Kinh Tăng Nhất A-Hàm 2

XXXX.1. Phẩm Thất nhật (1)

1. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-

đ

à, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ, rất nhiều Tỳ-kheo, sau khi thọ thực, tụ tập tại giảng

đường Phổ Hội luận nghị thế n

ày:

- Núi Tu-di này rất rộng lớn, các núi khác không thể bì kịp; rất kỳ

đặc, cao rộng chót vót. Như thế m

à không bao lâu cũng sẽ bị bại hoại không còn gì cả. Nương núi Tu-di lại có những núi lớn cũng lại bị bại hoại.

Bấy giờ Thế Tôn dùng Thiên nhĩ nghe những Tỳ-kheo ấy luận nghị như thế, liền từ tòa

đứng l

ên

đến giảng đường v

à

đến chỗ ngồi. Khi ấy, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

- Các Thầy ở

đây b

àn luận những gì? Muốn thi hành

điều g

ì?

Các Tỳ-kheo

đáp:

- Mọi người tụ tập ở

đây luận b

àn việc pháp,

điều vừa luận b

àn

đều đúng pháp.

Thế Tôn bảo:

- Lành thay! Tỳ-kheo! Các Thầy xuất gia

đúng l

à phải nên luận bàn hợp pháp, lại cũng không bỏ sự im lặng của Hiền Thánh. Vì sao thế? Nếu Tỳ-kheo tụ tập một chỗ, nên thi hành hai việc. Thế nào là hai? Một là cùng nhau luận bàn Phật pháp; hai là hãy im lặng như Hiền Thánh. Các Thầy luận hai việc này trọn sẽ

được an ổn, không mất thời nghi. Các Thầy vừa rồi luận nghị như pháp những g

ì?

Các Tỳ-kheo

đáp:

- Nay chúng Tỳ-kheo tụ tập ở giảng

đường n

ày luận nghị như vầy: Thật là kỳ

đặc! Núi Tu-di n

ày rất là cao lớn rộng rãi, nhưng núi Tu-di này như thế chẳng bao lâu sẽ bị bại hoại và các núi Thiết Vi ở bốn bên cũng sẽ bại hoại như thế. Vừa rồi chúng con tụ tập ở

đây b

àn luận pháp như thế.

Thế Tôn bảo:

- Các Thầy có muốn nghe sự biến

đổi bại hoại của cảnh giới thế gian n

ày không?

Các Tỳ-kheo bạch Phật:

- Nay thật

đúng lúc, cúi mong Thế Tôn h

ãy diễn thuyết khiến cho chúng sanh tâm

được giải thoát.

Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

- Các Thầy hãy khéo suy nghĩ, ghi nhớ trong lòng!

Các Tỳ-kheo

đáp:

- Xin vâng, bạch Thế Tôn.

Các Tỳ-kheo vâng lời Phật dạy, Thế Tôn bảo:

- Núi Tu-di rất là rộng lớn, các núi không bì kịp. Nếu Tỳ-kheo muốn biết núi Tu-di vượt trên mặt nước khoảng tám vạn bốn ngàn do-tuần,

ăn sâu v

ào nước cũng tám vạn bốn ngàn do-tuần. Núi Tu-di do bốn loại báu làm thành là vàng, bạc, thủy tinh, lưu ly. Lại có bốn góc, cũng làm bằng bốn thứ báu: vàng, bạc, thủy tinh, lưu ly. Thành vàng quách bạc, thành bạc quách vàng, thành thủy tinh quách lưu ly, thành lưu ly quách thủy tinh. Trên núi Tu-di có n

ăm bậc Trời cư ngụ ở đó, đều do túc duy

ên mà trụ. N

ăm bậc n

ào? Trong thành bạc kia có trời Tế Khước ở. Trong thành vàng kia có Trời Thi-lợi-sa cư ngụ, trong thành thủy tinh có Trời Hoan Duyệt cư ngụ; trong thành lưu ly có Trời Lực Thạnh ở

đấy.

Giữa thành vàng và bạc có Tỳ-sa-mô Thiên vương cư ngụ, cùng các Dạ-xoa nhiều không thể kể. Giữa thành vàng và thành thủy tinh có Tỳ-lưu-bác-xoa Thiên vương, cùng các Long thần cư ngụ. Giữa thành thủy tinh và thành lưu ly có Tỳ-lưu-lặc-xoa cư ngụ. Giữa thành lưu ly và thành bạc có Ðề-

đầu lại-tra Thi

ên vương cư ngụ.

Tỳ-kheo nên biết, dưới núi Tu-di có A-tu-la cư trú. Nếu lúc A-tu-la muốn

đánh nhau với trời Ba mươi ba, trước hết họ đánh

nhau với trời Tế Khước; nếu thắng

được, họ lại đến th

ành vàng

đánh với trời Thi-lợi-sa; thắng trời Thi-lợi-sa rồi, họ lại đến th

ành thủy tinh

đánh trời Hoan Duyệt; thắng rồi, họ lại đến th

ành lưu ly; thắng

được trời đó mới c

ùng trời Ba mươi ba

đánh nhau.

Tỳ-kheo nên biết! Trời Ba mươi ba cư ngụ trên

đỉnh núi Tu-di, ng

ày

đ

êm chiếu ánh sáng, tự chiếu lẫn nhau nên

đến như thế, nước v

ào núi Tu-di có mặt trời, mặt tr

ăng di chuyển. Nhật thi

ên tử có thành quách rộng n

ăm mươi mốt do-tuần, Nguyệt thi

ên tử có thành quách rộng ba mươi chín do-tuần; ngôi sao lớn nhất rộng một do-tuần, ngôi sao nhỏ nhất rộng hai tr

ăm bộ. Tr

ên

đỉnh Tu-di,

Ðông, Tây, Nam, Bắc rộng tám vạn bốn ngàn do-tuần. Gần núi Tu-di, về phía Nam có núi Ðại Thiết Vi, dài tám vạn bốn ngàn do-tuần, cao tám vạn dặm. Ở ngoài núi này có núi Ni-di-

đ

à bao bọc núi ấy, cách núi Ni-di-

đ

à lại có núi tên là Khư-la, cách núi này lại có núi tên Tỷ-sa, cách núi này lại có núi tên Mã Ðầu, rồi lại có núi tên Tỳ-na-da; kế núi Tỳ-na-da lại có núi tên Thiết Vi Ðại Thiết Vi. Ở giữa Thiết Vi có tám

địa ngục lớn, giữa hai địa ngục có mười sáu bức ngăn. Núi Thiết Vi có nhiều lợi ích cho c

õi Diêm-phù-

đề. Di

êm-phù-

đề nếu không có núi Thiết Vi có núi Hương Tích, b

ên núi Hương Tích có tám vạn bốn ngàn bạch tượng vương sống ở

đó, mỗi con có sáu ng

à và

đeo v

àng bạc. Trong núi Hương Tích có tám vạn bốn ngàn hang, có voi ở

đó. Con voi tối thượng do v

àng bạc thủy tinh, lưu ly tạo thành. Thích-

đề-ho

àn-nhân cỡi voi tối thượng, còn Chuyển luân Thánh vương cỡi voi thấp nhất. Bên núi Hương Tích có hồ nước Ma-

đ

à, sanh toàn hoa Ưu-bát Liên và hoa Câu-mâu-

đầu; những con voi kia bới rễ m

à

ăn. B

ên cạnh hồ nước Ma-

đ

à có núi Ưu-xà-già-la, núi ấy mọi rất nhiều cây cỏ, chim chóc, cọp (trùng) báo

đều nương núi n

ày, có những vị thần thông

đắc đạo ở đó. Kế đó lại có núi t

ên Bàn-trà-bà, kế

đó lại có núi t

ên Kỳ-xà-quật. Ðây là nơi cõi Diêm-phù-

đề nương tựa.

Tỳ-kheo nên biết, hoặc có lúc thế gian này muốn bại hoại, khi ấy trời chẳng mưa, những hạt mầm gieo trồng không lớn lên, bao nhiêu khe suối, sông nhỏ

đều

khô kiệt, tất cả các hành

đều quy về vô thường, không tồn tại lâu d

ài.

Tỳ-kheo nên biết, hoặc có lúc bốn dòng sông lớn là Hằng Hà, Tư-

đầu, Tất-đ

à, Bà-xoa cũng

đều khô cạn tất cả.

Ðúng thế Tỳ-kheo, vô thường tr

ăm lần biến đổi, chính l

à thế.

Tỳ-kheo, hoặc có lúc, thế gian có hai mặt trời xuất hiện, khi ấy tr

ăm thứ cỏ cây đều rơi rụng, đi

êu tàn. Ðúng thế, Tỳ-kheo , vô thường biến

đổi không có bền lâu. Lúc ấy các nguồn suối, d

òng nước nhỏ

đều khô cạn. Tỳ-kheo n

ên biết, khi hai mặt trời xuất hiện, nước bốn biển lớn khô cạn, trong khoảng một tr

ăm do-tuần, dần dần đến bảy trăm do-tuần, nước tự nhi

ên cạn.

Tỳ-kheo nên biết, lúc thế gian có ba mặt trời xuất hiện, nước bốn biển lớn trong vòng một ngàn do-tuần, tự nhiên khô cạn, dần dần

đến bảy ng

àn do-tuần nước tự nhiên cạn.

Tỳ-kheo nên biết, nếu lúc bốn mặt trời xuất hiện ở thế gian, thì nước bốn biển sẽ rút sâu một ngàn do-tuần. Ðúng vậy, Tỳ-kheo, tất cả hành

đều vô thường không có bền lâu.

Tỳ-kheo nên biết, hoặc có lúc n

ăm mặt trời xuất hiện ở thế gian, khi đó nước bốn biển chỉ c

òn bảy tr

ăm do-tuần, dần dần đến một trăm do-tuần.

Tỳ-kheo nên biết, lúc n

ăm mặt trời xuất hiện, khi ấy nước biển c

òn một do-tuần, dần dần khô cạn không còn gì hết. Nếu lúc n

ăm mặt

trời xuất hiện, còn

đúng bảy thước nước. Lúc năm mặt trời xuất hiện, bốn biển khô cạn không c

òn chút nước nào. Tỳ-kheo nên biết, tất cả hành vô thường không

được bền lâu.

Tỳ-kheo nên biết, hoặc có lúc sáu mặt trời xuất hiện, cõi

đất d

ày sáu vạn tám ngàn do-tuần này sẽ bốc khói hết. Núi Tu-di cũng dần dần chảy tan. Lúc sáu mặt trời xuất hiện, tam thiên

đại thi

ên quốc

độ n

ày

đều chảy tan hết, ví như người thợ gốm đốt đồ gốm. Lúc ấy tam thi

ên

đại thi

ên cõi nước cũng lại như thế, lửa dậy khắp mọi nơi.

Tỳ-kheo nên biết, lúc sáu mặt trời xuất hiện, tám

địa ngục lớn cũng bị ti

êu diệt, mọi người chết hết. N

ăm bậc Trời ở núi Tu-di cũng mạng chung, trời Ba mươi ba, trời Diệm thi

ên, cho

đến trời Tha hóa tự tại cũng mạng chung, cung điện trống trơn. Nếu lúc sáu mặt trời xuất hiện, núi Tu-di v

à tam thiên

đại thi

ên cõi nước

đều trống không chẳng c

òn gì. Ðúng vậy Tỳ-kheo, tất cả hành vô thường, không có bền lâu.

Tỳ-kheo nên biết, có lúc bảy mặt trời xuất hiện ở

đời, đất n

ày tuy dày sáu vạn tám ngàn do-tuần và tam thiên

đại thi

ên cõi nước thảy

đều bốc lửa. Lúc bảy mặt trời xuất hiện, núi Tu-di dần dần tan chảy, trăm ng

àn do-tuần tự nhiên

đổ vỡ không c

òn gì cả, không còn thấy một phần khói bụi huống là thấy tro.

Khi ấy từ trời Ba mươi ba cho

đến trời Tha hóa tự tại, tất cả cung điện đều bốc lửa, lửa hừng nóng đến trời Phạm thi

ên. Thiên tử mới sanh ở cung trời ấy, vì chưa thấy kiếp thiêu, thấy ánh lửa nóng này thảy

đều hoảng sợ, lo sẽ bị lửa đốt. Nhưng những vị Thi

ên tử sống lâu,

đ

ã từng thấy kiếp thiêu liền

đến an ủi những Thi

ên tử sanh sau: 'Các ông chớ khiếp sợ, lửa này không

đến thấu đây'.

Tỳ-kheo nên biết, lúc bảy mặt trời xuất hiện, từ cõi

đời n

ày

đến sáu từng trời c

õi dục cho

đến tam thi

ên

đại thi

ên quốc

độ đều th

ành tro

đất, không c

òn bóng dáng hình chất. Ðúng vậy, Tỳ-kheo, tất cả hành vô thường, chẳng thể bảo

đảm lâu bền, tất cả đều đi đến hoại diệt.

Khi ấy nhân dân chết hết, sinh vào quốc

độ phương khác hoặc sanh l

ên Trời. Các chúng sanh ở trong

địa ngục nếu tội cũ đ

ã xong thì sanh lên Trời hoặc cõi nước phương khác. Tỳ-kheo nên biết, nếu lúc bảy mặt trời xuất hiện, không còn dấu vết của ánh sáng mặt trời, mặt tr

ăng, tinh tú. Khi đó mặt trời, mặt trăng đ

ã hoại diệt, không còn ngày

đ

êm. Này Tỳ-kheo,

đó l

à do báo duyên nên bị bại hoại như thế.

Tỳ-kheo lại nên biết, lúc kiếp thành tựu trở lại, lúc ấy lửa tự diệt mất, trong hư không có

đám mây lớn nổi l

ên, dần dần mưa xuống, khi

đó ba ng

àn

đại thi

ên thế giới tràn ngập nước, lên

đến trời Phạm thi

ên. Tỳ-kheo nên biết, lúc

đó nước dần dần dừng lại rồi tự ti

êu diệt, lại có gió nổi lên gọi là Tùy lam (khí núi) thổi nước này tụ vào một chỗ. Khi ấy, gió kia làm nổi lên ngàn núi Tu-di, ngàn núi Kỳ-di-

đ

à, ngàn núi Ni-di-

đ

à, ngàn núi Khư-la, ngàn núi Y-sa, ngàn núi Tỳ-na, ngàn núi Thiết Vi, ngàn núi Ðại Thiết Vi; lại sanh tám ngàn

địa ngục, lại sanh ng

àn núi Mã Ðầu, ngàn núi Hương Tích, ngàn núi Bàn-trà-bà, ngàn núi Ưu-xà-già, ngàn Diêm-phù-

đề, ng

àn Cù-da-ni, ngàn Phất-vu-

đệ, ng

àn Uất-

đơn-việt, lại sanh nước ng

àn biển, lại sanh ngàn cung Tứ thiên vương, ngàn trời Ba mươi ba, ngàn Diễm thiên, ngàn Ðâu-suất thiên, ngàn Hóa tự tại thiên, ngàn Tha hóa tự tại thiên.

Tỳ-kheo nên biết, lúc ấy nước diệt,

đất lại sanh trở lại, tr

ên mặt

đất tự nhi

ên có lớp

đất m

àu mỡ, rất là thơm ngon hơn cả cam lồ. Nên biết mùi vị của lớp

đất m

àu mỡ này ví như rượu ngọt bồ

đ

ào.

Tỳ-kheo nên biết, khi ấy trời Quang Âm bảo nhau: 'Chúng tôi muốn

đến Di

êm-phù-

đề ngắm xem h

ình thể cõi

đất ấy lúc ho

àn thành trở lại'.

Chư Thiên trời Quang Âm liền xuống thế gian, thấy trên

đất có lớp đất m

àu mỡ này liền lấy tay quẹt

đưa v

ào miệng nếm và

ăn. Khi ấy Thi

ên tử nào

ăn lớp đất m

ày này nhiều thì trở nên mất oai thần, cũng không có ánh sáng, thân thể trở nên nặng nề, sanh ra xương thịt, mất hết thần túc, không bay

được nữa. Thi

ên tử nào

ăn đất m

àu ít, thân thể không nặng, không mất thần túc, cũng có thể phi hành trong hư không. Lúc

đó các Thi

ên tử mất thần túc, cùng nhau kêu khóc và bảo nhau: 'Hôm nay, chúng ta thật là nguy khốn, mất hết thần túc, phải ở thế gian, không lên trời

được nữa!'. Họ b

èn

ăn lớp đất m

àu này và nhìn nhau sắc nhau. Người nào dục ý nhiều thì thành

đ

àn bà, rồi làm tình dục, cùng nhau vui thú.

Này Tỳ-kheo,

đó l

à lúc thế gian mới thành lập, có sự dâm dục lan tràn thế gian. Ðó là cách thức thông thường của

đ

àn bà xuất hiện ở

đời, cũng l

à pháp cũ không phải mới có

đây.

Khi ấy, các Thiên tử Quang Âm khác, thấy các thiên tử này

đọa lạc, đều đến trách mắng họ: 'Các Ông v

ì sao lại làm hạnh bất tịnh này?' Khi

đó các chúng sanh nghĩ: 'Chúng ta phải t

ìm cách nào tiện nghi

để ăn ở với nhau cho người chẳng thấy'. Rồi từ từ họ l

àm nhà cửa

để che thân thể. Tỳ-kheo, đó l

à nguyên nhân ngày nay có nhà cửa.

Tỳ-kheo nên biết, lúc

đó, lớp đất m

àu mỡ tự nhiên chui vào

đất, sau lại sanh lúa gạo, rất tươi tốt, sạch sẽ không có lớp vỏ, rất thơm ngon khiến người ăn mập trắng. Sáng, người ta thu thập, chiều nó lại sanh; nếu chiều thu th

ì sáng sanh ra. Tỳ-kheo, từ

đó mới sanh ra t

ên lúa gạo. Tỳ-kheo, khi ấy nhân dân lười biếng, chẳng siêng n

ăng sinh hoạt, họ nghĩ: 'Nay ta ng

ày ngày

đi thu gạo thóc l

àm chi. Hãy

để hai ng

ày

đi gom một lần'. Khi ấy, người kia để hai ng

ày mới

đi thu một lần. Nhân dân lần lượt có thai. Do đây mới có việc sanh đẻ. Lại có chúng sanh bảo người kia:

- Chúng ta cùng

đi thu lúa gạo đi!

Người kia

đáp:

- Tôi

đ

ã lấy lương thực hai ngày rồi.

Người này nghe xong liền tự nghĩ: 'Mình nên chứa lương thực bốn ngày'. Rồi liền lo lương thực bốn ngày. Lại có người bảo người ấy rằng:

- 'Nên cùng nhau ra ngoài thu lúa gạo'.

Người này

đáp:

- 'Tôi

đ

ã thu lương thực bốn ngày'.

Người kia nghe xong liền nghĩ: 'Ta nên lo lương thực tám ngày'. Và người ấy lo dự trữ thức

ăn tám ng

ày. Khi ấy lúa gạo kia không sanh ra nữa. Mọi người

đều nghĩ: 'Thế gian có tai nạn lớn. Nay lúa gạo n

ày không còn như cũ. Hãy chia lúa gạo này ra'.

Rồi họ chia lúa gạo. Bấy giờ chúng sanh lại nghĩ: 'Nay ta hãy giấu lúa gạo của mình và hãy

ăn trộm lúa gạo người khác'.

Khi ấy, chúng sanh kia giấu lúa gạo của mình rồi

ăn trộm lúa gạo người khác. Người chủ kia thấy trộm lúa gạo mới bảo người ấy:

- 'Ông vì sao lấy lúa gạo của ta. Lần này ta tha tội cho Ông, chớ có tái phạm'.

Bấy giờ, thế gian bắt

đầu có tâm trộm cắp. Lại có chúng sanh nghe lời n

ày liền nghĩ: 'Nay ta nên giấu lúa gạo của mình và

ăn trộm lúa gạo người khác'.

Khi ấy, chúng sanh kia bỏ vật của mình và lấy trộm của người. Người chủ kia thấy rồi bảo người ấy rằng:

- 'Nay Ông vì sao lấy lúa gạo của ta?'.

Nhưng người

đó im lặng không đáp. Lúc đó người chủ mới d

ùng nắm tay mà

đánh nhau:

- 'Từ nay về sau chớ có xâm phạm'.

Khi ấy, rất nhiều người nghe chúng sanh

ăn trộm lẫn nhau, mỗi người đều nhóm họp bảo nhau rằng:

- 'Thế gian có việc phi pháp này, mỗi người cùng

ăn trộm lẫn nhau. Nay h

ãy lập người giữ ruộng,

để giữ g

ìn ruộng rẫy. Có chúng sanh tài cao, thông minh, hãy lập làm chủ giữ ruộng'.

Bấy giờ, họ chọn lựa

điền chủ v

à bảo:

- 'Các Ông nên biết, thế gian có sự trộm cắp phi pháp này. Nay Ông giữ ruộng hãy coi sóc bông hạt, nhưng người

đến lấy lúa gạo của người khác th

ì nêu tội họ'.

Khi ấy liền

đặt điền chủ.

Tỳ-kheo nên biết! Bấy giờ người giữ ruộng gọi là dòng Sát-lợi. Ðó là pháp cũ, chẳng phải là pháp mới.

Khi ấy Thế Tôn liền nói kệ này:

Ðầu tiên dòng Sát-lợi,

Cao nhất trong các dòng,

Người thông minh cao tài,

Ðược Trời Người cung kính.

Bấy giờ có nhân dân nào xâm phạm vật của người khác thì dòng Sát-lợi sẽ trừng phạt họ. Nhưng sau người kia không sửa lỗi, lại phạm nữa, chủ Sát-lợi ra lệnh làm

đao gậy chặt đầu người kia. Lúc ấy thế gian mới bắt đầu có sát sanh. Nhiều người nghe lệnh giết n

ày: 'Người

ăn trộm lúa gạo người khác, Sát-lợi chủ sẽ bắt giết' đều sợ h

ãi, lông tóc dựng ngược. Ai nấy

đều cất nh

à cỏ, ngồi Thiền trong

đó, nhất tâm tu Phạm hạnh, bỏ l

ìa nghiệp nhà, vợ con, hầu thiếp. Một mình ở chỗ vắng vẻ, dốc chí tu Phạm hạnh. Nhân

đây về sau có t

ên họ của Bà-la-môn.

Khi

đó, có hai chủng tánh xuất hiện ở đời. Tỳ-kheo n

ên biết, khi ấy do trộm cắp mà có sát sanh, do sát sanh nên có dao gậy. Sát-lợi chủ bảo nhân dân:

- 'Người nào

đoan chính t

ài cao, hãy cho thống lãnh nhân dân này'.

Sát-lợi chủ lại bảo họ rằng:

- 'Nhân dân nào

ăn trộm th

ì cho trừng trị tội nó'.

Khi

đó liền có chủng tánh Tỳ-xá xuất hiện ở đời. Có nhiều chúng sanh nghĩ rằng: 'Ng

ày nay chúng sanh sát sinh lẫn nhau

đều do tiền nghiệp gây ra. Nay ta n

ên qua lại xoay vần

để tự sinh sống'.

Bấy giờ liền có chủng tánh Thủ-

đ

à-la xuất hiện thế gian.

Khi ấy Thế Tôn liền nói kệ này:

Trước tiên dòng Sát-lợi,

Kế có Bà-la-môn,

Thứ ba là Tỳ-xá,

Tiếp là họ Thủ-

đ

à.

Có bốn chúng tánh này,

Lần lần sanh lẫn nhau,

Ðều là thân Trời

đến,

Cùng

đồng l

à một vẻ.

Tỳ-kheo nên biết, lúc có tâm giết và trộm này, không còn có lúa gạo tự nhiên hiện nữa. Khi ấy, liền có n

ăm loại ngũ cốc: rễ, cọng, c

ành, hoa, trái, và sanh các hạt giống khác. Ðó là n

ăm hạt giống đều l

à từ cõi nước phương khác theo gió thổi

đến, người ta lấy trồng d

ùng

đây để sống.

Như thế, Tỳ-kheo thế gian có

điềm ứng n

ày, liền có sanh, già, bệnh, chết

đến, khiến hôm nay có thân năm ấm, chẳng dứt được mé khổ.

Ðây gọi là sự biến

đổi của kiếp th

ành hoại. Ta nói với các Thầy! Việc

đáng l

àm của chư Phật Thế Tôn, nay Ta

đ

ã nói hết cho các Thầy, hãy ưa thích chỗ vắng vẻ, nên nhớ tọa thiền chớ giải

đ

ãi, ngày nay nếu không tinh thành, sau hối hận vô ích. Ðây là lời dạy của Ta.

Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

2. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở thành La-duyệt trong vườn trúc Ca-lan-

đ

à, cùng với chúng

đại Tỳ-kheo năm trăm người.

Bấy giờ, vua A-xà-thế nước Ma-kiệt nói với quần thần rằng:

- Nước Bạt-kỳ rất thịnh vượng, dân cư

đông đúc. Ta sẽ chinh phạt chiếm đất nước đó.

Lúc ấy, vua A-xà-thế lại bảo Bà-la-môn Bà-lợi-ca rằng:

- Nay Ông

đến chỗ Thế Tôn, đem t

ên họ ta th

ăm hỏi Thế Tôn, lễ kính, thừa sự rồi thưa rằng: 'Vua A-x

à-thế bạch

đức Thế Tôn, vua có ý muốn chinh phạt nước Bạt-kỳ có được hay không?' Nếu Như Lai có nói g

ì, Ông hãy khéo suy nghĩ rồi về nói cho ta. Vì sao thế? Như Lai nói không hai lời.

Bấy giờ Bà-la-môn vâng lời vua dạy,

đến chỗ Thế Tôn, thưa hỏi rồi ngồi một b

ên. Khi

đó, B

à-la-môn bạch Phật:

- Vua A-xà-thế lễ kính Thế Tôn, thừa sự, th

ăm hỏi.

Và Bà-la-môn ấy bạch thêm rằng:

- Ý vua muốn chinh phạt nước Bạt-kỳ, trước

đến hỏi Phật xem có được không?

Khi ấy Thế Tôn thấy Bà-la-môn kia lấy y che

đầu, chân mang gi

ày ngà voi, lưng

đeo kiếm bén, chẳng n

ên thuyết pháp cho ông ta. Thế Tôn mới bảo A-nan:

- Nếu dân chúng Bạt-kỳ-tu bảy pháp thì trọn không bị ngoại xâm tiêu diệt. Thế nào là bảy? Nếu nhân dân Bạt-kỳ tụ tập một nơi không phân tán thì không bị nước khác phá hoại. Ðó là pháp

đầu ti

ên không bị giặc ngoài phá hoại.

Lại nữa A-nan, người nước Bạt-kỳ trên dưới hòa thuận, thì nhân dân Bạt-kỳ không bị người ngoài cầm giữ. A-nan! Ðó là pháp thứ hai không bị giặc ngoài phá hoại.

Lại nữa A-nan, nếu người nước Bạt-kỳ không dâm dục với

đ

àn bà của người khác. Ðó là pháp thứ ba không bị giặc ngoài phá hoại.

Lại nữa A-nan, nếu người nước Bạt-kỳ không

đem việc ở đây truyền đến chỗ kia, cũng lại không đem việc đ

àng kia truyền lại

đ

àng này... Ðó là pháp thứ tư không bị giặc ngoài phá hoại.

Lại nữa A-nan, nếu người nước Bạt-kỳ cúng dường Sa-môn, Bà-la-môn, thừa sự, lễ kính người Phạm hạnh... Ðó là pháp thứ n

ăm không bị giặc ngo

ài phá hoại.

Lại nữa A-nan, nếu người nước Bạt-kỳ không tham lam tài sản của người khác... Ðó là pháp thứ sáu không bị giặc ngoài phá hoại.

Lại nữa A-nan, nếu người nước Bạt-kỳ

đều đồng một l

òng không theo thần tự, chuyên tinh ý mình, liền chẳng bị giặc ngoài phá hoại. Ðó là pháp thứ bảy không bị giặc ngoài phá hoại.

A-nan,

đó l

à người Bạt-kỳ tu bảy pháp này, trọn không bị giặc ngoài phá hoại.

Khi ấy Phạm chí bạch Phật:

- Dù cho người nước Bạt-kỳ chỉ thành tựu một pháp thôi, cũng không thể phá hoại

được, huống l

à

đến bảy pháp th

ì làm sao phá hoại

được. Thôi, thôi! Bạch Thế Tôn, việc nước bề bộn tôi muốn trở về chỗ m

ình.

Bấy giờ Phạm chí liền từ tòa

đứng l

ên mà

đi. Ông ta đi chưa xa, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

- Nay Ta sẽ nói bảy pháp bất thối chuyển, các Thầy nên lắng nghe, khéo suy nghĩ.

Các Tỳ-kheo bạch Phật:

- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.

Bấy giờ, các Tỳ-kheo vâng lời Phật dạy, Thế Tôn bảo:

- Thế nào là bảy pháp bất thối chuyển? Tỳ-kheo nên biết, Tỳ-kheo tụ họp chung một chỗ, hòa thuận với nhau, trên dưới kính nhường, càng lúc càng tiến lên, tu các pháp lành không thối chuyển, không

để Ma được lợi thế.

Ðó là pháp bất thối chuyển

đầu ti

ên.

Lại nữa, chúng T

ăng h

òa hợp, thuận theo lời dạy càng tiến lên, không thối chuyển, chẳng bị Ma vương phá hoại. Ðó là pháp bất thối chuyển thứ hai.

Lại nữa, Tỳ-kheo không

đắm công việc, không tập t

ành việc

đời, cứ tiến tới, không để Thi

ên ma

được tiện lợi.

Ðó là pháp bất thối chuyển thứ ba.

Lại nữa, Tỳ-kheo, không tụng

đọc sách tạp, suốt ng

ày thúc liễm tình ý càng tiến lên, không

để Ma vương được tiện lợi.

Ðó là pháp bất thối chuyển thứ tư.

Lại nữa, Tỳ-kheo chuyên cần tu pháp trừ khử thùy miên, hằng tự r

ăn nhắc tỉnh táo, c

àng tiến lên trên, không

để Ma được tiện lợi.

Ðó là pháp bất thối chuyển thứ n

ăm.

Lại nữa, Tỳ-kheo, không học toán thuật, cũng không khiến người tập thành nó, ưa chỗ vắng vẻ, tu tập pháp này, ngày càng tiến lên, không

để Ma được tiện lợi.

Ðó là pháp bất thối chuyển thứ sáu.

Lại nữa, Tỳ-kheo, khởi lên ý tưởng 'tất cả thế gian không có gì

đáng ưa thích', tu tập Thiền hạnh, kham nhẫn theo các pháp được dạy, c

àng tiến lên, không

để Ma được tiện lợi.

Ðó là pháp bất thối chuyển thứ bảy. Nếu có Tỳ-kheo thành tựu bảy pháp này, hòa thuận với nhau, thì Ma sẽ không

được tiện lợi.

Khi ấy, Thế Tôn nói kệ:

Trừ bỏ các sự nghiệp,

Không suy nghĩ loạn bậy,

Nếu không hành

điều n

ày,

Cũng chẳng

được tam-muội.

Người hay vui với pháp,

Phân biệt nghĩa pháp này,

Tỳ-kheo ưa hạnh này,

Sẽ

đến tam-muội định.

Thế nên, Tỳ-kheo, hãy cầu phương tiện thành tựu bảy pháp này. Như thế, này các Tỳ-kheo, hãy học

điều n

ày!

Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

3. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-

đ

à, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

- Nay Ta sẽ nói về bảy sử. Các Thầy hãy khéo nghĩ nhớ.

Các Tỳ-kheo

đáp:

- Xin vâng, bạch Thế Tôn.

Khi ấy, các Tỳ-kheo vâng lời Phật dạy. Thế Tôn bảo:

- Thế nào là bảy? Tham dục sử, sân nhuế sử, kiêu mạn sử, si sử, nghi sử, kiến sử, dục thế gian sử.

Này Tỳ-kheo,

đó l

à bảy sử khiến cho chúng sanh thường ở trong u tối, bị trói buộc thân mình, lưu chuyển trong thế gian không hề ngừng nghỉ, cũng không thể biết cội rễ sanh tử. Ví như hai con trâu một

đen, một trắng, mang chung một ách c

ùng kéo dẫn nhau, không cách xa

được. Chúng sanh cũng như thế, bị tham dục sử, vô minh sử, trói buộc không l

ìa nhu

được. Năm sử kia cũng lại đuổi theo; năm sử vừa theo, bảy sử cũng thế. Người ph

àm phu bị bảy sử này trói buộc, lưu chuyển trong sanh tử không giải thoát

được, không thể biết nguồn gốc của khổ.

Tỳ-kheo nên biết, do bảy sử này bèn có ba

đường ác: địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh. Do bảy sử n

ày không thể qua khỏi cảnh giới tệ Ma. Nhưng bảy sử này lại có bảy phương thuốc. Thế nào là bảy? Tham dục sử thì có niệm giác ý trị. Sân nhuế sử có trạch pháp giác ý trị. Tà kiến sử có tinh tấn giác ý trị. Dục thế gian sử có hỷ giác ý trị. Kiêu mạn sử có khinh an giác ý trị. Nghi sử có

định giác ý trị. Vô minh sử có

hộ (xả) giác ý trị. Này Tỳ-kheo! Ðó là bảy sử dùng bảy giác ý trị.

Tỳ-kheo nên biết! Lúc Ta chưa thành Phật,

đang h

ành hạnh Bồ-tát, ngồi dưới cây Bồ-

đề, khởi niệm n

ày: 'Chúng sanh cõi dục bị những gì trói buộc?' Rồi lại nghĩ: 'Chúng sanh bị bảy sử trói buộc lưu chuyển trong sanh tử, mãi mãi không giải thoát

được. Nay Ta cũng bị bảy sử n

ày trói buộc không

được giải thoát'. Lúc ấy Ta lại nghĩ: 'Bảy sử n

ày dùng gì

để trị?'. Ta lại suy nghĩ nữa: 'Bảy sử n

ày sẽ dùng Bảy giác ý trị'.

Ta nên tư duy Bảy giác ý. Lúc Ta tư duy Bảy giác ý, tâm hữu lậu

được dứt, liền được giải thoát. Sau th

ành

đạo Vô Thượng Chánh Chân.

Trong bảy ngày ngồi kiết-già, tư duy Bảy giác ý này một lần nữa.

Thế nên các Tỳ-kheo! Nếu muốn bỏ bảy sử, nên nhớ tu hành pháp Bảy giác ý. Như thế, các Tỳ-kheo, nên học

điều n

ày.

Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

4. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-

đ

à, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

- Có bảy hạng người

đáng thờ, đáng kính, họ l

à phước

điền vô thượng của thế gian. Thế n

ào là bảy hạng người? Ðó là: Hành từ, hành bi, hành hỉ, hành hộ (xả), hành không, hành vô tướng, hành vô nguyện. Ðó là bảy hạng người

đáng thờ, đáng kính, l

à phước

điền vô thượng của thế gian. V

ì sao thế? Nếu có chúng sanh hành bảy pháp này thì ở trong hiện pháp thu hoạch

được quả báo.

Bấy giờ A-nan bạch Thế Tôn:

- Vì cớ sao Thế Tôn không nói Tu-

đ

à-hoàn, Tư-

đ

à-hàm, A-na-hàm, A-la-hán, Bích-chi Phật và Phật mà lại nói bảy pháp này?

Thế Tôn bảo:

- Người hành từ cho

đến bảy pháp h

ành cùng với Tu-

đ

à-hoàn cho

đến Phật, việc n

ày không

đồng. D

ù cúng dường Tu-

đ

à-hoàn cho

đến Phật cũng không được quả báo hiện tại; nhưng cúng dường bảy người n

ày, ở hiện

đời được quả báo. Thế n

ên, A-nan, nên chuyên cần dũng mãnh thêm

để ho

àn thành bảy pháp. Như thế, A-nan, nên học

điều n

ày!

Bấy giờ, A-nan nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

5. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở Tỳ-xá-ly, bên ao Di-hầu, cùng với n

ăm trăm chúng đại Tỳ-kheo.

Khi ấy Thế Tôn

đến giờ đắp y, ôm bát, c

ùng A-nan vào Tỳ-xá-ly khất thực. Bấy giờ trong thành Tỳ-xá-ly có

đại trưởng giả t

ên Tỳ-la-tiên, giàu có, nhiều tài sản chẳng thể tính kể, nhưng lại keo kiệt tham lam không có lòng bố thí, chỉ hưởng phước cũ, không tạo thêm phước mới. Lúc

đó trưởng giả ấy đang c

ùng các dâm nữ ở hậu cung

đ

àn hát, ca xướng vui chơi.

Thế Tôn

đi đến hướng ấy, Ng

ài biết mà vẫn hỏi Tôn giả A-nan:

- Nay Ta nghe tiếng hát xướng, kỹ nhạc là ở nhà nào?

A-nan bạch Phật:

- Ðó là ở nhà trưởng giả Tỳ-la-tiên.

Phật bảo A-nan:

- Trưởng giả này sau bảy ngày sẽ chết và sanh trong

địa ngục Thế Khốc. V

ì sao thế? Ðó là lẽ thường. Nếu người

đoạn căn l

ành thì lúc mạng chung

đều sanh trong địa ngục Thế Khốc. Nay trưởng giả n

ày phước cũ

đ

ã hết, lại không chịu tạo phước mới.

A-nan bạch Phật:

- Có nhân duyên nào khiến trưởng giả này sau bảy ngày không chết ch

ăng?

Phật bảo A-nan:

- Chẳng có nhân duyên nào mà làm ông ta không chết

được. Những hạnh ông ta gieo trồng ng

ày xưa, hôm nay

đ

ã hết. Ðiều này không thể tránh khỏi.

A-nan bạch Phật:

- Có cách nào khiến trưởng giả này không sanh vào

địa ngục Thế Khốc chăng?

Phật bảo:

- A-nan! Có cách này có thể khiến trưởng giả không vào

địa ngục.

A-nan bạch Phật:

- Những nhân duyên nào khiến trưởng giả không vào

địa ngục?

Phật bảo A-nan:

- Nếu trưởng giả này chịu cạo bỏ râu tóc, mặc ba pháp y, xuất gia học

đạo th

ì có thể khỏi tội này

được.

A-nan bạch Phật:

- Nay con có thể khiến cho trưởng giả này xuất gia học

đạo.

Bấy giờ Tôn giả A-nan từ giã Thế Tôn,

đi đến đứng ngo

ài cửa nhà ông trưởng giả. Lúc ấy, Trưởng giả từ xa trông thấy A-nan

đến liền ra cửa tiếp đón thỉnh ng

ài vào ngồi. Rồi A-nan bảo trưởng giả:

- Nay tôi ở bên bậc Nhất Thiết Trí

được nghe Như Lai thọ ký Ông sau bảy ng

ày sẽ chết và sanh vào

địa ngục Thế Khốc.

Trưởng giả nghe xong lông tóc dựng ngược, kinh hãi bạch Tôn giả A-nan:

- Có nhân duyên gì làm tôi trong bảy ngày không chết ch

ăng?

A-nan bảo:

- Không có nhân duyên nào khiến Ông trong bảy ngày khỏi chết.

Trưởng giả lại bạch:

- Có nhân duyên nào khiến tôi chết không sanh vào

địa ngục Thế Khốc chăng?

A-nan bảo:

- Thế Tôn cũng có dạy rằng nếu Trưởng giả cạo tóc, mặc ba pháp y, xuất gia học

đạo sẽ không phải v

ào

địa ngục Thế Khốc. Ông phải n

ên xuất gia học

đạo, đến được bờ kia.

Trưởng giả bạch:

- Ngài A-nan hãy

đi trước đi, tôi sẽ đến ngay.

Khi ấy, Tôn giả A-nan liền bỏ

đi. Trưởng giả liền nghĩ: 'Nói bảy ng

ày cũng còn xa, nay ta nên vui chơi ngũ dục, rồi sau hãy xuất gia học

đạo'.

Tôn giả A-nan ngày hôm sau

đến nh

à trưởng giả, bảo ông ta:

- Một ngày

đ

ã qua, còn có sáu ngày, phải xuất gia

đi!

Trưởng giả bạch:

- Ngài A-nan hãy

đi trước, tôi sẽ theo sau ngay.

Nhưng trưởng giả ấy vẫn không

đi. Ng

ài A-nan, hai ngày, ba ngày cho

đến sáu ng

ày

đến nh

à trưởng giả, bảo ông ta:

- Bây giờ hãy xuất gia, nếu không sau hối không kịp. Nếu không xuất gia hôm nay sẽ chết, rồi sanh trong

địa ngục Thế Khốc.

Trưởng giả bạch A-nan:

- Tôn giả hãy

đi trước, tôi sẽ theo sau.

A-nan bảo:

- Trưởng giả! Hôm nay Ông dùng thần túc nào

đến kia được m

à bảo ta

đi trước? Ta muốn đi một lượt với Ông.

Khi ấy A-nan dẫn trưởng giả này

đến chỗ Thế Tôn, cúi lạy v

à bạch Phật:

- Nay trưởng giả này muốn

được xuất gia học đạo, cúi mong Như Lai h

ãy cạo bỏ râu tóc cho ông ta,

để ông ta được học đạo.

Phật bảo A-nan:

- Nay chính Thầy có thể

độ trưởng giả n

ày.

A-nan vâng lời Phật dạy tức thời cạo tóc cho trưởng giả, dạy

đắp ba pháp y v

à học Chánh pháp. Lúc ấy A-nan dạy Tỳ-kheo

đó rằng:

- Ông nên nhớ tu hành, niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tỳ-kheo T

ăng, niệm Giới, niệm Thí, niệm Thi

ên, niệm Thôi dứt, niệm Hơi thở, niệm Thân, niệm Tử. Nên tu hành pháp như thế. Tỳ-kheo hành mười niệm này sẽ

được quả báo lớn, được pháp vị cam lồ.

Khi ấy Tỳ-la-tiên tu hành pháp như thế rồi; ngay ngày ấy mạng chung sanh trong Tứ thiên vương. A-nan liền trà-tỳ thân ông ta, trở về chỗ Thế Tôn, cúi lạy rồi

đứng một b

ên.

Bấy giờ A-nan bạch Thế Tôn:

- Vừa rồi Tỳ-kheo Tỳ-la-tiên

đ

ã mạng chung, sẽ sanh về

đâu?

Thế Tôn bảo:

- Nay Tỳ-kheo này mạng chung sanh lên cõi trời Tứ thiên vương.

A-nan bạch Phật:

- Ông ta ở

đó mạng chung sẽ sanh về đâu?

Thế Tôn bảo:

- Ông ta ở

đó mạng chung sẽ sanh trời Ba mươi ba, lần lượt sanh Diệm thi

ên, Ðâu-suất thiên, Hóa tự tại thiên, Tha hóa tự tại thiên. Từ

đó ông ta mạng chung lại sanh trở lại cho đến trời Tứ thi

ên vương. A-nan! Tỳ-kheo Tỳ-la-tiên, bảy phen xoay vần trong Trời, Người. Cuối cùng ông ta

được thân người xuất gia, học đạo, sẽ dứt mé khổ. V

ì sao thế? Vì ông ta có tín tâm

đối với Như Lai. A-nan n

ên biết! Cõi Diêm-phù-

đề n

ày, Nam Bắc hai vạn một ngàn do-tuần; Ðông Tây bảy ngàn do-tuần. Nếu có người cúng dường người khắp cõi Diêm-phù-

đề, phước đó có nhiều không?

Tôn giả A-nan bạch Phật:

- Rất nhiều, rất nhiều, bạch Thế Tôn.

Phật bảo A-nan:

- Nếu có chúng sanh chỉ trong một khoảng khắc, không dứt tín tâm tu hành mười niệm này, phước chẳng thể lường, không thể lường

được. Như thế, A-nan! H

ãy cầu phương tiện tu hành mười niệm. Như thế A-nan, hãy học

điều n

ày!

Bấy giờ, Tôn giả A-nan nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

6. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-

đ

à, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

- Ta sẽ thuyết pháp cực diệu, ban

đầu, ở giữa v

à rốt sau

đều l

ành, nghĩa lý thâm sâu,

đầy đủ để tu Phạm hạnh. Kinh n

ày gọi là 'Pháp sạch các lậu'. Các Thầy khéo suy nghĩ

đó.

Tỳ-kheo

đáp:

- Xin vâng, bạch Thế Tôn.

Các Tỳ-kheo vâng lời Phật dạy. Thế Tôn bảo:

- Tại sao gọi là 'pháp sạch các lậu'? Hoặc có hữu lậu duyên kiến mà

được đoạn, hoặc có hữu lậu nhờ thân cận được đoạn, hoặc có hữu lậu do xa l

ìa

được đoạn, hoặc có hữu lậu do vui thích được đoạn, hoặc có hữu lậu do oai nghi được đoạn, hoặc có hữu lậu do tư duy được đoạn.

Thế nào là hữu lậu do kiến

được đoạn? Ở đây, người ph

àm phu chẳng gặp Thánh nhân, không thuận theo pháp Như Lai, chẳng thể ủng hộ pháp Hiền Thánh, chẳng gần gũi Thiện tri thức, chẳng phụng sự Thiện tri thức. Họ nghe pháp,

điều

đáng suy nghĩ cũng không phân biệt được; điều không n

ên suy nghĩ thì lại suy nghĩ; dục lậu chưa sanh liền sanh, dục lậu

đ

ã sanh liền t

ăng th

êm nhiều; hữu lậu chưa sanh liền sanh, hữu lậu

đ

ã sanh liền t

ăng th

êm nhiều; vô minh lậu chưa sanh liền sanh, vô minh lậu

đ

ã sanh liền t

ăng th

êm nhiều. Ðây là pháp chẳng nên tư duy mà lại tư duy.

Thế nào là pháp

đáng tư duy m

à không chịu tư duy pháp này? Pháp nên tư duy là dục lậu chưa sanh, khiến cho chẳng sanh, dục lậu

đ

ã sanh thì tiêu diệt

đi; hữu lậu chưa sanh khiến cho chẳng sanh, hữu lậu đ

ã sanh thì tiêu diệt

đi; vô minh lậu chưa sanh khiến cho chẳng sanh, vô minh lậu đ

ã sanh thì tiêu diệt

đi.

Ðó là pháp

đáng n

ên tư duy mà không tư duy; pháp không nên tư duy thì tư duy, pháp nên tư duy lại không chịu tư duy; dục lậu chưa sanh liền sanh, dục lậu

đ

ã sanh t

ăng th

êm; hữu lậu chưa sanh liền sanh, hữu lậu

đ

ã sanh liền t

ăng th

êm; vô minh lậu chưa sanh liền sanh, vô minh lậu

đ

ã sanh liền t

ăng th

êm.

Người ấy suy nghĩ thế này: 'Thế nào là có quá khứ lâu xa? Nay ta phải có quá khứ lâu xa'.

Người ấy lại suy nghĩ: 'Không có quá khứ lâu xa. Thế nào mà có quá khứ lâu xa? Thế nào lại có tương lai lâu xa? Nay ta sẽ có tương lai lâu xa. Hay lại nói không có tương lai lâu xa? Thế nào sẽ có tương lai lâu xa. Ai có tương lai lâu xa? Thế nào ở

đây có chúng sanh từ lâu xa? Chúng sanh lâu xa n

ày từ

đâu m

à

đến, từ đây mạng chung sẽ đi về đâu?'.

Người ấy khởi ý nghĩ chẳng lành này, liền nổi lên sáu kiến chấp lần lượt sanh tư tưởng tà vạy: Có ngã kiến, xét rõ có kiến này; không có ngã kiến xét rõ khởi lên cái kiến này; có ngã kiến, không ngã kiến, trong

đó khởi xét r

õ sanh kiến; lại tự quán thân rồi khởi kiến chấp; ở nơi mình mà không thấy mình, lại khởi cái chấp này; ở chỗ vô ngã mà không thấy vô ngã, trong

đó khởi kiến chấp. Khi ấy người kia sanh t

à kiến này: 'Ngã

đời n

ày cũng là ngã

đời sau, thường c

òn ở

đời không có hư hoại, cũng không biến đổi, cũng chẳng di động'.

Ðó gọi là nhóm tà kiến. Tà kiến khổ hoạn, ưu bi, khổ não,

đều do đây sinh không thể trị liệu, cũng bỏ không được, b

èn t

ăng th

êm gốc khổ. Do

đó không phải l

à hạnh của Sa-môn,

đạo Niết-b

àn.

Lại nữa, Tỳ-kheo

đệ tử bậc Hiền Thánh tu h

ành pháp này không mất thứ tự, khéo hay ủng hộ và ủng hộ cho Thiện tri thức. Người ấy có thể phân biệt, pháp chẳng thể tư duy cũng có thể biết; pháp nên tư duy cũng có thể biết; pháp không nên tư duy, người ấy cũng chẳng tư duy; pháp nên tư duy thì tư duy.

Thế nào là pháp chẳng nên tư duy thì chẳng tư duy? Ðối với các pháp dục lậu chưa sanh mà sanh, dục lậu

đ

ã sanh liền t

ăng th

êm; hữu lậu chưa sanh liền sanh, hữu lậu

đ

ã sanh liền t

ăng th

êm; vô minh lậu chưa sanh liền sanh, vô minh lậu

đ

ã sanh liền t

ăng th

êm. Ðó là pháp không nên tư duy.

Những pháp nào nên tư duy thì tư duy? Ðối với các pháp dục lậu chưa sanh liền chẳng sanh, dục lậu

đ

ã sanh liền tiêu diệt; hữu lậu chưa sanh liền chẳng sanh, hữu lậu

đ

ã sanh liền tiêu diệt; vô minh lậu chưa sanh liền chẳng sanh, vô minh lậu

đ

ã sanh liền tiêu diệt. Ðây là pháp

đáng n

ên tư duy,

điều chẳng n

ên tư duy người ấy không tư duy. Ðiều nên tư duy liền tư duy. Người ấy tư duy như thế liền diệt

được ba pháp. Thế n

ào là ba? Thân tà giới, trộm, nghi. Nếu không thấy biết thì t

ăng th

êm hạnh hữu lậu. Nếu người thấy, nghe, nhớ, biết thì chẳng t

ăng th

êm hạnh hữu lậu. Ðã biết,

đ

ã thấy thì hữu lậu chẳng sanh. Ðây là lậu do kiến mà

đoạn được.

Thế nào là lậu nhờ cung kính mà

đoạn? Ở đây, Tỳ-kheo! Kham nhẫn đói lạnh, chịu khổ gió mưa, muỗi m

òng, lời ác nhục mạ, thân sanh

đau đớn, rất l

à phiền phức, mạng sắp muốn dứt mà có thể nhẫn

được. Nếu không dứt được liền khởi khổ n

ão, nếu người có thể kham nhẫn

được, như thế chẳng sanh.

Ðó là lậu do cung kính

được đoạn.

Thế nào là lậu do thân cận

được đoạn? Ở đây, Tỳ-kheo! Giữ tâm thọ nhận y, không đ

òi trang sức, chỉ muốn giữ gìn thân thể, muốn trừ lạnh nóng; muốn mưa gió không chạm vào thân. Lại che thân thể không lộ ra ngoài. Lại giữ tâm theo thời khất thực, không khởi tâm tham nhiễm, chỉ muốn gìn giữ thân thể, cho bệnh cũ

được l

ành, bệnh mới chẳng sanh; giữ gìn các hạnh không xúc phạm,

được an ổn lâu d

ài mà tu Phạm hạnh

được lâu bền ở đời. Lại giữ g

ìn tâm ý, gần gũi sàng tòa, cũng không

đắm nhiễm phục sức vinh hoa; chỉ muốn trừ đói lạnh, gió mưa, muỗi m

òng, che chở thân thể

để h

ành

đạo pháp. Lại giữ g

ìn tâm, gần gũi thuốc men, chẳng sanh tâm nhiễm

đắm, đối với thuốc men chỉ muốn bịnh tật được l

ành, thân thể

được an ổn. Nếu không thân cận th

ì sanh hoạn hữu lậu, nếu thân cận thì không sinh hoạn hữu lậu. Ðó là lậu do thân cận

được đoạn.

Thế nào là hữu lậu do xa lìa

được đoạn? Ở đây, Tỳ-kheo! Trừ khử loạn tưởng, xem nó như voi ác, lạc đ

à, trâu ngựa, cọp beo, chó, rắn

độc, hầm sâu bờ hiểm, gai góc, sườn dốc, b

ùn sình, thảy

đều xa l

ìa chúng, chớ theo phụng thờ Ác tri thức, cũng không gần gũi người ác, hay nghiền ngẫm ở trong lòng chớ bỏ qua. Nếu không ủng hộ thì sanh hữu lậu, nếu ủng hộ thì không sanh hữu lậu. Ðó là hữu lậu do xa lìa mà

đoạn.

Thế nào là hữu lậu do vui thích

được đoạn?

đây, Tỳ-kheo! Sanh dục tưởng m

à chẳng xa lìa, nếu khởi sân giận cũng chẳng xa lìa, nếu lại khởi tưởng

đố kỵ cũng chẳng xa l

ìa. Nếu không xa lìa thì sanh hữu lậu, người có thể xa lìa thì có thể chẳng khởi hữu lậu. Ðó là hữu lậu do vui thích

được đoạn.

Thế nào là hữu lậu do oai nghi mà

đoạn? Ở đây, Tỳ-kheo! Nếu mắt thấy sắc không khởi sắc tưởng, cũng không khởi tâm nhiễm ô, đầy đủ nh

ãn c

ăn, cũng không thiếu sót m

à hộ nhãn c

ăn. Nếu tai nghe tiếng, mũi ngửi m

ùi, lưỡi nếm vị, thân xúc chạm, ý biết pháp,

đều không khởi tâm nhiễm ô, cũng không khởi tưởng chấp trước m

à gìn giữ ý c

ăn. Nếu không nhiếp hộ oai nghi th

ì sanh hữu lậu, nếu nhiếp hộ oai nghi thì không có hoạn hữu lậu. Ðó là hữu lậu do oai nghi

được đoạn.

Những hữu lậu nào do tư duy

được đoạn? Ở đây Tỳ-kheo! Tu niệm giác ý, y vô dục, y không nhiễm ô, y diệt tận m

à cầu xuất yếu; tu trạch pháp giác ý, tinh tấn giác ý, hỷ giác ý, khinh an giác ý,

định giác ý,

hộ (xả) giác ý, y vô dục, y không nhiễm ô, y diệt tận mà cầu xuất yếu. Nếu không tu

điều n

ày thì sanh hoạn hữu lậu, nếu người hay tu thì không sanh hoạn hữu lậu. Ðó là hữu lậu do tư duy mà

đoạn.

Này Tỳ-kheo! Nếu ở trong Tỳ-kheo có các hữu lậu, người do kiến

đoạn được th

ì hãy dùng kiến

đoạn, người do cung kính đoạn h

ãy dùng cung kính

đoạn, người do thân cận đoạn h

ãy dùng thân cận

đoạn, người do xa l

ìa

đoạn h

ãy dùng xa lìa

đoạn, người do oai nghi đoạn h

ãy dùng oai nghi

đoạn, người do tư duy đoạn h

ãy dùng tư duy

đoạn. N

ày Tỳ-kheo! Ðó là

đầy đủ tất cả oai nghi có thể đoạn kiết sử, bỏ được ái dục qua được bốn d

òng, dần dần vượt khỏi khổ.

Này Tỳ-kheo! Ðó là pháp trừ hữu lậu. Chư Phật, Thế Tôn thường thi hành niệm từ với tất cả loài hữu tình, nay Ta

đ

ã thi hành. Các Thầy nên ưa thích chỗ vắng vẻ, dưới gốc cây, chuyên cần tinh tấn chớ có giải dãi; nếu nay không chuyên cần sau hối vô ích. Ðây là lời dạy của Ta.

Bấy giờ Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

XXXX.2. Phẩm Thất nhật (2)

7. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở bên bờ sông A-du-xà cùng với n

ăm trăm chúng đại Tỳ-kheo.

Khi ấy Ðại Quân-

đầu đang ở chỗ nh

àn vắng nghĩ rằng: 'Có nghĩa này hằng thêm công

đức hay không có lý n

ày?'.

Quân-

đầu liền đứng dậy đến chỗ Thế Tôn, cúi lạy rồi ngồi một b

ên. Bấy giờ Quân-

đầu bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Vừa rồi con ở chỗ vắng vẻ có nghĩ: 'Có lý làm các việc

được th

êm công

đức hay không?'. Nay con hỏi Thế Tôn, cúi mong thuyết cho.

Thế Tôn bảo:

- Có thể

được tăng th

êm công

đức.

Quân-

đầu bạch Phật:

- Ðược t

ăng th

êm công

đức thế n

ào?

Thế Tôn bảo:

- T

ăng th

êm có bảy việc, phước ấy không thể cân lường, cũng không ai có thể tính toán

được. Thế n

ào là bảy? Ở

đây, con nh

à vọng tộc trai hoặc gái, chưa từng cất già lam cho T

ăng, liền lập gi

à-lam. Phước này không thể kể.

Lại nữa, Quân-

đầu! Nếu thiện nam, thiện nữ, có thể đem giường t

òa thí cho t

ăng-gi

à-lam và cho Tỳ-kheo T

ăng. N

ày Quân-

đầu!

Ðó là phước thứ hai không thể tính kể.

Lại nữa, Quân-

đầu! Nếu thiện nam, thiện nữ d

ùng thức

ăn bố thí Tỳ-kheo Tăng. N

ày Quân-

đầu!

Ðó là phước thứ ba không thể tính kể.

Lại nữa, Quân-

đầu! Nếu thiện nam, thiện nữ cấp áo che mưa cho Tỳ-kheo Tăng. N

ày Quân-

đầu!

Ðó là phước thứ tư, không thể tính kể.

Lại nữa, Quân-

đầu! Nếu trai gái nh

à vọng tộc

đem thuốc men cho Tỳ-kheo Tăng. N

ày Quân-

đầu!

Ðó là phước thứ n

ăm không thể tính kể.

Lại nữa, Quân-

đầu! Nếu thiện nam, thiện nữ ở đồng trống l

àm giếng tốt. Này Quân-

đầu!

Ðó là phước thứ sáu không thể tính kể.

Lại nữa, Quân-

đầu! Thiện nam, thiện nữ l

àm nhà gần

đường cho người

sẽ

đi

qua có chỗ trú ngụ. Ðó là phước thứ bảy không thể tính kể.

Ðây là, này Quân-

đầu! Pháp bảy công đức, phước không lường được. Hoặc đi hoặc ngồi, cho d

ù mạng chung, phước cũng theo sau như bóng theo hình,

đức n

ày không thể tính kể mà bảo rằng có bao nhiêu phước. Cũng như nước biển lớn không thể dùng th

ăng đấu đong rồi bảo có bao nhi

êu nước; bảy công

đức n

ày cũng lại như thế, phước không có hạn lượng.

Thế nên Quân-

đầu! Thiện nam, thiện nữ h

ãy cầu phương tiện hoàn thành bảy công

đức. Như thế, Quân-đầu, h

ãy học

điều n

ày!

Bấy giờ, Quân-

đầu nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng

làm.

*

8. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-

đ

à, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

- Các Thầy hãy tu hành về tưởng chết, tư duy tưởng chết.

Khi ấy có Tỳ-kheo Thượng tọa bạch Thế Tôn:

- Con thường tu hành tư duy tưởng chết.

Thế Tôn bảo:

- Thầy tư duy tu hành tưởng chết thế nào?

Tỳ-kheo bạch Phật:

- Con tư duy tưởng chết rằng: 'Chỉ còn sống bảy ngày nữa, nên tư duy thất giác ý, ở trong pháp Như Lai có nhiều lợi ích, sau khi chết không hối hận'. Bạch Thế Tôn, con tư duy tưởng chết như thế.

Thế Tôn bảo:

- Thôi, thôi, Tỳ-kheo! Ðây chẳng phải tu hành về tưởng chết. Ðây gọi là pháp phóng dật.

Lại có Tỳ-kheo bạch Thế Tôn:

- Con có thể kham nhận tu hành tưởng chết.

Thế Tôn bảo:

- Thầy tu hành tư duy tưởng chết thế nào?

Tỳ-kheo bạch Phật:

- Nay con nghĩ rằng: 'Ý muốn còn có sáu ngày, suy nghĩ Chánh pháp Như Lai rồi sẽ chết. Ðiều này có ích'. Con tư duy tưởng chết như thế.

Thế Tôn bảo:

- Thôi, thôi, Tỳ-kheo! Thầy cũng theo pháp phóng dật, chẳng phải là tư duy tưởng chết.

Lại có Tỳ-kheo bạch Phật: 'Muốn còn n

ăm ng

ày, hoặc bốn ngày, hoặc ba ngày, hai ngày, một ngày'.

Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

- Thôi, thôi, Tỳ-kheo! Ðây cũng là pháp phóng dật, chẳng phải là tư duy tưởng chết.

Khi ấy lại có một Tỳ-kheo bạch Thế Tôn:

- Con có thể kham nhẫn tu hành tưởng chết như vầy: Con

đến giờ đắp y ôm bát v

ào thành Xá-vệ khất thực, xong lại ra khỏi thành Xá-vệ trở về chỗ mình. Về trong thất vắng, con tư duy thất giác ý rồi mạng chung. Ðây là tư duy tưởng chết.

Thế Tôn bảo:

- Thôi, thôi, Tỳ-kheo! Ðây cũng chẳng phải tư duy tu hành tưởng chết. Lời nói của các Thầy

đều l

à hạnh phóng dật, chẳng phải là pháp tu hành tưởng chết.

Lúc

đó Thế Tôn lại bảo Tỳ-kheo:

- Người có thể làm

được như Tỳ-kheo B

à-ca-lợi. Ðây gọi là tư duy tưởng chết. Tỳ-kheo ấy khéo hay tư duy tưởng chết, chán ghét thân này là nhơ nhớp bất tịnh. Nếu Tỳ-kheo tư duy tưởng chết, buộc ý ở trước, tâm không di

động, nhớ số hơi thở ra v

ào, qua lại, trong

đó tư duy thất giác ý, th

ì ở trong pháp Như Lai

được nhiều lợi ích. V

ì sao thế? Tất cả các hạnh

đều không, đều tịch; khởi v

à diệt

đều l

à huyễn hóa, không chân thật. Thế nên Tỳ-kheo! Nên ở trong hơi thở ra vào mà tư duy tưởng chết thì sẽ thoát sanh, già, bệnh, chết, sầu lo khổ não. Như thế, này các Tỳ-kheo, nên học như vậy!

Bấy giờ, các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

9. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-

đ

à, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ, vua Ba-tư-nặc ra lệnh cho quần thần: 'Mau sửa soạn xe vũ bảo. Ta muốn

đến chỗ Thế Tôn, lễ bái thăm hỏi'.

Rồi Ðại vương ra khỏi thành

đến chỗ Thế Tôn, cúi lạy rồi ngồi một b

ên. Khi ấy Như Lai

đang thuyết pháp cho vô số chúng vây quanh.

Lúc này có bảy Ni-kiền Tử, lại có bảy người lõa hình, lại có bảy hắc Phạm chí, lại có bảy Bà-la-môn lõa hình,

đi qua cách Thế Tôn không xa. Khi ấy, vua Ba-tư-nặc thấy những người n

ày

đi qua chỗ Thế Tôn không xa, liền bạch Phật:

- Con xem những người này

đi qua không dừng lại, đều l

à người thiểu dục tri túc không có gia nghiệp. Nay ở thế gian, những người này là thượng thủ nhất trong hàng A-la-hán. Vì sao thế? Họ ở trong mọi người mà rất là khổ hạnh, không tham lợi dưỡng.

Thế Tôn bảo:

- Ðại vương! Ông trọn chưa biết chân nhân La-hán, chẳng do lộ bày hình thể mà gọi là A-la-hán. Ðại vương nên biết! Ðây

đều không phải hạnh chân thật. N

ên nhớ quán sát lâu

đ

ài cho chính

đáng; rồi lại n

ên quán

đáng thân biết thân, đáng gần biết gần. V

ì sao thế? Thời quá khứ lâu xa có bảy Phạm chí cùng học một nơi, tuổi

đ

ã già yếu, lấy cỏ làm y phục,

ăn quả hạt của cỏ, khởi các t

à kiến, mỗi người nghĩ: 'Chúng ta tu pháp khổ hạnh này

để sau l

àm

đại Quốc vương, hoặc cầu

làm Phạm Tứ thiên vương'.

Bấy giờ có Thiên sư A-tư-

đ

à là tổ phụ của các Bà-la-môn, biết tâm niệm các Phạm chí kia, liền từ trời Phạm thiên hiện xuống chỗ bảy Bà-la-môn. Khi ấy Thiên sư A-tư-

đ

à bỏ phục sức của Trời, hiện hình Bà-la-môn

đi kinh h

ành ngoài trời, bảy Phạm chí xa thấy A-tư-

đ

à kinh hành ai nấy nổi giận mà nói:

- Ðây là hạng người

đắm trước dục lạc n

ào mà lại

đi trước những người Phạm hạnh chúng ta? Nay ta sẽ chú cho nó ti

êu thành tro.

Rồi bảy Phạm chí lấy tay bụm nước rảy Phạm chí kia chú rằng:

- Nay Ông mau thành tro

đất.

Nhưng Bà-la-môn càng ôm sân giận, thì nhan sắc Thiên sư càng thêm

đoan chánh. Tại sao thế? V

ì lòng từ có thể diệt sân.

Bấy giờ bảy Phạm chí liền nghĩ: 'Chúng ta chẳng phải cấm giới sắp thối chuyển sao? Chúng ta ngay khi khởi sân hận, người kia liền

được đoan chánh'.

Khi ấy bảy Phạm chí liền nói kệ này với Thiên sư:

Là Trời, Càn-thát-bà,

Hay La-sát Quỷ thần,

Lúc này gọi là gì?

Chúng tôi muốn

được biết.

Khi ấy Thiên sư A-tư-

đ

à liền

đáp kệ:

Không phải Càn-thát-bà,

Không Quỷ thần, La-sát,

Thiên sư A-tư-

đ

à,

Nay chính là thân ta.

Nay ta biết tâm các Ông nghĩ gì nên từ trời Phạm thiên xuống

đây. Phạm thi

ên cách

đây thật l

à xa xôi; thân Trời Ðế Thích cũng lại như thế, Chuyển luân Thánh vương cũng chẳng thể

được. Chẳng thể d

ùng khổ hạnh này mà làm Phạm Tứ thiên vương.

Khi ấy Thiên sư A-tư-

đ

à liền nói kệ:

Bao nhiêu niệm trong tâm,

Áo ngoài thì thô xấu,

Nếu cần tu chánh kiến,

Xa lìa hẳn

đường ác.

Tâm giới hành thanh tịnh,

Miệng hành cũng như thế,

Xa lìa các ác niệm,

Ắt sẽ sanh lên trời.

Lúc ấy bảy Phạm chí thưa Thiên sư:

- 'Có

đúng l

à Thiên sư ch

ăng?'.

- 'Ðúng vậy. Nhưng này Phạm chí! Không phải do lõa hình mà

được sanh l

ên trời, chưa chắc tu khổ hạnh này

được sanh c

õi Phạm thiên, lại chẳng phải lộ bày thân thể, làm bao nhiêu khổ hạnh mà

được sanh c

õi ấy. Ai có thể nhiếp tâm ý khiến không di

động liền sanh l

ên trời, chứ không thể do chỗ tu tập của các Ông mà

được sanh chỗ ấy'.

Ðại vương! Quán sát nghĩa ngày thì chẳng phải do lõa hình mà gọi là A-la-hán. Người phàm phu muốn biết

được bậc chân nhân, việc n

ày chẳng

đúng. Nhưng chân nhân có thể phân biệt được chỗ tu tập hạnh của ph

àm phu. Lại nữa, người phàm phu không thể biết hạnh của phàm phu. Bậc chân nhân thì có thể biết hạnh của phàm phu. Nếu Ðại vương muốn biết họ, phải nên tìm phương tiện biết từ lâu xa

đến nay, chứ chẳng phải ngay bây giờ m

à dùng

để quán xét họ.

Ðúng vậy, Ðại vương, nên dùng phương tiện mà học

điều n

ày.

Bấy giờ vua Ba-tư-nặc bạch Thế Tôn:

- Như Lai thuyết rất hay! Chẳng phải người

đời có thể hiểu r

õ. Việc nước bề bộn, con muốn trở về.

Phật bảo vua:

- Ðã

đúng lúc,

Ðại vương!

Vua liền từ chỗ ngồi

đứng l

ên cúi lạy Thế Tôn rồi lui

đi.

Khi ấy vua Ba-tư-nặc nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

10. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật tại nước Thích-sĩ Ca-tỳ-la-vệ, trong vườn Ni-câu-lũ cùng chúng

đại Tỳ-kheo năm trăm người.

Bấy giờ, Thế Tôn thọ thực xong, từ vườn Ni-câu-lũ

đến l

àng Tỳ-la-da-trí ngồi dưới một gốc cây. Khi ấy Chấp Trượng họ Thích ra khỏi Ca-tỳ-la-vệ

đến chỗ Thế Tôn, đứng trước mặt im lặng. Rồi ông ta hỏi Thế Tôn:

- Sa-môn dạy những gì? Luận những gì?

Thế Tôn bảo:

- Phạm chí nên biết! Ðiều luận của Ta không phải chỗ Trời, Rồng, Quỷ Thần có thể bì kịp. Cũng chẳng phải dính mắt vào

đời, lại chẳng phải trụ ở đời.

Ðiều luận của Ta chính như thế

đó.

Khi ấy Chấp Trượng họ Thích cúi

đầu than thở rồi lui đi. Như Lai liền từ chỗ ngồi đứng l

ên, trở về chỗ ở. Lúc

đó Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

- Vừa rồi Ta ngồi trong vườn kia có Chấp Trượng họ Thích

đến hỏi Ta rằng: 'Sa-môn có những luận g

ì?' Ta

đáp: '

Ðiều luận của Ta, Trời, Rồng, Quỷ Thần chẳng thể bì kịp; chẳng phải dính mắc vào

đời, cũng chẳng phải trụ ở đời.

Ðiều luận của Ta chính là vậy'. Khi ấy Chấp Trượng họ Thích nghe lời này rồi liền lui

đi.

Khi ấy có một Tỳ-kheo bạch Tỳ-kheo:

- Thế nào là không dính mắc vào

đời, cũng không trụ ở đời?

Thế Tôn bảo:

- Như

điều Ta luận đều không dính mắc v

ào

đời, như nay đối với dục được giải thoát, dứt hết các hồ nghi của họ Thích, không có các tưởng.

Ðiều luận của Ta chính là

đây.

Như Lai nói thế xong,

đứng l

ên vào thất. Lúc

đó các Tỳ-kheo bảo nhau:

- Vừa rồi Thế Tôn nói sơ lược nghĩa của luận kia. Ai có thể kham nhậm nói rộng nghĩa này ch

ăng?

Các Tỳ-kheo tự nói với nhau:

- Thế Tôn thường khen ngợi Tôn giả Ðại Ca-chiên-diên. Nay chỉ có Ca-chiên-diên có thể thuyết nghĩa này.

Khi ấy các Tỳ-kheo nói với Ca-chiên-diên:

- Vừa rồi Thế Tôn nói lược nghĩa này, cúi mong Tôn giả hãy giảng thuyết rộng rãi nghĩa này, phân biệt từng việc cho mọi người

được hiểu.

Ca-chiên-diên

đáp:

- Ví như ở làng xóm có người ra khỏi làng muốn tìm vật chân thật. Người ấy nếu gặp cây to liền

đốn chặt, lấy c

ành lá, bỏ cây mà

đi. Nay các Thầy cũng như thế, bỏ Như Lai rồi đi theo c

ành mà tìm thực. Nhưng Như Lai xem thấy khắp tất cả, chiếu sáng thế gian, là vị dẫn

đường của Trời, Người. Như Lai l

à vị Chân chủ của pháp, các Thầy cũng sẽ có thời tiết, tự nhiên sẽ gặp lúc Như Lai nói nghĩa này.

Các Tỳ-kheo

đáp:

- Như Lai tuy là Chân chủ của pháp giảng rộng nghĩa này. Nhưng Tôn giả

được Như Lai thọ ký đủ sức thuyết rộng nghĩa n

ày.

Ca-chiên-diên

đáp:

- Các Thầy lắng nghe, khéo suy nghĩ

đó, tôi sẽ diễn thuyết phân biệt nghĩa n

ày.

Các Tỳ-kheo

đáp:

- Rất tốt!

Khi ấy các Tỳ-kheo vâng lời rồi, Ca-chiên-diên bảo:

- Nay Như Lai nói: 'Ðiều luận của Ta, chẳng phải Trời, Rồng, Quỷ thần có thể theo kịp. Cũng chẳng phải dính mắc vào

đời, cũng chẳng phải trụ ở đời. Ta đối với đó được giải thoát, đoạn các hồ nghi, không c

òn do dự nữa. Như nay chúng sanh ưa thích tranh tụng, khởi các loạn tưởng'. Như Lai lại nói: 'Ta chẳng ở

đó khởi tâm nhiễm trước'.

Ðây là tham dục sử, sân nhuế, tà kiến, dục thế gian sử, kiêu mạn sử, nghi sử, vô minh sử, hoặc gặp sự báo ứng

đao gậy đau khổ, tranh tụng với người, khởi bao nhi

êu hạnh bất thiện, khởi các loạn tưởng, hưng hạnh bất thiện. Nếu mắt thấy sắc mà khởi thức tưởng, ba việc làm nhân cho nhau mà có. Xúc

đ

ã có xúc liền có thọ,

đ

ã có thọ liền có sở giác,

đ

ã sở giác liền có tưởng,

đ

ã có tưởng liền cân lường nó, khởi bao nhiêu niệm tưởng, chấp trước. Tai nghe tiếng, mũi ngửi mùi, lưỡi nếm vị, thân lại xúc chạm, ý biết pháp mà khởi thức tưởng, ba việc làm nhân cho nhau mà có xúc,

đ

ã có xúc liền có thọ,

đ

ã có thọ liền có giác,

đ

ã có giác liền có tưởng,

đ

ã có tưởng liền cân lường chúng, rồi ở trong

đó khởi bao nhi

êu thứ niệm tưởng chấp trước. Ðây là tham dục sử, sân nhuế sử, tà kiến sử, kiêu mạn sử, dục thế gian sử, si sử, nghi sử, tất cả

đều khởi l

ên sự nguy biến của

đao gậy, v

à bao nhiêu tai biến khác, chẳng thể tính kể. Nếu có người nói rằng: 'Cũng không có mắt, cũng không có sắc, mà có xúc', việc này không

đúng. Nếu lại có người nói: 'Không có xúc m

à có thọ',

đây cũng l

à không

đúng. Nếu nói: 'Không thọ m

à có tưởng dính mắc', việc này không

đúng. Nếu có người nói: 'Không tai, không tiếng; không mũi, không m

ùi; không lưỡi, không vị; không thân, không xúc chạm; không ý, không pháp, mà nói có thức', trọn không có lý này. Nếu nói không thức mà có xúc, việc này chẳng

đúng. Nếu không có xúc m

à nói có thọ, việc này không

đúng. Nếu nói không thọ m

à có tưởng chấp trước, việc này không

đúng.

Nếu lại có người nói có mắt có sắc, trong

đó khởi thức; điều n

ày

đúng

. Nếu nói tai và tiếng, mũi và mùi, lưỡi và vị, thân và xúc chạm, ý và pháp, ở trong

đó khởi thức; việc n

ày ắt

đúng.

Chư Hiền nên biết, do nhân duyên này,

đức Thế Tôn mới nói rằng: '

Ðiều luận của Ta, Trời và Người, Ma hay Thiên ma không thể tới kịp, cũng chẳng dính mắc vào

đời, cũng chẳng trụ ở đời. Nhưng Ta ở nơi dục m

à

được giải thoát, dứt hồ nghi, không c

òn do dự'. Thế Tôn nhân nơi

đây thuyết sơ nghĩa n

ày.

Các Thầy nếu tâm không hiểu thì hãy

đến chỗ Như Lai hỏi lại nghĩa n

ày. Nếu Như Lai có nói gì, nên nhớ phụng trì.

Khi ấy, những Tỳ-kheo nghe Ca-chiên-diên nói, chẳng nói 'hay' cũng chẳng nói 'không phải',

đứng l

ên mà

đi, tự bảo nhau rằng: 'Chúng ta n

ên

đem nghĩa n

ày

đến hỏi Như Lai, nếu Thế Tôn có nói g

ì chúng ta sẽ vâng làm'.

Rồi những Tỳ-kheo ấy

đến chỗ Thế Tôn cúi lạy chân Phật, ngồi xuống một b

ên. Bấy giờ các Tỳ-kheo

đem việc n

ày bạch Thế Tôn

đầy đủ. Khi ấy Như Lai bảo Tỳ-kheo:

- Tỳ-kheo Ca-chiên-diên thông minh biện tài,

đ

ã thuyết rộng nghĩa này. Nếu các Thầy

đến chỗ Ta hỏi nghĩa n

ày, Ta cũng nói với các Thầy như thế.

Khi ấy Tôn giả A-nan ở sau lưng Như Lai. A-nan bạch Phật:

- Kinh này nghĩa lý rất sâu xa. Ví như có người

đi đường gặp được cam lồ, lấy m

à

ăn, rất thơm ngon, ăn không biết chán.

Ðây cũng như thế, thiện nam, thiện nữ,

đến nơi nghe pháp n

ày không biết chán.

Và Tôn giả A-nan lại bạch Thế Tôn:

- Kinh này tên là gì, phải làm sao vâng làm?

Phật bảo A-nan:

- Kinh này tên là 'Cam lồ pháp vị' hãy nhớ phụng hành.

Bấy giờ Tôn giả A-nan nghe Phật dạy xong, hoan hỉ vâng làm.

XXXXI. Phẩm Mạc úy

1. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở trong vườn Ni-câu-lũ, nước Thích-sĩ Ca-tỳ-la-vệ.

Khi ấy Thích sĩ Ma-ha-nam

đến chỗ Thế Tôn, cúi lạy chân Phật rồi ngồi một b

ên. Thích sĩ Ma-ha-nam bạch Thế Tôn:

- Con theo Như Lai

được dạy rằng: 'Nếu có thiện nam, thiện nữ đoạn được ba kiết sử, được quả Tu-đ

à-hoàn, gọi là bất thối chuyển, chắc chắn sẽ thành

đạo quả, chẳng t

ìm cầu các ngoại

đạo dị học nữa, cũng không cần quán sát người khác nói nữa'. Nếu phải như vậy th

ì việc này không

đúng. C

òn nếu gặp trâu, ngựa, lạc

đ

à hung dữ thì khiếp sợ, lông tóc dựng

đứng. Rồi con nghĩ rằng: 'Nếu hôm nay ta ôm l

òng khiếp sợ này mà mạng chung thì không biết sanh về

đâu?'.

Thế Tôn bảo Ma-ha-nam:

- Chớ khởi tâm sợ hãi. Nếu Thầy có mạng chung cũng không

đọa v

ào ba

đường ác. V

ì sao thế? Nay có ba nghĩa tiêu diệt. Thế nào là ba? Như có

đắm trước dâm dục th

ì khởi loạn tưởng, rồi khởi tâm hại

đối với người khác, nếu không có dục n

ày thì không khởi tâm sát hại, trong hiện tại không khởi khổ não. Các pháp ác, bất thiện thì tự hại mình, nếu không có

điều n

ày thì không có nhiễu loạn, không có sầu lo. Này Ma-ha-nam,

đó l

à ba nghĩa của các pháp ác, bất thiện khiến phải

đọa xuống, c

òn các pháp thiện thì ở trên. Cũng như bình bơ (tô) ở trong nước bị bể, khi ấy ngói

đá th

ì chìm xuống dưới, còn bơ thì nổi ở trên. Ðây cũng như thế, các pháp ác bất thiện thì chìm xuống, các pháp thiện thì nổi ở trên.

Này Ma-ha-nam, ngày xưa lúc Ta chưa thành Phật

đạo, sáu năm cần khổ ở Ưu-lưu-tỳ, chẳng ăn thức thơm ngon, thân thể gầy ốm như người trăm tuổi, đều v

ì không

ăn. Nếu lúc Ta muốn đứng l

ên, liền té xuống

đất. Khi ấy Ta nghĩ rằng: 'Nếu Ta ở đây m

à mạng chung sẽ sanh về

đâu?' Ta lại nghĩ: ' Nay Ta mạng chung chắc chắn chẳng sanh trong đường ác. Nhưng nghĩa thú chẳng thể đi từ vui đến vui, m

à phải do khổ mà sau

đến chỗ vui. Bấy giờ Ta lại dạo trong hang Ti

ên nhân, có nhiều Ni-kiền Tử

đang học đạo ở đó. Khi đó Ni-kiền Tử giơ tay chỉ mặt trời, phơi thân học đạo, hoặc có người ngồi xổm m

à học

đạo. Khi ấy Ta đến đó bảo Ni-kiền Tử:

- 'Các Ông vì sao lại rời tòa ngồi giơ tay, kiễng chân thế?'.

Ni-kiền Tử ấy nói:

- 'Cồ-

đ

àm nên biết! Ngày xưa Tiên sư của tôi làm hạnh bất thiện, nay sở dĩ tôi khổ như thế là muốn diệt hết tội kia. Nay tuy bày hình thể có phần hổ thẹn, nhưng cũng tiêu diệt

được việc n

ày. Cù-

đ

àm! Ngài nên biết hành tận thì khổ cũng tận, khổ tận thì hành cũng tận. Khổ và hành

đ

ã tận thì

đến Niết-b

àn'.

Lúc ấy, Ta lại bảo Ni-kiền Tử:

- 'Việc này không

đúng. Chẳng phải do h

ành tận mà khổ cũng tận; cũng chẳng do khổ tận mà hành cũng tận rồi

đến được Niết-b

àn. Nay nếu khổ hành tận

đến Niết-b

àn thì việc này

đúng. Nhưng không thể từ vui đến vui'.

Ni-kiền Tử nói:

- 'Vua Tần-bà-sa-la

đi từ vui đến vui, có khổ g

ì

đâu?'.

Khi ấy, Ta lại bảo Ni-kiền Tử:

- 'Vua Tần-bà-sa-la vui

đâu bằng cái vui của Ta!'.

Ni-kiền Tử

đáp:

- 'Cái vui của Tần-bà-sa-la hơn cái vui của Ngài'.

Ta lại bảo Ni-kiền Tử:

- 'Vua Tần-bà-sa-la có thể khiến Ta ngồi kiết-già bảy ngày bảy

đ

êm không nhúc nhích ch

ăng? Cho d

ù sáu, n

ăm, bốn, ba, hai cho đến một ng

ày ngồi kiết-già

được chăng?'.

Ni-kiền Tử

đáp:

- 'Không

được, C

ù-

đ

àm'.

Ta bảo:

- 'Ta có thể

đủ sức ngồi kiết-gi

à, thân không lay

động. Thế n

ào, Ni-kiền Tử, vua Tần-bà-sa-la vui hay Ta vui?'.

Ni-kiền Tử nói:

- 'Sa-môn Cù-

đ

àm vui'.

Ðúng thế, Ma-ha-nam! Nên dùng phương tiện này

để biết không thể từ vui đến vui m

à phải từ khổ

đến vui. N

ày Ma-ha-nam! Ví như một làng lớn, hai bên có ao nước to

đầy nước, ngang dọc một do-tuần. Có người đến đó lấy một giọt nước. Thế n

ào, Ma-ha-nam? Nước ở chỗ nào nhiều? Nước của một giọt nhiều hay nước của ao nhiều?

Ma-ha-nam nói:

- Nước ao nhiều chứ không phải nước một giọt nhiều.

Thế Tôn bảo:

- Ðây cũng như thế. Ðệ tử Hiền Thánh các khổ

đ

ã hết, không còn có nữa. Cái còn lại như một giọt nước, như

đạo giả thấp nhất trong chúng của Ta, chẳng qua bảy lần chết, bảy lần sống th

ì hết mé khổ. Nếu lại dũng mãnh tinh tấn thì liền

đến bậc Gia-gia (A-na-h

àm hướng) rồi chứng.

Bấy giờ Thế Tôn lại thuyết pháp vi diệu cho Ma-ha-nam một lần nữa. Ông ta nghe pháp rồi,

đứng l

ên mà

đi.

Khi ấy, Ma-ha-nam nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

2. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Tôn giả Na-già-bà-la ở trong thành Lộc Dã. Khi ấy có một Bà-la-môn già lụ khụ, xưa có quen biết chút ít với Tôn giả Na-già-bà-la,

đến chỗ Na-gi

à-bà-la th

ăm hỏi rồi ngồi một b

ên.

Bấy giờ Phạm chí bảo Na-già-bà-la:

- Trong các sự vui, nay Ông thật là sung sướng nhất.

Na-già-bà-la nói:

- Ông xem những nghĩa gì mà nói trong các sự vui, tôi sung sướng nhất?

Bà-la-môn

đáp:

- Trong bảy ngày vừa qua, tôi có bảy

đứa con trai chết, những đứa n

ày

đều dũng m

ãnh, tài cao, trí tuệ ít người bì kịp, rồi trong sáu ngày gần

đây, mười hai người l

àm cũng bị vô thường, họ rất siêng n

ăng không có lười biếng. Kế đó năm ng

ày, bốn anh em của tôi chết, họ biết nhiều kỹ thuật, việc gì cũng làm

được. Rồi cách bốn ng

ày, cha mẹ tôi mạng chung, tuổi vừa tr

ăm tuổi bỏ tôi m

à qua

đời. Cách đây ba ng

ày, hai vợ tôi lại chết, họ dung mạo

đoan chánh, thế gian ít có. Trong nh

à tôi lại có tám hầm trân bảo, hôm qua

đi t

ìm mà không biết chỗ. Ngày nay, như tôi gặp chuyện khổ não này không thể tính kể; mà Tôn giả thì hôm nay xa lìa hẳn hoạn nạn

đó, không c

òn sầu lo, chỉ lấy

đạo pháp l

àm vui thú. Tôi quán nghĩa này rồi mới nói: 'Trong các sự vui, Ông là sung sướng nhất'.

Khi ấy Tôn giả Na-già-bà-la bảo Phạm chí kia rằng:

- Tại sao Ông không tìm cách khiến cho bao nhiêu người ấy

đừng chết?

Phạm chí

đáp:

- Tôi cũng làm nhiều cách

để mong không chết v

à không mất của tiền, tôi cũng tùy thời bố thí tạo công

đức, cầu khẩn chư Thi

ên, cúng dường các trưởng lão Phạm chí, ủng hộ chư Thần, tụng các chú thuật, cũng hay xem tinh tú, rồi cũng trộn cỏ thuốc, cũng

đem thức ăn uống ngon ngọt cho họ lúc nguy ngập. So như thế m

à chẳng thể xứng hợp, chẳng thể cứu

được mạng họ.

Khi ấy Tôn giả Na-già-bà-la liền nói kệ:

Có thuốc, các chú thuật,

Ðồ y phục, uống

ăn,

Tuy thí mà vô ích,

Còn ôm thân khổ hạnh.

Cho dù tế miếu Thần,

Hương hoa và tắm rửa,

So sánh nguồn gốc này,

Không thể trị liệu

được.

Giả sử cho các vật,

Tinh tấn trì Phạm hạnh,

So sánh nguồn gốc này,

Không thể trị liệu

được.

Phạm chí bèn hỏi:

- Nên thi hành pháp gì

để không bị khổ n

ão này?

Tôn giả Na-già-bà-la liền nói kệ:

Gốc ân ái vô minh,

Nổi các hoạn khổ não,

Ðiều ấy diệt không sót,

Mới không có khổ nữa.

Phạm chí ấy nghe xong liền nói kệ:

Tuy già, không già lắm,

Việc làm như

đệ tử,

Mong cho con xuất gia,

Ðể lìa tai nạn này.

Khi ấy Tôn giả Na-già-bà-la liền truyền ba y cho ông ta xuất gia học

đạo, v

à bảo ông rằng:

- Này Tỳ-kheo! Nay Ông nên quán thân này từ

đầu đến chân: Tóc, lông, móng, răng n

ày từ

đâu đến? Thân thể da dẻ, xương tủy, ruột bao tử đều từ đâu đến? Nếu từ đây đi sẽ đi đến đâu? Thế n

ên, Tỳ-kheo! Chớ lo nghĩ nhiều về thế gian khổ não, hãy nên quán trong một lỗ chân lông này, rồi tìm phương tiện thành tựu Tứ

đế.

Rồi Tôn giả Na-già-bà-la nói kệ:

Trừ tưởng, chớ lo nhiều,

Chẳng lâu

được pháp nh

ãn,

Vô thường hành như

điện,

Không gặp may lớn này.

Mỗi mỗi quán chân lông,

Nguồn của sanh và diệt.

Vô thường hành như

điện,

Ðể tâm hướng Niết-bàn.

Khi ấy trưởng lão Tỳ-kheo ấy nhận lời dạy như thế ở chỗ vắng vẻ tư duy nghĩa này. Ðây là pháp mà bậc vọng tộc, cạo bỏ râu tóc do lòng tin kiên cố, xuất gia học

đạo, muốn tu Phạm hạnh vô thượng, sanh tử đ

ã dứt, Phạm hạnh

đ

ã lập, việc phải làm

đ

ã làm xong, không còn tái sanh nữa, như thật mà biết, và Tỳ-kheo ấy thành A-la-hán. Lúc ấy có một vị Trời vốn là người quen biết cũ của Tỳ-kheo ấy, thấy Tỳ-kheo ấy thành A-la-hán, liền

đến chỗ Na-gi

à-bà-la, ở trên không trung nói kệ:

Ðã

được giới cụ túc,

Ở chỗ vắng vẻ kia,

Ðắc

đạo, tâm vô trước,

Trừ các nguồn gốc ác.

Rồi vị Trời ấy lại dùng hoa trời rải lên Tôn giả rồi biến mất.

Bấy giờ, Tỳ-kheo và vị Trời kia nghe Tôn giả Na-già-bà-la nói xong, vui vẻ vâng làm.

*

3. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-

đ

à, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

- Nên quán bảy xứ lành và quán bốn pháp thì ở trong hiện pháp này gọi là thượng nhân. Này Tỳ-kheo! Thế nào là quán bảy xứ lành?

Này Tỳ-kheo! Ở

đây d

ùng tâm từ trùm khắp một phương, hai phương, ba phương, bốn phương, bốn phía trên dưới cũng lại như thế,

đều đem l

òng từ rải

đầy khắp thế gian. Tâm bi,

hỉ, xả, không, vô tướng, vô nguyện cũng lại như thế. Các c

ăn đầy đủ, ăn uống lượng sức m

ình, hằng tự giác ngộ. Như thế, này Tỳ-kheo! Hãy quán bảy xứ lành.

Này Tỳ-kheo! Thế nào là quán sát pháp bốn chỗ? Ở

đây Tỳ-kheo, nội tự quán thân, trừ bỏ sầu lo được thân ý chỉ (niệm xứ), ngoại lại quán thân thân ý chỉ, nội ngoại quán thân thân ý chỉ. Nội tự quán thọ thọ ý chỉ, ngoại tự quán thọ thọ ý chỉ, nội ngoại quán thọ thọ ý chỉ. Nội quán tâm tâm ý chỉ, ngoại quán tâm tâm ý chỉ, nội ngoại quán tâm tâm ý chỉ, trừ bỏ sầu lo, không c

òn khổ hoạn. Nội quán pháp pháp ý chỉ, ngoại quán pháp pháp ý chỉ, nội ngoại quán pháp pháp ý chỉ. Như thế, Tỳ-kheo! Hãy quán bốn pháp lành. Này Tỳ-kheo! Nếu ai có thể quán sát bảy xứ lành và bốn pháp như thế, thì ở trong hiện pháp này là bậc Thượng nhơn. Thế nên, Tỳ-kheo! nên tìm phương tiện thành tựu bảy xứ lành và quán bốn pháp. Như thế, này các Tỳ-kheo, hãy học

điều n

ày!

Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

4. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở nước Thích-sĩ Ca-tỳ-la-vệ, trong vườn Ni-câu-lũ cùng chúng

đại Tỳ-kheo năm trăm người.

Bấy giờ, nhiều Tỳ-kheo

đến chỗ Thế Tôn, cúi lạy rồi ngồi một b

ên. Những Tỳ-kheo này bạch Thế Tôn:

- Chúng con muốn

đến phương Bắc du hóa.

Thế Tôn bảo:

- Nên biết phải thời.

Thế Tôn lại bảo Tỳ-kheo:

- Các Thầy có từ giã Tỳ-kheo Xá-lợi-phất ch

ăng?

Các Tỳ-kheo

đáp:

- Thưa không, bạch Thế Tôn.

Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

- Các Thầy, hãy

đến từ gi

ã Tỳ-kheo Xá-lợi-phất. Vì sao thế? Tỳ-kheo Xá-lợi-phất thường giáo giới cho các người Phạm hạnh pháp này. Thầy ấy thuyết pháp không biết chán.

Rồi Thế Tôn thuyết pháp vi diệu cho các Tỳ-kheo. Các Tỳ-kheo nghe pháp xong

đứng l

ên, cúi lạy Thế Tôn,

đi nhiễu quanh Phật ba v

òng, rồi lui

đi.

Bấy giờ Tôn giả Xá-lợi-phất

đang ở trong đền Thần Thích-

sĩ. Những Tỳ-kheo ấy

đến chỗ Xá-lợi-phất thăm hỏi rồi ngồi một b

ên. Những Tỳ-kheo ấy bạch Xá-lợi-phất:

- Chúng tôi muốn

đến phương Bắc du hóa trong nhân gian, nay đ

ã từ giã Thế Tôn rồi.

Xá-lợi-phất nói:

- Các Thầy nên biết nhân dân phương Bắc, Sa-môn, Bà-la-môn thảy

đều thông minh, trí tuệ khó sánh kịp, lại có nhân dân ưa đến thi tranh luận. Nếu như họ hỏi các Thầy: 'Thầy của chư Hiền có những luận g

ì?'. Nếu họ hỏi thế, các Thầy

định đáp thế n

ào?

Các Tỳ-kheo

đáp:

- Nếu có người

đến hỏi thế, chúng tôi sẽ d

ùng nghĩa này trả lời: 'Sắc là vô thường, mà vô thường tức là khổ, khổ thì vô ngã, vô ngã thì không; do không, vô ngã nên kia không. Như thế, bậc trí giả quán như vậy. Thọ, tưởng, hành, thức cũng vô thường, khổ, không, vô ngã. Kỳ thực không,

đó l

à do vô ngã nên không. Như thế là chỗ người trí học hỏi. Ngũ ấm này thảy

đều không tịch, do nhân duy

ên hòa hợp,

đều sẽ trở về hoại diệt, không có lâu bền. Tám chánh đạo v

à Bảy giác chi; chỗ Thầy tôi nói chính là

đây vậy. Nếu các người Sát-lợi, B

à-la-môn

đến hỏi nghĩa với chúng tôi, chúng tôi sẽ d

ùng nghĩa này

đáp'.

Khi ấy, Tôn giả Xá-lợi-phất bảo các Tỳ-kheo:

- Các Thầy hãy giữ vững tâm ý, chớ có hấp tấp.

Rồi Xá-lợi-phất thuyết pháp vi diệu

đầy đủ cho các Tỳ-kheo, v

à họ

đứng l

ên

đi. Khi các Tỳ-kheo ấy đi chưa xa, Xá-lợi-phất bảo các Tỳ-kheo:

- Nên hành Tám chánh

đạo v

à pháp Bảy giác chi thế nào?

Khi ấy các Tỳ-kheo bạch Xá-lợi-phất:

- Chúng tôi từ xa

đến l

à muốn

được nghe nghĩa n

ày. Cúi mong Tôn giả nói cho.

Xá-lợi-phất

đáp:

- Các Thầy lắng nghe, lắng nghe! Khéo suy nghĩ. Nay tôi sẽ nói.

Các Tỳ-kheo vâng lời dạy. Xá-lợi-phất nói:

- Nếu một lòng nhớ chánh kiến là niệm giác ý chẳng loạn; Ðẳng trị, là một lòng nhớ tất cả pháp là trạch pháp giác ý; Ðẳng ngữ là thân ý tinh tấn, tức tinh tấn giác ý; Ðẳng nghiệp, tất cả các pháp

được

sanh là hỷ giác ý; Ðẳng mạng, biết

đủ với t

ài sản của Hiền Thánh, xả bỏ hết gia tài thân thể an ổn là ỷ giác ý (khinh an); Ðẳng phương tiện,

được Tứ

Ðế của Hiền Thánh, trừ sạch các kiết sử, là

định giác ý;

Ðẳng niệm, quán Tứ ý chỉ (Tứ niệm xứ), thân không bền chắc,

đều không, vô ng

ã là hộ giác ý (xả giác ý); Ðẳng tam-muội,

điều chưa được sẽ được, điều chưa độ sẽ độ, điều không chứng được khiến cho chứng được.

Nếu có người

đến hỏi nghĩa n

ày: 'Làm thế nào

để tu Tám chánh đạo v

à Bảy giác chi?' Các Thầy nên

đáp như thế. V

ì sao? Nếu có Tỳ-kheo tu Tám chánh

đạo v

à Bảy pháp này, thì tâm hữu lậu

được giải thoát. Nay tôi lại bảo các Thầy một lần nữa; Nếu có Tỳ-kheo tu h

ành, tư duy Tám chánh

đạo v

à Bảy pháp, Tỳ-kheo ấy sẽ thành tựu quả thứ hai, không có hồ nghi; sẽ

đắc A-na-h

àm hoặc A-la-hán. Thôi gác việc này, nếu không

được nhiều, th

ì trong một ngày, người hành Tám chánh

đạo v

à Bảy pháp này cũng

được phước không thể tính kể, có thể đắc A-na-h

àm hoặc A-la-hán.

Vì thế, chư Hiền! Nên tìm phương tiện tu hành Tám chánh

đạo v

à Bảy pháp này, giữ

đạo chớ có hồ nghi.

Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe lời Xá-lợi-phất dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

5. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-

đ

à, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ, Thế Tôn bảo Ca-diếp:

- Nay Thầy tuổi

đ

ã già, không còn trai tráng nữa, hãy nên nhận thức

ăn uống v

à y phục của các trưởng giả.

Ðại Ca-diếp bạch Phật:

- Con không kham nhận y thực ấy. Nay con mặc áo nạp này tùy thời khất thực, vui sướng vô cùng.Vì sao? Tương lại sẽ có các Tỳ-kheo, thân thể nhu nhuyến, tâm tham

đắm y thực tốt đẹp rồi thối chuyển việc tham Thiền, lại không chịu khổ. Họ lại sẽ nói rằng: 'Các Tỳ-kheo ở thời Phật quá khứ, cũng nhận lời người thỉnh, nhận y thực của người. V

ì sao chúng ta không làm theo pháp của Thánh nhân ngày xưa?'. Vì họ ngồi tham

đắm y thực, n

ên sẽ bỏ pháp phục, làm cư sĩ, khiến các Hiền Thánh không còn oai thần nữa. Bốn bộ chúng dần dần giảm bớt. Thánh chúng

đ

ã giảm ít thì chùa chiền của Như Lai sẽ bị hủy hoại. Vì chùa Như Lai

đ

ã bị hủy hoại thì kinh pháp sẽ bị thất lạc. Khi ấy chúng sanh không còn tinh quang nữa,

đ

ã không có tinh quang thì thọ mạng sẽ ngắn ngủi. Khi ấy, chúng sanh kia mạng chung

đều rơi v

ào ba

đường ác. Cũng như ng

ày nay, chúng sanh vì phước nhiều nên

đều sanh l

ên trời,

đời tương lai v

ì làm tội nhiều sẽ vào

địa ngục.

Thế Tôn bảo:

- Lành thay, lành thay! Ca-diếp có nhiều lợi ích, Thầy làm bạn tốt, làm phước

điền cho người đời. Ca-diếp, Thầy n

ên biết! Sau khi Ta nhập Niết-bàn hơn ngàn n

ăm, sẽ có các Tỳ-kheo thối chuyển việc tham Thiền, chẳng h

ành pháp

đầu đ

à nữa, cũng không khất thực, mặc áo vá, mà tham nhận y thực của trưởng giả thỉnh. Cũng chẳng ở dưới gốc cây, nơi vắng vẻ, ưa thích trang hoàng nhà cửa, cũng không dùng

đại tiểu tiện l

àm thuốc, chỉ

đắm trước các dược thảo cực kỳ ngon ngọt, hoặc trong đó tham đắm t

ài sản, lẫn tiếc nhà cửa, thường cải vã nhau.

Bấy giờ

đ

àn-việt, thí chủ dốc lòng tin Phật pháp, ưa thích bố thí chẳng tiếc của cải. Khi ấy,

đ

àn-việt thí chủ sau khi mạng chung

đều sanh l

ên trời; còn Tỳ-kheo giải

đ

ãi, chết sẽ vào

địa ngục. Như thế, n

ày Ca-diếp! Tất cả các hành thảy

đều vô thường, không được bền lâu. Lại nữa, Ca-diếp n

ên biết! Ðời tương lai, sẽ có Tỳ-kheo cạo bỏ râu tóc mà tập theo gia nghiệp, tay trái bồng con trai, tay phải ôm con gái, lại cầm

đ

àn sáo,

đi khất thực tr

ên các

đường phố. Bấy giờ đ

àn-việt thí chủ thọ phước vô cùng, huống gì ngày nay có những người chí thành khất thực. Như thế này Ca-diếp! Tất cả các hành vô thường, không

được bền lâu.

Ca-diếp nên biết,

đời tương lai hoặc có Sa-môn Tỳ-kheo sẽ bỏ Tám chánh đạo v

à Bảy pháp như nay Ta

đ

ã tu tập pháp bảo ấy trong bao vô số kiếp. Các Tỳ-kheo

đời tương lai d

ùng ca khúc, ở trong chúng khất thực

để tự nuôi sống. Song các đ

àn-việt thí chủ cúng thức

ăn cho các Tỳ-kheo ấy cũng c

òn

được phước, huống g

ì ngày nay mà không

được phước sao?

Nay Ta

đem pháp n

ày trao lại cho Tỳ-kheo Ca-diếp và A-nan. Vì sao? Nay Ta tuổi

đ

ã già

đến tám mươi. Như Lai không bao lâu sẽ diệt độ. Nay đem pháp bảo phó chúc hai người, khéo ghi

nhớ

đọc

tụng, giữ gìn

đừng cho dứt mất, lưu truyền trong thế gian. Người n

ào có lỗi làm dứt tuyệt lời dạy của bậc Thánh sẽ bị

đọa v

ào chốn biên

địa. Cho n

ên hôm nay Ta dặn dò trao phó kinh pháp cho các Thầy,

đừng để dứt mất.

Khi ấy, Tôn giả Ðại Ca-diếp và Tôn giả A-nan liền từ chỗ ngồi

đứng dậy, quỳ gối chấp tay bạch Phật:

- Do những cớ gì

đem kinh pháp n

ày trao phó hai chúng con mà không trao người khác? Trong chúng của Như Lai, lại có các vị thần thông

đệ nhất không thể tính kể, sao không trao phó dặn d

ò?

Thế Tôn bảo Ca-diếp:

- Ta xem trong cõi Trời, cõi Người, trọn không thấy người nào có thể thọ trì pháp bảo này sánh bằng Ca-diếp, A-nan. Trong hàng Thanh v

ăn cũng không ai hơn hai người n

ày. Chư Phật

đời quá khứ cũng có hai người thọ tr

ì kinh pháp, như Tỳ-kheo Ca-diếp và A-nan ngày nay sánh rất là rất thù diệu. Vì sao? Tỳ-kheo hành

đầu đ

à ở thời Phật quá khứ, khi pháp còn thì còn, pháp mất thì mất. Còn Tỳ-kheo Ca-diếp của Ta hôm nay còn lưu lại ở

đời,đến Phật Di-lặc ra đời mới nhập diệt. Do nhân duy

ên này, Tỳ-kheo Ca-diếp ngày nay hơn chúng Tỳ-kheo thời quá khứ.

Lại nữa, Tỳ-kheo A-nan, vì sao hơn thị giả thời quá khứ? Thị giả chư Phật thời quá khứ nghe Phật nói rồi sau mới hiểu; còn nay Tỳ-kheo A-nan, Như Lai chưa nói ra

đ

ã hiểu. Như Lai không cần nói, Tỳ-kheo A-nan hơn các thị giả chư Phật thời quá khứ.

Cho nên, này Ca-diếp, A-nan! Nay Ta giao phó cho các Thầy, dặn dò các Thầy pháp bảo này,

đừng để thiếu sót, diệt mất.

Bấy giờ Thế Tôn bèn nói kệ:

Tất cả hành vô thường

Khởi lên ắt có diệt

Không sanh thì không tử

Diệt này rất là vui.

Khi ấy, Tôn giả Ðại Ca-diếp và Tôn giả A-nan nghe lời Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

-ooOoo-

XXXXII.1. Phẩm Bát nạn (1)

1. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở một nước Xá-vệ, rừng Kỳ-

đ

à, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

- Người phàm phu không nghe, không biết thời tiết thuyết pháp. Tỳ-kheo nên biết! Có tám thời không

được nghe pháp, người không được tu h

ành. Thế nào là tám?

Nếu lúc Như Lai xuất hiện ở

đời, diễn nói giáo pháp rộng r

ãi

được đến Niết-b

àn. là việc làm của Như Lai, nhưng chúng sanh này ở trong

địa ngục, không nghe, không thấy.

Ðó là nạn

đầu ti

ên.

Lại nếu lúc Như Lai xuất hiện ở

đời, diễn nói giáo pháp rộng r

ãi, mà chúng sanh này ở trong loài súc sanh không nghe, không thấy. Ðó là nạn thứ hai.

Lại nữa, lúc Như Lai xuất hiện ở

đời, diễn nói giáo pháp rộng r

ãi, nhưng chúng sanh này ở trong ngạ quỷ, không nghe, không thấy. Ðấy là nạn thứ ba.

Lại nữa, lúc Như Lai xuất hiện ở

đời,

diễn nói giáo pháp rộng rãi. Nhưng chúng sanh này sống ở bên

địa, phỉ báng Hiền Thánh, tạo các t

à nghiệp. Ðó là nạn thứ n

ăm.

Lại nữa, lúc Như Lai xuất hiện ở

đời, diễn nói giáo pháp rộng r

ãi

đến được Niết-b

àn, nhưng chúng sanh này tuy sống ở trung tâm của nước, nhưng sáu c

ăn không đầy đủ, lại cũng không phân biệt được pháp thiện ác.

Ðó là nạn thứ sáu.

Lại nữa, lúc Như Lai xuất hiện ở

đời, diễn nói giáo pháp rộng r

ãi

đến được Niết-b

àn, nhưng chúng sanh này tuy sống ở trung tâm của nước, sáu c

ăn đầy đủ không có khuyết tật, m

à tâm thức tà kiến; cho rằng người không thí, người không thọ, cũng không có quả báo thiện ác, không

đời n

ày,

đời sau, cũng không cha mẹ, đời không có Sa-môn, B

à-la-môn v.v... có thành tựu quả A-la-hán, tự thân chứng

được để tự an lạc.

Ðó là nạn thứ bảy.

Lại nữa, lúc Như Lai không xuất hiện ở

đời,

Như Lai cũng không thuyết pháp

đưa đến Niết-b

àn, tuy chúng sanh này sống ở trung tâm nước, sáu c

ăn đầy đủ, kh

am nhẫn thọ pháp, thông minh tài cao, nghe pháp hiểu liền, tu hành chánh kiến, biết có vật, có thí, có người thọ, có quả báo thiện ác, có

đời n

ày,

đời sau, ở đời có Sa-môn, B

à-la-môn v.v... tu chánh kiến chứng

được A-la-hán.

Ðó là nạn thứ tám, chẳng

được tu h

ành Phạm hạnh. Này Tỳ-kheo,

đó gọi l

à tám nạn chẳng

được tu h

ành Phạm hạnh.

đây, n

ày Tỳ-Kheo! Có một thời tiết cho người tu hành Phạm hạnh. Thế nào là một? Ðó là lúc Như Lai xuất hiện ở

đời, rộng nói giáo pháp được đến Niết-b

àn, và người này sanh ở trung tâm của nước, thế trí biện thông, thấy vật

đều r

õ biết, tu thành chánh kiến, cũng hay phân biệt các pháp thiện ác, biết có

đời n

ày,

đời sau, đời có bậc Sa-môn, B

à-la-môn tu chánh kiến chứng

được A-la-hán.

Ðó là người Phạm hạnh tu hành một pháp

được Niết-b

àn.

Bấy giờ Thế Tôn bèn nói kệ:

Tám nạn không một loại

Khiến người không

được đạo

Như nay hiện ở trước

Thế gian không thể gặp

Cũng nên học Chánh pháp

Cũng chớ mất chỗ này

Nhớ về lại quá khứ

Ðã sanh trong

địa ngục

đây đoạn vô dục

Tư duy nơi Chánh pháp

Còn mãi ở thế gian

Mà không lúc

đoạn diệt.

đây đoạn vô dục,

Tư duy nơi Chánh pháp

Ðoạn hẳn nguồn sanh tử

Còn mãi ở thế gian

Ðã

được mang thân người

Phân biệt pháp chánh chân

Những người chưa

đắc quả

Ắt dạo nơi tám nạn.

Nay nói có tám nạn,

Yếu hạnh của Phật pháp

Một nạn vẫn còn quá

Như bộng cây mặt biển

Tuy nên lìa một nạn

Mới có

được lý n

ày

Nếu lìa một Tứ

đế

Là lìa hẳn chánh

đạo

Thế nên hãy chuyên tâm

Tư duy về diệu lý

Chí thành nghe Chánh pháp

Liền

được

chỗ vô vi.

Thế nên Tỳ-kheo! Hãy cầu phương tiện xa lìa nơi tám nạn, chớ mong ở

đó. Như thế, n

ày các Tỳ-kheo, hãy học

điều n

ày!

Bấy giờ, các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

2. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-

đ

à, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

- Có tám

địa ngục lớn. Thế n

ào là tám? Ðịa ngục Sống Lại;

địa ngục Dây

Ðen;

địa ngục

Ðẳng Hại;

địa ngục G

ào Khóc;

địa ngục G

ào Khóc Lớn;

địa ngục A-Tỳ; địa ngục Nóng; địa ngục Nóng Lớn.

Như thế, này các Tỳ-kheo! Có tám

đại địa ngục.

Bấy giờ Thế Tôn liền nói kệ:

Sống Lại và Dây Ðen

Ðẳng Hại, hai Gào Khóc

Ngục A-Tỳ ngũ nghịch

Ðịa ngục Nóng, Nóng Lớn

Ðây gọi tám

địa ngục

Trong ấy không thể ở

Ðều do gốc ác hạnh Mười sáu lớp vách kín

Và trên

địa ngục sắt kia

Lửa dữ, hằng thiêu

đốt

Khắp trong một do tuần

Lửa hừng rất mạnh mẽ

Bốn thành, bốn lớp cửa

Trong

đó rất bằng phẳng

Lại lấy sắt làm thành

Nắp sắt che trên

đó.

Ðây do nhân duyên tội báo của chúng sanh, khiến cho chúng sanh kia thọ khổ vô lượng, máu thịt tiêu hết chỉ còn lại xương.

Vì những gì mà gọi là

địa ngụa Sống Lại? Có những chúng sanh thân h

ình thẳng

đơ không thể dao động, bị khổ bức bách m

à không thể di chuyển, thân hình không còn máu thịt. Khi ấy họ tự bảo nhau: 'Chúng sanh sống lại, sống lại'. Lúc

đó, chúng sanh ấy liền tự sống lại. Do nhân duy

ên này nên gọi là

địa ngục Sống Lại.

Lại vì nhân

đâu lại gọi l

à

địa ngục Dây

Ðen? Chúng sanh kia hình thể gân mạch

đều hóa th

ành dây

để cứa v

ào thân, nên gọi là

địa ngục Dây

Ðen.

Lại do nguyên nhân gì mà lại gọi là

địa ngục

Ðẳng Hại? Ở

đây, chúng sanh kia tụ tập một nơi, đầu bị chặt rồi mọc lại. Do nhân duy

ên này gọi là

địa ngục

Ðẳng Hại.

Lại do nhân duyên gì gọi là

địa ngục G

ào Khóc? Chúng sanh kia gốc lành

đoạn dứt chẳng c

òn sót mảy lông tóc, ở trong

địa ngục kia chịu khổ n

ão vô lượng, trong

đó k

êu oán, tiếng gào không dứt. Do nhân duyên này gọi là

địa ngục G

ào Khóc.

Lại nữa, do nhân duyên gì gọi là

địa ngục G

ào Khóc Lớn? Chúng sanh trong

địa ngục ấy chịu đau khổ vô lượng, không thể tính kể. Trong đó, họ hô hoán, đấm ngực, tự đánh m

ình và

đồng thanh g

ào thét. Do nhân duyên này gọi là

địa ngục G

ào Khóc Lớn.

Lại do nhân duyên gì gọi là

địa ngục A-tỳ? Những chúng sanh sát hại cha mẹ, phá hoại tháp Phật, l

àm rối loạn chúng T

ăng, học tập t

à kiến

đi

ên

đảo

, tương ưng với tà kiến, tất cả không thể chữa trị. Vì thế nên gọi là

địa ngục A-tỳ.

Lại do nhân duyên gì mà gọi là

địa ngục Nóng? Những chúng sanh ở trong địa ngục ấy, thân thể bốc khói, thảy đều tan nát, n

ên gọi là

địa ngục Nóng.

Lại do nhân duyên gì gọi là

địa ngục Nóng Lớn? Chúng sanh ở trong địa ngục n

ày,

đều không thấy sót lại chút g

ì của tội nhân. Nên gọi là

địa ngục Nóng Lớn.

Thế là, này Tỳ-kheo! Do nhân duyên này gọi là tám

địa ngục lớn. Mỗi địa ngục đều có mười sáu địa ngục nhỏ t

ên là

địa ngục Ưu-bát, địa ngục Bát-đầu, địa ngục Câu-mâu-đầu

,

địa ngục

Phân-

đ

à-lợi,

địa ngục Vị-tằng-Hữu, địa ngục Vĩnh-Vô, địa ngục Ngu Hoặc, địa ngục Súc-Tụ, địa ngục

Ðao-Sơn,

địa ngục Thang Hỏa, địa ngục Hỏa-sơn, địa ngục Khôi-H

à,

địa ngục Kinh Cức, địa ngục Phức Thi, địa ngục Kiến Thọ, địa ngục Nhiệt Thiết Ho

àn.

Như vậy, mười sáu

địa ngục nhỏ n

ày không thể xưng lượng, khiến chúng sanh kia sanh trong

địa ngục. Hoặc có chúng sanh hủy bỏ chánh kiến phỉ báng v

à xa lìa Chánh pháp, sau khi mạng chung

đều sanh trong địa ngục Sống Lại (Ho

àn Hoạt)

Nếu có chúng sanh ưu thích sát sanh liền sanh trong

địa ngục Dây

Ðen.

Nếu có chúng sanh mổ giết Trâu dê, và nhiều loại khác, sau khi mạng chung sanh trong

địa ngục

Ðẳng Hại.

Nếu có chúng sanh không cho mà lấy trộm vật của người khác, liền sanh trong

địa ngục G

ào Khóc.

Nếu có chúng sanh thường ưa dâm dật, lại thêm nói dối, sau khi mạng chung liền sanh trong

địa ngục G

ào Khóc Lớn.

Nếu có chúng sanh sát hại cha mẹ, phá hoại chùa chiền, làm rối loạn Thánh chúng, phỉ báng Thánh nhân, học tập tà kiến

đi

ên

đảo; người ấy sau khi mạng chung sanh trong địa ngục A-tỳ.

Nếu có chúng sanh nghe lời nói ở chỗ này

đem truyền đến chỗ kia, nếu ở kia lại truyền đến chỗ n

ày, tìm phương tiện xấu của người; người ấy sau khi mạng chung sanh trong

địa ngục Nóng.

Nếu có chúng sanh gây tranh

đấu

rối loạn

đôi b

ên, tham

đắm vật của người, dấy khởi lẫn tiếc, tật đố, ôm l

òng do dự; người ấy sau khi mạng chung sanh trong

địa ngục Nóng Lớn.

Nếu có chúng sanh tạo ác nghiệp, sau khi mạng chung sanh trong mười sáu

địa ngục nhỏ. Khi ấy ngục tốt h

ành hạ chúng sanh kia

đau khổ khó lường, hoặc chặt tay, hoặc chặt chân, hoặc chặt tay chân, học cắt mũi, hoặc xẻo tai, hoặc cắt tai, mũi, hoặc lấy cây đ

è lên, hoặc lấy cỏ nhét vào bụng, hoặc treo tóc ngược, hoặc lột da, khoét thịt, hoặc chẻ làm hai, hoặc may kín lại, hoặc chặt rời n

ăm phần, hoặc chặt lửa đốt, hoặc rưới nước sắt nóng l

ên, hoặc xé ra làm n

ăm, hoặc kéo thân d

ài ra, hoặc dùng búa bén chặt

đầu, giây lát sống lại. Cần cho tội nghiệp của người trong ngục trả xong, sau mới ra khỏi.

Có lúc ngục tốt bắt chúng sanh kia, lấy chày lớn

đập nát thân thể, hoặc tuốt gân xương, lại rượt đuổi leo xuống. Có lúc có lo

ài chim mỏ sắt lại mổ

ăn, lại trói chặt năm chi không cho cử động, ném v

ào chảo nước sôi lớn, thêm dùng chĩa ba bằng sắt làm hại thân thể, gió thổi qua thân, sống lại như cũ. Có lúc ngục tốt lại bắt chúng sanh leo núi

đao, núi lửa, không cho ngừng nghỉ. Trong đó chịu khổ không thể tính kể. Cần cho tội nghiệp đ

ã tạo của người ấy hết rồi, sau mới ra.

Có lúc tội nhân không kham chịu sự thống khổ này, lại muốn vào

địa ngục tro nóng chịu khổ vô lượng. Lại từ trong đó ra, v

ào lại

địa ngục chẻ ngược, trong đó gió thổi đau đớn không thể xiết.

Lại từ trong

đó ra, v

ào

địa ngục phẩn nóng. Lúc ấy trong địa ngục phẩn nóng, có các lo

ài trùng li ti rút rỉa thịt xương. Có lúc chúng sanh không chịu nổi thống khổ, lại dời vào

địa ngục cây kiếm, thân thể tan nát, đau đớn không chịu

được. Có lúc ngục tốt hỏi chúng sanh ấy rằng:

- 'Các tội nhân từ

đâu đến? '

Khi ấy tội nhân

đáp:

- 'Chúng tôi cũng không biết từ

đâu đến'

- 'Rồi

đi đâu?

- 'Cũng không biết sẽ

đi đâu

- 'Bây giờ muốn những gì?

- 'Chúng tôi rất

đói khát'

Khi ấy ngục tốt lấy hoàn sắt nóng

đổ v

ào miệng tội nhân ấy,

đốt nát thân thể đau đớn không chịu nổi. Cần cho trả hết tội cũ rồi mới chết. Lúc ấy tội nhân lui tới trải qua bao nhi

êu

địa ngục như vậy, ở trong đó chịu khổ ng

àn vạn n

ăm, sau mới ra khỏi.

Tỳ-kheo nên biết! Vua Diêm-la bèn khởi nghĩ thế này: 'Chúng sanh trong các cõi, thân miệng ý làm ác, sẽ chịu hết những tội như thế. Chúng sanh trong các cõi, thân miệng ý làm lành, những người như thế sẽ sanh cõi trời Quang Âm'.

Lúc ấy, Thế Tôn bèn nói kệ:

Người ngu thường vui vẻ

Như trời Quang Âm kia

Người trí thường sợ sệt

Cũng như ở

địa ngục

.

Lúc ấy tội nhân nghe vủa Diêm-la nói giáo lệnh này: 'Ở

đây đến lúc n

ào diệt hết các tội

đ

ã tạo thì chết rồi

được thọ thân người, sanh v

ào trung tâm của nước, gặp Thiện tri thức, cũng gặp cha mẹ kính tin Phật pháp, ở trong chúng của Như Lai xuất gia theo học

đạo, nơi hiện pháp dứt sạch hữu lậu th

ành vô lậu.

Nay ta bảo một lần nữa. Ông cần

để ý, xa l

ìa tám nạn

được sanh chốn trung tâm, c

ùng gặp Thiện tri thức,

được tu Phạm hạnh, đạt kết quả của bổn nguyện, không mất lời thệ cũ'

Cho nên, này Tỳ-kheo! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhơn muốn xa lìa tám

địa ngục lớm v

à mười sáu

địa ngục nhỏ, th

ì nên tìm phương tiện tu Tám chánh

đạo. Như thế, n

ày các Tỳ-kheo, nên học

điều n

ày!

Bấy giờ, các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

3. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở nước Tỳ-xá-lỵ trong vườn Nại-kỳ (vườn Xoài Ambapàli) cùng với

đại chúng Tỳ-kheo năm trăm người câu hội, dần dần đi du hóa nhân

gian.

Khi ấy, Thế Tôn ngoái nhìn thành Tỳ-xá-ly, giây lâu bèn nói kệ này:

Nay nhìn Tỳ-xá-ly,

Rồi sau không nhìn lại

Cũng lại không bao lâu

Sẽ từ biệt nơi này.

Lúc ấy, nhân dân trong thành Tỳ-xá-ly nghe nói kệ này, thảy

đều lo buồn, đi theo sau Thế Tôn ai nấy rơi lệ tự bảo nhau: 'Không bao lâu Như Lai sẽ diệt độ, thế gian sẽ mất ánh sáng'.

Thế Tôn bảo:

- Thôi, thôi! Các Người chớ buồn lo, vật

đáng hoại diệt m

à muốn không hoại diệt thì trọn không có lý. Trước

đây,

Ta

đem bốn việc dạy bảo do đây được tác

chứng. Và Ta cũng ở trong bốn

độ chúng, dạy bảo bốn việc n

ày. Thế nào là bốn? Tất cả hành vô thường, là pháp thứ nhất. Tất cả hành khổ là pháp thứ hai. Tất cả hành vô ngã là pháp thứ ba. Niết-bàn là diệt tận, là pháp thứ tư. Như thế, không bao lâu Như Lai sẽ diệt

độ. Các Người n

ên biết bốn pháp c

ăn bổn, v

ì khắp tất cả chúng sanh nói bày nghĩa ấy.

Bấy giờ, Thế Tôn muốn khiến cho nhân dân thành Tỳ-xá-ly trở về, liền hóa hiện một hầm lớn, Thế Tôn

đưa chúng Tỳ-kheo qua bờ b

ên kia, dân chúng trong nước ở bờ bên này. Lúc ấy, Thế Tôn ném cái bát của Ngài lên hư không cho dân chúng thành ấy, lại bảo:

- Các Người khéo cúng dường bát này, cũng nên cúng dường bậc Pháp sư tài cao

được phước vô lượng lâu d

ài.

Lúc ấy, Thế Tôn cho họ chiếc bát rồi, liền

đi đến nước Câu-thi-na-kiệt. Lúc ấy, nhân dân nước Câu-thi-na-kiệt có hơn năm trăm lực sĩ nhóm tại một chỗ b

àn luận thế này:

- Chúng ta cùng làm một việc kỳ lạ

để sau khi chết danh tiếng truyền lâu, con cháu c

ùng truyền tụng rằng: 'Ngày xưa, các lực sĩ thành Câu-thi-na-kiệt thế lực khó bì.'

Lát sau, họ lại khởi niệm 'Nên làm việc gì? '

Bấy giờ, cách thành Câu-thi-na-kiệt không xa có tảng

đá vuông lớn, d

ài một tr

ăm hai mươi bộ, rộng sáu mươi bộ. Họ nói: 'chúng ta sẽ c

ùng nhau dựng nó lên'. Họ

đem hết sức để dựng tảng đá m

à không nhúc nhích lay chuyển, huống gì dựng lên. Lúc ấy, Thế Tôn

đi đến chỗ họ, hỏi rằng:

- Các Ðồng tử muốn làm gì?

Các

đồng tử bạch Phật:

- Trước

đây, chúng con b

àn luận như thế này, muốn dời tảng

đá n

ày

để cho đời đời khen truyền danh tiếng của m

ình. Ra sức từ

đó đến nay, đ

ã bảy ngày, song không thể khiến tảng

đá n

ày di chuyển.

Phật bảo các

đồng tử:

- Có muốn Như Lai dựng tảng

đá n

ày ch

ăng?

Các

đồng tử đáp:

- Nay chính phải thời, cúi xin Thế Tôn sắp

đặt tảng đá n

ày.

Lúc ấy, Thế Tôn dùng bàn tay nâng tảng

đá l

ên,

đưa qua b

àn tay trái, ném lên hư không, tảng

đá văng l

ên

đến trời Phạm thi

ên. Các lực sĩ thành Câu-thi-na-kiệt không thấy tảng

đá, b

èn bạch Phật:

- Tảng

đá ấy nay ở chỗ n

ào? Chúng con

đều không thấy.

Thế Tôn bảo:

- Tảng

đá n

ày hiện ở trên trời Phạm thiên.

Các

đồng tử đều bạch Phật:

- Khi nào nó rơi xuống cõi Diêm phù.

Thế Tôn bảo:

- Nay Ta sẽ dẫn thí dụ, người trí do thí dụ tự hiểu. Giả sử lại có người lên

đến Phạm thi

ên, nâng tảng

đá ấy ném xuống Di

êm phù, mười hai n

ăm mới đến. Song nay do oai thần của Như Lai, nó sẽ rơi xuống ngay.

Ðức Phật nói xong, tảng

đá ấy lập tức rơi xuống, trong hư không mưa trăm ng

àn thứ hoa trời. Hơn n

ăm trăm đồng tử ấy xa thấy đá rơi xuống, b

èn chạy tán loạn không dám

đứng chỗ cũ, Phật bảo họ:

- Ðừng sợ, Như Lai tự biết thời.

Bấy giờ Thế Tôn

đưa tay trái tiếp tảng đá, đặt qua b

àn tay mặt và dựng nó lên. Lúc ấy, Tam thiên

đại thi

ên thế giới rung

động sáu cách. Các c

õi trời thần diệu trong hư không, rải các thứ hoa sen Ưu-bát. N

ăm trăm đồng tử đều khen ngợi:

- Thật là chưa từng có, rất kỳ lạ, rất

đặc biệt! Oai thần của Như Lai thật không thể sánh kịp. Tảng đá n

ày dài một tr

ăm hai mươi bộ, rộng sáu mươi bộ, m

à Thế Tôn chỉ dùng một tay sắp xếp cho nó.

Lúc ấy, n

ăm trăm đồng tử đều bạch Phật:

- Như Lai dùng thần lực gì di chuyển tảng

đá n

ày? Là dùng sức thần túc, hay dùng sức trí tuệ xếp

đặt tảng đá n

ày?

Phật bảo các

đồng tử:

- Nay không dùng sức thần túc, cũng không dùng sức trí tuệ. Nay Ta chỉ dùng sức của cha mẹ mà sắp xếp tảng

đá n

ày.

Các

đồng tử đều bạch Phật:

- Không biết Như Lai dùng sức của cha mẹ là như thế nào?

Phật bảo:

- Nay Ta sẽ dẫn thí dụ cho các Ðồng tử. Người trí do thí dụ tự hiểu. Này các Người! Nên biết sức của mười con lạc

đ

à không bằng sức một con voi thường. Lại, sức của mười lạc

đ

à và một voi thường, không bằng sức của một con voi Ca-la-lặc. Sức của mười lạc

đ

à và một voi thường cùng sức của voi Ca-la-lặc, không bằng sức một con voi Cưu-

đ

à-

đi

ên. Giả sử sức của mười lạc

đ

à và một voi thường cho

đến cộng với sức một voi Cưu-đ

à-

đi

ên không bằng sức một voi Bà-ma-na. Lại tính sức của voi này, không bằng sức một voi Ca-ni-lưu. Lại tính hết sức của các voi trên, không bằng sức của một voi Ưu-bát. Lại tính hết sức của bao nhiêu voi, không bằng sức của một voi Bát-

đầu-ma. Lại tính kể so sánh sức của bao nhi

êu voi, không bằng sức một voi Câu-ni-

đ

à. Lại gom hết

để tính kể so sánh, không bằng sức của một voi Phân-đ

à-lợi. Lại gom hết

để tính kể so sánh, không bằng sức của một Hương tượng. Lại gồm hết để tính kể so sánh, không bằng sức của một Ma-kha-na-cực. Lại gồm hết để tính kể so sánh, không bằng sức của một Na-la-di

ên. Lại gồm hết tính kể so sánh, không bằng sức của một Chuyển luân Thánh vương. Lại gồm hết tính kể so sánh, không bằng sức của một A-duy-việt-trí (Bồ-tát bất thối). Lại gồm hết

để tính kể so sánh, không bằng sức của một Bồ-tát bổ xứ. Lại gồm hết để so sánh, không bằng sức của một Bồ-tát ngồi dưới cội đạo thọ. Lại đem so sánh, không bằng sức của một đức Như Lai do thi thể của cha mẹ. Nay Ta d

ùng sức của cha mẹ

để sắp xếp tảng đá n

ày.

Bấy giờ, n

ăm trăm đồng tử lại bạch Phật:

- Sức thần túc của Như Lai, là như thế nào?

Ðức Phật bảo:

- Xưa, Ta có

đệ tử t

ên Mục-kiền liên, là bậc nhất trong hàng thần túc. Bấy giờ, Ta và Mục-kiền-liên du hóa tại làng vườn trúc Tỳ-la-nhược. Lúc ấy, cõi nước nguy nan, nhân dân cấu xé lẫn nhau, xương phơi

đầy đường. Người xuất gia khất thực khó khăn, Thánh chúng gầy ốm, khí lực hư hao. Lại nữa, nhân dân trong l

àng

đều đói khổ không nơi nương cậy. Lúc ấy,

Ðại Mục-kiền-liên

đến chỗ ta bạch rằng:

- 'Nay thôn Tỳ-la-nhược này rất là

đói khổ, không nơi khất thực, dân chúng khốn đốn không có đường sanh sống. Con cũng được nghe Như Lai dạy rằng, nay dưới lớp đất tự nhi

ên màu mỡ, rất là thơm ngon, cúi xin Thế Tôn cho phép lật lớp

đất ngon l

ên trên, khiến cho dân chúng

được thức ăn, cũng khiến cho Thánh chúng khí lực sung m

ãn'.

Ta bảo Mục-liên:

- 'Các loài trùng nhỏ nhít trong

đất, Thầy để chỗ n

ào?'

Mục-liên thưa:

- 'Con sẽ hóa một tay giống lớp

đất n

ày, lại dùng một tay lật lớp

đất m

àu mỡ lên, khiến loài trùng nhỏ nhít

đều an ổn nơi chỗ của m

ình'.

Lúc ấy Ta bảo Mục-liên:

- 'Tân thầy nghĩ gì mà muốn

đảo ngược đất n

ày?'

Mục-liên thưa:

- 'Nay con

đảo ngược đất n

ày, như lực sĩ lật một chiếc lá, không khó kh

ăn g

ì?'

Ta lại bảo Mục-liên:

- 'Thôi, thôi, Mục-liên! Không cần lật ngược

đất m

àu mỡ này. Vì sao? Chúng sanh thấy chuyện này sẽ kinh sợ, lông áo

đều dựng l

ên,

đền ch

ùa của chư Phật sẽ bị hủy hoại'.

Lúc ấy, Mục-liên

đến trước Phật bạch:

- 'Cúi xin Thế Tôn cho phép Thánh chúng

đi sang châu Uất-đơn-việt khất thực'.

Phật bảo Mục-liên:

- 'Hạng người không có thần túc trong

đại chúng đây, l

àm sao sang bên ấy khất thực?'.

Mục-liên bạch Phật:

-' Người không có thần túc, con sẽ

đưa sang c

õi ấy'.

Phật bảo Mục-liên:

- 'Thôi, thôi, Mục-liên! Không cần Thánh chúng sang bên kia khất thực. Vì sao? Ðời sau cũng sẽ

đói khổ như thế, khất thực khó được, người không nhan sắc. Bấy giờ h

àng Bà-la-môn trưởng giả sẽ bảo các Tỳ-kheo rằng: 'Các Vị sao không

đến Châu Uất

-

đơn-việt khất thực? Ng

ày xưa

đệ tử d

òng họ Thích có thần túc lớn, gặp nạn

đói khổ n

ày

đều c

ùng

đi sang Châu

Uất-

đơn-việt khất thực, để tự cứu m

ình. Ngày nay

đệ tử của Thích-Ca không có thần túc, cũng không có hạnh Sa môn oai thần'. Họ sẽ khinh

dể Tỳ-kheo, khiến hàng trưởng giả cư sĩ kia ôm lòng kiêu mạn chịu tội vô lượng. Mục-liên nên biết, do nhân duyên này, chúng Tỳ-kheo không nên sang hết bên ấy khất thực.

Các Ðồng tử nên biết! Thần túc của Mục-liên,

đức như thế, tính kể sức thần túc của Mục-li

ên trùm khắp Tam thiên

đại thi

ên cõi nước, không nơi nào không có, hay thiếu sót nhưng không bằng sức thần túc của Như Lai là sức hơn tr

ăm lần, ng

àn lần, ức vạn lần, không thể dùng thí dụ

để so sánh thần túc của Như Lai, đức ấy không thể lường.

Các

đồng tử bạch Phật:

- Sức trí tuệ của Như Lai như thế nào?

Ðức Phật bảo

- Xưa, Ta cũng có

đệ tử t

ên Xá-ợi-phất, bậc nhất trong hàng trí tuệ. Như nước biển lớn sâu rộng tám vạn bốn ngàn do-tuần chìm trong biển cũng như thế. Cõi

đất Di

êm-phù, chiều Nam Bắc hai vạn một ngàn do-tuần, chiều Ðông Tây bảy ngàn do-tuần. Nay lấy việc này

để so sánh. D

ùng nước bốn biển làm mực, dùng núi Tu-di làm giấy, bao nhiêu cây cỏ hiện tại của Diêm-phù làm bút, lại khiến tất cả người trong Tam thiên

đại

thiên cõi nước

đều viết, để tả cho hết trí tuệ của Tỳ-kheo Xá-lợi-phất. Nhưng n

ày các Ðồng tử! Nên biết nước mực bốn biển lớn và người cầm bút sẽ dần dần mạng chung, cũng không thể khiến cho trí tuệ của Tỳ-kheo Xá-lợi phất cạn hết. Như thế, các

đồng tử, h

àng trí tuệ bậc nhất trong số

đệ tử Ta, không ai hơn Xá-lợi-phất. Tính sức trí tuệ của Tỳ-kheo Xá-lợi-phất tr

ùm khắp Tam

đại thi

ên cõi nước, không sót không trống chỗ nào, muốn so sánh với sức trí tuệ của Như LAi, tr

ăm lần, ng

àn lần, ức vạn lần không thể dùng thí dụ

để so sánh. Sức trí tuệ của Như Lai l

à như thế.

Lúc ấy, các

đồng tử lại bạch Phật:

- Có thế lực nào hơn thế lực này ch

ăng?

Phật

đáp:

- Cũng có thế lực này vượt hơn thế lực trên. Ðó là gì? Là thế lực vô thường. Hôm nay vào nửa

đ

êm, tại giữa cây Song thọ, Như Lai sẽ bị sức vô thường

đưa đến diệt độ.

Bây giờ, các

đồng tử đều rơi lệ, than thở:

- Như Lai diệt

độ mau chóng

thay! Thế gian mất

đi nh

ãn mục.

Bấy giờ, có Tỳ-kheo-ni Quân-trà-la-hệ-

đầu l

à con gái trưởng giả Bà-la-

đ

à. Tỳ-kheo-ni này bèn khởi ý nghĩ: 'Ta nghe Thế Tôn không bao lâu sẽ diệt

độ. Ng

ày giờ

đ

ã hết, nay ta nên

đến chỗ Thế Tôn để gần gũi thăm hỏi.'

Lúc ấy, Tỳ-kheo-ni kia liền ra khỏi thành Tỳ-xá-ly,

đến chỗ Thế Tôn, xa thấy Như Lai dẫn chúng Tỳ-kheo v

à n

ăm trăm đồng tử muốn đến rừng Song thọ. bấy giờ, Tỳ-kheo-ni đến chỗ Thế Tôn, cúi đầu lễ chân Phật v

à bạch:

- Con nghe Thế Tôn sắp diệt

độ, không c

òn trụ thế bao lâu.

Phật

đáp :

- Chính vào giữa

đ

êm nay, Như Lai diệt

độ.

Khi ấy, Tỳ-kheo-ni bạch Phật:

- Nay con xuất gia học

đạo, lại không đạt kết quả sở nguyện; Thế Tôn bỏ con m

à diệt

độ. Cúi xin nói pháp vi diệu cho con để th

ành tựu sở nguyện.

Phật bảo:

- Này Tỳ-kheo-ni, nên tư duy về nguồn gốc của khổ.

Tỳ-kheo-ni lại bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn, thật khổ ! Bạch Như Lai thật khổ!

Phật hỏi:

- Tỳ-kheo quán những nghĩa gì mà nói khổ?

Tỳ-kheo-ni bạch Phật:

- Sanh khổ, già khổ, bệnh khổ, chết khổ, lo buồn rối loạn khổ, oán ghét gặp nhau khổ, thương yêu chia lìa khổ. Tóm lại, n

ăm ấm lẫy lừng khổ. Như thế, bạch Thế Tôn, con quán nghĩa n

ày rồi nên nói là khổ.

Lúc ấy, Tỳ-kheo-ni suy nghĩ nghĩa rồi, liền ngay chỗ ngồi

được tam đạt trí (tam minh). Tỳ-kheo-ni bạch Phật:

- Con không kham thấy Thế Tôn diệt

độ, cúi

xin cho phép con diệt

độ trước.

Khi ấy Thế Tôn im lặng hứa khả.

Tỳ-kheo-ni liền từ chhỗ ngồi

đứng

dậy, lễ dưới chân Phật, rồi ở trước Phật phi thân lên hhư không, làm mười tám phép biến hóa, hoặc

đi, hoặc ngồi, hoặc kinh h

ành, thân phóng ra khói lửa, ẩn hiện tự do không ng

ăn ngại, hoặc phóng lửa nước đầy hư không. Lúc ấy, Tỳ-kheo-ni l

àm vô số thần biến rồi, liền nơi cảnh giới Niết-bàn vô dư mà diệt

độ. Tại đó, chính trong ng

ày Tỳ-kheo-ni ấy diệt

độ, có tám vạn Thi

ên tử

được pháp nh

ãn tịnh.

Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

- Trong hàng Thanh v

ăn của Ta, Tỳ-kheo-ni được trí tuệ nhanh chóng bậc nhất l

à Tỳ-kheo-ni Quân-trà-la-hệ-

đầu.

Thế Tôn bảo Tôn giả A-nan:

- Thầy

đến giữa Song thọ, trải t

òa cho Như Lai,

để đầu hướng về phía Bắc.

- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.

A-nan vâng lời Phật dạy,

đến khoảng

giữa Song thọ trải tòa cho Như Lai, rồi trở lại chỗ Phật, cúi

đầu lễ chân Phật, bạch Phật:

- Ðã trải tòa xong,

đầu hướng về phía Bắc, n

ên biết

đúng thời.

Thế Tôn liền

đi đến giữa Song thọ, v

ào tòa

đ

ã trải. Lúc ấy, Tôn giả A-nan bạch Phật:

- Có nhơn duyên gì khiến Như Lai dạy trải tòa,

đầu

hướng về phía Bắc?

Phật bảo A-nan:

- Sau khi Ta diệt

độ, Phật pháp sẽ ở tại Bắc Thi

ên Trúc. Do nhân duyên này nên Ta bảo trải tòa hướng về Bắc.

Lúc ấy, Thế Tôn chia ba y. A-nan bạch Phật:

- Do cớ gì, hôm nay Như Lai lại chia ba y?

Bấy giờ, trong phút chốc, từ miệng Thế Tôn phát ra hào quang n

ăm sắc.

Ðức Phật bảo:

- Ta vừa khởi ý nghĩ này: Khi chưa thành

đạo, ở địa ngục lâu d

ài,

ăn ho

àn sắt nóng, hoặc

ăn rau cỏ nuôi thân tứ đại, hoặc l

àm loài lừa, lạc

đ

à, voi, ngựa, heo, dê, hoặc làm ngạ quỷ hoặc làm thân người chịu thọ thai, hoặc

được phước trời ăn vị cam lồ tự nhi

ên. Nay Ta

đ

ã thành Như Lai, do Ngũ c

ăn, Ngũ lực

, Bảy giác chi, Tám chánh

đạo th

ành tựu thân Như Lai. Do nhân duyên này nên miệng phát ra hào quang n

ăm sắc vậy.

Lúc ấy, trong phút chốc, từ miệng Phật phóng ra hào quang vi diệu hơn hào quang trước. A-nan bạch Phật:

- Lại do nhân duyên gì khiến Như Lai lại phóng ra hào quang thù thắng hơn trước?

Phật bảo:

- Ta vừa khởi ý nghĩ này: 'Các

đức Phật Thế Tôn đời quá khứ diệt độ, Pháp để lại không tồn tại lâu nơi đời'. Ta lại suy nghĩ th

êm: 'Dùng phương tiện gì khiến pháp Ta

được tồn tại lâu nơi đời? '. Thân Như Lai l

à thân Kim cang, ý Ta muốn nghiền thân này như hạt cải,

để lưu bố thế gian, khiến cho thấy được h

ình tượng Như Lai, sẽ cúng dường nơi

đây nhờ nhân duy

ên phước báo này sẽ sanh trong gia

đ

ình bốn chủng tộc, sanh cõi trời Tứ thiên vương, trời Ba mươi ba, trời Diệm ma, trời Ðâu-suất, trời Hóa tự tại, trời Tha hóa tự tại. Nhân phước này, họ sẽ sanh vào cõi dục, cõi sắc, cõi vô sắc, hoặc lại

được đắc quả Tu-đ

à-hoàn, quả Tư-

đ

à-hàm, quả A-na-hàm, quả A-la-hán, Bích-chi-Phật, hoặc thành Phật

đạo. Do nhân duy

ên này nên phát ra hào quang ấy.

Bấy giờ, Thế Tôn

đích thân tự

xếp y T

ăng-gi

à-lê làm bốn, nằm nghiêng hông bên hữu, hai chân xuôi thẳng xếp lên nhau. Lúc ấy, Tôn giả A-nan khóc lóc rơi lệ không thể tự kềm chế, lại tự trách mình: 'Ðã chưa thành

đạo, bị kiết sử r

àng buộc, mà nay Thế Tôn bỏ ta diệt

độ, ta sẽ nương cậy v

ào ai? '

Lúc ấy, Thế Tôn biết, nên bảo các Tỳ-kheo:

- Tỳ-kheo A-nan nay ở

đâu?

Các Tỳ-kheo thưa:

- Tỳ-kheo A-nan nay

đang đứng sau chỗ nằm của Như Lai, buồn khóc rơi lệ không thể tự kềm, lại tự trách m

ình

đ

ã không thành

đạo, lại không đoạn kiết sử, m

à nay Thế Tôn bỏ vào Niết-bàn.

Bấy giờ, Thế Tôn bảo A-nan:

- Thôi, thôi A-nan,

đừng

buồn lo. Phàm vật ở

đời đáng tan hoại, muốn đừng thay đổi, việc ấy không được.

Thầy cần ra sức tinh tấn, nhớ nghĩ tu tập Chánh pháp, như thế không bao lâu sẽ chấm dứt mé khổ, thành tựu hạnh vô lậu. Các

đức Như Lai Chánh

Ðẳng Chánh Giác ở thời quá khứ cũng có thị giả như thế. Giả sử hằng sa chư Phật

đời tương lai, cũng sẽ có thị giả như A-nan. Chuyển luân Thánh vương có bốn pháp chưa từng có. Thế n

ào là bốn? Lúc vua Chuyển luân Thánh vương muốn ra khỏi nước, nhân dân thấy

đều vui mừng. Lúc Chuyển luân Thánh vương có lời dạy bảo, ai nghe cũng đều vui mừng. Nghe lời Chuyển luân Thánh vương dạy không chán. Chuyển luân Thánh vương im lặng, giả sử nhân dân thấy vua im lặng cũng lại vui mừng. Tỳ-kheo!

Ðó là Chuyển luân Thánh vương có bốn pháp chưa từng có này.

Tỳ-kheo nên biết ! Ngày nay A-nan cũng có bốn pháp chưa từng có. Thế nào là bốn? Giả sử Tỳ-kheo A-nan im lặng vào trong chúng, người nào cũng thấy vui mừng. Giả sử Tỳ-kheo A-nan có nói lời gì, người nghe lời ấy

đều c

ùng hoan hỷ, nếu im lặng cũng lại như thế. Giả sử Tỳ-kheo A-nan vào trong bốn bộ chúng, vào trong chúng Sát-lợi, Bà-la-môn, vào trong chúng quốc vương, cư sĩ, mọi người

đều hoan hỷ, khởi tâm cung kính, nh

ìn A-nan không chán. Giả sử Tỳ-kheo A-nan có nói

điều g

ì, người nghe dạy pháp vâng theo không chán. Ðó là này Tỳ-kheo, bốn việc chưa từng có nầy.

Lúc ấy, Tôn giả A-nan bạch Thế Tôn:

- Phải làm thế nào khi gặp người nữ? Bởi vì hiện nay Tỳ-kheo

đúng thời đắp y mang bát đi từng nh

à khất thực, tạo phước

độ chúng sanh.

Phật bảo A-nan:

- Ðừng gặp gỡ họ. Nếu có gặp

đừng nói chuyện với họ. Nếu c

ùng nói chuyện phải giữ tâm chuyên ý nhất.

Bấy giờ Thế Tôn liền nói kệ:

Ðừng giao thiệp người nữ

Cũng

đừng nói chuyện chung

Người có thể xa lìa

Ắt lìa khỏi tám nạn.

A-nan bạch Phật:

- Nên

đối xử với Tỳ-kheo Xa-na thế n

ào?

Thế Tôn dạy:

- Nên dùng pháp Phạm-

đ

àn

để trị phạt.

A-nan bạch Phật:

- Thế nào là pháp Phạm-

đ

àn trị phạt?

Thế Tôn dạy:

- Không nên nói chuyện với Tỳ-kheo Xa-na. Cũng chớ nói lành, cũng chớ nói dữ. Còn Tỳ-kheo này cũng không nói gì với các Thầy.

A-nan bạch Phật:

- Nếu không xét kỹ sự việc, ắt phạm tội không nặng ư?

Phật dạy:

- Chỉ không nói chuyện tức là dùng pháp Phạm-

đ

àn trị phạt. Nhưng nếu kẻ ấy không sửa

đổi, sẽ đưa ra giữa chúng, mọi

người cùng búng tay khiến

đuổi ra, không thuyết giới với người ấy, cũng chớ l

àm việc chung trong pháp hội.

Bấy giờ, Thế Tôn bèn nói kệ:

Muốn cùng oan gia kia,

đáp kẻ oán ấy,

Thường niệm, chớ nói n

ăng,

Ðiều này không có lỗi.

Lúc ấy, nhân dân thành Câu-thi-na-kiệt nghe tin Thế Tôn sẽ diệt

độ

vào lúc nữa

đ

êm. Nhân dân trong nước

đi đến khoảng giữa rừng Song thọ, đến rồi cúi đầu lễ chân Phật, lui ngồi một b

ên.

Dân chúng

đồng bạch Phật:

- Nay nghe Như Lai sắp diệt

độ, chúng con phải tôn kính thế n

ào?

Lúc ấy, Thế Tôn ngoái nhìn Tôn giả A-nan. Tôn giả A-nan liền khởi nghĩ: 'Hôm nay thân thể Như Lai mệt nhọc, muốn bảo ta chỉ dạy nghi thức cho họ'. A-nan quỳ gối bên phải xuống

đất, chắp tay bạch Phật:

- Nay có hai dòng họ, một tên là Bà-a-

đ

à, thứ hai tên Tu-bạt-

đ

à, nay

đến quy y Như Lai v

à Thánh chúng. Cúi xin Thế Tôn cho họ làm Ưu-bà-tắc, từ nay về sau không sát sanh, vâng giữ n

ăm giới.

Lúc ấy, Thế Tôn rộng vì họ thuyết pháp,

để phát khởi những người c

òn lại, khiến họ quy y. Lúc ấy, n

ăm trăm người d

òng Ma-la nước Câu-thi-na-kiệt

đi đến.

Bấy giờ, Phạm chí Tu-bạt từ nước của ông (nước Bà-bà)

đi đến nước Câu-thi-na-kiệt, xa thấy năm trăm người đi đến, liền hỏi:

- Các Ông từ

đâu đến đây?

N

ăm trăm người đáp:

- Tu-bạt nên biết,

đức Thế Tôn sẽ diệt độ v

ào hôm nay tại giữa rừng Song thọ.

Tu-bạt liền khởi nghĩ: 'Như Lai ra

đời rất khó gặp. Thời gian Như Lai xuất hiện như hoa Ưu-đ

àm-bát, ức kiếp mới xuất hiện. Nay ta có các

điều nghhi ngờ không hiểu các pháp, chỉ có Sa-môn C

ù-

đ

àm ấy mới giải

đáp điều nghi ngờ của ta. Nay ta có thể đến chỗ C

ù-

đ

àm ấy mà hỏi nghĩa này'.

Lúc ấy, Phạm chí Tu-bạt

đến rừng Song thọ, đến chỗ Tôn giả A-nan, thưa rằng:

- Tôi nghe Thế Tôn hôm nay sẽ diệt

độ, có đúng không?

A-nan

đáp:

- Thật có việc ấy.

Tu-bạt thưa:

- Song nay tôi còn có

điều nghi ngờ, xin Tôn giả nhận lời, thưa với Thế Tôn rằng: Có người không hiểu lời nói của Lục sư, có thể được nghe Sa-môn C

ù-

đ

àm ch

ăng?

A-nan nói:

- Thôi, thôi, Tu-bạt! Chớ quấy nhiễu Như Lai.

Như vậy

đến ba lần, Tu-bạt lại nói vớ A-nan:

- Như Lai ra

đời thật khó gặp; như hoa Ưu-đ

àm-bát

đúng thời mới xuất hiện. Nay tôi xét thấy Như Lai có thể giải quyết điều nghi ngờ của tôi.

Ðiều tôi hỏi không

đủ để nói hết, m

à nay A-nan không cho tôi

đến bạch với Thế Tôn. Lại có nghe Như Lai quán sát không c

ùng tận, biết trước không cùng tột, mà nay riêng không tiếp tôi.

Lúc ấy, Như Lai dùng Thiên nhĩ xa nghe Tu-bạt nói với A-nan như thế. Thế Tôn bảo A-nan:

- Thôi, thôi A-nan! Chớ ng

ăn cản Phạm chí Tu-bạt. V

ì sao? Ông ấy

đến hỏi nghĩa được nhiều lợi ích. Nếu ta thuyết pháp, ông ấy liền được độ thoát.

A-nan bảo Tu-bạt:

- Lành thay, lành thay! Nay Như Lai cho phép Ông vào trong hỏi pháp.

Tu-bạt nghe lời này, vui mừng phấn khởi không thể tự kềm. Tu-bạt

đến chỗ Thế Tôn, cúi đầu lễ chân Phật, lui ngồi một b

ên. Bấy giờ, Tu-bạt bạch Phật:

- Nay tôi có

điều muốn hỏi, cúi xin Thế Tôn cho phép.

Thế Tôn bảo Tu-bạt:

- Nay chính phải thời, có thể hỏi.

Tu-bạt bạch Phật:

- Các Sa-môn Cù-

đ

àm khác biết các toán thuật, phần nhiều hơn

đời.

Ðó là Bất-lan Ca-diếp, A-di-chuyên, Cù-da-lâu, Chi-hưu Ca-diên, Tiên-tỷ Lư-trì, Ni-kiền Tử v.v... Những người như thế biết việc trong ba

đời chăng? L

à không biết ch

ăng? Trong Lục sư ấy có ai hơn Như Lai chăng?

Bấy giờ, Thế Tôn bảo:

- Thôi, thôi, Tu-bạt! Chớ hỏi nghĩa này. Cần gì hỏi họ hơn Như Lai không? Hôm nay, Ta ở tại chỗ này, sẽ vì Ông thuyết pháp, khéo suy nghĩ nhớ lấy.

Tu-bạt bạch Phật:

- Nay tôi

đáng hỏi nghĩa thâm sâu, cúi xin Thế Tôn đúng thời nói.

Bấy giờ, Thế Tôn bảo:

- Khi ta mới học

đạo, hai

mươi chín tuổi, vì muốn

độ dân chúng, n

ên từ

đó đến ba

mươi l

ăm tuổi, theo học trong chúng ngoại đạo. Từ đó đến nay lại không thấy có Sa-môn, B

à-la-môn trong

đại chúng n

ào không có Tám Thánh

đạo, ắt không có bốn quả Sa-

môn.

Thế nên, này Tu-bạt! Thế gian rỗng không lại không có bậc Chân nhân hắc

đạo. Do trong pháp Hiền Thánh kia có pháp Hiền Thánh, n

ên có bốn quả Sa-môn. Vì sao? Nhân duyên có bốn quả Sa-môn

đều do Tám đạo phẩm Hiền Thánh.

Này Tu-bạt! Nếu Ta không

được đạo Vô thượng

Chánh Chân,

đều do không được Tám đạo phẩm Hiền Thánh. Do được Tám đạo phẩm Hiền Thánh n

ên ta thành Phật

đạo. Thế n

ên, này Tu-bạt, nên tìm phương tiện thành tựu

đạo Hiền Thánh.

Tu-bạt lại bạch Phật:

- Tôi cũng thích nghe Tám

đạo

phẩm Hiền Thánh, cúi xin diễn nói.

Phật bảo:

- Tám

đạo phẩm l

à: Ðẳng kiến, Ðẳng trị, Ðẳng ngữ, Ðẳng mạng, Ðẳng nghiệp, Ðẳng phương tiện, Ðẳng niệm, Ðẳng tam muội. Tu-bạt! Ðó là Tám

đạo phẩm Hiền Thánh.

Lúc ấy, Tu-bạt liền tại chỗ ngồi

được pháp nh

ãn tịnh. Tu-bạt nói với A-nan:

- Hôm nay con vui mừng

được lợi l

ành. Cúi xin Thế Tôn cho phép con làm Sa-môn.

A-nan

đáp:

- Ông hãy tự

đến chỗ Thế Tôn m

à xin làm Sa-môn.

Tu-bạt

đến chỗ Thế

Tôn, cúi

đầu lạy chân Phật, bạch Phật:

- Cúi xin Thế Tôn cho phép con làm Sa-môn.

Bấy giờ, Tu-bạt liền thành Sa-môn, thân mặc ba pháp y. Khi ông ngẩng nhìn dung mạo Thế Tôn, liền tại chỗ ngồi

được giải thoát tâm hữu lậu.

Bấy giờ, Thế Tôn bảo A-nan:

- Ðệ tử tối hậu của Ta là Tu-bạt.

Tu-bạt bạch Phật:

- Con nghe Thế Tôn vào giữa

đ

êm nay nhập Niết-bàn. Cúi xin Thế Tôn cho phép con nhập Niết-bàn trước. Con không kham thấy Thế Tôn diệt

độ trước.

Bấy giờ, Thế Tôn yên lặng hứa khả. Vì sao? Hằng sa chư Phật Thế Tôn

đời quá khứ, đệ tử chứng đạo rốt sau đều nhập Niết-b

àn trước, Như Lai diệt

độ sau.

Ðây là pháp thường của chư Phật Thế Tôn, chẳng phải mới hôm nay.

Tu-bạt thấy Thế Tôn

đ

ã hứa khả, liền ở trước Phật, chánh thân chánh ý buộc niệm ở trước, nơi cảnh giới Niết-bàn Vô dư mà diệt

độ. Lúc ấy mặt đất chấn động sáu cách.

Bấy giờ, Thế Tôn bèn nói kệ:

Tất cả hành vô thường

Có sanh ắt có tử

Không sanh thì không tử

Diệt này rất là vui.

Lúc ấy, Thế Tôn bảo A-nan:

- Từ nay về sau, r

ăn nhắc các Tỳ-kheo, không n

ên

đối đ

ãi nhau như thói thường, người lớn xưng Tôn, người nhỏ xưng Hiền, xem nhau như anh em. Từ nay về sau không

được xưng t

ên do cha mẹ

đặt.

A-nan bạch Phật:

- Các Tỳ-kheo ngày nay, phải tự xưng tên hiệu như thế nào?

Phật dạy:

- Nếu thầy Tỳ-kheo nhỏ

đối với Thầy Tỳ-kheo

lớn thì gọi là trưởng lão. Tỳ kheo lớn gọi Tỳ-kheo nhỏ bằng họ. Lại, các Tỳ-kheo muốn

đặt t

ên, phải y cứ vào Tam tôn. Ðây là lời dạy bảo của Ta.

Bấy giờ, Tôn giả A-nan nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

XXXXII.2. Phẩm Bát nạn (2)

4. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở tại nước Xá-vệ, trong vườn Lộc Dã cùng với chúng

đại Tỳ-kheo năm trăm người câu

hội.

Lúc ấy, A-tu-la tên Ba-ha-la và Thiên tử Mâu-

đề-luân phi thời đến chỗ Phật, cúi đầu đảnh lễ chân Phật, lui ngồi một b

ên. Khi ấy

đức Phật hỏi A-tu-la:

- Các Ông rất thích biển lớn, phải không?

A-tu-la bạch Phật:

- Rất thích! Không phải không thích.

Ðức Phật bảo:

- Trong biển lớn có pháp kỳ

đặc g

ì mà các Ông thấy rồi vui thích ở trong ấy?

A-tu-la bạch Phật:

- Trong biển lớn có tám việc chưa từng có, các A-tu-la vui thích ở trong ấy. Thế nào là tám? Biển lớn rất sâu rộng,

đó l

à việc chưa từng có thứ nhất.

Lại nữa, biển lớn có thân

đức n

ày, bốn sông lớn, mỗi sông dẫn theo n

ăm trăm sông nhỏ chảy v

ào biển lớn, rồi mất tên riêng của sông;

đó l

à pháp chưa từng có thứ hai.

Laị nữa, biển lớn

đều có đồng một vị; đó l

à pháp chưa từng có thứ ba.

Lại nữa, biển lớn nước thủy triều

đúng thời không mất thời tiết; đó l

à pháp chưa từng có thứ tư.

Lại nữa, biển lớn là nơi cư trú của các loài quỷ thần có hình tướng, hết thảy

đều nằm trong biển lớn; đó l

à pháp chưa từng có thứ n

ăm.

Lại nữa, biển lớn dung chứa những loài hình tướng to lớn, tr

ăm do-tuần đến bảy ng

àn do-tuần cũng không chật chội;

đó l

à pháp chưa từng có thứ sáu.

Lại nữa, biển lớn xuất phát bao nhiêu trân bảo, xà cừ, mã não, trân châu, hổ phách, thủy tinh, lưu ly;

đó l

à pháp chưa từng có thứ bảy.

Lại nữa, phía dưới biển lớn có cát vàng, lại có núi Tu-di làm bằng bốn thứ trân bảo;

đó l

à

điều chưa từng có thứ tám.

Ðây là tám pháp chưa từng có, khiến các A-tu-la vui thích trong ấy.

Lúc ấy, A-tu-la bạch Phật:

- Trong pháp Như Lai có gì kỳ

đặc, khiến các Tỳ-kheo thấy rồi, vui thích trong

ấy?

Phật bảo A-tu-la:

- Có tám pháp chưa từng có, khiến các Tỳ-kheo vui thích trong ấy. Thế nào là tám? Trong pháp của Ta

đầy đủ giới luật, không có hạnh phóng dật; đó l

à pháp chưa từng có thứ nhất. Các Tỳ-kheo thấy rồi vui thích trong ấy, như biển lớn kia rất sâu và rộng.

Lại nữa, trong pháp của Ta có bốn dòng họ

đều l

àm Sa-môn trong pháp của Ta không gọi theo tên cũ

để l

àm tên riêng, cũng như biển lớn kia, bốn sông lớn

đều chảy về biển m

à

đồng một vị, không có t

ên khác;

đó l

à pháp chưa từng có thứ hai.

Lại nữa, trong pháp của Ta lập bày cấm giới, cùng vâng theo không vượt qua

điều qui định; đó l

à pháp chưa từng có thứ ba.

Lại nữa, trong pháp của Ta

đều đồng một vị, đó l

à vị của Tám

đạo phẩm của Hiền Thánh; đó l

à pháp chưa từng có thứ tư, như biển lớn kia thảy

đồng một vị.

Lại nữa, trong pháp của Ta sung mãn các pháp. Ðó là Tứ ý

đoạn, Tứ thần túc,

Ngũ c

ăn, Ngũ lực

, Thất giác ý, Bát chơn chánh hạnh, các Tỳ-kheo thấy rồi vui thích trong ấy, như biển lớn kia có các loài Thần ở trong;

đó l

à pháp chưa từng có thứ n

ăm.

Lại nữa, trong pháp của Ta có các thứ trân bảo,

đó l

à trân bảo Niệm giác ý, trân bảo Trạch pháp giác ý, trân bảo Tinh tấn giác ý, trân bảo Hỷ giác ý, trân bảo Ỷ giác ý (khinh an), trân bảo Ðịnh giác ý, trân bảo Hộ giác ý (xả);

đó l

à

điều chưa từng

có thứ sáu. Các Tỳ-kheo thấy rồi vui thích trong ấy, như biển lớn kia phát xuất các thứ trân bảo.

Lại nữa, trong pháp của Ta có các chúng sanh, cạo bỏ râu tóc, mặc ba pháp y, xuất gia học

đạo. Nơi Vô dư Niết-b

àn mà

được diệt độ, nhưng pháp của Ta không tăng giảm, như biển lớn kia, các sông chảy v

ào, nước biển không t

ăng giảm; đó l

à pháp chưa từng có thứ bảy. Các Tỳ-kheo thấy rồi vui thích ở trong ấy.

Lại nữa, trong pháp của Ta có Kim cang tam-muội, Diệt tận tam-muội, Nhất thiết quang minh tam-muội, Ðắc bất khởi tam-muội, các thứ tam-muội không thể tính kể, các Tỳ-kheo thấy rồi vui thích. Như biển lớn kia phía dưới có cát vàng;

đó l

à pháp chưa từng có thứ tám. Các Tỳ-kheo thấy rồi vui thích trong ấy.

Trong pháp của Ta có tám pháp chưa từng có này, các Tỳ-kheo rất tự vui thích.

Lúc ấy, A-tu-la bạch Phật:

- Giả sử trong pháp của Như Lai chỉ có một pháp chưa từng có, cũng

đ

ã hơn tám việc chưa từng có của biển kia tr

ăm lần, ng

àn lần không thể so sánh:

đó l

à Tám

đạo phẩm Hiền Thánh. L

ành thay! Thế Tôn hoan hỷ nói lời này.

Bấy giờ, Thế Tôn dần dần thuyết pháp,

đó l

à luận về thí, về giới, về sanh thiên, dục là tưởng bất tịnh, lậu là hoạn lớn, xuất yếu là vui. Bấy giờ Thế Tôn thấy A-tu-la mở thông tâm ý, Ngài bèn

đem các pháp chư Phật thường nói như Khổ, Tập, Tận (Diệt),

Ðạo vì A-tu-la mà nói. A-tu-la bèn khởi ý niệm rằng: 'Ðáng lẽ có N

ăm đế, nay Thế Tôn chỉ nói Bốn đế, c

òn với chư Thiên thì nói N

ăm đế'

Khi ấy, Thiên tử ở tại chỗ ngồi

được pháp nh

ãn tịnh. A-tu-la bạch Phật:

- Lành thay Thế Tôn! Hoan hỷ nói lời này, nay tôi muốn trở về chỗ mình.

Phật dạy:

- Nên biết

đúng thời.

A-tu-la liền từ chỗ ngồi

đứng dậy, cúi đầu lễ chân Phật, theo đường m

à

đi. Khi ấy, Thi

ên tử bảo A-tu-la

- Nay ý niệm của Ông không tốt, nói rằng: 'Như Lai vì chư Thiên nói N

ăm đế, với ta chỉ nói Bốn đế'. V

ì sao? Chư Phật Thế Tôn trọn không hai lời, chư Phật trọn không bỏ chúng sanh, nói pháp cũng không mỏi mệt, nói pháp với tâm bình

đẳng m

à nói pháp. Có Bốn

đế l

à Khổ, Tập, Tận, Ðạo; nay Ông chớ nghĩ như vậy mà

đỗ lỗi Như Lai nói có Năm đế.

A-tu-la trả lời:

- Nay tôi làm việc không tốt, tự sẽ sám hối. Cần phải

đến chỗ Phật hỏi nghĩa n

ày.

Bấy giờ, A-tu-la và Thiên tử nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

5. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở tại nước Xá-vệ, rừng Kỳ-

đ

à vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ, Phật bảo các Tỳ-kheo:

- Trời

đất chấn động mạnh có tám nhân duy

ên. Thế nào là tám? Tỳ-kheo nên biết! Ðất của Diêm-phù-

đề nầy, chiều Nam Bắc hai vạn một ng

àn do-tuần, chiều Ðông Tây bảy ngàn do-tuần, bề dầy sáu vạn tám ngàn do-tuần. Nước sâu tám vạn bốn ngàn do-tuần, lửa dày tám vạn bốn ngàn do-tuần. Dưới lửa có lớp gió dày sáu vạn tám ngàn do-tuần. Phía dưới gió có lớp Kim cang luân xá-lợi của chư Phật Thế Tôn thời quá khứ

đều ở đây.

Tỳ-kheo nên biết! Hoặc có khi gió lớn chấn

động, lửa cũng động. Lửa đ

ã

động, nước liền động, nước đ

ã

động, đất liền động.

Ðây là nhân duyên thứ nhất khiến

đất chấn động mạnh.

Lại nữa, khi Bồ-tát từ cõi Trời Ðâu-suất giáng thần vào thai mẹ, lúc ấy

đất cũng chấn động mạnh.

Ðây là nhân duyên thứ hai khiến

đất chấn động mạnh.

Lại nữa, khi Bồ-tát giáng thần ra khỏi thai mẹ, lúc ấy

đất cũng chấn động mạnh.

Ðây là nhân duyên thứ ba khiến

đất chấn động mạnh.

Lại nữa, khi Bồ-tát xuất gia học

đạo, th

ành

đạo Vô thượng Chánh

Ðẳng Chánh Giác, lúc ấy trời

đất chấn động mạnh.

Ðây là nhân duyên thứ tư khiến

đất chấn động mạnh.

Lại nữa, nếu Như Lai ở cảnh giới Vô dư Niết-bàn diệt

độ, lúc ấy trời đất chấn động mạnh.

Ðây là nhân duyên thứ tư khiến

đất chấn động mạnh.

Lại nữa, nếu có Tỳ-kheo

đại thần túc, tâm được tự tại, t

ùy ý muốn làm vô số biến hóa, hoặc phân thân ra tr

ăm ngh

ìn, rồi trở lại một thân, bay trên hư không, xuyên qua vách tường núi

đá, ẩn hiện tự do, quán đất không có tướng đất, thảy đều rỗng không, lúc ấy đất chấn động mạnh.

Ðây là nhân duyên thứ sáu

đất chấn động mạnh.

Lại nữa, chư Thiên

đại

thần túc, thần

đức vô lượng mệnh chung từ nơi ấy lại sanh trở về nơi ấy. Do phước đời trước tạo đầy đủ các đức, bỏ thân Trời cũ, được l

àm Ðế Thích hoặc Phạm thiên vương. Lúc ấy

đất chấn động mạnh.

Ðó là nhân duyên thứ bảy

đất chấn động mạnh.

Lại nữa, nếu chúng sanh mệnh chung phước hết, khi ấy các quốc vương không vừa ý nước của mình. Các nước chinh phạt lẫn nhau, hoặc bị

đói hiểm m

à chết, hoặc bị

đao bén m

à chết. Lúc ấy trời

đất chấn động.

Ðó là nhân duyên thứ tám khiến

đất chấn động

mạnh.

Như thế Tỳ-kheo ! Có tám nhân duyên khiến trời

đất chấn động mạnh.

Bấy giờ, các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

6. Tôi nghe như vầy:

Một thời Tôn giả A-na-luật ở tại bốn nơi Phật cư trú.

Lúc ấy, A-na-luật ở chỗ vắng khởi ý này: 'Trong hàng

để tử của Phật Thích Ca Văn những bậc th

ành tựu giới

đức trí tuệ, đều nương v

ào giới luật, ở trong Chánh pháp này mà

được nuôi lớn.

Người không

đầy đủ giới luật trong h

àng Thanh v

ăn, những người n

ày

đều l

ìa Chánh pháp, không tương ứng với giới luật. Nay, như hai pháp này, Giới và V

ăn, pháp n

ào hơn ? Nay ta có thể

đem cội gốc nhân duy

ên này,

đến hỏi Như Lai, việc n

ày thế nào?'

A-na-luật lại khởi ý niệm này: 'Pháp việc làm của người tri túc, không phải việc làm của người không biết

đủ. Pháp n

ày là việc làm của người thiểu dục, không phải việc làm của người

đa dục. Pháp n

ày là việc làm của người ở chỗ vắng, không phải việc làm của người ở chỗ ồn. Pháp này là việc làm của người trì giới, không phải việc làm của người phạm giới. Pháp này là việc làm của người

định, không phải việc l

àm của người loạn. Pháp này là việc làm của người trí tuệ, không phải việc làm của người ngu si. Pháp này là việc làm của người

đa văn, không phải việc l

àm của người ít học.'

Lúc ấy, A-na-luật, suy nghĩ về tám

điều tâm

niệm của bậc

đại nhân rồi nghĩ rằng: 'Nay ta có thể đến chỗ Thế Tôn để hỏi nghĩa

này'.

Bấy giờ, Thế Tôn ở tại thành Xá-vệ, rừng Kỳ-

đ

à vườn Cấp Cô Ðộc. Lúc ấy, vua Ba-tư-nặc thỉnh Phật và chư Tỳ-kheo T

ăng-kiết hạ ba tháng, A-na-luật dẫn năm

ăm

Tỳ-kheo, dần dần du hóa trong nhân gian, lần

đến nước Xá-vệ, đến chỗ đức Phật, cúi đầu đảnh lễ, lui ngồi một b

ên.

Tôn giả A-nan bạch Phật:

- Con ở nơi vắng lặng, suy nghĩ về nghĩa này. Giới và V

ăn, hai pháp n

ày pháp nào tối thắng?

Khi ấy,

đức Phật b

èn vì A-na-luật nói kệ:

Giới hơn hay V

ăn hơn

Nay Ông khởi hồ nghi

Giới tối thắng hơn V

ăn

Trong

đó có g

ì nghi.

Vì sao? A-na-luật nên biết! Nếu Tỳ-kheo thành tựu giới, liền

được định ý.

Ðã

được định ý liền được trí tuệ.

Ðã

được trí

tuệ liền

được đa văn.

Ðã

được đa văn liền được giải thóat.

Ðã

được giải thoát liền được diệt độ nơi Niết-b

àn vô dư. Do

điều n

ày biết rõ rằng giới là tối thắng.

Lúc ấy, A-na-luật hướng về Thế Tôn, nói tám

điều tâm niệm của bậc đại nhân.

Phật bảo A-na-luật:

- Lành thay, lành thay, A-na-luật! Ðiều thầy suy nghĩ chính là

điều suy nghĩ của bậc

Ðại nhân: Ít muốn, biết

đủ, ở chỗ vắng, th

ành tựu giới, thành tựu chánh

định, th

ành tựu trí tuệ, thành tựu giải thoát, thành tựu

đa văn.

A-na-luật! Nay Thầy nên khởi ý này, suy nghĩ về tám

điều tâm niệm của bậc

Ðại nhân. Thế nào là tám? Pháp này là việc làm của người tinh tấn, không phải việc làm của người giải

đ

ãi. Vì sao? Bồ-tát Di-lặc

đáng lẽ trong ba mươi kiếp sẽ th

ành

đạo Vô Thượng Chánh

Ðẳng Chánh Giác, nhưng ta do sức tinh tấn mà thành Phật trước hơn.

A-na-luật biết

đó, các đức

Phật Thế Tôn

đồng một bậc, đồng nhau về giới luật, giải thoát trí tuệ không khác; cũng lại đồng nhau về không, vô tướng, vô nguyện, có ba mươi hai tướng tốt, tám mươi

vẻ

đẹp

trang nghiêm nơi thân, nhìn không chán, không thể thấy

đảnh, thảy đều không khác, chỉ có tinh tấn không đồng.

Ðối với chư Phật Thế Tôn thời quá khứ và tương lai, người tinh tấn hơn hết là Ta.

Cho nên, này A-na-luật! Ðiều tâm niệm thứ tám của bậc Ðại nhân này là tối thượng, là tôn quý, không có thí dụ nào sánh kịp. Cũng như do sữa có lạc, do lạc có tô, do tô có

đề hồ nhưng trong đó đề hồ l

à hơn hết, không thể so sánh. Ðây cũng thế, ý niệm tinh tấn

đối với trong tám điều tâm niệm của bậc

Ðại nhân là tối thượng, thật không thể so sánh. Cho nên A-na-luật, nên vâng theo tám

điều tâm niệm của bậc

Ðại nhân, cũng nên vì bốn bộ chúng phân biệt nghĩa ấy. Nếu tám

điều tâm niệm của

Ðại nhân

được lưu truyền

tại thế gian thì khiến

đệ tử Ta đều được th

ành tựu quả Tu-

đ

à-hoàn, Tư-

đ

à-hàm, A-na-hàm, A-la-hán.

Vì sao? Pháp Ta là

điều được l

àm của người thiểu dục, không phải là

điều được l

àm của người

đa dục. Pháp Ta l

à

điều được l

àm của người tri túc, không phải

điều được l

àm của người không biết

đủ. Pháp Ta l

à

điều được l

àm của người ở chỗ vắng, không phải là

điều được l

àm của người ở trong chúng. Pháp Ta là

điều được l

àm của người trì giới, không phải là

điều được l

àm của người phạm giới. Pháp Ta là

điều được l

àm của người

định, không phải l

à

điều được l

àm của người loạn. Pháp Ta là

điều được l

àm của người trí, không phải là

điều được l

àm của người ngu. Pháp Ta là

điều được l

àm của người tinh tấn, không phải là

điều được l

àm của người giải

đ

ãi.

Thế nên, A-na-luật! Bốn bộ chúng nên tìm cách thực hành tám

điều tâm niệm của bậc

Ðại nhân này. Như thế, A-na-luật nên học

điều n

ày.

Bấy giờ, Tôn giả A-na-luật nghe Phật dạy xong vui vẻ vâng làm.

*

7. Tôi nghe nhu vầy:

Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-

đ

à, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

- Có tám bộ chúng, các Thầy nên biết. Thế nào là tám? Ðó là chúng Sát-lợi, chúng Bà-la-môn, chúng Trưởng giả, chúng Sa-môn, chúng Tứ thiên vương, chúng Trời Ba mươi ba, chúng Ma vương, chúng Phạm thiên.

Tỳ-kheo nên biết! Từ trước

đến nay Ta đi v

ào trong chúng Sát-lợi, cùng họ chào hỏi, nói n

ăng đ

àm luận, cũng không người nào bằng Ta. Ta

đi một m

ình không bạn bè, cũng không ai ngang hàng. Ta ít muốn, biết

đủ, niệm không lầm loạn, th

ành tựu giới, thành tựu chánh

định, th

ành tựu trí tuệ, thành tựu giải thoát, thành tựu

đa văn, th

ành tựu tinh tấn.

Lại tự nhớ nghĩ, Ta vào trong chúng Bà-la-môn, chúng Trưởng giả, chúng Sa-môn, chúng Tứ thiên vương, chúng Trời Ba mươi ba, chúng Ma vương, chúng Phạm thiên vương, cùng họ chào hỏi nói n

ăng đ

àm luận, Ta

đi một m

ình không bạn bè, cũng không ai ngang hàng, ở trong ấy tối tôn, cũng không người sánh bằng. Ta ít muốn biết

đủ, ý không lầm loạn, th

ành tựu giới, thành tựu chánh

định, th

ành tựu trí tuệ, thành tựu giải thoát, thành tựu

đa văn, th

ành tựu tinh tấn.

Bấy giờ, trong tám bộ chúng, Ta

đi ri

êng một mình không bạn bè, vì bao chúng sanh làm tàn che lớn. Khi ấy tám bộ chúng không thể thấy

đảnh, cũng không dám nh

ìn mặt, huống gì cùng luận nghị. Vì sao? Vì ta cũng không thấy trong cõi Trời, cõi Người, trong chúng Ma hoặc Thiên ma, chúng Sa-môn, Bà-la-môn có ai có thể thành tựu tám pháp này, trừ Như Lai không kể. Cho nên Tỳ-kheo! Nên tìm phương tiện thực hành tám pháp này. Như thế, này các Tỳ-kheo, nên học

điều n

ày.

Bấy giờ, các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

8. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-

đ

à, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ, trưởng giả A-na-bân-

để đến chỗ Phật, cúi đầu lễ chân Phật, lui ngồi một b

ên.

Lúc ấy, Thế Tôn bảo trưởng giả:

- Trong nhà trưởng giả bố thí rộng lớn, phải ch

ăng?

Trưởng giả bạch Phật:

- Bố thí cho nhà nghèo, ngày

đ

êm không ngừng, tại bốn cửa thành, và trong chợ lớn, trong nhà, nơi

đường đi, Phật v

à Tỳ-kheo T

ăng.

Ðó là tám chỗ bố thí.

Như thế, bạch Thế Tôn! Người

đời cần g

ì, cần y phục cho y phục, cần thức

ăn cho thức ăn, trọn không vi phạm đến trân bảo nh

à nước . Y phục, mền nệm, thức

ăn uống, giường nằm, thuốc men trị bệnh, trị ghẻ, thảy đều cấp thí cho.

Cũng có chư Thiên

đến chỗ con, ở tr

ên hư không bảo rằng: 'Nên phân biệt tôn ty! Người này trì giới, người này phạm giới; cho người này

được phước, cho người nầy không được báo đền'.

Song tâm con không có bỉ thử, không khởi tâm t

ăng giảm; l

òng từ bình

đẳng khắp

tất cả chúng sanh. Hơn nữa, chúng sanh nương mạng c

ăn m

à thân hình tồn tại, có

ăn mới sống, không ăn th

ì mạng c

ăn không cứu giúp. Bố thí cho tất cả chúng sanh, quả báo ấy vô lượng, thọ quả báo ấy không có tăng giảm.

Phật bảo trưởng giả:

- Lành thay, lành thay! Trưởng giả, bố thí bình

đẳng, phước tôn quý bậc nhất. Song tâm của chúng sanh lại có hơn kém, như bố thí cho người tr

ì giới hơn bố thí cho người phạm giới.

Lúc ấy trên hư không, chư Thiên thần khen ngợi vô lượng, liền nói kệ này:

Phật nói chọn thí hơn

Chúng ngu có t

ăng giảm

Muốn

được ruộng phước tốt

Ai hơn chúng của Phật?

Nay lời Thế Tôn nói, rất là thích thay! Bố thí cho người trí giới hơn người phạm giới.

Bấy giờ Thế Tôn bảo trưởng giả A-na-bân-

để:

- Nay Ta sẽ nói với Ông về chúng Hiền Thánh. Hãy khéo suy nghĩ ghi nhớ, giữ trong tâm: Hoặc bố thí ít

được phước nhiều, hoặc bố thí nhiều được phước nhiều.

Trưởng gỉa A-na-bân-

để bạch Phật:

- Cúi xin Thế Tôn diễn bày nghĩa ấy. Thế nào là thí ít

được phước nhiều? Thế n

ào là thí nhiều cũng

được phước nhiều?

Phật bảo trưởng giả A-na-bân-

để:

- Các vị hướng A-la-hán,

đắc A-la-hán, hướng A-na-h

àm,

đắc A-la-h

àm, hướng Tư-

đ

à-hàm,

đắc Tư-đ

à-hàm, hướng Tu-

đ

à-hoàn,

đắc Tu-đ

à-hoàn, Trưởng giả,

đó gọi l

à chúng Hiền Thánh, bố thí ít thì

được phước nhiều, bố thí nhiều được phước nhiều hơn.

Bấy giờ Thế Tôn bèn nói kệ:

Người thành tựu tứ hướng

Thành tựu Tứ quả thật

Ðây là chúng Hiền Thánh

Bố thí

được phước

rộng.

Các

đức Phật Thế Tôn ở đời quá khứ lâu xa cũng có chúng Hhiền Thánh n

ày như Ta ngày nay không khác. Giả sử

đời vị lai. Các đức Phật Thế Tôn xuất hiện nơi đời, cũng có chúng Hiền Thánh như thế n

ày. Cho nên, này Trưởng giả ! Hãy có tâm hoan hỷ vui mừng cúng dường Thánh Chúng.

Lúc ấy,

đức Phật v

ì Trưởng giả nói pháp vi diệu,

để an lập địa vị bất thối chuyển. Trưởng giả nghe pháp xong, vui mừng vô lượng, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, cúi đầu lễ chân Phật, đi nhiễu ba v

òng rồi lui ra.

Bấy giờ, trưởng giả A-na-bân-

để nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng

làm.

*

9. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-

đ

à, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

- Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn dùng tài vật bố thí thì sẽ

được tám công đức. Thế n

ào là tám? Một là tùy thời bố thí, không phải là phi thời. Hai là thanh khiết bố thí, không phải là uế trược. Ba là tự tay

đưa

cho, không nhờ người khác. Bốn là tự nguyện bố thí, không có tâm kiêu tứ. N

ăm l

à giải thoát mà bố thí, không có hy vọng báo

đáp. Sáu l

à bố thí cầu diệt

độ, không cầu sanh Thi

ên. Bảy là bố thí tìm ruộng tốt, không bố thí

đất hoang. Tám l

à

đem công đức n

ày bố thí chúng sanh, không tự vì mình.

Như thế, này các Tỳ-kheo! Thiên nam tử, thiện nữ nhơn dùng tài vật bố thí thì

được tám công đức.

Bấy giờ Thế Tôn bèn nói kệ:

Người trí tùy thời thí

Không có tâm tham tiếc

Ðã làm công

đức rồi

Ðem thí hết cho người

Thí này là tối thắng

Ðược chư Phật khen ngợi

Hiện thân thọ quả báo

Chết ắt thọ phước Trời.

Cho nên, các Tỳ-kheo! Người muốn tìm quả báo kia, nên làm tám việc này, phước báo ấy vô lượng không thể tính kể,

được báu cam lồ, dần dần đến diệt độ. Như thế, n

ày các Tỳ-kheo, nên học

điều n

ày!

Bấy giờ, các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong vui vẻ vâng làm.

*

10. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-

đ

à, vười Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

- Nay Ta sẽ nói về con

đường dẫn đến N

ê-lê (

địa ngục) v

à con

đường hướng đến Niết-

bàn: Tà kiến dẫn

đến N

ê-lê, chánh kiến hướng

đến Niết-b

àn. Tà chí (tà tư duy), hướng

đến đường N

ê-lê, chánh chí (chánh tư duy) là

đường hướng đến Niết-b

àn. Tà ngữ dẫn

đến đường N

ê-lê, chánh ngữ hướng

đến Niết-b

àn, Tà nghiệp dẫn

đến đường N

ê-lê, chánh nghiệp hướng

đến Niết-b

àn. Tà mạng dẫn

đến đường N

ê-lê, chánh mạng hướng

đến Niết-b

àn. Tà phương tiện hướng

đến đường N

ê-lê, chánh phương tiện hướng

đến Niết-b

àn. Tà niệm dẫn

đến đường

Nê-lê, chánh niệm hướng

đến Niết-b

àn. Tà

định dẫn đến đường N

ê-lê, chánh

định hướng đến Niết-b

àn.

Này các Tỳ-kheo! Ðó là

đường dẫn đến N

ê-lê,

đường hướng đến Niết-b

àn. Pháp mà chư Phật Thế Tôn thường nói, nay

đ

ã rốt ráo. Các Thầy nên ở chỗ vắng vẻ, ngồi dưới gốc cây, nơi

đồng trống, nghĩ nhớ l

àm pháp lành,

đừng khởi tâm giải đ

ãi, kiêu mạn. Hôm nay không siêng n

ăng, sau hối không kịp.

Bấy giờ, các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

Phi thời, Nê-lê, Ðạo

Tu-la, Trời, Ðất

động

Tám

điều niệm đại nhơn chúng

Thiện nam tử thọ, Ðạo.

XXXXIII.1. Phẩm Thiên tử Mã huyết hỏi Bát chánh (1)

1. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-

đ

à, vườn Cấp Cô Ðộc.

Thiên tử Mã huyết vào lúc không người,

đến chỗ Thế Tôn, cúi đầu lễ dưới chân, lui ngồi một b

ên.

Bấy giờ, Thiên tử bạch Phật:

- Vừa rồi con khởi ý niệm này: 'Ði bộ trên

đất n

ày có thể

đến tận c

ùng thế giới này ch

ăng?' Nay con hỏi Thế Tôn, có thể đi c

ùng thế giới ch

ăng?

Phật bảo:

- Nay Ông do nghĩa lý gì mà hỏi

điều n

ày?

Thiêu tử bạch Phật:

- Trước kia, một hôm con

đến chỗ Phạm thi

ên Bà-già. Khi ấy, Phạm thiên từ xa thấy con

đến, nói với con rằng: 'Khéo đến đây, Thi

ên tử Mã huyết! Chỗ này là cảnh giới vô vi, không sanh, không già, không bệnh, không chết, không kết cuộc, không khởi

đầu, cũng không buồn lo khổ n

ão'.

Lúc âý con lại khởi nghĩ rằng: 'Ðây là

đạo Niết-b

àn ư? Vì sao? Trong Niết-bàn không có sanh, già, bệnh, chết, buồn lo khổ não. Ðây là bờ mé tột cùng của thế giới ư. Nếu là bờ mé tột cùng của thế giới, thế là thế gian có thể

đi suốt hết ư?'

Thế Tôn bảo:

- Nay thần túc của Ông thuộc loại nào?

Thiên tử bạch Phật:

- Cũng như lực sĩ giỏi bắn cung, tên bay không trở ngại. Hiện nay thần túc của con,

đức ấy như thế không bị ngăn ngại.

Thế Tôn bảo:

- Nay Ta hỏi Ông, tùy chỗ ưa thích trả lời. Như có bốn thanh niên giỏi bắn cung, bốn người hướng về bốn phía bắn. Giả sử có người

đến, muốn bắt hết mũi t

ên của bốn phía, không cho rơi xuống

đất. Thế n

ào, Thiên tử ? Người này có rất nhanh nhẹn ch

ăng mới có thể khiến t

ên không rơi xuống

đất?

Thiên tử nên biết! Trên cung

điện Nhật Nguyệt có vị Thi

ên tử

đi bước nhanh đi lại, tới dừng vượt hơn sức nhanh của người kia. Song cung điện Nhật Nguyệt đi nhanh như vậy, so với sức nhanh của người kia c

ùng sức nhanh của Thiên tử cung Nhật Nguyệt, không bằng sức nhanh của Trời Ba mươi ba. Tính sức nhanh của Trời Ba mươi ba không bằng sức nhanh của Trời Ðiện ma. Thần túc của chư Thiên như thế, mỗi mỗi không kịp nhau. Giả sử nay Ông có thần túc như chư Thiên kia, từ kiếp này sang kiếp khác, cho

đến trăm kiếp, c

òn không thể cùng tận thế giới. Vì sao? Phương vực của cõi

đất không thể tính kể.

Thiên tử nên biết! Thời quá khứ lâu xa, Ta từng làm Tiên nhơn tên Mã Huyết, cùng tên với Ông. Ta

đ

ã chấm dứt dục ái, bay trong hư không không ng

ăn ngại. Bấy giờ thần túc của Ta khác hơn người, trong khoảng khảy móng tay có thể bắt mũi t

ên của bốn phía không

để rơi xuống. Khi ấy, Ta do có thần túc b

èn khởi ý nghĩ nầy: 'Nay Ta có thể dùng thần túc này

để đi c

ùng tận bở mé của cõi

đất chăng? Ta liền đi khắp thế giới m

à không thể cùng tận phương vức ấy. Sau khi mạng chung. Ta tấn

đức tu nghiệp, th

ành Phật

đạo, ngồi dưới cội cây, đoan tọa tư duy về những việc l

àm

đ

ã qua. Vốn là Tiên nhơn, ta dùng thần

đức n

ày còn không cùng tận phương vức kia, phải dùng thần lực nào mới rốt ráo bờ mé ấy?

Ta lại nghĩ thế này: 'Cần phải nương Tám

đạo

phẩm của Hiền Thánh, sau

đó mới c

ùng tận bờ mé sanh tử'. Thế nào gọi là nương Tám

đạo phẩm của Hiền Thánh?

Ðó là chánh kiến, chánh chí, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh phương tiện, chánh niệm, chánh

định. N

ày Thiên tử! Nên biết tên tám

đạo

phẩm của Hiền Thánh này mới cùng tận

được bờ mé thế giới. Hằng sa chư Phật quá khứ c

ùng tận

được thế giới, đ

ã tận dụng Tám

đạo phẩm của Hiền Thánh n

ày mà tột cùng thế giới.

Giả sử vị lai các

đức Phật Thế Tôn xuất hiện ở đời th

ì chư vị cùng sẽ dùng Tám

đạo phẩm của Hiền Thánh n

ày mà

được tận c

ùng bờ mé.

Bấy giờ Thế Tôn bèn nói kệ:

Phàm phu khởi ý niệm

Trong

đó khởi m

ê hoặc

Không phân biệt pháp chánh

Lưu chuyển trong n

ăm đường

Tám phẩm của Hiền Thánh

Dùng

đây l

àm thuyền bè

Chỗ hành của chư Phật

Mà tột mé thế giới

Giả sử Phật

đương lai

Như Phật Di-lặc thảy

Cũng dùng Tám

đạo chủng

Ðược tận thế giới này

Cho nên người có trí

Tu

đạo Hiền Thánh n

ày,

Ngày

đ

êm tập làm theo

Liền

đến chỗ vô vi.

Lúc ấy, Thiên tử Mã Huyết nghe Phật nói Tám

đạo phẩm của Hiền Thánh, liền ngay chỗ ngồi dứt sạch trần cấu, được pháp nh

ãn tịnh.

Bấy giờ, Thiên tử liền cúi

đầu lễ chân Phật, đi quanh Phật ba v

òng rồi lui ra. Lúc ấy, Thiên tử kia cũng ngày

đó đem các thứ

hoa

đẹp rải tr

ên Như Lai, liền nói kệ:

Lưu chuyển sanh tử lâu,

Muốn

đi hết thế giới

Tám

đạo phẩm Hiền Thánh

Không biết cũng không thấy

Nay Ta cho thấy

đế

Lại nghe Tám

đạo phẩm

Liền

được tận bờ mé

Chỗ chư Phật

đ

ã

đến.

Bấy giờ,

đức Phật chấp nhận lời của Thi

ên tử ấy. Thiên tử thấy Phật

đ

ã chấp nhận, liền lễ chân Phật lui ra.

Bấy giờ, Thiên tử nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

2. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-

đ

à, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

- Nay Ta sẽ nói về pháp Bát quan trai Hiền Thánh, các Thầy khéo suy nghĩ ghi nhớ, tùy hỷ vâng làm.

Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy.

Thế Tôn bảo:

- Thế nào gọi là pháp Bát quan trai? Một là không sát sanh. Hai là không trộm cắp. Ba là không tà dâm. Bốn là không vọng ngữ. N

ăm l

à không uống rượu. Sáu là không

ăn phi thời.

Bảy là không nằm giường cao rộng. Tám là xa lìa hát xướng, hương hoa thoa thân.

Này Tỳ-kheo! Ðó là pháp Bát quan trai Hiền Thánh.

Khi ấy, Ưu-ba-ly bạch Phật:

- Làm thế nào tu hành pháp Bát quan trai?

Ðức Phật bảo:

- Ở

đây n

ày Ưu-ba-ly! Thiện nam tử, thiện nữ nhơn vào các ngày mùng tám, mười bốn, rằm,

đến chỗ các Sa-môn, hoặc Tỳ-kheo trưởng l

ão, tự xưng tên, từ sáng

đến chiều, như A-la-hán, giữ tâm không thay đổi, không lay động, không d

ùng dao gậy với quần sanh, lòng từ khắp tất cả. 'Nay ta thọ trai pháp, không phạm một

điều, không khởi tâm sát, tập theo lời dạy của bậc chân nhân, không trộm, không dâm, không vọng ngữ, không uống rượu, không ăn phi thời, không nằm giường cao rộng, không tập hát xướng đánh đ

àn, hoa hương xoa thân'.

Nếu người có trí tuệ, nên nói như thế; nếu người không trí tuệ, nên dạy họ như thế.

Lại, Tỳ-kheo kia nên chỉ dạy cặn kẽ,

đừng để mất, cũng chớ vượt thứ lớp. Lại n

ên dạy họ phát thệ nguyện.

Ưu-ba-ly bạch Phật:

- Nên phát nguyện thế nào?

Phật bảo:

- Người kia phát nguyện rằng: 'Nay con do pháp Bát quan trai này, không rơi vào

địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, cũng không rơi v

ào chỗ bát nạn, không ở biên

địa, không rơi chỗ hung ác, không theo ác tri thức; thờ phụng cha mẹ, chuy

ên chánh không tập tà kiến, sanh vào trung tâm của quốc gia, nghe pháp lành này, phân biệt suy nghĩ, thành tựu từng pháp;

đem công đức giữ g

ìn trai pháp này, nhiếp thủ

điều l

ành cho tất cả chúng sanh;

đem công đức n

ày bố thí người ấy, khiến thành

đạo Vô

thượng Chánh chơn;

đem phước báu thệ nguyện n

ày bố thí cho hàng Tam thừa khiến không thối chuyển nửa chừng'.

Lại nữa, pháp Bát quan trai này

được d

ùng

để học Phật đạo, Bích-chi Phật đạo, A-la-hán đạo. Người học Chánh Pháp tr

ên thế giới cũng tập nghĩa này. Giả sử

đời vị lai, khi đức Phật Di-lặc xuất

hiện, bậc Như Lai Chí Chơn Ðẳng Chánh Giác, ai gặp hội của Ngài khiến

đúng thời được độ.

Thời

đức Phật Di-lặc ra đời, Thanh văn có ba hội. Hội thứ nhất có chín mươi sáu ức chúng Tỳ-kheo, hội thứ hai có chín mươi bốn ức chúng Tỳ-kheo, hội thứ ba có chín mươi hai ức chúng Tỳ-kheo, đều l

à bậc A-la-hán các lậu

đ

ã hết. Vua nước ấy và bậc thầy giáo thọ của quốc gia cũng sẽ dạy những lời như thế, không thể thiếu sót.

Khi ấy, Tôn giả Ưu-ba-ly bạch Phật:

- Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhơn kia, tuy giữ pháp Bát quan trai, trong ấy không phát thệ nguyện, có

được công đức lớn chăng?

Ðức Phật bảo:

- Tuy

được phước, phước ấy không đủ. V

ì sao? Nay Ta sẽ nói.

Thời quá khứ có vua tên Bảo Nhạc, dùng pháp trị dân không cong vạy, thống lãnh cảnh giới Diêm-phù-

đề n

ày. Bấy giờ có

đức Phật hiệu l

à Bảo Tạng Như Lai, Chí Chơn Ðẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn xuất hiện ở thế gian. Nhà vua có người con gái tên là Mâu-ni, dung mạo rất

đặc biệt th

ù thắng, sắc mặt như hoa

đ

ào,

đều do đời trước cúng dường chư Phật m

à

được như vậy.

Bấy giờ,

đức Phật kia cũng có ba hội Thanh văn. Hội ban đầu có một ức sáu vạn tám ng

àn chúng. Hội thứ hai có một ức sáu vạn chúng. Hội thứ ba có một ức ba vạn chúng. Ðều là bậc A-la-hán, các lậu

đ

ã hết. Lúc ấy,

đức Phật kia v

ì các

đệ tử thuyết pháp như thế n

ày :

- 'Các Tỳ-kheo! Nên nhớ tọa Thiền, chớ giải

đ

ãi, lại cần tìm phương tiện tụng tập kinh giới'.

Vị thị giả của

đức Phật t

ên Mãn Nguện,

đa văn đệ nhất, như Tỳ-kheo A-nan của Ta ng

ày nay

đa văn hơn hết. Khi ấy, Tỳ-kheo M

ãn Nguyện, bạch

đức Phật Bảo Tạng:

- 'Có các Tỳ-kheo các c

ăn chậm chạp, u tối, cũng không tinh tấn đối với pháp Thiền định, cũng không tụng tập. Hôm nay Thế Tôn sẽ xếp những người như thế v

ào nhóm nào ?'

Ðức Phật Bảo Tạng dạy:

- 'Nếu như có Tỳ-kheo các c

ăn ám độn, không kham thực h

ành pháp Thiền, nên tu về ba pháp nghiệp của bậc Thượng nhân. Thế nào là ba? Là tọa Thiền, tụng kinh, siêng n

ăng giúp đỡ việc chúng'.

Như thế,

đức Phật kia v

ì các

đệ tử nói pháp vi diệu như thế.

Bấy giờ, có một Tỳ-kheo trưỏng lão cũng không kham tu hành pháp Thiền. Tỳ-kheo kia bèn nghĩ rằng: 'Nay ta tuổi già yếu, không thể tu pháp Thiền, nay ta nên tìm cách làm theo pháp siêng n

ăng giúp đỡ'. Khi ấy, Tỳ-kheo trưởng l

ão kia

đi v

ào thành Dã Mã, xin dầu thắp

đ

èn về cúng dường

đức Phật Bảo Tạng, khiến cho ánh sáng không dứt. Công chúa Mâu-ni thấy Tỳ-kheo trưởng l

ão này

đi xin tr

ên các

đường phố, liền hỏi:

- 'Thầy Tỳ-kheo! Hôm nay Thầy cần gì?'

Tỳ-kheo

đáp:

- 'Công chúa nên biết ! Tôi tuổi

đ

ã già, không kham tu hành pháp Thiền, nên

đi xin các loại dầu để cúng dường Phật, tiếp tục ánh sáng của bậc Tôn quý.

Khi ấy, công chúa nghe danh hiệu Phật, vui mừng phấn khởi không thể dừng, liền thưa với Tỳ-kheo trưởng lão:

- Tỳ-kheo ! Nay Thầy

đừng đi xin các nơi khác, tôi sẽ tự cung cấp các loại dầu đ

èn, thảy

đều bố thí đủ hết.

Tỳ-kheo trưởng lão nhận sự bố thí của công chúa, mỗi sáng

đến lấy dầu cúng dường đức Phật Bảo Tạng. Thầy nguyện đem công đức phước nghiệp n

ày, hồi hướng về

đạo Vô thượng Chánh chơn. Miệng tự nói rằng: 'Tuổi đ

ã già lại c

ăn tánh chậm, không có trí tuệ thực h

ành

được pháp Thiền, đem công đức n

ày, nơi sanh ra không rơi vào

đường ác, khiến đời tương lai được gặp đấng Thế Tôn như đức Phật

Bảo Tạng hiện nay không khác. Cũng

được gặp Thánh chúng như Thánh chúng hiện nay không

khác, nói pháp cũng như hiện nay không khác'.

Khi ấy,

đức

Phật Bảo Tạng biết ý niệm trong tâm thầy Tỳ-kheo kia, liền mỉm cười, trong miệng phát ra hào quang n

ăm sắc m

à bảo rằng:

- 'Này Tỳ-kheo ! Qua vô số kiếp

đời vị lai, Thầy sẽ l

àm Phật hiệu Ð

ăng Quang Như

Lai Chí Chơn Ðẳng Chánh Giác.'

Khi ấy, Tỳ-kheo trưởng lão vui mừng hớn hở không thể tự kềm, thâm tâm vững chắc, ý không thối chuyện, nhan sắc

đặc biệt không giống ng

ày thường. Công chúa Mâu-ni thấy Tỳ-kheo ấy dung mạo

đặc biệt hơn ng

ày thường, liền hỏi:

- 'Tỳ kheo ! Hôm nay sắc diện rất là thù diệu, không giống ngày thường, có

điều đắc ý? '

Tỳ-kheo

đáp:

- 'Công chúa nên biết, vừa rồi Như Lai dùng cam lồ rưới lên

đảnh tôi.'

Công chúa Mâu-ni hỏi:

- 'Như Lai dùng cam lồ rưới trên

đảnh thế n

ào?'

Tỳ-kheo

đáp:

- 'Tôi

được đức Như Lai Bảo Tạng thọ ký, nói rằng qua tương lai

vô số a-t

ăng-kỳ kiếp, tôi sẽ l

àm Phật, hiệu là Ð

ăng Quang Như Lai Chí Chơn

Ðẳng Chánh Giác. Thâm Tâm tôi vững chắc, ý không thối chuyển. Như thế, Công chúa, vì tôi

được Như Lai thọ ký'

Công chúa hỏi:

- 'Ðức Phật không thọ ký cho tôi ư?'

Tỳ-kheo trưởng lão

đáp:

- 'Tôi cũng không biết có thọ ký cho Công chúa ch

ăng? '

Công chúa nghe thầy Tỳ-kheo nói rồi, liền cỡi xe vũ bảo,

đến chỗ đức Phật Bảo Tạng, cúi đầu lễ chân Phật lui ngồi một b

ên. Công chúa bạch Phật:

- 'Nay con là

đ

àn việt thí chủ, thường cung cấp các thứ dầu cần dùng. Mà nay Thế Tôn thọ ký cho thầy Tỳ-kheo, riêng không thọ ký cho con'.

Ðức Phật Bảo Tạng

đáp:

- Phát tâm cầu nguyện, phước ấy khó lường, huống gì dùng tài vật bố thí'.

Công chúa Mâu-ni thưa:

- 'Nếu Như Lai không thọ ký cho con, con sẽ tự

đoạn mạng sống của m

ình'.

Ðức Phật Bảo Tạng

đáp:

- 'Làm thân người nữ, cầu làm Chuyển Luân Thánh vương không

được, cầu l

àm Ðế Thích cũng không

được, cầu l

àm Phạm thiên vương cũng không

được, cầu l

àm Ma vương cũng không

được, cầu l

àm Phật cũng không

được'.

Công chúa thưa:

- 'Nhất

định con không thể th

ành

đạo Vô thượng được ư? '

Phật Bảo Tạng

đáp:

- 'Ðược, Công chúa Mâu-ni

được th

ành

đạo Vô thượng Chánh chơn. Song công chúa n

ên biết, về tương lai qua vô số a-t

ăng-kỳ-kiếp có Phật ra đời, đó l

à thiện tri thức của Cô,

đức Phật kia sẽ thọ ký cho Cô'

Khi ấy, công chúa Bạch Phật: - 'Người nhận thanh tịnh, còn thí chủ uế trược ch

ăng? '

Phật Bảo Tạng

đáp:

- 'Những gì Ta nói hôm nay, là tâm ý thanh tịnh, phát nguyện vững chắc'.

Công chúa nói xong, liền từ chỗ ngồi

đứng dậy, cúi đầu lễ chân Phật, đi quanh Phật ba v

òng rồi lui ra.

Ưu-ba-ly nên biết ! Qua vô số a-t

ăng-kỳ-kiếp, Phật

Ð

ăng Quang

xuất hiện ở

đời tại nước lớn t

ên là Bát-

đầu-ma, c

ùng với chúng Ðại Tỳ-kheo mười sáu vạn tám ngàn người câu hội. Quốc vương và nhân dân nước ấy

đều đến kính thờ Phật. Khi ấy, nước kia có vua t

ên Ðề-bà-diên-na, dùng pháp trị hóa, thống lãnh cõi Diêm phù-

đề. Nh

à vua thỉnh Phật và chúng Tỳ-kheo

đến để cúng dường trai phạn.

Bấy giờ,

đức Phật

Ð

ăng Quang sáng sớm đắp y mang bát, dẫn chúng Tỳ-kheo v

ào thành. Khi ấy, có một Phạm chí tên Di-lặc, gương mặt

đoan chánh, ri

êng vượt hơn mọi người, như là Phạm Thiên, thông suốt các kinh tạng thảy

đều quán triệt, các sách vở, chú thuật,

thảy

đều r

ành rẽ, thiên v

ăn, địa lý thảy đều biết r

õ. Phạm chí kia xa thấy Phật Ð

ăng Quang đi đến, dung mạo đặc biệt th

ù thắng, phi thường hơn

đời, các căn vắng lặng, ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp trang nghi

êm nơi thân; thấy rồi liền phát khởi lòng hoan hỷ, sanh lòng lành nghĩ rằng; 'Các sách vở ghi chép việc Như Lai xuất hiện rất là khó gặp,

đúng thời mới xuất hiện như hoa Ưu-bát đúng thời mới xuất hiện, nay ta n

ên

đến thử'.

Khi ấy, Phạm chí tay cầm n

ăm c

ành hoa,

đến chỗ Thế Tôn, lại khởi nghĩ thế n

ày: 'Ai có

đủ

ba mươi hai tướng tốt gọi là thành Phật'. Ông liền

đem năm c

ành hoa tung lên mình Phật, và mong thấy

được ba mươi hai tướng tốt. Song ông chỉ thấy ba mươi tướng, m

à không thấy thêm hai tướng nữa, liền khởi hồ nghi: 'Nay quan sát Thế Tôn, không thấy

được tướng lưỡi rộng d

ài và tướng mã âm tàng'.

Ông liền nói kệ:

Nghe có ba hai tướng

Tướng mạo của Ðại nhơn

Nay không thấy hai tướng

Tướng hảo có

đủ chăng?

Có tướng mã âm tàng

Trinh khiết không dâm ch

ăng?

Có tướng lưỡi rộng dài

Chấm tai, trùm mặt ch

ăng?

Vì tôi hiện tướng ấy,

Ðể dứt các hồ nghi,

Mã âm và tướng lưỡi

Xin nguyện muốn thấy

đó.

Khi ấy,

đức Phật

Ð

ăng Quang liền nhập chánh định khiến

Phạm chí thấy

được hai tướng ấy.

Ðức Phật Ð

ăng Quang liền b

ày tướng lưỡi rộng dài, liếm trùm cả mặt, phóng ánh sáng lớn, trở lại từ

đảnh chui v

ào. Phạm chí thấy

đức Phật có đầy đủ ba mươi hai tướng, thấy rồi vui mừng hớn hở không thể tự kềm, rồi nói thế n

ày:

- Cúi xin Thế Tôn chứng minh cho con, ngày nay dùng n

ăm c

ành hoa dâng lên Như Lai, và

đem thân n

ày cúng dường bậc Tôn Thánh.

Khi phát thệ này, n

ăm c

ành hoa ở trên không trung hóa thành

đ

ài báu, rất thù diệu, có bốn trụ bốn cửa. Phạm chí thấy

đ

ài báu, vui mừng hớn hở không thể tự kềm, phát lời nguyện: 'Xin cho con

đời sau được l

àm Phật như

đức Phật

Ð

ăng Quang, đệ tử đồ chúng thảy đều như thế'.

Khi ấy,

đức Phật

Ð

ăng Quang biết ý nghĩ trong tâm Phạm chí liền

mỉm cười. Pháp thường của chư Phật, khi thọ ký thì Phật mỉm cười, trong miệng phát ra hào quang n

ăm sắc chiếu khắp tam thi

ên

đại thế giới, mặt trời mặt trăng không c

òn ánh sáng, ánh sáng ấy lại từ

đảnh m

à vào. Nếu khi thọ ký thành Phật thì ánh sáng từ

đảnh v

ào. Nếu khi thọ ký thành Bích-chi Phật, ánh sáng từ miệng phát ra lại trở vào lỗ tai. Nếu thọ ký thành Thanh v

ăn, th

ì ánh sáng trở vào vai. Nếu thọ ký sanh lên Trời, lúc ấy ánh sáng trở vào cánh tay. Nếu thọ ký sanh loài Người, ánh sáng trở vào hai bên hông. Nếu thọ ký sanh ngạ quỷ, thời ánh sáng trở vào nách. Nếu thọ ký sanh súc sanh, ánh sáng trở vào

đầu gối. Nếu thọ ký sanh địa ngục, ánh sáng đi v

ào gót chân.

Khi ấy, Phạm chí thấy ánh sáng trở vào

đỉnh đầu, vui mừng hớn hở không thể tự

kềm, liền trải tóc dưới

đất v

à nói lời này: 'Nếu

đức Phật không thọ ký cho tôi, th

ì ngay chỗ này tôi sẽ tự hủy hoại các c

ăn'. Khi ấy đức Phật

Ð

ăng Quang biết ý nghĩ trong tâm Phạm chí, liền bảo:

- 'Ông mau

đứng l

ên. Ðời vị lai sau, sẽ

được th

ành Phật hiệu Thích Ca V

ăn Như

Lai Chí Chơn Ðẳng Chánh Giác'.

Phạm chí nghe Phật thọ ký rồi, tâm rất vui mừng không thể tự kềm, lập tức ngay nơi ấy

được biến hiện tam-muội, bay l

ên hư không cách mặt

đất bảy nhẫn, chắp tay hướng về đức Phật

Ð

ăng Quang.

Này Ưu-ba-ly ! Thầy chớ lấy làm lạ. Thầy Tỳ-kheo trưởng lão vào thời

đức Phật Bảo Tạng, đâu phải người n

ào lạ, chính là

đức Phật

Ð

ăng Quang. C

òn công chúa Mâu-ni lúc ấy, chính là Ta hiện nay. Lúc ấy

đức Phật Đăng Quang

đặt danh hiệu Ta l

à Thích-ca V

ăn. Nay Ta do nhân duy

ên ấy, nên nói pháp Bát-quan trai này, nên phát thệ nguyện, không thệ nguyện không kết quả. Vì sao? Nếu lúc ấy, công chúa phát nguyện như thế, liền ngay nơi kiếp ấy thành tựu sở nguyện, rốt cuộc không thành Phật

đạo. Phước thệ nguyện không thể xưng kể, được đến chỗ cam lồ, chỗ diệt tận. Như thế, Ưu-ba-ly, n

ên học như thế.

Bấy giờ, Tôn giả Ưu-ba-ly nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

3. Tôi nghe như vầy:

Một thời

đức Phật ở nước

Ma-kiệt, cùng với chúng

đại Tỳ-kheo năm trăm người câu hội, đi dần đến bờ sông.

Bấy giờ, Thế Tôn thấy giữa dòng nước có một khúc gỗ lớn trôi trên mặt nước. Ngài bèn ngồi lại dưới một cội cây bên bờ sông. Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

- Các Thầy có thấy khúc gỗ bị nước cuốn kia không?

Các Tỳ-kheo bạch Phật:

- Thưa có thấy.

Phật bảo:

- Ví như khúc gỗ kia, không mắc kẹt bờ bên này hay bên kia, cũng không chìm giữa dòng hay trôi tấp trên bờ, không bị người vớt lên, lại chẳng bị phi nhơn vớt lên, lại không bị nước cuốn xoáy, cũng không bị mục nát. Nó sẽ dần dần trôi

đến biển cả. V

ì sao? Biển là cội nguồn của các sông.

Tỳ-kheo các Thầy cũng lại như thế. Nếu như các hầy không mắc kẹt ở bờ bên này hay bờ bên kia, không chìm giữa dòng, lại không nằm trên bờ, không bị người hay phi nhân nắm giữ, cũng không bị nước cuốn xoáy, cũng không mục nát, các Thầy sẽ dần dần

đến Niết-b

àn. Vì sao? Niết-bàn có chánh kiến, chánh chí (tư duy), chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh phương tiện, chánh niệm, chánh

định, l

à nguồn cội của Niết-bàn.

Bấy giờ, có người ch

ăn b

ò tên Nan-

đ

à

đang chống gậy đứng xa nghe nói như thế, người ấy b

èn

đi dần dần đến chỗ Phật. Bấy giờ, người chăn b

ò bạch Phật:

- Nay con cũng không mắc kẹt bờ bên này hay bờ bên kia, không chìm giữa dòng hay tấp vào bờ, không bị người nắm bắt, không bị phi nhơn nắm bắt, không bị nước cuốn xoáy, cũng không mục nát, dần dần sẽ

đến Niết-b

àn. Cúi xin Thế Tôn cho phép con ngay tại con

đường n

ày,

được l

àm Sa-môn.

Phật bảo:

- Ông

đem b

ò về cho chủ rồi, sau mới

được l

àm Sa-môn.

Người ch

ăn b

ò Nan-

đ

à thưa:

- Lũ bò này nhớ con của chúng, tự sẽ trở về nhà, cúi xin Thế Tôn cho phép tại

đây.

Phật bảo:

- Những con bò này tuy tự trở về nhà, cũng cần Ông

đi theo để giao lại chủ.

Khi ấy, người ch

ăn b

ò nghe lời dạy

đem giao b

ò xong, trở lại chỗ Phật, bạch Phật:

- Nay con

đ

ã giao bò xong, cúi xin Thế Tôn cho phép con làm Sa-môn.

Khi ấy, Thế Tôn liền cho làm Sa-môn, thọ giới cụ túc.

Có một Tỳ-kheo khác bạch Phật:

- Thế nào là bờ bên này? Thế nào là bờ bên kia? Thế nào là chìm giữa dòng? Thế nào là kẹt trên bờ? Thế nào là không bị người nắm bắt? Thế nào là không bị nước cuốn xoáy? Thế nào là không mục nát?

Phật dạy Tỳ-kheo:

- Bờ bên này là thân mình, bờ bên kia là thân diệt hoại. Chìm giữa dòng là dục ái. Tấp trên bờ là ngũ dục. Bị người nắm bắt là: như có người hào tộc phát thệ nguyện rằng: 'Nguyện

đem công đức phước báu n

ày

để được l

àm vua, hay làm

đại thần'. Bị phi nhơn nắm bắt l

à: như có Tỳ-kheo thệ nguyện như vầy: 'Sanh trong cõi Tứ thiên vương mà hành Phạm hạnh. Nay ta

đem công đức n

ày

để sanh c

õi Trời'. Ðây gọi là bị phi nhơn nắm bắt. Bị nước cuốn xoáy là những

điều t

à nghi. Mục nát là tà kiến, tà chí (tư duy), tà ngữ, tà nghiệp, tà mạng, tà phương tiện, tà niệm, tà

định.

Ðó là mục nát vậy.

Lúc ấy Tỳ-kheo Nan-

đ

à ở chỗ vắng thanh tịnh, tự tu chuyên cần mà theo

đó người d

òng dõi, cạo bỏ râu tóc, xuất gia học

đạo, tu Phạm hạnh vô thượng, sanh tử đ

ã chấm dứt, Phạm hạnh

đ

ã lập, việc phải làm

đ

ã làm xong, không thọ thân trở lại. Tỳ-kheo Nan-

đ

à liền tại chỗ ngồi thành A-la-hán.

Bấy giờ, Tôn giả Nan-

đ

à nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

4. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở tại nước Ma-kiệt, vườn trúc Ca-lan-

đ

à cùng với

đại chúng năm trăm người câu hội.

Bấy giờ, Ðề-bà-

đạt-đa, do có thần túc, được thái tử A-x

à-thế mỗi ngày

đem năm trăm nồi

cơm cúng dường. Chúng Tỳ-kheo nghe chuyện Ðề-bà-

đạt-đa do có thần túc m

à

được vua A-x

à-thế cúng dường, cùng nhau

đến chỗ Phật, cúi đầu lễ chân Phật, lui ngồi một b

ên. Khi ấy, nhiều Tỳ-kheo bạch Phật:

- Ðề-bà-

đạt-đa oai thần rất lớn, nay được vua A-x

à-thế cúng dường, mỗi ngày

đem cho năm trăm nồi cơm.

Bấy giờ,

đức Phật nghe lời ấy rồi, bảo các Tỳ-kheo:

- Các Thầy chớ khởi ý niệm ấy về sự tham lợi dưỡng của Tỳ-kheo Ðề-bà-

đạt-đa. Kẻ ngu kia do lợi dưỡng n

ày, sẽ tự diệt mất. Vì sao? Ở

đây, Tỳ-kheo

Ðề-bà-

đạt-đa sở dĩ xuất gia, không đạt kết quả của sở nguyện. Tỳ-kheo n

ên biết! Ví như có người ra khỏi làng xóm, tay cầm búa bén

đến chỗ cây to, trước đó ý mong chặt được cây to. Kịp khi đến nơi, chỉ lấy c

ành lá trở về nhà.

Nay Tỳ-kheo này cũng vậy, tham trước lợi dưỡng. Do lợi dưỡng này,

đối với người khác th

ì tự khen mình, chê bai việc làm của các Tỳ-kheo khác, ắt không

đạt kết quả sở nguyện. Thấy ấy do lợi dưỡng n

ày nên không cần tìm cách khởi tâm dũng mãnh. Như người kia muốn tìm lõi cây không

được, bị người trí ruồng bỏ.

Nếu như có Tỳ-kheo

được lợi dưỡng rồi, không tự khoe khoang, cũng không ch

ê bai người khác. Hoặc có khi lại

đối với người khác tự xưng ta l

à người trì giới, kia là kẻ phạm giới, Tỳ-kheo ấy không

đạt kết quả của sở nguyện. Như người bỏ gốc đem c

ành lá về nhà, người trí thấy rồi, nói 'Người này tuy

đem c

ành cây về nhà, song không biết gốc'. Trong

đây Tỳ-kheo cũng như vậy. Do được lợi dưỡng, vâng giữ giới luật, v

à tu Phạm hạnh, ưa tu chánh

định. Tỳ-kheo ấy do chánh định n

ày, tâm

đối với người khác tự khoe: 'nay ta được định, người khác không định'. Pháp đáng l

àm của Tỳ-kheo ấy cũng không

được kết quả.

Cũng như có người tìm lõi cây,

đến b

ên cây to, xem xét thân cây, bỏ các nhánh lá, chỉ lấy gốc

đem về. Người trí thấy rồi liền nói thế n

ày: 'Người này

được ri

êng phần gốc'. Nay Tỳ-kheo này cũng lại như thế, hưng khởi lợi dưỡng, vâng giữ giới luật, cũng không tự khoe khoang, lại chẳng chê bai người khác, tu hành chánh

định, cũng lại như thế m

à dần dần tu trí tuệ. Trong pháp này, trí tuệ là bậc nhất. Tỳ-kheo Ðề-bà-

đạt-đa ở trong pháp n

ày

đ

ã chẳng

được trí tuệ, lại cũng không đủ giới luật.

Có một Tỳ-kheo bạch Phật:

- Thầy Ðề-bà-

đạt-đa ấy v

ì sao không hiểu pháp giới luật? Thầy ấy có thần túc, thành tựu các hạnh, có trí tuệ này, vì sao không hiểu pháp giới luật? Có trí tuệ ắt có chánh

định, có chánh định ắt có giới luật.

Phật dạy:

- Pháp giới luật là chuyện thường của thế tục. Thành tựu chánh

định cũng l

à chuyện thường thế tục. Thần túc phi hành cũng là chuyện thường thế tục. Thành tựu trí tuệ,

đó mới l

à nghĩa

đệ nhất.

Khi ấy, Thế Tôn bèn nói kệ:

Do Thiền

được thần túc,

Không rốt ráo tối thượng,

Không

được mé vô vi,

Lại rơi trong ngũ dục.

Trí tuệ là tối thượng,

Không lo, không nghĩ ngợi.

Rốt ráo

được đẳng kiến.

Ðoạn dứt chốn sanh tử.

Tỳ-kheo nên biết! Do phương tiện này mà biết Ðề-bà-

đạt-đa không hiểu pháp giới luật, cũng không hiểu hạnh trí tuệ, chánh định. Tỳ-kheo các Thầy chớ giống

Ðề-bà-

đạt-đa tham trước lợi dưỡng. Người tham lợi dưỡng l

à rơi vào chỗ ác, không

đến đường l

ành. Nếu tham trước lợi dưỡng thì sẽ tập theo tà kiến, lìa chánh kiến, tập tà tư duy lìa chánh tư duy. Tập tà ngữ lìa chánh ngữ, tập tà nghiệp lìa chánh nghiệp, tập tà mạng lìa chánh mạng, tập tà phương tiện lìa chánh phương tiện, tập tà niệm lìa chánh niệm, tập tà

định l

ìa chánh

định.

Thế nên Tỳ-kheo! Chớ khởi tâm lợi dưỡng, chế phục khiến

đừng khởi.

Ðã khởi tâm lợi dưỡng, nên tìm phương tiện diệt trừ. Như thế, này các Tỳ-kheo nên học

điều n

ày!

Khi Phật nói pháp vi diệu này có sáu mươi Tỳ-kheo xả bỏ pháp phục, tập hạnh cư sĩ; lại có sáu mươi Tỳ-kheo khác

được lậu tận ý giải, sạch hết các trần cấu, được pháp nh

ãn tịnh.

Bấy giờ, các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

5. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở tại nước Xá-vệ, rừng Kỳ-

đ

à, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

- Nay Ta sẽ nói thí dụ thuyền bè. Các Thầy khéo suy nghĩ, ghi nhớ trong tâm.

Các Tỳ-kheo thưa:

- Xin vâng! Bạch Thế Tôn.

Các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy.

Phật bảo:

- Thế nào gọi là thí dụ thuyền bè? Nếu các Thầy

đi đường bị giặc bắt giữ, n

ên nhiếp tâm ý,

đừng khởi niệm ác. N

ên khởi tâm hộ niệm trùm khắp mọi nơi, vô lượng vô hạnh không thể tính kể. Giữ gìn tâm như

đất, cũng như đất n

ày, nhận vật sạch, cũng nhận vật dơ, phần tiểu dơ uế xấu xa thảy

đều nhận hết. Song đất chẳng khởi tâm tăng giảm, không nói rằng: '

Ðây là xấu,

đây l

à tốt'. Nay việc làm của các Thầy nên cũng như thế. Giả sử bị giặc bắt giữ giam cầm, chớ sanh ác niệm, khởi tâm t

ăng giảm, như đất, nước, lửa, gió, xấu cũng nhận, tốt cũng nhận, đều không có tâm tăng giảm.

Khởi tâm từ, bi, hỷ, hộ (xả)

đối với tất cả chúng sanh. V

ì sao? Pháp thiện còn phải bỏ, huống gì pháp ác mà tập quen. Như có người gặp chỗ tai nạn sợ sệt, muốn qua khỏi chỗ tai nạn

đến chỗ an ổn; t

ùy ý chạy tìm nơi an ổn. Người ấy thấy con sông lớn rất sâu rộng, cũng không có thuyền hay cầu

để có thể sang bờ b

ên kia. Song chỗ

đứng b

ên này rất

đáng sợ, bờ b

ên kia không có. Bấy giờ người kia suy nghĩ tính kế: 'Sông này rất sâu lại rộng, nay ta có thể thu thập cây cối, cỏ lá kết lại làm bè qua sông, nhờ bè này

để ch

èo từ bờ này sang bờ kia'. Bấy giờ, người ấy liền thu góp cành cây, cỏ lá kết bè mà chèo từ bờ này sang bờ kia. Người ấy

đ

ã sang bờ kia liền khởi nghĩ: 'Cái bè này rất nhiều lợi ích cho ta, do bè này

được qua chỗ ách nạn, từ chỗ sợ h

ãi

đến chỗ không nạn. Nay ta không bỏ b

è này,

đi đâu cũng mang theo'.

Thế nào, các Tỳ-kheo! Người kia

đến nơi rồi có thể vác chiếc b

è theo ch

ăng? Hay không n

ên vác theo?

Các Tỳ-kheo thưa:

- Bạch Thế Tôn không nên. Nguyện vọng của người ấy

đ

ã

được kết quả, c

òn dùng bè vác theo làm gì!

Phật bảo Tỳ-kheo:

- Pháp thiện còn phải bỏ, huống gì phi pháp.

Bấy giờ, có một Tỳ-kheo bạch Phật:

- Thế nào là pháp thiện còn phải bỏ, huống gì phi pháp? Chúng con há không do pháp mà học

đạo ư?

Phật bảo:

- Y nơi kiêu mạn diệt kiêu mạn, mạn mạn, t

ăng thượng mạn, tự mạn, t

à kiến mạn, mạn trung mạn, t

ăng thượng mạn. D

ùng không mạn diệt mạn mạn, vô mạn; dùng chánh mạn diệt tà mạn, t

ăng thượng mạn, diệt sạch bốn mạn.

Xưa kia, khi Ta chưa thành Phật

đạo, ngồi dưới cội cây b

èn nghĩ như vầy: 'Trong cõi dục giới, ai là người hào quý nhất Ta sẽ hàng phục. Trong cõi dục giới này, chư Thiên và loài Người thảy

đều h

àng phục'. Lúc ấy, Ta lại nghĩ thế này: 'Nghe nói có tệ ma Ba-tuần, nay Ta sẽ chiến

đấu với Ma ấy, do h

àng phục ma Ba-tuần, tất cả chư Thiên hào quý kiêu mạn

đều sẽ bị h

àng phục'.

Khi ấy, Ta ngồi nơi tòa mỉm cười, khiến cho cảnh giới ma Ba-tuần thảy

đều chấn động. Trong hư không nghe có tiếng nói kệ:

Bỏ pháp vua chơn tịnh,

Xuất gia học cam lồ,

Nếu người phát nguyện rộng,

Không ba

đường ác n

ày.

Nay ta họp binh chúng,

Ðến th

ăm Sa-môn kia,

Nếu không theo ý ta,

Nắm chân ném ra biển.

XXXXIII.2 Phẩm Thiên tử Mã huyết (2)

Khi ấy, Tệ ma Ba-tuần sân giận bừng bừng, liền bảo

đại tướng Sư Tử rằng:

- 'Mau tập họp bốn bộ chúng,

đi đánh dẹp Sa-môn. V

à phải quan sát ông ấy có thế lực gì mà dám chiến

đấu với ta?'.

Khi ấy, Ta lại suy nghĩ: 'Giao chiến với người thường còn không thể im lặng huống gì với người hào quý của cõi dục. Cũng nên tranh

đua với y ít nhiều'.

Này Tỳ-kheo! Lúc ấy Ta mặc giáp nhân từ, tay cầm cung chánh

định, t

ên trí tuệ,

đợi binh chúng kia. Khi đó tệ ma, đại tướng v

à binh chúng có

đến mười tám ức, mặt m

ày mỗi mỗi khác nhau, vượn, khỉ, sư tử

đến chỗ Ta. Binh chúng La-sát hoặc một thân có ng

àn

đầu; hoặc mấy mươi thân chung một đầu; hoặc hai vai ba cổ, ngay tim có miệng; hoặc một tay, hoặc hai tay, hoặc bốn tay; hoặc hai tay vác đầu, miệng ngậm thây rắn; hoặc tr

ên

đầu bốc lửa, miệng phun lửa; hoặc hai tay banh miệng muốn ngoạm đằng trước; hoặc phanh bụng đi tới, tay cầm đao kiếm, mang vác mâu giáo; hoặc cầm ch

ày cối; hoặc vác túi gánh

đá, vách cây lớn; hoặc hai chân ở tr

ên,

đầu ở dưới; hoặc cỡi voi, sư tử, hồ lang, độc tr

ùng; hoặc

đi bộ đến, hoặc bay tr

ên không.

Khi ấy, tệ ma

đem bao nhi

êu binh chủng ấy vây quanh cội

đạo thọ. Ma Ba-tuần đứng b

ên trái Ta, nói với Ta:

- 'Sa-môn

đứng l

ên mau'.

Tỳ-kheo! Khi ấy, Ta im lặng không trả lời. Như thế

đến ba phen, Ma b

èn nói với Ta:

- 'Sa-môn sợ ta ch

ăng?'.

Ta bảo:

- 'Nay Ta nhiếp tâm không chút kinh sợ'.

Ma Ba-tuần nói:

- 'Sa-môn! Có thấy bốn bộ binh chúng của ta ch

ăng? C

òn Ông một thân, không có khí giới gậy gộc, binh

đao, đầu trọc, thân trơ, chỉ mặc ba y, lại nói: 'Ta không sợ'.

Bấy giờ, Ta hướng về Ba-tuần, nói kệ:

Giáp nhân, cung chánh

định,

Tay cầm tên trí tuệ

Phước nghiệp là binh chúng

Nay sẽ hại quân ngươi.

Ma Ba-tuần lại nói với Ta:

- 'Ta có nhiều việc ích lợi cho Sa-môn, nếu không nghe lời ta, bấy giờ sẽ

đốt Ông ra tro, ti

êu diệt thân hình. Lại, Sa-môn dung mạo

đoan chánh, tuổi trẻ tươi đẹp, xuất phát từ d

òng Xá-lợi, Chuyển Luân vương. Mau rời khỏi chỗ này, tập theo ngũ dục. Ta sẽ

đem đến cho Ông, để Ông l

àm Chuyển luân Thánh vương'

Ta trả lời Ba-tuần:

- 'Những lời Ngươi nói,

đều l

à vô thường biến

đổi không

dừng lâu, cũng phải xả ly, chẳng phải

điều Ta ưa

thích'.

Ma-tuần lại nói với Ta:

-'Sa-môn! Hôm nay muốn

điều g

ì? Chí nguyện việc gì? '

Ta

đáp:

- 'Ðiều Ta nguyện là nơi không lo sợ, an ổn tịnh tịch trong thành Niết-bàn, dẫn dắt các chúng sanh trôi nổi trong sanh tử, chìm

đắm khổ n

ão

được đến con đường

chánh'.

-'Nếu như Sa-môn không mau mau

đứng l

ên khỏi tòa, ta sẽ nắm chân Ông ném xuống biển'.

Ta

đáp Ba-tuần rằng:

- Ta tự quan sát trong cõi trời, Người, dù cho Ma hay Thiên ma, Nhơn, Phi nhơn và cả ba binh chúng của Ngươi, không thể khiến Ta

động một mảy may lông.

Ma bảo:

- 'Sa-môn! Ngaỳ nay muốn chiến

đấu với Ta chăng?'

Ta

đáp:

- 'Muốn cùng giao chiến'.

Ma hỏi:

- 'Ông ghét

điều g

ì?'

Ta

đáp:

- 'Những

điều ki

êu mạn, như t

ăng thượng

mạn, tự mạn, tà mạn, mạn trung mạn'.

Ma nói với Ta:

- 'Ông dùng nghĩa gì

để diệt các mạn đó?'

Ta

đáp:

- 'Ba-tuần nên biết! Có nhân Từ tam-muội, Bi tam-muội, Hỷ tam-muội, Hộ tam-muôi, Không tam-muội, Vô nguyện tam-muội, Vô tướng tam-muội. Do Từ tam-muội

được Bi tam-muội, do Bi tam-muội được Hỷ tam-muội, do Hỷ tam-muội được Hộ (Xả) tam-muội, do Không tam-muội được Vô nguyện tam-muội, do Vô nguyện tam-muội được Vô tướng tam-muội. Do sức của tam-muội n

ày chiến

đấu với ngươi. H

ành tận ắt khổ tận, khổ tận ắt kết tận, kết tận ắt

đế Niết-b

àn'.

Ma nói:

- Sa-môn! Có thể dùng pháp diệt pháp ch

ăng?'

Ta

đáp:

- 'Có thể dùng pháp diệt pháp'.

Ma hỏi Ta:

- 'Thế nào là dùng pháp diệt pháp?'

Khi ấy Ta bảo:

- 'Dùng chánh kiến diệt tà kiến, dùng tà kiến diệt chánh kiến. Chánh tư duy diệt tà tư duy, tà tư duy diệt chánh tư duy. Chánh ngữ diệt tà ngữ, tà ngữ diệt chánh ngữ. Chánh nghiệp diệt tà nghiệp, tà nghiệp diệt chánh nghiệp. Chánh mạn diệt tà mạn, tà mạn diệt chánh mạn. Chánh phương tiện diệt tà phương tiện, tà phương tiện diệt chánh phương tiện. Chánh niệm diệt tà niệm. tà niệm diệt chánh niệm. Chánh

định diệt t

à

định, t

à

định diệt chánh định'.

Ma nói:

- 'Sa-môn! Hôm nay tuy có những lời như vậy. Ở chỗ này khó khắc phục. Ông mau

đứng dậy, đừng để ta nắm chân ném ra

biển'.

Ta lại bảo Ba-tuần:

- 'Ngươi tạo phước chỉ một phen, nay

được l

àm Ma vương cõi dục. Xưa kia Ta tạo công

đức không thể tính kể. Lời của Ngươi hôm nay mới thật khó

làm'.

Ba-tuần

đáp:

-'Phước

đ

ã làm chỉ Ông chứng biết. Ông tự xưng tạo vô số phước, ai có thể chứng tri cho Ông?'

- Tỳ-kheo! Lúc ấy Ta duỗi tay mặt, chỉ xuống

đất, bảo với Ba-tuần: 'Công đức Ta đ

ã tạo

địa thần

chứng biết'.

Ta

đang nói lời n

ày,

địa thần từ đất vọt l

ên, chắp tay bạch:

- 'Bạch Thế Tôn! Con

đang chứng

biết'.

Ðịa thần nói xong, Ba-tuần lo buồn khổ não, liền lui không hiện.

Tỳ-kheo! Do phương tiện này nên biết, pháp còn phải diệt huống hồ là phi pháp. Ðã từ lâu, Ta vì các Thầy nói kinh Nhất Giác Dụ, không ghi lại v

ăn tự, huống giải thích ý nghĩa. V

ì sao? Pháp này sâu xa huyền diệu, các bậc Thanh v

ăn, Bích chi Phật tu pháp n

ày

được công đức lớn, được cam lồ, đến chỗ vô vi.

Thế nào tên là Dụ Nương Thuyền? Nghĩa là y nơi mạn diệt mạn, mạn

đ

ã diệt tận, lại không còn những niệm tưởng não loạn. Cũng như da con chồn

được thuộc kỹ, lấy tay cuộn lại, không nghe tiếng sột soạt, không có chỗ cứng cộm, đây cũng như thế, Như Tỳ-kheo chấm dứt ki

êu mạn, không có t

ăng giảm. Cho n

ên Ta bảo các Thầy rằng: 'giả sử bị giặc giam cầm, chớ khởi tâm ác, nên

đem l

òng từ ban khắp nơi, cũng như da kia rất mềm mại, bèn

được chỗ vô vi lâu d

ài'.

Như thế, Tỳ-kheo! Nên khởi niệm như thế.

Ngay khi thuyết pháp này, có ba ngàn Thiên tử ngay tại chỗ ngồi các trần cấu sạch hết,

được phép nh

ãn tịnh. Còn sáu mươi Tỳ-kheo khác, lậu tận ý giải,

được phép nh

ãn tịnh.

Bấy giờ, các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

6. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở tại nước Ma-kiệt, bên bờ sông Hằng cùng với chúng

đại Tỳ-kheo năm trăm người câu hội.

Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

- Cũng như người ch

ăn b

ò nước Ma-kiệt ngu si, kém trí tuệ, muốn

đưa b

ò từ bờ sông Hằng bên này sang bờ bên kia. Người ấy không xem xét bờ bên này, bờ bên kia, chỗ cạn chỗ sâu, liền

đuổi b

ò xuống nước. Trước tiên người ấy

đưa sang những con b

ò ốm yếu, bò con còn nhỏ, chúng ở giữa dòng nước, rất là gầy yếu, không thể qua tới bờ bên kia. Kế

đó, người ấy đưa sang những con b

ò trung bình, không mập không ốm, cũng không qua

được bờ, ở giữa d

òng nước chịu khổ não, Kế

đến, người ấy đưa sang những con b

ò rất mạnh, cũng ở giữa dòng nước bị khốn ách.

Nay, các Tỳ-kheo trong chúng của Ta cũng lại như thế. Tâm ý ám

độn không có trí sáng suốt, không phân biệt được con đường sanh tử, không phân biệt được câu, thuyền của ma; ý muốn qua d

òng sanh tử mà không tập tu theo pháp cấm giới thì liền bị Ba-tuần chiếm phần tiện lợi; theo con

đường t

à tìm cầu Niết-bàn, mong

được diệt độ, trọn không đạt kết quả; tự tạo tội nghiệp, lại l

àm người khác chìm trong tội.

Cũng như người ch

ăn b

ò nước Ma-kiệt thông trí tuệ, nhiều trí muốn

đưa b

ò từ bờ này sang bờ kia. Trước hết, người ấy xem xét chỗ cạn sâu,

đưa những con b

ò rất mạnh sang bờ bên kia trước; kế

đến đưa những con b

ò trung bình không mập không ốm, cũng

được sang đến bờ kia; kế đến đưa những con b

ò rất yếu cũng

được sang không khác những con trước. B

ò con

đi theo sau, m

à

đến bờ an ổn.

Này các Ty-kheo, Như Lai cũng lại như thế, khéo quán sát

đời n

ày

đời sau, quán sát biển sanh tử, con đường của Ma. Tự đem Bát chánh đạo để vượt qua nạn sanh tử, lại d

ùng

đạo n

ày

để độ người chưa được độ.

Cũng như con bò dẫn

đầu, một con đi đúng đường, những con kia thảy đều theo.

Ðệ tử của Ta cũng như vậy , dứt sạch hữu lậu thành vô lậu, tâm giải thoát, trí tuệ giải thoát, trong pháp hiện lại tự thân chứng ngộ, mà tự du hóa, vượt qua cảnh giới Ma

đến chỗ vô vi.

Cũng như những con bò có sức mạnh lội qua sông Hằng sang bờ bên kia. Hàng Thanh v

ăn của Ta cũng lại như thế, đoạn đứt năm hạ phần kết sử th

ành A-na-hàm, ngay

đời n

ày nhập Niết-bàn không trở lại cõi này, vượt qua cảnh giới Ma

đến chỗ vô vi.

Như những con bò trung bình không mập, không ốm qua

được sông Hằng không gặp khó khăn.

Ðệ tử của Ta cũng lại như thế,

đoạn dứt ba kết sử, dâm, nộ, si mỏng nhẹ th

ành Tư-

đ

à-hàm, trở lại cõi này một lần, dứt sạch mé khổ, dứt cảnh giới Ma

đến chỗ vô vi.

Như những con bò yếu

đưa các b

ò con qua

được sông Hằng.

Ðệ tử của Ta cũng lại như thế,

đoạn

dứt ba kết sử thành Tu-

đ

à-hoàn

đến chỗ được độ, vượt qua cảnh giới Ma, vượt qua nạn sanh tử.

Như bò con theo mẹ

được qua sông.

Ðệ tử của Ta cũng lại như vậy giữ lòng tin, vâng theo chánh pháp, cắt

đứt sự trói buộc của Ma, đến chỗ vô vi.

Bấy giờ, Thế Tôn bèn nói kệ:

Chỗ

được của Ma vương

Không tột mé sanh tử,

Như Lai cứu cánh

Thế gian hiện tuệ sáng

Chỗ giác liễu của Phật

Phạm chí không hiểu rõ

Còn kẹt bên sanh tử

Gồm

độ người chưa độ

Nay n

ăm hạng người n

ày

Ngoài ra không thể tính

Muốn vượt nạn sanh tử

Tận sức oai thần Phật.

Cho nên, này Tỳ-kheo, nên chuyên nhất tâm kia, không có hạnh phóng dật, cũng nên tìm phương tiện thành tựu Tám

đạo

phẩm Hiền Thánh. Nương

đạo Hiền Thánh rồi liền có thể tự vượt qua biển sanh tử. V

ì sao? Cũng như người ngu ch

ăn b

ò kia là hàng ngoại

đạo Phạm Chí, tự ch

ìm trong dòng sanh tử, lại làm người khác chìm

đắm trong tội.

Nước sông Hằng tức là biển sanh tử. Người trí tuệ ch

ăn b

ò là Như Lai, do Tám

đạo phẩm vượt qua nạn sanh tử. Cho n

ên các Tỳ-kheo nên tìm cách thành tựu bát Thánh

đạo. Như vậy, n

ày các Tỳ-kheo, nên học

điều n

ày!

Bấy giờ, các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

7. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở thành La-duyệt, trong vười xoài của Kỳ-bà-già, cùng với một ngàn hai tr

ăm năm mươi đệ tử câu hội, đều l

à bậc A-la-hán, các lậu

đ

ã hết, lục không thanh triệt, chỉ trừ một mình Tỳ-kheo A-nan.

Bấy giờ, vua A-xà-thế nhằm ngày rằm tháng bảy, vào lúc thọ tuế, nửa

đ

êm tr

ăng sáng xuất hiện, vua bảo phu nhơn Nguyệt Quang:

- Nay là ngày rằm, tr

ăng

tròn rất trong sáng, nên làm gì?

Phu nhơn thưa:

- Nay ngày rằm là ngày thuyết giới, nên tổ chức ca hát

đ

àn nhạc, tự vui với ngũ dục.

Vua nghe lời nầy rồi, không hài lòng. Vua lại hỏi Thái tử Ưu-

đ

à -da:

- Ðêm nay tr

ăng sáng n

ên làm gì?

Thái tử Ưu-

đ

à-da tâu:

- Ðêm nay thật trong sáng, nên tập họp bốn bộ binh chúng, các nước ngoại bang nào không hàng phục, nên kéo sang chinh phạt.

Khi ấy, vua A-xà-thế nghe lời này cũng không vừa ý, lại hỏi thái tử Vô Uý:

- Như

đ

êm nay rất trong sáng, nên làm gì?

Thái tữ Vô Úy thưa:

- Nay có Phạm Chí Bất lan Ca-diếp biết rành các toán số, gồm thông thiên v

ăn địa lý, mọi người đều tôn trọng kính ngưỡng, có thể đến đấy hỏi về chỗ nghi n

ày. Phạm Chí ấy sẽ vì phụ vương, noí lý rất nhiệm mầu, trọn không trở ngại.

Khi vua nghe lời nầy cũng không vừa ý. Lại hỏi

đại thần Tu-ni-ma:

- Như

đ

êm nay rất trong sáng cần phải làm gì?

Tu-ni-ma tâu vua:

- Như

đ

êm nay rất trong sáng, có thầy A-di-chuyên cũng ở gần

đây, thầy hiểu biết rộng. Cúi xin đại vương đến hỏi điều nghi.

Vua nghe lời nầy cũng không vừa ý, lại hỏi Bà-la-môn Bà-sa:

- Như

đ

êm nay trong sáng, nên làm gì?

Bà-la-môn-Bà-sa thưa:

- Như

đ

êm nay tr

ăng rằm rất sáng, có thầy C

ù-da-lâu ở gần

đây, cúi xin đại vương đến hỏi điều n

ày.

Vua nhe lời này cũng không hợp ý, bèn hỏi Phạm chí Ma-dặc:

- Như

đ

êm nay tr

ăng rất sáng, n

ên làm gì?

Phạm chí thưa:

- Ðại vương nên biết, thầy Bỉ-hưu-ca-diên ở gần

đây, cúi xin đại vương đến hỏi ý

thầy.

Vua nghe lời nầy cũng không hợp ý, lại hỏi Ðại tướng Sách-ma:

- Như

đ

êm nay tr

ăng sáng, ta n

ên làm gì?

Sách-ma tâu:

- Thầy Tiên-tất Lư-trì ở gần

đây, biết r

ành các toán thuật, có thể

đến đó hỏi ý kiến.

Vua nghe lời này cũng không hợp ý, lại hỏi

đại thần Tối Thắng:

- Như nay,

đ

êm rằm rất trong sáng, nên làm gì?

Tối Thắng thưa:

- Nay có thầy Ni-kiền Tử

đọc nhiều các kinh sách, bậc tối thương trong các thầy, cúi xin đại vương đến hỏi nghĩa n

ày.

Vua nghe lời nầy cũng không hợp ý, lại nghĩ như vầy : 'Những người này

đều ngu muội, không phân biệt chơn ngụy, không có phương tiện'.

Bấy giờ, Vương tử Kỳ-bà-già

đứng hầu b

ên trái nhà vua. Vua quay nhìn Kỳ-bà-già hỏi:

- Như

đ

êm nay rất trong sáng, nên làm gì?

Kỳ-bà-già bèn

đến trước quỳ tâu vua:

- Hôm nay

đức Như Lai ở gần đây, đang ngụ trong

vườn của thần, cùng với một ngàn hai tr

ăn năm mươi đệ tử, cúi xin đại vương đến hỏi nghĩa n

ày. Bởi vì

đức Như Lai l

à bậc sáng suốt, không có gì không thông suốt, biết việc trong ba

đời, thảy đều thấu r

õ, tự Ngài sẽ nói việc này với Ðại vương những

điều nghi ngờ của

Ðại vương sẽ sáng tỏ, tự nhận ra.

Khi ấy, vua A-xà-thế nghe lời Kỳ-bà-già nói xong, vui mừng hớn hở thiện tâm phát sanh, liền khen Kỳ-bà-già rằng:

- Lành thay, lành thay! Vương tử nói lời ấy rất

đáng ưa. V

ì sao? Nay thân tâm ta rất nóng bức, vì vô cớ giết phụ vương. Lâu nay ta thường suy nghĩ: 'Có ai hiểu

được

tâm ý ta?'. Nay những

điều khanh vừa nói, chính l

à trúng ý ta. Rất lạ, rất kỳ! Nghe

đến t

ên Như Lai, ta

đột nhi

ên

đại ngộ.

Khi

đó vua hướng về

Kỳ-bà-già nói kệ:

Ðêm nay rất trong sáng

Tâm ý không

được ngộ

Các Ông mỗi người nói

Nên

đến hỏi nghĩa ai

Bất lan, A-di-chuyên

Ðệ tử Ni-kiền Phạm

Không nương những thầy ấy

Không thể tế

độ ta

Ðêm nay rất trong sáng

Tr

ăng tr

òn không tỳ vết

Nay hỏi Kỳ-bà-già

Nên

đến hỏi nghĩa ai?

Khi ấy, Kỳ-bà-già lại dùng kệ

đáp vua:

Nghe âm thanh nhu nhuyến,

Ðược thấu tất cả Ma-kiệt

Xin

đúng thời đến Phật

Chỗ vĩnh viễn không sợ

Vua lại dùng kệ nói:

Việc làm xưa của Ta

Với Phật không lợi ích

Hại Phật tử của Ngài,

Tên là Tần-ba-sa

Nay rất là hổ thẹn

Không dám gặp Thế tôn,

Vì sao nay Ông bảo

Khiến ta

đến gặp Ng

ài.

Kỳ-bà-già lại dùng kệ

đáp nh

à vua:

Chư Phật không bỉ thử

Các kết

đ

ã trừ hết

Tâm bình

đẳng không hai

Ðấy là nghĩa Phật pháp

Nếu dùng hương chiên-

đ

àn

Ðể thoa tay bên mặt

Cầm dao chặt tay trái

Tâm không khởi t

ăng giảm

Như thương con La-vân

Một hơi thở không hai

Tâm ấy

đối Đề-

Oán, thân không có khác

Cúi xin Ðại vương

đi

Ðến gặp

đức Như Lai

Sẽ

đứt mối nghi ngờ

Không có gì trở ngại.

Khi ấy, vua A-xà-thế bảo vương tử Kỳ-bà-già:

- Ông mau trang nghiêm n

ăm trăm voi đực, năm trăm voi cái, đốt năm trăm cây đ

èn.

Kỳ-bà-già thưa:

- Thưa vâng, Ðại vương

Vương tử Kỳ-bà-già lập tức trang nghiêm một ngàn con voi và

đốt năm trăm cây đ

èn,

đến tâu với vua:

- Xa giá

đ

ã xong, Ðại vương biết

đúng

thời.

Bấy giờ, vua A-xà-thế

đem các quần thần đến vườn xo

ài, giữa

đường, nh

à vua bỗng ôm lòng kinh sợ, lông áo

đều dựng đứng, vua quay nh

ìn Kỳ-bà-già, và nói:

- Nay ta không bị Ông gạt ch

ăng? Ông không đưa ta đến chỗ oan gia chứ?

Kỳ-bà-già tâu:

- Thật không có chuyện ấy. Cúi xin Ðại vương

đi tới chút nữa, Như Lai cách đây không xa.

Nhà vua ý cũng còn kinh sợ, lại bảo Kỳ-bà-già:

- Chẳng lẽ ta bị người gạt? Ðã nghe nói Như Lai có

đem theo một ng

àn hai tr

ăm năm mươi đệ tử, m

à nay không nghe tiếng

động g

ì?

Kỳ-bà-già thưa:

- Ðệ tử của Phật thường nhập

định, không có loạn tưởng.

Ðại vương hãy

đi th

êm chút nữa.

Khi ấy, vua A-xà-thế liền xuống xe,

đi bộ v

ào cửa,

đến trước giảng đường đứng im lặng quan sát Thánh chúng, rồi quay lại hỏi Kỳ-b

à-già:

- Ðức Như Lai hiện giờ ở chỗ nào?

Bấy giờ tất cả Thánh chúng

đều nhập Hoa quang tam-muội, chiếu sáng cả giảng đường không chỗ n

ào không khắp. Kỳ-bà-già,

đưa tay mặt chỉ về đức

Phật nói:

- Ðây là Như Lai ngồi tại chính giữa, như mặt trời vẹt mây.

Vua A-xà-thế bảo Kỳ-bà-già

- Thật kỳ lạ! Thật

đặc biệt! Nay Thánh chúng n

ày tâm

định như thế, lại do nhân duy

ên gì có ánh sáng này?

Kỳ-bà-già tâu:

- Do sức tam-muội phóng lên ánh sáng

Vua lại bảo:

Như nay ta quan sát Thánh chúng rất là yên lặng, mong cho thái tử Ưu-

đ

à-da của ta cũng

được y

ên lặng vô vi như thế.

Vua A-xà-thế chắp tay, tự xưng nói:

- Cúi xin Thế Tôn cho con

được gặp.

Ðức Phật bảo:

- Ðại vương hãy

đến đây.

Vua nghe tiếng của Như Lai, lòng rất vui mừng. Ðức Phật thấy nhà vua bèn gọi vương hiệu. Khi

đó, vua A-x

à-thế liền

đến chỗ Phật, năm vóc gieo sát đất, đưa hai tay chạm chân Phật v

à tự nói:

- Cúi xin Thế Tôn rũ lòng từ mẫn nhận sự hối quá của con. Phụ vương vô tội mà

đem giết hại. Cúi xin nhận l

òng

ăn năn, sau không tái phạm, tự

sửa

đổi lỗi trước, sửa tâm về sau.

Ðức Phật bảo:

- Nay chính phải thời,

đúng lúc cải hối,

đừng để mất cơ hội. Người đời có lỗi tự m

ình sửa

đổi, đó gọi l

à thượng nhơn. Ở trong pháp Ta rất là quảng

đại, đúng thời sám hối.

Khi ấy, nhà vua lễ chân Phật xong, lui ngồi một bên. Vua bạch Phật:

Con có một việc muốn hỏi, Thế Tôn cho phép mới dám hỏi.

Phật bảo:

- Có nghi nan, hợp thời cứ hỏi.

Vua bạch Phật:

- Ðời này tạo phước,

được thọ báo hiện đời chăng?

Phật bảo nhả vua:

- Từ xưa

đến nay,

Ðại vương từng

đem điều n

ày hỏi người nào ch

ăng?

Vua bạch Phật:

- Xưa con từng

đem điều n

ày hỏi những người khác. Con cũng từng hỏi thầy Bất-lan Ca-diếp: 'Thế nào, thưa thầy Bất-lan Ca-diếp,

đời n

ày làm phước

được thọ

báo hiện

đời chăng?'. Bất lan Ca-diếp đáp rằng: 'Không phước, không bố thí, không có quả báo thiện ác đời n

ày

đời sau,.

Ðời không có những người thành tựu quả A-la-hán'. Ðang khi con hỏi về sự thọ nhận quả báo, thầy ấy trả lời không. Ví như có người hỏi dưa,

đem mận đáp, nay thầy Ca-diếp n

ày cũng như vậy. Khi ấy, con suy nghĩ: 'Thầy Phạm chí nầy không giải

được nghĩa của bậc h

ào tộc dòng vua chúa hỏi. Người nầy tìm cách dẫn giải chuyện khác

để trả lời'. Thưa Thế Tôn, con muốn chặt đầu thầy ấy, liền không chấp nhận lời nói ấy m

à bỏ

đi.

Khi ấy, con lại

đến chỗ Phạm chí A-di-chuy

ên mà hỏi nghĩa này, A-di-chuyên

đáp:'Nếu ở bờ sông b

ên trái giết hại chúng sanh, tạo tội vô lượng, cũng không có tội, cũng không có quả ác'. Thế Tôn! Lúc ấy con lại nghĩ: 'Ta hỏi về nghĩa thọ báo hiện

đời, người n

ày

đem chuyện sát hại trả lời ta, cũng người hỏi l

ê dùng nghĩa mận

đáp'. Con liền bỏ đi.

Con lại

đến chỗ Phạm chí C

ù-da-lâu hỏi nghĩa này. Ông ấy

đáp: 'Ở bờ sông b

ên mặt làm các công

đức không thể tính kể, trong đó cũng không có quả báo l

ành'. Bấy giờ, con lại nghĩ: 'Nay

điều ta hỏi rốt cuộc không trả lời về lý ấy'. Con lại bỏ đi.

Con lại

đến chỗ

Phạm chí Bỉ-hưu Ca-diên hỏi về nghĩa này. Ông ấy

đáp: 'Chỉ có một người ra đời, một người sanh tử, một người qua lại chịu khổ vui ấy'. Khi ấy, con lại nghĩ: 'Nay ta hỏi về quả báo hiện đời, m

à

đem chuyện sanh tử đến đáp'. Con lại bỏ đi.

Con

đến chỗ thầy Phạm chí Ti

ên-tỷ Lư-trì hỏi nghĩa này. Ông ấy

đáp: '

Ðời quá khứ

đ

ã diệt không tái sanh lại. Tương lai chưa

đến cũng lại không có, hiện tại chẳng dừng trụ, dừng trụ tức biến đổi'. Khi ấy, con lại nghĩ: 'Nay ta hỏi về quả báo hiện đời, m

à

đem chuyện ba đời để đáp, đây không phải chánh lý'. Con liền bỏ đi.

Con

đến chỗ

Phạm chí Ni-kiền Tử hỏi nghĩa này: 'Thế nào, Ni-kiền Tử,

đời n

ày làm phước có

được quả báo hiện đời chăng?' Ông ấy đáp: 'Không nhân duy

ên chúng sanh trói buộc, cũng không nhân, cũng không duyên chúng sanh thanh tịnh. Khi ấy con lại nghĩ: 'Những Phạm chí này là ngu si, không phân biệt chơn ngụy, như người mù không mắt, không trả lời

được nghĩa ta đ

ã hỏi, như

đ

ùa cợt với dòng dõi vua Chuyển luân'. Con liền bỏ

đi.

- Thế Tôn! Nay con xin hỏi về nghĩa ấy: Ðời này tạo phước, hiện

đời có thọ báo chăng? Cúi xin Thế Tôn giảng rộng nghĩa nầy.

Bấy giờ,

đức Phật bảo:

- Ðại vương! Nay Ta hỏi nghĩa Ðại vương, tùy theo chỗ ưu thích mà trả lời. Ðại vương có

đem sách vở, rượu ngon, nh

à cửa và quan chức

để ban thưởng cho kẻ tôi tớ hầu cận chăng?

Vua bạch Phật:

- Thưa có.

Phật bảo:

- Nếu như người tôi tớ ấy làm việc nhọc nhằn qua thời gian lâu, lại có ban thưởng cho họ ch

ăng?

Vua bạch Phật:

- Tùy theo công lao, ban cấp cho

đồ vật d

ùng, không

để có sự oán trách.

Phật bảo nhà vua:

- Do phương tiện này mà biết rằng

đời n

ày làm phước

được thọ báo hiện tại. Thế n

ào Ðại vương, người

đó ở địa vị cao, lại chu đáo với dân, lễ độ, có ban thưởng chăng?

Vua thưa:

- Thưa vâng, bạch Thế Tôn. Cho

ăn chung món ngon với con, không để cho oán giận.

Phật bảo nhà vua:

- Do phương tiện này nên biết xưa kia xuất thân rất thấp, dần dần có nhiều công lao,

đồng hưởng thú vui với vua; do điều n

ày nên hiện

đời l

àm phước,

được thọ báo hiện đời.

Phật bảo nhà vua:

- Người có công lao ấy, trải qua nhiều n

ăm đến tâu với vua rằng: 'Hạ thần đ

ã lập công lao, bệ hạ biết rõ'. Người ấy muốn xin Ðại vương

được toại nguyện,

Ðaị vương có cho phép ch

ăng?

Vua bạch Phật:

- Tùy theo sở nguyện của người ấy, không trái.

Phật bảo:

- Người có công lao ấy muốn

được từ tạ

Ðại vương, cạo bỏ râu tóc, mặc ba pháp y, xuất gia học

đạo, tu h

ành thanh tịnh, vua có cho phép không?

Vua bạch Phật:

- Thưa vâng, cho phép.

Phật bảo vua:

- Giả sử nhà vua thấy người ấy cạo bỏ râu tóc, xuất gia học

đạo ở b

ên cạnh Ta, nhà vua sẽ làm gì?

Vua bạch Phật:

- Con sẽ giúp

đỡ,

cúng dường, tùy thời lễ bái.

Phật bảo:

- Do phương tiện này nên biết, hiện

đời l

àm phước thọ hiện báo. Giả sử người có công lao ấy trì giới trọn vẹn, không trái phạm, nhà vua sẽ làm gì?

Vua bạch Phật:

- Suốt

đời cung cấp y phục,

mền nệm, thức

ăn

uống, giường nằm, tọa cụ, thuốc men trị bệnh không

để thiếu thốn.

Phật bảo nhà vua:

- Do phương tiện này nên biết thân hiện

đời l

àm phước

được thọ báo hiện tại. Giả sử người ấy đ

ã làm Sa-môn, dứt hết hữu lậu, thành tựu vô lậu tâm giải thoát, trí tuệ giải thoát, tự thân chứng

đạo v

à tự du hóa, sanh tử

đ

ã tận, Phạm hạnh

đ

ã lập, việc phải làm

đ

ã xong, không còn thọ thân sau, biết một cách như thật. Vua sẽ làm gì?

Vua bạch Phật:

- Con sẽ suốt

đời phụng sự cúng dường y phục,

mền nệm, thức

ăn uống, giường nằm, tọa cụ, thuốc men trị bệnh, không để thiếu.

Phật bảo:

- Do phương tiện này nên biết

đời n

ày làm phước

được thọ hiện báo.

Giả sử người ấy hết tuổi thọ, nơi cảnh giới Vô dư Niết bàn mà diệt

độ. Vua sẽ l

àm gì?

Vua bạch Phật:

- Sẽ xây tháp lớn ở ngã tư

đường, d

ùng hương hoa cúng dường, treo tràng phan bảo cái, phụng sự kính lễ. Vì sao? Người ấy là thân Trời không phải thân Người.

Phật bảo nhà vua:

- Do phương tiện này nên biết

đời n

ày làm phước

được thọ hiện báo.

Vua bạch Phật:

- Nay con do những ví dụ ấy

được hiểu r

õ. Hôm nay Thế Tôn nói lại nghĩa ấy. Từ nay về sau con xin tin thọ nghĩa ấy. Cúi xin Thế Tôn nhận con làm

đệ tử, tự quy y Phật, Pháp, Tỳ-kheo, Tăng.

Nay con lại sám hối

đ

ã như kẻ ngu si, phụ vương không có lỗi mà

đem sát hại. Nay đem thân mạng tự quy . Cúi xin Thế Tôn trừ tội lỗi ấy, diễn nói diệu pháp, được an ổn lâu d

ài. Như con tự biết

đ

ã làm tội báo, không có c

ăn l

ành.

Phật bảo nhà vua:

- Trên

đời có hai hạng người không tội, khi mệnh chung được sanh l

ên trời như trong khoảng duỗi cánh tay. Thế nào là hai? Một là người không tạo gốc mà tu thiện; hai là người tạo tội mà cải hối việc

đ

ã làm. Ðó là hai hạng người khi chết sanh lên trời không trở ngại.

Bấy giờ, Thế Tôn bèn nói kệ:

Người làm hạnh rất ác,

Hối lỗi chuyển sang nhẹ

Luôn hối không lười nghỉ

Gốc tội

đ

ã nhổ sạch.

Cho nên, này Ðại vương, nên dùng pháp trị dân, chớ dùng phi pháp trị hóa, khi thân hoại mang chung sẽ

được sanh l

ên cõi lành. Người ấy

đ

ã mạng chung mà danh tiếng

đồn khắp mọi nơi, lan cả bốn phương. Người đời sau ca tụng rằng: 'Xưa kia có vị vua d

ùng Chánh pháp trị hóa, không có cong vạy'. Mọi người

đều truyền tụng xưng tán nơi vị vua ấy sanh ra. Nh

à vua sẽ t

ăng tuổi thọ, không chết yểu. Cho n

ên, này Ðại vương, nên phát tâm hoan hỷ hướng về ngôi báu Phật, Pháp, Thánh chúng. Như thế, Ðại vương, nên học

điều n

ày!

Bấy giờ, vua A-xà-thế liền từ chỗ ngồi

đứng dạy, cúi đầu lễ

chân Phật, cáo từ lui ra. Vua

đi không xa, Phật bảo các Tỳ-kheo:

- Nay vua A-xà-thế, nếu không giết phụ vương, sẽ

được chứng sơ quả của bậc Sa-môn, đứng v

ào hàng bốn

đôi tám bậc. Cũng được

Tám

đạo phẩm Hiền Thánh, trừ bỏ tám ái, vượt qua tám nạn. Tuy vậy, ng

ày nay cũng

được hạnh phúc lớn, được l

òng tin vô c

ăn. Thế n

ên Tỳ-kheo, người làm tội, nên tìm phương tiện thành tựu lòng tin vô c

ăn. Trong h

àng

đệ tử Ưu-b

à-tắc của Ta, người

được l

òng tin vô c

ăn l

à A-xà-thế vậy.

Bấy giờ, các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

8. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở tại Xá vệ, rừng Kỳ

đ

à, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

- Ở

đời có tám việc, chúng sanh xoay chuyển theo đó. Thế n

ào là tám? Một là lợi, hai là suy, ba là hủy, bốn là dự, n

ăm l

à xưng, sáu là cơ, bảy là khổ, tám là lạc.

Như thế, này Tỳ-kheo, tám việc này tùy theo

đời

xoay chuyển. Này các Tỳ-kheo, nên tìm phương tiện trừ tám việc này. Như thế, này các Tỳ-kheo, nên học

điều n

ày!

Bấy giờ, các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

9. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-

đ

à, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

- Như Lai xuất hiện ở thế gian, lại nơi thế giới này thành Phật

đạo, song không đắm trước nơi tám việc của thế gian, m

à còn

điều phục nó. Cũng như hoa sen phát sanh từ b

ùn, rất là tươi

đẹp thanh khiết không dính nước đục, l

à vật

được chư Thi

ên yêu kính, thấy rồi tâm vui thích; Như Lai cũng lại như thế, do bào thai sanh ra, trong ấy trưởng dưỡng

được th

ành thân Phật. Cũng như ngọc lưu ly, trân bảo tịnh thủy, không bị bụi trần làm nhiễm; Như Lai cũng lại như thế, cũng sanh nơi thế gian không bị tám việc của thế gian làm nhiễm trước.

Cho nên, các Tỳ-kheo nên siêng n

ăng tấn tu h

ành tám pháp. Như thế, này các Tỳ-kheo nên học

điều n

ày.

Bấy giờ, các Tỳ- kheo nghe lời Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

10. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-

đ

à, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

- Có tám hạng người lưu chuyển trong sanh tử mà không trụ sanh tử. Thế nào là tám? Hạng người hướng về Tu-

đ

à-hoàn,

đắc Tu-đ

à-hoàn, hướng Tư-

đ

à-hàm,

đắc Tư-đ

à-hàm; hướng A-na-hàm,

đắc A-na-h

àm; hướng A-la-hán,

đắc A-la-hán.

Các Tỳ kheo! Ðó là tám hạng người lưu chuyển trong sanh tử mà không trụ sanh tử.

Cho nên, các Tỳ-kheo nên tìm phương tiện vượt qua nạn sanh tử, chớ trụ trong sanh tử. Như thế, này các Tỳ-kheo, nên học

điều n

ày!

Bấy giờ, các Tỳ kheo nghe lời Phật dạy xong, vui vẻ vâng lời làm.

Mã huyết, trai, Nan-

đ

à

Ðề-bà-

đạt, thuyền b

è

Ch

ăn b

ò, tín vô c

ăn

Thế pháp, thiện tám người.

-ooOoo-

XXXIV. Phẩm Chín nơi cư trú của chúng sanh

1. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở tại nước Xá-vệ, rừng Kỳ-

đ

à, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

- Có chín nơi cư trú của chúng sanh, là chỗ chúng sanh ở. Thế nào là chín? Hoặc có chúng sanh, bao nhiêu thân bấy nhiêu tư tưởng. Ðó là cõi Trời và cõi Người.

Hoặc có chúng sanh bao nhiêu thân một tư tưởng. Ðó là cõi trời Phạm-ca-di, xuất hiện trước nhất.

Hoặc có chúng sanh một thân bao nhiêu tư tưởng. Ðó là cõi trời Quang Âm.

Hoặc có chúng sanh một thân một tư tưởng. Ðó là cõi trời Biến Tịnh.

Hoặc có chúng sanh vô lượng hư không. Ðó là cõi trời Không xứ.

Hoặc có chúng sanh vô lượng thức. Ðó là cõi trời Thức xứ.

Hoặc có chúng sanh không dùng xứ. Ðó là cõi trời Bất dụng xứ.

Hoặc có chúng sanh có tưởng, không tưởng. Ðó là cõi trời Hữu tưởng vô tưởng.

Các nơi sanh ra có chín tên. Các Tỳ-kheo,

đó l

à chín chỗ cư trú của chúng sanh, các loài chúng sanh

đ

ã ở, sẽ ở. Cho nên, các Tỳ-kheo! Nên tìm phương tiện xa lìa chín nơi này. Như thế, này các Tỳ-kheo, nên học

điều n

ày!

Bấy giờ, các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy xong liền vui vẻ vâng làm.

*

2. Tôi nghe như vầy:

Một thời

đức Phật

ở tại nước Xá-vệ, rừng Kỳ-

đ

à, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

- Ta sẽ nói về chín

đức của nguyện bố thí, các Thầy khéo suy nghĩ đó, Ta sẽ diễn b

ày nghĩa ấy.

Khi ấy các Tỳ-kheo vâng lãnh lời Phật dạy, Phật bảo các Tỳ-kheo:

- Thế nào là chín

đức của nguyện bố thí? Tỳ-kheo n

ên biết,

đ

àn việt cúng thí thành tựu ba pháp, vật

được thí cũng th

ành tựu ba pháp, người nhận vật thí cũng thành tựu ba pháp.

Thế nào là thí chủ

đ

àn việt thành tựu ba pháp? Ở

đây, thí chủ đ

àn-việt

được th

ành tựu lòng tin, thành tựu thệ nguyện, cũng không sát sanh. Ðó gọi là thí chủ

đ

àn-việt thành tựu ba pháp.

Thế nào là vật

được thí th

ành tựu ba pháp? Ở

đây, vật thí th

ành tựu sắc, thành tựu hương, thành tựu vị. Ðó là vật thí thành tựu ba pháp.

Thế nào là người nhận thí thành tựu ba pháp? Ở

đây, người được thí th

ành tựu giới, thành tựu trí tuệ, thành tựu chánh

định.

Ðó là người nhận thí thành tựu ba pháp.

Như thế, bố thí thành tựu chín pháp này,

được quả báo lớn, đến chỗ cam lồ, diệt tận. Ph

àm thí chủ muốn cầu

được phước ấy th

ì nên tìm phương tiện thành tựu chín pháp. Như thế, các Tỳ-kheo nên học

điều n

ày!

Bấy giờ, các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

3. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở tại nước Xá-vệ, rừng Kỳ-

đ

à, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

- Có sự việc gọi là thành tựu chín pháp. Thế nào là chín? Là sắc mặt cứng cỏi, không hạ mình, tâm tham, bỏn sẻn, tâm niệm không xả ly, chóng quên, lười suy nghĩ, che giấu việc dâm, không biết

đền ơn.

Ðó là chín pháp. Này Tỳ-kheo! Ðó gọi là thành tựu chín pháp này.

Tỳ-kheo ác cũng thành tựu chín pháp. Thế nào là chín? Ở

đây, Tỳ-kheo ác sắc mặt cứng cỏi, không hạ m

ình, tâm tham, bỏn sẻn, chóng quên, lười suy nghĩ, che giấu việc dâm, không biết

đền ơn, tâm niệm không xả ly.

Ðó là chín pháp.

Thế nào là Tỳ-kheo ác sắc mặt cứng cỏi? Ở

đây, Tỳ-kheo ác t

ìm cầu

điều không n

ên tìm cầu, trái với hạnh Sa-môn. Tỳ-kheo như thế gọi là sắc mặt cứng cỏi.

Thế nào là Tỳ-kheo ác chịu nhục? Ở

đây, Tỳ-kheo ác ở nơi các Tỳ-kheo hiền thiện m

à tự khen mình, hủy báng người khác. Tỳ-kheo như thế gọi là chịu nhục.

Thế nào là Tỳ-kheo sanh tâm tham? Ở

đây, Tỳ-kheo ác, thấy t

ài vật của người khác

đều sanh tâm tham.

Ðây gọi là tham.

Thế nào là Tỳ-kheo bỏn sẻn? Ở

đây, Tỳ-kheo ác, được y bát không cho người d

ùng chung, thường tự cất giấu. Như thế gọi là bỏn sẻn.

Thế nào là Tỳ-kheo hay quên? Ở

đây, Tỳ-kheo ác, phần lớn thường để rơi mất những lời diệu thiện, cũng chẳng suy nghĩ phương tiện tu, b

àn luận chuyện quốc gia binh chiến. Như thế gọi là Tỳ-kheo ác thành tựu sự chóng quên này.

Thế nào là Tỳ-kheo ác lười suy nghĩ? Ở

đây, Tỳ-kheo ác đối với pháp cần suy nghĩ m

à không suy nghĩ. Như thế gọi là Tỳ-kheo ác ít suy nghĩ.

Thế nào gọi là Tỳ-kheo ác che giấu việc dâm? Ở

đây, Tỳ-kheo ác có việc dâm m

à che giấu, không nói với người: 'Nay tôi hành dâm chớ

để người biết'. Như thế gọi l

à Tỳ-kheo ác che giấu việc dâm.

Thế nào là Tỳ-kheo ác không biết

đền ơn? Ở đây, Tỳ-kheo ác không có tâm cung kính, không hầu hạ thầy v

à các bậc

đáng tôn trọng. Như thế gọi l

à Tỳ-kheo ác không biết

đền ơn.

Nếu Tỳ-kheo ác thành tựu chín pháp này, ghi nhớ không bỏ, thì trọn không thành

đạo quả. Cho n

ên,này các Tỳ-kheo,

đối với các pháp ác nhớ n

ên xa bỏ. Như thế, này các Tỳ-kheo, nên học

điều n

ày!

Bấy giờ, các Tỳ-kheo nghe xong lời Phật dạy, liền vui vẻ vâng làm.

*

4. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở tại nước Xá-vệ, rừng Kỳ

đ

à, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ, Thế tôn bảo các Tỳ-kheo:

- Chim khổng tước thành tựu chín pháp. Thế nào là chín ? Ở

đây, chim khổng tước dáng dấp đoan chánh, tiếng k

êu thanh tao, bước

đi khoan thai, l

àm

đúng thời, ăn uống vừa chừng, thường nhớ tri túc, niệm không phân

tán, ít ngủ nghỉ, ít muốn, biết

đền ơn. N

ày các Tỳ-kheo,

đó l

à chim khổng tước thành tựu chín pháp này.

Tỳ-kheo hiền triết cũng thành tựu chín pháp. Thế nào la chín? Ở

đây, Tỳ-kheo hiền thiện dung mạo đoan chánh, tiếng nói thanh tao, bước đi khoan thai, l

àm

đúng thời, ăn uống chừng mực, thường nghĩ biết đủ, niệm

không phân tán, ít ngủ, cũng lại ít muốn, biết

đền ơn.

Thế nào là Tỳ-kheo hiền thiện, dung mạo

đoan chánh?

Nghĩa là Tỳ-kheo ấy những oai nghi ra vào,

đi đứng, trọn không mất tư cách. Như thế l

à Tỳ-kheo hiền thiện, dung mạo

đoan chánh.

Thế nào là Tỳ- kheo tiếng nói thanh tao? Ở

đây, Tỳ-kheo phân biệt nghĩa lý, trọn không lầm đoạn. Như thế l

à Tỳ-kheo tiếng nói thanh tao.

Thế nào là Tỳ-kheo bước

đi khoan thai? Ở đây, Tỳ-kheo biết thời h

ành

động không mất thứ tự, lại biết có thể tụng biết tụng, có thể tập biết tập, có thể im lặng biết im lặng, có thể đứng dậy biết đứng dậy. Như thế l

à Tỳ-kheo biết thời tiết.

Thế nào là Tỳ-kheo làm

đúng thời? Ở đây, Tỳ-kheo cần đi liền đi, cần dừng liền dừng, t

ùy thời nghe pháp. Như thế là Tỳ-kheo là

đúng

thời.

Thế nào là Tỳ-kheo

ăn uống vừa chừng? Ở đây, Tỳ-kheo được thức ăn dư, đem chia cho người c

ùng

ăn, không tham tiếc. Như thế l

à Tỳ-kheo

ăn uống vừa chừng.

Thế nào là Tỳ-kheo ít ngủ nghỉ? Ở

đây, Tỳ-kheo v

ào

đầu hôm tập tỉnh thức, tu tập Ba mươi bảy đạo phẩm không để rơi mất. Thường d

ùng cách

đi kinh h

ành, nằm tỉnh giác

để tịnh ý m

ình, lại vào giữa

đ

êm suy nghĩ về pháp sâu xa,

đến cuối đ

êm thời nằm nghiêng hông bên mặt, hai chân duỗi thẳng xếp lên nhau, tư duy suy tưởng về ánh sáng, rồi

đứng dậy kinh h

ành

để tịnh ý m

ình. Như thế là Tỳ-kheo ít ngủ nghỉ.

Thế nào là Tỳ-kheo ít muốn, biết

đền ơn? Ở đây, Tỳ-kheo hầu hạ phụng sự ba ngôi báu, kính vâng sư trưởng. Như thế l

à Tỳ-kheo ít muốn, biết

đền ơn.

Như thế, Tỳ-kheo hiền thiện thành tưụ chín pháp. Nay chín pháp này nên ghi nhớ vâng làm. Như thế, này các Tỳ-kheo, nên học

điều n

ày!

Bấy giờ, các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

5. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở tại nước Xá-vệ, rừng Kỳ-

đ

à, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

- Người nữ thành tựu chín pháp ràng buộc người nam. Thế nào là chín? Là ca, múa,

đ

àn, hát, cười, khóc, thường tìm cách thích hợp, tự dùng nhan sắc hình dung, huyễn thuật mê hoặc. Họ toan tính trong bao nhiêu việc ấy, chỉ thích ràng buộc người nam chặt chẽ; tr

ăm lần ng

àn lần không thể so sánh.

Nay Ta quán sát các việc như vậy, người nữ thích ràng buộc người nam chặt chẽ, không cho thoát khỏi là như thế. Theo

đó, người nam bị r

àng buộc trong lao ngục.

Cho nên, các Tỳ-kheo nên nhớ nghĩ trừ bỏ chín pháp này. Như thế, này các Tỳ-kheo, nên học

điều n

ày!

Bấy giờ, các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

6. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở trong vườn trúc Ưu-ca-la, cùng với chúng

đại Tỳ-kheo năm trăm người câu hội.

Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

- Nay Ta sẽ nói diệu pháp cho các Thầy phần

đầu, phần giữa, phần cuối đều l

ành, nghĩa lý sâu kín, thanh tịnh tu hành Phạm hạnh. Kinh này tên là 'Cội gốc của tất cả các Pháp'. Các thầy nên khéo suy nghĩ ghi nhớ.

Các Tỳ-kheo thưa:

- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.

Khi ấy, các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy. Phật bảo:

- Thế nào gọi là 'Cội gốc của tất cả pháp ?'.

đây, n

ày các Tỳ-kheo, người phàm phu không gặp giáo lý Hiền Thánh, cũng không vâng giữ lời dạy của Như Lai, không gần gũi Thiện tri thức, không nghe lời dạy cuả Thiện tri thức.

Họ quán sát

đất n

ày, biết một cách như thật rằng:

đây l

à

đất, quán sát đất n

ày như là

đất thật; đây l

à nước;

đây l

à lửa;

đây l

à gió. Bốn thứ ấy hợp lại thành con người. Ðây là sự vui thích của ngu. Trời tự biết là Trời, thích ở cõi trời. Trời Phạm thiên tự biết là Phạm thiên. Trời Ðại phạm tự biết là Ðại phạm. Không thể ra khỏi trời Quang Âm lại tự biết cho cõi trời Quang Âm

đến. Trời Biến Tịnh tự biết l

à Biến Tịnh. Trời Quảng Quả tự biết là Quảng Quả không lầm lẫn. Trời A-tỳ-da-

đ

à tự biết là trời A-tỳ-da-

đ

à. Trời Không xứ tự biết là trời Không xứ. Trời Thức xứ tự biết là trời Thức xứ. Trời Bất tưởng vô tưởng xứ tư biết là trời Hữu tưởng vô tưởng xứ.

Thấy tự biết là thấy, nghe tự biết là nghe, muốn tự biết là muốn, trí tự biết là trí, một loại tự biết là một loại, bao nhiêu loại tư biết là bao nhiêu loại, thảy

đều đầy đủ tự biết l

à thảy

đều đầy đủ, Niết-b

àn tự biết là Niết-bàn, tự vui thích trong

đó. V

ì sao? Vì chẳng phải là lời nói của bậc Trí.

Nếu là

đệ tử bậc Thánh th

ì

đến gặp gỡ bậc Thánh, vâng thọ pháp của bậc Thánh, theo Thiện tri thức l

àm việc, thường gần gũi bậc Thiện tri thức; quan sát

đất, thảy đều biết chỗ đến của nó r

õ ràng, cũng không

đắm trước nơi đất, không có tâm nhiễm ô; nước, lửa, gió cũng lại như thế. Trời, Người, Phạm Vương, Quang Âm, Biến Tịnh, Quảng Quả, trời A-tỳ-da-đ

à, Không xứ, Thức xứ, Bất dụng xứ, Hữu tưởng vô tưởng xứ

đều thấy, nghe, nhớ biết; một loại, bao nhi

êu loại, cho

đến đối với Niết-b

àn cũng chẳng

đắm trước Niết-b

àn, không khởi tưởng Niết-bàn. Vì sao? Ðều do khéo phân biệt, khéo quan sát.

Nếu Tỳ-kheo ấy là bậc A-la-hán lậu tận, việc làm

đ

ã xong,

đ

ã bỏ gánh nặng, cùng tận cội nguồn sanh tử, giải thoát bình

đẳng th

ì người ấy có thể phân biệt

đất đai, quán sát không

khởi tưởng

đắm trước về đất; Người, Trời, Phạm vương cho đến Hữu tưởng vô tưởng xứ, cũng lại như thế; cho đến đối với Niết-b

àn không

đắm trước Niết-b

àn, không khởi tưởng Niết-bàn. Vì sao? Ðều do trừ khử dâm, nộ, si mà

được như thế.

Tỳ-kheo nên biết! Như Lai Chí Chơn Ðẳng Chánh Giác khéo hay phân biệt về

đất, cũng không đắm trước nơi đất. V

ì sao? Ðều do diệt trừ lưới ái mà

được vậy. Nhân hữu n

ên có sanh, nhân sanh nên có già, chết, thảy

đều trừ hết. Cho n

ên Như Lai thành Vô Thượng Chánh Giác.

Khi Phật nói lời này, lúc ấy các Tỳ-kheo không nghe lời dạy nầy. Vì sao? Vì do ma Ba-tuần làm bế tắc tâm ý.

Kinh này tên 'Cội gốc của Tất cả Pháp'. Nay Ta nói

đầy đủ như vậy.

Ðiều cần tu hành của Chư Phật, nay Ta

đ

ã làm

đầy đủ. Các thầy n

ên ghi nhớ, ở chỗ vắng, dưới cội cây, tâm ý

đoan nghi

êm tọa Thiền, tư duy nghĩa thâm diệu. Hôm nay không làm, sau hối hận vô ích. Ðây là lời giáo của Ta.

Bấy giờ, các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

7. Tôi gnhe như vầy:

Một thời Phật ở tại thành La-duyệt, vườn trúc Ca-lan-

đ

à cùng với chúng

đại Tỳ-kheo năm trăm người câu hội.

Bấy giờ, trong thành La-duyệt có một Tỳ-kheo

đau nặng đến nguy kịch, nằm một chỗ, đại tiểu tiện, không thể tự ngồi dậy, cũng chẳng có Tỳ-kheo n

ào

đến thăm hỏi chăm sóc. Ng

ày

đ

êm Thầy xưng danh hiệu Phật: 'Sao Thế Tôn chẳng thương xót ta?'

Khi ấy, Thế Tôn dùng Thiên nhĩ nghe Tỳ-kheo ấy kêu than, hướng về Như Lai. Thế Tôn bèn bảo các Tỳ-kheo:

- Ta với các Thầy

đi thăm các ph

òng liêu, xem xét chỗ ở.

Các Tỳ-kheo thưa:

- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.

Khi ấy, Thế Tôn bèn cùng các Tỳ-kheo vây quanh trước sau,

đi thăm qua các li

êu phòng. Tỳ-kheo bệnh xa thấy Thế Tôn

đến, liều muốn ngồi dậy m

à không cử

động nổi. Thế Tôn đến b

ên chỗ Tỳ-kheo ấy, bảo rằng:

- Thôi, thôi! Này Tỳ-kheo,

đừng tự cử động. Ta tự có chỗ ngồi sẵn.

Khi ấy, Tỳ-sa-môn Thiên vương biết ý nghĩa của Như Lai, từ thế giới Dạ-mã ẩn,

đến chỗ Phật, cúi đầu lễ chân Phật, đứng qua một b

ên.

Thích-

đề-ho

àn-nhân biết ý nghĩ trong tâm Như Lai, từ cõi Phạm thiên ẩn,

đến chỗ Phật, cúi đầu lễ chân Phật, lui qua một b

ên.

Trời Tứ thiên vương biết ý nghĩ trong tâm Như Lai, bèn

đến chỗ Phật, cúi đầu lễ chân Phật, lui đứng một b

ên.

Khi ấy, Phật hỏi Tỳ-kheo bệnh:

- Hôm nay bệnh khổ của Thầy có thuyên giảm ch

ăng?

Tỳ-kheo thưa:

- Bệnh khổ của

đệ tử tăng chứ không giảm, rất ít được nhờ cậy.

Phật hỏi các Tỳ-kheo:

- Người khám bệnh hiện ở

đâu? Người n

ào

đến thăm bệnh?

Tỳ-kheo bạch Phật:

- Nay mắc phải bệnh này, không có ai trông nom.

Phật bảo Tỳ-kheo:

- Trước kia, khi Thầy chưa bệnh, có

đến thăm hỏi người bệnh chăng?

Tỳ-kheo bạch Phật:

- Không

đến hỏi han các người bệnh.

Phật bảo các Tỳ-kheo:

- Nay Thầy không có lợi lành ở trong Chánh pháp. Vì sao? Vì không

đến hỏi thăm bệnh. Nay Tỳ-kheo chớ lo sợ, Ta sẽ đích thân cung dưỡng cho Thầy, không để thiếu. Như hiện nay, Ta l

à người trong cõi Trời, cõi Người, riêng một mình không bạn bè, mà cũng có thể th

ăm hỏi tất cả người bệnh. Người không ai giúp đỡ, Ta v

ì họ làm người giúp

đỡ. Với người m

ù Ta làm mắt cho họ, cứu giúp các người bệnh.

Khi ấy, Thế Tôn tự

đổ đồ bất tịnh, lại trải tọa cụ cho người bệnh. Tỳ-sa-môn Thi

ên vương và Thích-

đề-ho

àn-nhân bạch Phật:

- Chúng con tự sẽ s

ăn sóc thầy Tỳ-kheo bệnh nầy, xin Thế Tôn chớ nhọc sức.

Phật bảo các Thiên tử:

- Các Ông hãy ngừng. Như Lai tự biết thời. Như Ta tự nhớ lại, thuở xưa khi chưa thành Phật, tu hạnh Bồ-tát, vì hai con chim bồ câu nên bỏ mạng sống, huống gì ngày nay

đ

ã thành Phật, lại bỏ Tỳ-kheo nầy ư? Trọn không có việc ấy. Lại, trước

đây Thích-đề-ho

àn-nhân không th

ăm nom Tỳ-kheo bệnh n

ày, Tỳ-sa-môn Thiên vương là vị chủ hộ thế gian cũng không

đến thăm.

Khi ấy, Thích-

đề-ho

àn-nhân và Tỳ-sa-môn Thên vương

đều im lặng không trả lời. Bấy giờ, Thế Tôn cầm chổi quét dọn đất dơ, rồi sắp đặt tọa cụ, lại giặt giũ ba y, đỡ Tỳ-kheo bệnh bảo ngồi trong bồn nước sạch tắm rửa. Có các vị Trời ở tr

ên lấy nước thơm rưới vào

đó.

Khi ấy, Thế tôn tắm rửa cho Tỳ-kheo kia xong,

đỡ lại giường, tự tay cho ăn. Thế Tôn thấy Tỳ-kheo ấy ăn xong, đem bát rửa v

à bảo Tỳ-kheo ấy:

- Nay Thầy nên bỏ bệnh khổ của ba

đời. V

ì sao? Tỳ-kheo nên biết, sanh có khổ ách trong thai, nhân sanh có già. Khi già, hình thể gầy yếu, khí lực kiệt. Nhân già có bệnh, khi bệnh nằm ngồi rên rỉ, bốn tr

ăm lẻ bốn thứ bệnh đến một lúc. Nhân bệnh có chết, khi chết th

ì hình hài, thần thức phân tán

đi theo đường l

ành dữ. Nếu người nhiều tội sẽ vào

địa ngục núi đao, cây kiếm, xe lửa,

lò than,

ăn nuốt nước đồng sôi. Hoặc người ấy l

àm súc sanh bị người sai khiến,

ăn to

àn rơm cỏ chịu khổ vô lượng. Lại không thể tính kể trong vô số kiếp người ấy làm thân ngạ quỷ, thân cao mười do-tuần, cổ nhỏ như cây kim, lại có nước

đồng rót v

ào miệng. Trải qua vô số kiếp

được l

àm thân người, người ấy bị

đánh đập khảo tra không tính kể. Lại trong vô số kiếp được sanh l

ên trời, người ấy cũng trải qua ân ái hội họp, lại gặp ân ái biệt ly, tham muốn không chán

đủ.

Ðược

đạo Hiền Thánh bấy giờ người ấy mới l

ìa khổ.

Nay có chín hạng người

được l

ìa khổ hoạn. Thế nào là chín? Ðó là người hướng A-la-hán,

đắc A-la-hán; hướng A-na-h

àm,

đắc A-na-h

àm; hướng Tư-

đ

à-hàm,

đắc Tư-đ

à-hàm; hướng Tu-

đ

à-hoàn,

đắc Tu-đ

à-hoàn; và chủng tánh Người là chín.

Thế nên, này Tỳ-kheo! Như Lai ra

đời rất l

à khó gặp, thân người khó

được, sanh trưởng v

ào trung tâm của nước cũng khó

được, gặp bậc Thiện tri thức cũng lại như thế. Nghe nói pháp cũng không thể được. Các pháp c

ùng sanh với nhau,

đúng thời mới có. Tỳ-kheo n

ên biết, ngày nay Như Lai hiện ở tại thế gian,

được nghe Chánh pháp, các căn không thiếu, có thể kham nghe Chánh pháp kia. Hôm nay không si

êng n

ăng sau hối không kịp.

Ðây là lời dạy của Ta.

Bấy giờ, Tỳ-kheo bệnh ấy nghe Như lai dạy xong,

được thấy tôn nhan, liền ngay tại chỗ ngồi được Tam minh,

lậu tận ý giải. Phật bảo Tỳ-kheo:

- Thầy

đ

ã rõ

được cội nguồn của bệnh chăng?

Tỳ-kheo bạch Phật:

- Con

đ

ã hiểu cội nguồn của bệnh, xa lìa sanh, lão, bệnh, tử này,

đều l

à uy thần của Như Lai gia hộ, dùng Tứ

đẳng tâm che chở cho tất cả, không lường, không gằn mé, không thể xưng kể.

Thân, miệng, ý thanh tịnh.

Khi ấy, Thế Tôn nói pháp

đầy đủ rồi, liền từ t

òa

đứng dậy đi ra.

Bấy giờ Thế Tôn bảo A-nan:

- Thầy mau

đánh kiền ch

ùy,

để các vị Tỳ-kheo có mặt trong th

ành La-duyệt này cùng

đến nhóm họp tại giảng đường Phổ Hội.

A-nan vâng theo lời Phật, liền nhóm các Tỳ-kheo tại giảng

đường Phổ Hội, v

à

đến trước Phật bạch:

- Các Tỳ-kheo

đ

ã nhóm họp, cúi xin Thế Tôn biết

đúng thời.

Bấy giờ Thế Tôn

đi đến giảng đường, l

ên tòa ngồi. Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

- Các Thầy học

đạo l

à vì sợ quốc vương, giặc cướp mà xuất gia ch

ăng? Tỳ-kheo, hay l

à vì lòng tin vững chắc, tu Phạm hạnh vô thượng, muốn

được

xả bỏ sanh, lão, bệnh, tử, ưu bi, khổ não, cũng muốn xa lìa Mười hai nhân duyên?

Các Tỳ-kheo thưa:

- Ðúng vậy, thưa Thế Tôn.

Phật bảo các Tỳ-kheo:

- Các Thầy sở dĩ xuất gia

đồng một Thầy, h

òa hợp như nước sữa, mà không ch

ăm nom lẫn nhau. Từ nay về sau n

ên lần lượt ch

ăm sóc thăm nom nhau. Nếu Tỳ-kheo bệnh không có đệ tử, trong chúng n

ên cử người lần lượt làm khán bệnh. Vì sao? Ngoài việc này ra, không thấy có việc gì hơn phước của người ch

ăm sóc bệnh. Người chăm sóc bệnh

như ch

ăm sóc Ta không khác.

Bấy giờ, Thế Tôn bèn nói kệ:

Nếu có cúng dường Ta,

Và chư Phật quá khứ,

Phước

đức cúng thí Ta,

Không khác ch

ăm nom bệnh.

Bấy giờ, Thế Tôn dạy lời ấy xong, bảo A-nan:

- Từ nay về sau, các Tỳ-kheo mỗi mỗi ch

ăm nom bệnh lẫn nhau. Nếu có Tỳ-kheo biết m

à không làm thì các Thầy nên c

ăn cứ theo luật.

Ðây là lời giáo giới của Ta.

Bấy giờ, các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

8. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở taị nước Xá-vệ, rừng Kỳ-

đ

à, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

- Có chín hạng người

đáng kính, đáng quý, cúng dường những vị ấy được phước. Thế n

ào là chín? Ðó là những vị hướng A-la-hán,

đắc

A-la-hán; hướng A-na-hàm,

đắc A-na-h

àm; hướng Tư-

đ

à-hàm,

đắc Tu-đ

à-hàm, hướng Tu-

đ

à-hoàn,

đắc Tu-đ

à-hoàn, và hạnh chủng tánh Người là chín.

Này các Tỳ-kheo,

đó l

à chín hạng người, cúng dường cho các vị ấy

được phước trọn không mất.

Bấy giờ, các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ làm.

*

9. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở tại thành La-duyệt, vườn trúc Ca-lan-

đ

à cùng với chúng

đại Tỳ-kheo năm trăm người câu hội.

Khi ấy, vương tử Mãn-hô

đến chỗ Thế Tôn, đầu mặt lễ chân Phật, lui ngồi một b

ên. Vương tử Mãn-hô bạch

đức Phật:

-Con từng nghe Thầy Tỳ-kheo Châu-lợi-bàn-

đặc c

ùng bàn luận với Phạm chí Lư-ca-diên, nhưng Tỳ-kheo ấy không thể

đối đáp. Con lại từng nghe trong h

àng chúng

đệ tử của Phật, người m

à các c

ăn ám độn, không có trí tuệ sáng, không ai hơn Tỳ-kheo n

ày.

Trong hàng Ưu-bà-tắc tại gia của Thế Tôn, dòng họ Cồ-

đ

àm trong thành Ca-tỳ-la-vệ các c

ăn ám độn, t

ình ý bế tắc.

Ðức Phật bảo Vương tử:

- Tỳ-kheo Châu-lợi-bàn-

đặc có sức thần túc, được pháp hơn người, không tập theo cách đ

àm luận thế gian. Lại, Vương tử nên biết, Tỳ-kheo này rất có diệu nghĩ.

Khi ấy, vương tử Mãn-hô bạch Phật:

- Tuy Phật nói như thế, song trong ý con vẫn còn sanh niệm này: Vì sao có

đại thần lực m

à không thể cùng luận nghi với ngoại

đạo

dị học kia? Nay con thỉnh Phật và Tỳ-kheo T

ăng, chỉ trừ một m

ình Châu-lợi-bàn-

đặc.

Khi ấy,

đức Thế Tôn im lặng nhận lời. Vương tử thấy Thế Tôn đ

ã nhận thỉnh rồi, bèn

đứng dậy, cúi đầu lạy chân Phật, đi quanh về hướng tay mặt ba v

òng rồi lui ra. Liền trong

đ

êm ấy, vương tử sửa soạn các thức

ăn uống ngon, trải tọa cụ tốt đẹp. Sáng sớm vương tử đến bạch Phật:

- Ðã

đến giờ, nay l

à

đúng thời.

Bấy giờ, Thế Tôn

đưa bát cho Tỳ-kheo Châu-lợi-b

àn-

đặc giữ ở lại sau, Ng

ài dắt chúng Tỳ-kheo vây quanh trước sau

đi v

ào thành La-duyệt,

đến chỗ của vương tử, theo thứ lớp an tọa. Bấy giờ, vương tử bạch Phật:

- Cúi xin Thế Tôn trao bát cho con.

Hôm nay con muốn tự dâng thức

ăn cho Thế Tôn.

Phật bảo vương tử:

- Bát ở tại chỗ của Tỳ-kheo Châu-lợi-bàn-

đặc, không mang đến đây.

Vương tử bạch Phật:

- Xin thế Tôn bảo một vị Tỳ-kheo về mang bát

đến đây.

Phật bảo vương tử:

- Nay Ông hãy tự

đi lấy bát Như Lai đến đây.

Bấy giờ, Tỳ-kheo Châu-lợi-bàn-

đặc hóa l

àm n

ăm trăm cội cây, dưới mỗi cội cây đều có Tỳ-kheo Châu-lợi-b

àn-

đặc ngồi. Vương tử nghe lời Phật dạy, đi về lấy bát, xa thấy dưới năm trăm cội cây đều có Tỳ-kheo Châu-lợi-b

àn-

đặc ngồi

Thiền, buộc niệm ở phía trước không tán loạn. Thấy rồi, vương tử liền nghĩ: 'Người nào là Tỳ-kheo Châu-lợi-bàn-

đặc?' Vương tử

Mãn-hô bèn trở lại chỗ Thế Tôn bạch rằng:

- Con

đến vườn ấy, đều thấy

toàn là Tỳ-kheo Châu-lợi-bàn-

đặc, không biết người n

ào là Tỳ-kheo Châu-lợi-bàn-

đặc. Phật bảo vương tử:

- Ông trở lại bên

đó, đến ngay chỗ người ngồi chính giữa vườn khảy móng tay nói rằng: '

Ðây thật là Tỳ-kheo Châu-lợi-bàn-

đặc, xin mời đứng l

ên'.

Vương tử Mãn-hô nghe lời Phật dạy, lại

đi v

ào vườn,

đến chỗ người ngồi giữa nói:

- Ðây thật là Tỳ-kheo Châu-lợi-bàn-

đặc, xin mời đứng l

ên.

Vương tử nói lời ấy xong, n

ăm trăm Tỳ-kheo hóa hiện kia tự nhi

ên biến mất, chỉ còn lại một Tỳ-kheo Châu-lợi-bàn-

đặc. Khi ấy, vương tử M

ãn-hô cùng Tỳ-kheo Châu-lợi-bàn-

đặc đến chỗ Thế Tôn, cúi đầu lễ chân Phật, lui qua một b

ên.

Vương tử Mãn-hô bạch Phật:

- Cúi xin Thế Tôn, nay con tự hối hận, trách mình không tin lời dạy của Như Lai. Vị Tỳ-kheo này có thần túc oai lực rất lớn.

Phật bảo vương tử:

- Cho phép Ông sám hối, Như Lai nói ra không hai lời. Lại ở thế gian này có chín hạng người

đối xử qua lại. Thế n

ào là chín? Một là biết trước nhơn tình, hai là nghe rồi mới biết, ba là xem tướng rồi sau mới biết, bốn là quan sát nghĩa lý rồi sau mới biết, n

ăm l

à biết vị rồi sau mới biết, bảy là không biết nghĩa không biết vị, tám là học hỏi nơi sức thần túc tư duy, chín là hiểu nghĩa rất ít. Này Vương tử,

đó l

à chín hạng người xuất hiện ở

đời. Như thế, n

ày Vương tử, người xem tướng kia trong tám hạng người bậc nhất, không lầm lỗi.

Nay Tỳ-kheo Châu-lợi-bàn-

đặc n

ày học tập về thần túc, không học các pháp khác. Tỳ-kheo này thường dùng thần túc thuyết pháp cho người, còn Tỳ-kheo A-nan của Ta xem tướng liền biết,

đoán biết nhơn t

ình, biết Như Lai cần

điều n

ày, không cần

điều n

ày, cũng biết Như Lai cần nói việc này, lìa việc này, thảy

đều r

õ ràng. Hiện nay không ai hơn Tỳ-kheo A-nan,

đọc rộng các kinh nghĩa, thảy đều khắp hết.

Lại, Tỳ-kheo Châu-lợi-bàn-

đặc n

ày có thể hóa hiện một thân hình làm bao nhiêu thân hình, lại trở về hiệp làm một mình. Tỳ-kheo ấy ngày sau sẽ ở trong hư không mà diệt

độ. Ta lại không thấy người n

ào diệt

độ có thể so sánh như Tỳ-kheo A-nan v

à Tỳ-kheo Châu-lợi-bàn-

đặc.

Khi ấy, Phật lại bảo các Tỳ-kheo:

- Tỳ-kheo bậc nhất trong hàng Thanh v

ăn của Ta, có thể biến hóa thân h

ình ra lớn, ra nhỏ, không ai có thể so sánh với Tỳ-kheo Châu-lợi-bàn-

đặc.

Khi ấy vương tử Mãn-hô, tự tay mang thức

ăn, nước uống cúng dường chúng Tăng; rửa bát xong, ngồi b

ên ghế nhỏ phía trước

đức Phật, chắp tay bạch Phật:

-Cúi xin Thế Tôn, cho phép Tỳ-kheo Châu-lợi-bàn-

đặc thường đến nh

à con, tùy theo chỗ cần dùng theo y phục, mền nệm, các vật linh tinh của Sa-môn,

đều đến nh

à con lấy. Con sẽ cung cấp những vật cần thiết suốt

đời.

Phật bảo vương tử:

- Nay vương tử nên hướng về phía Tỳ-kheo Châu-lợi-bàn-

đặc sám hối, đích thân mời thỉnh. V

ì sao? Người không có trí muốn biết người trí, việc này khó làm. Còn người trí biết

được người trí, có thể được.

Khi ấy, vương tử Mãn-hô liền hướng về Tỳ-kheo Châu-lợi-bàn-

đặc, đảnh lễ xưng t

ên họ, xin sám hối:

- Bạch Tỳ-kheo

đại thần túc, con sanh tâm khinh mạn, từ nay về sau không dám tái phạm. Cúi xin nhận sự sám hối của con, không dám phạm lại.

Tỳ-kheo Châu-lợi-bàn-

đặc đáp:

- Cho phép Ông hối lỗi, sau chớ phạm lại, Cũng chớ phỉ báng Hiền Thánh. Vương tử nên biết, nếu có chúng sanh phỉ báng Thánh nhơn thì sẽ phải

đọa ba đường ác, sanh trong địa mgục. Như thế, Vương tử n

ên học theo

điều n

ày.

Bấy giờ, Phật thuyết pháp rất vi diệu cho Vương tử Mãn-hô, khuyến khích cho phát sanh hoan hỷ, liền tại chỗ ngồi, nói lời chú nguyện này:

Tế tự, lửa trên hết,

Sách kinh, tụng trên hết,

Cõi người, vua trên hết,

Các dòng, biển là trên,

Các sao, tr

ăng trước nhất,

Ánh sáng, trời bậc nhất,

Trên dưới và bốn phương,

Những loài có hình tướng,

Trời và Người trong

đời,

Phật là bậc tối tôn,

Người muốn cầu phước báu,

Cúng dường Phật ba

đời.

Bấy giờ, Phật nói kệ này rồi, liền rời tòa

đứng dậy. Khi ấy, vương tử M

ãn-hô nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

10. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở tại nước Xá-vệ, rừng Kỳ-

đ

à, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ Thiện tri thức, tức là người có phạm hạnh phân nửa, sẽ hướng dẫn

đường l

ành

đến vô vi.

Phật bảo A-nan:

- Chớ nói lời như thế. Nói rằng: 'Bậc Thiện tri thức là người Phạm hạnh phân nửa'. Vì sao? Phàm là bậc Thiện tri thức, tức là người Phạm hạnh trọn vẹn mới dẫn dắt chỉ bảo cho người theo mình con

đường l

ành. Ta cũng do Thiện tri thức mà thành Vô Thượng Chánh Chơn Ðẳng Chánh Giác. Do thành

đạo quả, n

ên

độ thoát chúng sanh không thể tính kể, thảy đều khỏi được sanh, l

ão, bệnh, tử. Do phương tiện này, nên biết bậc Thiện tri thức là người Phạm hạnh trọn vẹn.

Lại nữa, A-nan, nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn, kính vâng theo Thiện tri thức thì lòng tin

được tăng nhiều, văn, thí, tọa, đức, thảy đều đầy đủ. Thí như trăng c

àng tròn, ánh sáng càng t

ăng hơn ng

ày thường gấp bội. Ðây cũng lại như vậy, nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn gần gũi Thiện tri thức, thì lòng tin, chỗ học hỏi, sự ghi nhớ, trí tuệ của người ấy thảy

đều

ăng l

ên. Do phương tiện nên biết bậc Thiện tri thức là người Phạm hạnh trọn vẹn.

Nếu ngày xưa Ta không kính vâng theo Thiện tri thức thì trọn vẹn sẽ không

được Phật

Ð

ăng Quang thọ Ký. Do đ

ã kính vâng bậc Thiện tri thức, nên Ta

được Phật

Ð

ăng Quang thọ

ký. Do phương tiện này nên biết, bậc Thiện tri thức là người Phạm hạnh trọn vẹn.

Này A-nan, nều thế gian không có bậc Thiện tri thức thì sẽ không có thứ tự tôn ti về phụ mẫu, sư trưởng, huynh

đệ, tông thân, ắt sẽ giống như lo

ài heo chó, tạo các duyên ác, gieo trồng tội duyên trong

địa ngục. Có Thiện tri thức n

ên phân biệt có cha mẹ, sư trưởng, huynh

đệ, tông thân.

Lúc ấy, Thế Tôn bèn nói kệ:

Thiện tri thức chẳng ác,

Vì pháp, không vì

ăn,

Dắt dẫn nơi

đường l

ành,

Ðích thân bậc Tôn nói.

Cho nên, này A-nan, chớ lại nói lời: 'Bậc Thiện tri thức là người Phạm hạnh phân nửa'.

Bấy giờ, A-nan nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

11. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở lại tại thành La-duyệt, trong núi Kỳ-xà-quật cùng với chúng

đại Tỳ-kheo năm trăm người câu

hội.

Lúc ấy, Thích-

đề-ho

àn-nhân từ cõi trời Ba mươi ba ẩn, bay

đến chỗ Phật, cúi đầu lễ chân Phật, lui ngồi một b

ên và bạch Phật:

- Loài Người và Trời có những tưởng niệm gì? Ý mong muốn

điều g

ì?.

Phật bảo:

- Thế gian trôi giạt, tánh ý không giống nhau, con

đường của mỗi lo

ài mỗi khác, tưởng niệm chẳng phải một. Thiên

đế n

ên biết, khi xưa, trải qua bao số A-t

ăng-kỳ kiếp, Ta cũng sanh ý nghĩ n

ày: 'Loài Trời và chúng sanh ý niệm thú hướng việc gì? Cầu nguyện

điều g

ì?' Từ kiếp

đó đến ng

ày nay, Ta không thấy có một người âm cùng giống nhau. Thích-

đề-ho

àn-nhân nên biết, chúng sanh ở thế gian khởi tưởng

đi

ên

đảo. Vô thường th

ì khởi tưởng là thường, vô lạc thì khởi tưởng là lạc, vô ngã thì khởi tưởng là hữu ngã, bất tịnh thì tưởng là tịnh,

đường

chánh tưởng là

đường t

à,

điều ác tưởng l

à

điều phước, điều phước tưởng l

à

điều ác.

Do phương tiện này nên biết, các loài chúng sanh, c

ăn tánh của chúng khó lường, tánh hạnh mỗi mỗi khác nhau. Nếu khiến chúng sanh hết thảy đồng một tư tưởng, không có nhiều tư tưởng, ắt không thể biết chín nơi cư trú của chúng sanh, cũng khó phân biệt chín nơi cư trú của chúng sanh. Nơi dừng trụ của thần thức cũng khó hiểu biết r

õ, cũng lại không biết có tám

đại địa ngục, đường dẫn đến súc sanh cũng khó biết, không phân biệt có địa ngục khổ, không biết sự h

òa quý của bốn dòng họ, không biết con

đường dẫn đến A-tu-la, cũng không biết c

õi trời Ba mươi ba, nếu như hết thảy

đồng một tâm. N

ên biết cõi trời Quang Âm là do chúng sanh có bao nhiêu loài, tưởng niệm cũng bấy nhiêu thứ.

Cho nên biết có chín nơi cư trú của chúng sanh, có chín nơi thần thức dừng trụ; biết có tám

đại địa ngục, ba ác đạo, cho đến c

õi trời Ba mươi ba cũng lại như thế. Do phương tiện này biết các loại chúng sanh, c

ăn tánh của họ không đồng nhau, việc l

àm mỗi người cũng khác.

Khi ấy, Thích-

đề-ho

àn-nhân bạch Phật:

- Lời nói của Như Lai rất là kỳ diệu. C

ăn tánh của chúng sanh, h

ành

động không giống nhau, tưởng niệm mỗi khác. Do chúng sanh kia h

ành

động không giống nhau, cho đến xanh, v

àng, trắng,

đen, d

ài, ngắn không

đồng.

Bạch Thế Tôn, chư Thiên nhiều việc, con muốn trở về cõi Trời.

Phật bảo Thích-

đề-ho

àn-nhân:

- Nên biết

đúng thời.

Thích-

đề-ho

àn-nhân liền từ tòa

đứng dậy, cúi đầu lễ chân Phật, lui ra.

Bấy giờ, Thích-

đề-ho

àn-nhân nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

Chín nơi, thí, khổng tước,

Hệ phước, cội gốc pháp,

Bệnh, cúng dường, Bàn-

đặc,

Phạm hạnh, bao nhiêu tưởng.

XXXXV. Phẩm Mã vương

1. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở tại thành La-duyệt, vườn trúc Ca-lan-

đ

à cùng chúng

đại Tỳ-kheo năm trăm người câu hội.

Bấy giờ, trong thành có Bà-la-môn tên Ma-ê-

đề-lợi, biết r

ành rẽ các kinh ngoại

đạo, thi

ên v

ăn địa thuật thảy đều thông suốt, tất cả các pháp cư xử giao thiệp tr

ên thế gian thảy

đều r

õ thấu. Con gái của Bà-la-môn tên Ý Ái, rất thông minh, dung mạo

đoan chánh, ít có tr

ên

đời.

Khi ấy, Bà-la-môn bèn khởi nghĩ rằng: 'Kinh

điển B

à-la-môn có nói, có hai hạng người ra

đời rất khó gặp. Thế n

ào là hai hạng người? Ðó là bậc Như Lai Chí Chơn Ðẳng Chánh Giác và Chuyển luân Thánh vương. Nếu khi Chuyển luân Thánh vương xuất hiện, bèn có thất bảo tự nhiên hưởng ứng. Nay ta có con gái quý, nhan sắc tuyệt diệu, bậc nhất trong các ngọc nữ. Như nay không có Chuyển luân Thánh vương, ta lại nghe có bậc vương tử Chân Tịnh tên là Tất-

đạt, xuất gia học đạo, có ba mươi hai tướng

tốt, tám mươi vẻ

đẹp. Người ấy nếu ở nh

à sẽ là bậc Chuyển luân Thánh vương, nếu xuất gia học

đạo liền th

ành Phật

đạo. Nay ta có thể đem con

gái ta cho Sa-môn ấy'.

Khi ấy, Bà-la-môn bèn dẫn con gái

đến trước chỗ Phật, thưa rằng:

- Cúi xin Sa-môn nhận ngọc nữ này.

Phật bảo Bà-la-môn:

- Thôi, thôi, Phạm chí! Ta không cần người

đắm trước dục vọng n

ày.

Bà-la-môn ba phen bạch Phật:

- Sa-môn! Hãy nhận ngọc nữ này, so sánh trên

đời, n

àng này không bằng.

Phật bảo:

- Phạm chí! Ta

đ

ã hiểu ý Ông, nhưng Ta

đ

ã xuất gia, không tập theo dục lạc.

Bấy giờ, có Tỳ-kheo trưởng lão

đứng sau Như Lai, đang quạt hầu Phật, Tỳ-kheo ấy bạch Phật:

- Cúi xin Như Lai, nhận người nữ nầy, nếu Như Lai không cần thì

để cho chúng con sai khiến.

Phật bảo Tỳ-kheo trưởng lão:

- Thầy thật ngu si mới ở trước Như Lai thổ lộ ý xấu này. Vì sao Thầy

để tâm ý

bị trói buộc nơi người nữ ấy?

Phàm là người nữ thì có chín

điều xấu. Thế n

ào là chín? Một là người nữ hôi hám không sạch, hai là người nữ ác khẩu, ba là người nữ không biết

đền ơn, bốn l

à người nữ tật

đố, năm l

à người nữ bỏn xẻn, sáu là người nữ ưa thích rong chơi, bảy là người nữ nhiều sân nhuế, tám là người nữ nhiều vọng ngữ, chín là ngưòi nữ lời nói khinh suất. Như thế này Tỳ-kheo, người nữ có chín hạng tội ác như thế.

Bấy giờ, Thế Tôn bèn nói kệ:

Thường ưa cười, khóc la,

Như thân mà chẳng thân,

Hãy tìm phương tiện khác,

Chớ nên khởi ý loạn.

Khi ấy, Tỳ-kheo trưởng lão bạch Phật:

- Người nữ tuy có chín pháp tệ ác như thế. Nhưng hôm nay con quán sát cô gái này không có tỳ vết gì.

Phật bảo Tỳ-kheo:

- Nay Thầy thật là người ngu, không tin lời từ miệng của Như Lai ư? Nay ta sẽ nói:

Về thuở quá khứ rất xa, trong thành Ba-la-nại có một nhà buôn tên Phổ Phú, dẫn n

ăm trăm khách buôn v

ào biển tìm kho báu. Song biển ấy ắt có quỷ La-sát cư trú, thường

ăn thịt dân chúng.

Lúc ấy trong biển nổi gió, thổi tàu buôn kia trôi vào trong thành của quỷ La-sát. La-sát xa thấy khách buôn tới vui mừng vô cùng, liền ẩn hình quỷ La-sát mà hiện hình người nữ,

đoan chánh không ai bằng, nói với các khách buôn rằng:

- 'Chư Hiền khéo

đến đây. Tr

ên bãi cát quý này

được

xây cung

điện trời cho quý khách, có trăm ng

àn thứ trân bảo, nấu các món

ăn ngon, lại có các cô gái đẹp chưa chồng. Các vị có thể c

ùng chúng tôi vui thích'.

Tỳ-kheo nên biết! Trong số các nhà buôn ấy, những người ngu muôi thấy cô gái ấy rồi, liền khởi tâm

đắm trước

. Khi

đó, thương chủ Phổ Phú liền khởi nghĩ rằng: 'Trong biển lớn nầy l

à chỗ ở của loài phi nhơn, làm sao các cô này ở

được, đây chắc l

à La-sát, không nghi ngờ gì'. Thương chủ liền bảo các cô gái rằng:

- 'Thôi, thôi, các Cô! Chúng tôi không tham nữ sắc'.

Lúc ấy, vào những ngày mùng tám, mười bốn, rằm mỗi tháng, có ngựa chúa bay qua lại trên hư không kêu rằng:

- 'Ai muốn qua khỏi ách nạn của biển lớn, ta có thể cõng qua'.

Tỳ-kheo nên biết! Lúc ấy vị thương chủ kia leo lên cây cao, xa thấy ngựa chúa và nghe tiếng kêu, vui mừng hớn hở không thể tự kềm, bèn

đến chỗ ngựa chúa.

Ðến rồi nói với ngựa chúa rằng:

- 'Chúng tôi là n

ăm trăm

khách buôn bị gió thổi giạt, nay rơi vào chỗ cực kỳ nguy hiểm này, muốn

được qua biển, xin đưa giúp chúng tôi qua'.

Ngựa chúa bảo khách buôn rằng:

- 'Các Ông

đến hết đây, ta sẽ đưa sang bờ biển'.

Thương chủ Phổ Phú bèn bảo các khách buôn rằng:

- 'Nay ngựa chúa ở gần

đây. Mọi người n

ên

đến đó, c

ùng qua khỏi nạn biển'.

Khi ấy, các khách buôn trả lời:

- 'Thôi, thôi! Thưa thương chủ, chúng tôi ở lại chỗ này, tự vui thích với nhau. Vì ở Diêm-phù-

đề khổ nhọc, muốn t

ìm nơi khoái lạc. Ở

đây có đủ các vật quý báu trân kỳ v

à các cô gái

đẹp. Có thể ở lại chỗ n

ày vui chơi với ngũ dục, rồi sau dần dần gom góp của cải, sẽ cùng qua biển'.

Thương chủ bảo các khách buôn:

- 'Thôi, thôi, các Người ngu! Ở

đây không có người nữ, giữa biển lớn l

àm sao có chỗ người ở?'

Các khách buôn

đáp:

- 'Hãy thôi, thưa Thương chủ! Chúng tôi không thể bỏ

đây m

à

đi'.

Khi ấy, thương chủ Phổ Phú bèn nói kệ:

Chúng ta gặp nạn nầy,

Ðừng tưởng có nam, nữ,

Ðây là loài La-sát,

Sẽ

ăn dần chúng ta.

'Nếu như các Ông không cùng

đi với tôi, mỗi người n

ên tự giữ gìn. Nếu thân, khẩu, ý tôi có phạm

điều g

ì, thảy

đều xin tha lỗi chớ để tâm'.

Lúc ấy, các khách buôn cùng nói kệ từ biệt:

Thay chúng tôi th

ăm hỏi,

Bà con trong làng xóm,

Ở lại

đây vui chơi,

Không

đợi lúc trở về.

Khi ấy, thuơng chủ lại dùng kệ

đáp:

Các Ông thật gặp nguy,

Lầm lạc không chịu về,

Như thế chẳng bao lâu,

Thảy bị quỷ

ăn hết.

Nói kệ ấy rồi, liền bỏ

đi, thương chủ đến chỗ ngựa chúa, cúi đầu lễ dưới chân, liền cỡi ngựa m

à

đi. Khi ấy, những khách buôn xa thấy chủ của họ đ

ã cỡi ngựa chúa, trong số

đó có người k

êu lên, hoặc có người rất sợ hãi. Chúa quỷ La-sát hướng về phía các La-sát, nói kệ rằng:

Ðã vào miệng sư tử,

Thoát ra rất là khó,

Huống gì vào nước ta,

Muốn ra thật khó.

Chúa quỷ La-sát liền hoá thân hình người nữ, rất

đoan chánh, lấy tay chỉ v

ào bụng, nói: 'Nếu ta không

ăn thịt các Ngươi, trọn không l

à La-sát'. Khi ấy, ngựa chúa cõng thương chủ bay

đến bờ biển, c

òn lại n

ăm trăm khách buôn thảy đều chịu tai nạn.

Bấy giờ trong thành Ba-la-nại có vị vua tên Phạm-ma-

đạt trị hoá nhân dân. Khi ấy, La-sát đuổi theo sau thương

chủ kêu lên 'tôi mất chồng'. Thương chủ trở về nhà, La-sát hóa hiện bồng theo

đứa con trai, đến trước chỗ vua Phạm-ma-đạt tâu nh

à vua rằng:

- 'Thế gian thật là tai quái, ắt sẽ diệt hoại'.

Nhà vua hỏi:

- 'Thế gian có việc gì tai quái mà diệt hoại?'.

La-sát tâu vua:

- 'Tôi bị chồng bỏ, nhưng tôi không có lỗi gì

đối với chồng'.

Vua Phạm-ma-

đạt thấy thiếu phụ n

ày rất tuyệt

đẹp, liền khởi ý đắm trước, bảo n

àng rằng:

- 'Chồng nàng là kẻ không có nhân nghĩa mới bỏ nàng'.

Khi ấy, vua Phạm-ma-

đạt sai người gọi thương chủ đến hỏi:

- 'Có thật Ông bỏ cô vợ

đẹp n

ày ch

ăng?'

Thương chủ tâu:

- 'Ðó là La-sát, không phải là nữ nhơn'.

La-sát nữ liền tâu vua:

- 'Người này không có nghĩa vợ chồng. Nay

đ

ã bỏ tôi, còn mắng tôi là La-sát'.

Nhà vua hỏi:

- 'Ông thật không dùng, ta sẽ thâu dùng nàng ấy'.

Thương chủ tâu vua:

- 'Ðây là La-sát, xin tùy thánh ý'.

Khi ấy, vua Phạm-ma-

đạt v

ào trong cung cấm, tùy thời tiếp nàng không

để cho phiền

oán.

Loài La-sát phi nhơn ấy bèn

ăn thịt nh

à vua, chỉ còn lại bộ xương, rồi bỏ

đi.

Này Tỳ-kheo,

đừng nghĩ ai khác! Thương chủ lúc ấy chính l

à Tỳ-kheo Xá-lợi-phất. La-sát lúc ấy nay là cô gái này. Vua Phạm-ma-

đạt thuở ấy, nay l

à Tỳ-kheo trưởng lão. Ngựa chúa lúc ấy, nay là thân Ta. N

ăm trăm khách buôn lúc ấy, nay l

à n

ăm trăm Tỳ-kheo. Do phương tiện n

ày nên biết, ái dục là ý tưởng bất

định, nay cố ý khởi tưởng đắm trước sao?

Bấy giờ, Tỳ-kheo kia

đảnh lễ dưới chân Phật, bạch Phật rằng:

- Cúi xin nhận cho con sám hối lỗi nặng này. Từ nay về sau không dám tái phạm.

Khi ấy, Tỳ-kheo kia nghe lời Phật dạy xong, liền ở chỗ vắng, tự khắc phục mình tu tập những gì mà dòng dõi hào tộc, siêng tu Phạm hạnh, muốn

được tu Phạm hạnh Vô thượng. Tỳ-kheo kia b

èn thành A-la-hán.

Bấy giờ, các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

2. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở tại Thích-sí, vườn cây Am-bà-lợi, cùng với chúng

đại Tỳ-kheo năm trăm người câu hội.

Khi ấy, Tôn giả Xá-lợi-phất, Tôn giả Mục-kiền-liên sau khi nhập hạ xong, dẫn n

ăm trăm Tỳ-kheo đi du hóa nhân gian, dần dần đi đến l

àng Thích-sí. Bấy giờ Tỳ-kheo mới

đến v

à Tỳ-kheo tại chỗ cùng nhau nói n

ăng, hỏi han, âm thanh to ồn. Thế Tôn nghe âm thanh to ồn của các Tỳ-kheo, b

èn hỏi A-nan:

- Nay trong vườn này có tiếng gì to ồn thế

đến thế? Như l

à tiếng

đập phá cây, đá?.

A-nan bạch Phật:

- Hôm nay có Tôn giả Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên dẫn n

ăm trăm Tỳ-kheo đến đây. Các Tỳ-kheo mới đến v

à Tỳ-kheo tại chỗ cùng hỏi th

ăm nhau, n

ên có tiếng như thế.

Phật bảo A-nan:

- Thầy mau

đuổi Tỳ-kheo Xá-lợi-phất v

à Mục-kiền-liên, không cần ở

đây.

A-nan vâng lời dạy, liền

đến chỗ Xá-lợi-

phất, Mục-kiền-liên, thưa rằng:

- Thế Tôn có dạy, hãy mau rời khỏi

đây, không n

ên ở lại.

Xá-lợi-phất

đáp:

- Xin vâng lời dạy.

Bấy giờ, Xá-lợi-phất, Mục-kiền-liên ra khỏi vườn, dẫn n

ăm trăm Tỳ-kheo theo đường m

à

đi.

Bấy giờ, các người họ Thích nghe tin Tỳ-kheo Xá-lợi-phất, Mục-kiền-liên bị Phật

đuổi, liền đến chỗ Tỳ-kheo Xá-lợi-phất, Mục-kiền-li

ên, cúi

đầu lễ dưới chân, bạch với Xá-lợi-phất:

- Chư Hiền! Các Vị muốn

đi đâu?

Xá-lợi-phất

đáp:

- Chúng tôi bị Thế Tôn

đuổi, nay t

ìm chỗ ở.

Những người họ Thích bạch với Xá-lợi-phất:

- Chư Hiền chớ lo, chúng tôi sẽ

đến Nư Lai sám hối.

Khi ấy, các người họ Thích bèn

đến chỗ Phật, cúi đầu lễ chân Phật, lui ngồi một b

ên và bạch Phật rằng:

- Cúi xin Thế Tôn tha lỗi cho các Tỳ-kheo từ xa

đến. Cúi xin Thế Tôn để thời giờ chỉ dạy, trong số những Tỳ-kheo từ xa đến, có

người mới học

đạo, vừa v

ào cửa pháp, chưa

được gần tôn nhan Như Lai, e có tâm thay đổi. Ví như mầm mạ không gặp mưa thấm ướt không thể th

ành tựu; nay các Tỳ-kheo này cũng lại như thế, chưa gần Như Lai mà

đi, e rằng có tâm thay đổi.

Khi ấy, Phạm thiên vương biết ý nghĩ trong tâm Như Lai, trong khoảng lực sĩ duỗi cánh tay, từ cõi Phạm thiên ẩn,

đến chỗ Thế Tôn, cúi đầu lễ chân Phật, lui đứng một b

ên. Phạm thiên vương bạch Phật:

- Cúi xin Thế Tôn tha lỗi cho các Tỳ-kheo từ xa

đến, d

ùng thời giờ chỉ dạy. Trong

đây, hoặc có Tỳ-kheo chưa rốt ráo, liền sanh tâm thay đổi, người ấy không thấy tôn nhan Như Lai, b

èn

đổi ý, trở về nghiệp cũ. Cũng như b

ò con mới sanh bị lạc mẹ, lo buồn không

ăn; đây cũng như thế, nếu h

àng Tỳ-kheo tân học không

được thấy Như Lai, b

èn sẽ xa lìa Chánh pháp.

Bấy giờ, Thế Tôn nhận lời can thiệp của những người họ Thích và thí dụ bò con của Phạm thiên vương. Khi ấy, Thế Tôn quay lại nhìn, Tôn giả A-nan bèn khởi ý nghĩ: 'Như lai

đ

ã nhận lời xin của dân chúng và chư thiên'. A-nan

đến chỗ Tỳ-kheo Xá-lợi-phất, Mục-kiền-li

ên bảo rằng:

- Như Lai muốn gặp chúng T

ăng. Trời v

à nhân dân cùng trình bày

điều n

ày.

Bấy giờ, Tôn giả Xá-lợi-phất bảo các Tỳ-kheo:

- Các Thầy chỉnh

đốn y bát, c

ùng

đến chỗ Thế Tôn. Như Lai đ

ã nhận cho chúng ta sám hối.

Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên dẫn n

ăm trăm Tỳ-kheo

Ðến chỗ Phật, cúi

đầu lễ chân Phật, lui ngồi một b

ên.

Lúc

đó, Phật hỏi Xá-lợi-phất:

- Trước

đây Ta đuổi các Tỳ-kheo, ý Thầy thế n

ào?.

Xá-lợi-phất bạch Phật:

- Trước

đây, Như Lai đuổi chúng Tăng, con b

èn khởi nghĩ: 'Như Lai chỉ ưa ở một mình chỗ vắng, không thích nơi ồn náo, nên

đuổi chúng Tăng đi'.

Phật bảo Xá-lợi-phất:

- Sau

đó Thầy lại khởi niệm g

ì? Thánh chúng khi ấy ai là giềng mối?

Xá-lợi-phất bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Lúc ấy con lại khởi ý nghĩ này: 'Ta cũng nên ở chỗ vắng,

đi ri

êng, không ở chỗ ồn náo'.

Phật bảo Xá-lợi-phất:

- Chớ nói như vậy, cũng

đừng khởi ý nghĩ như thế, rằng: 'Ta n

ên ở chỗ vắng'. Như nay, giềng mối của Thánh chúng há chẳng phải nương vào hai Tỳ-kheo Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên ư?

Bấy giờ,

đức Phật hỏi Mục-kiền-li

ên:

- Ta

đuổi

chúng t

ăng, Thầy có ý niệm g

ì?

Mục-kiền-liên bạch Phật:

- Như Lai

đuổi chúng Tăng, con b

èn khởi niệm này: 'Như Lai muốn ở riêng chỗ vô vi, nên

đuổi chúng Tăng vậy'.

Phật hỏi Mục-kiền-liên:

- Sau

đó Thầy lại khởi niệm g

ì?

Mục-kiền-liên bạch Phật:

- Nay Như Lai

đuổi chúng Tăng, chúng ta n

ên tập hợp chúng lại, khiến

đừng phân tán.

Phật bảo Mục-kiền-liên:

- Lành thay! Mục-kiền-liên, như lời Thầy nói, giềng mối trong chúng chỉ có Ta và hai Thầy. Từ nay về sau, Mục-kiền-liên nên dạy dỗ các Tỳ-kheo hậu học, khiến hằng ở chỗ an ổn, dài lâu,

đừng để

thối tâm nửa chừng, rơi trong sanh tử.

Nếu có Tỳ-kheo thành tựu chín pháp, ở trong hiện pháp không

được lớn mạnh. Thế n

ào là chín? Cùng gần gũi thừa sự ác tri thức; không việc thường ưa

đi dạo; thường bị tai họa. Ưa cất chứa t

ài vật, tham

đắm y bát; thường nói nhiều lời dối gạt, trống rỗng; ý

tán loạn không

định; không có trí tuệ; không hiểu nghĩa thú; không t

ùy thời nghe chỉ dạy.

Thế nên, này Mục-kiền-liên! Nếu tỳ-kheo thành tựu chín pháp này, ở trong hiện pháp không

được lớn mạnh, có sự thấm nhuần.

Nếu có Tỳ-kheo có thể thành tựu chín pháp thì sẽ

được th

ành tựu xong việc. Thế nào là chín? Cùng theo Thiện tri thức; tu hành Chánh pháp không

đắm trước nghiệp t

à; thường ở chỗ yên vắng không thích nhơn gian; ít bệnh không hoạn nạn; không chứa nhiều tài vật báu, không tham trước y bát; siêng n

ăng tinh tấn; không có tâm tán loạn; nghe nghĩa liền hiểu, không cần lập lại; t

ùy thời nghe pháp không chán

đủ.

Thế nên, này Mục-kiền-liên! Nếu có Tỳ-kheo thành tựu chín pháp này, ở trong hiện pháp

được nhiều lợi ích. Cho n

ên, này Mục-kiền-liên, nên nhớ siêng n

ăng dạy bảo các Tỳ-kheo, khiến đến chỗ vô vi lâu d

ài.

Bấy giờ, Thế Tôn bèn nói kệ:

Thường nhớ tự giác ngộ,

Chớ

đắm nơi phi pháp,

Sự tu nên chánh hạnh,

Ðược khỏi nạn sanh tử.

Làm việc này

được vậy,

Làm như thế

được phước.

Chúng sanh trôi l

ăn lâu,

Dứt

được gi

à, bệnh, chết.

Việc xong, lại không tập,

Trở lại tạo phi hạnh,

Người phóng dật như thế,

Thành tựu hạnh hữu lậu.

Nếu có tâm siêng n

ăng,

Thường

để lại đầu tâm,

Lần lượt cùng dạy bảo,

Bèn thành người vô lậu.

Thế nên, Mục-kiền-liên! Nên vì các Tỳ-kheo mà dạy

điều n

ày, nên nhớ nghĩ học

điều n

ày!

Khi ấy, Thế Tôn vì các Tỳ-kheo nói pháp vi diệu, khiền chư vị phát tâm hoan hỉ. Khi các tỳ-kheo nghe pháp xong, trong chúng có hơn sáu mươi Ttỳ-kheo

được lậu tận ý giải.

Bấy giờ, các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

3. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại nước Xá-vệ, rừng Kỳ-

đ

à, vườn Cấp Cô Ðộc.

- Nếu có Tỳ-kheo ở nơi làng xóm, mà pháp lành tiêu diệt, pháp ác t

ăng trưởng th

ì Tỳ-kheo ấy nên học thế này: 'Nay ta ở trong làng này, mà pháp ác t

ăng trưởng, pháp l

ành dần dần tiêu diệt, ý niệm không chuyên nhất, không chấm dứt

được hữu lậu, không đến chỗ vô vi

an ổn. Ta

được y phục,

mền nệm, thức

ăm uống, giường nằm, toạ cụ,

thuốc men, cực khổ mới có'.

Tỳ-kheo ấy nên học thế này: 'Nay ta ở trong làng này, pháp ác t

ăng trưởng m

à pháp lành tiêu diệt. Ta cũng không vì y phục,

ăn uống, giường nằm, tọa cụ, thuốc men m

à làm Sa-môn. Ðiều mong muốn của ta nay không

đạt kết qủa'. Tỳ-kheo ấy n

ên rời làng

đi.

Nếu lại có Tỳ-kheo ở nơi làng xóm, pháp lành t

ăng trưởng, pháp ác ti

êu diệt, y phục, thức

ăn uống, tọa cụ, thuốc men, do si

êng n

ăng m

à

được th

ì Tỳ-kheo ấy nên học thế này: 'Nay ta ở tại làng xóm này, pháp lành t

ăng trưởng, pháp ác ti

êu diệt,

đồ vật được cúng dường do si

êng n

ăng khổ nhọc mới có. Ta không v

ì y phục mà xuất gia học

đạo, tu Phạm hạnh.

Ðiều mong muốn của ta khi học

đạo thảy đều th

ành tựu, nên suốt

đời vâng kính cúng dường'.

Bấy giờ, Thế Tôn bèn nói kệ này:

Áo, mền,

ăn uống,

Giường nằm và chỗ ở,

Không nên tưởng tham trước,

Cũng chớ trở lại

đời.

Không vì y, áo, mền,

Mà xuất gia học

đạo,

Sở dĩ học

đạo ấy,

Ðạt kết quả sở nguyện.

Tỳ-kheo thích hợp thời,

Suốt

đời ở thôn kia,

đó nhập Niết-b

àn,

Chấm dứt gốc mạng c

ăn.

đây, Tỳ-kheo kia nếu ở chỗ vắng trong nhân gian,

làng xóm, pháp lành t

ăng trưởng, pháp ác tự ti

êu diệt thì Tỳ-kheo ấy nên suốt

đời ở tại l

àng kia, không nên

đi xa.

Khi ấy, Tôn giả A-nan bạch Phật:

- Chẳng phải Như Lai thường nói thân tứ

đại tại ăn uống m

à

được tồn tại, cũng nhờ pháp tâm niệm tưởng sở, các pháp l

ành nương vào tâm mà sanh. Lại, Tỳ-kheo ấy nương ở nơi làng xóm, tình thần khổ nhọc mới

được y phục, thức ăn. Người ấy l

àm thế nào

để sanh pháp l

ành, ở nơi làng kia không

đi xa?.

Phật bảo A-nan:

- Những vật dụng như y phục, mền nệm, thức

ăn, giường nằm, tọa cụ, thuốc men, có ba loại. Nếu Tỳ-kheo chuy

ên nhớ nghĩ tứ sự cúng dường,

điều mong

ước không

đạt kết quả, th

ì vật dụng

đó l

à khổ. Nếu có tâm biết

đủ, không khởi tưởng tham trước th

ì chư Thiên, loài hoan hỉ với vị ấy. Lại, Tỳ-kheo nên học như thế. Do

đó, Ta nói nghĩa

này. Thế nên, này A-nan! Tỳ-kheo nên nhớ nghĩ vế ít muốn, biết

đủ. Như thế, A

-nan, nên học

điều

này bây giờ, A-nan nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

4. Tôi nghe như vậy:

Một thời Phật ở tại vườn Bà-la.

Bấy giờ, Thế Tôn

đến thời đắp y mang bát v

ào trong làng Bà-la khất thực. Lúc

đó tệ ma Ba-tuần liền khởi ý nghĩ: 'Nay Sa-môn n

ày muốn vào làng khất thực, ta sẽ dùng cách bảo các người nam nữ

đừng cúng dường thức ăn'.

Tệ ma Ba-tuần bèn bảo khắp các dân chúng trong làng, khiến

đừng bố thí thức ăn cho Sa-môn C

ù-

đ

àm. Bấy giờ, Thế Tôn

đi v

ào làng khất thực, tất cả mọi người

đều không nói chuyện với Ng

ài, cũng không ai

đến thừa sự cúng dường. Rốt cuộc Như Lai khất thực không được, b

èn

đi khỏi l

àng. Khi ấy tệ ma Ba-tuần

đi đến chỗ của đức Thế Tôn, hỏi rằng:

- Sa-môn! Khất thực chẳng

được phải chăng?.

Thế Tôn bảo:

- Do Ma xúi sử, khiến ta không nhận

được thức ăn, chẳng bao lâu Ngươi sẽ chịu quả báo ấy. Nay Ngươi h

ãy nghe Ta nói: Trong thời Hiền kiếp, có

đức Phật hiệu l

à Câu-lưu-tôn Như Lai Chí Chơn Ðẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật,Thế Tôn, xuất hiện ở

đời.

Lúc

đó, đức Phật

kia cũng ở tại làng, cùng với bốn mươi vạn chúng. Bấy giờ, tệ ma Ba-tuần bèn khởi ý nghĩ rằng. 'Nay ta tìm cách

đối phó với Sa-môn n

ày, trọn không

đựơc kết quả'. Ma lại khởi nghĩ: 'Nay ta sẽ bảo khắp hết dân chúng trong l

àng Bà-la, khiến họ

đừng bố thí thức ăn cho Sa-môn'.

Khi ấy, Thánh chúng

đắp y mang bát v

ào làng khất thực, rốt cuộc các Tỳ-kheo không

được thức ăn, b

èn ra khỏi làng trở về. Bấy giờ,

đức Phật Câu-lưu-tôn dạy các Tỳ-kheo pháp vi diệu n

ày:

- 'Phàm quán thức

ăn có chín loại, l

à bốn loại thức

ăn của người xuất thế.

Thế nào là bốn loại thức

ăn của người thế gian ? Một l

à

đo

àn thực, hai là cánh lạc thực, ba là niệm thực, bốn là thức thực. Ðó là thế gian có bốn loại thức

ăn.

Thế nào là n

ăm loại thức ăn ti

êu biểu của xuất thế ? Một là thiền thực, hai là nguyện thực, ba là niệm thực, bốn là bát giải thoát thực, n

ăm l

à hỉ thực. Này các Tỳ-kheo,

đó gọi l

à n

ăm loại thức ăn ti

êu biểu của xuất thế gian. Nên cùng chuyên nghĩ, nhớ trừ bỏ bốn loại thức

ăn thế gian, t

ìm cách thành tựu n

ăm loại thức xuất thế. Như thế, Tỳ-kheo n

ên học

điều n

ày'.

Bấy giờ, các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy rồi, liền tự mình khắc phục, thành tựu xong n

ăm loại thức ăn. Lúc ấy, Ba-tuần kia không phá được, b

èn nghĩ rằng: 'Nay ta không thắng

được Sa-môn n

ày, ta sẽ tìm cách qua các c

ăn mắt, tai,

mũi, lưỡi, thân, ý

được tiện lợi chăng ?'.

Khi ấy, hàng

đệ tử Thanh văn của đức

Phật

đó, đến thời đắp y mang bát v

ào làng khất thực. Dân chúng trong làng Bà-la cung cấp cho các Tỳ-kheo y phục, mền nệm, thức

ăn uống, ngọa cụ, thuốc men không để

thiếu thốn. Họ

đều đến trước nắm y Tăng-gi

à-lê,

đem vật cưỡng ép thí cho.

Khi ấy,

đức Phật đó v

ì chúng Thanh v

ăn nói pháp

này: 'Phàm lợi dưỡng là rơi vào

đường ác, khiến cho không thể đến chỗ vô vi. Tỳ-kheo các Thầy chớ hướng về tâm niệm đắm trước, với lợi dưỡng n

ên nghĩ lìa bỏ. Nếu có Tỳ-kheo tham trước lợi dưỡng thì sẽ không thành tựu n

ăm phần pháp thân, không đầy đủ giới đức.

Cho nên, này các Tỳ-kheo, tâm lợi dưỡng chưa sanh nên khiến không sanh, tâm lợi dưỡng

đ

ã sanh nên mau trừ diệt. Như thế, này các Tỳ-kheo, nên học

điều n

ày !

Khi ấy, ma Ba-tuần liền ẩn hình mà

đi.

Bấy giờ, các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

5. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-

đ

à, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Kỳ-kheo:

- Nên thực hành tâm từ, lưu truyền rộng lớn tâm từ. Do thực hành tâm từ, tâm sân nhuế sẽ tự tiêu diệt. Vì sao? Tỳ-kheo nên biết ! Xưa có một ác quỷ rất xấu xí hung bạo

đến

chỗ của Thích-

đề-ho

àn-nhân, leo lên tòa ngồi. Khi ấy chư Thiên cõi trời Ba mươi ba rất là sân giận: 'Tại sao ác quỷ này ngồi trên tòa của Thiên chủ ta ?'. Khi ấy, chư Thiên vừa khởi tâm sân, ác quỷ kia liền

đổi sắc mặt đoan chánh th

ù thắng hơn thường.

Bấy giờ, Thích-

đề-ho

àn-nhân

đang ngồi tại giảng đường Phổ tập, c

ùng vui chơi với ngọc nữ. Có vị trời

đến chỗ Thích-đề-ho

àn-nhân, thưa Ðế thích rằng:

- 'Cù-dực nên biết ! Hiện nay có một ác quỷ ngồi trên tôn tòa, chư Thiên cõi trời Ba mươi ba rất giận dữ. Chư Thiên vừa khởi sân nộ, quỷ kia bèn biến

đổi dung mạo đoan chánh đẹp hơn b

ình thường'.

Thích-

đề-ho

àn-nhân bèn khởi nghĩ rằng: 'Quỷ này ắt là quỷ thần diệu'. Thích-

đề-ho

àn-nhân bèn

đi đến chỗ quỷ ấy, cách nhau không xa, tự xưng tánh danh:

- 'Tôi là Thích-

đề-ho

àn-nhân, chủ của chư Thiên'.

Lúc Thích-

đề-ho

àn-nhân tự xưng danh tánh, thì ác quỷ kia bèn biến thành hình thù xấu xí, sắc mặt khả ố. Ác quỷ ấy lập tức tiêu diệt.

Này các Tỳ-kheo! Do phương tiện này nên biết, thực hành lòng từ không lìa bỏ,

đức kia cũng như thế.

Này các Tỳ-kheo ! Xưa kia, khi Ta vừa bảy tuổi, thường tu lòng từ, trải qua bảy kiếp thành, bảy kiếp hoại, không qua lại chốn sanh tử. Lúc kiếp sắp hoại, Ta liền sanh lên trời Quang Âm. Khi kiếp sắp thành, Ta liền sanh lên cõi trời Vô Tưởng, hoặc làm Phạm thiên thống lãnh chư Thiên, cai quản mười ngàn thế giới. Ta lại ba mươi bảy lần làm. Thích-

đề-ho

àn-nhân, lại có vô số lần làm Chuyển luân Thánh vương.

Này Tỳ-kheo! Do phương tiện này nên biết, thực hành lòng từ thì

đức kia như thế. Lại nữa, người thực h

ành lòng từ thì khi thân hoại mạng chung

được sanh l

ên Phạm thiên, lìa ba

đường ác, rời bỏ tám nạn. Lại nữa, người thực h

ành lòng từ sanh trong quốc

độ trung chánh. Lại nữa, người thực h

ành lòng từ dung mạo

đoan chánh, các căn không thiếu, thân thể to

àn vẹn. Lại nữa, người thực hành lòng từ

đích thân được gặp Như Lai, thừa sự chư Phật, không ưa ở tại gia, muốn xuất gia học đạo, mặc ba pháp y, cạo bỏ râu tóc, tu theo pháp Sa-môn, tu Phạm hạnh vô thượng.

Tỳ-kheo nên biết! Cũng như người nuốt kim cang, trọn không thể tiêu hóa, phải lọt ra. Người thực hành lòng từ cũng lại như thế. Nếu Như Lai ra

đời, cần phải h

ành

đạo, tu Phạm hạnh vô

thượng, sanh tử

đ

ã hết, Phạm hạnh

đ

ã lập, việc phải làm

đ

ã làm xong, không thọ thân lại, biết một cách như thật.

Khi ấy, Tôn giả A-nan bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu khi Như Lai không xuất hiện ở

đời, thiện nam tử kia không ưa ở tại gia, phải thú hướng về đâu?

Phật bảo A-nan:

- Nếu khi Như Lai không xuất hiện, kẻ thiện nam tử ấy không ưa ở nhà thì tự cạo râu tóc ở chỗ vắng, tự khắc phục mình

để tu tập. Vị ấy ngay ở chỗ ấy chấm dứt các hữu lậu, th

ành tựu hạnh vô lậu.

Khi ấy, A-nan bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu người kia tự tu Phạm hạnh, hạnh tam thừa thì người ấy thú hướng nơi nào?

Phật bảo A-nan:

- Như lời thầy nói. Ta thường dạy hạnh Tam thừa, chư Phật ba

đời quá khứ, hiện tại, vị lai đều nói về pháp Tam thừa.

A-nan nên biết! Hoặc có lúc các loài chúng sanh, dung mạo, thọ mạng dần dần giảm thiểu, hình thể xấu xa yếu ớt, không có oai thần; nhiều sân nộ, tật

đố, nghi ngờ, gian ngụy, huyễn hoặc, việc l

àm không chơn chánh. Hoặc lại có người mạnh mẽ lanh lợi, lần lượt

đấu tranh, c

ùng nhau nghinh chiến; hoặc dùng tay cầm ngói, gạch, dao, gậy giết hại, làm tổn thương cho nhau. Lúc ấy các loài chúng sanh cầm cọng cỏ liền biến thành dao kiếm giết mạng sống. Trong

đó, có những chúng sanh thực h

ành lòng từ, không sân nộ, thấy những sự thay

đổi quái dị n

ày,

đều sợ h

ãi, tất cả cùng chạy xa khỏi chỗ ác

độc n

ày. Họ vào trong rừng núi, tự nhiên cạo bỏ râu tóc, mặc ba pháp y, tu Phạm hạnh vô thượng, tự mình khắc phục tu hành, chấm dứt tâm hữu lậu,

được giải thoát, b

èn vào cảnh giác vô lậu. Mỗi người

đều nói với nhau rằng: 'Chúng ta đ

ã thắng

được oan gia'.

A-nan nên biết! Người ấy gọi là tối thắng.

Khi ấy, Tôn giả A-nan lại bạch Phật:

- Người ấy ở tại bộ nào? Thanh v

ăn bộ, Bích-chi bộ hay Phật bộ?

Phật bảo A-nan:

- Người ấy là chính ở tại Bích-chi bộ. Vì sao? Do người làm các công

đức, tạo các gốc l

ành, tu Tứ

đế

thanh tịnh, phân biệt các pháp. Phàm thực hành pháp lành tức là lòng từ vậy. Vì sao? Lòng nhân trùm khắp, thực hành lòng từ,

đức ấy rộng lớn. Xưa kia Ta mặc giáp nhân từ n

ày, hàng phục quyến thuộc quân ma, dưới cội

đạo thọ th

ành

đạo vô thượng.

Do phương tiện này nên biết, lòng từ là tối thượng bậc nhất, từ là pháp tối thắng. A-nan nên biết, cho nên gọi người thực hành, lòng từ tối thắng,

đức kia như thế, không thể tính kể, n

ên tìm phương tiện tu hành lòng từ. Như thế, A-nan, nên học

điều n

ày!

Bấy giờ, A-nan nghe Phật dạy xong vui vẻ vâng làm.

*

6. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở tại nước Xá-vệ, rừng Kỳ-

đ

à, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ, Tôn giả Xá-lợi-phất, sáng sớm từ tịnh thất

đi đến chỗ Thế Tôn, cúi đầu lễ chân Phật, lui ngồi một b

ên. Khi ấy, Phật bảo Xá-lợi-phất:

- Hôm nay, các c

ăn của Thầy thanh tịnh, vẻ mặt khác người, nay Thầy dạo trong tam-muội n

ào?

Xá-lợi-phất bạch Phật:

- Thưa vâng, bạch Thế Tôn! Con thường dạo trong Không tam-muội.

Phật bảo Xá-lợi-phất:

- Lành thay, lành thay! Xá-lợi-phất có thể dạo trong Không tam-muội. Vì sao? Trong các tam-muội, Không tam-muội là bậc nhất. Tỳ-kheo dạo trong Không tam-muội, không chấp ngã, nhơn, chúng sinh, thọ mạng cũng không thấy có gốc ngọn các hành. Ðã không thấy thì cũng không tạo các hành,

đ

ã không thì không nhận có thân. Ðã không thọ thân thì chẳng thọ quả báo khổ vui.

Xá-lợi-phất nên biết! Xưa kia Ta chưa thành Phật, ngồi dưới cội cây, liền khởi ý nghĩ nầy: 'Các chúng sanh do không

được pháp g

ì mà lưu chuyển sanh tử không giải thoát?' Khi ấy Ta lại khởi ý nghĩ nầy: 'Vì chẳng có Không tam-muội nên lưu chuyển sanh tử, không

được đến chỗ giải thoát rốt táo. Có Không tam-muội n

ày, nhưng chúng sanh chưa khắc phục

được, khiến chúng sanh khởi tưởng đắm trước. Do khởi tưởng thế gian b

èn chịu phận sanh tử. Nếu

được Không tam-muội n

ày, cũng không sở nguyện, liền

được Vô nguyện tam-muội, đ

ã

được Vô nguyện tam-muội, không mong cầu chết đây sanh kia, hết thảy đều không tưởng niệm. Khi ấy, h

ành giả kia lại

được Vô tưởng tam-muội, có thể tự vui thích. Chúng sanh do không được ba tam-muội ấy n

ên lưu chuyển sanh tử'.

Ta quán sát các pháp xong, liền

được Không tam-muội.

Ðã

được Không tam-muội liền th

ành

đạo Vô Thượng Chánh

Ðẳng Chánh Giác. Bấy giờ,

đang khi Ta được Không tam-muội, suốt bảy ng

ày bảy

đ

êm Ta ngồi quan sát dưới cội

đạo thọ, không chớp mắt.

Xá-lợi-phất! Do phương tiện này nên biết,

đối với các tam-muội, Không tam-muội l

à tam-muội

đệ nhất. Vua trong các tam muội chính l

à Không tam-muội vậy. Xá-lợi-nhất! Nên tìm phương tiện thành tựu Không tam-muội. Như thế, Xá-lợi-phất, nên học

điều n

ày!

Bấy giờ, Xá-lợi-phất nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

7. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở tại thành La-duyệt, vườn trúc Ca-lan-

đ

à, cùng với

đại chúng Tỳ-kheo một ng

àn hai tr

ăm năm mươi người.

Bấy giờ, trong thành La-duyệt có trưởng giả tên Thi-lợi-quật, giàu có nhiều vàng bạc trân bảo, xa cừ, mã não, không thể tính kể. Ông lại không gần gũi Phật pháp, chỉ phụng sự ngoại

đạo Ni-kiền Tử, vua quan đại thần thảy đều biết r

õ.

Khi ấy, những người tại gia, xuất gia trong nhóm ngoại

đạo Ni-kiền Tử b

àn luận với nhau rằng: 'Có ta, chấp có thân ta'. Họ nhóm họp với Lục sư ngoại

đạo, b

àn luận thế này: 'Nay Sa-môn Cù-

đ

àm việc gì cũng biết, có Nhất thiết trí. Song chúng ta không

được lợi dưỡng, nay Sa-môn ấy được nhiều lợi dưỡng, chúng ta cần t

ìm cách khiến cho ông ấy không

được lợi dưỡng. Chúng ta n

ên

đến nh

à trưởng giả Thi-lợi-quật, bảo trưởng giả tìm phương kế'.

Lúc ấy, ngoại

đạo Phạm chí Ni-kiến Tử cũng Lục sư, đi đến nh

à trưởng giả Thi-lợi-quật, nói với trưởng giả rằng:

- Trưởng giả nên biết! Chúng ta do Phạm thiên sanh, là con của Phạm thiên, có nhiều lợi ích. Nay trưởng giả nên

đến chỗ Sa-môn C

ù-

đ

àm, vì thương chúng tôi, nên thỉnh Sa-môn cùng chúng Tỳ-kheo về nhà cúng dường. Trưởng giả lại nên sai làm hầm lửa lớn trong nhà, lửa cháy hừng, tất cả thức

ăn đều bỏ thuốc độc, mời họ đến ăn. Nếu Sa-môn C

ù-

đ

àm có Nhất thiết trí, biết rõ việc ba

đời th

ì không nhận lời mời. Nếu Ông ấy không có Nhất thiết trí, sẽ nhận lời mời,

đem đệ tử đi, thảy đều bị lửa thi

êu

đốt. Người, Trời được an lạc, không có tai họa.

Khi ấy, trưởng giả Thi-lợi-quật lặng yên theo lời Lục sư, liền ra khỏi thành

đến chỗ Phật, cúi đầu lễ chân

Phật,

đem l

òng tạp

độc m

à bạch Phật:

- Cúi xin Thế Tôn và chư Tỳ-kheo T

ăng nhận lời thỉnh của con.

Bấy giờ, Thế Tôn biết ý nghĩ trong tâm trưởng giả, im lặng nhận lời.

Thi-lợi-quật thấy Như Lai

đ

ã im lặng nhận lời mời, liền

đứng dậy cúi đầu lễ chân Phật lui ra. Giữa đường, ông b

èn nghĩ: 'Nay các thầy Lục sư của ta nói chắc thật rõ ràng, còn Sa-môn Cù-

đ

àm không biết ý nghĩ trong tâm ta, chắc chắn sẽ bị lửa

đốt cháy'.

Thi-lợi-quật trở về nhà, sai

đ

ào hầm lớn,

đốt lửa to rồi sai chuẩn bị các thức ăn, thảy đều tẩm thuốc độc, lại ở ngo

ài cửa

đ

ào hầm lớn,

đốt lửa cháy to, tr

ên hầm lửa sắp

đặt chỗ ngồi, tẩm thuốc độc v

ào thức

ăn

xong, bèn

đến bạch Phật, đúng thời.

Bấy giờ, Thế Tôn biết

đến thời, đắp y mang bát, dắt chúng Tỳ-kheo vây quanh trước sau, đến nh

à trưởng giả.

Phật bảo các Tỳ-kheo:

- Các Thầy không

được đi trước Ta, cũng không được

ngồi trước Ta, không

được ăn trước Ta.

Khi ấy, nhân dân trong thành La-duyệt nghe Thi-lợi-quật làm hầm lửa lớn và làm thức

ăn độc, thỉnh Phật c

ùng chúng Tỳ-kheo. Bốn bộ chúng

đều khóc lóc, cho rằng chẳng lẽ Như Lai v

à chúng T

ăng bị hại ư? Hoặc có người đến chỗ Thế Tôn, cúi đầu lễ chân Phật, bạch rằng:

- Cúi xin Thế Tôn

đừng đi đến nh

à trưởng giả ấy. Ông ấy làm hầm lửa lớn và làm thức

ăn độc.

Phật bảo:

- Các Người chớ sợ, Như Lai không bị ai làm hại. Giả sử trong cõi Diêm-phù-

đề lửa cháy đến Phạm thi

ên, còn không thể thiêu

đốt Ta được, huống g

ì chút lửa nhỏ này muốn hại Như Lai, trọn không việc ấy. Này Ưu-bà-tắc! Nên biết Ta không có tâm hại.

Bấy giờ, Thế Tôn cùng chúng Tỳ-kheo vây quanh trước sau, vào thành La-duyệt

đến nh

à trưởng giả. Ðức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

- Các Thầy chớ vào nhà trưởng giả trước, cũng

đừng ăn trước, n

ên

đợi Như Lai ăn rồi sau h

ãy

ăn.

Thế Tôn vừa bước lên ngạch cửa, hầm lửa tự nhiên hóa thành ao nước trong mát,

đầy các thứ hoa trong ấy, cũng nảy sanh hoa sen lớn như bánh xe, cọng hoa bằng bảy báu, c

ùng nảy sanh các loại hoa sen khác, ong chúa bay dạo trong ấy. Bấy giờ Thích-

đề-ho

àn-nhân, Phạm thiên vương và Từ thiên vương, Càn-thát-bà, A-tu-la và các Dạ-xoa, Quỷ thần, thấy trong hầm lửa sanh hoa sen này,

đều vui mừng khen ngợi, c

ùng khắp lời

đồng tiếng, nói rằng:

- Như Lai là bậc tối thắng

đệ nhất.

Trong nhà trưởng giả có các ngoại

đạo dị học tụ tập trong ấy. H

àng Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di thấy sức biến hóa của Như Lai,

đều vui mừng hớn hở không thể tự kềm. Ngoại đạo dị học thấy sức biến hóa của Như Lai rồi, rất buồn lo. Các tôn thần tr

ên hư không rải các thứ danh hoa trên thân Như Lai. Bấy giờ, Thế Tôn

đi tr

ên không cách

đất bốn tấc đến nh

à trưởng giả, nơi Ngài vừa nhấc chân lên, liền nảy sanh hoa sen to như bánh xe. Ðức Thế tôn quay sang bên phải, bảo các Tỳ-kheo:

- Tất cả các Thầy

đều đi tr

ên hoa sen này.

Các Thanh v

ăn đều bước tr

ên hoa sen

đến nh

à trưởng giả. Bấy giờ, Thế Tôn nói một thí dụ cổ tích:

- Từ quá khứ

đến nay, Ta đ

ã từng cúng dường hằng sa chư Phật, thừa sự lễ kính chưa từng trái ý,

đem lời thệ nguyện chí th

ành này khiến các tòa ngồi

đều vững chắc.

Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

- Nay Ta cho phép các Tỳ-kheo, trước lấy tay vịn ghế, sau hãy ngồi,

đây l

à lời dạy của Ta.

Thế Tôn và chư Tỳ-kheo T

ăng đều đến ghế ngồi, dưới những ghế ấy đều nảy sanh hoa sen thơm ngát.

Khi ấy, Thi-lợi-quật thấy sự biến hóa của

đức Phật như vậy, b

èn khởi nghĩ: 'Ta

đ

ã bị ngoại

đạo dị học lừa gạt, l

àm mất con

đường trong c

õi người của ta, và vĩnh viễn mất con

đường c

õi trời'. Tâm ý ông tức giận như

ăn nhằm thuốc độc: 'Chắc ta sẽ bị rơi trong ba đường ác, Như Lai xuất thế thật l

à khó gặp'. Biết

điều n

ày rồi, ông liền khóc lóc, cúi

đều lễ chân Phật, bạch rằng:

- Cúi xin Như Lai cho con sám hối lỗi lầm, sửa

điều đ

ã qua, chỉnh

điều sắp đến. Con tự biết có tội xúc phạm đến Như Lai. Cúi xin Thế Tôn nhận sự sám hối của con, không dám tái phạm.

Phật bảo:

- Này Trưởng giả! Cải hối, bỏ ý cũ mới có thể tự biết là xúc phạm Như Lại. Pháp của Thánh hiền rất rộng lớn, cho phép Ông cải hối, theo pháp mà bỏ. Nay Ta nhận lời Ông sám hối, sau chớ phạm lại.

Nói như vậy ba lần.

Bấy giờ, vua A-xà-thế nghe trưởng giả Thi-lợi-quật làm hầm lửa lớn và thức

ăn độc muốn hại Như Lai. Nghe xong, vua nổi giận đ

ùng

đ

ùng, bảo các quần thần:

- Phải giết hết những người tên Thi-lợi-quật trên toàn cõi nước.

Nhà vua lại nhớ

đến công đức của Như Lai, buồn khóc rơi lệ, ném bỏ mũ thi

ên triều, bảo quần thần:

- Này ta còn sống làm gì mà

để Như Lai bị lửa đốt cháy, c

ùng với các Tỳ-kheo

đều bị thi

êu. Các Ông mau

đến nh

à trưởng giả xem Như Lai thế nào?

Bấy giờ, Vương tử Kỳ-bà-già tâu vua A-xà-thế rằng:

- Ðại dương! Xin chớ lo buồn, cũng chớ khởi ý ác. Vì sao? Như Lai không bị người khác làm hại. Hôm nay trưởng giả Thi-lợi-quật sẽ làm

đệ tử đức Như Lai. Cúi xin

Ðại vương nên

đến xem sự biến hóa.

Vua A-xà-thế nghe lời Kỳ-bà-già an ủi, bèn cỡi voi lớn Tuyết Sơn lập tức

đến nh

à trưởng giả Thi-lợi-quật, xuống voi liền vào nhà trưởng giả. Bấy giờ, những người tụ tập ngoài cửa có

đến tám vạn bốn ng

àn người. Khi vua A-xà-thế thấy bông sen lớn như bánh xe, vui mừng hớn hở không thể tự kềm, nói rằng: 'Như Lai thường thắng bọn ma'. Vua bảo Vương tử Kỳ-bà-già:

- Lành thay, Kỳ-bà-già! Ta mới tin thật Như Lai có việc lạ như thế!

Khi ấy, vua A-xà-thế

đến chỗ Thế Tôn, cúi đầu lễ chân Phật, lui ngồi một b

ên. Vua A-xà-thế thấy từ miệng Phật phát ra ánh sáng, cũng thấy sắc mặt Thế Tôn thù thắng phi thường, nhà vua vui mừng không thể tự kềm.

Bấy giờ, trưởng giả Thi-lợi-quật bạch Phật:

- Thức

ăn của con sắp đặt đều có thuốc độc, cúi xin Thế Tôn chờ giây lát, con sẽ dọn thức ăn khác. V

ì sao? Con không muốn thân thể Như Lai bị tổn hại.

Phật bảo trưởng giả:

- Như Lai và

đệ tử trọn không bị người hại. N

ày Trưởng giả! Thức

ăn đ

ã sắp

đặt xong n

ên tùy thời cúng dường.

Trưởng giả tự tay sớt thức

ăn. Thế Tôn b

èn nói kệ:

Quy y Phật, Pháp, T

ăng,

Ðộc hại không tổn

đến,

Chư Phật không có

độc,

Quy y Phật, dẹp

độc,

Quy y Phật, Pháp, T

ăng,

Ðộc hại không tổn

đến,

Chư Phật không có

độc,

Quy y Pháp, dẹp

độc.

Quy y Phật, Pháp, T

ăng.

Ðộc hại không tổn

đến,

Chư Phật không có

độc.

Ðộc tham dục, sân nhuế,

Thế gian trọn không

độc,

Quy y Phật, dẹp

độc.

Ðộc dục, nộ, sân nhuế,

Ba

độc thế gian n

ày,

Như Lai, Pháp không

độc,

Quy y Pháp, dẹp

độc.

Ðộc dục, nộ, sân nhuế,

Thế gian có ba

độc,

Như Lai, T

ăng không độc,

Quy y T

ăng, dẹp độc.

Bấy giờ, Thế Tôn nói kệ ấy xong, liền dùng thức

ăn tạp độc. Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

- Các thầy chớ

ăn trước, n

ên

đợi Như Lai ăn xong, sau rồi h

ãy

ăn.

Trưởng giả tự tay san sớt các thức

ăn uống cúng dường Phật v

à Tỳ-kheo T

ăng. Trưởng giả Thi-lợi-quật thấy Phật ăn xong, dọn rửa bát, rồi ngồi tr

ên một ghế thấp trước

đức Phật. Bấy giờ, Thế Tôn v

ì trưởng giả và tám muôn bốn ngàn dân chúng nói pháp vi diệu. Ðó là những pháp bố thí, trì giới, sanh thiên, dục tưởng bất tịnh, dục là họa lớn, xuất yếu là vui. Như Lai quán sát tâm trưởng giả và tám vạn bốn ngàn chúng, thấy ai nấy tâm khai ý giải, không còn trần cấu. Những pháp chư Phật thường nói như Khổ, Tập, Diệt, Ðạo, Ngài cũng

đem dạy hết cho tám vạn bốn ng

àn chúng, phân biệt, giảng rộng hạnh kia. Bấy giờ, hội chúng ngay tại chỗ ngồi dứt sạch trần cấu,

được pháp nh

ãn tịnh, cũng như áo mới dễ nhuộm màu sắc.

Trưởng giả kia cũng thế, ngay tại chỗ ngồi

đ

ã thấy dấu

đạo, đ

ã thấy pháp,

đắc

pháp, phân biệt các pháp, vượt khỏi sự nghi ngờ,

được điều không sợ h

ãi, không còn theo ngoại

đạo, tự quy y Phật, Pháp Tăng, thọ năm giới. Trưởng giả Thi-lợi-quật tự biết m

ình

được dấu đạo, bạch Phật rằng:

- Cúng thí thức

ăn độc cho Như Lai lại được quả báo lớn, không như cúng vị cam lồ cho các ngoại đạo dị học lại bị tội. V

ì sao? Hôm nay con

đem thức ăn độc mời Phật v

à Tỳ-kheo T

ăng, ở trong hiện

pháp

được sự chứng nghiệm

này. Con bị các ngoại

đạo ấy l

àm mê lầm lâu dài, nên mới dấy khởi tâm niệm ác

đối với Như Lai. Người n

ào vâng theo ngoại

đạo dị

học

đều rơi v

ào biên tế. Phật bảo trưởng giả:

- Như lời Ông nói không khác,

đều l

à bị bọn họ dối gạt.

Bấy giờ, Thi-lợi-quật bạch Phật:

- Từ

đây về sau, con không c

òn tin theo các ngoại

đạo dị học ấy nữa. Con cũng không muốn cho bổn hộ chúng tại gia cúng dường bọn họ.

Phật bảo trưởng giả:

- Chớ nói như vậy. Vì sao? Nay Ông thường cúng dường các ngoại

đạo ấy. Bố thí cho lo

ài súc sanh, phước

đức kia khó lường, huống g

ì cúng thí cho người. Nếu có ngoại

đạo dị học hỏi rằng Thi-lợi-quật l

à

đệ tử của ai. Ông sẽ đáp thế n

ào?

Thi-lợi-quật liền từ chỗ ngồi

đứng dậy, quỳ gối chấp tay bạch Phật:

- Dũng mãnh mà giải thoát, nay

được l

àm thân người, là tiên nhân thứ bảy, là

đệ tử của đức Thích-ca Văn.

Thế Tôn bảo:

- Lành thay, Trưởng giả! Có thể nói lời khen vi diệu này. Ngài nói kệ:

Tế lễ, lửa là trên.

Thi thơ, tụng là trên,

Trong người, vua trên hết,

Các dòng, biển là nguồn.

Các sao, tr

ăng sáng nhất,

Ánh sáng, mặt trời nhất,

Trên dưới và bốn phương,

Tất cả loài hữu hình,

Chư Thiên và thế gian,

Phật là tối

đệ nhất,

Muốn tìm cầu phước

đức,

Nên cúng dường Chánh Giác.

Bấy giờ, Thế Tôn nói kệ xong liền

đứng

dậy. Trưởng giả Thi-lợi-quật và những người

đến dự hội, nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng l

àm.

-ooOoo-

XXXXVI. Phẩm Kết cấm

1. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở tại Xá-vệ, rừng Kỳ-

đ

à, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

- Có mười sự công

đức, Như Lai v

ì các Tỳ-kheo nói cấm giới. Thế nào là mười? Là thừa sự Thánh chúng; hòa hợp thuận thảo với nhau; an ổn Thánh chúng; hàng phục người ác; khiến các Tỳ-kheo biết tàm, quý, không bị não loạn; người không tin khiến lập lòng tin; người

đ

ã tin khiến t

ăng th

êm bội phần; ở trong hiện pháp

được dứt sạch hữu lậu, cũng khiến cho các lậu đời sau thảy đều trừ sạch; khiến Chánh pháp trụ đời lâu d

ài; thường suy nghĩ phải có cách gì

để Chánh pháp tồn tại lâu d

ài.

Này các Tỳ-kheo! Ðó là mười pháp công

đức, Như Lai v

ì các Tỳ-kheo nói cấm giới. Cho nên, Tỳ-kheo! Nên tìm phương tiện thành tựu cấm giới

đừng để cho mất. Như thế, n

ày các Tỳ-kheo, nên học

điều n

ày!

Bấy giờ, các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

2. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở tại nước Xá-vệ, rừng Kỳ-

đ

à vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

- Chỗ ở của chư Hiền Thánh có mười việc, chư Thánh ba

đời đều ở trong ấy. Thế n

ào là mười? Ở

đây, Tỳ-kheo đ

ã trừ bỏ n

ăm việc; th

ành tựu sáu pháp; thường giữ một việc; ủng hộ bốn chúng; quan sát chỗ yếu kém; thân cận bình

đẳng; chánh hướng vô lậu; nương tựa thân h

ành; tâm khéo giải thoát; trí tuệ giải thoát.

Thế nào là Tỳ-kheo

đ

ã trừ n

ăm việc? Ở đây, Tỳ-kheo đ

ã

đoạn dứt năm kiết sử. Như thế l

à

đ

ã trừ n

ăm việc.

Thế nào là Tỳ-kheo thành tựu sáu pháp? Ở

đây, n

ày các Tỷ kheo, Tỷ-kheo khi mắt thấy sắc không có hân hoan, không có thất vọng, trú xả, chánh niệm tỉnh giác; khi tai nghe tiếng... khi mũi ngửi hương... khi lưỡi nếm vị... khi thân cảm xúc... khi ý biết pháp, không có hân hoan, không có thất vọng, trú xả, chánh niệm tỉnh giác. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo thành tựu sáu pháp. (bổ sung từ Kinh Thánh Cư, T

ăng Chi X.20 -- B

ình Anson, 02-2004)

Thế nào là Tỳ-kheo thường hộ một việc? Ở

đây, Tỳ-kheo thường hộ tr

ì tâm niệm hữu lậu vô lậu, hữu vi vô vi

đến cửa Niết-b

àn. Như thế là Tỳ-kheo thường hộ một việc.

Thế nào là Tỳ-kheo hộ trì bốn chúng? Ở

đây, Tỳ-kheo th

ành tựu Tứ thần túc. Như thế là Tỳ-kheo hộ trì bốn chúng.

Thế nào là Tỳ-kheo quan sát chỗ yếu kém? Ở

đây, Tỳ-kheo các h

ành sanh tử

đ

ã chấm dứt. Ðó gọi là Tỳ-kheo quan sát chỗ yếu kém.

Thế nào là Tỳ-kheo thân cận bình

đẳng? Ở đây, Tỳ-kheo đ

ã chấm dứt ba kết. Ðó gọi là Tỳ-kheo thân cận bình

đẳng.

Thế nào là Tỳ-kheo chánh hướng vô lậu? Ở

đây, Tỳ-kheo trừ bỏ ki

êu mạn. Như thế là Tỳ-kheo chánh hướng vô lậu.

Thế nào là Tỳ-kheo nương tựa vào thân hành? Ở

đây, Tỳ-kheo đ

ã trừ vô minh. Như thế là Tỳ-kheo nương tựa thân hành.

Thế nào là Tỳ-kheo tâm khéo giải thoát? Ở

đây, Tỳ-kheo đ

ã trừ sạch ái. Như thế là Tỳ-kheo tâm khéo giải thoát.

Thế nào là Tỳ-kheo trí tuệ giải thoát? Ở

đây, Tỳ-kheo quán Khổ đế, Tập đế, Diệt đế,

Ðạo

đế, biết một cách như thật.

Ðó là Tỳ-kheo trí tuệ giải thoát.

Này các Tỳ-kheo! Ðó là chỗ ở

đủ mười sự của Hiền Thánh. Ng

ày trước, các bậc hiền Thánh cũng ở trong ấy,

đ

ã ở,

đang ở.

Cho nên, Tỳ-kheo! Nên nhớ nghĩ trừ bỏ n

ăm việc, th

ành tựu sáu pháp, giữ gìn một pháp, hộ trì bốn chúng, quan sát chỗ yếu kém, thân cận bình

đẳng, chánh hướng về vô

lậuu, nương tựa thân hành, tâm

được giải thoát, trí tuệ giải thoát. Như thế, n

ày các Tỳ-kheo, nên học

điều n

ày!

Bấy giờ, các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

3. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở tại nước Xá-vệ, rừng Kỳ-

đ

à, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

- Như Lai thành tựu mười lực, tự biết không

đắm trước. Ở trong đại chúng rống tiếng sư tử; chuyển vận bánh xe Chánh pháp vô thượng để độ chúng sanh; nghĩa l

à

đây l

à sắc,

đây l

à sắc tập,

đây l

à sắc tận,

đây l

à sắc xuất yếu; quán sát thọ, tưởng, hành, thức, cũng như vậy; nhân cái này có thì cái kia có, cái này sanh thì kia sanh; vô minh duyên lành, lành duyên thức, thức duyên danh sắc, danh sắc duyên lục nhập, lục nhập duyên xúc, xúc duyên thọ, thọ duyên ái, ái duyên thủ, thủ duyên hữu, hữu duyên sanh, sanh duyên tử, tử duyên ưu bi khổ não không thể tính kể.

Nhân có thân ngũ ấm này có pháp tận này,

đây diệt th

ì kia diệt,

đây không th

ì kia không. Vô minh hết thì hành hết, hành hết thức hết, thức hết danh hết, xúc hết thọ hết, thọ hết ái hết, ái hết thủ hết, thủ hết hữu hết, hữu hết sanh hết, sanh hết tử hết, tử hết thì ưu bi khổ não thảy

đều trừ sạch.

Tỳ-kheo nên biết! Pháp của Ta rất rộng lớn không bờ mé, không

đáy, dứt các hồ

nghi, an ổn ở nơi Chánh Pháp. Thiện nam, tín nữ cần sinh n

ăng dụng tâm không để kém khuyết, d

ù thân thể khô hoại, trọn không bỏ hạnh tinh tấn, buộc ý vững chắc không quên, tu hành pháp khổ không

đổi tâm, ưa ở chỗ vắng, y

ên lặng tư duy, không bỏ hạnh

đầu đ

à, như hiện nay Như Lai khéo tu Phạm Hạnh.

Cho nên, này các Tỳ-kheo! Nếu khi tự quán sát, suy nghĩ về pháp vi diệu thì cần phải quán sát hai nghĩa, không có hạnh phóng dật, khiến thành tựu quả thật

đến chỗ cam lồ, diệt tận. Nếu nhận người khác cúng dường như y phục, mền, nệm, thức ăn uống, giường nằm, ngọa cụ, thuốc men, cũng không phụ công khó của tín thí, cũng khiến cha mẹ được quả báo, phụng sự chư Phật lễ kính cúng dường. Như thế, n

ày các Tỳ-kheo, nên học

điều n

ày!

Bấy giờ, các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

4. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-

đ

à, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ, thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

- Như Lai thành tựu mười lực,

được bốn vô sở úy. Ở trong chúng rống tiếng sư tử.

Thế nào là mười lực? Biết như thật về thị xứ; biết như thật về phi xứ; biết như thật nhân duyên nơi chốn thọ báo của chúng sanh; biết như thật bao nhiêu cõi, bao nhiêu loại trì, bao nhiêu loại nhập; biết như thật có bao nhiêu loại giải thoát, vô lượng giải thoát, biết như thật các chúng sanh có trí tuệ nhiều ít; biết như thật ý niệm trong tâm của các chúng sanh: tâm có dục biết tâm có dục, tâm không dục biết tâm không dục, tâm có sân nhuế biết tâm có sân nhuế, tâm không sân nhuế biết tâm không sân nhuế, tâm có ngu si biết tâm có ngu si, tâm không ngu si biết tâm không ngu si, tâm có ái biết tâm có ái, tâm không ái biết tâm không ái, tâm có thọ biết tâm có thọ, tâm không thọ biết tâm không thọ, tâm loạn biết tâm loạn, tâm không loạn biết tâm không loạn, tâm tán biết tâm tán, tâm không tán biết tâm không tán, tâm hẹp biết tâm hẹp, tâm không hẹp biết tâm không hẹp, tâm rộng lớn biết tâm rộng lớn, tâm không rộng lớn biết tâm không rộng lớn, tâm vô lượng biết tâm vô lượng, tâm hữu lượng biết tâm hữu lượng, tâm

định biết tâm định, tâm không định biết tâm không định, tâm giải thoát biết tâm giải thoát, tâm không giải thoát biết tâm không giải thoát; biết như

thật tất cả con

đường của tâm hướng đến, hoặc một đời, hai đời, ba đời, bốn đời, năm đời, mười đời, năm mươi đời, một trăm đời, ng

àn

đời, ức trăm ng

àn

đời, vô lượng đời, kiếp th

ành, kiếp hoại, trong vố số kiếp thành, kiếp hoại, xưa kia ta sanh nơi

đó, t

ên

đó, họ đó, ăn những thức ăn như thế, chịu các khổ vui thọ mạng d

ài ngắn, chết

đây sanh kia, chết kia sanh đây, tự nhớ các việc trong vô số đời đ

ã qua như thế; biết như thật các

đường sanh tử của chúng sanh, d

ùng Thiên nhãn quán sát các loài chúng sanh, sắc lành sắc dữ,

đường l

ành

đường dữ, t

ùy theo việc làm các loài thảy

đều biết r

õ, hoặc có chúng sanh thân miệng ý làm ác, phỉ báng Hiền Thánh, tạo nghiệp tà kiến, khi chết sanh vào

địa ngục, hoặc có chúng sanh thân miệng ý l

àm lành, không phỉ báng Hiền Thánh, thường hành chánh kiến, khi chết sanh lên cõi trời,

đó gọi l

à Thiên nhãn thanh tịnh quán sát các hành

động dẫn chúng sanh đi các nẻo; biết như thật sự chấm dứt hữu lậu, th

ành tựu vô lậu, tâm giải thoát, trí tuệ giải thoát, sanh tử

đ

ã dứt, Phạm hạnh

đ

ã lập, việc phải làm

đ

ã làm xong, không thọ lại thân sau.

Ðó gọi là Như Lai có Mười lực, không

đắm trước, được Bốn vô sở úy, ở trong chúng rống tiếng sư tử, chuyển bánh xe Phạm.

Thế nào gọi là Như Lai

được

Bốn vô sở úy? Muốn nói Như Lai thành Ðẳng Chánh Giác, nếu có chúng sanh muốn nói biết việc này, ắt không

được. Nếu có Sa-môn, B

à-la-môn muốn

đến ch

ê bai Phật không thành Ðẳng Chánh Giác, ắt không

được. Do ch

ê bai không

được, n

ên Ta an ổn.

Lại nữa, nay Ta nói

đ

ã hết các hữu lậu. Giả sử có Sa-môn, Bà-la-môn, Trời, hoặc Ma trời muốn

đến nói Ta chưa dứt hữu lậu, ắt không được. Do không được như thế, n

ên Ta an ổn.

Lại nữa, pháp Ta nói ra là pháp Hiền Thánh

được xuất yếu, chấm dứt mé khổ như thật. Nếu có Sa-môn, B

à-la-môn, Trời, Ma trời muốn

đến nói Ta chưa hết mé khổ, ắt không được. V

ì không

được như thế, n

ên Ta an ổn.

Lại nữa, Ta nói về nội pháp rơi trong

đường ác. Giả sử có Sa-môn, B

à-la-môn

đến, muốn nói không phải, ắt không được.

Này, Tỳ-kheo,

đó l

à Như Lai có Bốn vô sở úy. Giả sử hàng ngoại

đạo dị học nói rằng: 'Sa-môn C

ù-

đ

àm kia có những thế lực gì? Có vô úy gì, mà tự xưng là bậc Vô trước, Tối tôn?'. Các Thầy nên

đem Mười lực n

ày mà trả lời họ.

Giả sử có ngoại

đạo dị học lại nói như vầy: 'Chúng ta cũng th

ành tựu Mười lực'. Tỳ-kheo các Thầy nên hỏi họ rằng: 'Các Ông có Mười lực gì?'. Khi ấy hàng ngoại

đạo dị học chắc chắn không thể trả lời, họ b

èn t

ăng th

êm lòng giận tức. Vì sao? Ta chưa từng thấy Sa-môn, Bà-la-môn nào tự xưng rằng

được Bốn vô sở úy, trừ đức Như Lai.

Cho nên, này các Tỳ-kheo, hãy tìm phương tiện thành tựu Mười lực, Bốn thứ vô úy!

Như thế, Tỳ-kheo, nên học

điều n

ày.

Bấy giờ, các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

5. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-

đ

à, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

- Có Mười niệm, nên phân biệt rộng, tu hành Mười niệm ấy, sẽ dứt sạch dục ái, sắc ái, vô sắc ái, kiêu mạn, vô minh. Thế nào là mười? Là niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tỳ-kheo T

ăng, niệm Giới, niệm

Thí, niệm Thiên, niệm Chỉ Quán, niệm An-ban, niệm Thân, niệm Tử.

Này các Tỳ-kheo, có chúng sanh tu hành Mười niệm này, dứt sạch

được dục ái, sắc ái, vô sắc ái, tất cả vô minh ki

êu mạn, thảy

đều trừ sạch. Như thế, n

ày các Tỳ-kheo, nên học

điều n

ày!

Bấy giờ, Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

6. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-

đ

à, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

- Gần gũi bậc vua chúa vương gia có mười việc phi pháp. Thế nào là mười? Khi nước ấy khởi tâm mưu hại muốn giết vua, do âm mưu ấy nên nhà vua mạng chung. Dân chúng nước ấy bèn khởi nghĩ rằng: 'Các Sa-môn

đạo sĩ nầy thường lui tới, đây ắt l

à do Sa-môn gây nên'. Ðây là

điều phi pháp thứ nhất của nạn gần gũi quốc vương.

Lại nữa khi quan

đại thần phản nghịch bị vua bắt v

à làm hại; khi ấy, nhân dân bèn khởi nghĩ rằng: 'Sa-môn

đạo sĩ nầy thường lui tới, đây chắc l

à Sa-môn làm ra'. Ðây là

điều phi pháp thứ hai của nạn gần gũi quốc vương.

Lại nữa, khi tài bảo trong nước bị mất, người giữ kho liền khởi ý nghĩ nầy: 'Các báu vật này ta thường giữ gìn, không ai khác vào

đây, chắc l

à Sa-môn lấy

đi'.

Ðây là

điều phi pháp thứ ba của nạn gần gũi quốc vương.

Lại nữa, khi con gái nhà vua

đang lúc tuổi

trẻ, chưa chồng mà mang thai; khi ấy, nhân dân bèn khởi nghĩ rằng: 'Trong

đây không ai lui tới, chắc l

à do Sa-môn gây ra'. Ðây là

điều phi pháp thứ tư của nạn gần gũi quốc vương.

Lại nữa, khi vua bị bệnh nặng, trúng thuốc

độc của người khác; khi ấy, nhân dân b

èn nghĩ rằng: 'Trong

đây không có ai khác, chắc l

à do Sa-môn gây nên'. Ðây là

điều phi pháp thứ năm của nạn gần gũi quốc vương.

Lại nữa, vua chúa,

đại thần c

ùng tranh

đấu nhau, giết hại nhau; khi ấy, nhân dân b

èn nghĩ rằng: 'Các

đại thần n

ày vốn hòa hợp nhau, nay lại chống trái nhau,

điều n

ày không do ai khác gây nên, chắc là do Sa-môn

đạo sĩ'.

Ðây là

điều phi pháp thứ sáu của nạn gần gũi quốc vương.

Lại nữa, hai quốc gia cùng

đánh nhau tranh phần thắng; khi ấy nhân dân b

èn khởi nghĩ: 'Sa-môn

đạo sĩ n

ày thường lui tới trong

đó, ắt l

à Sa-môn ấy gây chuyện'. Ðây là

điều phi pháp thứ bảy, của nạn gần gũi quốc vương.

Lại nữa, quốc vương vốn ưa thích bố thí tài vật cho dân chúng, sau lại bỏn sẻn không chịu ban phát; khi ấy, nhân dân

đều khởi nghĩ rằng: 'Vua của chúng ta vốn thích bố thí, nay lại bỏn sẻn tham lam không có tâm bố thí, đây ắt l

à Sa-môn gây nên'. Ðây là

điều phi pháp thứ tám, của nạn gần gũi quốc vương.

Lại nữa, vua thường dùng Chánh pháp

để thâu t

ài vật của dân chúng, sau lại phi pháp lấy tài bảo của dân; khi ấy, nhân dân

đều khởi nghĩ rằng: 'Vua của chúng ta vốn d

ùng Chánh Pháp

để lấy t

ài vật nhân dân, nay lại dùng phi pháp

để lấy t

ài vật. Ðây chắc do Sa-môn gây nên'. Ðây là

điều phi pháp thứ chín, của nạn gần gũi quốc vương'.

Lại nữa, nhân dân khắp nước bị bệnh bởi do duyên

đời trước; khi ấy, nhân dân đều khởi nghĩ rằng: 'Lúc trước chúng ta không có bệnh, nay mọi người đều bị bệnh, người chết đầy đường, chắc l

à do chú thuật của Sa-môn gây nên'. Ðây là

điều phi pháp thứ mười, của nạn gần gũi quốc vương.

Này Tỳ-kheo! Ðó là mười

điều phi pháp, tai nạn của sự gần

gũi quốc vương. Cho nên các Tỳ-kheo chớ sanh tâm gần gũi vua chúa. Như thế, này các Tỳ-kheo, nên học

điều n

ày!

Bấy giờ, các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

7. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở tại nước Xá-vệ, rừng Kỳ-

đ

à, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

- Nếu nhà vua thành tựu mười pháp thì không tồn tại lâu, trong nước sinh nhiều

đạo tặc. Thế n

ào là mười? Khi nhà vua tham lam keo kiệt, chỉ do chút việc nhỏ, bèn sân giận, không xem xét nghĩa lý. Ðây là pháp

đầu ti

ên, khiến không tồn tại lâu.

Lại nữa, nhà vua tham

đắm t

ài vật, không chịu kém. Ðây là pháp thứ hai, khiến không tồn tại lâu.

Lại nữa, nhà vua không nghe lời can gián, là người bạo ngược không có lòng từ. Ðây là pháp thứ ba, khiến không tồn tại lâu.

Lại nữa, nhà vua bắt người oan uổng, trói buộc giam cầm trong ngục không có ngày ra. Ðây là pháp thứ tư, khiến không tồn tại lâu.

Lại nữa, nhà vua dùng

điều phi pháp trị nước, không theo lệnh hạnh chánh.

Ðây là pháp thứ n

ăm khiến không tồn tại lâu.

Lại nữa, nhà vua tham

đắm sắc đẹp người khác, xa lánh vợ m

ình. Ðây là pháp thứ sáu, khiến không tồn tại lâu.

Lại nữa, nhà vua ưa uống rượu, không màng

đến việc triều đ

ình. Ðây là pháp thứ bảy, khiến không tồn tại lâu.

Lại nữa, nhà vua ưa ca múa vui chơi, không tham dự triều chính. Ðây là pháp thứ tám, khiến không tồn tại lâu.

Lại nữa, nhà vua thường

đau ốm, không có ng

ày khỏe mạnh. Ðây là pháp thứ chín, khiến không tồn tại lâu.

Lại nữa, nhà vua không tin

đại thần trung hiếu, người

phụ tá hiếm hoi, không có bầy tôi mạnh. Ðây là pháp thứ mười, khiến không tồn tại lâu.

Nay chúng Tỳ-kheo cũng vậy, nếu thành tựu mười pháp sau, sẽ không làm t

ăng trưởng cột công đức l

ành, sau khi chết rơi vào

địa ngục. Thế n

ào là mười pháp?

đây, Tỳ-kheo không giữ giới cấm, cũng không có tâm cung kính đối với giới.

Ðây là pháp thứ nhất khiến không

được bền lâu.

Lại nữa, Tỳ-kheo không kính vâng Phật, không tin lời chân thật. Ðây là pháp thứ hai, khiến không

được bền lâu.

Lại nữa, Tỳ-kheo không thừa sự pháp, sơ sót về giới luật. Ðây là pháp thứ ba, khiến không

được bền lâu.

Lại nữa, Tỳ-kheo không thừa sự Thánh chúng, thường có ý tự ty, không tin lời dạy của chúng. Ðây là pháp thứ tư, khiến không

được bền lâu.

Lại nữa, Tỳ-kheo tham

đắm lợi dưỡng, tâm không buông bỏ.

Ðây là pháp thứ n

ăm, khiến không được bền lâu.

Lại nữa, Tỳ-kheo không học hỏi nhiều, không siêng tụng

đọc, luyện tập.

Ðây là pháp thứ sáu, khiến không

được bền lâu.

Lại nữa, Tỳ-kheo không vâng lời thiện tri thức, thường nghe theo ác tri thức. Ðây là pháp thứ bảy, khiến không

được bền lâu.

Lại nữa, Tỳ-kheo ưa bày chuyện không nhớ tọa Thiền. Ðây là pháp thứ tám, khiến không

được bền lâu.

Lại nữa, Tỳ-kheo thích toán số, trái

đạo hợp thế tục, không tu tập Chánh pháp.

Ðây là pháp thứ chín, khiến không

được bền lâu.

Lại nữa, Tỳ-kheo không ưa tu Phạm hạnh, tham

đắm bất tịnh.

Ðây là pháp thứ mười, khiến không

được bền lâu.

Ðó gọi là Tỳ-kheo thành tựu mười pháp này, chắc chắn rơi trong ba

đường ác, không sanh chỗ l

ành.

Nếu nhà vua thành tựu mười pháp sau, bèn

được ở ngôi báu lâu đ

ài. Thế nào là mười?

đây, nh

à vua không tham

đắm t

ài vật, không khởi sân hận, lại không vì chuyện nhỏ mà khởi tâm oán hại. Ðây là pháp thứ nhất, khiến

được bền lâu.

Lại nữa, nhà vua nghe lời quần thần can ng

ăn, không trái ngược các quan.

Ðây là pháp thứ hai, khiến

được bền lâu.

Lại nữa, nhà vua thường thích bố thí, nhân dân

đồng ca ngợi.

Ðây là pháp thứ ba, khiến

được bền lâu.

Lại nữa, nhà vua

đúng pháp thâu t

ài vật, không phi pháp. Ðây là pháp thứ tư, khiến

được bền lâu.

Lại nữa, nhà vua không

đam m

ê sắc

đẹp người khác, thường bảo hộ vợ m

ình. Ðây là pháp thứ n

ăm, khiến được bền lâu.

Lại nữa, nhà vua không uống rượu, tâm không mê loạn. Ðây là pháp thứ sáu, khiến

được bền lâu.

Lại nữa, nhà vua không thích vui chơi hay hàng phục quân

địch.

Ðây là pháp thứ bảy, khiến

được bền

lâu.

Lại nữa, nhà vua trị dân

đúng pháp, trọn không cong vạy.

Ðây là pháp thứ tám, khiến

được bền lâu.

Lại nữa, nhà vua hòa hợp với quần thần không chống

đối.

Ðây là pháp thứ chín, khiến

được bền

lâu.

Lại nữa, nhà vua không bệnh hoạn, khí lực cường thạnh. Ðây là pháp thứ mười, khiến

được bền lâu

Nếu nhà vua thành tựu mười pháp này, ngôi báu

được lâu d

ài không lo ngại.

Chúng Tỳ-kheo cũng lại như thế, nếu thành tựu mười pháp này, trong khoảng duỗi cánh tay, liền

được sanh l

ên trời. Thế nào là mười?

Tỳ-kheo vâng giữ giới cấm, giới

đức đầy đủ, không phạm Chánh pháp.

Ðây là pháp thứ nhất,

được sanh c

õi lành.

Lại nữa, Tỳ-kheo

đối với Như Lai có l

òng cung kính. Ðây là pháp thứ hai,

được sanh c

õi lành.

Lại nữa, Tỳ-kheo thuận theo giáo pháp, không phạm một lỗi. Ðây là pháp thứ ba,

được sanh c

õi lành.

Lại nữa, Tỳ-kheo phụng sự Thánh chúng, không có tâm lười biếng. Ðây là pháp thứ tư,

được sanh c

õi trời.

Lại nữa, Tỳ-kheo thiểu dục tri túc, không

đắm trước lợi dưỡng.

Ðây là pháp thứ n

ăm, được sanh c

õi trời.

Lại nữa, Tỳ-kheo không tự làm theo ý mình, thường tùy theo giới pháp. Ðây là pháp thứ sáu,

được sanh c

õi lành.

Lại nữa, Tỳ-kheo không

đam m

ê công việc, thường ưa tọa Thiền. Ðây là pháp thứ bảy,

được sanh c

õi trời.

Lại nữa, Tỳ-kheo ưa ở chỗ vắng, không ở trong nhân gian. Ðây là pháp thứ tám,

được sanh c

õi lành.

Lại nữa, Tỳ-kheo không thuận theo ác tri thức, thường nghe theo thiện tri thức. Ðây là pháp thứ chín,

được sanh c

õi lành.

Lại nữa, Tỳ-kheo thường tu Phạm hạnh, xa lìa pháp ác, nghe nhiều, học nghĩa lý không mất thứ lớp. Ðây là pháp thứ mười,

được sanh c

õi lành.

Như thế, Tỳ-kheo thành tựu mười pháp

được sanh c

õi lành, cõi trời, nhanh như trong khoảng duỗi cánh tay. Này Tỳ-kheo, các hạnh phi pháp rơi vào

địa ngục n

ên nhớ xa lìa, mười hạnh Chánh pháp nên cùng vâng theo tu tập. Như thế, này các Tỳ-kheo, nên học

điều n

ày!

Bấy giờ, các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

8. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở tại thành La-duyệt, vườn trúc Ca-lan-

đ

à, cùng với chúng

đại Tỳ-kheo năm trăm người.

Bấy giờ, phần

đông Tỳ-kheo đến thời, đắp y, mang bát v

ào thành La-duyệt khất thực. Khi ấy, các Tỳ-kheo khởi nghĩ: Chúng ta vào thành khất thực, thời giờ còn sớm, chúng ta có thể

đến chỗ ngoại đạo dị học để c

ùng họ luận nghị'. Lúc

đó, các Tỳ-kheo đi đến chỗ ngoại đạo dị học. Ngoại đạo dị học xa thấy các Sa-môn đến, mỗi người tự bảo nhau:

- Chúng ta nên im lặng

đừng nói lớn tiếng. Nay có đệ tử của Sa-môn C

ù-

đ

àm

đến đây, pháp của Sa-môn thường khen ngợi người y

ên lặng. Họ muốn biết chánh pháp của chúng ta có loạn, không loạn.

Bấy giờ, các Tỳ-kheo

đến chỗ ngoại đạo dị học, c

ùng chào hỏi và ngồi một bên. Ngoại

đạo hỏi các Tỳ-kheo:

- Sa-môn Cù-

đ

àm vì hàng

đệ tử các Ông nói pháp vi diệu n

ày: 'Các Tỳ-kheo có hiểu suốt tất cả các pháp mà tự vui thích ch

ăng?' Chúng tôi cũng nói pháp vi diệu n

ày cho hàng

đệ tử để tự vui thích.

Ðiều của chúng tôi nói có khác gì các Ông? Có sai biệt gì? Nói pháp giáo giới một loại không khác.

Khi ấy, các Tỳ-kheo nghe ngoại

đạo dị học nói, không khen hay, cũng không nói dở, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, cáo từ m

à

đi. Các Tỳ-kheo tự nói với nhau: 'Chúng ta n

ên

đem nghĩa n

ày về bạch lại Thế Tôn. Nếu Như Lai có chỉ dạy, chúng ta sẽ ghi nhớ vâng theo'.

Bấy giờ, chúng Tỳ-kheo vào thành La-duyệt khất thực, rồi trở về phòng cất y bát,

đến chỗ Phật, cúi đầu

lễ chân Phật, lui ngồi một bên. Các Tỳ-kheo

đem đầu đuôi câu chuyện thưa hết với Phật.

Bấy giờ, Phật bảo các Tỳ-kheo:

- Các ngoại

đạo dị học ấy hỏi nghĩa n

ày rồi, các Thầy nên

đem lời n

ày

đáp, l

à luận về một pháp, nghĩa một quán, diễn nói một pháp, cho

đến luận về mười pháp, nghĩa mười pháp, diễn nói mười pháp. Nói lời n

ày là có những nghĩa gì? Nếu các Thầy

đem lời n

ày

đến hỏi, người ấy chắc không thể đáp. Ngoại đạo dị học kia b

èn t

ăng th

êm nghi lầm. Vì sao? Vì chẳng phải cảnh giới của họ.

Cho nên, này các Tỳ-kheo! Ta không thấy có Trời, Người, Ma, Thiên ma, Ðế Thích, Phạm thiên vương có thể

đáp lại lời n

ày. Trừ Như Lai và

đệ tử Như Lai từng theo Ta nghe dạy.

Luận về một pháp, nghĩa một pháp, diễn nói một pháp, tuy Ta nói nghĩa này, do cớ gì mà nói thế? Tất cả chúng sanh do

ăn uống mới sống, không ăn th

ì chết. Tỳ-kheo ấy bình

đẳng chán ghét tai họa, b

ình

đẳng giải thoát, b

ình

đẳng quán sát, b

ình

đẳng phân biệt nghĩa kia, b

ình

đẳng chấm dứt mé khổ, đồng một nghĩa không hai.

Ðó là luận về một pháp, nghĩa một pháp, diễn nói một pháp.

Luận về hai pháp, nghĩa hai pháp, diễn nói hai pháp, tuy Ta nói nghĩa này, do cớ gì mà nói nghĩa này? Nghĩa là danh và sắc. Thế nào gọi là danh? Nghĩa là thọ, tưởng, niệm (hành), tư duy (thức),

đó l

à danh. Thế nào là sắc? Tứ

đại v

à tứ

đại tạo sắc, đó gọi l

à sắc, do duyên này nên gọi là sắc. Luận về hai pháp, nghĩa hai pháp, diễn nói hai pháp, do nhân duyên này nên Ta nói thế. Tỳ-kheo bình

đẳng chán ghét tai họa, b

ình

đẳng giải thoát, b

ình

đẳng quán sát, b

ình

đẳng phân biệt nghĩa ấy, b

ình

đẳng chấm dứt mé khổ.

Luận về ba pháp, nghĩa ba pháp, diễn nói ba pháp. Do cớ gì mà nói nghĩa này? Nghĩa là ba thọ. Thế nào là ba? Là thọ khổ, thọ vui, thọ không khổ không vui. Thế nào gọi là thọ vui? Nghĩa là tâm tưởng vui không phân tán,

đó gọi l

à thọ vui. Thế nào là thọ khổ? Nghĩa là tâm tán loạn không nhất

định, suy nghĩ bao nhi

êu tưởng,

đây gọi l

à thọ khổ. Thế nào là thọ không khổ không vui? Nghĩa là tâm không có tưởng khổ, không tưởng vui, cũng không tư duy về pháp và phi pháp, thường tự lặng lẽ tâm không phạm, cho nên gọi là không khổ không vui. Ðó là ba thọ. Tỳ-kheo bình

đẳng chán ghét tai họa, b

ình

đẳng giải thoát, b

ình

đẳng quán sát, b

ình

đẳng phân biệt nghĩa n

ày, bình

đẳng chấm dứt mé khổ.

Ðó là luận ba pháp, nghĩa ba pháp, diễn nói ba pháp,

điều Ta nói chính l

à

đây vậy.

Luận về bốn pháp, nghĩa bốn pháp, diễn nói bốn pháp, do những cớ gì mà nói nghĩa này? Nghĩa là Tứ

đế. Thế n

ào là Tứ

đế?

Là Khổ, Tập, Diệt, Ðạo thánh

đế.

Thế nào là Khổ

đế? L

à sanh khổ, già khổ, bệnh khổ, chết khổ, ưu bi não khổ, oán ghét gặp khổ, ân ái chia lìa khổ, mong cầu không

được khổ.

Thế nào gọi là Tập

đế? L

à gốc ái tương ưng với dục. Ðó là Tập

đế.

Thế nào gọi là Khổ tận

đế (Diệt đế)? Nghĩa l

à ái kia vĩnh viễn chấm dứt không sanh lại. Ðó là Khổ tận

đế.

Thế nào gọi là Khổ yếu

đế (

Ðạo

đế)? Nghĩa l

à Tám

đạo

phẩm Hiền Thánh: Chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh mạng, chánh nghiệp, chánh phương tiện, chánh niệm, chánh

định.

Ðó là Tám

đạo

phẩm Hiền Thánh.

Tỳ-kheo bình

đẳng chán ghét tai họa, b

ình

đẳng giải thoát, b

ình

đẳng phân biệt nghĩa ấy, b

ình

đẳng quán sát, b

ình

đẳng chấm dứt mé khổ.

Ðó gọi là luận về bốn pháp, nghĩa bốn pháp, diễn nói bốn pháp. Ðiều Ta nói chính là

đây vậy.

Luận về n

ăm pháp, nghĩa năm pháp, diễn nói năm pháp. Nay Ta nói, do những g

ì mà nói như vậy? Là N

ăm căn. Thế n

ào là n

ăm căn?

Tín c

ăn, tấn căn, niệm

c

ăn, định

c

ăn, tuệ căn.

Thế nào gọi là tín c

ăn? Nghĩa l

à

đệ tử Hiền Thánh tin v

ào

đạo pháp của Như Lai, Như Lai l

à bậc Chí Chơn Ðẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðạo Pháp Ngự, Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn, xuất hiện ở

đời.

Ðó là tín c

ăn.

Thế nào gọi là tấn c

ăn? L

à thân và tâm siêng n

ăng không lười mỏi diệt pháp bất thiện, khiến pháp l

ành t

ăng trưởng, tâm thường g

ìn giữ. Ðó là tấn c

ăn.

Thế nào gọi là niệm c

ăn? Niệm căn l

à không quên những

điều đ

ã tụng, thường ghi nhớ trong tâm, gìn giữ không mất, pháp hữu vi vô lậu trọn không quên mất. Ðó là niệm c

ăn.

Thế nào gọi là

định căn?

Ðịnh c

ăn l

à tâm không tán loạn, không có bao nhiêu tưởng, thường chuyên ròng một ý. Ðó là

định căn.

Thế nào gọi là tuệ c

ăn? L

à biết Khổ, biết Tập, biết Tận, biết Ðạo. Ðó là tuệ c

ăn.

Ðây là N

ăm căn, Tỳ-kheo ở trong đây b

ình

đẳng giải thoát, b

ình

đẳng phân biệt nghĩa ấy, b

ình

đẳng chấm dứt mé khổ. Luận về năm pháp, nghĩa năm pháp, diễn nói năm pháp, điều Ta nói chính l

à

đây vậy.

Luận về sáu pháp, nghĩa sáu pháp, diễn nói sáu pháp. Do cớ gì Ta nói như thế? Là sáu pháp trọng. Thế nào là sáu? Ở

đây, Tỳ-kheo thân thường h

ành từ, hoặc ở thất vắng, hoặc thường nhất tâm, thường cùng hòa hợp bậc

đáng tôn quý; đó l

à pháp trọng thứ nhất. Lại nữa, miệng hành từ,

đáng kính đáng quý; đó l

à pháp trọng thứ hai. Lại nữa, ý hành từ không khởi tật

đố

ghen ghét,

đáng kính đáng quý; đó l

à pháp trọng thứ ba. Lại nữa, nếu

được lợi dưỡng trong bát có dư, đều d

ùng tâm bình

đẳng chia cho những người đồng Phạm hạnh; đó l

à pháp trọng thứ tư. Lại nữa vâng giữ giới cấm không

để rơi mất, l

à

điều quý trọng của Hiền Thánh; đó l

à pháp trọng thứ n

ăm. Lại nữa, pháp chánh kiến Hiền Thánh được xuất yếu, được chấm dứt mé khổ, ý không tán loạn c

ùng với những người

đồng Phạm hạnh đồng tu hạnh n

ày;

đó l

à pháp trọng thứ sáu. Tỳ-kheo bình

đẳng chán ghét họa hoạn, b

ình

đẳng giải thoát, b

ình

đẳng phân biệt nghĩa n

ày, bình

đẳng chấm dứt mé khổ. Luận về sáu pháp, nghĩa sáu pháp, diễn nói sáu pháp, điều Ta nói chính l

à

đây.

Luận về bảy pháp, nghĩa bảy pháp, diễn nói bảy pháp. Do những cớ gì mà nói như thế? Ðó là chỗ dừng nghỉ của thần thức. Thế nào là bảy? Hoặc có chúng sanh bao nhiêu tưởng bao nhiêu thân,

đó l

à Trời và Người. Hoặc có chúng sanh bao nhiêu thân một tưởng,

đó l

à Trời phạm Ca-di xuất hiện tối sơ. Hoặc có chúng sanh một tưởng một thân,

đó l

à Trời Quang Âm. Hoặc có chúng sanh một thân bao nhiêu tưởng,

đó l

à Trời Biến Tịnh. Hoặc có chúng sanh vô lượng Không xứ,

đó l

à Trời Không xứ. Hoặc có chúng sanh vô lượng Thức xứ,

đó l

à Trời Thức xứ. Hoặc có chúng sanh vô lượng Vô sở hữu xứ,

đó l

à Trời Bất dụng xứ. Hoặc có chúng sanh vô lượng Hữu tưởng vô tưởng xứ,

đó l

à Trời Hữu tưởng vô tưởng. Này Tỳ-kheo! Ðó là bảy nơi thần thức dừng nghỉ. Ở

đây, Tỳ-kheo b

ình

đẳng giải thoát cho đến b

ình

đẳng chấm dứt mé khổ. Luận về bảy pháp, nghĩa bảy pháp, diễn nói bảy pháp, điều Ta nói chính l

à

đây vậy.

Luận về tám pháp, nghĩa tám pháp, diễn nói tám pháp, do cớ gì mà nói như thế? Nghĩa là tám việc ở thế gian, theo thế gian xoay chuyển. Thế nào là tám? Ðó là lợi, suy, hủy, dự, xưng, cơ, khổ, lạc, là tám việc của thế gian, theo thế gian xoay chuyển. Ở

đây, Tỳ-kheo b

ình

đẳng giải thoát cho đến b

ình

đẳng chấm dứt mé khổ. Luận về tám pháp, nghĩa tám pháp, diễn nói tám pháp, điều Ta nói chính l

à

đây vậy.

Luận về chín pháp, nghĩa chín pháp, diễn nói chín pháp, do cớ gì mà nói như thế? Là chín nơi cư trú của chúng sanh. Thế nào là chín? Nếu có chúng sanh có bao nhiêu thân, bao nhiêu tưởng,

đó l

à Trời và Người. Hoặc có chúng sanh bao nhiêu thân một tưởng, là Trời phạm Ca-di tối sơ xuất hiện. Hoặc có chúng sanh một tưởng một thân,

đó l

à Trời Quang Âm. Hoặc có chúng sanh một thân bao nhiêu tưởng,

đó l

à Trời Biến Tịnh. Hoặc có chúng sanh Không xứ vô lượng,

đó l

à Trời Không xứ. Hoặc có chúng sanh Thức xứ vô lượng,

đó l

à Trời Thức xứ. Hoặc có chúng sanh Vô sở hữu xứ vô lượng,

đó l

à Trời Bất dụng xứ. Hoặc có chúng sanh Hữu tưởng vô tưởng xứ vô lượng,

đó l

à Trời Hữu tưởng vô tưởng. Chúng sanh cõi vô tưởng và các loại chúng sanh là chín nơi thần thức dừng nghỉ. Ở

đây, Tỳ-kheo b

ình

đẳng giải thoát cho đến b

ình

đẳng chấm dứt mé khổ. Luận về chín pháp, nghĩa chín pháp, diễn nói chín pháp, điều Ta nói chính l

à

đây vậy.

Luận về mười pháp, nghĩa mười pháp, diễn bày mười pháp. Do cớ gì mà nói như thế? Ðó là mười niệm. Niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tỳ-kheo T

ăng, niệm Giới, niệm Thí, niệm Thi

ên, niệm Hưu tức (chỉ quán), niệm An-ban (sổ tức), niệm Thân, niệm Tử. Ðó là mười niệm. Ở

đây, Tỳ-kheo b

ình

đẳng giải thoát cho đến b

ình

đẳng chấm dứt mé khổ. Luận về mười pháp, nghĩa mười pháp, diễn nói mười pháp, điều Ta nói chính l

à

đây vậy.

Tỳ-kheo! Như thế là từ một pháp

đến mười pháp. Tỳ-kheo n

ên biết, nếu ngoại

đạo dị học nghe lời n

ày còn không thể nhìn mặt, huống là

đáp lại. Nếu Tỳ-kheo hiểu nghĩa n

ày thì trong hiện pháp vị ấy là người tôn quý bậc nhất.

Nếu có Tỳ-kheo, Tỳ-kheo suy nghĩ về nghĩa này cho

đến mười năm th

ì chắc chắn vị ấy chứng

được quả thứ hai, hoặc A-la-hán, hoặc A-na-h

àm. Này Tỳ-kheo, không cần mười n

ăm, hoặc chỉ trong một năm tư duy nghĩa n

ày thì chắc chắn thành tựu quả thứ hai, trọn không thối thất giữa chừng. Tỳ-kheo không cần một n

ăm, h

àng bốn chúng chỉ trong mười tháng cho

đến một tháng, suy nghĩ nghĩa n

ày, chắc chắn thành tựu quả thứ hai, cũng không thối chuyển giữa chừng. Không cần một tháng, hàng bốn chúng chỉ trong bảy ngày suy nghĩ nghĩa này, chắc chắn thành tựu quả thứ hai, trọn không nghi ngờ.

Bấy giờ, A-nan

đứng sau Phật, cầm quạt hầu Phật, bạch rằng:

- Thưa Thế Tôn, Pháp này rất sâu xa, nếu nơi nào có pháp này, nên biết là gặp

được Như Lai. Thưa Thế tôn, Pháp n

ày tên là gì và làm thế nào

để phụng h

ành?

Phật bảo A-nan:

- Kinh này tên là 'Ý nghĩa của Mười Pháp'. Nên ghi nhớ vâng làm.

Bấy giờ, A-nan và các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

9. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-

đ

à, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

- Có người tu hành mười tưởng, liền dứt sạch hữu lậu,

được thần thông, chứng quả dần đến Niết-b

àn. Thế nào là mười? Nghĩa là tưởng xương trắng, tưởng bầm xanh, tưởng sình trương, tưởng

ăn không ti

êu, tưởng máu, tưởng bị

ăn nuốt, tưởng hữu thường vô thường, tưởng tham thực, tưởng sự chết, tưởng tất cả điều không vui của thế gian.

Ðó gọi là Tỳ-kheo tu mười tưởng này,

được dứt sạch hữu lậu, đến cảnh giới Niết-b

àn.

Lại nữa, Tỳ-kheo! Trong mười tưởng ấy, tưởng về tất cả

điều không vui của thế gian l

à bậc nhất hơn hết. Vì sao? Nếu có người tu về tưởng những

điều không vui của thế gian v

à người giữ lòng tin vâng theo Phật pháp thì hai người này chắc chắn vượt thứ lớp mà chứng quả.

Thế nên, các Tỳ-kheo! Nếu khi ngồi dưới cội cây, nơi chỗ vắng, chỗ trống, nên suy nghĩ về mười tưởng này.

Như thế, này các Tỳ-kheo, hãy học

điều n

ày!

Bấy giờ, các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

10. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-

đ

à, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ, có một Tỳ-kheo

đến chỗ Thế Tôn, cúi đầu lễ chân Phật, lui ngồi một b

ên. Tỳ-kheo

đó bạch Phật:

- Hôm nay, Như Lai vì các Tỳ-kheo dạy pháp mười tưởng. Ai có thể tu tập mười tưởng ấy thì sẽ dứt sạch các hữu lậu, thành tựu hạnh vô lậu. Nhưng bạch Thế Tôn! Như con không thể kham tu hành mười tưởng ấy. Vì sao? Vì con có nhiều tâm dục, thân ý lẫy lừng không thể dừng nghỉ.

Bấy giờ, Thế Tôn bảo Tỳ-kheo

đó rằng:

- Nay Thầy nên bỏ tưởng tịnh mà suy nghĩ về tưởng bất tịnh, bỏ tưởng hữu thường mà suy nghĩ về tưởng vô thường, bỏ tưởng hữu ngã mà suy nghĩ về tưởng vô ngã, bỏ tưởng những

điều vui thích m

à suy nghĩ về tưởng các

điều không vui. V

ì sao? Nếu Tỳ-kheo suy nghĩ về tưởng tịnh thì tâm dục lừng lẫy, nếu suy nghĩ về tưởng bất tịnh thì không còn tâm dục. Tỳ-kheo nên biết! Dục là bất tịnh như

đống

phân kia, dục như con vẹt lắm

điều, dục hay phản bội như rắn độc, dục như huyễn hóa, như mặt trời tan tuyết. N

ên suy nghĩ lìa bỏ dục như tránh xa gò mả, dục trở lại tự hại như rắn chứa nọc

độc; họa của dục không chán như uống nước muối; dục khó đầy như biển nuốt d

òng sông; dục có nhiều sự

đáng sợ như l

àng quỷ La-sát; dục như oan gia thường phải xa lìa; dục như ít vị ngọt dính trên lưỡi dao; dục không thể yêu mến như xương trắng bên

đường; dục hiện dáng bề ngo

ài như hoa mọc từ chuồng heo; dục không chân thật như bình

đựng đồ nhơ nhớp, b

ên ngoài thấy lạ; dục không chắc chắn như

đống

bọt.

Tỳ-kheo! Nay Thầy nên nghĩ xa lìa tưởng tham dục mà suy nghĩ về tưởng bất tịnh. Tỳ-kheo! Nay Thầy hãy nhớ rằng, xưa kia Phật Ca-diếp

đ

ã vâng theo và thực hành mười tưởng, nay nên suy nghĩ thêm về mười tưởng ấy thì tâm hữu lậu liền giải thoát.

Bấy giờ, Tỳ-kheo

đó buồn khóc rơi lệ không thôi, liền đảnh lễ chân Phật, bạch Phật rằng:

- Thưa vâng, bạch Thế Tôn! Con ngu si mê muội

đ

ã lâu, Như Lai

đích thân nói mười tưởng, con mới có thể xa l

ìa. Nay tự sám hối sau không dám phạm. Cúi xin Như Lai nhận sự cải hối của con, xin tha thứ cho.

Phật bảo Tỳ-kheo:

- Cho phép Thầy sửa

đổi lỗi lầm, chớ phạm trở lại. Như Lai đ

ã dạy Thầy mười tưởng mà Thầy không chịu phụng trì.

Khi ấy, Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, liền

đến chỗ vắng, tự chế phục m

ình, suy nghĩ rằng vốn là con nhà hào tộc, cạo bỏ râu tóc, mặc ba pháp y, tu Phạm hạnh vô thượng, là muốn

đạt kết quả sở nguyện; sanh tử đ

ã dứt, Phạm hạnh

đ

ã lập, việc phải làm

đ

ã làm xong, không thọ lại thân sau, biết như thật. Tỳ-kheo

đó liền th

ành A-la-hán.

Bấy giờ, các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

Kết cấm, Thánh hiền cư,

Hai lực và mười niệm,

Thân vua, không sợ hãi,

Mười luận, tưởng, quán tưởng.

XXXXVII. Phẩm Thiện ác

1. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-

đ

à, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

- Nếu chúng sanh thực hành mười pháp liền

được sanh l

ên trời, lại thực hành mười pháp liền sanh trong

đường ác, lại tu h

ành mười pháp liền

được v

ào cảnh giới Niết-bàn.

Thế nào là thực hành mười pháp sanh trong

đường ác? Ở đây, có người sát sanh, trộm cắp, dâm dục, nói dối, nói th

êu dệt, nói lời ác, nói hai lưỡi

đâm thọc gây rối đôi b

ên, tật

đố, sân hận, t

à kiến. Ðó là mười pháp, chúng sanh thực hành mười pháp này, sẽ

đọa trong đường ác.

Thế nào là thực hành mười pháp

được sanh l

ên trời? Khi người không sát sanh, không trộm cắp, không dâm dục, không nói dối, không nói thêu dệt, không nói lời ác, không nói hai lưỡi

đâm thọc gây rối đôi b

ên, không tật

đố, không sân hận, không khởi t

à kiến. Ðó là mười pháp, chúng sinh thực hành mười pháp này liền

được sanh l

ên trời.

Thế nào là thực hành mười pháp

được v

ào Niết-bàn? Ðó là mười niệm: niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tỳ-kheo T

ăng, niệm Thi

ên, niệm Giới, niệm Thí, niệm Hưu tức, niệm An-ban, niệm Thân, niệm Tử. Ðó là mười pháp, chúng sinh thực hành mười pháp này liền

được v

ào Niết-bàn.

Các Tỳ-kheo nên biết! Nên rời bỏ những việc sanh lên trời và rơi trong

đường ác, n

ên khéo vâng giữ tu tập theo mười pháp vào Niết-bàn. Như thế, này các Tỳ-kheo, hãy học

điều n

ày!

Bấy giờ, các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

2. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-

đ

à, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

- Do gốc mười

điều ác, ngoại vật c

òn suy giảm huống gì nội pháp. Thế nào là mười? Là sát sanh, trộm cắp, dâm dục, nói dối, nói thêu dệt, nói lời ác, nói hai lưỡi

đâm thọc gây rối đôi b

ên, tật

đố, sân hận, t

à kiến.

Do quả báo của sát sanh nên thọ mạng của chúng sanh rất ngắn. Do quả báo trộm cắp nên chúng sanh sanh ra liền bị nghèo

đói. Do quả báo của dâm dục n

ên gia

đ

ình chúng sanh không trinh bạch. Do quả báo nói thêu dệt, nên

đất đai không bằng phẳng. Do quả báo của nói hai lưỡi đâm thọc n

ên

đất đai sanh gai góc. Do quả báo nói lời ác n

ên có nhiều ngôn ngữ. Do quả báo tật

đố n

ên lúa thóc không dồi dào. Do quả báo của sân hận nên có nhiều vật uế ác. Do quả báo của tà kiến nên tự nhiên sanh trong tám

địa ngục lớn.

Do quả báo của mười

điều ác n

ày nên khiến vật bên ngoài bị suy giảm, huống chi vật bên trong. Thế nên, các Tỳ-kheo, nên nhớ nghĩ xả bỏ xa lìa mười pháp ác, tu hành mười pháp lành. Như thế, này các Tỳ-kheo, hãy học

điều n

ày!

Bấy giờ, các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

3. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-

đ

à, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ, vua Ba-tư-nặc

đi đến chỗ Thế Tôn, cúi đầu lễ chân Phật, lui ngồi một b

ên. Vua Ba-tư-nặc bạch Phật:

- Chẳng biết Thế Tôn có nói lời nầy không, rằng: 'Bố thí cho Ta

được phước nhiều, bố thí cho người khác được phước ít. H

ãy bố thí

đệ tử Ta, đừng bố thí người khác'?. Nếu có người nói những lời như vậy, há chẳng phải đ

ã hủy báng pháp của Như Lai ư?

Ðức Phật bảo nhà vua:

- Ta không nói lời như thế, rằng chỉ nên bố thí cho Ta,

đừng bố thí cho người khác.

Ðại vương nên biết, Ta thường nói thế nầy: 'Nếu trong bát của Tỳ-kheo còn dư thức

ăn, đem để v

ào nước cho các loài trùng nhỏ, cũng còn có phước, huống gì bố thí cho người mà không

được phướ

c sao?'.

Nhưng này Ðại Vương, Ta có nói thế này: Bố thí cho người trì giới, phước ấy càng t

ăng nhiều, hơn bố thí cho người phạm giới.

Bấy giờ, vua Ba-tư-nặc bạch Phật:

- Thưa vâng, bạch Thế Tôn! Bố thí cho người trì giới, phước báu t

ăng nhiều hơn hẳn bố thí cho người phạm giới.

Nhà vua lại bạch Phật:

- Phạm chí Ni-kiền Tử

đến nói với con rằng: 'Sa-môn C

ù-

đ

àm biết huyễn thuật có thể xoay chuyển người

đời'. Bạch Thế Tôn, lời n

ày là

đúng hay không đúng chăng?

Phật bảo nhà vua:

- Ðúng thế, Ðại vương! Như lời

đ

ã nói, Ta có pháp huyễn thuật có thể làm thay

đổi người thế gian.

Nhà vua bạch Phật:

- Thế nào gọi là pháp huyễn thuật xoay chuyển?

Phật bảo:

- Người sát sanh, tội ấy khó tính lường, người không sát sanh thọ phước vô lượng. Người trộm cắp chịu tội vô lượng, người không trộm cắp

được phước vô lượng. Người dâm dục chịu tội vô lượng, người không dâm dục được phước vô lượng. Người t

à kiến chịu tội vô lượng, người chánh kiến

được phước vô lượng. Ta giải thích về huyền pháp chính l

à như thế.

Khi ấy, vua Ba-tư-nặc bạch Phật:

- Nếu Người, Ma, Thiên ma hoặc loài có hình sắc, hiểu sâu huyễn thuật này, ắt sẽ

được hạnh phúc lớn. Từ nay về sau, con không cho phép các ngoại đạo dị học v

ào trong nước con. Con cho phép hàng bốn chúng thường ở tại cung

điện của con, con sẽ thường cúng dường các vị t

ùy theo chỗ cần dùng.

Ðức Phật bảo:

- Ðại vương! Chớ nói như thế. Vì sao? Bố thí cho các loài súc sanh cũng

được phước báo, bố thí cho người phạm giới cũng được phước báo, bố thí cho người tr

ì giới thì phước báo khó lường, bố thí cho hàng tiên nhơn ngoại

đạo được phước một ức lần, bố thí cho các vị Tu-đ

à-hoàn, Tư-

đ

à-hàm, A-na-hàm, A-la-hán, Bích-chi Phật và Phật, phước ấy không thể

đo lường.

Thế nên, Ðại vương, nên phát khởi ý niệm cúng dường

đệ tử Thanh văn của chư Phật thời quá khứ, vị lai. Như thế,

Ðại vương, hãy học

điều n

ày!

Bấy giờ, vua Ba-tư-nặc nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

4. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-

đ

à, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ, phần

đông các Tỳ-kheo, sau khi thọ trai xong đều tụ tập tại giảng đường Phổ Hội, c

ùng nhau bàn luận về nghĩa này: Bàn luận về chuyện y phục, trang sức,

ăn uống; b

àn luận về những chuyện chiến tranh, giặc cướp của nước lân bang; bàn luận về rượu chè, dâm dục, ngũ dục; bàn luận về ca vũ, kỹ nhạc. Những chuyện vô ích như thế nhiều không thể tính kể.

Bấy giờ, Thế Tôn dùng Thiên nhĩ nghe các Tỳ-kheo bàn luận những chuyện ấy, liền

đi đến giảng đường Phổ Hội, hỏi các Tỳ-kheo:

- Các Thầy nhóm họp ở

đây b

àn luận chuyện gì?

Khi ấy, các Tỳ-kheo bạch Phật:

- Chúng con nhóm họp ở

đây c

ùng bàn luận những việc vô ích như thế.

Ðức Phật bảo các Tỳ-kheo:

- Thôi, thôi! Các Tỳ-kheo, chớ bàn luận việc ấy. Vì sao? Những

điều luận b

àn ấy không có ý nghĩa và cũng không dẫn

đến pháp l

ành. Không do những

điều luận b

àn này mà

được tu Phạm hạnh; không đến được chỗ tịch diệt, Niết-b

àn; không

được đạo Sa-môn b

ình

đẳng.

Ðó là những

điều luận b

àn của thế tục, không phải luận của

đường chánh. Các Thầy đ

ã lìa thế tục, xuất gia học

đạo, không n

ên suy nghĩ về những luận bại hoại.

Nếu các Thầy muốn bàn luận, nên bàn luận về mười việc công

đức. Thế n

ào là mười? Là siêng n

ăng tinh tấn; ít muốn biết đủ; có tâm dũng m

ãnh;

đa văn, có thể thuyết pháp cho người; không sợ sệt kinh khủng; đầy đủ giới luật; th

ành tựu chánh

định; th

ành tựu trí tuệ; thành tựu giải thoát; thành tựu giải thoát tri kiến. Nếu các Thầy muốn bàn luận thì nên bàn luận về mười

điều n

ày.

Vì sao? Vì chúng thấm nhuần tất cả, ích lợi nhiều,

được tu Phạm hạnh, được đến chỗ tịch diệt, Niết-b

àn. Hôm nay các Thầy là con nhà hào tộc,

đ

ã xuất gia học

đạo, n

ên suy nghĩ về mười

điều n

ày. Luận này là luận của Chánh pháp, xa lìa

đường ác. Như thế, n

ày các Tỳ-kheo, hãy học

điều n

ày!

Bấy giờ, các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

5. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-

đ

à, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ,

đa số các Tỳ-kheo nhóm họp tại giảng đường Phổ Hội, đều b

àn luận thế này: 'Nay ở thành Xá-vệ, lúa bắp quí hiếm và

đắt đỏ, đi khất thực khó.

Ðức Thế Tôn lại nói nhờ

ăn uống m

à thân người

được tồn tại; thân tứ đại nương v

ào pháp sở niệm của tâm, pháp là gốc của

đường l

ành. Ngày nay, chúng ta nên cử người thứ lớp khất thực, khiến người ấy

được h

ình sắc

đẹp, được nhận sự cực diệu, được y phục, thức ăn uống, s

àng tọa, ngọa cụ, thuốc men, cũng há chẳng là

điều tốt ư?'

Bấy giờ, Thế Tôn dùng Thiên nhĩ thanh tịnh xa nghe các Tỳ-kheo bàn luận

điều n

ày, Ngài liền

đi đến giảng đường Phổ Hội, v

ào ngồi tòa chính giữa, hỏi các Tỳ-kheo:

- Các Thầy nhóm họp ở

đây b

àn luận

điều g

ì?

Các Tỳ-kheo thưa:

- Chúng con bàn luận về việc rằng nay ở thành Xá-vệ, khất thực khó

được, muốn cử người thứ lớp khất thực, để t

ùy thời

được h

ình sắc

đẹp, y phục tốt, mền nệm, thức ăn uống, s

àng tọa, thuốc men trị bệnh. Ðiều bàn luận của chúng con chính là

điều n

ày.

Phật bảo các Tỳ-kheo:

- Nếu Tỳ-kheo

đi xin để được cúng dường bốn thứ cần d

ùng như y phục, thức

ăn, s

àng tọa, thuốc men trị bệnh, lại dùng những thứ sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp thượng

đẳng sao?

Ta thường dạy các Thầy, khất thực có hai việc, nên gần gũi và không nên gần gũi. Nếu như

được y phục, thức ăn uống, s

àng tọa, thuốc men trị bịnh mà t

ăng th

êm pháp ác, không có pháp lành, thì không nên gần gũi. Nếu khất thực

được

y phục, thức

ăn uống, s

àng tọa, thuốc men trị bịnh mà t

ăng trưởng pháp l

ành, không t

ăng trưởng pháp ác, th

ì việc này nên gần gũi.

Tỳ-kheo các Thầy ở trong pháp này muốn bàn luận

điều g

ì, mà

điều luận b

àn ấy, không phải là luận Chánh pháp, thì nên bỏ pháp ấy, chớ suy nghĩ vì không do

điều n

ày

đạt đến Niết-b

àn, an trú, diệt tận.

Nếu muốn bàn luận, nên bàn luận mười

điều n

ày. Thế nào là mười? Là siêng n

ăng, ít muốn biết đủ, có tâm dũng m

ãnh,

đa văn hay v

ì người thuyết pháp, không sợ sệt kinh khủng,

đầy đủ giới luật, th

ành tựu chánh

định, th

ành tựu trí tuệ, thành tựu giải thoát, thành tựu giải thoát tri kiến. Nếu các Thầy muốn bàn luận, nên bàn luận về mười

điều n

ày. Vì cớ sao? Vì những

điều n

ày thấm nhuần tất cả, lợi ích nhiều,

được tu Phạm hạnh, đến cảnh giới Niết-b

àn, vô vi, diệt tận.

Luận này là nghĩa của Sa-môn, nên suy nghĩ ghi nhớ, chớ rời tâm. Như thế, này các Tỳ-kheo, hãy học

điều n

ày!

Bấy giờ, các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

6. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-

đ

à, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ,

đa số các Tỳ-kheo nhóm họp tại giảng đường Phổ Hội, b

àn luận khác nhau thế này:

- Nay ở thành Xá-vệ khất thực khó

được, chẳng phải chỗ an ổn của Tỳ-kheo. Chúng ta n

ên cử người thứ lớp khất thực, Tỳ-kheo khất thực này sẽ

được y phục, mền, nệm, thức ăn uống, s

àng tọa, thuốc men trị bịnh không bị thiếu.

Bấy giờ, trong chúng có một Tỳ-kheo nói với mọi người rằng:

- Chúng ta không thể ở tại

đây khất thực, n

ên cùng nhau

đi sang nước Ma-kiệt-đ

à khất thực. Nước ấy lúa thóc nhiều và rẻ, thức

ăn uống đầy đủ.

Lại có Tỳ-kheo nói:

- Chúng ta không nên sang nước

đó khất thực. V

ì sao? Vua A-xà-thế cai trị nước ấy, làm nhiều việc phi pháp, lại giết hại phụ vương, kết bạn với Ðề-bà-

đạt-đa. Do

nhân duyên này, nên không thể sang

đó khất thực.

Lại có Tỳ-kheo nói:

- Nay tại nước Câu-lưu-xa, dân chúng

đông đúc, gi

àu có nhiều tài bảo, nên

đến nước đó khất thực.

Lại có Tỳ-kheo nói:

- Chúng ta không nên khất thực ở nước ấy. Vì sao? Vua Ác Sanh cai trị nước ấy rất hung ác, không nhân từ, dân chúng hung bạo ưa gây gổ,

đánh nhau. Do nhân duy

ên này không nên khất thực tại nước ấy.

Lại có Tỳ-kheo nói:

- Chúng ta nên

đến th

ành Câu-diệm Ba-la-nại, là nơi cai trị của vua Ưu Ðiền. Nhà vua một lòng tin Phật pháp, không

đổi ý. Chúng ta n

ên

đến nước đó khất thực, sở nguyện đều đầy đủ.

Bấy giờ, Thế tôn dùng Thiên nhĩ nghe các Tỳ-kheo bàn luận những

điều như thế, liền chỉnh đốn y phục, đến chỗ các Tỳ-kheo, ngồi t

òa chính giữa, hỏi các Tỳ-kheo rằng:

- Các Thầy nhóm họp ở

đây b

àn luận việc gì? Nói những việc gì?

Các Tỳ-kheo bạch Phật:

- Chúng con nhóm họp tại

đây, b

àn luận

điều n

ày: 'Nay trong thành Xá-vệ, lúa thóc quý hiếm và

đắt, khất thực khó được, n

ên cùng

đi sang nước Ma-kiệt-đ

à khất thực, vì nước ấy giàu có phong phú, việc khất thực dễ dàng'.

Trong

đây, lại có Tỳ-kheo nói: 'Chúng ta không n

ên sang nước ấy khất thực. Vì sao? Vì vua A-xà-thế cai trị nước ấy hành

động phi pháp, giết cha, kết bạn với

Ðề-bà-

đạt-đa. Do nhân duy

ên này, không nên sang

đó khất thực'.

Trong

đây, lại có Tỳ-kheo nói: 'Nay tại nước Câu-lưu-sa, dân chúng đông đúc gi

àu có nhiều tài bảo, nên sang

đó khất thực'. Lại có Tỳ-kheo nói rằng: 'Chúng ta không n

ên khất thực ở nước ấy. Vì sao? Vì Vua Ác Sanh cai trị nước ấy là người hung bạo không nhân từ, ưa tranh tụng. Do nhân duyên này không thể sang

đó khất thực'.

Lại có Tỳ-kheo nói: 'Chúng ta nên ở tại thành Câu diêm Ba-la-nại, xứ của vua Ưu Ðiền cai trị. Vua ấy dốc lòng tin Phật pháp, ý không thay

đổi, n

ên khất thực ở nước

đó th

ì sở nguyện

đầy đủ'.

Chúng con bàn luận ở

đây, chính l

à

điều n

ày.

Bấy giờ, Phật bảo các Tỳ-kheo:

- Các Thầy chớ khen chê việc cai trị của vua chúa, cũng chớ luận bàn sự hơn kém của vua chúa.

Bấy giờ, Thế Tôn bèn nói kệ:

Phàm người làm lành, dữ,

Hành

động có căn nguy

ên,

Mỗi mỗi chịu quả báo,

Trọn không hủy, không mất.

Phàm người làm lành, dữ,

Hành

động có căn nguy

ên,

Làm lành

được báo l

ành,

Ác chịu quả báo ác.

Cho nên, các Tỳ-kheo! Chớ khởi ý bàn luận quốc sự, bởi không do bàn luận

điều n

ày mà

được đến Niết-b

àn diệt tận, cũng không phải là pháp chơn chánh của hạnh Sa-môn. Nếu bàn luận việc ấy chẳng phải là chánh nghiệp.

Các Thầy nên học bàn luận về mười việc? Thế nào là mười? Là tinh tấn siêng n

ăng, ít muốn biết đủ, có tâm dũng m

ãnh,

đa văn hay v

ì người thuyết pháp, không sợ sệt không kinh khủng,

đầy đủ giới luật, th

ành tựu chánh

định, th

ành tựu trí tuệ, thành tựu giải thoát, thành tựu giải thoát tri kiến. Nếu các Thầy muốn bàn luận nên bàn luận về mười

điều n

ày. Vì sao? Vì chúng thấm nhuần tất cả,

được tu Phạm hạnh, đạt đến Niết-b

àn diệt tận. Các Thầy

đ

ã xuất gia học

đạo, xa l

ìa thế tục, nên siêng n

ăng ghi nhớ mười điều n

ày, chớ rời tâm. Như thế, này các Tỳ-kheo, hãy học

điều n

ày!

Bấy giờ, các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

7. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-

đ

à, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ,

đa số các Tỳ-kheo nhóm họp tại giảng đường Phổ Hội, c

ùng bàn luận

điều n

ày:

- Nay vua Ba-tư-nặc hành

động phi pháp, phạm giáo luật Thánh, đoán biết Tỳ-kheo-ni đắc quả A-la-hán m

à giữ trong cung mười hai n

ăm, rồi c

ùng tư thông. Nhà vua lại không thừa sự Phật, Pháp, Tỳ-kheo T

ăng, không có tâm kính tín đối với A-la-hán, ắt l

à không có tâm tin Phật, Pháp, Thánh chúng. Chúng ta nên xa lìa,

đừng ở lại nước n

ày. Vì sao? Khi nhà vua hành

động phi pháp th

ì các quan

đại thần cũng h

ành

động phi pháp.

Ðại thần

đ

ã hành

động phi pháp th

ì kẻ tay chân tả hữu cũng hành

động phi pháp. Kẻ nha lại h

ành

động phi pháp th

ì thường dân cũng hành

động phi pháp. Nay chúng ta n

ên

đi nước khác khất thực, đừng ở lại nước n

ày; lại có thể xem xét cách trị nước, phong tục nước ấy, thấy phong tục rồi sẽ thấy chỗ khác nhau.

Bấy giờ, Thế tôn dùng Thiên nhĩ thông nghe các Tỳ-kheo bàn luận

điều n

ày, liền

đi đến chỗ các Tỳ-kheo, ngồi v

ào tòa chính giữa. Thế tôn hỏi các Tỳ-kheo:

- Các Thầy nhóm họp ở

đây b

àn luận

điều g

ì?

Các Tỳ-kheo bạch Phật:

- Chúng con ở

đây b

àn luận việc vua Ba-tư-nặc hành

động phi pháp, phạm giáo luật Thánh, đoán biết Tỳ-kheo-ni đắc quả A-la-hán m

à giữ trong cung mười hai n

ăm, rồi d

ùng sắc tiếp

đ

ãi. Lại nữa, các bậc

đắc đạo h

ành nghiệp vượt qua ba cõi nhưng nhà vua cũng không thừa sự Phật, Pháp, và Chúng T

ăng, không có tâm kính tín đối với A-la-hán, đ

ã không có tâm này ắt là không kính tín Tam Bảo. Chúng ta nên

đi xa không n

ên ở

đây. V

ì sao? Khi nhà vua hành

động phi pháp th

ì quan

đại thần, kẻ tả hữu v

à nhân dân cũng làm ác. Lại chúng con muốn quan sát phong hóa ở thế gian.

Bấy giờ, Thế Tôn dạy:

- Các Thầy không nên luận bàn việc quốc gia. Nên tự khắc phục mình, bên trong suy nghĩ tỉnh giác, biết phân biệt lượng xét. Nói bàn những

điều n

ày thì không hợp lý

đạo, cũng không khiến người được tu Phạm hạnh, đến chỗ diệt tận, Niết-b

àn vô vi. Nên tự tu phần mình, làm cho pháp thạnh hành, tự quy bậc tối tôn.

Nếu Tỳ-kheo hay tự mình tu tập làm lớn mạnh niềm pháp lạc, hạng người

đó l

à do chính Ta sanh ra. Thế nào gọi là Tỳ-kheo có thể tự làm lớn mạnh niềm pháp lạc, không hư vọng, tự quy bậc Tối tôn? Ở

đây, Tỳ-kheo b

ên trong tự quán sát thân mình, thân ý dừng trụ, tự nhiếp phục tâm mình, trừ bỏ loạn tưởng, không lo buồn. Lại bên ngoài Tỳ-kheo tự quán thân, thân ý dừng trụ, tự nhiếp phục tâm mình, trừ bỏ loạn tưởng, không lo buồn. Tỳ-kheo lại quan sát thân trong và ngoài, thân ý dừng trụ. Tỳ-kheo bên trong quán thọ, bên ngoài quán thọ, trong và ngoài quán thọ; bên trong quán tâm, bên ngoài quán tâm, trong và ngoài quán tâm; bên trong quán pháp; bên ngoài quán pháp, trong và ngoài quán pháp; ý dừng trụ, tự nhiếp phục tâm mình, trừ bỏ loạn tưởng, không lo buồn.

Tỳ-kheo như thế gọi là có thể tự làm lớn mạnh hạnh tu của mình, t

ăng trưởng pháp lạc, tự quy bậc Tối tôn. Các Tỳ-kheo hiện tại v

à tương lai có thể tự làm lớn mạnh không mất bốn hạnh, chính là do Ta sanh ra.

Thế nên, này các Tỳ-kheo! Nếu muốn bàn luận, nên bàn luận về mười việc. Thế nào là mười? Là tinh tấn siêng n

ăng, ít muốn v

à biết

đủ, có tâm dũng m

ãnh,

đa văn hay v

ì người thuyết pháp, không sợ sệt khủng bố,

đầy đủ giới luật, th

ành tựu chánh

định, th

ành tựu trí tuệ, thành tựu giải thoát, thành tựu giải thoát tri kiến. Các Thầy muốn bàn luận thì nên bàn luận về mười việc này. Vì sao? Vì mười việc này thấm nhuần tất cả, có nhiều lợi ích,

được tu Phạm hạnh, đến Niết-b

àn vô vi, chỗ diệt tận. Những

điều luận b

àn này là nghĩa của Sa-môn. Nên suy nghĩ ghi nhớ,

đừng rời tâm. Như thế, n

ày các Tỳ-kheo, hãy học

điều n

ày!

Bấy giờ, các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

8. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-

đ

à, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ trong thành Xá-vệ, có một trưởng giả, dựng thiền thất cho La-vân. Bấy giờ, Tôn giả La-vân thường ngày nghỉ ngơi trong thất ấy, nhưng hôm nay Tôn giả

đi du hóa nhơn gian. Khi ấy, trưởng giả khởi nghĩ: 'Ta n

ên

đến tham Tôn giả La-vân'. Trưởng giả đến, thấy trong thất vắng vẻ, không có người, thấy rồi hỏi các Tỳ-kheo:

- Tôn giả La-vân hiện nay ở

đâu?

Các Tỳ-kheo bảo:

- Tôn giả

đi du hóa nhơn gian.

Trưởng giả thưa:

- Cúi xin chư Hiền cử người

đến ở thất của tôi. Thế Tôn cũng dạy: 'Tạo lập

vườn cây, bắt cầu,

đóng thuyền, cất nh

à xí sạch sẽ gần

đường để cho mọi người sử dụng th

ì

được phước báo lâu d

ài,

được th

ành tựu giới pháp, khi chết sanh cõi Trời'. Do

đó, tôi có tạo thất cho Tôn giả La-vân. Nay Tôn giả không thích thất của tôi, cúi xin chư Hiền cử người đến ở đó.

Các Tỳ-kheo trả lời:

- Chúng tôi sẽ làm như lời Trưởng giả thỉnh cầu.

Bấy giờ, các Tỳ-kheo liền cử một Tỳ-kheo

đến ở trong thất.

Khi ấy, Tôn giả La-vân khởi nghĩ: 'Ta xa cách Thế Tôn khá lâu, hiện nay có thể

đến thăm hỏi Ng

ài'. Tôn giả La-vân bèn

đến chỗ Thế Tôn, cúi đầu lễ chân Phật, lui ngồi một b

ên. Trong giây lát, Tôn giả rời tòa

đứng dậy trở về thất v

à thấy có Tỳ-kheo khác ở. Thấy thế, Tôn giả hỏi Tỳ-kheo ấy:

- Ai

đưa thất tôi cho Thầy?

Tỳ-kheo ấy

đáp:

- Chúng T

ăng sai tôi, bảo ở

thất nầy.

Khi ấy, Tôn giả La-vân trở lại chỗ

đức Thế Tôn, đem câu chuyện thưa với Phật:

- Chẳng biết Thế Tôn có dạy chúng T

ăng cử người ở tại thất của con, nghỉ ngơi trong ấy chăng?

Ðức Phật bảo La-vân:

- Thầy

đến nh

à trưởng giả mà hỏi trưởng giả rằng: 'Hành

động của tôi, có lỗi về thân, miệng, ý chăng? V

à tôi có ba

điều lỗi của thân, bốn điều lỗi của miệng, v

à ba

điều lỗi của ý chăng? Trưởng giả trước đ

ã cúng thất cho tôi, sau lại

đem cho Thánh chúng?'

Khi ấy, Tôn giả La-vân vâng lời Phật dạy,

đến nh

à trưởng giả, hỏi rằng:

- Tôi có ba

điều lỗi của thân, bốn điều lỗi của miệng v

à ba

điều lỗi của ý chăng?

Trưởng giả

đáp

:

- Tôi không thấy Tôn giả về thân, miệng, ý có lỗi.

La-vân bảo trưởng giả:

- Vì sao Ông lấy lại phòng nhà của tôi

đem cho chúng Tăng?

Trưởng giả

đáp:

- Tôi thấy nhà trống nên

đem cúng chúng Tăng. Lúc đó tôi lại khởi nghĩ: 'Tôn giả La-vân chắc không thích ở trong thất của ta', n

ên tôi

đem cúng.

Tôn giả La-vân nghe trưởng giả nói xong, liền trở lại chỗ

đức Thế Tôn, thuật lại đầy đủ câu chuyện. Khi ấy, Thế Tôn liền bảo Tôn giả A-nan mau đánh kiền ch

ùy, các Tỳ-kheo có mặt tại tịnh xá Kỳ Hoàn thảy

đều đến nhóm tại giảng đường Phổ Hội. A-nan vâng lời Phật dạy, triệu tập các Tỳ-kheo tại giảng đường Phổ Hội.

Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

- Hôm nay Ta sẽ nói về sự bố thí thanh tịnh, các Thầy nên khéo suy nghĩ, ghi nhớ:

Các Tỳ-kheo

đáp:

- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.

Thế Tôn dạy:

- Thế nào gọi là bố thí thanh tịnh. Ở

đây, Tỳ-kheo! Nếu có người đem vật bố thí, sau lại lấy lui v

à

đem cho người khác.

Ðây gọi là bố thí không chơn chánh, bố thí không bình

đẳng. Nếu có người chiếm đoạt vật của người, đem bố thí cho Thánh chúng, hoặc có người chiếm đoạt vật của Thánh chúng, đem bố thí cho người.

Ðây chẳng phải là bố thí bình

đẳng, cũng không phải l

à bố thí thanh tịnh.

Chuyển luân Thánh vương ở nơi cảnh giới của mình còn

được tự tại, Tỳ-kheo đối với y bát của chính m

ình cũng

được tự tại. Nếu lại có người chưa được chính miệng người hứa cho m

à lấy vật của người

đem cho người khác th

ì

đây chẳng phải l

à bố thí bình

đẳng.

Nay Ta bảo các Tỳ-kheo, nếu thí chủ cho mà người nhận chưa thấy

đưa th

ì

đây chẳng phải l

à bố thí bình

đẳng.

Nếu Tỳ-kheo ấy mệnh chung thì nên

đưa ph

òng xá của người ấy ra giữa chúng

để l

àm pháp yết ma. Một người xướng rằng: 'Tỳ-kheo pháp danh ...... mệnh chung, nay

đem ph

òng xá này

để chúng Tăng phân chia'. Muốn cử người n

ào ở phòng ấy, tùy theo lời chúng dạy: 'Chư Hiền! Nay sai Tỳ-kheo pháp danh ...... ở phòng ấy, mọi người cùng chấp nhận. Ai không

đồng ý th

ì nói ra'. Nên nói như thế ba lần. Nếu trong chúng có một người không

đồng ý m

à

đem cho th

ì không phải là bố thí bình

đẳng, ắt l

à vật không thanh tịnh. Nay nên

đem ph

òng trả lại cho Tỳ-kheo La-vân thanh tịnh thọ nhận.

Bấy giờ, các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

9. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở tại thành La-duyệt, vườn trúc Ca-lan-

đ

à cùng với chúng

đại Tỳ-kheo năm trăm người.

Bấy giờ, Tôn giả Ðại Quân-

đầu ở tại chỗ vắng, khởi l

ên ý nghĩa như vầy: 'Làm sao biết

được các kiến chấp về trước, về sau, v

à khoảng giữa?'

Lúc ấy, Ðại Quân-

đầu đến thời đắp y mang bát, đi đến chỗ Thế Tôn, cúi đầu lễ chân Phật, lui ngồi một b

ên. Tôn giả bạch Phật:

- Nay có các kiến chấp này thích hợp trước và sau, làm sao diệt

được chúng v

à khiến cho những kiến chấp khác không khởi lên?

Thế Tôn bảo:

- Này Quân-

đầu! Chỗ phát sanh v

à chỗ tiêu diệt những kiến chấp ấy

đều l

à vô thường, khổ, không. Quân-

đầu! Biết như thế rồi n

ên khởi nghĩ thế này: Có sáu mươi hai kiến chấp, nên an trụ trong mười

điều l

ành

để trừ bỏ các kiến chấp ấy.

Thế nào là mười? Này Quân-

đầu! Người kia ưa sát sanh, ta không sát sanh. Người kia ưa trộm cắp, ta không trộm cắp. Người kia phạm v

ào hạnh thanh tịnh, ta hành hạnh thanh tịnh. Người kia nói dối, ta không nói dối. Người kia nói thêu dệt, ta không nói thêu dệt. Người kia nói lời ác, ta không nói lời ác. Người kia nói hai lưỡi

đâm thọc gây rối hai b

ên, ta không nói hai lưỡi

đâm thọc gây rối hai b

ên. Người kia tật

đố, ta không tật đố. Người kia sân nhuế, ta không sân nhuế. Người kia t

à kiến, ta hành chánh kiến.

Quân-

đầu n

ên biết, như từ

đường ác được gặp đường chánh, như từ t

à kiến

được đến chánh kiến, bỏ t

à về chánh. Như có người tự mình chìm

đắm m

à muốn cứu người, trọn không có lý. Mình chưa diệt

độ m

à muốn khiến người khác diệt

độ, việc ấy không được. Như có người tự m

ình không chìm

đắm mới có thể cứu người, lý ấy có thể được. Nay cũng lại như thế, tự m

ình

được Niết-b

àn, khiến cho người khác diệt

độ, lý ấy có thể được.

Cho nên, này Quân-

đầu! N

ên nghĩ nhớ lìa sát sanh, không sát sanh

được diệt độ; l

ìa trộm cắp, không trộm cắp

được diệt độ; l

ìa dâm dục, không dâm dục

được diệt độ; l

ìa nói dối, không nói dối

được diệt độ; l

ìa thêu dệt, không thêu dệt

được diệt

độ; l

ìa nói lời ác, không nói lời ác

được diệt độ; l

ìa nói hai lưỡi

đâm thọc gây đấu tranh đôi b

ên, không nói hai lưỡi

đâm thọc gây đấu tranh đôi b

ên

được diệt độ; l

ìa tật

đố, không tật đố được diệt độ; l

ìa sân nhuế, không sân nhuế

được diệt độ; l

ìa tà kiến,

được chánh kiến diệt độ.

Quân-

đầu n

ên biết! Người thường sanh khởi ý niệm này: 'Là hữu ngã ch

ăng? L

à vô ngã ch

ăng? L

à hữu ngã vô ngã ch

ăng? C

õi

đời l

à thường ư? Cõi

đời l

à vô thường ư? Cõi

đời có giới hạn ư? C

õi

đời không giới hạn ư? Mạng l

à thân ư? Mạng khác, thân khác ư? Như Lai có chết ư? Như Lai không chết ư? Là có chết ư? Là không chết ư? Ai tạo thế gian này?', lại sanh các tà kiến như: 'Phạm thiên tạo thế giới này? Hay là

địa chủ dựng lập thế giới n

ày? Phạm thiên tạo chúng sanh này? Hay là

địa chủ tạo thế gian n

ày? Chúng sanh vốn không nay có,

đ

ã có rồi lại diệt mất?'

Hạng người phàm phu không nghe không thấy, bèn sanh khởi ý niệm này.

Bấy giờ, Thế Tôn mới nói kệ:

Tự nhiên có Phạm thiên,

Ðây là lời Phạm chí,

Kiến chấp không chơn chánh,

Như chỗ thấy của họ.

Chúa ta sanh hoa sen,

Phạm thiên hiện trong ấy,

Ðịa chủ sanh Phạm thiên,

Tự sanh, không liên hệ.

Ðịa chủ dòng Sát-lợi,

Cha mẹ của Phạm chí,

Thế nào dòng Sát-lợi,

Phạm Chí cùng sanh nhau.

Tìm ra chỗ sanh ấy,

Lời nói của chư Thiên,

Ðây là lời khen ngợi,

Trở lại tự ràng buộc.

Phạm thiên sanh nhân dân,

Ðịa chủ tạo thế gian,

Hoặc nói nơi khác tạo,

Lời này ai xem xét?

Bị sân, dục, mê hoặc,

Ba việc chung nhóm họp,

Tâm không

được tự tại,

Tự xưng ta tối thắng.

Thiên thần tạo thế gian,

Và chẳng Phạm thiên sanh,

Giả sử Phạm thiên tạo,

Ðây chẳng hư vọng ư?

Tìm dấu vết rất nhiều,

Xét kỹ lời nói vọng,

Hành tung mỗi mỗi khác,

Hành

động ấy không thật.

Quân-

đầu n

ên biết! Các loài chúng sanh có sự thấy không

đồng nhau, ý nghĩ mỗi mỗi khác nhau. Những kiến chấp nầy đều l

à vô thường, chấp lấy những kiến chấp này cũng là pháp vô thường biến dị.

Nếu người khác sát sanh, ta nên lìa sát sanh. Nếu người khác trộm cắp, ta nên lìa trộm cắp, không tập theo hạnh ấy, giữ gìn tâm ý chuyên nhất không

để l

àm loạn. Suy nghĩ xét nét chỗ dấy khởi của tà kiến, cho

đến mười điều ác thảy n

ên trừ bỏ không tập theo hạnh ấy. Nếu người sân nhuế, ta học pháp nhẫn nhục. Người ôm lòng tật

đố ta n

ên xả ly. Người kiêu mạn, ta cũng nhớ xả ly. Nếu người tự khen mình chê người, ta cũng không tự khen mình chê người. Người không biết thiểu dục, ta nên học thiểu dục. Người phạm giới, ta cần giữ giới. Người làm biếng, ta nên siêng n

ăng. Người không tu chánh định, ta tu chánh định, n

ên học như thế. Người ngu si ta thực hành trí tuệ. Ai có thể quán sát phân biệt pháp như thế thì tà kiến tiêu diệt, các kiến chấp khác không sanh.

Khi ấy, Tôn giả Quân-

đầu nghe Phật dạy xong, ở chỗ vắng suy nghĩ quán xét điều khiến cho con nh

à hào tộc xuất gia học

đạo, mặc ba pháp y, tu Phạm hạnh vô thượng, sanh tử đ

ã hết, Phạm hạnh

đ

ã lập, việc phải làm

đ

ã làm xong, không thọ thân sau, biết một cách như thật. Khi ấy, Tôn giả Quân-

đầu liền chứng quả A-la-hán.

Bấy giờ, Quân-

đầu nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng

làm.

*

10. Tôi nghe như vầy:

Một thời

đức Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đ

à, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

- Chúng sanh trong

địa ngục thọ quả báo tột c

ùng một kiếp, hoặc có khi giữa chừng mạng chung; chịu quả báo súc sanh tột cùng một kiếp, trong khoảng ấy có khi nửa chừng mạng chung; chịu quả báo ngạ quỷ tột cùng một kiếp, trong khoảng

đó có khi yểu mạng nửa chừng.

Tỳ-kheo nên biết! Người ở châu Uất-

đơn-việt tuổi thọ một ng

àn n

ăm, không chết yểu nửa chừng. V

ì sao? Người cõi

đó không bị r

àng buộc, giả sử mệnh chung ở cõi này liền sanh cõi lành, lên trời, không bị

đọa lạc. Người ở châu Phất-vu-đệ tuổi thọ năm trăm năm, cũng có chết nửa chừng. Người ở châu C

ù-da-ni thọ hai tr

ăm năm chục năm, cũng có chết nửa chừng. Người ở châu Di

êm-phù-

đề tuổi thọ tột c

ùng một tr

ăm năm, cũng có nhiều người chết nửa chừng. Giả sử người thọ mạng tột c

ùng

đến một trăm năm th

ì mỗi thập niên là biểu hiện cho một thời kỳ, hành

động v

à tánh tình trong mỗi thời kỳ ấy khác nhau. Trong mười n

ăm đầu, c

òn thơ ấu không hiểu biết. Trong mười n

ăm thứ hai, có ít nhiều tri thức nhưng chưa thông suốt. Trong mười năm thứ ba, l

òng ái dục mạnh mẽ, tham

đắm sắc. Trong mười năm thứ tư, nhiều kỹ thuật, việc l

àm không

đúng. Trong mười năm thứ năm, hiểu nghĩa r

õ ràng, việc học không quên. Trong mười n

ăm thứ sáu, tham tiếc t

ài sản, ý không quyết

định. Trong mười năm thứ bảy, lười biếng ưa ngủ, thể tánh chậm chạp. Trong mười năm thứ tám không c

òn tâm ý mạnh mẽ, cũng không trang

điểm sửa soạn. Trong mười năm thứ chín nhiều bệnh mệt mỏi, mặt nhăn. Trong mười năm thứ mười, các căn mờ kém, gân cốt lỏng lẻo, qu

ên nhiều, lẫn lộn.

Tỳ-kheo nên biết! Giả sử người sống

đến trăm tuổi, sẽ trải qua những hoạn nạn như vậy. Giả sử người thọ mạng trăm năm, sẽ trải qua ba trăm m

ùa

đông, hạ, thu, so với thọ mạng kia không đủ nói. Nếu người thọ trăm tuổi sẽ ăn ba vạn sáu ng

àn bữa

ăn, trong khoảng đó hoặc có khi không ăn, như giận không ăn, không được cho không ăn, bệnh không ăn. Tính kể lúc ăn v

à không

ăn v

à khi bú sữa mẹ, nói tóm lại thì có ba vạn sáu ngàn lần

ăn. N

ày Tỳ-kheo! Nếu người sống tr

ăm tuổi th

ì trạng thái

ăn uống của người ấy theo giới hạn của số năm l

à như thế.

Tỳ-kheo nên biết! Nhân dân ở cõi Diêm-phù-

đề, hoặc có khi thọ mạng rất d

ài,

đồng như thọ mạng vô lượng. Về đời quá khứ lâu xa, không thể tính kể, có nh

à vua tên Liệu Chúng Bệnh, thọ mạng rất dài, dung mạo

đoan chánh, được vui vô lượng. Thời đó không có những tai họa về bệnh, gi

à, chết. Bấy giờ có hai vợ chồng sanh một

đứa con, đứa bé chết, lúc đó cha mẹ nó bồng dậy khiến ngồi v

à

đưa thức ăn cho, nhưng đứa bé không ăn không uống cũng không ngồi l

ên. Vì sao thế? Vì nó

đ

ã chết. Khi ấy cha mẹ nó liền nghĩ: 'Hôm nay con ta vì sao giận hờn không chịu

ăn uống, cũng chẳng nói năng?'. V

ì sao? Vì nhân dân lúc ấy không hề nghe

đến tiếng chết n

ên như vậy.

Bấy giờ, cha mẹ

đứa bé b

èn nghĩ: 'Con ta

đ

ã qua bảy ngày không

ăn uống, cũng không biết lý do g

ì mà không nói n

ăng. Nay chúng ta có thể đem việc n

ày tâu lên nhà vua Liệu Chúng Bệnh mới biết

được'. Họ b

èn

đến chỗ nh

à vua,

đem hết mọi chuyện tâu cho vua biết. Nh

à vua nghĩ: 'Ngày nay

đ

ã nghe

đến tiếng chết'. Vua bảo họ:

- 'Các Người có thể

đem đứa bé đến chỗ ta'.

Bấy giờ, họ bồng

đứa bé đến chỗ nh

à vua, vua thấy rồi nói với họ:

- 'Ðứa bé này

đ

ã chết'.

Cha mẹ nó tâu nhà vua:

- 'Thế nào gọi là chết?'

Vua bảo:

- 'Ðứa bé này không

đi đứng, nói năng, đối đáp, ăn uống, vui chơi. Thân thể cứng đơ

không cử

động, gọi l

à chết'.

Hai vợ chồng nọ tâu vua:

- 'Tình trạng này trải qua bao lâu?'

Vua bảo:

- 'Không bao lâu, thân thể nó sẽ thối rữa, sình trương, mùi hôi cùng khắp không chịu nổi'.

Cha mẹ

đứa bé không tin lời nh

à vua, lại bồng thây

đứa bé về nh

à, không bao lâu thân thể nó thối rữa, rất hôi hám. Lúc

đó, họ mới tin lời nh

à vua

đ

ã nói rằng 'Ðứa bé này không lâu, thân thể sẽ thối rữa, sình trương tan rã hết'. Họ lại ôm thi thể sình trương của

đứa bé đến chỗ nh

à vua và tâu rằng:

- 'Tâu Ðại vương, quả thật như vậy, nay

đem đứa bé n

ày cống hiến cho Ðại vương'.

Họ không khóc than. Vì sao? Vì không nghe tiếng 'chết' bao giờ.

Bấy giờ, nhà vua lột da

đứa bé để l

àm trống lớn, rồi sai xây lầu bảy tầng,

đem trống ấy đặt tr

ên lầu, và ra lệnh cho một người:

- 'Ngươi nên biết, ta sai ngươi giữ gìn trống này, một tr

ăm năm đánh một lần, đừng để sai thời.'

Người ấy vâng lời vua dạy, tr

ăm năm đánh trống một lần. Khi nhân dân trong nước nghe tiếng trống n

ày, lấy làm lạ chưa từng có, bảo nhau:

- 'Âm thanh gì thế? Ðó là tiếng gì? Phải tìm ra manh mối'.

Nhà vua bảo:

- 'Ðây là tiếng của da người chết'.

Mọi người nghe rồi,

đều suy nghĩ: 'Thật lạ quá, mới nghe âm thanh như thế n

ày'.

Này Tỳ-kheo! Nhà vua thuở ấy

đâu phải người n

ào lạ. Chớ nghĩ thế ấy. Vì sao? Nhà vua thuở

đó chính l

à thân Ta vậy. Do

đây m

à biết, ngày xưa thọ mạng của cõi Diêm-phù-

đề rất d

ài, còn ngày nay thọ mạng của người Diêm-phù-

đề rất ngắn. Sự giảm sút khó giới hạn. V

ì sao? Vì họ sát hại quá nhiều, cho

đến mạng sống ngắn ngủi tợ hoa rụng. Do nhân duy

ên này nên xảy ra các sự biến

đổi quái lạ.

Tỳ-kheo nên biết! N

ăm mươi năm ở c

õi Diêm-phù-

đề bằng một ng

ày một

đ

êm ở cõi trời Tứ thiên vương. Tính số ngày

đ

êm ấy, ba mươi ngày là một tháng, mười hai tháng là một n

ăm. Thọ mạng của c

õi trời Tứ thiên vương là n

ăm trăm năm, hoặc có khi chết nửa chừng, tính theo tuổi thọ của lo

ài Người là mười tám ức n

ăm.

địa ngục Ho

àn Hoạt một ngày một

đ

êm, tính theo số ngày

đ

êm ấy, ba mươi ngày là một tháng, mười hai tháng là một n

ăm. Tuổi thọ cao nhất của địa ngục Ho

àn Hoạt là một ngàn n

ăm, cũng có khi chết nửa chừng, tính theo tuổi thọ lo

ài Người là ba mươi sáu ức n

ăm.

Một tr

ăm năm ở c

õi Người bằng một ngày một

đ

êm ở cõi trời Ba mươi ba. Tính theo số ngày, tháng, n

ăm của c

õi ấy, Trời Ba mươi ba thọ một ngàn tuổi, trong khoảng

đó có khi chết nửa chừng, tính theo c

õi Người là thọ ba mươi sáu ức n

ăm.

Một ngày một

đ

êm ở

địa ngục A-tỳ tính theo số ng

ày tháng cõi ấy, ba mươi ngày là một tháng, mười hai tháng là một n

ăm, tính theo số ng

ày

đ

êm ấy, tuổi thọ nơi

đó l

à hai mươi vạn n

ăm, c

òn tính theo tuổi thọ nhân gian là một tr

ăm vạn năm.

Như thế, Tỳ-kheo! Tính tuổi thọ như thế chuyển t

ăng gấp bội, trừ c

õi trời Vô tưởng, cõi trời Vô tưởng thọ tám vạn bốn ngàn kiếp, trừ cõi trời Tịnh Cư không trở lại cõi

đời n

ày. Cho nên, này các Tỳ-kheo, chớ buông lung, ngay

đời n

ày

được dứt sạch hữu lậu. Như thế, n

ày các Tỳ-kheo, hãy học

điều n

ày!

Bấy giờ, các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

XXXXVIII.1 Phẩm Thập Bất Thiện (1)

1. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-

đ

à, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

- Nếu có chúng sanh làm việc sát sanh, sát sanh cùng khắp, gieo trồng tội báo

địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh th

ì nếu sanh trong loài Người chúng sanh ấy thọ mạng sẽ rất ngắn. Vì sao? Vì

đ

ã hại mạng người khác.

Nếu có chúng sanh trộm cắp tài vật của người khác, gieo trồng tội báo trong ba

đường ác th

ì nếu chúng sanh ấy sanh trong loài Người thường, sẽ bị nghèo khổ, thiếu thốn,

ăn không no, áo không kín thân, đều do tội trộm cắp. Cưỡng đoạt t

ài vật tức là làm

đoạn dứt mạng sống người khác.

Nếu có chúng sanh thích dâm dục, gieo trồng tội báo trong ba

đường ác, th

ì nếu chúng sanh ấy sanh trong loài Người, sẽ gặp gia

đ

ình không trinh lương, lén lút làm việc dâm dục.

Nếu có chúng sanh nói dối, gieo trồng tội báo

địa ngục, th

ì nếu chúng sanh ấy sanh trong loài Người, sẽ bị người khinh chê, nói ra không ai tin, bị người coi rẻ. Vì sao? Ðều do

đời trước nói dối m

à ra.

Nếu có chúng sanh nói hai lưỡi, gieo trồng tội báo trong ba

đường ác th

ì nếu chúng sanh ấy sanh trong loài Người, tâm thường không

định, thường lo buồn. V

ì sao? Vì người ấy

đ

ã tung ra lời hư dối với

đôi b

ên.

Nếu có chúng sanh nói lời thô ác, gieo trồng tội báo trong ba

đường ác th

ì nếu chúng sanh ấy sanh trong loài Người, sẽ có dáng vẻ xấu xí, thường ưa chửi mắng. Vì sao? Vì người ấy nói lời không chuyên chánh nên bị như thế.

Nếu có chúng sanh gây

đấu loạn đôi b

ên, gieo trồng tội báo trong ba

đường ác th

ì nếu chúng sanh ấy sanh trong loài Người, sẽ có nhiều oán thù, người thân bị ly tán. Vì sao? Ðều do

đời trước gây đấu loạn m

à ra.

Nếu có chúng sanh tật

đố, gieo trồng tội báo trong ba đường ác th

ì nếu chúng sanh ấy sanh trong loài Người, sẽ bị thiếu y phục. Vì sao? Vì người ấy ưa tật

đố.

Nếu có chúng sanh khởi lòng hại người, gieo trồng tội báo trong ba

đường ác th

ì nếu chúng sanh ấy sanh trong loài Người, thường sẽ gặp nhiều hư vọng, không hiểu lý chơn thật, tâm rối loạn không

định. V

ì sao? Ðều do

đời trước sân giận, không có l

òng nhân.

Nếu có chúng sanh hành tà kiến, gieo trồng tội báo trong ba

đường ác th

ì nếu chúng sanh ấy sanh trong loài Người sẽ phải ở chỗ man rợ, không sanh chốn thủ

đô, không gặp được Tam bảo, không nghe nghĩa lý đạo pháp; hoặc l

à bị câm,

điếc, m

ù, ngọng, thân hình không

đoan chánh, không biết r

õ nẻo thú hướng của pháp lành, pháp dữ. Vì sao? Do

đời trước không có l

òng tin, cũng không tin Sa-môn, Bà-la-môn, cha mẹ, anh em.

Các Tỳ-kheo nên biết! Do quả báo của mười

điều ác n

ày, nên gặp những

điều ương lụy như thế. Cho n

ên, này các Tỳ-kheo, nên lìa mười

điều ác, tu h

ành chánh kiến. Như thế, này các Tỳ-kheo, hãy học

điều n

ày!

Bấy giờ, các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

2. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-

đ

à, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ, Thế Tôn vào ngày rằm thuyết giới, cùng các Tỳ-kheo vây quanh trước sau,

đến giảng đường Phổ Hội. Bấy giờ, Thế Tôn lặng y

ên quan sát trong thánh chúng, rồi im lặng không nói.

Khi ấy A-nan bạch Phật:

- Hôm nay,

đại chúng thảy đều vân tập tại giảng đường, cúi xin Thế Tôn n

ên thuyết giới cấm cho chúng Tỳ-kheo.

Thế Tôn lại im lặng không nói. Khi ấy, A-nan phút chốc lại bạch Phật:

- Nay chính

đúng thời, n

ên thuyết giới cấm,

đầu đ

êm gần hết.

Thế Tôn cũng im lặng không nói. Giây lát sau, A-nan lại bạch Phật:

- Giữa

đ

êm gần hết, chúng T

ăng mệt mỏi. Cúi xin Thế Tôn đúng thời thuyết giới.

Thế Tôn cũng im lặng không nói. Giây lát sau, A-nan, lại bạch Phật:

- Cuối

đ

êm gần hết, cúi xin Thế Tôn

đúng thời thuyết giới.

Phật bảo A-nan:

- Trong chúng có người không thanh tịnh, nên Ta không thuyết giới. Nay cho phép Thượng tọa thuyết giới cấm, nếu Thượng tọa không kham thuyết giới, cho phép người trì luật thuyết giới cấm, nếu không có người trì luật, thì ai có thể tụng giới thông suốt, gọi

đến khiến thuyết giới. Từ nay về sau, Như Lai không thuyết giới, v

ì trong chúng có người không thanh tịnh, nếu Như Lai thuyết giới trong

đây, đầu người ấy bị vỡ l

àm bảy phần, như trái thù la không khác.

Khi ấy, A-nan buồn khóc, nói lên rằng:

- Hôm nay Thánh chúng côi cút. Chánh pháp Như Lai xa lìa mau chóng thế sao! Người không thanh tịnh mau ra khỏi nơi

đây!

Khi ấy, Ðại Mục-kiền-liên bèn khởi nghĩ: 'Trong chúng này, có những người nào hủy pháp khiến Như Lai không thuyết giới cho trong chúng?'. Khi ấy, Tôn giả Mục-kiền-liên nhập

định, quán khắp lỗi lầm trong tâm chúng. Tôn giả thấy hai Tỳ-kheo M

ã Sư và Mãn Túc ở trong chúng, Tôn giả bèn rời chỗ ngồi

đến chỗ hai Tỳ-kheo ấy, rồi nói:

- Các Thầy mau rời khỏi chỗ này. Ðức Như Lai cơ hiềm các Thầy nên không thuyết giới cấm.

Bấy giờ, hai Tỳ-kheo im lặng không trả lời. Tôn giả Mục-kiền-liên nói ba lần:

- Các Thầy mau rời khỏi, không nên ở tại

đây.

Hai Tỳ-kheo ấy im lặng không

đáp. Lúc đó Mục-kiền-li

ên bèn nắm tay hai Thầy ấy lôi ra khỏi cửa,

đóng cửa lại rồi mới đến bạch Phật:

- Tỳ-kheo không thanh tịnh

đ

ã

đưa ra ngo

ài, cúi xin Thế Tôn

đúng thời thuyết giới.

Phật bảo Mục-kiền-liên:

- Thôi, thôi! Này Mục-kiền-liên! Như Lai không nói giới cho các Tỳ-kheo nữa. Như Lai không nói hai lời. Tôn giả nên trở về chỗ ngồi.

Tôn giả Mục-kiền-liên lại bạch Phật:

- Nay trong chúng này

đ

ã sanh lỗi lầm, con không kham làm phép Duy-na, cúi xin Thế Tôn sai người khác.

Bấy giờ, Thế Tôn im lặng chấp nhận. Tôn giả Mục-kiền-liên cúi

đầu lễ chân Phật, trở về chỗ ngồi của m

ình.

Lúc ấy, Tôn giả A-nan bạch Phật:

- Khi

đức Phật Tỳ-b

à-thi xuất hiện ở

đời, Thánh chúng nhiều ít? Trải qua bao lâu mới sanh lỗi lầm? Cho đến thời Phật Ca-diếp, đệ tử nhiều ít? V

ì sao thuyết giới.

Phật dạy A-nan:

- Chín mươi mốt kiếp

đ

ã qua, có

đức Phật ra đời, hiệu l

à Tỳ-bà-thi Như Lai Chí Chơn Ðẳng Chánh Giác xuất hiện ở thế gian. Bấy giờ Thánh chúng có ba hội. Hội thứ nhất có một tr

ăm mười sáu vạn tám ng

àn Thánh chúng, hội thứ hai có mười sáu vạn Thánh chúng, hội thứ ba có mười vạn Thánh chúng,

đều l

à bậc A-la-hán. Ðức Phật Ty-bà-thi thọ tám vạn bốn ngàn tuổi. Trong một tr

ăm năm đầu Thánh chúng thanh tịnh, đức Phật Ty-b

à-thi thường dùng một bài kệ làm giới cấm:

Nhẫn nhục là bậc nhất,

Phật nói vô vi hơn,

Không do cạo râu tóc,

Làm Sa-môn, hại người.

Bấy giờ,

đức Phật Tỳ-b

à-thi dùng một bài kệ này, trong một tr

ăm năm l

àm cấm giới. Về sau, trong chúng sanh lỗi lầm,

đức Phật b

èn lập ra giới cấm.

Lại, trong ba mươi mốt kiếp qua, có

đức Phật hiệu l

à Thi-khí Như Lai Chí Nhơn Ðẳng Chánh Giác xuất hiện ở

đời. Thời bấy giờ, có ba hội Thánh chúng. Hội thứ nhất có mười sáu vạn chúng, hội thứ hai có mười bốn vạn Thánh chúng, hội thứ ba có mười vạn Thánh chúng. Thời đức Phật Thi-khí, trong tám mươi năm đầu, Thánh chúng thanh tịnh, đức Phật cũng nói một b

ài kệ:

Nếu mắt thấy tà vạy,

Người trí giữ không

đắm,

Xả bỏ các

điều ác,

Là trí tuệ ở

đời.

Bấy giờ,

đức Phật Thi-khí trong tám mươi năm chỉ có một b

ài kệ này. Về sau, trong chúng có lỗi lầm, Phật bèn lập cấm giới. Ðức Phật Thi-khí thọ bảy vạn tuổi.

Trong kiếp ấy cũng có Phật xuất hiện ở thế gian, hiệu là Tỳ-xá-la-bà, cũng có ba hội Thánh chúng. Hội thứ nhất có mười vạn chúng,

đều l

à bậc A-la-hán, hội thứ hai có tám vạn A-la-hán, hội thứ ba có bảy vạn A-la-hán, các lậu

đ

ã hết. Thời Phật Tỳ-xá-la-bà, trong bảy mươi n

ăm đầu, Thánh chúng thanh tịnh, đức Phật d

ùng một bài kệ rưỡi làm giới cấm:

Không hại cũng không quấy,

Vâng giữ theo

đại giới,

Ăn uống biết vừa đủ,

Giường, tòa cũng như vậy.

Chuyên tâm và chí thành,

Là lời chư Phật dạy.

Trong bảy mươi n

ăm, đức Phật ấy d

ùng kệ này làm giới cấm; về sau trong chúng có lỗi, mới lập giới cấm. Ðức Phật Tỳ-xá-la-bà thọ bảy vạn tuổi.

Trong Hiền kiếp ấy, có Phật xuất hiện hiệu là Câu-lưu-tôn xuất hiện ở thế gian. Thời ấy có hai hội Thánh chúng. Hội thứ nhất có bảy vạn Thánh chúng

đều l

à A-la-hán, hội thứ hai có sáu vạn A-la-hán. Thời

đức Phật Câu-lưu-tôn, sáu mươi năm đầu, trong chúng thanh tịnh không có lỗi. Bấy giờ, đức Phật kia d

ùng hai bài kệ làm giới cấm:

Ví như ong hút hoa,

Sắc hoa rất sạch, thơm,

Lấy vị ngọt cho người,

Ðạo sĩ vào làng xóm.

Không chê bai việc người,

Cũng không nhìn, phải quấy,

Chỉ tự quán thân, hạnh,

Xem kỹ chánh, không chánh.

Ðức Phật Câu-lưu-tôn trong sáu mươi n

ăm đầu nói hai b

ài kệ này

để l

àm giới cấm. Từ

đây về sau có người phạm giới, mới lập giới cấm.

Ðức Phật Câu-lưu-tôn thọ sáu vạn tuổi.

Trong Hiền kiếp ấy, có

đức Phật xuất hiện, hiệu l

à Câu-na-hàm-mâu-ni Như Lai Chí Chơn Ðẳng Chánh Giác. Thời ấy có hai hội Thánh chúng. Hội thứ nhất có mười sáu vạn Thánh chúng,

đều l

à bậc A-la-hán, hội thứ hai có bốn mươi vạn Thánh chúng,

đều l

à A-la-hán. Thời

đức Phật Câu-na-h

àm-mâu-ni, trong bốn mươi n

ăm đầu trong chúng không tỳ vết, đức Phật chỉ d

ùng một bài kệ làm giới cấm:

Giữ chí chớ khinh lờn,

Nên học

đạo vắng lặng,

Bậc Hiền không lo buồn,

Nên giữ tâm tịch diệt.

Trong bốn mươi n

ăm đầu, đức Phật ấy nói một b

ài kệ này làm cấm giới, về sau trong chúng có người tỳ vết, mới lập giới cấm. Ðức Phật Câu-na-hàm-mâu-ni thọ bốn vạn tuổi.

Trong Hiền kiếp ấy, có Phật hiệu Ca-diếp xuất hiện. Ðức Phật cũng có hai hội Thánh chúng. Hội thứ nhất có bốn mươi vạn chúng, hội thứ hai có ba mươi vạn chúng,

đều l

à A-la-hán. Trong hai mươi n

ăm đầu, trong chúng không có người phạm giới, đức Phật thường d

ùng một bài kệ làm giới cấm:

Chớ làm tất cả ác,

Nên vâng làm

điều l

ành,

Giữ tâm ý thanh tịnh,

Là lời chư Phật dạy.

Trong hai mươi n

ăm đầu, đức Phật ấy nói một b

ài kệ này làm cấm giới, về sau có người phạm giới mới lập giới cấm. Phật Ca-diếp thọ hai vạn tuổi.

Nay Ta, Như Lai xuất hiện ở

đời, có một hội Thánh chúng l

à một ngàn hai tr

ăm năm mươi người. Trong mười hai năm đầu không có người phạm giới, Ta d

ùng một bài kệ làm giới cấm:

Giữ miệng, ý thanh tịnh,

Thân hành cũng thanh tịnh,

Thanh tịnh ba hạnh này,

Tu hành

đạo ti

ên nhơn.

Trong mười hai n

ăm đầu, Ta nói một b

ài kệ này làm giới cấm, sau có người phạm luật, dần dần có hai tr

ăm năm mươi giới. Từ nay về sau chúng Tăng nhóm họp, n

ên phải bạch

đúng theo luật: 'Chư Hiền c

ùng nghe, nay là ngày mười l

ăm thuyết giới, nay tăng bằng l

òng cho chúng T

ăng h

òa hợp thuyết giới'.

Thưa như thế xong, nếu có Tỳ-kheo nói gì thì không nên thuyết giới; nếu tất cả cùng im lặng, không ai nói gì thì mới thuyết giới. Cho

đến sau khi nói b

ài tựa giới kinh rồi, nên hỏi rằng: 'Thưa chưa Hiền, ai không thanh tịnh?'

Hỏi như thế ba lần: 'Ai không thanh tịnh'. Người thanh tịnh thì im lặng giữ gìn.

Bởi vì tuổi thọ của người ngày nay rất ngắn, tuổi thọ cao nhất không quá tr

ăm năm. Thế n

ên, A-nan! Nên khéo thọ trì

điều Ta dạy.

Bấy giờ, A-nan bạch Phật:

- Các

đức Phật ở thời quá khứ lâu xa, tuổi thọ d

ài lâu, ít người phạm giới, không có tỳ vết. Còn ngày nay, người thọ mạng

đ

ã ngắn ít, không quá tr

ăm năm. Sau khi các Phật đời quá khứ diệt độ, pháp tồn tại ở đời bao lâu?

Phật bảo A-nan:

- Sau khi các

đức Phật quá khứ diệt độ, pháp không trụ lâu ở đời.

A-nan bạch Phật:

- Nếu như sau khi Như Lai diệt

độ, Chánh pháp trụ đời bao lâu?

Phật bảo A-nan:

- Sau khi Ta diệt

độ, Chánh pháp sẽ trụ đời lâu d

ài. Sau khi Phật Ca-diếp diệt

độ, Chánh pháp để lại trụ bảy ng

ày. Này A-nan! Nay Thầy nghĩ rằng

đệ tử của Như Lai ít, chớ nghĩ như thế. H

àng

đệ tử của Ta ở phương

Ðông nhiều vô số ức ngàn,

đệ tử ở phương Nam vô số ức ng

àn. Cho nên, A-nan, hãy nghĩ như vầy: 'Phật Thích-ca của ta thọ mạng rất dài lâu'. Vì sao? Nhục thân tụy diệt

độ nhưng pháp thân tồn tại.

Ðây là nghĩa ấy, nên ghi nhớ

điều n

ày.

Bấy giờ, A-nan và các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

3. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-

đ

à, vườn Cấp Cô Ðộc cùng với chúng

đại Tỳ-kheo năm trăm người.

Bấy giờ, Tôn giả A-nan trịch áo bày vai phải, quỳ gối phải chấm

đất, bạch Phật:

- Trí nhiệm mầu của

đức Như Lai, không việc g

ì không biết. Trong ba

đời quá khứ, hiện tại, vị lai Ng

ài thảy

đều biết r

õ; chư Phật

đời quá khứ t

ên họ, danh hiệu,

đệ tử Bồ-tát theo t

ùy tùng bao nhiêu, thảy

đều biết hết, trong một kiếp, trăm kiếp hay vô số

kiếp thảy

đều quán sát biết hết, Ng

ài cũng biết tên họ của vua chúa,

đại thần, nhân dân, thảy đều có thể phân biệt; như hiện tại nay có bao nhi

êu cõi nước cũng biết rõ ràng. Về

đời tương lai xa, khi Phật Di-lặc Chí Chơn

Ðẳng Chánh Giác xuất hiện, con muốn nghe sự biến hóa của

đức Phật ấy, số đệ tử t

ùy tùng, cảnh giới Phật phồn thịnh, trải qua bao nhiêu n

ăm?

Phật bảo A-nan:

- Thầy hãy về chỗ ngồi, lắng nghe Ta nói. Khi Phật Di-lặc ra

đời, c

õi nước giàu có, bao nhiêu

đệ tử. Thầy h

ãy khéo suy nghĩ, ghi nhớ trong tâm.

Khi ấy, A-nan vâng lời Phật dạy, liền trở về chỗ ngồi.

Bấy giờ, Phật bảo A-nan:

- Về

đời tương

lai rất xa, ở cõi này sẽ có một

đô thị t

ên Kê Ðầu, chiều Ðông Tây rộng mười hai do-tuần, chiều Nam Bắc rộng bảy do-tuần,

đất đai phong phú, nhân dân đông đúc đầy đường. Bấy giờ, trong th

ành ấy có một Long vương tên Thủy Quang,

đ

êm rưới mưa thơm, ngày thì quang

đ

ãng. Khi ấy, trong thành Kê Ðầu cũng có một La-sát tên Diệp Hoa, hành

động đúng pháp, không trái chánh giáo, chờ mọi người ngủ xong, mới dọn dẹp các vật nhơ cấu, lại d

ùng nước thơm rưới trên

đất, rất l

à thơm sạch.

A-nan nên biết! Bấy giờ cõi Diêm-phù-

đề trong khoảng

Ðông Tây Nam Bắc mười vạn do tuần, các thứ núi sông, vách

đá đều tự ti

êu diệt, nước bốn biển lớn

đều đổ về một phía.

Ðất

đai c

õi Diêm-phù-

đề rất bằng phẳng ngay ngắn như gương sáng. Các thứ ngũ cốc trong c

õi nhiều và rẻ, nhân dân

đông đúc, nhiều trân bảo, l

àng xóm kề cận nhau, tiếng gà gáy nối tiếp. Thời ấy, những loại cây trái dở

đều khô chất, loại dơ xấu cũng tự ti

êu diệt, chỉ còn những cây trái ngon ngọt

đẹp đẽ, m

ùi hương

đặc biệt đều nảy sanh ở đất ấy. Thời tiết khí hậu điều h

òa, bốn mùa thuận tiết, thân người không có tr

ăm lẻ tám tai họa như tham dục, sân nhuế, ngu si, lười biếng... L

òng người giống nhau,

đều đồng một ý, gặp nhau vui vẻ nói lời l

ành, ngôn ngữ một thứ không sai biệt, như người ở cõi Uất-

đơn-việt. Người c

õi Diêm-phù-

đề bấy giờ lớn nhỏ đều đồng một âm thanh, không có nhiều sai biệt.

Thời ấy, người nam nữ, vừa muốn

đại tiểu tiện, đất liền tự nhi

ên nứt ra, xong rồi

đất lại khép v

ào. Bấy giờ, cõi Diêm-phù-

đề tự nhi

ên sanh ra lúa, không vỏ trấu, rất thơm ngon,

ăn v

ào không bệnh khổ. Còn những thứ vàng, bạc, lưu ly, xa cừ, mã não, trân châu, hổ phách rải rắc trên mặt

đất, không ai bảo nhau rằng: 'Người thuở trước v

ì những của báu này mà giết hại nhau, bị giam cầm lao ngục, khổ sở nhiều thứ. Bây giờ nó chỉ như ngói gạch, không ai lấy'.

Bấy giờ, pháp vương xuất hiện tên Nhượng-khư, dùng Chánh pháp trị dân, có

đủ bảy báu. Bảy báu l

à: xa báu, voi báu, ngựa báu, ngọc báu, ngọc nữ báu,

điển binh báu, đại thần thủ tạng báu.

Ðó là bảy báu. Nhà vua thống lãnh Diêm-phù-

đề, không d

ùng dao gậy mà người tự nhiên hàng phục. A-nan! Lúc ấy có bốn kho châu báu lớn, kho báu thứ nhất tên Càn-

đ

à-việt-quốc-thi-la-sát, có nhiều vật châu báu lạ thường không thể tính kể. Kho lớn thứ hai tên Di-thê-la-quốc-ban-trừu cũng có nhiều trân bảo. Kho thứ ba tên Tu-lại-thác-

đại-quốc, cũng nhiều trân bảo. Kho báu thứ tư t

ên Ba-la-nại-nhượng-khư có nhiều trân bảo không thể tính kể. Bốn kho báu lớn này tự nhiên xuất hiện, khi ấy các người giữ kho

đều đến tâu vua:

- Cúi xin Ðại vương

đem các vật trong kho báu bố thí cho người ngh

èo cùng.

Khi ấy, vua Nhượng-khư

được các kho báu n

ày, cũng không quan tâm

đến, ý không tưởng t

ài vật. Bấy giờ, cõi Diêm-phù-

đề tr

ên cây tự nhiên sanh y phục, mềm mại nhu nhuyễn, người

đến lấy mặc, như người c

õi Uất-

đơn-việt hiện nay, tr

ên cây tự nhiên có y phục.

Nhà vua có một

đại thần t

ên Tu-phạm-ma, là bạn từ thuở bé của nhà vua, nhà vua rất thương kính. Dung mạo của

đại thần đoan chánh, không cao không thấp, không mập không ốm, không trắng không đen, không gi

à không trẻ. Ðại thần Tu-phạm-na có phu nhân tên Phạm-ma-việt,

đặc biệt hơn hẳn các ngọc nữ, như cung phi trời

Ðế Thích, miệng phát ra mùi thơm hoa ưu-bát, thân có mùi thơm chiên-

đ

àn, hoàn toàn không có tám mươi bốn trạng thái của người nữ, cũng không bệnh, ý không tán loạn. Bấy giờ, Bồ-tát Di-lặc ở cung trời Ðâu-suất quan sát cha mẹ không trẻ không già, liền giáng thần hạ sanh từ hông bên phải, như Ta hiện nay sanh từ hông bên phải, Bồ-tát Di-lặc cũng thế. Chư thiên cõi trời Ðâu-suất

đều xướng rằng: 'Bồ-tát Di-lặc đ

ã hạ sanh'. Khi

đó, đại thần Tu-phạm-ma b

èn

đặt t

ên con là Di-lặc. Công tử có ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ

đẹp trang nghi

êm thân hình, thân màu hoàng kim.

Thời bấy giờ nhân dân thọ mạng dài lâu, không bệnh,

đều thọ tám vạn bốn ng

àn tuổi. Con gái

đến năm trăm tuổi mới lấy chồng. bồ-tát Di-lặc ở nh

à không bao lâu, bèn xuất gia học

đạo, lúc đó cách th

ành Kê Ðầu không xa, có một cội

đạo thọ t

ên Long Hoa, cao một do-tuần, rộng n

ăm trăm bộ. Bồ-tát Di-lặc ngồi dưới cội cây ấy th

ành

đạo quả Vô thượng. V

ào nửa

đ

êm ấy, Di-lặc xuất gia, ngay

đ

êm

đó th

ành

đạo Vô thượng. Khi ấy, ba ng

àn

đại thi

ên cõi nước rung

động sáu cách,

Ðịa thần mỗi bảo nhau rằng: 'Nay Bồ-tát Di-lặc

đ

ã thành Phật', truyền

đến cung trời Tứ thi

ên vương nghe: 'Di-lặc

đ

ã thành Phật

đạo', truyền dần đến trời Ba mươi ba, trời Di

êm-ma, trời Ðâu-suất, trời Hóa tự tại, trời Tha hóa tự tại, tiếng vang lần lượt

đến Phạm thi

ên: 'Di lặc

đ

ã thành Phật'.

Bấy giờ, Ma vương tên Ðại Tướng dùng pháp trị hóa nghe danh Như Lai, âm thanh giáo hóa, vui mừng phấn khởi không thể tự dừng, bảy ngày bảy

đ

êm không ngủ nghỉ. Khi ấy, Ma vương

đem vô số chư thi

ên cõi dục,

đến chỗ Phật Di-lặc cung kính lễ bái.

Ðức Phật Di-lặc vì chư Thiên dần dần nói pháp vi diệu, những luận như luận bố thí, luận trì giới, luận sanh Thiên, dục tưởng bất tịnh, xuất yếu là nhiệm mầu.

Phật Di-lặc thấy mọi người

đ

ã phát tâm hoan hỷ, Ngài liền

đem những pháp m

à chư Phật thường nói như: Khổ, Tập, Diệt, Ðạo vì hàng Trời, Người rộng phân biệt nghĩa ấy. Bấy giờ có tám vạn bốn ngàn Thiên tử, ngay chỗ ngồi dứt sạch trần cấu,

được pháp nh

ãn tịnh. Ma Vương Ðại Tướng bảo mọi người trong cõi nước ấy rằng:

- Các Người mau xuất gia. Vì sao? Nay

đức Phật Di-lặc đ

ã qua bờ kia, cũng sẽ

đưa các Người sang bờ kia.

Bấy giờ trong thành Kê Ðầu có trưởng giả tên Thiện Tài, nghe giáo lệnh của Ma vương, và nghe âm thanh Phật, bèn

đem tám vạn bốn ng

àn người

đến chỗ Phật Di-lặc, cúi đầu lễ chân Phật, lui ngồi một b

ên. Phật Di-lặc dần dần vì nói pháp vi diệu. Ðó là luận về bố thí, luận trì giới, luận sanh thiên, dụng tưởng bất tịnh, xuất yếu là nhiệm mầu. Bấy giờ, Phật Di-lặc thấy mọi người

đ

ã khai mở tâm ý, bèn

đem các pháp chư Phật thường nói như: Khổ, Tập, Diệt,

Ðạo vì mọi người giảng rộng nghĩa ấy. Tám vạn bốn ngàn người

đến chỗ ngồi sạch hết trần cấu được pháp nh

ãn tịnh. Khi ấy, Thiện Tài cùng tám vạn bốn ngàn người liền

đến trước bạch Phật, cầu xin xuất gia, khéo tu Phạm hạnh, đều th

ành A-la-hán. Bấy giờ, hội thứ nhất của Phật Di-lặc có tám vạn bốn ngàn A-la-hán.

Khi ấy, vua Nhượng-khư nghe Bồ-tát Di-lặc

đ

ã thành Phật, bèn

đến chỗ Phật muốn được nghe pháp. Thời Phật Di-lặc v

ì vua nói pháp, phần

đầu l

ành, phần giữa lành, phần sau

đều l

ành, nghĩa lý sâu xa. Lại thời khác, vua lập thái tử, tặng châu báu cho người thợ cạo, lại

đem tạp bảo cho các Phạm chí, dẫn tám vạn bốn ngh

ìn người

đến chỗ Phật, xin l

àm Sa-môn,

đều th

ành

đạo

quả, chứng A-la-hán.

Khi ấy, trưởng giả Tu-phạm-ma nghe Di-lặc

đ

ã thành Phật,

đem tám vạn bốn ngh

ìn chúng Phạm chí,

đến chỗ Phật xin l

àm Sa-môn,

đều đắc quả A-la-hán, chỉ trừ một m

ình Tu-phạm-ma,

đoạn ba kết sử, chấm dứt mé khổ. Khi ấy, Phật mẫu Phạm-ma-việt, lại đem tám vạn bốn ng

àn thể nữ

đến chỗ Phật, xin l

àm Sa-môn. Khi ấy, các người nữ

đều đắc quả A-la-hán, chỉ một m

ình Phạm-ma-việt,

đoạn ba kiết sử th

ành Tu-

đ

à-hoàn. Bấy giờ, các phu nhân dòng Sát-lợi, nghe Phật Di-lặc xuất hiện thế gian, thành Ðẳng Chánh Giác, vài ngàn vạn chúng

đến chỗ Phật, cúi đầu lễ chân Phật, lui ngồi một b

ên, mỗi mỗi phát tâm cầu làm Sa-môn, xuất gia học

đạo, hoặc có người vượt thứ lớp m

à chứng

đạo, hoặc có người không chứng. A-nan! Bấy giờ những người không vượt thứ lớp chứng đạo đều l

à người vâng theo pháp, chán ghét tất cả tưởng không vui ở thế gian, khi ấy Phật Di-lặc sẽ nói giáo lý Tam thừa. Như nay, trong hàng

đệ tử Ta,

Ðại Ca-diếp thực hành mười hai hạnh

đầu đ

à, ở nơi chư Phật quá khứ khéo tu Phạm hạnh, và sẽ thường phụ tá Phật Di-lặc giáo hóa nhân dân.

Bấy giờ, Tôn giả Ca-diếp cách chỗ Phật không xa, ngồi kiết-già chánh thân, chánh ý buộc niệm ở trước. Phật bảo Tôn giả Ca-diếp:

- Nay Ta tuổi

đ

ã già suy, hơn tám mươi. Song Như Lai có bốn

đệ tử Thanh văn lớn có khả năng du hóa, trí tuệ vô tận, đầy đủ các đức. Những ai l

à bốn? Ðó là Tỳ-kheo Ðại Ca-diếp, Tỳ-kheo Quân-

đồ-bát-hán

, Tỳ-kheo Tân

đầu-lư, Tỳ-kheo La-vân. Bốn Thanh văn lớn các Thầy! Không n

ên nhập Niết-bàn,

đợi pháp Ta mất hẳn, sau mới v

ào Niết-bàn. Ðại Ca-diếp cũng không nên vào Niết-bàn, nên

đợi đến Di-lặc ra đời. V

ì sao? Ðệ tử do Phật Di-lặc hóa

độ đều l

à

đệ tử của Phật Thích-ca Văn, do Ta hóa độ để lại, được sạch hữu lậu. Tại nước Ma-kiệt, thôn Tỳ-đề,

Ðại Ca-diếp sẽ trụ trong núi xứ ấy

đến lúc Phật Di-lặc đem vô số ng

àn chúng vây quanh trước sau

đến trong núi n

ày. Nương ân

đức Phật, các Quỷ thần v

ì Phật mở cửa, khiến thấy

được Ca-diếp tọa Thiền trong động.

Khi ấy, Phật Di-lặc

đưa tay mặt chỉ v

ào Ca-diếp, bảo với mọi người:

- 'Ðây là

đệ tử của Phật Thích-ca từ quá khứ lâu xa, t

ên là Ca-diếp. Hiện tại, tu hạnh

đầu đ

à

đệ nhất'.

Mọi người thấy rồi khen 'chưa từng có', vô số tr

ăm ng

àn chúng sanh chấm dứt các trần cấu,

được pháp nh

ãn tịnh. Hoặc lại có chúng sanh

đ

ã thấy thân Ca-diếp rồi. Ðây gọi là hội ban

đầu, chín mươi sáu ức người đều đắc quả A-la-hán, những người ấy đều l

à

đệ tử của Ta. V

ì sao? Vì thảy

đều do nhận l

ãnh sự giáo hóa của Ta mà nên. Cũng do nhân duyên bốn món cúng dường, bố thí, nhân ái, lợi người, lợi

đồng nhau.

A-nan! Bấy giờ Phật Di-lặc sẽ

đắp y Tăng-gi

à-lê của Ca-diếp, khi

đó thân thể của Ca-diếp nghiễm nhi

ên tan rã, Di-lặc lại

đem các thứ hương hoa cúng dường Ca-diếp. V

ì sao? Vì chư Phật Thế Tôn

đều có tâm cung kính đối với Chánh Pháp, Di-lặc cũng do Chánh pháp hóa m

à Ta nhận

được, được th

ành

đạo Vô Thượng Chánh Chơn.

A-nan nên biết! Hội thứ hai của Phật Di-lặc có chín mươi bốn ức người,

đều l

à bậc A-la-hán, cũng là

đệ tử của Ta để lại, cúng dường bốn thứ cần d

ùng mà

được như thế.

Hội thứ ba của Di-lặc có chín mươi hai ức người, là bậc A-la-hán, cũng là

đệ

tử thọ pháp Ta

để lại. Bấy giờ danh xưng của Tỳ-kheo đều gọi l

à

đệ tử Từ Thị, như Ta ng

ày nay, hàng Thanh v

ăn đều xưng l

à

đệ tử Thích-ca.

Bấy giờ, Phật Di-lặc vì các

đệ tử thuyết pháp: 'Tỳ-kheo các Thầy n

ên suy nghĩ về tưởng vô thường, tưởng vui có khổ, tưởng chấp có ngã và vô ngã, tưởng thật có, rổng không, tưởng sắc biến

đổi, tưởng bầm xanh, tưởng s

ình trương, tưởng

ăn không ti

êu, tưởng ứ máu, tưởng tất cả

đều không vui của thế gian. V

ì sao? Tỳ-kheo nên biết, mười tưởng nầy

đều l

à do Phật Thích-ca V

ăn từ quá khứ đ

ã nói cho các Thầy, khiến dứt sạch hữu lậu tâm

được giải thoát. Hoặc trong chúng n

ày có

đệ tử của Phật Thích-ca thời quá khứ từng tu Phạm hạnh, m

à

đến chỗ Ta; hoặc ở nơi Phật Thích-ca vâng giữ pháp ấy, m

à

đến chỗ Ta; hoặc ở nơi Phật Thích-ca cúng dường Tam Bảo m

à

đến chỗ Ta; hoặc ở nơi Phật Thích-ca tu căn l

ành trong khoảng khảy móng tay mà

đến chỗ Ta; hoặc ở nơi Phật Thích-ca tu Tứ vô lượng tâm, m

à

đến chỗ Ta; hoặc ở nơi Phật Thích-ca thọ giữ năm giới, tam tự quy y m

à

đến chỗ Ta; hoặc ở nơi Phật Thích-ca tạo dựng tháp miếu, ch

ùa viện mà

đến chỗ Ta; hoặc ở nơi Phật Thích-ca sửa sang ch

ùa cũ mà

đến chỗ Ta; hoặc ở nơi Phật Thích-ca thọ giới bát quan trai m

à

đến chỗ Ta; hoặc ở nơi Phật Thích-ca d

ùng hương hoa cúng

đường m

à

đến đây; hoặc ở nơi Phật kia, nghe Phật pháp buồn khóc rơi lệ m

à

đến chỗ Ta; hoặc ở nơi Phật Thích-ca một l

òng nghe pháp mà

đến chỗ Ta; hoặc suốt đời khéo tu Phạm hạnh m

à

đến chỗ Ta; hoặc đ

ã viết kinh,

đọc tụng m

à

đến chỗ Ta. Hoặc đ

ã thừa sự cúng dường mà

đến chỗ Ta'.

Khi ấy, Phật Di-lặc bèn nói kệ này:

T

ăng trưởng giới, văn, đức.

Thiền và nghiệp tư duy,

Khéo tu về Phạm hạnh,

đến chỗ của Ta.

Siêng, thí tâm hoan hỷ,

Tu hành, cội nguồn tâm,

Ý không tưởng nhiều việc,

Ðều

đến chỗ của Ta.

Hoặc

đến chỗ của Ta.

Hoặc phát tâm bình

đẳng,

Thừa sự nơi chư Phật,

Cúng thức

ăn Thánh chúng,

Ðều

đến chỗ của Ta.

Hoặc tụng giới, khế kinh,

Khéo tập, nói cho người,

Mạnh mẽ nơi gốc pháp,

Nay

đến chỗ của Ta.

Dòng Thích khéo giáo hóa,

Cúng dường các Xá-lợi,

Thừa sự pháp cúng dường,

Nay

đến chỗ của Ta.

Nếu có biên chép kinh,

Tuyên

đọc tr

ên án thư,

Có người cúng dường kinh,

Ðều

đến chỗ của Ta.

Lụa, vải và các thứ,

Cúng dường nơi chùa tháp,

Tự xưng: Nam-mô Phật,

Ðều

đến chỗ của Ta.

Cúng dường Phật hiện tại,

Và chư Phật quá khứ,

Thiền

định rất chơn chánh,

Cũng không có t

ăng giảm.

Cho nên nơi Phật pháp,

Thừa sự nơi Thánh chúng,

Một lòng thờ Tam Bảo,

Ðều

đến chỗ vô vi.

A-nan, nên biết! Di-lặc Như Lai nói kệ này trong chúng kia. Bấy giờ trong chúng, hàng Trời, Người suy nghĩ mười tưởng này, mười một vạn vạn người sạch hết các trần cấu,

được pháp nh

ãn tịnh. Thời

đức Phật Di-lặc, trong một ng

àn n

ăm, chúng Tăng không có lỗi. Bấy giờ Phật ấy thường d

ùng một bài kệ làm giới cấm:

Miệng, ý không làm ác,

Thân cũng chẳng phạm ác,

Nên trừ ba hạnh này,

Chóng thoát vực sanh tử.

Sau một ngàn n

ăm, có người phạm giới Phật ấy b

èn lập giới cấm. Phật Di-lặc sẽ thọ tám vạn bốn ngàn tuổi, sau khi Phật nhập Niết-bàn, Pháp

để lại tồn tại tám vạn bốn ngh

ìn n

ăm. V

ì sao? Vì chúng sanh thời bấy giờ

đều l

à lợi c

ăn.

Có thiện nam tử, thiện nữ nhân nào muốn

được gặp Phật Di-lặc v

à ba hội chúng Thanh-v

ăn, c

ùng thành Kê Ðầu, vua Nhượng-khư, và bốn kho châu báu lớn, muốn

ăn lúa thóc tự nhi

ên và mặc y phục tự nhiên, sau khi chết sanh cõi trời thì thiện nam tử, thiện nữ nhân ấy nên gắng sức tinh tấn,

đừng sanh giải đ

ãi, cũng nên cúng dường thừa sự các pháp sư, cúng dường các thứ danh hoa, hương thơm

đừng để thiếu thốn. Như thế, A-nan, n

ên học

điều n

ày!

Bấy giờ, A-nan và

đại

chúng nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

XXXXVIII.2. Phẩm Thập bất thiện (2)

4. Tôi nghe như vầy,

Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-

đ

à, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ, phần

đông các Tỳ-kheo nhóm họp tại giảng đường Phổ Hội, mỗi người khởi luận nghị thế n

ày: 'Nay Như Lai rất kỳ lạ, rất

đặc biệt đối với các đức Phật quá khứ đ

ã nhập Niết-bàn, cũng lại biết tên họ, chủng tộc kia, trì giới, tùy tùng, thảy

đều biết r

õ, tam-muội, trí tuệ, giải thoát, giải thoát tri kiến, thọ mạng dài ngắn, thảy

đều biết. Thế n

ào chư Hiền? Ðó là Như Lai phân biệt pháp xứ rất thanh tịnh, mà biết tên họ, chỗ phát xuất của chư Phật kia ch

ăng? Hay l

à chư Thiên

đến chỗ Phật mách bảo?'

Bấy giờ, Thế Tôn dùng Thiên nhĩ nghe thấu

điều b

àn luận của

đa số các Tỳ-kheo, b

èn

đến chỗ các Tỳ-kheo, ngồi v

ào tòa chính giữa. Phật bảo các Tỳ-kheo:

- Các Thầy nhóm ở

đây b

àn luận việc gì? Muốn nói pháp gì?

Các Tỳ-kheo bạch Phật:

- Chúng con nhóm ở

đây b

àn về yếu chỉ Chánh pháp. Mọi người dấy khởi luận nghị này: 'Như Lai rất kỳ lạ, rất

đặc biệt, mới có thể biết t

ên họ, danh hiệu của các

đức Phật Thế Tôn quá khứ, trí tuệ nhiều ít thảy đều biết r

õ. Rất lạ thay! Thế nào, chư Hiền, là Như Lai phân biệt pháp giới rất thanh tịnh, biết tên họ nơi phát xuất của chư Phật kia ch

ăng? Hay l

à chư thiên

đến chỗ Phật mách bảo chăng?

Phật bảo các Tỳ-kheo:

- Các Thầy muốn nghe sức trí thần của chư Phật quá khứ ch

ăng? Muốn biết t

ên họ, danh hiệu, thọ mạng dài ngắn ch

ăng?

Các Tỳ-kheo thưa:

- Nay chính

đúng thời, cúi xin Thế Tôn diễn b

ày nghĩa ấy.

Phật bảo các Tỳ-kheo:

- Các thầy khéo nghĩ nhớ, Ta sẽ vì các thầy nói rộng nghĩa này.

Bấy giờ

đại chúng Tỳ-kheo vâng lời Phật dạy, Phật bảo:

- Tỳ-kheo nên biết! Quá khứ chín mươi mốt kiếp về trước, có Phật xuất thế, hiệu Tỳ-bà-thi Như Lai Chí Chơn Ðẳng Chánh Giác. Lại nữa, ba mươi mốt kiếp về trước có Phật xuất thế hiệu Thi-khí Như Lai Chí Chơn Ðẳng Chánh Giác. Lại, trong kiếp ba mươi mốt ấy có Phật hiệu là Tỳ-xá-la-bà Như Lai xuất thế. Trong Hiền kiếp này có Phật xuất thế hiệu Câu-lâu-tôn Như Lai. Lại trong Hiền kiếp ấy có Phật xuất thế hiệu Câu-na-hàm-mâu-ni Như Lai Chí chơn Ðẳng Chánh Giác. Lại trong Hiền kiếp có Phật xuất thế hiệu Ca-diếp. Lại trong Hiền kiếp, Ta xuất thế là Thích-ca V

ăn Như Lai Chí Chơn

Ðẳng Chánh Giác.

Bấy giờ, Phật bèn nói kệ:

Trong chín mươi mốt kiếp,

Có Phật Tỳ-bà-thi,

Trong kiếp ba mươi mốt,

Phật thi-khí xuất hiện.

Cũng trong Hiền kiếp ấy,

Phật Tỳ-xá xuất hiện,

Ngày nay trong Hiền kiếp,

Bốn Phật lại xuất thế.

Câu-tôn, Na, Ca-diếp

Như trời chiếu thế gian,

Muốn biết tên họ ấy,

Danh hiệu kia như thế.

Phật Tỳ-bà-thi phát xuất từ dòng Sát-lợi. Phật Thi-khí cũng phát xuất từ dòng Sát-lợi. Phật Tỳ-xá-la-bà cũng phát xuất từ dòng Bà-la-môn. Phật Câu-lưu-tôn xuất phát từ dòng Bà-la-môn. Phật Câu-na-hàm-mâu-ni phát xuất từ Bà-la-môn, Phật Ca-diếp phát xuất từ dòng Bà-la-môn. Như nay Ta phát xuất dòng Sát-lợi.

Phật bèn nói kệ:

Các Phật trước, xuất hiện,

Ðều từ dòng Sát-lợi,

Câu-tôn

đến Ca-diếp,

Xuất từ Bà-la-môn.

Trên hết không ai sánh,

Nay Ta, thầy Trời Người,

Các c

ăn đều vắng lặng,

Xuất từ dòng Sát-lợi.

Phật Tỳ-bà-thi họ Cù-

đ

àm, Phật thi-khí cũng họ Cù-

đ

àm, Phật Tỳ-xá-la-bà cũng họ Cù-

đ

àm. Phật Ca-diếp họ Ca-diếp. Phật Câu-lưu-tôn, Phật Câu-na-hàm-mâu-ni cũng từ họ Ca-diếp như trên không khác. Nay Ta, họ Cù-

đ

àm.

Thế Tôn bèn nói kệ:

Ba

đức Phật ban đầu,

Ðều từ họ Cù-

đ

àm,

Ba Phật sau, Ca-diếp,

Ðều từ họ Ca-diếp.

Như Ta ở hiện tại,

Trời, Người

đều kính vâng,

Các c

ăn rất vắng lặng,

Xuất từ họ Cù-

đ

àm.

Tỳ-kheo nên biết! Phật Tỳ-bà-thi họ Câu-lân-nhã. Phật Thi-khí cũng từ Câu-lân-nhã. Phật tỳ-xá-la-bà cũng từ Câu-lân-nhã. Phật Câu-lưu-tôn từ Bà-la-

đọa. Phật Câu-na-h

àm-mâu-ni cũng từ Bà-la-

đọa. Phật

Ca-diếp cũng từ Bà-la-

đọa. Như Ta ng

ày nay, Như Lai Chí Chơn Ðẳng Chánh Giác phát xuất từ Câu-lân-nhã.

Thế Tôn bèn nói kệ:

Ba

đức Phật ban đầu,

Xuất từ Câu-lân-nhã,

Ba Phật sau, Ca-diếp,

Xuất từ Bà-la-

đọa.

Như Ta ở hiện tại

Trời, Người

đều kính vâng,

Các c

ăn rất vắng lặng

Xuất từ Câu-lân-nhã.

Phật Tỳ-bà-thi ngồi dưới cội cây hoa Ba-la-lợi thành Phật

đạo. Phật

Thi-khí ngồi dưới cội cây Phân-

đ

à-lợi thành Phật

đạo. Phật Tỳ-xá-la-b

à ngồi dưới cội cây Ba-la thành Phật

đạo. Phật Câu-lưu-tôn ngồi dưới cội cây Thi-lợi-sa th

ành Phật

đạo. Phật Câu-na-h

àm-mâu-ni ngồi dưới cột cây Ưu-

đầu-bạt-la th

ành Phật

đạo. Phật Ca-diếp ngồi dưới cội cây Ni-câu-lưu th

ành Phật

đạo. Như Ta ng

ày nay ngồi dưới cội cây Cát tường thành Phật

đạo.

Thế Tôn bèn nói kệ:

Phật ban

đầu h

ành

đạo,

Dưới cây Ba-la-lợi,

Thi-khí, Phân-

đ

à-lợi,

Tỳ-xá, cây Ba-la,

Câu-tôn, cây Thi-lợi,

Câu-na, cây Bạt-la,

Ca-diếp, cây Câu-lưu,

Ta thành

đạo, Cát tường.

Bảy Phật, trời trong trời,

Chiếu sáng nơi thế gian,

Nhân duyên ngồi dưới cây,

Ðều thành

đạo quả Phật.

Phật Tỳ-bà-thi có mười sáu vạn tám nghìn

đệ tử. Phật Thi-khí có mười sáu vạn đệ tử. Phật Tỳ-xá-la-b

à có mười vạn

đệ tử. Phật Câu-lưu-tôn có tám vạn đệ tử. Phật Câu-na-h

àm-mâu-ni có bảy vạn

đệ tử. Phật Ca-diếp có sáu vạn đệ tử. Như Ta ng

ày nay có một ngàn hai tr

ăm năm mươi đệ tử đều l

à bậc A-la-hán, các lậu vĩnh viễn chấm dứt, không còn các trói buộc.

Thế Tôn bèn nói kệ:

Tr

ăm ng

àn sáu vạn tám,

Ðệ tử Tỳ-bà-thi,

Tr

ăm ng

àn và sáu vạn,

Ðệ tử Phật Thi-khí,

Tr

ăm ng

àn chúng Tỳ-kheo,

Ðệ tử Ty-xá-bà,

Câu-tôn, tám vạn chúng,

Câu-na-hàm, bảy vạn,

Ca-diếp, sáu vạn chúng,

Ðều là A-la-hán.

Nay Ta là Thích-ca,

Nghìn hai tr

ăm năm mươi,

Ðều là hạnh Chơn nhơn,

Giáo hóa ở hiện tại,

Pháp

để lại, đệ tử.

Số ấy không thể tính.

Phật Tỳ-bà-thi có thị giả tên Ðại Ðạo Sư, Phật-Thi-khí có thị giả tên Thiện Giác. Phật Tỳ-xá-la-bà có thị giả tên Thắng Chúng. Phật Câu-lưu-tôn có thị giả tên Cát Tường. Phật Câu-na-hàm-mâu-ni có thị giả tên Tỳ-la-tiên. Phật Ca-diếp có thị giả tên Ðạo Sư. Thị giả hiện nay của Ta tên A-nan.

Thế Tôn bèn nói kệ:

Ðại Ðạo và Thiện Giác,

Thắng Chúng và Cát Tường,

Tỳ-la-tiên, Ðạo Sư,

A-nan, hàng thứ bảy,

Người này cúng dường Thánh,

Không câu nệ thời giờ,

Ðọc tụng và thọ trì,

Không mất nghĩa lý kia.

Phật Tỳ-bà-thi thọ tám vạn bốn nghìn tuổi. Phật Thi-khí thọ bảy vạn tuổi. Phật Tỳ-xá-la-bà thọ sáu vạn tuổi. Phật Câu-lưu-tôn thọ n

ăm vạn tuổi. Phật Câu-na-h

àm-mâu-ni thọ bốn vạn tuổi. Phật Ca-diếp thọ hai vạn tuổi. Như Ta ngày nay tuổi thọ giảm xuống rất nhiều, thọ mạng nhiều nhất không quá tr

ăm tuổi.

Thế Tôn bàn nói kệ:

Phật

đầu, tám vạn tư,

Phật kế, bảy vạn tuổi

Tỳ-xá-bà, sáu vạn,

Câu-lưu-thọ n

ăm

vạn,

Hai vạn cộng hai vạn,

Tuổi thọ Câu-na-hàm,

Ca-diếp thọ hai vạn

Chỉ Ta thọ tr

ăm

ăm.

Như thế, này các Tỳ-kheo! Như Lai quán sát biết tên họ, danh hiệu của chư Phật, thảy

đều r

ành rẽ, dòng họ, xuất xứ

đều thấu triệt, tr

ì giới, trí tuệ, thiền

định, giải thoát, thảy đều biết r

õ.

Bấy giờ, tôn giả A-nan bạch Phật:

- Như Lai cũng nói: Hằng sa chư Phật

đ

ã diệt

độ ở quá khứ, Như Lai cũng biết. Hằng sa chư Phật tương lai sẽ xuất hiện, Như Lai cũng biết. V

ì sao Phật không dự ký việc làm của bao nhiêu Phật, mà nay chỉ nói về sự việc của bảy

đức Phật?

Phật bảo A-nan:

- Ðều có gốc ngọn nhân duyên nên Ta nói sự việc của bảy

đức Phật. Hằng sa chư Phật thời quá khứ cũng chỉ nói về sự việc của bảy đức Phật. Tương

lai, khi Phật Di-lặc xuất hiện, cũng sẽ chỉ dự ký về sự việc của bảy

đức Phật. Nếu khi Phật Sư Tử Ứng ra đời, cũng sẽ chỉ nói về sự việc của bảy đức Phật. Nếu khi Phật Thừa Nhu Thuận ra đời, cũng sẽ chỉ nói về sự việc của bảy đức Phật. Nếu khi Phật Quang Diệm ra đời, cũng sẽ chỉ nói về sự việc bảy đức Phật. Nếu khi Phật Vô Cầu xuất hiện, cũng sẽ chỉ nói về sự việc của Phật Ca-diếp. Nếu khi Phật Bảo Quang ra đời, cũng sẽ nói về sự việc của Phật Thích-ca Văn.

Bấy giờ Thế Tôn bèn nói kệ:

Sư tử, Thừa Nhu, Quang,

Vô Cấu và Bảo Quang,

Thứ lớp sau Di-lặc,

Ðều sẽ thành Phật

đạo.

Di-lặc ghi Thi-khí

Sư Tử ghi Tỳ-xá

Nhu Thuận ghi Câu-tôn

Quang Diệm ghi Mâu-ni

Vô Cấu ghi Ca-diếp,

Ðều nói duyên

đời trước,

Bảo Quang thành Phật sau,

Cũng sẽ ghi hiệu Ta.

Chư Phật

đời quá khứ,

Và chư Phật tương lai,

Ðều dự ghi bảy Phật

Gốc ngọn việc xa xưa.

Do nhân duyên này, nên Như Lai ghi danh hiệu bảy

đức Phật.

A-nan bạch Phật:

- Kinh này tên gì? Nên phụng trì thế nào?

Phật bảo A-nan:

- Kinh này tên 'Ghi danh hiệu Phật', nên ghi nhớ vâng làm.

Bấy giờ, A-nan và các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

5. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở tại nước La-duyệt, vườn trúc Ca-la-

đ

à.

Bấy giờ, trưởng giả Sư Tử

đ

ã

đến chỗ Tôn giả Xá-lợi-phất, cúi đầu lễ chân Tôn giả, lui ngồi một b

ên. Trưởng giả Sư Tử bạch Tôn giả Xá-lợi-phất:

- Cúi xin Tôn giả nhận lời thỉnh của con.

Khi ấy, Tôn giả Xá-lợi-phất im lặng nhận lời. Trưởng giả thấy Tôn im lặng nhận lời,liền từ chỗ ngồi

đứng dậy, lễ chân Tôn giả rồi lui. Trưởng giả lại đến chỗ các vị Mục-kiền-li

ên, Ly-việt, Ðại Ca-diếp, A-na-luật, Ca-chiên-diên, Mãn-từ Tử, Ưu-ba-ly, Tu-bồ-

đề, La-vân v

à Sa-di Quân-

đầu ... thỉnh các thượng thủ như thế, gồm năm trăm người.

Trưởng giả Sư Tử liền trở về, sắm sửa

đủ các thức ăn uống rất ngon, trải t

òa ngồi

đẹp, rồi đến thưa rằng:

- Ðến giờ, các vị A-la-hán chân nhân

đ

ã không từ chối. Nay thức

ăn đ

ã dọn, cúi xin quang lâm

đến nh

à.

Bấy giờ các

đại Thanh văn đều đắp ba y, mang bát, v

ào thành

đến nh

à trưởng giả. Trưởng giả thấy chư tôn

đều v

ào chỗ

đ

ã

định, b

èn tự tay mình sớt các thức

ăn uống. Thấy Thánh chúng ăn xong, đem nước sạch rửa tay, cúng dường mỗi vị một tấm lụa trắng, trước từng người, nhận lời chú nguyện.

Tôn giả Xá-lợi-phất vì trưởng giả nói pháp vi diệu, rồi rời tòa

đi ra, trở về tịnh thất. Bấy giờ, Tôn giả La-vân đến chỗ Thế Tôn, cúi đầu lễ chân Phật, lui ngồi một

bên. Phật hỏi:

- Hôm nay Thầy từ nơi nào

đến?

La-vân thưa:

- Hôm nay có trưởng giả Sư Tử thỉnh.

Phật hỏi:

- Thế nào, La-vân! Thức

ăn ngon hay không ngon, l

à tế hay là thô?

La-vân thưa:

- Thức

ăn rất ngon v

à nhiều. Tấm lụa trắng này là do trưởng giả ấy cúng.

Phật bảo La-vân:

- Chúng T

ăng có bao nhi

êu người? Ai là Thượng tọa?

La-vân bạch Phật:

- Tôn giả Xá-lợi-phất là Thượng thủ, và chư

đệ tử Thần đức năm trăm người.

Phật bảo La Vân:

- Thế nào, La Vân! Trưởng giả ấy

được phước nhiều chăng?

La Vân bạch Phật:

- Thưa vâng, bạch Thế Tôn! Trưởng giả ấy

được phước báu không thể tính kể. Cúng một A-la-hán, phước ấy khó hạn lượng, huống g

ì là bậc thần diệu lớn, Người, Trời

đều cung kính. Nay năm trăm người đều l

à Chân nhân, phước ấy làm sao có thể lường.

Phật bảo La-vân:

- Nay công

đức cúng dường năm trăm La-hán, nếu thứ lớp thỉnh một Sa-môn trong chúng, thỉnh rồi cúng dường th

ì so sánh phước cúng dường do chúng cử, và phước cúng cho n

ăm trăm La-hán, phước tr

ên hơn gấp tr

ăm ng

àn lần, ức vạn lần, không thể dùng thí dụ so sánh. Vì sao? Người do chúng cử, phước khó hạn lượng,

đến chỗ cam lồ, diệt tận. La-vân n

ên biết! Như có người tự thệ rằng: 'Tôi sẽ uống nước của các sông ngòi'. Người ấy có kham ch

ăng?

La-vân bạch Phật:

- Thưa không, bạch Thế Tôn! Vì sao? Ðất Diêm-phù này rất rộng lớn, cõi này có bốn con sông lớn. Một là sông Hằng, hai là sông Tân-

đầu, ba l

à sông Tư-

đ

à, bốn là sông Bác-xoa, mỗi con sông có n

ăm trăm sông nhỏ, song người ấy không thể uống hết nước, chỉ nhọc sức m

à việc không thành.

Phật bảo:

- Người ấy lại nói thế này: 'Ta tự có phương tiện nhân duyên, có thể uống hết nước'. Thế nào là nhân duyên uống hết nước'. Thế nào là nhân duyên uống hết nước? Người ấy nghĩ thế này: 'Ta sẽ uống nước biển. Vì sao? Tất cả các dòng sông

đều đổ v

ào biển'. Thế nào, La-vân! Người ấy có thể uống hết nước ch

ăng?

La-vân bạch Phật:

- Phương tiện như thế, có thể uống hết nước khiến cạn. Vì sao? Tất cả các dòng sông

đều đổ v

ào biển. Do nhân duyên này, người ấy uống hết nước.

Phật bảo La-vân:

- Ðúng thế, La-vân! Tất cả sự cúng dường riêng như dòng sông, hoặc

được phước hoặc không được phước. Chúng Tăng như biển lớn. V

ì sao? Vì nước sông, suối

đều chảy về biển v

à mất tên riêng của nó, chỉ có tên biển lớn. La-vân! Ðây cũng như thế. Nay mười hạng người này

đều xuất phát từ trong chúng, không có chúng không th

ành. Thế nào là mười? Ðó là Hướng Tu-

đ

à-hoàn, Ðắc Tu-

đ

à-hoàn; Hướng Tư-

đ

à-hàm, Ðắc Tư-

đ

à-hàm; Hướng A-na-hàm, Ðắc A-na-hàm, Hướng A-la-hán, Ðắc A-la-hán, Bích-chi Phật và Phật. Ðó là mười bậc

đều do trong chúng, không tự đứng ri

êng rẽ.

La-vân! Do phương tiện này nên biết, người do chứng cử, phước ấy không thể hạn lượng. Cho nên, La-vân! Thiện nam tử, thiện nữ chơn muốn cầu phước vô lượng, nên cúng dường Thánh chúng. La-vân nên biết! Cũng như có người

đem bơ bỏ v

ào nước, bơ không tan, không lan rộng. Nếu

đem dầu chế v

ào nước, dầu lan

đầy tr

ên mặt, cho nên, này La-vân! Nên nghĩ cúng dường Thánh chúng Tỳ-kheo T

ăng. Như thế, La-vân, n

ên học

điều n

ày!

Bấy giờ trưởng giả Sư Tử nghe Phật khen ngợi, nói về phước cúng dường chúng, không khen nói phước khác. Vào dịp khác, trưởng giả

đến chỗ Phật, cúi đầu lễ chân Phật, lui ngồi một b

ên. Trưởng giả Sư Tử bạch Phật:

- Vừa nghe Như Lai khen ngợi phước bố thí cho chúng, không khen ngợi phước thỉnh riêng người. Từ nay về sau, con sẽ thường cúng dường Thánh chúng.

Phật bảo:

- Ta không nói thế này: 'Nên cúng dường Thánh chúng,

đừng cúng đường người

khác'. Nay bố thí cho súc sanh còn

được phước, huống g

ì người khác. Ta chỉ nói phước có nhiều, ít. Vì sao? Thánh chúng của Như Lai

đáng kính, đáng quý, l

à phước

điền tr

ên hết của thế gian. Nay trong chúng này có hàng hướng về bốn quả,

đắc bốn quả v

à Thanh v

ăn thừa, Bích-chi Phật thừa, Phật thừa. Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn muốn được đạo quả Tam thừa, n

ên từ trong chúng tìm cầu. Vì sao? Ðạo quả Tam thừa

đều phát xuất từ chúng Tăng. Trưởng giả! Ta quan sát nghĩa lý nhân duy

ên này nên nói lời này. Ta cũng không dạy người nên bố thí cho Thánh chúng mà không nên bố thí cho người khác.

Trưởng giả bạch Phật:

- Ðúng thế, như lời Phật dạy. Từ nay về sau, nếu làm phước nghiệp, con sẽ cúng dường hết Thánh chúng, không chọn người

để bố thí.

Bấy giờ Thế Tôn vì trưởng giả nói pháp vi diệu, khiến sanh tâm vui mừng. Trưởng giả nghe pháp xong liền

đứng dậy, cúi đầu lễ chân Phật, lui ra.

Trưởng giả Sư tử có ý muốn bố thí, tạo phước nghiệp. Bấy giờ chư Thiên

đến nói:

- Ðây là người Hướng Tu-

đ

à-hoàn,

đây l

à người Ðắc Tu-

đ

à-hoàn. Bố thí người này phước nhiều, bố thí này

được phước ít.

Chư Thiên liền nói kệ:

Như Lai khen chọn thí,

Cho các Ðại

đức n

ày,

Cúng

đây, được phước nhiều,

Như ruộng tốt mọc lúa.

Trưởng giả Sư Tử im lặng không trả lời.

Chư Thiên lại nói với trưởng giả:

- Ðây là người trì giới,

đây l

à người phạm giới,

đây l

à người Hướng Tu-

đ

à-hoàn,

đây l

à người Ðắc Tu-

đ

à-hoàn. Ðây là người Hướng Tư-

đ

à-hàm,

đây

là người Ðắc Tư-

đ

à-hàm. Ðây là người Hướng A-na-hàm, Ðây là người

đắc A-na-h

àm. Ðây là người Hướng A-la-hán,

đây l

à người Ðắc A-la-hán. Ðây là Thanh v

ăn thừa, đây l

à Bích-chi thừa,

đây l

à Phật thừa. Cho

đây được phước ít, cho đây được phước nhiều.

Trưởng giả Sư Tử im lặng không

đáp. V

ì sao? Vì ông chỉ nhớ lời dạy bảo của Phật, không lựa chọn mà bố thí.

Lại vào thời gian khác, trưởng giả

đi đến chỗ Phật, cúi đầu lễ chân Phật, lui ngồi một b

ên, thưa rằng:

- Con tự nhớ, khi con thỉnh Thánh chúng thọ trai, có chư Thiên

đến với con rằng: '

Ðây là người trì giới,

đây l

à người phạm giới. Người này Hướng Tu-

đ

à-hoàn, người này Ðắc Tu-

đ

à-hoàn, cho

đến h

àng Tam thừa, thảy

đều phân biệt, Chư Thi

ên lại nói kệ này:

Như Lai khen chọn thí,

Cho các Ðại

đức n

ày,

Cúng

đây được phước nhiều,

Như ruộng tốt mọc lúa.

Khi ấy, con lại nghĩ thế này: 'Lời dạy của Như Lai không nên trái, ta há lại sanh tâm chọn lựa

để bố thí ư?' Trọn không có tâm phải quấy v

à ý niệm cao thấp. Khi ấy con lại nghĩ rằng: 'Ta sẽ bố thí cho hết thảy tất cả chúng sanh. Nếu người trì giới thì

được phước vô c

ùng, nếu người phạm giới thì tự chịu tai họa'. Chỉ thương chúng sanh nếu phạm giới thì tự chịu tai họa'. Chỉ thương chúng sanh nếu không

được ăn, th

ì không

được cứu giúp mạng sống.

Phật bảo trưởng giả:

- Lành thay! Lành thay! Thệ nguyện rộng lớn bồ tát khi bố thí thì tâm thường bình

đẳng. Trưởng giả n

ên biết, vào ngày Bồ-tát bố thí, chư Thiên

đến bảo rằng: 'Nh

à hào quý nên biết,

đây l

à người trì giới,

đây l

à người phạm giới. Bố thí người này

được phước nhiều, bố thí người n

ày

được phước ít'. Bấy giờ Bồ-tát trọn không sanh tâm n

ày: 'Nên bố thí người này, không nên bố thí người này'. Tâm Bồ-tát thuần thục không có thị phi, cũng chẳng nói

đây l

à trì giới,

đây l

à phạm giới. Cho nên, Trưởng giả nên nghĩ bố thí bình

đẳng, được phước vô lượng lâu d

ài.

Khi ấy, trưởng giả Sư-tử nhớ lời Như Lai dạy, thành kính nhìn Thế Tôn, ý không lay

động liền tại chỗ ngồi được pháp nh

ãn tịnh. Trưởng giả Sư-Tử liền từ chỗ ngồi

đứng dậy, cúi đầu lễ chân Phật, lui đi ra. Trưởng giả đi chưa bao lâu, Phật bảo các Tỳ-kheo:

- Trưởng giả Su-tử này do nhờ bố thí bình

đẳng, lại chi

êm ngưỡng Như Lai từ

đầu đến chân, liền tại chỗ ngồi được pháp nh

ãn tịnh.

Phật bảo các Tỳ-kheo:

- Trong số

đệ

tử Ưu-bà-tắc của Ta, người bố thí bình

đẳng nhất l

à trưởng giả Sư-tử.

Bấy giờ, các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

6. Tôi nghe như vầy:

Một thời

đức Phật ở tại th

ành La-duyệt, vườn trúc Ca-lan-

đ

à, cùng với chúng

đại Tỳ-kheo năm trăm người câu hội.

Bấy giờ, Tôn giả Xá-lợi-phất ở tại núi Kỳ-xá-quật, nơi chỗ vắng, vá y cũ. Khi ấy có mười ngàn chư Thiên cõi Phạm-ca-di từ nơi ấy ẩn,

đến chỗ Xá-lợi-phất, cúi đầu lễ chân Tôn giả, đi quanh hầu Tôn giả, lại d

ùng kệ này khen ngợi:

Quy mạng bậc thượng nhơn,

Quy mạng bậc Tôn quý,

Nay chúng tôi chẳng biết

Y cứ những Thiền nào.

Khi ấy, mười ngàn chư Thiên cõi Phạm-ca-di nói kệ xong, Xá-lợi-phất im lặng chấp nhận. Chư thiên thấy Xá-lợi-phất im lặng chấp nhận rồi, liền làm lễ dưới chân rồi

đi. Chư Thi

ên

đi chưa xa, Xá-lợi-phất liền nhập Kim cang tam-muội.

Khi ấy, có hai con quỷ, một tên Già-la, một tên Ưu-ba-già-la, do Tỳ-sa-môn Thiên vương sai

đi đến chỗ Thi

ên vương Tỳ-lưu-lặc (Thiên vương T

ăng Trưởng), muốn b

àn luận việc Trời, Người. Lúc

đó, hai quỷ ấy bay qua hư không, xa thấy Xá-lợi-phất ngồi kiết-gi

à, buộc niệm ở trước, tâm ý vắng lặng

định tĩnh. Quỷ Gi

à-la bảo quỷ kia rằng:

- Nay ta có thể dùng chưởng

đánh ngay đầu Sa-môn kia.

Quỷ Ưu-ba-già-la nói:

- Ngươi chớ khởi ý niệm

đánh v

ào

đầu Sa-môn. V

ì sao? Sa-môn ấy rất có thần

đức, có oai lực lớn. Tôn danh vị ấy l

à Xá-lợi-phất, trong hàng

đệ tử Thế Tôn không ai thông minh, t

ài cao hơn người này, là bậc trí tuệ

đệ nhất trong h

àng

đệ tử Phật. Ngươi l

àm việc ấy chịu khổ vô lượng lâu dài.

Quỷ Già-la cứ hai ba lần bảo:

- Ta có thể

đánh v

ào

đầu Sa-môn ấy.

Quỷ Ưu-ba-già-la lại bảo:

- Nay Ngươi không nghe theo lời ta, Ngươi cứ ở

đây, ta sẽ bỏ Ngươi đi.

Ác quỷ ấy hỏi:

- Ngươi sợ Sa-môn ấy sao?

Quỷ Ưu-ba-già-la bảo:

- Thật ta sợ. Nếu Ngươi lấy tay

đánh v

ào

đầu Sa-môn n

ày,

đất sẽ nứt đôi. Rồi sẽ có gió b

ão, mưa dữ,

đất đai rúng động, chư Thi

ên kinh

động.

Ðất

đ

ã rúng

động, Tứ Thi

ên vương cũng sẽ kinh sợ. Tứ Thiên vương

đ

ã biết, chúng ta không yên

đâu.

Khi ấy, ác quỷ cứ nói:

- Nay ta có thể làm nhục Sa-môn này.

Thiện quỷ nghe rồi liền bỏ

đi. Ác quỷ kia liền lấy tay đánh v

ào

đầu Xá-lợi-phất. Ngay khi ấy, trời đất chấn động mạnh, bốn phía cuồng phong, mưa dữ tức thời thổi l

ên,

đất liền nứt l

àm hai. Toàn thân ác quỷ

đều rơi v

ào

địa ngục.

Bấy giờ, Tôn giả Xá-lợi-phất từ chánh

định dậy, chỉnh đốn y phục, xuống núi Kỳ-x

à-quật,

đi đến vườn trúc, đến chỗ đức Thế Tô, cúi đầu lễ chân Phật, lui ngồi một b

ên.

Phật bảo Xá-lợi-phất:

- Nay thân thể Thầy, không bệnh tật ch

ăng?

Xá-lợi-phất thưa:

- Thân con không bệnh, chỉ có

đầu hơi đau.

Phật bảo:

Quỷ Già-la lấy tay

đánh v

ào

đầu thầy. Nếu quỷ ấy d

ùng tay

đấm núi Tu-di, núi Tu-di liền bể đôi. V

ì sao? Vì quỷ ấy có sức mạnh. Nay quỷ ấy chịu tội báo, toàn thân rơi vào

địa ngục A-tỳ.

Phật bảo các Tỳ-kheo:

- Thật kỳ lạ! Thật

đặc biệt! Sức của Kim cang tam-muội đến như thế! Do sức của tam-muội n

ày mà không bị tổn hại. Giả sử núi Tu-di

đánh v

ào

đầu trọn không thể l

àm

động đến mảy lông. V

ì sao như thế? Tỳ-kheo nghe

đây:

Trong Hiền kiếp này có

đức Phật hiệu Câu-lưu-tôn, Như Lai Chí Chơn

Ðẳng Chánh Giác. Ðức Phật ấy có hai

đại Thanh văn, một t

ên Ðẳng Thọ, một tên Ðại Trí. Tỳ-kheo Ðẳng Thọ có sức thần túc bậc nhất, Tỳ-kheo Ðại Trí có trí tuệ bậc nhất. Như ngày nay,

đệ tử Ta Xá-lợi-phất trí tuệ bậc nhất, Mục-kiền-li

ên thần túc bậc nhất.

Bấy giờ, hai Tỳ-kheo Ðẳng Thọ và Ðại Trí

đều được Kim cang tam-muội. V

ào một lúc nọ, Tỳ-kheo Ðẳng Thọ ở chỗ vắng nhập Kim cang tam-muội. Khi ấy có các người ch

ăn b

ò, ch

ăn d

ê, người

đốn cúi, cắt cỏ, thấy

Tỳ-kheo nầy tọa Thiền họ bảo nhau rằng:

- ' Hôm nay Sa-môn này

đ

ã chết'.

Các người ch

ăn b

ò và

đốn củi, b

èn gom các cỏ khô, cây khô, chất lên mình thầy Tỳ-kheo, châm lửa

đốt rồi bỏ đi. Khi Tỳ-kheo

Ðẳng Thọ từ chánh

định xuất, chỉnh đốn y phục, rời chỗ ngồi m

à

đi. Tỳ-

kheo cũng vào ngày

đó, đắp y mang bát v

ào làng khất thực. Các người

đốn củi thấy thầy Tỳ-kheo khất thực trong l

àng,

đều bảo nhau:

- 'Thầy Tỳ-kheo ngày hôm qua

đ

ã chết, chúng ta lấy lửa hỏa thiêu, ngày nay sống lại, nay nên

đặt t

ên là Hoàn Hoạt (sống lại)'.

Nếu có Tỳ-kheo

được Kim cang tam-muội, lửa không đốt được, dao không chặt được, v

ào nước không chìm, không bị người khác làm tổn thương. Như thế, này Tỳ-kheo! Kim cang tam-muội oai

đức như thế. Nay Xá-lợi-phất được tam-muội n

ày. Tỳ-kheo Xá-lợi-phất thường dạo chơi hai chỗ, Không tam-muội và Kim cang tam-muội.

Cho nên, Tỳ-kheo nên tìm phương tiện thực hành Kim cang tam-muội. Như thế, này các Tỳ-kheo nên học

điều

này!

Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

- Ta sẽ dạy các Thầy như Tỳ-kheo Xá-lợi-phất ấy có trí tuệ, có sức trí lớn, trí phân biệt rộng, trí vô biên, trí nhanh nhẹn, trí biết khắp, trí nhạy bén, trí thâm sâu, trí

đoạn dứt; ít muốn biết đủ, vắng lặng dũng m

ãnh, ý niệm không tán loạn, thành tựu giới, thành tựu

định, th

ành tựu tuệ, thành tựu giải thoát và giải thoát tri kiến; nhu hòa không tranh cãi, bỏ việc ác rốt ráo, nhẫn các lời nói, khen ngợi việc lìa ác, thường nhớ nghĩ xa lìa, thương xót các người ngu, làm Chánh pháp hưng thạnh, vì người nói pháp không biết chán.

Bấy giờ, Thế Tôn liền nói kệ:

Mười nghìn chư Thiên nhơn,

Ðều là trời Tịnh Thân,

Tự quy Xá-lợi-phất,

Nơi

đảnh núi Linh Thứu

Quy mạng bậc Thượng nhơn,

Quy mạng bậc Tôn quý,

Nay chúng tôi không biết,

Y cử những Thiền nào?

Như thế, Hoa

đệ tử,

Trang nghiêm cội cây Phật,

Như vườn cây cõi trời,

Vui thích không thể sánh.

Ðệ tử Như Hoa tức là Tỳ-kheo Xá-lợi-phất. Vì sao? Người này ắt hay trang nghiêm cội cây Phật, cội

đạo thọ tức l

à Như Lai vậy, Như Lai hay che trùm tất cả chúng sanh.

Cho nên, Tỳ-kheo nên nghĩ nhớ siêng n

ăng, gắng

dõng mãnh tinh tấn như Tỳ-kheo Xá-lợi-phất. Như thế, này các Tỳ-kheo, nên học

điều n

ày!

Bấy giờ, các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

-ooOoo-

XXXXIX.1. Phẩm Ch

ăn trâu (

1)

(Phần thứ tư tụng riêng)

1. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở tại nước Xá-vệ, rừng Kỳ-

đ

à vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

- Nếu người ch

ăn trâu th

ành tựu mười một pháp, thì bầy trâu không thể t

ăng trưởng, cũng không thể giữ được trâu của m

ình. Thế nào là mười một? Nếu người ch

ăn trâu không phân biệt được h

ình sắc trâu; không biết tướng mạo trâu; trâu cần cọ xát, tắm rửa mà không biết cọ xát tắm rửa; không biết ch

ăm sóc vết thương trâu; không biết t

ùy thời un khói; không biết chỗ ruộng tốt cỏ non cho trâu

ăn;

không biết chỗ an ổn; cũng không biết chỗ lùa trâu qua sông, không biết thời thích hợp; khi vắt sữa không chừa lại mà vắt lấy hết; có những con trâu trâu lớn sử dụng

được, không biết t

ùy thời giữ gìn. Này các Tỳ-kheo! Ðó gọi là người ch

ăn trâu th

ành tựu mười một pháp, rốt cuộc không thể nuôi lớn

đ

àn trâu, không biết giữ gìn thân chúng.

Nay trong chúng Tỳ-kheo cũng lại như thế, trọn không thể t

ăng trưởng lợi ích. Thế n

ào là mười một? Ở

đây, Tỳ-kheo không phân biệt sắc kia; không hiểu tướng của nó; cần chăm sóc kỳ cọ m

à không biết ch

ăm sóc kỳ cọ; không chăm sóc vết thương; không biết t

ùy thời un khói; không biết chỗ ruộng tốt cỏ non; không biết bến qua sông; cũng không biết chỗ an ổn; không biết

ăn đúng thời; không biết lưu lại những g

ì còn thừa; không biết kính trọng các Tỳ-kheo trưởng lão.

Thế nào là Tỳ-kheo không biết về sắc? Ở

đây,

Tỳ-kheo có sắc tứ

đại v

à tứ

đại sở tạo, thảy đều không biết. Như thế, Tỳ-kheo không phân biệt về

sắc.

Thế nào là Tỳ-kheo không phân biệt về tướng? Ở

đây, 'Tỳ-kheo không biết h

ành

động ngu, cũng không biết h

ành

động trí, không biết như thật. Như thế, Tỳ-kheo không phân biệt tướng.

Thế nào là Tỳ-kheo

đáng chăm sóc kỳ cọ m

à không ch

ăm sóc kỳ cọ? Ở đây, Tỳ-kheo mắt thấy sắc lần khởi tướng sắc, có các niệm loạn động, lại không giữ g

ìn nhãn c

ăn. Do không khéo nhiếp niệm n

ên gây ra các ương lụy, không giữ gìn nhãn c

ăn. Như thế, nếu Tỳ-kheo tai nghe tiếng, mũi ngửi m

ùi, lưỡi nếm vị, thân xúc chạm trơn mịn, ý biết pháp khởi các loạn tưởng, cũng không giữ gìn ý c

ăn, không sửa đổi h

ành

động của m

ình. Như thế, Tỳ-kheo nên ch

ăm sóc kỳ cọ m

à không ch

ăm sóc kỳ cọ.

Thế nào là Tỳ-kheo không trị lành vết thương? Ở

đây, Tỳ-kheo khởi dục tưởng m

à không lìa bỏ, cũng không trừ ý niệm ấy. nếu khởi tưởng sân hận, tưởng sát hại, khởi lên các tưởng ác, tưởng không lành thì trọn không rời bỏ. Như thế, Tỳ-kheo không trị lành vết thương.

Thế nào là Tỳ-kheo không tùy thời xông khói? Ở

đây, Tỳ-kheo đối với pháp đ

ã tụng

đọc, không t

ùy thời dạy lại cho người. Như thế, 'Tỳ-kheo không tùy thời xông khói.

Thế nào là Tỳ-kheo không biết ruộng tốt cỏ non? Ở

đây, Tỳ-kheo không biết ý chỉ (Tứ niệm xứ), không biết như thật. Như thế, Tỳ-kheo không biết chỗ ruộng tốt cỏ non.

Thế nào là Tỳ-kheo không biết bến qua sông? Ở

đây, Tỳ-kheo không phân biệt được Tám đạo phẩm Hiền Thánh. Như thế, Tỳ-kheo không biết bến qua sông.

Thế nào là Tỳ-kheo không biết chỗ

đáng y

êu thích? Ở

đây, Tỳ-kheo với mười hai bộ: Khế kinh, Kỳ-

dạ, Thọ ký, Kệ, Nhân duyên, Bổn sự, Phương

đẳng, Thí dụ, Bổn sanh, Tự thuyết, Luận nghị, Vị tằng hữu. Như thế, Tỳ-kheo không biết chỗ đáng y

êu thích.

Thế nào là Tỳ-kheo không biết thời thích hợp? Ở

đây, Tỳ-kheo đi đến nh

à khinh tiện, nhà vui chơi. Như thế, Tỳ-kheo không biết thời thích hợp.

Thế nào là Tỳ-kheo không lưu lại vật thừa? Ở

đây, Tỳ-kheo có các Phạm chí hay Ưu-b

à-tắc tín tâm

đến thỉnh thọ trai, song các Tỳ-kheo đắm trước v

ào

ăn uống, không biết ngừng đủ. Như thế, Tỳ-kheo không lưu lại vật thừa.

Thế nào là Tỳ-kheo không kính trọng bậc trưởng lão, những Tỳ-kheo cao

đức? Ở đây, Tỳ-kheo không

phát tâm cung kính

đối với các bậc đức độ. Như thế, Tỳ-kheo có nhiều sai phạm.

Ðó gọi là Tỳ-kheo không cung kính trưởng lão.

Nếu có Tỳ-kheo thành tựu mười một pháp này, trọn không thể ở trong pháp

được nhiều lợi ích.

Nếu người ch

ăn trâu th

ành tựu mười một pháp, hay giữ gìn

đ

àn trâu của mình thì trọn không mất thời, có các lợi ích. Thế nào là mười một? Ở

đây, người chăn trâu biết sắc trâu, phân biệt tướng trâu, cần tắm rửa kỳ cọ th

ì tắm rửa kỳ cọ, ch

ăm sóc các vết ghẻ lở, t

ùy thời xông khói, biết chỗ ruộng tốt cỏ ngon, biết bến qua sông cần yếu, thương trâu của mình, phân biệt thời thích hợp với trâu, cũng biết tánh tình trâu, nếu khi vắt sữa trâu thì biết chừa lại, cũng biết tùy thời ch

ăm sóc giữ g

ìn những con trâu có thể sử dụng. Như thế, người ch

ăn trâu biết giữ g

ìn trâu. Như thế, này Tỳ-kheo! Nếu người ch

ăn trâu th

ành tựu mười một pháp không mất thời tiết, trọn không bị bại hoại.

Như thế, Tỳ-kheo nếu thành tựu mười một pháp, nơi hiện pháp này

được nhiều lợi ích. Thế n

ào là mười một pháp? Ở

đây, Tỳ-kheo biết sắc, biết tướng, biết cọ rửa, biết chăm sóc vết thương, biết xông khói, biết chỗ ruộng tốt cỏ ngon, biết chỗ đáng y

êu thích, biết chọn

đường đi, biết chỗ qua sông, biết ăn vừa đủ, biết kính trọng Tỳ-kheo trưởng l

ão và tùy thời lễ bái.

Thế nào là Tỳ-kheo biết sắc? Ở

đây Tỳ-kheo biết sắc tứ đại, cũng biết tứ đại tạo sắc.

Ðó gọi là Tỳ-kheo biết sắc.

Thế nào là Tỳ-kheo biết tướng? Ở

đây Tỳ-kheo biết tướng ngu, biết tướng trí, biết như thật. Như thế, Tỳ-kheo biết tướng.

Thế nào là Tỳ-kheo biết cọ rửa? Ở

đây, nếu Tỳ-kheo khởi tưởng dục liền biết xa l

ìa, cũng không tha thiết, vĩnh viễn không dục tưởng. Nếu tưởng sân, tưởng hại, và các tưởng ác bất thiện khơi lên thì

đều biết xa l

ìa, cũng không tha thiết, vĩnh viễn không tưởng sân. Như thế, Tỳ-kheo biết cọ rửa.

Thế nào là Tỳ-kheo biết ch

ăm sóc vết thương? Ở đây, Tỳ-kheo nếu mắt thấy sắc không khởi tưởng sắc th

ì cũng không nhiễm trước, mà làm trong sạch nhãn c

ăn, trừ bỏ lo buồn v

à pháp ác bất thiện, tâm không tham vui trong ấy, giữ gìn nhãn c

ăn. Như thế, Tỳ-kheo nếu tai nghe tiếng, mũi ngửi m

ùi, lưỡi nếm vị, thân xúc chạm, ý biết pháp thì không khởi thức tưởng, cũng không nhiễm trước, mà thanh tịnh ý c

ăn. Như thế, Tỳ-kheo biết chăm sóc vết thương.

Thế nào là Tỳ-kheo biết xông khói? Ở

đây, Tỳ-kheo từ pháp được nghe, v

ì người giảng nói rộng. Như thế là Tỳ-kheo biết xông khói.

Thế nào là Tỳ-kheo biết chỗ ruộng tốt, cỏ non? Ở

đây, Tỳ-kheo đối với Tám đạo phẩm Hiền Thánh như thật m

à biết. Ðó là Tỳ-kheo biết chỗ ruộng tốt cỏ non.

Thế nào là Tỳ-kheo biết chỗ

đáng y

êu? Ở

đây, nếu Tỳ-kheo nghe Như Lai nói pháp báu th

ì tâm liền vui thích. Như thế, Tỳ-kheo biết chỗ

đáng y

êu.

Thế nào là Tỳ-kheo biết chọn

đường đi? Ở đây, Tỳ-kheo đối với mười hai bộ kinh, chọn m

à hành trì. Ðó là Khế kinh, Kỳ-dạ, Thọ ký, Kệ, Nhân duyên, Bổn sự, Phương

đẳng, Thí dụ, Bổn sanh, Tự thuyết, Luận nghị, Vị tằng hữu. Như thế l

à Tỳ-kheo biết chọn

đường đi.

Thế nào là Tỳ-kheo biết chỗ qua sông? Ở

đây, Tỳ-kheo biết Tứ ý chỉ (Tứ niệm xứ), đó gọi l

à Tỳ-kheo biết chỗ qua sông.

Thế nào là Tỳ-kheo biết

ăn vừa đủ? Ở đây, Tỳ-kheo được Phạm Chí, Ưu-b

à-tắc tín tâm

đến thỉnh thọ trai, không tham ăn uống, có thể tự biết đủ. Như thế Tỳ-kheo biết vừa đủ.

Thế nào là Tỳ-kheo tùy thời kính vâng Tỳ-kheo trưởng lão? Ở

đây, Tỳ-kheo thường d

ùng thần niệm ý làm lành

đối với các Tỳ-kheo trưởng l

ão. Như thế, Tỳ-kheo tùy thời cung kính Tỳ-kheo trưởng lão.

Như thế, nếu thành tựu mười một pháp, ở trong hiện pháp

được nhiều lợi ích.

Thế Tôn bèn nói kệ:

Ch

ăn trâu không lười biếng,

Người ấy

được phước báo,

Sáu con trong sáu n

ăm,

Dần dần thành sáu chục.

Tỳ-kheo thành tựu giới,

Với thiền,

được tự tại,

Nếu sáu c

ăn vắng lặng,

Sáu n

ăm th

ành lục thông.

Như thế, Tỳ-kheo! Nếu có người lìa pháp ác này, thành tựu mười một pháp này thì ở trong hiện pháp

được nhiều lợi ích. Như thế, n

ày các Tỳ-kheo, nên học

điều n

ày!

Bấy giờ, các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

2. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở tại nước Xá-vệ, rừng Kỳ-

đ

à, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ, Phật bảo các Tỳ-kheo:

- Nếu Tỳ-kheo thành tựu mười một pháp, ắt có thể có sự lớn mạnh. Thế nào là mười một? Ở

đây, Tỳ-kheo th

ành tựu giới, thành tựu chánh

định, th

ành tựu trí tuệ, thành tựu giải thoát, thành tựu giải thoát tri kiến, các c

ăn vắng lặng, ăn uống biết vừa đủ, thường tu h

ành cọng pháp, biết phương tiện, phân biệt nghĩa thú, không

đắm trước lợi dưỡng. Như thế, Tỳ-kheo, có người th

ành tựu mười một pháp này, liền có chỗ

đạt đến.

Nay Ta lại bảo các Thầy, nếu có người trong mười một n

ăm, học pháp n

ày thì người ấy hiện

đời th

ành A-na-hàm, chuyển thân liền thành A-la-hán. Các Tỳ-kheo, thôi không cần mười một n

ăm, hoặc chín, tám, bảy, sáu, năm, bốn, ba, hai, chỉ một năm học pháp n

ày, liền chứng quả thứ hai, hoặc A-na-hàm, hoặc A-la-hán. Hoặc không cần mười hai tháng, chỉ trong một tháng tu hành này, Tỳ-kheo ấy chắc chắn thành hai quả, hoặc A-na-hàm, hoặc A-la-hán.

Vì sao như vậy? Mười hai nhân duyên

đều phải xuất từ mười một pháp n

ày. Ðó là sanh, lão, bịnh, tử, lo buồn khổ não ... Tuy Ta dạy các Tỳ-kheo nên giống như Tỳ-kheo Ca-diếp. Nếu như có người thực hành pháp khiêm tốn khổ hạnh thì khổ có gì sánh kịp hạnh này? Vì sao? Tỳ-kheo Ca-diếp thành tựu mười một pháp này. Nên biết chư Phật

đời quá khứ th

ành Ðẳng Chánh Giác cũng thành tựu mười một pháp khổ hạnh này. Nay Tỳ-kheo Ca-diếp vì thương xót tất cả chúng sanh. Nếu cúng dường các Thanh v

ăn đời quá khứ thân sau sẽ được phước báu. Nếu cúng dường Ca-diếp, thân hiện đời được phước báu. Nếu như Ta không th

ành Ðẳng Chánh Giác, sau sẽ do Ca-diếp thành Ðẳng Chánh Giác. Do nhân duyên này nên Tỳ-kheo Ca-diếp hơn các Thanh v

ăn đời quá khứ. Ai có thể l

àm như Ca-diếp,

đây ắt l

à hạnh trên hết.

Như thế, này các Tỳ-kheo, nên học

điều n

ày!

Bấy giờ, các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

3. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở tại nước Xá-vệ, rừng Kỳ-

đ

à, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ, Thế Tôn vì vô số chúng sanh vây quanh trước sau, mà nói pháp. Lúc ấy Tôn giả Xá-lợi-phất dắt nhiều chúng Tỳ-kheo

đi kinh h

ành. Các Tỳ-kheo Ðại Mục-kiền-liên, Ðại Ca-diếp, A-na-luật, Ly-bà-da, Ca-chiên-diện, Mãn-tù-tử, Ưu-ba-ly, Tu-bồ-

đề, La-vân, A-nan v.v. mỗi người đều dắt một số Tỳ-kheo tự vui c

ùng nhau. Ðề-bà-

đạt-đa

cũng dắt nhiều chúng Tỳ-kheo tự

đi kinh h

ành.

Thế Tôn thấy các

đệ tử thần túc mỗi người đều dẫn chúng của m

ình

đi kinh h

ành. Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

- Người

đời, về thân căn v

à tánh tình mỗi mỗi tự thích hợp với nhau. Người hiền cùng làm bạn với người hiền, người ác cùng làm bạn với người ác. Cũng như sữa tương ưng với sữa, bơ tương ưng với bơ, phần uế cùng tương ưng với phần uế. Ðây cũng như vật, c

ăn tánh, h

ành

động, pháp tắc của chúng sanh mỗi tự tương ưng. Người hiền tương ưng với người hiền, người ác tương ưng với người ác. Các Thầy có thấy Tỳ-kheo Xá-lợi-phất dắt các Tỳ-kheo đi kinh h

ành kia ch

ăng?

Các Tỳ-kheo bạch Phật:

- Thưa vâng, thấy.

Phật bảo các Tỳ-kheo:

- Những người ấy

đều l

à hàng có trí tuệ.

Phật lại hỏi các Tỳ-kheo:

- Các Thầy có thấy Tỳ-kheo Mục-kiền-liên dắt các Tỳ-kheo

đi kinh h

ành không?

Các Tỳ-kheo bạch Phật:

- Thưa vâng, thấy.

Phật bảo:

- Những Tỳ-kheo ấy

đều l

à hàng có thần túc.

Phật lại hỏi:

- Các Thầy thấy Tỳ-kheo Ca-diếp dắt các Tỳ-kheo

đi kinh h

ành ch

ăng?

Các Tỳ-kheo thưa:

- Thưa vâng, thấy.

Phật bảo:

- Các Thượng sĩ ấy

đều l

à những người thật hành mười một pháp

đầu đ

à.

Phật lại hỏi:

- Các Thầy thấy Tỳ-kheo A-nan-luật ch

ăng?

Các Tỳ-kheo thưa:

- Thưa vâng, thấy.

Phật bảo:

- Những Hiền sĩ ấy

đều l

à hàng Thiên nhãn

đệ nhất.

Phật lại hỏi:

- Có thấy Tỳ-kheo Ly-việt ch

ăng?

Các Tỳ-kheo thưa:

- Thưa vâng, thấy.

Phật bảo:

- Những người ấy

đều l

à hành nhập

định.

Phật lại hỏi:

- Các Thầy có thấy Tỳ-kheo Ca-chiên-diên ch

ăng?

Các Tỳ-kheo thưa:

- Thưa vâng, thấy.

Phật bảo:

- Những Thượng sĩ ấy

đều l

à người phân biệt nghĩa lý.

Phật lại hỏi:

- Các Thầy có thấy Tỳ-kheo Mãn-từ-tử ch

ăng?

Các Tỳ-kheo thưa:

- Thưa vâng, thấy.

Phật bảo:

- Những Hiền sĩ ấy

đều l

à người thuyết pháp.

Phật lại hỏi:

- Các Thầy có thấy Ưu-ba-ly dẫn các Tỳ-kheo

đi kinh h

ành ch

ăng?

Các Tỳ-kheo thưa:

- Thưa vâng, thấy.

Phật bảo:

- Những người ấy

đều l

à người giữ gìn giới cấm.

Phật lại hỏi:

Các Thầy thấy Tỳ-kheo Tu-bồ-

đề chăng?

Các Tỳ-kheo thưa:

- Thưa vâng, thấy.

Phật bảo:

- Những Thượng nhơn ấy

đều l

à bậc Giải không

đệ nhất.

Phật lại hỏi:

- Các Thầy có thấy Tỳ-kheo La-vân ch

ăng?

Các Tỳ-kheo thưa:

- Thưa vâng, thấy.

Phật bảo:

- Những Hiền sĩ ấy

đều l

à người

đầy đủ

giới.

Phật lại hỏi:

- Các Thầy có thấy Tỳ-kheo A-nan ch

ăng?

Các Tỳ-kheo thưa:

- Thưa vâng, thấy.

Phật bảo các Tỳ-kheo:

- Những Hiền sĩ ấy

đều l

à người

đa văn đệ nhất, nghe rồi không qu

ên.

Phật lại hỏi:

- Các Thầy có thấy Tỳ-kheo Ðề-bà-

đạt-đa

dắt các người

đi kinh h

ành ch

ăng?

Các Tỳ-kheo thưa:

- Thưa vâng, thấy.

Phật bảo:

- Những người ấy lấy việc ác làm

đầu, không có gốc l

ành.

Thế Tôn bèn nói kệ:

Chớ cùng Ác tri thức,

Cùng người ngu làm việc,

Nên cùng Thiện tri thức,

Giao thiệp với người trí,

Nếu người vốn không ác,

Gần gũi với người ác,

Sau ắt thành nhân ác,

Tiếng ác

đồn khắp nơi.

Bấy giờ, hơn ba mươi

đệ tử của

Ðề-bà-

đạt-đa nghe Thế Tôn nói b

ài kệ ấy rồi, bèn bỏ Ðề-bà-

đạt-đa đi đến chỗ Phật, cúi đầu lễ chân Phật, xin sửa đổi tội nặng.

Các vị ấy lại bạch Thế Tôn:

- Chúng con ngu si mê lầm, không biết chơn ngụy, bỏ Thiện tri thức mà gần Ác tri thức. Cúi xin Thế Tôn tha thứ, về sau không dám phạm.

Phật bảo các Tỳ-kheo:

- Cho phép các Thầy sám hối lỗi lầm, sửa

điều đ

ã làm, chỉnh

đốn điều sắp l

àm,

đừng phạm lại.

Bấy giờ,

đệ tử của

Ðề-bà-

đạt-đa, vâng lời Thế Tôn dạy, ở chỗ vắng suy nghĩ nghĩa lý vi diệu, tự khắc phục h

ành

động của m

ình. Vốn là hàng quý tộc, cạo bỏ râu tóc xuất gia học

đạo, v

ì muốn tu Phạm hạnh vô thượng, các Tỳ-kheo

đều đắc quả A-la-hán.

Tỳ-kheo nên biết! Cội nguồn của chúng sanh

đều tự theo loại với nhau. Người ác đi theo người ác, người hiền đi theo người hiền. Cội nguồn của chúng sanh thời quá khứ v

à tương lai cũng lại như thế, cùng theo loại với nhau. Cũng như tịnh tương ưng với tịnh, bất tịnh tương ưng với bất tịnh. Cho nên, Tỳ-kheo nên học tương ưng với tịnh, xả bỏ bất tịnh. Như thế, này các Tỳ-kheo, nên học

điều n

ày!

Bấy giờ, các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng lời.

*

4. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở tại thành Câu-lưu-sa Pháp Hành, cùng với chúng

đại Tỳ-kheo năm trăm người câu hội.

Bấy giờ, Tôn giả Tượng Xá-lợi-phất xả bỏ pháp y, tập theo hạnh cư sĩ. Khi ấy, Tôn giả A-nan

đắp y mang bát v

ào thành khất thực,

đi dần dần đến nh

à Tượng Xá-lợi-phất. Tượng Xá-lợi-phất

đang kề vai hai thiếu nữ. A-nan thấy như vậy, b

èn khởi ý lo buồn không vui. Tượng Xá-lợi-phất thấy A-nan rồi, rất hổ thẹn, bèn ngồi riêng một mình.

Bấy giờ, A-nan khất thực xong, ra khỏi thành,

đến chỗ Phật, cúi đầu lễ chân Phật, lui ngồi một b

ên.

A-nan bạch Phật:

- Vừa rồi con vào thành khất thực,

đi dần đến nh

à Tượng Xá-lợi-phất, thấy

đang kề vai hai cô vợ. Con thấy rất lo buồn.

Phật hỏi:

- Thầy thấy rồi khởi ý niệm gì?

A-nan bạch Phật:

- Con nhớ Tượng Xá-lợi-phất là người tinh tấn

đa văn, tánh hạnh nhu h

òa, vì các người Phạm hạnh nói pháp không chán. Vì sao hôm nay lại xả bỏ pháp phục, tập hạnh cư sĩ? Con thấy rồi rất lo buồn. Bởi vì Tượng Xá-lợi-phất, có sức oai thần lớn, oai

đức vô lượng. Tự nghĩ xưa con từng thấy vị ấy b

àn luận với Thích-

đề-ho

àn-nhân, tại sao ngày nay lại tập theo dục lạc làm ác?

Phật bảo:

- Như thế, A-nan! Như lời Thầy nói. Chỉ vì vị ấy không phải là A-la-hán. Phàm là A-la-hán mới không bỏ pháp phục, tập hạnh cư sĩ. Nhưng này A-la-nan, chớ lo buồn! Sau bảy ngày, Tượng Xá-lợi-phất sẽ

đến đây, chấm dứt hữu lậu th

ành vô lậu. Chỉ vì Tượng Xá-lợi-phất do nghiệp cũ lôi kéo nên như thế. Hạnh nghiệp

đời n

ày

đầy đủ sẽ dứt hữu lậu.

Bấy giờ, Tượng Xá-lợi-phất sau bảy ngày

đi đến chỗ Phật, cúi đầu lễ chân Phật, lui ngồi một b

ên, giây lát

đứng dậy bạch Phật:

- Cúi xin Thế Tôn cho phép con lần cuối tu hạnh Sa-môn.

Bấy giờ, Tỳ-kheo Tượng Xá-lợi-phất liền

được l

àm Sa-môn ngay tại chỗ ngồi

đắc A-la-hán.

Tượng Xá-lợi-phất

đắp y mang bát v

ào thành khất thực, lúc ấy có một Phạm chí sanh ý niệm rằng: "Các Sa-môn dòng Thích này, chỗ nào cũng có, hiện diện khắp nơi, lại dứt tuyệt cả việc thi hành chú thuật của chúng ta. Nay ta sẽ nói với người trong thành vết xấu của Sa-môn này". Bấy giờ Phạm chí ấy nói mọi người trong thành rằng:

- Các Người có thấy Tượng Xá-lợi-phất ch

ăng? Ng

ày trước tự xưng là A-la-hán, nửa chừng bỏ pháp phục, tập hạnh thế gian, vui chơi trong ngũ dục. Nay lại làm Sa-môn,

đi khất thực từng nh

à ra vẻ trong sạch, thấy phụ nữ khởi lên dục tính, trở về tinh xá nhớ nghĩ nữ sắc không quên. Như con lừa mệt mỏi không kham chở

đồ, nằm mẹp không nhúc nhích; đệ tử d

òng Thích này cũng như vậy, ngoài hiện vẻ khất thực mà thấy người nữ thì suy nghĩ toan tính.

Tượng Xá-lợi-phất nghe Phạm chí ấy gieo rắc tiếng t

ăm ác, b

èn khởi nghĩ: "Người này rất ngu si, sanh tâm tật

đố, thấy người khác được lợi dưỡng sanh l

òng bỏn sẻn, ganh ghét. Nếu mình

được lợi dưỡng th

ì bèn vui mừng,

đến nh

à cư sĩ phỉ báng. Nay ta phải chế ngự không cho làm ác, không khiến cho người này chịu tội vô lượng".

Tượng Xá-lợi-phất bay lên hư không, bảo Phạm chí rằng:

Không mắt, không cách khéo,

Khởi tâm chê Phạm hạnh,

Tự làm việc vô ích,

Chịu khổ

địa ngục lâu.

Tượng Xá-lợi-phất nói kệ ấy rồi, bèn trở về chỗ của mình. Khi ấy, dân chúng trong thành nghe Phạm chí phỉ báng, lại nghe Tượng Xá-lợi-phất nói kệ,

đều khởi nghĩ rằng: "Nếu đúng như lời Phạm chí,

sao lại hiện thần túc khó bì, chúng ta lại thấy Sa-môn ấy xả bỏ pháp phục, tập hạnh cư sĩ". Khi ấy, phần

đông dân chúng, mỗi mỗi đến chỗ Tượng Xá-lợi-phất, cúi đầu lễ dưới chân, lui ngồi một b

ên. Mọi người hỏi Tượng Xá-lợi-phất rằng:

- Có vị A-la-hán nào xả bỏ pháp phục, tập hạnh thế gian ch

ăng?

Tượng Xá-lợi-phất

đáp:

- Không có A-la-hán xả bỏ pháp phục, tập hạnh cư sĩ.

Mọi người bạch Tượng Xá-lợi-phất:

- A-la-hán có vì duyên cũ mà phạm giới ch

ăng?

Tượng Xá-lợi-phất

đáp:

- Ðã

đắc quả A-la-hán, trọn không phạm giới.

Dân chúng lại hỏi:

- Người ở

địa vị học đạo có v

ì duyên cũ mà phạm giới ch

ăng?

Tượng Xá-lợi-phất

đáp:

- Có, nếu người còn ở vị học

đạo, do duy

ên xưa nên phạm giới.

Mọi người lại hỏi:

- Tôn giả trước

đây l

à A-la-hán, lại bỏ pháp phục, tập theo hạnh thế gian, vui chơi trong ngũ dục, nay lại xuất gia học

đạo. Trước vốn có thần túc, nay v

ì sao như thế.

Tượng Xá-lợi-phất bèn nói kệ:

Ðược Thiền

định thế gian,

Rốt ráo không giải thoát,

Chưa

được vết diệt tận,

Lại tập theo ngũ dục.

Không củi, lửa không cháy,

Không gốc, cành không sanh,

Gái

đá không mang thai,

La-hán không bị rơi.

Bấy giờ dân chúng lại hỏi Tượng Xá-lợi-phất:

- Tôn giả trước

đây không phải A-la-hán chăng?

Tượng Xá-lợi-phất

đáp:

- Trước

đây tôi không phải l

à A-la-hán. Các cư sĩ nên biết, ngũ thông và lục thông mỗi thứ sai khác nhau. Nay tôi sẽ nói về mười một thông ấy. Phàm hạng tiên nhơn

được ngũ thông đ

ã dứt sạch dục ái, nếu sanh về cõi trên lại rơi xuống dục giới. Hàng A-la-hán lục thông

đệ tử của Phật, được lậu tận thông tức ngay nơi

cảnh giới Niết-bàn Vô dư, mà vào Niết-bàn.

Dân chúng lại thưa rằng:

- Chúng tôi quán sát lời nói của Tôn giả, thời ở thế gian không có A-la-hán xả bỏ pháp phục, tập theo hạnh cư sĩ.

Tượng Xá-lợi-phất

đáp:

- Như thế, như lời các ông nói, không có A-la-hán nào xả bỏ pháp phục, tập hạnh cư sĩ. Có mười một pháp, A-la-hán không tập theo.

Thế nào là mười một? A-la-hán lậu tận trọn không xả bỏ pháp phục, tập theo hạnh cư sĩ; A-la-hán lậu tận trọn không tập hạnh bất tịnh; A-la-hán lậu tận trọn không sát sanh; A-la-hán lậu tận trọn không trộm cắp; A-la-hán lậu tận không lưu lại vật thừa; A-la-hán lậu tận trọn không nói dối; A-la-hán lậu tận trọn không khiến

đôi b

ên gây gổ. A-la-hán lậu tận trọn không còn hồ nghi; A-la-hán lậu tận trọn không sợ sệt; A-la-hán lậu tận trọn không theo học thầy khác, lại cũng không thọ bào thai. Ðó gọi là các Hiền sĩ A-la-hán lậu tận trọn không làm theo mười một hạnh.

Bấy giờ, dân chúng bạch với Tượng Xá-lợi-phất:

- Chúng con nghe Tôn giả nói, thấy hàng ngoại

đạo dị học như b

ình rỗng không có gì. Nay thấy nội pháp như bình

đựng mật ngọt. Chánh pháp Như Lai cũng lại như thế. Nay Phạm chí ấy chịu tội vô lượng.

Tượng Xá-lợi-phất bay lên hư không, ngồi kiết-già nói kệ:

Không hiểu việc

đây, kia,

Tập theo thuật ngoại

đạo,

Gây

đấu tranh đôi

bên,

Người trí không làm thế.

Dân chúng thành Câu-lưu-sa thưa Tượng Xá-lợi-phất rằng:

- Lời nói của Tôn giả hơn nhiều, thật khó sánh kịp, cũng như người mù

được sáng mắt, người điếc được nghe. Nay lời nói của Tôn giả cũng thế, d

ùng vô số phương tiện nói giáo pháp. Ngày nay chúng con tự quy y Phật, Pháp, Tỳ-kheo T

ăng. Cúi xin Tôn giả nhận chúng con l

àm Ưu-bà-tắc, trọn

đời giữ năm giới, không sát sanh...

Bấy giờ, Tôn giả Tượng Xá-lợi-phất vì dân chúng nói pháp vi diệu, khiến họ phát tâm hoan hỷ, họ

đều từ chỗ đứng dậy, l

àm lễ mà lui.

Bấy giờ Tôn giả A-nan nghe Phạm chí phỉ báng Tượng Xá-lợi-phất song không

đến đâu, c

òn không dám nhìn Tượng Xá-lợi-phất, huống gì cùng bàn luận, liền

đến chỗ Phật, đem tất cả nhân duy

ên ấy thưa với Phật.

Phật bảo A-nan rằng:

- Phàm luận về A-la-hán bình

đẳng, n

ên nói chính là Tượng Xá-lợi-phất. Vì sao? Nay Tượng Xá-lợi-phất

đ

ã thành A-la-hán. Xưa kia nghe

đồn về danh tiếng A-la-hán, nay mới đạt được. H

àng thế tục

được ngũ thông, không phải l

à hạnh chơn thật, sau ắt bị mất. Hàng lục thông là hạnh chơn thật. Vì sao? Tượng Xá-lợi-phất trước có ngũ thông, sau

được lục thông. Thầy cũng n

ên học như Tượng Xá-lợi-phất. Ðây là nghĩa ấy nên ghi nhớ vâng làm.

Bấy giờ, A-nan nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

5. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở tại nước Xá-vệ, rừng Kỳ-

đ

à, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

- Nay Ta sẽ nói về pháp nhân duyên, nên khéo suy nghĩ ghi nhớ, tu tập hạnh ấy.

Các Tỳ-kheo bạch Phật:

- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.

Các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, Thế Tôn bảo:

- Thế nào là pháp nhân duyên?

Nghĩa là vô minh duyên hành, hành duyên thức, thức duyên danh sắc, danh sắc duyên lục nhập, lục nhập duyên xúc, xúc duyên thọ, thọ duyên ái, ái duyên thủ, thủ duyên hữu, hữu duyên sanh, sanh duyên lão tử, ưu bi khổ não không thể tính kể. Như thế thành thân n

ăm ấm n

ày.

Thế nào gọi là vô minh? Nghĩa là không biết Khổ, không biết Tập, không biết Diệt, không biết Ðạo. Ðây là vô minh.

Thế nào gọi là hành? Hành có ba loại, thế nào là ba? Là thân hành, khẩu hành, ý hành. Ðó là hành.

Thế nào gọi là thức? Ðó là sáu thức thân. Thế nào là sáu? Là nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức, ý thức. Ðó là thức.

Thế nào gọi là danh? Là thọ, tưởng, hành, thức. Ðó là danh.

Thế nào gọi là sắc? Là thân tứ

đại v

à sắc thân do tứ

đại tạo n

ên. Ðó là sắc. Sắc khác danh khác, nên gọi là danh sắc.

Thế nào gọi là lục nhập? Là nhãn nhập, nhĩ nhập, tỷ nhập, thiệt nhập, thân nhập, ý nhập. Ðó là lục nhập.

Thế nào gọi là xúc? Là sáu xúc thân. Thế nào là sáu? Là nhãn xúc, nhĩ xúc, tỷ xúc, thiệt xúc, thân xúc, ý xúc. Ðó là xúc.

Thế nào gọi là thọ? Là ba thọ. Thế nào là ba? Là thọ khổ, thọ vui, thọ không khổ không vui. Ðó gọi là thọ.

Thế nào gọi là ái? Là ba ái: dục ái, hữu ái, vô hữu ái.

Thế nào gọi là thủ? Là bốn thủ. Thế nào là bốn? Là dục thủ, kiến thủ, giới thủ, ngã thủ. Ðó gọi là thủ.

Thế nào gọi là hữu? Là ba hữu. Thế nào là ba? Là dục hữu, sắc hữu, vô sắc hữu. Ðó gọi là hữu.

Thế nào gọi là sanh? Là khi

đầy đủ ng

ày tháng, ra khỏi bụng mẹ, nhận sự hiện hữu,

được thân năm ấm, thọ

lãnh các nhập. Ðó gọi là sanh.

Thế nào gọi là lão? Là chúng sanh kia, nơi thân phần này r

ăng rụng, tóc bạc, khí lực yếu m

òn, các c

ăn

rã rời, thọ mạng ngày càng suy, không còn tình thức như xưa. Ðó gọi là lão.

Thế nào gọi là tử? Là khi chúng sanh kia, lần lượt thân thể không còn ấm, vô thường biến

đổi, các căn phân tán, bỏ thân năm ấm, mạng sống chấm dứt.

Ðó gọi là tử.

Tỳ-kheo nên biết! Như thế gọi là lão, bệnh, tử. Ðây gọi là nhân duyên. Ta

đ

ã phân biệt rộng nghĩa ấy. Ðiều cần làm của các

đức Phật Như Lai, khởi l

òng thương xót lớn, nay Ta

đ

ã làm xong. Các Thầy nên ghi nhớ, khi ngồi dưới gốc cây, nơi

đất

trống, hoặc ở gò mả, nên suy nghĩ tọa thiền, chớ sợ hãi. Ngày nay không siêng n

ăng, sau ân hận vô ích.

Bấy giờ, A-nan bạch Phật:

- Thế Tôn vì các Tỳ-kheo nói pháp nhân duyên sâu xa. Nhưng con thấy không có nghĩa sâu xa gì cả.

Ðức Phật bảo:

- Thôi, thôi, A-nan! chớ khởi ý nghĩ ấy. Vì sao? Pháp Mười hai nhân duyên rất sâu xa, không phải là chỗ hiểu của người thường.

Xưa, khi Ta chưa giác ngộ pháp nhân duyên này, bị trôi l

ăn trong sanh tử không có ng

ày ra khỏi. Lại, này A-nan! Không phải ngày nay, Thầy mới nói pháp nhân duyên không sâu xa, từ trước

đến nay đ

ã nói không sâu xa. Vì sao?

Thời quá khứ, có vị vua A-tu-la tên Tu-diệm, khởi ý nghĩ nầy: "Muốn nắm chặt mặt trời, mặt tr

ăng ra khỏi biển lớn". B

èn hóa thân to lớn, nước biển chỉ tới ngang lưng. Bấy giờ, vua A-tu-la ấy có con trai tên Câu-na-la, tự nói với cha rằng:

- "Nay con muốn tắm trong biển".

Tu-diệm bảo:

- "Con

đừng thích tắm trong biển. V

ì sao? Nước biển rất sâu và rộng, con không thể tắm trong

đó".

Câu-na-la tự nói:

- "Con thấy nước biển chỉ

đến ngang lưng cha, v

ì sao lại nói là sâu rộng?"

Khi

đó, vua A-tu-la nắm lấy con d

ìm vào trong biển lớn, con trai A-tu-la chân không chấm

đáy bể rất l

à sợ hãi.

Vua Tu-diệm bảo con rằng:

- "Ta

đ

ã nói trước với con rằng biển rất sâu, con nói không khổ chỉ có ta mới có thể tắm trong biển lớn, không phải con có thể tắm

được".

A-tu-la Tu-diệm lúc ấy há phải người nào lạ? Chớ nghĩ như thế, Vì sao? Tu-diệm tức là thân Ta, con trai của A-tu-la lúc ấy chính là thân Thầy. Khi ấy nước biển rất sâu, Thầy nói không khổ. Nay Ta nói pháp Mười hai nhân duyên rất sâu xa, Thầy lại nói không sâu xa.

Chúng sanh không hiểu pháp Mười hai nhân duyên, lưu chuyển trong sanh tử không có ngày ra khỏi, thảy

đều m

ê lầm không biết khổ hạnh. Từ

đời n

ày

đến đời sau, từ đời sau đến đời n

ày, vĩnh viễn ở trong n

ăm thứ phiền n

ão, muốn ra rất khó. Ta ban

đầu mới th

ành

đạo, suy nghĩ về Mười hai nhân duy

ên, hàng phục ma quân, quyến thuộc của ma. Do trừ vô minh mà

được tuệ minh, vĩnh viễn trừ diệt các tối tăm, không c

òn trần cấu. A-nan! Khi Ta ba phen chuyển, mười hai lần nói pháp nhân duyên này, liền

được th

ành

đạo. Do phương tiện n

ày nên biết , pháp Mười hai nhân duyên rất sâu xa, không phải người thường có thể tuyên nói.

Như thế, này A-nan, nên ghi nhớ phụng trì pháp Mười hai nhân duyên sâu xa này, nên học

điều n

ày!

Bấy giờ, A-nan nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

6. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở tại thành La-duyệt, vườn trúc Ca-lan-

đ

à, cùng với chúng

đại Tỳ-kheo năm trăm người câu hội.

Bấy giờ, trong thành La-duyệt có một Phạm chí tên Thí-la, biết

đủ các kỹ thuật, tất cả các kinh điển

của ngoại

đạo dị học, thi

ên v

ăn địa lý, thảy đều quán triệt. Phạm chí l

à thầy dạy học cho n

ăm trăm đồng tử Phạm chí.

Trong thành ấy lại có một Phạm chí dị học tên Sí-ninh, hiểu biết rộng, là người

được vua Tần-b

à-sa-la kính mến, thường tùy thời cung cấp cho

đồ cần d

ùng.

Khi ấy, danh tiếng Như Lai lan rộng khắp nơi. Như Lai Chí Chơn Ðẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện thệ, Thế gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn,

độ người vô lượng, xuất hiện ở đời. Khi đó, Phạm chí Sí-ninh khởi ý nghĩ rằng: "Danh hiệu Như Lai rất khó được nghe đến, nay Ta muốn đến gần gũi, lễ bái, thăm hỏi Ng

ài". Phạm chí Sí-ninh liền

đến chỗ Phật, cúi đầu lễ chân Phật, lui ngồi một b

ên.

Phạm chí bạch Phật:

- Sa-môn Cù-

đ

àm thuộc chủng tộc nào?

Phật

đáp:

- Ta thuộc chủng tộc Sát-lợi.

Phạm chí hỏi:

- Các Bà-la-môn có luận thuyết này: Chủng tộc của ta rất tôn quý, không ai hơn,hoạc nói là dòng họ trắng, hoặc nói dòng họ

đen. B

à-la-môn tự xưng rằng: ta từ Phạm thiên sanh ra. Nay Sa-môn Cù-

đ

àm có những thuyết gì?

Phật bảo:

- Phạm chí nên biết, nếu có cưới xin, giá thú mới tìm dòng hào quý. Còn trong Chánh pháp của Ta, không có vấn

đề danh tánh cao thấp, phải quấy.

Phạm chí lại hỏi:

- Cù-

đ

àm! Thế nào là nơi sanh thanh tịnh, sau mới

được pháp thanh tịnh?

Phật bảo Phạm chí:

- Ông dùng vấn

đề nơi thanh tịnh, pháp thanh tịnh để l

àm gì?

Phạm chí lại nói:

- Các Bà-la-môn

đều b

àn luận thế này: Dòng họ ta rất tôn quý không ai hơn, hoặc nói là dòng trắng, hoặc nói dòng

đen. B

à-la-môn tự xưng là do Phạm thiên sanh ra.

Phật bảo Phạm chí:

- Nếu có cô gái dòng Sát-lợi về làm vợ gia

đ

ình Bà-la-môn, giả sử sanh con trai sẽ theo họ gì?

Phạm chí

đáp:

- Nó sẽ thuộc dòng Bà-la-môn. Vì sao? Do người cha mới có

đứa bé ấy.

Phật bảo:

- Nếu cô gái dòng Bà-la-môn kết hôn với dòng Sát-lợi, sanh con trai sẽ theo họ ai?

Phạm chí

đáp:

- Ðứa bé sẽ thuộc về dòng Sát-lợi. Vì sao? Do người cha mới có

đứa con ấy.

Phật bảo Phạm chí:

- Ông nên suy nghĩ kỹ, sau hãy

đáp lời Ta. Hôm nay lời của Ông trước sau không hợp nhau. Thế n

ào, này Phạm chí, giả sử có lừa cái theo ngựa, sau sanh con, sẽ gọi là ngựa, là lừa?

Phạm chí

đáp:

- Loại

đó n

ên gọi là lừa ngựa. Vì sao? Do di thể của lừa nên có con vật ấy.

Phật bảo Phạm chí:

- Ông nên suy nghĩ kỹ, sau hãy trả lời Ta. Nay lời của Ông, trước sau không tương ưng. Trước Ông nói con gái dòng Sát-lợi kết hôn dòng Bà-la-môn, nếu sanh con bèn mang dòng Bà-la-môn. Nay lừa cái theo ngựa sanh con, mà gọi là lừa ngựa, không phải trái với lời nói trước sao? Lại, nầy Phạm chí! Nếu ngựa theo lừa, sanh con sẽ gọi là gì?

Phạm chí

đáp:

- Nên gọi là ngựa lừa.

Phật bảo:

- Thế nào, Phạm chí, ngựa lừa và lừa ngựa có khác gì? Nếu có người nói "châu báu một hộc", và người nói "một hộc châu báu", hai nghĩa ấy có khác nhau ch

ăng?

Phạm chí

đáp:

- Ðó là một nghĩa. Vì sao? Một hộc châu báu và châu báu một hộc, ý nghĩa không khác.

Phật bảo Phạm chí:

- Tại sao ngựa lừa và lừa ngựa lại không phải một nghĩa?

Phạm chí

đáp:

- Nay Sa-môn Cù-

đ

àm tuy nói như thế, song Bà-la-môn tự khen rằng: "Dòng họ ta rất tôn quý không ai hơn".

Phật bảo Phạm chí:

- Trước Ông khen ngợi người mẹ, sau lại khen ngợi người cha. Nếu cha cũng dòng Bà-la-môn, mẹ cũng dòng Bà-la-môn, sau sanh hai người con, Một người giỏi nhiều kỹ thuật, không việc gì không biết, người thứ hai lại không biết gì cả. Khi

đó cha mẹ thương mến người n

ào? Thương mến người con có trí tuệ, hay thương mến người con không biết gì?

Phạm chí

đáp:

- Cha mẹ ấy nên thương mến người thông minh cao

đức, không n

ên thương mến người không có trí. Vì sao vậy? Nay người con việc gì cũng biết, việc gì cũng giỏi, nên thương người

đó, không n

ên thương người con vô trí.

Phật bảo Phạm chí:

- Nếu hai người con ấy, người thông minh lại khởi tâm làm mười việc sát sanh, trộm cắp, tà dâm v.v.. người con không thông minh kia lại giữ gìn thân, miệng, ý, trong mười việc thiện

đều giữ đủ, th

ì cha mẹ người ấy nên thương mến ai?

Phạm chí

đáp:

- Cha mẹ người ấy nên thương

đứa con l

àm theo mười việc thiện. Người làm việc bất thiện, thương mến làm gì?

Phật bảo Phạm chí:

- Trước

đây Ông khen ngợi người đa văn, sau lại khen ngợi về giới đức. Thế n

ào, Phạm chí, nếu lại có hai người con, một người có cha chuyên chánh, mẹ không chuyên chánh, một người thì cha không chuyên chánh, mẹ chuyên chánh; người con có mẹ chuyên chánh, cha không chuyên chánh ấy, hiểu biết nhiều, hiểu rộng các kinh thuật; người thứ hai cha chuyên chánh, mẹ không chuyên chánh, không học rộng chỉ giữ mười

điều l

ành; vậy nên kính trọng người có cha mẹ nào? Kính trọng người có mẹ thanh tịnh, cha không thanh tịnh? Hay kính trọng người có cha thanh tịnh, mẹ không thanh tịnh.

Phạm chí

đáp:

- Nên kính trọng người con có mẹ thanh tịnh. Vì sao? Vì người ấy biết các kinh sách, giỏi rộng về kỹ thuật. Còn người thứ hai, cha thanh tịnh, mẹ không thanh tịnh, tuy giữ giới mà không trí tuệ, không

đi đến đâu. V

ì có

đa văn ắt có giữ giới.

Phật bảo Phạm chí:

- Trước Ông khen ngợi cha thanh tịnh, không khen ngợi mẹ thanh tịnh. Nay lại khen ngợi mẹ thanh tịnh, không khen ngợi cha thanh tịnh. Trước Ông khen ngợi

đức đa văn, sau khen giữ giới. Ông lại khen về giới, sau mới nói đến đa văn.

Thế nào Phạm chí, nếu hai người con dòng Phạm chí ấy, người thứ nhất

đa văn bác học lại th

êm giữ thập thiện; người thứ hai không trí tuệ và làm mười

điều ác; vậy n

ên kính trọng người có cha mẹ thế nào?

Phạm chí

đáp:

- Nên kính trọng người có cha thanh tịnh, mẹ không thanh tịnh. Vì sao? Vì người ấy

đọc nhiều kinh sách, hiểu biết các kỹ thuật, do cha thanh tịnh m

à sanh con như thế, thêm giữ mười

điều l

ành không trái phạm,

đầy đủ tất cả giới đức vậy.

Phật bảo:

- Ông vốn nói về dòng họ, sau lại nói về sự

đa văn, không nói đến d

òng họ. Ông nói về giự giới không nói về

đa văn, rồi lại nói về đa văn không nói về giới. Nay ông khen ngợi về cha mẹ, về văn v

à giới, há không trái với lời nói trước ư?

Phạm chí bạch Phật:

- Sa-môn Cù-

đ

àm tuy nói lời như thế, nhưng dòng Bà-la-môn tự xưng rằng: "Dòng học của ta rất tôn quý không ai hơn".

Phật bảo:

- Những nơi cần kết hôn, ắt bàn luận về dòng họ. Song trong pháp Ta không có nghĩa này, Ông có nghe nói về những người ở biên giới, các nơi xa và biên

địa khác không?

Phạm chí

đáp:

- Vâng, tôi có nghe những người như thế.

Phật bảo:

- Nhân dân ở các nơi ấy có hai hạng. Thế nào là hai? Một là người, hai là tôi tớ. Hai hạng này cũng không nhất

định.

Lại hỏi:

- Như thế nào là không nhất

định?

Phật bảo:

- Hoặc khi làm người, sau lại làm tôi tớ. Hoặc làm tôi tớ, sau lại làm người. Song loài chúng sanh, thảy

đồng một loại, không có nhiều hạng.

Lại thế nầy, Phạm chí! Khi trời

đất bị hủy hoại, thế gian đều trống rỗng, lúc ấy núi sông, đất đá, cỏ cây đều bị thi

êu hủy hết thảy, người cũng chết.

Khi trời

đất sắp th

ành lập, chưa có phân chia ngày giờ n

ăm tháng. Bấy giờ, chư Thi

ên ở cõi trời Quang Âm

đến chỗ n

ày. Lúc

đó, chư Thi

ên trời Quang Âm phước

đức ti

êu hết, không còn ánh sáng, dần dần nhìn nhau, khởi lên dục tưởng. Dục ý nhiều bèn thành người nữ, dục ý ít thành người nam, họ dần dần giao hợp bèn có bào thai. Do nhân duyên ấy nên có người ban

đầu, chuyển sanh bốn d

òng họ khắp trong thiên hạ. Do việc ấy nên biết, mọi người

đều phát xuất từ d

òng Sát-lợi.

Bấy giờ, Phạm chí bạch Phật:

- Hãy thôi, thưa Cù-

đ

àm! Như người gù

được thẳng lưng, người m

ù

được sáng mắt, người đui tối được thấy ánh sáng; Sa-môn C

ù-

đ

àm cũng lại như vậy, dùng vô số phương tiện vì tôi thuyết pháp. Nay tôi tự quy y với Sa-môn Cù-

đ

àm, xin vì tôi nói pháp, cho phép

được l

àm Ưu-bà-tắc.

Phạm chí lại bạch Phật:

- Cúi xin Như Lai, nhận lời thỉnh của con, cùng chúng Tỳ-kheo

đến nh

à con.

Thế Tôn im lặng nhận lời, Phám chí thấy Phật im lặng nhận lời thỉnh, liền từ chỗ ngồi

đứng dậy, cúi đầu lễ chân Phật rồi lui ra. Phạm chí về nh

à, sắm sửa các thức

ăn uống đầy đủ, trải các

sàng tọa, rưới nước thơm trên

đất v

à tự nói rằng: "Ðức Như Lai sẽ ngồi chỗ này".

Bấy giờ Phạm chí Thí-la dẫn n

ăm trăm đồng tử đến nh

à Phạm chí Sí-ninh, xa thấy nhà ấy trải nệm ghế tốt, thấy rồi bèn hỏi Phạm chí Sí-ninh:

- Hôm nay Ông

định l

àm lễ cưới gả cho con hay mời vua Tần-bà-la-sa

đến nh

à?

Phạm chí Sí-ninh

đáp:

- Tôi không mời vua Tần-bà-sa-la cũng không có việc cưới gả. Hôm nay tôi muốn làm phước nghiệp lớn.

Phạm chí Thí-la hỏi:

- Xin

được nghe ý ấy.

Ðịnh làm phước nghiệp gì?

Bấy giờ, Phạm chí Sí-ninh trịch bày vai phải, quỳ gối chấp tay bạch Thế Tôn, tự xưng tên họ.

Phạm chí Sí-ninh bảo Phạm chí Thí-la rằng:

- Thí-la nên biết, có người dòng họ Thích xuất gia học

đạo, th

ành bậc Ðẳng Chánh Giác Chí Chơn Vô Thượng. Nay tôi thỉnh Phật và Tỳ-kheo T

ăng, cho n

ên sửa soạn

đầy đủ chỗ ngồi như vầy.

Phạm chí Thí-la nói:

- Ông nói về Phật

đấy ư?

- Nay tôi nói về Phật.

Thí-la lại nói:

- Thật lạ kỳ! Thật

đặc biệt! Hôm nay tôi mới nghe đến âm thanh Phật. Như Lai hiện giờ ở đâu? Tôi muốn được gặp.

Sí-ninh

đáp:

- Hiện ở ngoài thành La-duyệt, trong vườn trúc, cùng với n

ăm trăm đệ tử. Nếu Ông muốn gặp, n

ên biết

đúng thời.

Lúc ấy, Phạm chí Thí-la bền dẫn n

ăm trăm đồng tử đi đến chỗ Phật, đến rồi nói lời

chàoi hỏi lui ngồi một bên. Phạm chí Thí-la bèn khởi nghĩ: "Sa-môn Cù-

đ

àm rất

đoan chánh, thân tướng sắc v

àng. Trong kinh

điển của chúng ta cũng có ghi rằng: Như Lai ra đời thật rất khó gặp, như hoa Ưu-đ

àm-bát

đúng thời mới xuất hiện. Nếu th

ành tựu ba mươi hai tướng, và tám mươi vẻ

đẹp, sẽ có hai trường hợp. Nếu ở nh

à sẽ là bậc Chuyển luân thánh vương,

đầy đủ bảy thứ báu. Nếu xuất gia sẽ th

ành

đạo Vô thượng, l

à bậc cứu giúp ba cõi". Nay ta muốn nhìn thấy ba mươi hai tướng của Phật.

Bấy giờ, Phạm chí chỉ thấy

được ba mươi tướng, c

òn hai tướng nữa không thấy, liền sanh nghi ngờ, do dự, vì không thấy

được tướng lưỡi rộng d

ài và tướng mã âm tàng của Phật.

Phạm chí bèn dùng kệ hỏi:

Tôi nghe có ba hai,

Tướng tốt bậc Ðại nhân,

Nay không thấy hai tướng,

Rốt cuộc ở chỗ nào?

Mã âm tàng trong sạch,

Tướng ấy khó thí dụ,

Có tướng lưỡi rộng dài,

Trùm khắp tai, mặt ch

ăng?

Xin hiện tướng lưỡi dài,

Khiến tôi không nghi ngờ.

Lại khiến tôi

được thấy,

Trọn không kết lưới nghi.

XXXXIX.2. Phẩm Ch

ăn trâu (

2)

Bấy giờ, Thế Tôn bèn

đưa lưỡi liếm lỗ tai b

ên mặt và bên trái rồi thâu vào. Và Ngài liền nhập chánh

định, khiến Phạm chí ấy thấy được tướng m

ã âm tàng. Khi Phạm chí thấy Phật

đủ ba mươi hai tướng

, tám mươi vẻ

đẹp th

ì vui mừng phấn khởi không thể tự kềm. Phạm chí Thí-la bạch Phật:

- Nay tôi là Bà-la-môn, Sa-môn dòng Sát-lợi, song Sa-môn hay Bà-la-môn

đều một đạo, cầu một giải thoát. Sa-môn chấp nhận chúng ta đồng một đạo chăng?

Phật bảo Phạm chí:

- Ông có kiến chấp này.

Phạm chí thưa:

- Tôi có kiến chấp ấy.

Phật bảo Phạm chí:

- Ông nên khởi ý hướng về một giải thoát. Ðó là chánh kiến.

Phạm chí bạch Phật:

- Chánh kiến tức là một giải thoát, lại có giải thoát ch

ăng?

Thế Tôn bảo:

- Phạm chí! Có giải thoát

được Niết-b

àn. Việc ấy có tám. Ðó là chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh phương tiện, chánh niệm, chánh

định. N

ày Phạm chí,

đó l

à Tám

đạo phẩm đưa đến Niết-b

àn.

Phạm chí bạch Phật:

- Có chúng sanh nào biết

được Tám đạo phẩm nầy chăng?

Phật bảo:

- Chẳng phải một, tr

ăm, ngh

ìn. Phạm chí nên biết! Có vô số tr

ăm ngh

ìn chúng sanh

được biết Tám đạo phẩm n

ày.

Phạm chí bạch Phật:

- Lại có chúng sanh nào không hiểu

được Tám đạo phẩm n

ày ch

ăng?

Phật bảo:

- Chúng sanh không hiểu

điều n

ày chẳng phải một người.

Phạm chí bạch Phật:

- Có chúng sanh nào không

được pháp n

ày ch

ăng?

Phật bảo:

- Có chúng sanh không

được đạo n

ày gồm mười một hạng người như thế này. Thế nào là mười một? Ðó là những người gian ngụy, ác ngữ, khó can gián, không biết ơn, tánh ưa ganh ghét, giết hại cha mẹ, giết A-la-hán,

đoạn dứt căn l

ành, việc lành trở lại làm ác, chấp ngã, khởi ý ác

đối với Như Lai. Phạm chí!

Ðó là mười một hạng người không thể

đạt được Tám đạo phẩm n

ày.

Khi

đức Phật đang nói Tám đạo phẩm, Phạm chí ấy dứt sạch các trần cấu, đắc pháp nh

ãn tịnh.

Bấy giờ Phạm chí Thí-la bảo n

ăm trăm đệ tử:

- Các Ông

đều học được điều tốt, mỗi người tự tụng tập. Ta muốn ở chỗ Phật tu Phạm hạnh.

Các

đệ tử thưa:

- Chúng con cũng muốn xuất gia học

đạo.

Bấy giờ, Phạm chí và n

ăm trăm đệ tử mỗi mỗi quỳ xuống bạch Phật:

- Cúi xin Thế Tôn cho chúng con xuất gia học

đạo.

Phật bảo các Phạm chí:

- Thiện lai Tỳ-kheo! Ở nơi Như Lai khéo tu Phạm hạnh thì dần dần sẽ chấm dứt gốc khổ.

Khi Phật nói lời ấy, n

ăm trăm Phạm chí liền th

ành Sa-môn. Thế Tôn dần dần vì n

ăm trăm người giảng dạy về luận vi diệu.

Ðó là luận bố thí, trì giới, sanh thiên, dục tưởng bất tịnh, xuất yếu là an vui. Như các pháp mà chư Phật Thế Tôn thường dạy Khổ, Tập, Diệt, Ðạo, Thế Tôn cũng vì các Thầy ấy giảng nói rộng. Khi ấy, n

ăm trăm Sa-môn vĩnh viễn dứt sạch các lậu hoặc, được pháp hơn người.

Bấy giờ, Phạm chí Sí-ninh lại bạch:

- Ðến thời, xin Thế Tôn quang lâm.

Phật bảo Thí-la và n

ăm trăm Tỳ-kheo.

- Các Ông hãy

đắp y mang dĩa.

Một nghìn vị Tỳ-kheo vây quanh,

đi v

ào thành

đến nh

à Phạm chí, lên tòa ngồi.

Phạm chí Sí-ninh thấy n

ăm trăm B

à-la-môn

đều l

àm Sa-môn liền bảo rằng:

- Lành thay các Vị! Ðiều cần yếu hướng về

đạo không g

ì hơn việc này.

Tỳ-kheo Thí-la vì Sí-ninh nói kệ:

Ngoài

đây không có pháp

Hay hơn

điều cần

ấy,

So sánh như thế ấy,

Ðiều lành không gì hơn.

Phạm chí Sí-ninh bạch Phật:

- Cúi xin Thế Tôn

đợi giây lát, chính lúc n

ày lại dọn thêm thức

ăn.

Phật bảo:

- Các thức

ăn đ

ã xong,

đúng giờ cứ đem đến, đừng sợ không đủ.

Phạm chí Sí-ninh vui mừng vô lượng,

đích thân tự san sớt thức ăn cúng dường Phật v

à Tỳ-kheo T

ăng. Khi Thế Tôn thọ trai xong, Ông dọn rửa bát, đem bao nhi

êu thứ hoa rải lên Phật và Tỳ-kheo T

ăng, v

à

đến trước bạch Phật:

- Xin thưa Thế Tôn! Hết thảy người lớn nhỏ, nam nữ trong nhà con

đều xin l

àm Ưu-bà-tắc.

Bấy giờ, phu nhân của Phạm chí

đang có thai, b

èn bạch Phật:

- Con

đang mang thai, không biết l

à nam hay nữ, cũng xin tự quy y, xin Như Lai nhận cho làm Ưu-bà-di.

Phật vì

đại chúng nói pháp vi diệu, liền ngồi tr

ên tòa, nói kệ này:

Lành thay phước báo này,

Sở nguyện ắt

được quả,

Dần lên chỗ an lạc,

Trọn không lo nguy tai,

Chết

được sanh l

ên trời,

Cũng không thể khiến cho

Người làm phước bị tội.

Họ cũng tìm phương tiện,

Ðược trí tuệ Hiền Thánh,

Sẽ dứt sạch gốc khổ,

Xa bỏ hẳn tám nạn.

Thế Tôn nói kệ ấy rồi, rời tòa mà

đi.

Bấy giờ, Phạm chí Sí-ninh nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

7. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở tại nước Xá-vệ, rừng Kỳ-

đ

à, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

- Ta thường ngồi

ăn một bữa, thân thể nhẹ

nhàng, khí lực mạnh mẽ. Tỳ-kheo các Thầy cũng nên

ăn một bữa, thân thể nhẹ nh

àng khí lực mạnh mẽ, dễ tu Phạm hạnh.

Bấy giờ, Bạt-

đề-b

à-la bạch Phật:

- Con không thể

ăn một bữa. V

ì sao? Vì khí lực yếu kém.

Phật bảo:

- Cho phép Thầy

đến nh

à

đ

àn-việt,

ăn một phần, đem về một phần.

Bạt-

đề-b

à-la bạch Phật:

- Con cũng không thể làm pháp này.

Phật bảo:

- Cho phép Thầy bỏ ngọ trai,

ăn trong ng

ày.

Bạt-

đề-b

à-la thưa:

- Con cũng không thể làm theo pháp này.

Thế Tôn im lặng không nói nữa.

Bấy giờ, Ca-lưu-

đ

à-di vào buổi chiều mặt trời lặn,

đắp y mang bát v

ào thành khất thực. Khi

đó, trời rất tối, Ca-lưu-đ

à-di dần dần

đi đến nh

à một trưởng giả. Phu nhân của trưởng giả ấy

đang mang thai, nghe Sa-môn khất thực ngo

ài cửa, liền tự

đem cơm ra cho. Song Thầy Ca-lưu-đ

à-di sắc mặt rất

đen, lại khi ấy trời sắp mưa, sấm chớp giăng đầy; phu nhân của trưởng giả ra cửa, thấy sa-môn mặt đen thui, b

èn kinh hoàng kêu là quỷ, và tự hô hoán lên:

- Chao ôi! Ta gặp quỷ.

Liền khi

đó đọa thai m

à chết. Khi ấy, Ca-lưu-

đ

à-di trở về tinh xá, lo buồn không vui, ngồi tư duy hối hận không kịp.

Khi ấy, trong thành Xá-vệ có tiếng ác này: "Sa-môn Thích tử trù rủa làm

đọa thai con của người". Nam nữ trong th

ành

đều bảo nhau rằng: "Hiện nay Sa-môn h

ành

động không tiết độ, ăn chẳng đúng thời, như h

àng cư sĩ tại gia chẳng khác". Bấy giờ, phần

đông các Tỳ-kheo đều nghe dân chúng b

àn luận

điều n

ày: "Sa-môn dòng Thích không biết tiết

độ, đi đứng không ki

êng dè". Trong

đó, các Tỳ-kheo giữ giới, những người đầy đủ giới luật cũng tự oán trách: "Thật chẳng phải l

à oai nghi của chúng ta,

ăn không chừng mực, đi không đúng

thời, thật là

điều quấy của chúng ta". Các vị ấy dẫn nhau đến chỗ đức Phật, cúi đầu lễ chân Phật, đem hết mọi chuyện bạch Phật.

Phật bảo một Tỳ-kheo:

- Thầy

đi k

êu Ca-lưu-

đ

à-di

đến đây.

Tỳ-kheo vâng lời Phật dạy, liền

đi k

êu Ca-lưu-

đ

à-di. Ca-lưu-

đ

à-di nghe Phật gọi, liền

đến chỗ Phật, cúi đầu lễ Phật, lui ngồi một b

ên.

Thế Tôn hỏi:

- Phải ngày hôm qua, vào buổi chiều Thầy vào thành khất thực,

đến nh

à trưởng giả khiến vợ trưởng giả

đọa thai chăng?

Ca-lưu-

đ

à-di bạch Phật:

- Thưa vâng, Thế Tôn.

Phật bảo:

- Vì sao Thầy không phân biệt thời tiết, lại vào lúc trời sắp mưa vào thành khất thực? Ðó không phải là oai nghi của Thầy. Thầy

đ

ã là hàng quý tộc, xuất gia học

đạo m

à còn tham trước

ăn uống.

Ca-lưu-

đ

à-di bèn

đứng dậy, bạch Phật:

- Từ nay về sau không dám phạm lại. Cúi xin Thế Tôn nhận cho con sám hối.

Phật bảo Tôn giả A-nan mau

đánh kiền ch

ùy, nhóm các Tỳ-kheo tại giảng

đường Phổ Hội, A-nan vâng lời Phật dạy, liền nhóm các Tỳ-kheo tại giảng đường, rồi đến trước Phật, bạch rằng:

- Các Tỳ-kheo

đ

ã nhóm, xin Thế Tôn biết

đúng thời.

Thế Tôn liền

đến giảng đường ngồi v

ào tòa chính giữa, bảo các Tỳ-kheo:

- Các

đức Phật ở đời quá khứ lâu xa đều ăn một bữa. Các h

àng Thanh v

ăn cũng ăn một bữa. Các đức Phật tương lai v

à chúng

đệ tử cũng sẽ chỉ ăn một bữa. V

ì sao thế? Ðó là pháp yếu

để h

ành

đạo, n

ên

ăn một bữa. Nếu có thể ăn một bữa, thân thể nhẹ nh

àng, tâm

được khai mở. Tâm đ

ã mở bèn

được các căn l

ành. Ðã

được căn l

ành liền

được chánh định.

Ðã

được chánh định th

ì biết

đúng như thật. Thế n

ào gọi là biết

đúng như thật? Nghĩa l

à Khổ

đế, biết như thật l

à Khổ

đế; Khổ tập đế, biết như thật l

à Khổ tập

đế; Khổ tận đế biết như thật l

à Khổ tận

đế; Khổ xuất yếu đế (đạo đế) biết như thật l

à Khổ xuất yếu

đế.

Các Thầy là dòng hào quý,

đ

ã xuất gia học

đạo, bỏ tám nghiệp ở thế gian m

à không biết thời tiết thì khác gì người tham dục kia? Phạm chí có pháp riêng của Phạm chí, ngoại

đạo có pháp ri

êng của ngoại

đạo.

Khi ấy, Tôn giả Ưu-ba-ly bạch Phật:

- Chư Phật ở quá khứ và tương lại

đều ăn một bữa. Cúi xin Thế Tôn n

ên vì các Tỳ-kheo hạn chế thời gian

ăn uống.

Thế Tôn bảo:

- Như Lai cũng biết như thế, nhưng chưa có người phạm trước mắt. Có phạm tội mới chế giới cấm.

Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

- Ta chỉ

ăn một bữa, các Thầy cũng n

ên

ăn một bữa. Nay các Thầy ăn v

ào giờ ngọ, không

được quá thời.

Các Thầy cũng phải học pháp khất thực. Thế nào là Tỳ-kheo học pháp khất thực? Khi Tỳ-kheo chỉ vì mạng sống thì xin

được thức ăn cũng không vui, không được cũng không lo. Nếu khi được thức ăn, tư duy quán tưởng m

à

ăn, không có tâm tham đắm, chỉ muốn thân n

ày

được sống, trừ được bệnh cũ lại không tạo mới, khiến cho khí lực đầy đủ. Như thế, n

ày các Tỳ-kheo, gọi là khất thực.

Tỳ-kheo các Thầy nên ngồi

ăn một bữa. Thế n

ào là Tỳ-kheo ngồi

ăn một bữa? Nếu đứng l

ên thì phạm,

ăn rồi không n

ên

ăn nữa. Như thế gọi l

à Tỳ-kheo ngồi

ăn một bữa.

Tỳ-kheo các Thầy cũng nên

được thức ăn m

à

ăn. Thế n

ào là Tỳ-kheo

được thức ăn m

à

ăn? Khi Tỳ-kheo đ

ã

được thức ăn, lại có trai chủ

cúng thêm lần nữa, do thức

ăn nầy l

à

được lại, không n

ên

ăn. Như thế, Tỳ-kheo được thức ăn chỉ một lần.

Tỳ-kheo các Thầy cũng nên mặc ba y, ngồi dưới cội cây, ngồi chỗ vắng, nên khổ hạnh ngồi nơi

đất trống, n

ên mặc y cũ vá, nên ở chỗ gò mả, nên mặc áo cũ xấu. Vì sao thế? Vì khen ngợi người thiểu dục.

Nay Ta dạy các Thầy nên như Tỳ-kheo Ca-diếp. Vì sao thế? Tỳ-kheo Ca-diếp tự hành mười một pháp

đầu đ

à, cũng dạy người làm theo pháp yếu này.

Nay Ta dạy các Thầy nên như Tỳ-kheo Diện Vương. Vì sao? Tỳ-kheo Diện Vương mặc y cũ xấu không mặc y

đẹp.

Tỳ-kheo! Ðây là lời dạy của Ta, nên ghi nhớ tu tập. Như thế, này các Tỳ-kheo, nên học

điều n

ày!

Bấy giờ, Tỳ-kheo Bạt-

đề-b

à-la suốt ba tháng không

đến chỗ thế Tôn. A-nan vừa hết ba tháng an cư, đến chỗ Tỳ-kheo Bạt-đề-b

à-la nói rằng:

- Nay chúng T

ăng đều may vá y áo, như thế Thế Tôn sẽ đi du hóa nhân gian. Bây giờ Thầy không đến, sau hối hận vô ích.

Khi ấy, A-nan dẫn Bạt-

đề-b

à-la

đến chỗ đức Thế Tôn, Bạt-đề-b

à-la lễ Phật và bạch Phật:

- Cúi xin Thế Tôn cho con sám hối, từ nay về sau không dám phạm lại. Như Lai chế cấm giới mà con không thọ trì. Cúi xin rũ lòng tha thứ.

Thưa như thế ba lần. Phật bảo:

- Cho phép Thầy hối lỗi, sau chớ phạm lại. Vì sao? Ta tự suy nghĩ trong vô số kiếp sanh tử, hoặc có khi làm thân lừa, la, lạc

đ

à, voi, ngựa, heo, dê,

ăn cỏ để nuôi thân; hoặc ở trong địa ngục nuốt ho

àn sắt nóng; hoặc làm ngạ quỷ thường

ăn máu mủ; hoặc l

àm thân người

ăn ngũ cốc; hoặc l

àm thân trời

ăn những vị cam lồ tự nhi

ên; trong vô số kiếp thân mạng cùng tranh không biết chán.

Bạt-

đề-b

à-la! Như lửa cháy củi không

đủ, như biển lớn nuốt các d

òng không

đủ, nay người phạm cũng như vậy, tham ăn không biết chán đủ.

Thế Tôn bèn nói kệ này:

Sanh tử không

đoạn dứt,

Ðều do từ tham dục,

Oán ghét nuôi ác ấy,

Người ngu tập theo

đó.

Thế nên, này Bạt-

đề-b

à-la nên ghi nhớ ít muốn, biết

đủ, chớ khởi tưởng tham, dấy các niệm tán loạn. Như thế,

Bạt-

đề-b

à-la, nên học

điều n

ày.

Bấy giờ, Bạt-

đề-b

à-la nghe Phật giáo giới,

đ

ã ở chỗ vắng tự khắc trách mình. "Vốn dòng hào tộc, xuất gia học

đạo, tu Phạm hạnh vô thượng, sanh tử đ

ã hết, Phạm hạnh

đ

ã lập, việc phải làm

đ

ã làm xong, không thọ thân sau, như thật mà biết". Bạt-

đề-b

à-la liền thành A-la-hán.

Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

- Trong hàng

đệ tử Ta, người ăn uống nhiều đệ

nhất trong số Thanh v

ăn l

à Tỳ-kheo Cát-Hộ.

Bấy giờ, các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

8. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở thôn Ương Nghệ, cùng với chúng

đại Tỳ-kheo năm trăm người câu hội.

Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

- Dân chúng

đều gọi các Thầy l

à Sa-môn, giả sử có ai hỏi các Thầy có phải Sa-môn ch

ăng th

ì các thầy cũng

đáp l

à Sa-môn. Nay Ta bảo càc Thầy về hạnh Sa-môn, sau ắt thành quả như thật không khác. Vì sao thế? Có hai hạng Sa-môn: tập hạnh Sa-môn, thệ nguyện Sa-môn.

Thế nào gọi là tập hạnh Sa-môn? Là Tỳ-kheo tới lui,

đi đứng, nh

ìn ngó, dung mạo,

đắp y mang bát, thảy đều đúng như pháp, không đắm trước v

ào tham dục, sân nhuế, ngu si, chỉ trì giới tinh tấn không phạm phi pháp, học tập các giới. Ðó là tập hạnh Sa-môn.

Thế nào gọi là thệ nguyện Sa-môn? Ở

đây, hoặc có Tỳ-kheo oai nghi giới luật, đi đứng ra v

ào, dung mạo, nhìn ngó, cử

động thảy đều như pháp, chấm dứt hữu lậu th

ành tựu vô lậu, ở trong hiện pháp tự thân chứng

đắc v

à

đi du hóa, sanh tử đ

ã tận, Phạm hạnh

đ

ã lập, việc phải làm

đ

ã làm xong, không thọ thân sau, mà biết như thật. Ðó là thệ nguyện Sa-môn.

Tỳ-kheo,

đó l

à hai hạng Sa-môn.

Tôn giả A-nan bạch Phật:

- Thế nào gọi là pháp hạnh Sa-môn, pháp hạnh Bà-la-môn?

Phật bảo A-nan:

- Ở

đây, Tỳ-kheo ăn uống biết vừa đủ,

ngày

đ

êm

đi kinh h

ành, tu tập các

đạo phẩm không để mất thời tiết. Thế n

ào gọi là Tỳ-kheo các c

ăn vắng lặng? Ở đây, Tỳ-kheo mắt thấy sắc không khởi tưởng đắm trước, không dấy các loạn niệm, trong ấy m

à nhãn c

ăn được thanh tịnh, trừ các niệm ác, không nghĩ nhớ pháp bất thiện, hoặc khi tai nghe tiếng, mũi ngửi m

ùi, lưỡi nếm vị, thân biết cảm giác, ý biết pháp không khởi tưởng

đắm trước, không dấy các loạn niệm, nơi ý căn được thanh tịnh. Như thế gọi l

à Tỳ-kheo sáu c

ăn được thanh tịnh.

Thế nào là Tỳ-kheo

ăn uống biết vừa đủ? Ở đây, Tỳ-kheo ăn uống vừa đủ lượng, không cầu mập, trắng, chỉ muốn thân n

ày sống mà thôi, trừ bệnh cũ, bệnh mới không sanh, chỉ muốn thân này sống mà thôi, trừ bệnh cũ, bệnh mới không sanh,

được tu Phạm hạnh. Cũng như người nam nữ, thân sanh ghẻ, t

ùy thời dùng thuốc thoa xức

điều trị, v

ì muốn vết thương lành. Nay Tỳ-kheo cũng lại như thế, lượng vào sức mà

ăn. Sở dĩ d

ùng dầu bôi vào xe vì muốn

đi xa, Tỳ-kheo ăn vừa đủ lượng l

à muốn duy trì mạng sống. Như thế gọi là Tỳ-kheo

ăn uống biết vừa đủ.

Thế nào là Tỳ-kheo thường biết tỉnh thức? Ở

đây, Tỳ-kheo v

ào

đầu đ

êm, giữa

đ

êm, cuối

đ

êm biết tỉnh thức, tư duy Ba mươi bảy

đạo phẩm; ng

ày thời kinh hành trừ bỏ niệm ác, các tưởng kiết sử, lại vào

đầu đ

êm, cuối

đ

êm kinh hành trừ bỏ kiết sử, các tưởng bất thiện, vào giữa

đ

êm nằm nghiêng hông bên mặt, hai chân duỗi xếp lên nhau, chỉ tưởng về ánh sáng, rồi vào cuối

đ

êm kinh hành tới lui, trừ bỏ niệm bất thiện. Như thế là Tỳ-kheo biết thời tỉnh thức.

Như thế, này A-nan! Ðây là hạnh cần yếu của Sa-môn.

Thế nào gọi là hạnh cần yếu của Bà-la-môn? Ở

đây, Tỳ-kheo Khổ đế biết như thật l

à Khổ

đế; Khổ tập, Khổ tận, Khổ xuất yếu, như thật biết như thế. Sau do mở được tâm dục lậu, tâm hữu lậu, tâm vô minh lậu nầy m

à

được giải thoát.

Ðã

được giải thoát liền được giải thoát tri kiến,

sanh tử

đ

ã tận, Phạm hạnh

đ

ã lập, việc phải làm

đ

ã xong, không thọ thân lại, mà biết như thật. Ðây là hạnh cần yếu của Bà-la-môn. A-nan nên biết! Ðây là ý nghĩa của hạnh cần yếu.

Bấy giờ, Thế Tôn bèn nói kệ:

Sa-môn tên tâm dứt,

Các ác vĩnh viễn tận,

Phạm chí tên thanh tịnh,

Trừ bỏ các loạn tưởng.

Thế nên A-nan! Nên ghi nhớ tu hành pháp hạnh của Sa-môn, pháp hạnh của Bà-la-môn. Chúng sanh nào làm các pháp này, sau mới xưng là Sa-môn.

Lại vì có gì gọi là Sa-môn? Vì các kết vĩnh viễn chấm dứt nên gọi là Sa-môn. Lại vì có gì gọi là Bà-la-môn? Trừ sạch các ngu hoặc nên gọi là Phạm chí, cũng gọi là Sát-lợi. Lại vì cớ gì gọi là Sát-lợi? Do

đoạn trừ dâm, nộ, si n

ên gọi là Sát-lợi; cũng gọi là tắm gội. Thế nào gọi là tắm gội? Do tẩy sạch hai mươi mốt kết nên gọi là tắm gội; cũng gọi là giác. Vì cớ gì gọi là giác? Do biết rõ pháp ngu, pháp tuệ nên gọi là giác; cũng gọi là bỉ ngạn. Vì cớ gì gọi là bỉ ngạn? Do từ bờ này

đến bờ kia n

ên gọi là bỉ ngạn.

Này A-nan! Hãy hành trì pháp này, sau mới gọi là Sa-môn, Bà-la-môn. Ðây là nghĩa như thế, nên ghi nhớ vâng làm.

Bấy giờ, A-nan nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

9. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở tại thành Thích-si Ca-tỳ-la việt vườn Ni-câu-lưu, cùng với chúng

đại Tỳ-kheo năm trăm người câu hội.

Bấy giờ, vương tử Ðề-bà-

đạt-đa đến chỗ Phật, cúi đầu lễ chân Phật, lui ngồi một b

ên, Ðề-bà-

đạt-đa bạch Phật:

- Cúi xin Thế Tôn cho con

được l

àm Sa-môn.

Phật bảo Ðề-bà-

đạt-đa:

- Ông nên ở tại gia làm việc bố thí, làm Sa-môn thật chẳng dễ.

Khi ấy, Ðề-bạt-

đạt-đa lại ba phen bạch Phật:

- Cúi xin Thế Tôn cho phép con theo Ngài.

Phật lại bảo:

- Ông nên ở nhà, không nên xuất gia tu hạnh Sa-môn.

Ðề-bà-

đạt-đa khởi nghĩ rằng: "Sa-môn n

ày có lòng tật

đố, nay ta có thể tự cạo tóc, tu Phạm hạnh, đâu cần Sa-môn ấy l

àm gì?" Ðề-bà-

đạt-đa liền lui về, tự cạo bỏ râu tóc, mặc

cà sa, tự xưng: "Ta là hàng Thích tử".

Bấy giờ, có một Tỳ-kheo tên Tu-la-

đ

à, hành hạnh

đầu đ

à, khất thực, mặc y vá, thông suốt ngũ thông. Ðề-bà-

đạt-đa liền đến chỗ Tỳ-kheo ấy, cúi đầu lễ dưới chân, bạch rằng:

- Cúi xin Tôn giả nói giáo pháp cho tôi khiến cho

được an ổn lâu d

ài.

Tỳ-kheo Tu-la-

đ

à liền nói pháp cho, các oai nghi lễ

độ, suy nghĩ về pháp n

ày, bỏ

điều n

ày

được điều n

ày. Khi ấy, Ðề-bà-

đạt-đa như lời Tỳ-kheo ấy dạy không để sai sót.

Ðề-bà-

đạt-đa lại bạch với Tỳ-kheo ấy rằng:

- Cúi xin Tôn giả dạy cho tôi về pháp thần túc, tôi có thể tu hành theo pháp ấy.

Bấy giờ, Tỳ-kheo lại dạy pháp thần túc cho ông:

- Nay Ông nên học về tâm ý khinh trọng,

đ

ã biết tam ý khinh trọng, lại nên phân biệt về tứ

đại địa,

thủy, hỏa, phong khinh trọng. Ðã biết

được tứ đại khinh trọng, lại n

ên tu hành về chánh

định tự tại.

Ðã thực hành chánh

định tự tại, lại n

ên tu chánh

định dũng m

ãnh. Ðã thực hành chánh

định dũng m

ãnh, lại nên tu về chánh

định tâm ý.

Ðã thực hành chánh

định tâm ý, lại n

ên hành chánh

định tự giới, đ

ã tu hành chánh

định tự giới, như thế không bao

lâu sẽ thành tựu thần túc.

Ðề-bà-

đạt-đa vâng lời Tỳ-kheo ấy dạy, tự biết về tâm ý khinh trọng, lại biết về tứ đại khinh trọng, tu hết các chánh định không sai sót; không bao lâu liền th

ành tựu

được thần

túc. Như thế, Ðề-bà-

đạt-đa có vô số phương tiện tiến hóa vô lượng. Bấy giờ danh tiếng

Ðề-bà-

đạt-đa lưu truyền lan xa bốn phương.

Khi ấy, Ðề-bà-

đạt-đa d

ùng sức thần túc bay lên cõi trời Ba mươi ba, hái các thứ hoa như hoa sen ưu-bát-la, hoa câu-mâu-

đầu, đem về dâng thái tử A-x

à-thế, và bảo:

- Hoa này từ cõi trời Ba mươi ba, Thích-

đề-ho

àn-nhân

đem đến tặng Thái tử.

Thái tử thấy Ðề-bà-

đạt-đa có thần túc như thế, liền t

ùy thời cúng dường, cung cấp vật cần dùng. Thái tử lại khởi nghĩ: "Ðề-bà-

đạt-đa

lại tự ẩn thân, biến thành

đứa bé ngồi tr

ên

đ

ùi gối thái tử. Các thể nữ

đều khởi nghĩ: "

Ðây là người gì? Là Quỷ ư? Là Trời ư?". Bàn tán chưa xong, Ðề-bà lại hóa thân trở lại như cũ. Khi

đó, thái tử v

à các cung nhân

đều khen rằng: "

Ðây là Ðề-bà-

đạt-đa", liền cung cấp vật cần d

ùng, lại truyền tụng lời này: "Ðề-bà-

đạt-đa danh đức không thể nói hết được".

Bấy giờ, nhiều Tỳ-kheo nghe

điều n

ày,

đến chỗ Thế Tôn, cúi đầu lễ Phật, bạch:

- Ðề-bà-

đạt-đa có thần túc rất lớn, thường nhận được y phục, thức ăn uống, giường nệm, thuốc men.

Phật bảo các Tỳ-kheo:

- Các Thầy chớ khởi ý niệm này, tham

đắm lợi dưỡng của

Ðề-bà-

đạt-đa; lại cũng đừng khen ngợi sức thần túc của ông ấy. Ông ấy do thần túc n

ày rơi trong ba

đường ác. Lợi dưỡng của

Ðề-bà-

đạt-đa, v

à thần túc của ông ấy sẽ chấm dứt. Vì sao thế? Ðề-bà sẽ tự tạo nghiệp thân, khẩu, ý.

Khi

đó,

Ðề-bà-

đạt-đa lại khởi nghĩ rằng: "Sa-môn C

ù-

đ

àm có thần túc, ta cũng có thần túc; Sa-môn Cù-

đ

àm có tri thức, ta cũng có tri thức; Sa-môn Cù-

đ

àm dòng họ cao quý, ta cũng dòng họ cao quý. Nếu Sa-môn Cù-

đ

àm hiện một thần túc, ta sẽ hiện hai; Sa-môn Cù-

đ

àm hiện hai, ta sẽ hiện bốn, kia hiện tám, ta hiện mười sáu; kia hiện mười sáu, ta hiện ba mươi hai; tùy theo sức hóa hiện của Sa-môn ấy, ta sẽ t

ăng gấp đôi".

Bấy giờ, nhiều Tỳ-kheo nghe Ðề-bà-

đạt-đa nói như vậy, hơn năm trăm Tỳ-kheo đến chỗ

Ðề-bà-

đạt-đa v

à n

ăm trăm Tỳ-kheo nhận sự cúng dường của thái tử A-xá-thế.

Khi ấy, hai Tôn giả Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên nói với nhau rằng: "Chúng ta cùng

đi đến

chỗ Ðề-bà-

đạt-đa, nghe ông ấy nói pháp, xem l

à luận thuyết gì", liền cùng

đi đến chỗ

Ðề-bà-

đạt-đa. Bấy giờ,

Ðề-bà-

đạt-đa xa thấy

Xá-lợi-phất, Mục-kiền-liên

đi đến, liền

bảo các Tỳ-kheo.

- Hai người này là

đệ tử của Tất-đạt, rất được khen ngợi.

Hai Tôn giả

đến rồi, c

ùng hỏi th

ăm, ngồi một b

ên. Bấy giờ các Tỳ-kheo

đều khởi nghĩ rằng: "

Ðệ tử của Phật Thích-ca, nay hướng hết về Ðề-bà-

đạt-đa".

Ðề-bà-

đạt-đa bảo Tôn giả Xá-lợi-

phất:

- Nay Thầy có thể thuyết pháp cho các Tỳ-kheo ch

ăng? Tôi đau lưng muốn nghỉ một chút.

Ðề-bà-

đạt-đa b

èn nằm nghiêng hông mặt, hai chân xếp lên nhau, do lòng vui mừng nên ngủ luôn. Bấy giờ, Xá-lợi-phất, Mục-kiền-liên thấy Ðề-bà-

đạt-đa ngủ, liền d

ùng thần túc

đem các vị Tỳ-kheo bay l

ên hư không mà

đi.

Khi Ðề-bà-

đạt-đa thức dậy, không thấy các Tỳ-kheo, rất giận dữ nói:

- Nếu ta không trả

được th

ù này thì không gọi là Ðề-bà-

đạt-đa.

Ðây là lần

đầu

Ðề-bà-

đạt-đa phạm tôi ngũ nghịch.

Ðề-bà-

đạt-đa vừa khởi ý ấy, liền bị mất thần túc.

Bấy giờ, nhiều Tỳ-kheo bạch Phật:

- Tỳ-kheo Ðề-bà-

đạt-đa có thần túc lớn mới có thể phá hoại Thánh chúng.

Phật bảo:

- Không phải chỉ hôm nay Ðề-bà-

đạt-đa mới phá hoại Thánh chúng.

Ðời quá khứ ông ta cũng thường phá hoại Thánh chúng. Vì sao thế? Về

đời quá khứ ông ta cũng phá hoại Thánh chúng.

Ðề-bà-

đạt-đa lại khởi ý ác: "Ta sẽ giết Sa-môn C

ù-

đ

àm

để l

àm Phật

độc tôn trong ba c

õi". Khi ấy, Ðề-bà-

đạt-đa nói với thái tử A-x

à-thế:

- Người xưa thọ mạng rất dài, ngày nay

đ

ã ngắn ngủi. Nếu như Thái tử chết, chắc lại sanh trong dân gian. Sao không giết phụ vương, rồi lên ngôi vua? Tôi sẽ giết Như Lai và sẽ làm Phật. Vua mới, Phật mới, cũng chẳng thích ư?

Bấy giờ, A-xà-thế bèn sai quân thị vệ bắt phụ vương giam vào ngục, tự lên làm vua cai trị nhân dân. Khi

đó, quần thần đều nói với nhau: "Người n

ày khi sanh ắt là oan gia". Nhân

đó đặt t

ên là A-xà-thế.

Ðề-bà-

đạt-đa thấy A-x

à-thế

đ

ã hại phụ vương xong, lại khởi nghĩ: "Ta sẽ hại Sa-môn Cù-

đ

àm".

Bấy giờ, Thế Tôn

đang ở tại một ngọn núi nhỏ cạnh núi Kỳ-x

à-quật, Ðề-bà-

đạt-đa leo l

ên núi Kỳ-xà-quật, tay vác một tảng

đá lớn d

ài ba mươi khuỷu tay, rộng n

ăm mươi khuỷu tay, ném v

ào Thế Tôn. Khi

đó, sơn thần, quỷ Kim-tỳ-la thường ở tại núi ấy, thấy

Ðề-bà-

đạt-đa vác đá

ném Phật, liền

đưa tay đỡ lấy đến

chỗ khác. Tảng

đá bể văng ra một mảnh nhỏ trúng chân Như Lai chảy máu. Thế Tôn thấy vậy nói với

Ðề-bà-

đạt

-

đa:

- Nay Ông khởi ý muốn hại Như Lai,

đây l

à tội ngũ nghịch thứ hai.

Ðề-bà-

đạt-đa tự nghĩ: "Nay ta không hại được Sa-môn C

ù-

đ

àm". Liền bỏ

đi, đến chỗ A-x

à-thế, tâu nhà vua rằng:

- Nên cho con voi uống rượu say, khiến hại Sa-môn. Vì sao? Con voi ấy hung dữ chắc có thể hại

được Sa-môn C

ù-

đ

àm. Nếu Sa-môn có Nhất thiết trí, ngày mai sẽ không vào thành khất thực; nếu không có Nhất thiết trí, ngày mai vào thành khất thực, ắt sẽ bị voi dữ này làm hại.

Khi ấy, vua A-xà-thế liền

đem rượu mạnh cho voi uống say, ra lệnh cho dân chúng: "Ai muốn an ổn, thương mạng m

ình, ngày mai

đừng đi lại trong th

ành".

Bấy giờ, Thế Tôn

đúng thời đắp y mang bát v

ào thành La-duyệt khất thực. Hàng tứ chúng nam nữ già trẻ trong nước nghe tin vua A-xà-thế cho voi uống rượu say muốn hại Thế Tôn,

đều c

ùng nhau

đi đến chỗ Phật, l

àm lễ dưới chân, và bạch Phật:

- Cúi xin Thế Tôn, chớ vào thành La-duyệt khất thực. Vì vua A-xà-thế phục rượu voi say muốn hại Thế Tôn.

Phật bảo các Ưu-bà-tắc:

- Phàm là bậc Ðẳng Chánh Giác trọn không bị người khác làm hại.

Thế Tôn tuy nghe như thế vẫn

đi v

ào thành. Voi dữ xa thấy Thế Tôn

đến,

sân giận bừng bừng chạy về phía Phật, muốn làm hại. Song, Phật thấy voi chạy

đến liền nói kệ:

Voi chớ hại

đến rồng,

Voi, rồng khó xuất,

Do không hại

đến rồng,

Ðược sanh vào cõi lành,

Voi kia nghe Như Lai nói kệ xong, liền

đến trước quỳ mọp, liếm chân Như Lai. Voi kia v

ì tâm hối quá không an, liền chết, sanh lên cõi trời Ba mươi ba. Vua A-xà-thế và Ðề-bà-

đạt-đa thấy voi đ

ã chết, buồn rầu không vui. Ðề-bà-

đạt-đa nói với vua:

- Sa-môn Cù-

đ

àm

đ

ã giết voi chết.

Vua

đáp:

- Sa-môn Cù-

đ

àm này có sức thần lớn, có nhiều kỹ thuật, mới có thể trù rủa voi chết.

Vua A-xà-thế lại nói:

- Sa-môn này chắc

đầy đủ oai đức mới không bị voi dữ l

àm hại.

Ðề-bà-

đạt-đa đáp:

- Sa-môn Cù-

đ

àm có chú thuật huyễn hoặc, có thể khiến ngoại

đạo dị học thảy đều h

àng phục, huống chi loài súc sanh.

Khi ấy, Ðề-bà-

đạt-đa b

èn suy nghĩ: "Ta thấy vua A-xà-thế ý muốn thay

đổi".

Ðề-bà-

đạt-đa lo buồn không vui, ra khỏi th

ành La-duyệt. Bấy giờ Tỳ-kheo-ni Pháp Thí xa thấy Ðề-bà-

đạt-đa đến, nói với

Ðề-bà-

đạt-đa:

- Nay

điều Ông l

àm rất sai quấy, hiện tại hối lỗi còn dễ, sợ sau khó.

Ðề-bà-

đạt-đa nghe nói, lại th

êm sân giận hỏi:

- Con ngốc! Ta có lỗi gì mà nay dễ, sau khó?

Tỳ-kheo-ni Pháp Thí

đáp:

- Nay Ông

đi chung với ác v

à tạo các

điều chẳng l

ành.

Bấy giờ, Ðề-bà-

đạt-đa sân giận bừng bừng, lấy tay đánh Tỳ-kheo-ni chết.

Ðề-bà-

đạt-đa đ

ã hại bậc Chân nhân, về

đến ph

òng mình bảo các

đệ tử:

- Các Ông nên biết! Nay ta khởi ý

đối với Sa-môn C

ù-

đ

àm, song việc ấy không nên. Vì A-la-hán lại khởi ý ác

đối với A-la-hán. Nay ta có thể hướng về C

ù-

đ

àm sám hối.

Do

đây

Ðề-bà-

đạt-đa lo buồn, bị bệnh nặng.

Ðề-bà-

đạt-đa bảo các đệ tử:

- Ta không

đủ sức đến gặp Sa-môn C

ù-

đ

àm. Các Ông nên giúp ta

đến chỗ Sa-môn.

Ðề-bà-

đạt-đa bôi thuốc độc v

ào mười

đầu ngón tay, bảo các đệ tử:

- Các Ông khiêng ta

đến chỗ Sa-môn ấy.

Bấy giờ, các

đệ tử liền khi

êng Ðề-bà-

đạt-đa đến chỗ Thế Tôn. Tôn giả A-nan xa thấy

Ðề-bà-

đạt-đa đến liền bạch Phật.

- Nay Ðề-bà-

đạt-đa đến, chắc có tâm hối hận muốn hướng về Thế Tôn cầu xin cải hối.

Phật bảo A-nan:

- Ðề-bà-

đạt-đa trọn không thể đến chỗ Thế Tôn.

A-nan ba phen bạch Phật:

- Nay Ðề-bà-

đạt-đa đ

ã muốn

đến xin hối lỗi.

Phật baỏ A-nan:

- Người ác ấy trọn không thể

đến chỗ Như Lai. Ng

ày nay mạng ông ấy

đ

ã hết.

Bấy giờ, Ðề-bà-

đạt-đa đến chỗ Thế Tôn, bảo các đệ tử:

- Nay ta không nên nằm ra mắt Như Lai, nên xuống võng mới

đến gặp.

Ðề-bà-

đạt-đa vừa bước chân xuống đất, bấy giờ tại nơi ấy nổi l

ên gió lửa mạnh,

đốt chân

Ðề-bà-

đạt-đa.

Ðề-bà-

đạt-đa bị lửa đốt, liền khởi tâm hối hận, ở chỗ Phật chính muốn xưng "Nam-mô Phật", song rốt cuộc không xưng được "Nam-mô Phật", b

èn vào

địa ngục.

A-nan thấy Ðề-bà-

đạt-đa rơi v

ào

địa ngục, bạch Phật:

- Nay Ðề-bà-

đạt-đa đ

ã chết, rơi trong

địa ngục chăng?

Phật bảo:

- Ðề-bà-

đạt-đa không được diệt tận đến chỗ cứu cánh. Nay ông ấy khởi tâm ác đối với thân Như Lai, khi chết đọa địa ngục A-tỳ.

A-nan buồn khóc rơi lệ không ngừng, Phật bảo A-nan:

- Vì sao Thầy buồn khóc như thế?

A-nan bạch Phật:

- Tâm dục ái của con chưa dứt, chưa thể

đoạn kết sử n

ên buồn khóc vậy.

Thế Tôn liền nói kệ:

Như người tự gây tạo,

Tự xem lại gốc ngọn,

Người lành thọ báo lành,

Kẻ ác chịu ương lụy.

Người

đời l

àm hạnh ác,

Chết bị khổ

địa ngục,

Nếu lại làm hạnh lành,

Chuyển thân thọ phước trời.

Kia tự gây hạnh ác,

Tự rơi vào

địa ngục,

Không phải lỗi của Phật.

Nay vì sao Thầy buồn?

A-nan bạch Phật:

- Ðề-bà-

đạt-đa chết, thân sanh chỗ n

ào?

Phật bảo A-nan:

- Nay Ðề-bà-

đạt-đa chết, thân rơi v

ào

địa ngục A-tỳ. V

ì sao? Do kia tạo tội ngũ nghịch nên cảm báo này.

A-nan lại bạch Phật:

- Ðúng thế, thưa Thế Tôn! Như lời dạy của Thế Tôn, tự thân làm ác hiện thân vào

địa ngục. V

ì thế con buồn khóc vậy. Do Ðề-bà-

đạt-đa không quý tiếc danh xưng, d

òng họ, cũng không nể cha mẹ tôn trưởng, làm nhục dòng họ Thích, hủy hoại gia thế chúng ta.

Ðề-ba-

đạt-đa hiện thân v

ào

địa ngục thực không đúng. V

ì sao? Dòng họ chúng ta phát xuất từ

địa vị Chuyển luân Thánh vương,

Ðề-bà-

đạt-đa cũng xuất phát từ d

òng vua, không nên hiện thân vào

địa ngục như thế.

Ðề-bà-

đạt-đa n

ên hiện thân chấm dứt hữu lậu thành vô lậu, tâm giải thoát, tuệ giải thoát, nơi hiện thân này

được chứng

quả Sanh tử

đ

ã tận, Phạm hạnh

đ

ã lập, việc phải làm

đ

ã làm xong, không thọ thân sau, như thật mà biết. Tập theo dấu của chân nhân,

đắc A-la-hán, nơi Vô dư Niết-b

àn mà nhập Niết-bàn; vì sao mang thân này vào

địa

ngục? Ðề-bà-

đạt-đa khi c

òn sống có oai thần lớn, rất có thần

đức, có thể l

ên cõi trời Ba mươi ba biến hóa tự do. Người như thế lại rơi vào

địa ngục ư? Bạch Thế Tôn! Chẳng biết

Ðề-bà-

đạt-đa ở địa ngục trải qua bao nhi

êu n

ăm?

Phật bảo A-nan:

- Ông ấy ở

địa ngục một kiếp.

A-nan lại bạch Phật:

- Kiếp có hai loại,

đại kiếp v

à tiểu kiếp. Ông ấy ở kiếp nào?

Phật bảo:

- Kiếp của ông ấy sẽ trải qua một

đại kiếp. Nói đại kiếp tức hết số kiếp của Hiền kiếp n

ày. Hết nghiệp, mạng chung trở lại thân người.

A-nan bạch Phật:

- Ðề-bà-

đạt-đa mất thân Người mới trở lại. V

ì sao? Kiếp số dài lâu,

đại kiếp không quá Hiền kiếp.

A-nan càng thêm buồn khóc than thở không vui, lại bạch Phật:

- Ðề-bà-

đạt-đa từ địa ngục ra, sẽ sanh về chỗ n

ào?

Phật bảo A-nan:

- Ðề-bà-

đạt

-da mạng chung nơi ấy, sẽ sanh lên cõi Tứ thiên vương.

A-nan lại hỏi:

- Ở

đó mạng chung sẽ sanh về đâu?

Phật bảo:

- Ở

đó mạng chung, lần lượt sẽ sanh l

ên trời Ba mươi ba, trời Diệm-ma, trời Ðâu-suất, trời Hóa tự tại, trời Tha hóa tự tại.

A-nan lại hỏi:

- Ở nơi ấy mạng chung, sẽ sanh về

đâu?

Phật bảo:

- Khi Ðề-bà-

đạt-đa từ địa ngục mạng chung, sanh l

ên các cõi Trời lành trải qua trong sáu mươi kiếp không rơi vào ba

đường ác, qua lại trong c

õi Trời, Người. Thân rốt sau, ông ta sẽ cạo râu tóc, mặc ba pháp y, do lòng tin kiên cố xuất gia học

đạo, th

ành vị Bích-chi Phật hiệu là Nam-mô.

Bấy giờ, A-nan

đến trước bạch Phật:

- Như thế, bạch Thế Tôn! Ðề-bà-

đạt-đa do ác báo n

ên chịu tội ở

địa ngục, lại tạo đức g

ì mà trong sáu mươi kiếp trải qua sanh tử, không bị khổ não, sau lại thành vị Bích-chi Phật, hiệu là Nam-mô.

Phật bảo A-nan:

- Phước sanh ý lành trong khoảng giây lát, phước ấy khó thí dụ. Hà huống Ðề-bà-

đạt-đa thông suốt cổ kim, tụng tập nhiều, giữ g

ìn các pháp,

điều đ

ã nghe không quên. Xưa Ðề-bà-

đạt-đa do oán th

ù mà khởi tâm sát hại

đối với Như Lai. Lại do duy

ên báo xưa nên ông ta có tâm vui vẻ với Như Lai, do nhân duyên này trong sáu mươi kiếp không rơi trong ba

đường ác. Lại do

Ðề-bà-

đạt-đa, v

ào lúc cuối khi mạng chung, khởi tâm hòa vui xưng Nam-mô, nên sau làm vị Phật Bích-chi hiệu Nam-mô.

Bấy giờ, A-nan liền

đến trước lễ Phật, thưa rằng:

- Thưa vâng, bạch thế tôn! Như lời dạy của Phật.

Khi ấy, Tôn giả Ðại-mục-kiền-liên

đến trước Phật bạch:

- Bây giờ con muốn xuống

địa ngục A-tỳ, nói về yếu hạnh nhẫn nhục, hoan hỷ cho

Ðề-bà-

đạt-đa.

Phật bảo Mục-liên:

- Thầy nên biết, chớ vội vàng hung bạo, chuyên tâm chánh ý chớ khởi loạn tưởng. Vì sao? Hạng chúng sanh cực ác khó

điều phục, khó th

ành tựu, vậy sau mới

đọa v

ào

địa ngục A-tỳ.

Lại, tội nhơn kia không hiểu âm thanh

đối đáp qua lại của c

õi Người.

Mục-liên bạch Phật:

- Nay con hiểu

được sáu mươi bốn âm thanh, thông suốt ngôn ngữ, con sẽ d

ùng âm thanh ấy nói với ông ấy.

Phật bảo Mục-liên:

- Thầy nên biết

đúng thời.

Khi ấy, A-nan nghe như vầy, vui mừng phấn khởi không thể tự kềm.

Đại-

mục-kiền-liên lễ chân Phật, nhiễu quanh ba vòng, liền ở trước chỗ Phật, sang

địa ngục A-tỳ nhanh như trong khoảng lực sĩ duỗi tay. Bấy giờ,

Ðại Mục-liên

đang ở địa ngục A-tỳ đứng tr

ên không khảy móng tay kêu:

- Ðề-bà-

đạt-đa!

Ðề-bà-

đạt-đa im lặng không đáp. Các ngục tốt hỏi Mục-li

ên:

- Nay Tôn giả gọi Ðề-bà-

đạt-đa n

ào?

Ngục tốt lại bảo:

- Trong

đây cũng có

Ðề-bà-

đạt-đa thời Phật

Câu-lưu-tôn, Ðề-bà-

đạt-đa thời Phật Câu-na-h

àm-mâu-ni, Ðề-bà-

đạt-đa thời Phật Ca-diếp, cũng có

Ðề-bà-

đạt-đa cư sĩ,

Ðề-bà-

đạt-đa xuất gia. Nay Tôn giả muốn gọi

Ðề-bà-

đạt-đa n

ào?

Mục-liên

đáp:

- Nay ta muốn mời Ðề-bà-

đạt-đa em con nh

à chú của Phật Thích-ca V

ăn, n

ên cần

được gặp.

Khi

đó, ngục tốt tay cầm xích sắt, đốt lửa đổ chích v

ào thân Ðề-bà-

đạt-đa để tỉnh giấc. Thân thế

Ðề-bà-

đạt-đa bị

lửa

đốt cháy cao ba mươi khuỷu tay. Các ngục tốt bảo:

- Ông là kẻ ngu, ngủ gì như thế!

Ðề-bà-

đạt-đa bị các khổ bức bách, thưa rằng:

- Nay các Ông dạy bảo tôi

điều g

ì?

Ngục tốt lại bảo:

- Ông hãy nhìn lên không trung!

Ðề-bà-

đạt-đa theo lời ngước nh

ìn hư không, thấy Ðạ Mục-kiền-liên ngồi kiết-già trên hoa sen báu, rực rỡ như mặt trời vén mây, Ðề-bà-

đạt-đa thấy rồi b

èn nói kệ:

Ai hiện hào quang trời,

Như mặt trời vén mây,

Cũng như núi vàng chói.

Không có bụi nhơ nhớp?

Tôn giả Mục-liên dùng kệ

đáp:

Ta,

đệ tử Thích-ca,

Thuộc dòng dõi Cù-

đ

àm,

Là Thanh v

ăn trong ấy,

Tên là Ðại Mục-liên.

Ðề-bà-

đạt-đa thưa với Mục-li

ên:

- Tôn giả Mục-liên! Cớ gì hạ cố

đến nơi n

ày? Nơi

đây chúng sanh tạo ác, sau khi mệnh chung sanh v

ào nơi này.

Mục-liên

đáp:

- Tôi do Phật sai nên

đến đây, muốn thương xót nhổ sạch gốc khổ cho Ông.

Bấy giờ, Ðề-ba-

đạt-đa nghe âm hưởng Phật, vui mừng phấn khởi không thể tự kềm, nói rằng:

- Cúi xin Tôn giả,

đúng thời diễn nói.

Ðức Thế Tôn có lời dạy gì? Lại nói

đến đường ác chăng?

Mục-liên

đáp:

- Ðề-bà-

đạt-đa chớ lo sợ, địa ngục khổ nhất không hơn chốn n

ày. Ðức Phật Thích-ca Chí Chơn Ðẳng Chánh Giác, thương xót tất cả các loài cho

đến côn tr

ùng nhỏ nhít, như mẹ thương con, tâm không sai biệt, tùy thời

điểm

nói trọn không

để mất, cũng không trái với điều đ

ã nói.

Nay chính từ miệng Phật dự ký. Ông vốn khởi niệm ác muốn hại Thế Tôn, lại

đem việc ấy dạy người khiến hướng về đường ác; do nhân duy

ên tội báo ấy

đọa v

ào

địa ngục A-tỳ, sẽ trải qua một kiếp trọn không ra khỏi. Kiếp số ấy hết nghiệp tận mạng chung, sẽ sanh l

ên cõi trời Tứ thiên vương, lần lượt sanh lên cõi trời Ba mươi ba, trời Diệm-ma, trời Ðâu-suất, trời Hóa tự tại, trời Tha hóa tự tại trong sáu mươi kiếp không ở trong con

đường ác, lưu chuyển chốn Trời, Người. Thân cuối c

ùng

được l

àm người, cạo bỏ râu tóc mặc ba pháp y, do lòng tin kiên cố xuất gia học

đạo, sẽ th

ành Bích-chi Phật hiệu Nam-mô. Vì sao thế? Do khi Ông sắp chết, xưng "Nam-mô" nên

được danh hiệu ấy. Nay đức Như Lai quán sát lời nói l

ành "Nam-mô" nên Ông

được danh hiệu đó, trong

sáu mươi kiếp làm Bích-chi Phật.

Bấy giờ, Ðề-bà-

đạt-đa nghe xong vui mừng hớn hở, tâm l

ành phát sanh, lại bạch với Mục-liên:

- Lời nói của Như Lai quả nhiên không nghi, thương xót chúng sanh mà cứu tế vô lượng,

đại từ đại bi hóa độ kẻ ngu. D

ù cho ngày nay tôi nghiêng hông bên mặt trong

địa ngục A-tỳ trải qua một kiếp, tâm ý vẫn chuy

ên nhất, trọn không mệt nhọc.

Tôn giả Mục-liên lại bảo Ðề-bà-

đạt-đa:

- Thế nào, sự

đau đớn của Ông nay có tăng giảm g

ì không?

Ðề-bà-

đạt-đa nói:

- Thân tôi chịu khổ chỉ t

ăng chớ không giảm, nay được nghe Như Lai thọ ký danh hiệu, nỗi khổ giảm bớt không thể nói hết.

Mục-liên hỏi:

- Nay hoạn nạn của Ông, nguyên lai

đau khổ giống như thế n

ào?

Ðề-bà-

đạt-đa đáp:

- Bánh xe sắt nóng nghiền nát thân hình, lại có chày sắt

đập nát thân thể, có voi đen dữ d

ày

đạp thân tôi, lại có núi lửa đến dằn tr

ên mặt tôi, Cà-sa ngày trước hóa làm lá

đồng nóng quấn thân, nguy

ên lai

đau khổ t

ình trạng như thế.

Mục-liên bảo:

- Ông có tự biết cội gốc tội báo, khiến chịu

đau khổ chăng? Nay tôi phân biệt từng tội một, Ông muốn nghe chăng?

Ðề-bà-

đạt-đa thưa:

- Xin vâng,

đúng thời xin nói.

Tôn giả Mục-liên bèn nói kệ:

Xưa Ông ở chỗ Phật,

Phá hoại Tỳ-kheo T

ăng,

Nay có chày sắt nóng,

Ðập quết trên thân Ông.

Vì hàng

đại chúng kia,

Là Thanh v

ăn

bậc nhất,

Gây rối chúng Tỳ-kheo,

Nay có xe nóng nghiền.

Xưa Ông bảo vua thả,

Voi

đen uống rượu say,

Nay có bầy voi

đen,

Chà

đạp tr

ên thân mình.

Xưa ông vác

đá lớn,

Xa ném

đến Như Lai,

Nay quả báo núi lửa,

Ðốt Ông không chừa sót,

Xưa Ông dùng nắm tay,

Giết chết Tỳ-kheo-ni,

Nay bị lá

đồng nóng,

Cuốn cháy không duỗi

được.

Hành báo trọn không mất,

Cũng chẳng phải rỗng không,

Cho nên phải siêng n

ăng,

Lìa các nguồn ác này.

Ðề-bà-

đạt-đa! Ông vốn tạo cội gốc chính l

à các

điều n

ày, nên nhất tâm hướng về Phật,

được phước lâu d

ài.

Bấy giờ, Ðề-bà-

đạt-đa lại bạch với Mục-li

ên:

- Nay xin nhờ Tôn giả Mục-liên cúi

đầu lễ chân Thế Tôn, kính thăm Thế Tôn ngồi đứng khinh an, dạo đi mạnh mẽ tôi cũng lại lễ bái Tôn giả A-nan.

Tôn già Ðại-mục-kiền-liên phóng

đại thần túc, khiến các khổ n

ão trong

địa ngục A-tỳ dừng lại, lại nói kệ n

ày:

Ðều xưng Nam-mô Phật,

Bậc họ Thích tối thắng,

Vị ấy ban an ổn,

Dẹp trừ các khổ não.

Bấy giờ, chúng sanh trong

địa ngục A-tỳ nghe Tôn giả Mục-li

ên nói kệ này rồi, hơn sáu vạn người

được dứt quả báo khổ, liền mạng chung nơi ấy, sanh l

ên trời Tứ Thiên vương.

Tôn giả Mục-liên liền thâu thần túc, trở về tinh xá

đến chỗ Thế Tôn, lễ chân Phật, đứng một b

ên Tôn giả bạch Phật rằng:

- Ðề-bà-

đạt-đa cung kính vô lượng,

th

ăm

hỏi Thế Tôn ngồi

đứng khinh an, dạo đi mạnh mẽ. Cũng lại hỏi thăm A-nan, v

à nói thế này: "Như Lai thọ ký cho trong sáu mươi kiếp, thành Bích-chi Phật hiệu Nam-mô, dù cho tôi nằm nghiêng hông mặt trong

địa ngục A-tỳ, vẫn trọn không mệt nhọc."

Bấy giờ Phật nói:

- Lành thay,lành thay! Mục-liên, Thầy làm nhiều lợi ích, nhiều sự thấm nhuần, thương tưởng loài ngu tối, Trời Người

được an lạc, khiến cho h

àng Thanh v

ăn của Như Lai dần đến Niết-b

àn.

Thế nên! Mục-liên! Nên siêng n

ăng th

ành tựu ba pháp. Vì sao thế? Nếu Ðề-bà-

đạt-đa tu pháp l

ành về thân ba, miệng bốn, ý ba, ông ấy trọn

đời không tham lợi dưỡng, cũng không tạo tội ngũ nghịch m

à bị vào

địa ngục A-tỳ. V

ì sao? Phàm người tham lợi dưỡng, cũng không có tâm cung kính

đối với Tam bảo, cũng không vâng giữ giới cấm, không đầy

đủ về thân, khẩu, ý h

ành. Nên chuyên chú nhớ nghĩ về thân, khẩu, ý hành. Như thế, Mục-liên, nên học

điều n

ày!

Bấy giờ, Tôn giả Mục-liên nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

10. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở tại nước Xá-vệ, rừng Kỳ-

đ

à, vườn Cấp cô Ðộc.

Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

- Nếu có chúng sanh tu hành tâm từ giải thoát, lưu truyền rộng nghĩa ấy, vì người diễn nói, sẽ

được mười một quả báo. Thế n

ào là mười một? Ngủ an ổn, thức an ổn, không chiêm bao dữ, Trời ủng hộ, Người thương mến, không có

độc hại, không bị binh đao, nước, lửa, đạo tặc không xâm tổn, khi chết sanh l

ên trời Phạm thiên. Ðó gọi là Tỳ-kheo hay thực hành tâm từ

được mười một phước n

ày.

Thế Tôn liền nói kệ này:

Nếu người hành lòng từ,

Không có hạnh phóng dật,

Các kết dần dần mỏng,

Dần thấy dấu vết

đạo.

Do hay hành lòng từ,

Sẽ sanh lên Phạm thiên,

Ðược diệt

độ mau chóng,

Hằng

đến chỗ vô vi.

Không sát, không tâm hại,

Cũng không ý hơn thua,

Lòng từ trùm tất cả,

Trọn không tâm oán hận.

Thế nên, Tỳ-kheo nên tìm phương tiện thực hành lòng từ, lưu truyền rộng nghĩa ấy. Như thế, này các Tỳ-kheo, nên học

điều n

ày!

Bấy giờ, các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

L. Phẩm Lễ Tam bảo

1. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-

đ

à, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

- Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhơn muốn lễ bái chùa tháp Như Lai, nên thực hành mười một pháp lễ chùa Phật. Thế nào là mười một? Hưng khởi tâm dõng mãnh vì có thể kham; ý không tán loạn vì thường nhất tâm; ... vì ghi nhớ chuyên tâm các pháp Chỉ quán; các niệm hằng dứt vì nhập chánh

định; ý biết vô lượng v

ì có trí tuệ; ý khó quán sát do hình tướng Như Lai; ý vắng lặng trạm nhiên vì oai nghi Như Lai; ý không chạy nhảy vì danh xưng Như Lai; ý không tưởng tượng do sắc tướng Như Lai; Phạm âm khó bì kịp do âm hưởng nhu nhuyến.

Các Tỳ-kheo! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhơn muốn lễ bái chùa tháp Như Lai,

đầy

đủ mười một pháp n

ày. Lễ chùa tháp của Như Lai thì

được phước lâu d

ài vô lượng. Như thế, này các Tỳ-kheo, nên học

điều n

ày!

Bấy giờ, các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

2. Tôi nghe như vầy:

Một thời Xá-vệ, rừng Kỳ-

đ

à, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

- Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhơn muốn làm lễ pháp thì nên ghi nhớ mười một việc sau hãy lễ pháp. Thế nào là mười một pháp? Có kiêu mạn nên trừ kiêu mạn; Chánh pháp ở cõi dục mà trừ tưởng khát ái; Chánh pháp ở cõi dục mà trừ dục; Chánh pháp hay

đoạn dứt d

òng sanh tử thâm sâu; hành Chánh pháp

được pháp b

ình

đẳng; Chánh pháp đoạn dứt các đường ác; theo Chánh pháp n

ày

được đến chỗ l

ành; Chánh pháp hay

đoạn dứt lưới ái; người h

ành Chánh pháp từ hữu vi

đến vô vi; người h

ành Chánh pháp chiếu sáng khắp nơi; người hành Chánh pháp

đến Niết-b

àn.

Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhơn muốn làm lễ pháp, nên tư duy về mười một pháp này, sau

được phước vô lượng, phước không hạn lượng m

ãi mãi. Như thế, này các Tỳ-kheo, nên học

điều n

ày!

Bấy giờ, các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

3. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-

đ

à, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

- Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhơn tu hành lễ chúng T

ăng, n

ên suy nghĩ mười một pháp, sau mới lễ chúng T

ăng. Thế n

ào là mười một? Chúng của Như Lai thành tựu Chánh pháp; Thánh chúng của Như Lai trên dưới hòa hợp; Thánh chúng của Như Lai thành tựu các pháp; Thánh chúng của Như Lai thành tựu giới; thành tựu chánh

định; th

ành tựu trí tuệ; thành tựu tuệ giải thoát; thành tựu giải thoát tri kiến; Thánh chúng của Như Lai hay hộ trì Tam Bảo; Thánh chúng của Như Lai hay hàng phục ngoại

đạo dị học; Thánh chúng của Như Lai l

à bạn tốt, ruộng phước cho tất cả chúng sanh.

Thiện nam tử, thiện nữ nhơn muốn lễ chúng T

ăng, n

ên tư duy về mười một pháp này,

được phước lâu d

ài vô lượng. Như thế, này các Tỳ-kheo, nên học

điều n

ày!

Bấy giờ các hàng Tỳ-kheo, Trời, Rồng, Quỷ Thần, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lầu-la, Khẩu-na-la, Ma-hầu-la-già, Trời Ma-hưu-lặc và Người nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

4. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở nước Ma-kiệt, thành Mật-

đề-la cư ngụ phía

Ðông vườn Ðại thiên, cùng với chúng

đại Tỳ-kheo một ng

àn hai tr

ăm năm mươi người câu hội.

Khi ấy, Thế Tôn sau khi thọ thực cùng với Tôn-giả A-nan

đi kinh h

ành trong vườn. Phật mỉm cười, A-nan nghĩ thầm: "Như Lai Vô Sở Trước Ðẳng Chánh Giác không cười suông. Nay cớ gì cười? Ắt phải có ý, Ta sẽ hỏi

điều n

ày". A-nan chỉnh

đốn y phục, quỳ gối mặt chấm đất, chắp tay hỏi Phật:

- Như Lai Vô sở Trước Ðẳng Chánh Giác không cười suông. Nay cớ gì cười? Ắt phải có ý, xin

được nghe ý đó.

Phật bảo A-nan:

- Ta sẽ vì Thầy nói. Về Hiền kiếp

đ

ã qua, ban

đầu ở đây có một vị Chuyển luân Thánh vương l

àm chủ bốn châu thiên hạ tên là Ðại thiên, sống lâu không bệnh,

đoan chánh d

õng mãnh, dùng Chánh pháp cai trị, không ép uổng nhân dân, có bảy báu tự nhiên xuất hiện. Những gì là bảy? Một là xe báu, hai là voi báu, ba là ngựa báu, bốn là châu báu, n

ăm l

à ngọc nữ báu, sáu là chủ tạng báu, bảy là

điển binh báu.

Phật bảo A-nan:

- Khi vua Ðại Thiên còn thơ ấu, thời gian ấy tám vạn bốn ngàn n

ăm, l

àm Thái tử tám vạn bốn ngàn n

ăm, l

ên ngôi Thánh vương tám vạn bốn ngàn n

ăm, l

ên ngôi Thánh vương tám vạn bốn ngàn n

ăm.

A-nan bạch Phật:

- Thế nào là xe báu?

Phật bảo A-nan:

- Vào ngày rằm tr

ăng tr

òn, vua tắm gội sạch sẽ, cùng thể nữ lên lầu phía Ðông, nhìn hướng Ðông. Có xe nghìn c

ăm v

àng, xe cao bảy

đa-la, bảy nhẫn l

à một

đa-la.

Ða-la là cây

độc di

ên, dùng cây này làm hạn lượng, toàn bằng vàng tử ma. Vua thấy xe rồi, nghĩ rằng: "Xe này là xe quý, xin nguyện bắt

được". Nghĩ xong,

xe liền

đến b

ên tay trái vua, rồi chuyển qua tay mặt. Vua bảo xe ấy:

- "Những nước chưa từng hành phục, hãy vì ta hành phục, chẳng phải

đất của ta, h

ãy vì ta thâu nhận, hãy

đúng pháp không n

ên phi pháp".

Nói xong, xe trở lên hư không, trục xe xoay về hướng Ðông.

Nhà vua sai tả hữu chuẩn bị

đủ bốn binh

chúng, binh

đ

ã

đủ liền đưa binh

chúng theo xe trên không. Xe dẫn sang phương Ðông, qua hết các cõi nước phía Ðông. Ban

đ

êm, vua và binh chúng ngủ dưới xe báu. Các tiểu vương nước phía Ðông

đều đến triều kiến, d

ùng bát vàng

đựng thóc bạc tiến dâng vua, thưa rằng:

- "Kính chào Ðại vương! Bờ cõi Ðông này, tất cả

đất đai, trân bảo, nhân dân đều l

à của Ðại vương. Xin dừng xa giá tại

đây, chúng tôi sẽ vâng theo

Ðại vương dạy".

Vua Ðại Thiên bảo các tiểu vương:

- "Các Ông muốn theo lời dạy của ta thì mỗi người nên trở về nước mình dùng Thập thiện dạy dân, chớ làm ngang bướng."

Vua khuyên dạy xong, xe báu liền ở trên biển, quay lại nương hư không mà

đi. Trong biển tự nhi

ên mở

đường rộng một do-di

ên, vua và bốn bộ binh chủng theo xe báu như trước,

đi qua c

õi phương Nam. Các tiểu vương phương Nam cũng

đến triều kiến, đều d

ùng bát vàng

đựng thóc bạc, bát bạc đựng thóc v

àng, dâng lên nhà vua, thưa rằng:

- "Kính chào Ðại vương! Cõi nước phương Nam này cùng trân bảo, nhân dân

đều l

à của Ðại vương. Xin dừng xa giá ở

đây, chúng tôi sẽ vâng theo lệnh

Ðại vương".

Vua Ðại Thiên bảo các tiểu vương:

- "Các Ông muốn theo lệnh ta thì mỗi người nên trở về nước mình,

đem Thập thiện dạy dân, chớ l

àm việc phi pháp".

Vua khuyên dạy xong, xe báu quay sang hướng Tây, dẫn

đi về c

õi phía Tây. Các vua nước phía Tây cống hiến, thỉnh mời như ở phương Nam. Xong, xe báu quay sang hướng Bắc, dẫn

đi qua bờ c

õi phía Bắc. Các vua phía Bắc cũng

đến triều

kiến, nạp cống và cầu thỉnh như các pháp trước.

Ði bốn ngày hết bốn biển Diêm-phù-

đề, trở về th

ành Mật-

để-la, xe dừng trước cửa cung, ở tr

ên hư không cao bảy cây

đa-la, v

ành xe hướng về phía Ðông, vua liền vào cung.

Phật bảo A-nan:

- Vua Ðại thiên

được xe báu như thế.

A-nan lại hỏi

đức Phật:

- Vua Ðại Thiên

được voi báu như thế n

ào?

Phật

đáp:

- Sau

đó, vua

Ðại Thiên lại

đến ng

ày rằm tr

ăng tr

òn, tắm gội sạch sẽ, cùng các thể nữ lên lầu phía Ðông, nhìn về hướng Ðông, thấy trong hư không có một voi chúa màu trắng tên Mãn Hô, từ hư không

đến, thân h

ình

đều đặn, miệng có sáu ng

à, mũ vàng

đội đầu, dây v

àng, anh lạc, chơn châu kết vòng quanh thân, hai bên hông

đeo chuông v

àng. Voi có sức thần, biến hình tự tại. Vua Ðại thiên thấy rồi, tự nghĩ rằng: "Ta có thể

được voi b

àu này ch

ăng? Ta sẽ khiến voi l

àm việc". Nghĩ xong, voi liền

đứng tr

ên hư không trước vua. Vua bèn sai làm n

ăm việc, lại nghĩ: "N

ên thử xem voi này có thể làm

được chăng?" Ng

ày mai, mặt trời lên, vua cỡi voi dạo khắp bốn biển, trong khoảnh khắc về lại chỗ cũ,

đứng trước cửa cung, hướng về phía

Ðông.

A-nan! Vua Ðại thiên

được voi báu như thế.

A-nan hỏi Phật:

- Vua Ðại thiên

được ngựa báu như thế n

ào?

Phật bảo:

- Sau

đó, đến ng

ày rằm tr

ăng tr

òn, vua Ðại Thiên tắm gội sạch sẽ, cùng các thể nữ lên lầu Tây, nhìn về phía Tây, thấy có một ngựa chúa màu xanh tên là Bà-la-xá từ hư không bay

đến, đi không động thân, đầu đội m

ão vàng, các báu anh lạc, chơn châu kết quanh thân, hai bên hông

đeo chuông v

àng. Ngựa chúa có sức thần, biến hình tự tại. Vua Ðại Thiên thấy rồi, tự nghĩ: "Ta có thể

được ngựa n

ày cỡi rất tốt". Vua nghĩ xong, ngựa

đến trước nh

à vua, vua liền cỡi ngựa muốn thử tài

đó. Ng

ày mai, mặt trời lên, vua cỡi ngựa

đi về phía

Ðông, trong khoảnh khắc dạo khắp bốn bể, rồi trở về nước. Ngựa

đứng ở cửa cung phía Tây, hướng về Tây.

A-nan! Vua Ðại Thiên

được ngựa

báu như thế.

A-nan hỏi Phật:

- Vua Ðại thiên

được châu báu như thế n

ào?

Phật

đáp:

- Sau

đó, đến ng

ày rằm tr

ăng tr

òn, vua Ðại Thiên tắm gội sạch sẽ, cùng các thể nữ lên lầu phía Ðông, nhìn về phương Ðông, thấy có hạt thần châu. Thần châu to tròn một thước sáu tấc, có tám mặt, màu xanh lưu ly, từ hư không bay

đến, cao bảy cây đa-la. Vua thấy rồi, tự nghĩ: "

Ðược thần châu này

để ngắm". Vua như ý nghĩ m

à

được thần châu. Vua muốn

thử, vào nửa

đ

êm tập hợp bốn binh chủng,

đem thần châu treo ở đầu cột phướn, ra khỏi th

ành dạo

đi. Hạt thần châu chiếu sáng các nơi mười hai do-di

ên, binh chủng thấy nhau như ban ngày, ánh sáng của thần châu chiếu

đến đâu, nhân dân kinh ngạc thức dậy, đều nói trời sáng. Nh

à vua về cung, dựng cây phướn trong cung, trong ngoài

đều sáng như ban ng

ày.

A-nan! Vua Ðại thiên

được châu báu như thế.

A-nan bạch Phật:

- Vua Ðại thiên

được ngọc nữ báu như thế n

ào?

Phật bảo A-nan:

- Nhà vua

đến ng

ày rằm tr

ăng tr

òn, tắm gội sạch sẽ, cùng các thể nữ lên lầu Ðông, nhìn về hướng Ðông, thấy bảo nữ không ai bì, nghiêm trang thù diệu, không cao không thấp, không mập không ốm, không trắng không

đen, m

ùa

đông thân ấm, m

ùa hạ thân mát, từ lỗ chân lông tiết ra mùi hương chiên-

đ

àn, miệng có mùi thơm hoa sen xanh, cũng không có các trạng thái xấu ác của người nữ, tánh tình ôn hòa, ý tùy thuận trước, từ hư không

đến chỗ vua.

A-nan! Vua Ðại Thiên

được ngọc nữ báu như thế.

A-nan bạch Phật:

- Vua Ðại Thiên

được chủ

tạng báu như thế nào?

Phật

đáp:

- Vua Ðại thiên

đến ng

ày rằm tr

ăng tr

òn, tắm gội sạch sẽ, cùng các thể nữ lên lầu phía Bắc, nhìn về hướng Bắc, thấy

đại thần chủ

tạng tên A-la-tra-chi, tướng

đoan chánh th

ù diệu, không cao không thấp, không mập không gầy, thân sắc vàng, tóc màu xanh, mắt

đen trắng phân minh. Chủ tạng lại có thể thấy được các kho bảy báu nằm dưới đất, có chủ th

ì giữ gìn, không chủ trì

đem dâng vua sử dụng, thông minh trí tuệ, giỏi các mưu

lược.

Đại

thần từ hư không bay

đến trước vua, tâu rằng:

- "Từ này về sau, nhà vua có thể tự vui thích chớ lo buồn. Tôi sẽ cung cấp tài bảo cho Ðại vương không

để thiếu".

Vua muốn thử

đại thần chủ tạng, b

èn cùng dong thuyền ra biển. Vua bảo:

- "Ta muốn

được v

àng bạc châu báu".

Tạng thần tâu:

- "Xin trở lại bờ, hạ thần sẽ dâng tài bảo".

Vua nói:

- "Ta muốn

được chân báu dưới nước, không cần tr

ên bờ".

Thần chủ tạng bèn

đứng dậy sửa y phục, quỳ gối hữu, chắp tay l

àm lễ nước, trong nước liền tự nhiên xuất hiện vàng khối to như bánh xe, chốc lát

đầy thuyền. Vua bảo:

- "Hãy dừng! Chớ chất thêm vàng, thuyền sắp

đắm".

A-nan! Vua Ðại Thiên

được đại thần chủ tạng như thế.

A-nan bạch Phật:

- Vua Ðại thiên

được điển binh báu như thế n

ào?

Phật bảo:

- Nhà vua

đến ng

ày rằm tr

ăng tr

òn, lại tắm gội sạch sẽ, cùng các thể nữ lên lầu phía Nam, thấy có

đại tướng quân t

ên Tỷ-tỳ-na,

đoan chánh tướng hảo, tóc m

àu trân châu, thân thể màu lục, không cao không thấp, không mập không gầy, mắt có thể nhìn thấu tâm niệm người khác, biết việc quân binh, quyền biến, mưu chước, tiến lui

đúng thời.

Ðại tướng nương hư không bay

đến trước vua, tâu rằng:

- Cúi xin Ðại vương tự ý vui thích, chớ lo thiên hạ, việc chinh phạt bốn phương thần tự

điều khiển.

Nhà vua muốn thử tài, vào giữa

đ

êm suy nghĩ muốn tập họp bốn bộ binh chủng, nghĩ vừa dứt bốn binh

đ

ã tập họp. Nhà vua lại nghĩ tiến binh về phía Ðông, quân liền tiến về Ðông. Nhà vua ở giữa,

đại tướng đi đầu, bốn binh vây quanh. Vua nghĩ muốn tiến th

ì quân tiến, muốn lùi thì quân lùi.

A-nan! Vua Ðại Thiên

được điển

binh báu như thế.

Phật bảo A-nan:

- Vua Ðại Thiên

được bảy báu như thế.

Phật lại bảo A-nan:

- Vua Ðại Thiên cai trị rất lâu, bèn bảo thợ hớt tóc tên Kiếp-tỷ rằng: "Nếu ta có tóc bạc, nên nhổ và báo cho ta biết". Kiếp-tỷ ch

ăm sóc tóc cho vua; lâu sau, thấy có một sợi tóc bạc, b

èn tâu:

- "Trước Ðại vương có lệnh, nay thấy tóc bạc!"

Vua bảo:

- "Nhổ

đưa ta xem".

Kiếp-tỷ dùng nhíp vàng nhổ tóc bạc,

để v

ào tay vua. Vua cầm tóc bạc, bèn nói kệ:

Trên

đầu của ta,

Sinh tóc bạc này,

Sứ thần

đến gọi,

Ðến thời vào

đạo.

Vua suy nghĩ: "Ta

đ

ã hưởng ngũ dục tột

độ trong lo

ài Người, nay nên xuất gia, cạo bộ râu tóc, mặc pháp phục". Bèn gọi thái tử Trường Sanh

đến, bảo:

- "Này Con! Ðầu ta

đ

ã sanh tóc bạc. Ta

đ

ã chán ngủ dục thế gian, muốn tìm vui cõi Trời. Nay ta muốn cạo bỏ râu tóc, mặc pháp phục xuất gia học

đạo. Con n

ên lãnh việc nước, lập con lớn làm thái tử; nên cấp dưỡng cho Kiếp-tỷ coi việc tóc bạc, khi tóc bạc xuất hiện, trao nước cho Thái tử rồi như ta cạo râu tóc xuất gia, mặc pháp phục".

Nhà vua bảo thái tử:

- "Nay ta

đem ngôi vua ân cần trao cho con, n

ên làm cho Thánh vị tiếp nối

đời đời chớ để dứt mất; nếu dứt đoạn

sẽ bị làm người ở biên

địa; nếu đoạn mất hạnh l

ành, liền sanh chỗ không có pháp".

Vua Ðại thiên dạy xong, liền trao nước cho thái tử Trường Sanh, ban cho Kiếp-tỷ ruộng

đất.

Phật bảo A-nan:

- Vua Ðại Thiên ở thành này, nước này,

đất n

ày, cạo bỏ râu tóc, mặc pháp phục vào

đạo, ở c

õi này thực hành bốn Phạm hạnh Từ, Bi, Hỷ, Xả, trải qua tám vạn bốn ngàn n

ăm, ở đây mạng chung sanh về Phạm thi

ên.

Vua Ðại thiên xuất gia, bảy ngày sau ngọc nữ báu mệnh chung. Trường Sanh lên ngôi,

đến ng

ày rằm tr

ăng tr

òn, tắm gội sạch sẽ,

đem các

thể nữ lên lầu phía Ðông, nhìn về phương Ðông, thấy ngọc nữ

đoan

chánh như trước, từ hư không

đến. Vua Trường Sanh lại được bảy thứ báu. Vua trị v

ì nước, cai quản thiên hạ, sau lại bảo Kiếp-tỷ:

- "Từ nay về sau ch

ăm sóc tr

ên

đầu, thấy tóc bạc th

ì

đem báo cho ta".

Nhà vua lên ngôi trải qua tám vạn bốn ngàn n

ăm. Tóc vua bạc, thợ hớt tóc Kiếp-tỷ tâu vua:

- "Ðã có tóc bạc".

Vua bảo:

- "Nhổ

đem đến để tr

ên tay ta".

Thợ hớt tóc Kiếp-tỷ dùng nhíp vàng nhổ tóc bạc

để l

ên tay vua. Vua cầm tóc bạc nói kệ:

Trên

đầu của ta,

Sinh tóc bạc này,

Sứ thần

đến gọi,

Ðến thời vào

đạo.

Vua tự nghĩ: "Ta

đ

ã hưởng ngũ dục tột

đỉnh. Nay n

ên xuất gia, cạo râu tóc, mặc pháp phục." Vua liền gọi thái tử Quán Cát bảo:

- Này Con,

đầu ta đ

ã có tóc bạc. Ta sã chán ngũ dục thế gian, muốn cầu thú vui cõi Trời. Nay ta muốn xuất gia hành

đạo, cạo bỏ râu tóc mặc pháp phục. Con n

ên lãnh việc nước, lập con trưởng làm thái tử, chu cấp cho Kiếp-tỷ khiến coi việc tóc bạc. Khi tóc xuất hiện, Con nên giao việc nước cho thái tử, xuất gia như ta, cạo bỏ râu tóc mặc pháp phục.

Vua bảo thái tử:

- "Nay ta

đem ngôi vị ân cần trao cho con. N

ên làm cho ngôi Thánh vương

đời đời tiếp nối, chớ để đoạn dứt; nếu đoạn dứt sẽ bị l

àm người ở biên

địa; nếu dứt hạnh l

ành phải sanh nơi không có pháp".

Vua Trường Sanh cũng ở thành này, nước này,

đất n

ày, cạo bỏ râu tóc mặc pháp y nhập

đạo. Ở đây trải qua tám vạn bốn ng

àn n

ăm, vua thực h

ành bốn Phạm hạnh Từ, Bi, Hỷ, Xả. Ở

đây

mệnh chung, vua sanh lên Phạm thiên.

Phật bảo A-nan:

- Vua Trường Sanh xuất gia, bảy ngày sau, bảy báu tự nhiên biến mất. Vua Quán Cát lo buồn không vui, các

đại thần thấy vua chẳng vui, b

èn hỏi th

ăm:

- "Ðại vương vì sao không vui?"

Vua

đáp:

- "Vì bảy báu biến mất".

Các

đại thần tâu:

- "Xin Ðại vương chớ lo".

Vua hỏi:

- "Vì sao không lo?"

Vua hỏi:

- "Vì sao không lo?"

Các

đại thần tâu:

- "Tiên vương

đang tu Phạm hạnh trong

vườn gần

đây, có thể đến đó thỉnh vấn, chắc ng

ài sẽ dạy Ðại vương pháp

được bảy báu".

Nhà vua ra lệnh trang hoàng xa giá, các

đại thần chuẩn bị bị xong, liền tâu vua. Vua c

ùng quần thần cỡi xe thất bảo, mang n

ăm vật: cờ lọng, mũ vua, kiếm, quạt, gi

ày cùng các

đại thần tả hửu t

ùy tùng

đến vườn.

Ðến nơi, vua xuống xe, bỏ n

ăm vật nghi

êm sức,

đi bộ v

ào cửa vườn,

đến trước phụ vương, cúi lạy lui ngồi một b

ên, chấp tay thưa:

- "Phụ vương có bảy báu, nay

đều đ

ã biến mất".

Vua cha trước

đ

ã ngồi yên, nghe thưa, ngẩng

đầu đáp:

- "Này con! Phàm pháp của Thánh vương không ỷ lại vào vật của cha. Con tự thực hành cách

để cầu được các món ấy".

Vua lại hỏi:

- "Chuyển luân Thánh vương dùng pháp hóa gì?"

Vua cha

đáp:

- "Pháp kỉnh, pháp trọng, pháp nghĩ nhớ, pháp nuôi dưỡng, pháp làm t

ăng trưởng, pháp l

àm giàu mạnh, pháp làm lớn rộng. Làm theo bảy pháp này chính là cách trị dân của Thánh vương, có thể

được bảy báu".

Vua lại hỏi:

- "Thế nào là pháp kỉnh? ... cho

đến pháp lớn?"

Phụ vương

đáp:

- "Nên chu cấp cho người bần cùng, dạy dân chúng hiếu dưỡng song thân, bốn mùa tám tiết tùy thời tế lễ, dạy dân nhẫn nhục, trừ bỏ hạnh dâm dục, ngu si v.v... Bảy pháp này chính là pháp của Thánh vương".

Vua liền nghe lời dạy, lễ bái xin lui, nhiễu quanh bảy vòng rồi dẫn chúng trở về. Khi ấy vua vâng lệnh phụ vương làm theo bảy pháp, khiến cho xa gần

đều tôn trọng lời vua dạy. Vua mở kho cấp dưỡng người ngh

èo, nuôi kẻ cô

độc, gi

à nua. Dân chúng bốn phương

đều vâng l

àm theo. Khi ấy, vào ngày rằm tr

ăng tr

òn, vua tắm gội sạch sẽ, cùng các thể nữ lên lầu phía Ðông, nhìn về hướng Ðông, thấy có xe báu ngàn c

ăm v

àng, xe cao bảy

đa-la, cách đất cũng bảy đa-la, từ hư không bay đến dừng tr

ên hư không. Vua tự nghĩ: "Nguyện

được xe báu n

ày ch

ăng?" Xe báu liền hạ xuống b

ên tay trái vua, lại chuyển sang tay mặt. Vua bảo xe báu ấy:

- "Các nơi không hàng phục, hãy vì ta hàng phục; nơi chẳng phải

đất ta, h

ãy vì ta giữ lấy. Nên

đúng pháp, không n

ên phi pháp".

Vua liền dùng tay ném xe lên hư không trước cửa cung phía Ðông. Xe trụ trên hư không hướng về phía Ðông. Sau xe báu, kế

đến l

à voi trắng, tiếp theo có ngựa xanh, thần châu, ngọc nữ, chủ tạng báu,

điển

binh báu, bảy vật báu xuất hiện như thời vua Ðại thiên, thử thách cũng thế. Trải qua tám vạn bốn ngàn n

ăm, vua cũng lập thái tử, tặng thưởng cho Kiếp-tỷ, giao nước cho thái tử, xuất gia học đạo đều như pháp của vua trước.

Phật bảo A-nan:

- Vua Quán Sát ấy ở tại thành này, vườn này, cạo tóc, pháp phục, trải qua tám vạn bốn ngàn n

ăm tu bốn Phạm hạnh Từ, Bi, Hỷ, Xả. Ở đây mạng chung, vua cũng

sanh lên Phạm thiên.

Phật bảo A-nan:

- Vua Ðại thiên và con cháu nối tiếp nhau cho

đến tám vạn bốn ng

àn triều

đại l

àm chuyển luân Thánh vương, dòng dõi lành không dứt

đoạn. Vị Thánh vương sau c

ùng tên Nhâm, dùng Chánh pháp cai trị, là người thông minh, nhớ kỹ không quên, có ba mươi hai tướng tốt, sắc như hoa sen hồng, ưa thích bố thí, cúng dường Sa-môn, Bà-la-môn, s

ăn sóc nuôi dưỡng

người già, cô

độc, chu cấp người ngh

èo. Ở bốn cửa thành và trung tâm thành, vua

đều dựng kho lẫm, chứa v

àng bạc, châu báu, voi ngựa, xe cộ, y phục, giường chiếu, hương hoa, thức

ăn uống, thuốc men, người cô độc th

ì cấp cho thê thiếp, bố thí các thứ tùy ý người muốn.

Trong những ngày lục trai, vua ra lệnh nội cung, ngoại cung

đều giữ giới Bát quan trai. V

ào ngày ấy, chư Tiên cõi trời Tịnh Cư

đều c

ùng xuống thọ giới. Trời

đế Thích, Ba mươi ba cũng khen ngợi nhân dân nước ấy: "Vui thay! Lợi l

ành mới gặp bậc Pháp vương như thế, bố thí các thứ theo nhu cầu nhân dân, lại hay trai giới thanh khiết không thiếu sót".

Trời

Đế

Thích bảo chư Thiên tử:

- "Muốn

được gặp vua Nhâm chăng?"

Chư Thiên

đều nói: "Muốn gặp, có thể mời l

ên

đây". Thích-đề-ho

àn-nhân liền sai thiên nữ Cùng-tỷ-ni:

- "Ngươi

đến th

ành Mật-

để-la

báo Nhâm vương rằng: "Ðại vương

được lợi ích lớn! Chư Thi

ên ở

đây đều khen ngợi công đức cao tột của

Ðại vương, bảo tôi

đến thăm hỏi khuy

ên mời. Chư Thiên

đều muốn được gặp, xin vui l

òng

đến đó".

Thiên nữ Cùng-tỷ-ni vâng lời bay xuống, trong khoảng co duỗi tay, hốt nhiên hiện trên hư không trước cung vua. Lúc ấy nhà vua

đang ngồi tư duy trong điện, có một thể nữ hầu. Vua suy nghĩ: "Thế gian đều muốn gọi an ổn, không có khổ hoạn". C

ùng-tỷ-ni ở trên hư không búng ngón tay

để k

êu, vua ngẩng

đầu l

ên, thấy trên cung

điện có ánh sáng, nghe tiếng bảo rằng:

- "Ta là thị giả của Thích-

đề-ho

àn-nhân. Thiên

đế sai ta đến chỗ

Ðại vương".

Vua

đáp:

- "Không biết Thiên

đế có điều g

ì dạy bảo?"

Thiên nữ nói:

- "Ý của Thiên

đế ân cần, chư thi

ên khen ngợi công

đức của nh

à vua, muốn

được gặp.

Ðại vương có vui lòng?"

Vua im lặng hứa nhận. Thiên nữ liền trở về thưa Thiên

đế:

- "Ðã truyền lệnh xong, vua hứa sẽ

đến".

Thiên

đế liền ra lệnh cho người đánh xe, trang nghi

êm xe thất bảo, cỡi xe ngựa bay xuống thành Mật-

để-la đón vua Nhâm. Người đánh xe vâng lệnh, liền cho xe ngựa hốt nhi

ên bay xuống thành. Vua

đang ngồi họp c

ùng quần thần, xe dừng trước

điện vua, trụ tr

ên hư không. Người

đánh xe k

êu:

- "Nay Thiên

đế đưa xe xuống đón, các Thi

ên tử cũng

đang đợi,

Ðại vương nên lên xe, chớ lưu luyến".

Các quan lớn nhỏ nghe vua sắp

đi, tỏ vẻ không vui, đều đứng dậy chấp tay thưa:

- "Sau khi Ðại vương

đi, chúng hạ thần vâng lệnh ai?"

Vua

đáp:

- "Các khanh chớ lo, sau khi ta

đi n

ên bố thí, trai giới, cấp dưỡng dân chúng, trị quốc như lúc ta

đang thời. Ta sẽ về không lâu".

Vua ra lệnh xong, xe liền hạ xuống

đất. Vua l

ên xe, người

đánh xe hỏi:

- "Vua sẽ

đi theo đường n

ào?"

Vua hỏi:

- "Lời này là thế nào?"

Người

đánh xe đáp:

- "Có hai

đường đi, một l

à

đường ác, hai l

à

đường l

ành. Người làm ác từ

đường ác đến chỗ khổ, người l

àm lành dạo chơi

đường l

ành

đến chỗ vui".

Vua nói:

- "Nay tôi muốn

đi cả hai đường ác v

à lành".

Người

đánh xe nghe hồi lâu mới hiểu nói:

- "Rất lành! Ðại vương".

Người

đánh xe b

èn

đưa vua đi c

à hai

đường, thấy đủ thiện ác, đến trời Ba mươi ba. Thi

ên

đế v

à chư Thiên xa thấy vua

đến, Thích-đề-ho

àn-nhân nói:

- "Kính chào Ðại vương! Mời cùng ngồi".

Phật bảo A-nan:

- Vua bèn ngồi trên tòa Thiên

đế. Vua c

ùng Thiên

đế dung mạo tương tợ, y phục tiếng nói như nhau. Các Thi

ên tử nghĩ thầm: "Ai là Thiên

đế? Ai l

à vua?" Lại nghĩ: "Người và pháp phải tuân theo mà

đều chẳng tuân theo". Chư Thi

ên

đều ngạc nhi

ên không phân biệt

được. Thi

ên

đế thấy chư Thi

ên có tâm nghi, bèn nghĩ: "Ta sẽ mời nhà vua ở lại, sau mới làm sáng tỏ". Thiên

đế bảo chư Thi

ên:

- "Các Ông có muốn ta lưu nhà vua ở lại

đây chăng?"

Chư Thiên thưa:

- "Thật muốn mời ở lại".

Thiên

đế bảo vua Nhâm:

- "Ðại vương! Có thể ở

đây chăng? Tôi sẽ cung cấp ngũ dục".

Nhân

đó chư Thi

ên mới biết. Vua thưa Thiên

đế:

- Thưa, tôi không thể!

Thiên

đế b

èn cấp tặng, xong vua thưa:

- "Nguyện cho chư Thiên thọ mạng vô tận".

Chủ khách thỉnh nhượng như thế ba lần.

Thiên

đế hỏi vua:

- "Sao không ở lại?"

Vua thưa:

- "Tôi phải xuất gia tu

đạo, nay ở c

õi Trời không có duyên học

đạo".

Thiên

đế hỏi:

- "Tại sao lại học

đạo?"

Vua

đáp:

- "Phụ vương tôi dặn dò, nếu có tóc bạc nên xuất gia".

Ðế thích nghe nói lời di mệnh nhập

đạo, im lặng không đáp. Vua ở c

õi Trời, trong khoảng khắc ngũ dục tự vui, mà ở thế gian

đ

ã trải qua mười hai n

ăm. Vua muốn cáo biệt, b

èn cùng các Thiên tử nói pháp chân thật. Thiên

đế dạy người đánh

xe:

- "Ông

đưa vua Nhâm trở về nước".

Người

đánh xe vâng lời liền trang ho

àng xe, chuẩn bị xong, thưa nhà vua:

- "Ðại vương có thể lên xe".

Nhà vua bèn từ biệt Thiên

đế v

à chư Thiên rồi lên xe, theo

đường cũ m

à về. Ðến thành Mật-

để-la, người đánh xe liền trở về Trời. Vua trở về v

ài hôm, vua bảo Kiếp-tỷ:

- Nếu thấy có tóc bạc, nên báo cho ta.

Trong vài ngày, trên

đầu vua có tóc bạc, Kiếp-tỷ d

ùng nhíp vàng nhổ tóc bạc,

để tr

ên tay vua, vua thấy rồi bèn nói kệ:

Trên

đầu của ta,

Sinh tóc bạc này,

Sứ thần

đến gọi,

Ðến thời vào

đạo.

Vua nghĩ: "Ta

đ

ã hưởng ngũ dục tột

đỉnh, nay n

ên xuất gia, cạo tóc, mặc pháp phục". Vua bèn gọi thái tử Thiện Tận bảo:

- Ta

đ

ã có tóc bạc, ta

đ

ã chán ngũ dục thế gian, nên tìm vui cõi Trời, nên cạo bỏ tâu tóc, mặc pháp phục, xuất gia học

đạo. Nay ta đem việc nước giao cho con, chu cấp cho Kiếp-tỷ. Nếu khi có tóc bạc, Con n

ên

đem việc nước giao cho thái tử rồi xuất gia học đạo. N

ày Con! Nay ta

đem ngôi vị Thánh vương trao cho con, chớ để đoạn dứt; nếu đoạn dứt th

ì sẽ bị làm người ở biên

địa".

Phật bảo A-nan:

- Vua Nhâm bèn

đem việc nước trao cho thái tử, chu cấp ruộng đất cho Kiếp-tỷ, rồi ở nơi th

ành này xuống tóc, mặc pháp phục, xuất gia tu

đạo. Sau khi vua tu đạo, trong bảy ng

ày xe báu, châu báu biến mất, voi, ngựa, ngọc nữ,

điển binh, chủ tạng thảy đều không c

òn. Nhà vua ở trong vườn tám vạn bốn ngàn n

ăm, h

ành bốn Phạm hạnh Từ, Bi, Hỷ, Xả, sau khi mệnh chung, sanh lên Phạm thiên.

Sau

đó vua Thiện Tận không theo nghiệp cha, bỏ phế Chánh pháp. Do đó bảy món báu không ứng hiện lại, không tiếp tục hạnh l

ành nên có n

ăm điều tổn giảm: tuổi thọ dân chúng

ngắn, sắc suy, lực kém, nhiều bệnh, không trí tuệ. N

ăm điều tổn giảm n

ày

đ

ã có lại rồi chuyển thêm sang bần khốn. Do cùng khổ nên trộm cướp lẫn nhau, người ta

đến vua thưa kiện:

- "Người này trộm cắp!"

Vua liền ra lệnh hành hình người trong nước. Nghe tội trộm cắp, vua liền

đem giết, v

ì chứa

điều ác n

ên có

đao bén.

Ðao gươm từ

đó bắt đầu chế tạo, do đây sát sanh khởi l

ên,

đó l

à hai

điều ác (trộm, sát) xuất hiện.

Kế lại dâm phạm vợ người, tranh cải với chồng người ấy, tự nói: "Tôi không có!" bèn thành ra bốn

điều ác (đạo, sát, dâm, vọng). Nói đôi chiều gây n

ên

đấu tranh l

à n

ăm điều ác. Do gây gổ n

ên có chửi bới là sáu

điều ác. Lời nói không thật l

à bảy

điều ác. Ganh ghét sự h

òa hợp của người là tám

điều ác. Giận hờn đổi sắc l

à chín

điều ác. L

òng nghi loạn là mười

điều ác. Mười điều ác đ

ã

đủ th

ì sự tổn giảm càng t

ăng.

Phật bảo A-nan:

- Muốn biết vua Ðại thiên lúc

đó ở v

ào Hiền kiếp ban

đầu l

à ai ch

ăng? Chính l

à Ta vậy! A-nan Vua sau cùng của tám vạn bốn ngàn triều vua tên là Nhâm, trị nước

đoan chánh, chính l

à Thầy vậy. Vua sau chót tên Thiện Tận bạo nghịch vô

đạo, l

àm

đoạn dứt d

òng Thánh vương ấy, chính là Ðiều Ðạt.

A-nan! Thầy ở thời quá khứ, kế thừa sự nghiệp lành của Chuyển luân Thánh vương Ðại Thiên, khiến ngôi vị lưu truyền không dứt, là công

đức của Thầy, đúng pháp chẳng phi pháp. A-nan! Nay Ta l

à Pháp vương vô thượng,

đem pháp l

ành vô thượng ân cần trao phó cho Thầy. Thầy là con dòng Thích, chớ làm người biên

địa, chớ l

àm hạnh

đoạn chủng.

A-nan bạch Phật:

- Vì cớ gì làm hạnh

đoạn chủng?

Phật bảo A-nan:

- Vua Ðại Thiên tuy làm pháp lành nhưng chưa

được lậu tận xuất thế gian, chưa được độ, chưa được đoạn dục, chưa phá hai mươi mốt kiết sử, sáu mươi kiến chưa trừ, ba cấu chưa sạch, chưa được thần thông, chưa được chơn đạo giải thoát, chưa được Niết-b

àn. Vua Ðại Thiên làm pháp lành, bất quá chỉ sanh lên Phạm thiên.

A-nan! Nay Ta nói pháp vô vi là pháp Ta

được đến bờ chân thật tr

ên cõi Trời, Người. Pháp Ta vô lậu, vô dục, diệt

độ, thần thông, giải thoát, Sa-môn chơn thật đến Niết-b

àn. A-nan! Nay Ta

đem đạo pháp Vô thượng ân cần trao phó cho Thầy, chớ l

àm giảm pháp của Ta, chớ làm người biên

địa. A-nan! Nếu có hiện hạnh Thanh văn; nếu có người đoạn dứt pháp n

ày thì

đó l

à người biên

địa. Nếu người hay l

àm hưng thạnh pháp này là trưởng tử Phật, tức là thành tựu quyến thuộc, chớ làm hạnh diệt dòng tộc. A-nan! Pháp của Ta

đ

ã nói ra trước sau

đều giao phó cho Thầy. Thầy n

ên học

điều n

ày!

A-nan nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

5. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-

đ

à, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

- Có bốn tội nhân lớn ở trong

địa ngục. Thế n

ào là bốn? Mạt-khư-lê là

đại tội nhân. Tỳ-kheo

Ðế-xá là

đại tội nhân,

Ðề-bà-

đạt-đa l

à

đại tội nhân, Tỳ-kheo C

ù-ba-ly là

đại tội nhân.

Tội nhân Mạt-khư-lê thân phát ra lửa dài sáu mươi khuỷu tay. Tội nhân Ðế-xá thân phát lửa dài bốn mươi khuỷu tay. Tội nhân Ðề-bà-

đạt-đa thân phát lửa d

ài ba mươi khuỷu tay. Tội nhân Cù-ba-ly thân phát lửa dài hai mươi khuỷu tay.

Này Tỳ-kheo! Nên biết Mạt-khư-lê dạy vô số chúng sanh khiến làm việc tà kiến

đi

ên

đảo, chấp có chấp không. Kẻ ngu Đế-

xá làm

đoạn dứt hạt

giống Thánh không còn sót. Kẻ ngu Ðề-bà-

đạt-đa gây rối loạn chúng Tăng, giết Tỳ-kheo-ni đắc A-la-hán. Tội nhân C

ù-ba-ly phỉ báng Xá-lợi-phất, Mục-kiền-liên.

Lại nữa, tội nhân Mạt-khư-lê dạy vô số chúng sanh làm tà kiến, thân hoại mạng chung

đọa v

ào

địa ngục Diệm Quang. Tội nhân

Ðế-xá làm

đoạn dứt hạt giống Thánh không c

òn sót, thân hoại mạng chung rơi vào

địa ngục

Ðẳng Hại. Tội nhân Ðề-bà-

đạt-đa khởi tâm mưu hại đối với Như Lai, thân hoại mạng chung rơi v

ào

địa ngục A-tỳ. Tội nhân C

ù-ba-ly do phỉ báng Xá-lợi-phất, Mục-kiền-liên, thân hoại mạng chung rơi vào

địa ngục Bát-đầu-ma.

Khi ấy tội nhân Mạt-khư-lê bị ngục tốt rút lưỡi, vặn cổ ra sau. Vì sao thế? Do ngày trước dạy vô số chúng sanh khiến làm tà kiến. Ðại tội nhân Ðế-xá bị ngục tốt mổ xẻ thân hình,

đổ nước sông nóng bắt nuốt. V

ì sao cháy tiêu bụng,

đem ho

àn sắt nóng bắt nuốt.Vì sao thế? Do ông ấy

đoạn dứt hạt giống Thánh

chúng. Tội nhân Ðề-bà-

đạt-đa bị bánh xe sắt nóng nghiền nát thân thể, lại có ch

ày sắt

đập tr

ên thân, bầy voi dữ chà

đạp tr

ên thân, lại có núi sắt nóng lớn

đ

è trên mặt, toàn thân bị lá

đồng nóng quấn chặt. V

ì sao thế? Do ngày trước ông ấy gây rối trong chúng, phá hòa hợp T

ăng, n

ên phải bị bánh xe sắt nghiến

đứt đầu. Lại, kẻ ngu

Ðề-bà-

đạt-đa xúi thái tử l

àm hại phụ vương do quả báo ấy nên bị chày sắt

đập nát thân thể. Lại, kẻ ngu

Ðề-bà-

đạt-đa cho voi uống rượu say đến hại Như Lai, do quả báo ấy bị bầy voi dữ ch

à

đạp thân thể. Lại, kẻ ngu

Ðề-bà-

đạt-đa leo l

ên núi Kỳ-xà-quật vác

đá ném Phật, do quả báo ấy n

ên khiến núi sắt nóng

đ

è trên mặt. Kẻ ngu Ðề-bà-

đạt-đa giết Tỳ-kheo-ni đắc A-la-hán, do quả báo ấy n

ên lá

đồng nóng quấn thân. Tỳ-kheo n

ên biết, tội nhân Cù-ba-ly ở trong

địa ngục Li

ên Hoa, có một ngàn trâu kéo cày trên lưỡi. Vì sao thế? Vì

đ

ã phỉ báng Xá-lợi-phất, Mục-kiền-liên, do quả báo này có một ngàn trâu kéo cày nát lưỡi.

Lại tội nhân Mạt-khư-lê, thân phát ra lửa dài sáu mươi khuỷu tay. Nếu có chúng sanh khởi lên ý niệm này: "Ta có thể cứu tế làm lợi ích người này" mà lấy nước bốn biển cao bốn mươi khuỷu tay rưới trên thân người ấy thì sau

đó nước biển liền cạn hết m

à lửa không giảm. Cũng như một chiếc lá sắc bị thiêu

đốt đ

ã bốn ngày, có người dùng bốn giọt nước rưới lên, nước lập tức rút mất. Ðây cũng như thế, nếu có người

đem nước bốn biển lớn rưới l

ên thân tội nhân, muốn cho

được an lạc th

ì rốt cuộc không kết quả. Vì sao thế? Vì tội kẻ ấy quá sâu nặng.

Tội nhân Ðế-xá thân phát ra lửa dài bốn mươi khuỷu tay. Giả sử có chúng sanh thương xót người này,

đem nước trong ba biển lớn rưới tr

ên thân thì nước biển liền khô cạn, lửa không tắt, cũng như người rưới ba giọt nước lên sắt nóng, nước liền cạn khô không

đọng lại.

Ðây cũng lại như vậy, nếu

đem nước của ba biển lớn rưới tr

ên thân Ðế-xá, nước liền cạn mất mà lửa vẫn y nhiên.

Tội nhân Ðề-bà-

đạt-đa thân phát ra lửa d

ài ba mươi khủy tay. Nếu có chúng sanh khởi lòng thương xót, muốn làm cho Ðề-bà-

đạt-đa được an ổn lâu d

ài,

đem nước của hai biển lớn rưới tr

ên thân ông ta thì nước liền cạn mất, lửa không tắt. Cũng như rưới hai giọt nước trên lá sắt nóng, trọn không kết quả. Với tội nhân Ðề-bà-

đạt-đa cũng lại như thế, đem nước của hai biển lớn rưới tr

ên thân, nước liền rút mất còn lửa không giảm. Thân thể của Ðề-bà-

đạt-đa khổ đau như thế.

Tội nhân Cù-ba-ly thân phát ra lửa dài hai mươi khuỷu tay. Nếu có chúng sanh thương xót người này,

đem nước một biển lớn rưới l

ên thân thì nước biển kia liền rút mà lửa vẫn cháy. Cũng như rưới một giọt nước lên lá sắt nóng, nược cạn khô không

đọng lại. Với tội nhân C

ù-ba-ly cũng lại như vậy, do tội báo lôi kéo nên chịu tội như vậy.

Các Tỳ-kheo! Bốn hạng người này thọ tội rất nặng, các Thầy nên hết lòng xa lìa sự khổ hoạn này, tuân theo các bậc Hiền Thánh tu Phạm hạnh. Như thế, này các Tỳ-kheo nên học

điều n

ày!

Bấy giờ, các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

6. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-

đ

à, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

- Nay Ta biết rõ về

địa ngục, cũng biết con đường dẫn đến địa ngục, cũng biết cội gốc của chúng sanh trong địa ngục

ấy. Nếu có chúng sanh làm các hạnh ác không lành thì thân hoại mệnh chung rơi vào

địa ngục. Ta cũng biết điều n

ày.

Lại này các Tỳ-kheo! Ta cũng biết rõ về súc sanh, cũng biết con

đường dẫn đến súc sanh, cũng biết cội gốc của súc sanh kẻ l

àm các hạnh ác sanh trong ấy, Ta cũng

đều biết r

õ.

Ta cũng biết con

đường ngạ quỷ, có người l

àm các

điều ác sanh trong ngạ quỷ, Ta cũng biết điều đó.

Nay Ta cũng biết con

đường c

õi Người, dẫn

đến lo

ài Người. Có chúng sanh

được thân Người, Ta cũng biết.

Ta cũng biết con

đường dẫn đến c

õi Trời, có chúng sanh làm các cội

đức l

ành sanh lên cõi Trời, Ta cũng biết

điều đó.

Ta cũng biết

đường dẫn đến Niết-b

àn. Có chúng sanh chấm dứt hữu lậu, thành tựu vô lậu, tâm giải thoát, trí tuệ giải thoát, ở trong pháp hiện tại

được chứng quả, Ta cũng biết điều đó.

Tỳ-kheo nên biết! Ta biết

đường dẫn đến địa ngục. Do nhân duy

ên gì mà Ta nói lời này?

Phật bảo các Tỳ-kheo:

- Nay Ta quán sát tâm ý chúng sanh, biết rằng người này thân hoại mạng chung phải

đọa địa ngục. Sau đó, Ta thấy người n

ày

đ

ã vào

địa ngục,

chịu khổ não

đau đớn khảo tra vô số, lo buồn khổ n

ão không thể tính kể. Cũng như có một hầm lửa lớn không có bụi khói, giả sử có người

đi tr

ên chỗ ấy lại có người có mắt quán sát lối

đi của người kia, biết chắc sẽ rơi v

ào lửa không sai, và sau

đó thấy người n

ày rớt vào hầm lửa. Ta nói rằng người này

đ

ã rơi vào hầm lửa. Nay Ta quán sát tâm ý nghĩ nhớ của chúng sanh, biết chắc chắn chúng sanh ấy sẽ rơi vào

địa ngục không nghi. Sau đó, Ta quán sát người n

ày, nhất

định v

ào

địa ngục chịu khổ cay đắng không thể tính kể. V

ì sao người ấy rơi vào

địa ngục?

Ðó là xem xét chúng sanh thú hướng

địa

ngục, làm các hạnh ác, nghiệp chẳng lành, thân hoại mạng chung rơi vào

địa ngục, Ta đều biết r

õ. Ðiều Ta nói chính là

điều n

ày.

Ta biết con

đường súc sanh, cũng biết đường dẫn đến súc sanh. Do cội gốc nhân duy

ên nào mà nói như thế? Ở

đây, n

ày các Tỳ-kheo, Ta quán sát ý niệm trong tâm chúng sanh, biết người này thân hoại mạng chung sanh vào trong lúc sanh. Sau

đó, Ta thấy người ấy đ

ã sanh vào

đường súc sanh, lo buồn khổ n

ão không thể tính kể. Vì sao người này rơi vào súc sanh? Cũng như làng xóm có một hầm xí

đầy phần tiểu, giả sử có người đi qua chỗ đó, người có mắt nh

ìn thấy người

đi qua nơi ấy, biết người n

ày không bao lâu sẽ rơi vào hầm ấy, biết người này không bao lâu sẽ rơi vào hầm xí. Sau

đó thấy người ấy đ

ã rơi vào hầm xí. Nay Ta quán sát chúng sanh cũng lại như thế, biết người này mạng chung phải

đọa v

ào súc sanh, sau

đó lại thấy đ

ã sanh trong súc sanh chịu khổ vô lượng. Nay Ta quán sát chúng sanh trong súc sanh thảy

đều r

õ ràng. Ðiều Ta nói chính là

điều n

ày.

Ta cũng biết chúng sanh trong

đường ngạ

quỷ, con

đường hướng ngạ

quỷ. Ai thân hoại mạng chung sanh vào ngạ quỷ, Ta cũng biết. Có chúng sanh thân hoại mạng chung hướng về

đường ngạ quỷ, Ta đều biết r

õ. Thời gian sau, Ta cũng thấy chúng sanh ấy

đ

ã vào

đường ngạ quỷ chịu khổ

thọ lạc thọ. Vì sao người này lại rơi vào

đường ngạ quỷ? Ví như b

ên cạnh làng xóm lớn có một

đại thọ, ở chỗ nguy hiểm c

ành nhánh rớt gãy, giả sử có người

đi qua nơi đó, người có mắt xa thấy

người ấy, biết

đi qua nơi đó, người có mắt xa thấy người ấy, biết đi qua chỗ đại thọ không nghi, sau lại thấy người n

ày hoặc ngồi hoặc nằm chỗ gốc ấy, chịu báo khổ vui. Tại sao người này lại

đến nằm ngồi dưới cây? Nay Ta quán sát các lo

ài chúng sanh cũng lại như vậy, thân hoại mạng chung ắt

đến ngạ quỷ không nghi, thọ báo khổ lạc không thể tính kể. Ta biết ngạ quỷ v

à con

đường dẫn đến ngạ quỷ, Ta đều biết r

õ ràng. Ðiều Ta nói chính là

điều n

ày.

Ta biết cõi Người, cũng biết con

đường

dẫn

đến c

õi Người. Có người hành

động thân hoại mạng chung sanh trong c

õi Người, Ta cũng biết

đó. Ở đây, n

ày Tỳ-kheo! Ta quán sát ý niệm trong tâm chúng sanh. Nguời này chắc chắn khi thân hoại mạng chung sẽ sanh vào loài Người. Sau

đó, Ta lại thấy người ấy đ

ã sanh trong loài Người. Vì sao người này sanh trong loài Người? Cũng như bên xóm làng có một cây lớn, ở chỗ bằng phẳng nhiều bóng mát. Có người

đi

thẳng

đến đó. Người có mắt thấy rồi liền biết rằng, hướng đi của người n

ày ắt

đến cây lớn không nghi. Sau đó, Ta thấy người n

ày

đ

ã

đến cây lớn hưởng vui vô lượng. V

ì sao người này

đến được chỗ ấy?

Ðây cũng như thế. Ta quán sát tâm chúng sanh trong loài Người không nghi. Thời gian sau Ta lại thấy người này

đ

ã sanh trong loài người

được vui vô lượng. Ta biết c

õi Người, cũng biết con

đường l

àm người, nay sanh cõi Người Ta cũng biết. Ðiều Ta nói chính là

điều n

ày.

Ta cũng biết cõi Trời, biết con

đường dẫn đến c

õi Trời. Có chúng sanh tạo công

đức sanh c

õi Trời, Ta cũng biết. Do nhân duyên gì mà nói như thế? Nay Ta quán sát ý niệm trong tâm của các loài chúng sanh. Người này khi thân hoại mạng chung chắc chắn sẽ sanh cõi lành, cõi Trời. Sau

đó Ta thấy người ấy thân hoại mạng chung sanh c

õi lành trên trời, ở

đó hưởng phước tự nhi

ên vui sướng không thể sánh. Ðó gọi là người ấy

đ

ã sanh cõi Trời, ở

đó hưởng phước tự nhi

ên vui sướng không thể bì. Cũng như bên xóm làng có một giảng

đường cao rộng đẹp đẽ, chạm trổ h

ình ảnh, treo các phan lọng, nước thơm rưới

đất, trải các t

òa ngồi tốt

đẹp, đệm gấm, thảm th

êu mịn màng. Nếu có người thẳng một

đường đi đến

, người có mắt thấy hướng

đi, biết người n

ày chắc chắn sẽ

đến giảng đường cao rộng ấy, không nghi. Sau đó, lại thấy người n

ày

đ

ã

đến giảng đường, hoặc ngồi hoặc nằm, ở trong đó hưởng phước vui sướng không thể

sánh.

Đây

cũng như thế, nay Ta quán sát các loại chúng sanh thân hoại mạng chung sẽ sanh cõi Trời, ở nơi

đó hưởng khoái lạc không thể tính kể. V

ì sao người ấy sanh lên cõi Trời, ở nơi

đó hưởng khoái lạc không thể tính kể. V

ì sao người ấy sanh lên cõi lành trên Trời? Ta biết cõi Trời và con

đường dẫn đến c

õi Trời.

Điều

Ta nói chính là

điều n

ày.

Nay Ta biết Niết-bàn, cũng biết con

đường Niết-b

àn, cũng biết chúng sanh sẽ nhập Niết-bàn. Hoặc có chúng sanh chấm dứt hữu lậu, thành tựu vô lậu, tâm giải thoát, trí tuệ giải thoát, hiện thân thủ chứng mà tự du hóa, Ta

đều biết r

õ. Do nhân duyên gì mà nói như thế? Ở

đây, n

ày Tỳ-kheo! Ta quán sát ý niệm trong tâm chúng sanh duyên gì mà nói như thế? Ở

đây, n

ày Tỳ-kheo! Ta quán sát ý niệm trong tâm chúng sanh. Người này chấm dứt hữu lậu, thành tựu vô lậu, tâm giải thoát, trí tuệ giải thoát. Ðó gọi là người này

đ

ã chấm dứt hữu lậu, thành tựu vô lậu. Cũng như cách làng xóm không xa, có một ao lớn nước trong mát, nếu có người thẳng một

đường đến đó. Người có mắt xa thấy người ấy đến, biết người n

ày chắc chắn sẽ

đến ao nước không nghi. Lại sau đó, thấy người ấy đ

ã

đến ao nước tắm gội,

trừ bỏ các thứ dơ bẩn, bụi bặm, ngồi một bên, cũng không tranh cãi với người. Nay Ta quán sát chúng sanh cũng lại như thế, chấm dứt hữu lậu, thành tựu vô lậu, tâm giải thoát, trí tuệ giải thoát, sanh tử

đ

ã dứt, Phạm hạnh

đ

ã lập, việc phải làm

đ

ã làm xong, biết như thật về danh sắc. Ðó gọi là người ấy

đ

ã

đến nơi. Ta biết con đường Niết-b

àn, cũng biết chúng sanh nhập Niết-bàn, thảy

đều biết r

õ.

Như Lai Chí Chơn Ðẳng Chánh Giác có trí này, sức vô úy

đầy đủ, thảy đều th

ành tựu

đầy đủ. Trí của Như Lai không hạn lượng, Như Lai có thể quán sát sự việc ở quá khứ không hạn lượng, không thể tính, thảy đều biết r

õ, việc tương lai, hiện tại không hạn lượng, thảy

đều phân biệt.

Cho nên, này Tỳ-kheo! Nên tìm phương tiện

để th

ành tựu

đầy đủ mười sức vô úy. Như thế, n

ày các Tỳ-kheo, nên học

điều n

ày!

Bấy giờ, các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm:

*

7. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-

đ

à, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

- Nương nơi núi Tuyết có

đại thọ rất to lớn, năm thứ rộng lớn. Thế n

ào là n

ăm? Gốc rất vững chắc, vỏ rất d

ày, cành nhánh dài xa, bóng mát che trùm, lá rậm rạp. Các Tỳ-kheo! Ðó là trên núi Tuyết có cây to lớn này rất xanh tốt.

Nay thiện nam tử, thiện nữ nhơn cũng lại như thế, nương nhà hào tộc

được năm việc tăng trưởng lợi

ích. Thế nào là n

ăm? L

à t

ăng trưởng lợi ích về tín, tăng trưởng lợi ích về giới, tăng trưởng lợi ích về văn, tăng trưởng lợi ích về thí, tăng trưởng lợi ích về tuệ.

Tỳ-kheo! Ðó gọi là thiện nam tử, thiện nữ nhơn nương nơi nhà hào tộc, thành tựu

được năm việc n

ày. Cho nên, Tỳ-kheo nên tìm phương tiện thành tựu về tín, giới, v

ăn, thí, tuệ.

Thế Tôn liền nói kệ:

Cũng như cây núi tuyết,

Thành tựu n

ăm công đức,

Gốc, vỏ, nhánh dày rộng,

Bóng mát, lá râm rạp,

Thiện nam tử tín tâm,

Thành tựu n

ăm công đức,

Tín, giới,v

ăn, bố thí,

Trí tuệ cùng t

ăng trưởng

.

Như thế, này các Tỳ-kheo, nên học

điều n

ày!

Bấy giờ, các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

8. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-

đ

à, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ, Tỳ-kheo Mậu-la-phá-quần cùng các Tỳ-kheo-ni

đi dạo chơi, các Tỳ-kheo-ni cũng thích c

ùng dạo chơi với Thầy. Có dân chúng cơ hiềm về Tỳ-kheo Mậu-la-phá-quần, khi ấy các Tỳ-kheo-ni rất giận tức buồn lo không vui. Nếu lại có người hủy nhục các Tỳ-kheo-ni, lúc ấy, Tỳ-kheo Phá-quần cũng lo buồn không vui. Bấy giờ có nhiều Tỳ-kheo bảo Tỳ-kheo Phá-quần:

- Nay vì sao Thầy lại thân cận với các Tỳ-kheo-ni. Các Tỳ-kheo-ni cũng giao tiếp với Thầy?

Phá-quần

đáp:

- Nay tôi hiểu rõ lời dạy của Như Lai, ai phạm giới dâm tội rất ít.

Các Tỳ-kheo lại bảo:

- Thôi, thôi, Tỳ-kheo! Chớ nói lời ấy, chớ phỉ báng lời dạy của Như Lai. Người phỉ báng lời dạy của Như Lai, tội không ít. Lại nữa, Thế Tôn dùng vô số phương tiện nói về sự ô uế của dâm dục. Người nào tập theo dâm dục mà không tội, trọn không có lý. Nay Thầy nên bỏ ác kiến này, sẽ bị khổ lâu dài, vô lượng.

Nhưng tỳ-kheo Phá-quần, cứ giao thiệp với các Tỳ-kheo-ni, không sửa

đổi. Bấy giờ, nhiều Tỳ-kheo đi đến chỗ Thế Tôn, cúi lạy v

à bạch:

- Trong thành Xá-vệ có một Tỳ-kheo tên Phá-quần, giao tiếp với các Tỳ-kheo-ni. Các Tỳ-kheo-ni cũng giao tiếp qua lại với Tỳ-kheo Phá-quần. Chúng con

đến đó khuy

ên dụ sửa

đổi h

ành

động, song hai người ấy c

òn t

ăng th

êm, không bỏ kiến pháp

đi

ên

đảo, cũng không thuận theo Chánh pháp.

Bấy giờ, Phật bảo một Tỳ-kheo:

- Thầy hãy

đến chỗ Tỳ-kheo Phá-quần nói rằng Như Lai gọi:

Tỳ-kheo vâng lời Phật dạy, liền

đến chỗ Tỳ-kheo Phá-quần nói:

- Thầy nên biết Như Lai gọi.

Tỳ-kheo Phá-quần nghe lời Thầy Tỳ-kheo nọ, liền

đi đến chỗ Thế Tôn, cúi lạy lui ngồi một b

ên.

Thế Tôn hỏi:

- Có thật Thầy thân cận với các Tỳ-kheo-ni không?

Tỳ-kheo Phá-quần thưa:

- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.

Phật bảo:

- Thầy là Tỳ-kheo, vì sao lại giao thiệp với Tỳ-kheo-ni? Thầy này là dòng dõi hào tộc, cạo bỏ râu tóc, mặc ba y, có phải do lòng tin vững chắc xuất gia học

đạo chăng?

Phá-quần bạch Phật:

- Thưa vâng, Thế Tôn! Con nhà hào tộc, do lòng tin vững chắc xuất gia học

đạo.

Phật bảo:

- Chẳng phải là pháp của Thầy, tại sao lại giao thiệp với Tỳ-kheo-ni?

Phá-quần bạch Phật:

- Con nghe Như Lai dạy rằng người nào làm theo hạnh dâm, tội ấy không

đáng kể.

Phật bảo:

- Thầy là người ngu. Vì sao nói Như Lai dạy rằng theo dâm dục không tội? Ta dùng vô số phương tiện nói sự nhơ uế của dâm dục. Nay tại sao Thầy nói lời này: "Như Lai nói dâm dục không tội". Thầy nên khéo giữ miệng,

đừng để mang tội báo lâu d

ài.

Phật bảo:

- Nay Thầy hãy chờ, Ta sẽ hỏi lại các Tỳ-kheo: Phật bảo các Tỳ-kheo:

- Các Thầy có nghe Ta dạy các Tỳ-kheo rằng dâm dục không tội ch

ăng?

Các Tỳ-kheo thưa:

- Thưa Thế Tôn! Không nghe Như Lai nói dâm dục không tội. Vì sao thế? Như Lai dùng vô số phương tiện nói sự nhơ uế của dâm dục. Nếu nói không tội, việc ấy không

đúng.

Phật bảo các Tỳ-kheo:

- Lành thay, lành thay, các Tỳ-kheo! Như các Thầy nói, Ta dùng vô số phương tiện nói sự nhơ uế của dâm dục.

Phật lại bảo các Tỳ-kheo:

- Các Thầy nên biết! Nếu có người ngu tụng tập theo pháp hành như là Khế kinh, Kỳ-dạ, Thọ ký, Kệ, Nhân duyên, Bổn sự, Thí dụ, Bốn sanh, Phương

đẳng, Vị Tằng hữu, Tự thuyết, Luận nghị. Tuy tụng tập pháp ấy m

à không hiểu nghĩa lý. Do không quán sát nghĩa lý cũng không thuận theo pháp ấy nên pháp

đáng tuân theo lại không theo.

Sở dĩ tụng pháp ấy chỉ buông lung muốn cạnh tranh cùng người, ý toan tính hơn thua, cũng không tự mình

được lợi ích. Người ấy tụng pháp rồi ắt phạm cấm chế. Cũng như có

người ra khỏi làng, muốn tìm bắt rắn

độc. Khi thấy rắn to lớn đến nơi người ấy d

ùng tay trái nắm

đuôi

rắn, rắn bèn quay

đầu mổ v

ào tay, do nhân duyên này mà người ấy mạng chung. Ðây cũng như thế, có người ngu tụng tập kinh pháp, mười hai bộ kinh

đều biết, lại không quán sát nghĩa lý các kinh. V

ì sao thế? Vì không biết rốt ráo nghĩa của Chánh pháp.

Có thiện nam tử, giữ gìn tụng tập kinh pháp như Khế kinh, Kỳ-dạ, Thọ ký, Kệ, Nhân duyên, Bổn sự, Thí dụ, Bốn sanh, Phương

đẳng, Vị tằng hữu, Tự thuyết, Luận nghị. Người ấy tụng đọc rồi, lại hiểu sâu ý nghĩa; do hiểu sâu ý nghĩa kinh pháp, thuận theo lời dạy không sai trái. Sở dĩ tụng đọc th

ì không

đem tâm hơn thua, cạnh tranh với người khác m

à tụng

đọc kinh pháp l

à muốn tự mình tu có lợi ích. Sở dĩ tụng

đọc kinh pháp muốn đạt kết quả bổn nguyện. Do nhân duy

ên này, dần dần

đến Niết-b

àn. Cũng như có người ra khỏi làng xóm kia, muốn bắt rắn

độc. Người ấy thấy rằn rồi, tay cầm kềm sắt trước ti

ên kẹp

đầu rắn, sau mới

nắm chắc cổ rắn, không cho nhúc nhích. Nếu như rắn

độc quay đuôi muốn hại người ấy th

ì trọn không thể

được. V

ì sao thế? Tỳ-kheo! Vì do người ấy nắm cổ rắn. Thiện nam tử này cũng lại như vậy, tụng

đọc khắp các kinh pháp, quán sát ý nghĩa, thuận theo kinh pháp, trọn không sai trái, do nhân duy

ên này, dần dần

được Niết-b

àn. Vì sao thế? Do người kia giữ gìn Chánh pháp vậy.

Cho nên, này các Tỳ-kheo! Người nào hiểu ý nghĩa của Ta nói, nên ghi nhớ vâng làm, ai không hiểu nên trở lại hỏi Ta. Như Lai còn

đang hiện tiền, để sau hối hận vô ích.

Bấy giờ Phật bảo các Tỳ-kheo:

- Nếu có Tỳ-kheo ở trong

đại chúng nói lời thế n

ày: "Giới cấm Như Lai

đ

ã nói ra, tôi thảy

đều biết r

õ, ai tập theo dâm dục tội không

đáng kể". Các Tỳ-kheo n

ên nói với Tỳ-kheo ấy rằng: "Thôi, thôi! Chớ nói lời ấy. Chớ phỉ báng Như Lai mà nói n

ăng như thế n

ày. Như Lai trọn không nói lời ấy". Nếu Tỳ-kheo ấy sửa

đổi th

ì tốt, nếu không sửa

đổi sẽ bị đọa. Nếu có Tỳ-kheo che giấu việc n

ày không phát lộ ra, mọi người

đều đọa.

Này các Tỳ-kheo! Ðó là cấm giới của Ta.

Bấy giờ, các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

9. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-

đ

à, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ Phạm chí Sanh Lậu

đến chỗ Thế Tôn, c

ùng hỏi th

ăm v

à lui ngồi một bên. Phạm chí Sanh Lậu bạch Phật:

- Có bao nhiêu kiếp quá khứ?

Phật bảo Phạm chí:

- Các kiếp ở quá khứ không thể tính kể.

Phạm chí bạch Phật:

- Có thể tính kể số ấy ch

ăng? Sa-môn C

ù-

đ

àm thường nói về ba

đời. Thế n

ào là ba? Là quá khứ, hiện tại, tương lai. Sa-môn Cù-

đ

àm cũng biết về các

đời quá khứ, tương

lai, hiện tại. Cúi xin Sa-môn diễn nói về ý nghĩa kiếp số.

Phật bảo Phạm chí:

- Nếu Ta nói về kiếp này, lại tiếp theo kiếp này thì Ta diệt

độ. Ông cũng mạng chung m

à vẫn không biết ý nghĩa của kiếp số. Vì sao thế? Ngày nay thọ mạng của người ngắn ngủi, sống lâu tột cùng không hơn tr

ăm tuổi. Tính số kiếp trong trăm năm ấy, th

ì Ta diệt

độ, Ông đ

ã mạng chung, trọn không biết

được nghĩa của kiếp số.

Phạm chí nên biết! Như Lai cũng có trí này, biết hết, phân biệt

đầy đủ về kiếp số, thọ mạng chúng sanh d

ài ngắn, hưởng sự khổ vui, thảy

đều r

ành rẽ. Nay Ta sẽ nêu thí dụ cho Ông, người có trí do thí dụ mà hiểu. Cũng như số cát sông Hằng, cũng không giới hạn, không lường, không thể tính toán; số của kiếp quá khứ như thế, không thể tính kể, không hạn lượng.

Phạm chí bạch Phật:

- Có bao nhiêu kiếp số về tương lai?

Phật bảo Phạm chí:

- Cũng như số cát sông Hằng không có bờ mé, không thể tính kể, chẳng toán số nào theo kịp

Phạm chí lại hỏi Phật:

- Có kiếp hiện tại, kiếp thành, kiếp hoại ch

ăng?

Phật bảo Phạm chí:

- Có kiếp thành, kiếp hoại, chẳng phải là một kiếp, tr

ăm kiếp. Cũng như cái chén để ở chỗ gập ghềnh không an to

àn, nếu có

đứng y

ên cũng bị chao

động. Các thế giới phương vức cũng bị chao động, hoặc có kiếp th

ành, hoặc có kiếp hoại, Số ấy cũng không thể tính kể là bao nhiêu kiếp thành, là bao nhiêu kiếp hoại. Vì sao như thế? Vì sanh tử dài xa không có giới hạn, chúng sanh do vô minh

đan kết ngăn che, trôi

nổi từ

đời n

ày sang

đời sau, từ đời trước đến đời n

ày, chịu khổ não lâu dài. Nên chán ngán hoạn này, xa lìa khổ não này. Cho nên, Phạm chí, nên học như thế.

Phạm chí Sanh Lậu bạch Phật:

- Sa-môn Cù-

đ

àm thật kỳ

đặc, biết ý nghĩa của số kiếp quá khứ, hiện tại, tương lai. Nay con tự quy y Sa-môn C

ù-

đ

àm, cúi xin Sa-môn Cù-

đ

àm nhận con làm Ưu-bà-tắc, suốt

đời không sát sanh ... không uống rượu.

Bấy giờ Phạm chí Sanh Lậu nghe lời Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

10. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ờ Thành La-duyệt, núi Kỳ-xà-quật, cùng chúng

đại Tỳ-kheo năm trăm người câu hội.

Khi ấy, có một Tỳ-kheo bạch Phật:

- Kiếp số có bờ mé ch

ăng?

Phật bảo Tỳ-kheo:

- Có phương tiện dẫn dụ, nhưng kiếp số không cùng tận. Về quá khứ lâu xa trong Hiền kiếp này, có

đức Phật ra đời hiệu Câu-lưu-tôn, Chí Chơn

Ðẳng Chánh giác. Bấy giờ núi Kỳ-xà-quật này có tánh hiệu, lúc

đó nhân dân trong th

ành La-duyệt, leo lên núi Kỳ-xà-quật này, bốn ngày bốn

đ

êm mới tới

đỉnh.

Lại nữa, này Tỳ-kheo! Vào thời

đức Phật Câu-na-h

àm-nâu-ni, núi Kỳ-xà-quật này cũng có tánh hiệu. Khi ấy, nhân dân trong thành La-duyệt leo ba ngày ba

đ

êm tới

đỉnh núi.

Ðức Như Lai Ca-diếp xuất hiện ở

đời, núi Kỳ-x

à-quật này cũng có tánh hiệu. Khi ấy nhân dân trong thành La-duyệt leo hai ngày hai

đ

êm tới

đỉnh.

Như Ta ngày nay, Phật Thích-ca V

ăn xuất hiện ở đời, núi n

ày tên Kỳ-xà-quật, trong khoảnh khắc lên tới

đỉnh núi.

Nếu Phật Di-lặc ra

đời, núi n

ày cũng tên là Kỳ-xà-quật. Vì sao thế? Vì thần lực của chư Phật khiến núi này tồn tại.

Tỳ-kheo, nên do phương tiện này biết, kiếp số suy tận không thể tính kể. Kiếp có hai thứ,

đại kiếp v

à tiểu kiếp. Nếu trong kiếp ấy không có Phật ra

đời, bấy giờ có Bích-chi Phật ra đời, đó l

à tiểu kiếp. Nếu Như Lai xuất hiện ở kiếp nào, kiếp

đó không có Bích-chi Phật xuất hiện, đây gọi l

à

đại kiếp.

Tỳ-kheo! Do phương tiện này biết là kiếp số lâu dài không thể tính kể. Cho nên, này các Tỳ-kheo, nên nhớ ý nghĩa của kiếp số này!

Bấy giờ, các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

-ooOoo-

LI. Phẩm Phi thường

1. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-

đ

à, vườn Cấp Cô Ðộc. Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

- Thế nào, Tỳ-kheo các Thầy lưu chuyển sanh tử trải qua bao khổ não, trong

đó buồn khóc nước mắt rơi l

à nhiều ch

ăng? Hay nước sông Hằng nhiều?

Các Tỳ-kheo

đến trước bạch Phật:

- Chúng con khi quan sát ý nghĩa câu nói của Như Lai, trải qua sanh tử, nước mắt rơi khi buồn khóc nhiều hơn nước sông Hằng.

Phật bảo Tỳ-kheo:

- Lành thay, lành thay! Các Tỳ-kheo! Như các thầy nói không khác. Các Thầy ở trong sanh tử, nước mắt nhiều hơn nước sông Hằng. Vì sao thế? Ở trong sanh tử, cũng vì phụ mẫu mạng chung, khi ấy khóc lóc không thể tính kể. Lâu dài cha con, chị em, vợ con, ngũ thân và các quyến thuộc ân ái thương nhớ khóc lóc không thể tính kể.

Cho nên, này các Tỳ-kheo, nên chán họa sanh tử, xa lìa pháp ấy. Như thế, này các Tỳ-kheo, nên học

điều n

ày!

Khi Phật nói pháp này, có sáu mươi Tỳ-kheo

được lậu tận

ý giải.

Bấy giờ, các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

2. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-

đ

à, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

- Thế nào, Tỳ-kheo các Thầy, ở trong sanh tử thân thể hủy hoại, máu chảy có nhiều ch

ăng? Hay nước sông Hằng nhiều?

Các Tỳ-kheo bạch Phật :

- Như chúng con quan sát lời nói của Như Lai, máu chảy nhiều hơn nước sông Hằng.

Phật bảo các Tỳ-kheo:

- Lành thay, lành thay, các Tỳ-kheo! Như các Thầy nói, máu chảy nhiều hơn nước sông Hằng. Vì sao như thế? Ở trong sanh tử, hoặc làm bò, dê, heo, chó, ngựa, chim thú và vô số các loài khác nhau, trải qua khổ não. Thật

đáng chán họa hoạn, n

ên nghĩ xa lìa. Như thế, này các Tỳ-kheo, nên học

điều n

ày!

Khi

đức Thế Tôn nói pháp n

ày, có sáu mươi Tỳ-kheo

được lậu tận ý giải.

Bấy giờ, các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

3. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-

đ

à, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

- Nên tư duy về tưởng vô thường, lưu bố rộng tưởng vô thường. Ðã tư duy tưởng vô thường, luu bố rộng tưởng vô thường thì sẽ

đoạn sạch hết dục ái, sắc ái, vô sắc ái, vô minh, ki

êu mạn thảy

đều trừ hết. Cũng như đem lửa đốt cây cỏ cháy sạch không c

òn sót, Tỳ-kheo nên biết, nếu tư duy về tưởng vô thường, lưu bố rộng tưởng vô thường thì sẽ

đoạn dứt hết ái trước trong ba c

õi. Xưa có quốc vương tên Thanh Tịnh Âm Hưởng thống lãnh cõi Diêm-phù-

đề, có tám vạn bốn ng

àn thành ấp, có tám vạn tám

đại

thần, có tám vạn bốn ngàn cung nhơn thể nữ, mỗi thể nữ có bốn người hầu hạ. Ðại vương Âm Hưởng không có con nối dõi. Ðại vương bèn nghĩ: 'Nay ta thống lãnh quốc gia này, dùng pháp cai trị không cong vạy. Nhưng nay ta không người kế tục, nếu ta chết, sau

đó d

òng tộc sẽ

đoạn diệt'. Nh

à vua do nhân duyên cầu con, nên tự quy y chư thiên long, Quỷ thần, nhật nguyệt tinh tú, tự quy y Thích Phạm, Tứ thiên vương, sơn thần, thọ thần, dưới

đến các thần thảo mộc, hoa quả, xin cầu được phước khiến vua sanh con.

Bấy giờ, nơi cung trời Ba mươi ba có một Thiên tử tên Tu-bồ-

đề, mạng sống sắp hết, có năm điềm ứng tự đến ép ngặt thân. Thế n

ào là n

ăm? Hoa của chư Thi

ên trọn không héo, Thiên tử này hoa

đội đầu cũng héo. Y phục chư Thi

ên không có bụi nhơ, y phục của Thiên tử này sanh bụi nhơ. Hơn nữa, thân thể của chư Thiên cõi trời Ba mươi ba thơm sạch, ánh sáng chói lòa, bấy giờ thân của Thiên tử này hôi dơ không thể

đến gần. Lại chư Thi

ên cõi trời Ba mươi ba thường có ngọc nữ vây quanh trước sau, ca hát

đờn địch ngũ dục tự do vui thích, Thi

ên tử này mệnh sắp hết, các ngọc nữ ly tán. Lại, chư Thiên cõi trời Ba mươi ba có tòa ngồi tự nhiên ấn sâu vào

đất bốn thước, khi chư Thi

ên

đứng l

ên, tòa rời

đất bốn thước, song Thi

ên tử này sắp mạng chung nên không thích tòa của mình. Ðó gọi là n

ăm điềm ứng hiện tự nhi

ên bứt ngặt.

Khi thiên tử Tu-bồ-

đề do những điềm ứng n

ày, Thích-

đề-ho

àn-nhân bảo một Thiên tử:

- Ông hãy

đến c

õi Diêm-phù, bảo với vua Âm Hưởng rằng: 'Thích-

đề-ho

àn-nhân hỏi th

ăm

Ðại vương, ngồi nằm khinh an,

đi đứng mạnh

khỏe. Cõi Diêm-phù-

đề không có người đức độ

để l

àm con Ðại vương, nay cõi trời Ba mươi ba có một Thiên tử tên Tu-bồ-

đề, có năm điều ứng hiện tự nhi

ên bức bách trên thân, chắc sẽ giáng thần làm con Ðại vương, tuy thế vào lúc tuổi thanh niên cường tráng, chắc sẽ xuất gia học

đạo, tu Phạm hạnh vô thượng'

Vị Thiên tử ấy

đáp:

- 'Thưa vâng ! Ðại vương'.

Thiên tử ấy vâng lời dạy của Ðế Thích, trong khoảng lực sĩ duỗi tay, từ cõi Ba mươi ba ẩn,

đến c

õi Diêm-phù. Bấy giờ vua Âm Hưởng

đang ở tr

ên lầu cao, cùng với một người cầm lọng che. Khi ấy, Thiên tử kia ở trên lầu, nơi hư không bảo nhà vua:

- 'Thích-

đề-ho

àn-nhân kính lời th

ăm

Ðại vương, dạo

đi mạnh

khỏe, ngồi

đứng khinh an. C

õi Diêm-phù không có người

đức độ để l

àm con Ðại vương, nay cõi trời Ba mươi ba có vị Thiên tử tên Tu-bồ-

đề, nay có năm điềm

ứng bức ngặt nơi thân, sẽ giáng thần làm con Ðại vương. Nhưng vào tuổi thanh niên ắt sẽ xuất gia học

đạo, tu Phạm hạnh vô thượng'.

Vua Âm Hưởng nghe lời ấy rồi, vui mừng phấn khởi không thể tự kềm, liền bảo vị Thiên tử kia:

- 'Nay

đến đây bảo cho như vậy, thật hạnh phúc vô c

ùng. Xin cứ giáng hạ làm con tôi, muốn cầu xuất gia thì tôi trọn không trái ý'.

Vị thiên tử kia trở về chỗ Thích-

đề-ho

àn-nhân, liền thưa rằng:

- 'Vua Âm Hưởng rất vui mừng. Và thưa lại rằng: 'Xin cứ giáng thần, nếu muốn xuất gia thì tôi trọn không trái ý'.

Thích-

đề-ho

àn-nhân bèn qua chỗ Thiên tử Tu-bồ-

đề, bảo thi

ên tử Tu-bồ-

đề:

- 'Nay Ông nên phát nguyện sanh vào cung của vua Âm Hưởng. Vì sao thế ? Vua Âm Hưởng không có thái tử, thường dùng Chánh pháp trị dân. Xưa Ông có phước, tạo các công

đức, nay n

ên giáng thần sanh vào cung vua ấy'.

Thiên tử Tu-bồ-

đề thưa:

- 'Thôi, thôi, Thiên vương! Tôi không thích nguyện sanh trong cung vua cõi Người, ý tôi muốn xuất gia học

đạo, ở trong cung vua học đạo rất khó'.

Thích-

đề-ho

àn-nhân bảo:

- 'Ông nên phát nguyện sanh trong cung vua ấy, Ta sẽ ủng hộ cho Ông

được xuất gia học đạo'.

Tỳ-kheo nên biết! Khi ấy Thiên-tử Tu-bồ-

đề liền phát thệ nguyện sanh trong cung vua. Vua Âm Hưởng c

ùng

đệ nhất phu nhân giao tiếp nhau, phu nhân biết m

ình mang thai, bèn thưa cùng vua Âm Hưởng:

- 'Ðại vương nên biết ! Nay tôi biết có mang thai'.

Vua nghe rồi, vui mừng hớn hở, liền

đem nệm quý báu, trải t

òa ngồi tốt

đẹp, d

ùng món

ăn ngon cho phu nhân như vua không khác. Trải qua tám chín tháng, phu nhân sanh một ho

àng nam rất

đoan chánh, dung mạo phi thường ít có trong đời. Vua Âm Hưởng cho mời các ngoại đạo Phạm chí, quần thần bảo xem tướng, vua đem đầu đuôi mọi việc tr

ình bày hết cho các tướng sư.

Các Bà-la-môn tâu bày:

- 'Xin thưa Ðại vương, theo lý lẽ này thì nay sanh Thái tử rất

đặc biệt trong đời, xưa l

àm Thiên tử tên Tu-bồ-

đề, nay y theo t

ên cũ cũng gọi là Tu-bồ-

đề'.

Các tướng sư

đặt t

ên hiệu rồi, liền rời chỗ ngồi lui ra.

Vương tử Tu-bồ-

đề, được vua thương mến không hề rời mắt. Vua Âm Hưởng b

èn khởi nghĩ: 'Ta xưa nay không có con, vì muốn cầu con nên lễ bái chư Thiên,

để được con. Trải qua bao lâu nay mới sanh thái tử. Song Thi

ên

đế có dự báo, thái tử sẽ xuất gia học đạo. Nay ta phải t

ìm chước khéo

để thái tử đừng

xuất gia học

đạo'.

Khi ấy, vua Âm Hưởng vì thái tử mà thiết lập cung

điện ba m

ùa, mùa

đông lập cung điện ấm, m

ùa hạ lập cung

điện mát, m

ùa không lạnh không nóng lập cung

điện thích hợp. Vua lại lập n

ên bốn cung cho cung nữ ở, cung thứ nhất có sáu vạn thể nữ, cung thứ hai có sáu vạn thể nữ, cung thứ ba có sáu vạn thể nữ, cung thứ tư có sáu vạn thể nữ. Có bốn thị tùng cung cấp ngoài tòa ngồi cho thái tử. Nếu thái tử Tu-bồ-

đề muốn đạo chơi phía trước, các thể nữ liền đứng hầu ở trước, lúc ấy s

àng tòa di chuyển theo thân mình, phía trước có sáu vạn thể nữ và bốn thị gia. Nếu ý Thái tử muốn dạo chơi phía sau, thì sàng tòa tùy theo thân di chuyển. Nếu thái tử muốn vui chơi cùng các thể nữ, lúc ấy sàng tòa cũng tùy thân di chuyển, khiến cho thái tử Tu-bồ-

đề ý đắm trong ngũ dục không thích xuất gia.

Khi ấy Thích-

đề ho

àn-nhân vào lúc nửa

đ

êm vắng người, liền

đến chỗ vương tử Tu-bồ-đề, ở tr

ên hư không bảo:

- 'Vương tử! Ngày xưa Vương tử có khởi ý niệm này ch

ăng? Rằng 'nếu ta ở nh

à, lúc tuổi tráng niên sẽ xuất gia học

đạo'; ng

ày nay vì sao vui trong ngũ dục, ý lại không nguyện xuất gia học

đạo? Ta cũng có lời rằng sẽ khuyến khích vương tử khiến xuất gia học đạo. Nay chính đúng lúc, nếu không xuất gia học đạo, sau hối hận vô ích'

Thích-

đề-ho

àn-nhân nói lời ấy rồi liền lui

đi.

Vương tử Tu-bồ-

đề ở trong cung b

èn khởi nghĩ: 'Vua cha

đ

ã vì ta làm lớp lưới ái dục, vì lưới ái dục này nên không xuất gia học

đạo được. Nay ta phải đoạn dứt lưới n

ày, không

để cho uế trượt câu dắt, d

ùng lòng tin kiên cố xuất gia học

đạo, ở chỗ vắng, si

êng học kinh khiến cho ngày thêm tiến'.

Vương tử lại khởi ý này: 'Phụ vương Âm Hưởng cho sáu vạn thể nữ vây quanh trước sau. Nay ta nên quan sát có lý nào tồn tại vĩnh viễn ở thế gian ch

ăng? 'Khi ấy Vương tử quan sát khắp trong cung, không có người nữ n

ào tồn tại lâu ở thế gian. Tu-bồ-

đề lại khởi niệm n

ày: 'Nay cớ gì ta quan sát ngoại vật ? Nên quan sát trong thân, nhân duyên khởi lên. Nay trong thân này có những thứ thuộc về tóc, lông, r

ăng, móng, xương, tủy được tồn tại lâu chăng?' Vương tử quan sát từ đầu đến chân ba mươi sáu vật ô uế bất tịnh, do tự quan sát thấy rằng không một chút g

ì có thể tham

đắm, cũng không có g

ì chân thật, toàn là huyễn ngụy,

đều trở về không, không tồn tại lâu cả đời.

Vương tử Tu-bồ-

đề b

èn khởi ý niệm: 'Nay ta sẽ cắt

đứt lớp lưới n

ày, xuất gia học

đạo'. Khi đó Tu-bồ-đề quán thâm năm thọ ấm n

ày: Ðây là sắc khổ,

đây l

à sắc tập,

đây l

à sắc diệt,

đây l

à sắc xuất yếu. Thọ, tưởng, hành, thức

đều khổ cho đến thức tập, thức diệt, thức xuất yếu. Quán thân năm thọ ấm n

ày rồi, những pháp tập

đều l

à pháp tận. Tu-bồ-

đề liền ở chỗ ngồi được th

ành Bích chi Phật. Lúc

đó, đức Bích-chi Phật Tu-bồ-đề do giác th

ành Phật, bèn nói kệ:

Ta biết cội gốc dục,

Ý do tư tưởng sanh

Ta không nhớ nghĩ dục,

Ắt dục không có mặt.

Ðức Bích-chi Phật nói kệ này rồi, bay trên hư không mà

đi, đến một ngọn núi ngồi dưới cội cây, nơi vô dư Niết-b

àn mà nhập Niết-bàn.

Bấy giờ vua Âm hưởng bảo các cận thần:

- 'Ông

đến nội cung của vương tử Tu-bồ-đề xem vương tử có vui chơi an ổn chăng!'

Ðại thần vâng lệnh vua, liền

đi qua nội cung của vương tử, song nội thất đóng chắc chắn.

Ðại thần bèn trở về, tâu vua:

- 'Vương tử ngủ say an ổn, cửa cung

đóng chắc chắn'.

Nhà vua lại ba phen bảo:

- 'Ông hãy qua xem vương tử có ngủ ngon ch

ăng!'

Ðại thần lại

đi đến cửa cung, song cửa

cài chắc, lại trở về tâu vua:

- 'Vương tử ở trong cung ngủ say không hay biết, cửa

đóng kín đến giờ chưa mở'.

Khi ấy vua Âm Hưởng lại khởi niệm: 'Vương tử con ta khi nhỏ còn chẳng ngủ say, huống gì ngày nay tráng niên sung thạnh lại ngủ say ư ? Nên tự sang xem biết con lành dữ, con ta có tật bệnh gì ch

ăng!' Nh

à vua liền sang

đến nội cung của Tu-bồ-đề, đến ngo

ài cửa bảo một người:

- 'Ông thử trèo tường vào cung mở cửa cho ta'.

Người ấy vâng lệnh vua bèn trèo qua tường, vào cung mở cửa cho nhà vua. Vua vào xem xét trong cung, thấy giường nằm trống không chẳng có vương tử, bèn hỏi thể nữ:

- 'Vương tử Tu-bồ-

đề, hiện giờ ở đâu?'

Các thể nữ tâu:

- 'Chúng tôi cũng không biết vương tử ở

đâu'.

Vua Âm Hưởng nghe lời ấy, ngã xuống

đất giây lâu mới tỉnh. Vua b

èn bảo quần thần:

- 'Con ta khi còn nhỏ sang ý niệm rằng: 'Khi lớn lên sẽ cạo bỏ râu tóc, mặc ba pháp y, do lòng tin kiên cố xuất gia học

đạo'. Nay chắc vương tử đ

ã bỏ ta, xuất gia học

đạo. Các ông n

ên

đi bốn phía t

ìm kiếm vương tử xem ở

đâu'.

Tức thời quần thần cỡi xa mã rong ruổi nơi nơi tìm kiếm . Bấy giờ có một

đạo thần đi đến núi đó, giữa đường b

èn khởi nghĩ: 'Nếu vương tử Tu-bồ-

đề xuất gia học đạo, chắc sẽ ở đây học đạo'.

Ðại thần xa thấy vương tử Tu-bồ-

đề ngồi kiết-gi

à dưới một cội cây. Ðại thần ấy bèn nghĩ : 'Ðây chính là vương tử Tu-bồ-

đề'.

Ðại thần nhìn kỹ, quan sát rồi trở về chỗ vua tâu rằng :

- 'Vương tử Tu-bồ-

đề ở gần đây, ngồi kiết-gi

à dưới gốc cây trong núi'.

Vua Âm Hưởng nghe nói, liền

đi đến núi đó, xa thấy Tu-bồ-đề ngồi kiết-gi

à dưới gốc cây trong núi, vua lại ngã xuống

đất: 'Con ta khi xưa tự thệ nguyện đến năm hai mươi tuổi sẽ xuất gia học đạo; nay đ

ã không lầm. Lại Thiên

đế có bảo: 'Con

Ðại vương chắc sẽ học

đạo'.

Khi ấy vua Âm Hưởng

đến thẳng trước mặt Tu-bồ-đề bảo:

- 'Nay Con vì cớ gì bỏ ta mà xuất gia học

đạo?'

Bích-chi Phật im lặng không

đáp.

Vua lại bảo:

- 'Mẹ con rất lo buồn,

đợi gặp con mới ăn, n

ên

đứng l

ên

đi về

cung'.

Bích-chi Phật cũng không nói không rằng, ngồi im lặng. Vua Âm Hưởng bước tới nắm tay cũng không lay

động. Vua liền bảo quần thần:

- 'Vương tử

đ

ã chết. Trước

đây Thích-đề-ho

àn-nhân có

đến bảo ta rằng: '

Ðại vương

được con, nhưng sẽ xuất gia học đạo'. Nay vương tử xuất gia học đạo, nay n

ên

đem xá-lợi n

ày về cõi nước hoát mình'.

Ðang lúc chuẩn bị thiêu, các thần trong núi hiện nửa thân hình tâu nhà vua:

- 'Ðây là Phật Bích-chi, không phải là vương tử, pháp thiêu xá-lợi không phải như pháp thiêu vương tử. Vì sao thế? Tôi là

đệ tử cửa chư Phật quá khứ, chư Phật có dạy thế n

ày: Ở

đời có bốn hạng người n

ên xây tháp. Thế nào là bốn? Bậc Như Lai chí Chơn Ð

ăng Chánh Giác n

ên xây tháp; Bích-chi Phật nên xây tháp, bậc A-la-hán lậu tận,

đệ tử của Như Lai n

ên xây tháp, hàng Chuyển luân Thánh Vương nên xây tháp. Khi hỏa thiêu thân Chuyển luân Thánh vương cũng như hỏa thiêu thân Phật và thân Bích-chi Phật không khác'.

Vua Âm Hưởng hỏi Thiên:

- 'Nên cúng dường và hỏa thiêu thân Chuyển luân Thánh vương thế nào?'

Thọ thần bảo:

- 'Thân Chuyển luân Thánh vương nên làm kim quan bằng sát, dùng dầu thơm rửa thân Chuyển luân Thánh vương, rồi dùng vải trắng quấn quanh thân, vải gấm thêu bọc bên ngoài,

đặt v

ào kim quan,

đậy nắp quan bằng sắt, đóng đinh cẩn thận. Lại d

ùng một tr

ăm lớp vải trắng bao quanh kim quan, rưới các thứ nước thơm tr

ên chỗ

đất ấy kim quan đặt v

ào giữa, cúng dường hương hoa bảy ngày bảy

đ

êm, treo phan lọng,

đánh kỹ nhạc. Sau bảy ng

ày mới

đem thi

êu, nhặt xá-lợi rồi trải qua bảy ngày bảy

đ

êm cúng dường không ngớt. Xây tháp tại ngã tư

đường, d

ùng các thứ hương hoa, phan lọng cúng dường.

Ðại vương nên biết! Cúng dường xá-lợi của Chuyển luân Thánh vương, việc ấy như thế. Ðối với các

đức Phật, các vị Bích-chi Phật v

à A-la hán cũng lại như thế'.

Vua Âm Hưởng bảo Thiên thần:

- 'Do nhân duyên gì cúng dường thân Chuyển luân Thánh vương? Do nhân duyên gì cúng dường thân Phật, thân Bích-chi Phật, thân A-la hán?'.

Thiên thần bảo:

-Chuyển luân Thánh vương dùng cai trị, tự mình không sát sanh, lại dạy người khác không sát sanh; tự chẳng lấy trộm, lại dạy người khác không lấy trộm; tự mình không dâm dục, lại dạy người khác không xâm phạm vợ người; tự mình không nói dối, ỷ ngữ, ác khẩu, lưỡng thiệt khiến

đôi b

ên

đấu tranh, ganh ghét, sân, si; ý m

ình chuyên chánh, thường hánh chánh kiến, cũng khiến người khác tập theo chánh kiến. Ðại vương! Do nhân duyên này nên xây tháp thờ Chuyển luân Thánh vương'.

Vua lại hỏi Thiên thần.

- 'Do nhân duyên gì nên xây tháp

đối với bậc A-la hán lậu tận?'

Thiên thần bảo:

- 'Hàng Tỳ-kheo lậu tận A-la hán, dục ái

đ

ã dứt, sân nhuế ngu si

đ

ã trừ,

đ

ã vượt qua hữu lậu

đến chỗ vô vi, l

à ruộng tốt, bạn lành của thế gian. Do nhân duyên ấy nên xây tháp

đối với bậc A-la hán lậu tận'.

Vua lại hỏi:

- 'Do nhân duyên gì nên xây tháp

đối với đức Phật Bích-chi?'.

Thiên thần bảo:

- 'Ðức Bích-chi Phật không thầy tự ngộ, ra

đời rất hiếm; được pháp báo hiện tại ra khỏi đường ác, khiến người sanh c

õi Trời. Do nhân duyên ấy, nên xây tháp

đối với Bích- chi Phật'.

Vua lại hỏi:

- 'Do nhân duyên gì nên xây tháp cho Như Lai?'

Thiên thần bảo:

- 'Như Lai

đầy đủ mười lực. Mười lực n

ày chẳng phải Bích-chi, Thanh v

ăn sánh kịp, Chuyển luân Thánh vương không sánh kịp, hạng ngu si ở thế gian không sánh kịp. Như Lai với người không được độ khiến cho được độ, người không giải thoát khiến cho giải thoát, người chưa nhập Niết-

bàn khiến cho

được Niết-b

àn, che chở con người không ai cứu hộ, làm mắt cho người mù, làm bậc

đại y vương cho người đau. Trời, Người, Ma v

à Thiên ma

đều s

ùng phụng, rất

đáng kính đánh quý. Xoay nẻo ác th

ành

đường l

ành. Ðại vương! Do nhân duyên ấy nên xây tháp

đối với Như Lai.

Ðại vương! Do nhân duyên gốc ngọn này, mà

đối với bốn hạng người n

ên xây tháp'.

Vua Âm Hưởng bảo vị thần:

- 'Lành thay, lành thay, Thiên thần! Nay tôi vâng lời dạy khiến cúng dường xá-lợi này như cúng dường Bích-chi Phật.

Bấy giờ vua Âm Hưởng bảo mọi người:

- 'Các ông nên

đưa xá-lợi của đức Bích-chi phật Tu-bồ-đề về nước'.

Quần thần nghe lệnh vua rồi,

đưa thân Phật l

ên giường vàng trở về nước.

Khi ấy, vua Âm Hưởng ra lệnh làm kim quan, dùng dầu thơm tắm gội thân Bích-chi Phật, dùng vải trắng quấn quanh thân Phật, lại dùng gấm thêu tốt

đẹp phủ b

ên ngoài;

đặt thân v

ào kim quan,

đậy nắp sắt, đóng đinh thật chắc chắn, d

ùng tr

ăm lớp vải trắng bao quanh kim quan, rưới các hương thơm, đặt kim quan v

ào giữa; bảy ngày bảy

đ

êm cúng dường hương hoa, sau bảy ngày

đ

êm bén hỏa thiêu và nhặt xá-lợi của ngài; lại

đánh kỹ nhạc cúng dường th

êm bảy

đ

êm; nơi ngã tư

đường xây

tháp,

đem

hoa hương, tràng phan, lọng dù,

đánh kỹ nhạc để cúng dường tháp.

Tỳ-kheo nên biết! Nếu có chúng sanh nào cung kính cúng dường xá-lợi của Bích-chi Phật, sau khi mạng chng bèn sanh lên cõi trời Ba mươi ba. Có chúng sanh suy nghĩ về tưởng vô thường, sẽ vượt khỏi ba

đường ác, sanh trong c

õi Trời, Người.

Này các Tỳ-kheo! Các Thầy chớ thấy thế. Vua Âm Hưởng lúc ấy

đâu phải ai lạ, chính l

à thân Ta.

Người tư duy về tưởng vô thường

được nhiều lợi ích. Nay Ta quán sát nghĩa n

ày rồi, bảo các Tỳ-kheo nên suy nghĩ về tưởng vô thường, lưu bố rộng tưởng vô thường. Do suy nghĩ tưởng vô thường, lưu bố rộng tưởng vô thường, liền

được đoạn tận dục ái, sắc ái, vô sắc ái, vô minh ki

êu mạn vĩnh viễn không thừa sót; cũng như dùng lửa

đốt vỏ cây. Như trong giảng đường cao rộng tốt đẹp cửa nẻo mở rộng, không có vật g

ì. Tỳ-kheo tư duy về tưởng vô thường cũng lại như thế,

đoạn dứt dục ái, sắc ái, vô sắc ái, vĩnh viễn không thừa sót. Cho n

ên, các Tỳ-kheo nên

đem hết tâm ý đừng để trái mất.

Khi Phật nói pháp này, có sáu mươi Tỳ-kheo ngay tại chỗ

được lậu tận ý giải.

Bấy giờ, các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

4. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-

đ

à, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ, Phật bảo các Tỳ-kheo:

- Nếu các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni không

đoạn dứt năm điều ngăn che trong tâm, không trừ năm kết trong tâm th

ì Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni ấy trong

đ

êm ngày, với pháp lành diệt mà không t

ăng th

êm lợi ích.

Thế nào là Tỳ-kheo không

đoạn dứt năm điều ngăn che? Ở đây, Tỳ-kheo có tâm hồ nghi đối với Như Lai, không được giải thoát, không v

ào Chánh pháp, tâm người ấy không ở nơi tụng

đọc.

Ðó gọi là Tỳ-kheo không

đoạn dứt tâm ngăn

che.

Lại, Tỳ-kheo có tâm nghi

đối với Chánh pháp, cũng không giải thoát, không thâm nhập Chánh pháp, người ấy không đọc tụng.

Ðó gọi là Tỳ-kheo không

đoạn dứt tâm ngăn che.

Lại, Tỳ-kheo có tâm nghi

đối với Thánh chúng, cũng không

giàả thoát, không có ý hướng hòa hợp với chúng, cũng không ở trong pháp

đạo phẩm.

Ðó gọi là Tỳ-kheo không

đoạn dứt tâm ngăn che.

Lại nữa, Tỳ-kheo phạm cấm giới không tự hối quá,

đ

ã phạm cấm giới không tự sửa

đổi, cũng không để tâm v

ào trong

đạo phẩm.

Ðó gọi là Tỳ-kheo không

đoạn dứt tâm ngăn che.

Lại nữa, Tỳ-kheo tâm ý không

định m

à tu Phạm hạnh, nghĩ: 'Ta do

đức của Phạm hạnh được sanh c

õi Trời như các thần tiên'. Vì Tỳ-kheo ấy do tâm hạnh này tu Phạm hạnh nên tâm không chuyên chánh trong

đạo phẩm, tâm đ

ã không ở trong

đạo phẩm.

Ðó gọi là không

đoạn dứt điều ngăn che trong tâm.

Như thế gọi là Tỳ-kheo không

đoạn năm điều ngăn che trong tâm.

Thế nào gọi là Tỳ-kheo không

đoạn dứt trừ năm kết? Ở đây, Tỳ-kheo tâm giải đ

ãi không tìm cầu phương tiện. Tỳ Kheo ấy

đ

ã có giải

đ

ãi không tìm cầu phương tiện nên

đó gọi l

à Tỳ-kheo không

đoạn trừ tâm kết.

Lại nữa, Tỳ-kheo thường quên nhiều, tham ngủ nghỉ. Tỳ-kheo ấy do ưa quên nhiều, tham ngủ nghỉ nên gọi là Tỳ-kheo không

đoạn tâm kết thứ hai.

Lại nữa, Tỳ-kheo ý không

định, thường có nhiều rối loạn. Tâm Tỳ-kheo ấy đ

ã loạn, không

định n

ên gọi là Tỳ-kheo không

đoạn trừ tâm kết thứ ba.

Lại nữa, Tỳ-kheo c

ăn không định

. Tỳ kheo ấy

đ

ã c

ăn không định n

ên gọi là Tỳ-kheo không

đoạn trừ tâm kết thứ tư.

Lại nữa, Tỳ-kheo thường thích chỗ chợ búa, không ở chỗ vắng vẻ. Ðó gọi là Tỳ-kheo không

đoạn trừ tâm kết thứ năm.

Nếu Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni có n

ăm điều ngăn che trong tâm không dứt, năm kết trong tâm không trừ, Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni ấy trong đ

êm ngày pháp lành

đoạn tuyệt, không được tăng ích. Cũng như g

à mẹ có tám hoặc mười hai trứng, không tùy thời ấp ủ, s

ăn sóc, không t

ùy thời giữ gìn. Gà mẹ ấy tuy nghĩ rằng: 'Muốn các con

được an to

àn, không hư hại'. Song các gà con rốt cuộc không an ổn. Vì sao thế? Ðều do không tùy thời giữ gìn nên như vậy, sau trứng ấy bị hỏng không thành gà con. Ðây cũng như thế, nếu Tỳ-kheo, Tỳ-khèo-ni, n

ăm tâm kết không đoạn, năm tâm ngăn che không trừ, trong đ

êm ngày thiện pháp bị diệt không t

ăng ích. Nếu Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, tâm năm kết đoạn, tâm năm ngăn che trừ, trong đ

êm ngày pháp lành t

ăng ích không bị tổn giảm. Cũng như g

à có tám hoặc mười hai trứng, tùy thời giữ gìn, tùy thời s

ăn sóc, t

ùy thời ấp ủ. Dù cho gà mẹ có ý niệm: 'Muốn con ta hoàn toàn không thành tựu', các gà con tự nhiên thành tựu an ổn. Vì sao thế ? Vì tùy thời s

ăn sóc khiến được vô sự, khi ấy các g

à con

đúng lúc ra khỏi vỏ.

Ðây cũng như thế, nếu Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni n

ăm điều ngăn che trong tâm đoạn dứt, tâm năm kết trừ, Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni ấy ở trong đ

êm ngày pháp lành t

ăng ích, không tổn giảm.

Cho nên Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni nên phát sanh tâm không do dự hồ nghi

đối với Phật, không do dự

hồ nghi với Pháp, với chúng T

ăng, đầy đủ giới luật, tâm ý chuy

ên chánh không tán loạn, cũng không khởi ý trông mong pháp khác, cũng không cầu may mà tu Phạm hạnh, nghĩ rằng : 'Ta sẽ dùng pháp này

được thân Trời thần diệu tôn quý'.

Nếu có Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni không hồ nghi do dự

đối với Phật

, Pháp, Thánh chúng, cũng không phạm giới, không

để lọt mất; nay Ta bảo các

Thấy, c

ăn dặn phó chúc các Thầy rằng Tỳ-kheo ấy sẽ hướng đến hai đường hoạc sanh c

õi Trời hoặc trong loài Người. Cũng như người ở trong chỗ rất nóng, lại thêm

đói khát, gặp được chỗ mát mẻ, được suối mát, nước uống, người ấy tuy nghĩ rằng : 'Ta gặp nước trong mát để uống cũng không hết khát'. Nhưng người ấy đ

ã dứt hết nóng bức, trừ

được đói khát.

Ðây cũng như thế, nếu Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni không do dự hồ nghi

đối với Như Lai, Tỳ-kheo ấy liền hướng đến hai nơi, hoặc sanh c

õi Trời hoặc trong loài Người.

Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni nên tìm phương tiện

đoạn trừ năm điều ngăn che, dứt năm kết trong tâm. Như thế, n

ày các Tỳ-kheo, nên học

điều n

ày!

Bấy giờ, các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

5. Tôi nghe như vầy :

Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-

đ

à, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

- Có lúc uy thế của nhà vua không trùm khắp,

đạo tặc nổi l

ên. Ðạo tặc

đ

ã dấy thì thôn xóm, gia

đ

ình, thành ấp, nhân dân

đều bại vong, hoặc gặp đói khát m

à chết. Nếu chúng sanh nào chết trong lúc

đói khát, th

ì sẽ rơi vào ba

đường ác.

Nay Tỳ-kheo tinh tấn cũng lại như thế. Nếu người trì giới giảm thiểu, bấy giờ Tỳ-kheo ác nổi dậy. Tỳ-kheo ấy

đ

ã dấy lên thì Chánh pháp dần dần suy, phi pháp

đ

ã t

ăng, chúng sanh trong ấy đều rơi trong ba đường ác.

Nếu khi ấy uy thế nhà vua lại lan xa thì

đạo tặc đều ẩn núp. Uy thế nh

à vua

đ

ã vang xa thì làng xóm, thành ấp, nhân dân

đông đúc. Nay Tỳ-kheo tinh tấn cũng lại như thế. Nếu người tr

ì giới

đầy đủ th

ì bấy giờ Tỳ-kheo phạm giới giảm thiểu, Chánh pháp hưng thạnh, phi pháp suy giảm. Trong

đó, chúng sanh sau khi mạng chung đều sanh l

ên cõi Trời, cõi Người.

Cho nên, này các Tỳ-kheo, nên nhớ

đầy đủ giới luật, oai nghi lễ độ, đừng để khuyết giảm. Như thế, n

ày các Tỳ-kheo, nên học

điều n

ày!

Bấy giờ, các Tỳ-kheo nghe phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

6. Tôi nghe như vầy :

Một thời

đức Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đ

à, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

- Chẳng thà thường ngủ nghỉ chứ không ở trong lúc tỉnh táo tư duy loạn tưởng, thân hoại mạng chung rơi vào

đường ác. Chẳng th

à dùng dùi sắt nóng nung vào mắt chứ không do nhìn màu sắc mà khởi loạn tưởng. Tỳ-kheo khởi tưởng bị thức

đánh bại, Tỳ-kheo đ

ã bị thức

đánh bại, ắt sẽ rơi v

ào ba

đường ác địa ngục,

ngạ quỷ, súc sanh. Vì vậy nay Ta nói như thế.

Người ấy thà ngủ nghỉ chứ không ở trong lúc tỉnh táo mà tư duy loạn tưởng. Thà dùng dùi bén

đâm lủng lỗ tai chứ không v

ì nghe tiếng mà khởi loạn tưởng. Tỳ-kheo khởi tưởng bị thức

đánh bại.

Thà thường ngủ nghỉ chứ không ở trong lúc tỉnh táo mà khởi loạn tưởng. Thà dùng kềm nóng làm

đứt lỗ mũi chứ không do ngửi m

ùi, mà khởi loạn tưởng. Tỳ-kheo khởi tưởng bị thức

đánh bại.

Ðã bị thức

đánh bại sẽ

rơi trong ba

đường ác địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh.

Ðiều Ta nói chính là

điều n

ày.

Thà dùng kiếm bén cắt

đứt lưỡi chứ không nói lời ác, mắng chửi để rơi trong ba đường ác địa ngục,

ngạ quỷ, súc sanh.

Thà thường ngủ nghỉ chứ không ở lúc tỉnh táo mà khởi loạn tưởng. Thà dùng lá

đồng nóng quấn thân chứ không giao tiếp với các người nữ, trưởng giả, cư sĩ, B

à-la-môn. Nếu cùng họ giao tiếp nói n

ăng qua lại, ắt sẽ rơi trong ba đường ác địa ngục,

ngạ quỷ, súc sanh. Ðiều Ta nói chính là

điều

này

Thà thường ngủ nghỉ chứ không ở lúc tỉnh táo mà có ý tưởng muốn phá hoại Thánh chúng. Ðã phá hoại Thánh chúng sẽ phạm vào tội n

ăm nghịch, d

ù ngàn ức chư Phật cũng không thể cứu. Phàm người gây rối loạn trong chúng, ắt sẽ bị tội không thể cứu. Cho nên nay Ta nói, chẳng thà hay ngủ nghỉ chứ không nên khi tỉnh táo, ý khởi niệm muốn phá hoại Thánh chúng, chịu tội không thể cứu.

Cho nên, này Tỳ-kheo, nên giữ gìn sáu tình,

đừng để rơi mất. Như thế, n

ày các Tỳ-kheo, nên học

điều n

ày!

Bấy giờ, các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

7. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-

đ

à, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ, trưởng giả A-na-bân-

để có bốn con trai không thừa sự Phật, Pháp, Thánh chúng, cũng chẳng tự quy mạng Phật, Pháp, Thánh chúng. Lúc ấy trưởng giả A-na-bân-để bảo bốn con trai:

- Các con nên tự quy y Phật, Pháp, Thánh chúng, sẽ

được phước vô lượng lâu d

ài.

Các con thưa cha:

- Chúng con không kham quy y Phật, Pháp, Thánh chúng.

Trưởng giả A-nê-bân-

để nói:

- Nay ta sẽ tặng mỗi con ngàn lượng vàng, nếu theo lời ta dạy quy y Phật, Pháp, Thánh chúng.

Các con thưa:

- Con không kham quy y Pháp, Phật, Thánh chúng.

Cha lại bảo:

- Cha tặng thêm mỗi con hai ngàn, ba ngàn, bốn ngàn, n

ăm ng

àn lượng vàng. Các con nên tự quy y hật, Pháp, Thánh chúng,

được phước vô lượng lâu d

ài.

Các con nghe lời, im lặng nhận chịu. Các người con nói với trưởng giả A-na-bân-

để:

- Chúng con làm thế nào

để tự quy y Phật, Pháp, Thánh chúng?

Trưởng giả A-na-bân-

để nói:

- Các con nên theo ta

đến chỗ đức Thế Tôn. Nếu Thế Tôn có dạy bảo, các con n

ên ghi nhớ vâng theo.

Các con thưa cha:

- Ðức Như Lai hiện nay ở

đâu? Gần hay xa?

Người cha bảo:

- Nay

đấng Như Lai Chí Chơn

Ð

ăng Chánh Giác hiện tại ở nước Xá-vệ, nghỉ trong vườn của ta.

Khi ấy, Trưởng giả A-na-bân-

để dẫn bốn người con đến chỗ đức Thế Tôn, đến nơi cúi đầu lễ chân Phật, lui ngồi một b

ên. Trưởng giả bạch Phật:

- Nay bốn người con của con không tự quy y Phật, Pháp, Thánh chúng. Hôm nay con tặng mỗi

đứa năm ng

àn lượng vàng, khuyến khích chúng vâng theo Phật, Pháp, Thánh chúng. Cúi xin Thế Tôn vì chúng thuyết pháp, khiến

được phước vô lượng lâu d

ài.

Bấy giờ, Thế Tôn vì bốn người con của trưởng giả, dần dần thuyết pháp khuyến khích cho hoan hỷ. Các con của trưởng giả nghe Phật thuyết pháp vui mừng phấn khởi không thể tự kềm, tự quỳ trước Phật, bạch rằng:

- Chúng con tự quy y với Thế Tôn, Chánh pháp, Thánh chúng. Từ nay về sau chúng con không còn sát sanh,... không uống rượu.

Bạch như thế ba lần. Trưởng giả A-na-bân-

để bạch Thế Tôn:

- Nếu có người

đem t

ài vật cho người, khiến thừa sự Phật. Phước ấy thế nào?

Thế Tôn bảo:

- Lành thay, lành thay! Trưởng giả hỏi như thế khiến người, Trời

được an lạc, mới có thể hỏi Như Lai nghĩa n

ày. Nên khéo suy nghĩ

đó, Ta sẽ v

ì Ông nói:

Trưởng giả nghe lời Phật dạy. Thế Tôn bảo:

- Có bốn kho tàng lớn. Thế nào là bốn? Kho Thi-la-bát-long tại nước Càn-

đ

à-vệ,

đây

là một kho tàng, vô số trân bảo chất

đầy trong cung. Lại có kho t

àng lớn ban-trù tại nước Mật-

để-la, chứa chất trân bảo không thể tính kể. Lại có kho lớn Tần-gi

à-la tại nước Tu-lại-sát, trân bảo tích tụ không thể tính kể. Lại có kho lớn Nhượng-khư tại nước Ba-la-nại, trân bảo tích tụ không thể tính kể.

Giả sử tất cả các nam nữ lớn nhỏ trong cõi Diêm-phù-

đề mỗi người đều đến nhặt châu báu trong bốn năm, bốn tháng, bốn ng

ày, kho Thi-la-bát trọn không giảm sút. Kho Ban-trù có người cũng

đến lấy trong bốn năm, bốn tháng, bốn ng

ày, không hao giảm. Kho Tần-già-la bốn n

ăm, bốn tháng, bốn ng

ày mọi người

đến lấy cũng không hao giảm. Kho lớn Nhượng-khư tại nước ba-la-nại, mọi người đến lấy trong bốn năm, bốn tháng, bốn ng

ày không hề sút giảm. Trưởng giả! Ðó là bốn kho tàng lớn, nếu tất cả mọi nam nữ lão ấu của Diêm-phù-

đề đều đến lấy châu báu, trải qua bốn năm, bốn tháng, bốn ng

ày, không hề giảm thiểu.

Về

đời tương lai có đức Phật t

ên Di-lặc xuất hiện. Bấy giờ cõi nước tên Kê Ðầu do vua cai trị, chiều Ðông Tây mười hai do-tuần, chiều Nam Bắc mười hai do-tuần, nhân dân

đông đảo, lúa thóc

phì nhiêu. Cõi nước Kê-Ðầu, chung quanh thành bảy lớp ao nước, mỗi ao rộng một do-tuần, cát vàng dưới

đáy, các lo

ài hoa bát-

đấu-na, hoa câu-vật-đầu, hoa phân-đ

à-lợi

đều mọc trong ao ấy. Nước ao m

àu vàng, màu bạc, màu thủy tinh, màu lưu ly. Nếu nước màu bạc thì ngưng

đọng hóa th

ành bạc, nước màu vàng thì ngưng

đọng hóa

thành vàng, nước màu lưu ly thì ngưng

đọng hóa th

ành lưu ly, nước màu thủy tinh thì ngưng

đọng

hóa thành thủy tinh.

Trưởng giả nên biết! Bấy giờ có bốn thành lớn, trong ao nước bạc làm cửa vàng, trong ao nước vàng làm cửa bạc, trong ao lưu ly làm cửa thủy tinh, trong ao thủy tinh làm cửa lưu ly.

Trưởng giả nên biết! Bấy giờ chung quanh thành Ke-Ðầu treo linh, tiếng linh phát ra nghe như tiếng ngũ nhạc. Trong thành ấy thường có bảy thứ tiếng. Thế nào là bảy? Tiếng loa, tiếng trống, tiếng

đờn cầm, tiếng trống nhỏ, tiếng trống tr

òn, tiếng trống da, tiếng ca múa là bảy.

Trong thành Kê-Ðầu tự nhiên sanh một loại lúa dài ba tấc, rất thơm ngon có vị thù thắng hơn hết, vừa gặt liền sanh, không thấy dấu gặt. Bấy giờ có vua Nhượng-khư, dùng pháp cai trị, bảy báu

đầy đủ.

Trưởng giả nên biết! Bấy giờ

đại thần chủ tạng t

ên là Thiện Bảo, cao

đức trí tuệ thi

ên nhãn thứ nhứt, biết hết thảy tất cả kho tàng báu, kho tàng có chủ thì tự nhiên giữ gìn, kho tàng vô chủ liền

đem dâng vua. Khi ấy vua rồng Thi-la-bát, vua rồng Ban-tr

ù, vua rồng Tần-già-la, vua rồng Nhượng-khư. Bốn quan chủ báu của các vua rồng trên

đều đi đến chỗ quan chủ tạng Thiện Bảo, m

à nói rằng:

- 'Nếu cần gì, chúng tôi sẽ cung cấp'

Khi ấy, bốn vua rồng nguyện dâng bốn kho tàng báu

để cho đầy

kho, quan chủ tạng Thiên Bảo liền lấy bốn kho báu dâng lên vua Nhượng-khư, châu báu, xe báu, vàng bạc tầng tầng.

Bấy giờ, Thế Tôn bèn nói kệ:

Thi-la, tại Càn-

đ

à

Ban-trù, tại Mật-

để

Tần-già nước Tu-lại.

Nhượng-khư, nước Ba-nại.

Ðây là bốn kho báu,

Các kho tàng

đầy dẫy,

Lúc ấy liền xuất hiện,

Do công

đức cảm n

ên.

Dâng lên bậc Thánh vương,

Vàng, bạc, báu, xe báu

Các thần

đều ủng hộ

Trưởng giả thọ phước ấy.

Bấy giờ có Phật xuất thế hiệu Di-lặc, Chí Chơn Ðẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian giải, Vô Thượng sĩ, Ðiều Ngự Trượng phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Trưởng giả nên biết! Quan chủ tạng Thiện Bảo khi

đó đâu phải người n

ào lạ. Chớ nghĩ thế ấy, Vì xao? Quan chủ tạng ấy là trưởng giả hiện nay.

Thuở ấy, vua Nhượng-khư dùng vàng bạc làm việc phước

đức rộng r

ãi, cùng tám vạn bốn ngàn

đại thần vây quanh trước sau, đến chỗ đức

Phật Di-lặc xuất gia học

đạo. Khi đó quan chủ tạng cũng l

àm việc phước

đức rộng lớn, cũng sẽ xuất gia học đạo chấm dứt mé khổ

. Ðấy là do trưởng giả hướng dẫn bốn người con khiến tự quy Phật, Pháp, Tỳ-kheo T

ăng; do công đức n

ày mà không rơi trong ba

đường ác, cũng duy

ên nơi

đức n

ày

được bốn kho t

àng lớn; cũng do duyên này mà làm quan chủ tạng cho vua Nhượng-khư, ngay nơi

đời ấy chấm dứt mé khổ. V

ì sao thế? Quy y Phật, Pháp, T

ăng công đức không thể lường. Người tự quy y phật, Pháp, Tăng được phước ấy như thế.

Cho nên, này trưởng giả, nên thương xót loài hữu tình, tìm phương tiện hướng về Phật, Pháp, T

ăng . Như thế, Trưởng giả, n

ên học

điều n

ày.

Bấy giờ, trưởng giả A-na-bân-

để hoan hỷ vui mừng không thể tự kềm,

liền từ chỗ ngồi

đứng dậy, nhiễu quanh Phật ba v

òng làm lễ rồi lui ra. Bốn người con cũng lại như thế .

Bấy giờ, trưởng giả A-na-bân-

để v

à bốn người con nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

8. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-

đ

à, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ, trưởng giả A-na-bân-

để

thân có bệnh nặng. Khi ấy, Tôn giả Xá-lợi-phất dùng thiên nhãn thanh tịnh trong suốt, thấy trưởng giả A-na-bân-

để đau nặng, liền bảo Tôn giả A-nan:

- Thầy

đi với tôi đến chỗ trưởng giả A-na-bân-để thăm hỏi.

A-nan

đáp:

- Nên biết

đúng thời.

Bấy giờ, A-nan

đến thời đắp

y mang bát vào thành Xá-vệ khất thực, lần lượt

đến nh

à trưởng giả A-na-bân-

để v

à vào tòa ngồi. Xá-lợi-phất ngồi trên tòa, hỏi trưởng giả A-na-bân-

để:

Hôm nay bệnh của ông t

ăng hay giảm? Sự đau đớn có giảm bớt dần không? Tăng th

êm không?

Trưởng giả thưa:

Nay bệnh của con có giảm rất ít, chỉ t

ăng chứ không giảm.

Xá-lợi-phất bảo:

- Như vậy, nay Trưởng giả nên nhớ

đến Phật, l

à bậc Như Lai Chí Chơn Ðẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện thệ, Thế Gian Giải, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn; cũng nên nghĩ nhớ Pháp, Pháp của Như Lai rất là thâm sâu,

đáng tôn đáng quý, không g

ì sánh bằng, là chỗ tu hành của Thánh chúng, cũng nên nhớ nghĩ

đến Tăng chúng, chúng của Như Lai tr

ên dưới thuận hòa, không tranh cãi, thành tựu các pháp. Thánh chúng giới thành tựu, tam muội thành tựu, trí tuệ thành tựu, giải thoát thành tựu, giải thoát tri kiến thành tựu. T

ăng l

à các vị bốn

đôi tám bậc.

Ðây gọi là Thánh chúng của Như Lai

đáng tôn đáng quý, l

à phước

điền vô thượng của thế gian. Trưởng giả! Nếu tu h

ành niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tang,

đức ấy không thể tính kể, được vị cam lồ diệt tận. Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân nghĩ nhớ ba ngôi báu Phật, Pháp, Thánh chúng rồi m

à rơi vào ba

đường ác th

ì trọn không có lý ấy. Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhơn tu niệm ba ngôi báu, ắt sẽ

đến chỗ l

ành trong cõi Trời, cõi Người.

Lại nữa, Trưởng giả! Chớ khởi tưởng về sắc, cũng

đừng y cứ sắc m

à khởi thức. Chớ khởi về thanh,

đừng y cứ v

ào thanh mà khởi thức. Chớ khởi về hương,

đừng

y cứ vào hương mà khởi thức. Chớ khởi về vị,

đừng y cứ v

ào vị mà khởi thức. Chớ khởi xúc giác,

đừng y cứ v

ào xúc mà khởi thức. Chớ khởi ái,

đừng y cứ

vào ái mà khởi thức. Vì sao thế? Vì duyên ái có thọ, duyên thọ có thủ, duyên thủ có hữu, duyên hữu có sanh tử, ưu bi khỗ não không thể tính kể. Ðây là, có n

ăm thạnh ấm khổ n

ày, không có ngã, nhơn, thọ mạng, sĩ phu, mầm móng của loài hữu tình.

Nếu khi mắt khởi, thời không biết chỗ

đến, nếu mắt diệt thời diệt, không biết chỗ đi. Từ không mắt sinh, mắt có rồi mắt diệt, đều do các pháp nhân duy

ên hội họp. Pháp nhân duyên nghĩa là duyên

đây m

à có

đây, không đây th

ì ắt không. Ðó là vô minh duyên hành, hành duyên thức, thức duyên danh sắc, danh sắc duyên lục nhập, lục nhập duyên xúc, xúc duyên thọ, thọ duyên ái, ái duyên thủ, thủ duyên hữu, hữu duyên sanh, sanh duyên tử, tử duyên ưu bi khổ não không tính kể. Tai, mũi, lưỡi, thân, ý cũng lại như vậy. Không có mà sanh, có rồi thì diệt; cũng không biết chỗ

đến, cũng không

biết chỗ

đi;

đều do các pháp nhân duy

ên hội họp. Này Trưởng giả! Ðây gọi là hành không, pháp

đệ nhất.

Bấy giờ Trưởng giả A-na-bân-

để buồn khóc rơi lệ không ngừng. Tôn giả Xá-lợi-phất hỏi:

- Vì sao buồn khóc như thế?

Trưởng giả thưa:

- Con bị cảm vì từ xưa

đến nay, con thừa sự đức Phật, v

à tôn kính chư Tỳ-kheo trưởng lão, cũng chưa

được nghe pháp tôn trọng như thế, như lời chỉ dạy của Tôn giả Xá-lợi-phất.

Khi ấy, tôn giả A-nan bảo A-na-bân-

để:

- Trưởng giả nên biết! Như Lai có dạy, thế gian có hai hạng người. Thế nào là hai? Một là biết vui, hai là biết khổ. Người tập vui là Tôn giả Da-du-

đề (Tu-bồ-đề) con nh

à hào tộc. Người tập khổ là Tỳ-kheo Bà-già-lê.

Lại này Trưởng giả! Tỳ-kheo Tu-bồ-

đề giải không đệ nhất. Người được tín giải thoát l

à Tỳ-kheo Bà-già-lê. Này Trưởng giả! Người biết khổ, người biết vui, cả hai người tâm

đều giải thoát, cả hai đều l

à

đệ tử của Như Lai, không ai bằng. Do hai vị ấy không chết, không sanh, hai người si

êng n

ăng vâng lời Phật dạy không lười nhác bỏ qua. Chỉ v

ì tâm có t

ăng giảm, n

ên có người biết, người không biết. Như lời Trưởng giả nói: 'Con từ xưa

đến nay thừa sự Phật, cung kính chư Tỳ-kheo trưởng l

ão, ban

đầu chưa nghe được pháp tôn trọng như thế, như lời Tôn giả Xá-lợi-phất nói'. Tỳ-kheo Tu-bồ-đề quán sát nơi đất m

à tâm

được giải thoát. Tỳ-kheo B

à-già-lê quán sát nơi

đạo tức thời tâm được giải thoát. Cho n

ên, này Trưởng giả, nên làm như Tỳ-kheo Bà-già-lê.

Khi ấy, Tôn giả Xá-lợi-phất thuyết pháp rộng cho Trưởng giả, khuyến khích khiến ông hoan hỷ, khiến phát tâm vô thượng. Xong rồi Tôn giả rời tòa

đi.

Tôn giả Xá-lợi-phất và Tôn giả A-nan

đi chưa bao lâu, giây lát trưởng giả A-na-bân- để mạng chung, liền sanh l

ên cõi trời Ba mươi ba. Khi ấy, Thiên tử A-na-bân-

để có được năm công đức hơn các chư Thi

ên. Thế nào là n

ăm? L

à tuổi thọ trời, sắc

đẹp trời, niềm vui trời, oai thần trời, ánh sáng trời. Thi

ên tử A-na-bân-

để b

èn khởi niệm: 'Nay ta

được thân trời n

ày

đều do ân đức của Như Lai. Nay ta không n

ên vui chơi trong ngũ dục, trước hết nên

đến chỗ Thế Tôn quỳ lạy hỏi thăm'.

Thiên tử A-na-bân-

để dẫn chư Thi

ên vây quanh trước sau,

đem các hoa trời rải

trên thân Phật. Khi ấy

đức Phật đang ở tại nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đ

à, vườn Cấp cô Ðộc, thiên tử ấy ở trên hư không chấp tay hướng về

đức Phật, v

à nói kệ:

Ðây là vườn Kỳ-hoàn,

Chúng tiên nhơn vui chơi,

Chỗ Pháp vương ngự trị,

Nên phát tâm vui mừng.

Thiên tử A-na-bân-

để nói kệ xong, đức Như Lai im lặng hứa khả, Thi

ên tử ấy bèn nghĩ: 'Như Lai

đ

ã mặc nhiên hứa khả, ta nên cả thần túc, ngồi một bên'. Thiên tử A-na-bân-

để bạch Phật:

- Con là Tu-

đạt, cũng có t

ên là A-na-bân-

để mọi người biết

rõ, là

đệ tử của Như Lai, vâng lời dạy tôn thánh, nay mạng chung sanh l

ên trời Ba mươi ba.

Thế Tôn bảo:

- Ông do ân

đức g

ì nay

được thân Trời n

ày?

Thiên tử bạch Phật:

- Nhờ oai lực của Thế Tôn,

được thọ thân Trời.

Thiên tử A-na-bân-

để lại d

ùng hoa trời rải trên thân Như Lai, cũng rải trên A-nan và Xá-lợi-phất,

đi nhiễu quanh tinh xá Kỳ-ho

àn bảy vòng, rồi ẩn không hiện.

Sáng ngày, Thế Tôn bảo A-nan:

- Ðêm qua, có Thiên tử

đến chỗ Ta, nói kệ:

Ðây là vườn Kỳ hoàn,

Chúng tiên nhơn vui chơi,

Chỗ Pháp vương ngự trị,

Nên phát tâm vui mừng.

Thiên tử ấy

đi nhiễu quanh vườn Kỳ-ho

àn bảy vòng rồi

đi. A-nan! Thầy biết Thi

ên tử ấy ch

ăng?

A-nan bạch Phật:

- Chắc là Trưởng giả A-na-bân-

để.

Phật bảo:

- Như lời Thầy nói. Lành thay! Thầy có thể dùng trí vi tri mà biết

được thi

ên tử ấy. Vì sao? Ðó là Thiên tử A-nan-bân-

để.

A-nan bạch Phật:

- A-na-bân-

để nay sanh c

õi trời tên là gì?

Phật bảo:

- Cũng tên A-na-bân-

để. V

ì sao thế? Ngay hôm Thiên tử ấy sanh, chư thiên ai cũng nói: 'Thiên tử này khi ở cõi Người là

đệ tử của Như Lai, thường đem tâm b

ình

đẳng bố thí tất cả, cứu giúp kẻ c

ùng khổ thiếu thốn; làm công

đức ấy rồi, nay l

à vị Trời ở cõi Ba mươi ba'. Vì thế này theo

đó, tặng cho t

ên A-na-bân-

để.

Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

- Tỳ-kheo A-nan có công

đức lớn, th

ành tựu trí tuệ. Tỳ-kheo A-nan hiện ở

địa vị hữu học m

à trí tuệ không ai bằng. Vì sao thế? Ðiều mà trí tuệ của A-la-hán biết, A-nan cũng biết. Những

điều n

ên học từ chư Phật quá khứ, A-nan

đều biết r

õ. Thời quá khứ có người vừa nghe liền biết rõ, như Tỳ-kheo A-nan của Ta hiện nay nhìn qua liền biết Như Lai cần

điều n

ày, không cần

điều n

ày. Ðệ tử của chư Phật quá khứ nhập

định mới biết được việc chưa r

õ; ngày nay, Tỳ-kheo A-nan của Ta, vừa quán sát liền biết rõ.

Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

- Trong hàng Thanh v

ăn của Ta, người học rộng biết nhiều, có sức d

õng mãnh, tinh tấn, ý niệm không tán loạn,

đa văn đệ nhất, kham nhậm l

àm việc là Tỳ-kheo A-nan.

Bấy giờ, các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

9. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở tại nước Xá-vệ, rừng Kỳ-

đ

à, vườn Cấp Cô Ðộc.

Khi ấy, trưởng giả A-na-bân-

để có con dâu t

ên Thiện Sanh, dung mạo

đoan chánh, mặt như sắc hoa đ

ào, là con gái quan

đại thần của vua Ba-tư-nặc. N

àng ấy ỷ vào dòng họ, cậy gia thế vọng tộc, không cung kính mẹ chồng và chồng, cũng không thừa sự Phật, Pháp, Tỳ-kheo T

ăng, cũng không kính phụng Ba ngôi báu.

Bấy giờ, trưởng giả A-na-bân-

để đi đến chỗ Thế Tôn, cúi đầu lễ chân Phật lui ngồi một b

ên. Trưởng giả bạch Phật:

- Con vừa cưới vợ cho con trai của con, cô ấy là con gái quan

đại thần đệ nhất của vua Ba-tư-nặc, tự ỷ thị d

òng họ vọng tộc mà không thừa tự Ba ngôi báu, trưởng lão tôn ti. Cúi xin Thế Tôn thuyết pháp cho con dâu ấy, khiến phát tâm hoan hỷ, mở rộng tâm ý.

Thế Tôn im lặng nhận lời. Trưởng giả lại bạch Phật:

- Cúi xin Thế Tôn nhận lời con thỉnh cùng chúng Tỳ-kheo T

ăng.

Trưởng giả thấy Như Lai

đ

ã im lặng thọ thỉnh, liền rời chỗ ngồi lễ Phật, nhiễu quanh ba vòng rồi

đi. Trở về nh

à, trưởng giả sắp

đặt các thức ăn uống; trải nệm ngồi tốt đẹp v

à

đến bạch Phật.

- Ðúng thời, cúi xin Thế Tôn nhận lời con thỉnh. Thức

ăn uống đ

ã

đủ.

Thế Tôn dẫn chúng Tỳ-kheo vây quanh trước sau

đến nh

à trưởng giả, vào chỗ ngồi. Trưởng giả lại

đem ghế nhỏ ngồi trước Như Lai. Thế Tôn bảo n

àng Thiện Sanh:

- Này Trưởng giả nữ! Nên biết làm vợ có bốn cách. Thế nào là bốn? Có người vợ như mẹ, có người vợ như bạn thân, có người vợ như giặc, có người vợ như nô tỳ.

Nay Cô nên biết! Vợ như mẹ là tùy thời ch

ăm sóc chồng, không để cho thiếu thốn, thừa sự cúng dường. Người ấy được sự ủng hộ của chư Thi

ên, dù Nhân hay Phi nhân không hại

được, chết được sanh c

õi trời. Ðây gọi là người vợ như mẹ.

Thế nào là vợ như bạn thân? Này Trưởng giả nữ! Thấy chồng mà không có tâm t

ăng giảm, c

ùng chung khổ vui.

Đó l

à người vợ như bạn thân.

Thế nào là vợ như giặc? Này Trưởng giả nữ! Nếu thấy chồng bèn ôm lòng sân giận, ghét chồng, không thừa sự cung kính lễ bái, thấy chồng mà muốn hại, tâm

để nơi người khác, chồng không thân với vợ, vợ không thân với chồng, không được người ái kính, chư Thi

ên không ủng hộ, ác quỷ xâm hại, thân hoại mạng chung rơi vào

địa ngục; đó gọi l

à người vợ như giặc.

Thế nào gọi là vợ như nô tỳ? Ở

đây, người vợ trinh lương, thấy chồng b

èn tùy thời s

ăn sóc, nhẫn nhịn lời nói không trả lời lại, nhẫn nại sự lạnh khổ, thường có l

òng từ;

đối với Ba ngôi báu cũng sanh ý niệm rằng: 'Ba ngôi báu c

òn, ta còn, Ba ngôi báu mất, ta mất'. Do việc này người ấy

được chư Thi

ên ủng hộ, dù Người hay Phi nhân

đều thương tưởng nghĩ nhớ, khi chết sanh c

õi lành, trên trời.

Này Trưởng giả nữ! Ðó là bốn hạng vợ, nay Cô ở vào hạng vợ nào?

Nàng ấy nghe lời Phật dạy, liền

đến trước lễ Phật, bạch rằng:

- Cúi xin Thế Tôn! Nay con sửa

đổi lỗi cũ, không dám phạm. Từ nay về sau con thường l

àm pháp lễ

độ như nô tỳ.

Khi ấy, nàng Thiện Sanh trở lại chỗ chồng, cúi

đầu lễ, nguyện săn sóc chồng như nô tỳ đối với chủ. N

àng Thiện Sanh lại

đến chỗ Phật, cúi lạy lui ngồi một b

ên.

Ðức Thế Tôn dần dần thuyết pháp cho nàng, nói về luận bố thí, luận giới, luận sanh thiên, ái dục là tưởng bất tịnh, dâm dục là nhơ uế lớn. Thế Tôn biết nàng

đ

ã mở rộng tâm , bèn nói về pháp mà các

đức Phật thường nói: Khổ, Tập, Diệt,

Ðạo,

đức Phật nói hết cho n

àng. Nàng ấy liền tại chỗ ngồi

được pháp nh

ãn tịnh. Cũng như chiếc áo mới dễ nhuộm màu,

đây cũng vậy, n

àng ấy phân biệt các pháp khéo hiểu nghĩa thâm diệu, tự quy y Ba ngôi báu, thọ ngũ giới.

Bấy giờ nàng Thiện Sanh nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

10. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở tại nước Xá-vệ, rừng Kỳ-

đ

à, vườn Cấp Cô Ðộc.

Khi ấy, Tôn giả Xá-lợi-phất

đến chỗ Thế Tôn, cúi lạy lui ngồi một b

ên, giây lát sau rời chỗ ngồi, bạch Phật:

- Thế Tôn thường khen hào tộc cao quý, không nói

đến thấp h

èn. Song, bạch Thế Tôn, con không khen tôn quý không nói thấp hèn, chỉ nói với hàng trung lưu khiến

được xuất gia học đạo.

Phật bảo Tôn giả Xá-lợi-phất:

- Thầy tự nói rằng không khen hàng tôn quý, không nói thấp hèn, chỉ nói hàng trung lưu

được xuất gia học đạo. Nhưng nay Ta không nói về nơi thọ sanh thượng, trung, hạ. V

ì sao thế? Phàm thọ sanh là rất khổ, không

đủ mong muốn. Như đống phân kia kia chút ít c

òn rất hôi huống gì nhiều; nay sự thọ sanh cũng lại như vậy, một

đời hai đời c

òn khổ nạn, huống gì lưu chuyển mãi mãi mà có thể cam chịu. Do hữu có sanh, do sanh có lão, do lão có bệnh có tử, lo buồn khổ não, có gì

đáng tham ưa, b

èn thành thân ngũ thạnh ấm. Nay Ta quán sát nghĩa này mà nói như thế. Một

đời hai đời c

òn khổ nạn, huống gì lưu chuyển mãi mãi mà có thể cam chịu.

Này Xá-lợi-phất! Nếu có ý muốn thọ sanh, nên phát nguyện sanh trong gia

đ

ình hào quý, không sanh nơi ty tiện. Vì sao thế? Chúng sanh bị tâm ràng buộc lâu dài, chứ không bị hào tộc ràng buộc. Này Xá-lợi-phất! Như Ta ở trong gia

đ

ình hào quý, là dòng Sát-lợi Chuyển luân Thánh vương, nếu như Ta không xuất gia học

đạo th

ì sẽ làm vua Chuyển luân. Nay Ta bỏ

địa vị Chuyển quân Thánh vương, xuất gia học đạo th

ành

đạo Vô Thượng. C

òn nếu sanh trong nhà thấp hèn, không

được xuất gia học đạo th

ì trở lại bị rơi trong

đường ác.

Cho nên, Xá-lợi-phất! Nên tìm phương tiện hàng phục tâm. Như thế, Xá-lợi-phất, nên học

điều n

ày!

Bấy giờ Tôn giả Xá-lợi-phất nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

LII. Phẩm

Đại Ái Đạo

nhập Niết Bàn

1. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở nước Tỳ-xá-ly, giảng

đường Phổ Hội, c

ùng với chúng

đại Tỳ-kheo năm trăm người câu hội.

Bấy giờ, bà Ðại Ái Ðạo

đang ở trong th

ành Tỳ-xá-ly, chùa Cao Ðài, cùng với chúng

đại Tỳ-kheo-ni năm trăm người câu hội, đều l

à bậc A-la-hán, các lậu

đ

ã hết. Bà Ðại Ái Ðạo nghe các Tỳ-kheo nói: 'Như Lai không bao lâu sẽ diệt

độ, không quá ba tháng sẽ Niết-b

àn tại Sa-la song thọ, xứ Câu-thi-na-kiệt'. Bà liền nghĩ: 'Ta không kham nhìn thấy Như Lai diệt

độ. Nay ta n

ên diệt

độ trước'. B

à Ðại Ái Ðạo

đi đến chỗ Thế Tôn, cúi dạy lui ngồi một b

ên. Bà

đến trước bạch Phật:

- Con nghe Thế Tôn không bao lâu sẽ diệt

độ, không quá ba tháng sau, tại xứ Câu-thi-na-kiệt, khoảng rừng Sa-la song thọ. Nay con không kham thấy Thế Tôn v

à A-nan diệt

độ. Cúi xin Thế Tôn cho phép con diệt độ trước.

Khi ấy Thế Tôn im lặng hứa khả.

Bà Ðại Ái Ðạo lại bạch Phật:

- Từ nay về sau cúi xin Thế Tôn cho các Tỳ-kheo-ni thuyết giới.

Phật bảo:

- Nay Ta có phép Tỳ-kheo-ni cùng với Tỳ-kheo-ni thuyết giới. Những giới cấm do Như Lai chế ra

đừng để sai phạm.

Khi ấy, bà Ðại Ái Ðạo làm lễ dưới chân Phật, và

đứng trước Phật, b

à lại bạch Phật:

- Hôm nay con không còn thấy lại tôn nhan của Như Lai, cũng không thấy chư Phật tương lai, không còn tái sanh, vĩnh viễn ở chỗ vô vi. Ngày nay con xa lìa thánh nhan, vĩnh viễn không thấy lại.

Bà Ðại Ái Ðạo

đi nhiễu quanh Phật bảy v

òng, cũng

đi nhiễu quanh Tôn giả A-nan bảy v

òng,

đi nhiễu quanh hết chúng Tỳ-kheo rồi lui đi. B

à trở về trong chúng Tỳ-kheo-ni bảo các Tỳ-kheo-ni:

- Nay ta muốn vào Niết-bàn vô vi. Vì sao thế? Như Lai chẳng bao lâu sẽ diệt

độ, các vị n

ên tùy nghi mà hành

động.

Khi ấy Tỳ-kheo-ni Sai-ma, Tỳ-kheo-ni Ưu-bát-sắc, Tỳ-kheo-ni Cơ-lợi-thi, Tỳ-kheo-ni Xá-cừu-lê, Tỳ-kheo-ni Xà-ma, Tỳ-kheo-ni Bát-

đ

à-lan-giá, Tỳ-kheo-ni Bà-la-giá-la, Tỳ-kheo-ni Ca-chiên-diên, Tỳ-kheo-ni Xà-da cùng n

ăm trăm Tỳ-kheo-ni đi đến chỗ Thế Tôn, đứng một b

ên. Khi ấy, Tỳ-kheo-ni Sai-ma làm thượng thủ, bạch Phật:

- Chúng con nghe Như Lai không bao lâu diệt

độ, chúng con không kham thấy Thế Tôn v

à Tôn giả A-nan diệt

độ trước. Cúi xin Thế Tôn cho phép chúng con diệt độ trước. Nay chúng con v

ào Niết-bàn chính là phải thời.

Khi ấy Thế Tôn im lặng hứa khả. Tỳ-kheo-ni Sai-ma và n

ăm trăm Tỳ-kheo-ni thấy đức Thế Tôn im lặng hứa khả, liền lễ dưới chân Phật, đi nhiễu quanh ba v

òng rồi lui

đi, trở về ph

òng của mình. Khi ấy bà Ðại Ái Ðại

đóng cửa giảng đường, đánh kiền ch

ùy, trải tọa cụ nơi

đất

trống, bay lên hư không. Ở trong hư không, bà ngồi, nằm,

đi kinh h

ành hoặc phát ra ánh lửa, nửa thân dưới phun khói, nửa thân trên phun lửa, nửa thân dưới phun nước, nửa thân trên phun khói, toàn thân phóng lửa, toàn thân phóng khói, hông bên trái tuôn nước, hông bên mặt tuôn lửa, hông bên mặt tuôn nước, hông bên trái tuôn khói, phía trước tuôn lửa, phía sau tuôn nước, phía trước tuôn nước, phía sau tuôn lửa, toàn thân tuôn lửa, toàn thân tuôn nước.

Bà Ðại Ái Ðạo làm bao nhiêu biến hóa ấy, trở về tòa mình ngồi kiết-già, chánh thân chánh ý buộc niệm ở trước rồi nhập Sơ thiền; từ Sơ thiền xuất, nhập Nhị thiền; từ Nhị thiền xuất, nhập Tam thiền; từ Tam thiền xuất, nhập Tứ thiền; từ Tứ thiền xuất, nhập Không xứ; từ Không xứ xuất, nhập Thức xứ; từ Thức xứ xuất, nhập Vô sở hữu xứ; từ Vô Sở hữu xứ xuất, nhập Hữu tưởng vô tưởng xứ; từ Hữu tưởng vô tưởng xứ xuất, nhập Tưởng tri diệt; từ Tưởng tri diệt xuất, nhập lại Hữu tưởng vô tưởng xứ; từ Hữu tưởng vô tưởng xứ xuất, nhập lại Thức xứ; từ Thức xứ xuất, nhập Không xứ; từ Không xứ xuất, nhập Tứ thiền; từ Tứ thiền xuất, nhập Tam thiền; từ Tam thiền xuất, nhập Nhị thiền; từ Nhị thiền xuất, nhập Sơ thiền; từ Sơ thiền xuất, nhập lại Nhị thiền; từ Nhị thiền xuất, nhập Tam thiền; từ Tam thiền xuất, nhập Tứ thiền;

đ

ã nhập Tứ thiền liền diệt

độ.

Khi ấy, trời

đất chấn động, b

ên Ðông nổi, bên Tây chìm, bên Tây nổi, bên Ðông chìm, bốn bên nổi, chính giữa chìm, lại bốn bề gió mát trỗi lên, chư Thiên ở trên không trung

đánh nhạc, chư Thi

ên cõi dục buồn khóc rơi lệ cũng như vào tháng mùa Xuân trời mưa cam lồ cõi trời thần diệu tung rải hoa ưu-bát, lại rải bột chiên-

đ

àn trên thân bà.

Khi ấy Tỳ-kheo-ni Sai-ma, Tỳ-kheo-ni Ưu-bát-sắc, Tỳ-kheo-ni Cơ-lợi-thi-cù-

đ

àm-di, Tỳ-kheo-ni Xá-cù-ly, Tỳ-kheo-ni Xà-ma, Tỳ-kheo-ni Bà-

đ

à-lan-giá-da, các vị Tỳ-kheo-ni thượng chủ như thế n

ăm trăm

vị, mỗi vị

đều trải t

òa nơi

đất trống, bay l

ên hư không, ở trên hư không nằm ngồi,

đi kinh h

ành làm mười tám phép thần biến, cho

đến nhập tưởng tri diệt v

à

đến diệt độ.

Khi ấy, trong thành Tỳ-xá-ly có

đại tướng t

ên Da-du-

đề dẫn năm trăm đồng tử nhóm họp tại giảng đường Phổ Hội lúc đó đang giảng thuyết. Da-du-đề v

à n

ăm trăm đồng tử xa thấy năm trăm vị Tỳ-kheo-ni l

àm mười tám phép thần biến, thấy rồi vui mừng phấn khởi vô lượng,

đều chấp tay hướng về các vị ấy.

Khi ấy, Thế Tôn bảo A-nan:

- Thầy

đến chỗ đại tướng Da-du-đề bảo rằng: 'H

ãy mau sắm n

ăm trăm giường, năm trăm tọa cụ, năm trăm b

ình tô lạc, n

ăm trăm b

ình dầu, n

ăm trăm xe hoa, năm trăm xe hương, năm trăm xe củi'.

A-nan bạch Phật:

- Chẳng biết Thế Tôn muốn làm gì?

Phật bảo:

- Bà Ðại Ái Ðạo

đ

ã diệt

độ, v

à n

ăm trăm Tỳ-kheo-ni nhập Niết-b

àn, Ta muốn cúng dường xá-lợi.

Khi ấy A-nan buồn khóc xen lẫn không thể tự kềm, than: 'Bà Ðại Ái diệt

độ sao nhanh chóng thay!' A-nan đưa tay gạt lệ, liền đến chỗ đại tướng Da-du-đề. Da-du-đề xa thấy Tôn giả A-nan đi đến, đứng dậy đón tiếp, nói:

- Tôn giả A-nan

đến đây rất quý! Tôn giả muốn dạy bảo g

ì mà

đến bất ngờ?

Tôn giả A-nan:

- Tôi do Phật sai

đến, muốn có việc bảo Ông.

Ðại tướng hỏi:

- Có

điều g

ì dạy bảo?

A-nan

đáp:

Thế Tôn bảo Ðại tướng rằng: Nên sắm sửa n

ăm trăm giường, năm trăm tọa cụ, năm trăm b

ình tô, n

ăm trăm b

ình dầu, n

ăm trăm xe hoa, năm trăm xe hương, năm trăm xe củi. B

à Ðại Ái Ðạo và n

ăm trăm Tỳ-kheo-ni đều diệt độ, chúng ta đến đó cúng dường Xá-lợi.

Ðại tướng buồn khóc lẫn lộn, nói rằng:

- Bà Ðại Ái Ðạo diệt

độ sao m

à nhanh chóng thay! N

ăm trăm Tỳ-kheo-ni diệt độ nhanh chóng thay! Ai sẽ giáo hóa chúng ta v

à chỉ dạy về bố thí?

Ðại tướng Da-du-

đề liền sắm sửa năm trăm giường, năm trăm tọa cụ, năm trăm b

ình tô, n

ăm trăm b

ình dầu, n

ăm trăm xe hoa, năm trăm xe hương, năm trăm xe củi. B

à Ðại Ái Ðạo và n

ăm trăm Tỳ-kheo-ni đều diệt độ, chúng ta đến đó cúng dường Xá-lợi.

Ðại tướng buồn khóc lẫn lộn, nói rằng:

- Bà Ðại Ái Ðạo diệt

độ sao m

à nhanh chóng thay! N

ăm trăm Tỳ-kheo-ni diệt độ nhanh chóng thay! Ai sẽ giáo hóa chúng ta v

à chỉ dạy về bố thí?

Ðại tướng Da-du-

đề liền sắm sửa năm trăm giường, năm trăm tọa cụ, năm trăm b

ình tô, dầu, n

ăm trăm xe hoa, hương, củi v

à các dụng cụ hỏa thiêu,

đi đến chỗ Thế Tôn, cúi lạy rồi đứng một b

ên.

Ðại tướng Da-du-

đề bạch Phật:

- Như Lai chỉ dạy con sắm sửa

đồ cúng dường, nay đ

ã xong.

Phật bảo:

- Nay Ông

đưa thân của b

à Ðại Ái Ðạo và n

ăm trăm Tỳ-kheo-ni, ra khỏi th

ành Tỳ-xá-ly

đến chỗ đất trống, Ta muốn cúng dường Xá-lợi ở đó.

Ðại tướng Da-du-

đề bạch Phật:

- Xin vâng, bạch Thế Tôn.

Khi ấy Ðại tướng

đến tinh xá của b

à Ðại Ái Ðạo, bảo một người:

- Nay Người thử leo tường vào trong từ từ mở cửa

đừng gây tiếng động.

Người kia theo lời dạy liền vào mở cửa. Ðại tướng lại bảo n

ăm trăm người, mỗi người đưa thân các vị l

ên giường. Bấy giờ có hai Sa-di-ni tại

đó, một l

à Nan-

đ

à, hai là Ưu-ban-nan-

đ

à, hai Sa-di-ni bảo Ðại tướng:

- Thôi, thôi, Ðại tướng! Chớ xúc nhiễu các Thầy.

Ðại tướng Da-du-

đề bảo:

- Thầy các Cô không phải ngủ, mà

đều đ

ã diệt

độ.

Hai Sa-di-ni nghe các Thầy

đều diệt độ, ôm l

òng lo sợ, tự suy nghĩ, quan sát các pháp có nhóm họp

đều l

à pháp diệt tận, liền tại chỗ ngồi

được tam minh, lục thông. Khi ấy hai Sa-di-ni liền bay l

ên hư không, bay trước

đến chỗ đất trống l

àm mười tám pháp thần biến, nằm, ngồi,

đi kinh h

ành, thân phóng ra nước lửa, biến hóa vô lượng, liền ở Vô dư Niết-bàn mà nhập Niết-bàn.

Bấy giờ, Thế Tôn dẫn chúng Tỳ-kheo T

ăng vây quanh trước sau, đi đến tinh xá của Tỳ-kheo-ni

Ðại Ái Ðạo.

Thế Tôn bảo A-nan, Nan-

đ

à, La-vân:

- Các Thầy khiêng thân của bà Ðại Ái Ðạo. Ta sẽ

đích thân cúng dường.

Khi ấy, Thích-

đề-ho

àn-nhân biết ý nghĩ trong tâm Thế Tôn, liền từ cõi trời Ba mươi ba trong khoảng lực sĩ duỗi cánh tay ẩn và

đi đến th

ành Tỳ-xá-ly,

đến chỗ Thế Tôn cúi lạy rồi đứng một b

ên. Trong chúng, những vị Tỳ-kheo lậu tận

đều thấy Thích-đề-ho

àn-nhân và chư Thiên trời Ba mươi ba, còn những Tỳ-kheo hữu dục không lậu tận, các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bát-tắc, Ưu-bà-di chưa lậu tận

đều không thấy Thích-đề-ho

àn-nhân và chư thiên cõi trời Ba mươi ba.

Vua trời Phạm thiên xa biết ý nghĩ trong tâm Như Lai,

đem các Phạm thi

ên từ cõi Phạm thiên ẩn

đến chỗ đức Thế Tôn, cúi lạy lui qua một b

ên.

Tỳ-sa-môn Thiên vương biết ý nghĩ trong tâm

đức Thế Tôn, đem các quỷ thần Dược Xoa đến chỗ Như Lai, cúi lạy đứng qua một b

ên.

Ðề-

địa-lại-tra Thi

ên vương

đem các thần C

àn-thát-bà, từ phương Ðông

đến chỗ Thế Tôn, cúi lạy đứng qua một b

ên.

Tỳ-lâu-lặc-xoa Thiên vương

đem vô số thần Cưu-b

àn-trà, từ phương Nam

đến chỗ Thế Tôn, cúi lạy đứng qua một b

ên.

Tỳ-lâu-ba-xoa Thiên vương

đem các Long thần đến chỗ Thế Tôn, cúi lạy đứng qua một b

ên.

Và chư thiên cõi dục, cõi sắc, cõi vô sắc, mỗi mỗi

đếu biết ý niệm trong tâm thế Tôn, đều đến chỗ Thế Tôn, cúi lạy đứng qua một b

ên.

Khi ấy, Thích-

đề-ho

àn-nhân, Tỳ-sa-môn Thiên vương

đến trước bạch Phật:

- Cúi xin Thế Tôn! Chớ tự nhọc thân, chúng con tự sẽ cúng dường Xá-lợi.

Phật bảo chư Thiên:

- Thôi, thôi, Thiên vương! Như Lai tự biết thời. Ðây là việc Như Lai cần phải làm, chẳng phải hàng Trời, Rồng, Quỷ thần làm

được. V

ì sao thế? Cha mẹ sanh con nhiều lợi ích cho con, ân trọng dưỡng nuôi, bú mớm ẵm bồng, cần phải báo ân, không

được không báo ân. Chư Thi

ên nên biết! Chư Phật quá khứ, thân mẫu sinh thành

đều diệt độ trước, sau đó chư Phật Thế Tôn đều tự cúng dường tr

à tỳ xá-lợi. Giả sử chư Phật Thế Tôn ở tương lai, thân mẫu sinh thành cũng diệt

độ trước, sau đó chư Phật đều tự cúng dường. Do phương tiện n

ày biết Như Lai nên tự cúng dường, chẳng phải Trời, Rồng, Quỷ thần làm

được.

Bấy giờ, Tỳ-sa-môn Thiên vương nói xong, liền

đến rừng Chi

ên-

đ

àn lấy củi chiên-

đ

àn,

đem đến chỗ đất trống.

Khi ấy, Thế Tôn

đích thân khi

êng một chân giường; Nan-

đ

à khiên một chân, La-vân khiêng một chân, A-nan khiêng một chân, bay lên hư không

đến chỗ hỏa thi

êu. Bốn bộ chúng trong ấy, Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di,

đưa thân thể của năm trăm Tỳ-kheo-ni đến chỗ hỏa thi

êu.

Phật bảo

đại tướng Da-du-đề:

- Nay Ông sắm sửa thêm hai giường, hai tọa cụ, hai xe củi, hương hoa

để cúng dường thân hai Sa-di-ni.

Ðại tướng Da-du-

đề thưa:

- Xin vâng, bạch Thế Tôn.

Ðại tướng liền sắm sửa

đồ cúng dường.

Thế Tôn lấy củi chiên-

đ

àn chuyển

đến chư Thi

ên. Thế Tôn lại bảo

đại tướng:

- Nay Ông nhặt lấy n

ăm trăm Xá-lợi, mỗi mỗi phân biệt m

à cúng dường. Ðối với hai Sa-di-ni cũng làm như vậy.

Ðại tướng vâng lời Phật dạy, mỗi mỗi phân biệt mà cúng dường, liền chuẩn bị hỏa thiêu.

Thế Tôn lại dùng gỗ chiên-

đ

àn chất trên thân bà Ðại Ái Ðạo.

Bấy giờ, thế Tôn liền nói kệ:

Tất cả hành vô thường,

Có sanh ắt có diệt,

Không sanh, thời không diệt,

Diệt này và vui tột.

Chư Thiên và nhân dân

đều vân tập

tại chỗ trà-tỳ, Trời Người

đại chúng l

ên

đến số mười ức cai-na-thuật.

Ðại tướng

đợi lửa tắt rồi b

èn nhặt xá-lợi và xây tháp.

Phật bảo

đại tướng:

- Nay Ông

đem Xá-lợi của năm trăm Tỳ-kheo-ni xây tháp, được phước vô lượng lâu d

ài. Vì sao thế? Thế gian có bốn hạng người nên xây tháp. Thế nào là bốn? Nếu có người vì Như Lai Chí Chơn Ðẳng Chánh Giác xây tháp, vì Chuyển luân Thánh vương, vì hàng Thanh v

ăn, Bích-chi Phật xây tháp được phước vô lượng.

Khi ấy Thế Tôn vì hàng chư Thiên và nhân dân, nói pháp vi diệu, khuyến khích khiến cho hoan hỷ. Có một ức Trời và Người

được trần cấu dứt sạch, đắc pháp nh

ãn thanh tịnh.

Bấy giờ, Trời, Người, Cà-thát-bà, A-tu-la bốn bộ chúng; nghe dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

2. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-

đ

à, vườn Cấp Cô Ðộc, cùng với chúng

đại Tỳ-kheo, năm trăm người câu hội.

Bấy giờ trong thành Xá-vệ, có Tỳ-kheo-ni Bà-

đ

à ở chỗ vắng ngồi kiết-già tự suy nghĩ, buộc niệm ở trước, tự nhớ lại việc của vô số kiếp về trước, liền tự mỉm cười. Có Tỳ-kheo-ni xa thấy Tỳ-kheo-ni Bà-

đ

à mỉm cười, thấy rồi liền

đến chỗ Tỳ-kheo-ni nói:

- Nay Tỳ-kheo-ni Bà-

đ

à ngồi một mình dưới cội cây mà mỉm cười là có nhân duyên gì? N

ăm trăm tỳ-kheo-ni liền c

ùng nhau

đến chỗ Tỳ-kheo-ni B

à-

đ

à cúi lạy và thưa với Tỳ-kheo-ni Bà-

đ

à:

- Có nhân duyên gì ngồi một mình dưới cội cây mà mỉm cười?

Tỳ-kheo-ni Bà-

đ

à bảo n

ăm trăm Tỳ-kheo-ni:

- Vừa rồi ta ngồi dưới gốc cây nầy, tự nhớ việc trong vô số

đời đ

ã qua, lại thấy những thân

đ

ã trải qua ngày trước, chết

đây sanh kia thảy đều xem thấy.

N

ăm trăm tỳ-kheo-ni lại thưa:

- Cúi xin nói những nhân duyên quá khứ

Tỳ-kheo-ni Bà-

đ

à bảo n

ăm trăm Tỳ-kheo-ni:

- Quá khứ lâu xa cách

đây chín mươi mốt kiếp, có Phật xuất thế hiệu Tỳ-b

à-thi Như Lai Chí Chơn Ðẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn, xuất hiện ở

đời. Bấy giờ thế giới t

ên Bàn-

đầu-ma,

nhân dân

đông đảo không thể tính kể. Như Lai Tỳ-b

à-thi du hóa nơi thế giới ấy

đem theo mười sáu vạn tám ng

àn Tỳ-kheo, vây quanh trước sau và vì họ thuyết pháp. Khi ấy danh hiệu Phật lưu truyền bốn phương, xưng tụng rằng: 'Phật Tỳ-bà-thi

đầy đủ các tướng tốt, l

à bạn lành, ruộng phước cho tất cả người'.

Trong nước ấy có một

đồng tử t

ên Phạm Thiên, dung mạo

đoan chánh ít có trong đời.

Ðồng tử ấy tay cầm dù báu

đi tr

ên

đường. Bấy giờ có vợ của một cư sĩ, cũng rất đoan chánh, cũng đi tr

ên

đường ấy, mọi người đều nh

ìn theo. Ðồng tử liền khởi niệm: 'Nay ta cũng có dung mạo

đoan chánh, cầm d

ù báu mà mọi người không nhìn mà nhìn nữ nhơn kia. Nay ta cần tìm cách khiến mọi người nhìn ta'.

Ðồng tử ấy liền ra khỏi thành,

đến chỗ đức Phật Tỳ-b

à-thi, tay cầm hoa báu cúng dường bảy ngày

đ

êm, và phát thệ nguyện rằng: 'Nếu

đức Phật Tỳ-ba-thi có thần túc, có thần lực, l

à ruộng phước cho cõi Người cõi Trời, nguyện

đem công sức n

ày khiến

đời tương lai, tôi l

àm thân người nữ, mọi người thấy

đều vui mừng'.

Ðồng tử trải bảy ngày bảy

đ

êm cúng dường Phật rồi, tùy tuổi thọ ngắn dài liền sanh lên cõi trời Ba mươi ba, nơi ấy làm thân thiên nữ, rất

đoan chánh bậc nhất trong các ngọc nữ, có năm công đức hơn các thi

ên nữ kia. Thế nào là n

ăm? L

à tuổi thọ trời, sắc

đẹp trời, sự vui trời, oai phước trời v

à tự tại trời. Chư Thiên cõi trời Ba mươi ba thấy rồi, ai cũng tự nhủ 'Thiên nữ này rất thù diệu không ai bằng'. Hoặc có vị Trời nói: 'Ta phải

được Thi

ên nữ này

để l

àm vợ'. Họ cùng tranh giành với nhau. Khi ấy vua trời nói:

- 'Các Ông chớ tranh cãi nhau, trong

đây ai có thể nói kệ rất hay, ta sẽ cho Thi

ên nữ này làm vợ'.

Một Thiên tử nói kệ:

Hoặc khi

đứng, hoặc ngồi,

Thức giấc

đều không vui,

Chỉ khi tôi ngủ say,

Mới không lòng mơ ước.

Một Thiên tử nói kệ:

Nay ông cũng còn vui,

Khi ngủ không mơ tưởng,

Nay tôi khởi dục niệm,

Tợ như

đánh trống trận.

Một Thiên tử nói kệ:

Giả sử

đánh trống trận,

Còn có lúc nghỉ tay,

Niệm dục tôi chảy mau,

Như nước cuốn không ngừng.

Lại một Thiên tử nói kệ:

Như cuốn cuốn cây to,

Còn có khi dừng nghỉ,

Tôi thường tư tưởng dục,

Như giết voi không thuần

.

Bấy giờ, vị Thiên tử hơn hết trong các chư Thiên, nói kệ:

Các Ông còn nhàn hạ,

Ðều có thể nói kệ,

Nay tôi không tự biết,

Là mình còn hay mất.

Chư Thiên bèn thưa với vị Thiên tử ấy:

- 'Lành thay! Thiên tử

đ

ã nói kệ rất thanh diệu. Nay dâng Thiên nữ này cho Thiên vương'.

Thiên nữ liền vào cung

điện Thi

ên vương.

Các em chớ hồ nghi. Vì sao thế? Ðồng tử cúng dường bảo cái lên

đức Phật, đâu phải người n

ào lạ. Chớ nghĩ thế ấy. Ðồng tử khi ấy tức là thân ta.

Về quá khứ ba mươi mốt kiếp, có

đức Phật Thi-khí xuất hiện nơi đời, du hóa nơi thế giới D

ã-nã, cùng với chúng Tỳ-kheo mười sáu vạn người câu hội. Bấy giờ Thiên nữ ấy sau lại mạng chung sanh trong cõi Người, làm thân người nữ rất

đoan chánh, ít có trong đời.

Ðức Như Lai Thi-khí

đúng thời đắp y ôm bát v

ào thành Dã-nã khất thực. Khi ấy Thiên nữ lại làm vợ trưởng giả,

đem thức ăn uống ngon cúng dường đức Phật thi-khí, cũng thệ nguyện rằng: '

Ðem công

đức n

ày sanh nơi nào không rơi trong ba

đường ác, dung mạo đoan chánh đặc biệt hơn người'. Nữ nhơn ấy sau lại mệnh chung sanh l

ên cõi trời Ba mươi ba, ở

đó l

àm thân thiện nữ rất

đoan chánh, có năm công đức

hơn chư Thiên. Thiên nữ khi ấy

đâu phải người n

ào lạ, chớ nghĩ thế ấy. Vì sao thế? thiên nữ ấy chính là thân ta.

Vào kiếp

đó, đức Như Lai Tỳ-xá-la-b

à xuất hiện nơi

đời, bấy giờ Thi

ên nữ tùy theo thọ mạng dài ngắn, sau khi mạng chung lại cõi người, làm thân người nữ dung mạo

đoan chánh, ít có trong đời, lại l

àm vợ trưởng giả cư sĩ. Bấy giờ phu nhân lại

đem y phục đẹp dâng l

ên

đức Như Lai, phát thệ nguyện rằng: 'Khiến cho đời sau, tôi lại l

àm thân người nữ'. Phu nhân ấy sau mệnh chung, sanh lên cõi trời Ba mươi ba, dung mạo

đoan chánh hơn các Thi

ên nữ cõi trời ấy. Nữ nhân khi ấy

đâu phải người n

ào lạ. Chớ nghĩ thế ấy. Vì sao thế? Nữ nhân khi ấy chính là thân ta.

Thiên nữ ấy tùy theo thọ mệnh dài ngắn, sau khi mệnh chung sanh lại cõi người, làm nô tỳ cho phu nhân của trưởng giả Nguyệt Quang trong thành Ba-la-nại, dung mạo thô xấu, mọi người không ưa. Từ khi

đức Phật Tỳ-xá-la-b

à diệt

độ, lại không có Phật. Bấy giờ các đức Bích-chi Phật đi du hóa. Phu nhân của trưởng giả Nguyệt Quang tỳ nữ:

- 'Ngươi

đi ngo

ài

đường, t

ìm vị Sa-môn dung mạo

đoan chánh vừa ý ta, đưa về nh

à, ta muốn cúng dường'.

Tỳ nữ liền ra khỏi nhà tìm Sa-môn, thấy vị Bích-chi Phật

đi khất thực trong th

ành, song dung mạo xấu xí, dung sắc thô tệ.

Tỳ nữ thưa vị Bích-chi Phật:

- 'Trưởng giả muốn gặp, xin quang lâm

đến nh

à'.

Liền về thưa chủ nhân:

- 'Sa-môn

đ

ã

đến, có thể đến gặp'.

Khi ấy, phu nhân của trưởng giả thấy Sa-môn rồi, tâm không vui liền bảo tỳ nữ:

- 'Ðuổi Thầy ấy

đi, ta không bố thí. V

ì sao? Vì dung mạo Thầy ấy thô xấu'.

Tỳ nữ thưa phu nhân:

- 'Nếu Phu nhân không bố thí cho Sa-môn, phần

ăn của tôi hôm nay sẽ đem cúng hết'.

Phu nhân liền phát

ăn cho tỳ nữ một đấu gạo tấm, tỳ nữ nhận lấy v

à

đem cúng Sa-môn.

Ðức Bích-chi Phật nhận thức

ăn xong, bay l

ên hư không làm mười tám phép thần biến, tỳ nữ của trưởng giả liền phát nguyện: 'Ðem công

đức n

ày, sanh vào chỗ không rơi trong

đường ác. Khiến con đời sau l

àm thân nữ rất

đoan chánh'.

Ðức Phật ấy tay ôm bát thức

ăn, bay quanh th

ành ba vòng. Khi ấy trưởng giả Nguyệt Quang cùng n

ăm trăm khách buôn nhóm tại giảng đường Phổ Hội.

Nam nữ lớn nhỏ trong thành thấy

đức Phật cầm bát thức ăn bay trong hư không, thấy rồi c

ùng nói với nhau:

- 'Người nào có

đông đức như thế? Ai được gặp vị Bích-chi Phật n

ày mà cúng dường thức

ăn?'

Khi ấy, tỳ nữ thưa phu nhân:

- 'Xin ra xem thần

đức của Sa-môn, bay tr

ên hư không làm mười tám pháp biến, thần

đức vô lượng'.

Phu nhân bảo tỳ nữ:

- 'Nay Ngươi bố thí thức

ăn

cho Sa-môn, nếu

được phước cho hết về ta, ta sẽ cho người bằng giá hai ng

ày công'.

Tỳ nữ thưa:

- 'Không thể

đem phước cho được'.

Phu nhân bảo:

- 'Cho Ngươi bằng giá bốn ngày cho

đến mười ng

ày'.

Tỳ nữ thưa:

- 'Tôi không thể

đem phước cho được'.

Phu nhân bảo:

- 'Nay ta cho Người tr

ăm đồng tiền v

àng'.

Tỳ nữ thưa:

- 'Tôi không cần'.

Phu nhân lại bảo:

- 'Cho Người hai tr

ăm ... cho đến ng

àn

đồng tiền v

àng'.

Tỳ nữ thưa:

- 'Tôi cũng không cần'.

Phu nhân bảo:

- 'Ta miễn cho Người khỏi làm nô lệ'.

Tỳ-nữ thưa:

- 'Tôi cũng không cần làm người thường'.

Phu nhân lại bảo:

- 'Ngươi làm phu nhân, ta làm tỳ nữ'.

Tỳ nữ thưa:

- 'Tôi cũng không cần làm phu nhân'.

Phu nhân bảo:

- 'Ta sẽ

đem Ngươi ra đánh đập, xẻo mũi tai, chặt tay chân Ngươi, sẽ chặt đầu Ngươi'.

Tỳ nữ thưa:

- 'Tôi cam nhận hết mọi thống khổ, trọn không

đem phước cho đi, thân n

ày thuộc về Phu nhân, tâm lành có khác'.

Bấy giờ phu nhân liền

đánh tỳ nữ.

Khi ấy, n

ăm trăm khách buôn mỗi người bán tán rằng:

- 'Vị thần nhân này hôm nay

đến khất thực, ắt phải l

à nhà ta bố thí'.

Trưởng giả Nguyệt Quang giải tán các người ấy rồi trở về nhà, thấy phu nhân

đánh đập tỳ nữ, liền hỏi:

- 'Do nhân duyên gì mà

đánh tỳ nữ?'

Khi

đó, tỳ nữ đem hết mọi sự thuật lại. Trưởng giả Nguyệt Quang vui mừng phấn khởi không thể tự kềm, liền đ

ày phu nhân xuống làm tỳ nữ,

đưa tỳ nữ thay chỗ phu nhân.

Thành Ba-la-nại có vua tên Phạm-ma-

đạt cai trị, vua nghe trưởng giả Nguyệt Quang dâng cơm cho Bích-chi Phật rất l

à vui mừng,

đ

ã gặp bậc chân nhân tùy thời bố thí. Vua Phạm-ma-

đạt liền sai người gọi trưởng giả Nguyệt Quang hỏi:

- Có thật Ngươi cúng dường cơm cho bậc chân nhân thần tiên ch

ăng?'

Trưởng giả tâu:

- 'Thật gặp bậc chân nhân,

đem cơm cúng dường'.

Vua Phạm-ma-

đạt liền tặng thưởng cho trưởng giả v

à tặng thêm chức vị.

Tỳ nữ ấy theo mệnh dài ngắn sau khi mệnh chung sanh lên cõi trời Ba mươi ba, nhan sắc thù diệu, ít có trong

đời, có năm công đức hơn các vị trời khác.

Các em chớ nghi gì, tỳ nữ của trưởng giả khi ấy tức là thân ta.

Trong Hiền kiếp này có Phật xuất hiện ở

đời hiệu l

à Câu-lưu-tôn. Khi ấy, Thiên nữ kia tùy theo thọ mệnh dài ngắn, sau khi mệnh chung sanh trong cõi người, làm con gái Phạm chí Da-nhã-

đạt. Khi ấy, cô lại dâng cơm cho Như Lai v

à phát thệ nguyện xin làm thân người nữ, sau khi mệnh chung sanh lên trời Ba mươi ba, dung mạo

đoan chánh hơn các Thi

ên nữ.

Lại từ cõi trời mệnh chung sanh trong cõi người. Bấy giờ

đức Phật Câu-na-h

àm-mâu-ni xuất hiện ở

đời, Thi

ên nữ ấy làm con gái trưởng giả, lại

đem hoa v

àng cúng dường

đức Phật Câu-na-h

àm-mâu-ni, nguyện: 'Ðem công

đức n

ày sanh ra chỗ nào không rơi trong ba

đường ác, khiến cho thân con sau được l

àm người nữ'. Cô gái ấy tùy theo thọ mệnh dài ngắn, sau khi mệnh chung sanh lên trời Ba mươi ba, dung mạo

đoan chánh hơn tất cả Thi

ên nữ, có n

ăm công đức không b

ì kịp.

Con gái trưởng giả cúng dường

đức Phật Câu-na-h

àm-mâu-ni khi ấy

đâu phải ai lạ, chớ nghĩ g

ì, con gái trưởng giả tức là thân ta.

Thiên nữ ấy tùy theo thọ mệnh dài ngắn, sanh trở lại cõi Người làm vợ trưởng giả, dung mạo thù

đặc

ít có trong

đời. Khi ấy, đức Phật Ca-diếp xuất hiện ở đời, phu nhân của trưởng giả cúng dường đức Phật ca-diếp trong bảy ng

ày bảy

đ

êm, phát thệ nguyện rằng: 'Khiến con

đời tương lai l

àm thân người nữ'. Phu nhân của trưởng giả tùy tuổi thọ dài ngắn, sau khi mệnh chung sanh lên trời Ba mươi ba, có n

ăm công đức hơn các Thi

ên nữ trên ấy.

Phu nhân của trưởng giả cúng dường Phật Ca-diếp thuở ấy

đâu phải người n

ào lạ, chớ nghĩ thế ấy, phu nhân Trưởng giả khi ấy chính là thân ta.

Vào Hiền kiếp này có

đức Phật Thích-ca xuất hiện ở đời, Thi

ên nữ ấy sau khi mệnh chung lại sanh vào thành La-duyệt, làm con gái Bà-la-môn Kiếp-tỷ-la, dung mạo

đoan chánh hơn các thiếu nữ khác. Con gái của B

à-la-môn Kiếp-tỷ-la

đẹp như tượng v

àng tử ma, ai

đứng gần n

àng

đều bị lu mờ đen tối. Ý của n

àng ấy không tham ngũ dục.

Các em chớ nghĩ gì, cô gái ấy

đâu phải người n

ào lạ, con gái của Bà-la-môn bấy giờ chính là thân ta.

Các em nên biết! Do nhân duyên công

đức nhiều kiếp n

ên ta làm vợ của Tỷ-bát-la-ma-nạp là Ma-ha Ca-diếp. Tôn giả Ðại Ca-diếp tự xuất gia trước, sau ta mới xuất gia. Ta tự nhớ trải qua vô số kiếp làm thân người nữ, do

đó n

ên nay tự cười. Ta do ngu si che mờ, nên cúng dường trải qua sáu

đức Phật, cầu l

àm thân nữ. Do nhân duyên này nên ta cười những kiếp

đ

ã qua.

Bấy giờ, các Tỳ-kheo-ni nghe Tỳ-kheo-ni Bà-

đ

à, tự nhớ túc mạng những việc

đ

ã qua trong vô số

đời, liền đi đến chỗ Thế Tôn, cúi lạy ngồi một b

ên,

đem hết mọi việc bạch l

ên

đức Phật.

Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo-ni.

- Các vị có thấy trong hàng Tỳ-kheo-ni Thanh v

ăn có ai tự nhớ việc trong vô số đời như Tỳ-kheo-ni ấy chăng?

Các Tỳ-kheo-ni bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn, không thấy.

Phật bảo các Tỳ-kheo-ni:

- Ðệ tử bậc nhất trong hàng Thanh v

ăn của Ta, tự nhớ lúc mạng trong vô số đời, chính l

à Tỳ-kheo-ni Kiếp-tỷ-la.

Bấy giờ, các Tỳ-kheo-ni nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

3. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-

đ

à, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ, có một Tỳ-kheo

đi đến chỗ đức Thế Tôn, cúi lạy lui ngồi một b

ên, giây lát sau rời chỗ ngồi bên trước bạch Phật:

- Kiếp có dài ngắn, có giới hạn ch

ăng?

Phật bảo Tỳ-kheo:

Kiếp rất dài xa, hay Ta dẫn dụ cho Thầy. Hãy một lòng lắng nghe, nay Ta sẽ nói:

Tỳ-kheo nên biết, như một cái thành bằng sắt cao rộng một do-tuần, chứa

đầy hạt cải trong ấy không có chỗ trống. Giả sử có người

ăm

ăm đến lấy đi một hạt cải, m

à số hạt cải trong thành sắt ấy còn có thể giảm hết, nhưng một kiếp còn không thể tính kể. Vì sao thế? Sanh tử dài xa không có giới hạn, chúng sanh ân ái trói buộc,

đắm trước trôi nổi trong sanh tử, chết đây sanh kia không có c

ùng tận. Ta ở trong

đó chán ghét sanh tử. Như thế, n

ày các Tỳ-kheo, nên tìm phương tiện khéo léo, thoát khỏi tưởng ái trước này!

Bấy giờ, các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

4. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-

đ

à, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ, có một Tỳ-kheo,

đến chỗ đức Thế Tôn, cúi lạy xin lui ngồi một b

ên. Tỳ-kheo ấy bạch Phật:

- Thưa Thế Tôn! Kiếp là lâu dài ch

ăng?

Phật bảo Tỳ-kheo:

- Kiếp rất lâu dài, không thể dùng toán mà tính

được. Nay Ta sẽ thí dụ cho Thầy. H

ãy khéo suy nghĩ, nay Ta sẽ vì Thầy nói.

Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy. Thế Tôn bảo:

- Cũng như núi

đá rộng lớn một do-tuần, cao một do-tuần. Giả sử có người đến đó, cầm thi

ên y tr

ăm năm quét một lần, đá c

òn có thể mòn, kiếp số khó hạn lượng. Vì sao thế? Kiếp số lâu dài không có bờ mé. Như thế chẳng phải một kiếp tr

ăm kiếp. V

ì sao thế? Sanh tử lâu dài, không thể hạn lượng không có bờ mé. Các loài chúng sanh bị vô minh che lấp, trôi l

ăn trong sanh tử không có thời hạn ra

khỏi, chết

đây sanh kia không c

ùng tận. Ta ở trong ấy chán ghét sanh tử. Như thế, này các Tỳ-kheo, nên tìm phương tiện khéo thoát khỏi tưởng ái trước này!

Bấy giờ, các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

5. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-

đ

à, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

- Tùy thời nghe pháp có n

ăm công đức, thường không mất thời. Thế n

ào là n

ăm? Pháp chưa từng nghe liền được nghe; nghe rồi liền thọ tr

ì; trừ bỏ hồ nghi; không có tà kiến; hiểu pháp sâu xa. Ðó gọi là Tỳ-kheo tùy thời nghe pháp có n

ăm công đức n

ày.

Cho nên các Tỳ-kheo nên ghi nhớ thường nghe pháp sâu xa. Ðây là lời dạy của Ta. Như thế, này các Tỳ-kheo nên học

điều n

ày!

Bấy giờ, các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

6. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở nước Tỳ-xá-ly, vườn Ma-ha-Bà-na, cũng với chúng

đại Tỳ-kheo năm trăm người câu nội.

Bấy giờ,

đại tướng Sư Tử đi đến chỗ Thế Tôn, cúi lạy, ngồi một b

ên. Bấy giờ Phật bảo

đại tướng:

- Ðàn-việt thí chủ có n

ăm công đức. Thế n

ào là n

ăm? Ở đây, danh tiếng của Thí chủ vang xa, trong l

àng

đó có người như thế ưa bố thí, chu cấp cho người ngh

èo, giúp

đỡ người thiếu, không có y

êu ghét. Này Ðại tướng Sư Tử! Ðó là công

đức thứ nhất, Thí chủ đạt được.

Lại nữa, này Ðại tướng Sư Tử! Ðàn-việt thí chủ nếu

đến trong chúng d

òng Sát-lợi, dòng Bà-la-môn, chúng Sa-môn,

đều không sợ h

ãi cũng không nghi nan. Này

đại tướng Sư Tử!

Ðó là công

đức thứ hai.

Lại nữa, Ðàn-việt thí chủ

được nhiều người

thương mến nhớ nghĩ, khắp

đến kính ngưỡng như con y

êu mẹ, tâm không rời xa. Thí chủ cũng như thế,

được nhiều người y

êu mến.

Lại nữa, Ðại tướng Sư Tử! Ðàn-việt thí chủ khi bố thí phát tâm vui vẻ, do có tâm vui vẻ liền mừng rỡ, tánh ý chắc chắn, khi ấy liền tự biết có vui có khổ cũng không biến

đổi, tự biết như thật. Thế n

ào là tự biết? Biết có Khổ

đế, Khổ tập, Khổ tận, Khổ xuất yếu, như thật m

à biết.

Bấy giờ, Thế Tôn bèn nói kệ:

Thí

đầy đủ các phước,

được đệ nhất nghĩa,

Ai hay nhớ bố thí,

Bèn phát tâm hoan hỉ.

Lại nữa, Ðại tướng Sư Tử! Khi Ðàn-việt thí chủ bố thí, thân hoại mạng chung sanh lên trời Ba mươi ba, lại có n

ăm việc hơn chư thi

ên cõi ấy. Thế nào là n

ăm? Một l

à dung mạo hào quý oai thần sáng rỡ. Hai là

điều mong ước tự tại, việc g

ì cũng thành. Ba là nếu Ðàn việt thí chủ sanh trong loài người gặp nhà hào quý. Bốn là nhiều tài lợi châu bảo. N

ăm l

à nói ra nhiều người nghe.

Này Ðại tướng Sư Tử! Ðó là Ðàn-việt có n

ăm công đức như thế dẫn v

ào

đường l

ành.

Ðại tướng Sư Tử nghe lời Phật dạy, vui mừng hớn hở không thể tự kềm,

đến trước bạch Phật:

- Cúi xin Thế Tôn và chúng Tỳ-kheo nhận lời thỉnh của con.

Thế Tôn im lặng nhận lời.

Khi ấy,

đại tướng Sư Tử thấy Thế Tôn đ

ã im lặng nhận lời, liền

đứng dậy cúi đầu lễ Phật rồi lui ra. Về đến nh

à,

đại tướng sắm sửa đầy đủ các thức ăn uống, trải t

òa ngồi tốt

đẹp, rồi đến bạch Phật:

- Thời

đ

ã

đến, nay chính phải thời, cúi xin bạch

Ðại thánh rũ lòng từ, hạ cố

đến nh

à.

Thế Tôn

đúng thời đắp y mang bát, dẫn chúng Tỳ-kheo vây quanh trước sau, đến nh

à

đại tướng theo thứ tự lớp ngồi.

Bấy giờ,

đại tướng Sư Tử thấy Phật v

à chúng Tỳ-kheo

đ

ã ngồi theo thứ tự, tự tay san sớt các thức

ăn uống. Khi đại tướng dâng thức ăn, chư Thi

ên ở trên hư không bảo:

- Ðây là A-la-hán, người này là hướng A-la-hán. Cúng người này

được phước nhiều, cúng người n

ày

được phước ít.

Ðây là a-na-hàm, người này hướng A-na-hàm. Người này là Tư-

đ

à-hàm, người này hướng Tư-

đ

à-hàm. Người này là Tu-

đ

à-hoàn, người này hướng Tu-

đ

à-hoàn. Người này còn bảy phen qua lại, người này còn trở lại một

đời. Người n

ày giữ lòng tin, người này vâng theo Pháp. Ðây là người lợi c

ăn, đây l

à

độn căn. Người n

ày hạ liệt, người này tinh tấn trì giới, người này phạm giới. Cúng người này

được phước nhiều, cúng người n

ày

được phước ít.

Bấy giờ,

đại tướng Sư Tử nghe chư Thi

ên nói rồi cũng không

để tâm. Thấy Như Lai thọ trai xong, rửa bát sạch, rồi lấy một chiếc ghế nhỏ ngồi trước Như Lai.

Ðại tướng Sư Tử bạch Thế Tôn:

- Trước

đây có chư Thi

ên

đến chỗ con nói từ

vị A-la-hán

đến người phạm giới, đều đem thưa hết với Phật. Tuy con nghe lời như thế cũng chẳng để tâm, cũng chẳng sanh ý tưởng: 'Ta sẽ bỏ người n

ày cúng người kia, bỏ người kia cúng người này'. Con lại sanh ý tưởng này: 'Nên cúng dường tất cả loài chúng sanh có hình dáng, vì có

ăn mới sống, không ăn ắt chết'. Con đích thân được nghe từ Như Lai nói b

ài kệ ấy, thường ghi nhớ trong lòng không quên mất. Kệ như thế nào?

Bố thí khắp bình

đẳng,

Trọn không chỗ trái nghịch,

Ắt sẽ gặp Hiền Thánh,

Duyên

đây m

à

được độ.

Bạch Thế Tôn! Bài kệ này

được nói ra, con đích thân nghe từ đức Thế Tôn, thường ghi nhớ vâng l

àm.

Phật bảo

đại tướng:

- Lành thay! Ðây gọi là tâm Bồ-tát, bố thí bình

đẳng. Khi Bồ-tát bố thí th

ì cũng chẳng sanh ý niệm như vầy: 'Ta sẽ cho người nầy, bỏ người nầy', thường

đem l

òng bình

đẳng m

à bố thí, cũng lại khởi ý niệm này: 'Tất cả chúng sanh có

ăn mới tồn tại, không ăn ắt chết'. Khi Bồ-tát l

àm việc bố thí, cũng suy nghĩ nghĩa này.

Phật bèn nói kệ:

Phàm người tu hạnh này,

Làm ác và làm lành,

Mỗi mỗi tự thọ báo,

Việc làm trọn không hao.

Như người làm hạnh này,

Liền chịu quả báo này,

Làm lành

được quả l

ành,

Làm ác chịu báo ác.

Là ác hay là lành.

Tùy theo người tập quen,

Như gieo n

ăm thứ lúa,

Ðều gặt

được kết quả.

Này Ðại tướng Sư Tử! Do phương tiện này nên biết lành, ác mỗi việc có hạnh của nó. Vì sao thế? Từ khi mói phát tâm

đến khi th

ành

đạo tâm không tăng giảm, không chọn lựa người cũng không quán sát chỗ nơi. Cho n

ên Ðại tướng Sư Tử! Khi muốn bố thí, hãy thường nghĩ nhớ bình

đẳng, chớ khởi tâm thị phi. Như thế, Sư Tử, n

ên học

điều n

ày.

Khi ấy, Thế Tôn lại nói kệ:

Thí làm vui người nhận,

Mọi người

đều khen ngợi,

Ðến

đâu không nghi nan,

Cũng không tâm tật

đố.

Cho nên người trí thí,

Trừ bỏ các tưởng ác,

Ðến chỗ lành lâu dài.

Nơi chư Thiên hoan hỷ.

Thế Tôn nói kệ xong, liền

đứng dậy đi.

Ðại tướng Sư Tử nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

7. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-

đ

à, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ, vua Ba-tu-nặc

đi đến chỗ Thế Tôn, cúi lạy, ngồi một b

ên. Nhà vua bạch Phật:

- Phàm bố thí, nên bố thí nơi nào?

Phật bảo nhà vua:

- Tùy theo tâm hoan hỉ nơi nào thì bố thí nơi ấy.

Vua lại bạch Phật:

- Bố thí nơi nào

được công đức lớn?

Phật bảo:

- Trước Ðại vương hỏi nên bố thí nơi nào, nay lại hỏi về phước công

đức.

Vua bạch Phật:

- Nay con hỏi Như Lai bố thí nơi nào

được công đức?

Phật bảo:

- Nay Ta hỏi lại, Ðại vương tùy sở thích trả lời Ta. Thế nào, Ðại vương, nếu có người dòng Sát-lợi

đến, d

òng Bà-la-môn

đến, nhưng ngu si không biết chi, tâm ý tán loạn, thường không nhất định, đến chỗ nh

à vua tâu rằng: 'Chúng tôi sẽ cung phụng Ðại vương, tùy thời cần dùng'. Thế nào, Ðại vương có cần người ấy làm tả hữu ch

ăng?

Vua bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn không cần. Vì sao thế? Do người ấy không có trí tuệ, tâm thức không

định, không kham đối phó với kẻ địch từ ngo

ài

đến.

Phật bảo nhà vua:

- Này Ðại vương, nếu hàng Sát-lợi, bà-la-môn có nhiều phương tiện không sợ khó, cũng không sợ hãi, có thể trừ

được kẻ địch b

ên ngoài,

đến chỗ

Ðại vương và tâu rằng: 'Chúng tôi tùy thời cung phụng Ðại vương, cúi xin rũ lòng ân tứ nạp thọ.' Thế nào, Ðại vương có nhận người ấy ch

ăng?

Vua bạch Phật:

- Thưa vâng, bạch Thế Tôn. Con sẽ nạp thọ người ấy. Vì sao? Vì người ấy có thể

đối phó với kẻ địch b

ên ngoài, không sợ khó cũng chẳng khủng khiếp.

Phật bảo:

- Nay Tỳ-kheo cũng lại như thế, các c

ăn đầy đủ, bỏ năm, th

ành tựu sáu, hộ trì một, hàng phục bốn. Bố thí cho người như thế thì

được phước rất nhiều.

Vua bạch Phật:

- Thế nào là Tỳ-kheo bỏ n

ăm, th

ành tựu sáu, hộ trì một, hàng phục bốn?

Phật bảo nhà vua:

- Là vị Tỳ-kheo bỏ n

ăm điều ngăn che: tham dục, sân nhuế, th

ùy miên, trạo cử, nghi. Tỳ-kheo như thế gọi là bỏ n

ăm.

Thế nào là Tỳ-kheo thành tựu sáu? Ðại vương nên biết, nếu Tỳ-kheo thấy sắc rồi không khởi tưởng sắc, duyên nơi

đây giữ g

ìn c

ăn, trừ bỏ niệm ác không l

ành, mà giữ gìn nhãn c

ăn, hoặc tai, mũi, miệng, thân, ý, không khởi ý thức, m

à giữ gìn ý c

ăn. Tỳ-kheo như thế gọi l

à thành tựu sáu.

Thế nào là Tỳ-kheo hộ trì một? Là khi Tỳ-kheo buộc niệm ở trước. Tỳ-kheo như thế gọi là hộ trì một.

Thế nào là Tỳ-kheo hàng phục bốn? Là khi Tỳ-kheo hàng phục thân ma, dục ma, tử ma, thiên ma, thảy

đều h

àng phục. Tỳ-kheo như thế là hàng phục bốn.

Ðại vương! Như thế là Tỳ-kheo bỏ n

ăm, th

ành tựu sáu, hộ trì một, hàng phục bốn. Bố thí cho người như thế

được phước khó lường. N

ày Ðại vương! Những người thích hợp với tà kiến và biên kiến, bố thí cho những người như thế là vô ích.

Khi ấy, vua bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Ðúng thế, bố thí cho người như thế

được phước khó lường. Nếu Tỳ-kheo th

ành tựu một pháp phước còn khó lường, huống gì những pháp khác. Thế nào là một pháp? Là thân niệm vậy. Vì sao? Ni-kiền Tử thường chấp thân hành, ý hành, không kể khẩu hành.

Phật bảo nhà vua:

- Ni-kiền Tử ngu si, ý thường tán loạn, tâm thức không

định.

Ðây là pháp của thầy họ nên nói như thế. Họ chịu quả báo về thân hành, khẩu hành không

đáng kể, ý h

ành vô hình không thể thấy.

Vua bạch Phật:

- Trong ba hành này, cái nào quan trọng nhất, thân hành ư, khẩu hành ư, ý hành ư?

Phật bảo:

- Trong ba hành này, ý hành rất quan trọng. Khẩu hành, thân hành không

đáng kể.

Vua bạch Phật:

- Do nhân duyên gì nói ý suy nghĩ là thứ nhứt?

Phật bảo:

- Phàm người hành

động, trước ý suy nghĩ sau mới phát ra miệng, miệng đ

ã phát khởi, thân mới làm sát,

đạo

, dâm. Lưỡi không nhất

định cũng không phải đầu mối. Nếu người ấy mệnh chung, thân v

à lưỡi vẫn còn. Ðại vương, vì sao người ấy thân và lưỡi không làm, không nói?

Vua bạch Phật:

- Do người ấy không có ý c

ăn n

ên như thế.

Phật bảo nhà vua:

- Do phương tiện này nên biết ý c

ăn rất quan trọng, hai cái kia nhẹ hơn.

Thế Tôn liền nói kệ:

Tâm là gốc pháp,

Tâm tôn, tâm sử,

Tâm khởi nghĩ ác,

Liền làm liền tạo.

Nơi ấy chịu khổ,

Vết xe theo xe.

Tâm là gốc pháp,

Tâm tôn, tâm sử.

Trong tâm nghĩ thiện,

Liền làm liền tạo,

Nhận quả báo lành,

Như bóng theo hình.

Vua Ba-tư-nặc bạch Phật:

- Ðúng thế, bạch Thế Tôn! Người làm ác, thân hành ác, tùy hành

động rơi v

ào

đường ác.

Phật hỏi nhà vua:

- Ðại vương quán sát nghĩa gì mà

đến hỏi Ta rằng bố thí cho người n

ào

được phước tăng nhiều?

Vua bạch Phật:

- Xưa con

đến chỗ Ni-kiền Tử hỏi Ni-kiền Tử rằng: 'N

ên bố thí nơi nào?'. Ni-kiền Tử nghe con hỏi, lại luận bàn việc khác, cũng không trả lời. Ni-kiền Tử bảo con rằng: 'Sa-môn Cù-

đ

àm nói thế này: Bố thí cho Ta

được phước nhiều, người khác không phước. N

ên bố thí cho

đệ tử Ta, không n

ên bố thí cho người khác. Có ai bố thí cho

đệ tử Ta, phước ấy khó lường'.

Phật bảo:

- Bấy giờ Ðại vương trả lời ra sao?

Vua bạch Phật:

- Khi ấy con liền nghĩ: 'Có lý này, bố thí cho Như Lai phước ấy khó lường' ch

ăng? N

ên nay con

đến hỏi Phật l

à bố thí nơi nào

được phước khó lường. Song nay Thế Tôn không tự khen m

ình cũng chẳng chê người.

Phật bảo nhà vua:

- Ta không nói lời rằng: 'Bố thí cho Ta

được phước nhiều, cho người khác không được phước'. Nay Ta chỉ nói rằng: 'Thức ăn trong bát c

òn dư

đem cho người, phước ấy khó lường'. D

ùng tâm thanh tịnh chuyên chú vào trong nước sạch, luôn sanh ý niệm này: 'Mong những loài hữu tình trong

đây

được nhờ cậy vô lượng, huống g

ì loài Người'.

Nhưng này Ðại vương! Nay Ta nói bố thí cho người trì giới, phước ấy khó lường, cho người phạm giới không

đáng kể.

Ðại vương nên biết! Như nông dân khéo s

ăn sóc ruộng đất, dọn bỏ rác dơ, đem giống lúa tốt gieo v

ào ruộng tốt, trong

đó thu hoạch không hạn lượng. V

à như nông dân kia không ch

ăm sóc đất, không dọn bỏ rác dơ m

à gieo giống, sau thu hoạch không

đáng kể.

Nay Tỳ-kheo cũng lại như thế, Tỳ-kheo bỏ n

ăm, th

ành tựu sáu, giữ một, hàng phục bốn. Những người như thế

được phước vô lượng, cho người t

à kiến phước không

đáng kể. Cũng như

Ðại vương, người dòng Sát-lợi, dòng Bà-la-môn, ý không nghi nan, có thể hàng phục giặc ngoài nên xem như bậc La-hán, còn người Bà-la-môn kia, ý không chuyên

định n

ên xem như người tà kiến.

Vua Ba-tư-nặc bạch Phật:

- Bố thí cho người trì giới phước ấy khó lường ấy khó lường, từ nay về sau có ai

đến xin, con trọn không trái ý. Nếu bốn bộ chúng có điều mong cầu cũng không trái th

ì con tùy thời cấp y phục, thức

ăn, s

àng nằm, tọa cụ. Con cũng lại bố thí cho người Phạm hạnh.

Phật bảo:

- Chớ nói thế ấy, Vì sao? Bố thí cho loài súc sanh phước còn khó lường, huống gì bố thí cho người. Song nay Ta nói bố thí cho người trì giới, phước khó tính kể, hơn cho người phạm giới.

Vua Ba-tư-nặc bạch Phật:

- Nay con lại tự quy y. Ðức Thế Tôn ân cần

đến thế, ngoại đạo dị học phỉ báng Thế Tôn, song Thế Tôn thường khen ngợi hơn. Ngoại đạo dị học tham trước lợi dưỡng, Như Lai không tham lợi dưỡng. Việc nước nhiều, con muốn lui về.

Phật bảo:

- Nên biết

đúng thời.

Bấy giờ, vua Ba-tự-nặc nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

8. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-

đ

à, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ, vua Ba-tư-nặc giết tr

ăm

người em khác mẹ, bèn ôm lòng hối hận: 'Ta làm việc rất ác, lại hành

động thế n

ày, do vương vị nên giết tr

ăm người. Ai có thể trừ mối lo buồn cho ta?'. Vua Ba-tu-nặc lại khởi nghĩ: 'Chỉ có Thế Tôn hay trừ bỏ mối lo của ta'. Vua lại nghĩ: 'Nay ta không n

ên ôm mối lo buồn này, im lặng

đến chỗ Thế Tôn, n

ên chuẩn bị nghi thức vua

đến chỗ Thế Tôn'.

Vua Ba-tư-nặc bảo quần thần:

- Các Ông sửa soạn xa giá, xe vũ bảo, như pháp các vua thuở trước, ta muốn ra khỏi thành Xá-vệ,

đến thăm đức Thế Tôn.

Quần thần nghe vua ra lệnh, liền trang nghiêm xa giá, xe vũ bảo,

đến tâu vua:

- Xa giá

đ

ã xong, xin Bệ hạ biết

đúng thời.

Vua Ba-tư-nặc liền ngự trên xe báu,

đánh chuông đánh trống, treo phan lọng, t

ùy tùng

đều mặc giáp khí, quần thần vây quanh ra khỏi th

ành Xá-vệ;

đến vườn Kỳ Ho

àn

đi bộ v

ào tinh xá. Theo phép các vua trước, dẹp n

ăm nghi vệ như d

ù, mũ, quạt, kiếm, giày. Vua

đến chỗ Thế Tôn, cúi đầu sát đất, lại lấy tay sờ b

àn chân Thế Tôn, rồi tự bạch rằng:

- Nay con hối quá, sửa lỗi cũ, do ngu si không biết chân ngụy, giết tr

ăm người em khác mẹ v

ì tranh thế lực ngôi vua. Từ nay trở

đi, con tự cải hối, cúi xin nạp thọ.

Phật bảo nhà vua:

- Lành thay, Ðại vương! Hãy trở về chỗ ngồi, nay Ta sẽ thuyết pháp.

Vua Ba-tư-nặc bèn

đứng dậy lễ Phật, trở về chỗ ngồi.

Phật bảo nhà vua:

- Mạng người ất nguy ách, tuổi thọ tột cùng không quá tr

ăm năm, tính ra không bao nhi

êu người thọ

đến trăm tuổi. Một ng

ày một

đ

êm ở cõi trời Ba mươi ba, tính theo ngày

đ

êm cõi ấy, ba mươi ngày là một tháng, mười hai tháng là một n

ăm, tuổi thọ c

õi trời Ba mươi ba là một ngàn n

ăm, tính ra thọ mạng c

õi người là mười vạn n

ăm.

Lại tính một ngày một

đ

êm ở

địa ngục Ho

àn Hoạt, tính theo ngày

đ

êm ở

đó, ba mươi ng

ày là một tháng, mười hai tháng là một n

ăm, địa ngục Ho

àn Hoạt sống n

ăm ng

àn n

ăm, hoặc thọ nửa kiếp hoặc thọ một kiếp t

ùy theo hành

động của người, hoặc có khi chết nửa chừng tính theo thọ mạng c

õi người là tr

ăm ức năm.

Người trí thường nhớ nghĩ tu hạnh này, lại làm ác

để

chỉ vui ít khổ nhiều tai ương khó kể. Thế nên Ðại vương

đừng v

ì thân mình cùng phụ mẫu, thê tử, quốc

độ, nhân dân m

à làm nghiệp tội, cũng chớ vì thân vua mà làm gốc tội. Cũng như chút mật dính dao, trước ngọt sau khổ;

đây cũng lại như thế, ở trong thọ mạng

c

ăn,

tạo ác làm gì?

Ðại vương nên biết! Có bốn

điều sợ h

ãi lớn hằng bức ngặt thân người, trọn không thể chế phục, cũng chẳng thể dùng chú thuật chiến

đấu, thuốc men có thể trừ. Sanh, l

ão, bịnh, tử cũng như bốn núi lớn từ bốn phía

đến c

ùng ép vào, xô dẹp cây cối thảy

đều hủy diệt. Bốn việc n

ày cũng lại như thế. Ðại vương nên biết! Khi sanh

đến, khiến cha mẹ lo sợ không thể tính kể. Nếu gi

à

đến, không c

òn trẻ mạnh, hình thể bại hoại gân cốt chậm chạp. Khi bệnh

đến v

ào lúc tráng niên, không có khí lực mạng dần rút ngắn. Nếu chết

đến, chấm dứt mạng căn, ân ái biệt ly năm ấm phân tán.

Ðại vương! Ðó gọi là có bốn

điều lớn không được tự tại.

Nếu có người gần gũi sát sanh thì sẽ chịu các khổ não, nếu sanh trong loài người thọ mệnh rất ngắn. Nếu người trộm cắp thì sau sinh ra bần khốn, áo không kín thân, thức

ăn không đủ. V

ì sao thế? Ðều do lấy tài vật của người khác, nên bị sự thay

đổi như thế, hoặc sanh l

àm người, chịu khổ vô lượng. Nếu người tà dâm vợ người thì sau sanh làm người, vợ không trinh lương. Nếu người vọng ngữ thì sau sanh làm người lời nói không

đủ tin, bị người khinh mạn; đó l

à do

đời trước nói dối trá hư ngụy. Nếu người nói lời ác th

ì sẽ chịu tội báo ở

địa ngục, hoặc sanh lo

ài người nhan sắc xấu tệ;

đó l

à do

đời trước nói lời ác n

ên chịu báo ấy. Nếu người ỷ ngữ chịu tội báo

địa ngục, nếu sanh c

õi người trong gia

đ

ình không hòa, thường bị gây gổ. Vì sao thế? Do

đời trước tạo ra báo ấy. Nếu người nói hai lưỡi gây rối đôi b

ên thì sẽ chịu tội

địa ngục, hoặc sanh c

õi người gia

đ

ình bất hòa thường có tranh tụng. Vì sao thế? Do

đời trước gây chia rẽ đôi b

ên mà ra. Nếu người ưa tật

đố

thì sẽ chịu tội

địa ngục, nếu sanh c

õi người thì bị người ghét;

đó l

à việc làm

đời trước m

à bị như thế. Nếu người sanh tâm mưu hại thì sẽ chịu tội

địa ngục, nếu sanh l

àm người ý không chuyên

định. V

ì sao thế? Ðó là do

đời trước khởi tâm như thế. Nếu người tập t

à kiến thì sẽ chịu tội

địa ngục, nếu sanh l

àm người thì bị

đui, điếc, câm ngọng, người không ưa thấy. Nguy

ên do này

đều nhân việc l

àm

đời trước m

à ra.

Thế nên, này Ðại vương! Do mười ác báo này gây nên ương lụy, chịu khổ vô lượng, huống lại ngoài những

điều n

ày!

Cho nên Ðại vương, nên dùng pháp cai trị chớ dùng phi pháp, dùng lý trị dân chớ dùng phi lý. Ðại vương! Các bậc dùng Chánh pháp trị dân, sau khi mệnh chung

đều sanh l

ên trời. Giả sử Ðại vương sau khi mệnh chung, nhân dân nghĩ nhớ, trọn không quên, danh tiếng vang xa. Ðại vương nên biết, những người dùng phi pháp trị dân, sau khi chết

đều sanh địa ngục, khi ấy ngục tốt trói thân thể, ở trong đó chịu khổ không thể tính kể; hoặc bị đánh, hoặc bị trói, hoặc bị gi

ã nát, hoặc bị cắt xẻo từng phần, hoặc bị lấy lửa

đốt, hoặc bị rót nước đồng sôi v

ào mình, hoặc bị lột da, hoặc bị mổ bụng, hoặc bị rút lưỡi, hoặc bị móc mắt, hoặc bị chọc thủng tai, bị cắt

đứt tay chân, tai, mũi, đ

ã

đứt rồi sanh lại; hoặc ném thân h

ình vào trong chảo lớn, bị dùng chìa sắt xóc vào thân không ngừng; hoặc từ chảo ra, vị rút sống lưng làm roi

đánh xe; hoặc bắt v

ào trong

địa ngục lửa nóng, hoặc v

ào

địa ngục phẩn nóng, lại v

ào

địa ngục đâm

chém, lại vào

địa ngục tro than, lại v

ào

địa ngục cây dao, lại bị bắt nằm ngửa lấy ho

àn sắt nóng bắt

ăn, ruột gan

ngũ tạng thảy

đều cháy ti

êu, hoàn sắt rơi xuống; lại bị

đem nước đồng rót v

ào miệng tuột từ trên xuống, trong ấy chịu khổ, hết tội sau mới

được ra.

Như thế, Ðại vương, chúng sanh vào

địa ngục việc ấy như thế, đều do đời trước cai trị bất chánh m

à ra.

Thế Tôn liền nói kệ:

Tr

ăm năm l

àm phóng dật,

Nên sau vào

địa ngục,

Phóng túng tham nào

đủ,

Chịu tội không tính kể.

Ðại vương! Dùng pháp cai trị tự cứu thân mình, cha mẹ, vợ con, nô tỳ, thân tộc cùng giúp việc nước. Cho nên, Ðại vương, thường nên dùng pháp cai trị chớ dùng phi pháp. Mạng người rất ngắn, ở

đời chỉ chốc lát, sanh tử d

ài xa rất nhiều nạn

đáng sợ. Khi chết tới, k

êu thóc, gân cốt phân tán, thân thể

đau đớn. Bấy giờ không ai cứu, chẳng phải cha mẹ, vợ con, nô tỳ, hầu cận, quốc độ, nhân dân có thể cứu hộ. Có những nạn n

ày ai có thể thay thế? Chỉ có bố thí, trì giới, lời nói thường hòa vui, không tổn thương người, làm các công

đức, l

àm các cội lành.

Thế Tôn liền nói kệ:

Người trí thường bố thí,

Ðiều chư Phật khen ngợi,

Cho nên tâm thanh tịnh,

Chớ có ý giải

đ

ãi.

Bị chết làm bức ngặt,

Chịu khổ não rất lớn,

Vào con

đường ác thú,

Không có lúc ngừng nghỉ.

Nếu khi tham dục

đến,

Chịu khổ não rất nhiều,

Các c

ăn tự nhi

ên hoại,

Do ác không ngừng nghỉ.

Nếu khi thầy thuốc

đến,

Gom góp các cỏ thuốc,

Không

đủ thấm khắp thân,

Do ác không ngừng nghỉ.

Nếu thân tộc lại

đến,

Hỏi th

ăm việc tiền của,

Tai cũng chẳng nghe tiếng,

Do ác không ngừng nghỉ.

Nếu lại dời

đổi đất,

Bệnh nhân nằm trên ấy,

Thân như gốc cây khô,

Do ác không ngừng nghỉ.

Nếu lại

đ

ã mệnh chung,

Thân mạng thức

đ

ã lìa,

Thân như

đất tường vách,

Do ác không ngừng nghỉ.

Nếu lại tử thi ấy,

Thân quyến

đưa ra mộ,

Cũng chẳng thể níu kéo,

Chỉ phước có thể cậy.

Cho nên, Ðại vương nên tìm phương tiện làm việc phước nghiệp,

đời nay không l

àm, sau hối vô ích.

Thế Tôn liền nói kệ:

Như Lai do phước lực,

Hàng phục quyến thuộc ma,

Nay

đ

ã

được Phật lực.

Phàm người làm phước nghiệp,

Thường

được l

ìa khổ hoạn,

Làm phước

được phước báo,

Ðời này và

đời sau.

Cho nên, Ðại vương, nên nghĩ nhớ làm việc phước, làm ác

đ

ã hối hận, chớ phạm lại.

Thế Tôn liền nói kệ:

Tuy làm ác tột cùng,

Hối quá dần mỏng nhẹ,

Bấy giờ ở thế gian,

Cội gốc

đều ti

êu diệt.

Cho nên, Ðại vương,

đừng v

ì thân mình làm các việc ác. Chớ vì cha mẹ, vợ con, Sa-môn, Ba-la-môn mà làm việc ác tập theo hạnh ác. Như thế, Ðại vương, nên học

điều n

ày.

Thế Tôn liền nói kệ:

Chẳng cha mẹ anh em,

Cũng chẳng phải thân tộc,

Hay miễn

điều ác n

ày,

Ðều bỏ, trở về chết.

Cho nên, Ðại vương, từ nay về sau dùng pháp trị dân, chớ dùng phi pháp. Như thế, Ðại vương, nên học

điều n

ày.

Bấy giờ, vua Ba-tư-nặc nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

9. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-

đ

à, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ, vua Ba-tư-nặc

đ

êm nằm mộng thấy mười việc, vua liền tỉnh giấc rất lo sợ, e sợ mất nước, thân mình và vợ con. Sáng mai vua liền triệu tập các công khanh

đại thần, các B

à-la-môn

đạo sĩ sáng suốt có thể giải điềm mộng, thảy đều câu

hội. Vua liền

đem mười điều mộng trong đ

êm nói lại, hỏi ai có thể giải

được. B

à-la-môn thưa:

- Hạ thần có thể giải

được, chỉ sợ vua nghe rồi sẽ không vui.

Vua bảo:

- Cứ nói.

Ba-la-môn tâu:

- Vua sẽ mất nước, mất thái tử và hoàng hậu.

Vua hỏi:

- Này các Khanh, có thể tế lễ cầu giải trừ ch

ăng?

Bà-la-môn tâu:

- Việc ấy có thể tế lễ

được. Phải giết thái tử v

à vị

đại phu nhân vua y

êu quý nhất, những kẻ hầu cận, thị tùng, nô bộc và

đại thần quý nhất để dâng tế Thi

ên vương. Có bao nhiêu bảo vật trân kỳ quý báu

đều phải đốt hết để tế Trời. Như thế vua v

à nước có thể hết nạn không lo.

Vua nghe lời Bà-la-môn tâu, rất lo buồn không vui,

đi về ph

òng riêng suy nghĩ việc này. Phu nhơn vua tên Mạt-lợi,

đến chỗ vua hỏi thăm:

- Vua vì sao lo buồn không vui? Thần thiếp có lỗi gì với bệ hạ ch

ăng?

Vua

đáp:

- Khanh không có lỗi với ta, nhưng

đừng hỏi điều n

ày, Khanh có nghe sẽ lo sợ.

Phu nhơn

đáp:

- Chẳng lo sợ.

Vua bảo:

- Ðừng hỏi, nghe rồi lo sợ.

Phu nhân nói:

- Thiếp là người bên cạnh Ðại vương, có việc gì gấp nên bảo cho thiếp biết rồi sẽ giết một mình thiếp, vua an ổn không có gì lo sợ, xin Ðại vương nói.

Vua liền

đem điềm mộng đ

êm qua nói với phu nhơn, thấy mười việc: một, thấy ba cái vạc, hai vạc bên

đầy, vạc ở giữa trống, hai vạc b

ên hơi nước sôi giao nhau, không bay vào vạc trống ở giữa. Hai, thấy con ngựa miệng

ăn m

à hậu môn cũng

ăn. Ba, mộng thấy cây lớn trổ bông. Bốn, mộng thấy cây nhỏ ra trái. Năm, mộng thấy người cầm dây, đằng sau có con d

ê, chủ dê

ăn sợi dây. Sáu, thấy con chồn ngồi tr

ên ghế vàng

ăn bát v

àng. Bảy, thấy trâu già lại bú nghé con. Tám, mộng thấy bầy trâu

đen, từ bốn phía k

êu rống chạy

đến muốn đánh nhau, đang họp chưa họp, không biết chỗ trâu. Chín, mộng thấy một ao nước lớn, ở giữa đục bốn b

ên trong. Mười, mộng thấy khe suối lớn nước dậy sóng màu

đỏ.

Mộng rồi tỉnh dậy rất sợ hãi, e sợ mất nước và thân mình, thê tử và nhân dân. Nay triệu tập hàng công khanh

đại thần, đạo sĩ B

à-la-môn có thể giải mộng. Thời có một Ba-la-môn nói rằng: 'Phải giết thái tử của vua, giết phu nhân quý trọng, và

đại thần, tôi tớ để tế Trời'. Do đó n

ên lo buồn.

Phu nhân thưa:

- Ðại vương chớ lo việc mộng. Như người mua vàng, lấy lửa

đốt thử v

à mài vào

đá, xấu tốt tự hiện. Nay đức Thế Tôn ở gần, tại tinh xá Kỳ-ho

àn, có thể

đến đó hỏi Phật. Phật giải thích, n

ên nghe lời Phật dạy. Tại sao nghe lời Bà-la-môn cuồng si ấy, mà tự lo khổ

đến như

vậy?

Vua bèn vui vẻ tỉnh ngộ, liền triệu tập quần thần tả hữu, gấp rút chuẩn bị xa giá. Vua ngự trên xe che lọng cao, thị tùng cỡi ngựa theo có ngàn vạn người, ra khỏi thành Xá-vệ,

đến tinh xá Kỳ-ho

àn. Ðến nơi vua

đi bộ đến chỗ Phật, cúi đầu lễ chân Phật, quý gối chấp tay bạch Phật:

- Ðêm qua con mộng thấy mười việc, xin

đức Thế Tôn thương xót con, v

ì con giải nói từng việc.

Phật bảo:

- Lành thay, Ðại vương! Ðiềm mộng của nhà vua sẽ ứng cho

đời tương lai sau n

ày. Ðời sau nhân dân không sợ phép cấm, sẽ làm nhiều việc dâm thất tham

đắm vợ con, buông lung việc dâm không chán đủ, đố kỵ

ngu si không biết hổ thẹn, bỏ

điều trinh khiết, siềm ngụy loạn quốc.

Vua mộng thấy ba cái vạc, vạc hai bên

đầy, vạc chính giữa trống, hai vạc b

ên hơi nước sôi bốc lên giao nhau, không bay vào vạc trống ở giữa. Ðó là

đời sau nhân dân không cấp dưỡng thân thuộc, ngh

èo cùng, không gần gũi bà con mà kết bạn với người dưng phú quý cùng qua lại biếu tặng. Vua thấy mộng thứ nhất, chính là

đây vậy.

Thấy ngựa, miệng

ăn v

à hậu môn cũng

ăn, l

à

đời sau nhân dân đại thần bá quan, sứ giả công khanh, ăn lộc vua lại ăn của dân, giặc gi

ã không ngừng, kẻ sứ làm kẻ gian, dân mất an ninh không ở quê nhà. Vua mộng

điều thứ hai, chính l

à

đây vậy.

Vua thấy cây lớn trổ hoa, là

đời sau nhân dân phần nhiều bị

xua

đuổi,

tâm phiền ý não thường lo sợ, tuổi mới ba mươi

đầu bạc. Vua mộng thấy việc thứ ba, chính l

à

đây vậy.

Vua mộng thấy cây nhỏ trổ trái,

đời sau, người nữ chưa đến mười lăm tuổi có chồng, ẵm con trở về không biết hổ

thẹn. Vua mộng thấy việc thứ tư, chính là

đây vậy.

Vua mộng thấy người cầm dây, sau

đó có con d

ê, người chủ dê

ăn sợi dây, l

à

đời sau, người chồng đi buôn bán hoặc v

ào quân

đội, dạo chơi các nơi kết bạn giao du, không biết đến vợ nh

à tư thông với nam tử, ngủ nghỉ

ăn uống tr

ên tài sản của chồng, buông lung tình ý không biết hổ thẹn. Người chồng cũng biết, bắt chước bạn ngủ. Vua mộng thấy việc thứ n

ăm, chính l

à

đây vậy.

Vua mộng thấy chồn ngồi trên ghế vàng,

ăn d

ùng bát vàng, là

đời sau kẻ hạ tiện sẽ được quý trọng, ngồi ghế v

àng

ăn thức ăn ngon, h

àng quý tộc danh giá sẽ là tôi tớ, ông chủ làm nô tỳ, nô tỳ làm chủ nhân. Vua mộng thấy

điều thứ sau, chính l

à

đây vậy.

Vua thấy trâu già lại bú nghé con, người

đời sau, mẹ sẽ v

ì con gái làm mai mối,

đem người nam v

ào phòng, mẹ

đứng canh cửa, do đó được t

ài vật dùng tự sinh sống, cha cũng

đồng t

ình ngu ngơ không biết. Vua mộng thấy

điều thứ bảy, chính l

à

đây vậy.

Vua mộng thấy bầy trâu

đen từ bốn phía kéo đến, c

ùng kêu rống muốn

đánh nhau, đang hợp m

à không thấy chỗ trâu,

đời sau, quốc vương, đại thần, trưởng giả, nhân dân đều không sợ pháp luật, tham dâm dục, tích chứa t

ài sản, vợ con lớn nhỏ

đều không li

êm khiết, dâm thất, tham

ăn uống không chán, tật đố ngu si không xấu hổ, không l

àm người trung hiếu, siểm khúc hại nước, không sợ trên dưới, mưa không

đúng thời, khí không điều h

òa, gió bụi nổi dậy, cát bay gãy

đổ cây cối, sâu rầy ăn lúa khiến bông không chín. Vua chúa nhân dân đều l

àm như thế, nên Trời khiến như vậy, lại bốn bên kéo mây, vua và nhân dân

đều mừng bảo rằng: 'Mây che bốn phía, nay chắc sẽ mưa'. Trong chốc lát mây tự tan, n

ên hiện

điềm gỡ, muốn cho dân chúng sửa đổi h

ành vi, giữ việc lành, trì giới, kinh sợ trời

đất không v

ào

đường ác, tự giữ trinh lương một chồng một vợ, tâm l

ành không sân. Vua mộng

điều thứ tám, chính l

à

đây vậy.

Vua mộng thấy ao nước lớn, chính giữa

đục bốn b

ên trong,

đời sau nhân dân trong Di

êm-phù-

đề, thần

trong không trung, con không hiếu, không kính trọng người già, không tin Phật

đạo, không kính bậc

Ðạo sĩ thông suốt kinh

điển, kẻ bề tôi tham của vua ban, con tham t

ài vật của cha, không biết ơn nghĩa, không

đoái ho

ài nghĩa lý. Cõi biên giới thì trung hiếu tôn kính người già, ưa tin Phật

đạo, cấp dưỡng cho bậc đạo sĩ thông kinh, nhớ nghĩ đền ơn. Vua mộng thấy điềm thứ chín, chính l

à

đây vậy.

Vua mộng thấy nước khe lớn dậy sóng màu

đỏ, l

à

đời sau, các vua chúa không chán có

thêm nhiều nước, khởi binh cùng

đánh nhau, sẽ l

àm các thứ chiến xa, binh mã cùng công phạt nhau, giết hại nhau, máu chảy

đỏ tr

àn. Vua mộng thấy

điều thứ mười, chính l

à

đây. Thảy đều l

à việc của người

đời sau.

Người

đời sau

nếu ai

để tâm v

ào Phật

đạo, phụng sự bậc

Ðạo nhơn thông suốt kinh, khi chết

đều sanh l

ên Trời. Nếu làm hạnh ngu si, lại tàn hại nhau thì chết rồi sanh vào trong ba

đường ác không thể kể hết.

Vua liền quỳ gối chấp tay nghe lời Phật dạy, trong tâm vui vẻ,

được định tuệ, không c

òn sợ hãi. Vua lạy Phật rồi trở về cung, trọng thưởng cho phu nhân và phong làm chánh hậu, cấp cho nhiều tài bảo

để bố thí cho người, khiến trong nước gi

àu vui. Vua lấy hết bổng lộc của công khanh,

đại thần, B

à-la-môn,

đuổi ta khỏi nước không c

òn tin dùng. Tất cả nhân dân

đều phát tâm vô thượng chánh chân. Vua v

à phu nhân lễ Phật mà

đi.

Bấy giờ, vua Ba-tư-nặc nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

HẾT

(T

ĂNG NHẤT A-H

ÀM TRỌN BỘ)

-ooOoo-

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top

Tags: