kknye-pntt
Không Kịp Nói Yêu Em là câu chuyện cảm động về mối tình đầy ngang trái giữa Tĩnh Uyển và Mộ Dung Phong. Giữa giang sơn và người đẹp, người anh hùng luôn phải chọn một. Lựa chọn đó sẽ đem lại hạnh phúc hay đau khổ cho Tĩnh Uyển và Mộ Dung Phong?
***
Trên chuyến tàu trở về nhà, Doãn Tĩnh Uyển đã gặp gỡ và giúp đỡ Mộ Dung Phong. Phút tạm biệt, anh để lại cho cô chiếc đồng hồ vàng khắc hai chữ “Bái Lâm”, và duyên phận của hai người cũng bắt đầu từ đó.
Hứa Kiến Chương – người bạn thanh mai trúc mã và cũng là chồng chưa cưới của Doãn Tĩnh Uyển bị Thừa Quân bắt xử, khép vào tội chết do buôn hàng cấm, mà Mộ Dung Phong chính là Cậu Sáu Mộ Dung – đại soái của Thừa Quân, Tĩnh Uyển đã một mình vượt đường xa xôi, nắm giữ hy vọng mong manh tìm đến nhờ Mộ Dung Phong giữ lại mạng sống cho Hứa Kiến Chương… Hai người trùng phùng ở đây, rồi lại ly biệt.
Hôn lễ của Tĩnh Uyển và Kiến Chương sắp diễn ra, Mộ Dung Phong vượt địch tuyến, bất chấp nguy hiểm để đến gặp Tĩnh Uyển, để nói cho cô biết rằng anh thực sự yêu cô: “Anh điên rồi mới thích em đến thế”. Họ gặp gỡ tạm thời, sau đó lại chia xa.
Trái tim đã chiến thắng lý trí, trước hôn lễ, Tĩnh Uyển đã trốn nhà ra đi, cùng với chiếc đồng hồ vàng khắc tên Bái Lâm, vượt đường sá xa xôi, bom đạn thời chiến, trèo đèo lội suối, chỉ để được gặp Mộ Dung Phong, chỉ muốn ở bên Mộ Dung Phong. Và họ đã được bên nhau như thế.
Nhưng rồi, “quốc gia vạn dặm, quan sơn như tuyết, loạn thế kinh mộng, nửa đời phồn hoa”, giữa giang sơn và người đẹp, người anh hùng luôn phải chọn một.
Là Tĩnh Uyển hay là thiên hạ đại cục?
Là tình yêu hay là lý tưởng?
Lựa chọn đó sẽ đem lại hạnh phúc hay đau khổ cho Tĩnh Uyển và Mộ Dung Phong?
Phần một: Gặp được tình yêu
Chương 1
Gần tối gió lạnh thổi vào từ cửa sổ tàu đang mở, chiếc váy dài thêu ren tinh xảo màu đỏ phất phơ như cánh hoa trong gió, mái tóc dài cũng bị thổi tung lên, nhưng lại không nỡ đóng cửa. Bên ngoài cửa sổ là cảnh hoàng hôn ảm đạm, tất cả đều như cách một lớp kính mờ, những đồng bằng, những căn nhà, những dãy núi xa xa lướt nhanh qua trong mơ hồ, tiếng bánh xe xình xịch nhưng vì đã nghe quen ngược lại không hề cảm thấy ồn ào.
Tiếng ồn ào nổi lên, Doãn Tĩnh Uyển liền quay đầu lại nhìn vào cửa toa, chú Phúc, người giúp việc đi theo nói: “Đại tiểu thư, tôi ra ngoài xem sao”. Chú Phúc làm việc rất thận trọng, lần này đi rất lâu không quay lại, Minh Hương người đi cùng cô sốt ruột, nói: “Cái chú Phúc này, làm việc lúc nào cũng lề mà lề mề, lâu như vậy mà vẫn chưa về. Đây là ở trên tàu hỏa, có khi chú ấy đi xem kịch rồi cũng nên?”. Doãn Tĩnh Uyển phì cười, nói: “Xem kịch cũng không thể bỏ lại chúng ta được”. Một lúc sau, vẫn không thấy chú Phúc quay lại, lúc đó Doãn Tĩnh Uyển mới hơi lo lắng, đây là lần đầu tiên cô xa nhà, Minh Hương chỉ là một cô bé, mọi việc đều do chú Phúc lo liệu. Lại đợi thêm một lúc nữa vẫn chưa thấy chú Phúc quay lại, trong lòng Doãn Tĩnh Uyển sợ xảy ra chuyện, nói với Minh Hương: “Chúng ta đi tìm chú Phúc thôi”.
Họ bao hai căn phòng hạng nhất trong toa tàu, trưởng toa đương nhiên là ân cần niềm nở, vừa thấy họ ra ngoài lập tức đi đến từ hàng lang đầu bên kia: “Tiểu thư, người của Dĩnh quân đang rà soát tàu, tiểu thư nên quay về phòng thì hơn”. Minh Hương bĩu môi nói: “Từ lúc tàu ra khỏi thành Ký Nguyên, họ soát đi soát lại giống như cái lược chải bảy, tám lần, cho dù là con rận cũng bị họ nhặt ra từ lâu rồi, còn soát cái gì mà soát hả?”. Doãn Tĩnh Uyển sợ xảy ra sự cố, nói: “Minh Hương, nói ít thôi”. Trưởng toa đó cười nói: “Chắc chỉ là soát tội phạm nào đó, nghe nói trong toa hạng ba đã bị soát hơn chục lần rồi, kéo từng người ra một, cũng không tìm được người”. Minh Hương “ôi chao” một tiếng, nói: “Hóa ra là tìm người à, mình còn tưởng tìm vàng bạc châu báu chứ”.
Trưởng toa đó nói lỡ miệng, cũng liền cười xòa nói tiếp: “Cũng chỉ đoán họ đang tìm người mà thôi – việc như vậy ai biết chứ”. Doãn Tĩnh Uyển nói với Minh Hương: “Vậy chúng ta quay lại thôi”. Cô lại nói với trưởng toa: “Nếu thấy chú Phúc, người làm của chúng tôi, thì bảo ông ấy mau quay lại”, vừa nói, vừa đưa mắt ra hiệu, Minh Hương liền lấy ra một đồng đưa cho trưởng toa, trưởng toa nhận lấy, đương nhiên vui không kể xiết, luôn miệng nói: “Tiểu thư yên tâm”.
Họ quay về phòng, một lúc sau, chú Phúc mới quay lại, đóng cửa phòng lại, bấy giờ mới hơi tỏ ra lo lắng, nói thật nhỏ với Doãn Tĩnh Uyển: “Đại tiểu thư, xem ra tình hình này không ổn”. Doãn Tĩnh Uyển đưa mắt ra hiệu cho Minh Hương, Minh Hương liền canh ở cửa phòng, chú Phúc nói: “Không biết người của Dĩnh quân đang tìm nhân vật quan trọng nào, soát từng toa tàu nhiều lần như vậy, bây giờ chỉ còn toa tàu hạng nhất này chưa tìm thôi. Tôi thấy dáng vẻ của họ, có vẻ không soát đến cùng không chịu thôi, chỉ sợ chúng ta sớm muộn gì cũng không trốn được nữa”. Doãn Tĩnh Uyển nói: “Bây giờ vẫn chưa ra khỏi ranh giới Dĩnh quân, chúng ta có giấy thông hành đặc biệt, chắc sẽ không có sai sót đâu, mong đừng thêm phiền phức gì nữa”.
Tuổi cô tuy không lớn, chú Phúc thấy cô bình tĩnh kiềm chế, không khỏi thầm thán phục, nghe thấy trưởng toa rung chuông ở hành lang, là tín hiệu dùng bữa, liền hỏi: “Đại tiểu thư đến toa ăn, hay là gọi người đưa cơm vào trong?”. Doãn Tĩnh Uyển nói: “Đến toa ăn, cứ chết dí ở trong phòng sẽ sinh bệnh mất”. Nói cho cùng trẻ tuổi vẫn có chút tính khí trẻ con, chỉ ngồi một ngày tàu hỏa đã cảm thấy ngột ngạt, do đó chú Phúc ở lại trông hành lý, cô và Minh Hương đến toa ăn trước.
Trong toa ăn thật ra cũng ngột ngạt như thế, tất cả các cửa sổ chỉ kéo hở một khe, vì tàu hỏa đang đi, sức gió rất mạnh, khiến khăn trải bàn trên bàn ăn hơi lật lên, giống như có một bàn tay vô hình nâng lên rồi lại hạ xuống. Thức ăn trên tàu đương nhiên chẳng ra gì, cô đi du học từ nước ngoài về đã ăn ngán đồ Tây, chỉ nhằm vào bát canh củ cải ngọt đó, ăn hai cái bánh quy, đợi Minh Hương ăn xong, gọi thêm một phần cho chú Phúc. Tính cách Minh Hương hoạt bát, đi trước dăm bước, cô vừa ra khỏi toa ăn, bỗng nhiên thấy mấy người xông vào từ đầu toa bên kia, hai người trước chặn ở cửa toa, một người khác gọi trưởng toa sang một bên nói chuyện, những người còn lại ánh mắt như mũi tên, dò xét tứ phía trong toa tàu.
Trong toa tàu hạng nhất đương nhiên đều là người có tiền có quyền, mấy người đó còn đang đàm phán với trưởng toa, Doãn Tĩnh Uyển coi như không liên quan đến mình, nhìn một cái rồi đi về phòng, Minh Hương mang cơm về phòng cho chú Phúc, cô ngồi xuống rót cho mình một cốc trà, đang cầm sách lên, bỗng nghe thấy cửa phòng bị đẩy ra, ngẩng đầu lên nhìn, là một thanh niên tuấn tú rắn rỏi, chỉ hơn hai mươi tuổi, thấy cô cười áy náy nói: “Xin lỗi, tôi vào nhầm phòng”.
Cô thấy anh mặt mày xán lạn, rõ ràng là một công tử nhanh nhẹn, trong tích tắc, người đó bỗng nhiên quay đầu lại hỏi cô: “Cô mới từ Nga về?”. Cô kinh ngạc sợ hãi, ánh mắt nhìn xuống, nhìn thấy trên bìa cuốn sách của mình viết một hàng chữ tiếng Nga mới hơi thở phào nhẹ nhõm, nói: “Tiên sinh, cách bắt chuyện của anh không hay chút nào”. Anh không hề lúng túng, ngược lại cười rất ung dung nói: “Tiểu thư, tôi cũng mới từ Nga về cho nên mới muốn bắt chuyện với cô”.
Cô bất giác mỉm cười, đang định nói tiếp, bỗng nhiên đầu kia toa tàu có tiếng ồn ào lớn, cô không nén được đứng dậy đi về bên đó, hóa ra mấy người của Dĩnh quân và trưởng toa đang thương lượng không bên nào chịu bên nào, hai người ép trưởng toa sang một bên, những người còn lại bắt đầu lục soát từng căn phòng. Cô nhìn mấy người đó mời hết hành khách nam đi một mình ra khỏi toa, kiểm tra từng người, trong lòng bất giác âm thầm kinh ngạc, bỗng nhiên nghe thấy người bên cạnh nói nhỏ như thì thầm, nhưng là tiếng Nga: “Помогите мне” (giúp tôi).
Cô kinh ngạc quay đầu lại, dưới ánh đèn trần vàng vọt, ánh mắt anh sâu thẳm khó lường, đen như sắc đêm ngoài cửa sổ, không nhìn ra bất cứ đầu mối nào. Trong chớp mắt cô đã hiểu, hóa ra tình cảnh trên cả quãng đường này đều là vì anh mà ra, rốt cuộc anh là ai? Cô không nên gây bất cứ phiền phức nào, nhưng anh gần cô đến thế, trên người có mùi thuốc lá vị bạc hà nhạt nhạt, giống như mùi trên người Hứa Kiến Chương, gần gũi quen thuộc. Người soát tàu đã ở gần khoảng ba mét, chỉ cách họ một căn phòng, cô hơi chần chừ, anh nhẹ nhàng đẩy ra, kéo cô vào trong phòng. Trái tim cô đập thình thịch, hỏi nhỏ: “Anh là ai?”.
Anh đưa ngón trỏ lên, ra hiệu im lặng, đã có người gõ mạnh cửa phòng, cái khó ló cái khôn anh nằm lên giường, thuận thế kéo cô ngồi xuống giường, đồng thời tiện tay cầm cuốn sách của cô lên, cô không kịp có bất cứ phản ứng gì, cửa phòng đã bị mở ra. Cô đứng bật dậy, anh cũng giống như bị giật mình, đặt sách xuống quát hỏi: “Làm cái gì thế?”.
Mấy người đó quan sát hai người họ không rời, trong lòng cô như có người đánh một tràng trống dồn dập, anh lại vô cùng trấn tĩnh, kệ đám người đó dò xét. Mấy người đó nhìn ngó một lát, nói với người dẫn đầu: “Anh ra đây”. Anh biết không trốn được nữa, hoặc là bây giờ bị lục soát, hoặc đến bến sau bị giải xuống tàu, chỉ cần thân phận bại lộ, đều là kiếp nạn khó thoát, tuy lòng như lửa đốt, ánh mắt lại vẫn như không, ung dung thản nhiên nhìn Doãn Tĩnh Uyển một cái, chầm chậm đứng dậy.
Doãn Tĩnh Uyển thay đổi suy nghĩ, cười nói: “Các vị quan lớn hãy khoan, chúng tôi là thương nhân chân chính, không biết nhà tôi mắc tội gì, mấy vị quan lớn muốn đem anh ấy đi đâu?”. Vừa nói, vừa lấy giấy thông hành đặc biệt ra, người dẫn đầu nghe nói họ là vợ chồng, sắc mặt hơi dịu lại, cầm lấy giấy thông hành đó xem, liền nở một nụ cười: “Hiểu nhầm, hiểu nhầm, làm phiền hai vị rồi”, rồi chầm chậm lui ra ngoài, ánh mắt lại vẫn chăm chú nghi ngờ nhìn hai người, tiện tay giúp họ đóng cửa phòng, cửa lại không đóng kín, chừa lại một khe hở.
Mồ hôi lạnh đã toát dưới lần áo trong của cô, thấy tình thế bất lợi, không biết nên làm thế nào mới ổn, anh bỗng nhiên đi tới kéo cô vào lòng, không đợi cô phản ứng lại, anh đã bất ngờ hôn cô. Cô cực kỳ hoảng sợ, dường như tất cả máu đều ào ào chảy lên não. Sự tiếp xúc xa lạ mà nóng bỏng ấy, cảm giác chưa từng có, hơi thở và sức nóng lạ lẫm trên môi, cô vùng vẫy theo bản năng, lại bị sức lực của anh siết lấy không thể động đậy. Cô chưa từng tiếp xúc thân mật như vậy với đàn ông, hơi thở của anh lấp đầy mọi thứ, giống như thiên la địa võng không thể trốn chạy. Cô cảm thấy bản thân mình bị cuốn vào trong gió lốc, không thể nghe thấy gì, không thể nhìn thấy gì, cảm giác duy nhất là sự nóng bỏng trên môi, cùng với sự cướp đoạt gần như thô bạo của anh. Cánh tay anh bỗng nhiên buông ra, cô lập tức tát một cái không hề suy nghĩ, tay anh vừa bỏ ra đã nắm lấy cổ tay cô, nói nhỏ: “Xin lỗi”.
Cô quay đầu lại, thấy cửa phòng đã khóa, giờ mới hiểu ra, chỉ là quá phẫn nộ, giơ tay tát thêm một cái, anh lại không hề tránh, chỉ nghe “chát” một tiếng, tay đã tát mạnh vào mặt anh. Cô thấy anh ra tay lần đầu tiên, đã biết dù thế nào mình cũng đánh không lại anh, nhưng không ngờ anh lại không hề ngăn cản mình tát lần thứ hai, hơi thảng thốt, chỉ thấy trên mặt anh dần dần hiện lên vết ngón tay, anh lại chỉ mỉm cười, nói: “Cảm ơn cô”.
Cô hừ một tiếng, nói: “Coi như anh may mắn, tôi đang có cửa, có giấy thông hành trong tay, mới có thể đuổi đám người đó đi, nếu không thì vẫn bị anh liên lụy”. Thật là quỷ ám, ma xui quỷ khiến mới giúp đỡ anh, thấy vết ngón tay mờ mờ trên mặt anh, cô thấy hơi có lỗi, “này” một tiếng, hỏi: “Anh tên là gì?”.
Anh nghĩ một lát. Nói: “Tôi họ Lục, Lục Tử Kiện”. Cô cười tươi: “Trùng hợp thế, tôi họ Ngũ, Ngũ Tử Tư”(*).
Anh biết cô biết rõ bản thân mình báo tên giả, cố ý trêu chọc như thế, lúc đó chỉ mỉm cười, nói: “Có thể đi cùng tàu với tiểu thư, cũng coi như là có duyên phận, tuy đại ân không thể cảm tạ hết, nhưng vẫn xin hỏi quê quán tiểu thư, hôm khác sẽ đến nhà cảm tạ”. Cô thấy giữa hàng lông mày của anh ẩn hiện sự lo âu, nói: “Bỏ đi, tuy anh mạo phạm tôi, cũng là bất đắc dĩ, tôi cũng đã tát anh một cái, chúng ta coi như hòa”. Tuổi cô tuy nhỏ, nhưng tính khí rộng rãi cởi mở, anh hơi chần chừ, nhưng không truy hỏi nữa. Cô nhìn thấy ánh đèn dần tắt bên ngoài cửa sổ, nói: “Hết đêm nay, đợi qua địa giới của Dĩnh quân, tôi đoán anh sẽ không sao nữa”. Anh thấy cô thông minh nhanh trí như vậy, khóe môi hơi mấp máy, muốn nói lại thôi, nhưng cô lại đoán được ý nghĩ của anh: “Dù sao tôi đã bị thiệt lớn rồi, thiệt thêm chút nữa cũng chẳng sao, đưa Phật đưa đến Tây Thiên, để anh nhớ đến cái ân huệ lớn lao này của tôi cả đời. Mấy người bên ngoài nhất định vẫn chưa đi, thế nào cũng phải đến Dư Gia khẩu mới chịu xuống xe”. Cô vừa nói, vừa chăm chú nhìn sắc mặt anh, nhắc đến Dư Gia Khẩu, đôi lông mày anh hơi chau lại, đó là tuyến giáp giới của hai quân Thừa – Dĩnh, hai quân Thừa – Dĩnh mấy năm nay đánh đánh ngừng ngừng, nửa năm nay tuy nói là đình chiến, nhưng hai bên đều đóng trọng binh ở Dư Gia Khẩu, đại bản doanh phía Nam của Thừa quân trú trong thành Vĩnh Tân cách Dư Gia Khẩu không xa.
Cô gọi Minh Hương đến ngồi cùng mình, tuổi Minh Hương tuy nhỏ hơn cô, nhưng đã đi xa nhà mấy lần rồi, thấy có người lạ, Minh Hương thông minh không hề dò hỏi. Hai người họ chen chúc trên một chiếc giường, anh tựa người trên chiếc giường đối diện nhắm mắt nghỉ ngơi, nửa đêm tàu đến Dư Gia Khẩu, anh không xuống tàu, trong lòng cô thầm thấy lạ. Cô vốn dĩ nửa đêm không ngủ, cực kỳ mệt mỏi, đến ba, bốn giờ sáng, không chịu được ngủ thiếp đi, vừa chợp mắt một lát, trong mơ hồ bỗng cảm thấy có người đi lại, gượng mở mắt ra, tàu đã dừng, chỉ không biết là đến bến nào. Bên ngoài đèn đuốc sáng trưng, trên sân ga toàn là người đứng gác. Cô chợt mở to mắt, anh đã mở cửa phòng, đứng ở cửa bỗng nhiên lại quay đầu lại, trong bóng tối lặng lẽ nhìn một lát. Cô không biết anh đang nhìn gì, trong nháy mắt, anh đã quay đầu rời đi.
Tất cả mọi người trên tàu đều đang ngủ, dường như chỉ có một mình cô thức, bốn bề chìm trong tĩnh lặng, chỉ nghe thấy tiếng nói chuyện lúc có lúc không trên sân ga, tiếng bước chân lộn xộn, tiếng động cơ ô tô… xen lẫn tiếng tích tắc đơn điệu, rất lâu sau, cô mới phát hiện ra âm thanh đơn điệu đó phát ra từ bên cạnh chiếc gối của mình, chẳng trách thấy gần như vậy. Đưa tay ra, nhờ ánh đèn xuyên qua rèm cửa trên sân ga, nhận ra là một chiếc đồng hồ quả quýt vàng tinh xảo, dây đồng hồ nhỏ bé uốn lượn bên cạnh gối, cô nắm nó trong tay, nghe tiếng tích tắc tích tắc trĩu nặng như một trái tim không an phận, tàu đã lại chầm chậm khởi động.
Buổi trưa, đến ga Quý An, sau khi dừng lấy thêm nước, mãi mà tàu không chạy, chú Phúc sau khi đi thăm dò về, nói: “Người của nhà ga nói sẽ có xe riêng đến, nên phải đợi đã”. May mà cũng không phải đợi lâu, xe riêng đã tới. Cuối cùng đến chiều cũng tới được Thừa Châu, nhưng lại không thể vào ga, mà chỉ có thể dừng lại ở trạm dừng xe nhỏ của Cừ Giang bên ngoài thành Thừa Châu, Doãn Tĩnh Uyển lờ mờ đoán ra tình thế khác lạ, nhưng việc đã đến nước này, đành tùy cơ ứng biến. Hành khách xuống xe ở Cừ Giang, ở đó không có ô tô, may mà cách thành không xa lắm, nên có người đi bộ, có người gọi xe kéo đi vào thành.
Vào thành càng cảm thấy tình hình kỳ lạ, Thừa Châu là căn cứ chính của Thừa quân, hành dinh đốc quân được đặt ở đây, cảnh giới trong thành nghiêm ngặt, tất cả các cửa hàng đều đang xếp hàng, ô tô nườm nượp, quân đội điều động, rõ ràng là đã xảy ra chuyện lớn. Chú Phúc tìm một thương gia bên đường hỏi thăm, rồi thở hồng hộc chạy về nói với Doãn Tĩnh Uyển: “Đại tiểu thư, xảy ra chuyện rồi, đại soái Mộ Dung bệnh nặng, Cậu Sáu quay về hạ lệnh toàn thành giới nghiêm, chỉ sợ lại phải đánh trận”.
Doãn Tĩnh Uyển lo lắng, nói: “Chúng ta tìm một nơi để ở trước đã”. Trong lòng cô lờ mờ cảm thấy không ổn, Mộ Dung Phong, con trai duy nhất của đốc quân Thừa châu Mộ Dung Thần, cảnh vệ và thuộc cấp chính quy của Thừa quân đều gọi anh ta là “Cậu Sáu”, vì trước anh ta có năm người chị, Mộ Dung Thần hơn bốn mươi tuổi mới có một người con trai, đương nhiên yêu quý Mộ Dung Phong như con mắt mình, anh ta đã kịp quay về, hạ lệnh giới nghiêm toàn thành, chứng tỏ bệnh tình của Mộ Dung Thần vô cùng nguy cấp.
Quả không sai, sáng sớm hôm sau, Thừa quân liền đánh điện thông báo toàn quốc, công bố tin qua đời của Mộ Dung Thần. Hóa ra Mộ Dung Thần trúng gió đột tử đã được bốn ngày, nhưng vì Mộ Dung Phong xuống phía Nam chọn mua quân nhu, nên mấy thuộc cấp thân tín của nhà Mộ Dung lo lắng tình hình chấn động, chủ trương không phát tang, đợi Mộ Dung Phong về Thừa Châu mới công bố.
Doãn Tĩnh Uyển bảo chú Phúc đi mua tờ báo không kìm được sự lo lắng, chú Phúc nói: “Nhìn tình hình này, chắc còn rối loạn một thời gian nữa, chỉ sợ chuyển hàng không thuận tiện”. Doãn Tĩnh Uyển do dự chốc lát, nói: “Ở thêm hai ngày nữa, đã tới thì an tâm ở lại. Chưa biết chừng tình hình có thể ổn định lại”. Thấy chú Phúc có vẻ hơi không đồng tình, cô liền nói: “Cháu nghe nói Cậu Sáu này từ nhỏ đã lớn lên trong quân đội. Sự biến Dư Gia Khẩu năm đó, anh ta đang luyện binh trong đại bản doanh phía Nam, không ngờ cận kề tình cảnh nguy hiểm, cuối cùng lấy ít thắng nhiều, một người mười bảy tuổi đã làm được việc lớn như thế, bây giờ tất nhiên có thể dẹp yên tình hình”.
Chương 2
Giới nghiêm toàn thành Thừa Châu thêm vào tổ chức tang lễ, quả thật hơi có vài phần khiến người ta lo sợ. Họ ở trong quán trọ, ngoài ăn cơm, không hề xuống lầu, Doãn Tĩnh Uyển quá buồn chán, liền ở trong phòng chơi bài với Minh Hương. Mộ Dung Phong quả nhiên làm việc quyết đoán dứt khoát, trong vài ngày liền quân đội hùng hậu áp sát, ép Dĩnh quân không dám manh động, hai bên giằng co vài ngày, tình thế thật sự dần dần yên ổn trở lại.
Tuy vậy, Doãn Tĩnh Uyển vẫn nghe theo lời chú Phúc, chỉ chọn mua một nửa số hàng vận chuyển đi trước, còn họ quay về Càn Bình. Thành Càn Bình vốn dĩ là cố đô của triều trước, bây giờ tuy không còn là khu vực dẫn đầu, nhưng vẫn là bảo vật tinh hoa, là thành phố phồn thịnh, tất nhiên không giống với những địa phương lân cận.
Họ Doãn là gia tộc danh giá ở quận Càn Bình, đại tộc trâm anh mấy đời, sau này dần dần lụn bại. Căn nhà này của họ từ lúc ông cố bỏ nghiệp văn theo nghề buôn bán, nên mới phồn thịnh trở lại, đến đời Doãn Sở Phàn cha của Doãn Tĩnh Uyển, thì việc làm ăn càng lớn, chỉ là ít con cái có mỗi cô con gái nên Quý Như Ngọc, được nuôi như con trai, lần này tự cô muốn đến phía Bắc, cha mẹ không cản được, đành đồng ý. Nhận được điện báo của cô, họ đã phái lái xe đến bến tàu đón.
Doãn gia nhà cao cửa rộng xây theo kiểu cũ, con đường xi măng mới láng thông thẳng đến tận trong khu nhà, bác Trương, người làm chăm hoa lan đằng sau cổng vòm, vừa nhìn thấy ô tô đi vào, liền kêu ầm lên: “Đại tiểu thư về rồi”. Bác Ngô, bác Lý trong nhà trên đều chạy ra đón, hớn hở giúp cô xách hành lý, lại dìu cô đi vào. Doãn gia vốn là khu nhà cũ, nhà trên mới sửa, khung cửa sổ bằng kính lớn trong suốt sáng lóa hướng về phía Nam, cô vừa bước vào, nhìn thấy mẹ đang bước từ gian trong ra, ánh nắng chiếu vào bộ sườn xám gấm màu xanh ngọc mẹ cô đang mặc, ánh lên chữ Thọ nhỏ thêu bằng chỉ bạc, tuy cô không nhìn rõ vẻ mặt của mẹ, nhưng trong lòng mừng rỡ vô hạn, cô cất tiếng gọi: “Mẹ”. Doãn phu nhân nói: “Con về rồi đó à”, rồi kéo tay cô với vẻ thương xót, chăm chú nhìn cô một lượt, lại nói: “Cha con luôn oán trách, nói ông ấy đã chiều con quá, chiến tranh loạn lạc, con gái một thân một mình chỉ sợ con xảy ra chuyện”. Doãn Tĩnh Uyển thấy cha cũng đã đi ra, tươi cười rạng rỡ nói: “Có thể xảy ra chuyện gì chứ, không phải là con yên ổn trở về rồi sao?”. Doãn Sở Phàn vốn đang hút tẩu thuốc, lúc này mới nở một nụ cười, nói: “Về là tốt rồi, về là tốt rồi”.
Lần đi xa này, tuy có chút hoảng sợ nhưng may không nguy hiểm, người nhà vô cùng lo lắng, thấy cô trở về bình an vô sự mới thở phào nhẹ nhõm, cô vốn du học nước ngoài về, bản thân cảm thấy trên thế giới không có gì là không thể, chút nguy hiểm này chỉ coi như là truyền kỳ thú vị, trước mặt cha mẹ ngậm miệng không nói, chỉ chọn những tin thú vị trên đường đi để kể, Doãn phu nhân thì không nói gì ông Doãn Sở Phàn nghe thấy, cũng hơi tán thưởng. Doãn phu nhân liền quở trách: “Xem ông chiều nó kìa, tối qua còn oán trách hôm nay lại tha cho nó”. Đang nói chuyện, bác Ngô bên cạnh bước lên hỏi: “Số va ly đại tiểu thư mang về, nên thu dọn thế nào đây?”.
Bấy giờ Doãn Tĩnh Uyển nhớ ra, nói: “Con đem rất nhiều đồ về đấy. Đồ da ở phương Bắc rẻ lắm, mẹ, con mua cho mẹ tấm da rái cá hàng cao cấp, đủ làm một chiếc áo khoác”. Cô bảo người lấy chiếc va ly lớn nhất ra, mở từng cái cho cha mẹ xem, ông Doãn Sở Phàn thấy bên trong có một hộp gấm, tiện tay mở ra, hóa ra là một củ nhân sâm già rất tốt, liền nói: “Lần sau đừng đem đồ này về, nguy hiểm lắm”. Doãn Tĩnh Uyển tươi cười nói: “Con chỉ đem một củ nhân sâm về, chẳng lẽ có thể nói con vận chuyển thuốc lậu chắc?”. Tiếp đó cô lấy ra một hộp giấy in hoa nổi, nói: “Con cũng đem đồ về hộ Kiến Chương này”. Doãn phu nhân mắng yêu: “Thật không lễ phép, ngay cả một tiếng anh cũng không gọi, Kiến Chương này Kiến Chương nọ, người ta nghe thấy thì ra gì chứ”. Mẹ cô còn nói: “Anh Hứa của con nghe nói hôm nay con về, bảo chiều sẽ đến thăm con đấy”. Doãn Tĩnh Uyển nghe thấy, vặn vặn người, nói: “Con rất ổn, cần anh thăm làm cái gì”.
Doãn phu nhân cười không nói, Doãn Tĩnh Uyển khiến bà cười đến rũ ra, cô lại hơi quở trách một tiếng: “Mẹ”. Doãn phu nhân nói: “Mau đi tắm rửa thay quần áo, lát nữa ăn cơm”.
Đi vào một sân vườn, mới là phòng ngủ của Doãn Tĩnh Uyển, bác Ngô đã chuẩn bị sẵn nước tắm cho cô, Minh Hương giúp cô thu dọn một ít hành lý lặt vặt đem về. Tắm xong, Minh Hương đã giúp cô đặt đồ trang sức lên bàn trang điểm, cô ngồi xuống chải tóc, bỗng nhiên nhìn thấy chiếc đồng hồ quả quýt đó được đặt trên bàn, viên đá nhỏ trên nắp lấp lánh xinh đẹp dưới ánh đèn. Cô biết đây chính là đồng hồ của Patek Philippe(*), giá không rẻ, có lẽ anh muốn dùng nó để cảm ơn? Trên tàu thời gian vội vã không xem kỹ liền cất đi, lúc đó cảm thấy chiếc đồng hồ này cực kỳ tinh xảo, dựa vào ánh đèn chỉ nhìn thấy trên nắp có khắc một hàng chữ màu vàng, đưa ra trước đèn hóa ra là hai chữ “Bái Lâm”. Cái tên này quen quen, hình như đã nghe thấy ở đâu, bỗng nhiên Minh Hương nói: “Đại tiểu thư, Hứa thiếu gia đến rồi”. Trong lòng cô mừng rỡ, vội vã nhét chiếc đồng hồ vào ngăn kéo, lại soi gương sửa tóc, rồi mới đi ra.
Hứa Kiến Chương đang nói chuyện với Doãn Sở Phàn trong phòng khách, sắc trời tối dần, trong phòng khách bật đèn tường, Tĩnh Uyển nhìn thấy hình bóng quen thuộc đứng trước cửa sổ, nhanh nhẹn như cây ngọc trước gió, có lẽ là đi ra quá vội, tim cô cứ đập thình thịch. Hứa Kiến Chương đã nhìn thấy cô, hơi gật đầu cười nói: “Tĩnh Uyển xa nhà một chuyến, cũng ra dáng người lớn rồi”. Tĩnh Uyển vênh mặt lên, nói: “Em vốn dĩ là người lớn mà, chẳng lẽ em vẫn là trẻ con sao?”. Cô vừa quở mắng vừa giận dỗi, bông hoa tai ngọc phỉ thúy hình chiếc lá thu sàn sạt cọ vào cổ áo, Doãn phu nhân nói: “Con bé này không biết lớn bé gì, may mà anh Hứa của con không phải người ngoài, làm gì có ai nói móc như con hả?”. Bà nói tiếp: “Nói chuyện với anh Hứa của con đi, mẹ đi xem xem cơm chuẩn bị thế nào rồi”.
Bà đứng dậy đi xem người làm thu dọn phòng ăn, Doãn Tĩnh Uyển thấy ông Doãn Sở Phàn cũng mượn cớ bỏ đi, liền cười nói với Hứa Kiến Chương: “Em mang về cho anh một hộp xì gà”. Hứa Kiến Chương thấy cô thay Âu phục, màu ráng chiều rất nhạt, dưới ánh đèn, cô mềm mại xinh đẹp như một bông hoa rẻ quạt, liền hỏi nhỏ vặn lại: “Không phải em bảo anh đừng hút thuốc sao?”. Doãn Tĩnh Uyển nghe thấy anh nói vậy, cũng không kìm được cười tươi, dừng lại một lát mới nói rằng: “Trên đường em cứ nghĩ, thực ra mùi thuốc lá cũng rất dễ chịu”.
Anh nghe thấy cô nói như vậy, cũng không nhịn được cười.
Hai nhà Hứa – Doãn vốn có quan hệ nhiều đời, Doãn phu nhân giữ Hứa Kiến Chương ở lại ăn cơm, nói chuyện đến rất muộn mới về. Sáng sớm hôm sau, Doãn phu nhân vừa dậy thấy Tĩnh Uyển đã dậy rồi, nói: “Sao không ngủ thêm chút nữa?”. Tĩnh Uyển vội vàng đáp: “Anh Hứa hẹn con đi xem chợ hoa”. Doãn phu nhân biết đôi trẻ này tiểu biệt trùng phùng, tất nhiên sẽ có chỗ đi của chúng, cũng chỉ cười không hỏi.
Hứa Kiến Chương tự mình lái xe đến đón cô, cô vừa lên xe anh liền hỏi: “Em ăn sáng chưa?”. Tĩnh Uyển đáp: “Vẫn chưa”. Hứa Kiến Chương nói: “Anh biết ngay là chưa mà, em thích ngủ như vậy, hiếm khi dậy sớm như hôm nay, chắc chắn không kịp ăn rồi”. Tĩnh Uyển nói: “Không hỏi việc ăn uống thì lại nói em thích ngủ, anh coi em là gì hả?”. Hứa Kiến Chương thấy cô có ý quở trách, ánh mắt lưu chuyển có một cảm giác lay động lòng người, cười nói: “Anh chuộc lỗi với em, có được không? Hôm nay anh đưa em đi ăn một món đảm bảo em chưa từng ăn”.
Xe men theo con phố dài đi về phía Nam, sau đó lại rẽ về phía Tây đi rất lâu, đi qua con phố nhỏ, cuối cùng dừng lại ở một con ngõ, Hứa Kiến Chương nói: “Chỗ này cách chợ hoa cũng gần, chúng ta đi bộ qua đó nhé, tiện đường ăn sáng”. Tĩnh Uyển theo anh xuống xe, thật ra vẫn còn rất sớm, trong ngõ tĩnh lặng, cửa ngõ có hai cây hòe già, hoa hòe rơi đầy đất, người giẫm lên, nát vụn đi không thành tiếng. Hứa Kiến Chương đi phía trước, Tĩnh Uyển bỗng nhiên gọi anh: “Kiến Chương”. Anh quay mặt lại, ánh mặt trời chiếu đúng vào mặt anh, ánh sáng như vụn vàng, mày mắt thanh tú, trong lòng cô trào lên cảm giác hơi ngọt ngào, giống như con gió sớm lướt qua, nhè nhẹ mềm mềm, anh đã đưa tay ra, cô khoác lấy cánh tay anh, gió sớm hơi lạnh, nhưng mang theo mùi hương hoa hòe ngào ngạt.
Đi ra khỏi ngõ là một con phố xiên, trên phố có hàng ăn nhỏ, bán bún Qua Cầu Vân Nam(*). Cô chưa từng đến ăn ở cửa hàng kiểu này, quả nhiên thấy rất mới mẻ, bún được đưa lên, lại có bốn đĩa thịt, cá, đậu Hà Lan, đậu phụ được thái rất mỏng. Cô vừa cầm đũa lên gắp, bỗng nghe Kiến Chương nói: “Cẩn thận bỏng”. May mà anh cảnh báo, nếu không thì cô bị bỏng thật, không ngờ bát canh không hề bốc hơi lại có thể nóng như vậy, cô nhúng chín từng miếng cá, miếng thịt để ăn, lát sau trên mặt đã lấm tấm mồ hôi, lấy khăn tay ra lau, thấy trên trán Kiến Chương cũng vậy, cô liền đưa khăn tay cho anh, anh chỉ mỉm cười nhận lấy. Bên ngoài ánh nắng rất đẹp, ở phía xa xa người quét rác cầm chiếc chổi lớn, quét phố soạt soạt, âm thanh truyền đến đứt quãng, giống như có người cầm chiếc lông nhẹ nhàng quét qua tai, ngứa ngứa dễ chịu, ánh mặt trời màu vàng nhàn nhạt chiếu vào bức tường trắng nhà đối diện, chỉ thấy xung quanh đều tĩnh lặng, như năm tháng lặng lẽ.
Chợ hoa mùa xuân vốn rất náo nhiệt, đến mùa này mà họ lại đi sớm, cảm thấy hơi quạnh quẽ. Rất nhiều chủ sạp vẫn chưa bày hoa ra, hai người men theo con phố đi về phía trước, ngắm nghía cả đường, lan Hạ Sơn đã qua mùa, không có nhiều chủng loại, cả chợ hoa đều là hoa lựu đúng mùa, có một loại lựu nhiều lá cánh kép, nụ hoa chi chít xen giữa tán lá màu xanh, giống như chiếc nút vải đỏ cộm lên, lúc hoa nở chắc hẳn giống như hàng vạn ngọn đuốc rực cháy, còn cả cúc Tây Dương, từng bông hoa trắng như thủy tinh, vô cùng đẹp đẽ.
Hứa Kiến Chương biết cô thích náo nhiệt, cùng cô xem cây thuốc, lại mua một bình hoa lựu cánh kép, nói: “Cái này tuy nhỏ bé, để vào phòng em sẽ rất hợp, đợi hoa nở nhất định rất đẹp”. Bản thân cô cũng chăm chú chọn một bình hoa trà, Hứa Kiến Chương thấy buồn cười: “Chúng mình đúng là ngốc, bao nhiêu hoa do thợ trồng hoa trồng, lại còn muốn mua thêm về”. Cô cũng thấy buồn cười, nói: “Đi cùng anh, cứ luôn làm việc ngốc nghếch như thế”.
Họ đi ra từ chợ hoa, lại đi về phía Kỳ Ngọc Trai xem đồ cổ thư họa, Hứa Kiến Chương vốn là khách quen, người làm ở Kỳ Ngọc Trai đương nhiên tiếp đãi chu đáo, vừa ngồi xuống, pha trà thượng hạng trước lại thêm bốn đĩa điểm tâm, mới mỉm cười nói: “Hứa thiếu gia đến thật đúng lúc, vừa có một chiếc nghiên rất đẹp”. Người đó lại nói: “Doãn tiểu thư đã lâu không đến nơi nhỏ này rồi”, rồi hỏi thăm quý phủ, rất chu đáo lễ phép. Người làm lấy mấy thứ ra cho Hứa Kiến Chương xem trước, Tĩnh Uyển uống nửa tách trà, thấy người làm trên quầy đang kiểm tra vài đồ ngọc cổ, trong đó có một chuỗi ngọc màu đỏ, sắc đỏ tươi thắm, mờ ảo như có ánh sáng rực rỡ lưu chuyển, cô không kìm được nhìn chăm chú. Người làm thấy vậy vội cầm đến cho cô xem kỹ. Người đó thấy cô thích, đứng bên cạnh nói: “Doãn tiểu thư thật có mắt nhìn, đồ như thế này vốn là đồ trong cung, qua tay nhiều người cho đến nay, giá tiền không quan trọng, nếu Doãn tiểu thư thích cũng coi như là có duyên”.
Hứa Kiến Chương thấy cô có vẻ khá thích thú, liền nói với người làm: “Cậu nói giá đúng đi, lát nữa đến lấy tiền”. Người làm vâng một tiếng, rồi ra quầy hỏi giá. Tĩnh Uyển có tính khí đại tiểu thư, nghe nói là đồ trong cung, biết rằng chắc chắn không rẻ nhưng thật sự rất thích, cũng không hỏi bao nhiêu tiền, mừng rỡ lấy xuống thử. Soi soi chiếc gương bằng gỗ cây lê mang phong cách cổ trên bàn, hôm nay cô mặc bộ Âu phục màu đỏ anh đào, cổ áo hình tim nho nhỏ, đeo chuỗi ngọc đó lên, khiến làn da trắng như tuyết, ánh sáng viên ngọc lấp lánh, nhìn vào gương càng thích hơn. Bỗng nhiên nghe Hứa Kiến Chương nói bên tai: “Có giống đậu đỏ không?”.
Cô vốn không cảm thấy, nghe thấy lời anh nói trong lòng ngẫm lại, thấy thật ngọt ngào, khi thấy hai khuôn mặt tươi cười trong gương, ở đó như có gió xuân thổi vô hạn.
Chương 3
Tĩnh Uyển và Hứa Kiến Chương chơi đến tận tối, xem xong phim mới về, đến nhà đã mười giờ hơn. Doãn gia vì làm ăn với người nước ngoài, ít nhiều học được chút phong cách phương Tây, Tĩnh Uyển tuy là một tiểu thư, nhưng buổi tối mười giờ về nhà cũng là bình thường. Bác Ngô nghe thấy tiếng còi xe đã ra ngoài đón lấy túi xách. Tĩnh Uyển đi vào, thấy trong phòng vẫn sáng đèn nên hỏi: “Mẹ cháu đã ngủ chưa?”.
Bác Ngô nói: “Bà Triệu và Tôn nhị phu nhân, còn cả bà Tần đến đánh bài”. Tĩnh Uyển nghe nói có khách, bèn đi vào phòng, quả nhiên thấy trong phòng khách kiểu Tây bày một bàn mạt chược, bà Tần ngồi nhìn ra cửa, ngẩng đầu lên nhìn thấy cô, nói: “Đại tiểu thư về rồi”. Cô tươi cười gọi một tiếng: “Bác Tần”. Cô lại chào bà Triệu và Tôn nhị phu nhân rồi đứng sau lưng mẹ xem bài. Doãn phu nhân hỏi: “Ăn tối chưa? Nhà bếp đang chuẩn bị chút điểm tâm đấy”. Tĩnh Uyển nói: “Buổi tối con ăn đồ Tây, bây giờ vẫn không thấy đói”. Doãn phu nhân nói: “Cha con ở trong phòng đọc sách, nói con về thì vào gặp ông ấy”. Tĩnh Uyển vâng lời liền đi ra.
Cô vừa đi đến cửa phòng đọc sách, liền ngửi thấy mùi thuốc nồng nặc, nói: “Cha, cha coi chừng cháy nhà đấy”. Ông Doãn Sở Phàn vẫn luôn cưng chiều cô con gái này, thấy cô về, liền cười, nói: “Con bé này, chỉ biết nói linh tinh”. Bỗng nhiên nhớ ra một chuyện, ông liền nghiêm mặt nói: “Cha muốn hỏi con một chuyện đây”. Nhìn vào con gái, ông nói: “Lúc chiều số hàng đã về tới nơi, cũng thuận lợi nhưng sao con kẹp bốn thùng thuốc Tây ở giữa? Chẳng may bị soát ra, thì làm sao?”.
Tĩnh Uyển nghe thấy ông hỏi chuyện này, vẫn không lo lắng hốt hoảng, nói: “Con nghe Kiến Chương nói, chỗ anh ấy rất thiếu thuốc Tây, dù sao là đi một chuyến rất xa, con liền đem về giúp anh ấy một ít”. Doãn Sở Phàn không kìm được nói: “Con nói quá ngây thơ, chẳng may bị lục soát ra sẽ phải ngồi tù, con thật là trẻ con không biết trời cao đất dày, Kiến Chương nhìn người lớn, hóa ra làm việc cũng hồ đồ, sao có thể để con làm việc này?”.
Tĩnh Uyển nghe ông nói vậy, vội vàng biện bạch: “Chuyện này không liên quan đến anh Hứa chút nào, là con tự mình quyết định, đến bây giờ anh ấy còn chưa biết, cha muốn mắng thì mắng con ấy, không liên quan đến người khác”. Doãn Sở Phàn vốn dĩ rất tức giận, thấy hai mắt con gái nhìn mình lo lắng đến muốn khóc, ông chỉ có một cô con gái, chẳng lẽ nỡ đánh mắng thật sao? Không kìm được liền mềm lòng, hừ một tiếng nói: “Con phải chịu khổ mới hiểu được tốt xấu”. Ông lại nói tiếp: “Nếu Kiến Chương biết, nhất định cũng sẽ giáo huấn con một trận, con cứ đợi mà xem”.
Ngày hôm sau Hứa Kiến Chương nghe thấy việc này, quả nhiên nói với cô: “Em cũng quá liều lĩnh rồi, chuyện này chẳng may bị phát hiện không phải là chuyện đùa đâu”. Tĩnh Uyển mỉm cười, nói: “Làm sao có thể bị phát hiện được, mỗi lần anh nhập hàng, không phải đều rất thuận lợi sao?”. Hứa Kiến Chương nói: “Sao có thể so sánh như thế chứ, em là một cô gái”. Tĩnh Uyển liền bĩu môi ra, nói: “Trong thâm tâm anh vẫn khinh thường con gái, trước đây anh khen em còn hơn đàn ông, hóa ra đều là giả”. Hứa Kiến Chương thấy cô hơi tức giận, biết cô xưa nay thích mềm mỏng, nên chỉ có thể nói lý lẽ với cô, do đó nhẹ nhàng nói: “Em biết anh không có ý đó, bình thường anh đi nhập hàng, đều là qua cửa có người quen nhiều năm, lấy được giấy phép của quân đội, trên đường đều có người coi sóc, đương nhiên không có người soát, em làm việc tùy tiện như thế, nguy hiểm lắm”.
Tĩnh Uyển thấy anh nói có lý, lại thấy khuôn mặt lo âu của anh, chung quy là vì lo lắng cho bản thân mình, nên nói: “Làm sao em biết ở giữa có đường dây chứ, coi như em sai rồi”. Bản tính cô bướng bỉnh, không dễ dàng nhận sai, nói như vậy coi như đã nhận lỗi, Hứa Kiến Chương cũng chỉ cười nói: “Em cũng là có lòng tốt, vốn là nghĩ cho anh”. Cô cũng liền cười, nói: “Anh biết là được rồi”.
Hai người họ nói chuyện trong phòng khách, giọng nói hơi nhỏ, Doãn phu nhân đích thân bưng lên món điểm tâm hình tim của phương Tây, thấy đôi trai gái đang tâm tình, nhoẻn miệng cười, lại lặng lẽ lui xuống, quen chân liền đi đến phòng sách ở sau vườn, ông Doãn Sở Phàn đang đeo kính lão xem sổ sách, thấy vợ bưng điểm tâm vào, giả giọng kịch nói: “Cảm phiền phu nhân, hạ quan xin nhận”. Doãn phu nhân chau mày: “Xem ông kìa, trong nhà có khách, nếu bị nhìn thấy thì ra cái gì?”. Ông Doãn Sở Phàn nói: “Không phải là Hứa Kiến Chương đến rồi sao? Tôi tới chào hỏi một câu”. Doãn phu nhân nói: “Bọn trẻ đang nói chuyện, ông đi ra làm phiền gì chứ, hơn nữa cậu ta tới nhà ta suốt, lại là bề dưới, ông không ra cũng chẳng thất lễ”. Liền gọi người làm rót trà, cùng chồng ăn điểm tâm ở phòng sách. Doãn Sở Phàn ăn hai miếng bánh, lại châm thuốc, Doãn phu nhân nói: “Tính khí Tĩnh Uyển không tốt, làm khó cho Kiến Chương phải nhường nhịn nó, huống hồ chúng ta lại nhìn chúng nó trưởng thành, hai nhà biết rõ nguồn gốc. Ôi, chỉ đáng tiếc cha của Kiến Chương qua đời quá sớm, chuyện kinh doanh Hứa gia đều do cậu ta lo liệu, đứa trẻ này quả thật là người già dặn khôn khéo hiếm có. Lần trước Hứa phu nhân nửa thật nửa giả, bóng gió nói chuyện cưới xin với tôi, tôi chỉ ậm ừ qua loa cho xong”. Doãn Sở Phàn gõ gõ đầu thuốc vào gạt tàn, nói: “Tĩnh Uyển còn ít tuổi, trước mắt quan hệ hai đứa tuy rất tốt, nhưng phải đợi đến năm sau, đợi Tĩnh Uyển qua sinh nhật mười tám tuổi mới được đính hôn”.
Mấy ngày sau, Doãn phu nhân đến Hứa phủ đánh bài với Hứa phu nhân, tìm cơ hội nói chuyện riêng, khéo léo để lộ ra ý đó, Hứa phu nhân sớm đã nhắc khéo đến hôn sự, nay nhận được đáp án xác thực, đương nhiên hết sức vui mừng. Tĩnh Uyển và Hứa Kiến Chương cũng lờ mờ biết được ý của cha mẹ, hai nhà họ tuy là gia đình kiểu cũ, nhưng bây giờ có chút tác phong phương Tây, cha mẹ đã chịu ủng hộ như thế, hai người đương nhiên cũng vui mừng.
Thời gian dần trôi, đó là thứ dễ dàng qua đi nhất. Xuân đi thu đến, chớp mắt đã là Tết Âm lịch, qua tháng Giêng, thời tiết ấm dần, hoa đỏ lá xanh, mùa xuân lại về. Hứa gia và họ Doãn sớm đã bàn bạc, nghe ý kiến của hai trẻ, ấn định tổ chức lễ đính hôn theo kiểu Tây vào tháng năm, nhưng hai nhà Hứa – Doãn đều là đại gia tộc, người thân bạn bè đông đảo, việc phải chuẩn bị đương nhiên cũng rất nhiều, từ giữa tháng tư đã bắt đầu mua sắm thêm đồ đạc, lên danh sách khách mời, Hứa gia sơn sửa vôi ve nhà trong nhà ngoài.
Hứa gia buôn bán thuốc, cuối tháng tư đúng là lúc bắt đầu bệnh dịch, thời kỳ dược liệu cháy hàng. Hàng năm vào lúc này, Hứa Kiến Chương sẽ tự mình đến phía Bắc nhập hàng, năm nay vì việc riêng trong nhà, vốn định gọi mấy người bạn làm ăn cũ đi, nhưng hai quân Thừa – Dĩnh vừa mới đình chiến, tình hình dần ổn định, Hứa Kiến Chương sợ trên đường xảy ra sai sót gì, cuối cùng vẫn quyết định tự mình đi một chuyến.
Tĩnh Uyển nghe nói vào lúc này anh còn phải đi xa, tuy không nỡ nhưng cũng không có cách nào, huống hồ mình luôn tôn trọng anh tuổi trẻ có triển vọng, một mình gánh vác đại nghiệp của gia đình, cho nên tuy lưu luyến, cuối cùng vẫn không ngăn cản. Trước khi Hứa Kiến Chương đi một ngày, Doãn phu nhân bày tiệc rượu tại nhà để tiễn anh, Tĩnh Uyển vốn là người rất thích náo nhiệt, hôm đó lại buồn bã không nói, chỉ cúi đầu ăn cơm. Doãn phu nhân gắp thức ăn cho Hứa Kiến Chương, miệng nói: “Tĩnh Uyển là như thế, tính khí trẻ con, một lát nữa là ổn thôi”. Hứa Kiến Chương nhìn Tĩnh Uyển, thấy cô gẩy từng hạt cơm, dáng vẻ lại giống như rất hốt hoảng, trong lòng rất không nỡ. Ăn xong, người làm đem trà lên, Doãn phu nhân mượn cớ, liền cùng ông Doãn Sở Phàn rời đi.
Hứa Kiến Chương thấy Doãn Tĩnh Uyển cầm tách trà thủy tinh nhưng không uống, chỉ nhìn lá trà bên trong tách dập dềnh dập dềnh. Anh ho nhẹ một tiếng, nói: “Tĩnh Uyển, em có trách anh không?”. Tĩnh Uyển nói: “Sao em có thể trách anh chứ, dù sao chỉ là hai tuần, anh lại quay về rồi”. Anh đưa tay ra, nắm lấy tay Tĩnh Uyển, nói: “Em đừng lo lắng, tuy mới đánh nhau xong, nhưng hai quân Thừa – Dĩnh đánh nhau nhiều năm như vậy, chúng ta vẫn kinh doanh rất tốt đấy thôi”.
Tĩnh Uyển nói: “Em biết cả mà”. Trong phòng khách chỉ bật một chiếc đèn tường, ánh sáng yếu ớt chiếu vào chiếc sườn xám lụa màu chu sa của cô, cô có một đôi mắt rất sáng, dưới ánh đèn, đôi mắt đó lay động như nước, chỉ ngân ngấn lệ nhìn anh, anh cảm thấy trái tim mình đập thình thịch, không kìm được bàn tay nắm hơi mạnh, cô đi giày cao, đứng không vững, cơ thể nhào về phía trước, liền bị anh ôm vào trong lòng, nụ hôn nóng bỏng ập đến, trong lòng cô rối như tơ vò. Tuy họ qua lại đã lâu, Hứa Kiến Chương lại là người lễ tiết kiểu cũ, ngoài nắm tay ra không dám tùy tiện mạo phạm cô. Nụ hôn ngày hôm nay rõ ràng là do tình cảm rối loạn, cả cơ thể cô mềm đi, chỉ cảm thấy cảm giác này xa lạ đến cực điểm, mùi hương bạc hà nhàn nhạt đó lại thân thuộc đến vô cùng, cảm thấy giống như đã mơ một giấc mơ, lâu dài như trời đất, mà cũng giống như khoảnh khắc thoáng qua, anh đã buông tay ra, giống như hơi hối hận, lại càng giống như thích thú, trong đôi mắt tình cảm sâu đậm vô hạn, đắm đuối nhìn cô.
Cô liền tựa đầu vào ngực anh, anh vỗ nhè nhẹ lên vai cô, nói nhỏ: “Nửa tháng sau là anh về thôi mà, nếu thuận lợi, mười ngày sẽ xong cũng nên”.
Ngày hôm sau anh khởi hành, vừa đến Thừa Châu, liền đánh điện về báo bình an, mấy ngày sau lại gửi một bức điện báo về, Tĩnh Uyển thấy mấy chữ ít ỏi trên bức điện, viết rằng: “Công việc thuận lợi, sáng mùng chín tháng năm lên tàu về Càn Bình”. Cô cũng hết lo lắng.
Đến ngày mùng tám tháng năm, cô định sáng sớm hôm sau đến bến tàu đón Hứa Kiến Chương, cho nên đi ngủ rất sớm. Nhưng tối mùa xuân, thời tiết ngột ngạt, trong bình hoa cắm bó hoa hồng và hoa huệ lớn, mùi hương nồng gắt, khiến người ta nhất thời không ngủ được, cô trằn trọc trên giường một lúc lâu, cuối cùng mơ màng thiếp đi.
Trong chốc lát lại dường như đứng trong phòng khách rộng lớn, bốn bề không có một ai, xung quanh chỉ là một khoảng tĩnh lặng. Tuy cô xưa nay can đảm, nhưng nhìn nơi trống trải đó trong lòng cũng hơi sợ hãi. Bỗng nhiên thấy có người đi lại từ phía bên kia, rõ ràng là Kiến Chương, cô chạy lên kéo gấu áo anh, hỏi: “Kiến Chương, sao anh không để ý đến em?”. Người đó quay đầu lại, nhưng hóa ra không phải là Kiến Chương, mà là một khuôn mặt xa lạ rất hung ác, cười độc địa: “Hứa Kiến Chương không sống được rồi”. Cô quay đầu lại nhìn, quả nhiên thấy ngoài cửa hai lính hộ vệ đang kéo Hứa Kiến Chương, trên người anh toàn là máu, hai lính hộ vệ kéo anh giống như kéo một túi đồ, trên đất toàn là dấu máu, trên nền gạch xanh hiện lên một vệt đen sẫm, cô đuổi theo, hai lính hộ vệ đó đi rất nhanh, chớp mắt đã không thấy ba người, cô hốt hoảng òa khóc, chỉ nắm lấy người đó kêu lớn: “Anh trả Kiến Chương cho tôi, anh trả Kiến Chương cho tôi”.
Cô đau đớn khóc thất thanh như thế, bỗng chốc tỉnh dậy chỉ thấy xung quanh yên ắng, trong phòng bật một chiếc đèn nhỏ, ánh sáng xuyên qua chiếc rèm hạt ngọc trai, rõ ràng là trong phòng ngủ của mình, chỉ nghe thấy tiếng tích tắc tích tắc của chiếc đồng hồ để bàn trên đầu giường, mới biết hóa ra là ác mộng. Nhưng vẫn còn khóc thút thít, tim đập thình thịch, cả người đã toát mồ hôi lạnh đầm đìa, chiếc áo ngủ lụa mỏng ướt đẫm dính vào người, cảm giác thật lạnh lẽo. Cô nhớ lại tình cảnh trong mơ, nó đáng sợ đến cực điểm, trong lòng sợ hãi chầm chậm cuộn vào trong chăn, nói với bản thân: “Là nằm mơ, hóa ra chỉ là nằm mơ, may mà chỉ là nằm mơ”. Cô tự an ủi mình như thế, lát sau lại mơ màng ngủ thiếp đi.
Cô nửa đêm ngủ không ngon, nhưng sau đó lại ngủ rất sâu, đang lúc ngủ ngon, bỗng nhiên nghe thấy mẹ gọi tên mình, vội vâng lời ngồi dậy, mặc áo vào, Doãn phu nhân đã đẩy cửa, trên tay cầm một bức điện báo, khuôn mặt vô cùng lo lắng, chỉ nói: “Tĩnh Uyển, con không được lo lắng đấy, Kiến Chương xảy ra chuyện rồi”. Chiếc áo cô đang mặc một nửa, vừa mới xỏ một ống tay áo vào, nghe mẹ nói câu này như sét đánh giữa trời quang, cả người đờ đẫn.
Thuốc Tây vốn là mặt hàng bị cấm vận nhất của Thừa quân, nhưng Hứa gia kinh doanh thuốc nhiều năm, có giao hảo với rất nhiều nhân vật quan trọng trong Thừa quân, những năm trở lại đây làm ăn luôn thuận lợi, không ngờ Mộ Dung Phong vừa mới dẫn quân dẹp yên chín tỉnh phía Bắc, quay lại liền chỉnh đốn nghiêm ngặt, mà mặt hàng bị nhắm vào nhất chính là thuốc Tây. Mộ Dung Phong thiếu niên đắc chí, làm việc sấm rền gió cuộn, vừa bắt tay vào việc này, lập tức đem một nguyên lão trong Thừa quân ra xử lý, vị nguyên lão đó bị cách chức xét xử, sau đó từ trên xuống dưới, bắt tất cả những người bị nghi có liên quan đến việc vận chuyển trái phép thuốc Tây, Hứa Kiến Chương bị liên lụy, người và hàng vừa mới ra khỏi Thừa Châu đã bị bắt lại giam giữ, hiện tại bị nhốt trong nhà giam, không rõ sống chết.
Doãn phu nhân vốn nghĩ Tĩnh Uyển sẽ khóc, không ngờ cô không hề khóc, ánh mắt tuy hốt hoảng, một lúc sau liền dần dần trấn tĩnh lại, hỏi: “Bác Hứa biết rồi ạ?”. Doãn phu nhân nói: “Bức điện báo này chính là bà ấy bảo bà Hà đưa đến, nghe bà Hà nói, Hứa phu nhân đã rất hoảng loạn, chỉ biết khóc thôi”.
Hứa Kiến Chương tuy có hai người em trai, nhưng tuổi đều còn nhỏ, việc lớn trong nhà đều do anh quyết định, sự việc này xảy ra Hứa gia mất đi trụ cột, đương nhiên rối như tơ vò. Tĩnh Uyển “ồ” nhẹ một tiếng, hỏi: “Cha con nói thế nào ạ?”. Doãn phu nhân nói: “Cha con vừa mới nghe tin, liền đi gặp tổng tham mưu trưởng Vương, mong là có thể nghĩ được cách nào đó”.
Vị tổng tham mưu trưởng Vương mà Doãn Sở Phàn đi gặp vốn là người của Thừa quân, hiện tại là tổng tham mưu trưởng tài vụ ở nội các, nghe ý của Doãn Sở Phàn, không nói gì, liên tục lắc đầu nói: “Nếu là việc khác đều dễ nói, nhưng sự việc hiện tại, dù anh ta là ai, chỉ sợ trước mặt Cậu Sáu cũng không nói được. Ông ít nhiều đã từng nghe nói tính khí người đó, đã nói một là một, hai là hai, năm đó lúc đại soái còn sống, cũng chỉ có đại soái có cách với cậu ta, bây giờ cậu ta đang chấn chỉnh việc cấm vận, chỉ sợ đang giết để răn đe, trước mắt không thể đi vuốt râu hùm được, tôi khuyên ông về trước, đợi qua đợt này sự việc bình ổn lại, hãy nghĩ cách”.
Doãn Sở Phàn nghe đến đây, quả thật không có cách cứu vãn, đành thất vọng đi về.Tĩnh Uyển thấy cha phân tích từng quan hệ tốt xấu, chỉ lặng lẽ không nói. Doãn Sở Phàn an ủi cô nói: “Tuy vận chuyển trái phép thuốc Tây là trọng tội quân sự, nhưng Hứa gia có giao hảo với rất nhiều người trong Thừa quân, tính mạng Kiến Chương chắc không phải lo lắng, đến lúc đó tốn thêm chút tiền đút lót, của đi thay người vậy”. Cô vẫn im lặng không nói, trong lòng lo lắng, cơm trưa cũng không ăn liền về phòng mình.
Cô biết cha an ủi mình, ngồi trước bàn trang điểm, mà tâm trạng cứ thấp thỏm bất an. Vừa hay trước bàn trang điểm có đặt một tờ báo từ mấy ngày trước, trên báo đăng tin Mộ Dung Phong dẹp yên chín tỉnh phía Bắc, trong bức ảnh chụp buổi duyệt binh ở Bắc đại bản doanh, người đó cưỡi ngựa, dáng vẻ anh tuấn hiên ngang, đúng là một anh hùng trác việt phi phàm giữa vạn quân. Người này trẻ như vậy, đã tay nắm nửa giang sơn, không ngờ là nhân vật lợi hại hơn cả cha anh ta, cách làm việc của anh ta quả có cứng rắn hơn người. Mộ Dung Phong đã hạ quyết tâm phải chính đốn cấm vận, khó mà không giết để răn đe, Kiến Chương va phải họng súng của anh ta, chỉ e là lành ít dữ nhiều.
Cô sững sờ nhìn tờ báo đó, bỗng nhìn thấy lời dẫn của một cụ già trong nội các, nói là “Mộ Dung Bái Lâm thiếu niên anh hùng”, trong lòng bất ngờ, chỉ cảm thấy hai từ “Bái Lâm” đó vô cùng quen thuộc, giống như mình đã thấy ở đâu, nhưng không nhớ ra. Cô ngồi ở đó cố gắng suy nghĩ, bỗng nhiên một tia sáng lóe lên, cô kéo ngăn bàn ra, lật tìm xung quanh mà không tìm thấy.
Cô mở hết tất cả ngăn kéo ra, cuối cùng tìm thấy chiếc đồng hồ vàng đó ở ngăn kéo phía dưới tủ quần áo, mở ra xem, trên nắp hai chữ “Bái Lâm” rành rành. Cô liền tựa vào tủ quần áo, trong lòng đã có tính toán, chỉ nghĩ bất kể phải hay không phải, bất kể có được hay không cũng phải cố gắng hết sức thử xem sao.
Chương 4
Tĩnh Uyển cẩn thận nghĩ lại một lượt từ đầu dến cuối, thay bộ quần áo, đến phòng nói với mẹ: “Con đi thăm bác Hứa một lát”. Doãn phu nhân gật đầu nói: “Nên qua đó xem xem, khuyên bà ấy đừng quá sốt ruột”. Liền gọi xe trong nhà đưa Tĩnh Uyển đến Hứa gia.
Hứa gia cũng là căn nhà lớn kiểu cũ, giờ đã xế hiều, ánh mặt trời cuối xuân nghiêng nghiêng chiếu xuống tường, không khỏi có phần tiêu điều. Hứa phu nhân nghe người làm báo lại, sớm đã ra ngoài đón từ xa, trong phòng đã bật đèn, bà mặc một chiếc sườn xám lụa nhàu Hồ Châu màu xanh sẫm, nổi bật dưới ánh đèn vàng, vẻ mặt trông càng mệt mỏi, vàng vọt hơn. Tĩnh Uyển thấy vậy lòng càng đau buồn. Hứa phu nhân đi mấy bước, kéo tay cô chỉ gọi một tiếng “Tĩnh Uyển”. Dáng vẻ đó lại giống như sắp rớt nước mắt. Tĩnh Uyển thật sự sợ bà khóc, khi ấy bản thân cô cũng sẽ không kiềm chế được khóc lớn, gượng gọi một tiếng “Bác gái”, rồi đỡ tay bà ngồi xuống ghế sofa.
Hứa phu nhân lấy ra chiếc khăn tay lau nước mắt, chỉ nói: “Thế này sao được chứ? Kiến Chương vừa xảy ra chuyện, chẳng khác gì trời sụp xuống”. Tĩnh Uyển nói: “Bác đừng quá lo lắng, giữ gìn sức khỏe quan trọng hơn, chuyện của Kiến Chương cũng chỉ là phải tốn chút tiền mà thôi, không biết bác có biết bây giờ Kiến Chương có những người bạn nào còn có thể giúp được không ạ?”. Hứa phu nhân nói: “Chuyện bên ngoài bác không hiểu nhiều, e rằng chỉ có ông Liêu biết”. Tĩnh Uyển liền hỏi: “Có thể mời Liêu tiên sinh đến đây nói chuyện được không ạ?”. Hứa phu nhân sớm đã hồn bay phách lạc, thấy sắc mặt cô trấn tĩnh, trong lòng mới dần dần được yên tâm một chút, nghe cô nói vậy liền lập tức sai người đi mời.
Vị Liêu tiên sinh đó là nhân viên thu chi lâu năm của Hứa gia, từng cùng Hứa Kiến Chương làm rất nhiều việc, nghe nói Hứa phu nhân mời, ông liền lập tức đến ngay. Tĩnh Uyển thường ngày cũng có quen biết ông, gọi ông một tiếng “chú Liêu”, nói “Chú Liêu, trước mắt phải nhờ chú nghĩ thật kỹ, Kiến Chương còn bạn bè nào ở trong Thừa quân có thể giúp đỡ được không?”. Liêu tiên sinh chần chừ một lát nói: “Việc lần này liên lụy rất lớn, mấy người tôi biết đều đã không giúp được rồi”. Tĩnh Uyển hỏi: “Vật có cách nào khác không? Ví dụ không phải là trực tiếp tìm người giúp đỡ, chỉ là tìm cách gặp mặt Cậu Sáu, có cách nào không?”.
Liêu tiên sinh nghe vậy, giật bắn mình, lấy mũ trên đầu xuống hoài nghi nói: “Tìm gặp Cậu Sáu – đấy không phải chuyện đơn giản, cậu ta là thống soái Thừa quân, là Tuần duyệt sứ (*) của chin tỉnh, muốn gặp mặt cậu ta đâu phải dễ dàng. Cho dù gặp được rồi, cũng có ích gì chứ?”.
(*) Tuần duyệt sứ: Thời kỳ quân phiệt Bắc Dương, gọi người quản lý hai tỉnh trở lên là Tuần duyệt sứ.
Tĩnh Uyển nói: “Cha cháu có một người bạn, có chút giao hảo với Cậu Sáu, có thể nhờ cậy được, chỉ là nhiều năm không gặp, bây giờ Cậu Sáu quyền cao chức trọng, ngồi ở ngôi cao, sợ rằng không dễ gặp, nếu có thể gặp mặt nhờ vả chút tình cũ, biết đâu có thể có hiệu quả”.
Lưu tiên sinh nghe thấy cô bình tĩnh như thế, cân nhắc nói: “Muốn gặp Cậu Sáu quả thật không có cách nào, nhưng có một cửa không biết có được hay không?”. Tĩnh Uyển nói vội: “Mong chú nói rõ”. Hứa gia vốn có quan hệ khá tốt với một vị sư đoàn trưởng họ Từ của Thừa quân, mà vị sư đoàn trưởng họ Từ này chính là em họ của Đào Đoan Nhân, anh rể thứ ba của Mộ Dung Phong. Liêu tiên sinh thành thật nói: “Tìm vị sư đoàn trưởng Từ đó giúp đỡ, có lẽ có thể gặp được tam tiểu thư nhà Mộ Dung”. Tĩnh Uyển lặng lẽ gật gật đầu, Liêu tiên sinh lại nói: “Nghe nói Mộ Dung gia là gia đình kiểu cũ, các tiểu thư đều không được phép hỏi chuyện bên ngoài, chỉ e gặp được Mộ Dung tiểu thư cũng vô ích”. Tĩnh Uyển nghĩ một lát, nói với Liêu tiên sinh: “Trước mắt cũng chỉ có nước này thôi. Có thể nhờ chú viết một bức thư cho sư đoàn trưởng Từ, giới thiệu người bạn đó của cha cháu, mong ông ấy giúp đỡ từ bên trong, để người bạn đó của cha cháu có thể gặp mặt. Mộ Dung tiểu thư”. Liêu tiên sinh đương nhiên đồng ý. Hứa phu nhân lập tức sai người đem bút nghiên đến, Liêu tiên sinh viết một bức thư dài, nói rõ quan hệ lợi hại, rồi mới đưa cho Tĩnh Uyển.
Hứa phu nhân mắt ngấn lệ nhìn cô, hỏi: “Người bạn đó của lệnh tôn thật sự có thể giúp đỡ sao?”. Tĩnh Uyển nghĩ một lát, nói: “Thật ra cũng chẳng chắc chắn bao nhiêu, nhưng người đó nhất định sẽ cố hết sức giúp chúng ta”.
Tĩnh Uyển về đến nhà trời đã muộn, Doãn phu nhân thấy dáng vẻ cô vội vã, liền gọi cô lại hỏi: “Con ăn cơm chưa?”. Tĩnh Uyển đáp: “Con ăn cơm với bác Hứa gia rồi, bác ấy trông thật đáng thương, thật sự là ăn không nổi”. Doãn phu nhân khẽ than một tiếng nói: “Con cũng đừng quá lo lắng, cha con đã nghĩ cách rồi”. Tĩnh Uyển nói: “Ngày mai con đi tìm bạn học của con, cha cậu ấy vốn qua lại mật thiết với người của Thừa quân, biết đâu có thể có cửa”. Doãn phu nhân gật gật đầu, nói: “Chúng ta có bệnh phải cầu tứ phương”. Tĩnh Uyển không biết vì sao, gọi nhỏ một tiếng: “Mẹ”. Doãn phu nhân nhìn cô với vẻ yêu thương vô hạn, bà nói: “Con xem con kìa, chỉ vất vả mộ tngày, đã lo lắng đến tiều tụy”. Tĩnh Uyển không kìm được xoa mặt, gượng cười nói: “Mẹ, con đi ngủ trước đây, sáng sớm ngày mai dậy còn phải đi tìm người bạn học đó nữa”.
Sáng sớm hôm sau, Tĩnh Uyển đi ô tô ra ngoài, Doãn phu nhân ở nhà, không biết vì sao tâm trạng bất an, bà chỉ nghĩ là vì đang lo lắng chuyện của Kiến Chương. Đợi đến trưa, lái xe ô tô quay lại, nhưng không thấy Tĩnh Uyển đâu. Lái xe nói: “Đại tiểu thư bảo tôi đợi cô ấy ở cửa, đợi đến tận bây giờ, tôi tưởng đại tiểu thư đã thuê xe về rồi”. Doãn phu nhân nghe vậy, vừa sốt ruột vừa lo lắng, vội gọi điện kể với Doãn Sở Phàn, bà lại nghĩ có lẽ là ở chỗ bạn học, bà gọi điện hỏi hết người này đến người khác, họ đều nói cô khong đến chỗ mình. Đến lúc trời đã tối, Tĩnh Uyển vẫn chưa quay về, vợ chồng họ Doãn lòng như lửa đốt, đến phòng con gái xem, thiếu mấy bộ quần áo, trên bàn trang điểm lại đặt một bức thư. Doãn phu nhân xem xong, gần như ngất đi, Doãn Sở Phàn bình tĩnh hơn một chút, bàn tay cầm tẩu thuốc run run, ông vội vàng gọi điện cho người quen ở ngân hàng, quả nhiên sáng sớm nay Tĩnh Uyển đã rút một khoản tiền lớn, vợ chồng họ Doãn thấy sự việc quá đột ngột, hối hận không kịp.
Tối đó trăng rất đep, Tĩnh Uyển nằm ở giường mềm trên tàu, rèm cửa sổ không kéo kín, qua một khe hở hẹp, cô ngắm vầng trăng khuyết đó, trên bầu trời tối ánh trăng hơi đỏ, giống như có ai dùng móng tay cấu một vết, để lại một vết nho nhỏ nhàn nhạt. Tàu đi rất nhanh, giữa khoảng tranh tối tranh sáng mảng trăng khuyết ấy luôn ở nơi đó, giống như chạy theo đoàn tàu vậy. Tâm trạng cô lên xuống không yên, dứt khoát ngồi dậy lấy chiếc đồng hồ quả quýt từ trong túi áo ra, cẩn thận tìm kiếm chữ khắc trên mặt đồng hồ. Cảm giác tinh tế truyền từ đầu ngón tay đến tận trong đáy tim, “Bái Lâm” – nếu thật sự là anh, vậy có lẽ cô có hy vọng, dẫu sao anh cũng nợ cô một ân tình.
Trong lòng hơi yên tâm, cô lại ngủ tiếp, ánh trăng tối đến mức gần chuyển sang màu đỏ sẫm, từ trên gối nhìn lên, nó giống một vệt son trên tách thủy tinh, nhòe đi như sắp tan ra, và cô lại ngủ thiếp đi.
Vừa ra khỏi ga Thừa Châu, cô mới cảm thấy bầu không khí là lạ. Cô thân gái một mình, đành thuê một chiếc xe kéo đến nhà trọ, trên đường đi cô hỏi phu kéo xe: “Sao hôm nay trên đường nhiều cảnh vệ thế, xảy ra chuyện gì rồi sao?”. Phu kéo xe đáp: “Người ta đổ xô đi xem hành hình phạm nhân đấy”. Không biết vì sao tim cô đập loạn nhịp, hỏi: “Là phạm nhân gì?”. Phu kéo xe đó nói: “Là người vận chuyển hàng cấm trái phép”. Cô gần như muốn ngừng thở, thất thần mấy giây liền, mới lắc đầu thật mạnh, hỏi: “Chỉ là vận chuyển hàng cấm trái phép thôi, sao có thể xử nặng như thế chứ?”. Phu kéo xe đó đáp: “Cái đó cũng không rõ”.
Cô đến nhà trọ, không kịp tắm rửa liền thuê một chiếc ô tô đến phủ của sư đoàn trưởng Từ, may mà trời còn sơm vị sư đoàn trường đó vẫn chưa ra ngoài, người coi cửa để cô đợi ở phòng khách, người hầu đưa thư của Liêu tiên sinh vào, không lâu sau sư đoàn trưởng Từ đích thân đi ra. Vừa thấy Tĩnh Uyển, đương nhiên ông ta kinh ngạc vô cùng, dò xét từ trên xuống dưới hồi lâu, mới hỏi: “Người Liêu tiên sinh nhắc đến trong thư chính là cô?”.
Tĩnh Uyển không biết tình hình như thế nào, cố gắng trấn tĩnh, hơi mĩm cười nói: “Tôi họ Doãn, quả thật không dám giấu, Hứa Kiến Chương là chồng chưa cưới của tôi, sư đoàn trưởng Từ nhất định là biết rất rõ mục đích tôi đến đây”. Vị sư đoàn trưởng Từ đó lại dò xét cô một lượt, bỗng nhiên đứa ngón tay lên khen ngợi: “Tiểu Hứa có con mắt nhìn, Doãn tiểu thư gan dạ sáng suốt”. Bỗng ông ta thở dài, lắc đầu nói: “Nhưng đáng tiếc, đáng tiếc”.
Ông ta liên miệng nói hai tiếng đáng tiếc, trong lòng Tĩnh Uyển lạnh đi, không kìm được hỏi: “Chẳng lẽ người bị hành hình hôm nay là…”. Ông ta nói: “Hóa ra Doãn tiểu thư đã nghe nói rồi?”. Trái tim Tĩnh Uyển chỉ chực nhảy ra ngoài, không khỏi lớn tiếng hỏi: “Vận chuyển hàng cấm tuy là trọng tội, nhưng sao có thể không xét xử mà đã giết người chứ?”. Sư đoàn trưởng Từ nói: “Chuyện bên trong thật sự là một lời khó nói hết. Người bị hành hình hôm nay so với Kiến Chương, nói thẳng ra là có lai lịch hơn rất nhiều”. Tĩnh Uyển nghe thấy câu này, trong lòng bỗng chốc thở phào, cơ thể cũng yếu ớt đến mức gần như đứng không vững, trong lòng chỉ nghĩ, tạ ơn trời đất hóa ra không phải anh, hóa ra là vẫn chưa muộn.
Chỉ nghe sư đoàn trưởng Từ nói: “Doãn tiểu thư không phải người ngoài, tôi cũng nói thật. Người bị hành hình hôm nay là cháu đích tôn của Từ Trị Bình – thống chế Vọng Châu. Từ thống chế vì chuyên này mà lật mặt với Cậu Sáu, ép Cậu Sáu hạ lệnh trước mặt một thuộc cấp của chín tỉnh, tất cả người bắt được lần này đều giết hết không tha”.
Tĩnh Uyển không ngăn được cơn rùng mình. Sư đoàn trưởng Từ nói: “Cậu Sáu đã nói những lời đó trước mặt mọi người, vậy chắc chắn sẽ không xoay chuyển, tôi khuyên Doãn tiểu thư về Càn Bình trước thì hơn”.
Tĩnh Uyển nghe nói người bị hành hình hôm nay là cháu của thống chế một tỉnh, đã biết hy vọng rất mong manh. Lại nghe nói Cậu Sáu hạ lệnh như thế trước mặt thuộc cấp, cô nghĩ cho dù mình là ân nhân cứu mạng của anh ta e rằng anh ta cũng không thể thu hồi mệnh lệnh, nếu không uy tín ở đâu? Anh ta là một thống soái trẻ tuổi, tuy không ít cấp dưới là thuộc cấp cũ của Mộ Dung gia, nhưng khó đám bảo có người trong lòng thật ra không phục, anh ta vì áp chế thuộc cấp quyết không thể có chút sai sót nào. Việc này anh ta đã làm đến nước này, cũng là cưỡi lên lưng cọp, e rằng cho dù là người thân của chính mình, Cậu Sáu cũng sẽ theo luật mà làm.
Cô nghĩ trước nghĩ sau, nhưng việc đã đến nước này vẫn phải liều một phen. Do đó cô nói với sư đoàn trưởng Từ: “Tôi vẫn muốn gặp Mộ Dung tiểu thư một chút, không biết sư đoàn trưởng có tiện sắp xếp không?” Sư đoàn trưởng Từ đó được hưởng lợi không ít từ Hứa gia bao năm nay, lần này sự việc xảy ra, ông ta sớm đã muốn cứu giúp Hứa Kiến Chương, chỉ là trong lòng muốn mà không đủ khả năng thôi. Nghe cô nói muốn gặp Mộ Dung tiểu thư, việc này bản thân có thể giúp được, ông ta lập tức vui vẻ đồng ý, nói: “Cơ hội thì sẵn có, để chúc mừng sinh nhật ba mươi tuổi của tam tiểu thư, Đào gia tổ chức tiệc mời khách mấy ngày liền, khách khứa rất đông, tôi sẽ đưa cô vào, cũng không để ý đến đâu”.
Tĩnh Uyển cảm ơn, sư đoàn trưởng Từ nói: “Doãn tiểu thư thân gái yếu ớt, lại có thể vạn dặm đến cứu, tôi là bạn của Kiến Chương, chẳng lẽ không nên góp chút sức mọn sao?”. Tĩnh Uyển thấy ông ta tuy là người thô lỗ, nhưng tính cách thẳng thắn, sẵn lòng giúp đỡ lúc hoạn nạn, trong lòng cô thầm cảm kích.
Đào Đoan Nhân vô đảm nhiệm chức vụ quan trọng trong Thừa Quân, hoa viên lớn nhất trong phủ và tòa lầu xây bằng gạch đỏ mới được tu sửa rất bắt mắt, xa xa đã nhìn thấy. Tĩnh Uyển thấy trên một nửa con phố trước Đào phủ xe đã đỗ kín, đông như trẩy hội, khí thế phi thường. Sư đoàn trưởng Từ bảo Từ phu nhân đi cùng, hai vợ chồng dẫn cô vào Đào Phủ. Khách nam đều được tiếp đãi ở bên ngoài, Từ phu nhân dẫn Tĩnh Uyển vào sân trong, hóa ra bên trong còn có phòng khách rất hoành tráng, trước phòng rực rỡ gấm hoa, bày những chậu hoa đương mùa như thược dược và mẫu đơn… đều nở những bông to, rực rỡ đua sắc trên nền lá xanh mướt.
Trong phòng khách toàn là khách nữ, đều là các thiếu phu nhân, tiểu thư cao quý, váy áo họ mặc còn đua nhau khoe sắc hơn cả hoa trong phòng khách, trước cửa phòng khách có một sân khấu nhỏ, trên sân khấu diễn viên đang hát ê a, dưới sân khấu, các phu nhân, tiểu thư người thì xem kịch, người thì nói chuyện, cười nói tíu tít, kèm theo tiếng đàn sáo trên sâu khấu réo rắt. Tĩnh Uyển chứng kiến sự phồn hoa đến mức này, tuy sinh ra, lớn lên trong sự phú quý, nhưng cô vẫn cảm thấy xa xỉ khó nói nên lời. Từ phu nhân thấy cô nhìn lên sân khấu, liền cười với cô, hỏi: “Doãn tiểu thư cũng thích nghe kịch sao? Hôm nay tiết mục áp chót là Hạnh ân và Giấc ngủ xuân của diễn viên nôi tiếng Kỷ Ngọc My, kịch của ông chủ Kỷ là đệ nhất thiên hạ, bình thường không diễn tại nhà”. Tĩnh Uyển trả lời ầm ừ một đôi câu, Từ phu nhân liền đưa cô xuyên qua phòng khách, lại vào một sân vườn nữa, sân vườn đó trồng mấy cây ngô đồng, con đường đá nho uốn lượn dưới bóng tán cây. Bà đưa Tĩnh Uyển men theo con đường đó đi qua hòn non bộ, tiếng cười nói đàn sáo phía trước nhạt nhòa dần đi, giờ mới nghe thấy tiếng ồn ào từ căn nhà phía sau.
Từ phu nhân chưa đi vào phòng đã cười nói: “Nhân vật chính đâu? Người đến chúc mừng sinh nhật đến rồi này”. Người đánh bài trong nhà đều quay đầu lại nhìn bà Từ, hóa ra người ngồi ghế đầu tiên, trên người mặc chiếc áo gấm rất đẹp, tóc vấn kiểu Như Ý, một phụ nữ kiểu xưa xinh đẹp chính là Mộ Dung tam tiểu thư, cô gọi Từ phu nhân một tiếng “chị họ”, cười nói: “Cô gái chị họ đưa đến là ai thế, thật xinh đẹp”. Tĩnh Uyển giờ mới thoải mái gọi: “Tam tiểu thư”, lại tự giới thiệu: “Tôi họ Doãn, tam tiểu thư cứ gọi tôi là Tĩnh Uyển”. Cô ấy lấy ra một chiếc hộp nhỏ, nói: “Sinh nhật tam tiểu thư, tôi chuẩn bị trước chút quá nhỏ, mong tiểu thư không chê”.
Mộ Dung tam tiểu thư thấy thái độ của cô khiêm tốn nhã nhặn, nói chuyện lại thoải mái, không biết vì sao cảm thấy khá vui vẻ, nói: “Doãn tiểu thư khách sáo quá rồi”. Cô ấy bảo người hầu nhận quà, lại kêu Từ phu nhân và Tĩnh Uyên đánh bài. Tĩnh Uyên từ chối qua loa rồi ngồi cùng đánh tám vòng. Cô vốn ngồi phía trên Mộ Dung tam tiểu thư, cô đến chuẩn bị trước, lại cố gắng đoán ý qua sắc mặt và lời nói, so với những quân bài mình không hợp cạ, Mộ Dung tam tiểu thư cần quân nào, cô liền đánh quân đó, hết tám vòng rồi lại đánh tám vòng, Mộ Dung tam tiểu thư đã thắng hơn hai ngàn đồng. Từ phu nhân bên cạnh giúp Mộ Dung tam tiểu thư xem bài, tươi cười như hoa, nói: “Tam tiểu thư may mắn thật, trước khi mở tiệc đã thắng một sô kha khá rồi phải không, e rằng tám vòng này đánh không hết đã phải mở tiệc rồi”. Mộ Dung tam tiểu thư nói: “Hôm nay là ngày chính, Cậu Sáu đã nói là sẽ đến, đợi cậu ấy đến mới bắt đầu”.
Tĩnh Uyển nghe thấy vậy, cười hỏi: “Cậu Sáu có đến sao? Nói ra tôi và Cậu Sáu từng có duyên gặp mặt, không biết Cậu Sáu còn nhớ hay không?”. Vừa nói, cô vừa làm như vô ý, tiện tay lấy chiếc đồng hồ quả quýt ra xem giờ. Mộ Dung tam tiểu thư tinh mắt, đã nhận ra ngay đó là chiếc đồng hồ Mộ Dung Thần đặt làm riêng cho Mộ Dung Phong vào lần sinh nhật hai mươi tuổi của anh, chỉ không biết vì sao nó lại ở trên tay người phụ nữ này. Nghĩ lại một chút, cô đoán chắc là được cậu em phong lưu này tặng làm kỷ niệm rồi. Vị Doãn tiểu thư tướng mạo xuất chúng như vậy, chẳng trách ngay cả chiếc đồng hồ này nó cũng tặng cô ấy. Trong lòng suy nghĩ, vị Doãn tiểu thư này thua mình nhiều tiền như vậy, hóa ra là có chủ ý. Cô đã quen với việc này, tuy thầm buồn cười nhưng cũng không vạch trần chỉ nói: “Mấy hôm trước tôi còn nói với chị cả, Cậu Sáu nhà chúng ta cũng sắp theo kịp mấy minh tinh điện ảnh rồi”. Tĩnh Uyển nghe cô nói một câu không mặn không nhạt như thế, cũng không tiếp lời, chỉ cười thật tươi.
Mộ Dung tam tiểu thư thắng cô không ít tiền, trong lòng nghĩ đây vốn là chuyện thuận nước xuôi thuyền, hơn nữa Mộ Dung Phong xưa nay lại có tật xấu này, bản thân cô thay người ta làm mối cũng không phải là lần đầu. Vừa tính toán trong lòng vừa đánh bài, đợi đến lúc bên ngoài giục mở tiệc, cô mới đứng dậy đi ra.
Bữa tiệc này Tĩnh Uyển cứ thấp thỏm, ăn cũng không yên, tuy là bào ngư vi cá cũng chỉ thấy nhạt như nước ốc. Phòng trên vốn là tiệc cơ động (*), dùng bữa xong rời đến phòng sau dùng tra, kịch mới dừng, lại có mấy diễn viên lên thuyết thư (**), đang rất náo nhiệt, bỗng nhiên một cô bé dáng vẻ nhanh nhẹn đi lên, nói nhỏ với cô: “Doãn tiểu thư, tam tiểu thư chúng tôi mời cô đến phòng sau dùng trà”. Tim cô nhảy lên, cô đứng dậy liền theo người hầu đó ra phía sau, đi qua một cánh cửa màu đỏ nhỏ, bên trong là một căn phòng vô cùng yên tĩnh, trước phòng trồng vài cây hoa lê, lúc này lá đã sum suê đầy cành.
(*) Tiệc cơ động: Ai đến trước thì ăn trước, đến sau ăn sau (ND)
(**) Thuyết thư: Loại hình biểu diễn các loại khí khúc như binh thư, bình thoại, đàn từ… (ND)
Người hầu mở cửa ra, nói nhỏ: “Tiểu thư đợi ở đây một lát”. Tĩnh Uyển nhìn căn phòng đó, tuy bố trí kiểu cũ nhưng cũng rất nhã nhặn. Trong phòng bày một bộ đồ dùng bằng gỗ tư đàn kiểu đời Minh rất tinh xảo. Cô ngồi trên ghế đợi một lát, nghe a hoàn đó đã đi rất xa, xung quanh yên lặng không tiếng động, từ xa lờ mờ truyền đến chút âm thanh tiệc tùng náo nhiệt, khiến trong phòng càng trở nên yên tĩnh hơn. Bỗng nhiên nghe thấy bên ngoài phòng truyền đến tiếng giày da, tim cô đập thình thịch, người cũng bất giác đứng lên, cô vốn rất to gan, đến lúc này lại bỗng trở nên sợ hãi, nghe thấy tiếng bước chân càng ngày càng gần liền nấp sau tấm rèm màu xanh nước biển.
Người đó đi thẳng vào phòng, gọi hai tiếng “Ngọc My”, hỏi: “Ngọc My, có phải em không, đừng trốn nữa”. Cô nghe thấy giọng nói của một chàng trai trẻ, không biết có phải là Mộ Dung Phong không, trái tim chỉ chực nhảy ra khỏi lồng ngực, cô đứng yên đó không động đậy. Lại nghe thấy người đó nói: “Được rồi, đừng đùa nữa, mau ra đi. Khó khăn lắm anh mới thoát thân để đến được, lát nữa họ không thấy anh lại đến tìm đấy”.
Tĩnh Uyển rối loạn, chốc lát trong đầu có vô số ý nghĩ, chỉ nghe thấy người đó nói: “Em còn không ra, anh phải đi rồi đấy”. Cô chần chứ không nhúc nhích, chỉ nghe anh nói: “Ngọc My, em thật sự không ra, vậy anh đi thật đây”. Một lúc sau, liền nghe thấy tiếng bước chân xa dần, xung quanh lại trở nên yên ắng, người đó đi thật rồi. Cô không biết vì sao thở phào một tiếng, chầm chậm bước ra khỏi chiếc rèm, thấy trong phòng không có ai, trong lòng cô rối như tơ vò, không biết phải làm thế nào.
Chính trong giây phút tim đập loạn nhịp đó, bỗng có người ôm eo cô từ phía sau, cô giật mình hoảng hốt, đầu óc quay cuồng, bị người khác đè lên chiếc giường nhỏ, hơi thở ấm ấm phả vào tai, cảm giác vừa mềm vừa ngứa đó khiến cô vừa kinh ngạc vừa sợ hãi. Lại nghe thấy giọng nói của người đó kề sát bên cạnh, hóa ra người đó chỉ giả vờ bỏ đi, lúc này bất ngờ đè cô xuống, cười lớn nói: “Đồ láu lỉnh, em cứ nghịch ngợm như vậy, hôm nay anh nhất định phải cho em biết tay”. Trên người anh có mùi hương bạc hà thoang thoảng, pha trộn mùi đàn ông lạ lẫm, còn cả mùi khói thuốc súng nhàn nhạt xộc vào mũi, cô ra sức vùng vẫy, một tay anh đè cô xuống, một tay xô mái tóc rối của cô, đang muốn hôn lên môi cô thì nhìn rõ mặt cô, anh không kìm được sững sờ.
Chương 5
Mặt anh kề sát mặt cô, nên cô nhìn rõ đôi chân mày rậm của anh. Với ánh mắt sắc bén nhìn thẳng vào mặt cô, tuy anh vô cùng kinh ngạc vì tình cảnh này rất khó xử, trong ánh mắt anh hiện lên vẻ ngượng ngùng khó nói, nhưng trong giây lát, sự ngượng ngùng đó đã được thay bằng vẻ mặt rất ung dung, ánh mắt sắc bén đó vẫn dò xét cô, dường như muốn tìm cái gì đó trên mặt cô. Cô cũng cố gắng nhớ lại bức ảnh xem hôm trước, nhưng ảnh chụp trên báo nhìn không rõ, cô nhìn anh thật kỹ, cũng không dám chắc anh có phải là Mộ Dung Phong không. Hơi thở ấm nóng của anh phả lên mặt cô, bây giờ cô mới phát hiện tư thế của hai người cực kỳ mờ ám, dẫu sao cô vẫn là một tiểu thư, bất giác đỏ mặt tía tai, đưa tay ra đẩy anh nói: “Ối, anh mau đứng lên”.
Anh cũng tỉnh táo lai, vội vàng buông tay ra, vừa mới đứng dậy, bỗng nghe thấy tiếng bước chân lộn xộn bên ngoài cửa. Rõ ràng có người đi về phía bên này, tiếp theo có người gõ cửa rầm rầm gọi: “Cậu Sáu! Cậu Sáu!”. Người bên ngoài cửa đều cười ha ha, nghe giọng nói xem chừng có khoảng ba, bốn người. Chỉ nghe thấy một giọng nói sang sảng: “Cậu Sáu, lần này bị chúng tôi bắt được rồi nhé, mới uống được một nửa đã bỏ chạy, không nể mặt anh em chúng tôi quá rồi”. Tĩnh Uyển giật bắn mình, cơ thể hơi động đậy, anh sợ cô đi mở cửa, bất ngờ đưa tay ra che miệng cô, nói nhỏ: “Đừng làm ồn”. Anh xuất thân quân ngũ, ra tay rất mạnh, Tĩnh Uyển bị anh bịt miệng đến suýt nghẹt thở, vội vàng gật đầu tỏ ý đã hiểu, anh mới buông tay ra.
Loáng thoáng nghe thấy bên ngoài có người nói: “Mấy vị thống chế không ăn cơm ở nhà trên, chạy đến đằng sau này làm gì vậy?”. Giọng nói sang sảng lúc trước cười haha, nói: “Đào tư lệnh không biết đấy thôi, mới uống được một nửa, Cậu Sáu lại mượn cớ bỏ trốn, mãi vẫn không quay lại, chúng tôi tìm đến đây, nhất định phải mời cậu ấy về để phạt cậu ấy một hũ rượu”.
Đào tư lệnh chính là Đào Đoan Nhân – anh rể thứ ba của Mộ Dung Phong, tư lệnh đóng giữ Thừa Châu, anh ta là nhân vật lợi hại ra sao, giờ cũng biết được tiền đồ mở rộng thế nào, anh ta chỉ mỉm, chỉ nói: “Đây là một căn phòng bỏ không, bình thường không có người ở, Quan thống chế có gọi nửa này cũng không có ai thưa đâu, Cậu Sáu chắc chắn không ở đây, chỉ bằng các vị đi chỗ khác tìm xem”.
Quan thống chế tuy là người thô lỗ, nhưng lăn lộn trong hai giới quân đội chính trị nhiều năm nay, đối nhân xử thế rất khéo léo, thấy Đào Đoạn Nhân đã nói vậy, không muốn làm mất mặt chủ, liền cười cười nói: “Vậy chúng tôi đi chỗ khác tìm”. Đi được hai bước, bỗng nhiên anh ta cười hì hì dừng chân, quay đầu lại nói: “Không được, Đào tư lệnh, hôm nay là ngày vui của tam tiểu thư, trong phủ đông người, chúng ta không thể để người khác lẻn vào, chẳng may có kẻ xấu làm kinh động đến khách quý thì làm sao?”, lại cất cao giọng, gọi: “Người đâu!”.
Một tùy tùng của anh ta liền “dạ” một tiếng, chỉ nghe thấy Quan thống chế nói: “Đem khóa đến đây, khóa cửa này lại rồi đưa chìa khóa cho Đào tư lệnh giữ”. Lời nói chưa dứt, mấy người đều cười ầm lên, ai cũng vỗ tay khen hay. Đào tư lênh tuy thấy hơi bất hợp lý, nhưng mấy vị thống chế này đều là thuộc cấp cũ của Mộ Dung gia, từ nhỏ nhìn Mộ Dung Phong lớn lên, bình thường đùa với anh quen rồi, huống hồ bây giờ có tí hơi men, đành cười nhìn tên hầu đó lấy một chiếc khóa lớn khóa cửa lại. Quan thống chế cầm lấy chìa khóa, tận tay tha vào túi áo Đào tư lệnh, vỗ nhè nhẹ túi áo nói: “Đào tư lệnh, đây đã là căn phòng bỏ không, chắc bên trong cũng chẳng có đồ gì quý giá, đương nhiên giờ cũng không dùng đến chiếc chìa khóa này, chúng ta đi uống rượu thôi”.Dứt lời anh ta nói cười với mấy thống chế khác, ồn ào kéo Đào tư lệnh đi.
Tĩnh Uyển ở trong phòng nghe thấy họ đã đi xa, đi lên phía trước đẩy cửa bên ngoài thật chặt, sao có thể đẩy ra được chứ? Cô quay đầu lại nhìn Mộ Dung Phong, anh vẫn rất bình thản, cười cười với cô: “Thật xin lỗi, lúc nãy tôi nhận nhầm người, mạo phạm quá rồi!”. Cô chỉ nói: “Đâu có”. Vừa dứt lời liền cảm thấy không ổn, nhưng nếu giải thích chỉ e càng nói càng rối, trong phòng chỉ bật một chiếc đèn nhỏ, cô đứng trước cửa sổ, cửa sổ treo một tấm rèm nhung màu vàng, trong ánh sáng lờ mờ, nhìn nó giống như màu xanh, càng làm nổi bật chiếc sườn xám màu trắng bạc của cô, những nếp gấp ánh lên lấp lánh, trong cô như bông hoa lan trên cành, lay động trong màn mưa mênh mang. Anh bỗng động lòng, buột miệng nói: “Là cô?”.
Cô sững sờ một lát: “Đúng… là tôi”.
Dáng vẻ anh vẫn rất ung dung, cười nói: “Chúng ta đây là duyên phận gì chứ, sao mỗi lần gặp cô đều là lúc thảm hại nhất của tôi. Trong lòng cô rối bời, nhất thời không biết nói gì, anh đi lại đẩy đẩy cửa, làm sao đẩy nổi, anh không kìm được nói: “ Đám người này có tí rượu vào là đùa nghịch không biết trời đất là gì?” Thấy cô nhìn mình, anh lại cười cười, an ủi cô: “Đừng lo, lát nữa sẽ có người đến thả chúng ta ra”. Thấy cô hình như hơi thấp thỏm không yên, anh nghĩ lại, rồi đi bật hết mấy chiếc đèn trong phòng, xung quanh bỗng nhiên sáng rõ, anh thấy đôi mắt trong veo như nước hồ thu long lanh của cô nhìn anh, ánh mắt ấy chuyển động trong vắt như gương.
Lại nói đến Đào Đoan Nhân quay về phòng tiệc lớn phía trước, uống vài ly rượu mấy vị thống chế rồi nhân lúc người khác không để ý, vẫy tay gọi một tùy tùng đến, khi anh ta lén lấy chìa khóa ra đưa cho người đó, bỗng một bàn tay thò vào túi, ấn chìa khóa xuống. Đào Đoan Nhân ngẩng đầu lên nhìn, chính là Quan thống chế, anh ta cười ha ha nói với Đào Đoan Nhân: “Đào tư lênh vội gì chứ?”.
Đào Đoan Nhân nói: “Đùa đủ rồi, đừng đùa nữa”. Quan thống chế cười hà hả, thấp giọng nói: “Bây giờ Cậu Sáu ở trong căn phòng đó e rằng còn sung sướng hơn nhiều so với chúng ta bị chuốc rượu ở đây”. Đào Đoan Nhân cười một tiếng, đáp: “Đùa là đùa, nhốt mãi như thế còn ra gì chứ?” Một vị thống chế khác cầm một hũ rượu đến, tự mình rót một chén cho Đào Đoan Nhân nói: “Đào tư lệnh yên tâm, vẫn còn sớm mà, hiếm có hai ngày rảnh rỗi này, để Cậu Sáu thoải mái nghỉ ngơi đi”. Người khác cũng mồm năm miệng mười đến chuốc rượu khuyên bảo, Đào Đoan Nhân không có cách nào, đành cùng họ càn quấy tiếp.
Mộ Dung Phong cứ tưởng không quá một tiếng đồng hồ sẽ có người đến, ai ngờ mãi lâu, trời tối dần, xung quanh vẫn yên lặng như tờ, chỉ nghe thấy tiếng cười nói văng vẳng ở nhà trên, Mộ Dung Phong đi lại hai bước trong phòng, kéo rèm cửa lên xem, lại quay qua nhìn Tĩnh Uyển, Tĩnh Uyển nghĩ, cứ bị nhốt ở đây như vậy cũng sẽ khó xư, cứ tiếp tục thế này, cũng chẳng tiện nói gì, nói: “Cậu Sáu cứ tự nhiên”.
Cô vốn không có ý gì nhưng vừa nói ra, bản thân cũng cảm thấy rất ngại, anh cũng không nhịn được cười, nói: “Tuy trèo cửa sổ ra rất dễ dàng, nhưng tôi luôn thất lễ trước mặt tiểu thư”. Cô nói: “Tùy cơ ứng biến, có gì mà thất lễ chứ”. Anh nghe cô trả lời thoải mái, trong lòng nghĩ đám thống chế này tửu lượng đều cao, nếu uống đến mức ai ai cũng say như chết, mình thật sự bị nhốt ở đây một đêm thì còn ra thể thống gì? Anh đưa tay lên đẩy cửa sổ ra, thấy xung quanh không có ai, hai tay ấn lên bệ cửa, liền nhảy qua cửa sổ, chạm đất không tiếng động.
Anh quay đầu lại nói với Tĩnh Uyển: “Cô đợi ở đây một lát, tôi gọi người đến mở cửa”. Tĩnh Uyển thấy anh định quay người đi, trong lòng rất lo lắng. Cô khó khăn lắm mới gặp được anh, anh đi rồi, muốn gặp lại càng khó hơn, vậy lại buột miệng nói: “Không, tôi đi với anh”. Cô thấy một chiếc ghế đẩu nhung trước bàn dài dưới cửa sổ, bê đến giẫm lên, có điều tà dưới của sườn xám hơi chật, làm sao có thể nhảy cửa sổ ra như anh? Cô không nghĩ gì, liền xé tà dưới sườn xám, chỉ nghe một tiếng “xoạc”, chỗ xẻ của sườn xám đã rách ra. Anh thấy cô giẫm lên cửa sổ, trong lòng rất hốt hoảng, đưa tay ra theo bản năng muốn đỡ lấy, cô lại không để ý, thuận theo cửa sổ nhảy xuống, nhanh nhẹn lanh lẹ rồi đứng vững, lại lấy khăn tay phủi phủi bụi sau tà váy, vẻ mặt điềm nhiên như chỉ là mới vươn người hái nhành hoa, ngẩng đầu lên nở một nụ cười rất đẹp với anh.
Anh cố gắng kìm chế không nhìn về phía vết rách đó, chỉ là trong lòng thấy kỳ lạ, sợ không quản nổi ánh mắt mình, đành ho một tiếng nói: “Mời tiểu thư đi bên này”. Tĩnh Uyển lúc này mới nói nhỏ: “Tôi họ Doãn, Doãn Tĩnh Uyển”. Anh “ừ” một tiếng, đưa tay ra nói: “Doãn tiểu thư hân hạnh”. Tay cô rất lạnh,anh nhớ lại lúc nhỏ mình cầm chiếc dùi bằng ngọc Dương Chi để niệm Phật của mẹ, nắm trong lòng bàn tay cũng lành lạnh như thế, giống như hễ lơi là sẽ tuột xuống đất vỡ nát nên luôn cố gắng giữ thật cẩn thận. Anh thấy bộ đồ của cô đã hỏng, như thế này cũng không thể gặp ai, trong lòng liền có tính toán.
Anh đi phía trước, Tĩnh Uyển rớt sau anh hai ba bước, không biết anh đưa mình đi đâu, từ vườn hoa đó men theo hành lang rẽ mấy lần, lại đi qua rất nhiều sân, đằng sau lại là một căn nhà nhỏ kiểu Tây, trước căn nhà đó có một bóng đèn điện sáng trắng, chiếu vào một cây liễu rất lớn, gió đêm thổi qua, hàng ngàn chiếc lá rủ xuống lan can nhỏ màu đỏ, như tranh như hoa.
Tĩnh Uyển không có tâm trạng nào mà ngắm cảnh, Mộ Dung Phong đi vào phòng, gọi một tiếng: “Chị ba”. Hóa ra đây là nơi ở của Mộ Dung tam tiểu thư, anh nghĩ rằng lúc này chị ba đang tiếp khách ở phía trước, ai ngờ vừa đúng lúc Mộ Dung tam tiểu thư về phòng thay đồ, nghe thấy giọng anh, vội vàng đi từ trên lầu xuống, thấy là hai người bọn họ, chưa nói gì đã nhoẻn miệng cười. Mộ Dung Phong cũng chẳng ngờ chị mình lại ở đây, chỉ định gọi người hầu đem một bộ quần áo đếnn, lúc này đành nói với chị: “Chị ba bảo người đem một bộ quần áo đến để cô ấy thay trước đi”. Trên trần nhà của căn phòng đó treo bốn chiếc đèn chùm thủy tinh rất lớn, Mộ Dung tiểu thư nghe thấy câu này, liền nhìn về phía người Tĩnh Uyển, lập tức thấy vết rách dài ở tà dưới, không thể nhịn nổi, nét cười chầm chậm lộ nơi khóe mắt: “Chị có một bộ sườn xám mới may, mặc hơi chật, vẫn chưa đem đi sửa. Doãn tiểu thư gầy hơn chị, chắc sẽ mặc vừa”. Cô gọi người làm dẫn Tĩnh Uyển đi thay quần áo, Tĩnh Uyển đi hai bước, bỗng nhiên nhớ ra, quay đầu lại nói với Mộ Dung Phong: “Phiền anh đợi tôi một lát, tôi còn có chuyện muốn nói với anh”.
Mộ Dung Phong còn chưa đáp lại: “Mộ Dung tam tiểu thư đã phì cười, vỗ tay Tĩnh Uyển nói: “Em yên tâm đi đi, chị thay em trông nó, đảm bảo nó không đi đâu được hết”. Tĩnh Uyển thấy cô nói vậy, biết rõ cô đã hiểu nhầm, nhưng chuyện này cũng không dễ biện bạch, đành cười cười trước, rồi đi thay quần áo.
Lúc cô thay xong quần áo đi ra, chỉ thấy một mình Mộ Dung Phong ngồi ở đó hút thuốc, xung quanh yên lặng như tờ, ngay cả người hầu cũng không biết đi đâu. Anh thấy cô đi ra, tiện tay dập điếu thuốc xuống gạt tàn, anh tuy xuất thân từ gia đình kiểu cũ, nhưng cũng là nhân vật thời thượng trong xã hội thượng lưu, hiểu các lễ tiết phương Tây, anh đứng dậy kéo ghế giúp cô, cô cảm ơn ngồi xuống, đang do dự mở lời như thế nào, anh đã hỏi: “Doãn tiểu thư là người Càn Bình phải không?”.
Trong lòng Tĩnh Uyển vốn rối loạn cực độ, thấy Mộ Dung Phong nhìn mình, tuy anh là nhân vật nắm đại quyền trong tay, nhưng vị trẻ tuổi nên không hề đem lại cho người khác cảm giác hung hổ dọa người, ngược lại cô thấy ánh mắt rất ôn hòa, do đó ôn tồn nói: “Cậu Sáu, thật không muốn giấu, tôi đến là có việc muốn cầu xin”. Mộ Dung Phong “ồ” một tiếng nói: “Tôi vốn nợ ân cứu mạng của Doãn Tiểu Thư, có gì xin hãy nói thẳng đừng ngại!”. Tĩnh Uyển liền nói rõ sự việc với anh, sau đó nhìn anh không chớp mắt, anh hơi chau mày, lập tức nói: “Doãn tiểu thư, cô từng giúp tôi lúc nguy nan, đại ân đó suốt đời không quên. Nhưng việc này thứ lỗi tôi thật sự không thể đồng ý với cô”.
Cô vốn còn ôm chút hy vọng, nghe anh từ chối thẳng thừng như vậy, trong mắt không kiềm được lộ ra ánh nhìn đau lòng, tuyệt vọng. Anh cảm hấy rất có lỗi, hỏi: “Doãn tiểu thư, thật vô cùng xin lỗi, tôi quả thật bất lực”.Cô “ừ” một tiếng nói: “Ngay cả anh cũng đã bất lực, vậy thì thật sự không có cách nào rồi”.
Tuy anh chỉ gặp cô vài lần, nhưng đã cảm thấy cô gái trước mặt thật nhanh nhẹn, thẳng thắn không hề tầm thường, là một người quyết đoán, không thua kém đấng mày râu. Bây giờ nhìn cô tuyệt vọng, mới thấy được vẻ yếu đuối của con gái, khiến người ta không nén nổi thương xót, nghĩ lại một lát, lại nói: “Thế này đi, cô ở lại đây hai ngày, tôi sắp xếp đưa cô đi dạo xung quanh, nếu có chuyện gì khác tôi có thể giúp, xin hãy cứ nói”. Cô lắc đầu nói: “Ngoài chuyện này, tôi không có việc gì muốn nhờ anh giúp nữa”.
Trong chốc lát, căn phòng chìm trong yên lặng, rất lâu sau, anh mới hỏi: “Vị Hứa tiên sinh đó, chắc là người thân của Doãn tiểu thư phải không?”. Tĩnh Uyên nói: “Anh ấy là vị hôn phu của tôi”. Anh lại im lặng, một lát sau nói: “Tôi rất xin lỗi, hy vọng Doãn tiểu thư có thể hiểu được khó khăn của tôi”. Tĩnh Uyển khẽ gật gật đầu nói: “Tôi hiểu, anh muốn khống chế mười một sư đoàn chín tỉnh, quả thật không dễ dàng. Huống hồ trong hai phe phái, phe bao thủ hành động mưu đồ, lúc này anh không thể đi sai một bước”. Cô hơi mỉm cười, nhưng ánh mắt lạnh tanh: “Tôi chỉ nghĩ đó là điều đương nhiên, anh mới hai mươi lăm tuổi, con nối nghiệp cha, những thuộc cấp dưới quyền chắc chắn có công cao hơn chủ, nén giận không phúc, xúi bẩy đến xem trò cười, nếu không phải anh mới đánh thắng một trận, e rằng người không phục còn nhiều hơn. Từ xưa đến nay, trên thế giới này sự việc cũng chỉ thế mà thôi”.
Chương 6
Mộ Dung Phong nghe những lời đó, trong lòng dường như có sóng động, một lát sau bỗng mỉm cười: “Doãn tiểu thư từ xa đến, cũng phải để tôi hết lòng tiếp đãi, ngày mai tôi muốn mời Doãn tiểu thư đến nhà tôi ăn bữa cơm, không biết Doãn tiểu thư có vui lòng đến dự không?”.
Tĩnh Uyển từ chối hai câu rồi cũng nhận lời. Mộ Dung Phong lại hỏi: “Không biết Doãn tiểu thư hiện giờ ở đâu, ngày mai tôi phái người đến đón”. Tĩnh Uyên liền nói cho anh biết tên nhà trọ, anh hơi chau mày, lập tức cười nói: “Thừa Châu là nơi hẻo lánh, không thể so được với cố đô Càn Bình phồn hoa, quán trọ đó e rằng sẽ làm khổ tiểu thư rồi, chị Ba và Doãn tiểu thư rất có duyên, chị ấy cũng rất hiếu khách. Nếu Doãn tiểu thư không chê, có thể chuyển về đây ở không?”
Tĩnh Uyển nghe anh mời mình về ở trong Đào phủ, trong lòng đương nhiên thấy kỳ lạ, do dự một lát thấy ánh mắt ánh sáng ngời, nhìn thẳng vào mình, đôi mắt đó giống như bầu trời đêm sâu thăm thẳm. Cô nhất thời liền quyết định, nói: “E rằng làm phiền chị ba anh, vậy ngại lắm”.
Môi anh hé nụ cười, nói: “Chị ấy là người rất hiếu khách, Doãn tiểu thư yên tâm”. Anh vừa nói vừa ấn chuông gọi người, vì biết anh ở đây cho nên không phải là người hầu của Đào gia mà là tùy tùng của anh đi vào đợi lệnh, anh liền nói cho tùy tùng địa chỉ quán trọ, dặn dò: “Đi lấy hành lý của Doãn tiểu thư”, lại nói: “Nói với chị ba tôi một tiếng, bảo là tôi có việc mời chị ấy đến”.
Mộ Dung gia là gia đình kiểu cũ, sau khi Mộ Dung Thần qua đời, Mộ Dung Phong là người đứng đầu thực chất, Tam tiểu thư tuy nhiều tuổi hơn anh, nhưng nghe anh phái người tìm mình một lát sau liền đến ngay. Mộ Dung Phong nói với cô: “Chị ba, em thay chị mời Doãn tiểu thư ở lại đây”. Tam tiểu thư cảm thấy hơi bất ngờ, nhưng lập tức cười nói: “Chị đương nhiên là tán thành rồi, Doãn tiểu thư chịu vui lòng đến thì tốt quá”. Cô nồng nhiệt nắm lấy tay Tĩnh Uyển: “Chị chỉ sợ Doãn tiểu thư chê chỗ chị buồn chán”, lại nói tiếp: “Nếu Doãn tiểu thư không chê, ở căn nhà phía Tây có được không?”. Tuy chỗ đó hơi nhỏ, nhưng lầu trên lầu dưới, xung quanh đều là hoa viên, rất yên tĩnh, hơn nữa phía trước có một cổng, nếu có việc ra vào, ví dụ như lên phố, cũng không cần đi quá xa cổng chính”.
Đào gia vốn là khu biệt viện kín cổng cao tưởng, phòng trống rất nhiều, Tam tiểu thư tự mình đưa Tĩnh Uyển đi xem phòng, sự niềm nở ấy khác hắn vừa lúc mới gặp. Căn nhà đó tuy để trống, nhưng hàng ngày đều có người quét dọn sạch sẽ, không một chút bụi. Dưới lầu là phòng khách và hai phòng nhỏ, thêm một căn bếp, trên lầu có mấy phòng ngủ, một trong số đó rất rộng rãi, thiết kế kiểu phương Tây, Tam tiểu thư dặn dò Lan Cầm, một nha hoàn làm việc ở nhà trên đến dọn chăn đệm mới tinh, trải rên chiếc giường lò xo kiểu Tây, nói: “Tất cả đều sạch sẽ, Doãn tiểu thư cứ yên tâm”. Cô lại chỉ Lan Cầm nói: “Con bé này cũng khá ngoan ngoãn, Doãn tiểu thư không đem theo người đến, để nó đến hầu hạ Doãn tiểu thư đi”.
Tĩnh Uyển đương nhiên luôn miệng cảm ơn, phòng ngủ đó có ô cửa sổ dài sát đất kiểu Tây, đầy cửa là đi ra ban công. Bầu trời đầy sao lấp lánh, những ánh sao lẻ loi chiếu vào nơi tối nhất của bóng cây. Gió thổi qua, lá cây lay động, cô nhìn về con phố bên ngoài tường không xa, đối diện lại là bờ tường đá granite, nhìn trông âm u tĩnh mịch, lờ mờ có thể thấy các căn nhà nối tiếp không ngừng, không có những chóp nhà cao cao, có vẻ đó là một tòa nhà rất lớn với lớp lớp các căn nhà.
Con đường được chiếu sáng nhờ những ngọn đèn hơi ga, soi rõ lưới điện mắc trên bờ tường đối diện, trên lưới điện buộc rất nhiều dây thép gai, trên tường cắm đầy những mảnh thủy tinh vỡ. Chỗ góc rẽ có một ngọn đèn đường, bên dưới là một trạm gác cảnh sát, dưới bờ tường cách không xa lại có một vệ binh vác súng đi đi lại lại, rõ ràng bên trong bờ tường ấy là một nơi rất quan trọng. Cô không kìm được hỏi: “Đó là chỗ nào thế?”. Tam tiểu thư nhoẻn miệng cười nói: “Đó là hành dinh đốc quân”. Tĩnh Uyển bất giác “ồ” lên một tiếng, hóa ra đó chính là hành dinh đốc quân tuần duyệt sứ chính tỉnh mà người ta gọi là “Đại soái phủ”, hóa ra căn nhà này và soái phủ chỉ cách nhau một con phố, chẳng trách Tam tiểu thư lại sắp xếp như vậy.
Trưa ngày hôm sau Mộ Dung Phong sai người đến đón cô. Người đến đón tuy mặc quân phục nhưng thái độ rất nhã nhặn ôn hòa, thấy Tĩnh Uyển thì lịch sự giới thiệu: “Chào Doãn tiểu thư, tôi là Thẩm Gia Bình, đội trưởng vệ quân của Cậu Sáu, Cậu Sáu phái tôi đến đón Doãn tiểu thư”.
Tuy cô đã có sự chuẩn bị nhưng trong lòng ít nhiều vẫn thấp thỏm bất an, cô kiêu ngạo gan dạ hơn người, ngồi trên xe cuối cùng cũng trấn tỉnh lại. Đào phủ và soái phủ vốn không xa nhau, đi một lát đã đến, ô tô đi thẳng vào trong, đi thêm một đoạn rất xa rồi mới dừng lại. Đã có người hầu đợi sẵn đi lên mở cửa giúp cô, hóa ra ô tô dừng lại ở trước một tòa nhà gạch xanh rất lớn, trước lầu là vườn hoa kiểu Tây, giữa mùa xuân cành lá sum sê tươi tốt, vô cùng đẹp đẽ. Người làm dẫn cô vào bên trong, trên đường đi xuyên qua một phòng khách như cung điện, đi qua hành lang là một phòng khách thiết kế theo kiểu Tây, nền trải một tấm thảm, giẫm lên mềm mại không phát ra tiếng động, trên thảm là hình hai đóa hoa phù dung rất lớn, bộ ghế sofa giống như nhụy hoa ở giữa. Cô vừa ngồi xuống liền có người bưng trà lên.
Cô vừa uống trà vừa đợi một lát, bỗng nghe thấy bên ngoài bức bình phong có người vừa nói chuyện vừa đi vào: “Thật xin lỗi, để Doãn tiểu thư đợi lâu”. Chính là Mộ Dung Phong, ở nhà anh mặc áo sơ mi dài, khí thái anh hùng lại thêm vài phần nho nhã. Cô thướt tha đứng dậy, anh thấy cô hôm nay mặc váy dài kiểu phương Tây, càng trở nên duyên dáng, thấy cô thoải mái đưa tay ra, anh vội vàng bắt tay với cô: “Vốn định tự mình đi đón Doãn tiểu thư, nhưng buổi sáng có chút việc đột xuất cho nên đến muộn, mong Doãn tiểu thư thông cảm”.
Tĩnh Uyển nói: “Cậu Sáu là quản lý quân sự chính trị của chín tỉnh, trăm công nghìn việc, tôi mới là người đến làm phiền, vô cùng có lỗi”. Mộ Dung Phong ngồi xuống nói chút chuyện phong cảnh Thừa Châu, không lâu sau liền có người làm đến báo: “Nhà bếp xin ý kiến Cậu Sáu, đã chuẩn bị xong hết rồi ạ”. Mộ Dung Phong nói: “Vậy ăn cơm trước đi”. Anh đứng dậy, đột nhiên nói: “Doãn tiểu thư cứ ngồi đó, tôi đi một lát rồi quay lại”. Không lâu sau, Mộ Dung Phong liền thay một bộ Tây phục đến, cười nói: “Hôm nay mời Doãn tiểu thư thử tài nghệ nấu đồ Tây của nhà chúng tôi”. Tĩnh Uyển thấy anh thay Âu phục, càng trở nên phóng khoáng phong lưu, nhưng dẫu sao trẻ tuổi, cũng thích thời thượng giống các công tử phong lưu bình thường. Lại nghe anh nói là ăn đồ Tây, cô liền đáp: “Cậu Sáu khách sáo quá rồi”.
Nhà bếp của Mộ Dung phủ đương nhiên không hề tầm thường, nấu ăn cũng rất đúng kiểu. Tuy chỉ có hai người ăn cơm, nhưng có một đống người hầu hạ rất niềm nở. Vừa mới đưa lên món chính thứ hai, bỗng một người hầu đến báo cáo: “Cậu Sáu, sư đoàn trưởng Thường xin gặp”.
Mộ Dung Phong nói: “Mời ông ấy vào đi”.
Một lát sau, người hầu liền dẫn vị sư đoàn trưởng Thường đó vào, Tĩnh Uyển thấy người này khoảng trên dưới năm mươi tuổi, dáng vẻ oai phong vừa mở miệng là tiếng vang như chuông đồng, ông ta gọi một tiếng: “Cậu Sáu”. Sự đoàn trưởng Thường nhìn thấy Tĩnh Uyển, thầm ngạc nhiên, đôi mắt chỉ lo dò xét. Vì ông ta là thuộc cấp cũ của Mộ Dung Thần nên xưa nay Mộ Dung Phong gọi là “chú Thường”, anh hỏi: “Chú Thường chắc vẫn chưa ăn cơm, ngồi xuống ăn chút nhé”. Vị sư đoàn trưởng Thường đó giận dữ đùng đùng đi đến, vì có mặt người ngoài nên một bụng tức giận mà cố kìm nén không xả ra, khó chịu nói: “Cảm ơn Cậu Sáu, tôi ăn rồi. Cậu Sáu có thể nói chuyện riêng với tôi vài câu được không?”.
Mộ Dung Phong nói: “Có gì chú cứ nói đi, Doãn tiểu thư không phải người ngoài”. Vì anh chưa kết hôn hên xưa nay không tiếp nữ giới ở nhà, sư đoàn trưởng Thường ngẫm nghĩ, cảm thấy vị Doãn tiểu thư này nhất định là người đặc biệt, ông là thuộc cấp cũ theo Mộ Dung Thần chinh chiến nhiều năm, nhiều lúc xin chỉ thị quân sự trước trưởng kỷ của Mộ Dung Thần, tứ phu nhân được Mô Dung Thần yêu chiều nhất trong những năm cuối đời luôn ở bên cạnh châm thuốc giúp ông, họ coi như không thấy bà – bây giờ cũng coi như không thấy Tĩnh Uyển, liền mở miệng nói: “Quân lương Cậu Sáu đồng ý điều động, đến bây giờ vẫn chưa tới Thượng Hả”. Mộ Dung Phong đáp: “Trước mắt quân lương thiếu hụt, chú cũng biết đấy”. Sư đoàn trưởng Thường hỏi: “Vậy tại sao Cậu Sáu lại phát hơn một ngàn bột mì cho Lưu Tử Sơn?”. Mộ Dung Phong nói: “ Lưu Tử Sơn dẫn quân trấn giữ Thượng Hải, đối đầu với Dĩnh quân, đương nhiên phải ổn định lòng quân tiền tuyến”.
Sư đoàn trưởng Thường hỏi lại: “Chẳng lẽ Thường Đức Quý tôi không phải đang dẫn quân đối đầu với Dĩnh quân sao? Tại sao Cậu Sáu điều quân lương cho Thượng Hải, lại không chịu cho Thượng Hà chúng tôi?”. Mộ Dung Phong cũng không tức giận, mỉm cười nói: “Chú Thường đừng nóng, đợi đợt quân lương này đến, cháu lập tức điều động đến cho chú”. Thường Đức Quý hừ một tiếng, nói: “Cậu Sáu nhất bên trọng nhất bên khinh như vậy, thiên vị Lưu Tử Sơn, thật khiến huynh đệ già chúng tôi đau lòng”. Mộ Dung Phong lạnh nhạt nói: “Chú Thường đa nghi quá, đều là đồng bào một quân, sao cháu lại nhất bên trọng nhất bên khinh chứ?”. Thường Đức Quý lại hừ một tiếng, nói: “Cậu Sáu từ nước ngài về, thích chơi mấy thứ đồ Tây, Lưu Tử Sơn biết chút ít về phương Tây, Cậu Sáu liền nhìn hắn ta bằng con mắt khác. Đồ của người Tây hoa hòe hoa sói, chỉ nhìn đẹp mắt. Đánh trận vẫn nên một súng một đạn, là thật nỗ lực mới có thể thắng được. Cậu Sáu chỉ nghe họ xúi bẩy lung tung, sớm muốn có ngày hối hận không kịp!”.
Mộ Dung Phong nói: “Chú Thường hà tất phải nổi nóng, chú cần quân lương, cháu chuyển đến cho chú là được rồi”. Thường Đức Quý vẫn “hừ” mộ tiếng nói: “Vậy tôi sẽ đợi”. Nói xong câu này, ông ta lại tiếp: “Cậu Sáu ăn ngon miệng, tôi xin cáo từ”.
Sau khi ông ta đi, Tĩnh Uyển nghe tiếng dao ăn quẹt trên đĩa bạc của Mộ Dung Phong, âm thanh rất rõ ràng, anh đặt dao dĩa xuống. Anh thấy cô nhìn mình liền cười cười nói: “Họ đều là người thô lỗ cầm quân đánh trận, bình thường nói chuyện đều như thế, khiến Doãn tiểu thư chê cười rồi”.Tĩnh Uyển nhẹ nhàng đáp: “Cậu Sáu đã coi tôi là bạn, hà tất phải khách sáo thế?”. Mộ Dung Phong nói: “Chung quy vẫn rất thất lễ, vốn là muốn giúp Doãn tiểu thư tẩy trần, ai ngờ lại mất hứng thế này”. Anh lại nói tiếp: “Buổi tối đại kịch viện Quốc Quang có vở Võ Gia Pha của ông chủ Ngụy, không biết Doãn tiểu thư có chịu nể mặt tôi không, coi như tôi mượn hoa dâng Phật, mượn kịch hay của ông chủ Ngụy để tạ lỗi với tiểu thư”.
Anh nói khách sáo như vậy, Tịnh Uyển không dám từ chối, nói: “Chỉ là tôi có một yêu cầu quá đáng, mong Cậu Sáu đồng ý. Tôi muốn đi thăm Hứa Kiến Chương một lát”. Mộ Dung Phong đáp: “Đây là lẽ thường tình của con người, sao nói là yêu cầu quá đáng chứ, việc này tôi có thể sắp xếp”. Anh lập tức gọi người đem giấy mực đến, vội vã viết lệnh trên bàn ăn, lại gọi người chuẩn bị xe, dặn dò: “Đưa Doãn tiểu thư đến nhà tù Đông Thành”.
Nhà tù Đông Thành ở ngoại thành, ngồi trong xe nhìn cây cối hai bên đường không ngừng lùi lại phía sau, cô cảm thấy con đường như thế đi mãi không đến đích. Bây giờ đang là mùa xuân hai bên đường bằng phẳng tĩnh mịch, xanh tươi như dệt, nhưng cô không có tâm trạng nào mà ngắm cảnh. Khó khăn lắm mới thấy bức tường cao của nhà tù, trong lòng càng trở nên buồn bã.
Trưởng nhà tù nhìn thấy bức lệnh của Mộ Dung Phong, đương nhiên vô cùng cung kính, đưa cô vào căn phòng làm việc của mình, lại đích thân pha trà xong mới dặn dò người đi đưa Hứa Kiến Chương đến. Tĩnh Uyển làm gì có tâm trạng uống trà, cô vừa nghe thấy tiếng bước chân vẳng lại từ hành lang, trong lòng đã rối bời bời. Chỉ nghe thấy tiếng lạch cạch mở cửa, hai lính canh dẫn Hứa Kiến Chương vào, quần áo trên người cũng coi như gọn gàng, chỉ là không cạo râu, gương mặt tiều tụy đến mức vàng vọt, hai xương gò má nhô lên rất cao. Không ngờ mấy ngày không gặp, một công tử phong độ đã thành tù nhân, Tĩnh Uyển đi lên một bước nắm tay anh, muốn nói chuyện, khóe miệng hơi run, chưa nói nổi một tiếng nào, nước mắt đã lã chã lăn xuống.
Trưởng nhà tù thấy tình cảnh này, liền cùng hai lính canh lui ra. Tĩnh Uyển chỉ cảm thấy tủi thân, khó nói thành lời, làm sao cũng không ngăn được nước mắt, Hứa Kiên Chương cũng rất buôn, một lát sau mới gượng nói: “Em đừng khóc”. Tĩnh Uyển giờ mới dần thôi khóc, lấy khăn tay ra lau khóe mắt nói: “Anh tạm thời chịu đựng thêm mấy ngày nữa, em đang cố gắng nghĩ cách. Vừa nãy em đã xin trưởng tù đổi giúp anh một căn phòng tốt hơn, quan tâm tới anh hơn một chút”. Hứa Kiến Chương giờ mới hỏi: “Sao em lại đến”. Tĩnh Uyển sợ anh lo lắng, nói: “Cha đến tìm đường giúp, em cứ nằng nặc đòi theo cha”. Hứa Kiến Chương nghe cô nói cha đi cùng mới hơi yên tâm. Tĩnh Uyển lại đưa quần áo mình đem đến cho anh, ngoài ra có một tùi tiền nặng, nói: “Anh ở đây chắc chắn cần dùng rất nhiều tiền, nếu không đủ thì bảo người đưa thư, em lại đem đến cho anh”.
Hứa Kiến Chương nói: “Làm khó em rồi”. Anh sợ cô lo lắng, cố gắng cươi tươi nói: “Thật ra người ở đây cũng quan tâm đến anh, ăn uống cũng không quá tệ. Em đừng quá lo lắng, xem em kìa, gầy quá rồi”. Tĩnh Uyển vốn đã hơi an lòng, nghe anh nói thế, mắt lại hoe đỏ: “Anh yên tâm, em nhất định nghị cách cứu anh ra”. Hai người họ bỗng nhiên gặp mặt, có quá nhiều điều không biết phải nói từ đâu, Tĩnh Uyển thấy bên ngoài cửa lính canh và người theo hầu đưa mình đến thỉnh thoảng ngó vào trong phòng, rất nhiều lời không tiện nói, lại sợ Hứa Kiến Chương lo lắng, lung tung, chỉ nói đã tìm được người giúp đỡ, có hy vong được thả, để Hứa Kiến Chương yên tâm.
Cô ra khỏi nhà tù, lúc quay lại soái phủ, trời đã xế chiều, xe vẫn đi thẳng vào bên trong mới dừng lại. Cô xuống xe, xung quanh là cây cối rậm rạp um tùm, trời dần dần xầm tối, ánh chiều tà hắt trên lá cây, khiến người ta càng có cảm giác u buồn. Người hầu của soái phủ biết cô là khách quý của Mộ Dung Phong, làm gì có ai không nịnh bợ, họ niềm nở cười nói: “Doãn tiểu thư đến vườn hoa ngồi một lát được không? Cậu Sáu đang họp lát sau sẽ đến ngay”.
Cô ngồi uống trà ở hoa viên, vừa ngồi được một lúc,đột nhiên bên ngoài cửa có một giọng nói yểu điểu của con gái gọi: “Anh”. Cô quay đầu lại nhìn, là một cô gái khoảng hai mươi tuổi, tướng mạo tuy không phải rất đẹp, nhưng thanh tú, vừa nhìn đã biết là một tiểu thư rất thông minh. Cô này thấy trong hoa viên có người lạ liền dừng bước, Tĩnh Uyển không biết thân phận cô, cũng không tiện xưng hô, đành cười cười, chào hỏi qua loa. Đang trong lúc do dự thì nghe tiếng giày da ngoài hành lang, chính là Mộ Dung Phong đang đến.
Cô gái đó vừa nhìn thấy anh, liền gọi một tiếng: “Anh Sáu”. Tĩnh Uyển thấy làm lạ, chưa từng nghe nói anh còn có một cô em gái như thế này. Mộ Dung Phong giới thiệu hai người cho nhau, hóa ra cô gái này chính là Triệu Thù Ngưng – em họ của Mộ Dung Phong, cậu Mộ Dung Phong qua đời từ sớm. Mộ Dung phu nhân đem cô cháu gái này về nuôi ở Mộ Dung gia, sau khi Mộ Dung phu nhận qua đời, Mộ Dung Phong nhớ thương mẹ, coi cô em họ này như em ruột, cho nên Triệu Thù Ngưng lớn lên trong Mộ Dung phủ.
Lúc này Mộ Dung Phong hỏi: “Thù Ngưng, buổi tối anh mời Doãn tiểu thư đi nghe kịch, em có đi không?”. Thù Ngưng cười nói: “Xem ra, anh Sáu muốn mời khách rồi, tối em hẹn bạn đi xem phim, không thể đi được”. Lúc nói chuyện, mắt cô không nhịn được nhìn Tĩnh Uyển dò xét, Mộ Dung Phong hỏi: “ Là phim gì thế, ngay cả Võ Gia Pha của Ngụy Sương Hà em cũng không nghe mà lại muốn đi xem phim đó?”. Thù Ngưng đáp: “Là một bộ phim tình yêu của nước ngoài, tên là Sai đến cùng, nghe nói rất hay đấy”. Mộ Dung Phong bật cười: “Cái tên này kỳ quái thật, hình như đã từng nghe tên rồi”.
Cô ấy không đi nghe kịch, sau bữa cơm Mộ Dung Phong và Tĩnh Uyển ngồi xe ô tô đến Quốc Quang. Đại kịch viện Quốc Quang là kịch viện sang trong nhất phía Bắc, không hề thua kém với đại kịch viện Càn Trung của Càn Bình. Vì hôm nay là lần đầu Ngụy Sương Hà lên sân khấu biểu diễn tại Thừa Châu, nên những người mê kịch, diễn viên nghiệp dư, cùng với quan to, người giàu thích nghe kịch đã đợi ở trong kịch viện từ lâu, khắp lầu trên lầu dưới đã ngồi kín ghế, toàn là đầu người đen kịt.
Mộ Dung Phong đương nhiên có phòng bao ở đại kịch viên, cận vệ đã bố trí canh gác đâu vào đấy, anh khoác tay Tĩnh Uyển lên lâu, tất cả cảnh vệ đứng nghiêm vác súng hành lễ, âm thanh đồng loạt âm vang như tiếng sấm rền, ngay cả nền nhà cũng hơi rung rung, hai phòng bên vốn dĩ có không ít thuộc cấp trong quân đội, thấy anh đi vào, tất cả hô một tiếng đứng dậy, lần lượt hành lễ. Tĩnh Uyển chỉ thấy trên lầu dưới lầu, mấy trăm con mắt đều nhìn vào mình, cô tuy thoải mái phóng khoáng những cũng cảm thấy khó chịu, trong lòng hơi hối hận, không ngờ trong kịch viện này có nhiều tướng lĩnh Thừa quân đến thế.
Họ ngồi xuống, mấy nhân vật quan trọng trong Thừa quân đến chào Mộ Dung Phong, tuy họ đều mặc thường phục nhưng vẫn theo lễ nghi quân đội, Mộ Dung Phong cười nói: “Được rồi, quay về nghe kịch hết đi, tôi khó khăn lắm mới đến nghe kịch một lần, mấy người cứ bày trò như thế có để ông chủ Ngụy hát không?”. Tiếng chiêng trống trên sân khấu dần dần nổi lên, Tĩnh Uyển tuy nghe nói vở Võ Gia Pha của Ngụy Sương Hà nổi tiếng thiên hạ, nhưng cô có bao chuyện phải lo nghĩ, làm sao nghe nổi chứ? Mắt nhìn lên sân khấu, tâm hồn sớm đã không biết bay về phương nào.
Đang trong lúc thất thần, Lan Cầm đã gọt xong một quả táo, đưa cho Tĩnh Uyển trước, Tĩnh Uyển liền nhường cho Mộ Dung Phong cười nói: “Doãn tiểu thư không cần khách sáo, đồ lạnh như vậy, buổi tối tôi không dám ăn”. Mộ Dung Phong nghe xong câu này mới nhận lấy, tiện tay lại đưa cho Thẩm Gia Bình đứng đằng sau lưng.
Trên sân khấu, Ngụy Sương Hà đang hát đến câu: “Tay cầm cung vàng đạn bạc, bắn rơi chiếc áo lụa đẫm máu. Mở áo lụa ra xem, mới biết chị ba bị giày vò. Vội vã trở về không quản ngày đêm, vì sự đoàn viên của hai vợ chồng họ”.
Mộ Dung Phong liền nói: “Tên Tiết Bình Quý này cò có chút lương tâm, qua mười tám năm vẫn chưa quên Vương Bảo Xuyến”. Tĩnh Uyển liền nói: “Loại lương tâm này không cần cũng được. Hắn ở Tây Lương lấy công chúa Đại Chiến, mười tám năm vinh hoa phú quý, bỏ lại người vợ đã kết tóc se tơ, không thèm màng đến. Đến bây giờ nghĩ ra, cảm thấy nên quay về thăm, hắn ta coi phụ nữ trên thế giới này là cái gì chứ?”. Mộ Dung Phong nói: “Phụ nữ thời xưa cũng có điều khó xử của họ, mười tám năm đợi chờ, trinh tiết đó khiến người ta khâm phục, cho nên mới có kết thúc viên mãn làm hoàng hậu”. Tĩnh Uyển cười một tiếng, nói: “Loại đàn ông vong ân bội nghĩa như Tiết Bình Quý, vì giang sơn hoàng vị mà bỏ rơi cô ấy, cuối cùng cò vờ vĩnh cho cô ấy làm hoàng hậu, đấy mới là sự giả tạo thật sự. Đây cũng là sự thảm thương của phụ nữ thời xưa, nếu đổi là phụ nữ bây giờ, chắc chắn sẽ ném áo vàng mũ phượng vào người hắn, hiên ngang ra đi”.
Mộ Dung Phong đang định nói, vừa hay khúc: “Tây Bì nước chảy” hát xong, lầu trên lầu dưới hoan hô như sấm. Hai người cũng vỗ tay theo, Ngụy Sương Hà nhìn về phía căn phòng bao, đương nhiên vô cùng nỗ lực. Họ tiếp tục nghe kịch, trên lan can của căn phòng bao đặt đầy hạy dưa, đậu phộng, mứt hoa quả, mứt kẹo, trà, điểm tâm… Mộ Dung Phong vô cùng khách sáo, tự mình bưng tách trà đến nói: “Doãn tiểu thư, mời dùng trà”. Tĩnh Uyển vội vàng nhận lấy, luôn miệng cảm ơn. Đúng lúc đó, bỗng đằng sau lưng có người phì cười: “Hai người này, thật là khách sáo đến mức giả tạo. Trong kịch nói nâng khay ngang mày, tôn trọng nhau như khách, có lẽ chính là như thế này đây”.
Mộ Dung Phong quay đầu lại nhìn, cười vì gọi một tiếng “Dì”, hỏi “Dì tư đến lúc nào thế?”. Tĩnh Uyển đã đứng dậy, thấy quý phu nhân đó khoảng hơn ba mươi tuổi, dung mạo rất xinh đẹp, đôi mắt thanh tú dưới hàng lông mày đen, dường như có thể câu hồn đoạt phách, chưa nói đã tươi cười. Tĩnh Uyển nghe thấy cách xưng hô của Mộ Dung Phong, cô đoán là Hàn thị tứ phu nhân được yêu chiều nhất lúc Mộ Dung Thần còn sống, mọi việc Mộ Dung gia đều do bà chủ trì, phân nữa thân phận là bà chủ gia đình, vì thế Mộ Dung Phong rất tôn trọng bà. Lúc bà nắm lấy tay Tĩnh Uyển, cẩn thận dò xét cô một lượt, mới trả lời câu hỏi của Mộ Dung Phong: “Dì đến từ lúc nào hả? Chính là lúc hai người nâng khay ngang mày, làm bộ làm tịch đó”.
Mộ Dung Phong biết rõ bà hiểu nhầm, nhung không hiểu vì sao trong lòng rất hài lòng, chỉ cười ầm ờ: “Mời dì ngồi ạ”. Tứ phu nhân đáp: “Dì đang định về nhà, đi ngang qua đây, từ xa đã thấy cảnh vệ đứng từ cửa kịch viện đến tận phố, dì biết ngay cậu ở đây,cho nên đến xem xem”. Vì bà là trưởng bối cho nên Tĩnh Uyển rất khách sáo, đích thân bưng chiếc ghế bên cạnh đến nói: “Mời dì ngồi ạ”. Tứ phu nhân “ôi chao” một tiếng, cứ cười đến mức đôi mắt như ánh trăng đang chảy, luôn miệng nói: “Không dám, không dám”. Tĩnh Uyển giờ mới phát giác ra mình lỡ lời, ngại đến mức chỉ muốn độn thổ. Mộ Dung Phong thấy tính cảnh này, liền nói chen vào: “Kịch đang hay, dì nghe hết rồi về cùng chúng con nhé”. Tứ phu nhân là một người rất nghịch ngợm, thấy thế thuận miệng đáp: “Đúng thế, kịch đang hay, hai người từ từ nghe đi, dì đánh mạt chược cả ngày rồi muốn về nghỉ ngơi, không ở đây để người ta ghét đâu”. Tĩnh Uyển nghe từng câu chữ mang hai nghĩa đó của bà, bản thân lại nói sai một câu, chỉ yên lặng không nói. Mộ Dung Phong thấy mặt cô ửng đỏ, xinh đẹp rung động lòng người, tron lòng không nỡ để cô khó xử, cười nói: “Dì không chịu tha cho chúng con phải không? Kịch trên sâu khấu hay như vậy, dì cũng không chịu nghe mà muốn giễu cợt con?”
Tứ phu nhân nhoẻn miệng cười, nói: “Dì đi, dì đi ngay đây”. Đi đến cửa phòng, bà lại quay lại nhìn, cười nói: “Hai đứa từ từ nghe kịch đi”.
Chương 7
Nghe hết buổi kịch hôm đó, khi Tĩnh Uyển quay về Đào phủ đã khoảng mười một giờ. Cô ngủ muộn, nhưng trong lòng có tâm sự nên dậy từ rất sớm. Tuy cô đã tỉnh, nhưng biết quy tắc của Đào phủ, ngoài Đào tư lệnh cần phải ra ngoài làm việc, những người khác đều ngủ đến ít nhất là mười giờ mới dậy. Cho nên cô nằm đó, nghĩ lại từng chuyện cảm thấy tất cả giống như một bộ phim, chiếu lại một lượt trước mắt, nghĩ đi nghĩ lại cứ cảm thấy không yên, khó khăn lắm chịu đựng đến mười giờ mới đánh răng rửa mặt. Cô ở nhờ tại Đào phủ, đương nhiên đối đãi với trên dưới đều khách sáo, người dưới vì cô rộng rãi, lại biết cô là khách quý của Cậu Sáu và Tam tiểu thư cho nên vô cùng nịnh bợ. Lan Cầm vừa thấy cô dậy, vội cười hỏi: “Doãn tiểu thư muốn ăn gì ạ? Phu nhân chúng tôi hôm qua đánh bài thâu đêm, vừa mới đi ngủ, cho nên trong bếp có chuẩn bị sữa bò và bánh ngọt”. Tĩnh Uyển nói: “Ăn chút gì cũng được, dù sao cũng còn sớm, tôi cũng chưa muốn ăn”.
Lan Cầm liền gọi bếp đem sữa bỏ và bánh ngọt đến, Tĩnh Uyển uống hai ngụm sữa tươi nóng, chợt nghe thấy điện thoại trong phòng đổ chuông, cô đang thắc mắc là ai gọi đến, Lan Cầm đã đi nghe, rồi trở lại nói với cô: “Doãn tiểu thư, là Cậu Sáu”. Cô đi nghe điện thoại, Mộ Dung Phong rất khách sáo nói: “Hôm nay thời tiết rất đẹp, tôi muốn mời Doãn tiểu thư ra khỏi thành đi săn, không biết Doãn tiêu thư có vui lòng đến không?”.
Cô không ngờ sáng sớm anh đã gọi điện đến vì điều này, cô nghĩ một lát rồi đồng ý. Mộ Dung Phong đích thân đến đón cô, anh không vào trong, chỉ đứng ngoài xe đợi. Lan Cầm đưa cô đến cánh cổng nhỏ, từ xa xa anh đã thấy cô mặc một chiếc áo thun mùa xuân bó sát màu vàng nhạt,bên dưới mặc một chiếc quần ca rô màu xám, màu sắc tươi sáng như thế, cô mặc vào trông thật thanh thoát khí thái, phong lưu dễ thương vô cùng, đặc biệt giống như một đóa hoa nghênh xuân xinh đẹp đón gió. Tuy anh đã nhìn quen hàng trăm, hàng ngàn cô gái xinh đẹp như muôn hồng ngàn tia, trăm hoa đua sắc, nhưng cũng không kìm được nhìn cô chăm chú, ánh mắt sáng rỡ. Cô lên xe, thấy ánh mắt anh nhìn xuống, nhìn vào đôi giày da dê của mình, liền cười giải thích: “Tôi nghĩ lúc về có lẽ phải đi bộ, cho nên đi giày da”. Giờ anh mới tỉnh táo lại, ho nhẹ một tiếng,nói: “Nếu Doãn tiểu thư không ngại, chúng ta ra ngoại thành cưỡi ngựa”
Tiết trời đương lúc cỏ xanh oanh liệng, vó ngựa nhẹ phi. Mộ Dung Phong vốn hơi lo lắng, đích thân giúp Tĩnh Uyên kéo chặt hàm thiếc và dây cương, đưa tay ra đỡ cô, ai ngờ cô nhanh nhẹn như chim yến, chớp mắt đã leo lên lưng ngựa, Mộ Dung Phong từ nhỏ trong quân đội, lớn lên trên lưng ngựa, thấy vậy cũng không khỏi cảm thấy người như cô thật hiếm có, thấy tư thế cô đoan trang, liền đưa dây cương cho cô, nói: “Không ngờ cô biết cưỡi ngựa”. Cô quay đầu lại tươi cười nói: “Lúc ở Saint Petersburg có môn cưỡi ngựa, tôi cũng chỉ học chút ít thôi”. Yên ngựa chọn cho cô rất mềm mại, con ngựa đó trắng muốt, trên đầu có một dấu son to bằng đồng tiền, trông rất đẹp, cô vừa nhìn thấy con tuấn mã ấy trong lòng đã thích, phi một vòng xa lên trước, Mộ Dung Phong và cận vệ lần lượt lên ngựa.
Cô phi ngựa một mạch đến ba bốn dặm, cảm thấy mệt rồi ghìm dây cương lại, mấy cận vệ xa xa phía sau, chỉ có Mộ Dung Phong đuổi theo, thấy cô chạy chậm dần, anh cũng ghìm ngựa, đi song song với cô, ung dung mặc ngựa chậm rãi đi về phía trước. Cô quàng một chiếc khăn lụa màu vàng nhạt, nút thắt để tuột, gió vừa thổi qua, chiếc khăn đó mỏng manh mềm mại, bất ngờ bị cuốn bay đi mất, cô “ôi chao” một tiếng. Mộ Dung Phong đang cưỡi ngựa phía sau cô, mắt lẹ tay nhanh, túm lấy chiếc khăn, cảm thấy nó thật mềm mại, hương thơm nhè nhẹ bay đến, cũng không biết là nước hoa gì, cơn gió đó thổi chiếc khăn tung bay trên tay anh, mùi hương đó càng như ngấm vào xương tủy.
Tĩnh Uyển nhìn vẻ mặt anh, bất giác trong lòng sợ hãi, lập tức cười mỉm đưa tay nhận lấy chiếc khăn lụa, nói: “Cậu Sáu, cảm ơn nhiều”. Cô đã tự nhiên như thế, Mộ Dung Phong vội vàng khép lại tâm trạng ấy, nói: “Doãn tiểu thư khách sáo rồi”. Anh quay đầu lại huýt sáo gọi cận vệ, mấy cận vệ đó quất ngựa phi tới, bụi bay mù mịt, vây lấy hai người rồi cùng phi về phía trước.
Họ ra khỏi thành, đến tận lúc hoàng hôn mới trở lại thành Thừa Châu, Tĩnh Uyển cưỡi ngựa một ngày, sau đó là học bắn súng, loại súng Mauser do Đức sản xuất là nặng nhất, cô lại khoe tài hiếu thắng, không chịu thua kém người khác ngày hôm nay quả thật rất mệt. Họ đi ba bốn chiếc ô tô, lính hộ vệ đứng trên bàn đạp, tiền hô hậu ủng, xe chạy thẳng vào con phố trước cổng nhỏ của Đào phủ rồi mới dừng lại. Thẩm Gia Bình ngồi ở chiếc xe phía sau, xuống trước mở cửa xe cho Mộ Dung Phong vừa mới đưa tay ra, qua cửa kính xe thấy Mộ Dung Phong ra hiệu bằng mắt, Thẩm Gia Bình tinh mắt đã nhìn thấy Tĩnh Uyển tựa đầu vào vai Mộ Dung Phong, anh cũng không dám nhìn nhiều, vội vàng lui lại, quay người đi dặn dò tất cả cận vệ tản đi canh gác xung quanh.
Chiều tà chậm rãi như bức rèm buông xuống, bốn bề một khoảng mênh mang. Vì hai bên con phố đều là nhà sâu tường cao, cho nên không có nhiều người và xe đi lại, Thẩm Gia Bình sai người chặn hai đầu phố, xung quanh càng trở nên yên tĩnh hơn, xa xa nghe thấy tiếng xe kéo chạy qua, tiếng chuông đồng hồ leng keng leng keng rồi xa dần, xa dần. Đèn hơi ga bỗng sáng lên, một chút ánh sáng vàng vọt chiếu xuyên qua cửa xe, Mộ Dung Phong không dám nhúc nhích, cẩn thận gần như nín thở, chỉ cảm thấy mùi hương tóc thoang thoảng, rất lâu sau mới phát hiện trên tóc mai cô cài một bông hoa nhài, hoa trắng nho nhỏ, giống như một chiếc khuy áo màu bạc, tỏa hương trên mái tóc đen tuyền như ngọc.
Anh chưa bao giờ ngồi yên, không nhúc nhích chút nào như vậy, cánh tay phải dần dần tê dại đi, đáng nhẽ cực kỳ khó chịu nhưng lại giống như bị kiến bò, ngứa ngáy kỳ lạ. Cửa xe kéo xuống một nửa, gió lùa trong xe, tóc cô lướt trên mặt anh, càng có cảm giác hơi ngứa, nhưng ngứa đến tận trong tim. Trong giấc mơ cô vẫn hơi chau mày, khóe môi hơi chùng xuống, trên môi thoa một chút son Max Factor, trong ánh sáng lờ mờ xuyên qua từ cửa xe, làn môi ấy sáng bóng lên như mật. Anh không dám nhìn nữa, quay mặt đi nhìn ra ngoài, trên tường Đào phủ leo đầy cây mây, anh nhìn rất lâu, mới nhận ra đó là hoa lăng tiêu, có mấy cành hoa nở sớm, màu vàng tươi đẹp, một khối nõn nà, giống như chiếc cốc đá trên án thư của anh, mờ ảo lấp lánh. Nghe thấy tiếng bước chân đi lại nhè nhẹ của cảnh vệ và tiếng gió thổi cành hoa lay động, buổi tối mùa xuân không có ánh trăng, anh cũng không muốn động đậy, dường như lâu dài cùng trời đất, tình nguyện cứ ngồi mãi như thế.
Đào phủ vẫn chưa ăn cơm tối, Tam tiểu thư và mấy vị phu nhân buổi chiều bắt đầu đánh mười sáu vòng, đến bảy, tám giờ tối bác Lý ở nhà trên đến hỏi Tam tiểu thư: “Phu nhân, nhà bếp hỏi lúc nào thì ăn cơm tối?”. Tam tiểu thư ngẩng đầu lên nhìn đồng hồ trên tường, liền “ôi chao” một tiếng nói: “Hóa ra đã muộn vậy rồi, đánh bài cũng không cảm thấy đói”. Một vị phu nhân khác họ Hà liền cười nói: “Đào phu nhân thắng tiền, đương nhiên không thấy đói rồi”. Mọi người đều cười, Tam tiểu thư vừa cười vừa quay đâu lại dặn dò bác Lý: “Đi xem xem, nếu Doãn tiểu thư về rồi thì mời cô ấy đến ăn cơm.”
Bác Lý vâng rồi đi, trong phòng trên vẫn đánh bài, dưới Tam tiểu thư là phu nhân Từ thống chế, Tư phu nhân liền hỏi: “Doãn tiểu thư đó có phải vị tiểu thư hôm qua cùng đi nghe kịch với Cậu Sáu không?” Tam tiểu thư cười cười, không trả lời. Hà phu nhân liền nói: “Nghe nói rất xinh đẹp”. Một vị Trác phu nhân khác cười nói: “Bạn gái Cậu Sáu có cô nào là không xinh đẹp chứ?”. Tam tiểu thư nhoẻn miệng cười nói: “Dù sao Cậu Sáu nhà chúng tôi vẫn chưa có thiếu phu nhân, cho nên cậu ấy có bạn gái cũng là chuyện rất bình thường”. Đang nói chuyện bác Lý đã quay lại, Tam tiểu thư buột miệng hỏi: “Doãn tiểu thư về rồi sao?”. Bác Lý đáp: “Về rồi ạ”, rồi lại nói tiếp: “Lúc tôi đến, Doãn tiểu thư lên lầu thay quần áo rồi, nhưng Cậu Sáu ở dưới lầu, bảo phu nhân không cần đợi Doãn tiểu thư ăn cơm, cậu ấy mời Doãn tiểu thư ăn tối”.
Tam tiểu thư nghe thấy Mộ Dung Phong đến, liền hỏi: “Cậu Sáu còn nói gì không?” Bác Lý đáp: “Cậu Sáu không nói gì khác”. Tam tiểu thư nghĩ một lát, cảm thấy vẫn không nên đi làm phiền hai người đó, do vậy liền bảo nhà bếp dọn cơm nước. Phụ nữ vốn là chúa tò mò, trong phòng ăn Từ phu nhân không nhịn được hỏi: “Xem ra Doãn tiểu thư này không hề tầm thường”. Tam tiểu thư cười nói: “Tầm thường hay không tầm thường làm sao nói rõ ràng được chứ?”. Cô càng lấp lửng như thế, mấy vị phu nhân lại càng khẳng định hơn, trong lòng cứ suy đoán.
Chuyện kiểu này vốn được lan đi rất nhanh, hơn nữa mấy ngày liền Mộ Dung Phong mời Tĩnh Uyển đi xem phim, khiêu vũ, ăn cơm, hai người ở bên nhau như hình với bóng, hành động của anh vốn có rất nhiều người chú ý nên càng không giấu được. Tĩnh Uyển vì có việc muốn xin giúp đỡ, huống hồ Mộ Dung Phong luôn đối xử với cô rất khách sáo, cho nên không dám từ chối. Cô vì việc của Hứa Kiến Chương mà nóng ruột nóng gan, lòng như lửa đốt, cho nên không có tinh thần vui đùa, Mộ Dung Phong bèn nghĩ cách khiến cô cười. Vì cô muốn học bắn súng, ngày hôm đó anh đặc biệt được cô đến thao trường tập bắn.
Từ Trị Bình vốn vì việc đóng quân mà đến tìm Mộ Dung Phong, đợi rất lâu ở hành dinh đốc quân mới biết Mộ Dung Phong đã đến thao trường, ông ta liền ngồi xe đến thao trường. Thao trường đó là Mộ Dung Thần xây dựng lúc còn sống, sàn lát đá trắng, nhìn không thấy điểm cuối, vốn dùng lúc vào lúc duyệt binh, bình thường cũng dùng làm nơi luyện bắn súng của cảnh vệ. Vì Mộ Dung Phong ở đây, bốn bề đều có lính canh, cách không xa, có vệ binh vác súng đứng im.
Từ Trị Bình từ xa đã thấy dưới chân tường thành có cắm bia bắn. Thẩm Gia Bình ở bên cạnh Mộ Dung Phong lắp sẵn đạn, Mộ Dung Phong nhận lấy súng, nói với Tĩnh Uyên: “Loại súng này sức giật nhỏ hơn chút, nhưng tay vẫn phải nắm thật chắc”. Anh từ nhỏ ở trong quân đội, từ nhỏ nghịch súng ống, vừa đưa tay lên, chỉ nghe thấy một tiếng “đoàng”, người phụ trách xem bia đã reo hò, hết lên: “Hồng tâm! Hồng tâm!”. Anh đưa súng cho Tĩnh Uyển: “Em thử đi!”. Thấy cô dùng hai tay cầm súng, anh cúi đầu giúp cô ngắm chuẩn: “Thấp một chút, thấp hơn một chút nữa, được, bắn”.
Tĩnh Uyển tuy có sự chuẩn bị, nhưng lúc bóp cò, sức giật của súng quá mạnh, khẩu súng trong tay gần như không giữ vững, Mộ Dung Phong đưa tay ra giúp cô nắm chắc súng, quay đầu lại thấy Từ Trị Bình, mới chào một câu: “Chú Từ đến rồi à”. Từ Trị Bình lại hành lễ rất quy tắc: “Cậu Sáu”. Mộ Dung Phong hỏi: “Chú Từ có việc gì?”. Từ Trị Bình nói: “Từ mùa đông năm ngoái, người Nga phái người đóng quân tại dọc tuyến đường sắt càng ngày càng nhiều, hôm trước người Nga lại nói muốn tăng thêm lượng quân đóng giữ, theo tôi thấy, đám người Nga này không yên phận, chúng ta phải có phòng bị”. Mộ Dung Phong “ồ” một tiếng. nói: “Vậy chú Từ có dự định gì?”
Từ Trị Bình nói: “Nên tăng thêm quân ở dọc tuyến đường sắt Thừa Châu, để phòng nước Nga giở trò”. Mộ Dung Phong nói: “Tập kết đóng quân của Thừa Châu đều từ Dư Gia Khẩu đến Bình Dương, nếu điều binh đến phía Bắc, sự phòng thủ của Dĩnh quân sẽ giảm đi”. Từ Trị Bình nói: “ Dĩnh quân đang đánh nhau túi bụi với An Quốc quân của Khương Song Hỷ, Nam tuyến tạm thời không phải lo lắng, trước mặt nên rút quân đến phía Bắc”. Mộ Dung Phong nghĩ một lát: “Không, vẫn nên điều động ba lữ đoàn từ điểm đóng quân Vọng Châu của chú, bố trí canh phòng đến dọc tuyến đường sắt Quế An của Ninh Xương”. Trong lúc họ nói chuyện, Tĩnh Uyển đã tự bắn được bốn, năm phát, phát nào cũng trượt, viên cuối cùng khó khăn lắm mới chạm vào bia, trượt qua viền bia lại bay ra ngoài. Mộ Dung Phong nhìn thấy bật cười ha ha, Tĩnh Uyển quay đầu lại nhìn anh, anh liền nói: “Em lườm tôi làm gì, tôi thay em nhớ đấy, viên đạn này sáu hào một viên, em đã lãnh phí mấy đồng rồi!”. Tĩnh Uyển “hừ” một tiếng nói: “Tuần duyệt sứ của chín tỉnh hóa ra cũng keo kiệt như thế”.
Anh nói: “Đối với em thì phải keo kiệt một chút, ai bảo em keo kiệt với tôi chứ”. Tĩnh Uyển giẫm chân, lườm anh thêm cái nữa, dáng vẻ như muốn oán trách nhưng lại nhẫn nhịn. Từ Trị Bình thấy cảnh đó, liền cúi người cáo từ nói: “Cậu Sáu, vậy tôi làm theo ý cậu, đi điều binh trước”.
Mộ Dung Phong nhận lấy súng, đưa cho Thẩm Gia Bình lắp lại đạn, thuận miệng “ừ” một tiếng. Từ Trị Binh rời khỏi thao trường, không về thẳng Vọng Châu mà đến phủ của Thường Đức Quý. Thường Đức Quý vốn nghiện thuốc, buổi chiều không có việc gì, xem mấy vị phu nhân đánh bài, ông ta rút hai điếu thuốc, đứng dậy đánh bài giúp thất phu nhân, Tam phu nhân liền hét lên: “Ông này bất công quá, mấy chị em chúng tôi đang chơi bài ông lại xen vào”. Một vị phu nhân khác cũng không chịu, đang léo nhéo nói chuyện, la hét ầm ĩ, vô cùng ồn ào, bỗng nghe thấy ngoài cửa có người nói: “Ông anh có phúc thật”.
Thường Đức Quý thấy Từ Trị Bình đi vào, hai nhà vốn tình cảm thắm thiết, liền vội vã đứng dậy đón tiếp, hai người sang giường thuốc (*) tán gẫu vài câu trước, mấy vị phu nhân kéo sang phòng khách đánh bài, chỉ để lại một a hoàn châm thuốc, Thường Đức Quý mới hỏi: “Ông đến gặp Cậu Sáu?”. Từ Trí Bình vốn không hút thuốc, chỉ uống nửa tách trà, chậm rãi nói: “Không phải vẫn vì chuyện đóng quân sao?”. Thường Đức Quý hỏi: “Vậy Cậu Sáu nói sao?”. Từ Trí Bình vuốt vuốt hai lọn râu bên mép, mỉm cười nói: “Cậu ta bảo tôi điều ba lữ đoàn, đóng từ Ninh Xương đến Quế An”. Thường Đức Quý vừa bất ngờ vừa mừng, đặt tẩu thuốc xuống, chắp tay nói: “Lão đệ, vẫn là đệ có cách”.
(*) Giường thuốc: Loại giường chuyên dùng để hút thuốc, thường có trong các gia đình quý tộc (BTV)
Từ Trị Bình nói: “Từ lúc đánh trận xong, tôi thấy tâm tư cậu ta không còn đặt ở việc chính nữa. Mấy tháng trước vì một cô gái mà bỏ ra bao nhiêu tiền đi lập trường học gì đó, sau này lại đưa phụ nữ đi nghe kịch, ngày ngày chỉ biết nghe kịch, nghe nói hai ngày trước lại say mê một người, hôm nay thấy cậu ta ở thao trường dạy cô gái đó bắn súng, tôi nói chuyện với cậu ta, cậu ta không tập trung. Nếu đại soái có linh thiêng…”. Ông ta nói đến đây, không kìm được than một tiếng. Thường Đức Quý vỗ chân một cái nói: “Dù sao tên tiểu tử này cũng là Lưu A Đẩu (*) không thể dìu dắt được”.
(*) Lưu A Đẩu: Con trai của Lưu Bị, trước khi chết Lưu Bị gửi gắm cho Gia Cát Lượng dìu dắt A Đẩu, nhưng vì A Đẩu ngu tối, bất tài, sau khi Gia Cát Lượng chết, rốt cuộc Thục vẫn bị diệt vong (BTV)
Từ Trị Bình nói: “Nói cậu ta là Lưu A Đẩu thì có hơi quá. Ông xem lúc đánh trận, cậu ta dụng binh cũng không hề thua kém đại soái. Chính là cậy chút thông minh nên mới ngang tàng, không coi đường, sớm muộn cũng có chuyện”. Thường Đức Quý cầm tách trà lên, uống ực một hơi hết sạch, lau miệng nói: “Trước lúc đại soái chết tuy không trăn trối lại lời nào, nhưng mấy lão già chúng ta là người nhìn Cậu Sáu lớn lên, nói một cách huênh hoang, nếu cậu ta phạm sai lầm, chúng ta nên chỉ ra. Cành cây mọc cong phải uốn cho thẳng, người đi đường vòng thì phải kéo anh ta lại”.
Từ Trị Bình dùng nắp tách trà hớt bỏ lá trà, nói: “Tôi lại nghe nói Cậu Sáu có ý muốn nghị hòa với Dĩnh quân”. Thường Đức Quý vừa nghe, đập bốp một cái lên chiếc kệ, tách trà, đĩa đồ điểm tâm, đèn thuốc, gạt tàn thuốc, tẩu thuốc trên chiếc kệ.. .hết thảy đều nảy hết lên, cả người ông ta cũng nhảy lên, quát lớn: “Cái thằng ranh con! Không có tiền đồ, giang sơn ông đây cùng đại soái dùng mồ hôi và máu giành về, một câu của nó là muốn hai tay dâng cho người khác sao! Nó muốn nghị hòa, trước hết phải hỏi xem khẩu súng này của ta có đồng ý hay không!”.Nói xong rút khẩu súng ngắn ở thắt lưng ra đập lên chiếc kệ “rầm” một tiếng.
Từ Trị Bình vội kéo ông ta lại, nói: “Lão huynh, cẩn thận, cẩn thận”. Thường Đức Quý tức sùi bọt mép: “Người phải cẩn thận là tên nhóc đó, tự làm theo ý mình, có bao giờ coi mấy anh em chúng ta ra cái gì chứ?” Chúng ta trong sáng trong tối, từng chịu bao nhiêu khổ cực rồi? Nó nghe lời xúi bẩy của lũ bất tài Lưu Tử Sơn luôn thiên vị chúng, hễ tranh luận với nó, nó liền lấy cái danh tuần duyệt sứ ra ép ông mày, ông mày nể mặt đại soái, không tính toán với nó, nó lại còn càng ngày càng vênh mặt lên. Lúc chúng ta theo đại soái mưa bom bão đạn, nó còn trốn trong lòng mẹ bú sữa đấy. Bây giờ đại soái vừa nhắm mắt, nó liền ngồi lên đầu chúng ta, cho dù nó là con của đại soái, ông đây cũng không tha cho nó”.
Chương 8
Sau khi về Vọng Châu, Tử Trị Bình liền đem ba lữ đoàn bố trí canh phòng dọc tuyến đường ray, nhân cơ hội điều hai trung đoàn tâm phúc đến Xương Vĩnh, bố trí ổn thỏa rồi lại cùng mấy vị tướng lĩnh quan hệ mật thiết đàm phán bí mật mấy lần. Ông ta sắp xếp người chuyên truyền mất điện từ Thừa Châu đến, hàng ngày chỉ có mấy chữ nhưng động thái trong thành Thừa Châu đều nắm rất rõ ràng.
Theo quy định xưa nay của Thừa Quân, quan lớn làm việc ở biên cương, gia quyền đều ở lại Thừa Châu. Từ lúc Mộ Dung Phong nhậm chức, cho rằng đó là tập tục xấu, nói: “Mình không tin người ta, làm sao có thể khiến người ta tin mình?”. Từ đó cho phép mang theo gia quyến đi nhậm chức, nhưng mấy vị thống chế vì tránh hiểm nghi, vẫn để vợ ở lại thành Thừa Châu. Phu nhân mấy vị thống chế và nữ giới của Mộ Dung phủ xưa nay đi lại thân tình, hôm đó có phu nhân của Tử Trí Bình và mấy vị phu nhân khác cùng đánh bài ở Đào phủ.
Phòng trên mở hai bàn đánh bài, tam tiểu thư, Tĩnh Uyển, Từ phu nhân và Lưu phu nhân một bàn, Tĩnh Uyển vốn không biết đánh bài lắm, hôm đó lại may mắn, không đến hai tiếng, đã thắng khoảng ba ngàn đồng. Phòng bếp đến hỏi lúc nào ăn cơm tối, tam tiểu thư sợ cô không vui, nói: “Đợi tám vòng này đánh xong hãy nói đi”. Tĩnh Uyển có vẻ không hề quan tâm, đưa tay lên nhìn nhìn đồng hồ, cười nói: “Đã năm giờ rồi à, đợi đánh hết bốn vòng này đi”. Tĩnh Uyển có vẻ không hề quan tâm, đưa tay lên nhìn nhìn đồng hồ, cười nói: “Đã năm giờ rồi à, đợi đánh hết bốn vòng này đi”. Từ phu nhân buột miệng hỏi: “Doãn tiểu thư hôm nay có đi khiêu vũ không?”. Tĩnh Uyển đáp: “Hôm nay không đi nữa, Cậu Sáu nói có việc”. Lưu phu nhân vô ý ngẩng đầu lên, phì cười: “Nói Tào Tháo, Tào Tháo đến”. Tĩnh Uyển quay mặt lại nhìn, hóa ra Mộ Dung Phong đang đi đến, thấy họ đang đánh bài liền hỏi: “Ai chẳng thế? Người đó hôm nay khách ăn cơm đi”. Từ phu nhân cười nói: “Doãn tiểu thư thắng, bảo cô ấy mời Cậu Sáu ăn cơm, chúng tôi thơm lây làm khách ăn cùng được rồi”. Lưu phu nhân xưa nay có chút nỗi đau thầm kín với Từ phu nhân “ôi chao” một tiếng, nói: “Doãn tiểu thư đã mời Cậu Sáu ăn cơm, mấy người rảnh rỗi chúng ta chẳng lẽ không biết điều sao?”. Tĩnh Uyển nói: “Mời khách thì mời khách, không phải là một bữa cơm đồ Tây sao? Tôi tất nhiên mời mọi người đi rồi, nhưng sao phải mời anh ấy?”. Tam tiểu thư tiếp lời: “Đúng thế, ngày mai chỉ mời chúng tôi được rồi, còn về Cậu Sáu, Doãn tiểu thư phải mời riêng cậu ấy tối hôm nay trước.”
Câu nói khiến mọi người đều cười, Tĩnh Uyển vặn người một lát, nói: “Không nói chuyện với mấy người nữa, toàn xúm lại ăn hiếp tôi”. Tam tiểu thư không kìm được đưa tay ra véo nhẹ má cô một cái, nói: “Cái đồ nhõng nhẽo này, toàn nhõng nhẽo đến mức người ta không ghét không được”. Mộ Dung Phong xem họ đánh bài một lát, rồi đi về phía sau, đánh hết vòng đó, Lưu phu nhân nói: “Không chơi nữa”. Hai người họ đều đi rửa tay, tam tiểu thư liền cười nhỏ với Tĩnh Uyển một tiếng, nói: “Em kệ chị đấy, hôm nay cả chị cũng ăn hiếp em”. Tuy nói vậy, nhưng lát sau cô nói đi thay quần áo, rồi cũng đi về phía sau.
Mộ Dung Phong thường đi về phía căn lầu nhỏ cô sống, cô biết anh cũng thích ngồi hút thuốc trong phòng khách nhỏ đó, quả nhiên đi đến cửa đã ngửi thấy mùi bạc hà nhàn nhạt, mùi hương bạc hà thanh mát đó khiến cô nhớ lại khuôn mặt thân thiết nhất quen thuộc nhất, bước chân bất giác chậm lại. Thẩm Gia Bình đứng phía sau ghế sofa, thấy cô đi vào, gọi một tiếng “Doãn tiểu thư” rồi lui ra ngoài.
Mộ Dung Phong thấy Thẩm Gia Bình tiện tay đóng cửa, mới nhích nhích người, nói: “Doãn tiểu thư, mời ngồi”. Tĩnh Uyển tươi cười, nói: “Cậu Sáu khách sáo rồi”. Cô ngồi xuống sofa đối diện, Mộ Dung Phong thấy cô chỉ mặc một chiếc sườn sám chu sa màu ánh đỏ, chiếc sườn xám đó không phải kiểu dáng bình thường, cổ khoét thành hình tim, lộ ra chiếc cổ trắng ngần, trên cổ đeo một chuỗi ngọc san hô màu đỏ. Cô thấy anh nhìn dò xét, mỉm cười đưa tay ra cho anh xem, hóa ra trên cổ tay là một chiếc vòng kiểu Tây, trên chiếc vòng xuyến đó khám đầy đá kim cương Thiên Tinh màu hồng, lấp lánh đến hoa mắt, cô nói: “Đồ anh tặng tôi ở đây này”.
Anh thấy cổ tay cô trắng như tuyết, muốn đưa tay ra nắm lấy, cuối cùng cố gắng kiềm chế, mỉm cười nói: “Họ nói thế nào?”, Tĩnh Uyển cười nói: “Còn có thể nói thế nào vừa nghe nói là anh tặng tôi, tấm tắc khen đẹp”. Cô làm mặt quỷ, nói: “Lần sau khoe chuỗi dây chuyền anh tặng tôi, đảm bảo họ lại tán thưởng cả nửa ngày”.
Do đó anh hỏi: “Sao hôm nay vui thế?” Tĩnh Uyển không nhịn được cười, nói nhỏ: “Từ phu nhân cố ý thua tiền tôi. Tôi có một quân ba, một quân năm, vốn là tôi bốc bài, tôi đã nhìn là quân bốn, nhưng tam tiểu thư lại động vào một quân, Từ phu nhân là người nhạy bén mà, lập tức đánh một quân bốn ra cho tôi ăn”. Cô vui vẻ kể, vẻ mặt đó giống một đứa bé nghịch ngợm, mặt mày tươi rói, tóc cô rất dày, có một lọn tóc buông xuống sau tai, mấy sợi đen tuyền rủ xuống má, anh muốn đưa tay ra vén lên giúp cô, nhưng chỉ có thể ngồi ở đó không động đậy, hơi thẫn thờ không tập trung, nghe cô kể chuyện đánh bài vụn vặt không quan trọng, cũng có chút ảo giác chập chờn, hy vọng ngày tháng như vậy dài thêm chút nữa. Trên bàn trà đặt một bình hoa huệ, lúc này hương tỏa thơm dịu, cách bình hoa đó, gương mặt cô giống như vầng trăng sau cửa sổ, khiến người ta quyến luyến không rời.
Rất lâu sau anh mới nói: “Tôi định mười sáu tháng này tổ chức sinh nhật cho em”. Cô nghe câu này, thu lại nụ cười, vẻ mặt cũng trở nên tập trung, nói chầm chậm: “Vậy không phải chính là tuần sau sao?” Anh “ừ” một tiếng, nói: “Sự việc có thay đổi, không thể kéo dài hơn nữa. May mà kế hoạch của chúng ta rất vẹn toàn, dự phòng cũng rất đầy đủ”. Anh ngước mắt lên nhìn cô, nói: “Nhưng trên thế giới này không có việc gì không có chút sơ hở nào hết, nếu…nếu…”. Anh vốn là người dứt khoát, nói đến đây, lại nói một chữ “nếu”, cuối cùng chỉ than nhẹ một tiếng, nói: “Doãn tiểu thư, tôi rất xin lỗi, khiến em liên lụy đến việc như vậy”.
Tĩnh Uyển đáp: “Đây là tôi tình nguyện, lúc đó chúng ta cũng đã nói rồi”. Anh nhìn cô một lát, cuối cùng chỉ nói: “Nếu sự việc không thuận lợi, tôi muốn em lập tức trở về Càn Bình, một phút cũng khong được chậm trễ, họ sẽ không chú ý đến em ngay, tôi hy vọng em có thể trốn thoát”.
Tĩnh Uyển nói: “Cậu Sáu đến bây giờ vẫn không tin tôi sao?”. Mộ Dung Phong nói: “Em phải biết nếu sự việc không thuận lợi, đến tính mạng của em tôi cũng không thể đảm bảo”. Tĩnh Uyển nhìn anh, ánh mắt như đang bốc cháy: “Cậu Sáu, tôi tuy là nữ giới, cũng biết hoạn nạn cùng chịu, huống hồ chúng ta từng nói Cậu Sáu cũng coi tôi là người hợp tác. Tĩnh Uyển không tham sống sợ chết, cũng biết việc này chắc chắn nguy hiểm, tuy việc thành tại trời, mưu sự rốt cuộc tại người, Tĩnh Uyển tin bản thân mình, cũng tin Cậu Sáu”.
Mộ Dung Phong nghe cô nói những lời ấy, trong lòng phức tạp rối ren, khó nói thành lời, cũng không biết là thích thú hay là hụt hẫng không thể tưởng tượng. Căn phòng trở nên yên tĩnh, trên tai cô đeo một đôi bông hoa bảo tháp kim cương màu hồng, dài hai tấc, đung đưa tạo nên tiếng sàn sạt khe khẽ, khiến anh nhớ đến lúc còn rất bé, mấy a hoàn phòng trên dẫn anh đi chơi, chiều tà ngày hạ đi hái hoa dạ lý hương, tỉ mẩn rút lấy nhụy – nếu không thể rút đứt đi thì xâu thành một hoa bảo tháp dài dài. Đám a hoàn đều chỉ hơn mười tuổi, là lứa tuổi nghịch ngợm, đeo những bông hoa ấy lên tai cùng nhau cười đùa, vỗ tay anh, bảo anh nhìn: “Cậu Sáu, Cậu Sáu…”. Những đóa hoa ấy, mùi hương nhàn nhạt thoảng qua, mẹ anh đứng trên bậc thang, mặc chiếc áo dài màu xanh, bên dưới thắt một ciếc váy lụa pha ren màu xanh thẫm, mỉm cười nhìn anh. Nền đá xanh ở giếng trời rỉ nước chảy, hơi nước bốc lên kèm theo hương hoa xông lên người. Tĩnh Uyển thấy anh im lặng rất lâu, tiện tay cầm một cành dạ lý hương trong bình lên, dùng ngón tay thuận theo cành hoa chầm chậm,vuốt lên tận ngọn, lại vuốt trở lại từ đầu. Anh bỗng nói: “Tĩnh Uyển… gặp được em, sao muộn thế này”. Cô nghe một câu đó, không biết vì sao trở nên sợ hãi, nhưng cô xưa nay không biết sợ, một lát sau liền ngước mắt lên, nhẹ nhàng nói: “Tĩnh Uyển có một yêu cầu quá đáng, không biết Cậu Sáu có thể đồng ý không?”.
Anh không hề suy nghĩ nói ngay: “Phàm là việc tôi có thể làm được, tôi đều đồng ý với em”. Cô nói: “Tôi với Cậu Sáu tuy quen nhau chưa lâu, nhưng cũng thân thiết như bạn cũ, Cậu Sáu có tình có nghĩa, Tĩnh Uyển khâm phục đã lâu, Tĩnh Uyển mơ mộng trèo cao, muốn kết huynh muội với Cậu Sáu, không biết Cậu Sáu có chịu đồng ý không?”.
Anh ngồi ở đó, không khí xung quanh giống như nước trong giếng, lạnh lẽo mà không chút gợn sóng, dập dềnh vỡ vụn trong mặt giếng, cắt ra bóng tối. Trên mặt anh chầm chậm nở một nụ cười, nói: “Cái này có gì mà trèo cao, anh luôn hy vọng có một cô em gái”. Tĩnh Uyển nghe anh nói vậy, cũng mỉm cười, gọi một tiếng: “Anh”. Anh cười thoải mái,nói: “Cũng hơi đường đột, anh còn chưa kịp chuẩn bị lễ ra mắt”. Tĩnh Uyển nói: “Anh hà tất phải khách sáo như thế, đều là một người nhà rồi”. Anh “ồ” một tiếng nói: “Đều là người một nhà, quả thật không cần khách sáo thì hơn”. Dừng lại một lát, anh lại tiếp: “Việc vui như vậy, bất kể là theo quy tắc cũ hay theo quy tắc phương Tây, chúng ta đều nên uống một ly rượu”. Nói xong đứng dậy ấn chuông, Thẩm Gia Bình vào nghe anh dặn dò: “Đi lấy rượu đến – rượu Vodka ấy”.
Tĩnh Uyển nghe nói uống rượu, lại hơi bất an, thấy anh đón lấy chai rượu, đích thân rót vào hai chiếc ly thủy tinh kiểu Tây, một ly rất ít, đưa cho cô, nói: “Rượu này quá mạnh, con gái uống ít thôi”. Cô cười nhận lấy, anh lại tự mình rót một ly đầy. Anh nói “cạn ly”, chạm ly với cô, rồi uống một hơi hết sạch, uống xong mới cười cười với cô. Thẩm Gia Bình thấy trong ánh mắt anh không vui vẻ, không biết xảy ra chuyện gì, nhưng vẻ mặt Tĩnh Uyển vẫn như bình thường, nên không đoán được giữa hai người họ có vấn đề gì.
Ăn tối xong, Mộ Dung Phong còn có công chuyện nên về soái phủ. Thẩm Gia Bình vốn hơi lo lắng, cuộc họp tối lại kéo dài quá lâu, khó khăn lắm mới đợi tới lúc tan họp, đã là mười một giờ đêm, anh thấy Mộ Dung Phong hơi mệt mỏi, liền hỏi: “Cậu Sáu, có cần bảo nhà bếp chuẩn bị chút đồ ăn đêm không?”. Mộ Dung Phong đáp: “Tôi không đói”. Thẩm Gia Bình nhìn dáng vẻ anh giống như đang tức giận, không kìm được hỏi: “Doãn tiểu thư cô ấy…”. Nói chưa hết câu, Mộ Dung Phong đã rút súng ra, giơ tay lên bắn liền hai phát, một bình hoa Cảnh Thái màu xanh vỡ tan, sau bình hoa là cửa sổ, một màng kính lớn “soạt” rơi xuống, bắn mảnh thủy tinh ra đầy mặt đất. Cảnh vệ, cận vệ dưới lầu nghe thấy tiếng súng, vội vã xông lên, “rầm” một tiếng phá cửa cầm súng xông vào. Mộ Dung Phong thấy một đám cận vệ mặt mũi căng thẳng, cười nói: “Không có gì, xuống hết đi”.
Mấy cận vệ đó giờ mới đóng chốt an toàn, đeo lại súng vào sau lưng, cung kính cúi chào lui ra. Mộ Dung Phong nói với Thẩm Gia Bình: “Hình như tôi uống khá nhiều rồi, đi ngủ thôi”. Thẩm Gia Bình liền cầm lấy khẩu súng lục Browning đặc chế, giúp anh đặt xuống dưới gối, lại gọi người giúp anh chuẩn bị nước, rồi mới nói: “Cậu Sáu, tôi có một câu, không biết nên nói hay không?”. Mộ Dung Phong nói: “Nếu đã là lời không nên nói thì đừng nói”. Bao nhiêu lời Thẩm Gia Bình muốn nói mắc nghẹn lại, Mộ Dung Phong nhìn dáng vẻ cứng họng của anh ta, lại không nhịn được bật cười ha ha: “Cậu nói đi, nói đi”.
Thẩm Gia Bình nói: “Tuy bây giờ là thời đại bình đẳng dân chủ rồi, nhưng làm việc chỉ cần kết quả, trong chín tỉnh phía Bắc này, có thứ gì không nằm gọn trong lòng bàn tay ngài? Hơn nữa, tấm gương của đại soái vẫn còn đó”. Phu nhân thứ năm của Mộ Dung Thần vốn đã từng được gả cho người khác, tính khí Mộ Dung Thần đã thích thì phải có bằng được, cho nên uy hiếp người kia viết giấy bỏ vợ, ép cưới về. Mộ Dung Phong nghe Thẩm Gia Bình nhắc lại việc cũ này, liền lắc lắc đầu nói: “Không được, trái chín ép không ngọt, hơn nữa tính khí của cô ấy có chết cũng không chịu khuất phục”. Anh lại nói: “Việc này không cho phép cậu tùy ý hành động, nếu tên họ Hứa thiếu một sợi tóc ở trong tù, tôi sẽ tìm cậu hỏi chuyện”. Thẩm Gia Bình mất hứng đành đáp một tiếng “Vâng”.
Mộ Dung Phong tổ chức sinh nhật cho Tĩnh Uyển, tuy không quá phô trương, nhưng ai ai cũng biết Doãn tiểu thư là bảo bối hiện nay của Cậu Sáu, mấy thuộc cấp Thừa quân đó, có ai không nịnh bợ chứ? Tĩnh Uyển vốn to gan, nhưng việc đã đến nước này, trong lòng vẫn hơi thấp thỏm. Sáng sớm hôm đó, Mộ Dung Phong đến gặp cô, vì đợt này anh bận, họ hiếm khi gặp riêng, thấy vẻ mặt rất trấn tỉnh của anh, trong lòng cô cũng bình tĩnh trở lại. Anh xưa nay chưa từng đến tay không, hôm nay tùy tùng sau lưng ông một giỏ hoa, bên trong đều là hoa hồng cô thích. Anh lại nói theo cách nói phương Tây: “Sinh nhật vui vẻ”, còn tận tay đưa cho cô một hộp nhung, nói: “Lần này em tự mình mở ra xem”.
Đợi các tùy tùng lui ra hết, anh mới nói với cô: “Đợi lát nữa nếu anh không quay lại… “. Tĩnh Uyển cướp lời nói: “Không thể nào, em đợi anh về rồi ăn mì (*)”. Ánh mắt anh hiện lên sự dịu dàng, nói: “Hôm nay đâu phải sinh nhật thật sự”. Cô cảm nhận được sự thương tiếc vô hạn trong đáy mắt anh, kèm theo sự quyến luyến phức tạp, nên không dám nhìn nữa, nói: “Sinh nhật em chính là ngày hôm nay, em đợi anh về ăn mì”. Cô lại lấy chiếc đồng hồ vàng ra, nói: “Em ở đây đợi anh, đúng mười hai giờ anh sẽ quay về dự tiệc đúng không?. Anh nhìn những ngón tay trắng ngần như ngọc cầm chiếc đồng hồ vàng, trên đồng hồ vàng, trên đồng hồ khảm đá kim cương nhỏ, sáng lên cùng bàn tay nõn nà của cô. Ngón tay cô mờ mờ trong làn ánh sáng đỏ, giống như nhen một đóm lửa nho nhỏ. Anh gật đầu, nói: “Anh hứa với em, nhất định sẽ quay lại”.
(*) Người Trung Quốc có phong tục ăn mì Trường Thọ trong ngày sinh nhật, để cầu mong sống lâu (BTV)
Sau khi anh đi, tuy Tĩnh Uyển cố gắng trấn tĩnh nhưng vẫn cảm thấy hai má nóng ran, giống như là sốt. Cô đi rửa mặt, cẩn thận trang điểm lại, rồi mới mở chiếc hộp gấm anh đưa. Hóa ra bên trong lại là một khẩu súng nhỏ kiểu Tây khảm đá quý, tinh xảo như món đồ chơi, được lắp đầy đạn. Dưới súng đè một bức thư, bên trong là một phiếu gửi tiền mười vạn đồng mang tên cô, một tấm vé tàu hỏa mười hai giờ ba mươi phút từ Thừa Châu đi Càn Bình. Tim cô đập thình thịch, nhất thời tâm trạng rối bời, tựa trên chiếc ghế sofa dài, không thể suy nghĩ được gì hơn.
Chương 9
Mới chín giờ sáng nhưng vì phải tổ chức tiệc sinh nhật, trong ngoài Đào phủ đã cực kỳ náo nhiệt. Bên ngoài cửa mời đội nhạc của Nga diễn tấu đón khách, tam tiểu thư đương nhiên là trưởng ban đón tiếp, bên ngoài nhờ một vị tổng quản trong phủ đốc quân điều hành. Đến mười giờ, cả có một hàng dài ô tô đỗ trên con phố ngoài cổng lớn Đào phủ, mấy người bán hoa quả bánh rán, len giữa dòng xe bán hàng cho lái xe, nửa con đường chỉ nghe thấy tiếng còi xe, tiếng cười nói, tiếng pháo đốt, sự náo nhiệt đó khiến người qua đường không thể không dừng chân quan sát. Tổng quản đem theo cảnh vệ Đảo phủ, sắp xếp đỗ xe, đón khách, tiếp đãi… bận túi bụi mới có thể khiến con đường tắc nghẽn ngựa xe đó được thông suốt.
Tĩnh Uyển thay quần áo rồi ra ngoài tiếp khách. Đám phụ nữ người nhà trong Thừa quân đều lần lượt đến. Thường phu nhân nhìn thấy Tĩnh Uyển tấm tắc khen: “Doãn tiểu thư hôm nay thật lộng lẫy, ôi chao, sợi dây chuyền này…” cứ thế chặc lưỡi khen mãi. Mấy vị phu nhân, thiếu phu nhân, tiểu thư, thích nhất là đồ trang sức, đều xúm lấy Tĩnh Uyển như muôn sao chầu nguyệt, sợi dây chuyền đó quấn thành ba vòng, mỗi vòng khảm một viên kiem cương én vàng, xung quanh khảm thêm đá quý to bằng đầu ngón tay, tuy không có ánh đèn, nhưng nó vẫn lấp lánh phát sáng trên cổ. Từ phu nhân nói: “Doãn tiểu thư quá đẹp, chỉ có sợi dây chuyền thế này mới xứng là thêu hoa trên gấm”. Tĩnh Uyển mim cười hỏi: “Sao không thấy Từ thống chế ạ? Hôm nay mời ông chủ Lô Ngọc Song đến biểu diễn tại nhà, Từ thống chế thích nghe kịch vậy, không thể nào bỏ lỡ được”. Từ phu nhân đáp: “Ông ấy nói hôm nay Cậu Sáu gọi đi họp”. Tĩnh Uyển vờ như giờ mới nhớ ra nói: “Đúng thế, sáng nay Cậu Sáu có nói với tôi, sợ trưa sẽ đến muộn một chút”. Từ phu nhân nghe cô nói thuận miệng như thế, liền nhoẻn miệng cười với Mộ Dung tam tiểu thư, ý là hai người này tình cảm tốt như vậy, hóa ra sáng sớm đã gặp nhau rồi.
Sau mười một giờ, khách đã đến gần hết, Tĩnh Uyển đi lại giữa phòng khách, nghe tiếng cười đùa náo nhiệt mà trái tim cứ đập thình thịch thình thịch. Tam tiểu thư không hề biết chuyện, bước tới nói với cô: “Còn hai mươi phút nữa bắt đầu bữa tiệc, nếu Cậu Sáu không đến kịp thì đợi thêm chút nữa đi”. Tĩnh Uyển nghe nói chỉ còn hai mươi phút nữa là đến mười hai giờ, mà trong phòng khách huyên náo, bốn bề đều là tiếng cười nói ầm ĩ, tiếng nhạc ở phòng trước ồn ào như thế, tuy cô cố gắng trấn tĩnh, nhưng cũng không kìm chế được nói: “Em đi trang điểm lại chút, ở đây nóng quá”. Tam tiểu thư cẩn thận nhìn giúp cô, nói: “Mau đi đi, thêm chút phấn nữa mới được, hôm nay là ngày tốt như vậy”.
Tĩnh Uyển liền đi về phía căn nhà nhỏ mình ở, trước lầu còn treo vô số cờ màu và ruy băng, dùng lá vạn niên thanh két thành cổng hình vòm, bên trên cài đầy hoa lụa sặc sỡ, rất bắt mắt đẹp đẽ, phần lớn người làm đều đến phía trước tiếp đãi khách khứa, thế nên ở đây rất yên tĩnh. Lúc cô đi vào trong cũng chỉ có Lan Cầm đi theo, vừa mới chuẩn bị lên lầu, bỗng có người gọi: “Doãn tiểu thư”. Tĩnh Uyển nhận ra đó Hà Tự An, tâm phúc của Mộ Dung Phong, vội vàng hỏi: “Cậu Sáu về rồi à?”
Hà Tự An nói nhỏ: “Mời Doãn tiểu thư qua bên này nói chuyện”. Tĩnh Uyển liền dặn dò Lan Cầm: “Em lên lầu lấy hộp trang điểm của chị xuống đây giúp chị”. Còn mình đi theo Hà Tự An, xuyên qua hành lang đến cửa phòng khách nhỏ phía sau. Toàn bộ rèm cửa được kéo xuống, trong phòng tối tăm cũng không được bật đèn, hai người đứng ở đó, trong ánh sáng âm u, dáng vẻ một người quá đỗi quen thuộc. Đầu cô ù đi, nước mắt cũng trào ra, chỉ leo lên theo bản năng, người đó ôm lấy cô: “Tĩnh Uyển”. Cô mắt ngân ngấn lệ, ngẩng mặt lên, mỉm cười: “Kiến Chương, em thật sự không dám tin là anh”. Hứa Kiên Chương ôm chặt lấy cô: “Anh cũng như nằm mơ… Tĩnh Uyển, đúng là em rồi”.
Hà Tự An ho nhẹ một tiếng, nói: “Doãn tiểu thư, Cậu Sáu đã dặn dò, nếu trước mười hai giờ cậu ấy không gọi điện thoại, thì thả Hứa tiên sinh ra, đưa đến chỗ Doãn tiểu thư”. Tiếp theo, Hà Tự An lại đưa một tấm vé, chính là tấm vé cùng chuyến tàu với cô. Trong lòng Tĩnh Uyển chấn động, tấm vé đó tuy chỉ là một tờ giấy nhẹ tênh, nhưng cầm trong tay nó nặng tựa ngàn cân. Nghĩ đến sáng nay anh ở căn phòng này, tạm biệt với cô, đáy mắt ánh chiếu hình bóng của cô, tình sâu như biển, còn ngày kết nghĩa đó, anh ngẩng mặt lên uống rượu, ánh mắt lóe lên sự đau khổ như sắp vuột mất cô, giống như thuốc độc ngấm vào xương thịt. Nhưng anh đã giúp cô tính toán từng thứ một, ngay cả việc cuối cùng, anh cũng đã sắp xếp ổn thỏa. Trong lòng cô biết bao suy nghĩ ngổn ngang, bản thân cũng không biết mình đang nghĩ gì nữa.
Hứa Kiến Chương thấy cô mất tập trung, sự ngờ vực dấy lên, không thể không hỏi: “Tĩnh Uyển, sao họ lại thả anh ra, em chạy đường của ai thế, có quyền lớn vậy?”. Rồi lại hỏi: “Đây là đâu?”. Câu hỏi của anh, cô không thể giữ giải thích một câu nào, càng không biết giải thích thế nào, chỉ trả lời đơn giản: “Đợi chúng ta rời khỏi đây, em sẽ nói rõ sự tình hình với anh”. Cô quay mặt lại hỏi Hà Tự An: “Cậu Sáu đâu? Vẫn ở soái phủ sao?”.
Hà Tự An lắc lắc đầu, nói: “Tôi chỉ phụ trách việc này, việc khác tôi đều không biết?”. Kiến Chương liền hỏi xen vào: “Cậu Sáu? Mộ Dung thiếu gia? Em hỏi Cậu Sáu làm gì?”. Tĩnh Uyển nói: “Em nợ Cậu Sáu một ân tình. Chuyện không phải một, hai câu mà nói rõ được”. Kiến Chương “ồ” một tiếng, giống như đã hiểu một chút, nói: “Hóa ra là anh ta”. Anh ở trong tù từng nghe lính canh nói: “Cậu thật có phúc, bên trên có người che chắn cho cậu như thế”. Hôm nay bỗng nhiên được tha, vốn đã đầy ngờ vực, nay lại thấy Tĩnh Uyển ấp a ấp úng nên càng nghi ngờ hơn. Đúng lúc đó, chiếc đồng hồ cao gần bằng người trong căn phòng kêu reng reng. Tĩnh Uyển nghe thấy âm thanh đó, gần như giật bắn mình, quay mặt lại, thấy kim phút kim giây đã trùng nhau, chỉ thất thần sững sờ.
Hứa Kiến Chương gọi một tiếng: “Tĩnh Uyển”, cô dường như không nghe thấy, một lát sau, mới tự nói một mình: “Mười hai giờ rồi”. Hứa Kiến Chương nhận lấy vé tàu trên tay cô, nhìn nhìn, kinh ngạc: “Đây là vé tàu nửa tiếng sau, chúng ta phải đi nhanh thôi”. Tĩnh Uyển lại “ồ” một tiếng, chỉ nghe thấy tiếng nhạc, tiếng người nói vẳng xa phía trước, không lâu sau, nghe thấy tiếng bước chân đi về phía này, càng lúc càng gần, cô cảm thấy trái tim như muốn nhảy ra khỏi lồng ngực, nhưng tiếng bước chân đó nhanh nhẹ, hơn nữa không phải là tiếng giày da. Người đó đi thẳng vào phòng khách, cô nhận ra là bác Châu ở nhà trên, bác Châu nói: “Phu nhân sai tôi đến nói với Doãn tiểu thư, đến giờ mở tiệc rồi, nhưng Cậu Sáu vẫn chưa về, chắc là họp muộn, cho nên muốn kéo dài thời gian thêm mười lăm phút”.
Tĩnh Uyển chột dạ, không nói được lời nào, chỉ gật gật đầu. Thấy bác Châu dò xét Hứa Kiến Chương, cô vội vàng nói: “Đây là anh họ tôi, nói với phu nhân, tôi lập tức ra ngay”. Hứa Kiến Chương nghe thấy cô nói mình là anh họ, càng nghi ngờ hơn, khóe miệng hơi động đậy, cuối cùng cố gắng kìm chế: Đợi bác Châu vừa đi, Kiến Chương lập tức hỏi: “Đây rốt cuộc là đâu, em ở đây làm gì?” Tĩnh Uyển nói: “Đây là Đào phủ, vì chuyện của anh em tạm thời sống ở đây?”. Hứa Kiến Chương nói: “Anh giờ đã không sao rồi, vậy chúng ta đi nói với chủ nhà một tiếng, chúng ta cáo từ thôi, làm phiền người ta như vậy”. Tĩnh Uyển nghiến nhẹ răng, nói: “Anh đi trước, em đón chuyến tàu sau”.
Hứa Kiến Chương không thể ngờ rằng cô nói ra câu ấy, hỏi: “Tại sao?” Tĩnh Uyển đáp: “Bây giờ em vẫn chưa thể nói, ngày mai anh sẽ hiểu. Cậu Sáu thả anh ra, em nợ anh ấy một ân tình, em phải trực tiếp cảm ơn anh ấy”. Hứa Kiến Chương cuối cùng không chịu được: “Cậu Sáu thế nọ, Cậu Sáu thế kia, em quen Cậu Sáu như thế nào, sao anh ta lại chịu thả anh ra?” Tĩnh Uyển cảm nhận được sự nghi ngờ trong lời nói của anh, trong lòng phẫn nộ không tả, hỏi lại: “Chẳng lẽ anh không tin em?”.
Hứa Kiến Chương trả lời: “Tất nhiên là anh tin em, nhưng em cũng phải giải thích rõ ràng cho anh”. Tĩnh Uyển tức giận nói: “Bây giờ anh muốn em giải thích thế nào, anh ấy thả anh ra, anh không những biết ơn, ngược lại còn nghi ngờ như thế”. Hà Tự An đứng bên cạnh khuyên nhỏ: “Doãn tiểu thư, vừa đi vừa nói thì hơn, Cậu Sáu đã dặn dò tôi, nhất định phải đưa Doãn tiểu thư lên tàu”. Tĩnh Uyển ngẩng mặt lên nói: “Cậu Sáu đã đối xử với tôi như vậy, tôi có thể nghênh ngang ra đi sao? Nhờ Hà tiên sinh đưa Hứa Kiến Chương đến bến tàu, tôi đáp chuyến tàu sau”.zs
Tuy Hứa Kiến Chương tính khí ôn hòa, lúc này cũng không để ý nữa, chỉ lạnh lùng nói: “Em không đi, anh cũng không đi”. Tĩnh Uyển giậm chân một cái, nói: “Anh không tin em thì thôi”. Cô quay sang nói với Hà Tự An: “Phiền anh đưa tôi đi gặp Cậu Sáu”. Hà Tự An quá đỗi bất ngờ, Hứa Kiến Chương hỏi: “Em đi gặp anh ta làm gì?”. Tĩnh Uyển lạnh nhạt đáp: “Người ta cứu mạng anh, em phải đi cảm ơn người ta”. Hứa Kiến Chương không nhịn được nữa: “Tại sao người ta cứu anh, sao em không nói rõ cho anh biết?”.
Ánh mắt Tĩnh Uyển nhìn thẳng vào anh, lúc lâu sau mới tươi cười: “Đúng thế, vì sao người ta chịu cứu anh? Trong lòng anh đã đoán được rồi, tại sao không nói ra?”. Hứa Kiến Chương trong lòng hối hận, nhưng nhìn thấy Hà Tự An đến nhà tù thả mình ra, trưởng tù còn cung kính với anh ta như vậy, rõ ràng anh ta là người có địa vị rất cao. Nhưng Hà tiên sinh này còn cực kỳ cung kính với Tĩnh Uyển, Tĩnh Uyển là con gái, một người như vậy trong Thừa quân mà cũng cung kính nghe lời cô, đương nhiên khiến người ta ngạc nhiên, mà trong cuộc hội thoại của họ cũng nhiều lần nhắc đến Mộ Dung Phong, có thể thấy quan hệ giữa cô và Mộ Dung Phong không hề đơn giản. Sự ngờ vực trong anh càng lúc càng lớn, cuồn cuộn dâng trào, cả cơ thể như muốn nổ tung, tâm trạng buồn bã đến cực điểm. Còn Tĩnh Uyển lại có vẻ không màng đến bản thân, ngược lại nói với Hà Tự An: “Tôi muốn gặp Cậu Sáu”.
Hà Tự An do dự nói: “Doãn tiểu thư, không được đâu”. Tĩnh Uyển lòng rối như tơ vò, hàng ngàn suy nghĩ không biết nên giải quyết từ đâu. Chỉ một mực nghĩ, mình và anh có tình kết nghĩa, qua lại đến nay anh luôn đối xử lịch thiệp, trước sự ép buộc của tình thế vẫn thay mình sắp xếp chu đáo, bây giờ anh đang gặp nguy, mình tuyệt đối không thể bỏ đi. Cô quyết đoán trong khoảnh khắc, nói với Hà Tự An: “Việc đã thế này, Tĩnh Uyển đã quyết định rồi, mong Hà tiên sinh giúp cho”.
Bình thường Hà Tự An thấy cô dịu dàng yếu đuối, lúc này nghe cô nói một câu như thế, trong lòng thầm khen, cảm thấy cô gái này trọng tình nghĩa, chẳng quản sống chết, nói: “Cậu Sáu có lệnh, tôi không thể làm trái. Nhưng nếu Doãn tiểu thư không muốn đến bến tàu, tôi cũng không thể ép buộc”. Tĩnh Uyển hơi mỉm cười, nói với Hứa Kiến Chương: “Anh ở đây đợi em, em đi một lát rồi về”. Hứa Kiến Chương nói: “Anh đi cùng em”. Tĩnh Uyển biết tình hình chưa rõ ràng, trước mắt chưa biết chắc, nhìn đồng hồ đã là mười hai giờ hai mươi phút, tam tiểu thư vẫn chưa sai người đến mời mình dự tiệc, vậy Mộ Dung Phong nhất định chưa về. Cô nhất thời không thể giải thích rõ cho Hứa Kiến Chương, càng không muốn chần chừ thêm nữa, chỉ nói: “Anh không đi được, em sẽ về ngay”. Hứa Kiên Chương vẫn muốn nói tiếp, Tĩnh Uyển đã nói: “Hà tiên sinh, phiền anh ở lại đây với Hứa tiên sinh”. Hà Tự An vâng mọt tiếng, Hứa Kiến Chương cực kỳ phẫn nộ, nắm lấy cánh tay cô: “Tĩnh Uyển, tại sao?”.
Tĩnh Uyển nói: “Em không phụ anh, nếu anh tin em, anh sẽ biết em không phụ anh”. Ánh mắt cô cháy bỏng nhìn anh chăm chút: “Kiến Chương, em không hề phụ anh”. Hứa Kiến Chương thấy mắt cô như hai đốm lửa nhỏ cố chấp cháy như thế, trong lòng biết rõ cô là người tuyệt đối không thấy chú ý. Và trong lòng anh cũng không muốn nghĩ đến việc kinh khủng như thế, anh đành thuyết phục bản thân: Tĩnh Uyển làm vậy nhất định là có lý do của cô ấy. Cuối cùng anh chầm chậm buông tay ra, nói: “Được, anh ở đây đợi em”.
Tĩnh Uyển đi ra, tam tiểu thư đang lo lắng, nói nhỏ với cô: “Cậu Sáu nói nhất định sẽ đến, sao giờ này vẫn chưa đến?” Tĩnh Uyển nói: “Em muốn đến soái phủ, đích thân mời Cậu Sáu”. Tam tiểu thư cười nói: “Cũng được”, rồi dăn xe đưa cô đến soái phủ. Tĩnh Uyển ngồi trên xe, trong lòng giống như có hàng ngàn chiếc trống đang vang lên điện cuồng. Đi từ Đào phủ đến soái phủ chỉ mất mấy phút, từ xa xa cô nhìn thấy soái phủ canh phòng cẩn mật như thường, tâm trạng thấp thỏm, cố gắng trấn tĩnh.
Cô xuống xe ở phía trước, người ở cửa đương nhiên biết mặt cô, cười nói: “Doãn tiểu thư đến rồi? Cậu Sáu vẫn đang họp ở phía sau”. Cô không biết tình hình như thế nào, chỉ ầm ừ một tiếng, men theo hành lang đi đến căn nhà đá xanh đó. Vừa đúng lúc Thẩm Gia Bình đi từ trên lầu xuống, vừa thấy cô đã tỏ vui mừng, lập tức nói: “Chào Doãn tiểu thư”. Tĩnh Uyển “ừ” một tiếng hỏi: “Cậu Sáu đâu?”. Thẩm Gia Bình đáp: “Vừa mới họp xong, sư đoàn trưởng Thường đang kéo Cậu Sáu lại làm phiền, còn cả Từ thống chế, ba người nói đến tận bây giờ?”. Vừa nói vừa ra hiệu bằng mắt cho Tĩnh Uyển, tim Tĩnh Uyển đập thình thịch, xuyên qua phòng khách, đi đến cửa phía sau, cận vệ mở cửa giúp cô, cô đi vào trong cười nói: “Cậu Sáu, anh đồng ý với người ta, sao lại chẳng để ý chút nào thế?”
Mộ Dung Phong đang bị Thường Đức Quý giữ lại không buông, nếu muốn mượn cớ bỏ đi, là một người rất tinh ý, e rằng Từ Trị Bình sẽ sinh nghi. Lúc này bỗng nghe thấy giọng cô, trong lòng anh không biết là kinh ngạc hay vui mừng, xen lẫn sự lo âu. Thấy cô vừa đi vừa xị mặt ra, anh hỏi: “Em đến làm gì? Anh đang có việc quan trọng”.
Tĩnh Uyển cười nói: “Đồ ăn đều đã đưa lên hết rồi, kịch cũng đang hát đến đoạn hay, khách cũng đã đến đủ, Cậu Sáu đồng ý tổ chức sinh nhật cho em, mà bây giờ lại vẫn ở đây”. Cô lại cười nói với Thường Đức quý: “Sư đoàn trưởng Thường, trưa hôm nay thay tôi uống với Cậu Sáu một ly, lần nào Cậu Sáu cũng khen tửu lượng của sư đoàn trưởng đó”. Cô giả vờ hơi tức giận, ánh mắt lay động như nước, liếc Mộ Dung Phong một cái: “Đi thôi, không đi là em giận thật đấy”. Không phân trần gì, cô khoác tay Mộ Dung Phong kéo thẳng ra ngoài. Sau cùng cô còn quay đầu lại cười tươi với Từ Trị Bình, nói: “Từ thống chế cũng mau đến đi, bên đó đang đợi mở tiệc rồi”.
Từ Trị Bình thấy khuôn mặt đầy vẻ hết cách của Mộ Dung Phong, khi anh bị kéo ra đến cửa, ông ta chợt nảy ra một ý nghĩ liền gọi: “Cậu Sáu, tôi còn lời muốn nói!”. Tĩnh Uyển trong lòng căng thẳng, cướp lời: “Thống chế đến tiệc rượu, muốn nói bao nhiêu chẳng được? Mau đến dự tiệc đi”. Từ Trị Bình ngờ vực, nhưng nhìn dáng vẻ dịu dàng yếu đuối của cô, ông ta nghĩ nếu có lừa gạt thì cũng không thể do một người phụ nữ yếu đuối gây nên, trong giây lát đó, chỉ thấy Thường Quý Đức đã rao bước ra ngoài, Từ Trị Bình chần chừ một lát rồi cũng đi theo.
Mộ Dung Phong vừa ra khỏi phòng khách, liền lấy hộp thuốc từ trong túi, tạch một tiếng mở ra, nói: “Người đâu, châm lửa”. Người mai phục hai bên hành lang, nghe thấy câu này xông hết ra, ập đến hai người Từ, Thường. Thường Quý Đức chưa kịp hiểu gì đã bị đè xuống đất, Từ Trị Bình thấy tình thế không ổn, kêu lớn một tiếng, rút ra một khẩu súng từ sau lưng, lao về phía Mộ Dung Phong. Thẩm Gia Bình lập tức nhảy ra, ôm chặt lấy hắn, hai người lăn trên đất, tất cả cảnh vệ đều vội vã xông lên.
Quy tắc xưa nay, tất cả đều thuộc cấp Thừa quân vào soái phủ đều không được đem theo súng, hai vị Từ, Thường cũng đã bỏ lại súng ở ngoài cửa, không ngờ Từ Trị Bình vẫn giấu một khẩu súng trên người. Trước tình hình hỗn loạn, Mộ Dung Phong rất bình tĩnh bảo vệ Tĩnh Uyển lùi về phía sau, chỉ thấy ba, bốn người đã giữ chặt Từ Trị Bình cướp lấy súng của ông ta, anh đang thở phào nhẹ nhõm, bỗng nghe thấy Thường Đức Quý gầm lên một tiến, hất hết cảnh vệ ra, ông ta vốn là mãnh tướng có tiếng trong Thừa quân, cú nhảy đó cảnh vệ sao giữ nỗi? Nói thì chậm làm thì nhanh, ông ta đưa tay lên, hóa ra đã giấu sẵn súng, chỉ nghe liên tiếp ba tiếng “pằng pằng pằng” vang lên. Một cận vệ xông lên giữ lấy, cơ thể Mộ Dung Phong bị đập mạnh, Tĩnh Uyển kêu lên một tiếng thất thanh, máu nóng đã rớt trên tay. Mấy cẩn vệ đã giữ chặt Thường Quý Đức, dùng dây thừng buộc hai chân hai tay ông ta lại, Thường Quý Đức vẫn còn chửi mắng: “Mộ Dung Phong, tên khốn khiếp! Ông mày trăm ngàn khổ sở giúp cha mày giành được một nửa giang sơn, cái tên vô dụng như mày lại gài bẫy ông, có gan thì đấu riêng với ông đây! Hôm nay không đánh chết mày, ông chết không nhắm mắt…”. Miệng ông ta đột nhiên bị nhét hai quả hạnh đạo, không chửi mắng được nữa.
Hai người đó đã bị buộc chặt như chiếc bánh chưng, Thẩm Gia Bình sợ đến hồn bay phách lạc, chỉ chạy lại xem máu trên tay Mộ Dung Phong: “Cậu Sáu, bị thương ở đâu?”. Mộ Dung Phong lại nắm lấy gấu áo anh: “ Mau đi gọi bác sĩ, mau đi gọi bác sĩ?”. Thẩm Gia Bình giờ mới thấy Tĩnh Uyển mặt trắng bệch như giấy ở trong lòng anh, trên gấu áo máu ào ào chảy xuống, không ngờ là cô bị thương. Cận vệ đã leo đến gọi điện thoại trước đó, Mộ Dung Phong ôm chặt lấy Tĩnh Uyển, dáng vẻ tựa như con thú bị sập bẫy, trong mắt vằn lên tia nhìn đáng sợ. Anh cướp lấy khẩu súng trên tay Thẩm Gia Bình, Thẩm Gia Bình chỉ kịp kêu một tiếng: “Cậu Sáu!”. Họng súng đã nhằm vào đầu Thường Quý Đức, Thẩm Gia Bình hốt hoảng, chỉ nghe thấy hai tiếng “pằng pằng” liên tiếp, đầu Thường Quý Đức đã bị bắn nát. Mộ Dung Phong chuyển họng súng, Từ Trị Bình xoay người, nhưng nào có nhúc nhích được, Mộ Dung Phong đã bóp cò, một phát tiếp một phát, đến lúc bắn hết sạch đạn, anh mới vứt khẩu súng xuống đất, bế Tĩnh Uyển lên giống như vừa tỉnh dậy từ giấc mơ, thấy cô thoi thóp, hơi thở đã yếu đến không nghe thấy, chân bước vội, anh điên cuồng ôm cô loạng choạng chạy về phía sau.
Chương 10
Hứa Kiến Chương ngồi ở căn phòng đó một lát, trong lòng ngổn ngang bao suy nghĩ, tâm trạng bất an, nghĩ hết điều này đến điều kia, luôn nghĩ rằng, đừng nghĩ nữa cho xong, nhưng đầu óc lại như trúng tà, những ngờ vực đó cứ xoay vòng không thôi. Tiếng nhạc của đội nhạc đang chơi, tiếng chiêng trống trên sân khấu, tiếng cười ồn ã ở phía trước, láng máng truyền đến càng khiến anh lo lắng thêm. Anh ngồi xuống không được mấy phút, lại đứng dậy đi mấy bước, lẩm bẩm một mình: “Phủ này đang tổ chức chuyện vui à, náo nhiệt thật”.
Hà Tự An cười cười, không trả lời. Hứa Kiến Chương đi lại mấy lượt, lại ngồi xuống ghế sofa, chỉ nghe tiếng đồng hồ tích tắc tích tắc. Thật ra trong lòng Hà Tự An còn sốt ruột hơn cả Hứa Kiến Chương, trơ mắt nhìn đồng hồ chỉ mười hai giờ rưỡi, nghe thấy tiếng bước chân vội vã đi đến từ phía sau, anh biết ngay đó không phải là người của Đào phủ, chắc là người của soái phủ vào từ cổng phụ, vì không biết tình hình thế nào, trong lòng khó tránh khỏi thấp thỏm không yên.
Hứa Kiến Chương nghe thấy tiếng bước chân thì cũng đứng dậy, anh đi lại Thừa Châu nhiều lần, vừa thấy phục trang liền biết là cận vệ của Mộ Dung Phong. Trong lòng anh nghi ngờ không yên, chỉ thấy người đó đi thẳng đến nói thầm vài câu với Hà Tự An. Hà Tự An nhìn Hứa Kiến Chương một cái, cười nói với anh: “Hứa tiên sinh cứ ngồi đây đợi, Cậu Sáu có chút việc phái tôi đi làm, tôi đi một lát rồi về”. Hứa Kiến Chương nói: “Hà tiên sinh cứ tự nhiên”. Hà Tự An hình như hơi sốt ruột, cũng không khách sáo với anh.
Hà Tự An quay về soái phủ, chỉ thấy một chiếc xe đi nhanh vào trong, đến tận trước lầu mới dừng lại. Hà Tự An nhận ra đó là xe của bác sĩ Millet, vị bác sĩ người Đức này vốn được mệnh danh là bàn tay thánh của ngoại khoa, bác sĩ nổi tiếng nhất ở bệnh viện Giáo hội Thừa Châu. Anh vừa nhìn thấy bác sĩ Millet, trong lòng không kìm được hốt hoảng, vội vã bước nhanh đi vào cùng bác sĩ Millet. Thẩm Gia Bình đang sốt ruột đi lại ở phòng khách dưới lầu, vừa thấy Millet, như gặp được cứu tinh, nói ngay: “Cậu Sáu ở trên lầu”. Anh đích thân đi trước dẫn đường, đưa Millet lên lầu. Trên hàng lang lầu trên, quả thật là ba bước một cảnh vệ, năm bước một lính canh, cảnh vệ cận vệ đứng san sát. Men theo hành lang rẽ trái là một căn phòng rộng lớn, họ xuyên qua căn phòng đi thẳng vào trong.
Trong phòng đã có bác sĩ Spencer người Anh, ông vốn là bác sĩ gia đình của Mộ Dung gia, y thuật cũng rất có tiếng, ông đang nói nhỏ gì đó với y tá, thấy Millet đi vào, hai vị bác sĩ vội vã bắt tay, bắt đầu dùng tiếng Đức trao đổi. Hà Tự An thấy Mộ Dung Phong ngồi yên không động đậy trên chiếc giường, y tá đang rửa vết máu trên tay anh, vội vàng đi lại. Hà Tự An thấy vết thương đó chỉ là bị một viên đạn sướt qua, vết thương rất dài, nhưng rất nông, không hề vào xương, giờ mới thở phào nhẹ nhỏm. Hà Tư An đang định cất tiếng nhưng nghe thấy Mộ Dung Phong quát hai tiếng gọn lỏn: “Tránh ra!”. Hà Tự An vội vàng tránh sang một bên, quay đầu lại mới thấy chiếc giường lớn, hai y tá đang bận cầm máu cho Tĩnh Uyển, băng gạc được thay liên tục, cô đắp chiếc chăn nỉ lấm tấm vết máu, khuôn mặt tái nhợt, không chút sắc máu. Hà Tự An thấy Mộ Dung Phong nhìn thẳng vào khuôn mặt nhợt nhạt của Tĩnh Uyển, trong lòng không hiểu sao bắt đầu lo lắng.
Hai bác sĩ trao đổi vài câu, nhất trí bệnh nhân không thể di chuyển, tiến hành phẫu thuật ngay tức khắc. Họ lập tức chuẩn bị, Mộ Dung Phong giờ mới ra phòng khách, đích thân bác sĩ Miller ra giải thích với anh: “Tình hình của Doãn tiêu thư không lạc quan lắm, viên đạn nó găm rất sâu, e rằng đã tổn thương đến phổi, không dễ lấy ra”. Thẩm Gia Bình thấy Mộ Dung Phong rất lâu không nói gì, mới gọi một tiếng “Cậu Sáu”. Mộ Dung Phong trầm ngâm hồi lâu, sau cùng mới chậm rãi gật đầu với bác sĩ.
Hà Tự An làm xong những thủ tục liên quan, lúc quay lại phòng khách không thấy ai, cuộc phẫu thuật đang tiến hành ở bên trong. Hà Tự An đang định rời xa, bỗng thấy Thẩm Gia Bình đi vào từ ban công, liền hỏi: “Cậu Sáu đâu?”. Thẩm Gia Bình suỵt miệng, Hà Tự An giờ mới thấy Mộ Dung Phong hút thuốc một mình ở ban công. Trên ban công có đặt sẵn ghế mây, đầu mẩu thuốc lá vương vãi trước ghế, Mộ Dung Phong yên lặng ngồi đó, hút từng điếu từng điếu. Khói thuốc trắng nhạt tỏa ra xung quanh, phả vào mặt, khiến người ta hơi sặc. Bóng cây hòe xanh non trước lầu, từng tia nắng lọt qua kẽ lá, Mộ Dung Phong ngồi ở đó, nhìn ánh sáng loang lổ trên đám cây. Hà Tự An đi đến gọi một tiếng: “Cậu Sáu”, Mộ Dung Phong thấy thế, giống như sực tỉnh, “ồ” lên một tiếng, hỏi: “Làm xong hết chứ?”. Hà Tự An nói: “Nội dung điện báo đã viết xong rồi, Cậu Sáu có muốn xem qua không?” Mộ Dung Phong nói: “Cậu đọc đi”.
Hà Tự An liền lấy bản thảo ra đọc cho anh nghe: “Mộ Dung Phong nhậm chức đến nay, đối với đồng sự, trợ lý của người đi trước luôn đối xử chân thành, tiếp thu ý kiến của họ, đặc biệt là với hai người là thống chế tỉnh Vọng Châu – Từ Trị Bình và sư đoàn trưởng đóng quân tại đường sắt Thừa Dĩnh –Thường Đức Quý, thời gian làm việc với họ lâu nhất, cũng tin tưởng họ nhất. Nhưng hai tên Từ, Thường thao túng lộng quyền, khiến tất cả chính sự bị đình trệ, mọi việc không thể tiến hành. Tội trạng đã rõ, phải bị trừng trị đích đáng. Nhiều lần tai họa chiến tranh đều do hai kẻ này xúi bẩy mà thành. Âm mưu kế hiểm của chúng người ngoài chưa hề biết…”.
Điện báo vốn do phụ tá được cho là nhân tài xuất chúng cẩn thận chọn lọc từ ngữ, viết rất khéo léo hoa mỹ, vừa kể vừa giải thích, kèm theo sự thương xót đau đớn vô hạn. Hà Tự An thấy Mộ Dung Phong không tập trung, do đó vội vàng đọc hết rồi hỏi: “Cậu Sáu, có gửi bản thảo này điện báo toàn quốc không?”. Mộ Dung Phong giờ mới cầm lấy bản thảo xem một lượt, liền hỏi: “Phía Bắc có tin tức gì không?”. Hà Tự An đáp: “Vẫn chưa có, nhưng hai sư đoàn của chúng ta đã bố trí phòng thủ từ Triết Bình đến Vọng Thành, người Nga dọc tuyến đường sắt tuy nhìn chằm chằm như hổ đói, nhưng lại bị cầm chân, cho rằng hai quân Từ, Thường không dám hành động thiếu suy nghĩ”. Mộ Dung Phong hừ một tiếng, nói: “Trước mắt giữ quân của họ lại, lấy hai lạng địch ngàn cân, đợi khi nào đủ mạnh , xem tôi giải quyết đám người Nga đó thế nào”.
Hà Tự An nhận thấy anh muốn đánh nhau với người Nga, nên không lập tức trả lời. Mộ Dung Phong nhìn bóng cây đó một lát, lại nói: “Phía Bắc có tin thì báo với tôi”.
Trong Đào phủ đang náo nhiệt, Tam tiểu thư cùng nghe kịch với Từ, Thường phu nhân, vai Thiết Kính công chúa của Lô Ngọc Song đang hát khúc Tọa Cung. Từ phu nhân vốn là người rất thích kịch, đang nghe say mê, Thường phu nhân hình như chợt nhớ ra: “Sao không thấy Doãn tiểu thư?”. Tam tiểu thư nói: “Cô ấy nói là đi thay quần áo”. Vừa quay lại thấy khách nữ giới lần lượt đứng lên, hóa ra là tứ phu nhân Hàn thị đến.
Tứ phu nhân mặt mày rạng rỡ, chưa nói đã cười: “Tôi đến muộn rồi”. Bà lại nói với tam tiểu thư: “Tôi tưởng đã bắt đầu tiệc rồi chứ?”. Từ phu nhân nói: “Tứ phu nhân vẫn chưa đến, làm sao có thể mở tiệc?”. Tứ phu nhân liền cười nói: “Tôi đã đến rồi, vậy thì bắt đầu đi”. Từ phu nhân cười đáp: “Còn cả nhân vật chính, lúc này không biết đi đâu rồi, bỏ lại mấy người chúng ta, cô ấy thì mất tích”. Tứ phu nhân phì một tiếng: “Tôi đi từ nhà ra, thấy cô ấy đi đến chỗ chúng ta. Theo tôi, chúng ta vừa ăn vừa đợi, cũng không phải thất lễ”.
Tam tiểu thư chần chừ nói: “Vẫn nên đợi hai người họ thì hơn, Tĩnh Uyển nói đi giục Cậu Sáu”. Từ phu nhân lại mỉm cười, nói: “Chẳng lẽ chỉ có họ được bỏ lại một phòng đầy khách khứa, còn chúng ta không bỏ lại họ được sao? Hôm nay chúng ta cức mặc cho họ đói đi”. Tam tiểu thư vốn không phải là người ngốc, chợt hiểu ra, cười nói: “Vậy chúng ta không đợi nữa”. Hai vị Từ, Thường phu nhân chưa phát hiện được ý tứ sâu xa, cùng cười rất tươi, vậy nên tam tiểu thư dặn dò quản gia bắt đầu khai tiệc.
Hứa Kiến Chương ở trong gian phòng khách đó, đang lúc vô cùng sốt ruột, lại thấy bác Châu đi vào, nói: “Phu nhân chúng tôi nghe nói thiếu gia là anh họ của Doãn tiểu thư, nên rất hoan nghênh, nhà trên đã chuẩn bị mở tiệc rồi, mời thiếu gia dự tiệc”. Hứa Kiến Chương nhìn cảnh vệ ở lại cùng mình một cái, hỏi: “Trong phủ nhộn nhịp như vậy, đang tổ chức chuyện vui gì thế?” Bác Châu liền cười, nói: “Thiếu gia, là tổ chức sinh nhật cho Doãn tiểu thư”. Hứa Kiến Chương liền đờ đẫn, hỏi lại một lần nữa: “Tổ chức sinh nhật cho Doãn tiểu thư?”. Bác Châu cười nói: “Phu nhân chúng tôi nói, thiếu gia là người nhà của Doãn tiểu thư, vậy cũng giống như người một nhà, mong thiếu gia đừng khách sáo”. Một ý nghĩ lóe lên trong đầu Hứa Kiến Chương, anh buột miệng hỏi: “Đây là Đào phủ – chẳng lẽ là phủ của Đào tư lệnh?” – Bác Châu đáp: “ Đúng thế”. Hứa Kiến Chương nghe bà ta nói cái gì người một nhà, giống như là mắc xương trong họng, trong lòng khó chịu vô cùng, nghĩ một lát lạii hỏi: “Doãn tiểu thư về chưa?”. Bác Châu cười đáp: “Doãn tiểu thư một lát nữa sẽ quay lại”.
Hứa Kiến Chương lại hỏi: “Vậy Doãn lão gia đâu, ở nhà trên phải không?”, khiến bác Châu hơi sững lại: “Doãn tiểu thư ở đây một mình, thiếu gia hỏi Doãn lão gia nào?”. Trong lòng Hứa Kiến Chương như rối như tơ vò, một lúc lâu sau, mới lắc đầu nói: “Thay tôi cảm ơn phu nhân nhà bác, tôi không tiện đi, mong Đào phu nhân thông cảm”.
Bác Châu vâng lời rồi rời đi, một lát sau lại dẫn theo người hầu xách một chiếc hộp đến, vẫn nói rất khách sáo: “Phu nhân chúng tôi nói, thiếu gia đã không muốn đến thì thôi, nên bảo nhà bếp làm mấy món đưa đến, thiếu gia ăn tạm một chút”. Người hầu đó mở nắp hộp cơm, bên trong là tôm non xào măng bao tử, cá hấp, mầm đậu Hà Lan xào, ngoài ra có một bát canh vịt ướp hoa đào nóng hổi. Hứa Kiến Chương làm gì có tâm trạng ăn cơm, người hầu đó xới cho anh một bát cơm to, anh nói với cảnh vệ ở lại cùng mình: “Cậu ăn trước đi”. Quân pháp của Mộ Dung Phong rất nghiêm ngặt, cảnh vệ đó nói: “Hứa tiên sinh cứ tự nhiên” và vẫn đứng thẳng ở bên cạnh. Hứa Kiến Chương miễn cưỡng nhận lấy bát cơm và hai miếng rồi lại buông bát. Chỉ nghe thấy tiếng ồn ào cười nói ở phía trước, xen lẫn tiếng đàn sáo vô cùng náo nhiệt, sự phồn hoa như gấm ấy, tuy cách xa nhiều tầng sân vườn, nhưng vẫn có thể thấy được từ xa.
Rất lâu sau, phòng bếp mới sai hai người hầu đến thu dọn bát đĩa, Hứa Kiến Chương vốn đã có tâm sự, vô tình đá vào dưới cửa sổ, lại nghe thấy một người hầu oán trách: “Không có việc gì cũng kiếm chuyện vặt bắt chung ta làm, hôm nay bận thế này, còn một mình hầu hạ cái này, hầu hạ cái kia”. Một người hầu khác cười nói: “Để sau này Doãn tiểu thư thật sự gả cho Cậu Sáu, lúc đó cho dù cô muốn hầu hạ anh họ, còn không có cơ hội ấy chứ”. Hai người vừa nói vừa đi xa dần. Hứa Kiến Chương như bị sấm nện vào đầu, trong lòng cứ nghĩ, ngay cả người hầu cũng nói thế, đủ để thấy Tĩnh Uyển và Mộ Dung Phong thân mật đến mức nào, không hỏi mà biết. Trong lòng như có dầu sôi lửa bỏng, điếu thuốc cầm trên tay bất giác bị anh bóp nát, những sợi thuốc lá nát vụn rơi lả tả trên thảm trải nền.
Hà Tự An đợi trong phòng điện báo không rời một bước, đến tận lúc nhận được bức điện mật đó, anh mới thở phào nhẹ nhỏm, đích thân cầm bức điện đến phía sau báo cáo với Mộ Dung Phong. Mộ Dung Phong vẫn ngồi hút thuốc trước ban công, trên chiếc ghế mây nhỏ bên cạnh có bày mấy món ăn, Hà Tự An nhìn dáng vẻ đó, hình như chưa hề động đũa. Hà Tự An ho nhẹ một tiếng, nói: “Cậu Sáu, điện báo của Trương Kỳ Vân đến rồi”.
Mộ Dung Phong khẽ búng tàn thuốc lá, hỏi: “Thế nào?”.
Hà Tự An nói: “Đã thuận lợi nắm lấy binh quyền của Từ quân, đã tiếp nhận xong toàn bộ quan quân từ sư đoàn số bốn trợ lên”. Mộ Dung Phong giờ mới nói: “Vậy mấy tiếng nữa hãy điện báo toàn quốc đi, ngoài ra viết giúp tôi một bức thư tay cho đại tổng thống, dùng mật điện lập tức gửi đi, nói rõ sự việc này. Hai kẻ Từ, Thường mưu đồ tạo phản, sau khi sự việc bại lộ lại mưu đồ hành thích, việc này tuy là xấu trong nhà, nhưng càng che giấu người ta càng nói nhiều”. Hà Tự An vâng một tiếng, Mộ Dung Phong lại hỏi: “Tình hình trong Đào phủ thế nào?”. Hà Tự An nói: “Hiện vẫn ổn”. Mộ Dung Phong nói: “Lát nữa công bố tin tức, tuyệt đối không được xảy ra rối loạn”. Hà Tự An đáp: “Cậu Sáu an tâm, bên ngoài có quân đoàn trường Đào đích thân bố trí, bên trong có tứ phu nhân”. Chợt trong phòng vang lên một tiếng “cạch”, hình như cửa phòng ngủ vừa mở ra. Mộ Dung Phong đứng phắt dậy, quay người đi vào trong phòng, quả nhiên bác sĩ Millet đã bước ra ngoài, y tá theo sau đang bưng một chiếc khay nhỏ, Mộ Dung Phong thấy trên khay có một đầu đạn đẫm máu, mới thở phào nhẹ nhõm. Bác sĩ Millet nói: “Cuối tuần này là thời gian nguy hiểm vì vết thương quá sâu, có thể dễ dàng bị nhiễm trùng. Hy vọng Chúa phù hộ cô gái này”.
Mộ Dung Phong đi thẳng vào trong, thấy y tá vẫn đang giúp rửa vết máu cho Tĩnh Uyển, cô vẫn đang hôn mê. Anh vốn có rất nhiều việc phải làm, nhưng không nỡ rời đi, đến khi Thẩm Gia Bình tới, gọi nhỏ: “Cậu Sáu, họ đều đã đến rồi”, anh mới xuống lầu họp.
Cuộc họp kéo dài đến tận nửa đêm, mật điện khắp nơi lần lượt truyền về, các tướng lĩnh của Thừa quân trải qua sự việc kinh hồn bạt vía ấy, thần sắc lời nói đều lộ vẻ khác thường. Đến lúc nhận bức điện cuối cùng từ phía Nam cũng đã khoảng hai, ba giờ sáng, đêm vắng tĩnh mịch, Mộ Dung Phong mới thật sự cảm thấy cục diện đã được khống chế, khẽ ngáp một cái nói: “Trời sắp sáng rồi, về đi ngủ hết đi”.
Đám tướng lĩnh đó cùng nhau đứng dậy hành lễ, một vị lão tướng trong đó đặc biệt cung kính nói: “Cậu Sáu phải bảo trọng, trọng trách sau này còn lâu dài”. Mộ Dung Phong gật đầu nói: “Sau này vẫn còn phải nhờ mọi người giúp đỡ”. Anh định đứng dậy tiễn, những thuộc cấp đó luôn miệng nói: “Không dám” rồi nối đuôi nhau lui ra.
Thẩm Gia Bình đi lên phía trước một bước, hỏi nhỏ: “Cậu Sáu cơm trưa cơm tối đều không ăn, bảo nhà bếp chuẩn bị chút đồ ăn đêm nhé”. Mộ Dung Phong giờ mới cảm thấy dạ dày râm rẩm đau, nhưng chẳng muốn ăn chút nào, chỉ lắc đầu nói: “Tôi đi ngủ một giấc, chín giờ gọi tôi dậy”.
Tuy miệng anh nói thế, chân lại bất giác đi về phía sau, Thẩm Gia Bình mới biết là đi thăm Tĩnh Uyển, liền vội vàng theo sau: “Doãn tiểu thư bây giờ vẫn chưa thể cử động, bảo họ thu dọn một phòng khác cho Cậu Sáu nghỉ ngơi nhé”. Mộ Dung Phong nói: “Tôi đến phòng sách ngủ, bảo họ đem chăn đệm đến là được rồi”. Thẩm Gia Bình vâng lời lập tức đi bố trí, Mộ Dung Phong men theo hành lang đi về căn phòng phía sau, trên lầu vẫn yên ắng, bác sĩ Millet và hai vị y tá vẫn trực ở đó, thấy anh đi vào đều đứng dậy.
Anh nhẹ nhàng bước tới xem Tĩnh Uyển, cô vẫn hôn mê chưa tỉnh, mái tóc dài đen tuyền xõa trên gối khiến khuôn măt càng trở nên nhợt nhạt hơn, bác sĩ Millet nói nhỏ: “Phải đợi hết thuốc mê cô ấy mới có thể tỉnh dậy”. Cô đắp một chiếc chăn lông kiểu Tây, vì chăn rất nhẹ càng khiến thân hình cô trở nên nhỏ bé, ngủ ở giữa chiếc giường lớn như thế, cô yếu ớt như đứa trẻ sơ sinh. Cửa sổ đối diện giường đặt một chiếc ghế sofa mềm, anh ngồi xuống đó, tiện tay móc ra bao thuốc. Bác sĩ Millet vội vàng ngăn anh lại: “Xin lỗi Cậu Sáu, phổi của bệnh nhân bị thương, tuyệt đối không được kích thích cô ấy ho”. Anh “ồ” một tiếng, đặt bao thuốc xuống. Anh ngồi ở đó, nói nghĩ ngơi một lát, nhưng vất vả cả ngày, cơ thể mệt mỏi liền ngủ thiếp đi.
Anh xuất thân từ quân nhân, chỉ chợp mắt khoảng một tiếng là tỉnh. Anh cảm thấy trên người rất ấm, hóa ra là đang đắp một chiếc chăn nhung, anh nhìn ánh sáng lờ mờ lọt qua ô cửa sổ, trời hình như sắp sáng. Bỗng nhiên Tĩnh Uyển rên một tiếng, y tá vội vàng đến xem, anh cũng bỏ chăn ra, đi tới. Tĩnh Uyển chưa tỉnh lại thật sự, y tá lấy bông thấm chút nước dấp lên môi cô, lại đo nhiệt độ cho cô, Mộ Dung Phong thấy mặt cô hơi hồng hào trở lại, đưa tay ra đặt lên trán cô, xem nhiệt độ của cô thế nào, cô lẩm bẩm gọi một tiếng: “Mẹ…”. Anh liền nói nhỏ: “Là anh, đau lắm không?”. Cô mê mê man man, y tá nói nhỏ: “Bây giờ cô ấy vẫn chưa tỉnh, để cô ấy ngủ đi”. Anh khẽ kéo mép chân, bỗng thấy cô thì thào: “Kiến Chương”. Anh vốn cúi người xuống, nghe thấy hai tiếng đó hết sức rõ ràng, trong lòng không biết là có cảm giác gì, một lát sau mới chậm rãi vươn người lên, đi ra căn phòng bên ngoài.
Thẩm Gia Bình đang ở trong căn phòng đó, thấy anh đi ra lập tức đứng dậy, anh dặn dò Thẩm Gia Bình: “Đi tìm Hứa Kiến Chương đến”. Thẩm Gia Bình chần chừ một lát, nói: “Bây giờ không tiện lắm thì phải, có nên đợi trời sáng hãy sai người đi không?”. Mộ Dung Phong tức giận, nói: “Có gì mà không tiện, lập tức gọi cậu ta đến”.
Chương 11
Căn phòng Đào phủ bố trí cho khách đương nhiên rất thoải mái tiện nghi, nhưng Hứa Kiến Chương không hề buồn ngủ. Buổi chiều Đào phủ bỗng nhiên trở nên im ắng, anh tuy lờ mờ đoán được là xảy ra chuyện, nhưng đến tận lúc chiều tà mới nghe nói Mộ Dung Phong bị ám sát. Đây là chuyện chấn động biết bao, tuy điện báo nhắc đi nhắc lại nói rõ Mộ Dung Phong không hề bị thương, tất cả tướng lĩnh cao cấp vẫn chạy đến phủ họp, nữ giới trong Đào phủ hoảng loạn một hồi rồi cũng dần dần ra về hết. Đến tận đêm cả Đào phủ tĩnh mịch, so với sự náo nhiệt lúc ban ngày giống như hai thế giới hoàn toàn khác biệt.
Hứa Kiến Chương nghe nói xảy ra chuyện lớn như vậy, Tĩnh Uyển lại đang đi đến soái phủ, không biết cô an nguy ra sao, trong lòng nóng như lửa đốt, sốt ruột đến mức không biết thế nào. Có cảnh vệ ở bên cạnh, anh không tiện đi lung tung dò hỏi tin tức, người làm trong Đào phủ hỏi ai cũng không biết. Đêm nay anh làm sao ngủ nổi chứ? Kiến Chương nằm xuống giường, đang lúc sốt ruột đến cực điểm, cảnh vệ bên ngoài gõ cửa gọi: “Hứa tiên sinh, Hứa tiên sinh”.
Anh còn tưởng là Tĩnh Uyển về, trong lòng vui mừng, vội vàng đi mở cửa. Cảnh vệ đó nói: “Cậu Sáu sai người đến Hứa tiên sinh đi một chuyến”. Anh bất ngờ: “Cậu Sáu?”. Anh ngạc nhiên vô cùng, đương lúc quan trọng, sao Mộ Dung Phong lại muốn gặp kẻ chẳng liên quan là anh? Nhưng cảnh vệ đó liên tục giục giã, anh đành theo anh ta đến soái phủ.
Trời đã sắp sáng, người đi họp chợ sáng đã bắt đầu ồn ào, người gánh tào phớ rao bán đi xuyên qua con ngõ nhỏ, quang gánh rung rinh và tiếng rao bán kéo dài: “Tào phớ đây…”. Từ “đây” kéo thật dài, khiến trái tim người ta cũng đột nhiên nảy lên theo, trong lòng càng thấp thỏm hơn.
Chiếc xe của họ gào thét đi trên con phố, nó lao đi rất nhanh, không bao lâu sau đã đi vào hành dinh đốc quân canh gác nghiêm ngặt. Cảnh vệ dẫn anh xuống xe, đi thẳng vào tòa nhà gạch xanh, bên trong phòng khách đèn điện sáng trưng, có mười cận vệ mặc quân phục đứng gác, lưng đeo súng ngắn kiểu mới nhất, đứng thẳng tắp, xung quanh im lặng như tờ, yên ắng đến mức anh cảm thấy có thể nghe rõ tiếng tim mình đang đập thình thịch trong lồng ngực.
Cảnh vệ dẫn anh lên lầu, sau khi đi hết cầu thang rẽ trái, đến một căn phòng vô cùng sang trọng, Hứa Kiến Chương cũng không còn tâm trạng mà ngắm kiến trúc xung quanh, chỉ nghe cảnh vệ nói: “Mời Hứa tiên sinh đợi ở đây một lát” rồi lui ra ngoài.
Trong lòng Hứa Kiến Chương thấp thỏm không yên, chỉ cảm thấy sự đợi chờ này như đã kéo dài cả thế kỷ, bên ngoài trời đã sáng hẳn, nghe thấy tiếng chim hót trên cành cây, trong lòng anh có vô số nghi hoặc, lúc thì nghĩ đến Tĩnh Uyển, lúc thì lại nghĩ sao Mộ Dung Phong muốn gặp mình, suy nghĩ rối tung không biết phải gỡ từ đâu. Rất lâu sua, cuố cùng nghe thấy tiếng bước chân, quay đầu lại nhìn, người dẫn đầu tuổi khoảng trên dưới ba mươu, trong lòng anh vẫn đang dắn đó, đối phương đã hỏi: “Hứa tiên sinh phải không?”. Anh gật đầu, người đó nói: “Tôi là Thẩm Gia Binh, đội trưởng đội cảnh vệ của Cậu Sáu, chuyện tối qua chắc Hừa tiên sinh cũng có nghe nói đến, mong Hứa tiên sinh đừng thấy lạ”. Nói xong Thẩm Gia Bình ngẩng mặt lên, hai cảnh vệ đằng sau liền lên trước cẩn thận lục soát người Kiến Chương một lượt, không phát hiện thấy vũ khí, mới gật đầu ra hiệu cho Thẩm Gia Bình.
Thẩm Gia Bình nói: “Mời Hứa tiên sinh theo tôi” và quay người đi ra ngoài, Hứa Kiên Chương theo sau, cuối cùng không kìm được hỏi: “Doãn tiểu thư bạn tôi còn ở trong phủ không?”. Thẩm Gia Bình không hề dừng bước, cũng không quay mặt lại, chỉ nói: “Hứa tiên sinh, Doãn tiểu thư muốn gặp anh, cô ấy bị thương rất nặng”. Hứa Kiến Chương nghe thấy câu này, giống như sét đánh ngang tai, bất giác đứng sững, định thần lại mới phát hiện đã tụt lại phía sau mấy bước, liền vội vàng đuổi theo Thẩm Gia Bình.
Lần này Thẩm Gia Bình dẫn anh vào một căn phòng kiểu Tây, Hứa Kiến Chương chỉ thấy căn phòng nguy nga lộng lẫy, trang hoàng tráng lệ, bên ngoài bên trong đều có người hầu khoanh tay đứng chầu, bốn bề tĩnh mịch, tiếng tích tắc tích tắc của đồng hồ treo tường cũng có thể nghe thấy rõ mồn một. Thẩm Gia Bình đích thân mở cửa, bên trong chỉ bật một chiếc đèn ngủ nho nhỏ, ánh sáng mờ mờ, ấm áp, lúc này Hứa Kiến Chương bỗng cảm thấy sợ hãi, sự ám ảnh trong lòng càng ngày càng rõ, càng ngày càng lan rộng. Thảm dưới chân dày ba, bốn phân, giẫm lên không phát ra tiếng động, tựa như bước trên gấm lụa, mềm mại không có chút sức lực, anh chỉ thấy bước chân khó khăn, trái tim cũng giống như treo giữa không trung. Anh nhìn thấy một chiếc giường kiểu Tây lớn và sang trong, đầu giường khắc hoa mạ vàng, một chiếc màn kiểu Tây buông xuống, chiếc màn đó màu trắng, gần như trong suốt, bay nhẹ như mây, buông xuống vô số tua màu vàng, lả lướt bao vây lấy chiếc giường. Chiếc chăn bông trên giường đang ôm lấy một thân hình nhỏ bé. Trái tim anh như muốn nhảy ra khỏi lồng ngực, anh thất thanh gọi: “Tĩnh Uyển”.
Sắc mặt cô nhợt nhạt, trắng bệch như giấy, anh sững sờ nhìn cô thở yếu ớt. Y tá bên cạnh vội dùng tay ra hiệu cho anh, tim anh như có dao cứa, hồn xiêu phách lạc, có người đưa cho anh một chiếc ghế, anh cũng không buồn ngồi xuống. Ánh mắt anh chăm chú nhìn vào mặt cô. Anh hỏi y tá: “Vết thương của cô ấy thế nào?” . Y tá đáp: “Rất nghiêm trọng”. Anh hỏi: “Làm sao lại bị thương?” . Y tá cứ úp úp mở mở không đáp, Thẩm Gia Bình cười một tiếng, nói: “Hứa tiên sinh, có một số chuyện anh đừng hỏi quá nhiều thì hơn”. Anh kinh ngạc, trong lòng lo sợ, cả một bụng nghi vấn đành nén xuống.
Anh cũng không biết đã quá bao lâu, chiếc rèm nhung treo trên cửa sổ nặng nề rủ xuống, chút ánh sáng nhàn nhạt bên ngoài lách vào, lờ mờ như ánh hoàng hôn. Còn Tĩnh Uyển nằm ở đó, tựa một đứa trẻ đang ngủ, vô trí vô giác. Hứa Kiến Chương ngồi đó, cơ thể dần dần tê đi, nhưng trong đầu trống rỗng. Căn phòng ngủ này rất rộng, trên chiếc giá bằng gỗ đàn hương ở phía đông treo một thanh đao cong rất dài, trên chiếc bao da của đao có khảm đá quý, phía dưới khâu tua màu ngà, rất đẹp, rõ ràng là một thanh đao nổi tiếng. Trên giá còn đặt hai thanh bảo kiếm, dài ngắn khác nhau. Trên chiếc tủ thấp cạnh đó có đặt một vài bao xì gà, thuốc lá. Ánh mắt đờ đẫn của anh dừng lại trên tủ quần áo trước giường, bên trên có treo một bộ quân phục của nam giới, một chiếc thắt lưng da vứt tùy ý dưới giá quần áo, trên thắt lưng còn có một bao súng da để trống. Hứa Kiến Chương nhìn thấy bộ quần áo đó tuy là quân phục bình thường, nhưng trên vai rủ xuống tua màu vàng, người mặc bộ quân phục này, không ai khác ngoài Mộ Dung Phong.
Người hầu đến mời anh đi cơm, dạ dày anh như nhét đầy đá, nặng trình trịch, đâu có muốn ăn, nên anh chỉ lắc đầu. Trong phòng vô cùng yên ắng, chỉ có tiếng Tĩnh Uyển thỉnh thoảng rên nhẹ, y tá đi đi lại lại, đo nhiệt độ, đo huyết áp, tiêm, lau mồ hôi cho cô. Anh ngồi ở đó, chỉ mong Tĩnh Uyển mau tỉnh lại, nhưng trong tận đáy tim đang dấy lên một sự bất an, dường như đang sợ hãi một thứ gì đó. Người hầu lại đến mời anh ăn tối, ngày hôm nay không ngờ lại trôi đi nhanh như thế, nhưng cũng trôi đi chậm như thế.
Có tiếng bước chân nhẹ vang lên bên ngoài, chỉ nghe thấy một giọng phụ nữ dịu dàng: “Doãn tiểu thư sao rồi?”. Một bà vú già bên ngoài đáp: “Vẫn chưa tỉnh ạ”. Tiếp theo cửa mở ra, anh quay lại nhìn, chỉ thấy một quý phu nhận sang trọng , khoảng ba mươi tuổi. Lan Cầm vội nói với quý phu nhân đó: “Đây là Hứa thiếu gia, anh họ của Doãn tiểu thư”. Rồi cô lại quay sang nói với anh: “Đây là tứ phu nhân của chúng tôi”.
Anh từng nghe nói đến đại danh của vị tứ phu nhân này, biết bà là vị phu nhân được sủng ái nhất là Mộ Dung Thần còn sống, Mộ Dung Phong chưa kết hôn, nghe nói mọi việc trong Mộ Dung phủ đều do bà làm chủ, do đó vội đứng dậy rất khách sáo, gọi một tiếng “Tứ phu nhân”. Tứ phu nhân vốn theo Mộ Dung Thần đến rất nhiều nơi, tuy là phụ nữ kiểu cũ, nhưng thoải mái phóng khoáng, đưa tay ra bắt tay Hứa Kiến Chương, nói: “ Hứa thiếu gia, hân hạnh”. Bà lại nói: “Tĩnh Uyển xảy ra việc như vậy, thật khiến người ta đau lòng”.
Trong lòng Hứa Kiến Chương đang lo âu, nghe tứ phu nhân nói thế, càng đau lòng, buồn phiền hơn. Tứ phu nhân an ủi anh: “Ở hiền gặp lành, biểu thiếu gia (*) cũng đừng quá lo lắng”; rồi lại hỏi: “Biểu thiếu gia vẫn chưa ăn cơm phải không?”. Dứt lời, bà gọi một người hầu vào sai bảo: “Giờ mấy người ngày càng không có quy tắc, khách ở đây, sao không mời đến phía sau ăn cơm?”.
(*) Biểu thiếu gia nghĩa là anh, em họ đằng ngoại, ý coi như Doãn Tĩnh Uyển sẽ lấy Mộ Dung Phong, nên Hứa Kiến Chương thuộc về họ đằng ngoại của Mộ Dung Gia (BTV)
Hứa Kiến Chương vội nói: “Họ đã mời tôi mấy lần rồi, tôi không muốn ăn nên mới không đi. Hơn nữa đã rất làm phiền quý phủ rồi”. Tứ phu nhân mỉm cười, nói: “Biểu thiếu gia đâu phải người ngoài, sao lại khách sáo thế? Cậu Sáu nhà chúng tôi hai ngày nay bận quá, cho nên không tranh thủ được thời gian, mong biểu thiếu gia đừng lấy làm lạ. Biểu thiếu gia cứ coi đây như nhà mình đi, có việc gì chỉ cần dăn dò bọn họ là được”.
Bà một mực gọi biểu thiếu gia, nỗi nghi hoặc trong lòng Hứa Kiến Chương như bọt xà phòng trào lên đến đỉnh điểm, động nhẹ là có thể vỡ tung. Tứ phu nhân lại nói: “Cơm thì vẫn phải ăn, nếu Tĩnh Uyển tỉnh dậy, chắc chắn sẽ không muốn thấy biểu thiếu gia đói bụng”. Bà mới đi mời lại, Hứa Kiến Chương không thể không nể mặt, đành đứng dậy đi ăn cơm.
Anh ăn không ngon, nhưng người làm trong Mộ Dung phủ hầu hạ vẫn rất ân cần, sau bữa cơm là tráng miệng kiểu Tây, vừa có đồ ngọt, vừa có cà phê, anh ăn không nổi, nhấp hai ngụm cà phê liền lập tức quay về thăm Tĩnh Uyển. Anh thấy xung quanh đã sáng lên, đi về căn nhà đó, đèn trên hành lang đều đã bật sáng trưng, Thẩm Gia Bình đứng ngoài hành lang, thấy anh thì hơi sững lại, Hứa Kiến Chương cũng không để ý, Thẩm Gia Bình liền lên trước gõ cửa nói: “Cậu Sáu, Hứa thiếu gia quay lại rồi”. Lúc này cửa mới mở.
Mộ Dung Phong đang nói chuyện với một vị bác sĩ người nước ngoài trước cửa sổ nghe vậy mới quay đầu lại. Hứa Kiến Chương tuy đến Thừa Châu nhiều lần nhưng chưa từng gặp Mộ Dung Phong, lúc này bỗng nhiên gặp mặt, trong lòng kinh ngạc, chỉ thấy so với trên ảnh, anh ta sắc mặt hơi tối, đường nét tuấn tú, biểu cảm ung dung tự tại, quả thật là thiếu niên lão luyện sớm.
Anh đành chào một tiếng: “Cậu Sáu”. Mộ Dung Phong gật đầu hờ hững, lại quay mặt đi dùng tiếng Nga nói chuyện với vị bác sĩ nước ngoài, vị bác sĩ đó cũng dùng tiếng Nga trả lời, một lát sau bác sĩ đó lại cùng Mộ Dung Phong đến trước giường, thảo luận nhỏ với anh ta. Hứa Kiến Chương đoán họ đang nói về vết thương của Tĩnh Uyển, có điều một câu anh cũng không hiểu, chẳng khác nào người thừa.
Ngày hôm sau Tĩnh Uyển vẫn chưa tỉnh, cứ ngủ mê man. Tứ phu nhân ngày nào cũng đến hai lần, xem vết thương của Tĩnh Uyển rồi lại an ủi Hứa Kiên Chương vài câu. Tối hôm đó sau khi đến, bà còn tiện tay lấy một chiếc hộp trên tay nha hoàn, đưa cho Hứa Kiến Chương nói: “Hai ngày nay có mấy vị phu nhân đến thăm, nhưng bác sĩ đã dặn Doãn tiểu thư cần yên tĩnh, cho nên tôi đều từ chối hết, mấy đồ này là người ta tặng Doãn tiểu thư, anh nhận giúp cô ấy đi”.
Sau khi Tứ phu nhân đi rồi, Hứa Kiên Chương mở ra xem, không ngờ là một danh mục quà tặng, đa phần là những vị thuốc quý hiếm, toàn là nhung hươu, hổ cốt, mật gấu, sâm Cao Ly trăm năm, còn có người tặng đồ ngọc sư tử, có người tặng đồ cổ trang sức, muôn hình muôn vẻ, không thiếu thứ gì. Lạc khoản phía dưới, đều đề tên nữ gia quyến của các nhân vật quan trọng trong Thừa quân. Anh nắm tờ danh mục ấy giống như nắm một cục than đang cháy, sự đau đớn từ lòng bàn tay chảy thẳng vào tận tim.
Khi Tĩnh Uyển dần dần tỉnh lại, đã là ba ngày sau. Vết thương đau đớn, nhưng người đã tỉnh táo, cô vừa mở mắt ra, Lan Cầm đã vui mừng hét lên: “Tiểu thư tỉnh rồi, tiểu thư tỉnh rồi”. Bác sĩ y tá đều tập trung lại, ánh mắt cô lướt qua mọi người, tìm kiếm mà không thấy Hứa Kiến Chương đâu. Đã có người đi báo cáo với Mộ Dung Phong, anh vốn họp thâu đếm, lúc này đang ngủ, vừa nghe thông báo, anh không kịp thay quần áo, khoác vội chiếc áo khoác rồi đến. Thấy cô tỉnh lại, anh không kỉm được nở nụ cười, buột miệng nói: “Cuối cùng em đã tỉnh rồi”. Lan Cầm đứng bên cạnh cũng cười: “Giờ thì tốt rồi, cuối cùng tiểu thư đã tỉnh. Cậu Sáu vô cùng lo lắng, cứ một lát lại đến thăm tiểu thư”. Tĩnh Uyển thấy vẻ mặt anh tiều tụy, anh mắt tràn ngập sự thương yêu, trong lòng cảm kích hỏi: “Cậu Sáu…”.
Mộ Dung Phong hiểu ý, nói: “Sự việc cơ bản đã ổn định lại rồi”. Anh khẽ nắm tay cô nói: “Tĩnh Uyển, may mà em không sao, nếu không thì cả đời này anh cũng không sống vui vẻ được”. Cô gượng cười hỏi: “Hai ngày nay em mơ mơ hồ hồ, hình như cảm thấy Kiến Chương ở đây, sao giờ không nhìn thấy anh ấy?”
Mộ Dung Phong nói: “Anh sai người đi mời Hứa thiếu gia đến cho em, quả thật anh ta luôn ở đây. Nhưng vừa đúng trưa nay sư đoàn trưởng Từ mời ăn cơm, cho nên anh ta ra ngoài rồi”. Tĩnh Uyển nghe vậy, cảm thấy hơi thất vọng.
Hứa Kiến Chương mấy ngày nay không có tâm trạng ăn uống, hôm nay cũng vẫn ăn không ngon. Sư đoàn trưởng Từ đãi khách ở nhà, đương nhiên là một bàn sơn hào hải vị, cao lương mỹ vị. Sư đoàn trưởng Từ đó có quan hệ thân thiết với Hứa Kiến Chương, nữ giới trong nha cũng không hề tránh đi. Từ phu nhân vốn hay nói hay cười, vừa gắp thức ăn cho Hứa Kiến Chương vừa cười nói: “Hứa thiếu gia tuy chịu khổ mấy ngày trong nhà lao, nhưng nguy hiểm đã qua, hôm nay làm bữa cơm gia đình, coi như an ủi thiếu gia”.
Hứa Kiến Chương ăn không nổi, sư đoàn trưởng Từ hỏi: “Vết thương của Doãn tiểu thư hông biết hiện giờ còn nghiêm trọng không?”. Hứa Kiến Chương than một tiếng, nói: “Mấy vị bác sĩ người nước ngoài thay phiên nhau trong nom nhưng không khởi sắc mấy”. Từ phu nhân cười nói: “Doãn tiểu thư phúc trí song toàn, nhất định có thể chuyện dữ hóa lành, hơn nữa có lệnh của Cậu Sáu, nói chữa không khỏi cho Doãn tiểu thư sẽ hỏi tội mấy bác sĩ đó, họ dám không cố hết sức sao?”. Sư đoàn trưởng Từ nghe bà ta nói không đâu vào đâu, vội ngắt lời: “Uống rượu, uống rượu” rồi đích thân cầm chai rượu rót cho Hứa Kiến Chương một ly.
Hứa Kiến Chương chầm chậm một ly rượu Tây bỏng rát đó, những lời muốn nói cuối cùng không nhịn được nữa: “Sư đoàn trưởng Từ, chúng ta là bạn bè, hôm nay ông nói thật với tôi một câu, Cậu Sáu đối với Tĩnh Uyển… với Tĩnh Uyển…”. Kiến Chương nhắc hai lần, nhưng vế sau vẫn không thể nói ra được.
Sư đoàn trưởng Từ nói với Từ phu nhân: “Bà bảo người đem bình rượu cao lương lần trước người ta tặng đến đây”. Từ phu nhân vâng lời rồi đi, Hứa Kiến Chương thấy ông đuổi khéo Từ phu nhân, trong lòng càng bất an hơn, cứ đờ đẫn nhìn ông. Sư đoàn trưởng Từ lại rót cho anh một ly đầy, tiếp đó than một tiếng thật dài, nói: “Chắc cậu cũng thấy rồi, Cậu Sáu rất ái mộ Doãn tiểu thư, tôi khuyên cậu một câu, đại trương phu nên lo sự nghiệp, thức thời mới là tuấn kiệt”.
Sự lo lắng mấy ngày nay của Hứa Kiến Chương cuối cũng đã được chứng thực, trái tim rơi xuống thẳng, cứ rơi cứ rơi, giống như không đáy không bờ, toát ra sự lạnh lẽo từ tận xương cốt. Sư đoàn trưởng Từ nói: “Những lời này tôi vốn không nên nói, nói ra cũng nên vả vào miệng, nhưng tôi và cậu giao hảo nhiều năm, tôi không nói cho cậu biết cũng thấy khó chịu. Doãn tiểu thư quả thật là hào kiệt trong nữ giới, kỳ nữ hiếm thấy, chỉ riêng chuyện gan dạ một mình đến Thừa Châu cứu cậu, tôi đã muốn giơ ngón cái ra khen một câu “Giỏi”. Cậu Sáu thích cô ấy cũng là lẽ thường tình. Tôi là người ngoài, nói cậu đừng giận, theo tôi thấy, Doãn tiểu thư đối với Cậu Sáu cũng chưa chắc là không có ý gì đâu”.
Hứa Kiến Chương buột miệng nói: “Tĩnh Uyển không thể nào”.
Sư đoàn trưởng Từ lại than một tiếng: “Có hay không tôi không biết, nhưng trên dưới Thừa quân, ai ai cũng biết cô ấy là bạn gái của Cậu Sáu, cô ấy không tránh dị nghĩ, luôn có cử chỉ thân mật với Cậu Sáu. Doãn tiểu thư ở trong phủ Tam tiểu thư, chỉ cách đại soái phủ có một con phố”. Giọng nói ông ta ép xuống rất nhỏ: “Có lần vì chuyện quân quan trọng, tôi đi tìm Cậu Sáu suốt đêm, Thẩm Gia Bình ấp a ấp úng nói không rõ Cậu Sáu đi đâu, bảo tôi đợi ở phòng khách hơn nửa tiếng, mãi mới thấy Cậu Sáu từ phía sau về. Sau này tôi mời khách ở Tiểu Dương Xuân, mươn rượu dò hỏi Thẩm Gia Bình chuyện đó, Trương Nghĩa Giả thư ký của Cậu Sáu cũng uống khá nhiều rồi, mặt mày hớn hở giả vờ văn vẻ với tôi, nói cái gì mà “Đương quan bất báo xâm thần khách, tân đắc gia nhân tự Mạc Sầu” (*). Tôi là người thô lỗ nghe không hiểu, đảm thư ký đó đều cười ầm ầm lên, Thẩm Gia Bình bấy giờ mới nói, Doãn tiểu thư không giống người khác, mấy người nói linh tinh ở đây, Cậu Sáu mà biết được, lại không bạt tai mấy người ấy chứ”.
(*) Trích trong bài thơi Đường Bình thiếu hầu của nhà thơ Lý Thương Ẩn đời Đường. Hai câu thơ này, đại ý nói, người giữ cửa không dám thông báo với Đường Bình thiếu hầu là có người khách đến vào sáng sớm, vì thiếu hầu mới có được một mỹ nhân tên là Mạc Sầu, câu nói hàm ý châm biếm thiếu hầu đắm chìm trong nữ sắc, lơ là chính sự quốc gia.
Trong lòng Hứa Kiến Chương rối như tơ vò, nghĩ đến những manh mối mấy ngày ngày vừa rồi, tim như bị dao cứa, nắm tay thật chặt, lúc lâu sau rít qua kẽ răng: “Tĩnh Uyển không phải người như vậy, tôi tin cô ấy không thế”.
Sư đoàn trưởng Từ “ôi” một tiếng nói: “ Tôi thấy Doãn tiểu thư cũng không phải là người tham vinh hoa phú quý, chỉ là Cậu Sáu tuổi trẻ anh hùng, không kể đến địa vị thì cũng là một nhân tài, phàm là phụ nữ, làm gì có ai không xem trọng cậu ấy? Hai người họ bên cạnh nhau lâu như vậy, cũng sẽ nảy sinh tình cảm”.
Hứa Kiến Chương trong tim rối bời, chầm chậm uống rượu. Sư đoàn trưởng Từ lại nói: “Lão đệ, tôi coi cậu như anh em ruột mới nói nhiều như thế. Cho dù cậu không nghĩ cho bản thân mình thì cũng phải lo cho gia đình, nếu gây chuyện với người đó, sau này việc kinh doanh của cậu sẽ làm thế nào? Tính khí ngài ấy chắc cậu cũng ít nhiều nghe nói đến, thật sự muốn lật mặt, đừng nói việc kinh doanh sau này, chỉ sợ khắp chín tỉnh phía Bắc ngay cả đất dung thân cậu cũng không có. Cậu còn mẹ già em nhỏ, cậu xảy ra chuyện họ còn có thể hy vọng vào ai? Bên nào nặng bên nào nhẹ, cậu tự cân nhắc đi”.
Chương 12
Sau khi bị thương, cơ thể Tĩnh Uyển rất yếu, cô chỉ nói hai câu đã thấy mệt mỏi, lại tiếp tục ngủ mê man. Lúc tỉnh dậy trời đã sắp sáng, qua những kẽ hở của rèm cửa những tia sáng màu than chì lách vào trong phòng, xung quanh vẫn im lặng, Mộ Dung Phong ngồi trên chiếc ghế trước giường, ngửa mặt ngủ, vì tư thế không thoải mái nên anh ngủ mà vẫn chau mày. Trên người anh đắp một chiếc chăn nhung, có thể là do cảnh vệ đắp lên giúp anh sau khi ngủ, vì anh vẫn mặc bộ Âu phục hồi tối.
Gió sớm thổi tung rèm cửa, mái tóc rối của anh rủ trên trán, bị gió thổi nên hơi lay động, làm giảm bớt khí chất áp đảo người khác trên khuôn mặt của anh, tạo nên vẻ bình yên, tuấn tú của những thanh niên trẻ tuổi bình thường, thậm chí lộ ra chút khí chất trầm tĩnh, chỉ là môi anh rất mỏng, trong mơ vẫn mím chặt, hiện rõ những đường nét cương nghị.
Cô thẫn thờ một lát, hơi động đậy, chạm vào vết thương, không kìm được liền “ối” một tiếng. Âm thanh tuy rất khẽ nhưng Mộ Dung Phong đã tỉnh dậy, anh lật chăn, đứng dậy hỏi: “Sao thế?”. Cô thấy vẻ mặt anh dịu dàng quan tâm, mắt hơi vằn đỏ, liền biết mấy ngày nay công việc bận rộn, nhưng tối qua lại thức cả đêm ở đây, không khỏi hơi cảm động, nói nhỏ: “Không sao?. Anh ngáp một cái, nói: “Trời cũng sắp sáng rồi, tối qua chỉ nói ở đây một lát, ai ngờ lại ngủ mất”.
Tĩnh Uyển nói: “Cậu Sáu về nghĩ ngơi trước đi”. Mộ Dung Phong đáp: “Dù sao lát nữa sẽ phải làm việc rồi”. Anh nhìn cô, mỉm cười nói tiếp: “Anh ở lại với em thêm một lúc”. Tĩnh Uyển hơi bất ngờ, nhìn tránh đi theo bản năng, mỉm cười hỏi: “ Đại ca, Kiến Chương về chưa?”. Mộ Dung Phong liền gọi người vào hỏi, người hầu đó nói: “Hứa thiếu gia tối qua uống say, sư đoàn trưởng Từ sai người đưa cậu ấy về. Bây giờ vẫn đang nghỉ ngơi trong phòng khách”.
Tĩnh Uyển nghe vậy, trong lòng hơi bực. Mộ Dung Phong nói: “Cậu ta chắc là lo lắng cho vết thương của em, nên mới uống rượu, khó tránh khỏi bị say”. Tĩnh Uyển “ồ” một tiếng, Mộ Dung Phong lại nói: “Bác sĩ nói em có thể ăn được rồi, nhưng phải ăn thức ăn lỏng, muốn ăn gì anh bảo họ chuẩn bị”. Tĩnh Uyển tuy không muốn ăn, nhưng thấy anh chăm chú nhìn mình, lại không nỡ trái ý anh, thuận miệng nói: “Ăn cháo là được rồi”.
Nhà bếp làm việc rất nhanh chóng, một lát sau đã mang lên một bát cháo trắng nóng hổi, kèm theo đĩa nhỏ với sáu loại dưa góp Cẩm Châu, cháo thơm dịu, dưa muối tươi mặn. Mộ Dung Phong cười nói: “Anh cũng đói rồi”. Lan Cầm đang múc cháo cho Tĩnh Uyển, nghe thấy vậy, lập tức vội vàng múc cho anh một bát. Người hầu trong nhà trên hỏi: “Cậu Sáu rửa mặt ở đây chứ?”. Mộ Dung Phong liền “ừ” một tiếng, đến phòng vệ sinh rửa mặt đánh răng, đây vốn là phòng ngủ của anh, trong phòng vệ sinh khăn mặt, bàn chải vẫn đầy đủ.
Sau khi bị thương Tĩnh Uyển đi lại không tiện, Lan Cầm cùng một a hoàn khác tên là Tú Vân, một người cầm chậu, một người cầm khăn đang giúp cô rửa mặt, bỗng nghe người bên ngoài nói: “Chào Hứa thiếu gia. Doãn tiểu thư mới tỉnh lại đó” Tĩnh Uyển nghe thấy Kiến Chương đến, đang định cất tiếng hỏi chuyện thì Mộ Dung Phong đã hỏi ở trong phòng vệ sinh: “Tĩnh Uyển, là ai đến thế? Nếu là Gia Bình, thì bảo cậu ta đợi ở bên ngoài”.
Hứa Kiến Chương vừa đi vào phòng, đã nghe thấy giọng nói của anh, sắc mặt liền hơi thay đổi. Tĩnh Uyển thấy tình thế khó xử, vội nói: “Đại ca, là Kiến Chương đến”.
Mộ Dung Phong đi ra, vừa cài khuy áo vừa gật gật đầu với Kiến Chương, coi như chào hỏi, lại quay mặt lại nói với Tĩnh Uyển: “Đã bảy giờ, xem ra không thể ăn sáng với em được rồi”. Tĩnh Uyển nói: “Đại ca cứ tự nhiên”. Cô cảm thấy bầu không khí ngượng ngập, khó tránh khỏi đặc biệt chú ý sắc mặt của Hứa Kiến Chương, thấy vẻ mặt anh rất gượng gạo, dáng vẻ như không thoải mái.
Sau khi Mộ Dung Phong đi, Tĩnh Uyển ăn mấy thìa cháo, tinh thần đã hơi kém, Lan Cầm thu dọn rồi ra ngoài, Tĩnh Uyển nhìn Hứa Kiến Chương, thấy anh cũng chăm chú nhìn mình, cô nói: “Anh đừng hiểu lầm, em và Cậu Sáu kết nghĩa anh em”, Tĩnh Uyển thấy giọng điệu anh gượng gạo, lại thấy vẻ mặt anh mệt mỏi, trong lòng cũng không biết là tức giận hay thương yêu, nói như thế giận dỗi: “Có gì anh cứ nói thẳng đi, dù sao em tự biết mình không hề làm bất cứ việc gì có lỗi với anh”.
Khóe miệng Hứa Kiến Chương hơi run run, sắc mặt khó coi đến cực điểm, mắt lại nhìn về nơi khác, rất lâu sau mới nói: “Tĩnh Uyển, anh phải về Càn Bình rồi”.
Tĩnh Uyển thấy trái tim bỗng nhiên chùng xuống, sau khi bị thương cô mất rất nhiều máu, sắc mặt đã không hồng hào, giờ lại càng nhợt nhat: “Tại sao?”.
Hứa Kiến Chương hờ hững đáp: “Anh chưa đi là vì không yên tâm về em, sau này nghe nói em bị thương, anh càng không thể bỏ lại em. Bây giờ xem ra em ở đây mọi thứ đều ổn, cho nên anh định về nhà trước xem sao”.
Tĩnh Uyển vừa tức giận vừa sốt ruột vừa bực mình, hỏi lại: “Chắc chắn anh nghe thấy gì đó, cho nên nghi ngờ em phải không? Chẳng lẽ em là người như thế sao?”. Cô liền kể hết tình hình sau khi mình đến Thừa Châu, cũng giải qua chuyện của hai người Từ, Thường, cuối cùng nói: “Em vì cứu anh, mới đồng ý cùng Cậu Sáu diễn kịch trước mọi người, giữa em và anh ấy là hoàn toàn trong sáng, tin hay không tùy anh”.
Hứa Kiến Chương nghe cô nói rõ ngọn nguồn, nghe thấy cô vì cứu mình nên không tiếc thanh danh của bản thân, miệng hơi mấp máy giống như muốn nói, cuối cũng kìm lại. Anh đã suy nghĩ trăm nghìn lần, nghĩ đi nghĩ lại, tuy sớm đã hiểu rõ quan hệ lợi hại, biết rõ không thể không cắt đứt, nhưng thấy đôi mắt ngân ngấn như nước hồ thu của cô đang nhìn mình, gần như sắp dao động. Trong đầu anh dường như có một bộ phim đang chạy, lúc thì nghĩ đến ngày tháng cùng cô ở Càn Binh, lúc nghĩ đến em nhỏ mẹ già ở nhà, trong trách không thể chối bỏ trên vai mình, lúc thì nghĩ đến ngày tháng trong tù, thân ở trong ngục, không còn đường đi, sự khủng khiếp đó khiến người ta run sợ. Anh nghĩ đến những lời của sư đoàn trưởng Từ, bên nào nặng bên nào nhẹ… bên nào nặng bên nào nhẹ…
Anh nghĩ đến cha lúc trước khi qua đời, nắm chặt lấy tay anh không buông, thều thào không nói ra nổi, chỉ chỉ mấy em trai em gái đứng trước giường. Mẹ và các em đã mất đi cha, trong nhà không thể không có anh. Nếu anh không màng tất cả, sau này có mặt mũi nào gặp người cha đã mất ở dưới suối vàng đây?
Anh cắn răng, cuối cùng hạ quyết tâm: “Tĩnh Uyển, Hứa gia là gia đình kiểu cũ, anh không thể khiến mẹ anh đau lòng. Chín tỉnh phía Bắc này không ai không biết quan hệ của em và Cậu Sáu. Hứa gia quả thật không thể có lỗi với người này. Tĩnh Uyển, tuy em không phụ anh, anh cũng đành phụ em thôi”.
Tĩnh Uyển nghe xong câu đó, lòng giống như bị đâm một nhát, cảm giác tức giận phẫn nộ ấy không thể nói thành lời, chân tay cô lạnh ngắt, trong đầu đau nhức, ngay cả hít vào thở ra cũng đau không chịu nỗi. Cũng không biết là vết thương đau hay là tim đau, cô thở một hơi hết sức nặng nề, chậm chạp, ngay cả giọng nói cũng trở nên run rẩy: “Hứa Kiến Chương, sao anh có thể đối xử với em như thế?”. Hứa Kiến Chương không nói gì, trước mắt cô nhòa đi, không nhìn rõ được dáng vẻ anh, giọng cô cũng dường như không phải của mình: “Anh vì điều đó mà không cần em nữa?”.
Kiến Chương mím chặt môi, dường như chỉ sợ hễ mở miệng là nói ra câu gì đó. Sắc mặt cô nhợt nhạt, cô nhìn anh chằm chằm: “Anh là người được dạy dỗ kiểu mới, thời đại này anh vẫn lấy lý do đó để đối đãi với em sao?”. Trong lòng Kiến Chương buồn phiền vạn phần, cuối cùng buột miệng nói: “Không sai, anh quả thật vong ân bội nghĩa, nhưng em có từng nghĩ cho anh không? Em không tiếc danh phận của mình để cứu anh nhưng anh không gánh nổi đại ân đó của em”. Lời vừa nói ra, dường như anh mới hiểu mình đang nói gì, chỉ thấy cô tuyệt vọng nhìn mình, mặt anh tái mét, lại mím chặt môi, không nói một tiếng nào. Khóe miệng cô run rẩy, cuối cùng dần dần cong lên, nở một nụ cười thê lương: “Được, được, không ngờ tôi nhìn nhầm con người anh”. Cô vừa thở liền bị sặc, không kìm được bật ho, lập tức động đến vết thương đau buốt, không thể thở nổi. Lan Cầm đi vào, thấy cô toát mồ hôi lạnh, bị sặc đến mức mặt đỏ lên, liền cuống quýt đỡ cô, cô đã không nói nổi, Lan Cầm hét ầm lên: “Người đâu”, Hứa Kiến Chương lùi sau một bước, trong lòng rối như tơ vò, muốn đến gần xem, nhưng bước đi đó còn nặng hơn ngàn cân, không làm sao nhấc chân nổi, cuối cùng vẫn ở nguyên chỗ cũ.
Bác sĩ tiêm một mũi giảm đau cho cô, cô mơ hồ ngủ thiếp đi, lòng đau tột độ, láng máng nghe thấy tiếng của Mộ Dung Phong rít lên đầy tức giận: “Tên họ Hứa đâu? Rốt cuộc hắn đã nói gì?” . Sau đó hình như là giọng của Lan Cầm, lí nhí trả lời gì đó, Tĩnh Uyển không nghe rõ, chỉ thấy trong tim buồn đến cực điểm, như có thứ gì tắc nghẹn ở đó, không thể thở nỗi. Mộ Dung Phong nhận ra cô đã tỉnh lại, lập tức cúi người xuống gọi nhỏ cô một tiếng: “Tĩnh Uyển”.
Tim cô như bị dao đâm, cô ngẩng mặt lên để nước mắt không bị chảy xuống. Anh nói: “Em đừng khóc, em sai người đi tìm Hứa Kiến Chương đến ngay”. Cô vốn đã rất kìm chế, nghe anh nói câu này, nước mắt cứ thế trào ra, cô đã hết sức ngăn dòng nước mắt lại, cô chưa từng yếu đuối như thế này, cô không thể nhớ lại lời nói của anh, không thể nhớ lại dáng vẻ của anh, không ngờ anh lại đối xử với cô như thế, không ngờ anh lại bỏ rơi cô như thế.
Cô đã vì anh như thế, vì anh ngay cả tính mạng cũng suýt mất đi, con gái quan trọng nhất là danh tiết cô cũng không để ý, nhưng anh lại vì lời đồn thổi của người đời mà không cần cô nữa. Nước mắt ngân ngấn trên khóe mi, cuối cũng lã chã chảy xuống, Mộ Dung Phong chưa từng thấy cô khóc, liền luôn miệng nói: “Em đừng khóc, em đừng như thế, anh lập tức sai người đi tìm”.
Cô nấc nghẹn lắc đầu, cô không cần gì nữa, thứ cô cần bây giờ đều không có ý nghĩa, đều trở thành trò cười. Cô đưa tay lên lau nước mắt, cô không muốn khóc, không thể khóc. Sự cố chấp mấy năm nay vốn cho rằng là không thể lung lay, không ngờ đẩy nhẹ một cái, cả thế giới đã lật đổ. Cô kiên cường như thế, đến cuối cùng lại rơi vào tình cảnh này. Cô vốn cho rằng bản thân mình không gì không thể làm được, đến bây giờ lại bị người thân thiết nhất giáng cho một đòn chí mạng. Thẩm Gia Bình đi vào, thì thầm một câu với Mộ Dung Phong, anh phẫn nộ quát: “Lên tàu rồi cũng đuổi theo cho tôi”.
Trong lòng cô vô cùng đau đớn, theo bản năng cô đưa tay ra nắm lấy gấu áo anh, giống như nắm lấy khúc gỗ trôi nổi duy nhất. Mộ Dung Phong thấy khóe miệng cô run run, dáng vẻ ngơ ngẩn tội nghiệp như đứa trẻ thơ, anh chưa từng thấy dáng vẻ này của cô, trong lòng thương xót, nắm lấy tay cô : “Tĩnh Uyển …”. Cô không muốn nghĩ gì nữa, anh nói: “Nếu em muốn hắn quay lại, bằng mọi cách anh sẽ tìm hắn cho em”. Tim cô đau nhói, nghĩ đến lời Kiến Chương từng nói, từng chữ đều như dao sắc, đâm sâu vào lục phủ ngũ tạng. Mộ Dung Phong nắm chặt lấy tay cô, lòng bàn tay anh có vết chai vì cầm súng, thô ráp cọ vào tay cô. Tay Hứa Kiến Chương luôn mềm mại ấm áp, còn tay anh lại đầy sức mạnh, cô cảm thấy toàn thân lạnh ngắt, chỉ có chút ấm áp duy nhất từ lòng bàn tay anh truyền đến, sự ấm áp đó giống như ngọn lửa yếu ớt ngày đông, khiến người ta không kìm được lưu luyến. Trong lòng cô buồn bã đến cực điểm, có một cảm giác bất an lờ mờ khác, cô không biết sự bất an này từ đâu mà đến, chỉ là đau lòng không muốn nghĩ nữa, cô hít một hơi thật sâu, cố ngăn dòng nước mắt: “ Kệ anh ấy… kệ anh ấy đi…”.
Thừa Châu ở phía Bắc, khí hậu vốn khô hanh, mưa ba ngày liên tiếp thật là hiếm thấy. Những hạt mưa như những chiếc kim nhỏ, như những sợi lông bò rơi xuống không phát ra tiếng động, gió thổi tung rèm cửa, mang theo hơi nước lạnh lẽo. Trước cửa sổ có một cây hòe rất lớn, nở đầy hoa, hoa trắng lật phật lật phật trong gió mưa hỗn loạn, một chút hương nhàn nhạt bay vào theo hơi mưa, mát rượi và thơm dịu.
Triệu Thù Ngưng đến thăm Tĩnh Uyển, thấy Lan Cầm ngồi bóc quả hạnh đào trước chiếc bàn nhỏ, liền hỏi: “Sao không bảo nhà bếp làm?”. Lan Cầm nhoẻn miệng cười, nói: “Cậu Sáu sai em bóc để nấu cháo hạt sen hạnh đào, Cậu Sáu sợ nhà bếp làm không sạch sẽ”.
Triệu Thù Ngưng nói dăm câu tào lao với Tĩnh Uyển, Tĩnh Uyển quay mạt đi nhìn trời mưa bên ngoài, bảo: “Vẫn đang mưa”. Thù Ngưng nói: “Đúng thế, mưa hai ngày rồi, mùa màng năm nay nhất định rất tốt, năm ngoái khô hanh khiến đoại soái lo lắng, anh Sáu đích thân đến phía Nam thu mua quân lương”. Thù Ngưng thấy trước giường đặt một giỏ hoa, bên trong cắm mấy trăm bông lựu, đỏ rực như bó đuốc rừng rực, nở rộ gần như muốn cháy lên, tấm tắc khen: “Loại hoa này kết thành tú cầu là đẹp nhất”. Lan Cầm cười nói: “ Biểu tiểu thư khéo tay nhất rồi, kết lẵng hoa, kết tú cầu, ai ai cũng khen đẹp”. Thù Ngưng nói: “Dù sao cũng rãnh rỗi, kết một cái cho Doãn tiểu thư chơi mà”. Lan Cầm liền đi lấy dây kẽm đến, lại lấy hơn trăm bông hoa lựu đỏ rực.
Thù Ngưng ngồi trước giường kết quả cầu hoa, Tĩnh Uyển thấy ngón tay cô thoăn thoắt, một lát sau quả cầu hoa đỏ rực đã hoàn thành, Thù Ngưng lại lấy dây đồng kết thành tua, nói: “Treo trước, đầu giường được không?”. Tĩnh Uyển luôn thích màu sắc rực rỡ, ngh thế liền mỉm cười: “Cô khéo tay thật đấy”.
Thù Ngưng nói: “Tôi học của cô tôi đấy, cô ấy rất khéo tay, con người cũng rất tốt”. Bỗng nhiên mắt Thù Ngưng ngân ngấn: “Tiếc là cô ấy ra đi quá sớm, lúc đó đại soái đánh trận bên ngoài, anh Sáu còn nhỏ nhưng việc tang lễ đều do anh ấy làm chủ. Anh Sáu lúc nhỏ nghịch ngợm lắm, không hiểu chuyện nhất, nhưng cô tôi vừa mất, anh ấy bỗng như trưởng thành lên. Chúng tôi lúc đó chỉ biết khóc, nhưng anh ấy gọi người bên ngoài vào, điện báo cho đại soái trước, sau đó hỏi từng quy tắc tang lễ, giống như người lớn”. Tĩnh Uyển thuận miệng hỏi: “Lúc đó Cậu Sáu bao nhiêu tuổi?”. Thù Ngưng nói: “Mới mười hai tuổi, anh Sáu lúc nhỏ không cao lớn lắm, đại soái thường nói anh ấy vẫn còn chưa cao bằng lan can”. Lan Cầm cười mỉm, chỉ nói: “Nhà trên có rất nhiều ảnh Cậu Sáu hồi nhỏ, em đi lấy cho tiểu thư xem”. Không đợi Tĩnh Uyển nói Lan Cầm đã đi ra ngoài.
Tĩnh Uyển tuy mới quen Thù Ngưng có vài ngày, nhưng cảm thấy tính cách cô ôn hòa nho nhã, lúc này thấy cô yên lặng ngồi đó, không biết đang nghĩ gì, đầu hơi cúi, hàng mi dài rủ xuống như chiếc quạt nhỏ, trên tay cầm một bông hoa lựu, lại ngắt từng cánh hoa đỏ như lửa, những cánh hoa lác đác rơi trên thảm trải nền. Lan Cầm đã quay lại cầm rất nhiều ảnh, đặt từng tấm từng tấm lên giường cho cô xem: “Đây là lúc còn ở Vọng Châu, đây là đại soái và Cậu Sáu, đây là phu nhân và Cậu Sáu…”.
Tĩnh Uyển cầm bức ảnh đó lên, ảnh chụp lúc Mộ Dung Phong khoảng mười tuổi. Trong ảnh, một người phụ nữ khuôn mặt thanh tú đang ngồi trên ghế, Mộ Dung Phong đứng ở bên cạnh, khuôn mặt non nớt ngây thơ, rõ ràng vẫn là một đứa trẻ xấc láo. Cô vẫn còn ngẩn ngơ bỗng nghe thấy tiếng bước chân bên ngoài, tiếp theo là tiếng cảnh vệ hành lễ, tiếng giày da bước đi ấy cô đã vô cùng quen thuộc, quả nhiên là Mộ Dung Phong đã về.
Mỗi ngày anh đều đến thăm cô mấy lần, lúc này trông anh như mới từ bên ngoài về, vẫn chưa thay quân phục, anh đi vào mới bỏ mũ xuống, Lan Cầm vội đón lấy, Thù Ngưng cũng đứng dậy. Anh nhìn nhìn sắc mặt Tĩnh Uyển trước, cười nói: “Hôm nay hình như tinh thần tốt hơn chút rồi, em ăn cơm chưa?”.
Tĩnh Uyển lắc lắc đầu, anh nói: “Anh phái xe đi đón một vị khách quý, em nhất định sẽ rất vui khi gặp vị khách quý này”. Thấy trên giường bày không ít ảnh của mình, anh bất giác cười tươi hớn hở: “Sao lại xem cái này?”. Anh cúi người xuống cầm một bức ảnh ngày bé của mình lên nhìn một lát, miệng nói: “Dạo trước có một tờ báo đến phỏng vấn anh, chụp cho anh hai bức nửa người rất đẹp, lúc nào anh lấy cho em xem”. Tĩnh Uyển cười cười, hỏi: “Là vị khách quý nào đến thế?”.
Mộ Dung Phong tâm trạng rất vui vẻ, nói: “Bây giờ không nói cho em, lát nữa em gặp sẽ biết”. Giờ anh mới chú ý Thù Ngưng cũng ở đây, liền hỏi: “Bên Tứ phu nhân đã ăn cơm chưa?”. Thù Ngưng đáp: “Em mới đến một lúc cũng không biết nữa”. Cô ngừng lại một lát, nói tiếp: “Em cũng phải về ăn cơm thôi, Doãn tiểu thư, ngày mai tôi lại đến thăm cô”. Tĩnh Uyển biết quy tắc trong nhà họ, ngay cả các phu nhân trưởng bối đều rất kinh sợ Mộ Dung Phong, cho nên không dám giữ Thù Ngưng lại.
Mộ Dung Phong ra vẻ bí hiểm như thế, nhưng Tĩnh Uyển chẳng hề để ý, Mộ Dung Phong nói chuyện phiếm với cô mấy câu, bên ngoài có người thông báo: “Cậu Sáu, Doãn tiên sinh đến rồi”.
Tĩnh Uyển vừa kinh ngạc vừa vui mừng, giống như đang mơ, thấy người làm dẫn vào một người, quả nhiên là Doãn sở Phàn, Tĩnh Uyển gọi một tiếng “Cha”. Nước mắt cô cứ chực trào ra, Doãn Sở Phàn đi lên mấy bước nắm lấy tay cô, mắt cũng ngân ngấn nước: “Tĩnh Uyển con sao rồi, cha và mẹ con lo đến sắp phát điên”. Cô vừa tủi thân, vừa đau lòng, vừa vui mừng, vừa áy náy, tuy mắt ngấn lệ nhưng vẫn cố cười nói: “Cha… con… con vẫn ổn”.
Chương 13
Cha con họ gặp nhau đương nhiên có rất nhiều chuyện để nói. Mọi chuyện từ đầu đến giờ cũng không phải một, hai câu mà nói hết được, Tĩnh Uyển vốn rất tủi thân, nhưng sợ cha lo lắng nên chỉ kể qua loa rồi hỏi: “Cha, sao cha lại đến?”.
Doãn Sở Phàn đáp: “Tối qua cha đã đến rồi, sau khi con đi, mẹ con liền đổ bệnh, cha đành ở nhà lỡ mất mấy ngày, trên đường lại gặp giới nghiêm Thừa Châu, tối qua mới vào thành”. Tĩnh Uyển nghe nói mẹ bệnh, cảm thấy buồn phiền, áy náy hơn: “Mẹ sao rồi ạ? Có nghiêm trọng không?”. Ông Doãn Sở Phàn trầm ngâm mặt nói: “Dù sao con cũng làm chúng ta sốt ruột chết được, con còn hỏi gì nữa? Lúc cha đi, bệnh của mẹ con đã khỏi rồi, chỉ nhớ con quá mà thôi. Tối qua cha hỏi hết nhà trọ lớn nhỏ trong thành đều không tìm thấy con, con thật sự làm cha và mẹ con sợ chết khiếp mới hài lòng hả?”. Tĩnh Uyển trong lòng rầu rĩ, gọi một tiếng: “Cha…”. Ông Doãn Sở Phàn vốn rất tức giận, nhưng khi gặp con gái lại lập tức mềm lòng, huống hồ con gái đang bệnh, càng khiến ông xót xa hơn. Cho nên tuy ông sầm mặt, nhưng không nỡ quở mắng quá lời, chỉ nói: “Sau đó cha đến, gặp sư đoàn trưởng Từ mới biết con ở đây dưỡng bệnh, sao con lạ làm phiền Cậu Sáu thế chứ?”.
Ông nói đến đây liền ngẩng đầu lên nhìn Mộ Dung Phong một cái, Mộ Dung Phong lại rất khách sáo, cúi người nói: “Doãn tiên sinh đừng khách, Doãn tiểu thư là ân nhân cứu mạng của tôi, cho nên tôi mới bạo gạn giữ Doãn tiểu thư ở lại đây dưỡng bệnh”. Doãn Sở Phàn vốn ngờ vực trong lòng, lúc này thắc mắc mới được giải đáp, “ồ” một tiếng. Tĩnh Uyển nói nhiều như vậy, cảm thấy hơi mệt, cô vừa vui mừng vừa buồn bã, cứ nắm tay cha, không muốn buông ra.
Tĩnh Uyển thấy cha đến đương nhiên tinh thần phấn chấn hẳn lên. Cô còn trẻ, lại có bác sĩ giỏi, thuốc tốt, nên hồi phục rất nhanh. Doãn Sở Phàn ngày ngày ở cùng con gái, thấy vết thương của cô có chuyển biến tốt, trong lòng mới yên tâm. Ông cũng là thương nhân rất có tiếng ở Càn Bình, có quan hệ qua lại với không ít nhân vật trong Thừa quân. Lần này Doãn Sở Phàn đến Thừa Châu, rất nhiều bạn bè cũ muốn tiếp đãi thể hiện lòng hiếu khách, vết thương Tĩnh Uyển dần hồi phục, ông mới tranh thủ thời gian đi gặp mặt họ.
Hôm đó công việc của Mộ Dung Phong không bận bịu cho lắm, buổi trưa đã về, anh hễ về nhà là đến thăm Tĩnh Uyển trước, Tĩnh Uyển có thói quen ngủ trưa, Mộ Dung Phong vừa đi vào phòng ngoài, đúng lúc Lan Cầm đi ra, cô cười nhỏ nói: “Cậu Sáu, Doãn tiểu thư ngủ rồi”. Anh chần chừ một lát, cuối cùng vẫn đi vào trong. Rèm cửa trong phòng đều kéo kín, những quả bông nhỏ ở chân rèm khẽ đung đưa trong gió, khắp phòng tĩnh lặng đến nỗi nghe thấy cả hơi thở yếu ớt của cô, dường như Tĩnh Uyển đang ngủ rất say, khóe môi hơi cong lên, tựa như đang cười. Anh sợ làm cô tỉnh nên đi đến trước giường, im lặng nín thở, ngắm khuôn mặt đang ngủ say ấy anh không kìm được cúi người xuống. Sau khi bị thương Tĩnh Uyển ngủ không sâu lúc anh đi vào tuy rất nhẹ nhàng, nhưng quần áo sột soạt, cô mang máng nghe thấy, lờ mờ ngửi thấy hơi thở mang mùi bạc hà thanh mát, liền biết là ai, không hiểu vì sao nhất thời cô không mở mắt ra.
Anh cúi người xuống, hơi thở ấm ấm cua cô phả vào mặt anh, trên môi cô đã ửng sắc hồng, không còn nhợt nhạt như trước, sắc hồng đó mê hồn biết bao, tựa như sự mê hoặc lớn nhất thế gian. Gần như vậy, đưa tay ra là có thể chạm tới, anh chầm chậm tiến gần hơn nữa, tim Tĩnh Uyển đập thình thịch, cô muốn mở mắt ra theo bản năng, chính vào lúc đó hơi thở anh lại xa dần, cuối cùng anh chỉ đưa tay kéo mép chăn cho cô. Trong lòng cô rối như tơ vò, cũng không biết là vui mừng, hay là trăm ngàn cam xúc không nói thành lời. Cô rất hiếm khi rối loạn như vậy, nhưng luôn cảm thấy một sự bất an mơ hồ ở nơi sâu thẳm trái tim, cô không muốn nghĩ sâu xa hơn, cứ giả vờ như mới tỉnh dậy, chầm chậm mở mắt ra.
Mộ Dung Phong thấy cô tỉnh, cảm thấy hơi áy náy: “Anh làm em tỉnh dậy rồi à?” Ánh sáng trong phòng ảm đạm, anh vẫn chưa thay quần áo, trên người vẫn là bộ quân phục, thắt lưng và cầu vai đều là sắc vàng lạnh lẽo, nhưng ánh mắt anh ấm áp như lụa. Cô lắc lắc đầu, anh cười nói: “Đã tỉnh rồi thì anh đưa em đi xem một thứ”.
Anh luôn dùng trăm phương nghìn kế để đổi lấy một nụ cười của cô, lúc này cô lại lười hoạt động, nói: “Buổi chiều xem đi”. Anh là người nói là làm, thế nên đành nhẫn nại nịnh cô: “Không xa đâu, trong căn nhà này thôi, họ mất rất nhiều công sức mới làm được, buổi chiều anh còn có việc phải ra ngoài, bây giờ anh cùng em đi xem nhé”
Hóa ra là một nhà kính trồng hoa kiểu Tây, xung quanh đều là tường kính, trần cũng bằng kính, Tĩnh Uyển nhìn từng chậu hoa lan trên giá, bất giác nín thở im lặng, lúc lâu sau mới chỉ chậu hoa trước mặt: “Là lan Thiên Ly ở đâu ra thế? Theo em biết, mười sáu tỉnh Giang Bắc không đâu có nổi một chầu hoa này”. Mộ Dung Phong nói: “Lần trước em từng nói, trong các loại hoa lan thì hoa là quân tử, khiến em yêu thích nhất, cho nên anh sai người đi khắp nơi sưu tầm”.
Cô biết hoa tuy quý hiếm, Mộ Dung Phong nắm giữ quyền hành, hoa dùng tiền mua về cũng không phải chuyện khó, cái hiếm có là một câu nói vu vơ của cô, vậy mà anh ghi nhớ trong lòng, sai người hao tâm tổn sức thực hiện. Từ trước đến nay, anh đối xử với cô đều rất nồng hậu, sau khi cô bị thương lại càng dịu dàng quan tâm hơn nữa. Người đàn ông xuất sắc như thế, suy nghĩ thấu đáo như thế, trong lòng cô bất giác hơi cảm động, rất lâu sau, cô nói: “Nhiều chủng loại quý hiếm vậy, nhà kính hoa lan này đương nhiên là độc nhất vô nhị, nhưng là loài hoa yếu ớt, khí hậu phía Bắc không hợp, chỉ sợ không sống nổi”.
Mộ Dung Phong nói: “Anh tin chỉ cần có tấm lòng thì không gì là không thể. Chỉ cần bỏ ra công sức, số hoa lan này nhất định sống được”. Con người anh vốn mang khí chất oai hùng, nhưng lúc này ánh mắt dịu dàng như nước, như có thể dìm chết người khác, cô nhìn sang chỗ khác, thẫn thờ nhìn chậu hoa lan Thiên Ly độc nhất vô nhị đó, giống như chưa từng nghe thấy lời anh nói. Mộ Dung Phong thấy cô nhìn hoa đến thất thần, cũng không nói gì, hai người đứng giữa đám hoa lan, cứ yên lặng như thế.
Chuyến này đến Thừa Châu, Doãn Sở Phàn định đưa con gái về nhà, sau lại nghe nói Tĩnh Uyển và Hứa Kiến Chương cãi nhau, ông cũng chỉ cho rằng con gái mồm mép, nhất thời nóng giận. Nhưng sau khi gặp Mộ Dung Phong, ông mới lờ mờ đoán được vàì phần; mấy người bạn cũ của ông ở Thần quân lần này lại vô cùng khách khí, giờ mới biết Tĩnh Uyển và Mộ Dung Phong quen biết đã lâu, quan hệ thân mật, ai ai cũng biết. Trong lòng ông rất tức giận, sáng sớm tinh dậy đã lập tức đi tìm con gái. Nơi Tĩnh Uyển ở lại một căn phòng rất lớn, mới sáng sớm mà bên ngoài đã có người hầu đứng chầu sẵn, thấy ông đến liền cung kính chào hỏi, lại có người giúp ông mở cửa, loáng thoáng nghe thấy tiếng cười của Mộ Dung Phong.
Hóa ra hôm nay Mộ Dung Phong đã đến từ sớm, nói với Tĩnh Uyển: “Anh có thứ này muốn tặng em”. Khóe môi cong cong, Thẩm Gia Bình mỉm cười đi vào, trên tay cầm một chiếc lồng. Tĩnh Uyển thấy trong lồng có một con mèo lớn đang ngủ, móng vuốt đang quắp lấy thanh sắt, phát ra tiếng gừ gừ, dáng vẻ ngây thơ. Cô liền cười nói: “Con mèo to quá”.
Mộ Dung Phong vừa cười vừa đoán lấy chiếc lồng, nói: “Biết nay em nhìn thành mèo… “. Thấy cô đưa tay ra, anh vội nói: “Cẩn thận, đây là hổ đấy”. Tĩnh Uyển giật bắn mình, lập tức cười: “Em chưa từng thấy con hổ nào nhỏ như vậy”. Con hổ con đó đang nhe nanh trong lồng, gừ gừ liên tục, một lúc sau lại thè lưỡi ra liếm đến mức thanh sắt của chiếc lồng đó phát ra tiếng ken két. Tĩnh Uyển không kìm được định vuốt đám lông mềm mại trắng muốt đó, tay còn chưa chạm đến, Mộ Dung Phong đã kêu “này” một tiếng, khiến cô sợ rụt tay lại, lúc ấy mới biết anh dọa mình, còn anh thì bật cười, Tĩnh Uyển huých vào khuỷu tay anh, trách: “Sao anh xấu tính thế”.
Mộ Dung Phong mỉm cười, định nói, ngẩng đầu lên thấy Doãn Sở Phàn đang đi vào, liền rất khách sáo chào: “Doãn tiên sinh”. Tĩnh Uyển cười gọi: “Cha”. Mộ Dung Phong nói với Tĩnh Uyển: “Anh còn có việc, lúc khác lại đến thăm em”. Rồi anh quay sang nói với Doãn Sở Phàn: “Doãn tiên sinh nếu có việc gì, chớ khách sáo, cứ dặn dò người làm là được”.
Sau khi anh đi, Doãn Sở Phàn ngồi ở đó, lấy tẩu thuốc ra, lại nghe y tá nói ở đây không được hút thuốc, nên chỉ ngậm trong miệng theo thói quen, không hề châm lửa. Tĩnh Uyển nhìn móng vuốt của con hổ con thò qua khe hở của chiếc lồng, cào cào hoa văn trên tấm thảm thảm trải nền kêu sột soạt. Doãn Sở Phàn nhìn con hổ con đó một lúc, gõ gõ chiếc tẩu thuốc lên bàn, Tĩnh Uyển gọi một tiếng: “Cha”. Doãn Sở Phàn thở dài nói: “Con à, đũa mốc đừng chòi mâm son”.
Tĩnh Uyển tuy rất phóng khoáng, nhưng nghe cha nói thẳng thừng thế,cuối cùng không kìm được, mặt ửng đỏ, cô cười ngượng ngập nói: “Cha nghĩ đi đâu rồi thế”. Doãn Sở Phàn nói: “Đợi vết thương của con tốt hơn một chút, chúng ta nên mau về Càn Bình, cha thấy con và Kiến Chương chỉ có chút hiểu lầm. Hai đứa đã đính hôn, nhà ta và Hứa gia giao hảo nhiều năm, có việc gì cũng có thể bàn bạc”.
Không biết vì sao, nghe thấy cha nói vậy Tĩnh Uyển cảm thấy rất tức giân, càng cảm thấy khó xử mà không thể nói rõ, cô nói: “Sao ngay cả cha cũng không tin con? Giữa con và Cậu Sáu là cùng chung hoạn nan, anh ấy đối với con cực kỳ khách sáo, con cũng không biết làm thế nào khác”. Doãn Sở Phàn ngậm tẩu thuốc, nói: “Từ nhỏ con đã thông minh, cha không tin con không có cách từ chối sự khách sáo của cậu ấy, cậu ấy cực kỳ khách sáo với con, cha thấy con lại cực kỳ không khách sáo với cậu ấy”. Tĩnh Uyển bản tính ương bướng, khóe miệng xị xuống, giận dỗi nói: “Cha, vậy cha đợi đó mà xem, dù sao con không hề có ý đó, hoặc là anh ấy hiểu lầm, con nghĩ cách để anh ấy từ bỏ ý nghĩ đó là được”.
Cô đã nói quyết liệt như thế, Doãn Sở Phàn không hỏi thêm nữa. Tĩnh Uyển quả nhiên nhất quyết tìm cơ hội, chỉ là không có thời cơ thích hợp. Hôm đó Triệu Thù Ngưng đến thăm cô, hai người nói chút chuyện thường ngày. Triệu Thù Ngưng thấy có một khẩu súng ngắn nhỏ khảm đá quý kiểu Tây đặt trước giường, mới nói: “Nghe anh Sáu nói, khẩu súng này được đặt làm từ nước ngoài, hơn nữa đặt một đôi ,rất quý giá đó”. Khẩu súng này là Mộ Dung Phong tặng Tĩnh Uyển cùng với vé tàu trước khi sự việc xảy ra, cô vốn định lấy ra định trả cho Mộ Dung Phong, lúc này nghe Triệu Thù Ngưng nói có một đôi, cảm thấy hơi bối rối, lại thấy hơi kỳ lạ, liền nói lảng: “Cậu Sáu bắn súng rất giỏi”.
Trong giây lát, mắt Triệu Thù Ngưng sáng lên, cô nói: “Kỹ thuật bắn súng của anh Sáu là do đích thân đại soái dạy, Anh Sáu từ nhỏ đã không chịu thua kém người khác, tôi nhớ lúc sáu, bảy tuổi, đại soái hỏi sau này anh ấy lớn lên muốn làm quân đoàn trưởng không, ai ngờ anh Sáu noí, lớn lên anh ấy sẽ không làm quân đoàn trưởng, đại soái hỏi vậy lớn lên anh muốn làm gì, anh Sáu vênh mặt lên đáp: “Trị quốc bình thiên hạ”. Sau này đại soái luôn vô cùng đắc ý, luôn khen anh Sáu có chí khí”.
Tĩnh Uyển thấy lời nói của cô mang theo sự khâm phục vô hạn. Triệu Thù Ngưng thấy Tĩnh Uyển chăm chú nhìn mình, đỏ mặt cúi đầu, nói: “Tôi luôn hay lắm chuyện như thế, có chút chuyện cũng lải nhải bao lâu, chỉ sợ Doãn tiểu thư nghe thấy phiền”. Tĩnh Uyển nói: “Không, tôi rất thích nghe mà”. Cô lại hỏi: “Chị Triệu sinh năm nào? Tôi đoán chị lớn hơn tôi”. Triệu Thù Ngưng nói: “Tôi nhỏ hơn anh Sáu một năm bốn tháng”. Tĩnh Uyển tươi cười nói: “Em và Cậu Sáu kết nghĩa anh em, vậy em gọi một tiếng chị, chị đừng chê em”. Triệu Thù Ngưng “à” một tiếng: “Hóa ra em và anh Sáu là kết nghĩa anh em, chị còn tưởng….” nói đến đây Thù Ngưng cười cười. Tĩnh Uyển sao mà không hiểu, chỉ là giả vờ ngây ngô: “Em trẻ tuổi hồ đồ to gan, dù sao trèo cao có người anh là Cậu Sáu, chị và Cậu Sáu là anh em họ, vậy chị cũng chính là chị của em rồi”.
Triệu Thù Ngưng nghe cô gọi một câu chị, hai câu chị, giọng điệu ngọt ngào, ý tứ khóe léo, làm sao mà không thích. Hai người ngày càng thân thiết, sau này Triệu Thù Ngưng thường hay đến chơi với cô cho đỡ buồn.
Hôm đó sư đoàn trưởng Từ mời Doãn Sở Phàn ăn cơm, ngày nào cũng vậy, trước khi đi ngủ, Mộ Dung Phong luôn đến thăm cô một lát, có điều tối anh thường họp rất muộn, quay về cô đã ngủ, hôm nay tan họp sớm hơn, Tĩnh Uyển vẫn chưa đi nghỉ, anh cười nói: “Hôm nay cuối cùng đã gặp được em rồi, hôm qua hôm kia lúc anh đến, em đều ngủ rồi”.
Tĩnh Uyển gọi Lan Cầm: “Đi lấy đồ ăn đêm đến cho Cậu Sáu”. Lan Cầm nghe lời bưng lên một bát mì nhỏ, Mộ Dung Phong thấy mì thịt gà xé phay, nước dùng dầu hạt cải thơm ngon, liền nói: “Làm phiền quá, cảm ơn nhiều”. Lan Cầm tươi cười đáp: “Doãn tiểu thư đã bảo nhà bếp chuẩn bị từ trước, nhưng không dám nấu quá sớm, sợ lúc Cậu Sáu đến mì nát hết”. Mộ Dung Phong cầm đũa, Lan Cầm lặng lẽ lui ra, Mộ Dung Phong ăn rất ngon, chậm rãi ăn từng chút một, anh hỏi: “Sao em biết anh thích ăn món này?”.
Tĩnh Uyển cười đáp: “Em hỏi chị Thù Ngưng, chị Thù Ngưng thật chu đáo, anh thích ăn gì, thích uống gì, thích cái gì, không thích cái gì, chị Thù Ngưng đều nhớ rõ”. Vẻ mặt Mộ Dung Phong hơi thay đổi, bất giác dừng đũa, Tĩnh Uyển sợ làm hỏng chuyện, không dám nói nữa, chỉ cười hỏi: “Sao anh không ăn nữa?”.
Mộ Dung Phong cười một tiếng: “Sao em không nói nữa?”. Tĩnh Uyển thấy anh cười, nhưng trong mắt lại ánh lên sự lạnh lẽo, lòng sợ hãi mỉm cười gọi một tiếng: “Đại ca”. Cô chưa nói hết Mộ Dung Phong đã vứt đũa đi, đôi đũa đó vốn gắn với nhau bằng sợi dây bạc nhỏ, chỉ nghe thấy “cạch” một tiếng sợi dây đã đứt, một chiếc đã bay ra ngoài, một chiếc khác rơi xuống đất, nước dùng trong bát cũng sánh ra, ánh mắt như muốn giết người, chằm chằm nhìn cô: “Doãn Tĩnh Uyển, em đừng ép anh quá đáng, hôm nay anh nói thẳng ra, anh không làm đại ca gì của em hết, anh thích em, viên đạn đó suýt nữa lấy mạng của em, cũng suýt lấy mạng anh, lúc đó anh đã hạ quyết tâm, chỉ cần em sống em sẽ phải là của anh, cho dù em giận anh, hận anh, anh cũng không hề hối tiếc”.
Tĩnh Uyển không ngờ anh nói ra những lời đó, chỉ thấy trong mắt anh như có ngọn lửa đang cháy rừng rực, cô ngồi trên mép giường, anh đưa tay ra nắm lấy vai cô, cô hoảng hốt sợ hãi, đôi môi ngang ngược mà nóng bỏng đã áp lên môi cô, cô hơi vũng vẫy, động vào vết thương ở trước ngực, cô đau đớn, không kìm được “á” một tiếng, anh lại nhân cơ hội mà “công thành chiếm đất”, hút lấy sức ngọt ngào trong miệng cô. Cô sợ đến cực điểm, đưa tay đẩy anh ra, lại bị siết chặt hơn, hơi thở anh cuồng bạo chiếm lấy hơi thở cô, cô yếu ớt bám lấy khuỷu tay anh, móng tay cào vào trán anh, anh bị đau đớn mới chịu buông tay ra.
Anh thở dốc và gấp, cô vốn là người to gan, nhưng không biết vì sao cũng hoảng loạn đến cực điểm, chỉ dám thở nhè nhẹ. Anh lại gọi nhỏ: “Tĩnh Uyển”. Cô hơi ngửa mặt lên, ánh mắt rừng rực như lửa, giọng nói lại đè nén mà khào khào: “Tĩnh Uyển, anh mong em có thể ở lại bên cạnh anh. E rằng Thừa – Dĩnh sắp đánh nhau, anh không thể để em đi, càng không thể xa cách em bởi khói lửa chiến tranh”.
Tĩnh Uyển cũng không biết mình đang nghĩ gì, bất an mà hoảng sợ, cô rất ít khi sợ hãi, cho nên cảm giác này khiến cô run rẩy, trên môi vẫn còn hơi thở của anh, mãnh liệt mà nóng bỏng như thế, giống như đốt cháy nơi sâu thẳm nhất trái tim cô, cô không dám nghĩ gì, chỉ hoảng hốt hỏi một câu chẳng liên quan: “Sao lại đánh nhau?”.
Trong mắt anh có một ngọn lửa âm u, chiếu ra ánh sáng rỡ ràng: “Trận đánh này là khó tránh khỏi, Thừa – Dĩnh đối đầu với nhau mấy năm, tuyệt đối không phải kế sách lâu dài. Mấy năm nay anh sớm đã dự tính, chỉ có thống nhất mười sáu tỉnh Giang Bắc, sau đó mới quyết chiến một trận với Khương Song Hỷ, Lý Đồng Niên ở phương Nam. Thiên hạ chia năm xẻ bảy, cũng nên quy về một mối.
Tĩnh Uyển ngơ ngác nhìn anh: “Phía Bắc có người Nga dòm ngó chằm chằm như hổ đói, mấy năm nay Dĩnh quân và Thừa quân ngang tài ngang sức, nếu anh đồng thời dùng binh ở cả hai phía Nam Bắc, làm sao có thể có nửa phần thắng lợi? Anh điên thật rồi”.
Mộ Dung Phong nhìn cô một lúc lâu, bỗng nhiên hôn nhẹ lên trán cô, Tĩnh Uyển nhất thời sững sờ, nhưng không hề né tránh. Anh mỉm cười nhìn cô, nói: “Anh điên rồi sao? Thế thì anh mới thích em đến phát điên như thế này. Chinh chiến gian nan là việc của đàn ông, vốn không nên nói với em, nhưng anh muốn cho cả thiên hạ thấy, anh muốn cho em biết, anh có hoài bão như thế nào. Tĩnh Uyển, anh muốn cho em hạnh phúc mà phụ nữ trên thế gian này đều phải ngưỡng mộ, anh muốn tặng cả thiên hạ cho em”.
Chương 14
Bên ngoài vang lên những âm thanh khe khẽ, Tĩnh Uyển hơi hoảng hốt quay mặt đi, là trời mưa. Mưa xuống rất nhanh, tiếng mưa tí tách rớt lên cành, lá cây. Vốn là đầu hạ, nhưng vì trận mưa này luôn khiến người ta nhớ đến cuối thu, một chút lạnh lẽo thấm vào trong tim gan, dường như cô lại trở nên sợ hãi.
Cô nhớ đến lúc nhỏ, chỉ khoảng bảy, tám tuổi, gia đình vẫn còn sống ở căn nhà cũ, mùa hè trời bỗng đổ mưa, cô và Kiến Chương ở sau vườn, cô lấy gạch chặn rãnh nước, cả vườn toàn là nước, cô kéo anh nghịch nước ở trong vườn. Toàn thân ướt đẫm, giống như hai chú chim ướt mềm, nhưng vui vẻ biết bao, tiếng cười giòn tan biết bao. Cuối cùng vú nuôi tìm thấy họ, bà vừa lo vừa bực kéo họ vào phòng, cha rất tức giận thuận tay liền lấy chổi lông gà đánh cô, Kiến Chương sợ hãi quỳ xuống: “Bác, bác, là cháu nhát thời nghịch ngợm, không liên quan đến em ấy”.
Lúc nhỏ anh luôn gọi cô là em gái, bảo vệ cô, lén lút viết chữ giúp cô, vì cô không thích luyện chữ, nhưng hàng ngày phải tập viết chữ nộp bài, ở nhà anh viết giúp cô mấy tờ liền, để cô đối phó. Đến bây giờ, nét chữ của anh cũng giống cô mấy phần.
Không biết từ bao giờ, anh không gọi cô là em gái nữa, là lúc đi học sao? Cô học trường nữ, là trường của người nước ngoài lập ra, bạn học trong trường đều là tiểu thư con nhà giàu quyền quý. Mới tí tuổi cũng biết so đo, so gia thế, so thời thượng, so quần áo mới, cô luôn là người xuất sắc nhất, cái gì cũng phải hơn người ta. Sau khi đi du học, một bạn học thân thiết viết thư cho cô, bạn học đó đính hôn với con trai tổng lý nội các, ra vẻ vô ý nhưng câu chữ đều toát lên sự khoe khoang. Cô từng hơi tức giận, nhưng nghĩ lại Kiến Chương dịu dàng chu đáo, trên thế giới này không có người thứ hai đối xử với cô tốt hơn anh.
Mộ Dung Phong thấy cô thẫn thờ, liền đi lại đóng cửa sổ, nói: “Ban đêm gió mạnh, vết thương của em mới lành, em đừng để bị lạnh”. Anh quay đầu lại nhìn cô, mỉm cười với cô.
Trái tim cô rối loạn đến cực điểm, nghĩ đến ngày hôm đó ở vườn hoa lan, những lời anh nói. Lúc đó bản thân hơi cảm động, cô lập tức nghĩ đến Kiến Chương, hễ nghĩ đến Kiến Chương trong lòng lại đau đớn. Từ lúc quen nhau, Mộ Dung Phong giống như một mũi tên bay, làm rối loạn tất cả nhịp điệu của cô, cô vốn cho rằng cuộc đời thuận buồm xuôi gió, yêu Kiến Chương, kết hôn, sinh con, yên ổn hết nửa đời còn lại, cả đời cứ như thế.
Nhưng anh không vậy, anh mở ra cho cô một thế giới, thế giới này có sự phồn hoa rực rỡ mà người phàm ước ao, còn rất nhiều nguy hiểm và đổi thay. Đáng sợ như thế, rực rỡ sáng rọi, lại thịnh vượng như thế, giống như sự mê hoặc lớn nhất kích thích cô. Anh nói: “Anh muốn đem cả thiên hạ đặt trước mặt em”. Trên thế giới có mấy người đàn ông có thể tỏ tình với người phụ nữ mình yêu như thế chứ? Cô không hề tham giàu sang phú quý, nhưng cô tham lam cái tương lai tươi mới, kích thích không thể đoán trước đó. Chỉ là sâu thẳm tận đáy lòng luôn tồn tại một sự sợ hãi, không cách gì nắm giữ được. Không dám nghĩ tới. Đến hôm nay anh nói hết cả, sự sợ hãi đó lại càng rõ ràng và nặng nề hơn, cô sắp xếp những ý nghĩa hỗn loạn, dần dần thấy được đầu mối, sự sợ hãi đó trở thành một sự lạnh lẽo, lạnh đến tận tim gan, cô biết không có cách nào tự lừa dối mình nữa, sự nghi ngờ luôn giấu trong lòng cô không thể coi như không thấy. Bỗng nhiên cô rùng mình, ngẩng đầu lên.
Cô nói từng câu từng chữ rõ ràng: “Cậu Sáu, có một việc anh phải nói rõ cho em biết, anh đã làm gì với Kiến Chương?”.
Dường như anh hơi bất ngờ, lại dường như sớm đã dự đoán trước, khuôn mặt đầy vẻ phức tạp khó nói, ánh mắt sáng, khóe miệng nhướn lên, anh nói: “Anh biết sẽ có ngày em hỏi như vậy”. Tim cô lạnh đến cực điểm. Giọng anh vẫn điềm nhiên: “Anh không làm gì cậu ta hết, anh chỉ để cậu ta hiểu rõ quan hệ lợi hại. Tĩnh Uyển, cậu ta không yêu em hết lòng, ít nhất cậu ta không chịu vì em mà từ bỏ việc làm ăn ở Thừa Châu, từ bỏ tiền tài lợi ích”.
Tĩnh Uyển chỉ cảm thấy hụt hẫng không gì sánh nỗi, cũng không biết là thất vọng vì Kiến Chương, hay thất vọng vì anh nói thẳng ra như vậy, trong mắt tràn ngập tuyệt vọng. “Quả nhiên anh bỉ ổi như thế”. Tim anh thắt lại, anh không hề giận, mà cảm thấy đau đớn: “Bỉ ổi? Anh cũng chỉ để cậu ta tự chọn, không thể nói là anh bỉ ổi. Tĩnh Uyển, tất cả mọi thứ trên thế giới này đều do ta tự mình giành lấy. Cậu ta ngay cả tranh giành cũng không dám, làm sao có thể bảo vệ được em? Ngay cả người con gái cậu ta yêu cũng không bảo vệ nổi, còn là đại trương phu gì chứ?”.
Đáy mắt cô cháy lên ngọn lửa âm u: “Anh lấy quyền lực, sức mạnh ép anh ấy, anh ấy còn có thể chọn thế nào?”.
Anh nắm lấy tay cô: “Tĩnh Uyển, anh yêu em, cho nên anh muốn để cậu ta biết, anh yêu em hơn cậu ta. Đây không phải là anh dùng thủ đoạn, anh chỉ bày ra sự thật cho cậu ta xem”. Cô thản nhiên đáp: “Anh không thể lấy tình yêu làm cái cớ, biện hộ cho sự cưỡng đoạt của anh”. Mắt anh lóe lên tia lửa giận: “Cưỡng đoạt, hóa ra em nghĩ như vậy. Doãn Tĩnh Uyển, chắc em quá xem thường Mộ Dung Phong anh rồi, nếu anh lừa gạt cưỡng đoạt, tên họ Hứa kia e rằng ngay cả tính mạng cũng không giữ được; nếu anh lừa gạt cưỡng đoạt, anh sẽ không coi trọng em, yêu em, đến bây giờ cũng không động vào một ngón tay em. Anh tự hỏi hơn hai mươi năm nay, anh chưa từng hết lòng vì ai như thế, thứ em muốn, anh làm mọi cách đem đến trước mặt em, anh đối xử với em như thế nào, cứ tưởng em đều rõ cả. Tại sao? Tại sao em lại đối xử với anh như vậy?”. Ánh mắt anh như muốn giết người. Anh đáng sợ như thế, Tĩnh Uyển không biết vì sao, bỗng lấy hết can đảm, ngẩng mặt lên nói lớn: “Vì em không yêu anh”.
Câu nói đó rõ ràng rành rọt, toàn thân anh chấn động, hình như cô cũng bất ngờ. Anh nhìn cô, giống như nằm mơ, anh “ừ” một tiếng, rất lâu sau, mới nói nhỏ: “Em không yêu anh ư?”. Tim cô giống như nước đang sôi, vô số bọt sủi lên, không biết vì sao như muốn nứt toác ra, cô cố gắng nén xuống, như nói với chính mình, từng tiếng từng từ đều rất nặng nề: “Em không yêu anh”. Bàn tay anh lạnh ngắt, khớp xương cứng đờ nắm lấy tay cô, lực tay như bỗng không chịu khống chế, tay cô đau nhức, nhưng tim cô càng rối loạn hơn, giống như một ấm nước sôi trào hết ra ngoài, sau sự đau đớn là cảm giác tê dại, biết rõ sau cơn tê dại sẽ đau đớn đến tận xương tủy, nhưng cô chỉ nghĩ: Mình không thể nghĩ nữa, cũng không muốn nghĩ nữa.
Cô chầm chậm rút tay ra, từng chút từng chút một, rồi cô quay mặt đi, nói: “Cậu Sáu, mời ra ngoài, em phải nghỉ ngơi rồi”.
Mộ Dung Phong nói: “Anh biết em sẽ oán trách anh, nhưng anh chỉ muốn nói cho em thấy rõ bộ mặt thật của cậu ta, cậu ta cứ một mực nói yêu em, nhưng hễ nguy hại đến lợi ích cá nhân và gia đình là lập tức bỏ em mà đi. Tĩnh Uyển, em vẫn không hiểu sao?”.
Trong lòng cô trống rỗng, cảm giác còn khó chịu hơn cả buồn bã, dường như ai đó đang khoét đi một miếng trong tim, rồi cố nhét vào một thứ gì đó cứng như đá vào, cô kháng cự lại sự ép buộc này theo bản năng, ngẩng mặt lên, cô chầm chậm nở nụ cười: “Cậu Sáu, anh nói đúng, anh chỉ muốn cho em thấy bộ mặt thật của anh ấy, nhưng cuộc đời là thế, đều là bất đắc dĩ, chẳng lẽ Cậu Sáu có thể vì Tĩnh Uyển từ bỏ sinh mệnh của gia đình và bản thân, một nửa giang sơn sao?”.
Anh nhất thời sững sờ , rất lâu sau mới gọi một tiếng: “Tĩnh Uyển”. Cô nói tiếp: “Cậu Sáu ,việc bản thân mình không thể không làm thì đừng yêu cầu người khác, chẳng lẽ ngay cả đạo lý này anh cũng không hiểu”.
Tim anh thắt lại, vẻ mặt cô lãnh đạm mà xa xôi, sự xa xôi đó khiến tận sậu đáy tim anh đau đớn, anh chưa từng cảm thấy bất lực như vậy, cuộc đời hơn hai mươi năm chưa từng có thứ gì anh không đạt được, hơn nữa, anh biết rõ vẫn còn có thứ tốt hơn đang đợi anh. Anh có hoài bão lớn, anh có tất cả mọi thứ trên thế giới, nhưng duy nhất chỉ có thời khắc này khiến anh rõ ràng cảm thấy đang mất mát, sự mất mát đó khiến anh bất lực, anh muốn nói gì đó, nhưng một câu cũng không nói ra được.
Mưa bên ngoài càng lúc càng lớn, tiếng mưa rào rào, nghe càng thêm hỗn loạn đến kỳ lạ. Cô hơi cúi mặt, đôi hoa tai lạo xạo cọ vào cổ áo, dưới ánh đèn hai chiếc bóng nhỏ đung đưa, in lên chiếc sườn xám bằng lụa Ỷ Vân màu vàng cam của cô, thứ lụa Ỷ Vân vốn rất mỏng và trơn, dưới ánh đèn ánh lên ánh sáng trắng lành lạnh, anh nhớ lại lúc nãy ôm cô vào lòng, lớp lụa lạnh lẽo áp vào cánh tay anh, chỉ có cô là ấm nóng, khiến cuộc đời có sự vu vẻ mê hoặc,giống như con thiêu thân lao mình vào lửa.
Nhưng bây giờ chỉ có sự lạnh lẽo của lụa lưu lại trên cánh tay anh, sự lạnh lẽo đó chầm chậm chảy vào trong tim, bung ra nỗi đau đớn không thể kìm nén. Anh biết rõ chỉ còn lại sự hụt hẫng, hoa tai của cô vẫn đang lay động, như một trái tim không an phận, lay động khiến anh cũng trở nên hoảng loạn, không có cách nào nghĩ kỹ.
Năm nay Thừa Châu nhiều nước, trong tháng năm đã mưa rất nhiều trận lớn, đến tháng sáu âm lịch ngay cả sông Thừa Giang cũng đầy nước, nước sông nổi lên màu xanh lục, xoáy nước đục mà siết, sóng nước nhấp nhô lên xuống như vô số những con ngựa hoang không an phận, gào thét phi đi, như bất cứ lúc nào cũng muốn vượt qua bờ đê, tràn vào thành Thừa Châu.
Sáng nay lại mưa lớn, Hà Tự An cầm ô bước thấp bước cao đi trên đê, bùn nước lầy lội ngập đến tận cẳng chân. Trong màn mưa trắng xóa, thấy xa xa có khoảng mười chiếc ô lớn, đám người đang quan sát chỉ trỏ dưới bờ đê, trong lòng vui mừng, Hà Tự an rảo bước thở dốc đi đến: “Cậu Sáu!”.
Tuy xung quanh đều che ô, nhưng vì gió tạt quá mạnh, quần áo Mộ Dung Phong vẫn ướt đẫm, thấy Hà Tự An đến, trên mặt anh không biểu lộ điều gì, chỉ hỏi: “Sao rồi?”. Hà Tự An thấy xung quanh đều là cận vệ, có thêm mấy vị quan phụ trách thủy lợi đê điều, anh không tiện nói nhiều, đáp mập mờ: “Đối phương đã đồng ý rồi, nhưng điều kiện rồi… Cậu Sáu về rồi, tôi sẽ báo cáo tỉ mỉ với Cậu Sáu”.
Mộ Dung Phong hơi nhướn mày, quay mặi đi nhìn nước sông đục ngầu cuồn cuộn, sông Thừa Giang từ Thừa Châu chảy qua nhiều tỉnh Giang Châu, Minh Châu, rồi nhập vào Vĩnh Giang. Phía Bắc Vĩnh Giang còn gọi là mười sáu tỉnh Giang Bắc, đến bây giờ chín tỉnh đã nằm trong tay anh, bảy tỉnh còn lại là Dĩnh quân khống chế, còn phía Nam Vĩnh Giang lại là vô số núi hồ, vựa cá vựa gạo. Mưa rất lớn, bong bóng trắng xóa nổi đầy trên mặt sông, không nhìn thấy bờ bên kia, anh gọi nhân viên thủy lợi đến, nói: “Bây giờ tình hình cấp bách, tôi chỉ có một câu, anh còn đê còn, anh cũng không cần tồn tại nữa”.
Người đó vốn là quan viên dân sự, sợ đến mức luôn miệng vâng dạ. Mộ Dung Phong cũng không để ý, chỉ nói: “Đi về”.
Từ lúc lũ lên, ngày ngày Mộ Dung Phong đều phải đích thân đến đê quan sát tình hình. Quay về phủ đốc quân, anh đi thay quần áo ướt. Hà Tự An đợi ở phòng khách, thấy Thẩm Gia Bình ở hành lang, anh và Thẩm Gia Bình vốn đùa nghịch không giữ lễ tiết quen rồi, anh đi công tác bên ngoài đã hơn tháng, vừa nãy không có cơ hội nói chuyện, lúc này liền vỗ vai Thẩm Gia Bình nói: “Này, lão Thẩm, có việc gì mà căng thẳng thế, nhìn dáng vẻ chau mày khổ sở của cậu kìa”. Thẩm Gia Bình trề môi, mặt ngước lên trên lầu, Hà Tự An vốn là người tinh ý, lập tức hiểu ngay: “Tôi nói Cậu Sáu sao trông không vui vẻ, trên xe cũng không nói với tôi một câu. Người đó sao thế?”.
Thẩm Gia Bình thở dài “hầy” một tiếng, nói: “Cậu đi công tác hơn một tháng đương nhiên không biết. Nói ra cũng kỳ lạ, lúc đầu vẫn rất tốt, sau đó có một ngày bỗng nhiên cãi nhau, mấy ngày nay Cậu Sáu cũng không đi hỏi thăm cô ấy. Cô ấy cũng chuyển về phòng khách ở rồi, hai người gặp mặt vô cùng khách sáo, Doãn lão gia lại xen vào giữa, xem ra vết thương của Doãn tiểu thực cũng sắp khỏi hẳn rồi, Doãn lão gia mấy ngày trước đặt vé, chiều nay cùng Doãn tiểu thư lên tàu về Càn Bình”.
Hà Tự An nghĩ một lát, hỏi: “Vậy ý của Cậu Sáu là cứ để như thế sao?”. Thẩm Gia Bình chần chừ một lát, nói: “Đã để cho cô ấy đi rồi, chắc là định kết thúc ở đây thôi”. Đúng lúc đó, có một người hầu từ phòng trên đi đến gọi người chuẩn bị xe, nói: “Cậu Sáu muốn tiễn Doãn tiểu thư đến nhà ga”.
Thẩm Gia Bình nghe nói Mộ Dung Phong muốn đích thân đi tiễn, vội vàng bố trí cảnh vệ. Không lâu sau Mộ Dung Phong quả nhiên xuống lầu, anh đã thay thường phục, nhìn thấy Hà Tự An, liền gọi nói: “Thúc An, đợi tôi về rồi nói”. Hà Tự An vâng một tiếng, chỉ thấy người hầu phòng xách túi hành lý lớn đặt lên xe trước, còn Mộ Dung Phong khoanh tay đứng ở phòng khách, lại thất thần nhìn trời mưa ngoài cửa.
Tĩnh Uyển tuy hạ quyết tâm, nhưng lúc phải đi trong lòng vẫn có cảm giác kỳ lạ. Từ sau ngày hôm đó, cô luôn tránh ở một mình với Mộ Dung Phong, còn Mộ Dung Phong cũng không hề ép buộc, mỗi lần gặp mặt anh cũng chỉ thất vọng nhìn cô, khiến cô không kìm được cảm thấy hoảng loạn. Tính cách cô vốn thoải mái, chỉ muốn giải quyết nhanh chóng, cho nên vết thương ổn hơn một chút liền quyết định lập tức về Càn Bình với cha.
Mưa bên ngoài vẫn như trút nước, vì mưa quá lớn, xe chầm chạp chạy trên đường, trên phố nước vẫn còn ngập rất nhiều, xe đi qua giống như thuyền rẽ nước. Mưa to như thế, trên phố ngay cả xe kéo cũng không thấy đâu, người đi đường càng ít hơn. Mộ Dung Phong tôn trọng Doãn Sở Phàn, nhất định mời ông và Tĩnh Uyển ngồi ghế sau, còn mình ngồi phía trước, trong khoang xe chật hẹp này, anh ngồi đối diện với Tĩnh Uyển, trái tim Tĩnh Uyển rối loạn đến cực điểm, cô đành quay mặt đi nhìn cảnh phố bên ngoài. Hai bên phố lướt qua giống như ngày cô đến. Thừa Châu, trước mắt chỉ có bóng tối phức tạp hỗn loạn, mơ hồ không rõ.
Đến nhà ga, Thẩm Gia Bình đã canh phòng sẵn ở sân ga, Mộ Dung Phong tiễn nhọ lên tận tàu, họ đặt hai phòng đặc biệt, Tĩnh Uyển rất sợ anh nói lời gì đó, cho nên vào phòng của cha, ngồi ở đó không về phòng mình. Thẩm Gia Bình mang hoa quả điểm tâm đến, nói: “Đây là Cậu Sáu dặn dò chuẩn bị cho Doãn tiên sinh và Doãn tiểu thư dùng dọc đường”.
Doãn Sở Phàn luôn miệng nói: “Không dám”. Mộ Dung Phong nói: “Lão tiên sinh hà tất phải khách sáo thế, sau này có cơ hội mời tiên sinh đến Thừa Châu, để Bái Lâm hết lòng tiếp đãi”. Hai người họ nói nhưng lời khách sáo, Tĩnh Uyển ngồi trên ghế sofa, chỉ nhìn sân ga bên ngoài cửa sổ, trên sân ga dày đặc cảnh vệ, tuy trong mưa lớn quần áo ướt đẫm vẫn đứng thẳng không động đậy, dáng vẻ quân nhân nghiêm khắc như thế khiến người ta cảm thấy kính nể. Mộ Dung Thần trước đây quân chế nghiêm khắc, đến tay Mộ Dung Phong cũng vẫn quân kỷ nghiêm minh, cho nên Thừa quân xưa nay rất có uy danh. Cô nghĩ đến câu nói đó của anh: “Anh sẽ đem cả thiên hạ đặt trước mặt em”. Trong lòng đau đớn đến kỳ lạ. Anh có hoài bão to lớn, cô biết nhất định có ngày anh sẽ làm được, lúc đó bản thân mình gặp lại anh, không biết thời thế đã như thế nào?
Hoặc là trải qua khói lửa chiến tranh mười năm, hai mươi năm, cô cũng chỉ có thể đứng một bên nhìn về cuộc đời của anh mà thôi.
Cuối cùng đến lúc tàu sắp chạy, Mộ Dung Phong nhìn cô, trong ánh mắt đó như có vạn lời muốn nói, nhưng cuối cùng chỉ khẽ thở dài, cáo từ xuống tàu. Qua cửa sổ cô nhìn thấy anh đứng trên sân ga, Thẩm Gia Bình che ô giúp anh, đằng sau anh đều là cảnh vệ, mưa như trút nước, ào ào giống như hàng ngàn sợi dây thừng quất xuống mặt đất. Tàu hơi rung rung, bắt đầu chầm chậm lăn bánh về phía trước. Anh đứng ở đó, không động đậy, Thẩm Gia Bình thì thầm gì đó vào tai anh, anh cũng coi như không biết, chỉ ngẩng mặt nhìn cô. Cô định rời khỏi cửa sổ, nhưng không biết vì sao mất hết sức lực, không nhúc nhích được, ngay cả ánh mắt cũng không thể di chuyển, cách cửa kính và màn mưa, vốn không nhìn rõ sắc mặt anh, cô mù mờ không biết đang nghĩ gì. Một bàn tay ấm áp đặt lên vai cô, cô quay đầu lại, Doãn Sở Phàn gọi một tiếng trìu mến: “Con gái”. Tàu đang tăng tốc, cô quay mặt lại, hình bóng anh đã tụt lại phía sau, càng ngày càng nhanh, càng ngày càng xa. Những cảnh vệ đó và anh đã thành một bóng đen mơ hồ, một lát sau tàu rẽ chuyến hướng, ngay cả sân ga cũng không nhìn thấy nữa, giữa trời đất chỉ còn lại màn mưa mênh mang.
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top