kinhtct2

HỌC PHẦN II

1.Quan điểm của V.I Lênin về thời kỳ quá độ lên CNXH:...

...2

2.Thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam...

..7

3.Tính tất yếu khách quan của sự tồn tại của cơ cấu kinh tế nhiều thành phần ...

.15

4.Nội dung các thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ ở VN...

.17

5.Khái niệm và tính tất yếu khách quan của CNH, HĐH ...

...25

6.Trình bày nội dung cơ bản của CNH, HĐH trong thời kỳ quá độ tại Việt Nam......29

7.Những tiền đề thực hiện CNH, HĐH trong thời kỳ quá độ lên CNXH...

.32

8.Sự cần thiết khách quan phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam...

..37

9.Đặc trưng, bản chất của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam.....41

1. Quan điểm của V.I Lênin về thời kỳ quá độ lên CNXH:

a) Tính tất yếu của thời kỳ quá độ lên CNXH

Vận dụng lý luận của C.Mác và Ph. Ăngghen vào công cuộc xây dựng CNXH ở nước Nga trước đây, V.I.Lênin đã phát triển lý luận về thời kỳ quá độ lên CNXH. Thời kỳ quá độ lên CNXH là tất yếu khách quan đối với mọi nước xây dựng CNXH. Tuy nhiên, đối với những nước có lực lượng sản xuất phát triển cao thì thời kỳ quá độ lên CNXH có nhiều thuận lợi hơn, có thể ngắn hơn so với những nước đi lên CNXH bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa từ nền kinh tế kém phát triển.

Theo V.I.Lênin, sự cần thiết khách quan phải có thời kỳ quá độ lên CNXH là do đặc điểm ra đời, phát triển của phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa và cách mạng vô sản quy định.

Quan hệ sản xuất phong kiến và quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa đều dựa trên cơ sở chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất. Do vậy, quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa có thể ra đời từ trong lòng xã hội phong kiến. Sự phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đến một trình độ nhất định, sẽ làm sâu sắc thêm mâu thuẫn của xã hội phong kiến, do đó cách mạng tư sản sẽ nổ ra. Nhiệm vụ của cách mạng tư sản chủ yếu chỉ là giải quyết về mặt chính quyền nhà nước, làm cho kiến trúc thượng tầng thích ứng với cơ sở hạ tầng của nó.

Cách mạng vô sản có điểm khác biệt căn bản với cách mạng tư sản. Do quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa dựa trên chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, còn quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, nên CNXH không thể ra đời từ trong lòng xã hội tư bản. Phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa chỉ ra đời sau khi cách mạng vô sản thành công, giai cấp vô sản giành được chính quyền và bắt tay vào công cuộc xây dựng CNXH - giai đoạn đầu của phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa.

Hơn nữa, sự phát triển của phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa là một thời kỳ lâu dài, không thể ngay một lúc có thể hoàn thiện được. Để phát triển lực lượng sản xuất, tăng năng suất lao động, xây dựng chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa về tư liệu sản

xuất, xây dựng kiểu xã hội mới, cần phải có thời gian. Nói cách khác, tất yếu phải có thời kỳ quá độ lên CNXH.

Từ sự phân tích như vậy, V.I.Lênin cho rằng, nếu như cách mạng tư sản thắng lợi đánh dấu sự kết thúc của thời kỳ quá độ từ xã hội phong kiến lên CNTB, thì cách mạng vô sản thắng lợi mới chỉ là sự khởi đầu cho thời kỳ quá độ lên CNXH.

Thời kỳ quá độ lên CNXH là thời kỳ cải biến cách mạng sâu sắc, triệt để, toàn diện, từ xã hội cũ sang xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa. Nó diễn ra từ khi cách mạng vô sản thắng lợi, giai cấp vô sản giành được chính quyền, bắt tay vào việc xây dựng xã hội mới và kết thúc khi xây dựng thành công các cơ sở của xã hội xã hội chủ nghĩa về vật chất - kỹ thuật, kinh tế, văn hoá, tư tưởng. Nói cách khác, kết thúc thời kỳ quá độ khi đã xây dựng xong cả về lực lượng sản xuất lẫn quan hệ sản xuất, cả cơ sở kinh tế lẫn kiến trúc thượng tầng xã hội xã hội chủ nghĩa.

b) Đặc điểm kinh tế của thời kỳ quá độ lên CNXH

Đặc điểm cơ bản nhất xuyên suốt và bao trùm của thời kỳ quá độ là sự tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần và xã hội nhiều giai cấp. Trong thời kỳ quá độ, nền kinh tế có tính chất quá độ:nó không còn là nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, nhưng cũng chưa hoàn toàn là nền kinh tế xã hội chủ nghĩa. V.I.Lênin viết: danh từ quá độ có nghĩa là gì ? Vận dụng vào nền kinh tế, có phải nó có nghĩa là trong chế độ hiện nay, có những thành phần, những bộ phận, những mảng của CNTB và CNXH không ? Bất cứ ai cũng đều thừa nhận là có.

Phân tích thực trạng nền kinh tế của nước Nga lúc đó, V.I.Lênin rút ra có năm thành phần kinh tế là:

- Thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa. ( Dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất ). - Thành phần kinh tế tư bản nhà nước. ( Sở hữu hỗn hợp)

- Thành phần kinh tế tư bản tư nhân. ( Chế độ tư hữu) - Thành phần kinh tế nông dân gia trưởng. ( Manh nặng tính tư nhân) - Thành phần kinh tế sản xuất hàng hoá nhỏ của nông dân, tiểu thủ công cá thể và tiểu thương.

- Thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa.

Theo V.I.Lênin, trong đó có các thành phần kinh tế cơ bản là: kinh tế sản xuất hàng hoá nhỏ, kinh tế tư bản tư nhân và kinh tế xã hội chủ nghĩa.

Tương ứng với nền kinh tế quá độ gồm nhiều thành phần, trong xã hội cũng tồn tại nhiều giai cấp, trong đó có ba giai cấp cơ bản là giai cấp tiểu tư sản, giai cấp tư sản và giai cấp công nhân, người lao động tập thể.

Nền kinh tế nhiều thành phần và xã hội nhiều giai cấp như trên là sự thống nhất biện chứng các mâu thuẫn của tồn tại xã hội. Những mâu thuẫn này bắt nguồn từ tính độc lập tương đối về kinh tế do các hình thức sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất quy định.

Trong thời kỳ quá độ, mâu thuẫn cơ bản là mâu thuẫn giữa CNXH và CNTB. Theo V.I.Lênin, thời kỳ quá độ bao gồm tất cả những đặc điểm, đặc tính của CNXH và CNTB, là thời kỳ đấu tranh giữa CNXH mới ra đời nhưng còn non yếu với CNTB đã bị đánh bại nhưng chưa bị tiêu diệt hoàn toàn. Chính vì tính chất quá độ đó nên trong nền kinh tế quá độ chưa có thành phần kinh tế thống trị chi phối, mới có thành phần kinh tế Nhà Nước vươn lên giữ địa vị chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân.

c) Chính sách kinh tế mới(NEP) của V.I.Lênin

Vận dụng lý luận của C.Mác vào điều kiện cụ thể của nước Nga, V.I.Lênin đã hoạch định kế hoạch xây dựng CNXH ở nước Nga. Kế hoạch xây dựng CNXH của V.I.Lênin có liên quan chặt chẽ với Chính sách kinh tế mới của ông.

- Điều kiện ra đời của NEP

Không bao lâu sau Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917, việc thực hiện kế hoạch xây dựng CNXH của V.I.Lênin bị gián đoạn bởi cuộc nội chiến 1918-1920. Trong thời kỳ này, V.I.Lênin đã áp dụng Chính sách cộng sản thời chiến. Nội dung cơ bản của Chính sách cộng sản thời chiến là “ trưng thu lương thực thừa “ của nông dân sau khi dành lại cho họ mức ăn tối thiểu. Đồng thời, xoá bỏ quan hệ hàng hoá - tiền tệ, xoá bỏ việc tự do mua bán lương thực trên thị trường, thực hiện chế độ cung cấp hiện vật cho quân đội và bộ máy nhà nước.

Chính sách cộng sản thời chiến đã đóng vai trò quan trọng trong thắng lợi của Nhà nước Xôviết. Nhờ đó mà quân đội đủ sức để chiến thắng kẻ thù, bảo vệ được Nhà nước Xôviết non trẻ của mình.

Tuy nhiên, khi hoà bình lập lại, Chính sách cộng sản thời chiến không còn thích hợp. Vì:

+ Nó trở thành nhân tố kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. + Hậu quả chiến tranh đối với nền kinh tế rất nặng nề.

+ Chính sách trưng thu lương thực thừa đã làm mất động lực đối với nông dân. + Việc xoá bỏ quan hệ hàng hoá - tiền tệ làm mất tính năng động của nền kinh tế vốn

dĩ mới bước vào giai đoạn phát triển.

Vì vậy, khủng hoảng kinh tế chính trị diễn ra rất sâu sắc. Điều đó đòi hỏi phải có chính sách kinh tế thích ứng thay thế. Chính sách kinh tế mới được V.I.Lênin đề xướng để đáp ứng yêu cầu này nhằm tiếp tục kế hoạch xây dựng CNXH trong giai đoạn mới.

- Nội dung và biện pháp chủ yếu của Chính sách kinh tế mới ( NEP )

Chính sách kinh tế mới của V.I.Lênin bao gồm những nội dung và biện pháp chủ yếu sau:

+ Một là, thay thế Chính sách trưng thu lương thực bằng Chính sách thuế lương thực. Theo chính sách này, người nông dân chỉ nộp thuế lương thực với một mức cố định trong nhiều năm. Mức thuế này căn cứ vào điều kiện tự nhiên của đất canh tác. Nói cách khác, “Thuế là cái nhà nước thu của nhân dân mà không bù lại”. Số lương thực còn lại sau khi nộp thuế, người nông dân được tự do trao đổi, mua bán trên thị trường.

+ Hai là, tổ chức thị trường, thương nghiệp, thiết lập quan hệ hàng hoá - tiền tệ giữa Nhà nước và nông dân, giữa thành thị và nông thôn, giữa công nghiệp và nông nghiệp.

+ Ba là, sử dụng sức mạnh kinh tế nhiều thành phần, các hình thức kinh tế quá độ như khuyến khích phát triển sản xuất hàng hoá nhỏ của nông dân, thợ thủ công; khuyến khích kinh tế tư bản tư nhân; sử dụng CNTB nhà nước; củng cố lại các doanh nghiệp nhà nước, chuyển sang chế độ hạch toán kinh tế. Đồng thời, V.I.Lênin chủ trương phát

triển mạnh mẽ quan hệ hợp tác kinh tế với các nước tư bản phương Tây để tranh thủ kỹ thuật, vốn và khuyến khích kinh tế phát triển.

Như vậy, khác với thời kỳ nội chiến, trong điều kiện hoà bình, nước Nga Xôviết đã chủ trương khôi phục và phát triển kinh tế dựa trên nguyên tắc của nền kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường. Rất tiếc là những tư tưởng đó của V.I.Lênin không được những người kế tục sau này phát triển tiếp tục mà lại đưa nền kinh tế đi sang quỹ đạo của nền kinh tế chỉ huy.

- Ý nghĩa của NEP

Chính sách kinh tế mới của V.I.Lênin có ý nghĩa cực kỳ quan trọng, trước hết nó khôi phục được nền kinh tế Xôviết sau chiến tranh. Chỉ trong một thời gian ngắn đã tạo ra một bước phát triển quan trọng biến "nước Nga đói" thành một đất nước có nguồn lương thực dồi dào. Từ đó, đã khắc phục được khủng hoảng kinh tế, chính trị; củng cố lòng tin cho nhân dân vào sự thắng lợi tất yếu và bản chất tốt đẹp của CNXH theo những nguyên lý mà V.I.Lênin đã vạch ra.

Chính sách kinh tế mới của V.I.Lênin còn đánh dấu một bước phát triển mới về lý luận kinh tế xã hội chủ nghĩa. Theo tư tưởng này, nền kinh tế nhiều thành phần, các hình thức kinh tế quá độ, việc duy trì và phát triển quan hệ hàng hoá - tiền tệ, quan tâm tới lợi ích kinh tế cá nhân trước hết là của nông dân, là những vấn đề có tính chất nguyên tắc trong việc xây dựng mô hình kinh tế xã hội chủ nghĩa.

Từ đó chính sách kinh tế mới có ý nghĩa quốc tế to lớn đối với các nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa, trong đó có nước ta. Những quan điểm kinh tế của Đảng ta nhất là từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V đến nay đã thể hiện sự nhận thức và vận dụng quan điểm trong Chính sách kinh tế mới của V.I. Lênin. Tất nhiên, do thời gian và không gian cách xa nhau, trải qua những biến động khác nhau, nên nhận thức và vận dụng có thể có sự khác nhau, kể cả về bước đi, nội dung và biện pháp cụ thể trong khi tiến hành ở nước ta.

2. Thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam

a) Tính tất yếu khách quan của thời kỳ quá độ lên CNXH và quá độ lên CNXH

bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN ở Việt Nam:

1. Tính tất yếu khách quan của thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam:

Ở nước ta, thời kỳ quá độ lên CNXH bắt đầu từ năm 1954 ở miền Bắc và từ năm 1975, sau khi đất nước đã hoàn toàn độc lập và cả nước thống nhất, cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đã hoàn toàn thắng lợi trên phạm vi cả nước thì cả nước cùng tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa, cùng quá độ lên CNXH.

Thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta là một tất yếu khách quan, bởi vì xuất phát từ đặc điểm của thời đại, đó là thời đại quá độ lên CNXH trên phạm vi toàn thế giới. Lúc này, CNTB đã lỗi thời về mặt lịch sử và vì vậy sớm hay muộn cũng phải được thay thế bằng một hình thái kinh tế xã hội mới, đó là CNCS mà giai đoạn đầu là CNXH.

>> Như vậy, việc VN quá độ lên CNXH là hoàn toàn phù hợp với xu thế khách quan của thời đại.

Thời kỳ quá độ là thời kỳ lịch sử mà bất cứ một quốc gia nào đi lên CNXH cũng đều phải trải qua, ngay cả đối với những nước đã có nền kinh tế rất phát triển, bởi lẽ, ở các nước này, tuy lực lượng sản xuất đã phát triển cao, nhưng vẫn còn cần phải cải tạo và cần xây dựng quan hệ sản xuất mới, xây dựng nền văn hoá mới. Dĩ nhiên, đối với những nước thuộc loại này, về khách quan có nhiều thuận lợi hơn, thời kỳ quá độ có thể sẽ diễn ra ngắn hơn. Đối với nước ta, một nước nông nghiệp lạc hậu đi lên CNXH bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, thì lại càng phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài.

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta là một thời kỳ lịch sử mà: "nhiệm vụ quan trọng nhất của chúng ta là phải xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật của CNXH,... tiến dần lên CNXH, có công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, có văn hoá và khoa học tiên tiến. Trong quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa, chúng ta phải cải tạo nền kinh tế cũ và xây dựng nền kinh tế mới, mà xây dựng là nhiệm vụ chủ chốt và lâu dài".

2. Tính tất yếu khách quan của quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở VN:

Quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là một tất yếu khách quan đối với nước ta, vì:

- Toàn thế giới đã bước vào thời đại quá độ từ CNTB lên CNXH. Thực tiễn đã khẳng định CNTB là chế độ xã hội đã lỗi thời về mặt lịch sử, sớm hay muộn cũng phải được thay bằng hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa mà giai đoạn đầu là giai đoạn xã hội xã hội chủ nghĩa. Cho dù hiện nay, với những cố gắng để thích nghi với tình hình mới, CNTB thế giới vẫn đang có những thành tựu phát triển nhưng vẫn không vượt ra khỏi những mâu thuẫn cơ bản của nó, những mâu thuẫn này không dịu đi mà ngày càng phát triển gay gắt và sâu sắc. CNTB không phải là tương lai của loài người. Đặc điểm của thời đại ngày nay là thời đại quá độ từ CNTB lên CNXH trên phạm vi toàn thế giới. Quá trình cải biến xã hội cũ, xây dựng xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa không phải là quá trình cải lương, duy ý chí, mà là quá trình cách mạng sôi động trải qua nhiều giai đoạn phát triển khách quan, hợp với quy luật của lịch sử. CNXH khoa học, tự do, dân chủ và nhân đạo mà nhân dân ta và loài người tiến bộ đang vươn tới luôn đại diện cho những giá trị tiến bộ của nhân loại, đại diện lợi ích của người lao động, là hình thái kinh tế - xã hội cao hơn CNTB. Quá trình cách mạng đó vì sự nghiệp cao cả là giải phóng con người, vì sự phát triển tự do và toàn diện của con người, vì tiến bộ chung của loài người. Đi theo dòng chảy của thời đại cũng tức là đi theo quy luật phát triển tự nhiên của lịch sử.

- Cách mạng Việt Nam phát triển theo con đường độc lập dân tộc gắn liền với CNXH. Tính tất yếu lịch sử ấy xuất hiện từ những năm 20 của thế kỷ XX. Nhờ đi con đường ấy, nhân dân ta đã làm Cách mạng Tháng Tám thành công, đã tiến hành thắng lợi hai cuộc kháng chiến hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc. Ngày nay, chỉ có đi lên CNXH mới giữ vững được độc lập, tự do cho dân tộc, mới thực hiện được mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Sự lựa chọn con đường độc lập dân tộc và CNXH của nhân dân ta, như vậy là sự lựa chọn của chính lịch sử dân tộc lại vừa phù hợp với xu thế của thời đại. Điều đó cũng đã thể hiện sự quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở nước ta là một tất yếu lịch sử.

b) Quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam

1. Khả năng về quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam

Mặc dù kinh tế còn lạc hậu, Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu sụp đổ, nước ta vẫn có những khả năng và tiền đề để quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa.

Về khả năng khách quan:

- Trước hết phải kể đến nhân tố thời đại, tức xu thế quá độ lên CNXH trên phạm vi toàn thế giới.

- Nhân tố thời đại đóng vai trò tích cực làm thức tỉnh các dân tộc, các quốc gia, không những làm cho quá độ bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa trở thành một tất yếu mà còn đem lại những điều kiện và khả năng khách quan cho sự quá độ này. Quá trình quốc tế hoá sản xuất và sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nước ngày càng tăng lên, cũng như sự phát triển của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ về khách quan đã tạo ra những khả năng để các nước kém phát triển đi sau có thể tiếp thu và vận dụng vào nước mình những lực lượng sản xuất hiện đại của thế giới và những kinh nghiệm của các nước đi trước để thực hiện "con đường phát triển rút ngắn". Xu thế toàn cầu hoá, sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia trên thế giới ngày càng tăng lên tuy có chứa đựng những nguy cơ và thách thức nhưng vẫn tạo khả năng khách quan cho việc khắc phục khó khăn về nguồn vốn và kỹ thuật hiện đại cho các nước chậm phát triển, nếu như có đường lối, chính sách đúng đắn. Trong điều kiện đó, cho phép và buộc chúng ta phải biết tranh thủ cơ hội, tận dụng, khai thác, sử dụng có hiệu quả những thành tựu mà nhân loại đã đạt được để rút ngắn thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta.

Về những tiền đề chủ quan:

- Việt Nam là nước có số dân tương đối đông, nhân lực dồi dào, tài nguyên đa dạng. Nhân dân ta đã lập nên chính quyền nhà nước dân chủ nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, làm nhiệm vụ lịch sử của chuyên chính vô sản, đã xây dựng những cơ sở ban đầu về chính trị, kinh tế của CNXH. Cách mạng Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo - một đảng giàu tinh thần cách mạng, sáng tạo, khoa học và trí tuệ, có đường lối đúng đắn và gắn bó với quần chúng - đó là nhân tố chủ quan có ý nghĩa vô

cùng quan trọng, bảo đảm cho thắng lợi của công cuộc xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

- Nhân dân ta, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đã từng chiến đấu, hy sinh không chỉ nhằm mục đích giành lại độc lập dân tộc, mà còn vì cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc. Những yêu cầu đó chỉ có CNXH mới đáp ứng được. Vì vậy, quyết tâm của nhân dân sẽ trở thành lực lượng vật chất đủ sức vượt qua mọi khó khăn và xây dựng thành công CNXH.

- Công cuộc đổi mới đất nước do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo bắt đầu từ Đại hội Đảng lần thứ VI đến nay đã thu được những kết quả bước đầu khả quan, giữ vững ổn định chính trị; tạo môi trường hợp tác đầu tư; phát triển kinh tế; đời sống nhân dân được cải thiện... điều đó đã củng cố và khẳng định con đường lựa chọn lên CNXH của chúng ta là đúng đắn.

2. Nhận thức về thời kỳ quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa

Đây chính là con đường phát triển "rút ngắn" lên CNXH ở nước ta. Về chính trị, bỏ qua chế độ tư bản là bỏ qua giai đoạn thống trị của giai cấp tư sản, của kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa. Về kinh tế, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là bỏ qua sự thống trị của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, nhưng phải biết tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học và công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại. Đó chính là sự rút ngắn thời gian thực hiện quá trình xã hội hoá sản xuất tư bản chủ nghĩa bằng con đường phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa, tức là rút ngắn một cách đáng kể quá trình phát triển lên CNXH ở nước ta.

CNTB đã có vai trò lịch sử là phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất, xã hội hoá lao động dựa trên nền tảng chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa. Quá trình này đã diễn ra một cách tự phát, tuần tự, kéo dài hàng thế kỷ cùng với những đau khổ đối với con người. Ngày nay, trong những điều kiện lịch sử mới, chúng ta có thể đi con đường phát triển rút ngắn, phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa, tránh cho nhân dân ta những đau khổ của con đường tư bản chủ nghĩa. Sự rút ngắn này được thực hiện thông qua việc sử dụng biện pháp kế hoạch đồng thời với việc sử dụng biện pháp thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa trên cơ sở xây dựng, phát triển kinh tế

nhà nước vững mạnh đóng vai trò chủ đạo đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Sự rút ngắn này chỉ có thể thực hiện thành công với điều kiện chính quyền thuộc về nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Tuy nhiên, cần nhận thức đầy đủ rằng sự rút ngắn ở đây không phải là công việc có thể làm nhanh chóng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: "tiến lên CNXH, không thể một sớm một chiều. Đó là cả một công tác tổ chức và giáo dục". "CNXH không thể làm mau được mà phải làm dần dần".

Nhận thức đúng nội dung của sự quá độ bỏ qua hay rút ngắn này có ý nghĩa thực tiễn quan trọng, giúp ta khắc phục được quan niệm đơn giản, duy ý chí về thời kỳ quá độ lên CNXH từ một nước mà CNTB chưa phát triển.

CNXH ở Việt Nam, theo cách nói tóm tắt và mộc mạc của Chủ tịch Hồ Chí Minh là: trước hết nhằm làm cho nhân dân lao động thoát nạn bần cùng, làm cho mọi người có công ăn việc làm, được ấm no và sống một đời hạnh phúc. Quán triệt tư tưởng cơ bản đó của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH, Đảng ta đã khẳng định: "Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội:

- Do nhân dân lao động làm chủ.

- Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu.

- Có nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.

- Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển cá nhân.

- Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ. - Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới"1. Mục tiêu của CNXH ở nước ta là: xây dựng một xã hội dân giàu, nước mạnh, xã hội

công bằng, dân chủ, văn minh.

c) Nhiệm vụ kinh tế cơ bản trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

Để thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh theo con đường xã hội chủ nghĩa, điều quan trọng nhất là phải cải biến căn bản tình trạng kinh tế xã hội; phải xây dựng một

nền kinh tế xã hội chủ nghĩa với công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, khoa học và kỹ thuật tiên tiến. Muốn vậy, trong thời kỳ quá độ chúng ta cần phải thực hiện những nhiệm vụ kinh tế cơ bản sau:

1. Phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước

Đây được coi là nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ nhằm xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, phát triển lực lượng sản xuất.

Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là quá trình chuyển đổi căn bản toàn diện các hoạt động kinh tế - xã hội từ sử dụng sức lao động thủ công là chính sang việc sử dụng một cách phổ biến sức lao động với khoa học và công nghệ hiện đại, tiên tiến, tạo ra năng suất lao động cao.

Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước là nhiệm vụ có tính quy luật của sự quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở những nước kinh tế lạc hậu, chủ nghĩa tư bản chưa phát triển. Tuy nhiên, chiến lược, nội dung, hình thức, bước đi, tốc độ, biện pháp công nghiệp hoá, hiện đại hoá của mỗi nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội phải được xuất phát từ điều kiện lịch sử - cụ thể của mỗi nước và từ bối cảnh quốc tế trong mỗi thời kỳ. Chỉ có hoàn thành nhiệm vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước mới có thể xây dựng được cơ sở vật chất - kỹ thuật cho xã hội mới, nâng cao năng suất lao động đến mức chưa từng có để làm cho tình trạng dồi dào sản phẩm trở thành phổ biến, nhờ đó mới thực hiện được các mục tiêu của chủ nghĩa xã hội.

2. Xây dựng quan hệ sản xuất mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa

Phải xây dựng từng bước những quan hệ sản xuất mới phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất mới. Nhưng việc xây dựng quan hệ sản xuất mới không thể thực hiện theo ý muốn chủ quan duy ý chí mà phải tuân theo những quy luật khách quan về mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Xuất phát từ quan điểm cho rằng bất cứ một sự cải biến nào về mặt quan hệ sở hữu cũng đều phải là kết quả tất yếu của việc tạo nên những lực lượng sản xuất mới. Vì vậy, việc xây dựng quan hệ sản xuất mới ở nước ta phải được phát triển từng bước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở những nước như nước ta, chế độ sở hữu tất yếu phải đa dạng, cơ cấu kinh tế tất yếu phải có nhiều thành phần: kinh tế nhà

nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Đường lối phát triển một nền kinh tế nhiều thành phần có ý nghĩa chiến lược lâu dài, có tác dụng to lớn trong việc động viên mọi nguồn lực cả bên trong lẫn bên ngoài, lấy nội lực làm chính để xây dựng kinh tế, phát triển lực lượng sản xuất. Chỉ có thể cải tạo quan hệ sở hữu hiện nay một cách dần dần, bởi không thể làm cho lực lượng sản xuất hiện có tăng lên ngay lập tức đến mức cần thiết để xây dựng một nền kinh tế công hữu thuần nhất một cách nhanh chóng.

Vì quan hệ sở hữu là đa dạng cho nên phải có nhiều hình thức phân phối và nhiều hình thức tổ chức quản lý hợp lý, cũng như việc xác lập địa vị làm chủ của người lao động trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân phải diễn ra từng bước, dưới nhiều hình thức và đi từ thấp đến cao.

3. Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại

Đứng trước xu thế toàn cầu hoá kinh tế và sự tác động của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, nền kinh tế nước ta không thể là một nền kinh tế khép kín, mà phải tích cực mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại. Đó là xu thế tất yếu của thời đại, là vấn đề có tính chất quy luật trong thời đại ngày nay. Chúng ta "mở cửa" nền kinh tế, thực hiện đa dạng, đa phương hoá quan hệ kinh tế quốc tế, nhằm thu hút các nguồn lực phát triển từ bên ngoài và phát huy lợi thế kinh tế trong nước làm thay đổi mạnh mẽ về công nghệ, cơ cấu ngành và sản phẩm ... mở rộng phân công lao động quốc tế, tăng cường liên doanh, liên kết, hợp tác, là cơ sở để tạo điều kiện và kích thích sản xuất trong nước phát triển, vươn lên bắt kịp trình độ thế giới. Mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế phải trên nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi, tôn trọng độc lập, chủ quyền của nhau và không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau.

Muốn vậy, phải từng bước nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế; tích cực khai thác thị trường thế giới; tối ưu hoá cơ cấu xuất - nhập khẩu; tích cực tham gia hợp tác kinh tế khu vực và hệ thống mậu dịch đa phương toàn cầu; xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại với độc lập tự chủ, tự lực cánh sinh, bảo vệ an ninh kinh tế quốc gia.

Nói về tầm quan trọng của nhiệm vụ này, Đại hội XI của Đảng nhấn mạnh: "Đẩy mạnh hoạt động kinh tế đối ngoại, hội nhập sâu hơn và đầy đủ hơn với các thể chế kinh tế toàn cầu, khu vực và song phương, lấy phục vụ lợi ích đất nước làm mục tiêu cao nhất.

3. Tính tất yếu khách quan của sự tồn tại của cơ cấu kinh tế nhiều

thành phần

Thành phần kinh tế là khu vực kinh tế, kiểu quan hệ kinh tế dựa trên một hình thức sở hữu nhất định về TLSX.

Các thành phần kinh tế không tồn tại độc lập, mà có liên hệ chặt chẽ với nhau, tác động lẫn nhau tạo thành cơ cấu kinh tế thống nhất, bao gồm nhiều thành phần kinh tế.

Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên CNXH: là tổng thể các thành phần kinh tế trong môi trường hợp tác và cạnh tranh.

+ Xuất phát từ yêu cầu của quy luật kinh tế khách quan đó là quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta, do lực lượng sản xuất còn ở nhiều trình độ khác nhau về tư liệu sản xuất tức là nền kinh tế có nhiều thành phần khác nhau tạo thành cơ cấu kinh tế nhiều thành phần.

+ Xuất phát từ thực tiễn của công cuộc cải tạo và xây dựng quan hệ sản xuất mới XHCN ở nước ta:

Bước vào thời kỳ quá độ, do xã hội cũ để lại một số thành phần kinh tế dựa trên

chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất: Kinh tế tư nhân; kinh tế cá thể, tiểu chủ. -Mà không bỗng chốc chúng ta có thể cải tiến ngay 1 lúc.

-Trong khi cải tạovà xây dựng quan hệ sản xuất mới ở nước ta đã xuất hiện 1 số

thành phần kinh tế mới: kinh tế Nhà nước; kinh tế tập thể, kinh tế tư bản Nhà nước.

-Như vậy, tất cả các thành phần kinh tế cũ và mới tồn tại đan xen và tạo thành cơ

cấu kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ.

+ Xuất phát từ yêu cầu khách quan của công cuộc xây dựng CNXH là phải giải phóng mọi tiềm năng về vốn, về tài nguyên, về đất đai hay công nghệ nhằm mục đích khai thác và đưa vào sử dụng có hiệu quả để sử dụng nhanh chóng và có hiệu quả những nhiệm vụ mà cách mạng đã đặt ra. Cụ thể có 3 nhiệm vụ:

-CNH, HĐH đất nước

-Phát triển kinh tế và thị trường. Ở VN đang phát triển kinh tế và thị trường, nhiều

trung tâm mua sắm được mở ra ở các đô thị, thành phố lớn, các chợ nhỏ lẻ đến các chợ lớn tập trung.

-Cải thiện đời sống nhân dân. Chủ trương của Đảng: khuyến khích người nông

dân làm giàu. Đã có các quyết định đổi mới: “Đảng viên vẫn có thể làm giàu”

+ Xuất phát từ yêu cầu tạo việc làm cho người lao động. Đất nước ta có dân số đông (trên 85 triệu người, với trên 43 triệu người trong độ tuổi lao động) trong khi khả năng thu hút của khu vực kinh tế Nhà nước còn hạn chế. Cần thiết nền kinh tế nhiều thành phần là 1 giải pháp quan trọng tạo công ăn việc làm cho người lao động (tạo công ăn việc làm là cách phát triển các loại hình kinh tế) => đem lại 2 lợi ích bởi vì: 1 mặt đem lại nguồn lực lao động, tránh lãng phí, mặt khác tăng thu nhập, nâng cao đời sống, ổn định kinh tế.

4. Nội dung các thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ ở VN

Căn cứ vào nguyên lý chung và điều kiện cụ thể của VN, ĐCSVN xác định nền kinh tế trong thời kỳ quá độ có 5 thành phần: Kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.

a) Kinh tế nhà nước

Cơ sở:

- Khái niệm : là thành phần kinh tế dựa trên chế độ sở hữu công cộng(công hữu) về TLSX (sở hữu toàn dân và sở hữu nhà nước).

Kinh tế NN bao gồm:

+ Doanh nghiệp Nhà nước hoạt động trong lĩnh vực: công nông nghiệp, thương nghiệp, GTVT.

+ Toàn bộ hệ thống ngân hàng, tài chính quỹ bảo hiểm, tài chính quốc gia. + Các tài sản thuộc sở hữu nhà nước như tài nguyên thiên nhiên, ngân sách nhà

nước, hệ thống kho bạc…

+ Các thành phần vốn góp của nhà nước vào các thành phần kinh tế khác

Đặc điểm:

· Đây là thành phần kinh tế gắn liền với hình thức sở hữu cao nhất và chín muồi nhất trong thời kỳ quá độ. Bởi vì nó đại diện cho phương thức sản xuất mới XHCN (đứng trên lợi ích của toàn xã hội, toàn dân)

· Nhà nước nắm giữ những khâu, những ngành, những lĩnh vực then chốt trọng yếu trong nền kinh tế đất nước (xăng dầu, bưu chính, viễn thông… tập đoàn bảo hiểm, may điện….)

· Dựa trên trình độ của lực lượng sản xuất tương đối cao, trình độ quản lý và phân phối sản phẩm gắn với bản chất của xã hội mới - XHCN. Cụ thể nó được thể hiện trong các doanh nghiệp Nhà nước:

§ Về sở hữu: Đó là sở hữu công cộng

17

§ Về quản lý: Thực hiện quản lý dân chủ. Mọi người đều có quyền bình đẳng trong quản lý và phân phối sản phẩm. Nhà nước giao cho các doanh nghiệp theo cơ chế tự chủ còn Nhà nước quản lý ở tầm vĩ mô.

Vai trò:

- Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân bởi vì:

+ Đảm bảo định hướng XHCN

+ Kinh tế nhà nước dựa trên chế độ sở hữu công cộng về TLSX đây là một chế độ sở hữu tiên tiến bởi vì nó dựa trên một TLSX đạt trình độ XH hóa cao.

+ Kinh tế nhà nước có thực lực, có sức mạnh kinh tế cần thiết để giữ vai trò chủ

đạo

+ Kinh tế nhà nước có quan hệ quản lý và quan hệ phân phối gần với CNXH

- Vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước thể hiện như sau:

+ Kinh tế Nhà nước là chỗ dựa vững chắc trong nền kinh tế đất nước. Vì: § Là thành phần kinh tế chủ yếu tạo nguồn thu cho NSNN

§ Là đòn bẩy thúc đẩy phát triển kinh tế, trung bình hơn 10 năm qua tốc độ phát triển của kinh tế Nhà nước cao hơn nhiều so với các thành phần kinh tế khác.

§ Thể hiện tiến bộ công bằng xã hội đầu tư cho vùng sâu, vùng xa…. Ví dụ: Chính Phủ hỗ trợ cho sinh viên nghèo vượt khó, Ngân hàng chính sách của Nhà nước, Nhà nước đầu tư hàng loạt các chương trình: 135, hệ thống điện, đường, trường, trạm. Chương trình 134: cho vay khuyến khích các đồng bảo vùng sâu, vùng xa làm kinh tế, chương trình 327: phủ xanh đất trống đồi trọc. Chương trình 773: khai phá các vùng ven sông, ven biển, phát triển kinh tế biển, thành lập các HTX đánh bắt xa bờ.

§ Mở đường hướng dẫn hỗ trợ các thành phần kinh tế khác theo định hướng XHCN.

oXây dựng cơ sở hạ tầng để từ đó phát triển các thành phần kinh tế khác (đường đến bản, làng, thôn xóm được đổ bê tông…)

oTạo điều kiện để đào tạo nhân lực, chuyển giao công nghệ cho các thành phần kinh tế khác.

+ Kinh tế Nhà nước là lực lượng vô cùng quan trọng, là công cụ để Nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế (do Nhà nước nền kinh tế nhiều thành phần)

Tự phát (tư hữu), tự giác (công hữu) => mục đích lợi nhuận. => kinh tế nhà nước là công cụ, Nhà nước phải có công nghệ, chất lượng, phạm vi, nhân lực cao chi phối đến tư hữu >> Nhà nước định hướng theo con đường XHCN.

- Thực trạng nền kinh tế nhà nước hiện nay:

+ Kinh tế nhà nước hiện nay chưa làm tốt vai trò chủ đạo. Vẫn còn rất nhiều doanh nghiệp nhà nước làm ăn thua lỗ và kém hiệu quả.

+ Kinh tế nhà nước còn dàn trải trong nhiều ngành, nhiều lĩnh vực khác nhau + Kinh tế nhà nước chưa trở thành công cụ điều tiết có hiệu quả của nhà nước.

- Giải pháp :

+Sắp xếp lại DNNN được thực hiện theo phương hướng sau:

Thứ nhất: xây dựng một số tập đoàn kinh tế mạnh trên cơ sở các tổng công ty NN, có sự tham gia của các thành phần kinh tế. Khẩn trương cải thiện tình hình tài chính và lao động của các doanh nghiệp nhà nước, củng cố và hiện đại hoá một bước các tổng công ty nhà nước.

Thứ hai: thực hiện tốt chủ trương cổ phần hóa và đa dạng hóa sở hữu đối với những doanh nghiệp mà NN không cần nắm giữ 100%.

Thứ ba: giao bán, cho thuê,… các DN loại nhỏ mà NN không cần nắm giữ.

Thứ tư: Sáp nhập, giải thể cho phá sản các DN hoạt động không hiệu quả và không thực hiện được các biện pháp trên.

+ Lành mạnh hóa tài chính doanh nghiệp, giải quyết nợ nần không có khả năng thanh toán và có giải pháp ngăn chặn tình trạng trên tái phát

+ Phải đổi mới cơ chế chính sách đối với các doanh nghiệp nhà nước theo hướng triệt để xóa bỏ tập trung quan liêu bao cấp các doanh nghiệp cạnh tranh bình đẳng trên thị trường, tự chịu trách nhiệm về hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh.

b)Kinh tế tập thể:

- Khái niệm: Là thành phần kinh tế dựa trên hình thức sở hữu tập thể hoặc sở hữu của các thành viên tham gia. Nó bao gồm những cơ sở kinh tế do người lao động tự nguyện góp vốn cùng kinh doanh, tự quản lý theo nguyên tắc tập trung, bình đẳng cùng có lợi.

- Đặc điểm:

+ Có nhiều hình thức hợp tác đa dạng mà nòng cốt là HTX dựa trên sở hữu của các thành viên hoặc sở hữu tập thể. (Trong giai đoạn kinh tế bao cấp tồn tại ở hình thức tổ, nhóm lao động, tập đoàn sản xuất, HTX; Trong giai đoạn kinh tế thị trường tồn tại ở hình thức HTX, hiệp hội, kinh tế hộ, kinh tế trang trại dựa trên tài sản là đóng góp vốn)

+ Nhà nước có thể phát triển những ngành nghề khác nhau ở cả thành thị và nông thôn.

+ Phân phối theo lao động, theo vốn góp và mức độ tham gia dịch vụ. + Hoạt động theo nguyên tắc tự chủ, tự chịu trách nhiệm. - Vị trí và vai trò:

+ Có vị trí quan trọng trong sự phát triển kinh tế, đặc biệt là khu vực Nông nghiệp, nông thôn

+ Cùng với kinh tế Nhà nước tạo nền tảng kinh tế cho xã hội mới, xã hội XHCN

- Quan điểm của Đảng đối với thành phần kinh tế tập thể: (đinh hướng & biện pháp phát triển)

+ Phát triển kinh tế tập thể lấy lợi ích kinh tế làm chính

+ Phát triển kinh tế tập thể theo phương châm tích cực vững chắc xuất phát từ nhu cầu thực tế đi từ thấp tới cao, đạt hiệu quả thiết thực vì mục tiêu phát triển sản xuất

+ Đối với hợp tác xã trong lĩnh vực nông nghiệp nông thôn: Phát triển kinh tế tập thể phải đảm bảo quyền tự chủ của kinh tế hộ và kinh tế trang trại, hỗ trợ đắc lực cho kinh tế hộ và kinh tế trang trại

+ Phát triển kinh tế tập thể gắn liền với tiến trình CNH, HĐh nông nghiệp nông thôn không ngừng nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.

+ Sự phát triển của kinh tế tập thể cần có sự lãnh đạo của Đảng và sự hỗ trợ của nhà nước về vốn, khoa học kỹ thuật, đào tạo cán bộ quản lý .

c)Kinh tế tư nhân:

Bao gồm 3 hình thức kinh tế chủ yếu: kinh tế cá thể, kinh tế tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân.

*) Kinh tế cá thể tiêu chủ

- Kinh tế cá thể: là hình thức kinh tế dựa trên tư hữu nhỏ về TLSX và khả năng lao động của bản thân người lao động và gia đình.

- Kinh tế tiểu chủ: là hình thức kinh tế dựa trên tư hữu nhỏ về TLSX nhưng có thuê mướn lao động tuy nhiên mức thu nhập vẫn chủ yếu dựa vào sức lao động và vốn của bản thân và gia đình.

Như vậy kinh tế cá thể tiểu chủ là kinh tế dựa trên tư hữu nhỏ về tư liệu sản xuất và thuê mướn người lao động làm thuê. Tuy nhiên thu nhập chủ yếu vẫn dựa vào sức lao động và vốn của bản thân, gia đình.

Đặc điểm:

- Chủ yếu hoạt động dưới hình thức kinh tế hộ và kinh tế trang trại - Nó phát triển nhanh trong nông - lâm - ngư - nghiệp và tiểu thủ CN, thương

nghiệp & dịch vụ.

Vị trí & Vai trò:

Mang tính 2 mặt

* Tích cực:

o Tạo ra nhiều của cải vật chất cho xã hội o Giải quyết công ăn việc làm cho người lao động. o Tăng thu nhập cho người lao động.

* Hạn chế:

2 hình thức kinh tế này lao động mang tính manh mún, tự phát và hạn chế về kỹ

thuật.

- Quan điểm của Đảng đối với thành phần kinh tế này: Cần phát huy mạnh mẽ thành phần kinh tế này để vừa tạo ra nhiều của cải vật chất cho xã hội vừa giải quyết công ăn việc làm cho ng lao động

- Xu hướng phát triển của thành phần kinh tế này:

Về lâu dài: Kinh tế cá thể tiểu chủ không thể khắc phục được những hạn chế vốn có của nó( tính tự phát, manh mún, hạn chế kỹ thuật…) Một mặt cũng cần phải giúp đỡ kinh tế cá thể tiểu chủ khắc phục các hạn chế vốn có đồng thời khuyến khích tổ chức hợp tác với các doanh nghiệp lớn và phát triển với quy mô lớn hơn.

*)Kinh tế tư bản tư nhân

- Kinh tế tư bản tư nhân: là hình thức kinh tế mà sản xuất, kinh doanh dựa trên cơ sở chiếm hữu tư nhân TBCN về TLSX và bóc lột sức lao động làm thuê.

- Đặc điểm:

- Hình thức tồn tại chủ yếu là doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp cổ phần, công ty TNHH, công ty cổ phần do các thành viên sáng lập.

- Hình thức kinh tế này năng động, nhạy bén với nền kinh tế thị trường. - Quy mô của các doanh nghiệp chủ yếu là vừa và nhỏ, nó tập trung ở những

ngành, những lĩnh vực như: kinh doanh dịch vụ, thương mại, kinh doanh bất động sản, đầu tư vào sản xuất còn ít.

- Vị trí & vai trò: Mang tính 2 mặt

* Tích cực:

o Trong thời kỳ quá độ nó có vị trí quan trọng trong việc phát triển lực lượng sản

xuất để đẩy nhanh việc thực hiện xã hội hóa sản xuất. Bởi vì sự phát triển của kinh tế tư bản tư nhân sẽ tạo ra những tiền đề cho việc khai thác vốn, kỹ thuật và công nghệ

o Giải quyết công ăn việc làm cho người lao động, giải quyết các vấn đề xã hội,

tăng thu nhập cho người lao động.

o Đóng góp vào quá trình tăng trưởng kinh tế, tăng trưởng sản phẩm xã hội, tạo

nguồn thu cho NSNN.

* Hạn chế:

o Trốn đăng ký kinh doanh, lừa đảo

o Gây ô nhiễm môi trường và 1 số tai họa khác cho xã hội.

- Quan điểm của Đảng đối với thành phần kinh tế này:

Đây là thành phần kinh tế tự phát cao đã xuất hiện những hiện tượng tiêu cực trong thành phần kinh tế này. Mặt khác, khuyến khích DN tư nhân chuyển thành cty cổ phần hoặc kinh tế tư bản tư nhân liên doanh liên kết với nhua hoặc liên kết với nhà nước để chuyển sang kttb nhà nước.

d)Kinh tế tư bản nhà nước:

- Khái niệm: là thành phần kinh tế dựa trên hình thức sở hữu hỗn hợp, đan xen giữa hình thức liên doanh liên kết giữa kinh tế nhà nước và tư bản tư nhân trong nước và ngoài nước, mang lại lợi ích thiết thực cho các bên đầu tư kinh doanh.

Đặc điểm:

+ Nó bao gồm các hình thức tồn tại: o Nhà nước Việt Nam với nhà nước TBCN o Nhà nước VN với tư bản tư nhân trong và ngoài nước o Doanh nghiệp Nhà nước VN với các công ty nước ngoài 23

+ Thành phần kinh tế này phục vụ lợi ích cho các bên đầu tư

+ Thành phần kinh tế này tạo ra tiền đề vật chất cho quá trình xây dựng xã hội mới XHCN. Đó là nền sản xuất lớn, hiện đại, có trình độ quản lý cao, nâng cao vai trò quản lý vĩ mô của Nhà nước.

Vai trò: KTTB nhà nước giữ vai trò cầu nối, là trạm trung gian cần thiết để chuyển sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn ở nước ta.

Quan điểm của Đảng đối với thành phần kinh tế này: Phát triển thành phần kinh tế này theo phương châm mang lại lợi ích thiết thực cho các bên đầu tư kinh doanh

e)Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài:

Khái niệm: bao gồm các doanh nghiệp có thể 100% vốn nước ngoài (một thành viên hoặc nhiều thành viên), có thể liên kết, liên doanh với DNN hoặc DN tư nhân của nước ta.

Đặc điểm: Là kết quả tất yếu của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Vai trò:

+ Nó đóng góp vai trò quan trọng trong việc sản xuất hàng hóa xuất khẩu + Xây dựng kết cấu hạ tầng

+ Thu hút công nghệ hiện đại, tạo công ăn việc làm cho xã hội. Tuy nhiên, đây cũng là thành phần kinh tế có những tác động tiêu cực như lấn át

các doanh nghiệp trong nước, làm phân hóa xã hội sâu sắc,…Do vậy, phải tăng cường quản lý để hạn chế những tác động tiêu cực này.

Quan điểm của Đảng đối với thành phần kinh tế này:

Đảng ta khẳng định: tạo điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, hướng vào những mặt hàng sx cho xuất khẩu và thu hút công nghệ hiện đại. Trong thời gian tới cần phải có cải thiện mạnh mẽ môi trường kinh tế và pháp lý để thu hút mạnh vốn đầu tư nước ngoài

5. Khái niệm và tính tất yếu khách quan của CNH, HĐH

Tại sao ở Việt Nam công nghiệp hóa phải gắn liền với hiện đại hóa?

*)Khái niệm:

Ở thế kỷ XVII, XVIII , khi cách mạng công nghiệp được tiến hành ở Tây Âu, công nghiệp hóa được hiểu là quá trình thay thế lao động thủ công bằng lao động sử dụng máy móc.

Khi công nghiệp hóa mang tính lịch sử tứ là luôn có sự thay đổi cùng sự phát triển của nền sản xuất xã hội, của khoa học - công nghệ. Do đó việc nhận thức đúng đắn khái niệm này trong từng giai đoạn phát triển của nền sản xuất xã hội có ý nghĩa to lớn cả về lý luận và thực tiễn

Từ thực tiễn công nghiệp hóa ở Việt nam trong thời kỳ đổi mới, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ VII Đảng cộng sản VN đã xác định: CNH, HĐH là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế-xã hội từ sử dụng sức lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến hiện đại dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ KH-CN nhằm tạo ra NSLĐ xã hội cao.

Phân biệt quan điểm của Đảng về vấn đề CNH:

+ Kế thừa và chọn lọc những tri thức văn minh của nhân loại. Vì vậy việc áp dụng những bài học kinh nghiệm của các nước đi trước trong quá trình CNH cũng như xuất phát từ thực tiễn quá trình CNH đất nước giai đoạn hiện nay nên ĐH Đảng VII và Hội nghị BCH TW VII khóa 6 đã khẳng định CNH bao hàm cả những hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ, quản lý kinh tế xã hội được sử dụng các phương tiện, phương pháp tiên tiến hiện đại với trình độ kỹ thuật công nghệ cao.

+ Quan điểm cũ trước đây (ĐH III - 1960) chỉ bó hẹp trong phạm vi trình độ lực lượng sản xuất với kỹ thuật đơn thuần để chuyển lao động thủ công thành lao động cơ khí.

*) Đặc điểm chủ yếu của CNH, HĐH ở nước ta hiện nay:

Thứ nhất, CNH phải gắn liền với HĐH. Sở dĩ như vậy là vì do ảnh hưởng của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, một số nước phát triển đã bắt đầu chuyển từ văn minh công nghiệp sang văn minh hậu công nghiệp. Vì vậy đối với nước ta để chuyển từ sản xuất nhỏ sang sản xuất lớn, trước hết phải tiến hành CNH, và chúng ta tiến hành CNH trong điều kiện thế giới đang diễn ra cuộc CM khoa học công nghệ cho nên phải tranh thủ ứng dụng những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, tiếp cận kinh tế tri thức để hiện đại hoá những ngành, những khâu, những lĩnh vực có điều kiện nhảy vọt, thực hiện rút ngắn thời gian và nâng cao hiệu quả của CNH.

Thứ hai, CNH nhằm mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.Công nghiệp hoá là tất yếu với tất cả các nước chậm phát triển nhưng với mỗi nước, mục tiêu và tính chất của công nghiệp hoá có thể khác nhau. ở nước ta, công nghiệp hoá nhằm xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội, tăng cường sức mạnh để bảo vệ nền độc lập dân tộc.

Ở VN, CNH nhằm mục tiêu xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuât cho CNXH, tăng cường sức mạnh vật chất để bảo vệ độc lập dân tộc.

+ Trước 1986, CNH tiến hành trong cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, thực hiện theo kế hoạch và mệnh lệnh Nhà nước.

+ Sau 1986, CNH tiến hành trong cơ chế thị trường, cạnh tranh và vận dụng các quy luật kinh tế thị trường cùng với các vai trò kinh tế của Nhà nước

Như vậy CNH giai đoạn hiện nay được tiến hành trong điều kiện vận dụng lý thuyết nền kinh tế hỗn hợp của Samuelson

Thứ ba, công nghiệp hoá, hiện đại hóa trong điều kiện cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước. Điều này làm cho công nghiệp hoá trong giai đoạn hiện nay khác với công nghiệp hoá trong thời kỳ trước đổi mới. Trong cơ chế quản lý kinh tế kế hoạch hoá tập trung - hành chính, bao cấp, công nghiệp hoá được thực hiện theo kế hoạch, theo mệnh lệnh của Nhà nước. Trong cơ chế kinh tế hiện nay, Nhà

nước vẫn giữ vai trò hết sức quan trọng trong quá trình công nghiệp hoá. Nhưng công nghiệp hoá không xuất phát từ chủ quan của Nhà nước, nó đòi hỏi phải vận dụng các quy luật khách quan mà trước hết là các quy luật thị trường.

Thứ tư, công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế quốc dân trong bối cảnh toàn cầu hoá kinh tế, vì thế mở cửa nền kinh tế, phát triển các quan hệ kinh tế quốc tế là tất yếu đối với đất nước ta.

Công nghiệp hoá trong điều kiện “chiến lược” kinh tế mở có thể đi nhanh nếu chúng ta biết tận dụng, tranh thủ được thành tựu của thế giới và sự giúp đỡ quốc tế. Công nghiệp hoá trong điều kiện “chiến lược” kinh tế mở cũng gây nên không ít trở ngại do những tác động tiêu cực của nền kinh tế thế giới, do "trật tự" của nền kinh tế thế giới mà các nước tư bản phát triển thiết lập không có lợi cho các nước nghèo, lạc hậu. Vì thế, công nghiệp hoá, hiện đại hoá phải bảo đảm xây dựng nền kinh tế nước ta là một nền kinh tế độc lập, tự chủ.

*)Tính tất yếu khách quan của CNH, HĐH:

+ Cơ sở vật chất-kỹ thuật của một xã hội là toàn bộ hệ thống các yếu tố vật chất của LLSX xã hội phù hợp với trình độ kỹ thuật tương ứng mà lực lượng lao động xã hội sử dụng để sản xuất ra của cải vật chất nhằm thỏa mãn nhu cầu xã hội.

+ Mỗi phương thức sản xuất xã hội chỉ có thể được xác lập vững chắc trên cơ sở vật chất - kỹ thuật tương ứng.

+ Cơ sở vật chất kỹ thuật của CNTB là nền đại công nghiệp cơ khí nhưng không phải ngay từ buổi đầu CNTB đã có cơ sở vật chất của chính nó mà CNTB phải trải qua một thời kỳ xây dựng lâu dài từ hiệp tác giản đơn đến công trường thủ công, sau đó mới là đại công nghiệp cơ khí

+ Cở sở vật chất kỹ thuật là nền sx lớn, hiện đại, có cơ cấu kt hợp lý, có trình độ chuyên môn hóa cao dựa trên KH công nghệ tiên tiến hiện đại được hình thành có kế hoạch và thống trị trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân.

+ Để có cơ sở vật chất của CNH cta phải trải qua quá trình xây dựng lâu dài và xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật là nhiệm vụ trọng tâm xuyên suốt trong thời kỳ quá độ lên CNXH, nó là quy luật kinh tế chung cho tất cả các nước khi quá độ lên CNXH

VN đi lên CNXH từ 1 nước nông nghiệp lạc hậu, cơ sở vật chất kỹ thuật thấp kém, trình độ của lực lượng sx chưa phát triển, quan hệ sx XHCN mới thiết lập.

Quá trình CNH chính là quá trình xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho nền kinh tế quốc dân. Mỗi bước tiến của quá trình CNH, HĐH là 1 bước tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật cho CNXH, phát triển mạnh mẽ lực lượng sx, hoàn thiện quan hệ sx XNCN.

Trong xu thế khu vực hóa và toàn cầu hóa về kinh tế đang phát triển mạnh mẽ, trong điều kiện cách mạng khoa học kỹ thuật hiện đại phát triển rất nhanh chóng, đất nước ta phải chủ động nắm lấy thời cơ, phát huy những thuận lợi để đẩy nhanh quá trình CNH tạo ra thế và lực mới để vượt những khó khăn đẩy lùi nguy cơ, đưa nền kinh tế tăng trưởng và phát triển bền vững.

Chính vì vậy VN tất yếu phải tiến hành CNH, HĐH theo định hướng XHCN. *) Ở Việt Nam công nghiệp hóa phải gắn liền với hiện đại hóa là do: trên thế giới

đang diễn ra cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, một số nước phát triển đã bắt đầu chuyển từ nền kinh tế công nghiệp sang kinh tế tri thức, nên phải tranh thủ ứng dụng những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ , tiếp cận kinh tế tri thức để hiện đại hóa những ngành, những khâu, những lĩnh vực có điều kiện nhảy vọt.

6. Trình bày nội dung cơ bản của CNH, HĐH trong thời kỳ quá độ

tại Việt Nam

CNH, HĐH trong thời kỳ quá độ gồm 2 nội dung chính:

Thứ nhất: Phát triển LLSX, xây dựng cơ sở vật chất-kỹ thuật cho CNXHtrên cơ sở thực hiện cơ khí hóa nền sản xuất xã hội và áp dụng những thành tựu khoa học-công nghệ hiện đại.

Cơ khí hóa nền kinh tế quốc dân nhằm chuyển lao động thủ công thành lao động sản xuất máy móc, để tạo ra năng suất lao động cao, phát triển lực lượng sản xuất, đây là bước chuyển đổi căn bản từ nền kinh tế nông nghiệp sang nền kinh tế công nghiệp.

Đi liền với cơ khí hóa là điện khí hóa, từng bước thực hiện tự động hóa sản xuất rồi tiến tới tự động hóa toàn bộ nền kinh tế. Vì vậy, việc phát triển CN sản xuấttư liệu sản xuất nhằm nhanh chóng rút ngắn khoảng cách lạc hậu về kinh tế và tranh thủ những phát minh khoa học của thế giới.

Phát triển KHCN: khi KHCN đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp thì phát triển KHCN trở thành 1 nội dung không thể thiếu trong quá trình CNH, HĐH đất nước. Và việc phát triển KHCN ở nước ta nhằm mục đích phát huy được lợi thế của đất nước, tận dụng mọi khả năng, để ứng dụng ngày càng nhiều những thành tựu mới của KHCN và từng bước chuyển sang nền kinh tế tri thức.

Đào tạo lực lượng lao động có chất lượng cao, do lực lượng lao động là yếu tố quan trọng nhất của lực lượng sản xuất. Vì vậy, trong quá trình CNH phải đào tạo lực lượng lao động có trình độ văn hóa - KHCN nhằm đáp ứng yêu cầu của nền sản xuất lớn, hiện đại.

ðTính đến thời điểm 2004 - 2005, đội ngũ cán bộ KHCN ở trình độ CĐ, ĐH có khoảng hơn 2 triệu người, trong đó ở trình độ thạc sĩ là hơn 20 nghìn người, trình độ tiến sĩ khoảng 10 nghìn người.

Thứ hai: xây dựng cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại, hợp lý có hiệu quả.

Khái niệm: theo nghĩa rộng, Cơ cấu của nền kinh tế quốc dân là cấu tạo hay cấu trúc của nền kinh tế bao gồm các ngành kinh tế, các vùng kinh tế, các thành phần kinh tế... và mối quan hệ hữu cơ giữa chúng. (Đối với VN, trong quá trình CNH, CN giữ vị chí then chốt, sau khi CNH, dịch vụ giữ vị trí then chốt)

Theo nghĩa hẹp: cơ cấu kinh tế là tổng thể các quan hệ kinh tế giữa các ngành, các lĩnh vực kinh tế và các vùng kinh tế, trong đó quan hệ giữa CN - NN và dịch vụ là quan trọng nhất. Đó là bộ xương của cơ cấu kinh tế nền kinh tế quốc dân.

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế là quá trình tác động của con người, làm thay đổi các bộ phận cấu thành tổng thể của nền kinh tế và mối quan hệ tương quan tỷ lệ giữa các bộ phận cấu thành so với tổng thế nền kinh tế quốc dân.

Một cơ cấu kinh tế được coi là hợp lý khi nó đáp ứng được các yêu cầu sau:

+ Nông nghiệp phải giảm dần về tỷ trọng; công nghiệp, xây dựng và dịch vụ phải tăng dần về tỷ trọng.

+ Trình độ kỹ thuật của nền kinh tế không ngừng tiến bộ, phù hợp với xu hướng của sự tiến bộ khoa học và công nghệ đã và đang diễn ra như vũ bão trên thế giới.

+ Cho phép khai thác tối đa mọi tiềm năng của đất nước, của các ngành, các địa phương, các thành phần kinh tế.

+ Thực hiện sự phân công và hợp tác quốc tế theo xu thế toàn cầu hoá kinh tế, do vậy cơ cấu kinh tế được tạo dựng phải là "cơ cấu mở".

Như vậy, xây dựng 1 cơ cấu kinh tế hợp lý là 1 tất yếu khách quan, tuy vậy cơ cấu kinh tế ở nước ta hiện nay vẫn chưa thật sự hợp lý. Biểu hiện là tỷ trọng ngành NN vẫn còn quá cao ~ 20% GDP. Trong NN tồn tại hiện tượng độc canh cây lúa và cơ cấu vùng chưa thật sự hợp lý. Do đó Đảng ta đã xác định 1 cơ cấu kinh tế hợp lý trong giai đoạn hiện nay mà bộ xương của nó “ cơ cấu công - nông nghiệp, dịch vụ gắn với phân

công và hợp tác quốc tế sâu rộng”. Phấn đấu đến năm 2020 tỷ trọng các ngành trong GDP: NN: 16 - 17%, CN: 40 - 41%, DV: 42 - 43%.

Thực trạng của chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nước ta hiện nay:

+ Năm 1960 - ĐH III, 1 cơ cấu kinh tế CN năng - CN nhẹ - NN + Năm 1976 - ĐH IV: Ưu tiên phát triển CN nặng 1 cách hợp lý, sau đó mới tiến

tới CN nhẹ rồi NN

+ Năm 1981 - ĐH V: Coi NN là mặt trận hàng đầu, sau đó đến phát triển CN nhẹ, rồi CN nặng.

+ Năm 1986 - ĐH VI: thực hiện 3 chương trình kinh tế lớn: lương thực - thực phẩm; hàng tiêu dùng; hàng xuất khẩu

+ Năm 1996 - ĐH VIII: CN - NN - DV, gắn liền với phân công lao động và mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế sâu rộng.

Phương châm thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế:

+ Kết hợp CN với nhiều trình độ, tranh thủ CN mũi nhọn, tận dụng lao động dồi dào để vừa rút ngắn khoảng cách lạc hậu vừa phù hợp với vốn của nước ta.

+ Lấy quy mô vừa và nhỏ làm chủ yếu, có tính đến quy mô lớn khi có điều kiện + Giữ vững tốc độ phát triển hợp lý và cân đối giữa các ngành, các lĩnh vực và

các vùng kinh tế.

Phát huy lợi thế của các ngành của đất nước, tăng cường sức cạnh tranh, tạo thêm sức mua của thị trường trong nước và mở rộng thị trường nước ngoài.

7. Những tiền đề thực hiện CNH, HĐH trong thời kỳ quá độ lên

CNXH

1.

Huy động vốn và sử dụng vốn có hiệu quả

·

Tính tất yếu

CNH, HĐH là quá trình phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng nền sản xuất lớn, hiện đại, do đó phải có 1 nguồn vốn lớn để mở rộng đầu tư, cải tiến công nghệ và để đáp ứng nhu cầu đó cần phải thu hút vốn đầu tư cả ở trong và ngoài nước.

·

Nguồn vốn:

+ Nguồn vốn trong nước (quyết định):

Đây là nguồn vốn dựa vào năng lực nội sinh của đất nước do lao động thặng dư của người lao động trong mọi thành phần kinh tế tạo ra.

Nó giữ vai trò quyết định trong quá trình CNH, HĐH đất nước, bởi vì, đây là nguồn vốn đảm bảo cho sự độc lập về kinh tế.

Để nâng cao năng lực tích lũy vốn trong nước cần phải tăng cường NSLĐ bằng cách trang bị những kỹ thuật hiện đại cho những ngành của nền kinh tế.

Có hệ thống chính sách phù hợp các tác dụng khuyến khích tạo ra nhiều của cải thặng dư,

Coi tiết kiệm là quốc sách để tăng tích lũy, phát triển kinh tế.

+ Nguồn vốn nước ngoài:

- Đây là nguồn vốn bổ sung cho nguồn vốn trong nước để đẩy nhanh tiến trình CNH, HĐH giúp các nước nghèo khắc phục khó khăn về vấn đề nâng cao trình độ KHCN, giải quyết việc làm.

Để thoát ra khỏi cái vòng luẩn quẩn: vì nghèo nên tích luỹ thấp; tích luỹ thấp thì tăng trưởng kinh tế chậm và khó thoát khỏi đói nghèo; cần phải tận dụng mọi khả năng để thu hút các nguồn vốn từ bên ngoài.

- Giai đoạn từ 2001 - 2005: nguồn vốn từ nước ngoài chảy vào VN là 166, 3 nghìn tỷ. Thông qua nhiều con đường khác nhau:

o Đầu tư trực tiếp (FDI): thực chất là các nhà tư bản, các doanh nghiệp nước ngoài mang vốn đầu tư vào VN.

o Viện trợ ODA

o Kiều hối ở nước ngoài: người VN lao động ở nước ngoài đầu tư vào trong

nước.

- Mặt hạn chế của việc sử dụng nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài: o Chấp nhận bị bóc lột

o Tài nguyên bị khai thác

o Gánh nặng nợ nước ngoài tăng lên nếu sử dụng không hiệu quả. +Biện pháp thu hút và sử dụng vốn có hiệu quả: §Xây dựng và phát triển thị trường vốn:

· Tạo điều kiện cho người sở hữu vốn có thể chuyển quyền sử dụng vốn cho người khác để có thu nhập.

· Tạo điều kiện để di chuyển vốn dễ dàng, để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.

§Mở rộng các hình thức liên doanh, liên kết với các nhà đầu tư nước ngoài. §Tạo môi trường đầu tư hấp dẫn, 1 môi trường đầu tư hấp dẫn khi:

· Có tỷ lệ lạm phát hợp lý ( nhỏ hơn 10%)

· Có chính trị ổn định, có kinh tế tăng trưởng

· Có nền an ninh quốc phòng đảm bảo, có chính sách mở của nền kinh tế. · Môi trường pháp lý thông thoáng.

2.

Đào tạo nguồn nhân lực

Phải đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng cao để đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. VD: tính từ năm 1979 trở lại đây: Theo cuộc tổng điều tra dân số năm 2004: tổng dân số lao động là 43,255 tr người, trong đó nữ: 21,4. Nam:

21,8. Thành thị: 10,5tr, nông thôn: 32,7 tr…

Theo trình độ giáo dục: chưa biết chữ >2tr, chưa tốt nghiệp tiểu học>5 tr, tốt nghiệp tiểu học: 13 tr, Tốt nghiệp THCS: 14 tr, tốt nghiệp THPT: 8 tr,

Theo trình độ chuyên môn kỹ thuật: chưa có chuyên môn: 33,5 tr, có chuyên môn 9,3 tr: trong đó: Công nhân kỹ thuật có bằng: 4,7 tr, TH chuyên nghiệp: 1,9 tr, CĐ, ĐH trở lên: 2,1 tr.

Như vậy lợi thế quan trọng của VN về nguồn lực con người vẫn chưa được phát huy đầy đủ, tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị cao (6%); thời gian làm việc trong khu vực nông nghiệp, nông thôn thấp, thời gian lao động nông nhàn rỗi cao (33%), tỷ lệ lao động chưa qua đào tạo còn cao, cơ cấu lao động vẫn còn tình trạng mất cân đối nghiêm trọng (năm 2006 lao động trong NN vẫn chiếm 61%)

Biện pháp:

+ Đẩy mạnh công tác giáo dục đào tạo 1 cơ cấu nhân lực đồng bộ + Tạo điều kiện để nâng cao thể lực cho người lao động, phải phát triển hệ thống

y tế, phong trào thể thao, cải tọa điều kiện cảnh quan môi trường sống,

+ Bố trí sử dụng tốt nguồn nhân lực đã đào tạo, để phát huy khả năng sở trường cũng như chuyên môn được đào tạo trên cơ sở đó nhằm phát huy tính sáng tạo, nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm.

3.

Phát triển KHCN

-

KHCN là yếu tố cơ bản quyết định lợi thế cạnh tranh và tốc độ phát triển

của nền kinh tế nói chung và quá trình CNH nói riêng, nó được xác định là động lực của CNH.

Phát triển KHCN trong những năm trước mắt cần tập trung:

oMở rộng hợp tác với nước ngoài về khoa học và công nghệ oXây dựng tiềm lực để phát triển 1 nền khoa học tiên tiến, chú trọng đào tạo

các chuyên gia đầu đàn, tăng cường cơ sở vật chất cho các ngành KHCN.

oĐẩy mạng công tác nghiên cứu để đánh giá chính xác nguồn tài nguyên

quốc gia, nắm bắt những công nghệ mới nhằm khai thác hợp lý và có hiệu quả nguồn lực của nền kinh tế.

-

Nhà nước đã thực hiện chủ trương, chính sách và những giải pháp chủ yếu:

-

Đổi mới cơ chế quản lý, nâng cao vai trò KHCN trong sự nghiệp CNH,

HĐH đất nước

o Đổi mới chính sách tài chính đối với KHCN

o Xây dựng khuôn khổ luật pháp cho KHCN, để thể chế hóa về mặt pháp lý hoạt động khoa học - kỹ thuật - công nghệ, thực sự là động lực phát triển kinh tế xã hội.

4.

Mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại

Trong xu thế toàn cầu hoá, quan hệ kinh tế đối ngoại càng phát triển rộng rãi và có hiệu quả bao nhiêu thì sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước càng được tiến hành thuận lợi và càng thành công nhanh chóng bấy nhiêu. Thực chất của việc mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại là việc thu hút nhiều nguồn vốn bên ngoài, là việc tiếp thu nhiều kỹ thuật và công nghệ hiện đại, là việc mở rộng thị trường cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá được thuận lợi.

Ngày nay, cuộc cách mạng khoa học và công nghệ cùng với xu thế toàn cầu hoá kinh tế đã và đang tạo ra mối liên hệ và sự tuỳ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế của các quốc gia. Do đó, việc mở rộng quan hệ kinh tế giữa nước ta với các nước khác trở thành một tất yếu kinh tế, tạo ra khả năng và điều kiện để các nước chậm phát triển tranh thủ vốn, kỹ thuật, công nghệ, kinh nghiệm tổ chức quản lý... để đẩy nhanh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Tuy nhiên, đó cũng mới chỉ là khả năng. Để khả năng trở thành hiện thực, chúng ta phải có một đường lối kinh tế đối ngoại đúng đắn vừa đạt hiệu quả kinh tế cao, kết hợp được sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại, giữ vững được độc lập, chủ quyền dân tộc, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở nước ta và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

5. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và vai trò quản lý của Nhà nước

Đây là tiền đề quan trọng quyết định thắng lợi của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta. Công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá là sự nghiệp của toàn dân, thế nhưng, công nghiệp hoá, hiện đại hoá là sự nghiệp mang tính tự giác, sự nghiệp đó phải do một Đảng Cộng sản tiên phong, dày dạn kinh nghiệm chiến đấu, biết tự đổi mới không ngừng lãnh đạo và một Nhà nước của dân, do dân và vì dân, trong sạch, vững mạnh và có hiệu lực quản lý thì công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước - nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta - mới có thể hoàn thành.

Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với công nghiệp hoá, hiện đại hoá trước hết là phải tiếp tục giữ vững ổn định về chính trị, Đảng Cộng sản Việt Nam phải là người lãnh đạo duy nhất, trực tiếp và toàn diện mọi hoạt động của xã hội Việt Nam. Điều này có ý nghĩa to lớn trong việc huy động các nguồn lực của đất nước nhằm đáp ứng yêu cầu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá; phát triển quan hệ kinh tế đối ngoại... Thứ hai, công nghiệp hoá, hiện đại hoá phải được tiến hành theo đường lối, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đây là nhân tố trực tiếp bảo đảm thắng lợi của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Nhà nước có chức năng quản lý kinh tế - xã hội, Nhà nước ta có sứ mệnh tổ chức thực hiện đường lối công nghiệp hoá của Đảng Cộng sản Việt Nam thông qua việc thực thi cơ chế, chính sách và điều hành các hoạt động kinh tế - xã hội nhằm thực hiện các mục tiêu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá mà Đảng ta đã đề ra. Có thể nói, thành công của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá trực tiếp phụ thuộc vào vai trò quản lý kinh tế - xã hội của Nhà nước.

8. Sự cần thiết khách quan phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam

a) Sự cần thiết khách quan

1. Một số định nghĩa

Kinh tế hàng hóa là 1 kiểu tổ chức kinh tế -XH, mà trong đó sản phẩm của SX ra để trao đổi, để bán trên thị trường. Mục đích của SX trong kinh tế hàng hóa không phải để thỏa mãn nhu cầu trực tiếp của người SX ra sản phẩm mà nhằm để bán, tức là để thỏa mãn nhu cầu của người mua đáp ứng nhu cầu của XH.

Kinh tế thị trường là trình độ phát triển cao của kinh tế hàng hóa, trong đó toàn bộ các yếu tố đầu vào và đầu ra của SX đều thông qua thị trường. Kinh tế hàng hóa và kinh tế thị trường không đồng nhất với nhau, chúng khác nhau về trình độ phát triển. Về cơ bản, chúng có cùng nguồn gốc và cùng bản chất.

Theo C.Mác, SX và lưu thông hàng hóa là hiện tượng vốn có của nhiều hình thái kinh tế - XH. Những điều kiện ra đời và tồn tại của kinh tế hàng hóa cũng như các trình độ phát triển của nó do sự phát triển của lực lượng sản xuất tạo ra.

2. Cơ sở khách quan của sự tồn tại và phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam. Phân công lao động xã hội với tư cách là cơ sở chung của SX hàng hóa chẳng

những không mất đi, mà trái lại còn được phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu. Phân công lao động trong từng khu vực, từng địa phương cũng ngày càng phát triển. Sự phát triển của phân công lao động được thể hiện ở tính phong phú, đa dạng và chất lượng ngày càng cao của sản phẩm đưa ra trao đổi trên thị trường.

Trong nền kinh tế thị nước ta, tồn tại nhiều hình thức sở hữu, đó là sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân (gồm sở hữu cá thể, sở hữu tiểu chủ, sở hữu tư bản tư nhân), sở hữu hỗn hợp. Do đó, tồn tại nhiều chủ thể kinh tế độc lập, lợi ích riêng, nên quan hệ kinh tế giữa họ chỉ có thể thực hiện bằng quan hệ hàng hóa - tiền tệ.

Thành phần kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể, tuy cùng dựa trên chế độ công hữu về tư liệu SX, nhưng các đơn vị kinh tế vẫn có sự khác biệt nhất định, có quyền tự

chủ trong SX, kinh doanh, có lợi ích riêng. Mặt khác, các đơn vị kinh tế còn có sự khác nhau về trình độ kỹ thuật - công nghệ, về trình độ tổ chức quản lý, nên chi phí SX và hiệu quả SX cũng khác.

Quan hệ hàng hóa - tiền tệ còn cần thiết trong quan hệ kinh tế đối ngoại, đặc biệt trong điều kiện phân công lao động quốc tế đang ngày phát triển ngày càng sâu sắc, vì mỗi nước là 1 quốc gia riêng biệt, là người chủ sở hữu đối với các hàng hóa đưa ra trao đổi trên thị trường thế giới. Sự trao đổi ở đây phải theo nguyên tắc ngang giá.

Như vậy, khi kinh tế thị trường ở nước ta là 1 tồn tại tất yếu, khách quan, thì không thể lấy ý chí chủ quan mà xóa bỏ nó được.

b) Tác dụng to lớn của sự phát triển kinh tế thị trường

Nền kinh tế nước ta khi bước vào thời ký quá độ lên CNXH còn mang nặng tính tự túc tự cấp, vì vậy SX hàng hóa phát triển sẽ phá vỡ dần kinh tế tự nhiên và chuyển thành nền kinh tế hàng hóa, thúc đẩy sự XH hóa SX.

Kinh tế hàng hóa tạo ra động lực thúc đẩy lực lượng SX phát triển. Do cạnh tranh giữa những người SX hàng hóa, buộc mỗi chủ thể SX phải cải tiến kỹ thuật, áp dựng công nghệ mới vào SX để giảm chi phí SX đến mức tối thiểu nhờ đó có thể cạnh tranh được về giá cả, đứng vững trong cạnh tranh. Quá trình đó thúc đẩy lực lượng SX phát triển, nâng cao năng suất lao động XH.

Trong nền kinh tế hàng hóa, người SX phải căn cứ vào nhu cầu của người tiêu dung, của thị trường để quyết định sản xuất sản phẩm gì, với khối lượng bao nhiêu, chất lượng như thế nào. Do đó, kinh tế hàng hóa kích thích tính năng động, sáng tạo của chủ thể kinh tế, kích thích việc nâng cao chất lượng, cải tiến mẫu mã, cũng như tăng khối lượng hàng hóa và dịch vụ.

Phân công lao động XH là điều kiện ra đời và tồn tại của SX hàng hóa, đến lượt nó sự phát triển kinh tế hàng hóa sẽ thúc đẩy sự phân công lao động XH và chuyên môn hóa SX. Vì thế phát huy được tiềm năng, lợi thế của từng vùng, cũng như lợi thế của đất nước có tác dụng mở rộng quan hệ kinh tế với nước ngoài.

Sự phát triển của kinh tế thị trường sẽ thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung SX, do đó tạo điều kiện ra đời của SX lớn, XH hóa cao; đồng thời chọn lọc được những người SX, kinh doanh giỏi, hình thành đội ngũ cán bộ quản lý có trình độ, lao động lành nghề, đáp ứng nhu cầu phát triển của đất nước.

Như vậy, phát triển kinh tế thị trường là 1 tất yếu kinh tế đối với nước ta, 1 nhiệm vụ kinh tế cấp bách để chuyển nền kinh tế lạc hậu của nước ta thành nền kinh tế hiện đại, hội nhập vào sự phân công lao động quốc tế. Đó là con đường đúng đắn để phát triển lực lượng SX, khai thác có hiệu quả tiềm năng của đất nước vào sự công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Thực tiễn những năm đổi mới đã chứng minh rằng, việc chuyển sang nền kinh tế thị trường nhiều thành phần là hoàn toàn đúng đắn. Nhờ phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, chúng ta đã bước đầu khai thác được tiềm năng trong nước và thu hút được vốn, kỹ thuật, công nghệ của nước ngoài, giải phóng được năng lực SX, góp phần quyết định vào việc bảo đảm tăng trưởng kinh tế với nhịp độ tương đối cao trong thời gian qua.

Trình độ phát triển của kinh tế thị trường có liên quan mật thiết với các giai đoạn phát triển của lực lượng SX. Về đại thể, kinh tế hàng hóa phát triển qua 3 giai đoạn tương ứng với 3 giai đoạn phát triển của lực lượng SX: SX hàng hóa giản đơn, kinh tế thị trường tự do, kinh tế thị trường hiện đại.

Nước ta đang thực hiện chuyển đổi nền kinh tế, chuyển từ nền kinh tế kế hoạch tập trung sang kinh tế hàng hóa. Mô hình kinh tế của Việt Nam được xác định là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, định hướng xã hội chủ nghĩa (nói ngắn gọn là kinh tế thị trường định hướng XHCN).

Hiện nay nền kinh tế thị trường của nước ta còn ở trình độ kém phát triển, bởi lẽ cơ sở vật chất - kỹ thuật của nó còn lạc hậu, thấp kém, nền kinh tế ít nhiều còn mang tính tự cấp tự túc. Tuy nhiên, nước ta không lặp lại nguyên vẹn tiến trình phát triển kinh tế của các nước đi trước: kinh tế hàng hóa giản đơn chuyển lên kinh tế thị trường tự do, rồi

từ kinh tế thị trường tự do chuyển lên kinh tế thị trường hiện đại, mà cần phảivà có thể xây dựng nền kinh tế thị trường hiện đại, định hướng XHCN theo kiểu rút ngắn. Điều này có nghĩa là phải đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa để phát triển nhanh chóng lực lượng SX, trong một thời gian tương đối ngắn xây dựng được cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại để nền kinh tế nước tabắt kịp với trình độ phát triển chung của thế giới; đồng thời phải hình thành đồng bộ cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Nhà nước có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc quản lý kinh tế vĩ mô và thực hiện định hướng XHCN.

9. Đặc trưng, bản chất của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt

Nam

a) Những đặc trưng chung

Nói kinh tế thị trường định hướng XHCN có nghĩa là nền kinh tế của chúng ta không phải là kinh tế quản lý theo kiểu tập trung quan liêu bao cấp như trước đây nhưng đó cũng không phải là nền kinh tế thị trường tự do theo cách của các nước TBCN, tức là không phải kinh tế thị trường TBCN và cũng chưa hoàn toàn là kinh tế thị trường XHCN. Bởi vì chúng ta còn đang ở trong thời kỳ quá độ lên CNXH, còn có sự đan xen và đấu tranh giữa cái cũ và cái mới, vừa có, vừa chưa có đầy đủ yếu tố XHCN.

Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở VN, cũng mang những tính chất chung của nền kinh tế thị trường:

1. Các chủ thể kinh kinh tế có tính độc lập, có quyền tự chủ trong sản xuất kinh

doanh

Trong nền kinh tế tập trung quan liêu, bao cấp: ở thời kỳ này, Nhà nước là người cung cấp vốn, nguyên liệu vật tư kỹ thuật, còn các doanh nghiệp SX là người thực hiện kế hoạch SX do Nhà nước xây dựng và áp đặt, tình hình SX của các doanh nghiệp cao hay thấp thì Nhà nước là người chịu trách nhiệm.

Trong nền kinh tế thị trường: các doanh nghiệp tự chủ trong SX kinh doanh: + Tự tìm nguyên liệu và vốn

+ Tự tìm thị trường, gồm 2 loại: thị trường cung cấp các yếu tố đầu vào và thị trường bán sản phẩm đầu ra

+ Tự bù đắp chi phí SX và tự chịu trách nhiệm với kết quả SX kinh doanh của

mình

+ Tự do liên kết, liên doanh và tự tổ chức quá trình SX theo luật định.

2. Giá cả hàng hóa được hình thành trên thị trường và hệ thống thị trường được phát triển đầy đủ và mở rộng

Trong nền kinh tế tập trung bao cấp: xuất hiện một số biểu hiện như: giá cả “đông cứng”, giá cả “giả tạo”, trên thị trường xuất hiện phạm trù “lệnh giá cả”, “lệnh hàng hóa”.

+ Trong nền kinh tế tập trung bao cấp có 2 giá: Giá bao cấp do Nhà nước áp đặt áp dụng trong thị trường có tổ chức; Giá thị trường áp dụng trong thị trường tự do. Khi cung cầu thay đổi, sức mua thay đổi nhưng giá không thay đổi, từ đó hình thành nên giá “giả tạo”. Giá giả tạo là giá mà khi cung hàng hóa tăng nhưng giá hàng hóa lại không thay đổi.

+ Lệnh giá cả, lệnh hàng hóa: giá cả hàng hóa, số lượng hàng hóa SX đều do Nhà nước áp đặt và điều tiết.

Vì vậy nó không phát huy được tính năng động của nền kinh tế. Trong nền kinh tế thị trường:

+ Giá cả thị trường do giá trị thị trường quyết định

+ Tuy nhiên giá cả còn tùy thuộc vào quan hệ cung - cầu, phụ thuộc vào thị trường, giá cả mềm mại, linh hoạt.

+ Thị trường được phát triển đầy đủ và mở rộng, nó bao gồm: thị trường vốn, thị trường tài chính, thị trường sức lao động, thị trường dịch vụ.

3. Nền kinh tế vận động theo những quy luật kinh tế khách quan

Trong nền kinh tế tập trung bao cấp: không tôn trọng các quy luật khách quan. Năm 1986, lạm phát của Việt Nam là 774% nhưng giá cả vẫn đông cứng.

Trong nền kinh tế thị trường: phải tuân theo các quy luật kinh tế khách quan, sự tác động của các quy luật đó đã hình thành nên cơ chế tự điều tiết của nền kinh tế.

4. Nền kinh tế thị trường hiện đại còn có sự điều tiết của Nhà nước ở tầm vĩ mô, thông qua việc sử dụng các công cụ kinh tế, đó là: hệ thống pháp luật, các chính sách kinh tế, công tác kế hoạch hóa nền kinh tế.

b)Những đặc trưng riêng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước

ta

Kinh tế thị trường định hướng XHCN ở VN dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi nguyên tắc và bản chất của CNXH. Do đó, kinh tế thị trường định hướng XHCN có những đặc trưng bản chất dưới đây:

1. Về mục tiêu phát triển kinh tế thị trường

Trong nhiều đặc tính có thể dùng làm tiêu thức để phân biệt nền kinh tế thị trường ở nước ta so với nền kinh tế thị trường khác, phải nói đền mục đích chính trị, mục tiêu kinh tế - xã hội mà Nhà nước và nhân dân ta đã lựa chọn làm định hướng chi phối sự vận động phát triển nền kinh tế. Nó được thể hiện trên 2 mặt:

Giải phóng lực lượng SX, động viên mọi nguồn lực trong và ngoài nước để thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho CNXH.

Nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội, cải thiện từng bước đời sống của nhân dân. Cụ thể:

+ Lấy SX gắn liền với cải thiện đời sống nhân dân + Tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với tiến bộ và công bằng XH + Khuyến khích làm giàu hợp pháp gắn liền với xóa đói giảm nghèo.

2. Đặc trưng riêng của kinh tế thị trường ở nước ta

Nền kinh tế thị trường gồm nhiều thành phần, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo

Trong nền kinh tế nước ta tồn tại 3 loại hình sở hữu cơ bản là: sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân (gồm sở hữu cá thể, sở hữu tiểu chủ, sở hữu tư nhân tư bản). Từ 3 loại hình sở hữu cơ bản đó hình thành nhiều thành phần kinh tế, nhiều tổ chức SX, kinh doanh. Các thành phần kinh tế đó là kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, trong đó

kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Do đó, không chỉ củng cố và phát triển các thành phần kinh tế dựa trên chế độ công hữu là thành phần kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể, mà còn phải khuyến khích các thành phần kinh tế dựa trên chế độ tư hữu phát triển để hình thành nền kinh tế thị trường rộng lớn bao gồm các đơn vị kinh tế thuộc chế độ tư hữu, chế độ công hữu, các hình thức hợp tác liên doanh giữa trong và ngoài nước….Các đơn vị kinh tế thuộc mọi thành phần đều bình đẳng với nhau trước pháp luật, vừa hợp tác, vừa cạnh tranh để phát triển.

Trong nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Việc xác lập vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước là vấn đề có tính nguyên tắc và là sự khác biệt có tính bản chất giữa kinh tế thị trường định hướng XHCN với kinh tế thị trường TBCN. Tính định hướng XHCN của nền kinh tế thị trường ở nước ta đã quyết định kinh tế nhà nước giữ vài trò chủ đạo vì kinh tế nhà nước cùng kinh tế tập thể tạo nền tảng cho chế độ XH mới - XHCN ở nước ta.

Mỗi thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên CNXH có bản chất kinh tế - xã hội riêng, chịu sự tác động của các quy luật kinh tế riêng, nên bên cạnh sự thống nhất của các thành phần kinh tế, còn có những khác biệt và mâu thuẫn khiến cho nền kinh tế thị trường ở nước ta có khả năng phát triển theo những phương hướng khác nhau. Vì vậy, kinh tế nhà nước phải được xây dựng và phát triển có hiệu quả để thực hiện tốt vai trò chủ đạo của mình; đồng thời Nhà nước phải thực hiện tốt vai trò quản lý vĩ mô kinh tế - xã hội để đảm bảo cho nền kinh tế phát triển theo định hướng XHCN.

Trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, thực hiện nhiều hình thức phân phối thu nhập, trong đó lấy phân phối theo lao động là chủ yếu

Trong thời kỳ quá độ lên CNXH, có nhiều chế độ sở hữu cùng tồn tại: sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu cá nhân và các hình thức sở hữu do kết quả của sự xâm nhập giữa chúng. Mỗi chế độ sở hữu có nguyên tắc phân phối tương ứng với nó, vì thế trong thời kỳ quá độ tồn tại cơ cấu đa dạng về hình thức phân phối thu nhập.

Trong nền kinh tế thị trường ở nước ta, tồn tại các hình thức phân phối thu nhập sau đây: phân phối theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế; phân phối theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và phân phối thông qua phúc lợi xã hội.

Sự khác biệt cơ bản giữa kinh tế thị trường định hướng XHCN với kinh tế thị trường TBCN là ở chỗ xác lập chế độ công hữu và thực hiện phân phối theo lao động. Phân phối theo lao động là đặc trưng bản chất của kinh tế thị trường định hướng XHCN, nó là hình thức thực hiện về mặt kinh tế của chế độ công hữu. Vì thế phân phối theo lao động được xác định là hình thức phân phối chủ yếu trong thời ký quá độ lên CNXH.

Nước ta lấy phát triển kinh tế thị trường là phương tiện để đạt được mục tiêu cơ bản xây dựng XHCN, thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; con người được giải phóng khỏi áp bức bóc lột, có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, có điều kiện để phát triển toàn diện. Vì vậy, mỗi bước tăng trưởng kinh tế ở nước ta phải gắn liền với cải thiện đời sống nhân dân, với tiến bộ và công bằng XH. Việc phân phối thông qua các quỹ phúc lợi XH và thập thể có ý nghĩa quan trọng để thực hiện mục tiêu đó.

Cơ chế vận hành của nền kinh tế là cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước XHCN

Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN cũng vận động theo yêu cầu của những quy luật vốn có của kinh tế thị trường, như quy luật giá trị, quy luật cung - cầu, cạnh tranh,…; giá cả do thị trường quyết định; thị trường có vai trò quyết định đối với việc phân phối các nguồn lực kinh tế vào các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế.

VD: Người lao động di chuyển từ nông thôn lên thành thị; Người lao động chuyển từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ,…

Nhà nước XHCN là nhà nước của dân, do dân, vì dân, khác với nhà nước TBCN, và nó là nhân tố để đảm bảo định hướng XHCN trong cơ chế thị trường:

+ Nhà nước sẽ sửa chữa những thất bại của kinh tế thị trường: khủng hoảng kinh tế, thất nghiệp, lạm phát, phân hóa giàu nghèo và nhà nước phát huy những mặt tích cực của kinh tế thị trường, đó là tăng trưởng kinh tế ổn định để đạt được hiệu quả kinh tế xã hội cao và đảm bảo công bằng xã hội.

+ Nhà nước quản lý nền kinh tế thị trường theo nguyên tắc kế hoạch kết hợp với thị trường. Sự kết hợp kế hoạch với thị trường được thể hiện ở cả tầm vi mô lẫn vĩ mô. Ở tầm vi mô, thị trường là căn cứ xây dựng kế hoạch SX, kinh doanh. Thông qua biến động của quan hệ cung - cầu và giá cả thị trường, các doanh nghiệp lựa chọn được phương án SX: SX ra sản phẩm gì, SX như thế nào, sản xuất cho ai. Nhờ đó, các doanh nghiệp lựa chọn được cơ cấu SX, cơ cấu đầu tư cho mình. Thoát ly yêu cầu của thị trường, các mục tiêu của kế hoạch SX của doanh nghiệp sẽ không thực hiện được. Ở tầm vĩ mô, mặc dù thị trường không phải là căn cứ duy nhất có tính quyết định, song kế hoạch nhà nước cũng không thể thoát ly khỏi tình hình biến động của thị trường. Kế hoạch hóa vĩ mô nhằm bảo đảm cân đối lớn, tổng thể của nền kinh tế như tổng cung cầu, sản xuất - tiêu dùng, hàng hóa - tiền tệ. Kế hoạch hóa vĩ mô có thể tác động đến cung, cầu, giá cả để uốn nắn những lệch lạc của sự phát triển do sự tác động tự phát của thị trường gây ra, thông qua đó mà hướng hoạt động của thị trường theo hướng của kế hoạch.

Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN cũng là nền kinh tế mở, hội nhập

Đặc điểm này phản ánh sự khác biệt giữa nền kinh tế thị trường định hướng XHCN với nền kinh tế đóng, khép kín trước đổi mới, đồng thời phản ánh xu hướng hội nhập của nền kinh tế nước ta trong điều kiện toàn cầu hóa kinh tế.

Do tác động của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ đang diễn ra quá trình quốc tế hóa đời sống kinh tế, sự phát triển của mỗi quốc gia trong sự phụ thuộc lẫn nhau. Vì vậy, mở cửa kinh tế, hội nhập vào kinh tế khu vực và thế giới là tất yếu đối với nước ta. Chỉ có như vậy mới thu hút được vốn, kỹ thuật, công nghệ hiện đại, kinh nghiệm quản lý tiên tiến của các nước để khai thác tiềm năng và thế mạnh của nước ta.

Thực hiện mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại theo hướng đa phương hóa, đang dạng hóa các hình thức đối ngoại nhưng vẫn giữ được độc lập chủ quyền và bảo vệ được lợi ích quốc gia.

Trong thời gian tới cần mở rộng đa phương hóa, đẩy mạnh xuất khẩu, chủ động và tích cực thâm nhập thị trường thế giới, mở rộng thị phần trên các thị trường quen thuộc, cải thiện môi trường đầu tư và bằng nhiều hình thức thu hút vốn đầu tư của nước ngoài…

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top

Tags: