kinh te sdaffdddd
(ĐCSVN)- Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, trong tổng số hơn 6000 dự án có vốn FDI còn hiệu lực tại Việt Nam, lĩnh vực công nghiệp và xây dựng chiếm khoảng 4500 dự án ( chiếm hơn 67% tổng số dự án đầu tư ) với tổng số vốn đăng ký khoảng 28,9 tỷ USD ( chíêm 60% tổng vốn đăng ký ), tổng vốn thực hiện gần 18 tỷ USD. Các dự án FDI vào lĩnh vực công nghiệp, xây dựng đã góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam.
Năm 2007, vốn FDI vào Việt Nam đạt hơn 20,3 tỷ USD, tăng 69,3% so với năm 2006, vượt 53,2% kế hoạch dự kiến cả năm (13 tỷ USD).Trong đó vốn đăng ký là 17,85 tỷ USD của 1.445 dự án mới, tăng 73,5% về số dự án và 96,3% về vốn đăng ký so với năm trước, đồng thời có 379 dự án bổ sung với tổng vốn đầu tư đăng ký tăng thêm là 2,4 triệu USD, bằng 78% về số dự án và 84,9% về vốn bổ sung so với năm 2006, vốn đầu tư đăng ký tiếp tục tập trung trong lĩnh vực công nghiệp, chiếm 62,9% về số dự án và 50,6% tổng vốn đầu tư đăng ký.
Đầu tư nước ngoài đã đóng góp đáng kể vào giá trị sản lượng công nghiệp, góp phần nâng cao tốc độ tăng trưởng công nghiệp của cả nước. Với lợi thế về máy móc thiết bị và kỹ thuật hiện đại, có thị trường ổn định, được khuyến khích bằng các cơ chế, chính sách ngày cáng thông thoáng, khu vực có vốn FDI trong công nghiệp đã và đang phát triển khá nhanh và ổn định, luôn có xu hướng tăng nhanh hơn các khu vực khác. Mặt khác, vai trò của các dự án FDI trong cơ cấu công nghiệp đang ngày càng được củng cố, tỷ trọng của khối doanh nghiệp có vốn FDI trong tổng giá trị sản xuất công nghiệp tăng dần, từ 16,9% năm 1991 lên 23,65% năm 1995, 26,5% năm 1996, 41,3% năm 2000 và 36,4% năm 2006, tương đương với các doanh nghiệp nhà nước.
Việt Nam đã thu hút được nhiều tập đoàn lớn vào kinh doanh tại Việt Nam. Hiện có trên 110 các tập đoàn đa quốc gia (TNCs) trong danh sách 500 tập đoàn đa quốc gia lớn nhất thế giới (do tạp chí uy tín Fortune 500 công bố) đã đầu tư vào Việt Nam với tổng vốn đăng ký là 11,09 tỉ USD, chiếm một tỉ trọng lớn, 20% tổng vốn FDI của cả nước. Các tập đoàn này đầu tư vào các lĩnh vực giữ vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế của Việt Nam. Ví dụ như trong lĩnh vực dầu khí có BP, Statoil, ConocoPhilips, Petronas, Chevron; điện năng lượng có BP, EDF, Tokyo Electric, AES; ôtô-xe máy có Honda, Toyota, DaimlerCrysler
Khu vực kinh tế có vốn FDI hiện chiếm 100% về khai thác dầu thô, chiếm sản lượng chủ yếu về sản xuất ô tô, máy giặt, tủ lạnh, điều hoà nhiệt độ, thiết bị văn phòng, máy tính; chiếm 63% sản lượng xe có động cơ; khoảng 60% sản lượng thép cán; 33% sản lượng máy móc, thiết bị điện, điện tử; 76% sản lượng dụng cụ y tế chính xác; 55% sản lượng sợi các loại; 49% sản lượng da giày; 25% sản lượng thực phẩm chế biến và đồ uống... Trong thời gian gần đây, các lĩnh vực công nghiệp như dầu khí, điện, cơ khí, thép, dệt may, rượu - bia-nước giải khát, da giày, thuốc lá, nhựa giấy... thu hút thêm nhiều các dự án FDI.
Xu hướng hiện nay đầu tư vào các dự án lớn gia tăng: năm 2006, để chuẩn bị đón đầu cho việc gia nhập WTO của Việt Nam, một loạt công ty lớn đã đặt chân đến Việt Nam trong đó có những dự án lớn được cấp phép như tập đoàn Intel đã đầu tư 605 triệu USD xây dựng nhà máy tại Việt Nam, ngày 10/11/2006 công bố mở rộng lên 1 tỷ USD; dự án nhà máy sản xuất thép của Tập đoàn Posco (Hàn Quốc) tại khu công nghiệp Phú Mỹ II có tổng vốn đầu tư đăng ký trên 1,2 tỷ USD...
Năm 2007, nhiều dự án lớn đầu tư vào lĩnh vực công nghiệp được cấp được cấp phép trong đó điển hình là các dự án đầu tư vào ngành công nghiệp sản xuất thép. Một số dự án lớn đã được cấp phép đầu tư và triển khai thực hiện như: Nhà máy cuộn cán nóng liên doanh giữa Tổng Công ty Thép Việt Nam và Tập đoàn ESSAR (Ấn Độ) tại Bà Rịa - Vũng Tàu công suất 2 triệu tấn, tổng đầu tư trên 500 triệu USD; Nhà máy cán nguội 1,2 triệu tấn/năm và cuộn cán nóng 3 triệu tấn/năm tổng đầu tư trên 1 tỷ USD của Tập đoàn POSCO (Hàn Quốc) tại Phú Mỹ, Bà Rịa - Vũng Tàu; Nhà máy Liên hợp thép Hà Tĩnh liên doanh giữa Tập đoàn TATA (Ấn Độ) với Tổng Công ty Thép Việt Nam sản xuất thép cuộn cán nóng cán nguội, thép tấm... với công suất dự kiến 4,5 - 5 triệu tấn/năm, tổng đầu tư khoảng 3,5 tỷ USD; Nhà máy thép liên hợp liên doanh giữa Tập đoàn thép POSCO (Hàn Quốc) với Tập đoàn Vinashin công suất dự kiến 5 triệu tấn/năm sản xuất thép tấm, thép cuộn cán nóng, cán nguội; Liên hợp thép giữa Công ty Thép Jinnan (Trung Quốc) với Tycoon (Đài Loan - Trung Quốc) công suất 5 triệu tấn phôi/năm đầu tư trên 1 tỷ USD ở Dung Quất (Quảng Ngãi)... Những dự án này khi đưa vào thực hiện sẽ góp phần rất lớn giúp Việt Nam hướng tới mục tiêu xuất khẩu thép vào năm 2010.
Sự tham gia của các dự án FDI vào ngành công nghiệp đã tạo ra một môi trường kinh doanh cạnh tran, góp phần đẩy nhanh quá trình tái cơ cấu, đổi mới và sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước. Trong quá trình hợp tác với các doanh nghiệp FDI, các doanh nghiệp trong nước đã tiến hành đổi mới công nghệ sản xuất. Bên cạnh đó, FDI trong ngành công nghiệp đã đào tạo cho Việt Nam một đội ngũ cán bộ, công nhân lành nghề, được tiếp xúc với công nghệ mới, kỹ năng sản xuất tiên tiến.
Các dự án FDI trong lĩnh vực công nghiệp không chỉ khai thác thị trường trong nước mà còn góp phần làm tăng kim ngạch thương mại, đẩy mạnh xuất khẩu. Điển hình như ngành công nghiệp điện tử, mặc dù kim ngạch xuất khẩu các sản phẩm điện tử năm 2005 chỉ chiếm 4% tổng kim ngạch thương mại, song đã đạt tốc độ tăng tới 34,4%. Trong thời gian tới, khi một số dự án của các tập đoàn lớn được đưa vào hoạt động, góp phần thúc đẩy hơn nữa xuất khẩu của nước ta.
Trong giai đoạn 2008-2010, có thể dự báo việc thu hút vốn ĐTNN tiếp tục giữ nhịp độ tăng trưởng cao với cơ hội hiện có. Làn sóng đầu tư mới từ các đối tác tiềm năng như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Hoa Kỳ, Trung Đông,...đã đến Việt Nam với cam kết thoả thuận hàng chục tỷ USD, trong đó có một số dự án có quy mô vốn trên 1 tỷ USD dự kiến đầu tư vào lĩnh vực công nghệ cao, xây dựng nhà máy lọc dầu, điện, khu dịch vụ chất lượng cao). Cũng trong thời gian này, đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực công nghiệp trọng điểm, mũi nhọn, sử dụng công nghệ cao, các ngành công nghiệp phụ trợ và các dự án sử dụng công nghệ nguồn, gắn liền với hoạt động chuyển giao công nghệ và sẽ được khuyến khích và ưu tiên. Vấn đề đặt ra đối với Việt Nam là phải chuẩn bị điều kiện thuận lợi nhất cho việc tiếp nhận và hấp thụ các dự án ĐTNN quy mô vốn lớn mới được cấp giấy chứng nhận đầu tư cũng như các dự án trong quá trình tìm hiểu đầu tư. Để làm được điều đó, Việt Nam cần triển khai tích cực một số giải pháp sau:
Thứ nhất, cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống luật pháp, chính sách đáp ứng yêu cầu của quá trình hội nhập theo hướng xoá bỏ phân biệt đối xử, minh bạch, nhằm cải thiện tốt hơn nữa môi trường đầu tư và kinh doanh.
Thứ hai, cần nâng cao nâng cấp cơ sở hạ tầng, cải thiện môi trường đầu tư-kinh doanh, cũng như phối hợp chặt chẽ trong công tác xúc tiến tiến đầu tư và quản lý hoạt động ĐTNN giữa các bộ, ngành với địa phương, tăng cường nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
Thứ ba, cần nâng cao hiệu lực quyền sở hữu trí tuệ phù hợp với lộ trình các cam kết quốc tế của Việt Nam.
Thứ tư, cần xây dựng được một cơ chế phối hợp tốt giữ cán bộ, ngành, quản lý và địa phương trong việc quản lý nhà nước đối với đầu tư nước ngoài, đồng thời khẩn trương rà soát, điều chỉnh và ban hành quy hoạch ngành, vùng cùng với các điều kiện, tiêu chuẩn cấp phép cho các dự án trong từng lĩnh vực nhằm dỡ bỏ các hạn chế đối với đầu tư nước ngoài, phù hợp với các cam kết quốc tế song phương và đa phương.
Với việc thực hiện đồng bộ các giải pháp trên, dòng vốn FDI sẽ tiếp tục dâng cao trong thời gian tới và khu vực kinh tế có vốn FDI sẽ tiếp tục phát huy vai trò đóng góp tích cực vào sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước./.
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top