kinh tế tri thức
. Kinh tế tri thức là gì?
Có người dẫn lời Các Mác nói rằng, khi hàm lượng cơ bắp trong sản phẩm do con người làm ra giảm đến mức cực nhỏ thì lúc đó sẽ xuất hiện giai cấp công nhân khoa học. Và cho rằng điều đó đang được chứng minh trong nền Kinh tế Tri thức (KTTT). Thực ra, không cần phải đến KTTT mới xuất hiện giai cấp công nhân khoa học của Mác. Trong nhiều ngành công nghiệp hiện đại được tự động hóa hoàn toàn như sản xuất xe ô tô, sản xuất linh kiện điện tử, sản xuất hóa chất... hàm lượng cơ bắp đã được giảm đến mức thấp nhất ngay từ khi chưa xuất hiện khái niệm KTTT. Cũng có những ý kiến đánh đồng KTTT với một số ngành kinh tế thường được gọi là ngành kinh tế mới như Kinh tế Internet, hay Công nghệ tin học và truyền thông, để từ đó cho rằng KTTT là nền kinh tế dựa vào tri thức, trong đó kinh tế Internet trở thành nội dung chủ yếu trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Nhưng rõ ràng là, bất kỳ ngành sản xuất kinh doanh nào cũng phải dựa vào tri thức và nền kinh tế Internet cũng chỉ là một trong những ngành kinh doanh, tuy đóng một vai trò ngày càng quan trọng, nhưng không thể trở thành một ngành kinh doanh độc lập mang tính quyết định cho một nền kinh tế được. Sự sụp đổ của hàng loạt công ty kinh doanh Internet (cả của các công ty kinh doanh Tin học và Truyền thông) hiện nay có thể sẽ giúp chúng ta thận trọng hơn, phân biệt rõ hơn khái niệm và vai trò của các ngành kinh doanh với một nền kinh tế.
Mới chỉ trong vài năm gần đây, qua việc theo dõi sáu ngành công nghiệp then chốt của tương lai là: công nghệ kỹ thuật tin học và truyền thông, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới, công nghệ năng lượng mới, công nghệ kỹ thuật hàng không-vũ trụ mới, và công nghệ kỹ thuật bảo vệ môi trường, người ta đã ghi nhận sự xuất hiện của một nền kinh tế hoạt động theo một công thức khác hẳn về bản chất so với công thức của nền kinh tế hàng hóa mà loài người từng biết. Hoạt động của nền kinh tế hàng hóa- dù đó là kinh tế thị trường hay kinh tế kế hoạch- đều tuân theo công thức nổi tiếng: Tiền - Hàng - Tiền. Trong khi đó, nền kinh tế mới xuất hiện lại hoạt động theo công thức: Tiền- Tri thức- Tiền.
Theo đánh giá chung của những học giả hàng đầu ở phương Tây thì ngày nay KTTT mới chỉ đang định hình ở 03 nước công nghiệp phát triển nhất là Mỹ, Đức và Nhật bản. Vì vậy chưa thể đưa ra được một định nghĩa hay một công thức xác định thế nào là KTTT. Thông qua việc nghiên cứu sáu ngành công nghiệp then chốt đã nói ở trên, người ta chỉ có thể ghi nhận được một số đặc trưng cơ bản nhất- cần chứ chưa phải đã đủ- của nền kinh tế mới này như sau:
* Sự xuất hiện các xí nghiệp sản xuất được tự động hóa cao độ và rất linh hoạt, do tác động đồng bộ của tiến bộ khoa học trong hàng loạt lĩnh vực, mà đặc biệt là trong Công nghệ kỹ thuật tin học và truyền thông. Sản phẩm của những xí nghiệp này là những sản phẩm "thông minh". Đó là những sản phẩm không chỉ chứa một hàm lượng thông tin cao, mà còn cả một hàm lượng tri thức cao hơn hẳn sản phẩm công nghiệp cổ điển, khiến cho nó có khả năng sử dụng, chế biến thông tin, đáp ứng nhu cầu riêng của khách hàng. Trong năm 2000, những sản phẩm thông minh (ví dụ: hệ thống dẫn đường cá nhân) đã tạo ra tới 30% giá trị của một chiếc xe ô tô loại sang trọng và ngày càng trở thành yếu tố cạnh tranh quyết định trong ngành sản xuất xe ô tô.
* Các công nghệ mới đang làm thay đổi triệt để qúa trình sản xuất và cơ cấu sản phẩm. Chẳng hạn, kỹ thuật Gen bắt đầu thay đổi một cách căn bản qúa trình sản xuất, sản phẩm và cơ cấu sản phẩm trong công nghiệp dược phẩm, công nghiệp hóa chất. Tương tự như vậy, công nghệ sản xuất vật liệu mới cũng thay đổi một cách sâu sắc sản phẩm của công nghiệp sản xuất vật liệu cổ điển. Ví dụ: Sứ có tính năng đặc biệt đã được dùng trong công nghiệp sản xuất ô tô. Trong tương lai không xa sẽ xuất hiện động cơ bằng sứ chịu được nhiệt độ cao hơn hẳn thế hệ động cơ hiện tại và vì vậy sẽ tiết kiệm nhiều nhiên liệu hơn. Hay những vật liệu siêu tinh khiết mới cho công nghiệp sản xuất vi mạch điện tử, v.v...
* Lý thuyết của Ricardo về lợi thế đối chiếu (so sánh) vùng không còn giá trị nữa đối với sáu ngành công nghiệp then chốt. Theo Ricardo (đầu thế kỷ 19), mỗi nước do diều kiện tự nhiên đều có sẵn những thuận lợi đặc biệt cho việc sản xuất những hàng hóa nhất định so với nước khác. Chẳng hạn nước Bồ đào nha đầy ánh nắng mặt trời sẽ có lợi thế vùng lớn hơn Anh quốc trong việc sản xuất rượu vang; ngược lại, Anh quốc được lợi thế hơn trong sản xuất vật liệu. Lợi thế vùng theo thuyết Ricardo hiện đại được đánh giá qua ba yếu tố sản xuất quen thuộc là: đất, vốn tư bản, sức lao động. Rõ ràng các yếu tố này có trở thành lợi thế cho sản xuất hay không là rất khác nhau đối với mỗi quốc gia. Trong nền KTTT, lợi thế vùng này không tồn tại vì phần đóng góp của giá đất, sức lao động là hết sức nhỏ bé khi so với phần của tri thức trong qúa trình sản xuất. Với thị trường tài chính có tính chất tòan cầu, việc gọi vốn không còn phụ thuộc vào biên giới quốc gia nữa và do số vốn đầu tư trong KTTT rất lớn, lại phải huy động trong khoảng thời gian ngắn nên- nói chung- nó cũng nằm ngoài khả năng một quốc gia. Vì vậy, những lợi thế sản xuất trong KTTT chỉ có thể do chính các doanh nghiệp tạo ra. Để so sánh, nên lưu ý là thuyết Ricardo hiện vẫn còn nguyên giá trị trong qúa trình toàn cầu hóa nền kinh tế hàng hóa hiện đại. Nhiều nước đang phát triển thậm chí coi việc phát huy lợi thế về sức lao động, giá đất là chiến lược hấp dẫn đầu tư.
* Vốn đầu tư cho nghiên cứu, phát triển sản phẩm cũng như xây dựng nhà máy sản xuất trong nền KTTT là hết sức lớn. Để có thể hoàn vốn đầu tư, sản phẩm phải được sản xuất với số lượng lớn tối đa. Không những thế, doanh nghiệp trong KTTT phải bằng mọi cách hoàn vốn trong thời gian ngắn nhất trước khi sản phẩm thế hệ mới của công ty khác được tung ra thị trường, đây là điều xẩy ra rất nhanh trong KTTT. Thị trường của các doanh nghiệp trong nền KTTT vì vậy phải là thị trường toàn cầu. Rõ ràng là chỉ có không nhiều doanh nghiệp đáp ứng được những điều kiện cạnh tranh gay gắt này. Và cũng sẽ chỉ có một vài quốc gia đủ khả năng hỗ trợ tài chính cho các tập đoàn kinh doanh tòan cầu, cũng như giữ ổn định môi trường luật pháp-xã hội-chính trị để các công ty này không chuyển trụ sở sang nước khác.
* Như vậy, ta có thể đưa ra nhận xét sơ bộ nhất để trả lời câu hỏi "KTTT là gì?" như sau: KTTT là hình thái phát triển cao nhất hiện nay của nền kinh tế hàng hóa tư bản, trong đó công thức hoạt động cơ bản Tiền-Hàng-Tiền được thay thế bằng Tiền- Tri Thức- Tiền và vai trò quyết định của Tri thức được thể hiện qua các mặt sau đây:
Hàm lượng Tri thức trong qúa trình sản xuất phải chiếm phần quyết định. Theo nhiều học giả thì hàm lượng này phải chiếm ít nhất là từ 60 đến 65% giá thành sản xuất và ít nhất là 35% giá trị sản phẩm. (Các con số này trong một số ngành công nghiệp then chốt ở Đức hiện nay trung bình là 60 và 30%, ở Hoa Kỳ là 62 và 35%). Hàng hóa trong KTTT là Tri thức.
* Trong KTTT, Tri thức vừa được sử dụng để quản lý, điều khiển, tham gia vào qúa trình sản xuất như công cụ sản xuất, vừa trực tiếp là thành tố trong sản phẩm như nguyên liệu sản xuất. Vì vậy, ngoài vai trò là hàng hóa trong KTTT, Tri thức- khác với hàng hóa trong kinh tế hàng hóa- cũng là tư liệu sản xuất. Trí thức để xử lý tri thức, để làm ra tri thức, tri thức quản lý điều hành... cũng trở thành hàng hóa và đó là những thứ hàng hóa được sản xuất không theo qúa trình sản xuất quen thuộc trong nền Kinh tế Hàng hóa. Chưa bao giờ Hàng hóa của một nền Kinh tế lại đồng thời giữ nhiều vai trò quyết định khác nhau đến vậy trong cả phương thức sản xuất lẫn quan hệ sản xuất như Hàng hóa Tri thức trong nền Kinh tế Tri thức. Còn qúa sớm để dự báo những thay đổi quan hệ xã hội trong tương lai. Nhưng chắc chắn KTTT sẽ dẫn đến những thay đổi triệt để và hết sức sâu rộng trong xã hội hơn tất cả những thay đổi do các cuộc cách mạng công nghiệp, khoa học kỹ thuật và xã hội mà loài người từng trải qua. Người ta đã bắt đầu nói đến Xã hội Tri thức.
* Sự phát triển như vũ bão của công nghệ tin học và truyền thông rút ngắn càng ngày càng nhanh thời gian chọn lọc, đánh giá, sử dụng và sáng tạo thông tin, khiến cho giá trị sử dụng tri thức cũng bị rút ngắn lại nhanh chóng. Một tri thức hôm nay có giá trị hàng tỷ Dollars, ngày mai đã có thể vô giá trị. Vì vậy, việc tiếp cận và trao đổi Tri thức ở phạm vi toàn cầu trong KTTT có ý nghĩa sống còn. Cạnh tranh trong KTTT trước hết là cạnh tranh với thời gian. Để bảo đảm sự phát triển bình thường của mình, KTTT sẽ dẫn đến việc xóa bỏ biên giới quốc gia, ít nhất và trước mắt là trong lĩnh vực thông tin.
* Do tích chất đặc biệt của hàng hóa Tri thức, không những các ngành công nghiệp sản xuất, kinh doanh, nghiên cứu khoa học mà cả các lĩnh vực kinh tế, xã hội, chính trị cũng phụ thuộc và đan quyện vào nhau một cách chặt chẽ hơn bao giờ hết trong KTTT. KTTT- với sản phẩm là Tri thức- sẽ dẫn đến tái cấu trúc kinh tế-xã hội và chính trị trên phạm vi toàn cầu. Trước mắt, cuộc cạnh tranh giữa các nhà nước (các nước công nghiệp phát triển) trong tư cách các hệ thống kinh tế- xã hội- chính trị với những lợi thế khác nhau về luật lệ, về thuế, về tiêu chuẩn an sinh xã hội... đã bắt đầu trở nên gay gắt để thu hút đầu tư. Ai tái cấu trúc nhanh, người đó sẽ thắng.
II. Điều kiện hình thành KTTT:
Trước hết, cần khẳng định rằng, KTTT không phải là một bước nhảy đột biến, hay một sáng tạo của một lý thuyết nào đó, mà là hình thái phát triển cao hơn nữa- có tính tiến hóa- của nền kinh tế hàng hóa tư bản với sự kế thừa các qui luật của nền kinh tế thị trường. Chính sự phát triển kinh tế, xã hội, chính trị đến mức cao độ ở các nước công nghiệp phát triển nhất đã tạo tiền đề cho sự ra đời KTTT.
Cuộc cách mạng công nghiệp đầu tiên vào cuối thế kỷ 18 tại Anh quốc đã đưa nước này lên vị trí lãnh đạo thế giới. Đồng thời nhận chìm Trung Quốc và Ấn Độ- là hai nước vào thế kỷ 17 còn giàu hơn cả Châu Âu- xuống hàng các nước thuộc địa và ngày nay vẫn còn là những nước đang phát triển. 100 năm sau, với ba ngành công nghiệp mới là Điện, Hóa chất và Chế tạo động cơ đốt trong, Đức và Mỹ đã trở thành hai cường quốc hàng đầu của thế giới trong giai đoạn hai của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất. Cũng đúng 100 năm sau vào cuối thế kỷ 20, chúng ta đang đứng ở trung tâm cuộc cách mạng thứ hai: cuộc cách mạng kinh tế-xã hội-công nghệ, nẩy sinh từ cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất. Chính cuộc cách mạng công nghệ đã đưa các quốc gia công nghiệp phát triển đến xã hội tin học bằng cuộc cách mạng công nghệ tin học. Qúa trình phát triển kinh tế- xã hội này tại Mỹ, Đức và Nhật bản đã tạo được những tiền đề sau đây cho sự hình thành KTTT:
* Tự động hóa cao độ: Tự động hóa cao độ quá trình sản xuất không những giảm đến mức thấp nhất chi phí cho những yếu tố phi tri thức, mà còn rút ngắn một cách căn bản thời gian từ khi nghiên cứu phát triển đến sản xuất hàng loạt. Và như vậy mới gia tăng một cách đáng kể hàm lượng tri thức trong sản phẩm. Ngoài ra, chỉ có sự tự động hóa cao độ mới đáp ứng được nhu cầu sản xuất sản phẩm vừa với số lượng lớn, vừa rất linh hoạt đáp ứng nhu cầu chuyên biệt của khách hàng ở những thị trường khác nhau trên thế giới.
* Công nghệ tin học và thông tin phát triển cao độ. Đây là một trong những điều kiện căn bản nhất bảo đảm sự phát triển của KTTT. Nó không những là một ngành kinh tế then chốt sản xuất và tiêu thụ sản phẩm tri thức, mà còn là điều kiện bảo đảm hiệu qủa việc tiếp cận, trao đổi, xử lý thông tin, sáng tạo tri thức của các ngành kinh tế-xã hội khác. Trong sản xuất-kinh doanh, sự phát triển công nghệ này đã dẫn đến cái mà chúng ta thường nghe nói: cuộc cách mạng giảm chi phí quản lý-điều hành. Chi phí liên lạc rất thấp cũng góp phần không nhỏ giúp doanh nghiệp có những phản ứng kịp thời cho mọi biến động trên phạm vi tòan cầu, thúc đẩy toàn cầu hóa doanh nghiệp. Ngoài ra, công nghệ tin học và thông tin phát triển cao độ có những đóng góp tích cực vào việc nâng cao tri thức cho người tiêu thụ bình thường, giúp họ nâng cao khả năng sử dụng sản phẩm tri thức.
* Bảo vệ có hiệu qủa một môi trường an toàn và ổn định cho việc hình thành, sản xuất và tiêu thụ Tri thức. Đó là một môi trường pháp lý bảo đảm tự do hoàn toàn cho việc tiếp cận, trao đổi và xử lý thông tin, trong đó gía trị Tri thức được bảo vệ bằng luật sở hữu Trí tuệ; sở hữu tư nhân phải được tôn trọng và bảo vệ.
* Một nền kinh tế thị trường phát triển cao với các thị trường tài chính quốc tế hoạt động hữu hiệu. Như đã nói ở trên, doanh nghiệp trong KTTT vừa cần vốn đầu tư khổng lồ, vừa phải chạy đua với thời gian và đương đầu với những rủi ro lớn, nên hơn bao giờ hết, hoạt động của họ trong KTTT phụ thuộc rất lớn vào nguồn cung cấp vốn từ các thị trường tài chính. Ngược lại, sự ổn định của thị trường tài chính cũng gắn bó mật thiết với công cuộc kinh doanh của doanh nghiệp. Bảo đảm sự hoạt động của một nền kinh tế với những quan hệ đan quyện phức tạp và nhậy cảm như vậy chỉ có thể thành công tại những quốc gia đã có nền kinh tế thị trường vững mạnh.
* Sau cùng, nhưng quan trọng hơn cả, đó là KTTT chỉ có thể hình thành ở những nhà nước pháp quyền dân chủ, nơi mà doanh nghiệp có thể lường trước được mọi rủi ro trong kinh doanh trên cơ sở những qui luật thị trường trong một khung pháp lý rõ ràng, ổn định không bị thay đổi một cách tùy tiện.
* Một số học giả cho rằng trình độ đào tạo dân trí cũng có thể được xem như điều kiện tiên quyết hình thành KTTT. Tuy nhiên có những ý kiến khác nhau về vần đề này. Theo tôi, trình độ đào tạo dân trí đóng một vai trò không thể thiếu để hình thành nguồn cung cấp tri thức, và giúp người dân với tư cách người tiêu thụ xử dụng sản phẩm tri thức. Chứ không phải là một điều kiện tiên quyết. Một trong những khác nhau căn bản của KTTT với các hình thái Kinh tế sử dụng tri thức khác là sự gia tăng- có tính chất đột biến- giá trị Tri thức "nguồn" (cũng có tác giả gọi là Tri thức đầu vào) thông qua qúa trình sản xuất KTTT với sự tham gia của các nguồn Tri thức khác. Không có qúa trình sản xuất rất đặc thù này, Tri thức nguồn vẫn chỉ là những thông tin với vai trò quen thuộc trong Kinh tế Hàng hóa.
III. Việt Nam có thể đi tắt đón đầu KTTT được không?
Như tôi đã trình bày ở trên, KTTT là hình thức phát triển mới, cao hơn của Kinh tế hàng hóa tư bản. Nó là sản phẩm tiến hóa. Thành qủa của các cuộc cách mạng công nghiệp, cách mạng kinh tế-công nghệ và xã hội là điều kiện cho việc hình thành KTTT. Muốn xây dựng KTTT thì phải tạo được các điều kiện hình thành của nó. Vì vậy không thể đi tắt đón đầu.
Trên lý thuyết, mỗi quốc gia không có ý định đi tắt, đón đầu, đều có thể xây dựng KTTT. Nhất là hiện nay các nước đang phát triển có thể sử dụng ngay những thành tựu công nghệ mới và tận dụng sự ủng hộ về tài chính của cộng đồng quốc tế, để đẩy nhanh tốc độ phát triển tuần tự cơ sở kinh tế-xã hội của mình. Thế nhưng có 03 lý do khiến cho việc theo đuổi mục tiêu xây dựng KTTT ở Việt Nam sẽ trở thành không tưởng và không mang lại một lợi ích thực tiễn nào cả:
* Trước hết, Việt Nam phải tự hỏi sẽ cần bao nhiêu năm để xây dựng thành công những cơ sở đã nói ở trên của KTTT? Để so sánh, cần lưu ý rằng, muốn đạt trình độ phát triển kinh tế-xã hội trung bình như hiện nay của Liên minh Châu Âu (EU), các nước Đông Âu sắp được kết nạp vào EU như Balan, Hungari, Tiệp- là những nước đã xây dựng nhà nước Dân chủ Pháp quyền từ hơn 10 năm nay- phải cần ít nhất là 20 năm nữa với sự giúp đỡ toàn diện của EU. Trong khi đó, KTTT chỉ mới xuất hiện ở Đức- nước hùng mạnh nhất Châu Âu. Khi Việt nam xây dựng được cơ sở KTTT, có lẽ trên thế giới đã xuất hiện Kinh Tế Trí tuệ Nhân tạo. Điều nguy hiểm là ở chỗ: trong thời đại tòan cầu hóa hiện nay, ai không được hội nhập hoặc không muốn hội nhập vào kinh tế quốc tế, kẻ đó sẽ bị lãng quên, bị bỏ rơi và sẽ mãi mãi tụt hậu.
* Khi tạo được cơ sở cho KTTT rồi, Việt Nam sẽ phải đương đầu với một vấn đề không thể giải quyết nổi: tập trung vốn khổng lồ cho việc phát triển KTTT. Thị trường tài chính quốc tế lúc bấy giờ đã không còn biết gì đến KTTT, mà có lẽ chỉ còn quan tâm đến nền KT Trí tuệ Nhân tạo mà thôi.
* Những đặc trưng đầu tiên của KTTT cũng đủ cho thấy rằng nó không là một nền Kinh tế quốc dân, mà sẽ là một nền Kinh tế có tính chất toàn cầu dưới sự dẫn dắt của một vài quốc gia hùng mạnh nhất và sẽ do một số tập đoàn kinh doanh toàn cầu chi phối. Tìm cách xây dựng một nền KTTT quốc dân trong bối cảnh như vậy là một hành động hoàn toàn thiếu suy nghĩ.
Ngược lại, cũng như bất kỳ nền kinh tế nào, KTTT cũng cần thị trường và sự phân công lao động hợp lý. Làm sao để nước mình trở thành thị trường lao động chuyên biệt đưọc tham gia vào qúa trình sản xuất quốc tế và trở thành thị trường tiêu thụ không thể bỏ qua trong nền KTTT, mới chính là chiến lược phát triển đúng đắn nhất của các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam. Ấn Độ, Đài Loan có thể là những tấm gương cho Việt Nam trong vấn đề này.
Việt Nam trong thời gian gần đây hô hào phát triển nhanh, mạnh Công nghệ tin học và truyền thông, coi nó như một cây cầu, một lá bài mầu nhiệm dẫn đến KTTT. Nhưng thực ra, nó không phải là một cây cầu mà chỉ là một trong những trụ cầu. Và cũng như mọi trụ cầu khác, nó phải được xây dựng trên một nền móng vững chắc. Vai trò then chốt của Công nghê Tin học và Truyền thông là điều không cần bàn cãi. Gần đây người ta đã nói đến cuộc cách mạng sinh học sử dụng công cụ là Công nghệ tin học. Thế nhưng nên lưu ý rằng, cũng như các ngành công nghiệp then chốt khác, Công nghệ này thực chất là một phức hợp của rất nhiều ngành nghiên cứu, sản xuất và kinh doanh khác nhau. Chúng chỉ phối hợp với nhau một cách có hiệu qủa khi có cùng một trình độ phát triển nhất định và với một cơ sở hạ tầng thích hợp. Vì vậy, việc chỉ chú trọng phát triển công nghệ này như một ngành kinh tế độc lập, hay nhầm lẫn nó là KTTT, sẽ dẫn đến sự phát triển mất cân đối nặng nề nền kinh tế quốc dân và hoang phí sức người sức của.
Thay lời kết:
Trong cuộc hội thảo Những vấn đề trong tương lai của trật tự Kinh tế thế giới" do trường Đại học tổng hợp Tự Do và trường Đại học tổng hợp Humboldt tổ chức hồi tháng 5.2000 tại Berlin, sau khi kết thúc chương trình nghị sự chính thức, đại biểu một nước Nam Âu đề nghị hội nghị bàn về những biện pháp giúp đỡ các nước đang phát triển xây dựng KTTT. Đại diện Trung Quốc xin phát biểu. Ông nói rất ngắn - đại ý: Chúng tôi sẽ không bao giờ quên bài học của chiến lược Đại nhẩy vọt". Sau đó, hội nghị đã không bàn tiếp về đề nghị của nước Nam Âu kia nữa.
1. Gần đây, kinh tế tri thức được bàn luận sôi nổi khắp nơi. Nhiều người rất hăng hái xem đây là cơ hội nghìn vàng cho đất nước ta nhanh chóng bứt ra khỏi nghèo nàn lạc hậu. Nhưng cũng có ý kiến cảnh báo rằng đặt cược quá cao vào kinh tế tri thức có thể làm chúng ta xao lãng những vấn đề cấp bách nhất của nền kinh tế đang còn quá thấp kém. Có lẽ mỗi ý kiến đều có phần đúng. Cái khó đầu tiên trong chuyện này là nhận thức vấn đề sao cho khách quan, đúng mức và thực tế.
Ngày nay, xu thế toàn cầu hóa là bước tất yếu, có những mặt tiêu cực cần đấu tranh chống lại, nhưng vẫn phải chấp nhận nó, chịu chơi với nó, hơn nữa tuân thủ các luật chơi mới để tìm cách vươn lên. Mà luật chơi mới là: ganh đua, cạnh tranh trí tuệ. Nói cách khác, sân chơi mới là kinh tế tri thức.
Vì vậy không thể phát triển kinh tế tri thức mà từ chối toàn cầu hóa, cũng như không thể cạnh tranh nổi trong nền kinh tế toàn cầu hóa nếu không mở được cánh cửa vào kinh tế tri thức. Những diễn biến gần đây cho thấy ta hội nhập quốc tế mà không theo kịp họ trong kinh tế tri thức thì sẽ thua thiệt.
2. Khái niệm kinh tế tri thức xuất hiện vào đầu những năm 80 của thế kỷ 20, nhưng chỉ gần đây mới rộ lên, nhất là từ khi phát triển máy tính cá nhân, rồi Internet và xa lộ thông tin. Hiện nay chúng ta đang đứng giữa cơn lốc nên cũng chưa xác định được gió sẽ ngả theo chiều nào. Cách đây khoảng một năm thị trường chứng khoán ở Mỹ bốc lên đột ngột theo sự bùng nổ các công ty dot.com, nhiều người tưởng thế giới này chỉ có đầu tư vào đó mới là khôn ngoan nhất. Nhưng rồi cũng xẹp xuống như bong bóng. Thất bại dẫn đến thất vọng. Sau một thời các ngành kinh doanh dựa vào công nghệ thông tin phát đạt chưa từng thấy, nay bóng ma suy thoái lại rình rập. Thị trường vi tính chững lại, hàng loạt công ty công nghệ cao, kinh doanh điện tử, ngay cả ở Silicon Valley, bắt đầu những cuộc sa thải, co cụm lại để chống đỡ luồng khí lạnh có cơ lan tràn (riêng cổ phiếu Microsoft đã sụt hàng chục tỷ USD). Tuy nhiên, nhiều người đánh giá, đây chỉ là thời kỳ tạm lắng để chuẩn bị bùng lên theo một hướng mới. Chính vì thế mà Chính phủ Nhật Bản, mặc dù kinh tế còn ảm đạm, vẫn dự định đầu tư 30 tỷ USD vào công nghệ thông tin trong vài năm tới, coi đó là một trong các hướng chính để thoát ra khỏi thế trì trệ kéo dài mấy năm nay. Nói cho đúng, Nhật Bản đã gặp khó khăn vì đã ngủ quên trên những thành tựu công nghiệp điện tử dân dụng trong thập kỷ 80, cho nên chậm bước trong cách mạng số hóa qua Internet. Hiện nay, đến lượt Mỹ hình như cũng đã quá say sưa với những thành công theo hướng số hóa nên có nguy cơ sắp tới sẽ bị các đối thủ qua mặt khi tiến vào thời đại hậu vi tính.
Các bộ óc lớn đang chuẩn bị cho một bước ngoặt công nghệ mới: Sau máy tính cá nhân là gì? Phải chăng là Truyền thông đa phương tiện không dây, từ điện thoại di động 3G, 4G, phát triển lên truyền thông đa phương tiện gọn nhẹ, nhanh chóng mà không cần dây nhợ lòng thòng, cho phép không chỉ điện thoại, thư điện tử và fax, mà cả kết nối Internet, truy cập Web, thực hiện mọi dịch vụ điện tử hai chiều, ở đâu cũng nhận được và gửi đi được mà không cần đến máy tính cá nhân hay để bàn cố định như hiện nay. Có nghĩa là xã hội đa phương tiện không dây đang tới gần. Các hãng Nokia (Phần Lan), Ericsson (Thụy Điển), DoCoMo (NTT Nhật Bản) hiện đã đi trước Motorola của Mỹ trong cuộc chạy đua về cái đích đó. Trong khi chờ đợi, mọi việc bớt ồn ào, không khí trầm lắng hồi hộp trước những thay đổi lớn có phần dự đoán được nhưng cũng nhiều phần chưa thể lường hết. Bên cạnh đó, nào là bản đồ gen người, nhân bản người vô tính, thực phẩm biến đổi gen, rồi bệnh bò điên, dịch súc vật lở mồm long móng, v.v..., biết bao nhiêu chuyện rắc rối nảy sinh từ cách mạng công nghệ và toàn cầu hóa. Kinh tế tri thức không phải chỉ có mầu hồng. Tình hình không phải chỉ sôi động một chiều có những cơ hội phất lên hiếm có, mà cũng lắm bước thăng trầm ẩn chứa không ít rủi ro bất trắc. Đây không phải là thứ trận địa cứ ào ào xông lên xung phong và chiếm lĩnh được, mà cần có chiến lược thông minh, chuẩn bị kỹ và tổ chức tốt.
3. Vì là sự vật lộn trí tuệ nên cần có quyết tâm, dũng cảm, nhưng đầu óc và tài năng mới thật sự quan trọng. Phải thực hiện cuộc cách mạng tư duy, thay đổi hẳn cách nghĩ trong hàng loạt vấn đề đời sống kinh tế, xã hội cũng như khoa học, công nghệ, văn hóa, giáo dục. Có người gọi kinh tế tri thức là kinh tế mạng, để nhấn mạnh rằng chưa bao giờ thế giới tràn ngập những tổ chức mạng như bây giờ, cho nên cách nghĩ, cách quản lý, cách làm việc theo một hệ thống có trên có dưới, tôn ti trật tự theo kiểu phong kiến hay tư bản thời công nghiệp hiện đại cũng đã lỗi thời. Nói theo thuật ngữ khoa học, chưa bao giờ thế giới bộc lộ tính hệ thống phức tạp cao như bây giờ. Không gian mở rộng, thời gian rút ngắn, thông tin dồn dập, các loại hiệu ứng dây chuyền (kiểu như khủng hoảng tài chính châu á vừa qua), hiệu ứng phụ (kiểu như các hiệu ứng môi trường), hiệu ứng cộng năng (như Internet), ngày càng tác động mạnh. Sự vật biến hóa theo những quy luật phi tuyến (cấp số nhân hay hàm mũ: chẳng hạn cứ 18 tháng, tính năng máy tính tăng gấp đôi nhưng giá thành còn bằng nửa), với độ ngẫu nhiên và phức tạp không ngừng tăng lên. Nhiều vấn đề quản lý kinh tế xã hội đều không thể nhìn nhận theo tầm mắt và quan niệm cũ. Hơn bao giờ hết, thành công trên các lĩnh vực kinh doanh hay khoa học, công nghệ thường bắt nguồn ở những ý tưởng mới, ngược lại thất bại thường do tư duy xơ cứng, không chuyển kịp tình hình. Đã bước sang kỷ nguyên kinh tế tri thức với những đột biến công nghệ liên tục thì trên mọi mặt đời sống kinh tế xã hội, đối với từng người hay từng cộng đồng sự thành bại được quyết định trước hết bởi khả năng nhận thức được kịp thời những thay đổi và thích ứng mau lẹ với những thay đổi đó, kể cả bằng cách tự thay đổi và hoàn thiện bản thân. Nhìn lại xã hội Việt Nam ta cũng thấy rõ mọi thành công hay hư hỏng đều có nguồn gốc sâu xa là tư duy có đổi mới kịp tình hình hay không.
Toàn cầu hóa chỉ mới biểu hiện tính hệ thống của thế giới trên phương diện kinh tế, thương mại. Còn có những biểu hiện khác của tính hệ thống của thế giới, nhất là trong quan hệ thiên nhiên - con người mà ta phải chú ý để đối phó kịp thời trong thời đại kinh tế tri thức. Chẳng hạn, tin tức cho biết nếu các nước giàu không thay đổi chính sách phát triển công nghiệp của họ thì tới giữa thế kỷ 21, với mực nước biển dâng cao dần do nhiệt độ quả đất tăng lên bởi hiệu ứng nhà kính, Ai Cập, Việt Nam và Ba Lan sẽ là ba nước bị thiên tai nặng nề nhất. Trước viễn cảnh đó, các nước nghèo không thể khoanh tay ngồi đợi thảm họa đến để rồi kêu gọi sự giúp đỡ nhân đạo của thế giới mà phải nhanh chóng chủ động thu hẹp khoảng cách trí tuệ với các nước giàu. Chỉ có như thế mới ngăn được xu thế các nước giàu độc quyền phát triển các ngành công nghiệp cao, vừa sạch sẽ vừa thu lời nhiều, sử dụng toàn cầu hóa và khoảng cách số để chuyển tất cả các ngành công nghiệp năng lượng và chế biến ô nhiễm sang cho các nước nghèo hứng chịu hậu quả.
4. Trong bối cảnh vừa có sáng có tối, có thuận có nghịch đó ta cần làm gì, cần có những cải cách gì, để mở đường cho xã hội Việt Nam gỡ lại sự chậm trễ thời gian qua, nhanh chóng tiến kịp thế giới trong kỷ nguyên trí tuệ?
Trước hết và căn bản nhất là phải đổi mới mạnh mẽ cơ chế quản lý (thể chế, chính sách, luật pháp, bộ máy). Nói theo thuật ngữ thông tin, đây chính là phần mềm hệ thống để vận hành xã hội. Người Việt Nam thường được coi là thông minh, nhưng đó mới chỉ là thông minh cá nhân, chưa phải thông minh cộng đồng. Ta cũng thường nói dân tộc ta có tiềm năng trí tuệ lớn, nhưng từ lâu chúng ta cứ tự hào mãi về cái tiềm năng ấy mà đất nước vẫn cứ lạc hậu, Việt Nam vẫn thuộc những nước nghèo nhất thế giới, GDP bình quân của Việt Nam mới bằng 1/14 Malaysia, 1/30 Hàn Quốc, tại sao như vậy? Tại sao cái tiềm năng ấy chưa được phát huy, điều gì ngăn trở giải phóng cái tiềm năng ấy? Giải đáp nghịch lý này chỉ có một cách trả lời: vì cơ chế quản lý chưa thuận, vì trí tuệ cộng đồng chưa cao, vì cái phần mềm hệ thống còn nhiều trục trặc, vì trí tuệ và tài năng đang bị vướng mắc bởi một cơ chế tự thân mâu thuẫn, thiếu nhất quán. Do đó vấn đề cốt tử là nên tập trung trí tuệ cải cách quản lý, xây dựng một môi trường kinh tế xã hội lành mạnh và thoáng đãng, tự nó khuyến khích mọi sáng kiến chủ động, tự nó phát huy mọi tài năng sáng tạo, đồng thời tự nó hạn chế, loại trừ những yếu tố và xu hướng tiêu cực.
Nhiều thí dụ lịch sử đã cho thấy tầm quan trọng của vấn đề này, tưởng không cần nhắc lại vì ai cũng đã biết rõ:
- Khoảng cách công nghệ giữa Tây Âu và Mỹ những năm 60 không phải do người Mỹ tài giỏi gì hơn mà chủ yếu do cách quản lý của Mỹ thuận lợi hơn cho tài năng nảy nở và phát triển.
- Singapore, Hàn Quốc, Hồng Công lên nhanh đâu phải vì các dân tộc họ thông minh hơn Việt Nam.
- Ngẫm lại bản thân ta cũng thấy quá rõ: nếu 15 năm trước, Việt Nam không đổi mới thì bây giờ Việt Nam đang ở đâu trên thế giới này?
5. Trong cơ chế quản lý thì bộ phận lạc hậu cần cải cách nhất là quản lý tài chính, tiền tệ và quản lý hành chính. Tài chính tiền tệ là lĩnh vực nhạy cảm nhất trong kinh tế thời nay, còn hành chính là bộ máy trực tiếp hàng ngày với người dân. Riêng đối với chúng ta, có hai căn bệnh kinh niên trầm trọng, mà nếu không khắc phục được thì có bàn tới kinh tế tri thức cũng vô ích:
- Tham nhũng. Chuyện này quá cũ, quá nhàm, nếu cứ tiếp tục cách chống tham nhũng như chúng ta đã làm từ hàng chục năm nay thì có lẽ mười năm nữa tình hình cũng chẳng sáng sủa gì hơn. Cần phải thay đổi cách nhìn, đi sâu vào những nguyên nhân gì đưa đẩy cả một xã hội vốn rất tốt đến chỗ một bộ phận tham nhũng, dối trá xuất hiện ở mọi ngành, mọi nơi. Trong y tế có thời chúng ta đã đề ra một khẩu hiệu cực kỳ sáng suốt: Phòng bệnh hơn chữa bệnh. Khẩu hiệu ấy cũng đúng cho mọi lĩnh vực. Chống tham nhũng tất nhiên phải trừng trị và trừng trị nghiêm, song điều quan trọng hơn là phải phòng tham nhũng, và muốn vậy phải có phương thức quản lý tài chính và chế độ phân phối thu nhập hợp lý. Trong khi tiền lương không đủ sống thì chống tham nhũng thế nào đây? Do đó, nếu không khẩn trương cải cách quản lý tài chính tiền tệ như các nước văn minh thì mọi cải cách khác đều khó.
- Quan liêu, lãng phí. Chuyện này cũng quá cũ và cũng như tham nhũng, đây là hậu quả không thể tránh của cách quản lý tài chính tiền tệ luộm thuộm, và chế độ lương phi lý, khiến cho các cơ quan hành chính, thay vì phục vụ dân, đã vi phạm quyền làm chủ của dân. Do đó phải coi cải cách hành chính là việc cấp bách để có thể thực hiện thuận lợi các cuộc cải cách khác. Vấn đề chỉ ở chỗ cải cách như thế nào cho có hiệu quả vì sau mấy năm thực hiện, dư luận chung cho rằng chính công tác này cũng chưa làm tốt: chưa ổn, tiêu tốn nhiều tiền của, công sức, thì giờ, mà kết quả chẳng được mấy.
6. Nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế trong điều kiện toàn cầu hóa và kinh tế tri thức phải bắt đầu từ việc nâng cao sức cạnh tranh ở các lĩnh vực công nghiệp thấp và vừa của nông, công nghiệp truyền thống. Tình trạng hiện nay là ngay trong các lĩnh vực này, năng suất lao động của ta quá thấp, không đủ sức cạnh tranh với các nước vì làm ăn kém thông minh, thể hiện ở sự thiếu tính toán hiệu quả, không có tư duy so sánh (mía đường, xi-măng là thí dụ). Ta băn khoăn cân nhắc giữa tư nhân hay Nhà nước, tập thể hay cá nhân, mà không thấy điều quan trọng hơn là phân phối của cải làm ra sao cho công bằng để kích thích được kinh tế phát triển lành mạnh.
7. Phát triển kinh tế tri thức hiển nhiên đòi hỏi phải xây dựng kết cấu hạ tầng thích hợp. Tuy nhiên, đi đôi với kết cấu hạ tầng vật chất kỹ thuật sờ mó được, và hơn nữa có tiền là xây dựng được, phải hết sức chú trọng kết cấu hạ tầng tâm lý xã hội, trước hết là giáo dục và khoa học, là những thứ mà chỉ có tiền thôi cũng chưa đủ để xây dựng tốt.
Chúng ta đã bàn nhiều về giáo dục, đã có Nghị quyết T.Ư, đã có luật Giáo dục, chẳng còn thiếu thứ gì, mà vẫn ì ạch, tại sao? Tôi đã có nhiều dịp phát biểu và kiến nghị cụ thể, ở đây chỉ xin nhấn mạnh thêm: muốn tiến nhanh và vững trong thời đại kinh tế tri thức, ưu tiên hàng đầu phải đặt vào việc chấn hưng, cải cách, hiện đại hóa giáo dục, và hơn nữa, phải nhanh chóng tiến tới phổ cập đại học - chứ không chỉ dừng ở trung học cơ sở (THCS) hay trung học phổ thông (THPT). Mới nghe tưởng chừng là một mục tiêu quá xa vời, nhưng suy nghĩ kỹ hơn và nhìn xu thế ở các nước ngay trong khu vực, chứ chưa nói tới các nước tiên tiến trên thế giới, tôi tin rằng đối với Việt Nam không có cách lựa chọn nào khác nếu thật sự muốn vươn lên nhanh bằng con đường trí tuệ. Phổ cập đại học sẽ giải quyết được nạn thất học, nhu cầu học tập chính đáng của nhân dân, sẽ có điều kiện tốt hơn để phát hiện và bồi dưỡng tài năng trẻ, mở rộng các cánh cửa vào kinh tế tri thức, đồng thời là biện pháp gián tiếp giải quyết nhiều vấn đề bức xúc: phát triển dân chủ, hạn chế và chống tội phạm, tạo công ăn việc làm ổn định.
Câu hỏi đặt ra là: giáo dục THCS và THPT còn chưa xong thì làm sao phổ cập đại học? Để trả lời câu hỏi đó nên dựa vào kinh nghiệm chống mù chữ và phát triển giáo dục phổ thông ngay trong kháng chiến trước đây. Sự thật là nếu cải tổ giáo dục, sử dụng hợp lý hơn đội ngũ trí thức và thầy giáo các cấp, sửa đổi cách thi cử, tránh được những lãng phí cực kỳ to lớn trong quản lý giáo dục hiện nay, đồng thời tận dụng các thành tựu công nghệ thông tin thời đại Internet thì sẽ đủ khả năng vật chất đi nhanh đến phổ cập đại học. Tất nhiên có nhiều khó khăn, nhưng chắc không thể khó hơn phát triển giáo dục trong hai cuộc kháng chiến. Mà cần nhớ rằng chính nhờ có người lính, người dân có trình độ học vấn khá cao so với thời kỳ trước đó, mà ta đã đánh thắng được kẻ địch mạnh hơn gấp nhiều lần về vũ khí tối tân.
MẤY SUY NGHĨ VỀ NỀN KINH TẾ TRI THỨC
Khái niệm kinh tế tri thức ra đời từ năm 1995 do Tổ chức OPCD nêu ra "Nền kinh tế tri thức là nền kinh tế trong đó sự sản sinh, truyền bá và sử dụng tri thức trở thành yếu tố quyết định nhất đối với sự phát triển kinh tế, không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống". Sau đó, năm 2003 chương trình "Tri thức vì sự phát triển" đã đưa ra một khái niệm rộng hơn: "Là nền kinh tế sử dụng một cách hiệu quả tri thức cho sự phát triển KT-XH. Điều này bao gồm việc chuyển giao, cải tiến công nghệ nước ngoài cũng như sự thích hợp hoá và sáng tạo hoá các tri thức cho những nhu cầu riêng biệt". Theo Giáo sư, Viện sĩ Đặng Hữu - Trưởng ban Công nghệ thông tin thì "Kinh tế tri thức là nền kinh tế trong đó sự sản sinh ra, phổ cập và sử dụng tri thức giữ vai trò quyết định đối với sự phát triển kinh tế, tạo ra của cải, nâng cao chất lượng cuộc sống".
Như vậy, kinh tế tri thức là lực lượng sản xuất của thế kỷ 21. Đặc trưng của nền kinh tế tri thức là thị trường chất xám. Trong đó, con người là vốn quý nhất. Tri thức là yếu tố quyết định của sản xuất, sáng tạo đổi mới là động lực thúc đẩy sản xuất phát triển. Công nghệ mới trở thành nhân tố quan trọng hàng đầu trong việc nâng cao năng suất, chất lượng, công nghệ thông tin được ứng dụng một cách rộng rãi. Muốn nâng cao năng suất lao động xã hội, nâng cao chất lượng sản phẩm phải có tri thức, phải làm chủ được tri thức, phải biết vận dụng, quản lý tri thức mới có thể cạnh tranh và đồng thời đảm bảo phát triển bền vững.
Tri thức là yếu tố chủ yếu của sản xuất, nhưng lại rất khác biệt với các yếu tố khác của sản xuất (vốn, tài nguyên...) ở những đặc trưng cơ bản:
- Tri thức không bị hao mòn, giá trị của thông tin và tri thức ngày một tăng.
- Khi chuyển giao tri thức cho người khác, người sở hữu tri thức vẫn còn nguyên vốn tri thức của mình.
- Khi tri thức chuyển giao cho nhiều người thì vốn tri thức được nhân lên gấp bội với chi phí không đáng kể. Do đó, khi nền kinh tế dựa chủ yếu vào tri thức thì nền kinh tế sẽ là nền kinh tế dồi dào, dư dật.
- Mặt khác, tiếp nhận vốn tri thức lại không dễ như tiếp nhận đồng vốn. Việc chuyển giao, tiếp nhận phải thông qua GD-ĐT. GD-ĐT do đó trở thành ngành sản xuất vốn tri thức - ngành sản xuất cơ bản nhất, quan trọng nhất trong nền kinh tế tri thức.
- Tri thức, như một tư liệu sản xuất chủ yếu trong nền kinh tế thị trường lại do người lao động sở hữu, không tách khỏi người lao động. Như vậy, khi nền kinh tế dựa chủ yếu vào tri thức thì người lao động - là lao động tri thức - phải thực sự được làm chủ, hợp tác nhau bình đẳng trong tổ chức kinh doanh, tạo ra và phân phối của cải.
- Khi tri thức trở thành vốn chủ yếu của sản xuất thì vấn đề quản lý tri thức trở thành yếu tố cần thiết nhất. Trong nền kinh tế công nghiệp, khâu quan trọng là quản lý năng suất, rồi đến quản lý chất lượng thì ngày nay chuyển sang quản lý thông tin và quản lý tri thức. Quản lý tri thức là quản lý việc tạo ra, truyền tải và sử dụng tri thức sao cho đạt hiệu quả cao nhất.
Hiện nay, các nước phát triển đang có nhiều lợi thế về nắm bắt tri thức, từ đó chi phối nền kinh tế thế giới. Khoảng cách về thông tin tri thức, sự chênh lệch giàu nghèo và bất bình đẳng giữa các nước, thậm chí giữa các nhóm người trong cùng một nước đang gia tăng nhanh chóng. Nhưng chính kinh tế tri thức là chiếc chìa khoá vàng để các nước đang phát triển vươn lên bằng trí tuệ của mình để tránh tụt hậu và bắt kịp xu hướng phát triển chung của toàn cầu. Đối với chúng ta, để thực hiện NH-HĐH cần có lực lượng cán bộ và lao động có tri thức. Đây chính là vấn đề nâng cao kiến thức và trình độ nguồn nhân lực, chú trọng vai trò của thông tin tri thức thông qua các phương tiện thông tin đại chúng và công nghệ thông tin (máy vi tính, Internet...). Để hội nhập trong khối và toàn cầu, ngoài các chuẩn mực đã được quốc tế hoá cần nâng cao trình độ và nhận thức của người dân về vai trò của hội nhập. Trong bối cảnh quốc tế hiện nay xu thế toàn cầu hoá là một kết quả tất yếu khách quan về sự phát triển KHKT thế giới.
Thách thức lớn nhất đối với nước ta hiện nay là trình độ chung về hiện đại hoá nông nghiệp còn thấp, thiếu công nghệ hiện đại, năng suất và hiệu quả sản xuất nông nghiệp tương đối thấp. Khi gia nhập AFTA và WTO, chúng ta phải đương đầu với cạnh tranh quốc tế do toàn cầu hoá mậu dịch đem lại.
Khoa học sinh học, khoa học công trình cơ điện nông nghiệp, khoa học kinh tế và quản lý nông nghiệp là những bộ phận chủ yếu của hệ thống KHKT nông nghiệp hiện đại, nó trợ giúp đắc lực cho việc xây dựng hệ thống sản xuất nông nghiệp hiện đại và kinh tế quốc dân phát triển theo hướng kinh tế tri thức và thông tin. Trang bị kỹ thuật nông nghiệp tập trung tất cả các thành tựu tiên tiến thuộc các lĩnh vực cơ khí, thuỷ lợi, vật liệu mới, điện tử, điều khiển tự động.... vào các khâu sản xuất. Sản xuất nông nghiệp trong nhà kính, nhà lưới, trong các trang trại đều dựa vào công nghệ sinh học, công nghệ điều khiển. Các nhà máy chế biến nông - lâm sản, hệ thống kho tàng bảo quản đều được vận hành qua mạng.
Cùng với việc biến đổi về cơ cấu kinh tế là quá trình chuyển đổi về cơ cấu xã hội, lực lượng lao động được tri thức hoá, công nghệ khoa học, công nghệ tri thức chiếm đa số cũng là thách thức lớn. Ở nước ta, hiện nay tỷ lệ lao động nông nghiệp còn chiếm tỷ lệ trên 70%, tỷ lệ nguồn nhân lực lao động có trình độ cao còn rất thấp. Trên 90% doanh nghiệp nhỏ và vừa chỉ có 5% lao động có trình độ đại học. Trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp chỉ có 1,5% lực lượng lao động được qua đào tạo. Ngày nay, muốn nâng cao năng suất lao động xã hội, nâng cao chất lượng sản phẩm phải có tri thức mới có thể cạnh tranh và đảm bảo phát triển bền vững.
Hạt nhân kinh tế tri thức là sáng tạo tri thức mới. Hạt nhân sáng tạo tri thức là sáng tạo kỹ thuật mới - muốn đào tạo kỹ thuật mới phải có nhân tài. Do đó, phát triển nguồn nhân lực, nâng cao dân trí, đào tạo nhân tài, nắm bắt ngay những kỹ thuật tiên tiến hiện đại, ứng dụng sáng tạo và điều kiện cụ thể của nước ta là một trong các động lực chủ yếu để thúc đẩy sự nghiệp CNH-HĐH đất nước trong thời đại thông tin, toàn cầu hoá và hội nhập hướng tới nền kinh tế tri thức.
Kinh tế tri thức là vận hội. Sử dụng kinh tế tri thức và kỹ thuật thông tin để CNH-HĐH có ý nghĩa to lớn đối với sự phát triển kinh tế cả nước ta, của tỉnh ta. Đổi mới cơ chế chính sách hoàn thiện môi trường pháp lý, đầu tư cải thiện cơ sở hạ tầng, phát triển nguồn nhân lực, tăng cường năng lực KHCN là những yếu tố thúc đẩy phát triển kinh tế tri thức.
Với đường lối đổi mới của Đảng, với sức mạnh tinh thần và trí tuệ của các dân tộc trên địa bàn tỉnh, chúng ta có đủ điều kiện để từng bước phát triển kinh tế tri thức, thúc đẩy nhanh quá trình CNH-HĐH, phấn đấu đưa Vĩnh Phúc trở thành một tỉnh "Giàu có, phồn thịnh vào bậc nhất ở miền Bắc" như Bác Hồ đã căn dặn.
Phạm Huy Thụy Phó Chủ tịch
Liên hiệp Hội KHKT Vĩnh Phúc
Kinh tế tri thức: Việt Nam đang ở đâu?
TTCT - Bản tường trình mới đây của UNESCO về kinh tế tri thức trên thế giới cho thấy thang bậc về kinh tế tri thức của Việt Nam dù có tăng thời gian qua nhưng vẫn còn quá thấp so với các nước trong vùng. Một trong những lý do khiến Việt Nam ở thứ hạng thấp như vậy là do yếu kém về giáo dục và nghiên cứu khoa học.
Trong nền kinh tế tri thức, sự phát triển kinh tế liên quan tới mức độ cạnh tranh về công nghệ. Cạnh tranh công nghệ lại phụ thuộc vào khoa học và nghiên cứu khoa học (NCKH). Do vậy, trong nền kinh tế tri thức, NCKH đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc tăng trưởng kinh tế.
Chỉ số KEI: xếp hạng 106/145
Ngân hàng Thế giới đã phát triển một số chỉ số để đo lường một nền kinh tế tri thức. Những chỉ số này bao gồm chỉ số tri thức, chỉ số sáng tạo, chỉ số về giáo dục, công nghệ thông tin. Từ các chỉ số này người ta có thể tổng kết thành một chỉ số chung gọi là chỉ số kinh tế tri thức (Knowledge Economy Index hay KEI). Nhìn toàn cục, các chỉ số này phản ánh phần nào tình trạng kinh tế tri thức của một nước và cho phép chúng ta so sánh với các nước khác.
Trong báo cáo về tình hình khoa học trên thế giới năm nay của Tổ chức Giáo dục - khoa học và văn hóa của Liên Hiệp Quốc (UNESCO), có 145 nước được xếp hạng về kinh tế tri thức. Kết quả phân tích và xếp hạng cho thấy (dựa vào chỉ số KEI) nền kinh tế tri thức của Việt Nam đứng hạng 106 trên 145.
Nếu dựa vào chỉ số H thì Việt Nam đứng ở đâu trên bản đồ khoa học quốc tế?
Theo số liệu của SCOPUS, chỉ số H của Việt Nam trong thời gian 1996-2009 là 84. Nói cách khác, trong số hơn 8.000 bài báo khoa học công bố thời gian trên có 84 bài được trích dẫn ít nhất là 84 lần. Với chỉ số H này, Việt Nam đứng hạng 61 (trong số 235 nước), trong khi Thái Lan hạng 39, Malaysia 54, Indonesia 58 và Philippines 56. Các cường quốc khoa học châu Á như Singapore hạng 31, Hàn Quốc 21 và Trung Quốc 18, cách Việt Nam khá xa.
So với năm 1995, thứ hạng của Việt Nam tăng 14 bậc. Song so với các nước tương đương trong vùng, kinh tế tri thức của Việt Nam thấp nhất (Indonesia hạng 103, Philippines hạng 89, Thái Lan 63, Malaysia 48 và Singapore hạng 19). Việt Nam thậm chí còn ở thứ hạng thấp hơn cả bán đảo Fiji (hạng 86)! Đấy là bảng xếp hạng trong tình hình Philippines đã giảm 16 bậc, Indonesia giảm 2 và Thái Lan giảm 9 bậc.
Sản phẩm của NCKH ngoài những bài báo công bố trên các tập san quốc tế còn thể hiện qua số bằng sáng chế - một hình thức chuyển giao công nghệ. Từ năm 2000-2007, các nhà khoa học Việt Nam chỉ đăng ký được 19 bằng sáng chế, có năm như năm 2007 chẳng có bằng sáng chế nào. Trong cùng thời gian, Thái Lan đăng ký được 310 bằng sáng chế, Singapore 3.644, Indonesia có 85, Philippines 256 và Malaysia có tới 901 bằng sáng chế.
Nếu nhìn vào tình hình xuất khẩu hàng hóa kỹ thuật cao (hi-tech) - một chỉ số quan trọng của nền kinh tế tri thức - thì thấy năm 2008, Việt Nam xuất khẩu đạt 48,6 tỉ USD. Con số này có vẻ ấn tượng nhưng vẫn chưa bằng 1/3 của Thái Lan (153,6 tỉ USD) và chỉ bằng 16% của Singapore (399,3 tỉ USD). Và thật ra, xuất khẩu hàng hi-tech của Việt Nam thấp nhất so với các nước trong khu vực. Hơn 1/5 tổng trị giá xuất khẩu của Việt Nam là khoáng sản và có tới 41% là hàng công nghiệp mà chủ yếu là gia công, dệt may. Trong khi đó, ngành xuất khẩu chủ đạo của Thái Lan là máy móc và thiết bị (chiếm 45% tổng giá trị xuất khẩu) và hàng công nghiệp (24%). Singapore cũng tương tự Thái Lan.
Những kết quả phân tích trên cho thấy vị trí của Việt Nam trên bản đồ kinh tế tri thức thế giới còn rất thấp. Những số liệu một lần nữa cho thấy lĩnh vực nghiên cứu chủ đạo của Việt Nam là y sinh học và vật lý chứ không phải toán. Và cho thấy ngay “nội lực” khoa học cũng kém vì có tới 62% công trình nghiên cứu phải hợp tác với nước ngoài và vì xuất khẩu hàng hóa hi-tech ở mức thấp nhất trong vùng.
Định vị khoa học Việt Nam trên trường quốc tế
Kết quả nghiên cứu khoa học thể hiện qua số lượng và chất lượng ấn phẩm khoa học trong những tập san chuyên ngành có bình duyệt quốc tế (peer review). Tuy có tới hơn 100.000 tập san khoa học trên toàn thế giới, chỉ có những tập san được liệt kê trong danh mục của Institute of Scientific Information (ISI) là được cộng đồng khoa học quốc tế công nhận. Do đó, trên bình diện quốc gia, người ta dựa vào số lượng và chất lượng ấn phẩm khoa học trên các tập san thuộc thư mục ISI như là một thước đo để đánh giá và xếp hạng các nước.
Trong vài năm gần đây, nhiều người đã phân tích số lượng và chất lượng ấn phẩm khoa học của nước ta, so sánh với các nước trong vùng cho thấy khoa học nước ta nói chung còn kém. Từ năm 2001-2010, các nhà khoa học Việt Nam công bố được 8.220 bài báo khoa học trên các tập san ISI, dù đã tăng 3,4 lần so với thập niên trước đó (1991-2000) song vẫn chỉ bằng 1/4 của Thái Lan, 1/3 Malaysia và 1/6 Singapore.
Tuy vậy, các phân tích trên chưa định vị khoa học Việt Nam trên trường quốc tế ra sao.
Để xác định vị trí của nghiên cứu khoa học trên trường quốc tế, người viết bài này sử dụng dữ liệu của ISI và SCOPUS (các thư mục khoa học quốc tế) trong thời gian 14 năm (từ 1996-2009). Có nhiều cách định vị (hay xếp hạng) khoa học, nhưng tựu trung là dựa vào số lượng và một chỉ số hỗn hợp giữa số lượng và chất lượng. Đơn giản nhất là dựa vào số lượng ấn phẩm khoa học, vì chỉ số này phản ánh khối lượng thông tin khoa học “sản xuất” của một nước.
Nhưng cách xếp hạng này có vấn đề, vì có nước công bố rất nhiều công trình khoa học nhưng chẳng ai quan tâm vì chất lượng quá thấp. Tiêu biểu cho xu hướng này là Trung Quốc: từ năm 1996-2009, Trung Quốc công bố 1,5 triệu ấn phẩm khoa học trên các tập san quốc tế, đứng thứ 2 sau Mỹ với gần 4,77 triệu bài báo khoa học, nhưng nếu dựa vào tầm ảnh hưởng thì Trung Quốc đứng hạng 10 trong số 235 nước có thể xếp hạng.
Số lượng công trình khoa học chỉ phản ánh lượng mà không phản ánh phần chất. Một nhà khoa học có thể có hàng trăm bài báo khoa học, nhưng chẳng ai trích dẫn hay quan tâm thì không thể xem là một nhà khoa học giỏi. Do đó, cách xếp hạng khách quan và hợp lý hơn là dựa vào chỉ số H (một sáng kiến của nhà vật lý học Jorge Hirsch - Đại học California San Diego). Có thể hiểu như sau: nếu một nhà khoa học có chỉ số H = 20 nghĩa là nhà khoa học này có 20 công trình nghiên cứu, mỗi công trình được trích dẫn ít nhất 20 lần.
Cần nói thêm rằng một nhà khoa học với chỉ số H 20 là ở vào đẳng cấp giáo sư. Các nhà khoa học y sinh học, vật lý học, hóa học từng đoạt giải Nobel thường có chỉ số H trên 30. Do đó, chỉ số H “dung hòa” giữa lượng và chất trong xếp hạng khoa học của một nước (xem bảng).
Cần chuẩn mực mới và cách mạng khoa học, công nghệ
Những kết quả phân tích trên một lần nữa cho thấy khoa học Việt Nam chẳng những ở một vị trí thấp trên thế giới mà còn thấp so với các nước trong vùng. Tính chung, ta chỉ cao hơn Lào, Campuchia và Myanmar.
Cả nước hiện có khoảng 9.000 giáo sư và phó giáo sư, cùng với trên 3 vạn tiến sĩ nhưng mỗi năm chỉ có khoảng 900 bài báo khoa học trên các tập san quốc tế. Đó là một năng suất cực kỳ khiêm tốn, nếu nhìn theo chuẩn mực quốc tế mỗi giáo sư phải có ít nhất một bài báo khoa học mỗi năm.
Vấn đề là ở nước ta vẫn tồn tại một sự nhầm lẫn giữa bài báo khoa học và bài báo phổ thông. Chẳng hạn, gần đây báo chí nói đến một nhà khoa học có số lượng bài báo kỷ lục về rùa, nhưng tìm hiểu thì ông này chỉ có hai công trình nghiên cứu và chưa có bài nào trên một tập san quốc tế! Không ít nhà khoa học nghĩ rằng những bài báo trên các tạp chí chuyên ngành hay thậm chí trên báo chí phổ thông là công trình nghiên cứu! Với cách làm khoa học như thế, chúng ta không ngạc nhiên khi thấy năng suất khoa học quốc gia rất thấp so với quốc tế.
Vấn đề là cộng đồng khoa học Việt Nam chưa nhất trí tạo ra những chuẩn mực khách quan để đánh giá thành tựu một nhà khoa học. Vì thiếu một chuẩn mực khách quan nên có sự lẫn lộn giữa bài báo phổ thông, bảng tóm tắt trong hội nghị và một bài báo khoa học nghiêm chỉnh. Từ sự lẫn lộn này dẫn đến những sai lầm trong đánh giá và đề bạt các chức danh khoa học. Từ đó chúng ta có rất nhiều nhà khoa học “phổ thông”, nhưng rất ít những nhà khoa học thứ thiệt.
Theo thông lệ quốc tế, một công trình khoa học chỉ có thể xem là hoàn tất nếu kết quả công trình đó được công bố trên những tập san khoa học có bình duyệt, để người ta có thể công khai đánh giá công trình khoa học đó giá trị ra sao. Một công trình mang tiếng là nghiên cứu khoa học, tiêu nhiều triệu, thậm chí nhiều tỉ đồng (tiền thuế của dân đóng) mà không được công bố trên các tập san khoa học có bình duyệt, tức không công khai quốc tế, thì không thể xem là hoàn tất được và như vậy tác giả vẫn còn nợ người dân.
Đã đến lúc thiết lập các tiêu chuẩn để đánh giá một công trình khoa học và cần thay thế quy trình “nghiệm thu” bằng những bài báo khoa học quốc tế - cách mà Quỹ Nafosted của Bộ Khoa học - công nghệ đang áp dụng.
Những nước tiến rất nhanh trên con đường công nghiệp hóa như Hàn Quốc và Singapore đều có đặc điểm nổi bật là khoa học rất mạnh. Chỉ trong vòng 20 năm, Hàn Quốc và Singapore đã trở thành cường quốc về khoa học với nhiều đại học và trung tâm nghiên cứu khoa học hàng đầu.
Năm 2020 được xem là thời điểm đến đích của sự nghiệp công nghiệp hóa đất nước của Việt Nam, tức chỉ còn chín năm. Đại hội Đảng XI mới đây nhấn mạnh đến “đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường”. Từ vị trí hiện nay, mục tiêu cao cả đó có thể hoàn thành được không nếu không có một cuộc cách mạng trong khoa học và công nghệ?
GS NGUYỄN VĂN TUẤN
__________
Để phát triển bền vững với kinh tế tri thức
Để xây dựng một nền kinh tế tri thức, các đô thị như TP.HCM đều đang đứng trước những chọn lựa gay cấn về đường hướng phát triển.
Trong khi vẫn phải tiếp tục xử lý những tồn tại như hạ tầng quá tải, kinh tế, an sinh xã hội tiềm ẩn nhiều thách thức và nhân lực thiếu hụt, các nhà lãnh đạo hôm nay còn phải đối diện với những thách thức mới của quá trình phát triển bền vững.
“Bền vững hóa” - làn sóng thứ tư
“Phát triển bền vững” là một khái niệm cần được cụ thể hóa như trả lời sáu câu hỏi: tại sao, cho ai, làm gì, khi nào, ở đâu và như thế nào, nhằm tránh việc đề ra những tiêu chí không thực tế, mà hệ lụy luôn là lãng phí đầu tư cơ bản và làm tăng tính bất ổn về lâu dài.
Nếu xem TP.HCM là một “đầu tàu kinh tế” có thương hiệu, uy tín trên toàn quốc và quốc tế, ta có thể thấy được những tiêu chí của “phát triển bền vững” phải bao gồm từ việc nâng cao giá trị và uy tín của TP trong thu hút đầu tư và các cơ chế hành chính, thuế thông thoáng...; gia tăng GDP của TP phải đi đôi với việc giảm dần tỉ lệ chi tiêu công, tức gia tăng hiệu quả của bộ máy hành chính và các dự án đầu tư kinh tế - xã hội trên địa bàn TP...
Khi bước vào giai đoạn “phát triển bền vững”, nền kinh tế các quốc gia phát triển đã hoàn thiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế sang công nghiệp tri thức và dịch vụ, sản phẩm của họ đã được toàn cầu hóa (sản xuất toàn cầu, tiêu thụ cũng toàn cầu) và năng suất lao động cùng trình độ quản lý đạt mức cao nhờ cơ sở hạ tầng về công nghệ thông tin hoàn thiện.
Nói cách khác, xã hội của họ đã từ nền tảng pháp trị phát triển lên thành xã hội học tập, xã hội thông tin, và kinh tế tri thức với các quan hệ sản xuất không còn như thời kỳ mới đi lên công nghiệp hóa. Với lao động tri thức, rất khó lòng chỉ ra đâu là người làm công, đâu là giới chủ, ai bóc lột hay phụ thuộc ai, bởi vì mọi thành viên đều phụ thuộc lẫn nhau và mọi người tự do chọn nơi để cống hiến tri thức của mình mọi lúc mọi nơi, nhờ mạng thông tin của thời đại số hóa.
Tương tác thành công giữa các thế hệ
TP.HCM (và cả nước) đang phấn đấu đến năm 2020 cơ bản trở thành công nghiệp hóa. Chuyển từ “đi tắt” sang giai đoạn “phát triển bền vững” trong khi những điều kiện phát triển chín muồi và nhận thức xã hội vẫn còn trong quá trình hình thành và hoàn thiện là một quyết định không dễ dàng.
Đây chính là thời điểm lựa chọn ngặt nghèo, vấn đề lớn nhất làm thế nào để sử dụng hữu ích công nghệ của các nền kinh tế phát triển cao tiếp nhận được, giữ vững nhịp độ phát triển dựa trên cơ sở hạ tầng về công nghệ thông tin hiện đại vừa được gầy dựng, năng suất lao động và trình độ sản xuất công nghiệp bước đầu đạt được những thành tựu đáng kể... Trong đó, yếu tố con người và môi trường cần được phục vụ, quan tâm và bảo vệ bằng tất cả kỹ thuật, công nghệ tiên tiến nhất nhằm phát huy tối đa năng lực lao động và sáng tạo không ngừng của xã hội nói chung và cư dân TP nói riêng.
Nếu giải thích của lãnh đạo TP Hà Nội vừa qua về việc chỉ số cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) của Hà Nội tụt 10 bậc là vì “TP phải lựa chọn các nhà đầu tư do có quá nhiều nhà đầu tư muốn vào” là đúng thì việc tụt hạng này biết đâu lại là cần thiết. Cần nói thêm là Hà Nội đã nhìn thấy việc có tới 35 sản phẩm công nghiệp chủ lực song chưa có giá trị công nghiệp cao xứng với tiềm năng là một vấn đề nghiêm trọng.
Các nhà lãnh đạo trong kỷ nguyên “phát triển bền vững” cần có tầm nhìn, hiểu biết tổng hợp về hệ thống kinh tế, chính trị, xã hội, môi trường, có tri thức và kinh nghiệm lãnh đạo trên nhiều lĩnh vực khác nhau. Họ còn phải có kỹ năng thiết kế chiến lược và lãnh đạo hệ thống chính trị thi hành những chiến lược có tính khả thi cao và lâu dài.
Thực thi chiến lược ấy đòi hỏi người lãnh đạo phải tương tác thành công với các thế hệ khác nhau, đặc biệt là kỹ năng hiểu để tạo lập nền móng và trao đổi thành công với các lực lượng sản xuất nòng cốt trong tương lai: thế hệ Z (9X) và thế hệ An-pha (10X) vì các thế hệ này sinh ra, lớn lên và tiếp thu hoàn chỉnh những tinh hoa của kỷ nguyên số hóa và là những nhân tố quyết định sự thành công hay thất bại của kỷ nguyên “phát triển bền vững”.
Lịch sử phát triển cho thấy ba làn sóng cách mạng kinh tế trong ba thế kỷ vừa qua của các quốc gia hàng top trên thế giới đã diễn ra theo trình tự: thứ nhất là công nghiệp hóa (thế kỷ 18 và 19), thứ hai là toàn cầu hóa (đầu thế kỷ 20) và thứ ba là số hóa (cuối thế kỷ 20, đầu thế kỷ 21). Các làn sóng ấy sẽ được tiếp nối bằng làn sóng phát triển thứ tư, đó là “bền vững hóa” (sustainability) trong nửa sau của thế kỷ 21.
Theo đó, làn sóng “phát triển bền vững” thuộc thế hệ thứ tư sẽ kế thừa và phát triển dựa trên những thành quả và cơ chế hình thành từ cách mạng công nghiệp hóa, được tăng chiều rộng lẫn chiều sâu bằng quá trình toàn cầu hóa và được nâng tầm hiệu quả bằng cuộc cách mạng số hóa.
Kinh tế tri thức là gì?
Khái niệm kinh tế tri thức manh nha xuất hiện từ đầu những năm 1960 của thế kỷ trước, tiên phong bởi Fritz Machlup và Peter Drucker. Trong hơn bốn thập kỷ qua, đã có nhiều nghiên cứu nhằm xác định và giải thích cơ chế của nền kinh tế này. Trong những năm qua kinh tế tri thức được chọn làm chiến lược phát triển của nhiều quốc gia, cả những nước phát triển và đang phát triển. Tuy nhiên, kinh tế tri thức là khái niệm không dễ hiểu vì dựa trên hai khái niệm trừu tượng là kinh tế và tri thức, và do vậy đã được hiểu nhiều ít khác nhau[2]. Bài viết này bắt đầu bằng việc trao đổi một cách hiểu người viết cho là gần với bản chất của kinh tế tri thức.
Trước hết là khái niệm kinh tế. Theo một nghĩa được thừa nhận rộng rãi, kinh tế là toàn bộ các hoạt động sản xuất, phân phối, trao đổi, tiêu thụ hàng hóa và dịch vụ của một cộng đồng hay một quốc gia. Các hoạt động kinh tế thường được chia ra và đánh giá theo ba ngành kinh tế cơ bản: (a) Nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy hải sản; (b) Công nghiệp; và (c) Thương mại, ngân hàng, dịch vụ, du lịch... Một hệ thống kinh tế là một tập hợp các nguyên tắc, cách thức và yếu tố chi phối các hoạt động kinh tế. Các hệ thống kinh tế thường được nói đến gồm kinh tế truyền thống, kinh tế kế hoạch, kinh tế thị trường, và kinh tế hỗn hợp. Đây là các mô hình một mặt được dùng để mô tả các nền kinh tế đã và đang tồn tại, mặt khác được chọn dùng để dẫn dắt, điều hành các nền kinh tế. Ta sẽ bàn về kinh tế tri thức theo nghĩa hệ thống kinh tế, và câu hỏi sẽ là kinh tế tri thức là gì và khác với các hệ thống kinh tế khác thế nào?
Chúng ta đều biết trong kinh tế kế hoạch, các nguyên tắc, cách thức và yếu tố chi phối chủ đạo là kế hoạch, do Chính phủ chỉ đạo và quản lý những gì sẽ được sản xuất, sản xuất bao nhiêu và cho ai, với sự nhấn mạnh đến yếu tố hướng tới phúc lợi xã hội. Trong kinh tế thị trường các nguyên tắc, cách thức và yếu tố chi phối chính là thị trường, ở đó các doanh nghiệp tư nhân được khuyến khích hoạt động với mục tiêu thu lợi nhuận, các nguồn lực được phân bổ theo cơ chế giá cả định đoạt bởi cung và cầu, với vai trò hạn chế của Nhà nước. Khác với hai mô hình kinh tế kể trên, trong kinh tế tri thức các nguyên tắc, cách thức và yếu tố chủ yếu chi phối các hoạt động kinh tế là tri thức con người. Các tên gọi khác như kinh tế dựa trên tri thức (knowledge-based economy) hay kinh tế được điều hành bởi tri thức (knowledge-driven economy) cho ta một cách hiểu trực giác hơn với sự nhấn mạnh về vai trò nền tảng và ảnh hưởng của tri thức trong kinh tế.
Cách tân, đổi mới đã giúp kinh tế Nhật Bản có những bước tiến vượt bậc
Cần nói thêm rằng các nền kinh tế thường không thuần túy theo riêng một mô hình. Hầu hết nền kinh tế của các nước phát triển hiện đang theo mô hình kinh tế thị trường, nhưng đã có nhiều tính chất của kinh tế tri thức và đang hướng dần đến mô hình kinh tế này theo những cách ít nhiều khác nhau.
Cho đến đây ta vẫn nói về tri thức nhưng chưa đưa ra một định nghĩa nào về khái niệm trừu tượng này, vốn vẫn được bàn cãi xưa nay. Tuy nhiên, trong một chừng mực chấp nhận được, ta thừa nhận cách hiểu theo nghĩa cơ bản nhất của tri thức, tức những hiểu biết con người có được qua nhận thức, học tập, và quan sát. Trong bài này ta sẽ nói một cách đơn giản tri thức là hiểu biết, và dùng thay đổi hai từ này. Với đa số người Việt, “hiểu biết” dường như gợi hơn, thấm hơn từ Hán-Việt “tri thức”.
Sẽ có một câu hỏi tự nhiên rằng sự khác nhau ở đâu khi mọi hoạt động trong các hệ thống kinh tế đương nhiên đều dựa trên hiểu biết. Nói khác đi, việc nhấn mạnh lên vai trò của hiểu biết sẽ tạo ra sự khác biệt và đặc điểm gì trong hệ thống kinh tế mới này ở tất cả các ngành kinh tế, chẳng hạn so với các hệ kinh tế kế hoạch hay kinh tế thị trường? Câu trả lời chính là ở mức độ khác nhau của sự sáng tạo và sử dụng tri thức. Kinh tế tri thức có nhiều đặc điểm trong đó hai đặc điểm sau là tiêu biểu hơn cả:
Có một tỷ lệ cao các hoạt động kinh tế dựa trên hiểu biết và thành tựu của khoa học và công nghệ hiện đại, như khoa học về sự sống, công nghệ thông tin và truyền thông, công nghệ sinh học, công nghệ nano, ...
Mọi hoạt động trong các ngành kinh tế đều dựa nhiều hơn và hiệu quả hơn vào việc dùng tri thức trong một môi trường toàn cầu hóa, và kinh tế được phát triển hài hòa với sự phát triển xã hội và bảo vệ môi trường.
Quản trị trí thức là quá trình sáng tạo, thu nạp và sử dụng tri thức để nâng cao hiệu quả của các tổ chức. Trong ảnh là bìa một cuốn sách về quản trị trí thức.
Có thể xem (a) là đặc điểm công nghệ và (b) là đặc điểm xã hội của kinh tế tri thức. Chúng tương hỗ bổ sung cho nhau để đặc trưng kinh tế tri thức, thậm chí (b) có vai trò bản chất hơn, chỉ ra nền kinh tế tri thức không đồng nhất với nền kinh tế của các công nghệ cao. Hai đặc điểm này có thể nhiều ít khác nhau trong các nền kinh tế tri thức của các quốc gia.
Theo nghĩa này, sản xuất nông nghiệp có thể có mặt trong kinh tế tri thức nếu người nông dân không chỉ dựa vào kinh nghiệm cha truyền con nối mà còn biết tìm và dùng được các hiểu biết của người khác, hoặc tìm ra cách mới sao cho việc trồng lúa nuôi lợn của mình tốt hơn, hoặc biết được nhu cầu xã hội, giao dịch và bán sản phẩm của mình qua Internet để có lợi hơn. Ngành du lịch có thể có mặt trong nền kinh tế tri thức nếu biết được tâm lý và nhu cầu của những nhóm du khách khác nhau, biết cung cấp các dịch vụ hấp dẫn, biết thu lãi trước mắt vừa đủ để giữ và thu hút khách lâu dài. Một quốc gia chỉ làm nông nghiệp và du lịch vẫn có thể xây dựng được nền kinh tế tri thức. Và thật ra cách hiểu này với sự nhấn mạnh yếu tố (b) mới mở đường để nhiều nước đang phát triển có thể định ra và hướng đến một nền kinh tế tri thức của riêng mình, khi hiện tại chưa có những ưu thế cạnh tranh về công nghệ cao.
Những ý niệm về kinh tế tri thức kể trên phù hợp với các định nghĩa được đề xuất và hiệu chỉnh dần trong những năm qua của một số tổ chức quốc tế:
“Là nền kinh tế sử dụng hiệu quả tri thức cho sự phát triển kinh tế và xã hội, bao gồm việc thu nhận và khai thác nguồn tri thức toàn cầu cũng như thích ứng và sáng tạo tri thức để dùng cho các nhu cầu riêng.” (Ngân hàng Thế giới, World Bank). [11]
“Là nền kinh tế dựa trực tiếp vào việc tạo ra, phân phối và sử dụng tri thức và thông tin.” (Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế, OECD). [6]
“Là nền kinh tế trong đó việc tạo ra, truyền bá và sử dụng tri thức là động lực chủ yếu của sự tăng trưởng, của quá trình tạo ra của cải và việc làm trong tất cả các ngành kinh tế.” (Tổ chức Hợp tác Kinh tế châu Á-Thái Bình Dương, APEC). [1]
Ta lấy một vài thí dụ để phân tích các định nghĩa này, như định nghĩa của Ngân hàng Thế giới. Chẳng hạn việc khai thác và bán một số tài nguyên thiên nhiên ở dạng thô là những hoạt động kinh tế không chứa hàm lượng tri thức cao. Một nền kinh tế tri thức sẽ hướng đến việc làm sao để biết cách chế biến các tài nguyên thô thành các sản phẩm có giá trị cao hơn trước khi bán ra, đến việc có các thông tin toàn cầu về những quốc gia nào cần bán và mua các tài nguyên này để có quyết sách hợp lý nhất. Nếu có hiểu biết và không chỉ nhằm thị trường trước mắt, rất có thể việc hoãn vài chục năm không khai thác và bán ngay một số tài nguyên sẽ có lợi hơn trong toàn cục. Đây là việc “sử dụng hiệu quả tri thức cho sự phát triển kinh tế và xã hội”. Chẳng hạn lúc này ta đang phải quyết định một chuyện rất hệ trọng về xây dựng các nhà máy điện hạt nhân[10]. Rõ ràng ta cần tìm hiểu để biết mọi nhẽ của kiến thức loài người về điện hạt nhân, việc xây dựng và vận hành chúng, những bài học thành bại của các quốc gia. Đây là việc “thu nhận và khai thác nguồn tri thức toàn cầu”. Chẳng hạn khi ta phát hiện ra và muốn khai thác mỏ than nâu dưới lòng đồng bằng sông Hồng, ta cần phải biết rất rõ về trữ lượng, biết công nghệ, biết tác động của nước ngầm đến sụt lún, biết những rủi ro có thể xảy ra. Đây là việc “thích ứng và sáng tạo tri thức để dùng cho các nhu cầu riêng”.
Ngoài hai đặc điểm tiêu biểu về bản chất của kinh tế tri thức đã nêu trên, có thể kể đến một số tính chất tạo ra sự khác biệt giữa kinh tế tri thức và các hệ kinh tế khác. Một là tính chất toàn cầu của kinh tế tri thức. Không nền kinh tế của một quốc gia nào ngày nay có thể nằm ngoài mạng lưới kinh tế toàn cầu, và đương nhiên hiểu biết về các quốc gia khác để có cách phát triển kinh tế hợp lý của mình là điều hiển nhiên rất quan trọng. Trong cái bối cảnh toàn cầu đầy cạnh tranh này, sự “khôn sống mống chết” càng rõ, mà cái sự khôn ấy bắt đầu từ việc có hiểu biết về các nước khác trước khi đưa ra được những quyết định khôn ngoan. Hai là tính chất động theo cơ hội của nền kinh tế tri thức. Ta đang phải phát triển trong một thế giới đầy biến động, nơi điều duy nhất chắc chắn là sự không chắc chắn của chính thế giới này [4]. Trong những biến động ấy, hiểu biết về các cơ hội và rủi ro để có thể đối mặt với chúng là rất cần. Môi trường càng biến động, quốc gia nào có hiểu biết để nắm được cơ hội sẽ càng phát triển được nhanh. Ba là tính chất con người có tri thức là nguồn lực chính của kinh tế tri thức. Bổ sung vào lý thuyết kinh tế tân-cổ điển xem hai nguồn lực chính của kinh tế là vốn tài chính và sức lao động, kinh tế tri thức nhấn mạnh thêm về con người có tri thức. Nguồn lực con người có tri thức cao sẽ được nói ở phần sau về giáo dục và đào tạo trong kinh tế tri thức.
Việt Nam có cần kinh tế tri thức không và nếu có sẽ gặp những thách thức nào?
Để trả lời câu hỏi này hãy xem kinh tế ta đang ở đâu và cách nào để có thể tiến lên. Lấy một thí dụ để so sánh hai nền kinh tế Việt Nam và Nhật Bản, một là nền kinh tế thị trường phát triển nhưng đang hướng đến và đã mang nhiều tính chất của kinh tế tri thức, và một là nền kinh tế hỗn hợp còn mang ít tính chất của kinh tế tri thức. Sự nhiều ít này được nhìn nhận theo mức độ ảnh hưởng và chi phối của tri thức trong các hoạt động kinh tế.
Việt Nam (2007)
Nhật Bản (2007)
Ngành kinh tế
Đóng góp cho GDP
Ngành kinh tế
Đóng góp cho GDP
Nông, lâm nghiệp, thủy hải sản
20,34%
Nông, lâm nghiệp, thủy hải sản
0.9%
Công nghiệp (chế biến, khai mỏ)
41,48% (31,03%)
Công nghiệp (chế tạo)
28,9% (21,0%)
Thương mại, dịch vụ, du lịch, ...
(tài chính, tín dụng)
38,18%
(1,80%)
Thương mại, dịch vụ, du lịch, ...
(dịch vụ)
70,8% (30,9%)
Bảng 1. So sánh đóng góp vào GDP của Việt Nam và Nhật Bản theo
các ngành kinh tế (phần trong dấu ngoặc là nội dung và số liệu của một vài lĩnh vực).
Bảng 1 tóm tắt các số liệu tổng hợp về đóng góp cho tổng thu nhập quốc dân năm 2007 theo ba ngành kinh tế của Việt Nam[8] và Nhật Bản[7]. Các số liệu tổng hợp này cho thấy ngành nông lâm ngư nghiệp của Việt Nam góp một phần lớn của GDP (20,34%) trong khi ngành này của Nhật chỉ góp chưa đầy 1%. Ngành công nghiệp của Việt Nam đóng góp 41,48% của GDP, trong đó khai mỏ (dầu khí, than... chưa có phần bô-xít) và công nghiệp chế biến (may mặc quần áo, giày dép xuất khẩu...) góp đến 31,03%, tức gần một phần ba của GDP. Ngành công nghiệp của Nhật Bản chỉ góp gần một phần ba của GDP (28,9%), trong đó phần của công nghiệp chế tạo là 21%. Điều này có thể làm nhiều người ngạc nhiên khi vẫn thường nghĩ rằng GDP của Nhật phần lớn do làm ra và bán được nhiều ô tô Toyota, xe máy Honda, máy ảnh Canon, máy tính Fujitsu... Ngành thương mại, dịch vụ, du lịch... của Việt Nam đóng góp 38,18% của GDP, trong khi ngành này của Nhật Bản góp 70,8%, tức khoảng hai phần ba GDP. Đáng chú ý là ngành tài chính và tín dụng của ta chỉ khiêm tốn góp 1,8%, còn các ngành dịch vụ của Nhật góp 30,9% của GDP, tức gần một phần ba.
Từ đây có thể thấy rõ hơn là GDP của ta phần lớn thu được từ các ngành sản xuất đơn giản ít đòi hỏi hàm lượng tri thức cao, như công nghiệp chế biến hay khai thác tài nguyên thiên nhiên. Ngược lại, GDP của Nhật Bản phần lớn có được do các hoạt động kinh tế không liên quan đến việc làm ra hàng hóa, họ gọi là “công nghiệp tri thức”, hoặc các ngành chế tạo dựa trên công nghệ cao.
Để có thêm một định ý cho câu trả lời liệu Việt Nam có cần kinh tế tri thức không, hãy xét thêm một thí dụ về mối quan hệ giữa các nước phát triển và đang phát triển trong bối cảnh toàn cầu.
Hình 1. Dịch chuyển cấu trúc kinh tế ở Đông Á
Hình 1 là một bức tranh về dịch chuyển cấu trúc kinh tế ở đông Á[5], trong đó trục hoành chỉ sự thay đổi theo thời gian (tương đối) và trục tung chỉ nhóm các nước ở đông Á có sự phát triển kinh tế chi phối bởi yếu tố tri thức và trình độ sản xuất ở các mức khác nhau. Nhóm các nước mới công nghiệp hóa (NIEs) gồm Hàn Quốc, Hong Kong, Đài Loan và Singapore; nhóm Đông Nam Á 4 gồm Indonesia, Malaysia, Philippines và Thái Lan. Việt Nam nằm trong những nước sau cùng.
Xu thế chung của sự dịch chuyển này là mỗi khi các nước ở nhóm đi trước nâng trình độ sản xuất và dòng sản phẩm tiêu biểu lên một mức, dòng sản phẩm tiêu biểu cũ sẽ được chuyển dịch tới các nước đi ngay sau. Vì nằm ở nhóm sau cùng trong mối quan hệ này, Việt Nam hiện đang chủ yếu làm công nghiệp chế biến và gia công, với ít hàm lượng tri thức. Và nếu không có cách thay đổi cái lược đồ dịch chuyển này, ta sẽ chỉ luôn làm được việc người khác không làm nữa khi họ chuyển qua các việc có lợi nhuận kinh tế cao hơn do có nhiều hiểu biết hơn. Không vui nhưng nếu thừa nhận rằng nhận định nêu trong Hình 1 có nhiều phần đúng, có thể thấy các nước phát triển đang dần đi trước đến nền kinh tế tri thức. Sự dịch chuyển này dễ làm cho các nước đi sau trong đó có ta sẽ luôn đi sau với tiềm ẩn nguy cơ ngày càng tụt hậu. Có thể nói một cách tổng quát rằng sự khác biệt giữa các quốc gia đã và sẽ chính là sự khác biệt về hiểu biết, và thách thức lớn nhất của chúng ta chính là thách thức để vượt qua sự khác biệt này.
Hình 2. Tứ trụ của nền kinh tế tri thức
Có nhiều lý do cho thấy việc có và dùng hiệu quả tri thức trong các hoạt động kinh tế và xã hội là con đường chúng ta cần đi. Vì nguồn tài nguyên thiên nhiên không thể là vô hạn để có thể khai thác và bán mãi, vì phát triển không thể bền vững nếu dựa quá nhiều vào nhập khẩu công nghệ và sản phẩm của thiên hạ, vì không thể vượt ra khỏi nhóm đi sau hay đi cuối nếu ta không tìm được cách để làm những việc khác ngoài gia công và chế biến, hay đào mỏ, chặt rừng, bắt cá.
Tất nhiên làm sao để xây dựng nền kinh tế tri thức là câu hỏi của cả đất nước. Nhưng nếu muốn làm kinh tế tri thức, cần xem đâu là những thách thức của ta, chẳng hạn những gì là nền tảng của một nền kinh tế tri thức và ta đã có bao nhiêu?
Ngân hàng Thế giới cho rằng các nền kinh tế tri thức cần dựa trên bốn trụ cột sau[10]:
Môi trường kinh tế và thể chế xã hội thuận lợi cho sáng tạo và sử dụng tri thức: Một môi trường và thể chế theo luật, cho phép dòng chảy tự do của tri thức, hỗ trợ đầu tư cho công nghệ thông tin và truyền thông (CNTT&TT), khuyến khích việc làm chủ doanh nghiệp như trọng tâm của kinh tế tri thức.
Giáo dục và đào tạo: Có chất lượng cao để người dân được giáo dục và đào tạo năng lực sáng tạo, chia sẻ, và sử dụng tri thức.
Hệ thống cách tân: Một mạng lưới các trung tâm nghiên cứu, đại học, tổ chức chuyên gia cố vấn, doanh nghiệp tư nhân, các nhóm cộng đồng là cần thiết để thu nhận được kho tri thức toàn cầu luôn không ngừng tăng, truyền bá và thích ứng chúng cho các nhu cầu của đất nước, và sáng tạo ra các tri thức mới cần thiết.
Hạ tầng cơ sở thông tin: Một hạ tầng cơ sở thông tin động, từ radio đến Internet, là cần thiết để cho phép dễ dàng liên lạc, phổ biến, và xử lý thông tin.
Mặc dù còn những tranh luận, giả sử ta thừa nhận bốn trụ cột này để xem ta sẽ gặp những thách thức nào khi phải xây dựng chúng.
Tạo ra được một môi trường kinh tế và thể chế xã hội thuận lợi cho sáng tạo và sử dụng tri thức trước hết là việc của chính quyền và bộ máy lập pháp. Một thách thức là làm sao để nâng cao được dân trí toàn xã hội. Khi dân trí được nâng cao, người dân sẽ có thêm động lực và khả năng tìm kiếm dòng chảy tri thức, hoạt động sáng tạo cũng như tăng xu hướng làm chủ doanh nghiệp. Vì những cán bộ của bộ máy chính quyền và địa phương là những công dân có ảnh hưởng nhiều hơn đến môi trường kinh tế và thể chế xã hội, việc nâng cao được quan trí, như dân gian thường nói, là một điều hệ trọng. Những yếu kém về tri thức của một số quan chức mà người dân đôi khi được biết như chuyện “ngực lép xe máy”, chuyện “100% tiến sĩ”,... cho thấy đây là một thách thức lớn khi ta muốn đến nền kinh tế tri thức.
Giáo dục và đào tạo là chuyện sống còn của đất nước. Đương nhiên nếu giáo dục không làm được sứ mạng đào tạo được những người có tinh thần và khả năng sáng tạo, sẽ không có cách nào tiến đến kinh tế tri thức. Nói riêng về đào tạo người lao động có tri thức trong công nghiệp, nhìn theo năm nhóm ngành [9], A: Hàm lượng lao động cao và làm việc giản đơn như may mặc, giày dép...; B: Hàm lượng lao động cao và sử dụng nguyên liệu nông lâm ngư nghiệp như chế biến thực phẩm; C: Hàm lượng tư bản cao và sử dụng tài nguyên khoáng sản như thép, hóa dầu...; D: Hàm lượng lao động cao và lành nghề, làm các sản phẩm như đồ điện gia dụng, xe máy, bơm nước, linh kiện điện tử...; E: Hàm lượng công nghệ cao và làm máy tính, công nghệ thông tin và truyền thông, xe hơi, đồ điện tử cao cấp... Ở Đông Á, Trung Quốc tập trung vào A và lắp ráp trong D; Thái Lan và các nước Đông Nam Á 4 có lợi thế trong B và D; Nhật Bản và các nước NIEs giữ lợi thế ở D và đang tăng phần sản xuất bên ngoài nên Trung Quốc và một số nước Đông Nam Á đang dịch chuyển về D. Việt Nam đang chủ yếu làm A và B. Rõ ràng muốn chuyển dịch qua các nhóm ngành khác như C, D, và E, chúng ta phải đối mặt với bài toán đào tạo người lao động có tri thức cao hơn, làm được những việc ở các nhóm ngành này.
Xây dựng được một hệ thống cách tân là một thách thức rất lớn, tức hệ thống các tổ chức đóng vai trò thu nhận và sáng tạo tri thức chủ yếu trong xã hội. Việc này liên quan tới những thách thức lâu nay của ta như chất lượng giáo dục đại học và nghiên cứu. Một khía cạnh ở đây là thách thức về tính cách tân của các tổ chức trong xã hội. Quản trị tri thức (knowledge management)- lý thuyết và thực tiễn về quá trình sáng tạo, thu nạp và sử dụng tri thức để nâng cao hiệu quả của các tổ chức- là một công cụ rất đáng quan tâm cho cuộc cách tân này. Có thể lấy thí dụ về quản trị tri thức của các công ty Nhật Bản, được mô hình hóa trong cuốn sách nổi tiếng của Nonaka và Takeuchi [4]. Sự vượt lên kỳ diệu của Nhật Bản từ hoang tàn đổ nát sau Đại chiến thế giới thứ hai là điều đáng tìm hiểu và học tập. Khi này các công ty Nhật Bản phải vươn lên trong cuộc cạnh tranh quốc tế khốc liệt. Họ cần có công nghệ mới, thiết kế sản phẩm mới, quá trình sản xuất mới, cách tiếp cận thị trường mới. Các công ty Nhật đã thực hiện được hiệu quả quá trình sáng tạo những tri thức cần cho phát triển kinh tế. Mọi thành viên của các công ty được khuyến khích chia sẻ tri thức mình tích lũy được với đồng nghiệp, góp vào tài sản tri thức của công ty, cùng nhau hợp sức tạo ra tri thức công nghệ và sản phẩm mới của công ty. Cách họ làm dựa trên sự tương tác liên tục theo một dòng xoắn ốc không ngừng tăng giữa các khía cạnh của tri thức ẩn và tri thức tường minh của các cá thể, nhóm và tổ chức. Công thức của sự thành công của các công ty Nhật Bản là: Sáng tạo tri thức ® Liên tục cách tân ® Ưu thế cạnh tranh [4].
CNTT&TT là hạ tầng cơ sở để thực hiện hầu hết các hoạt động của kinh tế tri thức, là phương tiện hữu hiệu hỗ trợ cho ba trụ cột nêu ở trên về giáo dục và đào tạo, hệ thống cách tân, môi trường kinh tế và thể chế xã hội thuận lợi cho việc sáng tạo và sử dụng tri thức. Thách thức trong việc xây dựng hạ tầng cơ sở CNTT&TT là chuyện thời sự của ta hiện nay khi Nhà nước đang đặt mục tiêu tăng tốc để trở thành một nước mạnh về CNTT&TT.
Đang và sẽ sớm có nhiều bàn luận về thách thức này, nên ta không phân tích gì ở đây, chỉ nêu hai thí dụ cho thấy CNTT&TT có thể ảnh hưởng ra sao trong nền kinh tế tri thức, đồng thời cũng cho thấy những thách thức trong việc đưa CNTT&TT vào hỗ trợ những hoạt động kinh tế như vậy. Thí dụ thứ nhất lại về ngành du lịch. Không phải mọi người liên quan đến làm du lịch của ta đều biết rằng ngày nay các du khách nước ngoài sau mỗi chuyến đi thường viết những nhận xét để trên Web cho mọi người tham khảo, và mỗi người trước khi quyết định đi đâu ở đâu đều tìm xem nhận xét của người khác. Những chuyện tưởng nhỏ như cái hay điều dở tại một thắng cảnh, tại một khách sạn xa xôi ở Việt Nam đều được lên mạng. Những chuyện như đi suốt buổi không tìm ra nhà vệ sinh, như giá cao phục vụ dở, hơn 70% du khách được hỏi đã nói không muốn quay lại Việt Nam,... dễ dàng được biết qua Internet, và có thể làm một lượng lớn du khách thay vì chọn Việt Nam, sẽ chọn Thái Lan, nơi ngành du lịch thường nhận được những đánh giá tốt trên mạng. Thí dụ thứ hai là về CNTT&TT hỗ trợ con người vượt qua rào cản ngôn ngữ để tăng hiểu biết. Tri thức loài người được diễn đạt theo các ngôn ngữ khác nhau. May thay những chương trình dịch tự động tiếng nói và chữ viết, tuy chất lượng chưa thật cao nhưng đang được cải thiện rất nhanh do tiến bộ của CNTT, đã cho phép con người ở một mực độ chấp nhận được trong rất nhiều công việc, đọc được các tài liệu hay các trang Web viết trong ngôn ngữ khác, nghe hiểu được tiếng nói trong ngôn ngữ khác. Có được những hỗ trợ này để người Việt hiểu được tiếng nói và chữ viết trong nhiều ngôn ngữ khác cũng là một thách thức của CNTT&TT trong nền kinh tế tri thức.
Lời kết
Kinh tế tri thức là con đường ta cần đi và đi càng sớm càng tốt. Có những nghiên cứu chỉ ra kinh tế tri thức đã xuất hiện ở Việt Nam qua sự phát triển CNTT&TT[3]. Theo đuổi khoa học hiện đại và công nghệ cao là một cách ta cần làm trong kinh tế tri thức, nhưng không phải duy nhất. Để một đất nước còn hạn chế về khoa học và công nghệ như ta có được sản phẩm công nghệ cao cạnh tranh với thiên hạ là vô cùng gian truân. Nếu không biết và đặt mục tiêu không thích hợp, ta dễ rơi vào tình huống “người đi chân đất muốn đóng giày bán cho thiên hạ”.
Cần nghĩ về tính đa dạng của kinh tế tri thức khi ta hướng tới nền kinh tế này. Thí dụ sau đây giả định về một hoạt động trong một nền kinh tế tri thức và có thể gợi những suy nghĩ. Theo các số liệu dễ dàng tìm thấy trên mạng, vào năm 2010 ước tính nước Nhật có khoảng 5,2 triệu người ở tuổi trên 80, và năm 2020 khoảng 9,9 triệu. Giả sử 30% số người này cần được chăm sóc ở các nhà dưỡng lão, tức khoảng triệu rưỡi và ba triệu người vào các năm trên. Giả sử một người trẻ chăm sóc được mười người già, thì số người trẻ cần cho việc này là 150 nghìn và 300 nghìn. Nếu biết thêm rằng số người trẻ ở Nhật đang giảm, và hầu hết không muốn làm việc chăm sóc người già, và nếu biết có nghiên cứu đã chỉ ra những tính cách giống nhau giữa người dân hai nước, ta có thể nghĩ đến một dịch vụ kinh tế hiệu quả. Lẽ nào những hoạt động như vậy lại không đáng quan tâm trong một nền kinh tế dựa trên tri thức?
Nền kinh tế tri thức và những đặc trưng cơ bản của nền kinh tế tri thức
Cập nhật: Thứ năm, 9/12/2010 | 9:49:21 AM
Kinh tế tri thức là lực lượng sản xuất của thế kỷ XXI, đặc trưng của nền kinh tế tri thức là thị trường chất xám, trong đó con người là vốn quý nhất.
Từ những năm 80 trở lại đây, do tác động mạnh mẽ của khoa học và công nghệ hiện đại, đặc biệt công nghệ thông tin, sinh học, vật liệu mới, năng lượng…nền kinh tế thế giới đang biến đổi sâu sắc, toàn diện, chuyển từ kinh tế công nghiệp sang kinh tế tri thức. Đây là một bước ngoặt có ý nghĩa lịch sử trọng đại đối với quá trình phát triển của nhân loại.
Lịch sử xã hội loài người đã trải qua là nền kinh tế nông nghiệp, nền kinh tế công nghiệp và đang bước vào nền kinh tế tri thức. Khái niệm nền kinh tế tri thức ra đời từ năm 1995 do Tổ chức OPDC nêu ra" Nền kinh tế tri thức là nền kinh tế trong đó sự sản sinh, truyền bá và sử dụng tri thức trở thành yếu tố quyết định nhất đối với sự phát triển kinh tế, không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống".
Theo định nghĩa của WBI, kinh tế tri thức là: "Nền kinh tế dựa vào tri thức như động lực chính cho sự tăng trưởng kinh tế. Có người cho rằng: Kinh tế tri thức là hình thức phát triển cao nhất hiện nay của nền kinh tế hàng hoá, trong đó công thức cơ bản Tiền - Hàng - Tiền được thay thế bằng Tiền - Tri thức - Tiền và vai trò quyết định của tri thức.
Vậy kinh tế tri thức là gì? Kinh tế tri thức là nền kinh tế trong đó sự sản sinh ra, phổ cập và giữ vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển kinh tế, tạo ra của cải, nâng cao chất lượng cuộc sống. Kinh tế tri thức là biểu hiện hay xu hướng của nền kinh tế hiện đại, trong đó tri thức, lao động chất xám được phát huy khả năng sinh lợi của nó và mang lại hiệu quả kinh tế lớn lao trong tất cả các ngành kinh tế: công nghiệp, nông - lâm - ngư nghiệp và dịch vụ, phục vụ cho phát triển kinh tế.
Kinh tế tri thức cũng được hiểu là nền kinh tế chủ yếu dựa trên cơ sở tri thức, khoa học; dựa trên việc tạo ra và sử dụng tri thức, phản ánh sự phát triển của lực lượng sản xuất ở trình độ cao. Hoặc cũng được hiểu, là một loại môi trường kinh tế- kỹ thuật, văn hoá-xã hội mới, có những đặc tính phù hợp và tạo thuận lợi nhất cho việc học hỏi, đổi mới và sáng tạo. Trong môi trường đó, tri thức sẽ tất yếu trở thành nhân tố sản xuất quan trọng nhất, đóng góp vào phát triển kinh tế xã hội.
Nền kinh tế tri thức dựa trên 4 tiêu chí:
1. GDP, trên 70% là do các ngành sản xuất và dịch vụ ứng dụng công nghệ cao mang lại.
2. Cơ cấu giá trị gia tăng, trên 70 % là kết quả của lao động trí óc,
3. Lao động xã hội, trên 70% lực lượng lao động là lao động trí thức
4. Vốn sản xuất, trên 70% là vốn về con người.
Trong nền kinh tế tri thức, của cải làm ra chủ yếu dựa vào cái chưa biết, cái đã biết không có giá trị. Tìm cái chưa biết tức là tạo ra giá trị mới. Khi phát hiện ra cái chưa biết, thì cũng tức là loại trừ cái đã biết, cái cũ mất đi thay thế bằng cái mới; phát triển từ cái mới, không phải từ số lượng lớn dần lên, nền kinh tế xã hội luôn đổi mới. Sức mạnh của nền kinh tế tri thức dựa vào ba loại hình công nghệ, được xem như là ba thành quả điển hình:
1. Công nghệ sinh học, bao gồm cả công nghệ gen. Bằng công nghệ sinh học, con người có thể cải tạo được những yếu tố cơ bản của thế giới hữu cơ, trong đó có cả bản thân sự sống của loài người.
2. Công nghệ nano, dựa trên những thành quả của việc sắp sếp lại cấu trúc nguyên tử, thông qua đó con người có thể tác động cả vào bản chất của thế giới vô cơ.
3. Công nghệ tin học, thông tin (ICT) với các siêu máy tính. Công nghệ tin học chính là công nghệ trí tuệ điển hình. Con người nhờ vào đó mà tổ chức quản lý, điều hành và thực hiện các quy trình sản xuất hết sức tinh vi, phức tạp mà con người không thể nào thực hiện nổi, thậm chí không nghĩ tới quá khứ tồn tại của mình. Cũng nhờ có công nghệ tin học mà con người có thể làm phong phú lên gấp nhiều lần các mối quan hệ trong đời sống xã hội, giữa con người với con người.
Kinh tế tri thức là một khái niệm mà nó không có trong chủ nghĩa Mác Lê nin cũng như trong các tài liệu triết học trước đó. Nó ra đời trong bối cảnh nền công nghệ thông tin toàn cầu phát triển mạnh mẽ với tốc độ chưa từng có. Đặc trưng cơ bản của nền kinh tế tri thức là ở đó con người sử dụng các loại hình công cụ chủ yếu là để thực hiện các thao tác trí tuệ. Nền kinh tế tri thức có 10 đặc trưng chủ yếu:
1. Sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế. ý tưởng đổi mới và phát triển công nghệ mới trở thành chìa khoá cho việc tạo ra việc làm mới và nâng cao chất lượng cuộc sống. Nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao, dịch chuyển cơ cấu nhanh
2. ứng dụng công nghệ thông tin được tiến hành rộng rãi trong mọi lĩnh vực; mạng thông tin đa phương tiện phủ khắp, kết nối hầu hết các tổ chức, gia đình. Thông tin trở thành tài nguyên quan trọng. Mọi lĩnh vực hoạt động xã hội đều có tác động của công nghệ thông tin.
3. Sản xuất công nghệ trở thành loại hình sản xuất quan trọng nhất, tiên tiến nhất, tiêu biểu nhất của nền sản xuất tương lai. Các doanh nghiệp đều có sản xuất công nghệ, đồng thời có doanh nghiệp chuyên sản xuất công nghệ, có thể gọi đó là doanh nghiệp tri thức, trong đó khoa học sản xuất được thể chế hoá, không còn phân biệt giữa phòng thí nghiệm và công xưởng, những người làm việc trong đó họ vừa là nhà nghiên cứu vừa là nhà sản xuất, họ là những công nhân trí thức…
4. Xã hội học tập, giáo dục phát triển, đầu tư cho giáo dục khoa học chiếm tỷ lệ cao. Đầu tư vô hình (con người, giáo dục, khoa học…) cao hơn đầu tư hữu hình (cơ sở vật chất). Phát triển con người trở thành nhiệm vụ trọng tâm. Hệ thống giáo dục phải đảm bảo cho mọi người có thể học tập ở bất cứ lúc nào. Mạng thông tin có ý nghĩa quan trọng, đảm bảo cho việc học tập suốt đời.
5. Tri thức trở thành vốn quý nhất trong nền kinh tế tri thức. Tri thức là nguồn lực hàng đầu tạo sự tăng trưởng. Tri thức và thông tin được tăng lên khi sử dụng, không mất đi khi sử dụng (các nguồn vốn khác bị mất đi khi sử dụng).
6. Sáng tạo là linh hồn của đổi mới, sáng tạo là vô tận. Đổi mới thường xuyên là động lực thúc đẩy sự phát triển. Công nghệ đổi mới nhanh, vòng đời công nghệ rút ngắn, có khi chỉ mấy năm, thậm chí mấy tháng. Các doanh nghiệp muốn trụ được và phát triển phải luôn đổi mới công nghệ và sản phẩm.
7. Dân chủ hoá, xã hội thông tin thúc đẩy sự dân chủ hoá. Mọi người đều dễ dàng truy cập thông tin mình cần. Điều này dẫn đến dân chủ hoá các hoạt động và tổ chức điều hành xã hội. Người dân nào cũng có thể được thông tin kịp thời về các chính sách của Nhà nước, các tổ chức và có ý kiến ngay khi thấy không phù hợp.
8. Các doanh nghiệp vừa hợp tác vừa cạnh tranh để phát triển. Trong cùng một lĩnh vực, khi một công ty thành công, lớn mạnh lên thì các công ty khác phải tìm cách sáp nhập hoặc chuyển hướng hoạt động.
9. Nền kinh tế toàn cầu hoá. Thị trường và sản phẩm mang tính toàn cầu, một sản phẩm được sản xuất từ bất kỳ nơi nào cũng có thể nhanh chóng có mặt khắp nơi trên thế giới hoặc sản phẩm phần lớn được thực hiện từ nhiều nơi trên thế giới, kết quả cao của công ty ảo, làm việc từ xa.
10. Sự thách đó văn hoá. Trong nền kinh tế tri thức- xã hội thông tin, văn hoá có điều kiện phát triển nhanh và văn hoá là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội. Do thông tin, tri thức bùng nổ, trình độ văn hoá nâng cao, nội dung và hình thức các hoạt động văn hoá phong ohú, đa dạng. Nhu cầu thưởng thức của người dân cũng tăng cao, giao lưu văn hoá thuận lợi, tạo điều kiện cho các nền văn hoá giao thoa, đễ tiếp thu các tinh hoa văn hoá của nhân loại để phát triển. Nhưng các nền văn hoá cũng đứng trước nguy cơ rủi ro cao, dễ bị pha tạp, lai căng, dễ mất bản sắc văn hoá dân tộc..
Theo WBI, một quốc gia muốn chuyển sang nền kinh tế tri thức, trước tiên cần hình thành 4 trụ cột quan trọng, đó là:
1. Môi trường kinh tế và thể chế xã hội thuận lợi cho sáng tạo và sử dụng tri thức. Một môi trường và thể chế theo luật, cho phép dòng chảy tự do của tri thức, hỗ trợ công nghệ thông tin và truyền thông, khuyến khích việc làm chủ doanh nghiệp như trọng tâm của kinh tế tri thức.
2. Giáo dục và đào tạo. Hệ thống giáo dục và đào tạo có chất lượng cao để người dân được giáo dục và đào tạo, nâng cao năng lực sáng tạo, chia sẻ và sử dụng tri thức, nguồn nhân lực chất lượng cao
3. Hạ tầng cơ sở thông tin (ICT) hiện đại. Một cơ sở thông tin động, từ radio đến internet, là cần thiết để cho phép dễ dàng liên lạc, phổ biến và sử lý thông tin.
4. Hệ thống sáng tạo có hiệu quả. Một mạng lưới các trung tâm nghiên cứu, đại học, tổ chức chuyên gia, cố vấn, doanh nghiệp tư nhân, các nhóm cộng đồng là cần thiết để thu nhận được kho tri thức toàn cầu luôn không ngừng tăng, truyền bá và thích ứng chúng cho các nhu cầu của đất nước,và sáng tạo ra các tri thức mới cần thiết.
Vì vậy, để xây dựng nền kinh tế tri thức, Việt <st1:country-region w:st="on">Nam</st1:country-region> cần thực hiện đồng bộ một số giải pháp sau:
Một là. Phải đổi mới cơ chế và chính sách, tạo lập một khuôn khổ pháp lý mới phù hợp với sự phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Cơ chế chính sách phải thực sự khuyến khích và buộc các doanh nghiệp phải luôn đổi mới, và thúc đẩy nhanh chóng sự ra đời các doanh nghiệp mới, nhất là các doanh nghiệp kinh doanh sản phẩm mới, công nghệ mới. Tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, chống độc quyền.
Hai là. Phải chăm lo phát triển nguồn nhân lực, nâng cao dân trí, đào tạo nhân tài, Tập trung đầu tư phát triển giáo dục, cải cách giáo dục. Tăng nhanh đào tạo đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật và công nhân lành nghề, đội ngũ cán bộ quản lý, doanh nhân..
Ba là. Tập trung tăng cường năng lực khoa học và công nghệ quốc gia để có thể tiếp thu, làm chủ, vận dụng sáng tạo các tri thức khoa học và công nghệ mới nhất của thế giới cần thiết cho phát triển của đất nước, từng bước sáng tạo công nghệ đặc thù của đất nước, xây dựng nền khoa học và công nghệ tiến tiến của Việt Nam
Bốn là. Đẩy mạnh ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Công nghệ thông tin là chìa khoá để đi vào kinh tế tri thức. Muốn rút ngắn quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, rút ngắn khoảng cách với các nước, phải khắc phục khoảng cách về công nghệ thông tin..
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top