[Nhà văn] Milan Kundera

Milan Kundera là một nhà văn Tiệp Khắc, hiện mang quốc tịch Pháp. Tác phẩm nổi tiếng nhất của ông là tiểu thuyết Đời nhẹ khôn kham.

Ông sinh ra trong một gia đình trí thức trung lưu, cha là Ludvik Kundera (1891-1971). Ludvik Kundera là học trò của nhà soạn nhạc Séc Leoš Janáček, hiệu trưởng Học viện Âm nhạc Janáček tại Brno từ năm 1948 đến 1961. Cha Kundera là người thầy dạy đàn piano đầu tiên của ông. Sau này Kundera cũng theo học nhạc lý. Tham khảo và ảnh hưởng âm nhạc có thể tìm thấy trong các tác phẩm của ông, thậm chí ông còn đưa các nốt nhạc vào giữa các trang viết của mình.

Ông tốt nghiệp trung học tại Brno năm 1948. Sau đó ông theo học văn học và mỹ học tại Khoa Nghệ thuật tại Đại học Karlova ở Praha, nhưng chỉ sau hai học kỳ, ông chuyển sang Khoa Điện ảnh tại Học viện Nghệ thuật biểu diễn Praha, ban đầu ông đăng ký học đạo diễn và viết kịch. Năm 1950 ông bị buộc dừng học vì các lý do chính trị. Sau khi tốt nghiệp vào năm 1952, ông được bổ nhiệm làm giảng viên văn học thế giới tại Khoa Điện ảnh.

Kundera thuộc về thế hệ những người Séc mà tuổi trẻ không được trải qua nền cộng hòa trước thế chiến. Ý thức hệ của họ bị ảnh hưởng nặng bởi Chiến tranh thế giới thứ hai và tình trạng quân Đức chiếm đóng. Vì vậy, năm 1948, khi còn rất trẻ, ông tham gia thành lập Đảng Cộng sản Tiệp Khắc. Năm 1950, ông và nhà văn Jan Trefulka bị khai trừ khỏi đảng vì lý do "chống đảng".

 Trefulka miêu tả sự kiện này qua tiểu thuyết Pršelo jim štěstí (1962) của ông; Kundera thì dùng sự kiện này như nguồn cảm hứng cho chủ đề chính tiểu thuyết Žert (Lời đùa cợt) ông viết năm 1967. Ông được tái kết nạp vào đảng năm 1956 và lại bị khai trừ năm 1970. Kundera cùng nhiều nghệ sĩ, trí thức Séc bị lôi cuốn vào sự kiện Mùa xuân Praha 1968 – giai đoạn cải cách chính trị ngắn ngủi bị đè bẹp bởi cuộc xâm lăng của Xô Viết vào tháng 8 năm 1968. Đây là thời điểm ông rút lui hoàn toàn khỏi đời sống văn hóa Séc.

Ông định cư ở Pháp từ năm 1975 và trở thành công dân Pháp từ năm 1981.

Ông qua đời sau một thời gian bệnh tật kéo dài tại Paris vào ngày 11 tháng 7 năm 2023, thọ 94 tuổi. Ông được coi mình là một nhà văn Pháp và khẳng định tác phẩm của anh ấy nên được nghiên cứu như Văn học Pháp và được phân loại như vậy trong các cửa hàng sách

oOo

Sự nghiệp sáng tác

Trong Žert (Lời đùa cợt - 1967), tiểu thuyết đầu tay, Kundera mang đến một cái nhìn châm biếm về tính chất toàn trị của chủ nghĩa cộng sản. Và cũng bởi những phê phán của ông đối với chế độ Xô Viết và sự xâm lăng đất nước ông của họ năm 1968, Kundera đã bị đưa vào sổ đen và tác phẩm bị cấm lưu hành chỉ một thời gian ngắn sau khi Liên Xô chiếm đóng Tiệp Khắc. Năm 1975, Kundera di tản sang Pháp, sau đó ông viết Kniha smíchu a zapomnění (Sách cười và lãng quên - 1979), cuốn tiểu thuyết mô tả những công dân Séc đối phó với chế độ Xô Viết bằng nhiều cách khác nhau. Cuốn sách là sự kết hợp khác lạ của tiểu thuyết, các truyện ngắn và những suy tư tán rộng của tác giả. Đó là tác phẩm thiết lập thời kỳ hậu lưu vong của tác giả.

Năm 1984, ông xuất bản Nesnesitelná lehkost bytí (Đời nhẹ khôn kham), tác phẩm nổi tiếng nhất. Ở tiểu thuyết này tác giả suy tư về sự mong manh của kiếp người, ai cũng chỉ sống cuộc đời mình một lần duy nhất và cũng có thể là đã chẳng sống tí nào. Ở đây không có chỗ cho sự lặp lại, kinh nghiệm, thử nghiệm và sai lầm. Năm 1990, Kundera xuất bản Nesmrtelnost (Sự bất tử), đây là tiểu thuyết cuối cùng ông viết bằng tiếng Séc, mang tinh thần thế giới và suy tư triết học dày đặc (và ít tính chính trị) hơn các tác phẩm khác. Đây cũng được xem là tác phẩm đánh dấu giai đoạn cuối cùng trong hành trình sáng tạo của tác giả.

Kundera luôn nhấn mạnh con người tác giả của mình với tư cách là một nhà tiểu thuyết, không phải là nhà văn phản kháng hay nhà hoạt động chính trị. Bình luận chính trị đã dần biến mất trong tác phẩm của ông (đặc biệt từ Sách cười và lãng quên). Phong cách tiểu thuyết của Kundera chủ yếu ảnh hưởng bởi các tiểu thuyết của Robert Musil và văn xuôi của Friedrich Nietzsche. Nguồn cảm hứng của Kundera không chỉ đến từ thời kỳ Phục hưng với François Rabelais và Giovanni Boccaccio, mà còn cả từ Laurence Sterne, Henry Fielding, Denis Diderot, Robert Musil, Witold Gombrowicz, Hermann Broch, Franz Kafka và Martin Heidegger. Ông còn tán rộng suy tư nhiều về chủ đề âm nhạc, phân tích dân ca Séc, trích dẫn từ Béla Bartók đến Leoš Janáček. Theo hướng này, xa hơn nữa, Kundera còn trích cả nốt nhạc xen giữa văn bản tiểu thuyết (ví dụ trong Lời đùa cợt), hoặc tranh luận về Arnold Schoenberg và hệ 12 âm.

Ở giai đoạn đầu, ông viết bằng tiếng Séc. Từ năm 1993, ông viết tiểu thuyết bằng tiếng Pháp. Từ 1985 đến 1987, ông xem lại và sửa cùng dịch giả bản tiếng Pháp các tác phẩm giai đoạn đầu của mình. Kết quả là tất cả các bản dịch tiếng Pháp các tác phẩm của ông đều có chứng nhận chất lượng của chính tác giả.

oOo

Milan Kundera: Từ người lưu vong đến tiểu thuyết gia vĩ đại

Các tiểu thuyết của Kundera đều hướng tới con người, với mong muốn bảo vệ con người trước những xô đẩy của thế giới xung quanh.

Milan Kundera là một trong những tiểu thuyết gia có sức ảnh hưởng lớn nhất của thế kỷ 20. Ông là tác giả của rất nhiều cuốn sách nổi tiếng với độc giả thế giới cũng như Việt Nam là Đời nhẹ khôn kham (1984), Nghệ thuật tiểu thuyết (1986), Điệu valse giã từ (1972),....

Theo CNN, phong cách văn chương của Milan Kundera cũng đan xen giữa sự dí dỏm, hài hước và những cuộc tranh luận triết học sâu sắc, những mô tả châm biếm về cuộc sống. Các nhà phê bình trên thế giới gọi Milan Kundera là một trường hợp vô cùng đặc biệt của văn học thế giới.

Là người rất tin tưởng vào sức mạnh của tiểu thuyết, ông cho rằng thể loại này nên được công nhận là một loại hình nghệ thuật của riêng nó. Kundera cũng dần trở nên ngày càng kỹ lưỡng và bảo vệ tác phẩm của mình. Đồng thời, các sáng tác của ông được ví như một bản giao hưởng, ở đó có những yêu cầu khắt khe về thanh âm, cấu trúc nhưng lại tạo ra một làn điệu tổng thể mềm mại và đậm tính cá nhân.

Mỗi tiểu thuyết đều cần hướng tới con người

Với Milan Kundera, ông cho rằng: "Tiểu thuyết gia không phải là người hầu của những sử gia." Trong các tác phẩm của ông, bối cảnh lịch sử chỉ là cái nền để từ đó tìm ra cái tôi trong nhân vật.

Đọc tiểu thuyết của Kundera, sẽ không thấy những gồng mình to tát, nhưng dư âm lại là một cảm giác nặng nề vô cùng. Đây chính là cái được gọi là Đời nhẹ khôn kham - theo tên cuốn tiểu thuyết thành công nhất của ông. Trong đó, cuộc đời con người hiện lên như một kiếp phù du nhẹ bỗng. Để rồi cuối con đường, khi nhìn lại, sự tồn tại trống rỗng, vô nghĩa trên cõi đời khiến ta thấy nặng trĩu.

Trong tác phẩm Những di chúc bị phản bội, Kundera đã thể hiện quan điểm về nghệ thuật viết tiểu thuyết cũng như sự tôn trọng dành cho các tác phẩm nghệ thuật và ý nguyện của người tạo ra chúng.

Ông kịch liệt chỉ trích những hành động coi thường, bóp méo ý nguyện của người sáng tạo nghệ thuật; làm tổn hại đến tác phẩm nghệ thuật của họ bằng cách chỉnh sửa, thêm, xóa, tự ý xuất bản hoặc biểu diễn, áp đặt tác phẩm, thời sự hóa nó, cắt nghĩa nó, biến nó thành chìa khóa để tọc mạch tiểu sử. Bên cạnh đó, ông luôn nhiều lần khẳng định, rằng:

"Nhà tiểu thuyết phải trình bày thế giới đúng như nó là thế: một bí ẩn và một nghịch lý."

Nếu đã từng đọc Milan Kundera, hẳn chúng ta đều nhận ra những nỗi ám ảnh về lưu vong, với những cuộc hành trình dài, ra đi và trở về trong suốt các tác phẩm của ông.

Đời nhẹ khôn kham là cuộc hành trình của Tomas, Tezera. Sự bất tử là hành trình của Agnés, Rubens. Điệu valse giã từ bắt đầu hành trình của Jakub, còn Vô tri là cuộc trở về bi kịch của Irena và Josef,...Mỗi cuộc đời của các nhân vật in dấu ấn một đoạn đời mà nhà văn trải qua. Đó cũng là một dấu ấn riêng độc đáo trong những sáng tác của Kundera.

Viết về những cuộc đời lưu vong không phải Kundera chỉ đang diễn tả thân phận của mình, mà với ông, kiếp đời lưu vong tiêu biểu nhất cho thân phận con người hiện đại. Bởi những người lưu vong là kết quả của cuộc biến động lịch sử, xã hội, những người lưu vong luôn phải gặp nhiều hoàn cảnh nghiệt ngã, là hiện thân của bất ổn xã hội.

Có thể nói, các tiểu thuyết của Kundera đều hướng tới con người, với mong muốn bảo vệ con người trước những xô đẩy của thế giới xung quanh và trước cả bản năng khiếp nhược trong mỗi người.

Mang âm nhạc vào trong văn chương, viết văn như soạn nhạc

Cha đẻ của Milan Kundera là học trò của nhà soạn nhạc thiên tài Leoš Janáček, cũng chính là người dạy đàn piano cho ông. Cho tới năm 25 tuổi, âm nhạc cuốn hút Kundera nhiều hơn là tiểu thuyết.

Về sau, âm nhạc có sức ảnh hưởng lớn tới sáng tác văn học của ông, không chỉ thông qua những tiểu luận xuất sắc về âm nhạc, mà còn tạo ra kết cấu và tính đa âm, như một bản giao hưởng trong những tiểu thuyết có một không hai của Kundera.

Đưa lý thuyết âm nhạc vào xây dựng tiểu thuyết, Kundera không chỉ muốn cách tân trong việc xây dựng kết cấu tác phẩm mà ở đó ông còn khao khát thể hiện những chủ đề lớn của nội dung.

Đó là những thời đại lịch sử khác nhau, đó có thể là những tính cách khác nhau hoặc những tư tưởng khác nhau... nhịp độ, tiết tấu góp phần thể hiện tình huống, sự kiện hoặc diễn tả biên độ về không thời gian.

Ví dụ tiêu biểu nhất cho cách tiếp cận này của Kundera là Những di chúc bị phản bội. Tác phẩm đã thể hiện cái nhìn uyên bác về nghệ thuật tiểu thuyết trong dòng chảy văn học và tương quan với những nghệ thuật khác mà cụ thể ở đây là âm nhạc. Đồng thời, đấy cũng là một tinh thần kiên định với thái độ tôn trọng với những nghệ sĩ lừng lẫy.

Như một hiệp sĩ rong ruổi dọc lịch sử văn hóa châu Âu, Kundera viết Những di chúc bị phản bội với tư cách là nhà phê bình văn học, nhà phê bình âm nhạc...

Ông dành sự quan tâm đặc biệt với các nhà văn lớn của thế kỷ XX như Franz Kafka, Thomas Mann, Hemingway, Rabelais và những nhà soạn nhạc mà ông ngưỡng mộ với lượng kiến thức gây choáng ngợp.

Cuối cùng, trong suốt sự nghiệp cầm bút của mình, dù xa lánh truyền thông và những ồn ào nơi văn đàn, Milan Kundera vẫn tạo một phong cách, một dấu ấn riêng của tác giả và cũng là điểm khởi đầu cho một tương lai phát triển của tiểu thuyết.

Sự nghiệp đồ sộ, tác phẩm độc đáo, mới mẻ đã khẳng định tầm cỡ của ông. Điều này giống như Proust đã viết: "Mỗi nhà văn buộc phải tạo một ngôn ngữ riêng, cũng như mỗi nghệ sĩ violon phải có được tiếng đàn không thể lộn lẫn."

Trải qua nhiều thăng trầm biến động trong lịch sử, chứng kiến sự ra đời và thoái trào của nhiều trào lưu văn học, ông vẫn giữ được vị trí một trong những tiểu thuyết gia xuất sắc nhất của thế giới.

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top