KINH ÐẠI BẢO TÍCH TẬP V

KINH ÐẠI BẢO TÍCH

TẬP V



NGHI THỨC TRÌ TỤNG

BÀI TÁN LƯ HƯƠNG

Lư hương vừa ngún chiên đàn,

Khói thơm ngào ngạt muôn ngàn cõi xa,

Lòng con kính ngưỡng thiết tha,

Ngửa mong chư Phật thương mà chứng minh.

Nam

mô Hương Vân Cái Bồ Tát Ma Ha Tát.

(3 lần)

CHÂN NGÔN TỊNH PHÁP GIỚI:

Án lam. (7 lần)

CHÂN NGÔN TỊNH KHẨU NGHIỆP:

Tu rị tu rị, ma ha tu rị, tu tu rị ta bà ha. (3 lần)

CHÂN NGÔN TỊNH BA NGHIỆP:

Án ta phạ, bà phạ thuật đà ta phạ, đạt mạ ta phạ bà phạ thuật độ hám. (3 lần)

CHÂN NGÔN PHỔ CÚNG DƯỜNG:

Án nga nga nẵng tam bà phạ phiệt nhựt ra hồng. (3 lần)

BÀI VĂN PHÁT NGUYỆN

Nam mô thập phương thường trụ Tam Bảo. (3 lần)

Lạy đấng Tam Giới Tôn,

Quy mạng mười phương Phật,

Nay con phát nguyện lớn,

Trì tụng Đại Bảo Tích,

Trên đền bốn ơn nặng,

Dưới cứu khổ tam đồ,

Nếu có ai thấy nghe,

Đều phát Bồ Đề tâm,

Khi mãn báo thân này,

Sanh qua cõi Cực Lạc.

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. (3 lần)

BÀI KỆ KHAI KINH

Phật pháp rộng sâu rất nhiệm mầu

Trăm nghìn muôn kiếp khó tìm cầu

Nay con nghe thấy chuyên trì tụng

Nguyện tỏ Như Lai nghĩa nhiệm mầu.

Nam Mô Đại Bảo Tích Hội Thượng Phật Bồ Tát Ma Ha Tát. (3 lần)

XVII. PHÁP HỘI PHÚ LÂU NA THỨ MƯỜI BẢY

PHẨM BỒ TÁT HẠNH THỨ NHẤT

Như vậy tôi nghe một lúc đức Phật trong Trúc Viên thành Vương Xá cùng câu hội với chư đại Tỳ Kheo và chư đại Bồ Tát số ấy đông vô lượng.

Bấy giờ Huệ Mạng Phú Lâu Na Di Ða La Ni Tử từ chỗ ngồi đứng dậy trịch y vai hữu gối hữu chấm đất chắp tay hướng Phật mà bạch rằng: “Bạch Thế Tôn! Tôi muốn hỏi ít lời mong Như Lai sót thương hứa cho”.

Ðức Phật phán: “Tuỳ ý ông hỏi, ta sẽ giải đáp cho ông vui mừng”.

Tôn giả Phú Lâu Na bạch đức Phật: “Nay tôi vì chư đại Bồ Tát là những nguời thật hành công đức cao thượng danh tiếng cao xa thường vì chúng sanh cầu sự an vui mà có lời thỉnh hỏi “.

Huệ mạng Phú Lâu Na nói kệ rằng:

“Làm công đức tối thượng

Danh tiếng rất cao xa

Người giới tịnh ưa pháp

Tôi hỏi sở hành ấy

Sửa trị tâm thế nào

Rộng bố thí thế nào

Ðộ chúng sanh thế nào

Hỉ tâm thường hành đạo.

Bạch Thế Tôn! Nay tôi vì chư Ðại Sĩ mà hỏi sự như vậy. Bồ Tát tu tập đa văn như biển cả chẳng cạn hết thế nào? Hay chứa họp đa văn bửu tạng hay ở các pháp được nghĩa quyết định ở các ngữ ngôn giỏi rõ chương cú thế nào?

Bồ Tát thế nào cầu

Ða văn như biển cả

Nơi pháp được định nghĩa

Hay giỏi biết Phật đạo

Thế nào ở một lời

Mà hiểu vô lượng nghĩa

Hay dùng sức trí huệ

Thông đạt tất cả pháp

Ða văn vô cùng tận

Gạn hỏi lòng chẳng động

Xót thương mà thuyết pháp

Ðể dứt chúng sanh nghi.

Bạch Thế Tôn! Nay tôi tùy theo trí lực của tự địa mà thỉnh hỏi đức Như Lai và chư đại Bồ Tát thế nào được chẳng thối chuyển Vô thượng Bồ đề?

Thế nào rời lìa mạn

Ðược gặp gỡ chư Phật

Mau được tin thanh tịnh

Ðược tin vô thượng rồi

Bỏ được sự khó bỏ

Vứt bỏ tất cả rồi

Gắng tu đạo vô ngại

Thế nào ưa xuất gia

Nhàn tĩnh tu không trí

Thế nào chẳng nghịch pháp

Mong đáp đủ sự ấy.

 

     

Bạch Thế Tôn! Chúng tôi đều biết đức Phật đã đủ cả trí huệ dã trọn tất cả Thần thông Ba la mật, ở trong tam giới là cao tôn đệ nhất không ai sánh được, đại trí vi diệu đi không chướng ngại nơi trong các pháp, vì thế nên nay tôi thỉnh hỏi sự ấy.

Phật đủ thượng công đức

Ðã vượt bờ thần thông

Ðược trí không chướng ngại

Tôi vì Bồ Tát hỏi

Giỏi học tất cả pháp

Công đức rất cao thắng

Phá tối sanh huệ sáng

Khiến chúng đều hoan hỉ

Oán thân không ghét thương

Không lo không khi dối

Ðại chiến thắng vua chết

Dẹp phá chúng quân ma

Chẳng cầm nơi dao gậy

Hàng phục các oán địch

Thường có lòng từ bi

Bền giữ giới thanh tịnh

Thế Tôn không siểm khúc

Không mạn không cợt đùa

Chứng được trí giải thoát

Công đức rất tối thắng

Như xưa chỗ hành đạo

Thắng trí huệ đã được

Mong nay vì tôi nói

Tu thế nào được Phật”.

Bấy giờ đức Phật bảo ngài Phú Lâu Na rằng: “Lành thay tốt thay, ông có thể hỏi Phật sự như vậy. Lắng nghe suy nghĩ kỹ, sẽ vì ông mà nói chư Bồ Tát phát tâm tu hành chứa họp vô lượng Phật pháp”.

Ðức Thế Tôn nói kệ rằng:

“Nay ta nói Bồ Tát

Sơ phát tâm Bồ đề

Thường dùng sức dũng mãnh

Ưa làm đạo Bồ Tát

Sở hành của Bồ Tát

Các công hạnh thâm tâm

Nơi Phật được thọ ký

Sự ấy sẽ lược nói

Thâm tâm lòng ưa pháp

Vô lượng và vô biên

Các thứ công hạnh tu

Chẳng do một sự thành

Hỉ tâm đã sung mãn

Mà thật hành bố thí

Thí xong lòng không hối

Trong tâm càng vui mừng

Bồ Tát suy nghĩ rằng

Chúng sanh thường nghèo cùng

Không có của đa văn

Tôi sẽ cầu cho họ

Chúng sanh thường nghèo cùng

Ðều do nơi giải đãi

Tôi sẽ siêng tinh tiến

Từ đó được Bồ đề

Tôi sẽ vì chúng sanh

Gia tâm tu nhẫn nhục

Mắng nhiếc chửi đánh chém

Nín nhận chẳng hề báo

Sẽ nghĩ ai mắng tôi

Kẻ mắng bất khả đắc

Người mạ lị sân hận

Thảy đều là không sự

Suy nghĩ như vậy rồi

Lòng không còn giận hờn

Thường tu hành nhẫn nhục

Do đây thành Phật đạo

Chúng sanh không tâm lành

Vì họ tôi làm đèn

Cho họ có chỗ về

Không của cho họ của

Chúng sanh đáng xót thương

Ðều cùng đi đường tà

Tôi sẽ độ thoát họ

Khiến an trụ Niết bàn

Chúng sanh đều nghèo cùng

Không có của trí huệ

Tôi được Nhất thiết trí

Khiến họ được sung túc

Chư Bồ Tát như vậy

Vì độ chúng sanh nên

Phát tâm cầu Bồ đề

Hành các nguyện như vậy.

Này Phú Lâu Na! Chư đại Bồ Tát nhiều thứ nhân duyên thị hiện tâm mình chẳng trụ một pháp nào cả. Tại sao vậy? Vì chư đại Bồ Tát học tất cả pháp rồi sau đắc đạo. Bồ Tát có bốn sự hi hữu, chẳng thấy có pháp khác hơn sự ấỵ Những gì là bốn?

Bồ Tát có thể ở nơi chúng sanh giải đãi mà siêng tu hành tinh tấn, đây gọi là sự hi hữu thứ nhất.

Bồ Tát có thể ở giữa chúng sanh ngang ngược giận thù mà siêng tu hành nhẫn nhục, đây gọi là sự hi hữu thứ hai.

Bồ Tát thấy các chúng sanh đi đường tà mà tự mình siêng tu hành chánh đạo, đây gọi là sự hi hữu thứ ba.

Bồ Tát vì độ chúng sanh chuyển khỏi sanh tử mà dùng thâm tâm phát Vô thượng Bồ đề, đây gọi là sự hi hữu thứ tư.

Bốn sự trên đây gọi là bốn sự hi hữu tối đại của Bồ Tát”.

Ðức Thế Tôn nói kệ rằng:

Thấy chúng sanh giải đãi

Lòng siêng tu tinh tấn

Tôi chẳng nên theo họ

Mà làm sự phi pháp

Chẳng bắt chước giận thù

Phật đạo chẳng giận thù

Thường tu tâm từ bi

Bồ đề từ đó sanh

Chúng sanh ưa đường tà

Y chỉ nơi tà đạo

Bồ Tát cầu chánh đạo

Khiến người tu nẻo chánh

Thấy lỗi họa sanh tử

Nhất tâm cầu Phật trí

Tôi được pháp vô thượng

Sẽ độ các chúng sanh

Bốn sự hi hữu ấy

Sự khác không hơn được

Do đây nên phải biết

Ðược rời pháp chướng ngại

Giả như áo mặc cháy

Ðầu cháy còn chẳng chữa

Lòng giải đãi nếu khởi

Liền phải mau trừ diệt.

Này Phú Lâu Na! Bồ Tát có bốn sự hay sanh tâm hỉ. Những gì là bốn?

Một là thấy các chúng sanh ở trong sanh tử chẳng tinh tấn được. Bồ Tát tự thấy mình ở trong Phật đạo tu hành tinh tấn bèn sanh hỉ tâm.

Hai là thấy các chúng sanh lòng họ thường giải đãi, Bồ Tát tự thấy mình ở trong Phật pháp tu tinh tấn nên sanh hỉ tâm.

Ba là thấy các chúng sanh sân hận tật đố, Bồ Tát tự thấy mình không sân không đố thường có lòng từ bi nên sanh hỉ tâm.

Ðức Thế Tôn nói kệ rằng:

Thấy chúng sanh giải đãi

Tự mình tu tinh tấn

Vì thế Bồ Tát này

Tự sanh lòng vui sướng

Thấy sanh tử lỗi họa

Mà sanh lòng chán lìa

Kinh sợ ngục tam giới

Lòng siêng cầu bỏ lìa

Chúng sanh ưa giận thù

Tự mình thường từ bi

Vì thế Bồ Tát này

Lòng luôn khởi vui vẻ

Các việc chúng sanh làm

Thường là việc chẳng nên

Vì thế Bồ Tát cầu

Phật đạo tối vô thượng

Ðây gọi là thiệt trí

Ðược chư Phật khen ngợi

Bồ Tát học trí này

Làm chỗ về cho chúng

Vì thế Bồ Tát này

Thường được lòng vui mừng

Từ hữu vi hư ngụy

Thương sanh pháp chân thiệt.

Lại này Phú Lâu Na! Bồ Tát có bốn pháp xa lìa được các nạn mà gặp chỗ không nạn, được gặp rồi không mất có thể tu hành Phật pháp. Những gì là bốn?

Một là Bồ Tát khiêm tốn dịu hòa, hễ thấy người thì chào hỏi trước, hòa nhan vui vẻ cùng họ nói chuyện, lúc nói luôn mỉm cười.

Hai là Bồ Tát nhất tâm cầu pháp thường ưa thưa hỏi siêng cầu học hiểu không hề nhàm đủ.

Ba là Bồ Tát thường thích rảnh rang vắng vẻ một mình.

Bốn là tự mình an trụ đạo Vô thượng Bồ đề cũng giáo hóa chúng sanh an trụ Phật đạo.

Bồ Tát có bốn pháp trên đây nên được khỏi các nạn gặp được chỗ không nạn, gặp rồi chẳng mất có thể tu hành Phật pháp”.

Ðức Thế Tôn nói kệ rằng:

Trong lòng luôn hòa dịu

Thường ưa làm từ bi

Lúc cùng người nói chuyện

Khiêm tốn vui mỉm cười

Thường cầu pháp thâm diệu

Ðược chư Phật khen ngợi

Luôn giữ giới thanh tịnh

Ưa tu hạnh đầu đà

Dầu tu hạnh đầu đà

Cũng tu trí thâm diệu

Vì thế Bồ Tát này

Lìa nạn không gặp nạn

Thường ở trước chư Phật

Thỉnh hỏi những pháp sâu

Do đó trí huệ tăng

Chẳng sanh vào chỗ nạn

Thường thích ở vắng rảnh

Thanh tịnh tu đầu đà

Vì thế Bồ Tát này

Lìan nạn không gặp nạn

Những người có trí huệ

Thân cận bốn pháp này

Lìa được tất cả nạn

Thường được gặp chư Phật

Ðược gặp chư Phật rồi

Có đủ bất hoại tín

Hay phát thượng tinh tấn

Ðể cầu Phật trí huệ

Vì thế người cầu trí

Phải nên học chánh pháp

Nếu hay học chánh pháp

Ðược thành Phật chẳng khó”.

PHẨM ÐA VĂN THỨ HAI

Ðức Thế Tôn bảo Ngài Phú Lâu Na: “Bồ Tát có bốn pháp thì hay tu tập đa văn bửu tạng, hay ở nơi các pháp được nghĩa quyết định, hay ở nơi các ngữ ngôn giỏi biết chương cú, dường như đại hải chẳng cạn hết được. Những gì là bốn?

Một là Bồ Tát cầu học mười hai bộ kinh, cầu học rồi đọc tụng, đọc tụng rồi ghi nhớ, ghi nhớ rồi thật hành theo.

Hai là Bồ Tát ở trong tất cả pháp không y chỉ, dầu nhập thiền định mà không sở y chỉ, vì không sở y nên ở trong các phápđược trí bất trụ rồi ở trong các pháp được tri kiến vô ngại, tại sao vậy, vì không có pháp bị tham làm chướng ngại vậy.

Ba là Bồ Tát do pháp nhân duyên mà niệm Phật và niệm Phật pháp. Lúc niệm Phật và niệm Pháp, Bồ Tát chẳng thấy có pháp được tham ưa. Vi' chẳng tham ưa nên ở nơi tất cả pháp lòng không nắm lấy. Vì không chấp trước tất cả pháp nên Bồ Tát ở nơi sự vấn đáp đều không chướng ngại.

Bốn là Bồ Tát thành tựu vô sở đắc từ ở nơi việc làm đều vô ngại. Vô sở đắc từ là chẳng nhận thọ các sự tướng, tại sao vậy, vì nếu trụ tướng này hay trụ tướng kia thì hoặc sanh tham dục hoặc sanh sân khuể hoặc sanh ngu si, trụ tướng, sự tướng, vật tướng, ấm tướng, nhập tướng, giới tướng, pháp tướng phi pháp đều hoặc sanh tham dục sân khuể ngu si. Phàm có nhận thọ sự tướng đều gọi là tà kiến. Bồ Tát đều diệt tất cả tướng mà tu tập từ tâm vậy.

Vì chúng sanh bại hoại nên tướng cũng bại hoại, vì tướng bại hoại nên sự cũng bại hoại, vì sự bại hoại nên kiến cũng bại hoại. Bấy giờ Bồ Tát hoại tất cả pháp mà tu tập tâm từ. Từ như đây gọi là vô sở đắc từ, cũng gọi là Pháp từ và Phật từ.

Tại sao gọi là Phật từ, vì vô tác vô hoại vậy, vì như thiệt thông đạt tất cả pháp vậy”.

Ngài Phú Lâu Na bạch: “Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là như thiệt thông đạt tất cả pháp?”.

Ðức Phật dạy: “Này Phú Lâu Na! Chỗ được thông đạt đó chẳng nói là thị pháp, chẳng nói là phi pháp. Tại sao vậy, vì nếu nói có pháp thì tức là phi pháp. Nếu ở nơi pháp hữu pháp vô mà không có phi pháp thì ở trong ấy không có hí luận, nếu không hí luận thì gọi là Niết bàn. Ông quan sát kỹ coi là cực viễn hay cực cận?

- Bạch Thế Tôn! Chẳng xa chẳng gần. Tại sao, vì nghĩa như vậy không phương không xứ không nội không ngoại.

- Này Phú Lâu Na! Ðúng như vậy, đức Như Lai ở nơi pháp tác số.

- Bạch Thế Tôn! Ở nơi pháp nào mà đức Như Lai vì nó tác số?

- Này Phú Lâu Na! Như các phàm phu chấp trước các pháp, đức Như Lai chẳng được chẳng tu chẳng chứng chẳng thông đạt, pháp như vậy Như Lai vì nó tác số.

Này Phú Lâu Na! Các pháp số ấy chẳng để phân biệt pháp vậy. Nay vì ông mà nói pháp tịch diệt đệ nhất có thể nhiếp được Phật đạo.

Này Phú Lâu Na! Ðời sau có người ưa theo thế lợi, nếu nghe kinh này họ chẳng thích nghe nhận.

Này Phú Lâu Na! Bồ đề này của Phật, các ông chỉ do âm thanh chương cú mà biết chút ít thôi, còn nghĩa thú trong ấy các ông chẳng biết. Nghĩa thú ấy sâu xa chẳng thể lấy lời mà tuyên bày được, chỉ có người trí mới có thể khế hội được thôi”.

Ðức Thế Tôn nói kệ rằng:

“Người chẳng biết được nghĩa

Nghe Phật pháp thì khổ

Nếu người biết được nghĩa

Phật làm thầy cho họ

Người được Phật làm thầy

Thì ưa cầu Niết bàn

Không có lòng tránh tụng

Hay suy gẫm chánh pháp

Trong ấy không pháp sanh

Cũng không có pháp diệt

Không sanh cũng không diệt

Là thiệt tướng các pháp

Nếu pháp đã không sanh

Thì không có tác khởi

Thị phi cùng nhất dị

Trong pháp ấy đều không

Ðây gọi là Niết bàn

Trong ấy không có diệt

Nếu nói cực viễn cận

Hai thứ ấy đều không

Nếu người biết được không

Thì gọi biết Niết bàn

Nếu người biết Niết bàn

Thì gọi đệ tử Phật.

Này Phú Lâu Na! Bồ Tát có bốn pháp này thì có thể tu tập đa văn bửu tạng, có thể ở nơi các pháp được quyết định nghĩa, ở nơi ngữ ngôn giỏi biết chương cú, dường như đại hải chẳng cạn hết được”.

Ðức Thế Tôn nói kệ rằng:

“Thường muốn cầu đa văn

Ðược chư Phật khen ngợi

Ðược thiệt nghĩa quyết định

Vì thế như đại hải

Có thể trong một chữ

Vài với nghĩa một câu

Suốt ngàn vạn ức kiếp

Diễn nói mãi không hết

Thế nên cầu chánh pháp

Cầu được rồi suy gẫm

Chớ tham lấy pháp tướng

Chẳng tham được Phật khen

Tưởng nhớ chư Như Lai

Và nhớ nơi chánh pháp

Chẳng dùng lòng tham tranh

Mà cầu nơi Ðạo Sư

Thường nơi các chúng sanh

Tu hành lòng từ mẫn

Mà chẳng chấp chúng sanh

Tan diệt tất cả pháp

Bồ Tát danh tiếng lớn

Tu tập pháp như vậy

Mau được đà la ni

Ða văn từ đây sanh

Dường như tánh hư không

Không tăng cũng không giảm

Pháp tánh cũng như vậy

Không tăng và không giảm

Phật dùng sức trí huệ

Thuyết pháp vô lượng kiếp

Thuyết pháp vô lượng số

Còn chẳng gọi là thuyết

Hết các tánh chúng sanh

Ðều khiến được thân người

Ðều cùng tu xuất gia

Ða văn như A Nan

Ðà la ni Bồ Tát

Vì tất cả người ấy

Thuyết pháp ngàn ức kiếp

Trí huệ vẫn chẳng hết

Phật trí huệ vô đẳng

Ðồng hư không vô lượng

Hư không không sanh khởi

Trí huệ cũng như vậy

Như rồng chẳng lấy nước

Mà hay mưa nhiều nước

Nước ấy không chỗ trụ

Mưa xuống không cùng tận

Bồ Tát cũng như vậy

Ðược đà la ni này

Các pháp không chỗ trụ

Thuyết pháp không cùng tận

Thế nên cầu đa văn

Cầu rồi chánh tư duy

Dùng pháp duyên niệm Phật

Ða văn từ đây sanh

Lòng từ khắp chúng sanh

Tan diệt tướng chúng sanh

Cũng diệt các pháp tướng

Ða văn từ đây sanh”.

PHẨM BẤT THỐI THỨ BA

Ðức Phật bảo Ngài Phú Lâu Na: “Bồ Tát thành tựu bốn pháp có thể chẳng thối chuyển nơi Vô thượng Bồ đề. Những gì là bốn?

Một là Bồ Tát nghe pháp chưa nghe suy nghĩ nghĩa lý chẳng vội liền nói là sai, do đây chẳng thối chuyển Vô thượng Bồ đề.

Nghe pháp chưa được nghe

Lòng Bồ Tát chẳng nghịch

Suy lường nghĩa lý ấy

Chẳng vội nói phi pháp

Nếu nghe nói pháp không

Thường tìm nghĩa lý ấy

Vì thế trí huệ tăng

Phật pháp từ đây sanh

Nghe pháp chưa từng nghe

Phải tìm cầu nghĩa lý

Chẳng thối chuyển Bồ đề

Trí huệ được tăng trưởng

Nghe pháp chưa từng nghe

Chẳng sanh lòng ghét khinh

Chẳng sanh lòng siểm khúc

Sanh thì trái Bồ đề

Nghe pháp chưa từng nghe

Phải tìm hiểu nghĩa ấy

Trước dầu chưa từng nghe

Phải nhất tâm suy gẫm

Lúc người này cầu pháp

Thường được gặp chư Phật

Chẳng thối thất Bồ đề

Ðã được thấy Phật rồi

Thì có thể thỉnh hỏi

Người Thanh Văn được nghe

Ðều lấy làm vui mừng

Người này rất hi hữu

Có thể hỏi như vậy

Chúng tôi còn vô tâm

Huống được nghe sự ấy

Thanh Văn khen hi hữu

Thiên thần đều vui mừng

Chư Phật khen tên hiệu

Ðây là quả đa văn

Nếu có lúc thưa hỏi

Phật đáp được lời hỏi

Vô lượng các đại chúng

Ðều được lợi ích lớn

Ðược nghe nơi Bồ Tát

Ða văn này hỏi đáp

Vô lượng chúng đều được

Pháp nhãn tối vô thượng.

Này Phú Lâu Na! Do nhân duyên ấy phải biết Bồ Tát nghe pháp chưa nghe tin nhận chẳng trái, chánh tâm suy gẫm chẳng vội nói sai thì có thể lợi ích vô lượng chúng sanh.

Này Phú Lâu Na! Quá khứ xưa vô lượng vô biên bất tư nghị a tăng kỳ kiếp, bấy giờ có Phập hiệu là Nhất Thiết Công Ðức Quang Minh Vương Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên

Nhân Sư, Phật, Thế Tôn, thọ tám mươi ức tuổi, hội thứ nhất độ chúng Thanh Văn đệ tử chẳng thọ một pháp lậu tận giải thoát số đông như số cát sông Hằng chẳng tính đếm được, chúng Bồ Tát cũng đông nhiều như vậy. Sau khi Phật ấy diệt độ, chánh pháp trụ thế sáu vạn năm, vì lúc ấy Phật sắp nhập Niết bàn có trăm ức Bồ Tát đồng hưng khởi thần lực để hộ pháp đều khắp trăm ức Diêm Phù Ðề, trong mỗi Diêm Phù Ðề đều có một Bồ Tát.

Này Phú Lâu Na! Sau khi Phật Nhất Thiết Công Ðức Quang Minh Vương nhập diệt, chúng đệ tử lần lần giải đãi, chẳng còn tụng trì kinh sâu diệu như vậy. Kinh Chư Pháp Không kinh Tịnh Giới Ðầu Ðà đều lần lượt diệt mất, vì chúng sanh chẳng có thể đọc tụng diễn nói vậy. Pháp ấy rộng lớn có tám trăm bốn vạn pháp tạng. Mỗi pháp tạng có sáu mươi tám trăm vạn ức na do tha tu đa la. Mỗi tu đa la có ba vạn sáu ngàn ưu đà na. Mỗi ưu đà na có bảy trăm sáu vạn ức kệ. Lúc tối hậu pháp sắp diệt ở trong ngần ấy pháp tạng còn dư lại chỉ có một tu đa la ưu đà na, bấy giờ có một Tì Kheo Pháp Sư tên Na La Diên ở trong Diêm Phù Ðề này được Phật ban thần lực để hộ pháp. Pháp Sư Na La Diên ấy đa văn rộng rãi giỏi thuyết pháp nghiêm sức văn từ nghĩa lý rõ ràng, thường ưa nói pháp chưa từng nghe. Lúc thuyết pháp có đa số thính chúng trái nghịch huỷ báng. Pháp Sư Na La Diên liền nghĩ rằng, nơi pháp chưa từng nghe này thính chúng đây nghe chẳng tin được, chẳng thích nghe nhận, nếu nghe mà chẳng hiểu thì lòng họ chẳng tuỳ thuận trái nghịch phá hoại mà cho là chẳng phải Phật nói, chẳng phải Ðại Sư dạy, tại sao, vì chúng nó chưa từng được nghe Sư Trưởng Hòa Thượng nói kinh như vậy, lại các hàng Trưởng Lão Tỳ Kheo cũng lại chẳng nói là được xoay vần nghe nơi Sư Trưởng Hòa Thượng, nay chư Tỳ Kheo chỉ còn dư một tu đa la ưu đà na, tại sao tôi chẳng ở riêng mình nơi rảnh rang vắng vẻ. Pháp Sư Na La Diên suy nghĩ như vậy rồi, một mình vào thâm sơn.

Bấy giờ trong Diêm Phù Ðề từ kiếp sơ đến nay có sáu vạn tám ngàn thành lớn, thành dài mười hai do tuần, rộng bảy do tuần trang nghiêm đẹp, đường sá tương đương nhân dân đông đúc an ổn giàu vui. Sau đó nối tiếp tạo tám mươi bốn ức thành nhỏ, có thành rộng bảy do tuần, hoặc rộng sáu năm bốn ba hoặc hai do tuần, thành nhỏ nhất rộng một do tuần.

Lúc ấy trong Diêm Phù Ðề có một thành lớn tên là An Lạc, trong thành ấy có một Trưởng Giả tên là Xa Nặn, ông này có một con trai tên là Ma Ha Nựu Ma Ðà. Có một thiên thần đến nói với Trưởng Giả tử Ma Ha Nựu Ma Ðà rằng:

Ngài phải siêng cầu pháp

Cầu rồi chánh tư duy

Công Ðức Vương Như Lai

Ðã ký ngài làm Phật.

Thiên thần nói kệ xong liền ẩn mất. Trưởng Giả tử đến thưa với cha rằng: Tôi muốn xuất gia ở trong pháp của Phật Nhất Thiết Công Ðức Quang Minh Vương tu phạm hạnh.

Xà Nặc Trưởng Giả nói kệ đáp rằng:

Nhà ta nhiều của báu

Bạc vàng vô số lượng

Diêm Phù Ðề không có

Mà nhà ta có đủ

Ta tìm cầu của báu

Cho con hưởng dục lạc

Sao con đi xuất gia

Bị đời họ khinh miệt.

Ma Ha Nựu Ma Ðà nói kệ đáp cha:

Tôi ưa thích cầu pháp

Cầu rồi chánh tư duy

Chẳng thích thọ giàu sang

Sẽ làm Phật trong đời

Chẳng cần gia nghiệp giàu

Tôi muốn tìm thiểu dục

Sản xuất những pháp tài

Nay phải đi xuất gia

Chư Phật xuất thế khó

Phật thuyết pháp cũng khó

Nay tôi gặp Phật pháp

Sao lại rời bỏ pháp.

Trưởng Giả tử đầu mặt lạy chưn cha, rồi đi ra mà nói kệ rằng:

Dầu có một ức cha

Và có trăm ức mẹ

Còn chẳng ngăn được tôi

Lòng tôi quyết xuất gia

Tôi bỏ thân thọ mạng

Cha me, thân tộc, của

Chỉ chẳng bỏ Phật pháp

Sẽ xuất gia cầu đạo.

Nói kệ xong Trưởng Giả tử xuất gia hành đạo, đến Pháp Sư Na La Diên cầu muốn nghe pháp. Pháp Sư liền giảng nói kinh chưa từng nghe.

Tỳ Kheo Ma Ha Nựu Ma Ðà nghe kinh chưa từng nghe rồi thưa hỏi Pháp Sư Na La Diên rằng kinh này từ trước chưa từng nghe, ai đọc, ai tụng, ai thọ trì, từ đâu Ngài được nghe?

Pháp Sư Na La Diên nói: Ta do túc mạng thiện căn và cũng nhờ thần lực của Phật Công Ðức Vương nên kinh thâm diệu ấy tự nhiên tại tâm.

Nghe Pháp Sư nói như vậy, Tỳ Kheo Ma Ðà chuyên lòng suy gẫm liền sanh trí huệ, dùng sức phương tiện đại trí huệ gạn hỏi Pháp Sư Na La Diên. Pháp Sư ấy theo nghĩa giải đáp xong bảo Tỳ Kheo Ma Ðà rằng thời kỳ Phật Nhất Thiết Công Ðức Quang Minh Vương có một Tỳ Kheo hỏi Phật về sự ấy như lời ông vừa hỏi và Phật cũng giải đáp như vậy. Tỳ Kheo Ma Ðà nghe nói vui mừng lại thưa hỏi pháp sư, giải đáp xong Pháp Sư cũng bảo là xưa kia thuở Phật Công Ðức Vương có một Tỳ Kheo hỏi như vậy và Phật cũng giải đáp như vậy. Nghe xong Tỳ Kheo Ma Ðà vui mừng rồi lại bạch hỏi Pháp Sư, giải đáp xong Pháp Sư lại cũng bảo là thuở Phật Công Ðức Vương cũng có một Tỳ Kheo hỏi như vậy. Nghe Pháp Sư nói Ma Ðà vui mừng bạch rằng thuở trước ngài theo Phật nghe được bao nhiêu sự vấn đáp như vậy.

Pháp Sư Na La Diên nói thôi chớ hỏi, sự ấy khó tin, những người chưa thiệt chứng pháp tăng thượng cũng khó tin.

Tỳ Kheo Ma Ðà lại hỏi như vậy lần thứ hai thứ ba. Pháp Sư Na La Diên bảo thôi chớ hỏi, sự ấy khó tin. Nay bất đắc dĩ dùng thí dụ nói cho ông. Các người có trí do thí dụ mà được hiểu.

Này Tỳ Kheo! Ở chỗ Phật Nhất Thiết Công Ðức Quang Minh Vương, ta được nghe táng chúng sanh nhiều hơn địa chủng. Giả sử tất cả chúng sanh trong cõi tam thiên Ðại Thiên, hoặc loài có sắc không sắc, loài có tưởng không tưởng, loài chẳng phải có tưởng chẳng phải không tưởng, đều làm cho tất cả đều được thân người đều có sức trí huệ, mỗi mỗi chúng sanh ấy trong khoảng khảy ngón tay có thể khởi hằng hà sa lời hỏi khác nhau. Này Tỳ Kheo! Cứ như vậy lần lượt đến vô dư thế giới mười phương, tất cả chúng sanh hoặc một kiếp hoặc hơn một kiếp phát khởi lời hỏi khác nhau. Lại có một người, có khả năng trong thời gian khảy ngón tay phát khởi ngần ấy lời hỏi của tất cả mọi người trước. Một người như vậy lần lượt lại hết tất cả vô dư chúng sanh hoặc một kiếp hoặc dưới một kiếp phát khởi các lời hỏi sai khác.

Này Tỳ Kheo! Ý ông thế nào, những lời hỏi trên ấy có nhiều chăng?

- Bạch Pháp Sư! Rất nhiều, chẳng phải thí dụ mà có thể thí dụ được.

- Này Tỳ Kheo! Nay ta nói rõ với ông, chớ có nghi hối. Như tất cả vô dư chúng sanh ấy phát khởi lời hỏi sai khác hoặc trong một kiếp hoặc dưới một kiếp, ta theo Phật nghe lời hỏi đáp trong một pháp môn còn nhiều hơn. Như vậy hai môn ba môn đến muôn ngàn trăm ức môn.

Này Tỳ Kheo! Ta sẽ lược nói tất cả bao nhiêu toán số danh tự vô lượng vô tận chẳng thể nghĩ bàn còn hơn các số này, ta đều tụng trì cả.

Này Tỳ Kheo! Các lời đáp ấy đều ở trong một pháp môn, ta đều biết rõ. Ðó là đức Phật Công Ðức Quang Minh Vương nói những câu đạo, câu môn, câu ấn, câu bổn sự, câu kim cương, câu trọng, câu bất khả động, câu khó thấu đáo.

Này Tỳ Kheo! Trong một môn nhiếp tất cả pháp, đó là môn vô tác. Môn này là gốc của tất cả pháp tất cả câu, tất cả đều vào môn này. Tất cả tu đa la ưu đà na đều vào môn câu, phân biệt một chữ hay vào nhiều chữ.

Này Tỳ Kheo! Như vậy, hay vào bảy vạn tám ngàn môn đà la ni, trong ấy có chín vạn hai ngàn các căn sai biệt. Trong môn chúng sanh hành ấy có tám vạn ức hình sắc nơi các loài sai khác. Các hình sắc ấy, ta biết tên nó. Trong mỗi mỗi sắc ta biết trăm tên hai trăm tên ba trăm tên đều ở tại Diêm Phù Ðề, và lại khắp đến mười phương Phật quốc, trong ấy có những duyên những danh tự ta đều biết được cả.

Tóm lại, bao nhiêu trí lực của Phật ở trong các pháp có những sai biệt hỏi đáp khác nhau ta đều biết được cả, đó là sức oai thần của Phật Công Ðức Quang Minh Vương gia bị cho ta vậy.

Bấy giờ Tỳ Kheo Ma Ðà thưa Pháp Sư Na La Diên rằng: “Ngưỡng mong Chánh Sĩ trở lại thành ấp tụ lạc để chuyển pháp luân của Phật Công Ðức Quang Minh Vương, tôi sẽ hộ vệ để được lãnh thọ giáo pháp.

Pháp Sư Na La Diên bảo: Thôi chớ có thỉnh ta. Ðời nay Tỳ Kheo phần nhiều giải đãi, không có ai quyết muốn chứa họp pháp lành.

Tỳ Kheo Ma Ðà thưa từ này tôi ở nơi pháp lành quyết mong muốn chẳng dám giải đãi, mong Pháp Sư trở vào tụ lạc thuyết pháp, tôi sẽ theo hộ vệ thưa hỏi để được nghe kinh chưa từng nghe.

Này Phú Lâu Na! Ma Ðà Tỳ Kheo thuở ấy được phần đông đại chúng cúng dường cung kính. Thời nhân gọi ông là người trì giới đa văn tối thượng công đức vô lượng.

Bấy giờ Tỳ Kheo Ma Ðà vào thành ấp tụ lạc khen ngợi Pháp Sư Na La Diên để khiến chúng sanh vào chánh pháp, và cũng khiến Phật pháp được lưu bố khắp mọi nơi. Ma Ðà dắt dẫn nhiều người cúng dường cung kính hộ vệ Pháp Sư Na La Diên để được nghe pháp. Sau đó, Pháp Sư Na La Diên được Ma Ðà thủ hộ rồi vào thành ấp tụ lạc nói rộng đạo Bồ đề của chư Phật Nhất Thiết Công Ðức Quang Minh Vương đã tu tập trong a tăng kỳ kiếp khiến lưu bố khắp nơi. Tỳ Kheo Ma Ðà suốt trong một năm thường theo Pháp Sư Na La Diên thưa hỏi chánh pháp thường là mới lạ chưa bao giờ nói lập lại. Nhờ Tỳ Kheo Ma Ðà hộ trợ, Pháp Sư Na La Diên khiến vô lượng chúng sanh an trụ trong chánh pháp, vô lượng chúng sanh an trụ Phật Bồ đề.

Này Phú Lâu Na! Pháp Sư Na La Diên khéo giữ gìn chánh pháp khéo thuyết pháp thuở quá khứ ấy chính là Di Lặc Bồ Tát hiện nay vậy. Còn Tỳ Kheo Ma Ðà hộ vệ Pháp Sư tá trợ thưa hỏi, do năng lực phước đức ấy sau khi mạng chung liền sanh nước Phật Thượng Chúng tại thế giới thứ mười ở Hạ phương. Ở trước Phật Thượng Chúng ấy, ông hỏi kinh Ðoạn Nhất Thiết Chúng Sanh Nghi. Phật ấy nhiều lời khen lành thay tốt thay rồi vì ông ấy mà nói kinh Ðoạn Nhất Thiết Chúng Sanh Nghi, lúc thuyết kinh ấy khiến vô lượng chúng sanh sơ phát tâm Bồ đề liền nhập vào chánh định tụ. Sau đó ông ấy lại gặp Phật Tu Di Sơn thưa hỏi kinh Nhiếp Xuất Nhất Thiết Pháp Môn khiến vô lượng chúng sanh định tụ đều được Vô thượng Bồ đề. Sau đó ông ấy lại gặp Phật Sơn Vương thỉnh hỏi kinh Chư Pháp Môn khiến vô lượng chúng sanh quyết định nơi Vô thượng Bồ đề. Sau đó ông ấy lại gặp Phật Phạm Âm Thanh thỉnh hỏi kinh Nhiếp Nhất Thiết Pháp khiến vô lượng chúng sanh quyết định Vô thượng Bồ đề. Lần lượt như vậy, Tỳ Kheo Ma Ðà gặp chư Phật thỉnh hỏi kinh pháp làm cho vô lượng vô số chúng sanh an trụ Vô thượng Bồ đề, nếu ta có dùng một kiếp hay hơn một kiếp để thuật nói danh hiệu chư Phật ấy và những chúng sanh được an trụ Vô thượng Bồ đề cũng chẳng thể hết được.

Này Phú Lâu Na! Vì thế nên biết rằng đại Bồ Tát nghe kinh pháp chưa từng nghe mà suy gẫm nghĩa lý thì được công đức lợi ích lớn như vậy.

Này Phú Lâu Na! Tỳ Kheo Ma Ha Nựu Ma Ðà theo Pháp Sư Na La Diên nghe kinh pháp chưa từng nghe tùy thuận nghĩa thú ấy nay chính là Kiều Việt Ðâu Bồ Tát vậy.

Thuở ấy Tỳ Kheo Ma Ha Nựu Ma Ðà thủ hộ chánh pháp nghe kinh chưa từng nghe tùy thuận nghĩa thú chẳng chấp ngôn từ, do đó mà gặp vô lượng Phật được nghe vô lượng kinh thâm diệu. Do nơi thiện căn thuở xưa ấy nên nay ở trước ta, Phật Thích Ca Mâu Ni, cũng thỉnh hỏi kinh Nhiếp Nhất Thiết Pháp Ðại Hải Pháp Môn. Lúc ta thuyết kinh ấy có vô lượng chúng sanh được lợi ích lớn”.

Ðức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa ấy mà nói kệ rằng:

“Bồ Tát nghe chưa nghe

Phải suy nghĩa lý kinh

Chẳng nên vội nói rằng

Từ truước tôi chưa nghe

Nghe pháp chưa từng nghe

Chánh niệm suy nghĩa lý

Do đó trí huệ tăng

Như biển nhận các dòng

Ða văn càng tăng thượng

Trí huệ tăng cũng vậy

Ðược nghe các Phật sự

Rộng lợi ích chúng sanh

Họp đa văn như biển

Trí huệ không cùng tận

Giỏi biết được chương cú

Hạng nhất trong sai biệt

Thế nên phải nên nghe

Pháp chưa từng được nghe

Cầu pháp chưa từng nghe

Ðược quả báo vô thượng.

Lại này Phú Lâu Na! Hai là Bồ Tát chân thiệt tinh tấn, Bồ Tát thành tựu pháp này thì chẳng thối chuyển Vô thượng Bồ đề. Ðại Bồ Tát ở nơi sự cầu đa văn sanh lòng rất mong muốn, ở nơi sự rảnh rang vắng vẻ sanh lòng rất ưa thích, nhất tâm siêng cầu Vô thượng Bồ đề, cầu rồi vì dứt sân khuể mà tu tập từ quán, vì dứt tham dục mà tu tập bất tịnh quán, vì dứt ngu si mà tu tập nhân duyên quán.

Này Phú Lâu Na! Những gì là Bồ Tát tinh tấn, Bồ Tát tu tập tinh tấn thế nào?

Này Phú Lâu Na! Bồ Tát hoặc trong một kiếp hoặc dưới một kiếp, hoặc đi hoặc ngồi thường phát tinh tấn. Ðây chẳng gọi là chân thiệt tinh tấn.

Có Bồ Tát hoặc trong một kiếp hoặc dưới một kiếp tu hành tịnh giới khổ hạnh khó làm, đầy đủ đầu đà, tùy sở duyên sự sanh lòng nguyện cầu sâu mà rời lìa thiệt tướng các pháp, đây chẳng gọi là chân thiệt tinh tấn.

- Bạch Ðức Thế Tôn! Thế nào là Bồ Tát chân thiệt tinh tấn được chư Phật khen, người trí thế tục chẳng chê ghét?

- Này Phú Lâu Na! Ở nơi kinh chưa từng nghe đúng pháp không sâu diệu không có chút tướng dạng hiệp đệ nhất nghĩa, Bồ Tát chẳng trái chẳng nghịch biết rõ nghĩa ấy siêng phát tinh tấn lòng chẳng lui mất nghe nhận đọc tụng giải thuyết cho người. Ðây gọi là Bồ Tát chân thiệt tinh tấn. Vì nghe kinh thâm diệu thông đạt nghĩa lý chẳng trái chẳng nghịch, tinh tấn như vậy được chư Phật khen ngợi người trí thế gian chẳng chê trách được.

Thế nên Bồ Tát phát trang nghiêm như vầy: Chỗ mà chúng sanh thế gian chẳng thể thấu đáo được thì tôi ở trong ấy sẽ thấu đáo hết, chỗ mà chúng sanh thế gian có thể bị chìm mất tôi ở trong ấy chẳng nên để bị chìm, chỗ mà chúng sanh thế gian phải kinh sợ tôi ở trong ấy chẳng nên kinh sợ. Tại saỏ Vì tôi phát trang nghiêm chẳng hiệp với thế gian, vì rời lìa thế pháp mà tôi phát trang nghiêm chớ chẳng phải đi trong thế pháp mà tôi phát trang nghiêm, vì chẳng đi trong thế pháp mà tôi phát trang nghiêm chớ chẳng phải vì tùy theo thế pháp mà tôi phát trang nghiêm, vì chuyển thế pháp mà tôi phát trang nghiêm.

Này Phú Lâu Na! Ðây gọi là Bồ Tát chân thiệt tinh tấn. Bồ Tát thành tựu pháp thứ hai này thì chẳng thối chuyển Vô thượng Bồ đề vậy”.

Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa ấy mà nói kệ rằng:

“Bồ Tát cầu thâm pháp

Thường siêng phát tinh tấn

Suy gẫm nghĩa lý ấy

Chẳng theo nơi âm thanh

Bồ Tát chẳng theo lời

Biết nói điều hư dối

Vì biết các pháp không

Chỉ cầu nơi lời lành

Nếu trong ngàn vạn ức

Vô lượng các kiếp số

Ngày đêm luôn đi ngồi

Chuyên tâm tu khổ hạnh

Mà chẳng tin thâm kinh

Thì chẳng phải tinh tấn

Thấu đáo nghĩa lý sâu

Chẳng gọi là giải đãi

Tinh tấn được như vậy

Là chỗ khen của Phật

Thế gian chẳng thấu đáo

Bồ Tát thấu đáo được

Thế gian bị sợ mất

Bồ Tát chẳng sợ mất

Chuyên tâm thường mong cầu

Pháp không tịch chân diệu

Trong pháp không vô uý

Cũng không có lui mất

Vì trụ tướng ngã pháp

Nên sanh lòng sợ mất

Tán hoại tất cả pháp

Ðây gọi đạo Bồ đề

Chuyên tâm phát tinh tấn

Mau thành biển đa văn.

Lại này Phú Lâu Na! Ba là Bồ Tát khéo biết ngũ ấm, khéo biết mười hai nhập, khéo biết thập bát giới, khéo biết mười hai nhân duyên, vì khéo biết các pháp nên thành tựu trí vô y chỉ, vì được trí vô y chỉ nên ở nơi tất cả pháp chẳng niệm chẳng phân biệt, vì chẳng niệm chẳng phân biệt nên thuyết pháp cho chúng sanh phá tất cả kiến chấp khiến trừ thân kiến.

Bồ Tát thành tựu pháp thứ ba này thì chẳng thối chuyển Vô thượng Bồ đề”.

Ðức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa ấy mà nói kệ rằng:

“Bồ Tát biết ngũ ấm

Mười hai nhập đều không

Biết rõ thập bát giới

Thông đạt mười hai duyên

Chẳng tùy theo năm ấm

Biết thân này hư dối

Nơi các nội ngoại nhập

Ðều biết nó tánh không

Biết các pháp như vậy

Biết rồi nói với người

Vì thế nên Bồ Tát

Trí huệ càng cao lớn.

Lại này Phú Lâu Na! Bốn là đại Bồ Tát như sở kiết giới như sở thuyết giới đều khéo theo học không có khuyết phạm. Những gì là Bồ Tát học giới?

Học tất cả pháp là Bồ Tát học giới. Tại sao, vì Bồ Tát học tất cả pháp nên được trí tất cả pháp, do pháp trí ấy mà được vô phân biệt huệ, do huệ vô phân biệt ấy mà biết được tất cả sự. Biết tất cả sự thế nào? Bồ Tát biết hết tất cả nội sự, tất cả ngoại sự tất cả nội ngoại sự.

Cớ chi gọi là nội tên nội? Phàm bao nhiêu chỗ thọ có thể tham trước thì gọi là nội thân, từ mười hai nhân duyên sanh, trong ấy chỉ có thế tục giả danh, đó là mắt này, tai này, mũi này, lưỡi này, thân này, ý này. Ðây gọi là nội. Vì pháp này được phàm phu tham trước nên gọi là nội, họ bảo rằng tôi sẽ được mắt như vậy, được tai mũi lưỡi thân và ý như vậy chẳng làm tai mũi lưỡi thân và ý như vậy. Trong ấy chỉ do nghiệp duyên đã khởi mà có quả báo sanh nên gọi là nội, trong ấy sai biệt mà phàm phu tham trước gọi là mắt là tai mũi lưỡi thân ý đều gọi là nội cả.

Này Phú Lâu Na! Nội gọi là hai. Sự ấy hư dối. Những người phàm phu tham trước nhận lấy nó mà sanh tranh cãi. Nơi ấy, đức Như Lai từ trước đến nay biết nó đúng thiệt nên chẳng tham trước. Thế nào biết rằng đức Như Lai biết nó đúng thiệt mà chẳng tham trước? Ðức Như Lai ở trong pháp ấy chẳng làm về nương. Ai chẳng làm về nương? Ðó là ái kiết. Mắt chẳng làm về nương, rời mắt chẳng làm về nương. Tai mũi lưỡi thân ý chẳng làm về nương, rời tai mũi lưỡi thân ý chẳng làm về nương. Tại sao, vì nơi các pháp, đức Như Lai chẳng được nội chẳng được ngoại, thế nên trong pháp ấy đức Như Lai chẳng làm về nương. Ðức Như Lai là đấng nói lời chân thiệt, bảo các Tỳ Kheo rằng mắt chẳng phải là các ông cũng chẳng phải người khác. Tại sao, vì bổn thể nó bất khả đắc nên pháp nào là mắt, mắt ấy thuộc ai, pháp nào là tai mùi lưỡi thân ý, thuộc về ai. Tại sao, vì bổn thể nó bất khả đắc vậy.

Này Phú Lâu Na! Mắt ấy, nay nên suy kiểm, tai mũi lưỡi thân và ý ấy, nay nên suy kiểm. Nơi pháp không chỗ tham thọ được. Tại sao, nếu có pháp nhận thọ thì sanh khổ não, vì sanh khổ não nên không có vui. Vì thế nên nơi pháp mà có nhận thọ thì đều thọ khổ não, nếu thọ khổ não thì chẳng rời lìa khổ. Ðây gọi là suy kiểm mắt suy kiểm tai mũi lưỡi thân và ý, không có nhập xứ, tại sao, vì nếu có chỗ nhập thì có chỗ xuất. Thế nên đức Như Lai nói mắt là không vô ngã vô ngã sở bổn tánh nó tự như vậy, tai mũi lưỡi thân ý không vô ngã vô ngã sở bổn tánh nó tự như vậy. Tánh ấy không có tánh, không có tánh như vậy thì không tác không hoại. Pháp tánh như vậy, hoặc chư Phật xuất thế hay chẳng xuất thế, tánh ấy luôn thường trụ. Ở nơi các pháp sanh, đức Như Lai biết là chẳng sanh, nên Như Lai là đấng nói lời chân thiệt mà nói rằng hoặc có Phật hay không có Phật tánh ấy thường trụ.

Này Phú Lâu Na! Thế nào gọi là vô sanh, thế nào gọi là trí vô sanh? Này Phú Lâu Na! Các pháp bình đẳng gọi là vô sanh, đạo gọi là trí vô sanh. Khổ hêt gọi là vô sanh, đạo gọi là trí vô sanh. Ðây là Như Lai nói có hai đế: thế đế và đệ nhất nghĩa đế.

Này Phú Lâu Na! Như Lai nói tướng khổ tức là nói vô tướng. Thế nào gọi là tướng khổ, đó là tướng vô vi, vô vi tức là vô tướng, người trí biết vô vi là vô tướng.

Này Phú Lâu Na! Người trí thế nào biết vô vi là vô tướng? Ðó là biết vô vi pháp không, biết là tịch diệt, biết là chỗ về, biết là lợi ích đệ nhất, biết là không có nhiệt não. Người trí biết vô vi là như vậy, trong trí biết ấy cũng chẳng sanh tướng.

Này Phú Lâu Na! Nếu người có tác thì có hoại, nếu không tác thì không hoại. Tướng không hoại là không, tướng không hoại là vô tướng, tướng không hoại là không nguyện.

Này Phú Lâu Na! Không pháp không có người tác không có người hoại. Vô tướng và vô nguyện cũng không có người tác người hoại. Ðây gọi là tướng bất hoại là Vô thượng Bồ đề của chư Phật. Những gì là Vô thượng Bồ đề của chư Phật, đó là chư Phật sở bất đắc vậy.

- Bạch Thế Tôn! Những pháp gì là chư Phật sở bất đắc?

- Này Phú Lâu Na! Tất cả pháp là chư Phật sở bất đắc.

- Bạch Thế Tôn! Vì lẽ ấy mà tất cả pháp là Vô thượng Bồ đề của chư Phật chăng?

- Này Phú Lâu Na! Ðúng như vậy, tất cả pháp là Vô thượng Bồ đề của chư Phật đó chỉ là thế tục giả danh ngôn để nói thôi. Người chẳng tinh tấn khó hiểu khó biết. Tại sao, vì người chẳng tinh tấn chẳng tu tập được các pháp bình đẳng. Nếu bất bình đẳng thì trái chống với chư Phật.

Này Phú Lâu Na! Người nào chẳng tu tập bình đẳng được?

Này Phú Lâu Na! Tất cả thế gian hành bất bình đẳng. Trong Bồ đề của chư Phật không có đẳng cũng không có bất đẳng. Ta do đạo ấy mà được Vô thượng Bồ đề. Do nhân duyên ấy mà trong kinh Phật nói tất cả pháp ở trong chánh vị đều nhập tất định, đây gọi là môn tất định nhập Bồ đề. Vì thế nên, này Phú Lâu Na, tất cả pháp đều là Bồ đề vậy”.

Bấy giờ Huệ Mạng Phú Lâu Na bạch rằng: “Hi hữu Thế Tôn! Vô thượng Bồ đề của chư Phật cũng định cũng bất định, cũng vào văn tự cũng chẳng vào văn tự, cùng vào ngữ ngôn cũng chẳng vào ngữ ngôn. Tại sao, bạch Thế Tôn, nay tôi theo Phật nghe nói kinh này, ở nơi các pháp tôi được quyết định quang minh. Tôi ở trong các pháp được quyết định quang minh như vậy, tôi ở trong một sự biết tất cả sự, ở trong tất cả sự biết một sự”.

Ðức Phật khen Ngài Phú Lâu Na rằng: “Lành thay, tốt thay, này Phú Lâu Na, ông có thể mau nhập được tất cả pháp lợi của chư Phật như vậy, phải biết thuở đời quá khứ ông đã từng cúng dường chư Phật gieo trồng các căn lành, hầu gần thỉnh hỏi. Này Phú Lâu Na! Ta nhớ thuở quá khứ ở trong phần hư không của cõi đất này, ông đã từng ở chỗ sáu vạn tám ngàn đức Phật được nghe nói kinh này, do vì thiện căn công đức ấy nên nay ông ở nơi các pháp được khắp quyết định quang minh.

- Bạch Thế Tôn! Nếu tôi đã ở nơi chư Phật ấy được nghe kinh này, tại sao tôi lại chẳng dùng một niệm phát Vô thượng Bồ đề?

Này Phú Lâu Na! Ta nhớ thuở quá khứ ông đã có một kiếp phát tâm Vô thượng Bồ đề mà chẳng rời lìa các tâm khác nên lại thối thất. Do vì phước đức ấy, nay ta nói ông ở trong các Pháp Sư là tối đệ nhất.

Bạch Thế Tôn! Tôi khi trước làm tội chướng gì nên trong một kiếp phát tâm Bồ đề lại thối thất?

Này Phú Lâu Na! Do vì theo y chỉ ác tri thức, lại vì chẳng có thể lưu bố rộng chánh pháp nên ông thối thất tâm Bồ đề.

Này Phú Lâu Na! Có bốn pháp thối thất tâm Vô thượng Bồ đề mà thành Thanh Văn thừa. Những gì là bốn?

Một là vì Bồ Tát thân cận ác tri thức nên có thể ở nơi thiện căn tăng thêm ác niệm viễn ly mà nói rằng: Cần gì phát tâm Bồ đề như vậy, sanh tử dài lâu vô lượng khổ não qua lại trong năm loài được không nạn rất khó, gặp Phật càng khó mà sanh lòng tịnh tín lại khó hơn, dầu được gặp Phật nhưng xuất gia lại khó, đời nay ngươi được gặp không nạn chớ để mất, nơi chư Phật người chưa được thọ ký thiện căn chưa nhất định, nếu chẳng được Niết bàn thì phải luân chuyển năm loài. Người ấy nghe lời của ác tri thức nói trên đây rồi sanh lòng thối thất đạo Bồ đề giải đài chẳng an vui. Ðây là pháp ban đầu mà do đó Bồ Tát thối thất Bồ đề thành Thanh Văn thừa.

      

Hai là Bồ Tát chẳng nghe các kinh đúng với Bồ Tát, đó là các kinh Bồ Tát Tạng, kinh Phát Bồ Ðề Tâm, ,kinh Nhiếp Bồ Tát Sự, kinh đúng sáu Ba la mật, do vì chẳng nghe nên chẳng hành Bồ Tát hạnh chẳng học Bồ Tát đạo. Người này chẳng biết Bồ Tát nên thân cận pháp gì nên xa rời pháp gì, pháp nào nên thọ pháp nào chẳng nên thọ, pháp gì là Bồ Tát pháp, pháp gì là Thanh Văn pháp. Vì chẳng biết rõ ràng nên với pháp nên thân cận mà chẳng thân cận trở lại thân cận pháp chẳng nên thân cận, do đó nên thối thất đạo Vô thượng Bồ đề tâm giải đãi nhàm yếu bỏ phế bổn nguyện. Có pháp thứ hai này thì Bồ Tát thối thất Bồ đề thành Thanh Văn thừa.

Ba là Bồ Tát chấp được các tham trước ngô ngã hành tà kiến sa vào biên kiến chìm trong ác kiến khó cứu khỏi. Người này được nghe kinh sâu diệu đúng đệ nhất nghĩa không có mảy tướng dạng thì trái nghịch chẳng tin chẳng thông đạt được gây tội phá pháp, do đó mà sanh tại chỗ nạn chẳng gặp được Phật chẳng được nghe pháp, vì chẳng nghe pháp nên chẳng gặp giáo pháp chư Phật nên chẳng được gặp thiện tri thức, vì chẳng gặp thiện tri thức nên mất chỗ vô nạn mà sanh tại chỗ nạn, vì sanh chỗ nạn nên rời lìa thiện tri thức gặp ác tri thức, vì cùng tùng sự với ác tri thức nên quên mất bổn niệm, vì mất bổn niệm nên bỏ tâm Bồ Tát bỏ Bồ Tát thừa mà thối chuyển mất tâm Bồ đề chỉ làm pháp sanh tử chẳng tu tập được hành pháp Ðại thừa. Có pháp thứ ba này thì Bồ Tát thối thất Bồ đề thành Thanh Văn thừa.

Bốn là Bồ Tát được nghe các kinh thâm diệu mà chẳng thâm tâm giáo hóa người khác, tâm niệm thối thất chỉ thích tu một mình lòng tham tiếc chẳng muốn tuyên nói, chẳng có thể dùng Chánh pháp nhiếp nhiều người, do căn bất thiện này mà mất trí niệm huệ, đã mất trí huệ niệm chẳng cùng người đọc tụng Ðại thừa kinh chẳng đem pháp Ðại thừa cùng người cộng đồng, người này chuyển thân đời khác, mất tâm Bồ Tát quên niệm Bồ Tát. Có pháp thứ tư này thì Bồ Tát thối thất Bồ đề thành Thanh Văn thừa”.

Ðức Thế Tôn muốn tuyên rõ lại sự ấy mà nói kệ rằng:

“Thân cận ác tri thức

Giải đãi nơi Bồ đề

Do vì duyên cớ ấy

Mất tâm thượng Bồ đề

Sâu sanh ác ngã kiến

Sa vào biên tà kiến

Mà gây tội phá pháp

Sanh tại nơi nạn xứ

Sanh nơi nạn xứ rồi

Thì dứt tâm Bồ đề

Quên mất bổn niệm trước

Do đó mất Bồ đề

Người này chẳng nghe được

Pháp sanh Bồ đề tâm

Tâm ấy nếu tăng trưởng

Thì thành được Bồ đề

Ðược pháp diệu quảng đại

Tham lẫn chẳng muốn nói

Do vì duyên cớ ấy

Mà thối thất Bồ đề

Bồ Tát cầu Ðại thừa

Phải biết bốn pháp ấy

Nếu biết bốn pháp ấy

Bồ đề sẽ được sanh

Vì thế nên xa rời

Bốn pháp ác như vậy

Siêng tu hành pháp không

Ðược gần thiện tri thức

Ðược kinh thâm diệu rồi

Chẳng nên tham bỏn xẻn

Lòng siêng nói dạy người

Do đây sanh Bồ đề.

Lại này Phú Lâu Na! Bồ Tát thành tựu bốn pháp tùy hồi hướng Bồ đề tâm chẳng mất, tùy hồi hướng các thiện căn cũng chẳng mất. Những gì là bốn?

Bồ Tát trì giới thanh tịnh, ức niệm thành tựu có niệm an huệ, tâm siêng tinh tấn mà chẳng lười bỏ, thành tựu đa văn sanh huệ.

Bồ Tát có bốn pháp ấy thì tùy hồi hướng tâm Bồ đề chẳng mất, tùy hồi hướng các thiện căn cũng chẳng mất”.

Ðức Thế Tôn muốn tuyên rõ lại nghĩa ấy mà nói kệ rằng:

“Bồ Tát đủ trì giới

Chỗ ghi nhớ sâu xa

Tâm siêng thường tinh tấn

Ða văn trang nghiêm huệ

Bồ Tát thường thân cận

Bốn pháp như trên ấy

Tùy ý muốn khởi sự

Ðều có thể thành tựu

Vì thế phải thường trì

Tịnh giới siêng tinh tấn

Chẳng dứt pháp ức niệm

Thường siêng cầu đa văn

Trì giới tịnh chỗ sanh

Ức niệm tịnh đại trí

Tinh tấn tịnh Phật pháp

Ða văn sanh đại huệ

Vì thế các Bồ Tát

Phải học bốn pháp trên

Học bốn pháp trên rồi

Sẽ chuyển vô thương luân.

Lại này Phú Lâu Na! Bồ Tát có bốn pháp thì có thể lợi ích Bồ đề: Trì giới là pháp lợi ích Bồ đề, nhẫn nhục là pháp lợi ích Bồ đề, tinh tấn là pháp lợi ích Bồ đề, đa văn là pháp lợi ích Bồ đề”.

Ðức Thế Tôn muốn tuyên rõ nghĩa mà nói kệ rằng:

“Bồ Tát tịnh trì giới

Lợi ích cho Bồ đề

Nhẫn nhục và tinh tấn

Ða văn cũng như vậy

Người trì giới thanh tịnh

Sở nguyện đều được thành

Giới tịnh nhiều lợi ích

Bồ đề được chẳng khó

Bồ Tát tu nhẫn nhục

Thân tướng trí huệ thành

Nên tu hành nhẫn nhục

Cầu Phật tướng trí huệ

Tinh tấn cũng có thể

Lợi ích nhiều Bồ đề

Người luôn tu tinh tấn

Ðược Bồ đề chẳng khó

Bốn pháp là chủng tử

Từ đó sanh Bồ đề

Thế nên chư Bồ Tát

Phải gần bốn pháp ấy.

Lại này Phú Lâu Na! Ðại Bồ Tát thành tựu bốn pháp thì được thân sắc đầy đủ, tài vật đầy đủ, quyến thuộc đầy đủ, mạng chung thường chẳng sanh xứ ác nạn, thường gặp chư Phật, được chư Phật khen. Những gì là bốn:

Một là Bồ Tát hành từ chẳng sân chẳng não tất cả chúng sanh. Thế nào là Bồ Tát hành từ chẳng sân chẳng não tất cả chúng sanh?

Này Phú Lâu Na! Bồ Tát hành từ đối với chúng sanh phát khởi ý tưởng tôi thương mến cứu độ họ. Thấy chúng sanh thân khổ tâm khổ thì nghĩ rằng tôi phải siêng tu tinh tấn độ các chúng sanh ấy khỏi khổ sanh tử ban cho họ an vui. Bồ Tát phát tâm ấy rồi siêng tu tinh tấn, tu sáu Ba la mật: Bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và trí huệ.

Này Phú Lâu Na! Bồ Tát nhân Bát Nhã Ba la mật mà tròn đủ sáu Ba la mật. Những gì là Bồ Tát Bát Nhã Ba la mật, tại sao Bồ Tát do Bát Nhã Ba la mật mà siêng phát tinh tấn?

Bồ Tát suy gẫm: Pháp gì là ngã, pháp gì là ngã sở. Lúc suy như vậy, Bồ Tát chẳng thấy pháp là ngã, chẳng thấy pháp là ngã sở. Ở trong pháp ấy không ngã pháp không ngã sở pháp. Vì rời lìa ngã, ngã sở nên Bồ Tát biết thân không, vì thân không nên chúng sanh không. Tại sao, vì trong các pháp ngã và ngã sở còn không huống là chúng sanh. Bồ Tát vì lìa rời ngã ngã sở như vậy nên biết chúng sanh không. Vì chúng sanh không nên biết sắc ấm không. Vì sắc ấm không nên thọ tưởng hành thức bốn ấm cũng đều không. Vì biết các ấm không nên biết đại chủng không, đó là địa thủy hỏa phong hư không và thức đại chủng đều không. Ðại chủng ấy không có tác giả không có ai sai tạo tác. Nếu không tác giả thì pháp ấy là không. Vì biết các đại chủng tướng các đại chủng không nên Bồ Tát biết các nhập không, vì các nhập không nên tướng các nhập không. Các nhập không tác giả không ai sai tạo tác, nếu không tác giả thì pháp ấy là không.

Này Phú Lâu Na! Bồ Tát quán tất cả pháp không như vậy. Lúc quán tất cả pháp không chẳng thấy bổn thể các pháp chỗ có thể sanh được sân.

Ðây gọi là Bồ Tát đại từ, là từ biết thân là không, là từ chúng sanh không, là từ ấm nhập đại chủng không. Bồ Tát có thể hành đức từ như vậy thì gọi là hành tất cả pháp không từ. Bồ Tát này rời lìa tâm ngã ngã sở rất sanh lòng cầu muốn Vô thượng Bồ đề, sanh lòng đại từ đối với chúng sanh. Nếu có chúng sanh chẳng biết được thiệt tướng như vậy nên Bồ Tát phát đại trang nghiêm. Tôi cứu họ nên gọi là từ, tôi làm nên gọi là bi. Bồ Tát thành tựu đại từ như vậy thì có thể ở nơi các chúng sanh có thể làm cứu độ làm chỗ về làm nhà làm chỗ ở có thể làm cứu cánh. Thế nên Bồ Tát phải tu hành đại từ như vậy chẳng tham trước nơi chúng sanh cũng chẳng sân hận. Ðây gọi là Bồ Tát chúng sanh không từ chẳng có sân hận.

Này Phú Lâu Na! Nếu Bồ Tát nhân nơi đức từ nhân nơi lợi ích nhân nơi pháp không có thể vào tất cả pháp bất sanh bất diệt thì gọi là Bồ Tát thường hành đại từ. Bồ Tát thông đạt các pháp như vậy thì các ma, ma dân và ma sở đều chẳng phá hoại được.

Bồ Tát thành tựu pháp ban đầu này thì có thể dứt được triền phược trong tất cả công đức, do đây được Bình đẳng Ba la mật”.

Ðức Thế Tôn muốn sáng tỏ sự ấy mà nói kệ rằng:

“Bồ Tát thường tu từ

Mà quán không như vậy

Biết ấm nhập giới ly

Trong đây không có ngã

Hai pháp ngã ngã sở

Cũng quyết định chẳng có

Vì chẳng được các pháp

Mà tu hành từ tâm

Chẳng y chỉ các pháp

Cũng chẳng phải chẳng y

Ðây gọi các Phật đạo

Các pháp chẳng y chỉ

Hay được vô thượng nhẫn

Nhẫn thiệt tướng các pháp

Các pháp không sanh diệt

Hay thông đạt lý ấy

Những người có trí lớn

Thân cận nơi pháp ấy

Thường được thân sắc đẹp

Cũng được lạc thuyết biện

Thường được gặp chư Phật

Biết nghĩa lợi các pháp

Vì thế Bồ Tát này

Ðược đạo thượng vô vi.

 

     

Lại này Phú Lâu Na! Hai là đại Bồ Tát chuyên cần cúng dường cung kính chùa tháp chư Phật, dùng hương quí hoa đẹp thơm các chuỗi ngọc phan lọng kỹ nhạc các loại đồ cúng để cúng dường. Bồ Tát thành tựu pháp thứ hai này thì có thể đầy đủ tất cả công đức”.

Ðức Thế Tôn muốn sáng tỏ nghĩa này mà nói kệ rằng:

“Bồ Tát dùng hoa hương

Và phan lọng thượng diệu

Cúng dường chùa tháp Phật

Ðể cầu thượng trí huệ

Do duyên công đức này

Báo thân thường đoan chánh

Của nhiều châu báu đủ

Quyến thuộc đều thành tựu

Quyết định nơi Bồ đề

Thường an trụ nơi pháp

Nơi nơi chỗ thọ sanh

Công đức càng cao thêm

Các vua chúa đều kính

Trời Rồng Thần thường mến

Tất cả các chúng sanh

Cũng đều chung cung kính

Nếu người cúng dường Phật

Hiện tại hoặc nhập diệt

Sanh ra được cúng dường

Thường ở chỗ không nạn.

Lại này Phú Lâu Na! Ba là đại Bồ Tát thường phải chuyên cần cúng dường chánh pháp. Sao gọi là chánh pháp? Thế nào gọi là cúng dường chánh pháp?

Ðó là Tứ niệm xứ, Tứ chánh cần, Tứ như ý túc, Tứ thiền, Ngũ căn, Ngũ lực, Thất giác ý, Bát chánh đạo, Chỉ quán, Minh giải thoát, Ba giải thoát môn, Tận trí vô sanh trí, đây gọi là chánh pháp. Ở trong các pháp ấy đúng như lời mà thật hành tùy thuận chẳng trái nghịch sanh dục nguyện tinh tấn đầy đủ tu tập, đây gọi là cúng dường chánh pháp. Lại chánh pháp là các kinh như vậy. Cúng dường pháp là tin hiểu suy tư phân biệt tùy thuận tâm chẳng trái nghịch. Bồ Tát thành tựu pháp thứ ba này thì có thể được thành tựu đầy đủ tất cả công đức”.

Ðức Thế Tôn muốn sáng tỏ nghĩa này mà nói kệ rằng:

“Thường siêng cúng dường pháp

An trụ đúng như lời

Nghe pháp không thâm diệu

Tâm thuận không trái nghịch

Do đó thân đoan chánh

Ðược lạc thuyết biện tài

Như pháp được Phật khen

Do đây càng cao thêm.

Lại này Phú Lâu Na! Bốn là đại Bồ Tát chuyên cần cúng dường Thánh chúng đệ tử Như Lai. Dùng hương hoa chuỗi ngọc phan lọng y phục thức ăn uống đồ nằm y dược các vật cần dùng hoặc xây Tăng phòng, hoặc lập vườn rừng, hoặc dọn chỗ kinh hành, hoặc sắm ao tắm, hoặc là giếng suối, hoặc người giúp việc, đem các thứ như vậy cúng dường Thánh chúng. Bồ Tát thành tựu pháp thứ tư này thì có thể được đầy đủ tất cả công đức”.

Ðức Thế Tôn muốn sáng tỏ nghĩa này mà nói kệ rằng:

“Ðồ cúng dường vô thượng

Ðem cúng dường thánh chúng

Do duyên công đức này

Sanh ra được giàu có

Thân sắc thường đoan chánh

Cũng được lạc thuyết biện

Ðầy đủ các công đức

Trí huệ càng cao thêm

Tâm cúng dường chánh trực

Không có ngã ngã sở

Do nhân duyên trí này

Sanh ra được cúng dường

Ðược chư Phật khen ngợi

Thường thân cận bốn pháp

Sanh ra thường tôn quí

Công đức càng cao thêm”.

PHẨM CỤ THIỆN CĂN THỨ TƯ

Ðức Phật bảo Huệ Mạng Phú Lâu Na: “Ðại Bồ Tát phát tâm Ðại thừa thường phải tu tập thân cận bốn pháp thì có thể nhiếp hết tất cả pháp lành cũng có thể đầy đủ cả căn lành. Những gì là bốn pháp?

Này Phú Lâu Na! Thiện nam thiện nữ phát tâm Ðại thừa gần gũi tu tập thật hành pháp nhẫn nhục. Lúc tu hành pháp nhẫn nhục như vậy, do vì như tâm bình đẳng thì được Bình đẳng Ba la mật, cũng được tất cả chúng sanh Bình đẳng Ba la mật. Bồ Tát ấy được tâm Bình đẳng Ba la mật, trí Bình đẳng Ba la mật, hoặc đi hoặc đứng hoặc ngồi hoặc nằm hoặc thức hoặc ngủ, bấy giờ có người mang bình phẩn hoặc bình độc, bình nước sôi, hoặc các thứ rác rưởi, hoặc than lửa tro nóng, hoặc cứt đái đến đổ trút lên đầu lên thân, đối với sự gia hại này, Bồ Tát chẳng nên sân hận mà tâm phải tán loạn, chẳng nên tự nói tôi có tội gì, cũng chẳng dùng ác tâm nhìn họ, chỉ nên nhất tâm cầu pháp tự lợi, ở nên sự đang tu tập chuyên tâm chẳng bỏ rời. Phải điều phục tâm mình thế này: Người đó cớ chi mang các thứ ấy đổ trút lên đầu lên thân ta, thân ta chẳng vì các vật ấy mà phải đau khổ. Phải quan sát các pháp nhân duyên như vầy: Ai mang vật đến, vật ấy đổ cho ai, vật gì đổ cho người nào. Suy gẫm như thiệt như vậy chẳng thấy có pháp nào là người mang cho, là người lãnh thọ, cái gì là vật. Chánh niệm quan sát suy gẫm như vậy vì nhận thấy đây kia đều bất khả đắc nên tất cả pháp cũng đều bất khả đắc đều chẳng thấy có được. Vì Bồ Tát chẳng được và chẳng thấy tất cả pháp nên chẳng sanh lòng sân hận.

Nếu lúc suy xét như trên mà vẫn còn có niệm sân hận khởi lên thì Bồ Tát lại phải chánh niệm suy xét thế này: Do chạm xúc gì khiến thân ta đau, các thứ chạm xúc ấy nó chạm xúc chỗ nào, chạm xúc nơi thân hay chạm xúc nơi tâm. Nếu nó chạm xúc nơi thân, thì thân như cỏ cây ngói đá bóng tượng không hay không biết chẳng phải đây chẳng phải kia. Nếu nó chạm xúc nơi tâm, thì tâm không hình sắc niệm niệm sanh diệt chẳng tạm dừng chẳng phải đây chẳng phải kia, chỉ do hư vọng ghi nhớ phân biệt mà nói là khổ là vui là chẳng khổ vui, nay ta chẳng nên sanh khởi ghi nhớ phân biệt hư vọng ấy, nay ta phải quán bình đẳng thiệt tướng, ta phải tu tập việc làm của hiền thánh, chẳng nên theo việc làm của phàm phu. Những gì là việc làm của hiền thánh, đó là xa rời giải thoát đối với các pháp, ta vì xa rời mà học chớ chẳng phải vì hòa hiệp mà học. Lòng ghi nhớ phân biệt hư vọng ấy đều là hòa hiệp. Là ai hòa hiệp, là tham dục sân hận ngu si hòa hiệp. Sao gọi là tham dục sân hận ngu si hòa hiệp, do vì thân si, thân kiến si, vì tham thân kiến nên lúc thân bị khổ thì giận thù người kia đây gọi là sân hận hòa hiệp, có người vì thân kiến si vì tham thân kiến, vì chẳng vừa ý mà sân hận người kia đây gọi là ngu si hòa hiệp. Nếu người bị ba độc trói buộc mà hoặc phát khởi những tội nghiệp như vậy thì chư Phật chẳng cứu được huốngười là người khác, ta phải khéo quán các pháp nhân duyên, quán các pháp không. Bồ Tát tuỳ thuận quán các pháp nhân duyên như vậy chẳng thấy pháp có, ai hại ai chịu dùng vật gì để hại.

Bấy giờ Bồ Tát nên suy nghĩ rằng: Tất cả các pháp từ nhiều duyên mà sanh vốn không tự tánh quyết định bất khả đắc, tại sao ta lại ở trong pháp hư vọng vô sở đắc mà có được pháp tác nghiệp để sanh sân hận phát khởi hành nghiệp. Nay ta phải sanh lòng không sân hận mà tu hành pháp vô tác vô khởi vô sanh, ta phải quán pháp không, chẳng chìu theo tâm ý chấp kiến. Nay ta phải quán pháp bất tác bất khởi vô sanh, chẳng nên y chỉ pháp tác khởi. Ta phải suy gẫm các pháp đúng như thiệt. Nay ta chẳng nên ở trong hư vọng vô sở hữu này mà cưỡng khởi tác, đó là sân hận. Tại sao, vì y chỉ nơi pháp thì có sân hận, nay ở trong các pháp thiệt tướng cứu cánh không, không có pháp bổn thể để có y chỉ được. Bồ Tát suy gẫm các pháp như vậy thì tâm vắng bặt chẳng khởi sân hận.

     

Lại nữa, lúc Bồ Tát đi đứng nằm ngồi, hoặc lúc thức lúc ngủ, bấy giờ có người đến mang hương hoa thơm đẹp rải lên thân, hoặc đem những vòng hoa chuỗi ngọc phủ lên thân, hoặc đem y phục mịn đẹp trùm lên thân, hoặc đem phan lọng che lên trên, hoặc đem hương hoa châu báu cõi trời đắp lên thân, hoặc đem dưng các đồ uống ăn ngon ngọt, Bồ Tát đối với các sự cúng dường ấy chẳng nên ưa thích mà sanh lòng tham trước, chẳng vì sự việc ấy mà thân phụ người kia tùy thuận ý họ qua lại thăm viếng, chẳng nên thiên vị mà sanh ái trước. Bồ Tát đối với sự việc ấy nên dùng tâm bình đẳng thông đạt các pháp bình đẳng. Phải suy nghĩ rằng: Ðối với các chúng sanh ta chẳng nên sân hận, chẳng nên sanh lòng thương yêu, ta phải khéo thông đạt các pháp đúng thiệt. Ở trong các phiền não, chỗ hòa hiệp của ái duyên là tối trọng, phiền não này sâu đến xương tủy, nghĩa là ở trong pháp hay sanh kiết sử tâm ái nhiễm trước, đối với sự ái trước nếu chẳng vừa ý thì sanh sân hận. Mọi người đều tự có lòng dục nhiễm ái trước thân mình, có ai đến xâm não thì sanh sân hận. Do đây mà biết sân hận là quả của ái nhiễm, còn tham ái là quả của người si. Nay ta phải xa rời tâm ác ái nhiễm, đối với các pháp không hề tham trước.

Ta chẳng vì tham dục mà học, chẳng vì sân hận mà học, chẳng vì ngu si mà học. Ta phải rộng học các pháp chân thiệt. Ðối với các pháp tướng thì quan sát đúng như thiệt, theo đúng như lời mà tu hành như thiệt. Chỉ nên y chỉ nghiệp báo, đối với các sự bị hại và cúng dường đều phải biết đó là duyên lành của nghiệp nhân thuở trước, vì thế nên ở trong sự tùy thuận chẳng sanh mừng thích, trong sự trái nghịch chẳng sanh sân hận, chỉ giữ lòng thanh tịnh không hề thương ghét chẳng để tâm mình theo các pháp ác tham sân si. Bồ Tát thành tựu các pháp ban đầu này thì có thể được đầy đủ tất cả công đức”.

Ðức Thế Tôn muốn sáng tỏ nghĩa ấy mà nói kệ rằng:

“Phật thường khen trí huệ

Cũng khen người trì giới

Ðề cao tu nhẫn nhục

Cũng luôn ngợi đa văn

Phật khen làm pháp lành

Người từ tâm ái ngữ

Vì lợi ích chúng sanh

Tùy nghi khen công đức

Phật thường quở ngũ dục

Người sân hận ngu si

Ganh ghét kiêu dua vạy

Trược loạn hại chúng sanh

Lòng lười nhác giải đãi

Ngang ngỗ khó cùng nói

Bội ơn không đền đáp

Việc nhỏ giận hờn to

Kẻ tham cầu lợi dưỡng

Muốn mình được tài lợi

Chẳng muốn người khác được

Hạng này Phật chẳng khen

Nơi lợi dưỡng ít trí

Tự muốn ganh người được

Khổ sầu thấy người được

Hạng này Phật chẳng khen

Vì cầu được lợi dưỡng

Chuyển đổi các oai nghi

Cách sống ấy chẳng sạch

Rời rất xa Phật pháp

Người chẳng chuyên hành đạo

Có các lỗi lầm ấy

Những ác nghiệp đạo ấy

Không một việc đáng khen

Chẳng dứt ác ngã kiến

Tâm tham ái thì nhiều

Nên siêng cầu lợi dưỡng

Bồ Tát tự nghĩ rằng

Nhẫn nhục lợi chúng sanh

Xô dẹp tâm cương cường

Mau được thành Phật đạo

Tôi phải tu tâm từ

Nhẫn nhục thương chúng sanh

Mà biết các pháp không

Do duyên sanh vô ngã

Cớ sao có các pháp

Pháp ấy khởi nơi tâm

Vọng tưởng sanh sân hận

Chẳng nhớ nó liền không

Vọng tưởng sanh tam giới

Thân nối nhau chẳng tuyệt

Chẳng vọng tưởng phân biệt

Thì không có lỗi ấy

Thường suy xét các pháp

Biết nó từ duyên sanh

Thường quán các pháp không

Mà hay độ mọi loài

Chúng sanh phá giới khổ

Bị kiêu mạn làm hại

Dạy họ pháp diệt khổ

Có nhiều lợi ích lớn

Nếu có kẻ phương Ðông

Nam Tây Bắc bốn hướng

Tay cầm bình cứt đái

Ðổ trút lên đầu tôi

Tôi chẳng sanh lòng giận

Ai hại ai chịu lấy

Cái gì gọi là ta

Siêng tinh tấn quan sát

Chẳng giận hờn nhìn họ

Biết là nghiệp thuở trước

Nay nhận quả báo này

Trả xong chẳng gây nữa

An trụ trong Phật đạo

Người khác không có sự

Khinh hủy làm khổ não

Ðây tất là ác nghiệp

Dầu lâu mà chẳng mất

Chúng sanh tại thế gian

Luôn tạo nghiệp thiện ác

Nay tôi chịu khổ này

Nên biết do nghiệp trước

Nếu giận mắng hại họ

Sau lại thọ quả khổ

Ðâu nên đem khổ hại

Mà hại lại người kia

Phải cầu pháp vô thượng

Cầu rồi dạy lại người

Ðộ thoát tất cả loài

Ra khỏi tất cả khổ

Nếu người đem hương hoa

Châu báu cúng dường tôi

Chẳng nên sanh lòng tham

Phải tập quán bình đẳng

Ghét thương thì trái đạo

Phải thường tu tâm xả

Nên chánh quán các pháp

Ai làm ai chịu lấy

Tất cả pháp đều không

Nội không ngoại cũng không

Không chẳng có làm chịu

Tất cả đều vô ngã

Không chẳng có tham sân

Không chẳng có phiền não

Cũng không có thanh tịnh

Rời cấu tịnh là không

Trong không chẳng phân biệt

Không chẳng có các tánh

Không thường không vô tướng

Ðây là đạo thanh tịnh

Giả sử có người đến

Chặt đứt rời thân tôi

Trọn chẳng sanh lòng giận

Biết do nghiệp thuở trước

Chúng sanh gây thiện ác

Theo nghiệp tự thọ quả

Chắc đời trước tôi ác

Nay phải chịu báo khổ

Nay chịu lấy khổ báo

Quán thân như bóng tượng

Bọt nước ảo hóa mộng

Là không tất cánh không

Nếu có người thành tâm

Giúp đỡ nuôi dưỡng tôi

Phải nhớ báo ơn họ

Mà chẳng sanh lòng mừng

Cúng dường chẳng vui mừng

Mắng hại chẳng giận hờn

Mừng giận đều chướng ngại

Chẳng phải đạo chân chánh

Phải xa rời tất cả

Lòng tham ái sân hận

Thường phải tu không tịch

Dứt hết các chướng ngại

Nhẫn nhục gốc thập lực

Chư Phật thần thông nguyện

Trí vô ngại đại bi

Ðều do nhẫn làm gốc

Người trí nên tu nhẫn

Phật tại Ba La Nại

Chuyển pháp luân vô thượng

Cũng lấy nhẫn làm gốc

Chư Phật thường khen nhẫn

Các ông cũng phải tu

Không nhẫn vô sanh diệt

Các pháp tướng thường không

Thì được Phật công đức.

Lại này Phú Lâu Na! Ðại Bồ Tát có thể rời lìa ngũ dục, thường thích xuất gia tâm thuận xuất gia xu hướng xuất gia chẳng ham ngũ dục. Ðược xuất gia rồi rời chốn ồn ào náo ở xa nơi núi rừng chẳng mất pháp lành. Bồ Tát thành tựu pháp thứ hai này thì hay đầy đủ tất cả công đức”.

Ðức Thế Tôn muốn sáng tỏ nghĩa này mà nói kệ rằng:

Lòng thường thích xuất gia

Mà hay thường xuất gia

Thường thích ở núi rừng

Chỗ tăng ích công đức

Ở tại chỗ rảnh vắng

Thì lìa năm dục lạc

Nơi ấy không ồn ào

Không mất duyên pháp lành

Không phải bận chuyện trò

Ðến lui thăm viếng nhau

Ưa rảnh rang vắng vẻ

Ðược chư Phật khen ngợi

Vì thế chư Bồ Tát

Phải thường ở rảnh vắng

Chớ tham ưa thành thị

Chỗ sanh tâm lợi dưỡng

Nếu được lợi thì mừng

Nếu mất sanh lo buồn

Người này dầu cúng Phật

Chẳng gọi là cúng dường

Muốn trừ các lỗi này

Phải thường lìa lợi dưỡng

Xa lìa ở rảnh vắng

Tu tập các pháp không.

Lại này Phú Lâu Na! Bồ Tát thường học cầu pháp. Cầu được rồi đọc tụng. Ðó là tịnh giới các pháp đầu đà tế hạnh, chẳng cầu những pháp đa dục không chán đủ. Cầu pháp diệt tham dục, chẳng cầu thêm tham dục. Cầu pháp phá sân chẳng thêm sân. Cầu dứt ngu si chẳng thêm ngu si. Cầu trừ kiêu mạn chẳng thêm kiêu mạn. Cầu phá ngã mạn chẳng thêm ngã mạn. Cầu hết ngã ngã sở chẳng thêm ngã ngã sở. Cầu pháp vô ngã chẳng y chỉ ngã nhân chúng sanh thọ mạng. Thường cầu pháp hay được trí huệ lớn chẳng cầu pháp thối thất đại trí huệ. Thường cầu pháp để được trí huệ vô thượng chẳng cầu pháp để được trí huệ nhỏ. Cầu pháp được tất cả công đức chẳng cầu pháp chẳng đủ công đức. Cầu các pháp như vậy, được rồi tư duy cháng quán làm đúng theo lời đem dạy lại người, chẳng cầu thế lợi danh tiếng khen ngợi, siêng dạy các chúng sanh cho họ an trụ trong pháp ấy. Bồ Tát thành tựu pháp thứ ba này thì có thể được đầy đủ tất cả công đức”.

Ðức Thế Tôn nói kệ rằng:

“Bồ Tát thích xuất gia

Trì giới hạnh đầu đà

Do đó sanh trí huệ

Mưa trí thêm các dòng

Ðược pháp thâm tịnh rồi

Chánh niệm suy ý nghĩa

Ở trong các pháp ấy

Làm được đúng như lời

Thường dùng tâm thanh tịnh

Giảng rộng lại cho người

Lợi ích các chúng sanh

Lòng không chút hy vọng

Ðược mùi vị công đức

Tụ ở trong pháp ấy

Cũng khiến người được ở

Do đây tăng Phật pháp

Nếu trong vô lượng kiếp

Tập họp các công đức

Ðều khiến hiện ra trước

Nhiếp vào Bồ Tát đạo

Nên phải cầu thâm pháp

Ðược chư Phật khen ngợi

Thường nói cho chúng sanh

Do đây sanh công đức.

Này Phú Lâu Na! Ðại Bồ Tát an trụ trong pháp trì giới đầu đà thì có thể đầy đủ thiện căn công đức.

Này Phú Lâu Na! Quá khứ lâu xa vô lượng vô biên số kiếp, có Phật hiệu Di Lâu Kiện Ðà Như Lai Ứng Cúng Chánh Ðẳng Chánh Giác thọ sáu ngàn tuổi, một hội thuyết pháp có tám mươi ức Tỳ Kheo đắc quả A La Hán, sau khi Phật nhập diệt, pháp trụ năm trăm năm. Phật ấy nhập niết bàn rồi, trong bảy ngày, các đại đệ tử cũng đều nhập diệt theo Phật.

Này Phú Lâu Na! Ðức Phật Di Lâu Kiện Ðà xuất thế cũng đủ năm thứ trược như ta hiện nay vậy. Sau khi chư đại A La Hán đệ tử Phật diệt độ, có nhiều chúng sanh nghĩ rằng: Trong pháp Sa Môn an ổn khoái lạc sao ta chẳng cùng xuất gia. Họ nghĩ như vậy rồi đều cạo bỏ râu tóc mặc pháp phục xuất gia. Sau khi xuất gia họ chỉ làm ba việc: Một là thường qua lại nhà bạch y, hai chỉ tham cầu lợi dưỡng để sinh sống, ba là chuyên lo mập béo mà không tu phước huệ. Họ chỉ làm ba việc ấy mà chẳng tu hạnh gì khác. Sau đó trăm năm, chư đại đệ tử đã diệt độ cả, các Tỳ Kheo ấy phần đông cùng hòa hiệp với người bạch y, đa số phế bỏ các kinh thâm diệu trì giới đầu đà các tế hạnh của Phật dạy, họ chẳng còn đọc tụng nữa. Lúc bấy giờ chúng Tỳ Kheo thích ngũ dục ham ăn uống.

Quốc Vương thuở ấy chỉ có một Thái Tử tên Ðà Ma Thi Lợi rất được vua quí trọng. Lúc ở thanh vắng, Thái Tử nghĩ rằng: Ðức Phật Di Lâu Kiện Ðà đắc pháp gì thành Phật, sao nay các đệ tử đều phóng dật làm giống các bạch y. Lúc suy tư và nghĩ vậy, có Thiên Thần đến ẩn thân mà bảo Thái Tử rằng: Ðức Phật Di Lâu Kiện Ðà đắc pháp thâm diệu thanh tịnh quyết định.

 Nghe Thiên Thần nói, Thái Tử liền hỏi: Ðức Phật Di Lâu Kiện Ðà đắc pháp thâm diệu thanh tịnh quyết định, pháp ấy thế nào?

Thiên Thần đáp: Pháp ấy không sắc, không thọ tưởng hành thức, không ấm giới nhật, không có ngũ dục cũng không có dục tâm. Phật đắc pháp ấy và dạy chúng sanh pháp ấy.

Thái Tử lại hỏi: Tôi có được nghe pháp ấy để được hiểu biết thật hành chăng?

Thiên Thần bảo: Ngài siêng tu tinh tấn thì được đó không khó.

     

Này Phú Lâu Na! Thái Tử tự nghĩ nay Thiên Thần khai ngộ cho ta, ta nên xuất gia để cầu pháp thâm diệu ấy. Thái tử đến trước cha mẹ cúi lạy thưa xin được xuất gia tu hành trong pháp của đức Phật Di Lâu Kiện Ðà.

Cha mẹ bảo: Nay con cần gì bỏ chúng ta mà xuất gia, vì hiện tại các người xuất gia đều không khác gì hàng bạch y cả.

Cha mẹ nói kệ bảo Thái Tử:

Nay các chúng Tỳ Kheo

Phóng dật thọ ngũ dục

Canh tác đi buôn bán

Chẳng khác hàng bạch y

Hạng nghèo cùng khổ não

Chẳng lấy gì để sống

Các hạng người như vậy

Cầu sống nên xuất gia

Nay con sanh nhà vua

Giàu sang đủ ngũ dục

Châu báu có rất nhiều

Cần xuất gia làm gì.

     

Thái Tử Ðà Ma Thi Lợi nói kệ thưa cha mẹ:

Con chẳng cầu ngôi sang

Nếu được cũng lìa bỏ

Nay con chỉ muốn cầu

Phật pháp giới thanh tịnh

Có Thiên Thần khai ngộ

Khuyên con đi xuất gia

Thâm pháp của Phật dạy

Con mong được nghe biết

Con nghe Thiên Thần dạy

Lòng con rất vui mừng

Phật pháp nay muốn diệt

Con muốn giúp hộ trì.

Cha mẹ nói kệ bảo Thái Tử:

Thâm kinh đã diệt hết

Không có người tụng trì

Nay con sẽ từ đâu

Ðược nghe kinh thâm diệu

Nếu ở trong tứ chúng

Có người tụng thâm kinh

Con trước theo họ học

Rồi sau hãy xuất gia.

Thái Tử nói kệ thưa cha mẹ:

Nay con siêng tinh tấn

Trì giới hạnh đầu đà

Ở xa trong núi rừng

Cầu Phật pháp thâm tịnh.

Này Phú Lâu Na! Nói kệ xong, Thái Tử Ðà Ma Thi Lợi cúi lạy cha mẹ từ biệt đi xuất gia, cha mẹ lăng yên chẳng ngăn cản được.

Thái Tử đến chỗ chư Tỳ Kheo cạo bỏ râu tóc mặc cà sa thọ giới rồi hết lòng cung kính bạch chư Tỳ Kheo cầu được nghe pháp của Phật Di Lâu Kiện Ðà đã truyền dạy để tu hành theo.

Chư Tỳ Kheo bảo rằng: Chúng tôi chẳng nghe pháp của Phật dạy mà chỉ làm theo các ông Hòa Thượng và chư Sư thôi. Nay ông cũng nên làm theo như vậy.

Tỳ Kheo Ðà Ma Thi Lợi bảo chư Tỳ Kheo rằng: Các Thầy tất từ nghèo hèn mà xuất gia nên chỉ biết quý trọng cơm áo, những việc của các Thầy làm chẳng khác hàng bạch y. Các Thầy nên cùng tôi cầu tìm pháp thâm diệu của Phật.

Chư Tỳ Kheo nói kệ đáp rằng:

Việc làm của chúng tôi

Ðều đã được lợi tốt

Cơm áo rất đầy đủ

Khỏi phải việc vua quan

An ổn rất khoái lạc

Không ai dám khinh mạn

Nay đều không còn có

Khổ não như bạch y

Chính đây là Niết bàn

Khoái an lạc đệ nhất

Ngoài công việc này ra

Chúng ta không còn cần

Chúng ta có nhiều y bát

Thuốc men vật dụng nhiều

Thí chủ thường cung cấp

Nhà đàn việt cũng đông.

Nghe lời đáp của chư Tỳ Kheo, Ðà Ma Thi Lợi buồn rầu rơi lệ đến xin các tinh xá khác bạch thưa cũng đều được chư Tăng đáp như trên, liền bỏ chư Tỳ Kheo một mình vào núi sâu, chỗ rừng rậm xa vắng, nhất tâm chí thành cầu pháp thâm diệu của Phật. 

Trước đó, trong hàng đại đệ tử của Phật có một đại A La Hán đủ tam minh lục thông bát giải thoát tên là Kiên Lao, như Ma Ha Ca Diếp hiện nay. Kiên Lao A La Hán ấy ở thâm sơn khắc lời kệ lên vách đá:

Sanh tử chẳng dứt được

Là do nơi tham dục

Nuôi thù vào gò mả

Luống phải chịu đau khổ

Thân thúi như tử thi

Chín lỗ chảy bất tịnh

Ngu si tham luyến thân

Chẳng khác giòi tham phẩn

Nhớ tưởng vọng phân biệt

Là gốc sanh ngũ dục

Người trí chẳng phân biệt

Thì ngũ dục đoạn diệt

Tà niệm sanh tham trước

Tham trước sanh phiền não

Chánh niệm không tham trước

Phiền não khác cũng hết.

Tỳ Kheo Ðà Ma Thi Lợi vào hang núi thấy bốn bài kệ khắc trên vách đá liền đọc tụng và suy gẫm ý nghĩa, không bao lâu được ngũ thần thông. Sau đó Tỳ Kheo Ðà Ma Thi Lợi đến chỗ trước kia trà tì Phật Di Lâu Kiện Ðà đảnh lễ hữu nhiễu ba vòng rồi ngồi kiết già phát thệ rằng: Nếu tôi không thấy Phật và chẳng nghe các pháp khác thì chẳng dậy rời khỏi chỗ ngồi này.

Này Phú Lâu Na! Thiên Ðế Thích Ðề Hoàn Nhân tụng trì kinh Bát Bá Thiên Môn Của Phật Di Lâu Kiện Ðà truyền. Thiên Ðế biết Ðà Ma Thi Lợi rất mến chánh pháp, liền từ trời Ðao Lợi xuống trước Ðà Ma Thi Lợi tuyên đọc kinh Bát Bá Thiên Môn, lại truyền cho các kinh Tứ Ða Văn Bổn Cú, Thất Chủng Trọng Cú, Thập Tứ Môn Cú. Nghe xong, Ðà Ma Thi Lợi tụng trì, ở trong các pháp được trí huệ sáng suốt, tự nhiên thông thuộc các kinh thâm diệu thanh tịnh nghĩa không nghĩa ly của Phật Di Lâu Kiện Ðà. Ðức Phật ấy cũng hiện thân cho Ðà Ma Thi Lợi thấy và hiện chúng Tỳ Kheo cả tinh xá phóng giường đại hội tứ chúng Thiên Long Bát Bộ đều khiến được thấy cả.

Tỳ Kheo Ðà Ma Thi Lợi ở trong các pháp được trí huệ nhãn, rời chỗ ngồi đi du hành lần về đến bổn quốc, vì cha mẹ và quyến thuộc giảng nói các kinh thâm diệu thanh tịnh nghĩa không nghĩa ly, ca ngợi công đức Tam bảo Phật Pháp Tăng.

Nghe pháp ấy xong, Vương phụ Vương mẫu các cung nhân các quan thuộc sanh lòng tin cung kính thưa với Tỳ Kheo Ðà Ma Thi Lợi xin được xuất gia trong pháp Phật Di Lâu Kiện Ðà.

Bấy giờ có đến tám vạn bốn ngàn người đồng xuất gia theo Quốc Vương và Phu Nhân và đồng lấy hiệu là Ðà Ma Thi Lợi.

Tỳ Kheo Ðà Ma Thi Lợi làm cho pháp của Phật Di Lâu Kiện Ðà trở lại thạnh hành, rất nhiều chúng sanh được an trụ trong ấy. Ðó là do tâm đại từ bi nguyện hộ Phật pháp từ đời trước của Tỳ Kheo ấy. Ðà Ma Thi Lợi đi khắp nơi, từ tụ lạc này đến tụ lạc khác, từ thành này đến thành khác, từ nước này đến nước khác, tuyên nói giảng giải các kinh pháp thâm diệu thanh tịnh nghĩa không nghĩa ly của Phật Di Lâu Kiện Ðà và xưng dương ca ngợi công đức của Tam bảo Phật Pháp Tăng. Tỳ Kheo ấy rất được mọi người cung kính tôn trọng cúng dường danh tiếng khắp nơi.

Làm lợi ích cho rất nhiều người rồi, Ðà Ma Thi Lợi mạng chung theo bổn nguyện sanh trở lại nhà vương gia cõi này tên là Ðắc Niệm xuất gia trong pháp của Phật Di Lâu Kiện Ðà, bấy giờ cách đức Phật ấy diệt độ ba trăm năm. Do bổn nguyện túc mạng trí nên Tỳ Kheo Ðắc Niệm tự nhiên lại được các môn cú các đà la ni cũ. Do sức của đà la ni nên các kinh chưa từng nghe mà có thể tuyên nói giảng rộng cho chúng sanh, chẳng giảng nói các kinh pháp đã được nói nơi tiền thân lúc còn là Tỳ Kheo Ðà Ma Thi Lợi.

Này Phú Lâu Na! Lúc ấy trong chúng Tỳ Kheo Ðà Ma Thi Lợi, những người thiện căn sâu dầy trí huệ sáng suốt, nghe kinh pháp của Ðắc Niệm nói đều tùy hỷ tin nhận cung kính cúng dường thủ hộ. Những người ngu tối thiện căn mỏng cạn thì chẳng tin trái nghịch bảo rằng: Các kinh ấy chúng tôi chưa nghe Hòa Thượng các Thầy giảng dạy, cũng chẳng nghe Ðại Sư Ðà Ma Thi Lợi nói.

Này Phú Lâu Na! Các người có trí huệ sâu y chỉ nơi ý nghĩa mà chẳng theo ngữ ngôn. Và y chỉ nơi ý nghĩa nên chẳng trái nghịch. Vì chẳng trái nghịch nên hộ trì pháp của Phật Di Lâu Kiện Ðà và cung kính thủ hộ Tỳ Kheo Ðắc Niệm, số này có đến tám mươi na do tha người gồm đủ tứ chúng Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Ưu Bà Tắc và Ưu Bà Di. Bấy giờ chia làm hai bộ chúng: Một tên chúng Tỳ Kheo Ðà Ma Thi Lợi, hai tên chúng Tỳ Kheo Ðắc Niệm. Tỳ Kheo Ðắc Niệm chẳng nói chính mình là Tỳ Kheo Ðà Ma Thi Lợi. Tại sao, vì mọi người đều cho Ðà Ma Thi Lợi chứng quả A La Hán chẳng phải Bồ Tát, còn Tỳ Kheo Ðắc Niệm thì mọi người đều gọi là Bồ Tát, nếu tự nói ra sợ mọi người nghi hoặc. Lợi ích chúng sanh xong, Ðắc Niệm Tỳ Kheo mạng chung theo bổn nguyện sanh lại cõi này nơi nhà Trưởng giả tên là Gia Xá, do bổn nguyện nên nhớ biết túc mạng mới bảy tuổi đã xuất gia tu hành được các đà la ni, bấy giờ là thời kỳ bốn trăm năm sau đức Phật Di Lâu Kiện Ðà diệt độ.

Này Phú Lâu Na! Do sức đà la ni nên Gia Xá có thể vì mọi người giảng thuyết các kinh trước chưa từng nghe. Torng chúng Ðà Ma Thi Lợi và chúng Ðắc Niệm, những người thiện căn sâu dày nghe pháp của Gia Xá nói đều rất vui mừng được pháp lạc. Những người này y nghĩa chẳng y lời nghe Gia Xá thuyết pháp thâm diệu hiệp đệ nhất nghĩa liền tin nhận thọ trì đọc tụng y theo tu hành. Còn những Tỳ Kheo ám độn thiện căn mỏng cạn thì chẳng tin mà bảo rằng: Pháp của Gia Xá nói, chúng tôi chưa từng nghe Hòa Thượng các Thầy nói, cũng chẳng nghe Ðại Sư Ðắc Niệm Bồ Tát dạy.

Này Phú Lâu Na! Các Tỳ Kheo tin thọ theo pháp của Gia Xá đều bị các Tỳ Kheo chẳng tin thọ trong hai chúng Ðà Ma Thi Lợi và Ðắc Niệm ganh ghét xa lánh, họ hủy báng là chẳng phải pháp Phật nói, chẳng phải lời Ðại Sư dạy.

Gia Xá Tỳ Kheo rộng truyền pháp của Phật Di Lâu Kiện Ðà từ một tụ lạc đến một tụ lạc, từ một thành đến một thành, từ một nước đến một nước, sau đó mạng chung theo bổn nguyện lại sanh vào cung vua cõi này, lúc sanh chư Thiên ở hư không xướng rằng: Vương Tử này sẽ lợi ích lớn cho chúng sanh, do theo lời xướng ấy mà đặt tên cho Vương tử mới sanh là Ðạo Sư. Ðến năm mười bốn tuổi Vương Tử Ðạo Sư xuất gia, bấy giờ là thời kỳ năm trăm năm sau đức Phật Di Lâu Kiện Ðà diệt độ. Tỳ Kheo Ðạo Sư ấy hiểu biết rộng thông thuộc nhiều kinh sách văn từ thanh biện thuyết pháp rất khéo giỏi. Từ một tụ lạc đến một tụ lạc, từ một thành đến một thành, từ một nước đến một nước, Tỳ Kheo Ðạo Sư lưu truyền pháp của Phật Di Lâu Kiện Ðà đem lợi ích lớn lại cho nhiều chúng sanh.

Lúc ấy các chúng Tỳ Kheo Ðà Ma Thi Lợi, Ðắc Niệm và Gia Xá tụ họp đến chỗ Tỳ Kheo Ðạo Sư để huỷ phá.

Tỳ Kheo Ðạo Sư hỏi chúng Tỳ Kheo rằng Chư Tỳ Kheo các Ngài vấn nạn sự gì, dùng sự gì để hỏi, tại sao mà hỏi?

Chư Tỳ Kheo nghe lời ấy đều ưu sầu chẳng vui nín lặng chẳng đáp được, chẳng làm chướng ngại Ðạo Sư được.

Này Phú Lâu Na! Tùy theo thọ mạng của Bồ Tát Ðạo Sư tại thế thì Phật pháp xí thạnh, nếu mạng chung thì Phật pháp diệt. Ðạo Sư giáo hóa tám trăm vạn người phát tâm Vô thượng Bồ đề đều được sanh lên các cõi trời.

Này Phú Lâu Na! Tỳ Kheo Ðạo Sư đêm nay mạng chung thì đêm mai pháp diệt. VÌ pháp của Phật Di Lâu Kiện Ðà diệt nên kinh pháp thâm diệu nghĩa không nghĩa ly thanh tịnh đều diệt hết.

Này Phú Lâu Na! Ðại Bồ Tát dùng kinh thâm diệu để thủ hộ Phật pháp có thể tự đầy đủ thiện căn công đức.

Bồ Tát Ðạo Sư sau khi mạng chung liền sanh về Phật độ ở thế giới thứ mười tại thượng phương hiện có Phật hiệu Thiện Nhãn Như Lai Ðẳng Chánh Giác, liền xuất gia, do thiện căn phước đức đời trước nên trí huệ sáng lẹ, biện tài vô tận vô ngại tu Phật pháp suốt tám vạn bốn ngàn năm, sau khi mạng chung lại sanh gặp đức Phật thứ hai hiệu Nhựt Tăng Kiên Như Lai Ðẳng Chánh Giác cũng xuất gia tu các thiện căn cầu Vô thượng Bồ đề, sau khi mạng chung sanh trở lại cõi ấy gặp đức Phật sau rốt hiệu Bất Không Hành Như Lai Ðẳng Chánh Giác cũng xuất gia lấy tên là Thủ La trong bảy vạn năm siêng tu thiện căn cầu Vô thượng Bồ đề.

Ðức Phật Bất Không Hành thọ ký rằng: Sau khi ta diệt độ, Tỳ Kheo Thủ La đây sẽ làm Phật hiệu Vô Ngại Nhãn Như Lai Ðẳng Chánh Giác.

Này Phú Lâu Na! Bồ Tát thành tựu pháp thứ ba này thì có thể đầy đủ tất cả công đức “.

Ðức Thế Tôn muốn sáng tỏ nghĩa ấy mà nói kệ rằng:

“Bồ Tát nghe pháp sâu

Thanh tịnh diệu quyết định

Tự mình hay an trụ

Cũng nói dạy mọi người

Thế gian chẳng thấu đáo

Bồ Tát thường thông suốt

An trụ trong tịnh giới

Rộng lợi ích chúng sanh

Bổn sự và thí dụ

Ðem Phật đạo dạy người

Lời chư Phật nói tuyên

Ðều là pháp quyết định

Bồ Tát hay tư lợi

Cũng lợi ích chúng sanh

Thủ hộ pháp chư Phật

Dạy Bồ đề cho người

Việc đúng pháp của người

Bồ Tát vì họ làm

Ðem Phật đạo dạy người

Ðây thì gần chánh giác

Hộ trì đạo chư Phật

Rộng lợi ích chúng sanh

Chư Thiên Long Quỉ Thần

Trời Người đều tôn kính

Thế nên được nghe pháp

Không thâm tịnh thâm diệu

Phải nhất tâm suy tìm

Thì tăng trưởng trí huệ.

Lại này Phú Lâu Na! Ðại Bồ Tát đầy đủ công hạnh, do công hạnh đầy đủ nên có thể đầy đủ thiện căn phước đức. Những gì là công hạnh? Ðó là Bồ Tát gần gũi thiện tri thức tu hành bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định trí huệ phương tiện. Những ai là thiện tri thức của Bồ Tát? Ðó là chư Phật, chư A La Hán và chư Bồ Tát có thâm tâm cầu Phật đạo mà từ đó Bồ Tát này được nghe các kinh pháp thâm diệu và phương tiện giáo hoá. Các bực ấy đều gọi là thiện tri thức của Bồ Tát. Bồ Tát thành tựu pháp thứ tư này thì có thể đầy đủ tất cả công đức “.

Ðức Thế Tôn nói kệ rằng:

“Phật nói chư Bồ Tát

Pháp mà họ phải hành

Bố thí rồi vui mừng

Không hề có hối hận

Vui mừng như thế nào

Là vui khắp cả thân

Thường dùng lòng vui ấy

Mà hành đạo Bồ Tát

Bồ Tát làm bố thí

Hồi hướng đạo Bồ đề

Lợi ích các chúng sanh

Tự lợi vô biên lượng

Nếu thấy có người xin

Lòng tưởng họ như Phật

Quan niệm người ấy đến

Ban Phật đạo cho tôi

Tôi nhân nơi người ấy

Thanh tịnh được Phật độ

Người ấy chỉ bày Phật

Dạy Phật đạo cho tôi

Nay tôi gặp người ấy

Rất được các lợi lớn

Vui mừng khắp toàn thân

Chẳng còn vui gì khác

Nếu có ai đến tôi

Xa thấy tôi chưa hỏi

Ngài có cần dùng gì

Tôi sẽ xin cung cấp

Nếu họ nói không cần

Bồ Tát cũng vui mừng

Vì muốn giáo hoá tôi

Nên họ nói không cần

Người ấy đem sở đắc

Pháp thiểu dục tri túc

Nay đến khai ngộ tôi

Khiến được duyên Bồ đề

Nay tôi nhân người này

Lại được dạy pháp lành

Ngài nói không cần dùng

Lời ấy tốt lắm vậy

Nếu họ nói cần dùng

Vật ấy cấp cho tôi

Nếu Bồ Tát mà có

Vui mừng mang trao cho

Khi đem bố thí rồi

Sau đó không hề hối

Do thường niệm Phật đạo

Nên tâm thường vui mừng

Bố thí rồi hồi hướng

Chúng sanh đều có phần

Khiến đều không chỗ thiếu

Cho họ được tri túc

Nếu hành đạo Bồ Tát

Chúng sanh nghe danh tôi

Tự nhiên biết thôi đủ

Chẳng sanh lòng xan tham

Nay chúng sanh nước tôi

Thuận đạo đều tri túc

Bỏ lìa ham ngũ dục

Ðều thích đi xuất gia

Vô lượng hạnh như vậy

Bố thí mà hồi hướng

Nguyện thường làm bố thí

Chúng sanh bắt chước tôi

Bồ Tát làm bố thí

Dùng từ che chở người

Tất cả các thế gian

Không có vui như vậy

Như Trưởng giả giàu lớn

Nhiều của tiền trân bửu

Mà chỉ có một con

Nhiều năm bỏ đi xa

Trưởng giả nghe con về

Vui mừng khắp toàn thân

Cách xa mà nay về

Cầm bằng sống trở lại

Bồ Tát thấy người xin

Trong lòng rất vui mừng

Còn hơn Trưởng giả mừng

Cả mười sáu lần hơn

Nếu làm được bố thí

Trong lòng rất vui mừng

Tâm từ sanh vui ấy

Vui ấy không gì sánh

Như vua trị người tội

Truyền chặt gãy tay chân

Ðao phủ đem đi giết

Cất dao sắp chặt xuống

Vua tha ban chức cao

Người tội rất mừng vui

Vẫn chẳng bằng Bồ Tát

Bố thí được vui mừng

Lúc Bồ Tát hành đạo

Chẳng mong cầu phước điền

Có ai xin liền cho

Nên được vui vẻ lớn

Bồ Tát nếu gặp Phật

A La Hán Duyên Giác

Cung kính biết khó gặp

Nên đến siêng cúng dường

Bồ Tát có oai đức

Lòng sáng suốt điều thuận

Thích công đức cầu đạo

Cúng dường Phật và chúng

Chẳng đem lòng cung kính

Phụng sự các thiên thần

Chỉ kính cúng chư Phật

Và chư Phật đệ tử

Nếu có Bích Chi Phật

Tự nhiên đắc Niết bàn

Cũng đến kính cúng dường

Có những công đức ấy

Bồ Tát cũng biết được

Phước điền thiện bất thiện

Những người trí thế gian

Chẳng kính ngoại đạo ác

An trụ giữa giới phẩm

Từ tâm giúp chúng sanh

Tinh tấn không ai bằng

Nhẫn trí đa văn rộng

Làm các công đức ấy

Bực cao tôn thế gian

Hay chứng Phật Bồ đề

Chuyển pháp luân vô thượng

Bồ Tát hay tu hành

Ðủ bốn pháp như trên

Tất cả các thiện căn

Thảy đều được đầy đủ

Vô lượng ức số kiếp

Ðã tu các công đức

Ðều nhiếp vào đây cả

Là đạo Bồ Tát tu

Thế nên chư Bồ Tát

Phải thường tu tâm từ

Xuất gia ở núi rừng

Thích ở chỗ rảnh vắng

Thường cầu pháp thanh tịnh

Thậm thâm diệu quyết định

Bồ Tát hạnh đầy đủ

Do đây được tăng trưởng”.

PHẨM THẦN THÔNG LỰC THỨ NĂM

 Bấy giờ Ðức Thế Tôn dùng sức thần thông, từ mỗi mỗi lỗ lông trên thân đều phóng ra trăm ngàn vạn ức tia sáng, từ mỗi lỗ lông lại đều phát ra ngọn lửa mạnh lớn như núi Tu Di, từ mỗi lỗ lông lại đều xuất hiện hằng sa chư Phật thuyết pháp. Toàn hội đại chúng đều thấy khắp cả thần thông lực rộng lớn ấy.

Hiện thần lực xong, Ðức Thế Tôn nhiếp lại như cũ bảo Huệ Mạng Phú Lâu Na rằng: “Ông có thấy đức Như Lai từ các lỗ lông xuất hiện thần lực như vậy chăng?”.

 - Bạch Ðức Thế Tôn! Ðã được thấy.

 - Này Phú Lâu Na! Ðức Như Lai thường có thần lực như vậy không lúc nào thôi bỏ. Khiến các đệ tử chỉ thấy biết đức Như Lai ở tại đây thuyết pháp. Mà Như Lai thiệt thường làm Phật sự ở hằng sa thế giới mười phương. Không lúc nào thôi bỏ, cùng thường thuyết pháp ở các thế giới mười phương.

     

Này Phú Lâu Na! Nếu có người nói lời chân thiệt: Ai là Vô đẳng dẳng là người vô tỷ tròn đủ phước trí là phước điền vô thượng, rất sâu khó lường, công hạnh vô biên, cất một bước chân tất cả chúng sanh chẳng biết được, chẳng suy lường được tâm gì hạnh gì dở chưn hạ chưn? Nên nói chính là đức Phật đây vậy.

Này Phú Lâu Na! Tất cả chúng sanh chẳng thể suy lường được đức Như Lai do nghĩ gì tâm gì làm gì mà dở chưn hạ chưn.

     

Ðức Thế Tôn muốn sáng tỏ nghĩa ấy mà nói kệ rằng:

“Ðức Phật do nghĩ gì

Làm gì dở hạ chưn

Chúng sanh động bất động

Ðều chẳng thể biết được

Thần thông lực vô lượng

Chỗ làm cũng vô lượng

Vì công đức vô lượng

Nên cao tôn đệ nhất

Trí huệ lớn vô lượng

Không ai biết hết được

Giả sử tất cả người

Trí huệ thần thông lực

Ðều như Xá Lợi Phất

Và giống Ðại Mục Liên

Cũng chẳng biết được Phật

Dở chưn và hạ chưn

Dầu cho tất cả người

Ðều làm Bích Chi Phật

Chẳng hiểu Phật một bước

Huống là thâm pháp khác

Giả sử vô lượng nhựt

Hiệp làm một mặt nhựt

Sáng chẳng bằng tia sáng

Một lỗ lông của Phật

Giả sử bảy vạn ức

Na do tha thế giới

Mặt nhựt ngang rộng bằng

Chiếu sáng vô lượng cõi

Các mặt nhựt lớn ấy

Số nhiều như hằng sa

Hiệp làm một mặt nhựt

Tia sáng bằng Tu Di

Các mặt nhựt lớn ấy

Thường chiếu mười phương cõi

Ðem sánh ánh sáng Phật

Luốt mất như than đen

Áng sáng các mặt nhựt

Chẳng thấu qua lá cây

Núi sông và vách đá

Ðều có thể chướng ngại

Tia sáng của Như Lai

Tất cả núi Tu Di

Núi Thiết Vi Kim Cương

Chiếu thấu qua không chướng

Quang minh thần thông lực

Oai đức đều vô lượng

Ai thấy chẳng phát tâm

Chỉ trừ kẻ bất tín

Chúng sanh thấy quang minh

Thần thông lực của Phật

Nhiều phát tâm vô thượng

Nguyện tôi cũng sẽ được

Bấy giờ Phật mỉm cười

An Nan liền quỳ thưa

Thế Tôn cớ sao cười

Xin xót thương giải đáp

Ðức Phật bảo An Nan

Nay chúng sanh thấy Phật

Hiện thần thông lực lớn

Phát tâm nguyện làm Phật

Có đến ba vạn người

Nguyện hộ trì Phật pháp

Sau khi Phật diệt độ

Chúng tôi tụng kinh này

Những người ấy đời sau

Ðược nghe kinh pháp này

Thời giữa và thời sau

Nghe rồi làm đúng pháp

Người phát đạo tâm khó

Sâu ưa Phật pháp khó

Ðời sau hay tụng trì

Các kinh này càng khó

Ngàn vạn ức số kiếp

Phật xuất thế rất khó

Trong đời mạt sau này

Nói kinh này khó hơn”.

Ðức Phật bảo ngài A Nan: “Phật đem kinh này giao phó cho ông lần nữa. Tại sao, vì trong Diêm Phù Ðề tùy theo chỗ nào có kinh Bồ Tát Tạng như vậy thì chỗ ấy có Phật pháp.

 

     

Này A Nan! Vì các kinh thâm diệu như vậy nên pháp như thuyết hành cũng diệt. Vì pháp như thuyết hành diệt nên Phật pháp diệt.

 Này A Nan! Nay ông nên đem đồ cúng dường đệ nhất dâng cúng lên Phật.

Thế nào là hàng đệ tử đem đồ cúng dường đệ nhất dâng cúng lên Phật? Ông chớ cho là những hoa đẹp hương tốt phan lọng chuỗi ngọc y phục kỷ nhạc ca tụng Như Lai là đệ nhất cúng dường lên Phật.

 Nếu có người được nghe kinh pháp thâm diệu như vậy thọ trì đọc tụng làm đúng như lời thì gọi là đem đồ cúng dường đệ nhất dâng cúng cung kính tôn trọng ca tụng đức Phật.

Tại sao? Vì chư Phật đều cùng cúng dường cung kính tôn trọng nơi pháp mà chẳng quí đồ cúng dường thế gian.

 Này A Nan! Thế nên nay đức Phật đem kinh pháp này trịnh trọng ân cần giao phó cho ông.

     

Này A Nan! Ðức Phật do học các kinh như vậy mà nay được Vô thượng Bồ đề chuyển pháp luân vô thượng.

 Chư Phật quá khứ, lúc hành Bồ Tát đạo cũng học các kinh như vậy mà được Vô thượng Bồ đề chuyển pháp luân vô thượng.

 Vị lai chư Phật cũng học các kinh như vậy mà được Vô thượng Bồ đề chuyển pháp luân vô thượng

 Hiện tại chư Phật ở mười phương thế giới thuở tu Bồ Tát đạo cũng học các kinh pháp như vậy mà được Vô thượng Bồ đề hiện nay chuyển pháp luân vô thượng.

     

Này A Nan! Vì lẽ ấy nên kinh Bồ Tát Tạng này gọi là kinh chuyển pháp luân, phải nên phụng trì.

 Này A Nan! Ngày trước ở nước Ba La Nại núi Lê Sư trong Lộc Viên, Phật chuyển pháp luân cho hàng Thanh Văn đệ tử. Nay ở tại Trúc Viên này, Phật chuyển kinh Bồ Tát Tạng pháp luân bất thối chuyển dứt nghi cho tất cả chúng sanh.

     

Này A Nan! Quá khứ chư Phật cũng đều ở tại địa phận hư không này mà nói kinh Bồ Tát Tạng này.

 Vị lai chư Phật cũng sẽ đều ở tại địa phận hư không này nói kinh Bồ Tát Tạng này.

 

     

Nay đức Phật Vô thượng Bồ đề cũng ở tại địa phận hư không này nói kinh Bồ Tát Tạng này.

 Vì thế nên biết chỗ địa phận này là tháp lớn của Phật, là chỗ cúng dường của Trời Người.

Này A Nan! Chỗ địa phận này riêng có công đức bất cộng, đó là quá khứ chư Phật nói kinh thâm diệu tại đây.

     

Này A Nan! Bao nhiêu chúng sanh tham dục sân hận ngu si khi vào Trúc Viên này thì chẳng phát sanh tham sân si. Ðức Như Lai dâù cũng có ở các tinh xá khác mà những nơi ấy không có công đức như vậy. Tại sao? Này A Nan! Nay các rừng trúc Ca Lan Ðà này, súc sanh nào vào đây thì chẳng phát dâm dục, các chim vào đây chẳng kêu hót phi thời.

     

Ðại Vương Bình Sa nước Ma Kiệt ngày xưa lúc đăng vị cùng các thể nữ vào trong vườn này để cùng vui, lúc vào rồi nhà vua tự cảm thấy lòng mình không có ý dục chẳng thích các sự vui đùa, chúng thể nữ cũng đều tự cảm thấy không lòng tham dục vui đùa.

 Bấy giờ nhà vua vui mừng luôn thầm nguyện rằng: Cầu mong thế gian có Phật xuất thế tại nước tôi, tôi sẽ được thấy, thấy rồi kính tin, tin rồi cúng dường. Tôi sẽ đem vườn trúc này dâng lên Phật. Phật sẽ ở trong đó, tôi sẽ được nghe pháp. Tại sao? Vì chỉ có bực đáng cúng dường mới nên ở tại vườn này, chẳng phải người ngũ dục nên ở.

     

Này A Nan! Vua Bình Sa vào vườn này phát tâm nguyện lành như vậy đều do quá khứ chư Phật ở trong vườn này nói kinh Bồ Tát Tạng. Vì thế nên công đức của vườn này chẳng cùng hàng với các nơi khác. Vườn này tất cả Trời Người Bát Bộ đều nên lễ kính.

Này A Nan! Vườn này không có ruồi muỗi độc trùng rắn rít đốt cắn. Nếu nó có ở nơi đây thì chẳng còn tâm độc. Ðây cũng là công đức bất cộng của Trúc Viên. Dầu cả trăm năm, đức Phật khen nói công đức của Trúc Viên cũng không hết. Nay Trúc Viên này thành tựu vô lượng công đức, nơi khác không có”.

Ngài A Nan bạch rằng: “Bạch Ðức Thế Tôn! Tôi vốn chẳng biết Trúc Viên này có công đức như vậy.

Bạch Thế Tôn! Trước kia tôi chẳng muốn làm thị giả Phật, nay tôi sám tạ tội lỗi ấy”.

Ðức Phật bảo A Nan: “Lúc ông mới được pháp nhãn thanh tịnh ở các pháp thì đã trừ dứt tội ấy rồi”.

PHẨM ÐẠI BI THỨ SÁU

     

Bấy giờ Ngài Ðại Mục Kiền Liên suy nghĩ rằng: Ðức Thế Tôn hi hữu. Ðức Thế Tôn thành tựu đại bi như vậy hay khéo giải thuyết sự việc của chư Bồ Tát. Tại sao? Bởi Chư Bồ Tát đầy đủ tu tập Phật pháp vì vô sanh diệt mà khai thị giác ngộ các chúng sanh.

     

Ðức Phật biết chỗ suy nghĩ của Ðại Mục Kiền Liên nên bảo Ngài rằng: “Ðúng như vậy, này Ðại Mục Kiền Liên! Chư Phật thành tựu tâm đại bi, nếu hàng đệ tử của ta nghe nói đầy đủ nghĩa đại bi ấy thì chắc chắn tâm sẽ mê loạn không còn vui thích gì nữa. Này Ðại Mục Kiền Liên! Ðừng nói đại bi của Như Lai, nếu Phật tự thuật đại bi được có lúc Phật làm Bồ Tát, ông nghe cũng sẽ mê muộn không còn vui thích gì nữa”.

     

Ngài Ðại Mục Kiền Liên bạch rằng: “Lành thay Ðức Thế Tôn! Xin nói chút ít phần đại bi thuở đức Phật làm đạo Bồ Tát”.

     

Ðức Phật bảo Ngài Ðại Mục Kiền Liên: “Nay ông lắng nghe, khéo nhớ và thọ trì sẽ vì ông mà nói chút ít phần đại bi lúc làm đạo Bồ Tát. Sẽ dùng thí dụ để giải thuyết nghĩa ấy. Thuở trước lúc tu Bồ Tát đạo thật hành đại bi nói chẳng hết được. Mà đại bi ấy y chỉ nơi bốn sự. Những gì là bốn?

Ðại bi ấy của Bồ Tát, theo chỗ an trụ nơi đại bi Bồ Tát hay tu tập Phật pháp, gọi là đại bi.

 

     

Trước kia Phật có đại bi như vậy, có đại nguyện như vầy: Bao nhiêu chúng sanh bị khổ não nơi a tì địa ngục, nơi hỏa nhiệt đại địa ngục, nơi hàn băng đại địa ngục, tôi thường thay thế các chúng sanh ấy mà chịu khổ trong các đại địa ngục, cho đến lúc tội xong hết chịu các sự khổ, lòng tôi không hề hối hận.

     

Này Ðại Mục Kiền Liên! Nếu có các chúng sanh do nhân duyên ấy mà đắc độ, ta có thể thay thế tất cả khiến các chúng sanh ra khỏi đại địa ngục, ta thay thế họ chịu khổ, một lần vào địa ngục làm mãn hết tội nghiệp của các chúng sanh trong ấy, lúc bấy giờ lòng ta không hề lo buồn ăn năn.

 Thuở ấy, ta phát đại nguyện tinh tấn như vậy rồi tìm hỏi các bực trí huệ, đó là chư Phật và hàng đệ tử Phật có được đạo lý nhân duyên thay thế chúng sanh chịu khổ như vậy mà làm cho các chúng sanh ra khỏi địa ngục chăng?

     

Các bực trí huệ nghe ta hỏi, đều vì ta mà tán thán nói về đa văn sâu phát tâm Bồ đề Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, khen nói sự gần gũi thiện tri thức. Ðược nghe lời khen dạy ấy, ta phát đại tinh tấn. Vì cầu Phật pháp nên ta phát đại nguyện cầu được thành tựu pháp lớn của chư Phật, siêng tu tinh tấn đầy đủ các Ba la mật, thật hành sâu về hạnh nhẫn nhục.

     

Này Ðại Mục Kiền Liên! Thuở trước ta thật hành sâu về hạnh nhẫn nhục thế nào? Lúc làm Bồ Tát ta phát tâm như vầy: Bao nhiêu chúng sanh ở mười phương, hoặc có sắc hay không sắc, hoặc có tưởng hay không tưởng, hoặc phi hữu tưởng phi vô tưởng, giả sử các chúng sanh ấy đều được thân người đều đến chỗ ta mà nói rằng: Ông phát tâm Vô thượng Bồ đề, chúng ta phần đông thiếu thốn ngũ dục lạc, thiếu những đồ cần để sống, nếu ông chẳng cung cấp đủ cả cho tất cả chúng tôi thì ông chẳng được Vô thượng Bồ đề.

 

     

Vì chẳng được vừa ý nên các chúng sanh ấy đều ác khẩu mắng nhiếc chửi rủa và dùng dao gậy ngói đá gia hại thân ta, lúc ấy ta chẳng nên giận hờn, chẳng nên hối hận. Ta phải tự điều phục tâm mình như vầy: Các chúng sanh ấy ngu si chẳng biết sanh khởi nghiệp ngu si. Nếu đối với các chúng sanh ngu si ấy mà ta khởi giận hờn thì có khác gì họ là chẳng nhập đạo. Nay ta nhập đạo lành nơi các chúng sanh ấy lãnh nhận sự khổ chẳng khởi sân nghiệp, lòng ta phải như mặt đất bình đẳng hứng chịu các thứ tốt xấu.  Thuở trước ta sâu thật hành nhẫn nhục như vậy.

     

Lại này Ðại Mục Kiền Liên! Từ lâu ta thường xem tất cả chúng sanh như con một.  Như trưởng giả giàu lớn tu trăm hạnh trai giới cầu sanh được một con trai rất cưng yêu không biết chán đủ. Trưởng giả ấy đối với con trai thường cầu sự tốt, thường cho sự tốt, thường ban lợi ích, chẳng để suy não.

     

Cũng vậy, này Ðại Mục Kiền Liên! Từ lâu ta đối với các chúng sanh thường xem như con một, thường vì các chúng sanh mà cầu sự tốt để lợi ích cho họ chẳng để suy não.  Với các chúng sanh thất đạo, các chúng sanh tà đạo, ta chỉ dạy họ chánh đạo khiến họ an trụ trong chánh đạo. Do cớ ấy nên biết rằng đức Như Lai từ lâu đối với các chúng sanh rất thương nhớ họ xem họ như con một.

 Này Ðại Mục Kiền Liên! Thuở quá khứ có đoàn người đi buôn ban đêm lạc đường, vì đêm tối nên chẳng biết phải đi hướng nào đều nói rằng: Chúng ta lạc đường không ai cứu không chỗ về không nơi y chỉ, có ai hoặc Trời hoặc Rồng hoặc Thần hoặc Nhân, Phi Nhân dẫn dắt chúng tôi giữa đêm tối đến đường chánh, ai có thể thương xót làm lợi ích chúng tôi, làm ánh sáng cho chúng tôi giữa đêm tối tăm nơi đường hiểm này.

     

Này Ðại Mục Kiền Liên! Bấy giờ trong rừng vắng có tiên nhân ở thảo am giữa đêm nghe đoàn người buôn kêu than ai oán tự nghĩ rằng: Giữa đêm tối nới rừng vắng này đoàn người bị lạc đường nếu ta chẳng cứu họ thì chẳng phải. Hoặc họ sẽ bị các ác thú giết hại. Nghĩ xong tiên nhân kêu to bảo các người buôn rằng: Các người chớ sợ, tôi sẽ cứu các người, tôi sẽ làm ánh sáng chỉ con đường chánh. Kêu gọi an ủi đoàn người buôn xong, tiên nhân ấy lấy áo lông bó quấn hai tay nhúng đầy dầu rồi châm lửa đốt làm đuốc sáng chỉ đường cho đoàn người buôn. Mọi người thấy vậy đều nghĩ rằng: Nay tiên nhân này thật hi hữu vì cứu chúng ta mà chẳng tiếc thân mạng. Lúc tiên nhân dùng ánh sáng nơi hai cánh tay chỉ đường cho đoàn người buôn xong, đối với các chúng sanh lòng từ bi càng tăng thêm nguyện rằng: Lúc tôi được Vô thượng Bồ đề, với chúng sanh tà đạo, tôi sẽ làm ánh sáng pháp dạy họ chánh đạo.

 

     

Này Ðại Mục Kiền Liên! Thuở quá khứ ấy dầu đốt hai tay mà thân tâm ta chẳng biến đổi. Tại sao? Vì thâm tâm của Bồ Tát ở nơi sự lợi ích cho người chẳng tham tiếc thân mạng, do nhân duyên dùng tâm thanh tịnh bố thí nên hai cánh tay bình phục như cũ chẳng có thương tích. Ðoàn người buôn được đường chánh đến sáng thấy hai cánh tay tiên nhân không bị thương tích liền sanh ý tưởng hi hữu: Nay tiên nhân này có đại thần lực, suốt đêm đốt hai cánh tay soi sáng cho chúng ta được con đường chánh mà cả hai tay đều không bị thương tích, chắc chắn đã nên hạnh lớn, chắc chắn có đức lớn. Họ thưa tiên nhân rằng: Lành thay đại tiên, có thể làm khổ hạnh khó làm đệ nhất, nay dùng công hạnh này Ngài muốn nguyện điều chi?

     

Tiên nhân nói với đoàn người buôn: Do sự việc này ta nguyện khi được Vô thượng Bồ đề rồi sẽ độ các người ra khỏi khổ s? sanh tử, với chúng sanh tà đạo sẽ vì họ mà nói chánh đạo.

     

Ðoàn người buôn đều rất vui mừng thưa rằng: Chúng tôi nên dùng gì để báo đáp ơn đức của Ngài?

     

Tiên nhân bảo: Các người nên chuyên làm điều lành chớ có phóng dật.

 Ðoàn người buôn đồng thưa: Kính nghe lời dạy. Họ đều vui mừng cung kính từ biệt mà đi.

 

     

Này Ðại Mục Kiền Liên! Thuở quá khứ ấy, tiên nhân đốt hai cánh tay làm đuốc sáng soi đường chính là thân ta, còn đoàn người buôn này là ngàn hai trăm năm mươi đại Tỳ Kheo vậy.

     

Từ lâu đức Như Lai đối với chúng sanh sợ hãi thì bố thí vô uý cho họ. Ðối với chúng sanh tà đạo thì chỉ con đường chánh. Với chúng sanh không mắt sáng thì khiến họ được mắt thanh tịnh. Với chúng sanh bệnh nặng thì chữa trị cho lành. Do duyên cớ ấy nên phải biết rằng Như Lai từ lâu thường đối với các chúng sanh rất có lòng đại bi.

     

Lại này Ðại Mục Kiền Liên! Quá khứ xa xưa, trong Diêm Phù Ðề này đến kiếp bịnh tật lớn, khắp nơi chúng sanh bị bịnh lớn làm khổ. Bấy giờ vua Diêm Phù Ðề tên Ma Ha Tu Na có tám vạn bốn ngàn đại thành, vua có oai thế tự tại. Phu nhân lớn nhất mang thai, nếu lấy tay chạm đến ai thì người ấy liền lành bệnh. Ðầy tháng sanh con trai. Vừa sanh xong hoàng nam ấy liền cất tiếng nói: Tôi có thể chữa trị các người bịnh. Lại lúc sanh, trong Diêm Phù Ðề chư Thiên quỉ thần đều xướng lời rằng: Hoàng nam được sanh đây là nhân dược. Vì âm thanh ấy vang khắp nơi, mọi người đều nghe nên đặt tên là Nhân Dược.

Người thời ấy đều tuần tự mang bịnh nhân đến cho Vương Tử điều trị. Khi bịnh nhân đến, Vương Tử hoặc tay chạm thân đụng thì bịnh liền lành an ổn khoái lạc. Trong ngàn năm Vương Tử Nhân Dược trị bịnh cho mọi người, sau đó mạng chung. Các người bịnh đến hay tin Vương Tử đã chết đều buồn rầu khóc than: Ai là người cứu khổ chúng tôi. Họ tìm đến chỗ thiêu thi hài lấy tro xương tán mịn thoa lên thân tất cả bịnh liền lành. Họ đồng xướng to rằng tro tàn của thi hài Vương Tử Nhân Dược còn có thể trị lành bệnh. Khi đã dùng hết tro xương, mọi người lấy đất chỗ thiêu thi hài thoa lên thân bịnh cũng được lành.

     

Này Ðại Mục Kiền Liên! Vương Tử Nhân Dược thuở xưa dùng phương tiện trị bịnh cho người ở kiếp đại bịnh ấy chính là thân ta vậy.

 Ðối với các chúng sanh bịnh tật không ai cứu không chỗ y tựa, ta cứu trị cho họ. Nay ta được Vô thượng Bồ đề cũng dùng thuốc đại trí huệ chữa trị cho các chúng sanh cứu cánh hết khổ. Ta vì chúng sanh mà thọ thân, tùy theo sự gì có thể lợi ích cho họ thì làm lợi ích.

 

     

Lại này Ðại Mục Kiền Liên! Quá khứ xa xưa ta từng di một mình, có ác thú đến muốn ăn thịt. Lúc sắp chết lòng ta phát nguyện rằng: Sau khi chết tôi sẽ sanh trong rừng vắng này làm thân thú lớn, sẽ làm cho các ác thú sát hại tôi đều được no đủ. Tại sao, vì các ác thú thường bắt giết các thú nhỏ ăn mà chẳng được no đủ. Sau khi chết ta liền sanh làm thân thú to lớn ở tại rừng hoang vắng ấy cho các ác thú uống máu ăn thịt, tất cả đều được no đủ. Như vậy lần lượt đến trăm ngàn vạn ức na do tha đời ấy ta cố ý thọ thân để làm lợi ích các chúng sanh.

     

Này Ðại Mục Kiền Liên! Nếu ta tự nói lúc hành đạo Bồ Tát đem thịt máu nơi thân mà bố thí cho chúng sanh được no đủ, dầu nói đến cả một kiếp hay dưới một kiếp cũng chẳng hết.

 Với các chúng sanh khổ não ta sanh lòng đại bi làm lợi ích cho họ như vậy.

     

Lại này Ðại Mục Kiền Liên! Quá khứ xa xưa ta nhớ thân trước của ta thấy các chúng sanh khổ não nên nghĩ rằng: Nay tôi chẳng nên bỏ họ mà chẳng cứu. Liền đến chỗ họ mà hỏi họ có sự khổ gì có cần muốn gì? Họ đáp: Chúng tôi rất đói khát. Hỏi: cần thứ gì để ăn uống? Họ đáp: Nay chúng tôi chỉ muốn uống máu ăn thịt. Nếu có thể đem thân máu thịt cho chúng tôi ăn uống thì chúng tôi rất sung sướng không còn đau khổ nữa. Lúc ấy ta hứa cho và liền cắt thịt hứng máu cho họ ăn uống. Lòng ta chẳng hề hối hận chẳng sầu chẳng mê, chỉ suy nghĩ rằng: Nay tôi cắt thịt cũng sứt được phần khổ sanh tử cho họ. Tôi sẽ mãi mãi vui thích bố thí như vậy. Bố thí như vậy rồi ta rất vui sướng.  Do duyên cớ ấy mà biết rằng Như Lai đối với các chúng sanh có lòng đại bi rất sâu vậy.

     

Lại này Ðại Mục Kiền Liên! Ta nhớ thuở quá khứ có Quốc Vương tên Ðại Lực có đức lớn thiện căn dầy. Nhà vua ấy nghĩ rằng: Nay ta sao chẳng lập hội đại thí tha hồ kẻ đến cầu xin: cần ăn cho thức ăn, cần uống cho thức uống, cần y phục cho y phục, cần ngọa cụ cho ngọa cụ, cần thuốc men cho thuốc men, cần vàng bạc thất bửu của cải đều cấp cho cả, đến tôi trai tớ gái xe cộ voi ngựa bò dê ruộng đất sản nghiệp hương hoa phan lọng lục vải cũng đều cung cấp đủ.

 

     

Bấy giờ Thiên Ðế Thích nghĩ rằng: Sao ta chẳng làm sự chướng ngại cho vua ấy chẳng trọn bố thí. Liền hóa làm Bà La Môn đến hỏi vua Ðại Lực rằng nay hội thí này bố thí thứ chi? Vua đáp: Tôi có thứ gì đều bố thí cả chẳng hối tiếc. Bà La Môn hỏi: Chí nguyện của nhà vua như vậy, nay tôi có chỗ muốn cầu xin, có cho được chăng? Vua đáp: Tôi đã nói có gì đều cho cả. Bà La Môn nói: Nhà vua đã bảo như vậy, nay tôi cần từng phần thân của vua. Ðại Lực Vương nghĩ rằng: Bà La Môn này chẳng cần của tiền đồ vật mà muốn phá sự đại thí này. Nếu ta chẳng đem thân phần của ta để cho ông ấy thì chính ta tự phá hội đại thí. Suy nghĩ xong, vua bảo Bà La Môn: Tôi cho người thân phần của tôi, người cứ chặt lấy mang đi. Bà La Môn hỏi: Nhà vua nói như vậy mà chẳng hối hận ư? Vua nói: Lòng tôi chẳng hối tiếc. Chỉ vì hôm nay có nhiều người từ bốn phương đến xin tôi đều phải cung cấp cho họ được đầy đủ. Bà La Môn nói: Nay một mình tôi còn chẳng đầy đủ luận chi đến người khác. Bấy giờ vua Ðại Lực cầm dao bén tự chặt đứt cánh tay cho Bà La Môn nói rằng: Người nên lấy một cánh tay này.

     

Lúc chặt cánh tay, vua Ðại Lực không động tâm không hối hận, vì nhất tâm bố thí và vì hay xả bỏ tất cả nên cánh tay vua bình phục như cũ. Thiên Ðế Thích do duyên cớ ấy mà mất hết phước trời lòng nóng đốt khổ não kêu la, hiện thân sa vào đại địa ngục A Tỳ.

Này Đại Mục Kiền Liên! Thuở xưa ấy vua Đại Lực đem thân mình bố thí chính là thân ta. Còn Thiên Đế Thích muốn chướng ngại hội đại thí là thân trước của Điều Đạt vậy.

Thuở xưa ấy, Điều Đạt si nhân lòng ganh tị muốn phá hội đại thí của ta mà chẳng phá được rồi bị đọa địa ngục A Tỳ. Ngày nay ta được Vô thượng Bồ đề lập đại pháp thí, Điều Đạt si nhân vẫn còn ganh tị tham lợi dưỡng cùng người hiệp mưu muốn giết ta. Trong lúc ta kinh hành dưới núi Kỳ Xà Quật, Điều Đạt trèo lên núi dùng cơ quan xeo lăn đá khối tự phá căn lành của mình sanh lòng ác đối với ta mà phải mất lợi dưỡng thế lực tôn quí đọa vào đại địa ngục A Tỳ.

Này Đại Mục Kiền Liên! Đối với Điều Đạt si nhân từ nào ta không có thân khẩu ý ác, mà ông ấy mãi oán thù ta, đời đời muốn chướng ngại sự tu tập hạnh lành của ta, nhưng vẫn chẳng chướng ngại được. Ta thường lấy đức từ bi ban bố mà vẫn chẳng khiến được ông ấy có tình thân với ta. Điều Đạt đời đời chẳng biết ơn ta, cũng chẳng biết ơn Trời Người thế gian. Người như vậy thì nhập vào hạng tà định.

Này Đại Mục Kiền Liên! Sau này lúc sắp vào địa ngục A Tỳ, đối với ta mới sanh lòng tốt sâu chắc, đó cũng lá do sức oai thần của Như Lai.

Lúc sắp sa vào địa ngục A Tỳ, Điều Đạt si nhân chẳng biết ơn ấy nghe có tiếng gọi to rằng: Điều Đạt si nhân giận thù đức Phật, nơi đấng chẳng thể giết hại được mà muốn ngang khởi nhân duyên giết hại, do tội ấy nên nay sa vào đại địa ngục A Tỳ.

Nghe lời xướng to ấy, Điều Đạt rất đỗi kinh sợ, lòng liền điều phục mà nói rằng: Nay tôi đem cả cốt tủy nhất tâm quy mạng nơi Phật. Kêu lớn như vậy xong, lòng Điều Đạt liền được an vui kính tin nơi Phật, liền sa vào địa ngục A Tỳ. Do duyên lành ấy, sau này khi ra khỏi địa ngục được sanh trong loài người xuất gia tu hành thành Bích Chi Phật hiệu là Cốt Tủy.

Này Đại Mục Kiền Liên! Nay Phật thọ ký cho Điều Đạt được làm Bích Chi Phật rồi thì đã thoát khổ sanh tử. Ta độ cho Điều Đạt như bổn nguyện của ta. Đời trước ta muốn độ Điều Đạt mà bảo rằng: Ta sẽ độ ngươi mà không độ ai khác.

Này Đại Mục Kiền Liên! Điều Đạt chỉ ở chỗ ta mà gieo nhân duyên Niết bàn chớ chẳng gieo chỗ khác. Từ đây về sau Điều Đạt cũng chẳng ở chỗ khác trồng căn lành mà chỉ ở chỗ ta phát lòng tin thanh tịnh nói rằng quy mạng Phật. Do nhân duyên căn lành này nên ngày sau sẽ được đạo Bích Chi Phật.

Này Đại Mục Kiền Liên! Ta thường từ lâu thương nhớ chúng sanh như cha mẹ thương nhớ con một, thương họ côi cút nghèo cùng không có tài vật, qua lại sanh tử ác đạo hiểm nạn ngu si vô trí mù lòa không con mắt, ai dắt đường họ, ai hay cứu họ, chỉ có một mình Phật phải dắt cứu họ.

Này Đại Mục Kiền Liên! Ta nghĩ tưởng như vậy rồi, nếu có chúng sanh ác khẩu mắng ta ta chẳng mắng lại, trách chửi ta ta chẳng chửi lại, giận thù ta ta trọn chẳng giận lại. Tại sao? Vì đối với tất cả chúng sanh ta phải thường ban cho an vui trọn vẹn, phải thường trừ dứt tất cả khổ não suy loạn mà chẳng nên làm khổ làm não họ. Đối với các chúng sanh ấy, ai có thể nhẫn nhịn, chỉ có ta hay nhẫn nhịn. Nay ta phải học pháp chúng sanh nhẫn, pháp thiện tịch diệt, pháp nhu hòa thuận, phải như voi chúa điều phục chớ chẳng như voi chẳng điều phục. Ví như voi chúa điều phục lúc vào chiến trận lòng chẳng thối khuất có thể chịu được tiếng trống tiếng loa tiếng sừng tiếng hô to, nghe các thứ tiếng ghê rợn ấy chẳng kinh chẳng sợ, có thể chịu đựng được lạnh nóng muỗi mòng độc trùng gió mưa đói khát, có thể chịu được vết thương vì đao kiếm cung nỏ roi gậy mà xông thẳng vào trận chiến chẳng lui chẳng khuất. Voi lớn điều phục ấy chẳng có ý nghĩ ta chẳng xông vào được trận giặc mà nó chỉ nghĩ ta sẽ thắng giặc.

Này Đại Mục Kiền Liên! Lúc ta hành đạo Bồ Tát phát tâm nguyện lớn cũng như vậy, đối với các chúng sanh ta điều phục tâm mình. Nếu có ai ác khẩu chửi mắng ta chẳng mắng lại, họ giận thù đánh giết tranh giành ta đều chẳng báo oán. Ta luôn chẳng thối chuyển nơi Vô thượng Bồ đề cũng chẳng phân biệt sự này chịu được sự kia chẳng chịu được, đây nên thân cận, kia chẳng nên thân cận. Trong tất cả sự không lo sầu không hối hận không giận hờn. Lòng không hề chán rời sự Bồ Tát, chẳng bao giờ có ý nghĩ ta chẳng vào được trận giặc lớn ma chướng phiền não, mà chỉ nghĩ rằng ta có thể phá tan trận giặc ác to lớn để được Vô thượng Bồ đề hầu cứu độ vô lượng chúng sanh trong tam giói sanh tử khổ. Này Đại Mục Kiền Liên! Thuở ta làm đạo Bồ Tát trước kia, ta tu hành nhẫn nhục, bao nhiêu sự từ bi đối với chúng sanh, nếu dùng lời để nói thì không thể hết được.

Lại này Đại Mục Kiền Liên! Quá khứ xa xưa có ngoại đạo tên Nhẫn Lực thọ pháp như vầy: Với các chúng sanh tôi chẳng sanh lòng giận hờn. Bây giờ có ma tên Ác Ý nghĩ rằng nay ta sẽ đến chỗ tiên nhân phá hoại pháp nhẫn nhục khiến sanh sân hận hư mất tâm nhẫn nhục. Ma liền sai ngàn người mắng chửi giỏi đến vây quanh tiên nhân buông lời ác chửi mắng, lúc đi cũng mắng, vào tụ lạc cũng mắng, lúc ăn cũng mắng, ăn xong cũng mắng, đứng dậy cũng mắng, ra khỏi tụ lạc cũng mắng, về đến rừng cây chỗ cư ngụ cũng mắng, lúc đứng lúc ngồi nằm lúc kinh hành đều mắng chửi, cho đến thở ra thở vào cũng mắng, luôn theo mắng chửi không lúc nào nghỉ. Ngàn ngưòi do ma sai khiến ấy mắng chửi suốt tám muôn bốn ngàn năm, còn ma Ác Ý lúc tiên nhân vào tụ lạc nó tự lấy cứt đái đổ lên đầu lên bát lên y lên thân của tiên nhân.

Tiên nhân Nhẫn Lực dấu bị mắng nhục cả tám vạn bốn ngàn năm mà lòng chẳng hề giận hờn, chẳng hề có quan niệm lui bỏ hạnh tu, chẳng tự nói tôi có tội lỗi gì, cũng chẳng dùng ác nhãn nhìn ngó kẻ ác.

Sau tám vạn bốn ngàn năm vây quanh mắng chửi tiên nhân Nhẫn Lực, ngàn người giỏi mắng ấy biết chẳng phá hoại được nên sanh lòng tin thanh tịnh sám hối trừ tội và thưa rằng: Ngài tu tập cầu được pháp gì chúng tôi cũng nguyện được pháp ấy. Họ cung kính cúng dường tôn trọng khen tặng tiên nhân. Được cung kính cúng dường, Nhẫn Lực cũng chẳng sanh lòng tham ái.

Này Đại Mục Kiền Liên! Tiên nhân Nhẫn Lực thuở xưa chính là thân ta. Thuở ấy ta tu pháp nhẫn nhục, ma Ác Ý sai sai ngàn người mắng chửi làm nhục suốt tám vạn bốn ngàn năm cũng chẳng khiến lòng ta đổi khác được. Ngàn người giỏi mắng sau khi hối hận sanh lòng tin sám hối tội lỗi theo học tiên nhân phát tâm Vô thượng Bồ đề, an trụ trong Phật pháp. Ngàn người ấy đầy đủ sáu Ba la mật thứ đệ thành Phật đều đã nhập vô dư Niết bàn rồi. Còn ma Ác Ý ấy chính là Điều Đạt vậy.

Lại này Đại Mục Kiền Liên! Ta nhớ đời quá khứ tự đem thân bố thí cho chúng sanh vì người đời mà làm nô bộc. Thuở ấy mọi người sai sử ta. Có người sai ta đổ rửa phân tiểu, có người sai ta đổ đất, dọn cỏ, lấy thóc gạo sữa bơ dầu mật, có người sai ta lấy củi than nước lửa, bao nhiêu thứ dịch vụ như vậy đều sai ta làm.

Này Đại Mục Kiền Liên! Thuở ấy ta chẳng hề sanh tâm niệm rằng có người sai khiến ta làm việc dơ dáy mà không tùy theo, còn sai bảo lấy hoa hương châu báu vật thực dưa trái thì liền tuân lời, ta cũng chẳng hề ham sự vụ tốt mà chê sự vụ cực, ta cũng chẳng hề có quan niệm giai cấp theo Sát Lợi chẳng theo Bà La Môn, theo Bà La Môn chẳng theo Sát Lợi. theo Tỳ Xá chẳng theo Thủ Đà, theo Thủ Đà chẳng theo Tỳ Xá, ta chẳng hề phân biệt người lớn người nhỏ, theo kẻ này chẳng theo kẻ kia, hễ ai kêu ta trước thì ta liền vui vẻ theo làm.

Này Đại Mục Kiền Liên! Thuở ta tu đạo Bồ Tát, ta chẳng nhớ có ai sai ta làm sự việc đúng pháp mà ta chẳng làm dầu ta trọn không có sức, không bao giờ làm việc gì mà không cứu cánh, không bao giờ làm việc lành mà việc lành ấy chẳng trọn vẹn.

Nói tóm lại, thuở ta tu đạo Bồ Tát, ta chưa hề tham thân huống là tài vật. Ở trong tài vật, ta chẳng có ý tưởng là tài vật của mình, chỉ do nghiệp nhân quả báo trước mà ta có tài vật, ở nơi tài vật ấy ta quan niệm tài vật ấy nên cùng chúng sanh dùng chung, ta có phần trong ấy thì chúng sanh cũng có phần.

Này Đại Mục Kiền Liên! Ta tu đạo Bồ Tát được gần Phật pháp thì ở trong ấy, vui chẳng tham trước chẳng nhiếp cũng lấy, vui rời xa các pháp, chẳng ưa nhận lấy các pháp, vui tất cả pháp không, chẳng ưa tất cả pháp có, vui tất cả pháp tịch diệt, chẳng ưa tất cả pháp sự tướng, vui bổn tánh vô sở hữu, chẳng ưa bổn tánh có sở hữu.

Này Đại Mục Kiền Liên! Ta nhớ thuở ta tu đạo Bồ Tát vô lượng trăm ngàn vạn đời, trong đêm tối tăm ta tự đốt thân mình để soi sáng dắt đường cho người đi lạc, tự cắt thịt thân mình bố thí cho loài chúng sanh ăn thịt bị đói, tự chích lấy máu mình thí cho loài chúng sanh uống máu khiến chúng đều được no đủ vui sướng.

Nói tóm lại, ở trong thế gian tất cả tài vật đồ dùng sanh sống cho đến thân thể, đối với các chúng sanh ta trọn chẳng tham tiếc, chẳng não chẳng hại chúng sanh, được ngưòi trí bằng lòng, được hiền thánh khen ngợi, trong đêm trường ta thường thật hành lòng bi sâu xa đối với các chúng sanh.

Lại này Đại Mục Kiền Liên! Ta nhớ thuở quá khứ làm chủ đoàn buôn tên là Cát Lợi vào đại hải lấy được nhiều châu báu an ổn ra khỏi biển trở lại bổn quốc vào thành về đến trước cổng nhà. Hay tin, có nhiều kẻ ăn xin đến vây quanh nói rằng: Lành thay đại thí chủ Cát Lợi, chúng tôi có chỗ muốn xin, nếu ngài vui lòng chúng tôi sẽ cầu xin. Cát Lợi nói: Mọi người cứ xin, nếu tôi có thể cho được thì không hề tham tiếc. Chúng ăn xin nói: Ngài Cát Lợi vào đại hải được bao nhiêu vật báu quí xin cho hết chúng tôi, được vậy chúng tôi đều được lợi tốt. Cát Lợi liền đem tất cả trân bửu cho chúng ăn xin có đến tám mươi ức châu ma ni, mỗi châu ma ni đều giá trị trăm ức lượng vàng. Bố thí xong, Cát Lợi chẳng vào nhà mình mà trở lại vào biển tìm lấy trân bửu. Sau khi vào đại hải được châu báu gấp bội, hơn tám mươi năm mới về đến bổn quốc. Lúc muốn vào thành thấy người phạm tội bị trói mang đi đến chỗ giết. Kẻ tử tội xa thấy Cát Lợi liền kêu to: Xin chủ đoàn buôn ban cho tôi sự vô úy cứu tôi khỏi tội chết ban tôi mạng sống. Ngài là đại thí chủ người tốt hiền lành. Cát Lợi nói với tử tội: Vâng, tôi sẽ cứu người khỏi tội chết ban cho người sự vô úy. Cát Lợi liền đến chỗ ban giám sát tặng mỗi người một châu ma ni giá trị một ức lượng vàng để yêu cầu tạm đình án lịnh chờ Cát Lợi vào tâu Quốc Vương. Cát Lợi liền gấp rút vào thành tâu với Quốc Vương xin đem trân bửu tốt mua mạng sống người ấy. Quốc Vương nói: Tội người ấy chẳng tha thứ được, chẳng thể mua được. Nếu quyết muốn mua thì có bao nhiêu tài vật ông phải nộp hết cho ta và ông phải chịu chết mới tha người ấy được. Cát Lợi nghe lời phán của Quốc Vương lòng rất vui mừng mà nói rằng tôi được lợi lớn được sở mãn nguyện, cứu được người ấy rất vừa ý tôi. Cát Lợi liền đem tất cả tài sản và tất cả châu báu lấy được ở đại hải kể có vô lượng ngàn ức vàng bạc châu báu nộp cho Quốc Vương mà tâu rằng: Xin tha người ấy, tất cả sở hữu của tôi đều hiện ở đây. Quốc Vương nhận tài vật xong truyền đem Cát Lợi đi chém, tay cầm đao bén đưa lên mà chém xuống chẳng được. Thị thấn cả kinh đem Cát Lợi về triều tâu sự việc ấy lên Quốc Vương. Nghe tâu, Quốc Vương liền tự cầm đao lên muốn chém xuống, cả hai cánh tay vua liền rơi rụng xuống đất, quá đau tức, vua kêu to lên mà chết.

Này Đại Mục Kiền Liên! Chủ đoàn buôn thuở ấy chính là thân ta. Còn Quốc Vương kia là Điều Đạt người ngu si vậy. Thuở xa xưa ấy Điều Đạt muốn giết ta mà chẳng giết được. Đến đời nay ta được Vô thượng Bồ đề, Điều Đạt cũng muốn giết ta mà cũng chẳng được. Tại sao, vì với Như Lai, tất cả thế gian Trời, Người, A Tu La không ai có thể hại được, huống là người ngu si Điều Đạt. Nay Điều Đạt mưu mô tập họp những kẻ ác đến muốn giết ta, ông ấy cũng tự phương tiện muốn giết cho được ta, do đó ông ấy phải mất lợi dưỡng danh tiếng thế lực, thân sống sa thẳng vào địa ngục A Tỳ.

Này Đại Mục Kiền Liên! Lúc thật hành đạo Bồ Tát ta chẳng thấy làm lợi ích cho ai bằng làm lợi ích cho Điều Đạt, mà ông ấy chẳng biết ơn nghĩa. Lúc tu đạo Bồ Tát, ta đối với chúng sanh như cha mẹ, do đó mà biết rằng tâm từ của Như Lai luôn luôn sâu đậm đối với chúng sanh.

Lại này Đại Mục Kiền Liên! Thuở quá khứ xa xưa ở bên núi Tuyết có bầy voi năm trăm con, trong đó có voi chúa lớn thân hình khả ái sức mạnh có trí. Chỗ ở của bầy voi rất hiểm trở chỉ có một con đường để đi ra. Bấy giờ có thợ săn rình thấy bầy voi liền suốt đêm đào hố sâu rộng giữa đường hiểm rồi xua đuổi bầy voi đến bên hố, bầy voi không thể vượt qua hố được. Voi chúa liền nằm ngang miệng hố làm cầu cho bầy voi chạy qua. Bầy voi qua hết rồi voi chúa vọt mình qua khỏi hố.

Lúc ấy sơn thần nói kệ rằng:

Kẻ ác đào hố sâu

Bầy voi có voi chúa

Độ chúng cũng độ mình

Uổng công đào hố sâu.

     

Này Đại Mục Kiền Liên! Thuở xưa voi chúa ấy chính là thân ta, bầy voi năm trăm con ấy nay là năm trăm Tỳ Kheo bị Điều Đạt khuyến dụ đó, thợ săn thuở ấy nay là bọn ông Điều Đạt như Tỳ Kheo Kiển Đà Đạt Đa, Tỳ Kheo Ca Lâu La Đề Xá, Tỳ Kheo Tam Văn Đà Đạt, Tỳ Kheo Câu La Lê Bà Đạt Đa.

Này Đại Mục Kiền Liên! Từ lâu xa, thấy chúng sanh bị bố úy, ta ban cho họ sự vô úy, thấy chúng sanh khổ não, ta ban cho họ sự an vui, thấy chúng sanh nghèo cùng, ta ban cho họ tài vật, thấy chúng sanh tà đạo, ta chỉ cho họ chánh đạo, thấy chúng sanh bịnh khổ, ta trừ bịnh cho họ, thấy chúng sanh đói khát, ta cho họ ăn uống, đem cả thân thể mình cho các chúng sanh ăn thịt uống máu.

Này Đại Mục Kiền Liên! Khi ta phát nguyện gì, ta đều làm đúng và trọn vẹn, khi ta đã hứa điều chi với chúng sanh thì không bao giờ ta biếng trễ.

Này Đại Mục Kiền Liên! Từ lúc ta phát tâm Vô thượng Bồ đề đến nay thành bực Vô thượng Chánh Đẳng Giác, trong thời gian giữa, lời nói ra đều thành thiệt không hề đổi khác, việc làm đều tinh tiến không hề giải đãi thôi bỏ. Bao giờ ta cũng làm đúng như lời nói và lời nói đều đúng như việc làm”. 

PHẨM ĐÁP NẠN THỨ BẢY

Bấy giờ trong pháp hội có một Tỳ Kheo tên Tượng Thủ rời chỗ ngồi trịch y vai hữu gối hữu chấm đất chắp tay bạch đức Phật: “Bạch Đức Thế Tôn! Tôi nghe đức Phật nói sự khó như vậy cả mình rởn ốc, nước mắt nước mũi chảy tuôn. Nay tôi muốn hỏi một việc. Đức Thế Tôn tự nói lúc tu hạnh Bồ Tát việc làm đúng như lời và lời nói đúng như việc làm. Lúc ban sơ đức Thế Tôn nguyện độ tất cả chúng sanh. Nếu đã nguyện như vậy mà hiện nay chúng sanh được độ chưa hết đức Thế Tôn lại sẽ nhập Niết bàn. Sau khi đức Thế Tôn diệt độ, hoặc có người đến chất vấn các Tỳ Kheo rằng Đại Sư của các Thầy bổn nguyện sẽ độ tất cả chúng sanh. Chúng sanh chưa hết mà đã tự diệt độ. Nếu họ hỏi như vậy thì phải đáp thế nào?”

Đức Phật bảo Tỳ Kheo Tượng Thủ: “Nếu có người chất vấn như vậy thì nên hỏi lại họ: Ngài lấy pháp gì làm chúng sanh? Nếu họ đáp là ấm nhập giới là chúng sanh thì lại hỏi họ là ấm nhập giới hoà hiệp là chúng sanh hay ấm nhập giới ly tán là chúng sanh? Nếu họ nói ho hiệp là chúng sanh thì lại nên bảo họ rằng Ngài đã tự trả lời rồi. Tại sao? Vì hoà hiệp là chúng sanh, ấm nhập giới chẳng phải chúng sanh. Pháp của Phật nói là để vì ly tán chớ chẳng phải để vì hoà hiệp. Đức Phật thích hạnh ly tán mà chẳng thích hoà hiệp. Trong hoà hiệp không có chúng sanh.

Nếu họ lại nói chỉ ấm nhập giới là chúng sanh thì nên hỏi lại họ rằng nếu như vậy thì tất cả cỏ cây ngói đá đều là chúng sanh cả vì trong ấy cũng có ấm nhập giới. Nếu họ nói trong các thứ ấy không có tâm, không có tâm sở nên chẳng phải là chúng sanh, thì nên hỏi lại họ rằng nếu như vậy thì tất cả chúng sanh lẽ ra là một chúng sanh. Tại sao? Vì đức Phật chẳng nói ấm nhập giới có khác. Nếu họ lại nói trong kinh Phật nói có chúng sanh vì vậy nên có chúng sanh, thì nên bảo lại họ rằng Ngài đã tự đáp rồi. Tại sao? Vì trong kinh đức Phật nói ly hữu ly vô. Nếu họ nói rằng như thế thì không có đạo quả, thì nên hỏi lại họ Ngài lấy gì làm quả? Nếu họ nói là lấy quyết định đệ nhất nghĩa làm đạo quả thì nên hỏi lại họ trong quyết định đệ nhất nghĩa không có âm thanh ngữ ngôn. Trong không có âm thanh ngữ ngôn chẳng được nói quyết định có không có. Ngài nói quyết định đệ nhất nghĩa là quả, trong quyết định đệ nhất nghĩa ấy không có chúng sanh không có danh tự chúng sanh. Thế nên Ngài nói có chúng sanh thì lời nói ấy tự phá rồi.

Lại này Tượng Thủ! Trong kinh cuả Phật nói trong các pháp không có cái gì diệt chỉ dứt diệt khổ não thôi. Phật thông đạt thiệt tướng các pháp như vậy. Theo pháp của mình được mà đem dạy chúng sanh. Pháp của Phật nói là để vì không tham lấy, vì viễn ly, vì không hí luận, vì không tác khởi.

Này Tượng Thủ! Nếu người nào biết pháp nghĩa của Phật như vậy thì có thể chẳng bị sự có không có mà khởi sanh hành nghiệp. Nếu người đã chẳng vì có không có mà khởi hành nghiệp thì người ấy đâu còn thấy có chúng sanh thấy không có chúng sanh.

Này Tượng Thủ! Đây gọi là thường an trụ thiệt tướng các pháp. Trong ấy không có ức tưởng phân biệt không cấu không tịnh không lai không khứ không đạo không đạo không đạo quả không trường không đoản không tròn không vuông không hình không sắc. Thế nên nói các pháp nhất ngôn đó là định môn vậy.

Này Tượng Thủ! Đây gọi là kiến pháp môn. Nhập vào kiến pháp môn này thì có thể gọi là thấy Phậy vậy.

Này Tượng Thủ! Ý ông thế nào, tuỳ theo dùng pháp nào thấy Phật, pháp ấy có phải là tướng diệt đã diệt nay diệt sẽ diệt chăng?

- Bạch Thế Tôn, không.

- Này Tượng Thủ! Ý ông thế nào, tuỳ theo dùng pháp nào thấy Phật, pháp ấy có tướng sanh đã sanh nay sanh sẽ sanh chăng?

- Bạch Thế Tôn, không.

- Này Tượng Thủ! Nếu vậy thì Phật chẳng gọi là diệt độ.

- Bạch Thế Tôn, Đúng như vậy.

Này Tượng Thủ! Nếu người ấy lại nói rằng tôi chỉ căn cứ nơi thân tướng mà nói Phật diệt độ. Phật nhập Niết bàn rồi không còn trở lại. Chỉ thấy thân tướng chẳng cón trở lại mà tôi nói Phật diệt độ. Nếu họ nói như vậy thì nên hỏi họ rằng Ngài nói thân tướng thành tựu là Phật chăng? Nếu họ nói phải thì nên bảo họ rằng trong kinh Phật chẳng nói thân tướng gọi là Như Lai. Nếu nói thân tướng là Phật thì tất cả ngói đá núi sông cỏ cây đều là Phật cả. Nếu họ lại nói tất cả thứ ấy không có đủ ba mươi hai tướng đại nhân nên chẳng được gọi là Như Lai, thì nên bảo họ rằng Ngài nói có đủ ba mươi hai tướng nên gọi là Phật, như vậy Chuyển Luân Thánh Vương là Phật rồi. Tại sao, vì thân Chuyển Luân Thánh Vương có ba mươi hai tướng.

- Nếu họ lại nói rằng cứ theo tướng pháp, Bà La Môn biết tướng pháp nói sẽ làm Phật, sự ấy là thiệt. Nên bảo họ rằng nếu có đủ ba mươi hai tướng chính là Phật, sao ngài lại tự nói rằng tướng sư thấy có ba mươi hai tướng thì ghi nhận sẽ được làm Phật. Nay Ngài nên nói tướng cuả Phật. Nếu họ nói rằng tôi nói, Phật thập lực, Tứ vô uý, Thập bát bất cộng pháp, Vô lậu, Căn lực, Giác đạo, Thiền định, Giải thoát tam muội v.v… là tướng của Phật, thì nên bảo họ rằng Ngài nói Thập lực v.v… là tướng của Phật nay nên nói Phật thể tánh thì phải hơn. Nếu họ nói rằng Phật cùng với tướng ấy khác nhau chăng? Thì nên bảo họ rằng Ngài tự nói là tướng của Phật. Tướng của Phật chẳng phải Phật. Nếu họ lại nói rằng còn có pháp không hình không sắc là tướng của Phật Thập lực v.v… chăng? Thì nên bảo họ rằng pháp không hình không sắc sao lại dùng pháp có hình có sắc làm tướng? Nếu Ngài lại nói pháp không hình không sắc gọi là Phật thì các pháp không hình không sắc khác cũng đều có thể là Phật cả. Nếu các pháp ấy cũng là Phật thì Thập lực, Tứ vô uý, Thập bát bất cộng pháp, Vô lậu, Căn lực, Giác đạo, Thiền định, Giải thoát tam muội v.v … cũng lẽ ra cùng tương ưng với nó.

- Nầy Tượng Thủ! Bổn nguyện của ta được Vô thượng Bồ đề độ thoát tất cả chúng sanh. Ta ngồi đạo tràng được Vô thượng Bồ đề rồi chẳng được chúng sanh chẳng được danh tự chúng sanh. Ta ngồi đạo tràng chỉ thông đạt pháp mười hai nhân duyên: Vì sự này có nên có sự này, vì sự này không nên không sự này, vì sự nào có nên có sự nào, vì sự nào không nên không sự nào. Đó là do vô minh nhân duyên nên có các hành, do các hành nhân duyên nên có thức, do thức nhân duyên nên có danh sắc, do danh sắc nhân duyên nên có lục nhập, do lục nhập nhân duyên nên có xúc, do xúc nhân duyên nên có thọ, do thọ nhân duyên nên có aí, do aí nhân duyên nên có thủ, do thủ nhân duyên nên có hữu, do hữu nhân duyên nên có sanh, do sang nhân duyên nên có lão tử ưu bi khổ não, xoay vần như vậy chỉ là khối đại khổ tập hợp.

- Vì vô minh diệt nên các hành diệt, vì các hành diệt nên thức diệt, vì thức diệt nên danh sắc diệt, vì danh sắc diệt nên lục nhập diệt, vì lục nhập diệt nên xúc diệt, vì xúc diệt nên thọ diệt, vì thọ diệt nên ái diệt, vì ái diệt nên thủ diệt, vì thủ diệt nên hữu diệt, vì hữu diệt nên sanh diệt, vì sanh diệt nên lão tử ưu bi khổ não diệt, trong ấy chỉ là khối đại khổ diệt. Trong ấy ta phát sanh mắt trí huệ thấy rõ thông đạt giải thoát không trung không hậu không hoại. Vì Phật thông đạt giải thoát ấy nên chẳng được pháp nào khác, mà chỉ được pháp các nhân duyên sanh.

- Này Tượng Thủ! Đức Như Lai là bực thông đạt các pháp, theo đó mà giảng nói cho chúng sanh.

- Này Tượng Thủ! Hoặc chư Phật xuất hiện hay chẳng xuất hiện, tánh tướng các pháp luôn thường trụ bất hoại. Nghĩa là danh sắc chẳng mất chẳng chống trái nhau chẳng sanh chẳng khởi. Phật thường thuyết pháp như vậy, các ông cũng phải hiểu biết theo ý của Phật. Phật vì các ông mà nói pháp như vậy, các ông chỉ nên siêng năng tu hành như vậy.

- Này Tượng Thủ! Các sự việc mà bực Đại Sư phải làm cho đệ tử thì ta đã làm xong. Các ông theo lời dạy mà thật hành, ở trong các pháp sẽ được trí huệ sáng suốt”.

      

- Tượng Thủ lại bạch đức Phật: “Bạch Thế Tôn! Nếu có người nói vì chánh pháp của đức Như Lai nói diệt thì ai sẽ chỉ dạy. Vì không ai chỉ dạy nên gọi là chánh pháp diệt. Vì chánh pháp diệt nên nói là Như Lai diệt. Như vậy cũng gọi là chẳng độ tất cả chúng sanh”.

- Đức Phật dạy: “Này Tượng Thủ! Nếu có người chất vấn như vậy thì nên đáp thế này:

- Đức Phật là người Nhất thiết trí biết hết thấy hết, thường chờ thời tiết chúng sanh có thể được độ. Dầu nhập Niết bàn mà vẫn còn lợi ích. Lại nay Phật thọ ký Phật đời vị lai thì Phật chủng nối nhau chẳng tuyệt, tất cả Phật pháp là một Phật pháp, thế nên gọi là Như Lai pháp. Như Lai pháp là Phật pháp. Do đó nên biết đức Như Lai lúc hành Bồ Tát đạo việc làm đúng như lời, lời nói đúng như việc làm vậy”.

- Tượng Thủ Tỳ Kheo nói: “Hi hữu Thế Tôn! Đức Như Lai khéo có thể thông đạt suy cầu tất cả các pháp. Vì khéo có thể thông đạt tất cả các pháp nên thân khẩu và ý được trí huệ dẫn đầu đều theo tr1i huệ. Đức Như Lai lúc hành Bồ Tát đạo việc làm đúng như lời, lời nói đúng như việc làm”.

- Đức Phật phán: “Đúng như vậy! Đúng như lời ôg nói, lúc hành Bồ Tát đạo, ta làm đúng như lời, lời nói đúng như việc làm.

- Này Tượng Thủ! Nếu có người thành thiệt nói ai chẳng sai lầm xuất hiện thế gian lợi ích chúng sanh an lạc Trời Người, tất cả Đại Sư dạy nói chánh đạo chánh trí giải thoát không có hí luận đến bỉ ngạn, độ kẻ chưa độ Đấng Như Lai Thế Tôn thì nên nói chính là ta vậy. Đó là người nói thành thiệt.

- Này Tượng Thủ! Nếu người thành thiệt nói ai là người chẳng dối phỉnh là người biết báo ơn? Thì nên nói chính là ta đây vậy. Đó là lời nói thành thiệt. Này Tượng Thủ! Nếu có chúng sanh nào phụng sự ta chút ít thì sự ấy chẳng mất.

- Này Tượng Thủ! Từ lúc ta bắt đầu phát tâm Vô thượng Bồ đề đến nay, chẳng hề có lúc nào tâm ta thối chuyển, ta cũng chẳng nhớ có tham ưa Thanh Văn thừa hay Bích Chi Phật thừa cùng mong được pháp ấy. Chỉ có một lần ta muốn dạy đệ tử cầu Bích Chi Phật.

- Này Tượng Thủ! Thuở quá khứ xa xưa, lúc ấy ta làm ngoại đạo tiên trí huệ sáng lẹ học rộng biện tài được thông pháp nhẫn. Bấy giờ có năm trăm Bà La Môn tuổi trẻ thấy lỗi họa ngũ dục tại gia và thấy sự lợi ích xuất gia nên đồng xuất gia học đạo đến chỗ ta nghe pháp được đạo quả Bích Chi Phật đủ lực thần thông tâm được tự tại thành tựu như ý túc, thường dùng thần lực bay vào thành ấp tụ lạc khất thực cúng dường ta. Bấy giờ ta tự nghĩ rằng chư thánh nhân đại trí thanh tịnh ấy ta chẳng nên thọ sự cúng dường của họ. Ta giáo hoá họ mà họ được đạo quả ấy còn ta thì chẳng được.

- Này Tượng Thủ! Vì muốn chứng đạo pháp Bích Chi Phật ấy ta nên siêng tu tinh tiến. Trời Tịnh Cư liền hiện đến bảo ta rằng chớ tham quả Bích Chi Phật, Ngài nên được quả Vô thượng Bồ đề, Ngài phải độ vô lượng vô biên chúng sanh. Ta nghe lời trời Tịnh Cư dạy rồi chẳng tiếp tục hành đạo ấy, trong tâm được sự hoan hỉ khoái lạc đệ nhất, tịnh tọa suốt nửa tháng khoái lạc khắp toàn thân.

- Này Tượng Thủ! Bồ Tát thành tựu bốn pháp chư Thiên khai ngộ thì được tâm hoan hỷ tự biết mình sẽ được Vô thượng Bồ Đề.

- Những gì là bốn pháp?

- Một là Bồ Tát tự thâm phát tâm Vô thượng Bồ đề và cũng dạy người thâm phát tâm Vô thượng Bồ đề.

- Hai là thấy người thâm phát tâm Đại thừa, Bồ Tát chẳng có lòng ganh ghét chẳng quan niệm chỉ riêng mình được Vô thượng Bồ đề.

- Ba là Bồ Tát theo sở hành của chúng sanh mà tùy thời giảng dạy, có ý tốt cùng chuyện trò giúp gìn căn lành của họ.

- Bốn là siêng cầu những chánh pháp rộng rãi vì người mà chỉ dạy chẳng bao giờ lẫn tiếc.

- Thành tựu bốn pháp này, được chư Thiên khai ngộ, Bồ Tát tự biết sẽ thành Phật”.

- Đức Thế Tôn muốn thuyết minh sự ấy mà nói kệ rằng:

Bồ Tát lòng vững chắc

An trụ Vô thượng thừa

Hay giáo hoá chúng sanh

Khiến an trụ thừa ấy

Lúc hành đạo Bồ Tát

Không có lòng tật đố

Siêbg tu phát tinh tiến

Lòng hoan hỉ càng thêm

Thấy các chúng sanh ác

Theo thời mà khuyên dạy

Thường dùng lòng từ bi

Không hề có hờn giận

Thường siêng tu cầu pháp

Lưu bố cho chúng sanh

Đem pháp đầy cho tất cả

Như mưa chảy ướt khắp

Người tu bốn pháp này

Được chư Thiên khai ngộ

Ngài sẽ được làm Phật

Chớ sanh lòng nghi hoặc

Bồ Tát nghe lời này

Dũng mãnh thêm tinh tiến

Việc ấy quyết phải đúng

Tôi chắc sẽ làm Phật

Chư Bồ Tát như vậy

Dùng tinh tiến và nguyện

Chánh niệm tri và huệ

Tự mình càng cao đại

Nếu có chư Như Lai

Xuất hiện tại thế gian

Thì chư Bồ Tát này

Có công đức như vầy

Trời người đều cung kính

Vua chúa và quan dân

Đều sanh lòng hoan hỉ

Biết là người có đạo

Kinh sách chương cú nghĩa

Văn kệ môn toán số

Thảy đều giỏi thông đạt

Bực tối thượng trong người

Thông suốt có trí huệ

Làm việc chẳng tốn sức

Chỉ dùng những mưu sách

Mà thành công cả thảy

Dẹp tan các trận chiến

Chẳng dùng sức chân tay

Chỉ dùng sức trí huệ

Tự nhiên giặc hàng phục

Vua chúa và quan dân

Đều khen rất hi hữu

Vì thương xót chúng sanh

Mà sanh ở thế gian

Mọi người đều biết rõ

Bảo chuyện trò với Trời

Cớ sao lại sáng suốt

Biết rõ tâm của tôi

Bồ Tất này thường được

Gần gặp gỡ chư Phật

Hầu kề thưa thỉnh pháp

Lợi ích lớn cho người

Thưa học nơi Phật rồi

Dứt hết những nghi lầm

Hay lợi ích chúng sanh

Làm mọi người vui mừng

Phật hiện sức thần thông

Thọ ký sẽ làm Phật

Do đó Bồ Tát nầy

Lòng rất là hoan hỉ

Những của vật quí trọng

Trong ngoài đều không tiếc

Do đó rất hoan hỉ

Tự biết sẽ thành Phật

Từ bi che trùm khắp

Không hề có sân hận

Do đó rất hoan hỉ

Tự biết sẽ thành Phật

Được chư Phật ngợi khen

Đã được trí thâm diệu

Do đó rất hoan hỉ

Tự biết sẽ thành Phật

Chẳng y chỉ các pháp

Biết pháp chẳng y được

Được trí huệ như trên

Thân có thể bay lên

Tâm ấy chẳng ở trong

Cũng chẳng ở tại ngoài

Ra khỏi các tưởng niệm

Nên được nhẫn vô thượng

Đêm trường dùng từ bi

Nhớ thương khắp chúng sanh

Do nơi phước đức này

Được thấy vô lượng Phật

Tất cả thân Bồ Tát

Cùng thân Phật không khác

Được trí nhẫn như vậy

Dùng pháp tự tăng trưởng

Người phát tâm Bồ đề

Ai chẳng theo để học

Ở bền nơi chánh pháp

Được công đức như vậy

Vì thế người cầu pháp

Dùng pháp cầu tự lợi

Thì thêm lớn Bồ đề”.

PHẨM PHÚ LÂU NA THỨ TÁM

 

     

Bấy giờ Tôn giả Phú Lâu Na Di Đa La Ni Tử bạch rằng: “Hi hữu Thế Tôn! Thuở quá khứ lúc hành đạo Bồ Tát, đức Thế Tôn khéo an trụ vững các pháp lành”.

Đức Phật phán: “Đúng như vậy, nầy Phú Lâu Na! Đêm trường thuở hành đạo Bồ Tát ta an trụ vững chắc nơi pháp lành”.

Đức Thế Tôn muốn sáng tỏ sự ấy mà nói kệ rằng:

“Cầu pháp hay đắc pháp

Gọi là gốc Phật đạo

Thường siêng tu thiện pháp

Rời xa các phi pháp

Thường đi trên chánh đạo

Rời xa các tà đạo

Thường tu tập đạo pháp

Mà chư Phật thân cận

Đây thì lìa xa nạn

Được chỗ không nạn chướng

Được chỗ không nạn rồi

Tâm tinh tiến chẳng luống

Ở hai túc tôn quí

Trên hết trong hình sắc

Quyến thuộc thành tựu đủ

Hơn hết trong tất cả

Tâm thường an trụ vững

Nơi giới phẩm nhẫn phẩm

Cũng trụ vững tinh tiến

Tăng trưởng thiền và trí

Thường hay làm thượng thủ

Trong các loài chúng sanh

Tối thắng trong công đức

Rõ nghĩa được vô úy”.

     

Ngài Phú Lâu Na bạch rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Pháp vi diệu như vậy ai sẽ chẳng học. Chỉ nhớ lại thuở trước chúng tôi giải đãi chẳng mong được Phật trí, chẳng tự tin mình có thể được Phật huệ như vậy, nên dùng thừa Thanh Văn để tự độ.

Bạch đức Thế Tôn! Từ nay tôi chỉ dạy chư Bồ Tát cho họ an trụ Phật thừa. Tại sao? Vì chư Phật Thế Tôn là người làm sự khó làm. Thuở xưa lúc làm hạnh Bồ Tát, đức Thế Tôn là người làm sự rất khó khăn lớn lao như vậy. Sự khó khăn lớn lao như vậy. Sự khó và lớn ấy, tất cả A La Hán và Bích Chi Phật còn không có huống là các chúng sanh khác.

Bạch đức Thế Tôn! Sự lớn lao khó khăn như vậy, chỉ có chư đại Bồ Tát vì thương xót các chúng sanh mà làm lợi ích. Do đây nên hành đạo Bồ Tát có vô lượng vô biên vô số sự lớn khó như vậy.

Bạch đức Thế Tôn! Chư Bồ Tát làm sự rất khó khăn lớn lao như vậy được Vô thượng Bồ đề rồi hay chuyển pháp luân độ thoát chúng sanh khổ não”.

Đức Phật nói: “Đúng như vậy, nầy Phú Lâu Na! Chư đại Bồ Tát thâm phát tâm Vô thượng Bồ đề vì tất cả chúng sanh mà cầu lợi ích an lạc, với tất cả chúng sanh có đại từ bi, nên lúc vì chúng sanh mà hành đạo Bồ Tát có vô lượng vô biên vô số đại nguyện đại sự thậm thâm như vậy”.

Đức Phật nói kinh rồi, Huệ Mạng Phú Lâu Na và tứ chúng trong hội Trời, Người, Long, Thần, Bát Bộ đều rất vui mừng tin nhận lời Phật dạy.

XVIII.PHÁP HỘI HỘ QUỐC BỒ TÁT THỨ MƯỜI TÁM

 

     

Như vậy tôi nghe một lúc đức Bà Già Bà ở tại thành Vương Xá trong núi Kỳ Xà Quật, cùng câu hội với hai trăm năm mươi chúng đại Tỳ Kheo.

Năm ngàn Đại Bồ Tát, tất cả đều được biện tài vô ngại thành tựu đại trí nhẫn hàng phục ma oán gần Phật trí, bực nhất sanh bổ xứ đều được sức tổng trì vô biên biện tài vô sở uý thần thông tự tại, nhẫn đến đều đầy đủ tất cả công đức. Danh hiệu của các Ngài là: Phổ Hiền Bồ Tát, Phổ Minh Bồ Tát, Phổ Quang Bồ Tát, Viên Quang Bồ Tát, Thượng Ý Bồ Tát, Vô Biên Ý Bồ Tát, Quảng Ý Bồ Tát, Vô Tận Ý Bồ Tát, Trì Địa Bồ Tát, Trì Thế Bồ Tát, Ích Ý Bồ Tát, Trú Thủ Bồ Tát, Văn Thù Sư Lợi và sáu mươi bất tư nghì Bồ Tát, Hiền Hộ và mười sáu Bồ Tát. Năm ngàn đại Bồ Tát nầy đồng cầu hội.

Lại có chúa cõi Ta Bà Đại Phạm Thiên Vương và Thích Đế Hoàn Nhân cùng hộ thế Tứ Thiên Vương, Công Đức Thiên Tử, Chánh Ý Thiên Tử, tất cả Thiên Vương, tất cả Long Vương, tất cả Khẩn Na La Vương, tất cả Càn Thát Bà Vương, tất cả Dạ Xoa Vương, tất cả A Tu La Vương, tất cả Ca Lâu La Vương, các Vương ấy đều cùng trăm ngàn quyến thuộc đều đến hội họp.

Bấy giờ đức Thế Tôn ngồi tòa sư tử báu công đức tạng. Đức Phật ở giữa đại chúng thân sắc hiển hiện như núi Tu Di, chiếu khắp thế gian nhưThiên Vương, oai đức gồm nhiếp như Thiên Đế Thích, bảy phần Bồ Đề đều đầy đủ như Chuyển Luân Vương, tuyên nói pháp không vô tướng vô nguyện không e sợ như sư tử chúa, ánh sáng nơi thân chói rực như khối lửa lớn, lại phóng tia sáng như bửu châu ma ni vô thượng tối thắng cõi trời chiếu khắp Tam Thiên Đại Thiên thế giới, dùng phạm âm to lớn khiến các chúng sanh đều hoan hỉ, nơi tất cả pháp hiểu rõ thâm nghĩa, ở giữa đại chúng vì họ thuyết pháp trước giữa sau đều lành, nghĩa ấy vi diệu đầy đủ không tạp, phạm hạnh thanh tịnh.

Lúc ấy có đại Bồ Tát tên Hỉ Vương ngồi trong đại chúng thấy đức Như Lai ngồi tòa sư tử ở giữa đại chúng phóng ánh sáng to lớn như trăm ngàn mặt nhựt chiếu khắp tất cả khiến ánh sáng cõi người cõi trời bị che luốt chẳng hiện. Đại Bồ Tát Hỉ Vương thấy sự ấy rồi vui mừng hớn hở tràn đầy thân tâm chẳng tự xiết, Ngài liền đứng dậy chắp tay hướng Phật nói kệ tán thán:

“Thế Tôn che trùm đại chúng nầy

Thiên Long Tu La Càn Thát Bà

Bồ Tát Thanh Văn không oai đức

Chiếu khắp tất cả như núi vàng

Dường núi Tu Di cùng chư Thiên

Đứng giữa đại hải Phật cũng vậy

Thế Tôn đ ứng giữa biển từ bi

Phóng trăm ngàn thứ ánh sáng lớn

Trụ nơi phạm hạnh như Phạm Vương

Quang minh oai đức hơn chư Thiên

An trụ trong thiền định giải thoát

Chiếu sáng thế gian hơn chúng sanh

Dường Thiên Đế Thích tại chư Thiên

Thân sắc quang minh hơn tất cả

Phật hơn thế gian cũng như vậy

Các tướng trang nghiêm đủ công đức

Như Chuyển Luân Vương trị bốn cõi

Soi sáng thế gian lúc thuyết pháp

Khiến các chúng sanh vào thánh đạo

Thế Tôn hiển hiện tâm từ bi

Ánh sáng chiếu luốt lửa ma ni

Như mặt nhựt giữa hư không tạnh

Sánh ngàn mặt nhựt Phật vẫn hơn

Phật nhựt chiếu khắp các thế gian

Như lúc đêm trong trăng tròn sáng

Phật quang thanh tịnh cũng như vậy

Gương mặt tròn đầy như mặt nguyệt

Che mờ tất cả sáng Trời Người

Như khối lửa lớn trên đảnh núi

Thanh tịnh soi sáng vô biên cõi

Hay diệt tất cả tối vô minh

Thế Tôn trí huệ sáng chiếu khắp

Tiếng Phật đầy khắp trong sơn cốc

Hay phục ngoại đạo như sư tử

Tuyên nói vô ngã không vô nguyện

Khiến các ngoại đạo đều kinh sợ

Oai quang dường như ma ni vương

Sáng che tất cả ngọc ma ni

Thân thể Như Lai màu hoàng kim

Chiếu khắp thế gian hơn tất cả

Thế gian không ai ngang bằng Phật

Huống là có người hơn Phật được

Những phước trí tinh tiến phương tiện

Tất cả công đức không ai hơn

Đấng trượng phu cứu hộ thế gian

Nay tôi nhìn thấy biển công đức

Nay tôi hoan hỉ sanh tôn trọng

Thế nên đảnh lễ chưn Thế Tôn

Tôi đã ca ngợi đấng Điều Ngự

Đèn sáng thế gian công đức tròn

Nay tôi có bao nhiêu công đức

Khiến các chúng sanh chứng Chánh Giác”.

     

Hỉ Vương đại Bồ Tát nói kệ tán thán đức Phật xong, Ngài chắp tay chăm nhìn thân đức Phật mắt chẳng tạm rời, Ngài quan sát pháp giới thậm thâm khó hiểu khó làm khó vào, là pháp vi tế tịch tịnh khó biết chẳng thể nghĩ bàn chẳng thể suy lường, là cảnh giới chư Phật, trong nội tâm quan sát cùng khắp pháp giới, quan sát trí Như Lai cảnh giới của Thế Tôn không ai ngang bằng. Quan sát như thế rồi, Ngài nhập vào trong phương tiện hạnh Như Lai trí bất tư nghị cảnh, chư Phật Thế Tôn không hề nhiễm trước dường như hư không. Lúc Ngài quan sát như vậy, Ngài chứng nhập chân như pháp tánh, tất cả các pháp tánh đều như vậy, sanh đức tin như vậy, ưa thích pháp môn vô ngại giải thoát của chư Phật Như Lai, biết bốn đức thường lạc ngã tịnh, biết thân của Phật, suy gẫm thân Như Lai khắp tất cả cõi hiện ra trước chúng sanh, công đức của Phật dầu trong vô lượng kiếp nói cũng chẳng hết. Hỉ Vương đại Bồ Tát suy gẫm như vậy rồi ngồi yên lặng quan sát pháp giới.

Bấy giờ có một Huệ Mạng Tỳ Kheo Bồ Tát tên Hộ Quốc ở tại thành Xá Bà Đề vào hạ an cư quá ba tháng xong, cầm mang y bát cùng các sơ học Tỳ Kheo trẻ du hành các nước lần đến thành Vương Xá núi Kỳ Xà Quật, đến trước Đức Thế Tôn đảnh lễ chưn Phật hữu nhiễu ba vòng đứng qua một phía chắp tay hướng lên đức Phật mà nói kệ tán thán rằng:

“Kính lễ đấng Tối Thắng phóng quang

Kính lễ đấng tâm như hư không

Kính lễ hay quyết nghi cho người

Kính lễ đấng siêu việt tam giới

Trong vô số cõi nước mười phương

Nghe khen sự công đức của Phật

Nước ấy có bao nhiêu Bồ Tát

Đều đến hoan hỉ cúng dường Phật

Bồ Tát đúng pháp cúng dường rồi

Nhất tâm nghe pháp của Phật nói

Nghe pháp vui vẻ về bổn quốc

Tán thán các công đức Như Lai

Xưa Phật tu hành vì chúng sanh

Trải qua vô lượng vô biên kiếp

Lúc Phật vì người cầu Bồ Đề

Tâm Phật không hề có chán mỏi

Thế Tôn bố thí vững trì giới

Nhẫn nhục tinh tấn nhập thiền định

Trí huệ phương tiện đều đầy đủ

Do đó tôi lậy đấng Đại Thánh

Như Lai đầy đủ bốn như ý

Các căn các lực các giải thoát

Phật rõ tâm ý thức chúng sanh

Do đó tôi lậy biển đại trí

Phật biết ý niệm của chúng sanh

Thân khẩu họ tạo nghiệp thiện ác

Cũng rõ các giải thoát phương tiện

Đức Phật biết rồi thuyết pháp dạy

Tham sân si mê hoặc chúng sanh

Khiến họ sa vào ba ác đạo

Đức Phật biết rồi bảo dứt trừ

Khiến chúng sanh ấy sanh cõi lành

Quá khứ tất cả các Thế Tôn

Được Trời Người Ma Phạm cung kính

Đấng đầy đủ công đức vị lai

Thế Tôn đều biết rất rõ ràng

Chư Phật tịnh độ chỗ được sanh

Bồ Tát Thanh Văn và Duyên Giác

Trời Người quyến thuộc và chủng tánh

Thọ mạng dài ngắn Phật đều biết

Sau khi diệt độ chánh pháp trụ

Cúng dường Xá lợi xây tháp miếu

Người thọ pháp tạng bao nhiêu hạng

Điều Ngự Trượng Phu đều biết rõ

Mười trí lực Phật không chướng ngại

Hay thấu rõ suốt việc tam thế

Vào trong tất cả chư pháp trí

Do đó tôi lậy biển đại trí

Không ai ngang bằng huống hơn Phật

Các tướng trang nghiêm thân Như Lai

Ví như tinh tú tại hư không

Do đó tôi lạy đấng Tối Thắng

Thân Phật diệu sắc không sánh bằng

Chói che ánh sáng cả đại hội

Oai đức Thích Phạm ở bên Phật

Tất cả che mất đầu chẳng hiện

Thân như núi vàng không bụi dơ

Tóc biếc mịn mềm xoắn phía hữu

Đỉnh Phật lộ rõ như Tu Di

Khối quang minh vô lượng công đức

Lông trắng giữa mày phóng sáng lớn

Vô lượng vô biên và vô số

Mắt Phật rộng dài như sen xanh

Nhìn chúng sanh với từ bi lớn

Như vầng trăng thu tròn giữa trời

Diện bộ của Phật cũng như vậy

Chúng sanh nhìn ngắm không chán đủ

Do đó tôi lạy vua mặt đẹp

Dường như sư tử công ngỗng chúa

Bước chậm đi an như tượng vương

Đi đứng chấn động cả trời đất

Kính lạy Thập Lực rất khổ hạnh

Ngón tay tròn vót ai cũng yêu

Màn da màu san hô đồng đỏ

Cánh tay thẳng dài thòng quá gối

Đảnh lễ Như Lai thân vàng chói

Luân tướng dưới chưn màn lưới đủ

Lúc đi dấu chưn như tranh vẽ

Nếu người đảnh lễ đức Thế Tôn

Phật quang chiếu sáng được sanh thiên

Pháp Vương có đủ bảy Thánh tài

Thường dùng pháp thí điều phục tâm

Đem pháp hành dạy bảo chúng sanh

Nay tôi đảnh lễ đấng Pháp Vương

Từ bi làm giáp niệm làm sức

Cung cứng trì giới tên trí huệ

Dùng đây phá được giặc phiền não

Phá ái sanh tử thêm giống Phật

Tự độ cũng độ ức chúng sanh

Giải thoát tất cả các chói buộc

Chỉ rõ con đường an vô úy

Khiến họ đến đường thường an lạc

Hành nơi thừa này dứt sanh tử

Không có ân ái khổ biệt ly

Được đến chỗ vi vi diệu

Từ tâm thuyết pháp vì chúng sanh

Ca tụng Thế Tôn tối thắng rồi

Đấng tự tại trong tất cả pháp

Dùng đây khen ngợi thắng thiện căn

Khiến các chúng sanh chứng Bồ đề”.

 

     

Hộ Quốc Bồ Tát nói kệ khen ngợi đức Phật rồi chắp tay bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Lòng tôi có điều nghi muốn thỉnh hỏi xin đức Như Lai hứa cho”.

Đức Phật bảo Ngài Hộ Quốc Bồ Tát Tỳ Kheo: “Cho phép ông hỏi, Như Lai sẽ làm cho ông hết nghi và được vui mừng”.

Hộ Quốc Bồ Tát bạch rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Đại Bồ Tát tu hạnh gì mà ở nơi tất cả pháp thêm lớn công đức đến chỗ cứu cánh được tự tại chứng trí nhanh chóng được trí quyết định, rành rẽ tất cả pháp vào Nhất thiết trí, giáo hoá chúng sanh hay trừ lưới nghi, hiểu Nhất thiết dùng xảo phương tiện tế độ chúng sanh, thật hành đúng như lời thường tuyên chân thiệt, được niệm Phật tam muội khéo thỉnh hỏi tất cả nghĩa sâu xa, nghe rồi có thể thọ trì mau lẹ được nhất thiết chủng trí?”.

Hộ Quốc Bồ Tát muốn tuyên lại nghĩa ấy mà nói kệ rằng: 

“Bồ Tát tu hành thường quyết định

Chân thiệt quyết định từ đâu sanh

Chỗ biển lớn trí huệ phân biệt

Xin đức Thế Tôn chỉ bảo cho

Thân Phật vi diệu như vàng ròng

Khối phước lớn hơn Trời và Người

Thương xót chúng tôi đại quy y

Công hạnh thanh tịnh chỉ bảo cho

Thế nào mà được lợi vô tận

Sanh giác đạo tổng trì cam lồ

Thế nào là biển trí thanh tịnh

Hay dứt nghi hoặc cho chúng sanh

Ở sanh tử vô lượng ức kiếp

Mà không lòng mỏi nhọc hối chán

Thấy các chúng sanh bị khổ bức

Thường làm lợi ích cho chúng sanh

Quốc độ thanh tịnh Phật quyến thuộc

Quốc độ tối thắng và thọ mạng

Tất cả những sự chỗ vi diệu

Xin nói hạnh Bồ đề thanh tịnh

Hàng phục các ma phá tà kiến

Khô cạn biển ái được giải thoát

Pháp hành tương tục không đoạn tuyệt

Đấng tối vô thượng chỉ bảo cho

Sắc lực tài bửu tứ biện tài

Lời dịu thương mến khiến người vui

Cơn mưa từ bi nhuần tất cả

Chư Phật cảnh giới chỉ bảo cho

Xin phát tiếng ca lăng tần già

Tiếng sấm đại phạm phá tà kiến

Chúng hội khát ngưỡng và pháp đến

Xin ban nước cam lồ giải thoát

Nay tôi muốn thành đạo vi diệu

Vì ưa thích pháp mà thưa thỉnh

Giờ nghe pháp đến cung kính chờ

Xin Phật dạy cho pháp bửu lớn

Bạch Phật! Tôi muốn thành Bồ đề

Như Lai biết rõ chí nguyện tôi

Thiết tha cầu pháp nên hỏi Phật

Lành thay xin nói hạnh tối thắng”.

     

Đức Phật phán: “Lành thay, nầy Hộ Quốc! Nay ông có thể hỏi Như Lai thâm nghĩa như vậy đem lợi ích an lạc cho nhiều người, cũng rất lợi ích cho đời sau, những người tu Đại thừa. Ông lắng nghe, Phật sẽ chỉ dạy”.

Hộ Quốc Bồ Tát bạch rằng: “Lành thay, bạch đức Thế Tôn! Xin chỉ dạy cho”.

Phật dạy: “Nầy Hộ Quốc! Bồ Tát có bốn pháp hay hoàn thành những sự thanh tịnh như trên: Một là tâm chân thiệt không siểm khúc. Hai là thật hạnh bình đẳng đối với các chúng sanh. Ba là tâm niệm nhập vào không. Bốn là thật hành như lời. Hộ Quốc nên biết bốn thứ ấy có thể được pháp thanh tịnh của Bồ Tát”.

Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa ấy mà nói kệ rằng:

“Nếu có Bồ Tát lòng không vây

Mà thường chẳng lui đạo Bồ đề

Cũng không ý ngang trái cống cao

Đây gọi là trí huệ vô biên

Thấy các chúng sanh không được cứu

Bị sanh già bịnh chết bức ngặt

Phát tâm muốn qua biển sanh tử

Hay làm pháp thuyền cho tất cả

Bình đẳng điều phục các chúng sanh

Xem các chúng sanh như con một

Đều muốn cứu độ cho giải thoát

Đấng thắng trượng phu phát tâm này

Đi đứng ngồi nằm niệm pháp không

Thọ giả ngã tưởng đều không cả

Thế gian tất cả đều như ảo

Chúng sanh ngu si bị mê hoặc

Đại trí Bồ Tát nói lời ra

Y lời thật hành không sai thất

Điều phục tịch tịnh rời các lỗi

Hay cầu Bồ đề gọi Phật tử”.

     

Nói kệ xong đức Phật bảo Hộ Quốc Bồ Tát: “Này Thiện Nam Tử! Đại Bồ Tát lại có bốn thứ pháp vô úy: Một là được đà la ni. Hai là gặp thiện tri thức. Ba là được thâm pháp nhẫn. Bốn là giới hạnh thanh tịnh”.

     

Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa ấy mà nói kệ rằng:

Bồ Tát danh tiếng lớn

Do vì được tổng trì

Thọ trì pháp tối diệu

Của chư Phật tuyên nói

Hằng thường chẳng quên mất

Thêm lớn nơi trí huệ

Trí Bồ Tát vô ngại

Vượt hơn tất cả pháp

Thường gặp thiện tri thức

Thêm các pháp trợ đạo

Thường nói đại Bồ đề

Chỗ đi của chư Phật

Ác tri thức như lửa

Sợ cháy nên xa lìa

Nếu nghe pháp không tướng

Dũng mãnh vững tâm mình

Bồ Tát rời ngã nhân

Tất cả các kiến chấp

Trì giới không khuyết lậu

Tâm họ đều tịch tịnh

Giáo hóa các chúng sanh

An trụ nơi Phật giới”.

 

     

Nói kệ xong, đức Phật bảo Hộ Quốc Bồ Tát: “Này Thiện Nam Tử! Chư Bồ Tát các công hạnh viên mãn đến chỗ cứu cánh có bốn công đức làm cho hoan hỉ: Một là Bồ Tát thấy Phật nên sanh hoan hỉ. Hai là nghe chánh pháp nên sanh hoan hỉ. Ba là xả bỏ tất cả nên sanh hoan hỉ. Bốn là thuận pháp nhẫn nên sanh hoan hỉ “.

Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa ấy mà nói kệ rằng: 

“Bồ Tát sanh chỗ nào

Thường thấy đấng tối thắng

Oai quang khắp tất cả

Soi sáng khắp thế gian

Thấy rồi lòng tín ngưỡng

Như Trời thờ Đế Thích

Vì độ các chúng sanh

Lúc cầu đạo Bồ đề

Theo Phật nghe chánh pháp

Chẳng sợ mà hoan hỉ

Nhất tâm kính tin rồi

Tùy thuận lời Phật dạy

Nghe nơi pháp tùy thuận

Đắc nhẫn lòng không nghi

Các pháp không chúng sanh

Ngã tưởng cũng không có

Thường quán như vậy rồi

Xả bỏ tướng sanh vui

Đã chẳng chấp ngã tướng

Thấy người xin liền mừng

Thành ấp cùng ruộng đất

Vợ con và thân mạng

Đem bố thí tất cả

Lòng không hề hối tiếc”.

Đức Phật nói kệ rồi bảo Hộ Quốc Bồ Tát: “Này Thiện Nam Tử! Có bốn

pháp phải vứt bỏ:

“Một là Bồ Tát vứt bỏ nhà thế tục.

Hai là đã xuất gia rồi chẳng tham lợi dưỡng

Ba là rời lìa thân cận đàn việt.

Bốn là chẳng tiếc thân mạng”.

 Đức Thế Tôn lại nói kệ rằng:

“Bồ Tát thấy lỗi nhà

Nên bỏ mà xuất gia

Đến ở nơi núi rừng

Chỗ tịch tịnh không người

Xa rời nam và nữ

Xa quyến thuộc đại chúng

Riêng mình không bạn bè

Như tê giác một sừng

Chuyên tâm cầu tịnh đạo

Được mất lòng không lo

Thiểu dục và tri túc

Ly siểm trừ kiêu mạn

Tinh tấn vì chúng sanh

Bố thí điều phục tâm

Khổ hạnh tu thiền định

Nhất tâm cầu Phật trí

Chẳng tiếc thân và mạng

Xa lìa ái quyến thuộc

Vững tâm cầu Bồ đề

Ý chí như kim cương

Nếu có người chém chặt

Không có lòng giận thù

Tâm dũng mãnh thêm lớn

Cầu được nhất thiết trí”.

     

Nói kệ xong, đức Phật bảo Hộ Quốc Bồ Tát: “Này Thiện Nam Tử! Bồ Tát có bốn pháp không hối tiếc: Một là chẳng phá hoại cấm giới, hai là ở a lan nhã, ba là thật hành bốn thánh củng, bốn là đa văn, đây là bốn thứ pháp không hối tiếc. 

     

Đức Thế Tôn lại nói kệ rằng:

“Trì giới tịnh vô cấu

Dường như châu ma ni

Chẳng sanh lòng cống cao

Khoe tôi hay trì giới

Lại đem chánh giới ấy

Dạy lại cho nhiều người

Thường hoài vọng như vậy

Thành tựu nơi Phật giới

Bồ Tát ở rảnh vắng

Nơi lan nhã thanh tịnh

Cũng chẳng nghĩ tưởng ngã

Tưởng thọ giả cũng không

Quan sát nam nữ sắc

Dường như những cỏ cây

Chẳng sanh tưởng nam nữ

Tưởng ngô ngã cũng không

An trụ bốn thánh chủng

Không giải đãi siểm khúc

Chí tâm hằng tu hành

Xa lìa những phóng dật

Cầu công đức đa văn

Thường tinh cần tu tập

Nguyện thành Nhất thiết trí

Chỗ công đức tối thượng

Chúng sanh ở lao ngục

Không được ai cứu hộ

Luân chuyển sanh tử mãi

Cầu tài tự cung cấp

Tôi sẽ cầu pháp thuyền

Vớt họ khỏi sanh tử

Biển phiền não khổ lụy

Đưa họ đến bờ kia

Chúng sanh không quy y

Cũng không người cứu hộ

Chúng sanh tại hữu vi

Không ai đưa họ ra

Tôi sẽ làm Đạo Sư

Cứu họ được giải thoát

Thế nên tôi phát tâm

Cầu chứng đạo Bồ đề”.

     

Nói kệ xong, đức Phật bảo Hộ Quốc Bồ Tát: “Này Thiện Nam Tử! Bồ Tát có bốn hạnh điều phục phải thật hành: Một là nguyện sanh xứ lành thường gặp chư Phật. Hai là cúng dường Sư Trưởng mà chẳng cầu báo. Ba là thường thích rảnh vắng vứt bỏ lợi dưỡng. Bốn là được biện tài vô ngại đầu đà nhẫn pháp.

     

Đức Thế Tôn lại nói kệ rằng:

“Bồ Tát dũng mãnh thích núi rừng

Thường chẳng theo người cầu lợi dưỡng

Hằng được trí sâu vô ngại biện

Giỏi hay thông đạt các pháp tướng

Thường phải cúng dường các Sư Trưởng

Tùy thuận lời Thầy không chống trái

Tùy chỗ sanh ra gặp chư Phật

Cúng dường cung kính cầu Bồ đề

Thường sanh xứ tốt danh tiếng cao

Ở trời là tôn quí trong trời

Lại được thành tựu đạo Bồ đề

Dạy các chúng sanh hành thập thiện

Niệm Phật công đức thường hoan hỉ

Tôi cũng chẳng lâu thành Phật đạo

Đã thành Chánh giác đủ công đức

Cứu độ chúng sanh khỏi sanh tử”.

Nói kệ xong, đức Phật bảo Hộ Quốc Bồ Tát: “Này Thiện Nam Tử! Bồ Tát có bốn pháp thanh tịnh hạnh Bồ đề: Một là lúc hành Bồ đề không có tâm sân hận. Hai là vứt bỏ quyến thuộc cung điện tài bửu thích ở núi rừng cũng chẳng khoe nói công đức của mình. Ba là dầu bố thí mà chẳng cầu quả báo. Bốn là tinh cần thích pháp chẳng thấy lỗi của thầy”.

 

     

Đức Thế Tôn lại nói kệ rằng:

“Bồ Tát tâm tịnh không oán hận

Cũng chẳng tìm tội lỗi của người

Mình chẳng siểm khúc không nhiễm trước

Hành đạo Đại thừa cầu Bồ đề

Thấy rõ ở nhà là gốc khổ

Gần kề ác hữu không chánh niệm

Do đó vứt bỏ đi xuất gia

Ở nơi núi rừng cầu giải thoát

Thường ở rảnh vắng tịch tịnh vui

Dứt hẳn ái niệm nơi quyến thuộc

Chẳng tiếc thân thể và mạng sống

Riêng đi không sợ như sư tử

Khất thực nuôi thân thường biết đủ

Như loài chim bay không chứa cất

Chẳng thích sanh trời và nhân gian

Chỉ cầu đạo Bồ đề Vô thượng

Riêng đi không bạn chỉ một mình

Hằng chẳng sợ sệt như sư tử

Sợ các phiền não như thú dữ

Nếu được lợi dưỡng lòng chẳng mừng

Thấy các chúng sanh luôn phóng dật

Từ bi thệ nguyện phá lỗi ấy

Vì tôi cứu hộ các chúng sanh

Nên thường hăng say siêng tinh tấn

Phàm có phát ngôn luôn thương mến

Với kẻ ghét thương luôn cười mỉm

Chẳng dính tất cả như gió thoảng

Chỉ nên cầu nơi hạnh trượng phu

Thường ưa tu tập không vô tướng

Xem pháp hữu vi như ảo hóa

Điều phục các căn ý lớn rộng

Đi đứng luôn ưa pháp cam lộ

Thường y Phật giáo hành đại đạo

Hằng thường thanh tịnh nơi nội tâm

Cầu đà la ni và biện tài

Mang gánh các khổ cầu Bồ đề

Bồ Tát thường quán công hạnh ấy

Hiện tiền lợi ích sanh hoan hỉ

Nếu chẳng ưa thích đạo Bồ đề

Người này không ác gì chẳng tạo”.

     

Nói kệ xong, đức Phật bảo Hộ Quốc Bồ Tát: “Bồ Tát có bốn thứ pháp đọa lạc: Một là chẳng cung kính người khác. Hai là bội ơn siểm khúc. Ba là nhiều cầu lợi dưỡng danh vọng. Bốn là trá hiện hành tốt khoe mình giỏi”.

     

Đức Thế Tôn lại nói kệ rằng: 

“Đối với cha mẹ và Sư Trưởng

Họ thường kiêu mạn không cung kính

Trái quên ân dưỡng lòng siểm khúc

Các căn tán loạn nhiều ngu si

Luôn nhớ lợi dưỡng chẳng thôi ngớt

Siểm khúc trá hiện tướng tinh tấn

Tự nói trì giới và khổ hạnh

Không ai có được như mình cả

Ác khẩu lời thô ưa tranh đấu

Thường tìm lỗi người chẳng thôi dứt

Họ luôn xa rời hạnh Sa Môn

Làm ruộng canh tác và buôn bán

Chư Tỳ Kheo trong đời vị lai

Vứt bỏ công đức và giới hạnh

Vì lòng tật đố và đấu tranh

Làm tổn hư mất chánh pháp Phật

Họ cách Bồ đề rất xa vời

Họ cũng xa rời bảy thánh tài

Chống trái tám đường chánh giải thoát

Trôi lăn năm loài trong sanh tử”.

     

Nói kệ xong, đức Phật bảo Hộ Quốc Bồ Tát: “Này Thiện Nam Tử! Có bốn thứ pháp chướng đạo: Đó là bất tín, giải đãi, ngã mạn và sân hận”.

 

     

Đức Thế Tôn lại nói kệ rằng: 

“Bất tín giải đãi lòng ám độn

Lòng thường ngã mạn và sân hận

Thấy chư Tỳ Kheo hành nhẫn nhục

Đuổi xua ra khỏi các chùa tháp

Nếu được lợi dưỡng lòng hoan hỉ

Đều nói ta là người thường trụ

Luôn tìm mọi cách vạch lỗi người

Người nào có tội tôi trị phạt

Những người như vậy xa chánh pháp

Ganh ghét công đức đọa tam đồ

Chán ghét pháp diệu của chư Phật

Người này sẽ vào trong lửa lớn

Người này gây ác chẳng thôi dứt

Quyết sẽ chịu đủ khổ trong khổ

Thế nên Bồ Tát cầu Bồ đề

Chớ để phải hối đọa ác đạo

Vô lượng ức kiếp Phật mới hiện

Để làm lợi ích cho chúng sanh

Bồ Tát đã được thân cõi lành

Phải bỏ phóng dật cầu giải thoát”.

Nói kệ xong, đức Phật bảo Hộ Quốc Bồ Tát: “Này Thiện Nam Tử! Phải bỏ bốn hạng người chẳng được gần kề họ: Một là chẳng được gần kề ác tri thức. Hai là chẳng được gần kề người chấp kiến. Ba là chẳng được gần kề kẻ báng pháp. Bốn là chẳng được gần kề người tham lợi dưỡng”.

     

Đức Thế Tôn lại nói kệ rằng: 

“Hay xa ác tri thức

Gần kề thiện tri thức

Đạo Bồ đề tăng trưởng

Như trăng lần tròn đầy

Xa lìa kẻ chấp kiến

Chấp ngã chấp thọ giả

Bỏ đi như độc

Để cầu nên Phật đạo

Chê bai Phật chánh pháp

Vị cam lồ tịch tịnh

Nếu muốn cầu Bồ đề

Phải tránh như phẩn dơ

Xa lìa tham lợi dưỡng

Cũng bỏ người ác hạnh

Hạng ấy chẳng nên gần

Như tránh hố lửa lớn

Nếu muốn hành phục ma

Chuyển pháp luân vô thượng

Muốn cầu lợi đệ nhất

Mau xa ác tri thức

Bỏ ái và ghét xấu

Lợi danh cũng xa tránh

Muốn cầu đạo vô thượng

Thường tu trí của Phật”.

     

Đức Thế Tôn nói kệ xong, lại bảo Hộ Quốc Bồ Tát có bốn thứ pháp thọ khổ đời sau: Một là khinh mạng người có trí. Hai là thường ôm lòng tật đố. Ba là ở nơi tất cả pháp không có lòng tin. Bốn là ở nơi pháp tịnh trí thường nghi không nhẫn thọ mà cầu lợi dưỡng”.

     

Đức Thế Tôn nói kệ rằng: 

“Người hầu gần Phật bực có trí

Tất cả Trời Người phải cúng dường

Mà lại cống cao lòng kiêu mạn

Do đó sẽ thọ vô biên khổ

Với pháp tịnh trí không tin nhận

Lợi dưỡng được cầu đều phi pháp

Thường hoài kiêu mạn và cống cao

Thấy người có trí không cung kính

Ở trong Phật pháp không tin hiểu

Với chúng hiền thánh cũng chẳng tin

Người này thường đi trong ác đạo

Sanh làm thân người nhiều ngu si

Họ bỏ thọ mạng nhân gian rồi

Ở đại địa ngục chịu khổ lớn

Nơi đây kiếp tận sanh phương khác

Súc sanh ngạ quỉ cũng như vậy

Nếu người muốn cầu được làm Phật

Thành thắng trượng phu hết các khổ

Thường phải xa rời nghiệp tam đồ

Tu các công đức thành Chánh giác”.

 

     

Nói kệ xong, đức Phật lại bảo Hộ Quốc Bồ Tát: “Có bốn thứ trói buộc Bồ Tát: Một là khinh mạn người khác.

Hai là nơi thiền định thế tục có lòng ưa thích chẳng cầu cứu cánh. Ba là chẳng gìn giữ tâm mình, trí huệ chưa thành mà phóng dật. Bốn là vì cầu lợi dưỡng mà vào nhà người khác. Trên đây là bốn thứ trói buộc Bồ Tát.

Đức Thế Tôn lại nói kệ rằng: 

“Luôn luôn khinh mạn người

Ưa thích thế gian thiện

Tham trước các kiến phược

Như voi lún bùn sâu

Ưa vào nhà bạch y

Thường có lòng phóng dật

Tối ngu không trí huệ

Hạnh ấy tên trói buộc

Muốn dứt khổ sanh tử

Xa rời hẳn tam giới

Phải bỏ lòng kiêu mạn

Thường hành đạo Bồ Tát

Chịu lấy vô biên khổ

Vứt bỏ các sự vui

Cũng rời lìa thương ghét

Thành Phật không nhiễm trước

Bồ Tát phải thường tu lục độ

Các địa các trí các lục thảy

Tất cảc công đức nếu thành tựu

Thì được thoát khỏi lưới sanh tử

Phật ở vô lượng kiếp xa xưa

Vì các chúng sanh cầu Bồ đề

Thường hành bố thí để điều phục

Bỏ lìa ân ái tu chánh đạo

Hằng chẳng xa rời chỗ vắng vẻ

Khổ hạnh ốm gầy cầu Bồ đề

Phấn khởi tinh tấn không lười biếng

Cầu được trí trượng phu tối thắng

Thấy các chúng sanh tại tam giới

Luân chuyển năm loài chịu sanh tử

Thương xót tất cả khởi đại bi

Do đó mà cầu Bồ đề đạo

Bỏ lìa con cưng và thê thiếp

Cũng bỏ của cải bảy báu thảy

Thọ mạng quốc độ và đại địa

Để cầu Bồ đề Phật trí huệ

Thuở xưa Phật ở núi rừng tốt

Làm tiên tu hành tên Nhẫn nhục

Bị vua Ca lợi xẻo tai mũi

Máu biến làm sữa không lòng hờn

Thuở xưa từng làm con hiếu thảo

Yêu mến cúng dường cha và mẹ

Bị tên độc kẻ ác bắn trúng

Bấy giờ cũng không lòng oán giận

Chẳng tiếc mạng sống nhảy gộp cao

Để cầu lời lành chư Phật dạy

Bấy giờ cũng không thấy thân mạng

Chỉ để thành đại sự Bồ đề

Thuở xưa thương xót các thú đói

Thí thịt thân mình cho tám cọp

Bấy giờ chư Thiên ở hư không

Khen rằng lành thay đại trượng phu

Thuở xưa ưa làm đại thí chủ

Từng làm tịnh hạnh Bà La Môn

Vì thương chúng sanh khổ đói nghèo

Vào biển cầu tìm châu như ý

Rồi bị thần biển cướp lấy mất

Bấy giờ ta cố tát biển cả

Liền được bửu châu về Diêm Phù

Dùng cứu giúp chúng sanh nghèo thiếu

Cũng từng làm vua tên Tô Ma

Cho đến mất mạng chẳng nói dối

Các vua do ta được giải thoát

Tiếng tăm vang dội khắp mười phương

Xưa ta từng thấy người nghèo cùng

Ta đang làm vua đem thân thí

Khiến họ giàu to nhiều của báu

Nên ta được hiệu thí tất cả

Xưa ta từng làm vua Thi Tỳ

Chim câu kinh sợ đáp lòng ta

Ta đem thân mình thay mạng chim

Cho chim thoát khỏi sự khủng bố

Xưa ta làm vua tên Sư Tử

Thân mạng bịnh nặng thầy cho thuốc

Có người bịnh đến xin thuốc ấy

Ta chẳng tiếc thân cho họ trước

Xưa ta tu hành vì chúng sanh

Làm Vương Tử tên Tô Đạt Noa

Có người đến xin con và vợ

Ta chẳng hề tiếc đều cho cả

Từng làm Bồ Tát tên Nghiêm Xí

Vì cảm hóa tài đức Quốc Vương

Trải qua tám vạn bốn ngàn năm

Cố gắng tinh tấn mới cảm hóa

Cũng làm Vương Tử tên Tịnh Oai

Tự đốt thân mình cúng tháp Phật

Cung kính cúng dường đấng Thập Lực

Vô Thượng Tối Thắng Lưỡng Túc Tôn

Từng làm Quốc Vương tên Nguyệt Quang

Có người phạm chí tên Khả Úy

Theo ta cầu xin trọn cái đầu

Ta liền mau mắn đem đầu thí

Lại làm Quốc Vương tên Phước Đức

Ở trong các tụ lạc phố phường

Chứa đầy thuốc men và thực phẩm

Để ban cho tất cả chúng sanh

Từng làm Quốc Vương tên Nhựt tịnh

Kỹ nữ xinh đẹp đủ ngàn người

Chuỗi ngọc bảy báu trang nghiêm đầu

Hoa hương đẹp thơm dùng nghiêm sức

Cũng đem bố thí cho mọi người

Lại làm Quốc Vương tên Tri Túc

Tay

chưn dịu mềm như bông tơ

Sắc đẹp sạch trong như hoa sen

Cũng đem bố thí các chúng sanh

Lại làm thương chủ tên Tịnh Nhãn

Đem năm trăm người tìm bảy báu

Các quỉ La Sát hiện mỹ nữ

Thương chủ cứu thoát cả đoàn người

Từng làm Vương Tử tên Phước Diệm

Thê thiếp kỹ nữ đến số ức

Thân hình xinh đẹp như thiên nữ

Rời bỏ xuất gia không ái luyến

Lài làm thương chủ tên Kim Sắc

Lúc ấy có Phật hiệu Vô Cấu

Kim Sắc đối Phật đốt mười ngón

Cúng dường Tối Thắng Lưỡng Túc Tôn

Lại làm Quốc Vương hiệu Hoa Nhãn

Mọi người chiêm ngưỡng lòng không nhàm

Đem đôi mắt đẹp để bố thí

Vì lòng vua thương chúng sanh vậy

Lại làm Bồ Tát tên Đa Phát

Thấy có phụ nhân vừa mất chồng

Ngày đêm nhớ thương mãi không nguôi

Triền miên lõa lồ tâm điên cuồng

Bồ Tát Đa Phát lòng xót thương

Hóa hình chồng chết bảo vợ cuồng

Lần lần giáo hóa vợ cuồng kia

Khiến hết cuồng điên tâm tỉnh ngộ

Lại làm Bồ Tát tên Phổ Chiêm

Thấy một người bịnh gầy đau khổ

Bấy giờ Phổ Chiêm sanh từ bi

Đem huyết nhục mình thí người bịnh

Lại làm Quốc Vương tên Hoa Phu

Thấy có một người bịnh khốn ngặt

Hoa Phu Bồ Tát sanh từ tâm

Chẻ xương tủy mình chữa bịnh ấy

Lại làm Quốc Vương tên Thành Lợi

Thấy có một người quá nghèo cùng

Đem hết của cải thí cho họ

Lại bỏ thân mạng không luyến tiếc

Ta làm Quốc Vương tên Tín Tràng

Hai tay nhu nhuyến đủ luân tướng

Có người đến xin hai tay ấy

Vì cầu Bồ đề ta liền cho

Lại làm Quốc Vương tên Phổ Hiện

Có bốn thiên hạ nhiều của báu

Nước nhà giàu vui dân chúng đông

Vì cầu Bồ đề đem bố thí

Lại làm Vương nữ tên Trí Ý

Thân thể trắng sạch rất nhu nhuyến

Từ bi hoan hỉ cắt thịt đùi

Và thí máu huyết lòng chẳng tiếc

Lại làm nữ nhân tên Ngân Sắc

Trong thành Kim Sắc có phụ nữ

Mới đẻ đói khát muốn ăn con

Ngân Sắc thẻo vú cho người đói

Lại làm Quốc Vương tên Văn Đức

Rất giàu tiền của nhiều anh lạc

Vàng bạc bảy báu các xe cộ

Người đời khó bỏ vua đều thí

Lại làm Vương Tử tên Tri Ân

Có người té biển tên Vô Ân

Vô Ân vì báu đâm mắt ta

Bấy giờ lòng ta chẳng oán hận

Lại nhớ quá khứ làm lính chiến

Ở trong đại trận không lòng giết

Thà thân mình chết chẳng hại người

Nhẫn đến kiến muỗi không tưởng giết

Lại nhớ quá khứ làm chim trĩ

Cung kính cúng dường bực tôn trưởng

Đồng loại già trẻ đều cấp cho

Bấy giờ đều không lòng ngạo mạn

Lại nhớ quá khứ làm vượn khỉ

Ở núi gặp phải người thợ săn

Cả bầy khỉ vượn về nương ta

Vì thương mạng chúng ta liền cứu

Lại nhớ quá khứ làm tượng vương

Bị Quốc Vương kia bắt trói cột

Ta nhớ cha mẹ mù đôi mắt

Thà chịu đói chết nhịn không ăn

Lại nhớ quá khứ làm thân gấu

Có người lạc đường ta cứu nuôi

Họ dẫn thợ săn phản hại ta

Dầu bị phản hại ta không giận

Lại nhớ quá khứ làm tượng vương

Bị trúng mũi tên của thợ săn

Ta cầu Bồ đề các công đức

Đem ngà dâng cho thợ săn ấy

Lại nhớ quá khứ làm chim trĩ

Ở tại đồng quê cạnh khu rừng

Rừng ấy bị lửa cháy lan đến

Ta cứu lửa rừng trời mưa hoa

Xưa ta từng làm nai chín màu

Ăn cỏ uống nước bên bờ sông

Nước sông sâu rộng dòng chảy gấp

Có người té sông ta cứu họ

Người ấy ham tiền lãnh lịnh vua

Đem nhiều binh lính đến hại ta

Ta cầu Bồ đề làm từ bi

Đối với người ấy không oán giận

Lại nhớ quá khứ làm rùa lớn

Tế độ người buôn qua khỏi biển

Năm trăm người buôn ăn thịt ta

Lòng ta từ bi không giận họ

Ta nhớ quá khứ hành Bồ đề

Từng làm thân cá lội trong nước

Thương xót tất cả nên xả thân

Trăm ngàn chúng sanh ăn thịt ta

Ta thấy trăm ngàn chúng sanh bịnh

Hóa thân làm thuốc lớn như núi

Muốn cho chúng sanh trừ bịn khổ

Biến làm thân trùng tên là Nguyệt

Lại nhớ xưa làm sư tử vương

Thân lớn sức mạnh mà lòng thương

Lại nhớ quá khứ làm mã vương

Thân sắc trắng sạch như ngọc tuyết

Thường tại biển lớn đảnh núi cao

Cứu các lữ hành nạn La Sát

Lại nhớ quá khứ cầu Bồ đề

Từng làm Quốc Vương tên Cư Gia

Thấy các dục lạc nhiều lỗi họa

Chẳng theo dâm nữ bị lời gian

Lại nhớ quá khứ từng làm thỏ

Thường dạy bày thỏ các việc lành

Cùng tiên ở chung đồng tu niệm

Xả thân tự thiêu cứu tiên đói

Lại nhớ quá khứ làm anh võ

Thường ở cụm rừng nhiều hoa quả

Báo ơn cây khô chẳng rời bỏ

Vua trời biến cây khô sanh trái

Lại nhớ từng làm vua loài khỉ

Thấy bầy khỉ vượn bị rồng hại

Bèn dạy bầy khỉ uống ống tre

Khỉ vượn đều khỏi nạn rồng hại

Ta lại nhớ xưa làm anh võ

Lấy thóc của người nuôi cha mẹ

Chủ lúa bắt ta giận quở rằng

Sao dám trộm lấy lúa nhà người

Ta thưa lúc người gieo trồng lúa

Hứa rằng cho các chúng sanh ăn

Nay tôi lấy về nuôi cha mẹ

Chẳng thể bảo là trộm cắp được

Chủ lúa tức thì lòng hoan hỉ

Tôi là cầm thú chim là người

Lành thay anh võ có trí huệ

Biết hiếu cha mẹ biết cúng dường

Từ nay về sau tôi thí lúa

Cho chim đem về dâng cha mẹ

Quá khứ như vậy vô lượng sự

Không khổ hạnh nào mà chẳng làm

Chưa hề sanh lòng nhàm chánh mỏi

Để cầu vô thưọng thanh tịnh đạo

Bao nhiêu vật trong và vật ngoài

Không có một thứ chẳng phát khởi

Trì giới nhẫn nhục tinh tấn thiền

Vô lượng phương tiện và trí huệ

Da thịt xương tủy và máu huyết

Đem thí tất cả cho chúng sanh

Thuở xưa ta ở trong núi rừng

Dũng mãnh tinh tấn thân khô kiệt

Để tìm Phật dạy Đại Tiểu thừa

Truyền dạy chúng sanh khiến nhập đạo

Thường thích ở tại chỗ đầu đà

Luôn luôn tu hành không vứt bỏ

Tất cả khổ hạnh khó như vậy

Từ thuở xa xưa ta đều làm

Phật nói vị lai các chúng sanh

Nghe ta thuật lại lòng khinh cười

Chẳng tin nhận làm một câu kệ

Trở lại hủy báng pháp như vậy

Vì họ tham ưa ăn mặc thảy

Lòng luôn suy tưởng ngủ nghỉ nhiều

Siểm khúc hủy pháp không tàm quí

Phá hoại chánh pháp không công đức

Nghe pháp vi diệu tịch tịnh này

Cho rằng chẳng phải của Phật dạy

Thầy ta đa văn dường biển cả

Giảng giỏi nói hay tối đệ nhất

Họ cũng chẳng hành pháp như vậy

Các ông chớ cầu sự hư vọng

Trong ấy không ngã không thọ mạng

Cũng chẳng nói có tướng chúng sanh

Luống tự nhọc nhằn không phước đức

Uổng công tu hành các khổ hạnh

Đã nói có pháp tên Đại thừa

Sao lại còn nói không vô ngã

Bởi không chúng sanh không tác giả

Thế nên nơi pháp chẳng cần cầu

Các văn cú ấy giả làm ra

Cũng như ngoại đạo tà ý thuyết

Như Lai chẳng nói sự như vậy

Quở trách mắng nhục chư Tỳ Kheo

Bọn ấy bất thiện không tu sĩ

Gian ngụy khi dối đủ sự ác

Đời sau ở trong pháp của Phật

Mà làm hình tướng các Tỳ Kheo

Trong lòng tật đố đầy mạn phú

Tay

chưn nhiễu động mất oai nghi

Ca sa luôn luôn thòng hai gốc

Thân mặc pháp phục thường ở chợ

Đi trong nhà tục hằng say rượu

Thân mặc pháp y gần người tục

Vứt bỏ chánh pháp khối công đức

Ưa làm sứ giả cho người tục

Chứa nuôi bò ngựa dê heo gà

Tôi trai tớ gái vật bất tịnh

Làm ruộng làm vườn hằng loạn tâm

Lòng ưa việc ác không hạnh lành

Cũng chẳng thân cận thiện tri thức

Miệng chẳng lựa chẳng chọn lời nói năng

Trong thân làm đủ các sự ác

Tham lấy vật Tăng vật tháp Phật

Huống là của mình mà chịu thí

Thấy chư Tỳ Kheo trì tịnh giới

Chê bai chẳng phải thiệt phạm hạnh

Chẳng gìn cấm giới không oai đức

Thích ở nhà tục xâm vợ người

Bạch y có vợ còn hổ thẹn

Ác Tỳ Kheo kia tham còn hơn

Chứa nuôi vợ con cầu chẳng chán

Cùng các kẻ tục không có khác

Nếu có đàn việt thỉnh cúng dường

Bố thí áo cơm thuốc men thẩy

Thọ của tín thí không tịnh niệm

Chỉ thêm tham dục xâm vợ người

Lòng thường mơ tưởng bên nữ sắc

Tùy thuận phiền não không thánh hạnh

Phương tiện dụ phỉnh các phụ nữ

Giáo hóa người tục khiến đoạn dục

Rằng người tham dục đọa ác đạo

Đọa vào địa ngục quỉ súc sanh

Nhưng chính thân mình chẳng y giáo

Làm sao truyền pháp giáo hóa người

Người này ba nghiệp chẳng đúng pháp

Bao nhiêu quyến thuộc cũng như vậy

Ngày đêm họp bàn không thôi nghỉ

Chỉ luận ngũ dục các thế sự

Nhận nuôi môn đồ chỉ sai khiến

Trọn không dạy bảo các đạo lành

Nhận đệ tử đông tụ bao quanh

Hiển mình đức lớn cầu danh lợi

Ngoài hiện dị tướng dối từ bi

Nhiếp các đồ chúng chẳng cầu lợi

Môn đồ quyến thuộc nhiều bịnh hoạn

Khô gầy hủi lác ghẻ chóc thảy

Chỉ là tạp loại hạng hạ nhân

Trọn chẳng chỉ dạy Phật pháp lành

Giới văn định huệ đều vứt bỏ

Chẳng làm việc làm của Tỳ Kheo

Chẳng đạo chẳng tục không tên gọi

Dường như khúc gỗ hư mục rã

Đối với luật nghi lòng khinh rẻ

Bồ tát thuyết giới cũng coi khinh

Tự tại dạo chơi trái lời Phật

Đường đột như voi say thả lòng

Hoặc lúc dối hiện ở núi rừng

Lòng thường tưởng việc ở thành thị

Phiền não ba độc luôn phát khởi

Chẳng thể tạm thời lòng tịch tịnh

Quên mất lời Phật đã dạy răn

Cùng hạnh đầu đà các công đức

Ngã mạn cống cao đầy trong thân

Đọa tại a tì ngục đáng sợ

Ngày đêm hằng luận quốc độ sự

Cũng thường luận nói nơi đạo tặc

Thân tâm chuyên lo việc thân duyên

Bỏ lìa thiền định và trí huệ

Dầu cho có tu ưa sự thô

Lòng lo tự an nên xây dựng

Giả sử xây dựng Tăng già lam

Tham ưa phòng nhà mày luôn nhíu

Thân khẩu ý mình chẳng điều nhu

Đồ chúng học theo cũng giống vậy

Ác Tỳ Kheo kia dầu tạo tự

Chuyên vì thân mình và quyến thuộc

Nếu có Tỳ Kheo thuận tùng họ

Họ liền áp trí nhiếp thọ ở

Nếu có trì giới chư Đại Đức

Phương tiện giỏi hay thuyết chánh pháp

Tự điều phục mình điều phục người

Họ trọn chẳng nhận Đại Đức ấy

Rằng phòng hiện nay tôi đương ở

Phòng khác của các đệ tử tôi

Ngoài ra đã thuộc các đồng học

Ông đi chỗ khác đây không chỗ

Hiện nay chỗ có giường chõng ấy

Đều giao phó người thuộc về người

Không còn dư chỗ để dung ông

Cũng không áo cơm ông nên đi

Đồ dùng tạm thời còn không cho

Huống nhờ phòng nhà và các vật

Chẳng làm tăng thứ pháp như vậy

Ác Tỳ Kheo ấy như tục nhân

Chứa nhiều tiền của quyến thuộc đông

Hàng đệ tử Phật sống đúng pháp

Họ luôn đuổi xua chẳng cho ở

Có lúc họ nhớ lời Phật dạy

Lòng họ bi thương vào núi rừng

Than ôi pháp mầu của Phật dạy

Chẳng lâu sẽ diệt chẳng còn hiện

Lại có Tỳ Kheo cầu nhiều lợi

Thân không pháp hạnh ghét có đức

Dầu có người trì giới công đức

Bị họ ghét khinh không lợi dưỡng

Đều tự buồn than bỏ thành ấp

Thường ở trong núi vắng rừng quạnh

Những kẻ si mạn cống cao ác

Luôn luôn đấu tranh thô lưỡng thiệt

Khi dối người đời được lợi dưỡng

Tự cho cùng Thánh đồng không khác

Phật giáo chánh pháp tạng công đức

Đầy đủ tất cả công đức diệu

Đời sau bị hoại không còn hiện

Bởi do ngã mạn không trì giới

Như kho báu kia bị người phá

Như ao hoa sen bị khô cạn

Như xe báu kia bị gãy hư

Đời sau Phật pháp cũng như vậy

Ác Tỳ Kheo kia khó điều phục

Diệt Phật chánh pháp không còn thừa

Ở trong đời ác thuở vị lai

Phá hoại Phật pháp rất đáng sợ

Những kẻ vui thích sự ác ấy

Rời xa Trời Người và hạnh lành

Từ nơi thân này xả mạng rồi

Đọa vào địa ngục quỷ súc sanh

Ở đó vô lượng ức ngàn năm

Chịu đủ tất cả những khổ não

Về sau giả sử được thân người

Nhiều khổ uế ác luôn bất tịnh

Hoặc đui hoặc điếc hoặc câm ngọng

Thân thể luôn luôn nhiều bịnh tật

Nhan sắc xấu ác người chẳng ưa

Thường phải sợ sệt phục vụ người

Khó vừa ý người khó được thương

Có lời nói ra không được tin

Nếu có người ác hạnh như vậy

Ở đâu cũng bị quở đuổi xua

Người ấy mang nhiều những bịnh khổ

Thường bị gậy gộc đánh xua đuổi

Thường bị đói khát làm khổ thân

Mọi người ngó thấy đều khinh rẻ

Nếu nghe như vậy nhiều khổ lụy

Phải bỏ các ác tâm điều phục

Đối với chúng sanh làm điều lành

Chớ để ngày sau phải ăn năn

Nếu người mến kính Phật Thế Tôn

Thánh chúng trì giới pháp đầu đà

Các ông phải siêng cầu hạnh ấy

Phải xa quyến thuộc và lợi danh

Danh lợi điên đảo như huyễn hoá

Phải xem hữu vi như mộng mơ

Ân ái hiệp hội tất biệt ly

Tất cả hữu vi chẳng bền lâu

Chớ bỏ chánh cần căn lực thảy

Siêng cầu các môn Ba la mật

Trong khi chưa chứng diệu Bồ đề

Thường phải tu tập tất cả hạnh”.

Đức Phật lại bảo Hộ Quốc Bồ Tát rằng: “Nầy thiện nam tử! Đời vị lai, những người tu hạnh đại thừa Bồ Tát, nếu có các lỗi như vậy thì phải tự rời xa và xa rời những kẻ có ác lỗi như vậy.

Những người tự chẳng siêng tu mà quen gần cùng người có ác lỗi ấy, chẳng siêng gìn chánh hạnh tự làm siểm khúc và thân cận kẻ siểm khúc, tự không trí huệ và tùy thuận kẻ không trí huệ, tham cầu thế lợi không bao giờ biết chán tham mến nhà tục, ganh ghét kẻ hơn mình, siểm khúc trá ngụy không khổ không thẹn, dối hiện thánh tướng tự tôn tự trọng, đều riêng tự khen tặng quyến thuộc mình để cầu danh lợi, vì cầu lợi dưỡng nên thường vào thành thị, chẳng thương tất cả chúng sanh cũng chẳng vài giáo hoá tất cả chúng sanh mà thường tự nói rằng: tôi có bình đẳng luôn ý niệm như vậy ai biết được, tôi là chân thiện tri thức của chúng sanh, tôi là bực đa văn, mà thiệt ra đối với Phật pháp họ không có lòng cung kính không có lòng cầu pháp như đồ hư bể không còn dùng được, như người lười biếng không làm xong việc gì, tìm lỗi của nhau làm các phương tiện vô trí giải đãi suy tưởng quấy ác cùng nhau thảo luận các sự phá pháp, cố chấp ác tâm đến chết chẳng bỏ, tham xan chứa họp nhiều, quyến thuộc được nuôi cũng học như vậy mà quây quần nhau ở trong Phật pháp.

Hành giả như vậy phàm có làm sự gì chẳng hỏi bực minh triết chẳng cầu Phật pháp. Vì không tinh tấn nên sanh nhà nghèo cùng, từ nhà nghèo cùng mà được xuất gia, ở trong Phật giáo được chút lợi dưỡng sanh lòng vui mừng mà không hổ thẹn. Bọn ấy còn không có lòng sám hối làm sao có được thắng trí tự giác. Bọn ấy tự bỏ công đức chư Phật mà lấy danh lợi hiện tại. Vì được danh lợi hiện tại nên tự nói tôi là Sa Môn.

Nầy Hộ Quốc! Với hạng người như vậy, Phật còn chẳng nói họ có tùy thuận thục nhẫn, huống là có được đại trí chư Phật. Hạng ấy còn xa Nhân đạo, Thiên đạo, huống là thành được Phật đạo.

Nầy Hộ Quốc! Hạng người ấy, Phật nói có tám thứ pháp chướng ngại Bồ đề:

Một là sẽ sanh vào ba ác đạo.

Hai là sẽ sanh nhà nghèo cùng.

Bốn là nhan sắc chẳng đoan chánh.

Năm là ngu si không trí huệ.

Sáu là thường hội họp với các ác tri thức.

Bảy là nhiều bịnh hoạn.

Tám là bị ác bịnh nặng đến chết.

     

Nầy Hộ Quốc! Tám điều ấy chướng ngại Bồ đề.

Nầy Hộ Quốc! Phật chẳng nói chỉ có ngôn thuyết mà được Bồ đề. Phật chẳng nói dối hiện tướng thánh mà có tịnh hạnh. Phật chẳng nói kẻ siểm khúc mà có Bồ đề hạnh. Phật chẳng nói kẻ tham nhiều lợi dưỡng mà có hạnh cúng dường Phật. Phật chẳng nói kẻ ngã mạn mà có hạnh Bát Nhã thanh tịnh. Phật chẳng nói kẻ vô trí mà quyết được nghi cho người. Phật chẳng nói kẻ đố kỵ mà có hạnh tinh tấn. Phật chẳng nói kẻ không tinh tấn mà có các hạnh đà la ni. Phật chẳng nói kẻ chẳng ưa công đức mà được hạnh thiện đạo. Phật chẳng nói kẻ tham luyến nhà thế tục mà có hạnh thân tâm thanh tịnh. Phật chẳng nói kẻ dối hiện oai nghi mà gặp được Phật hội. Phật chẳng nói kẻ ưa nhà tục mà có hạnh khẩu nghiệp thanh tịnh. Phật chẳng nói kẻ chẳng cung kính mà có hạnh tâm thanh tịnh. Phật chẳng nói kẻ chẳng tri túc mà có ưa pháp hạnh. Phật chẳng nói kẻ tiếc thân mạng mà có hạnh cầu chánh pháp.

Nầy Hộ Quốc! Dầu Phật có quở rầy lục sư nhưng các nhà ngoại đạo ấy ở ngoài Phật pháp. Còn kẻ vào trong Phật pháp mà làm ác nghiệp tội lỗi đáng quở trách còn hơn lục sư kia gấp bội. Tại sao, vì hạng người ấy chỉ có miệng nói tôi là Tỳ Kheo mà lấy vô hạnh khi dối tất cả Trời Người thế gian vậy”.

Muốn tuyên lại nghĩa ấy, đức Thế Tôn nói kệ rằng:

“Oai nghi trược loạn không cung kính

Chỉ thêm ngã mạn tham danh dự

Phiền não che đậy lòng mê say

Hạng ấy xa lìa diệu Bồ đề

Tham đắm danh lợi và giải đãi

Tăng trưởng giải đãi mất chánh niệm

Nếu không chánh niệm mất trì giới

Nếu không trì giới mất thiện đạo

Người ấy sanh vào nhà nghèo cùng

Được xuất gia rồi ham lợi dưỡng

Như người vứt bỏ báu hoàng kim

Vác mang cỏ dơ cho là báu

Vì cầu danh lợi ở núi rừng

Đến đó lại cầu các đồng bạn

Vứt bỏ thần thông trí biện tài

Cầu danh lợi hiện tại quyến thuộc

Hạng ấy mạng chung đọa ác đạo

Hoặc sanh trong nhà nghèo hạ tiện

Giải đãi xấu xa không oai đức

Đây đều do ngã mạn nhận chịu

Họ đã xa lìa các hạnh lành

Cũng bởi phóng dật mất chánh niệm

Ở mãi trong các đại ác đạo

Ức ngàn vạn kiếp chưa thoát được

Nếu cầu danh lợi nước Bồ đề

Thì Điều Đạt kia ưng là Phật

Gió mạnh tì lam thổi nát vật

Giải đãi không giới cũng như vậy

Tự không hạnh lành tham nữ sắc

Không tịnh giới hạnh mất công đức

Ở trong pháp Phật không chỗ dùng

Kẻ vô trí ấy như gỗ mục

Nếu vì Bồ đề cầu Phật pháp

Đâu được chẳng y hạnh giải thoát

Dường như keo nhựa trói khỉ vượn

Ngã mạn cầu đạo cũng như vậy

Xưa ta vì cầu một câu pháp

Vứt bỏ thân mạng vì Bồ đề

Kẻ ấy giải đãi bỏ Phật giáo

Không chút lợi ích nơi Phật pháp

Xưa ta vì cầu nước thiện giáo

Nhảy xuống gộp cao nhảy vào lửa

Ta được nghe pháp làm như pháp

Vứt bỏ tất cả ái tắng thảy

Kẻ ấy được nghe Phật công đức

Chẳng từng ưa thích một câu pháp

Không pháp làm sao được Bồ đề

Như trước kẻ mù nói đường sá”.

Đức Phật lại bảo Hộ Quốc Bồ Tát: “Nầy thiện nam tử! Ta nhớ quá khứ vô số kiếp, lại quá vô số lượng bất khả tư bất khả ví dụ bất khả kế bất khả thuyết kiếp, bấy giờ có Phật xuất thế hiệu Thành Lợi Huệ Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác.

Bấy giờ có vua tên Diệm Ý. Này Hộ Quốc! Thuở vua Diệm Ý trị vì thì Diêm Phù Đề này ngang rộng một vạn sáu ngàn do tuần, có hai vạn thành, mỗi thành có ngàn câu chi nhà.

Thành của vua Diệm Ý ngự tên là Bửu Quang Minh rộng Đông Tây mười hai do tuần, Nam Bắc bảy do tuần, bằng thất bửu, bảy lớp tường báu bao quanh, mỗi tường cách nhau bảy bộ vững chắc khó phá.

Nầy Hộ Quốc! Dân chúng nước ấy thọ mười câu chi na do tha tuổi.

Nầy Hộ Quốc! Vua Diệm Ý ấy sơ sanh một con trai tên Phước Diệm đoan chánh xinh đẹp có đủ tướng tốt thế gian vô song người xem không chán. Ngày Phước Diệm sơ sanh, chỗ sanh ấy tự nhiên cáo tạng bảy báu xuất hiện cao bằng bảy người. Giờ Vương Tử ấy sanh, tất cả chúng sanh ở Diêm Phù Đề đều hoan hỉ hớn hở vô lượng. Nếu có ai bị tù gông trói tự nhiên tháo mở.

Nầy Hộ Quốc! Trong bảy ngày, Vương Tử Phước Diệm học thành cả công xảo nghệ thuật thế gian. Một hôm vào lúc khuya vắng, trời Tịnh Cư đến bảo Vương Tử Phước Diệm, nầy Đồng Tử chớ phóng dật nên khéo quán vô thường. Nầy Đồng Tử mạng chẳng dừng lâu đến nơi đời sau, thời gian qua mau hằng phải quan sát sanh lòng rất lo sợ, tạo nghiệp tất thọ báo như bóng theo hình”.

Trời Tịnh Cư lại vì Vương Tử mà nói kệ:

“Đồng Tử cẩn thận chớ phóng dật

Cũng chớ tùy thuận kẻ phóng dật

Vứt bỏ phóng dật được Phật khen

Nếu thọ phóng dật bị Phật quở

Thường tự điều thuận chẳng phóng dật

Tất cả hay thí không tật đố

Từ bi thương xót các chúng sanh

Người ấy chẳng lâu sẽ thành Phật

Quá khứ vô lượng Phật

Hiện tại và vị lai

Đều từ thiện phát khởi

An trụ đạo bất dật

Ăn uống và y phục

Vàng bạc anh lạc thảy

Đều bố thí cả kiếp

Để cầu đạo vô thượng

Tay chưn và mắt mũi

Ai xin vui lòng cho

Thiệt tâm cầu công đức

Chẳng lâu được thành Phật

Ngôi vua nhiều oai thế

Vợ con và quyến thuộc

Hữu vi như huyễn hóa

Mau xả chớ luyến tiếc

Thọ mạng chẳng dừng lâu

Như đồ đất dễ hư

Tạm mượn đời chẳng lâu

Đây cũng không thường tịnh

Cha mẹ và quyến thuộc

Ác đạo không cứu được

Chúng sanh tạo thiện ác

Như bóng luôn theo hình

Cầu nhiều nơi biển dục

Hại nhau chẳng làm lợi

Mà không ai cứu vớt

Luống chịu khổ nhọc mệt

Nay muốn làm lợi tha

Cầu đạo tịch vô thượng

Xương thịt có khô gầy

Ông chớ cho là khổ

Chư Phật xuất thế khó

Pháp tịch diệt khó nghe

Siêng thờ thiện tri thức

Hay phá được chúng ma

Bỏ rời ác tri thức

Hay ở nơi chánh đạo

Ngăn che đường ác tà

Lành thay siêng tinh tấn

Ông chớ tiếc thân mạng

Giữ lòng như kim cương

Chánh hỏi đạo nơi thầy

Chớ bỏ ý chánh ý

Tất cả Phật quá khứ

Thường ưa a lan nhã

Ông phải thuận học theo

Phải ưa ở rảnh vắng

Vứt bỏ nơi ân ái

Vợ con và quyến thuộc

Thân mình và thọ mạng

Để cầu trí lớn rộng”.

     

Nầy Hộ Quốc! Vương Tử Phước Diệm nghe chư thiên nói kệ xong, trong mười năm chưa hề ngủ nghỉ, chưa hề chơi cười, chưa hề ca vũ, chưa hề vui mừng, chưa hề hớn hở, chưa hề phóng dật, chẳng vào vườn chơi, chẳng thích quyến thuộc, chẳng tham vương vị, nơi của cải thành ấp chẳng có lòng ưa luyến, tất cả các vật trong thân đều vứt bỏ, chỉ nhập thiền định, ở nơi nhà vắng vẻ suy nghĩ tất cả pháp vô thường không bền không vững tạm có rồi mất, ngôi vua vô vị không thiệt tự tại, ân ái biệt ly, oán ghét hội ngộ, không đáng tham ưa mà vọng sanh mến luyến đều do ngu si hư vọng phỉnh dối không có một chút thiệt, chỉ có giải thoát tịch diệt là vui thôi, mà hàng phàm phu bị ngu si làm say nên thường thích ở nơi ấy ngang sanh ra tướng ưu liệt, nay tôi ở trong chúng phàm ngu nầy phải ở lặng yên suy nghĩ chẳng phóng dật.

     

Nầy Hộ Quốc! Bấy giờ vua Diệm Ý vì Vương Tử Phước Diệm mà lập thành khác tên Thắng Hỉ Lạc có bảy vòng tường báu bao quanh, Nam Bắc thành ấy có bảy trăm đường phố tường vách bằng bảy báu giăng che với linh vàng lưới báu, trên lại giăng các lưới chân châu, mỗi đầu đường đều có tám vạn bốn ngàn trụ báu, trên các trụ báu cột sáu vạn dây báu móc liền nhau, trong khoảng dây có mười bốn câu chi cây đa la báu, gió nhẹ thổi động vang âm thanh vi diệu như trăm ngàn âm nhạc chẳng trổi tự kêu. Mỗi đầu đường phố an trí năm trăm đồng nữ niên thiếu khỏe mạnh giỏi ca vũ được mọi người yêu thích. Vua Diệm Ý truyền các đồng nữ ấy từ nay trở đi luôn ca vũ ngày đêm khiến mọi người vui vẻ, người bốn phương đến thành đều phải làm cho tầt cả đều vui thích, không được phát ngôn thô tháo dầu là một tiếng.

Lại muốn làm vui lòng Vương Tử Phước Diệm, trước đầu phố, vua cho an trí mọi thứ bố thí, như y phục, đồ ăn uống, an lạc, giường nệm, xe cộ voi ngựa bò dê, vàng bạc bảy báu, các thứ hương hoa. Người xin cần gì thì cho thứ ấy. Vua lại đặt ở các nơi an trí nhiều đống châu báu để cho mọi người tùy ý thọ dùng.

Trong thành Thắng Hỉ Lạc ấy xây nhiều cung điện để vương tử dạo chơi, đất lát bằng các thứ báu xen nhau. Trên thành xây lầu cao lớn châu báu trang nghiêm. Trung ương thành xây một điện lớn, trong điện an trí ngàn vạn giường nệm, bốn phía điện lập nhiều vườn đầy hoa quả. Trong vườn tạo ao bảy báu, bốn mặt ao có đường thềm bốn báu là vàng bạc lưu ly và pha lê, mỗi mặt ao có hai sư tử bằng trăm thứ báu thường phun nước thơm vào trong ao, lại có hai sư tử báu ở mỗi mặt ao dẫn nước ra. Trong ao thường có bốn thứ hoa sen, hoa sen xanh, hoa sen vàng, hoa sen đỏ và hoa sen trắng. Bốn bờ ao có cây báu bao quanh, lại có nhiều cây bông trái. Lại có tám trăm cây báu liên kết nhau bằng những dây báu treo những phan lụa màu, lại có số ức cây đa la báu, khoảng cách giăng dây báu treo những linh báu bằng vàng, gió nhẹ khua động vang tiếng vi diệu như trăm ngàn âm nhạc chẳng đánh tự kêu. Vì sợ bụi bặm nên trên ao giăng lưới báu lớn.

Trong đại điện ấy an trí ngàn vạn giường bảy báu, trên mỗi giường đều trải năm trăm thứ nệm. Giữa đại điện đặt một tòa ngồi cao bằng bảy báu cao bằng bảy người đứng. Trên tòa báu ấy trải tám vạn câu chi y phục vi diệu, trước tòa đặt lư hương báu đốt hương trầm thủy, đêm ba thời ngày ba thời rải hoa đẹp. Dùng màn lưới vàng giăng trên điện báu, bên màn treo hoa sen vàng, lại dùng màn chân châu giăng trên màn vàng. Có tám vạn trân bửu sáng sạch để làm ánh sáng.

Trong vườn lại đặt chín trăm vạn khối báu, mỗi khối báu cao một do tuần chiếu sáng toàn cõi ấy.

Trong vườn có các giống chim như: anh võ, cù dục, hồng nhạn, chim câu hệ la, khổng tước, nga nhạn, oan ương, câu na la, ca lăng tần già, chim mạng mạng, lúc muốn kêu đều nói tiếng người vi diệu hòa nhã như tiếng chim trong vườn hoan hỉ của Chư Thiên, các chim nầy kêu hót đều để làm vui Vương Tử.

Vua lại vì Vương Tử mà xây dựng nhà ăn, mỗi ngày sắm sửa năm trăm thức ăn để cung cấp Vương Tử.

Vua lại triệu tập các đồng tử trong nước số đông đến tám mươi câu chi. Các đồng tử ấy hoặc tuổi hai mươi hoặc trên hai mươi đều giỏi tất cả công xảo kỹ nghệ ăn mặc trang nghiêm sạch sẽ đều cho vào thành Thắng Hỷ Lạc. Cha mẹ các đồng tử đưa ngàn vạn câu chi đồng nữ vào hầu các đồng tử. Quyến thuộc của các đồng tử cũng dâng ngàn vạn câu chi đồng nữ theo hầu. Các trưởng giả và nhân dân cũng đưa ngàn vạn câu chi thể nữ vào hầu. Các thể nữ ấy tuổi mới mười sáu đều xinh đẹp đoan chánh thế gian vô song, đều giỏi âm nhạc ca vũ giỏi làm trò, ngôn ngữ điều nhu, nhan sắc hòa vui đều có thể an ủi kẻ già người trẻ, tất cả nghề khéo đều thông thạo, miệng ra hơi thơm như hoa sen xanh, thân các lỗ lông ra hơi chiên đàn, vi diệu thanh khiết như thiên nữ.

Vương Tử Phước Diệm ỏ trong cung điện ấy, chúng thể nữ thường hòa nhạc các thứ cúng dường.

Vương Tử nghe âm nhạc ấy nghĩ rằng: các thứ này là oan thù của tôi, cướp đoạt pháp lành của tôi, phải mau rời bỏ.

Bấy giờ Vương Tử thấy các sự vui mà lòng chẳng vui chẳng khác người sắp bị sử tử, dầu thấy sắc dục mà lòng chẳng ham, ở giữa chúng thể nữ chẳng vui cùng quyến thuộc tụ hội trong thành cũng chẳng vui, trọn mười năm như vậy chẳng lấy tướng sắc thinh hương vị xúc, chỉ nghĩ rằng lúc nào tôi thoát khỏi cảnh oán thù này, lúc nào tôi hành bất phóng dật để được giải thoát.

Chúng thể nữ ấy đem sữ việc trình tâu vua Diệm Ý. Vua cùng tám vạn tiểu vương đồng đến chỗ Vương Tử khóc than buồn khổ té xỉu trên đất. Tỉnh lại, vua Diệm Ý hướng Vương Tử Phước Diệm mà nói kệ rằng:

Con có phước báu lớn tối diệu

Với con có ai làm chẳng tốt

Mà con chẳng thọ vui tối thắng

Con chẳng thọ vui cha lo buồn

Mong con thọ vui cho cha mừng

Nếu bị phá rầy nói cha hay

Cha sẽ phạt họ tội rất nặng

Con xem hoa sen đẹp tại đây

Cha suy nghĩ làm cho con

Có thiếu thứ gì con mau nói

Cha hay hiện nên như Đế Thích

Nay mặt mắt con như hoa sen

Sao con nhíu mày chẳng vui thích

Các thể nữ này rất đẹp lạ

Vi diệu thanh tịnh bằng thiên nữ

Các nàng đều giỏi những kỹ thuật

Ca vũ âm nhạc đều hay thông

Con nên cùng vui với thể nữ

Sao con rầu buồn như trúng tên

Nay con nên mau thọ vui sướng

Chẳng phải lúc con lo rầu khổ

Vườn rừng suối ao rất mậu thạnh

Bông trái nhánh lá rất sum sê

Rộng lớn chẳng khác vườn cõi trời

Nay con đương lúc tuổi thiếu niên

Nhan sắc tiều tụy như bông khô

Chỉ nên thọ vui chớ nên khổ

Suối chảy ao tắm như cõi trời

Nước thơm vi diệu tắm rửa thân

Các hoa đua nở bầy ong bu

Nay con cớ sao chẳng ưa vui

Nga nhạn anh võ và hồng hạc

Mạng mạng câu na tiếng vi diệu

Không khác Hương sơn và Tuyết sơn

Có ai nghe thấy chẳng ưa thíc

Thắng điện thất bửu lưới chân châu

Lưu ly nghiêm tịnh như thiên cung

Tòa báu trang nghiêm trùm y diệu

Linh vàng lưới báu vang tiếng hay

Các thứ âm thanh rất thù đặc

Đường sá phố phường và đầu ngõ

Thể nữ số ngàn tấu âm nhạc

Dường như ngọc nữ vườn hoan hỉ

Sao con mê loạn chẳng thọ vui

Đồng tử thể nữ như chư Thiên

Vì muốn con vui mà tụ họp

Cha mẹ vì con khóc rơi lệ

Sầu lo than thở khổ xiết bao.

Vương Tử Phước Diệm nói kệ thưa phụ vương:

Như đấng công đức đầy đủ kia

Xem xét hữu vi sanh tử khổ

Nhàm lìa phiền não muốn cầu thoát

Vứt bỏ tất cả những dục lạc

Thấy các chúng sanh vào lưới chết

Thường cầu giải thoát xa dục lạc

Suy gẫm Bồ đề thù thắng nhất

Cúi mong cha mẹ nghe con nói

Không ai làm ác đối với con

Con tự chẳng vui các dục lạc

Tất cả ân ái như oan thù

Thêm lớn phiền não đọa ác đạo

Người ngu ưa thích thể nữ này

Thêm lớn nghiệp ma bị trói buộc

Xa lìa công đức thêm bất thiện

Lại khiến đời sau đọa ác đạo

Các Thánh quở trách ngũ dục nầy

Nay tôi sao lại thích gốc khổ

Các thể nữ này giả ngoại sắc

Chỉ là túi da đựng gân xương

Trong đầy máu thịt cứt đái dơ

Thây chết thúi hôi sao lại thích

Ca vũ âm nhạc kỹ thuật thảy

Như ảo như mộng gạt ngu si

Kẻ ngu phân biệt mất chánh đạo

Con há tùy thuận tạo nghiệp ái

Vườn rừng bông trái đến mùa đông

Héo khô vàng úa đều rơi rụng

Vô thường tan hư chẳng còn lâu

Thọ mạng vô định si phóng dật

Tâm như đại hải chẳng tri túc

Ân ái thêm lớn cầu không nhàm

Thường bị dục nhiễm tàn hại nhau

Con như Tu Di gió chẳng động

Cha mẹ anh em và chị em

Vợ con bạn bè các quyến thuộc

Ngôi vua bá quan và thế lực

Nếu đọa ác đạo chẳng cứu được

Chúng ta ngày nay như giọt sương

Cũng như ánh chớp chẳng tạm dừng

Tâm ý tán loạn không chỗ định

Suy thấy như vậy nên siêng tu

Hỡi ơi tuổi trẻ chẳng còn lâu

Hỡi ôi thọ mạng như thác chảy

Hỡi ôi hữu vi như mây nổi

Hỡi ôi tam giới cầu ngôi vua

Người trí đến dạy chớ phóng dật

Không có Bồ Tát tham thế gian

Nếu muốn làm Phật cứu vớt người

Phụ vương phóng dật chẳng làm Phật

Nếu theo dục lạc làm ái nô

Họ mất công đức không thiện lộ

Nếu ở thân này tham sát sanh

Như chim sa lưới muốn cầu sống

Cảnh giới dường như rắn độc dữ

Ngũ ấm khác gì giặc oán hại

Lòng người chấp có chẳng lợi ích

Như xóm hoang vắng không nương được

Vườn rừng của cha như độc thọ

Nước cuốn vô thường tất trôi chìm

Nay con làm sao vui ưa được

Con thấy thế gian không chánh hạnh

Như thời kiếp tận bị lửa cháy

Chúng sanh trong đó chịu khổ lớn

Con vì giải thoát chúng sanh khổ

Phải mau làm xong đạo pháp thuyền

Chúng sanh say ngủ không tự giác

Mang bịnh từ lâu con muốn trị

Vì nhổ tên độc cho được lành

Dắt khỏi nẻo tà về đường chánh

Trói chặt tam giới không thoát được

Con nói pháp cho họ ra khỏi

Chúng sanh nghèo cùng không của pháp

Con ban pháp lành cho họ giàu

Những kẻ mê chìm trong ác đạo

Con sẽ dạy họ các thiện đạo

Con muốn xô trốc các ái thọ

Hành các từ bi đốt đèn trí

Khiến thấy tam giới là nhà lửa

Lại phát từ bi nổi mây dầy

Các Ba la mật khắp che đậy

Lợi ích chúng sanh như ánh chớp

Đạo phẩm tổng trì dùng làm mưa

Mát mẻ hay tắt lửa nhiệt não

Vì những lẽ ấy sanh cung vua

Con ở hữu vi chẳng vui thích

Vì muốn lợi ích các chúng sanh

Con sanh trong đời cầu Bồ đề

Vĩnh viễn chẳng ham các dục lạc

Thưa cha con ở trong oán thù

Người trí đâu có ưa đường ấy

Có mắt chẳng té bờ cao hiểm

Cầu Bồ đề phải bỏ phóng dật

Tất cả thế gian thuận lục đạo

Nay con chỉ muốn đi ngược kia

Thưa cha lời con trọn chẳng hư

Cúi xin cha về bổn cung

Nguyện bỏ ngôi vua ở thế gian

Tùy ai muốn gì tha hồ lấy

Nếu hành phóng dật tham ngôi vua

Ngàn ức ngôi vua con chẳng muốn

Nếu ở nội cung không đắc đạo

Chỉ nên ở chỗ vắng vô úy

Nếu thích ngũ dục không xong được

Con đến núi rừng ở tịch tịnh

Đến ở chỗ ấy cầu Bồ đề

Tam thế chư Phật ở lan nhã

Chánh giác Bồ đề chẳng tại dục.

Phước Diệm Vương Tử nói kệ xong từ giã phụ vương dắt các thể nữ đi kinh hành mà tâm chẳng an và chỉ an trụ ba thứ oai nghi là hoặc đi hoặc đứng hoặc ngồi mà chẳng nắm ngủ, ở tại lầu cao từng thứ tám, giữa đêm thấy chư Thiên Tịnh Cư đi trên hư không tán thán công đức chư Phật và công đức Pháp Tăng. Nghe chư Thiên tán thán công đức Phật, Vương Tử Phước Diệm cả mình nổi ốc run rẩy, liền chắp tay nói kệ báo cáo chư Thiên:

Lành thay chư Thiên Tử

Thương lấy khổ chúng tôi

Chớ có lòng mỏi mệt

Tôi muốn có lời hỏi

Chư Thiên đi hư không

Tán thán công đức ai

Tôi nghe lời khen ấy

Lòng tôi rất vui mừng.

Chư Thiên Tịnh Cư nói kệ báo cáo Vương Tử:

Đồng Tử há chẳng nghe

Có Phật hiện xuất thế

Phật hiệu Cát Lợi Ý

Quy y cho mọi người

Phật biết tâm chúng sanh

Phước trí đều đầy đủ

Chư Thánh được thiền định

Số trăm ngàn do tha.

Vương Tử lại nói kệ thưa hỏi chư Thiên:

Tôi chưa thấy Phật ấy

Ngài cho biết tướng Phật

Nếu tôi được thấy nghe

Hỏi Phật Bồ đề đạo

Thế nào độ chúng sanh

Thế nào đời vị lai

Tôn quí trong chúng sanh

Xin vì tôi giải thuyết.

Chư Thiên Tịnh Cư nói kệ báo cáo Vương Tử:

Tóc của Phật nhuần láng

Màu xanh xoắn phía hữu

Đỉnh cao như núi Tuyết

Bạch hào như mặt nhựt

Thanh tịnh như lưu ly

Diệu sắc xoắn phía hữu

Tai mắt rất dài rộng

Màu như hoa sen xanh

Má vuông như sư tử

Môi đỏ như trái tần

Răng rất bằng và kín

Sạch trong như ngọc tuyết

Đủ số bốn mươi cái

Bốn nanh rất nhọn bén

Lưỡi rộng dài trùm mặt

Oai đức đại tự tại

Vì các hàng chúng sanh

Phóng số ức tia sáng

Cùng khắp cõi Đại Thiên

Khô cạn các ác đạo

Vô Thượng Tối Tôn Thắng

Âm thanh diệu chân thiệt

Khiến người nghe vui mừng

Thỏa mãn chúng sanh nguyện

Hơn cả châu như ý

Chẳng khuyết giảm công đức

Tùy thuận các đạo phần

Trang nghiêm tràng chánh pháp

Âm thanh trăm ngàn thứ

Diễn xướng không hư khuyết

Hơn tất cả chư Thiên

Quá âm thanh Phạm Thiên

Người nghe sanh vui mừng

Hơn chư Khẩn Na La

Ca Lăng Câu Sí La

Oan ương và hồng nhạn

Câu Na La phạm thanh

Hòa hiệp các âm thanh

Âm từ chẳng tạp loạn

Hay khiến nghĩa hiển hiện

Diệu tịnh như lưu ly

Hay khiến người trí ưa

Dạy khiến phát đạo tâm

Tâm tịnh lòng hớn hở

Tùy thuận tha tâm trí

Hay quyết nghi người hỏi

Đấng ấy là Pháp Vương

Tự tại đại Thế Tôn

Có pháp âm thù thắng

Cổ ngay vai tròn đầy

Từ bi dơ tay đẹp

An ủi các chúng sanh

Thân Phật mầu chân kim

Mỗi lông đều xoắn hữu

Lỗ rún sâu và kín

Âm tàng như mã vương

Bắp chuối suôn lộc vương

Dưới chưn văn hoa sen

Luân ngàn bức đầy đủ

Xoay ngó như tượng vương

Bước đi như sư tử

Toàn thân đều tương xứng

Dường như gậy Đế Thích

Hư không mưa hoa trời

Biến thành lộng che trên

Đi đứng thường theo che

Pháp vương sự hi hữu

Hoặc đắc lợi thất lợi

Hoặc được vui hay khổ

Hoặc được danh mất danh

Hoặc khen hoặc chê bai

Tất cả không nhiễm trước

Dường hoa sen ở nước

Cũng như sư tử vương

Như Lai Đẳng Chánh Giác

Chúng sanh không ai sánh.

Vương Tử Phước Diệm nghe chư Thiên Tịnh Cư ca ngợi công đức của Phật Pháp Tăng rồi rất vui mừng hớn hở chẳng thể tự xiết mà nghĩ rằng chư Phật Thế Tôn có đại chúng thành tựu như vậy, có giác chứng diệu pháp như vậy, có chúng thánh đệ tử như vậy mà tôi chẳng được thấy.

Nay tôi gặp phải sanh tử các ác khổ não. Sanh tử nầy không có nghĩa lợi. Các hàng phàm phu chấp trước ngã kiến. Tại gia có nhiều lỗi lầm tai hoạn tham dục không chán. Người trí quở trách phóng dật. Bị vô minh hắc ám nó che đậy. Các hành như vậy khó xuyên thấu được. Thức tâm như vậy rất khó hàng phục. Danh sắc như vậy rất sâu khó giác ngộ. Lục nhập như vậy không có tự tại. Ác xúc như vậy bị quả báo thọ trì. Ngu si như vậy nhiều lỗi hoạn. Khát ái như vậy cột chặt chẳng bỏ. Các thủ như vậy rất khó bỏ rời. Các hữu như vậy không có thánh đạo. Sanh như vậy rất khó giải thoát. Lão như vậy phá hoại thiếu niên. Bịnh như vậy làm tổn giảm sức khỏe. Tủ như vậy không có nhuận trạch. Sanh như vậy có nhiều suy não. Vãng lai như vậy không có lợi ích. Chánh giáo vi diệu của Như Lai như vậy rất đáng ưa thích. Sao lại vì ái nô để bị các phiền não mê hoặc tâm mình, để bị các ác giác quán trược loạn bất tịnh, tâm thường phóng dật, thường làm bè bạn với bọn ngu si, chẳng khéo tư duy lòng thường nhiễm trước phiền não sanh tử, ưa ác tri thức, luôn cùng chung với các thứ ác như vậy, thường chẳng làm nên sự tịnh thiện thế gian huống là có thể được Vô thượng Bồ đề. Nay tôi phải từ cửa lầu phía Đông này gieo thân mà đi, nếu từ cửa ngõ mà ra e rằng sẽ bị các quyến thuộc chướng ngại. Muốn đến bên Phật Cát Lợi Ý, Vương Tử Phước Diệm liền hướng về phía Phật mà gieo mình đồng thời nghĩ rằng: Nếu đức Như Lai ấy là bực Nhất thiết tri kiến thì tất cũng phải nghĩ biết tôi.

Bấy giờ đức Phật Cát Lợi Ý Như Lai Đẳng Chánh Giác liền duỗi tay hữu phóng tia sáng lớn chiếu Vương Tử Phước Diệm, trong tia sáng xuất hiện một hoa sen lớn như bánh xe có trăm ngàn cánh phóng trăm ngàn tia sáng đồng chiếu thân Vương Tử. Phước Diệm Vương Tử tự thấy mình ngồi trên hoa sen ấy. Đã ngồi yên xong, Vương Tử chắp tay khom mình hướng về Phật Cát Lợi Ý mà xướng to ba lần: Nam Mô Phật Đà Gia.

Phật Cát Lợi Ý nhiếp thâu tia sáng, Vương Tử nương theo tia sáng ấy đến trước đức Phật gieo mình xuống đất như cây to đổ, lạy Phật đủ một ngàn lạy rồi nói kệ bạch Phật rằng:

Từ lâu mang bịnh nặng

Nay tôi gặp Y Vương

Ở trong các nạn khổ

Thế Tôn Cứu vớt tôi

Xin Phật vì tôi nói

Thế nào ở trong pháp

Sẽ được phước lợi lớn

Mong Như Lai nói rõ

Bạch Thế Tôn trước đây

Giữa đêm chư Thiên đến

Bảo tôi chớ phóng dật

Tôi nghe trời dạy rồi

Lo sợ nên đến đây

Nay hỏi đức Thế Tôn

Thế nào chẳng phóng dật

Xin Phật thương dạy rõ

Nay tôi lạc đường chánh

Phật làm thương chủ cho

Nay tôi như sanh manh

Phật làm mắt cho tôi

Nay tôi mắt gộp hiểm

Xin Phật cứu tế độ

Ngưỡng mong đại từ bi

Khiến tôi sanh chánh tín

Như người bị ngặt nghèo

Xin Phật mau chữa trị

Nay tôi như người nghèo

Xin Phật thương nhiếp thọ

Nay tôi bị trói buộc

Xin Phật thương mở trói

Lòng tôi nghi hoặc nhiều

Xin giải quyết lưới si

Dạy tôi chỗ tu hành

Làm sao được Bồ đề

Nay tôi chìm biển lớn

Xin Phật thương tế độ

Tôi ở trong tối dầy

Xin Phật thắp đuốc pháp

Thân tôi có nhọt lớn

Xin chữa cho mau lành

Thân tôi bị tên độc

Xin Phật nhổ tên cho

Thường đọa các ác đạo

Xin Phật thương cứu tế

Các người có chấp trước

Bỏ tà về đạo chánh

Tôi chìm sông lo buồn

Xin đưa đến bờ kia

Được ở bát chánh đạo

Mạng sống tôi ngắn ngủi

Cầu thiện nhiều chướng ngại

Xin từ nay về sau

Được sanh mạng chân như

Nay thân tôi nhàn tịnh

Đã rời khỏi các nạn

Làm phước tất được báo

Xin vì tôi quyết nghi

Thế Tôn vì tôi nói

Bồ tát chẳng phóng dật

Mà hướng vô thượng đạo

Vị lai chứng Bồ đề

Hay mở thoát các cõi

Tế độ các chúng sanh

Giải thoát các sanh tử.

Biết tâm của Vương Tử Phước Diệm rồi, Đức Cát Lợi Ý Như Lai nói rộng về Bồ tát hạnh. Vương Tử Phước Diệm nghe pháp này liền được đà la ni nên giải thoát, cũng được ngũ thần thông, liền bay lên hư không biến hóa các thứ hoa rải trên đức Phật. Rải hoa xong, Vương Tử Phước Diệm từ hư không đáp xuống nói kệ ca ngợi đức Phật Cát Lợi Ý: 

Đảnh lễ đấng kim sắc

Mặt sáng như trăng tròn

Kính lễ đấng vô tỉ

Ly cấu tam giới tôn

Tóc sạch sáng nhuần bóng

Đỉnh cao như Tu Di

Người xem không biết chán

Lòng họ sanh vui mừng

Chặng mày tướng bạch hào

Thanh tịnh đẹp chói sáng

Mắt như hoa sen xanh

Vi diệu rất thù đặc

Tâm từ bi thương xót

Nhìn xem các thế gian

Chúng sanh mừng được gặp

Như trẻ thơ mến mẹ

Lưỡi Như Lai dài rộng

Mềm mỏng như đồng đỏ

Le ra trùm khắp mặt

Thuyết pháp dạy đại chúng

Răng trắng như ngọc tuyết

Cứng chắc như kim cương

Bằng kín đủ bốn mươi

Lúc vui vẻ mỉm cười

Giáo hóa vô lượng chúng

Giải thoát chứng Bồ đề

Kính lễ vi diệu thanh

Kính lễ lời mỹ thiệt

Thân Phật đời không sánh

Phóng quang chiếu các cõi

Phạm Thiên và Hộ Thế

Ánh sáng đều chẳng hiện

Vế bắp suôn lộc vương

Bước đi như tượng vương

Cũng lại như sư tử

Đại địa đều chấn động

Thế Tôn đủ tướng tốt

Da thứa nhuần đẹp mịn

Thân như núi tử kim

Oai quang không ai sánh

Khổ hạnh vô số kiếp

Ưa bố thí không mỏi

Tâm từ nhìn chúng sanh

Kính lễ đại bi phụ

Phật thường ưa thí giới

Bền vững nhẫn tinh tấn

Thiền định và Bát Nhã

Tổng trì trí vô tỉ

Lúc Thế Tôn thuyết pháp

Hàng phục các ngoại đạo

Ở chúng như sư tử

Vô úy đại tự tại

Y Vương trừ tam độc

Tuyên thuyết thanh tịnh pháp

Người nghe đều hoan hỉ

Nên nay tôi đảnh lễ

Thân khẩu ý thanh tịnh

Không nhiễm trước tam giới

Như hoa sen ở nước

Thơm sạch luôn chiếu sáng

Tiếng Phật như Phạm Thiên

Như tiếng chim ca lăng

Qua khỏi bờ tam giới

Vì thế tôi kính lễ

Phật xem các thế gian

Như ảo cũng như mộng

Lại như nhà diễn trò

Nói các pháp vô ngã

Không chúng sanh thọ giả

Tất cả vô sở hữu

Cũng như trăng trong nước

Không tịch không chỗ sanh

Biết thế gian vậy rồi

Vì họ dùng phương tiện

Trăm ngàn các pháp môn

Từ bi nhiếp dạy người

Chúng sanh nhiều họa hoạn

Các độc thưòng hẩy hừng

Quan sát nhiệt não rồi

Như Y Vương điều trị

Thường đi nơi thế gian

Cứu vớt vô số chúng

Khổ sanh lão bệnh tử

Ái ly oán tắng hội

Ưu bi các khổ não

Thiêu đốt không xen hở

Thấy đời khổ não rồi

Từ bi hay độ thoát

Thế giới như xe lăn

Trời người và súc sanh

Trong địa ngục ngạ quỷ

Mê lầm không Đạo Sư

Thế Tôn vì năm loài

Thị hiện đấng Tôn Thắng

Quá khứ có chư Phật

Pháp Vương rời thế gian

Cũng nói thánh đạo nầy

Như Phật nay hiện nói

Thanh tịnh không nhơ đục

Hơn trời Đại Phạm Vương

Cũng hơn Càn Thát Bà

Và cùng các Thiên nữ

Các âm thanh như vậy

Thanh âm Phật tối thắng

Vì thế gian giải thuyết

Trí chân thiệt nhuận ích

Nói các thứ phương tiện

Đầy đủ các công đức

Trăm ngàn na do tha

Tam thừa chứng Niết bàn

Nếu ai cúng dường họ

Được báo vui thắng thượng

Vô lượng các Trời Người

Sẽ được đạo chánh chân

Hoặc được làm nhân Vương

Trưởng giả đại phú thảy

Hoặc lãnh một thiên hạ

Hai ba bốn thiên hạ

Chuyển Luân Thánh Đế Vương

Dạy nhân dân thập thiện

Bẩy báu hiện đầy đủ

Đều do cúng dường Phật

Hoặc làm Thích Phạm Vương

Làm Tứ Thiên Thiên Vương

Làm Đâu Suất Hóa Lạc

Làm Tha Hóa Dạ Ma

Đều do cúng dường Phật

Đời sau làm Chánh Giác

Cúng dường Phật như vậy

Hoặc thấy hoặc nghe tiếng

Tất cả đều được lợi

Trừ chúng sanh nhiều khổ

Được chúng pháp cam lồ

Tối diệu không già bịnh

Thế Tôn biết chánh đạo

Khéo nói pháp chánh đạo

Dứt được các ác đạo

Khiến ở vô úy đạo

Vô cấu đại thánh đạo

Hay làm chỗ người nương

Nếu ai cầu phước đức

Nên trồng ở bên Phật

Do vì nhân duyên nầy

Sẽ được tạng vô tận

Số nhiều câu chi kiếp

Phước ấy chẳng hết được

Nhẫn đến chưa thành Phật

Sẽ được thanh tịnh độ

Vi diệu như Tha Hóa

Được rồi rất vui mừng

Trong nước thanh tịnh ấy

Có bao nhiêu chúng sanh

Thân khẩu ý thanh tịnh

Phước nầy do cúng Phật

Nếu các chúng sanh ấy

Cầu Trời và Niết bàn

Và cầu vui trong Người

Được phước báu vô lượng

Công đức chẳng hết được

Nhẫn đến được thành Phật

Lại ở trong trăm cõi

Vô lượng trăm ngàn chúng

Nên tuyên nói Phật đức

Cho mọi người kính ngưỡng

Như Lai trừ nhiệt não

Làm cho chúng giải thoát

Từ bi thấy hoan hỉ

Các căn tịch thanh tịnh

Đấng tối thắng trong người

Khối vô lượng công đức

Chỗ chúng sanh quy y

Vì thế tôi đảnh lễ

Tôi đã được ngũ thông

Hay bay lên hư không

Nghe Phật diệu âm thanh

Vị lai nếu làm Phật

Vì chúng tuyên diệu pháp

Độ thoát vô lượng chúng

Tôi khen khối công đức

Phước vô cấu thanh tịnh

Trời Người Rồng Tu La

Dạ Xoa Càn Thát Bà

Các tạp loại chúng sanh

Đời sau nguyện thành Phật.

Bấy giờ Diệm Ý Đại Vương sau đêm ấy nghe tiếng khóc của các đồng tử liền vội chạy đến thành Thắng Hỉ Lạc hỏi các đồng tử thể nữ tại sao kêu khóc. Mọi người tâu rằng Vương Tử Phước Diệm trong đêm rồi bỗng mất tích. Đại Vương nghe tâu té xỉu xuống đất, giây lát đứng lên khóc than thê thảm đi vòng quanh thành trăm ngàn vòng.

Thiên thần hộ thành bảo vua Diệm Ý rằng: Cách đây về phương Đông có Phật hiệu Cát Lợi Ý, Vương Tử Phước Diệm hiện ở tại đó đảnh lễ cúng dường.

Vua Diệm Ý nghe Thiên thần báo cáo xong liền đem các đồng tử thể nữ và bộ tùng tám vạn bốn ngàn câu chi và trăm ngàn na do tha đại chúng đi về phương Đông đến chỗ ngụ của Phật Cát Lợi Ý Như Lai Chánh Đẳng Chánh Giác. Đến rồi vua đảnh lễ chưn Phật ở qua một bên nói kệ ca tụng đức Phật:

Kính lễ biển công đức trí huệ

Đấng đại trượng phu không ai bằng

Hơn hết các cõi không ai sánh

Thiên Vương Thích Phạm đều cúng dường

Đấng tối thượng đặc thù trong chúng

Nhìn sắc tướng Phật không chán đủ

Thân ba mươi hai tướng trang nghiêm

Như tòa Tu Di bửu thanh tịnh

Thân Phật vi diệu màu tử kim

Người thấy không nhàm nên tôi lạy

Vô lượng trăm ngàn ức số kiếp

Như Lai khổ hạnh không nhàm mỏi

Vô lượng số kiếp cúng dường Phật

Trăm ngàn câu chi đếm không hết

Thuở xưa bố thí khó nghĩ lường

Thế nên sắc thân rất nghiêm tịnh

Bố thí trì giới thiền định huệ

Nhẫn nhục tinh tấn thiện phương tiện

Sắc thân của Phật rất thanh tịnh

Sáng hơn mặt nhựt nguyệt ma ni

Thích Phạm quang minh ẩn chẳng hiện

Phật hiệu diện sắc vì thế gian

Hoặc hiện ở tại Đâu Suất Thiên

Hoặc lại thị hiện muốn hạ sanh

Hoặc hiện thanh tịnh bạch tượng vương

Trong mộng vào thai hông hữu mẹ

Thân Phật hiện ở như hư không

Như bóng trăng như mộng ảo hóa

Thân Phật ứng hiện cũng như vậy

Và lại thị hiện thuở sơ sanh

Hoặc đi bảy bước thị trượng phu

Xướng to Trời Người ta trên hết

Ta cứu thoát được khổ chúng sanh

Ở trong các pháp không nghi hoặc

Vì chúng thị hiện mới học sách

Thành tựu thiền định ở tịch tịnh

Thị hiện ở trong chúng thể nữ

Rời bỏ cha mẹ và vợ con

Quyến thuộc tôn thân luyến mộ khóc

Bỏ nhà ở rừng thường độc bộ

Câu chi chư Thiên luôn vây quanh

Luôn luôn tán thán không mỏi chán

Từ lâu hành phục bốn thứ ma

Cõi này thị hiện mới hành phục

Từ lâu đã chuyển tịnh pháp luân

Nay vì từ bi thị sơ chuyển

Xem người thế gian họ chấp thường

Ở giữa chúng xướng ta Niết bàn

Thấy người thế gian thích sanh tử

Thế Tôn dạy họ pháp tịch diệt

Phước trí phương tiện không tỉ dụ

Thân phóng quang minh chiếu nhiều cõi

Bồ Tát các phương tìm đến Phật

Đảnh lễ Thế Tôn bất tư nghì

Pháp Vương vì nói pháp vi diệu

Sanh lòng hoan hỉ chúng thanh tịnh

Vì chúng hiện thân đồng thế gian

Thân Phật không lai cũng không khứ

Như Lai trụ pháp không ảo hóa

Nên tôi đảnh lễ Đại Trượng Phu

Lành thay Thế Tôn nói đạo mầu

Vì người hiển bầy đường chánh giác

Vì tôi chỉ dạy thắng pháp môn

Vì thế nay tôi chứng pháp ấy

Thế tôn vì tôi mà thị hiện

Tôi chứng đều vì chúng sanh nói

Phật trí vô não tối vô thượng

Nay tôi khen Phật các công đức

Nguyện cùng thế gian các chúng sanh

Mau chứng tịch diệt đạo vô thượng.

Bấy giờ đức Cát Lợi Ý Như Lai biết lòng thâm tín của vua Diệm Ý rồi, Phật theo chỗ đáng dạy mà thuyết pháp cho vua được chẳng thối chuyển đạo Vô thượng Bồ đề.

Vương Tử Phước Diệm bạnh Phật Cát Lợi Ý rằng: Nay tôi muốn thỉnh đức Phật vào trong thành của tôi, mong đức Phật thương xót nhận cho.

Vì xót thương nên đức Phật Cát Lợi Ý yên lặng thọ thỉnh.

Biết đức Phật đã nhận lời, Vương Tử Phước Diệm tâu cùng Vương Phụ Vương Mẫu và quyến thuộc rằng: Nay tôi đem thành Thắng Hỉ Lạc và đồ trang nghiêm đều phụng cúng cả cho Phật và Tỳ Kheo Tăng trọn không hối tiếc. Mong cha mẹ và quyến thuộc sanh lòng vui mừng.

Vua cha và quyến thuộc đồng thanh xướng rằng: Lành thay, lành thay chúng tôi đều tùy hỉ.

Vương Tử Phước Diệm về trang nghiêm thêm đẹp thành Thắng Hỉ Lạc rồi dâng cúng cho Phật và Tỳ Kheo Tăng. Mỗi ngày Vương Tử sắm năm trăm thức ăn uống dâng Phật và Tăng. Vương Tử lại vì chư tăng mà tạo Tăng Già Lam, đều trang nghiêm với bảy báu, trong mỗi phòng trải năm ngàn lớp nệm gấm lụa nhiều mầu, lại may sắm y mới sạch cho chư Tỳ Kheo tùy sở thích, lại kiến tạo chỗ kinh hành đều trang nghiêm với các thứ báu, trên giăng lưới báu, hai bên trồng các loại cây bông trái thơm đẹp.

Cúng dường Phật Tăng như vậy trải qua ba ức câu chi năm, Vương Tử Phước Diệm chưa bao giớ ngủ nghỉ, chẳng tiếc thân mạng chỉ lo việc cúng dường, không lòng tham dục, không lòng sân hại, không thích ngôi vua, chẳng luận chỗ nào đều có thể vứt bỏ thân mạng huống là những vật khác. Lại ở nơi pháp của Như Lai tuyên nói đều thọ trì cả không hề quên mất chưa từng hỏi lại Phật dầu là một câu. Trong thời gian ba ức câu chi năm ấy,

Vương Tử cũng chẳng tắm gội, chẳng xoa dầu, chẳng rửa chưn, chẳng ngồi chẳng nằm chỉ trừ lúc ăn, lúc đại tiểu tiện, không hề có ý tưóng mỏi mệt. Lúc đức Cát Lợi Ý Như Lai nhập Niết bàn, Vương Tử lấy gỗ xích chiên đàn chất đống trà tỳ thân xác Như Lai, rồi tại nơi trà tỳ ấy dùng các thứ cúng dường thượng diệu để cúng dường Xá Lợi, mọi nơi trong Diêm Phù Đề cũng thiết lập cúng dường Xá Lợi như vậy, lại tạo riêng chín mươi chín câu chi tháp bảy báu, trên giăng màn lưới chân châu tạp bửu, mỗi tháp có năm trăm lọng bảy báu, trăm ngàn thứ âm nhạc, quanh tháp trồng những loại cây hoa đẹp, trưóc mỗi tháp thắp trăm ngàn ngọn đèn đựng ngàn hộc dầu, lại thường dâng cúng các thứ hương các thứ hoa.

Sau khi cúng dường như vậy trải qua nhiều câu chi năm rồi, Vương Tử Phước Diệm xuất gia. Sau khi đã xuất gia chỉ chứa ba y thường đi khất thực thích hạnh đầu đà ngồi luôn chẳng nằm, chẳng hề ngủ nghỉ, chẳng đòi cầu nơi người, thí xả tất cả chẳng mong báo, thường thuyết pháp cho mọi người, như vậy trải qua bốn câu chi năm, nhẫn đến chẳng thọ lãnh một lời hay khen tặng huống là thọ lãnh vật lợi dưỡng của người. Nếu lúc nghe pháp không hề có ý tướng mỏi nhọc. Thường được chư Thiên đến hầu cúng.

Trong nước ấy, Vương Phụ Vương Mẫu, các đại thần thể nữ nhân dân và các quyến thuộc đều theo Vương Tử học xuất gia hành đạo.

Bấy giờ chư Thiên Tịnh Cư thấy sự việc như vậy nghĩ rằng: Nay trong nước ấy tất cả nhân dân đều học theo Vương Tử Phước Diệm xuất hành gia đạo, trọn cả nước ấy đều là Tam bửu cả, nay chúng ta nên làm đàn việt cúng dường họ để lợi ích thế gian.

Sau khi đức Cát Lợi Ý Như Lai nhập Niết bàn, chánh pháp trụ thế sáu vạn bốn ngàn câu chi năm đều do sức nhiệm trì của Vương Tử Phước Diệm Tỳ Kheo.

Từ thuở ấy về sau, Phước Diệm Tỳ Kheo thường cúng dường như vậy, thứ đệ cúng dường chín mươi bốn câu chi chư Phật.

Nầy Hộ Quốc! Thuở ấy, vua Diệm Ý chính là đức Vô Lượng Thọ Như Lai hiện nay, Vương Tử Phước Diệm chính là thân ta Thích Ca Mâu Ni Như Lai, Thiên thần thủ hộ thành tức là đức A Súc Như Lai hiện nay.

Nầy Hộ Quốc! Do cơ ấy nên chư Bồ Tát muốn được Vô thưọng Bồ đề phải nên học theo Vương Tử Phước Diệm mà thâm tâm chí thành tu tập các công hạnh, rời bỏ tất cả lòng thương ghét. Thuở trước do thường siêng tu khổ hạnh như vậy nên ta được thành Vô thưọng Bồ đề. Đời vị lai sau này, có các Tỳ Kheo ái trọng danh lợi tham luyến quyến thuộc, nơi các pháp lành tự nhiên tổn giảm, thường bị oán tặc ngã mạn nó làm tổn hại, thật rất đáng thương. Vì tham lợi mà họ xa rời chánh pháp, luống xuất gia làm ô uế hạnh Sa Môn, chỉ có miệng nói tôi là Bồ Tát mà nội tâm thì thuần là siểm khúc, thân tâm hôn trược, chìm trong bùn phiền não, chỉ có hình tướng mà trái chánh đạo, bỏ chỗ mình đã thệ nguyện tham trước y phục ẩm thực phòng xá ngọa cụ thuốc men không có lòng hổ thẹn, chẳng biết sỉ nhục, không có oai nghi, rời xa cảnh giới Phật. Đây là những ác tri thức cầu danh tham lợi chẳng nên thân cận”.

Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa này mà nói kệ:

“Nhiều làm các phóng dật

Xa rời chỗ thập lực

Lòng luôn tham lợi dưỡng

Và các hàng quyến thuộc

Vứt bỏ Phật Bồ đề

Ngàn vạn thứ công đức

Dối thánh cầu danh lợi

Tánh ác không hổ thẹn

Gian siểm không tu sỉ

Họ chuyên vì lợi danh

Mà vào trong Phật pháp

Tùy thuận các phiền não

Mau chóng đọa ác đạo

Miệng nói ta đại đức

Hơn ở A lan nhã

Lòng họ nhớ tụ lạc

Chúng ấy vì tham luyến

Nên tâm nhiều giác quán

Chúng ấy xa giải thoát

Như trời xa mặt đất

Người tu phải xa họ

Như sợ rắn độc dữ

Họ chẳng ưa Phật pháp

Chẳng ưa công đức Tăng

Vứt bỏ lìa đạo lành

Thường đi nơi đường tà

Mất cả vô lượng thiện

Bị các cõi che đậy

Nghe ta thuở xưa làm

Tâm chân thiệt thành tín

Phải học theo hạnh ta

Nhiều câu chi kiếp số

Pháp như vậy khó được

Phải phát tâm đại nhẫn

Chỗ được ta nói ra

Phải siêng gắng phục hành

Nếu muốn đưộc thành Phật

Trong Đại thừa diệu thắng

Phải nhớ hạnh Vương Tử

Các công đức vô lượng

Suy nghĩ chân thiệt rồi

Phải an trụ trong ấy

Đạo Bồ đề như vậy

Sẽ thấy như Phật nói

Gẫm kỹ các công đức

Chỗ chúng tánh Thánh nhân

Phải làm đúng như lời

Nếu bỏ giáo pháp ấy

Thì mất vị công đức

Sẽ sanh trong ác đạo

Ngu si không có lợi

Sanh ác đạo sẽ hối

Khuyên người tu núi rừng

Cẩn thận chớ tự khen

Cũng chớ chê bai người

Phải thường tự chê trách

Xưa trái ức chư Phật

Do vì tâm ngã mạn

Chớ tiếc thân mạng mình

Chỗ ân ái đều bỏ

Như Phật nói kinh này

Sanh lòng kính chánh pháp

Nếu làm đúng như pháp

Được Bồ đề chẳng khó

Thừa này của Phật nói

Nghe rồi chớ sanh nghi

Vì thế trong Phật pháp

Phải làm như Phật dạy

Siêng năng bỏ thân mạng

Như lời dạy chớ trái

Nếu chẳng tin pháp này

Về sau hối vô ích.

 

     

Nầy Hộ Quốc! Nếu có Bồ Tát thường hành năm Ba la mật không thôi nghỉ, nếu có Bồ Tát ở nơi kinh này có thể làm đúng pháp có thể an trụ đúng pháp, cũng tự xướng tôi có thể làm có thể an trụ đúng pháp này, muốn đem công đức tu năm Ba la mật trước so sánh công đức này thì chẳng bằng một phần trăm, chẳng bằng một phần trăm ngàn, chẳng bằng một phần trăm ngàn câu chi, chẳng bằng một phần toán số thí dụ, cho đến chẳng bằng một phần ưu ba ni sa đà”.

Lúc đức Phật nói kinh này, có ba mươi na do tha thiên nhân A Tu La v.v… chưa từng phát tâm Vô thượng Bồ đề, đều phát tâm và đều được chẳng thối chuyển. Lại có bảy ngàn Tỳ Kheo lậu tận tâm được giải thoát.

Hộ Quốc Bồ Tát bạch rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Pháp này tên là gì, chúng tôi phụng trì thế nào?”.

Đức Phật phán: “Này thiện nam tử! Pháp này vốn tên là Bất không thệ thanh tịnh hạnh, nên thọ trì như vậy. Cũng tên là Thiện trượng phu du hí Bồ Tát hạnh quyết địng tì ni, nên thọ trì như vậy. Cũng lại có tên là Chân thiệt nghĩa cụ túc, nên thọ trì như vậy. Cũng tên là Phước Diệm Bồ Tát Đại Sĩ vãng tích bổn hạnh, nên thọ trì như vậy”.

Đức Phật nói kinh này rồi, Trưởng Lão Hộ Quốc Bồ Tát và chư Thiên Nhân A Tu La Càn Thát Bà v.v…, nghe lời Phật dạy vui mừng phụng hành.

XIX. PHÁP HỘI ÚC GIÀ TRƯỞNG GIẢ THỨ MƯỜI CHÍN

 

     

Như vậy tôi nghe một lúc đức Phật ở nước Xá Vệ tại tinh xá cấp Cô Độc trong rừng Kỳ Đà cùng Tỳ Kheo Tăng ngàn hai trăm năm mươi người câu hội, Bồ Tát năm ngàn người: Di Lặc Bồ tát, Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Đoạn Chánh Đạo Bồ Tát, Quan Thế Âm Bồ Tát, Đắc Đại Thế Bồ Tát, chư đại Bồ Tát như vậy làm thượng thủ.

Bấy giờ đức Thế Tôn cùng vô lượng trăm ngàn đại chúng cung kính vây quanh mà diễn thuyết pháp.

Úc Già Trưởng giả cùng năm trăm quyến thuộc ra khỏi thành Xá Vệ đến Kỳ Hoàn tinh xá lễ chưn Phật nhiễu ba vòng rồi ngồi một phía.

Lại có Ái Kính Trưởng giả, Danh Xưng Trưởng giả, Thiện Giữ Trưởng giả, Gia Xa Đạt Đa Trưởng giả, Thiện Tài Trưởng giả, Ái Hành Trưởng giả, Cấp Cô Độc Trưởng giả, Long Đức Trưởng giả, Thiệt Hỉ Trưởng giả. Các Trưởng giả này đều riêng cùng năm trăm Trưởng giả câu hội ra khỏi thành Xá Vệ đến tinh xá Kỳ Hoàn lễ chưn Phật nhiễu ba vòng rồi ngồi một phía.

Các Trưởng giả ấy cùng các quyến thuộc tất cả đều hướng Đại thừa trồng thiện căn dày, quyết định đến chánh đạo vô thượng.

Bấy giờ Úc Già Trưởng giả biết các Trưởng giả đã vân tập xong, thừa Phật thần lực hướng Phật chắp tay bạch rằng: Bạch đức Thế Tôn! Nay tôi muốn có chỗ thưa hỏi xin thương mà hứa cho”.

Đức Phật phán:”Nầy Trưởng giả! Như Lai sẽ nghe, cho phép ông hỏi, Phật sẽ theo chỗ ông hỏi mà diễn thuyết cho ông hết nghi vui mừng”.

Úc Già Trưởng giả bạch rằng: Bạch đức Thế Tôn! Nếu các thiện nam thiện nữ phát tâm Vô thượng Bồ đề, hiểu Đại thừa, tin Đại thừa, muốn tập họp Đại thừa, muốn ngồi lên Đại thừa, biết Đại thừa hộ các chúng sanh an úy phủ dụ, muốn an lạc trang nghiêm vững chắc tất cả chúng sanh, muốn độ kẻ chưa độ, thoát kẻ chưa thoát, an úy kẻ không được an úy, Niết bàn kẻ chưa Niết bàn, làm cầu đò lớn chở vác tất cả, nghe Phật trí vô lượng muốn tu Phật trí, phát đại trang nghiêm, biết trong sanh tử có vô lượng khổ hoạn nơi vô lượng vô số kiếp không lòng ưu não, vô lượng kiếp lưu chuyển sanh tử mà không lòng mỏi mệt. Nếu trong đây có thiện nam thiện nữ an trụ Bồ Tát thừa hoặc người xuất gia tu tập pháp hành, hoặc người tại gia tu tập pháp hành.

Lành thay đức Thế Tôn, vì thương chúng Thiên nhân A Tu La mà đức Thế Tôn thủ hộ Đại thừa chẳng dứt ngôi Tam bửu, vì Nhất thiết trí mà ở lâu thế gian.

Xin đức Thế Tôn diễn nói chỗ giới đức tu hành của hàng tại gia Bồ Tát.

Thế nào là tại gia Bồ Tát ở bực tại gia, đức Như Lai truyền dạy tùy thuận tu hành chẳng tổn hoại pháp trợ Bồ tát, ở trong hiện pháp không có nghiệp trói che được công hạnh tăng thắng.

Bạch đức Thế Tôn! Thế nào là xuất gia Bồ Tát xa bỏ trân bửu ân ái mà đi xuất gia, nên bảo các vị ấy hành pháp thế nào, tu thiện thế nào, nên trụ thế nào, chẳng nên trụ thế nào”.

Đức Phật phán: “Lành thay, lành thay, nầy Úc Già Trưởng giả! Như lời ông hỏi là chỗ phải làm của các ông. Các ông lắng nghe khéo suy nghĩ. Nay Phật sẽ vì các ông mà nói chỗ trụ học được công hạnh thù thắng của các Bồ Tát tại gia và Bồ Tát xuất gia.

Nầy Trưởng giả! Bồ Tát tại gia phải quy y Phật quy y Pháp quy y Tăng. Đem công đức Tam bửu ấy hồi hướng đạo chánh chân vô thượng.

Thế nào là Bồ Tát tại gia quy y Phật? Tôi muốn được thành thân Phật đủ ba mươi hai tướng trang nghiêm, nắm lấy căn lành ấy tập họp ba mươi hai tướng đại trượng phu, vì tập họp mà siêng tu hành tinh tấn. Đây gọi là quy y Phật.

Thế nào là Bồ Tát tại gia quy y Pháp? Bồ Tát này cung kính Pháp và người thuyết pháp, vì pháp muốn pháp ưa pháp, rất ưa trợ pháp, trụ pháp trì pháp hộ pháp, ở vững nơi pháp, ca ngợi nơi pháp, trụ nơi pháp hạnh, tăng thêm pháp, cầu được pháp, dùng pháp làm sức mạnh, dùng pháp làm khí trượng, chỉ có pháp là công vụ, tôi thành Vô thượng Bồ đề rồi sẽ đem chánh pháp bình đẳng ban cho tất cả chúng sanh Trời Người A Tu La. Đây gọi là quy y Pháp.

Thế nào là Bồ Tát tại gia quy y Tăng? Bồ tát này thấy bực Tu Đà Hoàn, Tư Đà Hàm, A Na Hàm, A La Hán và cùng phàm phu, thấy người Thanh Văn thừa thảy đều kính thuận mau tiếp rước lời tốt tiếng hay đi nhiễu cung kính. Phải tự nghĩ rằng lúc chúng tôi được đạo chánh chân vô thượng vì thành công đức Thanh Văn mà diễn thuyết pháp. Dầu cung kính người Thanh Văn thừa mà không có tâm an trụ trong ấy. Đây gọi là quy y Tăng.

Nầy Trưởng giả! Bồ Tát tại gia thành tựu bốn pháp quy y Phật, đó là chẳng bỏ tâm Bồ đề, chẳng phế khuyên phát tâm Bồ đề, chẳng bỏ đại bi, ở trong các thừa khác trọn chẳng sanh tâm.

Bồ Tát tại gia thành tựu bốn pháp quy y Pháp, đó là ở nơi chư Pháp Sư thời thân cận nương gá, nghe pháp rồi khéo suy nghĩ, đem pháp được nghe nói lại cho người, đem công đức thuyết pháp hồi hướng đạo chánh chân Vô thượng.

Bồ Tát tại gia thành tựu bốn pháp quy y Tăng, đó là nếu có ai chưa nhất định vào Thanh Văn thừa thì khuyên phát tâm vô thượng đạo, hoặc dùng của vật để nhiếp hoặc dùng chánh pháp để nhiếp người, nương gá Tăng Bồ Tát bất thối mà chẳng nương gá Tăng Thanh Văn, cầu công đức Thanh Văn mà tâm không an trụ trong ấy.

Lại nầy Trưởng giả! Bồ Tát tại gia thấy Như Lai rồi tu tập niệm Phật đây gọi là quy y Phật, nghe chánh pháp rồi tu tập chánh pháp đây gọi là quy y Pháp, thấy Tăng Thanh Văn đệ tử Phật rồi mà chẳng quên mất tâm Bồ đề đây là quy y Tăng.

Lại nầy Trưởng giả! Tại gia Bồ Tát thường muốn cùng Phật câu hội mà thật hành bố thí thì gọi là quy y Phật, thủ hộ chánh pháp mà bố thí thì gọi là quy y Pháp, đem đức bố thí ấy hồi hướng đạo vô thượng thì gọi là quy y Tăng.

Lại này Trưởng giả! Tại gia Bồ Tát làm công nghiệp thiện trượng phu mà chẳng làm công nghiệp bất thiện trượng phu.

Thế nào gọi là nghiệp thiện trượng phu chẳng phải nghiệp bất thiện trượng phu?

Nầy Trưởng giả! Bồ Tát tại gia theo đúng pháp mà chứa họp tiền của đất nhà, cầu tìm chân chánh đúng giá mà chẳng phải cầu tìm thô ác hay bức hiếp người. Được sản nghiệp đúng pháp, quan niệm vô thường chẳng có ý tưởng bỏn xẻn, ưa thích thí xả, đem tiền của đúng pháp để dâng cho cha mẹ và cung cấp cho vợ con quyến thuộc, các người giúp việc rồi sau đó dùng chánh pháp bố thí.

Lại nầy Trưởng giả! Bồ Tát tại gia mang vác gánh nặng phát đại tinh tấn. Đó là gánh nặng ngũ ấm của tất cả chúng sanh, bỏ gánh Thanh Văn Duyên Giác, giáo hóa chúng sanh mà không mỏi mệt. Tự bỏ sự vui của mình để vì chúng sanh, tám sự lợi suy hủy dự xưng cơ khổ lạc không làm khuynh động được, vượt khỏi thế pháp giàu có vô lượng mà không kiêu mạn phóng dật, mất lợi danh xưng mà không lo buồn, khéo quan sát hành nghiệp giữ gìn chánh hạnh, thấy người phá giới mà không giận, có đi qua đâu thì khéo an trụ giác sát trừ bỏ khinh tháo đầy đủ trí huệ, giúp nên việc người mà bỏ việc mình, không hi vọng gì, có làm việc chi không hề bỏ giữa chừng, biết ơn nhớ ơn, làm giỏi tốt, ban lộc cho kẻ nghèo, với kẻ thế lực thì dẹp đại kiêu mạn, với kẻ không thế lực thì khuyến dụ họ, trừ tên nhọn lo buồn cho người, nhịn người hạ liệt, trừ bỏ kiêu mạn và tăng thượng mạn, cung kính tôn trọng thân cận người đa văn, thưa hỏi bực minh huệ, chỗ thấy chánh trực, chỗ làm vô vi không có huyễn hoặc, với chúng sanh không ái nhiễm, tu lành không chán, học hỏi không nhàm, chỗ làm vững chắc đồng với hiền thánh, với người không phải thánh thì sanh lòng đại bi, thân hữu vững chắc, oan thân bình đẳng, tâm bình đẳng đối với chúng sanh, với tất cả pháp lòng không tham lẫn, khai thị như chỗ đã được học, suy gẫm chỗ đã nghe học, với các dục lạc tưởng là vô thường, chẳng mến luyến thân, xem sanh mạng như giọt sương, xem tài vật như mây như ảo, với con cái tưởng như lao ngục, với quyến thuộc tưởng như cảnh khổ, với ruộng nhà tưởng là tử thi, với chỗ cầu tiền tài tưởng là phá hư thiện căn, tại nhà mình tưởng là trói buộc, nơi thân tộc tưởng như lính ngục, nơi đêm nơi ngày tưởng không sai khác, với thân chẳng bền tưởng bố thí chỗ bền đó là làm giúp công việc cho người cần giúp, với sanh mạng chẳng bền tưởng bố thí chỗ bền đó là chẳng mất bổn thiện và thêm thiện căn hiện tại, với của cải chẳng bền tưởng là bố thí chỗ bền đó là hàng phục lòng tham lẫn mà thật hành bố thí!

Này Trưởng giả Úc Già! Đó gọi là Bồ Tát tại gia tu tập công hạnh thiện trượng phu, với chư Như Lai không tất cả lỗi, gọi là lời nói tương ưng là pháp ngữ, không có dị tưởng hướng đến đạo vô thượng.

Lại này Trưởng Giả! Bồ Tát tại gia phải thọ thiện giới, đó là ngũ giới. Bồ Tát này luôn chẳng sát sanh buông bỏ dao gậy hổ thẹn kiên thệ chẳng giết hại tất cả chúng sanh, chẳng não nhiễu tất cả chúng sanh, với tất cả chúng sanh lòng thường bình đẳng thường từ bi. Bồ Tát này luôn chẳng trộm, với của cải mình thì biết đủ, với của cải người thì chẳng hi vọng, bỏ lòng tham chẳng khởi ngu si, với phong lộc của người chẳng tham lam, nhẫn đến lá cây chẳng cho chẳng lấy. Bồ Tát này rời lìa tà dâm, tự vừa đủ vợ mình chẳng mong vợ người, chẳng có nhiễm tâm nhìn nữ sắc khác, lòng luôn nhàm sợ coi là khổ não nên thường trái bỏ, nếu đối với vợ mình sanh ý dục nhiễm thì phải có ý tưởng bất tịnh kinh sợ, đó là sức kiết sử nó làm dục chẳng phải là ta nên làm, phải tưởng vô thường khổ vô ngã bất tịnh, phải suy nghĩ rằng tôi chẳng nên có ý nghĩ dâm dục huống là hai thân thể hòa hiệp rờ rẫm. Bồ Tát này phải rời vọng ngữ, phải nói chắc nói thiệt nói như chỗ làm, chẳng dối người, thành tựu tâm lành, suy nghĩ trước rồi mới làm, theo chỗ đã thấy nghe mà nói thiệt, giữ gìn chánh pháp, thà bỏ thân mạng trọn chẳng vọng ngữ. Bồ Tát này phải rời lìa uống rượu, chẳng say chẳng loạn, chẳng hư vọng nơi lời nói, chẳng tự khinh tháo cũng chẳng cợt đùa dọa nạt, phải an trụ chánh niệm rồi sau mới xét biết, lúc muốn xả thí tài vật thì kẻ cần ăn cho ăn, cần uống cho uống, lúc bố thí nên có quan niệm rằng nay lúc làm Đàn Ba la mật này tùy người muốn chi tôi đều thí cho, khiến họ được đầy đủ, nếu đem rượu cho người phải nhiếp người ấy nơi chánh niệm chớ để cuồng say. Tại sao? Vì thỏa mãn hết chỗ muốn của người là Đàn Ba la mật vậy, nên Bồ Tát đem rượu cho người đối với Phật không có lỗi.

Này Trưởng giả! Nếu Bồ Tát tại gia đem công đức thọ trì ngũ giới này hồi hướng Vô thượng Bồ đề, khéo giữ gìn ngũ giới lại thêm rời lìa lưỡng thiệt nếu có tranh tụng thì nên hòa hiệp, rời lìa ác khẩu thốt lời dịu hòa hỏi thăm trước, chẳng hủy nhục người, nói lời lợi ích người, lời pháp ngữ thời ngữ thiệt ngữ, lòi cởi mở, lời điều phục, lời chẳng đùa chơi, lời đúng hành động, chẳng sanh tham si, thường làm an vui tất cả chẳng có ý hủy hoại, thường tu sức nhẫn nhịn để tự trang nghiêm, phải luôn chánh kiến, rời lìa tà kiến, chẳng thờ lạy các Thiên thần khác mà khiến cúng dường Phật.

Lại này Trưỏng Giả Úc Già! Bồ Tát tại gia nếu ở trong đại chúng thành ấp quận huyện nên thường vì mọi người mà thuyết pháp. Chúng sanh bất hiếu chẳng biết cha mẹ, Sư Trưởng, Sa Môn, Bà La Môn, chẳng biết người lớn trẻ nhỏ, chẳng thuận giáo hối chẳng biết kiêng nể thì khuyên dạy họ hiếu thuận. Chúng sanh thiếu học thì làm cho họ được học, tham lẫn thì dạy bố thí, phá giới thì khuyên giữ giới, sân hận thì khuyên nhẫn nhục, giải đãi thì khuyên tinh tấn, tán loạn thì khuyên tu niệm định, không trí huệ thì khuyên tu trí huệ, với kẻ nghèo thì cấp tiền của, kẻ bịnh cho thuốc, không được giúp đỡ thì giúp đỡ, không chỗ về thì làm chỗ về, không chỗ nương thì làm chỗ nương, Bồ Tát tại gia này phải tùy chỗ sở nghi mà lợi ích chúng sanh chớ để một người đọa vào ác đạo.

Này Trưởng giả! Bồ Tát tại gia này với mọi người khuyến đạo như vậy cho đến bảy lần khiến họ an trụ nơi đức hạnh, nếu vẫn chẳng khiến an trụ được thì phải sanh lòng đại bi đối với chúng sanh ấy mà phát tất cả trí huệ trang nghiêm rằng nếu tôi chẳng điều phục ác chúng sanh này thì tôi quyết chẳng thành đạo vô thượng chánh chân. Tại sao? Vì tôi do cớ này mà phát thệ trang nghiêm, không siểm không ngụy chẳng phải chuyện đùa, đủ hạnh giới đức phát đại trang nghiêm, tôi phải siêng phát tinh tấn như vậy khiến việc làm chẳng uổng công, chúng sanh thấy tôi thì liền tin kính.

Này Trưởng giả! Bồ Tát tại gia ở trong thôn xóm thành ấp mà chẳng giáo hóa chúng sanh để họ đọa ác đạo thì bị chư Phật quở trách. Nên Bồ Tát phải trang nghiêm đại trang nghiêm như vậy, nay tôi phải tu hành công hạnh ấy, ở trong thành ấp tụ lạc, chẳng để một người sa đọa ác đạo.

Này Trưởng giả! Như trong thành ấp có thầy thuốc giỏi mà để một người bị bịnh độc chết thì quần chúng quở trách. Cũng vậy Bồ Tát này ở chỗ nào mà chẳng giáo hóa chúng sanh để phải đọa ác đạo thì bị chư Phật quở trách.

Lại này Trưỏng giả! Bồ Tát tại gia khéo tu học hạnh lành. Gia là gì? Là giết căn lành, là chẳng bỏ lỗi, là hại nghiệp trợ thiện, do đó mà gọi là gia.

Sao gọi là ở tại tất cả kiết sử? Vì ở trong ấy nên gọi là ở tại. Lại vì ở tại giác sát bất thiện, ở tại chẳng điều phục, ở tại không hổ thẹn, hàng phàm phu ngu tiểu ở tại bất thiện các ác tội lỗi nên gọi là gia.

Lại tại gia thì tất cả khổ não đều hiện trong ấy, nó hại căn lành trước, nên gọi là gia.

Lại gia ấy, ở tại đó thì không điều ác gì chẳng làm. Ở trong đó thì chẳng kính thuận tốt với cha mẹ Sư Trưởng nên gọi là gia.

Lại gia ấy, nó làm lớn nhánh lá, ưu bi khổ não đều sanh trong đó, chiêu họp sự giết hại trói buộc đánh đập giận mắng, phát sanh tiếng ác, nên gọi là gia.

Lại nơi ấy, các căn lành chưa làm thì hững hờ chẳng làm, căn lành đã làm thì bỏ hư, bị bực trí quở trách, bực trí là chư Phật Thanh Văn, nếu ở trong ấy thì đọa ác đạo, nếu ở trong ấy thì đọa tham sân si, do đó mà gọi là gia.

Lại nếu ở trong ấy thì ngại bỏ khối giới khối định khối huệ khối giải thoát khối tri kiến giải thoát, nên gọi là gia.

Lại nếu ở trong ấy thì bị thâu nhiếp bởi sự tham ái cha mẹ vợ con anh em chị em thân hữu quyến thuộc, thương nhớ nghĩ của cải tham dục không chán như biển nuốt chứa trăm sông không đầy, nên gọi là gia.

Nếu ở tại gia như lửa cháy củi, chỗ lo nghĩ vô định như gió chẳng dừng, ở tại gia tiêu thân như uống độc dược, tất cả khổ não đều quy tụ về, vì thế nên lìa bỏ như xa rời oan gia.

Nếu ở tại gia thì chướng pháp thánh sanh nhiều duyên đấu tranh thường trái nghịch nhau.

Ở tại gia trong ấy duyên thiện duyên ác lộn lạo nhiều sự vụ.

Tại gia vô thường chẳng còn lâu, là pháp chẳng tạm dừng.

Tại gia rất khổ, vì cầu gìn giữ nên nhiều lo rầu, là chỗ của oan và thân.

Tại gia vô ngã lầm chấp là ngã sở hữu.

Tại gia dối trá không có thiệt sự mà hiện tợ thiệt.

Tại gia ly biệt, là chỗ nhiều người ở.

Tại gia như ảo, chứa nhiều tụ họp không có chúng sanh thiệt.

Tại gia như mộng, vì hưng suy thay nhau.

Tại gia như giọt sương, vì mau tan vỡ.

Tại gia như giọt mật, vì là vị ngọt chốc lát.

Tại gia như lưới gai nhọn, vì tham ưa sắc thanh hương vị xúc.

Tại gia như loài côn trùng miệng nhọn tợ kim, vì chẳng khéo giác sát ăn uống.

Tại gia như rắn độc, vì xâm hại lẫn nhau.

Tại gia nhiều hy vọng, vì trong lòng bồn chồn.

Tại gia nhiều kinh sợ, vì là chỗ cướp đoạt của vua giặc lửa nước. Tại gia nhiều nghị luận, vì nhiều sai trái.

Này Trưởng giả! Bồ Tát tại gia gọi là khéo biết tại gia như vậy.

Lại này Trưỏng giả Úc Già! Bồ Tát ở tại gia khéo điều phục bố thí phân biệt nhu nhuyến. Phải quan niệm rằng nếu của đem bố thí cho người rồi đó là của tôi, của còn lại trong nhà thì chẳng phải của tôi, của đã bố thí thì vững chắc, của chưa thí thì chẳng vững chắc, của đã thí thì vui ngày sau, của chưa thí thì vui hiện tại, của đã thí khỏi giữ gìn, của còn lại phải giữ gìn, của đã thí thì khỏi bị tham ái trói buộc, của còn lại thì thêm tham ái. của đã thí chẳng phải bận lòng, của còn lại bận lòng, của đã thí chẳng lo sợ, của còn lại phải lo sợ, của đã thí là cột chánh đạo, của còn lại là cột ma, của đã thí thì vô tận, của còn lại thì hữu tận, của đã thí thì vui, của còn lại phải gìn giữ nên khổ, của đã thí thì lìa gút trói, của còn lại thì thêm gút trói, của đã thí là lộc. của còn lại chẳng phải lộc, của đã thí là sự nghiệp đại trượng phu, của còn lại chẳng phải sự nghiệp đại trượng phu, của đã thí được chư Phật khen, của còn lại được phàm phu khen. Vì thế nên Bồ Tát phải bền vững bố thí.

      

Lại này Trưỏng giả! Bồ Tát tại gia nếu thấy người xin phải có ba ý tưởng: một là ý tưởng thiện tri thức, hai là ý tưởng đời khác giàu có, ba là ý tưởng nên Bồ đề. Lại có ba ý tưởng: một là thuận lời dạy của Phật, hai là quả báo cõi dục, ba là hàng phục ma. Lại có ba ý tưởng: với người xin có ý tưởng thân thuộc, với bốn nhiếp pháp có ý tưởng nhiếp lấy, với vô biên sanh có ý tưởng xuất ly. Lại có ba ý tưởng: trừ tham dục, trừ sân hận, trừ ngu si.

Này Trưỏng giả! Bồ Tát tại gia này đều được kém mỏng tham sân si: lúc bố thí của cải thì lòng không tham trước nên tham kém mỏng, với kẻ xin thì lòng thương nên sân kém mỏng, bố thí rồi hồi hướng đạo vô thượng chánh chân nên si kém mỏng.

Lại này Trưỏng giả! Bồ Tát tại gia thấy người xin phải có ý tưởng tu tập đầy đủ sáu Ba la mật: với vật sở hữu Bồ Tát này đều có tâm xả thí đây gọi là tu tập đến đủ Đàn Ba la mật. Y nơi tâm Bồ đề mà bố thí đây gọi là tu tập đến đủ Thi Ba la mật. mà bố thí đây gọi là tu tập đến đủ Thi Ba la mật. Chẳng giận trách kẻ cầu xin đây là tu tập đến đủ Nhẫn Ba la mật. Lúc bố thí chẳng có ý nghĩ mình sẽ thiếu thốn đây là tu tập đến đủ Tinh tấn Ba la mật. Lúc bố thí rồi lòng chẳng lo tiếc mà càng vui mừng hơn đây gọi là tu tập đến đủ Thiền Ba la mật. Lúc bố thí rồi chẳng thấy có pháp được và chẳng hy vọng quả báo đây gọi là tu tập đến đủ Bát Nhã Ba la mật.

Lại này Trưỏng Giả! Bồ Tát tại gia đối với tám pháp thế gian phải phóng xả. Đối với nhà cửa của cải vợ con chẳng lo chẳng mừng, giả sử hư mất chẳng có lòng buồn lo, Bồ Tát ấy nên quan niệm hữu vi như ảo, là tướng vọng tưởng, cha mẹ vợ con thân thuộc đều chẳng phải sở hữu của tôi, tôi chẳng vì đó mà gây tạo nghiệp bất thiện, đó là bạn lữ hiện tại chẳng phải bạn lữ đời khác, là bạn lữ lúc vui chẳng phải bạn lữ lúc khổ, tôi chẳng lo gìn giữ họ. Chỗ tôi gìn giữ là trí huệ bố thí điều phục người tinh tấn chẳng phóng dật pháp trợ Bồ đề các thiện căn v.v…, những thứ này là sở hữu của tôi luôn theo sát bên tôi. Cha mẹ vợ con thân thuộc chẳng cứu được tôi chẳng phải là nơi tôi quy y chẳng phải là nhà ở của tôi chẳng phải là đất liền của tôi, chẳng phải chỗ che mát tôi, chẳng phải là ngã ngã sở. Thân ngũ ấm này còn chẳng phải ngã ngã sở huống là cha mẹ vợ con thân thuộc mà lại là sở hữu của tôi. Cha mẹ vợ con là do nghiệp nhân của họ. Nghiệp thiện ác của tôi thì tôi thọ báo theo đó. Họ cũng theo nghiệp của họ mà thọ lấy quả báo thiện ác.

Bồ Tát tại gia lúc đi đứng ngồi nằm thường quan niệm như vậy chẳng vì cha mẹ vợ con thân thuộc mà gây tạo nghiệp ác bất thiện dầu rất nhỏ như phần sợi lông.

Đối với vợ nhà, Bồ Tát tại gia phải có ba ý tưởng là vô thường, biến đổi và hư hoại. Lại có ba ý tưởng là bạn vui chơi chẳng phải là bạn đời khác, là bạn uống ăn chẳng phải bạn nghiệp báo, là bạn lúc vui chẳng phải bạn lúc khổ. Lại có ba ý tưởng là oan gia xẻo thái và trá thân. Lại có ba ý tưởng là la sát tì xá giá và quỉ mị. Lại có ba ý tưởng là chẳng phải sở hữu chẳng phải nhiếp thọ là kẻ xin cầu. Lại có ba ý tưởng là gìn thân ác hành gìn khẩu ác hành và gìn ý ác hành. Lại có ba ý tưởng là tham dục giác sân khuể giác và tổn hại giác. Lại có ba ý tưởng là đen tối ô giới và huệ phược. Lại có ba ý tưởng là chướng giới chướng định và chướng huệ. Lại có ba ý tưởng là dua nịnh lưới rập và mèo rình. Lại có ba ý tưởng là tai họa nhiệt não và bịnh hoạn. Lại có ba ý tưởng là yêu mị suy hao và sương giá. Lại có ba ý tưởng là già bịnh và chết. Lại có ba ý tưởng là ma ma nữ và đáng sợ. Lại có ba ý tưởng là lo khóc và khổ. Lại có ba ý tưởng là sói cái lớn cá ma kiệt và mèo cái lớn. Lại có ba ý tưởng là rắn độc đen cá thi thủ và ma đoạt tinh khí. Lại có ba ý tưởng là không cứu không quy không hộ. Lại có ba ý tưởng là mẹ chị và em gái. Lại có ba ý tưởng là giặc là giết và lính ngục. Lại có ba ý tưởng là nước mạnh lượn sóng và nước xoáy. Lại có ba ý tưởng là sình lầy lún sìng và lộn đục. Lại có ba ý tưởng là đui mù xiềng xích gông cùm. Lại có ba ý tưởng là hố lửa hố dao và lửa đuốc cỏ. Lại có ba ý tưởng là bén nhọn và độc. Lại có ba ý tưởng là nhốt ngục hình phạt và dao gươm. Lại có ba ý tưởng là đấu tranh kiện cáo và trói nhốt. Lại có ba ý tưởng là oán thù hội họp ân ái biệt ly và bịnh tật. Tóm lại nhẫn đến có tất cả ý tưởng đấu tranh tất cả ý tưởng cặn dục tất cả ý tưởng gốc bất thiện. Bồ Tát tại gia đối với vợ nhà phải có những ý tưởng quan niệm như vậy. 

Lại này Trưỏng giả! Bồ Tát tại gia đối với con của mình chẳng nên quá yêu thương, nếu quá yêu thương con mình mà chẳng yêu thương con người thì thì tự hủy hoại. Phải dùng ba pháp để tự răn trách: một là đạo Bồ đề là tâm bình đẳng chẳng phải là tâm bất bình đẳng, hai là đạo Bồ đề từ chánh hạnh mà được chẳng phải từ tà hạnh, ba là đạo Bồ đề do vô dị hạnh mà được chẳng phải do tạp hạnh được. Răn trách rồi đối với con mình phải có ý tưởng là oan gia, là ác tri thức, trái nghịch đức từ bình đẳng trí huệ của Phật, hại căn lành của ta. Bồ Tát tại gia nên tùy theo chỗ mà điều phục tâm mình, như yêu thương con mình với tất cả chúng sanh cũng yêu thương như vậy, như yêu thương thân mình với tất cả cũng vậy.

Bồ Tát tại gia phải quan niệm tôi từ chỗ khác đến, con từ chỗ khác đến. Tại sao? Vì tất cả chúng sanh đã từng làm con tôi, tôi cũng từng làm con của tất cả chúng sanh, trọn chẳng có ý nghĩ con tôi chẳng phải con tôi. Tại sao? Vì đến sáu loài làm oán thù lại làm con cái, tôi phải bình đẳng với kẻ thân kẻ sơ. Tôi lấy cớ gì nơi kẻ thân thì yêu thương cấp cho mà nơi người sơ thì tất cả chẳng cấp cho. Nếu tôi có lòng yêu chẳng yêu nơi người sơ tất cả chẳng cấp cho thì chẳng có thể đến pháp được. Tại sao? Vì hạnh bất đẳng thì đến chỗ bất đẳng, hạnh bình đẳng thì đến chỗ bình đẳng. Tôi chẳng nên làm hạnh bất bình đẳng ấy. Tôi học tâm bình đẳng với tất cả chúng sanh mau đến Nhất thiết trí.

Này Trưởng giả! Bồ Tát tại gia đối với của cải chẳng có ý tưởng ngã sở, ý tưởng nhiếp hộ, chẳng bận lòng nơi của cải chẳng tưởng chẳng mến, chẳng sanh kiết sử.

Lại này Trưỏng giả! Nếu có kẻ đến xin chỗ Bồ Tát tại gia để cầu xin, khi đem của cho người, Bồ Tát ấy phải chí tâm nhớ rằng của cải chẳng đem cho đều sẽ tan mất, nếu chẳng làm tròn đầy sở nguyện rồi cũng phải chết. Tôi chẳng xả bỏ của cải, của cải ấy cũng sẽ bỏ tôi, nay tôi phải xả thí để làm của vững chắc rồi sẽ chết. Xả thí của cải này rồi lúc chết vui vẻ không hối hận. Nếu chẳng thể bố thí được thì nên đem bốn sự thưa với kẻ xin rằng nay tôi sức lực kém yếu, căn lành chưa thành thục, tôi là kẻ sơ cơ trong Đại thừa, tâm tôi chưa kham tự tại bố thí, tôi là kẻ trước tướng chấp ngã ngã sở. Thưa Ngài thiện đại trượng phu, nay tôi sám hối cùng Ngài chớ hờn ghét tôi. Tôi sẽ siêng tu tinh tấn để có thể làm đầy đủ sở nguyện của tất cả chúng sanh.

Lại này Trưỏng giả! Bồ Tát tại gia nghe chư Phật quá khứ dạy rằng nếu người chưa gặp Phật và Thánh Tăng thì phải kính lễ chư Phật mười phương, đối với bổn hạnh của chư Phật cho đến chư Phật đắc đạo đều sanh lòng tùy hỉ. Ngày đêm đều ba thời thanh tịnh thân khẩu ý gìn lòng từ thiện, đầy đủ tàm quý mặc y phục sạch sẽ, bao nhiêu thiện căn đã tập họp dùng tâm Bồ đề mà sanh lòng tùy hỉ nhu thuận cung kính dứt ngã mạn mà tu hành, ba thời tụng đọc, ba thời tác pháp, chuyên lòng hối cải những nghiệp bất thiện chẳng tạo ác mới, tất cả phước nghiệp đều tùy hỉ, chứa họp đầy đủ tướng hảo, khuyến thỉnh chư Phật chuyển pháp luân, pháp chư Phật dạy đều thọ trì, xin Phật ở lâu thế gian thêm lớn thiện căn, khiến quốc độ tôi cũng được như vậy.

Lại này Trưỏng giả! Bồ Tát tại gia thọ trì bát quan trai giới tu hạnh Sa Môn thì phải thân cận Sa Môn Bà La Môn đức hạnh trì giới thanh tịnh, y chỉ cung cấp hầu hạ chẳng nhìn thấy lỗi của thầy. Nếu thấy Sa Môn trái vượt giới hạnh chẳng nên chẳng cung kính. Lại y ca sa được xông ướp với giới định huệ giải thoát giải thoát tri kiến của chư Phật Như Lai Ứng Cúng Biến Chánh Giác, không cặn đục, đều bỏ rời tất cả kiết nhiễm, là tràng của bực tiên thánh, vì thế nên phải cung kính gấp bội. Đối với Tỳ Kheo trái vượt giới hạnh ấy nên có lòng thương xót mà nghĩ rằng họ chẳng nên phạm ác hạnh như vậy. Chư Phật Thế Tôn là bực tịch tịnh điều phục thấy biết tất cả, mặc lấy tướng thánh tràng mà chẳng điều phục chẳng tịch tịnh, chẳng thấy chẳng biết phạm sự phi pháp ấy. Như đức Thế Tôn từng dạy chẳng khinh khi người chưa học. Đây chẳng phải lỗi của họ mà do nơi kiết sử. Do nơi kiết sử mà hiện tại phạm tội ác. Trong Phật pháp có pháp xuất ly, họ có thể xuất ly được. Nếu họ cởi mở gút cột ấy mà tu hành chánh quán được đến bực sơ quả thì quyết định thẳng đến đạo chánh chân vô thượng. Tại sao? Vì trí quán hay phá hại kiết sử. Lại đức Thế Tôn còn có lời dạy làm người chớ nên vọng khinh lượng định người, nếu vọng khinh người thì chính là tự hại tự tổn lấy mình. Chỉ đức Như Lai biết rõ, chớ chẳng phải là ta biết được. Vì thế chẳng nên giận ghét khinh hại họ.

Lại này Trưỏng giả! Bồ Tát tại gia nếu vào Tăng phường, nên dừng tại ngõ kính lạy rồi sau sẽ vào. Phải quan niệm rằng nơi đây là chỗ không hành, là chỗ vô tướng hành, là chỗ vô tác hành, là chỗ từ bi hỉ xả bốn phạm hạnh, là chỗ an trí chánh hạnh chánh trụ. Lúc nào tôi sẽ rời bỏ nhà cầu uế, lúc nào tôi sẽ ở chỗ chánh hạnh này. Phải có lòng muốn xuất gia như vậy. Không có ở tại gia mà tu thành đạo chánh chân vô thượng, thẩy đều xuất gia đến rừng vắng vẻ tu tập được thành Phật đạo. Tại gia nhiều trần nhiễm, xuất gia đẹp tốt. Tại gia đủ sự trói buộc, xuất gia vô ngại. Tại gia nhiều cầu uế, xuất gia xả ly. Tại gia bị nhiếp nơi ác, xuất gia được nhiếp nơi thiện. Tại gia ngập sâu trong sình lầy ái dục, xuất gia viễn ly ái dục. Tại gia chung cùng phàm tình, xuất gia chung cùng trí huệ. Tại gia tà mạng, xuất gia chánh mạng. Tại gia nhiều lấm dơ, xuất gia không dơ. Tại gia suy diệt, xuất gia không diệt. Tại gia buồn lo, xuất gia vui mừng. Tại gia là bực thang những sự ác, xuất gia xa lìa. Tại gia trói buộc, xuất gia cởi mở. Tại gia kinh sợ, xuất gia vô úy. Tại gia bị quở phạt, xuất gia không quở phạt. Tại gia nhiều họa hoạn, xuất gia không họa. Tại gia phiền nhiệt, xuất gia không phiền nhiệt. Tại gia nhiều mong cầu nên khổ, xuất gia không mong cầu nên vui. Tại gia rung động, xuất gia không động. Tại gia khổ vì nghèo, xuất gia không khổ vì nghèo. Tại gia khiếp nhược, xuất gia không khiếp. Tại gia hạ tiện, xuất gia tôn quí. Tại gia phiền rộn, xuất gia tịch tịnh. Tại gia lợi tha, xuất gia tự lợi. Người tại gia không nhuận tinh khí, người xuất gia tư nhuận. Tại gia vui nơi kiết sử, xuất gia vui nơi tịch diệt. Tại gia thêm gai nhọn, xuất gia không gai nhọn. Tại gia thành tiểu pháp, xuất gia thành đại pháp. Tại gia không điều phục, xuất gia điều phục. Tại gia xa lìa giới, xuất gia hộ trì giới. Tại gia thêm lớn biển lệ mủ máu, xuất gia cạn khô biển lệ mủ máu. Tại gia bị chư Phật, Thanh Văn Duyên Giác quở rầy, xuất gia được chư Phật, Thanh Văn Duyên Giác tán thưởng. Tại gia không đủ, xuất gia biết đủ. Tại gia ma mừng, xuất gia ma lo.Tại gia chẳng hàng phục, xuất gia hàng phục. Tại gia nô bộc, xuất gia chủ nhân. Tại gia ở mé sanh tử, xuất gia ở mé Niết bàn. Tại gia đọa lạc, xuất gia khỏi đọa lạc. Tại gia tối tăm, xuất gia sáng soi. Người tại gia sáu căn chẳng tự tại, người xuất gia sáu căn tự tại. Tại gia cuồng dật, xuất gia chẳng phóng dật. Tại gia chẳng tương ưng, xuất gia tương ưng. Tại gia ngó xuống, xuất gia nhìn lên. Tại gia nhiều kinh doanh, xuất gia ít kinh doanh. Tại gia ít sức lực, xuất gia sức lực lớn. Tại gia siểm khúc, xuất gia chánh trực. Tại gia nhiều lo, xuất gia không lo. Tại gia cùng chung với tên nhọn, xuất gia không tên nhọn. Tại gia bịnh tật, xuất gia không bịnh tật.

Tại gia là già nua, xuất gia là trai tráng. Tại gia sống phóng dật, xuất gia tu huệ mạng. Tại gia lừa phỉnh, xuất gia không phỉnh.

Tại gia nhiều gian trá, xuất gia không gian trá. Tại gia là bình rượu độc, xuất gia là bình cam lồ. Tại gia tai hoạn, xuất gia không tai hoạn. Tại gia chẳng phóng xả, xuất gia phóng xả. Người tại gia lấy quả độc, người xuất gia lấy quả không độc. Tại gia tương ưng với sự chẳng đáng thích, xuất gia chẳng tương ưng với sự chẳng đáng thích. Tại gia nặng nề ngu si, xuất gia nhẹ nhàng trí huệ. Tại gia mất phương tiện, xuất gia phương tiện thanh tịnh. Tại gia mất chánh ý, xuất gia chánh ý thanh tịnh. Tại gia mất chí ý, xuất gia chí ý thanh tịnh. Người tại gia chảng làm chỗ cứu vớt được, xuất gia hay làm chỗ cứu vớt. Tại gia tạo cùng liệt, xuất gia chẳng tạo cùng liệt. Tại gia chẳng phải chỗ ngụ ở, xuất gia là chỗ ngụ ở. Tại gia chẳng phải chỗ về, xuất gia là chỗ về. Tại gia nhiều sân nộ, xuất gia nhiều nhân từ. Tại gia mang gánh, xuất gia bỏ gánh. Tại gia chẳng hết những tranh tụng, xuất gia không tranh tụng. Tại gia có lỗi, xuất gia không lỗi. Tại gia công việc bận rộn, xuất gia rảnh việc. Tại gia nhiệt não, xuất gia rời nhiệt não. Tại gia nhiều cừu thù, xuất gia không thù. Tại gia chứa tụ, xuất gia không tụ chứa. Tại gia của cải kiên cố, xuất gia đức hạnh kiên cố. Tại gia cùng chung với lo rầu, xuất gia không lo rầu. Tại gia tốn hao, xuất gia thêm lợi ích. Tại gia là dễ được, xuất gia là ức kiếp khó được.

Tại gia là dễ làm, xuất gia là khó làm. Tại gia thuận dòng, xuất gia ngược dòng. Tại gia ở giữa dòng, xuất gia ngồi thuyền bè. Tại gia ở sông kiết sử, xuất gia qua khỏi sông. Tại gia ở bờ này, xuất gia ở bờ kia. Tại gia triền phược, xuất gia không phược. Tại gia hiềm hận, xuất gia không hận. Tại gia pháp vua, xuất gia pháp Phật. Tại gia nhiễm ô vì tham ái, xuất gia lìa ô nhiễm. Tại gia sanh khổ, xuất gia sanh vui. Tại gia thiển cận, xuất gia thâm viễn. Tại gia dễ làm bạn, xuất gia khó làm bạn. Tại gia vợ làm bạn, xuất gia tâm làm bạn. Tại gia nhiều việc, xuất gia lìa việc. Tại gia bức người nên khổ, xuất gia lợi người nên vui. Tại gia tài thí, xuất gia pháp thí. Tại gia cầm tràng ma, xuất gia cầm tràng Phật. Tại gia ổ hang, xuất gia lìa hang ổ. Tại gia phi đạo, xuất gia lìa phi đạo. Tại gia rừng rậm, xuất gia lìa rừng rậm.

Này Trưởng giả! Bồ Tát tại gia lần lượt suy tưởng như vậy, lại nghĩ rằng tôi thiết lễ đồng với hằng ha sa vì các chúng sanh một ngày đều bố thí, khéo điều thuần trong chánh pháp phát tâm xuất gia, đây là chắc thiệt bố thí đã trọn đủ. Nay tôi phải nên vững chắc tu giới hạnh và nghe học chánh pháp.

Bồ Tát ấy vào Tăng phường lễ tháp Phật nên có ba ý tưởng: tôi cũng sẽ được cúng dường như vậy, tôi cũng sẽ được thương xót tất cả chúng sanh mà để Xá lợi lại, tôi học như vậy, làm như vậy, tinh tấn như vậy, mau chứng Vô thượng Bồ đề, giả sử làm tất cả Phật sự xong thì như chư Phật Thế Tôn nhập vào Niết bàn.

Bồ Tát ấy vào Tăng phường quan sát tất cả công đức của chư Tỳ Kheo: ai là đa văn, ai là thuyết pháp, ai là trì luật, ai trì a hàm, ai trì Bồ Tát tạng, ai tịch tịnh, ai thiểu dục khất thực mặc y phấn tảo ở riêng ly dục, ai siêng tu hành, ai tọa thiền, ai chấp tác, ai là chủ chùa. Quan sát hết công hạnh của chư Tỳ Kheo, tùy theo chỗ muốn của các thầy chẳng có ý nghĩ chê trách.

Bồ Tát ấy nếu ở tại chùa miễu và lúc qua tụ lạc có nói năng phải khéo gìn khẩu nghiệp. Nếu có Tỳ Kheo thiếu y bát thuốc men đồ vật cần dùng nên tùy theo chỗ đáng cho mà cung cấp chớ để họ sanh lòng bực tức. Tại sao? Vì chư Thiên và loài người có phiền não tật đố, phải giữ gìn gấp bội cho họ. Lòng người phàm phu chẳng phải A La Hán. Phàm phu phạm lỗi chẳng phải A La Hán. Bồ Tát ấy gần bực đa văn để tu tập học hỏi, thân người thuyết pháp để tu hành quyết định, gần người trì luật để điều phục kiết sử chẳng sa vào trong chỗ phạm tội, thân cận người trì Bồ Tát tạng để học tu hành sáu Ba la mật và học phương tiện, gần người tịch tịnh để tu học ở một mình, thân cận người tu hành để tu học đoan tọa.

Nếu có Tỳ Kheo chưa định địa vị, Bồ Tát ấy thấy họ cần y thì cho y, cần bát thì cho bát, khuyên Tỳ Kheo ấy phát tâm vô thượng đạo, tại sao? Vì dùng tài và pháp nhiếp Tỳ Kheo ấy hướng đến chỗ tối thắng vậy.

Nầy Trưởng giả! Bồ Tát tại gia khéo biết hạnh Sa Môn như vậy. Nếu có các Sa Môn đấu tranh thưa kiện thì hòa hiệp họ dầu phải xả bỏ thân mạng để thủ hộ chánh pháp.

Nầy Trưởng giả! Bồ Tát tại gia thấy Tỳ Kheo bịnh thì chăm sóc cho được lành dầu phải thí xả máu thịt nơi thân mình.

Nầy Trưởng giả! Bồ Tát tại gia chưa mở tâm bố thí thì chẳng trước mời thỉnh người để bố thí, lúc thí rồi thì hối hận. Tất cả gốc lành đều lấy tâm Bồ đề làm thượng thủ.

Nầy Trưởng giả! Tại gia Bồ Tát lúc ở địa vị tại gia thì thật hành theo đúng lời Phật dạy chẳng quên chẳng mất pháp trợ Bồ đề, pháp hiện tại không ô nhiễm, được tăng thêm pháp thù thắng”.

Bấy giờ Trưỏng giả Úc Già cùng các Trưởng giả đồng thanh khen ngợi vui mừng rằng: “Đức hi hữu Thế Tôn khéo nói lỗi họa tại gia, nhưng chúng tôi chưa biết giới hạnh xuất gia, công đức xuất gia.

Bạch đức Thế Tôn! Chúng tôi cũng quan sát tại gia nhiều lỗi, xuất gia đức lớn. Xin đức Thế Tôn thương xót, chúng tôi nguyện được xuất gia”.

Đức Phật bảo: “Này các trưởng giả! Xuất gia rất khó, phải hoàn toàn tịnh hạnh”.

Các Trưởng giả bạch rằng: “Thiệt như lời Phật dạy, Xin đức Thế Tôn cho chúng tôi xuất gia, chúng tôi sẽ thật hành đúng như lời Phật dạy”.

Đức Thế Tôn liền cho xuất gia bảo Di Lặc Bồ Tát rằng: “Này thiện trượng phu tất cả Bồ Tát thanh tịnh làm cho các Trưởng giả này được xuất gia”.

Di Lặc Bồ Tát và chư Bồ Tát khiến chín ngàn Trưởng giả đều xuất gia thọ giới xuất gia.

Lại có ngàn Trưởng giả phát tâm Vô thượng Bồ đề.

Trưỏng giả Úc Già bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Đức Thế Tôn đã nói tội lỗi và công đức của tại gia rồi. Lành thay đức Thế Tôn, xin nói đức hạnh giới văn của Bồ Tát xuất gia. Ở trong diệu pháp, Bồ Tát điều phục xuất gia lễ bái ngồi đứng đến đi như thế nào?”

Đức Phật bảo: “Trưởng giả khéo suy gẫm ghi nhớ, sẽ vì ông mà nói Bồ Tát xuất gia phải học phải đứng đi như vậy”.

“Bạch đức Thế Tôn! Chúng tôi xin kính lắng nghe.

Nầy Trưởng giả! Bồ Tát xuất gia phải học như vầy: Do duyên cớ gì mà tôi bỏ sự nghiệp xuất gia? Do vì tu trí huệ, nên tôi siêng tinh tấn như chữa đầu bị cháy.

Lại phải quan niệm nay tôi phải an trụ nơi bốn thánh chủng thích thật hành đầu đà.

Thế nào là Bồ Tát xuất gia tu bốn thánh chủng? Bồ Tát xuất gia tùy theo y phục đã có nên tri túc, ca ngợi tri túc, chẳng vì cớ y phục mà vọng ngữ. Nếu chẳng được y phục thì chẳng tưởng chẳng nhớ chẳng lo rầu. Giả sử được y phục thì lòng chẳng tham trước, dầu mặc y phục mà lòng chẳng ràng buộc chẳng tham chẳng luyến, biết lỗi của nó biết xuất ly. Tùy nơi sự tri túc ấy chẳng tự khen tặng, chẳng khinh chê người.

Bồ Tát xuất gia tùy theo khất thực được đồ uống ăn, tùy theo bịnh được thuốc men, nhẫn đến tùy theo tọa cụ giường phòng đã được đều nên tri túc và ca ngợi tri túc, chẳng vì tọa cụ mà vọng ngữ. Nếu chẳng được thì chẳng tưởng chẳng nhớ chẳng lo rầu. Nếu được thì chẳng nhiễm trước, chẳng chứa để với nhiễm tâm, chẳng tham chẳng luyến, biết lỗi của nó, biết hạnh xuất ly. Tùy theo sự tri túc ấy chẳng tự khen tặng, chẳng khinh chê người. Ưa dứt ưa lìa ưa tu tập. Ở nơi sự ưa dứt ưa lìa ưa tu tập ấy cũng chẳng tự khen tặng và chê người.

Lại nầy Trưởng giả! Bồ Tát xuất gia dùng mười công đức để gìn và mặc y nơi thân: vì tàm quí, vì che thân, vì muỗi mòng, vì gió dữ, chẳng vì êm dịu, chẳng vì tốt, vì tiêu biểu giới tướng của Sa Môn, y hoại sắc ấy khiến Trời Người A Tu La v.v… sanh ý tưởng kính thờ mà thọ trì vậy, vì giải thoát mà nhuộm hoại sắc chẳng phải vì tham dục mà nhuộm, vì tịch tịnh Niết bàn chẳng phải vì kiết sử sanh tử, mặc y ấy chẳng sanh điều ác tu các sự lành, chẳng vì đẹp tốt mà mặc y ấy, biết thánh đạo rồi tôi làm đúng như vậy, chẳng để phiền não ô nhiễm dầu chừng một niệm. Đây gọi là Bồ Tát xuất gia mười sự công đức gìn mặc y nơi thân.

Lại nầy Trưởng giả! Vì thấy mười sự nên Bồ Tát xuất gia trọn đời chẳng xả bỏ khất thực!

Nay tôi tự sống chẳng do người mà sống, nếu có ai thí cho tôi ăn phải khiến họ an trụ nơi ba pháp quy y rồi sau mới ăn, với người không thí cho tôi ăn thì tôi sanh lòng đại bi đối với họ, vì chúng sanh ấy mà tôi siêng tu tinh tấn khiến họ việc làm xong rồi sau mới ăn món ăn của họ cho, lại tôi chẳng trái lời truyền dạy của đức Phật, vì trồng đầy đụ nhân căn bổn, vì y cứ nơi hàng phục ngã mạn để chứa nhóm nhân duyên tướng vô kiến đảnh, vì chẳng bị cùng hòa hiệp với đàn bà đàn ông gái trai, bình đẳng khất thực sanh lòng bình đẳng đối với các chúng sanh, vì họp nhân duyên trang nghiêm Nhất thiết trí vậy. Thấy mười sự lợi ích ấy, Bồ Tát xuất gia trọn đời chẳng bỏ pháp khất thực.

Nếu có ai chí tâm kính tin đến thỉnh mời thì nên đi. Nếu người thỉnh mời chẳng chí tâm, nhưng quan sát có nhân duyên tự lợi và lợi cho họ thì nên đi.

Lại nầy Trưởng giả! Bồ Tát xuất gia thấy mười sự lợi ích nên trọn chẳng bỏ chỗ tịch tịnh:

Vì tự tại trừ bỏ, vì gìn vô ngã, vì bỏ ái luyến ngọa cụ, vì tịch tịnh không ái nhiễm, vì ở không có gì đáng cầu lợi, vì bỏ thân mạng nơi tịch tịnh, vì lìa đông người ồn ào, vì làm việc làm trong pháp của Như Lai, vì tịch định thích ý, vì chuyên niệm không bị chướng nạn vây. Đây là ý thấy mười công đức lợi ích nên Bồ Tát xuất gia trọn đòi chẳng bỏ rời ở chỗ tịch tịnh.

Nầy Trưởng giả! Nếu Bồ Tát ở chỗ tịch tịnh vì muốn nghe pháp, vì có nhân duyên Hòa Thượng A Xà Lê, vì thăm bịnh mà phải vào tụ lạc thì nên nghĩ rằng: Tối nay tôi sẽ trở về. Nếu vì đọc tụng mà ở phòng xá, thì nên quan niệm rằng: Nay tôi vốn ở chỗ tịch tịnh, chỗ tịch tịnh tương ưng với chánh pháp, với tất cả vật không có ý tưởng cạnh tranh, với tất cả pháp không có ý tưởng chướng ngại, thường tập hợp pháp lành không hề mỏi chán.

Nầy Trưởng giả! Bồ Tát xuất gia ở chỗ tịch tịnh, quan niệm rằng: Duyên cớ gì mà tôi ở tại chỗ tịch tịnh, chẳng phải chỉ ở chỗ vắng vẻ mà gọi là Sa Môn, nơi đây cũng có những thứ chẳng điều phục, chẳng tịch tịnh, chẳng vững chắc, chẳng tương ưng cùng ở, đó là loài hươu nai, khỉ vượn, chim thú sư tử, cọp sói, giặc cướp, chúng nó không có công đức Sa Môn. Vì thế nên tôi phải có đầy đủ tư cách người ở tịch tịnh thật hành công hạnh nghĩa lợi Sa Môn, đó là nhiếp niệm chẳng loạn được đà la ni tu đại từ đại bi ngũ thông tự tại đầy đủ sáu Ba la mật chẳng rời bỏ tâm Nhất thiết trí, tu hành phương tiện, thường dùng pháp thí nhiếp lấy tất cả chúng sanh giáo hóa tất cả chúng sanh chẳng rời bỏ nhiếp pháp, tu hành sáu chánh niệm siêng học hỏi suy gẫm tu tập chánh hạnh chẳng lấy trí chứng quả, hộ trì chánh pháp, tin nghiệp báo đây gọi là chánh kiến, dứt tất cả vọng tưởng phân biệt đây gọi là chánh tư duy, tùy theo chánh pháp đã hiểu biết mà giải thuyết cho mọi người đây gọi là chánh ngữ, trừ hết nghiệp hữu lậu đây gọi là chánh nghiệp, dứt trừ kiết sử phiền não đây gọi là chánh mạng, siêng thẳng đến chánh định đây gọi là chánh tinh tấn, chẳng quên các pháp đây gọi chánh niệm, được Nhất thiết trí đây gọi là chánh định, giải không chẳng kinh, vô tướng chẳng sợ, vô nguyện chẳng khiếp, tâm chẳng chấp có, y nghĩa chẳng y ngữ, y trí chẳng y thức, y pháp chẳng y người, y kinh liễu nghĩa chẳng y kinh chẳng liễu nghĩa.

Đây gọi là Bồ Tát an trụ pháp Sa Môn.

Lại nầy Trưởng giả! Bồ Tát xuất gia chẳng nên thân cận trong chúng đông người, phải nghĩ rằng tôi phải rời xa họ, thiện căn của tôi vì trọn chẳng bỏ tất cả chúng sanh mà tu tập thiện căn.

Xuất gia Bồ Tát có bốn chỗ thân cận được đức Như Lai hứa khả: Bồ Tát xuất gia thân cận nghe chánh pháp, thân cận thành thục tất cả chúng sanh, thân cận cúng dường Như Lai, thân cận chẳng bỏ tâm Nhất thiết trí. Bồ Tát nên thân cận nơi đây chớ thân cận chỗ khác.

Lại nầy Trưởng giả! Bồ Tát xuất gia ở chỗ tịch tịnh phải quan niệm rằng: Do cớ gì mà tôi đến chỗ nầy? Tôi đến đây vì sợ sự gì, sợ ai? Vì sợ đông người ồn náo, vì sợ thân cận, vì sợ tham sân si, vì sợ cuồng mạn, vì sợ não nhiệt, vì sợ san tham, vì sợ sắc thanh hương vị xúc, vì sợ ấm ma phiền não ma tử ma và thiên ma, vì sợ vô thường cho là thường, vô ngã chấp ngã, vui trong khổ, trong dơ thấy sạch, vì sợ tâm ý thức, vì sợ sự đánh đập hiện tại, vì sợ ngã kiến, vì sợ ngã ngã sở, vì sợ ác tri thức, vì sợ lợi dưỡng, vì sợ phi thời ngũ, vì sợ chẳng thấy nói thấy, chẳng nghe nói nghe, chẳng nhớ nói nhớ, chẳng biết nói biết, vì sợ Sa Môn cấu nhiễm, vì sợ ba cõi Dục Sắc và Vô Sắc, sợ tất cả các loài sanh tử, vì sợ địa ngục súc sanh ngạ quỉ, vì sợ các thứ đáng sợ ấy mà tôi đến ở chỗ tịch tịnh này chẳng ở trong chúng tại gia ốn ào. Nếu tôi chẳng tu hành chẳng tu niệm xứ thời chẳng tương ưng vì thoát khỏi các sự đáng sợ ấy mà đến ở đây. Quá khứ vô lượng đại Bồ Tát đều ở chỗ tịch tịnh thoát khỏi bố úy được vô úy Bồ đề Vô thượng. Vị lai chư Bồ Tát cũng ở nơi tịch tịnh thoát khỏi bố úy được vô úy Bồ đề Vô thượng. Hiện tại chư Bồ Tát cũng ở nơi tịch tịnh thoát tất cả bố úy tu hành vô úy được Vô thượng Bồ đề. Vì thế nên nay tôi muốn được vô úy thoát tất cả bố úy mà ở chỗ tịch tịnh này.

Lại nầy Trưởng giả! Bồ Tát xuất gia ở chỗ tịch tịnh không bố không úy phải học như vầy: Nếu người có bố úy là do chấp ngã đều do trước ngã, ngã là đầu mối, đều do yêu ngã, khởi ngã, thấy ngã, tưởng ngã, trì ngã, vọng tưởng nơi ngã, thủ hộ nơi ngã. Nếu ở chỗ tịch tịnh mà chẳng bỏ chấp ngã thì mất lợi lành.

Nầy Trưởng giả! Nếu ở chỗ tịch tịnh mà không có ngã tưởng là thiệt ở tịch tịnh, nếu không có thấy chấp ngã là thiệt ở tịch tịnh, nếu không trụ ngã ngã sở là thiệt ở tịch tịnh.

Nầy Trưởng giả! Nói rằng chỗ tịch tịnh là chẳng y trước nơi tất cả pháp, chẳng trụ các pháp, với các pháp vô ngại, chẳng y sắc thanh hương vị xúc mà trụ, an trụ tất cả pháp bình đẳng vô cấu, an trụ khéo điều phục tâm, bỏ tất cả bố úy an trụ vô úy, an trụ thoát tất cả dòng sông lớn kiết sử, an trụ thánh chủng, an trụ thiểu dục, an trụ tri túc, dễ đủ dễ nuôi, an trụ đầy đủ trí, an trụ đúng như chỗ học mà tu hành, an trụ giải thoát vì quán môn không vô tướng vô tác, an trụ giải thoát tri kiến vì dứt hệ phược, an trụ biên tế vì thuận nhân duyên, an trụ việc làm đã xong vì cứu cánh thanh tịnh vậy.

Nầy Trưởng giả! Như chỗ trống không những rừng cây cỏ thuốc không kinh không sợ, Bồ Tát xuất gia ở chỗ tịch tịnh phải tự sanh tâm niệm coi mình như cỏ cây tường vách, như ảo huyễn, trong đây có ai kinh ai sợ. Phải dùng vô úy mà quan niệm thân mình: thân thể này không ngã không ngã sở, không chúng sanh, không thọ mạng, không người, không trượng phu, không niên thiếu. Nói rằng kinh sợ đó chỉ là danh từ trống rỗng không sự thiệt. Nay tôi chẳng nên lấy không sự thiệt để sanh kinh sợ. Như chỗ trống kia những rừng cây cỏ thuốc không an trụ, không hộ trợ, tôi phải biết tất cả pháp như vậy rồi mới là khéo ở chỗ tịch tịnh. Tại sao? Vì dứt lo dứt tranh nên gọi là tịch tịnh, vì không sanh không hộ nên gọi là tịch tịnh.

Lại nầy Trưởng giả! Bồ Tát xuất gia ở chỗ tịch tịnh phải học như vầy: trước thuận giới tụ, kế tu định tụ, tập họp huệ tụ, tu hành giải thoát, phát sanh giải thoát tri kiến, mở bầy pháp trợ Bồ đề, siêng mưòi hai công đức đầu đà. Ở chỗ tịch tịnh là để biết chắc phương tiện, vì khéo biết ngũ ấm, vì đồng pháp giới, vì phục trừ các nhập, vì chẳng quên tâm Bồ đề, vì quán không vô úy, vì chẳng mất tất cả căn lành, vì là chỗ Phật Bồ Tát và thánh nhân khen tặng, vì là chỗ nương dựa của người muốn giải thoát. Người muốn Nhất thiết trí phải an trụ chỗ tịch tịnh.

Lại nầy Trưởng giả! Bồ Tát xuất gia ở chỗ tịch tịnh dùng chút ít sự việc có thể đầy đủ sáu Ba la mật. Tại sao? Bồ Tát xuất gia ở chỗ tịch tịnh chẳng tiếc thân mạng, đây gọi là tu tập đầy đủ Đàn Ba la mật. Bồ Tát này giữ giới đầu đà gìn thân khẩu ý, đây gọi là tu tập đầy đủ Thi Ba la mật. Bồ Tát nầy ở nơi chúng sanh không có lòng sân hận mà nhẫn thọ nhất thiết trí, đây gọi là tu tập đầy đủ Nhẫn Ba la mật. Bồ Tát nầy có ý nghĩ rằng tôi ở đây cần phải được vô sanh pháp nhẫn, đây gọi là tu tập đầy đủ Tinh tấn Ba la mật. Bồ Tát nầy xả thiền định để giáo hóa chúng sanh tu tập các thiện căn, đây gọi là tu tập đầy đủ Thiền Ba la mật. Bồ Tát nầy thường quan niệm: Thân thể này của tôi thế nào thì hư không cũng vậy. Thân thể này của tôi thế nào thì Bồ đề cũng vậy, như chân như không vọng tưởng, như hư không không vọng tưởng, đây gọi là tu tập đầy đủ Bát Nhã Ba la mật.

Lại nầy Trưởng giả! Bồ Tát xuất gia nếu kiết sử tăng thượng thì chẳng nên gần gũi chỗ tịch tịnh mà phải dẹp phục kiết sử.

Lại nầy Trưởng giả! Bồ Tát xuất gia ở chỗ tịch tịnh phải tu ngũ thần thông để giáo hóa hàng Thiên, Long, Dạ Xoa, Càn Thát Bà.

Lại nầy Trưởng giả! Bồ Tát xuất gia ở chỗ tịch tịnh phải như lòi đức Phật dạy mà ở chỗ tịch tịnh, tôi phải đầy đủ tất cả công đức lành thanh tịnh, được pháp lành huân tập rồi đến thành ấp tụ lạc thuyết pháp. Đây gọi là Bồ Tát xuất gia có bốn pháp như vậy mà ở chỗ tịch tịnh.

Lại nầy Trưởng giả! Bồ Tát xuất gia từ chỗ tịch tịnh đứng dạy thọ pháp đọc tụng đến chỗ Hòa thượng A Xà Lê thượng trung hạ tọa quan niệm rằng đây là phước điền của tôi chẳng nên giải đãi, đây là hạnh nghiệp của tôi chẳng ganh với người tôi phải hầu hạ người. Đức Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Giác là phước điền cúng dường của tất cả Trời, Người, Ma Vương, Phạm Vương, Sa Môn, Bà La Môn, là cha của tất cả chúng sanh, Phật chẳng móng tâm cầu tìm người hầu. Nay tôi muốn học tập, tôi chẳng cầu người hầu hạ tôi mà tôi sẽ làm kẻ hầu hạ cho tất cả chúng sanh. Tại sao? Nầy Trưởng giả! Nếu Tỳ Kheo trọng sự hầu hạ thì mất pháp công đức. Nếu dùng của để nhiếp thọ sẽ bảo rằng vì muốn sai bảo tôi nên dùng tiền của nhiếp tôi chớ chẳng phải vì pháp, do đó mà mất sự tin tưởng đối với mình. Nếu dùng tiền của nhiếp kẻ hầu hạ thì không có quả báo lợi ích lớn. Nếu biết rõ ý muốn của Hòa thượng A Xà Lê thì theo đó mà làm chớ để Hòa thượng A Xà Lê chẳng tin mình chẳng kính ái mình. Vì tán tụng pháp mà xả bỏ thân mạng, vì tán thán nơi pháp mà thí xả lợi dưỡng để vừa ý người để được lợi ích công đức.

Nầy Trưởng giả! Bồ Tát xuất gia nếu từ nơi người mà được thọ trì đọc tụng một kệ bốn câu tương ưng với thí giới nhẫn tấn định huệ trợ đạo Bồ đề, thọ trì văn tự chương cú kệ tụng, thì phải vì pháp mà cung kính như là bực Hòa thượng A Xà Lê, trong vô lượng kiếp hầu hạ người ấy, cúng dường tất cả chẳng sanh lòng dua dối. Như vậy còn chẳng báo được ơn huống là còn cần phải kính trọng nơi pháp.

Nầy Trưởng giả! Nếu được lòng tin phát khởi niệm lành: niệm Phật Pháp Tăng, niệm nơi vô lậu, niệm tịch diệt điều phục, thì trong vô lượng kiếp hầu hạ cúng dường còn chưa báo hết ơn của Hòa Thượng. Phải quan niệm rằng nếu được nghe pháp rồi thì có vô lượng phước báo được vô lượng trí huệ, tôi phải cúng dường Hòa Thượng vô lượng kiếp.

Lại nầy Trưởng giả! Bồ Tát xuất gia phải an trụ đúng như pháp xuất gia. Thế nào là an trụ đúng như pháp xuất gia? Bồ Tát xuất gia ấy nghe tịnh giới rồi phải học bốn tịnh giới: đó là an trụ thánh chủng, thích hạnh đầu đà, chẳng thân cận hàng tại gia xuất gia, chẳng dua dối mà ở chỗ tịch tịnh.

Lại nầy Trưởng giả! Bồ Tát xuất gia nghe tịnh giới rồi phải học bốn tịnh giới như vầy: thân giới thanh tịnh mà chẳng thấy có thân, khẩu giới thanh tịnh mà chẳng thấy có khẩu, lìa rời thân kiến, phát tâm Nhất thiết trí.

Lại nầy Trưởng giả! Bồ Tát xuất gia nghe tịnh giới rồi phải học bốn tịnh giới như vầy: rời lìa ý tưởng ngã, vứt bỏ ngã sở, xa đoạn thường kiến, hiểu pháp nhân duyên.

Lại nầy Trưởng giả! Bồ Tát xuất gia nghe tịnh giới rồi phải học bốn tịnh giới như vầy: ấm không chỗ có, giới đồng pháp giới, nhập như hư không, chẳng ở nơi giả danh.

Lại nầy Trưởng giả! Bồ Tát xuất gia nghe tịnh giới rồi phải học bốn tịnh giới như vầy: biết ngã bất khả đắc, tôi khai ngộ cho người khiến tâm thanh tịnh, tâm chẳng thích an trụ nơi tất cả pháp, không có dao động.

Lại nầy Trưởng giả! Bồ Tát xuất gia nghe tịnh giới rồi phải học bốn tịnh giới như vầy: hiểu không, chẳng sợ vô tướng vô tác, với tất cả chúng sanh khởi lòng đại bi, nhập vào vô ngã.

Lại nầy Trưởng giả! Bồ Tát xuất gia nghe tịnh tam muội rồi phải học tịnh tam muội như vầy: tất cả pháp đều vô sở hữu, không có hai tâm, tâm chánh nghiệp, tâm nhất xứ, tâm không dao động, tâm không hí luận, tâm không loạn náo, tâm không y chỉ, tâm tự tại, tâm không trì tán, chẳng an trụ tâm giới, thấy tâm như ảo, xem tất cả pháp đồng như pháp giới không hành không trụ cũng không khởi, chẳng có được trong ngoài trung gian, tam muội đồng đẳng, an trụ pháp như vậy gọi là tam muội. Đây gọi là Bồ Tát xuất gia quán định tu thanh tịnh.

Lại nầy Trưởng giả! Bồ Tát xuất gia nghe tịnh huệ tụ, nghe rồi phải quan sát những gì gọi là thanh tịnh huệ tụ. Bồ Tát ấy phải tu học như vầy: biết rõ các pháp nhân duyên, trí sai biệt, trí biện tài, trí tốc tật, trí biết chúng sanh, trí nhiếp phục ngoại chúng sanh.

Nầy Trưởng giả! Bồ Tát xuất gia lại phải học như vầy: huệ tụ thanh tịnh cũng gọi là không hệ phược vì không có thân, không có chỗ chấp trì không động không dừng không hình không tướng không sanh không hành, ví như hư không vậy. Nếu quan niệm như vậy thì gọi là Bồ Tát an trụ nơi xuất gia”.

Lúc đức Phật nói pháp trên đây, có tám ngàn chúng sanh phát tâm Vô thượng Bồ đề, chư Trưởng giả được vô sanh pháp nhẫn, ba vạn hai ngàn chúng sanh xa lìa trần cấu được pháp nhãn tịnh.

Úc Già Trưởng giả vui mừng hớn hở đem y giá trị trăm ngàn dưng cúng đức Phật mà bạch rằng: “Nguyện đem căn lành này thí cho khắp tất cả chúng sanh, khiến các Bồ Tát tại gia thành tựu đầy đủ giới pháp mà đức Phật đã dạy, cũng nguyện chư Bồ Tát xuất gia đầy đủ tất cả pháp mà đức Phật đã dạy. Bạch đức Thế Tôn! Thế nào Bồ Tát tại gia ở tại nhà mà tu học giới xuất gia?”

Đức Phật phán: “Nầy Trưởng giả! Bồ Tát tại gia đủ năm pháp thì ỏ tại nhà mà tu học giới xuất gia. Bồ Tát ở tại nhà chẳng tiếc tất cả tài vật sở hữu tương ưng với tâm Nhất thiết trí chẳng mong quả báo. Bồ Tát ở tại nhà đủ phạm hạnh thanh tịnh chẳng có ý tưởng dâm dục huống là hai hòa hiệp. Bồ Tát tại gia đến chỗ vắng vẻ tu tập tứ thiền dùng sức phương tiện chẳng nhập vào chánh vị. Bồ Tát tại gia ở tại nhà phải tột tinh tấn học trí huệ tương ưng đức từ đối với chúng sanh. Bồ Tát ở tại nhà gìn giữ chánh pháp cũng khuyên bảo mọi người. Trên đây là Bồ Tát ở tại nhà đủ năm pháp tu học giới xuất gia”.

Úc Già Trưởng giả bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Tôi ở tại gia sẽ giữ đúng như Phật dạy làm thêm rộng Phật đạo, các giới xuất gia tôi cũng phải học.”

Bấy giờ đức Thế Tôn liền mỉm cười. Theo lệ thường của chư Phật lúc mỉm cười có nhiều tia sáng màu xanh vàng đỏ trắng từ diệm môn phóng ra chiếu khắp vô lượng vô biên thế giới, trên đến trời Phạm Thế che khuất ánh sáng mặt nhựt mặt nguyệt rồi trở về quanh thân Phật ba vòng sau đó rót vào đảnh đầu đức Phật.

Thấy vậy Ngài A Nan rời chỗ ngồi chỉnh y phục trịch y vai hữu gối hữu chấm đất bạch đức Phật rằng: Duyên cớ gì đức Thế Tôn cười? Chư Phật Thế Tôn không bao giới không duyên cớ mà mỉm cười”.

Đức Phật dạy: “Này A Nan! Ông có thấy Trưởng giả Úc Già cúng dường Như Lai muốn tu hành giáo pháp làm sư tử hống chăng?

- Bạch đức Thế Tôn! Tôi đã thấy.

- “Này A Nan! Trưởng giả Úc Già ở tại đây, trong Hiền kiếp này chư Phật Như Lai xuất hiện thế gian, ông ấy thường ở tại gia cúng dường cung kính hộ trì chánh pháp. Ông ấy ở tại gia mà an trụ giới xuất gia rộng học Vô thượng Bồ đề của chư Phật Như Lai”.

Đại đức A Nan nói với Trưởng giả Úc Già: “Ngài thấy lợi ích gì mà thích ở tại nhà, Ngài có thánh trí chăng?”.

Trưởng giả Úc Già nói: “Bạch Ngài A Nan! Người chẳng thành tựu đại bi chẳng nên tự nói tôi là an lạc. Bạch Đại đức A Nan! Đại Bồ Tát nhẫn tất cả khổ chẳng bỏ chúng sanh”.

Đức Phật phán: “Này A Nan! Trưởng giả Úc Già đây ở tại gia hóa độ rất nhiều chúng sanh trong Hiền kiếp chẳng phải Bồ Tát xuất gia trăm kiếp trăm ngàn kiếp làm được. Tại sao? Vì, nầy A Nan! Công đức của trăm ngàn Bồ Tát xuất gia chẳng bằng công đức Úc Già Trưởng giả”.

Ngài A Nan bạch đức Phật: “Bạch đức Thế Tôn! Kinh nầy tên gì phải thọ trì thế nào?”.

Đức Phật dạy: “Này A Nan! Kinh này tên là Úc Già Trưởng giả Sở Vấn. Cũng tên là kinh Tại Gia Xuất Gia Bồ Tát Giới. Cũng tên là kinh Ân Trọng Cấp Sự Sư Trưởng Phẩm.

Nầy A Nan! Nếu có Bồ Tát được nghe kinh này thì là đại tinh tấn chớ chẳng phải hạ tinh tấn. An trụ nơi phạm hạnh trăm ngàn muôn lần chẳng bằng đưọc. Muốn tự an trụ tinh tấn, muốn khuyên người an trụ tinh tấn, muốn tự an trụ tất cả công đức, muốn khuyên người an trụ tất cả công đức, thì nên nghe kinh này rồi thọ trì đọc tụng rộng giảng thuyết cho người và tu hành đúng như lời.

Này A Nan! Ta đem kinh pháp này giao phó cho ông thọ trì đọc tụng. Tại sao? Vì pháp này đầy đủ tất cả công đức. Nếu có Bồ Tát tương ưng với pháp này thì chẳng rời lìa tương ưng với Như Lai. Nếu Bồ Tát rời pháp này thì là rời Phật. Nếu Bồ Tát rời pháp này, rời lìa thọ trì đọc tụng rộng tu hành như lời thì là rời lìa tất cả chư Phật. Tại sao? Vì sự việc xuất gia của chư Phật đều hiển thị trong kinh này.

Này A Nan! Giả sử lửa cháy lớn cả Tam Thiên Đại Thiên thế giới, vì chánh giác nên phải đi ngang qua để đến nghe kinh này thọ trì đọc tụng tu hành đúng như lời.

Này A Nan! Nếu vì chư Phật quá khứ mà xây tháp bảy báu dùng tất cả đồ cúng để cúng dường bửu pháp, với chư Phật hiện tại và Thanh Văn Tăng dùng các đồ cúng để cúng dường trọn đời, với chư Phật và chư Bồ Tát vị lai đều làm nô bộc và làm đệ tử để cúng dường các Ngài, nếu chẳng nghe kinh này chẳng thọ trì chẳng đọc tụng chẳng giảng thuyết chẳng tu hành, rời lìa kinh pháp này thì chẳng gọi là cúng dường chư Phật Như Lai. Nếu có nghe kinh này thọ trì đọc tụng giảng thuyết tu hành như lời, Bồ Tát này đã là cúng dường chư Phật ba đời rồi. Tại sao? Vì tu hành đúng như lời chính là pháp điều phục của chư Phật Như Lai vậy”.

Đức Phật nói kinh này rồi, Đại Đức A Nan, Trưởng giả Úc Già, Trời, Người, A Tu La, Càn Thát Bà, tất cả thế gian nghe lời đức Phật dạy đều rất vui mừng tin nhận vâng làm

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top

Tags: #kinh