Ký ức-Lenghiabk05
Quả lặc dày
Ngay từ tên gọi đã khiến nhiều người phải tò mò, suy ngẫm. Cái tên “Lặc lày” có lẽ còn xa lạ với nhiều vùng miền nhưng đây là món ăn đặc sản trước đây chỉ có ở vùng cao mới có.
Quả lặc lày ( hay còn gọi là mướp rừng, mướp Mường) là thứ quả được đồng bào người Thái, Mường trồng nhiều ở vùng núi Tây Bắc. Nhưng khoảng từ 2- 3 năm trở lại đây, ở miền xuôi cũng có rất nhiều nơi trồng được loại quả đặc biệt này. Khác với lặc lày lai, lặc lày ta có thân tròn trịa, vỏ ngoài có sọc xanh trắng gần giống với dưa gang.
Từ loại quả này, người nội trợ có thể khéo léo chế biến được những món ăn độc đáo phục vụ cho bữa cơm gia đình thêm sum vầy, ấm cúng. Nếu người dân ở đồng bằng dùng mướp thường để nấu canh thì lặc lày luộc là món ngon nhất. Khi chế biến món này, người ta để nguyên cả vỏ vì chính lớp vỏ tạo nên hương vị rất riêng. Đặc biệt khi luộc lên độ giòn của lớp vỏ kết hợp với vị ngọt mềm mát của phần ruột khiến cho người thưởng thức phải suy ngẫm, nhâm nhi. Lặc lày luộc vừa chín tới, gắp ra đĩa chấm với muối vừng. Hương thơm của lặc lày đầu mùa, vị mằn mặn, béo ngậy của vừng lạc chỉ nghĩ đến thôi đã chảy nước chân răng vì them thuồng rồi. Nhất là trong những ngày hè oi bức, nóng nực thời tiết lên tới 40 độ C, được ngồi quây quần bên mâm cơm, húp bát nước canh với dăm ba quả cà nén thì cái hạnh phúc dung dị, nhỏ nhoi của mái ấm gia đình sẽ được nhân lên gấp bội.
Nếu muốn thay đổi thực đơn cho bữa cơm gia đình thêm mặn mà những chị em phụ nữ có thể mua thêm bộ lòng gà, lòng vịt về xào với lặc lày, sự hấp dẫn cũng không kém. Loại quả này được bày bán rất nhiều ngoài chợ vì thế phải cẩn thận chọn những quả vừa phải, không to quá và còn tươi ngon không bầm dập. Mang về rửa sạch, thái thành từng lát mỏng rồi đem xào với lòng gà, hay lòng ngan đã tẩm ướp gia vị. Một đĩa lặc lày sền sền hòa quyện giữa những lát được thái mỏng, vị béo ngậy của lòng gà nơi đầu lưỡi, vị thơm dịu của thức quà quê vùng Tây Bắc quen thuộc, có lẽ ai đã từng được ăn một lần thì dư âm về nó còn lắng đọng mãi. Dù là luộc hay xào đi chăng nữa, lặc lày vẫn là món ăn dân giã, đặc biệt mà không kén người ăn. Đây là thức quà giúp thanh nhiệt rất tốt đối với sức khỏe mọi người.
Dưới ánh nắng chói chang của mùa hè, những giàn lặc lày cứ chi chit quả. Người nông dân vẫn ngày ngày chăm sóc, nâng niu từng chùm quả để thêm vào bữa cơm gia đình thêm đủ đầy, sung túc.
Về đất Quảng ăn... xương rồng
| In |
Người đưa bài: ngoisaomayman_vn
07/02/2012
Chắc hẳn ít ai biết rằng cây xương rồng - một loại cây mọc hoang thành rừng ở vùng cát ven biển các tỉnh miền Trung - lại có thể chế biến thành nhiều món ăn khoái khẩu
Chắc hẳn ít ai biết rằng cây xương rồng - một loại cây mọc hoang thành rừng ở vùng cát ven biển các tỉnh miền Trung - lại có thể chế biến thành nhiều món ăn khoái khẩu.
Với cư dân vùng cát huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam, xương rồng là một loại thực phẩm có thể luộc, nấu canh hoặc làm gỏi ăn thay cơm vào những năm đói kém, mất mùa. Loài cây chịu được nắng nóng, cát bỏng với gai nhọn chi chít quanh thân này là một nguồn rau xanh dồi dào của người dân vùng cát.
Xương rồng có thể xào với tôm, trộn với thịt heo ba chỉ, nấu canh chua với cá lóc, cá trê... Hay đơn giản chỉ cần một nắm hạt đậu phộng rang giòn là đã có một đĩa gỏi xương rồng vừa ngon mắt vừa khoái khẩu.
Gia đình cụ ông Phan Lợi (85 tuổi) nhà ở thôn 5, xã Bình Dương đã mời chúng tôi một bữa cơm với món xương rồng xào tôm thơm ngào ngạt. Lần đầu tiên được ăn món lạ, cảm giác của tôi hơi ngần ngại. Nhưng khi đã nếm thử đũa đầu tiên, tôi biết từ nay trong thực đơn của mình có thêm một món ngon từ loài cây gai góc này.
Thấy chúng tôi tấm tắc khen ngon, cụ Lợi tự hào: “Xương rồng là loại cây cứu đói cho dân tụi tui hồi những năm đói kém, mất mùa. Giờ đời sống khá giả hơn, có tôm cá, thịt đủ thứ, món xương rồng cũng thay đổi theo. Cô thấy đó, xương rồng nấu với thứ gì cũng ngon hết”. Xương rồng mọc hoang ở các đồi, gò, bãi cát, ai muốn lấy bao nhiêu cũng được, miễn là khéo léo tách các đọt xương rồng sao cho gai không đâm vào tay. Buổi trưa đi làm đồng về, bắc nồi cơm lên bếp, cầm dao ra bãi cát phạt chừng 3-5 đọt xương rồng đem vào là cả nhà đã có một bữa canh mát lòng.
Chế biến xương rồng rất đơn giản. Chỉ cần gọt sạch gai ở bốn phía, tách lớp màng mỏng ở ngoài cho sạch rồi thái mỏng, đem luộc trên bếp chừng 5 phút, khi màu xanh chuyển sang màu vàng là được. Xương rồng luộc lên có màu vàng như dưa cải muối chua, đem vắt ráo nước là có thể xào, nấu món gì tùy thích.
Xương rồng luộc có vị chua chua, thơm nhẹ chứ không chua đậm như khế, không chua gắt như chanh. Cá lóc hay cá trê xắt lát đem ướp mắm muối, gia vị, bắc chảo xào lên cho thấm rồi cho xương rồng vào, đảo qua vài lượt rồi chế nước sôi vào. Nồi canh sôi chừng ba phút, nêm nếm vừa ăn cho thêm ngò gai, hành lá vào là có thể ăn ngay được.
Xương rồng khi nhai trong miệng cảm giác dai dai, sần sật, chua chua rất ngon chứ không mềm như dọc mùng. Mùa hè ở xứ cát nóng nực, bữa trưa chỉ cần một bát canh chua xương rồng kèm với chén nước mắm ớt là cả nhà đã có một bữa cơm ngon miệng. Xương rồng luộc xong vắt ráo nước đem xào với mỡ, nêm thêm muỗng nước mắm cũng là một món dễ đưa cơm. Mùa đông mưa dầm không đi chợ được, các mẹ ở vùng cát chỉ cần ra sau vườn cắt vài đọt xương rồng vào luộc trộn với một nhúm đậu phộng rang giòn là đã có một món gỏi xương rồng thơm nức mũi. Đây cũng là một trong những món nhậu khá bắt mồi của ngư dân vùng cát trong những ngày trăng sáng, thuyền nằm bờ.
Nấm mối nướng lá nghệ
| In |
Người đưa bài: theo vnexpress
06/11/2011
Thật hạnh phúc trong không gian yên ả của ngày hè, hai bác cháu trải tấm lá chuối ngồi bên bờ vườn dưới bóng cây râm mát “đối ẩm” bên đĩa nấm mối nướng lá nghệ còn nóng hổi, thơm lừng!
Bác Hai tôi là một nông dân chất phác, xởi lởi, rất thương con cháu và thích tự vào bếp chế biến món ăn. Một hôm tôi về quê (xã Giao Long, huyện Châu Thành - Bến Tre) thăm bác, bác vui mừng vô hạn nói: “Sẵn dịp cháu về vào mùa nấm mối, bác ra vườn tìm xem có tai nấm nào không, đãi cháu một món ăn dân dã, đảm bảo không 'đụng hàng', đó là: “Nấm mối nướng lá nghệ
Nghe bác nói đến nấm mối, ký ức tuổi thơ nơi quê nhà yêu dấu chợt ùa về. Tôi còn nhớ hàng năm - vào khoảng tháng 5 Âm lịch khi những cơn mưa đầu mùa chợt mưa, chợt nắng làm cho mặt đất hâm hấp nóng là y như rằng nấm mối sẽ mọc.
Biết được những đặc điểm trên, bọn trẻ chúng tôi thường ra bờ vườn chỗ nấm mối thường hay mọc hàng năm để cắm chà tre bao quanh và lấy lá chuối khô phủ lên trên để “xí phần” trước. Sáng hôm sau khi trời còn tờ mờ sương, bọn chúng tôi cặp rổ ra vườn để hái nấm. Nhìn những tai nấm mối mới lú màu nâu đất hay nâu trắng (nấm nếp) giống như tai nấm rơm, nhưng phần dù (đầu) nhọn hơn, chân nấm dài không có bao, trông thật hấp dẫn!. Có khi may mắn, chúng tôi hái được cả kí lô. Thế là, trưa hôm đó, má đãi cả nhà một bữa ăn “thịnh soạn” với nấm mối xào cổ hũ dừa, nấm mối xào thịt, nấm mối nấu canh giò heo măng..v.v..; đôi lúc, má còn “vẽ duyên” làm bánh xèo nhân nấm mối nữa
Quay lại nhà bác Hai, sau khi hai bác cháu “quần” khắp bờ vườn một lát cũng được khoảng 200 gram nấm mối tươi, tai nấm còn búp (chưa bung dù) rất ngon.
Trước hết, bác gọt chân nấm (phần dính đất), chẻ nấm ra làm đôi (nếu nấm nhỏ thì để nguyên), rửa sạch với nước lạnh có pha chút muối, vớt ra để ráo. Kế đến, bác rang muối hột trên bếp cho khô để nguội, đâm nhuyễn cùng với một nhúm ớt hiểm xanh để sẵn ra tô.
Bác còn cho tôi biết thêm bí quyết khi làm món này là không nên dùng thêm gia vị nào khác (đường, bột ngọt…) khiến mất đi hương vị đặc trưng của nấm mối.
Lá nghệ tươi cắt thành hình chữ nhật, cỡ 20x30 cm, lau sạch phơi nắng để cho lá hơi héo (gói không bị rách). “Lá nghệ gói nấm mối nướng, tinh dầu của lá nghệ thấm vào nấm mối có một mùi thơm rất độc đáo!”, bác giải thích về việc dùng loại lá này.
Mọi thứ đã chuẩn bị xong, bác nhanh tay cho nấm mối cùng với muối ớt vào trộn đều cho vừa khẩu vị, để ngấm khoảng 15 phút. Kế đến, bác xếp 2 lớp lá nghệ đặt lên mặt bàn và đổ nấm mối vào gói lại thành một gói hình vuông (như bánh gói), mép lá nghệ còn thừa được nhét vào bên trong. Nấm mối được chia thành nhiều gói để mau chín.
Gói xong, bác lấy một bó rơm đốt cháy và đặt những gói nấm mối vào lửa cho tới khi lớp lá nghệ bên ngoài cháy trèm trèm, bác gỡ lớp lá nghệ ra, cho nấm mối vào đĩa là xong!. Sau cùng, bác cũng không quên lấy chai rượu thuốc trên tủ thờ xuống để bác cháu “nhâm nhi” trong ngày vui gặp gỡ...
Thật hạnh phúc trong không gian yên ả của ngày hè, hai bác cháu trải tấm lá chuối ngồi bên bờ vườn dưới bóng cây râm mát “đối ẩm” bên đĩa nấm mối nướng lá nghệ còn nóng hổi, thơm lừng! Gắp một miếng đưa lên miệng nhai một cách từ tốn. Vị dai, giòn, ngọt đặc trưng của nấm mối hòa lẫn mùi thơm thoảng của tinh dầu nghệ, vị cay the the của ớt lan tỏa thấm dần vào vị giác. Thêm chút “men cay” vào nữa khiến cho câu chuyện thêm phần rôm rả.
Mùa nấm mối năm nay lại về và bác Hai tôi đã ra người thiên cổ. Ghé vào nhà bác, bước xuống bếp thấy đứa cháu gái đang rị mọ rửa từng tai nấm mối để chuẩn bị bữa ăn, tim tôi như nghẹn lại và nhớ bác vô cùng.
Bố tôi-một phần ký ức về các món ăn Hà Nội
Tôi là người Nam gốc Bắc. Bố tôi là người Hà Nam và có lúc sống tại Hà Nội rồi sau đó theo ông nội vào phía Nam sinh sống và gặp mẹ tôi. Sau đó, bố tôi sống tại miền Nam tới giờ. Nói ra cũng buồn. Quê ngoài Bắc mà không lần nào về thăm quê. Và do ông bà tôi mất trong này nên tôi –mặc dù biết còn bà con ngoài ấy (và 1 số cũng vào Nam sinh sống) – không về quê lần nào.
Mặc dù sống trong Nam lâu và hồi còn nhỏ bố tôi là một quý tử chỉ biết ăn học và chơi chứ ko như mấy cô tôi- phải học nấu ăn (dù nhà có người làm). Tới bữa, bố tôi chỉ ngồi vào ăn chứ không phải động tay động chân. Bà cố tôi là người nấu ăn ngon lắm- lời bố tôi kể. Và bố thường rất tiếc khi hồi nhỏ mải lo chơi đùa không để ý cách thức làm món ăn của bà. Và một số món đặc biệt của gia đình đều “thất truyền”.
Sau này, do bị bệnh, bố tôi không làm việc nữa mà thường ngồi ở nhà nhớ lại thời thơ ấu, nhớ lại hương vị của những món bà cố từng làm và chỉ mẹ tôi nấu lại. Nhưng chuyện không dễ chút nào.
Món đầu tiên dễ nhất mà cũng thường nhất là rau muống xào mắm tôm.
Bố tôi là người tinh tế. Tinh tế đến nỗi chỉ hơi quá tay 1 tí hoặc hơi không vừa là không chịu được. Phi tỏi sao cho thơm, rau muống thì phải xanh, mắm tôm thì không được cho nhiều mặn mà chỉ nêm cho nó có mùi mắm tôm thôi. Mà có mùi cũng không được nặng quá….cuối cùng là không được cho nhiều nước quá nó sẽ thành canh…
Món thứ hai cũng nên nói là món bún chả. Một chút mắm tôm, một chút hành tiêu tỏi ớt…ướp thịt. Sau đó là màn chẻ rau muống…phải mỏng ăn mới ngon….chà…mỗi lần chẻ là muốn cụp xương sống. Chưa kể nếu thiếu một loại rau là ko yên tí nào…Ngoài Bắc gọi là bún chả nhưng trong Nam thì gọi đó là bún thịt nướng. Nhưng hai món này có 1 điểm khác biệt. Đó chính là nước mắm.
Nước mắm pha nhạt, khi nướng thì phả nhỏ mỡ vào nước mắm. Tôi được phân công làm lúc nướng thịt. Chậc, phải nướng thịt vào lúc trưa nắng miền Nam quả là 1 cực hình. Mà còn nướng bằng bếp than….Nhưng được cái, thịt nướng xong thể nào cũng “giảm vài miếng” do lúc nướng thơm quá nhịn không nổi nhón mấy miếng. (có khi còn bỏng cả miệng vì bốc trúng miếng thịt còn nóng…nhả ra cũng ko được mà nuốt vào cũng chả xong. Đành phả vừa bụm miệng vừa hà hơi cho bớt hoặc cứ há hốc ra cho bớt nóng. Thịt heo phải ba chỉ đàng hoàng nhé. Còn thịt băm khỏi nói. Ngày trước do không biết cách nên nướng mà nó cứ bở ra cả. Ực! Trong lúc nướng ko để lửa táp làm miếng thịt bị ám khói sẽ không ngon.
Món bún chả thì phải húp nước mắm. Còn bún thịt nướng miền nam thì chỉ chan vừa ăn và không nhỏ mỡ vào nước mắm thôi.
Canh nghêu thì là cũng là một món ngon đặc biệt. Với tôi, một kẻ bị đau bao tử nên không được ăn chua quá. Nhưng khi nhà nấu món này thì không thể cưỡng lại sức hút từ nó. Đến nỗi ăn xong lại lăn ra vì no và đau. Vị chua thanh của mẻ, vị ngọt của con nghêu, thêm 1 chút thì là vào canh và ăn với cơm nguội là không chê vào đâu được. Một món không dễ làm chút nào và cũng phải tỉ mỉ. Tách từng con nghêu và rửa sạch cho bớt cát ko cần nêm nếm( nội tách nghêu ra không cũng gần nửa tiếng…), mẻ cũng phải vừa phải và phải dùng đồ lọc lấy nước mà thôi. Nêm nếm cho vừa, sau đó tắt bếp, bỏ thì là vào tô và chế lúc nước còn nóng chỉ để nó chín thì là. Với canh riêu cá cũng thế, nhưng có khác là có vị chua của cà chua và mẻ và thơm của nghệ. Như đã nói, bố tôi là người tinh tế. Nên thứ gì cũng phải đúng. Không được quá. Thêm 1 tí là biết ngay. Và khi nấu phở cũng vậy. Vì không có sức khỏe nhiều nên bố tôi không đi làm như mọi ông bố khác mà chỉ ngồi nhà nấu ăn. Nước phở phải trong và thơm. Không được bỏ mùi quế quá nhiều sẽ mất đi mùi thơm của thịt.
Ngày xưa nhà không khá giả như bây giờ. Nên mỗi lần muốn ăn phở là phải lâu lắm mới được ăn. Mà nhà 5 người thì chỉ mua 2 tô phở. Có thể các bạn sẽ thắc mắc 2 tô sao đủ cho 5 người phải không? Đúng! 2 tô phở ko thôi thì sẽ ko đủ cho cả 5. Nhưng với món cơm nguội còn hôm qua thì 5 tô là quá đủ. Vị chua của bánh phở sẽ mất đi hòa quyện với cơm ngon không tả nổi.
Ẩm thực của mỗi miền đều khác nhau và có khẩu vị khác nhau. Nhưng các món nổi tiếng vẫn là món phở và bánh cuốn. Vâng 1000 năm Thăng Long- Hà Nội sắp tới. Sẽ có nhiều du khách đếm. Ngoài chiêm ngưỡng những vẻ đẹp của thiên nhiên, họ cũng sẽ được thưởng thức những món ngon đặc sắc của Hà Nội nhỉ.
Tôm rang, tôm rim: món ngon trong ký ức
Tôi có "cảm tình" với con tôm và mê món tôm rang (rồi tôm rim sau nầy) từ hồi còn bé chớ đâu phải "ăn theo nói theo" như người đời, thấy con tôm thuộc dòng họ sơn hào hải vị sang giàu bèn "bắt quàng làm họ" ! Tôi biết ăn món tôm rang từ khi được mẹ tập cho ăn "cơm nhai với tôm rang".
Rồi từ đó hình ảnh con tôm với các món ăn đã đeo theo tôi mãi tới bây giờ như người tình, nên bao phen rồi xa quê, xa đồng ruộng, xa con tôm nhưng lòng mãi tơ tưởng món tôm rang tôm rim là vậy!
- Tôm kể đầu, rau kể mớ.
- Vắt đầu cá, vá đầu tôm.
Tục ngữ
Thấy tục ngữ người xưa mình nói về tôm bèn lọ mọ tìm tự điển, tìm sách thấy nói rằng tôm là loài đông vật sống dưới nước, thân giáp, mình dài có nhiều đốt, nhiều chơn, nhiều râu. Tôm xứ mình có nhiều loại như tôm bạc, tôm bạc lò, tôm đất là loại mà ta thường ăn; tôm càng, tôm hùm đắt tiền thuộc sơn hào hải vị, người giàu mới dám ăn; còn tôm tít, tôm chông xưa là loại tôm không ai thèm ăn, dùng để phơi làm phân và chỉ dành cho mấy tay bợm nhậu thiếu mồi mà thôi!
Tôm tích ở miền Trung kêu là tôm bàn chải, vì nó giống như cái bàn chải thiệt, sống ở vùng ngập mặn có bùn sạch, thân dài dẹp, đầu to nhìn như con sâu róm, xấu xí, búng trúng tay rất đau. Luộc, hấp, nướng làm món nhậu dã chiến ăn cũng tạm tạm!. Thịt có nhiều sớ, nhai dai dai. Vào Tháng Chín, Tháng Mười tôm rất mập, đầu tôm cho nhiều gạch son như gạch cua, nướng chín chắm muối tiêu ăn cũng ngon. Không ai dùng tôm tít để rang hay rim bao giờ.
Tôm chông là loai tôm không được nông dân ưa chuộng, đầu to có gai nhọn như chông nên gọi là tôm chông, mình tròn giống con tôm càng nhưng nhỏ hơn.Tôm chông đầu bự đít teo, ít thịt. Tôm chông nhìn mất cảm tình, vừa xấu vừa không ngon! Kẹt lắm mới có người lột vỏ nấu canh ăn đỡ vào mùa nước kém mà thôi!
Tôm sú trước đây ít nghe ai nói, nay được nuôi cung cấp cho nhà hàng làm món tôm hấp với bia, chắm với sauce mayonnaise, với mustard. Thú thật với bạn, thấy con tôm sú nuôi mập tròn như mấy người bịnh béo phì, phát ớn, phát sợ vậy mà "Việt kiều" mê mệt mới lạ! Có lẻ cái gu bây giờ người ta khoái mập, nên ăn tôm sú là cái mốt.
Tôm hùm, tôm càng đúng là loại thuộc bộ sưu tập "sơn hào hải vị", bởi đó là những món ăn quý, đắt tiền, mang tánh chất y lý (?)nên ngày xưa chỉ dành cho nhà giàu. Nay lắm bà lắm cô ở Little Saigon thèm mà không dám rớ! Tội nghiệp...
Tôm hùm có nơi kêu là tôm kẹt, to bằng cùm tay trở lên, loại sống ở biển nước mặn nên vỏ sần sùi, rất cứng, thịt dai.Tôm hùm hấp ăn với sauce mayonnaise, nhậu với rượu wine trắng kiểu Tây; còn tôm hùm còn sống bơi lội trong hồ, thái nhỏ, chắm mustard, uống rượu saké, kiểu ăn sushi có mùi vị lạ, hấp dẫn.Tôm hùm ăn thua tôm càng.
Con tôm càng nhỏ hơn tôm hùm, sống ở nước ngọt, vỏ mỏng màu hơi xanh, thịt mềm và ngọt. Tôm càng kho tàu xưa bày bán hai bên bến bắc Mỹ Thuận, trên đường xuôi ngược Miền Tây, là món ngon độc đáo của người miền Nam. Tôm kho tàu cùng với hình ảnh nhộn nhịp ngày đêm trên bến dưới tàu... đã làm biết bao người phải mê mệt!
Mấy lão nông rành điệu thì hảo món tôm càng nướng chắm muối tiêu chanh. Con tôm nướng vừa chín tới, lột đầu lột vỏ, cầm phần đuôi chấm muối tiêu, đưa nguyên con tôm vào miệng, làm một ngụm rượu đế thì tuyệt cú mèo!
Tôm bạc rang muối món ăn kinh điển của người nông dân miền Nam.
Tôm bạc như tên gọi bởi có màu trắng bạc, thân dẹp vỏ mỏng, thịt mềm. Tôm làm được nhiều món để ăn cơm cũng như ăn chơi ăn nhậu.
Khoảng sau Tháng Tám ta, lúa sớm lúa mùa phủ xanh mặt đồng, mặt ruộng là mùa của tôm bạc. Lúc đó con tôm bạc rủ nhau chạy ra sông ra rạch nhiều vô kể. Tôm bạc loại sống nước ngọt vừa mềm mà có vi ngọt.
Còn tôm bạc biển thì có mùi khai khai, thương lái muối nước đá đem bán cho dân Sài Gòn Chơ Lớn, chớ dân ở ruộng xưa không chịu ăn!
Tôm bạc nước ngọt để nguyên con đem rang với muối là món ăn của những người khai hoang mở đất Nam Kỳ.
Bắc cái chảo bằng đất lên bếp hồi lâu đợi chảo thiệt nóng cho muối vào; tôm bạc rửa sơ để cho ráo nước, trúc vào chảo, hồi lâu nước tôm chảy ra hòa với muối thành dung dịch sệt sệt ôm lấy con tôm. Dùng đũa đảo cho đều hoặc bưng chảo xốc cho tôm ăn muối. Lúc nầy lửa để riu riu cho muối ăn từ từ. Thấy gần cạn hết nước, tôm vừa chín, nhắc chảo tôm xuống.
Tôm bạc trắng rang muối kiểu nầy nói văn chương là kiểu kinh điển. Con tôm trắng tinh, mùi thơm rất "hoang dại", vị mặn rất ư là "chơn phương" ruộng rẫy như kiểu ăn của con người bán khai, thời kỳ mới tìm ra lửa ra muối vậy. Râu tôm màu đỏ tươi dính vào nhau từng chùm rất lạ mắt.
Ăn tôm rang muối kiểu nầy bạn phải ra tay mới đúng kiểu đúng điệu. Nắm đầu con tôm mà bỏ vô miệng cắn. Mới nhai thấy mặn, nhai một chập mới nghe ngọt, nghe mùi thơm khen khét. Vỏ tôm làm cho bạn có thêm cái cảm giác giòn giòn như tôm nướng, rất thú vị.
Tôm rang muối ăn ên với cơm nóng ngon đáo để, ăn xong nốc hết tô nước mưa mới đã khát. Tôm rang cũng có thể ăn với canh rau, canh bầu canh bí, và nếu được ăn với canh chua thì còn gì bằng.
Tôm rang muối ăn với cơm nếp là kiểu ăn chỉ có dân miền Tây mới biết. Hồi thời Tây, sáng sớm nào mẹ tôi cũng nấu cơm nếp ăn với tôm rang muối. "Cho no dai mà chạy giặc", mẹ tôi nói như vậy.
Sau nầy không còn chạy giặc nữa nhưng ở nhà cũng hay bày nấu cơm nếp ăn với tôm rang muối trừ cơm.
Cơm nếp trộn dừa ăn với tôm rang muối là món "cao cấp" hơn nhưng vẫn là món ăn của người nhà quê vì người ở chợ ở thành mấy ai biết ăn? Tôm rang muối ăn lâu ngày thành quen, nhập tâm nên nhắc lại như rạo rực bắt thèm, bắt nhớ là vậy.
Tôm rang muối, với kiểu rang hao hao giống như cá lóc rang muối, là món ăn của người khẩn hoang Nam bộ, phù hợp với thổ ngơi, sản vật và điều kiện sống tai chỗ. Nơi khác không có. Ngày nay văn minh rồi mà người mình vẫn tìm ăn cá lóc rang muối kiểu ngày xưa. Thế mới lạ!
Tôm rim phải chăng từ tôm rang muối đã được "cải lương"?
Rim là đun lửa nhỏ riu riu cho lâu để thức ăn khô và chất ngọt/mặn ngắm dần váo bên trong từ từ. Tôm rang muối dùng tôm bạc, trong khi tôm rim phải là con tôm đất. Tôm đất là loại tôm nước lợ, mình tròn có con to bằng ngón tay cái. Vỏ màu đất phèn có khoan trắng. Tôm sất sống rất dai, rộng cả tuần nơi có nước chảy mà con tôm vẫn còn sống.
Người Sài Gòn rim tôm với mỡ hoặc dầu. Còn người miệt vườn có kiểu rim tôm với nước cốt dừa, phong cách độc đáo vô cùng và không nơi nào có.
Tôm đất cắt đầu đuôi và chân, rửa sạch cho vào rổ chờ ráo nước. Trúc tôm vào thau, ướp với muối (không ai ướp nước mắm), đường, gia vị. Để một chập cho tôm thắm đều. Bắc chảo lên bếp sau khi khử dầu với tỏi mới cho tôm vô mà xào. Trộn đều, nhìn con tôm trở màu đỡ tươi, và có mùi thơm mới cho nước cốt dừa vào ngập tôm là vừa đủ. Giữ lửa riu riu cho nước cốt dừa chín từ từ đến khi sền sệt phải bớt lửa cho nước thấm hết vào con tôm.
Tôm rim nước cốt dừa có màu vàng sậm, trong bóng và lóng lánh. Mỗi con tôm được bọc bởi lớp nước dừa sệt sệt ươn ướt. Vỏ con tôm trong suốt, thấy lớp dầu óng ánh bên trong khiến bạn muốn ăn ngay.
Tôm rim nhai nghe giòn giòn, vị vừa ngọt vừa mặn lại béo béo bởi cái dư vị nước cốt dừa mới chín tới, chưa kịp hóa dầu, làm cho người ăn có cảm giác độc đáo vì trong đời chưa gặp bao giờ.
Xem ra tôm rim là món tôm rang được cách tân, đổi mới theo yêu cầu của người muốn ăn ngon. Tôm rim như vậy là món ăn của người văn minh, trong khi tôm rang muối tới nay vẫn là món ăn ngày xưa, món ăn kinh điển.
Gọi tôm rim là tôm rang muối cải cách, cải lương là vậy.
***
Không biết tại vì thuở nhỏ được mẹ tập cho ăn "cơm nhai với tôm rang" nên mình thích, mình khen tôm rang muối, tôm rim hay tại vì tôm rang muối tôm rim ngon thiệt? Cũng có thể tại cả hai.
Miếng "cơm nhai với tôm rang" đầu đời không sao tìm lại được!
Thế cớ sao món tôm rang muối, tôm rim ngày nào nay cũng không tìm lại được ở xứ tạm dung nầy ?!
Bởi món tôm rang, tôm rim với tôi với bạn, với những ai đã từng ăn khi còn ở quê nhà giờ đây đã trở thành cái gì thuộc về huyền thoại rồi !
Nên mới nói tôm rang, tôm rim là món ngon chỉ còn trong ký ức là vậy...
Quen hơi” đọt nhãn lồng
04/01/2012- Lao động
“Chim quyên ăn trái nhãn lồng. Thia thia quen chậu vợ chồng quen hơi…”. Câu hát ru của má ngày xưa đã đưa tuổi thơ tôi vào giấc ngủ nồng say, và cho đến ngày hôm nay như vẫn còn vang vọng đâu đây mỗi khi tôi được nhìn thấy và thưởng thức món ăn dân dã, đong đầy ký ức, đó là: đọt nhãn lồng.
Đối với những người sinh ra và lớn lên ở đồng bằng sông Cửu Long chắc hẳn không ai không biết đến hương vị ngọt thơm, thanh mát của đọt nhãn lồng (còn có tên gọi là: lạc tiên, lồng đèn, chùm bao…). Đây là loại dây leo thường mọc nơi các bờ bụi, bãi hoang. Thân cây mềm, có nhiều lông, lá hình trái tim, mép lá có lông mịn, nơi nách lá có tua cuốn hình lò xo bám vào các thân cây khác để phát triển. Hoa ra vào tháng 4 – 5, quả vào tháng 5 -7. Quả nhãn lồng có hình tròn cỡ đầu ngón tay cái, chín có màu vàng cam (đến đỏ nhạt), hạt màu đen phủ bên ngoài một lớp cơm trắng nhờn (giống như hột é ngâm nước), vị chua ngọt, trẻ con rất ưa thích.
Nhắc đến đọt nhãn lồng, tôi còn nhớ lúc còn nhỏ ở dưới quê, đôi khi má sai tôi ra sau vườn hái đọt nhãn lồng về chế biến món ăn. Tôi vô cùng thích thú vì sẵn dịp đó được hái những trái nhãn lồng chín để ăn. Nhìn những trái nhãn lồng chín vàng được bao phủ bên ngoài bởi màng lưới trắng xinh, nõn nà, tôi vội giơ tay hái và bóc nhẹ lớp vỏ mỏng mềm bên ngoài đưa lên miệng nhai ngon lành. Vị chua chua, ngọt ngọt và mùi thơm thoảng đặc trưng của trái nhãn lồng thật hấp dẫn!
Theo y học dân gian, lá, đọt và dây nhãn lồng là thuốc an thần, chữa trị chứng mất ngủ, và khi phối hợp với những vị thuốc khác chữa trị được các bệnh như: kiết lỵ, thần kinh suy nhược, viêm da, mụn mũ, ghẽ ngứa.… Ngoài là vị thuốc, đọt nhãn lồng còn là thức ăn dân dã được các bà nội trợ miệt vườn ưa chuộng để chế biến món ăn ngon, nhưng ấn tượng nhất trong tôi vẫn là: đọt nhãn lồng luộc và nấu canh tép
Chế biến món đọt nhãn lồng luộc rất gọn nhẹ, nhưng để món luộc hấp dẫn là cả một nghệ thuật. Ta cứ tưởng rằng đọt nhãn lồng khi hái vào, lựa những phần non rửa sạch, rồi cho vào nồi nước luộc là xong. Nhưng để đọt nhãn lồng luộc có màu xanh bắt mắt, ăn không dai cần có một bí quyết nhỏ khác là: nước luộc phải có ít muối và nấu thật sôi, sau đó mới thả đọt nhãn lồng vào. Đợi đọt nhãn lồng chín (khoảng 10 phút), vớt ra ngay cho vào thau nước lạnh. Cuối cùng, đổ ra rổ cho ráo, và xếp ra dĩa. Món này chấm với nước cá chiên hay thịt kho rất ngon
Riêng món canh đọt nhãn lồng nấu tép bạc đất thật tuyệt vời và trong ký ức tôi đến nay vẫn còn nhớ rõ vị ngọt và mùi thơm của nó lẩn khuất đâu đây. Trước hết, tép bạc đất má mua ở chợ lựa tép còn nhảy tanh tách, đem về cắt đầu đuôi, lột vỏ rửa sạch, để ráo. Tiếp đến, má lặt những đọt non, lá non nhãn lồng rửa sạch, để ra rổ cho ráo, và bắc nồi nước lên bếp nấu sôi, bỏ tép đã làm sạch vào. Nêm nếm gia vị (bột nêm + muối) cho vừa khẩu vị. Chờ nước sôi bùng lên, thả đọt nhãn lồng vào (khoảng 10 phút). Sau cùng, má dùng vá dìm những phần đọt nhãn lồng ngập trong nước sôi. Khi thấy đọt nhãn lồng chín, má nêm nếm gia vị lần cuối và nhắc xuống ngay. Thuận tay, má cho vào một ít hành lá xắt nhuyễn, rót một dĩa nước mắm hòn nguyên chất, trong có vàì trái ớt hiểm là xong.
Thật đầm ấm và hạnh phúc khi cả nhà quây quần bên mâm cơm đạm bạc đã được dọn lên, trong đó có tô canh đọt nhãn lồng cùng dĩa thịt heo kho. Cầm đũa gắp một miếng thịt kho cho vào miệng nhai chậm rãi. Chan một muỗng canh cùng đọt nhãn lồng vào chén đưa lên miệng “lùa một hơi”.Vị ngọt của nước canh hòa quyện vị nhân nhẩn và mùi thơm đặc trưng của đọt nhãn lồng như đánh thức mọi giác quan khiến lòng tôi bâng khuâng luyến nhớ về vùng quê nghèo thân thương.
Ký ức rau đồng
Hồi chiến tranh, ở miệt đồng U Minh Hạ có câu chuyện vui như thế này: Rằng có một anh bộ đội D10 (một đơn vị quân chủ lực miền Bắc vượt Trường Sơn vào Nam và hoạt động chiến đấu trên địa bàn Cà Mau) mới chân ướt chân ráo đến đóng quân ở một xóm nọ. Không biết ăn trúng phải món lạ gì mà nửa đêm chột bụng, không rành đường sá, đêm hôm không biết hỏi ai, nên đánh liều chạy vội ra cánh đồng sau nhà. Sau khi "giải quyết khó khăn" xong, mới giật mình, vì lúc vội, chỉ mang theo… hai bàn tay trắng.
Nhờ trời sáng trăng, anh bộ đội nhìn quanh chỗ mình ngồi, thấy xanh rì cỏ non, đành quơ vội một nắm. Nhưng vừa cầm nắm cỏ lạ, bỗng nghe một mùi thơm ngào ngạt, giữa đêm khuya trăng sáng, anh bộ đội nghe khoan khoái trong lòng, kêu lên: "Ối, giời ôi! Ở miền Nam đến cỏ cũng thơm bát ngát".
Mấy tay hậu duệ bác Ba Phi đặt ra những câu chuyện như vậy trong kháng chiến chống Mỹ càng làm cho niềm vui kháng chiến tăng lên, tình quân dân thêm sức mạnh, làm cho anh bộ đội Cụ Hồ và người dân Đất Mũi thêm gần nhau hơn như "cá với nước", còn người bản địa thì cốt là để khoe cái tài nguyên thiên nhiên rau đồng cực kỳ giàu có của xứ sở mình.
Những người truyền khẩu câu chuyện trên kể tiếp - Anh bộ đội người miền Bắc kia không biết rằng anh đang ngồi trên cánh đồng rau ngò om mọc tự nhiên bạt ngàn ở xứ U Minh
Câu chuyện làm cho người ít rành về vùng đất này thấy lạ, chứ ngày trước, khi chưa có sự tác động nhiều của con người đến thiên nhiên, ở vùng U Minh Hạ, những loại rau như ngò om, cần nước, rau muống đồng mọc hoang dã thành rừng, không biết làm gì cho hết.
Nhưng trên đồng đất Cà Mau, nếu gọi là xưa, thì cái ngày xưa cuối cùng của nó, theo những gì còn đọng lại trong ký ức của lớp người thuộc thế hệ chúng tôi, thì cũng chỉ là hơn 30 năm trước. Song, đó là "những ngày xưa", bây giờ kể lại giống như mình đang ngồi nói láo.
Mấy hôm trước có ông anh bạn từ miệt U Minh lên, có dịp lưu lại Cà Mau nhiều ngày, lúc rảnh, chúng tôi cùng ngồi nhâm nhi và nhắc "chuyện xưa tích cũ" quê nhà. Cũng là chuyện con cá, cọng rau. Ông bạn của tôi, như "một nhà rau đồng học", anh đã liệt kê ra hơn một trăm loại rau đồng, rồi nói vui: "Ông bà mình thời khẩn hoang chắc cũng phải bị ngộ độc, chết dại không ít mới phát hiện ra được loại nào ăn được, loại nào không, trong vô số loài thực vật mọc hoang ở cái xứ này. Chính vì vậy, rau đồng phải được hiểu như thứ di sản quý của ông bà để lại cho hậu thế!".
Rau đồng ở vùng ngọt hóa Cà Mau nhiều thật! Nhiều đến nỗi cứ bước ra khỏi cửa là gặp rau. Có những loại người ta không gọi rau mà gọi là cỏ hay cây thuốc, nhưng có mặt trong bữa cơm thường ngày với "tư cách" là rau.
Tôi chắc một điều rằng người đồng bằng sông Cửu Long ngày trước sống ung dung trên quê hương, đồng đất của mình, chẳng nghĩ ngợi gì nhiều đến món ăn. Thiên nhiên có sẵn mùa nào thứ đó. Loại thực phẩm nào làm món ăn gì, ăn kèm với rau gì đều do thiên nhiên cung cấp cả. Quanh nhà chỉ cần trồng vài bụi sả, vài cây ớt, một ít rau nêm. Trong bếp, chỉ cần nuôi hũ giấm, hũ cơm mẻ là đủ. Bữa ăn thường ngày chiên, xào, nấu, nướng, kho đều ăn kèm theo với các loại rau đồng.
Muốn ăn một nồi canh rau tạp tàng không cần phải đi xa, cứ bước quanh hè nhà, ra sau vườn là có đủ, nào là rau diệu, rau má, rau trai, cỏ mực, thuốc giòi, vòi voi, cỏ the, bạc bợ, nhãn lồng, rau muống, rau đắng… không sao đếm xuể. Một nồi canh rau tạp tàng như thế chứa không biết bao nhiêu là vị thuốc nam.
Nhưng cái thú nhất của nồi canh rau tạp tàng là tự tay mình đi hái, tự tay chọn lựa trong bao loài cây cỏ mọc lên từ đất, được thưởng thức ngay những ngọn rau xanh còn đang ngọt ngào dòng nhựa sống tích lại cái tinh hoa của trời và đất.
Trong ẩm thực của người dân đồng bằng sông Cửu Long, có những món ăn dường như là để "trình diễn" các loại rau đồng như mắm kho và bánh xèo. Bánh xèo, mắm kho ngày nay đã nổi tiếng ở các đô thị, không mấy ai không biết, nhưng nó đã được "cải biên" nhiều cho phù hợp với không gian của nhà hàng, quán xá, nên cái bản gốc đồng quê của nó ít ai được biết.
Ngày trước ở quê, muốn ăn bánh xèo là cả một công việc công phu, nên người ta nói: Tổ chức đổ bánh xèo. Ngoài việc chuẩn bị ngâm gạo, xay bột, phải kể đến khâu làm nhưn bánh và tìm hái cho đủ các loại rau. Nhưn bánh xèo phải có thịt heo hay thịt vịt xiêm, tép bạc, cộng với củ hủ dừa, bồn bồn tươi, hoặc ngó sen, hay một thứ rất đặc biệt khác mà không phải ai cũng biết và không phải ở đâu cũng có, đó là ngó non của một loại cỏ mọc ở bãi sông, đầm, chỉ có vào mùa nước ngọt, có tên là cỏ lông tượng.
Điều thú vị nhất là rau ăn bánh xèo này, người ta chọn hầu hết các loại lá, như lá lụa, lá sộp có vị chua, lá bông súng, lá cắt lồi, lá cơm nguội, lá tra có vị chát, lá cách có mùi thơm. Ngoài ra còn có những loại lá cây vườn như lá cóc, lá xoài, lá chùm duột. Tất cả đều phải non mơn mởn.
Có thể nói rằng, trong món ăn ba miền của Việt Nam, chỉ có mắm kho là ăn được với nhiều loại rau nhất. Khắp trên đồng ruộng mọc lên vô số loài rau nước. Có thể kể ra những loại rau quen thuộc, không thể thiếu trong một bữa ăn với mắm kho như: bông súng, rau ngổ, rau đắng biển, rau mác, kèo nèo (cù nèo), lá hẹ, mã đề, rau dừa, năn bộp …
Cách nay vài năm, cũng vào dịp Tết Nguyên đán, tôi đến chơi nhà một anh bạn đồng nghiệp. Tiệc rượu dọn ra, chủ nhà làm ra vẻ bí mật, ông nói Tết năm nay ông sẽ đãi chúng tôi một món thật đặc biệt. Nghe ông nói món đặc biệt, chúng tôi cứ đoán già, đoán non về một thức gì đó mà mình chưa từng ăn qua. Chừng ông mở tủ lạnh lấy ra một đĩa rau xanh, làm cho chúng tôi không khỏi bất ngờ. Đó là đĩa rau đắng đất non nhuốc, đã được ông rửa sạch để nguyên cả gốc lẫn rễ. Rau đắng đất nhúng vào cái lẩu cá rô đang sôi sùng sục, làm cho không khí bữa tiệc đầu năm giữa trung tâm TP Cà Mau thêm đầm ấm, đậm đà hương vị đồng quê xa lắc.
Rau đắng đất chỉ mọc khi đất trên đồng vừa ráo mặt, và kéo dài chừng hai tháng, từ tháng 11 âm lịch cho đến Tết, sau đó thì rau già đi, cằn lại trên mặt đất khô cứng, nhưng ngày trước chúng mọc nhiều đến nỗi không cách gì ăn cho hết. Giờ thì chúng đã trở thành của hiếm, mà nói chung, tất cả các loại rau đồng mọc cạn hay mọc nước cũng đều đã hiếm, bởi với "công nghệ" sản xuất lúa luân canh hai, ba vụ trong năm, đồng đất không còn được nghỉ ngơi, không còn chỗ cho cây rau đồng mọc nữa. Mà có cố mọc được thì chúng cũng bị coi là cỏ, là đối tượng của các loại thuốc diệt trừ.
Mất đi hình ảnh cọng rau đồng, văn hóa ẩm thực độc đáo của người Nam Bộ nghèo đi phong vị. Càng ngẫm nghĩ, càng thấy thấm thía một điều: Thì ra, di sản văn hóa dân tộc, đâu chỉ là những thứ hoành tráng, lớn lao, mà còn có những thứ rất nhỏ như con cá, cọng rau đồng bình dị. Khi mất nó mới nhận ra, mới nhớ da nhớ diết quê nhà. Đó đâu chỉ là những thứ để làm no. Cái vị ngon mọc lên từ đất ấy đã làm nên máu thịt, làm nên tâm hồn, tình yêu với đất quê nhà!./.
“Ruaiq siaq”: Nước chấm độc đáo
Viết bởi Cẩm Nhung
Thứ hai, 30 Tháng 1 2012 14:33
Trong tiếng Vân Kiều, “ruaiq” nghĩa là “ruột”, “siaq” nghĩa là “cá”. Ruaiq siaq đơn giản là ruột cá. Không ít người bảo ruaiq siaq là “đệ nhất nước chấm”, và nếu không tin thì cứ nếm một lần, biết ngay lễ độ với món ăn độc đáo này.
Tất nhiên loại nước chấm này làm từ ruột cá nhưng không phải cá nào cũng làm được. Chỉ có thể là loại cá mát sống ở sông Đakrông phía tây Quảng Trị. Ai đã lên vùng Hướng Hóa, Đakrông, được coi là thượng khách mới được gia chủ đãi đằng cái món ruaiq siaq này.
Cá mát thì dọc thượng nguồn sông suối miền Trung đâu cũng có. Nhiều nhất có lẽ là khu vực sông Giăng ở tây Nghệ An, các khe suối trong khu vực vườn quốc gia Pù Mát… Tôi từng chứng kiến những người dân đi đánh cá mát, dùng thanh tre tươi kẹp cá mát thành từng vỉ 4-5 con chất đầy thuyền đưa về bán các chợ dưới xuôi. Nhưng cái món ăn được chế từ ruột cá mát thì chỉ có thể được ăn ở những bản làng Vân Kiều, Pa Cô sống dọc theo nguồn sông Đakrông.
Con cá mát vốn sống ở các suối sâu, to nhất cũng chỉ 2-3 lạng/con, còn hầu hết chỉ tầm 2-3 ngón tay. Vốn chỉ sống đầu nguồn suối, nước tinh khiết, thức ăn chính là phù du và rêu trên đá suối, bởi thế thịt cá mềm và thơm, lòng cá lại càng sạch. Đầu xuân mùa cá mát bắt đầu sinh sản, tầm tháng tư tháng năm âm lịch cá lớn vừa đủ để đánh bắt. Con cá mát đánh được mổ ruột để riêng, thân cá có thể kẹp lại và nướng để dành được lâu hơn. Mớ ruột cá ấy được người dân để nguyên, không cần làm sạch, cho tất cả nhào kỹ, ướp thêm muối, ớt tươi và tiêu rừng giã nhỏ trộn đều, cho vào chum sành hay hũ gốm, nút kỹ rồi đặt cạnh bếp lửa trong góc nhà sàn.
Lửa nóng ủ chín hũ mắm làm từ ruột cá, cứ tầm vài hôm lại xoay tròn hũ mắm ấy về phía bếp lửa cho nóng đều. Ủ chừng ba tháng thì có thể mang ruaiq siaq ra ăn được. Một điều thú vị là loại mắm được làm từ ruột cá mát này cũng như rượu… whitsky, càng để lâu càng có giá, càng thơm ngon. Khi những bộ ruột cá được ủ chín ngấu, quyện với gia vị ớt de (ớt rừng) và tiêu rừng, mở nắp hũ mùi vị bốc lên khiến người không quen có thể khó chịu. Nhưng sự khó chịu sẽ qua nhanh nếu bốc một nắm xôi chấm vào thứ nước mắm sền sệt, nâu đen được chưng cất từ ruột của con cá mát ấy.
Cũng đã từng nêm nếm bao nhiêu thứ nước chấm khi đi tới xứ này chốn nọ, đủ vị cay chua, thơm ngọt, đắng bùi… nhưng quả thật thứ nước chấm ruaiq siaq này khiến ta phải “tương tư” nếu từng một lần biết… ăn và ăn được. Vị đăng đắng của mật cá lẫn trong ruột sẽ cho ta cái dư vị ngọt tê rất có hậu, vị cay của ớt và mùi thơm của tiêu rừng đánh thức thần kinh vị giác, và dường như tinh chất của rêu suối, nước nguồn chắt chiu trong từng con cá nhỏ mang đến cho thực khách cảm giác của một món ăn vừa hoang dã nguyên sơ, vừa mang khí vị của đại ngàn thiên nhiên béo bùi khôn tả.
Chấm nắm xôi với ruaiq siaq là cách đơn giản nhất để thưởng thức món mắm từ ruột cá dùng làm nước chấm này. Còn để phát huy hết vị ngon riêng có của ruaiq siaq phải có món rau “rớn” - tức là những chồi non của cây dương xỉ vừa nhô lên khỏi mặt đất uốn cong như dáng dấp những con sâu cuốn chiếu. (Tôi nghĩ rằng chính từ “rau rớn” này mới là thủy tổ của cái từ láy “rau ráng” mà ngày nay ta vẫn dùng , ví như rau ráng trong vườn). Rau “rớn” hay tiếng Vân Kiều gọi là “rachônh” được hái khi sương còn ngậm trên chồi non, luộc chín rồi vẫn cứ cảm giác cọng rau rất giòn, chấm với ruaiq siaq thì tất cả sự tinh túy của món ăn này mới hiện ra với mọi vẻ rạng rỡ hồn hậu và hoang sơ của nó. Cũng có thể dùng ruaiq siaq làm nước chấm với đọt cây mây rừng non, hay búp măng đắng luộc chín, khi đó món mắm làm từ ruột cá mát ấy mới phát huy tác dụng tuyệt đỉnh công phu!
Cái món ăn ngỡ như là khó nghèo, đơn giản ấy của những người dân giữa núi rừng Trường Sơn giờ lại là đặc sản ở các nhà hàng sang trọng. Mà muốn ăn cũng năm lần bảy lượt gọi điện thoại đặt may ra mới có. Hỏi ra mới hay con cá mát ngày càng hiếm bởi… thủy điện. Những sông suối thượng nguồn miền Trung đang lên cơn sốt thủy điện. Nơi chốn ẩn cư của loài cá mát chỉ biết ăn rêu đá trong suối nguồn thanh khiết đã bị con người xâm thực. Đôi khi may mắn được ngồi với một chiều mưa rừng nơi bản nhỏ, chủ nhà cho một đĩa rau “rớn” chấm ruaiq siaq, đang khoan khoái lâng lâng nhấp ngụm rượu “đoác”, chợt nghe tiếng nổ mìn xây thủy điện vọng về từ phía núi, vị béo bùi của món ruaiq siaq bỗng nhiên sao nghe đắng nghét trong miệng mình!
Bánh mướt- món ngon xứ Nghệ
Viết bởi Nguyễn Trà My
Thứ ba, 10 Tháng 1 2012 17:13
“Bánh mướt” có lẽ ít người biết tới, bởi đây là món ăn đặc trưng của miền Bắc Trung Bộ : Nghệ An – Hà Tĩnh.
Bánh mướt thoạt nhìn trông giống bánh cuốn của miền Bắc, bánh ướt ở miền Nam, nhưng khi ăn thử lại thấy hương vị riêng biệt, không lẫn vào đâu được.
Bánh mướt được làm từ gạo tẻ, gạo ở đây phải đựơc ngâm trong nước sạch nhiều giờ, cho từng hạt gạo ngấm nước, nở đều và mềm rồi mới mang đi nghiền thành bột. Ngày trước bột thường được xay trong những cối đá, phải xay đi xay lại nhiều lần bột mới nhuyễn. Ngày nay hiện đại hơn, người ta nghiền bột bằng máy, vừa ít tốn thời gian mà bột cũng nhanh nhuyễn hơn.
Bột nghiền xong cũng chưa thể tráng ngay thành bánh được, phải để bột lặng trong nước khoảng từ 2 giờ trở lên, người ta gọi đó là ủ bột. Ủ bột để khi tráng, bánh mới nở phồng, ăn mới dẻo dai.
Ở vùng Nghệ An – Hà Tĩnh, bánh mướt là món ăn được nhiều người yêu thích. Bánh mướt dễ ăn, chỉ cần ăn kèm một chén nước mắm vắt chanh với ớt tươi xắt lát cũng đã thấy ngon miệng
Nếu dùng bánh mướt để đãi khách thì có thể dùng kèm với thịt heo nướng, bò nướng lụi, chả nem rán, bò lá lốt mỡ chài rất ngon. Đặc biệt hơn, bánh mướt ăn với bò hấp thố, bò nhúng dấm…cuốn bánh tráng, kèm rau xà lách và đủ loại rau thơm hấp dẫn.
Bánh mướt là món ăn gắn bó với người dân xứ Nghệ, vào những buổi sáng ngoài đồng ruộng, những bữa trưa đãi bạn bè, hay trong những dịp gia đình đãi khách phương xa. Bánh mướt là một phần không thể thiếu trong ẩm thực thường ngày của người dân nơi đây.
Ở TP Hồ Chí Minh, bạn có thể thưởng thức món ngon vùng Nghệ An - Hà Tĩnh tại quán: Bánh Mướt Quê Hương ở 180A Lâm Văn Bền, Quận 7, TP HCM.
Món “độc” ngày thơ bé
PN - Đón bạn ở sân bay Tân Sơn Nhất, bạn cười tươi rói, vẫn cái tật tíu ta, tíu tít như dạo nào. Bạn đòi ta dẫn đi ăn quà vặt khắp ngõ phố Sài Gòn để rồi xuýt xoa bằng cái giọng Thái Nguyên ngọt lịm: “Ngon nhưng mà không bằng cái món thuở nhỏ chúng mình hay ăn!”. Ta nhìn bạn, lòng dấy lên bao ký ức miền quê ngày ấy.
Những ngày nắng vàng đổ lửa, con đường làng lại rộn rã tiếng í ới nhau của trẻ nhỏ. Nhập hội, ta và bạn hai tay cầm hai chai nhựa, đầu đội hai nón lá cời của bà ùa vào cánh đồng ngô mơn mởn màu xanh, tranh nhau bắt từng con cào cào trong bẹ lá. Hai chai nhựa cứ thế đầy những con cào cào tội nghiệp.
Rồi cũng đến lúc mùi thơm đặc biệt tỏa hương khắp ngõ làng. Mấy đứa nhỏ ngồi tụm lại, um cào cào trong đống rạ còn sót sau vụ gặt. Khói bay khắp vùng quê thanh bình. Đứa nào cũng lộ rõ bộ mặt háu ăn, nhìn chằm chằm vào chiến lợi phẩm, chỉ đợi có đứa lên tiếng “vàng hết rồi đấy” là cả bọn lại tranh nhau từng con cào cào nóng bỏng cả tay.
Mới đó mà đã hơn 10 năm, ta theo gia đình vào Nam, bạn ở lại quê. Đôi khi ta cố tìm hương cào cào xưa giữa mảnh đất phố thị nhưng không thể tìm ra, vì với người Sài Gòn, món ăn cào cào là một khái niệm lạ lẫm, kỳ dị. Tiễn bạn về quê sau một tuần làm khách phương Nam, bạn nắm tay ta: “Hôm nào rỗi, về quê, tớ đãi cậu món cào cào chua ngọt, do chính tớ nghĩ ra, đảm bảo ngon không thua gì vịt lộn xào me ở đây đâu nhé!”. Ta nghe cay cay nơi đầu mũi… mùi cào cào thoang thoảng khắp sân bay.
Ký ức hồng vệ binh nửa mùa...
Oct 27, '11 3:24 AM
for everyone
Năm ấy năm 77, cuộc sống mới bắt đầu ở Sài gòn theo cha mẹ từ Hà nội vào đây được hơn năm. Mình học Marie Curie, khá ở mọi thứ : học khá, quậy khá, đạo đức khá, leo trèo khá, đá banh cũng khá. Ba mẹ mình rất nghiêm, không bao giờ được ra đường một mình sau bảy giờ tối. Ngày nào cũng phải lau nhà, nấu cơm, giặt quần áo, đi chợ. Thời 77 mới bắt đầu hơi khan hiếm thức ăn hàng hóa, nhưng so với những ngày tháng sống ở Hà nội thì vẫn là thiên đường bởi bữa nào cũng có thịt hoặc cá, rau ăn thả dàn.
Hè năm 77 , phường cử người đến gặp ba mẹ yêu cầu đưa mình vào tổ thanh niên xung kích , mục đích gì đó mình không được biết, chỉ ba mẹ biết. Cái mình biết là : con của ông bà được gia nhập thanh niên xung kích bởi vì gia đình ông bà là cán bộ cách mạng- thành phần cốt cán.
Sau hai ba ngày, ủy ban phường Bến Thành gọi mình lên phường họp- đến họp, mình thấy chừng bốn chục đứa từ choai choai như mình đến chừng hơn 20 tí chút. Họ thông báo là chúng mình phải học chính trị một tuần để quán triệt tư tưởng trước khi bắt tay vào giúp chính quyền bắt đầu công cuộc cải tạo và phá bỏ giai cấp. Chúng mình mất hè để lên hội trường ủy ban nghe diễn thuyết từ sáng đến trưa về chủ nghĩa cộng sản và phá bỏ nền tảng phân biệt giai cấp- lũ ranh con chúng mình chẳng có đứa nào để tâm lắm, cứ rúc xuống cuối để lén lút chia cặp đánh cờ ca rô. hai ngày cuối họ dậy chúng mình áp tải người, dọn đồ, chốt nhà, cấm người vào nhà- cũng chỉ dạy bằng lời. Họ chia ra cứ một tổ là bốn người, trong đó có một lão ( bà ) lớn nhất làm tổ trưởng. Lệnh của tổ trưởng là các tổ viên phải chấp hành tuyệt đối như quân đội.
Tổ mình gồm mình, nhỏ Dung , nhỏ Thúy, lão Chánh làm tổ trưởng. Sau khi học xong một tuần, buổi sáng sớm bọn mình bị gọi lên phường tập trung từ 5 giờ sáng đem theo quần áo, mùng mền và ít gạo với một cái xoong nhỏ. Tập trung đông đủ, phường đọc miệng một cái chỉ thị về " cải tạo tư sản, đưa họ đi học tập và làm kinh tế ở những khu đất mới ( hồi đó gọi là đi kinh tế mới) nhằm giáo dục cho họ về lao động là gì. Mọi căn nhà có trong danh sách là những địa chỉ mà các đồng chí phải đóng quân theo tổ, không cho chủ nhà ở lại, tài sản ở đâu để đó. Mọi tài sản chủ đem ra phải có quyết định của phường và các đồng chí phải kiểm tra chính xác!" lệnh được nhận- chúng tôi túa đi như đàn kiến- địa chỉ đầu tiên của tổ chúng tôi phải chốt giữ là nhà số 50 Thủ Khoa Huân - ngay sau lưng nhà tôi lúc ấy. Đến nơi, ông cán bộ mặt đen đọc lệnh chủ nhà dời đi- và tài sản được đem theo là gạo 5ký/ người, quần áo, xoong nồi, mùng mền, chiếu gối- còn tất cả tư trang , trang sức, đồ đạc khác phải để y nguyên để phường kiểm kê niêm phong. Chiếc xe buyt đậu ngay đầu Thủ Khoa Huân, hồi đó xe còn chạy bằng củi kìa. Cái phường tôi lúc ấy có hết thảy 30 địa chỉ phải bị cải tạo.
Lúc ấy ở nhà tổ tôi chốt có hai vợ chồng trẻ với hai đứa con bé xíu, hai ông bà già và hai cô gái chừng 17, 19 tuổi. Họ gào khóc không đi- nhưng chúng tôi phải đếm người, cân gạo, bỏ áo quần theo lệnh vào mấy cái bao và đẩy họ ra khỏi nhà. Tôi đứng như trời trồng khi nhìn họ khóc lăn lộn, thằng Chánh - hồng vệ binh thật sự- xốc nách đẩy hai ông bà già ra trước, mình, Thúy , Dung vừa xách đồ cho họ vừa ủi ủi cái lưng họ đi. Chúng mình không dám nhìn vào mặt họ, nhỏ Dung can đảm nhất là còn nói lớn tiếng bắt họ ra ngoài- sau một tiếng, họ đã ngồi trên chiếc xe chờ sẵn của phường, và chờ bốn nhóm khác cũng gần đó lên xe- cả đám choai choai đứng vòng quanh sợ họ trốn- xe lăn bánh đi đâu, bọn mình không biết.
Lệnh vào niêm phong mọi thứ với mấy cục bún và mấy tờ giấy pơ luya mỏng đóng dấu đỏ bắt đầu được dán vào khắp mọi nơi, mọi xó. Dán xong còn một tệp, thằng Chánh đút túi nó. Ba đứa mình chải chiếu, xếp mùng mền soạn chỗ vì được lệnh đóng chốt ở đấy hai mươi ngày cấm đi về nhà.
Cái cảm giác sờ sợ buổi sáng biến mất còn lại cái cảm giác được sổ cũi tung chuồng ( là nhà ba mẹ) nổi lên. Ba chị em bắt đầu chơi, hò hét, chạy nhảy, lục lọi khắp căn nhà đó- rúc hết phòng này đến phòng kia chơi trốn tìm. Căn nhà ba tầng nhưng cũ, chỉ có mỗi cái toilet ở tầng trệt và cái bể bự chứa nước rêu xanh rì. Giường tủ , bàn ghế cũng chả phải là tốt đẹp gì, chúng nó cũng cũ kỹ, kẽo kẹt mỗi khi chúng tôi nhảy lên chồm chồm trên đó để đùa giỡn.
Hai ngày sau,một tốp cán bộ phường xuống kêu là tịch thu hết tài sản của tư sản bỏ đi. Họ kiểm tra niêm phong còn không rồi xé bỏ niêm phong, họ mở hết những gì có thể đóng mở , họ vớ hết mọi thứ ở trong tủ, bàn, hộc kệ bỏ vào bao, chất lên cái xe xích lô chở về phường. Bốn đứa tụi tôi chỉ được phép bê những bao đồ mà ban cải tạo bảo bê ra xe. Dọn hết ngày thì nôi nhà trống hoác, chỉ còn mấy cái chiếu của tụi tôi và cái bếp dầu hỏa nhỏ. Họ dặn chúng tôi là cấm cửa những người từng ở ngôi nhà này đặt chân vào nhà, nếu ai cố tình xâm nhập thì báo cho phường biết.
Tôi và con Dung không sợ ma, lại tò mò, chui rúc gõ tường, gõ sàn khắp nơi với ý nghĩ "có khi tìm ra hộp châu báu chôn đâu đó" Con Thúy thì ngồi khóc ỉ ôi vì nhớ mẹ- nhà nó ngay trường Văn Hiến đầu Nguyễn du mà không được về nhà. Còn tôi thì đỡ hơn nhiều, leo lên sân thượng chồm đầu xuống là gọi được ba mẹ với em í ới. Thằng Chánh thì đi về phường như con thoi để báo cáo-
Chúng tôi chả tìm được cái gì chôn dấu ở căn nhà này cả.
Hết hạn, phường xuống cho bọn tôi về nhà- khóa cửa, niêm phong cái cửa gỗ cũ của căn nhà này từ trên xuống dưới ba con niêm!
( Hôm nay viết thế này thôi- nhớ lại mà thấy tim như ai đánh thùm thụp- tự dưng mệt quá) Vài bữa nữa sẽ viết tiếp
Món mặn khoái khẩu mùa mưa
Trong những bữa cơm vào mùa mưa lạnh thuở nhỏ ở Huế còn đậm nét trong ký ức của người xa quê, món ăn ngon miệng còn nhớ mãi. Ngoài các loại chim cò rôti là những món mặn như: cá hố ướp muối nướng than, mắm cá thu chưng, cá ngạnh kho khô. Nhưng ngon nhất vẫn là cá rô chiên giòn.
Các buổi chợ ngày mưa lũ thường bày bán những sản vật mà bà con thu hoạch được trong đó không thể thiếu thau cá rô đồng tươi rói. Có nhiều cách chế biến cá rô để ăn kèm với cơm trong bữa ăn gia đình. Riêng tôi vẫn thích nhất là món cá rô đồng tươi rói được tẩm muối chiên giòn do chính tay mạ làm cho ăn.
Do được tẩm muối mặn sẵn nên không cần chấm nước mắm pha như trong Nam. Thưởng thức từng miếng cá rô đồng được chiên giòn rụm tan trong miệng với vị mặn của muối, ăn kèm với chén cơm nóng hổi, làm tăng thêm sự khoái khẩu đặc biệt trong những ngày mưa lạnh ở quê nhà.
Mời tham khảo thêm về đề tài cá rô đồng sưu tập dưới đây
Cá rô đồng chiên giòn chấm nước mắm gừng ngon 'bỏng' miệng
Những con cá rô giãy đành đạch trong giỏ câu của mấy cậu nhóc vùng sông nước miền Tây cuối tuần qua làm sống dậy trong tôi kỷ niệm về đĩa cá rô đồng chiên giòn chấm nước mắm gừng chua cay ở bữa cơm chiều của mẹ…
Ngày thơ bé, mùa lúa làm đòng là mùa mà những đứa con nít lên 8, lên 10 như chúng tôi thích nhất. Tuổi thơ tôi trôi qua bình lặng nhưng đầy niềm vui trong mùi khói rơm rạ, những buổi ví trâu ra đồng rồi cùng nhau be nước tát cá.
Lúa trổ bông khi ruộng bắt đầu cạn bớt nước. Ruộng lúa ở vùng quê nghèo miền Trung thường nhỏ, xếp chênh chếch từ trên xuống dưới. Nơi các ngõ nước từ đám ruộng này chảy xuống đám ruộng khác là nơi cư trú của rất nhiều cá rô đồng, chỉ cần dùng lờ hoặc đem gàu, rổ ra các vũng nước này xúc một lát thể nào cũng có cá đem về.
Đối với những ruộng lúa nhiều nước, chúng tôi rủ nhau đi câu. Bao giờ cũng vậy, trong thời gian đợi trâu no cỏ là bọn trẻ tranh thủ đào giun đất, bắt cào cào để làm mồi câu. Khi trâu no cỏ, mỗi đứa cột trâu lại gần mấy bóng cây lớn ở giếng nước ông Định đầu xóm cho chúng uống nước rồi cùng nhau lội xuống ruộng bắt cá. Cứ như vậy, đến khi ra về giỏ đứa nào cũng lúc nhúc những cá là cá.
Cá rô đồng có thể dùng chế biến được nhiều món như kho tương, nấu canh cải, kho gừng… Nhưng với tôi, ngoài việc thỉnh thoảng cùng nhau hì hụi đem đốt rơm để nướng cá rồi mỗi đứa một xâu cá chia nhau ăn, thì vẫn không món nào qua được món cá rô chiên giòn chấm nước mắm gừng đặc trưng do mẹ pha chế. Món ăn vừa chế biến đơn giản, không cầu kỳ, phức tạp, vừa dân dã, chân chất đầy tình quê.
Cá rô vào tháng 8, tháng 9 là ngon nhất, ngọt thịt và béo tròn. Cá rô khi còn sống ngúng nguẩy rất hăng nên thông thường, trước khi làm vảy, mẹ ngâm lũ cá sống vào nước muối khoảng hơn 20 phút “cho cá lừ đừ, khi chiên sẽ có vị mặn đậm đà hơn”. Cá được mẹ làm sạch ruột, để nguyên vảy, xếp vào rổ cho ráo nước. Sau đó, mẹ bắt chảo dầu lên bếp, đợi dầu nóng là bỏ cá vào chiên cho đến lúc chúng săn lại, vàng ngậy, thơm lừng cả chái bếp nhỏ. Cá chiên xong bày ra đĩa, rắc lên ít rau thơm, rau răm.
Những lúc mẹ chiên cá, nhiệm vụ của tôi là ra hè hái mấy trái ớt, tiện thể hái luôn trái chanh và nhổ bụi gừng đem vào để mẹ pha nước chấm. Gừng rửa sạch, lột vỏ, cắt lát rồi cho vào cối giã nhỏ, sau đó đâm cùng tỏi và ớt đến nhuyễn, đổ ra chén rồi thêm đường, bột ngọt vào, pha nước mắm vừa đủ, vắt miếng chanh nữa là thành một chén nước chấm ngon hết ý.
Có ăn cá rô chiên giòn kèm dĩa rau luộc mộc mạc, cùng với chén cơm nóng hổi trong những chiều mưa mới cảm nhận hết được hương vị của tình đất, tình người quê hương. Vị cá rô ngọt mềm hòa quyện với cay nồng nàn của gừng, của ớt, vị thơm của tép tỏi. Bữa cơm tuy đơn sơ, đạm bạc nhưng mùi vị của nó đã trở thành ký ức đẹp mỗi lần tìm lại tuổi thơ của những người con xa quê.
Đứa bạn gọi điện, cười giòn giã, dịp lễ Quốc khánh này nó sẽ về quê nghỉ vài ngày rồi tranh thủ đi câu luôn. Có điều ngày nay ruộng không còn nhiều cá rô như xưa, các loại thuốc cỏ, thuốc trừ sâu đã làm cá bỏ đi đâu mất. Cá rô nuôi bán ngoài chợ tuy to hơn, béo hơn cá đồng nhưng dù chế biến thế nào cũng không thể có được mùi vị đặc trưng như thuở nào.
Cơm cháy ƠI !
Đã một thời, nhà nào cũng nấu cơm bằng bếp củi dưới đáy nồi là lớp cháy khi vàng, khi khét đen. Tôi đã lớn lên cùng những hương vị quen thuộc ấy.
Hai ngày cuối tuần rồi, khu vực nhà tôi bị cúp điện. Ăn cơm “bụi” được một ngày thì cả nhà đều oải. Tôi đành động viên cô bé giúp việc nấu cơm bằng bếp gas. Tội nghiệp cô bé, quen nấu cơm bằng nồi điện ,vần mãi mới chín được nồi cơm cho bảy người ăn. Nhão một chút, sượng một chút cũng không sao, nhưng đằng này cơm bị cháy thành dề dưới đáy nồi, bốc mùi khen khét. Thằng cháu tôi nhăn mũi: “ Dzầy sao ăn chị Nhỏ?”
Nhìn ánh mắt biết lỗi của cô bé, tôi chợt cồn cào nhớ lại cả tuổi thơ của mình, một tuổi thơ gắn liền với những dề cơm cháy.
Cơm cháy là món ăn thuở hàn vi !
Tôi nhớ mình ăn cơm cháy, cơ độn khoai thật nhiều lần năm lên sáu , bảy tuổi, trạc tuổi cháu tôi bây giờ. Thời bao cấp, nồi nhà nào cũng đen quánh lộ nghẹ ( nhọ nồi).Nhà nào khá lắm mới nấu bằng than, còn đa phần là bằng củi.
Ấy vậy nên nồi cơm lúc nào cũng có một lớp cháy. Chị em nào khéo thì cơm vừa vàng mặt, xới ra khi đang nóng hổi, chấm nước thịt kho hay nước mắm tỏi ớt, ăn vừa giòn vừa thơm. Người nào không nhanh tay cào than, bớt lửa sau khi cơm đã cạn nước thì khó tránh đáy nồi cơm khét đen cả dề. Cháy nhiều lần thì cả cái nồi cũng mang dấu ấn riêng. Trong thời buổi gạo phải mua bằng tem, bằng phiếu, thậm chí gạo không đủ ăn, thì nấu cơm cháy đúng là một nghệ thuật. Khi ấy, ba mẹ tôi đang làm công nhân cho nhà máy giấy, gồng lưng nuôi bốn đứa con đang tuổi ăn tuổi họ. Được mẹ giao cho vai trò đầu bếp của cả nhà, hai chị em tôi cũng hết sức “ quán triệt” tiêu chí “ “ nấu cơm không cháy” đẻ tiết kiệm. Quả thật, cơm cháy ăn chơi một miếng thì ngon chứ ăn cả dề, hết bữa này sang bữa khác thì rất chán. Gặp lúc răng đau hay lung lay thì thà bỏ ăn. Người đau bao tử cũng thường được khuyên hạn chế ăn cơm cháy. Càng cháy nhiều càng không nên ăn.
Nhưng rõ rằng với tay nghêg non nớt, lại đang tuổi ham chơi như hai chị em tôi, thì nấu cơm củi lửa mới khó làm sao. Vì thế, dù muốn dù không, nhà tôi vẫn có món đặc biệt này đều đều.
Ba tôi luôn nhường cơm trắng cho cả nhà.
Bữa cơm nhà tôi không mấy khi có thịt, chỉ rau chấm nước mắm kho. Thời buổi khó khăn, thường thì con cái được ưu tiên ăn cơm nạc hay cơm độn. Ba mẹ vừa xơi cơm nạc vừa xơi cơm cháy
Ba tôi hay giành ăn cơm cháy nhất, ông bảo: “ Vẫn ngon hơn cơm bo bo nhiều”.
Sau này lớn lên, tôi mới hiểu chẳng phải ba tôi thích cái món cơm khó nhai, khó nuốt và khiến ông bị đau bao tử ấy. Chỉ vì ba muốn nhường cơm nạc cho mẹ và chị em tôi.
Ba tôi có cách ăn cơm cháy rất lạ. Ông thường chia cơm cháy thành nhiều miếng nhỏ bằng gan tay. Sau đó văt lại như cơm nắm, đặt lên hai chiếc đũa gác song song trên miệng chén, rồi chấm tương hoặc muối mè. Bứa nào ông cũng ăn như thê, nếu cơm khét quá thì ông cạo bớt phần khét đi. Ăn xong cơm cháy, ông mới dằn bụng bằng một, hai chén cơm trắng hoặc cơm độn.
Tôi là đứa hay ăn ké những nắm cơm của ba nhât . Ở tuổi ấy, tôi chỉ biết thích thú nhận từ ba những nắm cơm xinh xinh cứng bên ngoài, mềm dẻo bên trong. Ba con tôi hay gọi thứ cơm cháy ấy là “bánh mì”. Muốn bánh mì có nhân thì cứ sẻ ruột, rắc muối mè vào trong. Càng về sau tôi càng cảm
nhận được tình thương và sự hy sinh của ba trong từng vắt cơm đặc biệt ấy.
Hết thời bao cấp, nhà tôi vẫn nấu cơm bằng lò củi , nhưng “ c nghệ” nấu đã “ chuyển giao” sang cho tôi. Cơm cháy vẫn xuất hiện đều đều vì đáy nồi cơm cạo rửa hoài đã mỏng dính, càng dễ cháy. Nhưng khác hơn, cơm cháy được trưng dụng cho gà, heo mà nhà tôi tăng gia sản xuất. Bệnh bao tử của ba tôi tái đi tái lại, thế nhưng thỉnh thoảng ông vẫn vắt cơm cháy ăn và chia cho cả nhà. Ba ngậm ngùi nói đùa: “ Ăn để nhớ thuở hàn vi”.
Tuổi thơ của tôi đi qua cùng ký ức về món ăn bất đắc dĩ ấy. Bây giờ nhà nhà, từ thành phố đến nông thôn đều nấu nồi điện. Hai từ “ cơm cháy” trở nên xa lạ. Có đứa trẻ con còn không biết cơm cháy là gì. Không biết có ai như tôi, ăn ở đâu nhặt được mẩu cơm cháy thì mừng rỡ. Tôi nhai miếng cơm cháy mà sống mũi cay cay. Ba tôi giờ này ở quê, tuổi đã cao, răng đã yếu, ăn cơm trắng còn khó!
Cơm cháy ngày nay trở thành món ăn xa xỉ.
Vừa rồi, tôi có đọc được đâu đó bài viết “ Nhà quê à! Nhà quê ơi!”. Tác giả đã viết về sự “đổi đời” của những thứ rau dân dã ngày xưa, nỗi ám ảnh của một thời. Ừ, thì cơm cháy của tôi bây giờ cũng trở thành món ăn “xa xỉ” rồi đấy!
Cơm cháy được sản xuất công nghiệp hẳn hoi, phủ một lớp thịt chà bông, ít tôm khô xào mỡ hành. Ăn giòn rụm, cay cay, béo, thơm, ngon đáo để. Có lần, tôi cùng anh bạn đồng nghiệp rủ nhau đi mua một loại cơm cháy ở khúc đường Lê Thánh Tông, Q1, TpHCM. Ăn một lần mà nhớ mãi hương vị. Bây giờ, nhiều quán ăn từ bình dân đến sang trọng cũng có những món cơm cháy khai vị. Mà giá một đĩa cơm cháy cỏn con ấy cũng đâu có rẻ. Nhiều Việt Kiều về nước ăn thấy hay hay lại còn mua, đóng thùng đem sang xứ lạnh, dành nhấm nháp trong những ngày đông. Chắc là cũng để nhớ lại cái thuở hàn …
Rõ là thời cuộc đổi thay, số phận của một món ăn cũng thay đổi, huống chi con người. Chỉ có ký ức của tôi vvaf cơm cháy là vẫn nguyên vẹn sau hơn hai mươi năm. Nó vẹn nguyên và quảng đại như tình thương của ba mà sau này khi có con, tôi mới hiểu trọn vẹn…..
Chè hạt me trong ký ức tuổi thơ
03/01/2010 09:33 (GMT +7)
Hình ảnh “con đường có lá me bay” đầy lãng mạn đã từng là đề tài gợi cảm hứng cho biết bao văn nghệ sĩ. Nhưng không chỉ thế, trái me có thể đã gắn chặt với ký ức tuổi thơ của nhiều người.
Me là loại trái bình dân và đa dụng (từ lúc trái còn non cho đến khi trái chín). Trái me non (cả lá me non) là thứ gia vị đặc biệt không thể thiếu trong món canh chua của miền Nam; me già (me sống) muối cam thảo hay làm mứt trong những ngày Tết; me chín ngào đường làm thức uống giải khát và pha chế nước chấm các loại khô nướng (cá khoai, cá đuối…) rất tuyệt
Theo y học dân gian, me có vị chua, tính mát, thanh nhiệt, giải khát, tăng cường hệ tiêu hóa, tăng sức đề kháng cho cơ thể… Còn theo các nhà khoa học, trong 100 gram cơm trái me có khoảng 10% acid hữu cơ, 12,50 % đường, kali và một số hoạt chất khác giúp kích thích vị giác, cung cấp vitamin, khoáng chất cho cơ thể… Còn trong hạt me có glucozan, xylan, chất béo, sáp, muối vô cơ…
Hàng năm, khi gió chướng lành lạnh bắt đầu thổi lao xao trên những ngọn cây (tháng 10-11 âm lịch) là mùa me cũng bắt đầu. Mỗi khi đi ngang qua cổng trường hay vào chợ, bất chợt thấy người bán me là lòng tôi bồi hồi nhớ mùa me chín quê nhà. Lúc bấy giờ, tôi đã học lớp 4 (lớp 2 ngày nay). Nhà cách trường một khoảng vườn rộng, cây cối um tùm vắng vẻ, góc vườn có một cây me cổ thụ. Mỗi trưa đi học, bọn con nít chúng tôi thường rủ nhau hái trộm me. Mải mê hái trái, mất cảnh giác, có khi bọn trẻ chúng tôi bị chủ vườn rượt chạy “vắt giò lên cổ”, có khi rách cả áo, trầy cả chân, nhưng vẫn không chừa!
Niềm vui cầm trái me dốt (me chưa chín hẳn, thịt hơi vàng, có bột, mềm, ít chua) hay me chín (cơm me màu vàng sẫm, mềm, vị ngọt) vừa mới hái, lột vỏ chấm vào muối ớt (hay mắm ruốc) đưa lên miệng chóp chép thật quyến rũ. Vị chua, hậu ngọt thanh của me thấm vào vị giác, khiến nhiều đứa vì hám ăn phải uống nước nhiều nên ê cả răng, căng cả bụng. Ăn xong, cả bọn tranh nhau “xí phần” những hạt me già để chơi trò đánh búng ăn hạt. Chơi chán, cả bọn gom hạt lại nhờ má tôi nấu chè. Chè hạt me nấu với nếp thơm là một món dân dã nhưng ngon không chê vào đâu được!
Muốn làm món chè này, má tôi phải mất khá nhiều công sức. Phải lựa những hạt me già, hạt cứng, vỏ có màu nâu đen, khi nấu mới dẻo, ăn bùi. Rửa sạch và rang lên cho vàng. Đợi hạt nguội, dùng chày đâm tiêu đập bỏ lớp vỏ cứng bên ngoài. Lấy nhân trắng hạt me cho vào vịm (chậu bằng sứ có nắp) ngâm với nước tro (tro bếp) ấm trước một đêm (đây là bí quyết để hạt nấu mau mềm và có mùi thơm hấp dẫn). Đổ hạt ra rổ, xả vài lần với nước cho sạch, để ráo. Sau đó, cho hạt vào nồi nước đun sôi trong nhiều giờ với lửa liu riu cho đến khi hạt mềm. Lại vớt hạt ra rửa sạch, để ráo.
Nếp để nấu chè phải chọn nếp thơm ngon, hạt nhỏ (nếp rặt không lẫn gạo hay tạp chất), vo sạch nấu nhừ (như nấu cháo) nhưng không quá loãng. Thả hạt me đã nấu mềm vào. Dùng vá đảo đều cho cả hai hòa vào nhau. Sau cùng, thêm đường cát trắng với nước cốt dừa cho đủ độ ngọt, béo.
Còn gì thú vị cho bằng, trong đêm trăng thanh gió mát, cùng bạn bè ngồi quây quần trên chiếc chõng tre trước sân nhà thưởng thức một chén chè hạt me! Múc một muỗng chè đưa lên miệng nhai chậm rãi, mùi thơm của nếp, vị bùi, dẻo của hạt me, hòa lẫn vị ngọt, béo của đường cát, nước cốt dừa thấm vào vị giác, len xuống tận cổ… tạo nên một “hợp khúc”chân quê ngon khó tả
Ẩm thực Việt trong ký ức (Kỳ 1)
Thứ Tư, 11/08/2010 15:06
(TT&VH Cuối tuần) - Không đơn thuần là chuyện về món ăn, đây là câu chuyện của một người cẩn thận lưu giữ những ký ức văn hóa truyền thống Việt Nam với một tình yêu kỳ lạ. Chỉ nhận mình là nhà thiết kế thời trang, Trịnh Bách được biết đến lâu nay như là người chuyên phục dựng các hiện vật cung đình Huế, nổi tiếng nhất là các trang phục cung đình (hiện đang được lưu giữ tại Bảo tàng Dân tộc học).
Khi tôi ở bên Mỹ, bạn bè ngoại quốc vẫn hiểu lầm và gọi tôi là một “food police” (cảnh sát ẩm thực). Có lẽ vì họ thấy tôi có vẻ sành sỏi và quá kỹ lưỡng trong việc ăn uống. Họ biết đâu rằng thế giới ẩm thực Âu Tây của họ tuy bề ngoài có vẻ cũng phức tạp đấy, nhưng chỉ cần ăn quen vài lần là có thể biết rõ về một món ăn. Trong khi đó triết lý ẩm thực Đông Phương sâu hơn và khó hơn để có thể thấu triệt. Bên cạnh hương vị các món ăn, người Á Đông chú trọng nhiều vào y, dược tính cũng như sự quân bình và tương quan của âm dương, ngũ hành trong việc nấu nướng. Về sau này dân chúng Âu Tây cũng bắt đầu để ý đến vấn đề sức khỏe trong thực phẩm, nhưng cách áp dụng của họ đã làm cho khẩu vị các món ăn bị dở đi rất nhiều. Trong khi đó, có những món ăn ở nước ta ngày xưa tuy được chế biến theo trị liệu pháp, thí dụ như món cá bống thệ kho tiêu, răm để giúp hạ hỏa các ngự nữ cấm cung cô đơn ngày xưa, khi họ đến kỳ mỗi tháng, nhưng lại ngon đến mức nhiều vị hoàng đế kén ăn phải nhớ nhung, thèm thuồng khi thiếu.
Tôi lớn lên trong cái thế giới quý tộc cũ của các bác Phủ Thuận, cụ Tuần Xương, cô Hường Tiệp, những bà án Sơn, những Cô Tân (bà Tam Giai Điềm Tần của Hoàng Đế Khải Định), và bao nhiêu nữa. Ngày này qua ngày khác tôi phải nhắm mắt nhắm mũi để nghe, thấy, ngửi, nếm các món ăn và những giai thoại, ngôn ngữ của nền văn hóa ẩm thực của họ, mà mãi sau này khi trưởng thành tôi mới nhận ra rằng mình thật may mắn. Nền văn hóa ẩm thực Việt cổ tinh tế ấy thấm vào tôi một cách thật tự nhiên từ khi còn quá nhỏ, cho nên khi lớn lên tôi đã quen với việc cảm nhận sự quân bình và chuẩn xác của hương vị các món ăn gần như bằng bản năng, chứ không phải bằng phân tích, lý luận nữa.
Tản mạn trong ký ức thời thơ ấu ấy tôi còn nhớ được những lúc phải ngoan ngoãn ăn cho hết cái bánh vả, hoặc có khi chén chè hạt sen long nhãn bọc bột lọc của bà Tam giai Điềm Tần. Những bữa phải học lối thưởng thức món thang, cuốn đúng phong cách quyền quý Bắc Kỳ ở nhà ông Tư Ninh, con trai cụ Thiếu Dương Lâm. Tôi cũng nhớ nhiều đến món gỏi tôm chua độc đáo của bác Vĩnh Thọ, người đã từng được các bà Thánh Cung và Từ Cung Hoàng thái hậu ban thưởng kim tiền vì tài nấu nướng. Bác Vĩnh Thọ tức cô Ngọc Lan, đối tượng của một bài hát cùng tên nổi tiếng của nhạc sỹ Dương Thiệu Tước ngày xưa. Rồi bao nhiêu thứ nữa. Nhưng những kinh nghiệm và kiến thức ẩm thực quý giá nhất của tôi đều do mẹ tôi truyền cho.
Mẹ tôi ngày xưa vẫn có tiếng là tài hoa nhất trong số các cháu nội của cụ Thượng Tây Đình (Binh Bộ Thượng thư, Tổng đốc cuối cùng của Hà Nội). Chúng tôi thường được nghe mẹ kể lại những sự trau luyện nhọc nhằn mà các thiếu nữ con cháu nhà quan thời xưa phải trải qua trước khi được công nhận là đã thành nhân
Nền văn hóa mẹ tôi được hấp thụ, trong đó có văn hóa ẩm thực, bao gồm tinh túy của cả trong Kinh lẫn ngoài Bắc. Những nhân vật đại diện cho miền Nam có tầm cỡ nhất ở ngoài Bắc thời bấy giờ có ái nữ cụ Huyện Sỹ, tức là phu nhân cụ Thiếu bảo Hoàng Trọng Phu, Tổng đốc thứ hai của Hà Đông; và sau đó là bà Hồ Đắc Điềm, ái nữ cụ Đốc phủ Phương. Nhưng các bà cũng đã theo Tây học và không rành mấy việc nấu nướng. Mẹ tôi vẫn phục tài nấu cỗ của bà vợ thứ ba của cụ Hoàng Cao Khải, cũng như của phu nhân và trưởng nữ cụ Chu Mạnh Trinh. Có điều lạ là cả ba bà đều là cô đầu và nổi tiếng về tài múa bầy bông (vẫn thường được hiểu nôm na là múa bật bông hay bài bông) cửa đình.
Cũng có khi mẹ tôi kể cho chúng tôi nghe về thú ẩm thực tiêu khiển khác người của vài người bạn của Ông ngoại tôi. Cụ Tản Đà trước khi đến thăm ông ngoại thường báo trước để mẹ tôi sửa soạn làm vịt. Không bao giờ màng đến cỗ bàn thịnh soạn, thi nhân chỉ thích có cái thủ, cái cổ, cặp cánh và bộ gan vịt luộc cho thật khéo, để trong một đĩa riêng để cụ nhắm rượu. Mọi thứ còn lại, kể cả đĩa tiết canh mà mẹ tôi đã trổ hết tài hãm, nướng, băm, bầy, thì dành cho người thù tiếp ngồi trước mặt. Chủ khách chẳng bao giờ gắp vào đĩa của nhau. Và vì kính khách nên ông ngoại tôi cũng không bao giờ đụng vào những đĩa tiết canh nhỗ nhã nhưng có chán vạn người ao ước ấy. Cho đến khi Tản Đà mất vào năm 1939, cụ vẫn chưa một lần thưởng thức tài nội trợ của mẹ tôi.
Ông ngoại tôi rất ưa nhàn, và hình như cụ được sinh ra để hưởng nhàn. Cụ chuộng các món ăn chơi hơn cỗ bàn. Nào là gỏi cá con còn sống, trong Huế gọi là món sanh cầm, với nước chấm sửa soạn thật cầu kỳ, khi đã chán gỏi cá mè, cá chắm ướp thính, riềng. Nào là giò ốc nhồi lót lá gừng để phá cỗ Trung Thu. Ngoài ra còn các món thịt gà xé trộn hành dấm, lá chanh, hạt tiêu thô và rau răm. Món miến đậu xào cua, nấm đông cô, hành lá, rau răm, hạt tiêu…
Rồi món nộm sứa khô trần nước sôi, trộn với vỏ dưa chuột (dưa leo) và cà rốt thái chỉ ngâm dấm, đường, nước mắm. Thịt ba chỉ luộc thái sợi, tôm nhỏ luộc bóc vỏ. Lạc rang giã thô. Rau húng dũi (húng bạc hà hay húng lợn), rau răm, ớt đỏ chẻ dọc, bỏ hột rồi thái vụn. Đây là một trong rất ít món Bắc ngày xưa có ớt, và món này cũng được liệt vào các món cỗ.
Món thịt bò giả dê ướp riềng, nướng tái rồi thái lát, trộn thính thô và chấm tương gừng. Để làm thịt bò mềm, người xưa gói thịt vào lá đu đủ khoảng một hai tiếng đồng hồ. Món thịt bò tái dúng ăn với bún, khế chua, chuối xanh và dưa chuột thái lát, các loại rau thơm, rau răm, chấm tương gừng. Sau này khi rau diếp cá được giới thiệu ra Bắc thì rau này cũng được ăn kèm với món tái dúng. Và có lẽ đây là món độc nhất có rau diếp cá ở ngoài Bắc thời Cận kim.
Ông ngoại tôi có thói quen dùng một bát lòng thả nhỏ vào buổi chiều, mỗi khi cảm thấy mệt mỏi. Tôi không hiểu món lòng thả có gốc tích từ Huế hay miền Bắc, nhưng món lòng thả của mẹ tôi làm lại giống y như lòng thả do bác Vĩnh Thọ nấu. Nước dùng của mỗi con gà luộc sủi tăm cho đến khi cạn xuống còn độ sáu bát ăn cơm, gạn lấy phần nước trong ít béo. Tiết gà hãm với chút nước muối cho khỏi đông, cùng với lòng, mề, tim và gan gà thái hạt lựu thả vào nước dùng rồi quấy đều trên lửa riu riu để chỉ chín tới, không bị dai. Khi dùng có thể vắt thêm tí chanh. Ngày trước, khi các quan từ công đường về tới nhà thì các bà đã sửa soạn sẵn một bát lòng thả để các cụ xơi tẩy trần cho đỡ mệt. Xin đừng lầm lòng thả có rau răm, hành và tiêu trong Kinh, ngoài Bắc, với lòng sả ở Quảng Trị có vị chính là sả.
1. Ăn cơm căng tin - Kí ức tuổi thơ tràn về
Hà Nội vào đông, từng cơn gió táp vào mặt, luồn qua áo, cắt vào da thịt. Gió thì vẫn vậy, nhưng cảnh đã khác xưa. Đường phố đông nghịt, còi xe inh ỏi, bụi bay cả vào mắt. Hà Nội bây giờ ko còn thanh bình, lãng mạn như xưa. Con người cũng như quên đi những giá trị nhỏ của cuộc sống mà lao vào mưu sinh, để rồi có những lúc nhận thấy cuộc sống sao mà vô vị
Nhưng hôm nay, khi ăn bữa cơm trưa tại tầng 3, tòa nhà VTC 18 Tam Trinh, tôi như được sống lại tuổi thơ êm đềm. Cái thời mà không có trò chơi điện tử, chỉ có chăn trâu, đánh khăng, ú tìm. Cái thời gian khổ ấy như sống lại trong tôi.
Ngày ấy nhà tôi nghèo lắm, bây giờ vẫn thế. Ngày ấy 1 tuần thì có khoảng 2 bữa cơm có thịt. Mẹ tôi thường rang muối lạc rồi đựng vào 1 cái hộp to, chỉ có lạc thôi, ko có vừng. Ban đầu để thi thoảng bỏ ra ăn cho đỡ tốn thức ăn. Dần dà tôi lại thích ăn cơm trộn muối lạc. Tôi ăn hết 2 bát cơm trộn muối lạc mà chẳng cần ăn rau, ăn thịt. Mẹ tôi thích lắm, dễ nuôi mà. Nhưng càng ngày mẹ thấy ăn muối lạc tốn quá, thế là mẹ rang mặn ơi là mặn, để tôi ăn ít thôi.
Hôm nay khi nhận đĩa cơm từ tay các bác trong cang tin, tôi bỗng nghẹn ngào nhớ lại những bữa cơm mẹ nấu. Ăn cơm với muối lạc sao mà ngon thế. Hôm nay tôi xin các bác ko ăn thịt băm, chỉ ăn cơm với muối lạc với 1 ít rau, ôi, tuổi thơ của tôi ( (crying). Mẹ ơi, đã lâu con ko về thăm mẹ. Tôi ăn hết sạch cả đĩa cơm, lâu lắm mới được ăn một bữa ngon như vậy.
Thật sự hôm nay rất xúc động nên mới viết ra những dòng này. Rất cám ơn các bác căng tin và hi vọng được ăn lại những món mẹ tôi nấu ngày xưa. Ăn cơm với muối mì tôm miliket 2 con tôm. Ăn cơm với trứng luộc giầm với mắm. Ăn cơm không với ruốc...
Cho tôi 1 vé đi tuổi thơ
Ký Ức Mùa Nước Nổi
Quê tôi nằm gần bờ sông Hậu. Hồi ấy, mỗi năm khi nướcphù sa đỏ đục từ thượng nguồn đổ về, tôi nhớ ba tôi hay vấn thuốc, đội nón lá, đứng trên bờ sông nhìn ra dòng nước mênh mông, bát ngát. Ông như thoáng chút bâng khuâng: “Nước về rồi. Năm nay chắc là nước lớn lắm! Lớn hơn năm ngoái!”. Ba tôi đã trải qua gần cả cuộc đời với đồng đất quê hương, mẹ tôi và chị tôi tảo tần mua bán trên chiếc “ghe hàng” len lỏi khắp hang cùng, ngõ ngách một vùng sông nước. Mùa nước lên, ghe hàng như là một tiệm tạp hóa nổi với cả trăm món linh tinh cho sinh hoạt hàng ngày như: dầu lửa, nước mắm, hộp quẹt, tim đèn, xà bông, bột ngọt, rượu, thuốc hút, bánh, cốm… Có lần dịp hè tôi được theo mẹ đi ghe. Tôi không quên được mấy chú bé, cô bé tóc vàng màu râu bắp, mắt đen trong veo, đứng trên bờ sông nhìn những bịch cốm và những viên đạn cu-li (bi) lộ vẻ thèm đến ngẩn ngơ!
Khi nước ngập “chum”, ở vùng sâu người ta đi lại bằng ghe chèo, xuồng ba lá. Những cây cầu khỉ bằng tre, cau, trâm bầu chiu hiu giữa mênh mang biển nước. Cá linh non đầu mùa xuất hiện theo nước vào sông rạch, đồng ruộng và lớn dần lên. Đến tháng 10 âm lịch, cá linh đã lớn, to trung bình cỡ ngón tay cái, lưng màu xanh lơ, mình tròn dẹp, vây và đuôi màu vàng nhạt, vẩy nhuyễn, nhỏ màu bạc. Ngư dân, nông dân ven các bờ sông rạch đánh bắt cá linh bằng nhiều phương tiện như: vó, chài, vợt, lưới thả, lưới giăng… Nhà tôi cũng có một cái vó to bằng lưới đặt ngay con rạch nhỏ trước nhà. Cất vó cá nhiều ăn không thể nào hết, ba má tôi làm mắm, ủ mắm đến mùa khô đem xuống ghe hàng bỏ chợ và bán lẻ. Tôi lớn lên, được ăn học bởi hạt lúa quê nhà và những con mắm cá linh thơm lừng mùi dân dã với tình yêu thương vô bờ của cha mẹ tôi. Tôi vẫn thường cảm thấy mình rất sung sướng, hạnh phúc hơn biết bao bạn khác có hoàn cảnh khó khăn!
Bạn chắc đã từng ăn món cá rô kho tộ? Cá rô rất phổ biến trên ruộng đồng trong các kinh rạch, đầm lung, ruộng ngập nước. Mùa nước nổi, cá rô lên ruộng để kiếm thức ăn là những bông lúa rụng, hoặc những hạt lúa chét tái sinh sau vụ gặt trước mùa nước lũ. Cá lớn rất nhanh và mập béo vì lúc nầy thức ăn rất phong phú. Cá rô to, ba, bốn ngón tay, người ta gọi cá “rô mề”, nhỏ hơn gọi là cá rô “mén”. Cá rô thịt dẻ, thơm ngon – chỉ tội nhiều xương nên ăn phải kỹ lưỡng.
Chỉ với vài tay lưới, người ta giăng ở những đường nước nhỏ trong rừng hoặc ở những bờ kinh, mé ruộng. Vài giờ sau khi giăng, có thể thu hoạch một vài kýcá là chuyện thường.
Cá rô kho trái giác là một món ẩm thực độc đáo. Cá rô bắt được, lựa rô mề, mổ ruột đánh vẩy, rửa sạch để vào rổ tre cho ráo. Có thể đi vào ven rừng hoặc ra vườn đến chỗ có nhiều cây tạp để tìm trái giác. Trái giác có vị chua gắt. Dùng trái giác khi còn dôn dốt để kho cá rô là ngon nhất! Thịt cá rô kho trái giác có vị ngọt, béo, thơm lừng lựng. Trái giác có vị chua, ngọt, dôn dốt rất tuyệt vời.
Ở quê tôi còn rất nổi tiếng về đặc sản rùa, rắn. Rắn mùa nước gặp phổ biến là rắn ri voi, ri cá, bông súng, rắn trun, rắn nước, rắn hổ hành (không độc). Rắn hổ đất (độc) và rắn ri voi là hai loại có giá trị nhất.
Người ta bắt rắn bằng cách giăng lưới, đào hang hoặc tìm đâm chúng bằng chĩa trong đám lùm, bụi cỏ. Đi săn rắn, người ta đem theo chó, để chúng đánh hơi và lùng sục. Bà con nói rằng, chó lưỡi có đém thì rắn hổ cắn không chết. Có nhiều con chó săn rất gan dạ, cắn vật rắn to rất tài tình, cũng có một đôi khi chúng chết vì thấm nhiều nọc độc do bị nhiều vết thương khi chiến đấu với rắn!
Hồi trước, rùa rắn săn bắt được, người ta để làm mồi nhậu, món ăn đãi khách hoặc cho, biếu người thân quen.
Rùa và nhóm họ hàng như cua đinh, cần đước, ba ba cách đây vài mươi năm có rất nhiều ở ĐBSCL. Ngày nay, vì bị tàn sát để phục vụ cho ẩm thực và làm thuốc (?) nên họ hàng nhà rắn, rùa đã ít đi rất nhiều và đứng trước nguy cơ tuyệt chủng. Có lẽ một ngày nào đó, ĐBSCL sẽ không còn những loài động vật hoang dã có thời rất phong phú trong thiên nhiên miền sông nước!
Mùa lũ, khi các loài rau trên cạn bị ngập nước, khan hiếm, thì các loại rau đặc trưng mùa nước nổi lại phát triển mạnh.
Bông súng là loại rau nước rất mạnh, cọng tròn bằng ngón tay út, màu tím sẫm, có khi dài hàng mét trầm thủy dưới nước các ao, đầm, lung, bàu. Bông súng tước vỏ nấu canh chua, bóp gỏi, ăn sống rất ngon. Và ngon nhất là ăn với mắm kho hoặc lẩu mắm.
Điên điển bông nhỏ, màu vàng, dẹt, hoa cỡ đầu ngón tay, dùng làm gỏi, nấu chua, chấm mắm kho rất tuyệt. Khi nước lũ tràn về, ấy cũng là mùa điên điển ra hoa. Điên điển là loại hoa và rau đặc trưng nhất trong mùa nước nổi ở vùng đầu nguồn sông Tiền và sông Hậu, vùng tứ giác Long Xuyên, và vùng đồng bưng của Đồng Tháp Mười.
So đũa trổ bông vào lối giữa tháng 10 âm lịch khi trời bắt đầu có gió chướng rong ngọn và nước sắp rút. Bông so đũa sử dụng khi còn búp, dùng nấu chua với cá đồng hoặc nhúng, luộc chấm mắm kho hoặc ăn với lẩu lươn, lẩu mắm.
Mùa nước nổi ở ĐBSCL thường kết thúc khi trời chuyển sang có gió bấc non, ấy là vào khoảng giữa, cuối tháng 11 âl. Cư dân đồng bằng lại sửa soạn cho một năm mới sắp trở về. Thuyền câu, thuyền chài, vó, lưới cũng được tu bổ, sửa chữa lại sau mùa nước nổi. Và trong lu, khạp đã “vựa” đầy mắm cá linh, cá sặt; khô cá các loại cũng thấy phơi đầy trước
Châu chấu rang – món ăn kỷ niệm
( 4:17 PM | 26/04/2010 )
Hồi đó nhà nó nghèo lắm. Cái hồi còn bao cấp ấy thì tem phiếu không đủ cung cấp những thực phẩm cần và đủ cho một hộ gia đình bốn người. Hai anh em nó xanh rớt như bó rau muống 2 xu ngoài chợ. Xót ruột lắm nhưng bố mẹ nó cũng không thể nghỉ làm ở bệnh viên quân đội với đồng lương ít ỏi để ra ngoài chạy chợ như bác hàng xóm được. Cái khó nó ló cái khôn. Một hôm đang ngồi thần người ra suy nghĩ, bố nó bỗng nhớ ra một món ăn rất ngon mà Ông Nội nó hay làm – món châu chấu rang
Và thế là ban ngày thì bố mẹ nó đi làm, còn ban đêm chỉ với một cái đèn nhỏ chạy ắc quy gắn trên trán, bố mẹ nó lao vào cuộc sống mưu sinh mong cứu vớt “ hai bó rau muống “ khỏi héo.
Phía sau nhà nó có một cái vườn to người ta trồng toàn mía là mía. Đèn trên trán, túi đựng châu chấu bên hông, bố nó đi trước, mẹ nó theo sau hăm hở bước đi. Cứ đến bảy giờ tối, khi bóng tối đã bao trùm tất cả thì cũng lúc bọn châu chấu kéo nhau đi ngủ. Chúng đậu chen chúc nhau trên những chiếc lá mía uốn cong và êm ái. Chiếc đèn gắp trên trán bố nó đã được bật từ lúc bắt đầu bước chân ra khỏi nhà luôn phát huy tác dụng chiếu sáng của nó. Đang ngủ ngon giấc, lũ châu chấu bị đèn chiếu thẳng vào quá bất ngờ nên không kịp bay lên hay chạy trốn. Khi hiểu ra được chuyện gì đang xảy ra với mình thì chúng đã nằm gọn gàng trong chiếc túi vải mầu xanh mà nguyên thủy của nó là hai chiếc ống của một chiếc quần bộ đội. Bố mẹ nó chỉ việc nhặt … nhặt .. và nhặt từng con châu chấu ngoan ngoãn hiền lành mà không vấp phải bất kỳ sự phản kháng nào từ phía chúng.
Đi khoảng một giờ thì được đầy hai túi đó, bố mẹ nó cùng nắm tay nhau đi về trong sự chờ đợi mong mỏi của hai anh em nó ở nhà. Đổ lũ châu chấu ấy ra một cái nồi, đậy chặt vung, đặt lên bếp than tổ ong, xóc nhè nhẹ cho đều đến khi những con vật ấy ngất hẳn thì mới bắc chiếc nổi xuống. Cấu nhẹ chiếc đầu của nó ra là toàn bộ lòng ruột và chất thải theo ra hết. Sau khi châu chấu được làm đẹp bằng cách cắt cánh vặt chân là một chiếc bụng béo ú, mập mạp, mỡ màng hiện ra. Cả nhà nó vừa làm thịt lũ châu chấu ấy vừa nói chuyện với nhau rất vui vẻ. Nó kể cho bố mẹ nó về những chuyện nó đã gặp trong lớp học, anh trai nó thì khoe những điểm mười toán, mẹ nó thì luôn bị ám ảnh về những người bệnh nhân và nỗi khổ của họ, còn bố nó lại là người im lặng, lắng nghe và là người cuối cùng lên tiếng động viên từng thành viên trong gia đình.
Sau khi những con châu chấu được làm sạch sẽ, cho chúng vào tắm táp lầm cuối trước khi đi “ hóa thân hoàn vũ “. Nhớ để ráo một chút nhé rồi mới cho chúng vào chảo cùng với một chút mỡ. Đảo nhanh, đều tay cho đến khi châu chấu chuyển từ mầu xanh đặc trưng sang mầu vàng quyến rũ. Sau đó mới cho một ít nước cà muối, chỉ nước thôi nhé, cái thứ nước cà muối ấy mới chính là bí quyết mà rất ít người biết để làm cho chầu chấu được ròn ròn, thơm thơm béo ngậy. Rồi lại đảo tiếp, đều tay nhé, đảo cho đến khi món châu chấu rang ấy cạn hết nước, cắt một ít lá chanh cho vào và khâu cuối cùng là trình bày trên đĩa.
Cho đến tận bây giờ, mặc dù nó đã khôn lớn, được đi nhiều nơi, được thưởng thức nhiều món ăn ngon nhưng nó vẫn không sao quên được mùi vị của món ăn đó, một món ăn mà bố mẹ nó đã làm với tất cả tình yêu thương dành cho anh em nó – món châu chấu rang.
Bò lụi, món ăn khó quên tuổi học trò
Mùi thơm của lá lốt, vị ngọt của thịt, dai sần sật của gân bò kích thích vị giác khiến lũ học sinh chúng tôi đứa nào cũng nhai ngấu nghiến một cách ngon lành; hòa vào những tiếng xuýt xoa, hít hà vì vị cay nồng của tiêu và tương ớt là những tiếng cười đùa vui vẻ…
Trường Tiểu học xã Long Tuyền (Cần Thơ) - nơi ngày xưa tôi theo học - không khang trang, đẹp đẽ mà khiêm tốn, nhỏ bé nằm trong một con hẻm. Sát vách tường trường, nép hai bên cổng, là điểm tập trung buôn bán khá ồn ào. Ký ức trong tôi của những năm học lớp Nhất (lớp 5 ngày nay) là mỗi khi tiếng trống báo giờ ra chơi, bọn trẻ con thường tranh nhau ra mua quà vặt đồ ngọt (bánh, kẹo…) lẫn đồ chua (cóc, ổi, chùm ruột…) để ăn; nhưng có một món mà cánh “kẹp tóc” lẫn cánh “húi cua” chúng tôi rất mê mẩn là món bò lụi (bò nướng lá lốt).
Không hiểu món ăn có “hấp lực” gì mà mỗi khi ra chơi, lũ học sinh chúng tôi ngày ấy đều ùa ra cổng tìm mua, và cùng nhau chạy ra phía sau góc sân trường dưới bóng cây xoài già để ăn. Mùi thơm của lá lốt, vị ngọt của thịt, dai sần sật của gân bò kích thích vị giác khiến ai cũng nhai ngấu nghiến một cách ngon lành; hòa vào những tiếng “xuýt xoa, hít hà” vì vị cay nồng của tiêu và tương ớt là những tiếng cười đùa vui vẻ… Mỗi lần gặp nhau, nhắc lại chuyện cũ, ai nấy đều nao lòng!...
Tôi còn nhớ người bán hàng lúc bấy giờ là một phụ nữ trạc khoảng 50, dáng người thấp đậm, ăn nói hoạt bát, và trên môi luôn nở một nụ cười. Xe đậu sát vách trường, nhưng bà chẳng cần rao, vì đã có tín hiệu thay cho lời rao, đó là những làn khói tỏa ra từ chiếc bếp than dậy mùi thơm của những xâu bò lụi khiến lũ học sinh “chịu không nổi” phải mua vài xâu ăn cho “đỡ ghiền”. Cứ thế, từng tốp học sinh ra sau lần lượt vây quanh xe bà, và chỉ trong một loáng là hết sạch
Có lần tôi hỏi bí quyết, bà cũng vui vẻ tâm sự: Thật ra làm món bò lụi này cũng chẳng khó là bao. Chỉ cần khoảng 200 gram thịt bò (lựa thịt nạm, có ít gân), số lượng nhiều, ít tùy theo người ăn, và 100 gram mỡ heo rửa sach, để ráo. Trước hết, thái mỏng 2 thứ thịt và bằm nhuyễn (nay đã có máy xay thịt, cứ trộn 2 thứ vào xay là xong). Ướp gia vị (đường, nước tương, bột ngọt, tiêu, tỏi, sả bằm, ngũ vị hương …) vào thịt trộn đều để ngấm trong khoảng 10 phút.
Kế đến, chọn lá lốt vừa ăn (lá không quá già cũng không quá non) rửa sạch lau khô. Đem lá phơi nắng vài phút cho lá hơi héo (mềm), gói không bị rách. Để lá trên lòng bàn tay, múc thịt cho vào giữa. Gấp mép lá lại theo hình chữ nhật, dẹp vừa đũa gắp (hay cuốn tròn cũng được, tùy thích!). Sau đó, xiên từng cuốn vào que tre nướng trên than hồng (nhớ trở đều tay cho thịt bên trong chín đều, và lá lốt bọc bên ngoài không bị cháy khô).
Cuối cùng, cho những xiên thịt đã chín vào đĩa, phết mỡ nước (hoặc dầu ăn) đã phi tỏi thơm lên là xong. Món nầy ăn nóng cùng với tương ớt.
Món ăn vặt của tuổi học trò nên đơn giản không cầu kỳ. Còn nếu ăn ở quán, ta có thể thêm những phụ liệu khác như: bánh tráng, bún, rau sống (dưa leo, khế, chuối chát, rau thơm…) cuốn với thịt bò chấm vào chén mắm nêm (hoặc tương cay hòa với đậu phộng rang đâm giập) mới “đúng bài”!!..
MÓN ĂN NGÀY XƯA
Kỹ sư Sagant Phan
Vừa rồi nghe tin quê nhà lại bị ngập lụt nữa, trong lòng không khỏi chua xót. Năm rồi quê của tôi cũng bị lụt. Nước leo đến con lộ ngoài đường, xe đò phải ngừng nơi xa, hành khách vén quần lội nước khó khăn. Quê tôi, Châu đốc đi xa hơn nữa. Xứ này có khá nhiều người Miên. Nhà của họ thường xoay lưng ra ngoài đường, còn nhà người Việt thì đưa mặt ra ngoài. Đa số nhà người Miên họ xây cao, có cầu thanh lên nhà. Nhà người Việt rất dễ biết là có bàn thờ Ông Thiên giữa sân, thường chưng bông điệp đỏ và lon cắm nhang.
Má tôi có quen với mấy người Miên trong sóc, họ dạy má tôi cách nấu bún nước lèo.
Bún nước lèo mà người Miên gọi là: "Nụm choóc" hay gọi dài hơn là "năm bò choóc."
Khác với bún mắm của người Việt, bún nước lèo này có hương vị đặc sắc riêng, nếu ai ăn rồi sẽ nhớ mãi hương vị đậm đà khó quên của bún.
Nấu bún nước lèo, quan trọng nhất là phần pha chế nước lèo. Nước lèo ngon thì bún mới ngon. Nước lèo được nấu từ mắm cá gọi là "mắm bò hoóc". Nấu chung với thịt của đủ loại cá, nhưng thường là cá lóc rút xương sạch hết. Gia vị rất dễ tìm quanh nhà, như: đường, muối, sả, ớt, nhưng quan trong nhất là phần củ ngãi bún. Củ ngãi bún nhỏ bằng ngón tay, mầu vàng nhạt như củ gừng nhưng trồng ở gò đất cao ráo.
Nước lèo được người bán đựng trong nồi đất nung, đặt trên bếp than hồng nên lúc nào cũng nóng tỏa mùi thơm quyến rũ thực khách.
Sả thì bầm thật nhỏ, cho vào rất nhiều hơn bún bò Huế. Cho nên bún lèo có màu xanh quyến rủ lắm. Thường phải có nhiều ớt thật cay hầu át mùi cá.
Khi bán cho khách người bán dùng dao bào xắt bắp chuối non cho vào tô, con bún còn nguyên (không được xé bún thành sợi) bún được cắt ra làm 3 phần đặt trên và dùng vá chan nước lèo thật nóng vào tô bún. Ta được tô bún thật nóng hổi thơm phứt mùi sả ớt, bốc hơi nghi ngút nhìn là muốn ăn liền.
Nước lèo và bún rất rẻ tiền, bình dân rất thích, thích hợp với giới bình dân làm việc nặng vì có đủ chất bổ dinh dưỡng trong tô bún.
Tại chợ gần biên giới Châu đốc như Tịnh Biên, tại các sạp chợ họ bán bún nước lèo trên các sạp tre, hay bán gánh hàng rong ở các phum sóc.
Thức khách dùng đũa và từng miếng bún lớn, thỉnh thoảng húp nước lèo soàn soạt trông thật ngon miệng.
Ăn xong tô bún nóng thì mồ hôi bạn toát ra đầm đìa, tỉnh cả người. Đó là nhờ trong tô bún có ớt hiểm rồi nước dấm chua là gia vị căn bản trong tô bún.
Hiện nay bún nước lèo không còn ở sóc Miên nữa mà có mặt tại các chợ tỉnh thành, nhưng khi rời sóc nhỏ một làng Miên quê mùa mà vào tỉnh thành thì tô bún nước lèo người ta thêm thịt heo sắt mỏng, thêm nhiều đĩa rau sống như hẹ, giá hay rau muống bào sợi nhỏ... đôi khi có thêm thịt heo ăn kèm.
Rồi họ thêm ly trà nóng bốc khói để tráng miệng được coi là tráng miệng bữa ăn hết sức là thú vị.
Lúc nhỏ, thời buổi còn bình yên, quê nhà tôi người ta thường thích thả... xích phê nghĩa là nhàn tản bách bộ khi ăn cơm xong. Bách bộ từ nhà ra đến đầu đường là quá xa rồi. Đèn đường tỏa bóng vàng nhạt nhạt, lâu lâu chiếc xe đạp đạp ngang rồi bấm chuông kêu reng reng hết sức vui. Dọc hai bên đường người ta bày bán nào chuối khô nướng. Chuối khô họ ép dẹp rồi nướng trên bếp than nồng, mùi chuối chín bốc thơm hết sức, ăn vừa nóng vừa ngọt ngọt của chuối xiêm đựng trên miếng là chuối. Còn chỗ kia họ bày bán bánh tràng nướng hay mực khô nướng... Con lộ có lúc chưa tráng nhựa còn đá xanh lục cục, lái xe đạp đôi khi lạng quạng hoài.
Còn cuối con lộ là xóm người Miên, nhà cửa họ thường im lìm không ồn áo như nhà người Việt. Sáng họ thức sớm hơn người Kinh, họ nấu bún hay ra đồng làm ruộng. Tiền dư thừa thì thường họ cúng rất hiều vào chùa Miên. Chùa Miên được cất trên giồng đất cao, kế đó là một nhà sàn nhà sãi thường dùng làm trường dạy học chữ Miên. Vừa làm sãi vừa làm Thày, có cái roi khá dài. học trò thường kính nể và vừa sợ cái roi.
Kinh kệ chùa Miên đọc rất có vần có điệu, môi không hở ra nhiều, hình như họ đọc kinh từ trong âm họng ra, kéo dài và u buồn. Hầu như chưa nghe chùa Miên bị mất cắp đồ đạc bao giờ. Sáng thì các thày chùa áo cà sa vàng chừng năm sáu người, đi ngay hàng thẳng lối. Họ khất thực, đến cửa nhà thì các vị sãi đứng lại chừng vài phút. Nếu thấy nhà nào không muốn bố thí thì họ đi đến nhà kế tiếp. Không cho hay cho nhiều các vị sư vẫn làm thinh, đôi khi các vị cúi chào thật nhẹ. Vị sư này theo phái Tiểu thừa, đi khất thực và quá Ngọ thì không ăn. Nếu hôm nào không ai cho thì họ về chùa chịu đói nguyên ngày đó.
Hạnh nguyện của họ vẫn bình an tự tại, nhiều kiên nhẫn. Sãi Cả được họ rất kính trọng, thường mấy vị rất già, miệng móm… đôi khi các vị này nhai trầu trong miệng.
Ngày xưa Như Lai trước khi tịch diệt, chính Như Lai hỏi các đệ tử hầu quanh nhiều lần: “Như Lai sẽ không còn nữa tại cõi đời này, các con có cần điều gì Như Lai giải nghĩa không?"
Thấy đệ tử đang ngậm ngùi bi ai, Như Lai lập lại câu hỏi một lần nữa, đệ tử vẫn làm thinh. Như Lai liền nói: “- Được, như vậy tốt lắm. Khi Như Lai mất rồi, thì các con lấy Pháp của Ta mà làm Thầy, lấy hạnh nguyện của Ta mà làm đường đi”.
Lời nói của Như Lai làm các vị sư sãi nhớ mãi đến trên 5 ngàn năm nay. Chùa Miên khác chùa Việt, sân chùa Miên không ai trồng cây ăn trái vì họ không ăn gì ngoài giữa trưa, bếp không có, không trữ món gì ngoài nước lạnh uống. Còn chùa Việt thì đa số trồng mít, tre, quanh trồng ớt và vài loại cây ăn trái. Mít thì dùng mít non nấu ăn, tre thì dùng măng cho bữa ăn đạm bạc.
Nhưng biên giới Miên Việt nhìn từ núi Sam, ta thấy nơi xa thật xa là chùa Miên ẩn hiện quanh nhiều cây thốt nốt. Cây thốt nốt từ lúc cây lên cao ngọn, đến khi ra trái thốt nốt thì thời gian là trên dưới năm mươi năm. Đời cha trồng chưa thể nào thấy trái được, có thể đến đời con cha đời cháu mới có trái thốt nốt.
Nước thốt nốt uống một lát thì say lúc nào không hay vì có nhiều chất rượu trong đó. Nhưng say hơi nhẹ nhẹ. Họ lấy nước thốt nốt từ buồng thốt nốt đang trổ bông. Nước họ đựng trong uống tre thật lớn. Gánh lần mổi bên chừng khoãng mười ống nước thốt nốt. Người ta gồng gành bán quanh bến xe đò. Tánh người Miên đa số thành thật mà người Kinh gọi họ là khù khờ. Khách đưa nhiều tiền chưa kịp thối thì xe đò chạy rồi, thì người bán họ sẽ lại ngay chỗ đó, nơi xe đò đã đậu, chờ cho được người khách mà họ đang giữ tiền lẻ lại trong túi. Vâng đúng như vậy đó. Họ sẽ trả lại đúng số tiền thối cho người khách đó.
Má tôi quen thân với một chị bán bún nước lèo. Chị tên là Prek, chị mập người, có đến 7 đứa con, chồng thì đạp xe lôi ở thị xã Châu Đốc, cuối tuần mới về, uống rượu say mèm, khi tỉnh rượu thì đi ra thị xã rồi. Chồng chị rất tốt bụng, có lần trong xóm có người bị bệnh, chồng chị không ngần ngại đạp xe thồ chở đến bốn mạng trên xe. Nào người chồng bị bệnh, vợ người bệnh rồi thêm hai đứa con lớn đem nào mùng mền, bình thủy đựng nước nóng. Đến bệnh viện tiểu khu Châu Đốc thì anh mới biết người chồng không có tiền đóng nhà thương, anh liền tháo dây chuyền chạy ra đầu đường cầm tạm cho người chồng bị bệnh đó. Sau này người chồng mạnh, họ quên trả hay họ quá nghèo, thì chồng chọ Prek cũng không dám nhắc lại. Chị biết được thì chị cười, như vậy đở lo ổng bán nó mà mua rượu uống nữa.
Nhà chị gần cây gòn, loại cây da xanh lè, gai từ gốc tới ngọn. Trái gòn, dài như bắp chuối chân con nít. Khi trái chín thì nứt võ ra, bông gòn bay phấp phới khắp nơi. Con nít thường không thích gần cây này. Vì con nít thường chơi bong bóng bay. Bong bóng tấp vào cây gòn, đụng gai nhọn thì nổ cái bùm... thế là xong rồi. Khóc cũng vô ích, đâu phải nổ bong bóng này thì có bong bóng khác thay thế. Nhà tôi cũng nghèo gần như chị Prek vậy.
Chị thường bưng nồi bung lèo nóng ngồi bán gần cây gòn. Còn xe đò thì ngõ lộ bên kia sông. Khách Miên từ bên kia, xuống xe đò, bước sang cây cầu ván là đến gánh bún của chị. Có lúc đắt khách thì chị nhờ thằng con trai chạy về bưng ra thêm một cái lò có nồi bún nước lèo nữa... Rồi trọn ngày đó chị vui rất nhiều, chị cúng đến chùa một phần tiền mà chị bán được buổi sáng hôm qua.
Má tôi quen gia đình chị, vì ba tôi làm thư ký tòa tỉnh. Con chị sanh thì đến nhờ ba tôi ghi giấy tờ khai sanh dùm, chị nói đạt tên nào cũng được, miễn là sao tụi nó đi học được trường học thị xã Châu Đốc là chị vui rồi. Không biết gì báo đền, thì chị dạy má tôi cách thức nấu bún nước lèo. Mắm cá lóc rất nặng mùi, nhưng khi quấy vào nồi bún thì ráng đừng dùng nước nóng. Mà phải quậy nó bằng nước lạnh thì mắm mới không tanh, rồi đổ nhè nhẹ vào trong nồi nước lèo trước khi nước lèo sôi. Sả bầm thật nhỏ, rất nhiều rồi thêm ngãi bún nữa. Loại này trông tựa như cây riềng vậy, nhưng mùi hăng hơn. Cho nên khi vào nồi nước lèo màu xanh lục thì màu vàng này làm nổi một màu rất đẹo mắt, thơm nồng hết sức.
Rồi ngày kia tôi lên Cần Thơ học, rời quê nhà bình an đến độ buồn nãn. Buồn nãn và mê ả đến nỗi con trâu nằm im gần bụi tre lớn mé sông, nó không buồn gục gặt cái đầu nó nữa.
Nhìn xa từ trên cầu sắt thấy con trâu như con trâu giả vậy. Nó im lìm không cử động một cái gì hết.
Rồi vào năm nào đó, nước lụt lên ngùn ngụt. Thị xã Châu Đốc mà nước dâng lên khỏi con đường cái của chợ Châu Đốc, dâng đến cửa nhà. Tối ngày quanh quẩn trong nhà, đi ra ngoài không được. Nước quanh hết, màu nước tráng đục, lại mưa lâm râm nữa. Con chó trong nhà tôi cũng lo sợ. Nó sợ nước dâng quá lẹ, chủ nhà bỏ chạy mất nó ra sao?
Khoàng tuần lễ nước xuống lần lần, học trò đi học lai rai. Tôi vội đạp xe đạp về nơi xóm cũ ngày xưa. Cây gòn còn đó, nhưng nhà của chị Prek bị nước cuốn trôi mất rồi. Má tôi và ba tôi đi khắp các trại tạm cư tìm gia đình chị thì cũng không thấy họ. Má tôi lo sợ nhiều, má thắp nhang cắm ngoài bàn thờ Ông Thiên mà cầu nguyện cho gia đình chị bình yên.
Nay gần 30 năm trôi qua, tại xứ này khi nghe tin nước lũ kéo về Hậu Giang lần nữa thì lòng tôi bỗng dưng nhớ đến gia đình chị Prek. Một người Miên hiền hòa, tốt bụng. Người mà dạy má tôi nấu nồi búng nước lèo đầu tiên.
Vừa rồi tôi có ghé xuống thành phố người Việt tị nạn đông nhất nước Mỹ, đó là Santa Ana. Tôi ghé một tiệm chuyên bán bún nước lèo. Tô bún nằm đây, mà lòng tôi trôi nổi về tận phương trời nào. Tôi ăn không vô, vì nhớ nhiều chị Prek . Vô bán hàng hỏi tôi không muốn ăn tô bún sao vậy? Tôi không trả lời được. Tôi nhớ gia đình chị người Miên.
KÝ ỨC CÙNG CON LỢN Ỉ
19/02/2008
Hồi còn trẻ con, tôi ghét nhất là những người thịt gà, ghét bởi sợ người ta thịt mất con Hoa Mơ oai vệ của tôi. Lớn thêm một chút, tôi lại thích người ta thịt lợn, thích bởi vì lát nữa sẽ có quả bồ dục nấu cháo, người lớn có bát tiết canh ăn.
Thế mà có lần tôi thương mẹ tôi quá, vì bà đã khóc khi bán đi chú lợn Ỉ chưa đến ngày xuất chuồng để lấy tiền chăm tôi trong cơn bệnh hoạn. Mẹ bảo mẹ già mới sinh con, nên con hay đau ốm, khoé mắt của người đàn bà tuổi trạc năm mươi tiếc chú lợn lắm nhưng cứ cắn răng chịu, chẳng than vãn điều gì.
Cái tuổi thơ quặt quẹo ấy đã qua đi, đất nước cũng đã đổi thay. Cái bánh chưng ngày Tết giờ tú ụ thịt. Vậy mà tôi vẫn không quên được con lợn Ỉ, nhớ tiếng sục cám eng éc đầu chuồng.
Con lợn Ỉ đối với tôi thì như thế, còn với người đời thì giờ phải để ý lắm mới thấy được dấu tích của nó.
Nhớ ông tôi kể ngày xưa, làm trai phải có nghĩa vụ nuôi lợn Ỉ. Công lao này được tính trong hai năm, cuối cùng để dâng vào Lễ Chạp.
Thịt lợn Ỉ xưa quý lắm, có nơi được dân muối ăn dần, cất quanh nhà như bảo bối truyền đời. Họ giữ bởi sểnh ra là đến kỳ đói, phải lấy nếp Tích cốc phòng cơ vậy.
Bà tôi rán Tàn Quyển, nhất quyết là phải đợi cho kỳ được mẻ mỡ đầu của con lợn Ỉ, phải là lợn Ỉ mới ngon, mới thơm và ý nhị. Đến làm bánh, bà cũng phải chọn mỡ lợn Ỉ, rán lấy nước trong. Tôi không biết mỡ lợn Ỉ thế nào nhưng rõ ràng món rau xào của bà lúc nào cũng ngon tuyệt, mẹ tôi cứ nói đùa là nhờ chú Ỉ trong chuồng.
Ngó quanh ngó quẩn đến ngày nay, chỉ thấy cái hình dáng béo tròn, mắt híp qua tranh dân gian bằng giấy. Đàn lợn ấm no sung túc kiểu nhà Ỉ cứ ít dần. Nghe đâu chỉ còn có một vùng còn nuôi lợn Ỉ là Thanh Hóa. Chúng không còn được ưu ái vì hiệu quả kinh tế không cao. Bán một tá lợn không đủ cho con ăn học. Sách đỏ đã liệt chúng vào những loài có nguy cơ bị tuyệt chủng.
Vừa rồi đọc sách cứ thấy ngáo ngơ khi nghe thấy nào là Ỉ mỡ, Ỉ pha, Sống bương,... những từ chuyên môn như sắp thành một bề trầm tích. Lũ trẻ con thì mù tịt, chỉ thấy từ Ỉ trong cuốn sách Tập Đọc mà thôi. Chúng có biết đâu rằng, cha ông đã có thời đem lợn Ỉ ra thờ, ra rước (Ví như Hội rước Lợn Ỉ và đuổi Cuốc ở làng Trà Xuyên, Khúc Xuyên, Yên Phong, Bắc Ninh).
Tết vừa rồi, có họ hàng từ Lạng Sơn gửi xuống cho một túi thịt lợn Ỉ, mới biết rằng lại có thêm một địa chỉ vàng, ăn miếng thịt kho giòn ngọt, lòng vui như mở cờ rong hội
TẾT TRONG KÝ ỨC
Đăng ngày: 03:58 22-01-2012
Thư mục: Tổng hợp
Hồi Mõ tui còn đi lính, thời chiến khó khăn, chở được con heo từ hậu phương ra mặt trận cho bộ đội ăn tết tươm tươm một tý thay vì cả năm chén thịt lợn hộp, cá hộp và nhiều khi cả tháng xài rau rừng mắm kem, cánh lái xe phải đổi bằng máu và hậu cần phải lo trước ba bốn tháng. Nói vậy để biết thịt lợn tươi ở chiến trường rất là quý hiếm.
Tết Ất Mão năm 1975, mình nhớ thế, vì năm ấy ăn tết xong là đánh nhau liên hồi kỳ trận cho đến lúc quân ông Thiệu vỡ trận chạy dài. Đơn vị mình đươc cấp một con lợn khoảng 70 cân. Chú lợn Móng Cái này hành quân trên 700km từ miền Bắc vào nhưng vẫn giữ nguyên vẻ béo tốt đẫy đà. Anh P, chính trị viên phó Tiẻu đoàn nhìn con lợn bước xuống từ sàn ô tô qua tấm ván kê nghiêng, phán:
- Con nợn lày cỗ nòng ngon nắm!
Đơn vị đông nhưng một số đi chuẩn bị chiến trường, một số đi khiêng gạo vác đạn, mình được phân công sáng ba mươi tết xuống bếp giúp nuôi quân mổ lợn, gói bánh chưng.
Ba mươi tết năm ấy mưa rừng rả rích, rét buốt căm căm. Con lợn được mổ ngay bên suối, thịt mang về trước. Còn bộ lòng thì các đồng chí có thâm niên nuôi quân " nhường" mình ở lại "giải quyết hậu quả". Cha sinh mẹ đẻ mình chưa từng biết làm món này...Nhìn một đám lòng ruột lều phều trên mặt nước, mình rất bí không biết bắt đầu như thế nào. Suy nghĩ một hồi mình lấy dao găm cắt lấy tim gan còn lại ném ra giữa dòng...cho nó về xuôi.
Mình vừa vào bếp, anh Thảo người dân tộc Mường, tổ trưởng nuôi quân hỏi ngay: thế ruột non ruột già và dạ dày đâu cả rồi? Mình bảo đã thả trôi sông. Anh lật đật chạy ra bờ sông cỡi áo quần nhào xuống nước bơi theo bộ lòng tạp đang nổi lập lờ ở phía hạ lưu, vớt lên.
Anh làm sạch, mình đứng nhìn, làm xong anh buông một câu mà mình nhớ mãi:
- Cậu rất thiếu trách nhiệm với anh em!
*
Đến đêm 30 tết, nhiệm vụ trông nồi bánh chưng và nồi thịt đông được giao cho các phiên gác. Ca nào gác xong hết phiên phải bàn giao trách nhiệm đun nấu cho ca tiếp theo cho đến sáng khi anh nuôi thức dậy. Các ca gác đều hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Riêng nồi thịt đông thì đến sáng khi anh nuôi kiểm tra thì bổng nhiên nó vừa mặn vừa có mùi khai khai rất dễ sợ.
Thì ra, trong quá trình làm nhiệm vụ, các chiến sỹ nhà ta đã ...phát huy tốt tinh thần chủ động trong công tác, đến phiên gác của mình là tự giác thò tay vào bịch muối trên đầu bếp bốc một nắm cho vào nồi thịt...cho thấm, việc này lại không được bàn giao. Thành ra cứ một giờ là nồi thịt lại được gia cố thêm một nắm muối nên đến sáng nồi thịt đông mặn chát. Còn cái mùi khai khai thì đó chính là mùi phân đạm Urê. Ngày ấy bộ đội vào chiến trường cũng mang theo phân đạm để tăng gia sản xuất tự túc rau ăn tại ví trí đóng quân. ( Cứ trồng chăm sóc nếu di chuyển thì đơn vị khác đến thu hoạch) Urê và muối đều để gần nhau trên đầu bếp chống ẩm nên có đồng chí gác nhầm đùm u rê là muối nên bốc bỏ vào nồi thịt.
Sáng mồng một tết, chuyện nồi thịt đông lan ra cả đơn vị, đúng là vừa buồn vừa cười. Mình bảo anh Thảo:
- Lính ta chỉ biết nấu không biết nếm anh nhỉ
Món “thịt heo leo cây”
Nhớ thuở nhỏ xóm tôi nghèo lắm, trong đó có gia đình tôi! Cứ mỗi bữa ăn hầu như nhà nào cũng bày biện món "thịt heo leo cây" dùng với cơm. Đây là một món ăn tuy quen nhưng lạ. Lạ là ở cái tên gọi chỉ có độc quyền ở xóm tôi, còn nguyên liệu chính để chế biến món ăn này thì hầu như ai cũng biết (nhất là dân Đồng Khởi - xứ dừa).
Thịt heo leo cây - cái tên nghe ngồ ngộ mà tôi cũng không rõ nó bắt nguồn từ đâu và ai là người đầu tiên đã "phát minh". Chỉ biết đây là món ăn dân dã được làm từ cơm dừa kho với nước mắm.
Mẹ tôi giải thích sở dĩ người dân quê tôi gọi cái tên này là để bộc lộ niềm khát khao được ăn ngon và đánh tan đi cái đói nghèo đeo đẳng. Mà cũng thật tình cờ, nếu đem cơm dừa kho khô bằng nước màu thì khi đã khô sền sệt, nó cũng có cái màu vàng đặc trưng giống như thịt heo kho khô vậy. Nếu không nhìn kỹ có thể bạn cũng sẽ bị nhầm lẫn.
Công thức để làm món "thịt heo leo cây" rất dễ, không cầu kỳ nhưng lại mang hồn quê của người dân Đồng Khởi. Trước tiên bạn mua trái dừa (có cơm không cứng quá, cũng không mềm quá) đem về đập ra, rồi cạy cơm dừa bằng chiếc đũa bếp tre. Khi cơm dừa được tách khỏi lớp vỏ, bạn đem thái thành từng miếng với những hình dạng khác nhau tùy ý thích. Đem phần cơm dừa vừa thái để vào chiếc nồi đất, cho một chút nước mắm, đường, bột ngọt và nước màu (làm từ nước dừa) vào trộn đều.
Bạn có thể thêm hoặc bớt tùy khẩu vị. Sau đó đem món "thịt heo leo cây" vừa sơ chế bắc lên bếp và đun lửa liu riu. Khi món ăn đã sôi, bạn thêm vào một ít nước dừa, chút tiêu, hành phi hoặc tỏi phi đã làm sẵn. Tiếp tục đun lửa cho đến khi khô sền sệt thì tắt bếp, rồi bê nồi thức ăn xuống và có thể dùng được.
Bạn cứ dùng tự nhiên trong chiếc nồi đất mà không cần phải gắp ra đĩa. Bởi chiếc nồi đất sẽ làm nhiệm vụ giữ cho món "thịt heo leo cây" luôn nóng, tạo cảm giác ngon miệng hơn trong khi dùng cơm. Ngoài ra, món này có thể dùng với rau sống, dưa leo hay rau luộc đi kèm cũng rất ngon.
Tuy đây không phải là món ăn cao lương mỹ vị nhưng hãy một lần nếm thử để cảm nhận vị béo ngậy của cơm dừa, vị ngọt đặc trưng của nước dừa khi quánh lại, mùi thơm lâng lâng của hành phi, tiêu và vị đậm đà của món ăn khi kho bằng nồi đất.
Giờ xa quê hương Đồng Khởi, tiếp thu những món ăn lạ từ mọi miền đất nước, mọi quốc gia, tôi không còn được ăn món "thịt heo leo cây" do chính tay mẹ nấu như xưa. Nhưng thỉnh thoảng về quê mẹ vẫn hay nấu món ăn này cho ăn theo yêu cầu của tôi. Tuy đã được nếm những sơn hào hải vị, nhưng khi ăn lại "thịt heo leo cây" tôi vẫn cảm thấy ngon miệng và đậm đà như xưa. Mẹ bảo: "Giờ thành đạt rồi, ăn chi mấy món quê mùa vậy con?". Tôi cười tự hào nói: "Đó là món ăn của quê hương mình mà mẹ! Vả lại con muốn sống lại những ký ức tươi đẹp của thuở thiếu thời!". Ký ức ba miền đất “Tây” của Việt Nam (P2): Miền Tây nước lớn
Theo afamily.vn - 4 tháng trước
Trong ba miền “Tây” trong tôi thì Tây Nam Bộ để lại ấn tượng với sông nước mênh mông và những cánh đồng thẳng cánh cò bay. Cũng chỉ biết nói “mênh mông” để tả về tình người nơi đây.
Bạn đã về miền Tây chưa? Nếu bạn có ý định khám phá mảnh đất này, bạn hãy chọn những miền quê thật xa xôi, nghèo khó nhé. Vì nếu ở thị trấn, hay trung tâm tỉnh lỵ bạn sẽ hối tiếc vì không thể thấy cái chất rất “sông nước” của đất và người miền Tây.
Lần đầu tiên tôi về miền sông nước là vào những ngày mưa dầm mưa dề, mưa xối xả, mưa đến bạc cả đầu. Mặc dù đã tưởng tượng trước, nhưng sự dày đặc của sông, của rạch nơi đây đã gây một ấn tượng mạnh cho tôi.
Tôi ở trong một gia đình“địa chủ” tương đối giàu có trong cái xóm nghèo xơ nghèo xác, nghèo như không thể còn nghèo hơn được nữa. Địa chủ ngày xưa bốc lột nông dân bằng thuế, bằng chính sức lao động; địa chủ ngày nay thì bốc lột qua một hình thức rất… dễ thương “cho vay phát triển kinh tế gia đình”. Với lãi suất “khiêm tốn”: 30%.
Trong gần 10 ngày ở tỉnh Long An, chúng tôi ngồi nhà hết 9 ngày. Vì đi đâu cũng thấy mưa và nước. Người ta ca vọng cổ: miền Tây gạo trắng nước trong là đây. Trong 9 ngày đó, ăn cơm chỉ độc 3 món: cá đồng, thịt heo (lợn) khô và chuột.
Về
Cá đồng nhiều khỏi nói. Thịt heo khô thì cả bao lớn treo nóc bếp, người ta để dành cho những mùa nước lũ. Chỉ có món chuột là mới lạ một chút. Những hôm đi bắt chuột, mấy anh em lõm bõm xách bao lên những nơi rìa nước, chuột lóc nhóc, bì bõm. Người cũng chẳng hơn. Chuột ở đây nhiều vô kể. Ngồi trong nhà, với chai rượu đế thơm nồng, với món chuột nướng cháy lèo xèo trên bếp chúng tôi phần nào cảm nhận cái thú vị của cuộc sống nơi đây.
Mà người miền Tây thật lạ, nghèo đó, đói đó, mưa gió thất nghiệp đó nhưng họ vẫn lạc quan, vẫn khề khà bên ly rượu, vẫn thả hồn theo những bài vọng cổ thống thiết, dạt dào tình cảm.
Chính cái thú vị này đã lôi kéo tôi trở lại miền Tây những lần tiếp theo đó. Lần về Cần Thơ với những đêm ngồi đồng ở một quán vừa lai sàn nhảy vừa lai cà phê vườn. Cái quán đó tôi gọi là “sàn nhảy chân đất”. Lần đầu tiên thấy một sàn nhảy không có tường cách âm, mặt sàn chẳng khác nào một võ đài đấm bốc ở Âu Châu.
Lần về Trà Vinh thì thấm thía cái “đô nhậu” của con gái miền sông nước này. Cô gái da trắng như lòng trắng trứng gà, hai mắt lúng liếng như ruột ốc bươu, giọng nói thì thấm vào lòng người như nồi lẩu mắm mà lại nhậu đánh đổ cả những gã đàn ông xứ lạ.
Nhưng nhớ nhất là những kỷ niệm về Măng – thít, Vĩnh Long. Nhớ những đêm chạy xuồng máy đi xem đoàn“pê đê” tổ chức hát cho nhau nghe. Ở đây, dân pê đê cũng có những hoạt động rất sôi nổi. Họ hát cực hay, cực đi vào lòng người. Nhớ những ngày đi vớt bùn đắp bờ kênh lấm lem, đen nhẻm như dân Phi Châu…
Vậy đó, miền Tây trong tôi đầy ắp những kỷ niệm, thôn dã thôi nhưng thú vị lắm. Đã lâu rồi tôi không còn được nghe giọng nói ngọng ngịu lẫn lộn giữa “r” và “g”, không còn được nghe những bài vọng cổ tự sự, trách móc vu vơ và than thân trách phận của người miền Tây nữa.
Chuyện này xảy ra ngay trong làng Nà Rậm, quê nội tôi, khi bà mới mười chín, đôi mươi. Tôi khuyên mọi người hãy tin người già. Người già thường là một pho sử sống, hay một Bảo tàng thư về văn hóa dân gian. Trước khi viết tôi có tìm đến chị Dậu, cháu họ xa của nhân vật định kể, hỏi lại chuyện người hóa cọp ngày xưa. Chị bảo có đấy. Chuyện khủng khiếp trong dòng họ, chị vẫn nghe các cụ nhắc lại mà.
1- Anh cu Nết đi lính cho Tây, bị điều đi đánh nhau mãi tận xứ mọi rợ da đen, răng trắng nhởn. Ba năm không bị sứt mẻ cái lông chân nào, về nước còn có Bắc đẩu Bội tinh đeo trước ngực.
Khi đi lính cho Tây, anh Nết là lực điền khỏe nhất làng. Mỗi bữa ăn hết đấu gạo cơm, đổi hai cặp trâu, cày bay năm sào ruộng buổi sáng. Da nâu, tóc rễ tre, bắp chân, bắp tay cuồn cuộn như thừng chão, hai mắt sâu con ngươi sáng nhọn, gặp đàn bà con gái nhìn muốn thủng yếm của người ta. Đồn rằng, anh cu Nết lắm trò ranh mãnh. Chợ phiên nào cũng thấy anh lẩn quẩn chỗ đông đàn bà con gái mà không mua bán gì, chỉ lúi húi dòm xuống chân mình. Một lần anh Nết bị tuần đinh tẩn cho một trận, vì cái tội buộc chiếc gương con dưới chân mang vào chợ. Phụ nữ hồi ấy làm gì có quần lót, đánh độc tấm váy đen. Thấy chị nào chổng mông xem hàng là anh Nết xán đến, đưa ngay bàn chân buộc gương xuống dưới váy, tha hồ ngắm …
Khi mãn hạn lính về quê, anh cu Nết biến thành ông Đội Nết, người ngợm cũng khác xưa. Cái lưng hơi còng, khoác bên ngoài chiếc áo ba - đờ -xuy dạ màu cứt ngựa. Quần ka ki vàng, chân dận giày săng - đá, ba toong chống khụng khiệng. Chỉ có đôi mắt sâu là vẫn sáng nhọn, nhìn hau háu vào ngực, mông đám đàn bà con gái. Chị Nết mấy năm ở nhà nuôi bố mẹ chồng và bầy con gà vịt năm đứa. Chồng về cho được bọc tiền, tự nhiên hết khổ, đi đâu cũng toe toét cười như hoa cứt lợn. Chỉ có chuyện ăn nằm với chồng là chị không quen được. Ở vậy mấy năm, nay chồng về hay giở lắm trò ma quỷ đâm ra sợ. Ngày xưa anh cu Nết mỗi khi thích ngủ với vợ, lần mò đôi vú nhão xong là tốc váy vợ lên, hùng hục như trâu cày một trận rồi lăn ra ngủ. Bây giờ Đội Nết mất nết, đòi lột truồng vợ nhồng nhỗng, rồi làm đủ kiểu nhăng nhít, quái quỷ. Vợ cự nự, Đội Nết chửi: “Mẹc sà lù! Gái Tây nó toàn chơi nhau thế đấy, chứ nằm như cây chuối hột thế này à”. “Nhưng mà tôi khiếp lắm. Không quen”. “Chúng ông còn chơi cả mấy con da đen như đít nồi mà không khiếp, thế này ăn thua gì”. Từ hôm ấy chị Nết sợ thật, kéo thằng cu út tám tuổi vào ngủ chung. Chồng đụng tới là giãy giụa, không cho.
2- Trước đây dân làng nể sợ ông Lý trưởng, giờ thêm một người để nể sợ nữa là Đội Nết. Một nước không thể có hai vua, miếu làng không thể có hai thành hoàng. Ông Đội Nết một đêm đi mò gái về khuya, bị hai kẻ lạ mặt phục ngoài đồi Nà Rậm xông ra đánh. Sẵn cây ba toong trong tay và bản lĩnh của người từng vào sống ra chết, Đội Nết nện cho hai tên kia chạy thục mạng. Tuần sau, một đêm ông Lý đi đánh bạc không thấy về, tới sáng người làng đi chợ thấy ông nằm chết cạnh con mương cạn, chân dưới nước, đầu trên bờ. Mấy tờ bạc “trâu xanh” trong người mất hết. Quan lính về điều tra, cho rằng Lý trưởng bị cướp đánh chết.
Từ dạo ấy, đêm nào Đội Nết cũng chống ba toong đi chơi. Chị Nết đồ rằng lão đi kiếm gái, nhưng mặc kệ. Đồ quỷ dâm dục đó đi cả đêm càng hay. Không ai để ý rằng mỗi đêm khuya về đến nhà, Đội Nết người ngợm phờ phạc, ho rũ rượi, có hôm còn nôn mửa mật xanh mật vàng. Chị Nết chỉ liếc con mắt qua. Cho chết! Đồ dê già. Đứa con gái thấy vậy ngạc nhiên hỏi: “Thầy ốm đau thế nào? Sao đận này chỉ còn da bọc xương thế?” Đội Nết giương đôi mắt lờ đờ, khẽ lắc đầu. Mấy ngày sau, ông đi tới mờ đất mới về, quần áo xơ xác, rách mướp. Chị Nết bắt đầu lo lắng, không biết chồng ăn phải bùa bả nơi nào mà mỗi ngày một bệ rạc, chẳng thèm đoái hoài tới vợ. Có lần chị lặng lẽ đi theo chồng, thấy ông lọc cọc chống ba - toong đến khu rừng nứa núi Nà Rậm thì mất hút. Ai ngờ lần ấy Đội Nết bỏ nhà đi hẳn. Mấy mẹ con chị Nết cả tháng thay phiên nhau đi tìm khắp bến sông, bãi chợ. Người sống không thấy về, người chết không thấy xác. Chờ một năm sau, chị Nết quyết định làm giỗ đầu cho chồng, đúng vào ngày ông bỏ đi.
Có người đánh tiếng nhờ mai mối xin cưới con gái lớn. Chị Nết gả ngay. Phận đàn bà góa, giữ con gái lớn trong nhà như giữ hũ mắm thối. Ngày 24 tháng mười âm lịch, cũng là chợ phiên. Nhà giai xin đúng chính giờ Thìn đến rước dâu. Chị Nết dậy từ canh tư, thắp đèn gọi con Gái dậy. Giục con cởi áo ra, chị ướm thử chiếc yếm màu đỏ lên bộ ngực thanh nữ mơn mởn của nó. Con bé rét quá, hai tay ôm ngực rên ư ử như chó con. “Cha tiên nhân cô chứ lại còn ư ử nữa. Lấy chồng thích quá còn làm bộ làm tịch. Sang nhà người ta, chịu khó thức khuya dậy sớm. Phải biết chiều chồng cho chóng có con. Cầu giời, thằng rể nhà này không giống ông bố vợ dê già ngày trước”.
Con Mực theo nằm dưới bụi chuối đầu cổng, sủa oăng oắc. Ngó ra sân, chị Nết thấy đằng đông đã hửng lên như tấm vải lụa hồng pha ráng mỡ gà. “Bà Đội ơi! Bà Đội!”. “Nhà Nết đã dậy chưa? Ối giời ơi! Trời sập đến nơi rồi mà mẹ con nó vẫn bình chân như vại”. Tiếng đàn ông, đàn bà lao nhao ngoài cổng. Tiếng đòn gánh gõ vào cánh cổng tre cành cạch. Chị Nết lật đật chạy ra, tháo then cổng. “Các bà, các ông đi chợ sớm mấy? Có chuyện gì thế ạ?” Lại nhao nhao tiếng nói. Tiếng thì thầm, tiếng sợ sệt làm chị không còn biết việc gì xảy ra ngoài cổng nhà mình. “Ông Đội bảo đun cho nồi ba mươi nước sôi”. “Chồng mày nó hóa cọp rồi…”. “Ông Đội bảo ra ngay, mang cái áo ba-đờ-xuy. Rét lắm…”. Chị Nết sây sẩm mặt mũi, không biết nghe ai. Hình như mấy người đi chợ sớm gặp hồn ma ông Đội, ông ấy đòi hỏi gì mà nước sôi với áo rét? Lạy vong linh ông, sáng nay tôi có làm lễ kính cáo ông việc cho con nó về nhà chồng rồi. Chị còn đang run rẩy bên cổng thì bà Nội dì ruột chị chen vào, đẩy chị sang một bên. “Lóng ngóng mãi. Đâu? Cái nồi đồng ba mươi nhà mày đâu? Tao đặt cho nồi nước. Nhanh lên không bố nó chết rét ngoài rừng nứa”. Mãi chị Nết mới hồi tâm, hiểu rõ chuyện gì đang xảy ra. Người làng đi chợ, ngang qua khu rừng nứa thì có tiếng gọi tên bà Nội: “Dì Nội ơi! Đứng lại con nhờ tí việc”. Tiếng đàn ông ồm ồm như tiếng cọp, văng vẳng như tiếng ma. Trời mờ đất, sương còn dày mặt đất, ai nấy co rúm vì sợ. Tiếng gọi giống tiếng Đội Nết, mà tay này chết ba năm nay rồi. Mấy bà sợ quá, chạy quay về mà ríu chân chạy không nổi. Mấy người đàn ông bạo gan hơn, đốt đuốc cầm đòn gánh đi về mấy bụi nứa có tiếng gọi. “Ai đấy? Ra ngay không chúng ông đập chết bây giờ?” “Tôi đây! Đội Nết đây. Tôi đi mấy năm nay. Nghe tin con gái lấy chồng, xin mãi người ta mới cho về. Các ông các bà làm ơn quay lại bảo mẹ con nhà nó đun cho tôi nồi ba mươi nước sôi, lấy cả cái áo ba - đờ - xuy nữa. Rét quá… Bảo nó ra ngay hộ tôi. Làm ơn, làm phúc”.
Đoàn người rồng rắn như đi xem hội, kéo theo sau mẹ con nhà chị Nết. Nồi nước sôi được khiêng theo cùng chiếc chiếu mới. Ai cũng háo hức xem Đội Nết đi ba năm giờ trở về với thân hình thế nào. Nhưng Đội Nết chỉ cho vợ vào. Chị Nết quây tấm chiếu che quanh bụi nứa, hết sức nhấc nồi ba mươi nước vào. “Mẹ mày quay mặt đi cho tôi tắm một tí. Đừng nhìn”. Chị Nết quay mặt đi, nhưng vẫn liếc mắt vào góc bụi nứa. Chị suýt rú lên khi nhìn thấy một thân người trần truồng bò lồm cồm ra, trên mình loang lổ những đám lông vàng vện như lông cọp. Chồng mình đấy ư? Sao lại như ông ba mươi thế này? Chị ngồi thụp xuống, hai tay che mặt. Bên cạnh là tiếng nước dội khe khẽ, tiếng rên rỉ cố nén lại của chồng. Nước bỏng rãy mà lão ấy múc dội lên người như dội nước sôi làm lông lợn. “Mẹ mày đỡ tôi tí”. Chị ngoảnh lại, thấy một Đội Nết bằng da, bằng thịt, lóm thóm trong chiếc áo dạ màu cứt ngựa, run run một lúc mới đứng lên được. Dưới đất, những đám lông màu vàng dính nước bện lại từng đám, hôi xì.
Buổi đón dâu tiến hành đúng chính giờ Thìn. Đoàn nhà trai ngạc nhiên, há tròn cả hai chục cái mồm ra khi nhìn thấy bố cô dâu chững chạc với chiếc áo dạ xám, tay chống ba toong, đứng trước cửa đón quan viên nhà trai.
3- Đêm đầu tiên gặp ông cọp, chính là đêm Đội Nết sang làng Đa ngủ với cô Hán bán quán thịt chó. Gần sáng, lọ mọ chống ba toong về ngang khúc mương đầu làng, ông thấy một bóng đen nằm bên bờ mương. Trâu bò nhà ai lạc ra đây mà không đi tìm về. Tới gần, ánh trăng đầu tháng nhợt nhạt soi rõ con bò màu hung vàng. Dưới chân nó là một người nằm ngủ. Con bò thỉnh thoảng cúi xuống liếm vào mặt chủ. Đội Nết đứng lại, quát: “Ai dắt bò ra ngủ ở đây?” Không có tiếng trả lời. Bỗng con bò ngẩng đầu nhìn lên, Đội Nết rùng mình thấy hai mắt nó sáng rực như đèn xe hơi. Con bò gầm lên một tiếng “uồm”. Đội Nết thấy ống quần mình nóng ấm vì nước tiểu. Trước mặt ông là con cọp lớn. Ông đứng chết lặng như bức tượng. Con cọp bỏ cái xác người lại, lặng lẽ đi vào rừng. Hôm sau dân làng phát hiện xác lý trưởng nằm bên mương nước.
Đội Nết biết tại sao Lý trưởng chết, nhưng kinh nghiệm của người từng trải bảo lão ngậm miệng lại. Bây giờ lộ miệng ra, chẳng khốn nạn vì quan nha lão chớ làm người. Từ hôm đó, Đội Nết không dám qua lại khúc mương đầu làng. Nhưng rồi có kẻ đi chợ nhắn lời cô Hán thịt chó, trách móc kẻ phụ tình. Đội Nết nhớ tình nhân quá. Nhớ mùi thịt chó nướng thơm ngậy. Nhớ thân hình phốp pháp của cô chủ quán, nhớ cái cách động tình chân tay giãy đùng đùng, miệng rên la như bị chọc tiết của cô Hán. Đội Nết đánh liều chống ba toong sang làng Đa. Tới chỗ Lý trưởng chết hôm nọ, Đội Nết cố lấy dũng khí bước đi. Ma không sợ, người chết không sợ, chỉ sợ ánh mắt sáng rực của ông cọp. Đội Nết giật thót tim, đứng sững lại. Trước mặt lão là đôi mắt sáng lần trước. Nó chiếu vào người Đội Nết như thôi miên. Khi ông cọp quay lưng, vẫy đuôi một cái như ra lệnh, Đội Nết lập tức bước theo, dẫm tràn qua gai góc, cành cây đi vào rừng.
Những đêm đầu, ông cọp dẫn Đội Nết lang thang trong rừng, tập săn mồi. Tuy cọp không nói được nhưng cứ nhìn ánh mắt cọp là Đội Nết hiểu ông muốn bảo mình làm gì. Lần đầu tiên học theo cách vồ mồi của cọp, Đội Nết bắt được một con thằn lằn. “Ăn đi!”. Mắt cọp như ra lệnh. Đội Nết sợ quá nhưng cũng cố cắn một miếng, tanh quá liền nhả ra. Cọp lấy tay tát khẽ một cái vào đầu Nết, rướm máu. Đêm thứ hai bắt được con thỏ què. Cọp xé thịt ăn ngon lành và ra hiệu cho Đội Nết cùng ăn. Thịt thỏ nóng hổi, tanh mùi máu, làm con người nôn mửa. Đội Nết bụng bảo dạ hãy cố ăn một miếng, nếu không ăn, ông cọp giận ăn thịt mình thì hết đời.
Đêm nào cũng theo cọp tập săn mồi, người ngợm Đội Nết gầy rũ, bẩn thỉu. Rồi một lần ông cọp dắt Đội Nết đi xa, đi hai ngày hai đêm liền trong rừng. Mãi sau này Đội Nết mới biết mình sống ở vùng núi Tam Đảo. Lúc này quần áo rách nát hết, đêm lạnh Đội Nết rúc vào nách cọp mà ngủ. Việc săn bắt bây giờ khá hơn nhiều. Thầy trò nhà Nết có khi săn được hươu nai, lợn rừng. Nết bây giờ ăn thịt sống ngon lành, y như trước kia uống rượu thịt chó. Ký ức về gia đình, vợ con không còn gì. Hàng ngày lang thang trong rừng sâu, ngắm cảnh non xanh nước biếc, con “người thú” cảm thấy cuộc đời tự tại, ung dung thật đáng yêu.
Mấy ngày trước, tự dưng “sư phụ” cọp bảo “đệ tử” hãy về nhà ngay mà lo việc đại sự cho vợ con. Nhìn lại thân mình mọc đầy lông lá, lại quên không biết đường về, “người thú” lắc đầu không chịu. Cọp giơ bàn tay phải định vả cho “đệ tử” một cái, xong lại thôi. Ngoắc cái đuôi, ông cọp bảo Nết hãy đi theo mình. Hai đêm sau, cọp đưa Đội Nết về đến rừng nứa Nà Rậm.
Chuyện hóa thành cọp sau này Đội Nết chỉ dám kể với vợ. Ông dặn vợ đừng rỉ chuyện ra ngoài, nguy hiểm. Chị Nết cũng sợ, không dám hé miệng. Có điều từ ngày trở về, chồng chị hiền lành, chăm chỉ không rượu chè, dâm dục như trước. Ông Đội Nết suốt ngày quanh quẩn trong nhà ngoài vườn nhặt củi, nhổ cỏ. Vẫn chống ba toong khụng khiệng, vẫn áo ba - đờ - xuy màu cứt ngựa, nhưng có ai hỏi chuyện thời đi lính đánh nhau bên Tây, ông ngẩn người, lắc đầu. Có nhớ gì đâu các bác
Chuyện này xảy ra ngay trong làng Nà Rậm, quê nội tôi, khi bà mới mười chín, đôi mươi. Tôi khuyên mọi người hãy tin người già. Người già thường là một pho sử sống, hay một Bảo tàng thư về văn hóa dân gian. Trước khi viết tôi có tìm đến chị Dậu, cháu họ xa của nhân vật định kể, hỏi lại chuyện người hóa cọp ngày xưa. Chị bảo có đấy. Chuyện khủng khiếp trong dòng họ, chị vẫn nghe các cụ nhắc lại mà.
1- Anh cu Nết đi lính cho Tây, bị điều đi đánh nhau mãi tận xứ mọi rợ da đen, răng trắng nhởn. Ba năm không bị sứt mẻ cái lông chân nào, về nước còn có Bắc đẩu Bội tinh đeo trước ngực.
Khi đi lính cho Tây, anh Nết là lực điền khỏe nhất làng. Mỗi bữa ăn hết đấu gạo cơm, đổi hai cặp trâu, cày bay năm sào ruộng buổi sáng. Da nâu, tóc rễ tre, bắp chân, bắp tay cuồn cuộn như thừng chão, hai mắt sâu con ngươi sáng nhọn, gặp đàn bà con gái nhìn muốn thủng yếm của người ta. Đồn rằng, anh cu Nết lắm trò ranh mãnh. Chợ phiên nào cũng thấy anh lẩn quẩn chỗ đông đàn bà con gái mà không mua bán gì, chỉ lúi húi dòm xuống chân mình. Một lần anh Nết bị tuần đinh tẩn cho một trận, vì cái tội buộc chiếc gương con dưới chân mang vào chợ. Phụ nữ hồi ấy làm gì có quần lót, đánh độc tấm váy đen. Thấy chị nào chổng mông xem hàng là anh Nết xán đến, đưa ngay bàn chân buộc gương xuống dưới váy, tha hồ ngắm …
Khi mãn hạn lính về quê, anh cu Nết biến thành ông Đội Nết, người ngợm cũng khác xưa. Cái lưng hơi còng, khoác bên ngoài chiếc áo ba - đờ -xuy dạ màu cứt ngựa. Quần ka ki vàng, chân dận giày săng - đá, ba toong chống khụng khiệng. Chỉ có đôi mắt sâu là vẫn sáng nhọn, nhìn hau háu vào ngực, mông đám đàn bà con gái. Chị Nết mấy năm ở nhà nuôi bố mẹ chồng và bầy con gà vịt năm đứa. Chồng về cho được bọc tiền, tự nhiên hết khổ, đi đâu cũng toe toét cười như hoa cứt lợn. Chỉ có chuyện ăn nằm với chồng là chị không quen được. Ở vậy mấy năm, nay chồng về hay giở lắm trò ma quỷ đâm ra sợ. Ngày xưa anh cu Nết mỗi khi thích ngủ với vợ, lần mò đôi vú nhão xong là tốc váy vợ lên, hùng hục như trâu cày một trận rồi lăn ra ngủ. Bây giờ Đội Nết mất nết, đòi lột truồng vợ nhồng nhỗng, rồi làm đủ kiểu nhăng nhít, quái quỷ. Vợ cự nự, Đội Nết chửi: “Mẹc sà lù! Gái Tây nó toàn chơi nhau thế đấy, chứ nằm như cây chuối hột thế này à”. “Nhưng mà tôi khiếp lắm. Không quen”. “Chúng ông còn chơi cả mấy con da đen như đít nồi mà không khiếp, thế này ăn thua gì”. Từ hôm ấy chị Nết sợ thật, kéo thằng cu út tám tuổi vào ngủ chung. Chồng đụng tới là giãy giụa, không cho.
2- Trước đây dân làng nể sợ ông Lý trưởng, giờ thêm một người để nể sợ nữa là Đội Nết. Một nước không thể có hai vua, miếu làng không thể có hai thành hoàng. Ông Đội Nết một đêm đi mò gái về khuya, bị hai kẻ lạ mặt phục ngoài đồi Nà Rậm xông ra đánh. Sẵn cây ba toong trong tay và bản lĩnh của người từng vào sống ra chết, Đội Nết nện cho hai tên kia chạy thục mạng. Tuần sau, một đêm ông Lý đi đánh bạc không thấy về, tới sáng người làng đi chợ thấy ông nằm chết cạnh con mương cạn, chân dưới nước, đầu trên bờ. Mấy tờ bạc “trâu xanh” trong người mất hết. Quan lính về điều tra, cho rằng Lý trưởng bị cướp đánh chết.
Từ dạo ấy, đêm nào Đội Nết cũng chống ba toong đi chơi. Chị Nết đồ rằng lão đi kiếm gái, nhưng mặc kệ. Đồ quỷ dâm dục đó đi cả đêm càng hay. Không ai để ý rằng mỗi đêm khuya về đến nhà, Đội Nết người ngợm phờ phạc, ho rũ rượi, có hôm còn nôn mửa mật xanh mật vàng. Chị Nết chỉ liếc con mắt qua. Cho chết! Đồ dê già. Đứa con gái thấy vậy ngạc nhiên hỏi: “Thầy ốm đau thế nào? Sao đận này chỉ còn da bọc xương thế?” Đội Nết giương đôi mắt lờ đờ, khẽ lắc đầu. Mấy ngày sau, ông đi tới mờ đất mới về, quần áo xơ xác, rách mướp. Chị Nết bắt đầu lo lắng, không biết chồng ăn phải bùa bả nơi nào mà mỗi ngày một bệ rạc, chẳng thèm đoái hoài tới vợ. Có lần chị lặng lẽ đi theo chồng, thấy ông lọc cọc chống ba - toong đến khu rừng nứa núi Nà Rậm thì mất hút. Ai ngờ lần ấy Đội Nết bỏ nhà đi hẳn. Mấy mẹ con chị Nết cả tháng thay phiên nhau đi tìm khắp bến sông, bãi chợ. Người sống không thấy về, người chết không thấy xác. Chờ một năm sau, chị Nết quyết định làm giỗ đầu cho chồng, đúng vào ngày ông bỏ đi.
Có người đánh tiếng nhờ mai mối xin cưới con gái lớn. Chị Nết gả ngay. Phận đàn bà góa, giữ con gái lớn trong nhà như giữ hũ mắm thối. Ngày 24 tháng mười âm lịch, cũng là chợ phiên. Nhà giai xin đúng chính giờ Thìn đến rước dâu. Chị Nết dậy từ canh tư, thắp đèn gọi con Gái dậy. Giục con cởi áo ra, chị ướm thử chiếc yếm màu đỏ lên bộ ngực thanh nữ mơn mởn của nó. Con bé rét quá, hai tay ôm ngực rên ư ử như chó con. “Cha tiên nhân cô chứ lại còn ư ử nữa. Lấy chồng thích quá còn làm bộ làm tịch. Sang nhà người ta, chịu khó thức khuya dậy sớm. Phải biết chiều chồng cho chóng có con. Cầu giời, thằng rể nhà này không giống ông bố vợ dê già ngày trước”.
Con Mực theo nằm dưới bụi chuối đầu cổng, sủa oăng oắc. Ngó ra sân, chị Nết thấy đằng đông đã hửng lên như tấm vải lụa hồng pha ráng mỡ gà. “Bà Đội ơi! Bà Đội!”. “Nhà Nết đã dậy chưa? Ối giời ơi! Trời sập đến nơi rồi mà mẹ con nó vẫn bình chân như vại”. Tiếng đàn ông, đàn bà lao nhao ngoài cổng. Tiếng đòn gánh gõ vào cánh cổng tre cành cạch. Chị Nết lật đật chạy ra, tháo then cổng. “Các bà, các ông đi chợ sớm mấy? Có chuyện gì thế ạ?” Lại nhao nhao tiếng nói. Tiếng thì thầm, tiếng sợ sệt làm chị không còn biết việc gì xảy ra ngoài cổng nhà mình. “Ông Đội bảo đun cho nồi ba mươi nước sôi”. “Chồng mày nó hóa cọp rồi…”. “Ông Đội bảo ra ngay, mang cái áo ba-đờ-xuy. Rét lắm…”. Chị Nết sây sẩm mặt mũi, không biết nghe ai. Hình như mấy người đi chợ sớm gặp hồn ma ông Đội, ông ấy đòi hỏi gì mà nước sôi với áo rét? Lạy vong linh ông, sáng nay tôi có làm lễ kính cáo ông việc cho con nó về nhà chồng rồi. Chị còn đang run rẩy bên cổng thì bà Nội dì ruột chị chen vào, đẩy chị sang một bên. “Lóng ngóng mãi. Đâu? Cái nồi đồng ba mươi nhà mày đâu? Tao đặt cho nồi nước. Nhanh lên không bố nó chết rét ngoài rừng nứa”. Mãi chị Nết mới hồi tâm, hiểu rõ chuyện gì đang xảy ra. Người làng đi chợ, ngang qua khu rừng nứa thì có tiếng gọi tên bà Nội: “Dì Nội ơi! Đứng lại con nhờ tí việc”. Tiếng đàn ông ồm ồm như tiếng cọp, văng vẳng như tiếng ma. Trời mờ đất, sương còn dày mặt đất, ai nấy co rúm vì sợ. Tiếng gọi giống tiếng Đội Nết, mà tay này chết ba năm nay rồi. Mấy bà sợ quá, chạy quay về mà ríu chân chạy không nổi. Mấy người đàn ông bạo gan hơn, đốt đuốc cầm đòn gánh đi về mấy bụi nứa có tiếng gọi. “Ai đấy? Ra ngay không chúng ông đập chết bây giờ?” “Tôi đây! Đội Nết đây. Tôi đi mấy năm nay. Nghe tin con gái lấy chồng, xin mãi người ta mới cho về. Các ông các bà làm ơn quay lại bảo mẹ con nhà nó đun cho tôi nồi ba mươi nước sôi, lấy cả cái áo ba - đờ - xuy nữa. Rét quá… Bảo nó ra ngay hộ tôi. Làm ơn, làm phúc”.
Đoàn người rồng rắn như đi xem hội, kéo theo sau mẹ con nhà chị Nết. Nồi nước sôi được khiêng theo cùng chiếc chiếu mới. Ai cũng háo hức xem Đội Nết đi ba năm giờ trở về với thân hình thế nào. Nhưng Đội Nết chỉ cho vợ vào. Chị Nết quây tấm chiếu che quanh bụi nứa, hết sức nhấc nồi ba mươi nước vào. “Mẹ mày quay mặt đi cho tôi tắm một tí. Đừng nhìn”. Chị Nết quay mặt đi, nhưng vẫn liếc mắt vào góc bụi nứa. Chị suýt rú lên khi nhìn thấy một thân người trần truồng bò lồm cồm ra, trên mình loang lổ những đám lông vàng vện như lông cọp. Chồng mình đấy ư? Sao lại như ông ba mươi thế này? Chị ngồi thụp xuống, hai tay che mặt. Bên cạnh là tiếng nước dội khe khẽ, tiếng rên rỉ cố nén lại của chồng. Nước bỏng rãy mà lão ấy múc dội lên người như dội nước sôi làm lông lợn. “Mẹ mày đỡ tôi tí”. Chị ngoảnh lại, thấy một Đội Nết bằng da, bằng thịt, lóm thóm trong chiếc áo dạ màu cứt ngựa, run run một lúc mới đứng lên được. Dưới đất, những đám lông màu vàng dính nước bện lại từng đám, hôi xì.
Buổi đón dâu tiến hành đúng chính giờ Thìn. Đoàn nhà trai ngạc nhiên, há tròn cả hai chục cái mồm ra khi nhìn thấy bố cô dâu chững chạc với chiếc áo dạ xám, tay chống ba toong, đứng trước cửa đón quan viên nhà trai.
3- Đêm đầu tiên gặp ông cọp, chính là đêm Đội Nết sang làng Đa ngủ với cô Hán bán quán thịt chó. Gần sáng, lọ mọ chống ba toong về ngang khúc mương đầu làng, ông thấy một bóng đen nằm bên bờ mương. Trâu bò nhà ai lạc ra đây mà không đi tìm về. Tới gần, ánh trăng đầu tháng nhợt nhạt soi rõ con bò màu hung vàng. Dưới chân nó là một người nằm ngủ. Con bò thỉnh thoảng cúi xuống liếm vào mặt chủ. Đội Nết đứng lại, quát: “Ai dắt bò ra ngủ ở đây?” Không có tiếng trả lời. Bỗng con bò ngẩng đầu nhìn lên, Đội Nết rùng mình thấy hai mắt nó sáng rực như đèn xe hơi. Con bò gầm lên một tiếng “uồm”. Đội Nết thấy ống quần mình nóng ấm vì nước tiểu. Trước mặt ông là con cọp lớn. Ông đứng chết lặng như bức tượng. Con cọp bỏ cái xác người lại, lặng lẽ đi vào rừng. Hôm sau dân làng phát hiện xác lý trưởng nằm bên mương nước.
Đội Nết biết tại sao Lý trưởng chết, nhưng kinh nghiệm của người từng trải bảo lão ngậm miệng lại. Bây giờ lộ miệng ra, chẳng khốn nạn vì quan nha lão chớ làm người. Từ hôm đó, Đội Nết không dám qua lại khúc mương đầu làng. Nhưng rồi có kẻ đi chợ nhắn lời cô Hán thịt chó, trách móc kẻ phụ tình. Đội Nết nhớ tình nhân quá. Nhớ mùi thịt chó nướng thơm ngậy. Nhớ thân hình phốp pháp của cô chủ quán, nhớ cái cách động tình chân tay giãy đùng đùng, miệng rên la như bị chọc tiết của cô Hán. Đội Nết đánh liều chống ba toong sang làng Đa. Tới chỗ Lý trưởng chết hôm nọ, Đội Nết cố lấy dũng khí bước đi. Ma không sợ, người chết không sợ, chỉ sợ ánh mắt sáng rực của ông cọp. Đội Nết giật thót tim, đứng sững lại. Trước mặt lão là đôi mắt sáng lần trước. Nó chiếu vào người Đội Nết như thôi miên. Khi ông cọp quay lưng, vẫy đuôi một cái như ra lệnh, Đội Nết lập tức bước theo, dẫm tràn qua gai góc, cành cây đi vào rừng.
Những đêm đầu, ông cọp dẫn Đội Nết lang thang trong rừng, tập săn mồi. Tuy cọp không nói được nhưng cứ nhìn ánh mắt cọp là Đội Nết hiểu ông muốn bảo mình làm gì. Lần đầu tiên học theo cách vồ mồi của cọp, Đội Nết bắt được một con thằn lằn. “Ăn đi!”. Mắt cọp như ra lệnh. Đội Nết sợ quá nhưng cũng cố cắn một miếng, tanh quá liền nhả ra. Cọp lấy tay tát khẽ một cái vào đầu Nết, rướm máu. Đêm thứ hai bắt được con thỏ què. Cọp xé thịt ăn ngon lành và ra hiệu cho Đội Nết cùng ăn. Thịt thỏ nóng hổi, tanh mùi máu, làm con người nôn mửa. Đội Nết bụng bảo dạ hãy cố ăn một miếng, nếu không ăn, ông cọp giận ăn thịt mình thì hết đời.
Đêm nào cũng theo cọp tập săn mồi, người ngợm Đội Nết gầy rũ, bẩn thỉu. Rồi một lần ông cọp dắt Đội Nết đi xa, đi hai ngày hai đêm liền trong rừng. Mãi sau này Đội Nết mới biết mình sống ở vùng núi Tam Đảo. Lúc này quần áo rách nát hết, đêm lạnh Đội Nết rúc vào nách cọp mà ngủ. Việc săn bắt bây giờ khá hơn nhiều. Thầy trò nhà Nết có khi săn được hươu nai, lợn rừng. Nết bây giờ ăn thịt sống ngon lành, y như trước kia uống rượu thịt chó. Ký ức về gia đình, vợ con không còn gì. Hàng ngày lang thang trong rừng sâu, ngắm cảnh non xanh nước biếc, con “người thú” cảm thấy cuộc đời tự tại, ung dung thật đáng yêu.
Mấy ngày trước, tự dưng “sư phụ” cọp bảo “đệ tử” hãy về nhà ngay mà lo việc đại sự cho vợ con. Nhìn lại thân mình mọc đầy lông lá, lại quên không biết đường về, “người thú” lắc đầu không chịu. Cọp giơ bàn tay phải định vả cho “đệ tử” một cái, xong lại thôi. Ngoắc cái đuôi, ông cọp bảo Nết hãy đi theo mình. Hai đêm sau, cọp đưa Đội Nết về đến rừng nứa Nà Rậm.
Chuyện hóa thành cọp sau này Đội Nết chỉ dám kể với vợ. Ông dặn vợ đừng rỉ chuyện ra ngoài, nguy hiểm. Chị Nết cũng sợ, không dám hé miệng. Có điều từ ngày trở về, chồng chị hiền lành, chăm chỉ không rượu chè, dâm dục như trước. Ông Đội Nết suốt ngày quanh quẩn trong nhà ngoài vườn nhặt củi, nhổ cỏ. Vẫn chống ba toong khụng khiệng, vẫn áo ba - đờ - xuy màu cứt ngựa, nhưng có ai hỏi chuyện thời đi lính đánh nhau bên Tây, ông ngẩn người, lắc đầu. Có nhớ gì đâu các bác
Thịt Chó Quảng Bá
VŨ HỮU TRÁC
Hồi bé, nhớ lần cơn gió bấc đầu thu lành lạnh se se tràn về, bỗng dưng bố tôi gọi mẹ lại bảo. Thì ra là đi mời hai ông chú ở nhà bên sang nhà uống nước chè, nhân tiện bố phân công mẹ ra mua cái gì về để cùng anh em hội ngộ. Hai ông chú em ruột bố ở cách nhau một cái ngõ và cái ao. Nhưng tôi đã đoán ra được việc ấy là gì rồi, tất nhiên là phải từ nguyên do chuẩn bị cho việc hệ trọng là sắp cúng giỗ các cụ. Khoái quá, nhưng cũng từ lúc mẹ đi ra đầu đường chỗ hàng thịt chó thì tôi không khỏi sốt ruột như có lửa đốt bên trong, chẳng là nhà tôi ở ngay thị trấn Vân đình vốn nổi tiếng về môn ẩm thực, rất giỏi nấu các món ăn về thịt chó, vịt cỏ, hay món bánh cuốn mỏng tang, ăn với chả nướng.
Thấy loáng mẹ về, cắp theo cái một rổ to phủ trên bằng tàu lá chuối tươi, chao ôi tôi và ông anh trai cứ trố mắt. Những thứ ao ước bao lần đi học về, lúc đói mềm, muốn đi thật nhanh về nhà còn lục cơm nguội. Ấy thế mà cứ phải chạy nín thở qua cái hàng thịt chó, vì mùi chả chó nướng than hồng cứ phả vào mũi, làm nước dãi cứ chảy tong tong, xấu hổ thật.
Nhìn thấy mẹ mở ra, lần lượt bày lên mâm nào là những đĩa thịt hấp dẻo thái mỏng tang mà to như nửa bàn tay, nào là chả nướng dính chút mỡ vàng óng dính quanh miếng chả và lan cả ra đĩa, bên trên rắc riềng rang giã nhỏ thơm lừng, Có cả đĩa dồi nướng cũng vàng rộm. Nào là bát đầy nhựa mận ninh mềm nâu nâu sột sệt, cả bát nước xương hầm ninh măng củ, chua chua thái dọc, ngon ơi là ngon. Thế là hai anh em cứ rối rít lên chạy vòng quanh chờ mẹ sai bảo. Đứa lấy cái bát đôi đũa, cái đĩa để chanh ớt tươi, lấy cái bát con để pha mắm tôm với chút đường trắng, vắt chanh đánh ngầu bọt thơm lừng. Đứa đưa cái cái đĩa dựng những củ xả với rau lá mơ, rau húng hay những miếng riềng ngâm chua thái mỏng.
Mãi đến khi được phép bố cho ngồi ăn cạnh mẹ để canh chừng, chúng tôi mới rụt rè thỉnh thoảng gắp một miếng, cố gắng nhai kỹ, ra điều như đứa trẻ ngoan không ăn uống xô bồ. Tất nhiên là tôi luôn nhằm từ xa để chờ khi đến lượt mẹ liếc mắt ra hiệu. Tôi chĩa thẳng đôi đũa đến đúng mục tiêu nhanh một cách bất ngờ, gắp miếng to và ngon nhất vội vàng bỏ luôn vào mồm nhai nhồm nhoàm, quên cả mẹ đáng lườm, vì lẽ ra phải gắp vào bát cái đã.
Ấy là nói vậy chứ nếu được thả ra chắc chẳng ai ngoan được mãi. Chẳng thế mà cái thằng Đậu bạn cùng lớp tôi nhà con một, ông bố là nông dân, đương nhiên chân lấm tay bùn, thật thà chất phác đến mức mọi cái đều đơn giản, nhưng rất quí con có khi còn hơn cả vợ. Có lần bố nó vừa đi cày về, quần đang còn xắn móng lợn, nó cứ bám quanh, đòi bố cho mua thịt chó. Nó đòi cho đên lúc bố nó phải nhượng bộ mới thôi. Nó hớn hở khi thấy bố nó gật gật cái đầu. Nó làm mẹ cuống lên chạy vội đi ra đầu đường để mua. Trong lúc ấy, nó sốt ruột chờ, chắp hai tay sau đít đi quanh sân vừa đi vừa nhắc mẹ, sao mãi không thấy về? Khi mẹ nó mang về, ôi chao mẹ nó thấy nó ăn mà cứ đứng nhìn. Bố nó cũng vậy thấy nó ăn hùng hục, húp sùm sụp bố nó phải nhắc nhở vì sợ nó nghẹn. Mẹ nó khoái đến mức như chính mẹ nó cũng đang được ăn như nó.
Mẹ tôi thì khác, chuyện nhịn miệng đãi khách đã thành lệ, mà đây lại là toàn các chú trong nhà nên mẹ cấm dám ăn lấy một miếng. Ông chú tuy mải chén nhưng vẫn để ý thấy mẹ tôi như thế nên gắp cho mẹ tôi một miếng dồi chó, vừa khen ngon vừa nói:
- Sống ở trên đời mà ăn miếng dồi chó. Chết xuống âm phủ biết có hay không? Ngon thật đấy, chị phải ăn đi chứ!
Mẹ quay sang gắp lại vào bát cho tôi rồi bảo :
- Dồi chó đúng kiểu đấy chú ạ. Chị không ăn thịt chó, chú cứ tự nhiên đi.
Quê tôi nó vậy, có người ăn được thịt chó, nhưng lại không ăn được mắm tôm, mà cũng có người thích bún ăn với mắm tôm lại không ăn được thịt chó. Đằng này đã là thịt chó thì phải ăn với mắm tôm, thế nên tốt nhất là đừng đụng đến khi ở chỗ đông người, hay phải ăn giấu, ăn giếm. Thảo nào có lần tôi nghe lén được chuyện của bố tôi rủ mẹ đi xuống tận Đanh Xuyên có người bạn mời ăn thịt chó. Khi về, mẹ bảo thịt chó Đinh Xuyên không ngon bằng Vân đình, nấu thì không đúng kiểu của nó.
Người Hà Nội nay cũng thế. Hà Nội ăn thịt chó từ lâu đời rồi, nhưng thứ đó vẫn được coi là món phàm tục. Nhà gia giáo, bà đoan hậu và cô thanh lịch, dẫu có thích thì chỗ đông người cũng phải giả đò khi ngửi thấy mùi thịt chó mắm tôm, là phải tỏ ra kinh. Người ta cũng không phải thành kiến gì, nhưng cũng không dùng thịt chó để cúng trong các dịp lễ tết. Các khách sạn hạng sang không có được món khoái khẩu này thì cũng phải thôi. Lần đi Hàn quốc, thấy dân họ ăn thịt chó ghê thật, nuôi chó nhiều như nuôi lợn nhưng cũng không thấy món ấy có khách sạn nào cả. người Seoul nấu nhừ thịt chó tất cả, đóng trong hộp giấy, cầm trên tay vừa đi vừa ăn dọc đường. Vào chợ thấy có cả cô bụng bầu đang nghén, nhìn thấy gì cũng lợm giọng cứ oẹ oẹ, ấy thế mà vì vốn quen ăn món đặc sản, chén thịt chó thì thôi rồi.
Nhưng Hà Nội khách có mê món này họ cũng không ào vào quầy hàng những ngày đầu tháng nếu không phải dân mắc nghiện khoái khẩu, Người ta ăn thịt chó còn để giải đen về cuối tháng hay đề phòng vướng vào vận đen nếu đang là đầu tháng. Kể cũng lạ, có một loại thịt thú là thịt chó có lông đen thì hay bị kiêng hơn cả. Không biết có phải vì như thịt mèo đen chữa được bệnh dại, hay cao ngựa trắng quý hiếm bởi bổ xương cốt không kém cao hổ cốt, chứ chó đen thì biết làm sao khi đã bày ra mâm mà kiêng cho được. Không biết có phải các cụ bà mẹ chồng ngày xưa, nói móc con trai nên kiêng thứ chó đen, bởi là anh chồng nào chẳng thích, mà cô nào chẳng có cái chỗ có tóc đen đen loăn xoăn.
Ngưòi ta chọn ăn thịt chó vào hôm nào mát trời vì thịt chó nhiều đạm nên nóng trong, còn nếu có là dở hơi khi cứ tì tì chén cái thứ mà chỉ sau một lúc là cứ hừng hực như có đốt lửa bên trong bụng, nếu vào giữa trưa hè thì thì chỉ có mà cởi trần nằm đất mới ngủ đi một tý được.
Món này được cái giá cả lại tầm tầm nên cứ gần cuối tháng và từ giữa tháng đến cuối tháng âm lịch thì có đến năm bảy loại đàn ông, tám chín loại đàn bà kéo đến nhà hàng ùn ùn. Anh nào nhà giầu, bị thừa đạm (gut) thì thật thiệt thòi. Thịt chó nhiều đạm nên ăn vào nóng người lại uốn với rượu mới đã. Trước đây có cái rượu Làng Vân, rượu Kim Sơn đất Ninh Bình, rượu đặc sản một số địa phương có chỗ đứng chắc chắn trên thị trường thịt chó như rượu Mẫu Sơn, rượu San Lùng, rượu Hòa Bình dành cho những anh chịu chơi. Nhưng nhất là và phải kể đến rượu nếp cái hoa vàng và rượu nhẹ như nếp cái trắng đục cho những ai không thích bị sốc. Ăn thật lực, uống rượu khoẻ đến lúc về nếu không gọi tắc xi mà đi xe máy thì phải hú gọi đủ ba hồn bảy vía mới về được đến nhà.
Khi lựa chọn nhà hàng thịt chó phải chọn nhà hàng đông khách để mà vào, bởi nhất thiết dân nhậu tơi bời thường là những kẻ sành ăn chỉ tụ tập chỗ nhà hàng ngon. Mà cũng không phải cần có cô bán hàng mặc áo cổ thật rộng để chỉ khẽ rung rinh một tý là mỗi lần cúi xuống thái thái múc múc là cứ núng na núng nính khoe cái nõn nà, hay mỗi lần đưa cặp mắt đẹp lúng liếng, chao qua chao lại trước mắt, mà đông khách đâu. Mấy lại ai cũng mải sấp mặt vào bát bún chan có thêm nhựa mận húp húp và và, thời gian đâu mà liếc mắt xéo sang chỗ ngực hay xéo vào chỗ cặp mông đồ sộ cong phồng ấy được. Mà cho dù như thế có thấy ngon hơn, thì cái trò đời đang nhai nhồm nhoàm, cũng ngon đã đời rồi, thì có cho đớp sựt một cái phải mông lúc ấy, thì cũng vẫn không bằng.
Có một anh bạn Hà Nội ở gần Quảng Bá, có vợ người Sài gòn mà ngoan lại chiều chồng hết ý, mỗi cái thích thịt chó. Thi thoảng cứ thấy len lén ra nhà hàng xách về, trông mặt hơn hớn, cứ tươi như hoa.
Thì ra có tay giả chết bắt quạ. Vợ đêm đông lạnh, ngực đang căng tức nóng ran nằm cạnh cứ như cạnh bếp lò sưởỉ, nhưng lại ôm được anh chồng giả vờ bất lực, để được cưng chiều. Vợ biết ý cứ cho ăn thứ thịt chó vào là biết tay nhau ngay, không thể làm bộ dê làm giả chó được. Cứ chiều nào cũng xơi thịt chó có khi lại còn bị bắt bí lại, thì còn phải vét túi mua quà tặng thì vợ mới cho. Ngoài việc tăng cường sức khoẻ còn đặt niềm tin ở đầy đàn con cháu dặt loại đàn ông, để nối dõi tông đường. Thảo nào thứ làm mịn màng căng ngực của các mợ hoá ra cũng do có phần của thịt chó cả. Chẳng thế mà anh bạn ấy ăn một lúc hết hai bát tô bún đầy nhựa mận thịt chó trong sự thán phục của mọi người.
Có một thời Hà Nội bỗng nhiên ngập tràn thịt chó, dù Bắc hay Nam, trên rừng hay dưới biển gì, hễ về Hà nội là cứ phải thử một lần cho biết thịt chó Hà nội, Trong thành phố cũng có nhiều nhà hàng treo biển lớn “Thịt chó Việt Trì”, “Thịt chó Bắc Giang” “Thịt chó Vân đình”, nhưng phải đến khu bãi đê Sông Hồng, Quảng Bá mới thấy hết sự phong phú món khoái khẩu này.
Cứ đến hẹn, hay khi trong túi rủng rỉnh tý tiền là lại hè nhau ra Quảng Bá làm một trận “cầy tơ 7 món”. Tức nhất là lúc trong lúc hết giờ làm về bụng lép lại đúng phải cái anh háu đói cứ bắt ngồi ngửi món ăn này ở quán cầy tơ, chờ bạn đi xe bị tắc đường thì tức không chịu được.
Thế là trong lúc chờ cả lũ thi nhau kể về làm món đùi hầm, món nhựa mận, món hấp dẻo da. Rồi thì cái thứ thịt chó là cứ chọn nhà hàng nào kinh nghiệm lâu năm mà vào. Rồi thì ai có lần ra chợ bán chó đã thịt thường chọn con nào non mà ngon nhiều nạc, mềm tới, nhưng tất nhiên kiểu gì cũng không thể như nhà hàng bởi chỉ có nhà hàng mới có thể làm được, đó là phải biết pha lẫn phần thịt non với thịt già theo tỷ lệ nhất định. Non thì mềm ngọt nhưng dễ nhạt, già thì dai nhưng đậm đà phải ninh lâu, ninh trước.
Cách khôn ngoan nhất là cứ im lặng, mà dỏng tai nghe mấy ông kể chuyện ăn thịt chó chỗ này chỗ nọ mà chờ đợi một bữa ra trò. May quá ông bạn chậm chân đã đến, cũng là vừa lúc. Nhà hàng lần lượt bê mâm ra là hết chuyện ngay.
Đúng vậy ăn vào miệng mới thấy, non cả không làm được nhựa mận mà để hấp, thực ra là luộc chín gần như cả con để khỏi nhạt. Thịt luộc xong cho vào nướng lại qua than hồng cho khô đến khi bắt mầu da nâu hơi sậm, da căng mềm và thật sự dẻo mới đưa ra phân miếng bỏ xương để thái nghiêng dao thật mỏng để giữ được bản thật to. người thích đùi sau, kẻ thích chỗ sụn nầm ức, nhưng thật ra thú vị hơn cả lại là chỗ cổ vừa mềm vừa không mỡ, không dai mà lại ngọt hơn cả.
Thứ thịt chó để nấu nhựa mận, nướng chả là phải có mắm tôm và có riềng, mẻ. đừng có nói hãm mà chê mắm tôm nhé. Thịt chó nhựa mận mà không biết ngâm tẩm thì ôi thôi không khác gì thịt mông mỡ lợn luộc, hay cùng lắm là chân giò nấu “giả cầy”. Các thứ đầu vị ngâm tẩm phải đủ mới hết được mọi nhẽ. Riềng củ bánh tẻ hay già rửa sạch có thêm ít nghệ củ đủ để có màu vàng cho thịt, phải xay hay thái rồi giã nhỏ vắt nhiều lần trong vải và nước để ra hết nước riềng đậm, màu phải thật vàng cho vào thịt tẩm trước. Đến lượt mẻ, lấy phần dưới đáy là chỗ con mẻ đã chuyển hoá xong thức ăn từ cơm hay bún thành thứ mẻ chua đặc biệt khác hẳn với tất cả các loại chất chua khác của dấm hay quả chua. Nghiền nhẹ trên rổ lọc không cố gạn hạt còn sống sao cho thật mịn chảy xuống bát mới đem dùng cho tiếp lượng đủ vừa để món ăn không bị chua. Cho lẫn vào với thịt trộn đều cùng lúc với mắm tôm đỏ, sao cho đủ gần đạt đến độ mặn cần thiết để sau này cho thêm chỉ một ít muối gia vị nữa là vừa. Cho thêm một ít rượu trắng để tăng độ ngấm và mềm thịt. Ngay lúc này khi đã đủ riềng mẻ mắm tôm đã thấy được mùi đặc trưng của món khoái khẩu này. Ninh kỹ với lượng nước luôn ở dạng sền sệt không cho nhiều một lúc chừng gần một giờ.
Khi gần tắt lửa đun cho một ít tiết vào đun nhanh sao cho nhựa mận phải có mầu nâu nâu như màu nhựa cây mận. Ai đã trồng chơi tết mận nhất là khi thân cây to bằng bắp tay thì biết, mùa xuân về hoa mận nở trắng cùng với hao đầo dỏ hồng hoa mai vàng rực mỗi dịp xuân về ai sơ ý để cây bị xước vỏ ngoài nhất là ở gốc nhựa đùn ra khô đi có mầu nâu nâu như thế.
Thịt chó nướng than, than phải rực hồng. Thịt phải lựa chỗ nạc vai hay chỗ sườn đã cạo bên trong để rút dẻ xương, xẻ miếng nhỏ dễ chín xiên từng xiên nhỏ trên que sắt. Tẩm uớp như tẩm ướp nấu nhựa mận nhưng khác là cho thêm chút ít đường khí nướng trên lửa có mùi vị đặc trưng do cháy và hơi có vị ngọt. Nhà hàng bây giờ thay màu vàng của nghệ bằng dầu hạt điều nên miễn chê, không chỉ ngày xưa thèm rõ rãi mà bây giờ mới chỉ nghĩ đến cũng thế.
Cái món dồi chó mới hết mọi nhẽ. Phải tìm đúng nhà hàng hay phải đặt trước. Dồi chó phải bằng lá cúc tần còn gọi là lá Từ bi hay Đài bi là lá thứ cây hay bị dây tơ hồng ký sinh mọc trên lá, có khi làm chết rụi cả một vùng. Lá cúc tần đăng đắng ngọt ngọt, thêm một ít lá Đinh lăng cây lâu năm loại đã có rễ quý như nhân sâm, thêm lá mơ lông, một ít lá hành xanh tất cả thái nhỏ trộn với ít thịt mỡ vụn và tiết. Cho thêm hỗn hợp gạo nếp ngâm mềm, đậu xanh, lạc, rang thật thơm giã dập khi nhồi nó mới đúng phép được gọi là dồi chó. Cái đoạn nấu nướng cũng thế, khá cầu kỳ, luộc chín xong lại phải nướng lại cho thật khô trên than hồng, Có người lại còn cho vào chảo dầu hạt điều rán đến vàng ròn vỏ cũng có người không, nhưng không ai có thể bỏ không thử, không ai có thể tim thấy ở đâu cho dù đi khắp chân trời góc bể hay xuông âm ty địa ngục cũng không thể có món dồi như thế.
Ông bạn chậm chân đến sau cứ xin lỗi hoài, vì hắn ta là một Kiến trúc sư người Pháp rất lịch sự tên là Patrick, đang cùng làm với tôi cho công ty Systra về thiết kế cho Hà Nội tuyến đường sắt thí điểm đầu tiên trên đường 32 đi Sơn Tây. Cái đoạn đi trên không ở Nhổn thì dễ, còn đoạn đi ngầm từ Kim Mã vào đến ga Hàng cỏ thì làm hắn đau đầu, nên tôi rủ đi giải tỏa cái đen. Tất nhiên là không cho hắn biết là ăn thịt chó, mà bảo là thịt dê, hắn cũng tinh ý lắm nên thắc mắc :
- Thịt dê không có mỡ dưới da.
- Đây là dê nhà nuôi nên béo hơn dê núi hôm trước.
Thấy hắn lóng ngóng chưa biết xoay sở thế nào, tôi ra hiệu gắp thế này chấm vào đây rồi bỏ vào miệng. Được cái hắn nhanh trí học theo được ngay, nhưng tôi kêu :
- Patrick dừng lại ! – Tôi vội vã lấy tay bịt mũi hắn khi miếng thịt chó sắp đến miệng, nhưng hắn đã đút tọt vào bên trong. Tôi thả tay ra.
- Ngon không?
- Ngon, ngon. Ngon lắm. – Hăn ngẫm nghĩ – Sao lại bịt mũi tôi?
- Thôi được rồi, không bịt nữa.
Vài hôm sau hắn nháy mắt bí mật kéo tôi vào phòng làm việc của hắn, chỉ vào màn hình máy tính. Tôi thấy hình có một con chó thui vàng rộm to đùng chiếm lĩnh toàn bộ màn hình. Thì ra hôm sau hắn lại mò ra chỗ nhà hàng thịt chó làm trận căng bụng. Lúc về hắn phát hiện ra đấy là còn có cả nguyên một con chó thui vàng bằng rơm mới mang đến. Hắn chụp ảnh bằng điện thoại rồi đưa vào làm hình nền cho máy tính.
Thấy hắn khoái trá, cười to :
- Ông nói dối tôi, nó là thịt chó, ăn với mắm tôm, ngon ngon !
- Thế có muốn định cư ở Viết Nam không?
- Yes, yes ! Thịt chó Quảng Bá ngon ngon.
CHÁI BẾP NHÀ QUÊ
Đăng ngày: 22:55 22-09-2010
Thư mục: Ký ức miền Tây
Ai nói em nghe tại sao góc bếp chái hè
Nó đơn sơ lắm mà khi rời nó
Mình mến mình thương nó vô cùng…
(Trích ca khúc “Còn thương góc bếp chái hè” – ST: Nhạc sỹ Bắc Sơn)
Cố nhạc sĩ Bắc Sơn từng có những ca khúc mang âm điệu Nam bộ và dường như ông đã nói hộ tình cảm của bao người xa quê nhớ về cố hương với những điều dung dị, mộc mạc nhất như chái bếp nhà quê. Mỗi miền cố hương riêng của chúng ta có thể khác nhau về đường nét, cảnh vật, nhưng có một thứ hoàn toàn giống nhau, đó là những mái nhà quê ngày trước luôn có một chái bếp.
Nơi đó chất chứa biết bao kỷ niệm của trẻ thơ miền quê này. Đó là, những buổi xế trưa bụng đói, nướng vài con khô sặc, bóc một cục cơm nguội để ăn lót lòng. Rồi những củ khoai lang vùi tro hay vài trái chuối Xiêm nướng vĩ cũng ấm áp lắm. Để rồi có đi đến nơi đâu, khói bếp vẫn đưa chúng ta tìm về với mái ấm gia đình thân thuộc.
Hồi trước, nông thôn miền Tâynhà cất một kiểu giống nhau, một gian nhà lớn ba căn và bên hông nó là một gian nhà nhỏ liền kề, mà người miền Tây gọi nôm na là cái chái bếp. Dân ở đây xem trọng việc xây dựng chái bếp bằng với ngôi nhà chính, theo quan niệm: nếu ngôi nhà lớn cất nhằm ngày tốt, hướng tốt… thì học hành đỗ đạt, mùa màng và công việc làm ăn… sẽ “thuận buồm xuôi gió”; còn nếu chái bếp tốt thì gia đạo sẽ thuận hoà, đầm ấm.
Chái bếp của mỗi gia đình ở quê được xây cất theo cách nghĩ sao cho tiện dụng nhất. Người ta đóng cái bếp bằng cây gỗ hình chữ nhật, trên thì để bếp lò, dưới chân thì đóng cái kệ để chất củi khô. Có người thì thích đóng kệ ngay trên bếp lò để chất cũi và lá dừa. Cách này tiện lợi là khi có mưa dầm không sợ thiếu cũi vì đã được lửa lò hong khô. Người dân quê tận dụng hơi nóng của chái bếp để bảo quản thực phẩm khô và cả những hạt giống để dành sau này trồng tỉa. Vì vậy mà trong chái bếp thường có những cái xề treo lủng lẳng và có cả những trái bắp, mướp, trái bầu khô. Đến mùa gieo hạt, người ta chỉ cần lấy xuống ngâm vào nước là chúng nảy mầm rất khỏe. Đây cũng là một sự đúc kết kinh nghiệm qua nhiều thế hệ mới có được.
Có những ngôi nhà quê phía sân sau còn đất rộng người ta còn che một mái hiên. Phần không gian này thường dùng để chứa công cụ lao động vừa là nơi chứa cũi, lá dừa khô để đun nấu quanh năm. Nơi đây cũng là nơi lý tưởng cho gà vịt ấp trứng. Những người phụ nữ đảm đang luôn biết chăm chút cho chái bếp hiên sau nhà mình.
Không gian của chái bếp tuy chật hẹp, chứa nhiều vật dụng sinh hoạt của gia đình nhưng sắp xếp sao cho gọn gàng, ngăn nắp là sự khéo léo của người phụ nữ quê. Hồi trước ở quê, khi đi xem mắt dâu là bà già chồng tương lai hay ra dò xét cái chái bếp, nghĩa là cái hiếu hạnh của người phụ nữ được phơi bày trong chái bếp. Hễ bếp núc gọn gàng, sạch sẽ là bà mẹ chồng tương lai cho một điểm rất cao trong những tiêu chuẩn để kén dâu. Với phụ nữ Nam Bộ xưa, chái bếp hiên sau là giang sơn riêng của họ - nơi để chị em trổ tài khéo léo, cũng là nơi cất giữ buồn vui cùng bao uẩn khúc nỗi niềm của đời người phụ nữ theo quan niệm phong kiến là “ăn cơm nguội, ở nhà ngoài”.
Năm tháng qua đi với biết bao sự đổi thay, nhưng ngôi nhà xưa, chái bếp cũ vẫn nguyên vẹn trong ký ức của mỗi chúng ta về sự sum họp gia đình trong cái không gian chật hẹp đó. Dù cho chúng ta có nhà cao, cửa rộng, phòng khách với nội thất sang trọng cũng không phải là chỗ để quây quần hàng ngày.
Ngay những ngày lễ, tết hay giỗ quãy cái chái bếp hiên sau vẫn là nơi ấm áp nhất. Người ta thèm mùi khói bếp quen thuộc, thèm cái bầu không khí ấm cúng của gia đình. Còn hạnh phúc nào hơn khi tất cả anh em đều tề tựu dưới một mái nhà, bên cạnh cha mẹ già để cùng nhau chuyện trò. Dường như miếng trầu trên môi bà, môi mẹ đỏ hơn khi thấy con cháu trưởng thành và quay về tề tựu bên chái bếp.
Mỗi người mỗi việc bên bếp lửa hồng ấm áp hiên sau. Mâm cơm cúng ông bà cũng cùng chung tay lo liệu. Bánh ít, bánh tét đặc trưng ở miền quê cũng không thể thiếu trong ngày tết và giỗ quãy của mỗi gia đình. Dọn mâm cơm cúng ông bà tổ tiên và nén nhang đốt lên cũng nói lên lòng thành kính với người đi trước. “Cây có cội, nước có nguồn” thể hiện ngay chính ở phần hồn - một nét văn hóa truyền thống vẫn giữ nếp xưa.
Biết bao con người sinh ra, lớn lên và trưởng thành từ căn nhà có chái bếp một thời lam lũ, gian khó đó. Trong góc tâm hồn sâu thẳm của nhiều người chúng ta ai cũng có một miền cố hương để hoài nhớ. Bây giờ ở thôn quê ít dần những ngôi nhà lá và hẵn nhiên chái bếp nhà xưa cũng ít dần. Thời của bếp ga có lẽ cũng vắng dần những câu chuyện vui buồn bên bếp lửa hồng với nồi bánh tét đêm cuối năm…
Nhưng, dẫu sao trong lòng mỗi người sinh ra ở miền quê này vẫn còn đó tươi nguyên hình ảnh và tình cảm một chái bếp. Cái chái bếp dù trong ngày hè oi nồng hay giữa tháng mưa dầm, ngọn lửa chẳng bao giờ tắt và khói lam chiều vẫn vấn vương bên mái lá nhà quê!
Tháng Sáu chưa gì mưa đã mưa như thể Ngâu.
Mà cũng lạ, đối với mình Ngâu không có nghĩa riêng cho Ngưu- Chức. Ngâu trong ký ức mình là những chiều quê mưa dầm, nặng hạt. Là những buổi cơm giữa buổi với ơ cá kho khô cùng với những lát cơm dừa béo ngậy. Khi ấy nội mình ngồi dưới ghế đẩu còn chị em mình xếp bằng ngay ngắn trên vạt. Cái lạnh của mưa dể khiến ruột con người ta cồn cào nên cơm nguội một chút vẫn thấy ngon lành. Cá rô bí , cá sặc bướm, vài con lòng tong, cơm dừa xắt mỏng, tiêu...Bắc ơ cá lên mớ lửa than kho đến khi vừa tàn cũng là lúc nước cá sền sệt, đủ để quẹt dính đầu đũa rồi và một đũa cơm. Vị cay cay của tiêu đủ để âm ấm bụng mình. Thứ hương vị ấy, cảm giác được quẹt chảo ấy bây giờ có tìm đỏ con mắt cũng không ra. Những hôm mưa dầm như thế này thường có cảm giác thèm thuồng kiểu ăn như thế đến lạ.
Như thể Ngâu là vạt khói lam chiều trên mái rạ, từ đâu đó ở miền ký ức chạm vào mình. Rù quến nhau như thể đôi tình nhân nghiện ngập. Con người ai mà chả nghiện tuổi thơ, dễ dầu gì mấy ai cai được hẳn. Mình đợi chờ, khao khát cơn Ngâu chỉ để buồn. Để được với tay chạm vào Ngâu và nhớ…
Ngâu là gian bếp nhỏ với nồi canh chua bông súng cá rô. Nội nói ăn bông súng chọn cọng trổ hoa thì ngon hơn cọng lá. Tước nhẹ vỏ đi bứt khúc ngăn ngắn ngâm trong nước có vắt chanh. Đũa tre dựng đứng trong thau khuấy theo 1 chiều cho các cọng xơ trên bông súng bám vào mới sạch. Cá rô chiều hôm qua mưa to cả đàn nhảy lóc xóc trên liếp cỏ. Mấy chị em dùng rổ tre úp gọn, mỗi con bé chừng hai ngón tay, cá mái trứng đầy bụng. Thịt cá ngọt vị nước sông và cọng bông súng giòn tan trong miệng.
Ngâu với mình vẫn là nhịp cầu giữa đôi bờ ký ức.
Mà lạ (lại lạ), ký ức lại gắn liền với cái cà ràng trong chái bếp. Có lẽ nội nói đúng, con gái chẳng giống ba cũng không giống mẹ, giống người mà nội yêu thương nóng tánh đói, xấu nết ăn. Cứ đến giờ cơm sôi không kịp chắc nước, chắc nước rồi cũng chưa kịp để nồi cơm lên hơi đã khua chén leng keng. Nội bảo:” Tổ cha bây giống cái quân nào chuông chưa reo đã cầm chén?” Đám cháu cười cười:" Hồi đó ông nội ăn cơm vậy không phải hôn nội?"
Mùa tép rong.
Nhìn đám tép rong nhảy xoi xói trong thúng mà bắt ham. Mấy con tép bé tẹo như đầu đũa, thịt trong vắt chỉ mỗi cái bụng đầy trứng xanh lè. Ba chị em mỗi đứa một cái kéo cùn cắt râu tỉ mẩn. Nội hốt một nắm để lên thớt, dùng con dao phay trở bề bản đập dập dập, cho ít tiêu, ít nước mắm ướp sẵn cho thấm để nấu canh cải trời. Ở quê mình cải trời nhiều vô kể, loại cây thấp bé mà có lá gan to nhất trên đời. Dám cãi cả trời cơ đấy (hihi) Cải Trời ngắt đọt đem vô rửa sạch, hốt một nắm dùng dao cắt nhỏ nhỏ như khi mình nấu canh tập tàng vậy. Nước sôi cho chén tép rong đập dập vô rồi thả cải trời vào. Nồi canh quê hương mang mùi vị ngọt lạ của tép rong, thơm, ngai ngái mùi cải trời dường như vẫn theo mình đến tận bây giờ.
Tép rong ram mặn, ram muối ớt. Loại ớt chỉ thiên xanh mướt nội trồng ké trên mỗi gốc cam sau vườn. Thích thì hái vài trái vào đâm muối ớt, còn không thì ba chị em nhà mình cứ bưng tô cơm ra vườn, cúi người cắn đại nửa trái ớt trên cây. Vị ớt non cay the thé nơi đầu lưỡi. Muối ớt được đâm bằng loại ớt đó đem nêm vào chảo tép rong thay cho muối thường thật ngon, thật đã!
Ngâu với mình là như thế!
Là những bữa cơm chiều đủ đầy hương vị quê nhà. Cải Trời, cải Đất, rau má, mùng tơi, rau chai, rau đắng đất…Là con còng, con cua đồng, con ốc đắng, ốc dừa, con hến còn đầy bùn đất.
Ngâu là bến sông chiều con nước ròng nước lớn, có đứa chống xuồng xuống bến chỉ để ngồi ngó mấy cái bông bần rụng trắng bờ sông. Chỉ để cắm sào ngồi nghe tiếng xuồng máy vang vọng cả một khúc sông và chỉ để ngồi nhìn hai bến bờ bồi lở
Người ăn cơm nguội, viết tiểu thuyết
Y Phương
Chẳng biết bây giờ đã nghỉ hưu rồi, ở nhà cả ngày lẫn đêm, lão Phạm Ngọc Chiểu có bao giờ quát mắng vợ con không nhỉ. Có lẽ không. Chắc chắn không rồi. Vì suốt ba năm sống chung phòng, trong ký túc xá trường Nguyễn Du, ăn chung nồi cơm, học cùng một lớp, tôi chưa bao giờ thấy lão nóng mặt, nặng lời với bất cứ ai. Lão đúng là một con người mát từ ruột gan mát ra mút ngón chân ngón tay.
Nhớ ngày đầu mới gặp, tôi thấy có một học viên mốc thếch, với chiếc áo bông xám đã sờn gấu, cái quần si mi li màu cứt ngựa. Lão ta đi đứng nhanh nhẹn như trai làng. Rồi lão đưa ánh mắt nhìn tôi phóng khoáng, tự nhiên. Mặc dù lão và tôi cả hai người đều lạ hoắc, chưa ai đọc của ai một dòng. Y Phương hả. Tên nghe như Tây Nguyên. Mày là bộ đội à. Sao anh biết. Thì đấy. áo bông lính. Dày da cô xư gin. Đúng không. Đúng. Nhưng em mới chuyển ngành rồi. Mày mấy con. Hai. Một gái một trai. Tốt. Cánh mình đi học muộn. Già rồi mới đi học. Nhưng muộn còn hơn không, mày nhỉ. Phải. Cũng là cái số cả. Sớm muộn chả quan trọng. Thế là tao ở với mày à. Mày phía trong nhé. Tao nằm ngoài này canh gác cho. Hỷ.
Đứng trước người khác, dù chỉ nhỉnh hơn mình một hai tuổi, bao giờ lão cũng một mực anh anh em em. Với bạn cùng trang lứa thì ông ông tôi tôi. Với người ít tuổi hơn thì mày tao chi tớ. Trong quan hệ với bạn bè, lão xuê xoa xuềnh xoàng, chả giữ ý giữ kẽ gì sất. Gặp ai, lão cũng nở nang mặt mày đón chào. Lão rất hay cười. Mà khi cười lão thả phanh, tẹt ga luôn. Tiếng cười phớ lớ, toang toang, biêng biêng như nứa nổ. Sướng thế chứ.
Trong số học viên cùng lớp, có lẽ lão chơi thân với Trần Dũng nhất. Hai nhà văn cặp kè như bồ với bịch, như mía cuốn đường mật. Cả hai lão cùng là dân viết văn xuôi. Và hình như cùng xuất phát từ lò văn học công nhân, hay thanh niên xung phong gì đó. Và còn điểm này nữa, cả hai cùng nghiện thuốc lá. Mà nghiện có cấp có hạng hẳn hoi. Nghiện có đai có đẳng chứ chẳng thèm phọt phẹt như kiểu gà con mót đái. Cứ nhìn đôi môi thâm xì và những ngón tay ám khói thì biết. Đặc biệt mái tóc của hai lão, dường như lúc nào cũng ủ một làn sương khói. Từ trong sương khói bay ra cái mùi thuốc lá Thăng Long rất đặc trưng, không lẫn vào đâu được. Tuy thuốc vụn phế phẩm, nhưng nó vẫn thơm ngon đến mức có thể cầm lấy mà ăn. Mỗi khi cuốn xong điếu thuốc, tôi có cảm giác như họ vừa hoàn thành một kì công phi thường. Không kỳ công phi thường sao được. Những mẩu thuốc vụn cứ tơi ra như bột ngô. Buộc các lão chỉ có độc một kiểu cuốn hình sừng bò. Đầu thì nhọn hoắt như quả ớt. Đít thì phổng phao như miếng phao câu vịt. Nếu không có kinh nghiệm gập bịt điếu lại, những mẩu thuốc rụng rơi ra bằng hết. Chỉ còn lại cái nõ điếu. Thế là toi. Rồi hai lão nghiêng đầu châm thuốc, thả khói ra, cùng sướng ha hả.
Có lần lão kể, quê tao ở Nam Hà. Nhưng lại gắn bó nhiều năm với Hòa Bình. Các con lão đều lấy tên: Con Hòa, thằng Bình, thằng Sơn. Hòa Bình Sơn gợi cho ta nhớ tới một vùng đất bán sơn địa. Nơi có hoa ban trắng, có xôi nếp nương, có con sông Đà ngược thuyền đuôi én. Có sàn phơi giống má dành riêng cho đàn ông. Chính tại đấy các con được sinh ra. Nước sông gạo chợ miền Tây Bắc đã nuôi các con lớn khôn thành người. Các con hãy nhớ mối tình thiêng liêng này của cha mẹ. Từ khi hai người gặp nhau dưới chân núi hoa. Yêu nhau bên tiếng suối tiên róc rách. Rồi cưới nhau và sinh ra các con. Đấy. Hầu như ngày nào lão cũng kể về vợ con mình, với một giọng rung rinh mằn mặn.
Hình như tôi nghe loáng thoáng vào thời trước cách mạng, gia đình lão có lắm đất đai. Thóc lúa, tiền bạc, của nả chả bao giờ thiếu. Nên lý lịch lão dính dáng đến vấn đề giai cấp thì phải. Rõ khổ. Cái thời hễ nhà ai có bát ăn bát để, là người ta ghen ghét đua nhau bình bầu lên phú nông địa chủ. Xoẹt một cái ra thành phần bóc lột. Con cái những gia đình thuộc thành phần bóc lột có ho cũng không dám phát ra thành tiếng khẹc khẹc. Thế là lão buộc lòng đi thanh niên xung phong thời chống Mỹ. Tôi hỏi sao không đi bộ đội cầm súng đánh giặc cho nó oách. Bộ đội đếch thèm lấy, chú mày tưởng dễ à. Học xong phổ thông, anh mày xung phong lên miền Tây vời vợi nghìn trùng. Cảnh đẹp. Người xinh. Non nước mình đâu đâu cũng ngọt thịt. Hớ hơ hớ thế là tao nhón nhén viết văn làm thơ. Vốn máu me văn chương có trong người, từ những năm lớp chín lớp mười mày ạ. Đừng tưởng nhé. Đây đã từng làm tổng biên tập một tờ báo nhé ...he he he báo tường thôi. Nhưng ở vào những năm năm chín sáu mươi của thế kỷ trước, làm cái chân biên tập báo tường, cao giá lắm. Bọn con gái cứ chạy theo anh mày hàng đàn hàng lũ. Anh Chiểu ơi xem em cái. Anh Chiểu ơi ấy em chưa. Mày bảo có sướng không. Bác chỉ có phét. Bác mà biết tán gái khối. Ơ hơ chú mày lạ nhỉ. Tao cần gì phải mở miệng ra tán. Cái loại người dùng ba tấc lưỡi để nịnh đầm thì xoàng. Rất xoàng. Anh mày đây chỉ cần nhùm nhìm đưa đẩy thôi. Chết cả hổ báo chứ đừng kể đến đám tóc dài.
Về cái mục gái gú này thì quả tình tôi khó tin ở lão. Ngoài giờ lên lớp là lão cắm đầu vào bàn mà viết. Cách viết của lão cũng chả giống ai. Hở ra một chút rỗi rãi bằng mắt muỗi là lão ngồi vào bàn cắt dán thật lực. Tôi thấy lão không bao giờ dập xóa lem nhem lên bản thảo. Chữ nào cũng nghiêng lả lướt đi trong nắng xuân. Lão thương chữ lắm, chỉ dán đè lên những chỗ cần phải sửa. Một ngày không viết được thì lão ngồi đọc. Không đọc thì nằm gác chân lên chăn để nghĩ. Không nghĩ được thì ra vào hút thuốc vặt. Túm thuốc lá vụn cạn nhanh như mất cắp. Thế là lão tọt tẹt sang gõ cửa liếp Đức Ban ơi! cho tao xin điếu thuốc. Một lúc sau, tôi thấy hai gã bật đèn sáng trưng ngồi tán gẫu đến 3 giờ sáng. Tiếng cười hai lão rúc rích như trẻ con trốn tìm. Mùa đông thì lão trùm chăn ngồi thu lu.
Dưới ánh đèn mờ mờ, trông lão Chiểu như đụn rơm biết thở. Còn mùa hè thì cho hai chân vào bao tải. Muỗi đực muỗi cái chỉ còn cách vo ve rình nhà văn mà nuốt nước bọt. Lão lấy làm thích thú khoái chí, về sự phát minh ra cái trò cho chân vào bao tải, lừa muỗi. Muỗi ở trường Nguyễn Du, mà ai đã từng trọ học, cũng phát ngán về nó. Trước mặt ký túc có một cái ao nhỏ, nông choèn. Nước xâm xấp đến ngang thềm nhà. Muỗi mẹ muỗi con rủ nhau về đấy đẻ. Con nào con nấy to béo lặc lè. Cứ đêm đến là vù vù inh tai nhức óc như tiếng máy bay OV10, thời chiến tranh.
Có một lần, giữa đêm xanh ngăn ngắt. Tôi đang ngủ ngon lin lít, với cơn mơ rất đẹp. Tôi cưỡi một chú hươu sao màu vàng nhạt, là là bay qua cánh đồng hoa. Bay đến dòng thác bạc thì nghe có tiếng lượn nàng ơi cong vút lên như cầu vồng bảy sắc. Tôi túm lấy cầu vồng, đang chơi vơi chới với thì lão vỗ vào vai tôi: Dậy! Dậy! Tao bảo cái này. Mày thị phạm cho tao mấy miếng võ. Đến đoạn tao đang bí. Võ vẽ nào? Võ nào chẳng được. Võ Tày của nhà mày càng tốt. Bực mình quá, nhưng tôi không dám hỗn với lão. Tôi bèn tụt nhanh xuống đất. Cứ để nguyên quần đùi mỏng tang như hai ống giảm sóc, áo ba lỗ màu tàn nhang, lập tức tôi xuất chưởng. Nhìn đây. Phịch. Miếng này là phượng hoàng vồ mồi. Còn miếng này chết mất ngáp nhé. ý, em quên rồi. A đây. Lão trố mắt nhìn tôi múa may loang loáng, huỳnh huỵch. Này thì hai chân đá cắt kéo. Này thì tay trái đỡ đòn, còn tay phải đấm ngang mặt. Túm lấy cổ đối phương bẻ ngoặt lại như thế này. Một lúc sau tôi vã mồ hôi hột, nói hì hừ trong hơi thở. Lão tỏ ra thán phục thực sự. Tôi thấy mắt lão đơ ra như tê dại. Còn tôi thì cười thầm. Võ vẽ gì đâu, chẳng qua ba mươi sáu động tác cơ bản, học mót từ ngày còn ở Đặc công. Nay nhớ lại, dọa đại ca tý thôi.
Chợt tôi thấy một cái nồi con đen đen, đặt bên cạnh chồng bản thảo cuốn tiểu thuyết Chiều hè oi ả. Cái nồi nằm chềnh ềnh như con mèo mun trên bàn viết. Tôi hỏi cái của khỉ gì thế này. Lão bảo cơm nguội đấy. Để làm gì? Lúc nào đói thì bốc ăn. Anh ăn vã cơm nguội à. Thì đã sao? Trời ạ. Nhà văn nhà veo gì mà khổ thế hả. Mày hỏi ai? Thì biết ai đây mà hỏi. Cuộc đời nhà văn, không trải qua nhàu nát, khổ đau, viết đếch hay được đâu mày ơi. ấy đấy. Mày nhìn đấy. Tôi nghĩ bụng, lão này hâm đến nơi rồi. Ăn cơm nguội với nước bọt ư. Hạt cơm đã hết hơi ấm nóng, nó đông cứng như đá sỏi. Chả hột nào dính với hột nào. Nhai làm sao nổi nữa. Nhưng quả thật, vào những năm 80, cả nước thiếu thốn đủ thứ, khổ đủ đường, chứ chả riêng anh em mình. Nhà văn còn có cơm nguội để ăn, đã là sang lắm.
Cứ đến chiều thứ bảy, lão lại chằng buộc cọc cạch đạp xe ngót trăm cây số về Hòa Bình thăm vợ con. Lần nào xuống cũng nhớ mang theo can dầu mazut. Can dầu đích thị là vàng, với anh em tôi khi đó. Kho cá, nấu cơm, đun nước, luộc rau, rán trứng tất tần tật đều tìm đến anh mazut. Khói mazut nhuộm đen cả một khoảnh trời. Cứ thấy cột khói đen ở đâu, biết sinh viên đang đun nấu ở đó. Nhớ lại cảnh nghèo ngày nào, anh em tôi nâng niu từng đồng bạc lẻ. Thi thoảng có nhuận bút, sài hoang một tý, mới dám ra ngồi quán bà Duẩn. Người đàn bà bán chè chén ở sát nách cổng trường, trông vẻ ngoài rệch rạc nhôm nhoam nhưng tốt bụng. Tôi chưa thấy ai có tài nhớ chính xác tên từng người như chị Duẩn. Chỉ một lần ngồi quán chị, là chị nhớ hết. Chị không cần ghi sổ nợ. Ai nhớ và có sẵn tiền trong túi thì trả. Còn ai quên, coi như chị biếu. Chị biết tính bố nhắng bố nhít của bọn học viên nhà văn các em rồi. Tuy thế thôi, chúng mày ăn ở với nhau chân tình, đầy đặn lắm.
Biết tôi là dân miền núi Cao Bằng chính hiệu, chẳng nghiện ngập gì, chỉ thèm sắn khoai. Nhìn thấy sắn khoai tôi nhớ đến những người thân. Nhớ nương rẫy ngạt ngào hương hoa đất đá. Đất nhà tôi xác xơ lẫn với nhiều sỏi xít, nên nghèo kiệt mỡ màu. Người làm ra củ khoai củ sắn phải đổi bằng mồ hôi ướt đầm lưng áo. Nhớ con trâu con bò lầm lũi khó nhọc kéo cày. Nhớ cái cuốc cái mai đi ngủ cũng dính đầy bùn thối. Nhớ làn khói vờn bay cuốn vào chiều tím như quả cà đang rụng. Khoai sắn ấy là da thịt nơi quê nhà của tôi. Vì thế lần nào lão cũng cố đem theo dăm ba củ sắn đùi ếch, đã luộc kỹ. Củ nào củ nấy mướt mát, chắc nịch, ngọt lịm. Lão nheo mắt, chống tay hai bên hông, nghiêng bên này, lắc bên kia, đứng nhìn tôi nhâm nhi quà quê một cách chậm rãi, ngon lành. Chủ nhật sau chú về nhà anh. Cái gì chứ, sắn, khoai, đu đủ, mía mật cứ gọi là thả cửa cho chú ăn cả ngày không hết.
Từ khi ra trường đến nay, lão và tôi đều lên chức ông nội ông ngoại. Bây giờ thì hưu cả rồi. Hưu trọn vẹn đến từng mi li mét khối. Nhưng khi gặp nhau đâu đó vẫn mày tao ồn ào rôm rả. à này. Trông lão có vẻ già đi thật. Tóc bạc trắng như mây Non Tản, Ba Vì. ồ không. Nhầm. Lão vẫn như hơn hai chục năm về trước. Đôi mắt vẫn tinh nghịch lắm. Hai chòm râu cá trê bên mép vẫn động đậy ngo ngoe đấy thôi. Vừa nhìn thấy tôi, chưa gì lão đã nheo nhéo: Này này anh Đải anh Đải. Anh cho cháu tui ăn cơm tám với ruốc như ri, thì đủ dinh dưỡng làm sao được. Hơ hớ hơ hớ!
Bữa cơm thuở ấu !
Tôi vẫn còn nhớ bữa cơm năm ấy. Mọi thứ in trong ký ức giống như mới hôm qua, dù những kỷ niệm tuổi thơ khác đã mờ nhạt dần theo thời gian. Đó là những ngày khốn khó nhưng tràn đầy tình yêu thương của gia đình tôi.
Lúc đó tôi chỉ khoảng 8 hay 9 tuổi, học cấp một ở ngôi trường cũ cách hai dãy phố. Bố tôi theo bộ đội vào Nam chỉ mới hai năm nay, được cấp đất cất tạm bợ ngôi nhà ở chưa kịp sơn sửa. Đồng lương lính ngày đó không đủ sống, bố và mẹ phải tìm thêm nhiều việc khác. Mẹ tôi đi học may về mở tiệm, nhưng rồi lỗ quá phải đóng cửa. Chiếc máy may vay mượn lắm mới mua được bị bỏ xó, trở thành cục nợ trong nhà.
Tết năm đó trời trở lạnh, dù mùa này hiếm khi trời lạnh. Hai anh em tôi đi học mà co ro vì không có áo ấm. Nhưng nhìn quanh lớp thì cũng chẳng thấy ai mặc áo cả, nên không tủi. Trẻ con ngày đó cũng nghèo xơ xác, mặt lấm lem. Đến lớp tụm năm tụi ba bàn về ngày Tết. Với bọn tôi, tết đơn giản là được nghỉ học, được lì xì.
Mấy ngày trước đêm giao thừa, nhà tôi chẳng khi nào được yên. Lương bố không đủ sống mẹ phải vay mượn khắp nơi, cuối năm thì chủ nợ ùn ùn kéo đến đòi. Mẹ đi làm thì bố con ở nhà lãnh đủ. Vài người thô lỗ đứng chửi um làng um xóm. Bố tức tối ra đứng chửi lại, còn tôi và em thì bịt tai chui xuống gầm giường. Bố ngày đó nhậu nhẹt nhiều, buồn bực lại càng rủ rê bạn bè chén chú chén anh. Nhậu vào quên mất trời đất gọi thêm bia, thêm mồi, nợ càng thêm nợ.
Đêm giao thừa, nhà không còn một xu. Tôi đi với mẹ trên chiếc xe đạp màu xanh cũ đi vay tiền, lần đầu tiên tôi đi với mẹ xa đến vậy. Sáng cho đến trưa đến nhà ai cũng không tiếp, người tiếp thì không cho vay. Bụng đói meo, tôi đòi về thì mẹ nói, lát nữa về sẽ cho ăn. Tôi rơm rớm nước mắt. Mẹ bảo rằng, tết nhất không có nhiều ít ra cũng phải được con gà, ngũ quả, phải có mâm cúng, sơ sài cũng được nhưng không thể thiếu. May sao cuối cùng có bác Lộc, bà con xa, cho mượn tiền. Mẹ hăm hở trở về.
Vừa đến cổng thì đã thấy vài ba người đứng chờ sẵn. Tôi đi vào trong lục cơm nguội ăn, thằng em thì đi chơi mất. Nó còn bé nên không lo lắng nhiều, thường hay sang nhà bác Loan bên cạnh ăn uống rồi ngủ bên đó. Ở ngoài to tiếng một hồi thì mẹ đi vào, số tiền mới mượn đã phải trả cho người ta gần hết. Mẹ buồn bã ngồi ở thềm không nói. Vừa lúc đó bố đi nhậu về, hỏi tiền mẹ có chưa. Mẹ im lặng thì bố tức giận mắng mẹ. Tôi biết bố đã xỉn mất rồi, không còn biết trời trăng gì đâu, bố muốn quên đi cái Tết này. Bố đập bể vài cái chén dĩa, tôi lại chui xuống gầm giường co rúm lại, sợ hãi.
Chờ đến khi bố ngủ, tôi mới chui ra, mẹ vẫn ngồi bên thềm. Tối hôm đó, nhà chỉ còn tôi và mẹ thức chuẩn bị. Còn chút tiền thừa, mẹ mua được mấy cái trứng và một bó rau để nấu cơm cho tôi. Hai mẹ con ngồi ăn mà ngậm ngùi. Tôi còn bé nhưng vẫn biết rằng nhà mình đang không ổn. Tôi muốn khóc. Đó là bữa cơm đầu tiên mà tôi thấy mặn chát, những năm trước nhà cũng không khổ sở đến thế. Ăn được hai đũa, tôi òa ra khóc. Mẹ thấy thế cũng bỏ cơm ôm chầm lấy tôi nức nở.
Bố lúc đó tỉnh dậy, đã tỉnh rượu, thấy hai mẹ con như thế cũng ra ngồi thừ một lúc, nhìn xa xăm. Rồi bố nói xin lỗi, xin lỗi gì đó, ôm lấy vai mẹ và tôi. Một ngày đi xa mệt mỏi, tôi khóc xong nằm ngủ quay giữa bữa cơm. Trước khi thiếp đi, tôi còn cảm thấy bàn tay bố bồng tôi vào giường.
Khi thức giấc thì Giao thừa đã đến. Tôi ngạc nhiên thấy đã có sẵn mâm cơm nếp, con gà luộc trên bàn thờ. Bố và mẹ đang mang đôi ngỗng “sống còn” sau nhà đi bán để lấy tiền qua được cái tết này. Đôi ngỗng đó mẹ để dành khi ốm đau, là của để duy nhất trong nhà. Sau này mẹ kể lại, có những lúc khổ quá, mẹ đã muốn bán đôi ngỗng đó để đi xe về quê sống, không ở lại đây nữa. Bố mẹ đã dùng nó để trụ lại, không chỉ một cái Tết mà cả những năm tháng sau này. Thuận vợ thuận chồng, thì khó khăn nào cũng vượt qua.
Mỗi khi gần đến Giao thừa, thì ký ức đó lại ùa về trong tôi. Nhà tôi dù vẫn còn khó khăn, những đã đỡ hơn xưa rất nhiều. Hai anh em vào đại học, là niềm tự hào của mẹ và những người trong phố. Tôi vẫn còn giữ phong bao lì xì bố mẹ tặng cho vào giờ phút đầu tiên của năm mới đêm ấy. Tôi không nhớ mình đã nhận được bao nhiêu nữa, tôi chỉ biết rằng trong phong bao đỏ có in hình rồng phượng ấy, là tình yêu thương vô bờ bến của gia đình tôi trong những giây phút khó khăn. Năm đó, tôi là đứa trẻ giàu có nhất trên đời.
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top