Chương 5: Nguồn lực và hiệu quả thương mại

Chương 5: Nguồn lực và hiệu quả thương mại

5.1. Nguồn lực thương mại

5.1.1. Khái niệm và phân loại nguồn lực thương mại

5.1.1.1. Khái niệm nguồn lực thương mại

Nguồn lực thương mại được hiểu là tất cả các yếu tố tài nguyên thiên nhiên, vốn, công nghệ và nhân lực là những yếu tố và điều kiện khách quan để tạo ra các yếu tố và những điều kiện cần thiết đảm bảo hoạt động mua bán, trao đổi hàng hoá và dịch vụ ở phạm vi vi mô cũng như quá trình tổ chức và quản lí hoạt động thương mại trong nền kinh tế diễn ra trên thị trường một cách liên tục, thông suốt và ngày càng phát triển.

5.1.1.2. Phân loại nguồn lực thương mại

a. Theo hình thái biểu hiện

 Nguồn lực thương mại có thể được biểu hiện dưới 2 hình thái:

 Nguồn lực hữu hình: Đây là nguồn lực thể hiện dưới dạng vật chất hữu hình, có thể lượng hoá bằng các đơn vị đo lường cụ thể. Một số loại nguồn lực thể hiện ở dạng tài sản lưu động như hàng hoá vật tư, tiền vốn, các tài sản tài chính khác. Một số loại khác tồn tại ở dạng tài sản cố định như đất đai, hệ thống giao thong... Ngoài ra, còn có lực lượng lao động trong thương mại, bao gồm lao động làm việc trong các cơ sở kinh doanh và cơ quan quản lý nhà nước về thương mại.

 Nguồn lực vô hình: Bao gồm vốn sức lao động và chất xám, trí tuệ của các nhà kinh doanh, các nhà quản trị mua, bán, ... Ngoài ra, còn các nguồn lực vô hình khác, đó là uy tín, danh tiếng của thương hiệu doanh nghiệp, sự tín nhiệm đối với thương mại của quốc gia, vị trí địa lý, hệ thống giá trị và văn hoá, tinh thần doanh nhân, hệ thống thông tin thương mại …

b.  Theo nguồn hình thành

 Nguồn nhân, tài, vật lực trong thương mại được hình thành từ nguồn trong nước và từ nước ngoài.

 Nguồn lực trong nước bao gồm nguồn tài nguyên sẵn có từ nhiên nhiên, các nguồn lao động xã hội, các tài sản tích luỹ của quốc gia, của các tổ chức, cá nhân được sử dụng trong thương mại, các tài sản do các doanh nghiệp sáng tạo ra và các đầu tư của chính phủ, các yếu tố vô hình khác có ý nghĩa như nội lực trong thương mại. Nguồn lực trong nước được sử dụng trong thương mại có thể trên phạm vi cả nước hoặc ở từng địa phương và vùng lãnh thổ.

 Nguồn lực quốc tế bao gồm nguồn tài trợ tài chính và đầu tư quốc tế, các nguồn lực khoa học-công nghệ và chất xám thể hiện ở sự chuyển giao công nghệ, chuyển nhượng thương hiệu, bản quyền, sự thu hút các chuyên gia kinh tế, thương mại và kinh nghiệm kinh doanh, quản lý quốc tế. Ngoài ra, còn phải kể đến những thiện chí và sự ủng hộ quốc tế đối với thương mại của quốc gia.

c. Theo đặc điểm các nguồn lực

 Nguồn lực vật chất tồn tại dưới dạng vật thể hữu hình, bao gồm tài nguyên thiên nhiên được sử dụng trong thương mại như đất đai để xây dựng mạng lưới thương mại (nhà kho, cửa hàng, cửa hiệu, siêu thị, chợ, trung tâm triển lãm, quảng cáo, sở giao dịch, …) và kết cấu hạ tầng của nền kinh tế như hệ thống giao thông, nhà ga, bến cảng, sân bay, bến bãi và các hạ tầng “mềm” sử dụng trong thương mại. Các nguồn lực vật chất khác như thiết bị, công nghệ và phương tiện kỹ thuật được đưa vào sử dụng ở các khâu nghiệp vụ mua bán, dự trữ kho hàng, vận tải giao nhận,… và quản lý thương mại của nhà nước.  

Nguồn vốn trong thương mại: Vốn trong thương mại biểu hiện bằng tiền của các tài sản sử dụng trong quá trình tổ chức lưu thông hàng hoá và cung ứng dịch vụ. Nó bao gồm vốn cố định và vốn lưu động được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau như nguồn vốn ngân sách, nguồn vốn từ dân cư và doanh nghiệp, từ hệ thống ngân hàng thương mại, từ quỹ hỗ trợ phát triển, xúc tiến thương mại, từ các nguồn vốn vay và tài trợ, đầu tư quốc tế.

 Nguồn nhân lực thương mại: Trên tầm vĩ mô, nguồn nhân lực thương mại chính là bộ phận nguồn nhân lực trong nền kinh tế đến độ tuổi lao động, đủ sức khoẻ và được đưa vào làm việc trong lĩnh vực thương mại. Nguồn nhân lực này bao gồm cả tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài hoạt động trong lĩnh vực thương mại hàng hoá, thương mại dịch vụ . Đây là nguồn lực giữ vị trí then chốt trong các nguồn lực thương mại. Đầu tư nguồn nhân lực thương mại thực chất là đầu tư cho phát triển, vì lao động thương mại vừa là trung tâm và vừa là tác nhân, vừa là mục đích và vừa là động lực của sự phát triển.

d. Theo khả năng phục hồi, tái tạo

 - Nguồn lực không tái tạo được.

 Trong quá trình sử dụng, có nguồn lực dần mất đi không tái tạo được như một số loại tài nguyên thiên nhiên (các mỏ kim loại, than đá, dầu) hoặc có loại tái tạo được rất ít hoặc rất khó khăn do sự khai thác thác thái quá các tài nguyên môi trường (chẳng hạn, chặt phá rừng bừa bãi, đánh bắt hải sản với phương pháp không phù hợp làm huỷ hoại các tài nguyên rừng và biển). Ngoài ra, môi trường xã hội trong điều kiện nạn dịch HIV, AIDS hoặc cúm gia cầm làm tổn hại tới nguồn lực vật chất và con người sử dụng trong nền kinh tế và thương mại.

 - Nguồn lực có khả năng tái tạo.

 Nguồn nhân lực và chất xám của con người là một trong những nguồn lực được tái tạo không ngừng. Do vậy, để phát triển thương mại cần phải đầu tư cho đội ngũ thương nhân và các nhà quản lý vĩ mô nhằm tái sản xuất sức lao động cả về quy mô và cơ cấu, về trình độ và chất lượng cũng như sự phân bố hợp lý nguồn nhân lực thương mại trong nền kinh tế.

 Trình độ lành nghề, kiến thức, năng lực và hệ thống giá trị của toàn bộ cuộc sống lao động thương mại có vị trí đặc biệt đối với sự phát triển kinh tế - xã hội.

5.1.2. Vai trò của nguồn lực đối với sự phát triển thương mại

5.1.2.1. Thúc đẩy mở rộng quy mô, thay đổi cơ cấu thương mại và nâng cao chất lượng tăng trưởng

-        Quy mô, cơ cấu, chất lượng và sự phân bố các nguồn lực có ảnh hưởng lớn tới quá trình đầu tư, khai thác và phát huy lợi thế so sánh, thúc đẩy sự tăng trưởng và phát triển thương mại của quốc gia.

-        Nguồn lực trong thương mại còn tác động tới quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế và phân công lao động xã hội, phục vụ cho công cuộc CNH, HĐH đất nước.

-        Nguồn lực trong thương mại không chỉ tác động tới hiệu quả kinh tế, mà còn nâng cao hiệu quả về mặt xã hội, thu hút lao động và tạo việc làm, đáp ứng kịp thời và tốt nhất nhu cầu của dân cư ngày càng tăng lên trong xã hội.

-        Nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm, của ngành/doanh nghiệp và của nền kinh tế. Số lượng và chất lượng nguồn lực được sử dụng trong thương mại có ảnh hưởng tớikhả năng cạnh tranh của sản phẩm, cạnh tranh của bất cứ hoạt động kinh tế cụ thể nào

-        Vai trò đối với công tác hội nhập quốc tế: việc đầu tư và khai thác, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực trong thương mại lại tạo điều kiện để đẩy nhanh quá trình hội nhập, phấn đấu đạt tới các chuẩn mực về yêu cầu và điều kiện thương mại quốc tế.

-        Nguồn lực trong thương mại được quản lý, sử dụng có hiệu quả còn có tác động ảnh hưởng lớn tới việc nâng cao và phát triển các giá trị văn hoá, phát triển, mở mang các quan hệ kinh tế, cải thiện các quan hệ xã hội, tác động tích cực đến môi trường.

-        Ngoài ra, thông qua bố trí hợp lý mạng lưới thương mại, kết cấu hạ tầng, nguồn lực lao động, tạo ra đội ngũ thương nhân có nghiệp vụ tình báo kinh tế nó còn có ý nghĩa quan trọng đối với vấn đề bảo vệ an ninh quốc gia và chủ quyền của dân tộc.

5.1.3. Chi phí nguồn lực thương mại

5.1.3.1. Khái niệm chi phí nguồn lực thương mại

 Đó là sự biểu hiện bằng tiền những hao phí cần thiết về vật chất như hao mòn tài sản, phương tiện và hao phí sức lao động cũng như chất xám của thương nhân, các chủ thể kinh doanh và các nhà quản lý thương mại trong quá trình tổ chức lưu thông hàng hoá và cung ứng dịch vụ trên thị trường.

5.1.3.2. Các loại chi phí nguồn lực thương mại

 Tuỳ thuộc vào mục đích nghiên cứu, người ta phân chi phí nguồn lực thương mại thành nhiều loại theo các tiêu chí sau:

 - Theo chức năng thương mại, gồm chi phí phục vụ lưu chuyển hàng hoá (còn gọi chi phí lưu thông thuần tuý) và chi phí phục vụ vận động và giữ gìn, hoàn thiện giá trị sử dụng hàng hoá cho tiêu dùng (chi phí lưu thông bổ sung). Đối với thương mại dịch vụ, chi phí nguồn lực thương mại phục vụ cho cả mục đích sản xuất, phân phối cung ứng, marketing và tổ chức tiêu dùng các dịch vụ.

 - Theo đặc điểm hạch toán, gồm chi phí về khấu hao tài sản cố định, chi phí tiền lương và tiền công, thù lao trả cho người lao động, chi phí về tài chính như tiếp cận nguồn vốn, lãi vay, thuế, chí phí về tổn thất hàng hoá, hao mòn vô hình…

 - Theo tính chất của chi phí, gồm chi phí bất biến (các khoản chí phí tương đối ổn định so với kết quả thương mại) và khả biến (thay đổi theo kết quả thương mại).

 - Về phương diện kinh tế, có thể phân ra chi phí cần thiết cho lưu thông (hao tổn vật chất, hao phí sức lao động để tổ chức quá trình lưu thông) và chi phí không phải cần thiết, mà do chính lưu thông tạo nên (như các loại thuế, hao hụt hàng hoá). Mặt khác, ngoài chi phí được hạch toán thông thường còn bao hàm cả chi phí cơ hội của các nguồn lực, được khai thác hoặc sử dụng trong thương mại.

- Theo nội dung hoạt động, gồm chi phí cho hoạt động thường xuyên và chi phí cho hoạt động đầu tư.

 - Theo thời gian gồm chi phí nguồn lực trong ngán hạn, trung hạn và dài hạn.

 Trên tầm vĩ mô các chi phí nguồn lực trong ngắn hạn khoảng 2-3 năm, trung hạn

khoảng 5-7 năm và dài hạn từ 10-15 năm trở lên.

5.2. Hiệu quả thương mại

5.2.1. Bản chất và phân loại hiệu quả thương mại

5.2.1.1. Khái niệm hiệu quả thương mại

 Hiệu quả thương mại phản ánh quan hệ so sánh giữa kết quả đạt được với chi phí bỏ ra của quá trình trao đổi hàng hoá, dịch vụ trên thị trường. Thực chất, đó là trình độ sử dụng các nguồn lực trong thương mại nhằm đạt tới những mục tiêu đã xác định.

Hiệu quả thương mại không chỉ đơn thuần là hiệu quả kinh tế, nó còn được nghiên cứu là một phạm trù kinh té – xã hội tổng hợp trên cả tầm vĩ mô và phạm vi doanh nghiệp. Trên bình diện vĩ mô, hiệu quả thương mại phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực phục vụ cho hoạt động trao đổi, mua bán hàng hoá và cung ứng dịch vụ nói chung của cả nền kinh tế. Tác động về kinh tế, về xã hội và môi trường của thương mại được phản ánh qua các chỉ tiêu hiệu quả theo cách tiếp cận này. Do tính chất phức tạp và đa diện khi nghiên cứu hiệu quả, nên chương này giới hạn chủ yếu nghiên cứu hiệu quả kinh tế của thương mại.

 Công thức chung biểu hiện hiệu quả thương mại: H =K/C

trong đó: H là hiệu quả thương mại

 K là kết quả đạt được

 C là chi phí sử dụng nguồn lực

5.2.1.2. Phân loại hiệu quả thương mại

a. Hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội

 - Hiệu quả kinh tế là một bộ phận quan trọng, cơ bản nhất của hiệu quả thương mại. Trên tầm vĩ mô, nó phản ánh quan hệ so sánh giữa kết quả kinh tế đạt được với chi phí về các nguồn lực tài chính, lao động và các yếu tố vật chất kỹ thuật khác trong quá trình tổ chức trao đổi hàng hóa và cung cấp dịch vụ trên thị trường.

  - Hiệu quả xã hội là bộ phận hiệu quả thương mại phản ánh kết quả đạt được theo mục tiêu hay chính sách xã hội so với các chi phí nguồn lực bỏ ra nhằm đạt mục tiêu đó. Hiệu quả xã hội của thương mại thể hiện ở tương quan giữa chi phí, nguồn lực bỏ ra nhằm thoả mãn nhu cầu tiêu dùng của xã hội về hàng hoá, dịch vụ, mức độ hạn chế gia tăng thất nghiệp, ...

b. Hiệu quả chung và hiệu quả bộ phận

 - Hiệu quả chung là hiệu quả tổng quát về kinh tế hoặc xã hội theo mục tiêu xác định của thương mại trong từng thời kỳ hay chu kỳ kinh doanh cụ thể. Kết hợp hiệu quả chung về kinh tế và xã hội là hiệu quả tổng hợp của thương mại. Hiệu quả chung của thương mại bao quát toàn bộ các hiệu quả bộ phận và do các hiệu quả bộ phận hợp thành

 - Hiệu quả bộ phận là hiệu quả từng phần, bộ phận riêng biệt phản ánh trình độ sử dụng các yếu tố nguồn lực cụ thể trong thương mại. Nó có ảnh hưởng trực tiếp đói vớihiệu quả chung về kinh tế, về xã hội.

 c. Hiệu quả thương mại theo cấp độ KTQD, ngành và doanh nghiệp

 - Theo cấp độ KTQD, hiệu quả thương mại phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực đầu tư cho thương mại hướng tới các mục tiêu vĩ mô về kinh tế, về xã hội, môi trường, ... như tăng trưởng kinh tế, giải quyết việc làm, xoá đói giảm nghèo, sự tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường sinh thái, phát triển các quan hệ quốc tế trong hội nhập và mở cửa nền kinh tế

 - ở cấp độ ngành, hiệu quả thương mại phải được nhìn nhận và đánh giá trên cơ sở hoạt động thương mại của hệ thống thương nhân với các nguồn lực mà họ đã bỏ ra để đạt các mục tiêu. Đó là bộ phận hợp thành chủ yếu của hiệu quả thương mại trong phạm vi toàn bộ nền kinh tế. Hiệu quả thương mại ở cấp độ ngành được tạo ra bởi hiệu quả của các doanh nghiệp thương mại và cơ sở kinh doanh thuộc hệ thống thương mại của quốc gia.

 - Hiệu quả thương mại của doanh nghiệp là hiệu quả tổ chức quá trình mua, bán

hàng hoá và dịch vụ. Đó chính là thước đo phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực của

các công ty hay cơ sở kinh doanh trong khâu mua, bán hàng hoá, khâu vận chuyển và kho

hàng hoặc trong sản xuất, phân phối, cung ứng và marketing các sản phẩm dịch vụ

5.2.3.1. Sự cần thiết nâng cao hiệu quả thương mại

 - Xuất phát từ ý nghĩa, tầm quan trọng của vấn đề nâng cao hiệu quả thương mại.

 - Thực tiễn cuộc sống còn nhiều lãng phí các nguồn lực, nhất là vốn, chất xám, đặc biệt những nguồn lực tự nhiên ngày càng trở nên khan hiếm.

 - Những vấn đề về an ninh kinh tế, an ninh quốc gia và con người đòi hỏi.

5.2.3.2. Các nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả thương mại

a. Môi trường vĩ mô

 -  Các nhân tố môi trường  trong nước.

 Môi trường trong nước bao gồm rất nhiều các yếu tố như: địa kinh tế; sự ổn định chính trị và kinh tế vĩ mô; mức độ đầy đủ, đồng bộ và thống nhất của hệ thống pháp luật; sự ổn định, nhất quán và minh bạch của các chính sách; mức độ cải thiện các thủ tục hành chính; hiệu lực của bộ máy tổ chức và hiệu suất làm việc của đội ngũ công chức; độ mở, tính năng động và sức cạnh tranh của nền kinh tế trong nước.

 - Các nhân tố môi trường quốc tế.

 Môi trường quốc tế chứa đựng cả những cơ hội và thách thức, ảnh hưởng tới hiệu quả thương mại của doanh nghiệp, của ngành và nền kinh tế :

 Xu hướng toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới làm thay đổi nhu cầu và cung ứng hàng hoá, dịch vụ thúc đẩy thương mại quốc tế và đầu tư nước ngoài; Cạnh tranh trong thương mại ngày càng quyết liệt, gay gắt hơn làm thay đổi vị trí dẫn đạo thị trường; hệ thống tài chính quốc tế phát triển tạo thuận lợi cho thương mại và đầu tư; xu hướng sáp nhập các công ty lớn, các tập đoàn đa quốc gia trong nhiều lĩnh vực để chi phối thị trường khu vực và toàn cầu; xu hướng các rào cản thương mại đan xen với quá trình tự do hoá thương mại diễn ra ở cả các nước phát triển và đang phát triển; những thay đổi trong đàm phán và các quy định của hệ thống WTO.

b. Nhân tố về thị trường

 Đây là nhóm nhân tố có ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả thương mại của mỗi quốc gia, bao gồm:

 -  Dung lượng thị trường.

 Xu hướng phát triển về quy mô, dung lượng và thay đổi cơ cấu thị trường của các nước nhập khẩu cũng như thị trường nội địa; sự mở cửa thị trường và giảm bớt rào cản kỹ thuật trong thương mại; sự phát triển các thị trường mới.

 - Khách hàng.

 Quy mô và cơ cấu nhu cầu; thu nhập và hướng sử dụng thu nhập, quyết định mua sắm và đầu tư của người tiêu dùng; sự ổn định và phát triển khách hàng; sự sẵn sàng mua và trả giá; tập quán thói quen và sự tín nhiệm của khách hàng; sự liên kết giữa khách hàng và các nhà cung cấp.

 - Các nhà cung cấp.

 Số lượng các nhà cung cấp; quy mô, cơ cấu, chất lượng, giá cả của hàng hoá; sự  phát triển các dịch vụ hỗ trợ thương mại; tính ổn định của nguồn hàng và sự đa dạng các nhà cung cấp; năng lực tài chính, công nghệ và quản trị của nhà cung cấp; uy tín trong thực hiện hợp đồng và giao hàng đúng hạn.

 - Đối thủ cạnh tranh.

 Số lượng các đối thủ, các hình thức và thủ pháp cạnh tranh; những ưu thế và bất lợi thế cạnh tranh của đối thủ; những hỗ trợ thương mại, cạnh tranh trong nước và quốc tế; các xu hướng cạnh tranh đa phương.

c. Sự phát triển của ngành và các doanh nghiệp

 - Sự phân công chuyên môn hoá, liên kết và hợp tác của ngành thương mại  ảnh hưởng đến hiệu quả thương mại cả về kinh tế và xã hội.

 Ngoài ra, sự phát triển các hình thức thương mại mới cũng là một trong những nhân

tố thúc đẩy mơ rộng lưu thông hàng hoá, nâng cao hiệu quả thương mại của quốc gia.

 - Chiến lược và hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp

 Lợi thế so sánh của đất nước được khai thác và sử dụng có hiệu quả hay không suy cho cùng được thể hiện ở doanh nghiệp. Do vậy, hiệu quả hoạt động và chiến lược kinh doanh là nhân tố có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.

 - Trình độ, năng lực của đội ngũ doanh nhân

 Đây là nhân tố đóng vai trò chủ chốt đối với việc nâng cao hiệu quả thương mai. Doanh nhân có bản lĩnh kinh doanh vững vàng, có trình độ, năng lực chuyên môn và quản trị sẽ biết tìm kiếm, khai thác các nguồn lực và kết hợp chúng trong hoạt động của doanh nghiệp một cách tốt nhất nhằm mang lại hiệu quả góp phần nâng cao hiệu quả thương mại của ngành và nền kinh tế.

5.2.3.3. Con đường nâng cao hiệu quả thương mại

 - Chủ động mở cửa thị trường và thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Để chủ động mở cửa thị trường và hội nhập quốc tế cần phải có những giải pháp mang tính chiến lược, toàn diện và đồng bộ, trên cả cấp độ quốc gia, địa phương, ngành và doanh nghiệp, trong đó có những giải pháp khám phá, khai thác cơ hội, có những giải pháp phòng ngừa, hạn chế nguy cơ, rủi ro khi đi trên con đường đó

 - Xây dựng, phát triển vững chắc thị trường trong nước và bảo vệ sản xuất nội địa. Thị trường nội địa được coi là tiền đề phát triển thị trường xuất khẩu, do vậy xây dựng và phát triển thị trường nội địa là con đường phải được nối liền với mở cửa thị  trường và hội nhập quốc tế

Con đường này đòi hỏi phải có những chính sách và giải pháp vĩ mô nhằm tạo lập thị trường một cách đồng bộ, nhất là các thị trường dịch vụ bao gồm thị trường chứng khoán, thị trường lao động, thị trường khoa học công nghệ, thông tin, thị trường bất động sản,... đồng thời phát triển những thị trường đó phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế, thương mại trong điều kiện mở cửa thị trường và tự do hoá thương mại.

 - Bảo vệ, phát triển và phát huy lợi thế so sánh của quốc gia. Đây là con đường cho phép phát triển thương mại mang tính cạnh tranh và có hiệu quả theo tiếp cận phát triển bền vững. Điều đó có nghĩa là, khai thác các lợi thế so sánh để phát triển thương mại trong hiện tại nhưng không làm mất đi, mà còn duy trì, phát triển lợi thế so sánh trong tương lai để phát triển thương mại nhằm thoả mãn ngày càng tốt hơn nhu cầu ngày càng tăng lên của đời sống kinh tế và xã hội.

5.1.1. Bản chất của phát triển bền vững

Như vậy về bản chất, phát triển bền vững phải đáp ứng được các yêu cầu:

 - Đảm bảo hài hòa mối quan hệ lợi ích trong phát triển giữa hiện tại và tương lai về tất cả các khía cạnh: Kinh tế, xã hội, văn hóa và môi trường.

 - Lồng ghép một cách hài hòa các khía cạnh tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội và bảo vệ môi trường.

5.3.2. Những tiêu chí cơ bản của phát triển bền vững

5.3.2.1. Đảm bảo sự phát triển bền vững về kinh tế.

 Sự phát triển bền vững về kinh tế được thể hiện ở sự tăng trưởng và phát triển lành mạnh nền kinh tế, đáp ứng được yêu cầu nâng cao đời sống của nhân dân, tránh được sự suy thoái hay đình trệ trong tương lai, đặc biệt là không bị thâm hụt cán cân thương mại và cán cân thanh toán.

5.3.2.2. Sự phát triển bền vững về xã hội.

 Sự phát triển bền vững xã hội phải đáp ứng được yêu cầu duy trì và phát huy tính đa dạng về bản sắc dân tộc, giảm tình trạng đói nghèo, hạn chế khoảng cách giàu nghèo và sự bất bình đẳng trong xã hội. Tính bền vững về xã hội của một quốc gia được đánh giá qua các chỉ tiêu: Chỉ số phát triển con người (HDI), hệ số bình đẳng thu nhập, các chỉ số về giáo dục, dịch vụ y tế, hoạt động văn hoá.

5.3.2.3. Sự phát triển bền vững về môi trường

 Sự phát triển bền vững môi trường phải đáp ứng yêu cầu sử dụng hợp lý các nguồn tài nguyên thiên nhiên, bảo tồn được sự đa dạng sinh học, hạn chế ô nhiễm, cải thiện được môi trường.

5.3.2.4. Sự kết hợp hài hòa và hợp lý ba mặt lợi ích kinh tế, xã hội và môi trường trong quá trình phát triển.

 Sự phát triển lâu dài và ổn định hay phát triển bền vững chỉ có thể đạt được khi quá trình phát triển đáp ứng được yêu cầu có một sự cân bằng nhất định của ba nội dung nói trên. Ba nội dung đó chúng có mối quan hệ biện chứng với nhau, vừa thể hiện sự tác động qua lại, vừa chế ước lẫn nhau. Tính cân đối và sự hài hòa giữa các khía cạnh nói trên phải được thể hiện ở mọi khâu, ngay từ lúc xây dựng chủ trương và hoạch định các chiến lược phát triển.

 Tuy nhiên, trong từng giai đoạn phát triển cụ thể thì một mặt nào đó có thể được đưa lên vị trí ưu tiên số một, song mức độ và thời hạn của sự ưu tiên là có giới hạn. Chẳng hạn, giai đoạn đầu CNH, HĐH và hội nhập quốc tế ở nước ta hiện nay thì mục tiêu hang đầu là tăng trưởng kinh tế và có thể phải tạm thời chấp nhận sự bất bình đẳng trong xã hội và một sự suy thoái môi trường nào đó.

5.3.3. Khai thác và sử dụng nguồn lực thương mại theo hướng phát triển bền vững

5.3.3.2. Những nguyên tắc cơ bản của việc khai thác và sử dụng nguồn lực thương mại theo hướng phát triển bền vững

 - Khai thác mọi nguồn lực có thể, đặc biệt là nguồn lực vô hình để phát triển thương mại. việc chú trọng khai thác và sử dụng rộng rãi nguồn lực vô hình cho phép hạn chế được nguy cơ làm cạn nguồn tài nguyên thiên nhiên và đáp ứng được yêu cầu sử dụng bền vững nguồn lực trong quá trình phát triển. Việc khai thác không tối đa mọi nguồn lực cũng có thể đồng nghĩa với việc lãng phí và sử dụng thiếu bền vững nguồn lực trong quá trình phát triển.

  - Kết hợp sử dụng hợp lý nguồn lực trong nước với nguồn lực bên ngoài. Để đảm bảo yêu cầu khai thác và sử dụng nguồn lực theo hướng phát triển bền vững thì việc kết hợp hợp lý hai nguồn lực này là đặc biệt quan trọng. Về nguyên tắc, các nguồn lực bên trong phải giữ vai trò quyết định, còn các nguồn lực bên ngoài là quan trọng, có vai trò thúc đẩy và tạo ra sự phát triển đột phá trong cạnh tranh và phát triển thương mại.

 - Khai thác các nguồn lực không gây cạn kiệt và suy thoái môi trường. Việc khai thác tối đa các nguồn lực để phát triển thương mại phải được tính đến khả năng không gây tổn hại đến sự phát triển của các thế hệ trong tương lai. Nhiều nguồn lực trong thực tế nếu việc khai thác không có qui hoạch và kế hoạch có thể đe dọa đến nguy cơ làm cạn kiệt nguồn tài nguyên và suy thoái môi trường gây trở ngại đến sự phát triển của các thế hệ tương lai, đặc biệt là các nguồn lực liên quan đến sử dụng các điều kiện tự nhiên, địa lý, nguồn nước…

 - Đảm bảo tính hiệu quả trong quá trình sử dụng các nguồn lực. Đảm bảo hiệu quả sử dụng các nguồn lực trong thương mại về thực chất là đòi hỏi về mặt chất lượng sử dụng nguồn lực với yêu cầu mỗi đơn vị giá trị nguồn lực phải tạo ra được khối lượng kết quả cao nhất cho nền kinh tế và xã hội

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top