để trở thành đối tượng luôn luôn bị phe Hắc Ám săn đuổi và truy giết cho bằng được. 

Đang vẩn vơ nghĩ ngợi, đột nhiên Kăply có cảm giác ai đang khều chân nó. Nguyên? Nó nghĩ. Thằng này đánh thức mình có chuyện gì vậy há? Hay là Mua? Ý nghĩ trong đầu nó lại xoay chuyển, lần này tim đập rộn. Hổng lẽ cô nàng rủ mình chui ra ngoài trò chuyện? Chắc cô nàng muốn bày tỏ sự hối hận về việc đã nghi ngờ mình quàng vai cô ta? Nhớ đến chuyện xảy ra ở bìa rừng trưa hôm qua, Kăply chợt điếng người: A, phải rồi, nó... 

Tiếng kêu trong đầu Kăply lập tức bật ra thành tiếng, hoàn toàn không tự chủ, nghe y như tiếng còi xe lửa:

- A... a... a... a......aaaaaaa.... 

Còn hơn bị một quả bom rơi trúng lều, tụi bạn nhảy bắn lên khỏi chỗ nằm, ruột gan trôi đi đâu mất. 

Trong ánh sáng mù mờ của bầu trời lúc tinh sương, bọn trẻ nhác thấy cánh tay ma quái của Baltalon đang vội vã trườn đi trên cỏ, thoáng chốc đã chui qua dưới mép vải bạt, chuồn ra ngoài. 

Mua nhìn Kăply ngồi bóp chân ở một góc, mồ hôi tuôn thành dòng trên trán, thấp thỏm hỏi: 

- Có sao không, K’Brêt? 

- Không... không có gì... - Kăply hổn hển - Nhưng nó làm tôi sợ quá.

Păng Ting lật đật sờ tay lên chỗ nằm, yên tâm khi chạm phải giỏ thức ăn nó vẫn dùng gối đầu. 

Kan Tô nhíu mày:

- Hổng lẽ cánh tay của Baltalon cũng biết suy nghĩ sao, Suku? 

- Em nghĩ là không, anh Kan Tô. - Suku ngước đôi mắt sáng lên nóc lều, như sợ cánh tay bất thần từ trên đó bò xuống - Hiện nay có lẽ nó chỉ quậy phá linh tinh thế thôi. 

Giọng Suku chợt chuyển sang lo lắng: 

- Nhưng nếu được thu phục và huấn luyện, nó sẽ hành động theo yêu cầu của chủ nhân... 

Những tiếng ầm ầm vang lên như sấm động chung quanh ngay lập tức nhấn chìm câu nói của thằng oắt. Cả bọn xanh mắt nhìn nhau, nỗi khiếp sợ chảy tràn ra ngoài mặt. 

- Ra ngoài xem! - Nguyên hét lên, và là đứa đầu tiên vọt ra khỏi lều. 

Bọn trẻ luống cuống chạy theo Nguyên. Ngay khi vừa ra tới bên ngoài, cả bọn điếng hồn thấy mặt đất dưới chân rung chuyển dữ dội khiến tụi nó có cảm giác như đang đứng trên một cái bàn xoay. 

Người lảo đảo, Nguyên vội vã ngồi bệt xuống đất, kéo theo cả một đám. Nhưng ngay cả ngồi cũng không vững, trong tích tắc cả bọn nằm bò ra, kinh hoàng thấy mặt đất đang đong đưa như một chiếc võng khổng lồ. 

- Gì thế này? - Êmê run rẩy - Hổng lẽ phe Hắc Ám... 

- Không phải đâu. - Suku nói, giọng đứt quãng - Đó là con... con... 

- Là con khỉ gì? - K’Tub tay bám chặt một bụi cỏ, cố gào to để át tiếng động đinh tai nhức óc đang dộng không thương tiếc vô tai tụi nó. 

- Con xatara đang ngáp. - Giọng Suku cất lên đâu đó giữa những tiếng ầm ì mỗi lúc một lớn.

Nguyên ré lên:

- Hổng lẽ khu rừng trước mặt là khu rừng tiên tri sao? 

Không ai đáp lời Nguyên, kể cả Suku vì ngay lúc đó mặt đất có vẻ nghiêng đi và bắt đầu sụp từng mảng lớn. 

Trước nguy cơ trùng trùng, bọn trẻ tự động nắm tay nhau thành một chuỗi và lăn đi theo một hướng nào đó, đau đớn và tuyệt vọng.

Tụi nó lăn như vậy một hồi lâu, trông như những bao tải bị lốc cuốn, buông tay ra lúc nào không hay và chỉ dừng lại khi không còn chỗ nào để lăn nữa: tụi nó va phải một thứ gì đó rắn đanh và lạnh ngắt mà mãi một lúc sau, khi đã hoàn hồn và cà nhắc đứng dậy tụi nó mới biết là một vách đá. 

Có lẽ chưa bao giờ bọn Kăply bị ê ẩm tang thương như lúc này, quần áo te tua, đầu cổ và chân tay trầy trụa, mặt sưng vù, môi vêu lên, thậm chí thằng K’Tub đập mặt vào đâu đó gãy mất một cái răng cửa khiến nó dở khóc dở cười khi nhìn nhỏ Mua, nhưng có lẽ cảm giác được sống sót sau cơn địa chấn kinh hoàng khiến tụi nó không thực sự cảm thấy ê chề lắm.

Bây giờ thì cả bọn biết mình đang rơi vào một thung lũng được vây bọc bởi rất nhiều núi đá. Nguyên đảo mắt nhìn quanh, hồi hộp ngắm nghía các vách đá bò chi chít những dây leo và bám đầy rêu lưu cữu khiến khung cảnh phảng phất một màu xanh đen âm u, buồn rầu và huyền bí. 

- Nhờ cơn động đất vừa rồi, chúng ta đã lăn qua khỏi khu rừng tiên tri rồi. - Suku thông báo bằng giọng không rõ là phấn khởi hay tự nhạo báng. 

Kăply xoa tay lên chỗ sưng trên trán, nhăn nhó:

- Vượt rừng theo kiểu này nhanh thì có nhanh nhưng thiệt tình anh hổng khoái chút nào hết, Suku à.

- Ê, - Tam chợt kêu lên - xem con khỉ của Suku làm gì kìa! 

Ở cách đó một quãng, con Chacha đang nhảy nhót quanh một phiến đá vuông vức, miệng kêu chí chóe như phát hiện được điều gì lý thú, trông nó có vẻ không hề hấn gì sau cơn động đất vừa rồi. Cả bọn tò mò bước lại và cả đống cặp mắt cùng trố lên khi nhìn thấy rải rác trên phiến đá những chiếc lá tròn màu đỏ lớn bằng bàn tay.

- Những chiếc lá tiên tri! - Suku reo lên. 

K’Tub tính nhảy lên nhưng sực nhớ đang bị trặc chân nên chỉ lúc lắc vai và hông, la lớn: 

- Đúng mười chiếc lá, Suku! Lạ quá há!

Trong thoáng mắt, bọn trẻ bu quanh tảng đá, mỗi đứa nhanh nhẹn nhặt một chiếc lá, háo hức như tóm lấy tương lai của mình và tò mò trố mắt dòm. Quả nhiên, đó là những chiếc lá tiên tri, trên mỗi chiếc đều có chữ. 

Kăply là đứa rùng mình đầu tiên, khi mắt nó bắt gặp dòng chữ khủng khiếp: “Trong bọn ngươi, có kẻ sẽ chết trước khi đến được núi Lưng Chừng”.

Tóc gáy dựng đứng, nó hốt hoảng quay sang Mua, tính hỏi Mua đọc thấy gì trong chiếc lá, nhưng rồi nó thấy không cần hỏi nữa: Bàn tay Mua đang run bần bật, chiếc lá rơi xuống chân, mắt cô bé đờ ra như thất thần. 

Ở bên cạnh, miệng thằng Tam há hốc, Păng Ting có vẻ đang lên cơn co giật, Êmê nhắm nghiền mắt như đang lim dim cầu nguyện và những đứa khác nếu không giống một trong ba tư thế đó thì chỉ vì tụi nó giống cả ba tư thế cùng một lúc.

- Ghê quá! - Êmê rên lên một tiếng khẽ, vẫn chưa dám mở mắt ra. 

- Em sợ quá, anh K’Brăk. - K’Tub lắp bắp, người lắc lư dữ dội như thể chỗ nó đứng vẫn còn bị ảnh hưởng bởi cái ngáp của con xatara. 

Nguyên nhíu mày nhìn Suku, giọng hoang mang: 

- Đây có đúng là chiếc lá tiên tri không, Suku? 

Suku chưa kịp đáp, Bolobala đã rầu rĩ nói, môi run run: 

- Đúng là nó rồi, anh K’Brăk. Nếu không, làm sao nó biết chúng ta đi đến núi Lưng Chừng.

Đôi mày Nguyên càng cau chặt, xếp thành một đường thẳng tắp: 

- Nhưng hổng lẽ nó nói gì cũng đúng?

Suku thở dài, ủ rũ:

- Em chưa từng nghe chuyện chiếc lá tiên tri nói sai bao giờ.

Lời xác nhận của Suku quét lên mặt cả bọn một lớp sơn trắng đến mức không đứa nào dám nhìn thẳng vào mặt đứa nào. 

Kể từ lúc đó, bầu không khí chung quanh bọn Kăply trở nên nặng nề và ảm đạm hơn bao giờ hết. Đã thế, cái chỗ mà tụi nó đang đứng khung cảnh nom đơn điệu khủng khiếp và cảm giác mà những vách đá gây nên là sự cô độc và phiền muộn đến nao lòng. Tụi nó như bị cảnh vật gieo vào đầu cái ý nghĩ rằng tụi nó đang ở một nơi vô cùng xa xôi, hoàn toàn tách biệt với mọi người, nơi sự sống có vẻ từ lâu lắm rồi đã bị cả thế giới lãng quên. 

- Đây là đâu? 

Mua chợt lên tiếng hỏi, vẻ ngơ ngác và mụ mị, không rõ hỏi ai, hay chỉ là một tiếng vọng của tâm trạng, trông nó giống như người mộng du. 

- Chúng ta đi! 

Suku trả lời Mua bằng một câu lệnh, cố tin rằng sự quyết đoán trong lúc này cần thiết hơn bất cứ một sự giải thích nào. 

Cả bọn lặng lẽ và máy móc đi theo Suku tiến về vách đá phía tay phải để rùng mình đặt chân lên một lối đi nhỏ cheo leo, cảm thấy không khí chứa đựng một điều gì đó rờn rợn như là sự chết chóc, nhất là lúc này đầu óc đứa nào cũng bị ám ảnh bởi lời tiên tri rùng rợn của những chiếc lá đỏ. 

Suku cứ làm thinh đi miết. Có vẻ như nó cố đi thật nhanh mặc dù bước nhanh trên con đường mấp mô như vậy thiệt là khó khăn, nhưng Suku vẫn lầm lì dấn bước như sợ phải tụt lại và nghe một thắc mắc mà nó không trả lời được hoặc không muốn trả lời. 

Gió trong thung lũng quất ràn rạt trên lưng tụi nó, làm lay động những đám dây leo lòa xoà trên vách đá, tạo nên những âm thanh đều đều như phát ra từ một cỗ máy xay thóc khổng lồ. 

Mặt trời lên cao dần, nắng bắt đầu bỏng rát trên vai và hơi nóng tỏa ra từ các vách đá càng lúc càng hầm hập. 

K’Tub chùi mồ hôi trên trán, làu bàu: 

- Sắp qua khỏi chỗ chết tiệt này chưa, Suku? 

- Sắp rồi.

Suku nói bừa cho bạn mình khỏi càm ràm. Thiệt sự nó cũng không biết con đường dọc vách núi này sẽ dẫn tới đâu khi mà chính nó chưa từng tới đây lần nào. 

Con đường nhỏ cuối cùng cũng kết thúc nhưng để mở ra một con đường khác, vẫn loanh quanh trong thung lũng, hai bên vẫn là những vách đá khô khốc và đen sì, sự thật đó khiến Suku méo xệch miệng còn những đứa nóng nảy như Kăply hay K’Tub phải khó nhọc hết sức để đừng phun ra một tiếng chửi bậy trước mặt tụi con gái. 

Sự mệt mỏi và chán nản in rõ trên mặt bọn trẻ, Suku thấy điều đó nhưng nó cũng chỉ có cách động viên suông: 

- Có thể đây là con đường dẫn chúng ta ra khỏi chốn này.

K’Tub nhún vai:

- Hy vọng lần này mày nói đúng, Suku. Nếu... nếu... 

Cả bọn ngạc nhiên thấy thằng K’Tub đột nhiên ngắc ngứ như bị ai nhét giẻ vô họng.

Bolobala đánh mắt sang K’Tub, thấy thằng oắt vừa ú ớ vừa sợ sệt chỉ tay ra phía trước, liền ngước nhìn. 

- Trời, trùm... trùm Hắc Ám và... Balibia! - Bolobala rên lên, chỉ muốn khuỵu chân xuống. 

Tuốt đằng xa, bên tay phải, chỗ con đường gấp khúc quanh một mô đá nhọn chìa ra từ vách núi, quả thực có hai người đang đứng quay mặt về phía bọn trẻ.

Cả hai đứng im, dáng như chờ đợi, chiếc bóng bất động của họ in lên nền trời đầy đe dọa. 

Bọn Kăply không nhìn rõ diện mạo hay cách ăn mặc của hai người này do khoảng cách quá xa nhưng tụi nó thấy không có lý do gì để không tin vào cảm giác của Bolobala. 

- Nếu trùm Bastu và Balibia chặn ở chỗ này thì tụi mình banh ta lông là cái chắc! - Kăply mặt tái nhợt, thiểu não thốt lên, giọng ai oán như đang đọc điếu văn cho cả bọn.

Trong khi tụi bạn đờ người ra vì khiếp hãi và vì không biết phải làm gì trước tình huống bất ngờ này, Suku một tay giữ chặt con Chacha đang cố giãy ra, tay kia lật đật thọc vào túi áo mò mẫm. 

Kăply hồi hộp dán mắt vào thằng oắt, thấy nó lôi ra một chiếc gương tròn, giống như thứ gương bọn con gái làng Ke vẫn bỏ trong bóp để chốc chốc lôi ra soi mặt. 

Suku giơ chiếc gương lên, quay lòng vòng bốn phía, mắt nhìn chăm chăm vào đó. Bọn trẻ đầu quay mòng mòng theo từng động tác kỳ quái của Suku, không hiểu nó định giở trò gì. 

- Gì trong đó thế, Suku? - Một lát, không kềm nổi, Kăply buột miệng hỏi. 

Thằng nhóc thõng tay xuống, thở đánh thượt: 

- Hổng có gì ở trỏng hết, anh K’Brêt. 

- Vậy chứ... - Nguyên nhướn mắt lên, nhưng rồi nó cụp ngay mắt xuống, gật gù - À, em định quan sát xem Đại phù thủy Păng Sur có ở quanh đây không chứ gì? 

Suku nhét chiếc gương vào lại trong túi, xụi lơ đáp: 

- Ờ, nhưng hổng thấy ngài đâu hết. 

- Vô ích thôi, Suku! Đâu phải thứ gương lôm côm nào cũng phản chiếu được hình ảnh bà của chị. - Păng Ting rầu rĩ - Dù sao thì bà của chị cũng không có ở đây đâu. Nếu có, chị nghĩ bà đã báo cho chị biết rồi.

Nguyên lại nơm nớp nhìn về phía trước, ngạc nhiên thấy trùm Bastu và tả hộ pháp Balibia vẫn không nhúc nhích. Có vẻ như họ biết chắc thế nào bọn Kăply cũng phải đi qua ghềnh đá họ đứng. 

- Làm sao đây, anh K’Brăk? - Êmê lại gần Nguyên, lo âu hỏi. 

Nguyên vẫn dán mắt vào hai bóng người trước mặt, thoạt đầu lời tiên tri của những chiếc lá đỏ lởn vởn trong tâm trí khiến nó hoảng sợ và lo lắng tột độ, nhưng chốc sau lòng nó lại dậy lên mối băn khoăn, cuối cùng nó bắt gặp mình đang đối diện với cảm giác giống như là nghi ngờ. Sao trùm Bastu và Balibia lại đứng bất động như thế, thậm chí không thốt một tiếng nào, nhất là khi họ biết là bọn mình đã trông thấy họ? 

Mắt vẫn không rời hai bóng người bên ghềnh đá, Nguyên khẽ nhíu mày và bất thần rảo bước xông lên trước. 

Suku sửng sốt khi thấy Nguyên vượt qua mình, chưa kịp nói gì đã nghe Nguyên hừ giọng: 

- Cứ đi theo anh, Suku. 

Êmê hớt hải:

- Anh K’Brăk... 

- Không sao đâu, Êmê. - Nguyên ngoái cổ ra sau, cố rặn một nụ cười để trấn an nhỏ bạn. 

Khoảng cách giữa bọn trẻ và hai tay tổ Hắc Ám dần dần được rút ngắn. Đến khi đã có thể trông rõ từng người, cả bọn bỗng cảm thấy ngờ ngợ. Xét hình dáng bề ngoài, họ không có vẻ gì là trùm Bastu và Balibia. Ít nhất, trùm Bastu bao giờ cũng che mặt và Balibia bao giờ cũng trọc đầu. Nhưng hai người đang chặn đường tụi nó lại không có chút gì giống như thế. 

Tuy nhiên điều làm Nguyên cảm thấy ngờ vực nhất là tư thế của họ. Họ giống như người đang đi, một chân đưa ra đằng trước, chân kia dợm nhấc lên, động tác hai tay cũng thế, nhưng họ lại không động đậy, y như hai pho tượng được tạc rất sống động.

Một ý nghĩ vụt qua đầu khiến Nguyên nghe gai ốc sởn khắp người. Và không nén được, nó hả họng ré lên: 

- A... a... a... a... aaaaaaa... 

- Gì thế, anh K’Brăk? - Bolobala hấp tấp hỏi, bụng giật thon thót. 

Những đứa khác cũng xạm hẳn mặt, trố mắt ra nhìn Nguyên, lòng đầy khiếp sợ. Chưa bao giờ tụi nó thấy Nguyên lộ vẻ kinh hoàng như vậy, tiếng thét lồng lộng kia nếu phát ra từ miệng Kăply có lẽ sẽ khiến tụi nó đỡ nhốn nháo hơn.

Thét một tràng vẫn chưa xả hết cơn sợ, Nguyên đưa tay vuốt ngực, vừa thở hổn hển vừa nhớn nhác quay sang Suku, giọng đứt quãng: 

- Có phải chúng ta... chúng ta đang ở... ở... thung lũng Plei Mo? 

Thung lũng Plei Mo, cái từ ghê rợn đó vừa rời khỏi đôi môi Nguyên, ngay lập tức biến thành một cơn bão sợ hãi. Bọn trẻ như bị sự hoảng loạn nhấn chìm, cả đống cái miệng thét lên be be như những con thú sắp bị giết thịt, trông điên dại và man rợ hết chỗ nói. 

Kăply cũng không khá hơn các bạn. Cơ thể nó gào lên hãi hùng, đầy kích động. Trùm Bastu và Balibia dù sao cũng chỉ tượng trưng cho sự chết chóc, nhưng Basil với con quái xà của hắn đối với bọn trẻ không những là thần chết mà là một thần chết có bộ mặt gớm ghiếc, ác độc và quỉ quyệt, tóm lại là một cái gì đó thật ghê tởm mà mỗi lần nghĩ đến, đứa nào cũng có cảm giác buồn nôn và ngầy ngật như phát ốm. 

Từ nãy, trong thâm tâm, Suku đã lờ mờ đoán ra chỗ tụi nó vừa rơi vào chính là thung lũng Plei Mo, sào huyệt của sứ giả thứ hai Basil. Nhưng nó cho rằng nói điều đó ra thực chẳng hay ho gì khi mà tụi bạn nó chưa kịp hoàn hồn sau trận động đất vừa rồi, đã tiếp tục bị những chiếc lá tiên tri làm cho hồn vía bay tuốt lên mây. 

Bây giờ thì Suku chẳng có lý do gì để giấu giếm nữa. Nó đưa cặp mắt buồn rầu nhìn các bạn và thở ra khe khẽ: 

- Thung lũng Plei Mo, đúng thế, anh K’Brăk à. 

Mua đưa tay bụm miệng để ngăn một tiếng nấc, giọng lạc đi:

- Như vậy đằng kia chính là hai tượng đá phải không Suku? 

Suku không trả lời nhưng vẻ mặt tiu nghỉu của nó còn hùng hồn hơn một lời xác nhận. 

Tam nhìn thằng oắt, nghe cay cay nơi mũi. Bất thần nó hét lên: 

- Tôi phải đi tìm ba tôi! 

Nhưng Nguyên đã kịp tóm lấy Tam trước khi thằng này lao đi, vất vả như chặn một chiếc xe đua phát khùng. Nó nhìn vào đôi mắt ửng đỏ của Tam, cố lấy giọng dịu dàng: 

- Tam, đằng nào tụi tao cũng tìm cách cứu ba mày mà.

- Đúng là vậy đó, Tam. Nếu không tôi đã chẳng đi theo bạn đến đây làm gì. 

Giọng nói của Bolobala cất lên, dịu dàng nhưng đầy quyết tâm, giọng của người sẵn sàng nhảy vào lửa vì trót mắc nợ quá nhiều. 

Tam đờ đẫn khép mắt lại, và trong tâm trạng rối bời, cả bọn nhìn trừng trừng vào đôi môi nhợt nhạt của nó, nghiêng tai qua một bên, sửng sốt lắng nghe những câu thơ kỳ quặc của một thi sĩ kỳ quặc đang lảm nhảm cất lên:

- Nhắm mắt, nhắm mắt 

Quay đầu, quay đầu 

Nếu muốn sống lâu 

Quay đầu, nhắm mắt... 

Vượt qua hai pho tượng ở khúc ngoặt, bọn trẻ thận trọng tiến về phía trước, hoang mang và sợ sệt.

Nhà-phát-minh Suku móc túi phát cho mỗi đứa một cặp kiếng đeo mắt gọng tròn, tròng kiếng không biết làm bằng chất liệu gì, có màu xanh nõn chuối, sờ tay vào thấy mềm mềm như sờ lên bong bóng cá. 

- Đeo kính này lên mắt, chúng ta có thể nhìn thẳng vào ánh mắt của con basilic mà không hề hấn gì. 

- Chắc không đó, mày? - K’Tub nhe răng gầm gừ, quên mất nó đang khoe răng sún và điều đó làm nó trông rất ngố. 

Suku nhún vai:

- Nếu không tin tưởng vào phát minh của tao, thầy N’Trang Long đâu có để cho tụi mình mò tới chỗ này. 

Mua lắc hai bím tóc, lo âu: 

- Nhưng sau đó thì sao, Suku? Chúng ta đối phó với con basilic bằng cách nào?

- Tất cả tập trung đánh vào đôi mắt nó. - Suku nghiêm nghị - Khi con basilic bị mù, chúng ta sẽ triệt hạ nó dễ dàng.

Cầm cặp kiếng trên tay, bọn trẻ tươi tỉnh lên được một chút, tiếp tục lê bước trên con đường đá gập ghềnh. 

Kan Tô đi sau cùng vì còn phải dìu thằng Tam lúc này vẫn còn mê man. Tam quyết đến thung lũng Plei Mo để cứu ba nó nhưng đến đây rồi thì nó hoàn toàn bị sốc. Chắc nó cảm thấy vui mừng, cảm thấy khó khăn và sợ hãi, nhiều thứ cùng một lúc và trái tim nó không chịu nổi. 

Bọn Kăply lại vượt qua hai pho tượng khác trên đường đi, một nam và một nữ, chắc là một cặp vợ chồng, chốc sau lại bắt gặp hai pho tượng giống nhau đến mức có thể tin đó là hai anh em sinh đôi, gương mặt của tất cả những pho tượng đều lộ vẻ hãi hùng, có vẻ như trước khi hóa đá họ thoáng nhìn thấy điều gì đó rất kinh khủng nhưng không kịp đối phó hay trốn chạy. 

Êmê run run hỏi, cổ họng khô rang: 

- Hổng lẽ những người này không biết đây là thung lũng Plei Mo sao, anh K’Brăk?

- Họ biết, Êmê à. - Nguyên cắn môi đáp - Tay người nào cũng cầm roi phép, gậy phép hay quạt phép, chứng tỏ họ đến đây để chiến đấu. Tiếc là họ chưa kịp làm gì đã bị ánh mắt của con basilic biến thành tượng đá. 

Nguyên dứt một sợi tóc, giọng bâng khuâng: 

- Có lẽ họ cũng như chúng ta, đến đây để cứu người thân. 

Con đường đột ngột dốc xuống và hoàn toàn không thể tin được, trước mắt bọn trẻ thình lình mở ra một khung cảnh hoàn toàn tương phản với vẻ khô khốc, âm u bên ngoài. Trên một bãi cỏ mượt và rộng, cây cối xanh um và những khóm hoa tươi tốt tạo nên một cảnh quan đẹp đẽ đến không ngờ. Như một công viên loại xịn, uốn lượn quanh co giữa màu xanh cây lá là những lối đi rải đá cuội trắng tinh và những hồ nước con con bập bềnh vô số những bông hoa tim tím. 

Nhưng bọn Kăply vừa thở ra nhẹ nhõm đã vội rùng mình hít hơi vào. Tụi nó nhanh chóng nhận ra sự chết chóc mai phục trong bức tranh tươi tắn kia khi nhác thấy vô số tượng đá rải rác trong vườn, xen lẫn giữa hoa và lá, dọc các lối đi và chung quanh các hồ nước. Những pho tượng đi và đứng, nằm và ngồi, đủ mọi tư thế, giống như một thế giới đang dạo chơi, trò chuyện, vui đùa thì vì một sự trục trặc nào đó của tạo hóa mà thời gian đột ngột ngừng trôi khiến họ vĩnh viễn đóng băng trước khi kịp chỉnh sửa tư thế cho nghiêm trang, ngay ngắn.

Cảnh quan kỳ dị trước mắt khiến bọn trẻ không rét mà run. Tụi con gái như Êmê, Mua, Bolobala và Păng Ting lật đật đưa tay ôm lấy đầu như để khỏi bị sự khiếp đảm nghiền nát. Kăply và K’Tub cố mím chặt môi, hy vọng làm như vậy răng sẽ không va vào nhau. 

Nguyên quay sang Bolobala, trấn tĩnh nói: 

- Đây có lẽ là khu vườn tượng mà ba em đã nói. 

Bolobala gật đầu, ngực phập phồng dữ dội:

- Có lẽ có ba anh Tam trong đó. 

Nguyên ngoái đầu nhìn qua vai, ra hiệu cho Bolobala im lặng bằng cách đưa một ngón tay lên miệng suỵt khẽ khi thoáng thấy Tam đang từ từ mở mắt và nhấc đầu lên khỏi vai Kan Tô. 

Trước sự chăm chú của tụi bạn, Tam dáo dác nhìn quanh, ánh sáng dần dần trở về trong mắt nó, môi mấp máy:

- Ba tôi... các bạn có thấy ba tôi...

Một tiếng sột soạt vang lên rất khẽ ngay sau lưng Kan Tô khiến cả bọn giật bắn. Chưa đứa nào kịp quay nhìn, Suku đã ré lên bằng giọng vô cùng rùng rợn: 

- Coi chừng! Đeo kiếng vào, lẹ lên!

CHƯƠNG 15

SỨ GIẢ THỨ HAI 

Như một đàn hươu cố thoát khỏi nạn cháy rừng, bọn Kăply ba chân bốn cẳng phóng vèo vèo về phía trước, đầu óc tê dại, bất chấp mặt đường mấp mô, quên cả trước mặt tụi nó là khu vườn tượng đáng sợ, vừa chạy vừa vội vã tròng kiếng vô mắt, như thể chậm một giây thì cái chết sẽ sập xuống đầu. 

Suku không thét bảo tụi bạn chạy, nhưng khi thấy tất cả hoảng loạn phóng đi, nó cũng quýnh quíu đeo kiếng vô rồi co giò chạy theo.

- Anh Tam. - Suku la lớn khi thấy Tam cùng Kăply tụt lại phía sau - Kiếng của anh nè! 

Nó lôi cái kiếng trong túi ra ném về phía Tam.

Tam quay lại, vừa chộp được cái kiếng đã vấp chân vào mô đá ngã giúi giụi. Kăply chạy phía sau, vướng chân vào Tam cũng ngã lăn theo. 

Suku đánh vội mắt ra sau, hãi hùng khi thấy một con rắn lớn, toàn thân vàng khè, đập cánh như chim ngó thiệt là quái đản, đang vun vút phóng tới, quyết liệt và hung hãn, chiếc họng đỏ như máu đang há rộng và cặp mắt trên trán nó, ngay dưới cái mào đỏ tươi như mào gà, chiếu ra những tia sáng trắng như bắn ra từ mỏ hàn. Mặc dù đã đeo cặp kiếng-chống-hóa-đá, Suku vẫn thấy ruột gan mình đang bị sự sợ hãi tóm lấy và xoắn mạnh, đau đến ngất xỉu. Nó không dám nhìn con basilic[i], nhắm mắt nhắm mũi chạy về phía Tam và Kăply, cuống quýt đỡ hai bạn dậy. 

Nhưng dường như mọi cố gắng đã trở nên quá muộn. 

Kăply vừa lồm cồm bò lên, chưa kịp dợm chân, đã nghe “phụp” một tiếng, bắp đùi nhói lên như bị một chiếc dùi nóng đâm vào, bỏng rát, lại ngã lăn ra. 

Suku chĩa tay vào con basilic, quýnh quíu hét vang, lưỡi quíu lại: 

- Giơ tay lên! À quên, bất di bất dịch! 

Suku bị cả hai câu thần chú của mình cùng lúc đánh trúng, hai tay giơ cao khỏi đầu, đôi chân hóa thành hai khúc cây, nhưng đầu óc vẫn còn tỉnh táo và miệng vẫn nói được.

- Anh Tam! Đeo kiếng vào ngay! - Nó kinh hoàng thét lên khi thấy con basilic đang quay sang chuẩn bị tấn công Tam. 

Như một cái máy, Tam vội đưa kiếng lên mắt. Thấy cái kiếng trong tay chỉ có một tròng, nó sửng sốt liếc mắt xuống, điếng hồn phát giác đó là chiếc kiếng tròn soi mặt chứ không phải kiếng đeo mắt.

- Đeo đi! - Thấy Tam chần chừ trong khi con basilic vỗ cánh phành phạch và ngóc cao đầu sắp sửa mổ xuống, Suku hét giật, hoàn toàn chưa nhận ra sự nhầm lẫn tai hại của mình. 

Nghe Suku hét, Tam lại luống cuống đưa kiếng lên, chỉ để che mặt, hoàn toàn theo bản năng, mắt nhắm tịt, phản xạ của người không đủ can đảm nhìn thẳng vào lưỡi hái của tử thần.

Tam đứng trơ ra đó, không thấy gì, không nghĩ gì, thiệt sự thì muốn nghĩ cũng không được - những ý nghĩ đã bị sự bấn loạn vắt hết khỏi đầu óc của nó rồi. Tam chỉ đứng chờ chết. 

Suku thì nghĩ Tam đã chết rồi, hoặc cũng đã hóa đá rồi. Thằng bạn nó hoàn toàn bất động. 

Nhưng rồi nó ngạc nhiên thấy Tam khẽ nhúc nhích, thoạt đầu là hai cánh tay rồi hai cẳng chân, rồi đến vai và cổ, cuối cùng he hé mắt ra. 

Trước mặt Tam, con basilic vẫn cất cao đầu, cánh xòe ra, miệng há rộng bày những chiếc răng nhọn hoắt, nhưng không hiểu sao không mổ xuống. 

Tư thế đe dọa của con rắn vipe khiến Tam vừa nhìn thấy đã lại nhắm nghiền mắt, cảm thấy xương sống trôi đâu mất, chỉ muốn sụm xuống. 

Đứng ở một góc nghiêng, lại xa hơn, tính mạng không nguy hiểm, Suku bình tĩnh hơn Tam. Nó thấy rõ ràng con basilic đã thình lình trơ ra, cứng đờ một cách kỳ lạ, rất giống một gốc bonsai được uốn khéo, điều đó khiến miệng nó há ra và nếu không cố mấp máy môi để lấy cảm giác rất có thể quai hàm nó cũng y chang quai hàm con basilic. 

Lúc Suku hét bảo thằng Tam đeo kiếng vào, bọn Nguyên, Êmê lập tức phát giác ra Suku, Kăply và Tam rớt lại phía sau. Chúng quýnh quáng quay lại, càng hoảng vía hơn khi thấy con basilic quăng mình tới trong khi Tam và Kăply đã ngã. 

Rồi một cú mổ, rồi con basilic thốt nhiên treo mình lơ lửng trên không, tụi nó chứng kiến tất cả những chuyện nghẹt thở đó như trong một cuốn phim được chiếu với tốc độ nhanh, cảm xúc không theo kịp, chính xác hơn là cảm xúc hoàn toàn tê liệt.

Vừa tới nơi, Nguyên, Mua và K’Tub cuống cuồng đâm bổ xuống chỗ Kăply, không kể gì đến con basilic có thể thức dậy bất cứ lúc nào. 

- K’Brêt!

- Anh K’Brêt! 

Kăply không trả lời, vẫn nằm sấp mặt xuống con đường hẹp, như đã ngất đi. 

Mặt méo đi vì lo lắng, Nguyên và Kan Tô lóng ngóng lật ngửa Kăply dậy và đỡ nó ngồi lên. K’Tub nhảy tưng tưng bên cạnh, mắt dán chặt vào ông anh đang mê man, rối rít lặp đi lặp lại:

- Anh K’Brêt! Anh K’Brêt! 

Nước mắt trên mặt tụi con gái đã bắt đầu chảy quanh. Trong khi Êmê, Bolobala và Păng Ting thút thít thì Mua nắm chặt tay Kăply:

- Tỉnh lại đi, K’Brêt. 

Thằng Tam, đã ra khỏi cơn hoảng hốt, bần thần cúi xuống Kăply, giọng bồn chồn:

- Bây giờ phải làm sao đi chứ! 

Như nghe thấy Tam, Kăply khẽ cựa quậy và từ từ mở mắt ra. Nó nhìn tụi bạn, cười méo mó: 

- Tụi mình còn sống hết... chớ hả? 

- A, anh K’Brêt tỉnh rồi. - K’Tub reo hò - Còn sống nhăn hết, anh K’Brêt. 

Kăply thều thào:

- Con... con basilic... 

K’Tub hào hứng:

- Hổng biết sao tự nhiên nó trơ ra như con rắn bằng gỗ... 

Bọn trẻ ngước nhìn con basilic vẫn đang vươn mình bất động trên không, đôi cánh sặc sỡ như cánh gà trống của nó khiến cả đám bất giác thót bụng lại.

- Kỳ lạ thiệt! - Tam tặc lưỡi - Đáng lẽ tao phải trơ ra mới đúng.

Nó chìa chiếc gương soi trong tay ra, mặt nhăn như bị: 

- Tụi mày coi nè. Đang lúc thập tử nhất sinh mà thằng Suku lại đưa lộn cho tao cái kiếng này, có chết không chớ! 

- A, em hiểu rồi! - Suku bất thần reo lên - Con basilic đã bị hóa đá! Nó đã tiêu tùng rồi! 

- Nó đã hóa đá? - Tam trố mắt nhìn thằng oắt.

- Đúng vậy, anh Tam! - Suku huơ tay đầy kích động - Khi nãy lúc con basilic phóng tới, em thấy anh đưa cái kiếng này lên che mặt, đúng không? 

- Ờ... ờ...

- Và anh đã quay mặt kiếng ra ngoài?

Tam gãi cổ, ngơ ngác: 

- Cái đó thì anh... không nhớ. 

- Chắc chắn là như vậy. - Suku hăng hái - Con basilic đã nhìn vào gương và bị chính ánh mắt của mình trong gương làm cho hóa đá.

Păng Ting ngẩn ngơ: 

- Có nghĩa con basilic bị hóa đá là do chính nó đã nhìn vào mắt nó? 

- Đúng là vậy đó, chị Păng Ting. - Suku cười khì khì - Không ngờ em đưa lộn kiếng cho anh Tam mà lại hóa hay!

Không đứa nào nghĩ cuộc đối đầu với con basilic lại kết thúc theo cái kiểu hổng giống ai như vậy. Tụi Êmê chưa kịp tung ra câu thần chú nào (tất nhiên là không tính hai câu thần chú lôm côm của Suku) thì con rắn vipe đã banh ta lông. 

- May thiệt tình! - Kan Tô chép miệng, tay không ngừng chùi mồ hôi trán. 

Tam ngó quanh, nơm nớp:

- Nhưng còn sứ giả thứ hai của trùm Hắc Ám. Chẳng lẽ hắn không hay con basilic đã bị ngủm?

Lời nhắc nhở của Tam khiến cả bọn nháo nhác. 

- Ờ há. - K’Tub nói, môi giần giật - Chúng ta còn chưa chạm trán với Basil.

- Ê, nhìn con basilic kìa!

Tiếng Bolobala vang lên đầy sửng sốt khiến cả bọn nhảy phắt ra sau, tim dộng binh binh. 

Con basilic trước mặt đang động đậy khiến cả đống cẳng chân run bắn. Hổng lẽ nó không bị tác động bởi ánh mắt chết chóc của chính nó như Suku suy luận? Nguyên thấp thỏm nghĩ, đầu nhẩm lại mấy câu thần chú chiến đấu thầy Haifai đã dạy, hoàn toàn thiếu tự tin.

Trước vẻ mặt căng thẳng của bọn trẻ, con basilic không ngừng biến đổi: nó ngắn dần lại từng tấc một, lớp da nứt ra từng mảng, rụng lả tả. Ở trên đầu, cái mào hóa thành những lọn tóc xanh, cặp cánh biến thành hai tay, còn chỗ lẽ ra là cái đuôi bây giờ đột nhiên xuất hiện hai cẳng chân.

Cái quái gì thế nhỉ? Nguyên nhìn chằm chằm vào sự biến dạng kỳ dị của con rắn, hoang mang nhủ bụng. Trong nháy mắt, không còn con basilic nữa, thay vào đó là một mụ già da dẻ nhăn nheo, cặp mắt ti hí với sống mũi gồ cao đang đứng trong tư thế chồm người lên như định phóng tới.

- Mụ chính là Basil. - Suku nhẹ thở ra.

Tam há hốc miệng: 

- Sứ giả thứ hai của trùm Hắc Ám đây ư?

Nguyên gật đầu đáp thay Suku:

- Mụ không nuôi con basilic nào hết, Tam à. Con basilic tác oai tác quái lâu nay là do chính mụ hóa ra.

Suku rùng mình: 

- Basil là một trong rất ít các siêu phù thủy có khả năng hóa thú. Thiệt không ngờ.

- Chào các con. - Tiếng một người đàn ông vọng tới từ rất gần, giọng vô cùng hoan hỉ - Con quái vật kinh tởm kia đã chết ngắc rồi phải không? 

Bọn trẻ giật mình quay lại, thấy hai người đàn ông đang tiến về phía tụi nó, giật mình thêm cái nữa khi nhận ra đó chính là hai pho tượng anh em sinh đôi tụi nó nhìn thấy khi nãy trên đường đi. 

- Đừng trố mắt lên như thế chớ. - Một trong hai người đàn ông tươi cười - Hổng lẽ tụi con không biết khi con basilic tiêu đời, những nạn nhân của nó sẽ trở lại bình thường sao! 

- Đúng như thế đấy. - Một cặp vợ chồng đi tới, cũng là cặp vợ chồng mà bọn trẻ đã nhìn thấy, và người vợ hân hoan bổ sung - Chúng ta đã đóng băng bao nhiêu năm nay rồi, tưởng không thể nào quay lại thế giới này nữa chớ. 

Người chồng quẹt tay lên pho tượng đá của Basil: 

- Ta biết mụ từ thời đi học. Có thể nói mụ là một phù thủy thiên tài nhưng bản chất mụ nham hiểm, rắn rết, luôn luôn bị cái Ác mê hoặc. Chính trùm Hắc Ám cũng kiêng nể mụ mấy phần. 

Chung quanh chỗ bọn trẻ chẳng mấy chốc đã đầy nhóc người. Những nạn nhân của sứ giả Basil hồi sinh cùng một lúc từ khu vườn tượng và từ vô số các lối đi, các ngóc ngách, các hẻm khuất của thung lũng Plei Mo rộng lớn, tất cả bọn họ nhanh chóng đổ ra, già trẻ trai gái, tất cả cùng gào thét, hò reo, ríu rít kêu con gọi mẹ, tay bắt mặt mừng, náo động cả một góc trời.

Giữa vô vàn tiếng hỏi han, trầm trồ chen lẫn tiếng chửi rủa và kể tội Basil, tóm lại là trong cái cảnh nhí nhố ồn ào đinh tai nhức óc đó, không đứa nào trong bọn nhìn thấy thằng Tam lẻn đi. Chỉ đến khi nó vẹt đám đông và xuất hiện với vẻ mặt tươi roi rói bên cạnh một người đàn ông mặt mày thanh tú và xanh xao giống hệt nó, tụi bạn mới biết là nó đi tìm ba nó. 

- Đây là ba tôi. - Tam chỉ tay vào ba nó, giới thiệu, mặc dù nó biết là tụi bạn đã biết thừa. Đang nói, Tam bỗng rơm rớm nước mắt - Tôi không biết nói gì để cảm ơn... cảm ơn...

Kan Tô cúi đầu chào ba thằng Tam rồi quay sang nó, mỉm cười: 

- Mày lớn tồng ngồng rồi, Tam à. Nín đi!

Bolobala đặt tay lên tay Tam: 

- Chúc mừng bạn. Đúng ra thì chính tôi phải cảm ơn bạn về những ngày qua... 

Ba thằng Tam trìu mến nhìn bọn trẻ, giọng rưng rưng: 

- Bác và những người ở đây có lẽ không tìm thấy từ ngữ nào đủ đẹp đẽ để diễn tả sự cảm kích to lớn trong lòng mình. Tụi con đã làm được một chuyện vĩ đại hơn bất cứ chuyện vĩ đại nào từ trước tới nay, phải nói là một chuyện không tin được... 

Ba thằng Tam có lẽ là một người nói nhiều, càng xúc động càng hăng nói. Có vẻ như ông sẽ tiếp tục thao thao đến đứt hơi chỉ để diễn tả cái điều mà người khác chỉ nói gọn trong hai tiếng “cảm ơn” nếu như ánh mắt ông không nhác thấy Kăply đang lả người trong tay Nguyên lúc này vẫn còn ngồi bệt dưới đất. 

- Úy. - Ông tròn xoe mắt - Bạn con bị làm sao vậy, Tam?

Bọn trẻ lập tức cúi xuống Kăply, bây giờ tụi nó mới thấy bạn mình mặt mày nhợt ra như xác chết, mắt khép chặt, còn Suku đang hí hoáy hút nọc rắn chỗ bắp đùi thằng này bằng một cái túi lông cừu, với con Chacha đang thập thò nghiêng ngó sau lưng.

- Bạn con bị con basilic mổ trúng, ba à. - Tam ngước nhìn ba nó. 

- Ôi, - Đôi mắt chợt tối sầm, ba thằng Tam sợ hãi kêu lên - theo như ba biết, nọc của con basilic thuộc loại cực độc. Thậm chí độc nhất trong các loại độc. 

- Là sao hả ba? - Tam ré lên thất thanh - Hổng lẽ... 

- Con rắn vipe này hiếm khi sử dụng đến nọc độc của mình. - Ba thằng Tam nói giọng run run, cố không nhìn thẳng vào mắt con trai - Ánh mắt của nó quá đủ để đem lại sự hủy diệt rồi. Nhưng xưa nay những ai chẳng may bị nó mổ trúng sẽ không sống quá một ngày.

- Không có cách nào cứu chữa sao ba? - Tam nhìn ba nó trừng trừng như ngăn không cho ông gật đầu.

- Có lẽ là không có cách nào. - Êmê liếc nhìn Kăply, mếu máo nói - Mình nhớ rồi, Tam. Năm ngoái lúc học môn Độc dược, tụi mình nghe cô Kemli Trinh nói trên đời có ba loại độc không có thuốc giải... 

- Em cũng nhớ rồi, chị Êmê. - Păng Ting sụt sịt, mắt ầng ậng nước - Đó là quả của cây hiến sinh vốn do oan hồn của các ma cà rồng bị xử tử hóa thành, nọc độc chứa trong móng của con rồng Ouroboros đang canh giữ những quả táo vàng trên núi Lưng Chừng và nọc độc của loài rắn vipe. 

- Suku. - Nguyên đang đỡ lưng Kăply, chợt nhớ ra, ngẩng nhìn thằng oắt - Em có đọc qua sách Y tông bao giờ chưa?

- Có, anh K’Brêt. - Suku nói mà không nhìn Nguyên, giọng rầu rầu, mắt vẫn theo dõi nét mặt cứng như gỗ của Kăply - Nhưng ngay cả NHỮNG TRANG ĐEN vốn hướng dẫn cách chữa bệnh bằng phép hủy thân cũng không đề cập đến trường hợp này. 

Suku thở hắt một cái rồi lại câm nín chà túi lông cừu lên vết thương của Kăply, không buồn hất những lọn tóc đang lăm le chích vào mắt như thường lệ. 

Ngồi đằng sau Êmê, Mua trông như kẻ thất thần. Nó không khóc nhưng mắt nhìn chằm chằm vào một điểm vô hình nào đó trước mặt, luôn mồm lẩm bẩm: 

- Không thể nào... không thể nào... 

Chỉ khi Suku reo lên: 

- Anh K’Brêt tỉnh rồi! Tỉnh rồi! 

Nó mới choàng tỉnh, quay phắt lại và gần như đổ ập lên người Êmê, rối rít:

- K’Brêt! K’Brêt! 

Kăply từ từ mở mắt trong vòng tay Nguyên. Mọi thứ trước mắt nó lúc này chập chờn như trong một giấc mơ. Phải định thần một lúc Kăply mới lờ mờ nhận ra từng gương mặt thân quen. Hình ảnh đầu tiên đập vô mắt nó là hai bím tóc của Mua. 

Kăply nở một nụ cười héo hắt: 

- Mua... 

K’Tub chụp tay Kăply:

- Anh K’Brêt! Em nè!

Kăply mệt mỏi đưa mắt sang thằng nhóc, thều thào:

- K’Tub... 

- Anh thấy trong người thế nào, anh K’Brêt? - Êmê rền rĩ hỏi. 

Kăply khẽ nhắm mắt lại, giọng rời rạc: 

- Ruột gan... và trái tim anh... đang nóng như lửa, Êmê à. Tất cả... sắp cháy thành than rồi. 

- Không! Không, K’Brêt! - Mua ré lên, trông nó có vẻ sắp hóa rồ - Sẽ không có việc gì xảy ra với bạn hết!

- Tôi biết tôi sắp chết mà. - Kăply mấp máy môi, cố cựa quậy đầu nhưng bất lực - Chiếc lá tiên tri đã nói rồi...

- Chiếc lá tiên tri nói sai! - Mua đấm tay thình thịch lên lưng Êmê - Nó nói sai rồi! Nó nói sai! 

Cứ mỗi câu, Mua đấm một cái nhưng Êmê vẫn thừ người ra như không hề thấy đau, thậm chí không hề hay biết.

- Nó không nói sai đâu, Mua. - Kăply gắng gượng mở mắt ra, cảm thấy hai mí mắt nặng như chì - Tôi không phải là người bạo dạn... nhưng Mua yên tâm đi, tôi không sợ chết. Ờ, trước đây thì tôi có sợ... nhưng lúc này thì tôi không sợ nữa. Tôi cũng không hối hận. Bạn biết... tôi ghét phe Hắc Ám mà, Mua. 

Kăply dừng lại thở dốc, có thể thấy ngực nó nhô lên hụp xuống gấp gáp và nặng nhọc. 

Mua rơm rớm nước mắt: - Bạn nghỉ ngơi đi. Đừng nói nhiều...

Kăply hít vô một hơi, tay khẽ phác một cử chỉ mơ hồ như phản đối:

- Tôi phải nói, Mua à. Kẻo không còn kịp nữa. Tôi muốn nói là tôi tiếc có mỗi một điều là đã không đưa Mua đi thăm được làng Ke... 

- Bạn nói gì thế, K’Brêt? - Mua chồm xuống thêm một chút nữa để mặt nó sát mặt Kăply

- Làng Ke nào? - Làng Ke là quê tôi. Làng Ke nghèo nàn nhưng thật là xinh đẹp, Mua à... Ở đó tôi có ông bà, ba mẹ, thầy giáo và rất nhiều bạn bè... Có vườn rau, có lũy tre... Có sông và suối nữa. 

Kăply nói, đều đều và đứt quãng nhưng cả bọn đều nghe rõ và dĩ nhiên trừ Nguyên ra, không đứa nào hiểu nó nói gì. 

Nguyên ngước bộ mặt buồn bã nhìn tụi bạn, chép miệng nói:

- K’Brêt đã mê sảng rồi.

- Còn mày, Nguyên à. - Kăply tiếp tục lảm nhảm, mắt khép hờ - Tao nghĩ cuối cùng mày và các bạn cũng sẽ chiến thắng được trùm Bastu, đem lại yên bình cho xứ Lang Biang... 

- Ờ. - Nguyên rầu rĩ đáp, tay vuốt ve vai bạn.

- Mày biết lúc này tao đang nhớ gì không Nguyên? - Không đợi Nguyên hỏi lại, Kăply mở bừng mắt ra, long lanh nhìn bạn. Như có một nguồn năng lực vô hình vừa trút vào người nó, Kăply hổn hển tuôn một hơi - Lúc này tao đang nhớ da diết ngôi nhà của tao. Tao nhớ từng bụi cây, từng viên gạch. Tao nhớ từng đồ vật trong nhà tao, Nguyên à... Tao biết mẹ tao cất thức ăn gì ở đâu... Tao còn biết ba tao giấu cây roi ở chỗ nào. Tao biết nhưng tao không cần phải liệng đi. Cần gì liệng cây roi đi, phải không Nguyên? Hễ ba tao cầm cây roi lên là tao chạy. Hì hì, tao chạy qua trốn bên nhà mày...

Đang nói, Kăply bỗng thốt lên một tiếng gì như tiếng nấc, ngực đột ngột xẹp đi. Tụi bạn đều thấy nó cố nhướn mắt lên mà không được, miệng phều phào: 

- Tao chết rồi... mày nhớ đem xác tao về làng Ke nha... Mày hứa đi, Nguyên! 

- Tao hứa. - Nguyên đáp mà nước mắt chảy dài xuống cằm, nhỏ tong tong trên mặt Kăply.

Không rõ có nghe thấy lời hứa của bạn hay không mà trên môi Kăply phảng phất một nụ cười mơ hồ. Đó có lẽ là nụ cười cuối cùng Kăply dành cho đám bạn thân yêu của nó. Sau khoảnh khắc đó, nó bất thần gục hẳn đầu xuống, cằm tì lên ngực và ở tư thế đó, nó lặng lẽ đi vào thế giới mà nó chưa biết nhưng chắc là rất âm u và lạnh lẽo.

- K’Brêt! K’Brêt! - Mua nhào hẳn xuống, hai tay bưng lấy mặt Kăply, khóc nấc. 

Như nghe pháo hiệu, cả bọn lăn ra khóc như mưa như gió. Những cõi lòng dậy sóng nhưng cố nén, bây giờ như bị vỡ đê, òa ra thảm thiết và tức tưởi.

- Trời ơi! - K’Tub vừa gào lên vừa đấm ngực binh binh.

Ngay cả Nguyên, đứa cứng rắn và giỏi kềm chế nhất trong bọn, cũng như kẻ mất hồn. Nó ôm chặt xác Kăply, cắn môi bật máu, cố nuốt tiếng khóc vào ngực, nhưng như thế nó càng có vẻ như sắp ngất đi.

Ở tảng đá xa xa, con Chacha ngồi thu lu một đống, không nhảy nhót, cũng không khọt khẹt. Trông nó như một con khỉ đá. 

Đám đông lúc này bu đông nghẹt chung quanh bọn trẻ. Họ đứng vòng trong vòng ngoài, tò mò hỏi ba thằng Tam chuyện gì đã xảy ra và khi nghe ông giải thích, những bộ mặt liền thuỗn ra. Có thể đọc thấy tâm trạng của họ qua vẻ xúc động bùi ngùi, nhiều người không giấu vẻ thương tâm trong khi những người khác lắc đầu bất lực. Có không ít siêu phù thủy trong số họ nhưng khi nghĩ đến nọc độc của con basilic, mặt ai nấy bất giác se lại.

Trên cái nền của những tiếng rì rầm bàn tán nghe giống như một điệu nhạc tang đơn điệu và ảo não, Nguyên vẫn gục đầu trên xác bạn, trông nó lúc này cũng rất giống một xác chết, vai thõng xuống, lưng cong vòng và những nét nhàu trên mặt nó hằn sâu đến mức tưởng như có thể sờ được.

Những đứa bạn nó cũng có vẻ không tha thiết gì đến cuộc hành trình dang dở. Cái chết bất ngờ của Kăply khiến tụi nó đột ngột cảm thấy chuyến đi như mất hết ý nghĩa, thậm chí cuộc sống cũng trở nên trống vắng và cực kỳ tẻ nhạt. Ngồi chầu chung quanh thân thể bất động của Kăply, bọn trẻ nấc những tiếng nấc cuối cùng và đưa những cặp mắt đã tắt hết ánh sáng nhìn đi đâu đó, và thiệt khó mà nói nhìn đi đâu. 

Cuối cùng, Nguyên vẫn là người đầu tiên thoát ra ngoài rìa của cơn mụ mị. Nó xốc Kăply trên tay, nặng nhọc đứng lên và buồn bã đưa mắt nhìn những gương mặt vô hồn của tụi bạn, cắn môi nói: 

- Chúng ta đi! 

- Đi ư? - Mua đờ đẫn ngước nhìn Nguyên, giọng ngơ ngác như người mộng du - Đi đâu, K’Brăk? 

Nguyên cười khổ:

- Chúng ta tiếp tục đi đến núi Lưng Chừng, Mua à. 

- Đi đến núi Lưng Chừng ư? Để làm gì? - Mua rên lên, đau đớn. 

Suku đưa tay quẹt nước mắt: 

- Sao lại để làm gì, chị Mua! Đó là ước nguyện của anh K’Brêt mà.

- Ờ, vậy thì đi.

Mua đáp, thờ ơ và máy móc, vẫn chưa tỉnh trí và lồm cồm đứng lên. 

Những đứa khác cũng cố nhấc mình khỏi nỗi đau, lục tục nhỏm dậy. 

Nguyên ẵm Kăply trên tay thất thểu đi trước, tụi bạn nó và con Chacha sắp hàng một lủi thủi theo sau, sau nữa là hàng người rồng rắn nối đuôi, tất cả như một đám tang, nghiêm trang và lặng lẽ xuôi theo con đường dốc đổ xuống công viên xanh của thung lũng Plei Mo. 

Nguyên lầm lũi lê bước, thỉnh thoảng đưa tay vuốt mắt bạn, lòng đau như cắt. Nó không bao giờ nghĩ rằng có ngày Kăply sẽ vĩnh viễn chia tay nó, lại trong một hoàn cảnh như thế này. Tuy không nói ra miệng như Kăply, nhưng ngày nào Nguyên cũng nhớ về làng Ke. Đêm đêm, nó luôn luôn thấy ngôi làng thân yêu của nó hiện ra trong giấc mơ. Nó gặp lại những người thân, bạn bè và sung sướng trò chuyện với họ. 

Thực lòng thì Nguyên không tin là tụi nó sẽ mãi mãi ở lại xứ Lang Biang này, mặc dù càng ngày nó càng yêu quí và cảm thấy gắn bó với con người ở đây. Nó yêu Êmê, Păng Ting, Suku, K’Tub và đám bạn trên trường, kể cả những đứa như thằng Steng cũng gây cho nó nhiều thiện cảm. Nó yêu bà Êmô tốt bụng, yêu tình cảm và cách xử sự của bà mà theo nó thì giống hệt những bà mẹ ở làng Ke của nó, yêu thằng Đam Pao nhiều chuyện, con Chơleng ít lời. Nó yêu thầy N’Trang Long thông thái và hóm hỉnh, yêu thầy Haifai, cả người-vợ-hai-trong-một của thầy, yêu cô Kemli Trinh, thậm chí cả mụ Gian và lão Chu nó cũng không thấy có lý do gì để nó không yêu. Nó cũng yêu lão Alibaba tội nghiệp lẫn gã tài xế Mustafa nhát như cáy của lão. Và cả thám tử Eakar nữa, máy móc nhưng rõ ràng là người tốt... 

Nhưng dù vậy nó vẫn nghĩ nó và Kăply sớm muộn gì cũng sẽ trở về làng Ke. Khi nó và Kăply đột ngột trở về, cả làng sẽ vui mừng và đón tiếp tưng bừng ra sao há? Nó thường cố hình dung cảnh đó trong đầu bằng cách tưởng tượng một hình ảnh thật hoành tráng rồi xóa đi để sau đó dựng lên một cảnh ít hoành tráng hơn nhưng theo nó là cảm động hơn rồi sốt ruột mong đến ngày trở về để xem cảnh đó diễn ra có đúng như nó nghĩ không. 

Nhưng bây giờ thì Nguyên đâm sợ hãi khi nghĩ đến chuyện quay về làng. Nó sợ mẹ của Kăply sẽ không chịu đựng nổi khi thấy nó lếch thếch quay về với cái xác lạnh giá của con bà trên tay. Mà nếu Kăply chết rồi thì mình còn quay về làm gì nữa? Nguyên lẩn thẩn nghĩ, nước mắt lại ứa ra.

- Rẽ phải, các con. - Tiếng một người đàn ông nói - Rẽ phải là ra khỏi cái thung lũng thổ tả này.

Nguyên không biết đó là tiếng nói của ai, cứ theo âm thanh lăn tăn trong tai mà liêu xiêu quẹo sang con đường nhỏ kế hồ nước phủ đầy hoa tím. 

Đầu óc trống rỗng, nó cũng không nhớ là nó đã ra khỏi thung lũng Plei Mo như thế nào, chỉ biết khi ngẩng đầu nhìn lên, nó ngẩn ngơ thấy bầu trời như thấp xuống, những đám mây xỉn màu vì phản chiếu những vách đá đen bên dưới và nó như nghe rõ tiếng nước réo ùng ục trong bụng những đám mây. 

Lát sau thì mưa xuống.

CHƯƠNG 16

CHIẾC MẶT NẠ THẦN HỘ MỆNH 

Mưa rất lớn, chẳng mấy chốc làm xuất hiện những con suối nhỏ róc rách giữa các khe đá. Nhưng bất chấp mưa quất rát mặt rát mày, đám người hồi sinh từ những pho tượng vẫn nôn nao trở về nhà. Một số độn thổ, số khác đi bằng chổi bay, còn một số đông hơn sẵn sàng rảo bước trong mưa để được xúc động nhìn ngắm cảnh vật dọc đường đi. 

Ba thằng Tam kéo tay nó: 

- Về thôi, con. 

- Ba về trước đi. - Tam gỡ tay khỏi tay ba nó - Con phải đi cùng các bạn. 

Nguyên quay nhìn Tam, nghiêm mặt: 

- Mày về đi, Tam.

- Không. - Tam nghiến răng - Tao không về. 

- Nhưng tao không muốn mày đi theo. Cả Kan Tô, Bolobala và Mua nữa. Tất cả về hết đi! 

- Bạn nỡ đuổi tôi sao, K’Brăk? - Mua mếu xệch miệng, mắt đã ngân ngấn nước.

- Ờ. - Nguyên sầm mặt - Các bạn đi theo chỉ tổ vướng chân vướng tay. Về đi! 

Như bị đấm vào mặt, tụi thằng Tam ngẩn người ra. Tụi nó không bao giờ nghĩ Nguyên có thể nặng lời với tụi nó như vậy. Ngay cả đám Suku, Păng Ting, Êmê và K’Tub cũng hết sức ngỡ ngàng. Chắc K’Brăk quá đau thương trước cái chết của đứa em họ nên phát khùng rồi! Păng Ting buồn rầu nghĩ, không biết phải can thiệp như thế nào cho Nguyên đừng làm ầm lên. 

- Đi đi! - Nguyên quát lên khi thấy tụi thằng Tam vẫn đứng đực ra đó - Tôi không muốn nhìn thấy một ai trong các bạn nữa! 

- Vậy thì về thôi, con. - Ba thằng Tam dịu giọng nói với con trai và ông lại nắm lấy cánh tay đang run bần bật của nó. 

Mặt Tam tím bầm, nó nói, giọng lẩy bẩy:

- Về thì về! Mày đừng quên là do mày đuổi tao đó nha, K’Brăk.

- Anh K’Brăk, anh làm gì vậy? - K’Tub kêu lên.

- Anh làm gì mặc anh, K’Tub. - Nguyên nhếch mép nhìn K’Tub qua khóe mắt - Nếu em muốn thì em cũng có thể về luôn. Nói thiệt thì anh đâu có cần em trong chuyến đi này. 

Trong một giây, K’Tub có cảm giác Nguyên đang ném vào đầu nó cả chục mũi tên tẩm thuốc độc - thứ thuốc độc được pha chế từ sự hằn học mù quáng, không thể nào hiểu nổi. Nó giật lùi liên tiếp hai, ba bước, giương mắt ra nhìn Nguyên, miệng há hốc:

- Anh vừa nói gì vậy, anh K’Brăk? 

Nguyên lạnh lùng: 

- Anh nói là anh không cần em, K’Tub. Nếu tiếp tục đi theo, em sẽ là một gánh nặng cho anh. 

Mặt K’Tub như bị ai kéo lệch đi. Nó đã toan nhảy bắn lên nhưng trong tích tắc cuối cùng, nó ghìm người lại được, giọng đột nhiên ráo hoảnh: 

- Được lắm! Em về đây, chúc anh đi đường bình an nha! 

Nói vừa dứt câu, K’Tub xoay lưng đi thẳng một mạch. Phía sau, hai cha con thằng Tam ngần ngừ một thoáng rồi quay mình lẽo đẽo đi theo. Mua và Bolobala cũng lần lượt bỏ đi sau khi ném cho Nguyên một cái nhìn phiền muộn. Cuối cùng là Kan Tô. Trước sau nó tuyệt nhiên không hé môi, chỉ khẽ lắc đầu rồi gượng gạo lê bước theo những kẻ thất sủng.

- Chậc. - Păng Ting nhún vai khi tụi thằng Tam đã khuất sau bụi cây xanh - Cứ như địa ngục vừa trút lên đầu mình. 

Nó nhìn Nguyên, cay đắng:

- Tại sao anh lại thổi phồng cơn giận lên một cách quá đáng như vậy, anh K’Brăk? Hổng lẽ anh muốn bạn bè phải học cách coi anh là người tính khí thất thường? 

- Anh phải làm như vậy, Păng Ting à. - Nguyên cúi xuống cái xác Kăply đang dần trĩu nặng trên tay, giọng buồn rười rượi - Một người bỏ mạng đối với anh đã quá đủ rồi. Nếu có một ai đó ngã xuống nữa, trái tim anh sẽ không chịu đựng nổi. 

Cơn bão trong lòng Păng Ting lập tức nguội ngắt. Nó ngơ ngác nhìn Nguyên, giọng xúc động: 

- Anh K’Brăk... 

- Đi thôi! - Nguyên chép miệng - Anh hy vọng bạn bè sẽ hiểu ra và tha thứ cho anh... 

Nhưng Nguyên vừa cất bước đã phải đứng khựng lại.

- Tụi tao đã tha thứ cho mày rồi, K’Brăk. 

Tiếng thằng Tam thình lình vọng ra từ sau một bụi cây và liền theo câu nói, nó cùng Bolobala, Mua, Kan Tô và K’Tub lơn tơn vạch lá chui ra. 

- Hì hì, anh K’Brăk. - K’Tub khoe bộ mặt tươi hơn hớn - Thoạt đầu thì em tức sôi thiệt, nhưng rồi cảm thấy hành động của anh phi lý quá, em chợt nghĩ hay là anh cố tình giăng một cái bẫy... 

Tới lượt mặt Nguyên biến dạng. Sự thất bại trong việc cố gắng tạo ra một hình ảnh khó ưa trước mắt tụi bạn làm mặt nó nhăn nhúm như một tờ giấy bị ai vò. Nó nhìn Tam, méo mó hỏi: 

- Ba mày đâu rồi?

- Ba tao về trước rồi. - Tam nhe răng cười - Ổng nhớ mẹ tao. 

- Mày ở lại, ba mày không nói gì à? 

- Có. Ba tao có nói một câu. Ổng bảo: Con ở lại là đúng rồi! Bạn con chỉ làm bộ thế thôi!

Khi trời tạnh, bầu trời trong xanh và cao lên. Bọn trẻ tiếp tục đi về hướng Tây theo hướng dẫn của Suku. Thằng oắt chỉ nói ngắn gọn:

- Chúng ta sắp đến hồ Ma. 

Hồ Ma, cái địa danh thật là rùng rợn. Nếu Kăply còn sống, chắc thế nào nó cũng ré lên. Nguyên bùi ngùi nghĩ, thấy không còn sợ nữa. Khi quá đau khổ, người ta không còn sợ hãi. Nguyên ngoái nhìn ra sau, thấy tụi bạn tỉnh khô, đoán tụi nó đã chai lì cảm xúc, giống như mình. 

Nhưng bọn trẻ không thể đến được hồ Ma ngay. Vừa leo lên một con dốc, tụi nó đã giật bắn mình khi thấy một bóng người đứng lù lù trên đỉnh dốc từ hồi nào, như chờ đợi tụi nó. 

- Đi tới nữa không, Suku? - Êmê chột dạ hỏi.

- Cứ đi! - Nguyên nói, giọng lì lì - Nếu tai họa đã tới thì không thể tránh được đâu. 

Nói xong, Nguyên ôm chặt Kăply vào ngực, mím môi vượt lên trước.

Đi thêm khoảng mười mét, Nguyên đã nhận ra người cản đường là một lão già hom hem, ốm nhom ốm nhách, mặt mày nhàu nhò như mớ giẻ cũ. 

- Sứ giả Badd! 

Nguyên lẩm bẩm, chẳng hề kinh hãi, đến mức chính nó cũng ngạc nhiên về sự bình thản của mình. 

Sứ giả thứ nhất của phe Hắc Ám không buồn nhìn bọn trẻ. Ánh mắt của lão dán chặt vào cái xác của Kăply, những thớ thịt trên mặt giần giật: 

- Thằng nhóc bị làm sao thế? 

Nguyên thở hắt ra: 

- Nó chết rồi. 

- Chết? - Badd la lên, bàng hoàng - Ngươi đừng có giỡn chơi à nha! 

Lão hỏi giống như quát vào mặt Nguyên, giọng cất cao một cách bất thường:

- Làm sao mà thằng nhóc chết được? Theo ta biết thì mụ Basil đã hóa đá rồi kia mà?

Nguyên cúi nhìn gương mặt trắng bệch của Kăply, ủ rũ đáp: 

- Trước khi hóa đá, con basilic đã mổ trúng nó. 

Badd không hỏi nữa, ánh mắt của lão như chết sững trên cái xác Kăply. Bọn trẻ ngạc nhiên thấy người lão rung lên, trông giống hệt một cành cây khô trước gió.

- K’Brêt chết thật rồi ư? - Một lát sau, lão mấp máy môi, ngây ngô hỏi. 

- Ngươi đừng có vờ vịt! - K’Tub hừ mũi, giọng khiêu khích và thù địch - Ngươi đã giết mẹ anh K’Brêt, làm cho ba anh K’Brêt biến mất, bây giờ anh K’Brêt cũng chết luôn, ta nghĩ chắc ngươi khoái chí lắm! 

Badd như không nghe thấy K’Tub. Lão cứ đứng trơ ra đó và chìa bộ mặt ngờ nghệch vô mặt bọn nhóc, miệng không ngừng lẩm bẩm: 

- Tại sao? Tại sao lại như thế được? Tại sao chứ?

K’Tub liếc Êmê rồi lại quay sang Nguyên nhưng không đứa nào nhìn nó khiến nó không thể chia sẻ những câu hỏi đang nảy mầm trong đầu như một thứ nấm độc. 

Suốt một lúc lâu, sứ giả Badd vẫn đứng lảm nhảm với những câu hỏi kỳ quặc, còn bọn trẻ câm nín dán mắt vào lão, thấp thỏm chờ xem điều khủng khiếp gì sẽ xảy ra khiến cuộc đối đầu tự nhiên trở nên tịch mịch một cách khác thường. 

- Lão già này bữa nay mắc chứng gì vậy há? - Như không chịu đựng nổi, K’Tub cụng đầu vào đầu Suku, thì thầm. 

- Ờ, trông lão là lạ. - Suku băn khoăn đáp, mắt nhìn lom lom sứ giả thứ nhất phe Hắc Ám, thầm mong lão hóa đá luôn cho rồi. 

- Một là ngươi tránh đường cho ta đi. - Nguyên xốc Kăply trên tay, mím môi nói cứng - Hai là ngươi cứ giở thần chú Nảy nở từa lưa ra đi, bọn ta không ngán đâu! 

- Nảy nở từa lưa ư? - Badd bần thần hỏi lại, và Nguyên ngạc nhiên thấy lão lắc đầu - Không được. Loại thần chú đó ta dùng để đối phó với Balibia chứ không phải đối phó với bọn ngươi. Với bọn ngươi, ta đâu có bệ rạc đến mức phải xài tới... 

Đang nói, lão bỗng nhớn nhác ngoái đầu nhìn ra sau lưng. Lập tức, một vệt đen đen bất thình lình vút ra từ tay Păng Ting nhanh như tên bắn, lao vào giữa ngực lão. Vệt đen bay với tốc độ vô cùng khủng khiếp, không ai nhìn kịp, Nguyên đoán đó là chiếc đinh ma thuật và phấp phỏng chờ tên sứ giả ngã vật xuống.

Badd dĩ nhiên không trông thấy đòn tập kích bất ngờ của Păng Ting. Khi lão quay đầu lại, mũi đinh đã cắm phập vào ngực lão.

Bọn trẻ nghe rõ một tiếng “bụp”, chưa kịp reo lên đã thấy chiếc đinh rớt thẳng xuống đất trong khi tên sứ giả vẫn đứng yên như chưa hề có vật gì chạm vào người. 

Cả bọn hấp tấp bước lùi ra sau, đồng loạt chĩa tay ra phía trước, sẵn sàng đánh trả sự phản kích của đối phương. 

Nhưng trái với sự lo lắng của bọn trẻ, Badd chẳng có vẻ gì nổi giận. Lão thản nhiên cúi nhìn chiếc đinh dưới chân rồi ngước lên dòm Păng Ting, tặc tặc lưỡi: 

- Ngươi là cháu của Đại phù thủy Păng Sur phải không? 

Lão nhún vai: 

- Phải nói thiệt là trình độ của nhóc ngươi quá kém. Bà của ngươi ít khi nào chơi cái trò trẻ con này. Nhưng một khi ngài đã phóng đinh ra, chắc chắn không có ai thoát chết... 

Một lần nữa, Badd bỏ ngang câu nói và dáo dác nhìn quanh.

- Ta phải chuồn đây. Trùm Bastu sắp tới rồi. 

Lão nói nhanh, và biến mất còn nhanh hơn. Bọn trẻ chớp mắt một cái, đã không thấy lão đâu nữa. 

Bọn Suku chưa kịp trấn tĩnh, đã thấy hiện ra ngay chỗ sứ giả Badd vừa đứng một bóng người tầm thước với chiếc áo chùng màu mỡ gà bay phần phật, dáng dấp vô cùng thanh nhã. 

Trùm Hắc Ám! Bọn trẻ rên lên trong bụng và thoái lùi về phía sau thêm mấy bước dài, đầu gối như nhũn ra. Những hình ảnh của lần giăng bẫy hụt hôm trước của trùm Hắc Ám và tả hộ pháp Balibia thoắt hiện về trong tâm trí khiến tụi nó bất giác nghe lạnh từ đầu tới chân. 

Bastu đứng bất động như một pho tượng, hai tay khoanh trước ngực và cũng như Badd trước đó, từ đằng sau tấm khăn che mặt màu xanh ngọc, ánh mắt sáng quắc của hắn đang tò mò rọi lên cái xác trên tay Nguyên. 

Ánh mắt của trùm Hắc Ám từ từ di chuyển lên gương mặt đau buồn của Nguyên, đọng ở đó một lúc rồi rớt trở xuống cái xác cứng đờ của Kăply.

Mãi một hồi lâu, hắn không nói tiếng nào, chỉ có tấm sa mỏng rung động khe khẽ. Chung quanh bọn trẻ lúc này, không khí bị nén lại, căng thẳng và tức thở như trước một cơn bão lớn. 

Nguyên dán mắt vào tấm sa mỏng trên mặt trùm Hắc Ám, cảm thấy bất lực khi cố đoán xem hắn đang nghĩ gì đằng sau vẻ câm nín khó hiểu kia. 

- Nó chết rồi à? - Trùm Bastu bất thần lên tiếng, hắn hỏi bằng giọng mượt mà quen thuộc. 

- Chết rồi. - Nguyên nghiến răng, nói như nhai từng tiếng - Từ nay ngươi bớt được một đối thủ rồi đó.

- Hừm, bọn ngươi chưa xứng là đối thủ của ta. - Trùm Bastu nói, giọng tỉnh bơ. Hắn liếc Nguyên một cái rồi lại xoáy mắt vào Kăply - Nó bị con basilic mổ trúng à? 

Nguyên không trả lời, vì cảm thấy không cần trả lời. Nó lặng lẽ cúi nhìn Kăply, lòng thắt lại.

- Ta nghĩ vẫn còn cơ may cứu sống thằng bé. 

Trùm Bastu lại nói, giọng trầm trầm nhưng đủ làm bọn trẻ nhảy dựng như đạp phải lửa.

- Ngươi nói sao? - K’Tub ré lên, giọng kích động - Có thể cứu sống anh K’Brêt ư? 

- Ờ. - Trùm Bastu thờ ơ đáp, có vẻ như hắn đang nghĩ ngợi hay tính toán điều gì đó. 

- Ngươi nói láo! - K’Tub lại hét lên - Hổng lẽ nọc độc của con basilic không phải là một trong ba thứ chất độc không có thuốc giải sao? 

Bọn trẻ phập phồng dồn mắt vào trùm Bastu, chờ xem hắn đáp như thế nào.

- Ta không nói là trên đời này có thuốc giải nọc độc của con basilic. - Trùm Bastu rùn vai - Ta chỉ nói là thằng bé này vẫn còn cơ hội được cứu sống. 

- Thiệt là hoang đường! - Bolobala dài môi “xì” một tiếng - Đã không có thuốc giải thì làm sao cứu sống được chớ! 

Trùm Bastu lừ mắt nhìn Bolobala, tuy gương mặt phần lớn bị che khuất sau tấm khăn nhưng ánh mắt của hắn vẫn toát ra một uy lực ghê người đến nỗi Bolobala phải quay mặt đi, tim đập thình thịch. 

- Ngươi thì biết cái quái gì chứ! - Hắn nhạt nhẽo nói - Xưa nay, những ai bị con basilic mổ trúng đều có thể kéo dài mạng sống trong vòng một ngày.

Ánh mắt của trùm Bastu lại đáp lên cái xác Kăply: 

- Thằng bé này bị trúng độc chưa quá một ngày, dĩ nhiên là chưa chết hẳn. 

- Ngươi nói là K’Brêt chưa chết ư? - Nguyên rùng mình một cái, đưa mắt nhìn trùm Bastu, thảng thốt hỏi. Ở phía sau, Mua và K’Tub cũng tự động nhích tới trước một bước. 

- Nó chỉ chết lâm sàng thôi. - Trùm Bastu chớp mắt - Bây giờ cho đến trưa mai, nếu nó may mắn gặp được một con basilic, có thể nó sẽ sống lại. 

- Là sao? - Nguyên ngơ ngác - Ta chẳng hiểu gì cả.

- Nọc độc của con basilic hẳn nhiên là không có thuốc giải. - Hai cánh tay của trùm Bastu bây giờ không khoanh trước ngực nữa. Hắn chắp tay sau lưng, ngửa mặt nhìn lên những đám mây lơ lửng trên cao, chậm rãi nói - Nhưng trong lúc chưa chết hẳn, nếu được một con basilic dùng miệng hút hết chất độc từ vết thương ra thì nạn nhân sẽ sống lại.

Nguyên thấp thỏm quay sang Suku: 

- Có đúng vậy không em?

Suku lúc lắc những lọn tóc trước trán, nhăn nhó đáp: 

- Em chưa nghe nói tới vụ này, anh K’Brăk.

Nguyên nhìn Bastu, chưa kịp hỏi thêm đã giật bắn khi thấy trùm Hắc Ám thình lình giơ tay lên. 

Cả đám hấp tấp lùi lại trước cử chỉ đột ngột của Bastu, chưa biết phải làm gì thì mắt đã hoa lên. Hành động của trùm Hắc Ám xem ra còn nhanh hơn ý nghĩ của bọn trẻ: từ tay hắn, một tấm lưới bạc xuất hiện sáng lòa khiến cả đống cặp mắt vội nhắm lại, cả đống cái miệng cùng hốt hoảng kêu lên: 

- Thần chú kim cương! 

Tiếng kêu vừa rời khỏi đôi môi, bọn trẻ đã hoảng kinh thấy cơ thể tụi nó lập tức dính chặt vào một tấm lưới bùng nhùng, mềm mềm, deo dẻo, nhưng lại dai nhách, càng cựa quậy càng bị thít chặt, nhưng cái làm tụi nó hãi nhất là vừa dính vào tấm lưới, năng lượng pháp thuật trong người mỗi đứa tự động theo lỗ chân lông thoát hết ra ngoài. Con Chacha bị trói chặt, giãy đùng đùng và kêu chí chóe liên hồi càng khiến tụi nó thêm bấn loạn.

- Ngươi... ngươi... Nguyên lắp bắp, không rõ vì tức giận hay sợ hãi, hay là vì cả hai. 

Đang ấp úng, mắt nó chợt trố lên khi nhác thấy một quả cầu pha lê óng ánh từ một bụi rậm bay ra, lặng lẽ lao thẳng vào lưng Bastu, im ru không một tiếng động. Sứ giả Badd! Nguyên mừng rỡ reo lên trong đầu, tự hỏi không biết lão này dùng đến bao nhiêu gam can đảm để có thể quyết định một cái chuyện tày trời là ra tay đánh lén trùm Hắc Ám. 

Bastu như không hay biết hiểm họa đến từ sau lưng. Hắn nhìn bọn trẻ đang bị trói chặt trong tấm lưới bạc, hừ mũi: 

- Yên tâm đi, K’Brăk. Nếu muốn giết bọn ngươi, ta cần gì phải dùng đến thần chú kim cương. 

Hắn nhích chân về phía trước, giọng dịu dàng đến khó tin: 

- Chẳng qua ta muốn cứu thằng bé này. 

Trùm Bastu vừa nói vừa hất tay một cái, cái xác cứng đơ của Kăply lập tức nhấc mình lên khỏi vòng tay Nguyên, từ từ trôi về phía hắn, vững vàng như trên một tấm ván trượt.

Trong chỗ nấp, sứ giả Badd có lẽ kịp phát giác ra sự lạ. Quả cầu bay gần tới chỗ Bastu liền khựng lại, khẽ ngúc ngoắc vài giây rồi hối hả bay lui, thoáng mắt đã biến mất chỗ bụi cây um tùm ven dốc. 

Cái xác Kăply trôi đến trước mặt trùm Bastu, cách vài tấc thì dừng lại và lơ lửng một chỗ, như có một bàn tay vô hình đỡ lấy. 

Trước vẻ mặt lo âu của bọn trẻ, trùm Bastu cho tay vào túi, lôi ra một chiếc mặt nạ quỷ màu gạch cua, không biết làm bằng vật liệu gì nhưng trông thật dữ dằn. 

Mua bồn chồn nhìn chiếc mặt nạ vuông vức với cặp lông mày xếch, chiếc mũi dài và đỏ ửng như củ cà rốt, run run quay sang Suku: 

- Hắn định làm gì thế, Suku?

- Chị yên tâm đi. Chiếc mặt nạ này trông đáng sợ thiệt nhưng nó chính là gương mặt thần hộ mệnh xưa nay vẫn treo ở đền thờ phúc thần Kalăm, có tác dụng xua đuổi ma quỷ và tiêu trừ sát khí. 

Trùm Bastu úp chiếc mặt nạ lên mặt Kăply rồi duỗi tay ra phía trước, miệng lầm rầm, cặp mắt sáng quắc của hắn lúc này khép hờ như đang ngủ. 

Bọn trẻ nhìn chòng chọc vào Kăply, mừng quýnh khi thấy cái xác khẽ động đậy. Nhưng Kăply chỉ cựa quậy có một chút rồi lại nằm im như cũ. 

Nguyên gần như nín thở, cố không chớp mắt. Nó không rõ trùm Hắc Ám đang có âm mưu gì nhưng trong giờ khắc quan trọng này nó đang tìm mọi cách làm dịu đi mối nghi ngờ trong đầu. 

- Xong! 

Trùm Bastu chợt thở phào và khẽ phất tay. Chiếc mặt nạ chui vô túi áo chùng của hắn, còn cái xác Kăply lững lờ trôi ngược về phía Nguyên. Hắn phất tay một cái nữa, tấm lưới bạc quanh người bọn trẻ biến mất. 

Nguyên đỡ lấy Kăply, chưa kịp nói gì trùm Bastu đã trầm giọng tiếp:

- Ta đã cố gắng duy trì mạng sống của thằng bé thêm hai ngày nữa. Trong thời gian đó, nếu gặp may thì nó sẽ sống lại. Còn nếu số nó đã tuyệt thì... 

Bastu bỏ lửng câu nói, kết thúc bằng một tiếng thở dài và quay mình bỏ đi, vạt áo chùng màu mỡ gà rực lên trong nắng chiều như một cánh chim lớn. 

- Khoan đã! - Nguyên la lên, những câu hỏi nó đã cố dìm đi, bất chợt hiện lên lăn tăn trong óc nó - Ngươi hãy nói thật đi: Tại sao ngươi cứu K’Brêt? Tại sao ngươi buông tha bọn ta? 

- Đơn giản thôi, K’Brăk. - Trùm Bastu cất tiếng cười ngạo mạn, chân vẫn không dừng bước - Chẳng qua ta muốn xem chiến binh giữ đền là thứ quái vật gì? Bajaraka Đầu Bự và Pô Palay Tàn Phế sợ chiến binh giữ đền chứ ta thì không. Ha ha ha... 

Cho đến khi trùm Hắc Ám đã mất hút, tiếng cười của hắn vẫn còn ong ong trong đầu bọn trẻ, âm i, dai dẳng và nhức buốt.

Nguyên cúi nhìn Kăply, săm soi tỉ mỉ vẫn không thấy có gì đặc biệt. Gương mặt thằng bạn nó vẫn nhợt nhạt như nặn bằng bột, chỉ có tay chân mình mẩy dường như mềm đi được một chút. 

- Ảnh tỉnh lại chưa, anh K’Brăk? - K’Tub nôn nóng hỏi, nó và Mua đang xô nhau nhảy bổ lại. 

Nguyên lắc đầu, cười khổ:

- Vẫn thế. 

- Sứ giả Badd! - Suku nhìn về phía bụi cây, giọng nghi hoặc - Ngươi ra đây đi! 

- Có lẽ hắn đi rồi. - Êmê hờ hững nói, khi cả bọn chong mắt một hồi vẫn chẳng thấy động tĩnh gì, ngoài những nhánh cây bị gió chiều bẻ cong khiến những chiếc lá chúi vào nhau rì rào như trò chuyện.

- Tiếc thật. - Suku chớp đôi mắt sáng - Có thể Badd biết được âm mưu thật sự của trùm Bastu.

- Hắn không nói cho chúng ta nghe đâu. - Êmê khụt khịt chiếc mũi hếch - Em đừng quên hắn dù sao cũng là sứ giả thứ nhất của phe Hắc Ám. 

Mua cau mày: 

- Nhưng gần đây giữa bọn chúng hình như xảy ra bất hòa nghiêm trọng, chị Êmê.

- Đúng là vậy đó, Mua. - Nguyên chen lời - Badd và Balibia rõ ràng đang xung đột với nhau dữ dội, lý do bên ngoài không có gì to tát nhưng nguyên nhân sâu xa có lẽ do hai bên ngấm ngầm tranh chấp quyền lực. Nhưng trùm Bastu lại đứng về phía Balibia, chúng ta cũng biết rồi đó. 

Tam gật gù: 

- Sự thiên vị đó có vẻ làm Badd nổi điên. 

- Còn hơn cả nổi điên nữa, Tam. - Nguyên tặc lưỡi - Theo tao thấy, Badd bắt đầu tỏ thái độ chống đối. Có thể sự khắt khe của trùm Hắc Ám đã dồn hắn tới chỗ buộc phải làm phản. Mày không thấy khi nãy hắn định tập kích Bastu sao. 

Kan Tô mơ màng: 

- Khi nãy nếu quả cầu pha lê của Badd đánh trúng Bastu thì chuyện gì sẽ xảy ra há? Theo em, Bastu có sẽ tiêu tùng không, Suku? 

- Em nghĩ là không. - Suku lắc đầu - Em không tin một đại phù thủy cỡ Bastu, lại vừa luyện thành công thần chú kim cương, có thể bị hạ gục dễ dàng như thế. Lúc nãy, nếu quả cầu đánh trúng Bastu, người thê thảm chính là Badd.

- Thôi, chúng ta lên đường đi. - Păng Ting giục - Tên nào ngủm cũng tốt. Bọn chúng mà tàn sát lẫn nhau được thì càng đỡ khổ cho xứ Lang Biang.

Lần này Nguyên đi thụt lại sau lưng Suku, vẫn với Kăply nặng trĩu trên tay. 

- Sao mày không biến K’Brêt nhỏ lại như một đứa bé để ẵm cho đỡ mệt, K’Brăk? - Kan Tô nhìn bạn, góp ý, nhưng lời khuyên vừa buột ra khỏi miệng nó chợt biết ngay là mình vừa nói một câu đại ngu. 

Quả nhiên, Nguyên lạnh lùng: 

- Không bao giờ, Kan Tô. Tình cảm của tao không cho phép tao làm như thế.

Sáng hôm sau, bọn trẻ thức dậy từ rất sớm dù cơ thể và thần kinh phải nói là vô cùng mệt mỏi. Đã vậy, cánh tay của Baltalon lại xuất hiện và quậy tưng suốt đêm khiến không đứa nào dỗ giấc được. 

Sau khi trải qua một đêm chẳng ra gì ở khu rừng chè dưới chân dốc, tụi nó kéo nhau lên đường lúc trời còn tù mù, lòng chỉ mong cuộc hành trình chóng kết thúc. 

Nguyên rảo bước lên để đi song song với Suku.

- Suku nè. - Nó cất giọng lo lắng - Có thật là trùm Bastu đã kéo dài mạng sống của K’Brêt thêm hai ngày không? 

Suku ngập ngừng:

- Cái đó thì em không biết chắc, anh K’Brăk à. 

Nguyên cúi nhìn Kăply. Nó nói mà nghe sống mũi cay cay:

- Nếu hắn nói láo thì K’Brêt chỉ giữ được mạng sống đến trưa nay nữa thôi. Sau đó thì vô phương, phải không Suku? 

Suku quay nhìn Nguyên, giọng đắn đo:

- Thực ra nếu mạng sống của anh K’Brêt kéo dài thêm hai ngày nữa, cơ may cũng rất thấp, anh K’Brăk à. 

- Ờ, - Nguyên nói, ủ ê và tuyệt vọng - tụi mình biết tìm ở đâu ra một con basilic trong thời gian ngắn như vậy. Basilic chứ đâu phải là một con rắn nước. 

Nguyên thở hắt một cái, như người ta vẫn làm thế để tống mọi phiền não ra khỏi đầu, nhưng trong hoàn cảnh này động tác của nó lại giống như là sự bất lực: 

- Mà giả dụ có gặp thì làm sao sai nó hút chất độc cho K’Brêt được. Không khéo nó biến bọn mình thành tượng đá cả lũ không chừng. 

- Thú thiệt là chuyện này rất khôi hài, anh K’Brăk. - Suku ngọ nguậy đầu - Em không hiểu trùm Bastu muốn gì khi bày ra trò này. 

Nguyên nhún vai: 

- Cách xử sự của bọn chúng bao giờ cũng khó lường. Nếu anh không lầm, lúc đầu Bastu có ý định trừ khử chúng ta. Hắn chẳng tử tế gì khi trói chúng ta lại. Nhưng đến phút chót có lẽ hắn phát giác có người bí mật luẩn quẩn bên cạnh.

- Hắn không biết kẻ đó là Badd? 

- Không. Đối với trùm Bastu, Badd đâu có nghĩa lý gì. Sở dĩ Bastu chùn tay vì hắn nghĩ đến Đại phù thủy Păng Sur. 

- Nhưng cách hắn cứu chữa anh K’Brêt thì không phải là trò bịp. Em nhận ra chiếc mặt nạ đó, anh K’Brăk.

- Bịp là không bịp. Không bịp tức là bịp. - Nguyên cay đắng, trông nó lúc này giống hệt một triết gia chán đời, từ giọng lưỡi cho đến vẻ mặt mỗi lúc một cau có - Bởi vì phương pháp cứu sống K’Brêt mà trùm Bastu chỉ dẫn là một phương pháp nếu có thật cũng không thể thực hiện được, và chính vì biết như thế nên hắn không ngại ngần gì mà không nói ra. 

Nguyên liếc Suku, cười khảy: 

- Hơn nữa, hắn cũng nhân cơ hội này để mua chuộc anh, Suku à! 

- Hắn mua chuộc anh để làm gì? - Suku nghệt mặt ra. 

- Giết anh thì lúc nào hắn cũng giết được. Ngay cả khi ăn được quả táo vàng trên núi Lưng Chừng, anh cũng không phải là đối thủ của hắn. Nhưng theo anh, cái hắn đang cần hiện nay không phải là mạng sống của anh hay của K’Brêt... 

- Em hiểu rồi. - Suku gật đầu - Hắn đang cần cái báu vật quỉ quái gì đó ở lâu đài K’Rahlan. 

- Ở lâu đài K’Rahlan chẳng có báu vật gì hết á! 

Tiếng Êmê vang lên từ sau lưng, nó đã tới sát Nguyên và Suku lúc nào không hay và giọng nói của cô nàng thì dù vô tâm như Suku cũng thấy rõ là đang ra chiều giận dỗi.

CHƯƠNG 17

HỒ MA

Càng đi xa về phía Tây, khung cảnh càng âm u, hoang dã. Rừng nối tiếp rừng, cây dày đặc, lá kết thành vòm và ở phía xa núi kéo thành từng vệt xanh mờ. Thời tiết vùng này thiệt là thổ tả! Nguyên làu bàu khi những cơn mưa cứ nhì nhằng từ sáng đến tối khiến quần áo tụi nó lúc nào cũng ẩm ướt, rin rít một cách khó chịu. Suốt một ngày, tụi nó chỉ nhìn thấy mặt trời chừng một hai lần, vào lúc những cơn mưa tạm nghỉ để lấy sức trút xuống còn dữ dội hơn sau đó. 

Gần tối thì tụi nó đến một hồ nước rộng, mặt nước đen như mực, chính giữa hồ có một hòn đảo nhỏ hình con rùa, chung quanh cỏ cao và lau sậy mọc um tùm. Khung cảnh thê lương, buồn tẻ đến nỗi bất cứ ai đứng ở nơi này cũng nhanh chóng bắt gặp cảm giác chán chường gieo vào lòng mình từng phút một. 

Đây chắc là hồ Ma! Nguyên nhủ bụng và cảm thấy buồn nôn khi xộc vào mũi nó mùi thối rữa của xác chết. Nó nơm nớp nhìn quanh, ruột gan đảo lộn khi đập vào mắt nó vô số những mẩu xương trắng hếu nằm rải rác quanh bờ hồ. 

- Đừng sợ. Đó không phải là xương người.

Một giọng nói ồm ồm vang lên từ bụi cây trước mặt làm bọn trẻ suýt chút nữa sụm người xuống.

- Ai thế nhỉ? - Bolobala sợ hãi thì thào, ánh mắt xẹt ngang xẹt dọc trong bụi cây nhưng không thấy một bóng người. 

Suku hít vô một hơi: 

- Đừng tìm kiếm vô ích. Có thể đó là một hồn ma. 

Câu nói của Suku càng khiến Bolobala thêm biến sắc. Nó níu tay thằng oắt: 

- Hồn ma ư? 

- Em nghĩ thế.

Bolobala lấm lét quét mắt xuống đất, môi giần giật: 

- Họ nói có đúng không? Đây có thật là xương thú vật không, Suku?

- Đúng thế, chị Bolobala à.

K’Tub kêu lên, giọng run bắn:

- Vậy ai đã giết những con thú này?

- Cái đó thì tao không biết. - Suku nhìn bạn, thở đánh thượt. 

Kan Tô tái mặt:

- Hổng lẽ những hồn ma cũng ăn thịt sống?

- Mày ngu quá nhóc. - Giọng nói ồm ồm khi nãy lại cất lên - Ma không ăn thịt. Nói chung là hổng ăn cái gì hết. 

Păng Ting nhìn về phía bụi cây: 

- Thế ông là hồn ma à?

- Bọn ta ư? - Lần này là một giọng đàn bà trong trẻo trả lời - Bọn ta cũng không biết bọn ta là cái gì nữa.

- Sao lạ thế? Các người không biết các người là cái gì sao?

- Ờ, không biết. - Một giọng nam trầm buồn bã đáp, nghe có vẻ lớn tuổi hơn giọng nam vừa rồi - Một thời gian nữa có lẽ bọn ta sẽ là những hồn ma. Lúc đó bọn ta sẽ sống dưới hồ. Còn hiện giờ thì đúng là bọn ta không biết bọn ta là cái ôn gì hết! 

Bọn trẻ nhìn sững vào bụi cây, băn khoăn không biết có bao nhiêu hồn ma ẩn nấp trong đó. 

K’Tub liếc xuống chân, quay trở lại thắc mắc khi nãy:

- Không phải những hồn ma, thế ai đã giết những con thú này? 

Giọng nam trầm nói: 

- Tụi bay nhìn giữa hồ coi, có thấy hòn đảo kia không?

- Thấy. - K’Tub gật đầu - Hòn đảo hình con rùa chứ gì. 

- Mắt mày lé hả nhóc? Đó là con rùa thật chứ hòn đảo hình con rùa cái quái gì!

Trong khi bọn trẻ trố mắt quan sát hòn đảo, giọng nam trầm “xì” một tiếng:

- Tụi bay không thấy cái đầu rùa nhúc nhích hả?

- A, thấy rồi. - Tam reo lên - Hóa ra đó là con rùa chứ không phải hòn đảo. 

- Lại thêm một thằng ngu nữa. - Giọng nam trầm chưa nói gì, giọng ồm ồm đã mắng - Cái tụi bay nhìn thấy ở giữa hồ đúng là một hòn đảo, và một con rùa đang nằm trên hòn đảo đó, hiểu chưa? 

Tam trợn mắt: 

- Làm gì có một con rùa bự chảng vậy? 

- Thì bự như vậy nó mới ôm hết hòn đảo chứ. Nó làm cái nắp mà? 

- Cái nắp? - Tam ngẩn người hỏi lại - Cái nắp gì? 

- Tôi hiểu rồi. - Suku nói - Những hồn ma bị nhốt dưới hồ và ở giữa hòn đảo chắc là có lối thoát ra cho nên con rùa mới canh giữ chỗ đó. 

- Mày khá đó nhóc. - Giọng ồm ồm cười hè hè, khen - So với đám bạn của mày thì mày ít ngu hơn một chút. Nhưng mày vẫn cứ nói trật: Cái hồ này là vương quốc của những hồn ma. Họ sống vui vẻ dưới đó chứ không phải là bị nhốt nhiếc gì hết.

K’Tub hừ mũi:

- Thế thì sao phải canh giữ họ? Các người nói thiệt là vô lý! 

- Vô lý cái con khỉ! - Giọng ồm ồm có vẻ tức giận - Phải canh giữ bởi vì trong bọn họ cũng có những hồn ma lôm côm, nóng nảy và cứng đầu cứng cổ như nhóc mày vậy. Sống yên ấm một chỗ không chịu, cứ thích chuồn ra ngoài đi lang thang như bọn bụi đời. Hai anh em thằng Pôcô - Pôca mất dạy bây giờ chắc te tua như cái mền rách rồi. 

Dường như nhận ra hồn ma bên cạnh đang mất bình tĩnh, giọng nữ nhẹ nhàng lái câu chuyện sang hướng khác: 

- Các hồn ma không được ra khỏi vương quốc của mình, đó là quy tắc. Nhưng mỗi tháng, vào đêm ba mươi, họ được phép ra ngoài vui chơi một lần. 

Nguyên gật gù: 

- Và đó cũng là thời khắc con rùa vào bờ kiếm ăn, và đó là lý do tại sao có những mẩu xương này?

- A, thằng nhóc này coi bộ ít ngu nhất trong bọn. - Giọng ồm ồm reo lên khoái trá, nghe rất giống âm thanh phát ra từ một quả chuông rè - Úy, nhóc mày ôm cái gì trong tay vậy? 

- Em tôi. 

- Nó chết rồi sao?

- Chết rồi. - Nguyên đáp, giọng chùng xuống - Nó bị ngấm nọc độc của con basilic. 

- Đó là nhóc mày tưởng thế thôi! - Giọng nam trầm vọt miệng - Thằng bé này chưa chết. 

- Chưa chết? Sao các người biết? - Nguyên tròn mắt, tim đập thình thịch, bắt đầu nghĩ trùm Bastu không lừa gạt mình. Đã quá buổi trưa, nếu tính từ lúc Kăply bị con basilic mổ trúng, thời gian đã hơn một ngày rồi.

- Sao lại không biết? Bọn ta đâu có xa lạ gì với cái chết. 

Thấy bộ mặt bọn trẻ thuỗn ra, giọng nam trầm khoan thai giải thích: 

- Khi một người chết đi, linh hồn sẽ thoát qua miệng để ra ngoài... 

Suku gật đầu: 

- Tôi có biết chuyện đó.

- Nhóc mày câm mồm đi để nghe ta nói. - Giọng nam trầm cáu kỉnh, bọn trẻ nghe có tiếng khịt mũi bực dọc phát ra từ trong lùm cây - Nhóc mày chỉ biết một chứ đâu có biết hai. Sau khi linh hồn thoát ra, đôi môi người chết sẽ biến thành màu đen, tụi bay hiểu không? 

- Tôi hiểu rồi. - Nguyên nhìn xuống gương mặt Kăply, nói giọng kích động - Đôi môi em tôi chưa biến thành màu đen, nghĩa là linh hồn nó vẫn còn trong thân xác? 

- Chứ gì nữa! Hổng lẽ ta nói vậy chưa đủ rõ ràng sao? 

- Thế còn các người thì sao? - Păng Ting tò mò hỏi - Các người cũng là linh hồn thoát xác đó chớ?

- Sao nhóc mày ngu như heo vậy? - Giọng ồm ồm rên lên - Khi nãy ta đã bảo bọn ta không phải là những hồn ma mà lại. 

- Không phải hồn ma thì là cái quái gì mới được chớ? - K’Tub giở bộ mặt quàu quạu, nó chưa nguôi nỗi ấm ức bị kêu là lôm côm, cứng đầu cứng cổ. 

Bọn trẻ nín thở chờ một tiếng quát tháo phun ra từ trong lùm cây, nhất là cái giọng ồm ồm rất khoái mắng chửi người khác. Nhưng chẳng có gì giống như tụi nó nghĩ. Chỉ có những tiếng thì thào vẳng ra như trong một cuộc họp kín. Sau một lúc hội ý, giọng nữ dịu dàng lên tiếng: 

- Bọn ngươi lại đây! 

Bọn trẻ đưa mắt nhìn nhau rồi rụt rè bước lại, bụng giật thon thót. Chỉ có con Chacha là đứng tuốt đằng xa, khua tay múa chân, vẻ bồn chồn, lo lắng. 

Vài phút sau, Nguyên đã đứng sát bụi cây rậm, tròn mắt săm soi. Nhưng nó chẳng thấy gì, ngoài những cành cây bình thản đong đưa trước mặt, thỉnh thoảng quẹt vào chóp mũi nó như trêu ngươi. Bên cạnh nó, tụi bạn cũng gí mắt vào đám lá xanh, hồi hộp nghiêng ngó. Nhưng cũng như Nguyên, chẳng đứa nào thấy gì lạ hết. Chỉ có những nhánh lá rên rỉ trong gió chiều nghe thiệt là ảo não. 

- Tụi bay không nhìn thấy bọn ta à? 

Giọng ồm ồm cất lên gần như ngay trước mặt khiến cả đám bắn người lên và hốt hoảng thụt lui ra sau, đứa nào đứa nấy mặt cắt không còn hột máu. 

- Đừng sợ. - Giọng nữ nhẹ nhàng trấn an - Nhìn kỹ đi. Bọn ta đang đậu ở trên cây ấy.

Sau khi hoàn hồn, bọn trẻ ngước mắt dòm dáo dác, lần này thì tụi nó đã trông thấy ba con chim đậu trên nhánh cây phía trên đầu, cách tụi nó chừng một sải tay. Ba con chim to như ba con gà, lông đen tuyền, đang đứng quay lưng lại, chĩa chiếc đuôi dài vào mắt tụi nó. 

- Các người đấy à? - Nguyên nuốt nước bọt, cố giữ giọng đừng run. 

- Đúng rồi. Bọn ta đấy. - Giọng nam trầm đáp, vì ba con chim đứng sát vào nhau nên Nguyên không xác định được tiếng nói đó phát ra từ con chim nào trước mặt. 

- Sao các người không quay lại? - Êmê hỏi. 

- Tụi bay muốn bọn ta quay lại ư? Giọng ồm ồm hỏi lại và bọn trẻ một lần nữa nghệt mặt ra, cố đoán xem câu hỏi kia có ẩn ý gì.

- Các người cứ quay lại đi! 

Cuối cùng Nguyên nói liều, giọng căng thẳng, tin rằng nếu có gì xảy ra cũng đâu có khủng khiếp bằng những chuyện động trời tụi nó đã trải qua mấy ngày nay.

Tụi bạn nó chắc cũng nghĩ vậy nên không đứa nào lên tiếng, nhưng đến khi ba con chim trước mặt đồng loạt quay lại thì tất cả cái miệng cùng rú lên khiếp đảm, tất cả trái tim như ngừng đập và tất cả hồn vía của tụi nó có vẻ như đã bay đi đâu mất.

Không đứa nào ngờ rằng đó là những con chim mang đầu người. Ngay cả Suku, thằng nhóc thông thái nhất đám, cũng hoàn toàn chết điếng khi nhìn thấy những con chim quái đản này. 

Con chim đứng giữa có gương mặt một người đàn ông dữ tợn với bộ râu quai nón viền quanh chiếc cằm bạnh cười khà khà:

- Ai biểu tụi bay kêu bọn ta quay lại! Són ra quần rồi hả, các con? 

Thấy bọn trẻ có vẻ như sắp xỉu tới nơi, con chim bên trái có gương mặt phụ nữ xinh đẹp ôn tồn nói:

- Không có gì phải kinh hãi hết. Các ngươi cũng thấy rồi đó, bọn ta đâu có phải là những hồn ma, đúng không? 

- Còn ghê hơn những hồn ma nữa! - K’Tub mếu máo, răng đánh vào nhau lập cập.

- Tôi nhớ ra rồi. - Suku trấn tĩnh nói - Ala Krem có nhắc đến trường hợp này trong cuốn Đối thoại chim chóc. Những ai vì lý do nào đó tạm thời rời bỏ sự sống, nhưng chưa thực sự chết vĩnh viễn, đều hóa thành chim đầu người. Linh hồn tạm trú ngụ ở thế gian dưới hình thức này cho đến chừng nào nó quyết định sẽ sống lại hay chết hẳn. 

Đôi mắt người nữ nhìn Suku với vẻ thán phục:

- Ta nghe đồn Đại tiên ông Pi Năng Súp có một đứa cháu nhờ bị nhốt trong thư viện quanh năm nên làu thông kim cổ. Hà, ngươi chắc là thằng nhóc Suku đó?

- Đúng rồi đó. - Nghe người phụ nữ tán dương Suku, cái miệng đang méo xệch của K’Tub lập tức toét ra cười. Sự sợ hãi trong lòng bay biến mất, nó vỗ tay lên vai Suku bồm bộp - Thằng này đúng là Suku. Nó là bạn thân của tôi đó. 

Không để ý đến giọng điệu khoe khoang của K’Tub, ánh mắt người phụ nữ vẫn dán vào mặt Suku:

- Thế ngươi có biết bọn ta phải làm sao để trở lại cuộc sống trước đây không? 

Suku đong đưa đôi mắt sáng:

- Theo tôi biết, chỉ có quả táo vàng ở núi Lưng Chừng mới giúp chim đầu người trở lại thành người. 

- Ngươi nói đúng rồi đó. - Đôi môi người nữ chợt thở dài - Và đối với bọn ta, điều đó gần như là không tưởng. 

K’Tub láu táu: 

- Bọn tôi đang trên đường đến núi Lưng Chừng nè.

- Cái gì? - Người nữ kinh ngạc thốt lên, đôi mày nhướn cao, cong vòng như hai mảnh trăng lưỡi liềm - Bọn ngươi đến núi Lưng Chừng? Hổng lẽ chiến binh giữ đền xuất hiện trở lại sau ba trăm năm sao?

- Thiệt là ba xạo hết chỗ nói. - Con chim bên phải nhếch mép hừ một tiếng. Đó là con chim mang cái đầu của một ông già râu tóc bạc phơ, mặt mày đỏ au như quả cà chua chín, lúc này cái đầu đó đang ngúc ngoắc, còn đôi cánh đen không ngừng vỗ phành phạch làm những chiếc lá chung quanh kêu rào rào.

- Ai xạo mấy người làm gì. - K’Tub dài môi ra như muốn mổ vào mặt ông già.

Ông già lừ mắt nhìn K’Tub, cất giọng trầm trầm: 

- Mày có biết chiến binh giữ đền đời thứ nhất và đời thứ hai là ai không hả nhóc? 

K’Tub nhún vai:

- Ông muốn nói đến chủ nhân núi Lưng Chừng và Đại tiên ông Mackeno chứ gì. Nhưng như vậy đâu có nghĩa chiến binh giữ đền đời thứ ba phải là mấy lão già cốc đế. 

Thằng K’Tub khùng khùng bắt đầu nói xẳng nhưng ông già không có vẻ gì là giận dữ. Ông lướt mắt qua từng gương mặt, nhíu mày hỏi:

- Thế đứa nào trong tụi bay được chọn làm chiến binh giữ đền? 

K’Tub chỉ Nguyên và Kăply: 

- Đây là hai chiến binh giữ đền nè. 

Nó ưỡn ngực ra phía trước, hoàn toàn không biết đã nhiễm nặng cái cung cách chào hàng của thằng Suku:

- Anh K’Brăk, con trai của K’Rahlan. Và anh K’Brêt, con trai của K’Srêgơl.

Tên tuổi của các thủ lĩnh phe Ánh Sáng dập tắt ngay sự ngờ vực của những con chim đầu người. Thậm chí con chim có khuôn mặt người nữ còn khiến bọn trẻ cực kỳ sửng sốt khi reo lên:

- A, ta có biết mẹ của K’Brêt. Hình như bà ta cũng ở quanh đây.

- Bà nói gì? - K’Tub ngơ ngác hỏi lại, nhìn bộ tịch của nó có thể tin chắc nó đang nghĩ mình nghe lộn.

Êmê lập tức chĩa cái mũi hếch lên cành cây như người thợ săn chĩa súng, có vẻ sẵn sàng bắn hạ con chim đầu người nếu nó không trả lời thỏa đáng: 

- Bà có nhầm không đó? Mẹ của anh K’Brêt đã chết cách đây mười hai năm rồi kia mà. 

- Nhầm sao được mà nhầm. Bà ta tên là Ka Lên, vợ của pháp sư K’Srêgơl, không phải sao?

- Ôi, đúng là dì ấy rồi. - Êmê hét lên mừng rỡ - Dì ấy còn sống thật sao? Thiệt không ngờ! Bà gặp dì ấy ở đâu? Làm sao tụi tôi gặp được dì ấy bây giờ? 

Êmê hỏi dồn, trông nó như khẩu súng liên thanh không ngừng xả hết băng đạn này đến băng đạn khác.

- Bà ấy ư? Thỉnh thoảng bọn ta mới gặp bà ấy. Hình như bà ấy trú ngụ ở bờ hồ bên kia. 

K’Tub đấm hai tay vào nhau: 

- Ôi, dì Ka Lên còn sống. Thật không thể tin được! 

Chiếc đầu có bộ mặt dữ tợn cất giọng ồm ồm: 

- Sống cái con khỉ khô! Bà ấy cũng sắp hóa thành một hồn ma rồi. 

- Là... sao... ạ? - K’Tub lắp bắp, người run lên. 

Gương mặt người nữ tối lại: 

- Cũng như bọn ta, bà ấy là một con chim đầu người. 

- Trời ơi. - Êmê kêu lên thảng thốt - Sao lại có thể như thế được? 

- Sao lại không được! - Bộ mặt dữ tợn cười khảy - Mười hai năm trước, bà ta trúng đòn của sứ giả Badd nhưng chưa chết, chỉ bất tỉnh thôi. Hắn đem bà ta đến đây, liệng xuống hồ, dĩ nhiên sau đó bà ta hóa thành một con chim đầu người.

Êmê cắn môi muốn rớm máu: 

- Ai bị ném xuống hồ Ma đều biến thành chim đầu người hết sao? 

- Thì tụi bay cứ nhìn bọn ta đây nè. - Con chim có chiếc đầu ông già khẽ nhấc một chân lên, chỉ vào ngực mình - Ở quanh cái hồ khốn nạn này, có tới bốn, năm chục con chim đầu người chứ ít đâu! 

- Tất cả đều bị phe Hắc Ám ném xuống sao? - Păng Ting ngạc nhiên hỏi. 

- Chỉ có một số là bị hãm hại thôi. - Gương mặt người nữ ửng đỏ, ngượng ngập đáp - Còn như bọn ta thì bọn ta tự mò xuống hồ.

- Tự mò xuống hồ? - Păng Ting há hốc miệng - Đó chẳng phải là hành động tự sát là gì! 

- Sao mày hỏi ngu thế, nhóc? - Bộ mặt dữ tợn có vẻ nổi quạu, chòm râu quai nón cựa quậy một cách nóng nảy - Ai dại gì đâm đầu xuống hồ nếu biết trước rơi xuống đó sẽ hóa thành con chim chết tiệt này.

K’Tub ngứa ngáy hỏi:

- Nhưng các người mò xuống hồ để làm gì mới được chớ? 

- Do lòng tham thôi, K’Tub à. - Suku chép miệng, vừa nói nó vừa lùi xa ra khỏi bụi cây, đề phòng những con chim đầu người nổi khùng - Chúng ta thấy mặt nước hồ Ma đen kịt, nhưng thiệt ra không hoàn toàn như thế. Mỗi ngày vào lúc mặt trời đứng bóng, hồ Ma bỗng trở nên trong suốt, có thể nhìn tận đáy. Lúc đó, hồ Ma giống như một bầu trời lỏng, ai tình cờ đi ngang, sẽ thấy một thế giới nguy nga, lộng lẫy với vô số những cung điện có mái vòm bằng pha lê, tường bằng kim cương và những cây cột bằng vàng...

Bọn trẻ tim dộng binh binh, sửng sốt khi nghe Suku tiết lộ bí mật của hồ Ma thì ít mà thất kinh khi nghe thằng oắt nói huỵch toẹt điều thầm kín của những con chim đầu người thì nhiều. Mọi cặp mắt đều cảnh giác xoắn chặt lấy ba con chim bự chảng và đen thùi lùi trước mặt, nơm nớp chờ một phản ứng bất lợi. Nhưng thực tế lại xảy ra nhẹ nhàng hơn lo lắng của tụi nó nhiều. 

Hoàn toàn không giống một quả mìn bị châm ngòi, người nữ cụp mắt xuống, giọng buồn bã: 

- Ngươi nói đúng đó, Suku. Và đó là cái giá mà bọn ta phải trả. Tiếc là bọn ta không có một cơ hội cỏn con nào để chuộc lại lỗi lầm. 

Nguyên thắc mắc:

- Sao các người không bay về nhà hay nơi nào đó để báo tin và nhờ giúp đỡ? 

Con chim có chiếc đầu ông già làm một động tác trông giống như là nhún vai:

- Hừm, nếu bay được thì bọn ta đã bay rồi. Tụi bay ráng bắt cái đầu của tụi bay suy nghĩ chút đi: nếu bà Ka Lên bay về nhà được thì tụi bay đâu có phải đợi đến bây giờ mới biết được sự thật về số phận của bả. 

Trước vẻ mặt ngớ ra của bọn trẻ, gương mặt người nữ khẽ khàng giải thích: 

- Chim đầu người chỉ có thể sống luẩn quẩn quanh hồ Ma thôi. Bọn ta tồn tại một nửa do khí dương, một nửa nhờ khí âm. Ra khỏi hồ Ma khoảng ba dặm, bọn ta sẽ tức khắc nhận lãnh cái chết vĩnh viễn và hóa thành hồn ma thực thụ ngay.

- Tôi hiểu rồi. - Nguyên gật đầu, giọng cảm khái - Phen này nếu hái được táo vàng ở núi Lưng Chừng, bọn tôi nhất định sẽ quay lại đây. 

- Ta cảm ơn nhóc mày trước, K’Brăk. - Người đàn ông dữ tợn cười nói, có lẽ bộ mặt bặm trợn đó sinh ra không phải để cười nên lúc này trông nó như bị biến dạng, ngó thiệt là kỳ cục - Và để tỏ sự cảm kích một cách cụ thể, ta cho nhóc mày biết điều bí mật này: thằng em của mày sẽ được cứu sống nếu có một con basilic chịu hút chất độc trong người nó ra. 

- Tôi biết. - Nguyên nói, không để ý đến vẻ mặt cụt hứng của người đàn ông - Nhưng cách đó thiệt tình là hổng có giá trị chút nào hết. Các người cũng biết rồi đó, basilic là một con quái xà...

- Nè nhóc! Mày tốt bụng thiệt, nhưng như vậy không có nghĩa là mày bớt ngu đi. - Bộ mặt dữ tợn thu ngay nụ cười lại và thô bạo ngắt lời - Ta đâu có bảo mày đi tìm một con basilic thật. Mày và em mày là hai chiến binh giữ đền, hổng lẽ mày không thể nhờ Nhị tiên hay một đại phù thủy nào đó phe Ánh Sáng hóa thành con basilic để cứu em mày sao? 

- Ờ há! - Nguyên, và cả đống cái miệng của tụi bạn nó, bật reo lên. 

K’Tub cốc tay lên đầu:

- Mình ngốc thiệt. Nó quay sang Nguyên, mắt sáng rỡ:

- Cần gì Nhị tiên, anh K’Brăk. Em nghĩ thầy N’Trang Long hay thầy Akô Nô đều thừa sức giúp chúng ta. 

Trong bọn, chỉ có Suku là chẳng tỏ vẻ gì phấn khởi. 

- Chẳng ăn thua gì đâu! - Nó khẽ nói, giọng dàu dàu - Chỉ có các phù thủy Hắc Ám hoặc có khuynh hướng hắc ám mới có thể hóa ra con basilic. Còn Nhị tiên hay các phù thủy phe Ánh Sáng dù rất thành thạo khả năng hóa thú cũng không thể và không được phép tự biến thành con vật kinh tởm đó. 

Y chang như bị tạt nước lạnh, mặt mày bọn trẻ đang tươi hơn hớn bỗng xẹp lép và chảy xệ xuống như những thỏi kem bị nặn quá tay. Mua gục đầu lên vai Êmê, cố hết sức để đừng dội nước mắt lên người nhỏ bạn, trông nó đau khổ đến nỗi không buồn quan tâm đến việc ba con chim đầu người đang giương mắt nhìn nó chòng chọc. 

Nguyên xốc Kăply trên tay, bùi ngùi nói: 

- Bọn tôi đi đây. 

Gương mặt người nữ tròn xoe mắt:

- Các ngươi không đợi gặp bà Ka Lên ư?

- Không. - Nguyên thở dài - Bọn tôi không muốn dì Ka Lên trông thấy K’Brêt trong tình trạng như thế này. Các người cũng làm ơn đừng nói gì với dì ấy. 

- Được rồi. - Con chim ông già đưa chân lên gãi đầu, tư thế ngó thiệt là quái chiêu - Cứ coi như bọn ta chưa hề gặp tụi bay là xong! 

- Tạm biệt ha.

Păng Ting nói, và quay người đi theo Nguyên. Ba con chim đầu người đưa mắt buồn phiền nhìn theo bọn trẻ, con chim đứng giữa tằng hắng một tiếng rồi cất giọng ồm ồm: 

- Chúc tụi bay đến được núi Lưng Chừng và hái cả đống táo về nha. 

Bọn trẻ lẽo đẽo lê bước dọc hồ Ma. Mưa lúc này đã ngưng nhưng tiếng gió thổi qua đám lau sậy ven hồ kêu u u nghe thiệt là lạnh lẽo. Buổi chiều tự dưng dài ra và khung cảnh chung quanh tựa như một bức tranh quá nhiều màu xám, nom buồn tẻ vô hạn.

K’Tub đưa mắt nhìn xuống hồ, chép miệng: 

- Hai con ma Pôcô và Pôca hồi trước cũng ở đây, anh K’Brăk há?

- Ờ.

- Anh em tụi nó chắc quậy dữ. - K’Tub lại nói - Bỏ nhà đi bụi đâu phải là chuyện giỡn chơi. 

Bolobala bênh hai con ma nhóc: 

- Nếu không có tụi nó, sứ giả Buriam của trùm Bastu đã trốn thoát rồi, K’Tub. 

Tam quay đầu nhìn quanh:

- Hổng lẽ trùm Hắc Ám để tụi mình thong dong đến núi Lưng Chừng thiệt sao? 

Bọn trẻ vừa đi vừa tự hâm nóng bằng những câu trò chuyện vu vơ, một hồi đã qua khỏi hồ Ma và bắt đầu tiến vào một vùng đồi mọc toàn những loại cây thấp. Hoa sim và hoa mua nở tím sườn đồi khiến cảnh vật trong mắt bọn trẻ vui tươi lên được một chút. Mặt trời lúc này cũng đã ló ra sau cụm mây chiều, và bọn trẻ sung sướng khi thấy cơ thể ấm dần lên.

- Con gì kìa? 

Đang đi, Nguyên chợt khựng lại, kinh ngạc kêu lên, cái xác Kăply trên tay suýt chút nữa rơi xuống đất. 

Tụi bạn nó lật đật chồm tới trước, sửng sốt khi thấy cạnh bụi sim trên sườn đồi bên phải một con vật kỳ lạ đang đứng giương mắt ra nhìn tụi nó. Suku phải mím môi ghì con Chacha lại để nó khỏi lao tới. 

Nguyên cắn môi, mắt mở trừng trừng, không biết con vật trước mặt là con gì. Nó giống như con sóc nếu căn cứ vào bộ lông mềm mại màu nâu và chiếc đuôi dài nhưng đôi chân nó lại là đôi chân vịt, trong khi cái đầu của nó là đầu cá nhám với chiếc mõm dài và nhọn, đôi mắt lờ đờ, nói chung trông thiệt là quái gở. 

Con quái đứng im lìm chỗ bụi cây, không tỏ vẻ gì sắp tấn công bọn trẻ nhưng hình thù kỳ dị của nó vẫn khiến đứa nào đứa nấy không rét mà run.

- Giờ tính sao, K’Brăk? - Kan Tô bối rối hỏi - Tiếp tục đi tới hay là... 

- Cứ đi! - Nguyên ngắt lời bạn - Chắc nó không làm gì tụi mình đâu.

Nói xong, Nguyên sè sẹ nhích chân về phía trước, mắt vẫn chằm chằm nhìn con quái. 

Quả như Nguyên nghĩ, con quái chẳng có phản ứng gì khi bọn trẻ lướt ngang qua. Nó vẫn đứng bất động một chỗ, chỉ quay chiếc mõm nhọn theo hướng chuyển động của bọn nhóc như một chiếc kim đồng hồ bự chảng và phát ra một âm thanh kỳ cục trong cổ họng nghe như tiếng òng ọc. 

- Ớn lạnh thiệt! - K’Tub vuốt ngực nói, sau khi đã ngoái đầu nhìn lại cả chục lần và chắc nụi là con quái không đuổi theo.

Nguyên quay sang Suku:

- Em biết con vật đó không, Suku? 

- Không, anh K’Brăk. - Thằng oắt đáp, ánh mắt xa xăm như đang nghĩ ngợi điều chi. 

Mua rụt cổ:

- May mà đó không phải là một con ác thú. Nếu không... 

Tiếng đập cánh phành phạch sát rạt trên đầu quạt câu nói của Mua bay mất nửa khúc sau.

Bọn trẻ ngẩng phắt lên, điếng hồn thấy một con chim khổng lồ bay lướt qua, thấp đến mức suýt chạm vào đầu tụi nó. Đó đích thị là một con chim, không nghi ngờ gì nữa, nhưng bọn trẻ rõ ràng cũng nhìn thấy dưới bụng nó có những cái vây lấp lánh như vây cá và khi bay ngang qua, con chim lạ kêu lên những tiếng meo meo khiến tụi nó rùng mình tin là nó có cái đầu của một con mèo. 

Lần này thì Nguyên dừng phắt lại, mặc dù con quái điểu đã bay mất. 

- Suku! - Nguyên nghiêm mặt nhìn thằng oắt, giọng ngờ vực - Thế này là thế nào? Nơi đây thực ra là đâu? 

- Em không rõ lắm, anh K’Brăk. - Suku lúng túng chùi tay lên vạt áo - Nhưng chắc chắn siêu phù thủy Yan Dran ở loanh quanh trong khu vực này. 

Nguyên nhớn nhác nhìn quanh, lại hỏi, cảm thấy cổ họng khô rang: 

- Hổng lẽ ổng chọn một cái chỗ quái đản như thế này để cư ngụ? 

Như để trả lời Nguyên, một tiếng ủn ỉn vang lên từ bên trái. Bọn trẻ ngoảnh phắt lại, thấy một con heo trắng thò đầu ra khỏi bụi cây rậm, miệng đang nhai chóp chép một thứ lá quỉ quái gì đó màu đỏ. Con heo không để ý gì tới tụi nó, cứ gục đầu cặm cụi đánh vật với mớ lá trong miệng, vừa ăn vừa kêu ục ục một cách khoái trá.

Bọn trẻ dán mắt vào con heo, thấp thỏm chờ đợi. Và đúng như tụi nó lo lắng, khi con heo chui hẳn ra ngoài, tụi nó thấy con quái chỉ có cái đầu là heo, còn thân mình là của một con vật nào đó từa tựa như con bê nhưng lại có đuôi rắn. 

Trong khi tụi con gái sợ hãi giúi vào nhau thì Nguyên một lần nữa đưa mắt nhìn Suku.

- Kệ bọn chúng! Chúng ta cứ đi tiếp, anh K’Brăk! 

Suku hắng giọng nói, cố tỏ ra bình thản và nhất là cố tránh ánh mắt của Nguyên mà nó tin là chẳng có chút xíu vui vẻ nào trong đó.

CHƯƠNG 18

CUỘC CHIẾN BÊN BỜ SUỐI 

Bọn trẻ líu ríu kéo đi trong lặng lẽ, thỉnh thoảng lại giật bắn mình bởi những tiếng động lạ trong các bụi cây. Nguyên nhận ra tụi nó đang lạc vào một miền đất quái và một chốc sau thì nó bắt gặp trong lòng mình cảm giác rờn rợn của cái lần tụi nó nửa đêm đột nhập vào trường Đămri. 

Rất may là mình chỉ gặp những con thú hiền! Nguyên tự trấn an, sau nhiều lần phát hoảng vì những con quái thú đủ kiểu, đủ cỡ cứ chốc chốc lại ló ra trên các sườn đồi hoặc ung dung lướt ngang trước mặt tụi nó. 

- Làm sao biết họa sĩ Yan Dran ở chỗ nào, Suku? 

Nguyên sốt ruột hỏi, cảm thấy hai tay đã mỏi nhừ nhưng nó lại không muốn đặt Kăply xuống.

Suku chưa kịp đáp, thiệt tình thì nó cũng không biết đáp như thế nào, bọn trẻ đã ngoặt quanh chân đồi và Nguyên kịp thấy một dãy nhà lá hiện ra trong tầm mắt. 

- Chắc là đây rồi.

K’Tub reo lớn và xông lên trước, xăm xăm đi tới. 

Chỗ ở của Yan Dran trông giống như một khu nghỉ mát với những căn nhà lá có mái tròn như bát úp, ngăn cách với nhau bằng những thảm cỏ xanh rờn. Từ xa, Nguyên đã nhìn thấy những cây cột chạm khắc các hình thù kỳ lạ với những ô tam giác và hình thoi được sơn đỏ dựng rải rác khắp nơi. Vô số mãnh thú như voi, cọp, sư tử chầu quanh mỗi cây cột và hình ảnh đó quả thực khiến bọn trẻ nổi gai ốc khắp người, chân cẳng tự nhiên dừng phắt lại.

K’Tub nhướn mắt nghiêng ngó một hồi rồi thở phào:

- Hình như đây là những con thú bằng đá.

Nó đá mớ sỏi vụn dưới chân bắn về phía các con vật và cười hì hì khi chẳng thấy bọn chúng nhúc nhích gì hết: 

- Thấy chưa!

Một tiếng nói thình lình vang lên từ sau gò đất nhỏ ven đường:

- Ê, chơi trò gì kỳ vậy?

Bọn trẻ giật mình đánh mắt về phía phát ra tiếng nói, ngạc nhiên thấy một thằng oắt chừng bảy tuổi từ sau gò đất bước ra, mắt gườm gườm nhìn K’Tub, trông có vẻ rất tức giận. Nó cầm trên tay một cây cọ vẽ, mặt mày nhem nhuốc nhưng không che lấp được vẻ thông minh lanh lợi.

K’Tub phì cười khi thấy thằng oắt mặc trần xì một cái quần cụt, phơi cái bụng chang bang ra trước mặt mọi người và cái vẻ giận dữ của nó trông thiệt là ngộ nghĩnh:

- Chà, em định làm gì vậy? 

Thằng oắt nhận ra ngay K’Tub đang trêu nó. Mặt nó lập tức sa sầm và trong lúc bọn trẻ chưa đoán ra thằng oắt sẽ làm gì thì nó đã nhanh như chớp chĩa cây cọ vào người K’Tub, gầm lên: 

- Đứt phựt nè! 

Thằng oắt la rất lớn, đứa nào cũng nghe nhưng không hiểu nó bảo cái gì đứt thì hoàn toàn bất ngờ, thằng K’Tub hét lên một tiếng thất thanh và quính quíu dùng cả hai tay giữ chặt chiếc quần lúc này đã tụt xuống tới đầu gối. May mà chiếc áo nó mặc khá dài nên những chỗ kín đáo không đến nỗi phơi ra trước bàn dân thiên hạ nhưng cái hình ảnh lom khom kéo quần của nó cũng đã là cực kỳ khó coi. 

Tụi Êmê, Păng Ting, Bolabala và Mua hét lên một tiếng xem ra còn rùng rợn hơn tiếng hét của K’Tub, cả tám bàn tay hấp tấp đưa lên che mặt, bốn cái đầu lật đật ngoảnh đi chỗ khác, nhanh đến mức có cảm tưởng nếu gặp con basilic có lẽ tụi nó cũng không phản ứng thần tốc như vậy. 

Bây giờ thì bọn trẻ đã biết thằng oắt dùng thần chú để làm đứt dây lưng quần của đối phương, và khi biết được điều đó rồi thì tụi nó dở cười dở khóc và đưa mắt nhìn nhau, thiệt tình không biết phải nên đánh trả như thế nào.

K’Tub mặt đỏ như gấc, luống cuống thắt lại dây lưng cả buổi vẫn không xong mặt càng chín nhừ. Đã thế, thằng oắt không ngừng hoa tay múa chân, miệng bô bô: 

- Lêu lêu, mắc cỡ! Lêu lêu, mắc cỡ! 

Dĩ nhiên hành động đầu tiên của K’Tub sau khi đã chỉnh trang y phục đâu vào đấy là hầm hầm chĩa tay vào thằng oắt nghịch ngợm. Nhưng nó chưa kịp hô một câu thần chú nào, Suku đã ôm cứng lấy tay nó: 

- Khoan đã, mày! 

Suku quay sang thằng nhóc, tươi cười hỏi:

- Em là Yan Jik phải không? 

- Sao anh biết tên em? - Thằng oắt giương cặp mắt đen láy nhìn Suku. 

Suku chỉ Nguyên: 

- Em nhận ra ai đây không? 

Bây giờ thằng Yan Jik mới nhìn thấy Nguyên. 

- A, anh K’Brăk! - Nó reo lên hớn hở - Lâu nay anh đi đâu vậy? Sao anh không đi học nữa? Ba em nhắc anh hoài! 

- Ờ, ờ, anh bị ốm. - Nguyên ấp úng, đã đoán đây là con trai của họa sĩ Yan Dran. 

Yan Jik nhìn sững Kăply:

- Anh ôm ai vậy?

- Em họ anh. K’Brêt. 

- Anh K’Brêt cũng bị ốm à?

- Ờ, bị ốm. - Nguyên đáp qua loa. Rồi nó chỉ tay vào lũ bạn - Còn đây là những bạn tốt của anh, Yan Jik. 

Trong khi Nguyên giới thiệu tên từng đứa, Yan Jik tò mò lướt mắt qua những khuôn mặt, cuối cùng dừng lại ở K’Tub, cười khì khì:

- Xin lỗi chuyện khi nãy nha, anh K’Tub.

- Không có chi. - K’Tub cười gượng gạo - Nhưng thiệt tình anh hổng hiểu em học ở đâu loại thần chú kỳ cục này... 

- Anh Pôcô và anh Pôca dạy em đó. - Yan Jik khoe, mặt nó như nở ra vì kiêu hãnh. 

K’Tub nhún vai: 

- Hai thằng nhóc đó dạy bậy bạ không hà.

- Bậy bạ ư? - Yan Jik nhíu mày, rồi nó lắc đầu lia lịa - Không đâu, anh K’Tub. Câu thần chú này dùng để đối phó với lão Imđi hiệu nghiệm lắm đó. Nếu không có nó, chắc em bị lão làm khổ dài dài. 

Nguyên hỏi: 

- Lão Imđi là ai?

Yan Jik có vẻ không tin một cái tai nào trong hai cái tai dơ hầy của mình. Nó nhìn sững Nguyên, miệng há hốc: 

- Trời đất, anh quên lão rồi sao, anh K’Brăk?

- Ờ, ờ... - Nguyên bối rối đập đập tay lên trán - Vừa rồi anh ốm một trận quá mạng nên đã quên rất nhiều thứ, Yan Jik à.

- Đó là lão quản gia. - Yan Jik quẹt mũi nói, mặt nó nhăn húm khi nhắc đến lão Imđi, y như thể nó đang nói đến một cái giá treo cổ - Ba em thuê lão trông nhà và trông chừng em. 

Yan Jik vung cây cọ:

- Chậc, mấy anh chị biết không, lão ta khó chịu cực kỳ. Lúc nào lão cũng lải nhải: Mày không được làm cái này. Mày không được làm cái kia. Thiệt rầu chết được. Đã thế, lão còn sống dai nhách. 

Nguyên trố mắt nhìn Yan Jik, không tin trước mặt mình là một thằng nhóc bảy tuổi. Nó nhớ trùm Bastu từng khen Yan Jik rất thông minh, nhưng không nghĩ thằng này lại tinh khôn và láu lỉnh như vậy. Chắc tại nó chơi với hai con ma song sinh Pôcô và Pôca nhiều quá. Nguyên nghĩ bụng và hắng giọng: 

- Ba em có nhà không, Yan Jik? 

- Có. Tụi anh đi theo em. Yan Jik nhanh nhẩu đáp và lập tức quay mình đi trước.

Căn nhà họa sĩ Yan Dran ở là căn nhà lớn nhất, nằm mé trái dãy nhà, bên cạnh một con suối hẹp và nhỏ, tiếng nước chảy róc rách khe khẽ, nghe buồn buồn nhột nhột như một vòi nước hỏng.

Trong khi bọn trẻ ngắm nghía mái lá tròn xoe như tán nấm khổng lồ và hiếu kỳ sờ tay vào những cây cột chạm trổ dựng hai bên cổng thì Yan Jik chui tọt vào nhà. 

Nhưng nhoáng một cái, nó đã chạy ra:

- Ba em không có đây. 

Nó đảo cặp mắt, láo liên nhìn quanh: 

- Chắc ba em ở ngoài suối. 

Bọn trẻ lại theo chân Yan Jik đi vòng qua căn nhà. Nhưng vừa quanh ra phía sau, tất cả liền khựng lại, mắt trợn lên. 

Trước mặt tụi nó, bên này bờ suối, có hai người đàn ông đang đứng. Một người mặc đồ ngắn màu đen với những đường diềm sặc sỡ ở vai và cổ tay, tóc rối bù, tay đang cầm chặt thanh gươm ngắn chĩa về phía trước. Vừa nhác thấy hình dạng người đàn ông này, Nguyên đã nhận ngay ra đó là siêu phù thủy Yan Dran, thầy dạy vẽ của K’Brăk. Đứng bên cạnh Yan Dran là một lão già có khuôn mặt dài như mặt ngựa, những thớ thịt trên hai gò má nổi thành cục, sắc cạnh như đẽo bằng đá. Lão chống cây gậy trắng hếu như ống xương xuống đất, lưng lão hơi bị khòm nên trông như lão đang tựa người lên chiếc gậy cho khỏi ngã.

Lão này chắc là quản gia Imđi! Nguyên nghĩ bụng và quét mắt sang bên kia suối. Ngay lập tức, nó giật bắn mình, mắt chớp liền ba, bốn cái, thậm chí phải kềm chế lắm nó mới không đưa tay xuống đùi véo một cái để xem mình tỉnh hay mơ. 

Các chàng trai Bạch kỳ lân tươi tắn trong những chiếc áo chùng đỏ quen thuộc đang đứng cạnh ba hình thù đen thùi lùi với ba con hắc xà ngoe nguẩy trên tay, trông âm u ma quái như vừa chui lên từ hầm mộ. Vừa nhác thấy ba người này, Nguyên đã cảm thấy khó thở, liền vội vã hít vô một hơi, sửng sốt lẩm bẩm: “Sao Bạch kỳ lân lại đi chung với Hắc tinh tinh há?”. Nguyên tự hỏi, nhưng rồi rất nhanh nó nhớ ra: Phải rồi! Bạch kỳ lân không đối phó với phe K’Rahlan, còn Hắc tinh tinh không chống lại phe Hắc Ám, nhưng Yan Dran là người của giáo phái Madagui, không liên quan gì đến những cấm kỵ của bọn họ. 

Masari khẽ ve vẩy cây gậy sừng hươu trên tay, mỉm cười nói, trông anh tươi tỉnh như đang trò chuyện với bạn bè: 

- Thế nào, Yan Dran? Hổng lẽ đến nước này mà ngươi còn chưa chịu nói ra? 

Yan Dran khoa thanh gươm một vòng: 

- Ngươi hãy hỏi thanh gươm của ta trước đã, Masari.

Pila lắc đầu làm những lọn tóc xanh thẫm dài tận vai khẽ đong đưa như có gió thổi, nom thật đẹp mắt: 

- Ngươi ngoan cố thật đấy, Yan Dran. Ngươi nghĩ ngươi có thể chống lại sự liên thủ của sáu người bọn ta sao?

Yan Dran nhún vai, giọng khinh bỉ: 

- Cách đây nhiều năm Bastu đích thân tra hỏi ta còn không có kết quả, lũ đánh thuê như bọn ngươi đừng có nằm mơ!

- Đừng nhiều lời với hắn nữa! - Một giọng nói khè khè phát ra từ chỗ Hắc tinh tinh, không rõ do ai nói - Nếu hắn không chịu mở miệng, bọn ta cho hắn về chầu trời quách! 

- Im đi! - Lão quản gia Imđi quát lớn, chiếc lưng còng đột ngột thẳng lên khiến lão tự nhiên cao thêm một tấc - Cho bọn ngươi về chầu trời thì có! 

Vừa hét lão vừa giận dữ trỏ cây gậy về phía Hắc tinh tinh, như thể cầu cho sét giáng xuống bọn họ cho rồi. 

Yan Jik níu tay Nguyên, sợ hãi:

- Bọn này là ai vậy, anh K’Brăk? 

- Đây là bọn sát thủ đánh thuê. 

- Đánh thuê à? - Yan Jik cau mày - Thế anh có biết ai đã thuê họ không?

Nguyên tặc lưỡi:

- Chắc là phe Hắc Ám. 

Yan Jik đưa cặp mắt lo lắng nhìn qua bên kia suối, băn khoăn: 

- Chẳng hiểu họ muốn ba em nói ra điều gì?

Nguyên chưa kịp đáp, một tên trong bọn Hắc tinh tinh đã cất giọng gai gai:

- Ngươi thà chết chứ nhất định không chịu tiết lộ bí quyết vẽ truyền thần ư, Yan Dran? 

Yan Dran lắc thanh gươm: 

- Bọn ngươi không xứng để nói câu đó đâu. 

- Được rồi, bọn ta sẽ cho ngươi biết ngay bọn ta có xứng hay không.

Gần như cùng lúc với câu nói, Tam phù thủy Hắc tinh tinh đồng loạt hất tay ra. Ba con hắc xà trên tay chúng lập tức vọt tới trước như tên bắn, vừa bay trong không vừa rít lên vi vu như tiếng sáo.

Lão Imđi huơ loạn xạ khúc xương trắng nhưng không đánh trúng được con rắn nào, mặt mày có vẻ đã bắt đầu hoảng sợ. Yan Dran vội vã bước lên chắn trước mặt lão quản gia và vung tay một cái: từ mũi gươm, một bầy diều hâu bay ra, xông thẳng vào ba con hắc xà. 

- Hay quá! - Bolobala reo lên - Bọn quái xà gặp khắc tinh rồi...

Bolobala chưa nói hết câu, đã thuỗn mặt ra. Ba con rắn của Hắc tinh tinh nhanh như ba tia chớp đen, phóng loằng ngoằng ngó hoa cả mắt, vừa luồn lách né tránh những cái mỏ nhọn của bầy diều hâu vừa tấn công vào những kẽ hở của đối phương từ nhiều hướng. Vừa xông trận, bầy chim chưa mổ trúng địch thủ được cái nào đã thi nhau rơi xuống lộp độp.

Yan Dran thu những con chim về và lầm rầm niệm chú, lần này từ mũi gươm bay vọt ra một con rồng lấp lánh vảy bạc. Rồng là vua của các loại rắn, chưa thèm nhe nanh múa vuốt, chỉ quẫy mình một cái, ba con quái xà đã hấp tấp bay lộn trở về.

Bọn Hắc tinh tinh ré lên, giận dữ:

- Masari! Bọn ngươi chỉ biết trơ mắt ra dòm sao? 

Masari khẽ mỉm cười, nhìn Pila và Karăm, hất đầu một cái. 

Những chiếc gậy sừng hươu lập tức phun ra ba luồng ánh sáng chói lòa, chia nhau bắn thốc vào đầu, mình và đuôi rồng. 

Thấy Bạch kỳ lân đã ra tay, Hắc tinh tinh cũng phất tay áo chùng, làm bay ra một làn khói đen thui và khẳm lặm, tanh tưởi như mùi tử thi, càng lúc càng tỏa rộng, nhanh chóng bao phủ cả một vùng. 

Bọn trẻ lính quýnh bước lui cả chục bước để tránh xa cái mùi tử khí đó, mắt vẫn dán chặt vào trận đánh trước mặt, tim thắt lại khi thấy lão Imđi không chịu nổi làn khói đen, ngã đánh huỵch một cái, nằm thẳng cẳng, khúc xương trên tay văng tuốt ra xa.

Con rồng bạc thấy nguy, hả họng phun ra những quả cầu lửa. Những quả cầu va vào những luồng sáng của Bạch kỳ lân, phát ra những tiếng ùng oàng như tiếng đại bác khiến bọn trẻ phải đưa tay bịt chặt hai tai, chân bất giác thối lui liên tiếp.

Lúc này, trời đã hoàng hôn, con rồng bạc quẫy lộn giữa màn khói đen xen lẫn những luồng chớp sáng khiến dãy ráng đỏ phía xa xa rực lên dữ dội, trông như chân trời đang bốc cháy.

Nguyên lo âu thấy con rồng bạc của Yan Dran dường như đuối sức dần, những cú nhào lộn đã chậm chạp hẳn, có lẽ do hít phải làn khói độc của Hắc tinh tinh.

- Thế nào, Yan Dran? - Tiếng một phù thủy Hắc tinh tinh vọng ra từ sau bức màn khói - Đến nước này mà ngươi vẫn bướng bỉnh hay sao?

- Bướng bỉnh là hay chứ sao! - Một giọng nói sang sảng vang lên - Yan Dran, ngươi cứ bướng xem bọn chúng làm gì được ngươi! 

Cùng với tiếng nói, một tiếng “bộp” vang lên, nghe như tiếng một quả táo vừa rụng xuống đất. 

Bọn trẻ chưa hiểu ra chuyện gì, đột nhiên một làn sương trắng từ dưới đất từ từ dâng lên.

- Tứ bất tử! - Suku khẽ kêu. 

Bây giờ thì làn khói đen của Hắc tinh tinh đã bị đẩy lên cao, mỗi lúc một nhạt dần và mọi người sửng sốt nhìn thấy trước mặt Yan Dran một con cóc đỏ to lớn đang ngửa đầu lên trời phun sương một cách say sưa.

- Hay lắm! - Karăm hào hứng - Bọn ta từng nghe nhắc tới Tứ bất tử nhưng chưa có dịp so tài.

- Chẳng có gì là hay hết, Karăm! - Phù thủy Hắc tinh tinh đứng bên trái hừ mũi - Mới có con cóc xuất trận thôi mà đã rắc rối rồi. Hắn đưa thêm ba con vật chết tiệt kia ra là bọn ta mệt đấy. 

Bạch kỳ lân không đếm xỉa gì đến Hắc tinh tinh. Ba chàng trai huơ cây gậy sừng hươu một cái, ba luồng sáng tắt phụt. 

- Tím hoa cà! 

Masari khẽ hô, lập tức những chùm tia sáng tím lóng lánh từ các đầu gậy bắn ra, rực rỡ như pháo bông, trong nháy mắt đã chụp xuống người Yan Dran. 

Bọn trẻ điếng hồn nhớ đến lần các chàng trai Bạch kỳ lân đánh nhau với sát thủ Baltalon ở thung lũng phía sau lâu đài K’Rahlan. Lần đó, khi những luồng sáng tím gặp phải sự phản kích của đối phương, đã phát ra một tiếng nổ kinh hồn, đẩy tụi nó ngã rạp và lăn lông lốc như trong một trận bão.

Bây giờ thấy đám mây màu tím của Bạch kỳ lân sắp sửa sa xuống chỗ Yan Dran đứng, tụi nó hoảng hốt ngồi thụp xuống, hai tay ôm lấy đầu. Thằng oắt Yan Jik và con khỉ Chacha ngơ ngác nhìn quanh, thấy đứa nào cũng làm như vậy, liền bắt chước làm theo. Nguyên ôm chặt Kăply vào lòng, loay hoay chọn tư thế sao cho hai tay che kín được khuôn mặt Kăply, tâm trí chỉ nghĩ đến chuyện làm sao cho bạn khỏi trầy xước nếu chẳng may cả hai cùng lăn đi. 

Nhưng trái với sự chờ đợi của bọn trẻ, đám mây tím chạm phải làn sương trắng của con cóc đỏ lại không phát ra một tiếng nổ nào, thậm chí không vang lên một âm thanh nhỏ. Như hai mớ bông gòn chạm vào nhau, cả hai nhẹ nhàng đỡ lấy nhau và xô đẩy nhau một cách êm ái. 

Một lát sau, con cóc đỏ có vẻ bị thất thế: Làn sương trắng tuôn ra từ miệng nó bị đám mây màu tím ép xuống, càng lúc càng thấp, Nguyên lo lắng thấy bụng nó phồng lên xẹp xuống một cách gấp gáp.

Đúng vào lúc làn sương sắp chạm mặt cỏ, con bọ ngựa vàng, con nhện xanh và con dế trắng đồng loạt nhảy ra, hăng hái giúp sức cho con cóc đỏ. Ngay tức khắc, làn sương tỏa rộng, trở nên dày dặc, và những luồng sáng tím nhanh chóng bị đẩy bắn lên cao.

Hắc tinh tinh thấy không xong, liền giũ tay áo chùng, những luồng khói độc một lần nữa bay ra, lần này hợp với đám mây màu tím của Bạch kỳ lân chống chọi kịch liệt với bốn con vật của Tứ bất tử. 

Thế trận bỗng chốc trở nên giằng co, những màn khói sương cứ thay nhau trồi lên hụp xuống, mặc dù không đẹp mắt bằng cuộc đụng độ giữa Tứ bất tử với bàn tay máu của Balibia hôm trước nhưng vẫn khiến bọn trẻ hồi hộp và say mê theo dõi. 

- Ba giúp ngài tổng quản một tay đi ba! - Yan Jik sốt ruột kêu lớn.

Yan Dran giật mình ngoái lại, thấy cả đống nhóc tì đang đứng sau hè dòm ra, nhưng ông không đủ thì giờ xem bọn nhóc là ai, chỉ nhận ra thằng Yan Jik đang nhảy tưng tưng, tay huơ qua huơ lại cây cọ vẽ một cách nóng nảy.

- Được rồi, con.

Ông mỉm cười, và quay mặt vô đấu trường, cao giọng: 

- Ta phụ với lão, Tứ bất tử! 

Vừa nói ông vừa ngoắt thanh gươm một cái, lôi ra từ đâu đó trong không trung một con chim vàng với sải cánh to như một cánh cửa. Con chim vừa xuất hiện đã bay bổng lên cao, vươn đôi cánh dài vỗ phành phạch. Những luồng khói đen từ trong tay áo Hắc tinh tinh tuôn ra bị con chim vàng quạt bay tứ tán. 

Nhưng con chim hiện ra từ thanh gươm phép thuật của Yan Dran không làm mọi người kinh ngạc bằng con chim thứ hai bay ra từ cái xác của Kăply. Đây cũng là một con chim vàng, nó bất ngờ vọt lên từ cái xác cứng đờ của Kăply, trong tích tắc đã tới chỗ con chim kia; cả hai con cùng ríu rít kêu lên như chào hỏi rồi thi nhau quạt cánh như một cặp vũ công đang trình diễn màn múa đôi, nhịp nhàng và đẹp mắt không thể tả. 

Trong khi Nguyên và tụi bạn há hốc miệng ra trước hiện tượng lạ lùng này thì cuộc chiến trước mặt đã phân thắng bại. Khói độc của Hắc tinh tinh bị hai con chim vàng quạt một hồi đã không còn thấy tăm hơi đâu nữa, đám mây màu tím của Bạch kỳ lân một mình không chống nổi bốn con vật của tổng quản lâu đài Sêrôpôk, càng lúc càng loãng dần. 

- Ha ha ha. - Tiếng cười nhạo báng của Tứ bất tử vang lên từ một chỗ bí mật nào đó - Tam phù thủy tài nghệ thiệt ra chỉ có thế... 

Đang nói, tổng quản lâu đài Sêrôpôk bỗng nhiên im bặt, như bị ai thình lình giật mất tiếng nói ra khỏi miệng.

Trước mặt mọi người, Tam phù thủy Hắc tinh tinh bỗng nhiên biến mất. Bên kia bờ suối chỉ còn ba chiếc áo đỏ của Bạch kỳ lân. 

- Yan Jik, coi chừng! - Chợt hiểu ra, Yan Dran ré lên, lật đật quay phắt ra sau.

Nhưng đã muộn: Hắc tinh tinh đột ngột trồi lên từ dưới đất, sát bên Yan Jik. Chưa ai kịp phản ứng, kể cả bọn Nguyên đứng ngay đó, ba con quái xà trong tay Hắc tinh tinh đã phóng ra, quấn chặt lấy Yan Jik. 

Xách bổng thằng oắt như xách một đòn bánh, bọn Hắc tinh tinh khua chân một cái, đã lùi xa cách đó một quãng. 

- Ngươi thua rồi, Yan Dran. - Phù thủy Hắc tinh tinh đứng giữa cười khục khục, vẻ đắc ý. 

Yan Dran vẫy thanh gươm, thu con chim vàng lại. Ông mất thêm một lúc nữa để nhìn con chim vàng lạ lùng kia chui vào người Kăply mới từ từ quay lại phía Hắc tinh tinh, giọng mỉa mai: 

- Bây giờ ta mới biết Tam phù thủy là thứ đầu trộm đuôi cướp. 

Phù thủy đứng bên trái khọt khẹt như bị nghẹt mũi:

- Ngươi đừng quên bọn ta sống bằng nghề đánh thuê. 

Phù thủy bên phải tiếp lời: 

- Với bọn ta, mục đích là trên hết.

- Im đi! - Lão quản gia của Yan Dran lóp ngóp bò dậy sau một hồi nằm xụi lơ, sờ soạng mò tìm cây gậy trắng và câu đầu tiên thốt ra khỏi miệng là tiếng quát quen thuộc. 

Lão nhướn mày làm khuôn mặt thêm dài ngoằng:

- Hổng lẽ Tam phù thủy là bọn người bất chấp những thủ đoạn bẩn thỉu? 

- Lão đừng có vơ đũa cả nắm, lão Imđi! - Tiếng Masari vang lên từ bờ suối đối diện - Đó là chủ trương của Hắc tinh tinh. Bọn ta không bao giờ làm những trò như vậy. 

- Anh nói hay lắm, anh Masari. - Păng Ting bước tới một bước, cao giọng - Vậy anh bảo Hắc tinh tinh thả Yan Jik ra đi! 

Bây giờ các chàng trai Bạch kỳ lân mới trông thấy bọn Păng Ting. Cả ba trố mắt lên và Masari mỉm cười nói, nghe giọng điệu thì dường như anh biết trước bọn trẻ sớm muộn gì cũng tới chỗ này: 

- Các em đấy à? 

Păng Ting gật đầu và lặp lại yêu cầu:

- Các anh cứu Yan Jik ra đi.

- Cái này thì không được, Păng Ting. - Masari cười khổ.

- Nhất định các anh phải cứu Yan Jik. - Păng Ting mím môi - Các anh ra giá đi. Tụi em sẽ trả tiền sòng phẳng, thậm chí trả gấp đôi.

- Păng Ting, em đừng làm khó tụi anh chớ. - Pila nhăn nhó, tay vò vò tấm khăn choàng lông thú trắng tinh trên cổ, vẻ khó xử.

- Masari và Pila nói đúng đấy. - Karăm thở hắt ra - Bọn anh không thể đáp ứng yêu cầu của em được, mặc dù bữa nay anh thiệt là khoái khi thấy em không buồn kỳ kèo giá cả như mọi lần. Hổng lẽ hồi trưa em ăn trúng thứ chi hả Păng Ting? 

Suku khẽ giọng:

- Vô ích thôi, chị Păng Ting. Một là, Bạch kỳ lân và Hắc tinh tinh không bao giờ đối đầu với nhau. Hai là Tam phù thủy không thể nhận tiền của người thứ hai để làm ngược lại yêu cầu của người thứ nhất. 

- Nhóc ngươi nói đúng đấy, Suku. - Phù thủy Hắc tinh tinh đứng giữa cười khùng khục, Suku nói nhỏ xíu nhưng hắn vẫn nghe được - Còn con nhỏ Păng Ting kia, ngươi qua lại với bọn ta không ít mà không hiểu rõ quy tắc của bọn ta sao? 

Păng Ting nhìn thằng Yan Jik đang giãy giụa một cách tuyệt vọng trong tay Hắc tinh tinh, ngực xẹp xuống:

- Làm sao giờ, anh K’Brăk? 

Nguyên chưa kịp đáp, Yan Dran đã nhận ra nó: 

- Con đó hả, K’Brăk? Con biến đi đâu mấy tháng nay vậy?

- Con bị ốm, thưa thầy.

- Con ôm người nào trong tay vậy?

- Dạ, em họ con. 

Phù thủy Hắc tinh tinh bên trái lộ vẻ nóng nảy, hắn sờ tay lên cái mũi lệch, cất giọng lạnh lẽo:

- Cất câu chuyện của thầy trò ngươi vào đi. Yan Dran, bây giờ ta hỏi lại lần chót. Ngươi có chịu nói ra bí mật của ngươi hay không? 

Yan Dran nghiến răng: 

- Nếu ta không nói thì sao? 

Hắc tinh tinh mỗi người cầm một cái đuôi rắn, đong đưa thằng Yan Jik trong không trung như đưa võng làm thằng oắt kêu thét lên. 

- Ngươi cũng thấy rồi đó. - Phù thủy bên phải khụt khịt mũi, giọng đe dọa - Nếu ngươi tự hào rằng ngươi là người cha độc ác nhất thiên hạ thì ngươi cứ để thằng bé này chết trong tay bọn ta. 

Nguyên sè sẹ đặt Kăply xuống đất, quay nhìn tụi bạn:

- Yan Dran không dám ra tay, nhưng tụi mình có thể liều mạng với Tam phù thủy. Chỉ cần Yan Jik thoát khỏi sự kềm chế của Hắc tinh tinh trong lúc lộn xộn, Tứ bất tử nhất định sẽ can thiệp. 

Hắc tinh tinh hoàn toàn bất ngờ khi thấy bọn trẻ chia ra bao vây bọn chúng vào giữa. Chúng liếc nhau như hội ý rồi quay nhìn đối phương, đôi mắt bắt đầu phát ra thứ ánh sáng lập lòe như ma trơi. 

- Tụi con lui ra đi. - Yan Dran quát lớn - Tụi con không phải là đối thủ của bọn chúng đâu. 

Lúc này Nguyên bị kích động đến nỗi không buồn để ý đến lời cảnh cáo của Yan Dran, vẫn chằm chằm dán mắt vào mặt Hắc tinh tinh, tay từ từ giơ ra phía trước, đầu cố nhớ lại những câu thần chú chiến đấu đã học. 

- Đã đến nước này thì bọn anh cũng đành phải vào cuộc thôi!

Tiếng Masari vang lên và gần như cùng lúc, ba chiếc áo đỏ như ba con chim lửa từ bờ suối bên kia bay vọt sang và đáp xuống bên cạnh Hắc tinh tinh.

- Xin lỗi tụi em nhé. - Pila nói, tay chĩa chiếc gậy sừng hươu về phía bọn trẻ.

- K’Brăk, con cãi lời ta sao? - Yan Dran lo lắng và giận dữ rít lên - Làm sao mà tụi con... 

Hai vệt sáng một xanh một trắng từ xa lao tới như hai tia chớp cắt ngang câu nói của Yan Dran. Chưa ai kịp nhìn thấy đó là thứ gì, thì hai vệt sáng đã phóng thẳng vào người Hắc tinh tinh, nhanh không tưởng. 

Tam phù thủy Hắc tinh tinh tái mặt, vừa kịp né qua một bên đã nghe vang lên những tiếng “phựt, phựt”.

Trước ánh mắt sửng sốt của mọi người, ba con hắc xà trên tay Hắc tinh tinh rũ xuống như ba sợi dây bị đứt, nhùng nhằng một lát rồi rớt bộp xuống đất, nằm cứng đờ. 

- A!

Bọn Hắc tinh tinh la lên, hấp tấp vươn tay ra định tóm thằng Yan Jik vừa thoát khỏi ba sợi dây trói thì hai tiếng huýt sáo một bổng một trầm đã vang lên từ xa. 

Như nhận được hiệu lệnh, hai vệt sáng nhanh nhẹn chia ra hai bên, cuốn lấy tay phải và tay trái của Yan Jik, rồi “véo” một tiếng, mang thằng oắt bay đi, nhanh đến mức khi Yan Jik đã mất hút rồi, ba cánh tay khẳng khiu của Tam phù thủy Hắc tinh tinh vẫn còn lơ lửng giữa khoảng không như ba nhánh cây khô.

CHƯƠNG 19

HỌA SĨ YAN DRAN 

Nguyên quay sang Suku, bắt gặp thằng này cũng đang đưa mắt nhìn mình. Bốn con mắt nhìn nhau trừng trừng, sửng sốt và ngờ vực, rồi như không nén được hai cái miệng cùng bật kêu lên:

- Thanh xà bạch xà!

Masari giật mình một cái rồi khẽ cúi đầu lẩm bẩm: 

- Đúng rồi! Là thanh xà bạch xà! 

- Ha ha ha! - Từ đâu đó, tiếng cười của tổng quản lâu đài Sêrôpôk chợt vang lên, đầy châm biếm - Hắc tinh tinh, thành thật chia buồn với bọn ngươi nha! Luyện lại ba con rắn khác chắc không dễ chút nào chứ hả? 

Hắc tinh tinh ủ rũ nhìn ba xác rắn cứng quèo, vẻ mặt đau khổ và mất mát. Phải mất một lúc lâu, cả ba mới nhấc mắt lên khỏi những con rắn thân yêu, ngoảnh đầu nhìn ra xa, giận dữ gào lên: 

- Pôcô, Pôca! Đồ mất dạy! Tụi bay ra đây!

Hắc tinh tinh gào to đến mức ba chiếc mũi lệch rung rinh như sắp rớt. 

Nhưng mặc cho bọn chúng gào thét, Pôcô và Pôca vẫn im ru. Hắc tinh tinh vẫn nhìn chằm chằm về phía mà bọn chúng tin là cặp ma song sinh đang ở đó, răng nghiến ken két, cơn phẫn nộ làm những chiếc áo chùng đen phồng lên như sắp phát nổ. 

- Thôi, chúng ta về đi. - Masari chống cây gậy sừng hươu xuống cỏ, thở dài nói.

- Về? - Phù thủy Hắc tinh tinh đứng bên trái quay phắt sang Masari, mắt lóe lên rờn rợn - Ngươi điên rồi hả, Masari? Ta chưa từng biết có lần nào Tam phù thủy rút lui khi chưa hoàn thành nhiệm vụ. 

- Thiệt vậy sao? - K’Tub nói, giọng châm chọc - Vậy mà tôi tưởng lúc ở lâu đài K’Rahlan mấy ông đã chạy vắt giò lên cổ khi nhìn thấy cấm lệnh của Balibia chớ? 

Gương mặt trơ như gỗ của Hắc tinh tinh đột nhiên rung động. Cả sáu ánh mắt rọi thẳng vào mặt K’Tub như muốn dùng tia nhìn giết chết thằng oắt cho rồi.

- Ngươi tưởng bọn ta sợ Balibia ư? - Phù thủy đứng giữa cười khảy - Hừm, nếu ngươi là thằng nhóc có đầu óc thì ngươi phải biết là bọn ta không muốn đối địch với tả hộ pháp của phe Hắc Ám.

- Thằng cha Balibia đó cũng chẳng ra gì. - Phù thủy đứng bên phải nhún vai, cất giọng rin rít - Nếu bọn nhóc lâu đài K’Rahlan còn sống sờ sờ ra đây thì chắc là gã Mustafa cũng đang nhởn nhơ ở đâu đó. Hừm! 

Pila mân mê chuỗi cườm trên cổ, chép miệng: 

- Nếu bọn ngươi không về thì bọn ta đi trước à. 

- Pila! - Phù thủy đứng giữa hét lên điên tiết - Bọn ngươi làm ăn cái kiểu gì lạ vậy hả? Nếu vậy thì đừng nhận tiền của người ta...

- Ngươi đúng là ngu như heo. - Pila cáu kỉnh quát lại - Chúng ta nhận tiền là để đối phó với người sống chứ đâu phải để đối phó với người chết. Làm sao chúng ta giết được hai thằng nhóc Pôcô, Pôca khi mà tụi nó đã chết ngắc từ đời kiếp nào rồi. Hừm, ngay cả chạm vào chúng cũng không được nữa là. 

Lý lẽ của Pila làm Hắc tinh tinh cứng họng. Phù thủy đứng giữa sững sờ một thoáng rồi ngửa mặt lên trời, cười ghê rợn:

- Thiệt tức chết đi được! Ta sẽ kiện vụ này lên Hội đồng Lang Biang, yêu cầu họ cách chức ngay tên thối tha nào cai quản hồ Ma. Làm sao mà để cho hai con ma nhóc sẩy ra ngoài đi quậy lung tung như vậy được chớ! 

Hắn giận quá, thân hình cao lêu nghêu run bần bật, ngực áo phồng lên xẹp xuống như đang lận trong người một cái ống bơm. 

- Về thì về! Cuối cùng, hắn rên lên, bất lực và phẫn nộ. Và gần như ngay lập tức, cả ba biến mất. 

Masari quay sang bọn trẻ, vẫy cây gậy sặc sỡ thay cho lời chào:

- Bọn anh đi trước nhé. Hẹn gặp lại. 

- Im đi! - Lão quản gia vừa quát vừa vung khúc xương trắng về phía các chàng trai Bạch kỳ lân - Tốt nhất là bọn ngươi đừng bao giờ để cho ta thấy mặt nữa! 

Lão Imđi chỉ nói để xả cơn giận, chứ lão cũng thừa biết lời nói của lão rơi tõm vào khoảng không: Ai cũng thấy Tam phù thủy Bạch kỳ lân đã không còn ở đó nữa.

Căn nhà của họa sĩ Yan Dran tranh vẽ treo la liệt, ngợp cả mắt. Các vách kín tranh, bức này chồng lên bức kia, có nhiều bức thõng xuống từ trên nóc nhà. Có thể thấy Yan Dran không vẽ gì khác ngoài những con vật. Bọn Nguyên nhìn quanh, có cảm giác tụi nó đang lạc vào trong một vườn thú, rờn rợn vì đó là những con thú sổng khỏi thiên nhiên; trong tranh của Yan Dran không có một cái cây nào. 

Trong khi Nguyên tò mò ngắm một con rùa đang bơi một cách sống động trong bức tranh ở sát cùi tay nó, Yan Dran đã cất giọng trầm trầm:

- Tụi con đã làm ta vô cùng cảm động. Chà, - ông đưa tay quẹt mũi để chặn lại một tiếng khịt - không phải ai ở xứ Lang Biang này cũng dám công khai đối địch với Tam phù thủy đâu. 

Ông cúi xuống Nguyên, ân cần hỏi:

- Con ốm như thế nào hả K’Brăk? 

- Thưa thầy... - Nguyên ngập ngừng - theo như người ta nói, con và K’Brêt bị trúng lời nguyền Tan xác của Buriăk. Bây giờ ký ức của tụi con đã mất sạch. 

Yan Dran cúi xuống thấp hơn nữa, chóp mũi của ông suýt quét vào chỏm tóc của đứa học trò: 

- Thế những gì ta đã dạy cho con? 

- Con cũng đã... quên hết, thưa thầy. - Nguyên đáp bằng giọng biết lỗi.

Yan Dran xộc tay vào mái tóc rối bù và đứng thẳng người lên. 

- Không sao. - Ông thở đánh thượt - Từ từ rồi ta sẽ dạy lại cho con. 

Ông đưa mắt nhìn một lượt những đứa trẻ trước mặt:

- Hôm nay tụi con đi đến núi Lưng Chừng phải không?

- Dạ, - Nguyên ngạc nhiên - thầy biết rồi hả thầy? 

- Ta đã được giáo chủ Ama Êban thông báo. - Giọng ông chuyển qua nghiêm trang - Ta biết con và K’Brêt đã được chọn là chiến binh giữ đền đời thứ ba. Chủ trương của giáo phái Madagui từ xưa đến nay là luôn luôn ủng hộ các chiến binh giữ đền. Hơn nữa, đưa các chiến binh giữ đền đến núi Lưng Chừng là nhiệm vụ mà Hội đồng tối cao xứ Lang Biang đã giao cho ta.

- Ông biết núi Lưng Chừng ở đâu sao? - K’Tub vọt miệng hỏi.

- Ta ư? - Yan Dran đột nhiên trở nên mơ màng, ông nói mà không nhìn K’Tub - Thú thiệt là chính ta cũng không biết núi Lưng Chừng ở đâu.

Câu trả lời của nhà họa sĩ khiến bọn trẻ ngơ ngác nhìn nhau. 

- Thế... thế... - Tam ấp úng - thế làm sao... 

- Thế làm sao ông có thể đưa K’Brăk và K’Brêt đến đó được? - Bolobala sốt ruột nói tiếp câu nói dang dở của Tam. 

Yan Dran như bừng tỉnh. Ông quét mắt qua những gương mặt đang nghệt ra nhìn ông rồi chỉ tay vô tấm tranh bên vách trái căn nhà:

- Tụi con nhìn bức tranh này nè. 

Nguyên kinh ngạc khi nhận ra bức tranh này giống hệt bức tranh vẽ ngựa của thằng K’Brăk nó từng nhìn thấy ở đồi Phù Thủy. Chỉ khác là trong bức tranh này có tới hai con ngựa bạch. Hai con ngựa đang phi, bờm tung bay phất phới, vó cất cao, đặc biệt mỗi vó có một cặp cánh nhỏ ở hai bên. 

Mua liếm môi, hồi hộp hỏi:

- Hổng lẽ đây là những con ngựa biết bay? 

- Đúng thế. - Yan Dran gật đầu - Chính chúng sẽ đưa K’Brăk và K’Brêt đến núi Lưng Chừng. Ta không biết hòn núi này ở đâu nhưng chúng thì biết rõ. 

Kan Tô gãi gáy: 

- Nhưng đây chỉ là tranh vẽ... 

Yan Dran lừ mắt nhìn Kan Tô, cắt ngang:

- Chà, thằng nhóc này. Hổng lẽ con không biết Yan Dran là ai? Hổng lẽ con thiệt tình không biết trùm Bastu tìm hết cách này đến cách khác đe dọa ta để mong ta tiết lộ bí quyết gì sao?

Yan Dran cầm bức tranh ngựa xoay ra ngoài cửa, khẽ phất tay áo một cái. Trước sự sửng sốt của bọn trẻ, từ trong bức tranh, hai con ngựa phi ra, phóng ào qua cửa, đánh một vòng quanh bãi cỏ rộng, ngửa mặt lên trời hí vang, rồi bất thần tung vó bay vọt lên không.

Chúng bay càng lúc càng cao, những chiếc cánh nhỏ ở bốn vó vẫy nhịp nhàng trong ánh hoàng hôn, trông giống như những cánh bồ câu đang bay theo vó ngựa. 

Yan Dran thả tay ra, bức tranh lập bập quay về vị trí cũ và bọn trẻ tròn mắt thấy đó chỉ là một tấm vải trống trơn. 

Nguyên chợt buột miệng “à” lên một tiếng, nhớ ngay đến những bức tranh quái dị của thằng K’Brăk. Hôm đó, K’Brăk vẽ tất cả là ba bức. Một bức vẽ ngựa, một bức vẽ rồng, bức cuối cùng vẽ thầy nó - họa sĩ Yan Dran. Nhưng do trình độ của K’Brăk có hạn, những sinh vật trong tranh không thoát hẳn ra ngoài được. Con ngựa bạch ló ra được cái đầu, con rồng chỉ quẫy được nửa khúc trên, còn họa sĩ Yan Dran thì thò ra được mỗi cánh tay cầm gươm. “Thầy tao khen tao vẽ đẹp, nhưng ổng bảo tao phải học thêm ít nhất là hai trăm năm nữa họa may mới được phân nửa trình độ của ổng”. K’Brăk nói câu này lúc ngồi vẽ trên sườn đồi Phù Thủy, Nguyên từ từ nhớ lại. Lúc Nguyên và Kăply sợ xanh mặt khi thấy con ngựa bạch thò đầu ra khỏi bức tranh, K’Brăk lại trấn an: “Tụi mày yên chí đi. Trình độ của tao chưa thể khiến các hình vẽ thoát hẳn ra ngoài”. Lúc đó, Nguyên chưa hiểu hết những gì thằng K’Brăk nói.

Bây giờ thì Nguyên đã hiểu. Và nó ngước nhìn họa sĩ Yan Dran, vờ cất giọng buồn bã:

- Thầy ơi, chắc con phải học thêm hai trăm năm nữa may ra mới được phân nửa trình độ của thầy. 

- Cái đó là ta nói cho vui thôi. - Họa sĩ Yan Dran mỉm cười - Nếu con cố gắng, ta nghĩ chừng vài năm nữa con cũng có thể làm được như ta. 

Ông đưa mắt nhìn Kăply đang nằm trên chiếc ghế dài kê sát vách, tặc lưỡi:

- Ta cũng biết K’Brêt bị trúng độc của sứ giả Basil. Nhưng nếu thằng bé chưa chết thì nó vẫn phải có bổn phận đến núi Lưng Chừng. 

- Thế còn tụi con, thưa ông? - K’Tub thấp thỏm hỏi, cái cảm giác sắp sửa bị bỏ rơi khiến bụng nó lạnh ngắt - Tụi con cũng cùng đi với anh K’Brăk và anh K’Brêt chứ?

Một tràng tiếng hí vút lên ngay trước nhà cắt ngang câu chuyện. Mọi người quay ra đúng lúc hai con ngựa phi qua cửa. Bọn trẻ hoảng hốt thót bụng lại và vội vàng nhắm tịt mắt, sau này nghĩ lại tụi nó mới thấy đó là chuyện đại ngu vì khi nhắm mắt dĩ nhiên tụi nó hổng thấy được hai con ngựa đã chui vào lại trong bức tranh như thế nào.

K’Tub ngắm hai con ngựa lúc này đã yên vị trong tranh, vẫn với tư thế cũ không sai một mảy, rồi ngước nhìn Yan Dran, thắc mắc khi nãy vẫn đang lấp đầy miệng nó: 

- Thế nào hở ông? Tụi con sẽ đi đến núi Lưng Chừng chứ? 

- Không được đâu, con trai. - Họa sĩ Yan Dran gõ gõ thanh gươm vào lòng bàn tay, lắc đầu nói - Tất cả tụi con phải ở nhà. Chỉ có chiến binh giữ đền mới được phép đi đến đó thôi.

- Con cũng không được đi hả ba? - Thằng Yan Jik ré lên bất bình, nãy giờ nó vẫn ngồi thu lu đằng góc nhà với lão Imđi. 

- Im đi, Yan Jik! - Lão quản gia bắn tia nhìn răn đe vào mặt thằng oắt, nạt - Trước tiên con phải tự hỏi xem con có phải là chiến binh giữ đền không đã!

- Lão im đi thì có! - Thằng Yan Jik đổ quạu - Tôi có hỏi lão đâu!

Lão Imđi bật lên khỏi ghế như cái cập kênh thình lình bị chổng một đầu.

- Mày nói gì, nhóc? - Lão sùi bọt mép, giận đến mức nửa mặt bên trái đỏ ửng còn nửa mặt bên kia vàng khè - Hổng lẽ mày không hỏi thì tao không được răn dạy mày sao?

Tính nết thằng Yan Jik hóa ra giống hệt K’Tub. Nó cũng đứng phắt dậy, gần như ngay lập tức, mắt lóe lên thứ ánh sáng điên tiết và chĩa thẳng cây cọ vẽ vào người lão quản gia, mặt khùng khùng: 

- Lão muốn chơi tay đôi với tôi hả? 

Trong khi lão Imđi tái mặt, mắt nhìn chòng chọc cây cọ trên tay thằng oắt, hai tay lật đật giữ chặt lưng quần thì họa sĩ Yan Dran đập thanh gươm đánh chát vào cây cột tròn giữa nhà, xẳng giọng: 

- Yan Jik, con có thôi cái trò thô bỉ đó đi không!

Mặt ông phừng phừng: 

- Con đi kiếm hai anh em Pôcô, Pôca về đây ta bảo. Ta giữ hai đứa nó ở lại đây cho con có bạn chớ đâu phải để chúng bày trò bá láp cho con hả. 

Yan Jik không dám cãi lại ba nó, mặc dù có thể thấy nó là thằng nhóc cực kỳ bướng bỉnh. Nó đùng đùng đi ra cửa, mặt hầm hầm như sắp sửa giết người. Đi ngang qua chỗ Nguyên ngồi, nó tung chân đá đánh “binh” một cái vào bức tranh con rùa, sém tí nữa bức tranh đã rách toạc. 

Nhưng Yan Jik vừa thò chân ra khỏi cửa, mọi người ngạc nhiên thấy nó hấp tấp rụt trở vô. Chưa ai kịp hỏi, những cái miệng đã há hốc khi thấy đằng sau Yan Jik là một chòm râu dê đang chĩa vô người nó, trông đe dọa như mũi súng sẵn sàng nhả đạn. 

- Hé hé hé.

Thám tử Eakar chưa bước vô cửa đã cất tiếng cười quen thuộc.

- Ủa, bọn nhóc ngươi làm gì mà dồn cục ở nhà lão Yan Dran thế? - Nhà thám tử trố mắt nhìn bọn trẻ, cây gậy phép suýt tuột khỏi tay vì bất ngờ. 

Như hình ảnh Nguyên vẫn thấy, sau lưng Eakar là ba phù thủy đeo huy hiệu Cục an ninh. Một phù thủy tiến lên nói:

- K’Brăk và K’Brêt nhà K’Rahlan chuẩn bị đến núi Lưng Chừng, thưa ngài. 

- À, ta nhớ rồi. - Thám tử Eakar vung vẩy cây gậy phép - Nhưng dù như vậy, ta cũng không thể không hỏi tội lão Yan Dran. 

Eakar quét mắt một vòng qua các bức tranh, không giấu vẻ soi mói, cuối cùng ánh mắt dò xét của ông dừng lại trên khuôn mặt của chủ nhà, nhếch mép hỏi:

- Ông biết tôi chớ, ông Yan Dran? 

Họa sĩ Yan Dran vẫn nín thinh kể từ khi bọn người lạ bước vào nhà. Nghe nhà thám tử hỏi, ông khẽ động đậy thanh gươm trên tay:

- Ở xứ Lang Biang đại danh của ngài như sấm rền, thưa ngài Eakar.

Thám tử Eakar không biết Yan Dran đang nhạo báng mình. Ông toét miệng cười, mặt nở ra: 

- Hân hạnh, thiệt là hân hạnh. 

Đang vui vẻ, mặt ông chợt cau lại, nụ cười thoắt biến mất:

- Vậy thì chắc ông cũng biết tôi đến đây dĩ nhiên là chẳng đem lại điều gì tốt lành cho ông. 

Yan Dran nhún vai: 

- Tôi cũng nghĩ thế. Nhiều người nói, cũng như bệnh dịch, ông không có thói quen đem lại niềm vui cho người khác.

Lần này thì Eakar biết là nhà họa sĩ đang bỡn cợt mình. Chòm râu dưới cằm ông quặp lại như thủ thế.

- Ông cứ vung vít cho sướng miệng đi, ông Yan Dran. - Eakar gằn giọng, mặt đỏ lên - Ông cứ nói cho đã, rồi bình tĩnh trả lời những câu hỏi của tôi đây.

- Ông cứ hỏi. - Yan Dran nheo mắt, giọng khiêu khích - Tôi tưởng tôi có thể trả lời những câu hỏi của ông mà không cần phải bình tĩnh lắm.

- Được rồi. - Thám tử Eakar nhìn trừng trừng vào mặt nhà họa sĩ - Nếu thế thì tôi cũng không khách sáo. Ông bắt đầu trả lời đi. Ông có biết Hiệp ước Krông Pach cấm tu luyện và sử dụng các loại thần chú giết người hàng loạt không?

- Dĩ nhiên là tôi biết. - Yan Dran dè dặt đáp, cảm thấy thám tử Eakar đang cố tình giăng một cái bẫy để ông chui vào. 

Thám tử Eakar hỏi tiếp, vẫn không rời mắt khỏi Yan Dran: 

- Thế ông có biết Hiệp ước Krông Pach cũng cấm các phù thủy thực hiện việc biến đổi gien để tạo ra các quái vật không?

- Cái này tôi cũng biết. 

- Tốt lắm. - Thám tử Eakar vung cây gậy phép chĩa ngay người Yan Dran - Vậy tôi được phép tuyên bố ông đã phạm vào điều cấm kỵ này. 

Trước vẻ mặt hoang mang của mọi người, Eakar khoa cây gậy thành một vòng tròn rồi lại chĩa vào Yan Dran lần nữa, giọng chắc nụi: 

- Lời tuyên bố thứ hai trong ngày hôm nay của tôi: Ông đã bị bắt. 

Yan Dran vẫn tỉnh bơ trên chỗ ngồi, và nói:

- Ông không thể bảo những con ngựa có cánh của tôi là quái vật, ông Eakar. Thứ nhất, chúng không phải là những con vật được tạo ra để chiến đấu. Chúng không có chức năng đó, vì vậy chúng không làm hại ai. Thứ hai, chúng cũng không phục vụ cho những âm mưu đen tối. Chúng là linh vật, có khả năng siêu nhiên là xác định được núi Lưng Chừng đang tọa lạc ở đâu. Và điều quan trọng nhất, nhờ khả năng này những con ngựa bay của tôi đã có giấy phép sử dụng do Hội đồng Lang Biang cấp, hổng lẽ ông không biết điều này? 

- Tôi biết.

Họa sĩ Yan Dran kiêu hãnh dội thêm một tràng:

- Vậy thì ông cũng nên chuẩn bị biết thêm một chuyện nữa: Nếu sáng mai những con ngựa bay của tôi đưa được K’Brăk và K’Brêt đến núi Lưng Chừng thì không chừng chúng sẽ được Hội đồng Lang Biang gắn huy chương đấy.

- Về điều này, tôi tin là ông không khoác lác. - Thám tử Eakar bình tĩnh nói. Đột nhiên, ông đập cây gậy vô cột nhà một cái “bộp”, cao giọng - Nhưng ông vờ vịt như thế là đủ rồi, ông Yan Dran. Ông thừa biết là tôi đâu có ngu đến mức chọc mũi vào mấy con ngựa bay của ông. 

Mặt lộ sắc giận, Yan Dran đã bắt đầu không còn nể nang: 

- Nhưng nếu ông đã biết vậy mà vẫn kết tội tôi vi phạm Hiệp ước Krông Pach thì cũng đâu có thể gọi là khôn.

Thám tử Eakar nghiến răng trèo trẹo: 

- Tôi hỏi ông. Một con sóc có đôi chân vịt và cái đầu cá nhám có thể gọi là quái vật không? 

Yan Dran hừ mũi:

- Dĩ nhiên là quái vật.

- Hay lắm. - Thám tử Earkar gật đầu - Thế một con chim có vây của con cá và đầu của con mèo thì gọi là gì? 

- Quái vật.

Eakar nheo mắt:

- Còn một con bê có đầu lợn và đuôi rắn? 

- Cũng quái vật tuốt. - Họa sĩ Yan Dran đáp nhanh và hậm hực xoáy mắt vào nhà thám tử - Ông còn định tưởng tượng ra những con quái đến bao lâu nữa hở ông Eakar? Ông tưởng tôi rảnh rỗi đến mức có thể ngồi ở đây suốt ngày để trả lời những câu hỏi vớ vẩn của ông sao?

- Tôi chẳng tưởng tượng gì sất. - Thám tử Eakar lại quơ cây gậy phép một vòng - Tất cả những con quái đó đều quanh quẩn trong khu vực này. Và dù trời có sập xuống đầu, tôi cũng quả quyết đó là sản phẩm của ông.

- Láo toét! - Họa sĩ Yan Dran đứng bật dậy, thanh gươm trên tay run lên - Hổng lẽ ông nghĩ là tôi bị mất trí sao, ông Eakar? 

Thám tử Eakar thản nhiên: 

- Rất tiếc là tôi đang nghĩ như vậy đó. 

- Im đi, Eakar. - Lão quản gia gầm lên, gương mặt ngựa của lão đột ngột dài ra - Ông tưởng ông đang nói chuyện với ai chớ? 

Thám tử Eakar từ từ xoay người về phía lão Imđi, lặng lẽ ngắm lão một lúc rồi chậm rãi nói:

- Ngay cả lão nữa, lão cũng không nằm ngoài vòng điều tra đâu. Nếu ta mà phát hiện lão có nhúng tay vào vụ này, lão đừng hòng thoát. Thay vì quang quác lên, tốt nhất lão nên ngồi im mà nghĩ cách gỡ tội trước Cục an ninh đi!

- Gỡ cái con khỉ! - Lão Imđi tức đến sùi bọt mép, bất thần lão văng tục - Ông đúng là đồ chó chết, ông Eakar! Những trò vu khống này, ta còn lạ gì.

Họa sĩ Yan Dran môi giần giật:

- Thám tử Eakar! Tôi không thể nghĩ được tại sao ông lại bịa ra những chuyện đó...

Tới nước này, Nguyên tự thấy không thể làm thinh được nữa. Nó bứt rứt kêu lên: 

- Ổng không bịa chuyện đâu, thưa thầy. 

- Con nói gì, K’Brăk? - Họa sĩ Yan Dran thô lố mắt nhìn đứa học trò, có cảm tưởng ông mới nhìn thấy nó lần đầu.

Nguyên đưa tay dứt một sợi tóc, nhăn nhó nói: 

- Trên đường đi tới đây, chính mắt con đã nhìn thấy những con quái đó. 

- Không thể nào! - Yan Dran hét to - Không thể nào! 

- Ông Yan Dran. - Păng Ting rụt rè nói - Tất cả tụi con đều nhìn thấy. 

- Vô lý! - Yan Dran vung gươm, đầy kích động, mái tóc rối bù dựng lên, xù ra mọi hướng - Làm gì có chuyện đó! Ta đâu có điên! 

Ông lướt mắt qua từng gương mặt như tìm kiếm sự chia sẻ, giọng khản đặc: 

- Các con nghĩ coi. Ta không hề làm chuyện đó. Mà ta tạo ra một đống quái vật lôm côm như vậy làm gì mới được chứ...

Đang nói, Yan Dran bỗng ngưng bặt khi ánh mắt ông dừng lại trên gương mặt bối rối của Yan Jik. 

Ông thở hổn hển, mắt chợt tối sầm: 

- Mày? Như vậy là mày? Đúng là mày rồi! 

Yan Jik lúng túng miết cây cọ vẽ lên bắp đùi trần, ấp úng: 

- Con... con... 

- Mày giết tao rồi, Yan Jik! - Yan Dran rên lên, phẫn uất và chán chường, lưng còng xuống như thân cây bị bão uốn cong. 

- Không phải con! - Yan Jik hoảng sợ la lên - Chính Pôcô và Pôca xúi con... 

Lão Imđi hình như không còn hơi để quát “Im đi”. Lão tước lấy cây cọ trên tay Yan Jik, cáu kỉnh liệng ra ngoài cửa. 

- Ra vậy. - Thám tử Eakar gật gù - Thì ra thủ phạm vụ động trời này là đứa con trai bảo bối của ông.

Ông ném cho Yan Dran đang rũ người trên ghế một cái nhìn tinh quái:

- Nhưng Yan Jik còn vị thành niên, chưa đủ tuổi để chịu trách nhiệm trước pháp luật...

- Ông khỏi cần nói nữa, ông Eakar. - Họa sĩ Yan Dran mệt mỏi cất tiếng - Tôi sẽ theo ông về Cục an ninh.

- Không! - Yan Jik mếu máo ré lên - Con sẽ đi theo mấy ổng. Việc này chẳng liên quan gì tới ba.

- Im đi, nhóc con! - Lần này thám tử Eakar quát thay lão quản gia câu nói ưa thích của lão - Việc quyết định ai đi ai ở cũng chẳng liên quan gì tới ngươi hết.

Ông quay về phía các phù thủy Cục an ninh, hất hàm: 

- Các ngươi tước năng lượng pháp thuật của họa sĩ Yan Dran rồi giải ông ta về Cục! 

Nhưng ba phù thủy Cục an ninh vừa nhích chân, Suku đã thét:

- Không được! Họa sĩ Yan Dran còn phải thực hiện nhiệm vụ đưa các chiến binh giữ đền đến núi Lưng Chừng.

Bị phá bĩnh, thám tử Eakar sôi gan, ông quay sang Suku, mắt lóe lên điên tiết: 

- Câm mồm! Ai cho phép ngươi xen vô chuyện của người lớn! 

Thứ ánh sáng đỏ quạch thoáng rực lên trong đáy mắt nhà thám tử rồi tắt phụt nhưng cũng đủ để Suku nhận ra. Nó gào tướng lên:

- Ngươi không phải là thám tử Eakar! 

- Cái gì? - Cả đống cái miệng vụt hỏi.

Eakar nghiến răng ken két: 

- Ngươi nói năng vớ vẩn gì thế hả? 

Suku đứng phắt dậy:

- Ngươi lộ tẩy rồi, Balibia! 

Như một tiếng sét, câu nói của Suku dựng bật mọi người lên khỏi ghế. Sau một thoáng sững sờ, hàng loạt cẳng chân hấp tấp lùi lại, quây thành một vòng tròn quanh Balibia, tay run run chĩa ra phía trước. Đằng sau Balibia, các tay chân của hắn trong lốt phù thủy Cục an ninh cũng lập tức cho tay vào túi áo chùng. Không khí trong căn nhà của Yan Dran đột nhiên căng như một sợi dây đàn.

- Ha ha ha! - Balibia ngửa mặt lên trần nhà, cười khành khạch - Balibia thì sao nào! Dù Tứ bất tử có ở đây, hắn cũng đâu có đụng đến được một sợi lông chân của ta. 

Balibia ngừng bặt, để người nghe có thì giờ nghĩ ngợi và run sợ trước sự thật hắn vừa nói. 

Đúng là không ai trong những người có mặt có thể chống lại tả hộ pháp Hắc Ám, Nguyên lo lắng nghĩ. Siêu phù thủy Yan Dran giỏi lắm là ngang tay với các sứ giả của Bastu, hoặc trội hơn một chút. Còn muốn thắng được Balibia là chuyện không tưởng. Tổng quản lâu đài Sêrôpôk mà còn bỏ chạy trước bàn tay máu của Balibia thì Yan Dran gần như hoàn toàn không có cơ hội. 

- Thế còn Đại phù thủy Păng Sur thì sao? - Bolobala thình lình hỏi. 

Balibia giật bắn: 

- Păng Sur hả... ả...?

Bolobala trả lời bằng cách lập tức biến mất. Trong khi Balibia há hốc miệng chưa kịp ngậm lại, Bolobala đột ngột hiện ra trở lại nhưng thằng Tam bên cạnh nó lại tan vào không khí.

- Thiệt là xúi quẩy! Rút!

Balibia mặt xanh rờn, phất tay một cái và vọt ra cửa. Ba tên phù thủy nhép hối hả co giò chạy theo.

Yan Dran sau thoáng ngỡ ngàng, liền cúi đầu cung kính:

- Thiệt không ngờ Nhị tiên xuất hiện...

- Bà của con không có ở đây, ông Yan Dran. - Păng Ting cười nói. 

Yan Dran nhìn sững Păng Ting: 

- Con là cháu của Đại phù thủy Păng Sur à? 

- Đúng rồi. - Păng Ting chỉ tay vào Suku - Còn nhóc này là cháu của Pi Năng Súp.

- Ồ! - Yan Dran gại gại mũi gươm lên cằm, mặt rạng ra. Nhưng cặp lông mày ông lập tức cau lại - Con vừa bảo sao? Đại phù thủy Păng Sur đã bỏ đi rồi ư?

- Bà của con không hề đến đây.

Yan Dran quay sang Tam và Bolobala, ánh mắt ông đi qua đi lại giữa hai đứa trẻ, dò xét và nghi hoặc: 

- Thế sao...

- Vừa rồi Tam và Bolobala đã độn thổ, thưa thầy. - Nguyên mỉm cười, giải thích - Bạn con không độn thổ đi xa được nhưng chui xuống rồi chui lên thì dễ như trở bàn tay.

Trong khi Yan Dran ngẩn ra thì lão Imđi vỗ đùi đánh đét: 

- Hà hà, không ngờ tả hộ pháp Balibia lại bị mắc lỡm bởi trò trẻ con này. 

Bọn trẻ không muốn làm lão Imđi cụt hứng nên không nhắc tới chuyện cách đây mấy ngày Balibia đã tận mắt nhìn thấy Đại phù thủy Păng Sur làm Tam và Bolobala biến mất nên bây giờ thấy hai đứa này biến mất lần nữa, hắn hấp tấp chuồn ngay, không còn tâm trí đâu để suy xét thực hư. 

- Làm sao con biết hắn là Balibia hở Suku? - Lão Imđi kéo dài sự hào hứng bằng cách quay nhìn Suku, khoái trá hỏi. 

- Chính ánh mắt hắn đã tiết lộ điều đó. - Suku lắc khẽ mớ tóc trước trán - Lúc giận quá, ánh mắt hắn rợn lên màu đỏ. Đó là ánh mắt của Balibia. 

Yan Dran không có được vẻ hơn hớn như lão Imđi. Mặt sụp xuống, ông buồn bã nhìn cậu quý tử, thở dài nói:

- Nhưng dù có thoát được Eakar giả, mai mốt Eakar thật mò đến đây, ta cũng đành bó tay. 

- Ba đừng lo! - Thằng Yan Jik vung cây cọ vẽ không biết nó đã nhặt lại từ hồi nào, bô bô - Thám tử Eakar mà dẫn xác tới đây, con sẽ cho ổng đứt phựt luôn! 

- Đứt phựt cái đầu mày! - Yan Dran nổi cộc - Ta bảo mày đi kiếm hai thằng Pôcô, Pôca về đây sao mày còn đứng đó hả? Lần này mà ta không tống cổ hai thằng ôn đó về hồ Ma thì ta không phải là người!

CHƯƠNG 20

BẠN ĐỒNG MÔN

Nguyên ôm Kăply trên tay, loay hoay cả buổi không leo lên được lưng ngựa. Đơn giản vì từ bé đến giờ, nó chưa bao giờ cỡi ngựa. Ngay cả khi Kan Tô đỡ giùm Kăply, Nguyên vẫn hết sức lúng túng trước con ngựa bạch cao lớn. Nó cứ trườn người lên lại tuột xuống, như vậy cả chục lần. 

- Sao thế con? - Họa sĩ Yan Dran tặc lưỡi - Con đã quên cách cỡi ngựa rồi sao? Trước đây, những ngày con học vẽ, chính nó đã đưa con đi đi về về mà. 

Nguyên không biết đáp như thế nào. Điều duy nhất nó có thể làm trong lúc này là đỏ mặt lí nhí:

- Sau khi trúng lời nguyền Tan xác... 

- Thôi, được rồi. Ta sẽ giúp con.

Không đợi Nguyên nói hết câu, họa sĩ Yan Dran ôm ngang người Nguyên, quăng nó lên lưng ngựa, nhẹ nhàng như liệng một chiếc gối.

- Đỡ này! - Kan Tô nói, và bế Kăply đưa lên. 

Nguyên ẵm bạn vào lòng bằng một tay, tay kia nắm chặt bờm ngựa, khi bắt gặp ánh mắt của tụi bạn đang ngước nhìn mình, nó nhe răng lẩn thẩn cười, dĩ nhiên nụ cười gượng gạo của nó không thể che đậy một thực tế là nó đang bị sự hồi hộp nhấn chìm. 

Đến khi con ngựa bạch rời vó khỏi mặt đất, Nguyên lập tức nằm phục xuống, điếng người vì sợ hãi, đến mức nó nghe họa sĩ Yan Dran và cả đống cái miệng gào lên “Ê, leo xuống đi!” nó cũng không có thì giờ ngoảnh đầu lại nhìn. Nó chỉ tự hỏi tại sao mọi người lại bảo nó leo xuống khi mà nếu làm theo lời họ, nó sẽ té gãy cổ là cái chắc. Chắc tại bọn họ thấy mình căng thẳng quá! Nguyên nghĩ thầm, càng cố sức níu chặt túm lông bờm mềm và dày trước mặt, cảm thấy bữa ăn sáng lúc nãy nằm yên trong bụng bây giờ cựa quậy dữ dội như đòi ọc ra.

Lúc này đang là buổi sáng, ánh nắng rực rỡ và ấm áp. Nguyên bình tĩnh dần khi nhận ra con ngựa bạch bay êm như ru, chiếc thảm bay của gã Mustafa chưa chắc đã êm bằng, đến nỗi có lúc nó nghĩ không nhất thiết phải nằm mọp xuống và mím môi mím lợi níu lấy bờm ngựa làm gì. 

Nguyên từ từ thẳng lưng lên. Nó và Kăply, dĩ nhiên cả con ngựa bạch nữa, lúc này đang bay xuyên qua những đám mây nõn như bông, ở xa xa trước mặt những đám mây khác vừa tắm vừa đùa giỡn trong ánh nắng ban mai để tự biến mình thành những đám mây nhiều màu, hình ảnh kỳ diệu đó làm nó rơi vào cảm giác lâng lâng một lúc lâu cho đến khi nó giật mình nghe tiếng ngựa hí bên tai. 

Thoạt đầu, Nguyên nghĩ đó là tiếng hí của con ngựa nó đang cỡi. Nhưng đến khi tiếng hí cất lên một lần nữa, nó bàng hoàng nhận ra âm thanh đó phát ra từ phía sau lưng. Nó ngoái nhìn qua vai, kinh ngạc thấy một con ngựa khác đang mải miết bay phía sau, lẽ ra Nguyên cũng không đến nỗi sửng sốt lắm vì nó đã biết trong bức tranh của họa sĩ Yan Dran có một cặp ngựa bay, nhưng điều làm nó trợn mắt lên lúc này chính là con Chacha đang ngồi chễm chệ trên lưng con ngựa thứ hai và hí hửng cất tiếng khọt khẹt khi thấy Nguyên quay lại dòm. 

Thì ra lúc mọi người hét ầm “Leo xuống” là để quát con khỉ nghịch ngợm này. Nguyên sực hiểu và bất giác phì cười. Từ lúc tả hộ pháp Balibia xuất hiện rồi bỏ đi, cho đến suốt đêm hôm qua, tụi nó không thấy Chacha đâu, mặc dù Suku sục sạo khắp nơi và gào khản cả giọng. Chắc con khỉ tinh quái này cố tình trốn trong các bụi cây và tờ mờ sáng, nó đã nấp sẵn trên mái nhà để bất ngờ phóng lên lưng ngựa khi hai con phi mã của Yan Dran bắt đầu cất vó. 

Nhưng Nguyên không có cơ hội nghĩ ngợi lâu hơn. Con ngựa bạch thình lình chồm lên rồi bắt đầu phóng giật cục như gặp phải ổ gà khiến Nguyên một lần nữa lại mọp xuống, nơm nớp tóm lấy chòm lông bờm trước mặt, tay kia ôm chặt Kăply vào người, cứ thon thót sợ bạn mình bất thần văng ra. 

Đã vậy, con ngựa bạch đột nhiên quay ngang và xoay tít, mỗi lúc một nhanh, như thể rơi vào giữa cơn lốc xoáy. Nguyên nhắm nghiền mắt, cảm thấy một nỗi khiếp hãi đang xuyên thẳng vào tim. Nó không biết phải làm gì trong hoàn cảnh này, hai tay bận bịu, muốn gào lên nhưng không thể thốt được lời nào. 

Sau này nghĩ lại, Nguyên không hiểu tại sao lúc đó nó không rớt ra khỏi lưng ngựa, cả con khỉ Chacha nữa. Chỉ biết một lúc thì đầu nó thôi choáng váng, đà xoay của con ngựa có vẻ chậm lại, tiếng gió vù vù bên tai dịu dần rồi im hẳn. Đợi đến khi ruột gan thôi nhộn nhạo, Nguyên mới từ từ mở mắt ra, ngạc nhiên thấy nó đã ở giữa một thảo nguyên bát ngát. Hoa, rất nhiều hoa, có thứ nó biết tên có thứ nó mới nhìn thấy lần đầu nhưng tất cả đều một màu vàng với sắc đậm nhạt khác nhau, hoa mọc xen lẫn với cỏ đuôi chồn trải dài trước mắt như một tấm thảm xinh đẹp của nhiên nhiên. Ở làng Ke của nó cũng có những thung lũng đầy hoa nhưng không nhiều và đẹp như thế này.

Nguyên thầm so sánh và đưa mắt nhìn ra xa. Cuối cánh đồng hoa là dãy đồi trọc, cây xanh rải rác nằm xen kẽ với đất đỏ khiến những ngọn đồi trông như những cái đầu bị hói. Xa hơn nữa là núi đá, xanh màu da trời với những làn mây trắng uốn éo lững lờ trên đỉnh như những tấm voan trắng mềm mại. 

Có lẽ đây là núi Lưng Chừng? Nguyên tự hỏi và cúi đầu nhìn con ngựa bạch đang ung dung gặm cỏ, bụng thầm nghĩ giá như mà con ngựa này biết nói.

Lóng ngóng một lát, Nguyên cũng tuột được khỏi lưng ngựa. Nó ngồi bệt xuống cỏ, với Kăply trên tay và con Chacha ngồi xổm bên cạnh, loay hoay không biết phải làm gì và nên bắt đầu mọi thứ từ đâu. Nó ngỡ ngàng nhận ra nó luôn nung nấu đến được núi Lưng Chừng nhưng khi đã đến được đây rồi thì nó bỗng thấy tất cả những gì hiện ra trong đầu giống như một cái nút vừa rối nùi vừa mơ hồ đến mức không thể gỡ nổi. 

Kể từ ngày lạc đến xứ Lang Biang, chưa bao giờ Nguyên rơi vào cảnh một thân một mình như thế này. Trước đây, nó luôn luôn có K’Tub, Êmê bên cạnh, lại được sự giúp đỡ hết sức nhiệt tình của Suku và Păng Ting. Nếu không có ai thì ít ra nó cũng có Kăply, nghĩa là cũng có một đứa bên cạnh để bàn bạc, trao đổi, tệ lắm thì cũng có chỗ để bày tỏ và chia sẻ ý nghĩ của mình. 

Nguyên cứ ngồi thần ra, mặc ánh nắng trượt dần xuống vai rồi xuống đùi nó. Lòng Nguyên ngập tràn lo lắng khi nó nghĩ đến chủ nhân núi Lưng Chừng. 

Nếu còn sống đến ngày nay, hẳn chủ nhân núi Lưng Chừng đã hơn bảy trăm tuổi rồi. Không biết ngài là đàn ông hay đàn bà và tính nết có quái dị lắm không. Chủ nhân núi Lưng Chừng là chiến binh giữ đền đời thứ nhất, Nguyên rất hy vọng ngài là người tốt, hiển nhiên rồi, chiến binh giữ đền không thể là người xấu được. Nó nhớ lại những gì sử gia Ama Pô ghi chép về cuộc đối đầu dai dẳng giữa chủ nhân núi Lưng Chừng và trùm Hắc Ám Bajaraka Đầu Bự hồi sáu trăm năm trước, mường tượng lại những trận ác chiến chắc là rung trời chuyển đất giữa hai phù thủy kiệt xuất. Nghĩ ngợi lan man một hồi, Nguyên lại ngạc nhiên không hiểu sao gần đây trùm Bastu lại học được thần chú kim cương vốn đã thất truyền và điều đó bỗng nhiên làm nó hoang mang ghê gớm. Nếu trùm Bastu có dính dáng đến chủ nhân núi Lưng Chừng thì hổng biết số phận xứ Lang Biang sẽ ra sao, có lẽ là banh ta lông hết cả đám, và số phận của nó nữa, chắc là nó bỏ xác tại đây mất.

Giả dụ điều đó xảy ra thì nó sẽ không còn cơ hội đem xác Kăply về làng Ke, nếu chẳng may thằng bạn thân yêu của nó qua đời sau thời hạn ba ngày kể từ lúc bị con basilic mổ trúng. Nguyên buồn rầu nghĩ, rồi tự nhiên nó chợt nhớ đến con chim vàng bay ra từ cái xác Kăply chiều hôm qua, đầu óc bỗng chốc rối bời, cảm thấy cuộc sống càng ngày càng kỳ quặc, không thể giải thích nổi, nói chung là tất cả giống như thi nhau tuột khỏi tầm hiểu biết của nó. 

Lâu thật lâu, lâu lắm, Nguyên mới ôm cái xác Kăply lọ mọ đứng lên, rảo bước tiến về phía trước, giữa cánh đồng hoa, tin rằng bước đi như vậy sẽ giúp làm dịu đi cơn bão trong lòng hoặc ít ra là không nghĩ đến nó nữa. Trong khi hai con ngựa bạch vẫn thản nhiên gặm cỏ, hoàn toàn không quan tâm Nguyên làm gì hay đi đâu thì con Chacha theo sát sau lưng Nguyên, vẫn nhảy nhót nhưng không luôn mồm khọt khẹt như mọi khi, có vẻ như nó cũng linh cảm được nó và Nguyên đang lạc vào một chốn vô cùng thần bí. 

Nguyên ngập ngừng đi tới, thận trọng dò dẫm từng bước, mắt dáo dác nhìn quanh, cố đoán xem những cây táo vàng người ta đồn đãi mọc ở hướng nào, mặc dù nó thừa biết nếu phát hiện ra, nó cũng không có cách nào hái được những quả táo kỳ diệu đó. Păng Ting đã nói rồi, đang canh giữ những quả táo vàng trên núi Lưng Chừng là con rồng Ouroboros, mà nọc độc chứa trong móng của con rồng này được liệt vào ba loại kỳ độc của thế gian, ngang với nọc độc của con basilic và nhựa độc của quả hiến sinh. 

Nhưng dù thế nào thì mình cũng phải tìm cho ra những cây táo vàng đã. Nguyên nghĩ, cố xốc lại can đảm và tiếp tục lần tới. Chẳng mấy chốc nó đã vượt qua cánh đồng hoa và bắt gặp mình đang đứng lớ ngớ dưới chân ngọn đồi trọc gần nhất. Vẫn không có một bóng người hay bóng thú vật nào. Bên tay trái nó, kẹp giữa hai ngọn đồi là con đường nhỏ, hai bên mọc một loại cây như cây thông nhưng thấp chùn chụt, lá dày và dài quét đất. 

Nguyên lần theo con đường nhỏ đi xuôi xuống, chẳng bao lâu trông thấy trước mặt một thung lũng hẹp, không có các loại cây lớn, một bãi cỏ xanh mượt lốm đốm hoa dại li ti trải từ chân đồi bên này đến vách đá đối diện như một tấm thảm bằng nhung. 

Gọi là vách đá nhưng thực ra sườn núi cuối thung trông như một bức tranh ghép từ những phiến đá lớn, giữa các khe đá và trên mặt đá, suối róc rách tuôn xuống từ trên cao tạo thành một thác nước mảnh mai và hiền hòa. 

Đang ngồi trên phiến đá chính giữa, mặc nước bắn tung tóe trên đầu, mê mải khua chân vào làn nước trắng xóa để đùa nghịch, là một thằng nhóc khoảng mười tuổi. Nguyên chới với khi nhận ra thằng nhóc đó chính là thầy Akô Nô.

Nguyên hoàn toàn không ngờ có người trong thung, càng bất ngờ hơn khi người đó lại là vị giáo-sư-nhóc-tì này. Nó hoảng hốt thụt người vào sau cây thông lùn, trố mắt ngó ra, tim dộng binh binh.

Nguyên bắt gặp hàng đống câu hỏi nảy ra trong óc nhưng nó không trả lời được câu hỏi nào. Đầu nó tự nhiên trống rỗng như một chiếc hộp đã dốc hết đồ chứa bên trong. Tại sao thầy Akô Nô lại đến đây? Đến đây bằng cách nào và để làm gì? Và làm sao mà thầy biết được núi Lưng Chừng nằm ở đâu nếu không có con ngựa bay của Yan Dran dẫn đường? Thầy đã gặp chủ nhân núi Lưng Chừng chưa và có đúng là thầy vẫn sống sót sau khi gặp ngài? Nguyên nhớ là khi tụi nó chuẩn bị rời khỏi trường Đămri để bắt đầu cuộc hành trình gian khổ đến núi Lưng Chừng, thầy Akô Nô cũng có mặt ở đó, cùng với thầy N’Trang Long và thầy Haifai, thậm chí nó còn nhớ thầy hét om sòm, chúc Păng Ting lên đường bình an, ờ mà thầy cũng ngộ thiệt, cả đống đứa ra đi mà thầy chẳng chúc ai, chỉ chúc mỗi con nhỏ Păng Ting. Như vậy hổng biết thầy có biết là mình đã có mặt ở hòn núi huyền bí này chưa? Ờ, biết đâu thầy cố tình đi tìm mình? Nguyên lại chìm vào những suy nghĩ miên man, chuyện nọ xọ chuyện kia, suốt một lúc lâu nó bần thần vắt óc như người ta vắt một múi chanh nhưng hổng chảy ra được chút nước nào.

Ở trên tảng đá trước mặt, thầy Akô Nô vẫn hồn nhiên đùa giỡn, hoàn toàn là một đứa bé, quần áo và mái tóc trái đào ướt đẫm, những tràng cười thích thú chốc chốc lại vang lên, ngân nga không dứt do đập vào vách đá rồi dội ngược trở ra, lan dài trong gió. 

Nguyên nghe tim mình nhảy tưng tưng. Nó biết thầy Akô Nô vẫn có tính cách của một đứa trẻ con, dù thầy là một siêu phù thủy và đang giảng dạy lớp Cao cấp 1 trường Đămri. Mà một đứa trẻ con khi đã vui chơi thì bất kể trời đất. Suốt một lúc lâu, thầy Akô Nô cứ cười như nắc nẻ trên phiến đá, trong khi Nguyên bụng giật thon thót, cứ phải đảo mắt nhìn quanh, sợ tiếng cười của thầy đánh động chủ nhân núi Lưng Chừng hoặc khiến con rồng Ouroboros mò tới. 

Nguyên nhìn quanh quất như vậy cả chục lần. Đến lần thứ mười một thì nó không nhúc nhích cái cổ được nữa. Cổ nó cứng đơ và miệng há ra khi nhìn thấy ba cái chấm màu đỏ hiện ra ở bên tay trái, trên một con đường khác dẫn vào thung. Chết rồi, rồng Ouroboros?

Từ lúc đó, đôi mắt của Nguyên không nhắm lại được nữa. Sự sợ hãi như một cái que chống giữa hai mí mắt nó. Nó trừng trừng nhìn ba chấm đỏ đang di động về phía nó, ruột gan tan ra, cái xác Kăply trên tay bỗng nhiên nặng như chì.

Nguyên chỉ hơi dễ thở một chút khi ba cái chấm đỏ đến gần và nó thấy những cái chấm đó ngó không giống rồng cho lắm. 

Bây giờ thì Nguyên đã biết đó là ba người mặc áo chùng đỏ. Và khi họ lướt ngang qua chỗ nấp của nó để tiến về phía tảng đá thầy Akô Nô ngồi thì nó sửng sốt nhận ra đó là Tam phù thủy Bạch kỳ lân. Lẽ ra khi nhác thấy ba chấm đỏ di động đằng xa, Nguyên phải lập tức nghĩ ngay đến các chàng trai tuấn tú này, nhưng thiệt tình dù có nằm mơ nó cũng không thể hình dung Tam phù thủy Bạch kỳ lân lại xuất hiện ở chốn này. Theo truyền thuyết ở xứ Lang Biang, núi Lưng Chừng là một huyền thoại, đó là ngọn-núi-không-tùy-ý-muốn, là nơi không ai đến được, thậm chí không biết nó ở đâu và nếu đúng như những gì Nguyên nghe được thì tự cổ chí kim chỉ có Đại tiên ông Mackeno là người duy nhất đến được nơi đó mà thôi. Vậy mà bây giờ, ngoài nó và Kăply ra, còn cả đống người có mặt ở đây, biểu làm sao nó không ngỡ ngàng cho được. 

Rúc chặt trong bụi, Nguyên thò lỏ mắt dòm ra, mồ hôi chảy ướt trán, cảm thấy sự việc sắp đến hồi quan trọng. Ai đã thuê Bạch kỳ lân đi tìm thầy Akô Nô? Hổng lẽ trùm Bastu cho rằng thầy đến đây để giúp đỡ mình hái những quả táo vàng và tìm cách ngăn chặn? Nhưng khi dùng chiếc mặt nạ thần hộ mệnh để kéo dài mạng sống cho Kăply, Bastu chẳng đã tuyên bố hắn tò mò muốn coi thử chiến binh giữ đền là thứ quái vật gì đó sao? Thiệt ra hắn có sợ cóc gì những chiến binh giữ đền cỡ như mình và Kăply! Những câu hỏi không ngừng gợn lên lăn tăn trong đầu Nguyên, câu này nối tiếp câu kia, tất cả xoắn vào nhau như mớ bòng bong, càng lúc càng rối tít mù. 

Tam phù thủy Bạch kỳ lân đã đến trước tảng đá thầy Akô Nô ngồi, đứng thành một hàng ngang, gậy sừng hươu nắm chặt trên tay. Nguyên hồi hộp muốn nín thở khi thấy thầy Akô Nô dường như không hay biết có người đến bên cạnh, vẫn cắm đầu đùa giỡn, hai chân vừa đập ầm ầm vừa đá vung làm nước văng tung tóe.

Nước bắn cả lên đầu cổ các chàng trai Bạch kỳ lân, những chiếc áo chùng đỏ bị dây nước, thẫm lại như tiết gà, cả mái tóc đẹp lẫn tấm khăn choàng trắng tinh bằng lông thú lúc này cũng ướt nhẹp, khiến họ trông giống như vừa từ dưới sông lên. 

Nguyên như ngồi trên đống lửa. Nó đinh ninh những chàng trai đỏm dáng Bạch kỳ lân sẽ nổi giận đùng đùng trước những trò quá quắt của thầy Akô Nô, nhưng rồi nó thuỗn mặt ra khi trông bộ tịch của bọn họ nguội ngắt. Họ không phản ứng gì đã đành, hình như cũng không dám cả lấy tay chùi, cứ để mặc nước chảy ròng ròng trên mặt.

Gì thế nhỉ? Nguyên thầm hỏi. Hay là họ biết họ không phải là đối thủ của thầy Akô Nô? Nhưng nếu vậy thì họ nhận lời của trùm Bastu làm gì? 

Tam phù thủy Bạch kỳ lân giải đáp các thắc mắc trong đầu Nguyên bằng cách đồng loạt cúi đầu thật thấp trước tảng đá, cất giọng lễ phép:

- Chào thầy... 

Đôi môi Nguyên lập tức vẽ thành hình chữ O. “Thầy???”, Nguyên khẽ thốt lên, tay chân tê đi, đầu kêu vo vo như có ai vừa đánh rơi một cái chong chóng trong đó. 

Thầy Akô Nô bây giờ mới từ từ quay mặt lại.

- Tụi con đấy à? - Thầy nhìn các chàng trai Bạch kỳ lân bằng vẻ mặt tươi cười. 

Tam phù thủy Bạch kỳ lân không trả lời, chỉ đưa cặp mắt lo lắng nhìn thầy Akô Nô. 

- Tụi con vừa ăn trúng thứ gì mà á khẩu cả đám vậy hả? - Thầy Akô Nô cười hì hì - Lại đánh thua người ta chứ gì?

Câu hỏi của thầy làm các chàng trai cụp mắt xuống, trông họ tiu nghỉu như các học trò đang chờ trách phạt.

Ra họ là thầy trò thật! Nguyên nhấp nhổm trong bụi cây, lạ lùng nghĩ và cố mở to mắt hơn nữa. 

- Đứng thẳng người lên xem nào! - Thầy Akô Nô cao giọng - Tụi con đánh thua Baltalon thì việc gì phải rầu rĩ chớ. Bộ tụi con tưởng tên đó là đồ rác rưởi sao? 

Masari lí nhí: 

- Ngay cả Tứ bất tử tụi con cũng không làm gì nổi hắn, thưa thầy. Tụi con phải liên thủ với Hắc tinh tinh mới đánh ngang tay với hắn. 

- Chẳng sao hết. - Thầy Akô Nô khoát tay - Tứ bất tử là tổng quản lâu đài Sêrôpôk, tài nghệ không phải tầm thường.

Thầy nhỏm người dậy, đứng thẳng người trên phiến đá, thò tay cốc đầu Masari một cái:

- Con ngu quá! Nếu tụi con xuống núi đánh đâu thắng đó, chẳng hóa ra cái xứ Lang Biang là một đống giẻ rách à.

Một thằng nhóc mười tuổi gõ đầu và lên giọng dạy đời một thanh niên hăm bốn, hăm lăm tuổi trông hoạt kê đến mức Nguyên suýt phì cười, nhờ vậy mà nó cảm thấy bớt căng thẳng được một chút. 

Thầy lại giơ tay đập bốp lên đầu Pila và Karăm:

- Hai đứa con cũng vậy. Vui vẻ lên. Ta sẽ dạy thêm cho tụi con vài câu thần chú đủ để tụi con đánh cho Baltalon lăn bò càng. 

Pila nuốt nước bọt, vẫn cúi gằm đầu: 

- Hắn chết rồi, thưa thầy.

- Hắn chết rồi thì kệ hắn. - Thầy Akô Nô gầm gừ - Còn cả đống tên khác nữa chi. Rồi Tứ bất tử nữa. Tụi con phải bẻ giò mấy con vật bẩn thỉu của hắn để trả thù chớ...

Như một đứa trẻ hiếu thắng, thầy Akô Nô càng nói càng hăng, tay huơ loạn xị, đến nỗi Nguyên có cảm tưởng nếu các chàng trai Bạch kỳ lân không kịp thời ngăn lại, thầy sẽ đứt hơi mất.

Thầy Akô Nô tiếp tục tuôn một tràng nữa, cho tới khi tít đằng xa, trên con đường Tam phù thủy Bạch kỳ lân vừa đi qua thình lình xuất hiện ba chấm đen. 

Lần này thì Nguyên đoán ra ngay đó là Tam phù thủy Hắc tinh tinh và một lần nữa nó có cảm giác nó vừa trúng phải bùa Ngốc, đầu óc cứ ngu dần từng phút một. 

Năm phút sau, Nguyên còn ù ù cạc cạc hơn nữa khi ba thân hình cao lêu nghêu của Hắc tinh tinh đứng nghiêm trước thầy Akô Nô, khom mình cung kính: 

- Chào thầy... 

Nguyên đứng lặng người trong bụi cây, mắt nhìn trân trối ra phía trước và hoàn toàn không tin những gì nó đang trông thấy. Nguyên biết mình không phải là đứa ngu ngốc, nó tin nó có thể nghĩ ra nhiều chuyện trên đời nhưng chắc chắn không bao giờ nó nghĩ ra được rằng Bạch kỳ lân và Hắc tinh tinh đều là học trò của thầy Akô Nô. Đó là sự thật không ai có thể tưởng tượng ra hoặc mơ thấy, ngay cả khi không còn gì để mà mơ nữa. Bây giờ nó mới nhớ đến những gì thằng Suku nói với nó trên đường đến trường trong ngày đi học đầu tiên. Thằng oắt khoe trường đào tạo tài năng Đămri là nơi sản sinh ra những pháp sư và phù thủy lừng danh nhất xứ Lang Biang trong vòng một ngàn năm nay. Giáo chủ Ama Êban, vợ chồng pháp sư K’Rahlan - Ka Ming, pháp sư K’Srêgơl, pháp sư K’Tul, bà Êmô, kể cả trùm Bastu và các sứ giả khét tiếng của hắn cũng xuất thân tại đây. Chỉ có Tam phù thủy Hắc tinh tinh và Bạch kỳ lân là không phải học sinh trường này. Bữa đó thằng Suku thú nhận là chính nó cũng không biết bọn Tam phù thủy học hành ở đâu. Hóa ra họ là học trò của thầy Akô Nô! Nguyên thở hắt ra, đầu tưng tưng, hơi lo lo khi thấy mình có vẻ bắt đầu giống thằng Mom hết sức. 

Tam phù thủy Hắc tinh tinh sau khi cất tiếng chào, lập tức đứng im thin thít, tay chân thẳng đuột như càng cố giống thân cây khô hơn nữa.

Thầy Akô Nô lừ lừ nhìn ba tên học trò mới đến, không nói tiếng nào. Nguyên ngạc nhiên thấy thầy có vẻ ác cảm với bọn Hắc tinh tinh nếu so với thái độ tươi cười lúc thầy gặp các chàng trai Bạch kỳ lân.

- Hay lắm! Hay thiệt là hay! 

Mãi một lúc thầy mới nhếch mép, giọng bèn bẹt không rõ khen ngợi hay chế giễu và Nguyên thấy rõ Tam phù thủy Hắc tinh tinh đang run lên trong những chiếc áo thụng đen. 

Thầy chống hai tay vô hông, hừ giọng: 

- Sao? Tụi bay trở về thân tàn ma dại như thế này à?

Tam phù thủy Hắc tinh tinh trả lời bằng cách cúi đầu thấp hơn nữa. 

Thầy Akô Nô tung chân đá vào phù thủy đứng giữa, rít lên giận dữ:

- Ngước mặt lên, đồ khốn! 

Thầy đá bồi thêm một cái nữa:

- Nói nghe coi! Mấy con giun thổ tả của tụi bay đâu rồi? 

Lúc đầu Nguyên không hiểu thầy muốn ám chỉ điều gì, đến khi phù thủy Hắc tinh tinh đứng giữa lắp bắp đáp, nó mới biết thầy muốn nói đến ba con hắc xà:

- Thưa thầy... thưa thầy... bọn chúng chết rồi... 

Thầy Akô Nô gật gù, lặp lại câu nói đầu tiên bằng giọng đe dọa:

- Hay lắm! Hay thiệt là hay!

- Thưa thầy... 

- Thưa cái con khỉ! - Thầy Akô Nô quát ầm - May mà thiên hạ không biết tụi bay là học trò ta, nếu biết, chắc ta treo cổ tự tử vì nhục mất. 

Phù thủy bên trái lấy hết can đảm ngước mặt lên:

- Thưa thầy... tụi con đụng phải thanh xà bạch xà... mà thầy cũng biết rồi, đó là linh xà... 

- Linh cái đầu mày! - Thầy Akô Nô đá đứa học trò vừa lên tiếng một cái “bịch” vào giữa ngực, xẳng giọng - Biết hai con rắn đó là linh xà thì tránh xa ra, ai bảo tụi bay cậy giỏi sấn vào. Hổng lẽ học trò của Akô Nô ngu đến mức không biết hai con ma nhóc Pôcô Pôca đang ở nhà gã Yan Dran sao! Hừm, thiệt tức chết được! 

Bị mắng xối xả, Tam phù thủy Hắc tinh tinh im như thóc, lại cúi mặt xuống. 

Nhưng thầy Akô Nô không có vẻ gì là sắp buông tha cho ba tên học trò tội nghiệp.

- Thế còn Balibia thì sao? - Thầy gừ gừ - Hắn đâu có phải là linh xà linh xiếc gì, nhưng vừa thấy cấm lệnh của hắn, tụi bay đã chạy vắt giò lên cổ là sao? Lại là cấm lệnh giả nữa mới nhục chớ!

Phù thủy đứng giữa ấp úng phân trần: 

- Balibia là tả hộ pháp của Bastu. Mà... thầy... thầy Ôkô Na không cho tụi con đối đầu với phe Hắc Ám...

Nghe nhắc đến Ôkô Na, thầy Akô Nô thở đánh thượt, giọng buồn bực:

- Ôi, cái lão chết tiệt đó! Vừa ngu ngốc, vừa độc ác, vừa xấu xí, lão chẳng dạy cho học trò được điều gì tử tế. Thiệt tình! 

Đang than thở, mắt thầy bỗng quắc lên: 

- Thế còn Tứ bất tử? Tụi bay gặp hắn, chưa đánh đã són ra quần rồi phải không? 

Nguyên càng nghe, đầu óc càng quay cuồng: Thầy Ôkô Na nào nữa? Hổng lẽ bọn Tam phù thủy có tới hai vị sư phụ? Làm thầy của Tam phù thủy chắc chắn trình độ pháp thuật phải ngang cỡ thầy Akô Nô, thế sao mình chưa bao giờ nghe ai nhắc đến cái tên Ôkô Na lạ hoắc này? Ờ, nhưng tài nghệ siêu đẳng như thầy Akô Nô, trước khi thầy về trường Đămri, mình cũng có nghe tiếng tăm gì đâu! 

Mải nghĩ ngợi, Nguyên không nghe những đối đáp sau đó giữa thầy trò Tam phù thủy. Khi nó dứt ra khỏi mớ bòng bong trong đầu, ngước lên, đã thấy bọn Hắc tinh tinh người nào người nấy đang ôm mặt nhăn nhó. Còn thầy Akô Nô thì cười nhạt:

- Lần này ta cho mũi tụi bay lệch qua bên phải. Phạt như vậy là nhẹ tay lắm rồi. Lần sau ta mà ngứa mắt, ta sẽ cho cái mũi tụi bay rụng luôn xuống đất. Liệu hồn đó.

Thầy đá chân vào không khí:

- Cút! 

Tam phù thủy Hắc tinh tinh cúi gập mình chào rồi lủi thủi quay lại đường cũ, mũ trùm lệch hẳn một bên, tay người nào người nấy vẫn bụm chặt lấy mũi. 

- Tụi con cũng về nghỉ đi! - Thầy quay sang các chàng trai Bạch kỳ lân, giọng dịu dàng như thể thầy có thể nói bằng hai thứ giọng khác nhau trong một phút.

Masari có vẻ như chẳng hào hứng gì trước sự trừng phạt thầy Akô Nô dành cho bọn Hắc tinh tinh. Anh nhìn theo ba chấm đen đang thất thểu đằng xa, nhăn nhó:

- Thầy ơi, thầy nặng tay quá...

- Hề hề, ta tưởng ta ra tay như vậy là nhẹ hều đó chớ. - Thầy Akô Nô cười nói, tay xua xua trước mặt như muốn bảo Masari đừng ca cẩm nữa. 

Masari không dám hé môi, khẽ liếc sang Pila và Karăm rồi quay lại phía thầy Akô Nô, ngoan ngoãn:

- Thưa thầy, tụi con đi.

Chân mỏi nhừ, Nguyên ngồi bệt xuống cỏ, đưa mắt nhìn theo các chàng trai Bạch kỳ lân đang nối gót Hắc tinh tinh ra khỏi thung trên con đường khi nãy, bụng phân vân không biết nên ngồi lì trong bụi hay chạy ra chào thầy. 

Đang lưỡng lự, nó bỗng giật bắn khi nghe tiếng thầy Akô Nô vang lên rất rành rọt:

- Ta nghĩ là ngươi chui ra được rồi đó. Thoạt đầu Nguyên không nghĩ là thầy nói với nó. Nó hồi hộp quay đầu nhìn quanh nhưng chẳng thấy một bóng người nào quanh đó. Hay là mình? Hổng lẽ thầy biết mình nấp trong này?

- Ngươi nhớn nhác cái gì vậy! Ta nói ngươi đó, K’Brăk! - Tiếng thầy Akô Nô lại oang oang.

Lần này thì Nguyên vội vàng bước ra khỏi chỗ nấp. 

Nó chưa kịp lên tiếng chào thì ánh mắt của thầy Akô Nô đã trượt từ mặt nó xuống cái xác của Kăply, mày cau lại:

- Làm gì mà ngươi ôm nó cứng ngắc vậy. Thả nó chỗ bụi cây kia đi! 

Nguyên cúi xuống Kăply rồi ngước nhìn thầy Akô Nô, ngơ ngác:

- Thả xuống hả thầy?

- Thì thả xuống chớ ngươi ôm làm gì cho mỏi tay. 

Nguyên liền ngồi xổm và sè sẹ đặt Kăply xuống cỏ, chưa kịp buông tay, thầy Akô Nô đã quát giật: 

- Ta bảo ngươi đặt nó chỗ bụi cây kia kìa. Chỗ ngươi nấp từ sáng đến giờ đó. 

Nguyên không hiểu tại sao thầy Akô Nô lại bắt mình đặt Kăply chỗ đó nhưng nó không hỏi lại, cắm cúi ôm Kăply đi tới chỗ bụi cây khi nãy, thận trọng đặt xuống. Lúc ngẩng lên, nó bắt gặp cặp mắt của con khỉ Chacha lấp ló sau cành lá nhìn ra.

- Cứ để con khỉ con ở trong đó. Ngươi lại đây ta bảo. 

Tiếng thầy Akô Nô vang lên và cái cách thầy nhìn thấy hết mọi thứ làm Nguyên muốn nổi da gà.

Đợi thằng nhóc lại gần, thầy Akô Nô nghiêm trang nói: 

- K’Brêt chỉ kéo dài tính mạng được đến trưa mai, và tối nay nếu ta không thuyết phục được lão Ôkô Na ra tay giúp đỡ, nó sẽ vĩnh viễn không còn nhìn thấy mặt trời nữa. 

Nguyên cúi đầu: 

- Dạ, con hiểu. 

Và ở tư thế giống như cam chịu đó, một câu hỏi đột ngột xì ra từ cổ họng nó:

- Ủa, Ôkô Na là ai vậy thầy? 

Câu hỏi của Nguyên làm thầy Akô Nô nhăn mặt như vừa nhai phải một hạt sạn

: - Lão đó ư? Hừm, đó là một lão già thổ tả nhất mà ta được biết. Có thể nói tóm tắt, lão là một cái túi chứa đủ mọi thứ xấu xa. Nói chung là con không nên biết nhiều về lão ta làm gì! 

Nguyên tính hỏi có phải Ôkô Na cũng là thầy của Hắc tinh tinh và Bạch kỳ lân không, nhưng nghe thầy Akô Nô nói vậy, nó đành nuốt câu hỏi trở lại vào bụng.

- Ngươi đừng có nghĩ ngợi lung tung, hãy ráng nhớ những gì ta dặn đây nè. - Thầy Akô Nô hắng giọng, mắt nhìn Nguyên chằm chằm như để kiểm tra xem nó có tập trung hay không - Chiều nay, ngay khi trời vừa tắt nắng, lão Ôkô Na sẽ xuất hiện. Lão sẽ ngồi ngay trên phiến đá ta đang ngồi đây. Bạch kỳ lân và Hắc tinh tinh sẽ đến gặp lão, nghe lão răn dạy, mắng nhiếc và trừng phạt, đại khái là bằng khoảng thời gian mà ta trừng phạt, mắng nhiếc và răn dạy tụi nó. Trong thời gian đó, ngươi cứ nấp trong bụi cây khi nãy, không được lên tiếng, cũng không được cử động gì hết. 

Nguyên nín thở:

- Thế lão có biết con đang nấp trong đó không hả thầy? 

- Ngươi nấp ở đâu mà lão chả biết, cái lão tà đạo đó. Nhưng nếu ngươi cứ nín thinh, cũng không có bất cứ hành động gì thì lão sẽ không động đến ngươi. Đó là điều mà ta sẽ thỏa thuận với lão. 

Nguyên lại thấp thỏm: 

- Thế con phải nấp đến bao lâu hả thầy?

Thầy Akô Nô lừ mắt nhìn Nguyên một cái, thản nhiên tiếp:

- Sau khi lũ học trò giải tán, lão Ôkô Na sẽ tự biến thành con basilic. - Chỗ này, Nguyên hoàn toàn không nghe mình thở, nó vểnh tai lên, ước chi có thêm vài cái tai nữa để nghe cho rõ - Con basilic sẽ bò đến chỗ K’Brêt để hút nọc độc ra. 

Giọng thầy Akô Nô chuyển qua dặn dò:

- Suốt trong thời gian đó, kể từ lúc lão Ôkô Na hóa ra con basilic, ngươi nhớ đeo cặp kiếng pháp thuật của thằng oắt Suku vào. 

Nguyên liếm môi:

- Con sẽ nhắm tịt mắt lại cho chắc ăn.

- Điều này mới quan trọng nè. - Thầy Akô Nô đột ngột cao giọng - Khi con basilic hút xong nọc độc trong người K’Brêt và bỏ đi, con khỉ Chacha phải nhào ra ôm K’Brêt chạy đi liền... 

- Sao vậy thầy? - Nếu không đem K’Brêt đi, khi con basilic tiêu hóa xong nọc độc mà nó vừa hút, chắc chắn nó sẽ quay lại tấn công. - Thầy Akô Nô nhìn cái miệng há hốc của Nguyên, thở dài giải thích - Lão Ôkô Na nếu đã hứa sẽ hút nọc độc cho K’Brêt thì dĩ nhiên lão sẽ làm, nhưng lão coi chuyện sau đó lão mổ chết K’Brêt hay biến nó thành đá là một chuyện hoàn toàn khác, không liên quan gì đến lời hứa kia. Lão ôn dịch này tính khí rất kỳ quặc, vì vậy ngươi phải nhớ kỹ lời ta dặn. 

Nguyên dứt mạnh một sợi tóc: 

- Thầy ơi, thế con không tự mình ôm K’Brêt chạy đi được sao? Con khỉ Chacha chắc gì đã cẩn thận... 

Thầy Akô Nô sờ tay lên đầu Nguyên, nắn tới nắn lui một lúc rồi hừ mũi:

- Ta thấy đầu ngươi cũng mềm đó chớ, đâu có giống cục gạch. 

Thầy bỏ tay xuống, “xì” một tiếng:

- Lúc nãy ta nói gì, hổng lẽ ngươi quên sạch rồi sao? Ta nói là ngươi không được làm bất cứ hành động gì, nghĩa là không động đậy gì hết, chỉ khi nào con Chacha cắp thằng nhãi K’Brêt chạy đi thì ngươi mới được co giò chạy theo, và cố mà chạy cho xa, hiểu chưa?

- Dạ hiểu. 

Nguyên gượng gạo đáp, trong khi nó nghĩ là nó không hiểu cái quái gì hết. Đã vậy, nó còn khổ tâm hết sức khi bị đem ra so sánh với cục gạch, tự nhiên nó thấy nó giống thằng Kăply dễ sợ và ý nghĩ đó làm miệng nó như bị ai kéo lệch đi.

- Hiểu rồi thì đi đi. - Thầy Akô Nô phẩy tay về phía bụi cây - Ta cũng đi đây.

Nguyên nói nhanh, như sợ thầy Akô Nô biến mất:

- Thế tối nay thầy có tới đây không hả thầy? Nó hối hả nói thêm, khi thấy thầy Akô Nô có vẻ như sắp sửa lắc đầu:

- Thầy tới nha thầy. Có thầy bên cạnh chắc con sẽ đỡ sợ hơn.

- Có lẽ là ta không tới được, K’Brăk à. - Trong khoảnh khắc, giọng thầy Akô Nô chợt chùng xuống, nghe trầm và buồn hiu hắt, thứ giọng không thể nhầm lẫn của người chất chứa nhiều tâm sự nặng nề, và khi thầy thốt ra những lời đó, Nguyên thấy rõ đôi mắt của thầy bỗng nhiên trở nên xa vắng và có vẻ thầy cố tình nhìn đi đâu đó phía trên đầu Nguyên như không muốn nó nhận ra nỗi buồn thăm thẳm của thầy - Hừm, ta không muốn giáp mặt với lão Ôkô Na. Ngươi biết không, lão và ta giống như là nước với lửa, thậm chí còn hơn thế nữa. Ở đâu có người này thì không có người kia.

Thầy đặt tay lên vai Nguyên, một động tác giống như để sưởi ấm đứa học trò và lấy giọng điềm tĩnh: 

- Nhưng ngươi chẳng việc gì phải lo lắng. Nếu ngươi làm đúng theo những gì ta dặn, mọi chuyện ắt sẽ tốt đẹp. Lão Ôkô Na tuy độc ác nhưng dẫu sao lão cũng biết giữ lời. Hà, nếu một ngày nào đó lão thực sự trở thành con người táng tận lương tâm thì ta sẽ liều với lão. Bất quá cả hai đều chết là cùng! 

Những câu cuối cùng, giọng của thầy Akô Nô lại trở lại âm sắc ban đầu, ấm ức và phiền muộn, có lẽ hoàn toàn không ý thức, cái kiểu của người tự nhiên rơi vào trạng thái độc thoại với chính mình. 

Cái cách thầy cắt ngang câu chuyện cũng rất đáng chú ý. Đang cúi đầu suy tư, Nguyên bỗng nghe vai mình nhẹ hẫng. Nó ngẩng phắt lên, chớp mắt liền hai, ba cái, bàng hoàng thấy phiến đá trước mặt trống trơn.

CHƯƠNG 21

LÃO QUÁI ÔKÔ NA

Nguyên lại chui vào trong bụi cây, ngồi bệt xuống cỏ, vừa moi lương khô ra nhai, đợi trời tối, vừa vẩn vơ nghĩ về những điều xảy ra trong nửa ngày qua, kể từ khi nó đặt chân đến núi Lưng Chừng. Mặt trời chiếu ngay đỉnh đầu nhưng gió thổi luồn vào từ các khe núi khiến không khí trong thung không quá oi bức. 

Bây giờ, khi đã bình tĩnh, Nguyên mới nhận ra có cả đống chuyện nó quên hỏi thầy Akô Nô. Nó quên hỏi làm sao thầy tới được hòn núi này và tới làm gì. Nó nhớ lại, và ngay lập tức nó trả lời được một nửa: Hiển nhiên là thầy tới đây để giúp nó và Kăply, nếu không, việc gì thầy phải cạy cục nhờ cái người mà thầy ghét cay ghét đắng là lão Ôkô Na cứu mạng cho Kăply. Nó chỉ không biết thầy tới đây bằng cách nào thôi. Nguyên nghĩ quanh nghĩ quẩn một hồi, óc chợt lóe lên: Đúng rồi, ngay từ đầu thầy đã biết là mình đến núi Lưng Chừng, chính thầy và bọn Tam phù thủy đã bí mật bám theo sau hai con ngựa bay của Yan Dran để lần được đến đây.

Nguyên dần dần nhớ lại, mắt nó sáng lên từng giây một. Những sự kiện đã trải qua tự động xâu thành chuỗi trong tâm trí nó. Ờ, như vậy là rất nhiều người biết đầu mối dẫn đến núi Lưng Chừng nằm ở họa sĩ Yan Dran. Trùm Bastu và các bộ hạ của hắn không ngừng ép buộc Yan Dran tiết lộ bí quyết vẽ truyền thần dĩ nhiên là nhằm mục đích tạo ra những con phi mã dẫn đường đến hòn núi huyền bí này. Vợ chồng thầy Haifai cũng biết bí mật đó, khi còn là Krazanh và Kim họ đã từng dùng chuyện này để đánh lừa trùm Bastu. Thầy N’Trang Long cũng thế, nếu không thầy đã không nhờ Suku dẫn tụi nó đến chỗ họa sĩ Yan Dran. Cả vợ chồng K’Rahlan - Kaming nữa, khi họ làm một chuyện tréo ngoe là cho con trai mình đến thụ giáo một họa sĩ thuộc giáo phái Madagui hẳn là họ đã tính đến mối lợi này. Và cuối cùng là thầy trò Tam phù thủy - những người được lợi nhất trong chuyến đi của Nguyên. 

Nguyên chỉ lấy làm lạ là tại sao không ai chịu hé môi cho nó biết về sự liên quan giữa Yan Dran và núi Lưng Chừng. Ngay cả Tam phù thủy Bạch kỳ lân cũng vậy, khi bị Păng Ting gặng hỏi, họ chỉ nói úp úp mở mở, cứ như thể đó là điều cấm kỵ và họ sẽ bị thụt lưỡi nếu nói thẳng ra. Hổng lẽ đó là quy định của Hội đồng Lang Biang: chiến binh giữ đền phải tự tìm đường đến núi Lưng Chừng? 

Nguyên cũng phát giác ra mình quên hỏi thầy Akô Nô về những quả táo vàng và ngạc nhiên là ngay cả thầy cũng quên mất chuyện đó trong khi chính thầy thừa biết những quả táo đó đối với nó và Kăply có ý nghĩa quan trọng như thế nào. Thế nào rồi mình cũng sẽ gặp lại thầy, tới lúc đó nhất định mình sẽ hỏi. Nguyên nhủ thầm, lúc lắc đầu như cố ghim chặt dự tính đó vào trí nhớ. 

Những cây thông lùn vẫn thấp chủn, nhưng lúc này Nguyên thấy những bóng cây trên cỏ đã dài ra gấp đôi. Nó nhìn lại chỗ Kăply nằm, phập phồng không biết bạn mình có sẽ sống lại như thầy Akô Nô nói hay không. Tự nhiên thấy thương bạn, nó bẻ mấy nhánh lá, chạy lại đắp trên người Kăply rồi chạy về chỗ cũ, bó gối ngồi nhìn trời nhìn đất. 

Suốt một hồi lâu, Nguyên chẳng biết làm gì cho bớt sốt ruột. Nó cứ ngồi như vậy, lặng lẽ nhìn nắng, nhìn cây lá, nhìn bóng chiều, lòng bất giác cảm thấy vô cùng tịch mịch. 

Trời dần nhạt nắng, sương bắt đầu đùn lên từ mặt cỏ và gió thổi mạnh hơn. Ở bên trên những ngọn núi đá, những đám mây bị gió xô đẩy, tơi ra và gầy rạc hẳn đi so với buổi sáng. 

Nguyên và con Chacha thu lu trong bụi cây, nôn nao chờ đêm xuống. Nguyên đã nói chuyện với Chacha rồi, và mặc dù ánh mắt con Chacha nhìn Nguyên với vẻ rất chi là hiểu biết, Nguyên vẫn không chắc con khỉ nghịch ngợm này có hiểu những gì nó nói hay không.

Có lúc Nguyên nhận ra mình vừa ngủ. Nó vội vàng đập hai tay vô má để cho tỉnh táo nhưng một lát sau những làn gió chiều cù mơn man lên lưng lên cổ nó, y như hồi ở làng Ke bà nó vẫn cù như thế để giúp nó dễ ngủ, làm nó thiếp đi lúc nào không hay. 

Nguyên lại giật mình mở mắt ra, lại vỗ lên má, lát sau thì véo tai và ngắt lên đùi, để rồi lại chìm vào giấc ngủ dễ dàng hơn, nhiều lần như vậy. 

Tới lần không biết thứ bao nhiêu, khi Nguyên mở mắt ra thì bóng đêm đã nhả xuống thung lũng những mảng tối cuối cùng. Nó giật mình đánh mắt về phía vách núi đối diện, thấy lão Ôkô Na đã ngồi trên phiến đá từ hồi nào.

Nguyên ngẩn ra khi thấy những phiến đá chung quanh chỗ lão ngồi đều phát sáng, thứ ánh sáng xanh lè, gây cảm giác lạnh lẽo và rờn rợn. Trong thứ ánh sáng ma quái lập lòe đó, lão Ôkô Na hiện lên như một phiên bản của thần chết. Lão gần như không có thịt, cái đầu lão giống như đầu lâu với hai hốc mắt đen ngòm, xương gò má nhô cao trong khi má lõm vào, hai cánh tay thò ra dưới tay áo thụng của lão rõ ràng là hai khúc xương; nói chung trông lão âm u và tăm tối đến mức nếu trong tay lão là chiếc lưỡi hái của thần chết thì Nguyên cũng không thắc mắc chút nào.

Lẽ ra Nguyên đã ngất đi nếu không biết trước lão là Ôkô Na, người sẽ cứu mạng cho Kăply trong lát nữa. Nhưng cái hình thù gớm ghiếc của lão vẫn khiến Nguyên không dám nhìn lâu, thậm chí có lúc nó phải nhắm mắt lại như thể cầu nguyện cho mình có đủ gan dạ để không hét lên một cách ngu ngốc hoặc bất thần lăn ra xỉu nửa chừng. 

Như những bóng ma lướt qua mặt Nguyên, Tam phù thủy Hắc tinh tinh câm nín tiến về phía vách đá từ con đường ban sáng và khi cả ba đứng ngay ngắn trước mặt lão Ôkô Na, bốn thầy trò họ nom giống nhau đến mức trong phút chốc Nguyên như quên cả sợ hãi, chỉ thấy trong bụng đang trồi lên một cảm giác gì đó như là sự buồn cười khiến nó phải trấn áp một cách khổ sở. 

- Các con đấy ư? 

Tam phù thủy Hắc tinh tinh chưa kịp cất tiếng, lão Ôkô Na đã hỏi, giọng ngọt ngào như phát ra từ một hũ đường. 

- Thưa thầy... 

Phù thủy đứng giữa nói, giọng nghèn nghẹt như vẫn còn uất ức về chuyện thầy Akô Nô trừng phạt hắn.

- Ta biết. - Lão Ôkô Na hắng giọng - Nhìn thoáng qua ta đã biết. Chắc lão Akô Nô vừa làm khổ tụi con phải không? 

Bọn Hắc tinh tinh không nói gì nhưng vẻ ủ rũ của bọn họ có giá trị còn hơn cả ngàn lần xác nhận. 

- Lão đó thiệt chẳng ra gì, chỉ được mỗi cái thù vặt. Mà thiệt ra các con cũng có gây ra chuyện gì phiền phức đâu. - Ôkô Na cười khảy, càng nói càng cao giọng, đến câu cuối cùng thì gần như lão hét lên - Lẽ ra lão phải khen thưởng tụi con mới phải chớ! 

- Thầy Akô Nô trách tụi con không làm gì được Tứ bất tử... 

- Lão thiệt là bá láp. - Lão Ôkô Na hừ mũi, bất bình - Tứ bất tử đâu phải là thứ dễ xơi. 

Tam phù thủy Bạch kỳ lân xuất hiện ngay vào lúc lão Ôkô Na đang nổi quạu. Và khi bọn họ bước đến trước phiến đá lão ngồi thì cả bọn tá hỏa hứng lấy một cơn bão những lời rủa xả đột ngột dội xuống đầu: 

- Mấy thằng khốn kiếp này, tụi bay đi đâu mà bây giờ mới vác mặt tới hả? Hừm, áo đỏ khăn trắng, bảnh bao gớm! Lại còn đeo chuỗi ngọc nữa chớ! Nói thiệt, tụi bay chẳng làm chuyện gì ra trò ngoài chuyện làm ta xốn mắt kinh khủng. 

- Thưa thầy... tụi con...

Thủ lĩnh Masari bối rối nói, trong khi Pila và Karăm rúm người lại. 

- Ba đứa bay thiệt chẳng ra gì. - Như không nghe Masari, hoặc nghe mà không thèm hiểu, lão Ôkô Na tiếp tục phun ra những lời đao búa, trông lão hằn học đến mức Nguyên tự hỏi tại sao lão không phun lửa ra quách cho rồi - Nói thiệt, lão Akô Nô chỉ đào tạo ra toàn đồ cóc nhái. Hừ, Bạch kỳ lân, cái biệt hiệu hay ho gớm! Bạch kỳ lân mà để cho tên nhãi nhép Baltalon đánh văng tuốt lên mây như những cái lông vịt. Thiệt tình! 

Masari cười khổ:

- Hắn đã luyện được thần chú Phân thân, thưa thầy. 

- Phân thân là cái quái gì chớ! Học trò của Ôkô Na mà sợ loại thần chú lôm côm đó sao! - Đầu lão Ôkô Na lắc lư đầy giận dữ, người yếu bóng vía có thể phát hoảng nghĩ lão là một hài cốt từ dưới mộ đang cựa quậy chui lên và cái cách lão nhe gần đủ ba mươi hai chiếc răng trắng nhởn nom ấn tượng đến nỗi Nguyên phát run lên đằng sau bụi cây.

Lão Ôkô Na tiếp tục hành hạ Bạch kỳ lân, theo kiểu cách mà xét cho cùng thì giống một cách đáng kinh ngạc với thái độ ác cảm mà thầy Akô Nô dành cho bọn Hắc tinh tinh lúc ban ngày:

- Cả lão Tứ bất tử nhăng nhít kia mà tụi bay cũng đánh không lại nghĩa là sao? 

Masari khẽ liếc Tam phù thủy Hắc tinh tinh, liếm môi với vẻ chịu đựng: 

- Thưa thầy, Tứ bất tử đã luyện bốn con vật đến độ xuất thần... 

Một lần nữa lão Ôkô Na không để Masari nói hết câu. Lão nhanh nhẩu cướp lời, cái cách chặn họng đầy sốt sắng của lão cho thấy lão không hề chờ đợi các chàng trai Bạch kỳ lân trả lời, lão chỉ dựng lên câu hỏi như người ta dựng một chiếc bục sân khấu để từ trên đó lão trút xuống đầu các tên đệ tử bất cứ lời lẽ cay độc nào mà lão chợt nghĩ ra: 

- Xuất thần cái đầu tụi bay. Mấy con vật nhí nhố đó mà tụi bay đánh không lại thì còn mong gì đối đầu với ai. - Lão nghếch mặt nhìn Tam phù thủy Bạch kỳ lân, từ trong bụi cây ngó ra Nguyên nghĩ là lão đang nheo mắt nhưng đôi mắt của lão chỉ là hai cái hốc nên nó chỉ có thể phỏng đoán qua cái nghiêng đầu khinh khỉnh của lão - Ta không đến nỗi quá khắt khe nhưng thiệt sự là ta thấy tụi bay giống y chang ba con gà trống.

Nếu cuộc đối thoại này diễn ra ban ngày và nếu không nấp xa quá, Nguyên tin rằng nó sẽ thấy gương mặt của các chàng trai Bạch kỳ lân đang chuyển màu gạch cua. Điều đó càng dễ tin hơn khi một trong ba phù thủy Hắc tinh tinh đột ngột “híc” lên một tiếng, một dấu hiệu cho biết nếu không vất vả kiềm chế hắn đã phá ra cười trước so sánh đầy nhạo báng của lão Ôkô Na.

Tam phù thủy Bạch kỳ lân đứng im như tượng, vẻ biết thân biết phận. Nhưng lão Ôkô Na vẫn không để yên. Những cái mũi lệch của đám đệ tử thân yêu phơi ra trước mặt, hễ lão không nhìn thì thôi, cứ mỗi lần chạm mắt vào bộ mặt dị dạng của bọn họ, lão như bị đánh thuốc độc.

- Tụi bay sử dụng mấy câu thần chú mèo quào của tụi bay cho ta coi thử nào! - Lão đột ngột rít lên, cánh tay khẳng khiu trỏ vào Bạch kỳ lân như sẵn sàng đâm thủng bụng lũ học trò. 

Masari tính hỏi lại nhưng không dám. Anh vung cây gậy sừng hươu vào tảng đá bên cạnh, những luồng ánh sáng chói lọi từ đầu gậy phụt ra, chạm vào tảng đá kêu đánh “bùng” một tiếng; trong tích tắc khi luồng sáng lịm đi, Nguyên nhìn rõ tảng đá đã tan thành bụi.

- Cái đó kêu là thần chú gì? - Lão Ôkô Na nhếch mép, mặt không lộ cảm xúc, mà nếu có thì không ai có thể nhận ra trên khuôn mặt như ác quỷ của lão. 

Masari lí nhí: - Vàng hoa cúc, thưa thầy.

- Pila. - Lão Ôkô Na hất hàm - Tới phiên ngươi múa may đi. 

Một chùm tia sáng tím lóng lánh từ đầu gậy của Pila bắn ra, chói lòa, rực rỡ và cũng như luồng sáng của Masari trước đó, trong nháy mắt đã làm biến mất một tảng đá lớn trên vách núi. 

Lão Ôkô Na cười khảy, nghe giọng cười đó Nguyên tin nếu lão có một khuôn mặt bình thường như mọi người chắc chắn nó đã thấy môi lão trề ra: 

- Cái này là cái gì?

Pila rụt rè: 

- Dạ, thần chú Tím hoa cà, thưa thầy.

Cây gậy trên tay Karăm khẽ rung động, rõ ràng anh đang hồi hộp chờ lão Ôkô Na kêu đến mình. Nhưng lão không thèm liếc mắt đến Karăm. Lão ngửa mặt lên trời, cười ha hả: 

- Thiệt là chưa từng thấy. Phải nói là lão Akô Nô dạy học trò hay thiệt... Ha ha ha... 

Lão chợt ngưng cười, ánh mắt rớt bộp xuống bọn Bạch kỳ lân, mắc lại ở những khuôn mặt đang giần giật vì lo lắng, nói giọng khinh miệt: 

- Hừ, Vàng hoa cúc, Tím hoa cà! Đúng là thần chú của lũ gà trống! Còn gì nữa hả tụi bay? Chắc thế nào cũng có ba cái tên õng ẹo như Trắng cọng mây, Xanh cọng cỏ chớ hả? 

Lão thình lình vỗ mạnh tay lên chỗ ngồi làm tảng đá xịt khói tùm lum và mẻ mất một miếng lớn, cất tiếng mắng: 

- Tụi bay ăn mặc thì đỏm dáng, thần chú thì ủy mị, gậy phép cũng bày đặt màu mè, lúc nào cũng nghĩ đến chuyện ra đòn phải đẹp, tên gọi phải kêu, ba cái thứ nhố nhăng đó chỉ hữu dụng để đi tán gái chứ đánh đấm cái cóc khô gì. Hừ, tụi bay thiệt giống lão Akô Nô quá sức. Thầy thì lãng mạn, trò thì chải chuốt, đúng là một lũ vừa hâm vừa ngớ ngẩn. 

Nghe lão Ôkô Na mắng sa sả như tát nước, Tam phù thủy Bạch kỳ lân ngậm tăm không dám nói, cũng không cả thở. Nhưng khi lão nói đến câu cuối cùng thì Masari ngẩng phắt lên:

- Thầy chửi tụi con te tua thế nào cũng được, xin thầy đừng nói động đến thầy Akô Nô.

- Ha ha ha... - Phản ứng bất ngờ của Masari khiến lão Ôkô Na giận đến mức chỉ biết bật ra một tràng cười dài, những khớp xương trong người lão kêu lên cót két như tấm ván bị uốn cong - Hay lắm! Hay lắm! Thầy trò bênh nhau, đúng là cùng một giuộc. Bộ ta không phải là thầy tụi bay chắc? 

Lão Ôkô Na vung tay áo thụng lên, hoàn toàn không báo trước: 

- Hỗn láo nè! 

Một luồng khói đen từ tay áo lão phụt ra, đập thẳng vào mặt Tam phù thủy Bạch kỳ lân. Nguyên giật mình nghe các chàng trai kêu lên một tiếng đau đớn và bắn tung ra xa, ngã chổng gọng trên cỏ như những con diều đứt dây, gậy trên tay văng mỗi nơi một chiếc. 

Khi Tam phù thủy Bạch kỳ lân lóp ngóp bò dậy, Nguyên hoảng hồn thấy trên mặt họ máu trào ra như suối từ hai lỗ mũi.

- Hà hà, - lão Ôkô Na cười sằng sặc - Tím hoa cà thì được tích sự gì! Ta cho tụi bay thấy thế nào là Trào máu mũi nè. 

Bây giờ Nguyên mới hiểu tại sao Tam phù thủy Bạch kỳ lân lộ vẻ lo lắng khi thấy thầy Akô Nô trừng phạt Hắc tinh tinh. Hẳn họ biết thế nào thầy Ôkô Na cũng sẽ điên lên mà trút giận lên đầu họ. 

- Tụi bay còn đứng xớ rớ ở đó hả? - Lão Ôkô Na gầm lên - Lượm mấy cây gậy đánh chó của tụi bay lên rồi xéo đi cho rảnh! 

Như chỉ chờ có thế, các chàng trai Bạch kỳ lân vội vàng nhặt nhạnh những chiếc gậy sừng hươu vương vãi trên cỏ, cúi đầu chào lão Ôkô Na rồi quay mình rảo bước, điệu bộ hấp tấp như cố chạy xa một bãi mìn sắp nổ.

Lão Ôkô Na nhìn theo những chàng trai Bạch kỳ lân, phun một bãi nước bọt rồi quay sang bọn Hắc tinh tinh nãy giờ vẫn im lìm theo dõi mọi diễn biến, giọng hài lòng:

- Ta ra tay như vậy là còn nể mặt lão Akô Nô lắm đó. 

Phù thủy Hắc tinh tinh đứng bên trái đưa tay mân mó chiếc mũi lệch, bất bình nói: 

- Con nghĩ hình phạt thầy dành cho Bạch kỳ lân chưa tương xứng với những gì tụi con nhận lãnh ở thầy Akô Nô. 

- Tại tụi con chưa biết đó thôi. - Lão Ôkô Na an ủi học trò bằng thứ giọng người ta thường dùng để dỗ trẻ con - Tụi con bị vẹo mũi chỉ là chuyện vặt. Hơn nữa, dù mũi tụi con có thẳng thớm thì ta nghĩ cũng không nhờ thế mà tụi con trở nên đẹp trai hơn.

Lão bật cười hiểm độc:

- Còn bọn Bạch kỳ lân sau khi bị ta dùng thần chú đánh trào máu mũi, tụi nó sẽ mất đi khoảng một phần mười năng lượng pháp thuật. Cái đó mới đáng gọi là trừng phạt. 

Lão lại bật cười khan một hồi; nhìn vẻ hoan hỉ của lão Nguyên nghĩ chắc là lão đang tự cho mình điểm mười về cái âm mưu thâm hiểm vừa rồi. -

Nói cho chính xác thì trình độ của tụi con so với Bạch kỳ lân thì ai hơn ai kém? - Lão chợt hỏi, giọng trở lại nghiêm trang.

- Con không biết, thưa thầy. - Phù thủy đứng giữa trầm ngâm đáp.

- Con nghĩ chắc là ngang nhau. - Phù thủy đứng bên phải dè dặt bổ sung.

- Hừm, sao lại có thể như thế được. - Lão Ôkô Na lại đập tay xuống tảng đá và làm mẻ thêm một miếng nữa - Tài nghệ của tụi con phải cao hơn Bạch kỳ lân chớ.

Thấy ba tên học trò không nói gì, lão Ôkô Na có vẻ bực mình:

- Dĩ nhiên là tụi con và Bạch kỳ lân không được phép so tài trực tiếp với nhau. Nhưng như vậy không có nghĩa là không so sánh được. - Cái khung xương của lão lại cựa quậy một cách nóng nảy trong chiếc áo thụng làm phát ra những tiếng răng rắc - Phe Hắc Ám lúc này như thế nào rồi? Gần đây tụi con có giúp trùm Bastu được chuyện gì đáng kể không? Cứ đem thành tích của tụi con và Bạch kỳ lân ra đọ với nhau là biết ngay tụi con cao hơn tụi nó bao nhiêu cái đầu chớ.

- Dạ.

Phù thủy đứng giữa mơ hồ đáp. Nguyên có cảm giác hắn cố tình né tránh những câu trả lời cụ thể, nhất là vụ ba con hắc xà bị tiêu tùng, sợ lão Ôkô Na thêm cáu.

Như nhìn xuyên qua đầu học trò, lão Ôkô Na bỗng nói: 

- Ta sẽ dạy cho tụi con loại thần chú để đối phó với hai con linh xà ở hồ Ma. Chẳng có gì phức tạp hết. Thậm chí muốn thắng gã tổng quản lâu đài Sêrôpôk cũng không phải là chuyện khó. Nói chung, những gì Bạch kỳ lân không làm được thì tụi con phải làm bằng được. 

Trước ánh mắt vui mừng của bọn Hắc tinh tinh, lão Ôkô Na đột ngột tặc lưỡi thay cho dấu chấm hết: 

- Bây giờ thì tụi con đi đi. Ta có việc phải làm. 

Ở trong bụi cây, Nguyên hồi hộp nhìn theo những bước chân của Tam phù thủy Hắc tinh tinh rồi lại quay về phía tảng đá lão Ôkô Na đang ngồi, cảm thấy trái tim như muốn vọt ra khỏi lồng ngực. Suốt cả buổi chiều, Nguyên chờ đợi giây phút này nhưng khi lão Ôkô Na chuẩn bị hóa thành con basilic thì dạ dày nó quặn lại. 

Nguyên cuống quít lôi cặp-kiếng-chống-hóa-đá trong túi ra tròng lên mắt, cảm thấy run sợ hơn nó nghĩ. Thậm chí khi lão Ôkô Na bắt đầu lắc lư trên tảng đá, Nguyên xấu hổ bắt gặp mình đang cố thu nhỏ người lại mặc dù nó thừa hiểu lão biết tỏng nó đang nấp trong này.

Trong một thời gian ngắn, Nguyên thấy rõ lão Ôkô Na bắt đầu phình lên và dài ra, chẳng mấy chốc một con rắn lớn thế chỗ của lão che kín cả tảng đá.

Con rắn uốn éo trườn xuống, lừ lừ bò về phía bụi cây. Mặc dù biết con basilic đang đến chỗ cái xác của Kăply để hút nọc độc, Nguyên vẫn dựng tóc gáy khi thấy những khúc mình vàng khè của nó mỗi lúc một quăng đến gần, cứ mỗi lần như thế lại làm phát ra những tiếng lạch bạch như một người đang vỗ tay vào bụng. 

Nguyên phải cố hết sức để khỏi ọc ra những gì nó nhét vô bao tử hồi trưa khi ánh mắt nó chạm phải hai cái cánh quái dị trên mình con basilic, cái mào đỏ như máu và dưới đó một chút là cặp mắt hình tam giác đang không ngừng quét tới phía trước những tia sáng trắng như hai chiếc đèn pha. 

Con basilic vừa trườn tới chỗ Kăply vừa lúc lắc đầu, ánh mắt nó thỉnh thoảng lại chiếu ngay bụi cây khiến Nguyên khiếp hãi tưởng như cả người đang bị phơi ra trước luồng sáng chói lòa kia. Cuối cùng, Nguyên nhắm nghiền mắt lại, hoàn toàn không tự chủ, răng trên cắn chặt môi dưới để khỏi bất thần bật ra một tiếng rên, tay nắm chặt tay con khỉ Chacha đang co ro bên cạnh. 

Nguyên ngồi rúm người trong bụi cây, không trông thấy con basilic đã hút nọc độc cho Kăply như thế nào, chỉ đến khi nghe tiếng quăng mình của con basilic mỗi lúc một xa, nó mới dám he hé mắt nhìn.

Không đợi Nguyên nhắc, con Chacha nhào ra khỏi chỗ nấp, ẵm lấy Kăply lúc này vẫn chưa động đậy, quay mình vọt đi như tên bắn trên con đường dẫn ra khỏi thung. Vắt giò lên cổ, Nguyên hối hả chạy theo, nhìn những cây thông lùn lùi vùn vụt lại sau lưng, nó nhớ ra từ bé tới giờ chưa bao giờ nó chạy nhanh đến thế. 

Vừa đến chân ngọn đồi trọc, Nguyên tái mặt nghe những tiếng lộp bộp sau lưng, biết con basilic đã tiêu hóa xong chất độc và đang điên cuồng rượt theo.

Người run bắn, Nguyên lao thục mạng về phía trước, chân dẫm bừa lên cánh đồng hoa, cố bám sát con Chacha đang ôm Kăply phóng như gió trước mặt. 

Nguyên chạy và chạy, băng suốt chiều dài cánh đồng, đầu óc gần như mụ đi. Tiếng thở phì phì của con basilic càng lúc càng lớn ở sau lưng khiến chân Nguyên đôi lúc như quíu lại, đã mấy lần nó vấp té nhưng gượng dậy được và cắm cổ chạy tiếp, lòng dậy lên ao ước cháy bỏng là được mọc thêm đôi cánh ở dưới chân như mấy con ngựa của Yan Dran. 

Từ trong thâm tâm, Nguyên cũng trông chờ sự xuất hiện của thầy Akô Nô, mặc dù nó thừa biết đó là hy vọng hết sức mong manh.

Cho đến khi Nguyên trượt chân té thêm một lần nữa, không biết là lần thứ mấy, người lăn lông lốc, cặp kiếng của Suku văng đi đâu mất trong khi tiếng khè khè gấp gáp của con basilic đã gần như ở ngay sau gáy thì thiệt tình mà nói, Nguyên đã nghĩ rằng nó không còn sống nữa. 

Đúng vào lúc Nguyên không còn nuôi nấng một tia hy vọng nào, thậm chí còn đang nghĩ nên tròng bộ mặt nào để đón nhận cái chết thì nó thấy tay nó bị ai đó nắm chặt và người nó thình lình bị nhấc bổng lên. 

Thầy Akô Nô? Nguyên reo lên trong đầu và ngước mắt nhìn lên, cảm động muốn khóc khi thấy kẻ đang lôi nó bay trong không là con Chacha. Bây giờ Nguyên mới biết là nó đã té ngay ở nơi bắt đầu cánh đồng hoa và trước mặt nó lúc này là hai con phi mã đang bồn chồn dậm chân thình thịch trên mặt cỏ ra chiều thúc giục.

Trên lưng một con phi mã, Kăply đang nằm vắt ngang. Bằng một sức mạnh phi thường so với thân hình nhỏ thó của nó, Chacha liệng Nguyên lên lưng con ngựa thứ hai rồi nó tự mình nhảy lên ngồi đằng sau Kăply. 

Hai con ngựa lập tức cất mình bay lên không, vừa kịp thoát cú mổ đầy giận dữ của con basilic trong tầm một phân không hơn không kém.

Đêm đó, Nguyên bám lấy cổ ngựa, đánh một giấc mê man, không mộng mị. Thoạt đầu, nó không muốn chợp mắt, với niềm tin nếu hai con phi mã cao hứng bay vòng quanh núi Lưng Chừng như kiểu phi thuyền bay quanh mặt trăng, nó sẽ được tận mắt nhìn thấy một hòn núi nằm lơ lửng giữa trời là như thế nào. Nhưng hoặc là nó quá mệt mỏi sau những gì vừa trải qua, hoặc là có một sức mạnh huyền bí nào đó kéo sụp mí mắt nó, Nguyên đi vào giấc ngủ một cách nhanh chóng, hoàn toàn ra ngoài sự nhận thức của nó nhưng phải nói là hết sức thỏa thuê. 

Khi Nguyên bị những tia nắng sớm bò trên mặt đánh thức, nó mở mắt ra và sợ đến líu lưỡi khi thấy có người đang nhìn mình mỉm cười. 

Thấy nó định nhảy bắn lên, người đó chận tay lên vai nó, cười hì hì: 

- Mày làm gì vậy? Tao đây mà. 

Phải một lúc Nguyên mới thôi sửng sốt và khi đã hoàn hồn thì đột ngột nó làm một cái chuyện mà không bao giờ nó nghĩ có ngày nó sẽ làm là òa ra khóc. Nó khóc nức nở, khóc ngon lành, vừa khóc vừa rưng rức nói:

- Tiên sư mày, Kăply!

Kăply ôm choàng lấy bạn và đến phiên nó rưng rưng: 

Kể tao nghe đi. Tụi mình đang ở đâu? Và tại sao mà tụi mình ở đây?

- Mày... mày... - Nguyên hinh hích - lẽ ra thì mày đã chết rồi... thằng cà chớn... 

Kăply đã định trêu bạn, vì thiệt sự thì nó thấy thằng Nguyên bữa nay lạ quá. Đối với Kăply, thằng bạn đại ca của nó mà chịu xì ra nước mắt trông còn hoang đường hơn là con nhỏ trùm sò Păng Ting chịu xì tiền. Nhưng nghe Nguyên nói vậy, mặt Kăply đuỗn ra:

- Mày nói sao? Tao đã chết rồi ư?

Nguyên lấy tay áo quẹt nước mắt lẫn nước mũi, trông nó dơ dáy y như thằng K’Tub nhưng vì đang nóng lòng nghe nó trả lời, Kăply cố dìm câu chế nhạo bằng một tiếng khịt mũi ầm ĩ. 

- Mày còn nhớ lúc tụi mình ở thung lũng Plei Mo không? - Nguyên nhìn bạn bằng cặp mắt đỏ hoe, sụt sịt hỏi. 

- À, à, nhớ. - Kăply gãi đầu - Nhớ chứ. Lúc đó tụi mình nhìn thấy mấy pho tượng bằng đá.

- Rồi con basilic xuất hiện... - Nguyên nhắc. 

- Ờ, đúng rồi, con basilic thình lình hiện ra từ phía sau và rượt theo tụi mình. - Kăply vỗ đùi một cái “bốp”, la lên - A, tao nhớ rồi, nó đã mổ tao một phát đau điếng ngay đùi. 

Kăply vén vạt áo lên, ngoái cổ quan sát xem vết cắn nằm ở đâu.

- Đây nè. - Nó xoa xoa tay lên vết thương vẫn còn bầm tím, nhe răng cười - May mà nọc con basilic không độc... 

Nguyên nhìn bạn, thở một hơi dài:

- Nghe đây nè, đồ ngốc. Ở xứ Lang Biang có ba thứ tuyệt độc. Đó là nhựa độc của quả hiến sinh, chất độc trong móng rồng Ouroboros và nọc độc của con basilic. Đó là những loại độc không có thuốc giải. Những ai bị con basilic mổ trúng, chỉ có thể kéo dài mạng sống tối đa là một ngày... 

- Cái gì? - Kăply lắp bắp, mặt xám ngoét - Hổng lẽ tao sắp chết rồi ư?

- Sắp chết cái con khỉ. - Nguyên mỉm cười - Từ lúc mày bị con basilic mổ trúng đến nay đã gần ba ngày rồi...

Trước vẻ ngỡ ngàng của Kăply, Nguyên từ từ thuật lại những gì đã xảy đến với tụi nó trong mấy ngày qua.

Xếp bằng trên cỏ, Kăply nghệt mặt hả họng nghe, vẻ đăm đăm như đang nghe một vở kịch truyền thanh với vô số những cung bậc và cao trào: hấp dẫn, căng thẳng và rất nhiều bi lụy, nhất là sau cái chết của chính nó. Kăply cố không ngắt lời bạn, che giấu sự ngứa ngáy bằng cách nóng nảy bứt những cọng cỏ trong tầm tay và đến khi Nguyên kết thúc câu chuyện thì quanh chỗ Kăply ngồi chỉ còn là mảnh đất trụi.

- Tao không thể hiểu được tại sao trùm Bastu lại tốt với tao như vậy? - Kăply nhăn nhó vò đầu.

- Nghe tao nói đây, Kăply. - Nguyên nghiêm mặt - Về nguyên tắc, trùm Hắc Ám không bao giờ đối xử tốt với các thành viên của lâu đài K’Rahlan, đặc biệt khi người đó được chọn làm chiến binh giữ đền. Bastu hành động tuy khó hiểu nhưng tất cả đều phục vụ cho những âm mưu thầm kín của hắn thôi. 

- Thế mẹ của K’Brêt còn sống à? - Kăply chợt nhớ đến câu chuyện kỳ quái ở hồ Ma. 

- Mày cũng biết rồi đó, chim đầu người là một dạng sống dở chết dở. Nếu tụi mình đem về được những quả táo vàng thì lúc đó mới có thể nói tới chuyện bà Ka Lên còn sống hay không.

Kăply quay đầu nhìn quanh:

- Thế đây là núi Lưng Chừng sao? Sao tao hổng thấy một cây táo nào hết vậy? 

Nguyên đặt tay lên vai Kăply:

- Ngay bây giờ, tao và mày sẽ đi lòng vòng thăm dò. Dẫu sao, mày sống lại mới là điều quan trọng nhất đối với tao. Còn những quả táo vàng, tao nghĩ sớm muộn gì tụi mình cũng sẽ tìm thấy. Chỉ có điều đáng lo là làm sao vượt qua được sự canh giữ của con rồng Ouroboros, và nhất là đừng chạm trán với lão Ôkô Na thổ tả kia.

Kăply vụt hỏi:

- Mày có nghĩ lão Ôkô Na chính là chủ nhân núi Lưng Chừng không? 

- Tao cũng từng nghĩ về điều này. - Nguyên nhún vai - Nhưng có lẽ là không phải. Chủ nhân núi Lưng Chừng là chiến binh giữ đền đời thứ nhất, có bổn phận trấn áp các thế lực hắc ám. Trong khi đó, lão Ôkô Na không những cho bọn Hắc tinh tinh đi giúp trùm Bastu mà bản thân lão có thể hóa thành con basilic, một khả năng chỉ có ở các phù thủy hắc ám. 

- Hay là thầy Akô Nô? - Kăply cắn môi và trừng trừng nhìn Nguyên, có vẻ sẵn sàng lăn ra xỉu nếu thằng bạn đại ca của nó gật đầu. - Cũng không phải nốt. - Nguyên thò tay dứt một sợi tóc, lắc đầu nói - Nếu thầy Akô Nô là chủ nhân núi Lưng Chừng thì với trách nhiệm và trình độ pháp thuật cao tột bậc của thầy không đời nào thầy lại để cho lão Ôkô Na tự tung tự tác như vậy. Có thể thấy thầy cực kỳ căm ghét và ghê tởm lão này nhưng rõ ràng thầy không làm gì được lão. Mày nhớ coi, trong lịch sử xứ Lang Biang, ngoài Tam tiên ra, làm gì có nhân vật nào được coi là ngang ngửa với chủ nhân núi Lưng Chừng. Hoàn toàn không có, đúng không? 

- Ờ, đúng... đúng... 

Kăply ấp úng đáp, thấy trong những trường hợp cần suy luận rắc rối như thế này, nghĩ ngợi bằng cái đầu của thằng bạn mình vẫn là tốt nhất. Nhưng rồi một thắc mắc chợt chớp lên trong đầu nó:

- Thế chủ nhân núi Lưng Chừng đâu?

- Tại sao bọn ngươi không nghĩ ngài đang đi chơi đâu đó và hiện nay không có mặt ở hòn núi này?

Tiếng thầy Akô Nô vang lên bên trái cánh đồng khiến Nguyên và Kăply quay phắt về phía phát ra tiếng nói, mừng rỡ: 

- Chào thầy ạ. 

Thầy Akô Nô nhìn Nguyên, cười khì khì: 

- Tối hôm qua, ta rất tiếc không làm gì để giúp ngươi được mặc dù biết là ngươi bị con basilic làm cho sợ vãi mật. 

Nguyên chớp mắt:

- May mà tụi con đã được hai con phi mã cứu đi, thưa thầy. 

- Tốt! Tốt lắm! - Thầy Akô Nô đưa mắt nhìn Kăply, câu nói vừa rồi chính xác là dành cho nó, rồi như thấy chưa đã, thầy lại gục gặc đầu - Tốt! Tốt lắm! Rất tốt! 

Kăply cúi đầu, giọng xúc động: 

- Con không biết phải nói sao để cảm ơn thầy...

- Cảm ơn cái con khỉ! - Thầy Akô Nô sầm mặt - Nếu ngươi không phải là chiến binh giữ đền đời thứ ba, ta cứu ngươi làm cái cóc gì chớ. Hừm, giả dụ ngươi chỉ là một thằng nhóc bình thường thì ta để ngươi chết ngắc từ lâu rồi, hổng việc gì phải quỵ luỵ lão Ôkô Na cho nhục. 

Rõ ràng cứ nhắc đến lão Ôkô Na là thầy nổi xung. Thầy giãy đùng đùng trên hai chân, nói như tát nước vào mặt khiến không chỉ Kăply mà cả Nguyên cũng phát hoảng đến đờ mặt ra.

- Thôi, bỏ qua đi. - Thầy Akô Nô phẩy tay, làm như lão Ôkô Na là một con ruồi đang vo ve đâu đó và thầy đang ra sức đuổi lão đi - Bây giờ chuyện cần kíp là bọn ngươi phải đi hái mấy quả táo vàng rồi chuồn lẹ khỏi núi Lưng Chừng trước khi chủ nhân hòn núi này kịp tóm cổ bọn ngươi.

Nguyên như người ngủ mê choàng tỉnh:

- Những cây táo đó ở đâu hả thầy? Từ hôm qua đến giờ con hổng thấy chúng đâu hết.

- Bọn ngươi đi theo ta. 

Thầy Akô Nô nói và băng băng xông vào giữa cánh đồng hoa.

Chương 22

RỒNG OUROBOROS

Cuối cánh đồng là những ngọn đồi trọc, nơi Nguyên đã đến rồi. Nhưng thầy Akô Nô không rẽ theo con đường có những cây thông lùn dẫn đến thung lũng hôm qua.

Thầy băng băng quẹo phải, nơi không hề có lối đi. Trong khi Nguyên tò mò chưa biết thầy làm cách nào để vượt qua những bụi rậm toàn loại cây cao ngang ngực với những chiếc lá cứng, dài và nhọn như mũi giáo thì nó bỗng trợn tròn mắt lên: Thầy Akô Nô đi tới đâu, những bụi rậm tự động tách ra tới đó, rất giống với cái cách nhường đường của dãy hàng rào ở công viên Các Thứ Kẹo mà nó và Kăply từng chứng kiến.

Nguyên, Kăply và con Chacha lẽo đẽo bám theo, đến khi những tia nắng mặt trời gần như xuyên thẳng xuống từ trên đỉnh đầu, mọi người đã vòng ra phía sau ngọn đồi. Nguyên ngạc nhiên thấy một vườn cây xanh um đập vào mắt, chưa kịp hỏi, thầy Akô Nô đã quay lại, nói nhỏ:

- Đây là vườn táo.

Vẻ bình tĩnh tuột khỏi gương mặt Nguyên và Kăply. Hai đứa kiễng chân, căng mắt cố nhìn xem những quả táo vàng nằm ở đâu trên cây nhưng khoảng cách quá xa, tụi nó chẳng nhìn thấy gì.

- Bọn ngươi có thấy bờ đê bao quanh khu vườn không? – Thầy Akô Nô bỗng hỏi.

- Dạ thấy.

- Bọn ngươi có biết đó là cái gì không?

- Dạ không. – Kăply nín thở – Đó là cái gì hả thầy?

- Rồng Ouroboros đó.

Như bị nhét một đống cá pha lê vô họng, Nguyên và Kăply đột nhiên ú ớ:

- Rồng… Ouro… ro… bo… ros…?

Hai đứa mặt mày xanh lè, kích thước và chiều dài khủng khiếp của con rồng khiến tụi nó thấy tay chân tự nhiên lạnh ngắt như rơi vào một hố băng.

- Một ngàn năm trăm năm trước, con quái này từng canh giữ bộ Lông Cừu Vàng ở xứ Mũi Lõ. – Thầy Akô Nô nghiêm trang giải thích – Nó có hai đầu, khi đầu này ngủ thì đầu kia thức, do đó không ai đột kích hoặc đánh lừa nó được. Chất độc trong móng chân nó lại cực kỳ lợi hại, ai để nó chộp trúng coi như chết chắc.

- Thế làm sao tụi con… tụi con…

Kăply lắp bắp hỏi, vừa nói nó vừa sè sẹ lùi ra phía sau.

- Ngươi yên tâm, nó chưa phát giác ra chúng ta đâu. – Thầy Akô Nô nhìn Kăply qua khóe mắt, vẻ chế nhạo – Rồng Ouroboros đến nay đã già khọm rồi. Trong vòng hai trăm năm trở lại đây, thị lực và thính lực của nó đã không còn bén nhạy nữa. Hiện nay nó chỉ phát hiện được vật lạ trong vòng bán kính năm mươi mét thôi.

Nguyên lo lắng:

- Thầy ơi, ngay cả như vậy tụi con cũng hầu như không có cơ hội nào.

- Ngươi câm mồm lại đi, đồ thỏ đế! Thế mà cũng gọi là chiến binh giữ đền! – Thầy Akô Nô thình lình nổi quạu – Ta đã nói hết đâu! Nghe cho kỹ nè! Rồng Ouroboros thực ra cũng có nhược điểm. Đây là một trong những bí mật lớn nhất của xứ Lang Biang.

Nguyên và Kăply hồi hộp dán mắt vào mặt thầy Akô Nô, dường như không cả thở. Thậm chí tụi nó tập trung đến mức không biết cả hai đều đưa tay vò đôi tai đến đỏ tấy như muốn sàng lọc lại bộ nghe nhằm chộp bắt vận may mà thầy Akô Nô sắp cung cấp cho tụi nó, dù có thể cái vận may đó nhỏ xíu, không đủ cho một muỗng cà phê.

- Ouroboros là một con rồng bị dị tật bẩm sinh. – Thầy Akô Nô chậm rãi – Nó chỉ thuận bên trái. Nửa mình bên phải của nó không linh hoạt bằng.

- Con hiểu rồi, thưa thầy. – Nguyên nói, mặt rạng dần ra – Có phải thầy muốn tụi con xông vào vườn táo lúc cái đầu bên trái của con rồng Ouroboros đã ngủ?

Thầy Akô Nô toét miệng cười:

- Hì hì, ta nghĩ là ta muốn nói vậy đó. Khi bị con quái rượt, bọn ngươi lập tức chạy về bên phải. Và nhớ chạy vòng tròn. Vòng tròn càng nhỏ càng tốt.

- Chi vậy thầy? – Kăply thắc mắc.

- Đừng hỏi nhiều. – Thầy Akô Nô khoát tay – Nếu bọn ngươi làm đúng theo lời ta, đến một lúc con quái sẽ bất động. Nhưng nó chỉ bất động trong một thời gian ngắn thôi, do đó vừa thấy con quái đứng im, bọn ngươi phải nhanh chóng thoát thân liền.

- Thế còn những quả táo vàng, thưa thầy? – Nguyên chưng hửng – Tụi con còn phải hái táo nữa chớ!

Thầy Akô Nô bĩu môi:

- Có khoảng hai chục đứa cỡ bọn ngươi cũng đừng hòng rớ vào những quả táo đó được.

Trước ánh mắt dò hỏi của Nguyên và Kăply, thầy chỉ tay vào những tán lá trước mặt, thủng thỉnh nói:

- Dĩ nhiên là những quả táo vàng đang ở trên cây. Nhưng chúng dính rất chặt vào cuống lá, chặt đến mức không một ai, cũng không một loại thần chú nào trên thế gian này có thể bứt chúng ra khỏi cây được.

- Sao kỳ vậy thầy? – Kăply lại láu táu hỏi.

Thầy Akô Nô đưa tay xoa xoa chỏm tóc loe hoe, tặc tặc lưỡi:

- Bọn ngươi không biết đó thôi. Cây táo vàng ở núi Lưng Chừng còn gọi là cây Đời. Số lá cây trong khu vườn này bằng với số người sống ở xứ Lang Biang. Trên mỗi chiếc lá đều có ghi tên một người. Ai chết đi thì dĩ nhiên chiếc lá có ghi tên người đó sẽ rụng xuống. Ai sắp chết thì chiếc lá của họ sẽ khô gần hết, chỉ còn một góc nhỏ còn xanh. Thời gian còn được sống càng ngắn thì phần xanh càng nhỏ.

Nguyên và Kăply há hốc miệng ra nghe, sững sờ và khiếp hãi.

- So với những vận mạng mà vườn táo này nắm giữ, khu rừng tiên tri trên mặt đất chỉ là trò trẻ con. – Thầy Akô Nô vung tay, hào hứng tiếp – Mỗi cây táo vàng chỉ sinh một quả, được gọi là quả của tri thức, ma thuật và sức mạnh, hạt táo có hình ngôi sao năm cánh, bỏ hạt táo trong túi áo có thể bảo vệ được mạng sống trước mọi hiểm họa.

Lòng Nguyên chùng xuống theo từng câu nói của thầy Akô Nô. Sự thật về vườn táo ở núi Lưng Chừng có lẽ là một bí mật rất ít người biết và dĩ nhiên không ghi trong sách, bằng chứng là nhà thông thái Suku cũng chẳng biết mô tê gì về những điều thầy Akô Nô vừa kể. Và những điều đó khiến Nguyên gần như bị sốc. Nó nhìn thầy Akô Nô, nặng nề hỏi:

- Thế tụi con không có cách gì hái được những quả táo kia hả thầy?

Thầy Akô Nô chưa kịp đáp, Kăply đã ré lên bằng thứ giọng phải nói là xẳng hết sức:

- Thầy nói sao ấy chứ. Nếu những quả táo vàng không thể rời khỏi cây thế sao trước đây Đại tiên ông Mackeno đem về được một quả?

- Hỏi hay lắm! – Thầy Akô Nô nheo mắt nhìn Kăply – Nhưng ta nhớ ta đâu có nói là không hái được những quả táo đó. Ta chỉ nói là không người nào có khả năng bứt chúng ra khỏi cây thôi. Không một người nào, ngươi hiểu chưa?

- Chưa hiểu! – Khuôn mặt Kăply vẫn khuất sau chiếc mặt nạ quạu quọ, nó nói như gây gổ – Thầy nói vậy hổng lẽ Đại tiên ông Mackeno không phải là người?

- Ngươi cóc biết gì mà cũng làm om sòm. – Kăply quạu khiến thầy Akô Nô đâm quạu theo – Lão Mackeno đâu có tự tay hái quả táo đó.

- Vậy là ai hả thầy? – Nguyên vội vã cất tiếng, vừa tò mò vừa muốn dập tắt bầu không khí căng thẳng Kăply vừa khuấy lên.

- Đó chính là bầy khỉ Manibum, còn được biết dưới biệt danh những kẻ cướp vui tính. Mỗi ngày, trước khi mặt trời lặn, bao giờ bọn khỉ này cũng kéo đến vườn táo đùa giỡn và hái quả trên cây chơi trò ném nhau. Theo truyền thuyết, bọn khỉ Manibum từng có ơn với phúc thần Kalăm và được ngài ban cho một quyền năng đặc biệt. Đó là trở thành sinh vật duy nhất có thể bứt rời những quả táo vàng ra khỏi cây Đời.

Kăply nhăn nhó:

- Ngày nào bọn chúng cũng kéo tới quậy tưng như vậy, chắc vườn táo trụi lủi từ đời tám hoánh rồi…

Thầy Akô Nô nhếch môi:

- Nếu nói như ngươi thì cây Đời là loại cây tầm thường sao? Ngươi phải biết, cứ mỗi quả táo rụng xuống đất thì ngay ở chỗ cuống cũ một quả táo khác lại mọc ra.

Thầy cười hì hì:

- Trước đây, lão Mackeno lợi dụng lúc nhá nhem hóa thành một con khỉ lẳng lặng chui vào vườn táo, rình bắt được một quả…

Nguyên reo lên:

- Ra là thầy muốn tụi con cầm chân con rồng Ouroboros để con Chacha có thì giờ trà trộn vào bọn khỉ Manibum?

- Chính xác là ta đang nghĩ như vậy đó. – Thầy Akô Nô gật gù, vẻ hài lòng. Chợt thầy trở nên nghiêm trọng, gương mặt trẻ con nhăn lại như làm nũng nhưng nội dung lời dặn dò của thầy khiến Nguyên và Kăply không cảm thấy buồn cười chút nào – Trước khi bọn ngươi bắt đầu, ta lưu ý một điều tối quan trọng. Đó là bọn ngươi phải kết thúc mọi chuyện trước khi trời sập tối rồi chạy lẹ tới chỗ hai con phi mã, quay về ngay. Nếu bọn ngươi để lão Ôkô Na bắt gặp, mọi chuyện coi như hỏng bét bè be.

Kăply ngó quanh:

- Lão ta hiện đang ở đâu hả thầy?

- Lão là loại người sống về đêm. – Thầy Akô Nô chép miệng – Cho đến chừng nào trời chưa tối hẳn, lão không đáng sợ với bọn ngươi đâu.

Thầy Akô Nô tự nhiên biến mất trong khi hai đứa trẻ còn bao nhiêu điều chưa kịp hỏi, y như thình lình độn thổ giữa chừng câu chuyện để làm người đối thoại cụt hứng là thói quen ưa thích của ông thầy trẻ con này.

* * *

Nguyên và Kăply cùng con Chacha giấu mình trong bụi rậm dưới chân đồi, thấp thỏm chong mắt nhìn về phía khu vườn táo. Ở trên cao, mặt trời uể oải nhích xuống từng nấc một như chẳng có việc gì đáng làm hơn là chọc cho bọn trẻ sốt ruột chơi.

- Tao chẳng hiểu tại sao chạy vòng tròn lại làm cho con rồng Ouroboros bất động? – Kăply hắng giọng, tin rằng tán gẫu là cách tốt nhất để đốt cháy thời gian.

- Tao cũng hổng biết. – Nguyên đăm chiêu, không quên dứt một lúc hai, ba sợi tóc – Nhưng tao nghĩ khi nói như vậy, thầy Akô Nô đã tính toán hết rồi.

Kăply lại băn khoăn:

- Nếu không thuận bên phải, con quái đó có thể không chộp được tụi mình, nhưng nếu nó nổi hứng phun lửa ra thì sao? Chắc tao và mày thành tro quá hà.

- Thầy Akô Nô không nói gì về chuyện này có nghĩa là con rồng Ouroboros sẽ không phun lửa.

- Hổng có con rồng nào là không phun lửa. – Kăply phản đối – Nhất là với một con rồng có nhiệm vụ canh giữ khu vườn đặc biệt này. Rồng mà không phun lửa chẳng khác nào chó mà không biết sủa.

Nguyên so vai, giọng không tự tin lắm, giống như nó đang thử cắt nghĩa xem tại sao con Ouroboros không xài tới lửa:

- Có thể chính vì vai trò quan trọng của những cây Đời mà rồng Ouroboros không dám phun lửa. Nó sợ sức nóng ảnh hưởng đến đời sống của vườn cây.

Nguyên nói thêm bằng giọng cao hơn:

- Hơn nữa, nó cần quái gì dùng tới lửa khi mà những móng chân cực độc của nó đã là thứ vũ khí hết sức ghê gớm rồi.

Kăply không hỏi nữa, nó thấy sự phân tích của Nguyên không thuyết phục lắm nhưng quả thực thì nó cũng không thấy cách giải thích nào khá hơn.

Kăply ngồi im, lắng nghe gió đi trong bụi cây, mắt nhìn đau đáu vào chỗ con rồng Ouroboros đang nằm bao quanh khu vườn táo, thử hình dung lát nữa con quái vùng dậy và rượt đuổi tụi nó như thế nào. Kăply càng tưởng tượng bụng càng thót lại, bất giác nó nhìn đăm đăm xuống hai cẳng chân mình, như thể nuôi dưỡng một hy vọng mơ hồ về một cặp cánh sẽ bất thần mọc ra ở chỗ nào đó cạnh đầu gối hay nhích xuống một chút về phía dưới, gần gót chân.

“Mọc ra!”, có lúc Kăply bắt gặp mình đang lẩm bẩm như thể đọc thần chú, và dĩ nhiên vì nó chưa học qua một câu thần chú nào như vậy nên chẳng có gì mọc ra ở dưới chân nó hết, và nó lại buồn phiền đưa mắt ngắm nghía bóng những chiếc lá nhọn in xuống đất thoạt dài thoạt ngắn do nhánh cây sau lưng nó đong đưa trong ánh nắng chiều.

- Gần đến giờ rồi!

Kăply giật bắn khi nghe tiếng Nguyên vang lên bên tai. Nó bừng tỉnh và lật đật quét mắt về phía khu vườn táo, phát hiện nhiều bóng đen đang nhảy nhót trên các cành cây và nếu nó không nhìn thấy thì những tiếng khọt khẹt văng vẳng trong gió cũng đủ cho nó biết bọn khỉ Manibum đã xuất hiện.

- Tụi mình phải làm gì đây? – Kăply hỏi, cố giữ giọng đừng run.

Nguyên đứng dậy, nói như ra lệnh:

- Phải đến gần con rồng Ouroboros hơn nữa. Con quái đó mà chưa ngóc đầu lên thì tụi mình hổng biết hiện nay cái đầu nào của nó đang thức.

Kăply gần như bị Nguyên lôi về phía trước, mặc dù nếu thằng bạn đại ca buông tay nó ra thì chắc chắn nó sẽ không bỏ chạy. Nó vẫn đi, chắc thế, nhưng có lẽ là đi từng bước rất ngắn, như kiểu di chuyển của người bị trói chặt hai chân.

Đầu rồng Ouroboros nằm ở mé phải khu vườn, Nguyên và Kăply chỉ nhận ra điều đó khi con quái bất thần ngóc đầu lên. Mặc dù nhận ra cái đầu bên trái đã ngủ, sự mừng rỡ đó vẫn không giúp hai đứa trẻ bớt run khi nhìn thấy vẻ dữ tợn của cái đầu còn lại.

Đó là một cái đầu lân với bờm sư tử. Cặp sừng ngắn, nhọn, cái trán dồ, đến đôi mắt tròn quay, to như lục lạc, cái mũi bự chảng, tiếp theo là cái miệng đang há rộng, đỏ lòm viền quanh bởi chòm râu vàng, dài thậm thượt, toàn bộ ngó giống như cái đầu của một quái nhân nghiện rượu, trông càng đáng sợ hơn với một cái đầu khác đang ngáy khò khò ở bên cạnh.

Con Ouroboros đứng vươn mình trên hai chân trước, kéo lên cả một khúc mình dài ở phía sau với những chiếc vảy trắng lóa như dát bạc và hai đứa trẻ điếng hồn thấy cả khu vực chung quanh kêu ầm ầm khi nó đứng dậy.

Con rồng quay đầu về phía Nguyên và Kăply, khịt khịt mũi, hơi thở của nó nóng đến mức hai đứa phải liếc mắt xem vạt áo trước ngực mình đã cháy thành tro hay chưa.

Kăply cảm thấy sự sợ hãi của mình phản chiếu trong ánh mắt của con rồng Ouroboros và điều đó càng làm nó hãi sợ hơn, đến mức gần như không đứng vững nổi. Nó thêm run vì nghĩ rằng con quái dường như cũng đọc được tâm trạng của nó.

- Nhớ chạy về bên trái…

Kăply nghe tiếng Nguyên thì thào bên tai. Nó chưa kịp hiểu ra tại sao thầy Akô Nô dặn tụi nó chạy về bên phải mà Nguyên lại kêu nó chạy qua bên trái thì con Ouroboros đã bắt đầu tấn công.

Khúc mình dài ngoằng và to lớn của con Ouroboros không hề là gánh nặng đối với nó. Nó chỉ quăng mình một cái là cái đầu dữ tợn đã ở cách bọn trẻ chừng hơn mười mét.

Hoàn toàn không nhận thức được mình đang làm gì, Kăply quýnh quáng lao người về phía tay phải và ngay lập tức nó bị Nguyên tóm tay kéo lại.

- Đồ ngu! Bên phải của nó tức là bên trái của mình!

Nguyên gầm gừ và lôi Kăply phóng ngược lại, vừa kịp thoát một cú chụp của con quái, mạnh đến mức đất cỏ bay tứ tung.

Kăply lúc này không biết hồn vía của mình ở đâu. Sự khiếp đảm khiến nó đáng lẽ phải nhanh nhẹn hơn bao giờ hết, lại đột nhiên trở nên mụ mị và chậm chạp như một con gấu vừa thức dậy sau kỳ ngủ đông. Nó máy móc chạy theo Nguyên, như bị cột chặt vào thằng này bằng dây cáp, chuyển động hoàn toàn theo quán tính.

Nguyên kéo Kăply chạy loanh quanh, khổ tâm vì không làm sao thu nhỏ vòng tròn lại trong một thời gian ngắn.

Ở phía sau, con rồng Ouroboros tiếp tục tung ra những cú chụp mãnh liệt bằng chân trước, suýt vồ trúng bọn trẻ mấy lần, trong chốc lát đã cày nát cả một vùng rộng, và khúc mình của nó theo đà rượt đuổi mỗi lúc một dài ra, đến khi Nguyên và Kăply bắt đầu chạy qua vòng thứ hai thì toàn bộ thân mình của con quái đã hiện ra hoàn toàn.

Nguyên và Kăply chạy bán sống bán chết, không dám nhìn thẳng vào con rồng khổng lồ, cũng không đủ thì giờ để quan sát xem con Chacha đã lẩn vào khu vườn táo hay chưa.

Nguyên vừa chạy, vừa né trái né phải, tay vẫn không dám buông Kăply ra. Mồ hôi dầm dề, chảy vô mắt cay xè nó cũng không dám lấy tay lau. Nếu con rồng Ouroboros thuận bên phải, có lẽ mình và Kăply đã bị chụp trúng cả chục lần rồi, Nguyên phập phồng nghĩ và cố thu vòng tròn nhỏ lại, mặc dù cho đến lúc này nó vẫn không hiểu tại sao thầy Akô Nô dặn dò như thế. Vòng tròn càng nhỏ có nghĩa tụi nó càng lúc càng bị con quái vây chặt, đến lúc đó chẳng cần vồ trúng, chỉ cần cuộn tụi nó vào giữa những khúc mình, ép mạnh một cái, con Ouroboros sẽ nghiến tụi nó thành bột một cách dễ dàng.

Đang hoang mang trước viễn ảnh u ám đó, Nguyên bỗng nghe vang lên một tiếng “sực”, cảm thấy bầu không khí chung quanh đột ngột lặng đi, những tiếng động điếc tai do những cú chụp và những cú quất đuôi của con rồng Ouroboros cũng tự nhiên im bặt, giống như một cuộn phim thình lình bị mất tiếng.

Nó đánh mắt ra bốn phía, mừng rỡ thấy con rồng Ouroboros đã đứng sững từ hồi nào, móng chân phải đang cắm phập vào khúc đuôi, từ chỗ đó máu đang tuôn ra từng giọt.

- Hay quá! Chạy mau!

Nguyên reo lên, và hấp tấp kéo Kăply len qua những khoảng trống chật hẹp giữa những khoanh mình đồ sộ của con Ouroboros, chạy ra ngoài.

Đến khi cả hai chạy được một đỗi xa, đôi môi Kăply mới bắt đầu tìm lại được cảm giác:

- Chuyện gì thế mày?

- Con quái đã chụp trúng chính nó. – Nguyên hổn hển giải thích – Theo như những gì thầy Akô Nô nói thì có lẽ nọc độc của nó đã làm cho nó bị tê liệt trong một lúc.

Kăply ngoái đầu ra sau, lo lắng:

- Thế con Chacha đâu?

- Yên tâm đi! Con khỉ đó còn thông minh, tinh quái gấp mấy lần mình.

Nguyên vừa đáp vừa đánh liều lao vào giữa những bụi cây lá nhọn dưới chân đồi, sung sướng khi thấy chúng tách ra hai bên chừa lối cho tụi nó.

Kăply khâm phục:

- Mày học thần chú này từ hồi nào thế?

- Tao có biết cóc gì đâu. Chắc là thầy Akô Nô đã phù phép sẵn rồi.

Đang nói, Nguyên chợt nghiêm giọng:

- Đừng hỏi nữa. Chạy lẹ đi. Trời bắt đầu tối rồi.

Kăply rùng mình một cái rồi nín thinh, lầm lũi chạy. Nó biết Nguyên đang nghĩ đến lão Ôkô Na. Kăply chưa nhìn thấy lão Ôkô Na bao giờ nhưng qua những gì Nguyên kể, nó vẫn có thể hình dung được lão phù thủy đó nham hiểm và độc ác như thế nào. Tối hôm qua, nếu Nguyên không kịp chạy đến chỗ hai con ngựa bay của họa sĩ Yan Dran, bây giờ chắc chiếc lá bổn mạng của thằng K’Brăk trong khu vườn táo đã rụng mất rồi. Chiếc lá ghi tên K’Brăk nhưng người chết lại là Nguyên!

Ý nghĩ đó như một cây gai nhọn ghim vào ngực Kăply, làm ruột gan nó muốn tan ra và nó mím chặt môi, cố rảo bước nhanh hơn.

* * *

Khi Nguyên và Kăply băng hết cánh đồng hoa, trời đã tối mịt, bóng đêm loang ra rất nhanh như có một con bạch tuộc khổng lồ đang nấp đằng sau những đám mây không ngừng phun mực xuống. Dưới ánh sao mờ, tụi nó thở phào thấy con khỉ Chacha đang ngồi thù lù một đống trên lưng con phi mã.

Không kịp hỏi đến những quả táo vàng, hai đứa vội vàng trèo lên con ngựa thứ hai, lần này thì Nguyên và Kăply ngồi chung với nhau.

Ngay lập tức, hai con phi mã hí lên một tràng dài và cất bổng bốn vó. Nguyên ngoái đầu nhìn xuống, không thấy con rồng Ouroboros đâu, ngay cả thầy Akô Nô và lão Ôkô Na cũng không thấy xuất hiện. Thế còn Bạch kỳ lân và Hắc tinh tinh, bọn họ đang ở đâu há?

Như hôm trước, Nguyên sợ hãi phát hiện con phi mã đang bắt đầu phóng giật cục. Giống như bị một con đê chắn ngang đầu, Nguyên không còn nghĩ ngợi gì được nữa, hai tay bám chặt lấy bờm ngựa trong khi ở phía sau Kăply đang xanh mặt ôm cứng lấy hông nó. Và đến lúc con phi mã chuyển qua kiểu xoay vòng tròn thì cả Nguyên lẫn Kăply đều nhắm tịt mắt.

- Đừng lo. Cứ ôm tao chặt vào!

Nguyên trấn an Kăply bằng giọng lập bập và bị gió đánh bạt đi nên rất khó nghe, nhưng chỉ cần cảm nhận được hơi ấm truyền sang từ tấm lưng rắn chắc của bạn, Kăply vẫn hiểu hết và vòng tay của nó càng siết chặt hơn.

Không biết trải qua bao lâu, tốc độ xoay của con phi mã dần dần chậm lại, như động cơ đến hồi cạn xăng. Kăply hoàn hồn nhận ra nó vẫn chưa rớt khỏi lưng ngựa và nhất là đầu nó vẫn chưa văng khỏi cổ. Nó sung sướng ngúc ngoắc đầu, và nói:

- Ghê quá!

- Lúc đến đây cũng vậy. – Nguyên thở hắt ra – Đến và đi khỏi núi Lưng Chừng đều phải trải qua những thử thách khủng khiếp này. Có lẽ đó là một kiểu mê lộ…

Kăply xuýt xoa:

- Tao không hiểu chuyện gì sẽ xảy ra nếu tụi mình không ngồi vững trên lưng ngựa…

Nói chưa dứt câu, Kăply bỗng rú lên thất thanh, và Nguyên điếng hồn, trái tim như ngừng đập khi thấy con Chacha không hiểu nhảy nhót như thế nào mà rớt khỏi lưng con ngựa bay phía trước, lao vùn vụt xuống đất như một mảnh thiên thạch.

Trong khi Nguyên và Kăply còn chưa thoát khỏi nỗi bàng hoàng kinh sợ, con phi mã đã phản ứng rất thần tốc: nó gần như để tự mình rơi xuống và vì con ngựa to gấp mấy chục lần con Chacha nên tốc độ rơi của nó ghê gớm hơn rất nhiều.

Nguyên và Kăply ngoái đầu nhìn xuống nhưng trong thoáng mắt đã không thấy Chacha lẫn con ngựa đâu nữa, cả hai đã hoàn toàn chìm lẫn vào mây mù. Lúc này Nguyên và Kăply không có ao ước nào cháy bỏng hơn là hạ thấp xuống để xem con ngựa kia có cứu được Chacha hay không nhưng con phi mã chở tụi nó dường như chẳng thèm quan tâm đến chuyện vừa xảy ra, vẫn thản nhiên bay tà tà về phía trước.

Đến khi nó luồn qua một, hai rồi năm, sáu đám mây và hạ dần độ cao thì Nguyên và Kăply mới thở ra nhẹ nhõm khi thấy con phi mã khi nãy đang bay lững lờ trước mặt và trên lưng nó con Chacha đang nằm bẹp, hai tay níu chặt túm lông bờm, và vì Chacha là một con khỉ tinh nghịch nên bộ dạng chết nhát của nó lúc này trông thiệt là kỳ cục.

Từ trên cao, từng phút một, Nguyên và Kăply trông thấy những ngọn đồi thấp hiện dần ra trong tầm mắt và khi màu tím của hoa sim và những mái nhà tròn như bát úp nổi rõ lên giữa đám lá xanh thì phải nói là hai đứa thấy hồi hộp hết sức.

Êmê, Mua, Păng Ting, Suku, K’Tub, Bolobala, Kan Tô, Tam, Yan Jik và cả lão quản gia Imđi túa hết ra ngoài sân khi hai con phi mã vừa chạm đất.

Trừ lão Imđi và Yan Jik, cả đám lao như bay về phía Nguyên và Kăply và cùng reo lên một tiếng gì đó nghe như tiếng “a” bị kéo dãn:

- Aaaaa… aaaa… aaa… aa… a… a… a… a…

Bây giờ thì bọn trẻ không buồn tò mò xem hai con phi mã chui vào lại trong bức tranh như thế nào nữa, đứa nào đứa nấy tíu tít thi nhau rờ chân nắm tay hai nhà thám hiểm, với lo lắng rằng những kẻ vừa trở về từ hòn núi huyền thoại kia nếu không mất miếng thịt nào thì chắc là phải tróc vài miếng da.

Mua lao vào vòng tay Kăply như một hòn đạn, không còn biết mắc cỡ là gì nữa, khóc lên rưng rức:

- Hu hu… K’Brêt, thế là bạn đã sống lại… hu hu…

Kăply đỏ bừng mặt, nhưng nó cũng biết đẩy Mua ra trong lúc này là một hành động cực kỳ ngu ngốc. Hơn nữa, lòng nó cũng đang mềm nhũn, thậm chí nó đang nghĩ giá như mỗi ngày nó có thể chết đi sống lại vài chục lần thì hay biết mấy.

Kăply trân mình chịu trận, bối rối và sung sướng, cùng một lúc.

K’Tub chắc cũng rất muốn ôm lấy Kăply nhưng đã bị Mua nhanh tay giành mất. Nó vòng ra phía sau, đấm thùm thụp vào lưng ông anh, miệng mếu xệch:

- Anh K’Brêt! Anh K’Brêt!

Kăply ngượng ngùng khi bao nhiêu cặp mắt đang dồn vào nó, cảm giác như nó nếu không dính lọ nồi trên mặt thì cũng mọc thừa ra một cái tai nhưng lạ lùng là nó bắt gặp mình đang muốn trải qua cảm giác đó càng lâu càng tốt.

Ở bên cạnh, như thi đua với Mua, Êmê cũng đang bám cứng lấy Nguyên, chôn sống thằng này trong vòng tay của nó và ngước chiếc mũi hếch lúc này đang xì nước ra tùm lum vào mặt Nguyên, vừa khóc vừa cười:

- Anh đã trở về rồi… hic hic… may quá… hic hic…

Một lát sau, vừa thở vừa giãy giụa và hổn hển đáp những câu hỏi không đầu không đuôi của lũ bạn, Nguyên và Kăply đã thấy tụi nó ở trong căn nhà của họa sĩ Yan Dran mà thiệt tình thì hai đứa cũng không nhớ tụi nó đã di chuyển bằng cách nào để vào tới đây.

- Chúc mừng tụi con thắng lợi trở về. – Họa sĩ Yan Dran ngồi trên chiếc ghế quen thuộc, cười nói khi nhìn thấy bộ mặt đỏ lơ đỏ lưỡng của Nguyên và Kăply. Ông vừa cất tiếng vừa vung cây gươm ngắn như thể giơ tay chào.

- Thắng lợi hả thầy? – Nguyên ngơ ngác, bây giờ nó mới nhớ ra nó chưa kịp kiểm tra xem con Chacha có bắt được quả táo nào không – Thiệt ra tụi con vẫn chưa nhìn thấy những quả táo vàng, thầy ơi.

Tất cả những người có mặt trong nhà lập tức đứng phắt dậy như chiếc ghế dưới mông thình lình phát hỏa.

- Trời đất ơi! Con vừa nói gì, K’Brăk? – Họa sĩ Yan Dran cào tay lên đầu như muốn làm cho mái tóc bù xù của ông giống tổ quạ hơn nữa – Tại sao lại như thế được?

Ông rũ người xuống như một miếng cao su, giọng ỉu xìu, hoàn toàn mất hết hơi sức:

- Những con ngựa bay của ta đưa tụi con tới núi Lưng Chừng là để hái táo chứ đâu phải để đi du lịch hả?

Nguyên bối rối đáp, không được tự tin lắm:

- Không phải thế, thưa thầy. Những quả táo vàng có lẽ… đang nằm trong tay con Chacha.

- Chacha, mày trốn đâu rồi, con ranh? – Suku đánh mắt ra cửa, hét ầm – Có đưa những quả táo ra đây không!

Từ trên mái nhà, một cái đầu thò xuống. Con Chacha kêu khèng khẹc, đưa tay gãi đầu sồn sột rồi vung mạnh một cái, hai quả táo vàng bay vù vào trong nhà, rớt ngay dưới chân Nguyên và Kăply.

- Đây rồi, hay quá!

Nguyên reo lên. Nhưng khi nó cúi xuống định nhặt lấy thì một cánh tay khẳng khiu và nhợt nhạt bất thình lình mọc lên từ dưới nền nhà, nhanh nhẹn quơ lấy hai quả táo rồi lặn nhanh như chớp.

- Baltalon!

Cả đống cái miệng ré lên. Nguyên bất ngờ đến líu cả lưỡi, muốn hét lên nhưng âm thanh không bật ra được, tiếng nói của nó hoàn toàn đã tuột khỏi miệng.

Họa sĩ Yan Dran cũng kinh ngạc đến nhảy dựng. Ông ném cho bọn trẻ một cái nhìn sửng sốt:

- Cái gì thế? Chẳng phải Baltalon đã chết rồi sao?

- Hắn chết rồi, thưa thầy. – Nguyên khó khăn nói, mắt nó tối đi từng giây – Nhưng một cánh tay của hắn vẫn còn sống.

- Là cánh tay vừa rồi hả con? – Lão Imđi há hốc miệng, khuôn mặt ngựa của lão như vừa bị ai kéo dãn.

- Ta hiểu rồi. – Yan Dran thở phì một tiếng – Ta quên là Baltalon đã luyện thành công thần chú Phân thân.

Nguyên sụm người xuống ghế, nhìn bộ dạng của nó tưởng như nó sắp lăn ra xỉu tới nơi:

- Thế này thì làm sao tụi con dám quay về trường Đămri…

Suku lướt mắt qua những khuôn mặt đưa đám của tụi bạn, tỉnh khô nói:

- Đừng lo, anh K’Brăk. Em sẽ lấy lại những quả táo vàng cho tụi anh.

- Em vừa nói gì? – Kăply quay phắt sang thằng oắt, kích động tuôn một tràng – Em sẽ lấy lại giùm tụi anh? Chừng nào hở Suku?

- Ngay bây giờ, anh K’Brêt.

Bất chấp ánh mắt nghi ngờ của mọi người đang xoáy vào mình, Suku đáp chắc nịch, y như đó là chuyện quá sức nhỏ nhặt và ngày nào nó cũng làm vài chục lần.

Nói xong, Suku chúm môi huýt sáo một tiếng, rất giống cái cách anh em thằng Pôcô Pôca gọi hai con linh xà.

Gần như ngay lập tức, cánh tay gớm ghiếc của Baltalon trồi lên ngay chỗ Suku đứng, những ngón quắt queo vẫn đang nắm chặt hai quả táo lúc nãy.

Trước vẻ mặt thuỗn ra của tụi bạn, Suku thản nhiên đón lấy hai quả táo vàng đưa qua cho Nguyên và Kăply, miệng cười hì hì:

- Nhớ cất kỹ à nha.

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top

Tags: