lac duong nu nhi hanh chap0-24
L ời người dịch: tại hạ Ma Khong Quan dành tặng bộ truyện LẠC DƯƠNG NỮ NHI HÀNH cho riêng các huynh đệ tỷ muội Nhạn Môn Quan và chỉ đồng ý cho đăng ở website http://www.nhanmonquan.com mà thôi.
LẠC DƯƠNG NỮ NHI HÀNH
tác giả: Tiểu Đoạn phiên dịch: Ma Khong Quan
Tựa
M ột thớt ngựa đen đang buộc bên tường thành đá giả màu cam sẫm. Từ làn hơi mỏng phì nhẹ khỏi cái mũi khục khịch của con ngựa, kẻ từng trải có thể cảm nhận được: mùa xuân đã đến.
R ời tường thành đến một trường đình liễu khô kề cận, cỏ non mới nhú khỏi mặt đất ngoài đình, từng mảng từng mảng lấm tấm xanh phảng phất để ngửi chứ không phải để nhìn. Người trong đình tay cầm roi ngựa, ngồi lưỡng lự --- Có tiến vào thành không? Hay là không nên vào? --- Lòng gã đắn đo day dứt, cân đi nhắc lại.
Ngoài đình là Lạc Dương thành hùng cứ Quan Đông. Tường thành nghe nói năm xưa dùng nếp giã nát lấy nhựa trộn với đất sét xây đắp hết sức tinh tế kỹ lưỡng, mới kiên cố sâu dày được đến thế. Người nọ lặng im nhìn bầu trời bên trên tường thành, từ lúc rạng đông mới ló dạng đến khi ánh nắng đã ngả màu lụa sống, từ khi ban mai nhả làn hơi nhàn nhạt đến lúc mây đùn vạn dặm, mặt trời lặn chìm, khói nến bốc dâng, chín cửa thành chuẩn bị đóng lại sau một tràng tiếng thanh la hiệu lệnh của quan tuần thủ...
Ng ười nọ còn đang bối rối bẻ vặn ngón tay: thành trì này... tiến vào... hay là không? Gã đã ngồi trong trường đình ba ngày, con ngựa đã mấy lượt bực bội dẫm vó: chắc nó không quen thấy chủ nhân tĩnh tọa lâu lắc đến thế. Cũng chỉ có thanh trường kiếm treo xéo mé trái yên ngựa mới biết: bàn tay siết chuôi của nó... vốn là một bàn tay kiên định cố chấp đến dường nào.
Quyển I: Ban Chuy đợi1 Chương 1
Thiên Tân kiều thượng vô nhân thức2
Con sông L ạc Hà xuyên ngang qua Lạc Dương thành, chia tòa thành làm hai mảnh trên bắc dưới nam. Nền móng của Cung thành3 và Hoàng thành4đều nằm ở bờ bắc, bờ nam là nơi lão bá tánh cư ngụ --- Ngoại Quách thành5.
Ng ồi ở dải "Đồng phường" bờ nam Lạc Thủy trông về hướng bắc là điều rất thú vị. Đình viện uy nghi, lầu son gác tía, đâu có khác gì là cung điện thần tiên đối với lão bá tánh bờ nam cật lực gian khó kiếm miếng ăn.
N ối liền hai thành trì nam bắc đó chính là Thiên Tân kiều, lấy ý "Thiên hà tân lương6"
--- Lạc Dương thành là đô thành cũ của chín triều, cũng xứng với bốn chữ đó lắm. Cố sự đang được thuật lại xảy ra chính vào lúc hoàng hôn, không gian bên trên Lạc Dương thành như kéo phủ một lớp cát vàng hừng hực, trùm lên mình từ kẻ khuân vác, cưỡi lừa, khiêng kiệu, cho đến người bán hoa, rao hàng. Hoàng hôn luôn sở hữu một thứ không khí yên bình hòa dịu có thể phủ dụ lòng người.
M ột người miền xa đang dựa lan can mé đông Thiên Tân kiều, mắt nhìn hình bóng bầu trời và nhà cửa trong dòng nước thu, đứng đó đã lâu lắm rồi. Gã mới vào thành giữa trưa hôm nay, mặt mày trầm tư thảm đạm ngồi ở Đồng phường bờ nam dõi trông bờ bắc cũng cả một buổi trưa rồi mới lên Thiên Tân kiều đứng thừ ra.
--- Trên Thiên Tân kiều chẳng ai quen biết.
L ạc Dương rộng lớn đến thế, Thiên Tân kiều nhiệt náo đến thế, lại không có ai quen biết gã.
Người đó có gương mặt điển hình của miền Quan Trung, cỡ hăm mốt hăm hai, cho dù không thể gọi là anh tuấn, nhưng đường nét rạch ròi cân xứng vô cùng. Thân người gã cao ráo, mày mi rũ xuống rất thấp, bên dưới là một đôi mắt một mí, da mặt một màu vàng lợt trơn mịn. Cái mũi của gã rất có chất đàn ông, chỉ vì cái mũi đó, biết bao thiếu phụ thiếu nữ đi ngang qua đều không khỏi liếc nhìn gã hai lượt. Mũi cao dọc dừa làm người ta nghĩ gã chắc rất kiêu ngạo, tuy y phục và thần tình của gã lại có vẻ bơ vơ lạc lõng.
"Keng keng keng", mấy tiếng thanh la lọt vào tai mọi người. Tiếng ồn ào huyên náo trên Thiên Tân kiều liền bị tiếng thanh la sắc nhọn đè ép. Chỉ một lát sau, người ta lại nói cười rền rĩ, có điều tự động dạt qua hai bên nhường đường. Cũng đâu có gì lạ, chỉ bất quá là cảnh tượng mỗi hoàng hôn: Lạc Dương Phủ Doãn về nha môn sau khi tuần thành. Phải nói quan Doãn trong thành Lạc Dương là một vị trí khá lôi thôi khó phân giải cho rõ, không lớn mà cũng chẳng nhỏ. Nói lớn thì chả lớn, Lạc Dương thành là Đông đô, quan quyền đầy dẫy, cấp quan lớn hơn nó có rất nhiều; nhưng nói nhỏ cũng chẳng nhỏ, nói gì thì nói, chuyện kiểm kê nhà cửa nhân khẩu, chuyện đường lớn ngõ nhỏ, chuyện giữ trị an tập nã tội phạm đều là chuyện chức quan này lo. Nhậm chức quan Doãn ở Lạc Dương hiện nay là một vị họ Vu, tên Tự Vọng, nghe nói từng là lưỡng bảng tiến sĩ. Nhưng lão bá tánh trong thành không một ai quen biết ông ta, điều duy nhất khiến cho người ta nảy sinh cảm xúc thân cận với ông ta là: văn võ toàn thành hầu như chỉ có quan nha của ông ta là ở Ngoại Quách thành.
Gã người miền xa dựa lan can cầu ngoái đầu lại. Đây là lần đầu tiên gã vào Lạc Dương, cho nên khá hiếu kỳ đối với mọi sự trong tòa thành thị này. Phủ Doãn ngồi trên kiệu bốn người khiêng, đám hộ vệ nha dịch cộng lại cũng chỉ cỡ mười mấy mạng. Kẻ đi đoạn hậu tuy ăn vận kiểu nha dịch, nhưng khí độ lại bất đồng với người xung quanh. Thân người hắn cao lớn hơn hẳn, vai rộng ngực nở, râu xồm đen tuyền, mình khoác áo bào màu lụa đào. Màu áo cùng trang phục kiểu nha dịch có vẻ là loại đặc chế cho triều đình đương kim --- màu áo bào lụa đào là màu quan viên có phẩm hàm mới có thể mặc, đâu cho phép bình dân hay quan lại cấp thấp dùng tới.
Người miền xa kia không tránh khỏi ngạc nhiên, lại thấy gã nha dịch đó dưới hông giắt một thanh Hậu bối đao rất xứng với thân người của hắn. Thanh đao đó nếu giắt trên mình người nào khác tất có vẻ khoa trương thái quá, nhưng trên mình gã nha dịch đó lại hiển hiện vẻ uy vũ khí khái.
Người miền xa nhìn hắn thực kỹ. Nếu không phải gã mới lần đầu tới Lạc Dương thành thì nhất định đã nhận ra kẻ đó. Hắn đâu phải là nha dịch tầm thường, mà là Cửu thành Thất phẩm đái đao tuần bộ lừng lẫy tiếng tăm trong Lạc Dương thành, "Hậu Bối Đao" Hậu Kiện. Hàm Thất phẩm đó vốn là do Hoàng đế đích thân phong tặng.
Hậu Kiện đi đứng trầm ổn vững chãi, người miền xa kia gật gật đầu, trong bụng cũng thầm khen. Cỗ kiệu lúc đó đang đi ngang qua trước người gã, gã thấp thoáng nghe được tiếng thở hơi nặng nề trong kiệu, tựa hồ người trong kiệu hít thở khá gian nan. Người miền xa nhíu nhíu mày --- Thanh âm đó rất khẽ, trên cầu huyên náo như vầy, ngoại trừ gã ra, e rằng không ai khác có thể nghe được. Người miền xa vừa ngoái đầu, bỗng thấy nha dịch đeo đao kia không biết từ lúc nào đã đứng sựng lại không xa phía sau đội người, đang nhìn mình chăm chú.
Gã vốn đâu có muốn bị đám đông giữa đường cái để ý dòm ngó, nên giả như không chú ý, quay đầu trông mặt trời lặn. Tuy đã xoay mặt đi, vẫn cảm thấy mục quang của bộ khoái mang đao kia còn đang dán chặt trên lưng mình, lòng có hơi bực bội: cứ bị hắn dòm chằm chặp như vầy, người trên cầu thế nào cũng sẽ để ý. Gã đứng thẳng dậy, uể oải ưỡn cổ, rồi thuận theo phương hướng cỗ kiệu đi tới hai bước.
Biến cố xảy ra ngay lúc đó.
Trên Thiên Tân kiều và hai bờ nam bắc lúc này cũng có cả trăm cả ngàn người, nhưng sợ rằng không một ai nảy ý cảnh giác mau mắn bằng gã! Gã không không biết tại sao lại giật mình, mắt bỗng sáng ngời, vụt ngước đầu lên, hoàn toàn tương phản với vẻ mệt mỏi lười nhác hồi nãy. Đôi mắt một mí như vọt ra một luồng tinh quang, trân trân nhìn một nữ tử đang bán lược ở đầu cầu phía nam. Nữ tử đó cúi thấp đầu, ngồi xổm dưới đất, mặc y phục cực kỳ tầm thường, giỏ trong tay đựng mấy cây lược sừng lược gỗ.
Giây phút cỗ kiệu đi ngang qua chỗ nàng ta, nàng ta đột nhiên bật dậy xoay mình xuất thủ, mười mấy cây lược trong giỏ vùn vụt đổ ập lên mặt đám nha dịch. Cử động của nàng ta làm cho người miền xa cũng không khỏi thầm khen một tiếng: lực eo mạnh ghê! Lúc nàng ta xoay mình, tả thủ lại rút một thanh đoản đao khỏi ống tay áo, đao dài chừng một thước. Dân chúng cùng đám nha dịch vừa cảm thấy mắt lóa ánh mặt trời phản xạ lên mình đoản đao, nữ tử kia đã lướt đến trước rèm cửa kiệu, quát lên: "Gian tặc, nạp mạng đi!".
Nói xong hữu thủ vén rèm kiệu, tả thủ lại hươi đao vung tới. Người miền xa đứng đằng sau kiệu, không thấy rõ tình hình trong kiệu, chỉ thấy một vùng máu tươi bắn vọt ra, có vài giọt tưới lên dung mạo trông có vẻ rất bình thường của nữ tử. Nữ tử cũng đâu có ngờ đắc thủ dễ dàng như vậy, hơi ngây người, liền thò tay chộp vào trong rèm kiệu, lôi ra một cái đầu người trước sự kinh hoàng của chúng nhân.
Tới lúc này bộ khoái mang đao kia mới có phản ứng. Hắn nếu không phải bị người miền xa thu tóm tâm tư thì phản ứng đâu chậm đến thế. Chỉ nghe hắn quát lớn một tiếng, lao thẳng về phía nữ tử. Nữ tử hình như mỉm cười, xách đầu lùi đến bên lan can cầu, rồi bàn tay cầm đao của nàng ta ấn lên lan can, búng mình lên. Lúc đó nàng ngoái đầu lại nhìn, thần tình nửa buồn nửa vui, liếc "Hậu Bối Đao" Hậu Kiện đang lao tới rồi nắm đầu người nhảy vù xuống cầu.
Tiếng nước bõm truyền vọng, Hậu Kiện đã đuổi đến bên lan can cầu, bàn tay to của hắn cũng ấn lên lan can, lật mình nhảy xuống. Lúc tiếng "bõm" thứ nhì vang lên, người từ trên tới dưới cầu mới bắt đầu hò la hoảng loạn. Đám nha dịch và kiệu phu kinh hãi đến nỗi buông kiệu đánh sầm, bàng hoàng nhìn máu chảy ra từ trong kiệu. Người trên cầu ùn ùn tràn về mé đông cầu, theo dõi cuộc đuổi bắt dưới nước. Nữ tử bơi nhanh ghê, miệng ngậm đoản đao, một tay nắm đầu lâu, một tay rẽ nước, lướt về phía trước lẹ không thua gì cá. Đầu người để lại một đường máu dọc theo dòng nước.
Hậu Kiện tuy võ công cực cao, xuống nước lại không linh hoạt bằng nữ tử kia chút nào. Nhưng hắn hơn ở sức lực, cứ mỗi lần rẽ nước là thân thể vọt lên xa hơn. Chúng nhân trên cầu bàn tán xôn xao, hai người dưới nước lại đã thuận theo dòng chảy dần dần bơi đi xa. Người miền xa dõi theo dòng nước một hồi rồi đưa mắt nhìn lên trời. Ánh tàn dương đỏ như máu, rải chiếu lên mình lão bá tánh trong Lạc Dương thành, rắc nhuộm lên cuộc truy đuổi đâm chém dưới nước, cũng rọi soi mọi nhân và quả của cuộc rượt bắt giết chóc trải mình đến tương lai, bộc lộ bộ mặt hỗn loạn của tòa thành thị một màu cam sẫm đó.
Hai bóng người dưới nước nhỏ dần, chúng nhân trên cầu miệng lưỡi lại rầm rộ huyên náo. Người miền xa kia thở dài, nhìn Lạc Hà một lần nữa rồi bỏ đi. Dòng nước từng bị hai người toàn lực khuấy động chỉ còn loáng thoáng gợn sóng dưới ánh chiều tàn. o0o
Phía nam Thiên Tân kiều có một tòa tửu lâu nổi tiếng, tên là "Đổng gia Tửu lâu". Đằng sau tửu lâu lại là một hẻm nhỏ sụp lở, giữa hẻm đang có mấy đứa bé đùa nghịch ầm ĩ.
"Phụp" một tiếng, một bàn tay đen đúa nhỏ nhắn ra sức mở một cái bát lớn làm bằng sứ in hình hoa xanh, mười mấy cặp mắt vây quanh bát liền nhất tề rọi vào. Trong bát là một tô thịt hầm vàng rộm, có mấy hài tử nhịn không được, nước dãi chảy ròng ròng. Đứa bé mập mạp vừa bưng bát đến cười híp mắt nói: "Tiểu Kế, chuyến này ta đã mạo hiểm trộm thịt hầm măng của cha ta mang đến cho ngươi. Ngươi phải mau mau kể tiếp cố sự 'Lạc Du nguyên, Sách Kiếm kết minh7' đó".
Thằng bé nó kêu là Tiểu Kế ước khoảng mười ba mười bốn tuổi. Nửa mặt bên trái của nó có một cái bớt xanh nhạt. Nếu không có cái bớt đó, nó vốn phải là một hài tử diện mạo rất đẹp mã. Cho dù thân mình nhỏ nhắn, quần áo rách rưới chỉ kém một đứa tên Hoa Nhi trong đám, nhưng đám con nít lại vây tròn để nó ở giữa. Nó thò hai ngón tay kẹp một cục thịt hầm cho vào miệng, mấy đứa bé bên cạnh cổ họng nhích động, ngấm ngầm nuốt nước dãi.
Thì ra Tiểu Kế vốn họ Vu, là cháu họ ngoại của ông Hà thợ mộc nhà ở con đường đằng sau Đồng phường. Nó mồ côi từ bé, nhờ có người cậu bà con xa lắc xa lơ đó nuôi lớn. Đừng thấy nó nhỏ mà coi khinh, thủ đoạn của nó ghê gớm lắm. Đám con nít một dải Đồng phường năm đường mười hẻm không ai không phục nó, tôn nó làm 'Hài tử vương' của nguyên khu vực này. Khiến cho bọn trẻ bội phục nhất là Tiểu Kế từ nhỏ từng trải nhiều ly loạn cho nên rành rọt chuyện lạ đó đây. Mấy năm trước nó còn làm tiểu đồng theo ông thầy thuốc Quách thúc thúc viễn hành một chuyến, lúc về bụng chứa thêm gấp mười lần cố sự quỷ quái mới lạ. Vì vậy, sau khi theo nó đánh đấm quậy phá, đám hài tử thích nhất là bám lấy nó để nghe nó kể chuyện xưa. Ông cụ non lại theo bài bản của mấy tiên sinh kể chuyện nói sách, nào chịu mở miệng dễ dàng. Hai ngày trước nó làm như vô ý lỡ miệng kể một đoạn cố sự "Lạc Du nguyên, Sách Kiếm song lữ", mới vài câu đã làm đám trẻ mê mệt, đứa nào cũng chống cằm mơ mộng, về nhà ăn cơm vẫn nhe nanh múa vuốt kể lại truyền thuyết "Thái Bạch kiếm khách" Hàn Ngạc với "Sách nữ" Phương Ninh cho đám đệ đệ và muội muội của mình nghe --- Cặp Quan Trung hiệp lữ đó kẻ sách người kiếm, vó câu sánh vai, tung hoành vô địch, làm sao cả phá một dọc ba mươi hai trại cướp đường bộ lẫn thủy lộ ở Quan Trung, còn ba hoa trường kiếm "Trường Canh" và đoản kiếm "Hàm Thanh" của Hàn Ngạc nặng nhẹ ra sao, đắt giá đến đâu, lợi hại thế nào
-- cố gây cho đám đệ đệ muội muội ai ai cũng ngơ ngẩn sợ sệt để làm vui. Chẳng trách hôm nay Lý Bảo con trai của Lý Nhị chưởng quỹ Đổng gia Tửu lâu mới qua mặt cha lén bưng một tô thịt hầm măng còn nghi ngút trên bếp lò dâng cho Vu Tiểu Kế một cách hiếu kính, mua chuộc nó kể tiếp cố sự chưa thuật hết đó. Vu Tiểu Kế ăn xong hơn nửa bát thịt, mút ngón tay sạch sẽ, lại vô cùng trượng nghĩa đem gần phân nửa tô còn lại đưa cho một tiểu tử cao gầy sau lưng: "Đại Chinh, muội muội của ngươi đang bị bệnh phải không? Nửa tô thịt này một lát mang về cho muội muội của ngươi đi, cho nó nếm thử xem". Sau đó nó chùi tay lên vạt áo, hỏi: "Lần trước ta kể tới đâu rồi?".
o0o
Đường hẻm hẻo lánh đó ở mặt sau Đổng gia Tửu lâu, lúc này đứng dưới hẻm nhìn lên tửu lâu sẽ thấy có một khách nhân đang ngồi trên đó. Vốn những chỗ ngồi nhàn nhã trên lầu hễ mở cửa sổ là đối diện địa giới phồn vinh của Lạc Hà, còn chỗ quay ra hẻm sau lại vắng lạnh tiêu điều. Vị khách nhân kia chính là người miền xa hồi nãy im lặng đứng thực lâu trên Thiên Tân kiều. Thấy quần áo gã cũ kỹ, tiểu nhị đâu thèm săn đón gã, mới đẩy gã vào chỗ ngồi nhìn xuống hẻm nhỏ sau lưng. Gã lại không để ý chút nào, đang nhấm nháp một vò "Bạch Đọa Xuân Lao8", tâm tư lại không hòa cùng rượu, nhấp từng ngụm chậm rãi.
Rượu ủ cất gia truyền nhà Lưu Bạch Đọa ở Lạc Dương đương thời có thể nói là nức tiếng hai đô thành, nhưng mỹ tửu đó rót vào miệng người miền xa lại có vẻ nhạt nhẽo hoàn toàn vô vị. Gã nhìn chén rượu trước mặt, đáy chén như dâng hiện dung nhan của một nàng con gái. Nàng con gái đó má bên phải có một nốt ruồi nhỏ, kỳ xảo đúng chỗ làm tăng thêm mấy phần dị khí đả phá sự cân bằng hài hòa trên gương mặt nàng. Lần đầu tương phùng, cũng là khi sương thu đầu mùa đọng mình trên thảm cỏ Lạc Du nguyên phải không? Khi đó gã đâu có ngờ mình lại động lòng đối với một cô gái --- Từ nhỏ tới lớn, gã luôn luôn ơ hờ má phấn mày ngài. Nàng con gái đó bình thời thích đội nón tre, dưới vành nón buông hờ vải sa trắng tinh che đến mũi. Lúc nói chuyện, chỉ thấy được đôi môi hồng khe khẽ mấp máy giữa cỏ sương trắng ngọn cùng mặt trời đỏ lạnh. Gã nhớ những làn hơi trắng mong manh thoát khỏi miệng nàng, vẩn vơ ấm dịu giữa gã và nàng như màn lụa mỏng che mặt kia. Trang phục của nàng bộc lộ thân thế quyền quý, nhưng cử chỉ của nàng lại không câu thúc e dè mình là con cháu danh môn khuê tú. Nghĩ đến đó, người miền xa không khỏi mỉm cười --- Trong tay áo nàng có giấu một dải phi sách. Cho dù dũng mãnh như gã vẫn không thể không thừa nhận công phu sai sử phi sách của nàng toàn vùng Quan Trung ít ai bì được.
Bao nhiêu năm rồi? --- Người miền xa tự hỏi mình. Gã bấm ngón tay thon dài khỏe mạnh nhẩm tính, cũng sắp ba năm rồi. Gã nhớ ban sơ tuổi niên thiếu nóng nảy tức khí đã giật mảnh sa trắng trên mặt nàng xuống. Thần tình của nàng lúc đó không chút hoảng loạn, chẳng chút giận dữ, chỉ có hơi ngạc nhiên. Gặp nhau ngẫu nhiên làm sao, kết bạn mau chóng làm sao. Mới ba ngày sau, nàng đã tựa sát trong vòng tay gã ở một nhà trọ nhỏ hoang lương. Tính tình của nàng xem có vẻ bình hòa, nhưng lại khó nắm bắt vô cùng. Lúc gần thì da thịt cận kề, chỉ cần giơ tay là có thể đụng chạm, nhưng đến khi xa, một chớp mắt là đã có thể cảm thấy tâm tình của nàng bay xa về một vùng trời nào khác.
Gã nhớ lần đầu chia tay, cũng ở Lạc Du nguyên, thực hiếm khi gã ấp úng như vậy: "Bọn ta... có còn có thể gặp nhau nữa chứ?".
Nữ tử cười đáp: "Có thể".
Tiếng cười của nàng yêu kiều dịu dàng.
Sau đó thần sắc nàng nghiêm nghị: "Nhưng chàng phải đáp ứng một điều kiện".
"Điều gì?". Gã hỏi.
"Đó là: ta có đến thì đến, còn khi không đến thì chàng đừng tìm ta. Hơn nữa ta muốn chàng thề rằng nếu chàng còn muốn gặp ta, sau này đừng vào Lạc Dương thành --- Trọn đời đừng vào Lạc Dương thành!".
Gã ngạc nhiên. Sau đó nàng cũng một thói như trước, không giải thích những nghi vấn thắc mắc của gã, xoay mình bỏ đi. Ba năm nay, mỗi một năm đều có hai ba tháng bầu bạn như vậy, thậm chí tên tuổi của đôi "Lạc Du song lữ" đã rao truyền khắp một dải Quan Trung, nhưng sự hiểu biết của gã về nàng tựa hồ cũng không hơn người ta chút nào.
Mà cả một mùa đông rồi --- trọn một mùa đông không gặp được nàng. Vì thế người miền xa kia mới âu lo nàng đã xảy ra chuyện, cho nên gã đã đến Lạc Dương. Trù trừ mấy ngày bên ngoài, gã cuối cùng đã phản bội lời hứa, tiến vào Lạc Dương thành này. Nhưng Lạc Dương bát ngát, gã làm sao tìm nàng đây? Tìm ra thì nàng có nổi giận, cắt đứt đoạn tuyệt trọn đời không? Gã nghĩ đến đó thì đầu liền nhức buốt. Tòa thành này, vào là đúng hay sai?
Đang khi gã thất thần hoang mang, Vu Tiểu Kế dưới lầu chợt ngước đầu, kinh ngạc khi nhìn thấy gã. Liền sau đó, nó đột nhiên nhảy dựng lên.
Quyển I: Ban Chuy đợi Chương 2
Thất thập tam ông đán mộ thân1
1 Xuất xứ từ hai câu: "Ban Chuy chỉ hệ thùy dương ngạn, hà xứ tây nam đãi hảo phong" trong bài thơ "Vô đề kỳ 5 - Phượng vĩ hương la bạc kỷ trùng" của Lý Thương Ẩn. (Ngựa Chuy có buộc bờ dương liễu, đâu chốn tây nam đợi gió lành). "Ban Chuy" là loại ngựa lông đen pha lẫn trắng.
2 Câu thơ trong bài "Tự đề tượng" của Hoàng Sào. (Lên cầu Thiên Tân chẳng ai quen). 3 Cung thành: chốn hoàng cung của vua.
4 Hoàng thành: phủ nha của quan tướng.
5 Ngoại Quách thành là bộ phận quan trọng của đô thành Trung Quốc cổ đại, là bộ phận có diện tích lớn nhất trong đô thành, là khu vực thương nghiệp của cư dân, đồng thời cũng làm vòng ngoài của kinh đô, bảo vệ an toàn cho Hoàng cung.
6 Thiên Hà tân lương: cầu bến Thiên Hà (sông Thiên Hà trên trời).
7 Lạc Du nguyên ở phía nam Trường An (nay là Tây An), là vùng đất địa thế cao nhất trong Trường An thành.
8Đây là loại Tang Lạc tửu có lịch sử hơn 1600 năm, do ông Lưu Bạch Đọa đời Bắc Ngụy sáng chế. Khoảng thế kỷ 16 có lưu truyền câu ca dao: "Bất úy trương cung hiệp đao, duy khủng bạch đọa xuân lao", xuất xứ từ điển cố quan Nam Thanh Châu thứ sử Mao Hồng Tân thời đó mua rất nhiều Tang Lạc tửu đem về Sơn Đông, dọc đường bị đạo tặc cướp hết. Nào ngờ đám đạo tặc đó sau khi nốc Tang Lạc tửu, say sưa túy lúy, bị quan binh bắt hết.
Quán tr ọ người miền xa đó trú ngụ là một cái quán nhỏ, lúc gã ra khỏi Đổng gia Tửu lâu cũng đã canh hai, lại đi tìm một hàng rượu nhỏ ngồi uống thêm một chập, túy lúy rồi mới quờ quạng loạng choạng ra về.
M ấy cái hẻm nhỏ trên suốt dọc đường đều khá tăm tối, gã chừng như không vội vã về ngủ, chẳng sợ đi lòng vòng, cứ quẹo quàng hết hẻm này đến ngõ nọ dù chẳng quen thuộc đường xá. Mày mi gã nhíu chặt, thắt gút mối tình trong lòng gã. Trên trời có sao đưa lối, gã có vẻ khá rành cách nhận biết phương vị, thỉnh thoảng lại ngước nhìn trời. Lúc đó gã lại vừa quẹo vào một ngõ nhỏ. Cái ngõ đó có vẻ rất quái dị, đi sâu vào mấy bước, bên trong chỉ thấy cửa một ngôi nhà duy nhất. Vòng gõ cửa ngậm trong miệng thú đồng đã rớt mất, chừng như đã rất lâu không có ai ở. Cái ngõ đó lại dài, phảng phất không đi đến cuối ngõ được, đi hoài đi mãi vẫn còn trong ngõ.
Ng ười miền xa bước đi một hồi cũng cảm thấy kinh ngạc. Thình lình, không biết từ đâu bốc lên một làn khói mỏng. Hơi khói lạnh tanh trong ngõ hẹp hoang vắng càng làm hiển hiện một thứ không khí quỷ dị. Người miền xa kia bần thần, cơn túy lúy đã tan gần hết, nhưng đầu óc lại càng mờ mịt. Sau đó gã nảy ý cảnh giác, đột nhiên quay đầu lại. Sau lưng vốn lặng yên không thấy hình tung ai hết, tới giờ ở hướng đầu ngõ lại bỗng hiện ra một bóng người giữa khói mù. Bóng người nọ lụ lụ khụ khụ, cúi đầu cầm một cái lồng đèn giấy dầu. Đang đầu tháng ba, trên trời không có trăng, chỉ có mấy vì sao chớp nháy. Lồng đèn hơi khói quyện quanh từ từ tỏa ánh, có vẻ như được thắp sáng một cách cực kỳ chậm chạp, phảng phất thời gian từ lúc thắp lửa đến lúc đèn sáng đã tốn hết trọn đời người cầm đèn.
Ban đầu có khói che trùm, đèn thắp lên, bóng người đằng sau đèn như hư vô. Rồi theo mức độ tỏa sáng của đèn, ánh đèn đó lại dần dần chuyển biến thành hư ảo cùng khói mù, bóng người sau đèn lại trở nên thực tại. Thoạt nhìn, hoàn toàn không thấy rõ mặt mũi của người kia, người miền xa chỉ đọc được một vẻ già nua khôn tả qua bóng dáng của y. Đó là một thứ già nua chính gốc --- Sự di động của bóng người đó tuy không thành tiếng, nhưng trong sự không thành tiếng lại tựa hồ tưởng tượng được mỗi một khớp xương tứ chi đều rệu rạo âm vang. Người miền xa cảm thấy thân thể rờn rợn, lỗ chân lông lành lạnh. Gã cười thầm mình mẫn cảm quá, quay đầu tiếp tục đi tới. Ngõ hẻm này vừa thẳng vừa dài không thể tả, tuy gã bước nhanh hơn, nhưng vẫn phải cạn hai tuần trà mới đến cuối hẻm. Tới lúc gã ngước đầu, đằng trước không ngờ như có một lồng đèn tỏa sáng. Ánh đèn là thực chất, bóng người đằng sau lồng đèn lại hư hão, không ngờ vẫn là lão nhân lụ khụ kia!
Sao l ại có thể được? Sao lại có thể không thấy lão ta đi vượt qua, bây giờ lại đã đến trước mặt mình? Người miền xa khi đó không khỏi bàng hoàng. Hơi thở của gã có vẻ khẩn trương, thấy lão nhân kia ngồi trên tảng đá đầu ngõ, khoé miệng co rúm hằn khắc nếp nhăn, khiến bất kỳ một ai sau khi nhìn thấy lão đều bất nhẫn ngó thêm lần nữa.
1 Một câu trong bài "Khai Long Môn Bát Tiết Thạch Than Thi - nhị thủ" của Bạch Cư Dị, có nghĩa là ông già bảy mươi ba tuổi bỗng suy tàn. Bạch Cư Dị làm bài thơ này khi chứng kiến cảnh ghềnh Bát Tiết ở Long Môn dòng thác chảy xiết, cuốn một chiếc thuyền đập vào đá vỡ nát, thấy ông già lái thuyền té xuống nước bị trọng thương. Bạch Cư Dị lúc đó đã hơn bảy mươi, nhưng vẫn đứng ra chủ trì công cuộc đục phá ghềnh thác Bát Tiết không để thuyền bè bị tàn hại nữa.
Lão nhân th ấy có người đến, giơ lồng đèn rọi rọi lên mặt người miền xa, ánh một mảng đỏ quỷ quái lên mặt người miền xa trong ngõ hẻm lạnh lẽo. Lão nhân khẽ thở dài: "Người xứ khác?".
Ng ười miền xa gật gật đầu.
Lão nhân giơ tay vỗ vỗ một tảng đá bên cạnh: "Ngồi".
Người miền xa ngồi xuống.
Ánh đèn lại có vẻ mờ đi. Dưới nách lão có kẹp một cái mõ, xem ra là người gõ trống
canh. Lão nói: "L ạc Dương thành có gì tốt đẹp mà ngươi phải đến vậy? Nơi đây là thành thị tối tăm ô trọc, tuy đứng đằng xa nhìn thì nó có vẻ cao quý đẹp đẽ náo nhiệt, nhưng hễ đến gần xem, lập tức khám phá dưới lớp khăn sa che mặt chỉ toàn là bùn sình máu me đục bẩn. Về nhà đi, nơi đây không phải là nơi cho ngươi đến".
Ng ười miền xa không tránh khỏi có hơi kinh ngạc, không biết lão nhân kia tại sao vừa mới mở miệng là đã nói thế.
Lại nghe lão nhân hỏi: "Xem cách ngươi ăn mặc chắc là từ Trường An đến?".
Người miền xa gật gật đầu. Lão nhân buồn bã nói: "Nhìn về phía tây bắc là Trường An. Nơi đó chắc sáng sủa trong lành hơn chỗ này chứ?".
Người miền xa không còn nén được sự thắc mắc trong lòng, hồ nghi hỏi: Lão nhân gia, ta hồi nãy rõ ràng nhớ là ông đi đằng sau ta, sao bây giờ lại đến trước mặt ta rồi?".
Lão nhân thở dài: "Ngươi đại khái mới đến Lạc Dương lần đầu, nếu không đâu thể không biết đến sự cổ quái của ngõ hẻm này. Hẻm này rất dài phải không? Khi ngươi bước vào có thể đã cho nó là ngõ hẹp thẳng tắp, vì vậy mới ngạc nhiên rằng hồi nãy thấy ta ở đằng sau, không thấy ta đi vượt qua ngươi, sao lại có thể chạy đến trước mặt ngươi".
Lão nhân ho húng hắng hai tiếng, sau đó mới nói tiếp: "Rất đơn giản, vì ta đâu có di động --- Ngõ hẻm này chỉ có một lối vào, cũng chỉ có một lối ra, lối vào là lối ra. Làm cho ngươi không nghĩ rằng nó là ngõ cụt chính bởi vì ban đêm đi vào hay đi ra cũng chỉ thấy lờ mờ không nhìn rõ được hết. Hơn nữa buổi tối nhìn nó cứ thẳng tắp, thực ra nó lại cong. Như đi thẳng mà thực ra là cong vòng, cũng như lòng người, cũng như đạo đời --- Đây là... ngõ Luân Hồi mà".
Lão ngước nhìn, ba tiếng "ngõ Luân Hồi" thoát khỏi miệng tựa như cũng có ý vị luân hồi --- Ba tiếng đó như lòng vòng trong ngõ hẻm, một hồi sau lại vòng về, khe khẽ đập vào lòng người miền xa. Đêm khuya như vầy, ngõ hẻm thế này, lại có một lão nhân như vậy, lòng gã nhất thời lan man một nỗi niềm không thể tả được.
"Ngõ Luân Hồi trong Lạc Dương thành, trong ngõ Luân Hồi mau quay đầu...".
Lại nghe lão nhân dùng giọng điệu khàn đục thì thào. Thanh âm đó giống như tàng cổ thụ trên Bắc Mang sơn xào xạc theo gió, khiến người nghe một dạ hoang lương. Sau đó lão thở dài nhè nhẹ: "Mà có ai đang sống khoái chí lại sực tỉnh quay đầu được chứ?".
Lão vỗ vỗ vai người miền xa: "Người trẻ tuổi, lúc còn quay đầu được thì mau quay đầu". Nói xong, lão cắp mõ đứng dậy định đi. Người miền xa nghe lão nói giữa chừng, không khỏi hiếu kỳ, gọi lão: "Lão trượng...".
Lão nhân thở dài: "Người còn muốn hỏi gì sao? Ngươi muốn biết chuyện Dư Quốc trượng năm xưa? Đoạn huyết án đó đến nay cũng đã tròn mười sáu năm. Ài, là Dư Quốc trượng ngày xưa xây ngõ hẻm này. Ông ta đã tạo được 'ngõ Luân Hồi' này, nhưng bản thân ông ta cũng không biết hồi đầu kịp thời".
Người trẻ tuổi ngạc nhiên: "Dư Quốc trượng?".
Lão nhân đáp: "Đừng nói với ta là ngươi không biết Dư Quốc trượng, tuy chuyện này cũng đã trôi qua mười sáu năm rồi. Người trẻ tuổi, ta nhận ra ngươi, xế chiều hôm nay ngươi đứng trên Thiên Tân kiều, mà trên Thiên Tân kiều lại đã xảy ra một vụ ám sát. Ngươi vậy là đã báo xong mối đại cừu cho Dư Quốc trượng, tại sao còn chưa đi? Tuy mối thù đó không phải chỉ giết có một mình Vu Tự Vọng là liền có thể liễu kết. Ngõ Luân Hồi trong Lạc Dương thành, trong ngõ Luân Hồi mau quay đầu đi...".
Nói xong, thân ảnh của lão dần dần tan biến, trong hẻm không ngờ lại tựa như có một mảng khói mỏng bốc lên. Người miền xa sờ sờ trán, hoài nghi không biết có phải mình say quá nên nằm mơ.
o0o
Tối hôm đó, người miền xa ngủ vùi luôn, mặt trời lên đến ba sào mới thức. Tỉnh dậy xong, gã lại nghĩ tới những trải nghiệm tựa như mộng du đêm hôm qua. Đúng lúc tiểu nhị vào dâng nước nóng rửa mặt, gã còn đang bần thần, thuận miệng hỏi: "Trong Lạc Dương thành này có ngõ nào là ngõ Luân Hồi không?".
Tiểu nhị gật đầu cười đáp: "Đó là một ngõ hẻm có sự tích lâu đời, khách nhân nghe ở đâu ra vậy? Nghe nói có nhiều đêm người nào không biết ất giáp lọt vào là bị ngõ hẻm đó làm mê hoặc, cứ nghĩ ngõ hẻm đó thẳng tắp, đi hoài đi mãi mà không đến cuối hẻm được. Trong hẻm lại chỉ có một căn nhà, cho nên sản sinh ra rất nhiều truyền thuyết quái dị. Khách quan, đó cũng chỉ là truyền thuyết, chắc không có thực đâu".
Người trẻ tuổi đang rửa mặt cũng sựng lại --- Thì ra những gì mình trải qua đêm hôm qua đâu phải là một giấc mộng hoang đường. Tên tiểu nhị thấy mặt mày gã rửa xong thực sáng sủa, không khỏi khen thầm trong bụng. Hắn thấy gã hiền lành, cho nên vui miệng nói thêm: "Ngõ Luân Hồi đó nghe nói là Dư Quốc trượng, cha vợ của đương kim Thánh thượng, xây cất hồi còn tại thế. Thực ly kỳ cổ quái, không ai biết ông ta xây ngõ hẻm quái dị như vậy để làm gì, chỉ nghe ông ta nói: 'Tự có thâm ý, tự có thâm ý'. Ài, từ lúc Dư Quốc trượng ngộ hại, người trong nhà đột nhiên chết sạch, ngõ hẻm đó bỏ hoang không ai ở, cũng rất lâu rồi, tính ra...". Hắn bấm ngón tay: "Cũng đã mười sáu năm".
Người miền xa thừ ra: "Dư Quốc trượng ngộ hại?".
Tên tiểu nhị cười, nhìn mặt mày người miền xa thấy có vẻ là người thành thực, mới ghé miệng thấp giọng: "Khách quan đừng nói với ai là nghe tôi kể nhé. Nghe nói chuyện năm xưa Dư Quốc trượng ngộ hại có dính dấp đến vụ Vu Tự Vọng bị ám sát trên Thiên Tân kiều hôm qua. Dư Quốc trượng nguyên là thân phụ của 'Chiêu Nghi cung' Dư Thục phi, phi tử sủng ái nhất của đương kim Thánh thượng năm xưa. Ông ta quá ngũ tuần mới có một đứa con gái, cho nên yêu quý như châu báu. Con gái ông ta cũng xinh đẹp tài giỏi lắm, mới mười sáu là đã tiến cung, vừa vào cung lập tức được sủng ái. Sau đó Hoàng hậu đời trước qua đời, nàng lại được sách phong làm Hoàng hậu, cha của nàng dĩ nhiên trở thành Quốc trượng. Nhưng nàng số mạng không được tốt, được phong hậu mới mười bảy ngày là đã tạ thế. Hoàng thượng cảm niệm tình xưa, cho nên cực kỳ chiếu cố Dư gia, song bảy tháng sau Dư gia cũng gặp phải thảm họa diệt môn mảy may không một chút manh mối. Lúc thảm họa xảy ra chính là ngày mừng thọ bảy mươi ba tuổi của Dư Quốc trượng, nghe nói trước khi chết ông ta có làm một bài thơ, đến lúc chết bài thơ còn treo ở 'Hàn Mặc Lâm' chưa kịp cầm về, trong đó có một câu 'Thất thập tam ông đán mộ thân'. Đó không phải là câu sấm truyền sao? Nói ra thì khủng khiếp ghê, toàn gia ông ta nội trong một đêm bị chặt đầu hết. Đến ngày chúc thọ thứ nhì, chỉ thấy thi thể không đầu đầy đình đầy viện. Người chúc thọ nhìn thấy đều sợ quá phát điên. Nghe nói Lạc Dương Doãn Vu Tự Vọng vừa bị ám sát hôm qua vốn cũng họ Dư, có quan hệ bà con với Dư gia. Sau khi Dư Quốc trượng ngộ hại, lão ta đổi thành họ Vu, quan chức từ Cửu phẩm ở huyện lỵ bên ngoài được thăng lên tới chánh Ngũ phẩm, cách đây hai năm còn được điều đến Lạc Dương, làm quan to trong Lạc Dương thành. Không phải thăng chức thì là gì? Khách quan nghe thì nghe, đừng đi chỗ khác nói lung tung đó. Tôi cho là cái chết của Vu Tự Vọng hôm qua có liên quan đến chuyện này, nhưng đó chỉ là lời bàn tán lảm nhảm của đám nghèo hèn trong Lạc Dương thành bọn này, cũng không có bằng chứng, không phải là chuyện có thể đem công khai giỡn chơi. Huống hồ hai ngày nay càng đồn đại dữ hơn. Đúng rồi, khách quan sao lại biết về ngõ Luân Hồi vậy?".
Người miền xa bần thần: "Đêm hôm qua ta đã đi ngang qua đó, vừa vào đã thấy bên trong khói mờ chờn vờn, còn gặp một lão nhân lải nhải mấy lời quái dị...". Gã còn chưa dứt lời đã bị tiểu nhị trợn mắt ngắt ngang: "Lão nhân? Lão nhân đó nhìn ra sao? Có phải già chát, người lụ khụ, cầm một cái lồng đèn?".
Người miền xa gật gật đầu. Tiểu nhị mặt tái mét: "Má ơi, xem ra là thực rồi. Người ta đồn mỗi lần đến tháng ba, vào đêm không trăng oan hồn của Dư Quốc trượng lại quay về. Chuyện đó không ngờ lại có thực!".
Nói xong, hắn liếc nhìn người miền xa một cái, tuy rất ưa thích tướng mạo của gã, nhưng có vẻ sợ bị nhiễm oan tà quỷ khí trên mình gã, không dám dài dòng nữa, cầm bình nước nóng vội vã đi ra ngoài.
Người miền xa không khỏi phì cười. Gã chu du vạn dặm, kiến thức dồi dào, tựa như không tin mấy chuyện quỷ thần đó, định bụng gác hết chuyện kỳ ngộ đêm qua sang một bên không nghĩ tới nữa.
Nói thì nói vậy, nhưng đến khi gã dùng bữa trưa, nhàn tản huyên thuyên với một tên tiểu nhị khác, không tránh khỏi lại hỏi về chuyện Dư Quốc trượng. Chuyện Dư Thục Phi được phong hậu tựa hồ là chuyện rất tự hào trong lòng người Lạc Dương, Dư gia cũng rất được yêu mến, cho nên tới giờ vẫn còn nhiều người ghi nhớ, điếm tiểu nhị lúc kể lể lời nói còn vấn vương chút tiếc nuối.
Ăn cơm xong, gã lại quẹo đến tàu ngựa. Con ngựa gã cưỡi cực tốt, dáng dấp tuấn tú, chính là một thớt "Ban Chuy" thượng hảo hạng --- Loài ngựa này bụng có vằn đỏ vằn đen, giống như vảy rồng, vừa nhìn là biết nòi tuyệt hảo danh câu kết phối với ngựa hoang. Người miền xa có vẻ cực kỳ yêu thương con ngựa này, mấy ngày nay tuy không dùng tới nó, lại vẫn cứ đến thăm hàng ngày. Gã có mang theo mình một cái túi dài, trong túi đựng một thanh kiếm. Con ngựa và thanh kiếm đó tựa chừng là hai vật gã chăm lo nhất. Sau khi gã đi thăm con ngựa, về đến phòng liền rút thanh kiếm trong túi vải ra. Kiếm dài hai ba thước, thân kiếm không quá khổ cũng không thon hẹp, khá mộc mạc cổ xưa. Gã nhìn hai chữ trên chuôi kiếm, tâm tư si dại. Nét chữ thanh nhã xinh xắn, là hai chữ "Hàn Ngạc", cũng chính là tên gã. Chúng cũng do Phương Ninh ba năm trước tận tay khắc cho gã.
Gã trân trối nhìn lưỡi kiếm ngời xanh lạnh buốt. Thanh kiếm này tên là "Trường Canh". "Trường Canh" tuy bén, có thể chém gục thiên binh vạn kiếm, nhưng làm gì được mối tình nhớ nhung da diết này đây?
Quyển I: Ban Chuy đợi Chương 3
Họa đồ tỉnh thức xuân phong diện1
Sau Ng ọ, Hàn Ngạc lòng sầu muộn, hỏi điếm tiểu nhị xem trong Lạc Dương thành có chỗ nào để đi dạo một vòng. Điếm tiểu nhị nhìn gã cười hì hì: "Khách nhân chắc biết 'An Lạc Oa' nổi danh trong Lạc Dương thành chứ? Nơi đó vui hết xảy. Chỉ là bây giờ còn sớm quá, chưa có gì lý thú. Chi bằng ngài đi dò đường trước đi. Các huynh đệ trẻ tuổi đến Lạc Dương không ai không ghé chỗ đó trước".
Hàn Ng ạc ngẩn người, nghe cái tên đó liền biết là chốn gái trai, nhưng gã đến Lạc Dương vốn là để tìm người, mà còn phải tìm một cách âm thầm. Lại nghĩ với thân thủ của Phương Ninh, trong Lạc Dương thành ai là người tinh thông võ nghệ tất không thể không biết đến. Mà hạng tinh thông võ nghệ đại đa số đều ẩn thân trong tỉnh thị, xem ra An Lạc Oa kia không thể không đi một chuyến. Gã mỉm cười đi ra, mặc tên điếm tiểu nhị tủm tỉm khá ám muội, đâu muốn tốn thời gian giải thích.
An L ạc Oa lại cách khá xa chỗ ở của gã, gã cưỡi ngựa chậm rãi nhàn du. Được một khắc, đi ngang qua một vườn rau, gã lại ghé hỏi đường mới đến được. An Lạc Oa quả nhiên an lạc, vừa đến giờ Thân, giáp hai bên con đường chính trong An Lạc Oa toàn là lầu cao cửa rộng, trên hành lang dưới mái hiên tranh vẽ tô bột vàng hiển hiện nét tưng bừng hội hè đình đám. Nơi đây vốn còn có một con sông nhỏ, sông lại không rộng, chỉ có thể coi là một cái rạch --- Đó là 'Ngự Câu', rạch Ngự nổi tiếng Lạc Dương thành.
Hàn Ng ạc trẻ trung anh kiệt, lúc cưỡi ngựa đi qua một cây cầu gỗ nhỏ, có mấy con hát vừa mới thức dậy rửa mặt chải đầu trên lầu các gần đầu cầu, đổ nước rửa xuống rạch Ngự, gặp phải Hàn Ngạc liền không khỏi ngẩn người, một hồi sau còn trân trối nhìn theo. Đó gọi là chị em thích đẹp, huống hồ lại là 'cái đẹp cứng rắn' đường nét rạch ròi của Hàn Ngạc. Mặt mày gã dưới ánh mặt trời ôn hòa có một luồng sinh khí sáng láng ngang tàng đặc thù, khiến các chị em son phấn trên lầu vừa nhìn là đã ngây người thẫn thờ.
R ạch Ngự vốn thông về phía Lạc Hà, Hàn Ngạc thích thú cảnh trí bên rạch, không khỏi dừng ngựa đứng xem, mắt trông liễu non rũ tơ vàng bên rạch, lòng bần thần mê mẩn. Mặt trời đang dịu dàng từ ái thoa vẽ thêm chút phấn hư ảo, chút ánh phù phiếm lên cái ổ an lạc này, giúp cho gương mặt của các cô gái hai bên cầu nhìn từ xa đã thấy khá là xinh xắn. Đó là nét mỹ lệ pha lẫn với ô trọc, Hàn Ngạc còn trẻ, ngước đầu nhìn không khỏi hơi chấn động trong lòng. Gã vừa nhướng mắt, đám chị em vốn có không ít người đang chú ý tới gã liền thót tim, tiếng khúc khích vang theo, làm cho Hàn Ngạc mặt mày đỏ bừng, vội vã giục ngựa tiến tới. Dọc đường đã tránh thoát không ít tú bà và nô bộc trong thanh lâu ghì đầu ngựa muốn dụ gã vào, phải ráng chịu một hồi mới im ắng bớt, chợt lại có một bàn tay kéo giữ dây cương.
Hàn Ng ạc tức bực, cúi đầu xuống nhìn thì lại giật mình phát hiện kéo cương ngựa mình là một bàn tay nhỏ nhắn gầy gò. Hài tử đó mặt mũi không tệ, trên mặt lại có một vết chàm lớn, mày mi lanh lợi thông minh. Nghe nó cười hì hì nói: "Hàn gia, mời qua bên này".
1 Là câu thơ trong bài thơ "Vịnh Hoài Cổ Tích - kỳ tam" của Đỗ Phủ (vịnh Chiêu Quân). Truyền thuyết kể Hán Nguyên đế chỉ xem tranh họa chân dung mỹ nhân để chọn người gần gũi. Họa sư Mao Duyên Thọ không được hối lộ nên vẽ Chiêu Quân xấu đi, vì vậy Chiêu Quân vào cung mấy năm mà không được vua cho gặp. Đến khi gả Chiêu Quân sang Hung Nô, Hán Nguyên đế mới gặp Chiêu Quân đẹp tuyệt trần, nhưng không thể thất tín, tiếc nuối trọn đời. Hai câu "Họa đồ tỉnh thức xuân phong diện, hoàn bội không quy dạ nguyệt hồn" là nhắc đến chuyện đó: Họa công từng vẽ dung nhan mỹ lệ thời niên thiếu của mỹ nhân, lại vì lòng tham mà dẫn tới thảm cảnh Chiêu Quân cống Hồ, chỉ đến chết hồn thiêng mới quay về vào đêm trăng.
Hàn Ng ạc ngẩn người: nó làm sao biết được họ mình? Tiếp đó tim lại đập thình thịch --- Toàn Lạc Dương thành này, nếu nói có người nhận ra gã, chắc chỉ có... Phương Ninh thôi.
Hàn Ngạc dừng ngựa: "Sao ngươi biết ta họ Hàn?".
Đứa bé cười đáp: "Tôi không biết, nhưng tỷ tỷ của tôi biết".
Tim Hàn Ngạc càng giật thót, chăm chú nhìn hài tử: "Tỷ tỷ của ngươi?".
Gã nhìn kỹ mặt hài tử kia, muốn tìm bắt vài nét tương tự với Phương Ninh, nhưng đó giờ gã đâu rành xem tướng mạo, nghi hoặc buông cương ngựa để mặc hài tử kia dắt đi tới, miệng vẫn hỏi: "Tỷ tỷ của ngươi sao lại biết ta?".
Hài tử cười ranh mãnh: "Tỷ tỷ tôi mà...". Nó ra vẻ úp mở, quay đầu nhìn thần thái thực thà của Hàn Ngạc, ráng nhịn cười nói: "Có thể chị ấy tình cờ đoán đúng".
Trên lầu bên đường có một nữ tử cười cao giọng: "Tiểu Kế, lần này ngươi lại giúp ai dắt mối vậy? Tại sao không nhường cho lầu ta?".
Đứa bé nói: "Ngọc nhi tỷ tỷ, đây là chuyện làm ăn của Dư cô cô, chị thực muốn giành hả?".
Nữ tử trên lầu sợ đến thè lưỡi, rụt đầu vào cửa sổ. Hàn Ngạc thầm ngạc nhiên: "Dư cô cô?". Lại không biết Dư cô cô đó là ai. Gã ngẫm nghĩ một hồi, quay sang đứa bé hỏi: "Ngươi tên gì?".
Đứa bé cười nhe răng: "Tôi họ Vu, gọi là Vu Tiểu Kế".
Hàn Ngạc bàng hoàng. Lần này mình đến Lạc Dương, xem ra thực có duyên với họ "Dư" và họ "Vu", trước là Vu Tự Vọng, lại có Dư Quốc trượng, hôm nay lại lòi ra một Dư cô cô và Vu Tiểu Kế. Gã đâu biết còn có một người họ Vu đằng sau hai người này.
Đứa bé không kéo gã đi đường lớn mà cặp kè vào một ngõ nhỏ bên trên rạch. Ngõ hẻm âm u sâu hút, trong rạch loáng thoáng bốc dâng một làn hơi nước, không biết vì sao như có một ý niềm khó tả. Hàn Ngạc lại có cảm giác quỷ dị đêm hôm qua, không khỏi lên tiếng: "Đây là chỗ nào?".
Vu Tiểu Kế kia quay đầu nhìn gã, mục quang như có thâm ý: "Hàn gia không nhận ra nơi đây? Đây là 'dốc rạch Ngự', còn gọi là 'Ngọc Câu Tà'".
Nó liếc Hàn Ngạc, thấy gã còn chưa minh bạch, liền nhẹ giọng giải thích: "Nghe nói vào thời Hán, phàm trong cung có cung nữ nào bị ghen ghét ám hại đều chôn thân ở đây. Vốn còn có truyền thuyết ở đây đêm nào cũng nghe quỷ khóc. Cho nên mới có cái tên 'Ngọc Câu Tà' thương hương tiếc ngọc".
Hàn Ngạc ngước nhìn, mặt bắc cách đó không xa là cung điện lầu đài bờ bên kia Lạc Hà.
--- 'Ngọc Câu Tà'?
--- Có phải kề bên phú quý và quyền thế luôn luôn có những nơi mờ mịt thảm đạm?
Đứa bé lại dẫn người và ngựa đi. Nó dừng lại cạnh một gian nhà mái ngói xanh, tường quét vôi trắng, thấy bên hông có giăng cao một chiêu bài bằng vải, bên trên chiêu bài có viết bảy chữ "Dư cô cô coi số đoán mạng". Căn nhà nhỏ vắng lặng, có vẻ không có khách. Vu Tiểu Kế cười nói: "Hàn gia, mời xuống ngựa".
Hàn Ngạc nghe theo, lại nghe Vu Tiểu Kế chạy vào nhà kêu: "Dư cô cô, tôi đã mời người đến cho cô cô". Trong nhà nghe giọng một nữ tử già nua ậm ừ không rõ tiếng. Thanh âm đó có vẻ già mà lại tựa còn trẻ, quái dị khôn tả. Hàn Ngạc đi theo đứa bé vào nhà, thấy bên trong là một cái bàn và một cái giường, còn có ba cái ghế nhỏ, trần thiết cực kỳ sơ sài. Trên cái giường đằng sau bàn có một nữ tử ngồi khoanh gối, nữ tử đó mặt mày đâu thấy lớn tuổi mấy, quá lắm chừng ba mươi, nhưng đầu tóc lại đã hoa râm. Kỳ lạ nhất là đôi mắt của cô ta trắng đục, không ngờ lại là người mù. Lồng ngực cô ta hóp háp, thanh âm phát xuất khỏi miệng như thoát ra từ hang sâu lởm chởm đá, khiến người ta khó chịu hụt hơi. Cô ta húng hắng vài tiếng, đôi mắt rõ ràng là không thấy đường mà lại chằm chặp nhìn lên mặt Hàn Ngạc như quen biết từ kiếp trước, phải một hồi lâu sau mới khàn khàn nói: "Hàn công tử".
Hàn Ngạc thoáng có vẻ thất vọng đối phương không phải là Phương Ninh. Nhưng người ta mới mở miệng đã kêu họ mình, gã không khỏi nổi cơn hiếu kỳ. Nữ tử kia rõ ràng gã chưa từng gặp, nhưng gã lại có một cảm giác như đã gặp hai ba lần.
Tiểu Kế bên cạnh cười nói: "Dư cô cô, tôi đã dẫn người đến, vậy tôi đi trước nhé". Nữ tử không để ý tới nó, vẫn trừng trừng đôi mắt mù lòa nhìn về phía Hàn Ngạc, miệng than: "Ngươi không nên đến Lạc Dương thành".
Hàn Ngạc ngạc nhiên: "Tại sao?".
Nữ tử thở dài đáp: "Ta nhận ra ngươi mang mạng Hoa Sát, mà đất Lạc Dương thành này vốn là chốn Nội Mị2, ở lại lâu không nên".
Hàn Ngạc ngẩn người, gã tuy không tin đạo quỷ thần, nhưng không biết tại sao lời nói của nữ tử đó làm cho lưng gã ướt lạnh. Lại nghe nữ tử đó nói: "Ngươi sẽ gặp khá nhiều nữ tử, nhưng những nữ tử đó e rằng đều muốn hại ngươi".
Hàn Ngạc không muốn nghe cô ta nói tầm xàm nữa, xen lời: "Dư cô cô, xin hỏi làm sao cô biết cái họ hèn mọn của ta?".
Lúc nữ tử đó nói chuyện, chỉ thấy cổ họng động đậy, hai môi lại bất động, bộ dạng cực kỳ quái dị, như trong bụng phát âm ra: "Họ hèn mọn? Nếu là chữ 'Hàn' có dính dấp đến hai thanh kiếm 'Trường Canh' và 'Hàm Thanh', danh gia võ công thời nay tuy nhiều, sợ rằng không có ai dám nói cái họ đó là họ hèn mọn".
Hàn Ngạc bàng hoàng, song kiếm trong tay gã đâu cần khiêm tốn, quả có thể nói là danh động tứ phương. Có điều một nữ nhân mù lòa trong Lạc Dương thành sao lại có thể biết được? Nữ tử kia tựa như minh bạch nỗi ngờ vực trong lòng gã, một nụ cười hiện trên mặt cô ta, chỉ thấy da mặt nhăn nhúm lại, khiến cho Hàn Ngạc không dám nhìn kỹ. Cô ta lại nói: "Nữ nhân mù như ta tuy không thể nhìn thấy, may là trong cái hại có cái lợi, ta vẫn có thể ngửi ra. Hàn công tử sáu ngày trước đã đến ngoài Lạc Dương thành phải không? Lại luôn luôn ở ngoài trù trừ không tiến vào, không biết vì sao vậy? Ngay cả từ lúc đó, ta đã ngửi được hơi hướm của hai thanh kiếm 'Trường Canh' và 'Hàm Thanh' lâu rồi không hiện thân".
Hàn Ngạc sởn tóc gáy. Nữ tử kia lại cầm một cái hộp điêu khắc hoa văn, nhẹ nhàng mở ra, hai tay run run bóc vài nhúm bột thơm Long Đoàn thả vào lư hương, khói thơm theo lỗ nhỏ trên nắp lư hương dìu dịu tản phát, nhất thời cả gian phòng không khí khoan hòa. Hàn Ngạc ngửi được, cảm thấy trong đầu "bựt" một tiếng, tiếp đó lại hơi hôn mê. Gã thất kinh thầm nghĩ: có độc? Nhưng kinh nghiệm từng trải, gã lại liền phát giác đó là mình quá lo mà thôi.
Nữ tử kia bưng hộp thơm ghé sát mũi hít một hơi sâu, mặt thắm tươi hẳn, thấp giọng khàn khàn thốt: "Hàn công tử, mời ngồi".
Hàn Ngạc ngồi xong, nữ tử lại không nhìn gã, vẫn lo hít ngửi cái hộp đó. Đột nhiên cô ta ngước đầu, một ngụm khói nồng nhả vào mặt Hàn Ngạc. Hàn Ngạc cả kinh muốn tránh, nữ tử nhả khói xong mới nói: "Hàn công tử đừng sợ, một nữ tử mù coi số kiếm sống đâu có hại được cao thủ võ công vang danh tứ hải như công tử. Loại hương này là đặc sản của Xiêm La. Hàn công tử ngửi vào thì nó sẽ đem chuyện sở cầu của Hàn công tử nói cho ta biết".
Hàn Ngạc bị lời nói quanh co của cô ta làm nổi tính hiếu kỳ, thì thào: "Vậy cô nói xem sở cầu của ta là chuyện gì?".
Đôi mắt mù lòa của nữ tử đăm đăm nhìn gã, một hồi thực lâu không lên tiếng. Chợt đôi tay cô ta run run dò dẫm dưới bàn, một lúc lâu sau cầm ra một mảnh lụa trắng, lại thò tay đốt một que gỗ đàn nhỏ, vung vẩy dập tắt lửa, để lộ đầu que đen thui ám khói, đặt vào tay Hàn Ngạc nói một tiếng: "Vẽ!".
Hàn Ngạc tay cầm cây bút quái dị cô ta đưa, lại không hiểu, nghi hoặc hỏi: "Vẽ cái gì?". Nữ tử đáp: "Vẽ người".
"Vẽ người ngươi muốn tìm". Dư cô cô ho khẽ: "Loại hương đó cho ta biết ngươi đến tìm người".
"Chỉ cần ngươi vẽ ra, ta có thể nói cho ngươi biết người đó ở đâu".
Hàn Ngạc bần thần nhìn cây "bút" trong tay, Dư cô cô thực ra là nhân vật nào đây, sao lại biết gã đến Lạc Dương để tìm người? Mà gã đó giờ đâu có biết vẽ. Đừng nói là người, sợ là cả một con chó hay một ngọn cỏ gã cũng vẽ không ra. Lại nghe Dư cô cô nói: "Nhắm mắt".
"Nhắm mắt lại, ngươi sẽ vẽ được".
Trong thanh âm của cô ta có một ý vị tựa như thôi miên, Hàn Ngạc nhìn cách bài trí trong gian phòng nho nhỏ bên 'dốc rạch Ngự', ánh mặt trời bên ngoài lưa thưa từng tơ lọt vào trong, chiếu rọi lên những hạt bụi mong manh lất phất bay, lòng lại như mù lòa.
Tạm thời tin một lần thì sao? Gã nghĩ vậy, liền nhắm mắt lại. Vừa nhắm mắt, ban đầu gã còn biết tay mình đang di động, sau đó lại thành mơ hồ, không biết đã nhắm bao lâu, chợt nghe nữ tử kia thở dài nhè nhẹ: "Cô gái đẹp quá".
Hàn Ngạc sực tỉnh mở mắt, bị mảnh lụa trắng bên dưới tay làm giật nảy mình. Trên lụa trắng có vẽ một nữ nhân vô cùng sống động, rõ ràng là Phương Ninh gã hàng ngày bồi hồi nhung nhớ. Gã còn đang kinh hoàng, đâu chú ý đến mắt của Dư cô cô vụt nhoáng lên, chỉ một thoáng rồi lại khôi phục nhãn thần trắng đục của cô ta. Cô ta không thấy thì sao có thể nói "Cô gái đẹp quá"? Lẽ nào lại là ngửi ra được? Hàn Ngạc tâm thần hoảng hốt, không nghĩ đến việc đó. Dư cô cô lại dùng thanh âm quái dị cứ đều đều không chút lên xuống kia: "Nàng ta là người ngươi muốn tìm hả? Đáng tiếc, đáng tiếc, ngươi không tìm thấy nàng ta còn hay hơn".
Hàn Ngạc đến giờ không thể không tin vào dị năng của cô ta --- Không ngờ lại có thể khiến cho một người không biết vẽ là cái gì như mình vẽ ra được bức chân dung trong tâm tưởng của mình. Song thủ của gã chống lên bàn, hỏi gấp: "Vậy nàng ta hiện giờ đang ở đâu?".
Dư cô cô đôi mắt trống không mờ mịt: "Ta không thể nói với ngươi".
Hàn Ngạc ngẩn người: "Nàng ta có phải đã xảy ra chuyện? Có phải đã gặp đại nạn không? Tại sao cô không thể nói với ta? Cô đã làm cho một người không hiểu biết gì về hội họa như ta vẽ ra được hình tượng của nàng, nhất định biết nàng đang ở đâu!".
Dư cô cô cười khan một tiếng: "Ta biết, nhưng không thể nói với ngươi. Hiện nàng ta gặp khó khăn rất lớn, không gặp mặt được không phải là nàng ta tự nguyện muốn vậy. Hừm, ta nhìn thấy một dải dây, nhẹ nhàng lất phất, nàng ta có một dải dây phải không? Màu xanh xanh, mỏng như tơ liễu non vậy. Đúng rồi, đó là một dải màu đinh hương, dùng da thuộc đặc chế đan lẫn với tơ vàng. Tơ vàng đó xem chừng không phải là kim loại tầm thường. Đó có phải là binh khí của nàng ta không?...".
Hàn Ngạc thầm thất kinh, Phương Ninh quả nhiên đã xảy ra chuyện! Gã không khống chế mình được nữa, tay chống bàn bật dậy nói gấp: "Vậy mau nói cho ta biết phải làm sao mới có thể tìm được nàng ta? Làm sao mới có thể trợ giúp nàng ta?".
Đôi mắt mù lòa của nữ tử có vẻ buồn thảm nhìn Hàn Ngạc: "Ta giúp ngươi không được, chỉ có chính ngươi mới có thể giúp được ngươi".
Hàn Ngạc bàng hoàng nhìn cô ta. Môi miệng hóp háp của cô ta nhả thêm vài câu: "Nếu ngươi điều tra cho rõ chuyện ngõ Luân Hồi, ngươi có thể tìm được xuất xứ của nàng ta; nếu ngươi làm được một chuyện hiệp nghĩa, ngươi có thể tra ra xuất xứ của nàng ta; nếu ngươi có thể trợ giúp một nữ tử yếu đuối, ngươi có thể tra ra xuất xứ của nàng ta".
Nói xong, ống tay áo của cô ta phất nhẹ, tụ phong quét một làn hơi thơm bốc ra khỏi lư hương. Hàn Ngạc cảm thấy đầu choáng váng, đang khi mê man mờ mịt lại có cảm giác Dư cô cô đã rời khỏi giường đi ra. Đợi đến khi gã định thần tỉnh táo lại, Dư cô cô đã không còn bên kia bàn. Bên ngoài đã là hoàng hôn, le lói ánh mặt trời lặn khuất. Gã vội tìm bức họa mình vẽ hồi nãy, nhưng bức họa cũng đâu còn.
Quyển I: Ban Chuy đợi Chương 4
Phượng Lâu ninh phụ mỹ nhân ân1
2 Nội Mị là tướng đàn bà cho dù không có vẻ đẹp bề ngoài nhưng nếu đàn ông để mắt tới sẽ bị thu hút không rời được, là tướng không nên gần gũi.
Trong v ườn sau khu nhà cũ của Dư Gia ở ngõ Luân Hồi có một ngôi lầu nhỏ ba tầng mang tên "Phượng Lâu". Mỗi tầng ở các góc mái hiên đều có khắc một cái đầu chim phượng miệng ngậm chuông đồng cực kỳ tinh xảo. Ngôi lầu dang mình như xoãi cánh, tấm biển cũ kỹ trên lầu vẫn còn ba chữ nhà vua đích thân đề tặng: "Mỹ Nhân Ân".
Hàn Ng ạc bần thần nhìn ba chữ đó, cảm nhận được bao tình ý ôn nhu của ngòi bút, bao đắm say triền miên của nét chữ. Gã đoán ra đó phải là lời đề tặng của đương kim Thánh thượng. Lúc Dư Hoàng hậu còn tại thế, ông ta đã viết tặng tấm biển đó phải không? Nhất thời lòng gã tràn dâng một ý niềm khó tả. Gã đẩy cánh cửa cọt kẹt vang vọng đi lên lầu.
C ửa sổ tầng dưới có một cánh còn mở, bụi bặm phủ đầy bên trong, rõ ràng đã lâu không ai qua lại. Tại sao Dư cô cô lại nói gã tất có thể tìm ra nơi hạ lạc của người muốn tìm sau khi điều tra ra chuyện trong ngõ Luân Hồi? Trong ngõ Luân Hồi thực ra đã xảy ra chuyện gì?
Hôm nay Hàn Ng ạc đã chuẩn bị sẵn sàng, trường kiếm "Trường Canh" cùng đoản kiếm "Hàm Thanh" một ở bên hông, một trong tay áo. Trực giác cho gã biết chuyện xảy ra đêm nay sẽ không phải là chuyện tầm thường. Gã chăm chú nhìn khu vườn sau qua cửa sổ, thấy trong vườn có một cái đình và một nhà tạ kiến trúc vô cùng kỳ quái, thoạt nhìn có vẻ bình thường, ngó kỹ thì lại tựa như không thể nào tính toán đúng được kích cỡ khoảng cách giữa hai nơi. Cả con đường lát đá nhỏ cũng hiển lộ vẻ đặc dị. Hàn Ngạc khe khẽ thở ra, tay với lên thành cửa sổ. Ở đây có bày trận! Ngón tay gã vừa chạm vào thành cửa sổ là liền rụt vội về như bị phỏng --- Ngón tay không ngờ đã chạm vào một bàn tay khác!
1 Lầu phượng đành phụ ơn mỹ nhân, ở đây Tiểu Đoạn sửa một câu thơ của Lâm Thư, tức Lâm Cầm Nam. Lâm Cầm Nam (1851-1924) là người Trung Quốc đầu tiên phiên dịch tác phẩm văn học phương Tây. Ông ta không biết ngoại ngữ, phần nhiều là hợp tác với Vương Thọ Xương tinh thông văn xứ người, một kẻ thì thuật lại nguyên ý, một kẻ thì dùng từ ngữ hoa hoè hay ho để viết thành câu. Đặc biệt bản dịch "Trà hoa nữ di sự" của ông đã khiến không ít nam nữ si tình phải rơi nước mắt, trong đó có danh kỹ Tạ Điệp Tiên. Nàng mê văn của ông, thường hay tưởng tượng được gần gũi ông.
Sau khi vợ của Lâm Thư qua đời, ông buồn khổ cho nên hay vào chốn đèn đỏ rượu xanh mà hút ma túy, nào có hay trong kỹ viện còn có một Tạ Điệp Tiên luôn luôn tưởng niệm đến mình.
Tạ Điệp Tiên nhờ người chuyển cho ông một cái hộp đồ ăn, bọc bốn cái bánh, mỗi cái nàng ta đều đã cắn, để lại dấu răng thơm, tỏ ý muốn gá nghĩa.
Lâm Cầm Nam nghĩ mình tuổi đã gần lục tuần, Tạ Điệp Tiên thì lại đang tươi trẻ, không ổn chút nào, liền nhắn lời từ tạ. Tạ Điệp Tiên vẫn năm lần bảy lượt mời gọi, ông vẫn cự tuyệt. Nàng thán oán: "Tiểu thuyết thơ văn của Lâm Cầm Nam lúc nào cũng tình ý triền miên, sao bản thân ông tới khi có chốn để thi triển thì lại chẳng chịu chứ?". Lời này lọt đến tai Lâm Cầm Nam, ông mới thốt: "Ta đã già rồi, đã coi nhẹ chuyện tư tình nam nữ, đâu còn ham muốn nỉ non gì nữa!". Rồi ông viết một bài thơ trao cho Tạ Điệp Tiên: Bất lưu túc nghiệt luy nhân tôn, bất hướng tình điền chủng ái căn;
Khỉ ngữ tảo trừ danh sĩ tập, họa lâu ninh phụ mỹ nhân ân.
(Tạm dịch:
Chẳng mong thê thiếp lậm dòng con,
Không muốn nương tình bén rễ yêu;
Lời đẹp đà buông thói sĩ tử,
Lầu son đành phụ ơn giai nhân).
Tin Tạ Điệp Tiên muốn gả mình cho Lâm Cầm Nam mau chóng lan truyền, tuy không thành sự thật, lại đã khiến cho thanh danh của nàng vang vọng. Biết bao kẻ giàu sang quyền quý đổ xô đến muốn được gần gũi nàng. Nàng không chịu nổi lòng phiền muộn, đang khi tức bực đã đáp nhận hôn ước với một thương gia buôn bán trà, lìa bỏ kinh kỳ đi tuốt miền Lĩnh Nam.
Gã th ất kinh, rướn mình thối lui, quả nhiên thấy một bàn tay đang bấu thành cửa sổ! Bàn tay đó khô quéo, hoàn toàn không còn huyết sắc, năm ngón tay co bấu chặt, có vẻ dồi dào lực đạo. Hàn Ngạc cau mày, thận trọng quay trở lại cửa sổ, muốn xem là ai mà lại có thể không hơi không tiếng đến sát bên gã như vậy! Nhưng khi mắt gã nhìn xuống bên dưới cửa sổ, gã lại lập tức ngây người. Cảnh tượng làm cho một người luôn luôn trấn định như gã cũng phải thất kinh là: bên dưới bàn tay không ngờ lại không có gì hết! Đó là một bàn tay đã đứt lìa, bị phạt ngang cổ tay! Rõ ràng đã bị chặt đứt từ lâu lắm rồi, bàn tay lại không bị thối rữa, vẫn cứng cỏi bám lấy thành cửa sổ, như muốn cào một vết lên khung. Một ngón trên bàn tay có mang một chiếc nhẫn bạc. Hàn Ngạc định thần nhìn kỹ, thấy trên chiếc nhẫn có khắc chữ, loáng thoáng nhận ra hai chữ "Tử Thần".
Hàn Ng ạc bàng hoàng, gã biết lai lịch của chiếc nhẫn bạc đó... "Tử Thần" là mật danh của một tổ chức bao gồm những hảo thủ tuyệt đỉnh trong hàng ngũ Đại nội thị vệ của triều đình đương kim, cái gọi là "Tử Thần ngân giới, thanh chấn cửu trùng"2. Ở Trường An thành, người trong giang hồ không ai không biết đến nó. Kẻ có thể được chọn gia nhập "Tử Thần" tất phải là cao thủ nhất nhì về một tuyệt kỹ nào đó. Người như vậy sao lại có thể bị chém đứt nguyên bàn tay? Hơn nữa còn ngay trên ngôi lầu này? Trong lầu thực ra đã xảy ra chuyện gì? Theo gã biết, trong Tử Thần đâu có ai chỉ còn một bàn tay.
Bàn tay đó rõ ràng đã bị chặt đứt từ lâu mà chưa bị rữa nát, đúng là thuật "Chỉ thủy bất hủ, phế xu bất đố"3 vốn chỉ nghe đồn trong truyền thuyết. Mà đó là bí thuật chỉ một mình "Pháp Hoa Tông" mới có, ngưng tụ "Ưu Đàm chân khí", lại đâu phải là loại công phu đệ tử Phật môn tu tập. Ngôi lầu nhỏ này thực ra có ẩn giấu bí mật gì đây? Hàn Ngạc nhíu chặt mày, chợt thấy dưới bàn tay lộ ra một góc trắng, là một vuông lụa sống cũ kỹ. Hàn Ngạc nhẹ nhàng rút cái khăn lụa đó ra, thấy chất vải cực tốt, trải bao phong sương mà vẫn không mục nát. Trên mặt lụa có vết đen lợt lạt, gã còn chưa kịp xem là viết hay vẽ cái gì, chợt cảnh giác ngẩng đầu lên, thấy một bóng người từ ngoài tường viện lộn mình vào, nhẹ nhàng lanh lẹ lướt tới.
Nhìn hình dáng có v ẻ là một nữ tử, y thị xem ra đã thụ thương, vết thương bên trên vai. Y thị chừng như khá quen thuộc khu vườn này, lọt vào rồi không cần nhìn quanh nhắm hướng, cứ nhún nhảy về phía cái ao dưới lầu. Trăng khuyết treo mình trên cao, ao nước lấp lánh thoáng in vầng lưỡi liềm. Đến lúc y thị vọt tới gần, ánh sáng lợt lạt chiếu lên một cái bớt xanh trên mặt y thị. Hàn Ngạc ngạc nhiên nhận ra người đến chính là nữ tử đã ám sát Vu Tự Vọng trên Thiên Tân kiều.
Trên vai nàng ta m ột mảng đen thui, là màu máu trong đêm tối. Hàn Ngạc giật mình, hôm trước gặp mặt, gã biết thân thủ của nàng ta không phải tầm thường, sao đêm nay lại bị thương như vậy?
Lúc này có m ột tiếng cười lạnh vang lên, bên ngoài lại có một bóng người vọt vào. Người đó cao to, tay hươi một thanh Hậu Bối đao, chính là Thất phẩm đái đao bộ khoái "Hậu Bối Đao" Hậu Kiện. Hắn vào vườn mà không vội vàng truy đuổi, từ từ bước tới, lạnh lùng thốt: "Cô nương, xem ra ta đoán không sai, cô quả có liên quan đến ngõ Luân Hồi này".
2 Cung tía nhẫn bạc, danh vang ngút trời.
3 Nước tù không bị thối, then đã lâu không dùng tới không bị mục gỉ.
N ữ tử bị thương cười thảm não, mặt mày nhìn khá thê lương dưới ánh trăng. Hậu Kiện lại nói: "Nếu cô nghĩ trốn chạy vào 'Thập Sá cổ đồ' trong ngõ Luân Hồi tất có thể an nhiên tự tại thì cô lầm rồi. 'Thập Sá đồ' này tuy lợi hại, mười sáu năm trước đã bị phá rồi".
"Th ập Sá cổ đồ"? Đó là cái gì? Hàn Ngạc hình như có chút ấn tượng trong đầu. Lẽ nào có liên quan đến "Bài Giáo" bắt nguồn từ Đại Hoang Sơn vùng Xuyên Tây? Mười sáu năm trước? Có phải là ngày Dư Quốc trượng ngộ hại?
Hàn Ng ạc còn đang trù trừ, nữ tử kia đã dừng lại trước ao, ôm vai thở hì hục, không nói tiếng nào.
Hậu Kiện thốt: "Vụ án Dư Quốc trượng năm xưa vẫn còn là một bí ẩn, vốn cũng đã qua tay ta, đáng tiếc về sau bị Hình bộ đoạt lấy. Vụ án đó hiển nhiên có ẩn tình, tiếc là bọn ta điều tra không được chút xíu kết quả nào. Chuyện đó tuy đến giờ vẫn chưa thể tra phá, nhưng theo ta biết trong Lạc Dương thành mấy năm gần đây đang có một lực lượng ngầm nhất quyết muốn phá cho được vụ án này để báo thù năm xưa. Phe đảng đó lấy hiệu là 'Lai Nghi'. Khà khà, 'Lai Nghi', 'Lai Nghi'... 'Lai Nghi'... dứt khoát là 'Lai Nghi' trong 'Hữu Phượng Lai Nghi'4 rồi, e cũng có liên quan đến cái chết kỳ quái của Dư Hoàng hậu năm xưa. Khẩu lệnh 'Lai Nghi' thanh thế vang dội gần đây chắc có dính dấp tới cô nương chứ?".
Hắn nói xong, đôi mắt chằm chặp nhìn nữ tử, quát lớn: "Nghe nói năm xưa hung thủ phá được 'Luân Hồi mật trận' dùng 'Thập Sá cổ đồ' bày bố, nguyên nhân vốn có liên hệ đến Vu Tự Vọng. Có phải vì vậy mà cô nương ám sát Vu Tự Vọng hôm qua không?".
Nữ tử khẽ cười lạnh: "Ngươi chớ có hỏi, ta tuy bị thương, nhưng đâu phải bị ngươi đả thương. Nếu chẳng phải ta dò la ở Đỗ gia bị thất thủ, trúng một tên, cỡ như ngươi vị tất có thể bắt được hành tung của ta, sao lại làm ra vẻ thắng chắc thế? Uổng cho ngươi thân là thống lĩnh bộ khoái ở Lạc Dương hơn hai mươi năm trời, huyết án năm xưa ngươi có điều tra được manh mối gì đâu chứ? Buồn cười, nực cười, bây giờ còn lớn tiếng không biết hổ thẹn trước mặt ta".
Hậu Kiện nóng mặt, hất đao nghiêm nghị thốt: "Cô nương, cô vốn không nên động thủ phạm pháp trong phạm vi quản hạt của ta. Hậu Kiện ta tuy quan phẩm thấp kém, nhưng cô làm loạn phép tắc triều đình, không cần biết bối cảnh của cô ra sao, thanh thế lớn mạnh tới cỡ nào, chỉ một điểm đó đã đủ khiến ta không thể không bắt giữ cô rồi".
Hắn dứt lời không nói gì nữa, lùi lại một bước, bóng dáng như hổ cứ khuyển tọa5. Hàn Ngạc vừa thấy là biết hắn đáng được coi là danh thủ võ lâm --- chiêu thức đó rõ ràng cho thấy hắn cực kỳ tinh thông "Cứ Tỏa Đao" của Bắc phái "Ngọa Hổ Cư". "Cứ Tỏa Đao" chiêu thức hùng mãnh, dùng "khuyển tọa" làm thủ, "hổ cứ" làm công, bất động rình rập, hễ có động chắc chắn sẽ đả thương người. Hậu Kiện sắc mặt nghiêm trọng, chìa ngón tay vuốt sống đao, cổ họng hừ khẽ một tiếng. Nữ tử có vẻ e ngại, giơ tay rút trong ống tay áo thanh đoản đao nàng ta từng sử dụng hôm qua, cũng dùng tả thủ như lần trước. Thân đao của nàng ta vừa hẹp vừa nhẹ, xem ra thiện dụng chiêu số hiểm ác đánh cận thân. Hàn Ngạc hơi thở cũng khẩn trương hẳn. Gã tuy là danh gia giang hồ, có thể xếp vào hàng vượt trội trong tầng lớp cao thủ tinh thông võ nghệ, nhưng gã biết rõ đạo nhà võ nói cho cùng thực ra đâu dễ phân biệt cao thấp gì, bất cứ một nhân tố ngẫu nhiên nào cũng có thể nhiễu loạn đảo lộn cục diện vốn có vẻ đã phán quyết được ai mạnh ai yếu. Cho dù là người ta thượng đài chứ đâu phải gã, ở bên ngoài gã cũng không khỏi không cảm thấy khẩn trương kích động.
Hậu Kiện bắt đầu có động, hắn bước theo Trung cung6, đạp Khảm nhập Ly, một đao chém thẳng đến. Đao đó không chút hoa mỹ trá xảo, muốn giành thắng trên phương diện lực kình. Đao chưa đến, đao phong đã quật tung tóc mây xõa trước trán nữ tử. Nữ tử biến sắc, không ngờ thanh đao dày cộm của Hậu Kiện có thể sai sử thần tốc đến thế. Nàng ta uốn hông lách tránh, đoản đao trong tay lại vẫn chưa xuất chiêu. Hậu Kiện cổ họng lại gầm khẽ một tiếng, đao thứ nhì không chém xuống nữa mà biến thành quét ngang, mười ba đường "Cứ Tỏa Đao" hắn đều có thể thi triển như ý, không chút trói chân bó tay, chẳng cần phải thuận đúng bài bản mà phát tác. Hàn Ngạc mắt sáng lên, sảng khoái tinh thần --- Đám tục thủ tầm thường chiêu thức lộ số rất hay bị bó buộc, hễ động thủ là chỉ biết y theo một bài mà đi, đâu có biết đó mới là đại kỵ khi đánh đấm. Xem Hậu Kiện xuất thủ như vậy, rõ ràng đã đạt được chỗ ảo diệu tự nhiên của đao pháp, đao cảnh, đao ý. Nữ tử kia công phu uốn hông cực giỏi, dưới chân không động đậy, cứ vặn eo tránh né. Còn đang chực chờ hoàn thủ, đao thứ ba của Hậu Kiện đã đổi quét thành chẻ, đập thẳng lên bờ vai nàng ta. Nữ tử kia lúc đó không còn có thể đứng tại chỗ lách tránh được nữa, chỉ còn nước rùn mình lùi lại, nhượng mất vị trí tốt nhất mà nàng ta cố giữ nãy giờ, đoản nhận trong tay tìm khe hở chọc vào, vừa thoát khỏi tay --- Trên mũi nhận của nàng không ngờ có buộc dây, ném bay ra lại thu về được. Hậu Kiện sắc mặt trầm trọng, "hừ" một tiếng: "Không ngờ mười mấy năm sau còn nhìn thấy được 'Luân Hồi Nhận' Lỗ phu nhân sáng chế năm xưa".
Hai hảo thủ dùng đao đều không dám lơ là, tiếng gió rít vùn vụt dưới lầu, hai người tận lực xuất thủ. Hàn Ngạc thấy nữ tử lọt vào thế kém, biết nàng bị vết thương hạn chế, đêm nay bất kể ra sao, e rằng khó tránh khỏi bị Hậu Kiện bắt. Trong lòng gã bỗng thoáng hiện lời nói của Dư cô cô bên "Ngọc Câu Tà" hồi chiều:
"Nếu ngươi có thể điều tra rõ chuyện trong ngõ Luân Hồi, ngươi có thể tìm ra xuất xứ của nàng; nếu ngươi có thể làm một chuyện hiệp nghĩa, ngươi có thể tra ra xuất xứ của nàng; nếu ngươi có thể trợ giúp một nữ tử yếu ớt, ngươi có thể tra ra xuất xứ của nàng".
Nữ tử yếu ớt mà cô ta nói có phải là nữ tử quen dùng "Luân Hồi Nhận" không?
Hàn Ngạc đang trầm tư, lại thấy cục diện dưới lầu có biến, nghe Hậu Kiện giọng trầm thấp: "Cô nương, thì ra cô võ công cao cường đến thế! Hậu mỗ nếu muốn bắt cô khi cô không bị thương thì e khá gian nan. Bất đắc dĩ thôi, Hậu mỗ chỉ đành đả thương cô!".
Ba chữ "đả thương cô" vừa thoát khỏi miệng hắn, đao pháp đã biến chuyển, xoay ngược lưỡi đao, dùng sống đao quật về phía nữ tử. Nữ tử kia dung nhan thê thảm, cả kinh la lên: "Hậu Phác Đao!".
"Hậu phác" vốn là cây thuốc đông y, cây cao lá thưa, tính khô, lá hình trái xoan, hoa màu trắng rất lớn, vỏ cây dùng làm thuốc, có tác dụng hút ẩm. Dùng tên nó cho đao pháp này của Hậu Kiện quả nhiên khô giòn hung mãnh đúng điệu. Hậu Kiện lần này dùng tâm pháp của "Hậu Phác Đao" để sử lộ số của "Cứ Tỏa Đao", tài danh như Hàn Ngạc cũng không thể không kính nể hắn. Nữ tử kia chợt ngửa mặt lên trời than một tiếng: "Ông trời, ông trời già, không ngờ ông bất công đến thế!".
Thanh âm nàng ta bi phẫn, Hàn Ngạc rúng động thần hồn, thấy dung nhan nàng cũng khá đáng thương. Không biết vì sao, gương mặt đó có một cái gì đó đả động đến gã, khiến gã nghĩ đến Phương Ninh. Đó gọi là "ký đắc lục la quần, xử xử liên phương thảo"7, Hàn Ngạc cảm thấy huyết khí trào dâng trong lòng. "Hậu Bối Đao" Hậu Kiện thấy sơ hở, một chiêu "Đảo Nghịch Tỏa" liền chặt lên vai nữ tử. Nữ tử đó tránh né không kịp, chỉ nghe trên lầu Hàn Ngạc quát lớn: "Chậm đã!". Gã thuận tay bẻ một đoạn chấn song, phóng thẳng đến bên hông Hậu Kiện, dùng công thế để cứu nàng ta.
Hậu Kiện mắt thấy sắp đắc thủ, sống đao đã chạm lên vai nữ tử kia, có thể loáng thoáng nghe tiếng xương cốt lách cách khe khẽ trên vai nàng ta, nhưng đành phải lách mình thu hồi lực khí, lẹ chân lui tránh. Hậu Kiện cũng không phải bở, vừa tránh ám khí vừa ngước đầu xông lên lầu quát lớn: "Ai?".
Hàn Ngạc cũng không muốn hãm mình vào trường tranh đấu trong Lạc Dương thành mà gã không biết ất giáp gì hết, quyết định lùi sâu vào bóng tối. Gã thò tay gỡ chiếc nhẫn bạc trên bàn tay khô quánh kia, đổi giọng quát khẽ: "Tiếp lấy!". Cái quăng đó của gã phô trương uy thế, tuy chỉ là một chiếc nhẫn bạc nho nhỏ, kình lực cũng kinh hồn không thua gì ám khí. Hậu Kiện trở cổ tay, xem thanh thế biết đối phương không có ý đả thương mình, liền đón nhận lấy. Sau đó hắn mở lòng bàn tay chăm chú quan sát, mặt mày liền biến sắc: "Tử Thần? Trong cung cũng có người đến?".
Hàn Ngạc vốn không quen nói láo, chỉ đành ẩn thân đằng sau cửa sổ ngậm miệng không nói gì. Hậu Kiện lại như đoán ra ý của đối phương, nghĩ ngợi một hồi mới dậm chân: "Được, các ngươi muốn xen tay, Hậu mỗ không lo tới nữa". Nói xong, hắn xoay mình lùi lại.
Nhưng nữ tử kia bỗng la lên: "Khoan đi đã!".
Hậu Kiện ngẩn người, nghĩ: không phải ngươi mong ta đi cho mau sao? Sao lại ngăn cản?
Nữ tử kia thốt: "Để lại ký hiệu".
Hậu Kiện thừ người, "hừ" một tiếng trong cổ họng, buông chiếc nhẫn bạc xuống đất. Vừa nhún mình, người đã bay lộn qua tường đi mất. Nữ tử lượm chiếc nhẫn bạc, không biết sao vừa nhìn là tựa như có vẻ thất vọng. Nàng ta định thần rồi mới quay đầu nhìn lên lầu thốt: "Đa tạ ân công".
Hàn Ngạc trong tình thế vốn không muốn ra gặp nàng, nhưng trong lòng đang lo cho người muốn tìm, do dự một hồi mới nhảy xuống. Nữ tử nhìn thân pháp lao mình của gã, khe khẽ thở dài: "Quả nhiên là Hàn công tử".
Hàn Ngạc bàng hoàng, Lạc Dương thành lại có người nhận ra gã?
Nữ tử hiểu ý nghĩ của gã, mở miệng thốt: "Thuật phi thân tuy có nhiều mạch, nhưng 'Đạp Ca Bộ' của dòng Thái Bạch thời nay vốn rất hiếm thấy. Có thể dùng nó khí thế đến như vậy, e rằng cũng chỉ có 'Thái Bạch kiếm khách' Hàn Ngạc Hàn công tử mới được thôi".
Hàn Ngạc không biết hồi đáp làm sao, lại nghe nữ tử nói: "Huống hồ ta cũng biết Hàn huynh đã đến Lạc Dương. Hàn huynh chắc còn nhớ đứa bé có vết chàm trên mặt tên gọi Tiểu Kế chứ?".
Hàn Ngạc gật gật đầu.
Nữ tử thở dài nhè nhẹ: "Ta là tỷ tỷ của nó. Ta tên Vu Tiệp".
Đến giờ nàng ta đã khoanh gối ngồi xuống một tảng đá. Thương thế của nàng ta không phải nhẹ, bị trúng tên trước, sau còn hứng một đao của Hậu Kiện, xương vai nàng cũng đã rạn nứt. Nàng ta cười nói: "Ta biết tại sao Hàn công tử đến. Không sai, ta đã nhận được bức họa đó". Nàng ta liếc sang thân ảnh Hàn Ngạc, mắt sáng lên, rồi lại toát ra vẻ ai oán, khoé môi mỉm cười nhè nhẹ: "Thực là một cô gái tuyệt đẹp --- Cũng chỉ có nàng mới xứng với người tài cao như Hàn huynh. Không trách Hàn huynh nhớ lo đến thế".
Nàng ta ngước ngước nhìn, có vẻ cảm thương thân thế mình: "Đời người sao lắm chuyện như ý đến thế. Nàng ta xuất thân trong một gia đình như vậy, cuộc sống thực như ý, lại tìm được người tri kỷ thế này, khá hơn nhiều so với một cô gái không căn không cội bạc mệnh phiêu du như ta".
Không biết tại sao khi Hàn Ngạc nhìn thấy thần tình của nàng, trong lòng không khỏi dâng lên niềm thương cảm. Tuy gã chỉ mới gặp Vu Tiệp, thấy chiêu số "Luân Hồi Nhận" lợi hại, nhưng không biết sao vẫn khiến cho gã có một thứ cảm giác tội nghiệp. Cảm giác đó gã chưa từng trải qua đối với Phương Ninh. Gã lắc lắc đầu, lòng thầm nghĩ: Hàn Ngạc ơi Hàn Ngạc, ngươi chớ có nghĩ ngợi lung tung, cô nương nhà người ta chỉ tình cờ thương thân trách phận mà thôi, đâu có dính dáng gì tới ngươi. Nhưng gã còn trẻ, nghe lời lẽ của đối phương rõ ràng ngầm khen mình, không khỏi có hơi khoan khoái trong lòng. Thần thái của nữ tử kia có vẻ rất thích gã, cười khẽ nói: "Nàng chắc là người tên tuổi lan truyền với Hàn huynh những năm gần đây, người ta đồn là 'Sách Kiếm vi minh, thần tiên quyến thuộc', 'Sách nữ' Phương Ninh phải không?".
Trong tay nàng ta giờ lại có thêm một bức họa vẽ bằng bút than, dưới ánh trăng người trong họa hiển hiện vẻ xinh xắn thanh tịnh khôn tả. Vu Tiệp cười nhẹ: "Thực là 'Tĩnh nữ kỳ xu', cũng khó trách Hàn huynh 'ái nhi bất kiến, tao thủ trì trù'8 như vậy".
Trên mặt nàng ta thoáng lộ vẻ trêu chọc, Hàn Ngạc cảm thấy xấu hổ, nhất thời không nói gì được. Mặt gã ửng đỏ, tuy được bóng đêm che đậy, nhưng một chân không kềm được dí nhè nhẹ trên mặt đất, tình trạng cực kỳ bất an. Nữ tử kia có vẻ rất thích thấy nam nhân như gã mắc cỡ, làm như nhìn nhìn hình, lại ngó ngó gã, rõ ràng là cố ý kéo dài thời gian để thưởng thức vẻ ngượng nghịu rất nam tính của gã.
Nàng ta cứ ngồi yên nhìn ngó hành hạ Hàn Ngạc đến thê thảm. Mãi cho đến khi thấy gã lấp vấp đủ rồi, nàng ta mới cười nói: "Hàn huynh thực muốn biết nơi hạ lạc của nàng?".
Hàn Ngạc đỏ mặt gật đầu.
Nữ tử ngẩng cổ cười: "Được rồi, Hàn huynh đáp ứng ta một chuyện trước đã".
Nàng ta ngước cổ, tuy mặt có một cái bớt xanh điểm phá dung nhan, nhưng lại có một thần thái tiêu sái sảng khoái hơn các cô gái mà Hàn Ngạc từng gặp. Hàn Ngạc có vẻ bẽn lẽn: "Chuyện gì?".
Nữ tử thốt: "Miễn sao không trái với hiệp nghĩa, không phản lại đạo đức, Hàn huynh đáp ứng chứ?".
Hàn Ngạc thoát miệng đáp: "Ta đáp ứng".
Mặt mày nữ tử hơi ủ rũ, thở dài nhè nhẹ: "Ta biết Hàn huynh không phải là người coi nhẹ lời hứa, nhận lời mau như vậy, nhất định là thực lòng lo lắng cho Phương Ninh. Nàng ta thực... có phước quá".
Trên mặt nàng ta lại có thần tình tủi phận. Hàn Ngạc làm sao hiểu nổi tâm tư cả ngày biến chuyển trăm ngàn bề của giới nữ, chỉ cảm thấy thần thái mặt ủ mày chau của nàng ta quá... thực quá... thực quá... Bụng dạ nghĩ vẩn vơ, mặt mày gã không tránh khỏi lại đỏ bừng lên. Nữ tử kia cười nói: "Nếu ta muốn Hàn huynh nhận lời chịu cưới ta, trọn đời trọn kiếp gần gũi nhau, rồi ta giúp huynh đi tìm Phương Ninh, vậy Hàn huynh cũng làm chứ?".
Hàn Ngạc cơ hồ giật mình té ngã, nữ tử cười thích thú: "Hàn huynh yên tâm, Vu Tiệp ta đâu đến mức làm mất hứng vậy chứ, ta chỉ muốn...". Nàng ta nghiêm mặt nói: "Ta chỉ muốn Hàn huynh đáp ứng từ hôm nay trở đi, bất kể là sao, phải bảo vệ tính mạng của ta, đợi ta báo xong mối đại cừu cho thân phụ".
"Nếu Hàn huynh làm không được, để ta bỏ mình, Hàn huynh phải giúp ta báo mối thù cũ của ngõ hẻm Luân Hồi này".
Nàng ta khe khẽ thở dài: "Với tài nghệ của Hàn huynh, ta biết Hàn huynh bảo vệ được ta. Một khi ta báo thù xong, Hàn huynh có thể quên người con gái ta đây, sống chết sau này tuyệt không liên quan đến Hàn huynh nữa. Mà ta nhất định sẽ giúp Hàn huynh tìm ra Phương Ninh, Hàn huynh nhận lời chứ?".
Hàn Ngạc cảm thấy lời nói của nữ tử vừa uyển chuyển quyến rũ vừa thần bí khôn lường này hoàn toàn không chừa cho mình đường thoát. Nhưng lời hứa đâu thể coi thường, gã ngẫm nghĩ một hồi rồi gật đầu thốt: "Ta nhận lời".
Nữ tử thở dài nhè nhẹ, mặt hiện vẻ lạc lõng: "Mong rằng không cần biết ra sao, Hàn huynh không phải hối hận vì lời hứa hôm nay. Ba ngày sau, đợi ta dò la điều tra xong, sẽ lại đến đây nói cho Hàn huynh biết nơi hạ lạc của người huynh muốn tìm".
Nói xong, nàng ta đứng dậy. Nàng ta vốn gần sát Hàn Ngạc, vừa đứng lên, mặt hai người cơ hồ chạm vào nhau. Hàn Ngạc cũng không nỡ lùi, gã có thể ngửi được mùi hương con gái thoang thoảng. Vu Tiệp nhẹ giọng: "Ta đã được Hàn huynh trợ giúp, giờ lại làm tới, ép Hàn huynh lọt vào phiền toái tự ta gây ra, Hàn huynh không cảm thấy ta là một kẻ tiểu nhân bỉ ổi sao?".
Hàn Ngạc hoảng kinh: "Đâu có".
Vu Tiệp cười nói: "Xem ra Hàn huynh quả nhiên là người thương hương tiếc ngọc, không trách Dư cô cô nói tướng mệnh của Hàn huynh tuy cực tốt, sợ rằng không qua khỏi nạn hồng phấn. Mọi sự đêm nay chỉ vì ta là một cô gái phải không?".
Nàng dịu dàng vuốt tóc, để hiện dung nhan thuần khiết có một nét thu hút riêng tư. Lại nghe nàng cười khe khẽ thốt: "Hàn huynh thực là, sao lại... quá đa tình?".
Hàn Ngạc bị nàng ta phá đến rối loạn đầu óc, miệng lưỡi cứng đơ không đáp nên lời. Nữ tử bỏ vẻ châm chọc đùa bỡn, thở dài nhè nhẹ thốt: "Sao lại quá đa tình? Nhưng đa tình sao lại vô tình đến thế! Lời này ta không nên nói, nhưng đến lúc huynh sẽ biết. Phương Ninh tuy tốt, sợ rằng lại không phải... lại không phải là người tốt để sánh đôi với Hàn huynh".
Nàng ta nói xong, giơ tay vuốt phớt một cái hàm ẩn đầy thương tiếc qua má Hàn Ngạc đang thừ người ra, cười khe khẽ, trong tiếng cười chất chứa chút thở than, người thoáng đó đã mất hút.
Hàn Ngạc ngơ ngẩn tại đương trường: mấy ngày nay sao gã đụng toàn chuyện ly kỳ cổ quái vậy? Gã trầm tư một lúc, đầu óc không giải thích nổi, đột nhiên tai gã dựng lên, nghe bên ngoài tường không xa lắm chợt vang lên tiếng đoản đao rít gió, đồng thời cũng truyền lại một tiếng la hoảng của một nữ tử --- Đó là thanh âm của Vu Tiệp.
Gã giật mình, thân hình vọt lên, thi triển "Đạp Ca Bộ" mà Vu Tiệp mới nhắc đến, bay bổng lộn mình ra ngoài tường. Vừa ngước lên nhìn, thấy cuối hẻm có ba bóng người đang vây đánh Vu Tiệp. Gã mới hứa hẹn, lập tức phi thân lao đến muốn cứu trợ. Ba người kia thân thủ mẫn tiệp, gã vừa rướn mình vọt lên, chúng đã điểm ngã Vu Tiệp, vác lên lưng bỏ chạy.
Hàn Ngạc giận dữ quát: "Đứng lại!".
Gã gia tăng tốc độ, lao nhanh tới như chim bay. Ba bóng người kia cũng chạy cực lẹ, tựa hồ một khi đắc thủ quyết chí lui nhanh. Hàn Ngạc khinh công cực giỏi, tuy đi sau, nhưng nhanh nhẹn như chớp, vọt mình mấy lượt đã đến đầu hẻm, chỉ còn cách ba tên kia chưa tới một tầm tên bay. Hàn Ngạc yên tâm phần nào, biết mình chỉ cần đề khí thêm vài lượt là có thể rượt kịp. Khi đó mé trái đầu ngõ lại có tiếng xe lộc cộc, một cỗ xe ngựa đang thừa đêm khuya thanh vắng thần tốc lăn bánh.
Hàn Ngạc không để ý, cứ đuổi tới trước, nhưng sau lưng thình lình truyền vọng một tiếng "a" khe khẽ.
Hàn Ngạc cảm thấy thanh âm đó rất quen thuộc, đầu như bị sét đánh. Gã quay đầu, thấy một cỗ xe ngựa mái vòm tròn bằng gấm thêu hoa màu xanh ngọc bích nhẹ nhàng khéo léo lướt qua sau lưng gã. Người trong xe hình như nói gì đó, xe vụt chậm lại. Hàn Ngạc vừa nhìn thoáng qua đã thấy cỗ xe đó cực kỳ tinh trí, tuy trong đêm tối vẫn có thể nhận ra trướng rèm sang trọng, thực là "Phượng vĩ hương la bạc kỷ trùng"9. Hàn Ngạc ngước nhìn, thấy rèm khẽ vén mở, bên trong lộ ra một gương mặt dung mạo tuyệt thế vừa kinh hoàng vừa ngạc nhiên. Đầu gã như bị đập một búa nặng nề, cổ họng khô ran, trí não nhất thời mơ hồ --- Chúng lý tầm tha thiên bách độ... chúng lý tầm tha thiên bách độ10!
Gương mặt đó rõ ràng là gương mặt của người gã nhớ nhung tìm kiếm, Phương Ninh. Quyển I: Ban Chuy đợi Chương 5
Oa ngưu giác trung tranh hà sự1
4 Điển cố xuất xứ từ sách "Thượng Thư - Ích Tắc": "Tiêu Thiều cửu thành, phượng hoàng lai nghi" (Tấu khúc Tiêu Thiều chín chương, phượng hoàng đến phối hợp nhau múa lượn). Tiêu Thiều là âm nhạc thời vua Thuấn, chia làm chín chương, cho nên Tiêu Thiều còn gọi là Cửu Thiều. Sách "Luận Ngữ - Thuật Nhi" có viết: "Tử tại Tề, văn 'Thiều', bất tri nhục vị. Viết: bất đồ vi nhạc chi chí vu tư dã" (Khổng Tử ở Tề, học "Thiều" ba tháng, ăn không biết mùi thịt. Ông rằng: không ngờ nhạc lại vui đến thế). "Nghi" là phối hợp. Phượng hoàng là điểu vương trong truyền thuyết. Con trống gọi là "phượng", con cái gọi là "hoàng", có thể gọi chung là "phượng" hay "phượng hoàng". Sách "Nhĩ Nhã - Thích Điểu" có viết: "Con trống là phượng, con cái là hoàng". Quách Phác chú: "Đầu gà, cổ rắn, mỏ yến, lưng rùa, đuôi cá, năm màu, cao cỡ sáu thước". Sau này dùng để chỉ hoàng hậu và quý phi. Vì vậy câu "Tiêu Thiều cửu thành, phượng hoàng lai nghi" ý nói diễn tấu khúc Tiêu Thiều liên tục, phượng hoàng cũng theo điệu nhạc mà phối hợp nhau bay múa. "Tiêu Thiều cửu thành" cũng muốn nói "Thánh chúa" công đức vô lượng, cho nên dẫn tới "điềm lành". "Điềm lành" là "phượng hoàng lai nghi".
5 Hổ xoạc chân, chó ngồi xổm.
6 Tử Vi viên là trung viên của tam viên (tam viên là Tử Vi viên, Thái Vi viên và Thiên vi viên), ở trung ương trời Bắc, cho nên còn gọi là Trung cung, hoặc Tử Vi cung.
7 Hai câu "Ký đắc lục la quần, xứ xứ liên phương thảo" nằm trong bài từ "Sinh Tra Tử - Xuân Sơn Yên Dục Thu" của Ngưu Hi Tế đời Đường. Phút chia tay, người con gái dặn dò tình lang: xin chàng nhớ cái quần lụa xanh của thiếp, thương nhớ cỏ thơm trước đầu ngựa cũng giống như thương nhớ cái quần lụa của thiếp, thương nhớ thiếp vậy. Nhìn cỏ thơm tận cùng trời cuối đất, nghĩ tới cái quần lụa xanh, nhớ tới thiếp. Hai câu trên vốn hóa thân từ bài "Phú Đình Thảo" của người vợ ông Giang Tổng đời Nam triều: "Vũ quá thảo thiên thiên, liên vân trấn nam mạch. Môn tiền quân thí khán, thị thiếp la quần sắc". Tuy vậy, hai bài lại khác ý. Bài "Phú Đình Thảo" có ý phân bì một cách đắc ý. Mưa thắm xanh cỏ cây khắp phía nam. Cô nàng nhìn một màu xanh động lòng người đó, mới nói với tình lang: chàng nhìn màu xanh mơn mởn trước cửa kìa, giống như cái quần lụa xanh thiếp đang mặc vậy. Cô nàng đang nũng nịu với tình lang, có vẻ như mỉm cười hỏi chàng xem hoa đẹp hơn hay là thiếp đẹp hơn. Con gái ưa thích được yêu chìu để ý, dĩ nhiên muốn tình lang nói: đương nhiên là nàng đẹp; dĩ nhiên muốn được nghe: cái quần lụa của nàng cũng đẹp như thảm cỏ xanh bên ngoài vậy.
Còn hy v ọng của cô nàng trong bài từ của Ngưu Hi Tế là cho dù chàng có đi xa đến tận thiên nhai, cho dù xanh rờn hơn hết, cho dù đã lâu không về nhà, cũng đừng vì sự hạn chế thời gian và không gian mà quên đi cô nàng, quên đi cô nàng đang trông ngóng trước cửa. Cỏ xanh trước đầu ngựa của chàng sẽ nhắc nhở chàng, giúp chàng nhớ tới cái quần lụa xanh, nhớ tới cô nàng. Tình cảm đó là quyến luyến không buông, là lo âu chờ đợi.
8 Câu "Tĩnh nữ kỳ xu, sĩ ngã vu thành ngung, ái nhi bất kiến, tao thủ trì trù" (cô nàng văn nhã xinh đẹp, hẹn ta ở góc thành, thị tuyến ta bị che khuất không nhìn thấy, đầu óc bồi hồi lòng dạ khẩn trương) thuộc bài dân ca "Tĩnh nữ" trong sách "Thi Kinh Bội Phong" (Thi Kinh bản nước Bội). Đây là một bài tình ca một nam một nữ hẹn hò. Thiếu nữ cố ý trốn ở góc thành ("ái nhi bất kiến"), nam tử bồn chồn đứng ngồi không yên ("tao thủ tri trù").
9 Truyện tả mái xe vòm tròn bằng gấm thêu hoa màu xanh ngọc bích và câu thơ trên ý nhắc đến hai câu trong bài "Vô Đề - nhị thủ" của Lý Thương Ẩn: "Phượng vĩ hương la bạc kỷ trùng, bích văn viên đính dạ thâm phùng". "Phượng vĩ hương la" là loại màn mỏng có thêu hình chim phượng. "Bích văn viên đính" chỉ trướng màn mái vòm tròn có thêu hoa màu xanh ngọc bích. Trướng màn (la trướng) trong thi ca cổ đại thường được dùng làm tượng trưng cho sự hảo hợp nam nữ. Hai câu thơ này tả cô gái đêm khuya ngồi may trướng màn, thông qua hành động có thể suy đoán cô gái đại khái là một nữ tử khuê các cô đơn, đang đắm chìm trong hồi ức và trông đợi ngày đoàn viên.
10 "Chúng lý tầm tha thiên bách độ" là câu trong bài Uyển ước từ mang tên "Thanh Ngọc Án - Nguyên Tịch" của Tân Khí Tật:
Đ ông phong dạ phóng hoa thiên thụ, canh xuy lạc tinh như vũ. Bảo mã điêu xa hương mãn lộ. Phượng tiêu thanh động, ngọc hồ quang chuyển, nhất dạ ngư long vũ.
Nga nhân tuyết liễu hoàng kim lũ, tiếu ngữ doanh doanh ám hương khứ. Chúng lí tầm tha thiên bách độ, mạch nhiên hồi thủ, na nhân khước tại, đăng hỏa lan san xử.
(Gió đông như thúc hàng ngàn cây hoa nở rộ, lại như thổi rơi hết sao trên trời, tựa một trận mưa sao. Xe cao ngựa quý hoa lệ qua qua lại lại trên đường, hương thơm say đắm hồn người lan khắp đường xá. Âm nhạc êm tai vang vọng tứ xứ, tiếng tiêu hòa ánh trăng, trọn đêm náo nhiệt đèn cá đèn rồng sặc sỡ. Biết bao mỹ nhân đầu gắn trang sức hoa lệ tỏa ngời đang dập dìu trong đám đông, mặt mày tươi cười, làn hương thơm thoang thoảng đi ngang qua mặt. Ta tìm nàng đã trăm ngàn lần mà cũng không thấy, bất giác quay đầu, lại thấy nàng đứng nơi leo lét đèn lửa).
Bài từ trường phái Uyển ước này mượn bối cảnh Tết Nguyên Tiêu rộn ràng nhộn nhịp để bày tỏ hình tượng giai nhân cô độc không ham vàng son, vượt quá thói tục, ký thác tâm sự cao ngạo không muốn hòa lẫn với thế tục của tác giả.
Dung nhan m ấy tháng nay gã luôn hoài niệm khó quên vừa hiện ra, mục quang hai người vừa chạm vào nhau, lại thấy rèm châu rũ kín, người trong rèm khẩn trương giục một tiếng: "Đi!".
Xe ng ựa lập tức vọt đi.
Nếu muốn đuổi theo, Hàn Ngạc vẫn có thể đuổi kịp. Nhưng... nhưng... nhưng... trong lòng gã đang đắn đo: thực đó là Phương Ninh? Nếu thực là nàng, sao lại ngồi chiếc xe đặc dị như vậy? Mà nếu nàng biết mình đã trái lời hứa tiến vào Lạc Dương thành này
-- nơi mà nàng dặn đi dặn lại mình đừng bước vào --- nàng có bực tức không? Vừa nãy trên mặt nàng có phải thoáng chút giận dữ không?
Trong đầu gã ý nghĩ xoay chuyển vùn vụt, cước bộ nhất thời chần chừ, còn chưa nghĩ ra được gì thì xe đã khuất bóng. Gã vỗ trán quay phắt lại, nhưng ba bóng người bắt Vu Tiệp mang đi cũng không còn thấy đâu nữa.
o0o
Sáng sớm ngày hôm sau Hàn Ngạc dậy rất trễ --- Cả đêm hôm qua trằn trọc không ngủ yên giấc, trong cơn mộng mị hai cô nàng thay phiên nhau xuất hiện, khiến cho giấc mơ của gã nát thành từng mảnh vụn, không còn nhớ rõ đã mơ thấy gì. Gã mơ hồ cảm thấy thần tình của hai cô gái đều trấn định nghiêm túc, chỉ có họ Hàn gã xoay vùn vụt ở giữa, hoảng loạn khôn tả.
Hàn Ngạc loáng thoáng nghe như có ai đó đang thở nhẹ ở ngưỡng cửa. Gã định thần lại, ngoài cửa có người sao? Hoang mang, gã đứng dậy mở cửa, thấy ngay trước cửa có một hài tử đang cúi đầu quỳ. Hàn Ngạc ngẩn người, đứa bé thấy gã đi ra, thân người run bần bật, cổ họng nấc khe khẽ. Hàn Ngạc giơ tay nâng cằm nó, thấy mặt nó đầm đìa nước mắt, chính là Vu Tiểu Kế đã đã từng gặp một lần.
Mặt Vu Tiểu Kế ngấn lệ nhoè nhoẹt, hòa với đôi mắt cái mũi bé xíu của nó, trông thực khả ái đáng thương. Hàn Ngạc vội vàng muốn kéo nó dậy, ngạc nhiên hỏi: "Tiểu Kế, ngươi làm sao vậy? Có người ăn hiếp ngươi?".
Vu Tiểu Kế khóc nức nở: "Hàn công tử, tôi cầu huynh một chuyện, nếu huynh không nhận lời, tôi không đứng dậy đâu".
Hàn Ngạc còn chưa hoàn toàn tỉnh táo, hỏi: "Chuyện gì? Ngươi nói trước đã".
Vu Tiểu Kế khóc: "Huynh nói có nhận hay không nhận lời cái đi".
Không biết sao Hàn Ngạc nhìn thấy bộ dạng nó khóc thút thít, trong lòng bất nhẫn đến cực độ, ráng kéo nó dậy. Chân Tiểu Kế hổng lên không mà vẫn cong cuộn ở tư thế quỳ. Hàn Ngạc bưng nó vào nhà, đóng cửa lại mới nói: "Bây giờ ngươi nói đi, nếu ta có thể nhận lời sẽ nhận lời ngay".
Vu Tiểu Kế khóc nấc: "Huynh nhất định phải nhận lời nhé --- Tỷ tỷ của tôi bị bọn chúng bắt đi rồi, lần này nếu huynh không cứu, không còn ai có thể cứu được chị ta nữa. Bọn chúng hung dữ lắm! Hàn ca ca, Hàn gia, Hàn công tử, Hàn đại hiệp, cầu xin huynh cứu giùm tỷ tỷ tôi!".
Hàn Ngạc vỗ đầu, tới giờ mới nhớ tới đêm hôm qua Vu Tiệp từng nói nàng ta là tỷ tỷ của Vu Tiểu Kế. Gã bùi ngùi than: "Ngươi sao lại biết tỷ tỷ của ngươi bị bắt đi? Đêm hôm qua ngươi thấy hết à?".
Vu Tiểu Kế gật gật đầu.
Hàn Ngạc thở dài thốt: "Vậy ngươi biết người nào bắt chị ta đi chứ?".
Vu Tiểu Kế nghiến răng: "Là người của Vệ Úy Tự".
Hàn Ngạc không khỏi nhíu chặt mày. Gã chầm chậm đi đến bên giường ngồi xuống. Phải biết bộ sậu quan lại của triều đình đương kim nguyên có Tam Tỉnh - Lục Bộ, ngoài ra còn có Nhất Đài - Ngũ Giám - Cửu Tự. Vệ Úy Tự là một trong "Cửu Tự", chấp chưởng binh khí nghi trượng của Hoàng thất. Sao Vu Tiệp cùng chuyện ngõ Luân Hồi lại dính dấp sâu xa với Hoàng thất như vậy? Hàn Ngạc buồn bã thở dài, thấp giọng: "Tiểu Kế, ngươi biết mà, ta xuất thân từ vùng núi Thái Bạch, bao nhiêu võ thuật đều học từ một sư thừa. Đất Thái Bạch gần Trường An, sư phụ của ta người ta gọi là 'Trường Canh lão nhân', hiệu là 'Thái Ất chân nhân'. Sư môn của ta thầy truyền đến trò không có mấy người, cũng rất ít môn quy giới luật. Sư phụ ta cả đời không có yêu cầu gì đối với ta, cuối cùng trước khi ta xuất môn, ông ta chỉ yêu cầu ta một chuyện".
Gã ngước lên --- Gã tuy sống trong rừng núi, lại đâu phải không nhìn rõ thời thế. Đây đúng là mạt thế, đầy dẫy khuynh loát, tranh đấu giữa người với người. Phú hộ quyền thế, các thế lực trong triều dã, ai ai cũng ngấm ngầm tranh giành ác đấu. Gã thầm thở dài, nhẹ nhàng thốt: "Đó là ông ta yêu cầu ta tuyệt đối đừng để bị lôi cuốn vào chuyện của Hoàng thất và triều đình. Ông ta luôn luôn không hạn chế ta theo giới điều gì, chỉ yêu cầu ta một chuyện đó. Ta cũng từng thầm hứa: điểm đó, bất kể ra sao, cũng phải nghe theo ông ta mà làm. Cho nên mấy năm nay ta tuy trôi dạt tứ xứ, dính dấp vào khá nhiều vụ việc, lại vẫn chưa từng để bị kéo vào sự vụ trong Hoàng thất và triều đình. Ta nói như vậy chắc ngươi hiểu chứ? Huống hồ cho dù ta võ nghệ cao cường, cũng đâu đủ sức một mình có thể chống chọi lại cao thủ Đại nội 'Tử Thần' cùng 'Ngũ Giám' - 'Cửu Tự'. Mà chuyện của tỷ tỷ ngươi rõ ràng có dây dưa khá thâm sâu với chúng".
Vu Tiểu Kế thẫn thờ lắng nghe, đến giờ mới minh bạch là Hàn Ngạc cự tuyệt. Trong bụng nó khẩn trương, nhưng ngoài miệng cũng không biết nói gì đây, chỉ cảm thấy thế gian mênh mông này, không cần biết là sao, Hàn Ngạc là chỗ dựa và niềm trông mong cuối cùng của nó. Nó không nói gì, quỳ bên chân Hàn Ngạc, dựa cái cằm bé lên đùi Hàn Ngạc. Trước mặt người khác nó rất cứng cỏi, nhưng trước mặt Hàn Ngạc, bụng không biết tại sao chỉ có một cảm giác tín nhiệm ỷ lại. Hàn Ngạc ngây người ngồi yên, một hồi sau trên đùi chèm nhẹp nước mắt nước mũi của Tiểu Kế, trong lòng lại bỗng dâng lên một nỗi niềm ôn nhu thương cảm. Gã chưa từng nói chuyện thân mật với con nít như vầy. Gã chợt cúi đầu cười, Tiểu Kế không nhìn thấy, Hàn Ngạc quyết định trêu chọc, nhẹ nhàng nâng cằm nó, mặt mày nghiêm túc: "Cho nên...".
Gã nhíu mày lại, Tiểu Kế thấy gã rõ ràng muốn cự tuyệt, trong mắt nó lệ lại muốn tuôn rơi. Hàn Ngạc chợt cười nói: "Tên phá phách nhà ngươi thì ra cũng có lúc sợ sệt! Cho nên... tỷ tỷ của ngươi bị giam, ta xuất thủ tương cứu, cũng chỉ có thể coi như phá lệ. Chuyện phá lệ như vậy chỉ có một lần chứ không có lần thứ hai đâu đó!".
Vu Tiểu Kế liền hưng phấn nhảy dựng lên, la lớn: "Hàn ca, huynh đùa chọc tôi".
Hàn Ngạc bẹo bẹo cằm nó, mỉm cười thốt: "Không đùa với ngươi thì đùa với ai? Thì ra hài tử nhà ngươi cũng nhõng nhẽo đến thế. Thực ra cho dù ngươi không xin ta, hôm qua ta cũng đã nhận lời tỷ tỷ của ngươi, ta đâu thể không lo tới chuyện của nàng ta. Mà ngươi nhõng nhẽo như vầy, nếu hôm qua ta chưa đáp ứng nàng ta, hôm nay e rằng cũng phải bị ngươi lôi kéo không thể nào không nhận lời".
Vu Tiểu Kế mặt đỏ bừng, có vẻ bẽn lẽn, dúi mặt sau nách Hàn Ngạc: "Hàn đại ca, chỉ cần huynh cứu tỷ tỷ của tôi, sau này tôi tình nguyện làm tiểu đồng của huynh, làm nô làm bộc, dầu sôi lửa bỏng cũng nhào vào, huynh có sai bảo gì tôi cũng quyết không sờn lòng".
Hàn Ngạc cười nói: "Thôi đi, nhận ngươi làm tiểu đồng? Ta cứu tỷ tỷ ngươi còn chưa đủ, lại phải nuôi ngươi trọn đời sao? Ta thực tối tăm hồ đồ rồi! Có trời mới biết tiểu quỷ ngươi còn gây thêm chuyện phiền toái gì cho ta".
Tiểu Kế thấy gã cười đùa, được thế bò lên ôm gã cười hì hì nói: "Hàn gia, huynh biết tôi mồ côi chứ, tỷ tỷ của tôi cũng không để ý đến tôi, huynh nhận lời cho rồi".
Dưới lầu đột nhiên truyền lại ba tiếng vỗ tay một dài hai ngắn, Tiểu Kế sắc mặt nghiêm nghị nói: "Đến rồi".
Hàn Ngạc ngạc nhiên: "Cái gì đến?".
Vu Tiểu Kế giơ tay áo chùi nước mắt, cười nói: "Là tôi hẹn người đến giúp Hàn gia. Trước khi tỷ tỷ tôi bị bắt đã từng dặn dò tôi nếu chị ta có chuyện, hễ chị bị bắt thì phải tìm hai người, một là Cổ Siêu Trác của Ngự Sử Đài, một là Hàn đại ca. Đêm hôm qua tôi đi tìm Cổ Siêu Trác, nói nếu hắn muốn gặp Hàn đại ca thì hôm nay cứ kêu người đến dưới lầu của khách điếm này ra hiệu, bọn ta sẽ gặp mặt ở Đổng gia Tửu lâu".
Hàn Ngạc không biết tại sao tim thót lên, thấp thoáng cảm thấy hai chị em họ Vu này cho dù nhìn có vẻ cô độc yếu đuối đáng thương, nhưng kỳ mưu diệu toán đến mức trù hoạch chi li ăn khớp từng bước trước khi đến tìm mình, thậm chí có vẻ đã tính toán chuẩn xác từ trước khi mình đến lần này. Mà chuyến đi Lạc Dương kỳ này, những ngày qua đã cho gã cái cảm giác chừng như có biết bao nhiêu người đã đợi chờ mình từ lâu! Trước hết là 'oan hồn' Dư Quốc trượng xuất hiện trong ngõ Luân Hồi, rồi An Lạc Oa "Dư cô cô" xem tướng một cách lờ mờ không nói rõ, sao lại từng bước từng bước như muốn lôi cuốn mình vào bí ẩn năm xưa?
o0o
Trên Đổng gia Tửu lâu, nơi Hàn Ngạc gặp mặt Cổ Siêu Trác lại là nhã tọa chứ không phải chỗ lần trước. Chỗ ngồi này có ba tấm bình phong lụa sống quây quanh, tranh vẽ chim thú trên bình phong khá thanh nhã tinh trí. Ngoài cửa sổ là con đường ồn ào nhộn nhịp cùng Lạc Dương hà chia cách nam bắc. Hàn Ngạc và Vu Tiểu Kế vừa vào tửu lâu, một điếm tiểu nhị ra đón liền, dẫn bọn họ vào nhã tọa này.
Hàn Ngạc qua khỏi tấm bình phong liền thấy một nam tử cỡ hăm bảy hăm tám mặc thường phục áo dài mỉm cười đứng dậy. Nam tử đó rất cao, Hàn Ngạc vừa trông thấy cũng có hơi kinh ngạc: không ngờ trong Ngự Sử Đài lại có hảo thủ chuyên cần tu tập võ nghệ như vậy! Lưng eo thon dẻo của nam tử đó ràng ràng hiển lộ hắn nhất định là người luyện võ từ nhỏ. Tiểu Kế im ỉm nhìn hai người, trong bụng so bì thân người tinh anh của họ, ánh mắt nó có thần tình của một đứa bé khát vọng trưởng thành.
Nam tử kia vừa thấy Hàn Ngạc tiến vào liền vòng tay cúi chào, sau đó giơ hữu thủ ra muốn bắt tay với Hàn Ngạc.
Hàn Ngạc cũng giơ tay ra nắm, không ngờ vừa sắp chạm tay, nam tử đó lại xoay cổ tay bắt lấy uyển mạch của Hàn Ngạc. Hàn Ngạc cong cổ tay lại, thoát khỏi cái bắt của hắn, lại thò ngón tay búng một cái về chỗ mạch bộ Quan Thốn của nam tử; nam tử đó cũng không phải quờ quạng, đằng cổ tay xuống, vẫn nắm bắt uyển mạch của Hàn Ngạc, tuyệt kỹ hắn dùng rõ ràng là "Long Môn Cửu Đả" cầm nã thủ lừng danh; Hàn Ngạc có tập qua phép này, cũng lập tức thi triển một thức "Triều Ti Giải Oản" trong "Cửu Đả" để né. Hai người mặt mày bình tĩnh, tay co móc vít bấu công thủ chớp nhoáng, chỉ chưởng thỉnh thoảng chạm nhẹ là lập tức để lại một dấu đỏ trên da thịt đối phương. Hàn Ngạc chợt đằng khuỷu tay, một thức "Khiêu Đăng Dịch Nhị" thoát khỏi cái chộp của đối phương, trở bàn tay nhẹ nhàng nắm chắc năm ngón tay của đối phương, đối phương có dấn lực thì gã cũng sẽ dồn sức đắp đổi.
Người kia ngẩn ngơ, tươi cười nói: "Hàn huynh!".
Hàn Ngạc cũng nhìn vào mắt đối phương: "Cổ... Siêu Trác... huynh".
Nam tử gật đầu cười. Mắt bọn họ đều đang chăm chú nhìn đối phương, tuy mới gần một khắc, nhưng đã cảm thấy đối phương xem chừng cũng là người khẳng khái --- Muốn xem người ngó tướng, mắt vốn là nơi khó thể che giấu khí độ tâm địa nhất. Hàn Ngạc mỉm cười buông tay, Cổ Siêu Trác cười nói: "Không lạ gì tiểu đệ mỗi lần gặp đồng đạo võ lâm từ Quan Trung đến, bất kể là danh đồ cao thủ nào cũng đều tán tụng Hàn huynh tuổi trẻ tài cao, vượt ngoài phàm tục, dòng dõi danh môn, về mặt võ nghệ có thể độc bá Quan Trung. Hôm nay chứng kiến quả nhiên danh bất hư truyền, hân hạnh, hân hạnh!".
Hắn lại giơ tay nắm tay Hàn Ngạc, rồi cười nói: "Hàn huynh, mời ngồi".
Hàn Ngạc cũng cười đáp ngồi xuống. Tiểu Kế lại không chịu ngồi, chỉ đứng sau lưng gã. Nhìn thần sắc của nó, tựa như cảm thấy rất đắc ý đã vời được vị bồ tát Hàn Ngạc này đến. Cổ Siêu Trác cười nói: "Hàn huynh thực muốn nhúng tay vào vụ án ám sát trên Thiên Tân kiều sao?".
Hàn Ngạc gật gật đầu, chờ Cổ Siêu Trác nói tiếp.
Cổ Siêu Trác nhìn ra ngoài cửa sổ, chợt buồn bã than: "Đường đường một Lạc Dương Phủ Doãn, không ngờ lại bị ám sát một buổi chiều ngay trong Lạc Dương thành mà mình cai trị, tin truyền ra rúng động thiên hạ. Hắc hắc, ta không nói, Hàn huynh đại khái cũng thấu hiểu chuyện này e rằng không đơn giản như vậy. Thời thế ngày nay, chuyện này xảy ra đâu thể không nói đã xuất hiện điềm loạn".
Hàn Ngạc lòng biết chuyện Vu Tiệp xem có vẻ giản đơn, nội tình bên trong nhất định không phải tầm thường, nếu không, vụ án này đâu thể khiến cả Vệ Úy Tự lẫn Ngự Sử Đài trong "Nhất Đài -Ngũ Giám - Cửu Tự" trọng binh của triều đình cũng có người ra mặt. Gã điềm đạm thốt: "Vụ án này có vẻ rất bình thường, đông người chứng kiến, chứng cứ đầy đủ, xem ra chỉ cần xét qua là lập tức có thể định án".
Cổ Siêu Trác mỉm cười nhìn gã: "Chỉ là, Hàn huynh, ngươi tại sao không sớm mà cũng không trễ vào Lạc Dương thành ngay lúc này? Lạc Dương hiện nay là một thành thị hiểm ác, Hàn huynh đến có thâm ý gì không?".
Đôi mắt hắn nhìn Hàn Ngạc chòng chọc, như muốn nhìn thấu tâm can phế phủ Hàn Ngạc. Hàn Ngạc lại vẫn thản nhiên nhìn trả. Cổ Siêu Trác lại là người cụp mắt trước, thở dài nói: "Nói cũng đúng, vụ án này vốn cũng bình thường, tựa như đã xong xuôi, có điều vụ án xảy ra quá đúng lúc! Nếu Hàn huynh ở lâu trong Lạc Dương thành, hơn nữa rành rọt điển cố trong thành, sẽ biết lời ta nói không phải nói xằng --- Chỉ sợ cũng có rất nhiều người không nghĩ vụ án này bình thường, cũng có không ít người muốn giật tung bức màn che phủ vụ án".
Hắn thở dài một hơi: "Triều đình ngày nay bề ngoài hòa bình, thực ra không biết ẩn tàng biết bao cặn bã nhơ nhuốc. Vụ án ngõ Luân Hồi suốt mười sáu năm trời không phá được cũng khỏi phải nói đến --- Ngày xưa có người kiên nhẫn chịu đựng đến hôm nay, thực vĩ đại quá sức. Vẫn nên có người thanh lý quét tẩy, không thể để cáu bẩn chôn vùi pháp luật nghiêm minh! Hàn huynh, ngươi nói có phải không?".
Hàn Ngạc tránh ánh mắt của hắn, cười thốt: "Hàn mỗ thuộc hạng dân dã, những đại sự của triều đình vốn không hiểu biết. Cổ huynh thực ra muốn nói gì?".
Cổ Siêu Trác nhìn gã, tựa như đang suy đoán ý tưởng thực sự trong lòng gã, một hồi sau cười khà khà, cúi đầu gõ đũa nhè nhẹ trên mặt bàn: "Ta chỉ thấy lạ là quan Doãn Lạc Dương Vu Tự Vọng tuy luôn luôn nông sâu khó lường, nhưng danh gia võ thuật trong Lạc Dương thành ít có ai không biết y xuất thân từ mạch 'Đại Hoang Sơn'. Công phu của y, hắc hắc, không phải tiểu đệ đoán ẩu, sợ rằng cũng đủ để lãnh đạo một vùng trong Lạc Dương thành ngọa hổ tàng long này. Y làm sao có thể bị Vu cô nương chém một đao giết ngay tại chỗ mà không la rống được tiếng nào?".
Nói còn chưa dứt, đôi mắt hắn nhìn Hàn Ngạc chăm chăm. Hàn Ngạc cũng cau mày, trong đầu nhớ lại tiếng thở hì hục hơi khẩn trương trong kiệu trên Thiên Tân kiều mà mình nghe được ngày hôm đó. Tiếng thở đó rõ ràng đột nhiên ngưng hẳn trước khi Vu Tiệp xuất thủ. Bụng gã cũng có nghi hoặc, ngước nhìn Cổ Siêu Trác hỏi: "Cổ huynh, ta chỉ muốn biết Vu cô nương hiện bị giam ở đâu?".
Cổ Siêu Trác cười nói: "Hàn huynh muốn cướp ngục? Ngươi tỉnh bơ hỏi dò tin tức ngay trước mặt một quan viên triều đình như vầy, không cảm thấy... quá đường đột sao?".
Nói xong, hắn cười lớn sảng khoái. Hàn Ngạc cũng không khỏi cất tiếng cười: "Cổ huynh đùa làm chi, ta đâu đến mức không coi pháp luật ra gì. Ta xuất thân từ dòng Thái Bạch, quy củ của Thái Bạch phái không cần ta nói chắc Cổ huynh cũng biết rõ mà. Hàn mỗ tuy hành tẩu thiên nhai, cũng gánh không nổi lời nói đùa đó của Cổ huynh đâu. Cổ huynh nếu không tiện nói ra thì thôi".
Cổ Siêu Trác cười nói: "Nàng ta bị Vệ Úy Tự bắt, hôm qua dĩ nhiên là nhốt trong nhà giam của Vệ Úy Tự. Chỗ giam cầm đó tuy bí mật, ta không biết...". Hắn liếc sang Vu Tiểu Kế sau lưng Hàn Ngạc: "Nhưng vị tiểu huynh đệ kia lại là tổng quản nắm giữ tin tức chín cửa thành Lạc Dương, chỗ mà người toàn thành Lạc Dương tìm không ra, sợ rằng cũng chỉ có nó tìm ra".
Lời nói của hắn nửa đùa giỡn, nửa thực thà. Hàn Ngạc không khỏi ngẩn người, ngoái nhìn Vu Tiểu Kế. Vu Tiểu Kế đang cười hì hì lắng nghe, thấy Hàn Ngạc quay đầu liền le lưỡi, Hàn Ngạc liền nhận ra nó quả nhiên đã biết từ trước.
Cổ Siêu Trác lại cười nói: "Hài tử Tiểu Kế này quả nhiên ranh mãnh. Hôm qua vừa thấy tỷ tỷ bị bắt là đã đến tìm ta. Nếu ta không lập tức sai người cầm danh thiếp đến Vệ Úy Tự hỏi dò chuyện này và nơi hạ lạc của Vu cô nương, Vu cô nương đến giờ phút này sợ đã...". Hắn mỉm cười dừng lời, trầm ngâm một hồi rồi nói: "Bất quá hôm nay sau khi ta hỏi qua, Vu cô nương e không còn trong nhà giam của Vệ Úy Tự nữa. Chiếu theo quy củ triều đình, nàng ta dù gì cũng sẽ bị chuyển đến Đại Lý Tự. Nếu không, có Ngự Sử Đài bọn ta dòm ngó, Vệ Úy Tự bọn chúng làm gì cũng không được tự nhiên. Bất quá 'Thiên Lao' vẫn là 'Thiên Lao', hì hì, đêm nay Hàn huynh có người dẫn dắt chi bằng đi một chuyến cho biết. Nếu sở liệu của ta không sai, Vu cô nương đêm nay sợ khó qua khỏi".
Hàn Ngạc trầm tư một lúc, quay sang Cổ Siêu Trác vòng tay: "Đa tạ Cổ huynh. Ta còn muốn hỏi một câu, mong Cổ huynh nói rõ --- Ta biết Cổ huynh dòm ngó đến chuyện này, e là có liên quan đến chính cục trong triều. Ngự Sử Đài và Bộc Xạ Đường nhất định cũng đều có duyên cớ không tiện xuất thủ điều tra mới có hứng thú tìm một người đến từ vùng xa như ta mà dễ dàng cho phép ta xen tay. Ta chỉ muốn biết nếu ta tra phá vụ án rõ ràng, Cổ huynh có biện pháp để giúp Vu cô nương thoát khỏi tai kiếp chứ? Hàn mỗ tuy là người quê mùa, cũng không muốn quấy nhiễu pháp luật triều đình, khinh thị mạo phạm uy vọng của triều đình, tránh lời dèm chê 'kẻ hiệp ỷ vào võ phạm cấm điều' của thiên hạ. Huống hồ gây động đến các phe cánh 'Ngũ Giám - Cửu Tự' kể cả 'Tử Thần', sau này Hàn Ngạc ta có trốn được, hai chị em nhà này e rằng cũng trốn không được".
Cổ Siêu Trác thấy đã nói nhập đề, liền cúi đầu trầm tư, một hồi sau mới thốt: "Vụ án Vu cô nương chứng cứ rành rành. Nói chuyện pháp luật thi ân dung tình sợ là khó làm được, Ngự Sử Đài ta cũng bất tiện ra mặt. Bất quá ta tuy không làm, nhưng có một người vẫn có thể làm. Vu cô nương lần này tử tội khó thoát, nhưng có lẽ người đó ra mặt có thể tha cho nàng ta có cơ hội toàn thây hoàn hồn --- chỉ cần Hàn huynh thực sự vén mở được bí ẩn của vụ án này, điều tra được rõ".
Hàn Ngạc vỗ tay một tiếng khe khẽ, mục đích của gã là điều đó. Tiếp đó gã lại hỏi truy: "Không biết người đó là ai?".
Cổ Siêu Trác hạ thấp giọng: "Lạc Dương vương".
Thanh âm của hắn không lớn, như cảm thấy chỉ ba chữ đó đã đủ giải đáp mọi nghi hoặc của Hàn Ngạc. Hàn Ngạc lại ngạc nhiên, bần thần hỏi: "Ai là Lạc Dương vương?".
Tiểu Kế lại không nhịn được vẻ vui mừng, khe khẽ thì thầm bên tai Hàn Ngạc: "Hàn gia, Lạc Dương vương là Bốc Nguyên. Nhà ông ta ba đời được Hoàng thượng gia phong làm Lạc Dương vương, cha truyền con nối, là vị chủ nhân chỉ cần dậm chân một cái thì toàn Lạc Dương thành đều run rẩy. Lạc Dương thành có rất nhiều thế lực, bên trong phải tính tới 'Long Môn Dị, Bạch Mã Tăng, Lạc Dương vương, Chấn Quan Đông", bên ngoài còn có 'Thành Nam Tính, Bách Mang Quỷ, Hà Lạc Thư, Định Dư Đồ'. Có ông ta xuất hiện, tỷ tỷ của tôi được cứu chắc".
Hàn Ngạc không để ý lắm --- "Oa ngưu giác trung tranh hà sự"? Cuộc đấu đá trong triều này, gã xem không khác gì là tranh đua trên sừng ốc sên mà thôi. Nhưng "Bắc Mang Quỷ"?
Hàn Ngạc nghe đến ba chữ đó, tim giật thót lên, nhãn quang nhìn về phía Lạc Thủy, trong lòng không biết đang nghĩ gì.
Quyển I: Ban Chuy đợi Chương 6
Thạch hỏa quang trung ký thử thân1
1 "Oa trung giác thượng tranh hà sự" là câu trong bài thơ "Đối Tửu - kỳ nhị" của Bạch Cư Dị. Ý là con người sống trên thế gian này giống như co quắp trên sừng (râu) ốc sên. Không gian nhỏ hẹp như vậy, còn khoái tranh giành gì nữa? Đây là xuất xứ từ điển tích trong sách "Trang Tử - Tắc Dương": "Thời xưa có hai quốc gia kiến lập trên sừng ốc sên, trên sừng trái gọi là Xúc thị, trên sừng phải gọi là Man thị. Hai nước Man, Xúc thường đánh nhau giành đất, cả vạn người chết. Sau này dùng để chỉ sự tranh đoạt chỉ vì chuyện nhỏ nhặt".
Đế n chạng vạng tối, Tiểu Kế đi dò thám tin tức về đến. Vu Tiệp quả đã bị dời tới Thiên Lao, nhưng không bị giam trong Thiên Lao, mà là giam trong một phòng giam nữ bên ngoài Thiên Lao. Nơi đó có tên "Phấn Nhân Giam", nghe nói là chỗ giam giành riêng cho đàn bà con gái, phòng vệ lơi lỏng hơn so với Thiên Lao. Nhưng Hàn Ngạc nghe vậy lại không vui, trái lại càng thêm do dự. Gã trầm tư một hồi, thở dài hỏi: "Biết tỷ tỷ của ngươi phạm tội trọng đại như vậy, tại sao còn chưa nhốt vào Thiên Lao?".
Ti ểu Kế lắc lắc đầu, nó còn đang cao hứng vì tỷ tỷ chưa phải vào Thiên Lao chịu khổ. Hàn Ngạc thở dài nói: "Nếu Cổ Siêu Trác nói không sai, nhất định có người mong muốn tỷ tỷ của ngươi chết mau lẹ. Huống hồ đêm hôm qua bọn chúng đã nhìn thấy ta, e cũng biết có người ngoài xen tay, dĩ nhiên phải làm sạch gọn thực sớm, sợ đêm nay chúng sẽ cho người đến hạ thủ. Mà người hạ thủ này tất cần phải là người bên ngoài, cho nên chúng mới không nhốt nàng ta vào Thiên Lao mà nhốt ở 'Phấn Nhân Giam' gì đó, sau khi xong chuyện cứ đổ riệt lên phòng vệ bất lực thôi".
Ti ểu Kế nghe vậy, mặt liền biến sắc.
o0o
Cái tên "Phấn Nhân Giam" khá là mỹ miều, nhưng đến nơi Hàn Ngạc mới phát giác những gì tưởng tượng ra từ cái tên đó lại hoàn toàn trái nghịch với sự âm ám của chỗ này.
Nơi này dựa sát Lạc Thủy. Lạc Dương thành là một trong hai đô thành, có xây Thiên Lao theo quy chế Hình án. Vì trong Thiên Lao thường có xây thủy lao, cho nên "Thiên Lao" của Trường An gần kề Vị Thủy, xem ra Lạc Dương thành cũng theo đúng kiểu cách đó.
Chuẩn bị cho chuyện đêm nay, Hàn Ngạc đổi y phục đen. Gã đứng trong bóng tối của con hẻm nhỏ bên "Phấn Nhân Giam" sát bờ sông Lạc, ngoại trừ đôi mắt lấp loé ra, toàn thân trên dưới đều đen sì không để phản ánh chút nào. Trường kiếm của gã giắt sau lưng, toàn thân bó sát, càng hiển hiện thân hình đường nét rắn rỏi thon gọn. Bắp thịt lúc gồng cứng lúc thả lỏng, xem ra là đang điều tức. Bên ngoài trống canh đã gõ qua ba nhịp, Tiểu Kế lại hoàn toàn không cảm thấy buồn ngủ. Hàn Ngạc nhìn nhìn trời, vỗ nhẹ lên vai Tiểu Kế, khẽ giọng: "Đến lúc rồi, ta vào đây". Tiểu Kế tuy tin tưởng năng lực của gã, lòng vẫn không khỏi lo lắng. Hàn Ngạc bẹo cằm nó, cười nhẹ: "Ngươi về trước đi. Đêm nay ta không phải muốn cứu tỷ tỷ ngươi ra, chỉ là giúp nàng ta tránh khỏi tai kiếp, cho nên không phải dùng quá sức đâu. Chỉ cần gây ồn ào một chút, tự nhiên sẽ có Cổ Siêu Trác ra mặt bảo vệ cho tỷ tỷ của ngươi được bình an. Ngươi bất tất phải lo, cứ đợi tin tốt của ta là được rồi".
Nói xong, gã nhẹ nhàng nhún mình vọt người lên, năm ngón tay co thành trảo. Tường nhà lao "Phấn Nhân Giam" vốn không cao, gã mới bấu móc là đã nắm tới đầu tường. Gã đưa mắt nhìn vào trong, thấy bên trong vắng lặng tối như mực. Thân hình gã lộn một vòng, êm ái hạ mình vào trong vườn.
Đúng như sở liệu của gã, đêm nay trong "Phấn Nhân Giam" quả nhiên có vẻ hoàn toàn không phòng bị gì hết. "Vệ Úy Tự" và "Đại Lý Tự" vốn cùng thuộc "Cửu Tự", Vệ Úy Tự dính dấp thâm sâu với vụ án này, nhất định mưu đồ tảo trừ Vu Tiệp càng sớm càng tốt, xem ra chúng đã thưa gửi với Đại Lý Tự, lời ám thị của Cổ Siêu Trác tuyệt không phải vô căn cứ.
Hàn Ngạc không dám cẩu thả, suốt dọc đường luôn mượn cây cối sự vật che thân, chầm chậm lẻn về phía lao phòng xây bằng đá kia. Còn chưa đến gần, mũi đã ngửi thấy mùi thối rữa, gã thận trọng buộc vuông vải che kín mặt mày, phi thân lên mái nhà, sau đó năm ngón tay móc từng miếng ngói, ghé mắt nhìn xuống. Nhà lao không lớn mấy, bên trong cũng cơ hồ tối mịt, góc đằng xa thấp thoáng có ánh đèn.
Hàn Ngạc tính đúng phương vị, nhẹ nhàng vọt mình đến chỗ nóc phòng có đèn sáng. Vừa đến, gã lại nhẹ nhàng vẹt từng mảnh ngói, hở một lỗ nhỏ vừa đủ để một người lọt vào, sau đó nhún mình lòn xuống như một con mèo, dừng sựng ngay trên xà nhà đóng đầy bụi bặm, lại không để một hạt bụi rơi rớt.
Hai chân gã móc lên xà, ngã mình xuống theo bóng xà. Vừa treo chổng đầu, gã liền nhìn thấy một hàng lồng gỗ to lớn --- Mặt trong lao phòng nguyên có mấy dãy lồng gỗ xếp hàng dài, lồng nào cũng đều có thể dùng để nhốt người. Nhờ ánh đèn, Hàn Ngạc nhìn thấy lồng gỗ hai mé không cái nào có tù nhân, chỉ có cái lồng nơi gã ngã người xuống có giam một nữ tử tay chân đều bị còng. Ở vị trí hiện tại của gã chỉ nhìn thấy được đỉnh đầu của nàng ta, mái tóc dài rối bung xõa che kín mặt, cằm gác trên hai đầu gối co lên, hai cánh tay vòng ôm đầu gối, tuy không nhìn thấy mặt mũi, nhưng nhìn thân hình cũng có thể xác định đó là Vu Tiệp.
Mặt Hàn Ngạc cơ hồ dán lên đỉnh lồng gỗ, hơi cảm thấy xúc động --- Từ trên nhìn xuống, thân ảnh vốn có vẻ yếu ớt của Vu Tiệp lại càng thêm phần ẻo lả. Hàn Ngạc chỉ nghe tiếng hơi thở khe khẽ của nàng, không biết sao gã có cảm giác hơi thở đó lại như đang vang ngay bên tai mình.
Gã nhất thời nhận thấy chỗ này im ắng quá, không tiện lên tiếng, chỉ đành lẳng lặng nhìn. Xưa nay gã chưa từng thầm lén quan sát kỹ một cô gái đến thế, bụng có hơi xấu hổ. Trong đầu gã lại thấp thoáng hoạch vẽ bóng hình của Phương Ninh, nữ tử duy nhất thân cận với gã trong suốt quãng đời hai mươi mấy năm qua. Nhưng gần gũi Phương Ninh, nàng cơ hồ luôn luôn dời động, phong thái chuyển vần không ngừng, gần như chưa bao giờ cho gã kịp nhìn rõ đến một lần, đẩy gã vào mê loạn. Còn Vu Tiệp lại tĩnh lặng, không biết sao lúc này cái làm cho Hàn Ngạc xúc động thâm sâu nhất lại là bờ vai thon thả xuôi lộ ra ngoài mái tóc dài của Vu Tiệp.
Thì ra vai con gái thon mảnh trải xuôi như vậy, không giống mình vai u thịt bắp, số phận như đã định đoạt phải chìa ra gánh vác. Nữ nhân tại sao thích mái tóc dài? Là để che phủ hay vuốt ve an ủi bờ vai gầy mòn bơ vơ ngay từ lúc chào đời? Hàn Ngạc bần thần suy tư: nếu bàn tay thô cứng của mình dịu dàng vuốt xuôi theo bờ vai của nàng, có giúp cho nàng cảm thấy ấm lòng yên dạ không? Gã đong đưa ngón tay bâng quơ, như vuốt hờ lên da thịt đằng sau ót thấp thoáng ẩn hiện giữa mây tóc nàng, lòng bồi hồi vẩn vơ: chắc cảm xúc rất thắm dịu nếu thực sự làm như vậy chứ?
Đó lại là lần đầu tiên trong đời Hàn Ngạc một thứ cảm giác "da thịt" nảy nở giữa gã với một nàng con gái, không ngờ lại ngay trong nhà giam này, nghĩ cũng hơi buồn cười. Không biết vì sao, lòng bàn tay luôn khô ráo của gã lại toát mồ hôi, cũng lấm tấm trên mặt gã, thấm ướt hàng ria lún phún non trẻ. Hàn Ngạc vận kình dùng móng tay cái bấm vào lòng bàn tay, tự trách mình: người ta đang gặp nạn, sao ngươi còn... Nhưng gã lại thầm nghĩ: có một chút mến nhớ như vậy cũng tốt --- Cuộc đời nhờ chút tương tư mà thêm phần mỹ lệ, có phải không?
Vu Tiệp trong lồng đột nhiên thì thầm: "Chắc đã đến?".
Nói xong, nàng ngẩng đầu, tóa xõa che mắt. Nàng thuận tay dịu dàng vén tóc ra sau ót. Động tác có vẻ bất tri bất giác đó lại bỗng làm cho thân người Hàn Ngạc cứng đơ. Vu Tiệp ngước mắt nhìn, trông thấy nhãn thần bẽn lẽn của Hàn Ngạc. Tuy cách một vuông vải che, song đôi mắt đó nàng nhận ra được. Trên mặt nàng nở một nụ cười tươi tắn. May là Hàn Ngạc có đeo khăn che, không để hiện bộ mặt mắc cỡ đỏ bừng lên ngay từ đầu. Mắt nàng lấp lánh ánh nến tàn, Vu Tiệp cười khẽ: "Ta đã ngước lên không biết bao nhiêu lần rồi, lần nào cũng nghĩ chắc huynh đã đến. Lần này coi như không trắng tay". Có thể vì bị hành hạ, thanh âm của nàng có hơi khàn đục, mà giọng nghèn nghẹn đó lại khiến cho nàng thêm phần mị hoặc giữa lao tù ô trọc.
Thanh âm của Hàn Ngạc liền khẩn trương hẳn: "Vu cô nương, cô không sao chứ?". Vu Tiệp lắc đầu nhè nhẹ: "Không có gì".
Sau đó nhìn thấy vuông vải che mặt ươn ướt một mảng chỗ môi miệng gã hít thở, nàng liếm liếm bờ môi khô: "Khát quá! Ta chỉ muốn uống nước". Chỉ cái bát lấm lem nhớt nhợt, vẩu miệng: "Chúng chỉ chịu cho ta chỗ đó. Vậy cũng gọi là nước sao?". Hàn Ngạc liếc nhìn cái tô, thấy bên trên tô dầu mỡ đóng dày cộm, lòng cũng cảm thấy kinh tởm --- Cái tô đó không biết đã trải qua biết bao nhiêu cái miệng thối tha, bao nhiêu hàm răng vàng khè, chắc cũng đã hai ba năm chưa chùi rửa, khó trách nàng... Lại nghe Vu Tiệp khẽ thốt: "Hôm nay huynh không phải đến cứu ta chứ? Dòng Thái Bạch nghe nói có uyên nguyên rất thâm sâu với triều đình Hoàng thất năm xưa, không can phạm lẫn nhau. Huynh không nói ta cũng biết. Hàn huynh, huynh bất tất phải cảm thấy khó xử, huynh chịu đến đã đủ cho thấy huynh tận tâm rồi".
Hàn Ngạc vốn đang cảm thấy xấu hổ. Gã thấp giọng: "Ta đã đáp lời Cổ Siêu Trác điều tra bí ẩn vụ án này cho hắn. Nếu điều tra ra, hắn nhận lời sẽ nhờ 'Lạc Dương vương' ra mặt, cho cô một cơ hội hoàn hồn".
Gã bặm bặm môi, đang nghĩ coi còn lời gì để nói nữa, lại thấy nhãn thần của Vu Tiệp đang nhìn mình trân trân, bao nhiêu lời còn lại đều ngưng bặt.
Vu Tiệp chăm chăm nhìn không chớp, một hồi lâu sau Hàn Ngạc cùng quẫn ấp úng: "Vu cô nương, cô có...?".
Vu Tiệp bên dưới lại liếm môi nhè nhẹ: "Không có gì. Chỉ là huynh mặc đồ dạ hành trông thực dễ nhìn".
Hàn Ngạc sợ là sợ nàng mở miệng không e dè gì hết, mỗi lần được nàng khen, gã tuy không tránh khỏi vui thầm, nhưng lại lọt vào tình trạng quẫn bách, càng cảm thấy có lỗi thêm nữa --- tựa hồ để nàng thấy mình "dễ nhìn" cũng là một trọng tội. Vu Tiệp chợt ngẩng đầu, giọng trầm khản vì cổ họng khô khốc: "Tuy nói huynh vì một cô gái khác mới đến giúp ta, nhưng dù gì thì huynh cũng là vì ta mà đến, ta cũng yên dạ lắm rồi". Hàn Ngạc ngây người, có cảm giác Vu Tiệp đã từng gặp mình từ lâu, thấp giọng hỏi: "Vu cô nương, trước đây cô có gặp qua ta sao?".
Vu Tiệp liếm liếm môi, cười đáp: "Không sai, ta đã từng gặp huynh, chỉ là huynh không gặp ta".
Đột nhiên thanh âm của nàng có vẻ giận, xem ra kiếp nạn bị giam trong lao ngục này cũng khiến cho một nàng con gái bất phàm như nàng thêm phần khẩn trương: "Ta chưa từng gặp huynh thì càng tốt! Ta tình nguyện một đời cô đơn, không cần ai đến tương cứu, cũng không có ai đến tương trợ!".
Hàn Ngạc đờ đẫn, trông thấy bộ dạng hờn mát của nàng, gã cơ hồ không kềm mình được muốn giơ tay vuốt ve bờ vai thon gầy cô độc khó mà chạm đến kia. Lúc đó bên ngoài chợt thấp thoáng có tiếng hơi thở, Hàn Ngạc giật mình, gã cực kỳ nhanh nhạy, khẽ giọng: "Vu cô nương, có người đến, chắc là kẻ không muốn để vụ án này lần lữa quá lâu. Cô an tâm, Hàn mỗ không để chúng dễ dàng đắc thủ như vậy đâu".
Nói vừa dứt lời, gã gập người mượn lực hông kéo mình lên, hai chân câu xoắn vào xà nhà, vắt mình dọc xà ngang như một con yến đang làm tổ. Vu Tiệp ngước nhìn gã thêm một lần rồi mới quay đầu trông ra ngoài lồng. Nháy mắt, bên ngoài quả có tiếng bước chân nhè nhẹ, năm bóng người tiến vào. Bọn chúng đều nhắm ánh đèn nhào đến, tên đầu tiên nhìn thấy Vu Tiệp liền khẽ giọng: "Mẹ nó, sớm biết dễ như vậy, đâu cần năm huynh đệ bọn ta nhất tề xuất thủ chứ". Nói xong, tên đó đứng trước lồng, mò vào mình lấy gì đó, rồi dương tay định bắn qua khoảng hở giữa hai thanh gỗ. Lại nghe một người đằng sau hắn nói: "Đừng, lão ngũ, người giao phó sự vụ cho bọn ta có dặn phải làm thực thô bạo, để lại dấu vết như cướp ngục mới được". Nói xong, người đó vận khí vỗ một chưởng lên cột gỗ. Hàn Ngạc thấy năm tên đều mặc đồ dạ hành, kẻ xuất chưởng vừa vươn tay, tay áo quá chật, bị rách một đường để lộ bắp thịt cuồn cuộn.
Nghe tiếng cột gãy vang vọng, người đó chưởng lực thực ghê gớm, hàng cột lồng mỗi thanh to bằng bắp chân đã bị hắn đánh gãy vài cây. Người đó có vẻ không mấy sợ làm kinh động xung quanh, lại xuất chưởng lần nữa, tiếng cây nứt gãy vang lên liên tục, để lộ một khoảng hở đủ cho một người tiến vào. Người đó quay đầu nói: "Ta vào chém con mẹ này trước, các ngươi cầm cây đèn kia chuẩn bị phóng hỏa đi. Cứ tung hoành loạn xạ một chút, làm cho hay đó".
Nói xong, hắn nhảy vào, giơ chưởng vỗ lên đầu Vu Tiệp.
Hàn Ngạc trên xà buông hai chân, miệng quát lớn: "Có người cướp ngục", thân người như một tảng đá rơi xuống, toàn thân ụp về phía tên kia. Hắn kinh hãi, vội vàng thụt lùi. Hàn Ngạc thấy đối phương người đông, nhắm phải đả thương vài ba tên trước cái đã. Tả thủ của gã quật nhanh như chớp, chộp một cái thực đúng lúc, xương bả vai của tên đó đánh "rắc" một tiếng gãy lìa. Tên đó cũng thực cứng cỏi, rống lên một tiếng: "Còn có người khác. Mau giúp tay!".
Nói xong liền xoay tay, rút đao sau lưng ra. Hàn Ngạc đâu có dừng tay, đánh liền mấy chiêu, ép tên đó ra khỏi lồng. Gã xuất hiện quá đột ngột, năm tên kia hoàn toàn không ngờ được, nhất thời bị gã bức thối lui liên hồi, từng bước từng bước lùi về hướng cửa nhà lao. Bên ngoài có người kéo tới, hò hét hư trương thanh thế. Kẻ cầm đầu đã thụ thương, biết không thể chần chừ ở lại nữa, nghiến răng thấp giọng hằn học: "Gió dữ, rút đi!". Nói xong, hắn đã lui đến tường nhà lao. Bốn tên kia cũng lùi theo hắn, Hàn Ngạc lại rượt nà. Bọn họ một phe chạy một phe rượt, phóng thẳng về phía bắc Lạc Dương thành. Năm tên kia đã bố trí sẵn dây leo trên tường thành phía bắc, đến dưới chân tường, bọn chúng liền vọt mình đu dây mà lên. Hàn Ngạc muốn điều tra lai lịch chúng cho nên không gấp đuổi theo, chỉ bám đằng sau.
Một khắc sau, bọn họ đã chạy ra ngoài thành. Vùng đất mấy dặm phía bắc Lạc Dương thành gọi là Bắc Mang sơn. Tục truyền: "Sống tại Tô Hàng, chết ở Bắc Mang"2, Bắc Mang sơn nguyên là chỗ chôn cất tốt cho đám quyền quý và đại phú hộ. Năm tên thấy đã đến chân núi Bắc Mang, liền thở phào nhẹ nhõm, đột nhiên khựng lại.
Hàn Ngạc đuổi đến nơi, cũng phải thu chân dừng bước. Tên cầm đầu thấp giọng quát: "Bằng hữu, ngươi là thần thánh phương nào? Sao lại can thiệp vào chuyện của huynh đệ bọn ta?".
Hàn Ngạc không lên tiếng, chằm chặp nhìn chúng.
Tên kia lại nói: "Bằng hữu, đừng để lọt mình vào dòng nước xiết, ta khuyên ngươi mau đi khuất dạng, nếu không sẽ bất lợi cho ngươi".
Hàn Ngạc hất hất chuôi kiếm lộ sau vai, lạnh lùng thốt: "Ta chỉ là người ở xa đến. Ta cũng chỉ muốn hỏi các ngươi một câu, chuyện đêm nay thực ra ai giao cho các ngươi làm? Ta biết các ngươi cũng không liên quan đến vụ này, ta cũng không muốn thăm dò lai lịch của các ngươi. Các ngươi chỉ cần nói cho ta biết ai là kẻ giao phó, bọn ta chia tay, đường ai nấy đi, sao hả?".
Thanh âm gã trầm thấp, nhưng lại hàm ẩn ý uy hiếp. Năm tên kia ban đầu ngẩn ngơ, chợt nhất tề cười phá lên. Tên cầm đầu biết Hàn Ngạc không phải dễ đối phó, vụt vỗ tay thấp giọng: "Bố trận!".
Hắn vừa lên tiếng, bốn tên kia lùi lại. Vùng chân núi Bắc Mang này bốn bề toàn là mộ phần, bọn chúng vừa lui là đã hòa mình vào giữa những bia mộ.
Hàn Ngạc nhướng mày: Bắc Mang Quỷ?
"Đầu thành chim kiêu rúc, quỷ Bắc Mang đêm về!". Lẽ nào chúng là tổ chức sát thủ "Bắc Mang Quỷ" danh tiếng vang dội hai đô thành?
Chuyện này có vẻ quá thần bí, đâu phải ai cũng thỉnh mời được hạng sát thủ có tiếng tăm như Bắc Mang Quỷ.
Hàn Ngạc cau mày, rút kiếm "rẻng" một tiếng. Tên cầm đầu kinh ngạc khi thấy tư thế rút kiếm của gã. Hàn Ngạc vung kiếm đâm tới, tên đó lách tránh, nhưng kiếm chiêu "Thạch Tê Phế Lũy" của Hàn Ngạc trong chớp mắt đã ép đến chỗ xương đòn gánh ngay dưới cằm, chỉ còn trong gang tấc. Gã thấp giọng: "Ta không muốn biết lai lịch của các ngươi, cũng không thể để các ngươi đi như vậy. Báo tên người cậy các ngươi hành sự thì bọn ta đều có lợi".
Tên kia thần tình hoảng hốt, gấp rút thối lui, nhưng hắn thối đến đâu, kiếm của Hàn Ngạc theo đến đó, thủy chung không rời khỏi yết hầu hắn.
Tên kia la lên một tiếng, mặt mày tái mét: "Các huynh đệ, đêm nay bọn ta đụng phải cao thủ rồi!".
Bốn tên còn lại nhất thời không kịp cứu trợ, đột nhiên nhất tề ngâm khẽ, một vùng khói xanh như từ mé bia mộ lan qua. Hàn Ngạc biết nhân thủ trong "Bắc Mang Quỷ" có lắm thủ đoạn quỷ quái, gia tăng lực khí vào tay, không phải muốn lấy mạng tên kia mà chỉ muốn bức bách đến cùng, đồng thời miệng mũi ngậm chặt nín thở. Bên cạnh chợt có một thân hình vọt lên, tay vung vẩy, Hàn Ngạc biết nếu để tên đó buông tay thì một mảng ám khí sẽ bay bắn đến, lúc đó khó tránh khỏi phiền toái. Gã hất kiếm, mũi kiếm vẫn chỉa về phía tên cầm đầu, lưỡi kiếm lại nghiêng tạt xéo sang ngang, bức tên vừa lao lên bên hông phải hạ mình. Tên đó không phóng được ám khí, rùng mình thối lui. Lại có một tên lén nhào đến sau lưng Hàn Ngạc, song trảo mau lẹ cào lên lưng Hàn Ngạc. Kiếm của Hàn Ngạc khựng lại, đập ngược cực nhanh, ép kẻ đằng sau thối lui. Tên cầm đầu mới vừa định đào tẩu, kiếm thế trùng chấn, mũi kiếm lại ép tới cổ họng tên đó.
Phen này đến bên hông phải có kẻ tập kích, thân hình gã lách sang trái, lưỡi kiếm lại chẻ ngang sang phải. Tên bên hông mặt mày biến sắc, lộn mình lùi xuống. Mũi kiếm của Hàn Ngạc lại vẫn không rời yết hầu tên cầm đầu.
Lúc đó có một người la lên: "Chiêu đó là 'Quang Độ Tinh Dã'!".
Người thứ nhì xuất thủ cũng kêu lên: "Không sai, chiêu trước là 'Hỏa Diệt Tịch Hoa'". Tiếp đó hắn vỗ đầu la lớn: "Đại ca, chiêu đầu là 'Thạch Tê Phế Lũy'". Hàn Ngạc kinh ngạc, phải biết bộ chiêu thức này của gã vốn cực ít dùng, đêm nay nếu không phải muốn mau chóng đắc thủ, gã đâu dễ gì động dụng đến nó. Năm tên kia ngạc nhiên đưa mắt nhìn nhau, nhất tề thốt: "Thạch Hỏa Quang...".
Bọn chúng vừa liệt kê danh sách những chữ đầu trong tên ba chiêu thức vừa rồi. Sau đó bọn chúng la lớn: "Thạch... Hỏa... Quang... Trung... Ký... Thử... Thân!". Tên cầm đầu khựng lại, Hàn Ngạc không muốn đả thương người ta, từ lúc gã thành tài đến nay vẫn chưa đả thương người nào, lập tức cũng dừng tay. Tên kia chỉ mặt gã: "Ngươi là Hàn Ngạc?".
Hàn Ngạc ngẩn ngơ, thực khó ngờ được có người qua chiêu số nhận ra mình. Tên đó cười lớn một tiếng, chợt lao thẳng vào mũi kiếm.
Hàn Ngạc thất kinh, lần này đến phiên gã hoảng hốt không lường được, chỉ đành thu kiếm né nhanh. Tên đó cười nói: "Hay quá, chủ nhân chính thức đã đến. Không phải chuyện của huynh đệ bọn ta, lão nhị, lão tam, lão tứ, lão ngũ, rút!".
Hắn hình như đã liệu trước Hàn Ngạc sẽ thu kiếm, bốn tên còn lại nhất tề vỗ tay, chỉ thấy một màn khói bốc lên, lấm tấm ánh lân tinh. Hàn Ngạc lùi nhanh, năm tên kia chia nhau mỗi người chạy đến gần một mộ bia, vỗ lên bia đá một cái, người chui tọt vào mộ phần, không còn thấy bóng dáng đâu nữa. Hàn Ngạc chỉ nghe câu nói cuối cùng: "Thạch Hỏa Quang Trung Ký Thử Thân --- Chủ nhân của những chiêu số mà chủ nhân bọn ta ngày đêm diễn luyện cho bọn ta xem cuối cùng đã đến. Khà khà, khà khà, không uổng cho nàng ta trông chờ bao nhiêu năm nay".
Quyển I: Ban Chuy đợi Chương 7
Khán tự bình thường tối kỳ quật1
1 Là câu tiếp theo câu "Oa trung giác thượng tranh hà sự" trong bài thơ "Đối tửu - kỳ nhị" của Bạch Cư Dị đã xuất hiện ở hồi trước. Ý nói đời người ngắn ngủi tạm bợ, như một ánh đá lửa xẹt trong chớp mắt.
2 Tô Hàng tức là Tô châu và Hàng châu, hai nơi trù phú nhất ở Trung thổ. Mang sơn, còn gọi là Bắc Mang sơn, bắt nguồn từ phía bắc Lạc Dương, lần theo bờ nam Hoàng Hà đến Trịnh châu, dài hơn trăm dặm. Do Mang sơn có rất nhiều lăng mộ của các đời đế vương và vọng tộc cổ đại (nhất là hai triều Hán và triều Ngụy, triều Tấn), cho nên đã trở thành vùng đất phong thủy quý báu để chôn cất ở Trung Nguyên.
B ắc Mang sơn lạnh lẽo tĩnh lặng thê lương. Năm người hồi nãy thình lình mất tung tích. Hàn Ngạc kinh ngạc, không biết chủ nhân mà bọn họ nói đến là ai. Lẽ nào, lẽ nào...?
Gã ng ờ vực, không cam tâm bỏ qua nên bèn sải chân lên núi. Quanh quẹo vài lượt, không tìm thấy bóng dáng năm người kia, gã buồn bã thở dài, dừng bước giữa một khu đất trũng nhỏ.
Bia m ộ lớp lớp trong vùng trũng, đêm khuya hoang vắng như vầy, trong lòng Hàn Ngạc cũng bốc dâng một cảm giác buồn đời. Gã rảo bước giữa khu bia mộ, bụng lại đang hồi tưởng đến chuyện xảy ra mấy ngày nay. Lạc Dương vương, Bắc Mang Quỷ, Ngự Sử Đài, Vệ Úy Tự, ngõ Luân Hồi... bên trong thực ra có quan hệ gì?
Độ t nhiên gã nghe văng vẳng có thanh âm ma sát nhè nhẹ, ban đầu không để ý lắm, sau đó mới phát giác tựa như thanh âm nghiến răng trèo trẹo. Mộ phần hoang lương âm u tăm tối như vầy, gã cũng không khỏi kinh hãi. Thanh âm đó hư hư vô vô, tuyệt không giống tiếng động phát ra từ một người sống. Lẽ nào thực là quỷ?
Hàn Ng ạc tuy cười nhạo trong lòng, cũng không tránh khỏi sởn tóc gáy, dõi nhìn bốn phía, lại không thấy gì hết. Đi một vòng về lại vị trí cũ, thanh âm đó lại đã ngưng bặt. Gã bất giác thở phào một hơi. Thình lình thanh âm đó lại vang lên, không ngờ ngay sau lưng gã. Gã xoay người, sau lưng có một cái bóng cách đó chưa tới hai thước. Cái bóng đó ngồi xổm dưới đất, đặt một tay trên bia đá ở đầu một ngôi mộ, tay kia đục khắc nhè nhẹ trên bia. Cảm giác đầu tiên của Hàn Ngạc là: quỷ! Gã nhất thời thối lùi một bước, quát: "Ai!".
Ng ười đó không đáp, chỉ lo cầm mũi đục khắc gì đó lên bia --- Thì ra thanh âm nãy giờ là tiếng mũi đục nạo trên bia đá.
Hàn Ngạc nhẹ người --- Là người, có thể là thợ khắc bia.
Gã quát khẽ: "Ngươi làm gì đó? Nửa đêm mà còn giả thần giả quỷ nữa à!".
Người đó không thèm quay đầu lạ, nhẹ nhàng đáp: "Ta đâu có làm gì, cũng không giả thần giả quỷ".
Y lùi lại một bước, như đang xem xét thành tích khắc chữ của mình: "Ta chỉ là vạn bất đắc dĩ phải ra hoạt động một chút".
Sau đó y lại khắc thêm vài nét rồi mới có vẻ thỏa mãn: "Coi như đã sửa xong, có trách thì phải trách chúng. Chúng đã khắc sai tên ta".
Một làn khói mỏng bốc hiện từ trên mình y --- Hàn Ngạc như sét đánh bên tai, đúng thực là ngôn ngữ yêu quỷ! Người gan dạ như gã cũng không khỏi hoảng hốt lùi thêm một bước.
Gì mà "chúng đã khắc sai tên ta" --- Khắc trên bia đá phải là tên người chết! Lẽ nào y là người chết dưới mộ phần đó?
Gã thất kinh, lòng hiếu kỳ lại trỗi dậy, thò tay với về phía bả vai người đó. Người đó lại đột nhiên ngã xuống, tựa như quỵ chết lập tức. Người đó khoác một tà áo tơi, nón rộng vành bên trên áo tơi che phủ đầu cổ y. Hàn Ngạc vén cái nón tơi nhè nhẹ, vừa lật lộ bên trong, Hàn Ngạc lại càng kinh hoàng khôn tả: bên trên cổ người đó không có đầu! Đó chỉ là một thi thể có thân mà không có đầu!
Hàn Ngạc lập tức vọt dậy, lộn hai vòng đứng cách xa nơi đó ngoài hai trượng. Tới lúc này gã mới kịp nhìn rõ chữ trên bia, thấy chữ đầu đã bị sửa, đục một gạch chéo, bên cạnh có một chữ "Dư" mới khắc.
Chữ bị sửa rõ ràng là chữ "Vu".
Ba chữ nguyên văn là "Vu Tự Vọng"!
Là Vu Tự Vọng đã bị cắt đầu trên Thiên Tân kiều?
Hàn Ngạc mình đổ mồ hôi lạnh, rùng mình phát lãnh!
Người không đầu nằm dài dưới đất, cổ họng lại như phát ra thanh âm: "Bọn chúng không những vội vàng chôn ta, còn không chịu kiếm cái đầu về cho ta. Cho dù sinh tiền ta từng hại người, nhưng nay đã chết, sao cả cái đầu cũng không chịu hoàn trả cho ta chứ? Người không có mặt mũi dưới âm phủ đâu có cách nào đầu thai! Bọn chúng muốn chôn vùi vụ oan án tồn đọng bao nhiêu năm nay. Khổ là bọn chúng đang lúc hoảng loạn đã khắc sai tên ta".
Thanh âm của y chợt biến thành hung tàn: "Ta phải tìm về cái tên của ta!".
Hàn Ngạc thầm giật mình, phải biết gã tuy ngạo nghễ, nhưng hồi nhỏ sợ nhất cũng là sợ quỷ. Đến giờ tuy trưởng thành gan dạ, song đêm hôm khuya khoắt mà gặp phải chuyện quỷ quái như vầy, gã cũng không khỏi nổi da gà.
Người không đầu kia bỗng lại ngồi dậy. Hàn Ngạc miễn cưỡng trấn định tâm thần, y lại đưa mũi đục gõ lên cánh tay mình, đục một lỗ trên cánh tay, máu phún ra. Sau đó nghe bụng y phát tiếng: "Ngươi không biết ta xuất thân từ Đại Hoang Sơn sao? Người của Đại Hoang Sơn, có thể không có đầu mà thân thể vẫn chưa chết được".
Hàn Ngạc cảm thấy cổ họng khô quánh. Sau đó thấy người đó dùng một cái túi da nhỏ hứng máu chảy ra, thấp giọng: "Cho ngươi".
Tay hất sang, cái túi máu bay về phía Hàn Ngạc, khẽ giọng: "Nguyên nhân cái chết của ta ở đó".
Hàn Ngạc thầm biết quan hệ trọng đại, không khỏi mạo hiểm giơ tay tiếp lấy. Từ lâu gã đã nghe đồn người trong "Bài Giáo" ở Đại Hoang Sơn có lắm ảo thuật, lẽ nào đêm nay những gì mình vừa chứng kiến cũng là ảo thuật? Cái túi da đựng máu này có ẩn tàng ám toán gì không? Lúc đó trong bụng gã chợt dấy lên một ý niệm, run giọng hỏi: "Thù nhi, là ngươi? Có phải là ngươi không? Ngươi là Thù nhi phải không?".
Người đối diện im bặt, tựa như có hơi hoảng loạn.
Lại nghe Hàn Ngạc thốt: "Nếu không phải, ngươi là A Xu chứ? Đừng giỡn với ta nữa, ta nghe nói một trong hai ngươi đã đi Bắc Mang sơn, nhưng ta còn chưa biết rõ là ai. Thực ra ngươi là A Xu hay A Thù?". Thanh âm của gã chợt chuyển thành nhu hòa: "Ngươi biết ta sợ gì mà".
Tâm tình của con "quỷ" kia có vẻ đã trấn định lại: "Nực cười, nực cười, ta là Vu Tự Vọng, người đời lẽ nào phải dòm mặt mới có thể nhận ra chứ?".
Tiếng cười thê lương vang trong cổ y: "Đáng tiếc ta không còn đầu".
Nói xong, thi thể không đầu đó lại đứng dậy, loạng choạng trước bia đá, như muốn chui vào mộ phần. Giữa ngôi mộ hoang đó vụt bốc lên một mảng khói. Hàn Ngạc nhảy đến gần, vỗ vỗ vai y: "Ngươi đừng đi, ta không tin ngươi không phải là A Xu, bọn ta nói chuyện một chút đã".
Thân hình người kia lại ngay đơ ra, hai đầu gối đột nhiên khuỵu nhún, nhảy tới một bia mộ khác. Dưới ánh trăng nhợt nhạt, thi thể không đầu ôm gối ngồi bệt xuống, thanh âm quỷ dị: "Ngươi muốn hỏi gì thì cứ hỏi đi".
Tình cảnh này thực quá quỷ dị, giữa mộ phần hoang lương, một người miền xa và một người không đầu chuyện vãn, ai nhát gan mà gặp vậy, e rằng không tránh khỏi hoảng kinh gục chết tại đương trường.
Hàn Ngạc bụng nghi hoặc, thở dài hỏi: "Lẽ nào ngươi thực là Vu Tự Vọng? Cứ coi ngươi là Vu Tự Vọng đi, vậy Vu Tiệp tại sao lại muốn giết ngươi? Cái chết của ngươi có liên quan gì đến tình thế trong thành? Ở Lạc Dương thành, thực ra tình hình thế nào, ngươi có thể nói cho ta biết không?".
Cái nón tơi sau cổ "Vu Tự Vọng" đột nhiên cuốn lên, che trùm phần trên cổ, không có gì chống đỡ mà lại nằm yên ở đó, bên trong rỗng không.
"Lạc Dương thành? Lạc Dương là một nơi thối nát, là nơi chôn thân những người yếu sức, là chỗ bọn cường hào hưởng thụ thỏa thê. Ngươi không nên đến, đây không phải là nơi ngươi nên đến".
Hàn Ngạc thở dài, y đâu phải là người đầu tiên nói như vậy với gã.
Sau đó "Vu Tự Vọng" nhẹ giọng: "Nếu ngươi muốn biết tình hình cụ thể của Lạc Dương thành, ta nói cho ngươi nghe hai câu, ngươi ghi nhớ cho kỹ, đến khi ngươi gặp hết bọn chúng, sẽ biết cục thế toàn diện trong Lạc Dương thành".
Sau đó nghe y ngâm khẽ: "Long Môn Dị, Bạch Mã Tăng, Lạc Dương vương, chấn Quan Đông".
Thanh âm của y thê lương làm sao, ngưng một chút lại vang lên: "Thành Nam Tính, Bắc Mang Quỷ, Hà Lạc Thư, định dư đồ. Lạc Dương thực tế đã chia làm nhiều tầng nhiều lớp: có người trong sáng anh minh, có kẻ cậy quyền tranh đấu, có lão bá tánh đổ mồ hôi nước mắt kiếm sống, cũng có giới quyền quý rượu chè gấm vóc... Đó là một thành thị rất rành phép Nội Mị, cũng là nơi chất chứa cặn bã nhơ nhuốc. Ngươi không nên đến, không biết ai đã dụ ngươi đến. Ta nghĩ bọn họ muốn dùng hơi hướm thanh bạch cương trực trong tướng mệnh của ngươi để xung phá sự ô trọc âm tà, cho rằng trên thế gian này chỉ có ngươi mới có thể phá được thuật Nội Mị đó".
Y thở dài một hơi: "Đáng tiếc bọn họ có lẽ đã sai lầm".
Hàn Ngạc nhìn cái túi máu trong tay, ngẫm nghĩ một hồi rồi thốt: "Nếu ngươi thực là Vu Tự Vọng, biết rõ ta vì Vu Tiệp mới xen tay vào vụ án này, tại sao ngươi còn muốn giúp ta? Lẽ nào nàng ta giết ngươi mà ngươi không hận nàng ta?".
Bóng người bùi ngùi than: "Hận? Ta tại sao phải hận? Nàng ta chỉ cắt đầu ta thôi. Ngày đó không phải ngươi cũng có mặt trên cầu sao? Thực ra trước khi nàng ta giết ta, ta có thể đã chết rồi. Cắt hay không cắt đầu, người xung quanh tuy kinh hãi, đối với người chết lại có gì khác biệt chứ? Nàng ta có giết hay không giết ta cũng có hề hấn gì? Chỉ là một cái đầu mà thôi".
Hàn Ngạc thẫn thờ, biết người đó vừa nói đến chỗ then chốt trọng yếu. Lại nghe người đó ai oán thốt: "Máu đó, máu đó, ngươi chỉ cần chú ý chỗ máu đó là được rồi".
Thanh âm của y bỗng vô cùng thê lương: "Đó cũng đã từng là nhiệt huyết!".
Hàn Ngạc còn đang đợi y nói tiếp, nhưng một hồi thực lâu lại không nghe nói gì. Gã đi qua nhìn nhìn, thấy bóng người đó nằm dài dưới đất, đâu có chút sinh khí nào. Không còn giống như trò ảo thuật gì nữa, mà chỉ là một thi thể không đầu.
1 "Khán tự bình thường tối kỳ quật" nghĩa là "xem có vẻ bình thường mà lại nổi trội nhất". Qua nguồn gốc và ý nghĩa của câu nói trên, áp dụng vào kết cấu của chương 7, tác giả ngụ ý tình huống trong thành Lạc Dương coi vậy mà không phải vậy, đồng thời cho thấy cảm xúc của Hàn Ngạc đang tạm thời trú ngụ ở Lạc Dương nhớ đến Thù nhi và A Xu (có lẽ là thân nhân).
Sau đây là nguồn gốc của câu trên (dịch từ bài viết trên mạng tiếng Trung):
"Thu tư" --- tác giả: Trương Tịch (thi nhân đời Tống)
Lạc Dương thành lý kiến thu phong,
Dục tác gia thư ý vạn trọng.
Phục khủng thông thông thuyết bất tận,
Hành nhân lâm phát hựu khai phong.
Dịch nghĩa:
Gió thu mỗi năm một độ,
Lại thổi vào thành Lạc Dương,
Giục ta viết một phong thư,
Đem bao nỗi niềm gởi đến thân nhân.
Người đưa thư sắp xuất phát,
Ta lại mở bao thư đã dán,
Gấp rút thêm vài câu,
Tâm sự nói không hết,
Sao mà quá vội vàng.
Câu đầu nói có người sống ở Lạc Dương lại thấy gió thu đến. Gió thu là vật vô hình, có thể nghe, có thể chạm, có thể cảm nhận, nhưng làm sao mà thấy được? Có điều hơi hướm tịch mịch của gió thu có thể khiến cho hoa lá rụng rơi, không gian điêu linh, cho thế giới một màu thu, một ánh thu, một nét thu, một vẻ thu. Nó vô hình, mà lại có thể thấy khắp nơi. Lãng tử xa quê lưu lạc, thấy cảnh vật thê lương tan tác đó, không tránh khỏi dâng hiện cảm giác cô đơn tủi phận trọ náu xứ người, lan dẫn đến nỗi niềm thương nhớ thân nhân và quê hương. Chữ "kiến" (thấy) bình đạm mà hàm ẩn lắm tình cảm, cho độc giả liên tưởng bồi hồi.
Câu th ứ nhì chính là nói đến chữ "tư" (tâm tư) trong tựa đề. Trương Hàn đời Tấn thấy gió thu đến, nhớ gỏi cá lư, canh rau nhút, rau cô đất Ngô, viết: "Đời người quý nhất là được thích chí, sao có thể làm quan xa mấy ngàn dặm, ham danh tước chi chứ?" Rồi cáo quan mà về (Tấn thư - Trương Hàn truyện). Trương Tịch quê cha đất tổ ở Ngô Quận, lúc đó đang trú ở Lạc Dương, tình huống cũng giống như Trương Hàn năm xưa, khi "thấy gió thu" nhớ quê nhà, có lẽ cũng từng liên tưởng đến cố sự của Trương Hàn. Nhưng do có nguyên nhân không nói rõ được, không thể từ bỏ mà về, chỉ đành viết một lá thư để ký thác tình cảm nhớ nhà nhớ quê. Đó vốn đã là một niềm nhớ quê hương tha thiết mãnh liệt, còn thêm vào một nỗi buồn muốn về mà không về được, khiến cho chữ "tư" biến thành phức tạp đa đoan. Chữ "dục" (muốn) trong "dục tác gia thư ý vạn trọng" biểu đạt ý niềm và tình cảm lúc thi nhân bày biện giấy bút: trong lòng trào dâng sầu tư, cảm thấy có nói cũng khôn cùng, muốn dốc những lời viết hoài không hết, mà nhất thời không biết bắt đầu từ đâu, cũng không biết làm sao để diễn tả. "Ý vạn trọng" (chất chứa ý niềm) vốn khá trừu tượng, do có miêu tả thần tình trạng thái "dục tác gia thư" (muốn viết thư nhà) mà không có cách nào xuống bút, trái lại đã biến thành rõ ràng có thể cảm nhận được, dễ dàng tưởng tượng được.
Hai câu cu ối không đoái hoài tới nội dung cụ thể của lá thư và quá trình viết thư. Thi nhân đã vì "ý vạn trọng" mà cảm thấy không biết viết làm sao, lại vì nhờ người ta đi ngang quê chuyển giao giùm thư mà không có thời gian đắn đo nghĩ ngợi. Bì thư đã dán, tựa hồ đã hết lời, nhưng đến khi người ta sắp lên đường, lại đột nhiên nghĩ tới hồi nãy vì quá vội vã, sợ trong thư viết sót vài chi tiết trọng yếu, cho nên lại bương bả mở bì thư. Hai chữ "phục khủng" (lại sợ) khắc họa tâm lý nơm nớp lo âu. Tình tiết "lâm phát hựu khai phong" (sắp xuất phát lại mở thư) ý chỉ muốn thêm vài câu vào nội dung chưa nói hết được hồi nãy khi quá vội vã, hay cũng có ý muốn nghiệm chứng nỗi nghi hoặc và lo âu của mình. Cái "sợ" không yên tâm được đó không ngờ đã thúc đẩy thi nhân không nghĩ ngợi gì nữa mà quyết định "lại mở bì thư", chính là bày tỏ sự trân trọng phong thư "chất chứa ý niềm" và lòng nhớ thương tha thiết đối với thân nhân --- Ngàn vạn ngôn từ, duy chỉ sợ bỏ sót một câu. Đương nhiên đâu phải tất cả mọi hiện tượng "hành nhân lâm phát hựu khai phong" trong đời sống đều có tính điển hình, đều đáng để làm thơ. Chỉ có nối liền bối cảnh và tâm lý trạng thái đặc thù của ông ta mới hiển hiện ra được ý nghĩa điển hình của nó. Tình tiết "Sắp xuất phát lại mở bì thư" dưới tình huống "thấy gió thu", "chất chứa ý niềm", mà còn "lại sợ vội vã nói không hết", bản thân nó đã bao hàm sự ung đúc và điển hình hóa tính chất của cuộc sống, chứ không phải là mô tả cuộc sống một cách đơn giản. Vương An Thạch bình bài thơ của Trương Tịch có viết: "Khán tự tầm thường tối kỳ quật, thành như dung dị khước gian tân" ("Đề Trương ti nghiệp thi") (Xem có vẻ tầm thường mà lại nổi trội nhất, có vẻ dễ dàng mà lại gian khó).
Quy ển I: Ban Chuy đợi Chương 8
Thành như dung dị khước gian tân1
Ti ểu Kế nhìn thấy Hàn Ngạc, hứng khởi nhảy bật dậy. Nó lo rầu nguyên một đêm rồi. Hàn Ngạc mặt mày mệt mỏi, gã về đến Lạc Dương thành thì trời cũng đã sáng. Tiểu Kế rõ ràng cũng cả đêm không ngủ. Hàn Ngạc bẹo cằm Tiểu Kế một cái nhè nhẹ, một cảm giác ấm áp trào dâng --- Khó thể có một đứa bé tín nhiệm và ỷ lại vào mình đến thế. Gã nói: "Tiểu Kế, ta muốn ngươi giúp ta điều tra hai chuyện".
"M ột là: Vu Tự Vọng hôm đó trước khi bị tỷ tỷ của ngươi hành thích đã gặp qua người nào? Y đã đi đâu?".
"Chuyện thứ nhì là: ta muốn ngươi giúp ta tìm một ngỗ tác2 giỏi nhất".
Gã giơ cái túi da nhỏ đựng máu: "Ta muốn xem xem bên trong có gì quỷ dị".
Được gã phân phó, Tiểu Kế nhận lời thực mau mắn. Nó xoay mình đi ra, tìm đám con nít lanh tin nhất của nó. Quả nó không hổ được tôn làm "tổng quản nắm tin tức chín cửa thành" Lạc Dương, mới đến giờ Ngọ đã về tới. Thấy mặt mày nó hưng phấn, xem ra chuyện Hàn Ngạc nhờ nó đã làm xong xuôi. Vu Tiểu Kế vừa gặp Hàn Ngạc là liền mở miệng cười nói: "Đại ca, chuyện huynh kêu tôi đi làm tôi đã điều tra xong. Hôm đó Vu Tự Vọng trước khi lên Thiên Tân kiều có gặp một người ở 'Tịch Hương Cư'".
Nó ra vẻ bí ẩn, đứng im không nói tiếp. Hàn Ngạc không lọt vào bẫy của nó, cũng im ỉm chờ đợi.
Vu Tiểu Kế không chịu nổi, đành phải cười toe toét: "Ngươi đó e rất không tầm thường".
Hàn Ngạc nhướng mày: "Là người nào?".
Vu Tiểu Kế nghiêm mặt: "Thành Nam Tính".
Hàn Ngạc trầm ngâm: "Thành Nam Tính?".
Vu Tiểu Kế thở dài: "Đại ca còn nhớ lời nói hôm nọ chứ, không phải câu Lạc Dương vương, mà là câu sau: Thành Nam Tính, Bắc Mang Quỷ, Hà Lạc Thư, định dư đồ --- Ở phía nam Lạc Dương thành đó giờ có hai dòng dõi trâm anh thế phiệt trú ngụ, một nhà họ Vi, một nhà họ Đỗ. Thế lực của bọn họ vững bền đời đời ở Lạc Dương thành, cũng qua lại thân mật với Đông cung, quả là vọng tộc một cõi. Người xung quanh gọi bọn họ là 'Thành nam Vi Đỗ, khứ thiên xích ngũ'3, đủ để thấy quyền thế của bọn họ cường thịnh đến đâu. Hôm đó kẻ gặp mặt Vu Tự Vọng trong 'Tích Hương Cư' là người của Vi gia".
Hàn Ngạc cau mày: "Người nào trong Vi gia?".
Vu Tiểu Kế liếc nhìn gã như có thâm ý, không biết tại sao mặt mày có vẻ kỳ dị: "Một nữ nhân".
Hàn Ngạc ngây người, lại nghe Vu Tiểu Kế nói tiếp: "Cũng là thiếu phu nhân của đương gia nhà họ Vi".
"Vi gia đời nay chỉ có một đứa con trai. Ả cũng có thể nói là người chấp chưởng Vi gia. Ả và Vu Tự Vọng nói gì thì không có ai biết. Hình như Vu Tự Vọng lúc đi ra thần tình rất hoang mang".
Hàn Ngạc gật đầu trầm tư, một lúc sao mới nói: "Được rồi, ngươi lại ra ngoài lần nữa điều tra xem có tin tức gì của tỷ tỷ ngươi không? Còn phải tìm một ngỗ tác giỏi nữa. Ta ngã lưng một chốc đã. Tiểu tử ngươi ráng chịu phiền để lo xong chuyện của tỷ tỷ ngươi đi".
Tiểu Kế quả nhiên cần mẫn, nghe tiếng là lại lập tức lên đường.
Hàn Ngạc ngủ thực say, đến hoàng hôn mới tỉnh dậy, bụng lại có một cảm giác hoảng hốt, tựa hồ có gì đó bất an. Gã vừa mở mắt đã thấy Tiểu Kế đang đứng bên giường nhìn mình không chớp. Gã mỉm cười hỏi: "Sao rồi, có nghe ngóng được tin gì không?".
Vu Tiểu Kế cười đáp: "Tiểu Kế ra mặt, làm sao tay không quay về được chứ? Hàn đại ca, tối nay tôi dẫn huynh đi gặp ngỗ tác. Ngỗ tác nổi tiếng nhất Lạc Dương thành là Lam Lão Nhân, có điều ông ta về hưu đã lâu rồi. Ngoài ra, tôi nghe người ta nói thi thể không đầu của Vu Tự Vọng chôn trên Bắc Mang sơn bị người ta đào lên, không biết đem đi đâu, không biết là ai làm".
Hàn Ngạc mỉm cười: "Là y tự chui ra".
Tiểu Kế hơi ngẩn ngơ. Hàn Ngạc mắt hiện vẻ trầm tư, ngước đầu thấy mặt Tiểu Kế thấp thoáng nét ưu sầu, liền hỏi: "Gì đó? Sao không vui vậy?".
Vu Tiểu Kế nhỏ nhẻ: "Tôi nghe bọn chúng nói sáng sớm ngày mai bọn chúng sẽ thẩm tra tỷ tỷ tôi ở 'Hữu Nam Sảnh' của Đại Lý Tự. Đó là nơi hung hiểm có tiếng trong Lạc Dương thành, chọn nơi đó khai đường, tỷ tỷ tôi sợ phải... Cổ Siêu Trác nói hắn đã hỏi qua chuyện này, tam ty hội thẩm, hắn cũng sẽ đi".
Hàn Ngạc thừ người: "Nhanh như vậy?".
Tiểu Kế gật gật đầu.
Hàn Ngạc ngẫm nghĩ, lại hỏi: "Hai nhà trong Thành Nam Tính luôn giao hảo chứ?".
Vu Tiểu Kế đáp: "Đâu chỉ giao hảo, bọn họ còn có quan hệ bà con thân thích đời đời nữa. Thiếu phu nhân của Vi gia đời nay là con gái họ Đỗ mà".
Hàn Ngạc trầm ngâm: "Vậy bọn họ có quan hệ thế nào với 'Ngũ Giám' và 'Cửu Tự'?".
Vu Tiểu Kế ghé miệng sát bên tai Hàn Ngạc: "Đại ca, xem chừng quan hệ cũng không tệ. Tôi nghe nói Thành Nam Tính bọn họ cùng đại đa số người trong 'Ngũ Giám' - 'Cửu Tự' đều là phe đảng với Đông cung. Bọn họ luôn đối đầu với 'Bộc Xạ Đường' mà 'Tam Tỉnh' - 'Lục Bộ' và 'Nhất Đài' ủng hộ. Thiên hạ ngày nay, nghe đồn trong triều Đông cung và Tể tướng tương tranh khá khốc liệt, đó là tỷ tỷ tôi nói vậy. Chị ta nói: bọn ta nếu muốn báo thù, lại người ít sức yếu, có muốn thành công chỉ còn nước lợi dụng cơ hội này".
Hàn Ngạc nhíu mày, lòng thấp thoáng cảm thấy vòng tranh đấu liên quan đến chuyện này thực sâu xa khó lường. Đây gọi là cá biết nước sâu mà không biết sâu đến đâu, mình vì tìm kiếm Phương Ninh, để bị cuốn vào cục diện tranh đua triều dã, e là đã sai lầm.
Gã ngẩng đầu: Vu Tiệp ơi Vu Tiệp, nàng có thực giống như dáng vẻ bề ngoài của nàng, chỉ là một nữ tử cô độc yếu đuối muốn báo mối huyết hải thâm cừu của thân phụ thôi sao? Sao sự tình càng lúc càng khiến cho Hàn Ngạc cảm thây tâm tư của nàng ta cao thâm khó lường được? Hàn Ngạc, Hàn Ngạc, lẽ nào ngươi thực phải gánh mạng Hoa Sát?
Đêm hôm đó, Hàn Ngạc và Vu Tiểu Kế quay đi quay lại thực chật vật, mãi đến gần canh tư mới chợp mắt được một chốc. Vừa hừng sáng, bọn họ lại vội vàng chạy đến bên ngoài "Hữu Nam Sảnh" của Đại Lý Tự.
Vu Tiểu Kế nhìn cửa lớn trang nghiêm và sư tử đá ngay trước "Hữu Nam Sảnh", lòng bất giác hơi khiếp hãi. "Hữu Nam Sảnh" này là chốn xét xử những vụ án lớn ở Đông đô, từ lâu âm trầm lãnh khốc khét tiếng Lạc Dương, bàn tay bé nhỏ của nó cũng không khỏi run run trong tay Hàn Ngạc.
Hàn Ngạc khẽ siết tay nó, an ủi: "Đừng sợ, có ta ở đây, tỷ tỷ của ngươi không có chuyện gì đâu".
o0o
Trong "Hữu Nam Sảnh", tam ty đã thăng đường. Hình Bộ, Đại Lý Tự, nha môn Lạc Dương Điển Thủ đều có người dự. Chủ thẩm hôm nay lại là Chu Vô Nhai, Phó khanh của Đại Lý Tự. Y là một trung niên nhân mặt trắng không râu. Y chậm rãi thong dong cùng đi với Ngô Hoè của Hình Bộ, Sở Thiệu Đức của Lạc Dương Điển Thủ và Cổ Siêu Trác của Ngự Sử Đài. Bọn họ vòng tay chào hỏi qua lại, hàn huyên khách sáo vài câu rồi vào chỗ ngồi, Chu Vô Nhai mở miệng quát: "Dẫn nghi phạm vào!". Vừa hét một tiếng uy nghi, Vu Tiệp đã bị giải vào. Sắc mặt nàng có vẻ tiều tụy, mặc quần áo tù nhân, lại không che khuất được dáng dấp yểu điệu ẻo lả.
Người của tam ty thăng đường có vẻ cũng không ngờ phạm nhân lại là một cô gái yếu đuối như vậy, ai nấy cũng ngấm ngầm kinh ngạc, Chu Vô Nhai mở miệng: "Phạm nhân báo danh".
Vu Tiệp cúi đầu bẩm: "Vu Tiệp".
Chu Vô Nhai hỏi: "Ngày mười tám tháng ba ngươi có mặt trên Thiên Tân kiều?".
Vu Tiệp gật đầu.
Chu Vô Nhai lại hỏi: "Ngươi có oan cừu gì với Lạc Dương Doãn Vu Tự Vọng? Sao lại ngang nhiên hành thích, tàn hại quan lớn trong triều như vậy? Không coi vương pháp ra gì à?".
Vu Tiệp chợt ngửa mặt lên cười, sắc mặt nàng ánh rọi màu đen thui của cột trụ và tấm biển trong "Hữu Nam Sảnh", hơi có vẻ hốc hác. Lại nghe giọng điệu sắc bén của nàng: "Vương pháp? Bao nhiêu vụ án oan ức, bao nhiêu người vô tội bị giết, sợ rằng còn hơn xa một đứa con gái bé nhỏ này, sao không nghĩ tới vương pháp? Đừng nói gì khác, trường huyết án trong ngõ Luân Hồi năm xưa, các vị vẫn chưa thể điều tra gì được, sao không nhắc tới vương pháp lúc đó?".
Chu Vô Nhai mặt mày tỉnh bơ, hét một tiếng: "Lắm lời!".
Nói xong mặt sa sầm: "Ngươi lì lợm muốn bổn ty dụng hình sao? Vụ hành thích này, ngươi nhận hay không nhận?".
Vu Tiệp ngước đầu cười đáp: "Nhận! Ta sao lại không nhận? Ta chỉ tức giết y quá trễ đó! Ngươi bất tất phải hỏi, ta và Vu Tự Vọng có một mối huyết cừu, ta đã giết người, sát nhân phải thường mạng, vậy thì đã sao? Chỉ đáng tiếc ta còn chưa thể giết hết cừu nhân".
Nói xong, nàng trừng trừng nhìn Chu Vô Nhai, Chu Vô Nhai cũng không khỏi hoảng hốt. Y xem ra quả nhiên có dính dấp tới huyết án năm xưa trong ngõ Luân Hồi, trong lòng tựa như có e ngại, không tra cứu rõ "một mối huyết cừu" mà Vu Tiệp nói đến, không ngờ không hỏi Vu Tiệp gì nữa, chỉ lớn tiếng: "Dẫn chứng nhân vào".
Chứng nhân lại là "Hậu Bối Đao" Hậu Kiện, kiệu phu và vài người dân thường có mặt trên Thiên Tân kiều hôm đó. Đợt tra hỏi nhân chứng lại khá tỉ mỉ, tốn cả nửa ngày mới coi như xong. Sau khi mọi người ký nhận, Chu Vô Nhai quay sang ba người bên cạnh cười nói: "Vụ án này chứng cứ đã xác minh, xem ra không còn chỗ nào đáng hoài nghi. Các vị đại nhân, bọn ta tuyên phán ngay bây giờ chứ? Đông cung thái tử cũng đã có lệnh, nói vụ án này trọng đại, không cần phải đợi sang thu4, cứ phán 'trảm lập quyết'5, các vị có dị nghị gì không?".
Lạc Dương Điển Thủ Sở Thiệu Đức đáp: "Như vậy mới được, Thái tử nghĩ thực chu đáo. Nếu không, trong thành lại đồn đại rầm rộ. Chi bằng chém sớm để phủ an lòng dân".
Chu Vô Nhai lại nhìn sang Hình Bộ Ngô Hoè và Ngự Sử Đài Cổ Siêu Trác. Ngô Hoè không nói gì, Cổ Siêu Trác cũng nhíu mày im lìm. Chu Vô Nhai liền nhấc bút chấm mực đỏ, định viết lời phán quyết lên thẻ bài. Thẻ bài mà phát ra, phán "trảm lập quyết", mạng của Vu Tiệp sợ là không qua nổi giờ Ngọ ba khắc ngày mai.
Lúc đó lại nghe dưới sảnh đường có người lên tiếng: "Tôi có dị nghị".
Người trên đường giật mình. Cổ Siêu Trác ngước nhìn, Vu Tiệp thì mặt mày ấm áp. Nàng từ từ ngoái đầu, thấy có hai người đang bước vào cửa lớn, chính là Hàn Ngạc tay dắt Tiểu Kế. Đám thị vệ nha dịch vừa định ngăn cản, thân hình của Hàn Ngạc có vẻ chậm rãi mà lại nhanh nhẹn, lướt qua mặt bọn chúng, không ai kịp trở tay chặn đứng.
"Hậu Bối Đao" Hậu Kiện nhíu mày, thấp giọng: "Đạp Ca Bộ? Quả nhiên là hắn!".
Hàn Ngạc đã đi thẳng lên sảnh đường.
Chu Vô Nhai hét: "Ngươi là ai? Ở đây đâu tới phiên ngươi lên tiếng! Cả gan!".
Y gõ búa công đường6 một cái, định ra lệnh bắt bớ. Hàn Ngạc lại cười nói: "Tôi chỉ là một thảo dân, nhưng tiểu huynh đệ này lại là khổ chủ. Phép tắc của triều đình lẽ nào không có lệ cho khổ chủ đích thân trình bày? Nếu không phải vậy, tại hạ không tiện mở miệng".
Chu Vô Nhai quát: "Đã là thảo dân, sao gặp bổn quan mà không quỳ xuống?".
Hàn Ngạc chợt ngửa mặt lên cười, thanh âm chấn động tới mái ngói. Gã giơ một ngón tay ra, để lộ chiếc nhẫn bạc hôm trước lấy trong ngõ Luân Hồi. Chu Vô Nhai giữ chức vụ trọng yếu trong "Cửu Tự", dĩ nhiên nhận ra dấu hiệu đó cho nên lập tức nín nhịn, biết gã là người của Đại nội, liền đổi sắc mặt ôn tồn hỏi dò: "Xin hỏi phải xưng hô làm sao với các hạ?".
Hàn Ngạc nghiêm mặt: "Tiểu tử tôi là Hàn Ngạc".
Gã chỉ Vu Tiệp: "Lần này đến đây là vì vụ oan án của cô gái này".
Chu Vô Nhai hỏi: "Oan án? Vụ án này chứng cứ đã xác minh, cả ngàn người tận mắt chứng kiến trên Thiên Tân kiều hôm đó, bổn quan mới thẩm tra xong, lẽ nào còn cho là oan án?".
Y chỉ Vu Tiệp đang quỳ: "Chính thị đã nhận, lẽ nào bây giờ lại phủ nhận không phải thị giết Lạc Dương Doãn Vu Tự Vọng?".
Hàn Ngạc cười lạnh: "Không sai, hôm đó tiểu tử tôi cũng có mặt trên cầu, nàng ta đã chém đầu Vu Tự Vọng".
Chu Vô Nhai cười đắc ý, lại nghe Hàn Ngạc nói tiếp: "Nhưng nếu đó là tội danh của nàng ta, thì người nàng ta giết là một người chết, chứ không phải là người đang sống! Nàng ta chỉ cắt đầu vị Lạc Dương Doãn đã chết. Tuy điều này vị tất có thể gọi là vô tội, nhưng nếu gán cho Vu Tiệp là kẻ giết Vu Tự Vọng, Chu đại nhân khó tránh khỏi mang tiếng xử án bất minh".
Lời nói của gã khiến người trên công đường ai ai cũng thất kinh. Cổ Siêu Trác mặt mày lại mừng rỡ, Chu Vô Nhai bàng hoàng, ấp úng: "Ngươi có chứng cớ chứ? Vu Tự Vọng Vu đại nhân lúc lên kiệu còn khoẻ mạnh, sao ngươi có thể nói Vu đại nhân đã là người chết khi nữ tử kia hành thích?".
Hàn Ngạc nhẹ nhàng rút trong ống tay áo ra cái túi da nhỏ đựng máu: "Đây là bằng chứng".
Sau đó gã thốt "Xin đại nhân thỉnh truyền ngỗ tác Lam Lão Nhân".
Ngỗ tác Lam Lão Nhân vốn đã về hưu. Lão ta là người tiếng tăm lừng lẫy ở Lạc Dương thành, không một ai không biết đến. Lão bằng vào kiến thức mổ xẻ đã trải qua cả trăm cả ngàn vụ án, hơn nữa vụ nào cũng đều phá được, cả người bị xử cũng không thể không phục. Chu Vô Nhai thấy Hàn Ngạc vừa mở miệng đã nói tên Lam Lão Nhân, biết chuyện này không đơn giản. Y biến sắc mặt, lại có Cổ Siêu Trác và Hình Bộ bên cạnh, đâu thể nào không tra cho rõ, chỉ đành mở miệng: "Truyền Lam Lão Nhân vào làm chứng".
Trong sảnh liền có người đi vời Lam Lão Nhân. Chỗ ở của lão ta vốn ở sát mé Đại Lý Tự, một đời lão làm sai dịch cho Hình Bộ, đâu có lạ lẫm gì với công đường, chỉ là lúc gặp Hàn Ngạc mới hơi bần thần.
Hàn Ngạc đi tới mỉm cười chào hỏi: "Lam tiền bối".
Lam Lão Nhân gật gật đầu, thi lễ với các quan trên công đường. Tên tuổi đức độ của lão đều cao, cả Phó khanh Chu Vô Nhai của Đại Lý Tự cũng không tránh khỏi thi lễ đối đãi. Hàn Ngạc thốt: "Đêm hôm qua, tiểu tử tôi đã từng trả tiền thỉnh Lam Lão Nhân khám nghiệm một vật".
Gã chỉ cái túi máu đã trình lên đang để trên án: "Là cái túi đó".
Gã nghiêng đầu nhìn sang Lam Lão Nhân: "Lam tiền bối, đêm hôm qua ông đã nói gì?".
Lam Lão Nhân tới bây giờ mới phát giác mình đã bị lôi vào một cuộc tranh tụng phức tạp. Lão thở dài, trầm ngâm đáp: "Không sai, hôm qua vị Hàn công tử này đã từng ghé qua, phiền tiểu Lão Nhân kiểm nghiệm chỗ máu của người chết còn tồn giữ lại. Tiểu Lão Nhân đã khám ra một loại độc từ chỗ máu đó".
Lão liếc nhìn những người trên công đường, cả đời lão lăn lộn trong Hình Bộ, vừa nhìn là đã đoán biết chuyện này sâu xa đến cỡ nào, không muốn dính thêm rắc rối, chỉ theo lời thực mà thuật: "Tiểu Lão Nhân đã khám nhận được một thứ độc hiếm thấy từ trong máu".
"Tên của thứ độc đó thậm chí có rất ít người biết đến, nó là 'Nhãn Nhi Mị'7".
Mắt lão tràn ngập vẻ sợ hãi. Người ngồi bên trên ai nấy cũng giật mình. Phải biết Lam Lão Nhân tuy không nói rõ, mọi người ai cũng biết "Nhãn Nhi Mị" là là độc dược bí truyền trong cung. Biết bao nhiêu Thục phi8 danh viện9 ngộ hại xưa nay, nghe đồn hầu hết có liên quan với loại độc dược này. Vì kẻ sử dụng loại độc này đa số là nữ nhân, kẻ bị hại cũng hầu hết là nữ nhân, cho nên mới có cái tên thương hương tiếc ngọc: Nhãn Nhi Mị.
Lam Lão Nhân thở dài: "Độc dược đó cực ít thấy, chỉ có thể hòa vào trà thơm, mà còn phải là 'Niệp Nhi Trà' thì độc tính mới có thể phát tác. Lá trà đó cũng rất hiếm có. Phàm những người trúng phải thứ độc này, chỉ cần uống 'Niệp Nhi Trà' có pha 'Nhãn Nhi Mị', hơi thở lập tức nghẽn nghẹt, có mở miệng muốn cầu xin cứu trợ cũng nói không nên lời, chưa đầy ba khắc phải bỏ mạng. Mà một khi chết, nếu không lập tức dùng kim loại cắt xẻ, ngỗ tác có khám nghiệm kỹ đến đâu cũng không tra ra được nó. Nó vốn là loại độc dược sát nhân không để lại đối chứng ghê gớm nhất, kết quả khám nghiệm của tiểu Lão Nhân là như vậy".
Hàn Ngạc tiếp lời: "Chỗ máu đó là tại hạ rút ra trên mình Vu Tự Vọng".
Thanh âm gã lãnh đạm, bụng biết chuyện này nhất định có dính dấp tới tranh chấp cửa quan. Gã đó giờ chu du sông nước, không muốn tham dự vào sự đấu đá của đời, nhưng vì để giúp Vu Tiệp, để tìm Phương Ninh, gã cũng chỉ còn nước làm vậy.
Chu Vô Nhai lại rùng mình, một hồi sau mới định thần nói: "Nhưng ngươi làm sao chứng minh được máu đó là từ trên mình Vu Tự Vọng ra?".
Y quả nhiên xem xét cẩn mật. Hàn Ngạc cười tươi, tay chỉ ra cửa: "Xin Chu đại nhân cho người mang cái hòm gỗ ngoài cửa vào". Chu Vô Nhai phất tay, ra lệnh cho đám nha dịch đem cái hòm Hàn Ngạc đã mang đặt ngoài cửa vào.
Hàn Ngạc đi tới mở hòm, điềm đạm thốt: "Mời chưa vị đại nhân xem, đây là thi thể của Vu Tự Vọng".
Trong hòm quả có một thi thể không đầu, cổ thi thể đã khô máu, thịt da tái mét. Tuy "Hữu Nam Sảnh" quá quen thuộc với hung sát thảm án, nhưng hiện giờ lưng ai nấy cũng toát mồ hôi lạnh, lại không thể ngoảnh mặt không nhìn.
Hàn Ngạc điềm đạm thốt: "Thỉnh Lam Lão Nhân khám nghiệm ngay tại đây được chứ?".
Chu Vô Nhai thấy chuyện đã đến nước này, chỉ đành gật đầu.
Lam Lão Nhân rút trong mình ra một lưỡi dao chuôi vàng, đâm lên cánh tay của thi thể, nặn chút máu đọng. Sau đó lão lấy một cái hộp bạc --- Thì ra tuy lão đã về hưu, đi đâu vẫn mang theo đồ nghề ngỗ tác. Lão đổ trong hộp ra một chiếc lá khô không biết là lá cây gì, thắp hỏa tập đốt lá thành tro. Tới lúc chiếc lá cháy rụi không còn màu không còn mùi, lão mới cẩn thận nhỏ một giọt máu lên đống tro.
Có một mùi lạ bốc lên trong "Hữu Nam Sảnh", người trong công đường đều ngửi thấy. Bọn họ cũng là hành gia, biết đó là phép "Bối diệp nghiệm độc". Lam Lão Nhân thở dài: "Không sai, trong máu của thi thể có độc, chính là 'Nhãn Nhi Mị'. Nếu không phải sau khi chất độc phát tác, bị binh khí cắt vào mình thì phải coi là cái chết bình thường rồi, thứ độc này cũng không khám nghiệm ra được".
Chu Vô Nhai trầm ngâm: "Có điều... ngươi có thể xác định thứ độc đó không phải sau khi người chết rồi mới hạ trên mình không?".
Lam Lão Nhân mỉm cười đáp: "Thứ độc này nếu không phải cho người sống uống, có hòa vào máu cũng không có hiện tượng lạ như vầy".
Chu Vô Nhai trầm ngâm. Hàn Ngạc mở miệng: "Theo tại hạ điều tra, Vu Tự Vọng hôm đó trước khi về quan nha đã từng ghé qua 'Tích Hương Cư'. Thứ y uống cũng chính là 'Niệp Nhi Trà'. Dùng trà xong mới lên kiệu đi Thiên Tân kiều, vừa đúng thời gian ba khắc".
Gã chỉ Vu Tiệp: "Huống hồ cho dù tôi không nói, các vị chắc cũng biết Vu đại nhân là cao thủ võ thuật. Với năng lực của ông ta, làm sao có thể bị hành thích mà không phản kháng được chút nào? Cho nên tôi mới nói Vu cô nương đây quả đã từng sát nhân, nhưng lúc nàng sát nhân, Vu đại nhân đã là người chết rồi".
"Vì vậy, phải nói kẻ thực sự sát hại Vu đại nhân là một hung thủ khác!".
Lời nói đó vừa dứt, Chu Vô Nhai vẫn im lặng không nói gì, những người khác cũng cấm khẩu. Phải một hồi sau Chu Vô Nhai mới liếc Ngô Hoè, Sở Thiệu Đức và Cổ Siêu Trác, nghi hoặc hỏi: "Ba vị đại nhân thấy sao?".
Ba người nhất thời cũng lặng im không đáp. Cuối cùng Cổ Siêu Trác nói: "Xem ra vụ án này còn có ẩn tình. Có Hàn huynh trình bày chứng cứ, lại có Lam Lão Nhân nghiệm thi, ta thấy vụ án này phải điều tra kỹ nữa".
Chu Vô Nhai mặc hơi sa sầm. Hàn Ngạc lại cười cười, trong tiếng cười có ý mỉa mai: "Chu đại nhân sao không hỏi hôm đó ai đã mời Vu đại nhân vào 'Tích Hương Cư' dùng trà?".
Chu Vô Nhai bất lực, ánh mắt bần thần hỏi: "Là ai?".
Hàn Ngạc điềm đạm đáp: "Thân phận của y thị e rất quyền quý. Theo tiểu tử tôi điều tra, kẻ hôm đó dùng trà với Vu đại nhân là thiếu phu nhân của Vi gia thành nam, vốn là con cháu nhà họ Đỗ".
Gã nhướng mày: "Đại nhân thấy vụ án này còn phải điều tra cho rõ ràng chứ?".
Nói xong, mục quang của gã quay sang Cổ Siêu Trác, mắt trừng trừng, tỏ ý: phần ta đã làm xong, lời hứa của ngươi đâu thể không đoái hoài. Cổ Siêu Trác tựa như cũng không ngờ được sẽ có kết quả này, ngẩn ngơ một hồi rồi mới khe khẽ gật gật đầu nhìn Hàn Ngạc.
Quyển I: Ban Chuy đợi Chương 9
Ban Chuy chỉ hệ thùy dương ngạn1
1 Có vẻ dễ dàng mà lại gian khó. Xem chú thích ở chương 7.
2 Một chức lại chuyên môn khám nghiệm thi thể.
3 Nghĩa là: Họ Vi họ Đỗ ở phía nam thành, gần sát với cung đình. Vương Mô đời Thanh soạn sách "Hán Đường địa lý thư sao" có trích dẫn sách "Tân thị Tam Tần Ký" đời Hán: "Thành nam Vi Đỗ, khứ thiên xích ngũ". Họ Vi và họ Đỗ là quý tộc hào môn. "Thiên" muốn chỉ cung đình của đế vương.
4 Nguyên tác viết là "thu hậu", xuất xứ từ "thu hậu vấn trảm" (chờ đến mùa thu xử trảm). "Thu hậu vấn trảm" bắt đầu từ đời Đường. Thủy Hử Anh Hùng Truyện cũng có đề cập đến "thu hậu vấn trảm" này. Thời xa xưa xử trảm không nhất định phải chờ đến mùa thu. Đến triều Minh và triều Thanh mới cố định vào mùa thu. Sau đời Gia Khánh lại đổi thành xử trảm theo lúc phán quyết. "Chờ sang thu xử trảm" có liên quan đến việc canh tác nông nghiệp. Hồi xưa sau khi phán án tử hình thông thường đều đòi hỏi tập trung lại mà xử tử, cũng cho phép thời gian để công cáo. Còn tại sao phải chọn hai quý thu và đông để xử tử? Chủ yếu là vì hai mùa đó nông dân rảnh rỗi ở không, cũng dễ dàng cho quan lại địa phương động viên dân chúng đi xem, có khi cũng có cưỡng bách dân chúng đi xem. Thời gian hành hình đại khái tập trung vào tháng 9 và tháng
10. Vì vậy mới xuất hiện thành ngữ "thu hậu vấn trảm".
5 "Lập quyết" là "chấp hành lập tức", chia làm "trảm lập quyết" và "giảo lập quyết" ("giảo" là thắt cổ). Đối với vụ án còn có nghi vấn hoặc thương hại niệm tình thì phán xử "giam hậu", gọi là "trảm giam hậu" hoặc "giảo giam hậu". Án phạm bị phán "trảm giam hậu" hay "giảo giam hậu" không xử quyết trong năm mà tạm thời giam cầm, đợi sang mùa thu năm sau mới thẩm tra phán quyết lại. Còn "Trảm lập quyết" có nghĩa là xử trảm lập tức.
6 Nguyên tác là "kinh đường mộc", là một khúc gỗ cứng hình chữ nhật, thời xưa quan lại dùng đập trên mặt bàn, có tác dụng đàn áp phạm nhân, có lúc cũng để giữ trật tự trong công đường.
7 "Nhãn nhi mị" còn là tên một điệu từ, xuất xứ từ câu trong bài từ của Trương Hiếu Tường: "Kim tiêu nhãn để, minh triêu tâm thượng, hậu nhật mi đầu" (Đêm nay nàng con gái hoạt bát vẫn ở trước mắt ta; đến sớm
mai hình bóng của nàng lại chỉ còn sống trong tim ta; sang ngày kia nhớ nàng mà lại không gặp được nàng, không gọi được nàng, ta chỉ có thể nhíu mày chịu đựng nỗi sầu chia ly).
8 "Thục phi" là một tên gọi phi tần thời xưa. Ví dụ vào thời Đường, Thục phi đứng dưới Hoàng hậu và Quý phi. Hệ thống Hậu Phi thời Đường: Hoàng hậu, ba phu nhân (Quý phi, Thục phi, Đức phi), chín Tần (Chiêu nghi, Chiêu dung, Chiêu viện, Tu nghi, Tu dung, Tu viện, Sung nghi, Sung dung, Sung viện), 27 Thế phụ (9 Tiệp dư, 9 Mỹ nhân, 9 Tài nhân), rồi đến 27 Bảo lâm, 27 Ngự nữ, 27 Tài nữ.
9 Danh viện là con gái đại gia tộc quyền quý yểu điệu thanh nhã, tài giỏi cầm kỳ thi họa.
Nhà c ửa phía nam hoàng thành rất tráng lệ, mái cao vành cong, chạm trổ tinh vi lộng lẫy.
"Thành nam Vi Đỗ, khứ thiên xích ngũ" --- Lúc Hàn Ngạc bước vào con đường nhỏ sạch sẽ vắng lặng đằng trước Vi phủ, bụng nhớ tới câu nói của Tiểu Kế.
Họ Vi và họ Đỗ là dòng họ quyền quý lâu đời, muốn bái phỏng bọn họ thực khó như lên trời. Chỉ một điểm đó đã có thể thấy danh vọng của hai nhà có uy lực đến mức nào.
Bị lời nói của Hàn Ngạc ép bức, Chu Vô Nhai bất đắc dĩ phải kêu người chuẩn bị kiệu, cùng Ngô Hoè, Sở Thiệu Đức, Cổ Siêu Trác, Hàn Ngạc, Vu Tiểu Kế, Lam Lão Nhân và Hậu Kiện kéo Vu Tiệp theo đến bái kiến thiếu phu nhân của Vi phủ. Bọn họ không dám triệu nàng ta đến nha môn chất vấn, há chẳng phải đã xác nhận thanh thế cường thịnh của Vi gia ở Lạc Dương? Chu Vô Nhai vừa đến cửa Vi phủ liền sai người thông báo, có gia nhân dẫn bọn họ vào một khách sảnh nhỏ.
Mọi người thượng tọa trong khách sảnh một hồi mà vẫn không ai lên tiếng, có vẻ người nào người nấy đều có tâm sự riêng. Hàn Ngạc lại đang nghĩ: Cổ Siêu Trác không giống hạng coi nhẹ lời hứa, lúc trước hắn có nói nếu mình khám phá được bí ẩn của vụ án này, hắn sẽ phiền Lạc Dương vương ra mặt, cho Vu Tiệp một cơ hội hoàn hồn. Hắn tuy không nói rõ, nhưng Hàn Ngạc cũng biết Hình trường có lắm mánh khoé, đại để đã đoán ra được biện pháp bọn họ có thể dùng để giúp Vu Tiệp toàn mạng. Gã thầm trông mong chuyện này xong cho lẹ để gã gặp được Phương Ninh.
Bàn tay Tiểu Kế trong tay gã lấm tấm mồ hôi, Hàn Ngạc cúi đầu mỉm cười với nó, không biết tại sao gã lại cảm thấy cậu bé này rất có duyên với gã.
Còn nếu Cổ Siêu Trác nuốt lời? Hàn Ngạc khoé môi chợt thoáng hiện một nụ cười lạnh --- Có thanh kiếm của mình, Cổ Siêu Trác muốn không làm theo lời hứa e cũng phải đắn đo cho kỹ. Nghĩ đến đó, Hàn Ngạc liếc sang Cổ Siêu Trác, cười rất lạnh lùng. Cổ Siêu Trác đến gần thấp giọng: "Hàn huynh an tâm".
Hàn Ngạc gật đầu nhè nhẹ.
Khách sảnh của Vi phủ trang hoàng hết sức hoa lệ. Bên ngoài hơi xuân lành lạnh, khó mà kiếm được hoa tươi mơn mởn như những đóa hoa trưng bày trong sảnh. Một nhành chi tử2 hoa trắng nhạt tỏa hương thoang thoảng. Trong sảnh trải chiếu in hình rồng, xà buông lụa trắng, hiên thả vải sa, sàn gạch đệm gấm, thực thanh nhã sang trọng. Ngồi một hồi lâu trong thất, Hàn Ngạc cũng cảm thấy tâm thần nhẹ nhõm, trong đầu đang nghĩ: phá xong vụ án, mình cuối cùng cũng có thể gặp Phương Ninh, Phương Ninh mà mình ngàn nhung vạn nhớ.
Phương Ninh, theo lời của Dư cô cô, đang đụng phải một nan đề lớn, không biết chỗ khó xử của nàng là gì? Mà mình thực ra có giúp được không?
Gã trầm tư mặc tưởng, bất giác cũng đã chờ được nửa canh giờ, chủ nhân lại còn chưa đến. Bọn Chu Vô Nhai lại không có vẻ bồn chồn. Qua một hồi thực lâu mới nghe sau bình phong có tiếng bước chân khe khẽ, đang có người chầm chậm đi ra. Nghe tiếng động là biết có vài nữ nhân. Một người trong số thầm lặng đến mức cơ hồ không thể nào nghe nổi. Hàn Ngạc giật mình: hảo công phu!
Sau đó thấy từ đằng sau bình phong có ba thị nữ xuất hiện trước, y phục một lụa đào nhạt, một xanh mạ non, một đỏ hạt lựu, người nào cũng da trắng mịn màng, cổ thon mềm mại. Thị nữ cũng chẳng kém phận giai nhân, nhà họ Vi quyền quý khó bì.
Sau đó tiếng vòng xuyến tinh tang, bọn Cổ Siêu Trác ngước mắt, thấy chủ nhân chậm rãi thả bước. Hàn Ngạc vốn đứng quay lưng lại, ban đầu chỉ thấy mặt mày mấy vị quan nhân lộ vẻ bàng hoàng, tựa như tuy đã nghe danh, nhưng cũng không ngờ được thiếu phu nhân của Vi phủ lại xinh đẹp đến thế. Hàn Ngạc bụng cũng ngạc nhiên, biết mấy vị quan nhân đó đâu phải là hạng khờ khạo ít giao thiệp gặp gỡ, sao lại có thể để lộ vẻ bàng hoàng thờ thẫn như vậy? Để xem xem Vi thiếu phu nhân kia kiều diễm đến đâu! Gã hiếu kỳ không biết nàng ta thực ra là nhân vật thế nào, xuất thân từ hào môn mà lại có thể sát nhân một cách vô hình, hạ thủ tàn độc như vậy?
Gã chầm chậm quay đầu, không hiểu sao, chưa xoay mình đã cảm thấy có gì đó không ổn, mà lại chẳng biết không ổn ở chỗ nào. Sau đó gã ngước nhìn, thấy người đến thân thể tầm vóc, vận trang phục thiếu phụ, đôi mày cong vút, ánh mắt rạng ngời, mỹ lệ mà u lãnh. Tim gã như bị sét đánh, không tin được vào mắt mình, cơ hồ không kềm được muốn giơ tay dụi mắt. Gã nhắm chặt mắt, thậm chí không muốn mở mắt nữa, cũng cảm thấy mục quang của nữ tử kia đang dõi nhìn mình. Sau đó một thanh âm đã từng hồi vọng trong lòng gã ngàn vạn lần, quen thuộc đến cực độ, dịu dàng vang lên: "Phiền các vị đợi lâu. Tiểu nữ là Vi phủ Đỗ thị, Đỗ Phương Ninh".
Không thể nào... Không thể nào... Sao lại có thể như thế được? Hàn Ngạc cảm thấy trong đầu nhất thời rần rật ngàn vạn ý từ. Gã lặn lội tìm kiếm, tổn hao sức lực ráng điều tra cho được vụ án bí ẩn, mà nàng con gái gã muốn tìm lại chính là hung thủ của vụ án này sao? Nàng lại là thiếu phu nhân của Vi phủ. Không... nàng không thể nào... Nàng là một cô gái trong sáng bình dị, hồn nhiên đáng yêu mà... Nàng không thể nào!
Nhưng lòng gã lại biết đó là sự thực --- Đâu lạ gì... đâu lạ gì nàng nằng nặc không muốn mình vào Lạc Dương thành! Đâu lạ gì đêm hôm đó lúc tình cờ gặp nàng ngoài ngõ Luân Hồi, nàng lại ngồi một cỗ xe sang trọng như vậy! Bao nhiêu nghi hoặc ba năm trời nay đến giờ mới tan thành mây khó, chỉ là không thể nào ngờ được lại có kết quả như vầy.
Sau đó gã mới xót xa nhớ tới lời nói của Dư cô cô, bây giờ mới minh bạch cái gì gọi là: "Nếu ngươi điều tra cho rõ chuyện ngõ Luân Hồi, ngươi có thể tìm được xuất xứ của nàng ta; nếu ngươi làm được một chuyện hiệp nghĩa, ngươi có thể tra ra xuất xứ của nàng ta; nếu ngươi có thể trợ giúp một nữ tử yếu đuối, ngươi có thể tra ra xuất xứ của nàng ta". Cũng không lạ gì Vu Tiệp từng nói: "Sao lại quá đa tình? Nhưng đa tình sao lại vô tình đến thế! Lời này ta không nên nói, nhưng đến lúc huynh sẽ biết. Phương Ninh tuy tốt, sợ rằng lại không phải... lại không phải là người tốt để sánh đôi với Hàn huynh".
Gã nhất thời cảm thấy đây là một trò đùa tàn khốc của số phận. Gã mơ hồ nghe Phương Ninh nói: "Chư vị đại nhân tìm tiểu nữ không biết có chuyện gì?".
Hàn Ngạc cuối cùng đã mở mắt, thấy Phương Ninh... không... Đỗ Phương Ninh đang chăm chú nhìn mình, trong mắt bao bi thương, bao khó xử, bao xót xa, bao u oán. Gã cảm thấy cổ họng khô quánh, không ngờ nổi lần trùng phùng thầm trông trộm chờ lại đến nước này. Gã đã nhận lời Vu Tiệp bảo vệ mạng sống cho nàng ta, nhưng điều tra vụ án giúp nàng ta, không ngờ lại khám phá người mình nhớ nhung tìm kiếm có dính líu. Phương Ninh thậm chí vì vậy có thể bị ghép vào tử tội. Gã quay lại nhìn, thấy Vu Tiệp bị trói giữ đang buồn thảm tiếc thương nhìn mình, mục quang phảng phất có chút vẻ cảm thấy có lỗi. Hàn Ngạc tới giờ mới phát giác: thì ra đây là một cái tròng, mà gã một mực u mê không nhận ra, kẻ lọt vào tròng chính là gã. Gã cứ cho rằng mình đang tra cứu một vụ án không liên can tới mình, đâu có ngờ mình đã rơi vào một cái tròng mưu tính tinh vi đến thế!
Bây giờ gã xử sự làm sao? Gã làm sao mới cứu được nàng ta mà tuyệt đối không làm tổn thương đến Phương Ninh?
Chu Vô Nhai đằng hắng hai tiếng rồi mới lên tiếng: "Vi phu nhân, ngày hôm kia không biết phu nhân có từng ghé 'Tích Hương Cư' không?".
Đỗ Phương Ninh gật gật đầu, điềm đạm đáp: "Có gì không?".
Chu Vô Nhai thở dài hỏi: "Hôm đó Vi phu nhân có gặp Lạc Dương Doãn Vu Tự Vọng không?".
Từng câu hỏi của y như từng nhát dao cắt tận đáy lòng Hàn Ngạc.
Đỗ Phương Ninh hơi biến sắc: "Không sai, ta có gặp y".
Chu Vô Nhai buồn bã thở dài, hỏi: "Còn sau đó? Vi phu nhân có gì để thuật lại không?".
Đỗ Phương Ninh nhìn Hàn Ngạc, thần sắc trên mặt biến chuyển liên miên trong chớp mắt, một hồi sau quả quyết đáp: "Nói như vậy các người đã điều tra ra, vậy ta...".
--- Nàng sắp lên tiếng thừa nhận mình đã pha "Nhãn Nhi Mị" trong chén trà Niệp Nhi giết chết vị đại quan Ngũ phẩm của triều đình! Nàng sắp cung khai!
Hàn Ngạc cơ hồ không kềm được muốn lao lên bịt miệng nàng, chỉ muốn... chỉ muốn lập tức kéo nàng đi. Gã không thể nào... không thể nào gian khổ kiếm tìm, rồi đến cuối lại đưa người yêu vào tuyệt cảnh. Vu Tiệp cứ lặng lẽ đăm đăm nhìn gã, đến giờ đột nhiên biến sắc mặt, nhảy bật dậy cười lớn: "Đám khốn kiếp các ngươi, thứ độc đó do ta hạ, hôm đó ta cũng có đến 'Tích Hương Cư', ha ha, ha ha, không hạ độc thì làm sao dễ dàng cắt đầu tên Vu Tự Vọng đáng chết kia".
Hậu Kiện cũng vọt dậy tức thời, sợ nàng ta đả thương người. Vu Tiệp thì lại nhảy tới bên bàn, thò bàn tay đang bị còng chộp lấy con dao Tịnh châu3 nhỏ dùng để cắt gọt trái cây, trở mũi đâm phập vào ngực mình. Mọi người thất kinh, làm sao ngờ được nàng ta vào đúng lúc này lại đột nhiên nhận tội rồi tự đâm mình! Hàn Ngạc hoảng hốt, tim rụng rời, vọt mình về phía Vu Tiệp. Vu Tiệp cũng vô ý hữu tình ngã lên mình Hàn Ngạc, khẽ thốt bên tai gã: "Hàn công tử, huynh còn nợ ta...".
Giọng nàng như hòa xen tiếng cười nhẹ. Hàn Ngạc còn đang bàng hoàng, Vu Tiệp chợt ngửa mặt than: "Ân oán chưa dứt, ân oán chưa xong! Cha mẹ ơi, cha mẹ, trời xanh ơi, trời xanh, Vu Tiệp con cuộc đời này sống không cam lòng!".
Sau đó thân thể nàng ta nhũn ra, ngã vào lòng Hàn Ngạc, máu từ lồng ngực phun ra thấm ướt ống tay áo gã đang ôm chặt nàng ta. Sắc mặt nàng ta tái nhợt, yếu ớt thốt: "Hàn công tử, Vu Tiệp ta ngàn vạn kiếp sau cũng không quên vòng tay ôm ấp của chàng. Chỉ xin Hàn công tử niệm tình ta hôm nay, giải quyết cho xong mối thù còn chưa liễu kết của nhà tiểu nữ".
Tiếp đó nàng ta quay sang Tiểu Kế, miệng thì thầm: "Tiểu Kế, Tiểu Kế...", không còn nói gì thêm được nữa.
Rồi nàng ngửa mặt, đôi mắt xoe tròn, yết hầu hớp vài hơi liên tục. Lam Lão Nhân len mình đến, lão làm ngỗ tác cho nên rành y thuật. Nhưng lão cố gắng cấp cứu một hồi cũng không có kết quả tốt, mặt mày buồn thảm thở dài: "Không xong rồi".
Mọi người đâu có ngờ lại đến nước này. Đỗ Phương Ninh nhất thời cũng kinh ngạc, sau đó trên mặt dâng hiện một vẻ cổ quái. Hàn Ngạc còn đờ đẫn ôm thi thể Vu Tiệp, lòng bâng khuâng ý tưởng: sao nàng lại... sao lại đột nhiên tự đâm mình? Mọi sự có phải là vì mình? Gã nghĩ tới ánh mắt trân trối chút tình câm vào giây phút cuối cùng, một lúc sau, hai dòng lệ buông rơi trên mặt gã --- Nàng ta không ngờ lại buông bỏ cả sinh cơ vì người con gái mình yêu thương, có thể chỉ vì mình cũng là người nàng ta yêu thương nhất cuộc đời này, nhưng ân tình đó mình làm sao kham?
Hàn Ngạc chợt ngửa mặt cười bi ai, vòng tay nói với bọn Chu Vô Nhai: "Vụ án này đã xong, tiểu tử tôi xin thối lui, tôi không ngờ lại như vầy... lại đến nước này...".
Cổ họng gã nghèn nghẹn, không nói gì nhiều được, buồn bã thốt: "Quý thể của Vu cô nương, tại hạ xin mang đi trước".
Nói xong, gã ôm thi thể Vu Tiệp, dắt Tiểu Kế bỏ đi. Hậu Kiện vẫn chặn lại --- Tù nhân cho dù đã chết, cũng đâu thể cho phép gã đem thi thể đi như vậy. Hàn Ngạc khựng bước, xoay tay rút kiếm sau lưng, đâm một kiếm lên đao giắt bên hông Hậu Kiện, thanh Hậu bối đao ngân "xoẻng" một tiếng vang vọng, Hậu Kiện thân hình lảo đảo. Sau đó Hàn Ngạc cười dài, rướn mình phóng đi.
Đỗ Phương Ninh sau lưng gã u uẩn thở dài, khe khẽ ngâm một câu: "Lai thị không ngôn khứ tuyệt tung...".
Câu nói của nàng ẩn hàm thâm ý, chất chứa bi thương. Cuộc đời này đây, những gặp gỡ trong đời tại sao luôn luôn hẹn đến chỉ là nói suông cho qua, mà đi rồi lại mất tung tích.
"Lai thị không ngôn khứ tuyệt tung, nguyệt tà lâu thượng ngũ canh chung.
Mộng vi viễn biệt đề nan hoán, thư bị thôi thành mặc vị nùng.
Chá chiếu bán lung kim phỉ thúy, xạ huân vi độ tú phù dung.
Lưu lang dĩ hận Bồng sơn viễn, canh cách Bồng sơn nhất vạn trùng"4.
1 Câu "Ban Chuy chỉ hệ thùy dương liễu" trong bài thơ "Vô Đề - kỳ ngũ" của Lý Thương Ẩn (Lý Nghĩa Sơn) dùng ý của câu dân ca "Lục lang thừa Ban Chuy... vọng môn bất dục quy" trong "Nhạc Phủ thi tập - Thanh thương khúc từ tứ - Minh Hạ Đồng Khúc" ("Lục lang" ở đây là Lục Du, sủng thần của Nam triều Trần Hậu chúa. Lục lang cưỡi ngựa Chuy... đã nhìn thấy cửa mà không muốn về --- Sự vô tình này của Lục lang có khác với lòng người con trai trong thơ Lý Thương Ẩn), đại khái ám chỉ ý trung nhân của nàng thực ra đâu có cách xa nàng, có lẽ đang buộc ngựa bên bờ thùy dương, chỉ là gần trong gang tấc mà như cách trở thiên nhai, không có duyên hội hợp.
2 Còn có tên là "dành dành", loại cây bụi, hoa to màu trắng vàng rất thơm.
3 Vốn dao kéo sản xuất ở Thái Nguyên được coi là bén nhọn nhất, thổi sợi tóc phớt qua lưỡi dao là lập tức đứt làm hai, chém sắt như chém bùn. Thái Nguyên còn được gọi là Tịnh châu, cho nên tiếng tăm "dao kéo Tịnh châu" lừng lẫy. Bài thơ "Hí đề Vương Tể họa sơn thủy đồ ca" của thi nhân thời Đường Đỗ Phủ có câu: "Yên đắc Tịnh châu khoái tiễn đao, tiễn thủ Ngô Tùng bán giang thủy" (Không biết dao kéo Tịnh châu sao mà bén dữ, cắt làm đôi sông nước Ngô Tùng cũng được). Câu này có áp dụng điển tích. Tương truyền Tác Tĩnh thời Tấn xem tranh vẽ của Cố Khải thấy sống động quá mới tán thán: "Tức là không mang theo dao kéo Tịnh châu để cắt nửa dải sông Tùng đem về". Đỗ Phủ ở đây đã so Tác Tĩnh với mình, đem tranh của Vương Tể bì với tranh của Cố Khải.
4 Bài "Vô Đề - kỳ nhị" này là một bài thơ tình, tả nỗi nhớ nhung sau khi biệt ly tình nhân. Mới tỉnh mộng, cảm thấy buồn bã mất mát, nhớ lại tình cảnh chia tay trong mộng, vội vàng viết thư cho nàng, mượn điển cố Lưu lang để cho thấy giờ đây muốn gặp mặt cơ hồ là chuyện không thể nào. Trần Trọng San dịch:
M ờ mịt tăm hơi hứa hẹn suông
Canh năm trăng xế chợt nghe chuông
Mộng ly biệt mãi kêu khôn tỉnh
Thư giục mau xong mực đậm nồng
Ánh nến nữa in chăn phỉ thúy
Nguyên v ăn bài "Vô Đề" của Lý Thương Ẩn là vậy.
o0o
Trăng tàn canh năm, Hàn Ngạc đã an táng xong thi thể của Vu Tiệp, an ủi Vu Tiểu Kế thẫn thờ ngây ngốc, đưa nó về khách sạn rồi mới một mình lén lút tiềm nhập hoàng thành.
Phía nam hoàng thành là khu lầu các của Vi phủ. Gã nhẹ nhàng tung mình vào. "Thành nam Vi Đỗ, khứ thiên xích ngũ", gã ngẩng đầu nhìn trời, ông trời sao lại như vậy? Cả thiên hạ này, thì ra một nàng con gái yêu kiều khả ái, xem có vẻ hoàn toàn không chút tâm cơ như Phương Ninh cũng ẩn tàng biết bao nhiêu là bí mật.
Gã tìm đến vườn sau, rón rén lẻn vào. Trong vườn sau quả có một ngôi lầu. Lầu cao năm tầng, mái vành tráng lệ, trên tầng cao nhất có thắp một trản hoa đăng.
Phảng phất có một người ngồi bên song cửa dưới đèn. Thân ảnh người đó yêu kiều ẻo lả, có phải là Phương Ninh?
Lúc nàng khẽ ngâm câu "Lai thị không ngôn khứ tuyệt tung" khi gã vừa đi, có phải mượn thơ cám cảnh? Hàn Ngạc nghĩ câu khiến gã thực sự sợ lại là câu sau: Nguyệt tà lâu thượng ngũ canh chung.
Lúc này bên ngoài vừa đúng lúc vang lên tiếng chuông báo canh năm. Có phải nàng đã hẹn gã đến gặp? Ngàn vạn gia đình trong Lạc Dương thành, kẻ dậy sớm chắc cũng đã dậy? Kẻ không quen dậy sớm còn đang say ngủ, lại không biết có bao nhiêu người trăn trở năm canh.
Gã đứng dưới lầu ngước nhìn lên, hận không thể dõi nhìn như vậy mãi, không thể khiến cho trời vĩnh viễn không hừng sáng, trống canh không biến dời, cứ trông cứ đợi mãi không thôi.
Thở dài một hơi, cái gì nên đối diện luôn luôn phải đối diện, thân hình gã rướn lên, mũi chân điểm nhẹ, vọt mình lên mái ngói tầng một.
Cả ngôi lầu tựa như chỉ có tầng trên cùng mới có người, phần còn lại đang chìm vào đêm vắng tĩnh mịch, không một hơi thở.
Hàn Ngạc nhảy lên từng tầng một, không biết tại sao lại cảm thấy chân càng lúc càng nặng nề. Lúc chưa gặp cứ khẩn trương khao khát gặp mặt, giờ thì lại bâng khuâng không có cách nào trì hoãn lần gặp gỡ này tới vô cùng tận.
Không lâu sau, gã đã nhảy lên đến tầng cao nhất. Vừa đứng yên, gã nghe người trong song cửa thở dài: "Sương đêm giá buốt, Ngạc, chàng vào đi".
Sau đó song cửa "kẹt" một tiếng, hai cánh cửa sổ mở ra, hiển hiện đôi bàn tay trắng muốt. Nến đỏ lung linh bên trong. Dưới ánh nến chính là Phương Ninh hờn giận vui cười gì cũng đều làm cho gã ngàn thương vạn nhớ.
Hàn Ngạc thở dài nhè nhẹ, nhảy vào trong. Đỗ Phương Ninh lại không nhìn gã, hai tay chống nâng bờ má ngồi yên. Ánh nến soi hiện hàng mi dài, nàng thực là một cô gái đẹp đến mức không còn gì có thể đẹp hơn được nữa, đẹp đến thẫn thờ như một tiếng thở dài nhè nhẹ, đến hoảng hốt như một tiếng nghẹn nấc hợt hời, đẹp đến mức một tơ tóc cũng không thể nào len thêm vào nữa.
Nhưng tâm sự nàng âm thầm cất giấu tại sao lại nặng nề đến thế?
Hàn Ngạc đứng thừ ra trong phòng, một hồi sau thấp giọng than: "Ta đã sai". Đỗ Phương Ninh lắc lắc đầu: "Không, chàng không sai".
Hàn Ngạc đờ đẫn thốt: "Ta đã sai, ta không nên không nghe lời nàng, xâm nhập Lạc Dương thành này".
Lạc Dương vừa lọt vào mắt, gã liền sực tỉnh khỏi giấc mộng thanh xuân. Đỗ Phương Ninh lệ lăn dài trên bờ má, thấm dịu hai cánh mũi. Hàn Ngạc hận không thể ôm lấy nàng, nhẹ hôn cho hết nỗi niềm. Lại nghe Đỗ Phương Ninh thốt: "Chàng ngồi đi, nghe ta kể những chuyện xưa".
Nàng cười khe khẽ: "Truyện kể trong Lạc Dương thành có một nàng con gái người người ngưỡng mộ. Nàng xuất thân hiển hách, cha anh đều là người quyền cao chức trọng, gia tài ức vạn, người hầu kẻ hạ vô số. Trong mắt người thường, nàng sung sướng lắm phải không?".
Sau đó nàng thở dài nhè nhẹ: "Nàng cũng lớn lên trong khoái lạc, nhưng thủy chung vẫn có một mối gút bó buộc tận đáy lòng nàng, là nhân duyên của nàng. Nhân duyên của một cô gái nhà quyền quý không phải là cái cô ta có thể tự quyết định, hôn phối của nàng đã dạm định --- Thành nam Vi Đỗ, khứ thiên xích ngũ; nhưng lúc nàng chào đời, hai nhà Vi Đỗ không còn bì được lúc trước nữa. Nàng từ nhỏ đã bị đính hôn vào Vi gia, chuyện đó không khác gì một trường ác mộng, cho nên sau những đùa vui là những đăm chiêu, mỗi lần nghĩ tới, nàng không khỏi buồn lòng".
"Nàng cũng từng ngàn lượt vạn lần muốn bỏ trốn. Vì vậy, nàng thậm chí không ngại chịu khổ, đi học nghề võ mà đám con gái quý tộc ít ai chịu học. Nàng học cũng không tệ, sư phụ của nàng người nào cũng nói bất kể ở ở nơi nào cũng đều có thể liệt nàng vào hàng cao thủ. Nàng cuối cùng đã có thể nhảy vọt qua dãy tường cao một mực vây khổn nàng. Nhưng trong cõi đời, có những bức tường rành rành thực tại, mắt thịt nhìn thấy được, lại có những bức tường có phóng cũng phóng không qua, có bay cũng bay không khỏi, như máu mủ ruột thịt, như gia tộc, như trách nhiệm".
"Từ tấm bé nàng đã biết Vi gia đời nay đã quá điêu linh. Người nàng kết hôn tuy là con trai duy nhất của nhà họ Vi, có xuất thân vẻ vang sang quý, nhưng từ nhỏ lại đã mang trọng bệnh --- chứng nhuyễn cốt. Vi Đắc Huy, nam nhân đó tên là Vi Đắc Huy, lớn hơn nàng ba tuổi, lại không đi lại được, cả ngày nằm dài trên giường. Nàng không khinh ghét y, nhưng cũng không muốn lấy y. Chàng có biết nỗi khổ của kẻ xuất thân danh môn không chứ? Bề ngoài xem ra tuy rộn ràng inh ỏi, nhưng người ngoài nào có biết phúc họa vô thường? Những danh môn dòng dõi lâu đời giờ nào phút nào cũng lo sốt vó rón rén bước trên dây tơ đồng. Một bước thất thố, bất kể là ủng hộ sai người hay lỡ lầm lọt vào vòng tranh chấp của triều dã, đắc tội với kẻ quyền quý, bị các thế lực lấn át, mình có là công hầu khanh tướng, ngay cả có cao quý như hoàng tử, cũng một sớm một chiều mang họa diệt môn. Dư Quốc trượng ngõ Luân Hồi năm xưa thanh thế lẫy lừng, không phải cũng khuynh đảo một thời sao? Tại sao trong nháy mắt toàn gia bị diệt? --- Nàng lại là một cô gái rất có đầu óc, đến khi nàng trưởng thành, cũng hiểu thấu cốt lõi bên trong. Nàng muốn trốn, nhưng vì cha anh, vì tộc nhân, những chuyện phiền não nàng lại không thể không đối diện. Mười lăm tuổi đầu, tuy võ nghệ đã thành tài, tung hoành tứ hải há không thể tự lập được, nhưng cha già tiều tụy khuỵu ngã không còn chịu nổi sự dằn xé phúc họa vô thường".
Đỗ Phương Ninh thở dài: "Ca ca của nàng, người bạn chơi đùa thời thơ ấu của nàng, người trông coi bảo bọc nàng, mỗi một người nàng biết đều bị lôi vào vòng phúc họa một sớm một chiều đó. Cho nên có một ngày cha nàng nói với nàng: 'A Ninh, cha cũng biết nếu gả con vào nhà họ Vi, Đắc Huy ra nông nỗi đó, thực quá là bất công cho con". Nàng thở dài, nói tiếp: "Cha nàng tiếp lời: 'Nhưng con người ở đời, được hưởng phú quý, được nhà cao cửa rộng, làm sao để đánh đổi những thứ tốt lành đó? Phú quý là thứ ép bức con người. Cha biết con cũng không để ý gì đến phú quý, nhưng vì trên dưới hơn hai ngàn miệng ăn của hai nhà Vi Đỗ, con không thể nào không gả mình. Vi gia không còn ai, nếu không có một cô gái thông minh như con đảm đương ngôi gia chủ, e rằng phải sụp đổ hẳn. Mà Thành nam Vi Đỗ luôn luôn như môi với răng, vinh quang cùng hưởng vinh quang, mất mát chung gánh mất mát. Cho nên không phải là cha bắt ép con, mà là cha cầu xin con, xin con đừng vứt bỏ hôn phối này".
"Nàng trăn trở cân nhắc lời nói đó rất lâu, nhưng có cân nhắc đến đâu đi nữa cũng không có cách nào có thể nói hạnh phúc khoái lạc của mình mạnh hơn tính mạng trên dưới hơn hai ngàn nhân khẩu kia, không có cách nào đối diện giọt lệ buồn tủi của cha già. Cho nên nàng lấy chồng rất sớm, mới mười lăm tuổi đầu".
Nến chập chờn ánh đỏ trên án, mủi lòng trước tâm sự của một nàng con gái. Hàn Ngạc nghe đến đó, lòng không khỏi thầm than --- Phú quý đời người xem có vẻ rộn ràng náo nhiệt, nhưng lại đã dìm lấp bao nhiêu là thanh xuân!
Phương Ninh nói: "Nàng gả mình, con tim lại không gả".
Thanh âm nàng khựng lại một chút, lại khe khẽ thốt: "Thực ra, thân xác cũng có gả bán bao giờ? Đắc Huy có bệnh, lắm khoái lạc trên đời không phải là cái sở năng của nàng có thể dâng hiến cho y. Nhưng nàng quả không phụ kỳ vọng của phụ thân, mấy năm nay, tuy triều dã biến chuyển liên miên, như bước trên băng mỏng, nhưng dưới sự tận tâm lèo lái của nàng, không ngờ vẫn đi thoát qua được. Trên dưới một nhà đến nay vẫn chưa gặp phải đại họa, nói cho cùng cũng có thể coi là công lao của nàng chứ?".
"Song nàng còn có những nguyện vọng bé nhỏ, cho nên có lúc nàng đột ngột xuất hành. Lạc Du nguyên ngoài Trường An thành --- Lạc Du nguyên đúng là nơi giúp người ta được lạc du, vui quên đường về. Nhưng sống trên đời này, biết bao thân nhân đang trong vòng khuynh loát, làm sao mà nàng không về cho được?".
Nàng thở dài nhè nhẹ: "Ba năm trước, nàng đã quen một nam tử, có vui thích hay không vui thích bất tất phải nói đến rồi, nhưng nàng chỉ có thể cho chàng ta một câu: trọn đời chàng vĩnh viễn đừng vào Lạc Dương thành! Đó là một thành thị hiểm ác, thành thị của Nội Mị, thành thị của vô số tranh đấu lật lọng. Mùa đông năm nay, nàng bận rộn đủ thứ chuyện, chỉ lười biếng bê trễ một chút là có thể mang họa diệt môn. Nàng đành buông bỏ hạnh phúc nhỏ bé kia, khổ tâm dàn xếp, vì tính mạng của hai nhà Vi Đỗ, bỏ lỡ một mùa đông có thể nói cơ hồ là niềm an ủi duy nhất cho cuộc đời thảm đạm của nàng". Nàng lắc đầu cười nói: "Lúc đó Lạc Dương Doãn Vu Tự Vọng đã cậy thế nắm cán chèn ép cha anh nàng. Đáng tiếc đến lúc nàng cuối cùng đã diệt trừ được họa hoạn, dùng một chén 'Niệp Nhi Trà' hạ độc giết chết tên Vu Tự Vọng cực kỳ nguy hại đối với gia đình nàng, không ngờ chàng ta đã đến".
Nàng nhắm mắt lại, không nói gì nữa, thần tình giây phút đó mệt mỏi đến cực độ. Sự mệt mỏi đó nặng nề quá sức chịu đựng của một cô gái yếu đuối. Đột nhiên nàng lại mở mắt, phô trương tuyệt nghệ võ thuật nàng khổ công tập luyện từ nhỏ xoay vụt lại, bờ môi nàng mấp máy, tựa như có ngàn vạn ý niềm, mà bao ý niềm đó chỉ hóa thành một động tác. Nàng bỗng giơ tay ôm lấy Hàn Ngạc, ôm tình thắt chặt, ôm nghĩa sâu dày, như ôm giữ trọn đời không muốn buông tay nữa. Sau đó lệ thắm loang má nhợt: "Tại sao, tại sao ta phải gặp chàng. Ngạc, chàng đừng trách ta, thực ra trong lòng ta, cũng thực... thực... khổ lắm... khổ lắm...".
Bóng đêm ngoài song cửa run run, thân người Hàn Ngạc cũng run run. Bóng đêm run rẩy vì ánh hừng đông sắp hiện, Hàn Ngạc run rẩy vì cái gì? Vì những giọt lệ thắm rát bỏng trên vai gã? Vì thân hình nồng cháy đang dụi vào lòng gã? Vì...
Gã cúi đầu đưa môi dịu dàng ép sát bên tai Phương Ninh, khe khẽ thốt: "Buông bỏ tất cả, đi theo ta".
Làn da sau vành tai ấm nồng nhục cảm, có phải rất thích hợp để bờ môi nam tử thoảng phớt chút đắm say? Đằng sau vành tai đó, có phải rất thích hợp để đón nhận ôn nhu một đời cất giấu nơi khoé môi nam tử? Môi nàng còn ép sát trên vai gã, có phải rất thích hợp để làn môi nam tử lần theo cổ áo trễ, từ từ xuôi xuống, ngang qua vai, qua cánh tay, qua vùng nhô hiện... qua chốn phẳng trơn...
Eo thon vừa khéo lọt vào đôi tay khô gầy của Hàn Ngạc. Nhưng gã có cảm giác sự dịu dàng bên dưới bàn tay lại thờ ơ không chút phó thác, khiến cho gã không dám đoan chắc có thể ôm hoài trọn đời hay không.
Hàn Ngạc cúi đầu, môi ép sát sau vành tai Phương Ninh. Cảm giác giây phút đó lâng lâng đến thế, như sự vật tốt đẹp nhất mà nhân thế này có thể dâng hiến, có thể nghe thấy tiếng máu nóng cuộn chảy trong thân mình.
Hàn Ngạc khe khẽ thốt: "Bỏ hết tất cả, theo ta đi...".
Chỉ một giây phút mà như vĩnh cửu. Ngoài song cửa, ánh sáng trắng nhợt như bụng cá chết đã xâm nhập khung trời, bắt đầu mở màn cho một ngày mới bôn ba bương bả. Phương Ninh hít một hơi sâu: "Chàng cần phải đi rồi".
Bên ngoài đã có người dậy. Hàn Ngạc cơ hồ không muốn buông tay, gã dịu dàng phớt ngón tay vạch vẽ trên eo lưng nàng, như viết từng chữ một.
Phương Ninh nhắm mắt, cảm nhận sự va chạm dời động ở chỗ mẫn cảm nhất trên lưng, gã biết chỗ nhạy cảm nhất của nàng là ở đó. Ngón tay vạch từng chữ từng chữ: Ban... chuy... chỉ... hệ... thùy... dương... ngạn...
Ban Chuy chỉ hệ thùy dương ngạn.
"Ta đợi nàng trong vòng ba ngày".
Hàn Ngạc dịu dàng thốt.
Ban Chuy chỉ hệ thùy dương ngạn --- Đó cũng là một câu thơ của Nghĩa Sơn: Ban Chuy chỉ hệ thùy dương ngạn,
Trú mã tây nam đãi hảo phong5...
Tho ảng bay hương xạ gối phù dung
Bồng sơn đã hận đường xa thẳm
Lại cách Bồng sơn một vạn trùng.
"L ưu lang" là Lưu Thần trong điển tích Lưu Thần và Nguyễn Triệu lạc cõi Thiên Thai. "Bồng sơn" tức là Bồng Lai sơn, ý chỉ tiên cảnh.
5 Câu "Hà xứ tây nam đãi hảo phong" (đâu chốn tây nam đợi gió lành) cũng trong bài "Vô Đề - kỳ ngũ" của Lý Thương Ẩn --- tác giả Tiểu Đoạn đổi thành "Trú mã tây nam đãi hảo phong" (dừng ngựa tây nam đợi gió lành) -- dùng ý thơ "Nguyện vi tây nam phong, trường thệ nhập quân hoài" trong bài "Thất Ai" của Tào Thực (hy vọng có thể làm một trận gió lành lọt vào lòng người thương. Tào Thực mượn lòng người con gái nhớ tình lang để bày tỏ lòng mình muốn kề cận hòa hảo với huynh trưởng Ngụy đế Tào Phi --- Hướng "tây nam" ý chỉ đô thành Lạc Dương của nhà Ngụy). Câu của Lý Thương Ẩn khác ở chỗ đợi gió thổi mình đi chứ không phải mình hóa làm gió như trong câu của Tào Thực.
Chương 10
Bích hải thanh thiên dạ dạ tâm1
"Ti ểu thư". Một thị nữ khẽ gọi Đỗ Phương Ninh đang bần thần ngây ngốc: "Có một vị Hàn công tử sai tôi giao cái này cho tiểu thư".
Trong tay ả thị nữ là một mảnh giấy nho nhỏ. Mảnh giấy nhăn nheo quăn quéo, bên trên chỉ có bảy chữ, giống như một câu thúc giục xuất giá2 --- một câu thắp nến động phòng, bút rảy đón dâu --- một dòng văn hay.
Ả thị nữ kia vì là người bên họ Đỗ theo hầu chủ nhân về nhà chồng, cho nên còn gọi Đỗ Phương Ninh là "tiểu thư".
Bảy chữ đó là: trú mã tây nam đãi hảo phong.
Trên mặt Đỗ Phương Ninh không còn vẻ đau thương đờ đẫn đêm vừa qua nữa, sắc mặt nàng chỉ có nét trầm tĩnh khôn tả.
Ả thị nữ nhẹ giọng: "Tiểu thư, tiểu thư có đi không?".
Đỗ Phương Ninh lắc đầu nhè nhẹ.
Ả thị nữ có vẻ là người rất bén sát tâm tình, tựa như cũng biết chuyện tình giữa nàng và Hàn Ngạc, khe khẽ than: "Vậy coi như chàng ta đợi chờ không không, cuối cùng phải đi về không không?". Nghe giọng nói của ả ta, tựa như cũng rất tiếc thương cho một nam tử cực kỳ si tình như Hàn Ngạc.
Đỗ Phương Ninh điềm đạm thốt: "Chàng ta cũng không thể đi".
Ả thị nữ ngạc nhiên. Một nụ cười hờ lạnh lùng hiện trên môi Đỗ Phương Ninh: "Ả Vu Tiệp kia trước đây ta chưa bao giờ gặp mặt, nhưng ả đúng là một kẻ tâm kế khôn ngoan, đáng lẽ ta không nên xem thường ả. Ả mưu tính sắp bày cho Hàn Ngạc lọt vào trong cuộc, cuối cùng không ngại tự đâm mình, chẳng phải vì đã biết chàng ta là một nam tử chưa bao giờ phụ bạc, muốn chàng ta liễu kết mối thù không đội trời chung này cho ả đó sao?".
Sau đó nàng bỗng mỉm cười, mặt mày tươi tắn như nở hoa: "Ả thông minh đến thế, lẽ nào ta ngu khờ sao? Huống hồ bằng vào sức một mình ta khó mà chống giữ hai nhà Vi Đỗ. Phụ thân lại đã đi Trường An, họa phúc khó lường. Chàng ta là nam tử duy nhất dốc một lòng nghe theo ta, chàng ta không đến giúp tay thì ai đến chứ? Hơn nữa ta đâu có dễ gì câu được chàng ta đến Lạc Dương, sao lại có thể dễ dàng theo chàng ta đi?".
Ả thị nữ mặt mày kinh ngạc, lại nghe Đỗ Phương Ninh khẽ thở dài: "Ngươi nên biết chàng ta là một người thông minh, cũng là một người hành sự rất độc đoán, chỉ là tai kiếp hồng phấn quá nhiều. Thay vì để người ta làm khổ, chi bằng để chính ta cho gánh tai kiếp! Con người của chàng ta, đừng nói gì ta không chịu thẳng thắn cầu khẩn chàng ta tương trợ, cho dù ta có làm vậy, chàng ta cũng sẽ không muốn làm. Nếu chẳng phải ta không cho phép chàng ta đến Lạc Dương, ba năm trời khổ tâm bày bố cục trường, chàng ta làm sao có thể khăng khăng tìm đến chứ? Hơn nữa còn không quên được ta, khốn đốn không buông bỏ được. Chàng ta nếu không đến, hoạn nạn ta đang đương đầu còn có người ngoài nào trợ giúp được sao?".
Nàng cười tươi sáng như hoa xuân, trong lòng ả thị nữ kia lại như dâng hiện một tảng băng buốt lạnh. Tảng băng cứa nhè nhẹ lên tim ả, nhưng ngoài mặt ả lại không dám biểu lộ ra. Đỗ Phương Ninh nhìn dòng chữ vơi gầy mà ương ngạnh trên mảnh giấy, mày mi cũng bốc dâng một tí xíu vẻ bất lực. Nàng đâu có muốn bày mưu tính kế với chàng nam tử này, cũng đâu phải không yêu, nhưng sinh trưởng vào thời cuộc này, nàng chỉ có thể dùng phương thức của mình để lôi kéo chàng ta...
Sau đó lại nghe nàng ta trầm tĩnh thốt: "Ngươi giúp ta đi âm thầm điều tra chỗ mai táng ả Vu Tiệp trên Bắc Mang sơn xem có dị động gì không?".
o0o
Bên Vị thủy phía tây nam thành Lạc Dương, gió xuân lan man, vi vu êm đềm. Hàn Ngạc đứng dưới một cành liễu, mặt mày lại cay đắng ngậm ngùi. Ban Chuy bên cạnh biết bao lần bồn chồn dậm vó, nhưng chủ nhân của nó lại đang đứng lặng áo não đợi chờ trong gió, đứng bất động. Trong lòng gã đang bứt rứt dày vò: nàng sẽ đến chứ? Hay là không đến? Nếu không đến thì mình thực có thể buông bỏ mà đi sao?
Nguyệt dạ cao lâu, ngôi lầu cao một đêm trăng hôm đó; hoang thôn dã điếm, quán dân quê một thôn vắng dừng cương năm xưa... Làm sao có thể quên nguyệt dạ cao lâu nàng thổ lộ tình trong? Làm sao có thể quên hoang thôn dã điếm hai mảnh tình đẹp mối.
Phương Ninh, nàng... sao lại vô cớ trộm đi linh dược3? Để trời xanh nước biếc đêm đêm tỏ lòng... Mình một đời tung hoành lang thang tiêu sái, nhưng nếu giục ngựa ra đi như vầy, còn có ai chia sẻ với nàng nỗi cô độc đêm đêm dưới trời xanh nước biếc?
Tay Hàn Ngạc với một cành liễu, day day dứt dứt bẻ, lòng cũng đang day day dứt dứt nghĩ: nàng có đến không? Hay là không đến?
Chương 11
Y thượng chinh trần tạp tửu ngân1
1 Bài thơ "Thường Nga" của Lý Thương Ẩn có câu: "Thường Nga ưng hối thâu linh dược, Bích hải thanh thiên dạ dạ tâm". Trần Trọng San dịch: "Thường Nga hối trộm thuốc tiên, Trời xanh biển biếc đêm đêm tỏ lòng".
2 Nguyên văn là "thôi trang", một lễ nghi hôn nhân. Con gái xuất giá phải có nhà trai thôi thúc nhiều lần, trang điểm sơ rồi mới đi. Thôi trang phải nhiều lần: hai ba ngày trước hôn lễ, nhà trai phải liên miên gửi lễ "thôi trang", áo cưới, mũ phượng, dây choàng (hà bí), gương, phấn trang điểm. "Hà bí" là một dây choàng lễ phục, hình dáng giống như dải thắt lưng dài, rộng khoảng ba thước hai phân, dài khoảng năm thước bảy phân, vòng qua cổ treo trước ngực, có gắn ngọc thạch hoặc vòng vàng. Hà bí là đồ trang sức của mệnh phụ trong cung đình, con gái bình dân chỉ đeo khi xuất giá. "Đông kinh mộng hoa lục - Thú phụ" của Mạnh Nguyên Lão thời Tống viết: "Một ngày trước ngày cưới, hoặc sáng sớm ngày cưới, đem mũ phượng, dải choàng, phấn son đến thôi trang". Đến lúc đón dâu, nhà gái đóng chặt cửa, nhà trai liên tục thổi tấu khúc thôi trang để giục tân nương lên kiệu, đốt pháo thôi trang. "Đào Hoa Phiến - Truyện Ca" của Khổng Thượng Nhiệm đời Thanh có viết: "Thôi trang diễm cú, nghênh hôn du bích" (Câu lời tốt đẹp giục xuất giá, đón dâu lên xe du bích). Thời xưa xe phụ nữ Trung Quốc ngồi, thùng xe sơn dầu hắc, cho nên gọi là "du bích hương xa".
3 Xem chú thích (1).
Lá c ờ hiệu lắc lư lất phất giữa không trung không nơi nương tựa, vải vàng trải bao mưa gió bão bùng đã sờn phai, chỉ còn vừa vặn ba chữ "Nga Nhi Tửu". Nhìn lên nữa là một bầu trời xanh biếc --- Ngày xuân ngoài Lạc Dương thành, bên trên liễu xanh tơ vàng luôn là một bầu trời xanh biếc như thế. Ráng mây nhuốm màu mưa, nhưng chỉ nhàn nhạt ý. Hàng rượu ngoài Đông đô quả nhiên cũng có khác hoang thôn dã điếm. Mái vành từng miếng từng miếng ngói đen tuyền đè nghiến vào nhau, luống này khớp luống nọ, âm dương đan kín, nội một điểm đó đã quá có quy có củ hơn xa rồi.
Nh ưng hàng rượu đó cũng có những thứ cũ kỹ. Cửa buông thõng một mành trúc lâu đời, nhuốm một màu vàng xa xưa, kéo mành lên, bên trong tản ra hương vị rượu trắng. Tửu gia này địa điểm hẻo lánh, có lẽ cũng ít khách nhân, nhưng thứ sản xuất ở đây lại là "Kỵ Lư tửu" từng vang danh lưỡng đô, còn được gọi là "Bạch Đọa Xuân Lao", lai lịch kể cũng có mấy trăm năm đằng đẳng.
Ng ười phụ trách chào đón khách trong hàng rượu cũng cực ít, chỉ có một chân chạy bàn. Đó là vì chốn này nhà nào cũng làm nghề chưng ủ rượu, chuyên cung cấp cho các đại tửu lâu trong Lạc Dương thành. Ở đây chỉ mở cửa một hàng quán cũng có thể thấy không có mấy ai chịu ra nơi hoang vắng phía tây Lạc Dương thành này thưởng thức rượu, vì vậy bàn ghế cũng cực kỳ thô sơ, nhưng được cái sạch sẽ, mặt bàn thô nhám còn hiện vân gỗ tươi nguyên.
Lúc này trong quán l ại chỉ có một người khách, hồi nãy gã còn say gục trên bàn, tới giờ đã thức dậy, mở đôi mắt nửa say nửa tỉnh run run vói năm ngón tay gầy gò dài thượt tìm vò rượu, chắc uống cũng nhiều lắm rồi. Khớp ngón tay không lồi lộ, từng ngón trên dưới thẳng thớm cực kỳ. Gã không rót rượu vào cái chén bên khuỷu tay, chừng như sợ tốn hơi, cứ đưa thẳng lên miệng mà nốc. Được một ngụm, tinh thần của gã có vẻ lại được xốc dậy, lẩm bẩm: "Hôm nay là ngày mấy rồi?".
T ửu bảo ngồi ở không, thuận miệng đáp: "Mười bảy".
Khách nhân bàng hoàng ngước mắt. Tửu bảo nhìn sang phía gã --- Vị khách này đến quán rượu hàng ngày, từ sáng sớm đến tối mịt, mãi cho đến khi tắt bếp mới chịu về, đã mấy ngày liền rồi. Hắn không tránh khỏi càng lúc càng hiếu kỳ về vị khách, mà gã ta lại ngậm miệng chặt cứng, đôi môi cánh cung dán dính vào nhau, khiến cho tửu bảo xưa nay ưa thích bàn tán nói cười cũng không dám hỏi gã gì hết. Đến giờ chỉ thấy vị khách kia thần tình ngơ ngẩn, có vẻ trân trối suy tư gì đó, hai hàng lệ lặng buông trên má gã --- Đã mười bảy rồi, ta đợi nàng đâu chỉ ba ngày, mà đã qua thêm ba ngày nữa, nhưng nàng... vẫn chưa đến... vẫn không đến...
Da mặt của khách nhân màu sắc giống như màu lúa mạch non trải sương giá cuối thu. Mày rất dài, không hếch xéo lên hai bên trán, mà hình thành một chữ Nhất, chót mày hơi dựng, hiển lộ vẻ trầm tĩnh mà lại sống động. Mắt gã không to lại dài, bên dưới là cái mũi cao thẳng, môi vẫn khép chặt. Dù gã không nói, tửu bảo cũng biết gã có chuyện thương tâm gì đó. Nhưng nhìn thấy một tên trai trẻ hình dáng sáng sủa có nét điển hình của người Quan Trung vừa nghe một lời của mình là đã bần thần rơi lệ, tửu bảo cũng không khỏi ngây người: người như vậy, e đâu phải là người hay chảy nước mắt trước mặt người khác chứ? Tửu bảo bụng thương cảm, định đi tới vỗ vỗ vai an ủi vài câu, nhưng lại thấy bờ vai cứng gầy trên thân thể cao lêu nghêu kia có vẻ không dễ mạo phạm, cho nên đành ngồi nheo mắt quan sát tên trai trẻ. Y phục trên mình gã chắc đã lâu rồi chưa thay, bụi bặm hòa dính vào vết rượu mấy ngày qua tay run chén đổ thấm ướt áo, càng thêm ý vị thất điên bát đảo. Một hồi sau, cổ họng người trẻ tuổi phát ra mấy tiếng ho khẽ nén nhịn, mày mi gã rúm lại.
Người trai trẻ ho một hồi, tựa hồ động lòng, miệng khe khẽ ngâm:
Đối diện nhoẻn cười, xoay mặt ho
Biếng lười sinh chứng chẳng cần lo
Chỉ có tương tư từng trở bệnh
Mưa phùn áo mỏng gượng nằm co.2
Cảnh vật bên ngoài tựa hồ cũng ứng theo tâm ý của gã. Trên bầu trời xanh ngắt, màu mây chợt tối sầm lại, lê lết nặng nề, hơi mưa vần tụ sẵn từ trước lại càng nồng đậm hơn, không khí oi ngạt mấy ngày nay hóa thành màn mưa li ti rải rắc xuống. Nhất thời trong ngoài quán đều nghe tiếng tí tách, như một cái lược chải nhẹ trên mái ngói, chải cho chút niềm thê lương dâng lên trong lòng tên tửu bảo.
Vụt nghe ngoài cửa có tiếng ngựa hí vang. Tửu bảo đưa mắt nhìn ra, thấy hai thớt ngựa phóng nhanh giữa làn mưa bụi. Trừ đám giàu có quyền quý ra, có ai mà không chút thương tiếc bắt ngựa phải đội mưa lặn lội như vậy chứ. Hai thớt ngựa đó cũng quả là giống quý, tửu bảo ngạc nhiên, không ngờ hôm nay còn có khách. Hắn vốn ngồi không rảnh rỗi, liền đi tới kéo mành cho khách vào. Kỵ sĩ đã xuống ngựa. Hai người thân thể tráng kiện, sải bước qua cửa, tiếng bước chân cũng trầm ổn cực kỳ. Tay hai người đều có xách roi ngựa, trên cán roi có khảm hạt châu, tửu bảo mắt sáng lên, lại thấy trên đầu cả hai có đội mũ vải đính ngọc, nhìn là biết không phải tầm thường, trên tay còn mang nhẫn phỉ thúy to bự, cực kỳ bắt mắt.
Mặt mày tửu bảo tươi tắn hẳn. Hai người này lại tựa như không thèm để ý đến sự tồn tại của hắn, ngang nhiên tiến vào, tự tìm một cái bàn ngồi xuống, lại đúng chỗ đối diện vị khách kia. Vị khách lệ đã khô, cũng không để ý đến người mới vào, đôi mắt trân trân nhìn hai tấm bảng treo trên cột. Hai tấm bảng sơn dầu đen bóng, mặt gỗ nứt nẻ, dầu bóng cũng tróc hở, xem ra đã lâu đời. Một bảng viết "Thối Cô", một bảng "Trì Thương"3, chữ viết rất đẹp, khắc cũng rất tinh xảo, khiến người ta không ngờ được trong một cái quán bé xíu hẻo lánh lại có bút ý tuyệt diệu đến thế. Hai khách nhân kia không phải chỉ qua loa một vò rượu trắng như người khách đến trước, bọn chúng còn kêu thịt bò ngũ hương, chân gà rút xương, sừng hươu hầm nhừ, phàm trong quán có món nào ngon đều gọi hết. Hai người bọn chúng lại không để ý đến đồ ăn, chỉ lo cười cười nói nói. Nghe một tên lên tiếng: "Tên Chu Tiên Lâm ở Lãm Tử thôn còn dám tự xưng là danh gia võ thuật, dám nói thuật cầm nã bóp cổ của hắn có thể độc bộ Quan Trung, còn dám mở quán nhận đồ đệ nữa. Bực mình nhất là hắn còn dám đánh giá khinh khi nhân vật trong thiên hạ, một dải Lạc Dương, cả Long Môn Dị, Bạch Mã Tăng hắn cũng không coi ra gì. Chúc đại ca thực lợi hại, nội trong ba chiêu đã chế ngự cầm nã thủ của hắn, còn bóp cổ hắn nữa, xem hắn sau này còn dám khoe khoang lếu láo nữa không? Chúc đại ca lúc đó chỉ cần vận thêm chút kình khí chắc chắn sẽ bẻ gãy hết khớp ngón tay của hắn, sau này hắn đâu còn lăn lộn giang hồ được chứ".
Tên bên cạnh giả như khiêm tốn cười nhẹ, ánh mắt lại tựa vô ý mà cố tình liếc sang vị khách vào trước kia: "Huynh đệ bọn ta hiện tại không còn lặn lội giang hồ nữa, đã gởi thân vào vương phủ, ít nhiều gì cũng phải giữ chút quy củ của vương phủ. Vương gia con người khiêm hòa, tuy có kẻ châm chọc hộ vệ trong phủ ngài, ngài quá lắm cũng chỉ cười khẩy, bọn ta cũng không nên trái ý vương gia. Nếu không phải hôm nay tiện đường, ta cũng đâu xuất thủ làm gì. Vùng này kẻ hư danh quá nhiều, mà chỉ có cái hư danh không không thì ra gì chứ, cái đám võ sư nhà quê cũng tự xưng là danh gia võ thuật, ta muốn cho chúng thấy Ngoạn Ý Nhân thực sự ra làm sao".
Nói xong, hắn lại làm như vô ý nhìn sang khách nhân bàn bên kia, ánh mắt khá là khiêu khích. Khách nhân kia dù có nghe chúng nói chuyện, lại không để ý tới, không thèm nhìn hắn chút nào, làm cho hắn cảm thấy cụt hứng. Tửu bảo trái lại, nghe thấy liền giật mình há hốc miệng --- Chu Tiên Lâm? Đó là một võ sư đáng liệt vào hàng nhất đẳng ở Lạc Dương thành, môn nhân đệ tử cũng có nhiều người có tiếng tăm, không ngờ nội trong ba chiêu lại bị người ta phá thuật 'Ngoạn Ý Nhân' trấn môn của hắn. Tửu bảo dù không muốn tin, nhưng hai khách nhân kia tuy cười nói đùa cợt, lại có vẻ nói thực hoàn toàn, khiến cho hắn trán lấm tấm mồ hôi lạnh, thầm nghĩ: khách nhân hôm nay phải chiêu đãi tận tình, lỡ đắc tội với hai người này thì thực chẳng phải chơi. Bọn họ nói vương phủ gì đó, lẽ nào là nói...
Hắn còn đang nghĩ ngợi, ngoài cửa lại đột nhiền truyền vào tiếng kêu khẩn trương: "Hàn đại ca, Hàn công tử, huynh có ở đây không? Huynh đang ở đây chứ?".
Đó là thanh âm của một tiểu hài tử, thanh âm có chút khan khản nấc nghẹn. Sau đó đứa bé kia chợt reo lên: "Ngựa, ngựa! Ban Chuy, là Ban Chuy! Hàn đại ca huynh quả nhiên có ở đây!".
Chưa dứt lời, một đứa bé mặt mũi sáng sủa lanh lợi vén mành chạy vào. Thấy vị khách độc tọa, nó có vẻ như sắp chìm xuống nước lại vớ được khúc cây cứu mạng, hoan hô một tiếng, chạy tọt đầu vào lòng khách nhân.
Người trẻ tuổi thở dài, giơ ngón tay nâng cằm hài tử: "Tiểu Kế, ngươi sao đó?".
Hài tử dúi mặt vào lòng gã, nụ cười mừng vui lặn lội kiếm tiềm cuối cùng đã có thành quả vụt tắt lịm, sau đó lập tức nước mắt nhoè nhoẹt. Hàn Ngạc nâng khuôn mặt bé xíu của nó lên, đâu đâu cũng có vết lệ ngân. Nó khóc lóc nói: "Hàn đại ca, có người muốn giết tôi!".
Hàn Ngạc cau mày: "Nói cho rõ xem, người nào muốn giết ngươi? Ngươi sao lại tìm được chỗ này? Đừng sợ".
Vu Tiểu Kế kiếm ra gã cũng yên dạ phần nào. Nhưng nỗi lo âu sợ hãi mấy ngày nay nhất thời tuôn ra hết, bao nhiêu nước mắt ráng nhịn nín mấy ngày liền đều trào ra cho xong, không cầm giữ được nữa. Nó cũng cảm thấy ngượng, dụi dụi cái mặt bé xíu bám đầy bụi đường vào vai vào ngực Hàn Ngạc, đến mức Hàn Ngạc đang ưu sầu đầu óc trống rỗng, hoàn toàn không màng sự sống cũng phải mềm lòng, đưa tay vỗ nhè nhẹ lên vai nó. Đó là phương thức an ủi duy nhất mà gã biết, miệng chỉ thốt gọn lỏn: "Đừng khóc".
Sau hai tiếng đó, gã không còn tìm ra lời nào khác để nói. Thấy Vu Tiểu Kế khóc không dỗ được, gã kéo tay Vu Tiểu Kế dò sang cái ghế bên cạnh. Trên ghế có đặt một cái bao vải màu lam đựng vật gì đó dài dài cứng cứng. Tiểu Kế ngẩn người, Hàn Ngạc ghé bên tai nó nói khẽ: "Đó là 'Trường Canh', ngươi luôn muốn xem 'Trường Canh' mà".
"Nói đi, đừng khóc nữa, một khi có nó, Hàn đại ca sao lại có thể để ai giết ngươi chứ?".
Tiểu Kế thừ người mò thanh kiếm qua lần vải, thanh kiếm mà nó đã mơ tưởng tới ngàn vạn lần, thấp giọng thì thào: "A, Trường Canh...".
Sau đó nó định thần, ngước cái mặt nhỏ lên: "Hàn ca, từ cái ngày tôi và huynh chia tay, tôi cảm thấy có gì đó không ổn, chừng như có người rình rập theo dõi tôi. Trực giác của tôi tố cáo có người muốn giết tôi. Tôi không biết chúng là ai, tại sao lại muốn giết tôi, nhưng đêm đó tôi đi ra ngoài một mình, về đến nhà phát hiện có kẻ đã đến tìm tôi, lại giết Khúc Tiểu Nhi ngủ trên giường tôi. Lúc đó tôi sợ quá, tỷ tỷ lại không còn, không có ai bảo vệ tôi, lại tìm không ra huynh, chỉ đành gặp chỗ nào trốn chỗ đó".
Khoé miệng nó méo xệch "Mấy ngày qua tôi trốn tránh khốn khổ làm sao".
Nó quả đã chịu khổ mấy ngày trời, mặt mày gầy nhom vàng võ. Hàn Ngạc thấy vậy, đáy lòng dâng tràn nỗi thương tội, giơ bàn tay to lau mặt cho nó, không chỉ muốn lau hết ngấn lệ trên mặt nó, mà còn ráng lau cho sạch bao lo sợ kinh hoàng.
Tiểu Kế quả cảm thấy đỡ hơn nhiều: "May sao tôi quá rành địa giới Lạc Dương, bọn chúng mới nhất thời tìm không được tôi, nhưng cũng có vài lần nguy hiểm quá xá, xém chút bị bắt. Tôi có thấy công phu của tỷ tỷ tôi, chị ta đâu phải tầm thường, phải không? Nhưng đám người kia tựa hồ không ai thua kém tỷ tỷ. Tôi biết nếu không mau tìm ra huynh, e rằng... e rằng đời này vĩnh viễn không còn gặp được huynh nữa".
Nó ngước mặt: "Cho nên hôm nay tôi được tin của đám nhỏ nói người của Lạc Dương vương phủ cũng đang tìm huynh, tôi biết Lạc Dương vương phủ thuộc hạ người đông thế mạnh, bọn họ muốn tìm huynh thì khẳng định tìm được...".
Nó đưa mắt sợ sệt nhìn hai người bên kia: "Vì vậy hôm nay tôi thấy hai vị đại gia bên kia ra khỏi Lạc Dương phủ, nói đi tìm tung tích huynh, tôi liền đi theo. Ông trời thương tôi, tôi cuối cùng đã tìm ra huynh rồi!".
Nói xong, nó mừng vui hít một hơi, lúc đó mới có thời gian quan sát Hàn đại ca mà nó ngày đêm tưởng nhớ, nhìn một lúc mặt mày lộ vẻ kinh ngạc, thất kinh la lên: "Hàn đại ca, huynh gầy quá! Sao mới có mấy ngày lại gầy đến thế?".
Mặt Hàn Ngạc quả có hóp háp vàng vọt. Gã vốn đâu có tròn trịa gì, đến lúc gầy thì càng lòi lộ xương cốt. Đường nét trên mặt càng hiện rõ, lại rượu chè be bét, càng luộm thuộm héo hon. Hai kỵ sĩ bên kia có một tên cười lớn nói: "Không ngờ bọn ta ngồi nửa ngày còn chưa nói tới chính đề, lại bị thằng nhóc đó một tiếng vạch trần ra hết. Không sai, họ Hàn kia, bọn ta là thủ hạ của Lạc Dương vương, tại hạ họ Chúc, vị đại ca bên này họ Trương. Bọn ta nhìn không ra tiểu tử ngươi có tài nghệ gì, thực hổ thanh danh. Vương gia của bọn ta còn muốn dùng hậu lễ lịch sự thỉnh mời ngươi nữa. Tiểu tử ngươi...".
Hắn càng nói càng tức, đứng bật dậy, chân đạp trên cái ghế nãy giờ ngồi: "Thực tài giỏi dữ vậy sao?".
Hàn Ngạc lại không nhìn hắn, nghe lời nói của Tiểu Kế, gã chỉ cười khổ, không nói gì.
Vu Tiểu Kế lại như lo lắng cho gã: "Đại ca, huynh uống rượu à? Sao có vẻ còn say vậy?".
Nó áo não cúi đầu: "Có lẽ tôi không nên đến tìm huynh. Đại ca, tôi biết huynh có quá nhiều chuyện phiền lòng rồi. Có phải huynh mấy ngày nay không cơm nước gì? Một hồi nữa bọn chúng nhất định sẽ đuổi đến, huynh còn sức đánh đấm không? Nếu không thì tôi chạy trước chứ hả?".
Hàn Ngạc mỉm cười, xoa xoa đầu nó: "Đâu cần nhất định phải đánh đấm... Chuyện phiền lòng của đại ca có nhiều đến đâu, chuyện của Tiểu Kế sao lại không lo chứ?".
Vu Tiểu Kế mặt mày tin tưởng nhìn gã, giơ tay sờ sờ vai Hàn Ngạc, thấy ốm nhô xương. Nó lại mò đến bụng, quả nhiên bụng hóp sọp. Nó cũng không mấy lo âu, chỉ nhẹ giọng: "Không đánh đấm thì làm sao?".
Chỉ thấy Hàn Ngạc cầm tay nó chỉ lên cây cột: "Ngươi có đọc được chữ trên hai tấm bảng kia chứ?".
"Ta ngồi thừ ở đây uống rượu mấy ngày trời, hôm nay mới nhìn thấy mấy chữ đó, thì ra thứ rượu ta uống như trâu bò uống nước hổm rày lại là 'Tróc Gian tửu' vang danh giang hồ mấy trăm năm. Nói đến lai lịch của thứ rượu đó cũng dông dài, nghe nói vào giữa thời Bắc Ngụy có một người cất rượu tên là Lưu Bạch Đọa. Rượu y cất đem cả vò chờ tháng sáu mặt trời chói chan phơi mười mấy ngày cũng không hư không chua. Uống vào, trong đầu trong não chỉ có tửu ý, mười ngày nửa tháng cũng chưa tỉnh. Lúc đó có Ngự sử của Nam Thanh châu là Mao Hồng Tân mang loại rượu này đi kính kiến Phiên vương, dọc đường đụng phải một đám cường đạo, đám đó là đám cướp 'Quả Hạ Mã' có tiếng trong vùng núi Miêu. Bọn chúng không coi Mao Hồng Tân ra gì, sau khi đánh cướp lập tức chén chú chén anh cho đáng mặt nhân vật giang hồ, khui hết vò này tới vò nọ. Nào ngờ tên nào tên nấy uống vào tuy lòng vui khoái, lại đã say mèm, tay chân mềm nhũn, bị Mao Hồng Tân bắt hết trọn ổ. Sau này giang hồ có câu 'Không sợ giương cung hươi đao, chỉ sợ Bạch Đọa Xuân Lao' truyền tụng khắp nơi, mấy trăm năm sau không ngờ y còn có hậu nhân, loại rượu này cũng không bị thất truyền, ta vô ý gặp phải. Cho nên ta nói kẻ muốn giết ngươi có đến thì bọn ta cũng không cần đánh, cứ cho thành hũ chìm là xong".
Gã kể chuyện xưa dài dòng như vậy nguyên là để Tiểu Kế cởi mở tấm lòng. Vu Tiểu Kế quả nhiên dõng tai lên nghe, cảm thấy rất thú vị. Cả hai tên hộ vệ họ Trương, họ Chúc của Lạc Dương vương phủ cũng lặng yên lắng nghe.
Ngoài cửa chợt vang liên tiếng quát tháo, có một người thanh âm sắc nhọn: "Không sai, đứa nhỏ kia xem dấu chân nhất định đã chạy vào quán".
Quyển I: Ban Chuy đợi Chương 12
Hoàng kim bất đa giao bất thâm1
1 Trong bài thơ "Kiếm Môn đạo trung ngộ vi vũ" của Lục Du có câu: "Y thượng chinh trần tạp tửu ngân, viễn du vô xứ bất tiêu hồn". (Áo bụi đường xa pha dấu rượu, đâu đâu cũng đắm đuối mê hồn).
2Đây là vài câu thơ Tiểu Đoạn sáng tác. Nguyên tác:
Hướng nhân hàm tiếu bối nhân khái
Tiểu dạng khinh tùy lãn tự a
Duy hữu tương tư tằng thị bệnh
Tế vũ thanh sam yểm cựu a.
3 Trong sách "Lạc Dương Già Lam ký - quyển tứ" của Dương Huyễn thời Bắc Ngụy có ghi: "Phía tây có hai làng Thối Cô, Trì Thương, người trong làng đa số đều sống bằng nghề ủ rượu".
Vu Ti ểu Kế mặt biến sắc, thân người run rẩy. Hai tên hộ vệ họ Chúc, họ Trương trong Lạc Dương vương phủ lại muốn xem nhiệt náo, ngồi xuống chờ coi Hàn Ngạc ứng phó làm sao. Bên ngoài vang lên một tiếng huýt, ba người nhảy vọt tới. Bọn chúng không vén mành mà trực tiếp ùa vô. Ba tên toàn thân y phục vải dầu, nước mưa li ti bám lăn trên áo. Bọn chúng xông bừa vào, không khí ẩm thấp mát lạnh cũng kéo theo vô trong, khiến cho mọi người tâm thần tỉnh táo hẳn. Vu Tiểu Kế mặt mày khẩn trương, nắm chặt áo Hàn Ngạc: "Hàn đại ca, nhất định là bọn chúng đã giết Khúc Tiểu Nhi, tôi nhận ra bọn chúng. Khúc Tiểu Nhi đáng thương, mẹ nó ở góa nuôi nó. Bà ta thương nó nhất, nghèo khó mà vẫn cho nó đọc sách, sau này bà ta còn trông mong gì nữa?".
Hàn Ng ạc vốn còn bình tĩnh, chỉ quét mắt nhìn qua ba tên kia rồi không dòm nữa. Đến lúc nghe nó nói nửa câu cuối, mày mi chợt nhướng một cái thực nhanh, khó ai phát giác được. Bên dưới cái nhướng mày, đôi mắt gã hiện ánh hung mãnh, nhưng chỉ nhoáng lên rồi liền biến mất. Ba tên kia truy sát một đứa bé Vu Tiểu Kế mỏn mọn mà lại thất thủ liên miên, đang bực bội đến cực độ, giờ thấy cái bớt xanh trên mặt Tiểu Kế, một tên cười khằng khặc: "Trên mặt có bớt, không sai rồi. Lão đại, con thỏ con đó mấy ngày nay thực gây cho huynh đệ bọn ta lắm phiền hà, để tôi làm thịt nó nhé?".
Tên lão đại có vẻ thâm trầm hơn, bình tĩnh thốt: "Đừng vội, ở đây còn có người, xem chừng còn là bằng hữu giang hồ, bọn ta nên chào hỏi một tiếng đã".
Hắn đang nhìn sang hai tên Chúc, Trương. Hai tên đó quả làm cho người ta vừa gặp là đã cảm thấy không nên đụng chạm. Họ Chúc còn chưa mở miệng, họ Trương lại đã cười sang sảng: "Được đó, các ngươi muốn làm gì thì làm cho mau, bọn ta không có hứng giữa đường thấy chuyện bất bình rút đao tương trợ gì đâu. Có điều phải làm cho lẹ làng, đừng để sai sót đó". Hắn liếc sang Hàn Ngạc: "Bên cạnh đứa nhỏ không chừng còn có một đại cao thủ lừng danh giang hồ, các ngươi chớ có suốt buổi bắn nhạn lại để nhạn mổ mắt đó".
Giọng nói của hắn không ít phần trêu ghẹo. ba tên kia vừa nhìn đã nhận ra hắn và họ Chúc đều là hảo thủ võ lâm, tới giờ quay đầu nghi hoặc liếc Hàn Ngạc, thấy gã y phục cũ kỹ, mặt mày say sưa, toàn thân trên dưới luộm thuộm bê tha, chỉ có thần tình còn trấn định. Tên lão đại cười lạnh một tiếng: "Có huynh đệ bọn ta xuất thủ, khà khà, danh tiếng Long Môn Tam Quái mấy năm qua đâu phải trò đùa, bằng hữu đừng nên can dự để khỏi làm tổn thương hòa khí".
Câu nói của hắn cũng bất quá chỉ là lời nói sáo. Nói xong phất tay, tên lão tam mở miệng trước được lệnh liền vọt qua. Võ công hắn dùng là "Hổ Trảo Thủ", xem ra không chỉ muốn kết liễu tính mạng của Vu Tiểu Kế --- rõ ràng rất tức giận Vu Tiểu Kế, muốn bẻ cổ nó máu thịt bầy nhầy mới thỏa dạ.
Thế gian này luôn có kẻ khát máu, lấy dày xéo lên máu thịt người ta để phô trương uy quyền, thỏa cơn khoái trá. Hàn Ngạc thầm than, bắt đầu nổi cơn bực, thò tay kéo Vu Tiểu Kế nhẹ nhàng tránh thoát một trảo của hắn. Tên kia mặt biến sắc: "Quả nhiên là hảo bằng hữu võ lâm, xin báo danh tánh".
Hàn Ngạc im lặng không đáp. Tên đó lại vồ sang, đôi hổ trảo múa vù vù như kình phong bạo vũ, ập lên mình Vu Tiểu Kế như sét đánh. Hàn Ngạc chỉ nhích tả thủ nắm nhẹ cổ tay Vu Tiểu Kế, vận chút lực kình đẩy cả nó lẫn cái ghế tránh khỏi chiêu số hung hiểm của tên kia. Hắn lửa giận phừng phừng, càng đánh rát hơn, nhưng chỉ nhắm Vu Tiểu Kế chứ không tấn công Hàn Ngạc, có vẻ còn e dè Hàn Ngạc. Nháy mắt hắn "móc, đấm, quét, cào", hai mươi bảy lộ Hổ Trảo Thủ đã thi triển hết, Hàn Ngạc lại vẫn ngồi yên một chỗ. Tên lão đại đứng xem không khỏi biến sắc mặt, chợt mò lên hông, "soẹt" một tiếng rút ra một cọng Thiết sách, quát lớn: "Nhị đệ, tam đệ, chậm đã. Người trước mặt có thể là hảo bằng hữu, xem ra không phải dễ động chạm. Bằng hữu, báo danh đi, tại sao lại xen tay vào sự vụ của Long Môn Tam Quái bọn ta?".
Tên lão tam nghe lời đại ca, búng mình lùi về, rút một thanh Tam tiết côn giắt bên hông ra. Tên còn lại nãy giờ chưa lên tiếng, tay cũng đã cầm một cây Lưu tinh chùy. Long Môn Tam Quái xem ra đều dùng binh khí mềm, trong mềm lại có cứng, chừng như xuất xứ từ dòng "Cửu Khúc Môn".
"Cửu Khúc Môn" lừng danh một dải Hoàng Hà. Hàn Ngạc liếc nhìn binh khí của chúng, vẫn không thèm đáp lời. Tên lão đại của Long Môn Tam Quái có vẻ khá kiêng kỵ gã, lại nghe hắn nói: "Nếu coi là hảo bằng hữu, xin cho biết danh hiệu, thế gian đâu có chuyện gì không giải quyết được. Có lẽ bằng hữu còn có uyên nguyên với vị chủ nhân sai phái bọn ta hành sự, mình làm tổn thương hòa khí đâu có đáng chứ".
Nói xong, hắn liếc nhìn ra sau, tựa hồ sau lưng còn có ai đó.
Hàn Ngạc nhướng mày sau khi nghe hắn nói đến hai chữ "uyên nguyên" --- Trên thế gian này, những kẻ ỷ lại có "uyên nguyên" đàn áp người không có "uyên nguyên" cũng đâu phải ít --- Trước mặt ta mà còn dám giở cái sáo đó? Đôi mắt một mí của gã vụt mở, ba tên kia lần đầu tiên thấy trên gương mặt say sưa của gã bừng bừng hung quang. Chỉ nghe Hàn Ngạc thốt: "Ta không có danh hiệu".
"Vậy ngươi bằng vào cái gì mà ra mặt?". Long Môn lão tam tức tối hỏi. Đây là thời buổi dựa vào uy thế mà tương tranh, kẻ không có danh hiệu đâu có xứng ra mặt!
Hàn Ngạc cúi đầu ngẫm nghĩ: "Không bằng vào cái gì hết. Nó là tiểu đệ của ta".
Ngước mắt lên: "Vậy đã đủ rồi chứ?"--- Đã là tiểu đệ của ta, sao ta có thể để các ngươi mặc sức đâm chém chứ?
Long Môn lão đại lại ngạc nhiên: "Vu gia mấy đứa bé đều bị diệt sạch, lòi ra một ca ca từ hồi nào vậy?".
Hàn Ngạc hơi bực bội: "Mới vừa nãy".
Nói xong lại thấy Vu Tiểu Kế vụt siết chặt tay mình, làm cho Hàn Ngạc cảm động khôn tả. Gã mỉm cười nhè nhẹ, quay mặt khoan thai nói với Vu Tiểu Kế: "Cái gì, không tình nguyện có một ca ca bụng đói mem chỉ biết uống rượu chứ không ăn cơm sao?".
Vu Tiểu Kế xưa nay lanh lợi mạnh miệng, bây giờ lại mấp máy không thành tiếng, chỉ thấy nhiệt tình bừng hiện trong ánh mắt, thân người bé bỏng tựa hồ không chứa đựng nổi niềm vui sướng to tát. Long Môn Tam Quái bị đùa bỡn, mặt mày biến sắc, lập tức xuất thủ. Tiếng gió hụ vang lên khắp quán. Thiết sách, Lưu tinh chùy, Tam tiết côn đều là binh khí rít gió, sai sử trong tay bọn chúng lại càng thêm phần bất phàm.
Binh khí nhuyễn của "Cửu Khúc Môn" quả nhiên khó đụng chạm! Cả hai tên Trương, Chúc bên kia nhìn thấy thanh thế xuất thủ của chúng cũng không khỏi tái mặt, kéo ghế tới góc tường tránh né.
Hàn Ngạc không đợi địch nhân tới gần, xoay tay lôi Vu Tiểu Kế cả người lẫn ghế trượt một vòng sang bên kia bàn. Gã vốn còn cách địch nhân một cái bàn, hoàn toàn không lánh địch, trái lại còn ngồi lọt vào giữa vòng vây của Long Môn Tam Quái, nhưng binh khí của ba tên kia cũng đánh hụt hết. Hàn Ngạc cúi đầu hỏi Vu Tiểu Kế: "Đúng là chúng đã giết Khúc Tiểu Nhi?".
Trong thanh âm của gã có một thứ hơi hướm bi thương, nghe qua có vẻ hờ hững, nhưng sâu kín bên dưới giọng điệu hời hợt lại là bi thương tột độ. Vu Tiểu Kế tròng mắt đỏ bừng, căm phẫn gật gật đầu. Hàn Ngạc lại nhìn cái bao vải màu lam trên cái ghế bên cạnh, lòng đang đắn đo --- Gã tuy tập võ đã lâu, nhưng xưa nay vẫn không quen động tới là rút kiếm. Binh khí của Long Môn Tam Quái nhắm đầu cổ gã và Vu Tiểu Kế rít gió ụp tới, Hàn Ngạc cứ ngả cứ nghiêng tránh thoát mấy chiêu liền, miệng lẩm bẩm: "Quả nhiên hung tàn, chiêu nào chiêu nấy cũng là chiêu đoạt mạng, xem ra Tiểu Kế không nói dối".
Ba tên kia vốn đang ngạc nhiên sao Hàn Ngạc còn chưa hoàn thủ, chúng càng lấn lướt thêm, lúc này chợt nghe Hàn Ngạc thở dài thốt: "Đông sơn mãnh hổ ăn thịt người, Tây sơn mãnh hổ không ăn thịt người; Nam sơn mãnh hổ ăn thịt người, Bắc sơn mãnh hổ không ăn thịt người". Thanh âm của gã rất nhỏ, nhưng trầm thấp đến mức cực kỳ khô khan, vang dội trong vùng gió rít, tựa như che trùm cả tiếng binh khí dậy trời. Long Môn Tam Quái kinh ngạc, thầm tức tối: gã còn mắng mình là súc sinh hổ báo? Chiêu số liền tăng tốc. Thiết sách của Long Môn lão đại phất một cái, quật từ sau lưng xuống đầu Hàn Ngạc, móc câu gắn trên đầu Thiết sách lướt qua đỉnh đầu Hàn Ngạc, công kích vùng bụng dưới, chiêu đó có tên "Tuyệt tử nhai tiền mãnh hồi đầu". Họ Chúc và họ Trương biến sắc mặt, họ Trương la lên: "Độc địa quá!".
Họ Chúc lại nói: "Xài tuyệt nghệ rồi".
Hàn Ngạc nắm lấy "Trường Canh" nãy giờ nằm yên trên cái ghế bên cạnh, gã không tháo bao vải, cứ để lớp vải lam bọc kín, quét ngang một chiêu. Trường Canh vốn là kiếm. Lộ số của kiếm đa phần là đâm chém, cái gã dùng lại là chiêu số "vỗ tạt". Lộ số kiểu đó cực ít thấy, trường kiếm còn chưa khoe lưỡi, gã sử như một sợi xích sắt. Gã dùng bản kiếm còn cả vỏ lẫn vải bọc trên vỏ vỗ ngang vào đầu ba thứ binh khí. Thiết sách, Lưu tinh chùy, Tam tiết côn đều là binh khí trong mềm có cứng, dưới một chiêu của gã, lại đều thành cứng hoàn toàn, lối đánh đó vốn là cách tốt nhất để đối phó binh khí nhuyễn, có điều người bình thường ít ai dám dùng tới. "Xoẻng xoẻng xoẻng" ba tiếng trầm đục, cái vỗ của Trường Canh trúng Thiết sách trước, rồi trúng Lưu tinh chùy, cuối cùng đánh trúng Tam tiết côn của Long Môn lão tam, cả ba đều bị bản kiếm của Hàn Ngạc vỗ thẳng đầu đúng vào lúc ba mũi binh khí quật hết kình lực.
Hai vật cứng va vào nhau, đầu côn của Long Môn lão tam rung lên, chỗ khớp nối Tam tiết côn trong tay hắn lại mềm, không giữ được côn, chỉ đành buông tay thoái lùi, lại phát giác một luồng nội kình xộc thẳng qua --- Tiểu tử kia không ngờ còn là nội gia cao thủ! Phải biết trên giang hồ người tu tập nội công đâu có nhiều. Long Môn lão tam biết lợi hạ, tả thủ vội nắm cổ tay phải, muốn ngăn chặn luồng nội kình lần theo cổ tay đi lên. Nhưng luồng nội kình đó lách rẽ thành nhiều đường, xông thẳng vào quan mạch trên cổ tay hắn. Lúc đó hắn cảm thấy trong uyển mạch nóng như lửa đốt, nội kình như có một sóng lửa xộc thẳng về phía tâm mạch. Tả thủ của hắn tăng gia kình khí, muốn ngăn trở nội kình bốc lên. Nhưng nội kình tuy lan chậm, là hoàn toàn không cho phép hắn đề kháng, ồ ạt về phía Đan điền. Hắn biết nếu mình không ngăn chặn được, sau này trọn đời sợ là không chỉ một cánh tay bị phế, mềm nhũn không còn hơi sức, ngay cả công phu toàn thân cũng sẽ bị hủy diệt. Hắn gắng gượng vận nội công, toàn lực chống trả, một ngụm máu tươi không nén được phun ra khỏi cổ họng. Long Môn lão tam mặt mày tái nhợt --- Một chiêu, chỉ một chiêu! Hắn kêu lên một tiếng: "Lão đại!", sau đó rú thảm thương: "Tiêu rồi, ta tiêu rồi".
--- Bao nhiêu công phu của hắn e là đã bị phế bỏ hết.
Hai huynh đệ của hắn lúc này đâu kịp liếc sang hắn, Long Môn lão nhị thấy Lưu tinh chùy bị Hàn Ngạc vỗ trúng xích sắt, dây xích nhũn khuỵu xuống, đầu chùy trở ngược quật về đầu mình. Chiêu đó vừa có lực của mình mà lại thêm vào lực của Hàn Ngạc, đầu lâu bị bửa là cái chắc! Hắn kinh hãi vội vã thu kình, nhưng còn kịp sao! Lại thấy Hàn Ngạc phi thân lên, chuôi kiếm đập đầu Lưu tinh chùy bay lệch phớt bên tai lão nhị. Sau đó mũi kiếm còn nằm trong vỏ điểm lên huyệt Khí hải của hắn. Đầu chùy bay lướt ra sau, Long Môn lão nhị tay cầm dây xích đâu có sức trì kéo, vừa buông tay, chùy xé gió phá mành bay đi, "bịch" một tiếng cắm phập xuống bùn đất bên ngoài quán, khoét một lỗ to tướng.
Long Môn lão nhị mới thoát khỏi nạn chùy đập vỡ đầu, mặt mày tái mét, cảm thấy bao nhiêu lực khí của mình đều đang tiết ra huyệt Khí hải, tản mác dần dần, có muốn ngăn chặn cũng không được.
Chỉ có Long Môn lão đại còn sức phản kích. Thiết sách của hắn co lại, "vèo" một tiếng, toàn lực đẩy bật ra lại, cọng Thiết sách thẳng mình như mũi thương nhắm ngay ngực Hàn Ngạc đâm tới. Hắn chỉ muốn vận kình cản chặn Hàn Ngạc, sau đó phi thân thoái lui. Hàn Ngạc thần tình bình tĩnh, có vẻ bi thương não nề nhìn hắn, kiếm thế chợt nghịch chuyển, xoay thân kiếm trở mũi ra sau, giấu sau khuỷu tay. Gã cũng không siết chặt kiếm nữa, mà kẹp chuôi xuất thủ quật thẳng lên đầu Thiết sách.
Thiết sách rung lên, hai luồng khí lực chạm vào nhau mấy lượt, sau đó đuôi Thiết sách trong tay Long Môn lão đại vụt hất thoát khỏi lòng bàn tay hắn, nặng nề thần tốc đập lên lồng ngực hắn, phớt qua một dọc Khí hải, Chí đường, Nhũ trung ba huyệt. Long môn lão đại rú thê thảm: "Thà ngươi giết ta cho rồi!".
Hàn Ngạc giọng lạnh như băng: "Ta cũng là người phàm, tuy có võ nghệ cũng đâu dám thay trời tru phạt, chỉ cần hủy năng lực không cho các ngươi tiếp tục tác ác thôi".
Tên lão đại gào lên: "Thực đáng hối hận ham tranh công nhào vào đại!". Thình lình hắn chúm môi huýt một tiếng. Hắn vừa huýt, ở một chỗ không xa lắm "ồ" lên một tiếng. Đằng sau hắn quả nhiên còn có người! Sau đó tiếng dây cung giương kéo vang lên, lại nghe "vù" xé gió, thanh âm đó lao qua song cửa mà vào. Một mũi trường tiễn đuôi lông chim ghim phập vào cột gỗ trong quán, sâu tới gần một tấc!
Vừa thấy Hàn Ngạc xuất thủ, cục thế chớp nhoáng, Chúc, Trương hai tên mặt mày đổi sắc mấy lượt, trán toát mồ hôi lạnh. Tới lúc kỳ biến lại xuất hiện, chúng nhìn thấy mũi trường tiễn phá song cửa bay vào, hai mắt chết trân, đứng thừ ra không còn hơi sức để di động, phải một hồi sau mới nghe họ Trương la làng: "Trời, là Đại Vũ Tiễn!".
Họ Chúc âm trầm thốt: "Không ngờ người của Tử Thần đã đến".
Long Môn lão đại tới giờ mới thở phào một hơi. Hắn căm hận nhìn Hàn Ngạc, trong mắt ngập tràn vẻ khoái trá tàn nhẫn, có vẻ như biết viện binh của hắn Hàn Ngạc tuyệt không thể chống đỡ nổ. Hắn vốn đã bị trọng thương, lại ráng vận dụng chân lực huýt gọi, máu trào khỏi miệng, hôn mê ngã lăn ra.
Hàn Ngạc chợt hất hất đầu thực mạnh, như muốn hất văng hết hơi say trong đầu. Gã đưa một tay vuốt đầu tóc bù xù, sau đó lên tiếng: "Người đến là vị nào trong Tử Thần vậy?".
Tử Thần vốn là cao thủ hộ vệ cung cấm, xưng là "Tử Thần ngân giới, thanh chấn cửu trùng". Đương thời được tuyển chọn gia nhập tổng cộng cũng không quá tám vị. Ở một chỗ cách cửa quán không tới một tầm tên bắn có một thanh âm vang lên: "Nhất tinh như nguyệt khán đa thì2 --- Tại hạ chỉ theo ngồi ghế chót, Tử Thần Nhất Tinh. Còn trước mặt là ai? Khà khà, xem lực đạo đánh đầu chùy bay ra, rõ ràng là nội lực 'Thạch Trung Hỏa' đã thất truyền từ lâu, chắc là Hàn huynh rồi? Tu vi 'Thạch hỏa quang trung ký thử thân' của Hàn huynh càng lúc càng tinh tiến, tại hạ bội phục".
Trong Tử Thần vốn lấy số nhiều xếp cấp bậc, cho nên người đến tự xưng "Tử Thần Nhất Tinh", tự nhận ngồi ghế chót. Tử Thần Nhất Tinh Cung Diệc Tinh nghề thiện xạ lừng danh thiên hạ, "Kình Điêu Cung" cùng "Đại Vũ Tiễn" đều là binh khí vang dội tám phương, Hàn Ngạc với người trong Tử Thần cũng chỉ nghe danh nhau, chưa từng gặp mặt. Gã lạnh lùng thốt: "Tử Thần hộ vệ cung cấm, lẽ nào cũng muốn xen tay vào chuyện trần tục?".
Người ngoài cửa thở dài: "Chỉ trách hai chị em Vu Tiểu Kế kia kéo kéo lôi lôi, chuyện năm xưa đâu còn gì để để ý tới, hơn nữa có những cái không nên nói đến. Giờ lão đại của bọn ta đã giao phó, ta chỉ đành ra sức mà làm thôi".
Vu Tiểu Kế đột nhiên ngước mặt, lửa giận trào dâng trong mắt. Người ngoài cửa hỏi: "Hàn huynh vượn núi hạc biển, sao lại khốn khổ xen tay vào mấy chuyện phàm tục này?".
Khoé môi Hàn Ngạc chợt bặm lại. Tử Thần... Tử Thần... gã một khi động đến Tử Thần, đâu có phải như hạng Long Môn Tam Quái, từ đây về sau e rằng chưa chết chưa thôi: một là phải đến gã chết mới thôi, hai là gã phải độc lực tiêu diệt đám hảo thủ võ công tuyệt đỉnh mà người ta gọi là "Tử Thần thất tú, củng bắc nhất cực"3.
"Lão đại của bọn ta đã giao phó?". Lẽ nào tru sát Vu Tiểu Kế xứng để cho Tử Thần lão đại hiệu xưng thiên hạ đệ nhất cao thủ đích thân ra mặt giao phó? Gã bỗng ngẩng lên nhìn màu vàng cũ kỹ trên tấm mành trước ngưỡng cửa: đời này héo hắt quá rồi, đâu còn chuyện gì vui sướng chứ. Dù gì đi nữa, chuyện nên làm vẫn phải làm, sao phải sợ mạo hiểm gian khó. Màu vàng già cỗi trên tấm mành vì trải bao năm dài tháng rộng, tắm gội hơi người, cho nên có một thứ sắc thái ấm đậm tình người. Hàn Ngạc hờ hững thốt: "Nó là tiểu đệ của ta".
Câu nói của gã tuy hờ hững, hơi thở ngoài cửa lại nín bặt, một hồi sau người ngoài cửa thở dài, như thốt: "Hàn huynh, ta vốn không có ý mạo phạm ngươi".
--- Nhưng ngươi nói hài tử đó là tiểu đệ của ngươi, e rằng trường ân oán này chỉ có nước chưa chết chưa tan.
Hai người thái độ qua thanh âm đến giờ tựa hồ vẫn còn rất bình hòa. Vu Tiểu Kế cảm thấy trong ngoài quán nhất thời tĩnh lặng hẳn, tựa như chuyện này đã lọt vào giai đoạn hai người hòa hoãn thương lượng. Nó nhìn nhìn Hàn Ngạc, lại ngó ngó ngoài cửa, màu xanh da trời ánh rọi qua mành cửa vàng vọt lọt vào trong, đẹp như một bức tranh. Nhưng nó vừa liếc xéo, lại vụt phát hiện mặt mày hai tên Trương, Chúc đang khẩn trương cực dộ, da mặt bạnh ra đến mức muốn nứt toét --- Nó đương nhiên không biết, cũng không nghe được thanh âm kéo dây cung bên ngoài. Dây cung đã căng, chỉ chờ buông. Người đó với Hàn Ngạc một trong quán, một cỡ trăm bước cách ngoài quán, không ngờ lại quyết chiến từ cách xa như vậy! Cự ly đó cực kỳ bất lợi cho trường kiếm dài ba thước của Hàn Ngạc, cung tên vốn là thứ có năng lực viễn chiến. Không khí này đâu phải không khí bắt tay đàm thảo như Vu Tiểu Kế nghĩ!
Người ngoài cửa thốt: "Thì ra là vậy. Hàn huynh, muốn ta dừng tay, ngươi phải cho ta cái gì cầm về để còn ăn nói chứ".
Chỉ nghe Hàn Ngạc nói một tiếng: "Được!".
Sau đó Vu Tiểu Kế chợt phát giác Hàn Ngạc buông lỏng tay mình.
--- Lúc đối diện Long Môn Tam Quái, đâu có giây phút nào Ngạc ca không siết chặt tay mình.
Tiểu Kế liền cảm thấy có gì không ổn. Mới vừa đây nó còn thấy bàn tay to nắm giữ nó thực khô ráo. Bây giờ lòng bàn tay mát lạnh, nó ngước đầu, thấy thân người Hàn Ngạc vọt bắn đi, bắn ra ngoài cửa. Mành phất nhẹ, sau đó lại buông rũ, phảng phất đâu có ai ra vào. Nhưng Hàn Ngạc đâu còn trong quán. Tiểu Kế mắt tròn xoe, thấy ngoài mành trúc vàng võ thấp thoáng một thân ảnh lao nhanh tới trước, đó là Hàn Ngạc. Không trung chợt vang lên tiếng bật dây cung, một mũi trường tiễn đuôi lông chim vùn vụt bay ra, vạch chớp một luồng mờ nhạt qua tấm mành. Hàn Ngạc lách mình trên không, sau đó giữa màu mành vàng và màu trời xanh trong mắt Vu Tiểu Kế chợt có bóng dáng một mảng vải lam rơi xuống. Giây phút vải còn chưa rơi hẳn, bên ngoài mành chợt phẩy một đường hỏa quang, hỏa quang chỉ chói ngời một sát na rồi vụt tắt!
--- Hàn đại ca đã rút kiếm? Đó là "Thạch Trung Hỏa" của đại ca? Ánh lửa xẹt qua cái phẩy của Trường Canh?
--- "Thạch hỏa quang trung ký thử thân"? Cái gì gọi là thạch hỏa quang trung ký thử thân?... Sao trời rơi rụng, lửa xẹt thành đường, cảnh tượng đó Tiểu Kế từng gặp, nhưng chỉ một sát na rồi tắt ngóm, thời gian ngắn ngủi như vậy, làm sao mà gởi thân này?
Chỉ trong nháy mắt, trong đầu Tiểu Kế lần quần ngàn vạn ý niềm do ánh sáng như sao xẹt đó dẫn dắt. Sau đó nghe "bựt" một tiếng, tựa như tiếng buông dây cung. Mành bỗng phất phơ, như không khí bên ngoài đột nhiên khuấy động. Sau đó khe khẽ vang lên tiếng rên của hai nam nhân. Của người kia, cũng của Ngạc ca. Rồi nghe người đó hự một tiếng khan khản, nhưng chỉ trong chớp mắt rồi ngưng bặt, người đó chợt lớn giọng cười nói: "Hay, hay, hay! Hay cho 'Thạch hỏa quang trung ký thử thân' của ngươi! Về có thể ăn nói được. Hôm nay nể mặt Hàn huynh, tha cho đứa bé kia một lần. Hàn huynh, ngươi và ta thế nào cũng sẽ gặp lại, ngươi đừng quên ngày ngày rèn kiếm đó".
Thanh âm thấp thoáng có vẻ đau thương, cũng có vẻ phấn chấn. Vu Tiểu Kế nghe không hiểu, nó chỉ quan tâm đến Hàn đại ca của nó. Đột nhiên mành phất lên, Hàn Ngạc đã vọt về, gã ngồi thẳng trên cái ghế ban nãy. Vu Tiểu Kế nhìn mặt gã, thấy hơi say hồi nãy hình như đã bị làn sóng hưng phấn trào dâng trong mắt ép đi mất hết, chỉ còn ánh sáng rừng rực. Phải một lúc sau ánh sáng mới mờ đi, Vu Tiểu Kế mới có thể dời mắt nhìn sang chỗ khác. Chợt nó "ối" một tiếng, thấy trên vai trái của Hàn Ngạc sưng phồng lên, bị kình khí phát ra từ dây cung của đối phương đả thương. Vu Tiểu Kế khẩn trương: "Ngạc ca, huynh bị thương à?".
Hàn Ngạc mắt nhắm hờ, như đang điều tức. Một hồi sau gã mới đáp: "Đâu chỉ có ta bị thương".
Vu Tiểu Kế vụt nhìn gã.
Hàn Ngạc luôn luôn bình đạm, nhưng vẻ kiêu ngạo tự phụ thình lình dâng hiện trong câu nói đó thực khiến cho Vu Tiểu Kế không quên được, không dứt bỏ được.
Một khoảnh khắc sau, ngoài cửa chợt vang lên một tràng tiếng vỗ tay: "Đẹp tuyệt đẹp tuyệt, đánh hay quá là hay! Trừ Hàn huynh ra, trên thế gian này còn có ai có thể khiến cho Nhất Tinh kiêu ngạo tự phụ nhất trong Tử Thần giương cung xuất thủ chứ? Tuy chỉ trao chiêu trong nháy mắt, lại tuyệt diệu tỏa ngời đến thế. Kẻ bất tài này hôm nay thực là phước ba đời, thực là phước ba đời".
Họ Chúc, họ Trương sau khi Hàn Ngạc lui lại vào quán vốn mặt mày vẫn còn tái nhợt, buồn bực muốn bỏ đi. Lúc này vừa nghe thanh âm đó, chúng liền mừng rỡ, kế đến lại chuyển thành vẻ bẽn lẽn xấu hổ. Hai tên đưa mắt nhìn nhau, họ Trương thì thầm: "A, Khu tổng quản đã đến".
Có tiếng bước chân chậm rãi, một người từ từ đi tới, vén mành bước vào. Hai tên Chúc, Trương vừa gặp người đó liền hổ thẹn cúi đầu. Người đó cười nói: "Khu Tấn bất tài, nay được gặp Hàn huynh, quả nhiên nghe danh sao bằng gặp mặt, gặp mặt hơn hẳn nghe danh, Hàn huynh uy phong ghê".
Nói xong, hắn vỗ tay: "Hoàng kim bất đa giao bất thâm. Tại hạ có mang vàng ròng đến dâng cho Hàn huynh".
Hắn tựa như rất thích vỗ tay, nói xong lại vỗ tay, nhưng cái vỗ tay này lại rất ngắn gọn, như phát ra mệnh lệnh gì đó. Ngoài mành có tiếng bước chân chan chát, lại nghe Khu Tấn cười nói: "Đem vàng đến ra mắt Hàn huynh".
Quyển I: Ban Chuy đợi Chương 13
Tra thông bích hán vô đa lộ1
1 Bài thơ "Đề Trường An bích chủ nhân" của Trương Vị có câu: "Thế nhân kết giao tu hoàng kim, hoàng kim bất đa giao bất thâm" (Người đời quen biết phải cần vàng, vàng chẳng được nhiều quen chẳng thân).
2 Bài thơ "Quý dĩ trừ tịch ngẫu thành" của Hoàng Cảnh Nhân có câu: "Tiễu lập thị kiều nhân bất thức, nhất tinh như nguyệt khán đa thì". Thi nhân tịch mịch cô độc một mình đứng trên cầu, ngẩng nhìn bầu trời sao, trầm tư mặc tưởng.
3 Bảy ngôi sao Tử Thần vây quanh một Bắc Đẩu.
Hai cái hòm s ắt sơn đen nho nhỏ, lại có vẻ nặng khôn tả. Hai người ôm thùng thân hình tráng kiện, bước chân thình thịch đủ thấy nặng đến đâu. Khu Tấn cười nói: "Đặt lên bàn cho Hàn huynh đi".
Hai gia nhân kia đặt hòm trên bàn. Khu Tấn nói: "Hàn huynh sao không mở ra xem xem? Vương gia của bọn ta muốn làm quen với Hàn huynh, cho nên đặc biệt kính hiến chút lễ mọn".
Hàn Ng ạc ngồi bất động, Vu Tiểu Kế lại hiếu kỳ, nhìn nhìn Hàn Ngạc, thấy gã không ra vẻ gì hết, nó bèn làm gan thò tay bật cái chốt đậy. Cái chốt vốn có gắn lò xo, rất đàn hồi, nắp hòm lập tức tự động mở ra. Nắp che chắn ánh mắt của mọi người, chỉ thấy được vẻ mặt của Vu Tiểu Kế, thấy nó giơ tay bịt miệng, mắt lộ nét kinh hoàng.
T ửu bảo vừa định thần lại sau màn kịch đấu hồi nãy, giờ cũng nghiêng nghiêng mình nghểnh cổ nhìn. Vừa ngó thấy, hắn không khỏi "a" lên một tiếng, há hốc miệng không nói được tiếng nào --- Hai cái hòm đó bên trong kim quang sáng ngời, đựng đầy hoàng kim! Tuy nói hòm không lớn lắm, nhưng trong hai cái hòm tối thiểu cũng phải mấy trăm dật2 vàng ròng! Đủ để so bì với tài sản của gần một trăm gia đình. Lạc Dương vương xuất thủ quả nhiên phóng khoáng! Hai tên Chúc, Trương bên kia tới giờ cũng đã nhìn thấy, thần tình trên mặt kinh hoảng pha lẫn thèm muốn, ngưỡng mộ hòa xen ghen tị. Khu Tấn cười nói: "Hàn huynh đừng ngại tục khí của số vàng này". Nói xong, hắn thò tay nhấc một khối vàng trong hòm: "Trên thế gian này, e là không có mấy thứ thuần bằng nó".
"Lòng s ốt sắng hâm mộ của Vương gia bọn ta đối với Hàn huynh còn thuần hơn nó một chút nữa".
Trên mặt hắn luôn luôn tủm tỉm một nụ cười, có một thứ thần tình vững tin, tự tin về mình. Hắn không phải văn nhân học sĩ gì, cũng không phải tự cho mình thanh cao, hắn chỉ là tổng quản trong Lạc Dương vương phủ, có điều bẩm sinh thấu hiểu đời. Hắn cười nói: "Hàn huynh không biết có để ý nơi nào trong Lạc Dương thành không? Đám huynh đệ sẽ đi chuẩn bị chỗ ở cho Hàn huynh. Vương gia bọn ta thỉnh mời Hàn huynh, có gì muốn sai khiến xin cứ nói thẳng. Hàn huynh an tâm đi, đây chỉ là lòng kính trọng nhân tài hâm mộ kẻ sĩ của vương gia".
Nói xong, hai mắt hắn chăm chú nhìn Hàn Ngạc. Hàn Ngạc lại không liếc ngó hai hòm vàng chút nào, nãy giờ xoay mình cầm vò rượu trên bàn rót đầy chén. Vai gã vốn đã bị thương, tay lại không run chút nào. Rượu châm quá đầy, gần muốn tràn ra khỏi chén. Gã buồn bã thốt: "Nhiều vàng như vậy, thực ra có thể mua bao nhiêu rượu ngon?".
Sau đó gã cúi đầu: "Hàn mỗ một ngựa một kiếm hành tẩu giang hồ, có bao nhiêu tiền uống bấy nhiêu rượu. Khu huynh, bao nhiêu vàng đó, con ngựa của ta và ta đâu có khiêng nổi".
Nói xong, gã nhấc chén uống cạn, quăng mấy đồng kẽm lên bàn, đứng dậy kéo Vu Tiểu Kế đi.
Vu Tiểu Kế còn quay đầu ngó hai thùng vàng --- Không phải là nó tham tiền, mà là vì từ nhỏ tới lớn nó chưa bao giờ nhìn thấy nhiều vàng như vậy. Nó muốn đem chất sức nặng của hai hòm vàng kia vào lòng, chất lên trên hình bóng của Hàn đại ca, để hình bóng đó càng khắc sâu tận đáy lòng. Sau đó nó mới quay đầu nhìn Hàn Ngạc, thấy cước bộ của Hàn đại ca nhanh nhẹ tiêu sái, vén rèm dẫn nó đi đến bên Ban Chuy buộc cương ngoài cửa điếm.
Khu Tấn đằng sau cười nói: "Hàn huynh, không thèm nhìn mấy trăm dật vàng ròng này à?".
Hàn Ngạc thoáng chậm bước, lại không đáp lời. Khu Tấn trong quán thấy gã sắp lên ngựa, giọng nói có tăng tốc một chút, lại vẫn không đổi vẻ ung dung: "Hàn huynh, xin dừng bước. Vương gia cũng biết phần lễ quà này sơ sài, e là không thể đủ để thỉnh mời nhân sĩ thao lược như Hàn huynh. Nhưng số vàng này cũng xin Hàn huynh thu nhận...".
"Chỉ cần Hàn huynh chịu đáp ứng một chuyện: không xen tay vào một việc sắp xảy ra trong Lạc Dương thành, vậy thì bọn ta coi như là bằng hữu. Mối giao tình này Hàn huynh chịu kết chứ?".
Hàn Ngạc tay đã cầm cương: Lạc Dương thành thực ra là thành gì đây? Tại sao cả hạng "vượn núi hạc biển" như người ta gán cho gã cũng phải bị giằng dai quấy nhiễu riết cho dù chỉ mới vào thành? Việc Lạc Dương vương muốn gã nhận lời không xen tay là việc gì? Không trách Dư cô cô, Vu Tiệp và con "quỷ" trên Bắc Mang sơn đều nói gã không nên đến Lạc Dương. Gã hơi khựng lại, tay vuốt nhẹ cổ con ngựa, thấp giọng: "Thử mã phi phàm mã, Phòng tinh bổn thị tinh; Hướng tiền xao sấu cốt, do tự đái đồng thanh3... Mấy câu thơ này ta luôn rất thích, lại không thích một bài khác cùng một đầu đề: Đại mạc sa như tuyết, Yến sơn nguyệt tự câu; Hà đương kim lạc não, khoái tẩu đạp thanh thu?4 Hoàng kim nặng như vậy, mang trên mình nó còn có thể đi được nhanh sao? Muốn đi được nhanh mà lại đóng yên vàng, không phải là kẻ cưỡi ngựa tự khoe khoang sao? Đâu có liên quan gì tới con ngựa?".
Gã tựa như không đáp, thực ra đã đáp trả kiến nghị của Khu Tấn. Sau đó lại thấy gã ghé bên tai Ban Chuy nói nhỏ: "Ngựa ơi, hôm nay lại phải phiền ngươi chở một người không quen".
Gã nhìn Vu Tiểu Kế, cười nói: "Sau này nó là tiểu đệ của ta, sau này chuyện ăn uống của ngươi phần nhiều phải làm phiền tới nó". Nói xong gã kéo Vu Tiểu Kế phi thân lên ngựa. Yên cương cũ kỹ, nhưng lại là da thuộc chắc nịch, không đợi chủ nhân thúc giục, tự động sải vó phi nhanh.
Vừa tạnh mưa, bụi cát thấm nước kết thành một lớp bùn mềm mỏng. Khu Tấn vẫn ở trong quán nhìn theo. Bùn đất bị vó ngựa bắn tung, lấm tấm điểm chấm vạt áo Vu Tiểu Kế ôm sau lưng Hàn Ngạc, lại khiến cho Vu Tiểu Kế đầu óc lâng lâng niềm khoái trá xông pha gió bụi, hành tẩu không chút bó buộc.
"Hàn đại ca, huynh thực muốn rời khỏi Lạc Dương?".
Hàn Ngạc gật đầu.
Vu Tiểu Kế "úy" một tiếng.
"Sao? Ngươi không muốn đi theo ta?".
Vu Tiểu Kế lại nắm chặt vạt áo sau của Hàn Ngạc.
Hàn Ngạc thầm thở dài, nghĩ tới Vu Tiệp trước khi chết đã quay sang ngó Tiểu Kế, rồi nhìn mình hấp hối nói hai lần: "Tiểu Kế, Tiểu Kế...". Có phải là nàng ta đã phó thác nó cho mình?
Vu Tiểu Kế còn sợ bị Hàn Ngạc cự tuyệt, cúi đầu sau lưng Hàn Ngạc: "Bây giờ tỷ tỷ thân nhân duy nhất của tôi cũng đã qua đời". Cái đầu bé nhỏ của nó dựa nhẹ lên lưng Hàn Ngạc, ấm áp tình trẻ con. Hàn Ngạc trái tim nhất thời cũng mềm yếu đi. Gã nãy giờ phóng ngựa như bay, chẳng đoái hoài gì hết, không nghĩ ngợi gì hết. Tới giờ đầu óc lại suy tư: gã bỏ được danh lợi bạc vàng, bỏ được lời hay lễ hậu, nhưng có thực buông được mọi sự trong Lạc Dương thành không?
Sắp rời xa, lòng gã lại nảy sinh cảm giác bồi hồi, nhớ đến gương mặt ngấn lệ như một đóa phù dung giữa sương mai trên ngôi lầu hắt ánh trăng tàn. Vừa nghĩ đến, dây cương nhất thời nới lỏng. Gã nhìn ngã ba đường vó ngựa sắp phóng qua, lòng rối như tơ vò. Thực muốn đi? Thực phải đi? Cắt đứt trọn đời, vĩnh viễn không tái kiến? Gã nghiến răng, dằn lòng giục ngựa quẹo sang phía tây. Con ngựa sải vó, đôi mắt luôn luôn kiên định đối diện quyết chiến địch nhân lại không kềm được phải nhắm chặt lại. Gã cảm nhận được tiếng nước mắt tuôn chảy trong lòng mình: vốn phải đi, vốn chỉ có thể đi mà thôi! Lạc Du nguyên ơi Lạc Du nguyên... Trên Lạc Du nguyên, lãng du vô tư lự ba năm qua đã tan biến như vầy sao? Nhưng làm sao không đi được? Nàng... thì ra đã là vợ người ta từ lâu. Cho dù đáng để gã hận nàng, gã lại không có một chút xíu ý căm hận nàng. Ngăn trở đã định này, nàng bước qua được sao? Gã cũng bước qua được sao? Cho dù có muốn cũng chưa chắc có thể bước! Bởi đằng sau còn có thân nhân của nàng, căn nguyên của nàng, dòng dõi của nàng, trách nhiệm của nàng, biết bao nhiêu trói buộc...
Còn có... chồng của nàng...
Hàn Ngạc không dám quay đầu, mặc cho đôi dòng lệ nóng từ từ buông dài giữa làn gió rát cuốn theo vó ngựa. Gió thổi bay đi hai dòng lệ. Lần đầu trong đời gã phát giác thì ra mình cũng có lắm nước mắt, lòng không khỏi thèn thẹn. Vu Tiểu Kế rất ngoan ngoãn giữ im lặng sau lưng gã. Hàn Ngạc nhắm mắt phi nhanh, thầm nghĩ: cho dù đi được cả trăm cả ngàn dặm, cho dù mình có ngựa nhà nòi, làm sao có thể đi thoát gút mắc trong lòng này?
Gã nắm chặt dây cương, cảm thấy ngón tay của mình, bàn tay của mình, cánh tay của mình, cả bắp tay cũng gồng cứng. Tất cả mọi thứ trong đời gã đều bằng vào đôi tay nóng bỏng này mà nắm lấy, nhưng đó là quá khứ, nỗi khổ ngày nay gã cho dù có gấp đôi nhiệt lực của một thanh niên trẻ trung cũng vô dụng thành không mà thôi. Hai đùi gã bỗng kẹp chặt, khiến cho con ngựa tăng tốc, một hồi lâu sau gã mới phát giác Vu Tiểu Kế lên lên hơi như muốn nói gì đó, lại không dám nói ra. Gã dừng ngựa, giả như thuận tay nâng ống tay áo lên, thực ra để lau dấu lệ trên mặt, sau đó mới ngoái đầu ôn tồn hỏi: "Ngươi muốn nói gì vậy?".
Vu Tiểu Kế khẩn trương: "Hàn đại ca, bọn ta đi đâu vậy?".
"Trường An".
Vu Tiểu Kế miệng há hốc, lại không lên tiếng. Hàn Ngạc nghi hoặc nhìn nó.
Vu Tiểu Kế cười khổ: "Nhưng bọn ta... đánh một vòng lại đã quay về rồi".
Hàn Ngạc ngây người, ngước mắt nhìn, không sai! Hồi nãy gã nhắm mắt cho ngựa phi, nào có ngờ đoạn đường này vốn có lắm ngã ba, cứ quanh quẹo hoài, lòng mình nói mình phải đi, mà tay lại không nghe theo lòng! Bàn tay khống chế dây cương không ngờ bất tri bất giác cứ để cho con ngựa quẹo trái miết một đường, lại đã quay về chỗ cũ.
Trong đầu Hàn Ngạc vụt nhớ tới câu nói của một lão nhân vào một đêm khói mờ bềnh bồng, thanh âm già nua: "Ngõ Luân Hồi trong Lạc Dương thành, trong ngõ Luân Hồi mau quay đầu".
Câu nói đó vụt vang lên trong đầu Hàn Ngạc, gã tới bây giờ mới tỉnh ngộ cái gì gọi là "Ngõ Luân Hồi trong Lạc Dương thành, trong ngõ Luân Hồi mau quay đầu!". Lần thấu ngộ này lại đau đớn làm sao. Hàn Ngạc cảm thấy lồng ngực như bị đập một chùy, khí huyết nhộn nhạo, tức không thể phun một búng máu cho đỡ khó chịu.
Ngõ Luân Hồi trong Lạc Dương thành, trong ngõ Luân Hồi mau quay đầu! Nhưng, Phương Ninh, nàng kêu ta làm sao mà quay đầu?
Hàn Ngạc bàn tay cầm cương mềm nhũn, lòng cảm thấy mệt mỏi khôn tả. Đây là một thứ mệt mỏi gã chưa từng trải qua, không khỏi là mệt mỏi vì hết sức, mà là bối rối mơ hồ, mất bình tĩnh mất tự chủ trong bối rối mơ hồ. Sau đó gã cảm thấy một đôi bàn tay nhỏ nhắn nhẹ nhàng vòng qua hông mình. Đồng cỏ mùa xuân xung quanh xanh ngát, xanh hỗn độn như điều bí ẩn khó hiểu. Giữa đồng cỏ xuân xanh rờn đó, không ngờ còn có một đôi tay bé nhỏ thực sự thành tâm không rời bỏ mình.
Hàn Ngạc chầm chậm xoay lại, giơ tay xoa xoa đầu Vu Tiểu Kế, nhìn về phía Lạc Dương thành qua đỉnh đầu nó --- Xem chừng còn có những chuyện cần phải làm phải không?
Quyển I: Ban Chuy đợi Chương 14
Thổ thực hàn hoa hựu thử phần1
1 Bè đi khắp sông Ngân không còn đường nào nữa, là câu trong bài "Thu Tâm tam thủ" của Cung Tự Trân, dùng điển tích cư dân vùng biển đi thuyền lọt vào Thiên Hà trong sách "Bác Vật Chí" của Trương Hoa thời Tấn để nói không có cách nào biết được tin tức của vong hữu (lúc đó hảo hữu của Cung Tự Trân là Tạ Giai Thụ, Trần Hãng, Trình Đồng Văn lần lượt tạ thế), cũng có chung ý với câu trong Trường Hận Ca: "Thượng cùng Bích lạc hạ Hoàng tuyền, lưỡng xứ mang mang giai bất kiến" (Lên tới Bích lạc, xuống tận Hoàng tuyền cũng không gặp).
2 Một dật bằng hai chục lượng.
3 Là bài thứ tư trong "Mã thi" của Lý Hạ (tổng cộng 22 bài), tả cốt cách bất phàm của ngựa. Phòng tinh: một trong hai mươi tám tinh tú. "Thụy Ứng Đồ" viết: "Sao của ngựa là Phòng Tinh". Người xưa cho là người hay vật không phải hạng bình phàm đều ứng với tinh tú trên trời. Câu này cho thấy con ngựa này không phải là hạng phàm tục trong trần thế.
Đồng thanh: "Đông Kinh phú" của Trương Hành có viết: "Đồng tước bàn uyển, Thiên mã bán hán", có chú: "Thiên mã, đồng mã dã" (ngựa trời là ngựa đồng), là nói Thiên mã và Long tước trong hoàng cung đều làm bằng đồng, vì vậy tượng ngựa đồng được coi là ngựa trời. Long tước là loại thần điểu phi yến, là thần gió. "Tây cực Thiên mã ca" trong sách "Hán thư - Lễ nhạc chí" có ghi "Thiên mã" chân dẫm lên mây, phi nước kiệu trên không, rong ruổi bên trên phi yến, chính là hình thượng "Thiên mã" ngao du không trung. Bài thơ thứ tư đây nói con ngựa này là loài phi phàm, mà lại không được đãi ngộ, vì vậy gầy giơ xương, nhưng không yếu ớt, xương cứng như xương đồng. Sách "Tấn thư - Thiên văn chí" có viết: "Phòng tứ tinh, diệc viết thiên tứ, vi thiên mã, chủ xa giá. Phòng tinh minh, tắc vương giả minh" (Xe ngựa Phòng, cũng là xe trời, đóng ngựa trời làm xe cho vua chúa. Ngựa mà sáng, tất phải là đế vương anh minh). Bài thơ này Lý Hạ dùng ngựa để ẩn dụ tài năng phi phàm kiệt xuất nhưng chưa gặp được minh chúa. Mà ngựa tốt không dùng thì thực là nguy cho chúa.
4 Là bài thứ năm trong "Mã thi" của Lý Hạ, cũng là bài lưu truyền rộng rãi nhất.
Yến sơn: tên núi, hiện nay ở bắc bộ tỉnh Hà Bắc.
Câu: loan đao, là một thứ binh khí cổ đại, hình dáng như trăng lưỡi liềm.
Kim lạc não: dàm ngựa bằng vàng, ý nói ngựa quý dùng đồ trang sức quý.
Hai câu đầu phô bày cảnh sắc chiến trường ở biên cương: một vầng trăng khuyết treo mình trên Yến sơn chập chùng; cát vàng vạn dặm, trải hiện như một lớp sương tuyết trắng xóa dưới ánh trăng. Phong cảnh chiến trường đó có lẽ người bình thường chỉ cảm thấy thê lương lạc lõng, nhưng đối với kẻ sĩ có chí báo quốc lại tạo sức hấp dẫn vượt quá tầm thường. "Yến sơn nguyệt tự câu" cũng giống như câu "Hiểu nguyệt
đương liêm quải ngọc cung" trong bài "Nam Viên - kỳ lục" cũng của Lý Hạ. "Câu" là một loại loan đao, cũng là binh khí như "ngọc cung", từ vầng trăng lưỡi liềm liên tưởng đến hình tượng binh khí, cũng là hàm ẩn ý chí chiến đấu. Ông lọt vào niên hiệu Trinh Nguyên (Đường Đức Tông) và Nguyên Hòa (Đường Hiến Tông), chính là thời đại các phiên trấn hung hăng lấn át, mà "Yến sơn" ám thị dải đất U châu - Kế Môn (tức Kế Môn Quan), vốn là nơi phiên trấn lộng hành lâu đời nhất, là vùng đất loạn lạc ác liệt nhất, vì vậy thi ý rất có cảm khái hiện thực.
Hai câu cuối mượn ngựa để bày tỏ tâm tình: lúc nào mới có thể đóng dàm mang yên đi lập công, xông pha trên chiến trường giữa trời thu mát mẻ trong sáng? "Kim lạc não" (dàm ngựa làm bằng vàng) là đồ dùng quý báu cho ngựa, tượng trưng ngựa chiến được trọng dụng. Đây là lời cảm thán mình có nhiệt tình kỳ vọng muốn lập công cho cho tổ quốc mà lại không được tin dùng.
Hàn Ng ạc mặt mày trầm tư lắng nghe Vu Tiểu Kế thuật lại tin tức nó vừa thăm dò được, từ đầu tới cuối không xen nửa lời. Tin Vu Tiểu Kế nghe ngóng được cũng khá nhiều --- Nó đi trọn một ngày, dốc sức lo sự vụ Hàn đại cao giao phó, về đến liến thoắng huyên thuyên không ngưng gần một canh giờ. Cái miệng bé xíu đó thực lanh lợi, bao nhiêu đại sự triều dã, tiếng rao đồn tỉnh thị, chuyện gà chó lặt vặt, lời giỡn hớt đùa vui đều được nó chuyển thuật như tận mắt chứng kiến. Hàn Ngạc chỉ lặng lẽ lắng nghe. Mọi sự trong Lạc Dương thành vốn không liên can gì tới gã, nhưng gã lắng nghe thực kỹ càng. Mãi cho đến khi Vu Tiểu Kế nói xong, Hàn Ngạc mới thốt: "Theo đám tiểu huynh đệ của ngươi kể, đêm hôm kia trong khu nhà của Lạc Dương Doãn Vu Tự Vọng có xảy ra thanh âm đấu đá?".
Vu Ti ểu Kế đáp: "Đúng, ăn mày con Tô Lạc Lạc đi xin cơm nghe tận tai. Nó nói nó không chỉ nghe được, mà còn nhìn thấy nữa. Nó nói Vu gia lần này tuy có hung tang, nhưng tang sự vẫn phải lo. Cho nên mấy ngày đó nó cứ đi lòng vòng trước cửa nhà Vu gia, tiện để xin cơm, cũng được bố thí chút bạc tiền. Trời lại không lạnh, nó lười đi về cái lò nung đổ nát ngủ qua đêm --- Có về thì sáng lại phải ba chân bốn cẳng chạy đi nữa, thà tìm một chỗ tránh gió bên ngoài nhà họ Vu ngã lưng qua đêm còn hơn. Theo nó nói, bắt đầu từ ngày thứ nhì sau khi Vu Tự Vọng chết, nó cảm thấy có gì đó không ổn, vì nó thấp thoáng phát giác bên trong khu viện đó có thanh âm rổn rảng đổ ngã. Hai ngày đầu nó không để ý lắm, về sau mới lưu tâm. Mấy ngày sau đó, cứ nửa đêm là có bóng dáng dạ hành nhân vọt vào viện, lén lút lục lọi tìm tòi. Người sống trong viện tựa hồ đã bị cấm đoán, không dám kêu la. Cứ giằng dai như vậy hơn nửa tháng, cho đến đêm hôm kia, kẻ nọ hình như đã tìm ra gì đó, vì Tô Lạc Lạc nghe kẻ nọ ở bên kia tường nói với người nhà họ Vu: "Khà khà, các ngươi an tâm ngủ ngon đi, sau này ta sẽ không đến nữa, có điều chuyện này các ngươi chớ có kể cho ai biết đó".
"K ẻ nọ mới dứt lời, Tô Lạc Lạc nói thình lình nghe hắn 'ối' lên một tiếng, hoàn toàn không còn vẻ đắc ý vừa lúc nãy mới đắc thủ. Tô Lạc Lạc cả kinh ngước nhìn, thấy trong viện có một bóng người vụt bay lên, khiến nó giật mình cơ hồ muốn nhảy dựng. Kẻ vọt lên lại quát: 'Ai?'. Cái vọt đó không phải là vọt ra ngoài tường, mà như bị cản trở, ép hạ mình trên mái nhà trong viện. Hắn hình như đang đọ kình lực với người nào đó trong bóng tối. Sau đó Tô Lạc Lạc nghe một tiếng nói âm trầm có vẻ muốn che giấu giọng thực: 'Vật đó ngươi không thể mang đi đâu!'".
"Tô L ạc Lạc tên ăn mày con đó trời sinh gan dạ, mà lại hiếu kỳ nhất. Nó không dòm ngó được, tay chân nhanh nhẹn liền chọn đúng một căn nhà tường vách thấp phía đối diện leo lên. Trăng hôm đó tuy không sáng, lại cũng khả dĩ thấy rõ tình hình bên trong khu viện. Bên trong khu nhà họ Vu tối hù, không có người nào trong nhà dám đi ra, chắc cái chết của Vu Tự Vọng đã dọa bọn họ khiếp đảm rồi. Có một người mặc quần áo dạ hành đen đang đứng trên mái ngói. Hắn quát khẽ: 'Là hảo bằng hữu thì xin để lại danh tánh'".
1 Hoa lạnh đất ăn mòn ở mộ phần này đây, hàm ý thi nhân viếng mộ vong hữu tỏ lòng thương tiếc. Đây là câu tiếp theo câu "Tra thông Bích Hán vô đa lộ" trong bài "Thu Tâm tam thủ" của Cung Tự Trân {xem chú thích (1) chương 13}.
"Ng ười cản chặn hắn còn đang trong bóng tối, Tô Lạc Lạc không nhận ra chỗ y ẩn mình, chỉ nghe y giấu giọng: 'Ai là hảo bằng hữu của ngươi chứ?'. Tô Lạc Lạc nhìn thấy bóng kẻ trên mái nhà định tung mình nhảy lên, nhưng hắn vừa mới nhún người, lại tựa như bị ám kình tập kích, vừa hổng chân là liền bị ép hạ xuống. Được ba bốn lượt như vậy, lại nghe kẻ trên mái ngói lạt giọng: 'Cầm Long Túng Hạc, ngươi là Lợi Dữ Quân?'".
Hàn Ng ạc biến sắc mặt: "Lợi Dữ Quân? Lợi Dữ Quân ngoại hiệu 'Vô Song Sĩ' trong Lạc Dương thành?".
Tiểu Kế lắc lắc đầu: "Tôi cũng không biết, tôi chỉ biết nếu người trong bóng tối thực là Lợi Dữ Quân, thì y là kẻ có chủ nhân thực ghê gớm trong Lạc Dương thành. Nghe nói y là thượng khách trong Lạc Dương vương phủ, người ta kêu là 'ngoại Khu nội Lợi'. Trong Lạc Dương vương phủ, kẻ lo ngoại vụ là Khu Tấn tổng quản mà Hàn đại ca đã gặp qua, người ngoài đồn hắn là một cao thủ thâm tàng bất lộ, chưa có ai thấy hắn xuất thủ. Hắn có nghe nói vậy thì cũng thường hay đảo mắt cười cười hòa hảo. Có người từng hỏi hắn, hắn chỉ cười đáp: 'Nếu nói ta là cao thủ, vậy Lợi huynh là gì chứ? Mấy lời kia chớ có để Lợi huynh nghe được'. Do đó mọi người biết đệ nhất cao thủ trong Lạc Dương vương phủ có lẽ là Lợi Dữ Quân. Bọn tôi lại rất ít khi gặp Lợi Dữ Quân, có điều người trong Lạc Dương vương phủ đều đối đãi với y cực kỳ tôn kính, ai cũng gọi y là Lợi đại phu, chừng như y có thể khám bệnh. Cho nên Tô Lạc Lạc hoảng vía đến không dám thở mạnh
--- Nó kể lúc đó nó sợ tới mức mặt mày tái mét. Lợi đại phu trong truyền thuyết là kẻ luôn luôn giết người như cỏ rác. Tô Lạc Lạc khóm róm trên mái nhà thấp bên kia, nó thấy kẻ trên mái ngói vừa dứt lời liền toàn lực nhún mình nhảy về phía tường, muốn bỏ chạy. Hắn dốc hết sức như vậy, người trong bóng tối cũng không thể không hiện thân. Tô Lạc Lạc cảm thấy mắt hoa lên, không biết bóng người kia từ đâu vọt ra! Chỉ thấy y từ xa thò tay tung một trảo giữa không trung, y còn cách kẻ đằng trước tới ba thước, nhưng lẻ nọ lại như bị một trảo của y lôi xuống. Chuyện đó giống như... yêu thuật vậy!".
Hàn Ngạc nhíu nhíu mày, giải thích: "Đó không phải là yêu thuật, mà là 'Cầm Long Thủ' lừng lẫy giang hồ lâu nay, xuất thủ nhắm sơ hở thân pháp của kẻ nọ, kẻ nọ đương nhiên không dám đào tẩu, sợ bị y một chiêu đoạt mệnh".
Tiểu Kế tin tưởng gật đầu, kể tiếp: "Nghe người đó nói: 'Được, ngươi độc lắm, lão tử đấu không lại ngươi, vật này ngươi cầm về đi!'. Nói xong hắn thò tay vào mình rút một vật ra, quăng lên không, miệng hét: 'Đây có thể là vật Tử Thần lão tam muốn, cầm lấy, ngươi cũng vị tất giành được tiện nghi gì!'. Hắn miệng nói mà chân không chậm bước, vọt nhanh về hướng ngược lại. Nhưng hắn vừa mới nhảy lên, không biết tại sao thân hình khựng lại, sau đó đột nhiên quật ngược về, bay đập sang phía Lợi Dữ Quân. Lợi đại phu kinh ngạc, không ngờ kẻ nọ còn dám đánh y, giơ tay ngăn đỡ, bày tay tiếp lấy vật kia chậm đi, lúc đó...".
Mục quang Tiểu Kế nhìn Hàn Ngạc bỗng lấp loáng, mặt mày thấp thoáng vẻ tư lự: "... Trong không trung chợt hiện ra một dải dây, cuộn lấy vật kia. Lợi đại phu khó khăn lắm mới ép ra được vật đó, không ngờ bị người ta nhẹ nhàng đoạt lấy!".
Nói xong, nó ngước nhìn Hàn Ngạc, quả thấy Hàn Ngạc đang nhắm mắt --- Gã đang nghĩ gì? Ngạc ca cũng đoán ra đó là ai? Trong lòng Tiểu Kế cũng nảy sinh một cảm giác đau lòng cho Hàn Ngạc. Nó lại thấp giọng kể tiếp: "Lợi đại phu biết kẻ nọ không còn tự điều khiển được bản thân nên mới lao đập vào mình, y chộp giữ cổ tay kẻ nọ, vừa hất tay là người đó đã bị y quăng ra ngoài tường. Tô Lạc Lạc nói lúc đó nó bàng hoàng, Lợi đại phu chỉ thuận tay quăng mà có thể quăng người ta ra xa như vậy. Chắc đó là thủ pháp 'Túng Hạc' của y phải không?".
Nó cố ý hỏi một câu, muốn ráng sức xí xóa tâm tình của Hàn Ngạc hiện giờ. Hàn Ngạc gật gật đầu, Tiểu Kế than thầm trong bụng, lại tự thuật: "Lợi đại phu nói: 'Quả nhiên là ngươi! Khà khà, 'Sách nữ' Phương Ninh, mấy năm nay tên tuổi của ngươi vang vọng dữ lắm! Ngươi đã đến, Hàn Ngạc chắc cũng không xa chứ!".
Giọng Tiểu Kế kể chuyện lí nhí, như không muốn nói, lại không thể không nói. Hàn Ngạc cảm thấy một nỗi đau xé nát tâm can: trong giang hồ, hiện vẫn là giai đoạn tên tuổi của gã cùng "Sách nữ" Phương Ninh sánh vai. "Sách Kiếm minh" trên Lạc Du nguyên, vốn nghĩ lời hứa đó là một mối cam kết đời đời, nào hay... nào hay... Gã nghĩ chắc Lợi Dữ Quân lúc đó phấn chấn lắm. Người trong giang hồ, phàm là hảo thủ, ít ai có dịp may đơn độc khiêu chiến "Sách Kiếm song lữ".
"Người sử dụng sách không nói gì. Lợi đại phu thốt: 'Ngươi đã đến thì chớ có đi!'. Tô Lạc Lạc kể nó thấy y xuất thủ quái dị vô cùng, một tay như xô ra, một tay như biến thành trảo, như đánh người ngay sát mình vậy. Mà dáng dấp kẻ đấu với y rất mềm mại, là một nữ tử. Nó thậm chí không thấy rõ được bóng nàng ta, chỉ thấy trong không trung có một dải tơ xanh tung bay. Có vẻ nàng ta muốn đánh từ xa, còn Lợi đại phu mong đánh sáp lại gần".
Hàn Ngạc mặt mày khẩn trương, đối diện hạng cao thủ như "Vô Song Sĩ" Lợi Dữ Quân, cho dù gã ra mặt quyết đấu, e rằng cũng chỉ ngang ngửa, huống hồ Phương Ninh lại là phận liễu yếu đào tơ. Quan tâm quá độ, gã bất giác nắm lấy cổ tay Tiểu Kế: "Sau đó thì sao?".
Tiểu Kế bị gã siết tay đau đến há hốc miệng, lại không dám la đau, ráng nhịn đáp: "Sau đó Tô Lạc Lạc hết nhìn thấy rõ, vì hai người trong trường đấu quá mau lẹ, nháy mắt nó không còn biết ai là ai. Nhưng cuối cùng nó nghe cô gái kia khẽ rú lên một tiếng, tựa hồ...".
Nó lén liếc liếc Hàn Ngạc: ".... Nàng ta đã thụ thương".
Hàn Ngạc mắt khép chặt, Tiểu Kế lâu nay ít khi thấy thần tình của gã thác loạn khẩn trương như vầy, chỉ còn nước thuật cho nhanh: "Nhưng tiếp đó nàng ta tung một sách cuốn tới, có thể nhờ vậy mà tạo được cơ hội thối lui. Dải tơ trong tay nàng ta cuốn giữ thân cây hoè đằng xa, thân ảnh vọt lên, bay đi liền. Chỉ hai ba lần nhô hụp, nàng ta biến mất không còn thấy đâu nữa. Tô Lạc Lạc thấy Lợi đại phu còn đang trên mái nhà, y xoa vai than: 'Quả nhiên phi phàm. Trong các nữ tử thời nay, kẻ có thể đả thương ta không nhiều. Đúng là đệ nhất hảo thủ'".
Hàn Ngạc tới giờ mới nới lỏng tay, ngồi bệt xuống, mở mắt trở lại, tựa như đã an tâm. Nhưng tiếp đó lại lo lắng bật dậy, hai bàn tay xoắn chặt vào nhau, như đã quên Vu Tiểu Kế đang kề cận, lẩm bẩm: "Nàng đã thụ thương! Nàng đã thụ thương!".
Gã biết tính cách của Phương Ninh, vật nàng muốn đoạt tất phải là vật cực kỳ trọng yếu đối với "Thành Nam Tính". Ngày thường nàng ít khi giao tranh với người ta, nhưng vật đó nhất định là vật phải đoạt được mới thôi. Ngày trước nàng từng có nói họ Vi và họ Đỗ có một vật trọng yếu để lọt vào tay Vu Tự Vọng. Vật nàng đoạt có phải là chứng cứ đó? Những chuyện đó gã không mấy quan tâm, cái gã quan tâm là Phương Ninh --- Phương Ninh, không phải Đỗ Phương Ninh, cũng không phải thiếu phu nhân của Vi phủ, chỉ là Phương Ninh. Nàng đã thụ thương.
Mình có nên vì tức giận nàng mà không thèm ngó ngàng đến?
Vu Tiểu Kế lúc đó ngước đầu nhẹ giọng: "Hàn đại ca, huynh thực ra muốn biết tin gì?".
Hàn Ngạc hôm qua không phóng ngựa đi Trường An, mà về lại Lạc Dương. Hôm nay lúc giao phó chuyện cho nó làm, chỉ kêu nó đi ra nghe ngóng tin tức, lại không nói cụ thể coi muốn dò thám tin tức gì. Ban đầu Vu Tiểu Kế cũng không hỏi, lúc này quyết định vặn dò. Hàn Ngạc còn chưa đáp, Vu Tiểu Kế lại cúi đầu nói: "Hàn đại ca có phải muốn nghe ngóng xem chuyện Lạc Dương vương không muốn huynh xen tay là chuyện gì? Chuyện đó...".
"... Có phải có liên quan đến Đỗ Phương Ninh?".
Hàn Ngạc vẫn chưa lên tiếng --- Cả một đứa bé cũng nhận ra, gã còn có thể nói gì?
Vu Tiểu Kế nói: "Hàn đại ca nếu không rõ chuyện đó có liên quan đến Phương Ninh hay không, mà lại thực muốn biết, tại sao không đi tìm Dư cô cô?".
Nó cúi đầu không dám nhìn Hàn Ngạc. Hàn Ngạc ngây người: phải rồi, gã tại sao không nghĩ đến đi tìm Dư cô cô? Nữ nhân đó tuy mù lòa, lại tựa như có thể nhìn thấu đường đời và thâm tâm mình. Gã vỗ đùi, bần thần nghĩ ngợi, hoàn toàn không chú ý đến nét hổ thẹn vừa thoáng qua mặt Vu Tiểu Kế.
o0o
Lại là chân núi phía đông Bắc Mang sơn, canh hai. --- Dư cô cô phận nữ mù lòa, không biết tại sao lại hẹn ước với Hàn Ngạc ở một nơi xa xôi như vậy, mà còn vào đêm tối. Đương nhiên, đối với một người mù, tối hay không tối cũng đâu khác biệt gì.
Chân núi phía đông của Bắc Mang sơn có một gò trũng kín đáo. Cái hôm Vu Tiệp chết, Hàn Ngạc ôm di thể nàng ta bối rối hoang mang tình cờ lang thang qua chỗ này, quyết định chọn làm nơi chôn cất. Cả vùng Bắc Mang sơn đâu đâu cũng là bãi tha ma, khó kiếm được một chỗ đất trống vắng lặng như vầy, có thể coi là một chỗ hết sức tốt để mai táng.
Giờ hẹn là canh hai, nhưng gã đến sớm hơn nửa canh giờ. Thân ảnh của gã mới lướt vào khu đất trũng nho nhỏ đó, thân hình bất giác chậm lại. Một vầng trăng khuyết lành lạnh treo trên khung trời --- Đời người thoáng chốc, trăm năm như một búng tay, có ai có thể liệu được những chuyện xảy ra chỉ trong mười mấy ngày qua, cô gái tựa hồ mới vừa ríu rít nói cười ngay trước mặt mình chớp mắt đã không còn trên trần đời này nữa! Mộ phần nhỏ bé này, hôm đó Hàn Ngạc dùng cành cây đào huyệt, đào rất nông, cũng không có quan quách gì, vì Vu Tiểu Kế có nói: tỷ tỷ của nó dặn nó nếu chị ta báo thù thất thủ, chị ta không muốn quan quách, chị ta tình nguyện ra đi áo mỏng tóc trần như vậy, rữa thấm với bùn đất. Nàng ta báo không được mối đại cừu cho cha mẹ, thấy mình không xứng được chôn có quan có quách. Hàn Ngạc nghĩ tới mấy lời đó, cảm thấy buốt tim --- Chấp nê quá, thực là cố chấp. Vu Tiệp, thực ra nàng sao lại tự làm khổ mình như vậy? Gã không quen biết nhiều nữ tử, gần gũi dài lâu nhất cũng là Phương Ninh. Nhưng mỗi lần nghĩ đến Phương Ninh, đầu óc gã đều mê loạn trong ngọt ngào ôn nhu, nay lại thêm phần thê lương thống khổ. Có lúc gã thậm chí còn nghĩ có phải mình thân cận chỉ vì nàng là người yêu đầu đời của gã? Còn nữ tử tuy giao hảo không lâu, mà như một mũi "gai" thỉnh thoảng đâm vào óc gã một cái đau điếng lại là Vu Tiệp. Nàng ta đâu phải là một cô gái xinh đẹp, lại có một vẻ nhu thuận phát ra từ cốt cách mà Phương Ninh không bì được. Cho dù nàng ta đã từng rúc rích đùa bỡn châm chọc mình, nhưng Hàn Ngạc vẫn cảm thấy sâu kín trong giọng điệu của nàng ta luôn có vẻ nhu hòa đối với mình. Sự sắc nhọn của nàng ta đều là do đường đời ép bức không còn lựa chọn nào khác. Hàn Ngạc muốn ngắt hái chút gì để cúng tế trước mộ phần. Gã dõi mắt nhìn quanh, thấy không xa nơi đó, bên chân núi có mấy đóa hoa lấm tấm nở. Hoa màu lam, cánh bé xíu, đài hoa bé xíu, run run theo gió, như lắm lo buồn. Hàn Ngạc ngắt cúng, sau đó gã lẳng lặng ngồi trước nấm mộ đất vàng, cũng không biết ngồi được bao lâu rồi.
Thực ra... hôm đó nàng hà tất phải tự đâm mình? Chỉ vì hổ thẹn đã dồn ta vào tình cảnh lưỡng nan? Chỉ vì muốn cứu Phương Ninh mà ta yêu thương? Người đã khuất, Hàn Ngạc giờ mới dám nghĩ: nàng con gái đó... Vu Tiệp đó... tuy chỉ gặp mặt một thời gian ngắn ngủi, nàng ta tựa hồ luôn ở trong lòng mình. Nàng ta tại sao lại nói nàng ta đã gặp mình lúc trước, chỉ là mình không gặp nàng ta? Gã vuốt ve mấy đóa hoa trước mộ, vụt phát hiện trong một đóa hoa lam, trên nhụy hoa có một điểm đỏ. Hàn Ngạc đầu như bị đập một búa. Điểm đỏ đó tựa hồ là giọt máu của Vu Tiệp trên chủy thủ, đỏ thắm nhuộm lên vạt áo mình. Hàn Ngạc lúc đó không khống chế được nữa, chợt ngửa mặt hú lên bi thảm. Hoang mộ trăng lặng, ca khóc cũng bằng không, còn lại cũng chỉ có một tiếng hú bi ai! Lại nghe sau lưng chợt có người thốt: "Ngươi cuối cùng đã nhớ tới nàng ta".
Hàn Ngạc giật mình ngoái đầu, thấy Dư cô cô toàn thân hắc y như mặc tang phục đang đứng cách sau lưng mình chưa đầy một trượng. Thân ảnh cô ta lung lay dao động như một bóng quỷ, lại tựa như có thương thế chưa thuyên giảm. Hàn Ngạc vừa nãy tâm ý mê loạn, không phát hiện cô ta đã đến.
Dư cô cô giọng khàn khàn: "Kể cũng lạ, còn sống hay đã chết, bao nhiêu lần ngươi gặp Vu Tiệp kia cũng đều chỉ vì một cô gái khác. Phương Ninh... Phương Ninh... nàng ta tốt đẹp đến thế? Đáng để ngươi một dạ tìm kiếm, không để ý đến nhu tình ngay sát cạnh mình?".
Hàn Ngạc bẽn lẽn, nghe thanh âm của Dư cô cô khan khản khó tả, đôi mắt của cô ta vẫn trắng đùn đục trong bóng đêm, có một hơi hướm quỷ dị u thảm. Cô ta ho húng hắng: "Họa đồ tỉnh thức xuân phong diện, hoàn bội không quy nguyệt dạ hồn2... U hồn đêm trăng vẫn không chống ngăn được bờ má ngày xuân. Nam tử trên đời sao hiếu sắc đến thế chứ?".
Hàn Ngạc không nói nên lời. Dư cô cô thốt: "Ta đã nhận lời giao phó của cô gái đó, hễ là chuyện của ngươi thì sẽ tận lực trợ giúp ngươi, ngươi có gì muốn hỏi thì cứ hỏi đi".
Hàn Ngạc mấp máy môi, tựa như không dám nhắc tới hai tiếng "Phương Ninh" trước mộ Vu Tiệp. Gã phảng phất lại về đến lúc mới gặp Vu Tiệp, chân dí dí trên mặt đất ---- Sao Dư cô cô này cũng giống Vu Tiệp vậy, lòng dạ chừng như rõ ràng không tệ bạc với mình, mà lời nói sao lại bén nhọn như vậy? Gã cúi mặt không dám nhìn Dư cô cô, cho nên không thấy được trong mắt Dư cô cô chợt lộ ra thần tình thương tiếc tội nghiệp. Hàn Ngạc phát giác một làn khói mỏng từ dưới chân mình bốc lên, Dư cô cô lại đã nhúm loại hương Long Đoàn đặc sản của Xiêm La. Khói mỏng lờ lững trên mặt đất, càng khiến cho Hàn Ngạc hoài nghi mình vào giờ phút này thực ra là thực hay là ảo. Đêm như vầy, những gì đã trải qua những ngày vừa rồi thực giống như một giấc mộng. Dư cô cô có vẻ rất mệt mỏi, ngồi xếp bằng dưới đất. Cô ta chợt đung đưa bàn tay phải trên không, trong tay hiện ra một cuộn tranh. Bàn tay cô ta nới lỏng, cuộc tranh thả mình đánh "phạch" một tiếng. Hàn Ngạc nghe tiếng ngẩng đầu, giữa vùng khói mỏng dưới ánh trăng, bức tranh rõ ràng là bút họa hôm đó khói thơm của Dư cô cô thôi thúc mình vẽ. Nữ tử trong tranh xinh xắn tươi cười, như muốn bước ra khỏi tranh. Hàn Ngạc đầu óc mê man, khe khẽ thốt: "Phương Ninh...".
Dư cô cô khàn giọng: "Ngươi muốn hỏi về nàng? Hỏi vận số của nàng hay hỏi tai ách của nàng? Nàng hiện giờ đang có nạn, có lẽ phải nói là hai nhà Vi Đỗ hiện giờ đều có nạn. Người của Lạc Dương vương hiện tại đã nhắm vào bọn họ, hơn nữa còn nắm giữ bằng chứng bọn họ thông đồng tác ác với Đông cung. Chuyện đó mà lòi ra, sẽ là một đả kích có sức hủy diệt đối với Thành Nam Tính và Đông cung. Trong Lạc Dương thành, dòng 'Thành Nam Tính' luôn luôn là bè đảng thầm kín của Đông cung. Bọn họ có thể nói đã đem cả dòng họ môn phái đặt lên mình Đông cung Thái tử. Mà Lạc Dương vương thế lực mạnh nhất Lạc Dương thành lại giao hảo với đương kim Tể tướng. Mối bất hòa giữa Đông cung với Tể tướng tuy âm thầm tiềm phục, e rằng cũng không ít người biết. Triều đình trong cung, Ngũ Giám - Cửu Tự đều đứng về phe Đông cung, còn Tam Tỉnh - Lục Bộ - Nhất Đài lại ủng hộ Tể tướng muốn phế đổi Thái tử. Bọn họ những năm gần đây đấu đá càng lúc càng kịch liệt, cả vụ thảm án trong ngõ Luân Hồi năm xưa cũng có liên quan. Nghe nói người trong nhóm Tử Thần hộ vệ Hoàng thượng lần này cũng bị lôi cuốn vào cuộc, bọn họ năm xưa có liên can với Dư Hoàng hậu. Chuyện này bọn họ không chịu buông tay, truy sát Vu Tiểu Kế và giành đoạt chứng cứ đều có dính líu tới vụ này. Trong Lạc Dương thành thị phi khó dứt, không có chính nghĩa, chỉ có khuynh loát qua lại, hòng tồn tại qua tranh đấu. Ngươi hà tất nhất định muốn ở lại Lạc Dương thành này. Lạc Du nguyên ngoài Trường An thành cho dù thực sự lạc du, thực khó quên, nhưng trên thế gian cũng đâu chỉ có duy nhất một cõi lạc du".
Hàn Ngạc hít một hơi, gã không thể giải thích mình, chỉ hỏi: "Nói như vậy, mục tiêu động thủ của Lạc Dương vương gần đây quả nhiên là... Đỗ Phương Ninh?".
Lúc nghe gã nói "Đỗ Phương Ninh" chứ không còn là "Phương Ninh" nữa, Dư cô cô vốn nở một nụ cười, nhưng lại nhìn thấy thần tình của gã, bất giác mặt mày cô ta bừng lửa giận. Cô ta chống tay đứng dậy, căm hờn thốt: "Ngươi vẫn chỉ nhớ đến ả Phương Ninh kia, được, ta để ả cho ngươi, cho ngươi luôn! Xem ngươi được ả thì có ích gì!".
Hàn Ngạc căn bản không hiểu cô ta vì duyên cớ gì mà đột nhiên nổi cơn thịnh nộ như vậy, thấy cô ta phất tay, cuộn tranh vẽ đã xếp cất vào lòng bị rút ra quăng về phía gã, sau đó cô ta xoay mình bỏ đi.
Hàn Ngạc muốn rượt theo nhưng lại không dám, nghe cô ta vừa đi vừa khàn khàn giọng như buồn như giận: "Yên tâm, ta sẽ giúp ngươi điều tra tường tận, mấy ngày sau sẽ nói cho ngươi biết. Kẻ phụ rẫy nhất trên đời đâu ai hơn đàn ông các ngươi. Ngươi bây giờ chỉ nghĩ đến Đỗ Phương Ninh, hoàn toàn quên đi chuyện Vu Tiệp trước khi chết đã đổ máu phó thác cho ngươi phải không?".
"--- Nàng ta chết vì ngươi, vụ huyết án toàn gia bị diệt trong ngõ Luân Hồi năm xưa mà nàng ta muốn ngươi điều tra ngươi lại hoàn toàn quên rồi phải không? Quên hết rồi phải không?". Cô ta tuy mù, đi lại rất nhanh, nháy mắt đã đi ra khỏi sơn cốc, trong không trung chỉ lất phất thanh âm của cô ta: "Quên hết rồi... quên hết rồi...?". Từng tiếng từng tiếng vang dội, như muốn ép Hàn Ngạc phải nhận lỗi.
Hàn Ngạc bần thần: Phương Ninh... Thực ra niềm trông đợi của gã đối với Đỗ Phương Ninh đã đoạn tuyệt, chôn lấp nỗi lòng. Gã quay đầu nhìn ngôi mộ cô độc, hoa cắm trước mộ còn đọng sương đêm, ngày mai mặt trời soi chiếu, có phải sẽ khô héo úa tàn? Có phải kiếp trước hoa là thiếu nữ? Hàn Ngạc chợt hối hận đã hái hoa cúng trước mộ Vu Tiệp --- Gã có quyền gì bắt buộc một đóa hoa vô tội phải chết vô duyên, vùi bên đường, dâng hiến trước mộ Vu Tiệp, như gã có quyền gì hờ hững một cô gái khác để thành toàn cho khổ niệm cố chấp của mình đối với nàng con gái kia? Đầu óc gã mờ mịt, bần thần mở bức tranh ra, thấy một mảng lửa lân tinh đang thiêu đốt trên cuộn tranh. Hàn Ngạc thất kinh. Nhưng vùng lân quang xanh xanh mờ ảo đó không đốt phỏng tay, đến khi lửa tắt ngóm, cuộn tranh vẫn còn nguyên không sao cả, chỉ là đồ hình trên cuộn tranh lại đã hoàn toàn biến mất.
Quyển I: Ban Chuy đợi Chương 15
Toàn kiến y quan tựu đông thị1
2 Xem chú thích (1) chương 3.
Trong Đổng gia Tửu lâu, Cổ Siêu Trác mỉm cười nói: "Hàn huynh, lâu rồi không gặp".
Hàn Ngạc cũng mỉm cười: "Cũng chỉ mới mấy ngày mà".
Cổ Siêu Trác lại than: "Sau khi quen biết Hàn huynh, đệ mới minh bạch người xưa nói 'Một ngày không gặp, như cách trở ba thu' là ý gì".
Hàn Ngạc chỉ mỉm cười --- Gã không quen khách sáo, tránh được thì tránh liền. Tuy biết lời nói của Cổ Siêu Trác cũng có chút chân tâm, nhưng phần lớn lại là sáo rỗng. Cổ Siêu Trác lại nói: "Không lạ gì người trong giang hồ đều gọi Hàn huynh là 'sơn viên hải hạc', tính tình quả là nổi bật hơn người. Cả Khu tổng quản trong Lạc Dương vương phủ cũng phải mềm mỏng trước mặt Hàn huynh. Thực là giao long há phải hạng sống trong ao đầm2, há có thể dùng danh lợi mà đóng cương xiềng xích. Người phàm tục như ta đâu thể so bì".
Hàn Ngạc cười điềm đạm: "Nếu ai cũng như ta, chuyện trên thế gian này cũng đâu còn ai lo liệu nữa. Đệ người quê mùa, đâu bì được với Cố huynh gánh trách nhiệm lo an nguy cho toàn thiên hạ".
Gã có vẻ ngưỡng mộ tác phong làm người của Cổ Siêu Trác. Cổ Siêu Trác nghe gã nói, vụt ngẩng nhìn bên ngoài lầu. Dưới lầu người qua kẻ lại đông như kiến, ai ai cũng chộn rộn bận bịu. Thiên hạ biết bao nhiêu người mà kể. Đường ít người đông, nếu không có ai vạch rõ những quy tắc cơ bản, e là đường xá nào cũng không chịu nổi. Hàn Ngạc thấy trên mặt Cổ Siêu Trác thoạt hiện vẻ hoài bão chí lớn, nhất thời không tránh khỏi ngấm ngầm tán thưởng. Gã không phải không tôn kính người trong hệ thống cai trị quản lý, gã chỉ chán ghét kẻ lấy danh nghĩa cai trị để trục lợi hiếp người, mưu cầu riêng tư. Cho nên hôm nay nghe Tiểu Kế truyền lời, nói Cổ Siêu Trác thiết yến trên Đổng gia Tửu lâu mời gã, gã cũng không thoái thác theo thói quen đối với người khác trước đây.
Một hồi sau Cổ Siêu Trác mới thu hồi mục quang, nở một nụ cười xấu hổ: "Hàn huynh châm chọc ta rồi. Bằng vào năng lực của ta, làm sao mà nói 'gánh trách nhiệm lo an nguy cho toàn thiên hạ' được chứ. Cây cối chắn cản không phải cuối cùng đều phải bị ép bức lọt vào dòng bùn nhơ sao? Cuối cùng chỉ e còn làm tăng thêm uy thế bùn nhơ nuốt chửng hết mọi thứ! Khà khà, khà khà, buồn cười, buồn cười".
Hàn Ngạc nhận ra chút trào phúng trong lời nói của hắn, còn có vẻ tự than phận. Nhưng cũng chưa quen thân, hai người chỉ bày tỏ xúc cảm một chút rồi thôi. Cổ Siêu Trác nói: "Hàn huynh thẳng thắn cự tuyệt như vậy, không sợ đắc tội với Lạc Dương vương sao?".
Hàn Ngạc mỉm cười đáp: "Nếu Lạc Dương vương cũng là người hẹp lượng như vậy...".
Gã nhấp một ngụm: "... Có đắc tội cũng đã đắc tội, chịu thôi".
Cổ Siêu Trác vụt liếc nhìn gã, cười lớn: "Hay cho câu 'Có đắc tội cũng đã đắc tội, chịu thôi'! Lâu lắm rồi không nghe ai nói như vậy, vì lời này của Hàn huynh, cũng đáng cạn một chén lớn".
Nói xong, hắn tự châm đầy chén rồi uống cạn. Hắn cười nói: "Lạc Dương vương đâu đến mức hẹp lượng như vậy. Ngay cả Khu huynh cũng không phải là người nhỏ nhen. Đệ nghe nói sau khi bị Hàn huynh từ chối, Khu tổng quản cũng không tức bực, có điều số vàng đó hắn hổ thẹn đâu thể mang về, còn để trong tửu gia Lưu Bạch Đọa đó. Người trong tửu gia cũng không dám động đến. Hai ngày nay phong thanh truyền ra, nghe nói không ít người trong Lạc Dương thành đã làm một chuyến ra bìa tây chỉ vì muốn xem số vàng đó một lần. Hàn huynh, ngươi không muốn người ta biết nhất cử nhất động, nào ngờ vô ý đã thành danh chấn Lạc Dương rồi".
Hàn Ngạc ngây người, không ngờ hai cái hòm vàng đó lại có kết cục như vậy. Ý niệm đảo chuyển trong đầu, hiểu được Khu Tấn rõ ràng muốn biểu lộ cho thiên hạ biết: cả Lạc Dương vương chiêu dụ cũng không xong, sau này dù có ai muốn chiêu dụ Hàn Ngạc, một khi không muốn đắc tội với Lạc Dương vương, phải đành dè dặt làm lơ. Hai cái hòm vàng đã ngăn chặn Hàn Ngạc tìm đường nào khác, chắc chắn đâu phải không đáng giá.
Hàn Ngạc mỉm cười, gã vốn không có ý định dựa dẫm kẻ mạnh, cho nên cũng không để ý lắm, chỉ thuận miệng cười nói: "Đó là bắt chước cố sự Yến Chiêu vương dùng vàng ròng mua bộ xương ngựa. Không ngờ tiểu tử ta tài giỏi quá, còn sống lại được người ta đắp cho một cái đài bằng vàng, cho làm xương ngựa".
Yến Chiêu vương xưa yêu quý ngựa, từng bỏ vàng ròng tìm mua danh mã khắp nơi, lại có ngươi dâng lên một bộ xương Thiên lý mã. Yến Chiêu vương nổi giận, định chém người làm chuyện đó, nhưng mưu sĩ kề cận khuyên can ông, chi bằng làm ngược lại, đem thưởng vàng, để bày tỏ lòng yêu quý ngựa của mình cho toàn thiên hạ biết, sau đó còn dựng đài vàng chôn bộ xương ngựa. Về sau quả nhiên kẻ sĩ trong thiên hạ tranh nhau hiến dâng danh mã --- Khổ ở chỗ ngựa đã chết "mới là" ngựa hạng nhất, sau này cho dù có hiến dâng bao nhiêu, bất cứ một ai cũng không dám khoa trương mình có một con ngựa Yến Chiêu vương chưa từng có, số vàng được thưởng e rằng không được nhiều như số tiền đã bỏ ra cho con ngựa đã chết. Hàn Ngạc vốn nhận định sự việc rất sáng suốt, không phải vì bị nhi nữ tình trường ràng rịt mà mất hết chủ kiến. Gã tự nhạo như vậy, lại không để mất phong độ, cho nên Cổ Siêu Trác nghe xong không khỏi cười lớn.
Lại nghe Cổ Siêu Trác cười nói: "Hóa ra thiết yến lần này là tống tiễn Hàn huynh. Tiểu đệ biết Hàn huynh tuy ngẫu nhiên đến Lạc Dương, lại muốn dong ruổi hồ hải ngay lập tức, cho nên đệ dùng rượu nhạt này để tiễn đưa".
Hàn Ngạc biết Ngự Sử Đài mà Cổ Siêu Trác vâng giữ chức vụ vốn là bè đảng của Tể tướng, dĩ nhiên có tình hữu nghị đồng đảng với Lạc Dương vương. Xem ra hắn cũng không muốn mình ở Lạc Dương lâu. Cái gọi là tống tiễn, sự thực là muốn đuổi xua. Hàn Ngạc về lại Lạc Dương vốn chỉ vì lo cho Phương Ninh, nhưng Phương Ninh kia có còn là Phương Ninh trong mắt gã ngày xưa không? Khứ dã chung tu khứ3, cuối cùng rồi cũng phải đi, đâu cần phiền nhân sự đến bức bách. Gã cười hờ hững: "Đa tạ, tiểu đệ chỉ có một chuyện nhỏ cần phải làm, làm xong thì chắc ngày mai sẽ đi".
Không ngờ gã lại nói như vậy, Cổ Siêu Trác mặt mày thoáng qua vẻ hối tiếc, khiến Hàn Ngạc thầm ngạc nhiên: lẽ nào hắn không phải thực muốn ép mình đi? Cổ Siêu Trác nhấp một ngụm, trầm mặc một hồi mới cười nói: "Đáng tiếc Hàn huynh đi vội quá, nếu không, có thể chứng kiến đại biến sắp tới trong Lạc Dương thành. Hàn huynh ở Lạc Dương bấy lâu, câu 'Thành nam Vi Đỗ, khứ thiên xích ngũ' chắc cũng có nghe qua chứ?".
"Sắp tới e rằng 'Thành Nam Tính' phải gặp chút chuyện. Chuyện này cũng không phải nhỏ, nếu Hàn huynh còn ở lại, chắc có thể xem nhiệt náo".
Hàn Ngạc cau mày, nhất thời cũng không rõ thâm ý trong lời nói của hắn.
Cổ Siêu Trác làm như vô tâm nói ra: "Con gái nhà họ Đỗ, thiếu phu nhân của Vi gia, hôm đó cũng nhờ cơ hội Hàn huynh phá án mà đệ mới có dịp gặp gỡ, quả nhiên nhan sắc tuyệt trần! Không lạ gì được tôn sùng là đệ nhất mỹ nhân trong Lạc Dương thành. Hơn nữa tình cờ còn biết tên của nàng --- Trong thành đại đa số đều biết nàng họ Đỗ, lại rất ít ai biết tên nàng là 'Phương Ninh'".
Hàn Ngạc vụt ngẩng đầu, tinh quang bùng phát trong mắt. Hai chữ "Phương Ninh" có thể nói là hai chữ hằn sâu nhất trong lòng gã, nhưng gã rất ít khi đề cập tới nó trước mặt người khác, cho nên trước đây lúc Vu Tiệp nhắc đến, gã cảm thấy bẽn lẽn không yên dạ. Huống hồ nay Cổ Siêu Trác nhắc tới hai chữ đó, rõ ràng còn có thâm ý. Thái độ của gã đương nhiên khác hẳn với Vu Tiệp, lạnh giọng: "Ồ?".
Nhãn quang của Cổ Siêu Trác chạm vào ánh mắt gã, mắt ai cũng toé lửa, như đang đục đẽo thấu tới tâm tư của đối phương. Cổ Siêu Trác ngụp lặn đã lâu trong chốn quan trường, mềm dẻo uốn nắn hơn xa Hàn Ngạc. Mặt mày hắn tươi cười: "Hàn huynh, cạn chén cạn chén. Chính là: Mạc sầu tiền lộ vô tri kỷ, thiên hạ thùy nhân bất thức quân4. Hàn huynh đi xa, tiểu đệ hôm nay phải dùng lời này để cầu chúc".
Thiên hạ còn ai chẳng biết huynh? Câu nói này rõ ràng ẩn hàm thâm ý --- Không sai, trong đương kim thiên hạ, phàm là kẻ tinh thông võ nghệ, ít có ai không biết danh tánh "Sách nữ" Phương Ninh gắn liền với Hàn Ngạc. Cổ Siêu Trác hôm nay bày tiệc rượu thực ra có ý gì? Lạc Dương vương không phải rất là không muốn gã xen tay vào chuyện sắp xảy ra trong Lạc Dương thành sao? Tại sao còn sai phái người đến thông báo dòng họ của Phương Ninh sắp có nạn? Lẽ nào "nạn" đó không liên can gì tới Lạc Dương vương?
Nhất thời Hàn Ngạc cũng không hiểu nổi thâm ý của tiệc rượu này thực ra là Cổ Siêu Trác ép hay khích? Lưu hay tiễn?
o0o
Giây phút trước khi ánh rạng đông tỏ mình, bóng đêm lại sâu dày hơn bao giờ hết. Hàn Ngạc một mình đi qua đi lại bên ngoài khu viện của Vi phủ. Gã lần khần trù trừ bên ngoài tường cũng đã trọn một đêm rồi.
Ở cũng không ở được, đi lại làm sao đi? Gã mấy lượt muốn nhảy vào trong, dùng tuyệt nghệ lừng danh "Đạp Ca Bộ pháp" để vọt vào một cách không hơi không tiếng, đâu có khó gì không làm động đậy tới một cọng cỏ ngọn cây. Nhưng tựa hồ có một bức tường vô hình cản trở không cho gã vào.
Đêm dài thườn thượt, nhưng đối với Hàn Ngạc mà nói, có thể cho là dài được sao? Đêm cuối cùng trước khi lên đường, là thương tâm, nỗi thương cảm chỉ còn một đêm này nữa thôi, gần trong gang tấc, ép sát tâm can phế phủ, đêm như vậy còn cho là dài được sao? Sau này thương tâm có xót xa khổ ải đến đâu, cũng đã xa tận chân trời góc biển. Hàn Ngạc thậm chí mong sao đêm nay có thể trải dài vô hạn, cho tâm tình này, cho mê loạn khổ đau này vẫn được gần trong gang tấc, gần đến mức chỉ cần vòng tay là liền có thể ôm siết vào lòng, thương hoài vĩnh viễn. Gã sợ nghĩ tới ngày sau, vì cái gã sợ nhất không phải là đau thương, mà là sợ bao tiếng cười giọng nói ấm dịu đều sẽ đi xa, cát bụi thời gian từ từ tích lũy che phủ con tim, đến cuối cùng, còn lại chỉ là mờ mịt, không còn yêu thương.
Làm gì phải sợ đau thương? Cái gã sợ là tê dại gỗ đá. Thế giới này, yêu và hận đâu có bao giờ hình thành mặt trái của nhau. Mặt trái của chúng luôn là --- tê dại.
Ngôi lầu cao trong vườn sau, đèn đuốc trên đỉnh lầu tắt rất trễ, đến canh tư mới tắt. Phương Ninh, nàng sao lại không ngủ đến mãi canh tư? Gã tưởng tượng ngày tháng của Phương Ninh, bao nhiêu tiểu đồng bộc phó, thân quyến bạn bè, ác tranh hiểm đấu, khuynh loát giành giật, đều bắt một thân con gái của nàng đứng ra gánh chịu. Ngoại có cha anh, nội có già trẻ nhà chồng, còn có... tộc nhân, thị nữ, và... chồng nàng. Người trông cậy vào nàng thực quá nhiều. Nếu nàng ngã, có ai có thể tiếp nhận điều khiển sắp đặt gia đình? Nghĩ tới đó, lòng Hàn Ngạc không còn oán trách nữa. Nhưng tâm trạng có oán cũng không thể oán đó e còn khổ não hơn là còn có gì đó để oán. Không oán nữa, chỉ còn có tuyệt vọng, mở mắt nhìn đâu đâu cũng là tận cùng tuyệt vọng.
Nàng không đến --- Nhưng ngươi muốn nàng đến làm sao đây? Làm sao cùng ngươi giục cương ra đi, bỏ rơi già trẻ lớn bé không lo gì đến, sóng vai sánh bước giang hồ? Trên thế gian này, đâu phải ai cũng hữu duyên như ngươi, cô độc một mình, vung vẩy Trường Canh muốn đi đâu thì đi!
Hàn Ngạc chợt nghiến răng, gã không thể chờ đợi nữa. Gã là nam nhân, có đau, cũng chỉ đau một lần này thôi! Sau này có đau, cứ ca hát rượu chè phóng túng, rải lệ hoang đàng. Trù trừ không quyết tâm như vầy, chỉ có thể ngẫu nhiên một lần thôi. Gã không thể cho phép mình giằng dai lẩn quẩn đến mềm yếu.
Gã khẽ nhún mình, thi triển "Đạp Ca Bộ" vọt mình lên đến đầu tường, sau đó lộn một vòng mũi chân chấm nhẹ trên mặt đất lướt vào vườn sau của Vi phủ. Cước bộ không chút do dự, phóng về phía ngôi lầu cao. Đến dưới chân lầu, thân hình dang xoãi bay lên từng tầng một. Đến tầng cao nhất, ngoài song cửa, gã mới khựng lại,liền nhét một tà áo đã xé sẵn qua khe cửa sổ. Trên tà áo có viết vài chữ:
Sắp có phong ba, mọi việc phải thận trọng.
1 Bài "Hà Hoàng" của Đỗ Mục có câu: "Toàn kiến y quan tựu Đông thị". Câu này muốn nói tới chuyện Nguyên Tái bị hạ ngục, Đường Đại tông hạ chiếu bắt tự sát vào năm thứ mười hai Đại Lịch. Nguyên Tái tự là Công Phụ, làm Tể tướng thời Đường Đại tông, từng nhậm chức Tây châu Thứ sử. Năm thứ tám Đại Lịch (773) từng dâng thư lên Đại tông đề xuất kiến nghị về sự vụ biên phòng vùng tây bắc, lại không được trọng dụng, sau này bị vua xử tử. "Đông thị" (chợ Đông) ý chỉ đất triều đình xử quyết tội phạm. Sách "Hán thư - Triều Thác truyện" viết: Triều Thác thời Hán Cảnh đế nhậm chức Ngự sử đại phu, nhiều lần dâng kiến nghị cắt đất của các nước chư hầu, nhưng Cảnh đếnghe lời sàm tấu, hấp tấp hạ lệnh hành hình "mặc quần áo chầu, chém ở Đông thị". Thi nhân muốn nói chủ trương và tao ngộ của Nguyên Tái khá tương tự với Triều Thác. "Hà Hoàng" nay là lưu vực Hoàng Thủy và Hoàng Hà trong tỉnh Cam Túc và Thanh Hải, thời Đường là dải đất biên giới nhà Đường và Thổ Phồn. Hoàng Thủy là dòng thượng du Hoàng Hà, bắt nguồn từ đông bộ Thanh Hải, chảy qua Tây Ninh, đến phía tây Cam Túc Lan châu nhập vào Hoàng Hà. "Đường thư - Thổ Phồn truyện" có viết: "Vùng đất Tây Nhung này gọi là Hà Hoàng".
2 Xuất xứ từ điển tích trong sách "Tam Quốc Chí - Ngô Chí - Chu Du truyện": "Du dâng thư: 'Lưu Bị bẩm sinh kiêu hùng, lại có tướng cọp tướng gấu như Quan Vũ, Trương Phi, không phải là kẻ chịu khuất mình để người ta dùng dài lâu... Sợ đến lúc giao long gặp được mây mưa sẽ hết còn chịu làm thứ trong ao đầm nữa'".
3 Trong bài từ theo thể "Bốc Toán Tử" của Nghiêm Nhị thời Tống có câu: "Khứ dã chung tu khứ, trụ dã như hà trụ!" (Đi rồi cũng phải đi, giữ làm sao mà giữ!). Đây là một bài từ phản kháng áp bức, khát vọng tự do. Nghiêm Nhị là danh kỹ ở Đài châu. Chiết Đông Thường Bình sứ Chu Hi vì có hục hặc với Đài châu Tri phủ Đường Trọng Hữu (học phái Vĩnh Khang của Đường Trọng Hữu phản đối Lý học của Chu Hi), cho nên Chu Hi dâng sớ hạch tội Đường Trọng Hữu, trong đó có ghép họ Đường cùng Nghiêm Nhị làm hại phong hóa. Sau khi Chu Hi đổi đi nơi khác, Nhạc Lâm kế vị phóng thích nàng. Nàng mới viết bài này. 4 "Biệt Đổng Đại nhị thủ - kỳ nhất" của Cao Thích thời Đường có hai câu: "Mạc sầu tiền lộ vô tri kỷ, thiên hạ thùy nhân bất thức quân!" (Chớ buồn đường vắng không tri kỷ, thiên hạ còn ai chẳng biết huynh!). Đổng Đại là cầm khách Đổng Đình Lan trứ danh thời Đường Huyền Tông, vì xếp hàng đầu trong đám huynh đệ cho nên gọi là "Đổng Đại". Đây là một bài thơ tống biệt, đối tượng tống biệt là cầm sư Đổng Đình Lan. Hai câu này là lời an ủi bằng hữu: chuyến đi này bạn đâu phải lo không gặp được tri kỷ, thế gian này có ai mà không biết Đổng Đình Lan bạn chứ!
Xong chuy ện, thân người gã lại bay lên, muốn nhảy xuống dưới. Gió táp vào mặt, tim gã chợt thót: tuy biết rõ Phương Ninh đang khổ nạn trùng trùng, mình cũng chỉ có thể nhắc nhở một câu chẳng nhạt nhẽo mà cũng không mặn mà gì. Nhưng câu đó nếu không nói, gã khó thể an tâm rời khỏi Lạc Dương thành. Tuy biết rõ Phương Ninh không thể nào không biết hiểm cảnh nàng phải đối diện, gã vẫn không nhịn được phải dặn dò nhắc nhở một lần. Phong ba bất tín lăng chi nhược5 --- Đường đời hiểm trở phong ba như vậy, còn có ai khác ngoài gã biết nội tâm yếu đuối tàng ẩn bên dưới bề ngoài trấn định của Phương Ninh? Gã không do dự nữa, thân hình vọt lên, lao xuống dưới lầu. Đúng lúc đó, gã tựa hồ nghe bên trong truyền vọng một tiếng thở dài khe khẽ. Tiếng thở dài nhẹ làm sao, vẩn vơ như hơi thở thơm tho phớt bên tai Hàn Ngạc. Đầu gã như bị đập một chùy, thậm chí không khống chế được thân hình giữa không trung, nghe tiếng gió vùn vụt lướt qua, nội lực cũng chẳng điều khiển được, để cho mình rơi từ trên lầu cao xuống.
Gi ữa cơn mê loạn, hạ mình không tính toán, gã rơi ngay trên một tảng đá, bàn chân và mắt cá chân đau điếng. Nhưng cơn đau lại giúp cho gã tỉnh dậy. Gã mau chóng lộn mình chạy ra khỏi khu nhà họ Vi. Một đời Hàn Ngạc chưa từng có tâm tình trốn chạy như vậy, mà kẻ truy kích Hàn Ngạc chỉ bất quá là một tiếng thở dài nhè nhẹ.
Ti ếng thở dài đó thực ra hữu ý? Hay là vô tình?
o0o
Vu Tiểu Kế nhìn Hàn Ngạc mặt mày tái nhợt, do dự hỏi: "Hàn đại ca, bọn ta hôm nay đi thực sao? Bọn ta đi đâu?".
"Trường An".
Hàn Ngạc thuận miệng đáp, tiếp đó bỗng nghĩ: "Thực sự về Trường An? Lạc Dương cho dù không phải chỗ gã có thể ở lại, Trường An lại thực sự là nơi có thể về sao? Nói thực ra, cái gã sợ nhất hiện giờ là nhìn thấy Lạc Du nguyên mà gã đã từng quyến luyến ngày đêm. Thấy thần tình của gã, Vu Tiểu Kế hiểu phải ngậm miệng. Một hồi lâu sau Hàn Ngạc mới định thần lại: "Chuyện tỷ tỷ ngươi phó thác, ngươi yên tâm, ta sẽ không quên, sẽ không để nàng ta sống không an dạ dưới tuyền đài. Mối thù gia môn của các người xem chừng quan hệ trọng đại. Ta phải giữ bình tĩnh một khoảng thời gian cái đã, sau đó mới điều tra cho kỹ án mạng năm xưa trong ngõ Luân Hồi". Thanh âm lẫn mặt mày gã đều tê tái, gã cảm kích Vu Tiệp còn để lại một chuyện phiền toái để gã làm. Gã đâu có sợ uẩn khúc nội tình của chuyện này, đâu có sợ bên trong thậm chí có dính líu tới Đại nội cao thủ "Tử Thần". Nó lại khiến cho gã cảm thấy có chuyện để làm.
Trời bên ngoài đã qua giờ Thìn. Mặt trời đã lên cao. Hàn Ngạc kéo tay Vu Tiểu Kế, nói: "Đi đi, ngươi còn muốn từ biệt ai nữa không?".
Vu Tiểu Kế từ nhỏ sinh trưởng ở Lạc Dương, lúc này cũng có chút thương tâm. Nó thấp giọng: "Không. Tỷ tỷ cũng không còn nữa. Ông cậu bà con e đã cầu mong tôi đi mất từ lâu. Đám tiểu huynh đệ kia cũng không quen thân gì, Khúc Tiểu Nhi đã chết, tôi không còn ai để từ biệt".
Hàn Ngạc thấy nó thương tâm, không khỏi mỉm cười xoa xoa đầu nó, bỏ qua tâm sự của mình. Gã ra cửa trả tiền, dắt ngựa cùng Vu Tiểu Kế đi ra đường.
Bọn họ đi về hướng tây, vốn muốn đi ra "Hậu Tái môn" cửa tây Lạc Dương thành về Trường An. Vừa đến chợ Đông --- Lạc Dương thành xây như Trường An, trong thành có dựng chợ Đông và chợ Tây để giao dịch --- lại thấy chợ đông nghẹt, tụ tập không biết bao nhiêu người mà kể. Càng đến gần chợ Đông, đường xá càng chen kín, dường như chờ xem gì đó. Hàn Ngạc và Vu Tiểu Kế bị cuốn vào giữa đám đông, di động chậm đến mức không khác gì bất động tại chỗ.
Bọn họ chỉ đành dừng ngựa đứng yên, Vu Tiểu Kế dòm đông ngó tây, nó bé người, không nhìn thấy gì hết. Hàn Ngạc muốn phá nỗi sầu lìa bỏ quê nhà của nó, nhấc nó lên đặt trên vai. Vu Tiểu Kế tuy nhỏ, lại cũng đã gần mười bốn rồi, đâu phải nhẹ hổng để vác trên vai. Hàn Ngạc cũng thực mạnh mẽ, tả thủ chỉ nhấc nhẹ là đã kéo người nó lên. Vu Tiểu Kế ngượng nghịu, hơi vùng vẫy, nói: "Hàn đại ca...". Hàn Ngạc vỗ vỗ đùi nó, cười nói: "Ngươi xem xem, ngươi xem xem".
Vu Tiểu Kế tấm bé đã gặp ly tán, xưa nay chưa từng có ai chiếu cố nó như một người cha người anh, tuy mắc cỡ, lại cảm thấy vui mừng. Gương mặt bé nhỏ dõi trông bốn phía, tựa như ngồi trên cao ánh mặt trời cũng sáng ngời hơn, mặt mày nó tươi cười rạng rỡ. Hai người bọn gã thực không biết mọi người đang xem cái gì, lại nghe người bên cạnh nói: "Đến rồi, đến rồi!".
Vu Tiểu Kế nghểnh cổ nhìn. Hàn Ngạc thân thể cao ráo, mắt lại lanh lẹ, tuy người xem che chắn như tường vách, cũng không che được mục quang của gã. Thấy phương hướng Hoàng thành có một đội tù xa đi đến. Người trong chiếc xe tù đi đầu mũ áo chỉnh tề, rõ ràng từng là một quan viên có phẩm hàm, chắc địa vị không phải thấp. Đằng sau còn có một dãy tù xa dài thượt, nhốt bên trong không chỉ có nam nhân, còn có đàn bà con trẻ, cũng có người già đầu tóc bạc phơ. Ai nấy cũng mặt mày tái mét, hoàn toàn không còn một giọt máu. Người bên cạnh nói: "Mau ghê! Lư Thị lang mới bắt có mấy ngày, lại không chờ tới sau thu, đem đi xử trảm toàn gia liền".
"Xử trảm toàn gia"? Hàn Ngạc nghe nói, lòng không khỏi thất kinh. Gã không biết Lư Thị lang kia đã phạm tội gì, nhưng cho dù tội nghiệt động trời, sao lại đến mức xử trảm toàn gia? Đám trẻ nít kia có tội gì? Xử trảm lần này, sợ là phải chém tới hơn ba chục mạng! Nghe có người kề bên than: "Hai năm nay ông ta vẫn ngon lành lắm mà. Được 'Thành Nam Tính' che chở, người nào người nấy chỉ biết vinh hoa phú quý ngàn vạn năm. Ai mà ngờ bây giờ lại rơi vào kết cục như vầy. Ài, xem ra 'Thành Nam Tính' gần đây quả nhiên đã thất thế, bọn họ e đã để cán lọt vào tay Lạc Dương vương, nếu không, sao cả môn hạ cũng bảo vệ không được chứ? Lư Thị lang là người đầu tiên, tiếp đến không biết là ai nữa".
Hàn Ngạc biến sắc mặt --- Phương Ninh... Phương Ninh... lẽ nào cục thế nàng hứng chịu thực hiểm ác đến như vậy?
Hình trường bên kia đã chuẩn bị từ lâu. Phạm nhân từng người một bị lôi xuống xe, Giám trảm quan cũng không cho nói tiếng nào, quát một tiếng "Chém!". Thủ hạ của y truyền lệnh "chém" ra, bốn bề ai nấy cũng mặt mày sợ sệt ngóng cổ nhìn. Dưới ánh mặt trời ban sáng, từng thanh cương đao giơ lên, kẻ bàng quan mặt đờ đẫn, thấp thoáng có nét hưng phấn. Vu Tiểu Kế trên vai Hàn Ngạc kêu lên một tiếng, bất nhẫn không dám nhìn nữa, đưa tay che mắt. Ánh mắt của Hàn Ngạc lướt qua những bộ mặt vàng như nghệ của những kẻ bàng quan, trân trân không chớp mắt chờ giây phút màn máu tươi bay bắn, không cho phép mình tránh né. Mạng lưới pháp quy lồng lộng --- Đây là cái bọn họ gọi là mạng lưới pháp quy lồng lộng đó sao?
Quyển I: Ban Chuy đợi Chương 16
Hốt di cung kiếm bất tây tuần1
5 "Vô Đề - kỳ lục" của Lý Thương Ẩn có câu: "Phong ba bất tín lăng chi nhược" (Bão tố chẳng màng cành ấu yếu). Cô gái ví phận mình yếu đuối như cành ấu, lại phải chịu bị thế lực tàn ác vùi dập như phong ba xô lấn. "Bất tín" (không tin) là biết rõ cành ấu thể chất yếu nhược mà vẫn hung tàn quật gãy.
Huy ết quang nhoáng hiện, đám đông nhất thời ùa lên, cũng không biết bọn họ tranh nhau xem cái gì. Hàn Ngạc đứng gần tuốt đằng sau, chỗ đứng thưa thớt hẳn. Gã trầm giọng: "Còn muốn xem nữa không?".
Vu Ti ểu Kế lắc đầu nguầy nguậy: "Không xem". Hàn Ngạc cũng không đỡ nó xuống, một tay dắt ngựa, thân hình lấn ra ngoài, lần theo vệ đường đi về phía "Hậu Tái môn". Người tuy vẫn còn đông, nhưng đã có khe hở, không chặn nỗi gã ngấm ngầm vận lực gạt nhẹ, vẹt được làn sóng người tránh đường, thồ Vu Tiểu Kế dắt ngựa thoát ra khỏi dòng người cuồn cuộn, lại nhắm hướng tây thẳng tiến.
Đ i đến cửa thành, Hàn Ngạc nhìn ba chữ "Hậu Tái môn", thầm cười mỉa: văn chương cửa quan chi cho lắm! Nói "Quân tử dĩ hậu đức tái vật"2 gì chứ? Đám quân tử kia vốn dùng chém giết để "tái vật", để nâng đỡ vạn vật, để gánh vác trọng nhiệm đó mà! Gã tâm tình đang chán ngán, Vu Tiểu Kế bụng dạ cũng không dễ chịu gì. Ra khỏi cửa thành, Hàn Ngạc cùng Vu Tiểu Kế lên ngựa, chậm rãi đi về hướng tây.
M ột hồi lâu sau, Vu Tiểu Kế mới định thần khỏi trận mưa máu vừa rồi, khẽ than: "Trong Lạc Dương thành cũng lâu rồi không có vụ tịch thu tài sản xử trảm toàn gia như vậy. Đám đông kia cuối cùng lại có cái để dòm ngó để râm ran".
Nó tuy là m ột đứa bé, chứng kiến đại sự như vậy, miệng cũng có ý vị buồn tủi đường đời.
Hàn Ngạc im lặng, một hồi lâu sau mới hỏi: "Tiểu Kế, ngươi muốn học kiếm không?".
Vu Tiểu Kế vụt phấn chấn tinh thần, vui mừng đáp: "Muốn học! Hàn đại ca, huynh dạy tôi hả? Nếu huynh dạy thì tôi học. Tôi muốn học 'Thạch hỏa quang trung ký thử thân'".
Hàn Ngạc cười khổ: giây phút sao xẹt chớp nhoáng, thân này ký gửi được gì? Gã xoa trán Tiểu Kế nhè nhẹ: "Ngươi học kiếm là muốn học để tịch thu tài sản xử trảm toàn gia người khác? Hay là giống như Hàn đại ca ngươi, chỉ có thể tụ thủ đứng nhìn?". Lời nó của gã tràn ngập hơi hướm tự nhạo, Tiểu Kế tuổi còn nhỏ, không nhận ra được. Nó vui vẻ nói: "Tôi muốn học được kiếm thuật như Hàn đại ca, gặp phải chuyện như vầy, tôi muốn điều tra tử tế, xem thực ra là oan hay không oan. Nếu không oan, tôi muốn trông cậy vào kiếm để cứu trợ".
Trong mắt tuôn trào ánh sáng cuồng nhiệt chỉ tồn tại ở tuổi thiếu niên, tựa như nó đang tưởng tượng đến hình ảnh nó trượng kiếm giang hồ, lo liệu hết mọi chuyện bất bình bất hạnh của thiên hạ. "Cho dù không oan, trước tiên tôi vẫn muốn cứu mấy đứa bé. Ai phạm tội thì người đó gánh tội, bất kể ra sao, người lớn làm sai, bé con đâu có gì sai? Tôi không để bọn họ giết những đứa bé".
Bàn tay cầm cương của Hàn Ngạc chợt siết chặt, móng tay bấm sâu vào lòng bàn tay. Phải, mấy đứa trẻ kia có lầm lỗi gì chứ? Gã biết Tiểu Kế đâu phải muốn châm chích mình, kẻ lầm lỗi không phải là Tiểu Kế, mà là mình, là mình thiếu dũng khí trượng kiếm cứu người. Đường đời này, kẻ chỉ lo cho một mình mình như mình có đúng hay không? Nhưng... cứu thì làm sao cứu? Thị phi trên thế gian vốn đâu phải có thể quyết đoán một cách giản đơn như vậy. Trẻ nít có lầm lỗi gì? --- Gã cũng đã từng thấy không ít trẻ nhỏ con nhà quyền quý ỷ thế hà hiếp người ta. Lúc chúng nó khinh khi lấn át, mặt mày rờ rỡ vẻ khoái trá tàn nhẫn, đâu thua kém gì người lớn. Gã nhớ tới thời thơ ấu của gã, lòng thoáng xót xa. Gã không đủ sức mổ xẻ mọi đúng sai trên thế gian, gã chỉ muốn bỏ đi.
Ngựa lại đi được thêm một đoạn đường, Vu Tiểu Kế vẫn hứng chí không thôi, nó nói: "Hàn đại ca, huynh cho tôi đụng vào kiếm của huynh lần nữa được không? Tôi lại muốn xem cái chuôi kiếm, muốn cầm nó. Phải bao lâu nữa tôi mới có 'Trường Canh' của riêng tôi đây?".
Hàn Ngạc mỉm cười gật đầu, Tiểu Kế thòng tay xuống bên hông yên ngựa chỗ Hàn Ngạc hay treo kiếm. Vừa mò tới, mặt mày nó biến sắc --- Tay nó chạm vào chỗ trống không. Nó hoang mang hỏi: "Ngạc ca, kiếm của huynh đâu?".
Hàn Ngạc vụt cúi đầu, kiếm quả nhiên không có giắt bên hông yên. Từ khi nắm giữ Trường Canh đến nay, gã chưa từng để nó phân ly. Kiếm của gã đâu?".
Tim gã bỗng đau xót: Hàn Ngạc ơi Hàn Ngạc, lẽ nào ngươi lại mê muội yếu đuối đến thế? Cả kiếm cũng quăng mất?
Gã vỗ đầu, tới giờ mới nhớ thanh kiếm còn để trong Lạc Dương thành.
Hàn Ngạc kéo dây cương, ngựa dừng chân --- Không trách con ngựa hôm nay có vẻ khác lạ, nó cũng cảm thấy thanh kiếm đáng lẽ phải treo bên hông nó không còn đó. Hàn Ngạc ơi Hàn Ngạc, thì ra lòng ngươi rõ ràng nói muốn đi, nhưng... kiếm của ngươi lại đâu muốn đi...
o0o
Trường Canh trong bọc vải lam còn đặt thẳng thớm trên án bên song cửa trong lữ xá. Điếm tiểu nhị cười nói: "Đại gia quả nhiên lại về đến. Lúc tôi thu dọn phòng, biết ngài sẽ về mà. Ngài để quên đồ, may là quán bọn tôi làm ăn trung thực có tiếng cả trăm năm rồi. Khách nhân, bọc vải của ngài tôi không động đến một chút xíu nào".
Hàn Ngạc thở phào, trân trọng cầm thanh kiếm như đã lâu rồi mới được gặp lại, móc chút bạc vụn thưởng điếm tiểu nhị, hắn tươi cười cảm tạ rồi lui ra. Tiểu Kế lại nói: "Ngạc ca, trên bàn có một tờ giấy kìa".
Hàn Ngạc ngẩn người, cầm tờ giấy mở ra xem, thần sắc lại thêm bàng hoàng. Trên tờ giấy không có chữ, lại có vẽ hình. Hình vẽ lại là một cây cung không có mũi tên đang căng dây, tựa hồ đang đợi bắn ra. Mục tiêu lại không phải là người, trong hình cũng không có người, mà mục tiêu lại là một dải dây.
Đó là một dải dây xanh uyển chuyển xoáy vòng trên bìa giấy. Cung vẽ mực đen đậm nét, hình dáng thần thái sung túc. Dải dây màu xanh uốn vòng ngoằn ngoèo, như chuyển động ngay trên giấy. Tiểu Kế cả kinh: "Đây là nét bút của Dư cô cô".
Dư cô cô sao lại chia màu ra như vậy? Cô ta không phải người mù sao? Tại sao cô ta còn vẽ được? Ý niệm đó chỉ thoáng qua đầu Hàn Ngạc, lập tức bị tâm tư khác thay thế. Vu Tiểu Kế ngước lên liếc nhìn Hàn Ngạc, thấp giọng: "Dải dây này không biết có phải đại biểu cho... Đỗ Phương Ninh?".
Ý lời của nó ngập ngừng, cổ họng còn nhỏ chưa đổi giọng thấp thoáng tiếng thở dài khe khẽ. Nó cũng biết việc Hàn Ngạc không ngờ lại quên luôn cả kiếm có hàm nghĩa gì. Nó không biết lần quay lại này Hàn Ngạc sẽ bị cầm chân bao lâu. Thực ra là một đứa trẻ, nó không phải như tỷ tỷ của nó từng trải mối thù toàn tộc. Báo thù hay không báo thù đối với nó mà nói, đâu phải là việc quan trọng hàng đầu. Nó chỉ muốn cùng Hàn Ngạc rời xa Lạc Dương, bế môn học kiếm, chỉ cần được ở bên cạnh Hàn đại ca --- không, Ngạc ca, nó đã đổi cách xưng hô với Hàn Ngạc thành Ngạc ca --- nó cảm thấy tự tin và vui sướng lắm.
Nhưng lúc chứng kiến Lư Thị lang bị tịch thu tài sản xử trảm toàn gia, nó thấy Hàn Ngạc biến sắc mặt, nó cũng biết trong lòng gã lúc đó đang nghĩ gì. Người đó nghe nói là môn hạ của Thành Nam Tính, bây giờ Dư cô cô lại để lại một bức tranh... Nó nghi hoặc ngước nhìn Hàn Ngạc. Ngạc ca --- huynh có thực sự đi khỏi được Lạc Dương thành mà huynh ngẫu nhiên tìm tới rồi lại lún sâu đến như vầy không? Cho dù đi khỏi Lạc Dương tường thành bao bọc này, có đi ra khỏi Lạc Dương trong lòng huynh không?
Nó chỉ muốn gã thư giãn tâm thần một chút, thấp giọng: "Ngạc ca, Dư cô cô nhất định có ghé qua. Cô ta thấy huynh bỏ quên kiếm, nhất định cho là huynh sẽ về lại. Cho nên cô ta mới để lá thư cảnh báo. Cô ta cũng không muốn huynh sau này hối hận trọn đời, vì vậy đem tin tức điều tra được báo cho huynh biết. Có điều cây cung đó không biết đại biểu cái gì?".
Hàn Ngạc ngẩng lên, đanh giọng: "Tử Thần Nhất Tinh".
--- Dư cô cô đã từng nói cả Tử Thần cũng bị lôi cuốn vào vòng ân oán này. Bọn chúng nhất định nhắm vào Phương Ninh xuất thủ. Vật Vu Tự Vọng để lại mà Lợi đại phu ban đầu đoạt được vốn là vật bọn chúng muốn lấy, mà bọn chúng lại nhất quyết không muốn để vật đó lọt vào tay "Thành Nam Tính", mới dẫn tới "Tử Thần Nhất Tinh" bức bách Phương Ninh.
Nghĩ đến đó, Hàn Ngạc cũng minh bạch giọng điệu của Cổ Siêu Trác hôm rồi sao khó lường đến thế. Hắn không phải muốn đuổi mình đi, thực ra là lưu mình lại. Hắn biết Vi thiếu phu nhân là ai, đương nhiên cũng biết quan hệ giữa mình với nàng. Mà Phương Ninh tuy đoạt được vật đó từ tay bọn họ, bọn họ lại càng không muốn vật đó lọt vào tay "Tử Thần". Người của Lạc Dương vương tất không tiện xuất thủ đối phó Tử Thần, cho nên mới ám thị cho mình biết Phương Ninh có nạn. Gã đã nghĩ thấu, bề ngoài lại hoàn toàn không vui vẻ gì. Vu Tiểu Kế kinh hãi nói: "Tử Thần Nhất Tinh, là Tử Thần Nhất Tinh hôm đó ngoài quán rượu báo danh 'Nhất tinh như nguyện khán đa thì'?".
Hôm đó uy thế một tiễn ngoài hàng rượu của "Tử Thần Nhất Tinh" Cung Diệc Tinh quả đã để lại ấn tượng khó quên trong đầu nó. Lần đầu tiên nó thấy Hàn đại ca mà nó ngưỡng mộ như thiên thần cũng phải bị thương, mà kẻ gây thương thế chính là kẻ đó. Nó còn nhớ thần tình bình tĩnh và ánh mắt bừng cháy bên dưới vẻ bình tĩnh tối hôm đó lúc cùng Hàn Ngạc thoa thuốc băng bó vết thương. Đó là nhân vật Hàn đại ca rất chú ý đến. Là hắn đang truy bức Đỗ Phương Ninh?
Hàn Ngạc thốt: "Không chỉ có Cung Diệc Tinh đến".
Gã ngẩng đầu: "Còn có người khác đến".
Vu Tiểu Kế kinh hãi --- Là người nào nữa? Người nào mà đáng để Hàn đại ca đặc biệt nhắc tới như vậy? Hàn Ngạc đưa đồ hình cho nó, chỉ lên một điểm. Vu Tiểu Kế nhìn theo đầu ngón tay gã, thấy chỗ trống bên cây cung có một chữ nhỏ.
Chữ đó là: "Tam".
Sao lại gọi là "Tam"? "Tam" có ý gì? Dư cô cô sao còn ra vẻ đố tìm như vậy? Hàn Ngạc bình tĩnh hẳn: "Kẻ cô ta chỉ ra không ai khác ngoài Tử Thần lão tam. Người đó danh hiệu là 'Tam bôi thông đại đạo'3, bình thường không động tới một giọt rượu, một khi uống tửu lượng lại không ai bì kịp, khéo phân tích thiên thời, giỏi mưu toan địa lợi, rành tìm bắt nhân hòa, là 'Tam công tử' Lữ Tam Tài!".
Vu Tiểu Kế ngước lên, lòng vụt bốc dâng một niềm phấn chấn. Những người đó là những nhân vật trong truyền thuyết, luôn luôn chỉ nghe danh tiếng, lại cứ như thần long kiến thủ bất kiến vĩ. Tiểu Kế cũng có thể coi là có quan hệ với người trong võ lâm từ tấm bé. Vậy là bọn họ sắp đến rồi? Trong Lạc Dương thành sắp vần vũ một trường phong vân phải không?
Quyển I: Ban Chuy đợi
Chương 17
Lâu trung uy phượng khuynh quan thính1
1 "Hốt di cung kiếm bất tây tuần" (Chợt bỏ lại cung kiếm không tuần phòng phía tây nữa) là câu tiếp sau câu "Toàn kiến y quan tựu Đông thị" {xem chú thích (1) chương 15) trong bài "Hà Hoàng" của Đỗ Mục. "Cung kiếm tây tuần" ý nói đế quốc dùng võ công trấn định biên phòng. "Bất tây tuần" nghĩa là không đoái nghĩ lo lắng đến chuyện biên phòng. Sách "Thủy Kinh Chú - Hà Thủy" có viết: "Trên Kiều sơn ở huyện Dương Chu có mộ Hoàng đế. Vua băng hà, chỉ còn để lại cung kiếm". Sách "Đường Hội Yếu" viết: Hiến tông băng hà tháng 1 năm Nguyên Hòa thứ mười lăm, bốn mươi ba tuổi. Câu thơ này nhắc việc lúc Hiến tông Lý Thuần xem địa đồ, từng cảm thán khu vực Hà Hoàng bị thất hãm, có ý tưởng muốn khôi phục lại vùng đất đã mất, nhưng chưa kịp tây chinh lại đã qua đời.
2 "Dịch Kinh" có quẻ Khôn, "Đại Tượng" rằng: "Địa thế khôn, quân tử dĩ hậu đức tái vật" (Khí thế của mặt đất dày chắc hòa thuận, người quân tử nên xây đắp đức hạnh, đủ để nâng đỡ vạn vật). Ý chỉ người đạo đức cao thượng có thể gánh vác nhiệm vụ trọng đại.
3Đây là câu trong bài "Nguyệt hạ độc chước - kỳ nhị" của Lý Bạch. "Tam bôi" là uống ba chén rượu. "Đại đạo" là đường xá rộng rãi. Ý nói uống ba chén rượu vào bụng, có thể đạt tới cảnh giới khoáng đạt lý tưởng. Ẩn ý văn nhân không đắc ý với thời thế, mượn rượu để an ủi mình, chìm trong cơn say, cũng đồng nghĩa với câu "nhất túy giải thiên sầu".
M ột mảnh sa trắng buông rũ, vừa khéo che đến mũi của nữ tử. Nơi đây là Đổng gia Tửu lâu, nàng ngồi bên song cửa tầng ba, ngoài song là Lạc Hà lấp lánh phản chiếu ánh mặt trời. Vì còn sớm, trong Đổng gia Tửu lâu không có ai, cô gái ngồi có một mình. Nàng không dùng chén trà trong tửu lâu, vừa rút một cái chén nàng mang theo ra khỏi ống tay áo, dùng một cái khăn lụa trắng nõn chùi nhẹ. Nàng lại lấy trong ống tay áo ra một chút lá trà, bỏ vào chén. Nàng tuy đến tửu lâu, lại chỉ chịu dùng thứ nước suối tửu lâu ngày ngày kéo ngoài thành về. Tên tiểu nhị không dám chậm trễ chút nào. Hắn biết rõ khách nhân kiểu này thưởng tiền phóng khoáng lắm.
N ữ tử như đang đợi ai đó. Nàng ngồi đã một canh giờ, thần sắc vẫn bình tĩnh ung dung. Tiểu nhị thấy nàng nâng chén, môi đỏ tươi ánh lên chén sứ trắng ngời, màu sắc đan xen, cương nhu hòa lẫn, thực chẳng bút mực nào tả xiết. Hắn không khỏi nghĩ bụng: con gái nhà quyền quý nào đây? Tuy che khăn sa mà vẫn thanh tú làm sao. Có điều không biết nếu vén khăn sa lên thì mặt mũi ra sao?
N ữ tử tay tay chợt bấu vào cạnh bàn, khẽ giọng: "Tam công tử, ngươi cũng đến rồi sao?".
Dưới thang lầu truyền vọng một tiếng cười sảng khoái: "Phương nữ hiệp quả nhiên hảo nhĩ lực, không ngờ đã nghe được ta đến. Bọn ta hẹn gặp ở lầu hai, sao Phương nữ hiệp lại lên lầu ba vậy?".
Nữ tử thì ra là Phương Ninh. Nàng hẹn gặp người ta, cuộc hẹn này lại là cuộc hẹn giang hồ. Vì vậy người đó dù biết rõ nàng họ Đỗ, vẫn không nói ra, chỉ gọi nàng là "Phương nữ hiệp".
Bọn họ ai cũng e dè, không muốn xung đột thẳng. Phương Ninh cười lạt: "Người trong Tử Thần luôn luôn quen cao sang. Lầu ba vốn rộng thoáng hơn, tiểu nữ đâu dám bắt Tam công tử chịu ủy khuất ngồi chỗ thấp. Gì chứ, Tam công tử lẽ nào khiêm hòa, không quen ngồi cao?".
Nàng vừa nói vừa từ từ xoay đầu lại. Người đến đôi mắt đâu phải tầm thường như tiểu nhị, tuy cách một lớp sa mỏng, đại để cũng có thể nhận ra mặt mũi nàng. Thần tình y thừ ra --- Nhan sắc tuyệt trần như vậy, y cảm thấy vuông khăn sa che trùm kia thực đáng ghét.
Phương Ninh lại ngoái đầu phát một tiếng: "Ngồi".
Người đến thân hình tầm vóc, y phục vừa vặn, áo bào tơ mềm mại nhẹ nhàng hết sức, có vẻ xuất thân cao quý, tuy một màu đen tuyền, lại không có chút nào khiến người ta cảm thấy màu sắc đè nén tối tăm, trái lại có khí vận phong lưu quan tướng. Y búng tay nhè nhẹ, đôi mắt vẫn chăm chăm ghim trên mặt Đỗ Phương Ninh qua làn sa mỏng. Nhìn chăm chú như vậy lại không khiến cho người ta cảm thấy vô lễ, trái lại càng làm nổi bật sự thong dong của y. Y cũng có ý đó, y biết gặp được tuyệt sắc hiếm có, mình có nhìn đăm đăm cũng đâu quá đáng gì. Đó lại là phép "Tự định" với trần thế mà y rất tinh thông. Phương Ninh cũng không khỏi trân trân nhìn y, thầm khen: nam tử trên đời quả ít có ai dám nhìn thẳng mặt mình mà không chút ngượng nghịu.
Chỉ có một người từng giật cái khăn sa che mặt của nàng xuống, ngơ ngẩn nhìn thực lâu, mãi cho đến khi mặt nàng cũng dâng hiện nét ửng hồng, gã mới thì thầm nói một câu: "Nàng đẹp quá". Thanh Sách của nàng hóa làm roi tơ quất lên vai gã. Nhưng cái quất đó lại không dụng lực.
Phương Ninh khẽ nhíu mày, nhớ tới người đó.
Người đó là Hàn Ngạc.
--- Nghĩ đến Hàn Ngạc, nàng cảm thấy cái nhìn trân trối của nam tử ước tầm ba mươi trước mặt mình cũng thuộc hạng tầm thường... Hàn Ngạc... Hàn Ngạc... Ba năm trời ta khổ tâm bày bố, cuối cùng đã dụ được người kiêu ngạo như chàng không kềm chế được nữa, phải tiến vào Lạc Dương. Nhưng hôm nay ta gặp đại nạn, chàng có đến không?
Nam tử kia tựa hồ cũng thán phục sự trấn định của Đỗ Phương Ninh, y mỉm cười hỏi: "Có mang theo chứ?".
"Cái gì?". Phương Ninh thoáng hé một nụ cười. Nụ cười tươi tắn làm sao, như bên dưới nụ cười đó, hoa lá toàn thành Lạc Dương chẳng biết xuân sang chưa mà vẫn nở thắm. Nàng mỉm cười thốt: "Lẽ nào ta đến còn chưa đủ?". Nàng cúi đầu nhấp khẽ chén trà, tư thái ưu nhã, tựa như muốn dẫn dụ nam tử kia chú ý đến dung nhan của mình. Tử Thần Tam công tử lừng danh phong lưu, có lẽ mình chỉ cần dùng nhan sắc một chút, đâu phải không thể hóa giải trường đại nạn này.
Nam tử kia ngạc nhiên, mặt mày hiển hiện vẻ mỉa mai: "Là vật nàng đoạt khỏi tay Lợi đại phu, cũng là vật Vu Tự Vọng lưu lại. Lẽ nào nàng không biết ta đến tìm nàng là vì nó?".
Phương Ninh chỉ đáp hờ một tiếng: "Ồ?". Tiếp đó cười nói: "Ta còn nghĩ Tam công tử là người thanh nhã, tìm ta chỉ là vì muốn chuyện trò một phen, nào ngờ cũng là vì những chuyện phàm tục đó".
Khoé môi nàng còn ngậm nụ cười, lòng vòng chưa chịu vào vấn đề chính, đang tính toán phải làm sao mới có thể xoay chuyển sức chú ý của nam tử kia khỏi chuyện đó. Nàng là nữ nhân, lúc đối diện nan đề tự có biện pháp mà các cô gái xinh đẹp thường dùng. Vật đó nàng thực không thể nào giao ra, nhưng thế lực của Tử Thần cũng quá mạnh mẽ. Chỉ cần... có lẽ chỉ cần cho y xem nhan sắc của mình...
Nam tử kia tựa hồ cũng không có cách nào nổi giận đang khi đối diện dung mạo của nàng, mắt tránh đi, cười điềm đạm nói: "Phương nữ hiệp, nàng bất tất phải vòng vo. Vật đó là vật Du tổng quản của bọn ta dặn dò ta và lão yêu2 phải mang về cho được. Cho dù nàng có đánh lừa được ta, cũng không qua được Du lão đại của bọn ta. Mà nàng không rủ rê được Du tổng quản của bọn ta, hóa ra cuối cùng tổn phí tâm cơ rồi. Bao nhiêu kẻ sĩ dưới trướng Lạc Dương vương e cũng không có ai cả gan chống đối lại Tử Thần".
Phương Ninh vụt ngước mắt --- "Thượng đế thâm cung bế cửu hôn"3? Lão đại mà y nói chẳng phải là Cửu Hôn tổng quản Du Cửu Khuyết, xưng hiệu "Thượng đế thâm cung bế cửu hôn" đó sao?
Người đến cũng đâu phải ai khác, chính là tam đệ trong "Tử Thần bát vệ", là người mà người ta gọi là "Tam công tử", Lữ Tam Tài. Lữ Tam Tài con nhà gia thế, kinh nghiệm đầy mình, nếm trải đường đời, cho dù mình dùng sắc đẹp cũng đâu thể dụ được y động lòng.
Mày mi đằng sau tấm khăn sa mỏng không kềm được nhíu lại. Lúc nàng xử sự, có khi dùng nhan sắc của mình làm vũ khí hòng đạt được mục đích. Nhưng nếu nàng chỉ có ngón đó, nàng cũng đâu đáng gọi là Phương Ninh. Nghe Lữ Tam Tài châm chọc mấy lời, nàng đã nổi nóng trong lòng. Lúc bị người ta ép đến đường cùng, can thiệp đến số phận của nàng, thậm chí của toàn gia tộc nhà nàng, nàng quyết không lùi bước nhường nhịn. Nếu chẳng phải vì không muốn làm liên lụy đến gia đình, không muốn trở mặt triệt để với người trong Tử Thần, nàng đã không ngại vứt bỏ địa vị, dùng thân phận nữ nhân tầm thường để gặp mặt kiểu giang hồ với Lữ Tam Tài. Dù là ngươi đem thanh danh Du Cửu Khuyết ra hù dọa, ta làm sao có thể đem trên dưới hơn hai ngàn miệng ăn trong hai nhà Thành Nam Tính giao phó cho ngươi chứ?
Phương Ninh cau mày, mắt lộ nét tôn nghiêm, điềm đạm thốt: "Ngươi kêu giao, ta giao liền, vậy danh hiệu 'Sách nữ' Phương Ninh của ta ba năm nay hóa ra là đồ bỏ à?".
Lữ Tam Tài tới giờ mới lại liếc nhìn nàng, chợt cười lớn một tràng, một lúc sau mới phẩy tay: "Đó mới là Lư Sơn chân diện4 của Phương nữ hiệp! Phương nữ hiệp nếu không ra oai, Lữ mỗ ta lại nhận lầm Phương nữ hiệp bất quá là hạng phấn son dung tục chỉ cần dùng hai chữ kiêu sa là có thể hình dung trọn vẹn".
Y tựa như cũng không muốn trở mặt với Phương Ninh, thấy dùng uy ép bức không xong, cũng mềm mỏng khẩu khí phần nào. Y mỉm cười nói: "Phương cô nương, nàng không chịu nghĩ kỹ sao?".
---- Tử Thần nguyên là thị vệ lo hộ vệ đương kim Thánh thượng. Tổng quản của bọn chúng cũng không muốn dễ dàng bị lôi cuốn vào vòng phân tranh giữa đương kim Tể tướng và Đông cung sau lưng Phương Ninh. Phương Ninh lại vẩu môi: "Hạng nam tử ngạo mạn trước rồi mới cung kính sau, chỉ thích nghe sư tử gầm như Lữ huynh, ta sợ mình cảm thấy Lữ huynh cũng bất quá chỉ là một nam tử tầm thường".
Lữ Tam Tài không nổi giận chút nào, chỉ mỉm cười, chợt ngóng tai lắng nghe, rướn người tới nói: "Phương nữ hiệp có nghe không, Lợi Dữ Quân trong Lạc Dương vương phủ xem chừng đang ở trên nóc lầu, sớm như vầy, không biết tại sao y lại chạy lên nóc hứng gió vậy? Y bước thực khẽ, nếu không để ý nghe kỹ, sợ tại hạ cũng không nhận ra". Sau đó y dõi mắt nhìn xuống lầu, búng tay nhè nhẹ: "Ngoài Thiên Tân kiều bên kia, kẻ chống lan can ngắm dòng nước không biết có phải là Cổ Siêu Trác của Ngự Sử Đài hay không?". Sau đó y vỗ tay: "E rằng còn có một người ta chưa từng gặp mặt, đó lại là tổng quản Khu Tấn trong Lạc Dương vương phủ. Con người đó giao tế rộng rãi, hình dáng bách biến, hiện giờ không biết đã giả làm người bán hàng rong hay là chưởng quầy tiểu nhị gì đó. Chuyện đó khỏi phải nghi ngờ, cho dù hắn có chuyện trọng yếu gì khác, tất nhiên cũng sẽ có mặt kỳ này".
Ánh mắt y cười cợt nhìn Phương Ninh: "Nói gì thì nói, đây vẫn là lần đầu tiên Phương nữ hiệp chính thức lộ diện trong Lạc Dương thành. Đại sự giang hồ như vậy, phàm là kẻ tinh thông võ nghệ trong Lạc Dương thành, làm sao mà không đến xem cho được?".
Y cười nói rất nhàn nhã, lại hoàn toàn có ý bức bách: "Không biết Phương nữ hiệp có nghe được gì khác không? Nàng rành địa giới và con người ở Lạc Dương thành, chắc nghe được những gì ta nghe không được".
Phương Ninh mỉm cười thốt: "Một cây cần câu một ngư ông, trên Lạc Dương Hà ít có ngư ông nào thả câu sớm như vậy". Nàng thuận tay chỉ giữa Lạc Hà, trên một chiếc thuyền quả có một ông lão câu cá. Một ngư ông bình bình thường thường, nếu không có nàng chỉ, Lữ Tam Tài phải lầm tưởng lão là người thường, không thèm để ý tới.
Phương Ninh cười thốt: "Hứng chí đến thế, e rằng cũng chỉ có đám dị vật của Long Môn Dị mà thôi".
Nói xong, mũi nàng nhăn nhăn: "Không biết Tam công tử có ngửi thấy xung quanh đây còn còn có hơi hướm quỷ mị không?".
Lúc Lữ Tam Tài hơi động dung khi nghe đến ba chữ "Long Môn Dị", lại nghe đến câu đó, không khỏi nhíu mày: "'Bắc Mang Quỷ'?" --- Đám quỷ mị đó, y vừa nghĩ tới là phải cau mày.
Phương Ninh cười thốt: "Tam công tử chắc muốn hỏi: những người đó có phải là bằng hữu đồng bọn của nàng?".
Nàng mỉm cười lắc đầu: "Không phải, quả thực không phải".
Nàng cười tươi tắn, nhưng đằng sau nụ cười lại là vẻ chua chát miễn cưỡng che đậy --- Sao vậy... sao chỉ mấy năm ngắn ngủi, Thành Nam Tính trong Lạc Dương thành lạc lõng mất hết bè bạn đến như vầy? Cây vừa nghiêng là chúng nhân xúm xô cho ngã luôn sao? Mà thực, tổng cộng cũng chỉ ngần ấy khẩu phần, bớt một người ăn luôn hay hơn là thêm một người ăn! Lòng nàng chợt dâng lên một cảm giác bất lực. Cảm giác bất lực đó không chỉ vì trong tình huống một thân con gái ngồi một mình trên lầu, cường địch bủa vây xung quanh, mà còn vì cảm thấy: bao nhiêu tranh giành gìn giữ, thực ra cũng vô ích mà thôi.
Bất tri hủ thử thành tư vị5 --- Đầu Hàn Ngạc có phải đang nghĩ về nàng như vậy không? Nhưng hai họ ở thành nam trên dưới hơn hai ngàn miệng ăn, bọn họ phải trông cậy vào thức ăn có mùi chuột chết này. Đó là số phận, nàng không tranh đoạt thì đợi gì đây? Đâu phải tất cả mọi người đều có thể như chàng ta, lan man như làn gió, không bị đời ngăn trở!
Lữ Tam Tài cười nói: "Cho nên thân thể ngàn vàng của Phương cô nương chật vật cạnh tranh với đám hán tử hung hãn quỷ dị kia làm gì? Bằng vào một dải Thanh Sách của Phương cô nương, tung hoành giang hồ, tự bảo vệ mình vốn đủ sức mà".
Gã búng cái chén: "Huống hồ ta nghe nói Lạc Du nguyên ngoài Trường An thành vui vẻ hạnh phúc quá sức! Nếu có người giục ngựa sánh vai, mà người đó lại dáng dấp cao ráo, mặt mày sáng sủa, kiếm thuật đệ nhất giang hồ, niềm khoái lạc đó há không phải là cảnh giới thần tiên mà các cô gái ai ai cũng dốc lòng cầu mong sao? Phương cô nương hà tất phải vì những chuyện ruồi muỗi mà tự chuốc khổ như vậy?".
Phương Ninh cúi đầu. Bao năm qua nàng che mặt xông pha giang hồ, không ngờ những chuyện sánh đôi với Hàn Ngạc ai ai cũng biết. Lữ Tam Tài nhìn thần sắc nàng, nghĩ là nàng đã dao động, đang định bồi thêm vài câu, chợt thấy Phương Ninh ngửa mặt cười lớn, cười đến mức vuông sa che mặt lất phất. Lữ Tam Tài không khỏi ngạc nhiên: "Phương cô nương cười gì vậy?".
Phương Ninh phải một hồi sau mới nhịn cười đáp: "Tam công tử, hồi nãy ta định dùng sắc đẹp dụ ngươi, để ngươi tha cho một cô gái nhỏ nhắn như ta. Một cô gái yếu thế như ta, làm vậy còn coi được. Nào ngờ Tam công tử cũng muốn dùng sắc đẹp dụ ta, hơn nữa không phải đem sắc đẹp của mình để dụ, mà lại dùng sắc đẹp của người khác. Tam công tử làm vậy thực dung tục hơn ta gấp trăm lần! Ngươi bảo ta không cười sao được?".
Lời nói của nàng cực kỳ bén nhọn, hồi nãy mới gặp mặt nàng còn nhẫn nhịn vì gia môn, vì Lữ Tam Tài hạ nhục nên mới châm chích trả đũa, nói ra được những gì muốn nói, khoan khoái vô cùng.
Lữ Tam Tài cuối cùng đã biến sắc. Trên thế gian này, đối với nam nhân mà nói, không có gì nhục nhã hơn là bị một cô gái cười nhạo. Lữ Tam Tài cau mày: "Phương nữ hiệp, ta nói vậy là nghĩ tốt cho nàng. Nàng nên biết phải trái chứ! Ta còn chịu nói, gã em út của ta e là không thèm nói năng gì đâu. Khà khà, đời nay quả là âm thịnh dương suy mà. Chả trách trong triều từ lâu đã rao truyền một câu: sinh con trai như dê cừu, chi bằng có con gái như sài lang! Đỗ Thượng thư quả nhiên có phước".
Đỗ Thượng thư chính là phụ thân của Đỗ Phương Ninh. Lữ Tam Tài nói câu này chính là câu phe đối đầu của hai nhà Vi Đỗ dùng lâu nay để châm chọc sau lưng họ. Phương Ninh không nổi giận, trái lại còn điềm đạm cười thốt: "Có lý, có lý --- Nam bất phong hầu nữ tố phi6, ai bảo con gái lại phải làm rường cột. Con gái mà như dê cừu thì làm sao mạnh bằng sói lang được? Ít ra cha anh cũng có thể theo hưởng ké vinh quang, cũng có thể trà trộn vào cung hòng lãnh chút quan chức".
Lữ Tam Tài lần này thực sự tái mặt. Nhà họ Lữ của y chính là nhờ có một người chị nhập cung được Hoàng thượng yêu thương, cho nên mới ban ân sủng cho toàn gia. Hơn nữa tỷ tỷ của y nguyên là người đã có chồng, bỏ chồng mà vào cung, chuyện đó vốn là một bí mật Lữ gia cho dù rỡ ràng cũng vẫn có phần mắc cỡ. Giờ nghe Phương Ninh vạch trần, y liền biến sắc mặt, nổi cơn thịnh nộ, vẫn ráng trấn định nhìn ra song cửa nói: "À, lão em út của ta tới rồi".
"Ban ngày ban mặt mà hắn vẫn đeo khư khư cây Kình Điêu Cung của hắn".
Bàn tay Phương Ninh bỗng siết chặt. Tuy nàng khinh khi người trước mặt, nhưng biết rõ luận về công phu, Tử Thần Tam công tử đâu phải tay vừa. Y tuy cậy thế gia đình, nhưng người trong Tử Thần thanh danh tuyệt không phải may mắn có được. Nếu y không có tài, cho dù Du Cửu Khuyết cho phép y gia nhập Tử Thần, sáu người còn lại cũng đâu dung tha cho y. Một mình y Phương Ninh không biết mình có đối phó nổi hay không, huống hồ còn có lão yêu, kẻ kiêu ngạo tự phụ nhất trong Tử Thần.
"Nhất tinh như nguyệt khán đa thì" --- Sách xưa chép7: Kỷ Xương theo Phi Vệ học bắn tên, Phi Vệ nói với Kỷ Xương: "Mày trước hết phải học mắt không chớp đã", ý là nói phải học không nháy mắt. Kỷ Xương về nằm dưới khung cửi của vợ, mắt đăm đăm nhìn bàn đạp chuyển động lên xuống, khổ công luyện tập. Hai năm sau, mũi dùi có đâm sát mắt cũng không chớp mắt. Lại đi gặp Phi Vệ, Phi Vệ mới dạy cho y học "nhìn vật nhỏ mà như to, nhìn cảnh mờ mà như sáng". Kỷ Xương về lấy lông đuôi bò treo một con rận trên song cửa sổ, ngày ngày nhìn chăm chú, mãi cho đến khi mục lực có thể nhìn thấy con rận lớn như cái bánh xe, rồi mới bắt đầu học dùng sừng thú đất Yên làm cung, dùng cỏ bồng phương bắc làm tên, cuối cùng có thể bắn trúng con rận mà lông bò không đứt -
- Tuy truyền thuyết vốn có ý khoa trương, nhưng "Nhất tinh như nguyệt khán đa thì" là nhìn sao mờ mà như nhìn trăng sáng, thanh danh đến mức đó, chắc phải có thâm ý bên trong. Mục lực xạ thuật của Tử Thần Nhất Tinh quả cao đến mức "nhìn sao mờ ra trăng sáng" mà còn "nhìn được thực lâu" sao?
Phương Ninh chợt nghếch rướn cổ, vốn là một động tác bất tri bất giác, nhưng sau khi nghiêng đầu, lòng nàng lại bỗng xót xa --- Đó là động tác theo thói quen của Hàn Ngạc mỗi khi sắp đối diện cường địch. Gã mỗi lần nghếch cổ, cổ áo hơi trễ, để lộ cái gáy mạnh mẽ trẻ trung. Phương Ninh trước khi đương đầu đại địch mà lại nhớ đến cái gáy đầy nhựa sống của Hàn Ngạc, không biết từ lúc nào thói quen của gã cũng đã lậm sang nàng, tư thế nghếch đầu cũng học theo!
Nàng chợt cảm thấy hơi thở mình khẩn trương, Thanh Sách trong ống tay áo rục rịch như mỗi lúc đối diện cường địch. Dải tơ xanh này lại chính do phụ thân nàng thỉnh cao thủ thợ nghề dùng tơ tằm Thiên Sơn hòa trộn với "Thái Bạch chi tinh" của năm thứ kim loại dệt thành sau khi ông biết nàng cãi lời ông, khổ luyện võ công cuối cùng đã thành tài. Nàng vừa yêu lại vừa hận nó. Yêu nó vì nó mềm dẻo bền bỉ gánh nhận sự kiêu ngạo của nàng; hận nó vì có khi nàng cảm thấy dải tơ xanh này lại là một ẩn dụ cho sự mất tự do của mình: nó đâu có quấy nhiễu bó buộc ai khác ngoài cái cổ cứng cỏi không dễ dàng chịu khuất phục cúi đầu của nàng.
Khoé mắt nàng liếc lên Thiên Tân kiều bắc ngang Lạc Dương Hà. Trên cầu Tử Thần Nhất Tinh đang chậm rãi đeo cung thả bước. Thiên Tân kiều hiện không đông người, bộ dạng của hắn càng bắt mắt. Nàng không biết hắn phải mất bao lâu để tháo cung căng dây, cũng không biết Thanh Sách của mình có thể chặn đỡ một tiễn của hắn dưới sự rình rập của Lữ Tam Tài hay không. Nàng không biết được.
Nhưng trên mặt nàng đột nhiên hiển hiện một thứ thần tình nghe ngóng. Nón tre trên đầu nàng cực kỳ tinh xảo, chót đỉnh có thể tháo gỡ, trời mát đội nón không cần chóp ngù, để lộ đầu tóc bó cột kiểu đàn ông. Ngày thường hành tẩu giang hồ nàng luôn ăn vận như vậy. Lúc này nàng tựa hồ đang để tâm lắng nghe, bó tóc giữa chóp nón giữ nguyên tư thế nghiêng mình.
Lữ Tam Tài nãy giờ đâu có thấy nàng chú tâm đến thế, nghi hoặc hỏi: "Phương cô nương, nàng đang nghe ngóng gì vậy?".
Thần thái trên gương mặt trắng tái của Phương Ninh bỗng ngời sáng:
"Ta đang nghe một bài ca".
"Một bài ca hết sức ngân vang".
Quyển I: Ban Chuy đợi Chương 18
Giang thượng sa âu lược thủy phân1
1 Trên lầu phượng uy nghi nghiêng đầu lắng nghe, là câu trong bài thơ "Ký Lễ châu Trương xá nhân địch" của Đỗ Mục.
2 "Yêu" ở đây nghĩa là "em út". 3 Thượng đế đóng chặt cửa thiên cung, là câu đầu trong bài "Khốc Lưu Phần" của Lý Thương Ẩn. Lưu Phần tự là Khứ Hoa, người Xương Bình, đỗ Tiến sĩ năm Bảo Ứng thứ nhì (Đường Kính tông). Ông bị hoạn quan vu hãm, bị biếm làm quan nhỏ vùng xa. Bài thơ này Lý Thương Ẩn nghe tin ông chết bệnh mà sáng tác. "Cửu hôn" là Cửu trùng môn. Sách "Cửu Biện" của Tống Ngọc có viết: "Quân chi môn dĩ cửu trùng" (Cửa của vua chín lớp). Câu thơ đầu trong bài "Khốc Lưu Phần" này ý nói triều đình không chịu phái người giải oan cho Lưu Phần.
4 Ý nói chân tướng của sự vật hoặc mặt mũi thực của một người. Xuất xứ từ câu "Bất thức Lư Sơn chân diện mục" trong bài thơ "Đề tây lâm bích" của Tô Thức.
5 Bài "An Định thành lâu" của Lý Thương Ẩn có hai câu: "Bất tri hủ thử thành tư vị, sai ý Uyên sồ cánh vị hưu" (Đâu biết tham lam mùi chuột chết, ngờ chi Uyên phượng có thèm tranh). Uyên sồ là một loài chim giống Phượng hoàng trong truyền thuyết cổ đại. Sách "Trang Tử - Thu Thủy" có viết: Huệ Tử làm Tể tướng nước Lương, Trang Tử đi sang thăm y. Có người nói với Huệ Tử: "Trang Tử đến Lương quốc là muốn làm Tể tướng thay ông". Huệ Tử lo sợ, tìm kiếm Trang Tử trong đô thành trọn ba ngày ba đêm. Trang Tử gặp Huệ Tử mới nói: "Ông biết phương nam có một thứ chim gọi là Uyên sồ không? Uyên sồ từ Nam hải bay đến Bắc hải, không có cây ngô đồng thì nó không dừng chân nghỉ ngơi, không phải hạt tre thì nó không ăn, không phải nước suối ngọt trong thì nó không uống. Lúc đó một con cú mèo tìm được một xác chuột chết thối rữa, thấy Uyên sồ tình cờ bay ngang, cú mèo ngước nhìn Uyên, sừng sộ ré lên. Nay ông cũng muốn dùng Lương quốc của ông nên quát tháo tôi sao?". Thi nhân dùng Trang Tử và Uyên sồ ví với mình, nói mình tâm chí cao xa, không mang bụng nhỏ nhen của hạng sàm nịnh ham quan chức lợi lộc.
6 Thời Đường Huyền tông, gia tộc của Dương Quý phi nhờ nàng được vua sủng ái mà tận hưởng vinh hoa phú quý. Dân gian vì vậy có câu ca dao: "Nam bất phong hầu nữ tố phi, quân khán nữ khước vi môn mi" (Con trai không được làm quan thì cho con gái làm quý phi, xem con gái trở thành rường cột kìa).
7 Sách "Liệt Tử - Thang Vấn".
Tử Thần Nhất Tinh đột nhiên dừng khựng trên Thiên Tân kiều.
H ắn đã đi đến đầu cầu. Chỉ cần ngước mặt lên, ngay đằng trước cách chưa tới mười trượng chính là Đổng gia Tửu lâu.
Mười trượng đối với một mũi tên bất quá là một khoảng cách gần sát. Gần như vậy, cho dù là Cửu Khuyết tổng quản, e rằng cũng không dám ngông nghênh có thể dễ dàng tránh được một tên buông khỏi dây cung của hắn.
Tầng cao nhất của Đổng gia Tửu lâu --- Trên tầng ba, bên song cửa, tam ca của hắn đang ngồi. Hữu thủ của y nhè nhẹ thò ra cửa sổ, tay cầm một chén trà. Tư thế đó nhìn có vẻ như vô ý, nhưng chỉ cần y buông tay, chén trà vừa thoát khỏi tay, một tên của hắn cũng sẽ lập tức phát ra.
Tử Thần Nhất Tinh không tháo cung.
Cung còn đang trên lưng hắn, cây cung này thanh danh tuy vang vọng, thân cung lại không đặc biệt gì, đã không to, dài cũng không hơn một thước rưỡi, hơn nữa lại thẳng đuột, cho nên có vẻ hẹp khít --- Hình dáng như vậy mà kéo căng, lực chứa đựng phải lớn lắm. Dây cung kéo căng cũng chỉ cách cánh cung chưa tới hai tấc.
Hắn sở dĩ không tháo cung là vì cây cung của Tử Thần Nhất Tinh hắn từ lúc tháo cung đến lúc buông tên đó giờ chỉ cần một chớp mắt.
Hắn không tất yếu phải tháo cung trước, hắn đương nhiên tin chắc đúng vào lúc chén trà của Tam ca thoát khỏi tay, mình có thể hoàn thành quá trình tháo cung - giương cung
- nạp tên - bắn tên ra. Nếu không hắn còn xưng danh Tử Thần Nhất Tinh, hay hiệu xưng "Nhất tinh như nguyệt khán đa thì" gì nữa?
Hắn lại đang thủ thế. Đối diện nữ tử trong "Sách Kiếm minh", một trong "Lạc Du song lữ" danh tiếng lẫy lừng, hắn cũng không thể không thủ thế. Thiên hạ ngày nay, nữ tử có thể khiến Tử Thần Nhất Tinh hắn phải thủ thế e cũng chỉ có cô gái này thôi.
Cung Diệc Tinh một đời đam mê võ nghệ. Hai mươi mấy tuổi đầu, hắn vẫn còn chưa thực sự tiếp xúc hay chú ý đến nàng con gái nào. Chỉ nói về võ công thôi đã cơ hồ hao phí hết toàn bộ tinh lực của hắn. Nếu không, danh sách Tử Thần chỉ có tám người, hắn trẻ tuổi như vậy làm sao có thể xen chân vào?
Hôm nay hắn lại có hứng thú đối với một cô gái, đương nhiên hứng thú đó cũng chỉ dính dáng tới võ công.
Hắn ngước nhìn về phía lầu, thấy một nữ nhân đang ngồi đối diện Tam ca bên song cửa. Ban đầu hắn ngạc nhiên, Tam ca xưa nay luôn có biệt tài thu hút nữ nhân. Danh tiếng đó nổi như cồn trong Tử Thần, sao nữ tử kia lại có vẻ hoàn toàn không để ý đến sự tồn tại của y vậy?
Chỉ một điểm đó đã đủ dẫn dụ sự hiếu kỳ của hắn, Cung Diệc Tinh không khỏi chăm chú quan sát nữ tử kia. Bên trong cửa sổ, chỉ có thể nhìn thấy gương mặt nghiêng nghiêng có mảnh khăn sa che phủ. Nàng ta biết rõ mình đang ở dưới lầu, có cây Kình Điêu Cung hảo thủ võ lâm trong thiên hạ chẳng ai dám không chú ý, nàng ta bằng vào cái gì mà còn có thể trấn định đến thế?
Sau đó đôi mắt sắc bén của hắn nhìn thấu qua khăn che mặt --- Tử Thần Nhất Tinh cho dù võ công chưa phải là đệ nhất giang hồ, nhưng mục lực của hắn e thiên hạ chẳng có ai có thể hơn được, nếu không, làm sao mà xưng "Nhất tinh như nguyệt khán đa thì"? Cho nên tuy cách xa gần mười trượng, hơn nữa đối phương lại che mặt, hắn vẫn có thể dễ dàng nhìn thấy dung nhan của nữ tử kia.
Liền đó hơi thở của hắn khẩn trương hẳn, cảm thấy máu huyết toàn thân ngừng chảy. Sự ngưng đọng đó giống như phải đợi đến lúc mũi tên thoát đi thì mới có thể bộc phát trở lại, sinh khí lưu động trở lại.
Tử Thần Nhất Tinh có cảm giác huyết mạch của mình trì trệ: hắn chưa từng giết một cô gái, hơn nữa lại là một cô gái đẹp như vậy! Vốn trước đây hắn cũng luôn luôn hoài nghi nhiệm vụ lần này. Nhưng bây giờ, hắn lại cảm thấy một cô gái như vậy để cho hắn giết cũng... đáng giá lắm!
Lữ Tam Tài trên lầu hỏi: "Phương cô nương, vật đó nàng có giao ra hay không?".
Không khí dưới lầu tựa hồ cũng hiển lộ vẻ kỳ dị. Cổ Siêu Trác cúi mình bên sông có vẻ đã quên mất mình đang nhìn dòng nước, còn ngư ông giữa Lạc Thủy cũng bất chợt ngước lên. Trên lầu và mái ngói Đổng gia Tửu lâu cũng rung động nhè nhẹ, rung động mà im phăng phắc, khí quỷ khí dị tựa hồ cũng nặng nề hơn lúc bình thường, chỉ chưa biết Khu Tấn ẩn mình ở đâu.
Phương Ninh cũng cảm nhận được mọi sự. Nhưng mọi sự lại không tạo được biến hóa gì trong tâm tư của nàng. Nàng vẫn nghiêng đầu, mặt dâng hiện một niềm hạnh phúc --- một niềm hạnh phúc lan man khó lường giữa vòng vây của cường địch, tựa như thực sự nghiêng nón lắng nghe một bài ca vang vọng.
Lữ Tam Tài thần sắc lộ hung quang, chợt nới lỏng tay, cái chén rơi xuống.
Sau đó y chằm chặp nhìn Phương Ninh --- Đây là ngươi ép ta! Cho dù danh tiếng "Sách nữ" của ngươi không phải may mắn đạt được, cho dù ngươi có thể né được nhất tiễn phá không của lão yêu, Tam Tài Thủ của ta đâu phải hư danh, đang khi hoảng loạn làm sao ngươi thoát được chứ!
Cục trường hôm nay y vốn an bài thỏa đáng vô cùng, thậm chí y còn hoài nghi Du tổng quản sao lại phải kêu hai người bọn y nhất tề xuất thủ, thực ra đâu cần thiết chứ?
Tử Thần Nhất Tinh nơi đầu cầu mặt thoáng vẻ kỳ dị, gần như là... yêu thương. Hắn vặn người, cung đã lọt vào tay, xoạt chân thẳng tay, tả thủ như dằn Thái Sơn, hữn thủ như ôm trăng tròn --- Đó là Ái mộ nhất tiễn của hắn. Vào giây phút đó, hắn yêu nữ tử kia đến cùng cực, cho nên dây cung giương đến mức huyết mạch của hắn ngưng trệ, lại liền túa ra như vạn dòng nước tuôn xối. Dương quang sáng chập chờn, khiến cho hắn có một thứ cảm giác thỏa mãn kỳ dị. Hắn phải bắn chết một cô gái, mà cô gái đó hắn lại sẽ trọn đời ghi nhớ. Đó là cô gái đầu tiên hắn để ý tới trong suốt hơn hai mươi năm trường đời. Hắn cần phải giết nàng.
Lúc đó, trên bờ lại đột nhiên có một tiếng ca vang lên. Lạc Hà mới sáng sớm, mặt trời lên chưa được bao lâu. Người qua kẻ lại trên cầu, trà trộn cao thủ đó đây, cường hào quan quyền, phe phái tranh đấu, lại thình lình vang lên một tiếng ca.
Đây là một thành thị đầy màu sắc, cả bụi bặm trong thành thậm chí cũng mang chút hương khí. Buổi sớm ở Lạc Dương thành là một buổi sớm đầy màu sắc, vì sênh ca khắp nơi đêm hôm qua còn chưa tiêu tán hết khói nến, vì trên Lạc Hà bềnh bồng che phủ một lớp hơi nước mờ sương, vì trên Thiên Tân kiều tụ tập chen lấn, người người sau một đêm ngủ vùi lại thu thập vun vén đủ thứ dục vọng, vì... ánh bình minh ấm áp...
Nhưng lời ca đó xuyên phá mọi màu sắc mê loạn mà đến, ngân vang:
Thái Ất cận thiên đô, liên sơn tiếp hải ngung.
Bạch vân hồi vọng hợp, thanh ải nhập khán vô.
Phân dã trung phong biến, âm tình chúng hác thù.
Dục đầu nhân xử túc, cách thủy vấn tiều phu.2
Lúc tiếng ca vang lên, ai ai cũng đưa mắt nhìn, muốn nhìn cho rõ con người có vẻ như đang đạp ca3đi đến. Phương Ninh trên lầu lại không quay đầu: còn nhìn gì nữa, bóng dáng của người đó, từng tơ tóc đã in hằn tận đáy lòng nàng.
Trong đầu nàng chỉ vang vọng một tiếng than khẽ: chàng cuối cùng vẫn đã đến!
Người xướng ca đến từ bờ nam. Gã cưỡi một con lừa nhỏ, con lừa rất lùn thấp, càng làm nổi bật thân thể lêu nghêu trên lưng lừa. Nhưng gã không ngồi thẳng dậy, mà có hơi nghiêng nghiêng ngã ngã. Y phục cũ kỹ rũ rượi, bên trên vấy rượu lẫn bụi bặm. Lúc đó gã đang ngửa ra sau, tay đang nhấc một vò rượu, rượu đang rải rót vào cái miệng vừa ca xong, tựa hồ bài ca đó đã chấm dứt, gã đang dùng rượu để thấm họng.
Tửu vị khá lợt lạt --- Nơi đây có biết bao nhiêu hảo thủ võ lâm, cảm quan dĩ nhiên linh mẫn hơn người thường nhiều --- Bọn họ cảm thấy được tửu ý cực nồng trên mình gã, nhưng tửu vị lại mong manh làm sao. Hàn Ngạc tựa hồ không say sưa đến thế, gã cũng không biết có nên đến gần Đổng gia Tửu lâu bên Thiên Tân kiều người đi như thoi cửi đan dệt.
Mắt Phương Ninh ươn ướt, quen biết ba năm, đó giờ nàng chỉ thấy sự tiêu sái thanh thoát của người đó, chưa từng thấy gã túy lúy bệ rạc đến thế, hơn nữa ý chí còn hụt hẫng đến nước này.
Giây phút đó, nàng tuy hết sức trông đợi gã đến, nhưng đến lúc gã tới, trong lòng lại đột nhiên nảy sinh cảm giác bất an.
Cho dù nàng không nói ra, nàng có thể kềm nhịn được ý niềm có lỗi trong đầu không?
--- Thái Ất cận thiên đô, gã học nghệ trên Thái Ất Phong mé Chung Nam Sơn. Trên Lạc Du nguyên, bao vui sướng hạnh phúc như giấc mộng. Tỉnh mộng rồi, nam tử cứng rắn sái thoát trong mộng lại cưỡi lừa say sưa đi cứu trợ mình.
Người xung quanh đều liếc nhìn, Tử Thần Nhất Tinh lại ít khi tư lự, hắn chỉ bị ngắt dòng suy nghĩ một chút, lại đề khí hất giọng: "Đi"!
Dây cung vừa buông, mũi tên nhắm Phương Ninh che mặt trên lầu bắn tới. Mũi tên xé gió trên cầu,
Gã say vướng nỗi u sầu bên sông.
Đúng vào lúc Tử Thần Nhất Tinh quát một tiếng, Hàn Ngạc trên lưng lừa bỗng ngã mình dang thẳng tay, cơn say ngà ngà như trút ra hết theo cái ngã đó, không còn che đậy được sự tỉnh táo của gã. Gã hét lên: "Trường Canh!".
Lúc gã ngã ngửa, bắp thịt vùng lưng cọ chạm vào cơ quan gắn trường kiếm trên lưng. "Trường Canh" rẻng một tiếng, bắn qua vai gã. Phép điều khiển bắp thịt toàn thân tùy ý chuyển động vốn là cảnh giới cực độ của võ thuật tự khống chế cơ thể. Tiếp đó gã dùng vai sai sử cánh tay, lấy cánh tay sai sửa khuỷu tay, dùng khuỷu tay vận động cổ tay, lấy cổ tay thủ thế, phóng trường kiếm tung bay. Người trên Thiên Tân kiều tới giờ mới giật mình. Tử Thần Nhất Tinh cùng Hàn Ngạc đều thủ thế cho chiêu thức đã lâu, trường kiếm chặn đầu Đại Vũ Tiễn đen bóng. Không ngờ thanh thế của mũi tên đó cũng bị chặn đứng.
Ánh mắt Tử Thần Nhất Tinh như thiêu đốt. Hắn quát một tiếng: "Giỏi"! Đệ nhị tiễn, đệ tam tiễn, cho tới đệ thất tiễn cơ hồ dốc sức bắn ra trong nháy mắt.
Mấy mũi tên đều nhắm đúng Phương Ninh. Hôm nay không phải đánh nhau, người hắn muốn giết và Hàn Ngạc muốn cứu đều là Phương Ninh!
Hàn Ngạc hồi nãy đúng vào lúc trường kiếm bay ra đã vỗ vào cổ lừa, thân người vọt đi. Con lừa không chịu nổi sức vỗ của gã, bốn chân mềm nhũn, lập tức quỵ xuống. Tử Thần Nhất Tinh lợi dụng khoảng thời gian còn thừa, lại căng dây cung, Hàn Ngạc có đuổi kịp bảy mũi trường tiễn mình bắn ra, một tên này sẽ giành riêng cho gã.
Hàn Ngạc hai chân đạp liên hồ trên không, cứ như đạp ca. Bảy mũi tên từ thấp bay lên cao bị gã nhất nhất đạp dưới gót chân. Mỗi lần gã đạp trúng, thân hình như trúng phải khí lực nặng nề, run lên từng đợt. Tên sắt đuôi lông chim không ngờ lại bị gã đạp gãy --- "Đạp Ca Bộ" của gã không ngờ có thể vọt lên tới mấy trượng, đạp liền bảy bước trên không, thực đáng kinh hãi.
Lúc gã vừa chạm lên mũi tên thứ bảy, một tiễn rượt theo sau gã đã đến nơi. Hàn Ngạc tay chân không kịp dời động, thân hình vụt ngã ngửa ra sau, dùng miệng cắn giữ. Lực bay nhảy đã cạn kiệt, thân người nằm ngang hạ xuống.
Tử Thần Nhất Tinh một tiễn đó lực khí cực mạnh, tại trường có không ít hảo thủ tai mắt nhanh nhạy, nhìn thấy Hàn Ngạc không dễ gì gánh chịu mũi tên đó, khoé miệng rỉ máu.
Lúc Hàn Ngạc hạ mình đã tiếp đón Trường Canh từ trên không rơi xuống. Lưng vừa chạm đất, lại dùng thế cá chép vượt Long môn búng người lên, lao về phía Tử Thần Nhất Tinh, không cho phép hắn bắn tên nữa.
Tử Thần Nhất Tinh trong túi còn lại ba mũi. Hắn không kịp rút tên, chợt buông dây cung không không. Hàn Ngạc đã lao đến bên hắn, giây phút hắn buông dây cung, thấy một vệt máu rướm bên trán Hàn Ngạc. Hàn Ngạc căn bản không kịp dùng mũi kiếm phong tỏa địch nhân, một kiếm vỗ lên thân cung của Tử Thần Nhất Tinh. Tử Thần Nhất Tinh song thủ run run, không khống chế nổi, phải lùi liền ba bước.
--- Võ thuật vốn là vậy. Lúc đánh nhầu, nào cho phép mình còn có chiêu thuật gì nữa. Chỉ có lâm cơ ứng biến, liều mạng trong chớp mắt.
Cung Diệc Tinh vừa lùi, đã lùi đúng cự ly tốt nhất để Hàn Ngạc phóng kiếm nghênh địch. Hắn phải lùi tiếp, lùi càng xa càng có lợi cho hắn. Hàn Ngạc đâu cho phép hắn lùi nữa! Chỉ thấy chuôi kiếm của Hàn Ngạc xoay một vòng, mũi nhọn chỉa tới trước, đánh một chiêu như phà hơi chếnh choáng. Bên sông, Cổ Siêu Trác nhịn không được kêu lên một tiếng: "Hay"!
Trên lầu, mũi Đại Vũ Tiễn thứ bảy Hàn Ngạc chỉ chạm nhẹ chứ không thể ngăn trở hoàn toàn vẫn xé gió bay đến. Phương Ninh vặn mình lướt khỏi chỗ ngồi. Hiểm ghê, đầu tên bay lướt sát chót mũi nàng. Trán nàng toát mồ hôi. Lữ Tam Tài lại đột nhiên xuất thủ. Lúc nàng tránh tên, Tam Tài Thủ bấu về phía cổ họng nàng.
Phương Ninh sở dĩ mạo hiểm để mũi tên bay sát mũi cũng vì e dè Lữ Tam Tài xuất thủ. Nàng bẻ mình lùi một bước. Trường sách của nàng tấn công từ xa là hữu hiệu nhất, vì vậy nàng cần phải tìm cách ráng hết sức lùi cách xa một trượng. Lữ Tam Tài lại há để nàng nói lùi là lùi, thân hình lập tức bám theo. Tuy chưa đúng cự ly tốt nhất, Phương Ninh bất đắc dĩ phải phất tay, Thanh Sách lất phất bay ra.
Màu xanh trên dải tơ tuy ở sau lưng, vẫn tựa như ánh chiếu vào mắt Hàn Ngạc. Lòng gã bỗng dâng tràn một niềm vui --- Đã lâu rồi sách kiếm chưa tương hợp, liên thủ đối địch như vậy. Gã cười một tràng dài: "A Ninh, có ta ở đây, chưa đến lúc sinh tử quan đầu, đâu cần đến nàng xuất thủ".
Tử Thần Nhất Tinh mặt mày biến sắc, tức bực gã khinh thường mình thái quá. Hắn thấy kiếm của Hàn Ngạc đâm tới, không thể không tránh, nào ngờ Trường Canh tựa như dốc hết sức vào một chiêu lại dừng sựng cách hắn một thước rưỡi. Hắn đang chực chờ phản kích, Hàn Ngạc lại cả người lẫn kiếm vọt ngược trở lại, nhắm hướng trên lầu bay đi.
Gã mới hiện thân trên thành cửa sổ, đệ cửu thủ của Tam Tài Thủ đang quơ về phía xương bả vai của Phương Ninh. Phương Ninh thấy Hàn Ngạc vừa dứt tiếng đã tới, không ngờ nàng không thèm tránh thế đánh của Lữ Tam Tài, mỉm cười nhìn Hàn Ngạc, tựa như gã kêu mình không động thủ thì dù nguy cơ ép sát cũng không cần động thủ. Đây rõ ràng là tín nhiệm đến mức đem tính mạng ra đánh đổ. Lữ Tam Tài ngẩn người, tay lại không chậm mà thần tốc kẹp lên xương bả vai Phương Ninh.
Phút chốc đầu ngón tay vừa chạm vào xương vai, Hàn Ngạc còn chưa kịp lao đến, nhưng gã rướn người chìa kiếm, bản kiếm đón đỡ một trảo cho Phương Ninh.
Phương Ninh nở một nụ cười nhìn gã --- Chiêu thuật đối địch quên lãng cái chết, phó thác cuộc đời này vốn là lối cười đùa với nhau lúc đôi tình lữ bọn họ đối diện cường thù. Đầu Hàn Ngạc rúng động, cảm thấy trước mắt ánh xuân bừng sáng, hạnh phúc của cuộc đời còn gì hơn thế nữa. Gã hoành kiếm bức lùi Lữ Tam Tài, Tử Thần Nhất Tinh cũng đã rượt đến. Trường Canh tung về hướng khác, không còn kịp xoay trở. Tử Thần Nhất Tinh thân hình dúi thấp, bắn mình tới, cánh cung quật về phía bụng dưới của gã.
Tả thủ của Hàn Ngạc chợt xoãi ra, thanh quang nhoáng lên khỏi ống tay áo, quát khẽ một tiếng: "Đoản Thanh!".
Chủy thủ "Hàm Thanh" thanh quang lấp loáng rạch một đường trước mặt Tử Thần Nhất Tinh.
Tử Thần Nhất Tinh một tay chống xuống đất, thân người bay lui. Lúc hắn vừa hạ chân, Lữ Tam Tài lại lao lên, nhất thời trên không chỉ thấy bóng trảo hình cung, rồi lại có kiếm quang. Đổng gia Tửu lâu bên Lạc Dương Hà không ngờ đã thành nơi ba đại cao thủ quyết đấu liều mạng. Cung Diệc Tinh xuất một chiêu lại thoái về liền, vừa định bộc phát lần nữa, vai lại bỗng bị Lữ Tam Tài ấn giữ.
Hắn kinh ngạc, lại nghe Lữ Tam Tài lạnh lùng thốt: "Hàn Ngạc đã đến, với sức của hai ta, nếu không liều mạng, tuyệt đối không hạ được 'Sách Kiếm song lữ'. Có điều Du tổng quản đã dặn bọn ta nếu Hàn Ngạc đến thì bọn ta cứ đi trước đã". Y nắm vai Tử Thần Nhất Tinh nhảy xuống lầu, lại lạnh lùng nói: "Hàn huynh, ân oán giữa ngươi với Tử Thần coi như đã kết".
Hàn Ngạc mỉm cười, thấy Phương Ninh như mừng lại như hờn, tình tứ chăm chú nhìn mình. Gã cảm thấy chỉ cần có một chốc lát nhìn nhau như vậy, kết oán với Tử Thần có ra gì đâu! Người thanh niên gã đây vốn vụng miệng, đối diện Phương Ninh, môi gã mấp máy mấy lượt, lại chẳng phát thành tiếng, có điều mày mi khoé mắt đều vui tươi, nụ cười trẻ trung khoát đạt, có một thứ khí chất dương cương hừng hực, ngời sáng lẫm liệt.
Lúc này Lữ Tam Tài kéo theo Tử Thần Nhất Tinh đã hạ mình bên dưới lầu, hừ lạnh thốt một câu cuối cùng: "Để đôi gian phu dâm phụ đó hưởng thụ cuộc hẹn hò của chúng đi".
Phương Ninh thảng thốt. Nàng tuy là con gái, nhưng trải bao khuynh loát, lời nói đó đâu thể khiến cho nàng xúc động. Nàng thảng thốt vì thấy nụ cười trên mặt Hàn Ngạc trong chớp mắt đã cứng đờ như băng lạnh.
Cái nàng sợ là điều đó, nhưng nàng cũng không biết làm thế nào để khuyên giải gã. Hàn Ngạc... gã là một nam nhân ương ngạnh. Phương Ninh cúi thấp đầu, câu nói đó như gió bấc tạt lên lầu. Trên Đổng gia Tửu lâu mới vừa tràn trề xuân quang, chỉ một câu nói đã khiến nhiệt tình vụt lạnh cứng, đông đặc giá băng.
Quyển I: Ban Chuy đợi Chương 19
Dục bả nhất huy giang hải khứ1
1 Chim âu lướt rẽ sóng trên sông. Câu này Tiểu Đoạn sửa câu "Sa thượng kinh hồng lược thủy phân", tức câu tiếp theo câu "Lâu trung uy phượng khuynh quan thính" thuộc bài thơ "Ký Lễ châu Trương xá nhân địch" của Đỗ Mục (xem chú thích {1} hồi 17).
2Đây là bài thơ "Chung Nam Sơn" của Vương Duy. Chung Nam Sơn ở phía nam Trường An, cách chừng 50 dặm, một trong những ngọn núi chính của dãy Tần Lĩnh. Người xưa còn kêu sơn mạch Tần Lĩnh là Chung Nam Sơn. Tần Lĩnh trải dài hơn tám trăm dặm, là dãy núi cách chia Vị Thủy và Hán Thủy. Người Đường kêu Chung Nam Sơn là Thái Nhất, hay Thái Ất. Sách "Nguyên Hòa Quận Huyền Chí" có viết: "Chung Nam Sơn ở năm chục dặm phía nam huyện [Kinh Triệu Vạn Niên huyện]. Theo Kinh truyện, Chung Nam Sơn còn có tên là Thái Nhất, cũng có tên Trung Nam". "Thiên đô" là đế đô, tức chỉ Trường An. "Thanh ải" là khí núi. "Hải ngung" là vùng ven biển. Chung Nam Sơn đâu có gặp biển, ở đây Vương Duy dùng nghệ thuật khoa trương. Hai câu 5-6 nói cảnh tượng Chung Nam Sơn cao to, chia cắt mạch núi phía nam và phía bắc, biến hóa khí tượng giữa các sơn cốc cũng khác hẳn nhau.
Thái Ất dựa Trường An, non ven nối biển bờ.
Ngoái trông mây trắng rượt, chui kiếm khói lạnh tan.
Chia giữa dòng nam bắc, mưa ni nắng nớ hè.
Hỏi tìm nơi trú nghỉ, bác đốn củi tê tề.
3 "Đạp ca" là hình thức ca múa dân gian cổ xưa, vừa hát vừa dậm chân theo nhịp điệu.
Vu Ti ểu Kế dắt Ban Chuy đợi ngoài cửa tây "Hậu Tái môn" của Lạc Dương thành. Sao còn chưa đến? Vu Tiểu Kế lòng bồn chồn bấn loạn. Ngạc ca sao còn chưa đến? Nó rất lo cho Hàn Ngạc: một mình Hàn Ngạc thực ra có chống đỡ nổi sự hợp lực công kích của hai đại cao thủ trong "Tử Thần" không? Bên cạnh lại còn có người trong Lạc Dương vương gườm gườm rình rập nữa! Huống hồ Đỗ Phương Ninh luôn khiến cho Hàn
đại ca tâm mê ý loạn, lại một dạ chỉ muốn lợi dụng Ngạc ca!
Ngh ĩ tới Đỗ Phương Ninh, lòng Vu Tiểu Kế càng phiền não, mũi chân đá vào tảng đá vĩnh viễn có đá cách mấy cũng không động đậy, hoàn toàn không lo mũi giày của mình vốn đã sắp rách toét. Nó không có chút xíu hảo cảm nào với Đỗ Phương Ninh. Tâm tư nó bấn loạn: nếu Hàn đại ca quả có thể đánh lui Tử Thần, bằng vào nghề dụ hoặc mà Đỗ Phương Ninh rành nhất, thêm vào tâm địa mềm yếu của Ngạc ca đối với ả, Ngạc ca có còn đến được không?
--- Hàn Ng ạc hôm nay không chịu dẫn nó đi cùng, chỉ kêu nó dắt Ban Chuy ra ngoài Lạc Dương thành đợi, nếu đến giờ Thân mà gã còn chưa đến thì không cần đợi nữa. Gã giao Ban Chuy cho Vu Tiểu Kế có vẻ cũng có thâm ý, lúc đó gã nói: "Có con ngựa này, sau này lúc ngươi gặp nguy cấp, chỉ cần cưỡi nó phóng đi, xung quanh chẳng có ai rượt kịp ngươi đâu".
Vu Ti ểu Kế tâm tư rối loạn, nghĩ tới câu nói đó, không biết tại sao lại có một thứ cảm giác bất tường. Người ra kẻ vào Hậu Tái môn, ô lọng quan quyền lỉnh kỉnh, dân đen lúc nhúc, Vu Tiểu Kế lại đứng nhìn từ tuốt đằng xa, cảm thấy những người những vật đó hoàn toàn không tương quan với nó, người nó quan tâm lại thủy chung chưa xuất hiện.
Đ ã qua giờ Ngọ một hồi lâu, mặt trời mùa xuân vừa hiển lộ nét gay gắt, Vu Tiểu Kế mới nhìn thấy một con lừa đen lừ đừ đi qua Hậu Tái môn. Trên lưng lừa là một người cao tồng ngồng. Vu Tiểu Kế hoan hô một tiếng, không đợi con lừa đi đến gần, ba chân bốn cẳng chạy tới đón, kêu lên: "Ngạc ca!".
M ặt mày Hàn Ngạc hoàn toàn không có vẻ hưng phấn lúc vung Trường Canh đánh lùi hai đại cao thủ Tử Thần, chỉ còn nét trầm tư sầu muộn. Gã không cạo râu mấy ngày nay, bên trên đôi môi mỏng lún phún râu tơ có mà như không. Vu Tiểu Kế cũng không để ý sắc mặt gã, nhảy tót lên lưng lừa. Con lừa dừng chân, có vẻ chịu không nổi hai người. Vu Tiểu Kế cười nói: "Hại cho tôi lo lắng cả nửa ngày. Ngạc ca, huynh đánh đuổi Tử Thần lão tam và tên Tử Thần Nhất Tinh kia rồi à? Tôi biết huynh làm được mà! Tôi biết huynh làm được mà!".
Nó còn h ứng chí hơn cả Hàn Ngạc lúc nãy. Hàn Ngạc vốn không ưa nhất là người ta tán tụng văn hoa như vậy, nhưng sự bái phục thành tâm thành ý của Tiểu Kế lại luôn làm cho gã cảm động --- Vì nó không coi gã là người ngoài, mà coi gã như một ca ca. Hàn Ngạc từ nhỏ lang thang phiêu bạt khắp nơi, gã ngước đôi mắt ứ đọng phiền muộn nhìn Tiểu Kế quần áo mộc mạc, lòng chợt thấy ấm áp. Gã ôm hông nó, chà chà râu lên mặt nó, cười nói: "Ngạc ca của ngươi cũng không phải ngon lành gì đâu. Đừng nói gì khác, đắc tội với Tử Thần, thủ lĩnh Du Cửu Khuyết của bọn chúng ta đâu có chọc nổi. May là người trong Tử Thần đều là kẻ ham giữ thể diện. Bọn chúng đã bị ta làm bẽ mặt một trận, một khi chưa kiếm ta trả đũa, chắc chúng không tìm... nàng để gây phiền hà nữa đâu".
1 Bài thơ "Tương phó Ngô Hưng đăng Lạc Du nguyên" của Đỗ Mục có hai câu: "Dục bả nhất huy giang hải khứ, Lạc Du nguyên thượng vọng Chiêu Lăng". Muốn phất cờ đi Ngô Hưng miền sông biển, lại lên Lạc Du nguyên trông về Chiêu Lăng của Đường Thái tông. Ý biểu lộ tình cảm trung quân ái quốc tác giả muốn viễn chinh dốc sức cho nước nhà, lại bất nhẫn rời kinh, nhìn Chiêu Lăng tưởng nhớ thời hưng thịnh.
Vu Ti ểu Kế mặt mày hưng phấn nhìn gã: "Ngạc ca, huynh kể cho tôi nghe đi, kể cho tôi nghe đi, huynh làm sao đánh bọn chúng chạy dài vậy? Bọn ta... có đi không?".
Hàn Ngạc gật gật đầu: "Đương nhiên là đi".
Không sai, gã đã quyết định --- Người của Lạc Dương vương có tranh chấp gì với Thành Nam Tính đi nữa, bọn họ vẫn là người cùng một thành, còn có những quy củ và mặt mũi không thể không e dè, đó cũng là cuộc tranh đua hiểm ác âm thầm. Chỉ hy vọng nàng... có thể bình an trọn đời, gã không còn phải chộn rộn trợ giúp. Lạc Dương vương xuất thủ chắc không ỷ lại địa vị cao cả uy thế to tát mà bức bách chẳng kiêng kỵ như Tử Thần. Đối với chiêu số hiểm ác của chúng, Hàn Ngạc có ở lại cũng không có biện pháp gì.
Hai người bọn họ lên đường. Vu Tiểu Kế cứ cười toe toét nhìn Hàn Ngạc. Hàn Ngạc định cưỡi Ban Chuy, Vu Tiểu Kế lại không chịu cưỡi con lừa đen, nó nói: "Ngạc ca, con vật này ương bướng lắm, tôi không điều khiển được".
Hàn Ngạc hỏi: "Vậy ngươi cưỡi ngựa còn ta cưỡi lừa thì sao?".
Vu Tiểu Kế không đáp, leo xuống lưng lừa, chạy nhanh đến gần Hàn Ngạc, nhón nhảy lên ngựa của Hàn Ngạc, ngồi trước người gã cười nói: "Huynh cũng không cưỡi lừa. Ngạc ca, con ngựa này tốt hơn nhiều, đi vừa nhanh vừa không dằn xốc, lại không trở chứng, bọn ta cứ cưỡi chung đi, cũng dễ nói chuyện nữa".
Hàn Ngạc quả cũng không có cách nào từ chối nó. Gã ít quen thân với ai, sống cô độc, thực cũng vì tự biết tính mình một khi ưa thích ai thì sẽ không có cách nào từ chối người đó, như đối với Phương Ninh, như đối với Vu Tiểu Kế.
Không biết sao lòng gã tràn ngập ưu phiền, nhưng thấy nụ cười toe toét của Tiểu Kế lại cũng vơi bớt phần nhiều. Gã không khỏi nghĩ đến câu nói của ông thánh Khổng: "Con gái và con nít khó nuôi lắm, gần gũi quá thì lờn mặt, cách xa quá thì oán hờn".
Nhưng lúc gã nhớ tới câu nói đó, đầu óc lại ấm áp vô cùng, không có vẻ cảm khái than thở như ông thánh đứng đắn chừng mực... Tình trạng miêu tả trong hai vế cuối thực hay quá.
Vu Tiểu Kế miệng huyên thuyên không ngưng, bắt Hàn Ngạc phải kể cho nó nghe trận chiến đối đầu hai nhân vật Tử Thần. Hàn Ngạc vốn ít nói, nói hờ hai ba câu cho qua. Nhưng sự kiệm lời của gã địch không lại tính moi móc tới cội tới căn của Tiểu Kế, cuối cùng Hàn Ngạc phải thở dài, đã đi khỏi thành mấy trăm dặm, chỉ đành nhảy xuống rút trường kiếm im ỉm múa may chiêu số trùng diễn lại một lượt mới coi như xong chuyện.
Vu Tiểu Kế xem đến trợn mắt há mồm. Hàn Ngạc thực không giằng co nổi nữa, sau khi diễn xong lại nhảy lên ngựa, nắm Tiểu Kế đặt lên lưng lừa, giục Ban Chuy chạy trước.
Vu Tiểu Kế đằng sau la "ối ối", thúc lừa đuổi theo, miệng không ngừng nói: "Ngạc ca, huynh dừng lại đi, huynh dừng lại đi, huynh có thể phụ rẫy một đứa bé côi cút như tôi sao?".
Nó nói nghe thảm thương mà mặt mày lại láu cá ghê gớm. Hàn Ngạc đâu có chạy nhanh, chỉ thúc nhẹ Ban Chuy đi trước con lừa đen mấy trượng, khiến cho Vu Tiểu Kế phải toàn lực xua lừa, không còn sức để nói chuyện. Kẻ rượt người chạy như vậy, tuy ban đầu không để ý gì, cuối cùng lại cảm thấy chơi vui. Cả Ban Chuy tựa hồ cũng thấy chủ nhân những tháng ngày qua khó được cơ hội hứng chí, nó đùa bỡn sải vó không chậm mà cũng không nhanh, bao nhiêu mây sầu khói muộn ở Lạc Dương thành u uẩn trong đầu Hàn Ngạc càng lúc càng xa vời.
Chơi đùa như vậy được gần nửa canh giờ, cũng sắp đến Bạch Đọa tửu gia mà Hàn Ngạc những ngày qua túy lúy cả buổi. Hàn Ngạc biết con lừa kia khó mà chịu đựng phóng chạy như vầy nữa, liền ghìm cương đợi Vu Tiểu Kế từ từ đuổi tới.
Gã ngước đầu, thấy tửu kỳ vàng vọt lất phất chào mời xa xa bên chân núi. Màu vàng sương gió đó không biết sao lại khiến cho tim Hàn Ngạc co thắt, nỗi đắng cay chua chát bứt rứt trong lòng những ngày qua vừa có trận chiến Tử Thần đè nén lại đã bùng dậy. Đầu gã tựa như nghe tiếng ngâm nga khàn đục hơi rượu của mình mấy ngày trước:
Đối diện nhoẻn cười, xoay mặt ho
Biếng lười sinh chứng chẳng cần lo
Chỉ có tương tư từng trở bệnh
Mưa phùn áo mỏng gượng nằm co.
Thương tâm ngày xưa, mê loạn ngày xưa, xót xa ngày xưa, ôn nhu ngày xưa... Biết bao nhiêu mà kể, một tình cảm không thể nào nói rõ được nhất thời lẩn quẩn dày vò đầu óc gã.
Hàn Ngạc chợt cảm thấy khát, quay đầu nói với Tiểu Kế vừa tới: "Tiểu Kế, bọn ta đi uống chút gì cho thấm cổ đi".
Vu Tiểu Kế vốn rành quan sát nét mặt, thấy gã nói như vậy, nó ngoan ngoãn gật gật đầu. Con lừa dựa sát Ban Chuy, nó với Hàn Ngạc lỏng dây cương, từ từ đi về phía hàng rượu.
Còn chưa tới, Vu Tiểu Kế phải ngẩn người, thấy trước cửa tửu gia xưa nay hoang vắng lại tụ tập khá nhiều ngựa xe, ít ra cũng mười mấy chiếc xe ngựa, hai mươi mấy thớt ngựa. Còn chưa đợi Vu Tiểu Kế định thần, lại đã thấy Hàn Ngạc cau mày, một người ra khỏi cửa quán nghênh đón, vẫn là Khu Tấn. Hắn cười lớn nói: "Hàn huynh, Hàn huynh, tại hạ đợi lâu lắm rồi, tới bây giờ cuối cùng đã đến".
Hắn kêu lớn: "Các vị, các vị, Thái Bạch kiếm khách Hàn huynh đã đến".
Hắn ngóng vào nhà mà kêu. Vừa dứt lời, thấy không ít người ùa ra khỏi quán, cũng hơn ba chục có. Hàn Ngạc cau mày, lại nghe Khu Tấn nói: "Hàn huynh cao thượng khẳng khái, giúp người gặp nạn, đánh đuổi kẻ địch xong là lập tức bỏ đi, không kể công lao, thực là một hảo nam nhi, rất có phong độ! Nhưng tiểu đệ lại không thể để Hàn huynh đi khơi khơi như vậy, dễ gì có Hàn huynh đến Lạc Dương, ở đây dù sao ta cũng phải giữ tình địa chủ chứ, đâu thể không lo nâng chén tống tiễn, cứ để Hàn huynh đi không không như vậy cho được? Làm vậy, không chỉ danh gia lớn nhỏ trong Lạc Dương thành oán ta, huynh đệ giang hồ e rằng cũng trách tiểu đệ sao vô tình đến thế, sao lại để lỡ dịp gặp gỡ hiếm có này? Cho nên tuy biết Hàn huynh vốn là đấng cao nhân ẩn sĩ, chuyện phá mất hứng này tiểu đệ vẫn phải làm thôi".
Hắn mở miệng là cười tươi, làm ra vẻ thân thiết thành khẩn, Hàn Ngạc cho dù thích yên thân một mình cũng không thể nhăn nhó bực bội gì hắn. Đám người ra nghênh đón già trẻ gì cũng có, lại nghe Khu Tấn giới thiệu thao thao bất tuyệt: "Hàn huynh, vị này là Triệu lão chấp chưởng môn hộ 'Thái Bình Đao' lừng danh Lạc Dương, vị này là Ngô sư huynh của 'Hà Lạc tiêu cục', vị này là 'Trấn Tháp Thủ' Đồ huynh...". Gã nhớ mặt thực hay, một hơi báo danh hơn ba chục người. Cổ Siêu Trác cũng có mặt trong đám, lại không có ý chen lên. Hàn Ngạc lúc vái trả xã giao với người ta đã thấy hắn, lợi dụng người ta không chú ý, nhìn hắn cười khổ. Cổ Siêu Trác cũng mỉm cười, gật gật đầu với gã, nụ cười đầu môi có vẻ như: ngươi chỉ mong vác gươm đi một vòng, không để nhuốm bụi trần, nào ngờ đến lúc đi còn có người quậy cho mưa gió dậy toàn thành, lọng mão chắn lối hả?
Vu Tiểu Kế thấy người đông, nó không còn thái độ đùa phá với Hàn Ngạc như lúc bình thường. Nó xuống lừa, tiếp lấy dây cương trong tay Hàn Ngạc, im lặng dẫn Ban Chuy đi an trí, tay chân mặt mày đều rất ngoan ngoãn. Hàn Ngạc đang khổ não đáp trả mọi người, thoáng thấy vẻ đằm thắm của nó, không kềm được cười thầm: không nói thì người ta làm sao biết được đứa bé đó ngày thường đâu có ngoan đến thế? Lòng gã nảy sinh cảm giác hối tiếc, mình thường hay chán ghét giao du với người ta, cảm thấy trên thế gian dù có nhiều cái tốt đẹp, lại đều là vẻ bề ngoài, khách sáo quá, giả dối quá, không thiết thực quá, nhưng thực ra vẫn có những thứ chân thực, đáng để quý trọng vĩnh viễn đó chứ.
Gã đi sang nắm vai Tiểu Kế, mượn dịp để tránh đám người khách sáo gã không chịu nổi kia, ôm vai nó đi vào hàng rượu. Có người nói: "Đúng là Hàn huynh chuyến này đã lấy lại chút khẩu khí cho đám huynh đệ . Người trong Tử Thần luôn luôn tự cao tự đại, không coi hào kiệt trong Lạc Dương thành ra gì, bọn tôi nể mặt Hoàng thượng nên nhịn chúng đã lâu. Hàn huynh đánh chúng chạy có cờ, thực hay quá!".
Nói xong người đó còn vỗ vai Hàn Ngạc nữa. Hàn Ngạc cười cười liếc nhìn hắn, lại là tên võ sư của tiêu cục gì gì đó trong Lạc Dương thành. Tiểu Kế lén nhìn gã cười lưu manh, Hàn Ngạc nhéo vai nó, miệng xuề xòa: "Không dám không dám, thẹn quá thẹn quá".
Tiểu Kế đau điếng, lại không dám kêu lên, mặt mày càng láu lỉnh, hí hửng được che đậy chút bí mật chút tâm tư với riêng Hàn Ngạc --- Đời người... đời người thực lắm niềm khoái lạc bé nhỏ, lắm vẻ thân mật nhỏ bé, có thể kiến lập chỉ qua một động tác tí xíu xìu xiu trong bất chợt. Đó là trong đầu hai người có cùng một thế giới nho nhỏ, tuy không lớn, tuy bé hẹp, nhưng lại là nơi duy nhất hai người có thể phó thác tâm linh để kháng cự lại ngoại vật kề cận, chút rủ rỉ tầm phào tán láo duy nhất mà hai người âm thầm hợp tác với nhau.
Hàn Ngạc bất lực ngồi xuống, đám đông vào chỗ chén chung rổn rảng, quát tháo gọi rượu. Lại có người nói: "Đời người từ ngàn xưa đã có tình si, chuyện này không phải dính dấp tới gió trăng. Hàn huynh, Hàn huynh, huynh thực là một người chung tình đó".
Lúc lời nói đó vang lên, ai nấy cũng im phăng phắc. Mọi người đều biết cố sự về Hàn Ngạc và Phương Ninh, lại không ngờ có người ngang nhiên nhắc tới. Cả đám đang chờ xem phản ứng của Hàn Ngạc ra sao rồi mới tiếp lời.
Hàn Ngạc bực dọc, thực không thể đáp trả được nữa, nhưng ngoài mặt gã vẫn mỉm cười, cúi đầu nhấm nháp, không nói gì hết. Gã lại cảm thấy cực kỳ chán ghét: vậy là sao? Nói vậy mà không cảm thấy đường đột sao? Tương tư, sầu muộn, bất kể ra sao cũng chỉ là chuyện của riêng ta, mắc mớ gì phải treo nơi đầu môi chót lưỡi của các người, thành đề tài cho các người bàn tán, tô vẽ màu mè bôi đông trét tây để tăng hứng khởi cho cuộc sống khô khan cùng quẫn của các người.
Nhưng ngoài miệng gã cũng không nói gì, vì gã biết một khi lắm chuyện sẽ phải lấm bụi trần, bản chất câu chuyện sẽ bị biến đổi. Bất kể người trong chuyện có chân thành đến đâu, kẻ xung quanh đều chỉ coi đó là một vụ hoạt náo, một chuyện để ngồi lê đôi mách. Trong tai gã tựa hồ lại vang lên lời nói dưới Đổng gia Tửu lâu của Lữ Tam Tài trước khi y đi, chợt minh bạch Khu Tấn tại sao lại giương cờ gióng trống triệu tập đám đông đến tiễn gã. Hắn đã thành công mượn sức gã cản không cho Tử Thần xen tay vào chuyện trong Lạc Dương thành, hắn là người của Lạc Dương vương phủ, bây giờ chắc là nhóm không muốn mình ở lại Lạc Dương thành nhất. Cho nên bọn hắn mới tống tiễn rầm rộ như vầy, thậm chí còn lợi dụng mối tình của gã, chụp cái mũ "thanh cao" lên nỗi tương tư nhung nhớ của gã. Đó là muốn ép gã thanh cao đến vĩnh viễn không gặp Phương Ninh nữa, vĩnh viễn không vào Lạc Dương thành nữa.
Nghĩ đến đó, gã không khỏi cau mày: khà khà, Hàn Ngạc... Hàn Ngạc... ngươi tuy tình bất đắc dĩ, ngẫu nhiên lọt vào mối tình khác thường, một mối tình còn có ẩn tình, nhưng đâu phải để một đời bị người ta nắm cán chứ?
Hàn Ngạc thầm nghĩ: thực ra cái bọn họ gọi là "tình si" có khác gì "gian phu dâm phụ" mà Lữ Tam Tài nói chứ? Nếu có người dùng đạo đức luân lý, phu phụ luân thường mà nói thẳng, Hàn Ngạc tuy lưng không đẫm ướt mồ hôi, cũng phải rét run thụ giáo --- Vì gã tuy không cho mối tình này là một sỉ nhục, ít nhiều vẫn gìn giữ phần đạo đức mà gã tôn trọng xưa nay, phải tôn kính lời nói đó. Còn những kẻ kia có dùng hai chữ "tình si" bình phẩm đến đâu đi nữa, cũng đâu có khác bốn chữ "gian phu dâm phụ". Hàn Ngạc chỉ biết cười khổ, hoàn toàn không tôn kính chút nào. Vì gã biết những lời bình đó chỉ xuất phát từ lợi ích trước mắt của chúng --- Thực sự mà nói, đối với đại đa số kẻ trong vòng công danh lợi lộc, trên thế gian này làm gì có cái gọi là đạo đức? Đạo đức bất quá là vũ khí có thể dùng để tán tụng người giúp cho chúng được lợi, để đả kích người tranh giành lợi lộc với chúng mà thôi. Lời tán tụng đầu môi chót lưỡi như vậy có thể biến đổi theo thời. Cho nên đậy nắp quan tài rồi hãy định luận --- vì chỉ có người chết mới không còn tranh giành lợi ích với người còn sống nữa. Cũng chỉ có người chết mới có thể trông mong thu hoạch được chút công bằng lẽ phải mà người sống vĩnh viễn không thể đạt được.
Khu Tấn không chịu để không khí im lặng ngượng ngùng, liền cười nói tiếp lời: "Cái khó làm nhất là Hàn huynh trọng tình không để lễ nghi gò bó. Sự khẳng khái cao thượng đó người đời sao bì cho được. Nào nào, đừng nói những chuyện phiền lòng nữa, mọi người cùng cạn chén, mọi người cùng cạn chén".
Người ngồi chật quán liền nâng chén. Hàn Ngạc thấy không có ai chú ý, dõi mắt ra ngoài cửa. Bên ngoài là đường trần hun hút, là đất rộng trời cao, cả một đất trời. Gã thầm nghĩ: bất tất phải dùng cái "cương danh vọng" mà trói buộc ta! Hàn Ngạc ta muốn đi thì tự mình đi, muốn đến thì chẳng có gì ngăn cản được, lúc nên đến vẫn sẽ đến! Bởi đây là chuyện của một mình ta, ta vốn không cần phải diễn xuất một vở "tình cảm đau thương" xứng hợp trong mắt các người.
Nhìn đất trời, lòng gã chợt có một niềm cảm khái cao vời, đây là --- dục bả nhất huy giang hải khứ...
--- Muốn dong cờ đi xa!
Gã thầm thét lên trong bụng. Gã muốn một mình một ngựa, phất ngọn cờ tuy trải bao sương gió mà vẫn đứng thẳng kia, thét lớn, tự do rong ruổi, đem dục vọng và khổ niệm của mình phóng xa, chạy xa, hoàn toàn bất chấp bụi trần đường đời che lấp mặt mũi.
--- Dục bả nhất huy giang hải khứ!
---- Con ngựa, lá cờ, dục vọng, trông mong, bôn tẩu...
Quay mặt lại, người ngồi đầy quán không ai chú ý đến gã, chỉ có Tiểu Kế. Lại cũng là trái tim mẫn cảm của Tiểu Kế đã cảm nhận được ý niềm băng giá trong lòng gã. Nó có hơi lo lắng, có hơi... ngưỡng mộ nhìn gã.
Ánh mắt Hàn Ngạc chợt ấm nồng, ừ, nhân thế vẫn là nhân thế, Tiểu Kế về sau sẽ ở bên cạnh mình. Nói gì thì nói, Vu Tiệp trước khi chết đã phó thác nó cho mình. Gã muốn cho nó một sự tự do không phải hoàn toàn chẳng chút khoái lạc như mình --- Tự do không khoái lạc thì có ích gì chứ? Gã phải đem hết những ngọt thơm trong nhân thế cho nó hưởng dụng. Đâu có sợ giả tạo gì, khoái lạc trong nhân thế cũng chỉ có bấy nhiêu thôi.
Vì vậy, gã còn phải giao thiệp với thế giới này. Hàn Ngạc không còn cau mày, mỉm cười cạn chén với người ta, để sự tự do kia khốn khổ gào thét trong đầu gã. Gã còn phải gìn giữ an toàn và một trật tự ổn định cho Tiểu Kế. Gã hy vọng sau này nó có thể sống khoái lạc.
Quyển I: Ban Chuy đợi Chương 20
Dữ nhân vô ái diệc vô sân1
L ợi đại phu tay cầm một vò rượu. Vị rượu cực đắng, tựa như không phải để người ta cảm thấy khoái lạc.
--- Hàn Ngạc cuối cùng đã đi ra khỏi hàng rượu, thoát khỏi những trói buộc câu thúc xã giao, đã đi được một dặm đường, đụng phải y lúc đi qua một khu rừng tùng.
Lợi đại phu nói rất ngắn gọn: "Ta muốn tiễn ngươi".
Y không nói tại sao không bắt chước đi chung với đám người kia để đưa tiễn.
"Vì cái lần ngươi xuất kiếm bên Thiên Tân kiều".
Y không giải thích tại sao lần xuất kiếm đó lại khiến cho y cảm thấy đáng để đưa tiễn.
Hàn Ngạc liếc nhìn y, thấy sắc mặt y trắng tái, ngón tay rất dài, nhưng rất ổn định, tựa hồ nối liền với thân thể chứ không có gân khớp.
Hàn Ngạc không xuống ngựa, vì Lợi đại phu ra dấu gã bất tất phải xuống ngựa, chỉ muốn một ngồi trên ngựa, một đứng bên dưới nói vài câu ngắn ngủi là được rồi.
Y nói tiếp: "Ta từng gặp mặt Thái Ất lão nhân".
"Mang ơn ông ta, đã thụ giáo được rất nhiều sự".
"Nhưng ta tiễn ngươi không phải vì sư phụ ngươi".
Y không cười, có vẻ chỉ lo trần tình: "Ta tiễn ngươi là vì một kiếm hồi sáng sớm, kiếm ý rõ ràng là 'Giang thượng sa âu lược thủy phân' của Thái Ất thượng nhân nhàn du giang hồ năm xưa. Lâu lắm rồi, ta đâu có ngờ trên thế gian còn có người không dựa vào võ thuật để đánh đổi công danh sự nghiệp, quan chức quyền thế, đã luyện thành một kiếm đó. Ngoài ra, ta tìm ngươi còn có một chút chuyện nhỏ".
Mục quang của y chằm chặp nhìn gã: "Ngươi có bệnh".
Ánh mắt của y nhìn thẳng lên mặt Hàn Ngạc: "Nơi tuổi trẻ không nên đi tại sao lại cứ đi vậy? Ngươi vì vụ án Vu Tự Vọng, có phải đã từng đi qua Bắc Mang sơn?".
Hàn Ngạc gật gật đầu. Gã vốn không phải là người nói nhiều, huống hồ Lợi đại phu vốn không cho gã cơ hội nói.
"Ngươi có phải đã gặp nữ nhân nào đó trên núi?".
Hàn Ngạc nhíu mày, nữ nhân? --- Trên Bắc Mang sơn, quỷ không đầu... tim gã giật thót: lẽ nào thực là A Xu?
Lợi đại phu không nhìn gã nữa, tựa như đã xem bệnh xong, bất tất phải nhìn nữa: "Đôi mày ngươi nặng trịch, ẩn màu xanh sẫm, nếu lão nhân ta đoán không sai, ngươi đã trúng trùng độc. Thứ trùng độc đó tên là 'A Đổ'. Nếu ngươi ham bạc tiền, sau này gặp bạc tiền thì nó phát, Đổ nhập vào phế phủ; nếu ngươi trọng tình, sau này gặp tình nó sẽ phát, Đổ nhập vào tâm can. Đây có lẽ là loại trùng độc khó trị nhất".
Y nói một mạch, nhíu nhíu mày, hoàn toàn chìm đắm vào y thuật của y. Hàn Ngạc lại ngây người, không thể nào --- Gã không phải không tin lời của Lợi đại phu, mà là... nữ tử đó... nếu là A Xu... tuyệt tuyệt đối đối không thể nào hạ trùng độc với gã. Trên thế gian này, tất cả mọi nữ nhân khác đều có thể hạ trùng độc với gã... Gã đờ đẫn... nghĩ đến Phương Ninh... nhưng A Xu tuyệt đối không có lý do.
Gã đột nhiên "a" lên một tiếng, nhớ tới một người khác: người mình xưa nay không hợp, cũng chưa từng thực sự đối diện.
--- Nếu không phải là A Xu, nàng ta là... A Thù? Đại Xu Tiểu Thù lạc ngọc bàn2, hình dáng và thanh âm của hai nàng đều như nhau, cả cái tên đọc lên cũng vậy, nếu là A Thù muội muội song sinh của A Xu thì sao? Mình hình như có đắc tội với nàng ta. Nhưng biết bao nhiêu năm qua rồi, nàng ta vẫn còn hận sao?
Đầu óc Hàn Ngạc nhất thời mơ hồ nghi hoặc. Lợi đại phu mặt mày có vẻ rầu rĩ, cuối cùng thở dài thốt: "Ta nghĩ đi nghĩ lại, nhưng vẫn hoàn toàn không có cách để bắt 'A Đổ'. Vì vậy người hạ trùng rõ ràng đã dùng cách cầm bắt trái tim. Thuật 'Tâm Trùng' này lại là trò cầm giữ của bọn con gái, ta cũng không có cách nào trị. Trừ phi ta có thể bắt ả, mà có bắt được, nếu không hóa giải tâm ma trong tim ả, có giết ả cũng vô dụng".
Y ngước nhìn: "Cho nên ngươi uống chén rượu này cho ta".
Nói xong, y lấy một cái chén màu lục sẫm, đựng chất lỏng đặc dính, nhìn giống như loại rượu nhớt nhợt. Hàn Ngạc không khỏi cau mày, nhưng gã biết gặp phải người như Lợi đại phu, chỉ cần y chấm mình, một khi là bệnh y muốn trị, mình không uống thì y cũng bóp mũi mình bắt mình nuốt.
Lợi đại phu thấy gã cơ hồ tự bóp mũi uống chén rượu cho trôi, mặt mới có vẻ mãn nguyện, lẩm bẩm: "Thứ rượu đó có thể bảo vệ ngươi một năm. Sau này nếu tim gan có gì khó chịu, ngươi cứ đến tìm ta. Nhưng ta cũng không thấy có biện pháp gì hết. Ngươi tốt hơn hết là tìm cô gái đã hạ trùng, tìm cách để ả ta giải nó cho ngươi. Ả ta thế nào cũng có tình với ngươi, nếu nói vậy, thực ra cũng đơn giản thôi, ngươi chỉ cần... làm với ả một lần, thứ trùng đó sẽ tự nhiên không giải mà coi như giải".
Y tựa như hoàn toàn không thông hiểu chỗ ảo diệu rắc rối của yêu đương lãng mạn, liếc nhìn Hàn Ngạc: "Với công phu của ngươi, chuyện đó chắc cũng không khó".
Hàn Ngạc cho dù tính khí phóng khoáng, nghe vậy cũng không khỏi tròn mắt cười khổ
--- Gì đây, Lợi đại phu này xem ra chỉ tinh thông y đạo của y, lẽ nào chuyện như vậy mà đối với y cũng chỉ là vấn đề bé nhỏ trên phương diện y thuật thôi, hoàn toàn không liên can gì đến... đạo đức lễ pháp, tình cảm vun vén đôi bên hay sao?
Gã đang định hỏi kỹ, nhưng còn có Tiểu Kế kề bên. Cho dù không có Tiểu Kế, e là gã cũng phải hỏi một cách ngượng nghịu. Lợi đại phu lại chăm chú nhìn gã vài lượt, lên tiếng: "Tự do... tự tại... Đáng tiếc... đáng tiếc!".
Hàn Ngạc không hiểu y nói gì, lại thấy y thoái lui. Y lui mình thực nhanh, chỉ nghe tiếng nói của y vọng lại từ đằng xa: "Đáng tiếc ta vì lời hứa năm xưa mà lọt thân vào vương phủ, không có cách nào tự do tự tại chu du sông biển như ngươi".
Hàn Ngạc chỉ kịp cười khổ: tự tại...?
Tiểu Kế nói: "Ngạc ca, bọn ta bây giờ đi được rồi chứ?".
Hàn Ngạc giật cương: "Không sai".
Vu Tiểu Kế hỏi: "Ngạc ca, vậy sau này huynh định làm gì?".
Nó ngại không hỏi kỹ, chỉ hàm hồ hỏi một câu như vậy.
Hàn Ngạc đáp: "Trước hết nghỉ ngơi đã, dạy ngươi công phu, sau đó lại đi lo liễu kết đại sự mà tỷ tỷ ngươi phó thác".
"Về sau, dữ nhân vô ái diệc vô sân, là câu đó, không còn yêu cũng không còn hờn người ta nữa".
Tiểu Kế còn ngồi trên ngựa của gã, Hàn Ngạc miễn cưỡng cười nói: "Đi cưỡi con lừa của ngươi đi. Ngươi không thương con ngựa này, ta lại thương đó".
Vu Tiểu Kế nghe lời gã nhảy xuống, cưỡi lừa đi theo. Nó lại bỗng "ối" lên một tiếng. Nó chỉ đằng sau Hàn Ngạc. Hàn Ngạc xoay mình, thấy dưới yên ngựa lộ ra một góc vàng. Gã ngạc nhiên, rút ra xem, sau đó đầu như bị sét đánh. Đó là một cái khăn tay lụa. Khăn tay mềm mại, hơi cũ, bên trên có thêu hình đuôi phượng. Phương Ninh... Phương Ninh... nàng đến hồi nào vậy? Có phải thừa lúc ta còn trong quán rượu, để lại vật này dưới yên ngựa mà không ai phát giác?
Trên khăn tay lại không có chữ nào, chắc Phương Ninh có đến mà lại không có gì để nói. Hàn Ngạc mặt mày khổ não: nàng còn muốn dùng mối tình này trói buộc ta bao lâu nữa? Lẽ nào... kiếp trước ta nợ nàng, đời này chưa hoàn trả đủ? Bao ưu sầu cô khổ, bao đêm không chợp mắt được chút nào, vẫn trả chưa đủ sao?
Lòng gã bồi hồi bối rối, vụt siết chặt tay, chiếc khăn tay tan nát trong lòng bàn tay gã, rơi lất phất xuống đất, sau đó gã giật cương, phi ngựa như bay.
Bọn họ lại không chú ý một tiếng thở dài nhè nhẹ phát ra trong khu rừng xa xa sau lưng. Tiếng thở dài đã dứt lặng một hồi thực lâu, trong rừng mới có một chiếc du bích hương xa3đi ra, bụi đường lơ thơ, quẹo về Lạc Dương thành.
Tiểu Kế thúc lừa đuổi theo sau Hàn Ngạc, nó nghĩ đến thần tình trên mặt Ngạc ca, nghĩ đến câu gã nói: dữ nhân vô ái diệc vô sân. Gã có làm được không? Gã có thể nào làm được không? Khổ một cái gã là một nam nhi đầy huyết tính.
Tiểu Kế chợt ngẩng đầu, gương mặt bé nhỏ lấm tấm bụi đường hiển lộ dáng vẻ kiên quyết: bất kể là sao, bất kể nữ tử kia có đeo đuổi thế nào, bất kể Ngạc ca có sầu muộn đến đâu, vẫn sẽ có một ngày nó giúp Ngạc ca được hạnh phúc khoái lạc.
--- Đúng! Phải, nó muốn gã được khoái lạc.
1 Bài thơ "Thất Đề - nhị thủ" của Tô Mạn Thù có hai câu "Vũ lạp yên thoa quy khứ dã, dữ nhân vô ái diệc vô sân" (Lấy mưa làm nón, lấy khói làm áo tơi mà về, không còn yêu cũng không còn hờn người nữa). Tô Mạn Thù sinh năm 1884, mẹ ông người Nhật, cha người Trung Quốc. Ông là tác gia - thi nhân - phiên dịch gia cùng thời với Lỗ Tấn. Ông từng phiên dịch tuyển tập thơ Byron và tác phẩm "Những người khốn khổ" của Victor Hugo, lúc đó (đầu thế kỷ XX) đã khiến cho dịch đàn đương thời dậy sóng. Năm mười lăm tuổi, Tô Mạn Thù theo người anh họ sang Nhật Bản học, yêu một cô nương người Nhật tên Cúc Tử. Nhưng mối tình của họ lại bị Tô gia phản đối kịch liệt. Bác của Tô Mạn Thù biết chuyện, mắng chửi Tô Mạn Thù làm bại hoại thanh danh Tô gia, đi hỏi tội cha mẹ Cúc Tử. Cha mẹ Cúc Tử nổi giận, đánh Cúc Tử trước mặt mọi người, kết quả Cúc Tử nhảy xuống biển tự tử. Sau này ông xuất gia, bắt đầu cuộc đời gió mưa phiêu bạt. Ông là một tình tăng, từng lấy mối tình đầu với Cúc Tử làm đề tài sáng tác tiểu thuyết tình ái "Đoạn Hồng Linh Nhạn Ký". Ông đã từng vì sự bất hạnh trong tình ái mà quyến luyến chốn thanh lâu, nhưng ông lại có thể giữ thân trong sạch, giữ khoảng cách với các cô gái lầu xanh. Sau khi ông qua đời năm 1918, được chôn ở Tây Linh Kiều, đối diện với mộ của Giang Nam danh kỹ Tô Tiểu Tiểu.
2 Xuất xứ từ câu "Đại châu tiểu châu lạc ngọc bàn" (những hạt châu rơi trên mâm ngọc --- ý nói thanh âm cực kỳ vui tai) trong bài "Tỳ Bà Hành" của Bạch Cư Dị.
Hết quyển I
3 Xem chú thích (2) chương 10.
Tóm t ắt các hồi truyện quyển I: Thiên Tân kiều thượng vô nhân thức Thất thập tam ông đán mộ thân
Họa đồ tỉnh thức xuân phong diện Phượng lâu ninh phụ mỹ nhân ân Oa ngưu giác trung tranh hà sự
Thạch hỏa quang trung ký thử thân Khán tự bình thường tối kỳ quật
Thành như dung dịch khước gian tân Ban Chuy chỉ hệ thùy dương ngạn Bích hải thanh thiên dạ dạ tâm
Y thượng chinh trần tạp tửu ngân Hoàng kim bất đa giao bất thâm Tra thông Bích Hãn vô đa lộ
Thổ thực hàn hoa hựu thử phần
Toàn kiến y quan tựu Đông thị
Hốt di cung kiếm bất Tây tuần
Lâu trung uy phượng khuynh quan thính Giang thượng sa âu lược thủy phân Dục bả nhất huy giang hải khứ
Dữ nhân vô ái diệc vô sân.
Bơ vơ thành Lạc chẳng quen ai
Hồn lão theo chân ngõ Luân Hồi Bần thần bút vẽ người trong mộng Lời hứa lầu son vướng một đời
Chia năm xẻ bảy vòng danh lợi
Tuốt kiếm sao băng tỏa núi đồi
Mộ phần bóng quỷ mời đưa lối
Tra án nào hay phá lứa đôi
Hẹn nàng lìa bỏ khuôn phàm tục Thiếp nặng nợ trần khó thả trôi
Rượu mềm môi miệng lòng dưng hụt Vàng chói mắt mi nghĩa há vơi
Bâng khuâng sải vó sao đi thoát
Khói lạnh tình thâm nhụy đỏ phơi Tranh giành chém giết không ngưng nghỉ Sai đúng dở hay chỉ nhất thời
Trót yêu cất giọng lần sau chót
Tung cánh hùng anh phút cuối thôi Phủi tay dong ruổi đường thiên lý Còn chút hờn thương gửi đất trời.
Quy ển II: Lũng đầu hành1 Chương 21
Nhân sinh hà xứ bất ly quần2
T ối nhá nhem, núi vật vờ. Một tòa thành thấp thoáng xa tắp nơi dãy núi khuất mình. Rướn cổ nhìn lên, khung trời Quan Trung bao la sâu thẳm. Từ Đồng Quan đến đây, ban đầu địa thế chật hẹp, dần dần thoáng rộng, như một cái túi vải bó miệng. Nghe nói chỉ cần nắm giữ miệng cái túi vải này, người ngồi ở giữa túi có thể làm thánh Quan nội, làm vương Quan ngoại, xưng hùng thiên hạ.
Tr ời cứ âm u một màu xám xịt, tựa hồ nghẽn nghẹt hơi hướm vương đế tích lũy qua biết bao đời. Thỉnh thoảng có một hai màn mưa nặng hột tạt xuống, dội lên đầu cổ, lan vào tim một thoáng lạnh âu sầu. Tiểu Kế ngước nhìn về phía trước, thành trì đằng xa dần dần tỏ rõ. Nó muốn nhìn thực kỹ Trường An --- Trường An được người ta gộp với Lạc Dương tôn xưng là Đông Tây nhị đô, Trường An mà nó từng không biết bao nhiêu lần mơ tưởng trông mong, cũng là Trường An nơi Ngạc ca sinh trưởng --- Trường An thực ra thế nào đây?
1 Vương Duy có bài từ "Lũng đầu ngâm":
Trường An thiếu niên du hiệp khách, dạ thượng thú lâu khán Thái Bạch.
Lũng đầu minh nguyệt huýnh lâm quan, Lũng thượng hành nhân dạ xuy địch.
Quan Tây lão tướng bất thắng sầu, trú mã thính chi song lệ lưu.
Thân kinh đại tiểu bách dư chiến, huy hạ thiên bì vạn hộ hầu.
Tô Vũ tài vi điển chúc quốc, tiết mao không tận hải tây đầu.
(Tạm dịch:
Trường An trai trẻ lòng hào hiệp, lầu gác đêm về ngắm ánh sao.
Lũng Tây trăng chói ngời quan ải, lữ khách sầu tư tiếng vút cao.
Biên thùy lão tướng ôm niềm tủi, dừng ngựa đôi dòng tỏ nỗi đau.
Xông pha từng trải gươm cùn mẻ, bè bạn ngựa xe thắm cẩm bào.
Tô Vũ cờ mao sờn nắng gió, ngày về có thỏa chí anh hào?)
Hai câu đầu tả một thiếu niên người Trường An tràn trề hào khí du hiệp ban đêm lên gác canh ngắm sao "Thái Bạch", biểu hiện tráng chí hào tình khát vọng lập công biên thùy của chàng ta.
Câu 3-4 xuất hiện viễn cảnh trăng chiếu núi Lũng (đất Lũng là vùng Cam Túc, một tỉnh phía tây bắc Trung Quốc, xưa gọi là Lũng Tây): đêm trăng sáng lạnh, vùng biên tái hoang lương, "lữ khách đất Lũng" đang dùng tiếng địch ký thác nỗi sầu tư của mình. Nếu nói thiếu niên Trường An là ảo tưởng trong đầu, thì lữ khách đất Lũng là hiện thực đang trải qua.
Câu 5-8, từ người lữ hành thổi địch, dẫn đến lão tướng miền Quan Tây nghe tiếng địch. Vị lão tướng miền Quan Tây này đã từng trải trăm trận, kiến lập biết bao quân công, đó không phải chính là mục tiêu theo đuổi của thiếu niên Trường An sao? Nhưng lão tướng lập được công thì sao? Các phó tướng bộ hạ có người đã thành Vạn Hộ hầu, còn lão thì trầm luân vùng biên tái! Lão tướng Quan Tây nghe tiếng địch dừng ngựa, không cầm được nước mắt, hàm ẩn biết bao đắng cay chua chát!
Lão tướng Quan Tây tại sao lại có tao ngộ như vậy? Tuy không nói rõ, nhưng hai câu cuối dẫn dụng điển cố Tô Vũ. Tô Vũ đi sứ Hung Nô bị bắt giữ, bảo vệ cờ tiết chăn dê mười chín năm ở biên giới Bắc hải, đến nỗi lông mao trên cờ tiết cũng đã rụng hết, tận trung báo quốc, sau này được quay về nước cũng chỉ làm tới chức Điển Chúc Quốc, chức quan nhỏ lo sự vụ ngoại giao với dân tộc thiểu số. Bề ngoài câu lời tựa có vẻ đang an ủi lão tướng Quan Tây, nhưng thực tế tác giả đã so bì Tô Vũ với lão tướng Quan Tây, giảng giải tao ngộ của lão tướng Quan Tây không phải là ngẫu nhiên, không phải là cá biệt. Công lớn mà thưởng nhỏ, công nhỏ mà thưởng lớn, triều đình bất công, xưa nay vẫn vậy.
Qua mười câu thơ ngắn, tác giả đã đem ba nhân vật thiếu niên Trường An, người lữ hành đất Lũng, lão tướng Quan Tây đan lồng vào cảnh tình ngắm sao trên gác canh, thổi địch giữa đêm trăng, dừng ngựa rơi nước mắt, hình thành đối chiếu rõ rệt. Thiếu niên Trường An của hôm nay không biết có phải là người lữ khách đất Lũng của ngày mai, là lão tướng miền Quan Tây ngày sau? Còn lão tướng Quan Tây ngày nay không biết có phải là lữ khách đất Lũng hôm qua, là thiếu niên Trường An ngày trước? 2Đời người ở đâu mà không có ly biệt?, là câu trong bài thơ "Đỗ Công bộ Thục Trung ly tịch" của Lý Thương Ẩn.
Con l ừa đen chợt khịt một tiếng, một chùm hơi nước phún khỏi mũi nó, hòa lẫn vào bóng tối lành lạnh, khói chiều đượm thêm hơi thở loài vật, cũng thoáng bềnh bồng chút nét vẻ sống động.
Hàn Ng ạc hình như nhận ra nỗi thất vọng trong mắt Tiểu Kế, cười thốt: "Hôm nay khí trời không được tốt. Ngày thường tòa thành đó không phải vậy đâu". Gã giơ tay chỉ về hướng nam: "Bây giờ nhìn không thấy thôi. Nếu gặp trời trong lành, từ đây nhìn qua phía nam có thể thấy được Chung Nam Sơn. Nhãn lực mà tốt thì còn có thể nhìn thấy Thái Ất Phong nữa... Đó là nơi ta luyện võ hồi nhỏ".
Ti ểu Kế gắng giương mắt nhìn về hướng nam, nhưng không thấy gì hết. Đầu nó lại đang tưởng tượng giữa bầu trời xám xịt mịt mù: Thái Ất Phong, cái tên nghe hay quá! Nghe tựa như có một thứ màu sắc xám bạc, một thứ thanh âm hạc lệ mây ngàn, giống như danh hiệu "Thái Bạch kiếm khách" của Ngạc ca, cũng giống như "Trường Canh" --- Sao "Thái Bạch" không phải cũng gọi là "Trường Canh" sao? Không lạ gì trường kiếm của Ngạc ca lại gọi là "Trường Canh", mỗi khi rút ra tỏa ngời ánh sáng bạc.
Hàn Ng ạc thốt: "Một dải Trường An thực ra rất vui. Trong thành cũng rộn ràng như Lạc Dương. Vui nhất vẫn là ngoài thành. Mùa xuân, đến mùng ba tháng ba, ngươi lại thấy có biết bao nam thanh nữ tú ăn mặc lụa là đi du ngoạn Khúc Giang trì3 --- Trang phục của con gái ở Trường An thành lại không mấy giống Lạc Dương. Ở Lạc Dương ta thấy cô gái nào cũng áo rộng, ống tay áo thùng thình, con gái Trường An thành lại vẫn giữ phong tục thích mặc Hồ phục4 của tiền triều, cổ áo tay áo chật, hông bó sát. Bọn họ thích thắt đai lưng gắn đầy đồ trang sức, châu có ngọc có, áo bó sát vào thân hiển hiện eo thon, thực mềm mại xinh xắn".
Gã k ể mà mỉm cười, như nhớ tới hồi xưa Phương Ninh có lúc hiếu kỳ, cũng học ăn mặc theo đám con gái Trường An, mang thắt lưng kiểu đó, cái eo thon như vậy vốn phải có một bàn tay gầy cứng ôm vòng qua có phải không?
Tim gã co th ắt, lắc lắc đầu, tựa hồ muốn dứt bỏ ý tưởng thoáng qua: "Mùa đi chơi vui nhất trên Lạc Du nguyên lại không phải là mùa xuân, mà là mới vào đông. Lạc Du nguyên của đầu đông một màu trắng tái --- hơi nước mênh mang biến thành sương mai trắng xóa, trời đất u ám. Không khí dần dần chuyển lạnh, tung vó trên bình nguyên tĩnh lặng, ngươi có thể nghe thấy thanh âm nước đọng cuối thu tanh tách dưới vó ngựa dần dần biến thành tiếng lất phất dờn dợn của sương mỏng đầu đông, khe khẽ cơ hồ không thể nghe được. Mà ngươi cũng không cần phải lo màu sắc quá tang tóc, trên thảm cỏ ràng rịt sương khô sẽ ánh lên một lớp hào quang, vì chân trời bắt đầu dâng hiện vầng thái dương màu lòng đỏ trứng gà, chiếu rọi lên mình ngươi, hà hơi ấm từ xa xăm...".
3 Khúc Giang trì là khu phong cảnh trứ danh thời nhà Đường, góc đông nam Trường An thành, dòng nước khúc khuỷu nên đặt tên như thế. Đến thời Tần kêu là Khải châu, có xây cung điện ngoài thành gọi là "Nghi Xuân uyển". Thời Hán đào kênh, sửa lại thành "Nghi Xuân hậu uyển" và "Lạc Du uyển". Thời Tùy lúc dời đô, Vũ Văn Khải cho đào thành hồ. Tùy Văn đế gọi hồ này là "Phù Dung trì", gọi vườn là "Phù Dung viên". Thời Đường Huyền tông khôi phục lại tên cũ, gọi là "Khúc Giang trì", còn vườn vẫn giữ tên "Phù Dung viên". Khúc Giang trì trở thành thắng cảnh của Trường An, mở cửa có định kỳ, lễ Trung Hòa (mùng 1 tháng 2, Nông lịch) và Thượng Tị (mùng 3 tháng 3) là hai ngày lễ đông người du ngoạn Khúc Giang trì nhất, các ngày cuối tháng - ngày lễ Trung Nguyên (rằm tháng bảy) - lễ Trùng Dương (mùng chín tháng chín) cũng rất náo nhiệt.
4 Hồ phục là y phục người Hồ thời cổ đại, tức là phục trang của các dân tộc thiểu số vùng tây bắc Trung Quốc (lịch sử gọi dân tộc phương Bắc là "Hồ"), khá khác biệt với phục trang Hán tộc Trung Nguyên rộng thùng thình. "Hồ phục" trong sử sách là áo ngắn, quần dài, mang giày da, y phục bó sát, tiện lợi cho hoạt động. Vì Hồ phục nhẹ nhàng tiện lợi, rất thực dụng, cho nên mau chóng lan truyền vào quân đội và dân gian. Thời Đường còn lưu hành thêm Hồ phục của các quốc gia vùng Tây Vực cho tới Ấn Độ - Ba Tư. Tranh lụa vùng Tân Cương - Thổ Lỗ Phồn - A Tư Tháp Na vẽ phụ nữ mặc Hồ phục luôn luôn có mang thắt lưng da ngang hông. Thắt lưng da vốn là trang sức của dân tộc phương Bắc, truyền vào Trung Nguyên thời Ngụy - Tấn.
Hàn Ng ạc kể mải miết. Gã ít khi kể lể dài dòng như vậy, nào là bắn ưng, nào là đua ngựa, nào là săn thỏ... toàn kể đến những chuyện vui chơi thỏa thích ở Trường An thành, một lòng muốn giúp Vu Tiểu Kế vui bụng.
Vu Ti ểu Kế ban đầu còn cảm thấy cao hứng, không phải vì nội dung lời nói, mà vì Ngạc ca ít khi hứng chí đến thế --- Vì mình, Ngạc ca không ngờ chịu giả ra vẻ cao hứng.
Nhưng nghe đi nghe lại, Vu Tiểu Kế lại cảm nhận được một niềm bi thương: Ngạc ca kể nãy giờ, không ngờ... không ngờ chẳng có bằng hữu nào cả. Không có người... không có người cùng vui chơi với Ngạc ca... Ngạc ca tập võ chắc cũng gian khổ lắm, không lạ gì vừa gặp Phương Ninh là liền trở thành tri kỷ, ôm ấp mối tình một đời, khó quên khó bỏ đến thế.
Vu Tiểu Kế nghĩ tới thời thơ ấu của mình, nói gì thì nói, cha mẹ dù có qua đời, trong ký ức của nó toàn là phá quậy, nói cười ríu rít. Chỉ cần ở nhân gian, có lửa có khói, vậy cũng là hạnh phúc rồi phải không? Nó chợt ngước nhìn gương mặt có vẻ tái nhợt giữa bóng tối xám lạnh của Hàn Ngạc, thầm nghĩ: Ngạc ca võ nghệ tuyệt luân, Trường Canh trong tay, thực có đáng ngưỡng mộ không?
Một đứa bé trai luôn học theo một nam nhân mà nó ngưỡng mộ trong thời kỳ trưởng thành. Tiểu Kế nhìn Trường An thành xám mờ đằng xa... Trường An màu xám --- nhưng Ngạc ca không tin Trường An thành màu xám. Cho dù Vu Tiểu Kế từ nhỏ sống ở tuốt Lạc Dương, nhưng qua miệng người ta kể, qua lời nói đầu đường xó chợ, nó cảm thấy ở Trường An, trung tâm quyền thế của đất nước, cuộc sống và những tranh đấu toàn là một màu xám. Nhưng Ngạc ca không tin --- Người nào tính đó phải không? Khoé môi của Tiểu Kế nhoẻn lên, thầm nghĩ: Ngạc ca có thể là vầy, Ngạc ca không đếm xỉa đến hiện thực xám xịt kia, trong đầu trong mắt trang điểm một ánh sáng bạc chói lọi cho nơi Ngạc ca sinh ra và lớn lên, cho dù tận đáy lòng thực ra lại là một màu ảm đạm. Ngạc ca đã thích như vậy thì đã sao?
Vu Tiểu Kế đầu óc nghĩ ngợi, mặt lại không hiện vẻ suy tư. Nó tuổi tác không lớn, chưa đầy mười bốn, nhưng vì từng trải khổ nạn từ nhỏ, vóc bé mà tâm tư lại không bé tí nào. Có rất nhiều chuyện người lớn cho là nó còn chưa hiểu, thực ra nó đã hiểu từ lâu. Chỉ là lúc không nên nói, nó tuyệt đối không nói ra. Nó kéo dây cương của Hàn Ngạc, cười hì hì: "Ngạc ca, bọn ta bây giờ đi tới Thái Ất Phong nơi huynh ở hồi nhỏ chứ?".
Hàn Ngạc lắc lắc đầu: "Không, bọn ta... tiến vào thành".
"Tiến vào thành?".
Mặt mày Hàn Ngạc bình tĩnh, gã giơ ngón giữa: "Đi tìm chủ nhân của cái này".
Trên ngón tay của gã có đeo một chiếc nhẫn bạc, mặt trong của chiếc nhẫn có khắc hai chữ :Tử Thần. Hàn Ngạc thốt: "Đây là chuyện tỷ tỷ của ngươi giao phó cho ta lúc lâm chung, chưa làm xong, ta thủy chung cảm thấy bất an trong lòng. Ta chỉ biết chuyện trong ngõ Luân Hồi có liên quan tới vật này, cho nên bọn ta phải tiến vào thành".
Lúc gã đề cập tới Vu Tiệp, lời nói rất dịu dàng, giống như các cô gái khác mà gã từng nhắc đến: Phương Ninh, A Xu... Những cái tên đó Vu Tiểu Kế cũng thường nghe gã nói đến một cách rất dịu dàng. Điều này khiến cho Vu Tiểu Kế cảm thấy Ngạc ca thực là yêu thích con gái, yêu thích những cô gái mà gã khờ dại cho là họ hoàn toàn chưa dính nhiễm bụi bùn trần tục. Bên trong sự yêu thích đó ẩn hàm một thứ ý vị nam tử trẻ trung tốt bụng khờ khạo, nhưng... Vu Tiểu Kế há há mồm, lại không nói gì hết.
o0o
Chỉ cần đi trễ chút xíu nữa, bọn họ có thể phải ở ngoài cửa thành chờ tới ngày mai. Vu Tiểu Kế đang nghe tiếng cửa thành khép lại không xa khách điếm này mấy. Hàn Ngạc dưới ánh đèn rút một vuông lụa ra, là vuông lụa gã nhặt được trên ngôi lầu nhỏ trong khu nhà của Dư gia ở ngõ Luân Hồi. Lụa rất cũ, nhưng chất liệu rất tốt. Có điều tốt đến đâu thì cũng teng beng như cỏ rối. Những ngày qua cứ bận bịu bối rối, tâm tình không được bình tĩnh, cho nên Hàn Ngạc còn chưa có dịp đem ra xem kỹ. Vết mực trên lụa khô quánh mong manh, chỉ có hai hàng chữ, phải ngó thực kỹ mới có thể nhận ra được:
Mối họa Thái tử, diệt môn sắp tới,
Ngõ Luân Hồi này, không thể nương nhờ!
Đây là lần đầu Hàn Ngạc xem kỹ chữ trên vuông lụa, mặt mày gã liền biến sắc. Từ lâu gã đã hoài nghi trường huyết án ngõ Luân Hồi có dính líu sâu xa với cung đình triều dã, lời cảnh báo trên vuông lụa rõ ràng là một ấn chứng cho suy đoán của gã. Gã ngẩng đầu nhắm mắt ngẫm nghĩ: Dư Hoàng hậu, Dư Quốc trượng, Tử Thần, Vu Tự Vọng, Ngũ Giám, Cửu Tự, thậm chí còn dính dấp tới Phương Ninh cùng Thành Nam Tính nơi nàng xuất thân... thêm vào câu "Mối họa Thái tử, diệt môn sắp tới", không phải đã nói rõ rồi sao? Nói rõ vụ huyết án diệt môn này có liên quan đến đấu tranh thâm cung đại nội đương kim! Thì ra ngõ Luân Hồi trước khi gánh thảm họa diệt môn đã từng được một người trong Tử Thần cảnh cáo, nhưng người đó đã được xếp tên vào danh sách Tử Thần, sao lại còn có thể bị ngươi ta chém đứt đến cổ tay? Kẻ có thể chém đứt bàn tay y là ai đây chứ?
Hàn Ngạc nhẩm tính tới các cao thủ thời nay, gã thò tay búng nhẹ lên góc giường, lần đầu tiên ớn lạnh tận đáy lòng khi nghĩ đến Vu Tiệp --- Cô gái đó không ngại hy sinh, thực ra muốn kéo mình lún sâu vào vũng lầy đến mức nào đây? Tâm tư gã khá tinh tế, đột nhiên cau mày hỏi: "Tiểu Kế, ngươi và tỷ tỷ của ngươi thực ra họ Vu hay họ Dư? Các người có phải là thân quyến còn sót lại của Dư Quốc trượng trong ngõ Luân Hồi không?".
Nếu không phải chuyện quan hệ trọng đại, gã cũng không muốn hỏi truy Tiểu Kế như vậy. Vu Tiểu Kế ngập ngừng đáp: "Là họ Dư. Tôi nghe tỷ tỷ kể năm xưa một người bà con xa của Dư gia đã phản bội, chính là Vu Tự Vọng. Sau khi y phản môn, hại chết toàn gia, y đã đổi thành họ Vu. Tỷ tỷ hận y nhất, nói ngày nào chưa báo được mối thù toàn tộc, ngày đó hai chị em bọn tôi cũng phải mang họ Vu của Vu Tự Vọng, lấy đó làm sỉ nhục, quyết chí báo thù vĩnh viễn không ngưng nghỉ".
Miệng nó nói vậy, nhưng đối với mối thâm cừu đại hận mà Vu Tiệp nhắc nhở hàng ngày đó lại không có vẻ cảm thấy sâu nặng gì. Có thể cũng là vì bản tính vô tư của nó, chuyện quá khứ cũng đã qua, đâu phải phiền não vô ích vậy chứ. Hàn Ngạc nhìn nhìn nó, có vẻ trầm tư hỏi tiếp: "Nghe tỷ tỷ ngươi nói --- bao gồm cả những gì ta nghe được --- mười sáu năm trước, ngõ Luân Hồi toàn gia đều bị diệt, không còn lại người lớn nào. Tỷ tỷ của ngươi chắc cũng cỡ mười tám, mười sáu năm trước ngươi chưa ra đời, Dư gia mười sáu năm sau đâu còn ai, sao ngươi lại có thể là con cháu côi cút của Dư gia cho được? Nếu ngươi là người của Dư gia thì cha mẹ ngươi là ai? Vu Tiệp có phải là chị ruột của ngươi?".
Tiểu Kế bị gã hỏi cũng ngẩn người: phải a! Biết bao lâu nay hàng năm nó đều phải nghe tỷ tỷ kể lại một lần về mối thù diệt môn, đã thành thói quen coi đó là lẽ thường, nhưng điểm then chốt này lại chưa từng nghĩ đến. Nó nhất thời khó tránh khỏi trầm tư mặc tưởng: Dư môn nếu thực đã bị diệt sạch mười sáu năm trước, tại sao mình chưa đầy mười bốn tuổi lại được coi là cô nhi của Dư gia? Nếu tỷ tỷ nói thực --- chị ta nói già trẻ nhà họ Dư, trừ chị ta trốn thoát ra, không còn ai chạy thoát được, vậy mình ở đâu ra? Nhất thời thấy trên trán nó toát mồ hôi --- "Ta là ai? Vậy ta là ai đây?".
Bụng nó ngờ vực, miệng không khỏi thì thầm thành tiếng: "Vậy tôi là ai?".
Hàn Ngạc thấy bộ dạng của nó, lòng không khỏi cảm thấy hối hận, kéo nhẹ nó sang gần bên, vỗ vai nó nói: "Ngươi đừng nghĩ lung tung nữa, nghĩ nhiều vô ích, bất kể ngươi là ai, ngươi vẫn là tiểu đệ của ta".
Vu Tiểu Kế ngước đầu, ngây ngô nhìn gã. Nó từ bé thiếu vắng thân nhân, tuy nói trong Lạc Dương thành có một người cậu, thực ra nào có biết ông ta là cậu thế nào, bất quá tỷ tỷ cứ đổ cho nó một ông cậu là xong. Ngay từ đầu nó đã cảm thấy thân thế lai lịch của mình là một màn hư ảo, trừ trường huyết án mà tỷ tỷ của nó kể đi kể lại cho nó nghe
-- mà huyết án đó kể không biết bao nhiêu lần lại vẫn phảng phất chỉ là chuyện xưa của người nào khác --- tất cả mọi sự đều mờ mịt, không thể nắm bắt được. Hôm nay cả người chị kia tựa hồ cũng không thể tin cậy được, vậy mình thực ra là ai đây?
Bàn tay nó nhè nhẹ nắm giữ chéo áo của Hàn Ngạc, ngón tay mân mê đường chỉ trên áo. Y phục của Hàn Ngạc sờn cũ lắm rồi, lại dơ nữa, có một sự mềm dịu khó tả, cũ mềm đến mức khiến người ta cảm thấy thân quen --- tựa hồ... nó phải mân mê như vậy mới có thể cảm thấy trên thế gian này còn có một Ngạc ca có liên quan với nó, trên thế gian này nó thực sự còn tồn tại.
Quyển II: Lũng đầu hành Chương 22
Chúng trung phủ ngưỡng bất tài thân1
B ất cứ người nào có ý định ban đêm xâm nhập Tử Cấm thành, trái tim khó mà tránh khỏi đập thình thịch muốn lọt ra ngoài. Đừng nói gì tới bá tánh tầm thường, cho dù là danh gia võ thuật, kẻ dám tự phụ vào tu vi, lợi dụng bóng đêm để xâm nhập cũng chẳng có mấy ai. Hàn Ngạc chờ nửa đêm lẻn vào Hoàng thành. Gã đang đứng bên ngoài tường đầu tây Hoàng thành. Bên trong tường là Tử Cấm thành. Gã hít sâu một hơi: đương kim thiên hạ, nếu nói còn có nơi nào gã không muốn đi, cũng không dám đi, đó phải là... Tử Cấm thành này.
N ơi gã muốn tìm trong cung thành là Dịch Đình cung. Gã muốn kiếm một người, người đó có thể sẽ nói cho gã biết lai lịch của vuông lụa này. Nhưng nghĩ tới lời dặn dò của sư phụ năm xưa, gã không tránh khỏi có chút trù trừ. Vu Tiệp lúc lâm chung tuy phó thác cho gã, nhưng chuyện trọng đại như vậy, hơn nữa còn vi phạm quy củ của sư môn, có lẽ gã vốn có thể khước từ mà, phải không? Tuy nói làm vậy thì lòng dạ bất an, nhưng con người ở đời, có mấy ai chuyện gì cũng có thể vừa lòng? Có điều... còn Tiểu Kế...
Gã ngh ĩ đến thần tình trên mặt Vu Tiểu Kế, không khỏi nghiến răng: phạm quy củ thì phạm quy củ! Vu Tiệp đã chết, cho dù có phụ lòng nàng ta cũng cho qua được, nhưng gã không thể nào để Tiểu Kế trọn đời lọt trong hoàn cảnh hoang mang không thể nào biết lai lịch xuất thân của mình. Gã nhắm mắt lại, lặng lẽ đếm trong đầu: "Một, hai, ba...".
Gã không ph ải đang tính toán gì, mà là đang đếm người trong Tử Thần --- "Tử Thần bát vệ, thanh chấn cửu trùng", dõi mắt khắp giang hồ, bất cứ một ai trong số "Thất Tú Nhất Cực" đó cũng là hảo thủ võ lâm bậc nhất. Kẻ mình từng đụng đầu chỉ bất quá là "Nhất tinh như nguyện khán đa thì" Cung Diệc Tinh xếp hàng thấp nhất trong Tử Thần và "Tam công tử" Lữ Tam Tài, còn "Nhị ca ca" Ngải Khắc - "Tứ minh đao khách" Lộ Tứ Minh - "Ngũ huyền" Hoa Phạm - "Lục yêu" Lục Phá Hầu - "Thất sát thủ" Quan Phi Độ là những nhân vật ra sao? Nói gì tới "Bắc Cực" Du Cửu Khuyết hiệu xưng "Thất Tú củng Bắc, Tử Thần Nhất Cực".
Giang h ồ đồn rằng: trong Trường An thành không có giang hồ. Thực vậy, dưới sự khống chế của Tử Thần, trong Trường An thành làm sao mà có giang hồ cho được? Trường An nổi tiếng là tòa thành không có trộm cướp, cũng đã hai mươi năm có thừa. Trong giang hồ thường có người căm phẫn: "Trường An đương nhiên không có trộm cướp, vì kẻ quản chế Trường An lại là trộm cướp ghê gớm nhất dưới gầm trời! Đại đạo như vậy, làm sao có thể dung chứa được trộm cướp khác?". Hàn Ngạc nghe ngóng, đêm tĩnh lặng, trong ngoài tường cung lặng lẽ như tờ. "Cửu Hôn tổng quản" Du Cửu Khuyết hộ vệ đương kim Thánh thượng, quyền cao chức trọng. Thậm chí vòng tranh đấu giữa Đông cung và Tể tướng lan truyền khắp triều dã lại vẫn im ỉm trong Trường An thành. Tất cả đều là vì có Tử Thần, bọn chúng không cho phép trong Trường An thành có giang hồ, cho nên cục thế giang hồ ở Đông đô Lạc Dương mới hiểm ác đến thế, bung khỏi Trường An thành mà đến, những tranh đấu bị ức chế khó bộc phát trong Trường An thành đều gom gộp lại mà bùng nổ ở Lạc Dương.
1 Không ngọ nguậy nhúc nhích được giữa đám đông, là câu thơ trong bài "Thu tâm - kỳ nhị" của Cung Tự Trân.
Vì Ph ương Ninh, cũng vì Vu Tiệp, những ngày qua Hàn Ngạc chú ý tra cứu, mới có được những ấn tượng sơ bộ về thực tế của Lạc Dương và Trường An. Trong Lạc Dương thành, ban đầu gã nghe Tiểu Kế nói hai câu "Long Môn Dị, Bạch Mã Tăng, Lạc Dương vương, chấn Quan Đông" cùng "Thành Nam Tính, Bắc Mang Quỷ, Hà Lạc Thư, định dư đồ". Sáu thế lực đó sở dĩ hùng hục cạnh tranh khuynh loát lẫn nhau, chính là kết quả của việc Đông Cung và Tể tướng không tiện thẳng thắn triển khai tranh đấu trong Trường An thành, mà trải dần đến Lạc Dương xa xôi. Bọn họ chia nhau tranh thế, chiêu dụ nhân tài. Trong Lạc Dương thành, sáu nhà cấu xé lẫn nhau. Trong Trường An thành, Tử Thần độc bộ một mình. Hàn Ngạc chợt nhướng mày cười mỉa: bọn họ tranh giành cái gì chứ? Nhìn khắp thiên hạ, cái bọn họ tranh thực ra là để coi ai hút được nhiều máu và mồ hôi của dân lành câm nín không có tiếng nói mà thôi!
"Thiên h ạ" thực là một cụm từ to tát, chỉ hai chữ đó đã đủ khiến cho biết bao nhiêu người vướng víu trầm luân một đời. Nhưng bọn họ nào có minh bạch cái tên "thiên hạ" muốn nói gì! Bất quá là muốn đem dục vọng của một người, miếng ăn của một nhà mà khuếch triển bao trùm ngậm hết toàn thiên hạ thôi. Do đó, những tranh đấu kia có khác với loài sâu bọ chứ? --- Gã nghĩ thế, nỗi lo lắng trù trừ vì Tử Thần cũng vơi nhạt đi.
D ịch Đình cung ở phía tây cung thành, tường cung cực cao, "Đạp Ca Bộ" của Hàn Ngạc cũng không thể phóng một cái là lên tới. Gã nhắm đúng những chỗ lồi lõm trên mặt gạch, hít sâu một hơi, nhún mình lướt lên, dùng hết tay chân, vọt bay ba bốn lượt mới leo lên tới đầu tường. Hiện giờ đã đến hừng sáng, Hàn Ngạc phải đợi đến giờ này, đâu phải vì canh tư chính là thời khắc ngủ say nhất --- Làm quan đâu phải là chuyện nhẹ nhàng, hừng sáng, trái lại, ai ai cũng phải bận bịu vào chầu --- Giờ này người trong cung đa số đều lo chuyện đó, đâu có dòm ngó gì khác, là thời cơ tốt nhất để lén lút tiềm nhập.
Gã ng ồi xổm trên tường cung ngoái lại nhìn --- tường cao nghệu, gã lợi dụng khoảng thời gian đám thủ vệ đi tuần đằng xa, leo lên một gác canh ở góc tường nhìn xuống dưới, có thể trông thấy rất xa. Phủ viện của bá quan lúc này đang lo chuẩn bị vào chầu, không ít nơi thấp thoáng đèn nến. Đúng là "Thiên bách gia tự vi kỳ cục, thập nhị nhai như chủng thái huề". Trước Ngọ môn một dãy đuốc như nối thành dòng trôi, xứng với câu "Diêu nhận vi vi nhập triêu hỏa, nhất điều tinh tú Ngũ môn tây"2.
Hàn Ng ạc định thần, biết nơi đây là trong cung, là cấm địa phòng vệ nghiêm cẩn nhất trên đời, mình không thể nào có sai sót được. Nhắm chuẩn hướng, gã cậy bóng tối che đậy lần đi sát dưới tường cung, lựa chỗ sau lưng vùng sáng lẻn xuống.
Trong D ịch Đình cung có rất nhiều viện, cái Hàn Ngạc muốn tìm là "Mộ Hoa viện". Hồi nhỏ gã có theo sư phụ đi gặp một lão cô cô trong "Mộ Hoa viện". Lão cô cô đó họ Tổ, Hàn Ngạc kêu bà ta là "Tố cô bà", rất thân quen thuở nhỏ. Bà ta là một người ở trong cung qua biết bao năm dài tháng rộng, tóc trắng da mồi. Có điều không biết lão cô cô đó có còn mạnh khỏe không? Nếu còn tại thế, không biết có còn nhận ra mình hay không?
2 Bài thơ "Đăng Quan Âm đài vọng thành" của Bạch Cư Dị thời Đường: "Thiên bách gia tự vi kỳ cục, thập nhị nhai như chủng thái huề. Diêu nhận vi vi nhập triều hỏa, nhất điều tinh tú Ngũ môn tây" (Trăm ngàn nhà cửa sắp xếp trật tự như bàn cờ vây, mười hai đường chia khu chỉnh tề như chia đất canh tác, đèn lửa vào triều lấp lánh, như một hàng sao trời phía tây Ngọ môn). "Thành" ở đây chỉ Trường An thành. Trong thành Trường An có mười một con đường lớn nối thẳng nam bắc, mười bốn con đường lớn hai phía đông tây. "Thập nhị nhai" (mười hai con đường) ở đây là nói cho có vần có điệu. "Triều hỏa" là hừng sáng các đại thần mang lồng đèn soi đường để thượng triều (thời Đường quan viên thượng triều phải đến đợi ngoài Hoàng cung trước canh năm ngũ điểm, tương đương 5 giờ 45 sáng ngày nay). "Ngũ môn tây" là đạo lộ từ phía tây đi ngang qua Ngũ môn của Đại Minh Cung (thời Đường gọi là Ngũ môn, sau nhã hóa thành Ngọ Môn). Gọi là Ngũ Môn vì có năm cửa vào, cửa giữa là ngự đạo của Hoàng đế, hai bên chia đẳng cấp mà vào.
Phòng v ệ trên tường cung rất nghiêm ngặt, chốc lát lại có lính tráng tuần canh đi ngang. Nhưng lọt được vào trong tường cung, có vẻ tĩnh lặng hẳn. Huống hồ Dịch Đình cung vốn là một chốn nhàn tịch trong cung thành. Hàn Ngạc lần đầu một mình tiến vào, cũng không biết phương vị của "Mộ Hoa viện", chỉ đành đi đại. Trong Dịch Đình cung nguyên mỗi bên trái phải có tám viện, đi tìm cũng rất gian nan. Hàn Ngạc đang khẩn trương, chợt thấy một chỗ cung viện mé phải đằng trước có ánh nến, đầu gã vụt nghĩ: có lẽ có thể tìm một cung nhân hỏi một tiếng. Tuy có vẻ mạo muội, nhưng còn đỡ hơn nhiều so với chạy loạn làm kinh động đến Tử Thần.
Gã rón rén l ẻn tới chỗ cung viện có ánh nến kia. Cung viện đó lại tựa như nơi hoang tịch nhất trong mười sáu cung viện hoang lạnh này --- Dịch Đình cung vốn là nơi an trí các Kính sự thái giám3 và các phi tần có tuổi, dĩ nhiên có hoang tịch cũng là lẽ thường. Dũng đạo4 lát đá đó không ngờ lại có cỏ dại mọc đâm giữa các kẽ đá. Trong đêm tối u ám, những đám cỏ lù xù giữa các kẽ đá đó như đang thốt lời bi thán vĩnh viễn bị quên lãng cho cuộc đời không thể tự chọn lựa, lại cũng không biết bỏ đi đâu, giống như nỗi u oán của đám cung nhân một đời chờ đợi, bản thân không biết đang đợi cái gì, mà cũng vĩnh viễn đợi không được cái họ muốn đợi.
D ũng đạo rất dài, Hàn Ngạc bước trên dũng đạo mà không khỏi nảy sinh chút bi ai.
--- Đã đến! Hàn Ngạc dừng bước. Gã dừng bên ngoài tường một tòa cung viện tuốt trong góc, nhưng lại cảm thấy sau lưng lông lá dựng đứng: nơi đây có gì đó không phải!
Gã c ũng không nói được cái gì không phải, nhưng cảm thấy rất là không phải! Gã ngoái đầu nhìn về đầu dũng đạo lát đá xanh mà mình vừa đi qua, thấy mọi sự vẫn như thường, có điều đứng sâu trong ngõ nhìn ra ngoài lại cảm thấy nơi đây như cách bên ngoài dũng đạo quá xa, cung viện này có vẻ cách biệt hẳn với toàn cung thành. Không biết sao Hàn Ngạc lại có cảm giác giống hệt như lúc mới tiến vào khu nhà của Dư gia trong ngõ Luân Hồi. Hơi hướm hoang côi lạc lõng đó quả chỉ có thể nắm bắt trong ý, không thể tả được.
Gã hít một hơi, thân người bay lên, nhẹ nhàng vọt vào trong tường viện. Vừa tiến vào, gã liền ngẩn người, vì gã nghe có thanh âm, mà thanh âm đó hồi nãy bên ngoài tường viện gã rõ ràng đâu có nghe được. Một người đang hát, âm điệu kéo lê thê, phảng phất là hí văn5. Người đó rõ ràng đã hát từ rất lâu, tại sao tai mắt mình linh mẫn như vậy mà lại không nghe được gì khi đứng ngoài tường viện?
Gã ngóng tai lắng nghe, chỉ nghe được một thanh âm khàn khàn, không nói được là bổng hay trầm, là nam hay nữ, đang ngâm nga: "Vọng đoạn... vọng đoạn bình thời thúy liễn quá, không văn... không văn tí dạ quỷ bi ca; kim dư... kim dư bất phản khuynh quốc sắc, ngọc điện... ngọc điện do phân Hạ Uyển ba..."6.
3 Kính sự thái giám là thái giám phụ trách chấp chưởng chuyện khuê phòng của Hoàng đế. Do Hoàng đế có quá nhiều phi tần, cho nên cho nên việc tuyển lựa phi tần hầu cận phải giao cho mấy thái giám này lo liệu. Mỗi ngày Kính sự thái giám bưng một cái mâm bạc đựng mười mấy cái thẻ bài, bên trên thẻ viết tên phi tần. Sau khi vua dùng bữa tối xong, Kính sự thái giám trình lên cho vua chọn.
4 Dũng đạo là con đường lát ngay giữa các đình viện hoặc lầu các. 5 Hí văn là một thứ hí kịch lưu hành ở vùng trung du - hạ du Trường Giang và suốt một dải đông nam duyên hải vào thời kỳ Tống Nguyên, còn gọi là Nam hí, Ôn châu tạp kịch, Vĩnh gia tạp kịch. Nam hí thời Tống - Nguyên có ảnh hưởng trực tiếp đến thể chế truyền kỳ thời Minh - Thanh.
6Đây là 4 trong 8 câu thuộc bài thơ "Khúc Giang" của Lý Thương Ẩn (Căng mắt cũng không còn nhìn thấy xe vua đi qua, văng vẳng trong không gian tiếng hồn oan ca thán; kiệu vàng đâu còn phản chiếu sắc
Hàn Ng ạc cảm thấy đầu tê tái, gã ngước nhìn chỗ đèn lửa tỏa ánh, cất bước đi về phía gian phòng đó. Trong viện hoa cỏ um tùm, tựa như lâu rồi không được cắt tỉa. Chỗ có ánh đèn tựa hồ không xa mấy, nhưng Hàn Ngạc đi được mấy bước lại cảm thấy không phải -
- Vốn đáng lẽ chỉ cần vài bước là đến nơi, sao ngước nhìn lại thấy chỗ đó vẫn cách xa như hồi nãy? Hàn Ngạc khẩn trương, liền sử "Đạp Ca Bộ" lao tới trước, đầu gã đang bực dọc, nhưng lý trí bỗng nảy hiện một ý nghĩ, lập tức khựng lại: đây là trận pháp, không sai, trong viện có bày bố trận pháp!
Trong T ử Cấm thành này, gã làm sao ngờ được một cung viện hoang tịch lại có sắp đặt trận pháp, hơn nữa lại rất cao minh. Gã đứng lại, chăm chú quan sát khu viện. Gã thấy khu viện cũng đâu có lớn gì, cỡ ba gian mỗi bề. Nóc mái tàn tạ, mục hư đã lâu. Nhưng thoạt nhìn, Hàn Ngạc cảm thấy tim thót lạnh, đây là phản ứng sản sinh tự nhiên mỗi lúc gặp hiểm cảnh sau khi gã khổ tu Thái Ất tâm pháp --- Với đôi mắt sắc bén của gã, không ngờ không đoán định được khoảng cách giữa bất cứ hai tòa kiến trúc nào trong viện.
"Th ập Sá cổ đồ, Luân Hồi trận!". Phản ứng đầu tiên của Hàn Ngạc là nghĩ đến hai thứ đó. Cảm giác này và cảm giác lúc gã ở trong ngõ Luân Hồi hoàn toàn giống nhau. Chỉ là trận thức trong cung viện rõ ràng là còn nguyên không bị tổn thất. Lẽ nào nơi đây có uyên nguyên với "Đại Hoang Sơn"? Hàn Ngạc hít một hơi, khép mắt lại. Gã biết trận địa của "Bài Giáo" đa số dùng ảo thuật, chỉ cần mình không nghĩ ngợi triền miên, dùng lực khí Thái Ất ổn định tâm thần, nói không chừng có thể đi thoát khỏi trận thức này.
Nh ưng gã vừa mới bước một bước, lại cảm thấy không đúng: Thái Ất lão nhân sư phụ của gã tinh thông dịch lý, trận thức trong thiên hạ chưa có loại nào chưa gặp qua. Hàn Ngạc tuy không có hứng về mặt này, không hiểu đạo lý bố trận, nhưng căn cơ tâm pháp giải trận lại rất thấu suốt. Trận thức này nếu quả bắt nguồn từ "Thập Sá cổ đồ", tất nhiên phải thuộc dòng "Đại Hoang Sơn". Gã biết thứ trận địa quái dị này nguyên dùng để khống chế nội tâm của người ta, lợi dụng một trong những nỗi sợ hãi nguyên thủy nhất -
- sợ hãi chốn hoang dã. Trong cơn kinh hoảng, mình thường mất đi phán đoán. Thập Sá đồ nói cho cùng, đạo lý thực ra chỉ đơn giản là hiện tượng "Quỷ đả tường"7 mà người ta thường gặp phải vào lúc đêm khuya ở vùng sơn dã. Có điều nó phức tạp thâm thúy hơn nhiều, hiểm khó hơn xa. Nhưng Hàn Ngạc mới vừa bước một bước, lại cảm thấy quang cảnh trước mắt không có vẻ tối tăm mờ mịt kiểu cách của Thập Sá cổ đồ, cảnh vật trong viện bỗng hiện rõ mồn một đến mức làm cho người ta cảm thấy không chân thực, phòng ốc sừng sững đường đường hoàng hoàng, ổn ổn thỏa thỏa, con đường hồi nãy quanh quẹo lại tựa như cũng biến thành thẳng thớm. Nhưng con đường thông suốt đó lại càng khiến cho Hàn Ngạc nảy sinh cảm giác kinh hãi: đây là gì vậy? Sao cả sư phụ cũng chưa từng nói tới?
đẹ p khuynh quốc khuynh thành, điện ngọc còn in bóng tách chia làn sóng Hạ Uyển). Khúc Giang là khu thắng cảnh lớn nhất của Trường An thời Đường. Bị bỏ hoang sau loạn An Lộc Sơn, Đường Văn tông muốn khôi phục lại phong cảnh thanh bình, cho nên tháng 2 năm 835 phái người đi tu sửa Khúc Giang. Tháng 10, vua cùng bốn trăm đại thần thiết yến bên Khúc Giang. Biến cố Cam Lộ xảy ra không lâu sau, phải bỏ tu bổ. Bài thơ của Lý Thương Ẩn tả mùa xuân năm thứ nhì sau biến cố. Hưng phế của Khúc Giang có tương quan mật thiết với thịnh suy của vương triều nhà Đường. Đối diện cảnh tượng Khúc Giang hoang tàn sau biến cố Cam Lộ, Lý Thương Ẩn không khỏi nảy sinh nỗi cảm khái "thiên hoang địa biến". Mào đầu thi nhân mô tả cảnh tượng hoang lương của Khúc Giang: dõi mắt nhìn, không còn thấy tình huống ngày thường Hoàng đế xa giá ghé thăm, chỉ có thể nửa đêm nghe tiếng ca buồn của hồn oan. Ở đây không phải ẩn hàm niềm cảm khái lịch sử hoài cổ thương cảm cho ngày nay, mà là thương cảm vì nền chính trị đương thời. "Bình thời thúy liễn quá" ý chỉ tình cảnh Đường Văn tông xa giá xuất du đến Khúc Giang trước khi có biến cố; "tí dạ bi ca" là cảnh tượng hoang lương thê thảm của Khúc Giang sau biến cố. Biến cố kia phảng phất đã vạch chia hai thời đại: cảnh tượng "bình thời thúy liễn quá" đã trở thành quá khứ xa vời có dõi nhìn hết tầm mắt cũng không còn thấy nữa, mà cái phải đối diện trước mắt là hoàn cảnh hiện thời tiêu điều hắc ám tràn đầy không khí khủng bố. Hai câu tiếp theo nối ý "vọng đoạn", nói cung phi mỹ lệ trước đây ngồi kiệu vàng theo Hoàng đế du ngoạn đã không còn nữa, chỉ có dòng nước Khúc Giang vẫn lặng lẽ trôi dạt về phía kênh của vua bên ngọc điện (Khúc Giang ăn thông với Ngự câu). Văn tông tu sửa đình quán Khúc Giang, du ngoạn thắng cảnh Hạ Uyển, vốn muốn khôi phục cảnh thanh bình. Biến cố Cam Lộ bùng nổ, vua bị giam lỏng, xe thúy kiệu vàng tuyệt tích hẳn trên Khúc Giang. Đây chính là niềm cảm khái không thể quay về cảnh thanh bình nữa. Đường Văn tông thấy hoạn quan vẫn lộng hành trong triều sau cuộc nổi loạn của của An Lộc Sơn, cho nên vua đã dùng Lý Huấn hầu dẹp bỏ thế lực hoạn quan này. Năm 835, âm mưu bại lộ, trên 1000 quan viên bị giết, sử gọi là biến cố Cam Lộ, dẫn tới Văn tông bị hoạn quan giam cầm cho đến chết.
Trong tai ch ỉ nghe một thanh âm yếu ớt khàn đục: "Lại đã qua ba năm rồi, ngươi cuối cùng cũng đến! Có phải cảm thấy có gì không đúng không? Ta tốn mười năm bày thêm một trận trên trận thế của A Sắc, hắc hắc, thêm một lớp thành ra có điểm không phải, phải không? Đạo lý của trận thế này thực ra cũng là học từ ngươi. 'Xa đồng quỹ, thư đồng văn'8, hắc hắc, một khi làm người, phải đồng quỹ đồng văn mà! Đó không phải là lời của ngươi năm xưa sao? 'Quỹ văn chi đạo' này của ta cũng đã chồng lên 'Thập Sá đồ' rồi".
Hàn Ng ạc ngẩn ngơ: "Xa đồng quỹ, thư đồng văn" gì? Người nói chuyện là ai vậy? Y có vẻ ngộ nhận mình là ai khác?
Gã vọt mình lên, không câu nệ gì trận thế đó, muốn cứng cỏi xông qua. Năm xưa gã cũng từng động niệm muốn tập luyện đạo lý trận đồ phức tạp thâm ảo của "Quỷ Cốc", nhưng sư phụ nói: "Tính tình của ngươi không hợp. Bản chất của ngươi giản dị ương bướng, không cần dùng đến trận đồ. Huống hồ sở học của con người ở đời đâu có khác gì ngoài việc phát triển sở trường mà tránh né sở đoản. Khí thế thanh chính cương trực của ngươi nguyên là thiên tính, dùng để tập kiếm, chỉ theo võ thuật, cỡ mười năm là có thể vượt hơn ta. Nhưng học vấn trận đồ ngươi có tốn sức trọn đời cũng e chỉ có thể học được tới mức như mèo ba chân9 mà thôi, sao lại phải khổ ải uổng phí tâm tư về mặt này".
Hàn Ngạc cũng từng thỉnh giáo ông nếu có một ngày gã lọt vào trận thì làm sao giải? Sư phụ chỉ đáp: "Đứng vững tức là phá trận, cao thủ bậc nhất năm xưa Cố Lạc Cuồng cả đời không hiểu trận pháp, phép 'Cửu Liên Ổ' của đại địch vây khốn ông ta bảy ngày, lại đâu có làm khó được 'Phong Vũ Bất Động' của ông ta? Mải lo tháo gút, chi bằng chém bung đi. Thứ tâm pháp ngưng thần như 'Phong Vũ Bất Động' e là ngươi có học cũng không hiểu, nhưng một kiếm thanh bạch cương trực đó, đụng phải sức phong tỏa càng mạnh, lại càng là sở trường của ngươi. Thân pháp ta truyền cho ngươi bên trong nguyên có nền tảng Tiên thiên thuật số. Nếu ngày nào kiếm thuật của ngươi có thể đạt được ý nghĩa thực sự của bốn chữ 'thanh cương kiểu kiện', thêm vào thân pháp đó, trận thế tầm thường làm sao mà vây khốn nổi ngươi".
Cho nên Hàn Ngạc mới định buông thả thân mình, phá trận bằng luồng "kiếm" khí ngưng tụ võ nghệ mình khổ tu trong xương cốt. Nhưng thân hình gã vừa mới dang ra, lại cảm thấy không phải. Cảnh vật trước mắt như rõ mà lại mờ mịt, như thẳng mà lại quanh co, hai thứ trận thức hòa xen, không thể nhận ra là đường cái thông suốt hay lối mòn hoang sơn. Đáng sợ nhất là gã đột nhiên có một cảm giác: bước ra bước đó, gã tựa như hoàn toàn mất hết khả năng độ đoán, không biết bước được bao xa?
"Đạp Ca Bộ" bề ngoài tiêu sái, thực ra trước khi đạt đến tầm mức tự do phóng túng, đã phải khổ luyện mỗi một bước. Từng bước đều phải trúng phép trúng khoảng, lặp đi lặp lại mấy vạn lượt. Mà bộ pháp cơ bản trong "Đạp Ca Bộ" đâu chỉ có dăm ba bước? Muốn dùng "Đạp Ca Bộ" dậm bước ca vang trên giang hồ, phải tự sáng chế nhịp điệu, phải hiểu mọi sự trên thế gian đều có nhịp điệu nhất định. Cho nên tu luyện sâu dày đến mức này, vốn mỗi một bước đều nắm rõ mình đi mấy tấc mấy ly mấy hào, nhưng trong trận địa này, khả năng đong đo đó lại đã rối loạn, hoàn toàn không nhắm được.
Gã khẩn trương đến nước sờ nắm chuôi kiếm, lại phát giác tay cũng cảm thấy quái dị, chuôi kiếm đó không phải là chuôi kiếm mình quen cầm ngày thường, Trường Canh cũng không còn là Trường Canh như ngày thường nữa, mức độ nặng nhẹ hoàn toàn không giống tình hình ngày thường. Lẽ nào lọt vào trận này, cảm giác dài ngắn, nặng nhẹ, cứng mềm, thăng bằng và mất thăng bằng của thường ngày đều biến đổi hẳn?
Trán gã đẫm mồ hôi lạnh, có thể nói từ lúc xuất đạo đến giờ, chưa bao giờ gặp phải hung hiểm đến như vầy. Nếu lúc này có địch đến tập kích, cả bộ pháp lẫn sức nặng của kiếm cũng không nhận định được, thực ra còn có thể chống đỡ được mấy chiêu chứ?
Thanh âm lại vang lên bên tai: "Ta lấy Ngũ Kinh làm trọng tâm, Lục Nghệ làm thân, Thập Sá cổ đồ làm nền tảng, lấy khoáng dã mê lạc mà dựng hình thế, sau đó pha trộn các phép lại, nghiêm ngặt điều khiển theo luật, tam kinh nhị vĩ, ba dọc là 'pháp độ, lượng thiên, ngọc hành', hai ngang là 'đồng quỹ, đồng văn', sao rồi, ngươi đi vào trận có phải thấy gian nan quá không?".
Thanh âm trầm trầm khan khản, vẩn đục uất nghẹn đến cùng cực. Nhưng y nói xong câu đó, thanh âm lại biến chuyển, cười "hắc hắc hắc" chói tai, tiếng cười khiến cho Hàn Ngạc nổi da gà: rõ ràng tiếng cười cực kỳ gai người, cố ý dùng thanh âm đó để khêu chọc người ta.
Hàn Ngạc lòng buồn bực khẩn trương, không kềm được rút kiếm, gã cũng không biết đâm đi đâu, chỉ muốn đâm bâng quơ một chiếu, như làm vậy mới có thể tiết cơn uất ức trong lòng.
"Hỏa Diệt Tịch Hoa", gã thi triển chiêu "Hỏa Diệt Tịch Hoa" trong "Thạch hỏa quang trung ký thử thân" mà mình đã khổ tu giác ngộ. Người kia chợt rít lên: "Ngươi không nên xuất chiêu, ngươi mà xuất chiêu, trận thức sẽ lập tức dẫn động. Ngươi có sát khí, sát khí trong trận thức lại còn mạnh hơn ngươi gấp trăm lần! Ngươi muốn làm dữ, trận thức sẽ bùng nổ tiêu diệt ngươi! Khuyết ca, ngươi không nên xuất chiêu. Ngươi mà xuất thủ, ta có muốn cứu ngươi cũng cứu không được!".
Thanh âm của y có vẻ hoảng loạn, tựa như vừa tức hận mà vừa quan tâm lo lắng cho người y đã ngộ nhận là gã. Hàn Ngạc thất kinh, nhưng nháy mắt trận thế đã biến chuyển, ban đầu gã còn thấp thoáng nghe giọng nói có vẻ cuồng bạo, tựa hồ đắc ý, lại xem chừng hoảng loạn của người kia chỉ dẫn đường lối vãn cứu, nhưng sau đó không còn nghe thanh âm gì nữa, chỉ nghe được nửa câu cuối: "A Khuyết, cung viện này chôn vùi biết bao oán thán, ngươi đã khuấy động đến oán khí chất chồng đã lâu rồi...".
Quả nhiên là vậy! Trận thế vừa dẫn động, Hàn Ngạc cảm thấy cảnh tượng sáng rõ hồi nãy hoàn toàn biến mất, mình đang ở giữa vùng hoang dã thâm sơn, không một bóng người, có duy nhất nỗi sợ hãi của mình, sao lại có thể như vậy? Gã vừa định cất cao một tiếng ca, phá vỡ không khí tĩnh mịch, nhưng lời ca còn chưa thoát khỏi họng, trận thế đã biến, tựa hồ mình đang ở giữa phố chợ đông nghẹt người, tất cả đều đang lạnh lùng mỉa mai nhìn mình, xem tên khờ này rướn cổ làm gì. Cơn bực bội bùng nổ trong đầu Hàn Ngạc, bốn bề rõ ràng không có ai, nhưng gã lại khơi khơi cảm thấy có người, mà "người" không phải là người chân thực, lại là một khái niệm "chúng" mơ hồ không nói rõ được --- Tất cả đều lấy bộ mặt 'một đám đông' xuất hiện. Hàn Ngạc có thể dùng khí thế thanh bạch cương trực của kiếm vẫy vùng cõi hoang dã, nhưng lọt vào giữa đám đông, giết cũng giết không được, chém cũng chém không xong, tránh trái lại đụng phải, bó buộc bốn bề, mục quang của chúng nhân chèn ép sang, gã vừa tung kiếm, lực lượng của kiếm thế liền chìm lỉm như lọt vào sông bùn, lực lượng mạnh gấp trăm ngàn lần quật trả lại gã. Gã muốn vùng thoát mà đi, nhưng trong bóng tối lại thình lình xuất hiện mục quang của Phương Ninh, nhìn gã ấm nồng làm sao; đóa hoa dại bé nhỏ trước mộ phần của Vu Tiệp u uẩn oán trách gã thê lương làm sao; bàn tay bé bỏng của Tiểu Kế yếu ớt làm sao, lại khiến cho gã không thể nào có đủ sức lực hất văng đi; còn có sư phụ, Cổ Siêu Trác... biết bao lời hứa, biết bao trông mong, bao bất lực, bao oán than...
Gã muốn dùng "Thạch hỏa quang trung ký thử thân" để thoát khỏi gông ách khốn cùng này, nhưng nhiều trói buộc như vậy, đời người trải dài, sao có thể làm "ánh sao băng" như ngày xưa? Oán khí chất chứa như bốc dậy khỏi lòng đất, quấn cuộn lấy gã, cưỡng bách gã dùng sức một mình gã thanh lý hết trọn đời mới thôi. Nhưng cuộc đời này thiếu vắng thế lực ủng hộ, làm sao có thể lo liệu cho trót những ân thù oán hận vun vén suốt mấy ngàn năm của những người xa lạ kia? Sao còn phải ràng rịt lôi kéo?
Hàn Ngạc thở dài một tiếng, muốn động đậy lách tránh, nhưng thân thể cứng đờ, không thể luồn lách gì hết. Gã mấy bận muốn buông tay, cuối cùng lại chấn chỉnh tinh thần trong trận, vì gã nghĩ tới ánh mắt trông đợi của Tiểu Kế.
Quyển II: Lũng đầu hành Chương 23
Sở phi đường thượng sắc thù chúng1
7 Hiện tượng dễ phát sinh ở vùng đồng trống vào đêm khuya, do chân thấp chân cao bước đi hơi xéo lệch mà cứ tưởng đi thẳng đường, một lúc sau đánh một vòng trở lại vị trí cũ.
8 Sách Trung Dung có viết: "Kim thiên hạ, xa đồng quỹ, thư đồng văn, hạnh đồng luân" (Thiên hạ ngày nay, bánh xe cùng một kích cỡ, sách vở cùng một loại chữ, thói nết cũng cùng một đạo). Tần Thủy Hoàng ra lệnh thống nhất tất cả mẫu mã, kích cỡ của các vật dụng đo lường và nhiều thể thức mang tính hành chính khác, cho rằng muốn đất nước phát triển bền vững thì một trong những vấn đề mấu chốt là xe phải cùng một vết bánh, sách phải viết cùng một kiểu chữ.
9 Câu tục ngữ "tam cước miêu" là câu người Dương châu sử dụng thường xuyên, ý nói người không tinh thông nghề nghiệp.
S ơn trung vô nhật nguyệt, hàn tận bất tri niên2. Thực ra trong cung làm gì có ngày tháng gì chứ? Bao nhiêu thời gian đều đắm chìm vào một thứ chờ đợi trông mong. Người đó chợt kinh ngạc la lên: "A, không ngờ ngươi lại ra được?".
Hàn Ng ạc đã bị khốn trong trận trọn ba ngày --- Đại để là vậy, vì gã cũng không biết mình dật dờ trong trận bao lâu. Nếu chẳng phải có một cô gái mặt mày xấu xa đột ngột xuất hiện trong cơn mộng mị hoảng hốt, gã cũng không biết có thoát khỏi Quỹ Văn đại trận này không.
Ng ười đó tựa đang mê loạn tâm tư: "Ba ngày, ngươi không ngờ còn có thể ra được!". Khẩu khí của y không biết là vui mừng hay là phẫn nộ.
--- Hàn Ngạc vừa thoát khỏi trận thế, lao thẳng vào phòng. Trong phòng trang sức cổ xưa khá là tinh tế, tràn trề ý vị hiển hách, vinh hoa phú quý. Tường vách phẳng một tấm gỗ tử đàn, trên có điêu khắc đồ án thần tiên hoa cỏ, có điều đường nét của nhân vật và cây cành đều bị bụi bặm bám đầy. Đồ trang trí trong sảnh đều là đồ cổ, chất liệu dìu dịu thanh thoát, tựa hồ lan tỏa hơi hướm lãng mạn sướt mướt. Hương vị lãng mạn đó lại vì tích lũy lâu đời, từ từ biến thành ngưng đọng, dần dần tàn lụi. Nó như chiếc vớ nàng Thái Chân để lại3, đã từng trăn trở biết bao cảm khái tơ tưởng của văn nhân học sĩ yêu chuộng vẻ đẹp.
Hàn Ngạc nào thể nghĩ ngợi, vừa tiến vào sảnh đường, bên phải hình như có người. Gã ngoái sang, nhìn thấy một người ngồi quay lưng vậy, toàn thân trên dưới chỉ thấy được cái lưng. Thân ảnh cực kỳ rũ rượi, đầu tóc bù xù lòa xòa, bạc quá nửa, lại khô cằn như cỏ héo, có vẻ chưa chải gội đã lâu, hoàn toàn không nhận ra được tuổi tác thân phận, là nam hay là nữ.
Thân thể gầy làm sao, không chỉ là gầy bình thường, mà là gầy đến héo hon thoát bóng. Người không cao mấy, xương sườn sau lưng lồi hiện như muốn vùng khỏi tấm áo màu trắng xám, như bất mãn phải sống trên mình người đó, muốn tìm đi nơi khác.
Hàn Ngạc cảm thấy con tim tê tái, bao nhiêu nỗi tức tối bị vây khốn trong trận ba ngày qua không biết tại sao vừa dõi nhìn lại đã hoán đổi thành một thứ cảm giác thê thảm: thì ra kẻ cầm giữ gã ba ngày nay là một cung nhân như vậy đó. Hoàn cảnh tự vây khốn trong hoang cung của cung nhân này sợ còn khổ não thảm thương hơn lúc mình bị vây khốn trong trận. Huống hồ y hình như hiểu lầm mình là một người khác.
Người đó hỏi: "Ngươi có muốn nhìn thấy ta không?".
Âm giọng y lạnh khản, tận đáy thanh âm lại tựa hồ còn để lộ chút trong trẻo tươi nguyên của ngày xưa. Hàn Ngạc vừa gật đầu, lại thấp thoáng cảm thấy có gì không phải. Người đó thanh âm tuy cao sắc, nhưng không giống tiếng nữ nhân. Người đó vụt đứng dậy, xoay mình lại. Hàn Ngạc cả kinh "a" lên một tiếng, nhìn thấy người đó mặc một chiếc áo dài chấm gót màu trắng xám, áo bào không biết đã bao lâu chưa giặt giũ, bên trên toàn là bụi bặm. Người đó mới đứng dậy, bụi bặm tung bay trong ánh mặt trời soi thấu qua song cửa. Giữa gian phòng trần ai, y gầy đến phảng phất còn nhẹ hơn cả một cọng lông chim, mặt mày ẩn sau mái tóc rối xõa, hoàn toàn không nhìn thấy rõ mắt mi. Trường bào thùng thình mở rộng, da thịt trắng như tuyết lộ ra ngoài, một màu trắng chết chóc, khắc khổ, không một chút hồng thắm sức sống. Hàn Ngạc thất kinh phát hiện y không phải là nữ nhân! Gã vốn cho rằng người đó vóc dáng như vậy, gầy gò như vậy, chắc phải là một cung nhân oán than bị bỏ rơi, nhưng người đó không ngờ đâu có phải là nữ nhân, mà là một nam nhân! Hơn nữa còn là một nam nhân rất có phong độ, rất đặc dị, cách một lớp tóc rối mà vẫn có thể cảm nhận được nét phong nhã thanh tú!
Người đó thân mình thon thả, cốt cách cân xứng, dù gầy gò hóp háp, nhờ vậy lại có thể nhận ra thể thái cân đối thẳng thớm ngày xưa. Bên trong lớp áo dài không có mặc gì khác, chỉ còn một thân thể trắng muốt khô cằn.
Tại sao y lại lõa lồ như vậy? Hàn Ngạc kinh ngạc nhìn đến thẫn thờ. Người đó vạt áo hở rộng, trên da thịt trắng nõn, hai đầu vú hai điểm hồng lờn lợt. Lồng ngực lép xẹp tựa hồ tàng chứa không biết bao nhiêu là oán phẫn. Y thình lình cười lên, tiếng cười vẫn chưa đủ để làm Hàn Ngạc giật mình. Cái làm cho gã giật mình là mới nhìn y lần đầu, gã cảm thấy nam nhân đó có gì không đúng, nhưng gã còn chưa nghĩ ra không đúng ở đâu. Người đó cũng vừa ngoảnh mặt đi, chìm đắm trong bóng tối đã lâu, không quen đối diện ánh dương chói lòa tràn vào khi Hàn Ngạc mở cửa. Hàn Ngạc lần theo cổ áo nhìn xuống, lúc này lại cơ hồ cả kinh "ối" lên một tiếng --- Gã cuối cùng đã nhận ra chỗ nào không đúng, lại không khỏi co rúm miệng, cảm giác bi thảm đến cùng cực dâng hiện trong đầu
-- Bên trong tà áo bào dang mở, hoàn toàn không có quần áo gì khác, vùng giữa đôi chân gầy khô gần như chỉ còn xương, bên dưới hông không ngờ lại trống không, không có gì hết.
Hàn Ngạc cơ hồ bất nhẫn không còn nhìn y được nữa. Người đó toàn thân đều là hơi hướm nam tử, nhưng giữa hai chân y lại không có bất cứ đặc trưng gì của nam tính, hoàn toàn tương phản với phong độ nam tử hiển hiện rõ rệt khi y xoay mình dù thân thể gầy nhom!
Hàn Ngạc nhắm mắt, người đó lại cơ hồ ngạo nghễ đứng yên trong tư thế hở bung áo, tự làm nhục mình đến cực độ, tựa hồ không có ý khép tà áo che đậy. Thần tình trên mặt y có một ý vị tàn nhẫn, tựa hồ cố ý tỏ bày tư thế thô tục đê tiện một cách không câu nệ --- Nhưng cái thô tục của y lại không phải là trò khôi hài, không biến thành hoang đường lố bịch, trái lại chừng như có ý đem cái gì đó quý báu nhất trong đời đập vỡ tan nát trước mặt ai kia.
--- Sự lõa lồ của Nỉ Hành4, làm sao mà cười được? Y dùng thân thể tàn khuyết để bày tỏ sự vũ nhục tàn ngược nhất với ai đây? Hàn Ngạc bất nhẫn nhìn nữa, gã đã vô ý xâm nhập bí mật riêng tư của người ta. Chẳng lạ gì thanh âm của người đó không thể phân biệt được là giọng cao hay thấp, là giọng nam hay nữ. Y tuy đúng là một cung nhân, lại là... một thái giám.
Người đó tới giờ mới mở mắt, mới nhìn thấy Hàn Ngạc, sau đó y phát ra một tiếng la hoảng: "Ngươi không phải là...". Y chợt biến sắc mặt, quay nghiêng người, vạt áo phất bay che đậy toàn thân. Động tác vô ý thức đó lại làm cho người ta cảm thấy lòng tự tôn của y vốn vượt xa người thường. Y khép áo xong, bất giác hất đầu, mái tóc lòa xòa xõa ra sau ót, lộ rõ dung nhan mồn một. Hàn Ngạc giật mình, gã chưa bao giờ gặp một nam tử sáng sủa đẹp trai đến thế. Tuy quá đột ngột, nhưng vừa gặp mặt, cảm giác của gã cứ như thẫn thờ trước tuyệt sắc giai nhân.
--- Thiên hạ còn có nam tử tướng mạo dường này sao?
Tướng mạo như vậy, có phải là "tài hoa kinh người" trong truyền thuyết? Người đó bỗng giương tả thủ ra, quật về phía Hàn Ngạc.
--- "Dịch Cốt Thủ"! Hàn Ngạc không kềm được thầm kêu lên, trên thế gian này thực còn có cao thủ tinh thông "Dịch Cốt Thủ"? Bụng gã hoài nghi: không phải... mười sáu năm trước, từ khi Vệ Tử Câm chết, tuyệt kỹ "Dịch Cốt Thủ" đã thất truyền trên đời rồi sao? Mỗi lần nói tới chuyện này, sư phụ cũng không khỏi cảm khái thở than, nói thiên hạ từ đây lại mất đi một tuyệt kỹ.
Vệ Tử Câm năm xưa phong độ tài hoa quán tuyệt thiên hạ, nghe nói từ lúc y xuất đạo, võ lâm giang hồ không còn danh xưng "Giang Nam" hay "Giang Bắc đệ nhất mỹ nhân" như ngày trước nữa. Nghe nói là vì gương mặt của y con gái nhìn thấy cũng không khỏi tái mặt hổ thẹn.
Nhưng nghe nói Vệ Tử Câm cả dung mạo lẫn tài nghệ đều tuyệt trần lại đã chết mười sáu năm về trước rồi mà!
Thuật cầm nã bóp cổ trong thiên hạ, không có món nào hơn được "Dịch Cốt Thủ", đó là lời sư phụ lặp đi lặp lại. Nhưng biết bao đời qua, người tinh thông môn võ đó thực hiếm có. Năm xưa, tựa hồ chỉ có một Vệ Tử Câm hào hoa phong nhã mà người ta gọi là "Khán Sát Vệ Giới"5 mới tinh thông nó. Hình như sư phụ từng gặp y, còn từng hợp thủ nữa. Hình như sư phụ thuở đó cũng đã từng thất thủ dưới "Dịch Cốt Thủ" này. Bất quá sư phụ lần đó vốn không dùng công phu sở trường. Nghe sư phụ nói, "Dịch Cốt Thủ" đó ngay cả Du Cửu Khuyết hiệu xưng Vũ nội đệ nhất cao thủ, lão đại trong Tử Thần cũng không dám khinh thị. Luận về công phu chỉ chưởng, e phải coi là độc bộ thiên hạ.
Hàn Ngạc không dám coi thường, song thủ dang ra, rùn chân xuống tấn, vững chãi dùng chiêu "Bình Khai Sơn Môn" đón đỡ. Gã xưa nay chuyên lấy công đánh công mỗi lần nghênh địch đối chiến, chưa từng bị ép phải hoàn toàn thủ thế như vầy. Nếu không phải Thái Ất lão nhân năm xưa đã từng lãnh giáo, phải kinh hãi trước tuyệt nghệ này, dồn hết tâm tư mấy năm trời mới ngộ được, về sau truyền dạy cho Hàn Ngạc, thì giờ phút này bị tấn công đột ngột, Hàn Ngạc cũng không biết phải dùng chiêu thuật nào mới phá giải được "Dịch Cốt Thủ" phân cân thác cốt, thần tốc như chớp giật. Đáng tiếc sở đắc của sư phụ cũng chỉ được có một chiêu, biến hóa về sau phải xem chiến cục ra sao.
Chiêu thức Hàn Ngạc thi triển hơi khác "Bình Khai Sơn Môn" bình thường, tả hữu thủ một cao một thấp, lệch nhau mấy tấc. Chiêu đó lại là chiêu Thái Ất lão nhân khổ tâm tìm tòi mới đạt được, tới giờ đối địch, Hàn Ngạc mới có cơ hội thí nghiệm diệu dụng. Nhưng Hàn Ngạc bỗng thất kinh --- Người đó bay đến trước mặt, sao tiếng gió lại vang lên sau tai?
Gã hoảng hồn, vụt quay lại, kinh hoàng phát hiện: bóng người trắng xám đang lao tới từ đằng sau, bàn tay khô gầy chớp mắt đã nhoáng hiện sát mi mày gã, không còn kịp né đỡ! --- Người đó thì ra không phải ở trước mặt gã, mà là ở sau lưng gã. Hàn Ngạc lúc đó không khỏi ngây người: trong nhà không ngờ còn có trận thế! Cái gã nhìn thấy hồi nãy thì ra không phải là người thực, mà là một tấm gương, một tấm gương phủ trọn một mặt tường!
Trong Thập Sá cổ đồ và Quỹ Văn đại trận này, thực ra đâu là thực, đâu là giả? Mồ hôi toát lạnh cổ Hàn Ngạc, hết kịp phản ứng, gã cảm thấy huyệt mạch sau tai nghẽn nghẹt, huyết quản thông lên não đã bị người ta bấu giữ, chỉ cần nhất chút lực lên ngón tay, mình phải táng mạng ngay tức khắc!
Nhưng bàn tay người đó bỗng khựng lại, đôi đồng tử trong hốc mắt sâu hoắm chằm chặp nhìn Hàn Ngạc. Gần sát như vậy, ngoại trừ đôi mắt đen mờ đó, Hàn Ngạc không còn nhìn thấy gì nữa.
Ngón tay của người đó lại chầm chậm ấn vào, tựa như hành hạ Hàn Ngạc chết từ từ mới là một nỗi vui sướng của kẻ cô quạnh cả ngày như y. Hàn Ngạc thầm thở dài một hơi: biết bao nhiêu lần nghe người ta nói về cái chết, thì ra chết là như vầy... Trong đầu gã lại tựa như trống không, không nghĩ ngợi gì hết, hoàn toàn không có cảnh tượng cả một đời thoáng lướt qua óc như người ta nói. Tựa hồ chết là một chuyện cực kỳ vui --- Ít ra có thể dứt bỏ hết những vướng víu bình sinh gã dứt bỏ không được, tận lực không xong.
Người đó chỉ cần ấn nhẹ thêm một chút là có thể cắt đứt động mạch trên ót gã, nhưng lực khí trên bàn tay bỗng nới lỏng. Y liếc thấy chiếc nhẫn bạc trên ngón tay giữa bàn tay trái của Hàn Ngạc. Hàn Ngạc nghe tiếng tà áo bay phần phật, mở mắt nhìn thì thấy người đó đã phi thân lùi lại, lui đến cái ghế bên kia. Chiếc nhẫn lại đã bị y lột. Cái ghế đặt trong chỗ u ám, thêm vào người đó cố ý ẩn mình, cố ý biến trá phương hướng thanh âm, chẳng trách Hàn Ngạc lúc mới tiến qua cửa không chú ý.
Người đó ngồi thẳng lưng trên ghế, sống lưng dựng thẳng ngạo nghễ, thái độ thô tục tự làm nhục hồi nãy đã biến mất, thay vào đó là sự kiêu ngạo cùng cực. Y im lìm, một hồi lâu sau mới nói: "Nếu không phải đã dùng hình bóng trong gương để khống chế ngươi, chiêu hồi nãy ngươi đỡ như vậy, có lẽ ta không giết được ngươi".
Y ngưng một chút, thanh âm lại vang lên: "Nói coi, ngươi là ai, chiêu đó ngươi nghĩ ra đang khi nguy cấp? Nếu là vậy, hắc hắc, ngươi có thể nói là cao thủ duy nhất ngoài Du Cửu Khuyết mà ta từng gặp. Trả lời rồi ta mới quyết định có giết ngươi nữa không".
Y ngẩng đầu, như tự biện hộ: "Đâu trách được ta chứ, ngươi xâm nhập Chi Lan viện, dòm ngó bí ẩn của ta, phá Thập Sá đồ và Quỹ Văn đại trận. Trừ tên mù đưa cơm ra, ta đã có lời thề hễ có ai nhìn thấy bản tướng của ta, ta phải giết kẻ đó".
Rồi y nói bâng quơ: "... Trên tay ngươi lại có nhẫn bạc. Vậy ngươi là người mới trong Tử Thần bát tú à? Là... Du Cửu Khuyết cho ngươi đến?".
Câu nói cuối cùng của y tựa như vô ý, nhưng Hàn Ngạc lại cảm thấy câu y thực sự muốn hỏi chính là câu đó, những chuyện khác chỉ là nói vẩn vơ.
Hàn Ngạc không quen nói láo, chỉ nhè nhẹ lắc lắc đầu, muốn nói chiêu đó không phải mình sáng chế đang khi ứng biến, mình cũng không phải là người trong Tử Thần thất tú, càng không phải là người Du Cửu Khuyết phái đến, ngươi đoán sai hết rồi.
Gã vốn không phải là người liến thoắng nói gì cũng được, sau khi đột phá được trận, phẫn nộ chỉ muốn điều tra cho ra kẻ bày trận, nào ngờ cục thế biến chuyển liên hồi trong nháy mắt, quỷ dị phi thường, cho nên lúc này lại càng không lên tiếng được.
Cổ người đó vừa cao vừa thẳng. Tư thế ngồi của gã thực uy nghi. Hàn Ngạc là một nam tử, tuy xưa nay không để ý lắm về dung mạo, nhưng vẫn tự thấy mình không phải là kẻ xú lậu. Vậy mà khi người đó vén tóc xõa ra sau, để lộ vầng trán hoàn mỹ, tựa như còn rất trẻ, da thịt trắng nhợt nhạt lại như ngời trong, sống mũi thẳng thớm, Hàn Ngạc nhìn thấy hình tượng nam tử tựa hồ già mà như trẻ đó, không biết tại sao lòng gã không khỏi bốc dâng chút thẹn thò cho mình. Gã lần đầu tiên có cảm giác "tu mi trọc vật"6.
Gã hiểu rõ nam tử kia hiện giờ sao lại đột nhiên tỏ ra hùng hổ như vậy, cho nên càng khó mà mở miệng. Mặt mày người kia lại vì vừa tức vừa thẹn thành ra đỏ ửng. Hàn Ngạc ngẫm nghĩ: Chi Lan viện... Chi Lan viện... sao nghe quen tai vậy? Gã vụt tỉnh ngộ, khi mình mới vào Lạc Dương thành, lúc chuyện vãn với điếm tiểu nhị, hình như từng nghe hắn nói trước khi Dư Hoàng hậu được phong hậu, còn giữ thân phận Dư Thục phi, đã trú ngụ ở Chi Lan viện gì đó.
Gã thầm cảm thấy kỳ lạ: thì ra đây là nơi con gái của Dư Quốc trượng trong ngõ Luân Hồi từng cư trú! Sao lại hoang phế đến thế này? Hơn nữa lại có một nam nhân ở? --- Lại còn là một nam nhân đẹp trai tuyệt trần khiến cho mình cũng không khỏi bẽn lẽn tự hổ thẹn! Gã ngấm ngầm thở dài một hơi, nhìn khí độ phong cách của nam nhân kia, gã sao có thể nghĩ y là một cung nhân, nhưng tại sao...
Người kia chợt lạnh lùng hỏi: "Ngươi gia nhập Tử Thần lúc nào?".
Mới một chiêu đã bại liền, tuy nói bị hình bóng ảo khống chế, nhưng dù không có hình bóng trong gương đó, Hàn Ngạc cũng chẳng biết mình có thể cầm cự được mấy chiêu "Dịch Cốt Thủ" của nam nhân kia. Trong giang hồ, kẻ thắng là vua, bại phải bại tâm phục khẩu phục. Hàn Ngạc nghe hỏi liền đáp: "Ta không phải là người trong Tử Thần. Tử Thần nguyên có số lượng nhất định, chỉ có tám vị, ta sao còn có thể là người trong Tử Thần được?".
Gã nghĩ người đó sống trong cung, chắc khá rành về Tử Thần bát vệ, huống hồ y đâu chỉ nhắc đến Du Cửu Khuyết có một lần. Sắc mặt người đó lại ngẩn ngơ: "Tám vị? Mười sáu năm đã qua, trong Tử Thần đến bây giờ vẫn còn thiếu một vị? Còn chưa bổ sung vị trí thiếu hụt trong Tử Thần cửu vệ?".
Hàn Ngạc không khỏi bàng hoàng. Gã tuổi tác còn trẻ, không biết Tử Thần thì ra có chín người. Người đó lại nhìn chiếc nhẫn bạc trong tay, nở nụ cười mỉa, bụng tựa hồ đang có ý nghĩ khinh miệt Tử Thần. Nhưng chỉ một nháy mắt, thần tình trên mặt y lại đột nhiên biến chuyển, chăm chú nhìn chiếc nhẫn bạc như đến kiếp này mới gặp lại được, sau đó chuyện khiến cho Hàn Ngạc kinh hãi đến cực độ là một dòng lệ nóng lăn dài trên bờ má bám đầu bụi đang nghiêng sang phía gã. Nước mắt lăn chầm chậm, tựa hồ thời gian cũng biến thành mơ hồ hốt hoảng giữa ngấn lệ.
Người đó đột nhiên giơ tay lau nhẹ, y không phải lau nước mắt, mà là lau chiếc nhẫn bạc. Nhẫn bạc dãi dầu phong sương, màu bạc vốn đã thâm đen phần nào, nhưng cái lau nhẹ của người đó tựa hồ khiến cho bao nhuốc nhơ từ từ tháo lùi, phát ra ánh sáng bản sắc vùi lấp đã lâu. Tương tự thế, dòng lệ buông rơi trên mặt người đó đã tẩy hiện một vùng da thịt thuần khiết như thanh thủy phù dung.
Người đó dịu dàng dùng một ngón tay lau chiếc nhẫn bạc, cơ hồ hoàn toàn thất thần, quên đi bên mình còn có đại địch. Một hồi lâu sau, y giơ cánh tay phải, thò đến bên chiếc nhẫn, khẽ hất một cái, ống tay áo trượt xuống, để lộ cổ tay khô gầy.
Hàn Ngạc chấn động tâm thần: y để lộ cổ tay phải, nhưng bàn tay đã bị chặt đứt, y đã mất đi một bàn tay! Dung mạo tuyệt thế như vậy, thân thủ tuyệt thế như vậy, sao y có thể để mất một bàn tay?
Tả thủ của người đó cầm chiếc nhẫn bạc, cổ tay phải trơ trụi giơ lên, mặt mày không biết là buồn hay vui, là giận hay cười, nhưng thà y khóc hay cười còn hơn, thần tình như vầy càng làm cho Hàn Ngạc bàng hoàng. Chiếc nhẫn bạc cùng cổ tay cụt tựa hồ đang thuật lại bí mật sâu kín nhất của nam tử kia. Bí mật gì đây? Y đang so so chiếc nhẫn bạc trên cổ tay cụt, nói lí nhí trong họng: "Ngươi can hệ gì đến ngõ Luân Hồi?".
Tiếng nói của y lại đã khôi phục âm điệu của một nam tử bình thường, tựa hồ giọng lời hồi nãy toàn là giả mạo, giả để ai đó xem. Hàn Ngạc bụng kinh ngạc, trầm ngâm thắc mắc lẽ nào bàn tay để lại trên lầu "Mỹ Nhân Ân" trong ngõ Luân Hồi là bàn tay của y? Gã đáp: "Ta vốn không có quan hệ gì với ngõ Luân Hồi, chỉ là nhận sự phó thác của người ta, lần này vào cung cũng là để điều tra cho rõ trường huyết án năm xưa ở ngõ Luân Hồi".
Mặt mày người đó hiện thần sắc thất thần, phải một lúc sau mới thốt: "Thảm án? Thảm án gì? Chết cũng cho là thảm án sao? Có lẽ sống mới là cái thảm tận cùng của bi thảm. Thì ra còn có người muốn điều tra vụ án đó, là con bé còn sót lại của ngõ Luân Hồi năm xưa sao?".
Cô gái y nói đến không biết có phải là Dư Tiệp? Hàn Ngạc thấp giọng hỏi: "Cô gái ông nói có phải tên là Dư Tiệp? Nếu ông muốn nói đến nàng ta thì đúng vậy, nàng ta nhờ ta điều tra vụ huyết án đó. Có điều nàng ta không còn tại thế nữa. Điều tra vụ án đó vốn là di nguyện của nàng ta".
Người đó bần thần: "Chết rồi? Nó mới chừng ấy tuổi, mười chín phải không?".
Y chợt cười mỉa mai: "Tại sao ta còn chưa chết vậy? Sắc Nhi, thì ra người cuối cùng trong nhà nàng cũng đã chết. Nàng ở bên kia chung quy đã có thể an tâm rồi".
Hàn Ngạc cũng không biết y đang nói gì, lại thấy người đó đột nhiên biến sắc: "Ngươi đi đi!".
Hàn Ngạc thẫn thờ, người đó lại nói vội: "Thảm án thực sự vốn nên dứt tuyệt. Ngươi có chắc người trong án nhất quyết muốn được giải oan không? Đó là số mệnh của riêng họ, là bí mật của riêng họ, là luân hồi của riêng họ. Ai biết họ có muốn phong bế hết thảy sự tình hay không chứ?".
Y dừng một chút, lại nói: "Huống hồ ngươi mà không chịu đi, Du Cửu Khuyết e sắp đến nơi rồi. Y mà đến, ngươi cho là ngươi còn đi được sao? Nơi đây là trọng địa Đại nội, không chỉ có ta không cho người nào đến, y cũng chưa bao giờ để ai đến. Cả ta ngươi cũng đánh không lại, còn muốn đấu với y sao? Mau tỉnh dậy đi. Vụ án này ngươi bất tất phải điều tra, oan hồn của Dư Tiệp có tìm ngươi, ngươi cứ nói có một vị vong nhân sống như một cương thi bắt ngươi đừng điều tra. Nếu ả muốn có lời giải thích, đợi ta xuống cửu tuyền thì ả có thể kiếm ta để ta giải thích".
Y chợt có vẻ giận dữ, Hàn Ngạc còn chưa biết phải nói sau, y đã quát lên một tiếng: "Đi!".
Y vừa hét vừa phất tay, lại dùng "Dịch Cốt Thủ"!
Hàn Ngạc cả kinh, vọt người lùi tránh theo bản năng, bất giác đã lui ra khỏi sảnh đường đó. Gã vừa ra khỏi cửa, cánh cửa sau lưng đóng lại liền, bên tai nghe người đó nói: "Ta không biết hồi nãy người làm sao thoát ra khỏi trận địa chết chóc đó, trừ phi ngươi muốn bị hãm trong trận lần nữa, không thì đi cho mau!".
Nói xong, y không mở miệng nữa.
Hàn Ngạc rùng mình, thân hình bắn lên, Chi Lan viện quỷ dị này gã không muốn nấn ná thêm giây phút nào nữa. Đầu gã lại nghĩ đến một bức tranh thấp thoáng in hình trong gương mà mình liếc thấy trước khi ra khỏi cửa --- Tranh vẽ một cô gái, dung nhan không có gì là xuất sắc, màu mực cũng đã phai nhạt, nhưng dáng vẻ lại ôn hòa làm sao. Bụi bặm đầy phòng, chừng như chỉ có hình nàng không dính bụi. Lẽ nào đó là Dư Thục phi năm xưa? Xem cách ăn mặc thì chắc là vậy. Sao nàng ta lại không xinh đẹp đến mức khiến người ta bàng hoàng vậy?
Nam tử kia, trái lại, ai gặp cũng phải thẫn thờ, y là ai? Tại sao lại ẩn cư thầm lặng ở đó? Có quan hệ gì với Dư Hoàng hậu? Có ân oán gì với Tử Thần?
Quyển II: Lũng đầu hành Chương 24
Hải hạc giai tiền minh hướng nhân1
1 Sở phi trong cung nhan sắc khó có ai bì được, là câu trong bài thơ "Ký Thường Chinh Quân" của Đỗ Phủ. "Sở phi" là Phàn Cơ, từng can gián Sở Trang vương đừng ham mê săn bắn mà nên lo chính sự, lại dùng lời khích quan Lệnh doãn Ngu Khâu dẫn tới việc Ngu Khâu tiến cử Tôn Thúc Ngao, nhờ vậy Sở Trang vương xưng bá thiên hạ.
2 Tiểu Đoạn có sửa lời thơ nguyên tác chút đỉnh. Bài thơ "Đáp nhân" của Thái Thượng Ẩn Giả: "Ngẫu lai tùng thụ hạ, cao chẩm thạch đầu miên. Sơn trung vô lịch nhật, hàn tận bất tri niên" (Tình cờ ghé dưới gốc tùng, gối cao đầu trên tảng đá ngủ. Trong núi không có lịch tính ngày tháng, cuối mùa lạnh không biết năm). Theo sách "Cổ kim thi thoại", không ai biết lai lịch của vị ẩn giả này, đã có người hiếu sự đi hỏi họ tên của ông ta, ông ta không đáp, chỉ viết bài thơ này. "Ngẫu lai" (tình cờ) ý nói hành tung tự do bất định, không thể nắm bắt. "Cao chẩm" (gối cao đầu) bày tỏ sự điềm đạm vô ưu. "Tùng thụ" (cây tùng) và "thạch đầu" (tảng đá) bày bố quang cảnh giản dị, lại tràn đầy sự thú vị của chốn thâm sơn cùng cốc. Vùng núi "biệt hữu thiên địa phi nhân gian" (một đất trời khác không phải nhân gian --- câu thơ trong bài "Sơn trung vấn đáp" của Lý Bạch) đó tương tự như xã hội tưởng tượng cổ xưa trong bài "Đào Hoa nguyên thi của Đào Uyên Minh: "Tuy vô kỷ lịch chí, tứ thì tự thành tuế" (Tuy không xài lịch để tính thời gian, cứ bốn mùa tự nhiên kết thành năm". Hai chữ "hàn tận" (cuối mùa lạnh) chính là hàm ý bốn mùa kết thành năm. Hơn nữa ông ta còn tiến thêm một bước, tuy biết "cuối mùa lạnh" là cuối năm, lại vẫn "bất tri niên" (không biết năm). Ở đây bao hàm hai lớp ý nghĩa: một lớp là từ câu trên "không có lịch tính ngày tháng" mà suy ra, ý là "bất giải sổ giáp tử" (sách "Văn Lục" của Đường Canh có ghi hai câu thơ thời Đường không biết tác giả là ai: "Sơn tăng bất giải sổ giáp tử, nhất diệp lạc tri thiên hạ thu" --- Ông sư trong núi không hiểu không biết tính lịch tính năm, chỉ cần một chiếc lá rơi là biết mùa thu đến); lớp thứ nhì ý nói không biết hiện giờ là thời nào, bắt nguồn từ câu "Vấn kim thị hà thế, nãi bất tri hữu Hán, vô luận Ngụy Tấn" (hỏi nay là thời nào, đã không biết có Hán, nói gì tới Ngụy Tấn) trong "Đào Hoa nguyên ký" của Đào Tiềm. Có thể thấy người trong thơ không những độc lai độc vãng trong không gian, về mặt thời gian cũng không bị câu thúc. Bài thơ đến đây đã hoàn thành hình tượng của "Thái Thượng Ẩn Giả". 3 Tháng 6 năm 756, loạn quân của An Lộc Sơn tiến sát Trường An, Đường Huyền tông Lý Long Cơ hoảng sợ chạy về hướng tây. Đến dịch trạm Mã Ngôi (nay là trấn Mã Ngôi, phía tây huyện Hưng Bình, tỉnh Thiểm Tây), quan quân hộ giá bực tức, ép Đường Huyền tông xử tử Dương Quốc Trung và em gái của y Dương Quý phi (Dương Thái Chân). Sách "Đường Quốc Sử Bổ" của Lý Triệu có chép: Huyền tông ra lệnh
cho Cao Lực sĩ dẫn Dương Quý phi ra treo cổ trên một cây lê. Bà chủ khách điếm ở trạm Mã Ngôi lượm được một chiếc vớ gấm Dương Quý phi còn để lại. Ba ta có đầu óc buôn bán, liền đem chiếc vớ đó để kinh doanh: lữ khách trú ngụ muốn xem, bà ta thu phí một trăm tiền. Ngày qua tháng lại, bà chủ đó kiếm được rất nhiều tiền, cuối cùng thành nhà giàu. Đó là nói sau khi Dương Quý phi chết vẫn có thể tạo phúc cho người ta, để cho bà chủ dịch trạm một cơ ngơi đáng kể.
Cố sự đó nghe có vẻ như truyện cổ tích khó tin. Nhưng một sách khác mang tên "Huyền tông di lục" cũng có ghi: Sau khi Cao Lực sĩ xử tử Dương Quý Phi, một chiếc vớ gấm Dương Quý phi mang còn rớt lại. Cao Lực sĩ cất giữ kỹ. Sau này có một ngày Lý Long Cơ nhớ nhung Dương Quý phi nên nằm mơ, trong mộng nàng nói cho ông ta biết Cao Lực sĩ có lượm giấu một chiếc vớ của mình. Lý Long Cơ vì vậy mới bắt Cao Lực sĩ trả lại chiếc vớ, hơn nữa còn viết một bài "Phi tử sở di la miệt minh", bên trong có câu: "La miệt la miệt, hương trần sinh bất tuyệt" (Vớ gấm vớ gấm, bụi thơm còn chưa tản).
Hai chuyện tuy khác biệt, nhưng có một điểm chung: Dương Quý phi sau khi chết, còn để lại cho thế gian một chiếc vớ.
Lại có Vương Mậu thời Tống chú ý đến một chứng cứ, đó là bài thơ "Mã Ngôi Hành" của Lưu Vũ Tích. Trong thơ có tám câu:
Lý kỳ vô phục hữu, lý tổ quang vị diệt
Bất kiến nham bạn nhân, không kiến lăng ba miệt.
Bưu đồng ái tung tích, tư thủ giải bàn kết.
Truyện khán thiên vạn nhãn, lũ tuyệt hương bất hiết.
(Không thấy giày, chỉ còn lại dấu chân.
Không thấy người, chỉ còn lại vớ nhỏ.
Tìm ra tung tích ở trạm, đến giải trừ nghi vấn.
Đám đông chứng kiến kể lại, hương thơm còn đọng không dứt).
Vậy là thấy Lưu Vũ Tích cũng biết Dương Quý phi có để lại vớ, vì người ta chứng kiến và truyền miệng đời đời. Lúc Dương Quý phi bị treo cổ, có người gìn giữ một chiếc vớ của nàng, có lẽ có người đem chiếc vớ đó trưng cho người ta xem để thủ lợi, đều là chuyện có khả năng xảy ra. Bởi vì chiếc vớ của mỹ nữ đã lọt vào thi ca, trở thành vật cao nhã trong thi ca. Văn nhân mặc khách luôn luôn có hứng thú sâu đậm đối với chiếc vớ mỹ nhân từng mang.
Căn nguyên bắt nguồn từ thi nhân Tào Thực nổi tiếng thời Tào Ngụy. Tào Thực có viết một bài "Lạc thần phú" lừng lẫy, Lạc thần Mật Phi sau khi nghe thi nhân dốc bày tâm tình ái mộ, cảm động vô ngần, cho nên lòng quyến luyến, bồi hồi bước tới bước lui không đi được. Tào Thực dùng tám chữ "Lăng ba vi bộ, la miệt sinh trần" (bước lăn tăn sóng, chân gấm bụi sương) đểhình dung tình cảnh đương thời (bước chân dịu vợi của nàng làm cho mặt nước dưới vớ gấm như bốc bụi đường).
4 Cuối thời Đông Hán, ở Hà Bắc có một vị danh sĩ tên là Nỉ Hành, làu làu thi thư, tinh thông thao lược, vang danh thuở đó. Thái thú Bắc Hải là Khổng Dung trọng tài Nỉ Hành, tiến cử lên triều đình. Hán Hiến đế lúc đó chỉ là một Hoàng đế bù nhìn, triều chính hoàn toàn bị Thừa tướng Tào Tháo khống chế. Nỉ Hành đã sớm coi Tào Tháo là Hán tặc, biết có đi thì Tào Tháo cũng vị tất chịu dùng mình. Nhưng nể tình tri ngộ với Khổng Dung, lại có chí hướng phò trợ Hán thất, nên chịu theo Khổng Dung đến Hứa Xương. Tào Tháo vừa mới bình định quần hùng phương Bắc xong, đang dương dương tự đắc, từ lâu đã nghe nói đến Nỉ Hành, theo lão thấy, Nỉ Hành bất quá chỉ là hạng miệng lưỡi hư danh, thêm vào Nỉ Hành nổi tiếng tính tình cao ngạo, vì vậy Tào Tháo không mặn mòi gì lắm đối với sự tiến cử của Khổng Dung. Nghe nói có Nỉ Hành đến, Tào Tháo cố ý ăn mặc áo mão thừa tướng truyền gọi ông ta vào.
Cùng đi với Khổng Dung và bộ tướng của Tào Tháo là Trương Liêu, Nỉ Hành gặp Tào Tháo liền cúi mình thi lễ, Tào Tháo lại ngồi chễm chệ bất động. Nỉ Hành thấy Tào Tháo ngạo mạn vô lễ như vậy, không khỏi thất vọng, thầm oán trách Khổng Dung tiến cử mình không đúng người.
Tào Tháo đã biết rõ là Nỉ Hành, lại vẫn cố ý giả như không biết, hỏi: "Kẻ đứng bên dưới là ai vậy?". Nỉ Hành ráng nén lửa giận: "Tệ nhân họ Nỉ tên Hành, tự là Chính Bình, người quận Bình Nguyên". Khổng Dung thấy tình thế căng thẳng, vội nói nhỏ với Tào Tháo: "Thừa tướng, vị này là Nỉ tiên sinh tôi từng nói với ngài".
Tào Tháo "hừ" một tiếng, mặt mày sa sầm: "Ta biết y là Nỉ Hành, ngươi xem bộ tướng ngang tàng của y kìa, gặp lão phu cũng không hành đại lễ, hạng cuồng vọng như vậy, còn là kẻ khác được sao". Thấy Khổng Dung hoang mang đi lên khuyên ngăn, Nỉ Hành thần tình cứ như thường, không chút lo sợ. Tào Tháo biết Nỉ Hành là danh sĩ đương thời, nếu giết y thì mình phải lãnh tiếng ác, liền nói với Trương Liêu: "Tướng quân bất tất phải nổi giận, hạng cuồng vọng đó đâu cần phải làm bắt phạt y". Nói xong, quay sang hỏi Nỉ Hành: "Ngày mai là tiết Nguyên Đán, sáng sớm lão phu chuẩn bị bày đại yến thết đãi quần thần ở phủ Thừa tướng, dưới trướng ta đang thiếu một Cổ lại, không biết ngươi có chịu làm không?". Tào Tháo biết rõ Nỉ Hành tính tình cao ngạo, lại cố ý cho y làm kẻ đánh trống hầu, rõ ràng là để làm nhục y, nào ngờ Nỉ Hành lại nhận chức liền. Tào Tháo thầm nghĩ: được rồi, ngày mai nếu ngươi đến trễ, ta chiếu theo quân pháp xử trí, cho ngươi chết không oán trách được!
Nỉ Hành hiểu dụng ý của Tào Tháo, ông ta đồng ý nhận làm Cổ lại cũng có ý riêng. Mình một bụng học vấn không không, tuy có lòng báo quốc, lại không có quyền có sức. Tào Tháo muốn thết đãi quần thần dịp tết Nguyên Đán, mình mượn cơ hội đảm nhận chức Cổ lại, mắng lão một phen trước mặt bá quan, cũng có thể để lại thanh danh trong sạch.
Ngày hôm sau, trước phủ Thừa tướng ngựa xe lũ lượt, bá quan văn võ kéo nhau đến phó yến, Nỉ Hành cố ý mặt quần áo sờn cũ rách rưới ngang nhiên tiến vào. Lính canh thấy vậy trách móc: "Thừa tướng thết đãi quần thần, ngươi ăn mặc rách rưới như vậy thì ra thể thống gì?".
Nỉ Hành giận dữ cởi quần áo xông vào. Đám lính canh hoang mang cản lại, Nỉ Hành lớn tiếng: "Không cần các ngươi lo, nếu Thừa tướng giáng tội thì tự một mình ta gánh nhận".
Lúc đó Tào Tháo hạ lệnh cho Cổ lại đánh ba hồi trống mở màn. Nỉ Hành liền đánh trống dưới mái tây bên ngoài đại sảnh. Ông dốc hết tâm tình vào tiếng trống, thanh âm thu hút bá quan văn võ, ai ai cũng nhìn sang. Mọi người thấy Nỉ Hành lõa lồ, không khỏi thất kinh.
Tào Tháo biết Nỉ Hành cố ý, nhưng không tiện phát tác trước mặt bá quan, để tỏ ra mình rộng lượng, Tào Tháo đi đến hành lang hỏi: "Hôm nay lão phu thiết yến đãi đồng liêu, ngươi trần truồng thực ra có dụng tâm gì?".
Nỉ Hành mỉm cười đáp: "Trần truồng mới bày tỏ được Nỉ Hành ta là người thanh bạch". "Vậy ngươi nói coi ở đây ai là kẻ ô trọc?".
"Tào Tháo ngươi là kẻ ô trọc!".
Ai nấy nghe vậy đều hoảng kinh thất sắc, Khổng Dung bụng dạ rối bời, thầm nghĩ Nỉ Hành chuyến này coi như rồi đời.
Nào ngờ Tào Tháo nghe vậy lại không chút bực tức, vẫn bình tĩnh nói: "Tại sao ngươi nói lão phu là kẻ ô trọc?".
Nỉ Hành không chút sợ sệt, thẳng thắn đáp: "Ngươi không phân biệt hiền ngu là mắt ô trọc, không thu nhận lời trung là tai ô trọc, không đọc thi thư là miệng ô trọc, toan tính soán nghịch là tâm ô trọc. Nỉ Hành ta là danh sĩ trong thiên hạ, ngươi làm Thừa tướng mà lại dùng ta làm Cổ lại, lẽ nào không phải là kẻ ô trọc sao?".
5 Vệ Giới là người Tấn, tự Thúc Bảo, cực kỳ đẹp trai, được mọi người ngưỡng mộ. Sách "Tấn thư - Vệ Giới truyện" có kể ở Lạc Dương thành hễ Vệ Giới ngồi xe ra đường là thiên hạ bu cứng để xem mặt, vận chuyển khó khăn, không nghỉ ngơi được. Chàng ta mệt quá nên mang bệnh mà chết. Vì vậy mới có câu "khán sát Vệ Giới" (Vệ Giới bị ngắm quá mà chết).
6 "Tu mi trọc vật" nghĩa là cảm thấy mình thấp kém dựa dẫm người ta, đánh mất khí tiết.
M ột lá thư giấy viết thượng hạng do Hối Mặc Trai tinh chế đặt trên cái án thô sơ của khách điếm --- Hàn Ngạc mệt đừ về đến khách điếm, Tiểu Kế không có ở đó, gã có hơi kinh ngạc, tiếp đó lại thấy lá thư:
" Nghe Hàn huynh tiện đường ghé Trường An, vốn ngưỡng mộ thanh danh đã lâu, ngặt đệ bận rộn chuyện phàm tục, ru rú lòng vòng trong ngoài thành, chưa có duyên thấy mặt. Lại nghe gần đây Hàn huynh có hứng dạo thăm Tử Cấm thành, đệ sống chui sống nhủi ở nội đình, không ngờ lại không được dịp gặp gỡ.
Bi ết huynh hết hứng sẽ quay về, mạo muội mời tiểu đệ Tiểu Kế của huynh nán lại tệ xá. Mùng mười tháng tư, bên Khúc Giang trì, nâng chén một bữa êm đềm thanh nhã, mong mỏi gặp mặt huynh một lần, hy vọng huynh không phụ rẫy niềm hứng thuần khiết này. Ngải Khắc kính bút".
Hàn Ng ạc giật mình: "Ngải Khắc? Là Ngải Khắc trong Tử Thần xưng hiệu "Nhị ca ca"?
Tử Thần quả nhiên lợi hại! Cả tin mình đến Trường An cũng thám thính được. Trong ngoài Trường An thành, bất kể chuyện lớn chuyện nhỏ gì, xem ra quả là không có gì chúng không biết.
Hàn Ngạc sau khi bị đuổi khỏi Chi Lan viện trưa hôm nay, chờ đến đêm mới phí chút công phu lẻn ra khỏi cung thành không ai hay biết, tâm tình buồn bực vô hạn. Từ lúc thành tài tới nay, gã chưa từng thảm bại như vậy, dĩ nhiên không tránh khỏi phiền muộn. Tuy theo lời của người trong Chi Lan viện, chuyện phiền toái Dư Tiệp phó thác cho gã đã có thể liễu kết, nhưng lòng gã đâu thể nào thư thái cho được. Hơn nữa nếu không điều tra cho ra chuyện này, làm sao mà biết thân thế thực sự của Dư Tiểu Kế, làm sao ăn nói với một Tiểu Kế vốn đã tín nhiệm mình đến thế.
Vậy mà... Tiểu Kế lại đã bị người của Tử Thần bắt đi!
Lời nói trong thư khách khí, Hàn Ngạc mỏi mệt muốn sụm, lại không kềm được cau mày: không phải vì mình xen tay vào trường thị phi trong Lạc Dương thành, Tử Thần mới bám dính như vầy sao?
Nhưng tìm mình thì tìm mình, Tiểu Kế tội tình gì chứ? Hàn Ngạc đói khát ba ngày trời, chưa đụng tới một giọt nước một hột cơm, tuy nói lúc xưa sống trên Thái Ất Phong, Hàn Ngạc có theo sư phụ tập luyện Tịch cốc thuật2, bốn năm ngày không ăn cũng đã từng thử qua, nhưng mấy ngày bị khốn trong trận, đối đầu biết bao hiểm nguy, sự mệt mỏi xen lẫn đói khát này khiến cho gã chịu không nổi. Sau khi đọc lá thư, gã chỉ uống một ngụm nước lả, lại không muốn ăn chút nào.
Ngải Khắc? --- Hàn Ngạc gắng vắt óc lục lọi ký ức dính dáng tới Tử Thần. Cách đây mấy năm, trong Tử Thần vốn chưa có sự tồn tại của Ngải Khắc. Hắn là một người mới, nghe nói rất trẻ, nhưng xuất thân quý phái, vì vậy vừa mới gia nhập Tử Thần trám chỗ mà thanh thế đã đặc biệt lừng lẫy trong số Tử Thần bát vệ. Trong Tử Thần, ngoài Cửu Hôn tổng quản Du Cửu Khuyết xưa nay thần long kiến thủ bất kiến vĩ ra, "Tứ minh đao khách" Lộ Tứ Minh, "Ngũ huyền" Hoa Phạm, "Lục yêu" Lục Phá Hầu, "Thất sát thủ" Quan Phi Độ luôn luôn âm thầm, trái lại, "Nhất tinh như nguyệt khán đa thì" Cung Diệc Tinh xếp hạng thấp nhất cùng "Tam công tử" Lữ Tam Tài thanh danh vang vọng tại ngoại.
Nhưng Ngải Khắc vừa gia nhập Tử Thần, bằng vào năng lực bản thân, trừ tổng quản Du Cửu Khuyết ra, thanh thế của sáu người kia hoàn toàn bị hắn đè lên trên. Hiện giờ hắn quả cũng đang lãnh vị trí "Cửu Hôn phó tổng quản". Nghe giang hồ đồn đại con người này khí độ cực kỳ hẹp hòi. Năm xưa giang hồ đệ nhất thần thâu "Toàn Khích Thử" Cố Toàn Thiên phải mất mạng dưới tay hắn.
Cố Toàn Thiên tuy là một tên trộm, nhưng nổi danh hiệp nghĩa trong giang hồ, nếu lọt vào tay ai khác, quá lắm cũng chỉ chịu khuất nhục chút ít thôi. Nhưng rơi vào tay Ngải Khắc, không ngờ y bị tra khảo đến chết!
Hàn Ngạc nhíu mày, gã không phải lo lắng cho mình, mà là lo cho Tiểu Kế. Mình nói mình muốn chiếu cố đứa bé đó, nhưng để nó theo mình, thực ra là bảo vệ nó hay lại đem thêm lắm phiền toái liên lụy tới nó?
Hôm nay mùng tám tháng tư, xem ra Ngải Khắc tuy biết gã đã vào Tử Cấm thành, lại chưa tìm ra tung tích của gã, cũng không biết khi nào gã mới về, vì vậy ngày đính ước mấy cách xa như vậy. Ngày tháng trên phong thư đã là cách đây ba ngày, ý là sợ gã về trễ không kịp hẹn. Hàn Ngạc nhắm mắt ngồi khoanh gối trên giường, thử điều hòa chân khí tán loạn trong người. Nhưng vừa nhắm mắt, biết bao chuyện phiền não lại trào dâng lên đầu, khó mà dứt bỏ được chuyện Tiểu Kế bị bắt, trận pháp kỳ dị trong Chi Lan viện lại vẫn đang quấn quít nỗi niềm suy tư.
Trong đầu gã lại dâng hiện một hình bóng rất kỳ quái. Thân ảnh đó không cao mà cũng chẳng thấp, không béo mà cũng chẳng gầy, tựa hồ là một nữ tử, nhưng hình bóng đó lại cho gã một cảm giác quen thuộc khôn tả. Trận địa kia tuy gã thoát được, thực ra đâu phải gã đã phá trận. Lúc đó gã bị khốn trong trận đến héo hon sắp chết, thình lình thấp thoáng nhìn thấy một hình bóng tuốt đằng xa, thân ảnh đó đã giúp gã ra khỏi Quỹ Văn đại trận.
Gương mặt của nữ tử đó Hàn Ngạc lại chỉ thoáng thấy trong cơn hoảng hốt, nhưng vẻ xấu xa cơ hồ đã khiến cho Hàn Ngạc kinh hoàng té ngã khi ấy. Một gương mặt khủng bố đáng sợ làm sao! Gương mặt như đã từng bị thiêu hủy, da non đỏ hỏn tạo một cảm giác không thực tại. Hàn Ngạc vừa nhìn thấy lập tức không dám ngắm kỹ, chỉ cảm thấy đối diện tướng mạo như vậy, nếu nhìu lâu thì quả là quá tàn nhẫn với nữ tử kia.
Nhưng thanh âm của nàng ta lại ôn nhu làm sao, chính nàng ta đã chỉ điểm cho gã phá trận mà ra. Trước khi phá trận, Hàn Ngạc lại nhìn thấy hình bóng đó phun ra một ngụm máu, rồi biến đi mất, xem ra nàng ta đã hao tổn rất nhiều lực khí để chỉ điểm cho gã.
Nàng ta là ai? Mình trong cung đâu có quen biết người nào... Một mùi thơm cơm canh lúc đó lại luồn qua cửa lọt vào phòng. Hàn Ngạc vốn hoàn toàn không muốn ăn uống, giờ lại bị hương vị đó dẫn dụ, tựa hồ ký ức xa xưa của gã bị nó lôi kéo lên, gã chợt thoát miệng kêu: "A Xu!".
Vừa thoát tiếng, một cảm ứng hội ý ngầm tựa hồ bốc dâng trong lòng gã. Vốn người ngoài cửa cước bộ cực nhẹ, cho dù tai mắt linh mẫn như Hàn Ngạc, hơn nữa lại đang tĩnh tọa điều tức, cũng cơ hồ không thể nào nghe được. Nhưng sau khi kêu lên, gã chừng như có thể nghe --- Thực ra không phải nghe, mà là cảm thấy bước chân của người ngoài cửa khựng lại, sau đó tựa hồ muốn thoát thân bỏ đi.
Hàn Ngạc lòng chợt ấm áp hẳn, kêu: "Xu tỷ, là tỷ à? Tỷ đã đến phải không?".
Thanh âm của gã tràn đầy vẻ vui mừng, đứng bật dậy. Lòng gã vốn đang buồn thảm, lúc này nhờ có người kia mà hân hoan hẳn. Cái bật dậy đó đã khôi phục lại dáng vẻ lanh lẹ của một nam tử trẻ trung.
Gã lao ra ngoài cửa, thấy trước cửa có đặt một cái mâm, trên mâm có hai cái tô. Một tô phân nửa cháo trắng phân nửa đồ mặn, đồ mặn bày biện cực kỳ tinh trí. Tô kia là tô canh mầm đậu, nước xanh xanh, mới nhìn đã cảm thấy muốn ăn liền. Người mang đồ ăn đến lại đã biến mất tự lúc nào rồi.
Hàn Ngạc chẳng lý gì đến đồ ăn, phi thân lên nóc nhà dõi nhìn bốn phía, nhưng hoàn toàn không thấy ai. Lòng gã xót xa: ước hẹn năm xưa bị gián đoạn, thực vĩnh viễn không còn duyên gặp mặt nữa sao? Ý nghĩ máy động trong đầu, gã ôm ngực "a" lên một tiếng, như không chịu nổi sự suy sụp thể lực, chổng đầu ngã xuống từ tuốt trên mái nhà.
"Bình" một tiếng, cái ngã đập đầu đó đâu phải nhẹ, gã có vẻ đã mê man bất tỉnh. Một bóng người trong vùng tối ngoài tường kêu lên khe khẽ. Thanh âm dịu dàng đó, tuy đang lúc kinh hoàng vẫn không để mất nét nhu hòa. Người kia do dự chạy ra. Thân ảnh của nàng ta nhẹ nhàng vô cùng, tựa hồ không nhuốm nhiễm chút cát bụi bay phất đến bên Hàn Ngạc. Nàng ta dịu dàng ôm đỡ đầu Hàn Ngạc vào lòng, ngón tay bấm nhẹ huyệt Nhân trung của gã, thần thái vừa thương tội vừa buồn bã. Nàng ta vẫn còn cảnh giác để ý, chỉ cần phát giác Hàn Ngạc sắp tỉnh là liền bỏ đi. Nàng ta thì thầm: "Sao đệ tìm ta làm gì? Đệ không phải đã có Đỗ Phương Ninh hay sao? Một nam nhi hùng dũng như đệ, bề ngoài hành sự chém đinh chặt sắt, tại sao lún vào tư tình là ràng rịt khó dứt bỏ khó cắt đứt đến thế?".
Đôi mắt lá râm của nàng chăm chú nhìn Hàn Ngạc, khoé mắt lai láng phong tình, không ngờ có hơi giống mắt Hàn Ngạc. Nàng không mỹ lệ, nhưng toàn thân thấm đượm một sự điềm đạm mong manh khôn tả, giọng nói của nàng ta tự nhiên tỏa toát ôn tình trong ngần mong manh như váng băng trên mặt nước hồ xuân.
Nàng ta dịu dàng thốt: "Tỉnh dậy, mau tỉnh dậy". Thân người Hàn Ngạc hơi động đậy, Nữ tử phát giác, nhẹ nhàng đặt đầu Hàn Ngạc xuống đất trở lại, đứng dậy muốn bỏ đi.
Cổ tay Hàn Ngạc vụt xoay trở, nhè nhẹ nắm giữ cổ tay nàng ta.
Nữ tử hoảng kinh, biết đã trúng "quỷ kế" của Hàn Ngạc. Nàng ta rất thông minh, nhưng vẫn không thoát nổi thủ đoạn vụng về như trẻ nít mà Hàn Ngạc chưa từng dùng đùa với ai khác ngoài nàng. Nàng lại không có vẻ tức tối: "Đệ có muốn gạt ta thì cũng gạt cho hay, làm gì mà té chổng đầu như vậy, còn té nặng đến thế?". Nàng dịu dàng xét nghiệm một cục u trên đỉnh đầu Hàn Ngạc: "Xem xem, u một cục to như vậy. Người lớn rồi, làm gì cũng phải biết nặng nhẹ chứ".
Hàn Ngạc giương mắt cười: "Xu tỷ, tỷ tinh minh như vậy, đệ nếu không giả như thực, tỷ làm sao tưởng thực mà chạy ra cho được?". Mình mẩy gã toàn đất cát, trên đầu còn nổi một cục u to bự, nhưng cười rất vui. Nữ tử kia điềm đạm thốt: "Đừng phá nữa, đứng dậy đi. Ngồi đây hoài người ta bu xem bây giờ".
Hàn Ngạc tuy cảm thấy ấm áp nằm trong lòng nàng ta, lại cũng bẽn lẽn không thể nằm lâu, nhảy bật dậy, cười nói: "Xu tỷ, người cứu đệ thoát khỏi vòng vây hôm nay là tỷ phải không?". Nhưng nói rồi gã cũng cảm thấy không phải. Gã không biết mình sao lại đột nhiên nói đại như vậy.
Nữ tử ngẩn ngơ: "Cứu đệ? Đệ nói gì?". Thân người nàng rướn lên, tựa hồ muốn đi. Nhưng tay Hàn Ngạc vẫn còn nắm cổ tay nàng ta, lại nghe người gã gọi là "Xu tỷ" bực bội thốt: "Lớn đầu rồi! Làm gì mà cứ con nít như vậy chứ. Ta còn có chuyện, đệ buông tay đi chứ. Đệ muốn bắt giữ ta bao lâu đây?".
Nói xong câu cuối, mặt nàng ta lại ửng hồng, tựa như tự trách câu nói của mình có vẻ cố tình bày tỏ ẩn ý.
Hàn Ngạc lại không chú ý, chỉ nắm chắc không chịu buông, một chân dí dí trên mặt đất, cũng không nói gì. Nữ tử thấy vậy xiêu lòng, cười điềm đạm: "Được rồi, thực phục đệ luôn. Ta chịu rồi, ta ở lại nấu cho đệ ăn vài bữa, vậy được rồi chứ? Xem đệ gầy gò như vậy, đúng là sắp biến thành Sơn hầu nhi Hải hạc nhi rồi đó".
Hàn Ngạc hồi bé thể thái cao gầy, bị hai đứa cháu gái của Tổ cô bà chọc quê là Sơn hầu nhi Hải hạc nhi, vì chiêu thức nhập môn của Hàn Ngạc khi học kiếm vốn là "Viên công kiếm" với "Hạc môn thập bát thức". Gã dày công nghiên cứu các môn đó, lời đùa chọc sau này thậm chí truyền ra ngoài, vì vậy lúc gã vừa ra giang hồ người ta cho ngoại hiệu là "sơn viên hải hạc" vượn núi hạc biển. Giờ nghe nữ tử thuận miệng nói ra, lòng không khỏi cảm thấy ấm áp.
Hàn Ngạc nở một nụ cười ngốc nghếch. Hồi nhỏ gã và A Xu vốn là bằng hữu cực thân. Bà cô của A Xu là Tổ cô bà, có giao tình khá thâm hậu với sư phụ của Hàn Ngạc. Bọn họ thuở bé thường hay chơi chung. Lúc đó bọn họ vốn có ba người, là Hàn Ngạc với hai chị em song sinh A Xu và A Thù. Hàn Ngạc rất thích tính tình dịu dàng ôn nhu của A Xu, A Xu có vẻ cũng đối xử đặc biệt tốt với gã. Cả sư phụ của Hàn Ngạc cũng thích tính khí của A Xu, lúc chuyện vãn Tổ cô bà với Thái Ất thượng nhân thậm chí cũng có đề cập đến chuyện lớn lên hai đứa có phải rất xứng để phối thành một cặp hay không. Những lời đó nửa thực nửa đùa, hai người lúc đó còn là thiếu niên, cũng có nghe nói, tuy không hỏi han, nhưng đều biết bậc trưởng bối có ý gầy dựng hôn phối cho hai đứa. Tới lúc Hàn Ngạc được mười bốn mười lăm, thường nghĩ ngợi về mấy lời đó, tuy lòng không có tình cảm vấn vương gì đối với A Xu, nhưng vẫn có một khoảng thời gian luôn nghĩ vợ mình sau này sẽ là A Xu.
Hàn Ngạc đắm chìm trong suy tưởng, khoé môi bất giác mỉm cười: thực ra lúc đó có biết gì là vợ chồng với yêu đương đâu? Nhưng chút tình cảm ấm dịu đó lại gìn giữ đến nay, ôm ấp trong tim thủy chung không tan biến, hóa thành chút tình nhớ bình yên ấm áp. Nếu không phải vì có xảy ra chút chuyện, nếu không phải A Thù muội muội của A Xu... nếu mọi sự đều bình lặng đi qua, mình có lẽ không thể gặp Phương Ninh! Cũng không thể cùng nàng...
Hàn Ngạc nhìn Xu tỷ, lòng đau âm ỉ: làm quen với Phương Ninh, quả là khắc cốt ghi tâm, khiến cho Hàn Ngạc cuối cùng thấu hiểu cái gì là rễ tình bén sâu. Nhưng nếu có thể quay về như trước, nếu có thể làm lại từ đầu, nếu có thể chọn lựa trở lại, gã có vẫn tình nguyện quen biết Phương Ninh một cách nồng thâm, một cách đau xót như vậy không? Gã có thể nào thực sự nhận thức được sự tốt lành của Xu tỷ không? Gã không biết. Gã chỉ biết nữ tử trên thế gian này, e chỉ có một mình Xu tỷ vĩnh viễn không làm hại mình. Nàng thực là một cô gái dịu dàng ôn nhu, tính tình không giống Phương Ninh, cũng không giống Vu Tiệp, nàng chưa từng ám toán mình.
o0o
Hai ngày sau đó, A Xu quả nhiên không đi. Hàn Ngạc tâm vô tạp niệm, tuy hồi nhỏ từng đùa giỡn về hôn ước, nhưng nay ở cùng một chỗ, gã thấy thản nhiên vô cùng. A Xu cũng cảm thấy thản nhiên, Hàn Ngạc lại được ăn mấy bữa ăn gia đình đúng nghĩa.
Nhưng A Xu chẳng phải chuyện trò râm ran gì, tính tình nàng điềm đạm tẻ nhạt, có gặp mặt Hàn Ngạc cũng chỉ im lìm, có khi cả nửa ngày không nói câu nào. Hàn Ngạc vốn có không ít chuyện muốn nói với nàng, nhưng ý niệm mới thoáng trong đầu, lại liền cảm thấy bất tất phải nói. Hai người hầu như cứ lẳng lặng ngồi nhìn nhau.
Hai ngày qua, gã cứ lo luyện kiếm. A Xu im lặng ngồi ở khoảnh đất trống vắng trong hậu viện xem Hàn Ngạc luyện đi luyện lại "Viên công kiếm" của gã. Đó là kiếm pháp nhập môn của Hàn Ngạc, nhưng Hàn Ngạc vẫn trung thành với nó như xưa. Nàng nhìn eo gã ép sát dưới tấm áo rộng thùng thình, thầm nghĩ: có nhiều chuyện thì ra vẫn bất biến. Gã vẫn như hồi nhỏ, rất giống hồi nhỏ, cho dù thích ăn đồ ăn mình nấu, cũng không chịu ăn thêm chút xíu nào. Yêu cầu giữ gìn thân thể của người tập kiếm vốn rất cao, Hàn Ngạc đối với việc khống chế thân hình mình cũng cực kỳ nghiêm khắc.
Chút tình cảm dịu dàng thoáng lướt qua mắt A Xu, Hàn Ngạc lại không nhìn thấy. Cho dù có thấy, một nam nhân như gã cũng chẳng nhận ra được gì. Gã có thể vẫn cho rằng cái mình nhìn thấy chỉ là chút gió nhẹ mây mờ.
Hàn Ngạc có lúc cũng muốn kể chuyện Bắc Mang sơn với nàng, gã đến giờ cũng không biết người mình gặp đêm đó là A Xu hay A Thù, hơn nữa một khi muốn nói tới loài trùng Lợi đại phu gọi là "A Đổ", gã càng cảm thấy không tiện nhắc đến.
Hàn Ngạc khổ luyện như vậy không chỉ là vì ước hẹn mùng mười tháng tư của Ngải Khắc --- đương nhiên người trong Tử Thần mời hẹn tuyệt không phải là trò đùa --- Gã khổ luyện chủ yếu là vì thất bại gần đây. Thất bại đó còn ghim cứng trong đầu gã, nói gần nói xa, câu nói của người trong Chi Lan viện còn vang vọng bên tai gã: "Cả ta ngươi cũng đánh không lại, còn muốn đấu với Du Cửu Khuyết sao?".
Hàn Ngạc xưa nay ít khi tranh giành với người ta, nhưng về mặt tu vi của mình lại luôn luôn đòi hỏi nghiêm ngặt. Gã cũng không biết mình luyện kiếm thực ra là vì cái gì, khổ công tu luyện từ nhỏ tới lớn --- Nói gã đâu thèm tranh giành gì trên đời, đâu ỷ vào tài năng để hà hiếp người khác, vậy tại sao phải gian khổ luyện kiếm?
Chỉ vì để cảm thấy mình là một nam nhân sao? Khổ công tu luyện, càng gặp khốn khó càng kiên cường, để cảm thấy phần thanh bạch cương trực trong cốt trong tim. Đó đã trở thành đạo lý làm người của gã. Nếu không, giữa dòng đời ô trọc, gã làm sao tự tin? Làm sao tự xét mình? Làm sao tự biết tự quyết về mình?
"Hải hạc giai tiền minh hướng nhân", A Xu thầm thì khe khẽ.
Giữa làn gió chiều, Hàn Ngạc đang luyện kiếm. Chiêu thức cuối cùng trong Hạc môn thập cửu thức là "Hải hạc giai tiền minh hướng nhân", Hàn Ngạc luôn luôn thích chiêu đó nhất, A Xu cũng thích xem gã sử chiêu đó nhất, một hơi hướm thanh tao phiêu dật như một trận gió biển mát mẻ tươi trong.
o0o
Ngày tháng yên bình hạnh phúc luôn trôi nhanh làm sao. Giờ đã là sáng sớm mùng mười tháng tư. Hàn Ngạc ngẩng lên, nhìn bầu trời còn chưa sáng rõ. Gã mới canh tư đã dậy luyện kiếm suốt một canh giờ. Gã biết A Xu hôm nay sẽ không đến. Bọn họ thậm chí cũng không nói lời từ biệt, nhưng gã biết nàng sẽ không đến nữa.
Nàng có lẽ biết cuộc hẹn hôm nay, có lẽ không biết, nhưng nàng sẽ không đến nữa.
Còn gã một khi nhập mình vào kiếm đạo là quên hết, bao gồm cả A Xu, bao gồm cả Dư Tiệp, thậm chí bao gồm cả Phương Ninh...
Hàn Ngạc thầm thở dài một tiếng, có lẽ mất mát gì đi nữa cũng không đáng sợ, chỉ cần trong tay gã còn có --- kiếm.
1 Hạc biển cất tiếng trước thềm để cảnh tỉnh người, là câu tiếp theo câu "Sở phi đường thượng sắc thù chúng" trong bài "Ký Thường Chinh Quân" của Đỗ Phủ (xem chú thích {1} trong hồi 23). Hải hạc còn gọi là giang âu, tiếng kêu vang vọng, làm cho người nghe chú ý, cảnh tỉnh tâm thần.
2 Tịch cốc nghĩa là không ăn ngũ cốc, là một phương pháp tu luyện thành tiên của phương sĩ Đạo gia, cũng gọi là "Khước cốc", "Đoạn cốc" hoặc "Tuyệt cốc", "Hưu lương", "Tuyệt lạp". Đạo giáo cho rằng con người ăn ngũ cốc kết thành phân trong ruột, sản sinh uế khí, làm trở ngại đường Đạo, không thành tiên được. Tịch cốc thuật bắt nguồn từ thời Tiên Tần. Sách "Đại đái lễ ký - Dịch bản mệnh" luận bàn lễ nghi Tần Hán có nói: "Kẻ ăn thịt dũng cảm mà hung hãn, kẻ ăn thóc lúa trí tuệ mà gian xảo, người ăn khí sống thọ như thần linh, người không ăn thóc lúa bất tử như thần". Đó là căn cơ lý luận ban đầu của Tịch cốc thuật.
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top