kinh Trung Bo Toat Yeu 2

Toát yếu Kinh Trung Bộ

Ni sư Thích Nữ Trí Hải tóm tắt & chú giải

TRUNG BỘ KINH - BÀI KINH SỐ 11

Tiểu kinh sư tử hống

I. TOÁT YẾU

Cùlasìhanàda Sutta - The shorter discourse on the Lion's roar.

The Buddha declares that only in his Dispensation can the four grades of noble individuals be found, explaining how his teaching can be distinguished from other creeds through its unique rejection of all doctrines of self.

Bài kinh ngắn nói về tiếng rống sư tử.

Phật tuyên bố, chỉ trong Giáo pháp Ngài mới có thể tìm thấy bốn cấp bực thánh chúng, và giải thích giáo lý Ngài khác với các tôn giáo khác ở chỗ độc đáo phủ nhận tất cả kiến chấp về bản ngã như thế nào.

II. TÓM TẮT

Phật bày cho các đệ tử đối đáp với ngoại đạo khi bị chất vấn lý do lời tuyên bố "chỉ có trong đạo Phật mới có bốn thánh quả sa môn, tức bốn đôi tám vị". Trả lời: "Vì chúng tôi có bốn pháp là: tin đấng Đạo sư, tin Pháp, viên mãn Giới luật và có những pháp hữu tại gia xuất gia mà chúng tôi thương mến."

Nếu ngoại đạo vặn lại, tôn giáo nào cũng có bốn pháp ấy, đạo Phật có gì khác? Nên hỏi lại họ: - "Cứu cánh là một hay nhiều?" Nếu trả lời chân chính, họ phải nói chỉ có một.

- "Cứu cánh ấy dành cho người có tham hay không tham?" Họ cũng phải đáp là cho người vô tham.

Hỏi tiếp như trên về sân, si, ái, chấp thủ, vô trí, có phản ứng thuận nghịch, ưa hý luận, thì họ đều buộc phải trả lời chân chính rằng "cứu cánh ấy là cho người không tham, không sân, không si, không ái nhiễm, không chấp thủ, có trí, không có phản ứng thuận nghịch, không ưa hý luận."

Có hai loại tri kiến hay quan điểm: hữu kiến và phi hữu kiến. Người cố chấp hữu kiến thì bị chướng ngại bởi phi hữu kiến, và ngược lại. Người nào không như thật tuệ tri sự tập khởi và đoạn diệt của hai loại kiến ấy, vị ngọt, nguy hiểm và sự xuất ly khỏi chúng, chính là người có tham, sân, si, ái, chấp thủ, vô trí, có phản ứng thuận nghịch, ưa hý luận, do vậy không thoát khỏi sinh, già chết, khổ đau. Ai như thật tuệ tri những điều trên, là người không còn tham sân si ái, không chấp thủ, có trí, hết phản ứng thuận nghịch, hết ưa hý luận. Người ấy giải thoát khỏi sinh, già, chết, khổ sầu.

Có bốn chấp thủ là dục thủ, kiến thủ, giới cấm thủ, ngã luận thủ. Có những sa môn bà la môn tuy tự xưng liễu tri tất cả thủ, song chỉ hiển thị hoặc một thủ, hoặc hai hoặc ba thủ, trừ ngã luận thủ; nên tri kiến họ còn thiếu sót. Trong giáo pháp thiếu sót như vậy, dù có lòng tin bậc đạo sư, tin giáo pháp, thành tựu các giới luật, thương mến các bạn đạo, lòng tin ấy, sự thành tựu ấy, lòng thương mến ấy được xem là không hoàn toàn. Vì giáo pháp ấy không được khéo thuyết giảng, không hướng thượng, không đưa đến tịch tịnh niết bàn. Ngược lại, khi Phật tự xưng liễu tri tất cả thủ, Ngài chân chính hiển thị sự liễu tri dục thủ, kiến thủ, giới cấm thủ, ngã luận thủ. Trong một giáo pháp như vậy, nếu có tịnh tín đối với bậc Đạo sư, với Pháp và Tăng, thành tựu viên mãn Giới, thương mến bạn đạo, thì sự tịnh tín ấy, sự thành tựu và thương mến ấy được xem là hoàn toàn. Vì giáo pháp ấy dẫn đến tịch tịnh niết bàn, được bậc Chính Đẳng giác hiển thị.

Kế đến Phật phân tích nguồn gốc phát sinh 4 loại chấp thủ theo 12 chi duyên khởi, bắt nguồn từ vô minh. Tỳ kheo đã đoạn trừ vô minh thì không chấp thủ, nhờ không chấp thủ nên không tháo động, tự thân chứng niết bàn.

III. CHÚ GIẢI

Phản ứng thuận nghịch: Thuận là bị tham chi phối; nghịch là bị sân chi phối. Hý luận là tâm hành còn bị điều động bởi ái và kiến.

Hữu kiến, bhavaditthi là thường luận, hay "chấp thường", tin bản ngã là trường cửu. Phi hữu kiến, vibhavaditthi là đoạn diệt luận hay "chấp đoạn" nghĩa là cho con người chết rồi là hết, không có tái sinh để chịu quả báo các hành vi thiện ác. Sự cố chấp hữu kiến kéo theo sự phản đối phi hữu kiến, điều này liên quan đến câu nói ở trước "cứu cánh (niết bàn) là dành cho người nào không có phản ứng thuận nghịch."

Về "sự tập khởi" - samudaya - của hai loại kiến chấp, Sớ giải kể ra tám yếu tố làm nhân duyên: năm uẩn, vô minh, xúc, tưởng, tư, phi như lý tác ý, bạn xấu, và tiếng nói của một người khác. Sự biến mất hai loại ấy - attangama - là Dự lưu đạo, ở đấy tất cả quan điểm đều bị nhổ bật gốc. Vị ngọt của chúng - assàda - là sự thỏa mãn nhu cầu tâm lý mà chúng đem lại; nguy hiểm - àdìnava - sự trói buộc liên tục mà chúng gây ra; sự xuất ly khỏi chúng là niết bàn.

Trong bốn thủ, dục thủ - bao gồm tất cả ham muốn vi tế nhất - chỉ đoạn tận ở A la hán đạo; ba thủ còn lại ở Dự lưu đạo đã trừ được. "Tuệ tri" đây có nghĩa là vượt qua, thắng lướt được nhờ hiểu rõ. Đoạn này cho thấy yếu tố cao điểm phân biệt lời Phật dạy khác với tất cả tôn giáo triết học khác, đó là Phật "liễu tri sự chấp thủ vào chủ trương có ngã" hay ngã luận thủ. Điều này cũng có nghĩa, duy chỉ Phật mới có thể chỉ dạy cách vượt qua tất cả kiến chấp về ngã, bằng cách thâm nhập chân lý vô ngã. Các bậc thầy khác thiếu tuệ tri này về vô ngã, cho nên lời tuyên bố của họ tự cho đã liễu tri ba thủ kia cũng khả nghi.

IV. PHÁP SỐ

Hai loại tri kiến: Hữu kiến, phi hữu kiến.

Ba điều cần biết về các pháp: Vị ngọt, nguy hiểm và xuất ly.

Bốn quả sa môn

Bốn pháp quyết định: tin Phật, tin Pháp, tin Tăng, và tin Giới.

Bốn thủ

Mười hai nhân duyên.

V. KỆ TỤNG

Chỉ trong giáo pháp này

Có bốn quả sa môn

Dự lưu và Nhất lai

Bất hoàn, A la hán.

Vì đức tin đặt đúng

Vào bốn chỗ đáng tin:

Phật, Pháp, Tăng và Giới

Được lợi lạc vô biên.

Có hai loại tri kiến

Chấp hữu và chấp vô

Cả hai đều chướng ngại

Không thoát khỏi sầu ưu.

Ai tuệ tri vị ngọt

Nguy hiểm và xuất ly

Của hai loại kiến chấp

Liền giải thoát khổ sầu.

Có bốn sự vướng mắc

Hoặc vướng vào sắc dục

Hoặc vướng vào quan điểm

Hoặc vướng vào lễ tục

Hoặc vướng các ngã luận

- lý thuyết chấp có "tôi" -

Riêng ngã luận thủ này

Chỉ Như lai từ bỏ.

Các ngoại đạo sư khác

Thuyết giảng ba thủ kia

Trừ ngã luận thủ này

Họ chưa từng đề cập.

Ba thủ họ "tuệ tri"

Kể cũng thực khả nghi:

Giáo pháp ấy bất toàn

Vì còn có chấp ngã.

Trong pháp luật bất toàn

Dù có tin đạo sư

Tin pháp đạo sư dạy,

Dù có viên mãn giới

Thương yêu đồng đạo mình

Thì lòng tin kính ấy

Chỉ luống công nhọc xác

Vì đức tin sai chỗ.

Bậc đạo sư tối thượng

Lìa tất cả kiến chấp

Tuệ tri cả bốn thủ

Theo nguyên lý duyên sinh

Từ Ái, có chấp Thủ

Đưa đến Hữu và Sinh

Già chết sầu bi khổ

Nguồn gốc từ Vô minh.

Trong giáo pháp toàn hảo

Ai có được niềm tin

Đức tin ấy toàn vẹn

Vì Đạo sư toàn giác

Vì Pháp được khéo giảng

Giới luật đáng viên mãn

Và có các bạn lành

Bốn pháp ấy toàn hảo.

-ooOoo-

TRUNG BỘ KINH - BÀI KINH SỐ 12

Đại kinh Sư tử hống

I. TOÁT YẾU

Mahàsìhanàda Sutta - The greater discourse on the lion's roar.

The Buddha expounds the ten powers of a Tathàgata, his four kinds of intrepidity, and other superior qualities which entitle Him to "roar his lion's roar in the assemblies".

Bài kinh dài nói về tiếng rống sư tử.

Phật giảng về Mười lực của một đức Như lai, Bốn vô úy và những đức thù thắng khác; nhờ đó Ngài đủ tư cách "rống tiếng rống sư tử" trong các hội chúng.

II. TÓM TẮT

Tôn giả Xá lợi phất đi khất thực, về bạch lại với Phật lời rêu rao của Sunakkhatta vừa mới bỏ tu: "Sa môn Gotama không có tri kiến thù thắng, thuyết pháp do mình tạo ra sau khi suy luận, trắc nghiệm. Pháp ấy nhắm đến một mục tiêu đặc biệt, có khả năng hướng thượng, có thể dẫn người thực hành đến chỗ đoạn tận khổ đau." Phật mỉm cười dạy: "Kẻ ngu ấy vì phẫn nộ muốn chỉ trích mà lại hóa ra ca tụng Như lai." Phần còn lại của Kinh này cho thấy sự chỉ trích của Sunakkhatta là sai lạc. Những ai có lòng tin tuyệt đối sẽ thấy ngược lại, Phật là đấng có mười lực, bốn vô úy và nhiều năng lực khác.

A. Tùy pháp về Như lai:

1. Phật đủ mười hiệu là Như lai, Ứng cúng, Chánh đẳng giác, vân vân.

2. Ngài đã chứng các thần thông như biến hóa, thiên nhĩ thông, tha tâm thông...

3. Nhờ đã thành tựu mười lực và bốn vô úy, mà Như lai tự nhận địa vị Ngưu vương, rống tiếng rống sư tử giữa các hội chúng và chuyển bánh xe Pháp.

B. Những pháp Ngài đã tuệ tri: như bốn sinh, năm thú và con đường đưa đến đấy; niết bàn và đường đưa đến niết bàn.

C. Phật kể lại những khổ hạnh Ngài đã tu tập: như hành hạ thân xác, hạnh bần uế, hạnh yểm ly, hạnh độc cư; trong cả 4 hạnh ấy không ai sánh được với Ngài, nhưng cuối cùng Ngài từ bỏ vì chúng không đưa đến chứng đắc trí tuệ.

D. Cuối cùng, Ngài bác bỏ những chủ trương sai lầm của ngoại đạo: như chủ trương chúng sinh đạt thanh tịnh nhờ luân hồi, nhờ tái sinh, nhờ an trú (trong một loại tái sinh nào đó), nhờ tế tự, nhờ thờ lửa. Phật cho biết không có cõi luân hồi nào ở đấy Ngài đã không trải qua một thời gian khá dài, không có cõi nào Ngài chưa từng tái sinh, an trú, chỉ trừ cõi trời Tịnh cư. Nếu Ngài tái sinh vào cõi Tịnh cư thì Ngài đã không trở lại thế gian này. Ngài cũng đã làm tất cả những việc tế tự, thờ lửa trong một thời gian dài lúc còn làm vua dòng Sát đế lợi, hay làm Bà la môn giàu có [nhưng không ích lợi gì].

Ngoại đạo cho rằng khi còn trẻ tuổi, người ta có trí tuệ, biện tài, nhưng về già thì lú lẫn. Ở trong giáo pháp của Phật thì không thế, Ngài có bốn đệ tử đã trên trăm tuổi mà vẫn đầy đủ trí tuệ biện tài. Và bản thân Ngài cũng thế, dù tuổi đã tám mươi, Ngài vẫn thừa sức giảng dạy cho những vị trí tuệ biện tài bậc nhất, và trí tuệ Ngài không sút giảm dù có phải bị gánh trên giường đi chỗ này chỗ kia (khi đã quá già yếu). Ai nói về đức Như lai một cách chân chính sẽ nói rằng: "Ngài là vị hữu tình không còn si ám, sinh ra đời vì lợi ích, vì hạnh phúc cho chúng sinh, vì an lạc cho chư thiên và loài người." Một điểm lý thú là kết luận kinh này. Tôn giả Nagasamala lúc ấy đang đứng sau lưng Phật mà quạt cho Ngài. Sau khi nghe Phật kể về thời gian tu khổ hạnh, về những gì Phật đã thành tựu, tôn giả cả cảm khái đến rởn ốc, và bạch Phật: "Thật vi diệu thay, bạch Thế tôn. Sau khi nghe kinh này, lông tóc con dựng ngược. Bạch Thế tôn, kinh này tên gì?" Phật dạy, "Thế thì hãy gọi là kinh Lông tóc dựng ngược."

III. CHÚ GIẢI

Sunakkhata, Phật giảng dạy vị này trong Kinh Sunakkhata, Trung bộ kinh 105, có lẽ trước khi ông gia nhập tăng đoàn. Việc thối thất của ông được nói trong Kinh Pàtika thuộc trường bộ 24. Ông bất mãn bỏ về vì Phật không biểu diễn thần thông cho ông xem, cũng không giải đáp cho ông về khởi nguyên các pháp. Cốt lõi lời chỉ trích của Sunakkhata là Phật đắc đạo nhờ tư duy chứ không phải nhờ trí tuệ siêu việt; và theo ông ta, mục đích diệt tận đau khổ không bằng có được các loại thần thông.

Tạp nhiễm, sankilesa - là dự phần vào thối giảm, "thanh tịnh" vodàna, là dự phần vào tăng tiến; "xuất khởi" - vutthàna - vừa có nghĩa tịnh hóa vừa có nghĩa ra khỏi một thiền chứng.

Mười danh hiệu Phật: Như lai, A la hán, Chính đẳng giác, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Điều ngự trượng phu, Thiên nhân sư, Phật Thế tôn.

Mười lực là:

1. Trí biết thị xứ phi xứ [do thấy rõ tương quan nhân quả, nên biết được cái gì có thể xảy đến, không thể xảy đến.]

2. Trí biết nghiệp báo trong cả ba thời quá, hiện, vị lai.

3. Biết con đường đưa đến các cảnh giới.

4. Biết tất cả yếu tố tạo thành thế gian [nói rõ trong kinh Trung bộ 115.]

5. Biết chí hướng sai biệt của các loại hữu tình; biết các hạng chúng sinh thượng, trung, hạ, chúng thu hút lẫn nhau do luật đồng thanh đồng khí.

6. Biết căn mạnh hay yếu nơi chúng sinh - tức 5 căn tín tấn niệm định tuệ.

7. Tuệ tri sự tạp nhiễm, thanh tịnh, sự xuất khởi các thiền chứng về thiền, giải thoát, định.

8. Trí biết tất cả kiếp trước của bản thân gọi là túc mạng trí.

9. Trí biết sự sống chết của chúng sinh tùy theo nghiệp hay sinh tử trí.

10. Lậu tận trí, sạch hết tất cả nhiễm ô.

[Hán văn: 1. Tri thị xứ phi xứ lực; 2. Tri tam thế nghiệp báo lực; 3. Tri nhất thiến đạo trí lực; 4. Tri thế gian chủng chủng tính lực; 5. Tri tha chúng sinh chủng chủng dục lực; 6. Tri tha chúng sinh chư căn thượng hạ lực; 7. Tri chư thiền tam muội lực; 8. Túc mạng trí; 9. Sinh tử trí; 10. Lậu tận trí.]

Bốn vô úy:

1. Phật không lo sợ bất cứ ai trên đời chỉ trích Ngài chưa chứng mà mạo nhận.

2. Không sợ ai chỉ trích Ngài chưa đoạn trừ lậu hoặc mà tự cho đã đoạn trừ.

3. Những gì Ngài dạy chướng ngại đạo chắc chắn là chướng ngại, không sợ ai nói ngược lại.

4. Pháp Ngài dạy chắc chắn dẫn đến đoạn tận đau khổ, không ai có thể bảo là không.

Nagasamala là thị giả Phật trong 20 năm đầu sau khi Ngài ra giáo hoá.

IV. PHÁP SỐ

Bốn khổ hạnh: khổ hạnh, bần uế, viễn ly, độc cư.

Bốn vô úy

Bốn sinh: noãn, thai, thấp, hóa.

Năm thú: năm chỗ mà sự tái sinh hướng đến, là trời (gồm a tu la), người, địa ngục, ngạ quỷ, bàng sinh.

Sáu thông

Tám giải thoát được kể trong các kinh Trung bộ 77 và 137.

Tám hội chúng: Sát lợi, bà la môn, gia chủ, sa môn, tứ thiên vương, ma vương và phạm thiên, tam thập tam thiên.

Chín định là 4 thiền, 4 không và diệt thọ tưởng.

Mười danh hiệu Phật

Mười lực

Mười hai nhân duyên

V. KỆ TỤNG

A. Nguyên nhân thuyết kinh này

Một người từ bỏ Pháp

Tên Su-na-khat-ta

Rêu rao: "Go-ta-ma

Không có thượng nhân pháp

Ngài chỉ có giảng dạy

Một con đường diệt khổ

Chính Ngài đã tỏ ngộ

Khiến tận diệt khổ đau."

Xá lợi phất thuật lại

Phật nghe, chỉ mỉm cười:

"Kẻ ngu muốn chê bai

Trở thành khen Như lai."

B. Mười lực Phật

Đối với kẻ ngu si

Sẽ không có tùy pháp:

"Ngài là đức Như lai

Đầy đủ mười tôn hiệu:

Là bậc A la hán

Là đấng Chính đẳng giác

Là đấng Minh hạnh túc

Thiện thệ, Thế gian giải

Là đấng Vô thượng sĩ

Đấng Điều ngự trượng phu

Đấng Thiên nhân sư, Phật

Thế tôn, quý nhất đời.

Đối với kẻ ngu si

Sẽ không có tùy pháp

Về mười Như lai lực

Phật như thật chứng tri:

Ngài có thần túc thông

Biến hình nhiều thể loại

Ngài đắc thiên nhĩ thông

Nghe đủ tiếng các loài.

Ngài có tha tâm thông

Tự tâm biết tâm khác

Đi sâu vào tâm niệm

Của vô số sinh loài

Với mười Như lai lực

Phật rống tiếng Sư tử

Chuyển xe Pháp thanh tịnh

Thành địa vị Ngưu vương.

"Thị xứ phi xứ lực"

Việc có, không xảy ra

Phật đều biết tỏ tường

Nhờ liễu tri nhân quả.

"Biết nghiệp báo ba đời"

"đường đến các cảnh giới"

"Các căn tính chúng sinh"

Cùng "khuynh hướng mọi loài."

"Biết căn tu mạnh, yếu"

- tinh tấn niệm định tuệ -

"Biết các thiền, giải thoát"

- chư thiền tam muội lực.

Ngài đắc "túc mệnh trí"

biết các đời trước mình

Và đắc "sinh tử trí"

Biết sống chết chúng sinh

Cuối cùng "lậu tận trí"

Là trí sạch ô nhiễm

Như lai đã thân chứng

Thành Vô thượng bồ đề.

Ngài rống tiếng sư tử

Chuyển xe Pháp thanh tịnh

Ở giữa tám hội chúng:

Sát lợi, Bà la môn

Gia chủ và sa môn

Hội chúng Tứ thiên vương

Ma vương và Phạm thiên

Cùng Tam thập tam thiên.

Giữa tám hội chúng ấy

Ngài thuyết pháp vô ngại

Nhờ đắc mười tự tại

Và bốn Không sợ hãi:

C. Bốn vô úy

Không sợ ai chỉ trích

"Chưa chứng nói đã chứng"

Vì Như lai hoàn toàn

Thâm nhập pháp sở chứng.

Không sợ ai chỉ trích

"Chưa đoạn nói đã đoạn"

Vì Như lai thực sự

Đã trừ sạch nhiễm ô.

Không sợ ai bác bỏ

"Chướng đạo, chướng gì đâu?"

Vì Như lai biết rõ

Có dục, không giải thoát.

Không sợ ai phản bác

"Pháp Ngài không giải thoát"

Vì Pháp Như lai dạy

Thực tận diệt khổ đau.

D. Bốn sinh, Năm thú

"Trứng sinh" và "thai sinh",

"Thấp sinh" và "hóa sinh"

- Hóa sinh ở nhiều cõi -

Ấy là bốn sinh loài.

Năm cõi là địa ngục,

Bàng sinh và ngạ quỷ

Loài người và chư thiên,

Đây năm cõi tái sinh.

Như lai biết thấy rõ

Cõi nào đợi nghiệp nào

Ngài cũng tuệ tri được

Niết bàn và hành lộ.

E. Bốn khổ hạnh: khổ, bần uế, độc cư, yểm ly

Không một khổ hạnh nào

Phật không từng tu tập

Như ngoại đạo đang hành

Và vượt xa hơn chúng.

Không hạnh ở dơ nào

Phật chưa từng sống qua

Như ngoại đạo đang sống

Ngài vượt họ rất xa.

Ngài đã từng độc cư

Nơi tuyệt dấu người ta

Sống yểm ly, tỉnh giác

Trải tâm từ lan xa.

Ở trong bãi tha ma

Đêm nằm gối xương ngủ

Mục đồng đến khạc nhổ

Trú xả, không kêu ca.

Vì Ngài ăn quá ít

Thân chỉ còn xương, da

Dù khổ hạnh tối đa

Không chứng thượng nhân pháp.

Bởi thế, đây toàn là

Sai lầm của ngoại đạo

Mà Phật đã trải qua

Các đời kiếp lâu xa:

Tái sinh vô số lần,

Tế tự và thờ lửa

Tái sinh cõi này kia

Với hy vọng giải thoát.

Phật chứng lý Trung đạo

Từ bỏ các cực đoan

Hưởng lạc và ép xác

Trường tồn và đoạn diệt

Đạt hoàn toàn giải thoát

Và trí tuệ biện tài

Không tranh chấp cùng ai

Vì không còn thủ trước.

"Không bị si chi phối

Ngài đã sinh ra đời

Vì hạnh phúc an lạc

Cho tất cả muôn loài

Vì lòng thương tưởng đời

Cả chư thiên, loài người."

Một hữu tình như vậy

Chính là đức Như lai.

-ooOoo-

TRUNG BỘ KINH - BÀI KINH SỐ 13

Đại kinh Khổ uẩn

I. TOÁT YẾU

Mahàdukkhakkhanda Sutta - The greater discourse on the mass of suffering.

The Buddha explains the full understanding of sensual pleasures, material form, and feelings; there is a long section on the dangers in sensual pleasures.

Bản kinh dài nói về đống khổ.

Phật giải thích sự liễu tri các khoái lạc giác quan, liễu tri sắc và thọ; có một đoạn rất dài nói về những nguy hiểm của dục lạc.

II. TÓM TẮT

Các tỳ kheo đến thăm các du sĩ ngoại đạo và bị chất vấn có gì khác nhau giữa thuyết của Phật với ngoại đạo về ba vấn đề dục, sắc pháp và cảm thọ, vì họ cũng như Phật, hiểu biết hoàn toàn về ba pháp ấy. Tỳ kheo trở về bạch Phật, Phật giảng về sự liễu tri ba pháp ấy trong giáo lý Ngài, ấy là cần phải liễu tri ba điều: vị ngọt, nguy hiểm và sự xuất ly khỏi chúng.

A. Trước hết về dục

Vị ngọt là năm pháp tăng trưởng dục: các sắc, thanh, hương, vị, xúc khả ái do năm giác quan tiếp nhận. Nguy hiểm là:

1. Vì theo đuổi năm thứ ấy mà phải vất vả làm lụng đủ thứ nghề nghiệp.

2. Sự đau khổ thất vọng ê chề nếu sau bao nhiêu nỗ lực theo đuổi mà vẫn không có được điều mình muốn.

3. Sự mất công gìn giữ, lo sợ mất mát khi đã có được.

4. Nỗi đau khổ ghê gớm khi tài sản đã có bị mất trộm, bị tịch thu, bị trôi, bị cháy, bị con hư phá tán.

5. Vì các dục, mà chiến tranh xảy ra khắp nơi giữa người với người; ngay cả trong gia đình, vợ chồng con cái cũng tranh chấp nhau, đưa đến tử vong hoặc đau khổ gần chết.

6. Do dục mà con người trở nên hung bạo tán tận lương tâm, đánh nhau chết bỏ.

7. Do dục mà có cướp bóc giết hại, và có những hình phạt ghê gớm dành cho tội nhân.

8. Do dục mà con người làm các ác hành về thân, ngữ, ý, chết đọa vào các cõi dữ. Đấy là những nguy hiểm của dục. Sự xuất ly là điều phục lòng tham đối với sắc thanh hương vị xúc, cho đến đoạn tận tham dục.

B. Về sắc, ở đây là nữ sắc.

Vị ngọt là vẻ đẹp nơi thiếu nữ, gợi lên cảm giác hỷ lạc nơi người nhìn. Nguy hiểm là vẻ già xấu, bệnh hoạn nằm một chỗ, đắm mình trong phân tiểu của chính mình khi cô ấy đến tuổi thành bà ngoại. Nguy hiểm nữa là vẻ ghê tởm của xác chết khi bị quăng bỏ nơi nghĩa địa, cho đến khi chỉ còn là những đốt xương rời rạc, tan thành tro bụi. Đó là nguy hiểm của sắc. Sự xuất ly khỏi sắc là điều phục dục tham đối với sắc, cho đến đoạn trừ tham dục.

C. Về cảm thọ.

Phật đưa ra hỷ lạc thiền định, để hiển thị ngay cả lạc thọ vô hại ấy cũng còn có nguy hiểm, huống hồ các lạc thọ khác. Vị ngọt là hỷ lạc do ly dục ở sơ thiền, hỷ lạc do định ở nhị thiền, lạc ở tam thiền, xả niệm thanh tịnh ở tứ thiền. Đấy là vị ngọt tối thượng của cảm thọ, vì nó vô hại. Nguy hiểm của cảm thọ này là nó cũng vô thường, biến hoại, nên là khổ. Sự xuất ly các cảm thọ là điều phục dục tham đối với các cảm thọ, đoạn trừ dục tham.

Người nào như thật tuệ tri được vị ngọt, nguy hiểm và xuất ly của các dục, sắc, và thọ, thì mới có khả năng giúp người khác như thật tuệ tri các pháp ấy.

III. CHÚ GIẢI

Liễu tri - parinnà đây có nghĩa là vượt qua, samatikkhama hay từ bỏ, pahàna. Du sĩ ngoại đạo cho chứng sơ thiền là liễu tri dục, chứng các vô sắc là liễu tri sắc, chứng thiền vô tưởng là liễu tri thọ. Trái lại, Phật dạy ở Bất hoàn đạo mới liễu tri các dục, ở A la hán đạo mới liễu tri sắc và thọ.

IV. PHÁP SỐ

Ba pháp: vị ngọt, nguy hiểm, sự xuất ly.

Năm dục trưởng dưỡng: sắc, thanh, hương, vị, xúc.

V. KỆ TỤNG

A. Liễu tri dục

Trong giáo pháp Như lai

Liên hệ dục, sắc, thọ

Liễu tri cũng đồng nghĩa

"Đoạn tận" và "từ bỏ"

Trước hết, liễu tri "dục"

Cần biết rõ ba điều

Vị ngọt và nguy hiểm

Cùng xuất ly khỏi dục.

Đây vị ngọt của dục:

Các sắc đẹp, tiếng hay,

Mùi thơm và vị ngon

Cùng xúc giác êm dịu.

Tất cả những thứ gì

Năm giác quan nhận thức

Đem lại sự mê ly

Là vị ngọt của dục.

Nguy hiểm của năm dục

Thực khó nói cho cùng

Đây chỉ kể sơ lược

Những nguy khổ nói chung

Nào mất công theo đuổi

Chịu bao nỗi nhọc nhằn

Làm đủ thứ nghề nghiệp

Vừa lao lực, lao tâm.

Nếu nỗ lực tinh cần

Mà vẫn không có được

Tài sản mình mong ước

Họ đấm ngực khóc than.

Khi được của vào tay

Họ lo lắng đêm ngày

Lo tịch thu, trộm cướp,

Trôi, cháy, con ăn xài.

Của chưa mất đã khổ

Sợ vạ gió tai bay

Khi mất thực càng khổ

Kêu "Trời, tôi trắng tay."

Lại dục là nguyên do

Có xung đột, đôi co

Đánh nhau đến trí mạng

Người thân hóa kẻ thù.

Dục thú đẩy sát sinh

Tà dâm và trộm cắp

Cùng mọi việc gian ác

Đến tán tận nhân tình.

Do dục, bị tra khảo

Bằng đủ thứ nhục hình

Hiện tại phải tù tội

Còn khổ kiếp lai sinh.

Dục vui ít khổ nhiều

Nguy hiểm lại nhiều hơn

Điều phục, đoạn tận tham

Ấy là xuất ly dục.

B. Liễu tri Sắc

Vị ngọt của sắc pháp

Là sắc đẹp gái trai

Tuổi chưa quá hai mươi

Mùa xuân của đời người.

Nguy hiểm của sắc pháp

Là lúc đã đến thời

Em gái thành bà ngoại

Còn đâu nhan sắc tươi.

Lưng còng, tóc bạc trắng

Làn da khô nhăn nheo

Già bệnh nằm một chỗ

Còn đâu vẻ mỹ miều.

Vị ngọt đã biến mất

Chỉ còn lại đắng cay

Của mối nguy già, chết

Chờ đợi tấm thân này.

Nguy hiểm của sắc pháp

Là thi thể cô gái

Khi bỏ ngoài nghĩa địa

Loài chim thú rỉa thây.

Nguy hiểm của sắc pháp

Là thi thể cô gái

Khi chỉ còn bộ xương

Và xương thành bột trắng.

Xuất ly khỏi sắc pháp

Là điều phục dục tham

Và đoạn trừ tham dục

Đối với sắc, không ham.

C. Liễu tri thọ

Vị ngọt của cảm thọ

Là hỷ lạc sơ thiền

Do ly dục sinh ra:

Vắng bóng niềm đau khổ.

Và hỷ lạc nhị thiền

Do tập trung sinh ra

Không còn tầm với tứ:

Một cảm thọ ngọt ngào.

Tam thiền thuần lạc thọ

Và xả thọ thanh tịnh

Ở định chứng tứ thiền

Là vị ngọt cảm thọ.

Nguy hiểm của cảm thọ:

Tối thượng vô hại này

Bị vô thường biến hoại

Nên vẫn nằm trong khổ.

Xuất ly các cảm thọ

Là điều phục dục tham

Đoạn trừ hết dục tham

Với tất cả cảm thọ.

Ai như thật tuệ tri

Vị ngọt là vị ngọt

Nguy hiểm là nguy hiểm

Xuất ly là xuất ly

Thì tự mình giải thoát

Khỏi đau khổ sầu bi

Và có thể đưa người

Tuệ tri các cảm thọ.

-ooOoo-

TRUNG BỘ KINH - BÀI KINH SỐ 14

Tiểu kinh khổ uẩn

I. TOÁT YẾU

Cùladukkhakkhandha Sutta - The shorter discourse on the mass of suffering.

A variation of the preceding, ending in a discussion with Jain ascetics on the nature of pleasure and pain.

Bản kinh ngắn về đống khổ.

Một dạng như kinh số 13, kết thúc bằng một cuộc đàm luận với những người Kỳ na giáo tu khổ hạnh, về bản chất của lạc và khổ.

II. TÓM TẮT

Màhanàma hỏi Phật, vì nguyên nhân gì thỉnh thoảng ông vẫn bị tham sân si xâm chiếm mặc dù đã biết đấy là cấu uế của tâm, và hỏi có pháp nào trong ông chưa đoạn khiến ông vẫn bị tham sân si chi phối. Phật dạy, pháp ấy chính là dục. Vì ông chưa đoạn dục, để cho dục lèo lái ông nên ông vẫn sống trong gia đình, thụ hưởng các dục. Phật cho biết dục vui ít, khổ não nhiều, nguy hiểm lại còn nhiều hơn. Về dục, nên biết rõ vị ngọt, nguy hiểm và sự xuất ly. Nhưng nếu thấy rõ như vậy với trí tuệ chân chính, mà chưa chứng được hỷ lạc thiền định hay các pháp thù thắng hơn, thì vẫn còn bị dục chi phối. Đó là kinh nghiệm bản thân của Phật.

Kế tiếp, Phật kể cho Mahànàma nghe mẩu đối thoại của Ngài với những người theo phái Ni kiền tử thực hành nhiều khổ hạnh, cảm thọ những đau khổ khốc liệt để chuộc tội lỗi quá khứ, vì tin như vậy sẽ được giải thoát.

Phật hỏi họ năm điều: Họ có biết được trong quá khứ họ có hiện hữu hay không? Trong quá khứ, họ có làm ác nghiệp hay không? Trong quá khứ, họ đã làm những ác nghiệp gì? Họ có biết đã trừ được bao nhiêu đau khổ, còn lại bao nhiêu đau khổ chưa trừ không? Họ có biết đoạn trừ ngay trong hiện tại những bất thiện và hoàn thành các thiện pháp không? Các người đệ tử theo phái khổ hạnh đều không biết. Nhưng vì họ tin nhân quả nghiệp báo, Phật kết luận: "Vậy thì những người xuất gia trong Ni kiền tử phải từng là những kẻ ác ôn ghê gớm" (cho nên mới phải hành thân hoại thể để chuộc tội).

Nhưng người Ni kiền tử lại nói: "Hạnh phúc thành tựu nhờ đau khổ. Nếu hạnh phúc thành tựu nhờ hạnh phúc, thì vua Bình sa (Bimbisara) sẽ hơn tôn giả Gotama, vì vua đang sống hạnh phúc hơn tôn giả Gotama." Ni kiền tử lầm lạc khoái lạc giác quan là hạnh phúc, nên khi Phật hỏi liệu vua Bình sa có thể làm như Ngài, ngồi yên bất động trong nhiều ngày mà vẫn cảm thấy thuần túy lạc thọ, thì Ni kiền tử phải công nhận Phật sống hạnh phúc hơn vua.

III. CHÚ GIẢI

Mahànàma có họ với Phật, ông là anh của Anuruddha và Ananda. Theo Sớ giải, ông đã chứng quả Bất hoàn, nghĩa là chỉ có suy giảm tham sân si chứ chưa đoạn tận. Vì ông lầm tưởng khi vào đạo lộ Bất hoàn là đã đoạn tận tham sân si, nên mới ngạc nhiên khi thấy trong tâm ông thỉnh thoảng chúng lại sinh khởi.

Phật đưa vào đây câu chuyện về khổ hạnh cốt để nói, giáo lý Ngài là Trung đạo, tránh xa hai cực đoan hưởng thụ và ép xác.

IV. PHÁP SỐ

Ba độc: tham, sân, si.

Ba pháp: vị ngọt, nguy hiểm, xuất ly.

Bốn thiền

V. KỆ TỤNG

A. Nguyên nhân của cấu uế là dục

Từ lâu con đã hiểu

Lời dạy của Thế tôn

Tham sân si cấu uế

Vẫn xâm chiếm tâm con.

"Pháp nào con chưa đoạn

Khiến cấu uế xâm nhập

Và chiếm cứ tâm con

Xin Thế tôn chỉ dạy."

Này Ma-ha-na-ma

Vương tử dòng Thích ca

Dục trong người chưa đoạn

Do đời sống tại gia.

B. Thay dục lạc bằng thiền lạc

"Dục vui ít khổ nhiều

Nguy hiểm càng nhiều hơn

Dù tuệ tri như vậy

Và chí muốn xuất ly

Nhưng chưa chứng thiền lạc

Hoặc pháp thù thắng hơn

Thì dục vẫn chi phối

Và xâm chiếm tâm ngươi."

C. Khổ hạnh vô ích

Phật bác Ni kiền tử

Để hiển thị Trung đạo

Lìa xa hai cực đoan

Hưởng lạc và ép xác.

Ni kiền tử chủ trương

Cần hành hạ thân xác

Chuộc tội lỗi quá khứ

Đời sau được an lạc.

Nhưng vì không thể biết

Đời trước làm tội gì

Đã chuộc được bao nhiêu

Còn bao nhiêu chưa chuộc.

Nếu thực sự khổ đau

Do ác nghiệp về trước

Thì chắc Ni kiền tử

Đã tạo nhiều phi phước.

"Dù có nói thế nào

Hạnh phúc không thể đạt

Nhờ con đường hưởng lạc

Mà phải nhờ ép xác.

Nếu hiện tại hưởng lạc

Mà tạo được nhiều phúc

Thì Tần bà sa la

Sẽ hạnh phúc hơn Phật."

Phật hỏi Ni kiền tử

"Phải chăng người đã nghĩ

Vua Tần bà sa la

Đang hạnh phúc hơn ta?"

"Thưa Cồ đàm, chính phải

Hay là như thế nào

Thực tình, tôi không rõ

Xin Ngài làm sáng tỏ."

"Này ngươi Ni kiền tử

Vua có ngồi một mình

Với thuần túy lạc thọ

Suốt ngày đêm được chăng?"

"Không, có lẽ là không."

"Ta có thể nhiều ngày

Im lặng, thân bất động

Vẫn hoàn toàn hạnh phúc."

Ni kiền tử kết luận

"Nếu sự tình là vậy

Thì Thế tôn hạnh phúc

Hơn Tần bà sa la."

Và Ma-ha-na-ma

Tin nhận lời Thế tôn

Rằng hỷ lạc thiền định

Thù thắng hơn dục lạc.

-ooOoo-

TRUNG BỘ KINH - BÀI KINH SỐ 15

Tư lượng

I. TOÁT YẾU

Anumàna Sutta - Inference.

The venerable Mahàmoggallàna enumerates the qualities that make a bhikkhu difficult to admonish and teaches how one should examine oneself to remove the defects in onés character.

Suy diễn.

Tôn giả Mục kiền liên kể ra những đặc tính làm cho một tỳ kheo trở thành kẻ khó nói, và dạy người ta nên tự xét như thế nào để tẩy trừ những khuyết điểm trong nhân cách mình.

II. TÓM TẮT

Tôn giả Mục kiền liên dạy các tỳ kheo, có 16 tật xấu nơi một tỳ kheo làm cho vị ấy trở thành kẻ "khó nói", không được các vị đồng phạm hạnh giáo huấn, tin tưởng.

16 tật xấu là :

- ác dục, khen mình chê người, phẫn nộ, hiềm hận;

- cố chấp, thốt lời giận dữ, chống đối, chỉ trích;

- chất vấn, nói lãng, không giải thích, hư ngụy não hại;

- xan tham tật đố, lừa đảo, ngã mạn, khó xả.

Ngược lại, tỳ kheo không có 16 thói ấy là người dễ nói, được các đồng phạm hạnh tin tưởng, giáo giới.

Khi thấy người khác có những thói như trên mà mình không ưa, tỳ kheo nên tự xét mình [tư lượng] để phát tâm tránh những thói ấy. Nếu xét thấy mình có những thói như vậy, thì phải tinh tấn đoạn trừ. Nếu xét thấy mình không có, hãy hoan hỷ ngày đêm tu học các thiện pháp.

III. CHÚ GIẢI

Cổ đức đã gọi kinh này là Biệt giải thoát giới của tỳ kheo. Một tỳ kheo mỗi ngày nên có ba lần tự xét theo trong kinh dạy. Nếu không được ba lần thì hai lần, hay ít nhất một lần.

Ác dục là có những "thầm mong" bất chính như nói trong kinh số 5. "Hiềm hận" là thù dai; "cố chấp" là ngoan cố do phẫn nộ; "chống đối" là cãi lại mỗi khi bị buộc tội; "chỉ trích" là chỉ trích lại người buộc tội mình.

IV. PHÁP SỐ

V. KỆ TỤNG

Tỳ kheo cần tự xét

Tránh mười sáu lỗi lầm

Của một kẻ "khó nói"

Khiến người khác không ưa :

Là khen mình chê người

Ác dục và phẫn nộ

Hiềm hận và ngoan cố

Thốt ra lời giận dữ

Chống đối và chỉ trích

Chất vấn và nói lãng

Được hỏi không giải thích

Hư ngụy và não hại

Xan tham và tật đố

Lừa đảo và ngã mạn

Cố chấp khó hành xả.

-ooOoo-

TRUNG BỘ KINH - BÀI KINH SỐ 16

Tâm hoang vu

I. TOÁT YẾU

Cetokhila Sutta - the wilderness in the heart.

The Buddha explains to the bhikkhus the five "wilderness in the heart" and the five "shackles in the heart".

Rừng hoang trong tâm.

Phật giảng cho các tỳ kheo "năm hoang dã trong tâm" và "năm xiềng xích trong tâm".

II. TÓM TẮT

Phật dạy, tỳ kheo nào chưa đoạn trừ 5 tâm hoang vu và 5 tâm triền phược thì không thể lớn mạnh trong pháp luật Ngài.

Năm tâm hoang vu là nghi ngờ, không có tịnh tín đối với: Phật, Pháp, Tăng, các học giới, và thứ năm là phẫn nộ với bạn đồng tu.

Năm tâm trói buộc là: tham khoái lạc giác quan, tham tự thân, tham các sắc pháp, tham ăn ngủ, tham cõi trời (chỉ tu để cầu lên trời).

Tỳ kheo nào không có 10 sự trên, tâm hướng về nỗ lực tinh tấn thì có thể lớn mạnh trong pháp luật này. Vị ấy tu tập thiền định với bốn như ý túc là dục (nhiệt tâm, hăng hái), tinh tấn, tâm [purity of mind, tâm thanh tịnh], tư duy [tức trạch pháp, investigation], cùng với nỗ lực (tinh cần hành) là thứ năm.

Tỳ kheo nào đầy đủ 15 pháp là đoạn trừ 5 tâm hoang vu, 5 tâm phiền trược và tu 5 pháp nói trên, thì đủ khả năng đạt thành vô thượng an ổn khỏi các khổ ách. Cũng như gà mái ấp trứng, nếu khéo ấp ủ trứng thì dù không khởi lên ước muốn mong cho gà con mổ vỏ trứng chui ra, khi đến thời, vẫn có gà con thoát ra khỏi quả trứng.

III. CHÚ GIẢI

Tâm hoang vu là sự cứng cỏi trong tâm, "tâm phiền trược" là những pháp trói buộc tâm. Năm tâm hoang vu gồm bốn thuộc nghi (si) và một thuộc sân. Năm tâm triền phược là năm hình thức tham.

Vô thượng an ổn khỏi các khổ ách là chứng quả A la hán. Ví dụ ấp trứng được nói lại trong kinh Trung bộ 53, trong đó vị đệ tử như gà con phá ba lớp vỏ trứng, chứng ba minh.

IV. PHÁP SỐ

Bốn như ý túc: dục, tinh tấn, nhất tâm, trạch pháp.

Năm tâm hoang vu: nghi Phật, Pháp, Tăng, Giới, và phẫn nộ với đồng tu.

Năm tâm triền phược: tham khoái lạc giác quan, tham thân, tham sắc, tham ăn ngủ, tham cõi trời.

V. KỆ TỤNG

A. Mười pháp cần đoạn

Tu sĩ muốn lớn mạnh

Trong Pháp và Luật này

Cần đoạn trừ mười tâm

Cứng cỏi và ràng buộc

Có năm tâm hoang vu

Và năm tâm phiền trược

Thì không thể nỗ lực

Và chuyên cần tiến tu.

Nghi ngờ bậc Đạo sư

Nghi ngờ Pháp, Tăng, Giới

Phẫn nộ với đồng tu

Là năm tâm hoang vu.

Tham tự thân, dục lạc,

Tham sắc, ham ăn ngủ

Cầu được sinh thiên giới

Là năm tâm triền phược.

B. Năm pháp cần tu tập

Đoạn trừ mười tâm ấy

Thì có thể nỗ lực

Tinh tấn tu thiền định

Lớn mạnh trong Pháp này.

Nhiệt tâm và tinh tấn

Nhất tâm và trạch pháp

Nỗ lực là thứ năm

Thiền định mau chứng đắc.

Ai đủ mười lăm pháp

Thì có đủ khả năng

Đập vỡ vỏ vô minh

An ổn khỏi ách phược.

Như gà mẹ khéo ấp

Trứng không bị thối hư

Dù không khởi mong ước

Gà con vẫn chui ra.

-ooOoo-

TRUNG BỘ KINH - BÀI KINH SỐ 17

Khu rừng

I. TOÁT YẾU

Vanapattha Sutta - jungle thickets.

A discourse on the conditions under which a meditative monk should remain living in a jungle thicket and the conditions under which he should go elsewhere.

Một bài giảng về những điều kiện nào một tỳ kheo thiền định nên tiếp tục sống tại một khu rừng, điều kiện nào nên bỏ đi chỗ khác.

II. TÓM TẮT

Chỗ tỳ kheo nên cư trú trọn đời (dù đấy là khu rừng, làng mạc, thị trấn, quốc gia, hay gần một người nào) phải hội đủ hai điều kiện, tinh thần và vật chất. Về tinh thần, phải tăng trưởng niệm, định, tuệ (niệm chưa an trú được an trú; tâm chưa định tĩnh được định tĩnh; lậu hoặc chưa đoạn trừ được đoạn trừ khiến tỳ kheo được vô thượng an ổn khỏi các khổ ách - tức chứng quả A la hán). Về vật chất, dễ kiếm bốn nhu yếu về ăn mặc ở bệnh. Nếu được cả hai, nên nương ở trọn đời. Nếu chỉ được điều kiện tinh thần, đời sống vật chất khó khăn, tỳ kheo cũng nên ở với ý niệm rằng mình xuất gia không phải để mưu cầu vật chất.

Nếu ở nơi nào (khu rừng, làng mạc, ... hay gần người nào) mà tinh thần thiếu - không tăng trưởng niệm định tuệ - mặc dù vật chất đầy đủ, tỳ kheo nên bỏ đi chỗ khác sau khi nghĩ rằng xuất gia không để mưu cầu vật chất. Nếu ở nơi nào thiếu cả hai điều kiện, tỳ kheo nên bỏ đi ngay lập tức.

III. CHÚ GIẢI

Có thể tóm gọn bốn trường hợp, hai đi và hai ở như sau:

Tu không tiến, tứ sự hiếm: --> đi;

Tu không tiến, tứ sự dồi dào: --> đi;

Tu tiến, tứ sự hiếm: --> ở;

Tu tiến, tứ sựdồi dào: --> ở.

IV. PHÁP SỐ

Ba pháp cần tăng trưởng là: niệm, định, tuệ (diệt trừ lậu hoặc).

Bốn vật dụng

V. KỆ TỤNG

Tỳ kheo ở nơi nào

Hay gần một người nào

Cần phải thành tựu được

Những điều kiện như sau.

Về tinh thần có ba:

Niệm phải được an trú

Tâm phải được định tĩnh

Ô nhiễm được đoạn trừ,

Về vật chất có bốn:

Y phục và ẩm thực

Chỗ ở và dược phẩm

Bốn sự không thiếu thốn.

Nếu ở một nơi nào

Cả tinh thần vật chất

Điều thiếu thốn mọi đường

Bỏ ngay không vấn vương.

Nếu vật chất đầy đủ

Mà tinh thần không tiến

Hãy từ bỏ nơi ấy

Đừng vì tham, lưu luyến.

Tỳ kheo ở nơi nào

Tu tiến, vật chất hiếm

Hãy ở với tâm niệm

Ta vì cơm áo sao?

Tỳ kheo ở một nơi

Tu hành đã dễ tiến

Vật chất không khó kiếm

Hãy nương ở trọn đời.

-ooOoo-

TRUNG BỘ KINH - BÀI KINH SỐ 18

Mật hoàn

I. TOÁT YẾU

Madhupinkika Sutta - the honey ball.

The Buddha utters a deep but enigmatic statement about "the source through which perceptions and notions tinged by mental proliferation beset a man." This statement is elucidated by the venerable Mahakaccàna, whose explanation is praised by the Buddha.

Viên mật.

Phật thốt lên một lời phát biểu sâu sắc nhưng khó hiểu về "cái nguồn gốc từ đấy các nhận thức và quan niệm đầy thiên kiến ám ảnh một con người." Lời phát biểu ấy được tôn giả Đại Ca chiên diên làm sáng tỏ, và sự giải thích của tôn giả được Phật khen ngợi.

II. TÓM TẮT

Gậy cầm tay, một người dòng Sakka, đến hỏi Phật có quan điểm thế nào, giảng thuyết những gì. Phật dạy, Ngài giảng cái thuyết "không tranh luận với bất cứ ai, vì các tưởng (nhận thức) không còn ám ảnh vị bà la môn sống không có tham dục, hoài nghi, trạo hối, không có tham ái đối với hữu hay phi hữu."

Khi nghe vậy, người kia không hiểu, tỏ vẻ bất mãn bỏ về. Các tỳ kheo xin Phật giải thích, Ngài dạy thêm: "Nếu một người không có thái độ hoan hỷ, đón mừng, chấp trước đối với những hý luận vọng tưởng, thì đấy là đoạn tận các tùy miên tham, sân, nghi, kiến, mạn, hữu tham, đoạn tận đấu tranh bằng lời, bằng gươm giáo; đoạn tận ly gián ngữ, vọng ngữ. Các bất thiện ấy được tiêu diệt không có dư tàn".

Tôn giả Ca chiên diên triển khai lời dạy vắn tắt của Phật như sau:

Do xúc - sự gặp gỡ giữa căn, trần, thức - có thọ; do thọ có tưởng; do tưởng có suy tầm; do suy tầm có hý luận khởi lên. Nhân hý luận ấy, một số vọng tưởng ám ảnh con người. Nếu không có xúc thì không có thọ; không có thọ thì không tưởng; không tưởng thì không suy tầm; không suy tầm thì không hý luận vọng tưởng. Không hý luận vọng tưởng thì không có đấu tranh, và các ác bất thiện pháp [tham, sân, si, mạn, nghi, kiến, hữu tham] được tiêu diệt không dư tàn.

III. CHÚ GIẢI

Gậy cầm tay Dandapàni, có tên như vậy vì ông ta thường cầm gậy bịt vàng đi khắp nơi với vẻ tự cao. Ông theo cánh của Đề bà đạt đa, người phá tăng. Câu hỏi của ông có vẻ khiêu khích, câu trả lời của Phật phần đầu là để đối lại thái độ khiêu khích ấy.

Bà la môn nói trong câu này chỉ A la hán, hoặc chính bản thân Phật.

Hý luận vọng tưởng, papanca - sannà - sankhà, được dịch là "mental proliferation", thiên kiến. Luận giải nguồn gốc của hý luận vọng tưởng là tham (đối với sắc pháp), mạn ("tôi là") và kiến (chấp thường), qua đó tâm thức "trau chuốt" kinh nghiệm bằng cách giảng giải nó theo tiêu chuẩn "tôi" và "của tôi".

Tóm lại, Kinh này cốt hiển thị vòng sinh tử là 12 xứ - sáu căn tiếp xúc sáu trần. Nếu căn trần đừng ráp lại, thì hết sinh tử.

IV. PHÁP SỐ

Năm pháp: Nguồn gốc hý luận vọng tưởng là Xúc (căn trần thức gặp gỡ), thọ, tưởng, tầm, hý luận.

Sáu căn: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý.

Sáu trần: Sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp.

Sáu thức: nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức, ý thức.

Bảy tùy miên: tham, sân, kiến, nghi, mạn, hữu tham, vô minh.

Mười hai xứ: sáu căn và sáu trần.

Mười tám giới: 6 căn, 6 trần, 6 thức.

V. KỆ TỤNG

A. Đoạn trừ tham, sân, nghi, trạo hối

Giáo lý của Phật dạy

Là không tranh với ai

Vị thánh đệ tử sống

Các tưởng không ám ảnh

Không bị dục trói buộc

Không nghi ngờ do dự

Mọi hối quá đoạn diệt

Không tham hữu, phi hữu.

B. Không chấp trước

Với hý luận vọng tưởng

Không đón mừng, hoan hỷ

Đoạn được các tùy miên

Tham, sân, kiến, nghi, mạn

Đoạn tham ưa các cõi

Và vô minh tùy miên

Cùng các bất thiện khác

Tiêu diệt không dư tàn.

C. Tôn giả Ca chiên diên khai diễn

Căn trần thức gặp gỡ

Sự gặp gỡ là xúc

Do xúc nên có thọ

Có thọ nên có tưởng

Tưởng đưa đến suy tầm

Suy tầm sinh "hý luận"

Hý luận sinh vọng tưởng

Ám ảnh tâm con người.

[Sinh tử vẫn dài dài

Vì căn trần xúc đối

Hai thứ đừng xáp lại

Sẽ chấm dứt luân hồi.]

-ooOoo-

TRUNG BỘ KINH - BÀI KINH SỐ 19

Song tầm

I. TOÁT YẾU

Dvedhàvitakka Sutta - two kinds of thought.

With reference to his own struggle for enlightenment, the Buddha explains the way to overcome unwholesome thoughts and replace them by wholesome thoughts.

Hai loại tư duy.

Nhắc lại thời Ngài còn phấn đấu để đạt giác ngộ, Phật giải thích cách vượt qua những tư duy bất thiện và thay thế chúng bằng những tư tưởng tốt lành.

II. TÓM TẮT

Lúc còn tu tập, Phật phân loại các tư tưởng khởi lên thành hai nhóm. Một nhóm đưa đến hại mình, hại người, hại cả hai, diệt trí tuệ, dự phần vào phiền não: đó là những tư duy liên hệ đến dục, sân và hại. Khi tuệ tri như vậy, các tư duy ấy được Ngài từ bỏ, đoạn tận. Một nhóm không đưa đến hại mình, hại người, hại cả hai; tăng trưởng trí tuệ, không dự phần vào phiền não, đưa đến niết bàn: đó là những tư duy liên hệ đến ly dục, vô sân và bất hại. Khi an trú với những tầm này, dù cả ngày đêm Ngài cũng không thấy sợ hãi. Nhờ Ngài dũng mãnh tinh tấn như vậy, nên được định tĩnh nhất tâm, chứng bốn thiền cho đến ba minh, thành Phật.

III. CHÚ GIẢI

Sự chia hai suy tầm này chỉ xảy ra trong thời gian Bồ tát tu tập sáu năm khổ hạnh.

Vô sân và bất hại cũng có thể hiểu là từ và bi.

IV. PHÁP SỐ

Ba pháp dự phần vào phiền não: dục, sân và hại.

Ba pháp đưa đến an tịnh: ly dục, vô sân, bất hại.

Ba minh

Bốn thiền

Tám chính đạo

V. KỆ TỤNG

A. Hai loại tư duy

Lúc hãy còn tu tập

Sống nhiệt tâm, tinh cần

Phật phân loại tư duy

Gồm có hai thành phần:

Một phần những tư duy

Liên hệ dục, sân, hại

Phần kia ly dục tầm

Vô sân, bất hại tầm.

Biết rõ tầm tư duy

Liên hệ dục, sân, hại

Làm hại cả mình, người

Các tầm ấy tan biến.

Các tư duy ngược lại

Không làm hại mình người

Nhờ tuệ tri như trên

Đoạn tận dục, sân, hại.

Tâm khinh an, định tĩnh

Ngài tinh tấn thiền định

Chứng bốn thiền, ba minh

Đạt vô thượng an ổn.

B. Ví dụ bầy nai

Bên hồ nước sâu rộng

Có bầy nai tung tăng

Một người ác đến gần

Đặt mồi cái mồi đực

Đóng con đường an ổn

Mở con đường hiểm nguy

Đàn nai gặp ách nạn

Càng ngày càng suy vi.

Lại có một người khác

Thương tưởng đến đàn nai

Mong hạnh phúc cho chúng

Mong chúng thoát nạn tai

Người ấy đến nơi này

Hủy mồi cái mồi đực

Mở con đường an toàn

Đóng con đường nguy nan.

"Hồ nước" chỉ các đục

"Đàn nai" dụ hữu tình

Ác ma "người muốn hại"

"Mồi cái" chỉ vô minh

"Mồi đực" là tham ái

"Đường hiểm" tức tám tà

Ác ma luôn mời mọc

Và đặt các con mồi.

"Đường an" là tám chính

Được Như lai mở ra

Cùng hủy các con mồi

Vô minh và tham ái.

-ooOoo-

TRUNG BỘ KINH - BÀI KINH SỐ 20

An trú tầm

I. TOÁT YẾU

Vitakkasanthàna Sutta - the removal of distracting thoughts.

The Buddha teaches five methods for dealing with the unwholesome thoughts that may arise in the course of meditation.

Sự tẩy trừ loạn tưởng.

Phật dạy năm phương pháp để đối trị những bất thiện tầm có thể khởi lên trong khi thiền định.

II. TÓM TẮT

Phật dạy muốn tuy tăng thượng tâm, có năm phương pháp như sau để diệt trừ các tư tưởng khởi lên liên hệ đến dục, sân, si:

1. Nghĩ đến một tư tưởng khác, liên hệ đến ly dục, vô sân, vô si. Như thợ mộc dùng một cái nêm để đánh bật một cái nêm khác.

2. Quán sát nguy hiểm của những bất thiện tầm khi chúng khởi lên, khi ấy tư tưởng xấu kia được trừ diệt. Như một người trẻ tuổi ưa trang sức mà bị quàng vào cổ một cái xác rắn hay xác chó, người ấy phải ghê tởm.

3. Tảng lờ đừng để ý đến chúng. Như người không muốn thấy một vật trước mắt, bèn nhắm mắt hoặc nhìn chỗ khác.

4. Quan sát sự sinh diệt của những tư tuởng ấy, khiến nó giảm tốc độ và dần dần biến mất.

5. Quyết tâm dùng tâm chế ngự tâm [dùng một tư tưởng thiện để áp đảo một tư tưởng bất thiện].

Nhờ áp dụng năm phương pháp ấy, các ác bất thiện tầm liên hệ đến dục, sân, si được trừ diệt, nội tâm được an trú. Tỳ kheo ấy đoạn trừ khát ái, giải thoát các kết sử, chinh phục kiêu mạn, chấm dứt khổ đau.

III. CHÚ GIẢI

Tăng thượng tâm, adhicitta, là tâm trong tám thiền chứng - bốn thiền bốn định, làm căn bản cho tuệ. Được gọi là "tăng thượng" vì nó thù thắng hơn mười thiện tâm thông thường - bất sát bất đạo bất dâm...

Năm tướng có thể hiểu là năm phương pháp trừ tán loạn. Hành giả chỉ nên xử dụng các phương pháp này khi sự tán loạn có vẻ dai dẳng. Bình thường, chỉ cần bám sát đề mục thiền của mình.

Tác ý một tướng khác, ví dục khi tham dục khởi lên liên hệ đến hữu tình, thì tướng khác là "bất tịnh"; liên hệ đến vô tình, thì tướng khác là "vô thường". Vô sân khởi lên liên hệ đến hữu tình, thì tướng khác là tâm từ; liên hệ đến vô tình, thì tướng khác là bốn đại. Cách chữa trị những tư tưởng liên hệ si ám là gần một bậc thầy, nghe pháp và học pháp, quán sát ý nghĩa, tra tầm nguyên nhân.

Quán sát nguy hiểm của những tư duy bất thiện sẽ phát sinh tàm và quý, sự sợ hãi điều quấy.

IV. PHÁP SỐ

Ba độc: dục, sân, si.

Năm phương pháp trừ vọng tưởng, an trú tâm.

V. KỆ TỤNG

Có năm phương pháp này

Để tu tăng thượng tâm

Làm tịnh chỉ các tầm

Liên hệ dục, sân, hại.

[1] Như thợ mộc dùng nêm

Đánh bật một cái nêm.

Hãy khởi một tâm tốt

Tâm xấu sẽ tiêu tan.

[2] Thấy dục, sân nguy hiểm

Dục sân tự tiêu tan

Như người muốn điểm trang

Lại bị quàng xác rắn.

[3] Không ức niệm dục sân

Dục sân sẽ biến mất

Như chán nhìn vật gì

Mắt nhìn đi chỗ khác.

[4] Hoặc theo dõi tướng trạng

Dục sân tầm biến mất

Như người tự ý thức

Từ bỏ hành vi thô.

[5] Như lực sĩ đánh bại

Một kẻ thù ốm yếu

Với nghị lực quyết tâm

Chế ngự dục, hại, sân.

-ooOoo-

Toát yếu Kinh Trung Bộ

Ni sư Thích Nữ Trí Hải tóm tắt & chú giải

TRUNG BỘ KINH - BÀI KINH SỐ 21

Ví dụ cái cưa

I. TOÁT YẾU

Kakacùpama Sutta - The simile of the saw.

A discourse on the need to maintain patience when addressed with disagreeable words.

Ví dụ về cái cưa.

Bài kinh về sự cần thiết phải kham nhẫn khi bị nói những lời khó chịu.

II. TÓM TẮT

Nhân tôn giả Moliyaphagguna thường phẫn nộ bất mãn do thân cận, bênh vực các tỳ kheo ni, Phật quở trách và giảng kinh này, dạy ông phải từ bỏ dục vọng liên hệ thế tục, và phải sống với tâm từ bi.

Có mười loại ngôn ngữ: đúng thời hay phi thời; chân thực hay không chân thực; lợi ích hay không lợi ích; mềm mỏng hay thô bạo; từ tâm hay ác tâm.

Dù bị xúc phạm, tỳ kheo cũng không thốt lời ác, mới thực sự là người hòa nhã. (Phật kể chuyện một nữ chủ được tiếng hiền thục, nhưng nữ tỳ thử bê trễ vài lần đã bị bà đánh lỗ đầu). Khi bị xúc phạm, hãy trải tâm từ đến kẻ xúc phạm, rồi với người ấy làm đối tượng, tỳ kheo nên tu tập biến mãn cùng khắp thế giới với tâm câu hữu từ, quảng đại, vô biên, không hận, không sân. Tâm khi ấy như địa đại không ai phá nổi, như hư không không thể tô màu, như sông Hằng không thể đun sôi bằng một bó đuốc cỏ khô (dụ cho lời nói xấu của kẻ khác)... Dù có kẻ hạ liệt xưa cưa xẻ chân tay, tỳ kheo cũng không thốt lời ác, nội tâm không sân hận. Nếu luôn nhớ đến ví dụ cái cưa này, thì tỳ kheo có thể kham nhẫn bất cứ loại ngôn ngữ nào người khác dùng để nói với mình.

III. CHÚ GIẢI

Trong Kinh Tương ưng, Moliyaphagguna hỏi Phật nhiều câu, bị Ngài quở đặt sai vấn đề, về sau ông hoàn tục. Trong kinh này, sau đoạn giáo giới Moliyaphag-guna, có đoạn Phật khen ngợi sự thuần thục của chúng tỳ kheo ngày trước, với họ Ngài không cần dạy nhiều mà chỉ gợi ý. Theo bản sớ giải Trung bộ, Phật nhắc đoạn này là vì tôn giả Phagguna vẫn không chịu vâng lời mà tiếp tục chống đối Phật.

IV. PHÁP SỐ

Bốn phạm trú: từ, bi, hỷ, xả.

Năm loại ngôn ngữ: đúng thời, chân thật, lợi ích, từ tâm, mềm mỏng.

V. KỆ TỤNG

Tỳ kheo Phắc gu na

Thân cận ni quá độ

Thường thô tháo phẫn nộ

Vì bênh vực các ni.

Phật cho gọi quở trách

"Vì lòng tin xuất gia

Các dục hãy lìa xa

Trải từ tâm bình đẳng."

Lời người ta nói ra

Hoặc đúng thời, phi thời

Chân thực hay không chân

Có lợi, không lợi ích

Mềm mỏng hay dữ dằn

Với từ tâm, sân tâm

Dù được nói thế nào

Tỳ kheo không sân hận.

Bất động như đại địa

Vô nhiễm như hư không

Quảng đại như sông lớn

Tỳ kheo hãy trú tâm.

Dù có bị xẻ cưa

Tay chân đều đứt đoạn

Không ôm lòng sân hận

Mới thực hành Pháp ta.

-ooOoo-

TRUNG BỘ KINH - BÀI KINH SỐ 22

Ví dụ con rắn

I. TOÁT YẾU

Alaggadùpama Sutta - The simile of the snake.

A bhikkhu named Arittha gives rise to a pernicious view that conduct prohibited by the Buddha is not really an obstruction. The Buddha reprimands him and, with a series of memorable similes, stresses the dangers in misapplying and misrepresenting the Dhamma. The sutta culminates in one of the most impressive disquisitions on non-self found in the Canon.

Ví dụ con rắn

Một tỳ kheo tên Arittha khởi lên tà kiến cho rằng hành vi mà Phật cấm thực sự không phải là chướng ngại (cho giải thoát). Phật quở trách ông, và nói nhiều với nhiều ví dụ đáng nhớ, Ngài nhấn mạnh những nguy hiểm của việc áp dụng sai và giải thích Pháp một cách sai lạc. Cao điểm kinh này là một trong những thiên trường luận khởi sắc nhất về vô ngã được thấy trong Kinh tạng.

II. TÓM TẮT

Do tỳ kheo Arittha khởi lên tà kiến "dâm dục không chướng ngại đạo như Phật đã nói." Phật quở và dạy kinh này, gồm các phần: mục đích chính của việc học Pháp; các cách nắm giữ sai lạc; nguy hiểm của dục; các kiến xứ và nguy hiểm của kiến chấp.

A) Phật quở Arittha xuyên tạc lời Ngài dạy. Ngài đã nhiều lần dạy về nguy hiểm của dục, vậy mà Arittha vẫn ôm giữ tà kiến "dục không chướng ngại đạo". Phật dạy, ai học pháp để hý luận và chỉ trích - như thái độ của Arittha - thì không đạt mục đích việc họ pháp và sẽ đau khổ lâu dài. Lại nữa, học pháp cần nắm vững ý nghĩa với trí tuệ, nếu nắm không vững, tức hiểu sai, sẽ vô cùng tai hại, như bắt rắn đằng đuôi bị rắn quay đầu cắn. Phật ví dụ pháp Ngài dạy như chiếc bè để qua sông, không phải để ôm giữ. Ngay cả Pháp cũng nên bỏ, huống hồ phi pháp [như các dục].

B) Kế tiếp Ngài dạy sáu kiến xứ, năm kiến xứ đầu là 5 uẩn tức nội thân, kiến xứ thứ sáu là ngoại giới hay đối tượng của năm uẩn, những gì được thấy, nghe, cảm, biết (kiến văn giác tri) qua sáu giác quan. Tất cả cần phải chân chính thấy là không phải "tôi", "của tôi" hay "tự ngã của tôi". Thấy như vậy gọi là thấy như thật với trí tuệ, sẽ đoạn trừ tham ái chấp thủ, đạt vô thượng an ổn khỏi các khổ ách. Nếu thấy có "tôi" và "của tôi" thì sẽ đau khổ khi mất mát do vô thường, biến hoại. Cái gì vô thường là khổ. Cái gì đã vô thường, khổ thì không nên xem là "tôi" và "của tôi". Trong sáu kiến xứ, nếu thấy không gì là tôi hay của tôi, thì gọi là "xả pháp", trong khi phần trên nói dạy từ bỏ dục gọi là "xả phi pháp".

C) Vì bất cứ gì ta yêu mến đều không bền, thay đổi, nên "dục thủ" là khổ. Kiến thủ, Ngã luận thủ - chấp có ngã - cũng vậy đều là những hình thức chấp ngã, đều đưa đến khổ.

III. CHÚ GIẢI

Nói "dục không chướng ngại đạo" là nói ngược lại một trong Bốn Vô úy của Phật.

Tự ngã của tôi: một linh hồn trường cửu vẫn tồn tại sau khi chết.

IV. PHÁP SỐ

Ba thủ: dục, kiến, ngã luận.

Ba pháp ấn: vô thường, khổ, vô ngã.

Bốn quả sa môn

Năm uẩn

Sáu kiến xứ: sắc, thọ, tưởng, hành, thức, và kiến xứ thứ sáu bao gồm tất cả những gì thấy nghe hay biết.

V. KỆ TỤNG

A. Mục đích học Pháp

1. Khởi nguyên của kinh này

Tà kiến A-ri-tha

"Dục không chướng ngại gì

Như Thế tôn thuyết giảng."

Phật gọi đến quở trách:

"Học pháp cần tư duy

Quán sát với trí tuệ

Để đạt được mục tiêu

Mà pháp ấy nhắm đến.

Nếu người học Pháp ta

Cốt để mà chỉ trích

Và khoái khẩu biện luận

Nắm giữ pháp sai lạc

Sẽ đau khổ lâu dài

Không đạt đến mục tiêu.

2. Ta đã nhiều lần dạy

"Dục vui ít khổ nhiều

Nguy hiểm càng nhiều hơn."

"Dục như khúc xương khô

Như vật dùng mượn tạm

Như ôm đuốc ngược gió

Như hố than đỏ hừng."

Nếu có ai bảo rằng

"Dục không chướng ngại đạo"

Là xuyên tạc Như lai

Tại nên nhiều tổn đức

Sẽ đau khổ lâu dài.

B. Con rắn và chiếc bè

3. Ví như người bắt rắn

Nắm lấy rắn đằng đuôi

Thì bị rắn quay lại

Cắn người ấy chết tươi.

Học Pháp cũng như vậy

Chấp thủ pháp sai lạc

Là thái độ nguy hiểm

Gây đau khổ lâu dài.

4. Lại như kẻ dùng bè

Vượt qua dòng sông rộng

Vác bè đi nghênh ngang

Là không biết dùng bè.

Pháp ta dạy cũng thế

Như bè để qua sông

Chính pháp còn nên bỏ

Huống hồ là phi pháp?

C. Sáu kiến xứ

5. Đã bỏ dục - "phi pháp"

Lại còn nên bỏ "pháp"

Phật dạy sáu kiến xứ

Là để trừ pháp chấp.

Phàm phu không học Pháp

Đối với thân năm uẩn

Sắc, thọ, tưởng, hành, thức

Và những gì nhận biết

Qua sáu ngõ giác quan

Đều xem "tôi", "của tôi"

Và "tự ngã của tôi"

Thường hằng, không biến đổi.

6. Thánh đệ tử ngược lại

Đối với cả năm uẩn

Và kiến văn giác tri

Không xem "tôi", "của tôi"

Không thấy gì trường cửu

Đáng gọi "tự ngã tôi"

Do quán sát như vậy

Không phiền muộn, âu sầu.

7. Thân, tài sản không thực

Do xem "tôi", "của tôi"

Nên khi nó hư hoại

Kẻ phàm phu lo sầu.

Thân, tài sản không thực

Không xem "tôi", "của tôi"

Nên khi nó hư hoại

Thánh đệ tử không sầu.

8. "Tự ngã tôi trường cửu

Thế giới này thường hằng"

Ai ôm tà kiến ấy

Phải đấm ngực khóc than

Tưởng chừng như mất hết

Thế giới này vỡ tan

Khi nghe Như lai dạy

"Ái diệt là niết bàn."

9. Ai không ôm tà kiến

"Tự ngã và thế giới

Trường tồn không biến chuyển"

Kẻ ấy không sầu muộn

Không than "ta mất hết

Còn chi nữa, ta ơi"

Khi nghe Như lai dạy

"Ái diệt là niết bàn."

D. Ba thủ

10. Bất cứ người, vật gì

Ta vô cùng yêu mến

Đều vô thường, biến hoại:

Dục thủ là khổ đau.

Chỗ nào có chấp trước

Liên hệ đến bản ngã

Đều có khổ, sầu ưu:

Ngã luận thủ là khổ.

Chấp trước một quan điểm

Dựa kiến văn giác tri

Cũng đều là chấp ngã

Dưới hình thức tinh vi.

Đã không "tôi", "của tôi"

Mà còn có "tôi thấy"

Ấy gọi là kiến thủ

Thực hoàn toàn ngu si.

E. Ba pháp ấn

11. Sắc, thọ, tưởng, hành, thức

Năm uẩn đều vô thường

Vì biến đổi, hoại diệt

Do vô thường nên khổ

Đã vô thường, đau khổ

Đừng xem "tôi", "của tôi".

F. Năm uẩn vô ngã

12. Bởi thế, Phật đã dạy

Này hỡi các tỳ kheo

Các ngươi hãy từ bỏ

Cái không phải của ngươi:

Sắc không phải của ngươi

Ngươi nên từ bỏ sắc;

Các ngươi từ bỏ sắc,

Được an lạc dài lâu.

Thọ không phải của ngươi

Ngươi nên từ bỏ thọ;

Các ngươi từ bỏ thọ,

Được an lạc dài lâu.

Tưởng không phải của ngươi

Ngươi nên từ bỏ tưởng;

Các ngươi từ bỏ tưởng,

Được an lạc dài lâu.

Hành không phải của ngươi

Ngươi nên từ bỏ hành;

Hành nếu ngươi từ bỏ,

Được an lạc dài lâu.

Thức không phải của ngươi

Ngươi nên từ bỏ thức;

Các ngươi từ bỏ thức,

Được an lạc dài lâu.

Thánh đệ tử quán sát

Yểm ly đối với sắc

Và thọ tưởng hành thức

Nên ly tham, giải thoát.

-ooOoo-

TRUNG BỘ KINH - BÀI KINH SỐ 23

Gò mối

I. TOÁT YẾU

Vammika Sutta - the ant-hill.

A deity presents a monk with an obscure riddle, which is unravelled for him by the Buddha.

Một vị trời đặt cho một tỳ kheo một câu đố bí hiểm, được Phật giải thích.

II. TÓM TẮT

Một đêm nọ, một vị trời xuất hiện trước tôn giả Kumara-kassapa đang ở trong rừng Andha (người mù), nói lên câu đố như sau. Có gò mối ban đêm phun khói, ngày chiếu sáng; một bà la môn bảo kẻ trí hãy cầm gươm đào lên. Kẻ trí làm theo lời bà la môn, tuần tự đào và lấy lên những vật sau đây: 1. một then cửa; 2. một con nhái; 3. một cái chĩa [đường hai ngã]; 4. một cái lọc; 5. một con rùa; 6. một con dao phay; 7. một miếng thịt. Cuối cùng gặp một con rắn hổ, và đảnh lễ nó. Vị trời bảo tỳ kheo hãy đến nhờ Phật giải ẩn ngữ trên, vì chỉ có Phật giải nổi.

Phật giải thích cho tỳ kheo: Gò mối là thân tứ đại; đêm phun khói là suy nghĩ; ngày chiếu sáng là ban ngày thực hiện những gì ban đêm đã nghĩ; Bà la môn là đức Như lai bậc Chính đẳng giác; kẻ trí là tỳ kheo bực hữu học; cây gươm là trí tuệ bực thánh. "Đào" là tinh tấn tinh cần. Then cửa là vô minh, "đem then cửa lên" là từ bỏ vô minh. Con nhái là phẫn nộ hiềm hận; cái chĩa hai ngã là nghi hoặc; đồ lọc là năm triền cái; rùa là năm thủ uẩn; dao phay là ngũ dục; miếng thịt là hỷ tham. "Đào lên" có nghĩa là từ bỏ tất cả thứ ấy. Cuối cùng con rắn hổ là vị đã diệt lậu hoặc, đáng đảnh lễ.

III. CHÚ GIẢI

Ca diếp đồng tử - Kumàrakassapa là con nuôi vua Ba tư nặc xứ Kosala, con của một phụ nữ xuất gia làm ni trong lúc không biết đã mang thai. Vào thời gian thuyết kinh này, ông còn ở địa vị hữu học; và đã đắc quả A la hán sau khi thiền quán đề tài này. Luận nói vị trời trong kinh này là một vị Bất hoàn ở cõi Tịnh cư, một trong nhóm năm người cùng tu thiền trên một đỉnh núi.

IV. PHÁP SỐ

Ba nghiệp

Năm triền cái

Năm thủ uẩn

Năm dục trưởng dưỡng

V. KỆ TỤNG

"Gò mối đêm phun khói

Và chiếu sáng ban ngày

Một vị bà la môn

Đi đến người có trí

Bảo cầm gươm đào bới

Gặp ngay then chắn cửa

Lấy ra rồi đào thêm

Lấy lên một con nhái,

Một cái chĩa hai ngã,

Một đồ dùng lọc sữa

Rồi đến một con rùa

Và một con dao phay

Cùng với một miếng thịt

Cuối cùng gặp rắn hổ

Bà la môn bèn bảo

Kẻ trí hãy dừng tay."

Hãy đến xin Phật giải

Một vị trời bảo vậy

Với Ca diếp đồng tử

Lúc đêm đã gần tàn.

Ca diếp đến nơi Phật

Đảnh lễ xin giải rõ.

Phật giảng dạy như sau,

Bà la môn là Phật,

Kẻ trí bậc Hữu học

Gò mối thân tứ đại

Phun khói là suy nghĩ

Chiếu sáng là hành động,

Đào bới dụ tinh tiến

Gươm là thánh trí tuệ

Then cửa dụ vô minh

Hãy lấy then cửa lên

Là "từ bỏ vô minh"

Con nhái là phẫn hận

Chĩa hai là nghi hoặc

Đồ lọc là năm triền

Con rùa là thủ uẩn

Dao phay là năm dục

Miếng thịt là hỷ tham

Đào lên ngần ấy thứ

Sẽ gặp cái cuối cùng:

Rắn hổ vị lậu tận

Để yên đừng động đến

Ấy việc làm đã xong.

-ooOoo-

TRUNG BỘ KINH - BÀI KINH SỐ 24

Trạm xe

I. TOÁT YẾU

Rathavivùta Sutta - the relay chariots.

The venerable Punna Mantàniputta explains to Sàriputta that the goal of the holy life, final Nibbàna, is to be reached by way of the seven stages of purification.

Những cỗ xe tiếp vận.

Tôn giả Phú lâu na giải thích cho Xá lợi phất biết rằng niết bàn, mục tiêu của đời sống phạm hạnh, được đạt đến là nhờ bảy giai đoạn thanh tịnh.

II. TÓM TẮT

Xá lợi phất đến thăm Phú lâu na lần đầu. Hai vị tôn giả đã nghe tiếng nhau nhưng chưa từng gặp.

XLP: Mục đích sống đời phạm hạnh, có phải để viên mãn giới?

PLN: Không.

XLP: Có phải để đoạn nghi, để đạt tri kiến, để phân biệt được chính tà, để thấy biết đường chính, để có tri kiến.

PLN: Không.

XLP: Thế thì vì mục đích gì?

PLN: Vì đạt NB vô thủ trước.

XLP: Niết bàn vô thủ trước là gì, là giới thanh tịnh chăng?

PLN: Không, vì thế là còn thủ trước giới.

XLP: Là Tâm thanh tịnh chăng?

PLN: Không, vì thế là còn thủ trước định.

XLP: Là kiến thanh tịnh chăng?

PLN: Không, vì thế là còn thủ trước kiến.

XLP: Là đoạn nghi thanh tịnh chăng?

PLN: Không, vì thế là còn thủ trước đoạn nghi.

XLP: Là đạo phi đạo tri kiến thanh tịnh chăng?

PLN: Không, vì thế là còn thủ trước đạo phi đạo.

XLP: Là tri kiến thanh tịnh chăng?

PLN: Không, vì thế là còn thủ trước tri kiến.

XLP: Có cái gì ở ngoài những thứ ấy là vô thủ trước niết bàn?

PLN: Không.

XLP: Tại sao mỗi thứ đều không phải niết bàn vô thủ trước, mà ngoài những thứ ấy cũng không có niết bàn vô thủ trước?

PLN: Ví dụ sự di chuyển từ thành phố A đến thành phố B bằng bảy cỗ xe ngựa khác nhau. Khi đến đích, nếu ai hỏi có phải nhờ cỗ xe này mà di chuyển từ A đến B, người ngồi xe phải đáp "không", nhưng nếu bảo "không nhờ cỗ xe này mà đến" thì cũng không đúng. Về các thanh tịnh cũng vậy, nếu bảo giới, vv. "là" niết bàn vô thủ trước, thì thành "có" thủ trước (vào giới, vv.). Nhưng nếu bảo niết bàn vô thủ trước không phải những pháp ấy, thì tất cả phàm phu cũng đắc niết bàn, vì phàm phu không có những pháp ấy.

Sau khi nghe giảng giải, tôn giả Xá lợi phất hết lời khen ngợi và hỏi tính danh. Khi hỏi lại danh tính người đối thoại, Phú lâu na mới ngạc nhiên thốt lên:

- "Không dè tôi đang nói chuyện với một vị được xem là ngang hàng với đấng Đạo sư. Nếu biết trước, tôi đã không nói nhiều như vậy."

III. CHÚ GIẢI

Mặc dù trong Trường Bộ kinh 3, 288, cũng nói đến bảy thanh tịnh và hai thanh tịnh khác nữa là tuệ và giải thoát, có điều lạ là không chỗ nào khác trong Nikàya đề cập Bảy thanh tịnh. Lạ hơn nữa, cả hai vị đại đệ tử này dường như đều thừa nhận Bảy thanh tịnh là một pháp số rất quen thuộc, một giáo điều cố định. Bảy thanh tịnh vả lại, cũng là cái sườn của toàn bộ Luận Thanh tịnh đạo, đã định nghĩa mỗi giai đoạn tu tập bằng cách giảng rộng theo truyền thống, về tịnh chỉ và tuệ quán.

Vắn tắt, "Giới thanh tịnh" là tuân giữ nghiêm túc các học giới đã thọ, mà Thanh tịnh đạo giải thích là "bốn cách làm thanh tịnh giới".

"Tâm thanh tịnh" là trừ năm triền cái nhờ đạt cận hành định và các thiền.

"Kiến thanh tịnh" là tuệ liễu biệt bản chất năm uẩn làm nên một chúng sinh.

"Đoạn nghi thanh tịnh" là hiểu rõ duyên sinh.

"Đạo phi đạo tri kiến thanh tịnh" là phân biệt đúng giữa tà đạo - kinh nghiệm hỷ lạc xuất thần - với chính đạo, tuệ quán liễu tri vô thường vô ngã.

"Đạo tri kiến thanh tịnh" là một loạt tuệ quán cao dần để đạt đến những đạo lộ siêu thế.

Và "tri kiến thanh tịnh" là các đạo lộ siêu thế.

IV. PHÁP SỐ

Bảy thanh tịnh

V. KỆ TỤNG

Nghe tin Phú lâu na

Sau khi viếng thăm Phật

Đã vào rừng An-đa (Andhavana)

Thu tử cũng vào rừng.

Hai vị danh đức ấy

Chưa từng biết mặt nhau

Cùng độc cư thiền định

Dưới cây trong rừng sâu.

Tôn giả Xá lợi phất

Đến bên Phú lâu na

Chào thăm rồi phỏng vấn

"Mục đích gì xuất gia?"

Có phải vì mục đích

Khiến Giới không tì vết

Được thanh tịnh vẹn toàn?

"Không phải đâu, hiền giả."

Có phải vì mục đích

Đạt đến Tâm thanh tịnh

Trừ chướng ngại, đắc định?

"Không phải đâu, hiền giả."

Có phải vì mục đích

Dứt sạch những hoài nghi

Mà sống đời phạm hạnh?

"Không phải đâu, hiền giả."

Có phải vì mục đích

Phân biệt được chính tà

- Đạo phi đạo tri kiến?

"Không phải đâu, hiền giả."

Có phải vì mục đích

Thanh lọc những thấy biết

- Đạo tri kiến thanh tịnh?

"Không phải đâu, hiền giả."

Có phải vì mục đích

Đạt tri kiến thanh tịnh

Các cảnh giới siêu thế?

"Không phải đâu, hiền giả."

Có phải vì mục đích

Đạt Cái thấy thanh tịnh

Thấy vô ngã khổ không?

"Không phải đâu, hiền giả."

Vậy với mục đích gì

Bạn theo đức Thế tôn?

"Hiền giả, với mục đích

Vô thủ trước niết bàn."

Phải chăng Giới thanh tịnh

Là vô trước niết bàn?

Không phải đâu, hiền giả

Vì còn chấp vào Giới.

Phải chăng Tâm thanh tịnh

Là vô trước niết bàn?

Không phải đâu, hiền giả

Vì còn chấp vào Định.

Phải chăng Kiến thanh tịnh

Là vô trước niết bàn?

Không phải đâu, hiền giả

Vì còn chấp vào Kiến.

Hay Đoạn nghi thanh tịnh

Là vô trước niết bàn?

Không phải đâu, hiền giả

Vì còn chấp Đoạn nghi.

Đạo phi đạo tri kiến

Là vô trước niết bàn?

Không phải đâu hiền giả

Vì chấp đạo phi đạo.

Đạo tri kiến thanh tịnh

Là vô trước niết bàn?

Không phải đâu hiền giả

Vì còn chấp tri kiến.

Xá lợi phất lại hỏi

Ngoài các pháp ấy ra

Vô thủ trước niết bàn

Có thể đạt được chăng?

Phú lâu na đáp liền

"Không đâu, thưa hiền giả

Không thể có niết bàn

Ngoài các pháp kể trên."

"Vậy do nhân duyên gì

Hiền giả đều phủ nhận

Vô thủ trước niết bàn

Không phải mỗi pháp ấy?

Và lại còn xác định

Ở ngoài các pháp ấy

Cũng không thể có được

Vô thủ trước niết bàn?"

Thưa hiền giả, nghe đây

Nếu nói Giới thanh tịnh

Là vô trước niết bàn

Tức thì niết bàn ấy

Gọi là hữu thủ trước

Vì còn chấp vào Giới.

Với các "thanh tịnh" khác

Đều nên hiểu như vậy.

Nhưng nếu Thế tôn dạy

Ngoài các pháp ấy ra

Có vô trước niết bàn

Thì vô cùng phi lý

Vì tất cả phàm phu

Cũng sẽ được niết bàn

- Họ ở ngoài pháp ấy

tức hoàn toàn không tu -

Tôi xin lấy ví dụ

Như vua đi đường dài

Phải thay xe nhiều trạm

Ngồi cỗ xe cuối cùng

Để trở về hoàng cung

Đến nơi, khi được hỏi

Phải chăng cỗ xe này

Đưa vua suốt đường dài?

Khi ấy muốn trả lời

Vua phải nói làm sao?

"Từ trạm xe thứ nhất

Ta lên xe khởi hành

Qua tất cả bảy trạm

Mỗi nơi đều đổi xe

Với cỗ xe thứ bảy

Ta về đến cung thành."

Cũng thế, thưa hiền giả

Giới là để có Định

Định để đạt đến Kiến

[- Thấy vô thường vô ngã.]

Kiến là để Đoạn nghi

[- Hiểu rõ lý duyên sinh]

Đoạn nghi là cốt được

Đạo phi đạo tri kiến.

Đạo phi đạo tri kiến

[- Phân biệt được tà chính]

Là chỉ cốt đạt được

Đạo tri kiến thanh tịnh.

Đạo tri kiến thanh tịnh

[- lối thấy biết xuất thế]

Là cốt đạt cho đến

Các cảnh giới siêu thế

Tức tri kiến thanh tịnh.

Thấy biết trong sáng này

Có mục đích duy nhất:

Niết bàn vô thủ trước.

Khi ấy Xá lợi phất

Hỏi tên Phú lâu na

Thưa hiền giả tên gì

Đồng đạo gọi là chi?

"Tôi tên Phú lâu na"

Đồng phạm hạnh còn gọi

"Di đa la ni tử."

Còn hiền giả tên gì?

"Tôi tên U-pa-tis-sa"

Các vị đồng phạm hạnh

Còn gọi tên "Thu tử"

Xá lợi phất là tôi.

"Không ngờ được đàm đạo

Với tướng quân chính pháp

Ngang hàng đấng Đạo sư

Lành thay, thưa hiền giả.

Nếu tôi sớm biết được

Ngài là Xá lợi phất

Chắc không dám ba hoa

Múa rìu qua mắt thợ."

-ooOoo-

TRUNG BỘ KINH - BÀI KINH SỐ 25

Bẫy mồi

I. TOÁT YẾU

Nivàpa Sutta - the bait.

The Buddha uses the analogy of deer - trappers to make known to the Bhikkhus the obstacles that confront them in their effort to escape from Mara's control.

Miếng mồi.

Phật dùng ví dụ những thợ bẫy nai để hiển thị cho tỳ kheo những chướng ngại họ gặp phải trong khi nỗ lực thoát khỏi sự khống chế của ma vương.

II. TÓM TẮT

Thợ săn nai đặt mồi ngon cho nai đến không phải vì thương gì bầy nai, mà vì muốn hại. Cũng như thế là cạm bẫy ngũ dục mà ác ma [thiên ma] đặt để dụ người tu hành.

Phật đưa ra hình ảnh bốn đàn nai. Đàn thứ nhất tham ăn sa ngay vào mồi, nên bị kẻ giăng bẫy tóm trọn. Đàn thứ hai tránh vào rừng sâu, thiếu cỏ nước một thời gian dài không chịu nổi, trở ra vì đói khát tham ăn không coi chừng nên cũng sa vào cạm bẫy như đàn nai đầu. Đàn thứ ba, rút kinh nghiệm làm một chỗ nấp gần nơi giăng mồi để đến ăn một cách chừng mực rồi rút về chỗ ẩn. Người giăng bẫy không bắt được đàn nai, ra sức bao vây cuối cùng cũng tìm được nơi ẩn náu của chúng. Đến lượt bầy nai thứ tư, làm một chỗ nấp mà thợ săn không thể nào đến được, đến ăn mồi vừa phải rồi rút đi an toàn.

Đàn thứ nhất dụ cho những sa môn bà la môn tham đắm ngũ dục thế gian, bị ác ma tóm. Đàn thứ hai là sa môn bà la môn do tu khổ hạnh ép xác quá độ nên kiệt sức, không còn tinh tấn; do không còn tinh tấn, tâm giải thoát cũng bị kiệt quệ; do tâm giải thoát bị kiệt quệ, họ cũng sa vào thế lực ác ma như đàn đầu tiên. Đàn thứ ba dụ cho sa môn bà la môn không bị phóng dật theo ngũ dục như hai đàn trước, nhưng lại có tà kiến về thế giới thường vô thường, hữu biên vô biên, Như lai có, không tồn tại sau khi chết v.v. Tà kiến ấy ví như "một chỗ nấp mà thợ săn có thể tìm thấy". Như vậy họ cũng không thoát khỏi thế lực ác ma. Đàn thứ tư dụ cho tỳ kheo ly dục, ly bất thiện pháp, chứng và trú bốn thiền, bốn định vô sắc, Diệt thọ tưởng, khiến ác ma không tìm thấy được đường đi lối về của mình vì vị ấy không còn tham đắm bất cứ gì trên đời.

III. CHÚ GIẢI

Tám định - 4 thiền 4 định - ở đây là căn bản cho tuệ. Khi tỳ kheo ở trong định này, ma vương không biết được tâm hành vị ấy. Tuy nhiên sự thoát khỏi ma lực ấy chỉ có tính cách giai đoạn. Vị tỳ kheo chứng Diệt thọ tưởng, sạch lậu hoặc, vì không những tạm thời, mà vĩnh viễn giải thoát ảnh hưởng của ma; ma không thể đến gần vị ấy.

IV. PHÁP SỐ

Bốn thiền

Bốn không hay bốn vô sắc định

Năm dục trưởng dưỡng

Chín định thứ đệ, gồm bốn thiền bốn định và Diệt thọ tưởng.

V. KỆ TỤNG

Khi thợ săn đặt mồi

Không vì thương đàn nai

Cốt làm chúng mê loạn

Vì miếng mồi ngon này.

Ác ma cũng giăng bẫy

Đặt mồi thơm ngũ dục

Mê loạn người tu hành

Cho vướng vào ma lực.

Đàn nai đầu tiên đến

Tham đắm các thức ăn

Sa ngay vào cạm bẫy

Làm mồi cho thợ săn.

Đàn nai khác thấy vậy

Sợ bỏ vào rừng sâu

Đến nơi không cỏ nước

Đói khát lại âu sầu.

Thân hình càng tiều tụy

Nai ra tìm thức ăn

Vì tham lam quá độ

Sa vào bẫy thợ săn.

Đàn nai thứ ba đến

Làm chỗ nấp gần mồi

Ra ăn vừa đủ sống

Vào ẩn nấp đợi thời.

Thợ săn lùng kiếm được

Chỗ ẩn nấp đàn nai

Gài bẫy giăng cùng khắp

Bắt trọn ổ không sai.

Chỉ đàn nai cuối cùng

Mới quả thực tinh khôn

Mồi ăn vừa đủ sống

Vào rừng sâu tẩu bôn.

Nai đi đâu về đâu

Thợ săn nào biết được

Đường đi không dấu vết

Đàn nai thoát khổ sầu.

Có hạng tu ham dục

Như đàn nai tham ăn

Bị ác ma tóm bẫy

Mồi ngũ dục bủa giăng.

Có hạng do khổ hạnh

Khiến thân tâm kiệt sức

Trở lại tham năm dục

Không thoát bẫy ác ma.

Hạng ba không hưởng lạc

Cũng không quá ép xác

Nhưng lại có tà kiến

Cũng gần với ác ma.

Ly dục trú bốn thiền

Và bốn định vô sắc

Cùng định Diệt thọ tưởng

Diệt trừ hết lậu hoặc.

Tỳ kheo thứ tư này

Làm ác ma mù mắt

Không ai tìm thấy được

Dấu vết của vị này.

-ooOoo-

TRUNG BỘ KINH - BÀI KINH SỐ 26

Thánh cầu

I. TOÁT YẾU

Ariyapariyesana Sutta - the noble search.

The Buddha gives the Bhikkhus a long account of his own quest for enlightenment from the time of his life in the palace up to his transmission of the Dhamma to his first five disciples.

Sự tầm cầu cao thượng.

Phật kể cho chúng tỳ kheo về sự tầm cầu giác ngộ trong đời Ngài, từ khi còn ở trong cung điện cho đến khi truyền Pháp cho năm đệ tử đầu tiên.

II. TÓM TẮT

Một số đông tỳ kheo đang hội họp ở tịnh thất của bà la môn Rammaka khi Phật đến. Ngài hỏi họ đang bàn chuyện gì, họ trả lời đang luận bàn về đức Thế tôn. Phật khen và dạy, khi tỳ kheo tụ hội chỉ có hai việc nên làm: hoặc bàn luận về Pháp, hoặc giữ sự im lặng của bậc thánh. Và Ngài giảng giải về hai sự tầm cầu. Một là trong khi mình đang bị sinh già bệnh chết, khổ sầu, ô nhiễm, lại đi tìm cầu những thứ cũng bị sinh già bệnh chết, khổ sầu, ô nhiễm; đó là vợ con, tôi tớ, vàng bạc, của cải.... Hai là khi thấy mình bị già chết, khổ sầu, ô nhiễm, bèn đi tìm những thứ vượt ngoài già chết, khổ sầu, ô nhiễm.... đạt đến niết bàn, thoát khỏi mọi khổ ách.

Phật kể lại, trong lúc tuổi trẻ, tóc còn đen nhánh, do thấy mình bị sinh, già chết, khổ sầu, ô nhiễm, nên Ngài đã ra đi tìm cái không già chết, khổ sầu, ô nhiễm. Lúc đầu, Ngài theo học đạo sĩ Alara Kalama. Chỗ chứng đắc cao nhất của vị này là Vô sở hữu xứ. Sau một thời gian, Ngài cũng chứng được Vô sở hữu xứ, được thầy xem ngang hàng, mời ở lại cùng lãnh đạo đồ chúng, nhưng Ngài đã bỏ đi vì thấy Vô sở hữu xứ chưa phải Niết bàn. Vị thầy thứ hai là Uddaka Ramaputta, cho rằng chứng Phi tưởng phi phi tưởng xứ là tối cao. Ngài cũng nhanh chóng đạt đến Phi tưởng phi phi tưởng xứ, được Uddaka khen ngợi, mời ở lại cùng lãnh đạo, nhưng Ngài đã từ chối vì biết Phi tưởng phi phi tưởng xứ cũng chưa phải là Niết bàn. Ngài ra đi đến tụ lạc Uruvela xứ Ma kiệt đà, vào khu rừng khả ái ở bên sông để tinh tấn thiền định. Ngài đã chứng được cái không sinh, già, bệnh, chết, khổ sầu, cái không ô nhiễm; đạt đến Niết bàn, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách.

Ngài suy nghĩ, Pháp Ngài chứng được thật sâu kín, siêu lý luận, chỉ bậc trí thấu hiểu; đối với quần chúng đam mê khoái lạc, rất khó thấy pháp Duyên khởi này, rất khó hiểu thấu sự tịnh chỉ tất cả hành, từ bỏ sinh y, đạt đến ái diệt, ly tham, Niết bàn. Nếu thuyết pháp mà quần chúng không hiểu thì chỉ thêm phiền não. Do vậy tâm Ngài do dự không muốn thuyết pháp. Khi ấy Phạm thiên xuất hiện, cầu thỉnh Ngài vì chúng sinh mà mở cửa Pháp cam lồ vi diệu. Phật lại quán thấy có ba hạng chúng sinh, như ba hạng hoa sen: Có hạng còn chìm nghỉm; có hạng vươn lên ngang mặt nước; nhưng cũng có hạng đã vượt khỏi mặt nước, không bị nước làm ướt. Chúng sinh cũng vậy, có hạng nhiều nhiễm bụi đời, có hạng ít nhiễm bụi đời, có hạng lợi căn, có hạng độn căn. Khi ấy Ngài quyết định ra thuyết pháp. Và hai người đầu tiên Ngài nghĩ đến là hai vị thầy của Ngài trước kia; nhưng chư thiên cho Ngài biết Alara Kalama đã từ trần cách đó bảy ngày, còn Uddaka Ramaputta vừa mới tạ thế. Khi ấy Ngài đi đến vườn Lộc uyển ở Ba la nại tìm năm anh em Kiều Trần Như để hóa độ. Trên đường đi, Ngài gặp ngoại đạo Upaka. Vị này trông thấy sắc diện thanh khiết của Phật, khen ngợi và hỏi Ngài thờ ai làm thầy. Khi nghe Phật trả lời Ngài không có thầy, Ngài đã tự chứng thành bậc Chính đẳng giác trên đời không ai bằng, ngoại đạo Upaka lắc đầu bỏ đi. Khi đến vườn Lộc uyển, Ngài tìm gặp năm anh em Kiều Trần Như để thuyết pháp cho họ.

Ngài giảng về năm dục trưởng dưỡng là sắc thanh hương vị xúc. Những sa môn bà la môn nào bị chúng trói buộc thì phải rơi vào cạm bẫy Ác ma, như nai bị sập bẫy thợ săn vì tham ăn. Những sa môn bà la môn nào biết rõ vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly của năm dục thì không bị chúng trói buộc, không rơi vào cạm bẫy Ác ma, như nai không sập bẫy. Vị ấy có thể tu chứng bốn thiền, bốn không và Diệt thọ tưởng định, vượt khỏi tầm mắt của Ác ma, như nai không bị sập bẫy, vượt khỏi tầm tay thợ săn, có thể tung tăng trong rừng.

III. CHÚ GIẢI

Sự im lặng của bậc Thánh: Theo Luận giải kinh Trung bộ, "im lặng như thánh" là nhị thiền (không còn tầm tứ) và đề mục thiền căn bản của hành giả - ví dụ quán tứ niệm xứ. Người nào chưa đắc nhị thiền thì nên giữ sự "im lặng của bậc thánh" bằng cách bám sát đề mục thiền căn bản của mình.

Sinh y - upadhi: Nghĩa gốc là nền tảng, cơ sở. Luận kể ra nhiều loại sinh y là năm uẩn, các đối tượng của dục lạc, các ô nhiễm, và nghiệp. Đại đức Bodhi diễn dịch sinh y là "đối tượng chấp thủ" hoặc chính sự chấp thủ. Niết bàn là sự từ mọi sinh y với cả hai nghĩa ấy.

Vàng bạc là thứ không bị sinh già bệnh chết sầu bi khổ... nhưng theo Luận, nó vẫn bị ô nhiễm vì có thể pha lẫn với kim loại kém giá trị hơn nó.

Vô sở hữu xứ - base of nothingness: Định thứ ba trong bốn định vô sắc - immaterial attainments, thuộc thiền chỉ - serenity meditation. Mặc dù là những chứng đắc cao siêu, bốn thiền bốn định vẫn còn thuộc thế gian, không đưa đến Niết bàn. Tuổi thọ ở Vô sở hữu xứ - chỗ tái sinh của thiền giả chứng Vô sở hữu - là sáu mươi ngàn kiếp, sau đó vẫn phải rơi xuống các cõi thấp và chịu luân hồi sinh tử, chưa thoát khỏi lưới bẫy của Ác ma.

Pháp, theo Luận giải, chính là Bốn chân lý cao cả. Pháp này gồm hai điểm cốt yếu là Duyên khởi và Niết bàn. Duyên khởi bao gồm Khổ và Tập trong bốn chân lý, Niết bàn là Diệt và Đạo.

Không muốn thuyết pháp: Luận nêu lên câu hỏi ở đây là, tại sao Bồ tát đã từ lâu phát nguyện tìm đạo để cứu chúng sinh, mà bây giờ tâm Ngài lại do dự. Lý do là, chỉ sau khi đắc đạo, Ngài mới thấy rõ sức mạnh của vô minh phiền não trong tâm chúng sinh, và sự sâu xa vi diệu của Pháp. Hơn nữa, Ngài chờ Phạm thiên cầu thỉnh mới ra nói Pháp, là cốt cho những người thờ Phạm thiên thấy được giá trị của Pháp và mong mỏi lắng nghe.

Ngoại đạo Upaka: Luận nói ông này sau khi gặp Phật rồi bỏ đi, đã yêu một cô gái con thợ săn và cưới nàng. Chỉ sau khi bị đau khổ vì tình, Upaka mới trở lại tìm Phật. Ông đã gia nhập tăng đoàn, chứng quả thứ ba - Bất hoàn - và sinh vào cõi trời Avìha, nơi ông đắc quả A la hán.

Sa môn bà la môn.... Đoạn này đề cập trở lại sự tầm cầu bất đáng nói ở đầu Kinh là tầm cầu năm dục, cốt để hiển là "tầm cầu cao thượng" hay thánh cầu, mà trong đời sống xuất gia vẫn có thể có những tầm cầu bất đáng, những tầm cầu đưa đến sinh già bệnh chết sầu khổ ô nhiễm.

IV. PHÁP SỐ

Bốn thiền, Bốn không, Năm dục trưởng dưỡng, Chín định thứ đệ.

V. KỆ TỤNG

Tịnh thất Ra-ma-ka

Chúng tỳ kheo tụ tập

Đang bàn luận về Phật

Thì Thế tôn đến liền.

Khi biết chuyện, Phật khen:

Tỳ kheo lúc nhóm họp

Chỉ nên bàn luận Pháp

Hoặc như thánh mặc nhiên.

Có hai sự tầm cầu:

Thánh cầu và phi thánh.

Sinh, già, bệnh, chết, sầu,

Ô nhiễm là phi thánh.

Tìm năm dục trưởng dưỡng

Gọi là phi thánh cầu

Trong khi mình đã khổ

Lại rước thêm khổ đau.

Thế nào là thánh cầu?

Xưa kia khi hành đạo

Xét nguy hiểm của "sinh"

Ta đi tìm vô sinh.

Xét nguy hiểm của già

Ta tìm cái không già

Xét nguy hiểm của bệnh

Ta tìm cái không bệnh

Xét nguy hiểm của chết

Ta tìm cái bất tử

Tự mình bị khổ sầu

Ta tìm cái không sầu

Tự mình bị ô nhiễm

Ta tìm cái không nhiễm

Đạt niết bàn vô thượng

An ổn thoát khổ ách.

Ta cạo bỏ râu tóc

Trong độ tuổi thanh xuân

Và từ bỏ gia đình

Đi tìm cái chí thiện.

Thầy đầu tiên ta gặp

Chứng Vô sở hữu xứ

Cho thế là tối cao.

Tín tấn niệm định tuệ

Trong ta lại thiếu sao?

Ta nỗ lực tinh cần

Chứng Vô sở hữu xứ.

Thầy vô cùng khen ngợi

Xem ta người ngang hàng

Mời trông coi đệ tử

Nhưng ta lại ra đi

Vì thấy rõ pháp ấy

Không hướng đến yểm ly

Không đưa đến niết bàn

Chỉ đến Vô sở hữu.

Kế tiếp ta đã gặp

Út đa Ra-ma tử

Vị này chỉ tuyên bố

Phi tưởng phi phi tưởng.

Ta cũng đắc pháp ấy

Biết chưa phải tối thượng

Nên ta lại ra đi

Tìm vô thượng niết bàn.

Tại xứ Ma kiệt đà

Trong khu rừng ven sông

Ta tinh cần tinh tấn

Đạt giải thoát bất động

Đây đời sống cuối cùng.

Ta chứng cái không sinh

Không già, bệnh, chết, sầu

Chứng cái không ô nhiễm:

Niết bàn khỏi khổ ách.

Rồi ta lại suy nghĩ

"Sao ta nói chính pháp

Được chứng ngộ khó khăn?

Những ai còn tham sân

Khó chứng ngộ pháp này

Đi ngược dòng, thâm diệu

Kẻ ái nhiễm vô minh

Không thấy được pháp này."

Bấy giờ vị Phạm thiên

Hiện xuống trước mặt ta

Chắp tay mà cầu thỉnh:

"Tại xứ Ma kiệt đà

Hiện ra pháp bất tịnh

Do suy tư tác thành.

Hãy mở cửa bất tử

Cho chúng được nghe pháp

Mà bậc thánh vô uế

Đã chân chính giác ngộ.

Như đứng trên tảng đá

Tại chót đỉnh núi cao

Đưa mắt nhìn chúng sinh

Quần chúng dưới chân mình.

Cũng vậy đấng Thiện thệ

Biến nhãn không sầu muộn

Lên lầu cao Chính pháp

Nhìn xuống đám quần sinh

Bị sinh già áp bức

Bị ưu tư sầu khổ

Anh hùng, hãy đứng lên

Bậc Chiến thắng chiến trường

Vị trưởng đoàn lữ khách

Đấng thoát ly nợ nần

Hãy thuyết vi diệu pháp

Sẽ có người nhờ nghe

Mà thâm hiểu diệu nghĩa."

Tại khu vườn Lộc uyển

Gặp nhóm năm tỳ kheo

Ta giảng về năm dục

Vị ngọt cùng nguy hiểm

Và xuất ly khỏi chúng

Ai bị dục trói buộc

Không thoát khỏi ác ma.

Tỳ kheo lìa ác dục

Chứng trú tám giải thoát

Cho đến diệt tận định

Ác ma không thấy được.

Như nai được tự do

Thoát tầm thợ săn bẫy.

(Lời thỉnh của Phạm thiên viết theo một bài giảng của HT Thiện Siêu)

-ooOoo-

TRUNG BỘ KINH - BÀI KINH SỐ 27

Tiểu kinh dụ dấu chân voi

I. TOÁT YẾU

Cùlahatthipadopama Sutta - The shorter discourse on the simile of the elephant's footprint.

Using the analogy of a woodsman tracking down a big bull elephant, the Buddha explains how a disciple arrives at complete certainty of the truth of his teaching. The sutta presents a full account of the step by step training of the Buddhist monk.

Bản kinh ngắn về ví dụ dấu chân voi.

Phật lấy hình ảnh người thợ rừng theo dấu một con voi lớn để giải thích làm cách nào đệ tử đạt đến sự xác tín hoàn toàn đối với chân lý Ngài dạy.

II. TÓM TẮT

Bà la môn Janussoni hỏi du sĩ Pilotika lý do vị này tôn sùng Phật. Pilotika đưa ra bốn dấu hiệu về sự tối thượng của Phật, giống như bốn dấu chân của một con voi chúa, đó là Ngài đã hàng phục được những người uyên bác nhất trong bốn chúng: sát đế lợi (giới quân sự), bà la môn (giới học giả), gia chủ (giới tại gia), và sa môn (giới xuất gia). Tất cả đều xác nhận "Thế tôn là bậc Chính đẳng giác, Pháp được Thế tôn khéo giảng, tăng chúng khéo hành trì", và họ trở thành đệ tử Phật. Sau khi nghe vậy, bà la môn Janussoni đi đến yết kiến Phật và kể lại ví dụ trên. Phật dạy ví dụ ấy chưa được đầy đủ, và Ngài giảng đến mức nào mới có thể kết luận "Thế tôn là bậc Chính đẳng giác... " Như một thợ rừng thiện xảo, thấy dấu chân voi, thấy những vật cao bị cọ xát, bị ngà voi cắt chém, nhưng chưa vội đi đến kết luận "đây là một con voi đực to lớn" cho đến khi lần theo dấu chân, thực sự trông thấy voi đực. Người theo Phật cũng thế, sau khi nghe Pháp, thấy tại gia là ràng buộc, phát tâm xuất gia từ bỏ gia đình, viên mãn giới, thành tựu chính niệm, gột rửa năm triền cái, chứng và trú thiền thứ nhất cho đến thứ tư. Đó là những vết cắt chém thứ nhất của Như lai, nhưng chưa đủ để kết luận. Vị ấy hướng tâm đến Túc mạng trí, nhớ hết các đời trước, là vết cắt chém thứ hai. Vị ấy hướng tâm đến Sinh tử trí, với thiên nhãn thuần tịnh thấy được sự sống chết của chúng sinh tùy theo nghiệp, là vết cắt chém thứ ba, nhưng vị thánh đệ tử cũng không đi đến kết luận "Thế tôn là bậc Chính đẳng giác... " Với tâm định tĩnh, thuần tịnh, vị ấy hướng tâm đến lậu tận trí, tuệ tri Khổ, Tập, Diệt, Đạo; thoát khỏi dục lậu, hữu lậu, vô minh lậu, tự biết "Sinh đã tận, phạm hạnh đã thành, việc cần làm đã làm, không còn trở lui đời sống này nữa." Đến đây, vị thánh đệ tử mới đi đến kết luận: "Thế tôn là bậc Chính đẳng giác, Pháp được Thế tôn khéo giảng, chúng tăng khéo hành trì." Như vậy, ví dụ Dấu chân voi mới thực được nói một cách rộng rãi đầy đủ.

III. CHÚ GIẢI

Theo sử liệu xứ Tích lan, kinh này là bản kinh đầu tiên mà thượng tọa Mahinda đã giảng khi Ngài mới đến nước này.

Không đi đến kết luận về Ba ngôi báu, bởi vì bốn thiền và tuệ thuộc thế gian (túc mạng trí, biết các đời trước của mình, và sinh tử trí, biết việc sống chết của kẻ khác) thì ngoại đạo cũng có như Phật giáo. Kinh này hiển thị rằng, chỉ khi vị đệ tử đắc quả A la hán, việc làm đã xong, mới có thể đi đến kết luận thực chính xác về Tam bảo.

IV. PHÁP SỐ

Ba ngôi báu, ba quy y, ba minh, ba lậu. Bốn sự thật, bốn thiền. Năm triền cái, năm thiền chi. Sáu căn.

V. KỆ TỤNG

Như người tìm tượng vương

Thấy dấu chân voi lớn

Chưa kết luận vội vàng

Vì thợ săn thiện xảo

Biết có loại voi cái

Thấp lùn, mà lớn chân.

Đi lần theo dấu chân

Thấy cành cao xơ xác

Bị ngà voi chém cắt

Người kia vẫn nghĩ rằng

"Có thể là voi cái

Với ngà lớn, chân to."

Thợ săn chưa dừng lại

Cứ rừng sâu lần dò.

Thấy cành cao gãy đổ

Voi chúa đang đi lại

Dáng dấp thật ung dung

"Tượng vương đang ở đó."

Người đệ tử xuất gia

Thành tựu thánh Giới uẩn

Từ bỏ năm triền cái

Chứng và trú bốn thiền

Dấu chân, vết cắt này

Của một con voi lớn

Nhưng chưa đủ kết luận

Tam bảo chính là đây.

Dù chứng túc mạng minh

Hoặc đắc sinh tử trí

Vẫn chưa đủ kết luận

Vì ngoại đạo thua gì.

Chỉ đến khi lậu tận

Sinh tận, phạm hạnh thành

Việc cần làm đã xong

Thành bậc A la hán

Kết luận này chính xác:

Thế tôn Chính đẳng giác

Pháp được Ngài khéo giảng

Chúng tăng khéo hành trì.

-ooOoo-

TRUNG BỘ KINH - BÀI KINH SỐ 28

Đại kinh dụ dấu chân voi

I. TOÁT YẾU

Mahàhatthipadopama sutta - The greater discourse on the simile of the elephant's footprint.

The venerable Sàriputta begins with a statement of the four noble truths, which he then expounds by way of the contemplation of the four elements and the dependent origination of the five aggregates.

Bản kinh dài về ví dụ dấu chân voi.

Tôn giả Xá lợi phất khởi đầu bằng tuyên bố về Bốn chân lý, rồi giảng giải bốn chân lý qua pháp quán bốn đại chủng và lý duyên khởi về năm uẩn.

II. TÓM TẮT

Tôn giả Xá lợi phất tuyên bố Bốn chân lý là lớn nhất trong tất cả thiện pháp, như dấu chân voi lớn nhất trong các dấu chân. Kế đến gồm các đoạn:

1. Phân tích chân lý về Khổ với những khía cạnh của nó, đặc biệt là năm uẩn bị chấp thủ.

2. Phân tích sắc uẩn do bốn đại tạo; lần lượt nói về bốn đại với hai khía cạnh trong và ngoài, nội đại chủng được phân tích chi tiết, đại chủng bên ngoài chỉ nói sơ qua để so sánh cho đầy đủ. Mỗi đại chủng được hiển thị như là một nền tảng để phát sinh tuệ quán "duyên sinh, vô thường, vô ngã" cùng các đức tính nhẫn, niệm và xả tương ưng với thiện.

3. Trở lại phân tích các khía cạnh của Bốn chân lý, liên hệ năm thủ uẩn: Các sở tạo sắc - mắt tai mũi lưỡi thân ý - phải lành mạnh, có sự xúc chạm với ngoại pháp đối tượng của chúng, và ngoại pháp phải ở trong tầm, thì thức phần tương ứng - cái biết của mắt, tai... - mới xuất hiện. Những pháp do duyên khởi ấy chính là năm thủ uẩn. Thế tôn đã dạy: "Ai thấy được lý duyên khởi, người ấy thấy được Pháp; ai thấy được Pháp, người ấy thấy lý duyên khởi." Sự tham đắm năm thủ uẩn là Khổ tập; sự nhiếp phục, từ bỏ dục tham là Khổ diệt.

III. CHÚ GIẢI

Niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng: Luận giải "niệm Phật" là nhớ lời Phật dạy về ví dụ cái cưa trong kinh số 21; "niệm Pháp" là nhớ lời khuyên của Ngài trong ví dụ cái cưa; "niệm Tăng" là nhớ đến đức nhẫn cu/a vị tỳ kheo có thể kham nhẫn những sự nhục mạ không phẫn hận.

Xả tương ưng với thiện là xả do tuệ, tức thái độ không ưa không ghét trước những đối tượng đáng ưa ghét xuất hiện qua sáu cửa ngõ giác quan. Nói một cách tuyệt đối, xả này chỉ bậc A la hán mới có, vị tỳ kheo hữu học thì đang hướng về đức tính này.

Ai thấy Duyên khởi... Không thấy chỗ nào khác trong tạng Pàli dẫn Phật dạy lời này. Luận chú thích: "Ai thấy lý duyên khởi thì thấy các pháp do duyên khởi; ai thấy các pháp do duyên khởi thì thấy được lý duyên khởi." Chú giải này tuy rõ hơn [ám chỉ năm thủ uẩn là pháp duyên khởi] song không bao hàm hết ý nghĩa sâu sắc của lời Phật dạy, theo đó có thể hiểu toàn thể của Pháp là Duyên khởi và toàn thể của Duyên khởi là Pháp.

IV. PHÁP SỐ

Bốn chân lý - Bốn đại chúng - Năm thủ uẩn - Sáu căn - Sáu trần - Sáu thức. Tám khổ.

V. KỆ TỤNG

Trong tất cả dấu chân

Dấu chân voi lớn nhất

Cũng vậy tất cả thiện

Bốn chân lý gồm thâu.

Khổ đế nói vắn tắt

Chính là năm thủ uẩn

Sắc thọ tưởng hành thức

Làm nên thân và tâm.

Sắc là thân tứ đại:

Địa, thủy, hỏa, và phong

Trong ngoài đều biến chuyển

Để đi đến diệt vong.

Khi thấy rõ bốn đại

"Không tôi, không của tôi"

Sinh yểm ly, từ bỏ

Và xả được an trú.

Do căn trần tiếp xúc

Bèn có "thức" hiện sinh

Năm thủ uẩn duyên sinh

Là chân lý về Khổ

Muốn rõ biết nguồn cơn

Tham dục là nguyên nhân

Bỏ đam mê thủ uẩn

Khổ diệt, chứng niết bàn.

-ooOoo-

TRUNG BỘ KINH - BÀI KINH SỐ 29-30

Thí dụ lõi cây

(đại kinh và tiểu kinh)

I. TOÁT YẾU

Mahàsàropama, cùlasàropama Sutta - the greater and shorter discourse on the simile of the heartwood.

These two discourses emphasize that the proper goal of the holy life is the unshakable deliverance of the mind, to which all other benefits are subsidiary.

Cả hai kinh này nhấn mạnh rằng mục đích chính của đời sống phạm hạnh là tâm giải thoát bất động, đối với mục đích này thì tất cả những lợi lạc khác chỉ là cặn bã.

II. TÓM TẮT

Hai bản kinh cùng có nội dung như sau. Người ta có thể vì thấy khổ sinh tử nên phát tâm xuất gia tìm cách chấm dứt toàn bộ khổ uẩn này, như người vào rừng tìm lõi cây. Nhưng có người, sau khi xuất gia, vì danh dự lợi dưỡng và sự tôn kính của người đời, đâm ra tự mãn, tham đắm, tự cho đã đạt mục đích. Người này ví như kẻ thay vì tìm lõi cây, lại đem về cành lá.

Có người xuất gia dù được danh dự lợi dưỡng cung kính cũng không phóng dật, sống có giới hạnh. Do thành tựu giới đức, vị ấy khen mình chê người, trở nên phóng dật: như người tìm lõi cây mà chỉ đem về vỏ ngoài.

Hạng thứ ba là người sau khi thành tựu giới, tập thiền định, do thành tựu thiền định, đâm ra tự mãn, khen mình chê người, trở nên phóng dật. Vị này giống như người đi rừng cốt lấy lõi cây nhưng chỉ đem về vỏ trong.

Hạng thứ tư không vì thành tựu thiền định mà phóng dật, nên có được tri kiến, và do tri kiến nên khen mình chê người: hạng này như người đi rừng chỉ đem về giác cây.

Hạng thứ năm nhờ có tri kiến nhưng không phóng dật, mà thành tựu giải thoát tạm thời và giải thoát vĩnh viễn. Tâm giải thoát bất động này chính là lõi cây, là mục tiêu của đời sống phạm hạnh.

III. CHÚ GIẢI

Tri kiến theo Luận giải là thiên nhãn, khả năng thấy được những sắc vi tế mà mắt thường không thể trông thấy.

"Thành tựu thiền định" là điều kiện để đạt tri kiến; tri kiến là căn bản để đắc 4 thiền 4 định và chứng diệt thọ tưởng -- gọi là thời giải thoát, và lậu tận, gọi là phi thời giải thoát.

Thời giải thoát, samayavimokkha: Giải thoát tạm thời, là bốn thiền, bốn định vô sắc và diệt định.

Phi thời giải thoát, asamayavimokkha, là bốn đạo bốn quả và niết bàn.

Tâm giải thoát bất động là quả vị A la hán. Như vậy, "phi thời giải thoát" có nghĩa rộng hơn là tâm "giải thoát bất động", được xem là mục đích duy nhất của đời sống phạm hạnh.

IV. PHÁP SỐ

Bốn thiền, Bốn định.

V. KỆ TỤNG

Nhân Đề bà đạt đa

Bỏ tăng đoàn của Phật

Lập riêng chúng xuất gia

Thế tôn dạy đại chúng:

Kẻ từ bỏ gia đình

Muốn thoát khổ sinh tử

Như người tìm lõi cây

Khó đạt mục đích mình.

Hoặc tự mãn lợi danh

Mà trở thành phóng dật

Như lá cành vụn vặt

Lầm tưởng là lõi cây.

Hoặc khi thành tựu Giới

Tự xem không ai bằng

Như kẻ kiếm lõi cây

Chỉ đem về lớp vỏ.

Có người tiến tu lên

Khiến tâm được định tĩnh

Lại khen mình chê người

Không đạt được cốt lõi.

Có người nhờ định tâm

Đạt tri kiến sáng suốt

Hoan hỷ sinh kiêu căng

Lõi cây chưa tìm được.

Không tự mãn tri kiến

Chứng bốn thiền, bốn không

Đạt tạm thời giải thoát

Vị ấy còn mất mát.

Không tham đắm tri kiến

Tâm giải thoát bất động

Đây chính thực lõi cây

Mục đích phạm hạnh này.

-ooOoo-

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top

Tags: #kinh#trung