☸ NĂM ĐƯỜNG ÁC & LỜI RĂN DẠY CỦA PHẬT
"Thế nhưng, người đời thì nông cạn và chỉ tranh giành những việc nhỏ nhen. Trong đời cực ác lắm khổ, họ cần cù tìm kế sanh nhai, mong thỏa mãn vật chất cho đời mình. Giàu sang nghèo hèn, nam nữ già trẻ, thảy đều toan nghĩ tiền tài. Dù có của hay không, họ cũng đều ưu tư giống nhau. Rồi những lo sợ sầu khổ ấy ngày thêm chồng chất. Họ bị tâm si mê sai khiến và chẳng lúc nào được thảnh thơi.
Người có ruộng lo ruộng. Kẻ có nhà lo nhà. Cho đến tiền tài nô tỳ, y phục ẩm thực, trâu ngựa hay súc vật, thì thảy đều lo âu. Ngày qua ngày thêm lo nghĩ và luôn sống trong sự sợ hãi sầu muộn.
Thình lình như bị nước cuốn trôi, lửa thiêu cháy rụi, hoặc bị giặc cướp hay oan gia trái chủ cướp đoạt. Mọi thứ đều tiêu tan mất sạch, lo lắng khôn nguôi. Những phẫn uất kết tập trong lòng càng thêm buồn bã. Tâm ý họ kiên cố và mãi bám víu vào những đồ vật mà chẳng chịu rời xa. Thế rồi cái chết đến và thân này mất đi, mọi thứ đều phải bỏ lại và chẳng mang theo được gì.
Người giàu sang tôn quý cũng có hoạn nạn như nhau và cũng làm cho họ muôn phần lo sợ. Rồi dẫn tới nảy sanh những bệnh tật và phải chịu khổ sở. Kẻ bần cùng hạ tiện thì luôn bị thiếu hụt. Kẻ không có ruộng thì lo nghĩ muốn ruộng. Kẻ không có nhà thì lo nghĩ muốn nhà. Kẻ không có tiền tài nô tỳ, y phục ẩm thực, trâu ngựa hay súc vật thì cũng lo nghĩ muốn có. Hoặc có cái này nhưng lại thiếu cái kia. Hoặc có những thứ kia nhưng lại hụt các thứ khác. Họ toan nghĩ muốn được tất cả. Nhưng một mai có đủ thì liền hư hoại. Vì thế mà khổ đau và lại tiếp tục mong cầu, nhưng chẳng thể nào đạt được. Họ toan tính nhưng chỉ là vô ích và chỉ làm khổ nhọc thân tâm, đứng ngồi không yên, lo nghĩ liên miên. Rồi dần dần sanh ra các chứng bệnh nóng lạnh và phải chịu đau đớn khổ sở đến phải mất mạng hoặc bị chết yểu.
Vì chẳng chịu làm lành hay tu Đạo lập đức nên lúc mạng chung, họ phải đơn độc sanh đến cõi giới thấp hơn. Chốn lành nẻo ác, họ đều chẳng biết.
Người đời thế gian--cha mẹ anh em, vợ chồng con cái, thân bằng quyến thuộc--phải nên hòa thuận kính mến và chớ ganh ghét. Phải nên giúp đỡ lẫn nhau và chớ tham lam bỏn xẻn. Phải nên ăn nói hòa nhã và chớ thô cộc cay cú.
Phàm ai có tâm tranh thì hiện đời tánh nóng giận đó sẽ bộc phát ra sự thù hận và lòng ganh ghét. Rồi đời sau sẽ chuyển thành đại oán thù.
Vì sao thế? Bởi có những sự tương tàn trên thế gian, tuy không lập tức trở thành nỗi bi thương tàn khốc, nhưng độc tánh của phẫn nộ sẽ kết thành phẫn uất và lưu lại trong tạng thức. Đời này sang đời khác sẽ chẳng thể rời xa. Lúc sanh ra thì luôn đối nghịch và hỗ tương báo thù.
Ở thế gian, con người chìm đắm trong ái dục. Tự sanh tự diệt, tự đến tự đi. Lặn hụp trong sanh tử, khổ vui tự làm tự chịu và không ai có thể thay thế. Làm thiện được phước lành, làm ác gặp tai ương. Nghiệp quả đời trước luôn sẵn chực chờ và chẳng thể thấy biết. Hoặc giả là sẽ tự mình đọa vào hố sâu thẳm. Nghiệp lành nghiệp dữ, đạo lộ bất đồng, đường ai nẻo nấy, mờ mờ mịt mịt, cách xa muôn trùng, và thật khó khăn muôn vàn để hội ngộ gặp nhau. Vì sao người đời không buông bỏ thế sự và nhân lúc còn khỏe mạnh mà nỗ lực tu thiện? Như quả có thể tinh tấn và nguyện cứu nhân độ thế, họ được trường sanh bất tử. Vì sao người đời không cầu Đạo? Hà tất phải rong ruổi những dục lạc mông lung?
Thế nhưng, người đời không tin làm thiện sẽ được lành, tu Đạo sẽ đắc Đạo, chẳng tin sanh tử luân hồi, bố thí được phước. Tất cả các việc lành dữ đều không tin và còn cho rằng thảy đều chẳng có thật. Họ bám vào cái thấy lệch lạc và hờ hững ngóng trông. Từ thế hệ này đến thế hệ khác, cha truyền con nối, cùng nhau truyền dạy điều sai lầm. Từ đời tổ tiên cha ông đã không làm việc thiện và chẳng biết Đạo là gì. Họ bị si mê che lấp, sanh tử thiện ác chẳng thể tự thấy, và không có ai mách bảo giùm. Bất kể là việc cát hung hay họa phước, họ đều tranh đua làm mà chẳng một ai thấy có điều chi kỳ quái cả.
Sống chết là sự tiếp nối tương tục của lẽ đạo thường tình. Hoặc cha khóc mất con; hoặc con khóc mất cha. Anh em vợ chồng, ngậm ngùi khóc than, tâm trí điên đảo. Bởi là định luật của vô thường nên cái chết xảy đến bất kỳ. Mọi thứ đều lìa tan và chẳng gì tồn tại mãi. Mặc dù đã có thiện hữu dạy bảo nhưng mấy ai thật tin hiểu. Thế nên cứ lưu chuyển không ngừng trong vòng sanh tử. Người si độn như thế thì chẳng thể tin Kinh Pháp. Tâm chẳng lo nghĩ xa mà chỉ vội chạy theo ý muốn. Họ si mê trong ái dục nên chẳng thông đạt Đạo Pháp. Mê muội sân hận cùng tham lam tài sắc. Bởi không tương ứng với Đạo nên phải thọ khổ ở đường ác và lẩn quẩn trong sanh tử vô cùng tận. Thật quả đáng thương thay!
Hoặc giả như trong gia đình mất đi người cha hay đứa con, anh chị em, hoặc vợ hay chồng, người cốt nhục bùi ngùi thương xót, nhớ thương quyến luyến, và kết thành nỗi nhớ nhung. Năm tháng trôi qua, ngày thêm đau nhói, cõi lòng siết chặt đến chẳng thể nào giải tỏa. Dù có người dạy bảo Đạo lý cho nhưng tâm họ chẳng thể khai mở, bởi cõi lòng vẫn còn nghĩ ngợi đến ái ân và không thể lìa khỏi ái tình lục dục. Do hôn ám mờ mịt cùng si mê che khuất, họ không thể tư duy cùng hạ quyết tâm đoạn trừ thế sự và chuyên tâm tu Đạo. Thoáng chốc thì họ mạng chung và chẳng thể đắc Đạo.
Do bởi mê muội, họ si ái tham dục. Kẻ si mê thì nhiều mà người tỉnh ngộ có mấy ai. Trong thế gian mông lung, không gì có thể cậy trông. Người trên kẻ dưới, sang hèn quý tiện, lăng xăng bận rộn. Ai nấy đều ôm lòng giết hại, ác khí mịt mù, đầy rẫy những sự trái nghịch trời đất, và chẳng thuận tình người. Thọ mạng lẽ ra chưa tận, nhưng do phóng túng và làm theo điều ác, cho nên khi nghiệp tội cao ngất thì bỗng dưng chết mất. Rồi phải đọa đường ác, đời đời chịu khổ và lưu chuyển không ngừng đến nhiều ngàn ức kiếp mà chẳng có kỳ hạn ra khỏi. Khổ không thể tả xiết, quả đáng thương xót thay!"
Phật bảo Di Lặc Bồ-tát và hàng trời người:
"Ta nay thuyết giảng về những việc của thế gian cho các ông rõ. Những ai như thế thì chẳng thể đắc Đạo. Đại chúng phải tư duy tường tận, hãy xa lìa các việc ác và siêng làm những việc lành. Ái dục vinh hoa vốn chẳng thể còn mãi. Chúng rồi sẽ tan biến và không thể mang lại hạnh phúc. Những ai gặp Phật tại thế thì phải nên tinh tấn. Những ai có chí nguyện muốn sanh về cõi Cực Lạc, họ được trí tuệ sáng suốt và công đức thù thắng. Đại chúng chớ buông xuôi theo lòng dục vọng mà xa rời Kinh giới và tụt lại đằng sau người khác. Nếu có nghi vấn gì về Kinh này thì có thể hỏi Như Lai và Ta sẽ thuyết giảng cho các ông."
Khi ấy Di Lặc Bồ-tát quỳ hai gối và bạch rằng:
"Uy thần của Phật tôn nghiêm, lời nói chân thiện. Khi con nghe qua lời Phật dạy, tâm quán sát tư duy và người đời thật đúng như lời Phật đã nói. Bởi lòng từ mẫn, nay Đức Phật hiển thị Đại Đạo, khiến cho tai mắt của chúng con mở sáng và mãi được độ thoát. Khi nghe lời Phật dạy, không ai là chẳng hoan hỷ. Hàng trời người và cho đến các loài sâu bọ thảy đều nhờ ân đức của Phật mà thoát khỏi ưu sầu khổ não. Lời răn dạy của Phật rất thâm sâu và hiền từ. Trí tuệ chiếu soi hết thảy những việc quá khứ, hiện tại, cùng vị lai trong mười phương mà không gì là chẳng rõ thông. Sở dĩ hôm nay chúng con được nhờ ơn cứu độ, đây đều là do nhân khiêm nhường và nhẫn chịu gian khổ cầu Đạo của Phật thuở trước. Ân đức phủ khắp và phước lành bao la. Ánh quang minh chiếu triệt, thông đạt pháp không, và khai mở Đạo tịch diệt. Lời dạy tôn nghiêm, từ bi giáo hóa cảm động vang khắp mười phương. Phật là Pháp Vương, là bậc tôn quý nhất trong hàng thánh, và rộng làm thầy của tất cả trời người. Như Lai tùy theo sở nguyện của họ mà đều làm cho đắc Đạo. Nay chúng con gặp Phật, lại nghe về Đức Phật Vô Lượng Thọ, tâm được mở sáng và không ai là chẳng vui mừng."
Phật bảo ngài Di Lặc:
"Đúng như lời ông nói. Nếu có ai kính lễ chư Phật thì thật là một việc thiện lớn lao. Bởi vì rất lâu mới có một vị Phật xuất hiện ở thế gian. Ta nay ở thế giới này làm Phật, diễn nói Kinh Pháp, rộng tuyên giáo Pháp, đoạn các lưới nghi, nhổ trừ nguồn gốc của ái dục, lấp bít căn nguyên của tà ác, và du hành trong ba cõi không chướng ngại. Ta dùng Nhất Thiết Trí để chỉ dạy trọng yếu của Đạo và giảng giải rành rẽ. Khai thị năm đường ác, hóa độ người chưa hóa độ để giúp họ bước lên Chánh Đạo và từ sanh tử thẳng đến tịch diệt.
Này Từ Thị! Nên biết rằng, ông đã tu hạnh Bồ-tát từ vô số kiếp đến nay. Từ xa xưa, ông đã phát tâm muốn độ chúng sanh. Những chúng sanh được giáo hóa khi ông thành Đạo cho đến lúc vào tịch diệt thì nhiều chẳng kể xiết. Ông cùng hàng trời người trong mười phương và hết thảy bốn chúng đệ tử đã lưu chuyển trong năm đường từ kiếp vô thỉ đến nay. Những sự lo sợ cùng khổ đau thì không thể nào nói cho xuể. Và mãi đến đời hiện tại, ông vẫn chưa đoạn dứt sanh tử. Tuy nhiên, ông đã gặp Phật và nghe Pháp thọ trì. Ông lại được nghe về Đức Phật Vô Lượng Thọ. Thật là vui lành thay. Ta sẽ hỗ trợ điều ông vui làm.
Nay đại chúng cũng nên nhàm chán thống khổ của sanh già bệnh chết và đường ác bất tịnh, bởi chúng không thể mang lại an vui. Hãy nên quyết tâm tu các hạnh chân chánh, làm mọi điều lành, tu tâm dưỡng tánh, tẩy trừ lòng cấu dơ, ngôn hạnh trung tín, và trong ngoài tương ứng. Hãy tự độ và độ tha, tinh tấn tu hành, và tích lũy thiện căn. Tuy đời này chịu cực khổ tu hành, nhưng thời gian sẽ thoáng trôi qua. Đời sau sẽ sanh về cõi nước của Đức Phật Vô Lượng Thọ và thọ hưởng vô lượng an vui. Lại luôn khế hợp với Đạo và tuyệt trừ nguồn gốc của sanh tử, không có tham sân si và các khổ nạn. Lúc ấy, như muốn thọ mạng dài một kiếp, trăm kiếp, hay ngàn ức vạn kiếp thì đều được tùy ý tự tại, và vô vi tự nhiên chỉ kế sau cảnh giới của tịch diệt.
Các ông mỗi người nên tinh tấn để đạt thành tâm nguyện của mình. Giả như có lòng hoài nghi, hối tiếc, hay phạm lỗi lầm thì sẽ sanh ở nơi biên địa của cõi nước kia, phải ở trong cung điện bảy báu và thọ những khổ ách đến 500 năm."
Ngài Di Lặc bạch rằng:
"Chúng con xin thọ trì lời dạy bảo ân trọng của Phật, sẽ tinh tấn tu học, như giáo phụng hành, và chẳng dám có lòng hoài nghi."
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top