KINH VU LAN BỒN - BÁO HIẾU PHỤ MẪU TRỌNG ÂN
PHẬT NÓI KINH VU LAN BỒN
TA TỪNG NGHE LỜI TẠC NHƯ VẦY:
Một thuở nọ Thế Tôn an trụ
Xá Vệ thành Kỳ Thụ viên trung
Mục Liên mới được Lục Thông
Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm luân
Công dưỡng dục thâm ân dốc trả
Nghĩa sinh thành đạo cả mong đền
Làm con hiếu hạnh vi tiên
Bèn dùng tuệ nhãn dưới trên kiếm tìm
Thấy vong mẫu sinh làm ngã quỷ
Không uống ăn tiều tụy hình hài
Mục Liên thấy vậy bi ai
Biết mẹ đói khát ai hoài tình thâm
Thương từ mẫu lo dâng vật thực
Để đỡ lòng khổ cực bấy lâu
Thấy con mẹ rất lo âu
Tay tả chắn, tay hữu hầu bốc ăn
Lòng bỏn xẻn tiền căn chưa dứt
Sợ chúng ma cướp giật của bà
Cơm đưa chưa đến miệng đà
Hóa thành than lửa nuốt mà được đâu
Thấy như vậy âu sầu thê thảm
Mục Kiền Liên bi cảm xót thương
Mau mau về đến giảng đường
Bạch cùng Sư Phụ tìm phương giải nàn
Phật mới bảo rõ ràng căn cội
Rằng mẹ ông gốc tội rất sâu
Dầu ông thần lực nhiệm mầu
Một mình không thể ai cầu được đâu
Lòng hiếu thảo ông dầu to lớn
Thấu cửu thiên khắp chốn vang đi
Cùng là các bậc Thần Kỳ
Tà ma ngoại đạo, bốn vì Thiên Vương
Cộng ba cõi sáu phương tụ tập
Cũng không phương tế cấp mẹ ngươi
Muốn cho cứu được mạng người
Phải nhờ thần lực của mười phương Tăng
Pháp cứu tế ta toan giảng nói
Cho mọi người thoát khỏi ách nàn
Bèn kêu Mục Thị đến gần
Truyền cho diệu pháp ân cần thiết thi
Rằm tháng bảy là kỳ Tự Tứ
Mười phương Tăng đều dự lễ này
Phải toan sắm sửa chớ chầy
Đồ ăn thanh tịnh trái cây thơm lừng
Lại phải sắm giường nằm nệm lót
Cùng thau, bồn, đèn đuốc, nhang, dầu
Món ăn tinh sạch báu màu
Đựng trong bình bát vọng cầu kính dâng
Chư Đại Đức mười phương thụ thực
Trong bảy đời sẽ được siêu thăng
Mẹ cha phúc thọ gia tăng
Hiện tiền nghiệp chướng tiêu tan trói chằng
Vì ngày ấy Thánh Tăng đều đủ
Dầu ở đâu cũng tụ hội về
Như người thiền định sơn khê
Tránh điều phiền não chăm về thiền na
Hoặc người được bốn tòa đạo quả
Công tu hành nguyện thỏa vô sinh
Hoặc người thụ hạ kinh hành
Chẳng ham quyền quý ẩn danh lâm tong
Hoặc người được lục thông tấn phát
Và những hàng Duyên Giác Thanh Văn
Hoặc chư Bồ Tát mười phương
Hiện hình làm sãi trong đường chúng sinh
Đều trì giới rất thanh rất tịnh
Đạo đức dày chính định chân tâm
Tất cả bậc Thánh, Phàm Nhân
Bát cơm thụ lĩnh đồng tâm lục hòa
Người nào có sắm ra vật thực
Được cúng dàng tự tứ Tăng rồi
Hiện tiền phụ mẫu của người
Bà con quyến thuộc ấy thời nhờ ân
Tam Đồ khổ chắc phần ra khỏi
Cảnh thanh nhàn hưởng tuổi thọ niên
Như còn cha mẹ hiện tiền
Nhờ đó cũng được bách niên lâu dài
Như cha mẹ bảy đời quá vãng
Sẽ hóa sinh về cõi Thiên cung
Người thời tuấn tú hình dung
Hào quang chiếu sáng khắp cùng châu thân
Phật dạy bảo chư nhân Tăng chúng
Phải tuân theo thể thức sau này: o
Trước khi thụ thực đàn chay
Phải cầu chú nguyện cho người tín gia
Cầu bảy đời mẹ cha thí chủ
Định tâm thần quán đủ đừng quên
Cho xong định ý hành thiền
Mới đem phẩm vật đàn tiền dùng, ban
Khi thụ dụng nên an vật thực
Trước Phật đài hoặc tự tháp trung
Chư Tăng chú nguyện viên dung
Sau rồi tự tiện thụ dùng bữa trưa
Pháp cứu tế Phật vừa nói dứt
Mục Liên và Bồ Tát chư Tăng
Cùng nhau tỏ dạ vui mừng
Buồn rầu đã hết, trông trừng chờ mong
Mục Liên mẫu cũng trong ngày ấy
Kiếp ngã quỷ khổ thấy tiêu băng
Mục Liên bạch với Phật rằng: o
Mẹ con nhờ sức Thánh Tăng thoát nàn
Lại cũng nhờ uy thần Tam Bảo
Bằng chẳng thì nạn khổ khó qua
Như sau đệ tử xuất gia
Vu Lan Bồn Pháp dùng mà độ sinh
Độ cha mẹ còn đương tại thế
Hoặc bảy đời có thể được không?
Phật rằng: Lời hỏi rất thông
Ta vừa muốn nói con dùng hỏi theo
Thiện nam tử, Tỳ Khiêu nam nữ
Cùng Quốc Vương thái tử đại thần
Tam công, tể tướng, ba quân
Cùng hàng lê thứ vạn dân cõi trần
Như chí muốn đền ân cha mẹ
Hiện tại cùng thất thế tình thâm
Đến rằm tháng bảy mỗi năm
Sau khi kết hạ chư Tăng tựu về
Chính ngày ấy Phật Đà hoan hỷ
Phải sắm sanh đủ vị cơm canh
Đựng trong bình bát tinh anh
Chờ giờ tự tứ chúng Tăng cúng dàng
Chí nguyện cầu song đường trường thọ
Chẳng ốm đau chẳng khó khổ chi
Cùng cầu thất Tổ đồng thì
Lìa nơi ngã quỷ sinh về nhân, Thiên
Được hưởng phúc nhân duyên tươi đẹp
Xa ngục tù cùm kẹp cực thân
Môn sinh Phật tử ân cần
Hạnh tu hiếu thuận phải cần phải chuyên
Thường cầu nguyện thung, huyên an hảo
Cùng bảy đời phụ mẫu siêu sinh
Ngày rằm tháng bảy mỗi năm
Vì lòng hiếu thảo ơn thâm phải đền
Lễ cứu tế chí thành sắp đặt
Ngõ cúng dàng chư Phật chư Tăng
Ấy là báo đáp thù ân
Sinh thành dưỡng dục song thân buổi đầu
Đệ tử Phật lo âu gìn giữ
Mới phải là Thích tử, Thiền môn
Vừa nghe dứt Pháp Lan Bồn
Môn sinh tứ chúng thảy đồng hân hoan
Mục Liên với bốn ban Phật tử
Nguyện một lòng tín sự phụng hành
Trước là trả nghĩa sinh thành
Sau là báo đáp chúng sinh muôn loài.
Nam Mô Đại Hiếu Mục Kiền Liên Bồ Tát. (3 lần) 1 vái ooo
KINH ĐẠI BÁO PHỤ MẪU TRỌNG ÂN
(CA NGỢI HƯƠNG)
Lư hương vừa bén chiên đàn
Khắp trong cõi Pháp đạo tràng thơm thay
Hải hội chư Phật đều hay
Theo chỗ dâng kết đài mây trong lành
Ân cần giãi tỏ lòng thành
Toàn thân chư Phật hiện hành độ cho.
Nam Mô Hương Vân Cái Bồ Tát Ma Ha Tát. (3 lần) 1 vái ooo
KỆ KHAI KINH
Pháp Phật cao sâu rất nhiệm mầu
Muôn đời khó gặp dễ hay đâu
Con nay nghe thấy được trì thụ
Chân nghĩa Như Lai nguyện hiểu sâu.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. (3 lần) ooo
PHẬT NÓI KINH ĐẠI BÁO PHỤ MẪU TRỌNG ÂN
Tôi nghe thế này: Một khi Phật ở trong ngôi Tinh Xá, vườn Cấp Cô Độc, cây của Kỳ Đà, cùng các Tăng Già, có trên hai vạn, thêm tám nghìn người, cùng chư Bồ Tát. Bấy giờ Thế Tôn, cùng với đại chúng, nhân buổi nhàn du, đi về phía Nam, thấy đống xương khô, chất cao như núi, Đức Phật Thế Tôn, liền sụp lạy ngay, đống xưng khô ấy. o
Tôi bạch Phật rằng: Lạy Đức Thế Tôn, Ngài ở trên ngôi, chí tôn, chí quý, Thầy cả ba cõi, cha lành bốn loài, thiên thượng nhân gian, thảy đều tôn kính, sao Ngài lại lễ, đống xương kia. o
Này A Nan ơi! Ngươi tuy xuất gia, theo Ta tu học, trong bấy nhiêu lâu, đã rộng rãi đâu, những sự nghe thấy, đống xương khô ấy, hoặc là ông bà hay là mẹ cha, của Ta thân trước, ngàn muôn ức kiếp, đời đã cách xa, bởi thế nay Ta chí thành kính lễ. Ngươi đem xương này, chia làm hai phần, một là đàn ông, hai là đàn bà, phân biệt cho Ta. o
Bạch Đức Thế Tôn! Con xem ở đời, phàm là con trai, mang đai hia mũ, ai cũng nhận ra đấy là nam giới: Những người con gái, hương hoa phấn sáp, kiềng xuyến nhẫn hoa, ai cũng nhận ra đó là giới nữ; người chết quá khứ, xương lẫn lộn nhau, chúng con biết đâu mà phân biệt được. o
Đây là lời Phật: Này A Nan con! Về bên nam giới, trong lúc bình sinh, thường thường lui tới, những chốn chùa chiền, nhờ có nhân duyên, nghe Kinh lễ Phật, kính mến Tăng già, nợ trần đã qua, hồn về cõi Phật, bao nhiêu xương trắng, nhắc thấy nặng hơn, là xương nam giới. Còn như nữ giới, trong lúc bình sinh, nhiều lần sinh nở, nuôi nấng con thơ, tổn hao khí huyết, mỗi một kỳ sinh, máu đặc trong mình chảy ra sáu đấu, mỗi người con bú tám thùng bốn đấu sữa ở trong thân, giảm bớt tinh anh, cho nên xương nhẹ và có sắc đen. o
Tôi nghe Phật nói, thương xót vô cùng mẹ tôi đã từng, hao mòn như thế, nghĩ mà rơi lệ, liền bạch Phật rằng: o
Lạy Đức Thế Tôn! Công ơn cha mẹ, như non như bể, thăm thẳm nghìn trùng, lấy gì báo đáp, cúi xin Đức Phật, rủ lòng thương xót, dạy bảo chúng con. o
Này A Nan ơi! Về ơn đức mẹ, trong vòng mười tháng đi lại nặng nề, cưu mang nhọc mệt, khổ không kể xiết:
- Khi vừa một tháng ở trong thai mẹ, khác gì hạt sương dính trên ngọn cỏ, sớm còn tụ đọng, trưa đã tiêu tan, khó lòng giữ được.
- Khi được hai tháng ở trong thai mẹ, hình như sữa đặc, đã chắc gì đâu.
- Khi được ba tháng ở trong thai mẹ, ví như cục máu, đông đặc đỏ ngầu, vô tri, vô giác.
- Khi được bốn tháng ở trong thai mẹ, mới dạng hình người.
- Khi được năm tháng ở trong thai mẹ, mới đủ năm hình chân, tay, đầu, tóc.
- Khi được sáu tháng ở trong thai mẹ, sáu căn mới đủ mắt, tai, mũi, lưỡi, thân hình và ý.
- Khi được bảy tháng ở trong thai mẹ, mới sinh đầy đủ, ba trăm sáu mươi, những cái đốt xương, cùng là tám vạn bốn nghìn chân long.
- Khi được tám tháng ở trong thai mẹ, phủ tạng mới sinh, ý trí mới đủ, chín khiếu mới thông.
- Khi được chín tháng ở trong thai mẹ, mới đủ hình người, ngồi trong bụng mẹ, khát uống nguyên khí, không ăn hoa quả cùng là ngũ cốc, sinh tạng rủ xuống, thực tạng hướng lên, có một dãy núi, gồm có ba quả: Một là Tu Di, hai là núi Nghiệp, ba là núi Máu, núi này đồng thời hóa ra dòng máu, rót vào trong miệng. o
Ở trong thai mẹ, trong vòng mười tháng, trăm phần vẹn toàn mới đến ngày sinh. Nếu con có hiếu, chắp tay thu hình, thuận lối mà ra, không đau lòng mẹ, nếu là con bạc, giãy giụa bải bơi, buốt chói từng hồi, khiến đau lòng mẹ, như đâm như xỉa, như cấu như cào, như nghìn mũi dao đâm vào gan ruột, mẹ khổ vô cùng nói sao cho xiết, sinh được thân này, mừng thay vui thay, yêu thay mến thay!
Phật bảo A Nan: Công ơn từ mẫu, gồm có mười điều, phàm kẻ làm con phải lo báo hiếu. Những gì là mười? o
- Một nhớ ơn mẹ ta, chin tháng mười ngày, cưu mang nặng nhọc.
- Hai nhớ ơn mẹ ta, khi sinh lúc nở, đau đớn vô cùng.
- Ba nhớ ơn mẹ ta, khi sinh lúc nở, quên cả lo âu.
- Bốn nhớ ơn mẹ ta, mẹ ăn miếng đắng, lại nhả miếng ngọt, dành dụm cho con.
- Năm nhớ ơn mẹ ta, chỗ ướt mẹ nằm, chỗ ráo xê con.
- Sáu nhớ ơn mẹ ta, ba năm bú mớm, nuôi nấng thuốc thang, trong khi sài đẹn.
- Bảy nhớ ơn mẹ ta, giặt giũ hong phơi, áo quần dơ dáy, ô uế tanh hôi, mẹ đành cam chịu.
- Tám nhớ ơn mẹ ta, khi đi đâu xa, vì thương nhớ con, trong lòng cầy cậy, một chút không ngơi.
- Chin nhớ ơn mẹ ta, vì sinh nuôi con, mà mẹ cam lòng, tạo bao ác nghiệp.
- Mười nhớ ơn mẹ ta, lòng rất thương con, trọn đời yêu dấu, không chút nào ngơi. o
THỨ NHẤT ƠN:
CHÍN THÁNG MƯỜI NGÀY CƯU MANG NẶNG NHỌC.
Bao kiếp duyên cùng nợ
Ngày nay mới vào thai
Đầy tháng sinh phủ tạng
Bảy bảy sáu tinh khai
Thân trọng như non Thái
Động tĩnh sợ phong tai
Áo the đành xốc xếch
Gương lược biếng trang đài. o
THỨ HAI ƠN: KHI GẦN SINH NỞ
Khi gần ngày sinh nở
Nặng nhọc khổ sở thay
Cưu mang trong mười tháng
Vất vả biết bao ngày
Đứng ngồi và đi lại
Dáng vẻ tựa ngô ngây
Sợ hãi, lo cùng lắng
Tử sinh, giờ phút này!
THỨ BA ƠN: LÚC SINH NỞ
Mẹ ta khi sinh nở
Thân thể đều mở toang!
Tâm hồn như mê mẩn
Máu me chan hòa đầy
Chờ nghe thấy con khóc
Lòng mẹ mừng rỡ thay!
Đương mừng lo lại đến
Rầu rĩ ruột gan này. o
THỨ BỐN ƠN: ĂN ĐẮNG NHẢ NGỌT
Mẹ ta lòng thành thực
Thương con chẳng chút ngơi
Nhả ngọt nào có tiếc!
Ăn đắng nói cùng ai?
Yêu dấu như vàng ngọc
Nâng niu tay chẳng rời
Những mong con no ấm
Mẹ đói rét cũng vui. o
THỨ NĂM ƠN: XÊ CON TỰ THẤP
Tự mình nằm chỗ ướt
Chỗ ráo để xê con
Hai vú phòng đói khát
Hai tay ủ gió sương
Thâu đêm nằm chẳng ngủ
Nâng niu tựa ngọc vàng
Những mong con vui vẻ
Lòng mẹ mới được yên. o
THỨ SÁU ƠN: BÚ MỚM NUÔI NẤNG
Đức mẹ dày như đất
Công cha thẳm tựa trời
Chở che coi bình đẳng
Cha mẹ cũng thế thôi!
Chẳng quản câm, mù, điếc
Chẳng hiềm quắp chân tay!
Bởi vì con ruột thịt
Trọn đời dạ chẳng khuây. o
THỨ BẢY ƠN: TẮM GỘI GIẶT GIŨ
Vốn người có nhan sắc
Lại thêm phấn sáp xông
Mây xanh như liễu lục
Má đỏ tựa sen hồng
Giặt giũ khăn cùng tã
Dáy dơ chẳng quản công
Cốt sao quần áo sạch
Búi tóc gọn là xong. o
THỨ TÁM ƠN: ĐI XA LÒNG MẸ NHỚ THƯƠNG
Từ biệt lòng khôn nhẫn
Sinh ly dạ đáng thương
Con đi đường xa cách
Mẹ ở chốn quê hương
Ngày đêm thường tưởng nhớ
Sớm tối vẫn vấn vương
Như vượn thương con đỏ
Khúc khúc đoạn can trường? o
THỨ CHÍN ƠN: VÌ SINH CON MÀ CAM LÒNG TẠO BAO ÁC NGHIỆP
Mẹ trải bao gian khổ
Công lao tựa vực trời
Bồng bế cùng nuôi nấng
Mong sao con ăn chơi
Nhường cơm cùng xẻ áo
Mẹ đói rách cũng vui
Khôn lớn tìm đôi lứa
Gây dựng cho nên người. o
THỨ MƯỜI ƠN: MẸ TRỌN ĐỜI THƯƠNG YÊU CON
Công cha cùng đức mẹ
Cao sâu tựa biển trời
Vắt cạn kiệt dòng sữa
Để cho con tươi cười
Mẹ già hơn trăm tuổi
Vẫn thương con tám mươi
Bao giờ ân oán hết
Tắt nghỉ cũng chẳng thôi! o
Phật bảo A Nan: Ta xem chúng sinh dẫu được làm người, lòng còn ngu muội chẳng nghĩ mẹ cha, công đức kể ra, như non như biển, chẳng cung chẳng kính, chẳng hiếu chẳng từ, mẹ mang thai con trong vòng mười tháng, ngồi đứng không yên, như mang gánh nặng, ăn uống chẳng ngon, như người mang bệnh, ngày tháng thoi đưa, đến khi sinh nở, chịu khổ mỗi đường, phút giây hay dở, kinh sợ vô thường, như giết trâu, dê, máu me lai láng, còn nhiều khổ nữa, mới được thân này, ăn đắng nuốt cay, nhả bùi nhả ngọt, nâng niu dưỡng dục, giặt giũ dáy dơ, không nề gian khổ, bức bối nồng nàn, rét mướt cơ hàn, lầm than tận khổ, mẹ nằm chỗ ướt, chỗ ráo xê con, ba năm bú mớm, bồng bế nâng niu, dạy bảo đủ điều, lễ nghi phép tắc, cho ăn đi học, tìm đủ mọi nghề, đưa đón đi về, cần lao chăm chú, chẳng kể gì công.
Trái nắng dở trời, tuần trăng cuối gió, bệnh nọ chứng kia, bông hoa sài đẹn, thang thuốc đâu đâu, một mình lo lắng, chạy ngược chạy xuôi, năm canh vò võ, bệnh con có khỏi, lòng mẹ mới yêu, mong con lớn lên, con thảo con hiền, để mà trông cậy. o
Không ngờ ngày nay, hóa con bất hiếu, mẹ già cha yếu, con chẳng đỡ đần, cãi vã song thân, nói năng cắn cẩu, giương đôi mắt chẫu, khinh rẻ mẹ cha, chú bác ông bà, cô dì chẳng nể, anh em cũng kệ, đánh lộn xảy ra; ô nhục nước nhà, bất trung bất nghĩa, bất hiếu bất lương, phép nước coi thường; mẹ cha cũng kệ, xóm làng chẳng nể, chửi bới người ta, sớm tối vào ra, chẳng thưa chẳng gửi, nói năng bổ củi, càn quấy làm bừa, cha mẹ xem thừa, thầy trên cũng mặc! Bé thì ai chấp; người những nâng niu, dần dần khôn lớn, gai ngạnh mọi điều, chẳng hòa chẳng thuận, thường hay sân hận, bỏ cả bạn lành, giao du bạn ác, tập thói sa hoa, chơi khắp gần xa, thất thường điên đảo, bị kẻ dỗ dành, mất cả thanh danh, bỏ làng trốn mất, trái ý mẹ cha, ly biệt quê nhà, chẳng nhìn quê quán hoặc vì buôn bán, hoặc bởi tòng quân, tiêm nhiễm dần dần, trở nên lưu luyến, vợ nọ con kia, chẳng thiết đi về, quê hương bản quán, ở đất nước người, lại hay rong chơi, bị người lừa gạt, tai vạ linh tinh, pháp luật gia hình, tù lao cầm cố, cực khổ mọi điều, chẳng may yếu đau, chứng kia tật nọ, ở chốn tha hương, ai kẻ thích thân, ai người thang thuốc, mẹ cha cách biệt, thân thích biết đâu, cam chịu ưu sầu, quê người đất khách, khốn khổ gầy còm, không người trông nom, bị người khinh rẻ, lang thang đường ngõ, vì thế chết đi, không người chôn cất, trương phềnh thối đất, giãi nắng dầu mưa, hài cốt bãi bừa, chó cầy nhai xé! o
Mẹ cha thân thuộc, khi được tin buồn, luống những đau thương, ruột như dao cắt, hai hàng nước mắt, lã chã chứa chan, hoặc vì quá thương, kết thành bệnh khí, đến chết còn bị, làm quỷ ôm thây, chẳng để ai thay, khư khư giữ mãi.
Hoặc là vì con, chẳng chăm học tập, chỉ mải rong chơi, nay đây mai đó, cùng bạn vô loài, làm điều vô ích, giao du trộm cắp, chẳng sợ lệ làng, chè rượu nghênh ngang, đánh cờ đánh bạc, giant ham độc ác, lụy đến tôn thân, nay Sở mai Tần, lên đồn xuống phủ, mẹ cha ủ rũ, khốn khổ vì con. o
Nào con có biết, cha mẹ khổ đau trăm não nghìn sầu, mùa thu mùa đông rét run bức bối, chẳng lo sớm tối, ấp lạnh quạt nồng, chẳng viếng chẳng thăm, chẳng hầu chẳng hạ, mẹ cha già cả, hình vóc gầy còm, hổ mặt mười non, dầy vò chửi giả, mẹ cha hoặc góa, trơ trọi một mình, luống những buồn tanh, như người ngủ trọ, chiếc gối một phòng, năm canh vò võ, mùa đông sương gió, rét mướt cơ hàn, con nào hỏi han, gái trai tránh né, mặc thây cha mẹ, đêm ngày thở than!
Khi đem thức ăn, dâng lên cha mẹ, thì lại giữ kẽ, rằng ngượng rằng e, sợ kẻ cười chê, ví đem quà bánh, cho vợ cho con, mặt dạn mày dày, không hề xấu hổ, vợ con dặn bảo, vâng đúng như lời, cha mẹ hết hơi, không hề hối cải.
Đây là con gái, khi chưa gả chồng, hãy còn ở chung, tỏ ra hiếu thảo; khi đã gả bán, về ở nhà người, một ngày một lười, nhà ngoại không thiết, những ngày giỗ tết có đảo về qua, vì dù mẹ cha, có gì sơ ý liền sinh giận dữ, tỏ vẻ oán hờn, chồng chửi nhơn nhơn, đành cam lòng chịu; bạn bè thất thểu, tình nghĩa keo sơn, tỏ ra chăm chú, mẹ cha máu mủ, thì lại sơ tình.
Hoặc đi theo chồng, quê người đất khách quận nọ tỉnh kia, cha mẹ xa lìa, làng không tưởng nhớ, chẳng viếng chẳng thăm, thư tín càng không, tuyệt vô tin tức; mẹ cha thương nhớ, rầu rĩ ruột gan, luống những bàn hoàn, sớm chiều mong mỏi, công đức cha mẹ, vô lượng vô biên, con chẳng hiếu hiền, ở đời cũng lắm. o
Khi ấy đại chúng, nghe Phật nói ra! Công đức mẹ cha, cao tầy non Thái, nghe rồi sợ hãi, hối hận vô cùng, cảm động rưng rưng, khôn cầm nước mắt, lòng đau như cắt, tâm trí rối bời, đang từ chỗ ngồi, cùng nhau đứng dậy, hướng Phật mà lạy, rồi nói lời này: Khổ thay! Khổ thay! Đau lòng đứt ruột, lũ con ngày nay, tội ác ngập đầu, xưa có biết đâu, mờ như đêm tối, ngày nay biết hối thì sự đã rồi, đau đớn lòng tôi, trót đà bội bạc, cúi xin chư Phật, soi xét kẻ phàm, phóng ngọc hào quang, ra tay cứu vớt, làm sao báo được, ơn đức mẹ cha, Phật liền nói ra, đủ đầy tám giọng, bảo đại chúng rằng: o
1 – Ví có kẻ nào, hai vai kiệu cõng, cha mẹ đi chơi, suốt cả mọi nơi, trên rừng dưới biển, hai vai nặng trễ, mòn đến tận xương, máu chảy cùng đường, không hề ân hận, cũng chưa báo tận, công đức mẹ cha, kể trong muôn một. o
2 – Ví lại có người, gặp khi đói kém, cắt hết thịt mình, cung nuôi cha mẹ, khỏi lúc nguy nan riêng mình đành cam, thịt xương tan nát, trăm nghìn muôn kiếp, để báo thâm ân, chẳng được một phần, kể trong muôn một. o
3 – Ví lại có người, trải trăm nghìn kiếp tự tay cầm dao, khoét đôi mắt mình, luyện làm thang thuốc chữa bệnh mẹ cha, như thế cũng là chưa trả được ân, kể trong muôn một. o
4 – Ví lại có người, trải trăm nghìn kiếp, đều tự tay mình, cầm dao khoét ruột, móc lấy tim gan, luyện làm thang thuốc chữa bệnh mẹ cha, như thế cũng là chưa trả được ân, kể trong muôn một. o
5 – Ví lại có người, trải trăm nghìn kiếp, vì tội mẹ cha, chịu thay tội mà, dao băm thân thể, thịt xương nát bể như thế cũng là chưa trả được ân, kể trong muôn một. o
6 – Ví lại có người, trải trăm nghìn kiếp, vì ơn mẹ cha, lấy mình đốt lên, làm cây đèn thịt, cúng dâng chư Phật, như thế cũng là chưa trả được ân, kể trong muôn một. o
7 – Ví lại có người, trải trăm nghìn kiếp, vì bệnh mẹ cha, đập xương tủy ra, để làm thang thuốc, chữa bệnh mẹ cha, như thế cũng là chưa trả được ân, kể trong muôn một. o
8 – Ví lại có người, trải trăm nghìn kiếp, vì cứu mẹ cha, nuốt viên sắt nóng, cháy sém thịt da, như thế cũng là chưa trả được ân, kể trong muôn một. o
Bấy giờ đại chúng, nghe Phật nói rồi! Trong dạ bồi hồi, bóp đầu bóp trán, tự kêu tự thán, xúc động nói năng, mà bạch Phật rằng: Con muốn đền đáp, công đức mẹ cha, cúi xin Phật Đà, đủ lòng chỉ giáo? o
Đức Phật liền bảo, cặn kẽ mọi lời, này chúng sinh ơi! Muốn đền ơn nghĩa:
- Một vì mẹ cha, nên chép Kinh này, kính biếu đó đây, cho nhiều người tụng.
- Hai vì mẹ cha, đọc tụng Kinh này, hàng ngày chớ bỏ.
- Ba vì mẹ cha, làm chay sám hối, sớm tối ăn năn.
- Bốn vì mẹ cha, cúng dàng Tam Bảo, tùy ý sở dùng.
- Năm vì mẹ cha, trong sáu ngày trai, phải nên nhớ giữ.
- Sáu vì mẹ cha, thường hay bố thí, làm mọi việc lành.
Làm được như thế thực là con hiếu, cứu được mẹ cha, phúc đẳng hà sa, siêu thăng Cực Lạc. o
Phật bảo A Nan: Ở trên thế gian, những quân bất hiếu, bất nghĩa bất nhân, sau hết duyên trần, xác vùi dưới đất. Còn phần linh giác, là cái chân thân, phải vào địa ngục, chính ngục A Tỳ, sâu rộng cực kỳ, tối như bưng mắt, tường đồng vách sắt, tra tấn cực hình, nào bàn chông đinh, nào kìm cắt lưỡi, lửa đốt trên dưới, cụm kẹp chân tây, mổ bụng phanh thây, thấy mà kinh sợ; hơn như thế nữa, sấm chớp đùng đùng, sét đánh tứ tung, vạc dầu sôi sục, chỉ trong phút chốc, nấu hàng vạn người, rắn độc phun hơi, chó ngao cắn xé, những kẻ tội nhân, vì tội bất hiếu, cãi vã mẹ cha, phải chịu xót xa, ở trong ngục ấy; gươm dao sào gậy, đâm chém suốt ngày, như hạt mưa bay, trên không rơi xuống, trải trăm nghìn kiếp, không phút nào ngơi, hết hạn ấy rồi, lại vào ngục khác; đầu đội chậu máu, cối sắt nghiền thây, mình mẩy chân tay, dập dừ tan nát, một ngày phải chết, tới nghìn vạn lần, khổ sở gian truân, vì chứng bất hiếu, Phật lại dạy rằng:
Ví có thiện nam hay tín nữ, thật là hiếu tử, trả nghĩa mẹ cha, in Kinh này ra, biếu cho người tụng; in được một quyển, được một Đức Phật; in được mười quyển, được mười Đức Phật; in được trăm quyển, được trăm Đức Phật; in được muôn quyển, được muôn Đức Phật, phù hộ độ trì, lại tiếp hồn đi, về phương Cực Lạc; đây là lời Phật, chớ có coi thường, địa ngục vấn vương, khó lòng thoát khỏi!
Bấy giờ A Nan, cùng chư đại chúng, Trời, Rồng, Thần, Quỷ, Dạ Xoa, La Sát, Người cùng Phi Nhân, được nghe Phật nói, đều phát nguyện rằng: o
Chúng con thề rằng: Dẫu phải hy sinh, dù trăm nghìn kiếp, xương tan thịt nát, nhỏ như vi trần, cũng chẳng dám quên, lời chư Phật dạy. Thà lấy dao kìm, rút lưỡi moi tim, cho diều quạ mổ, hổ báo lôi tha, máu chảy chan hòa, thành sông thành suối, con thề chẳng trái, lời Phật dạy răn. o
Chúng con thề rằng: Thà lấy trăm nghìn vòng dao giáo mác, đâm chém chặt nát, cả cái xác thân, nhỏ như vi trần, đốt đi đốt lại, trăm nghìn thảm hại, cũng chẳng dám quên lời chư Phật dạy. o
Chúng con thề rằng: Thà lấy lưới sắt, quấn chặt vào thân, trăm nghìn vạn lần, trói buộc như thế, quăng xuống sông bể, trôi dạt đó đây, chim cá rỉa thây, không người cứu vớt, khổ sở không ngớt, cũng chẳng dám quên lời chư Phật dạy. o
Chúng con thề rằng: Thà mổ thà xả, thà xay thà giã, nhỏ như vi trần, nào da nào gân, phơi sương phơi gió, nắng mưa vứt bỏ, nào thịt nào xương, rơi rớt ngoài đường, trong nhà ngoài ngõ, trăm nghìn khổ đó, cũng chẳng dám quên lời chư Phật dạy. o
Khi ấy A Nan, liền bạch Thế Tôn: Con lạy Đức Phật! Đây là Kinh gì? Chúng con muốn trì, tụng được hay chăng. Đức Phật dạy rằng:
Chúng con nên biết, Kinh này là Kinh Đại Báo Phụ Mẫu Trọng Ân Chi Kinh. Tất cả chúng sinh, thảy đều nên tụng, khi ấy đại chúng, nghe Phật nói rồi, tin, kính, phụng hành, lễ tạ mà lui. (1 vái) ooo
TÂM KINH BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA
Khi Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát, thực hành sâu xa Pháp Bát Nhã Ba La Mật Đa. Ngài soi thấy năm uẩn đều không, liền độ thoát hết thảy khổ ách.
Này ông Xá Lợi Tử! Sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc, sắc tức là không, không tức là sắc, thụ, tưởng, hành, thức cũng đều như thế.
Này ông Xá Lợi Tử! Tướng không của mọi pháp không sinh, không diệt, không nhơ, không sạch, không thêm, không bớt; cho nên trong chân không, không có sắc, không có thụ, tưởng, hành, thức; không có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý, không có sắc, thanh, hương vị, xúc, pháp; không có nhãn giới, cho đến không có ý thức giới, không có vô minh, cũng không có cái hết vô minh; cho cả cái già, chết, cũng không có cái hết già, chết; không có Khổ, Tập, Diệt, Đạo, không có trí tuệ, cũng không có chứng đắc, vì không có chỗ chứng đắc.
Bồ Tát y theo Bát Nhã Ba La Mật Đa, nên tâm không ngăn ngại, vì không ngăn ngại, nên không sợ hãi, xa hẳn mộng tưởng điên đảo, đạt tới cứu kính Niết Bàn. Chư Phật trong ba đời cũng y vào Bát Nhã Ba La Mật Đa mà chứng được Đạo Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác. Cho nên biết Bát Nhã Ba La Mật Đa là Đại Thần Chú, là Vô Đẳng Đẳng Chú, trừ được hết thảy khổ; chân thực không hư.
Vì vậy nói ra bài chú Bát Nhã Ba La Mật Đa. Liền nói bài chú rằng:
"Yết đế, yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, Bồ đề tát bà ha, ma ha Bát Nhã Ba La Mật Đa" (3 lần) ooo
al'
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top