CHƯƠNG II: LANTE

🫧

Tôi nhớ lại khoảng thời gian đó. Mùa hạn đột ngột bùng lên, chính nó - một con thú dữ cắn xé mọi đồng lúa, mọi mùa màng trên khắp Vương quốc vốn xinh đẹp.

Mặt trời sẽ đâm xuyên đồng tử khi bạn nhìn vào nó. Bây giờ, nó giết chết mọi vật. Mặt đất dần nứt nẻ, vết sẹo của chúng vằn vện như những con rắn chực siết chết những lão nông dân. Tôi nhìn bãi cỏ đã từng rậm rạp dưới chân, ánh mặt trời không còn khiến chúng lung linh tựa bức họa trong ngôn từ của những đại văn hào, mà y hệt đám tóc trên chiếc đầu hói của vài tên chính trị gia độc tài, lưa thưa và cằn cỗi.

Vào ngày hạn thứ hai, cha tôi gọi tôi chính điện, và tôi quỳ trên nền thảm được dệt từ lông cừu, như những binh lính đang chờ lệnh. Cha tôi - William - ngồi trên ngai thạch anh, giọng khô khan: “Ngày mai, các lãnh đạo của mười ba Công quốc sẽ đến Lante, và con sẽ đi cùng ta”. Tôi có đủ khôn ngoan để không tỏ ra phản đối. Lante là một Công quốc nằm ở trung tâm của Arricy, và chúng tôi được triệu tập, không vì lý do nào khác ngoài việc liên quan đến trận hạn hán xảy ra gần đây. 

“Con đã mười lăm tuổi, hãy nhớ lấy điều đó”.

Cha nói. Tôi tuân mệnh và lui về phòng ăn cho bữa trưa. Ngưỡng mười lăm tuổi, đối với Vương quốc của chúng tôi thì đây là dấu chấm hết cho tuổi thơ của mỗi đứa trẻ, khi chúng đã đến tuổi phải lao động. Tôi với tư cách là con trai của một vị lãnh đạo cấp cao, sẽ gia nhập quân ngũ. 

Buổi chiều hôm ấy, tôi chạy về chiếc hồ xanh trong cơn đờ đẫn, thả mình trên nền cỏ héo, cảm nhận cơn gió khô nóng trượt qua da thịt. Tôi nhổ một đám cỏ khô ở gần mình, ném nó đi, lòng buồn bực. Tôi còn quá trẻ. Ánh nắng cháy rực trên gương mặt khiến tôi rát bỏng và vội chạy về một tán cây gần đó. Đây không phải lần đầu tiên Vương quốc này xảy ra trận hạn hán kinh động đến mọi thứ, năm năm trước, nó đã xảy ra, nhưng cũng đã kết thúc từ lâu. Khi ấy, cha tôi rất quyết liệt, gần như ông đã khai màu chiến tranh. Và ở thời điểm hiện tại, chuyện đó lặp lại một lần nữa, rồi chiến tranh chắc chắn sẽ nổ ra. Máu sẽ nhuộm đỏ quê hương của chúng tôi. Tôi đã đọc nó trong một cuốn sách - khung cảnh ngày tàn trong những năm tháng chiến tranh - đẫm máu, những con vật chết tươi, những cái xác bị vứt xuống hố, những nạn đói kêu than, những cuộc truy sát, những tiếng thét thống khổ, khói bụi, đao búa, giáo và thương...

Đồng tử của tôi co lại, tôi cảm nhận được nó, chân tôi run như một trận động đất. Hối hả, tôi chạy bạt mạng đến ngôi nhà gạch đỏ nhỏ bé trong Chợ Bắc, không suy nghĩ mà lao vào khi cánh cửa chuyển động, cánh tay tôi dang ra, ôm lấy người mở cửa. Người đó bị hoảng sợ đột ngột, tôi cảm nhận được sự run rẩy của anh. Chỉ trong phút chốc, nỗi kinh hãi bị xua tan, dường như anh nhận ra tôi, tay anh vòng qua lưng tôi, đặt lên đó như để đáp lại cái ôm, như để dỗ dành một đứa bé khóc nhè. Nhưng tôi không khóc. Lòng tôi chỉ khô cứng, như ánh mặt trời thiêu cháy đi cánh rừng.

“Sao em đến đây?”. Giọng anh nhẹ nhàng.

Tôi gỡ mình ra khỏi anh, nắm lấy hai bờ vai của anh, môi tôi khô khốc.

“Em sắp gia nhập quân đội”.

“Ở tuổi này?”.

“Đúng vậy”.

Anh im lặng, điều đó như đốt trụi dạ dày của tôi, tôi chỉ có thể chờ đợi trong cơn bồn chồn và cổ họng bị tắc nghẹt. Rồi anh cười trấn định.

“Đó không phải điều tốt sao?”.

Tôi nhìn anh, anh không nhìn tôi. Tại sao anh không đối mặt với tôi? Anh nên nhận ra rằng nếu chiến tranh thật sự tràn đến, tôi có thể chết, bất cứ lúc nào, ở bất cứ nơi đâu.

“Nhưng còn anh?”. Tôi hỏi, miệng vẫn như hạn hán đang nhe răng chờ đợi một trận lũ. Đôi lông mày của anh không thả lỏng như mọi khi, nó nhăn lại một cách mơ hồ. Tôi cố gắng đọc nét mặt của anh, đến mức mũi của hai chúng tôi gần như đã chạm nhau. Sau một hồi yên tĩnh, giọng anh vang lên, bình thản hơn tôi nghĩ.

“Anh cũng sẽ nhập ngũ, khi Vương quốc cần anh”.

“Khi nào?”.

“Khi anh mười tám tuổi”.

Năm ngón tay tôi như muốn hoà làm một với da thịt của anh, tôi đã không nhận ra đôi mắt rắn rỏi ấy cho đến khi anh ngước mặt lên và nhìn vào tôi. Đó là quyết định của anh.

Anh không bỏ rơi Vương quốc, hoặc anh không bỏ rơi tôi, hoặc cả hai.

“Đến khi em chính thức trở thành một người lính, hãy nói với anh quân khu của em, anh sẽ vào cùng em”.

Lời anh nói như một điều ước. Tôi buông tay khỏi đôi vai đã ửng đỏ, nhìn vào nơi lẻo khoẻo khung xương cùng nước da nhợt nhạt đang sưng lên ở chỗ vừa bị nắm chặt, tôi bất giác cảm thấy có lỗi.

“Anh hứa đi”. Tôi nghe thấy giọng mình như bị mắc ngay cổ.

“Anh hứa. Nếu em đi, anh cũng sẽ đi, hai ta cùng lên tiền tuyến”.

Được chiến đấu cùng anh, tôi nhất định sẽ an tâm hơn. Tôi không thể đấu đá cả một ngày dài với đống xác người chất đống, sau đó về lại nơi này rồi chứng kiến cái thân thể đã lạnh ngắt của Jimin trên giàn hoả thiêu trong tưởng tượng của mình. Điều đó không được phép diễn ra, tôi sẽ không để nó diễn ra. Được phụng sự cho quê hương là một vinh dự, và anh chia sẻ điều đó, cùng tôi. 

Ngày hôm sau, như lời cha tôi đã nói, chúng tôi lên ngựa đi đến Lante, mất gần nửa ngày để hoàn thành chặng đường nên chúng tôi phải xuất phát khi mặt trăng còn chưa biến mất khỏi vùng trời và các chòm sao vẫn còn đậu ở phía Tây. Tôi không gặp Jimin trước khi rạng đông, khá dễ hiểu, không ai thường thức dậy vào giờ này. 

Binh lính đi theo sau chúng tôi, dẫn đầu đoàn là một vị sứ giả đến từ Lante. Chúng tôi băng qua sa mạc khô cằn và nóng như những hòn than đỏ hỏn, ít ra thì hạn hán đã không ảnh hưởng tới nơi này, vì chính nó còn khắc khoải hơn cả. Chúng tôi dự trữ đủ nước cho chuyến hành trình, đó là nguồn sống của chúng tôi. Không may, lũ kềnh kềnh khốn nạn đã mổ mất vài thùng khiến nước bị rỉ ra không ít. Vì để tiết kiệm nguồn tài nguyên hữu hạn quý giá, những người binh lính được cho ít nước đi, đương nhiên là trừ tôi và cha mình, cùng với vị sứ giả.

Có một người lính không chịu đựng được nên ngã nhào xuống lưng ngựa, do đó, chúng tôi kéo anh ta bằng một tấm bạc vừa với cơ thể anh. Giữa chặng nghỉ, tôi nhìn bọc nước bằng da trong tay mình, nếu là Jimin, anh ấy sẽ không ngần ngại chia sẻ nó. Tôi thở ra một hơi, đi đến chỗ người lính đang dần khát khô.

“Nếu tôi nhận, tôi sẽ bị bỏ lại”.

Đó là lời anh nói trong đau đớn khi tôi có ý tốt cho anh ta nước uống.

“Họ sẽ không bỏ ngươi nếu ta cũng ở lại”.

Tên lính đang cố cho tôi biết rằng anh ta ngạc nhiên như thế nào bằng cách mở to mắt nhất có thể, nhưng không có gì khác biệt ở kích cỡ. Sau một lúc giằng co với chút ý tốt của tôi, anh ta đã uống nó, ngay sau đó liền lập tức rơi vào giấc ngủ để hồi sức.

Đến nơi cũng đã quá giờ trưa, vùng đất Lante hiện tại không khác với Hectera là bao, vẫn là mặt đất đã bị hút cạn sự sống. Lante là thành phố lớn thứ hai sau Hectera, và nơi đây dường như hỗn loạn hơn một vài phần. Đôi khi, một vài vụ cướp bóc xảy ra trước mắt chúng tôi. Và binh lính, dưới lệnh cha tôi, đã giải quyết một phần trong số chúng vì lòng tốt của ông.

Cung điện của Công tước xứ Lante lớn hơn của chúng tôi và được trồng rất nhiều cây trái. Hệ quả của việc trồng vườn đó là hiện giờ chúng chẳng khác nào tàn dư của chiến tranh: héo hon, cơ cực. 

Chúng tôi được đón chào khá nhiệt tình, và rõ ràng, dân Hectera là những người đến khá trễ. Cha tôi được dẫn đến chính điện, trong khi tôi được một người quản gia đưa đến phòng tiếp đãi khách vì chưa đủ 16 tuổi để tham gia vào một cuộc họp trọng đại mang tính toàn quốc. Tôi ngồi trên băng ghế với đệm bông vô cùng mịn màng, tôi đoán đây không phải vải làm từ lông cừu, đó là một món hàng xa xỉ hơn thế. Không có nhiều người trong chỗ này, và điều đó khiến tôi cảm thấy hổ thẹn hơn là vinh dự. Bởi việc này chứng tỏ tôi là một trong số rất ít những kẻ bị ruồng bỏ vì tuổi tác. 

Trong lúc chán chường chẳng biết làm gì mà chỉ thầm giận cha mình, tôi nhìn qua góc trái của một băng ghế khác trong góc phòng. Nơi đó, một con bé nào đó đang nhìn tôi, cô bé rụt cổ lại ngay khi tôi bắt được ánh mắt của nó. Tôi giả vờ không để ý nhưng lại lấy tay vuốt mặt mình, tôi sợ những vệt cát dính dớp trên mặt sẽ khiến tôi trở nên lố bịch, nhưng may là không có. Tôi lại kiểm tra tóc bằng cách sờ lên chúng, chẳng có gì trên đó, cũng không có thứ gì kỳ quặc rơi xuống. Vậy thì tôi đã gây hoạ gì sao?

Bỗng, cô bé đứng dậy nho nhã đến trước mặt tôi, xòe tay ra với một viên kẹo màu trắng sữa nằm trên lòng bàn tay nhỏ của cô.

“Chào anh, anh là Jeon Jungkook?”.

Tôi giật mình trong một thoáng như hư không, chưa từng có ai ngoài những người thật sự tôi muốn họ gọi như thế, gọi cả họ tên của mình như vậy. Tôi đoán điều đó đã thể hiện trên nét mặt của tôi. Tôi cất tiếng, nghe khó chịu hơn tôi tưởng:

“Lord William, thưa quý cô”.

Nụ cười như đang đóng kịch của cô bé không thay đổi. Tay cầm kẹo thu lại, cô tiếp tục nói, lần này, giọng dịu dàng:

“Em là Rebecca Harlin, hai ngày nữa em mười bốn tuổi”.

Tôi hơi nhướng hai chân mày của mình như đang thắc mắc: Thì sao? Cô bé tên Rebecca gì đó bỗng dưng cười lên, tiếng cười điệu đà và nhẹ nhàng như những nữ quý tộc. Mái tóc nâu trà khẽ rung động theo điệu cười của cô bé. Sau vài giây, cô trả lời, giọng cô mang nét tự tin và sang trọng, như để khẳng định rằng cô là một Quý cô.

“Người ta gọi em là Tiểu thư Harlin, có vẻ như vợ chồng Công tước William đã không nói với anh một số chuyện”.

Tôi ngay lập tức hỏi lại, dứt khoát: “Chuyện gì?”.

Cô bé lắc đầu. 

“Tôi là con của họ thưa Tiểu thư”. Vì là con của họ nên tôi có phận sự được biết.

Tôi không nhận ra nét mặt không hài lòng của con bé đó cho đến khi cô cất tiếng: “Anh là Jeon Jungkook, anh không phải người ta, đối với anh, em là Rebecca”. Cô bé như nổi giận. Ý chỉ rành mạch rằng cô muốn tôi gọi cô bằng tên. Nhưng chúng tôi không thân nhau đến vậy, thậm chí tôi chỉ vừa biết màu tóc của cô bé vào một phút trước.

Cái điệu hống hách trên chiếc váy tinh xảo thướt tha khiến tôi khó ở. Tôi không kiêng dè mà phản biện: “Đối với tôi, thì đều như nhau. Còn đối với Tiểu thư, tôi là Lord William, xin hãy nhớ cho”. Rồi tôi im bặt, biết rõ bản thân không cần thiết phải trò chuyện với con người đó. Tôi bắt đầu tìm đến những quyển sách. Và cô bé vẫn biết nhục nhã nên đã không làm phiền gì thêm nữa. Thật bình yên.

Trong suốt thời gian chờ đợi, tôi đã cho mình tinh hoa của trọn vẹn một cuốn sách, một thế giới của hạnh phúc, của hoà bình, của những điều ước, mang tên “Đại ngàn”, là tựa của quyển sách. Tôi không nhớ rõ có bao nhiêu trang, tôi chỉ nhớ bức hoạ trong đầu mình được tô vẽ bởi những trang sách ấy. Một nhân vật chiến đấu vì lẽ sống ích kỷ, từng là một con người hách dịch, nhưng sau cùng lại đứng lên trao máu mình để đổi lấy lẽ sống cho người khác. Để rồi, thế giới của Alen - tên nhân vật điểm nhìn, trở thành thiên đường, một đại ngàn với cánh rừng mênh mông và muôn trùng hạnh phúc sau chiến tranh. Alen cầu hôn người mình yêu, cùng người đó ngắm nhìn đại ngàn của chính họ. Khu rừng trở thành ngôi nhà thứ hai của Alen, chính trong tâm anh cũng đã có một khu rừng như vậy, nó tràn đầy tình yêu và hoài bão. 

Một con người giành lại được cuộc đời đúng nghĩa dẫu vẫn còn những ám ảnh thời chiến, một con người thắng cuộc thứ gọi là tàn dư của chiến tranh, tôi chỉ ước mình có thể như Alen, rồi sẽ xây dựng một “Đại ngàn” xanh tươi ngay trên chiếc hồ tuổi thơ của mình. “Đại ngàn trên chiếc hồ xanh”, đó sẽ là tựa đề cho cuộc đời hạnh phúc của tôi khi chiến tranh đã chấm dứt. Tôi sẽ trở thành một anh hùng, một Công tước, sau cùng, tôi sẽ hạnh phúc.

Đọc đến trang cuối cũng là lúc tôi thấy cha tôi và mọi người kết thúc buổi họp. Vì trời đã ngả sang màu của Amethyst, chúng tôi đành nghỉ chân ở Lante một đêm, sớm ngày hôm sau sẽ lên đường trở về Hectera. 

*Amethyst: thạch anh tím.

Tối đó, tôi không ngủ được, có lẽ vì lạ chỗ. Tôi mở cửa phòng và nhìn xung quanh, không gian tĩnh lặng như tờ, và tôi rón rén bước về phía phòng tiếp khách. Cánh cửa hé mở, tôi trông thấy giữa ánh trăng mờ mịt từ cửa sổ hắt vào, một người đàn ông với mái tóc vàng độ gần 30 tuổi ngồi trên băng ghế dài màu xanh tối ngòm như những lớp giữa của đại dương. Tay anh cầm quyển sách, mắt anh chăm chú, cơ mặt anh thả lỏng và nhẹ nhàng. Tựa sách quen thuộc đối với tôi. 

“Ngài cũng thích nó sao?”. Giọng anh ta vang lên. “Tôi đã thấy ngài đọc nó vào chiều hôm nay”.

Anh ta hướng mắt về phía tôi, một đôi mắt của thần biển cả, một màu xanh thẫm.

“Ngài đến đây giờ này cũng là vì nó?”.

Tôi đáp: “Như ngươi cả thôi”. Và anh ta cười trong sự khó hiểu của tôi. Anh ta bước đến một cách từ tốn và tôi bắt đầu phòng bị, nhưng thật sự vô nghĩa vì anh ta chỉ tiến đến để đưa tôi quyển sách ấy. Tôi nhận lấy, và nghe thấy anh ta nói: “Quả là một viễn cảnh đẹp, tôi cũng mong có thể cùng vợ mình khám phá đại ngàn trong mơ đấy”. Anh ta gần như thì thầm.

Tưởng rằng người đàn ông đã đi khuất nhưng cái giọng nhẹ như lông vũ của anh ta giữa đêm khuya vẫn còn vang tiếp tục: “Xin giới thiệu, tôi là Hamendes, Hamendes Rough, hẹn gặp lại ngài trong quân đội”. Và anh ta đi mất. Tôi nhìn quyển sách to lớn với bìa cứng màu vàng đồng trên tay, bìa sách chỉ chạm nổi mỗi hai chữ - tên của nó, ngoài ra chẳng có gì khác. Giờ tôi mới để ý đến vẻ ngoài của những trang giấy vô hồn này. Thật giản đơn, bảo bọc một nội dung hàm súc, cô đọng, và thật hoang đường. Nhưng cũng rất đáng để mơ tưởng. Tên Hamendes kia có thể xây nên ngôi nhà trên đỉnh hạnh phúc hay không, tôi không biết, nhưng tôi nhất định sẽ làm được. Vì tôi là Lord William.

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top