Kinh Pháp-Cú 1

XII.- Phẩm TỰ-NGÃ.

(127).- Tích chuyện Vương-tử Bồ-

đề.

Vào một thời kia,

Đức Phật ngụ trong rừng Th

ê-sa, trong một kỳ giảng-pháp, có

đề-cập đến Vương-tử Bồ-đề.

Vào thuở ấy, Vương-tử Bồ-

đề vừa xây cất xong một cung-điện thật nguy-nga, lộng-lẫy, đến cung-thỉnh Đức Phật v

à chư T

ăng v

ào vương-cung

để cúng-dường trai-tăng. Trong dịp nầy, Vương-tử cho trang-ho

àng lầu-các thật trang-nghiêm, dùng bốn loại hương thơm xông-ướp tất cả các c

ăn ph

òng. Vương-tử lại sai trải một tấm thảm gấm quí, thật dài, từ ngoài thềm

đi v

ào phòng khách, và Vương-tử phát lời nguyện rằng, nếu sanh

được

quí-tử thì

Đức Phật khi v

ào cung, sẽ bước chơn lên tấm thảm gấm ấy.

Khi

Đức Phật v

à chư T

ăng đến nơi, vương-tử Bồ-đề ra tận b

ên ngoài nghinh-

đón v

à cung-kính thỉnh

Đức Phật bước v

ào trong.

Đến bậc thềm, Đức Phật dừng lại. Vương-tử ân-cần mời Đức Phật bước tới, nhưng Ng

ài vẫn

đứng y

ên, mắt nhìn Tôn-giả A-nan. Tôn-giả A-nan

đoán biết ý của Đức Phật, mới đến nói với vương-tử xin cuốn tấm thảm gấm lại, th

ì

Đức Phật mới đi v

ào trong. Vương-tử liền tuân theo. Sau bữa ngọ-trai, Vương-tử mới bạch cùng

Đức Phật

: "Bạch Thế-tôn, tại sao lúc nảy Thế-tôn chẳng bước qua tấm thảm gấm?"

Đức Phật hỏi

: "Khi cho trải thảm ra,

Đại-vương có lời nguyện n

ào ch

ăng

?" Vương-tử

đáp, quả có lời nguyện

: nếu

Đức Phật dẫm chơn l

ên tấm thảm, thì vương-tử sẽ có

được con trai. Đức Phật liền bảo:

" Vợ chồng vương-tử chẳng bao giờ có con

được, v

ì

đó l

à quả-báo của kiếp trước." Rồi

Đức Phật mới kể lại sự-tích xưa của tiền-kiếp của Vương-tử Bồ-đề như sau

:

Trong một kiếp xa xưa, vương-tử và vương-phi là hai người hành-khách còn sống-sót trên một chuyến tàu

đi biển bị ch

ìm. Họ

được trôi tấp v

ào một hoang-

đảo, chẳng thấy bóng người. Để khỏi bị chết đói, họ đ

ã bắt phá các ổ chim, lấy trứng

ăn, m

à trong lòng họ chẳng hề có một chút ý-nghĩ hối-tiếc vì

đ

ã sát-hại sanh mạng của lũ

chim non sắp chào

đời. Về sau, khi trở lại với lo

ài người, họ cũng chẳng hề hối-tiếc việc sát-sanh

đó, trong thời-gian họ c

òn

đang trung ni

ên và cả

đến lúc tuổi-gi

à. Nếu họ

đ

ã có lúc

ăn-năn khi đứng tuổi hay tuổi đ

ã xế chiều, thì kiếp nầy, ít ra họ cũng có

được một, hai đứa con.

Kể xong sự-tích,

Đức Phật thốt l

ên bài Kệ sau

đây, nhờ đó m

à Vương-tử Bồ-

đề chứng được quả Tu-đ

à-huờn:

Nếu biết tự-ngã mình là quí,

Mình phải nên khéo bảo-vệ mình.

Suốt ba canh cuộc

đời, người hiền-trí

Luôn luôn tỉnh-giác và phòng-bị.

(Kệ số 157.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Tự-Ngã: Tự = chính mình; Ngã = ta. Tự-Ngã tức là chính Ta. Nhưng Ta là gì? Có phải thân ta Ta ch

ăng

? Không. Có phải tâm ta Ta ch

ăng? Cũng không.

Tự-ngã là phần linh-quang, vô-hình, bàng-bạc trong thân-tâm ta, khi thân-tâm nầy tan-rã, tư-ngã vẫn còn;

đó l

à tánh-giác hay Phật-tánh, hay pháp-thân, thường-hằng, mắt tuy chẳng thấy, nhưng tâm-trí biết

được có

tự-ngã.

- Vương-tử: Vương = vua; Tử = con. Vương-tử là con dòng vua.

- Vương-phi = vợ của vua, vợ của vương-tử.

- Vương-cung = cung-

điện của Vua.

- Vương-tử Bồ-

đề:

tên thật của vị vương-tử nầy, tiếng Pali là Bodhiràjakumàra.

- Thê-sa = tên khu rừng nầy, tiếng Pali là Bhesakalà.

- Trai-t

ăng: Trai

=

bữa

ăn chay;

T

ăng

= tu-sĩ Phật-giáo. Trai-t

ăng

là buổi lễ dâng-cúng thực-phẩm lên cho các tu-sĩ Phật-giáo.

- Bốn loại hương thơm: gồm có hương-bột, hương-

đốt, hương-xoa v

à tâm-hương ( = tấm lòng thành-kính)

- Quí-tử: Quí = quí-báu; Tử = con. Quí-tử

đứa con

quí.

- Ngọ-trai: Xin nhắc lại, ngọ-trai là bữa

ăn chay v

ào buổi trưa,

đúng giờ Ngọ (

=12 giờ trưa).

- Quả-báo: Quả =kết-quả, thành-quả, hậu-quả; Báo = đền trả lại. Theo thuyết Nhơn-Quả của nhà Phật, hễ nay làm lành, về sau sẽ

được phước-báu; hễ nay l

àm dữ, về sau sẽ chịu ác-báo.

- Tiền-kiếp: Xin nhắc lại: tiền-kiếp là kiếp trước. Theo thuyết Luân-hồi của nhà Phật, chúng-sanh trải qua nhiều kiếp sống, các

đời trước, đời hiện-tại v

à các

đời tương-lai.

- Hoang-

đảo: Hoang

=

hoang-vu, chẳng người ở; Đảo = cù-lao.

- Sát-sanh: Sát = giết chết; Sanh = sanh-mạng, mạng sống. Cấm sát-sanh là giới thứ nhứt của người Phật-tử tu tại-gia.

- Trung-niên = đứng tuổi, khoảng bốn, năm mươi tuổi.

- Tuổi

đ

ã xế chiều:

tuổi già, như buổi chiều mặt trời sắp lặn.

-Tu-

đ

à-huờn:

Xin nhắc lại: quả-vị

đầu, thấp nhứt trong h

àng Thanh-v

ăn, c

òn gọi là Nhập-lưu hay Thất-lai. Tiếng Pali là Sotàpatti.

- Ba canh cuộc

đời

:

Chữ canh nghĩa

đen l

à thời-gian hai giờ ban

đ

êm. Ở

đây,

ba canh cuộc

đời

được hiểu là ba giai-đoạn đời người: lúc còn trẻ, khi lớn tuổi và về già.

- Tỉnh-giác: Tỉnh = thức-tỉnh, chẳng mê-mờ; Giác = biết rõ. Người tỉnh-giác là người tâm giữ chánh-niệm,

đang nói g

ì,

đang l

àm gì,

đang nghĩ g

ì, thì trong tâm

đều biết r

õ mình

đang nói, l

àm, nghĩ gì.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện mang hai ý-nghĩa:

1) Tại sao

Đức Phật chẳng bước qua tấm thảm gấm

? Theo Tích chuyện, vì Ngài

đ

ã biết trước lời nguyện của vương-tử Bồ-

đề. Nhưng ta có thể hiểu cách khác

: Ngài khiêm-nhường, chẳng nhận danh-dự chủ nhà dành cho khách, trải tấm thảm (

đỏ) để rước khách.

2) Bị tuyệt-tự vì

ăn trứng chim, mắc tội sát-sanh chẳng biết ăn-năn, hối-tiếc

: đây là Luật Nhơn-Quả, trước

đ

ã giết chết chim non, nên nay chẳng có con

để nối d

òng. (Tuyệt-tự = chẳng có con-cái.)

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 157:

Mới

đọc qua, chẳng thấy có sự li

ên-hệ nào giữa Tích chuyện và bài Kệ. Tích chuyện nói về luật Nhơn-quả, còn bài Kệ nói về Tự-ngã. Nhưng nghĩ kỹ lại, Tự-ngã là gì?, ta thấy

được có sự li

ên-hệ giữa Tích chuyện và bài Kệ. Tự-ngã Ta, cái Ta chẳng những trong

đời nầy,

mà còn là cái Ta trong các

đời trước, v

à vẫn còn là cái Ta ấy về các

đời sau của kiếp Luân-hồi. Cái

Ta ấy tạo nghiệp ác trong

đời trước, th

ì trong

đời nầy, chính cái

Ta đó phải chịu ác-báo, theo luật Nhơn-quả.

Bài Kệ hàm-chứa ý-nghĩa nầy: nếu mình biết bảo-vệ mình, bảo-vệ cái ta, cái Tự-ngã của mình, kẻ khác cũng biết bảo-vệ Tự-ngã của họ, thì mình

đừng v

ì Tự-ngã của mình mà xâm-phạm

đến

Tự-ngã của kẻ khác. Trong Tích chuyện, hai vợ-chồng vương-tử, vì muốn nuôi sống Tự-ngã của họ khỏi chết

đói m

à giết-hại sanh-mạng lũ chim non còn trong trứng chưa ra

đời, n

ên nay Tự-ngã của

đôi vợ-chồng đó phải chịu hậu-quả xấu l

à chẳng có con-cái

để nối d

òng.

Bài Kệ khuyên: Nếu biết Tự-ngã mình là quí, mình phải khéo bảo-vệ Tự-ngã mình. Bảo-vệ thế nào? Bảo-vệ Tự-ngã mình để khỏi chịu quả-báo xấu-ác. Bảo-vệ cách nào? Bảo-vệ bằng cách luôn-luôn tỉnh-giác và phòng-bị, nghĩa là trong tâm phải luôn luôn trong-sạch và biếtcanh-chừng mọi ý-nghĩ xấu-ác

định l

àm hại kẻ khác,

để tránh

ác-báo. Và việc phòng-bị như thế, chẳng những phải giữ suốt "ba canh của cuộc

đời

", mà phải giữ suốt trong ba

đời

: quá-khứ, hiện-tại và vị-lai.

Có cách nào mà giữ-gìn Tự-ngã cho vẹn-toàn trong suốt ba

đời

như thế không? Có, bằng cách theo Chánh-pháp tu-tập

để thoát khỏi v

òng sanh-tử của Luân-hồi, chứng

được

vô-sanh, chẳng còn tái-sanh

để chịu

quả-báo. Chứng

được

vô-sanh có nghĩa là chứng

được cảnh-giới Niết-b

àn, Tự-ngã trở thành Chơn-ngã làcái Ta chơn-thật, thường-còn, là cái

điểm

linh-quang sẵn-có nơi mọi chúng-sanh, hiện còn bị sự ngu-tối che-mờ. Bằng sự tỉnh-giác thường-hằng, ta thắp sáng lên

điểm

linh-quang đó, tức là làm hiển-lộ được tánh-giác, được Phật-tánh ở nơi Ta, nơi Tự-ngã của Ta:

đó l

à ý-nghĩa thâm-sâu của bài Kệ.

HỌC TẬP:

1.- Học kỹ bài Kệ, ghi nhớ: phải luôn tỉnh-giác, giữ chánh-niệm.

2.-

Đừng ăn v

à

đừng dọn cho kẻ khác ăn hột vịt lộn, hột g

à lộn. Cũng

đừng ăn cá r

òng-ròng

( = cá lóc con, nhỏ chỉ bằng chừng ngón tay út), hay mắm-tép. Ăn như thế, ác lắm!

3.- Nhắc-nhở con em về Luật Bảo-vệ Súc-vật: chẳng

được săn-bắn các lo

ài thú sắp bị diệt-chủng, chẳng bắt cá-con chưa

đủ lớn.

(128).- Tích chuyện Trưởng-lão Ưu-ba-nan-

đ

à.

Vào một thời kia,

Đức Phật ngụ tại ch

ùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có

đề-cập đến Trưởng-l

ão Ưu-ba-nan-

đ

à, thuộc bộ-tộc Thích-ca.

Thuở ấy, có vị Trưởng-lão Ưu-ba-nan-

đ

à là một tỳ-kheo có tài biện-thuyết, giảng pháp rất hay. Trưởng-lão thường giảng dạy người nghe chớ nên tham-lam, phải biết

đủ, v

à tạo công-

đức l

ành bằng lối sống

đạm-bạc v

à theo hạnh khắc-khổ của

đầu-đ

à. Tuy nhiên, về phần Trưởng-lão, ông chẳng hề thực-hành những lời ông

đ

ã dạy kẻ khác phải làm. Trưởng-lão thường giữ riêng cho mình tất cả những bộ y và các vật-dụng khác mà các tín-hữu

đ

ã dưng-cúng cho Trưởng-lão.

N

ăm ấy v

ào mùa an-cư kiết-hạ, Trưởng-lão Ưu-ba-nan-

đ

à

đi đến một ngôi ch

ùa trong một làng kia. Trưởng-lão hỏi vị tỳ-kheo trẻ tuổi, ở

đây v

ào mùa an-cư, mỗi vị T

ăng được cúng-dường mấy bộ y. Nghe đáp l

à chỉ một bộ cho mỗi người, Trưởng-lão liền bỏ

đi v

à

để lại một đôi dép tại ch

ùa ấy.

Đi đến ngôi ch

ùa thứ nhì, nghe nói mỗi tỳ-kheo

được cúng hai bộ y, Trưởng-l

ão cũng bỏ

đi v

à

để cây gậy lại tại ch

ùa ấy.

Đi đến ngôi ch

ùa thứ ba, nghe nói mỗi tỳ-kheo

được tặng ba bộ y, Trưởng-l

ão cũng bỏ

đi v

à

để lại một cái bát tại ch

ùa ấy. Sau cùng,

đến ngôi ch

ùa thứ tư, nghe nói mỗi vị T

ăng, sau m

ùa an-cư,

được dưng bốn bộ y, Trưởng-l

ão mới dừng lại, và sống qua mùa an-cư tại

đấy.

Sau khi xuất-hạ, Trưởng-lão trở lại ba ngôi chùa trước mà mỗi nơi Trưởng-lão có gởi vật-dụng riêng của mình, và

đ

òi các bộ y phải

để d

ành phần cho Trưởng-lão. Sau

đó, Trưởng-l

ão Ưu-ba-nan-

đ

à dùng xe chở các bộ y

đem về tịnh-thất của m

ình.

Dọc

đường, Trưởng-l

ão gặp hai vị Sa-di trẻ tuổi

đang tranh-c

ãi chẳng biết phân chia nhau thế nào cho công-bằng hai bộ y và một cái mền gấm. Trưởng-lão

được mời đứng ra phân-xử. Trưởng-l

ão chia mỗi người một bộ y, còn cái mền gấm thì thuộc về công người xử. Hai vị Sa-di nhận phần, nhưng trong lòng chẳng phục, mới

đến thưa sự-việc với Đức Phật. Sau khi nghe tr

ình về thái-

độ của Trưởng-l

ão Ưu-ba-nan-

đ

à,

Đức Phật dạy

: "Kẻ

đi dạy người, trước hết phải tự dạy m

ình, thực hành ngay những

điều m

ình

đem dạy kẻ khác.

"

Rồi

Đức Phật nói l

ên bài Kệ sau

đây

:

Trước, biết tự

đặt m

ình vững-chắc

Vào những gì thích-

đáng chánh-chơn;

Sau, mới

đi giáo-hoá người khác.

Như thế, người trí khỏi bị trách.

(Kệ số 158.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Trưởng-lão: Xin nhắc lại: Trưởng = lớn; Lão = già. Trong Phật-học, chữ Trưởng-lão dùng

để chỉ các bực tu-h

ành lâu n

ăm, đức-hạnh cao. Ri

êng về Nam-tông, chữ Trưởng-lão dùng

để dịch chữ

Thera, bực cao tuổi

đạo đ

ã chứng quả-vị A-la-hán. Theri dịch là Nữ-trưởng-lão.

- Ưu-ba-nan-

đ

à:

tên thật vị tỳ-kheo nầy, tiếng Pali là Upananda

- Biện-thuyết: Biện =phân-biện; Thuyết =nói. Tài biện-thuyết, nói n

ăng lưu-loát, Phật-học gọi l

à biện-tài vô-ngại (vô-ngại =chẳng sợ)

- Biết

đủ

:

biết có vừa

đủ, chẳng tham; tiếng Hán-Việt l

à tri-túc.

- Sống

đạm-bạc

=

sồng giản-dị,

đơn-sơ, chẳng đ

òi-hỏi nhiều.

- Hạnh khắc-khổ = lối sống kham khổ

để tuân theo kỷ-luật tu.

- Đầu-đà = phiên-âm chữ Pali là Dhùtanga, người sống theo hạnh khắc-khổ. Hạnh

đầu-đ

à

gồm có 13

đ

ìều: (1) mặc áo do vải vụn lượm

được may ráp lại; (2) chỉ có được ba bộ áo m

à thôi; (3) chỉ

ăn những g

ì

đi khất-thực được; (4) phải đi khất-thực từ nh

à; (5)ngồi một chỗ mà

ăn, đứng l

ên thì chẳng

ăn th

êm nữa; (6) chỉ

ăn nội trong bát của m

ình mà thôi; (7) chỉ

ăn mỗi ng

ày một lần vào giữa trưa; (8) phải ở nơi vắng-vẻ; (9)phải sống dưới gốc cây; (10) ở chỗ trống, chẳng che lợp; (11) chọn nơi mồ-mả mà ở; (12) sống ở nơi nào Giáo-hội

đ

ã chỉ-

định; (13) từ sáng đến tối, chỉ đi, đứng, ngồi, chẳng được nằm.

- Tín-hữu: Tín =tin-tưởng; Hữu =bạn. Gần nghĩa với chữ đạo-hữu.

- An-cư kiết hạ: Xin nhắc lại: an-cư là ở yên; kiết-hạ = sống qua mùa hè.

Đức Phật đặt ra lệ

an-cư kiết-hạ, vào mùa hè, mưa nhiều, côn-trùng sanh-sản, các tỳ-kheo quay về tịnh-xá, chẳng

đi ra ngo

ài,sợ

đạp chết côn-tr

ùng. Trong thời-gian an-cư, tỳ-kheo tu-tập và học-hỏi kinh-nghiệm của nhau. Dự một khoá an-cư là thêm một tuổi

đạo.

- Bộ-tộc: Bộ = bộ-lạc, xóm nhà sống chung dưới quyền người tộc-trưởng; Tộc = dòng họ. Tỳ-kheo Ưu-ba-nan-

đ

à "vốn thuộc bộ-tộc Thích-ca" có nghĩa là vị ấy cùng một họ Thích-ca với

Đức Phật.

- Tịnh-thất: Tịnh = yên-vắng; Thất = nhà. Tịnh-thất là ngôi nhà nhỏ, còn gọi là am, cốc, dành cho một tu-sĩ Phật-giáo.

- Sa-di: phiên-âm chữ Pali là Sàmanera, nghĩa là người mới vào chùa tập-sự tu-hành, chưa thọ-giới Tỳ-kheo.

- Thích-

đáng chánh-chơn

= hợp với sự chơn-chánh,

đứng-đắn.

- Giáo-hoá = dạy-dỗ.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện kể lại việc một tỳ-kheo khéo dạy người

đừng tham, m

à chính mình lại quá tham: trong một mùa an-cư mà thâu-nhận cho riêng mình mười chiếc áo cà-sa và một cái mền gấm.

Ý-nghĩa Tích chuyện là lời Phật dạy: "Trước khi dạy người khác

điều g

ì, mình phải thực-hành nhuần-nhã lời dạy ấy trước

đ

ã."

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 158:

Thử phân-tách từng câu bài Kệ:

1) Trước, biết tự

đặt m

ình vững-chắc:

Trước hết, phải tu-tập cho mình thật nhuần-nhã;

2) Vào những gì thích-

đáng chánh-chơn

:

tức là những

điều hay, đứng-đắn m

à mình

đem ra dạy cho kẻ khác phải l

àm;

3) Sau, mới

đi giáo-hoá người khác

:

mình có làm rồi, sau mới dạy lại cho kẻ khác;

4.- Như thế, người trí khỏi bị trách: trách gì? Trách mình chỉ "n

ăng thuyết bất năng h

ành"

(chỉ biết nói, chớ chẳng chịu làm).

HỌC TẬP:

1.- Học thuộc bài Kệ, ghi nhớ mình phải làm gương cho con.

2.- Tham là món

độc nhứt, khi bắt đầu khởi tu, phải bỏ tánh

tham- lam ngay. Tu mà muốn mau chứng quả,

đó l

à còn tham đấy.

(129).- Tích chuyện Trưởng-lão Phả-

đ

à-ni.

Vào một thời kia,

Đức Phật ngụ tại ch

ùa Kỳ-viên, trong một kỳ giảng-pháp, có

đề-cập đến Trưởng-l

ão Phả-

đ

à-ni.

Thuở ấy, vào

đầu m

ùa an-cư kiết-hạ, Trưởng-lão Phả-

đ

à-ni cùng với một nhóm tỳ-kheo

đệ-tử, đến thỉnh Phật chỉ-dạy cho mỗi người một

đề-tài thiền-quán, rồi cùng

đi v

ào rừng sâu tu-tập.

Đến nơi, Trưởng-l

ão dặn các

đệ-tử phải luôn tỉnh-giác v

à tinh-tấn thực-tập thiền-

định. Sau khi dặn xong, Trưởng-l

ão về phòng riêng, ngã mình xuống chiếu, nằm ngủ. Các tỳ-kheo

đệ-tử, vâng lời thầy dặn, chăm-chỉ ngồi thiền trọn canh đầu trong đ

êm.

Đến khi họ sắp đi nghỉ, Trưởng-l

ão Phả-

đ

à-ni trở dậy, bảo họ phải tiếp-tục hành thiền luôn cả canh giữa.

Đến canh cuối, Trưởng-l

ão lại

đến b

ên họ, bảo phải tiếp-tụcnữa, như hai canh qua.

Vì ngày qua ngày, Trưởng-lão cứ hành-

động như thế, các tỳ-kheo thuờng bị quở-trách, chẳng được an-tâm để tập-trung tư-tưởng trong khi ngồi thiền. Cả khi đọc-tụng Kinh kệ, họ cũng mất chú-tâm. Một hôm, họ chia phi

ên nhau, rình xem Trưởng-lão

đ

ã làm những gì trong ngày, có

đúng như lời Trưởng-l

ão

đ

ã dặn các tỳ-kheo phải làm theo không. Họ khám-phá ra, Trưởng-lão

đ

ã ngủ kỹ trong khi họ

đang ngồi thiền. Họ bảo nhau

: "Hỏng rồi! Thầy chỉ biết rầy-la chúng ta, mà chính thầy

đang l

ãng-phí thời-giờ

để ngủ, chẳng thực-tập thiền.

"

Đến cuối mùa an-cư, cả đoàn quay về chùa Kỳ-viên. Các vị tỳ-kheo trình lên Đức Phật sự thất-bại của họ cùng nguyên-nhơn do đâu mà họ tu-tập chẳng được tấn-bộ. Đức Phật bảo: "Nầy chư tỳ-kheo, người muốn dạy kẻ khác, trước hết phải tự-dạy lấy mình, tự-

điều-phục m

ình, kềm-chế tư-cách mình cho xứng-

đáng.

"

Rồi

Đức Phật mới nói l

ên bài Kệ sau

đây

:

Chính mình phải làm ngay

Điều mình dạy người khác.

Tự kiểm-soát mình trước,

Sau mới dạy người

được.

Tự

điều-phục, khó thay

!

(Kệ số 159.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Phả-

đ

à-ni: tên vị Trưởng-lão nầy, tiếng Pali là Padhànikatissa.

- An-cư kiết-hạ: Xin nhắc lại: an-cư =ở yên; kiết-hạ = qua mùa hè. Mùa hè, chư T

ăng chẳng đi khất-thực v

ì sợ

đạp chết côn-tr

ùng.

- Đề-tài thiền-quán: Xin nhắc lại: một

đầu-đề để suy-tư thâm-sâu khi ngồi thiền nhập-định.

- Tỉnh-giác: xin xem lại bài trước.

- Tinh-tấn = cố-gắng, nỗ-lực cho có tấn-bộ.

- Tập-trung tư-tưởng = chú tâm = gom ý vào một

điểm thôi.

- Canh

đầu, canh giữa, canh cuối

: Ấn-

độ chia đ

êm ra làm ba canh, trong khi ở Việt-Nam,

đ

êm có n

ăm

canh.

- Tấn-bộ = tiến-bộ, có khá hơn trước.

- Điều-phục = kềm-chế, làm chủ, bắt buộc phải theo ý mình.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện nầy cũng giống với Tích chuyện bài trước: làm thầy, bảo

đệ-tử phải tinh-tấn ngồi thiền suốt đ

êm, còn thầy thì

đi ngủ.

Ý-nghĩa của Tích chuyện:

điều g

ì mình dạy kẻ khác làm, thì chính mình phải làm trước. Tại sao? Nếu không như thế, sẽ bị mỉa-mai rằng; "Hãy làm những gì thầy nói,

đừng l

àm những gì thầy làm."

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 159:

Bài Kệ nhấn mạnh việc tự-

điều-phục m

ình.

Tự-

điều-phục

là gì?

Đó l

à tự mình phải tuân theo kỷ-luật khi tu. Điều-phục những gì?

Điều-phục

: (1)giữ-gìn các giác-quan, tâm chẳng lang thang chạy theo cảnh-vật bên ngoài;(2) thanh-lọc tâm-ý cho trong-sạch, tâm luôn luôn giữ chánh-niệm, và (3) ba nghiệp thân, khẩu, ý phải thanh-tịnh, việc làm, lời nói và tư-tưởng phải chơn-chánh. Vì phải tự-

điều-phục

trong mọi thời, nhiều việc như thế, nên

Đức Phật mới nói

: "Khó thay!"

HỌC TẬP:

1.- Học thuộc bài Kệ, ghi nhớ: trước dạy mình, sau sẽ dạy người.

2.-

Đặt ra kỷ-luật trong nh

à cho con-cái, cha-mẹ phải tuân theo trước:

9 giờ con phảitắt TV

để học b

ài, thì cha-mẹ

đừng ngồi coi th

êm "phim Chưởng"

đến nửa đ

êm.

(130).- Tích chuyện bà mẹ của Cưu-ma-ca-diếp.

Vào một thời kia,

Đức Phật ngụ tại ch

ùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có

đề-cập tới Trưởng-l

ão Cưu-ma-ca-diếp và mẹ.

Thuở ấy, có một người

đ

àn-bà trẻ tuổi,

được chồng cho phép xuất-gia. B

à qui-y với

Đề-b

à-

đạt-đa v

à tu-hành tại một nữ tu-viện. Bà

đ

ã có thai trước khi

đi tu m

à chẳng biết,

đến khi việc phát-giác, các tỳ-kheo-ni ở tu-viện mới dẫn b

à

đến gặp Đề-b

à-

đạt-đa để phân-xử. Đề-b

à-

đạt-đa ra lịnh cho b

à phải hoàn-tục. Nhưng bà nghĩ mình chẳng có lỗi chi, nên

đến ch

ùa Kỳ-viên, trình cùng

Đức Phật. Đức Phật quán-thấy b

à ấy quả thiệt có thai trước khi

đi tu, nhưng Ng

ài chẳng phán-quyết, giao cho Trưởng-lão Ưu-bà-li, hợp với Vua Ba-tư-nặc, Trưởng-giả Cấp-cô-

độc, tín-nữ Vi-sa-kha, c

ùng xét-xử trước công-chúng.

Bà Vi-sa-kha dẫn người thiếu-phụ vào phòng kín, khám thai, thấy quả thật người ấy

đ

ã có thai trước khi vào tu-viện. Trước công-chúng, Trưởng-lão Ưu-bà-li tuyên-bố, giới-hạnh của người

đ

àn-bà ấy hoàn-toàn chẳng bị tì-vết chi,

được tiếp-tục giữ qui-chế tỳ-kheo-ni. Mấy tháng sau, b

à ấy sanh

được bé trai, đặt t

ên là Cưu-ma-ca-diếp và

được Vua Ba-tư-nặc nhận l

àm con nuôi. Khi lên bảy, Cưu-ma-ca-diếp

được thâu-nhận v

ào làm Sa-di ở chùa Kỳ-viên. Chẳng bao lâu, Cưu-ma-ca-diếp

được Đức Phật chỉ-dạy cho một đề-t

ài thiền-quán, mới

đi v

ào rừng sâu, tinh-tấn tu-tập trong mười hai n

ăm.

Trong thời-gian dài

đăng-đẳng, b

à mẹ của Cưu-ma-ca-diếp nhớ thương con biết mấy. Một hôm gặp lại con, bà chạy theo sau, gọi tên con, khóc-lóc nức-nở, kể-lể nỗi-niềm thương nhớ. Cưu-ma-ca-diếp nhìn mẹ và ngẫm-nghĩ, nếu nay ta dùng lời âu-yếm thưa cùng mẹ, thì bà chẳng thể nào dứt bỏ

được sự tríu-mến v

ào con; như thế, con

đường tu-tập của mẹ sẽ bị cản trở. Rồi Cưu-ma-ca-diếp mới l

àm mặt nghiêm, lạnh-lùng bảo mẹ: " Một tỳ-kheo-ni như bà, sao lại chẳng cắt-

đứt được t

ình-cảm quyến-luyến vào con-cái?" Nói xong, Cưu-ma-ca-diếp thản-nhiên bước tới. Trước cử-chỉ tàn-nhẫn

đó của con, b

à mẹ rất ngạc-nhiên, hỏi lại, chẳng biết mình có nghe lầm ch

ăng. Cưu-ma-ca-diếp lập-lại r

õ-ràng từng tiếng. Tuy quá

đau buồn trước thái-độ lạnh-nhạt của con, nhưng b

à mẹ lại thức-tỉnh: "Phải! Con ta nói phải. Trong mười hai n

ăm qua, biết bao nhi

êu nước mắt ta

đ

ã khóc vì nhớ con. Nay gặp lại nó, nghe những lời phụ-bạc, ta còn quyến-luyến

đến con-cái l

àm chi nữa." Tâm bà liền dứt khoát dẹp bỏ

được sự tríu-mến, v

à ngay trong hôm ấy, bà chứng-

đắc được quả-vị A-la-hán.

Sau

đó, tại ch

ùa Kỳ-viên, một vị tỳ-kheo bạch Phật: "Bạch Thế-tôn nếu bà mẹ của Cưu-ma-ca-diếp nghe lời của

Đề-b

à-

đạt-đa m

à hoàn-tục, thì nay cả mẹ lẫn con

đâu chứng được quả-vị A-la-hán. Đề-b

à-

đạt-đa quả đ

ã làm hại mẹ con bà ấy; còn Thế-tôn mới thật là nơi nương-tựa của họ."

Đức Phật bảo

: "Nầy chư Tỳ-kheo, trong nỗ-lực tu-tập

để được sanh l

ên cõi Trời, hay chứng quả A-la-hán, các vị chẳng thể nương-tựa vào kẻ nào khác, mà phải nương-tựa vào chính mình, tự mình cố-gắng lấy."

Rồi

Đức Phật mới nói l

ên bài Kệ sau

đây

:

Tự mình nương-tựa chính mình,

Còn hơn tìm kiếm cứu-tinh nơi nào.

Khéo tự

điều-phục sao cho vẹn,

Được nơi nương-tựa, hiện khó tìm.

(Kệ số 160.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Cưu-ma-ca-diếp: tên vị tu-sĩ nầy, tiếng Pali là Kumàrakassapa.

- Xuất-gia: Xuất = ra khỏi; Gia = nhà. Xuất-gia là rời nhà

đi tu.

-

Đề-b

à-

đạt-đa:

tên vị tỳ-kheo nầy, tiếng Pali là Devadatta. Vốn là anh của Tôn-giả A-nan (em họ của

Đức Phật), ba lần mưu-sát Phật.

- Có thai, mang thai = có con trong bụng còn chưa sanh.

- Phát-giác: Phát = lộ ra;Giác = biết. Phát-giác là bị lộ ra nên mọi người biết

đến.

- Tỳ-kheo-ni = nữ-tu-sĩ Phật-giáo; tiếng Pali là Bhikkhuni.

- Hoàn-tục: Hoàn = trở lại; Tục =thế-tục; Hoàn-tục là trở về sống

đời thường, chẳng đi tu nữa.

- Quán-thấy = nhìn thấy rõ trong tâm.

- Ưu-bà-li = vị

đại-đệ-tử của Đức Phật Thích-ca, giỏi nhứt về

giới-luật; tên tiếng Pali là Upàli.

- Vua Ba-tư-nặc = Vua xứ Câu-tát-la (Kosala), tên tiếng Pali là Pasenadi

- Cấp-cô-

độc

= vị Trưởng-giả giàu-có, nổi tiếng cứu-giúp người nghèo-khổ, cô-

đơn, n

ên

được tặng danh-hiệu l

à ông Cấp-cô-

độc,

tên tiếng Pali là Anàthapindika. Ông Cấp-cô-

độc xây ch

ùa Kỳ-viên dâng-cúng

Đức Phật v

à T

ăng-đo

àn.

- Vi-sa-kha: vị tín-nữ giàu tiền-của, rộng lòng bố-thí,

đạo-tâm rất cao, xây cất ch

ùa

Đông-vi

ên (Pubbàràma)ở phiá

Đông ch

ùa Kỳ-viên,

để dưng-cúng cho Ni-đo

àn.

- Giới-hạnh: Giới = giới-luật,

đ

ìều cấm trong

đạo Phật;

Hạnh = hạnh-kiểm, tư-cách, lối sống; Giới-hạnh là sự tuân theo các

điều răn-cấm trong đạo Phật. Tiếng

Pali là Sila.

- Tì-vết = vết trầy, vết nhơ. Giới-hạnh chẳng có tì-vết có nghĩa là sự giữ giới hoàn-toàn trong-sạch, chẳng phạm một lỗi nhỏ.

- Qui-chế: Qui = cái khuôn; chế = điều lệ bó-buộc; Qui-chế có nghĩa là tất cả quyền-lợi và bổn-phận dành cho một hạng người. Ở

đây,

được giữ qui-chế tỳ-kheo-ni có nghĩa là

được tiếp-tục tu v

à

được đối-xữ xứng-đáng l

à một vị tỳ-kheo-ni.

- Sa-di: Xin nhắc lại, Sa-di là người mới vào chùa tập-sự tu-hành, chưa thọ-giới tỳ-kheo; tiếng Pali là Sàmanera.

-

Đề-t

ài thiền-quán: Xin nhắc lại:

đầu-đề để suy-tư sâu-xa khi ngồi Thiền nhập định. Thí-dụ như, đề-t

ài thân bất-tịnh ( bên trong thân chứa những sự dơ-dáy)

để quán-tưởng về pháp

Tứ-niệm-xứ; hoặc tượng

Đức Phật A-di-đ

à, để quán-tưởng, theo pháp-môn Tịnh-độ.

- Thức-tỉnh = tỉnh-ngộ lại, hết mê-mờ, nhận biết mình

đ

ã lầm-lẫn.

- Phụ-bạc = phụ ơn và bạc-tình;

đối-xử xấu với người ơn.

- Quyến-luyến, Tríu-mến = hai chữ nầy cùng có chung nghĩa với chữ Khát-ái, Tham-ái, nghĩa là quá bám vào

điều m

ình thương, thích.

- A-la-hán: Xin nhắc lại:

đây l

à quả-vị cao nhứt trong hàng Thanh-v

ăn, dứt bỏ mọi phiền-n

ão, chẳng phải tái-sanh nữa (Arahant )

- Nương-tựa: dịch chữ quy-y, nơi an-ổn

được bảo-vệ; (

qui = quay về; y = nương-tựa).

- Cứu-tinh = người cứu-giúp cho qua khỏi tai-nạn.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện mang ba ý-nghĩa:

1) Tại sao bà mẹ của Cưu-ma-ca-diếp bị

đưa ra xét-xử

? Vì bà mang bầu (có thai) nên các ni-cô tưởng bà

đ

ã phạm tội tà-dâm trong khi tu.Theo giới-luật, tu-sĩ Phật-giáo phải cắt-

đứt mọi t

ình-dục, sống

độc-thân. Phạm tội nầy, sẽ bị đuổi ra khỏi Giáo-hội. V

ì mẹ của Cưu-ma-ca-diếp

đ

ã có thai trước khi

đi tu, n

ên chẳng phạm tội dâm.

2) Tại sao Cưu-ma-ca-diếp lại đối-xử lạnh-nhạt với mẹ? Đó là vì muốn giúp mẹ dứt bỏ được sự quyến-luyến vào con. Dứt được sự tríu-mến là một hạnh trong hạnh xả-ly (xả = bỏ; ly = lià ra), giữ tâm thanh-tịnh, dửng-dưng trước mọi việc dầu vui hay buồn, như thế mới giải-thoát

được mọi phiền-n

ão. Tríu-mến là tự mình xe dây

để trói-buộc m

ình; muốn

được

giải-thoát, phải cắt-

đứt sợi dây t

ình-cảm ấy.

3) Tại sao, ngoài mình ra, mình chẳng nên tìm nơi nương-tựa nào khác? Mình nương-tựa vào chính mình có nghĩa là chính mình phải cố-gắng lấy, chẳng

được chờ ai đến giúp cho m

ình. Tại sao? Vì ai tu thì người ấy

được, n

ào có ai tu

được gi

ùm cho kẻ khác

đâu. Nói cách khác, muốn thân của m

ình sạch, mình phải

đi tắm lấy thân m

ình, kẻ kia

đi tắm, th

ì thân người ấy sạch, chớ thân mình vẫn còn dơ.

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 160:

Thử phân-tách bài Kệ:

1) Tự mình nương-tựa chính mình: tự mình cố-gắng tu-tập lấy mình, tin-tưởng các nỗ-lực của mình sẽ

đưa đến kết-quả tốt cho m

ình.

2) Còn hơn tìm kiếm cứu-tinh nơi nào: còn

đi t

ìm kiếm người khác tu giúp mình là còn chần-chờ, thiếu quyết-tâm. Có ai cứu cho mình ra khỏi cảnh sanh-tử Luân-hồi

đâu m

à mất công

đi t

ìm.

3) Khéo tự-

điều-phục sao cho vẹn

: khéo tự-

điều-phục

đây có

nghĩa là khéo tu-tập lấy. Về sự điều-phục, xin xem lại trang 413.

4) Được nơi nương-tựa, hiện khó tìm: nơi nương-tựa nào mà khó tìm?

Đó l

à quả A-la-hán, dứt sạch phiền-não, hết bị tái-sanh nữa.

HỌC TẬP:

- Học thuộc lòng bài Kệ, ghi nhớ: cố-gắng theo Phật-pháp mà tự-tu lấy mình vì ai tu, thì người ấy

được, chẳng ai tu giúp ai được cả.

(131).- Tích chuyện ông Ưu-bà-sa.

Vào một thời kia,

Đức Phật ngụ tại ch

ùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có

đề-cập đến người thiện-nam t

ên là Ưu-bà-sa.

Thuở ấy có người thiện-nam, tên Ưu-bà-sa,

đến ch

ùa Kỳ-viên thọ Bát-quan-trai-giới, trong hai mươi bốn tiếng

đồng-hồ giữ giới, nghe kinh. Sau buổi lễ v

ào sáng sớm, Ưu-bà-sa

đi ra bờ ao gần ch

ùa

để rửa mặt. Cách ch

ùa không xa, trong

đ

êm qua, có một gia-

đ

ình giàu-có bị cướp-bóc. Bọn cướp bị rượt

đuổi, chạy ngang qua gần ao, đánh rơi tang-vật cướp được b

ên bờ ao, gần chỗ Ưu-ba-sa

đang rửa-ráy. Một lát sau, chủ nh

à chạy

đến, thấy của-cải của m

ình bên bờ, tưởng người dưới ao là kẻ cướp, mới hô gia-nhơn vây

đánh Ưu-ba-sa. Ưu-b

à-sa bị

đánh-đập t

àn-nhẫn, thương-tích nặng-nề chịu chẳng nổi, nằm l

ăn xuống cỏ, thở hơi cuối c

ùng.

Khi mặt trời lên cao, các vị tỳ-kheo và sa-di ra ao gánh nước, thấy thi-thể Ưu-bà-sa, nhận ra

được người thiện-nam nầy vừa thọ Bát hôm qua, mới v

ào trình cùng

Đức Phật. Các vị tỳ-kheo thưa

: "Bạch Thế-tôn, vị cận-sự-nam Ưu-bà-sa là người hiền-lành, mộ

đạo, vừa thọ Bát-quan xong, lại bị đánh chết. Ưu-b

à-sa

đâu đáng phải chết đau-khổ như thế

!"

Đức Phật bảo

: "Nầy chư tỳ-kheo, nếu quí vị phán-xét về

đức-hạnh trong đời nầy của thiện-nam Ưu-b

à-sa, thì quả thật, chẳng

đáng phải chịu một cái chết đau-khổ như thế. Nhưng nếu

quí vị xét

đến tiền-kiếp của Ưu-b

à-sa, quí vị sẽ thấy ông ấy

đang chịu quả-báo của đời trước. Trong một tiền-kiếp, Ưu-b

à-sa là một vị quan cận-thần, có dính-líu tình-ái với vợ của một người khác. Ỹ thế vua thương, vị cận-thần ấy vu-oan cho người chồng, bắt

đem đánh-đập đến chết, để chiếm lấy người vợ. V

ì tội-ác

đó, n

ên trong

đời nầy, Ưu-b

à-sa phải chết thê-thảm như vậy. Hành-

động xấu-ác chẳng những gây khốn-khó trong đời nầy, m

à còn

đưa ta tái-sanh v

ào các nẻo ác-

đạo nữa.

"

Rồi

Đức Phật mới nói l

ên bài Kệ sau

đây

:

Tự mình làm

điều ác,

Ác từ bụng mình sanh,

Ác do mình tạo thành,

Người ngu, ác nghiến nát.

Kim-cương, nào có khác,

Nghiến nát hòn bảo-thạch

Trước chứa nó long-lanh.

(Kệ số 161.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Ưu-bà-sa: tên vị thiện nam nầy, tiếng Pali là Mahàkàla Upàsaka

- Thiện-nam = Cận-sự-nam = Phật-tử tu tại-gia, nam gọi là thiện-nam ( Pali: Upàsaka), nữ gọi là tín-nữ (Upàsikà).

- Thọ Bát-quan-trai-giới: gọi tắt là thọ Bát, vào chùa tu trong 24 tiếng

đồng-hồ, nguyện giữ tám điều răn-cấm gồm năm giới của người tu tại-gia, cộng th

êm (1) chẳng trang-sức và nằm giường cao, (2) chẳng

ăn phi-thời (

= sái giờ) và (3) chẳng nghe hát-xướng. Phật bảo, kẻ nào thọ Bát thật thanh-tịnh, sẽ khỏi phải sa vào

địa-ngục.

- Tang-vật: Tang = tang-chứng, bằng-cớ tội-phạm; Tang-vật

đồ vật bị trộm cắp, hay v

õ-khí dùng

để hại người, bị bắt gặp.

- Gia-nhơn: Gia = nhà; nhơn = người; Gia-nhơn làngười ở,

đầy-tớ.

- Thương-tích =vết thương, chỗ bầm, trầy, hay

đổ máu tr

ên mình.

- Tỳ-kheo, Sa-di: xin xem lại nghĩa ở bài trước.

- Mộ

đạo

=

rất tin-tưởng vào

Đạo, si

êng tu-hành.

- Tiền-kiếp = kiếp trước,

đời trước.

- Cận-thần: Cận = gần, gần bên vua; thần = quan. Cận-thần là vị quan

được ở gần b

ên vua,

được vua thương.

- Dính-líu tình-ái = dan-díu, ngoại-tình, thông-gian.

- Vu oan = phao tội gian cho kẻ khác bị oan-ức.

- Nẻo ác-

đạo

=

phải tái-sanh vào ba đường ác của Luân-hồi: (1)

điạ-ngục; (2) ngạ-

quỉ ( = quỉ

đói); (3) súc-sanh (

= thú-vật.)

- Kim-cương = hột xoàn.

- Bảo-thạch: Bảo = quí báu; Thạch = đá. Bảo-thạch

đá

quí, có chứa hột xoàn bên trong.

- Thi-thể: Thi = thây-ma; thể = thân-thể; Thi-thể là thân-xác người chết còn chưa chôn.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện thuật lại một người mộ-

đạo, vừa thọ Bát xong v

ì "tai bay hoạ gởi" mà phải bị

đánh chết th

ê-thảm.

Đó l

à vì trong kiếp trước, kẻ ấy có phạm-tội ngoại-tình,

đập chết người chồng để chiếm người vợ, n

ên kiếp nầy phải trả quả-báo.

Tích chuyện chứng-minh rõ-ràng luật Nhơn-Quả: tội-ác ở

đời trước l

à nhơn, đưa đến cái chết thê-thảm ở đời nầy là quả. Nhơn nào quả nấy chẳng sai,

đó l

à ý-nghĩa của Tích chuyện.

Vì mình chẳng thấy biết

được tiền-kiếp cho n

ên mình chẳng hiểu rõ

được sự báo-ứng của luật Nhơn-Quả. Luật Nhơn-Quả v

ì thế, cần phải xét

đến

qua ba

đời

:

đời trước, đời nầy v

à

đời sau. Ứng-dụng v

ào cuộc sống, ta có thể nói: nhìn

đến thân-phận hiện nay của một người, ta có thể đoán biết người ấy l

ành hay dữ trong kiếp trước; và nhìn vào hành-

động đời nầy của một người, ta có thể ti

ên-

đoán vận-mạng tốt hay xấu của người ấy trong kiếp sau.

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 161:

Ý-nghĩa của bài Kệ rất rõ-ràng: hễ ai làm ác thì sẽ bị ác nghiến-nát, nghĩa là sẽ phải chịu quả-báo khốn-khổ do nguyên-nhơn tội-ác

đ

ã làm, chẳng thể nào tránh khỏi.

Bài Kệ dùng một thí-dụ rất cụ-thể

để chỉ r

õ sự báo-ứng của luật Nhơn-Quả: vì mê-mờ mà tạo ác, ác

đó sẽ nghiến-nát đời m

ình, cũng như hòn bảo-thạch kia, bên trong chứa sẵn hột kim-cương, rồi sẽ bị viên kim-cương cứng-rắn

đó nghiến-nát.

Nếu

đ

ã lỡ làm ác, có cách nào

để khiến

ác-báo chậm

đến hay

không? Có, phải sám-hối tội-lỗi và tạo thêm điều lành, khiến cho quả-báo chẳng

đủ cơ-duy

ên

để xảy ra. Xảy chậm thôi, v

ì thế, tốt nhứt là thấy việc ác, phải tránh ngay.

HỌC TẬP:

- Học thuộc bài Kệ, ghi nhớ

để tự răn m

ình trong hành-

động thường ng

ày. Nhớ: ác do mình tạo, mình có thể tránh nó trước

được.

(132).- Tích chuyện về một tiền-kiếp của

Đề-b

à-

đạt-đa.

Vào một thời kia,

Đức Phật ngụ tại ch

ùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có

đề-cập đến Đề-b

à-

đạt-đa trong một tiền-kiếp.

Một hôm, trong giờ nghỉ-ngơi, các vị tỳ-kheo

đang b

àn chuyện với nhau, thì

Đức Phật đi đến. Ng

ài hỏi, bàn chuyện chi, thì các tỳ-kheo thưa, bàn về hạnh-kiểm của

Đề-b

à-

đạt-đa. Một vị tỳ-kheo thưa:

"Bạch Thế-tôn,

Đề-b

à-

đạt-đa l

à người chẳng có

đức-hạnh chi, tham-lam, bỏn-xẻn, lại hám danh trục lợi. Ông ta đ

ã xúi-dục vua A-xà-thế giết vua cha là vua Tần-bà-sa-la, một vị

đạo-đức vẹn-to

àn.

Đề-b

à-

đạt-đa lại ba lần mưu-sát Thế-tôn; như thế, Đề-b

à-

đạt-đa quả thật l

à người xấu-ác, chẳng chữa-trị

được.

"

Đức Phật bảo

: "Chẳng phải

Đề-b

à-

đạt-đa muốn giết ta trong đời nầy m

à thôi, cả trong các

đời trước, Đề-b

à-

đạt-đa cũng muốn giết-hại ta nữa.

" Rồi

Đức Phật kể lại câu chuyện về một tiền-kiếp của Ng

ài và

Đề-b

à-

đạt-đa, như sau

:

Vào thời

đức Vua Phạm-đạt trị-v

ì ở thành Ba-la-nại, ta (

Đức Phật) thác-sanh l

àm một con nai và

Đề-b

à-

đạt-đa l

àm người thợ s

ăn. Một hôm, người thợ săn thấy dấu chơn nai ở một gốc cây, mới leo l

ên cây ấy rình chờ, sắp sẵn mũi chĩa nhọn. Chú nai sắp

đi đến gần b

ên cây, nhưng rất dè-dặt, cẩn-thận nhìn quanh. Người thợ s

ăn thấy nai c

òn ngập-ngừng, chưa

đến gần cây, mới hái mấy trái cây, liệng xuống để dụ nai đến gần. Nai bước chầm-chậm, nh

ìn lên thấy có người núp sẵn trên ngọn, mới bỏ

đi nhanh chỗ khác, vừa đi vừa nghĩ

: "Nầy cây cổ-thọ, mọi hôm cây

để rơi quả theo chiều thẳng đứng, hôm nay, trái rụng sao lại rơi xi

êng-xiêng như thế nầy. Cây

đ

ã chẳng tuân theo luật rớt thẳng của thiên-nhiên, thì ta bỏ cây nầy, tìm

đến cây khác vậy.

" Thấy nai bỏ

đi, Đề-b

à-

đạt-đa tức-giận đánh rơi mũi chĩa xuống đất v

à nói: "Hôm nay, ta tính sai nên mầy mới chạy thoát." Con nai quay lại nhìn kẻ s

ăn-bắn như muốn nói

: "Nầy ông thợ s

ăn, hôm nay ông tính đ

ã sai, nhưng mà ác-nghiệp của ông chẳng có tính sai

đâu,

ác-nghiệp đó sẽ theo đuổi ông mãi mãi, chẳng sai đâu."

Kể xong,

Đức Phật nói th

êm: "Đề-bà-đạt-đa luôn luôn muốn giết ta từ nhiều kiếp trước, nhưng chẳng thành-công được. Nầy chư tỳ-kheo, cũng như dây bìm quấn quá chặt vào cây, khiến cho cây phải khô-héo, ác-nghiệp của kẻ dữ chẳng có

đức-hạnh sẽ theo đuổi kẻ ấy m

ãi cho tận dưới

địa-ngục.

"

Rồi

Đức Phật mới nói l

ên bài Kệ sau

đây

:

Dây bìm leo bám cây ta-la,

Quấn quá chặt khiến cây khô héo.

Người phá-giới nặng nề chỉ khéo

Chuốc hoạ cho mình, như kẻ thù mong.

(Kệ số 162.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

-

Đề-b

à-

đạt-đa

: tên vị nầy tiếng Pali là Devadatta. Vốn là anh của Tôn-giả A-nan, em họ của

Đức Phật Thích-ca.

- Tiền-kiếp: Xin nhắc lại: kiếp trước,

đời sống trước đời nầy.

- Hạnh-kiểm: nết-na, tánh-tình, hành-

động thường l

àm.

- Bỏn-xẻn = rít-róng, hà-tiện, bần-tiện, keo-kiệt, kẹo.

- Hám danh trục lợi:Hám = ham;Trục = tìm kiếm.Hám danh trục lợi là ham tiếng khen và muốn có nhiều lợi cho mình, ham danh-lợi.

- A-xà-thế: tên vị vua giết cha nầy, tiếng Pali là Ajàtasattu.

- Tần-bà-sa-la: tên vua nước Ma-kiệt-

đ

à (Magadha), rất mộ

đạo Phật, tiếng

Pali là Bimbisara.

- Mưu-sát: Mưu = mưu-kế; Sát = giết. Müu-sát là tìm cách giết lén, nhưng chẳng giết

được.

-Phạm-

đạt:

tên vị vua nầy, tiếng Pali là Brahmadatta.

-Ba-la-nại: tên thành-phố lớn nầy ở Ấn-

độ, tiếng

Pali là Varanasi. Khi thành

Đạo, Phật Thích-ca đến đây, thuyết-pháp lần đầu.

-Thác-sanh: sanh ra trong một kiếp tới, sau khi chết ở

đời trước

- Thiên-nhiên = tự-nhiên. Theo luật sức hút của trái

đất, mọi vật khi rơi xuống, nếu chẳng bị cản, th

ì rơi theo chiều thẳng

đứng.

- Cổ-thọ: Cổ = xưa, lâu

đời;

Thọ = cây. Cổ-thọ là cây lâu n

ăm.

- Ác-nghiệp = vận-mạng xấu, số-phần xấu-ác.

- Dây bìm: loại cây có thân-dây quấn quanh cây lớn mà sống.

-

Địa-ngục: Điạ

=

đất;

Ngục = nhà tù. Theo giáo-lý nhà Phật, kẻ làm ác khi chết phải sa vào điạ-ngục, là nơi phải chịu hình-phạt nặng-nề Điạ-ngục là một cõi ác trong ba nẻo dữ của Luân-hồi, hai nẻo kia là ngạ-quỉ ( = quỉ

đói) v

à súc-sanh ( = thú-vật).

- Ta-la = tên một loại cây, cao khoảng mười thước, lá mỏng màu xanh-vàng tươi.

Đức Phật Thích-ca mất trong rừng cây

ta-la.

- Phá-giới = chẳng tuân theo

điều răn-cấm.

- Chuốc họa: có hành-

động khiến cho tai-họa xảy đến cho m

ình.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện kể lại tiền-kiếp của

Đức Phật v

à

Đề-b

à-

đạt-đa. Đề-b

à-

đạt-đa l

àm người thợ s

ăn, t

ìm cách bắn con nai là tiền-thân ( = tấm thân ở kiếp-trước) của

Đức Phật, nhưng chẳng được.

Nhơn Tích chuyện,

Đức Phật dạy, kẻ tạo ác sẽ bị ác-nghiệp lôi xuống điạ-ngục, như dây b

ìm quấn chặt thân cây, khiến cây khô chết.

Nghiệp là gì?Chữ Nghiệp dịch chữ Phạn Karma, có nghĩa là các hành-

động đ

ã qua, có ảnh-hưởng về sau. Ba nghiệp: nghiệp miệng, nghiệp thân, nghiệp ý. Muốn giữ ba nghiệp thanh-tịnh, trước phải giữ-gìn tâm-ý cho trong sạch, chẳng nghĩ

điều ác, chỉ nghĩ điều thiện.

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 162:

Hai câu

đầu đưa ra thí-dụ về dây b

ìm sống nhờ vào cây ta-la, nhưng vì quấn quá chặt, khiến cây chết

đi, dây b

ìm cũng chết theo. Thí-dụ cho thấy hễ làm ác, sẽ bị ác-nghiệp

đi theo l

àm khổ-sở về sau.

Hai câu chót có thể viết lại cho xuôi câu theo v

ăn thường l

à: hành-

động của người phá-giới, chẳng tuân theo giới-luật, chỉ đem lại hậu-quả xấu-ác, đau-khổ cho người đó, mang lại tai-hoạ nặng-nề như kẻ th

ù của mình, ghét mình mong muốn mình bị hại như thế

đó.

HỌC TẬP:

1.- Học thuộc lòng bài Kệ, để ghi nhớ Luật Nhơn-Quả.

2.-" Họa tùng khẩu xuất" = Họa do từ miệng mà ra. Vậy, ta phải giữ-gìn miệng-lưỡi. Giữ cách nào? Người xưa dạy, uốn lưỡi bảy lần trước khi nói. Ta chẳng cần uốn lưỡi chi

đến bảy lần, chỉ cần tuân theo

giới thứ tư

đừng: nói dối, nói hai lưỡi, nói lời thô-ác v

à vô-nghĩa.

(133).- Tích chuyện về sự chia-rẽ Giáo-hội.

Vào một thời kia,

Đức Phật ngụ tại tịnh-xá Trúc-lâm, nước Ma-kiệt-đ

à, trong một kỳ giảng-pháp, có

đề cập đến việc Đề-b

à-

đạt-đa gây sự chia-rẽ trong Giáo-hội Tăng-gi

à.

Một hôm, trong lúc

Đức Phật đang thuyết-pháp tại tịnh-xá Trúc-lâm, Đề-b

à-

đạt-đa đến gặp Đức Phật v

à

đề-nghị với Phật n

ên

để cho ông ta điều-khiển Tăng-đo

àn thay thế

Đức Phật, viện lẽ l

à nay

Đức Phật đ

ã già-yếu rồi.

Đức Phật bác-bỏ ngay lời y

êu-cầu

đó v

à bảo rằng

Đề-b

à-

đạt-đa l

à "kẻ

đ

ã nuốt

đờm-d

ãi". Kể từ

đó, Đề-b

à-

đạt-đa rất căm-hận Đức Phật, n

ên

đ

ã ba lần tìm cách mưu-sát

Đức Phật nhưng chẳng th

ành. Về sau,

Đề-b

à-

đạt-đa nghĩ ra một chiến-thuật mới

:

đề nghị với Đức Phật năm điều giới-luật mới để cho tất cả tỳ-kheo phải tuân theo. Đó l

à: (1) tỳ-kheo phải sống trong rừng; (2) tỳ-kheo chỉ

được ăn những thực-phẩm m

à mình khất-thực

được; (3) tỳ-kheo chỉ được mặc áo may bằng vải vụn lượm được ở đống rác; (4) tỳ-kheo phải ngủ dưới gốc cây; (5) tỳ-kheo chẳng được ăn cá v

à thịt.

Đức Phật chẳng bác-bỏ các đề-nghị đó, cũng chẳng cấm-đoán các tỳ-kheo n

ào tuân theo, nhưng Ngài chẳng hề ban-bố các

điều n

êu trên

để trở th

ành giới-luật chung cho mọi tỳ-kheo phải tuân-hành.

Đề-bà-đạt-đa cho rằng các điều ông đề-nghị hoàn-hảo hơn các giới-luật hiện-hành và có một số tỳ-kheo lại tin theo ông ta. Một hôm, Đức Phật hỏi Đề-bà-đạt-đa, có phải ông ta muốn chia-rẽ Tăng-đoàn ra thành hai nhóm hay không. Đề-bà-đạt-đa nhìn-nhận rằng, quả thật ông ta có ý ấy.

Đức Phật liền cảnh-cáo rằng, đó l

à một trọng-tội, sẽ bị sa

điạ-ngục, nhưng ông ta xem nhẹ lời cảnh-cáo đó. Mấy hôm sau, trong khi đi khất-thực ở th

ành Vương-xá, gặp Tôn-giả A-nan,

Đề-b

à-

đạt-đa thông-báo:

"Nầy A-nan, kể từ nay, ta sẽ làm lễ Bố-tát và thi-hành giới-luật riêng, chẳng liên-hệ chi

đến Tăng-đo

àn của

Đức Phật nữa.

" Về

đến tịnh-xá, Tôn-giả A-nan tr

ình lời nói

đó l

ên

Đức Phật.

Đến nửa tháng sau, Đề-bà-đạt-đa dẫn một số đông tỳ-kheo nhẹ dạ tin theo ông, rời Tăng-đoàn đi đến gần núi Tượng-đầu, làm lễ Bố-tát riêng tại đấy, như một Giáo-hội độc-lập. Hai Tôn-giả Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên liền đến giải-thích cho các tỳ-kheo đã nhẹ dạ

đi theo Đề-b

à-

đạt-đa, hiểu r

õ sự sai-lầm rất nghiêm-trọng của họ là phá sự hoà-hợp trong T

ăng-đo

àn, nên một số lớn các tỳ-kheo kia liền quay về tịnh-xá Trúc-lâm như cũ. Sự-việc

được tr

ình lên

Đức Phật.

Ngài nói: "Kẻ vô-hạnh, mê-mờ, ngu-tối thường dễ làm

điều ác, có hại cho m

ình. Thật là khó mà thành người

đức-hạnh, biết h

ành-

động sao cho có lợi cho m

ình và cho kẻ khác."

Rồi

Đức Phật mới nói l

ên bài Kệ sau

đây

:

Làm ác, có hại mình, thì dễ;

Khó thay, hành-thiện

để lợi m

ình!

(Kệ số 163.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

-Tịnh-xá Trúc-lâm: ngôi chùa trong vườn Trúc, gần thành Vương-xá (Rajàgaha) nước Ma-kiệt-

đ

à(Magadha) do vua Tần-bà-sa-la (Bimbisara)xây

để dưng-cúng l

ên

Đức Phật. T

ên tịnh-xá, tiếng Pali là Veluvana.

- Giáo-hội T

ăng-gi

à: Giáo-hội =

đoàn-thể tôn-giáo; T

ăng-gi

à =

phiên-âm chữ Phạn Sangha, có nghĩa là nhóm tỳ-kheo từ bốn người trở lên, tu chung với nhau.

- Đề-bà-đạt-đa: Devadatta; xin xem lại chữ nầy ở trang 422.

- "Kẻ

đ

ã nuốt

đờm-d

ãi":

Đờm-d

ãi = chất nhờn dơ từ trong miệng khạc nhổ ra.

Đây l

à lời nhục-mạ, chê kẻ ấy

đ

ã nuốt

đồ dơ-bẩn của người khạc nhổ ra. Dịch tiếng

Pali là Khelàsika.

- C

ăm-hận

= tức giận lắm, ghim sâu vào lòng.

- Mưu-sát: Mưu = mưu-kế; Sát = giết chết. Mưu-sát là tìm cách giết lén mà chẳng giết

được. Đề-b

à-

đạt-đa đ

ã (1) thuê người giết

Đức Phật, nhưng người ấy lại quy-y với Đức Phật; (2)thả voi say để húc Đức Phật, nhưng voi lại q

ùi xuống trước

Đức Phật; (3) lăn đá từ tr

ên núi Linh-thứu xuống, nhưng

Đức Phật chỉ bị thương ở ngón chơn cá

i.

- Chiến-thuật: Chiến = tranh chiến; Thuật = cách.

- Giới-luật = điều răn-cấm để giữ kỷ-luật sống chung.

- Hoàn-hảo: Hoàn =hoàn-toàn;Hảo =tốt. Hoàn-hảo là trọn tốt hơn.

- Hiện-hành = hiện

đang được áp-dụng.

- Cảnh-cáo = báo cho biết trước sự nguy-hiểm.

- Trọng-tội = tội nặng; ở

đây, tội đó sẽ dẫn đến c

õi

điạ-ngục.

- Lễ Bố-tát: lễ

đọc giới-luật, mỗi tháng hai lần, để nhắc-nhở nhau về kỷ-luật tu-h

ành. Tiếng Pali là Uposatha. Chớ lầm chữ Bố-tát nầy với chữ Bồ-tát ( = Bồ-

đề-tát-đoả

= Bodhisatta = bực

đ

ã giác-ngộ)

- Núi Tượng-

đầu

= dịch nghĩa tên núi Gayàsisa, có hình giống như

đầu con voi, ở xứ Ma-kiệt-đ

à, Ấn-

độ xưa.

- Xá-lợi-phất (Sariputta), Mục-kiền-liên (Moggallàna) = tên hai vị

đại-đệ-tử của Đức Phật Thích-ca; họ vốn l

à bạn thân nhau về trước.

- Nhẹ dạ = dễ tin, ít suy-xét, nghe ai nói dụ, thì theo liền.

- Hoà-hợp: Hoà = thuận-hoà; Hợp = hội-hiệp với nhau. Phá sự hoà-hợp trong T

ăng-đo

àn

là gây sự chia rẽ trong Giáo-hội; phạm tội nầy sẽ bị trục-xuất ( =đuổi) ra khỏi Tăng-đoàn.

- Vô-hạnh: Vô = chẳng; Hạnh =

đức-hạnh.

Kẻ vô-hạnh là người chẳng có

đức-hạnh, xấu-xa v

à bê-bối.

- Hành-thiện: Hành = làm; Thiện = lành. Hành-thiện là làm lành.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện kể lại tội

Đề-b

à-

đạt-đa

phá sự hoà-hợp của T

ăng-đo

àn. Đề-bà-đạt-đa vì ganh-tị với Đức Phật, lại tham danh-lợi, muốn làm giáo-chủ, nên phạm trọng-tội gây sự chia-rẽ trong hàng-ngũ các tỳ-kheo; đó là tự mình làm hại mình, vì sẽ bị sa vào địa-ngục.

Ngày nay, lắm kẻ tu-hành

đức-hạnh c

òn kém, muốn lập ra môn nầy phái nọ, cạnh-tranh nhau, nên lấy Tích chuyện

để răn m

ình.

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 163:

Bài Kệ ngắn gọn, khuyên ta nên làm lành lánh dữ. Làm lành, có lợi cho mình, cho người,

điều nầy dễ hiểu nhưng khó l

àm. Tại sao làm ác thì dễ mà lại hại mình? Có hại cho mình, vì làm ác thì gây ra nghiệp xấu, rồi sẽ phải chịu ác-báo trong

đời nầy hay v

ào các

đời sau.

HỌC TẬP:

1.- Học thuộc hai câu Kệ, để ghi nhớ việc làm lành lánh dữ.

2.- Chớ vội tin theo lời quyến-rũ của kẻ tu hành hay khoa-trương.

(134).- Tích chuyện Tỳ-kheo Kha-la.

Vào một thời kia,

Đức Phật ngụ tại ch

ùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có

đề-cập đến tỳ-kheo Kha-la.

Thuở ấy ở nước Xá-vệ có một bà cụ-già rất mộ

đạo, châu-cấp đầy-đủ cho một vị tỳ-kheo t

ên là Kha-la như con

đẻ. Một hôm, nghe người láng-diềng tán-thán Đức Phật, cụ phát-tâm muốn đến yết-kiến Ng

ài. Cụ nói ý-

định của m

ình cho vị tỳ-kheo nghe, nhưng vị nầy lại chẳng tán-thành. Hai lần nữa, cụ tiếp-tục trình-bày lòng mình mong-mỏi thiết-tha

được nghe Đức Phật thuyết-pháp, nhưng tỳ-kheo Kha-la vẫn chẳng bằng l

òng.

Đến ng

ày thứ tư, khi tỳ-kheo Kha-la vừa

đi v

ào làng

để khất-thực, cụ dặn con cháu ở nh

à ch

ăm-sóc phục-dịch cho vị tỳ-kheo trong khi cụ vắng mặt, rồi l

ên

đường đi ngay đến ch

ùa Kỳ-viên. Tỳ-kheo Kha-la khi

đi khất-thực, nghe nói cụ chủ nh

à

đang l

ên

đường đi đến ch

ùa Kỳ-viên, liền nghĩ rằng: "Có thể bà cụ chẳng còn tin-tưởng vào ta nữa!" Nghĩ xong, tỳ-kheo Kha-la vội

đi quay về hướng ch

ùa

để chận cụ gi

à lại.

Đến nơi, thấy cụ đang chăm-chỉ nghe Đức Phật thuyết-pháp, tỳ-kheo Kha-la đến b

ên cạnh

Đức Phật v

à bạch: "Bạch Thế-tôn, cụ già nầy lẩm-cẩm lắm, chẳng hiểu nổi Chánh-pháp cao-thượng

đâu. Thế-tôn chỉ n

ên dạy cụ ta về bố-thí và trì-giới mà thôi."

Đức Phật quán-thấy tâm-địa ích-kỷ của Tỳ-kheo Kha-la mới bảo rằng

: "Này tỳ-kheo Kha-la, chớ có nghĩ xằng mà mạ-lỵ Chánh-pháp của ta. Chính ông mới là người chẳng hiểu

được Chánh-pháp, v

à vì tà-kiến, vì ích-kỷ, vì ngu-muội, ông sẽ

đi v

ào con

đường diệt-vong.

"

Rồi

Đức Phật mới nói l

ên bài Kệ sau

đây

:

Vì ác-kiến, người ngu-khờ khinh-miệt

Giáo-pháp bực La-hán

đức-hạnh cao,

Sẽ hoại-vong như ngọn trúc lau

Hễ trỗ quả xong liền tiêu-diệt.

(Kệ số 164.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Kha-la: tên vị tỳ-kheo nầy tiếng Pali là Khàla.

- Châu-cấp = cung-cấp, giúp-

đỡ thật đầy-đủ mọi nhu-cầu.

- Tán-thán = khen ngợi nồng-nhiệt.

- Tán-thành = đồng-ý, chấp nhận, chịu theo ý người khác.

- Phát-tâm = trong lòng nẩy sanh ý-

định tốt.

- Khất-thực = đi xin ăn.

- Phục-dịch = hầu-hạ, chờ sẵn gần bên

để được sai-khiến.

- Lẩm-cẩm = hay lẫn-lộn, lú-lẫn, chẳng sáng-suốt.

- Chánh-pháp cao-thượng = lời giảng-dạy quí-báu của

Đức Phật.

- Bố-thí = hiến tặng (

đem cho) giúp kẻ thiếu (tiếng

Pali: dana)

- Trì-giới = tuân giữ

điều răn-cấm trong Đạo (tiếng

Pali: sila)

- Tâm-

địa ích-kỷ

=

bụng-dạ xấu chỉ nghĩ lợi cho riêng mình.

- Nghĩ xằng = nghĩ bậy, nghĩ sái-quấy

- Mạ-lỵ = nói xấu, chê bậy.

- Tà-kiến = tư-tưởng sái-quấy, chẳng

đúng theo Chánh-pháp.

- Diệt-vong = tiêu-mất

đi.

- Ác-kiến = có ý ác, có tư-tưởng xấu.

- Khinh-miệt = chê-bai, chẳng kính-trọng.

- La-hán = bực A-la-hán

đ

ã dứt hết phiền-não, hết bị tái-sanh.

- Trúc lau = cây trúc, cây lau, thân-cây thẳng

đứng, hễ trỗ bông kết trái, th

ì

đ

ã quá già, chẳng bao lâu sẽ chết tàn

đi.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Ý-nghĩa của Tích chuyện chê một vị tỳ-kheo vì ích-kỷ chẳng muốn cho người thí-chủ của mình

đến ch

ùa nghe

Đức Phật thuyết-giảng, sợ thí-chủ thôi sẽ chẳng giúp m

ình nữa. Ngày nay, thường thấy có vài vị tu-hành, khi

đệ-tử đi sang ch

ùa khác nghe giảng, thì chẳng bằng lòng, mỉa-mai là đi tu dạo.

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 164:

Ý-nghĩa bài Kệ giống với Tích chuyện, so-sánh sự hoại-vong của người ngu chê Chánh-pháp như ngọn cỏ lau, hễ trỗ bông thì sẽ tàn-tạ.

HỌC TẬP:

1.- Học thuộc bài Kệ, ghi nhớ: phải luôn tôn-trọng Chánh-pháp.

2.- Trì-giới, bố-thí rất quí, nhưng chưa

đủ;

phải nghe giảng Kinh.

(135).- Tích chuyện thiện-nam Chu-la.

(Tích chuyện nầy hơi giống với Tích chuyện số 131 về Ưu-bà-sa)

Vào một thời kia,

Đức Phật ngụ tại ch

ùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có

đề-cập đến vị thiện-nam t

ên là Chu-la.

Thiện-nam Chu-la là người rất mộ

đạo, tới ng

ày rằm vào chùa Kỳ-viên

để thọ Bát, giữ giới v

à nghe giảng Kinh-kệ. Sáng sớm hôm sau, làm lễ xả-giới xong, Chu ra bờ ao gần chùa

để rửa-ráy. Bấy giờ có bọn cướp bị rượt đuổi, chạy ngang qua, đánh rơi các tang-vật b

ên bờ ao. Một lát sau, chủ nhà bị cướp, cùng với gia-nhơn chạy

đến, thấy đồ-vật của m

ình bỏ bên bờ ao, ngờ rằng thiện-nam Chu-la là kẻ cướp, mới vây

đánh. May thay, có mấy người nô-lệ gái đang đi gánh nước, liền can-thiệp, bảo rằng thiện-nam Chu chẳng phải l

à kẻ bất-lương, vì mới thọ Bát ở chùa trong hai mươi bốn tiếng

đồng-hồ. Nhờ đó, Chu-la khỏi bị đánh đập oan.

Khi

Đức Phật nghe được chuyện đó, Ng

ài bảo Chu-la: "Ông thoát

được nạn, chẳng những nhờ các người nô-lệ gái dám nói l

ên sự-thật, mà còn nhờ vào sự trong-trắng, chẳng làm quấy của ông. Kẻ nào làm

điều xấu-ác sẽ sa v

ào

địa-ngục khi bỏ thân nầy, c

òn người làm việc thiện sẽ chứng

được cảnh-giới Niết-b

àn."

Rồi

Đức Phật mới nói l

ên bài Kệ sau

đây, nhờ đó m

à Chu-la chứng

được quả-vị Tu-đ

à-huờn:

Điều ác tự mình gây,

Nhiễm-ô tự mình vướng.

Chẳng làm ác, do ta;

Trong-sạch cũng do ta.

Thanh-tịnh hay ô-trọc,

Chẳng ai thanh-lọc ai.

(Kệ số 165.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Thiện-nam: Thiện = lành; Nam = đàn-ông. Thiện-nam là người

đ

àn-ông tin theo

đạo Phật. Về phiá phụ-nữ th

ì gọi là tín-nữ.

- Chu-la: tên vị thiện-nam nầy, tiếng Pali là Cùlakàla Upàsaka.

- Mộ

đạo

=

xin nhắc lại: rất tin tưởng

đạo Phật, l

àm lành,

đi ch

ùa

- Ngày rằm: ngày thứ mười-l

ăm trong tháng âm-lịch, trăng tr

òn.

- Thọ Bát = nói

đủ chữ l

à thọ Bát-quan-trai-giới, là vào chùa tu trong 24 tiếng

đồng-hồ, tuân theo 8 điều răn-cấm: chẳng sát-sanh, chẳng trộm-cướp, chẳng t

à-dâm, chẳng nói dối, chẳng uống rượu, chẳng trang-sức và nằm giường cao, chẳng

ăn sái giờ, chẳng nghe hát-xướng. Phật bảo, kẻ n

ào thọ Bát

đ

àng-hoàng, khỏi sa

địa-ngục.

- Kinh-Kệ: Kinh là lời Phật dạy ghi thành sách, Kệ là bài thơ ngắn ghi tóm-tắt

điều Phật dạy.

- Xả-giới: lễ chấm-dứt việc thọ Bát. Tuy là xả-giới, nhưng người tu-hành vẫn tiếp-tục giữ 8

điều răn-cấm khi về nh

à, sau khoá tu.

- Tang-vật: Xin nhắc lại:

đồ-vật trộm cướp bị bắt gặp.

- Nô-lệ = đầy-tớ ở đời với chủ, mất tự-do cá-nhơn.

- Bất-lương: Bất = chẳng; Lương = ngay thẳng; kẻ bất-lương là người gian-xảo, xấu-ác.

- Địa-ngục = theo sự tin-tưởng của

đạo Phật, kẻ l

àm ác

đời nầy, khi chết chịu th

êm hình-phạt ở cõi âm-u

đen tối, gọi l

à địa-ngục

- Niết-bàn: cảnh sống an-vui của người

đ

ã hết phiền-não, chẳng còn phải tái-sanh nữa trong Luân-hồi.

- Nhiễm-ô: Nhiễm = dính, lấm-lem; Ô = đục, dơ; Nhiễm-ô là lây

điều xấu, trở n

ên dơ-bẩn, xấu-xa) Ô-trọc = đục và dơ.

- Thanh-lọc = làm cho trong-sạch lại, khiến hết dơ-bẩn.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Ý-nghĩa của Tích chuyện là khi giữ mình theo giới-luật thì chẳng bị

đánh-đập dầu gặp việc oan-ức.

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 165:

Bài Kệ dạy,

điều ác tự m

ình làm, vậy muốn thân-tâm trong-sạch, phải chính mình thanh-lọc lấy, bằng cách tránh

điều xấu-ác, đừng l

àm.

HỌC TẬP:

- Học thuộc bài Kệ, ghi nhớ, muốn thanh-lọc thân-tâm, phải tự mình làm lấy: theo

điều thiện-l

ành, tránh xa

điều xấu-ác.

(136).- Tích chuyện Trưởng-lão Ất-tha-

đạt.

Vào một thời kia,

Đức Phật ngụ tại ch

ùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có

đề-cập đến Trưởng-l

ão Ất-tha-

đạt.

Thuở ấy, khi

Đức Phật tuy

ên-bố còn bốn tháng nữa, Ngài sẽ nhập Niết-bàn, các vị tỳ-kheo còn chưa chứng-

đắc quả-vị rất hoang-mang lo-sợ. Họ chẳng biết rồi đây, ai sẽ d

ìu-dắt họ tu-tập nữa, nên lúc nào cũng ở gần bên Phật. Tuy nhiên, tỳ-kheo Ất-tha-

đạt lại chẳng l

àm như thế, mà trở về cốc, một mình ngồi Thiền, với mục-tiêu là chứng-

đắc quả-vị A-la-hán ngay khi Đức Phật c

òn tại thế-gian. Các vị tỳ-kheo khác chẳng hiểu ý-

định của Ất-tha-đạt, cho rằng Ất chẳng tha-thiết chi đến Phật, mới đến mời Ất-tha-đạt đến gặp Phật v

à bạch rằng: "Bạch Thế-tôn, vị tỳ-kheo nầy chẳng có vẻ gì thương-mến và kính-mộ Thế-tôn, nghe tin Thế-tôn sắp nhập Niết-bàn mà vị ấy cả ngày chỉ ngồi trong cốc vắng một mình." Tỳ-kheo Ất-tha-

đạt tr

ình lên

Đức Phật r

õ, mình ở trong cốc vắng là cố hành-thiền

để chứng được quả A-la-hán trước ng

ày

Đức Phật nhập-diệt. Đức Phật phán

: "Nầy chư tỳ-kheo, những ai thật-sự kính-mộ Ta cần phải hành-

động như Ất-tha-đạt, chớ chẳng phải l

à nên thường

đến gặp Ta v

à

đem dâng hương-hoa cho Ta. Cách mến Ta chơn-chánh nhứt l

à biết

đem Chánh-pháp m

à Ta

đ

ã giảng-dạy ra thực-hành cho thật chu-

đáo.

"

Rồi

Đức Phật mới nói l

ên bài Kệ sau

đây, nhờ đó tỳ-kheo Ất-tha-đạt chứng được quả-vị A-la-hán

:

Dầu lợi-tha to lớn bao nhiêu,

Đường tu tự-lợi, chớ quên nhiều.

Thấy rõ lợi mình là giải-thoát,

Chuyên tâm lấy

đó l

àm mục-tiêu.

(Kệ số 166.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Ất-tha-

đạt:

tên vị tỳ-kheo nầy, tiếng Pali là Attadattha.

- Nhập Niết-bàn, Nhập-diệt: lià thân-xác nầy vào cõi tịch-diệt.

- A-la-hán: quả-vị cao nhứt hàng Thanh-v

ăn(

=đệ-tử sống gần bên Phật, nghe kinh mà tu-tập), dứt hết phiền-não, hết bị tái-sanh nữa. Tiếng Pali là Arahant.

-Cốc = c

ăn nh

à nhỏ ở nơi vắng-vẻ

để tu-h

ành, còn gọi là am, thất.

- Hành Thiền = ngồi thiền.

- Lợi-tha = làm lợi cho kẻ khác, giúp

đỡ kẻ khác.

- Tự-lợi = làm lợi cho mình; ở

đây,

tự-lợi có nghĩa là cố-gắng tu-tập

để m

ình

được chứng-quả, v

à

được giải-thoát, có lợi cho m

ình.

- Mục-tiêu: Mục = con mắt; tiêu = cái mốc nhìn

để bắn. Ở đây, chữ

mục-tiêu gần nghĩa với chữ mục-

đích,

tức là

điều m

à mình nhắm tới, muốn

đạt được, khi m

ình cố-gắng làm việc gì.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện kể lại, khi nghe

Đức Phật sắp nhập Niết-b

àn, các tỳ-kheo

đều quay-quần b

ên

Đức Phật để tỏ l

òng quyến-luyến; chỉ có Trưởng-lão Ất-tha-

đạt lại rút về cốc ở một m

ình. Họ lầm tưởng Trưởng-lão Ất-tha-

đạt thiếu l

òng thương-tưởng

đến Đức Phật. Khi biết lý-do l

à Trưởng-lão

đang nỗ-lực h

ành-thiền

để chứng quả A-la-hán, trước khi Đức Phật nhập-diệt, Đức Phật khen ngợi thái-độ đó, khuy

ên các tỳ-kheo nên bắt chước, và Ngài bảo: "Kính mộ ta, là biết

đem Chánh-pháp của ta ra thực-h

ành cho chu-

đáo.

"

Ý-nghĩa của Tích chuyện là khi thương-mến ai lúc sắp lìa

đời, chẳng phải l

à thở-than, khóc-lóc vì người

đó, m

à chính là làm theo nguyện-vọng của người

đó mới thật l

à kính-mộ người ấy mãi mãi.

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 166:

Ý-nghĩa của bài Kệ khuyên ta, trên

đường tu, đừng

quá vì lợi tha mà quên sự tự-lợi. Chớ tưởng-lầm

đó l

à lời khuyên ích-kỷ, vì mình hơn vì kẻ khác. Ý sâu của bài Kệ là

đừng quá hăng-say trong công-tác x

ã-hội, giúp người, mà xao-lãng tu-tập

để chính m

ình

được

giải-thoát. Mình có giác-ngộ và giải-thoát rồi,

đi giúp kẻ khác mới hữu-hiệu hơn.

HỌC TẬP:

- Học thuộc lòng bài Kệ, ghi nhớ: khi tu theo hạnh Bồ-tát, làm công-tác xã-hội giúp người, cũng

đừng qu

ên mục-tiêu tự-giải-thoát.

-ooOoo-

XIII.- Phẩm THẾ - GIAN.

(137).- Tích chuyện một Tỳ-kheo trẻ.

Vào một thời kia,

Đức Phật ngụ tại ch

ùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có

đề-cập đến một vị tỳ-kheo trẻ tuổi.

Thuở ấy, có một tỳ-kheo trẻ tuổi cùng

đi với một vị Trưởng-l

ão

đến nh

à bà nữ-cư-sĩ Vi-sa-kha

để khất-thực. Sau khi nhận phần cháo, vị Trưởng-l

ão bỏ ra

đi, vị tỳ-kheo trẻ tuổi c

òn nán lại. Bấy giờ, người cháu nội gái của bà Vi-sa-kha

đang lọc nước để múc cho khách. Khi trông thấy bóng m

ình trên mặt nước trong lu, cô lặng-lẽ mỉm cười. Ngẩng

đầu l

ên, thấy vị tỳ-kheo

đang nh

ìn mình lom-lom, miệng lại cười, cô gái mắc-cỡ rồi giận-dỗi, xẵng giọng nói: "A, cái ông

đầu cạo trọc nầy, sao lại cười ta

?"Nghe nói thế, vị tỳ-kheo trẻ tuổi bỗng nổi cơn giận, chẳng giữ gìn lời nói, mắng lại: "Cô mới bị cạo

đầu, cha cô, mẹ cô cũng trọc đầu

!"Hai bên cãi qua cãi lại, cô gái bật lên khóc và chạy vào mét với bà Vi-sa-kha. Vừa lúc ấy, vị Trưởng-lão cũng quay lại. Hai vị lớn tuổi dùng lời khuyên-r

ăn đôi b

ên, nhưng chẳng bên nào chịu im tiếng.

Một lát sau,

Đức Phật đi tới nơi v

à nghe tiếng cãi-vã om-sòm. Ngài quán-thấy cơ-duyên

đ

ã

đến cho vị tỳ-kheo trẻ tuổi được chứng quả-vị Tu-đ

à-huờn, nên dừng chơn lại trước nhà. Sau khi nghe kể qua sự-việc

đáng tiếc, Đức Phật biết vị tỳ-kheo c

òn

đang nóng-giận, mới d

ùng lời-lẽ dịu-dàng nói: "Nầy tín-nữ Vi-sa-kha, vì lý-do gì mà cô cháu nội gái bà sao lại mắng vị tỳ-kheo nầy là kẻ trọc

đầu

? Ai

đi tu, muốn được gia-nhập Tăng-đo

àn cũng

đều phải cạo đầu cả, có đúng vậy hay không

?" Nghe lời

Đức Phật nói, vị tỳ-kheo dịu lại, qu

ì xuống

đảnh-lễ Đức Phật v

à bạch rằng: "Bạch Thế-tôn, chỉ có Ngài mới hiểu

được con. Thầy con v

à bà tín-nữ, chẳng ai hiểu con cả." Bấy giờ

Đức Phật biết chắc tâm-trạng của vị Tỳ-kheo đ

ã lắng-dịu lại, sẵn-sàng nghe lời Ngài dạy, mới nói: "Nầy tỳ-kheo, mỉm cười nhìn gái dẹp, tâm khởi lên dục-vọng, là

đang có tư-tưởng xấu-xa, cần n

ên tránh."

Rồi

Đức Phật mới nói l

ên bài Kệ sau

đây, nhờ đó vị tỳ-kheo chứng được quả-vị Tu-đ

à-huờn:

Đừng theo đường ti-tiện

Chớ ôm-ấp tà-kiến,

Chẳng buông-lung và chớ kéo dài

Cuộc sống Luân-hồi cõi trần-ai.

(Kệ số 167.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Vi-sa-kha: tên vị tín-nữ giàu lòng bố-hí, nổi tiếng thời

Đức Phật. B

à dưng-cúng tu-viện

Đông-vi

ên cho Ni-

đo

àn. Tên tiếng Pali: Visakha

- Nhìn lom-lom = nhìn trân-trân, nhìn quá kỹ chẳng nháy mắt.

- Cơ-duyên: Cơ = cơ-hội; Duyên = duyên-cớ. Cơ-duyên là dịp may

- Tu-

đ

à-huờn:

quả-vị

đầu-ti

ên, thấp nhứt; tiếng Pali là Sotàpatti. Người chứng quả Tu-

đ

à-huờn dứt

được (1)

thân-kiến, chấp thân làm ngã; (2) nghi, chẳng tin vào Chánh-pháp; (3)giới-cấm-thủ, tin theo nghi-lễ của tà-giáo. Quả Tu-

đ

à-huờn còn gọi là Nhập-Lưu, Thất-Lai.

-

Đảnh-lễ:

quì lạy, tỏ lòng kính-trọng.

- Tâm-trạng: Tâm = lòng; Trạng = tình-trạng. Tâm-trạng = cõi lòng

- Dục-vọng: Dục = ham-muốn; Vọng = mong-cầu. Chữ dục-vọng chỉ sự ham-muốn thú-vui vật-chất,

được d

ùng theo nghĩa xấu.

- Ti-tiện: Ti =thấp; Tiện = hèn-hạ.

- Tà-kiến: Tà = xiêng-xéo;Kiến = ý-kiến; Tà-kiến là ý-kiến sái-quấy

- Buông-lung = chẳng biết tự kềm-chế mình, lười-nhác.

- Luân-hồi: Luân = bánh xe; Hồi = trở lại. Cõi Luân-hồi là cảnh chết

đi sống lại qua nhiều đời kiếp. Tiếng

Pali là samsàra.

- Trần-ai: Trần = bụi-bặm; ai = bi-ai,

đau-khổ. C

õi trần-ai là cõi

đời đầy đau-khổ nầy ở thế-gian.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện kể lại việc một tỳ-kheo chẳng biết giữ-gìn các giác-quan, nhìn gái

đẹp m

à mỉm cười, lòng khởi lên dục-vọng.

Được Đức Phật chỉ dạy, phải biết điều-phục các căn, vị tỳ-kheo chứng được quả Tu-đ

à-huờn. Ý-nghĩa của Tích chuyện là phải giữ-gìn các giác-quan, chẳng buông-lung chạy theo cảnh-vật bên ngoài, phải biết thanh-lọc tâm-ý, khiến cho khỏi phải mãi trôi l

ăn trong cảnh sanh-tử, tử-sanh của v

òng Luân-hồi lẩn-quẩn.

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 167:

Thử phân-tách từng câu của bài Kệ:

1) Đừng theo đường ti-tiện: đường ti-tiện là đường thấp-kém, hèn-hạ. Đường nào?

Đó l

à

để cho các giác-quan: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý, chạy theo cảnh cám-dỗ b

ên ngoài mà thoả-mãn các thú-vui vật-chất tạm-bợ và chẳng thanh-cao.

2) Chớ ôm-ấp tà-kiến: Tà-kiến là ý-tưởng sái-quấy, như (1)chấp thân nầy thường-còn, là Ta, lo bảo-vệ mà quên phần tinh-thần

để đi đến giác-ngộ v

à giải-thoát; (2) như chấp vào đoạn-kiến, cho rằng chết

đi l

à hết, chẳng có Luân-hồi, quả-báo chi cả, nay còn sống, cứ lo hưởng-thọ trước, kẻo chết thì chẳng còn gì; (3) như chấp vào các thủ-tục cúng-tế của tà-giáo, giết thú-vật cúng tế các tà-thần

để cầu phước. - Hễ ôm-ấp t

à-kiến thì tâm chẳng thanh-tịnh, bị tà-kiến làm vẩn-

đục, chẳng phát-triển được Trí-huệ.

3) Chẳng buông-lung và chớ kéo dài cuộc sống Luân-hồi cõi trần-ai: Hai câu nầy khuyên ta nên cố-gắng tu-tập tinh-tấn,

để sớm chấm-dứt cuộc sống sướng ít khổ nhiều tr

ên thế-gian. Buông-lung hay Phóng-dật, có nghĩa là lười-nhác, sống buông-trôi, chẳng biết tự-kềm-chế; như thế sẽ cứ phải hết

đời nầy sang đời khác chịu

nghiệp-báo mà tái-sanh mãi trong vòng lẩn-quẩn của Luân-hồi. Cuộc sống Luân-hồi cõi trần-ai là gì?

Đó l

à phải sanh ra chịu khổ, sống

đời sướng ít khổ nhiều, đau bịnh rồi chết, lại phải tái-sanh lại nữa, v

ì thế mới gọi là cõi trần-ai, cõi

đầy bụi-bặm, đầy đau-khổ.

Ý-nghĩa của bài Kệ khuyên ta nên sớm tỉnh-ngộ, nhận ra cõi

đời nầy l

à khổ, phải biết cách tu-hành,

để được giác-ngộ v

à giải-thoát khỏi cảnh sanh-tử Luân-hồi.

HỌC TẬP:

1.- Học thuộc lòng bài Kệ, ghi nhớ: muốn chẳng kéo dài cuộc sống trần-ai, phải tìm cách ra khỏi Luân-hồi, thân-tâm

được giải-thoát.

2.- R

ăn dạy trẻ

: chớ chọc người

đầu trọc, phải kính bực tu-h

ành.

(138).- Tích chuyện vua Tịnh-phạn.

Vào một thời kia,

Đức Phật ngụ tại ch

ùa Cây Sung, gần thành Ca-tỳ-la-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có

đề-cập đến Vua Tịnh-phạn l

à cha của Thái-tử Tất-

đạt-ta khi chưa xuất-gia đi tu th

ành Phật.

Thuở ấy, trong một dịp trở về viếng th

ăm lại th

ành Ca-tỳ-la-vệ,

Đức Phật ngụ tại ch

ùa Cây Sung; nơi

đây Ng

ài

đem Chánh-pháp ra giảng-dạy cho thân-nhơn trong d

òng họ Thích-ca.

Đức Vua Tịnh-phạn nghĩ rằng thế n

ào

Đức Phật cũng đến ho

àng-cung, nên chẳng thỉnh

Đức Phật, m

à lại lo chuẩn-bị thức

ăn cho hơn cả ng

àn tỳ-kheo,

để chờ Đức Phật đến.

Sáng sớm hôm ấy, công-chúa Gia-du-

đ

à-la, vợ của Thái-tử Tất-

đạt-ta, nh

ìn qua khung cửa sổ, thấy

Đức Phật đang mang b

ình bát

đi khất-thực từng nh

à. Công-chúa vội

đi báo với Vua Tịnh-phạn. Vua Cha tức-tốc chạy đến b

ên

Đức Phật, bảo rằng, thật l

à nhục-nhã cho một người dòng Sát-

đế-lợi m

à phải

đi ăn xin từng nh

à.

Đức Phật đáp lại rằng, khất-thực l

à một hạnh cao-quí, được tất cả chư Phật trong ba đời thi-hành, nên nay Ngài tuân-theo hạnh đó, là đang giữ đúng truyền-thống đó, có chi đâu là nhục-nhã.

Rồi

Đức Phật mới nói l

ên hai bài Kệ sau

đây

:

Hãy h

ăng-hái v

à

đừng phóng-dật

Mà lãng-xao hạnh khất-sĩ nầy.

Trang-nghiêm chánh-hạnh hành-trì

Thế-gian hưởng lạc

đời nầy, đời sau.

(Kệ số 168.)

Đừng theo tà-hạnh mà phóng-dật,

Hãy nghiêm-trì hạnh khất-sĩ nầy.

Trang-nghiêm chánh-hạnh hành-trì

Thế-gian hưởng lạc

đời nầy, đời sau.

(Kệ số 169.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Tịnh-phạn: tên vua cha của Thái-tử Tất-

đạt-ta,

Pali: Suddhodana

- Chùa Cây Sung: tạm dịch chữ Pali là Nigrodhàràma; chữ Nigrodha là một loại cây to như cây da, trái giống trái sung của ta.

- Ca-tỳ-la-vệ: thành nầy là nơi Thái-tử Tất-

đạt-ta sống khi chưa đi tu, nay thuộc phần đất của Nepal. T

ên tiếng Pali là Kapilavatthu.

- Gia-du-

đ

à-la:

vợ của Thái-tử Tất-

đạt-ta, tiếng

Pali là Yasodhàra.

- Tức-tốc: Tức = lập-tức; Tốc = nhanh.Tức-tốc là thật nhanh.

- Sát-

đế-lợi

= giai-cấp vua quan ở Ấn-

độ xưa, tiếng

Pali: Khattiya

- Truyền-thống: Truyền = trao lại; Thống = nối tiếp theo. Truyền-thống là thông-lệ

được truyền lại từ nhiều đời, để tuân theo.

- Lãng-xao = xao-lãng, bỏ phế, bỏ quên chẳng làm tiếp nữa.

- Khất-sĩ, Khất thực: Khất = đi xin; Sĩ = người; Thực = ăn. Hạnh khất-sĩ là hạnh

đi xin ăn, chẳng có nghề ri

êng

để sanh-sống. Đây l

à giới-luật Phật

đặt ra, buộc tu-sĩ phải khuất m

ình

đi xin ăn để nén l

òng tự-ái xuống, và có dịp gặp dân-chúng

để chỉ-dạy đường-lối tu-h

ành.

- Phóng-dật = lười-biếng, buông trôi, chẳng tha-thiết

đến.

- Chánh-hạnh = hạnh tu c

ăn-bản, lối tu chơn-chánh nhứt.

- Tà-hạnh = trái với chánh-hạnh. Tà-hạnh là hành-

động xấu-ác.

- Hành-trì: Hành = làm; Trì = giữ-gìn. Hành-trì là chuyên làm theo.

- Thế-gian: Thế = đời; Gian = khoảng; Thế-gian

đây có

nghĩa là

đời sống b

ình-thường, có gia-

đ

ình, còn chưa

đi tu.

Xuất-thế-gian có nghĩa là rời cuộc sống thế-tục,

đi tu để được giải-thoát.

- Hưởng lạc: Lạc = vui sướng. Hưởng lạc = được vui-sướng.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện kể lại việc

Đức Phật về đến gần ho

àng-cung xưa, mà vẫn

đi khất-thực. Vua Cha cho đó l

à nhục-nhã.

Đức Phật bảo,

hạnh khất-sĩ cao-quí, nên nghiêm-trì mãi:

đó l

à ý-nghĩa của Tích chuyện.

(2) Ý-nghĩa của hai bài Kệ số 168 và 169:

Hai bài Kệ giống nhau, nói về hạnh khất-sĩ, khuyên

đừng v

ì phóng-dật, tà-hạnh mà xao-lãng hạnh khất-sĩ. Ngày nay, vì cuộc sống thay-

đổi, hạnh nầy ít được thi-h

ành ở các chùa thuộc Bắc-tông.

HỌC TẬP:

- Học thuộc lòng hai bài Kệ, ghi nhớ: hạnh khất-sĩ rất cao-quí, chớ chẳng phải vì lười-biếng chẳng có nghề sanh-sống mà phải

đi xin.

(139).-Tích chuyện các tỳ-kheo quán-tưởng bọt nước.

Vào một thời kia,

Đức Phật ngụ tại ch

ùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có

đề-cập đến các tỳ-kheo quán-tưởng về bọt nước.

Thuở ấy, có một nhóm khá

đông tỳ-kheo được Đức Phật chỉ-dạy cho mỗi người một đề-t

ài thiền-quán, cùng

đi v

ào rừng

để thực-tập thiền-định. Mặc dầu họ đ

ã cố-gắng tinh-tấn tu-hành, nhưng họ chẳng có chút tiến-bộ nào

đáng kể. Họ định quay về ch

ùa

để thưa hỏi lại Đức Phật v

à

được chỉ dạy th

êm. Trên

đường về, họ trông thấy một ảo-ảnh v

à quán-tưởng về ảo-ảnh

đó. Đến khi bước chơn v

ào khuôn viên chùa, trời

đổ mưa, nhiều hạt mưa to rơi từ mái ngói xuống vũng nước, bong-bóng nước lóng-lánh nổi l

ên, phập-phồng, rồi tan-vỡ. Nhìn các bọt nước nổi lên chẳng mấy chốc lại vỡ, họ liền suy-nghĩ sâu-xa: "Tấm thân tứ-

đại

nầy của ta, cũng chẳng khác chi các bọt nước kia, chẳng bền-vững, thường-còn; n

ăm uẩn

nơi thân-tâm nầy, rồi cũng rời nhau ra mà hoại-diệt theo lẽ vô-thường."

Bấy giờ,

Đức Phật từ nơi

hương-phòng, quán-thấy các tỳ-kheo ngoài hiên chùa,

đang trầm-ngâm suy-tưởng về lẽ

vô-thường, Ngài liền

đi đến v

à bảo: ‘Nầy chư T

ăng, các vị đang đi đúng đường-lối quán-tưởng, nh

ìn bọt nước mà biết

được lẽ

vô-thường của tấm-thân n

ăm uẩn.

Nên tiếp-tục theo con

đường đó.

"

Rồi

Đức Phật mới nói l

ên bài Kệ sau

đây, nhờ đó m

à số lớn các tỳ-kheo chứng

được quả-vị A-la-hán

:

Nhìn bọt nước thế nào,

Xem ảo-ảnh ra sao,

Quán thế-gian cũng vậy.

Muốn bắt

được người ấy,

Thần Chết tìm chẳng thấy.

(Kệ số 170.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Quán-tưởng: Thiền-quán = suy-tưởng thật sâu-xa khi ngồi Thiền, nhập

định. Khi

tâm

đ

ã an-

định,

trí hành-giả bắt

đầu cứu-xét về

đề-tài thiền-quán, tư-tưởng tập-trung vào

đề-t

ài,

để phát-hiện l

ên Sự-thật.

- Ảo-ảnh: Ảo = giả, chẳng thật có; Ảnh = hình-bóng. Ảo-ảnh là hình-bóng giả-tạm, tuy mắt trông-thấy, nhưng bóng ấy chẳng thật có. Thí-dụ như lấy tay dụi mắt, nhìn lên thấy có nhiều

đóm sáng như ngôi sao, các đóm đó chẳng thật có, n

ên gọi là ảo-ảnh.

- Thân tứ-

đại

: Tứ = bốn; Đại = lớn. Tứ-

đại,

trong Phật-học chỉ về bốn chất: đất, nước, gió, lửa; còn có nghĩa là bốn chất cứng, lỏng, hơi, nóng trong thân ta. Thân tứ-

đại nầy do các chất đó ho

à-hiệp với nhau mà thành, khi bốn chất ấy rời nhau ra, thì chết.

Đó l

à lẽ vô-thường.

- N

ăm uẩn

: Uẩn = nhóm họp và che-mờ. Phật-học phân-tách thân-tâm con người ra làm n

ăm phần, gọi l

à n

ăm uẩn (

= n

ăm ấm)

: (1)sắc-uẩn ( =thân-thể vật-chất), (2) thọ-uẩn ( =các tình-cảm); (3)tưởng-uẩn ( =các tư-tưởng); (4) hành-uẩn ( = các hành-

động); (5)

thức-uẩn ( =các sự hiểu-biết). Bốn uẩn sau, thọ, tưởng, hành, thức, thuộc về tâm. Khi quán thấy n

ăm uẩn ho

à-hiệp nhau mà thành thân-tâm, hễ chúng rời nhay ra là chết,

đó l

à quán-thấy

được lẽ

vô-thường của thân n

ăm uẩn.

- Hương-phòng: c

ăn ph

òng có hương thơm dành riêng cho

Đức Phật; tiếng

Pali là Gandhakutì.

- Vô-thường: Vô =chẳng; Thường = thường-còn. Lẽ vô-thường

định-luật thi

ên-nhiên theo

đó, chẳng có vật n

ào có hình-thể mà chẳng biến-

đổi, rồi hư-hoại với thời-gian. Hiểu lẽ

vô-thường là biết

được sự tạm-bợ của muôn vật tr

ên thế-gian, dứt bỏ sự tham-luyến và tìm về sự hằng-còn của cảnh-giới Niết-bàn an-lạc.

- A-la-hán: quả vị thứ tư, cao nhứt, dứt hết phiền-não, chẳng bị tái-sanh trong Luân-hồi nữa. Tiếng Pali là Arahant.

- Thần Chết tìm chẳng thấy = hễ Thần Chết tìm chẳng thấy, thì chẳng bị chết nữa, có nghĩa là

đ

ã

đắc được A-la-hán, v

ào Niết-bàn.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện rất giản-dị, chẳng có chi là ly-kỳ cả (!!!): một nhóm tỳ-kheo nhìn ảo-ảnh, bọt nước, mà suy ra lẽ vô-thường của thân-tâm và của muôn vật trên thế-gian. Ý-nghĩa: biết

được lẽ

vô-thường, liền rời sự tham-luyến, nỗ-lực tu-tập

để chứng quả

vô-sanh của Niết-bàn.

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 170:

Bài Kệ chia ra hai phần: (1) cách quán-tưởng bọt nước, ảo-ảnh thế-gian; (2)hai câu chót nói về kết-quả của việc quán-tưởng

đ

ã thành-công, chứng

được

vô-sanh, chẳng bị chết nữa vì hết tái-sanh.

Cách quán-tưởng bọt nước và ảo-ảnh như thế nào? Trước hết, ta phải biết quán-tưởng cho

đúng cách. Như đ

ã biết, quán-tưởng là suy-nghĩ thật sâu-xa, tâm nhìn vào bên trong tâm. Tâm nhìn vào bên trong tâm cách nào?

Điều nầy có

nghĩa là, các giác-quan chẳng hướng về cảnh-vật bên ngoài nữa, mắt tuy có mở nhưng chẳng thấy vật, tai còn

đó nghe tiếng nhưng chẳng để-ý đang nghe g

ì, khiến cho tâm ở yên, vắng-lặng, rồi khởi lên hình-ảnh trong tâm, tâm chỉ nghĩ và chỉ thấy

đến

đề-tài quán-tưởng, đề-tài đó là bọt nước. Khi tâm nhìn thấy trong tâm, có bọt nước

đó,

nổi lên, lóng-lánh, phập-phồng, rồi chẳng mấy chốc, bọt nước lại bể phụt mất. Tâm nhìn bọt nầy bể, bọt kia phồng lên rồi bể, nhiều lần như thế, sẽ

đi đến kết-luận,

bọt nước chẳng bền, có

đó rồi mất đó.

Khi nghĩ ra

được kết-luận đó, tâm đang thấy được lẽ

vô-thường của mọi sự-vật) Cách quán ảo-ảnh cũng như thế. Chọn các ảo-ảnh: như bóng tr

ăng rọi xuống mặt hồ nước, như đám mây bay tr

ên trời trông giống hình con vật nào

đó, v.v. Quán như tr

ên về các ảo-ảnh vừa nói,

để nhận ra sự

giả-tạm của ảo-ảnh. Khi nghĩ ra

được kết-luận về

sự giả-tạm đó, là tâm đã quán đúng cách.

Bài Kệ nói: quán bọt nước, ảo-ảnh như thế nào, thì quán thế-gian cũng như thế ấy. Điều nầy có nghĩa là muôn vật có hình-tướng ở thế-gian,

đều vô-thường như bọt nước, đều giả-tạm như ảo-ảnh.

Vạn vật rất nhiều, trong một lúc chẳng nhìn thấy trong tâm hết cả

được. Muốn biết muôn vật đều

vô-thường giả-tạm, tâm ta hãy cố tìm xem, có vật nào trong vũ-trụ nầy, mà tồn-tại mãi mãi không. Câu trả lời là chẳng có, nhờ

đó

tâm quán thấy thế-gian vô-thường và giả-tạm.

Khi ngồi Thiền, quán-tưởng như trên có ích lợi gì? Nhờ quán-tưởng

đúng cách, tâm lọc bỏ được các

tà-kiến, các phiền-não, để trở nên trong-sạch hơn. Đó là cách thanh-lọc tâm-ý của phép tu tâm.

HỌC TẬP:

1.- Học thuộc bài Kệ, ghi nhớ lẽ vô-thường của muôn vật.

2.- Xin

đọc lại nhiều lần trang nầy v

à áp-dụng lối quán-tưởng.

(140).- Tích chuyện Vương-tử Vô-uý.

(Tích chuyện nầy giống với Tích chuyện số 115 về vị

đại-thần San-tạ-tị.)

Vào một thời kia,

Đức Phật ngụ tại tịnh-xá Trúc-vi

ên, gần thành Vương-xá, trong một kỳ giảng-pháp, có

đề-cập đến Vương-tử Vô-úy.

Thuở ấy, vương-tử Vô-uý vừa

đắc-thắng quân giặc ở bi

ên-cương trở về thành,

được vua Tần-b

à-sa-la, nước Ma-kiệt-

đ

à, ban-thưởng cho rất trọng-hậu. Món quà quí là một nàng vũ-nữ thật xinh

đẹp, múa hát trong bảy ng

ày

đ

êm

để mua vui c

ùng Vương-tử.

Đến đ

êm thứ bảy, vì quá cố sức, cô vữ -nữ ngã l

ăn ra chết về bịnh tim. Vương-tử rất đau buồn trước cái chết đột-ngột của người y

êu, mới tìm

đến Đức Phật để nghe lời an-ủi.

Đức Phật bảo Vương-tử Vô-uý rằng: "Nầy Vương-tử, số-lượng nước mắt mà Vương-tử

đ

ã khóc các người thân-yêu, trải qua các số-kiếp của Luân-hồi, còn nhiều hơn nước biển các

đại-dương. Thế-gian của thân-tâm ngũ uẩn nầy đầy đau-khổ, chỉ có những người c

òn ngu-muội mới mê-say, chìm-

đắm trong đó.

"

Rồi

Đức Phật mới nói l

ên bài Kệ sau

đây

:

Nào, hãy nhìn cõi thế-gian nầy

Như xe Vua trang-hoàng lộng-lẫy.

Kẻ cuồng-dại

đắm ch

ìm cõi ấy,

Người hiền-trí chẳng chút mê-say.

(Kệ số 171.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Vương-tử Vô-uý: Vương-tử = con cháu của Vua; chữ Vô-úy, có nghĩa là chẳng hề sợ-hãi,

được d

ùng

để dịch chữ

Abhaya, tiếng Pali. Trọn tên của Vương-tử Vô-uý là Abhayaràjakumàra.

- Trúc-viên, Vương-xá: tịnh-xá nầy xây trong vườn Trúc, do Vua Tần-bà-sa-la (Bimbisara) cúng cho T

ăng-đo

àn. Tên Pali Truc-viên Veluvana, thành Vương-xá Ràjagaha; nước Ma-kiệt-

đ

à

Magadha.

- Trọng-hậu = nhiều và quí-báu lắm.

- Vũ-nữ = người con gái múa hát, giúp vui cho

đ

àn-ông.

- Đột-ngột = quá nhanh và chẳng ngờ

được.

- Đại-dương = biển lớn, như Thái-bình-dương,

Đại-tây-dương.

- Thân-tâm ngũ-uẩn: Ngũ = n

ăm. Xin xem lại

thân-tâm n

ăm uẩn

ở bài trước, trang 439.

- Thế-gian: Thế = đời; Gian = khoảng. Nghĩa thông-thường của chữ Thế-gian là nói

đến vũ-trụ, vạn-vật; ở đây chữ

Thế-gian được Đức Phật dùng theo nghĩa hẹp, chỉ vào thân-tâm, coi như một vũ-trụ nhỏ.

- Cuồng-dại = điên-khùng, chẳng có trí-huệ, còn ngu-si.

- Hiền-trí: Hiền = hiền-lành; Trí = trí-huệ.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện thuật lại việc Vương-tử Vô-uý

đau-buồn mến tiếc người y

êu là cô vũ-nữ xinh-

đẹp đ

ã chết

đột-ngột. Đức Phật khuy

ên

đừng luyến-tiếc tấm thân năm uẩn nầy, v

ì nó vô-thường.

Ý-nghĩa:

đừng đắm-say thế-gian vô-thường, phải t

ìm cách tu-hành

để vượt khỏi cảnh sanh-tử của Luân-hồi đau-khổ.

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 171:

Hai câu

đầu của b

ài Kệ so sánh thế-gian nầy với chiếc xe Vua được trang-hoàng lộng-lẫy. Sự so-sánh nầy hơi khó hiểu; nhưng nếu ta biết

Đức Phật xem

thân-tâm nầy như một vũ-trụ nhỏ, một thế-gian thu-hẹp lại, thì sự so-sánh sẽ rõ-ràng. Tại sao trang-hoàng lộng-lẫy? Xe

đó của Vua ám-chỉ v

ào thân-tâm ( = thế-gian), nên thân-tâm ấy

được trang-sức đẹp-đẽ, dồi phấn thoa son, v.v.

Hai câu chót nêu sự khác-biệt về thái-

độ giữa người c

òn ngu-si với người hiền-trí

đ

ã giác-ngộ.

Ý-nghĩa của bài Kệ khuyên ta chớ nên tham-luyến vào thân-tâm n

ăm uẩn,

tuynay

được chưng-diện đẹp-đẽ, nhưng rồi sẽ bị tan-hoại theo thời-gian.

HỌC TẬP:

1.- Học thuộc lòng bài Kệ, ghi nhớ:

đừng say-đắm cảnh thế-gian.

2.- Thực-tập quán-tưởng về thân bất-tịnh, thân-tâm vô-thường.

(141).- Tích chuyện Trưởng-lão Sầm-mạc-gia.

Vào một thời kia,

Đức Phật ngụ tại ch

ùa Kỳ-viên, trong một kỳ giảng-pháp, có

đề-cập đến Trưởng-l

ão Sầm-mạc-gia.

Thuở ấy có tỳ-kheo Sầm-mạc-gia cả ngày chỉ lo việc quét tước quanh chùa Kỳ-viên. Cùng tu-tập chung trong chùa có Trưởng-lão Lê-va-ta, trái lại, cả ngày chỉ ngồi Thiền nhập

định. Tỳ-kheo Sầm thấy thái-độ của Trưởng-l

ão Lê, cả ngày chỉ ngồi yên, im-lặng, cho rằng Trưởng-lão

đ

ã lãng-phí thời-giờ. Một hôm, tỳ-kheo Sầm

đến nói với Trưởng-l

ão: ‘Nầy ông Lê, cả ngày tôi thấy ông chỉ ngồi yên, chẳng làm gì cả. Như thế là lười-biếng, chỉ biết sống nhờ vào sự tín-thí của các

đ

àn-việt mà thôi." Trưởng-lão Lê

đáp

: "Nầy

đạo-hữu, một vị tỳ-kheo chẳng n

ên

để trọn hết th

ì-giờ của mình mà quét-tước cả ngày. Vị ấy nên quét dọn vào sáng sớm, xong lên

đường đi khất-thực. Trở về, thọ-trai xong, vị ấy hoặc quán-tưởng về

thân-tâm n

ăm uẩn

nầy,

để biết r

õ bản-thể của các uẩn ấy, hoặc

đọc-tụng kinh-điển cho đến chiều tối. Bấy giờ, nếu muốn, có thể ra quét sân th

êm." Tỳ-kheo Sầm nghe kỹ lời dạy

đó, chuy

ên-cần thực-hành theo

đúng, n

ên chẳng bao lâu chứng-

đắc được quả-vị A-la-hán.

Các vị tỳ-kheo khác nhận thấy dạo nầy, các

đống rác quanh ch

ùa chẳng thấy

được quét dọn, mới hỏi tỳ-kheo Sầm-mạc-gia, sao bây giờ chẳng c

òn ch

ăm quét-tước như trước nữa. Tỳ-kheo Sầm đáp

: "Ngày trước, tâm tôi còn nhiều phiền-não và vọng-tưởng, thiếu sự tỉnh-giác, nên tôi phải quét cho sạch.

Đến ng

ày nay, tâm tôi thanh-tịnh, lúc nào cũng tỉnh-giác, nên chẳng cần quét nữa." Các vị

đồng-tu cho rằng tỳ-kheo chẳng nói đúng sự-thật, tự cho m

ình

đ

ã chứng A-la-hán, mới

đến bạch c

ùng Phật.

Đức Phật bảo

: " Tỳ-kheo Sầm-mạc-gia

đ

ã nói

đúng sự-thật, v

ì

đ

ã chứng-

đắc được quả-vị A-la-hán.

"

Rồi

Đức Phật nói l

ên bài Kệ sau

đây

:

Người trước kia buông-lung, phóng-dật,

Về sau, biết tỉnh-giác chuyên-cần,

Ánh quang-minh soi khắp thế-gian,

Như tr

ăng sáng thoát mây che lấp.

(Kệ số 172.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Sầm-mạc-gia: tên vị tỳ-kheo nầy, tiếng Pali là Sammajjana.

- Lê-va-ta: tên vị Trưởng-lão nầy, tiếng pa-li là Revata.

- Ngồi Thiền nhập

Định: Thiền

= chữ Phạn là Thiền-na (Dhyana), có nghĩa là tâm rời cảnh-vật bên ngoài,

đang suy-nghĩ thật sâu-xa;

Định = dịch chữ Phạn Tam-muội (Samadhi), có nghĩa là tâm an-tịnh, chẳng lay-

động, ý dừng lại v

à chú-tâm vào cảnh vắng-lặng.

- Lãng-phí thời-giờ: buông-lung, sống thả trôi, chẳng làm việc chi có ích-lợi cả, làm mất thời-giờ.

- Tín-thí: Tín = tin-tưởng; Thí = cho, hiến-tặng. Sự tín-thí là sự bố-thí do lòng tin-tưởng của kẻ tại-gia tặng cho các vị tu-hành xuất-gia.

- Đàn-việt: phiên-âm tiếng Phạn Dânapati, dịch nghĩa là thí-chủ, người bố-thí giúp cho kẻ tu-hành.

- Đạo-hữu: Đạo = đường-lối tu-hành; Hữu = bạn-bè, bạn-hữu. Chữ đạo-hữu thường dùng

để chỉ các người tu chung theo một tôn-giáo.

- Thọ-trai: Thọ = nhận; Trai = ăn cơm chay. Thọ-trai là tiếng nhà chùa, có nghĩa là dùng bữa cơm chay.

- Quán-tưởng = suy-nghĩ sâu-xa, trong sự an-tịnh, về một

đề-t

ài.

- Thân-tâm n

ăm uẩn: Uẩn

= Ấm = nhóm họp lại và che-mờ. Thân-tâm n

ăm uẩn

thân tâm gồm có n

ăm

uẩn: (1)sắc-uẩn là tấm thân vật-chất; (2)thọ-uẩn là các tình-cảm; (3)tưởng-uẩn là các tư-tưởng; (4) hành-uẩn là các hành-

động; (5)

thức-uẩn là các sự hiểu-biết. Bốn uẩn sau: thọ, tưởng, hành, thức nhóm-hợp nhau lại mà thành cái tâm.

- Bản-thể của các uẩn: Bản-thể = thể-chất riêng-biệt và thật-sự. Nói "biết rõ bản-thể của các uẩn" là muốn nói,

đ

ã biết rõ các uẩn ấy rỗng-rang, vì sự nhóm-họp chung lại mà có, chớ tự chúng chẳng có một bản-thể nào riêng-biệt. Vì tập-hợp lại mà , nên khi rời nhau ra, thì trở nên không, đó là bản-thể rỗng-rang của n

ăm uẩn.

- Quả-vị A-la-hán: Quả-vị = kết-quả của sự tu-tập

đ

ã thành-công; A-la-hán: bực Thánh, tu-hành

đ

ã dứt hết phiền-não, chẳng còn bị tái-sanh trong Luân-hồi nữa.Tiếng Pali:Phala = quả-vị; Arahant = A-la-hán.

- Quét cho sạch: chữ quét

đây, chẳng những

có nghĩa là quét tước cho sạch rác-rến bên ngoài, mà còn có nghĩa quét sạch hết các ý-tưởng vọng-

động, lang-bang trong tâm, để tâm được thanh-tịnh.

- Tỉnh-giác: Tỉnh = thức-tỉnh, hết mê-mờ; Giác = biết rõ. Tìỉnh-giác là tình-trạng tâm an-tịnh, biết rõ mọi biến-chuyển bên trong, cũng như bên ngoài, luôn luôn giữ

được sự chú-ý, chẳng hề lơ-l

à, xao-lãng.

- Phóng-dật: Phóng =buông-thả; Dật = lỗi-lầm. Phóng-dật là buông-trôi theo các lỗi-lầm, chẳng biết tự kềm-chế trong kỷ-luật.

- Quang-minh = ánh-sáng.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện kể lại việc một vị tỳ-kheo cả ngày chỉ lo quét tước quanh chùa,

đến khi được một vị trưởng-l

ão dạy phải biết việc ngồi Thiền nhập-

định l

à bổn-phận của kẻ tu-hành, nên mới chuyên-tâm tu-tập mà

đắc được quả-vị A

-la-hán.

Ý-nghĩa của Tích chuyện nằm trong chữ quét, quét cho sạch chẳng những các rác-rến quanh chùa, mà còn là quét cho sạch các vọng-tưởng, phiền-não trong tâm, để cho tâm

được thanh-tịnh.

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 172:

Thử phân-tách bài Kệ ra từng câu:

1) Người trước kia buông-lung, phóng-dật: đây là nói về người sống buông trôi, chẳng có định-hướng, chạy theo các thú-vui vật-chất, thỏa-mãn các nhu-cầu tầm-thường, chẳng lo việc tu-tập. Hai chữ buông-lung phóng-dật đồng nghĩa nhau, thường là làm biếng.

2) Về sau biết tỉnh-giác chuyên-cần: đây là nói về người đã thức-tỉnh, nhận ra

được sự lỗi-lầm, lười biếng của m

ình, mà trở nên người tỉnh-giác, tâm biết quay vào bên trong tâm, lo dọn-dẹp sạch-sẽ tâm mình, bỏ vọng-tưởng lang-bang, dứt phiền-não tham, sân, si.

3) Ánh quang-minh soi khắp thế-gian, như tr

ăng sáng thoát mây che-lấp:

đây là nói ánh-sáng của Trí-huệ đang vẹt bỏ được sự u-tối của si-mê, ví với

đám mây đang che mặt trăng sáng.

HỌC TẬP:

1.- Học thuộc lòng bài Kệ, ghi nhớ: tu là tu tâm, phải quét sạch các vọng-tưởng và phiền-não,

để

Trí-huệ được phát-triển.

2.- Xin ngưng một phút

để tự-hỏi l

òng mình: đã tỉnh-giác chưa?

(142).- Tích chuyện Trưởng-lão Vô-não.

Vào một thời kia,

Đức Phật ngụ tại ch

ùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có

đề-cập đến Trưởng-l

ão Vô-não.

Thuở ấy ở nước Câu-tát-la, có người con trai của vị quốc-sư trong triều vua Ba-tư-nặc, tên là Vô-não. Chàng trai rất thông-minh,

được cha gởi đi học ở th

ành Ta-xi-la. Vô-não rất siêng-n

ăng v

à khéo vâng lời thầy dạy, nên rất

được l

òng thầy thương-mến, khiến cho các bạn

đồng-học sanh ra ganh-tị. Họ đặt điều nói xấu, vu-oan cho Vô-n

ão có dan-díu với vợ của thầy. Ban

đầu, vị thầy chẳng tin việc đó, nhưng ng

ày lại ngày, nghe mãi lời ton-hót của bọn học-trò, khiến cho ông ta phải tin theo. Ông ta nghĩ nếu mình giết chết Vô-não thì chẳng những bị tù-tội mà còn bị quả-báo nặng-nề nữa. Ông tìm

được một mưu-kế khác, c

òn tệ-hại hơn là ám-sát Vô-não. Ông liền kêu Vô-não lại và nói riêng: "Thầy có một phép bí-quyết thật cao-thâm, huyền-diệu, muốn truyền lại cho trò, nhưng phép ấy

đ

òi hỏi mạng sống của một tr

ăm người, tr

ò phải giết chết

đủ số đó, cả đ

àn-ông lẫn

đ

àn-bà,

đem nộp bằng-cớ cho thầy, th

ì thầy sẽ dạy cho." Vô-não rất muốn có

được bí-quyết đó, nhưng c

òn ngần-ngại chẳng muốn sát sanh hại mạng. Nhưng về sau, lòng ham-muốn

được phép-lực cao-thâm, huyền-diệu thúc-đẩy quá mạnh-mẽ, Vô-n

ão bỏ vào rừng sâu ẩn-núp, rình giết người cho

đủ số để nạp cho thầy.

Chẳng bao lâu, tiếng-t

ăm t

àn-ác của Vô-não cướp của giết người, chặt lấy ngón tay, kết thành xâu chuỗi

đeo ở cổ, khiến dân quá sợ-h

ãi, gọi Vô-não là tướng cướp Chỉ-man, và tâu-trình lên vua. Vua Ba-tư-nặc liền chỉnh-

đốn quân-đội, định đem quân vây bắt Chỉ-man. B

à mẹ của Chỉ-man, vì lòng thương con, sáng hôm ấy,

định v

ào rừng báo tin cho con. Cùng ngày ấy, vào lúc tinh-sương,

Đức Phật nhập thiền-định, quán-thấy Vô-n

ão sắp phạm tội ngũ-nghịch vì giết mẹ, rồi sẽ bị sa vào

điạ-ngục A-tỳ, n

ên thương-xót, Ngài liền

đi v

ào rừng

để ngăn Chỉ-man. T

ên tướng cướp sau một

đ

êm mất ngủ, sáng ra

đếm xâu chuỗi ngón tay lại, thấy c

òn thiếu một mạng nữa là

đủ một trăm, mới quyết-tâm hôm nay hễ gặp ai l

à giết ngay cho

đủ số, đem nộp cho thầy. Vừa đến ven rừng, Chỉ-man bỗng thấy Đức Phật đi tới. Anh liền

khoa ngọn dao bén nhọn lên chực

đâm; bỗng đâu tay chơn bủn-rủn v

ì mệt-mỏi, hắn ngẩng

đầu l

ên nhìn

Đức Phật m

à thét lên: "Ớ nầy ông thầy tu, sao ông chẳng dừng lại?"

Đức Phật dừng bước

: "Này Chỉ-man, ta

đ

ã dừng từ lâu rồi, chỉ có anh là chưa chịu dừng

đó thôi

!" Chỉ-man còn chưa hiểu ý

Đức Phật, mới hỏi

;

Đức Phật đáp

: "Nầy Chỉ-man,

đ

ã từ lâu ta dừng nghỉ việc sát-hại chúng-sanh; còn anh, anh vẫn còn chưa chịu dừng lại việc giết người, cướp của

đó.

" Nghe lời nói phải, trông dáng mạo trang-nghiêm

đẹp-đẽ của người đứng trước mặt m

ình, Chỉ-man bỗng tỉnh-ngộ, biết

đang gặp Đức Phật. Anh liền quăng dao đi, qu

ì xuống xin qui-y cùng

Đức Phật. Đức Phật vui-vẻ chấp-nhận v

à cùng với Vô-não trở về chùa Kỳ-viên.

Kể từ ngày gia-nhập T

ăng-đo

àn, Vô-não chuyên-cần, tinh-tấn tu-hành, nên chẳng bao lâu chứng

được quả-vị A-la-hán. Một hôm, v

ào buổi sáng,

đang đi khất-thực, Trưởng-l

ão Vô-não gặp một

đám người đang đánh lộn, quăng đá v

ào nhau. Một hòn

đá lớn va phải đầu của Trưởng-l

ão, gây thương-tích nặng, nhưng Trưởng-lão cũng ráng về

đến ch

ùa.

Đức Phật đến thăm hỏi, v

à nói: "Nầy Vô-não, ngày trước con

đ

ã gây nhiều tội-ác giết người, lẽ ra phải sa vào

địa-ngục A-tỳ; nhưng nay con đ

ã

ăn-năn sám-hối, tinh-tấn tu-h

ành, vậy con nên nhẫn-nhục mà chịu lấy quả-báo nầy, tránh cho con khỏi phải sa vào nẻo dữ." Trưởng-lão lắng nghe lời Phật dạy, lặng-lẽ nhập Niết-bàn.

Các vị tỳ-kheo muốn biết Trưởng-lão Vô-não

được tái-sanh về đâu, mới thưa hỏi Phật. Nghe đáp Trưởng-l

ão

đ

ã nhập Niết-bàn, các vị tỳ-kheo rất

đổi ngạc-nhi

ên.

Đức Phật nói

: "Trước kia, vì mê-lầm, chẳng có bạn hiền, nên Vô-não mới phạm tội ác. Về sau, biết

ăn-năn sám-hối, chuy

ên-tâm tỉnh-giác làm việc thiện, tuân theo Chánh-pháp, tinh-tấn tu-hành, nên nay nhờ cơ-duyên lành của việc thiện chận

đứng được ác-báo.

" Rồi

Đức Phật mới nói l

ên bài Kệ sau

đây

:

Người trước kia trót gây tội-ác,

Nay sửa sai bằng các hạnh lành,

Ánh quang-minh soi khắp thế-gian,

Như tr

ăng sáng thoát mây che lấp.

(Kệ số 173.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Vô-não, Chỉ-man = tên vị trưởng-lão, cựu tướng cướp nầy, tiếng Pali là Ahimsaka, dịch là Vô-não, Bất-hại, chẳng hại ai; và Angulimàla, phiên-âm là Ưong-quật-ma-la, dịch là Chỉ-man, chùm ngón tay. (Não = não-hại; gây phiền-não; Chỉ = ngón tay; Man = chùm.)

- Quốc-sư: Quốc = nước; Sư = thầy; Quốc-sư là thầy dạy

Đạo cho cả nước; thầy dạy Đạo cho Vua.

- Vua Ba-tư-nặc nước Câu-tát-la: tên vị vua nầy, tiếng Pali là Pasenadi, cai-trị nước Kosala, giáp ranh với nước Xá-vệ (Savatthi).

- Ta-xi-la: tên thị-trấn nầy, tiếng Pali là Taxila.

- Ton-hót: đặt điều láo-khoét nói tới nói lui mãi, để hại ai.

- Ám-sát: Ám = mờ-ám, lén; Sát = giết; Ám-sát là giết lén.

- Bí-quyết: Bí = bí-mật, kín; Quyết = pháp-thuật mầu-nhiệm.

- Huyền-diệu = sâu-kín, khéo-léo và nhiệm-mầu.

- Chỉnh-

đốn

=

sắp sửa hàng-ngũ cho chỉnh-tề.

-Sáng tinh-sương = mờ-mờ sáng, mặt trời chưa lên, còn sương.

- Nhập Thiền-

định, quán-thấy

= ngồi Thiền và thấy rõ trong tâm.

- Tội ngũ-nghịch: n

ăm tội lớn sẽ bị đoạ v

ào

Điạ-ngục A-tỳ. Đó l

à: giết cha, mẹ, A-la-hán, chém Phật và phá sự hoà-hợp T

ăng-đo

àn.

-

Điạ-ngục A-tỳ

= tên

điạ-ngục nầy, tiếng

Pali là Avìci, dịch nghĩa là Vô-gián, tức là chịu hình-phạt liên-tục chẳng ngừng-nghỉ.

- Khoa dao = giơ cao con dao lên

để đâm mạnh.

- Tỉnh-ngộ: Tỉnh = thức-tỉnh, hết mê; Ngộ = hiểu rõ; Tỉnh-ngộ là trở nên sáng-suốt, nhận biết mình lầm-lỗi, cần sửa lại.

- Qui-y: Qui = quay về; Y =nương-tựa; Qui-y là mình tìm về nương-tựa tinh-thần mình vào ai, hay vào sự-việc gì.

- Thương-tích: vết thương,

đổ máu, g

ãy xương, v.v.

-

Ăn-năn

= Sám-hối: chịu nhận lỗi mình, tỏ ra hối-tiếc

đ

ã có lỗi và hứa xin chừa chẳng tái-phạm nữa.

- Nhẫn-nhục: chịu nhịn, bền gan chịu

đựng m

à chẳng oán-than.

- Quả-báo: Quả = kết-quả, hậu-quả; báo = báo

đền,;

Quả-báo là sự-việc xảy ra sau, do một hành-

động cũ đ

ã có trước làm nguyên-nhơn mà quả-báo là hậu-quả, chiếu theo Luật Nhơn-quả.

- Nhập Niết-bàn: lià bỏ xác thân,

đi v

ào cõi tịch-diệt, vắng-lặng.

- Cơ-duyên lành = điều may-mắn tốt. Vì tu-hành, làm việc thiện nên được hưởng cơ-duyên lành.

- Ác-báo: Ác = xấu, dữ; Báo = quả-báo. Ác-báo là quả-báo xấu.

- Sửa sai = sửa

đổi điều sai-lầm, theo con đường chơn-chánh.

- Hạnh lành = các hành-

động tốt, giúp đỡ người khác.

- Ánh quang-minh = ánh-sáng rực-rỡ.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện mang nhiều ý-nghĩa:

1) Nghe hoài lời ton-hót, rồi cũng tin theo: đây là một lỗi-lầm, cần tránh, bằng cách phải điều-tra sự-thật, khi nghe lời dèm.

2) Mưu-kế

để hại Vô-n

ão bằng cách xúi

đi giết người, người bầy mưu có bị quả-báo không

?

Có, phải chịu quả-báo như chính mình

đi giết vậy. Trong Kinh

: cấm giết và cấm xúi, bảo giết.

3) Sao chẳng dừng lại? Chỉ-man hiểu chữ dừng dừng bước; còn

Đức Phậ

t nói dừng là ý muốn nói, thôi chẳng làm tiếp-tục nữa; tức là, từ-khước chẳng làm

điều ác nữa. Đây l

à ý-nghĩa quan-trọng nhứt của Tích chuyện: mặc dầu

đ

ã trót làm

điều dữ, nhưng biết

dừng lại, thôi chẳng làm ác nữa, và làm

điều thiện, th

ì quả-báo xấu chẳng có

đủ cơ-duy

ên

để trỗ quả, nhờ đó m

à tạm-thời tránh

được. Trong trường-hợp của Chỉ-man, nhờ biết ăn-năn tội-ác v

à quay về con

đường l

ành, nên mới bị trúng

đá m

à chết, khỏi phải sa vào

địa-ngục A-tỳ. Tích chuyện cho thấy, việc tu-h

ành chơn-chánh cải-

đổi được

nghiệp-báo; vì thế, nên siêng làm lễ sám-hối và gắng làm việc thiện.

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 173:

Bài Kệ nầy giống bài Kệ trước, số 172, ở hai câu chót, nói về hiệu-quả tốt của sự bỏ

điều quấy m

à theo

điều l

ành. Ý-nghĩa cũng giống bài trước: khuyên ta nên sớm cải tà qui chánh,

ăn-năn tội-lỗi v

à siêng làm lành lánh dữ

để cải-thiện

nghiệp-lực của mình.

HỌC TẬP:

- Học thuộc lòng bài Kệ, ghi nhớ: có thể sửa

được mạng-vận xấu, bằng cách si

êng n

ăng l

àm việc thiện và từ-khước hẳn việc ác.

(143).- Tích chuyện cô gái quay tơ.

Vào một thời kia,

Đức Phật du-h

ành

đến xứ Anh-huy, trong một kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến một cô gái quay tơ.

Dạo ấy, sau buổi lễ trai-t

ăng ở Anh-huy, Đức Phật có giảng-pháp cho dân-chúng nghe. Hôm ấy, Ng

ài giảng-dạy về sự vô-thường của thân-tâm n

ăm uẩn.

Ngài nói: "Cuộc sống của ta thì vô-thường, còn sự chết lại là thường. Chắc-chắn rồi

đây có ng

ày ta sẽ chết,

đời ta chấm-dứt bằng sự chết-chóc. Cho n

ên, sống là vô-thường, còn chết là thường vậy."

Đức Phật khuy

ên mọi người nên nhận rõ bản-thể chơn-thật của n

ăm uẩn, chúng tạm-thời ho

à-hiệp nhau mà thành sự sống,

đến khi chúng rời nhau ra l

à cái chết

đ

ã tới nơi. Ngài nhấn mạnh: "Như một người cầm trong tay một cây gậy hay một ngọn chỉa nhọn sẵn-sàng

đối-phó với kẻ th

ù, hay với một con rắn

độc, người đời phải luôn luôn tỉnh-giác v

à trầm-tĩnh

để đối-diện với cái chết. Có như thế, đến lúc ra đi vĩnh-viễn, mới chọn theo được đường l

ành." Lời giảng-dạy

đó của Đức Phật chỉ được một số ít người lưu-tâm đến, trong số nầy, có một cô gái mười sáu tuổi, chuy

ên việc quay tơ cho cha dệt lụa. Sau buổi thuyết-pháp,

Đức Phật l

ên

đường trở về ch

ùa Kỳ-viên.

Bẵng

đi ba năm, một hôm Đức Phật nhập-định, quan-sát khắp pháp-giới, Ng

ài quán-thấy

đ

ã

đủ cơ-duy

ên cho cô gái quay tơ n

ăm xưa chứng được quả-vị Tu-đ

à-huờn. Ngài liền lên

đường trở lại xứ Anh-huy, để giảng Chánh-pháp một lần nữa. Hay tin Đức Phật đến xứ m

ình, cô gái quay tơ muốn

đến ngay để nghe pháp

; nhưng còn phải mang ba cuộn tơ

đến xưởng dệt cho cha cô đang chờ.Tr

ên

đường đến xưởng, cô đi ngang qua nơi giảng-pháp, dừng lại, ngồi xuống phiá ngo

ài, tai lắng nghe lời

Đức Phật. Đấng Thế-tôn nh

ìn thẳng vào cô gái, Ngài vừa quán-thấy cô gái sẽ tử-nạn ngay sau khi gặp cha, nếu chờ

đến bận quay về th

ì lỡ mất cơ-hội

để nghe được Chánh-pháp. Ng

ài liền ngưng nói, ngẩng nhìn ch

ăm-chú v

ào cô gái. Cô gái liền bạo-dạn lách

đám đông, đặt giỏ tơ xuống đất, qu

ì trước

Đức Phật m

à

đảnh-lễ. Đức Phật liền hỏi cô bốn câu v

à cô lễ-phép

đáp ngay như sau

:

1. Hỏi: Cô từ

đâu tới

?

Đáp: Con chẳng biết.

2) Hỏi:

đi về đâu

?

Đáp: Con chẳng biết.

3) Hỏi: Cô biết không?

Đáp: Vâng, con có biết.

4) Hỏi: Cô biết

được không

?

Đáp: Không, con chẳng biết

được.

Nghe lời

đối-đáp của cô gái quay tơ, Đức Phật tỏ vẻ h

ài-lòng, nhưng các người ngồi nghe pháp lại chẳng hiểu ý-nghĩa thâm-sâu của bốn câu hỏi và bốn câu trả lời.

Đức Phật liền bảo cô gái giải-thích, cô đ

ã hiểu ra sao mà trả lời như thế.

Cô gái thưa: "Bạch Thế-tôn, về câu hỏi thứ nhứt, Ngài

đ

ã biết con từ nhà con mà tới

đây, m

à còn hỏi con, từ

đâu tới

?, con nghĩ ý Ngài muốn hỏi con, từ kiếp nào mà tới

đây

?, vì thế mà con

đ

ã thưa, con chẳng biết. Về câu hỏi thứ hai, con nghĩ khi hỏi con đi về đâu là ý Ngài muốn hỏi con có biết ch

ăng,

kiếp sau

đi về đâu

?, nên con thưa, con chẳng biết. Về câu hỏi thứ ba, Ngài hỏi con có biết không?, con nghĩ ý Ngài muốn hỏi con có biết mình sẽ chết không?, nên con mới

đáp,

Vâng, con có biết. Về câu chót, Ngài hỏi, có biết

được không?,

con nghĩ ý Ngài muốn hỏi con có biết

được lúc n

ào sẽ chết không?, nên con mới trả lời, con chẳng biết

được.

"

Đức Phật khen-ngợi cô gái quay tơ đã đáp rõ-ràng các câu hỏi đúng theo ý Phật, Ngài liền nói với các người ngồi nghe: "Trong số quí vị ngồi

đây, cũng có ít người đ

ã hiểu thấu ý-nghĩa sâu-xa các lời giải-

đáp của cô thiếu-nữ quay tơ nầy. Những ai c

òn mê-mờ chẳng biết thì

đang sống trong cảnh tối-tăm như kẻ m

ù-loà."

Rồi

Đức Phật mới nói l

ên bài Kệ sau

đây, nhờ đó m

à cô gái quay tơ chứng

được quả-vị Tu-đ

à-huờn:

Thế-gian nầy

đầy người m

ù-quáng;

Biết trông xa, loáng-thoáng vài người.

Như bầy chim, ít con thoát lưới,

Thật hiếm người lên tới Thiên-

đ

àng.

(Kệ số 174.)

Sau

đó, cô gái quay tơ l

ên

đường đến xưởng dệt lụa. Cha cô chờ lâu đang ngủ gục b

ên khung cửi, nghe tiếng cô gọi, giựt mình thức dậy, tay quờ-quạng

đụng nhằm chốt cửi, đánh bật văng con thoi ra, trúng mạnh v

ào ngực cô. Cô té xuống

đất v

à thở hơi cuối cùng,

đúng như lời ti

ên-

đoán tai-nạn của Đức Phật. Cha cô hoảng-hốt đỡ con l

ên, nhưng chậm mất rồi. Ông khóc nức-nở, rồi bỏ nghề, vào chùa xin làm tỳ-kheo. Chẳng bao lâu, ông chứng

được quả-vị A-la-hán.

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Xứ Anh-huy: tên phần

đất nầy, tiếng

Pali là àlavì.

- Trai-t

ăng:

dưng cơm chay lên cho các vị T

ăng.

- Vô-thường: Vô = chẳng; Thường = thường-hằng, thường còn hoài. Lẽ Vô-thường có nghĩa là sự biến-

đổi chẳng thể tránh được của muôn sự-vật có h

ình-tướng,

để về sau trở th

ành hư-hoại.

- Thân-tâm n

ăm uẩn: Uẩn

= Ấm =

nhóm họp lại và che-mờ. Có n

ăm uẩn

hợp lại thành thân-tâm nầy: (1) sắc-uẩn, phần vật-chất, là Thân; (2) thọ-uẩn, các tình-cảm; (3) tưởng-uẩn, các ý-tưởng; (4) hành-uẩn, các hành-

động; (5)

thức-uẩn, các sự hiểu-biết; bốn uẩn sau lập thành Tâm. N

ăm uẩn khi hợp nhau lại th

ì có sự sống; khi rời nhau ra thì chết. Vì n

ăm uẩn chỉ tạm-thời họp lại, mới gọi chúng l

à vô-thường

- Bản-thể chơn-thật của n

ăm uẩn: Bản-thể

=

chỗ cội-rễ của một sự-vật; nguyên-thể; chơn-thật = thật sự, có thiệt. Tìm hiểu bản-thể của n

ăm uẩn

là phân-tách n

ăm uẩn ra từng phần nhỏ, bỏ đi, xem lại coi c

òn chất nào, sự nào, việc nào chẳng bị tách ra

được nữa, nếu có th

ì chất ấy là bản-thể; nhưng khi phân-tách n

ăm uẩn

ra, ta thấy thân-tâm chẳng còn gì nữa, nên mới gọi bản-thể chơn thật của n

ăm uẩn

không, rỗng-rang, vì thế mà chẳng thường-còn, nên mới nói rằng thân-tâm n

ăm uẩn

nầy là vô-thường.

- Tỉnh-giác = luôn luôn chú-ý biết mọi sự biến-chuyển trong và ngoài tâm. Trái với tỉnh-giác lơ-là, vô-ý, vô-tâm, thiếu sự chú-tâm, phóng-dật, buông-lung.

-

Đối-diện

= thấy hiện có ở trước mặt. Chữ đối-diện

đây có

nghĩa là

đương-đầu, đối-phó với.

- Ra

đi vĩnh-viễn

= chết, lià thân-xác. (Vĩnh-viễn = mãi mãi.)

- Chọn theo

được đường l

ành: Sau khi chết

đời nầy, sẽ sanh v

ào

đời sau, ở một trong

sáu

đường. Ba đường dữ

: (1)

địa-ngục,(2)ngạ-

quỉ ( = quỉ

đói);(3) súc-sanh(

= thú-vật). Ba

đường l

ành: (4)cõi người; (5) cõi A-tu-la( =Asura, thần-linh); (6) cõi Trời.

- Lưu-tâm = để-ý đến và hiểu rõ.

- Pháp-giới: thế-giới, vũ-trụ. Tiếng thường gọi là thế-giới; tiếng chuyên-môn Phật-học gọi là pháp-giới, cảnh-giới của toàn-thể sự-vật trong trời

đất, trong vũ-trụ.

-Nhập-

định, quán-thấy

:

khi ngồi Thiền, tâm an-

định nh

ìn thấy rõ trong tâm. (Tâm an-

định

= nhập-

định;

thấy rõ trong tâm = quán-thấy.)

- Cơ-duyên: Cơ = cơ-hội; duyên = duyên-do. Cơ-duyên,

đây, chỉ cho cơ-hội may-mắn.

- Quả-vị Tu-

đ

à-huờn:

khi tu thành-công, gọi là chứng quả-vị. Có bốn quả-vị: (1)Tu-

đ

à-huờn ( = Sotàpatti, còn gọi là Nhập-Lưu, Thất-Lai); (2)Tư-

đ

à-hàm ( =Sakadàgàmin, còn gọi là Nhứt-Lai); (3) A-na-hàm ( =Anàgàmin, còn gọi là Bất-Lai); (4) A-la-hán ( = Arahant). Ba quả-vị trước còn phải tái-sanh, nên

được gọi l

à bực Hiền; quả A-la-hán, cao nhứt, chứng

được

vô-sanh ( = hết bị tái-sanh) là bực Thánh.

- Tử-nạn: Tử = chết; Nạn = tai-nạn; Tử-nạn = bị tai-nạn mà chết.

- Đảnh-lễ = qùi xuống lạy

để l

àm lễ ra mắt.

- Hài lòng = ưng ý, vừa bụng, vui lòng.

- Giải-thích = cắt nghĩa rõ ra.

- Thế-tôn: Thế = thế-gian; Tôn = tôn-kính; Thế-tôn là bực

được cả thế-gian tôn-kính. Đệ-tử gọi Phật l

à Thế-tôn, Phật tự-xưng là Như-lai.

- Kiếp: nghĩa thông-thường là

đời sống; có

kiếp trước, kiếp sau. Nhưng nghĩa chuyên-môn trong Phật-học, một kiếp (kalpa = kiếp-ba) dài

đến một triệu năm (

= bá vạn niên).

- Mù-loà = cặp mắt bị hư, chẳng thấy ánh-sáng.

- Mù-quáng =

đây,

nghĩa bóng là chẳng thấy biết con

đường tu

- Loáng-thoáng = thưa-thớt, chẳng

được bao nhi

êu.

- Hiếm = rất ít.

- Thiên-

đ

àng: cảnh sung-sướng trên cõi Trời. Trái với điạ-ngục.

- Khung cửi = máy bằng gỗ,

đạp bằng chơn, d

ùng

để dệt vải, lụa.

- Con thoi = ống chỉ bằng

đồng chạy qua, chạy lại tr

ên khung cửi.

- Tiên-

đoán

= Tiên = trước; Tiên-

đoán

đoán biết trước được.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện có hai ý-nghĩa: lời Phật dạy về lẽ vô-thường của thân-tâm n

ăm uẩn,

và bốn câu hỏi của Phật nêu ra

để chỉ về cái

chết.

Về ý-nghĩa thứ nhứt, lẽ vô-thường của thân-tâm n

ăm uẩn,

trước ta phải biết n

ăm uẩn

là gì, mỗi uẩn gồm có những gì, kết-hợp với các uẩn khác ra sao, sau

đó xét đến khi thiếu một

uẩn thì thân-tâm trở nên thế nào, mà suy ra sự chẳng bền-vững của thân-tâm n

ăm uẩn.

Vì chẳng bền-vững, nên vô-thường; vì vô-thường, nên bất- toại-nguyện, chẳng vừa ý; vì bất-toại-nguyện, nên sanh ra đau-khổ;

đau-khổ, n

ên tìm về sự tu-hành

để

giải-thoát. Đó là các chặn-đường quán-chiếu về thân-tâm vô-thường. Để dễ ghi nhớ lẽ vô-thường, nên thường thường quán-chiếu ảo-ảnh, bọt nước, sương mai,

điện-chớp v

à thân bất-tịnh.

Về ý-nghĩa thứ hai của Tích chuyện là sự chết, Đức Phật nêu ra bốn câu hỏi: câu (1) về kiếp trước; câu (2) về kiếp sau; câu (3) về sự ai cũng phải chết; câu (4) về biết lúc nào sẽ chết. Hiểu rõ hai câu

đầu về kiếp trước v

à kiếp sau là hiểu

được cuộc sanh-tử trong v

òng lẩn-quẩn của Luân-hồi, nên mới có các

đời trước, đời nầy v

à các

đời sau. Hiểu r

õ hai câu sau về cái chết và chết

đến lúc n

ào là hiểu

được thân-phận của con người chẳng trốn được cái

chết. Khi hiểu rõ cả bốn câu, ta mới tự-hỏi, vậy có cách nào

để

khỏi phải chết, khỏi phải bị tái-sanh lẩn-quẩn mãi ch

ăng

? - Có cách, cách

đó được dạy trong Chánh-pháp, ai biết tu-tập theo đúng sẽ được

giải-thoát khỏi Luân-hồi.

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 174:

1.- Hai câu

đầu

:

Thế-gian nhiều người mù-quáng, chẳng hiểu rõ lẽ sống-chết, mà lại ít có người biết trông xa, thấy rõ cảnh Luân-hồi.

2.- Hai câu chót: Chim thoát lưới ví cho những người thoát khỏi cảnh sanh-tử, tử sanh của vòng Luân-hồi khổ-

đau lẩn-quẩn.

HỌC TẬP:

- Học thuộc lòng bài Kệ, ghi nhớ về thân-phận sống-chết của mọi chúng-sanh trong vòng lẩn-quẩn,

đầy đau-khổ của c

õi Luân-hồi.

(144).- Tích chuyện ba mươi tỳ-kheo

đắc thần-thông.

Vào một thời kia,

Đức Phật ngụ tại ch

ùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có

đề-cập đến ba mươi vị tỳ-kheo đắc được thần-thông.

Thuở ấy, có ba mươi vỉ tỳ-kheo

đến đảnh-lễ Đức Phật. Lúc bấy giờ, Tôn-giả A-nan đang hầu-cận b

ên

Đức Phật, thấy Đức Phật có khách, n

ên mới bước ra ngoài, chờ

đợi. Một hồi lâu sau, Tôn-giả A-nan trở v

ào trong, chẳng trông thấy các vị tỳ-kheo nữa, mới hỏi

Đức Phật các vị ấy bây giờ đang ở đâu. Đức Phật bảo

: "Nầy A-nan, các tỳ-kheo

đó, sau khi nghe Ta giảng-pháp, đ

ã chứng-

đắc được quả-vị A-la-hán, n

ên họ mới dùng thần-thông phi giữa không-gian mà ra

đi.

"

Rồi

Đức Phật mới nói l

ên bài Kệ sau

đây

:

Thiên-nga bay theo

đường mặt nhựt,

Bực thần-thông phi giữa không-gian.

Hàng hiền-trí thoát khỏi thế-gian,

Nhờ thắng Ma-vương và quyến-thuộc.

(Kệ số 175.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Thần-thông: nhờ

định-lực tâm-thần cao m

à có

được các quyền-năng si

êu-nhiên, như bay trên không, biến-hoá, v.v.

- Đảnh-lễ: quì lạy

để l

àm lễ ra mắt.

- Hầu-cận = hầu-hạ ở gần bên cạnh.

- Chứng-

đắc quả-vị

=

tu-hành

đ

ã thành-công. (Chứng-

đắc

= đuợc; Quả-vị: Quả = kết-quả; Vị = ngôi-vị,

điạ-vị.)

- A-la-hán: quả-vị cao nhứt trong hàng Thanh-v

ăn(

=đệ-tử sống bên Phật, nghe giảng Kinh mà tu-tập), diệt hết các phiền-não, chứng được vô-sanh( = hết bị tái-sanh trong Luân-hồi). Tiếng Pali là Arahant.

- Phi giữa không-gian = bay lên trên không-gian.

- Thiên-nga = ngỗng trời, lông màu trắng.

- Mặt nhựt = mặt trời.

- Hiền-trí: Hiền = hiền-lành; Trí = trí-huệ. Bực Hiền-trí là bực hiền-lành có trí-huệ sáng-suốt, thấm-nhuần Chánh-pháp.

- Ma-vương = vua loài Ma; còn gọi là Ma Ba-tuần.

- Quyến-thuộc = họ-hàng, bà-con. Ma-vương và quyến-thuộc,

đây, ám chỉ các sự cám-dỗ, quyến-rũ, xúi-dục l

àm

điều quấy.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện rất

đơn-sơ, kể lại việc ba mươi vị tỳ-kheo nhờ nghe Đức Phật giảng-pháp m

à chứng-

đắc được đạo-quả A-la-hán. Theo Tích chuyện, các vị ấy sau khi đắc quả, d

ùng thần-thông, bay lên không-gian mà ra về, khiến cho Tôn-giả A-nan chẳng nhìn thấy

được.

Vấn-

đề đặt ra cho chúng ta ng

ày nay là: việc

đắc thần-thông, bay l

ên trên không, có thật hay không? Xét theo lý, việc chưa thấy tận mắt, nghe tận tai, ta chẳng nên vội tin ngay; nhưng chính mình chưa thấy, chưa nghe, mình vẫn chẳng chưa có quyền quả-quyết là việc ấy chẳng có. Tại sao? Vì có thể việc ấy có thật mà mình còn chưa

đủ điều-kiện để thấy nghe được. Thái-độ đứng-đắn l

à

đối với các sự-việc có vẻ si

êu-nhiên, ta nên tỏ ra dè-dặt: chớ vội tin theo, mà cũng chớ vội bác-bỏ, hãy dè-dặt mà chẳng nghi-ngờ, giữ thái-

độ chờ v

à xem.

Việc chứng-

đắc thần-thông v

ào thời

Đức Phật, theo trong Kinh sách, chẳng phải l

à chẳng có. Nhưng

điều ta phải tin, l

à tin vào lời Phật dạy. Về thần-thông, Phật dạy thế nào? Ngài thường nhắc-nhở các tỳ-kheo mong-cầu sớm

đắc thần-thông

rằng, việc chứng-

đắc thần-thông, tự nó sẽ đến, khi tu-tập đ

àng-hoàng, giữ giới-

đức vẹn-to

àn, thân-tâm hoàn-toàn thanh-tịnh, chớ mong-cầu

được sớm đắc thần-thông.

Thiển-nghĩ, còn mong-cầu

đắc thần-thông sớm,

là còn tham, còn chưa dẹp sạch cái tham muốn có thần-thông

để hơn người.

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 175:

Ý-nghĩa của bài Kệ nằm trong hai câu chót: thoát khỏi thế-gian nhờ thắng Ma-vương. Thoát khỏi thế-gian, chẳng phải là bay trên trời, mà là dứt hết các phiền-não ở thế-gian. Thắng

được Ma-vương

,

chẳng phải là dùng thần-thông

đánh lộn với Ma, m

à là tự thắng

được sự cám-dỗ trong l

òng mình. Dẹp hết các phiền-não, thắng

được sự cám-dỗ, đó chưa phải l

à thần-thông hay sao?

(145).- Tích chuyện bà Chỉnh-ca-mã.

Vào một thời kia,

Đức Phật ngụ tại ch

ùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có

đề-cập đến b

à Chỉnh-ca-mã

đ

ã phao-vu tội dâm cho

Đức Phật.

Thuở ấy, các nhóm tu-sĩ khổ-hạnh ngoại-

đạo rất ghen-ghét Đức Phật v

ì các tín-

đồ của họ c

àng ngày càng bỏ họ mà quy-y với

Đức Phật. Họ b

àn mưu

để l

àm mất danh-dự của Phật. Họ kêu một người nữ-

đồ-đệ rất trung-th

ành với họ là bà Chỉnh-ca-mã

đến v

à nói: "Nầy tín-nữ, vì quyền-lợi chung của giáo-phái chúng ta, tín-nữ nên làm như thế nầy,

để nhục-mạ Sa-môn Cồ-đ

àm..." Bà Chỉnh vâng lời làm theo.

Mỗi buổi chiều, vào lúc chạng-vạng, bà Chỉnh, tay cầm bó hoa,

đi hướng về ch

ùa Kỳ-viên. Gặp ai hỏi

đi đâu, b

à

đáp, đi v

ào ngủ trong chùa.

Đến lúc trời tối, b

à Chỉnh lẻn sang lều của các tu-sĩ khổ-hạnh ngoại-

đạo. Sáng sớm ra, b

à

đi về, ai có hỏi đi đâu m

à về sớm thế, bà

đáp, vừa từ

hương-phòng của Phật ra, sau một

đ

êm ở

đấy. Cứ như thế, b

à Chỉnh

đi đi về về trong bốn tháng. Sau đó, b

à lấy kh

ăn quấn bụng, độn to u-u l

ên, làm như

đang có thai. Bảy, tám tháng sau, b

à lấy nhiều vải bọc một miếng gỗ mỏng, buộc trước bụng to phồng lên, dùng thuốc thoa tay chơn sưng-vù lên, trông giống như người

đ

àn-bà sắp

đến kỳ sanh-đẻ. B

à giả-bộ mệt-mỏi, lê bước tới chùa Kỳ-viên, vào lúc xế chiều khi

Đức Phật c

òn

đang giảng-pháp cho các tỳ-kheo v

à thiện-nam, tín-nữ nghe. Bà ong-óng miệng nói to: "Ớ nầy ông Sa-môn Cồ-

đ

àm! Ông ngồi êm trên bồ-

đo

àn kia, sướng quá hả, sao ông chẳng giúp

đỡ g

ì cho người

đ

àn-bà mà ông cho mang bầu là tôi

đang sắp sanh đây

? Ông chỉ biết hưởng thú-vui xác-thịt với tôi mà chẳng chịu nhận lấy trách-nhiệm với người mà ông

đ

ã ôm-ấp."

Đức Phật ngưng giảng, ôn-tồn bảo

: "Nầy chị, chỉ có chị với tôi mới biết rõ là chị có nói

đúng sự-thật hay không.

" Bà Chỉnh tru-tréo: "Ừ! Phải

đó, chuyện giữa hai ta, ai v

ào

đó m

à biết

được

?"

Bấy giờ, vua Trời

Đế-Thích nh

ìn xuống, biết chuyện gay-cấn

đang diễn ra tại ch

ùa Kỳ-viên. Ngài liền sai bốn vị thiên-nam, biến hình thành bốn con chuột lắt, cắn

đứt mấy sợi dây quấn bụng b

à Chỉnh, khiến cho tấm ván mỏng rơi tuột xuống. Sự-thật

được phơi-b

ày ra, dân chúng

đang ngồi nghe, nổi giận l

ên, tống cổ bà Chỉnh ra khỏi chùa. Sượng-sùng, bà Chỉnh vừa ra khỏi cổng chùa,

đất nứt ra, hút sâu b

à sa vào

điạ-ngục.

Tối hôm ấy, các vị tỳ-kheo bàn-tán về tấn bi-hài-kịch buổi xế,

Đức Phật đi ngang qua, nghe thấy, mới bảo

: "Nầy chư tỳ-kheo, một người

đ

ã chà-

đạp Sự-thật như thế, c

òn có

điều ác n

ào mà y chẳng dám làm, chẳng hề nghĩ

đến ác-báo v

ào kiếp sau."

Rồi

Đức Phật nói l

ên bài Kệ sau

đây

:

Kẻ nào Chơn-lý mà vi-phạm,

Dùng lời vọng-ngữ nói rêu-rao,

Bác bỏ rằng chẳng có

đời sau,

Còn có ác nào, hắn chẳng dám?

(Kệ số 176.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Chỉnh-ca-mã: tên người

đ

àn-bà nầy, tiếng Pali là Cincamànavika

- Phao-vu: đặt điều nói xấu rêu-rao cho kẻ khác.

- Khổ-hạnh = đưòng-lối tu-hành ép-xác như nhịn đói khát, luôn ngồi xổm chẳng nằm, loã-thể, v.v.

- Tín-

đồ: Tín

=

tin-tưởng theo; Đồ = đồ-đệ, học-trò đạo, đệ-tử.

- Quy-y: Quy = quay về, Y =nương-tựa; Quy-y là tìm về nương-tựa

- Chạng-vạng = lúc gần chiều tối, mờ mờ.

- Hương-phòng = c

ăn ph

òng có hương thơm, dành riêng cho

Đức Phật; tiếng

Pali là Gandhakutì.

- Ong-óng, Tru-tréo = lên cao giọng nói hỗn-hào, vô-lễ.

- Sa-môn: tu-sĩ, phiên-âm chữ Phạn là Sramana, có ba nghĩa: (1) cần-giả ( = siêng làm

điều thiện); (2)

tức-giả ( = ngưng bỏ các

điều ác); (3)

bần-giả ( = cam chịu thiếu-thốn).

- Cồ-

đ

àm = họ của

Đức Phật Thích-ca, tiếng

Pali là Gotama.

- Bồ-

đo

àn = nệm

để ngồi Thiền.

- Mang bầu: nghĩa bóng là có con trong bụng chưa sanh.

-Thiên-nam: Thiên = Trời; Nam = đàn-ông.

- Địa-ngục: Địa = đất; Ngục = nhà giam tù. Theo sự tin-tưởng trong Phật học, kẻ làm tội-ác dữ

đời nầy sẽ phải chịu h

ình-phạt khổ-sở trong

địa-ngục, khi chết về c

õi âm.

- Tấn bi-hài-kịch: Tấn kịch = vở tuồng; Bi = buồn; hài = vui-cười. Tấn bi-hài kịch là màn

đóng kịch vừa buồn, vừa tức cười.

- Ác-báo: Ác = dữ-ác; Báo = quả-báo, báo trả; Ác-báo là việc dữ xảy ra, do vì một tội ác trước

đ

ã qua làm nguyên-nhơn, nên nay sanh ra hậu-quả xấu là ác-báo.

- Chơn-lý = Sự-Thật.

- Vi-phạm = làm sai, phạm vào

điều cấm.

- Vọng-ngữ: Vọng = giả-dối; Ngữ = lời nói. Vọng-ngữ là nói dối.

- Rêu-rao = nói lớn lên nhiều lần cốt

để mọi người nghe m

ình.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện kể lại việc bà Chỉnh-ca-mã vu-oan tội dâm cho

Đức Phật. Chuyện b

à

độn bụng, bị lộ, thật buồn cười, nhưng sau đó b

à bị

đất nứt, sa v

ào

địa-ngục.

Ý-nghĩa của Tích chuyện là ngoài việc kẻ nào

đặt điều nói láo để hại người khác, th

ì sẽ bị sa vào

địa-ngục; lại c

òn có sự ngu-ác chẳng chịu tin-tưởng theo giáo-lý là có kiếp sau của Luân-hồi, cứ tưởng-lầm, hễ chết

đi l

à hết (

đó gọi l

à đoạn-kiến, vốn là một tà-kiến.)

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 176:

Bài Kệ dạy rằng, kẻ nào rêu-rao chê-bai chẳng có đời sau hay kiếp sau là vi-phạm vào Chơn-lý, vào Sự-Thật của việc tái-sanh trong vòng Luân-hồi.

Đối với kẻ ấy, chẳng có điều ác n

ào làm cho y sợ-hãi, vì y cho rằng chỉ có một

đời thôi, h

ãy cứ hưởng-thọ

điều sung-sướng, h

ãy cứ dùng mọi cách, tốt xấu chẳng hề gì, miễn là mình

được lợi m

à thôi, nào có quả-báo Luân-hồi chi ở

đời sau m

à lo.

Hậu-quả của tà-kiến nầy,cho rằng hễ chết là hết cả, là sẽ sa vào

địa-ngục chịu h

ình-phạt khổ-sở

để đền tội.

HỌC TẬP:

- Học thuộc bài Kệ, ghi nhớ: quả-báo, nhơn-quả, trải qua ba

đời:

các

đời trước, đời nầy v

à các

đời sau.

(146).- Tích chuyện công-

đức Đại-Bố-thí.

Vào một thời kia,

Đức Phật ngụ tại ch

ùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có

đề-cập đến công-đức Đại-Bố-thí của vua Ba-tư-nặc, xứ Câu-tát-la.

Thuở ấy, vua Ba-tư-nặc có cung-thỉnh

Đức Phật v

à chư T

ăng đến ho

àng-cung

để l

àm

đại-lễ trai-tăng bố-thí. Các vị quan đại-thần cũng tranh nhau cúng-dường Đức Phật v

à T

ăng-đo

àn,

để thi-đua với nh

à Vua. Theo

đề-nghị của Ho

àng-hậu Mạt-lợi, vua Ba-tư-nặc cho dựng lên một c

ăn lều vĩ-đại, trang-ho

àng rực-rỡ, có n

ăm trăm cái lọng bằng tơ trắng, giương ra, được năm trăm con voi trắng cầm, để che mát cho năm trăm vị tỳ-kheo thọ-thí. Ngay giữa lều, mười chiếc đại-thuyền chở đầy hương-hoa thơm ngát; lại có hai trăm năm mươi n

àng công-chúa trẻ

đẹp cầm quạt, đứng quạt hầu cho các vị tỳ-kheo. Các quan trong triều chẳng t

ìm

đâu ra đủ số lọng trắng, voi trắng v

à các nàng công-chúa nào, nên

đ

ành chịu thua.

Đến ngày đại-lễ, quan đại-thần Dung-hạ nhìn quang-cảnh tráng-lệ, hết lời khen ngợi nhà Vua và tỏ ra rất vui-mừng thấy Vua thực-hiện được công-đức bố-thí vĩ-đại đó. Ông nghĩ rằng công-đức vô-lượng của việc đại-bố-thí nầy, nhà vua sẽ hồi-hướng cho chúng-sanh mọi miền, và chính ông cũng

được dự hưởng.Trái lại, quan đại-thần Khả-la th

ì nghĩ khác; ông cho rằng chỉ trong một ngày mà nhà Vua

đ

ã tiêu-phí

đến h

àng vạn tiền vàng

để tổ-chức bố-thí. Theo ông, đó l

à một sự phí-phạm lớn, làm hao-tổn công-quỹ, các vị tỳ-kheo nên lãnh phần

ăn rồi ra về ch

ùa tụng kinh xong

đi ngủ l

à tốt nhứt.

Đức Phật quán-thấy tâm-trạng bủn-xỉn của quan Khả-la, Ng

ài nghĩ rằng, nếu nay Ngài giảng một bài pháp dài

để tán-thán công-đức nh

à Vua, thì quan

đại-thần Khả-la sẽ bất-m

ãn, và hậu-quả là

đời sau, ông ấy sẽ đoạ v

ào các

đường dữ. V

ì thế,

Đức Phật chỉ giảng một b

ài pháp thật vắn-tắt, rồi ra về. Vua Ba-tư-nặc thất-vọng, tưởng rằng trong khi cúng-dường, mình có sơ-sót

điều chi, n

ên ngày hôm sau, vua

đến yết-kiến Đức Phật.

Vừa trông thấy vua Ba-tư-nặc

đến, Đức Phật liền n

ói: "Hôm qua, nhà vua

đ

ã tổ-chức một cuộc

đại-bố-thí vô c

ùng trọng-thể, thật là công-

đức vô-bi

ên. Mọi người

đều khen-ngợi, chỉ trừ có quan đại-thần Khả-la chẳng thích việc bố-thí, xem đó như l

ãng-phí tiền-của. Nếu Như-lai thuyết-giảng dài-dòng, ông ta sẽ bất-mãn và trong tâm sẽ nổi lên sự chê-bai việc bố-thí;

điều đó khiến cho đời nầy, ông ta chẳng được sung-sướng, m

à

đời sau lại c

àng khổ-sở. Vì lẽ ấy mà hôm qua Như-lai chỉ nói vắn-tắt vài lời mà thôi."

Đức Phật lại nói tiếp

: "Nầy

Đại-vương, kẻ ngu-dại chẳng hề khen-ngợi sự bố-thí rộng-r

ãi của người khác, y sẽ sanh vào cõi dữ. Còn người hiền-trí biết tán-thán lòng từ-thiện của kẻ khác, biết tuỳ-hỉ công-

đức,

chia xẻ

được lợi-lạc c

ùng người thí-giả và sẽ sanh lên cõi Trời vào

đời sau.

"

Rồi

Đức Phật mới nói l

ên bài Kệ sau

đây

:

Kẻ bủn-xỉn chẳng

được sanh Thi

ên,

Người ngu-dại chẳng khen bố-thí.

Vui với lòng từ-thiện, bực hiền

Đời sau hưởng hạnh-phước vô-biên.

(Kệ số 177.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

-

Đại-Bố-thí: Đại

= lớn; Bố = rộng lớn, cùng khắp; Thí = cho. Đại-bố-thí là lễ hiến-tặng thực-phẩm, của-cải thật lớn lao cho nhiều người.

- Vua Ba-tư-nặc xứ Câu-tát-la: Xin nhắc lại,

đây l

à vị vua rất tôn-sùng

đạo Phật. Tiếng

Pali: vua Pasenadi, nước Kosala.

- Thi-

đua

= tranh hơn.

- Mạt-lợi: hoàng-hậu rất sùng

đạo Phật nầy, tiếng

Pali là Mallikà.

- Lọng = cây dù lớn và cao, bên trên mặt bằng, giương ra che mát, trông rất trang-nghiêm,

để đón-tiếp các bực quí-trọng.

- Dung-hạ: tên vị quan-lớn nầy, tiếng Pali là Junha.

- Công-

đức vô-lượng

=

hành-

động thiện rất rộng lớn.

(Công-

đức

= hành-

động thiện-l

ành,

đem lại phước-báu cho người l

àm; Vô-lượng = chẳng thể tính-toán hết nổi, vì quá rộng lớn.)

- Hồi-hướng: Hồi = quay trở về; Hướng = hướng về, chiếu về; Hồi-hướng là tâm nghĩ

đến việc chia xẽ lợi-lạc của công-đức đến kẻ khác.

- Công-quỹ: kho tiền của nhà-nước.

- Bủn-xỉn = keo-kiệt, kẹo, rít-róng, chẳng chịu tốn tiền của mình.

- Khả-la = tên vị

đại-thần nầy, tiếng

Pali là Kàla.

- Bất-mãn: Bất = chẳng; Mãn = thoả-mãn, vừa lòng. Bất-mãn là chẳng vừa ý, chẳng vui lòng.

- Đường dữ: dịch tiếng Hán-Việt là ác-

đạo.

Theo Phật-học, chúng-sanh sẽ sanh lại vào một trong sáu

đường, ba đường ác (

=ác-

đạo

) và ba

đường l

ành ( =thiện-

đạo

). Xin nhắc lại: Ba ác-

đạo: (1) điạ-ngục, (2)ngạ-quỉ (

= quỉ

đói); (3) súc-sanh (

=thú-vật). Ba thiện-

đạo l

à: (4) cõi người;(5)cõi A-tu-la (Asura, thần-linh);(6) cõi Trời( = sanh Thiên)

- Tán-thán = khen ngợi.

- Từ-thiện: Từ = thương và giúp người; Thiện = lành; Từ-thiện,

đây, trỏ v

ào lòng thương người và siêng-n

ăng l

àm việc bố-thí.

- Tuỳ-hỉ công-

đức: T

ùy =

theo; hỉ = vui. Tuỳ-hỉ công-

đức

là khi thấy người khác làm việc thiện, mình tỏ lòng vui-mừng cùng với người ấy, mà chẳng hề ganh-ghét.

Đây cũng l

à một công-

đức l

ành cho người biết tuỳ-hỉ, được chia-xẻ phước-báu với kẻ làm việc thiện.

- Vô-biên = chẳng có bờ bến nào, vì quá lớn (Biên = bờ ranh).

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện kể lại công-cuộc

đại-bố-thí của Vua Ba-tư-nặc, một vị đại-thần biết ngợi-khen công-đức v

à biết tuỳ-hỉ công-

đức ấy. Trái lại quan Khả-la lại ch

ê-bai việc bố-thí,

Đức Phật bảo ông ta chẳng được sung-sướng trong đời nầy, v

à

đời sau, sẽ tái-sanh v

ào

đường dữ.

Ý-nghĩa quan-trọng của Tích chuyện là việc Tuỳ-hỉ công-

đức.

Đây là một trong mười hạnh của Bồ-tát Phổ-Hiền, vui mừng khi thấy có người làm việc thiện. Khi tuỳ-hỉ, ta diệt

được l

òng ganh-ghét kẻ khác khi thấy họ làm

được việc khó l

àm, có ích lợi cho chúng-sanh. Khi tuỳ-hỉ, ta chia-xẻ

được phước-báu với người đang l

àm việc thiện: người ấy vui vì làm

được việc thiện, ta cũng vui v

ì thấy người khác thành-công.

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 177:

Ý-nghĩa bài Kệ cũng giống với ý-nghĩa Tuỳ-hỉ của Tích chuyện.

HỌC TẬP:

- Học thuộc bài Kệ, đọc lên để nhắc-nhở những kẻ bủn-xỉn, đã chẳng bố-thí, lại chẳng biết tuỳ-hỉ công-

đức

bố-thí của kẻ khác.

(147).- Tích chuyện con trai ông Cấp-cô-

độc.

Vào một thời kia,

Đức Phật ngụ tại ch

ùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có

đề-cập đến ngư

òi con trai của ông Cấp-cô-

độc, t

ên là Khả-la.

Ông Cấp-cô-

độc l

à một người

đệ-tử tu tại-gia rất thuần-th

ành của

Đức Phật. Ông rất chăm l

àm việc bố-thí, cứu-giúp kẻ nghèo-khó, cô-

đơn, n

ên

được người đời tặng cho danh-hiệu l

à Cấp-cô-

độc. Chính ông đ

ã

đem v

àng ra trải lên mặt

đất để mua khu vườn của Thái-tử Kỳ-đ

à, cất chùa Kỳ-viên, dưng-cúng

Đức Phật v

à T

ăng-đo

àn. Nhưng ông có người con trai, tên là Khả-la, lại chẳng chịu nghe Chánh-pháp, mỗi khi

Đức Phật đến nh

à thuyết-pháp, thì cậu ta lại bỏ

đi chơi. Ông Cấp-cô-độc nghĩ ra một cách để cho con m

ình biết trọng Chánh-pháp. Biết chàng thiếu-niên nầy muốn có tiền riêng

để ti

êu-phí, ông Cấp-cô-

độc liền bảo rằ

ng: "Nầy Khả-la, nếu con chịu vào chùa thọ Bát-quan-trai trong một ngày, cha sẽ cho con mười

đồng tiền v

àng." Khả-la bằng lòng, vào chùa, trong hai mươi bốn tiếng, phần lớn là ngồi ngủ gục, chẳng nghe

Đức Phật giảng-pháp. Hôm sau về nh

à, trước khi

ăn cháo buổi sáng Khả-la đ

ã ngửa tay ra

đ

òi tiền ... công

đi tu

!

Cách

đó mấy ng

ày, ông Cấp-cô-

độc bảo con

: "Nầy con, cha muốn nghe một bài Kệ của

Đức Phật, con h

ãy vào chùa ngồi nghe giảng-pháp và học thuộc lòng một bài Kệ về

đọc lại cho cha nghe, cha sẽ thưởng con hai mươi đồng tiền v

àng." Khả-la thích tiền nhiều hơn kỳ trước,

đi ngay v

ào chùa, thưa với

Đức Phật xin nghe giảng pháp v

à học một bài Kệ.

Đức Phật giảng một b

ài pháp ngắn và

đọc l

ên bốn cây Kệ. Nghe xong, Khả-la

đọc nhẩm lại trong đầu, nhưng chẳng nhớ hết. Được Phật nhắc lại, Khả-la ráng học thuộc, đọc đi đọc lại nhiều lần cho nhuần, rồi chạy thẳng về nh

à,

đọc l

ên vanh-vách, và

đ

òi ... tiền công.

Trong vòng nửa tháng, Khả-la lãnh

được nhiều tiền m

à trong tâm cũng thuộc

được nhiều b

ài Kệ. Nhờ

đọc đi đọc lại nhiều lần cho thật thuộc để nhắc lại cho cha nghe, n

ên tâm-trí Khả-la bắt

đầu hiểu được

nghĩa sâu-xa của các bài Kệ, tồi từ

đó m

à lần lần mến-thích

Đạo-pháp. Chẳng bao lâu, Khả-la chứng được quả-vị Tu-đ

à-huờn.

Hôm ấy, Khả-la thọ Bát ở chùa xong, liền tháp-tùng cùng chư T

ăng, theo Đức Phật, trở về nh

à, vì ông Cấp-cô-

độc đang sửa-soạn thực-phẩm để cúng-dường. Khả-la v

ào nhà, liền ra ngồi nghiêm-chỉnh lắng nghe bài thuyết-pháp của

Đức Phật, l

òng nghĩ thầm: "Cầu mong cha ta

đừng đem tiền ra thưởng ta trước mặt Đức Phật, ta chẳng muốn Ng

ài biết rằng ta

đi thọ Bát chỉ để l

ãnh tiền công tu." Nhưng sau thời pháp, ông Cấp-cô-

độc mang tiền ra cho con, ngạc-nhi

ên thấy Khả-la từ-chối chẳng nhận. Ông liền bạch Phật: "Sao bây giờ, thằng Khả-la của con, tánh-tình lại

đổi khác như thế

? Mấy tháng nay, hễ nó vào chùa học thuộc

được b

ài Kệ nào,

đọc lại cho con nghe, th

ì

được thưởng tiền, nay số tiền nầy l

ên

đến cả ng

àn, sao nó lại chê?"

Đức Phật vui-vẻ bảo

; ‘Khả-la nay

đ

ã chứng

được quả-vị Tu-đ

à-huờn, lòng

đ

ã dứt

được sự tham-luyến tiền-của. Đắc được quả-vị Tu-đ

à-huờn còn quí hơn là ngai vàng của vị bá-chủ hoàn-cầu, của chư Thiên và của các Phạm-thiên."

Rồi

Đức Phật mới nói l

ên bài Kệ sau

đây

:

Hơn quyền bá-chủ hoàn-cầu,

Hơn ngôi Thiên-chủ trên bầu Trời xanh;

Chủ-tể càn-khôn tranh chưa nổi,

Chính là quả-vị Tu-

đ

à-huờn.

(Kệ số 178.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

-Cấp-cô-

độc:

tên vị cư-sĩ nổi-danh nầy, tiếng Pali: Anàthapindika

- Thuần-thành = rất mộ-

đạo v

à ch

ăm chỉ tu-h

ành.

- Cô-

đơn, Cô-độc

=

ở một mình chẳng có cha-mẹ, bà-con giúp.

- Thọ Bát-quan-trai: Xin nhắc lại: thọ Bát là vào chùa tu trong 24 giờ, tuân theo 8

điều giới-cấm.

- Tu-

đ

à-huờn

: tiếng Pali là Sotapatti, dịch là Nhập-Lưu, nghĩa là

được bước v

ào dòng nước Thánh ( =

đ

ã tu

đúng đường rồi), c

òn gọi là Thất-Lai, nghĩa là chỉ còn phải tái-sanh bảy lần nữa, mới chứng quả Thánh, khỏi phải sanh-tử trong cảnh Luân-jồi khổ-

đau v

à lẩn-quẩn.

- Tham-luyến = tham-lam và luyến-tiếc, chẳng dứt bỏ

đi được.

- Ngai vàng = cái ghế bằng vàng dành cho Vua ngồi.

- Bá-chủ hoàn-cầu: vị chúa-tể cai trị cả hoàn-cầu ( = trái

đất.)

- Thiên-chủ = vua Trời.

- Càn-khôn = vũ-trụ, hoàn-cầu, thế-giới.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện kể lại việc dạy con theo

Đạo-pháp, rất khôn-khéo của ông Cấp-cô-độc

: dùng sự tưởng-thưởng

để từ từ khuyến-khích con đi theo con dường đạo-đức.

Ta có thể ứng-dụng cách dạy con nầy vào việc sửa

đổi lần lần tánh-nết của con

:

- tập cho con tánh có trật-tự và sạch-sẽ: mỗi khi chúng chơi xong, nhắc chúng dọn-dẹp

đồ chơi lại cho có thứ-tự, rồi thưởng cho một món đồ chơi m

à nó thích.

- Mừng ngày Sinh-nhựt của mẹ, bảo trẻ

đọc một b

ài Kệ ngắn, gọi là

đền ơn mẹ, v.v.

(2) Ý-nghĩa của Bài Kệ số 178:

Bài Kệ nêu lên sự quí-báu của quả-vị Tu-

đ

à-huờn là quả-vị

đầu-ti

ên trong hàng Thanh-v

ăn. Tại sao lại

quí-báu:

- quí hơn ngôi bá-chủ hoàn-cầu, vì, vị bá-chủ

đó khi hưởng hết phước l

àm bá-chủ sẽ phải tái-sanh lại, có thể sa vào các

đường dữ, nếu trong khi c

òn sống chẳng làm lành. Còn vị

đ

ã chứng quả Tu-

đ

à-huờn khi tái-sanh lại bảy lần,

đều sanh v

ào ba

đường l

ành.

- quí hơn các bực Trời, các vị chủ-tể càn-khôn, vì, các bực Trời, các bực chủ-tể, khi hưởng hết phước, tái-sanh lại có thể

được l

àm người hay phải sa vào

đường dữ.

Điểm quí-báu nhứt của quả-vị Tu-

đ

à-huờn là

đ

ã

đi đúng con đường Thánh-đạo, tiếp-tục đi tới chẳng thoái chuyển, sau bảy đời sẽ chứng quả vô-sanh của bực Thánh, an-nh

àn trong cõi Niết-bàn.

HỌC TẬP:

1.- Học kỹ bài Kệ, ghi nhớ: sự quí-báu của quả-vị Tu-

đ

à-huờn.

2.- Khuyến khích sắp nhỏ theo bà ngoại

đi ch

ùa, về nhà sẽ khen.

-ooOoo-

XIV.- Phẩm PHẬT -

Đ

À.

(148).- Tích chuyện ba cô gái của Ma-vương.

(Tích chuyện nầy hơi giống Tích chuyện Hoàng-hậu Sa-mã-hoa)

Vào một thời kia,

Đức Phật du-h

ành qua xứ Ku-ru, trong một kỳ giảng-pháp có

đề-cập đến ba n

àng con gái

đẹp của Ma-vương.

Thuở ấy, ở xứ Ku-ru có một vị Bà-la-môn tên là Mã-can-di, thờ thần lửa. Ông có một người con gái nhan-sắc rất

đẹp, t

ên là Mã-can-di-hoa, bao nhiêu chàng trai

đến xin cưới, nhưng ông c

òn chưa bằng lòng vì chưa gặp người xứng-

đáng với sắc đẹp của con.

Sáng sớm hôm ây, trong cơn Thiền-

định, Đức Phật quán-thấy cơ-duy

ên

đ

ã

đủ để cho vợ chồng ông M

ã

đắc được quả-vị A-na-h

àm, nên sau

đó Ng

ài bưng bình bát

đi khất thực ngang qua xóm của M

ã-can-di. Vừa trông thấy tướng-mạo trang nghiêm,

đủ ba mươi vẻ đẹp của Đức Phật, ông M

ã chạy vào kêu vợ ra nhìn, và có ý-

định gả con cho Đức Phật. Nhưng Đức Phật từ chối, nói

: "Khi Ta sắp thành

Đạo dưới cội Bồ-đề, Ma-vương cho ba người con gái đẹp, nhan-sắc tuyệt-trần l

à các nàng Tham-ái, Ác-cảm Dục-vọng đến cám-dỗ Ta. Nhưng đối với kẻ đã dứt sạch tham-ái, tríu-mến và dục-vọng, các nàng đã dùng đủ mọi cách mà chẳng dụ-dỗ nổi. Tâm Ta chẳng hề mảy-may khởi lên sự ham-muốn nào cả. Huống chi ngày nay, tấm thân vật-chất của con gái ông, bên trong chứa đầy chất bất-tịnh, Ta cũng chẳng muốn bước chơn tới gần

đụng-chạm đến.

"

Rồi

Đức Phật nói l

ên hai bài Kệ sau

đây, nhờ đó m

à vợ chồng ông Mã-can-di chứng

được quả-vị A-na-h

àm và xin gia-nhập Giáo-hội

Ngài chiến-thắng hoàn-toàn trên thế-gian,

Dục-vọng tiêu-trừ chẳng còn theo bận,

Trí-huệ Phật rộng sâu vô-cùng-tận,

Bực không dấu-vết, ai vẽ

được bước chơn.

(Kệ số 179.)

Ngài

đ

ã vượt qua lưới tham rối-rắm,

Ái-dục chẳng còn tham-

đắm tái-sanh,

Trí-huệ Phật rộng sâu vô-cùng-tận,

Bực không dấu-vết, ai vẽ

được bước chơn.

(Kệ số 180.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Phật-

đ

à:

phiên-âm chữ Phạn Buddha, Phật, có nghĩa là giác, bực

đ

ã giác-ngộ và giải-thoát hoàn-toàn.

- Ku-ru: xứ ở miền Bắc Ấn-

độ xưa, t

ên tiếng Pali là Kuru.

- Ma-vương = Vua Ma, còn gọi là Ma Ba-tuần, tượng-trưng cho sự cám-dỗ người khác làm việc quấy; tiếng Pali là Màra.

- Bà-la-môn: giai-cấp tu-sĩ xưa ở Ấn-

độ; tiếng

Pali là Brahma. Bốn giai-cấp xưa ở Ấn là (1)Bà-la-môn,tu-sĩ,(2)Sát-

đế-lợi,

vua quan; (3)Phệ-xá, buôn-bán; (4) Thủ-

đ

à-la, công-nhơn, nông-phu.

- Mã-can-di: tên vị nầy tiếng Pali là Màgandiya; còn người con gái là Màgandiyà.

- A-na-hàm: quả-vị thứ ba trong hàng Thanh-v

ăn, c

òn gọi là Bất-Lai, nghĩa là chẳng tái-sanh trở lại cõi người nữa, sanh lên Trời, tiếp-tục tu

để đắc Thánh-quả A-la-hán. A-na-h

àm, tiếng Pali: Anàgàmi.

- Ba mươi hai vẻ

đẹp của Phật:

theo trong Kinh sách, thân-thể của

Đức Phật có 32 tướng tốt, như v

ành tai dài, trên

đầu có nhục-kế (

= cục thịt u trên

đỉnh đầu), trước ngực có chữ Vạn, v.v.

- Cội Bồ-

đề:

cây Bồ-

đề, nơi tu-sĩ Cồ-đ

àm ngồi Thiền 49 ngày

đ

êm, sau

đó th

ành

Đức Phật Thích-ca.

- Nhan-sắc tuyệt-trần = sắc

đẹp chẳng c

òn có ai hơn

được.

- Cám-dỗ = dụ-dỗ, xúi-giục.

- Tham-ái = còn gọi là khát-ái, ái-dục; sự tham-lam tríu-mến;

- Ác-cảm = cảm-tình xấu-ác, như ghen ghét, oán-ghét.

- Dục-vọng = lòng ham-muốn, nhứt là về thú vui xác-thịt.

- Tríu-mến = tham-luyến,

đeo chặt chẳng buông bỏ ra được.

- Bất-tịnh: Bất = chẳng; Tịnh = sạch-sẽ. Chất bất-tịnh là chất dơ.

- Tiêu-trừ = diệt bỏ mất hết, chẳng còn vết-tích gì nữa.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện kể lại việc ông Mã-can-di trông thấy tướng-mạo trang-nghiêm của

Đức Phật, muốn gả cô gái đẹp của ông cho Ng

ài. Nhưng

Đức Phật từ-chối, bảo rằng trước đây ba cô gái của Ma-vương, nhan-sắc tuyệt-trần, theo cám-dỗ, tâm Ng

ài còn chẳng khởi lên sự ham-muốn, nữa là nay nhìn thấy tấm thân bất-tịnh của một người nữ, sao lại chẳng nhàm-chán.

Ý-nghĩa của Tích chuyện là người

đ

ã hoàn-toàn ly-dục ( =dứt bỏ mọi tham-luyến, mong-cầu, dục-vọng) dễ-dàng thoát khỏi sự cám-dỗ của cảnh-vật bên ngoài cùng các sự ràng-buộc lôi-kéo của các tâm-trạng bất-thiện ở bên trong. Tâm của bực ấy thật là thanh-tịnh.

Đó l

à mục-tiêu tu-tập và kết-quả chứng-

đắc của các bực A-la-hán, Phật-đ

à.

(2) Ý-nghĩa của hai bài Kệ số 179 và 180:

Thử phân-tách từng câu:

1.- Ngài chiến-thắng hoàn-toàn trên thế-gian: Ngài

đây chỉ v

ào

Đức Phật. Ở thế-gian nầy, Ng

ài

đ

ã diệt hoàn-toàn các lậu-hoặc.

2.- Dục-vọng tiêu-trừ chẳng còn theo bận: Các ham-muốn và tríu-mến dứt bỏ xong, chúng chẳng còn

đeo theo l

àm bận Ngài nữa.

3) Trí-huệ Phật rộng sâu vô-cùng-tận: đó là nhứt-thiết chủng-trí cuả

Đức Phật,

cái trí thông-suốt

được tất cả muôn lo

ài.

4. Bực không dấu-vết, ai vẽ

được bước chơn: Dấu-vết

gì?

Đó l

à các dấu-vết còn sót lại tức là tham-ái, dục-vọng cứ dẫn mãi chúng-sanh phải trôi l

ăn trong v

òng lẩn-quẩn của Luân-hồi. Vì chẳng có dấu-vết gì

để lại, th

ì ai lại có thể thấy( =vẽ lại)

được chỗ các Ng

ài tái-sanh.

5.- Ngài

đ

ã vượt qua lưới tham rối-rắm:

tức là Ngài

đ

ã diệt bỏ

được mọi h

ình-thức của sự tham-luyến đang giăng ra để lôi kéo chúng-sanh vào cảnh tái-sanh trong vòng Luân-hồi.

6.- Ái-dục chẳng còn tham-

đắm tái-sanh:

Tâm Ngài

đ

ã dứt tuyệt sự ham muốn

được tái-sanh nữa.

7) Hai câu chót bài Kệ số 180 giống với hai câu chót của bài Kệ số 179: chẳng thể nào tìm thấy dấu-vết nào của bực A-la-hán, của Phật-

đ

à,

để biết các Ng

ài tái-sanh về

đâu. Tại sao

? Vì các Ngài

đ

ã chứng vô-sanh, tự-tại mãi trong cảnh tịch-diệt của Niết-bàn.

(149).- Tích chuyện

Đức Phật từ c

õi trời

Đao-lợi

trở lại thế-gian.

Vào một thời kia,

Đức Phật ngụ tại ch

ùa Kỳ-viên, trong một kỳ giảng-pháp, có nói

đến chuyến đi của Ng

ài từ cung trời

Đao-lợi trở lại c

õi thế-gian.

Thuở ấy, vào

đầu mu

à an-cư kiết-hạ, sau khi chiến-thắng các giáo-phái ngoại-

đạo, Đức Phật thăng l

ên cung Trời

Đao-lợi để giảng-pháp cho chư Thi

ên nghe. Mẹ Ngài là Hoàng-hậu Ma-gia trước kia, từ cung Trời

Đâu-suất cũng đến c

õi Trời

Đao-lợi để dự-thính. Trong ba tháng, Đức Phật khai giảng

Kinh Vi-diệu-pháp A-tỳ-

đạt-ma

cho chư Thiên, chư Phạm-Thiên, nhờ

đó m

à Hoàng-hậu Ma-gia chứng

được quả-vị Tu-đ

à-huờn.

Trong thời-gian

đó, Tôn-giả Xá-lợi-phất vâng lịnh Phật, đến th

ành San-kha, cách thành Xá-vệ ba mươi do-tuần, giảng dạy Vi-diệu-pháp cho n

ăm trăm vị tỳ-kheo đang qua m

ùa an-cư tại

đây. Gần m

ãn mùa an-cư, Tôn-giả Mục-kiền-liên dùng phép thần-thông lên cõi Trời

Đao-lợi để gặp Đức Phật, Tôn-giả được cho biết Đức Phật sẽ trở lại thế-gian đúng v

ào

đ

êm tr

ăng tr

òn rằm tháng Tám, ngay tại thành San-kha.

Vào

đ

êm ấy,

Đức Phật hiện l

ên với hào-quang sáu màu rực-rỡ, theo hầu bên trái Ngài là chư Thiên, bên phải có chư Phạm-thiên. Thành San-kha bừng sáng lên trong cảnh huy-hoàng chưa từng có. Tôn-giả Xá-lợi-phất hướng-dẫn tỳ-kheo

đến cung-nghinh Phật. Tôn-giả bạch Phật

: "Bạch Thế-tôn, chúng con chưa từng

được chi

êm-ngưỡng một khung-cảnh trang-nghiêm, rực-rỡ, chói-lọi như thế nầy. Quả thật, Thế-tôn là bực

được cả c

õi Trời, cõi người

đồng kính-mộ.

"

Đức Phật bảo:

"Đức-độ của chư Phật được Trời, Người đều mến-yêu."

Rồi

Đức Phật mới nói l

ên bài Kệ sau

đây:

Bực hiền-trí tinh-tấn hành thiền,

Vui an-tịnh trong hạnh viễn-ly,

Tỉnh-giác hoàn-toàn trong chánh-niệm,

Được sự kính-mộ của chư Thiên.

(Kệ số 181.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Cõi Trời

Đao-lợi

= cõi Trời thuộc về Dục-giới, tiếng Pali là Tàvatimsa, dịch là cõi Tam-thập-tam Thiên, có 33 cảnh (bốn phiá có tám cảnh, ở giữa có thành Hỷ-kiến của vua Trời

Đế-thích, 4x8 +1

= 33)

- Cõi Trời

Đâu-suất

= cõi Trời cao hơn cõi

Đao-lợi, thuộc Dục-giới, tiếng

Pali là Tusita, nơi

đây có Bồ-tát Di-lặc đang giảng pháp.

- Muà an-cư kiết hạ: Xin nhắc lại: an-cư = ở yên; kiết-hạ = trải qua mùa hè. Vào mùa nầy, chư T

ăng-ni chẳng ra ngo

ài khất-thực, sợ

đạp chết côn-tr

ùng

đang sanh-sản nhiều.

- Chiến-thắng các giáo-phái ngoại-

đạo:

theo trong kinh-sách, vào lúc

đó, Đức Phật đấu phép thần-thông, thắng được phe ngoại-đạo.

- Ma-gia: tên của Hoàng-hậu, mẹ Thái-tử Tất-

đạt-ta, tiếng

Pali là Màyà; khi tái-sanh làm thiên-nữ có tên là Santusita.

- Dự-thính: Dự = tham-dự;Thính = nghe. Dự-thính =

đến ngồi nghe

- Vi-diệu-pháp, A-tỳ-

đạt-ma:

Kinh nầy thuộc về Luận-tạng, tiếng Pali là Abhidhamma, phiên-âm là A-tỳ-

đạt-ma,

dịch là Vi-diệu-pháp.

- Thành San-kha: tên thành-phố nầy, tiếng Pali: Sankassanagara

- Do-tuần: đơn-vị đo chiều dài hơn một dặm, tiếng Pali: yojana

-

Đ

êm tr

ăng tr

òn rằm tháng Tám: theo trong Kinh-sách,

đó l

à tháng Assayuja, vào khoảng giữa hai tháng 10, 11 của dương-lịch.

-Hào-quang = ánh-sáng chói-lọi phát ra từ thân-thể bực tu-hành cao,

định-lực thật mạnh.

- Phạm-Thiên = vị Trời ở cõi Phạm, tiếng Pali là Brahmà.

- Cung-nghinh: Cung = cung-kính; Nghinh = nghinh

đón.

- Chiêm-ngưỡng = ngắm nhìn với lòng

đầy thán-phục

.

- Hạnh viễn-ly: Hạnh =hành-

động, tánh-t

ình; Viễn = xa; Ly = lìa ra. Hạnh viễn-ly là hạnh xa-lià, dứt-bỏ, xả-bỏ, chẳng còn tham-luyến.

- Tỉnh-giác = Tỉnh = tỉnh thức, chẳng mê; Giác = biết rõ. Chữ Tỉnh-giác là danh-từ chuyên-môn Phật-học, gần nghĩa với chú-tâm, chú-ý.

- Chánh-niệm: Chánh = chơn-chánh; Niệm = ý-nghĩ. Tâm

đang ở

trong chánh-niệm là tâm dứt

được

vọng-tưởng màtrở nênan-tịnh.

- Kính-mộ = kính mến và thương-yêu.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện thuật lại việc

Đức Phật l

ên cung trời

Đao-lợi giảng

Vi-diệu-pháp, nhờ

đó m

à Hoàng-hậu Ma-gia, mẹ Ngài, chứng

được quả-vị thứ nhứt l

à Tu-

đ

à-huờn. Tích chuyện mô-tả cảnh huy-hoàng ở thành San-kha khi

Đức Phật được chư Thi

ên, chư Phạm-Thiên theo hầu, trở về cõi thế-gian.

Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Đức-độ cao-cả của chư Phật được cả Trời, Người đồng kính-mộ.

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 181:

Bài Kệ nêu ra các

đức-tánh

quí-báu của chư Phật

đ

ã khiến cho tất cả Trời, Người

đồng kính-mộ.

Các

đức-tánh đó gồm có ba, được b

ài Kệ kể ra là:

1) Tinh-tấn hành Thiền: Tính-tấn là cố gắng và bền-bỉ thực hành việc gì. Hành Thiền là tu Thiền, nhứt là ngồi Thiền, giữ sao cho tâm-ý

được an-tịnh.

Tinh-tấn hành thiền là nỗ lực tu-tập cho tâm trở nên càng ngày càng thanh-tịnh hơn.

2) Hạnh viễn-ly: Viễn-ly là xa-lià, dứt bỏ. Bỏ cái chi? Bỏ sự tham-luyến. Tham-luyến cái gì? Tham-luyến những cái của ta, bên ngoài là vật-chất, của-cải, danh-lợi; bên trong là các phiền-não. Tại sao lại tham-luyến những cái của ta? Vì trong tâm lúc nào cũng nghĩ

đến cái

Ta, cái Ngã. Dẹp bỏ, hay là rời xa ra,

được cái

Ta và những cái của Ta,

đang thực-hiện hạnh

viễn-ly.

3) Tỉnh-giác hoàn-toàn trong chánh-niệm: Người tỉnh-giác luôn luôn giữ chánh-niệm. Người có chánh-niệm thường-xuyên là người tỉnh-giác. Bước

đầu tu-luyện phải luôn luôn

chú-tâm vào chính tâm mình, làm gì, nói gì, nghĩ gì bao giờ cũng biết mình

đang

làm việc

đó, v

à chỉ chú-tâm vào việc

đó m

à thôi;

đối với

nói nghĩ, cũng lại chú tâm y như thế.

Tóm lại, ba

đức-tánh quí ấy qui về việc

tu tâm, tu sao cho tâm thanh-tịnh hoàn-toàn.

HỌC TẬP:

- Học thuộc bài Kệ, để ghi nhớ ba đức-tánh do sự tu-tâm đem lại

(150).- Tích chuyện Long-vương Y-ra-kha.

Vào một thời kia,

Đức Phật ngụ gần th

ành Ba-la-nại, trong một kỳ giảng-pháp, có

đề-cập đến Long-vương Y-ra-kha.

Thuở ấy, có một vị Long-vương tên là Y-ra-kha, vua của loài rồng, trong một tiền-kiếp làm một tỳ-kheo, vì vô-ý dẫm lên một ngọn cỏ non, chẳng sám-hối, nên mới tái-sanh vào hàng rồng. Long-vương có một người con gái tuyệt-

đẹp, muốn d

ùng nhan-sắc của con làm phương-tiện

để biết được khi n

ào có một vị Phật ra

đời. Long-vương tuy

ên-bố cho mọi người biết, ai

đáp trúng các câu hỏi do công-chúa n

êu ra, thì sẽ

được chọn l

àm Phò-mã. Mỗi buổi sáng, công-chúa ra múa hát trước

đền, chờ đợi người đến đối-đáp. Nhiều ch

àng trai say-mê sắc-

đẹp đến trỗ t

ài, nhưng chẳng ai

đáp đúng cả.

Một hôm vào sáng sớm,

Đức Phật quán-thấy một ch

àng thanh-niên

đẹp trai, sắp đủ cơ-duy

ên

để chứng-đắc quả-vị Tu-đ

à-huờn. Ngài ra

đi khất-thực, gặp ch

àng trai

đang l

ên

đường đi đến đền vua rồng, Ng

ài mới dừng lại dạy chàng cách trả lời các câu hỏi của công-chúa. Nghe hiểu xong lời Phật dạy, chàng trai, có tên là Ức-tha-ra, chứng ngay

được quả-vị Tu-đ

à-huờn. Chàng chẳng còn mong-muốn làm Phò-mã nữa, nhưng chỉ vì lợi-ích cho chúng-sanh, chàng vẫn

đến đền vua để trả lời.

Các câu hỏi

đầu-ti

ên gồm có:

1) Ai là vị chủ-tể?

2) Kẻ mê-mờ vì các lậu-hoặc có làm chủ-tể

được không

?

3) Kẻ chủ-tể nào thoát khỏi các lậu-hoặc?

4) Hạng người nào

đáng gọi l

à người ngu-si?

Các câu trả lời

đúng-đắn l

à:

1) Người làm chủ sáu c

ăn l

à vị chủ-tể.

2) Kẻ còn bị lậu-hoặc làm mê-mờ, sao gọi là chủ-tể

được

?

3) Chủ-tể nào

đ

ã thoát khỏi tham-ái, thì thoát khỏi lậu-hoặc.

4) Hạng người nào còn tham-

đắm các thú-vui thể-xác l

à hạng người ngu-si.

Sau khi nghe

đáp đúng các câu hỏi sơ-khởi, công chúa lại n

êu lên các vấn-

đề

: sự tràn-ngập của các dục-vọng, cuộc tái-sanh lẩn-quẩn trong vòng Luân-hồi, các tà-thuyết ngoại-

đạo, c

ùng cách giải-quyết các vấn-

đề đó. Ức-tha-ra đều giải-đáp thoả-đáng cả, dựa theo lời chỉ-dạy của Đức Phật. Long-vương nghe qua, l

òng rất mừng rỡ, biết chắc là có Phật ra

đời, mới ưng gả con cho ch

àng trai. Ức tha-ra từ chối, nói mình sẽ

đến gặp Phật để xin l

àm tỳ-kheo. Long-vương ngỏ lời xin

đi theo. Khi v

ào yết-kiến

Đức Phật, Long-vương thuật lại v

ì sao mình phải thác-sanh vào hàng rồng.

Đức Phật bảo

: "Được sanh vào cõi người, rất khó. Gặp được chư Phật ra đời, lại khó hơn. Được nghe Chánh-pháp của chư Phật, càng khó-khăn hơn nữa."

Rồi

Đức Phật mới nói l

ên bài Kệ sau

đây

:

Khó thay, sanh

được l

àm người!

Khó thay, giữ toàn mạng sống!

Khó thay,

được nghe Chánh-pháp

!

Khó thay, thấy Phật ra

đời

!

(Kệ số 182.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Long-vương: Long = rồng;Vương = vua. Long-vương là vua rồng

- Y-ra-kha: tên vị vua rồng nầy, tiếng Pali là Erakapatta.

- Thành Ba-la-nại = thành-phố Bénarès ở Ấn-

độ, nay l

à Vàranasì, trước

đây Đức Phật khi th

ành

Đạo giảng b

ài pháp

đầu-ti

ên là "Tứ-diệu-

đế

" cho n

ăm anh em ông Kiều-trần-như nghe.

- Tiền-kiếp = một

đời sống trước đời sống hiện nay. (

Tiền = trước)

- Sám-hối: tỏ vẻ

ăn-năn tội-lỗi v

à nguyện xin chẳng tái-phạm.

- Tái-sanh: Tái = một lần nữa; Sanh = sanh ra, chào

đời.

Tái-sanh là sau khi chết ở

đời nầy, lại sanh ra ở đời sau, theo thuyết Luân-hồi.

- Phò-mã = chồng của công-chúa, rể của Vua.

- Quán-thấy = trong cơn Thiền-

định, nh

ìn thấy rõ trong tâm.

- Cơ-duyên: Cơ = cơ-hội; Duyên = duyên-cớ. Đủ cơ-duyên là gặp

đủ cơ-hội tốt, dịp may-mắn.

- Quả-vị Tu-

đ

à-huờn =

quả-vị thứ nhứt; người chứng quả Tu-

đ

à-huờn (1) chẳng chấp thân nầy là Ta; (2) chẳng nghi-ngờ Chánh-pháp; (3) chẳng theo các nghi-thức cúng-tế của tà-giáo.

- Khất-thực = mang bình bát

đi xin ăn. (

Khất = xin; Thực = ăn).

- Ức-tha-ra: tên chàng trai nầy, tiếng Pali là Uttara.

- Chủ-tể = người làm chủ; (tể = cầm

đầu.)

- Lậu-hoặc: Lậu = rỉ chảy ra; Hoặc = điều sai-lầm, tội-lỗi. Danh-từ chuyên-môn nầy, Lậu-hoặc, trỏ vào các mối phiền-não, như tham, sân, si, kiêu-c

ăng, nghi-ngờ,v

.v. từ bên trong tâm, lộ ra ngoài bằng các hành-

động xấu hay lời nói ác.

- Sáu c

ăn: Căn

= nơi phát-sanh ra, tức là các giác-quan. Ta có tất cả sáu c

ăn: mắt, tai, mũi, lưỡi, da tr

ên thân ( =

đó l

à n

ăm giác-quan) v

à ý-c

ăn

ở trong tâm.

- Tham-ái: ham-mê, tham-luyến, tríu-mến, bấu-víu vào.

- Sơ-khởi: mới bắt

đầu.

- Dục-vọng = ham-muốn sai. (Dục = muốn;vọng = giả-dối, sai-lầm)

- Luân-hồi: Luân = bánh xe; Hồi = trở lại. Theo thuyết Luân-hồi, chúng-sanh chết

đời nầy, sẽ sanh lại đời sau, cứ sống sống chết chết m

ãi, như bánh xe cứ quay hết một vòng lại quay tiếp, chẳng ngừng.

- Tà-thuyết ngoại-

đạo

= các lý-thuyết tôn-giáo sai lầm, mê-tín, dị-

đoan. (

Tà = xiêng-xéo, cong-vạy, chẳng thẳng, chẳng

đúng)

- Thác-sanh = tái-sanh, sanh lại; nói tiếng thường là đầu thai.

- Chánh-pháp: Chánh = chơn-chánh; Pháp = pháp-tu. Trong Phật-học, Chánh-pháp là giáo-lý của

Đức Phật, tiếng

Pali là Dhamma.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện rất giản-dị, nhưng các câu hỏi công-chúa nêu ra rất thâm-sâu, chỉ có

Đức Phật bấy giờ mới đáp r

õ-ràng

được. V

ì thế, khi nghe

đáp đúng, vua Rồng biết ngay l

à có Phật ra

đời.

(2) Ý-nghĩa bài Kệ số 182:

Bài Kệ nêu ra bốn

điều khó được, trong đó có việc sanh ra l

àm người. Vậy nay

được l

àm người, ta phải quí sanh-mạng và lo tu-hành.

HỌC TẬP:

- Học thuộc lòng bài Kệ, ghi nhớ:

được sanh l

àm người, gặp Phật, nghe Pháp là ba việc quí-báu, ba cơ-hội hiếm-có.

(151).- Tích chuyện về lời thưa hỏi của Tôn-giả A-nan.

Vào một thời kia,

Đức Phật ngụ tại ch

ùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có

đề-cập đến câu hỏi của Tôn-giả A-nan.

Thuở ấy, một hôm Tôn-giả A-nan bạch Phật: "Bạch Thế-tôn, con chẳng biết các giáo-lý c

ăn bản của chư Phật ng

ày xưa có giống với giáo-lý của Thế-tôn ngày nay ch

ăng

?"

Đức Phật đáp: "Nầy A-nan, tóm-lược tất cả giáo-lý của chư Phật trong quá-khứ,

để chỉ-dạy các tỳ-kheo tu-tập, đều được ghi trong các b

ài Kệ sau

đây.

"

Rồi

Đức Phật đọc các b

ài Kệ ấy như sau:

Việc ác chẳng làm,

Điều lành siêng tu,

Tâm-ý trong-sạch,

Lời chư Phật dạy.

(Kệ số 183.)

Phật dạy, nhẫn-nhục, khổ-hạnh quí,

Quả-vị tối-cao là Niết-Bàn.

Tỳ-kheo chẳng hại chúng-sanh;

Áp-bức người lành, chẳng phải Sa-môn.

(Kệ số 184.)

Chẳng l

ăng-mạ, chẳng gây thương-tổn,

Chế-phục mình tuân theo Giới-bổn,

Ăn uống điều-hoà, sống ẩn-cư,

Và thiền-

định, l

à lời Phật dạy.

(Kệ số 185.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Tôn-giả A-nan: Tôn-giả = người

đáng tôn-kính;

A-nan = tên vị thị-giả hầu bên cạnh

Đức Phật, tiếng

Pali là Ànanda.

- Giáo-lý: Giáo = tôn-giáo; Lý = lý-thuyết. Giáo-lý là các lời dạy c

ăn-bản trong một tôn-giáo.

- Quá-khứ: Quá = đã qua; Khứ = đi. Quá-khứ là thời-gian

đ

ã qua.

-Nhẫn-nhục = cam chịu khổ-sở, chẳng oán-giận, chẳng than-van.

- Khổ-hạnh = chịu cực-khổ về thân-xác

để tu-h

ành.

- Niết-bàn: tiếng Phạn là Nirvana, có nghĩa là ra khỏi rừng u-tối, tức là thoát khỏi sự mê-mờ của các phiền-não, lậu-hoặc. Niết-bàn chẳng phải là một nơi trong không-gian, mà là tâm-trạng của người tu-hành

đ

ã dứt

được hết các phiền-n

ão, và chứng

được

vô-sanh, nghĩa là chẳng còn phải bị tái-sanh mãi trong vòng lẩn-quẩn của Luân-hồi. Tiếng Hán-Việt dịch chữ Nirvana, Niết-bàn cõi Tịch-diệt, vắng-lặng.

-Sa-môn: tiếng Phạn là Sramana, có ba nghĩa; (1)cần-giả ( = siêng làm

điều thiện); (2)

tức-giả ( = ngưng bỏ

điều ác);

bần-giả ( = cam chịu nghèo-nàn), danh-từ nầy chỉ các tu-sĩ Phật-giáo.

- L

ăng-mạ: Lă

ng: xâm-phạm;Mạ = chửi mắng. L

ăng-mạ

= chửi bới

- Thương-tổn = bị hại, hay gây hại cho kẻ khác.

- Chế-phục = đè-nén, khép vào kỷ-luật.

- Giới-bổn: tiếng Phạn là Patimokka, phiên-âm: Ba-la-

đề-mộc-xoa,

là bản kết-tập các giới-luật chung lại, bản ghi các

điều răn-cấm.

- Ẩn-cư: Ẩn = dấu kín; Cư = ở. Ẩn-cư = ở riêng một mình nơi vắng

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện chẳng có ý-nghĩa chi

đặc-biệt.

(2) Ý-nghĩa các bài Kệ số 183, 184 vá 185:

Bài Kệ số 183 dạy ba

điều (1) tránh điều ác, (2) si

êng làm

điều l

ành; (3) giữ tâm-ý cho trong-sạch. Bài Kệ nầy quan-trọng bực nhứt.

Bài Kệ số 184 dạy: ba

điều n

ên làm:(1) nhẫn-nhục; (2) chịu khổ-hạnh, (3) theo mục-tiêu:

đắc Niết-b

àn;

đồng thời, dạy tránh hai điều: (1) chẳng hại chúng-sanh; (2) chẳng áp-bức người hiền-l

ành.

Bài Kệ số 185 dạy tránh hai

điều: (1) chẳng chửi-bới; (2) chẳng gây tổn-hại; v

à phải làm bốn

điều

: (1) tuân theo Giới-luật, (2)

ăn-uống điều-độ, (3) sống ẩn-cư v

à (4) tu-tập Thiền-

định.

HỌC TẬP:

- Học thuộc lòng cả ba bài Kệ, riêng bài Kệ số 183 ghi vắn-tắt ba

điều quan-trọng m

à người tu chẳng

được phép có lúc n

ào quên

đi.

(152).- Tích chuyện vị tỳ-kheo bất-mãn.

Vào một thời kia,

Đức Phật ngụ tại ch

ùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có

đề-cập đến một vị tỳ-kheo trẻ bất-m

ãn.

Thuở ấy, có một người tỳ-kheo trẻ tuổi tu-tập tại chùa Kỳ-viên. Một hôm, vị giáo-thọ bảo chàng nên

đến một tu-viện khác để học th

êm giáo-lý. Trong khi

đi xa, người cha của vị tỳ-kheo ấy ở nh

à, mắc bịnh nặng, qua

đời, để lại một gia-t

ài cho con lên

đến trăm đồng tiền v

àng, giao cho người chú giữ tạm. Sau khoá học, vị tỳ-kheo trở lại chùa, người chú

đến báo tin cha chết, v

à muốn giao lại số tiền cho cháu. Lúc

đầu, vị tỳ-kheo bảo, nay đi tu chẳng cần đến tiền-bạc. Nhưng sau đó, ch

àng ta lại suy-nghĩ, có lẽ tốt hơn nên quay về với

đời sống thế-tục, d

ùng gia-tài của cha cho mà xây-dựng lại cuộc

đời. V

ì tâm-tư bị giằng-co giữa hai ý-

định, tiếp-tục tu-h

ành hay hoàn-tục, nên vị tỳ-kheo trẻ tuổi sanh ra bất-mãn, chẳng còn thấy thích-thú trong việc học-tập kinh-kệ, biếng

ăn biếng uống, th

ành ra gầy-yếu. Các bạn

đồng-tu nhận thấy thế, mới dẫn vị tỳ-kheo trẻ tuổi đến yết-kiến Đức Phật.

Đức Phật hỏi duyên-cớ, vị tỳ-kheo trình-bày nỗi phân-vân trong lòng, nửa muốn quay về với đời sống thế-tục, dùng gia-tài của cha để lại mà sanh-sống, nửa muốn tiếp-tục tu-hành, nên sanh ra mất cả sự hăng-hái học-tập. Đức Phật bảo, trở lại sống trong gia-đình, cần phải mua sắm nào là vật-thực, quần-áo, chén bát, bàn ghế, tậu trâu bò

để cầy cấy, thu

ê người làm vườn-tược, thì một tr

ăm đồng tiền kia cũng chẳng đủ cho các chi-phí đó. Thường-nhơn chẳng có ai m

à biết

đủ, ngay cả vị Chuyển-Luân Thánh-vương, ngự-trị tr

ên hoàn-cầu kia, vàng bạc nhiều như mưa rào, cũng còn chưa thoả-mãn. Như vị Chuyển Luân Thánh-vương Mãn-

đ

à-tu xưa kia sống vinh-quang trên cõi Trời Tứ-

đại-thi

ên-vương và cõi Trời

Đao-lợi, c

òn chẳng muốn chia-xẻ quyền thống-trị chung với vua Trời

Đế-thích, cho n

ên phải suy-thoái mà rơi xuống cõi người, chẳng bao lâu phải già ốm mà chết.

Rồi

Đức Phật mới nói l

ên hai bài Kệ sau

đây, nhờ đó m

à vị tỳ-kheo trẻ tuổi thức-tỉnh và chứng

được quả-vị Tu-đ

à-huờn:

Dầu cho vàng bạc như mưa,

Người còn dục-lạc cũng chưa vừa lòng.

Thú vật-chất

đắng trong, ngo

ài ngọt,

Bực hiền-trí rành-rọt

điều nầy.

(Kệ số 186.)

Biết rõ thế, người

đệ-tử Phật

Chẳng thích tìm thú vui vật-chất,

Dầu

đó l

à lạc-thú cõi Trời.

Người hiền-thích diệt ái-dục mất.

(Kệ số 187.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Bất-mãn = chẳng vừa lòng.

- Giáo-thọ = vị tỳ-kheo dạy giáo-lý cho các tỳ-kheo mới vào tu.

- Hoàn-tục: Hoàn = trở lại; Tục = thế-tục,

đời sống trong x

ã-hội của người có vợ-con, nghề-nghiệp.Hoàn-tục là trở về nhà thôi tu-hành

- Yết-kiến = đến gặp người trên.

- Phân-vân = trong lòng chưa dứt-khoát, nửa tin nửa ngờ.

- Vật-thực = thức

ăn vật uống (

Thực = ăn.)

-Tậu = mua sắm.

- Chuyển-Luân Thánh-vương: Chuyển-Luân = quay bánh xe; Thánh-vương = vị vua Thánh, cai-trị khắp hoàn-cầu. Theo giáo-lý, vị Chuyển-Luân Thánh-vương là bực mà thân có

đủ 32 tướng tốt như Đức Phật, thống-trị ho

àn-cầu, cởi các chiếc xe bằng vàng ( = Kim-luân thánh-vương), bằng bạc ( =Ngân-luân thánh-vương), bằng sắt ( = Thiết- luân thánh-vương), bằng

đồng (

=

Đồng-luân thánh-vương

),

đi bốn phương trong thi

ên-hạ. Chuyển-Luân Thánh-vương khi hưởng hết phước phải bị suy-thoái, trở lại cõi người, rồi chết và tái-sanh theo vòng Luân-hồi. Tiếng Phạn là Tchakravartin.

- Mãn-

đ

à-tu:

tên vị thánh-vương nầy, tiếng Pali là Mandàtu.

- Cõi Trời Tứ-

đại-thi

ên-vương:

bốn cõi Trời do bốn vị Thiên-vương thống-trị, ở bốn phiá của cõi Trời

Đao-lợi. Bốn c

õi

đó, tiếng

Pali là Càtumahàràjila.

- Cõi Trời

Đao-lợi

:

cõi Trời ở giữa bốn cõi Tứ Thiên-vương, có vua Trời

Đế-thích ngự-trị

; tiếng Pali là Tàvatimsa. (Xin xem lại Bài Tích chuyện

Đức Phật từ c

õi Trời

Đao-lợi trở về thế-gian,

trang 469 và kế.)

- Suy-thoái: Suy = suy-yếu; Thoái = trở lùi lại. Bị suy-thoái là trở lại sự thiếu-kém lúc trước. Trái nghĩa với: tiến-bộ, tinh-tấn.

- Dục-lạc: Dục = ham muốn; Lạc = thú-vui. Người còn dục-lạc là kẻ chạy theo các thú-vui thể-xác, vật-chất tạm-bợ.

- Thú vật-chất = thú-vui vật chất tạm-bợ.

- Hiền-trí: Hiền = hiền-lành; Trí = trí-huệ. Bậc hiền-trí là người tu-hành cao, hiền-lành và có trí-huệ. Còn gọi là bực thiện-tri-thức.

- Diệt ái-dục mất: Ái-dục = thích ham-muốn nhiều. Bốn chữ Diệt ái-dục mất, đọc nghe trục-trặc, viết lại: diệt sự ái-dục cho mất tiêu

đi.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện thuật lại việc một tỳ-kheo thừa hưởng gia-tài của cha, nảy ra ý-muốn hoàn-tục, phân-vân chẳng biết nên tiếp-tục tu-hành nữa hay không, nên trở thành bất-mãn.

Được Phật chỉ-dạy, chẳng n

ên chạy theo các thú-vui vật-chất tạm-bợ, vị tỳ-kheo ấy chứng

được quả-vị Tu-đ

à-huờn, tiếp-tục tu-hành

để th

ành chánh-quả.

Ý-nghĩa của Tích chuyện là: khi xuất-gia, phải dứt-khoát với

đời sống thế-tục

: xuất là ra khỏi, chẳng những thân ra khỏi nhà, mà tâm cũng phải ra khỏi các phiền-não, ràng-buộc và ham-muốn nữa.

(2) Ý-nghĩa của hai Bài Kệ số 186 và 187:

Hai bài Kệ hợp chung lại thành một bài dạy ta chớ theo các thú-vui dục-lạc, dầu

đó l

à cảnh vui-sướng thần-tiên ở cõi Trời

đi nữa.

Ý-nghĩa quan-trọng của hai bài Kệ nằm trong câu: Thú vui vật-chất

đắng trong, ngo

ài ngọt.

Câu nầy có nghĩa, thú-vui vật-chất tuy thấy bề ngoài sung-sướng, nhưng bên trong chứa sự khổ-

đau. Sung-sướng g

ì? Sung-sướng tấm thân trong một lúc, hễ hết sướng thì sao,

đó l

à ngoài ngọt. Chứa sự khổ-

đau n

ào? Khổ-

đau v

ì phải tái-sanh mãi trong cõi Luân-hồi, sướng ít mà khổ nhiều nầy;

đó l

à bên trong

đắng.

HỌC TẬP:

- Học thuộc lòng hai bài Kệ, ghi nhớ sự tạm-bợ của thú vui vật-chất.

(153).- Tích chuyện vị Bà-la-môn Ất-ghi-

đạt.

Vào một thời kia,

Đức Phật ngụ tại ch

ùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có

đề-cập đến vị B

à-la-môn tên Ất-ghi-

đạt.

Thuở ấy ở xứ Câu-tát-la, có vị quốc-sư là Ất-ghi-

đạt, sau khi vua mất, ông liền từ-chức, đem hết t

ài-sản ra bố-thí và trở thành một tu-sĩ khổ-hạnh ngoại-

đạo đến ẩn-cư ở v

ùng ba biên-giới giữa các xứ An-gia, Ma-kiệt-

đ

à và Ku-ru.

Đồ-đệ theo học rất đông-đảo. Tu-sĩ Ất dạy họ n

ên tôn-thờ núi-non, rừng-rú, cây-cối ở công-viên và vườn-tược,

để được giải-thoát mọi khổ-đau của cuộc đời.

Vào sáng sớm hôm ấy,

Đức Phật quán-thấy đ

ã

đến cơ-duy

ên cho Ất-ghi-

đạt v

à một số

đồ-đệ của ông ta được chứng-quả, n

ên Ngài mới sai Tôn-giả Mục-kiền-liên

đi đến nơi cư-trú của Ất trước, rồi Ng

ài sẽ

đến sau. Tôn-giả Mục-kiền-li

ên vâng lịnh,

đến khu rừng của tu-sĩ Ất, v

à xin cho mình

được trú-ngụ một đ

êm. Bọn

đồ-đệ biết Tôn-giả l

à

đại-đệ-tử của Đức Phật, n

ên tỏ ra chẳng bằng lòng, và chỉ cho Tôn-giả một mô

đất cao ở chơn núi gần đó, đến đấy m

à nghỉ. Tôn-giả liền

đến đó ngồi Thiền nhập-định. Nguy

ên, bên dưới mô

đất l

à hang-ổ của một con

điạ-long rất hung-ác. Nửa đ

êm, nó bò ra cắn Tôn-giả Mục-kiền-liên, nhưng Tôn-giả cùng nó chiến-

đấu một hồi lâu, rồi khuất-phục được nó. Để tỏ l

òng hàng-phục,

điạ-long liền khoanh tr

òn,

đầu ngẩng cao l

ên thành cái lọng, che bên trên Tôn-giả. Sáng ra, các

đồ-đệ của tu-sĩ Ất ra mô đất xem, những tưởng con điạ-long đ

ã cắn chết người khách ban

đ

êm, nào ngờ thấy

điạ-long đang thần-phục Tôn-giả, mới biết được Tôn-giả l

à bực thần-thông cao-cường. Họ qùi xuống

đảnh-lễ. Vừa lúc ấy, Đức Phật đi tới. Tôn-giả Mục-kiền-li

ên nói với các

đồ-đệ ấy rằng

: "Đây là Đức Phật, thầy của ta, các người chớ nên lạy ta, mà phải nên mau đến đảnh-lễ Ngài." Bấy giờ, Ất-ghi-

đạt c

ùng các học-trò mới biết

Đức Phật l

à ai, cùng nhau qùi xuống xin quy-y Phật.

Đức Phật vui-vẻ chấp-nhận và nói: "Nầy Ất-ghi-

đạt, thờ kính núi rừng, cỏ cây chẳng đem lại nương-tựa bền-vững cho m

ình. Chỉ những kẻ biết quy-y Phật, Pháp và T

ăng, mới có được nơi nương-tựa vững-chắc, v

à sẽ

được chỉ-dạy phương-cách giải-thoát khỏi v

òng sanh-tử khổ-

đau của Luân-hồi lận-đận.

"

Rồi

đó Đức Phật nói l

ên n

ăm b

ài Kệ sau

đây, nhờ đó m

à Ất-ghi

đạt v

à một số tu-sĩ khác chứng

được đạo-quả A-la-hán

:

Trong cơn nguy-khốn bàng-hoàng,

Con người tìm trú dưới hàng cây thiêng.

Hoặc vào

đền miếu, ch

ùa chiền,

Hoặc lên

đồi núi, hoặc miền rừng hoang.

(Kệ số 188.)

Trú thân như thế, thiếu an-toàn,

Vì chưa tựa vào hàng tối-thượng.

Ẩn-náu nơi

đấy vẫn bất-an,

Vì các khổ-

đau c

òn bận vướng.

(Kệ số 189.)

Người tìm về nương-tựa nơi Phật,

Nơi Giáo-pháp và nơi T

ăng-đo

àn,

Với chánh-trí, thông-hiểu rõ-ràng

Lẽ nhiệm-mầu của Bốn Sự-Thật.

(Kệ số 190.)

Thấy KHỔ, TẬP là nguồn-gốc khổ,

Thấy DIÊT là khi khổ vượt qua.

Thấy Bát-chánh-

ĐAO l

à thánh-lộ,

Dẫn

đến việc diệt khổ nơi ta.

(Kệ sdố 191.)

Đấy là nơi nương-tựa an-toàn,

Đấy là chỗ qui-y vô-thượng.

Hãy tìm về

đấy m

à nương thân,

Thoát khỏi mọi khổ

đau, hết vướng.

(Kệ số 192.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Ất-ghi-

đạt:

tên vị tu-sĩ nầy, tiếng Pali là Aggidatta.

- Bà-la-môn: Xin nhắc lại:

đó l

à giai-cấp tu-sĩ ở Ấn-

độ xưa.

- Quốc-sư: Quốc = nước, Sư = thầy. Quốc-sư là vị tu-sĩ cao nhứt trong nước,

được vua xem như thầy dạy đạo cho cả nước.

- An-gia: tên xứ nầy, tiếng Pali là Anga.

- Ma-kiệt-

đ

à:

tên xứ nầy, tiếng Pali là Magadha.

- Ku-ru: tên xứ nầy, tiếng Pali là Kuru.

- Mục-kiền-liên: tên của vị

đại-đệ-tử của Phật, có thần-thông v

ào bực nhứt, tiếng Pali là Moggallàna.

-

Điạ-long: Điạ

=

đất;

Long = rồng. Điạ-long là rồng

đất.

- Khất-phục, Hàng-phục = thắng

được v

à buộc phải theo lịnh.

- Thần-phục = hoàn-toàn chịu vâng theo lịnh.

- Thần-thông cao-cường = có pháp-lực, phép-thuật, thật mạnh.

- Đảnh-lễ = cúi

đầu xuống l

àm lễ lạy ra mắt.

- Quy-y: Quy = quay về; Y = nương-tựa. Quy-y là quay về tìm nơi

để nương-tựa; t

ìm chỗ an-toàn mà trú-ẩn.

- Quy-y Phật, Pháp, T

ăng,

hay Quy-y Tam-Bảo = buổi lễ long-trọng trong chùa, người

đệ-tử Phật xin nguyện nương-tựa v

ào

Đức Phật, tu-tập theo Chánh-pháp của Phật v

à nghe theo lời dạy của chư T

ăng, l

à những người

đang tu theo đường lối của Đức Phật.

- Đạo-quả A-la-hán: Đạo = con

đường tu-tập;

Quả = kết-quả của việc tu-tập; A-la-hán = quả-vị thứ tư, cao nhứt của bực tu-hành

đ

ã dứt sạch phiền-não và hết bị tái-sanh nữa. Tiếng Pali: Magga =

đạo; Phala

= quả; Arahant = A-la-hán.

- Bàng-hoàng = lo-sợ nhiều, mất sự bình-tỉnh.

- Cây thiêng = cây có thần-linh trú-ngụ, cây linh-thiêng.

- Tối-thượng = Tối = hết sức; Thượng = cao. Tối-thượng là cao nhứt.

- T

ăng-đo

àn,

hay T

ăng-gi

à: một nhóm tỳ-kheo tu chung với nhau, từ bốn người trở lên. T

ăng-g

ìà, tiếng Pali là Sangha.

- Chánh-trí: Chánh = chơn-chánh,

đứng-đắn nhứt;

Trí = trí-huệ.

- Bốn Sự-Thật = Tứ Diệu-

đế,

gồm có (1) Khổ-

đế,

sự

đau-khổ; (2)

Tập-

đế,

nguyên-nhơn, nguồn-gốc của sự Khổ; (3) Diệt-

đế,

tận-diệt sự Khổ, tức là

đắc được cảnh-giới Niết-b

àn; (4) Đạo-đế, con

đường tu-tập để thoát Khổ. Ri

êng về

Đạo-đế, gồm tám ng

ành, gọi là Bát-Chánh-

Đạo

( = chánh-kiến, chánh tư-duy, chánh-ngữ, chánh mạng, chánh-nghiệp, chánh tinh-tấn, chánh niệm và chánh-

định.

)

- Thánh-lộ:Thánh = bực Thánh; Lộ = đường. Thánh-lộ là con

đường đưa đến ngôi-vị Thánh (

= A-la-hán, Duyên-giác, Bồ-tát và Phật.)

- Vô-thượng: Vô =chẳng; Thượng = trên. Vô-thượng là cao-cả nhứt, trên

đó chẳng c

òn gì cao hơn nữa

được.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện thuật lại việc quy-y của Ất-ghi-

đạt v

à

đồ-đệ

: trước nương-tựa tinh-thần vào việc thờ-kính núi rừng, cây cối, sau họ gặp Tôn-giả Mục-kiền-liên, mới quay về quy-y với Phật, Pháp, và T

ăng

.

Ý-nghĩa của Tích chuyện là lời dạy của

Đức Phật

: quy-y Tam-Bảo là tìm nơi nương-tựa an-toàn và vững-chắc nhứt, vì

được học-hỏi về cách tu-tập sao cho được

giác-ngộ và giải-thoát.

(2) Ý-nghĩa các bài Kệ từ số 188

đến số 192

:

N

ăm b

ài Kệ hợp lại thành một bài, dạy ta ý-nghĩa cao-cả của việc quy-y Tam-Bảo: Phật, Pháp và T

ăng

.

Hai bài số 188 và 189 cho rằng tìm vào ẩn-núp ở các hàng cây,

đền miếu, ch

ùa chiền hay núi rừng, chẳng phải là nơi an-toàn, vì vẫn còn vướng-bận khổ-

đau. Tại sao

? Vì các nơi nầy chỉ tạm-thời che-chở thân ta tránh

được mưa, gió m

à chẳng giúp ta vượt qua

được sự đau-khổ của cuộc đời.

Bài Kệ số 190 chỉ rõ nơi an-toàn nhứt

để ta t

ìm về nương-tựa;

đó l

à quy-y Tam-Bảo: Phật, Pháp và T

ăng,

được chỉ-dạy để mở-mang chánh-trí mà thông-hiểu lẽ nhiệm-mầu của Tứ-Diệu-

Đế, Khổ-đế, Tập-đế, Diệt-đế v

à

Đạo-đế,

nhờ

đó m

à ta có

đủ khả-năng vượt qua mọi khổ-đau của cuộc đời.

Bài Kệ số 191 ghi lại vắn-tắt ý-nghĩa của Tứ-Diệu-

đế, thế n

ào là Khổ, thế nào là Tập, thế nào là Diệt, thế nào là Đạo. Bài Kệ còn nhấn mạnh, Đạo-đế tức là Bát-Chánh-

Đạo,

tức là con

đường Thánh-lộ, đưa ta đến ngôi-vị Thánh, dẹp hết phiền-n

ão, khỏi bị tái-sanh

để chịu đau-khổ m

ãi trong cõi Luân-hồi lận-

đận.

Bài Kệ số 192 quả-quyết việc quy-y Tam-Bảo là biết tìm về nơi nương-tựa an-toàn, cao-thượng nhứt, vì nhờ

đó m

à vĩnh-viễn dứt khổ.

HỌC TẬP:

- Học kỹ n

ăm b

ài Kệ, ghi nhớ rõ thế nào là quy-y Tam-Bảo, Tứ-Diệu-

Đế

và nhứt là Bát-Chánh-

Đạo.

Còn thắc-mắc, phải hỏi lại Thầy.

(154).- Tích chuyện về nơi

đản-sanh của bực Thánh.

Vào một thời kia,

Đức Phật ngụ tại ch

ùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có

đề-cập đến câu hỏi của Tôn-giả A-nan về nơi đản-sanh của bực Thánh.

Một hôm, Tôn-giả A-nan ngẫm-nghĩ: "Đức Phật có nói, loài voi rặc-giống chỉ thấy ở xứ Chất-đăng-ta, loài ngưạ rặc-giống chỉ có ở xứ Sinh, còn loài trâu-bò rặc-giống thì xứ U-sa-tha mới có được. Nhưng Đức Phật còn chưa nói, các bực Thánh đản-sanh ở nơi nào." Sau

đó, Tôn-giả mới đến bạch Phật để xin giải mối nghi-nan trong l

òng.

Đức Phật bảo

: "Nầy A-nan, chẳng biết chắc

được nơi đản-sanh của bực Thánh, v

ì các Ngài chỉ sanh vào hai giai-cấp Sát-

đế-lợi

Bà-la-môn."

Rồi

Đức Phật mới nói l

ên bài Kệ sau

đây

:

Khó tìm gặp

được bực Thánh-trí cao.

Người chẳng sanh ra bất cứ nơi nào.

Ở chốn nào

đản-sanh người hiền-trí

Gia-tộc nơi nầy hạnh-phước dồi-dào.

(Kệ số 193.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

-

Đản-sanh:

sanh-

đẻ, tiếng tôn-trọng d

ành cho bực cao-quí.

-Bực Thánh: theo giáo-lý nhà Phật, bực Thánh là những người tu-hành

đ

ã chứng

được

vô-sanh, nghĩa là chẳng còn phải tái-sanh trong vòng lẩn-quẩn của Luân-hồi. Trong bốn quả-vị: Tu-

đ

à-huờn (chỉ tái-sanh bảy lần nữa), Tư-

đ

à-hàm (chỉ còn tái-sanh một lần nữa), A-na-hàm (chẳng sanh lại cõi người nữa, sanh lên Trời), là ba quả-vị còn sanh lại nên

được gọi l

à bực Hiền. Đến quả-vị A-la-hán, diệt

được hết các phiền-n

ão, chứng Niết-bàn, mới gọi là bực Thánh. Như thế, chẳng phải khi sanh ra

đ

ã là bực Thánh, mà nhờ tu-hành tinh-tấn mới trở thành bực Thánh. Vì lẽ nầy,

Đức Phật mới nói

chẳng biết chắc

được nơi đản-sanh của bực Thánh.

- Tôn-giả A-nan: Tôn-giả = bực

đáng tôn-trọng;

A-nan = tên Tôn-giả tiếng Pali:Ànanda. Tôn-giả là em họ của

Đức Phật, đa-văn(

=nghe nhiều, nhớ lắm), làm thị-giả ( = hầu bên cạnh) cho

Đức Phật Thích-ca.

- Rặc-giống = giống thật tốt, chẳng lai giống khác.

- Chất-

đăng-ta:

tên xứ nầy, tiếng Pali là Chaddanta.

- Sinh: tên xứ nầy, tiếng Pali là Sindh.

- U-sa-tha: tên xứ nầy, tiếng Pali là Usabha.

- Nghi-nan = nghi-ngờ vì chưa hiểu rõ cho thấu-

đáo.

- Sát-

đế-lợi, B

à-la-môn:

hai giai-cấp trong xã-hội xưa ở Ấn-

độ. Theo thứ-tự từ cao đến thấp

: (1) Bà-la-môn (Pali: Brahmanà, tu-sĩ); (2)Sát-

đế-lợi

(Pali: Khattiyà, vua quan); (3) Phệ-xá (Pali: Vessà, buôn-bán); (4) Thủ-

đ

à-là (Pali: suddà, nông-phu, thợ-thuyền). Còn hạng Chiên-

đ

à-la (Pali: Candala) là cấp hạ-tiện, nô-lệ, làm các nghề dơ-dáy như hốt phân chẳng hạn, chẳng ai muốn

đến gần.

- Thánh-trí: bực Thánh có trí-huệ thật sáng-suốt.

- Hiền-trí: hiền-lành và có trí-huệ.

- Gia-tộc: Gia = nhà; Tộc = họ. Gia-tộc là những nhà cùng một họ, sống gần nhau trong một vùng.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện rất

đơn-sơ, kể lại sự thắc-mắc của Tôn-giả A-nan về nơi đản-sanh các bực Thánh. Đức Phật dạy, chẳng thể biết chắc được nơi n

ào có bực Thánh

đản-sanh, v

ì chẳng ai sanh ra là Thánh cả; muốn thành bực Thánh, phải tu-tập tinh-chuyên mới

được.

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 193:

Hai câu

đầu của b

ài Kệ dạy, bực Thánh chẳng dễ gặp, chẳng có nơi nào sanh ra bực Thánh cả.

Hai câu sau của bài Kệ cho biết, nơi nào có bực Thánh, tu-hành

đắc quả, l

à nơi

đó được nhiều hạnh-phước. Tại sao

? Vì nhờ

đức-độ cao-cả của bực

Thánh, phong-tục của dân trong vùng

được cải-thiện.

HỌC TẬP:

- Học thuộc lòng bài Kệ, ghi nhớ, chẳng ai sanh ra

đ

ã là Thánh, muốn thành bực Thánh, phải tu-học tinh-cần.

(155).- Tích chuyện các tỳ-kheo bàn về hạnh-phước.

Vào một thời kia,

Đức Phật ngụ tại ch

ùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có

đề-cập đến các tỳ-kheo b

àn-luận về hạnh-phước.

Thuở ấy, vào một buổi chiều, các vị tỳ-kheo ngồi tại nhà mát, cùng nhau bàn-luận về vấn-

đề hạnh-phước. Một vị nói

: "Hạnh-phước là có

được thật nhiều tiền-của, quyền-thế như đức Vua.

" Một vị khác bảo: "Đủ cơm ăn ngon, thức uống ngọt là đã có nhiều hạnh-phước rồi." Một vị khác lại

đưa ra ý-kiến

: "Thoả-mãn

được các giác-quan, sống đầy-đủ với các thú-vui, đó l

à hạnh-phước." Trong khi họ

đang b

àn-luận, thì

Đức Phật đi đến. Ng

ài bảo: "Thú-vui vật-chất, tiền-của, quyền-thế,

ăn ngon mặc đẹp đó chưa hẳn l

à hạnh-phước, vì các

điều đó giữ ta m

ãi trong vòng tái-sanh của Luân-hồi khổ-

đau lận-đận. Tr

ên thế-gian nầy, hạnh-phước là gặp

được Đức Phật ra đời, có được cơ-duy

ên nghe lời Ngài giảng-dạy về Sự-Thật cao-quí, và sống trong sự hoà-hợp của T

ăng-đo

àn."

Rồi

Đức Phật mới nói l

ên bài Kệ sau

đây

:

Vui thay

Đức Phật ra đời

!

Vui thay Chánh-pháp với lời cao-xa!

Vui thay hoà-hợpT

ă

ng-già!

Vui thay hoà-hợp mọi nhà

đồng tu

!

(Kệ số 194.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Giác-quan: các bộ-phận trên thân như mắt, tai, mũi, lưỡi và da

- Vòng tái-sanh của Luân-hồi khổ

đau lận-đận

=

thân-phận của chúng-sanh phải chết

đi sanh lại m

ãi ở cuộc

đời sướng ít khổ nhiều nầy l

à cõi Luân-hồi.(Lận-

đận

= gặp việc chẳng vui, chẳng may.)

- Cơ-duyên: Cơ =cơ-hội; Duyên = duyên-cớ. Cơ-duyên là cơ-hội tốt

- Sự-Thật cao-quí:

đó l

à bốn Sư-thật nhiệm-mầu, thường gọi là Tứ Diệu-

đế

: Khổ-

đế, Tập-đế, Diệt-đế v

à

Đạo-đế.

- Chánh-pháp: Chánh = chơn-chánh,

đứng-đắn.

Chánh-pháp là giáo-lý của

Đức Phật giảng dạy các phép tu-h

ành

để được giác-ngộ v

à giải-thoát.

- Hoà-hợp = cùng chung một chí-hướng, chẳng có sự tranh-cãi.

- T

ăng-gi

à, T

ăng-đo

àn: T

ăng-gi

à =

tiếng Pali là Sangha, có nghĩa một

đo

àn-thể tỳ-kheo, từ bốn người trở lên, tu theo cùng một giới-luật và giáo-pháp.

Đồng-

nghĩa với:T

ăng-đo

àn, Ni-

đo

àn ( = các ni-cô.)

-

Đồng tu

=

hoà-hợp nhau, cùng tu chung với nhau.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện rất giản-dị, thuật lại việc bàn-luận của các tỳ-kheo trong giờ nghỉ, về vấn-

đề hạnh-phước ở đời. Ý-kiến các tỳ-kheo đưa ra đều dựa tr

ên sự thoả-mãn

đầy-đủ các các giác-quan, về tiền-của, danh-lợi v

à quyền-thế,

đó chỉ l

à các

điều sung-sướng ở thế-gian.

Đức Phật dạy, hạnh-phước thật-sự là gặp được Phật ra đời, được nghe Chánh-pháp và mọi nhà được đồng-tu trong sự hoà-hợp của Tăng-già. Tại sao? Vì

đó l

à

đường-lối tu-tập để được giải-thoát mọi khổ-đau trong cảnh Luân-hồi lẩn-quẩn.

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 194:

Có bốn sự "Vui thay!" được nêu trong bài Kệ:

1) Vui thay

Đức Phật ra đời

:

Vui, vì Ngài dẫn-dắt chúng-sanh trên con

đường giác-ngộ v

à giải-thoát mọi khổ-

đau của Luân-hồi.

2) Vui thay Chánh-pháp với lời cao-xa: Vui, vì Chánh-pháp với lời-lẽ cao-xa về Sự-Thật, là chìa khoá mở cửa cho hạnh-phước

được giác-ngộ v

à giải-thoát.

3) Vui thay hoà-hợp T

ăng-gi

à:

Vui, vì

được nương-tựa v

ào các tỳ-kheo

đồng một chí-hướng, ho

à-hợp nhau, cùng nỗ-lực giúp

đỡ mọi người tu-tập theo Chánh-pháp.

4) Vui thay hoà-hợp mọi nhà

đồng tu

:

Vui, vì mọi nhà

đều biết tu-h

ành theo Chánh-pháp, chẳng có sự

đấu-tranh với nhau, sống trong sự ho

à-bình, an-lạc.

HỌC TẬP:

- Học thuộc bài Kệ, ghi nhớ:

điều

quí-báu nhứt là nghe Chánh-pháp.

(156).- Tích chuyện về tượng Phật Ca-diếp.

Vào một thời kia,

Đức Phật v

à các tỳ-kheo du-hành từ nước Xá-vệ

đến th

ành Ba-la-nại, trong một kỳ giảng-pháp, có

đề-cập đến bức tượng bằng v

àng, tạc hình

Đức Phật Ca-diếp.

Thuở ấy,

Đức Phật v

à các tỳ-kheo, trên

đường tới th

ành Ba-la-nại,

đi ngang qua một cánh đồng lúa. B

ên lề

đường, có một ngọn tháp nhỏ thờ thần-linh. Bấy giờ có một người B

à-la-môn

đang cầy ruộng. Người ấy bước l

ên bờ, cung-kính

đến đảnh-lễ ngôi tháp m

à chẳng chào hỏi

Đức Phật. Đức Phật nói:

"Nầy Bà-la-môn,

đảnh-lễ tháp-miếu như thế đem lại nhiều phước-báo.

" Nghe

Đức Phật nói thế, người B

à-la-môn rất hài lòng. Bấy gìờ

Đức Phật mới d

ùng sức thần-thông, tạo ra một tượng Phật bằng vàng, tạc hình

Đức Phật Ca-diếp đang ngồi lơ-lửng tr

ên không-trung. Tất cả ngẩng lên trông thấy, và khen-ngợi vẻ

đẹp trang nghi

êm của tượng Phật.

Đức Phật bảo

: "Nầy chư tỳ-kheo, có bốn hạng nhơn-vật cần phải

đảnh-lễ

: (1) chư Phật Như-lai, (2) các vị Bích-chi-Phật, (3)chư vị Thánh Thanh-v

ăn đệ-tử, v

à (4) Chuyển-Luân thánh-vương. Có ba thứ tháp-miếu cần

đảnh-lễ: (1)tháp thờ nhục-thân các vị kể trước; (2) tháp thờ h

ình-tượng tạc giống hình các vị ấy; (3)tháp thờ các vật-dụng cá-nhơn của các vị ấy, như áo cà-sa, bình bát, thiền-truợng, v.v. Thành-tâm

đảnh-lễ các ngôi-tháp thờ các vị đ

ã hoàn-toàn giác-ngộ và giải-thoát như thế,

đem lại vô-lượng công-đức, v

à phước-báu, chẳng thể nghĩ bàn

được.

"

Rồi

Đức Phật mới nói l

ên hai bài Kệ sau

đây

:

Người kính-mộ bực

đáng tôn-trọng,

Chư Phật cùng Thanh-v

ăn đệ-tử,

Những bực chướng-ngại

đ

ã dẹp xong,

Phiền-não, sầu-bi cũng chẳng giữ.

(Kệ số 195.)

Công-

đức cúng-dường các bực trước,

Bực an-tịnh, tự-tại,

Bực chẳng hề sợ-hãi,

Công-

đức nầy chẳng ước-lượng được.

(Kệ số 196.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Xá-vệ: quê-hương của

Đức Phật Thích-ca, nay thuộc phần đất của vương-quốc Népal; tiếng

Pali là Sàvatthi.

- Ba-la-nại: tên thành-phố Bénarès của Ấn-

độ, ng

ày nay là Vàrànasì. Tại vườn Lộc-uyển, gần thành nầy,

Đức Phật giảng Kinh Chuyển-Pháp-Luân lần đầu cho năm anh em ông Kiều-trần-như nghe.

- Phật Ca-diếp: Đức Phật thuộc về Hiền-kiếp, giáng trần trước Đức Phật Thích-ca; tiếng Pali là Kassapa Buddha.

- Tháp: ngôi

đền, nóc nhọn, b

ên trong thờ hình-tượng hay hài-cốt của một bực tôn-quí.

- Miếu: miễu thờ; ngôi

đền nhỏ để thờ thần-linh.

- Bích-chi-Phật: phiên -âm tiếng Pali là Paccekabuddha, vị tu-hành theo thuyết Thập-Nhị Nhơn-Duyên, chứng

đạo v

ào thời chẳng có

đức Phật n

ào ra

đời. Vị Bích-chi-Phật chẳng đi giáo-hóa chúng-sanh.

- Chư Thánh Thanh-v

ăn: Thanh-văn

là hàng

đệ-tử sống gần b

ên Phật,nhờ nghe Kinh( =Thanh-v

ăn,

Sàvaka,Pali) mà tu-chứng quả Thánh.

- Chướng-ngại: các trở-ngại trên

đường tu. Thường được phân-biệt có

tam chướng (ba chướng-ngại): (1) phiền-não-chướng gồm có tham, sân, si v.v. (2) sở-tri-chướng gồm các sự hiểu-biết sai lầm như tà-kiến,

định-kiến, v.v. v

à (3) báo-chướng, tức là tấm thân còn chịu nghiệp-báo nầy.

- Tự-tại = chẳng bị ràng-buộc. Ở

đời, nói

tự-do; đạo gọi là tự-tại.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện rất giản-dị thuật lại việc

Đức Phật nhơn thấy một người đảnh-lễ ngôi tháp, mới chỉ-dạy các tỳ-kheo n

ên lễ-lạy những bực hoàn-toàn giác-ngộ và giải-thoát và các ngôi tháp thờ các vị ấy.

(2) Ý-nghĩa của hai bài Kệ số 195 và 196:

Hai bài Kệ nói

đến phước-báu của người biết kính-lễ các bực đại-giác v

à tháp thờ các Ngài. Xin xem lại Tích chuyện

để biết các vị ấy.

HỌC TẬP:

- Học kỹ hai bài Kệ, ghi nhớ:

đừng m

ê-tín mà lễ-lạy các cục

đá

"ông Tà", bình vôi, các miếu thờ các tà-thần.

-ooOoo-

XV.- Phẩm AN-LẠC

(157).- Tích chuyện cuộc giải-hoà giòng-họ Thích-ca.

Vào một thời kia,

Đức Phật ngụ tại ch

ùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có

đề-cập đến sự tranh-chấp giữa d

òng-họ Thích-ca và bộ-tộc Cô-ly-gia, cùng sống ở hai bên bờ sông Lỗ-hi-ni.

Thuở ấy, thành Ca-tỳ-la-vệ của dòng họ Thích-ca nằm bên bờ sông Lỗ-hi-ni, còn bên kia bờ có thành Cô-ly-gia của bộ-tộc nầy. Cả hai bộ-tộc

đều nhờ v

ào nước sông mà trồng-trọt sanh-sống. Vào một n

ăm kia, trời hạn-hán, nước sông cạn dần, chẳng đủ cho dân hai b

ên bờ dùng. Dân bộ-lạc Cô-ly-gia dùng cuốc xẻng,

đ

ào sông, dẫn dòng nước chảy sang

địa-phận m

ình, khiến

đồng ruộng b

ên phiá bộ-lạc Thích-ca trở nên khô-khan, lúa mạ uá héo hết. Sự tranh-chấp giưã nông-phu hai bên bờ sông càng ngày càng gây cấn, khiến cho dân-chúng và vua quan ở hai thành chuẩn-bị chiến-tranh

để đánh nhau, gi

ành

độc-quyền xử-dụng nguồn nước sông.

Sáng sớm hôm

đó, Đức Phật trong cơn thiền-định, quán-thấy các người trong bộ-tộc Thích-ca đang sửa-soạn khí-giới để đánh nhau với bộ-tộc Cô-ly-gia, Ng

ài mới dùng sức thần-thông bay

đến giữa d

òng sông, rồi ngồi lơ-lửng trên không. Bấy giờ, ở bờ sông bên nầy, các thân-nhơn của

Đức Phật nh

ìn thấy Ngài

đang ngồi nhập-định tr

ên cao, liền buông hết khí-giới, chấp tay

đảnh-lễ. Ở bờ b

ên kia, dân-chúng bộ-tộc Cô-ly-gia cũng vứt bỏ dao, gậy xuống và qùi lạy

Đức Phật. Ng

ài bảo: "Nầy dân chúng bộ-tộc Thích-ca và Cô-ly-gia, các người

đánh nhau đổ máu, để gi

ành vài giọt nước sông, mà quên mất tánh-mạng mình còn quí-báu hơn nhiều. Nếu các người chẳng chịu hoà-giải với nhau, máu

đôi b

ên sẽ chảy còn nhiều hơn nước sông kia!"

Rồi

Đức Phật mới nới l

ên ba bài Kệ sau

đây

:

Hạnh-phước thay, ta sống không thù-hận

Giữa những người còn

đang m

ãi hận-thù!

Hạnh-phước thay, ta chẳng hề oán-giận

Giữa những người hiềm-hận chẳng hề nguôi!

(Kệ số 197.)

Hạnh-phước thay, ta

đang sống mạnh-khoẻ

Giữa những người còn ươn-yếu, ốm

đau

!

Hạnh-phước thay, sức khoẻ ta dồi-dào

Giữa nhưng người bịnh-tật làm kiệt-quệ!

(Kệ số 198.)

Hạnh-phước thay, ta sống chẳng khao-khát,

Giữa những người tham-dục còn rộn-ràng!

Hạnh-phước thay, ta chẳng màng tham-dục,

Giữa những người lòng dục

đang gia-tăng

!

(Kệ số 199.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Thích-ca: tên bộ-tộc nầy, tiếng Pali là Sakya.

- Cô-ly-gia: tên bộ-tộc nầy, tiếng Pali là Koliya.

- Ca-tỳ-la-vệ: tên thành nơi Thái-tử Tất-

đạt-ta ở khi chưa đi tu th

ành Phật, tiếng Pali là Kapilavatthu.

- Lỗ-hi-ni: tên con sông nầy, tiếng Pali là Rohini

- Bộ-tộc: Bộ =bộ-lạc, nhớm gia-

đ

ình cùng một họ sống chung nhau vào

đời thật xa-xưa;

Tộc = họ. Bộ-tộc = bộ-lạc.

- Hạn-hán: nắng nhiều, chẳng có mưa nên khô-khan, thiếu nước.

- Độc-quyền: Độc = riêng một mình. Độc-quyền là quyền chỉ riêng mình có, người khác chẳng chia-xẻ

được, chẳng cho ai chia-xẻ.

- Thiền-

định

= ngồi thiền, nhập-

định; giữ tâm y

ên-vắng.

- Thần-thông = pháp-lực cao-cường, khác thường, như bay trên không,

đi tr

ên nước. Có

được thần-thông nhờ ở định-lực cao.

- Đảnh-lễ: qùi lạy, làm lễ chào ra mắt.

- Hoà-giải = vui-vẻ cùng nhau, bỏ qua

điều tranh-chấp, qu

ên

đi sự th

ù-hận, làm lành với nhau.

- Hiềm-hận: Hiềm = nghi, chẳng vừa ý; Hận = giận ngầm và dai.

- Kiệt-quệ = tàn-tạ, khô-héo

- Tham-dục = tham-lam và ham-muốn

- An-lạc:An = yên-ổn; Lạc = vui-vẻ. An-lạc = hạnh-phước.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện thuật lại cuộc hoà-giải của

Đức Phật khiến cho hai bộ-tộc Thích-ca v

à Cô-ly-gia tránh

được sự đổ máu v

ì tranh-chiến.

Ý-nghĩa của Tích chuyện: hận-thù gây ra chiến-tranh khiến cả hai bên

đều khổ-sở. Sớm biết ho

à-giải cùng nhau sẽ mang lại hạnh-phước chung cho nhau.

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 197:

Bài Kệ số 197 nói lên hạnh-phước của người sống chẳng hận-thù. Tại sao lại có

được hạnh-phước

? Vì trong lòng thanh-thản, nhẹ-nhàng, chẳng mang niềm oán-ghét ai và cũng chẳng sợ ai oán-ghét mình. Người mang lòng thù-hận ai, trong lòng lúc nào cũng tìm cách hại kẻ thù, cho nên chẳng an-tâm, vì thế mà thiếu niềm an-lạc.

(3) Ý-nghĩa bài Kệ số 198:

Bài Kệ số 198 nói lên sự sung-sướng của người

đầy-đủ sức khoẻ. Hạnh-phước của người khoẻ-mạnh nổi bật l

ên giữa những bị bịnh-tật,

đau-yếu. Cho dầu có nhiều tiền-của, quyền-thế, m

à thiếu sức-khoẻ, thì cũng chẳng hưởng

được

; nay

đau mai ốm, tinh-thần v

ì thế mà suy-nhược, chán

đời.

(4) Ý-nghĩa của bài Kệ số 199:

Bài Kệ số 199 nói lên hạnh-phước của người biết dứt-bỏ mọi ham muốn.

Đây l

à hạnh-phước mà người thường ít thấy, ít hiểu

để m

à biết hưởng. Giản-dị mà nói, thí-dụ như muốn

đi nghe một buổi tr

ình-diễn ca-nhạc của ban nhạc danh-tiếng, phải xếp hàng cả buổi chờ mua

được vé; người chẳng c

òn ham-thích theo thú-vui của ... lỗ tai, biết

điều-phục

nhĩ- c

ăn,

đâu phải bắt thân chịu khổ đứng chờ lâu.

Người nào

đ

ã hoàn-toàn ly-dục, dứt bỏ mọi tham-muốn, là bực

đang chứng-đắc được đạo-quả A-la-hán.

HỌC TẬP:

- Học thuộc ba bài Kệ, ghi nhớ: hạnh-phước bắt nguồn từ trong tâm ta; hễ tâm biết lià bỏ khát-vọng là thân-tâm

đang được

an-lạc.

(158).- Tích chuyện Ma-vương khuấy Phật.

Vào một thời kia,

Đức Phật ngụ gần l

àng Ngũ-sảnh, trong một kỳ giảng-pháp có

đề-cập đến việc Ma-vương đến khuấy phá Đức Phật.

Thuở ấy, vào một buổi sáng sớm,

Đức Phật quán-thấy đ

ã

đủ cơ-duy

ên giúp cho một số

đông phụ-nữ ở l

àng Ngã-sảnh chứng

được đạo-quả Tu-đ

à-huờn, Ngài liền lên

đường đi khất-thực nơi l

àng ấy.

Đến đầu l

àng, Ngài gặp một

đám đông phụ-nữ c

ùng nhau ra bờ sông tắm gội, xong họ vội-vã trang-sức diễm-lệ

để đi dự hội, m

à chẳng lo việc cúng-dường bố-thí cho chư T

ăng, v

ì tâm của họ

đang bị Ma-vương ám-ảnh, cám-dỗ mau mau đi đến chỗ vui-đ

ùa.

Trên

đường trở về tịnh-xá, Đức Phật gặp Ma-vương, y mỉa-mai hỏi Phật, khất-thực có đầy-đủ thức ăn chăng

?

Đức Phật quán-thấy, biết Ma-vương khuấy rối Ng

ài,

đáp

: "Nầy Ma-vương, chính bàn tay tội-lỗi của ông

đ

ã lôi kéo các vị phụ-nữ trong làng xao-lãng công-

đức cúng-dường chư Tăng đó.

" Ma-vương chẳng cải-chánh, lại muốn tìm cách khuấy thêm, liền bảo Phật: "Sao Ngài chẳng trở lại làng, xem lần nầy có

được ai cúng-dường chăng

?"

Vừa lúc ấy, các bà

đi dự hội ra về, trông thấy Đức Phật, họ liền q

ùi xuống

đảnh-lễ. Ma-vương cười bảo

: "Hôm nay,

Đức Phật chẳng được g

ì

để ăn, n

ên

đang đói bụng lắm đấy

!"

Đức Phật

: "Nầy Ma-vương, mặc dầu chư T

ăng chẳng được cúng-dường sáng nay, nhưng chúng ta sống chẳng phải chỉ nhờ v

ào thực-phẩm mà thôi. Cũng như chư Thiên trên cõi Trời Quang-âm, chúng ta sống nhờ vào phỉ lạc trong Chánh-pháp."

Rồi

Đức Phật nói l

ên bài Kệ sau

đây, nhờ đó m

à một số

đông các vị phụ-nữ của l

àng Ngũ-sảnh chứng

được quả-vị Tu-đ

à-huờn:

Hạnh-phước thay, ta sống không chướng-ngại;

Những gì của ta, chẳng hề giữ lại.

Bằng niềm phỉ-lạc, ta dưỡng-nuôi ta,

Như chư Thiên Quang-Âm thường tự-tại.

(Kệ số 200.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Ma-vương = Vua Ma, còn gọi là Ma Ba-tuần, tượng-trưng cho sự cám-dỗ, sự xúi-dục làm

điều quấy.

- Ngũ-sảnh: dịch tiếnf Pali: Pancasàlà, Panca =Ngũ, n

ăm;

Sàla = đại-sảnh, phòng lớn. Tên làng là "Làng có n

ăm đại-sảnh

".

- Tu-

đ

à-huờn: quả-vị thứ nhứt, còn gọi là Nhập-Lưu, tiếng Pali là Sotàpatti.- - Diễm-lệ = đẹp-đẽ.

- Cúng-dường:

đọc trại chữ Hán-Việt

cung-dưỡng, cung-cấp

để nuôi-dưỡng. Tiếng nh

à chùa nghĩa là dưng cúng thực-phẩm, tiền-bạc.

- Chư Thiên cõi Trời Quang-Âm = Trời Quang-âm là cõi cao nhứt trong

đệ-nhị Thiền của Sắc-giới. Chư Thi

ên cõi nầy chẳng dùng lời nói mà dùng ánh-sáng ( =quang)

để thay-thế tiếng (

=âm) khi giao-thiệp.

- Phỉ = niềm vui sướng trong-sáng; tiếng Pali là piti.

- Lạc = sự sung-sướng; tiếng Pali là sukha.

- Chướng-ngại: sự ng

ăn-trở. Ở đây, chữ

chướng-ngại dịch chữ Kincanam, trỏ vào các phiền-não tham, sân, si làm chướng-ngại trên

đường tu-tập của h

ành-giả.

- Tự-tại = tự-do. Ngoài

đời, nói

tự-do; trong

đạo, nói

tự-tại.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện kể lại Ma-vương khuấy phá việc khất-thực, bằng cách cám-dỗ các phụ-nữ ham vui, lãng quên công-

đức cúng-dường. Tuy bị đói bụng, nhưng Đức Phật nói Ng

ài và chư T

ăng sống nhờ phỉ-lạc, chớ chẳng phải chỉ nhờ v

ào thực-phậm không thôi. Ma-vương khuấy chẳng thành-công, vì sau khi dự hội trở về, dọc

đường gặp Phật, các người đ

àn-bà liền

đảnh-lễ, nghe Phật giảng-pháp v

à chứng

được đạo-quả Tu-đ

à-huờn.

(2) Ý-nghĩa của Bài Kệ số 200:

Bài Kệ nêu lên sự cao-quí của hạnh dứt-bỏ: bỏ tất cả chướng-ngại trong tâm là tham, sân, si; bên ngoài, bỏ tất cảngã-sở ( =những gì của ta đang có), để sống trong niềm vui phỉ-lạc của Chánh-pháp.

HỌC TẬP:

- Học bài Kệ: ghi nhớ: An bần lạc

đạo

=

thà nghèo mà an vui với

Đạo.

(159).- Tích chuyện vua xứ Câu-tát-la thất trận.

Vào một thời kia,

Đức Phật ngụ tại ch

ùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp có

đề-cập đến việc thất-trận của vua xứ Câu-tát-la.

Thuở ấy, vua xứ Câu-tát-la có người em gái gả cho vua Tần-bà-sa-la nước Ma-kiệt-

đ

à, phong làm Hoàng-hậu Vi-

đề-hy. B

à Vi-

đề-hy sanh ra người con l

à A-xà-thế, khi lớn lên lại chống-

đối với cậu m

ình là vua xứ Câu-tát-la.

Đ

ã ba lần chiến-

đấu với A-x

à-thế, vua xứ Câu-tát-la

đều thất-trận. Nh

à Vua rất thất-vọng,

đau buồn, than-thở rằng

: "Thật là nhục-nhã biết bao cho ta,

đánh chẳng lại một đứa con-nít, miệng c

òn hôi-sữa! Nhục quá! Ta còn sống làm gì nữa!" Quá chán-chường, Nhà Vua bỏ cả

ăn-uống, cứ nằm d

ài mãi trên giường.

Tin vua xứ Câu-tát-la bị buồn-nản vì thất-trận

đến tai Đức Phật. Ng

ài nói với các tỳ-kheo: "Nầy chư T

ăng, kẻ chiến-thắng gây th

êm thù-hận; còn người thất-trận phải chịu khổ-

đau, áo-n

ão!"

Rồi

Đức Phật mới nói l

ên bài Kệ sau

đây

:

Chiến-thắng gây thù-hận,

Thất-bại chịu khổ-

đau.

Vui thay, sống an-hoà,

Thắng bại bỏ lại sau.

(Kệ số 201.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Xứ Câu-tát-la: tên xứ nầy, giáp với nước Xá-vệ và Ma-kiệt-

đ

à, tiếng Pali là Kosala.

- Thất-trận: đánh giặc bị thua.

- Vua Tần-bà-sa-la nước Ma-kiệt-

đ

à: tên vua nước nầy, tiếng Pali là Bimbisara, nước Magadha, giáp với nước Câu-tát-la.

- Vi-

đề-hy:

tên của Hoàng-hậu, tiếng Pali là Vedehì.

- A-xà-thế: phiên-âm tên vị nầy, tiếng Pali là Ajàtasattu.

- Chiến-

đấu

=

chống-cự lại, tranh-

đấu.

- Áo-não = phiền-não, khổ-sở,

đau-đớn về tinh-thần.

- An-hoà: An = yên; Hoà = hợp, chẳng chống-

đối. Sốn

g an-hoà là sống hiền-lành, chẳng gây-gổ với ai, chẳng chống-

đối ai.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện rất giản-dị, kể lại sự chán-chường vì thất-trận của vua xứ Câu-tát-la.

Đức Phật bảo

: "Thắng ai là gây thêm thù-hận; thua ai thì thêm

đau-khổ; kẻ sống an-ho

à, chẳng gây-gổ với ai, mới là sung-sướng."

Thông-thường, khi thất-bại, người

đời thường khuy

ên nhau, hãy giữ vững tinh-thần, chuẩn-bị

để tranh-đấu cho đến th

ành-công.

Đây l

à lời khuyên

đứng-đắn, nhưng chẳng đúng với tinh-thần

bất-tác-hại của

đạo Phật. Tại sao

? Vì trả thù, sẽ gây thên thù-oán. Thành-công, sau khi thất-trận, là tìm thấy những khuyết-

điểm của m

ình mà sửa

đổi lại, chớ chẳng phải t

ìm nhược-

điểm của đối-phương để tấn-công v

ào. Càng chống-

đối nhau, c

àng gây thêm

đau-khổ cho đôi b

ên.

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 201:

Bài Kệ số 201 nêu ra ba thái-

độ

: thắng, thua hiếu-hoà ( = mến sự an-hoà).

Chiến-thắng gây thù-hận: tại sao? Vì người thua sẽ tìm cách trả thù, như thế, chiến-thắng còn chưa trọn-vẹn.

Thất-bại chịu khổ-

đau

:

tại sao? Dĩ nhiên, vì thua kém, vì bị chèn-ép. Cả hai thái-

độ

: thắng và thua, đều do sự chống-đối nhau mà sanh ra sự bất-lợi, bất lợi ngay cho người thắng, chớ chẳng riêng cho người thua.

Thái-

độ thứ ba: sống an-ho

à,

chẳng những thoát ra khỏi các bất-lợi của hai thái-

độ trước, nó c

òn chứng-tỏ sự thông-minh của người hiếu-hoà, biết tránh trước những hậu-quả khó-kh

ăn của sự tranh-đấu, nó c

òn

đem lại ho

à-bình, an-vui trong gia-

đ

ình, ngoài xã-hội.

HỌC TẬP:

- Học thuộc bài Kệ, ghi nhớ: sống an-hoà chẳng phải là chẳng tranh-

đấu;

người hiếu-hoà vẫn tranh-

đấu

chống lại hận-thù nơi tâm mình.

(160).- Tích chuyện

đôi vợ chồng sắp cưới.

Vào một thời kia,

Đức Phật ngụ tại ch

ùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có

đề-cập đến việc đôi thanh-ni

ên nam-nữ sắp làm lễ thành-hôn, chứng

được quả-vị Tu-đ

à-huờn.

Thuở ấy, có một gia-

đ

ình kia sắp gả con gái, mới làm lễ cúng-dường thực-phẩm lên

Đức Phật v

à tám mươi vị tỳ-kheo. Chàng rể tương-lai cũng

được mời đến phụ-giúp việc chuẩn-bị. Trong khi bưng dọn thức ăn, chú rể có dịp đến gần b

ên cô dâu, nên trong lòng tỏ ra rộn-rã, thiếu sự chú-tâm

để phục-vụ chu-đáo đến chư Tăng. Đức Phật nom thấy, biết ch

àng ta

đang say-đắm nghĩ đến người y

êu, chẳng

để hết l

òng thành vào việc dưng-cúng, nên Ngài mới nói cùng chàng: "Nầy thiện-nam, chẳng có ngọn lửa nào nóng bằng lửa tham-dục ở nội-tâm, chẳng có cơn gió nào thổi mạnh bằng gió sân-hận nổi lên trong lòng, chẳng có gánh nặng nào

đ

è lên vai bằng thân-tâm n

ăm uẩn nầy, v

à cũng chẳng có hạnh-phước nào to lớn và bền-vững bằng cảnh an-lạc hoàn-toàn của Niết-bàn tịch-diệt." Chàng rể lắng nghe, tỉnh-ngộ, dẹp qua một bên mối dục-tình vừa nhen-nhúm trong lòng và chú-tâm

đến việc cúng-dường.

Sau buổi lễ trai-t

ăng, Đức Phật giảng-pháp, cả hai cô dâu v

à chú rể

đều theo d

õi lời Phật dạy. Rồi

Đức Phật mới nói l

ên bài bài kệ sau

đây, nhờ đó, đôi vợ chồng sắp cưới chứng đuợc quả-vị Tu-đ

à-huờn:

Lửa nào sánh lửa tham,

Ác nào bằng ác sân,

Khổ nào so khổ n

ăm ấm,

An-lạc nào hơn tối-thượng Niết-bàn.

(Kệ số 202.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Quả-vị Tu-

đ

à-huờn: Xin nhắc lại:

đây l

à quả-vị thứ nhứt, còn gọi là Nhập-Lưu, hay Thất-Lai, tiếng Pali là Sotàpatti, được bước chơn vào dòng nước Thánh, đi đúng đường rồi, tu tiếp sẽ thành bực Thánh.

- Lễ thành-hôn = làm

đám cưới, cưới vợ, gả chồng.

- Tỳ-kheo: tu-sĩ Phật-giáo, phiên-âm tiếng Pali: Bhikkhu, hay bí-sô, dịch là khất-sĩ ( = tu-sĩ

đi xin ăn). Phái nữ l

à tỳ-kheo-ni = Bhikkhuni.

- Phục-vụ = phụ-giúp, hầu-hạ ở bên cạnh.

- Thiện-nam: Thiện = lành; Nam =

đ

àn-ông.Phật-học gọi các trai lành là thiện-nam, các gái hiền là tín-nữ, tất cả ngưòi tin vào

đạo Phật

- Tham-dục = ham-muốn; ở

đây chỉ v

ào mối dục-tình trong lòng chú rể khi thấy cô dâu.

- Nội-tâm: Nội = bên trong;Tâm = lòng. Nội-tâm: trong lòng mình.

- Sân-hận = giận-hờn, oán-giận.

- Thân-tâm n

ăm uẩn

= Thân

Tâm có n

ăm phần, gọi l

à n

ăm uẩn,

hay n

ăm ấm:

(1) sắc-uẩn, thân vật-chất; (2) thọ-uẩn, các tình-cảm; (3) tưởng-uẩn, các tư-tưởng; (4) hành-uẩn, các hành-

động; (5)

thức-uẩn, các hiểu-biết. Vì tập-hợp lại mà có, nên thân-tâm chẳng bền, có ngày sẽ tan-rả

đi, khiến cho đời sống phải chịu khổ nhiều, hưởng sướng ít.

- Niết-bàn: tiếng Phạn là Nirvana, ra khỏi rừng u-tối. Rừng nào?- Rừng phiền-não tham, sân, si. Niết-bàn là tâm-trạng người

đ

ã dứt bỏ hết phiền-não, hết bị tái-sanh trong Luân-hồi nữa, tự-tại trong an-lạc.

- Tối-thượng: Tối = hơn hết; Thượng = cao; Tối-thượng = cao nhứt.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện thuật lại một chàng trai

đi l

àm rể, quá mê cô dâu nên chẳng

để hết l

òng thành vào việc cúng-dường Phật và chư T

ăng. Được Phật nhắc-nhở, ch

àng tỉnh-ngộ, và sau

đó nghe lời Phật giảng dạy, chú rể, v

à cả cô dâu,

đều chứng được quả-vi Tu-đ

à-huờn.

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 202:

Ba câu

đầu n

êu sự Khổ, câu chót chỉ cảnh An-lạc vô-biên:

1.- Lửa nào sánh lửa tham: Ví lòng tham như ngọn lửa, nung-nấu, thúc-dục người tham phải dành lấy cho

được đ

ìều mình muốn.

2.- Ác nào bằng ác sân: Ví sự tức-giận với sự

độc-ác, v

ì muốn diệt-bỏ cho tiêu mất

điều m

ình ghét.

3.- Khổ nào so khổ n

ăm ấm

=

khổ nào bằng mang lấy thân nầy.

4.- An-lạc nào hơn tối-thượng Niết-bàn = chẳng có gì an-lạc hơn, sung-sướng hơn là cõi Niết-bàn tối-thượng.

(161).- Tích chuyện người ch

ăn mất con b

ò.

Vào một thời kia,

Đức Phật ngụ tại ch

ùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có

đề cập đến một người chăn b

ò nghèo khổ ở làng Anh-huy.

Thuở ấy, ở làng Anh-huy, có một người ch

ăn b

ò nghèo khổ. Một hôm,

Đức Phật du-h

ành

đến l

àng nầy, lại nhằm lúc anh ch

ăn b

ò

đang lạc mất một con b

ò. Suốt buổi sáng, anh chạy

đi l

ùng khắp nơi từ lùm cây bụi cỏ của khu rừng thưa mà chẳng tìm thấy. Mãi

đến gần trưa, anh mới thấy b

ò

đang gậm cỏ b

ên bờ suối. Mừng quá, anh

đuổi b

ò quay lại nhập

đ

àn, rồi ghé vào nơi

Đức Phật c

ùng chư T

ăng đang thọ-trai, tại nh

à một tín-chủ. Bấy giờ, sau buổi ngọ-trai, chư tỳ-kheo và dân-chúng

đang ngồi im, chờ được nghe Đức Phật giảng pháp. Nhưng Ng

ài lại bảo gia-chủ dọn cơm cho người ch

ăn b

ò

ăn. Sau khi người chăn b

ò

ăn xong, Đức Phật mới bắt đầu thuyết-pháp. Lần-lượt Ng

ài nói

đến bốn Chơn-lý Nhiệm-mầu dẫn đến con đường thánh của Bát-Chánh-Đạo. Người chăn b

ò lẳng-lặng, ch

ăm chú nghe xong, chứng được đạo-quả Tu-đ

à-huờn.

Trên

đường quay về tịnh-xá, có vị tỳ-kheo thắc-mắc, tại sao Đức Phật chẳng thuyết-giảng ngay sau buổi ngọ-trai, m

à lại bảo dọn cơm cho kẻ ch

ăn b

ò

ăn xong, rồi mới giảng. Ng

ài bảo: "Nầy chư tỳ-kheo, chẳng có bịnh nào bằng bịnh

đói, chẳng có khổ n

ào bằng khổ n

ăm uẩn. Nếu bụng đang đói c

ào mà nghe Chánh-pháp, thì làm sao mà thâu-thập

được hết lẽ nhiệm-mầu

?"

Rồi

đó, Đức Phật liền nói l

ên bài Kệ sau

đây

:

Đói là bịnh tối-trọng,

Thân n

ăm uẩn l

à khổ tối-

đa.

Điều nầy như-thật hiểu qua,

Là chứng an-lạc Niết-bàn tối-thượng,

(Kệ số 203.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Anh-huy: tên làng nầy, tiếng Pali là Àlavi

- Du-hành = đi dạo đến, đi thăm-viếng.

- Thọ-trai = đang ăn cơm chay vào buổi trưa. Ngọ = 12 giờ trưa

- Tín-chủ: Tín = tin-tưởng; nói về người tin vào

đạo Phật, thường dưng-cúng thực-phẩm, vật-dụng hay tiền-bạc cho ch

ùa.

- Gia-chủ = chủ nhà. (Gia = nhà)

- Bốn Chơn-lý Nhiệm-mầu = Tứ-Diệu-

Đế,

gồm có (1)Khổ-

đế,

về sự Khổ; (2)Tập-

đế,

nguyên-nhơn của Khổ; (3) Diệt-

đế,

dứt hết Khổ, tức là chứng cõi an-lạc Niết-bàn; (4) Đạo-đế, con

đường Bát-chánh-đạo dẫn đến sự diệt hết khổ-đau.

- Bát-Chánh-

Đạo

= con

đường thánh-đạo, đưa đến c

õi Niết-bàn an-lạc, gồm 8 ngành: (1)Chánh-kiến; (2) Chánh tư-duy; (3)Chánh-ngữ; (4) Chánh-mạng; (5) Chánh-nghiệp; (6) Chánh tinh-tấn; (7) Chánh-niệm; (8) Chánh-

định.

- Tối-trọng = quan-trọng nhứt.

- Tối-

đa

=

nhiều nhứt.

- Như-thật: đúng như Sự-Thật; hiểu thật đúng theo Chơn-lý.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện kể lại việc người ch

ăn b

ò bụng

đói đến nghe giảng kinh, được Đức Phật bảo dọn cơm ăn no xong mới nghe Pháp. Nhờ no dạ, tỉnh-táo, n

ên người ấy hiểu

được lời Phật giảng m

à chứng quả.

Ý- nghĩa của Tích chuyện là khi nghe giảng hay

đọc kinh, chẳng n

ên

để đói quá, v

ì như thế, sẽ thiếu mất sự chú-tâm.

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 203:

Những chữ khó

đ

ã

được t

ìm hiểu ở phần Nghĩa Chữ.

Riêng hai câu chót, mới

đọc qua thấy lủng-củng, xin viết lại cho suông:

Nếu

đ

ã hiểu

đúng như Sự-thật

: "Đói là bịnh nặng; mang thân năm uẩn nầy là khổ nhiều", thì mới có cơ chứng

được cảnh an-lạc của Niết-b

àn.

Ý-nghĩa bài Kệ nầy cũng giống ý-nghĩa bài Kệ trước, số 202.

(162).- Tích chuyện vua Ba-tư-nặc bớt

ăn.

Vào một thời kia,

Đức Phật ngụ tại ch

ùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một giảng-pháp, có

đề-cập đến vua Ba-tư-nặc, xứ C

âu-tát-la.

Một hôm, vua Ba-tư-nặc, sau khi

ăn sáng thật no-n

ê,

đến ch

ùa Kỳ-viên yết-kiến

Đức Phật. V

ì còn

đang nặng bụng, n

ên khi

Đức Phật giảng-pháp, nh

à vua cảm thấy buồn ngủ, gục lên gục xuống nhiều lần. Sau thời pháp,

Đức Phật hỏi nh

à Vua có phải vì quá no nên buồn ngủ ch

ăng. Vua Ba-tư-nặc đáp phải. Đức Phật khuy

ên nhà vua nên bớt

ăn từ từ, mỗi bữa bớt đi chừng nửa chén, lần lần giảm xuống đến một phần ba số lượng thực-phẩm d

ùng hàng ngày. Nhà Vua tuân theo lời Phật dạy. Ba tháng sau, thân-thể nhà Vua thon lại, trở nên gọn-gàng, bụng chẳng còn phệ xuống,

đi đứng khoan-thai, nhẹ-nh

àng, tinh-thần cảm thấy sảng-khoái vì sức khoẻ dồi-dào. Nhà Vua bạch Phật sự tiến-bộ về thể-xác

đó. Đức Phật bảo

: "Nầy

Đại-vương, sức-khoẻ l

à món quà tốt-

đẹp nhứt; sự biết-đủ l

à tài-sản quí-báu nhứt; một người bạn thân trung-thành là họ-hàng gần-gũi nhứt và Niết-bàn là hạnh-phước an-lạc nhứt."

Rồi

Đức Phật mới nói l

ên bài Kệ sau

đây

:

Sức-khoẻ là tặng-phẩm tối-hảo,

Biết

đủ l

à tài-sản tối-bảo,

Bạn thành-tín là họ-hàng tối-thân,

An-lạc là Niết-bàn tối-thượng.

(Kệ số 204.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Vua Ba-tư-nặc xứ Câu-tát-la: vị vua nầy rất tôn-sùng

đạo Phật, t

ên tiếng Pali là Pasenadi, nước Kosala.

- Sảng-khoái: Sảng = trong-sáng; Khoái = vui-vẻ, lanh-lợi.

- Sự biết-

đủ:

dịch từ chữ Hán-Việt là Tri-túc, biết vừa

đủ, chẳng quá độ, chẳng lạm d

ùng.

- Niết-bàn: xin nhắc lại: tiếng Phạn là Nirvana, ra khỏi rừng phiền-não u-tối.

Đây l

à tâm-trạng của người

đ

ã dứt sạch phiền-não, hết bị tái-sanh, tự-tại trong cảnh an-lạc tịch-diệt.

- Tối-hảo: Tối = vào bực nhứt; Hảo = tốt. Tốt vào bực nhứt.

- Tối-bảo: Bảo = quí. Quí vào bực nhứt.

- Tối-thân = thân-thiết vào bực nhứt.

- Tối-thượng = cao vào bực nhứt.

- Thành-tín: Thành = thành-thật; Tín = tin.Thành-tín = đáng tin-cậy.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện kể lại vua Ba-tư-nặc vì

ăn sáng quá nhiều, đến nghe Đức Phật giảng-pháp, chẳng thể chú-ý được v

ì buồn ngủ.

Được Đức Phật khuy

ên, nên bớt

ăn lại, để giữ-g

ìn sức khoẻ tốt, nhà Vua tuân theo lời, nhờ

đó m

à sức-khoẻ trở nên dồi-dào.

Ý-nghĩa của Tích chuyện khuyên ta chớ nên

ăn nhiều quá; đồng thời n

êu ra bốn thứ quí-báu: (1) sức khoẻ, (2) sự biết-

đủ; (3) có bạn thân trung-th

ành với mình và (4) cõi Niết-bàn an-lạc.

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 204:

Thử phân-tách từng câu:

1) Sức-khoẻ là tặng-phẩm tối-hảo: Tại sao gọi sức-khoẻ là một tặng-phẩm? Vì sức-khoẻ do sự

ăn-uống điều-độ mang đến cho ta. Tại sao lại

tối-hảo? sức khoẻ mang

đến hạnh-phước cho người.

2) Biết-

đủ l

à tài-sản tối-bảo: Người biết-

đủ

là người cần-kiệm, chẳng phung-phí, chẳng lạm-dụng, nên giỏi việc giữ-gìn tài-sản; dó

đó đức-tánh

biết-

đủ

được xem như một tài-sản tinh-thần.

3) Bạn thành-tín là họ-hàng tối-thân: Một người bạn trung-thành giúp-

đỡ, bảo-vệ m

ình còn hơn cả bà-con thân-tộc nữa.

4) An-lạc là Niết-bàn tối-thượng: giản-dị mà nói,

được

an-lạc ( =yên-vui),

đó l

à hạnh-phước ở trần-gian rồi; có lẽ cảnh Niết-bàn cũng an-vui như thế, có hơn ch

ăng l

à ở chỗ bền-lâu và vững-chắc của cõi Niết-bàn mà thôi.

Ý-nghĩa của bài Kệ

đề-cao sự chứng-đắc Niết-b

àn, hơn cả ba

điều trước

: (1) sức-khoẻ, (2) biết-

đủ v

à (3) bạn trung-thành.

(163).- Tích chuyện Trưởng-lão Thi-sa ngồi Thiền.

(Tích chuyện nầy giống với Tích chuyện Trưởng-lão Ất-tha-

đạt)

Vào một thời kia,

Đức Phật ngụ tại th

ành Tỳ-da-ly, trong một kỳ giảng-pháp, có

đề-cập đến Trưởng-l

ão Thi-sa.

Thuở ấy, khi nghe

Đức Phật tuy

ên-bố, trong bốn tháng nữa, Ngài sẽ nhập Niết-Bàn, các vị tỳ-kheo chưa chứng-

đắc đạo-quả rất lo-ngại. Họ chẳng biết phải l

àm gì, cả ngày chỉ quanh-quẩn bên cạnh

Đức Phật. Trái lại, Trưởng-l

ão Thi-sa quyết-tâm chứng

đắc quả-vị A-la-hán, ngay lúc Phật c

òn tại-thế, nên Trưởng-lão liền rút vào nơi rừng sâu, xa vắng bóng người,

để h

ành Thiền. Các vị tỳ-kheo khác chẳng hiểu

được ý-định của Trưởng-l

ão Thi-sa, cho rằng thái-

độ của Trưởng-l

ão chẳng chút nào tỏ ra mến-tiếc

Đức Phật cả, mới thưa tr

ình cùng

Đức Phật. Khi nghe Trưởng-l

ão Thi-sa trình-bày lý-do cố-gắng tu-tập

để chứng quả A-la-hán trước ng

ày

Đức Phật nhập Niết-b

àn,

Đức Phật bảo chư Tăng

: "Nầy chư Tỳ-kheo, những ai kính-trọng và quí-mến Như-Lai, nên bắt chước mà làm theo như Thi-sa. Quí-vị

đừng tưởng rằng đem hương hoa đến cho ta l

à tỏ lòng ngưỡng-mộ ta. Thực-hành

đúng theo Chánh-pháp, đến nơi xa vắng nỗ lực Thiền-định theo lời dạy của ta, đó mới thật l

à biết cách trả ơn ta."

Rồi

Đức Phật mới nói l

ên bài Kệ sau

đây

:

Người nếm hương-vị

đời ẩn-dật,

Hưởng an-lạc tịch-tĩnh Niết-bàn.

Nhiễm-ô và sợ-hãi

đều thoát,

Vị pháp-hỷ, người ấy thấm-nhuần.

(Kệ số 205.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Tỳ-da-ly: tên thành nầy, tiếng Pali là Vesàli.

- Nhập Niết-Bàn = theo nghĩa thông-thường, Nhập Niết-bàn là chết

đi; nhưng theo

nghĩa trong Phật-học, là lià bỏ thân-xác nầy,

đi v

ào cõi tịch-diệt, vắng-lặng, tự-tại mãi trong cảnh an-lạc.

- Thi-sa: tên vị Trưởng-lão nầy, tiếng Pali là Tissa.

- Còn tại-thế: Thế = thế-gian. Theo nghĩa thường là còn sống ở

đời.

- Quả-vị A-la-hán: Quả-vị = kết-quả khi tu thành; A-la-hán (Arahant) = quả-vị cao nhứt trong hàng

đệ-tử sống gần Phật, dứt hết phiền-n

ão, chẳng bị tái-sanh trong vòng Luân-hồi, sống trong an-lạc.

- Như-Lai: Như = như thế; Lai = đến. Chữ Như-Lai, tiếng Pali là Tathàgatha, có nghĩa là bực

đ

ã

đến đây như thế đó. Thường Đức Phật tự xưng l

à Như-Lai, trong khi các

đệ-tử gọi Ng

ài là Thế-tôn.

- Ẩn-dật = sống nơi xa vắng, ít người biết

đến m

ình.

-Tịch-tĩnh: Tịch = vắng; Tĩnh = yên-lặng. Tịch-tĩnh là vắng-lặng.

- Nhiễm-ô: Nhiễm = dính dơ, Ô = dơ-dáy,

đen-đúa. Chữ

Nhiễm-ô

đây d

ùng theo nghĩa bóng, chỉ sự vướng-bận vào các phiền-não.

- Vị pháp-hỷ: Vị = mùi vị; Pháp = Chánh-pháp, pháp-tu; Hỷ = niềm vui. Vị pháp-hỷ là niềm vui khi hiểu-biết về Chánh-pháp, do Chánh-pháp

đem lại cho người tu-tập.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện kể lại sự hiểu-lầm về thái-

độ của Trưởng-l

ão Thi-sa: thấy Trưởng-lão rút vào nơi xa vắng, cho rằng thiếu sự thương-mến

Đức Phật khi Ng

ài sắp nhập Niết-bàn. Nào ngờ,

đó mới l

à thái-

độ đáng khen, v

ì Trưởng-lão

đang nỗ-lực theo lời Phật dạy, v

ào nơi xa-vắng

để tu thiền hầu chứng-quả cho kịp trước ng

ày Phật nhập-diệt.

Ý-nghĩa của Tích chuyện: muốn trả ơn cho Thầy, phải làm cho

đúng, cho vẹn, lời Thầy đ

ã dạy.

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 205:

Bài Kệ

đề-cao cuộc đời ẩn-dật của bực tu-sĩ thấm-nhuần pháp-vị. Thử phân-tách từng câu

:

1) Người nếm hương-vị

đời ẩn-dật:

Hương-vị nầy là sự vắng-lặng, thuận-tiện cho việc sống với nội-tâm;

2) Hưởng an-lạc tịch-tĩnh Niết-bàn: sống hạnh-phước trong cảnh yên-tịnh của cõi Niết-bàn tại thế-gian.

3) Nhiễm-ô và sợ-hãi

đều thoát:

dứt hết phiền-não, lậu-hoặc

4) Vị pháp-hỷ, người ấy thấm-nhuần: tự nuôi sống bằng niềm vui trong Chánh-pháp.

(164).- Tích chuyện vua Trời

Đế-Thích săn-sóc Phật.

Vào một thời kia,

Đức Phật ngụ tại l

àng Tre, gần thành Tỳ-da-ly, trong một kỳ giảng-pháp, có

đề-cập đến vị Vua Trời Đế-Thích.

Vào khoảng mười tháng trước ngày nhập Niết-bàn, vào muà hè tại làng Tre, gần thành Tỳ-da-ly,

Đức Phật mắc bịnh kiết. Khi hay tin, vua Trời Đế-Thích liền hiện đến b

ên cạnh Ngài

để săn-sóc. Đức Phật bảo vua Trời chớ quá lo, v

ì xung quanh còn nhiều tỳ-kheo, nhưng vị vua Trời vẫn tiếp-tục hầu-hạ

Đức Phật cho đến khi Ng

ài lành hẳn bịnh.

Bấy giờ, nhiều tỳ-kheo ngạc-nhiên thấy vị vua Trời theo hầu luôn bên cạnh Phật như thế.

Đức Phật bảo

: "Nầy chư tỳ-kheo, chẳng có chi

đáng ngạc-nhi

ên cả. Vào kiếp trước, khi thấy mình có tướng suy-thoái sắp chết, vua

Đế-Thích đến nghe Ta giảng Chánh-pháp v

à theo

đó m

à tu-tập, nên mới chứng

được quả Tu-đ

à-huờn. Sau khi chết

đi, được tái sanh l

ên Trời lần nữa, như hiện nay. Nầy chư tỳ-kheo,

được gần b

ên bực Thánh là một nguồn an-lạc; sống bên người ngu là sự khổ-sở."

Rồi

đó Đức Phật nói l

ên ba bài Kệ sau

đây

:

Lành thay, mừng gặp Thánh-nhơn!

Sống

được b

ên Ngài là chơn hạnh-phước.

Người ngu, khỏi gặp, mừng thay!

Khỏi gần bên họ, lâu dài hưởng vui.

(Kệ số 206.)

Quả thật,

Cùng

đi với người ngu,

Sầu như sống với kẻ thù.

Được theo bên người trí,

Vui như sống với họ-hàng.

(Kệ số 207.)

Do

đó,

Với những người thông-suốt, trí-huệ,

Giới-hạnh trang nghiêm, biết tự-chế;

Với các bực Thánh-nhơn như thế,

Ta nên cùng kết-hợp tình-thân,

Như tr

ăng chiếu theo đường sao sáng.

(Kệ số 208.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Vua Trời

Đế-Thích:

Vua cõi trời

Đao-lợi (

Pali: Tavatimsa), còn gọi là cõi Trời Tam-thập-tam thiên. Tên bằng tiếng Pali là Sakka.

- Làng Tre: tên làng nầy, tiếng Pali là Veluva.

- Thành Tỳ-da-ly: tên thành nầy, tiếng Pali là Vesàli; chính tại thành nầy, một tr

ăm năm sau khi Phật mất, có cuộc kết-tập kinh-điển lần thứ hai.

- Tướng suy-thoái: các hình-tướng suy-yếu về thân-thể của bực Trời, khi gần hết phướcsắp chết, như tóc rối, thân dơ, chảy mồ-hôi...

-Chơn hạnh-phước = hạnh-phước chơn-chánh, thật-sự sung-sướng

- Giới-hạnh trang-nghiêm: giũ

đúng theo giới-luật.

- Tự-chế: tự giữ lấy kỷ-luật,

đ

è-nén sự ham-muốn của mình

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện thuật lại vua Trời

Đế-Thích đến hầu-hạ săn-sóc Đức Phật, khi Ng

ài bị bịnh kiết ở làng Tre gần thành Tỳ-da-ly. Các tỳ-kheo tỏ vẻ ngạc-nhiên khi thấy Vua Trời

Đế-Thích b

ên cạnh Phật.

Đức Phật bảo, kiếp trước nhờ gặp Phật, nghe pháp tu-h

ành chứng quả mà vua

Đế-Thích, khi hết phước lại được tái-sanh l

ên Trời.

Ý-nghĩa của Tích chuyện là lời dạy của

Đức Phật

; nên thân-cận với bực Thánh, nên tránh xa chớ gần người ngu.

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 206:

Bài Kệ số 206 cho rằng hạnh-phước to lớn là việc

được gần b

ên bực Thánh và nguồn vui lâu dài là khỏi phải gặp người ngu.

(3) Ý-nghĩa bài Kệ số 207:

Bài Kệ số 207 so sánh: sống với nguuời ngu như sống khổ bên cạnh kẻ thù; còn sống bên người Trí như sống yên vui với bà-con.

(4) Ý-nghĩa bài Kệ số 208:

Bài Kệ số 208 khuyên ta nên tìm cách thân-cận với bực trí-giả, có giới-

đức cao, biết tự-kềm-chế, để học-hỏi về đường tu. Biết l

àm

được như thế, cũng như được ánh trăng sáng soi khắp nẻo đường.

-ooOoo-

XVI.-Phẩm THÂN - ÁI.

(165).- Tích chuyện ba người khất-sĩ.

Vào một thời kia,

Đức Phật ngụ tại ch

ùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp có

đề-cập đến một gia-đ

ình, chồng, vợ và con

đi tu chung tại một ch

ùa.

Thuở ấy, ở Xá-vệ có một người thanh-niên xuất-gia vào một tu-viện làm tỳ-kheo. Chẳng bao lâu sau, người cha cũng rời bỏ

đời sống thế-tục, gia-nhập Tăng-đo

àn ở tu-viện ấy. Sau cùng, người mẹ cũng theo chơn chồng và con

đi tu luôn. Họ sống chung với nhau trong một ngôi ch

ùa, cùng

đi khất-thực, c

ùng

ăn, c

ùng ngủ, chuyện-trò, bàn-cãi nhau như lúc còn ở nhà.

Đ

ìều nầy khiến cho các vị tỳ-kheo khác cảm thấy khó-chịu, mới

đến thưa-tr

ình cùng

Đức Phật. Đức Phật cho gọi cả ba người, cha, mẹ v

à con

đến v

à bảo họ: "Đã xuất-gia, thọ giới theo Giáo-hội, các người chẳng nên tiếp-tục sống khắng-khít bên nhau như trong một gia-đình riêng-biệt nữa. Xa người mình thương, gần người mình chẳng thích, cả hai đều đau-khổ. Các người đừng quá thân-yêu, quyến-luyến với bất cứ ai, với bất cứ sự-vật nào."

Rồi

Đức Phật mới nói l

ên ba bài Kệ sau

đây

:

Cố

đuổi theo điều n

ên xa lánh,

Việc

đáng theo m

à tránh chuyên-cần;

Bỏ mục-tiêu, lại gần dục-lạc,

Để rồi ganh-tị bực chuyên-tu.

(Kệ số 209.)

Chớ gần-gũi quá người mình thương,

Đừng ở gần bên người mình ghét.

Thương chẳng gặp, ghét lại gặp thường,

Cả hai

đường đều đau-khổ hết.

(Kệ số 210.)

Do vậy, chớ bao giờ quá thân-yêu,

Yêu phải xa nhau, yêu là

đau-khổ.

Cả yêu lẫn ghét

đều li

à bỏ

Mọi dây ràng-buộc bị diệt tiêu.

(Kệ số 211.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Khất-sĩ: Khất = đi xin; Sĩ =người. Cả ba danh-từ: khất-sĩ, tỳ-kheo, bí-sô đều chỉ vào các tu-sĩ Phật-giáo, hằng ngày đi xin ăn, để dẹp lòng tự-ái và có dịp dạy đạo cho dân. Tiếng Pali: Bhikkhu.

- Xuất-gia: Xuất = ra; Gia = nhà. Xuất-gia chẳng những là rời nhà vào chùa mà còn có nghĩa sâu: rời bỏ c

ăn

nhà phiền-não, dứt tríu-mến

- Thế-tục: Thế = đời; Tục = thông-thường.

Đời

Thế-tục

đời sống của người thường chưa đi tu sống trong gia-đ

ình, sanh-hoạt ở xã-hội.

-Thọ-giới: Thọ =nhận; giới = giới-luật; Thọ-giới là nhận tuân theo các

điều răn-cấm, như chẳng sát-sanh, chẳng trộm-cắp,v.v

- T

ăng-đo

àn: T

ăng

= nam tu-sĩ Phật-giáo. Cứ bốn vị T

ăng tu chung nhau, trở l

ên, làm thành một T

ăng-đo

àn.

- Mục-tiêu: Mục = con mắt; Tiêu = cái mốc

để nh

ìn vào mà bắn. Ở

đây, chữ

mục-tiêu có nghĩa là

điều m

ình

đang đeo đuổi, muốn có.

- Dục-lạc: Dục = muốn; Lạc = vui. Ở

đây,

dục-lạc có nghĩa là các

điều ham-muốn thấp-kém về vật-chất.

- Ganh-tị: ghen-ghét, cà-nanh,

đố-kỵ.

- Chuyên-cần: siêng-n

ăng.

Chuyên-tu: siêng tu.

-Dây ràng-buộc: dùng theo nghĩa bóng, dịch chữ Hán-Việt: triền-phược. (Triền = vấn xung-quanh; phược = buộc dây).

Đây l

à nói

đến các t

ình-cảm trong tâm, có tánh-cách ràng-buộc, như thương, như ghét. Vì thương ai, nên tâm quyến-luyến nhớ người ấy; vì ghét ai, thì nhớ mãi tên, hay gương mặt của người ấy trong tâm mình.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện thuật lại việc cả gia-

đ

ình ba người: chồng, vợ và con,

đều xuất-gia tại c

ùng một tu-viện, nhưng họ vẫn còn quyến-luyến nhau, chẳng rời nhau ra

được. Đức Phật dạy, hễ đ

ã xuất-gia, phải dứt bỏ mọi tríu-mến, dầu

đó l

à cha-mẹ hay con-cái; vì có dứt bỏ

được, tâm mới chẳng c

òn bị ràng-buộc nữa mà trở nên thanh-tịnh.

Ý-nghĩa của Tích chuyện: xuất-gia là bước chơn ra khỏi c

ăn nh

à phiền-não, chớ chẳng phải chỉ ra khỏi ngôi nhà che mưa trú nắng.

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 209:

Bài Kệ chê-trách những người tu-hành thiếu sự tinh-tấn rồi sanh ra ghen-ghét với các bực chuyên-tu.

1) Hai câu

đầu

: Cố

đuổi theo điều n

ên xa lánh, Việc

đáng theo m

à tránh chuyên-cần: đây là đang làm ngược lại với sự tinh-tấn: điều ác chưa sanh, phải tránh đừng cho xảy ra; điều lành còn chưa làm, phải gắng thực-hiện ngay;

2) Câu thứ ba: Bỏ mục-tiêu, lại gần dục-lạc: quên mất mục-tiêu giác-ngộ và giải-thoát của

đường tu, v

ì

đang chạy theo các thú-vui vật-chất;

3) Câu chót: Để rồi ganh-tị bực chuyên-tu: hậu-quả là thấy bạn

đồng-tu tinh-tấn tr

ên

đường đạo th

ì lại sanh ra ghen-ghét, mà chẳng xét

đến lỗi m

ình

đ

ã thiếu nỗ-lực trong việc tu-hành.

(3) Ý-nghĩa của hai bài Kệ số 210 và 211:

Hai bài Kệ nầy nhập chung lại thành một bài, khuyên ta phải dứt bỏ sự luyến-ái, sự bấu-viú, mà phải tập hạnh xả-ly.

Bài Kệ số 210 nêu lên hai nỗi khổ, trong tám cái khổ ở

đời

: (1) thương nhau mà phải xa nhau; (2) ghét nhau mà phải gần bên nhau. Tại sao khổ? Thương nhau mà xa nhau, thì nhớ mong, trông sớm

được ng

ày gặp lại nhau. Thời gian chờ mong, thương nhớ làm cho tâm chẳng

được y

ên. Ghét nhau mà phải gần bên nhau, thì sự bất

đồng ý-kiến xảy ra hằng ng

ày, khiến cho cuộc sống chung trở nên nặng-nề, chẳng những giữa hai người trong cuộc, mà còn lây sang

đến những người chung quanh.

Hai câu chót của bài Kệ số 210: Thương chẳng gặp, ghét lại gặp thường, Cả hai

đường đều đau-khổ hết

dẫn ta

đến kết-luận được chỉ r

õ trong bài Kệ số 211: Cả yêu lẫn ghét

đều li

à bỏ, Mọi dây ràng buộc bị diệt-tiêu. Kết-luận nầy nêu cao mục-tiêu tu-tập: giác-ngộ và giải-thoát. Giác-ngộ

được g

ì? Giác-ngộ rằng cả hai tình-cảm:thương và ghét, tuy

đối chọi nhau nhưng c

ùng có hiệu-lực ràng-buộc ta. Giải-thoátkhỏi những gì? Giải-thoát khỏi những sự trói-buộc do chính tâm mình tạo ra cho mình. Vì lẽ nầy mà trước khi xuất-gia, người tu-hành phải dứt-khoát bỏ qua hết mọi luyến-lưu vào gia-

đ

ình và sự-nghiệp.

(166).- Tích chuyện một gia-chủ giàu-có.

Vào một thời kia,

Đức Phật ngụ tại ch

ùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp có

đề-cập đến một vị gia-chủ gi

àu-có quá

đau buồn v

ì con trai chết.

Thuở ấy, ở nước Xá-vệ, có một người gia-chủ rất giàu-có vì

đứa con trai chết m

à quá

đau-buồn, mỗi ng

ày

đều ra

nghĩa trang khóc-lóc, than-thở. Sáng sớm hôm ấy, trong cơn thiền-

định, Đức Phật quán-thấy đ

ã

đủ cơ-duy

ên cho người gia-chủ ấy chứng

được quả-vị Tu-đ

à-huờn. Ngài liền cùng với các vị tỳ-kheo

đi đến nh

à vị gia-chủ

đó, để khất-thực. Thấy vẻ mặt buồn-thảm của người gia-chủ, Đức Phật mới hỏi nguy

ên-do. Người ấy thuật lại việc

đứa con trai của m

ình bị bịnh vừa qua

đời, khiến cho l

òng mình thương-cảm và âu-sầu.

Đức Phật ân-cần khuy

ên: "Nầy gia-chủ, cái chết chẳng phải chỉ

đến ở một nơi. Mọi chúng-sanh đ

ã sanh ra, tất có ngày phải chết

đi; cuộc sống luôn luôn chấm-dứt bằng cái chết. Gia-chủ đừng nghĩ rằng, chỉ có đứa con y

êu-dấu của mình mới bị Thần Chết bắt mang

đi. Gia-chủ đừng tỏ ra quá ưu-sầu, chán-nản, lo-lắng đến độ đó. Sự ưu-sầu, sự sợ-h

ãi chính do từ niềm thương-yêu luyến-ái quá mức mà sanh ra."

Rồi

Đức Phật mới nói l

ên bài Kệ sau

đây, nhờ đó m

à người gia-chủ chứng-

đắc được quả-vị Tu-đ

à-huờn:

Thân-ái sanh ra sầu-muộn,

Thân-yêu sanh ra lo-sợ.

Ai cắt

đứt dây nhợ thân-ái,

Chẳng sầu, sao có sợ?

(Kệ số 212.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Gia-chủ: Gia = nhà; Chủ = chủ; Gia-chủ là chủ nhà.

- Nghĩa-trang = nghĩa-

địa, nơi chôn-cất người chết.

- Quán-thấy: Xin nhắc lại: trong cơn thiền-

định, nh

ìn thấy rõ trong tâm.

- Cơ-duyên: Xin nhắc lại:

đ

ã

đủ duy

ên lành,

được dịp may.

- Tu-

đ

à-huờn:

quả-vị

đầu-ti

ên trong hàng Thanh-v

ăn, đệ-tử sống gần b

ên Phật. Tiếng Pali là Sotàpatti, dịch là Nhập-Lưu, nghĩa là

được gia-nhập v

ào dòng nước Thánh, hay là Thất-Lai, nghĩa là chỉ còn phải bị tái-sanh bảy lần nữa thì chứng

được quả Thánh.

- Luyến-ái: Luyến = quyến-luyến, rời ra chẳng

được.

Ái = thương; Luyến-ái = lòng thương quá mức,

đến độ rời nhau ra chẳng được.

- Thân-ái, thân-yêu: cùng là thương-yêu cả, nhưng hàm ý-nghĩa quá quyến-luyến, quá tríu-mến. Chính sự quá tríu-mến mới là chỗ

Đức Phật dạy phải bỏ đi, v

ì nó ràng-buộc tâm ta, làm ta

đau-khổ sau nầy.

- Dây-nhợ = nghĩa bóng là ràng-buộc, trói-buộc.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện rất giản-dị, kể lại sự

đau-buồn của một người cha bị mất đứa con trai, được Đức Phật khuy

ên-giải.

Lời Phật dạy: "Cái chết chẳng

đến ở một nơi

"; câu nầy nói lên lẽ Vô-thường trong Phật-học: mọi vật có hình-tướng

đều bị biến-đổi v

à hủy-diệt. Hiểu rõ lẽ vô-thường, ta chẳng bám-víu vào bất cứ ai, bất cứ sự-vật gì, vì hễ còn bám-víu là còn bị khổ-

đau khi bị mất-mát. Ứng-dụng v

ào

đời sống:

chấp-nhận lẽ vô-thường, xem sự chết dĩ-nhiên sẽ

đến với mọi người, phải giữ tâm an-nhi

ên, chớ quá xúc-

động.

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 212:

1.- Thân-ái sanh ra sầu-muộn: mới

đọc qua, thấy có vẻ mâu-thuẫn, v

ì khi thân-ái nhau thì sung-sướng, vui-thích hơn, chớ sao lại sầu-muộn? Nhưng, vì

đ

ã quá thân-ái nhau, nên khi lià nhau, sầu-muộn sẽ sanh ra. Có ai ở mãi bên nhau mà chẳng có lúc lìa nhau?

2.- Thân-yêu sanh ra lo-sợ: Tại sao? Vì sợ mất ngưòi hay vật mình thương.

3.- Ai cắt-

đứt dây nhợ thân-ái

: Ai vậy?

Đó l

à người

đ

ã giác-ngộ, biết rõ sự ràng-buộc do tự tâm mình quá luyến-ái mà sanh ra.

4.- Chẳng sầu, sao có sợ? Khi nào sầu? Sầu khi gặp việc chẳng vừa lòng. Tại sao sợ? Sợ vì ngại việc chẳng vừa lòng sẽ xảy ra cho mình. Vậy muốn chẳng sầu, chẳng sợ, thì

đừng

quá vừa lòng việc gì cả, giữ tâm thật bình-

đẳng, xem mọi việc đều ngang nhau.

(167).- Tích chuyện bà Vi-sa-kha khóc cháu.

Vào một thời kia,

Đức Phật ngụ tại ch

ùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp có

đề-cập đến b

à Vi-sa-kha quá

đau buồn v

ì mất

đứa chúa gái.

Thuở ấy, bà tín-nữ Vi-sa-kha, vị nữ thí-chủ rất nổi tiếng vào thời

đức Phật, người đ

ã xây cất và cúng-dường nữ tu-viện

Đông-vi

ên cho Ni-

đo

àn ở nước Xá-vệ, có

đứa cháu t

ên Sử-

đạt-ta vừa qua đời. B

à rất thuơng-tiếc, khóc lóc

đau buồn thảm-thiết. B

à

đến yết-kiến Đức Phật v

à

được Đức Phật dạy rằng

: "Nầy nữ thí-chủ Vi-sa-kha, sao bà chẳng biết mỗi ngày tại nước Xá-vệ nầy, có nhiều người

đ

ã chết? Nếu bà xem mỗi người

đ

ã qua

đời l

à người thân mà bà thương-tiếc như một

đứa cháu của b

à, thì có lẽ chẳng có lúc nào bà ngưng chảy nước mắt cả. Bà chẳng nên

để cái chết của đứa cháu thân-y

êu làm khủng-hoảng tinh-thần bà như thế. Ưu-sầu và sợ-hãi sanh ra do sự quá luyến-ái

đó.

"

Rồi

Đức Phật mới nói l

ên bài Kệ sau

đây

:

Luyến-ái sanh ra sầu-muộn,

Tríu-mến sanh ra lo-sợ.

Ai cắt

đứt dây nhợ luyến-ái,

Chẳng sầu, sao có sợ?

(Kệ số 213.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Vi-sa-kha: tên vị nữ thí-chủ

đ

ã dưng-cúng rất nhiều cho Ni-

đo

àn vào thời

đức Phật, tiếng

Pali là Visakha.

- Nữ tu-viện

Đông-vi

ên:

tên ngôi chùa của bà Vi-sa-kha dưng-cúng, ở phiá

Đông ch

ùa Kỳ-viên, tiếng Pali là Pubbàràma

- Sử-

đạt-ta:

tên cháu gái bà Vi-sa-kha, tiếng Pali là Sudattà.

- Yết-kiến: đến gặp bực trưởng-thượng, để nghe chỉ-dạy.

- Làm khủng-hoảng tinh-thần: khiến cho mất tinh-thần, khiến cho lòng chẳng yên, trở nên

đau buồn.

- Ưu-sầu: đau buồn trong lòng.

- Luyến-ái, Tríu-mến: cùng là tình thương cả, nhưng trong sự luyến-ái, trong sự tríu-mến, có sự bám-víu quá vào người mình thương, vào vật mình mến, cho nên

đến khi phải l

ìa nhau thì sanh ra

đau-khổ nhiều. Chính

sự bấu-víu nầy là chỗ

Đức Phật dạy phải rời bỏ, chớ chẳng phải l

à bỏ

đi

tình thương.

- Dây nhợ luyến-ái: Xin nhắc lại,

đây l

à nghĩa bóng, chỉ vào sự ràng-buộc, chính từ nơi tâm mình sanh ra luyến-ái, rồi chính sự luyến-ái ấy lại trói buộc lấy tâm mình.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện nầy cũng rất giản-dị như Tích chuyện trước: bà Vi-sa-kha mất

đứa cháu gái thân-y

êu, khóc lóc,

đau buồn, được Đức Phật khuy

ên-giải.

Ý-nghĩa của Tích chuyện nằm trong lời

Đức Phật dạy

: "Nếu bà xem mỗi người

đ

ã qua

đời l

à người thân mà bà thương-tiếc như nột

đứa cháu của b

à, thì có lẽ chẳng có lúc nào bà ngưng chảy nước mắt cả..."

Cái chết

đến khắp nơi, chẳng ri

êng một nhà,

đó l

à lẽ vô-thường của cuộc sống. Người hiểu lẽ vô-thường, biết chấp-nhận cái chết

đến cho người thân, m

à chẳng quá

đau-buồn, chẳng để tâm m

ình phải mất sự an-tịnh.

Về tình thương,

Đức Phật dạy

phải trải rộng tình thương

đến mọi người, mọi lo

ài, chẳng phân-biệt;

đó l

à tâm Từ-bi, khác rất xa với sự luyến-ái, vì sự luyến-ái còn hạn-chế, thu-hẹp vào một người hay một vật. Vì lẽ mở rộng tình thương

đến mọi người, mọi lo

ài nên tâm Từ-bi được gọi là tâm vô-lượng.

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 213:

Ý-nghĩa bài Kệ nầy cũng giống với ý-nghĩa bài Kệ trước, số 212: sự luyến-ái sanh ra sầu-muộn và lo-sợ. Vì thế, ta phải cắt

đứt

dây nhợ của sự luyến-ái, để có thể trải rộng tình thương

đến mọi người, mọi lo

ài, chẳng phân-biệt xa hay gần, thân hay thù.

HỌC TẬP:

- Học thuộc hai bài Kệ, ghi nhớ: cắt

đứt luyến-ái, chính l

à

để trải rộng t

ình thương

đến mọi người, mọi lo

ài, theo tâm Từ-Bi.

(168).- Tích chuyện các ông hoàng xứ Ly-xa.

Vào một thời kia,

Đức Phật ngụ tại Ch

ùa Nóc-Nhọn ở xứ Tỳ-da-ly trong một kỳ giảng-pháp, có

đề-cập đến các vị ho

àng-tử xứ Ly-xa.

Thuở ấy, vào một ngày hội-hè vui-nhộn,

Đức Phật đi v

ào thành Tỳ-da-ly, cùng với

đông-đảo tỳ-kheo. Dọc đường, Đức Phật gặp một đo

àn xe trang-hoàng thật

đẹp-đẽ chở các ông ho

àng xứ Ly-xa

đi du-ngoạn. Họ l

ên

đường đến một công-vi

ên

để dự hội. Nơi đây, họ tranh d

ành nhau một người dâm-nữ, rồi sanh ra ẩu-

đả nhau, nhiều người bị thương-tích nặng, phải d

ùng xe

để chở về. Bấy giờ, Đức Phật v

à các tỳ-kheo

đi khất-thực xong, trở về tịnh-xá, trông thấy cảnh-tượng đó.

Một vị tỳ-kheo nói: "Chỉ vì tranh nhau một người dâm-nữ, mà các ông hoàng

ăn-mặc sang trọng kia, phải bị thương-tích nặng-nề.

"

Đức Phật dạy

: "Nầy các tỳ-kheo, chạy theo các thú-vui vật-chất tạm-bợ như thế, chỉ

đưa đến sầu-muộn. Ai biết dứt bỏ dục-lạc của các thú-vui thể-xác, đâu c

òn phải

đau-khổ, sợ-h

ãi nữa."

Rồi

Đức Phật mới nói l

ên bài Kệ sau

đây

:

Hỉ-ái sanh ra sầu-muộn,

Thích vui vật-chất sanh ra lo-sợ.

Ai cắt

đứt dây nhợ hỉ-ái,

Chẳng sầu, sao có sợ?

(Kệ số 214.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Chùa Nóc-Nhọn: dịch tiếng Pali là Kutàgàra, có nghĩa là một tu-viện có nóc nhọn nhô lên như ngọn tháp. Tu-viện nầy nằm trong xứ Tỳ-da-ly (tiếng Pali là Vesàlì.)

- Ly-xa: một bộ-tộc miền Bắc Ấn-

độ xưa, tiếng

Pali là Licchavì.

- Dâm-nữ: người

đ

àn-bà dùng sắc-

đẹp thể-xác m

ình mua vui cho bọn

đ

àn-ông.

Ẩu-

đả

:

đánh lộn nhau tơi-bời.

- Dục-lạc: Dục = ham-muốn; Lạc = vui. Ở

đây, chữ

dục-lạc được dùng với nghĩa rộng, chỉ các thú-vui vật-chất, nhứt các thú-vui về nhục-dục, về thể-xác.

- Hỉ-ái: Hỉ = vui; Ái = thương, thích. Ở

đây chữ

hỉ-ái được dùng theo nghĩa rộng, chỉ các thú-vui vật-chất tạm-bợ, chỉ làm thoả-mãn các giác-quan, bỏ qua niềm vui cao hơn về tinh-thần.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện thuật lại các ông hoàng xứ Ly-xa vì tranh nhau một nàng dâm-nữ, ẩu-

đả nhau m

à mang thương-tích. Trông thấy cảnh-tượng

đó, Đức Phật dạy các tỳ-kheo

: "Chớ chạy theo thú-vui vật-chất tạm-bợ, phải cắt

đứt dây nhợ hỉ-ái.

"

Ý-nghĩa của Tích chuyện là sự thiếu suy-xét của các ông hoàng xứ Ly-xa: vì tranh dành nhau một phút ngắn-ngủi

được gần người dâm-nữ m

à sanh ra ẩu-

đả khiến phải bị thương-tích nặng-nề. Thú-vui vật-chất tạm-bợ trong chốc-lát chẳng b

ù

được sự khổ-sở đau-đớn về xác-thịt tiếp theo đó.

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 214:

Thử phân-tách bài Kệ ra từng câu:

1) Hỉ-ái sanh ra sầu-muộn: Chữ Hỉ-ái, thích vui, ở

đây có

nghĩa rộng là thích các sự vui về thể-xác tạm-bợ trong chốc-lát, như thú-vui nhục-dục giữa trai gái. Vì cơn vui quá ngắn muốn kéo dài mãi mà chẳng

được, cho n

ên sanh ra sầu-muộn.

2) Thích vui vật-chất sanh ra lo-sợ: Thích vui vật-chất,

đây, chỉ v

ào các thoả-mãn nhu-cầu của các giác-quan: mắt muốn nhìn sắc-

đẹp cho

"mãn-nhãn"; tai muốn nghe tiếng thật du-dương cho "khoái lỗ-nhĩ", lưỡi muốn nếm chất thật béo-ngọt cho "đã khẩu-vị", tay muốn sờ vuốt vào vật hết sức trơn-láng cho "đê-mê", nên sanh ra lo-sợ mỗi khi chẳng thoả-mãn

được.

3) Ai cắt

đứt dây-nhợ hỉ-ái; Chẳng sầu, sao có sợ

?: Dây-nhợ hỉ-ái,

đây, chỉ v

ào sự ràng-buộc do sự ham-thích các thú-vui vật-chất gây ra. Vì sự thèm-khát từ trong tâm mình sanh ra, tạo nên dây-nhợ hỉ-ái, nay với ý-chí cương-quyết dẹp sự khát-ái qua một bên, ta dứt

được sầu-muộn, lo-sợ, tâm trở n

ên yên-ổn.

(169).- Tích chuyện chàng thanh-niên Anh-thi.

Vào một thời kia,

Đức Phật ngụ tại ch

ùa Kỳ-viên, nước xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có

đề-cập đến một ch

àng thanh-niên tên Anh-thi, quá

đau-buồn trước cái chết của vị-hôn-th

ê.

Thuở ấy, ở nước Xá-vệ có chàng thamh niên tên là Anh-thi, sắp cưới một cô thiếu-nữ nhan-sắc

đẹp lộng-lẫy ở th

ành Sa-ga-la, thuộc xứ Mạch-

đạt. Đến ng

ày thành-hôn, cô thiếu-nữ lên

đường từ Sa-ga-la về nh

à chồng, dọc

đường ng

ã bịnh nặng rồi từ-trần. Chàng Anh-thi nghe tin vị-hôn-thê chết, cõi lòng tan-nát,

đau-buồn chẳng kể xiết.

Sáng sớm hôm ấy, trong cơn thiền-

định, Đức Phật quán-thấy đ

ã

đủ cơ-duy

ên cho thanh-niên Anh-thi chứng-

đắc sơ-quả, Ng

ài liền cùng chư tỳ-kheo lên

đường đến nh

à Anh-thi

để khất-thực. Cha mẹ ch

àng trai dưng cúng thực-phẩm. Sau buổi ngọ-trai,

Đức Phật cho mời ch

àng Anh-thi ra hỏi chuyện. Trông vẻ thiểu-não của chàng trai,

Đức Phật mới hỏi duy

ên-cớ. Chàng kể lại cõi lòng tan-nát vì người yêu vừa qua

đời. Đức Phật khuy

ên-giải: "Nầy Anh-thi, ái-dục sanh ra sầu-muộn. Chỉ vì ham-thích các thú-vui nhục-dục, mà con người phải chịu

đau-khổ v

à lo-lắng."

Rồi

Đức Phật nói l

ên bài Kệ sau

đây, nhờ đó m

à chàng thanh-niên Anh-thi chứng

được quả-vị Tu-đ

à-huờn:

Dục-ái sanh ra sầu-muộn,

Thích vui nhục-dục sanh ra lo-sợ.

Ai cắt

đứt dây nhợ dục-ái,

Chẳng sầu, sao có sợ?

(Kệ số 215.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

Các tên Pali

được Việt-hoá cho dễ đọc

:

-Anh-thi = Anitthigandha; Sa-ga-la = Sàgala; Mạch-

đạt

= Maddas

- Vị hôn-thê: vợ chưa cưới.

- Từ-trần = chết.

- Trong cơn thiền-

định, quán-thấy

:

trong khi ngồi Thiền, tâm an-

định, nh

ìn thấy rõ trong tâm...

- Đủ cơ-duyên: đã đến lúc thuận-tiện, được đủ cơ-hội may-mắn.

- Sơ-quả: quả-vị

đầu-ti

ên của hàng Thanh-v

ăn, tức l

à các vị

đệ-tử của Đức Phật, sống gần b

ên Phật, nghe kinh mà tu-tập.

Đây l

à quả-vị Tu-

đ

à-huờn, còn gọi là Nhập-lưu, hay Thất-Lai; tiếng Pali là Sotàpatti. Nhập-Lưu có nghĩa là bước chơn vào dòng Thánh; Thất-Lai có nghĩa là chỉ phải tái-sanh lại cõi người bảy lần nữa, rồi chứng

được Thánh-quả A-la-hán, tự-tại m

ãi trong cõi Niết-bàn.

- Khất-thực: đi xin ăn. Theo giới-luật nhà Phật, tỳ-kheo chẳng được phép có nghề riêng để sanh-sống, mà phải đi xin ăn, để diệt lòng tự-ái và có dịp gặp dân-chúng để chỉ-dạy giáo-lý cho họ.

- Ngọ-trai: Ngọ = 12 giờ trưa; Trai = bữa

ăn chay.

Ngọ-trai là bữa cơm chay vào 12 giờ trưa; sau

đó suốt ng

ày, chẳng

ăn nữa.

- Ái-dục: Ái = thương, thích; Dục = muốn. Chữ Ái-dục

đây được d

ùng theo nghĩa rộng, chỉ sự ham-muốn thoả-mãn về thể-xác, nhục-dục, giữa trai-gái.

- Nhục-dục: Nhục = thịt; Dục = ham-muốn; Thú-vui nhục-dục là thú-vui thể-xác khi có sự giao-hợp giữa trai-gái.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tídh chuyện thuật lại việc

đau-buồn của một ch

àng trai vì vị hôn-thê chết trước khi cưới.

Đức Phật khuy

ên-giải, sự ham-thích các thú-vui nhục-dục

đưa đến sự lo-lắng, sầu-muộn v

ì muốn kéo dài sự thích-thú chẳng

được v

à sợ mất

đi nguồn vui tạm-bợ nầy. V

ì thế, muốn khỏi phải sầu-muộn và lo-lắng, thì nên xa lìa sự ham-thích các thú-vui nhục-dục tạm-bợ.

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 215:

Cũng như các bài Kệ trước, bài Kệ số 215 khuyên ta cắt

đứt dây nhợ

của các sự: thân-ái, luyến-ái, hỉ-ái, dục-ái. Cùng là sự yêu-thích cả, do lòng thương = ái, sanh ra nơi tâm mình, nay muốn cắt-

đứt dây nhợ

đó, phải có ý-chí cương-quyết dẹp chúng qua một bên. Chỉ vì mình thích, mình thương, mà sanh ra ràng-buộc, nếu nay tự mình biết chẳng thích, chẳng thương nữa, mối ràng-buộc tự nó chấm-dứt vậy.

(170).- Tích chuyện người nông-phu Bà-la-môn.

Vào một thời kia,

Đức Phật ngụ tại ch

ùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có

đề-cập đến một người nông-phu thuộc giai-cấp B

à-la-môn.

Thuở ấy, ở nước Xá-vệ, có một người nông-phu thuộc giai-cấp Bà-la-môn, chẳng tin theo giáo-lý của

Đức Phật. Đức Phật quán-thấy người ấy có đủ cơ-duy

ên

để chứng-đắc được quả-vị Tu-đ

à-huờn, nên trên

đường đi khất-thực, Ng

ài dừng lại bên thửa ruộng người nông-phu

đang cầy cấy. Nghe Đức Phật thăm hỏi về công-việc l

àm

ăn của m

ình, người nông-phu vui-vẻ bàn-luận về mùa-màng cùng

Đức Phật. Người ấy nói

: "Nầy Sa-môn Cồ-

đ

àm, chẳng bao lâu nữa,

đến m

ùa gặt hái, tôi sẽ tặng-hiến cho tu-sĩ một số lúa gạo, trước khi tôi

đem ra d

ùng cho gia-

đ

ình tôi."

Đức Phật ngỏ lời cám ơn, nhưng Ng

ài lại biết trước, trong tương-lai, người Bà-la-môn ấy gặp chuyện chẳng may, sẽ chẳng thực-hiện

được lời hứa đó, nhưng Ng

ài im-lặng chẳng nói ra.

Cách

đó ít lâu, v

ào một

đ

êm trước khi gặt hái, một cơn mưa dầm thật to lớn

đ

ã khiến cho cả thửa ruộng bị nước lũ cuốn trôi hết. Sáng ra, người nông-phu nhìn cảnh tàn-phá trên thửa ruộng, lòng hết sức buồn-bã, nhớ

đến lời hứa sẽ tặng thóc gạo cho Sa-môn Cồ-đ

àm mà sanh ra phiền-muộn. Khi

Đức Phật đến nh

à, người nông-phu thuật lại cảnh tai-biến

đ

ã xảy ra cho gia-

đ

ình mình,

Đức Phật khuy

ên-giải: ‘Nầy Bà-la-môn, ông chẳng biết

được nguy

ên-nhơn sanh ra phiền-muộn trong lòng ông, chớ tôi, tôi biết rõ.

Đó l

à vì lòng khát-ái mà sầu-muộn và sợ-hãi

đ

ã nổi lên trong lòng ông. Vì quá mong-cầu

được gặt hái nhiều thóc gạo, m

à nay lòng ông thất-vọng mới sanh ra quá buồn-rầu

đó.

"

Rồi

Đức Phật mới nới l

ên bài Kệ sau

đây, nhờ đó người nông-phu B

à-la-môn chứng

được quả-vị Tu-đ

à-huờn:

Khát-ái sanh ra sầu-muộn,

Thích tham-cầu sanh ra lo-sợ.

Ai cắt

đứt dây nhợ khát-ái,

Chẳng sầu, sao có sợ?

(Kệ số 216.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Bà-la-môn: tiếng Pali là Brahmanà, giai-cấp tu-sĩ ở Ấn-

độ xưa. Có 4 giai-cấp: (1)

Bà-la-môn, tu-sĩ; (2) Sát-

đế-lợi (Khattiy

à), vua quan; (3) Phệ-xá (Vessà), buôn-bán; (4) Thủ-

đ

à-la (Suddà), nông-công nhơn.

- Quán-thấy...

đủ cơ-duy

ên... chứng quả Tu-

đ

à-huờn:

xin xem lại phần Tìm hiểu ở bài trước.

- Sa-môn: tiếng Phạn là Sramana, tu-sĩ Phật-giáo, gồm có ba nghĩa: (1) Cần-giả, người siêng làm

điều thiện; (2)

Tức-giả, người ngưng bỏ các

điều ác; (3)

Bần-giả, người cam chịu sự nghèo khó.

- Cồ-

đ

àm:

tiếng Pali là Gotama, họ của

Đức Phật Thích-ca.

- Cảnh tai-biến: Tai = tai-nạn; Biến = biến-cố; Tai-biến = việc rủi-ro

- Khát-ái: dịch chữ Pali Tanha, lòng thèm-khát, ham-muốn.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện thuật lại việc thất-bại mùa màng của một nông-phu, khiến ông ta lo-buồn.

Đức Phật khuy

ên-giải, vì quá mong-cầu muốn

được m

ùa màng tốt-

đẹp, n

ên khi gặp thiên-tai, phải chịu

đau-buồn. Muốn khỏi lo buồn, đừng quá mong-cầu, dẹp được l

òng khát-ái, thì tâm trở nên an-tịnh, chẳng bị xao-xuyến khi gặp nghịch-cảnh.

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 216:

Bài Kệ nầy, cùng với bốn bài Kệ trước, nói về sự sầu-muộn, lo-sợ sanh ra do bởi lòng thương khởi lên từ trong tâm. Lòng thương vốn là một tình-cảm tốt,

đáng

quí, nhưng tại sao giáo-lý nhà Phật lại bảo phải gát qua một bên.

Đó l

à vì lòng thương sanh ra mối ràng-buộc. Ràng-buộc như thế nào? Khi mình thương một người, mà chẳng gần

được người ấy, th

ì sanh ra nhớ-nhung. Khi mình thích một vật, mà vật

đó bị mất đi, m

ình tiếc nhớ. Khi mình muốn thoả-mãn các nhu-cầu giác-quan cho thỏa-thích mà chẳng

được, m

ình trở nên bực-dọc. Khi mình mong-muốn

được sống c

ùng người yêu mà chẳng

được, m

ình sanh ra

đau-khổ. Khi m

ình mong-cầu việc gì mà chẳng

được, m

ình thất-vọng. Vì các lẽ

đó, m

à lòng thương nên

được gát qua một b

ên: xem mọi người, mọi vật

đều

ngang nhau, chẳng luyến vật nầy, ghét bỏ vật kia,

đó l

à con

đường giải-thoát khỏi các mối

ràng-buộc.

(171).- Tích chuyện các thanh-niên kính-mộ Tôn-giả

Đại-Ca-diếp.

Vào một thời kia,

Đức Phật ngụ tại tịnh-xá Trúc-lâm, gần th

ành Vương-xá, trong một kỳ giảng-pháp, có

đề-cập đến các ch

àng thanh-niên kính-mộ Tôn-giả

Đại-Ca-diếp.

Thuở ấy, vào một ngày hội vui-vẻ,

Đức Phật c

ùng

đo

àn tỳ-kheo lên

đường đi khất-thực ở th

ành Vương-xá. Dọc

đường, có một đo

àn thanh-niên tay mang giỏ

đựng các bánh chi

ên,

đi hướng về công-vi

ên

để vui đ

ùa, mà chẳng dưng-cúng

Đức Phật c

ùng chư t

ăng. Đức Phật dừng lại, nói với chư tỳ-kheo

: "Nầy chư tỳ-kheo, hôm nay chúng ta sẽ

ăn các bánh chi

ên trong giỏ kia. Người chủ các bánh chiên

đó đang đi gần tới đây. Chúng ta h

ãy ngồi lại trong chốc lát,

đợi bánh đem đến, ăn rồi sẽ đi.

"

Đức Phật v

à chư t

ăng vừa ngồi xuống dưới gốc cây b

ên lề

đường, th

ì

đ

àng xa, Tôn-giả

Đại-Ca-diếp cũng vừa đi tới. Các thanh-ni

ên liền qùi xuống

đảnh-lễ Tôn-giả v

à dưng-hiến bánh chiên. Tôn-giả

Đại-Ca-diếp bảo

: "Nầy các bạn thanh-niên, Thầy ta là

Đức Phật đang ngồi dưới gốc cây kia với các tỳ-kheo. Các bạn n

ên

đến đảnh-lễ v

à dưng bánh lên cúng-dường." Các thanh-niên vâng lời dạy,

đến q

ùi dâng bánh lên

Đức Phật v

à chư tỳ-kheo.

Đức Phật vui vẻ thọ-nhận, xong Ng

ài tiếp-tục lên

đường.

Bấy giờ, có vị tỳ-kheo bạch Phật: "Bạch Thế-tôn, các thanh-niên

đ

ã tỏ ra thiên-vị, tôn-trọng Tôn-giả

Đại-Ca-diếp hơn cả Tăng-đo

àn."

Đức Phật bảo

: "Nầy chư tỳ-kheo, tỳ-kheo nào có

đầy-đủ giới-đức như Đại-Ca-diếp th

ì

được cả Trời, Người đều kính-trọng, dưng-hiến cho thật đầy-đủ

tứ-sự cúng-dường."

Rồi

Đức Phật nói l

ên bài Kệ sau

đây

:

Người tuệ-giác, giới-hạnh

đầy-đủ,

Trú Chánh-pháp, Chơn-lý chứng-ngộ;

Việc phải làm, nay

đ

ã làm xong,

Người ấy

được công-chúng kính-mộ.

(Kệ số 217.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Kính-mộ: Kinh = kính-trọng; Mộ = ái-mộ. Kính-mộ = tôn-trọng và thương-mến.

- Đại-Ca-diếp: vị

đại-đệ-tử của Phật Thích-ca, giỏi nhứt về hạnh đầu-đ

à, cầm

đầu Giáo-hội, sau khi Phật nhập Niết-b

àn.Tiếng Pali là: Mahà Kassapa.

- Đảnh-lễ = cúi

đầu xuống, ch

ào kính

để ra mắt.

- Thiên-vị: Thiên = nghiêng một bên; Vị =vị-nể. Tỏ ra thiên-vị là thiếu sự công-bằng, trọng người nầy hơn người khác.

- Giới-

đức: Giới

= điều răn-cấm trong đạo; Đức = đức-hạnh, tánh-hạnh. Giới-hạnh

đầy-đủ

là giữ tròn các giới cấm, tánh-tình

đáng

quí.

-Tứ sự cúng-dường: Tứ = bốn;Sự = việc;Cúng-dường = cung-dưỡng, cung-cấp

để nuôi-dưỡng. Đây l

à bốn việc mà người tín-

đồ dưng-cúng cho các tỳ-kheo: thực-phẩm, quần-áo, giường nằm v

à thuốc men.

- Tuệ-giác: Tuệ = trí-huệ; Giác = biết rõ; Người tuệ-giác là người lúc nào cũng tỉnh-táo, biết rõ mình

đang nói, l

àm, nghĩ những gì.

- Trú Chánh-pháp: Trú = ở yên nơi

đó;

Chánh-pháp = lời dạy của

Đức Phật.Người

trú trong Chánh-pháp là người luôn tuân Chánh-pháp.

- Chơn-lý chứng-ngộ: đã chứng-ngộ được Chơn-lý, tức là đã giác-ngộ, hiểu rõ lẽ sống-chết và con

đường giải-thoát khỏi Luân-hồi.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện rất giản-dị, các thanh-niên dưng cúng bánh chiên cho Tôn-giả

Đại-ca-diếp, m

à chẳng cúng Phật, vì họ chẳng biết

Đức Phật l

à thầy của Tôn-giả. Ý-nghĩa của Tích chuyện là lời dạy của Phật: hễ giữ

đúng giới-đức, chứng-ngộ Chơn-lý, tuân theo Chánh-pháp l

à

được sự kính-mộ của Trời v

à Người.

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 217:

Bài Kệ nêu rõ những

đức-tánh của người đ

ã hoàn-toàn giác-ngộ và giải-thoát, nên

được sự kính-mộ của Trời v

à Người: luôn luôn tỉnh-giác, giới-hạnh đầy-đủ, thông-thạo Chánh-pháp và chứng-ngộ Chơn-lý. Việc phải làm

đ

ã làm xong, đó là việc giải-thoát được tất cả phiền-não, chứng quả A-la-hán và thoát khỏi sự tái-sanh trong cõi Luân-hồi.

(172).- Tích chuyện vị Trưởng-lão

đắc quả A-na-h

àm.

Vào một thời kia,

Đức Phật ngụ tại ch

ùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có

đề-cập đến vị Trưởng l

ão kia

đ

ã chứng quả A-na-hàm rồi mà chẳng nói cho các

đệ-tử m

ình biết.

Thuở ấy, có vị Trưởng-lão tu-tập rất chuyên-cần, chứng

đắc được quả-vị thứ ba trong h

àng Thanh-v

ăn l

à quả-vị A-na-hàm. Nhưng Trưởng-lão chẳng tiết-lộ mình

đ

ã chứng quả-vị, khi các

đệ-tử của ông hỏi ông đ

ã chứng

được quả-vị n

ào chưa. Ông nghĩ, hãy cố-gắng hơn nữa

để chứng quả A-la-hán, cao nhứt, bấy giờ sẽ cho các đệ-tử biết. Nhưng chẳng bao lâu, Trưởng-l

ão qua

đời m

à chưa

đắc được quả-vị A-la-hán. Các người đệ-tử có l

òng thương-tưởng

đến vị thầy của m

ình, mới

đến thưa hỏi c

ùng

Đức Phật, chẳng biết Trưởng-l

ão

được tái-sanh v

ào cảnh-giới nào.

Đức Phật bảo

: "Nầy các tỳ-kheo, thầy của các vị

đ

ã chứng

được quả-vị thứ ba l

à A-na-hàm rồi trước khi rời bỏ thân-xác, nay

được tái-sanh l

ên cõi Trời Phạm-thiên. Vì

đ

ã diệt-bỏ mọi ham muốn về các thú-vui vật-chất, và nỗ lực tinh-cần, vị Trưởng-lão

đó sẽ chứng-đắc quả-vị A-la-hán sau nầy.

"

Rồi

Đức Phật nói l

ên bài Kệ sau

đây, nhờ đó một số tỳ-kheo chứng được quả-vị A-la-hán

:

Ước-vọng

đắc Niết-b

àn, pháp ly-ngôn,

Ba quả-vị bực Hiền, trí chứng xong.

Tâm giải-thoát hoàn-toàn khỏi dục-lạc,

Đấy, bực Thượng-Lưu vượt trên giòng.

(Kệ số 218.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- A-na-hàm: quả-vị thứ ba hàng Thanh-v

ăn, c

òn gọi là Bất-Lai, nghĩa là chẳng phải tái-sanh vào cõi người nữa, nơi cõi Phạm-thiên tiếp-tục tu-hành

để chứng quả thánh A-la-hán. Tiếng

Pali: Anàgàmi.

- Hàng Thanh-v

ăn:

các

đệ-tử sống gần b

ên

Đức Phật nghe Phật giảng kinh (

= thanh v

ăn, Sravaka, S

àvaka) mà tu-tập

đắc quả.

- Tiết-lộ = nói rõ cho người khác biết

đến.

- Quả-vị: Quả = kết-quả của sự tu-tập; Vị = chỗ ngồi. Quả-vị là cấp-bực chứng-

đắc khi tu-h

ành thành-công. Có bốn quả-vị trong hàng Thanh-v

ăn: (1)

Tu-

đ

à-huờn, hay Nhập-Lưu, hay Thất-Lai, (Sotàpatti); (2) Tư-

đ

à-hàm, hay Nhứt-lai, (Sakadàgàmi), (3) A-na-hàm, hay Bất-Lai, (Anàgàmi); ba quả-vị nầy, vì còn phải tái-sanh, nên

được gọi l

à bực Hiền; (4) A-la-hán (Arahant), với ba nghĩa: (a)sát-tặc, giết hết các giặc phiền-não; (b)ứng-cúng, xứng-

đáng được Trời, Người cúng-dường; (c),

vô-sanh, chẳng còn bị tái-sanh nữa;

đây l

à quả-vị Thánh, cao nhứt.

- Tái-sanh: Tái = trở lại lần sau; Sanh = sanh ra. Theo thuyết Luân-hồi, chúng-sanh sau khi chết

đi, t

ùy theo nghiệp mà sanh lại dưới một hình-thức khác, trong một cảnh-giới khác.

- Cảnh-giới: cõi sống, nơi

được tái-sanh, như sanh v

ào hàng người, Trời, hay thú-vật, v.v.

- Phạm-Thiên: cõi Trời Phạm, Brahma. Đây là từng trời thuộc Sắc-giới, ở vào cõi Thiền thứ nhứt.

- Niết-bàn: tiếng Phạn là Nirvana, tiếng Pali là Nibbana. Theo nghĩa tiếng Phạn, Nir là ra khỏi, Vana là rừng u-tối; Niết-bàn là cảnh-giới người tu-hành chứng-

đắc khi đ

ã diệt-trừ

được hết các phiền-n

ão, bỏ hết mọi dục-lạc, tự-tại trong cảnh an-vui, vắng-lặng. Có hai cảnh Niết-bàn: (1) Hữu-dư Niết-bàn (Sopàdisesa Nibbàna), chứng

đắc khi c

òn giữ thân-tâm ngũ-uẩn; (2) Vô-dư Niết-bàn (Anupadisesa Nibbàna), khi

đ

ã lià bỏ thân-xác nầy.

- Pháp ly-ngôn: Ly =lià; Ngôn = lời nói. Vì cảnh-giới Niết-bàn thuộc về xuất-thế-gian, nên chẳng thể dùng lời nói của người thế-tục mà diễn-tả ra

đầy-đủ được. Chỉ khi chứng được

Niết-bàn, mới biết rõ.

- Ba quả-vị bực Hiền: ba quả-vị

đầu: Tu-đ

à-huờn, Tư-

đ

à-hàm và A-na-hàm, vẫn còn phải tái-sanh.

- Dục-lạc: Dục = ham-muốn; Lạc = vui. Dục-lạc là các thú-vui vật-chất, tạm-bợ.

- Thượng-Lưu: Thượng = trên; Lưu = giòng nước. Chữ Thượng-lưu theo nghĩa bóng, nói

đến các bực đ

ã vượt lên trên các thường-nhơn.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện rất giản-dị, thuật lại việc một vị trưởng-lão

đ

ã chứng-

đắc được quả-vị A-na-h

àm, mà chẳng nói cho các

đệ-tử biết, v

ì còn chờ

đến lúc chứng được quả thánh: A-la-hán.

Ý-nghĩa của Tích chuyện là lời dạy của

Đức Phật

: người

đ

ã diệt-bỏ mọi thú-vui dục-lạc, nỗ-lực tinh-cần, sẽ chứng

được quả-vị Thánh, A-la-hán.

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 218:

Bài Kệ nầy nói về vị Trưởng-lão

đ

ã chứng-

đắc quả-vị A-na-h

àm mà chẳng nói ra.

Đó l

à một

đức-tánh

quí của người tu-hành chơn-chánh, chẳng khoe-khoang quả-vị.

Thử phân-tách từng câu của bài Kệ:

1) Ước-vọng

đắc Niết-b

àn, pháp ly-ngôn:

Mong-ước

được chứng cảnh-giới Niết-b

àn,

đó l

à mục-tiêu tu-hành chơn-chánh. Niết-bàn là cảnh-giới xuất-thế-gian, chẳng thể dùng lời nói (pháp ly-ngôn)

để diễn-tả được. Chỉ khi đ

ã chứng

đắc Niết-b

àn, mới biết rõ Niết-bàn như thế nào.

2) Ba quả-vị bực Hiền, trí chứng xong: Trí-huệ

đ

ã chứng-

đắc được ba quả-vị đầu-ti

ên, gọi là bực Hiền,

đ

ã dẹp xong tất cả phiền-não trong tâm, nên Trí trở nên thanh-tịnh, thấy biết rõ ràng Chơn-lý.

3) Tâm giải-thoát hoàn-toàn khỏi dục-lạc: mọi ham-muốn về các thú-vui vật-chất, tạm-bợ

đ

ã dẹp bỏ xong, Tâm trở nên thanh-tịnh, cắt

đứt mọi r

àng-buộc.

4) Đấy, bực Thượng-Lưu vượt trên giòng: đó là bực thượng-lưu trí-thức đã vượt qua mọi ràng-buộc, hoàn-toàn giải-thoát, đứng trên tất cả mọi phàm-phu còn đang trôi lăn trong vòng sanh-tử, tử-sanh của Luân-hồi khổ-đau lận-đận.

(173).- Tích chuyện gia-chủ Nan-

đi-gia.

Vào một thời kia,

Đức Phật ngụ tại vườn Lộc-uyển, gần th

ành Ba-la-nại, trong một kỳ giảng-pháp, có

đề-cập đến gia-chủ Nan-đi-gia.

Nan-

đi-gia l

à một gia-chủ rất giàu-có ở thành Ba-la-nại. Sau khi nghe

Đức Phật giảng về công-đức lập ch

ùa-chiền

để cúng-dường cho chư Tăng, Nan-đi-gia liền xuất tiền ra mướn công-nhơn xây-dựng ngôi Đại-tu-viện tại vườn Lộc-uyển. Cơ-sở kiến-trúc thật đồ-sộ, lầu tháp nóc nhọn cao vút, đầy đủ b

àn-ghế, phòng ốc trang-hoàng rực-rỡ. Sau khi

Đại-tu-viện được dưng-cúng l

ên

Đức Phật, th

ì một lâu-

đ

ài nguy-nga, tráng-lệ nổi lên trên cõi Trời

Đao-lợi, d

ành riêng cho Nan-

đi-gia.

Một hôm, Tôn-giả

Đại-Mục-kiền-li

ên vận-dụng phép thần-thông lên cõi Trời

Đao-lợi, nh

ìn thấy lâu-

đ

ài tráng-lệ dành sẵn cho Nan-

đi-gia, khi trở về, mới đến bạch Phật

: "Bạch Thế-tôn, phải ch

ăng những người đ

ã có công-

đức to-lớn cúng-dường, được d

ành sẵn lâu-

đ

ài tráng-lệ trên cõi Trời

Đao-lợi

?"

Đức Phật bảo

: "Nầy Mục-kiền-liên, sao ông còn lại hỏi? Ông chẳng thấy ngôi lâu-

đ

ài nguy-nga trên cõi Trời

Đao-lợi d

ành sẵn cho Nan-

đi-gia, người đ

ã dưng-cúng

Đại-tu-viện nầy ở vườn Lộc-uyển đó hay sao

? Chư Thiên trên cõi Trời

Đao-lợi đang chờ ng

ày

đón tiếp Nan-đi-gia, như những thân-nhơn chờ ng

ày người bà-con

đi xa trở về. Những người l

àm

điều thiện, khi li

à bỏ cõi trần nầy, sẽ

được chư Thi

ên trên cõi Trời

Đao-lợi đón tiếp nồng-hậu.

"

Rồi

Đức Phật nói l

ên hai bài Kệ sau

đây

:

Người rời nhà từ lâu xa vắng,

Nay quay trở lại

đặng an-to

àn.

Bà con, bè-bạn hân-hoan

Đón mừng người ấy bình-an trở về.

(Kệ số 219.)

Cũng vậy, người chuyên bề hành thiện

Trải từ

đời trước đến đời sau,

Quả lành chờ sẵn

đón ch

ào

Như mừng người bạn

đi lâu mới về.

(Kệ số 220.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Gia-chủ: Gia = nhà; Chủ = người chủ. Gia-chủ là chủ nhà.

- Nan-

đi-gia:

tên người gia-chủ nầy, tiếng Pali là Nandiya.

- Vườn Lộc-uyển: Lộc = con nai; Uyển: vườn.

Đây l

à khu vườn nơi

Đức Phật thuyết-giảng Kinh

Chuyển-Pháp-Luân, lần

đầu-ti

ên cho n

ăm anh em ông Kiều-trần-như nghe, sau khi Ng

ài thành

Đạo. C

òn gọi là Vườn Tiên, tiếng Pali là Isipatana, vì trước ở

đây có nhiều vị ti

ên tu.

- Ba-la-nại: tên thành-phố lớn ở Ấn-

độ, nay gọi l

à Vaàrànasì.

- Kiến-trúc = xây-cất.

- Đồ-sộ = to lớn.

- Tráng-lệ = thật

đẹp-đẽ.

-

Đao-lợi

=

cõi Trời thuộc Dục-giới, còn gọi là cõi Trời Tam-thập-tam-thiên, có 33 cảnh, ở giữa có cung-

điện của Vua Trời Đế-Thích. Tiếng

Pali gọi cõi Trời nầy là Tàvatimsa.

- Thần-thông: pháp-lực khác thường như có thể bay trên không,

đi tr

ên mặt nước, v.v. do nhờ định-lực cao trong khi tu Thiền.

- Lià bỏ cõi trần: rời cuộc sống ở kiếp người, tức là chết

đi.

- Hành-thiện:Hành = làm;Thiện = điều lành. Hành-thiện = làm lành

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện thuật lại việc người gia-chủ Nan-

đi-gia xây ch

ùa ở vườn Lộc-uyển,

được d

ành sẵn lâu-

đ

ài tráng-lệ trên cõi Trời

Đao-lợi.

Ý-nghĩa của Tích chuyện là, hễ làm lành thì quả lành chờ sẵn, cũng như bà-con chờ

đón người thân đi xa trở về. Việc thiện, cũng như điều ác, một khi đ

ã làm, thì kết-quả, tốt hay xấu, sẽ chờ sẵn, khi

đủ dịp sẽ trỗ ra; đó l

à Luật Nhơn-quả.

(2) Ý-nghĩa của hai bài Kệ số 219 và 220:

Hai bài Kệ thật ra chỉ là một bài, nói về quả-báo lành

đang chờ ng

ày trỗ quả

đến cho người đ

ã hành-thiện. Nên lưu-ý hai câu: "Người chuyên bề hành-thiện, Trải từ

đời trước đến đời sau

", và nhớ rằng, quả-báo lành tuy nay chưa xảy ra, nhưng sớm muộn chi cũng có ngày trỗ quả, vậy cứ chuyên-tâm làm lành, phước sẽ

đến về sau, chẳng mất

.

-ooOoo-

XVII.- Phẩn SÂN-HÂN.

(174).- Tích chuyện công-chúa Lỗ-hi-nhi.

Vào một thời kia,

Đức Phật ngụ tại Ch

ùa Cây Sung, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có

đề-cập đến công-chúa Lỗ-hi-nhi, em của Trưởng-l

ão A-nâu-lâu-

đ

à.

Thuở ấy, Trưởng-lão A-nâu-lâu-

đ

à viếng thành Ca-tỳ-la-vệ. Trong thời-gian nầy, các thân-nhơn

đều đến thăm-viếng Trưởng-l

ão, chỉ trừ người em ruột là công-chúa Lỗ-hi-nhi chẳng thấy

đến. Trưởng-l

ão cho người

đi mời. Công-chúa bấy giờ đang mắc bịnh c

ùi ( = hủi), lấy kh

ăn qu

àng

đầu, che các chỗ lở-lói, rồi mới đến ch

ùa. Trưởng-lão liền hỏi công-chúa

đ

ã có làm

được một việc thiện n

ào không? Công-chúa

đáp, chưa. Trưởng-l

ão khuyên công-chúa nên

đem các đồ nữ-trang v

à quần-áo

đẹp của m

ình ra bán, lấy tiền xây cất một phòng

ăn cho chư Tăng ở tu-viện. Công-chúa vâng lời l

àm theo lời dạy. Bấy giờ, Trưởng-lão lại khuyên công-chúa, mỗi ngày nên quét-tước chung quanh tu-viện, gánh nước

đổ đầy lu trong ch

ùa, trong khi phòng

ăn được xây cất. Công-chúa đều tuân theo lời anh m

ình dạy.

Đến khi phòng ăn được xây cất xong và bàn-ghế được trang-hoàng đẹp-đẽ, Trưởng-lão thỉnh Đức Phật và chư Tăng đến tu-viện để khánh-thành. Sau buổi ngọ-trai, Đức Phật cho mời vị thí-chủ đã dưng-cúng phòng ăn. Công chúa được gọi đến trình-diện cùng Đức Phật. Đức Phật ngỏ lời tán-thán công-đức cúng-dường của công-chúa, và hỏi công-chúa có biết vì sao nay bị bịnh cùi không? Công-chúa thưa, chẳng biết.

Đức Phật mới kể lại tích xưa như sau

:

Vào một thời xa xưa, có bà hoàng-hậu xứ Ba-la-nại, nhan-sắc

đẹp-đẽ nhưng tánh-t

ình hay ghen-tuông. Nhà vua lại có một nàng cung-nữ trẻ

đẹp muá hát thật khéo, được vua cưng-chiều lắm. Ho

àng-hậu ganh-tị, lén cho người rắc thuốc ngứa vào ch

ăn-chiếu của cô cung-nữ. Rồi trong khi n

àng múa hát, các tỳ-nữ theo lịnh của Hoàng-hậu, thoa phấn ngứa vào mình người vũ-nữ, khiến cho quá ngứa ngáy, phải chạy lui về phòng, quấn mình trong ch

ăn, lại c

àng thêm ngứa-ngáy. Vì tội-ác

đó, ho

àng-hậu nay lại tái-sanh làm công-chúa Lỗ-hi-nhi với c

ăn bịnh gớm-ghiếc. Nghe Đức Phật kể xong, công-chúa tỏ l

òng

ăn-năn, hết sức hối-tiếc tội-lỗi đ

ã qua.

Bấy giờ

Đức Phật mới nói l

ên bài Kệ sau

đây, nhờ đó công-chúa Lỗ-hi-nhi chứng được sơ-quả Tu-đ

à-huờn, và bịnh cùi cũng từ từ khỏi:

Phải dẹp bỏ sân-hận,

Phải lià xa ngã-mạn,

Kết-sử phải vượt qua hết.

Chẳng luyến-ái danh-sắc

Thoát khỏi mọi lậu-hoặc,

Phiền-não sẽ chừa người nầy ra.

(Kệ số 221.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Lỗ-hi-nhi: tên vị công-chúa nầy, tiếng Pali là Rohinì.

- Chùa Cây Sung: tên ngôi tu-viện nầy, tiếng Pali là Nigrodàràma. Chữ Nigrodà có nghĩa là cây Sung.

- A-nâu-lâu-

đ

à: còn

được gọi l

à A-na-luật, tiếng Pali Anuruddha

- Ca-tỳ-la-vệ: thủ-

đô nước Xá-vệ, qu

ê-hương của

Đức Phật Thích-ca; tiếng

Pali là Kapilavatthu.

- Khánh-thành: Khánh = mừng; Thành = xong; Lễ khánh-thành là lễ

ăn mừng việc xây-cất đ

ã xong.

- Ngọ-trai: Ngọ = 12 giờ trưa; Trai = bữa

ăn chay. Sau bữa

ngọ-trai, chẳng

được ăn th

êm nữa suốt ngày, theo giới-luật Nam-tông.

- Thí-chủ: Thí = bố-thí, ban cho; Chủ: người

đứng l

àm chủ. Thí-chủ hay Thí-giả, là người cho (= bố-thí), còn người nhận gọi là Thọ-giả.

- Tán-thán: khen ngợi.

- Tái-sanh: sanh trở lại, sau khi

đ

ã chết.

- Sơ-quả: Sơ = ban sơ,

đầu-ti

ên. Sơ-quả là quả-vị

đầu-ti

ên, tức là quả-vị Tu-

đ

à-huờn.

- Ngã-mạn: kiêu-c

ăng, tự xem m

ình là hơn kẻ khác, khoe giỏi.

- Kết-sử:Kết = ràng-buộc; Sử = sai-khiến. Kết-sử là những tình-cảm, tư-tưởng có tánh-cách ràng-buộc, thúc-dục, sai-khiến ta phải làm theo

đường quấy. Tiếng

Pali là Sanyojana, dịch là thúc-thằng; thúc = ràng-buộc; thằng = sợi dây; thúc-thằng là sợi dây trói buộc, dùng theo nghĩa bóng.

Theo giáo-lý Bắc-tông, có tất cả 10 kết-sử, chia ra:

a) ngũ-

độn-sử

: (1) thân-kiến, chấp lấy thân nầy làm cái Ta; (2) nghi, chẳng tin ở Chánh-pháp; (3) giới-cấm-thủ, mê-tín tin vào các nghi-thức cúng-tế tà-

đạo; (4)

tham, (5) sân, giận-hờn.

b) ngũ lợi-sử: (6) sắc-ái-kết, tham-luyến cảnh Sắc-giới; (7) vô-sắc-ái, tham-luyến cảnh Vô-sắc-giới; (8) mạn, kiêu-c

ăng; (9)

trạo, giao-

động, bối-rối; (10)

vô-minh, sự si-mê.

Khó mà nhớ

đủ mười món kết-sử, cần nhớ năm món chánh nầy, để dẹp bỏ, l

à: tham, sân, si, mạn và nghi. Dẹp xong n

ăm độn-sử

chứng

được quả-vị A-na-h

àm; dẹp cả mười, chứng quả A-la-hán.

- Danh-sắc: Danh = tên gọi; Sắc = vật-chất. Chữ Danh-sắc có nghĩa là thân và tâm; thân trỏ vào sắc; còn tâm trỏ vào danh.

- Lậu-hoặc; Lậu = rỉ chảy; Hoặc = điều sai lầm. Chữ lậu-hoặc trỏ vào các

điều sai-lầm trong t

ình-cảm, tư-tưởng, chảy lộ ra, bộc-lộ ra, bằng các hành-

động xấu-ác. C

ùng nghĩa với chữ phiền-não.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện thuật lại việc công-chúa Lỗ-hi-nhi bị bịnh cùi, bởi trong tiền-kiếp có tội-ác làm ngứa-ngáy một cung-nữ, vì bụng-dạ sân-hận thúc-

đẩy. Nay nhờ biết dưng-cúng ph

òng

ăn cho chư Tăng, v

à làm công-quả ở chùa, mà

được Đức Phật chỉ r

õ lỗi-lầm

đ

ã qua, và nhờ biết

ăn-năn, m

à từ-từ khỏi

được bịnh.

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 221:

Bài Kệ kể ra những việc phải làm

để

phiền-não chừa mình ra: dẹp bỏ sân-hận, xa-lià ngã-mạn, vượt qua các kết-sử, bỏ luyến-ái thân-tâm, thoát mọi lậu-hoặc. Đây là cả một chương-trình tu dài hạn cả một đời, hay cả nhiều đời: chứng-quả A-la-hán, bằng cách diệt-tiêu tất cả mọi phiền-não. Nên bắt

đầu bằng cách dẹp ngay

Sân-hận.

(175).- Tích chuyện vị Thọ-thần.

Vào một thời kia,

Đức Phật ngụ tại tháp Ất-gia-la, gần th

ành A-la-vi, trong một kỳ giảng pháp, có

đề-cập đến một vị thọ-thần, sống dựa v

ào cây cổ-thụ trong rừng.

Thuở ấy, có một vị tỳ-kheo muốn cất cho mình một cái am

để tiện tu-tập. Vị ấy v

ào rừng,

đốn một cây cổ-thọ, b

ên trên có gia-

đ

ình một vị thần-linh

đang trú-ngụ. Vị thọ-thần bước ra năn-nỉ, xin đừng đốn cây, l

àm mất nơi nương-tựa cho gia-

đ

ình mình. Vị tỳ-kheo chẳng nghe theo, cầm cưa, cưa một nhánh lớn. Vị thọ-thần liền nghĩ, có lẽ

để đứa con nhỏ tr

ên nhánh cây, vị tỳ-kheo sợ nó té xuống mà ngưng

đốn chăng. Chẳng ngờ lưỡi cưa đi quá nhanh, khiến đứa bé té g

ãy tay. Vị thọ-thần liền nổi giận, muốn giết chết vị tỳ-kheo. Vừa

đưa tay l

ên

định đấm v

ào vị tỳ-kheo, thì vị thọ-thần liền nghĩ lại: "Nếu ta giết chết một người

đang tuân theo

giới-luật, thì ta phải chịu quả-báo, sa vào

địa-ngục. Các thọ-thần khác trong rừng, rồi cũng bắt chước theo lỗi của ta, v

à sẽ có nhiều vị tỳ-kheo khác bị hại sau nầy. Nhưng, tỳ-kheo tu-tập, tất có thầy dạy, chi bằng ta

đến thưa c

ùng

Đức Phật, xem Ng

ài phân-xử ra sao." Nghĩ xong, vị thọ-thần bồng con

đến nơi Đức Phật đang ngụ v

à thuật lại cớ-sự.

Đức Phật bảo

: "Nầy nữ-thọ-thần, bà rất

đáng khen, biết tự kềm-chế cơn giận. Nay b

à cứ dọn về ở trong vườn, gần nơi hương-phòng của ta, chẳng ai

đến khuấy rối nữa.

" Và ngay hôm

đó, Đức Phật ra giáo-chỉ, cấm tất cả tỳ-kheo đốn cây.

Rồi

Đức Phật nói l

ên bài Kệ sau

đây

:

Chận cơn giận-dữ nổi lên,

Như xe ngon trớn, thắng liền ngừng ngay.

Đấy là người đánh xe tài,

Các người khác chỉ là nài cầm cương.

(Kệ số 222.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Thọ-thần: Thọ = cây cổ-thọ, cây to sống lâu n

ăm;

Thần = thần-linh. Thọ-thần là thần-linh sống trên cây-cối; tiếng Pali: rukkha devatà

- Tháp Ất-gia-la, thành A-la-vi: tên các

địa-danh nầy, tiếng

Pali là tháp Aggàlava và thành Àlavi.

- Am = một c

ăn nh

à nhỏ, sơ-sài, dùng làm nơi trú-ngụ cho người ẩn-tu. Còn gọi là cốc, hay thất, hoặc tịnh-xá.

- Giới-luật: các

điều răn-cấm trong đạo Phật m

à vị tỳ-kheo phải tuân theo. Giữ

đúng giới-luật l

à người có giới-

đức thanh-tịnh.

- Quả-báo: kết-quả của việc ác sẽ xảy ra sau nầy cho kẻ làm ác.

- Điạ-ngục: Điạ = đất; Ngục = nhà giam tù. Theo thuyết Luân-hồi, kẻ làm ác, khi chết

đi, phải sa v

ào nơi u-tối, chịu hình-phạt nặng-nề

để đền lại tội-ác đ

ã gây lúc còn sống.

- Kềm-chế: giữ-gìn chẳng cho xảy ra; thí-dụ muốn

ăn đồ ngọt, nghĩ rằng chất ngọt dễ hư răng, ngưng lại chẳng ăn, đó l

à kềm-chế.

- Hương-phòng: c

ăn ph

òng có hương thơm, dành riêng cho

Đức Phật; tiếng

Pali là gandhakuti.

- Giáo-chỉ: Giáo =tôn-giáo; Chỉ = điều lịnh cấm-đoán. Giáo-chỉ là lịnh của T

ăng-đo

àn

đưa ra, buộc mọi tỳ-kheo phải tuân theo.

- Thắng = cái thắng, bộ-phận làm ngừng xe

đang chạy.

- Nài = người giữ ngựa, chỉ cầm cương, nhưng chẳng biết cách

điều-khiển v

à làm chủ

được con ngựa.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện kể lại một vị thọ-thần bị xâm-phạm nơi cư-trú, con bị gãy tay, nổi giận muốn giết người, nhưng kịp nghĩ lại, chận

được niềm sân-hận. Đức Phật khen-ngợi sự biết kềm-chế sân-hận nầy.

Ý-nghĩa của Tích chuyện:

đề-cao sự tự-kềm-chế để chống lại sự giận-dữ. Biết tự-kềm-chế l

à tự-thắng

được m

ình, còn vẻ-vang hơn là thắng kẻ khác.

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 222:

Bài Kệ ví sự tự-kềm-chế trước cơn giận-dữ, như người

đánh xe có t

ài: thắng

được xe đang ngon trớn; khác với người thường hay để cho cơn giận lôi-kéo m

ình vào

đường tội-lỗi, ví như t

ên nài chỉ biết cầm cương ngựa mà chẳng

điều-khiển nổi con ngựa.

Học thuộc bài Kệ,

để khi cần, biết tự m

ình... vuốt giận lấy mình.

(176).- Tích chuyện cô tín-nữ Úc-ta-ra.

Vào một thời kia,

Đức Phật ngụ tại tịnh-xá Trúc-lâm, gần th

ành Vương-xá, trong một kỳ giảng-pháp, có

đề-cập đến một cô tín-nữ t

ên là Úc-ta-ra.

Thuở ấy, có một người tín-nữ tên là Úc-ta-ra, con gái của gia-chủ Phú-na. Một hôm, gia-

đ

ình ông Phú-na dưng-cúng thực-phẩm cho Tôn-giả Xá-lợi-phất, sau khi Tôn-giả vừa xuất cơn diệt-tận-

định

; nhờ công-

đức cúng-dường to-lớn nầy m

à gia-

đ

ình ông Phú-na trở nên giàu-có. Trong khi cày ruộng, ông Phú-na bắt gặp

được một khối v

àng lớn, và sau

đó, được Đức Vua phong chức Trưởng Ty Ngân-khố của ho

àng-gia. Cô Úc-ta-ra về sau

được gả chồng về một gia-đ

ình ngoại-

đạo, rất gi

àu-có trong vùng.

Từ khi về nhà chồng, cô Úc thường than-thở: "Tại sao cha ta lại gả ta về một nơi như tù-ngục thế nầy, cả tháng chẳng

được trông thấy một vị tỳ-kheo đi khất-thực, cả năm chẳng được cúng-dường Đức Phật v

à T

ăng-đo

àn." Lời than-thở của cô Úc

được cha cô nghe đến, mới gởi tới cho một số tiền to l

à mười l

ăm ng

àn tiền vàng. Cô Úc liền thưa cùng chồng, muốn

đem tiền ra thu

ê một người dâm-nữ, thay-thế cô trong mười l

ăm ng

ày

để phụng-sự cho chồng. C

òn cô, cô xin

được phép tổ-chức lễ trai-tăng dâng-cúng thực-phẩm l

ên T

ăng-đo

àn trong thời-gian

đó. Người chồng ưng-thuận v

à một cô dâm-nữ, tên là Sĩ-mã, nhan-sắc

đẹp-đẽ được chọn về nh

à thay-thế cho cô Úc.

Sáng sớm hôm ấy, cô Úc

đang bận rộn nấu-nướng thực-phẩm trong nh

à bếp, chồng cô

đứng nh

ìn qua cửa sổ, miệng mỉm cười, nói lẩm-bẩm: "Sao mà nó ngu-dại

đến thế

! Chẳng biết ta

đang hưởng thú-vui c

ùng người

đẹp, m

à cả buổi lại

đi lo nấu-nướng cực nhọc thế kia

!"Cô dâm-nữ Sĩ-mã nghe thấy thế, tỏ lòng ghen-tức với người vợ chánh-thức là cô Úc, quên mất phận mình là người vợ hờ trong nhà. Cô ta bỗng nổi lên ý-

định xấu-ác, muốn đem cả cái chảo bơ chi

ên nóng

đổ l

ên

đầu cô Úc cho bỏ ghét. Trong khi đó, l

òng cô Úc lại rất nhẹ-nhàng, thanh-thản, nghĩ rằng, nhờ có Sĩ-mã mà mình mới

được tự-do, có đủ thời-giờ chuẩn-bị lễ cúng-dường, v

à sẽ

được nghe giảng Chánh-pháp nhiệm-mầu của Đức Phật. Bỗng đ

ùng một cái, cô Sĩ-mã bước

đến gần cô Úc, trút cả chảo bơ chi

ên nóng lên

đầu cô Úc. Trong cơn b

àng-hoàng, cô Úc nghĩ: ‘Nếu ta có ý oán-hờn Sĩ-mã, thì cho chảo bơ nầy làm phỏng hết

đầu ta; nếu l

òng ta chẳng có ý-

định th

ù-oán Sĩ-mã, xin nguyện cho chảo bơ chẳng hại chi

đến ta cả.

" Lạ thay, bơ vừa chảy

đến tóc, liền nguội lại v

à cô Úc chẳng bị phỏng.

Đầy-tớ xúm lại, chực đánh cô Sĩ-m

ã, thì cô Úc liền can, nói nhờ có cô Sĩ-mã mà mình mới

được tự-do chuẩn-bị lễ trai-tăng. Cô Sĩ-m

ã, lòng

đầy hối-hận, q

ùi xuống xin cô Úc tha tội cho. Cô Úc nói: "Hãy

đợi Đức Từ-phụ đến đây, ta tr

ình cớ-sự, mới biết phải tha-tội hay không." Cả nhà

đều tưởng cô Úc sẽ mời ông Phú-na l

à cha ruột của cô

đến để thưa hỏi, nhưng cô Úc lại bảo tiếp

: "Ta nói

Đức Từ-phụ, chẳng phải l

à cha ruột của ta là người

đ

ã

đưa ta v

ào vòng sanh-tử của Luân-hồi nầy, mà chính là

Đức Phật, vị Từ-phụ, người cha tinh-thần, đ

ã chỉ cho ta biết con

đường l

ành thoát khổ khỏi cõi Ta-bà nầy."

Đến trưa, khi Đức Phật và chúng tăng đến nhà thọ-thực xong, sau khi nghe người nhà thuật lại việc xảy ra buổi sáng, Đức Phật liền hỏi: "Nầy tín nữ Úc-ta-ra, khi bị cô Sĩ-mã

đổ bơ nóng l

ên trên

đầu, trong l

òng tín-nữ

đ

ã nghĩ như thế nào?" Cô Úc thưa: "Bạch Thế-tôn, con lúc

đó nghĩ rằng, nhờ có chị Sĩ-m

ã thay-thế cho con phục-vụ chồng con, mà con có

được tự-do chuẩn-bị thực-phẩm cúng dường Tăng-đo

àn,

đó l

à một ơn lớn

đối vớí con, n

ên lòng con chẳng hề oán-giận chị Sĩ-mã chút nào cả, trái lại tâm con lúc nào cũng rải lòng Từ

đến chị Sĩ-m

ã."

Đức Phật khen ngợi

: "Lành thay! Lành thay! Tín-nữ Úc-ta-ra, với tấm lòng bao-dung, cô

đ

ã chinh-phục

được người v

ì ganh-ghét

đ

ã làm hại cô; với tấm lòng vô-não-hại, cô

đ

ã chinh-phục

được kẻ v

ì sân-hận

đ

ã hành-hung mình; với tấm lòng khoan-hậu, cô sẽ chinh-phục

được những kẻ bủn-xỉn; với tấm l

òng tôn-trọng Sự-Thật, cô sẽ chinh-phục

được những kẻ nói dối.

"

Rồi

Đức Phật nói l

ên bài Kệ sau

đây

:

Vô-sân chế-phục giận-hờn,

Điều thiện phải thắng, phải hơn điều tà.

Trị xan-tham, chính là bố-thí,

Chống hư-ngụy, Chơn-lý

đề-cao.

(Kệ số 223.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

-Tín-nữ: Tín = tin-tưởng; Nữ = phụ-nữ,

đ

àn-bà.Tín-nữ là người phụ-nữ có lòng tin-tưởng nơi Phật, Pháp và T

ăng.Phái nam gọi

thiện-nam.

- Úc-ra-ra, Phú-na, Sĩ-mã: tên các người nầy tiếng Pali là Uttara, Punna, Sirimà.

-Trúc-lâm, Vương-xá: tên tịnh-xá và thành nầy, tiếng Pali là vườn Veluvana, thành Rajàgaha.Vua Tần-bà-sa-la (Bimbisara) xây cất tịnh-xá Trúc-lâm, trong vườn Trúc, dưng-cúng

Đức Phật v

à T

ăng-đo

àn.

- Diệt-tận-

định: Diệt

= trừ dứt; Tận = hết cả; Định = tâm-trạng người tu Thiền

đ

ã lắng-

đọng, an-ổn.

Diệt-tận-

định

là tình-trạng tâm vắng-lặng, dứt

được mọi cảm-giác v

à tri-giác, trong cơn

đại-định, vượt qua khỏi cảnh-giới

đệ-tứ-thiền.Tiếng Pali là Nirodha Samàpatti.

- Tôn-giả Xá-lợi-phất: tên vị

đại-đệ-tử của Phật Thích-ca, tiếng

Pali là Sariputta; người nổi tiếng là thông-minh vào bực nhứt.

- Ngoại-

đạo

= Ngoại = ở ngoài; Đạo:

đây chỉ về đạo Phật.

Ngoại-

đạo

là những giáo-phái tu-hành chẳng theo

đạoPhật. Có tất cả sáu phái v

ào thời

Đức Phật, gọi l

à lục-sư ngoại-

đạo.

- Trưởng Ty Ngân-khố của hoàng-gia: Ngân-khố của hoàng-gia là kho bạc của Nhà Vua.Trưởng-ty Ngân-khố là vị giữ chức chủ kho bạc.

- Dâm-nữ = người

đ

àn-bà bán sắc-

đẹp để mua vui cho đ

àn-ông.

- Phụng-sự, phục-vụ = theo hầu-hạ, giúp-

đỡ.

- Vợ hờ: người tạm-thời làm vợ, chẳng phải là vợ chánh-thức.

- Phỏng = da phồng, sưng lên; tiếng miền Bắc là bỏng.

- Bàng-hoàng = còn

đang phân-vân, lo-ngại, chưa tỉnh-táo.

- Trai-t

ăng: Trai

=

bữa

ăn chay;

T

ăng

= tu-sĩ Phật-giáo. Lễ Trai-t

ăng

là lễ dưng-cúng thực-phẩm lên cho các vị tỳ-kheo.

- Từ-phụ: Từ = từ-bi, hiền-lành,

đem l

òng thương muốn cứu-khổ cho kẻ khác; Phụ = cha.

Đấng

Từ-phụ tức là Cha lành, chỉ

Đức Phật.

- Vòng sanh-tử của Luân-hồi: theo thuyết Luân-hồi, chúng-sanh chết

đi, t

ùy theo nghiệp lành hay dữ mà tái-sanh lại ở cõi

đời nầy.

- Cõi Ta-bà: cõi chúng ta

đang sanh-sống đây. Đây l

à cõi Nhẫn-

độ

(Phạn = Saha) chúng-sanh phải kham-chịusướng ít mà khổ nhiều.

- Thọ-thực:Thọ = nhận; Thực = ăn. Tiếng nhà chùa, có nghĩa là ăn.

- Rải lòng Từ = trong tâm nghĩ

điều l

ành hướng về người kia.

- Bao-dung: Bao = che-chở; dung = dung-thứ, tha cho. Lòng Bao-dung là lòng nhơn-từ, hay tha thứ cho kẻ khác.

- Chinh-phục: Chinh = đánh lấy; Phục = hàng-phục, bắt phải theo lịnh mình. Chinh-phục

được ai

là khiến kẻ ấy phục và nghe theo mình. Cùng nghĩa với chữ Chế-phục.

- Vô-não-hại: Vô = chẳng; Não = phiền-não; Hại = hiếp-

đáp. L

òng vô-não-hại là lòng từ-bi, chẳng hề làm hại ai, chẳng gây phiền-não cho ai. Tiếng Pali là ahimsa.

- Hành-hung: Hành = làm; Hung = hung-dữ, ác. Hành-hung ai là làm cho kẻ ấy phải chịu

đau-đớn, khổ-sở.

- Khoan-hậu: Khoan = rộng-rãi, Hậu = dày, nhiều. Lòng khoan-hậu là lòng rộng-rãi, hay hiến-tặng nhiều cho kẻ khác.

- Xan-tham, Bủn-xỉn = Xan = bỏn-sẻn, rít-róng, quá hà-tiện. Tánh-tình xan-tham, bủn-xỉn chỉ biết ham cho mình có thật nhiều và chẳng hề chịu bố-thí chút gì cho ai cả.

- Vô-sân: Vô = chẳng;Sân = giận. Lòng vô-sân trái với sự giận-hờn.

- Hư-nguỵ: Hư = hư-dối, chẳng thiệt; Ngụy = giả-dối, chẳng

đúng với Sự-thật.

Hư-ngụy là giả-dối, giả-tạo, bầy

đặt láo.

- Chơn-lý = Sự-Thật.

-

Đề-cao:

được nêu cao lên để mọi người bắt chước theo.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện tuy dài, có thể tóm gọn lại như sau: Cô Úc-ta-ra, mặc dầu bị

đổ bơ nóng l

ên

đầu, vẫn chẳng giận người l

àm quấy, mà còn rải lòng Từ-bi

đến cho người đó. Đức Phật khen-ngợi thái-độ đáng

quí

đó v

à dạy ta những

đức-tánh

: vô-sân để kềm-chế sự giận-dữ; vô-não-hại để chinh-phục kẻ hành-hung; khoan-hậu để diệt bụng rít-róng; biết trọng Sự-thât để khuất-phục người nói dối.

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 223:

Bài Kệ nầy khó nhớ vì có nhiều danh-từ chuyên-môn; xin chịu khó xem lại phần Tìm hiểu. Các

đức-tánh kể trong b

ài Kệ giúp ta thắng

được chính ta

: thắng tánh hay giận của mình, thắng lòng bỏn-xẻn chẳng chịu bố-thí, thắng

được sự hay binh-vực m

ình

để nói sai Sự-thật. Tự thắng m

ình là chiến-thắng vẻ-vang nhứt, như Phật

đ

ã dạy.

(177).- Tích chuyện Tôn-giả Mục Kiền-liên hỏi Phật.

Vào một thời kia,

Đức Phật ngụ tại ch

ùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp có

đề-cập đến các câu hỏi của Tôn-giả Đại Mục-kiền-li

ên.

Thuở ấy, Tôn-giả

Đại Mục-kiền-li

ên, một hôm dùng thần-thông lên viếng trên cõi Trời. Tôn-giả thấy các thiên-nam, thiên-nữ

đang vui sống thảnh-thơi trong các lầu-đ

ài nguy-nga tráng-lệ. Tôn-giả mới hỏi các vị ấy: "Do

đâu m

à

được sanh l

ên cõi Trời?" Một vị

đáp

: "Chẳng phải tôi

đ

ã bố-thí thật nhiều của-cải, hay ch

ăm nghe Chánh-pháp mới được sanh l

ên cõi Trời. Tôi chỉ biết luôn luôn nói

đúng theo Sự-thật, có l

àm sao thì tôi nói làm vậy, thôi." Môt vị thiên-nữ lại

đáp

: "Trong

đời trước, tôi l

àm nô-lệ cho một ông chủ rất khó tánh; bị rầy, bị

đánh, tôi chẳng hề giận hay oán chủ chút n

ào, nhờ

đó m

à

được sanh l

ên

đây.

" Một vị thiên-nam khác lại nói: "Còn tôi, tôi nhớ chỉ có mấy lần tặng cho kẻ khác một khúc mía, một trái cam, hay một bó rau; nhờ phước

đó m

à tôi

được l

àm thiên-nam sống ở cõi trời nầy."

Khi trở về dương-thế, Tôn-giả

đến bạch Phật

: "Bạch Thế-tôn, có phải ch

ăng chỉ cần biết giữ lời nói đúng Sự-Thật, chỉ cần biết kềm-chế m

ình chẳng giận-hờn, chỉ cần hiến-tặng những vật nhỏ-mọn như khúc mía, bó rau, mà tất cả

đều được sanh l

ên cõi Trời ch

ăng

?"

Đức Phật đáp

: ‘Nầy Mục-kiền-liên, sao ông còn lại hỏi; bộ ông chẳng chính mắt thấy, chính tai nghe các thiên-nam, thiên-nữ

đ

ã nói với ông những gì trước

đó hay sao

? Ông chớ có nghi-ngờ, một công-

đức d

ù nhỏ bé,

được l

àm với tấm lòng thành, cũng

đưa ta tái-sanh l

ên cõi Trời, hưởng phước dài lâu."

Rồi

Đức Phật nói l

ên bài Kệ sau

đây

:

Nói lên lời chánh-chơn,

Chẳng nổi cơn giận-hờn,

Ít, cũng cho, khi

được hỏi

:

Đấy là ba đường lên tới cõi Trời.

(Kệ số 224.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Tôn-giả

Đại Mục-kiền-li

ên: Tôn = đáng kính; Giả = người. Đại Mục-kiền-liên = tên của tôn-giả tiếng Pali là Mahà Moggallàna. Tôn-giả là vị

đại-đệ-tử của Phật Thích-ca, giỏi nhứt về thần-thông.

- Thần-thông: các khả-n

ăng đặc-biệt nhờ nơi định-lực cao, như bay tr

ên không,

đi tr

ên mặt nước, v.v.

- Thiên-nam, Thiên-nữ: Thiên = trời; các chúng-sanh ở cõi Trời.

- Nô-lệ = đầy-tớ ở suốt đời với chủ, chẳng có tự-do cá-nhơn.

- Dương-thế: tức là cõi trần, nơi ta

đang sống đây.

- Bạch = thưa hỏi với bực trưởng-thượng.

- Tái-sanh: Tái = một lần nữa; Tái-sanh

được sanh lại lần nữa.

- Công-

đức

:

việc thiện tạo nên phước về sau.

- Chánh-chơn: chơn-chánh,

đứng-đắn, đúng với Sự-Thật.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện kể lại việc Tôn-giả Mục-kiền-liên lên th

ăm-viếng c

õi Trời, và nghe các thiên-nam, thiên-nữ cho biết do

đâu m

à

được sanh l

ên trên

đó

: biết nói

đúng theo Sự-thật, chẳng giận-hờn, tặng cho kẻ khác v

ài vật nhỏ mọn như khúc mía, bó rau, v.v.

Đức Phật xác nhận, đường l

ên cõi Trời chỉ cần làm một công-

đức nhỏ với tấm l

òng thành mà thôi.

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 224:

Bài Kệ vạch rõ con

đường l

ên cõi Trời: (1) nói lời chơn-chánh; (2) chẳng nổi giận; (3) dầu có ít, nhưng

được ai hỏi xin, cũng đem cho. Nếu biết l

àm

đúng, với tấm l

òng thành,

Đức Phật nói sẽ được tái-sanh l

ên cõi Trời hưởng phước dài lâu.

Theo trong Kinh Thập Thiện Nghiệp-

đạo,

người nào giữ

đúng mười điều l

ành nầy, sẽ sanh lên cõi Trời: (1) về thân, có ba việc là chẳng sát-sanh, chẳng trộm-cắp, chẳng tà-dâm; (2) về miệng, có bốn việc là chẳng nói dối, chẳng nói

đâm-thọc, chẳng nói lời thô-ác, chẳng lời vô-

nghĩa ( = ngồi lê

đôi mách), (3) về

ý, có ba việc, chẳng tham, chẳng sân (giận), chẳng có tà-kiến (ý-kiến sai-lầm).

(178).- Tích chuyện một người Bà-la-môn tự-nhận mình là cha của

Đức Phật.

Vào một thời kia,

Đức Phật trú tại rừng An-gi

à, gần thành Sa-kê, trong một kỳ giảng-pháp, có

đề-cập đến một người B

à-la-môn tự nhận mình là cha của

Đức Phật.

Một hôm,

Đức Phật v

à chư tỳ-kheo

đi v

ào thành Sa-kê

để khất-thực. Dọc đường, Ng

ài gặp một người Bà-la-môn già-cả

đến gần v

à nói: "A! nầy con, sao lâu quá chẳng thấy con về nhà. Con hãy theo cha về, kẻo mẹ con trông con lắm

đó.

" Rồi người ấy liền thỉnh

Đức Phật v

à chư T

ăng về nh

à dưng-cúng thực-phẩm. Khi

Đức Phật v

à các tỳ-kheo bước vào phòng khách, bà Bà-la-môn

đ

ã ân-cần nói: "Đã hèn lâu, con mới về nhà. Nào sắp nhỏ đâu, hãy mau ra chào đón người anh-cả của các con

đây

!"

Kể từ hôm

đó, vợ chồng người B

à-la-môn già

đó tiếp-tục h

àng ngày cúng-dường

Đức Phật v

à chư T

ăng. Họ được nghe Đức Phật giảng-dạy Chánh-pháp, v

à chẳng bao lâu cả hai vợ chồng

đều chứng-đắc được quả vị A-na-h

àm.

Đức Phật v

à chúng T

ăng mới lưu lại rừng An-gi

à trong ba tháng, nhờ

đó, vợ chồng người B

à-la-môn chứng

được quả-vị A-la-hán, rồi nhập Niết-b

àn.

Chư T

ăng rất ngạc-nhi

ên thấy tại sao vị Bà-la-môn và vợ lại tự nhận họ là cha mẹ của

Đức Phật, v

à nay họ

được tái-sanh về c

õi nào.

Đức Phật bảo

: "Trong tiền-kiếp, cách

đây một ng

àn n

ăm trăm đời, ông b

à ấy

đ

ã có thời làm cha mẹ ta,

đ

ã có thời làm chú bác ta. Họ nay chứng

được quả-vị A-la-hán rồi, chẳng c

òn phải tái-sanh nữa, hằng tự-tại trong cõi Niết-bàn an-lạc."

Rồi

Đức Phật nói l

ên bài Kệ sau

đây

:

Người hiền chẳng hại nhân.

Thường tự-chế tâm-thân,

Hướng

đến c

õi Niết-bàn bất-diệt,

Đến đấy, phiền-muộn đều dứt hết.

(Kệ số 225.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Bà-la-môn: giai-cấp thứ nhứt của Ấn-

độ xưa, hạng người tu-sĩ. Có bốn giai-cấp: (1)

Bà-la-môn(Brahmana), tu-sĩ; (2) Sát-

đế-lợi,(Khat-tiya)

vua, quan; (3) Phệ-xá (Vessa), buôn-bán; (4) Thủ-

đ

à-la (Suddà), công nhơn, nông-phu.

- Rừng An-già, thành Sa-kê: tên hai

địa-danh nầy, tiếng

Pali là rừng Anjana, thành Sàketa.

- Anh-cả: người con trai lớn nhứt trong gia-

đ

ình.

- A-na-hàm: quả-vị thứ ba trong hàng Thanh-v

ăn (

= các

đệ-tử Phật, sống gần Phật, nghe kinh m

à tu-tập.) Chứng

được quả-vị nầy, h

ành-giả

đ

ã dứt trừ

được năm món phiền-n

ão: (1) thân-kiến ( =chấp thân nầy làm Ta), (2) nghi-ngờ về Chánh-pháp, (3) giới-cấm-thủ ( = tin theo các nghi-thức cúng-tế của ngoại-

đạo), (4)

tham, (5)sân ( = giận). Tiếng Pali:Anàgàmi, dịch là Bất-Lai, chẳng còn tái-sanh vào cõi người

- A-la-hán: quả-vị Thánh, cao nhứt trong hàng Thanh-v

ăn. Đến quả-vị nầy, h

ành-giả dẹp xong tất cả phiền-não, lìa xa mọi ham-muốn sống tự-tại trong cảnh-giới Niết-bàn. Pali là Arahant, theo nghĩa chuyên-môn là (1) vô-sanh, hết bị tái-sanh; (2)sát tặc, giết hết giặc phiền-não; (3) ứng-cúng, xứng-

đáng được Trời v

à Người cúng-dường.

- Niết-bàn: tiếng Phạn là Nirvana; Pali là Nibbana, có nghĩa là ra khỏi rừng phiền-não u-tối, sống trong cảnh an-nhiên và tự-tại.

Đây l

à cảnh-giới xuất-thế-gian, chẳng thể dùng lời nói thường mà giải-nghĩa

được; ai chứng Niết-b

àn, bấy giờ mới tự mình biết cảnh nầy ra sao.

- Tiền-kiếp: kiếp trước. Theo kinh-sách, kiếp, hay kiếp-ba (Phạn: Kalpa) là khoảng thời-gian rất dài; một tiểu-kiếp dài hơn16 trìệu n

ăm, gồm có

kiếp t

ăng

, kiếp giảm, thành một trung-kiếp; bốn trung-kiếp: thành, trụ, hoại, diệt, thành một đại-kiếp, kéo dài khoảng 1tỷ 300 triệu n

ăm; trong khi đó đời sống con người chẳng lâu hơn 100 năm.

- Tự-tại = tự-do; ngoài

đời nói

tự-do, trong

Đạo gọi

tự-tại.

- Hại-nhân: Nhân = người; Chẳng hại-nhân = chẳng làm hại người.

- Tâm-thân = thân-tâm, thân-thể và tâm-linh.

- Tự-chế: tự mình kềm-chế mình, giữ sao chẳng làm

điều quấy-ác

- Bất-diệt: Bất = chẳng; Diệt = tiêu-diệt, mất. Bất-diệt là còn hoài.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện rất giản-dị: một người Bà-la-môn tự nhận

đ

ã làm cha của

Đức Phật trong một tiền-kiếp. Điều nầy được Đức Phật xác-nhận l

à

đúng. Tuy giản-dị, nhưng Tích chuyện mang hai ý-

nghĩa rất quan-trọng về giáo-lý:

1)

Đời sống con người chẳng phải chỉ thu-hẹp v

ào khoảng thời-gian tr

ăm năm rồi hết luôn, m

à

đ

ã bắt

đầu từ nhiều đời trước, v

à sẽ kéo dài vào nhiều

đời sau nữa. Đó l

à lý-thuyết vô-thuỷ ( = chẳng biết chắc

được lúc khởi-

thuỷ ) và vô-chung ( = chẳng biết

được đến lúc n

ào chung-cuộc, sẽ chấm-dứt), của

đời sống, của thế-giới, của vũ-trụ.

2) Chúng-sanh trôi-l

ăn trong v

òng sanh-tử, tử-sanh của Luân-hồi, trong kiếp sống có thể làm cha, làm mẹ lẫn cho nhau. Vì lẽ nầy, trong

Đạo Phật, dạy ta phải thương-y

êu mọi chúng-sanh, có thể

đó l

à thân-nhơn của ta trong kiếp trước hay vào kiếp sau.

Đấy l

à c

ăn-bản của l

òng từ-bi, thương-yêu hết mọi chúng-sanh, chẳng còn phân-biệt.

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 225:

Thử phân-tách từng câu của bài Kệ:

1) Người hiền chẳng hại-nhân: Chữ Hiền

đây có hai

nghĩa: (a) theo nghĩa thường là hiền-lành; (b) theo nghĩa chuyên-môn, bực Hiền là những người

đ

ã chứng-

đắc được một trong ba quả-vị đầu-ti

ên là Tu-

đ

à-huờn, Tư-

đ

à-hàm và A-na-hàm. Tính theo số lần phải tái-sanh, thì Tu-

đ

à-huờn còn sanh lại bảy lần, gọi là Thất-Lai; Tư-

đ

à-hàm còn sanh lại một lần, gọi là Nhất-Lai, còn A-na-hàm, chẳng phải tái-sanh vào cõi người nữa, nên gọi là Bất-Lai. Đến bực Hiền, tâm

đ

ã thanh-tịnh, dứt trừ

được sân-hận, n

ên chẳng hề làm hại

đến chúng-sanh nữa.

2) Thường tự-chế tâm-thân: vì lúc nào cũng tỉnh-giác, bực Hiền biết giữ-gìn ba nghiệp: thân, miệng và ý cho trong-sạch.

3) Hướng

đến c

õi Niết-bàn bất-diệt: lấy Niết-bàn làm mục-tiêu tu-tập, nghĩa là dứt trừ mọi phiền-não

để được

tự-tại mãi ( = bất-diệt)

4) Đến đấy, phiền-muộn đều dứt hết: "Đến đấy"

đến đâu? Đến được

cảnh Niết-bàn;

đó chẳng phải l

à một nơi chốn nào riêng-biệt trong trời

đất, m

à chính là ngay trong tâm, tâm

đ

ã thanh-tịnh.

(179).- Tích chuyện nô-tỳ Phú-na.

Vào một thời kia,

Đức Phật ngụ tại núi Linh-thứu, gần th

ành Vương-xá, trong một kỳ giảng-pháp, có

đề-cập đến một người nô-lệ gái t

ên là Phú-na.

Thuở ấy ở gần thành Vương-xá, có một người nô-lệ gái tên là Phú-na, mỗi

đ

êm phải thức khuya

để gi

ã gạo. Trong phút chốc ngồi nghỉ mệt, Phú-na nhìn lên lưng-chừng núi thấy Trưởng-lão

Đắc-ba đang hướng-dẫn các tỳ-kheo quay trở về tịnh-xá, sau khi nghe giảng-pháp. Phú-na suy-nghĩ

: "Thân-phận tôi-

đ

òi của ta phải thức khuya giã gạo nhọc-nhằn, thì

đ

ành rồi; còn các vị tu-sĩ hiền-lành kia, cớ sao lại chẳng

đi nghỉ sớm, giờ nầy c

òn

đang bận-rộn, có lẽ có tu-sĩ n

ào

đang bị bịnh, hay có một con rắn n

ào

đến khuấy rối chăng

?"

Sáng sớm hôm sau, Phú-na thức dậy sớm,

đem chỗ tấm-cám vụn gi

ã thành bột, nhồi thành bánh và

đem nướng. Cô định mang bánh ấy ra bờ ao ngồi ăn. Vừa lúc ấy, Đức Phật v

à chư T

ăng đi khất-thực ngang qua đó. Cô muốn đem bánh dưng-cúng Phật, nhưng trong l

òng còn ngại, chẳng biết

Đức Phật có khứng nhận cho hay không. Nh

ìn cô,

Đức Phật đọc được tư-tưởng b

ên trong, nên Ngài bảo Tôn-giả A-nan trải toạ-cụ bên bờ ao,

để Ng

ài ngồi. Cô Phú-na ngập-ngừng

đến dưng bánh. Đức Phật vui-vẻ nhận, ăn xong, bảo cô Phú-na ngồi b

ên cạnh nghe Ngài giải-

đáp chỗ cô c

òn thắc-mắc

đ

êm qua.

Đức Phật bảo

: "Nầy Phú-na, con chẳng

được đi ngủ sớm, v

ì con còn công-việc giã gạo phải làm. Còn các vị tỳ-kheo

đây, cũng chẳng đi ngủ sớm, v

ì họ phải luôn luôn tỉnh-giác và chuyên-cần tu-tập về

đ

êm."

Rồi

Đức Phật nói l

ên bài Kệ sau

đây, nhờ đó m

à cô Phú-na chứng

được sơ-quả Tu-đ

à-hườn:

Những người tỉnh-giác luôn luôn

Ngày

đ

êm siêng tu Tam-Học,

Chuyên-tâm hướng về Niết-bàn,

Mọi lậu-hoặc

được ti

êu-tan.

(Kệ số 226.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Nô-tỳ, Nô-lệ: đầy-tớ ở suốt đời với chủ, chẳng có tự-do cá-nhơn

- Núi Linh-thứu: núi nầy gần thành Vương-xá, xứ Ma-kiệt-

đ

à, tiếng Pali là Gijjhakùta. Hình ngọn núi giống chim kên-kên(chim thứu)

- Phú-na: tên cô nô-lệ nầy, tiếng Pali là Punna.

-

Đắc-ba:

tên vị trưởng-lão nầy, tiếng Pali là Dabba.

- Toạ-cụ: Toạ = ngồi; Cụ = khí-cụ, vật-dụng. Toạ-cụ là tấm nệm nhỏ, còn gọi là bồ-

đo

àn,

kê bên dưới

để ngồi Thiền.

- Tỉnh-giác: Tỉnh = tỉnh-thức, chẳng mê; Giác = biết rõ. Người tỉnh-giác lúc

đang l

àm, nói, nghĩ

điều g

ì, thì trong tâm biết rõ và theo dỡi mình

đang l

àm, nói và nghĩ

điều ấy, v

à chỉ

điều ấy m

à thôi.

- Tam-Học: Tam = ba; Học = môn học. Tam-Học Giới,

Định, Huệ,

còn gọi là Tam vô-lậu-học, ba môn học khiến cho mọi phiền-não, lậu-hoặc chấm-dứt. Nhờ giữ Giới, tự

đặt m

ình trong kỷ-luật tu-hành mà tâm được an-định, chẳng chạy buông-lung nữa; khi tâm đã Định, thì trí-Huệ phát sáng lên, nhờ

đó thấy r

õ con

đường

giác-ngộ và giải-thoát. Theo học Tam-Học, là chọn con

đường

Bát-Chánh-

Đạo.

- Lậu-hoặc: Lậu = rỉ chảy; Hoặc = điều sái-quấy. Lậu-hoặc là các phiền-não như tham, sân, si, mạn, nghi, tà-kiến, từ trong tâm phát lộ ra hành-

động b

ên ngoài. Người nào

đ

ã dứt hết lậu-hoặc, thì chứng quả A-la-hán, tự-tại trong cảnh Niết-bàn an-lạc.

- Sơ-quả Tu-

đ

à-huờn:

quả-vị thứ nhứt là Tu-

đ

à-huờn, hay Thất Lai

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện so sánh sự cực-khổ của người nô-tỳ thức khuya giã gạo với sự kiên-trì, giữ sự tỉnh-thức trong tâm của các vị tu-hành chơn-chánh. Tỉnh-thức

để theo môn Tam-học l

à con

đường ti

êu-diệt phiền-não và chứng-

đắc Niết-b

àn.

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 226:

Bài Kệ khuyên ta hai

điều quan-trọng: (1) luôn luôn chú-ý, hướng về b

ên trong, tâm hằng tỉnh-giác; (2) siêng tu Tam-học: giữ -gìn giới-luật thậtcẩn-thận; giữ tâm hằng an-

định

thì trí-huệ sẽ phát-sáng. Theo

được đầy đủ hai điều nầy l

à tiến gần

đến cảnh

an-lạc của Niết-bàn.

(180).- Tích chuyện chàng thanh-niên A-tu-la.

Vào một thời kia,

Đức Phật ngụ tại ch

ùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp có

đề-cập đến thanh-ni

ên A-tu-la và các bạn-hữu.

Thuở ấy, ở nước Xá-vệ, có chàng thanh-niên tên là A-tu-la cùng với

đông-đảo bạn-b

è, muốn

được nghe giảng Chánh-pháp, mới đến gặp Trưởng-l

ão Lê-va-ta. Trưởng-lão nhìn họ, trầm-ngâm, chẳng nói lên lời nào, tựa như con sư-tử

đang nằm y

ên trong

động đá. Cả bọn rất thất-vọng bỏ đi, đến gặp Tôn-giả Xá-lợi-phất. Tôn-giả ân-cần thuyết-giảng cho họ nghe về

Vi-diệu-pháp, lời giảng thật thâm-trầm, ý-nghĩa thật sâu-xa với các chi-tiết thật cặn-kẽ. Họ chẳng hiểu nổi lẽ huyền-diệu của thời pháp, nên cũng thất-vọng, cùng nhau tìm

đến Tôn-giả A-nan. Chuyến nầy, họ được Tôn-giả A-nan chỉ-dạy thật vắn-tắt thế n

ào là các

điều căn-bản trong Giáo-pháp. Họ vẫn chưa thấu hiểu được

nghĩa-lý, cho rằng bài giảng của Tôn-giả A-nan quá ngắn-ngủi, quá cô-

đọng.

Sau cùng, họ dẫn nhau

đến yết-kiến Đức Phật. A-tu-la bạch Phật:

"Bạch Thế-tôn, lòng chúng con muốn tìm hiểu cho rõ-ràng về Chánh-pháp. Chúng con lần-lượt

đến gặp các vị Trưởng-l

ão thông-thái như Lê-va-ta thì chẳng chịu nói gì, như Xá-lợi-phất thì giảng tràng-giang

đại-hải, c

òn A-nan thì lại quá tóm lược. Chúng con vẫn còn mù-tịt, chẳng biết

đường n

ào mà tìm hiểu cho thật rõ-ràng Chánh-pháp của Thế-tôn."

Đức Phật bảo: "Nầy chư thiện-nam, chê-trách kẻ khác chẳng phải là

điều g

ì mới lạ cả. Từ ngàn xưa, chẳng có ai là chẳng bị chê-trách. Thiên-hạ chê cả

đức Vua, trách cả đức Phật. Nhưng bị người khờ-dại ch

ê-trách cũng chẳng

đưa đến đâu. Chỉ có lời ph

ê-bình, khen hoặc chê, của bực hiền-trí mới thật là lời phán-

đoán đúng-đắn, khiến ta n

ên mừng khi nghe khen, hay nên sửa

đổi lại, khi bị ch

ê."

Rồi

Đức Phật mới nói l

ên các bài Kệ sau

đây, nhờ đó m

à A-tu-la cùng một số bạn-hữu chứng

được quả-vị Tu-đ

à-huờn:

Nầy A-tu-la, nên biết rõ,

Chẳng phải chỉ ngày nay mới có,

Tự ngàn xưa, việc

đó cũng thường

:

Họ chê người nín thinh,

Họ khinh kẻ lắm lời,

Nói vừa vừa cũng trách.

Thế-gian, chẳng có cách nào tìm

được

Người chưa hề phải rước lấy lời chê.

(Kệ số 227.)

Từ xưa cho

đến nay,

Mãi

đến tận sau nầy,

Chưa hề có những ai

Hoặc hoàn-toàn bị chê-bai,

Hoặc trọn-vẹn

được khen-ngợi.

(Kệ số 228.)

Ngày qua ngày, nhận xét rõ,

Người trí mới khen vị

đó.

Đời sống chẳng tí vết nhơ,

Cả giới,

định, huệ đều có.

(Kệ số 229.)

Ai dám khinh-chê vị ấy

Hạnh sáng tỏ tợ vàng ròng.

Các bực Trời khen hết lòng,

Cả

đức Phạm-Thi

ên cũng vậy.

(Kệ số 230.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- A-tu-la:tên chàng thanh-niên nầy, tiếng Pali là Atula. Xin

đừng lầm với chữ

A-tu-la, phiên-âm tiêng Pali là Asura, dịch nghĩa là thần-linh, tức là hạng chúng-sanh có phép thần-thông, tánh thường nóng-giận, lại hay tranh-chiến với các bực Trời.

- Chánh-pháp: lời giảng-dạy của

Đức Phật về con đường tu-h

ành

để được

giác-ngộ và giải-thoát.

- Lê-va-ta, Xá-lợi-phất, A-nan: tên các vị Tôn-giả nầy, tiếng Pali là Revata, Sariputta, Ànanda.

- Trầm-ngâm = giũ sự im-lặng,

đang nghĩ-ngợi.

- Vi-diệu-pháp: Vi-diệu = nhiệm-mầu, cao-thâm; Pháp = pháp-tu. Vi-diệu-pháp (Abhidhamma), là phần Luận giảng về tâm-pháp, nhơn-sinh-quan ( =đời sống con người),vũ-trụ-quan ( =sự cấu-tạo của vũ-trụ.)

- Huyền-diệu: sâu-kín và khéo-léo.

- Thời-pháp: thời-gian giảng pháp, bài giảng pháp.

- Cô-

đọng:

rút lại thật ngắn-gọn, chỉ có

điều chánh-yếu m

à thôi.

- Yết-kiến: đến gặp bực trưởng-thượng để thưa hỏi.

- Thông-thái = bực hiểu-biết thật rộng-rãi và rõ-ràng.

- Tràng-giang

đại-hải: Tr

àng =dài; Giang = sông; Đại = lớn; Hải = biển. Nói tràng-giang

đại-hải

là nói huyên-thiên, nhiều lời, khiến người nghe bị tràn-ngập chẳng hiểu

được chỗ cốt-yếu.

- Hiền-trí: Hiền = hiền-lành, Trí =trí-huệ. Chữ Hiền-trí

đây chỉ v

ào các bực tu-hành

đ

ã chứng quả, có sự hiểu-biết

đúng-đắn v

à rộng-rãi, thường chỉ dạy

điều l

ành cho kẻ khác. Còn gọi là Thiện-tri-thức nữa.

- Quả-vị Tu-

đ

à-huờn: quả-vị thứ nhứt trong hàng các

đệ-tử sống gần b

ên Phật. Người chứng quả Tu-

đ

à-huờn chẳng còn chấp thân-tâm làm Ta nữa, chấm-dứt sự nghi-ngờ về Chánh-pháp và bỏ các nghi-thức cúng-tế theo tà-

đạo. Tiếng

Pali là Sotapatti, dịch là Nhập-Lưu.

- Giới,

Định, Huệ

= còn gọi là Tam Học, hay Tam vô-lậu-học, ba môn học giúp ta diệt-trừ hết mọi phiền-não, chứng quả A-la-hán.

- Hạnh sáng = giới-hạnh,

đức-hạnh thật trong-sạch, sáng-tỏ.

- Phạm-Thiên: Đức Vua cõi Trời Phạm, tiếng Pali là Brahma.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện thuật lại A-tu-la và các bạn của anh,

đến thưa hỏi các vị trưởng-l

ão,

để được nghe giảng về Chánh-pháp. Họ chẳng hiểu nổi, n

ên chê trách Ngài Lê-va-ta giữ im-lặng, Ngài Xá-lợi-phất, nói nhiều quá, Ngài A-nan nói quá vắn-tắt. Họ

đến gặp Phật v

à Phật dạy họ rằng, ở

đời chẳng ai l

à khỏi bị chê: nín cũng bị chê, nói cũng bị chê, nói nhiều cũng trách, nói ít cũng trách.

Đừng chú-trọng đến lời ph

ê-bình của người khờ-dại, chỉ nên nghe lời phán-

đoán của bực hiền-trí.

(2) Ý-nghĩa các bài Kệ số 227, 228, 229 và 230:

Bốn bài Kệ sắp chung lại thành ra hai bài: (1) Kệ số 227 và 228 nói về sự khen chê thường-tình của người

đời; (2) Kệ số 229 v

à 230 nói về bực hiền đủ giới,

định, huệ,

được cả Trời, Người đều khen-ngợi.

Các bài Kệ khuyên ta giữ giới để lòng được an-

định,

nhờ

đó m

à trí-huệ phát-sanh, thấy rõ

được con đường

giác-ngộ và giải-thoát.

(181).- Tích chuyện sáu vị tỳ-kheo mang guốc.

Vào một thời kia,

Đức Phật ngụ tại tịnh-xá Trúc-lâm, gần th

ành Vương-xá, trong một kỳ giảng-pháp, có

đề-cập đến sáu vị tỳ-kheo mang guốc gỗ, gây ra nhiều tiếng động.

Thuở ấy, có sáu vị tỳ-kheo thường mang guốc

đi đi, lại lại tr

ên sân

đá, tiếng guốc khua vang, l

àm kinh-

động đến các vị tỳ-kheo khác đang ngồi Thiền. Tiếng guốc vang đến tịnh-xá, khiến Đức Phật phải gọi vị thị-giả l

à Tôn-giả A-nan vào hỏi tiếng

động g

ì vang lên mãi thế. Khi biết sáu vị tỳ-kheo kia, mang guốc

đi lại trong sân, Đức Phật ra giáo-chỉ, cấm tỳ-kheo chẳng được mang guốc gỗ nữa. Đức Phật lại dạy th

êm, tỳ-kheo phải biết giữ-gìn ba nghiệp cho thật trong sạch: giữ thân chẳng hành-

động sái-quấy, giữ miệng chẳng nói lời cộc-cằn, giữ tâm-ý chẳng nghĩ điều đen-tối.

Rồi

Đức Phật mới nói l

ên các bài Kệ sau

đây

:

Đừng hờn-giận, giữ thân mình,

Chớ vì cau-có, thân sanh làm sằng.

Hành-vi xấu, thân hằng dứt bỏ;

Cử-chỉ lành, thân cố giữ-gìn.

(Kệ số 231.)

Đừng hờn-giận, giữ miệng mình,

Chớ vì cau-có, miệng sanh cộc-cằn.

Lời thô-ác, miệng hằng dứt bỏ;

Tiếng dịu-hiền, miệng cố giữ-gìn.

(Kệ số 232.)

Đừng hờn-giận, giữ ý mình,

Chớ vì cau-có, ý sanh dữ-dằn.

Tà-kiến ác, ý hằng dứt bỏ

Chánh-tư-duy, ý cố giữ-gìn.

(Kệ số 233.)

Bực hiền-trí chế-phục thân,

Giữ-gìn cửa miệng, giữ an tâm mình.

Giữ sao ba nghiệp: thân, miệng, ý

Thanh-tịnh hoàn-toàn,

điều-phục xong.

(Kệ số 234.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Guốc: dép làm bằng gỗ, có quai. Ở Việt-nam, guốc làm bằng gỗ cây vông, nhẹ và ít tiếng kêu.

- Kinh-

động

=

gây tiếng

động l

àm giựt mình kẻ khác.

- Giáo-chỉ:Giáo = đạo;Chỉ = lịnh, sắc-chỉ.Giáo-chỉ là lịnh trong

Đạo

- Nghiệp = hành-

động thường l

àm, có ảnh-hưởng

đến đời nầy v

à cả

đời sau nữa. Có ba

nghiệp: về thân, về miệng và về tâm-ý.

- Làm sằng = làm

điều sằng-bậy, l

àm

đ

ìều sái-quấy.

- Cộc-cằn, thô-ác: lời nói xấu ác, dữ-dằn, mắng nhiếc, chửi rủa.

- Tà-kiến: ý-kiến sai-lầm, xấu-ác.

- Chánh-tư-duy = suy-nghĩ chơn-chánh,

đúng-đắn.

- Chế-phục,

Điều-phục

=

kềm-chế, giữ-gìn

để tránh tội-lỗi.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện kể lại việc sáu vị tỳ-kheo thiếu ý-thức mang guốc

đi lốp-cốp, khuấy-động các bạn đồng-tu trong việc ngồi Thiền. Đức Phật liền ra lịnh cấm mang guốc, v

à dạy ta phải biết giữ gìn ba nghiệp: thân, miệng, ý cho thật trong-sạch.

(2) Ý-nghĩa các bài Kệ aố 231, 232, 233 và 234:

Ba bài Kệ

đầu dạy giữ-g

ìn thân-nghiệp, khẩu-nghiệp và ý-nghiệp cho thật trong-sạch. Bài Kệ sau tóm-tắt ý-nghĩa ba bài trước và chỉ cho ta thấy bực hiền-trí biết

điều-phục thân-tâm để giữ cho ba

nghiệp thanh-tịnh, nhờ

đó m

à

được giải-thoát khỏi mọi khổ-đau nơi cuộc đời.

-ooOoo-

XVIII .- Phẩm Ô-UẾ

(182 ).- Tích chuyện con của người

đồ-tể.

Vào một thời kia,

Đức Phật ngụ tại ch

ùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ,

trong một kỳ giảng-pháp, có

đề-cập đến con của một người đồ-tể.

Thuở ấy, ở nước Xá-vệ, có người

đồ-tể chuy

ên nghề giết thú-vật

để bán thịt trong năm mươi lăm năm. Mỗi ng

ày, anh ta chừa một miếng thịt lớn

để nấu c

à-ry

ăn. Hôm ấy, anh cắt một đ

ùi thịt

để d

ành trong bếp,

định trưa sẽ đem nấu; nhưng vợ anh chẳng biết, lại đem bán cho người mua. Đến trưa, chẳng thấy đ

ùi thịt, anh

đồ-tể liền đi ra chuồng b

ò, lắt cái lưỡi của con bò,

đem v

ào nấu-nướng. Rủi thay khi

ăn, anh nhai mạnh quá cắn trúng lưỡi của m

ình, máu chảy tuôn ra chẳng dứt. Vài hôm sau, con bò và cả anh

đồ-tể đều bị chết. V

ì tội-ác

đ

ã sát-sanh trong suốt cuộc

đời, n

ên anh

đồ-tể phải sa v

ào

địa-ngục.

Vợ người

đồ-tể, sau khi an-táng anh ta xong, sợ căn nh

à có ma-quỉ, mới bán nhà, dọn

đi nơi khác. C

òn người con trai

được gởi đi học nghề khác ở th

ành Ta-xi-la. Người ấy học

được nghề thợ r

èn, cưới vợ và sanh

được mấy người con. Sắp nhỏ sau nầy rất tôn-s

ùng

đạo Phật, thường đến ch

ùa nghe giảng-pháp. Chúng thấy cha mình

đ

ã già rồi mà chưa hiểu gì về Chánh-pháp, mới thỉnh

Đức Phật c

ùng chư T

ăng đến nh

à cúng-dường. Sau bữa ngọ-trai, các người con qùi thưa cùng

Đức Phật

: "Bạch Thế-tôn, chúng con soạn lễ trai-t

ăng nầy, để cầu phước cho cha của chúng con. Kính mong Thế-tôn giảng một b

ài pháp

đặc-biệt cho cha chúng con nghe.

"

Đức Phật bảo

: "Nầy thiện-nam-tử, ông nay

đ

ã già rồi mà còn chưa chuẩn-bị

đầy-đủ h

ành-trang cho chuyến

đi xa, sang cuộc đời mới. Nay ông phải tự m

ình làm nơi nương-tựa cho chính mình, hãy thanh-lọc thân-tâm, diệt bỏ tất cả phiền-não,

để sau nầy được tái-sanh v

ào nhàn-cảnh."

Rồi

Đức Phật nói l

ên các bài Kệ sau

đây

:

Thân người nay như lá tàn phai,

Sứ-giả Tử-thần

đến b

ên ngoài.

Người sắp bước vào con

đường chết,

Còn thiếu tư-lương dặm

đường d

ài.

(Kệ số 235.)

Hãy

đắp cho m

ình một hòn

đảo,

Mau làm người trí-huệ tinh-chuyên,

Lọc-sạch bợn nhơ, bỏ phiền-não,

Người sẽ vào Thánh-cảnh chư Thiên.

(Kệ số 236.)

Mạng người nay sắp

đến mức c

ùng,

Trên

đường đến gặp mặt Di

êm-vương,

Dọc

đường chẳng có nơi ngừng-nghỉ,

Còn thiếu tư-lương dặm

đường trường.

(Kệ số 237.)

Hãy

đắp cho m

ình một hòn

đảo,

Mau làm người trí-huệ tinh-chuyên,

Lọc sạch bợn nhơ, bỏ phiền-não,

Người

đâu trở lại cảnh Sanh-L

ão.

(Kệ số 238.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

-

Đồ-tể: Đồ; Tể

= giết thịt thú-vật

để bán; kẻ h

àng thịt.

- Sát-sanh: Sát = giết; sanh = sanh-mạng; Tội sát-sanh là tội giết chết các sanh-vật.

Đây l

à giới-cấm thứ nhứt của người tu tại-gia.

- Địa-ngục: Địa = đất; Ngục = nhà tù. Theo sự tin-tưởng của người Phật-tử, kẻ làm ác, sau khi chết, phải chịu hình-phạt trong cõi u-tối.

- An-táng = làm

đám ma, chôn-cất người chết.

- Ta-xi-la: tên thành nầy, tiếng Pali là Taxila.

- Cúng-dường =đọc trại chữ cung-dưỡng =cung-cấp

để nuôi dưỡng.

- Ngọ-trai: Ngọ =12 giờ trưa;Trai = bữa

ăn chay.Theo giáo-lý Nam-tông, sau bữa

ngọ-trai, chư T

ăng chẳng được phép ăn th

êm suốt ngày.

- Trai-t

ăng:

lễ dưng-cúng thực-phẩm, quần-áo cho các tỳ-kheo.

- Thiện-nam-tử: Thiện = lành; Nam-tử = đàn-ông.

- Hành-trang: Hành = đi; Trang = trang-bị, vật-dụng mang theo.

- Nhàn-cảnh = cảnh nhàn, tức là các cõi Thánh, sống an-lạc.

- Sứ-giả Tử-thần: Sứ = người mang tin-tức

đến;

Giả = người; Tử-thần = thần Chết. Thấy có sứ-giả Tử-thần

đang có dấu-hiệu sắp chết

- Tư-lương: vật-dụng mang theo khi

đi xa; có

nghĩa là hành-trang

- Thánh-cảnh: cảnh Thánh, ở

đây, tức l

à các cõi an-nhàn trên trời.

- Diêm-vương: vua cõi âm; theo sự tin-tưởng của người Phật-tử, mọi người khi chết sẽ chịu sự phán-xét tội, phước của Diêm-vương.

- Cảnh Sanh-Lão: cảnh sanh ra rồi già

đi; tức l

à cuộc sống ở trong vòng lẩn-quẩn của Luân-hồi, sanh ra

để lại chết đi, rồi tái-sanh nữa.

- Ô-uế: dơ-dáy,

đen-đúa, bẩn-thỉu. Ở đây,

Ô-uế ám chỉ các phiền-não làm cho tâm bị bợn-nhơ, phải thanh-lọc cho sạch.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện có hai phần, phần

đầu nói về ông đồ-tể, v

ì tội-ác sát-sanh, giết thú-vật lấy thịt bán, phải sa

địa-ngục; v

à phần thứ nhì nói về người con trai của ông, về già

được nghe Đức Phật giảng Chánh-pháp, m

à

được tái-sanh v

ào nhàn-cảnh.

Ý-nghĩa của Tích chuyện là: phải chuẩn-bị hành-trang cho chuyến

đi xa, v

ào

đời sống mới

; chuẩn-bị bằng cách thanh-lọc thân-tâm khỏi các bợn-nhơ của phiền-não. Khi tâm

đ

ã thanh-tịnh, gột rửa hẳn các ô-uế của phiền-não gây ra, sẽ

được tái-sanh l

ên cõi Trời, và nếu tiếp-tục tu-hành, sẽ thoát khỏi vòng lẩn-quẩn Sanh, Già, Bịnh, Chết trong cảnh khổ của cõi Luân-hồi lận-

đận.

(2) Ý-nghĩa các bài Kệ số 235, 236, 237 và 238:

Bài Kệ số 235 nhắc-nhở ta, Thần Chết

đang chờ mọi người, vậy phải chuẩn-bị h

ành-trang cho chuyến

đi xa.

Bài Kệ số 236 khuyên ta phải tự mình lo-liệu lấy, nương-tựa vào chính mình bằng cách lọc-sach các bợn nhơ phiền-não ra khỏi tâm,

để được tái-sanh v

ào cõi chư Thiên.

Bài Kệ số 237 lại nhắc nhở ta ngày trình-diện Diêm-vương sắp tới, phải mau mau chuẩn-bị hành-trang, cho chuyến

đi xa, chẳng có nơi dừng chơn tạm nghỉ được (

= chẳng có ai là khỏi chết cả).

Bài Kệ số 238 cũng lại khuyên ta sớm tự mình làm nơi nương-tựa cho chính mình, cũng bằng cách lọc sạch các bợn nhơ phiền-não ra khỏi tâm,

để khỏi phải trở lại cảnh

Sanh, Già, Bịnh, Chết của cõi Luân-hồi khổ-

đau lận-đận.

(183).- Tích chuyện người Bà-la-môn làm việc thiện.

Vào một thời kia,

Đức Phật ngụ tại ch

ùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có

đề-cập đến cách l

àm

điều thiện của một người Ba-la-môn.

Thuở ấy ở nước Xá-vệ có một người Bà-la-môn thường

đứng nh

ìn các vị tỳ-kheo xốc áo cà-sa lại cho ngay thẳng trước khi

đi v

ào thành khất-thực. Người ấy nhận thấy vài vị tỳ-kheo có vạt áo hơi dài, chấm

đất, ướt đi v

ì hơi sương còn

đọng tr

ên bãi cỏ. Sau khi chư T

ăng đi v

ào thành, người Bà-la-môn liền lấy dao ra dẩy sạch các bụi cỏ. Ngày hôm sau, chư T

ăng dừng lại sửa áo c

à-sa cho chỉnh-tề, thì một vài vị lại

để t

à áo chấm vào

đất ướt vừa l

àm cỏ xong. Người Bà-la-môn

đợi cho đo

àn khất-thực vào thành, mới lấy cát khô rải lên các vũng nước

đọng. Hôm sau, trời bắt đầu nắng sớm, chư Tăng có nhiều vị đổ mồ-hôi, khiến cổ áo bị đẵm ướt. Người B

à-la-môn nghĩ, nên cất một trạm nghỉ chơn bên lề

đường, để chư Tăng có nơi đứng sửa-soạn y-phục lại cho chỉnh-tề. Ông ta liền thu

ê người cất một trạm nghỉ mát bên

đường, nơi các vị tỳ-kheo thường dừng chơn, để tránh cả khi nắng nóng v

à lúc mưa dầm. Khi xây cất xong, người Bà-la-môn thỉnh

Đức Phật c

ùng chư T

ăng đến l

àm lễ khánh-thành.

Được hỏi lý-do v

ì sao cất trạm nghỉ chơn nầy, người Bà-la-môn mới bạch với Phật, từ bước một, ông

đ

ã làm cỏ, rải cát, rồi sau

đó mới cất trạm nầy, để cúng-dường chư Tăng. Đức Phật khen-ngợi

: "Nầy Bà-la-môn, công-

đức h

ành thiện của thí-chủ

đ

ã

được thực-hiện từng bước một, cũng như bực hiền-trí, ng

ày nầy qua ngày khác, chuyên-tâm lọc-sạch các bợn-nhơ lậu-hoặc từ từ cho

đến khi được ho

àn-toàn giải-thoát."

Rồi

Đức Phật nói l

ên bài Kệ sau

đây, nhờ đó m

à vị Bà-la-môn chứng

được quả-vị Tu-đ

à-huờn:

Theo thứ-tự, từ chút, từ chút,

Người hiền-trí từng lúc, từng lúc,

Gột sạch bợn nhơ ra khỏi lòng mình,

Như thợ kim-hoàn lọc vàng hết cặn.

(Kệ số 239.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Bà-la-môn: giai-cấp tu-sĩ ở Ấn-

độ xưa, tiếng

Pali là Brahmana

- Cà-sa: phiên-âm chữ Phạn Kasaya, áo màu vàng choàng bên ngoài của các vị tỳ-kheo.

- Khánh-thành: lễ

ăn mừng v

ì

được xây-dựng xong.

- Hành-thiện:Hành = làm;Thiện = lành.Hành-thiện là làm việc lành.

- Thí-chủ: Thí =bố-thí,

đem cho;

Thí-chủ là kẻ hiến-tặng; thọ-giả là người nhận của kẻ khác cho. Thí-chủ còn

được gọi l

à đàn-việt.

- Bợn-nhơ lậu-hoặc: Lậu-hoặc là các phiền-não như tham, sân, si, mạn, nghi, từ trong tâm bộc-lộ ra (lậu = rỉ chảy ra) bằng hành-

động xấu-ác, v

ì thế nên gọi là bợn-nhơ, chỗ dơ-dáy, bẩn-thỉu, cần gột rửa.

- Tu-

đ

à-huờn: Xin nhắc lại,

đó l

à quả-vị

đầu-ti

ên, còn gọi là Nhập-Lưu hay Thất-Lai; tiếng Pali là Sotapatti.

- Hiền-trí: người tu-hành chơn-chánh, có trí-huệ rộng.

- Kim-hoàn: Kim = vàng; Hoàn = vòng. Thợ Kim-hoàn làthợ bạc.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện thuật lại việc vị Bà-la-môn xây cất trạm nghỉ chơn

để cúng dường chư Tăng. Công-đức h

ành-thiện nầy

được thực-hiện từ từ, từng bước một, được Đức Phật khen ngợi.

Ý-nghĩa của Tích chuyện là việc thanh-lọc các phiền-não ra khỏi Tâm, phải

được thực-hiện

: (1) từ-từ, từng bước một; (2) bền-chí, ngày nầy qua ngày khác, chẳng ngừng-nghỉ, cho

đến khi được giải-thoát.

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 239:

Bài Kệ so-sánh việc thanh-lọc các lậu-hoặc (= điều sai lầm như tham, sân, si, mạn, nghi, ác-kiến) ra khỏi thân-tâm của người tu-hành, cũng như người thợ bạc lọc hết chất cặn-bã trong khối vàng ròng.

Hai câu

đầu n

êu rõ việc thanh-lọc

được tiến-h

ành từ bước một, ngày nầy qua ngày khác, chẳng ngừng. Nên học thuộc bài Kệ

để tự nhắc-nhở m

ình: từ chút, từ chút từng lúc, từng lúc, chẳng phút nào lơ-là cả, cho

đến khi

tâm

được ho

àn-toàn thanh-tịnh.

(184).- Tích chuyện ham áo cà-sa của Trưởng-lão Thi-sa.

Vào một thời kia,

Đức Phật ngụ tại ch

ùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có

đề-cập đến l

òng tham-muốn chiếc áo cà-sa của Trưởng-lão Thi-sa.

Thuở ấy ở nước Xá-vệ có vị Trưởng-lão tên là Thi-sa vừa nhận

được một bộ áo c

à-sa rất

đẹp của một người thí-chủ dưng-cúng. Cả ng

ày, Trưởng-lão cứ rờ-rẫm chiếc áo, vuốt

đi vuốt lại, trong l

òng rất ham-thích. Nhưng tối hôm ấy, Trưởng-lão qua

đời. V

ì chẳng có ai là kẻ thừa-hưởng chánh-thức các của-cải của Trưởng-lão, nên các vị tỳ-kheo

đồng-tu định đem chiếc áo ra cắt th

ành từng miếng nhỏ

để phân chia nhau. Bấy giờ, từ trong chiếc áo, có một con rận nhỏ, chạy tới chạy lui lăng-xăng, trông bộ dáng như hoảng-hốt lắm vậy. Từ nơi hương-ph

òng,

Đức Phật quán-thấy việc đó, Ng

ài ra lịnh cho các vị tỳ-kheo hãy khoan cắt tấm vải, chờ một tuần sau rồi sẽ phân-chia.

Đến ng

ày thứ tám, các vị tỳ-kheo lấy chiếc áo cà-sa mới ra, thấy có một con rận nằm chết khô trong lằn xếp. Họ

đến tr

ình

Đức Phật v

à thưa hỏi lý-do vì sao phải chờ

đến một tuần mới cắt nhỏ chiếc áo ra. Đức Phật đáp

: "Nầy chư tỳ-kheo, trước khi nhắm mắt lìa

đời, tâm-niệm của tỳ-kheo Thi-sa l

à ham-thích chiếc áo cà-sa, cho nên tà-niệm nầy dẫn-dắt Thi-sa tái-sanh làm con rận

để giữ lấy chiếc áo đó. Nhưng nhờ có công-đức tu-h

ành, nên bảy ngày sau mãn kiếp rận, Thi-sa

được tái-sanh l

ên cõi Trời

Đâu-suất. V

ì lẽ

đó, n

ên Như-Lai mới bảo chúng t

ăng h

ãy chờ trong một tuần-lễ rồi sẽ chia nhau chiếc áo. Nầy chư tỳ-kheo, lòng tham-ái rất là

độc-hiểm, nó cũng như chất sét (

=rỉ)

ăn m

òn lần thanh sắt, rồi

đưa ta tái-sanh v

ào cõi ác. Vì lẽ nầy, tỳ-kheo chớ nên tham lợi-dưỡng, mê-thích về tứ-sự cúng-dường của các thí-chủ."

Rồi

Đức Phật mới nói l

ên bài Kệ sau

đây

:

Như sét từ thanh sắt sanh ra,

Rồi sét lại

ăn m

òn thanh sắt;

Kẻ ham lợi-dưỡng tạo

điều ác,

Ác nầy trở lại hại anh ta.

(Kệ số 240.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Thi-sa: tên vị Trưởng-lão nầy, tiếng Pali là Tissa.

- Thí-chủ: Thí = bố-thí. Thí-chủ là người

đem của-cải ra hiến-tặng.

- Qua

đời

= chết

đi.

- Thừa-hưởng chánh-thức: người nhận-lãnh gia-tài.

- Con rận: loại côn-trùng, sống trong quần-áo, cắn hút máu người

- Hương-phòng: c

ăn ph

òng có hương thơm dành cho

Đức Phật.

- Quán-thấy: ngồi Thiền, tâm an-

định, nh

ìn thấy rõ trong tâm.

- Tâm-niệm: ý-nghĩ trong tâm. Tà-niệm = ý-nghĩ xấu-ác.

- Mãn kiếp: hết kiếp;

đời sống chấm dứt.

- Trời

Đâu-suất:

cõi Trời cao nhứt của Dục-giới, hiện có

Đức Đại-Bồ-tát Di-Lặc đang

giảng-pháp tại

đó. Tiếng

Pali là Tusita.

- Tham-ái = Tham =ham quá chừng; Ái =thương, thích. Chính lòng tham-ái là nguồn-gốc của khổ

đau. Tiếng

Pali là Tanhà.

- Lợi-dưỡng: tiện-nghi vật-chất

để cho đời sống được quá sung-sướng về thể-xác.

- Tứ-sự cúng-dường: Tứ = bốn; Sự = việc; Cúng-dường: cung-cấp

để nuôi-dưỡng.

Tứ-sự cúng-dường là bốn thứ vật-dụng mà người tín-chủ dưng-cúng cho tỳ-kheo: (1) thực-phẩm; (2) quần-áo, (3) giường chiếu; (4) thuốc men.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện mang hai ý-nghĩa:

1) Tầm quan-trọng của tâm-niệm vào phút lâm-chung: khi gần chết, trong tâm khởi tà-niệm, sẽ bị tái-sanh vào cõi dữ.

2) Lời Phật dạy: dẹp tham-ái, chớ mê lợi-dưỡng, là lời dạy cắt-

đứt nguồn-gốc của khổ-đau (Khổ-đế)

dứt

được v

òng lẩn-quẩn của Luân-hồi. Tham-ái (Tanhà) chính là Chơn-lý thứ hai trong Tứ-diệu-

đế.

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 240:

Bài Kệ so-sánh cái hại của sự tham-ái cũng như chất sét từ trong thanh sắt sanh ra, rồi lại

ăn m

òn thanh-sắt. Tham-ái cũng vậy, khởi từ trong tâm mà ra, vì quá ham-thích, rồi bị sự ràng-buộc nầy mà phải chịu nhiều khổ-

đau sau nầy, trong cuộc sống Luân-hồi lẩn-quẩn.

(185).- Tích chuyện tỳ-kheo Lã-lưu-

đ

à-di.

Vào một thời kia,

Đức Phật ngụ tại ch

ùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có

đề-cập đến tỳ-kheo L

ã-lưu-

đ

à-di rất lười

đọc-tụng kinh kệ.

Thuở ấy, dân chúng nước Xá-vệ rất ái-mộ hai vị

đại-đệ-tử của Phật Thích-ca l

à Tôn-giả Xá-lợi-phất và Mục kiền-liên. Tỳ-kheo Lã-lưu-

đ

à-di, lòng hay ganh-tị, bảo với dân-chúng rằng, mình cũng thuyết-pháp chẳng thua gì hai vị Tôn-giả kia. Họ mời tỳ-kheo Lã lên nói pháp, nhưng ông ta chẳng thốt nên lời. Ông ta liền bảo, hãy mời hai vị khác lên nói trước, rồi sẽ tới phiên mình. Sau khi hai vị tỳ-kheo

đăng-đ

àn thuyết-pháp xong, thầy Lã bước lên, nhưng miệng lại ngậm câm như hến. Dân-chúng mất cả kiên-nhẫn, quát-tháo lên. Lã hoảng-hốt, bỏ chạy; bị rượt

đuổi quá, L

ã lọt xuống hầm tiêu.

Khi

Đức Phật được biết sự-việc đó, Ng

ài dạy: ‘’Nầy chư T

ăng, L

ã-lưu-

đ

à-di chẳng có học-tập nhiều về Chánh-pháp. Kinh-kệ có nghe qua, y

đâu chịu thường đọc-tụng, n

ên chẳng nhớ

được g

ì. Chút ít gì y

đ

ã nghe, vì chẳng thường nhắc lại, nên

đ

ã rỉ-sét trong tâm của y."

Rồi

Đức Phật mới nói l

ên bài Kệ sau

đây

:

Chẳng tụng-niệm là vết nhơ Kinh-kệ,

Chẳng siêng dọn là dơ-bẩn cửa nhà,

Nhác lờ-

đờ l

à sắc-

đẹp phôi-pha,

Thường bất-cẩn là sơ-hở phòng-vệ.

(Kệ số 241.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Tỳ-kheo: tu-sĩ Phật-giáo, phiên-âm chữ Phạn Bhikkhu, còn

đọc l

à Bí-sô, cũng gọi là Khất-sĩ.

- Lã-lưu-

đ

à-di: tên vị tỳ-kheo nầy, tiếng Pali là Làludàyi.

- Kinh-Kệ: Kinh = lời dạy

đầy-đủ của Đức Phật;

Kệ = bài thơ ngắn, tóm-tắt lại bài Kinh cho dễ nhớ. Thí-dụ: Kinh A-di-

đ

à; Kệ số 241,v.v.

- Ái-mộ: Ái = thương-mến; Mộ = kính-mộ.

-

Đăng-đ

àn:

Đăng

=

bước lên cao; Đàn = cái

đ

ài cao,

để nói pháp, hay l

àm lễ. Đăng-đàn là bước lên

đ

àn, nói chuyện với công-chúng.

- Câm như hến: Hến = loài sò, hai vỏ ngậm lại kín mít.

- Rỉ-sét = chữ nầy

được d

ùng theo nghĩa bóng là trở nên mờ-tối.

- Vết-nhơ: chỗ dơ-bẩn; dịch các chữ Hán-Việt là: ô-trược, ô-uế.

- Nhác lờ-

đờ

=

lười-biếng, lừ-

đừ, chẳng thiết l

àm việc chi cả.

- Sắc-

đẹp phôi-pha

=

vẻ

đẹp bị giảm đi từ từ.

- Bất-cẩn: Bất = chẳng; Cẩn = cẩn-thận. Bất-cẩn là vô-ý vô-tứ.

- Phòng-vệ = giữ-gìn. Ở

đây, chữ

Phòng-vệ có nghĩa là ng

ăn-giữ các tội-ác, chẳng cho xảy ra.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện thuật lại việc buồn-cười của một vị tỳ-kheo, vì lười-nhác chẳng

đọc-tụng Kinh-Kệ, n

ên khi lên pháp-

đ

àn chẳng nói

được lời n

ào, bị dân-chúng phản-

đối, bỏ chạy, lọt xuống ... hầm phẩn

!

Đức Phật dạy, phải siêng đọc-tụng Kinh-kệ, nếu lười-biếng thì bao nhiêu những đìều nghe dạy, lần lần rỉ-sét trong tâm, rồi quên mất

Siêng

đọc-tụng Kinh-Kệ như thế n

ào

? Nếu mỗi ngày, có thời-khoá tụng-niệm, thì rất tốt. Bằng chẳng

đủ th

ì-giờ, thì mỗi tuần nên

đi ch

ùa, cùng tụng-niệm theo các bạn

đồng-tu, trong khoá lễ.

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 241:

Trong bài Kệ nầy,

Đức Phật kể ra bốn điều

ô-uế ( = nhơ-bẩn):

1) Chẳng tụng-niệm là vết nhơ Kinh-Kệ: Kinh-Kệ chẳng nhơ, chỉ người tu-hành chẳng chịu

đọc-tụng, đó l

à làm dơ-bẩn Kinh-Kệ. Có người thỉnh Kinh về,

để cao tr

ên bàn thờ Phật, mà chẳng lấy ra

đọc v

à tìm hiểu

để ứng-dụng tu-h

ành,

đó l

à

để Kinh đóng bụi-bặm cho...dơ

!

2) Chẳng siêng dọn là dơ-bẩn cửa nhà: vì rác-rến

đầy nh

à.

3) Nhác lờ-

đờ l

à sắc-

đẹp phôi-pha:

chẳng siêng giữ-gìn sắc-

đẹp, chẳng năng trang-điểm, th

ì dù có

đẹp cũng thiếu phần sắc-sảo.

4) Thường bất-cẩn là sơ-hở phòng-vệ: Câu nầy có hai nghĩa: (a) ai vô-ý, vô-tứ thì chẳng biết giữ-gìn cho khỏi bị tai-nạn; (b), ai lơ-là trong việc giữ giới-luật, thì tội-lỗi mới có dịp sanh ra; người siêng giữ giới, tâm sẽ sớm an-định, nhờ

đó

trí-huệ phát-sáng mà biết vững bước trên con

đường tu-h

ành

để sớm được

giác-ngộ và giải-thoát.

(186).- Tích chuyện ngưòi bị vợ ngoại-tình.

Vào một thời kia,

Đức Phật ngụ tại tịnh-xá Trúc-lâm, gần th

ành Vương-xá, trong một kỳ giảng-pháp, có

đề-cập đến một người bị vợ ngoại-t

ình.

Thuở ấy ở thành Vương-xá, có một người

đ

àn-ông bị vợ ngoại-tình. Anh ta rất xấu-hổ với mọi người, nên chẳng dám

đến gần đám đông. Bẵng đi một thời-gian rất lâu, anh chẳng đi ch

ùa. Một hôm vào tối ngày rằm, anh

đến tịnh-xá Trúc-lâm. Đức Phật hỏi, sao lâu quá chẳng thấy anh đến nghe pháp. Anh thuật gia-cảnh của m

ình cho

Đức Phật nghe. Đức Phật an-ủi:

"Nầy thiện-nam-tử, những người

đ

àn-bà trắc-nết cũng như dòng sông nước chảy, cũng như con

đường đất để người đi qua, cũng như cửa tiệm bán rượu, cũng như một quán-trọ trong đ

êm tối, cũng như lu nước

để ngo

ài sân cho khách bộ-hành

đỡ khát, họ giao-du với tất cả mọi hạng người chẳng kể tốt xấu. T

à-hạnh quả thật là một nguyên-nhơn sa-

đoạ của phụ-nữ.

"

Rồi

Đức Phật mới nói l

ên hai bài Kệ sau

đây

:

Tà-hạnh là vết nhơ phụ-nữ,

Xan-tham là uế-trược người cho,

Điều tệ-ác quả là cấu-uế

Trong

đời nầy v

à các

đời kế.

(Kệ số 242.)

Trong các mối bẩn-nhơ vừa

điểm

Vô-minh là ô-uế cực-hiểm.

Nầy nầy, hỡi các vị tỳ-kheo,

Mau rửa sạch, theo hàng Vô-nhiễm.

(Kệ số 243.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Ngoại-tình: Ngoại = ngoài; Tình = ái-tình; Ngoại-tình

đ

ãcó chồng hay vợ chánh-thức mà còn dan-díu tình-ái với kẻ khác.

- Trúc-lâm: tên tịnh-xá nầy tiếng Pali là Veluvana, vườn trúc.

- Vương-xá: tên thủ-

đô xứ Ma-kiệt-đ

à (Magadha), Pali: Ràjagaha

- Gia-cảnh: Gia = nhà;cảnh = tình-cảnh. Gia-cảnh = tình-cảnh ở nhà

- Thiện-nam-tử: Thiện =lành; Nam-tử = đàn-ông. Thiện-nam-tử là người tín-

đồ đ

àn ông. Phái nữ gọi là Thiện-nữ-nhơn.

- Trắc nết: tánh-hạnh chẳng ra gì, chẳng trung-thành với chồng.

- Giao-du: giao-thiệp, chơi-bời với nhau.

- Tà-hạnh: Tà = tà-vạy, xiêng-xéo; Hạnh = hạnh-kiểm, tánh-tình. Tà-hạnh, Tà-dâm là chẳng trung-thành với chồng hay vợ, dan-díu tình-ái với kẻ khác; có tánh lang-chạ.

- Sa-

đoạ:

rơi xuống thấp, lọt vào hạng hèn-hạ.

- Xan-tham: bỏn-sẻn, rít-róng, quá hà-tiện.

- Uế-trược, ô-uế, cấu-uế = chỗ dơ-bẩn, xấu-xa.

- Vô-minh: Vô = chẳng; Minh = sáng. Vô-minh là si-mê, ngu-tối.

- Cực-hiểm: cực-kỳ

độc-hiểm; hết sức nguy-hiểm.

- Vô-nhiễm: Vô = chẳng; Nhiễm = dính nhơ. Bực vô-nhiễm là bực Thánh, chẳng còn bị phiền-não làm nhiễm-ô nữa.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tich chuyện:

Tích chuyện kể lại việc một người

đ

àn-ông bị vợ ngoại-tình, xấu-hổ với kẻ khác, nên chẳng

đi ch

ùa nữa.

Đức Phật an-ủi người ấy v

à bảo rằng, kẻ trắc-nết chẳng trung-thành trong tình-nghĩa vợ-chồng, sẽ sa-

đoạ v

ào cõi dữ.

Tuy Tích chuyện chỉ nói

đến sự trắc-nết của đ

àn-bà, nhưng ta phải hiểu ý-nghĩa của lời Phật dạy, chẳng phải chỉ ứng vào người

đ

àn-bà, mà luôn cho cả

đ

àn-ông. Lòng trung-thành trong tình-nghĩa vợ-chồng là nền-tảng của hạnh-phước gia-

đ

ình.

(2) Ý-nghĩa của hai bài Kệ số 242 và 243:

Nhơn Tích chuyện nói về sự chẳng trung-thành của người

đ

àn-bà

đối với chồng l

à một vết nhơ về

đức-hạnh của phụ-nữ, Đức Phật kể ra các điều

nhơ-bẩn khác, giúp ta biết

để tránh khỏi. Đó l

à:(1) tà-dâm, lén-lút giao-thiệp bất-chánh với người khác phái; (2)xan-tham, rít-róng chẳng chịu bố-thí; (3) hành-

động tệ-ác

gây thiệt-hại cho kẻ khác; và nhứt là (4) sự ngu-tối tức là vô-minh, rất nguy-hiểm, vì tâm-trí còn ngu-tối chẳng rõ

được đâu l

à

đường l

ành mà theo, nẻo ác

để tránh.

Hai câu chót của bài Kệ 243 là lời kêu gọi khẩn-thiết của

Đức Phật, dạy các tỳ-kheo n

ên mau mau rửa sạch tâm mình cho thật thanh-tịnh, để dấn bước theo các bực Thánh, là hàng Vô-nhiễm, chẳng hề bị các vết-nhơ tội-lỗi làm ô-uế.

(187).- Tích chuyện tỳ-kheo Chu-la-sĩ.

Vào một thời kia,

Đức Phật ngụ tại ch

ùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có

đề-cập đến vị tỳ-kheo Chu-la-sĩ, vi-phạm giới-luật cấm trị bịnh người để lấy công.

Thuở ấy, có vị tỳ-kheo tên là Chu-la-sĩ biết nghề làm thuốc, thường

đi trị bịnh cho kẻ khác v

à nhận

được nhiều tặng-phẩm. Một hôm, Chu đi thăm bịnh-nhơn v

à

được biếu-tặng hậu-hĩ. Tr

ên

đường về, gặp Tôn-giả Xá-lợi-phất đang đi khất-thực, Chu liền đem các tặng-phẩm vừa nhận được ra chia-xẻ với Tôn-giả. Nhưng Tôn-giả Xá-lợi-phất lẵng-lặng đi tới, chẳng nói g

ì cả. Khi về

đến tịnh-xá, các tỳ-kheo khác thưa-tr

ình cùng

Đức Phật về việc Tôn-g

ìả Xá-lợi-phất

đ

ã từ-chối quà-tặng của tỳ-kheo Chu-la-sĩ.

Đức Phật bảo

: "Nầy chư tỳ-kheo, Xá-lợi-phất chẳng nhận số tặng-phẩm của tỳ-kheo Chu-la-sĩ chia-xẻ, là vì Chu

đ

ã vi-phạm giới-luật,

đi h

ành-nghề y-sĩ

để được trả công. Tỳ-kheo n

ên biết, vi-phạm giới-luật thì rất dễ-dàng, sống buông-lung, chạy theo các lợi-dưỡng và tiện-nghi vật-chất, nào khác gì con quạ trơ-trẽn cắn lén sau lưng người, chẳng biết hổ-thẹn; tư-tưởng, lời nói cùng hành-

động đều chẳng được chơn-thiện. Trái-lại, giữ giới-đức cho thanh-tịnh, khép m

ình trong kỷ-luật khắt-khe, biết hổ-thẹn khi lầm-lỗi, là lối sống tuy khó-kh

ăn nhưng sớm đến nơi giác-ngộ v

à giải-thoát."

Rồi

Đức Phật mới nói l

ên hai bài Kệ sau

đây, nhờ đó một số tỳ-kheo chứng-đắc được quả-vị Tu-đ

à-huờn:

Dễ quá mà, sống

đời không biết thẹn,

Trơ-trẽn như quạ cắn lén sau lưng,

Ham công-kích người, ngã-mạn, ngông-cuồng,

Liều-lĩnh, nhiễm-ô, tánh thường hư-

đốn.

(Kệ số 244.)

Thật là khó, sống cuộc

đời khi

êm-tốn,

Có lòng tự-thẹn, có hạnh viễn-ly,

Biết lánh xa tất cả mọi ràng-buộc,

Tìm cầu thanh-tịnh, tâm hằng sáng-suốt.

(Kệ số 245.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Chu-la-sĩ: tên vị tỳ-kheo nầy, tiếng Pali là Cùlasàrì.

- Hành-nghề y-sĩ: làm nghề thầy thuốc chữa bịnh cho người.

- Lợi-dưỡng: các nguồn lợi về vật-chất

để nuôi sống.

- Trơ-trẽn: chẳng biết hổ-thẹn, chai-lỳ chẳng biết mắc-cỡ.

- Chơn-thiện: Chơn = chơn-chánh,

đứng-đắn;

Thiện = lành.

- Ngã-mạn = kiêu-c

ăng, phách-lối, tự cho m

ình hơn kẻ khác.

- Ngông-cuồng: Ngông = ngông-nghênh, chẳng biết sợ ai cả; Cuồng = điên-khùng. Người ngông-cuồng là kẻ ngang-tàng, dữ-ác.

- Hư-

đốn:

hư-hỏng và

đốn-mạt; rất tệ-hại; chẳng ra g

ì.

- Khiêm-tốn: biết nhũn-nhặn, chẳng hề khoe-khoang.

- Tự-thẹn: biết mắc-cỡ lấy mình.

- Hạnh viễn-ly: Hạnh = đức-hạnh; Viễn = xa; Ly = lìa. Người có hạnh viễn-ly biết xa-lìa các lợi-dưỡng, chẳng ham thú-vui vật-chất, tránh xa mọi ràng-buộc.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện thuật lại việc một tỳ-kheo vi-phạm giới-luật, hành-nghề ý-sĩ

để kiếm lợi. Ta phải hiểu r

õ ý-nghĩa của sự cấm-

đoán nầy:

Đức Phật cấm tất cả tỳ-kheo có nghề riêng để sanh-sống, đó là vì muốn các tu-sĩ diệt được lòng tham; chớ

Đức Phật chẳng cấm-đoán việc

trị bịnh giúp

đời.

Cứu người bịnh qua khỏi cơn

đau l

à

điều

thiện, đáng khuyến-khích; nhưng cứu người với lòng tham muốn

để được đền công,

điều nầy trái với giới-luật. Tu-sĩ Phật-giáo còn

được gọi l

à khất-sĩ, nghĩa là phải

đi

ăn xin, để dẹp lòng tự-ái của mình, hạ mình xuống sống nhờ sự bố-thí của kẻ khác; vả lại khi đi khất-thực, có dịp gặp dân-chúng,

để chỉ-dạy Giáo-pháp cho họ. Hiểu được

ý-nghĩa nầy, mới biết tại sao Tôn-giả Xá-lợi-phất chẳng chịu nhận các tặng-phẩm của tỳ-kheo Chu-la-sĩ, vì các tặng-phẩm

đó do công trị-bịnh m

à ra, trái với giới-luật.

Tích chuyện còn ghi lại các lời dạy của

Đức Phật

: (1) sống buông-lung, khinh thường giới-luật, thì quá dễ và

được nhiều lợi-dưỡng, đời sống sung-túc trong tiện-nghi vật-chất. Nhưng đó chẳng phải l

à con

đường chơn-chánh m

à người tu-sĩ nên noi theo; (2) sống theo giới-luật, biết hổ-thẹn khi lầm-lỗi, tuy khó kh

ăn hơn, nhưng đó l

à con

đường đưa ta sớm đến nơi

giác-ngộ và giải-thoát.

(2) Ý-nghĩa của hai bài Kệ số 244 và 245:

Hai bài Kệ

đối-ngược nhau, một b

ài nói về lối sống buông-lung, quá dễ-dãi, một bài nói về lối sống khắt-khe, tuân theo giới-luật.

Thử phân-tách từng câu bài Kệ số 244:

1) Dễ quá mà, sống

đời không biết thẹn

: Chẳng biết thẹn là xem thường mọi tội-ác, chẳng thấy xốn-xang, thẹn-thùng trong lòng, khi làm lỗi. Danh-từ chuyên-môn chỉ sự biết hổ-thẹn là tàm, hay quí; có lòng biết thẹn là có tâm tàm, tâm quí. Trái lại, người chẳng biết thẹn với lòng mình là người có tâm vô-tàm, có tâm vô-quí.

2) Trơ-trẽn như quạ cắn lén sau lưng: so-sánh người có tâm vô-tàm thì trơ-trẽn, chai-lỳ như một con quạ

đen-đúa, lén mổ kẻ khác.

3) Ham công-kích người, ngã-mạn, ngông-cuồng: đây là ba vết nhơ cùng bắt nguồn từ tánh chấp-ngã (tự xem mình là hơn). Ham công-kích người, ham làm hại người, vì chẳng muốn người hơn mình; ngã-mạn là phách-lối, kiêu-c

ăng, chẳng muốn ai bằng hay hơn m

ình; ngông-cuồng là chẳng sợ tội-ác gây ra quả-báo dữ-xấu, cứ hành-

động ngang-t

àng

để tranh phần hơn với kẻ khác

4) Liều-lĩnh, nhiễm-ô, tánh thường hư-

đốn:

vì ỷ mình giỏi nên sanh ra liều-lĩnh; vì chẳng biết giữ-gìn, nên bị tội-ác làm nhiễm-ô; do

đấy m

à tánh-tình trở nên hư-

đốn,

mãi trôi-l

ăn trong c

õi Luân-hồi.

Phân-tách bài Kệ số 245, ta thấy có hai

đức-tánh

quí-báu:

(1) sự khiêm-tốn, do lòng biết tự-thẹn sanh ra, biết nhũn-nhặn;

(2) hạnh viễn-ly, biết lánh xa mọi ràng-buộc. (Cái chi ràng-buộc? Các tội-lỗi ràng-buộc ta theo nghiệp xấu, nên phải trôi l

ăn m

ãi trong cõi Luân-hồi khổ-

đau lận-đận).

Đường nầy khó, nhưng nhờ

đó sớm được

giác-ngộ và giải-thoát.

(188).- Tích chuyện n

ăm người c

ãi nhau về ngũ-giới.

Vào một thời kia,

Đức Phật ngụ tại ch

ùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có

đề-cập đến việc năm người Phật-tử c

ãi nhau về ngũ-giới.

Thuở ấy vào dịp lễ thọ Bát-quan-trai-giới, có n

ăm vị Phật-tử c

ãi nhau về cách giữ

đúng

ngũ-giới cho người tu-hành tại-gia. Một vị nói: "Tôi cố giữ giới chẳng sát-sanh, nhưng thấy giới nầy là khó nhứt trong ngũ-giới". ’Một vị khác cãi, giới tà-dâm là khó giữ nhứt. Còn một vị khác lại bảo, giới cấm uống rượu mới là khó giữ, trong n

ăm giới. V

ì sự bất-

đồng-ý nầy, họ đến yết-kiến Đức Phật. Đức Phật

: "Nầy chư thiện-nam-tử, chẳng nên xem bất cứ một giới-luật nào là quan-trọng nhứt hay ít quan-trọng hơn các giới kia. Giới nào cũng khó giữ cả, nhưng phải cố giữ sao cho trọn-vẹn cả n

ăm

giới mới

được.

"

Rồi

Đức Phật mới nói l

ên các bài Kệ sau

đây, nhờ đó m

à cả n

ăm vị Phật-tử chứng được quả-vị Tu-đ

à-huờn:

Kẻ nào sát-hại mạng chúng-sanh,

Của không cho mà cứ lấy giành,

Tiết trinh kẻ khác lại xâm-phạm,

Nói lời dối-trá, chẳng chánh-chơn,

Chất say, rượu mạnh dùng luôn,

Đó là đào lỗ tự chôn đời nầy.

(Kệ số 246, 247.)

Nên biết

điều nầy, hỡi các người hiền

!

Tự-chế chẳng làm ác,

đâu phải dễ,

Tham-lam và tội-lỗi, chẳng nên

để

Chúng lôi kéo vào cảnh khổ triền-miên.

(Kệ số 248.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Phật-tử:Phật = giác, hiểu biết rõ; Tử = con. Phật-tử là người theo

đạo Phật, tự xem m

ình là

đứa con tinh-thần của Đức Phật.

- Ngũ-giới: Ngũ = n

ăm;

Giới = điều răn-cấm trong đạo. Với người tu tại-gia, ngũ-giới gồm có: (1) cấm sát-sanh; (2) cấm trộm-cướp; (3) cấm tà-dâm; (4) cấm nói dối; (5) cấm uống rượu. Tiếng Pali về ngũ-giới pancasila.

- Lễ thọ Bát-quan-trai-giới: Theo lễ nầy, người Phật-tử vào chùa tu-hành trong 24 tiếng

đồng-hồ, tuân giữ

tám

điều răn-cấm

gồm có n

ăm giới

của người tu tại-gia cộng thêm ba giới nữa là: chẳng nằm giường cao; chẳng trang-

điểm v

òng-vàng, thoa dầu thơm; chẳng

ăn phi-thời (

= chẳng

ăn sái-giờ, ngo

ài bữa

ăn trưa ra). Đức Phật hứa, ai thọ Bát-quan-trai-giới đ

àng-hoàng, thì chẳng hề bị sa vào

địa-ngục.

- Tu tại-gia: tu-hành tại nhà.

Đức Phật Thích-ca có bốn hạng đệ-tử, gọi l

à tứ-chúng. Tỳ-kheotỳ-kheo-ni là hai hạng xuất-gia, rời bỏ cuộc sống thế-tục, vào chùa tu-hành; ưu-bà-tắc với ưu-bà-di là hai hạng tại-gia, đàn-ông và đàn-bà,vẫn giữ

đời sống có gia-đ

ình.

- Sát-sanh: Sát = giết; Sanh = sanh-mạng chúng-sanh.

- Tà-dâm =

đ

ãcó vợ, chồng chánh-thức rồi mà còn dan-díu tình-ái với kẻ khác.

- Tiết trinh: sự trong-sạch, trung-thành của phụ-nữ

đối với chồng.

- Tự-chế: tự mình r

ăn-cấm, tự m

ình giữ-gìn lấy mình chẳng gây tội-lỗi.

- Triền-miên = lâu-dài chẳng dứt.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện rất giản-dị, thuật lại sự bất-

đồng-ý của năm người về

ngũ-giới. Ý-nghĩa của Tích chuyện là lời dạy của

Đức Phật

: giới nào cũng quan-trọng như nhau, phải giữ cho thật

đầy-đủ th

ì mới

được giải-thoát.

(2) Ý-nghĩa của các bài Kệ số 246, 247 và 248:

Hai bài Kệ 246 và 247 kể lại n

ăm giới

của người tu tại-gia, rất dễ hiểu, mỗi câu là một giới. Nên học thuộc

để nhớ đủ năm giới. Lời răn-dạy rất khẩn-thiết l

à câu chót: hễ ai phạm các giới

đó l

à đào lỗ tự chôn đời mình.

Bài Kệ số 248 khuyên ta nên biết tự-chế, chống lại sự tham-lam và tội-lỗi;

đừng để chúng lôi-kéo ta v

ào cảnh khổ triền-miên của Luân-hồi.

(189).- Tích chuyện vị tỳ-kheo ganh-tị.

Vào một thời kia,

Đức Phật ngụ tại ch

ùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có

đề-cập đến thái-độ ganh-tị của một vị tỳ-kheo trẻ tuổi t

ên là Thi-sa.

Thuở ấy có một tỳ-kheo trẻ tuổi tên là Thi-sa, tánh hay ganh-tị, thường chê-bai sự bố-thí cúng-dường của người khác. Thậm-chí, Thi-sa cũng chẳng hề khen ngợi công-

đức của hai vị đại-thí-chủ nổi tiếng đương-thời l

à cư-sĩ Cấp-cô-

độc v

à nữ-cư-sĩ Vi-sa-kha. Hơn nữa, Thi-sa lại thường khoe-khoang, tự-hào rằng gia-

đ

ình mình rất giàu-có, tiền-bạc nhiều như nước trong giếng, ai muốn

đến xin, cứ việc múc lấy m

à dùng.

Nghe lời khoác-lác nầy, các vị tỳ-kheo khác rất nghi-ngờ mới tìm về làng của Thi-sa; họ khám-phá ra rằng, nhà-cửa của Thi-sa rất là bần-cùng, các thân-nhơn họ hàng của Thi-sa bữa

đói, bữa no. Các vị tỳ-kheo mới tr

ình lên

Đức Phật sự-việc đó. Đức Phật bảo:

"Nầy chư tỳ-kheo, tu-sĩ nào chẳng hoan-hỉ khi thấy các vị tỳ-kheo khác nhận

được sự cúng-dường, v

à tỏ lòng ganh-tị, thì chẳng bao giờ chứng-

đắc được

Đạo Quả cả."

Rồi

Đức Phật mới nói l

ên hai bài Kệ sau

đây

:

Do niềm tin và tâm hoan-hỉ,

Con người mới sanh lòng bố-thí.

Thấy người khác nhận

được cúng-dường

Đồ ăn, thức uống, mà đố-kỵ,

Cả ngày lẫn

đ

êm, kẻ ganh-tị

Chẳng thể nào

đắc được định-tâm.

(Kệ số 249.)

Ai cắt

được ganh-tị trong l

òng,

Bứng tận rễ và dẹp bỏ xong,

Định-tâm người ấy thường chứng được

Đêm cũng như ngày, nếu ra công.

(Kệ số 250.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Ganh-tị: đố-kỵ, ghen-ghét, cà-nanh, đòi cho hơn kẻ khác.

-

Đại-thí-chủ

:

Đại

= lớn; Thí-chủ = người bố-thí, còn gọi là thí-giả

- Cư-sĩ: Cư = ở; ở tại nhà; Sĩ = người. Cư-sĩ là người tu tại-gia.

- Cấp-cô-

độc

:

tên của vị cư-sĩ xây cất chùa Kỳ-viên, tiếng Pali là Anàthapindika.

- Vi-sa-kha: tên của vị nữ-cư-sĩ xây cất nữ-tu-viện

Đông-vi

ên (Pubbàràma), ở phía

Đông ch

ùa Kỳ-viên, tiếng Pali là Visakha.

- Khoác-lác = láo-toét, khoe láo.

- Bần-cùng:Bần = nghèo;Cùng = cùng-khổ.Bần-cùng là nghèo-khổ.

-Hoan-hỉ = vui-mừng, hân-hoan.

- Đạo, Quả: Đạo = con

đường, đường-lối tu-h

ành (Pali: Magga); Quả = kết-quả, sự tu-hành

đ

ã thành-công tốt-

đẹp (

Pali: Phala). Danh-từ chuyên-môn trong Bắc-tông, gọi là hướng và quả, như Tu-

đ

à-huờn hướng và Tu-

đ

à-huờn quả.

-

Định-tâm: Định

= đứng yên lại, chẳng xao-động; Tâm = lòng.

Đắc được

định-tâm là ngồi Thiền, tâm vắng-lặng, chuyên-chú vào một

đề-mục duy-nhứt, chẳng hề xao-l

ãng.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện rất giản-dị, kể lại tánh xấu hay ganh-tị của một vị tỳ-kheo.

Đức Phật dạy, kẻ n

ào biết diệt lòng ganh-tị, hoan-hỉ khi thấy người khác

được cúng-dường, th

ì khi ngồi Thiền sẽ sớm

đắc

định-tâm.

(2) Ý-nghĩa hai bài Kệ số 249 và 250:

1) Hai câu

đầu của b

ài Kệ số 249:

Do

đâu m

à sanh lòng bố-thí? Do niềm tin vào phước-báo, và lòng hoan-hỉ, vui-mừng thấy người nhận của bố-thí

được vui. Thấy người vui m

à vui theo gọi là Tuỳ-hỉ.

2) Bốn câu sau của bài Kệ số 249: vì trong tâm sanh ra ganh-tị, cú lo ganh-ghét mãi, nên ngồi Thiền chẳng

đắc được

định-tâm.

3) Hai câu

đầu của b

ài Kệ số 250:

phải bứng tận gốc-rễ lòng ganh-tị. Gốc-rễ

đó ở đâu

? Chính ngay trong tâm mình, nên dẹp bỏ

đi

4) Hai câu chót của bài Kệ số 250: tại sao

đắc được

định-tâm? Vì nếu ra công dọn dẹp cõi lòng cho trong-sạch, thì tâm

định

ngay.

(190).- Tích chuyện n

ăm người ngồi nghe pháp.

Vào một thời kia,

Đức Phật ngụ tại ch

ùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có

đề-cập đến thái-độ ngồi nghe kinh của năm người tín-đồ.

Thuở ấy, có n

ăm người tín-đồ tu tại-gia đến ch

ùa Kỳ-viên, nghe

Đức Phật giảng-pháp. Trong khi Đức Phật nói pháp, một người ngồi ngủ gục; một người lấy ngón tay vẽ-vạch xuống đất. Người thứ ba, ngồi phía sau, gần gốc cây, lắc nhẹ v

ào cành lá. Người thứ tư ngẩng

đầu nh

ìn lên trời xanh. Còn người thứ n

ăm, ngồi gần b

ên

Đức Phật, chăm-chỉ nghe lời giảng, chẳng bỏ sót câu n

ào. Tôn-giả A-nan,

đứng hầu b

ên cạnh Phật, nhìn thấy rõ n

ăm người đó, đến khi Đức Phật giảng xong, mới thưa tr

ình riêng cùng

Đức Phật thái-độ ngồi nghe kinh của họ. Đức Phật bảo

: "Nầy A-nan, n

ăm người cư-sĩ nầy c

òn chưa dẹp bỏ xong các thói-quen của họ trong tiền-kiếp. Người ngồi ngủ gục, kiếp trước, vốn là con rắn, thường khoanh mình trong xó, ngủ liên-miên. Kiếp trước của người thứ hai là con trùn thường chui qua chui lại trong

đất. Người thứ ba vốn l

à con khỉ trong

đời trước, cứ m

ãi chuyền từ cành nầy sang nhánh nọ trên cây. Còn người thứ tư,

đời trước l

à một chiêm-tinh-gia, cứ ngẩng

đầu l

ên xem các ngôi sao trên trời. Riêng người thứ n

ăm, biết chăm-chỉ nghe pháp, kiếp trước l

à nhà thiên-v

ăn-học. Nầy A-nan, cần phải chú-tâm, chăm-chỉ, mới biết nghe Chánh-pháp. Vẫn c

òn có rất nhiều người chẳng biết chú-ý lắng nghe."

Tôn-giả A-nan bạch Phật: "Bạch thế-tôn, có sự ng

ăn-cản n

ào khiến cho người ta chẳng nghe hiểu

được Chánh-pháp đang giảng

?"

Đức Phật đáp

: "Có ba mối lậu-hoặc lớn ng

ăn cản người nghe chẳng thấu-hiểu r

õ Chánh-pháp: tham, sân si; nhứt là lửa tham

đốt cháy tất cả c

õi lòng mà chẳng hề ngưng-nghỉ."

Rồi

Đức Phật mới nói l

ên bài Kệ sau

đây

:

Lửa nào bằng với lửa tham,

Chấp nào hơn

được chấp tâm giận-th

ù.

Lưới nào như lưới khờ-ngu,

Sông nào sánh

được sông sâu ái-h

à.

(Kệ số 251.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Tín

đồ: Tín

=

tin-tưởng; Đồ = đồ-đệ, học-trò.Tín-

đồ

là người theo

Đạo; trong Phật-giáo, c

òn gọi là thiện-nam, tín-nữ.

- Tu tại-gia: tu-hành tại nhà.

Đối

nghĩa với xuất-gia, rời nhà

đi tu.

- Cư-sĩ: Cư = ở; Sĩ = người. Cư-sĩ là người theo

đạo Phật, tu tại-gia

- Tiền-kiếp: Tiền = trước; Kiếp = đời sống. Theo sự tin-tưởng trong Phật-giáo, chúng-sanh có nhiều đời, đời trước đời hiện nay là tiền-kiếp

- Chiêm-tinh-gia = Chiêm =xem xét; Tinh = ngôi sao; Gia = nhà, người. Chiêm-tinh-gia xem sao trên trời mà

đoán số-mạng con người.

- Thiên-v

ăn-học:

khoa-học về vũ-trụ, không-gian, các hành-tinh, các ngôi sao, v.v.

- Lậu-hoặc: Lậu = rỉ-chảy; Hoặc = điều sai-lầm. Lậu-hoặc là các lỗi-lầm từ bên trong tâm rỉ-chảy, biểu-lộ ra bằng hành-

động, lời nói xấu-ác. Có ba lậu-hoặc chánh

: tham, sân, si; còn gọi là phiền-não.

- Lửa tham: ví sự tham-lam như lửa, nó nung-nấu, thúc-dục lòng mình phải dành cho

được, được rồi lại muốn th

êm nữa, chẳng nguôi.

- Chấp tâm giận-thù: Chấp là sự bám-chặt trong lòng, chẳng lúc nào chịu rời ra; như giận ai thì giận mãi tới già, chết xuống tuyền-

đ

ài cơn giận vẫn chưa tan.

- Lưới khờ-ngu: nghĩa bóng của sự si-mê, nó bao trùm tâm-trí kín-mít chẳng thấy

được lẽ phải v

à

điều l

ành.

- Sông sâu ái-hà: Ái = thương; Hà = sông. Sông ái tức là lòng tham-ái,

đắm-say, vừa sâu vừa nguy-hiểm, kéo ta trôi lăn m

ãi trong vòng sanh-tử khổ-

đau của Luân-hồi lẩn-quẩn.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Nhơn thái-

độ ngồi nghe pháp, chẳng đúng-đắn của bốn người tín-đồ, Đức Phật dạy, chỉ v

ì lòng còn tham, sân, si nên người nghe pháp, chẳng hiểu-thấu cho rõ-ràng

được Chánh-pháp.

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 251:

Bài kệ nầy kể rõ các sự ng

ăn-trở khiến ta chẳng thông-hiểu được Chánh-pháp

: (1) lửa tham; (2) tâm cố-chấp sân-hận; (3) lưới si-mê; (4) sông ái-hà. Bốn

điều

ô-uế

đó, ta phải cố rửa cho sạch khỏi l

òng ta.

(191).- Tích chuyện vị hào-phú Mẫn-

đ

à-kha.

Vào một thời kia,

Đức Phật du-h

ành

đến xứ An-gi

à, trong một kỳ giảng-pháp, có

đề-cập đến vị h

ào-phú tên là Mẫn-

đ

à-kha.

Thuở ấy, ở thành Bá-

đi-gia, xứ An-gi

à, có một vị hào-phú tên là Mẫn-

đ

à-kha, của-cải rất nhiều mà cũng có lòng bố-thí thật rộng-rãi. Thiên-hạ

đồn rằng, ông Mẫn đ

ã

đ

ào lên phiá sau vườn nhà mình

được nhiều pho-tượng chạm h

ình con dê, bằng vàng ròng. Lại cũng có lời

đồn rằng, trong nhiều kiếp trước, v

ào thời

Đức Phật Tỳ-b

à-thi, ông Mẫn

đ

ã xây cất một tu-viện trang-nghiêm, với

đầy-đủ ph

òng-ốc,

điện-sảnh; rồi dưng-cúng thực-phẩm l

ên chư T

ăng trong hơn bốn tháng. Trong một kiếp sau nữa, ông Mẫn tái-sanh v

ào thành Ba-la-nại, gặp nạn

đói-kém, liền xuất tiền ra sắm-sửa thức ăn bố-thí cho dân-chúng. Trong số những người đến khất-thực, có một vị Bích-chi-Phật, ông Mẫn đều cúng-dường đầy-đủ. Nhờ phước-báo đó m

à ngày nay, ông Mẫn trở nên rất giàu-có.

Hay tin

Đức Phật du-h

ành

đến th

ành Bá-

đi-gia, ông Mẫn c

ùng với cả gia-

đ

ình gồm có sáu người,

đồng đi đến nơi, nghe Đức Phật thuyết-giảng. Sau khi cúng-dường Đức Phật v

à chư T

ăng xong, ông Mẫn bạch với Phật

: "Bạch Thế-tôn, trên

đường con đi đến đây, con có gặp v

ài người ẩn-tu khổ-hạnh

đ

ã nói xấu Thế-tôn, và bảo con

đừng đến đây nghe pháp.

"

Đức Phật đáp

: "Nầy

đại-thí-chủ, thật chẳng khó-khăn g

ì

đi vạch lỗi của kẻ khác m

à lại cố dấu-diếm tật xấu của chính mình."

Rồi

Đức Phật mới nói l

ên bài Kệ sau

đây, nhờ đó m

à mọi người trong gia-

đ

ình ông Mẫn

đều chứng-đắc được quả-vị Tu-đ

à-huờn:

Dễ thay, thấy lỗi người ta,

Lỗi mình thấy

được, thật l

à khó thay!

Phanh-phui vạch lỗi của ai

Như

đang quạt gạo, trấu bay ra ngo

ài.

Lỗi mình che kín chẳng khai,

Như cờ-bạc lận, quân bài dấu trong.

(Kệ số 252.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Hào-phú: Hào = có quyền-thế; Phú = giàu. Hào-phú là giàu và có nhiều quyền-thế.

- Mẫn-

đ

à-kha: tên vị hào-phú nầy, tiếng Pali là Mendaka.

- Xứ An-già, thành Bá-

đi-gia, th

ành Ba-la-nại: tên các

địa-danh nầy, tiếng

Pali là: Anga, Baddiya, Bénarès hay Vàrànasì.

- Tỳ-bà-thi: tên một vị Phật giáng-sanh n

ăm kiếp trước Đức Phật Thích-ca; tiếng

Pali là Vipassì.

-

Điện-sảnh: Điện

= c

ăn ph

òng lớn trang-nghiêm; Sảnh = phòng.

- Bích-chi-Phật: một vị Phật tự-mình giác-ngộ và giải-thoát, vào thời chẳng có giáo-pháp của một

đức Phật n

ào; tiếng Pali là Paccekabuddha. Bích chi-Phật còn gọi là Độc-giác, tự mình giác-ngộ lấy, nhưng chẳng

đi giáo-hoá kẻ khác để họ được giác-ngộ theo.

- Ẩn-tu khổ-hạnh: Ẩn-tu = tu một mình nơi xa-vắng; Khổ-hạnh = tu ép xác với hi-vọng mau

được giác-ngộ v

à giải-thoát.

- Đại-thí-chủ: Đại = lớn, Thí-chủ = người bố-thí; còn gọi là thí-giả.

- Tu-

đ

à-huờn:

quả-vị

đầu-ti

ên trong hàng Thanh-v

ăn (

=đệ-tử sống gần Phật, nghe kinh mà tu-tập); tiếng Pali là Sotapatti, dịch là Nhập-Lưu ( =vào dòng Thánh)hay Thất-Lai ( = chỉ còn tái-sanh bảy lần)

- Cờ-bạc lận: cờ gian bạc lận;

đánh b

ài

ăn gian.

- Quân bài = lá bài, con-bài.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện có hai phần: phần

đầu thuật lại công-đức bố-thí của ông Mẫn trải qua nhiều đời; phần sau, nhận-xét của Đức Phật về tánh hay vạch lỗi của kẻ khác v

à che dấu lỗi của mình. Ý-nghĩa của nhận-xét nầy là chẳng nên vạch lỗi kẻ khác, trái lại phải biết tự-xét lấy lỗi mình mà tránh

đi, để thân-tâm trở n

ên trong-sạch, khỏi các cấu-uế.

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 252:

Bài Kệ

đưa ra hai h

ình-ảnh rất sống

động: (1)vạch lỗi của người như đang quạt gạo, trấu bay ra, dễ thấy; (2) che-dấu lỗi m

ình kỹ-lưỡng cũng như

đứa cờ-bạc gian-lận dấu con-b

ài bên trong, chẳng cho ai thấy cả. Ý-nghĩa của bài Kệ dĩ-nhiên khuyên ta chớ vạch lỗi kẻ khác.

(192).- Tích chuyện tỳ-kheo Úc-gia.

Vào một thời kia,

Đức Phật ngụ tại ch

ùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có

đề-cập đến vị tỳ-kheo t

ên Úc-gia.

Thuở ấy, có một vị tỳ-kheo tên Úc-gia, tánh hay kẽ-vạch lỗi-lầm của người khác, và thường hay nói xấu các bạn

đồng-tu. Các vị tỳ-kheo khác mới thưa-tr

ình cùng

Đức Phật. Đức Phật bảo

: "Nầy chư tỳ-kheo, nếu có ai nói rõ lỗi-lầm của người khác và chỉ-dạy cho họ cách sửa-chữa lại, thì

đó l

à chẳng phải là một hành-

động xấu-ác, đáng ch

ê-trách

đâu. Trái lại, nếu có kẻ n

ào luôn luôn chỉ-trích chỗ sai-lầm của người khác với ý-

định hiểm-độc để nói xấu, th

ì người nầy chẳng thể nào chứng-

đắc được định-tâm. Y lại chẳng bao giờ thông-hiểu được Chánh-pháp, v

à các mối lậu-hoặc nơi người ấy ngày càng gia-t

ăng.

"

Rồi

Đức Phật mới nói l

ên bài Kệ sau

đây

:

Kẻ nào cứ thấy lỗi của ai,

Thường sanh lòng chỉ-trích chê-bai,

Lậu-hoặc người

đó tăng ho

ài,

Tiêu-trừ cho sạch, biết ngày nào xong.

(Kệ số 253.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Úc-gia: tên của vị tỳ-kheo nầy, tiếng Pali là Ujjhànasanni.

- Kẽ-vạch = moi-móc, cố tìm chỗ sơ-hở của kẻ khác

để nói ra.

- Chỉ-trích: phê-bình, khen hay chê, thường là có ý chê hơn khen

- Hiểm-

độc: Hiểm

=

nguy-hiểm; Độc = độc-ác. Hiểm-

độc

là làm việc ác ngầm, dấu ác-ý chẳng cho lộ rõ ra, nên nguy-hiểm lắm.

- Định-tâm:

Định

=

dừng lại,

đứng y

ên; Tâm = lòng. Khi ngồi Thiền, tâm chẳng xao-

động, chỉ chú-ý v

ào

đề-mục duy-nhứt l

à

đang có

định-tâm.

- Chánh-pháp = Chánh = chơn-chánh,

đúng-đắn;

Pháp = pháp-tu. Chữ Chánh-pháp ( = Dhamma)

được hiểu l

à giáo-pháp của

Đức Phật.

- Lậu-hoặc = các phiền-não trong tâm lộ ra bằng hành-

động hoặc

bằng lời nói. Có ba mối lậu-hoặc chánh: tham, sân, si và các món phụ- thuộc như nghi-ngờ, ngã-mạn, tà-kiến. (Lậu = rỉ chảy ra; Hoặc = điều sai-lầm, lỗi-lầm, phiền-não.)

- Gia-t

ăng:

càng ngày càng nhiều.

- Tiêu-trừ: dẹp bỏ cho tan mất hết.

B.- Nghĩa Ý:

(1)Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện thuật lại việc một tỳ-kheo có thói xấu hay kẽ-vạch lỗi-lầm của người khác

để ch

ê-bai. Việc

đó đến tai Đức Phật, Ng

ài dạy rằng: "Chỉ-dạy lỗi-lầm của kẻ khác và cách sửa-chữa lại cho tốt, là

điều đáng l

àm; nhưng nếu vạch lỗi của kẻ khác

để ch

ê-bai, chỉ-trích với ý-

định nói xấu, đó l

à

điều n

ên tránh."

Đức Phật lại bảo

: "Người hay moi-móc lỗi của kẻ khác

để nói xấu, khi tu thiền, chẳng những chẳng thể đắc được

định-tâm, mà nơi tâm người ấy, lậu-hoặc sẽ gia-t

ăng ho

ài, chẳng gột rửa hết

được.

"

Ý-nghĩa của Tích chuyện là phải thường thường xét

đến chính

lòng mình, thấy những lỗi-lầm, thiếu-sót của chính mình, hơn là quay sang người

đồng-tu, t

ìm lỗi của họ,

để che dấu lỗi của m

ình. Có như thế mới khiến cho tâm mình dễ an-

định, các lậu-hoặc như

sân, si, ngã-mạn, ganh-tị lần lần

được dũa m

òn mà tiêu-tan

đi.

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 253:

Bài Kệ rất rõ nghĩa, chỉ dạy ta phải dẹp bỏ thói xấu chỉ-trích lỗi kẻ khác

để che dấu lỗi của m

ình.

Thử phân-tách ý-nghĩa bài Kệ

để t

ìm các sự ô-uế, các lậu-hoặc xảy ra trong tâm người hay kẽ-vạch:

1) Thấy lỗi kẻ khác, chỉ-trích chê-bai: đây là ác-ý muốn hạ kẻ khác,

để ngầm tôn m

ình lên,

đó l

à một hình-thức của sự ngã-mạn.

2) Lậu-hoặc người

đó tăng ho

ài:

Lậu-hoặc nào?

Đó l

à sự ganh-tị, ghen-ghét kẻ khác, thấy ai hơn mình thì chẳng ưa. Người hay ganh-tị lo binh-vực cái Ta của mình, khiến cho cái Ta ấy càng ngày càng to-lớn thêm, chẳng thấy

được các lỗi-lầm đầy-dẫy nơi tâm m

ình. Vì lẽ nầy, bài Kệ mới nói: Tiêu-trừ cho sạch, biết ngày nào xong.

(193).- Tích chuyện ông Tu-bạt-

đ

à-la, vị

đệ-tử chót của Đức Phật.

Vào một thời kia,

Đức Phật đến rừng Ta-la, xứ Câu-thi-na, trước khi nhập Niết-b

àn, có

đề-cập đến vị đệ-tử cuối-c

ùng của

Đức Phật l

à ông Tu-bạt-

đ

à-la.

Thuở ấy, ở xứ Câu-thi-na có một người Bà-la-môn, sống trên tr

ăm tuổi, thường theo học các vị sư ngoại-đạo, nhưng c

òn chưa vừa lòng. Khi nghe tin

Đức Phật sắp nhập Niết-b

àn, trong rừng Sa-la ở Câu-thi-na, ông Tu-bạt-

đ

à-la mới

đến xin yết-kiến Đức Phật, để thưa hỏi về ba câu hỏi m

à lòng ông còn thắc-mắc, chưa

được ai giải-đáp thoả-đáng cả. Tôn-giả A-nan bấy giờ hầu-cận b

ên

Đức Phật, thấy Phật đang mệt, mới từ-chối chẳng để ông Tu-bạt-đ

à-la vào gặp Phật.

Đức Phật nằm tr

ên giường, giữa hai cây Ta-la, nghe tiếng n

ăn-nỉ của ông Tu-bạt-đ

à-la, mới gọi Tôn-giả A-nan, bảo hãy

đưa ông ấy v

ào.

Ông Tu-bạt-

đ

à-la, sau khi th

ăm hỏi Đức Phật, liền n

êu lên ba câu hỏi mà từ lâu ông thắc-mắc tìm chưa

được lời giải-đáp

:

1) Giữa hư-không, có dấu-tích gì ch

ăng

?

2) Có vị sa-môn nào

đứng b

ên ngoài Chánh-pháp của Như-lai ch

ăng

?

3) Có sự-vật hữu-vi nào mà thường-hằng mãi ch

ăng

?

Cả ba câu hỏi,

Đức Phật đều đáp l

à không, và Ngài nói lên hai bài Kệ sau

đây, nhờ đó m

à ông Tu-bạt-

đ

à-la, vị

đệ-tử cuối c

ùng của

Đức Phật, chứng đắc được quả-vị A-la-hán

:

Chẳng vết-tích gì giữa hư-không,

Bên ngoài Chánh-pháp, không Sa-môn.

Phàm-phu thoả-thích trong chướng-ngại,

Chướng-ngại, Như Lai trải qua xong.

(Kệ số 254.)

Chẳng vết-tích gì giữa hư-lhông,

Bên ngoài Chánh-pháp, không Sa-môn.

Các hành hữu-vi chẳng thường-trụ,

Chư Phật Như-lai ổn-cố xong.

(Kệ số 255.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Tu-bạt-

đ

à-la: tên vị

đệ-tử chót của Phật, tiếng

Pali là Subhadda

- Rừng Ta-la, xứ Câu-thi-na: rừng cây Ta-la, thân cây cao lớn, cành lá xanh-tươi, trong xứ Câu-thi-na, nơi

Đức Phật Thích-ca nhập Niết-b

àn ( = mất). Tiếng Pali là cây Sala, xứ Kusinàrà.

- Các sư ngoại-

đạo

: các giáo-chủ các môn-phái tu khác chống

đối với đạo Phật, như nhóm ông

Phú-lan-na Ca-diếp (Purana Kassapa, chẳng tin lý-thuyết nghiệp-báo), như nhóm loã-thể Ni-liền-tử ( = nhóm Nigandha, tu khổ-hạnh,chẳng mặc quần-áo), v.v.

- Nhập Niết-bàn: vào cảnh-giới Tịch-diệt. Trong Phật-học, chữ Nhập Niết-bàn dùng

để chỉ khi các bực Thánh li

à thân-xác nầy (tức là chết

đi), được tin l

à vào cõi vắng-lặng, an-nhiên, tự-tại của Niết-bàn.

- Hư-không: khoảng trống-không bao-trùm tất cả vạn-vật, vũ-trụ. Vì chẳng có bờ-bến, vì chẳng có hình-sắc, nên gọi là hư, tức là chẳng phải có thật

để d

ùng giác-quan mà biết

được, nhưng

thật có, vì hư-không thì thường-hằng, tồn-tại mãi.

- Dấu-tích, vết-tích: chỗ còn sót lại.

- Sa-môn = tu-sĩ Phật-giáo. Xin nhắc lại: Sa-môn ( Pali: Samana) có ba nghĩa: (1) cần-giả ( = siêng làm

điều thiện), (2) tức-giả (

= ngưng dứt làm việc ác), (3) bần-giả ( = cam chịu sự nghèo khó

để tu-h

ành); ở

đây chữ

Sa-môn có thêm một nghĩa nữa là bực Thánh, đã diệt hết các phiền-não, chẳng còn tái-sanh nữa.

- Chánh-pháp của Như-Lai = giáo-pháp do các

Đức Phật đ

ã chỉ-dạy. Như-lai ( Tathàgata ) chỉ pháp-thân của Phật.

- Chướng-ngại: điều ngăn-trở. Ở đây chữ chướng-ngại trỏ vào các lậu-hoặc, phiền-não, như tham-ái, sân-si, ngã-mạn, v.v.

- Hữu-vi: Hữu = có; Vi = làm, tạo-tác ra. Sự-vật hữu-vi là những sự-vật do sự tạo-tác ra mà có, vì thế bị

điều-kiện-hoá,

nghĩa là do một nguyên-nhơn nào

đó m

à sanh ra, rồi cũng bị một nguyên-nhơn nào

đó l

àm cho tiêu-diệt

đi. Sự-vật

hữu-vi, còn gọi là các hành hữu-vi (hành, tiếng Pali là sankhàra) ngày nay ta gọi là các sự-vật bị điều-kiện-hoá, nghĩa là chẳng phải tự-nhiên mà có, mà do nhơn-duyên mà thành, rồi cũng do nhơn-duyên mà diệt

đi mất.

- Thường-hằng: thường còn mãi-mãi; trái với chơn-lý vô-thường,theo

đó, muôn vật có h

ình-tướng

đều thay đổi, biến-dạng, ti

êu-mòn rồi diệt

đi, chớ chẳng c

òn mãi

được.

Vô-thường, Pali gọi là Anicca.

- Thường-trụ: Thường = luôn luôn, trụ = ở yên mãi một chỗ, chẳng mất. Cùng nghĩa với: thường-hằng, thường-trú, thường-còn.

- Ổn-cố: Ổn = yên-ổn; Cố = cố- =định; Ổn-cố là làm cho yên-ổn, cố-

định, chẳng phải thay-đổi, biến-hoại nữa.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện lâm-ly thuật lại việc

Đức Phật v

ào giờ phút chót trước khi lià

đời c

òn thâu-nhận

đệ-tử v

à chỉ-dạy giáo-lý.

Ông Tu-bạt-

đ

à-la, tin theo ngoại-

đạo, đến thưa hỏi Đức Phật ba câu hỏi về Giáo-pháp

: (1) Giữa hư-không, có vết-tích gì không? Có lẽ ông muốn biết, ngoài hư-không còn có một cảnh-giới nào khác hơn là các cõi Người và các bực Thánh nữa không?; (2)Bên ngoài Chánh-pháp có Sa-môn không? Có lẽ ông muốn biết, ngoài các vị

được chứng-đắc theo Giáo-pháp của các Đức Phật, c

òn có kẻ nào tu theo ngoại-

đạo được th

ành bực Thánh không?; (3) Các sự-vật hữu-vi có thường-hằng mãi không? Có lẽ ông muốn biết tấm thân n

ăm-uẩn

hữu-vi hữu-lậu nầy, có

được thường-c

òn mãi không?

Trong Kinh Pháp-Cú nầy,

Đức Phật trả lời rất vắn-tắt l

à "Không"; nhưng khi thuật lại việc thưa-hỏi của ông Tu-bạt-

đ

à-la, trong Kinh Đại-Niết-bàn (Đại-bản), phẩm 40,

Đức Phật giải-đáp rất cặn-kẽ, nhứt l

à về cái "Không" và trong Kinh Đại-Niết-Bàn (Tiểu-bản), phẩm 15, kể ra

đầy-đủ các bực

Thánh, hiền tu theo Bát-chánh-

đạo,

trong Tứ-diệu-

đế

.

[Vì vấn-

đề nầy rất thâm-sâu, Thiện-Nhựt xin thưa th

êm ba

đ

ìều:

(1) Muốn quán-sát về Không, về Hư-không, phải biết nhìn vào thực-tướng ( = tướng thật-sự) của muôn pháp. Thực-tướng nầy là tướng diệt của muôn pháp hữu-vi; thí-dụ, ngọn

đ

èn dầu

đang cháy, hết dầu, lửa tắt, th

ì lửa

đi về đâu? Nh

ìn lửa, trước thì cháy, nay tắt mất

đi, đó l

à tướng diệt, đó là thực-tướng. Hư-không cũng thế, ở cùng khắp nơi, mà ta chưa biết rõ chỗ nào xác-

định. Cái

Không chính là

đó. V

ì Hư-không chưa xác-

định

, làm sao biết có vết-tích gì ở

đó cho được.

(2) Trong Tứ-diệu-

Đế, chơn-lý thứ tư l

à Đạo-đế, chỉ rõ con

đường

thánh-

đạo,

gồm có tám ngành: Chánh-kiến, Chánh-tư-duy, Chánh-ngữ, Chánh-mạng, Chánh-nghiệp, Chánh tinh-tấn, Chánh-niệm và Chánh-

định. Ai theo con đường nầy m

à tu-tập, lần-lượt chứng

đắc các quả-vị

: (a) Tu-

đ

à-huờn, (b) Tư-

đ

à-hàm, (c ) A-na-hàm, là ba quả-vị hiền, còn phải tái-sanh, và (d) A-la-hán là quả-vị Thánh, thoát khỏi Luân-hồi. Các vị tu-hành chứng-

đắc đó, theo Tích chuyện nầy gọi l

à Sa-môn. Xét qua sáu phái ngoại-

đạo v

ào thời ông Tu-bạt-

đ

à-la, chẳng có giáo-lý của phái nào có

được con đường

Thánh-

đạo

như trong Phật-giáo, vì thế

Đức Phật mới bảo

: "Ngoài Chánh-pháp của các

Đức Phật, chẳng có Sa-môn.

"

(3)) Chữ Pali Sankhàrà, nghĩa vừa rộng, vừa chẳng

được xác-định r

õ,thường

được dịch tiếng Hán-Việt l

à Hành.

Nghĩa rộng của chữ Sankhàrà, Hành, là sự kết-hợp và biến-chuyển của một sự-vật gồm có hai phần, phần có hình-sắc và phần vô-hình. Vì là sự kết-hợp và

đang biến-chuyển, n

ên sự-vật ấy

được gọi l

à sự-vật hữu-vi, do các nhơn-duyên trong quá-khứ và hiện-tại mà thành, rồi lại biến-chuyển theo các

điều-kiện của các nhơn-duy

ên hiện-tại và tương-lai mà thay-

đổi, hao-m

òn rồi biến-diệt mất. Như thế, nghĩa rộng của chữ Sankhàrà, Hành, là tất cả sự-vật trong thế-giới hiện-tượng, thấy

được tạo-tác ra, có sự biến-chuyển từ b

ên trong rồi thay-

đổi v

à diệt mất theo các

điều-kiện gọi l

à các nhơn-duyên. Hữu-vi chính là tánh-cách kết-hợp tạm-thời

đó, v

ì thế nên chẳng thể nào thường-hằng được.

Trong số các nghĩa chẳng xác-

định r

õ, chữ Sankhàrà, Hành, lạiriêng chỉ

đến các hiện-tượng tâm-linh, vô-h

ình nhưng có tướng, nhận thấy rõ trong tâm. Các hiện-tượng tâm-linh

đó kết-hợp lại tạm-thời, được gọi l

à hành-uẩn, thường

được giải-thích, một cách vắn-tắt, l

à các hành-

động,

lộ ra bên ngoài bằng lời nói hay việc làm. Nhưng các hiện-tượng trong hành-uẩn thường là những ý-tưởng

đang biến-chuyển, di-động, n

ên các dịch-giả Tây-phương thường gọi hành-uẩn mental formations ( =những sự kết-thành của phần tâm-linh

đang biến-chuyển). V

ì hành-uẩn uẩn thứ tư trong ngũ-uẩn, nên một nghĩa nữa của chữ Sankhàrà, Hành, lại chỉ

đến

thân-tâm ngũ-uẩn đang tạm-thời hiện có đây, nhưng rồi sẽ tan-rả mà trở về Không. (

Đấy l

à

điều căn-bản trong

Tâm-kinh mà Bồ-tát Quán-tự-tại nói rõ, khi Ngài chuyển pháp Bát-nhã Ba-la-mật, soi thấy thực-tướng của thân-tâm ngũ-uẩn Không, nên mới vượt qua mọi khổ-nạn

được.)

Để tóm-tắt, Thiện-Nhựt xin nhắc lại về ba câu hỏi của ông Tu-bạt-đà-la: (1) về Hư-không, đó tướng diệt của muôn sự-vật, chẳng còn vết-tích gì, nên mới gọi là Không; (2) chẳng hề có bực Sa-môn, hay Thánh-hiền nào cả, trong giới ngoại-

đạo, v

ì họ chẳng biết theo con

đường

thánh Bát-Chánh-

đạo

; (3) trong các hành hữu-vi, tức là các hiện-tượng bị

điều-kiện-hoá,

thân-tâm ngũ-uẩn nầy là vô-thường.

Kính xin người

đọc vui l

òng chỉ dạy thêm cho Thiện-Nhựt.

(2) Ý-nghĩa của hai bài Kệ số 254 và 255:

Đây là hai bài Kệ rất khó, hai câu khởi đầu giống nhau, hai câu chót của mỗi bài đưa đến hai kết-luận khác nhau:

1) Chẳng vết-tích gì giữa hư-không: những sự-vật có hình-tướng, khi tiêu-diệt, trở về với thực-tướng ( =tướng chơn-thật) thì nằm trong Hư-không, chẳng

để lại dấu-vết chi. Nhưng n

ên hiểu ngầm thêm, là bên trong cái Không đã có sẵn cái Có, chỉ chờ hội

đủ mọi nhơn-duy

ên

để lại hiện l

ên.

2) Bên ngoài Chánh-pháp, chẳng Sa-môn: chẳng ai chứng

được bực Thánh, gọi l

à Sa-môn, mà chẳng tu theo Bát-chánh-

đạo

trong Chánh-pháp của các

Đức Phật cả. N

ên hiểu ngầm thêm, giáo-lý của bất cứ phái-tu nào thiếu Bát-Chánh-

đạo,

thì

đó l

à tà-

đạo, chớ tin theo.

3) Phàm-phu thoả-thích trong chướng-ngại; Chướng-ngại Như-lai trải qua xong: Chướng-ngại đây là các phiền-não, lậu-hoặc như tham, sân, si, mạn, nghi, ác-kiến, phàm-phu chẳng biết sự

độc-hại, n

ên thoả-thích trong

đó; c

òn các

Đức Như-lai đ

ã dứt trừ chúng xong.

4) Các hành hữu-vi chẳng thường-trụ, Chư Phật Như-Lai ổn-cố xong: Các hành hữu-vi,

đây, trỏ v

ào n

ăm uẩn của thân-tâm.

Phàm-phu chẳng biết, cho

đó l

à thường còn; còn chư Phật Như-lai, dùng Trí-huệ Bát-nhã quán-chiếu thấy thân-tâm n

ăm uẩn

thấy vừa rỗng-rang, lại vừa giả-tạm, nên

đạt đến

giác-ngộ và giải-thoát, được tự-tại trong cảnh an-nhiên, tịch-diệt, đó tức là các bực Đại-giác đã ổn-cố xong.

-ooOoo-

XIX.- Phẩm PHÁP-TRU.

(194).- Tích chuyện các vị thẩm-phán.

Vào một thời kia,

Đức Phật ngụ tại ch

ùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có

đề-cập đến các vị thẩm-phán xét-xử chẳng đúng theo luật-pháp.

Một hôm, có các vị tỳ-kheo

đi khất-thực xong, trở về tịnh-xá, gặp cơn mưa to, mớí đến tạm trú ngo

ài hàng hiên của một toà-án. Trong khi

đó, b

ên trong phòng án, các vị thẩm-phán

đang phân-xử các vụ kiện. Các vị tỳ-kheo nhận thấy rằng, khi phán-quyết, có vị thẩm-phán lại định-đoạt một cách chuy

ên-chế, xử chẳng công-bằng, vì

đ

ã trót nhận tiền hối-lộ của những người kiện-tụng. Khi ra về

đến tịnh-xá, các vị tỳ-kheo thưa tr

ình cùng

Đức Phật những điều đ

ã nghe thấy tại toà-án.

Đức Phật bảo

: "Nầy chư tỳ-kheo, khi phân-xử các mối tranh-chấp, nếu

để cho t

ình-cảm hay tiền-bạc lôi-cuốn, thì

đó chẳng phải l

à những vị thẩm-phán công-minh chánh-trực, chẳng phải là người tuân-phục vào luật-lệ. Chỉ khi nào xét-xử vô-tư, dùng trí thông-minh quyết-

đoán đúng theo luật-lệ, bấy giờ mới xứng danh l

à một vị thẩm-phán công-bằng, an-trú nơi luật-pháp."

Rồi

Đức Phật mới nói l

ên hai bài Kệ sau

đây

:

Chẳng phải là người an-trụ pháp,

Kẻ nào chuyên-chế phán-xét ai.

Chánh-tà,

đen-trắng, cả hai,

Xử-phân rành-rẽ, người tài-trí cao.

(Kệ số 256.)

Chẳng chuyên-chế, thật công-bằng

Đúng theo luật-pháp dẫn đường dân đen.

Hộ-trì sáng-suốt nền luật-pháp,

Đấy mới xứng-danh bực Pháp-trụ.

(Kệ số 257.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Pháp-Trụ: Pháp = có hai nghĩa: luật-pháp và giáo-pháp; Trụ = ở yên nơi

đó. Người

trụ-pháp luôn tuân-phục luật-pháp và giáo-pháp.

- Thẩm-phán: quan Toà, người phân-xử các sự tranh-chấp.

- Toà-án: nơi xét-xử các cuộc tranh-chấp, ấn-

định h

ình-phạt.

- Phán-quyết = quyết-

định về phải, quấy, của quan To

à.

- Chuyên-chế: Chuyên = nghiêng riêng về một phía; Chế = bó-buộc. Người chuyên-chế bắt kẻ khác phải theo ý riêng của mình.

- Kiện-tụng = tranh-cãi nhau phải nhờ Toà-án phân-xử.

- Công-minh chánh-trực: Công = ngay-thẳng; Minh = sáng-suốt; Chánh = chơn-chánh,

đứng-đắn;

Trực = thẳng. Quan Toà công-minh chánh-trực thì xử-

đoán công-bằng, phải quấy, chánh t

à thật rõ-ràng.

- Vô-tư: Vô = chẳng; Tư = riêng, thiên-vị. Người vô-tư là người công-bình, chẳng riêng vị bụng người nào mà bẻ vẹo công-lý.

- An-trụ pháp: có hai nghĩa: (1) lúc nào cũng giữ

đúng theo luật-pháp trong x

ã-hội; (2) luôn tuân theo

đầy-đủ các

giới-luật trong

Đạo.

- Hộ-trì: Hộ = bảo-vệ; Trì = giữ-gìn. Hộ-trì luật-pháp là giữ cho nền luật-pháp

được sáng-tỏ v

à

được mọi người biết tuân-theo.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện rất

đơn-sơ

: một nhóm tỳ-kheo nhận-xét cách xét-xử thiếu công-bằng của thẩm-phán nơi toà-án, mớí thưa trình cùng

Đức Phật. Đức Phật nhơn đó mới chỉ dạy thế n

ào là người trụ-pháp. Đức Phật bảo: "Người có nhiệm-vụ phân-xử phải thật công-bằng, chớ nên vì tình-cảm hay vì tiền bạc mà xét

đoán thiếu vô-tư. Bực

pháp-trụ là người xét-xử

đúng theo luật-pháp, chẳng chút n

ào thiên-vị."

Ý-nghĩa của Tích chuyện là ngoài việc tuân-hành các luật-lệ trong xã-hội, còn có việc tuân-phục các giới-luật trong

Đạo, các lời chỉ-dạy trong Chánh-pháp nữa. Kẻ tuân theo đầy-đủ, giới-đức thanh-tịnh, mới được gọi l

à bực pháp-trụ.

(2) Ý-nghĩa của hai bài Kệ số 256 và 257:

Cả hai bài Kệ, ý-nghĩa rất sáng-tỏ rõ-ràng, nói

đến những bực tuân-tr

ì luật-pháp trong xã-hội,

để phân-xử các mối tranh-chấp của người dân. Đấy l

à những người xét-xử vô-tư, chẳng thiên-vị, xứng-

đáng với danh-

nghĩa là bực Pháp-trụ.

(195).- Tích chuyện sáu vị tỳ-kheo ba-hoa.

Vào một thời kia,

Đức Phật ngụ tại ch

ùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có

đề-cập đến thái-độ ăn nói ba-hoa của sáu vị tỳ-kheo.

Thuở ấy, có sáu vị tỳ-kheo thường hay gây nên sự xáo-trộn nơi phòng

ăn trong tu-viện hay ở l

àng-mạc. Một hôm, trong khi các vị Sa-di

đang thọ-thực, nhóm sáu vị tỳ-kheo đó bước v

ào trai-

đường, nói vang l

ên: "Nầy các chú Sa-di, các chú phải biết chúng ta

đây l

à bực hiền-trí." Rồi họ lại

đẩy b

àn, kéo ghế, tranh nhau chỗ ngồi cao, làm mất cả trật-tự và sự yên-lặng nơi phòng

ăn. Khi Đức Phật biết được sự-việc ấy, Ng

ài bảo rằng: ‘Nầy chư tỳ-kheo, Như-Lai chẳng gọi là bực hiền-trí, những kẻ hay

ăn nói ba-hoa, chẳng nể-nang kẻ khác, l

àm mất lòng người chung-quanh. Chỉ những người chẳng

đem l

òng thù-hận kẻ khác, chẳng hại người, mới xứng-danh là bực hiền-trí."

Rồi

Đức Phật mơí nói l

ên bài Kệ sau

đây

:

Chẳng phải trở thành người hiền-trí,

Kẻ

đ

ã lắm lời nói ba-hoa.

Chẳng thù, chẳng sợ, an-hoà,

Bực hiền-trí

đó mới l

à xứng-danh.

(Kệ số 258.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Ba-hoa: ăn nói xấc-xược, lia lia cái miệng chẳng ngừng.

- Sa-di: người mới vào tập-sự tu-hành trong chùa, chưa thọ-giới tỳ-kheo; tiếng Pali là Sàmanera.

- Thọ-thực: Thọ = nhận; Thực = ăn. Tiếng nhà chùa nghĩa là ăn cơm

- Trai-

đường: Trai

= bữa

ăn chay:

Đường: nhà. Trai-

đường

là phòng

ăn trong ch

ùa.

- Hiền-trí: Hiền = hiền-lành; Trí = trí-huệ. Hiền-trí là người hiền-lành, có trí thông-minh; theo nghĩa trong Phật-học,

đó l

à người có giới-

đức thanh-tịnh, thông-hiểu Chánh-pháp, c

òn gọi là thiện-tri-thức.

- Như-Lai: tiếng

Đức Phật tự-xưng khi nói với đệ-tử.

Pali là Tathàgata. (Như = như thế, Lai = đến; bực

đ

ã

đến đây như thế)

- An-hoà: An = an-ổn; Hoà = hoà-thuận. Người an-hoà sống yên-ổn, hiền-lành, chẳng gây sự chống-

đối với kẻ khác.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện thuật lại thái-

độ ba-hoa của sáu vị tỳ-kheo gây xáo-trộn trong ph

òng

ăn. Đức Phật dạy, muốn xứng-danh l

à bực hiền-trí, phải là người chẳng thù-hận, an-hoà, chẳng làm hại

đến kẻ khác.

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 258:

Bài Kệ chê thái-

độ ba-hoa của kẻ lắm lời v

à nêu ra ba

đức-tánh tốt của bực

hiền-trí: chẳng hận-thù, chẳng sợ-hãi và sống an-hoà với mọi người.

(196).- Tích chuyện Trưởng-lão Nhứt-Kệ-tụng.

Vào một thời kia,

Đức Phật ngụ tại ch

ùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có

đề-cập đến một vị Trưởng-l

ão chỉ thuộc lòng có mỗi một bài Kệ, nên

được biệt-hiệu l

à tỳ-kheo Nhứt-Kệ-tụng.

Thuở ấy, có một vị Tỳ-kheo sống ẩn-cư trong một khu rừng ở xứ Xá-vệ. Vào ngày rằm, vị ấy thường

đọc-tụng b

ài Kệ duy-nhứt mà vị ấy thuộc, cho dân-chúng nghe. Hôm ấy, có hai vị Trưởng-lão rất thông-thạo Chánh-pháp, dẫn một nhóm

đông tỳ-kheo v

ào rừng,

để thực-tập Thiền-định. Tỳ-kheo

Nhứt-Kệ-tụng mới thỉnh hai vị ấy

đăng-đ

àn thuyết-pháp. Hai vị hỏi, có nhiều người

đến nghe chăng; vị tỳ-kheo ẩn-cư đáp, dân-chúng đến nghe cũng khá đông, m

à các vị thọ-thần trong khu rừng cũng nhiệt-liệt tán-thưởng nữa. Hai vị liền nhận lời nói pháp. Sau thời pháp, dân-chúng ngồi nghe, giữ im-lặng, còn các thọ-thần trong rừng cũng chẳng thấy tán-thán như thường-lệ. Hai vị Trưởng-lão rất ngạc-nhiên, và mời tỳ-kheo Nhứt-Kệ-tụng thử lên nói pháp xem sao. Vị tỳ-kheo vâng lời, lấy cây quạt che mặt lại và tụng-

đọc b

ài Kệ quen thuộc rồi giảng nghĩa rành-rẽ. Dân-chúng tỏ vẽ rất hài lòng, các thọ-thần cũng tán-thưởng nhiệt-liệt.

Khi trở về tịnh-xá, các vị tỳ-kheo mới thưa trình sự-việc cùng

Đức Phật

: "Bạch Thế-tôn, dân-chúng và các thọ-thần trong rừng

đ

ã tỏ ra thiên-vị trong việc tán-thán Tỳ-kheo Nhứt-kệ-tụng, mà họ chẳng biết khen-tặng hai vị Trưởng-lão của chúng con là những người rất thông-thạo Chánh-pháp."

Đức Phật đáp

: ‘Nầy chư tỳ-kheo, Như-Lai chẳng gọi là thông-thạo Chánh-pháp, kẻ nào

đ

ã học nhiều và nói lắm về Chánh-pháp. Người thông-thạo Chánh-pháp, mặc dầu chỉ thuộc một bài Kệ duy-nhứt, nhưng thấu-hiểu tường-tận về Tứ-Diệu-

đế, luôn luôn tỉnh-thức, đó mới l

à người trì-pháp thật cao."

Rồi

Đức Phật nói l

ên bài Kệ sau

đây

:

Chẳng phải trở thành người trì-pháp,

Kẻ

đ

ã lắm lời nói ba-hoa.

Tuy nghe ít nhưng mà trực-chứng,

Chẳng lảng-xao Giáo-pháp chút nào,

Đấy là người trì-pháp thật cao.

(Kệ số 259.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Nhứt-Kệ-tụng: biệt-hiệu nầy, tiếng Pali là Ekudàna (Eka = một; Udàna = bài Kệ nói lên cảm-hứng của

Đức Phật, trong Tiểu-Bộ-Kinh)

- Ẩn-cư = ở ẩn, sống riêng một mình nơi vắng-vẻ.

- Duy-nhứt: chỉ riêng có một mà thôi.(Nhứt = một.)

- Thực-tập Thiền-

định

= tập-luyện việc ngồi Thiền, nhập

định.

- Đăng-đàn: Đăng = leo lên; Đàn = cái

đ

ài cao

để l

àm lễ, hay

để nói chuyện với công-chúng.

Đăng-đàn là bước lên

đ

ài

để nói pháp.

- Thọ-thần: Thọ = cây to sống lâu n

ăm;

Thần = thần-linh. Thọ-thần là thần-linh sống dựa trên cây cổ-thọ.

- Tán-thán, tán-thưởng = khen-ngợi.

- Hài-lòng = vui lòng, mừng-rỡ.

- Thiên-vị = Thiên = nghiêng qua một bên; Vị = vì-nể. Thiên-vị là thiếu sự công-bằng, trọng người nầy hơn người kia.

- Tứ-Diệu-

Đế: Tứ

=

bốn; Diệu = nhiệm-mầu; Đế = Chơn-lý. Bốn Chơn-lý nhiệm-mầu: (1)Khổ-

đế,

đời là khổ; (2) Tập-

đế,

nguyên-nhơn của Khổ là tham-ái; (3) Diệt-

đế,

sự chấm-dứt Khổ, tức là Niết-bàn; ...

(4) Đạo-đế, con

đường Thánh-đạo đưa ta ra khỏi cảnh khổ của cuộc tái-sanh trong Luân-hồi. Con đường đó l

à Bát-Chánh-

đạo.

- Tỉnh-thức: Tỉnh = tỉnh-táo, chẳng mê; Thức = biết rõ. Người tỉnh-thức là người luôn luôn chú-tâm,

đang l

àm, nói, nghĩ gì, thì trong tâm biết rõ mình

đang l

àm, nói, nghĩ về

điều đó, v

à chỉ

điều đó m

à thôi.

- Trì-pháp: Trì = giữ-gìn, hộ-trì; Pháp = Chánh-pháp. Trì-pháp

đây c

ùng một nghĩa với chữ Pháp-trụ, an-trụ nơi Chánh-pháp.

- Trực-chứng: Trực = thẳng, chẳng qua trung-gian của ai hay vật gì; Chứng = chính mình thấy, nghe và biết rõ, chớ chẳng phải chỉ nghe kẻ khác nói rồi tin theo.

- Giáo-pháp = giáo-lý, Chánh-pháp, lời giảng-dạy trong

Đạo.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện thuật lại việc một vị tỳ-kheo chỉ học thuộc có một bài Kệ duy-nhứt, nhưng rất thông-thạo Chánh-pháp, nên

được Đức Phật khen l

à người biết trì-pháp.

Ý-nghĩa của Tích chuyện là: về Chánh-pháp, chỉ cần hiểu thật thấu

đáo

nghĩa Tứ-diệu-

đế,

lòng luôn luôn tỉnh-thức,

đó mới thật l

à người

đang

trụ-pháp.

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 259:

Thử phân-tách từng câu bài Kệ:

1) Chẳng phải trở thành người trì-pháp, Kẻ

đ

ã lắm lời nói ba-hoa: Mặc dầu thông-hiểu Chánh-pháp, nếu nói quá nhiều,

để tỏ ra m

ình hiểu rõ giáo-lý;

đó chẳng phải l

à người trì-pháp mà là người khoe-khoang sự hiểu-biết.

2) Tuy nghe ít nhưng mà trực-chứng: nghe ít mà hiểu thấu-

đáo, chính m

ình nhận thấy

được sự tu-h

ành có hiệu-quả tốt

đến bổn-thân m

ình,

đó gọi l

à trực-chứng, tu mà biết mình

đang tu thật-sự.

3) Chẳng lảng-xao Giáo-pháp chút nào: tâm luôn luôn nhớ

đến Chánh-pháp, biết giữ thân, miệng, ý theo đúng

giới-luật, đó mới thật là trì-pháp, giữ-gìn pháp mãi trong tâm.

4) Đấy là người trì-pháp thật cao: Cao, vì chẳng có lúc nào sơ-hở hay quên Chánh-pháp cả.

(197).- Tích chuyện Trưởng-lão Phát-di-gia

Tích Chuyện nầy hơi giống Tích chuyện số (65).

Vào một thời kia,

Đức Phật ngụ tại ch

ùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có

đề-cập đến vị Trưởng-l

ão Phát-di-gia.

Thuở ấy, có Trưởng-lão Phát-di-gia tu-hành rất tinh-tấn, chứng-

đắc được quả-vị A-la-hán. V

ì Trưởng-lão người thấp-lùn, nên thường bị các tỳ-kheo trẻ tuổi gán cho biệt-hiệu là Lakundaka, có nghĩa là người lùn-tịt. Một hôm có ba mươi vị tỳ-kheo ở phương xa

đến yết-kiến Đức Phật. Đức Phật quán-thấy đ

ã

đủ cơ-duy

ên cho các vị ấy chứng-

đắc được đạo-quả, n

ên khi họ vừa ngồi xuống bên cạnh,

Đức Phật liền hỏi

: "Nầy chư tỳ-kheo, khi quí-vị bước vào

đại-sảnh,

quí-vị có thấy một vị Trưởng-lão nào ch

ăng

?" Các vị tỳ-kheo thưa: "Bạch Thế-tôn, khi bước vào

đại-sảnh, chúng con chẳng thấy có vị Trưởng-l

ão nào cả, chỉ thấy một chú Sa-di thấp-lùn mà thôi."

Đức Phật bảo

: "Nầy chư Tỳ-kheo, vị

đó chẳng phải l

à Sa-di, tuy người thấp-lùn và rất khiêm-tốn, nhưng tu-hành thật tinh-tấn, chứng-

đắc quả-vị A-la-hán rồi. Như-Lai chẳng gọi l

à Trưởng-lão, những ai vì

đầu bạc, đạo-mạo trông như một Trưởng-l

ão; chỉ bực nào thông-suốt Tứ-Diệu-

Đế, chẳng hề sanh tâm l

àm não-hại

đến chúng-sanh, Như-Lai mới gọi đó l

à bực Trưởng-lão".

Rồi

Đức Phật nói l

ên hai bài Kệ sau

đây, nhờ đó m

à các vị tỳ-kheo du-phương chứng

được quả-vị A-la-hán

:

Đâu thành vị tăng Trưởng-Lão,

Chỉ nhờ nay

đ

ã bạc

đầu.

Dầu cho tuổi hạc

đ

ã cao,

Chỉ

đáng sắp v

ào hàng Lão-ngu-t

ăng.

(Kệ số 260.)

Ai thông Chơn-lý Tứ-Diệu-

Đế,

Sống theo chánh-hạnh, chẳng hại người

Các c

ăn điều-phục, biết tự-chế,

Lậu-hoặc dứt, trí-huệ sáng ngời,

Mới xứng-danh là bực Trưởng-lão.

(Kệ số 261.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Phát-di-gia: tên của vị Trưởng-lão nầy, tiếng Pali là Bhaddiya.

- Tính-tấn: Tinh = tinh-tuý,

đẹp-đẽ, trong-sạch;

Tấn = tấn-bộ,

đi tới. Tu-h

ành tinh-tấn là tu-hành có tấn-bộ, ngày càng tốt-

đẹp hơn.

- A-la-hán: quả-vị thứ tư, cao nhứt, vào hàng Thánh, dứt hết các phiền-não, lìa mọi tham-muốn, khỏi phải tái-sanh trong vòng Luân-hồi nữa. Tiếng Pali là Arahant làcon người tự-tại.

- Biệt-hiệu: Biệt = riêng; Hiệu = tên

đặt th

êm, gán cho ai, hay tự-gán cho mình.

- Lakundaka = lùn-tịt, lùn-xịt;

đọc theo giọng Việt:

La-cun-

đa-ca.

- Quán-thấy: nhìn thấy rõ trong tâm, bằng con mắt-tâm.

- Cơ-duyên: Cơ =cơ-hội; Duyên = duyên may. Có

đủ dịp may.

- Đạo-quả: Trong việc tu-hành, biết rõ con

đường tu-h

ành, công-việc phải làm như thế nào,

đó l

à chứng

Đạo;

khi tu-tập thuần-thục, có kết-quả tốt

đến bổn-thân, tánh-t

ình, tâm-trí mình,

đó l

à chứng Quả. Tiếng Pali: Đạo = Magga; - Quả = Phala.

-

Đại-sảnh: Đại

=

lớn; Sảnh = phòng. Đại-sảnh là phòng khách.

- Trưởng-lão: Trưởng = lớn tuổi; Lão = già. Ở

đây chữ

Trưởng-lão được dùng để tạm-dịch chữ Pali Thera, bực tu lâu n

ăm, đ

ã chứng-

đắc đạo-quả; thường l

à bực A-la-hán. Phái-nữ là Theri, Nữ-trưởng-lão.

- Sa-di: người mới vào chùa, tập-sự tu, chưa thọ giới tỳ-kheo. Tiếng Pali là Sàmanera. Phía phụ-nữ là Sa-di-ni.

- Khiêm-tốn: khiêm-nhường, nhũn-nhặn, chẳng hề phách-lối.

- Đạo-mạo: Đạo =

đạo-đức;

Mạo = dung-mạo, hình-dáng. Người đạo-mạo là người có hình-dung bên ngoài trang-nghiêm,

đạo-đức.

- Tứ-Diệu-

Đế

=

bốn Chơn-lý nhiệm mầu, trong

Đạo Phật. Đó l

à: Khổ-

đế, Tập-đế, Diệt-đế

Đạo-đế. Xin xem lại bài trước, trang 581.

- Não-hại: Não = gây ra phiền-não; Hại = gây ra tai-hại.

- Chúng-sanh: Chúng = số

đông;

Sanh = có mạng sống. Chữ chúng-sanh chỉ tất cả sanh-vật, có mạng sống, như Trời, thần-linh, người, thú-vật, những kẻ còn trôi l

ăn trong v

òng sanh-tử Luân-hồi. Trong Phật-học, chúng-sanh đối nghĩa với Thánh-hiền, bực giải-thoát.

- Du-phương: Du = đi đó đây; Phương = phương-hướng. Các vị tỳ-kheo du-phương đi đó đi đây, để tìm học thêm ở các vị tu-hành khác.

- T

ăng:

nam-tu-sĩ Phật-giáo, chữ Phạn Sangha, đọc là T

ăng-gi

à.

- Tuổi hạc = tuổi sống lâu như con chim hạc già.

- Lão-ngu-t

ăng:

tiếng khinh-khi những kẻ già

đời tu-h

ành mà chẳng biết

đạo-pháp, chẳng chút trí-huệ, dốt-nát về kinh-kệ.

- Chánh-hạnh: Chánh = chơn-chánh,

đứng-đắn;

Hạnh = tánh-hạnh.

- Các c

ăn điều-phục

: Có sáu c

ăn l

à: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý.

Điều-phục

là kềm-chế, giữ cho

đ

àng-hoàng.

Điều-phục các căn

là giữ-gìn các giác-quan, chẳng ham chạy theo các thú-vui của cảnh vật bên ngoài, chẳng

để cho ý b

ên trong dắt tâm

đi lang-thang, mất cả sự chú-tâm. Đó c

òn gọi là tự-chế, tự mình kềm-chế lấy mình.

- Lậu-hoặc: Lậu = rỉ chảy ra; Hoặc = điều sái-quấy. Chữ Lâu-hoặc trong Phật-học, chỉ các phiền-não tham, sân, si, mạn, nghi, ác-kiến, chợt nổi lên trong tâm, rỉ chảy ra, bộc-lộ ra bằng lời nói thô-cọc hay bằng hành-

động xấu-ác, để m

ình bị ràng-buộc.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện thuật lại việc các vị tỳ-kheo du-phương lầm nhận Trưởng-lão Phát-di-gia là một chú Sa-di, vì dáng-vóc thấp-lùn của Trưởng-lão.

Đức Phật cho biết Trưởng-l

ão

đ

ã chứng

được quả-vị cao nhứt l

à A-la-hán, dứt sạch các phiền-não, sống khiêm-tốn, chẳng hề làm tổn-não ai. Nhơn

đây, Đức Phật n

êu rõ vài

đức-tánh của môt bực Trưởng-l

ão: thông-suốt Tứ-Diệu-

Đế, từ-bi đối với mọi chúng-sanh.

(2) Ý-nghĩa hai bài Kệ số 260 và 261:

Bài Kệ số 260 nói

đến các vị tu-h

ành lâu n

ăm, tuổi đ

ã cao mà trí-huệ vẫn chưa phát-triển,

được Đức Phật xếp v

ào hàng Lão-ngu-t

ăng.

Bài Kệ số 261 nêu rõ các

đức-tánh của một vị Trưởng-l

ão:

- (1) thông-suốt bốn Chơn-lý Nhiệm-mầu, biết

đời l

à khổ, biết khổ do tham-ái mà ra; biết sự diệt khổ trong cảnh-giới Niết-bàn và biết con

đường

thánh-

đạo (Bát-Chánh-đạo)

đưa đến sự diệt-khổ;

- (2) sống theo giới-hạnh;

- (3) chẳng não-hại chúng-sanh;

- (4) tự-chế

để điều-phục các căn;

- (5) dứt-trừ hết mọi lậu-hoặc;

- và (6) nhứt là trí-huệ sáng ngời trong sự giác-ngộ và giải-thoát.

(198).- Tích chuyện các tỳ-kheo ganh-tị.

Vào một thời kia,

Đức Phật ngụ tại ch

ùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có

đề-cập đến các vị tỳ-kheo hay ganh-tị.

Thuở ấy ở chùa Kỳ-viên, có thông-lệ là các vị Sa-di trẻ tuổi thường phục-vụ, hầu-hạ các vị Trưởng-lão là thầy dạy

Đạo cho họ. Họ l

àm những việc lặt-vặt

để giúp cho thầy, như rửa bát, giặt quần-áo, sắp-xếp giường chiếu, v.v. Có một nhóm tỳ kheo trung-ni

ên thấy thế, sanh lòng ganh-tị, cũng muốn

được hầu-hạ, b

àn tính cùng nhau,

đến tr

ình với

Đức Phật, xin h

ãy bảo các Sa-di

đến học-hỏi kinh-nghiệm tu-tập v

à Giáo-lý nơi họ, vì họ cũng có tài hùng-biện, thông-suốt về giáo-pháp, diễn-giảng rất giỏi.

Đức Phật quán-thấy tâm-địa ích-kỷ của họ, muốn được phục-vụ như các vị Trưởng-l

ão, nên bác-bỏ

đề-nghị ấy. Đức Phật bảo

: "Nầy chư tỳ-kheo, Như-lai chẳng gọi là bực hiền-thiện, kẻ nào tự cho mình có tài hùng-biện, thuyết-pháp giỏi. Chỉ những ai

đ

ã diệt sạch

được l

òng ganh-tị, bụng ích-kỷ, chứng

được đạo-quả A-la-hán, Như-Lai mới gọi đó l

à các bực hiền-thiện."

Rồi

Đức Phật mới nói l

ên hai bài Kệ sau

đây

:

Nào phải do tài hùng-biện,

Chẳng vì

đẹp-đẽ sắc-diện,

Mà thành

được người hiền-thiện,

Nếu tâm còn ganh, ích-kỷ, kiêu-c

ăng.

(Kệ số 262.)

Ai là người cắt

được tâm ấy,

Góc rễ

đ

ào lên

đem diệt hết,

Trí-huệ sáng ngời trừ sân-hận,

Mới xứng là người hiền-thiện vậy.

(Kệ số 263.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Ganh-tị: ghen-ghét,

đ

òi hơn kẻ khác, cà-nanh.

- Thông-lệ: Thông = thông-thường, thường thấy; Lệ: tục-lệ.

- Phục-vụ: Phục = làm tròn; Vụ = công-việc. Phục-vụ là hầu-hạ.

- Thầy dạy

Đạo

= tiếng trong chùa gọi là thầy bổn-sư, vị thầy dạy

đạo-lý tu-h

ành cho mình. (Bổn = gốc, Sư = thầy; vị thầy gốc của mình.)

- Trung-niên: Trung = giữa, Niên = n

ăm, tuổi.

Trung-niên là tuổi vào khoảng bốn, n

ăm mươi.

- Sa-di: Xin nhắc lại: người mới tập-sự tu, chưa thọ-giới tỳ-kheo, trong chùa thường gọi là chú tiểu. Tiếng Pali là Sàmanera.

- Hùng-biện: Hùng = hùng-hồn; Biện = biện-luận. Tài hùng-biện là tài

ăn nói khéo, hay, khiến người nghe dễ tin theo.

- Tâm-

địa: Tâm

=

lòng; Điạ = đất. Nghĩa bóng, tâm-

địa

là tâm-trạng, bụng-dạ thật-sự ra sao; tiếng bình-dân gọi là... đúng tim-đen.

- Ích-kỷ:Ích = có lợi;Kỷ =chính mình. Kẻ ích-kỷ chỉ biết lợi cho mình

- Hiền-thiện: Hiền = hiền-lành, Thiện = lành. Ở

đây, chữ

Hiền-thiện được dùng để chỉ những người tu-hành cao, tánh hiền-hoà, có trí

- Sắc-diện: Sắc = hình-sắc; Diện = khuôn mặt. Sắc-diện = vẻ mặt.

- Sân-hận: Sân = giận; Hận = hờn, thù. Sân thì giận-dữ, quát-tháo một lúc rồi thôi; còn Hận, hờn, thì c

ăm-tức, để ngầm lâu trong bụng, dai hơn, khó trị tận gốc hơn.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện thuật lại các tỳ-kheo ganh-tị với các vị Trưởng-lão; họ bàn nhau trình

Đức Phật, bảo các Sa-di đến học ở họ, để họ được hầu-hạ như các vị Trưởng-l

ão.

Đức Phật biết r

õ tâm-

địa ích-kỷ, ganh-tị của họ n

ên bác-bỏ. Ngài dạy thêm rằng, bực thầy hiền-thiện là người

đ

ã dứt-bỏ hẳn sự ganh-ghét và lòng ích-kỷ.

(2) Ý-nghĩa của hai bài Kệ số 262 và 263:

Bài Kệ số 262 nêu rõ: tài hùng-biện, vẻ mặt

đẹp-đẽ, l

à bề ngoài; chỉ khi tâm hết ganh-ghét, ích-kỷ, mới làm nên bực hiền-thiện.

Bài Kệ số 263 tiếp theo ý bài Kệ trước, quan-trọng là câu: Gốc-rễ

đ

ào lên

đem diệt hết. Gốc-rễ

của ganh-tị, ích-kỷ là gì?

Đó l

à cái Ta, cái Tự-kỷ, cái Ngã, ở trong tâm, lúc nào cũng muốn Mình hơn kẻ khác. Bỏ dứt hẳn

được cái

Ta đó, gọi là Vô-ngã, mới là người hiền-thiện. Việc tu-tâm quan-trọng chính là ở

đó

: dẹp bỏ tận rễ cái Ngã.

(199).- Tích chuyện tỳ-kheo Hạt-tha-ca.

Vào một thời kia,

Đức Phật ngụ tại ch

ùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có

đề-cập đến vị tỳ-kheo t

ên là Hạt-tha-ca.

Thuở ấy, có vị tỳ-kheo Hạt-tha-ca thường hay tranh-luận với các du-sĩ ngoại-

đạo, nhưng v

ì

đuối lý n

ên chẳng thắng

được họ. Tỳ-kheo Hạt liền hẹn với họ, sẽ gặp nhau lại ở một nơi khác. Đến gần giờ hẹn, ông Hạt liền đến sớm, chưa thấy các du-sĩ tới nơi, mới v

ênh-váo bảo mọi người là bọn ngoại-

đạo đ

ã chịu thua tài biện-luận của mình, nên chẳng

đến nơi hẹn. Mánh-lới nầy đến tai Đức Phật. Ng

ài liền cho gọi tỳ-kheo Hạt-tha-ca

đến v

à bảo: "Nầy tỳ-kheo Hạt-tha-ca, tại sao ông lại có thái-

độ giả-dối như thế

? Chẳng phải cạo trọc

đầu m

à có

được danh-

nghĩa Sa-môn. Kẻ

đ

ã dứt trừ xong mọi ác-ý mới là Sa-môn."

Rồi

Đức Phật mới nói l

ên hai bài Kệ sau

đây

:

Cạo

đầu chưa hẳn l

à Sa-môn,

Nếu hay nói dối, thiếu giới-hạnh,

Tham-dục, luyến-ái vẫn còn mạnh,

Sao

được xứng-danh l

à Sa-môn.

(Kệ số 264.)

Ai khắc-phục, hoàn-toàn lìa bỏ,

Hành-

động ác, cả lớn lẫn nhỏ,

Đã vượt qua hết các điều tà,

Mới xứng-danh là bực Sa-môn.

(Kệ số 265.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Hạt-tha-ca: tên vị tỳ-kheo nầy, tiếng Pali là Hatthaka.

- Tranh-luận: cãi nhau về nghĩa-lý. Còn gọi là biện-luận.

- Du-sĩ ngoại-

đạo:

tu-sĩ

đi lang-thang, chẳng theo đạo Phật.

- Đuối lý = thiếu lý-lẽ

để tranh hơn với kẻ khác khi c

ãi nhau.

- Vênh-váo: vẻ phách-lối, tự cho mình là tài-giỏi, nói oang-oang.

- Mánh-lới: mưu-kế gian-xảo.

- Sa-môn: tu-sĩ Phật-giáo; tiếng Pali là Samana. Sa-môn có ba nghĩa:(1) dứt sự ác; (2) siêng việc thiện; (3) cam-chịu nghèo-khó

để tu

- Cạo

đầu

:

theo giới-luật nhà Phật, khi bước vào

đường tu, phải cạo đầu, cắt hết râu tóc; tiếng Hán l

à thế-phát (thế =cắt; phát = tóc.)

- Giới-hạnh: Giới = các

điều răn-cấm trong Đạo;

Hạnh = đức-hạnh.

- Tham-dục: Tham = ham quá chừng; Dục = muốn.

- Luyến-ái: Luyến = mê-luyến, tríu-mến; ái = thương, thích.

- Khắc-phục = thắng

được, dẹp bỏ được.

- Điều tà = điều sái-quấy; là xiêng-xéo, chẳng chơn-chánh.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện thuật lại việc tỳ-kheo Hạt-tha-ca thường

đuối lý khi tranh-luận với các du-sĩ ngoại-đạo. Hạt-tha-ca d

ùng mánh-lới gian-xảo, hẹn gặp lại họ

để c

ãi tiếp, nhưng lại

đến trước giờ hẹn, rồi tuy

ên-bố láo là họ chịu thua chẳng dám

đến. Đức Phật quở thái-độ gian-dối đó của tỳ-kheo Hạt-tha-ca, v

à dạy rằng: "Cạo

đầu chưa phải hẳn l

à Sa-môn;

đó chỉ l

à bề ngoài; còn bên trong tâm, phải dứt hết mọi ác-ý, gian-xảo, mới xứng-danh là Sa-môn."

(2) Ý-nghĩa của hai bài Kệ số 264 và 265:

Bài Kệ số 264 kể ra những thiếu-sót và lỗi-lầm của một tu-sĩ còn chưa xứng-

đáng l

à một Sa-môn: (1) nói dối,

đây l

à giới cấm thứ tư trong ngũ-giới ( = n

ăm giới của người tu tại-gia); (2)

thiếu giới-hạnh, chẳng tuân theo giới-luật; (3) tham-dục, ham muốn

điều sái-quấy

; (4) luyến-ái, bấu-víu, bám chặt vào các thú-vui.

Xét cho kỹ, các

điều thiếu-sót nầy bắt nguồn từ ý-nghĩ quá tôn-trọng cái

Ta, muốn mình hơn kẻ khác, tham muốn và bấu-víu vào các thú-vui vật-chất. Một vị Sa-môn xứng với danh-nghĩa, bên trong phải gột rửa dứt sạch cái Ta, cũng như bên ngoài

đ

ã cạo hết râu tóc vậy.

Bài Kệ số 265, tiếp-tục ý-nghĩa thanh-tịnh-hoá thân-tâm của bài Kệ trước, khuyên ta nên vượt qua hết mọi

điều t

à,

mới xứng-danh là Sa-môn. Như ba nghĩa c

ăn-bản của chữ

Sa-môn đã dạy rõ: (1) cần-giả là siêng làm

điều thiện; (2)

tức-giả là dứt bỏ hết các

điều ác; (3)

bần-giả là cam chịu sự nghèo-khó

để tu-h

ành, câu "Hoàn-toàn lìa bỏ các hành-

động ác, cả lớn lẫn nhỏ

",

đó chính l

à ý-nghĩa thứ hai của chữ Sa-môn.

(200).- Tích chuyện người Ba-la-môn tự nhận là tỳ-kheo.

Vào một thời kia,

Đức Phật ngụ tại ch

ùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có

đề-cập đến một người B

à-la-môn

đi khất-thực, tự-nhận m

ình là Tỳ-kheo.

Thuở ấy, có một người thuộc giai-cấp Bà-la-môn thường

đi khất-thực. Ông ta nghĩ rằng, m

ình

đi khất-thực cũng như những tu-sĩ Phật-giáo, vậy m

ình cũng là một tỳ-kheo. Ông

đến gặp Đức Phật v

à nói lên ý ấy.

Đức Phật bảo

: "Nầy Bà-la-môn, ta chẳng gọi ông là Tỳ-kheo chỉ vì ông

đi khất-thực. Kẻ n

ào còn mang tà-kiến ngoại-

đạo trong tâm, chẳng phải l

à một tỳ-kheo. Tỳ-kheo còn phải luôn luôn quán-chiếu thâm-sâu về Chơn-lý: muôn pháp

đều

vô-thường, khổ, vô-ngã."

Rồi

Đức Phật mới nói l

ên hai bài Kệ sau

đây

:

Tỳ-kheo

đâu chỉ mang b

ình-bát

Đi lang-thang khất-thực từng nhà.

Tuân-hành Chánh-pháp cần thông-

đạt,

Mới xứng-danh Khất-sĩ T

ăng-gi

à.

Chỉ

ăn xin, đó l

à hành-khất.

(Kệ số 266.)

Người vượt lên trên ác cùng thiện,

Phạm-hạnh hoàn-toàn

đang thực-hiện,

Bước

đường đời, thẩm-sát v

à suy-tư,

Mới thật xứng danh là bực Tỳ-kheo.

(Kệ số 267.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Bà-la-môn: giai-cấp tu-sĩ trong xã-hội xưa ở Ấn-

độ; tiếng

Pali là Brahmana.

- Khất-thực: Khất = xin; Thưc = ăn. Theo giới luật nhà Phật, tỳ-kheo chẳng được phép có nghề riêng để sanh-sống, phải hạ mình xuống đi xin ăn (để dẹp lòng tự-ái của cái Ta) và cũng có dịp gặp dân-chúng

để giảng-dạy đạo-lý cho họ. Tỳ-kheo c

òn gọi là Khất-sĩ.

- Tà-kiến: Tà = xiêng-xéo, chẳng chơn-chánh; Kiến = ý-kiến. Tà-kiến có rất nhiều, thường kể ra hai tà-kiến nầy: (1)thường-kiến: tin rằng con người có linh-hồn bất-diệt, dầu có làm tội-ác gì, linh-hồn cũng tái-sanh làm người mãi; (2) đoạn-kiến: tin rằng, chết

đi l

à hết, chẳng còn có gì; chẳng tin theo luật Nhơn-quả, lý Luân-hồi. Các phái ngoại-

đạo

vào thời

Đức Phật thường mắc v

ào hai tà-kiến đó.

- Quán-chiếu = giữ tâm cho an-ổn rồi suy-nghĩ thật sâu-xa về một

đề-t

ài có liên-quan

đến Chơn-lý.

- Chơn-lý = Sự-Thật.

- Vô-thường: Vô = chẳng; Thường = còn mãi. Lẽ vô-thường cho rằng tất cả mọi sự-vật có hình-tướng

đều phải biến-đổi rồi ti

êu-diệt, chẳng thể nào thuờng còn mãi mãi

được.

- Vô-ngã: Vô = chẳng; Ngã = ta. Thuyết Vô-ngã cho rằng muôn sự-vật

đều l

à sự kết-hợp tạm-thời của nhiều yếu-tố khác nhau, chẳng có một linh-hồn, chẳng có một cái Ngã, chẳng có cái chi làm chủ nơi sự-vật ấy cả; hễ nhơn-duyên thôi kết-hợp, sự-vật ấy sẽ tiêu-diệt mất.

- T

ăng-gi

à:

Giáo-hội Phật-giáo, tiếng Pali là Sangha.

- Hành-khất: Hành = đi; Khất = xin

ăn. Xin phân-biệt r

õ sự khác nhau và hơn kém nhau giữa hai danh-từ: Khất-sĩ hành-khất. Khất-sĩ là tu-sĩ Phật-giáo, lấy hạnh khất-thực làm giới-luật; còn hành-khất là kẻ

ăn-m

ày, vì thiếu-thốn mà

đi xin ăn, chẳng có tu-h

ành chi cả.

- Phạm-hạnh: Phạm = Phạn, tiếng Pali là Brahma, phiên-âm là Bà-la-môn; Hạnh = đức-hạnh, hạnh-kiểm. Phạm-hạnh

đức-hạnh tu-h

ành của giai-cấp Bà-la-môn; theo nghĩa rộng, là

đức-hạnh đáng

quí.

- Thẩm-sát: Thẩm = kỹ, rõ; Sát = xét. Thẩm-sát là suy-xét thật rõ.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện thuật lại việc một người Bà-la-môn

đi khất-thực, tự-nhận m

ình là tỳ-kheo.

Đức Phật bảo, cầm b

ình-bát

đi khất-thực từng nh

à, chưa

đủ để th

ành một tỳ-kheo, khi trong tâm còn chứa tà-kiến. Một tỳ-kheo

đúng theo danh-

nghĩa khất-sĩ, còn phải thông-hiểu Chánh-pháp, quán-chiếu thâm-sâu về Vô-thường, Khổ Vô-ngã.

Nếu chỉ

đi khất-thực suông, đó chỉ l

à hành-khất, chớ chẳng phải là Khất-sĩ.

(2) Ý-nbghiã của hai bài Kệ số 266 và 267:

Thử phân-tách từng câu mỗi bài Kệ:

Về bài Kệ số 266:

1) Tỳ-kheo

đâu chỉ mang b

ình-bát,

đi lang-thang khất-thực từng nh

à:

Tỳ-kheo

đâu chỉ đi khất-thực suông, c

òn có dịp gặp dân-chúng

để chỉ-dạy họ th

êm về giáo-lý.

2) Tuân-hành Chánh-pháp cần thông-

đạt, mới xứng-danh Khất-sĩ Tăng-gi

à:

tuân theo Chánh-pháp, hiểu rõ Giáo-lý, giữ gìn Giới-luật,

đó l

à phần tu-tập trên thân-tâm, mới xứng-danh là Tỳ-kheo, là Khất-sĩ của Giáo-hội ( =T

ăng-gi

à).

3) Chỉ

ăn xin, đó l

à hành-khất:

tay mang bình-bát

đi khất-thực, đó chỉ l

à hình-thức bề ngoài; nếu bên trong chẳng có sự thông-hiểu Giáo-pháp, thì

đó chẳng qua l

à một người hành-khất, chỉ biết

đi xin cơm, để ăn cho qua ng

ày, không hơn không kém.

Về bài Kệ số 267:

1) Người vượt trên ác cùng thiện: Vượt trên

điều ác

là bỏ dứt

được các điều bất-thiện;

Vượt lên trên

điều thiện

là siêng-n

ăng l

àm các

điều l

ành, làm

điều l

ành

đ

ã quen,

đ

ã siêng, nên chẳng chút cố-gắng, chẳng thấy khó nhọc chi, nên gọi

đó l

à vượt lên trên

điều thiện.

2) Phạm-hạnh hoàn-toàn

đang thực-hiện:

bằng lối sống trong kỷ-luật của giới-

đức thanh-tịnh,

thực-hiện

được đầy-đủ các đức-hạnh của bực chơn-tu.

3) Bước

đường đời, thẩm-sát v

à suy-tư: luôn luôn thực-hành việc quán-chiếu trong Thiền-

định,

sống trọn-vẹn với nội-tâm bằng cách suy-tư thâm-sâu và thẩm-sát cặn-kẽ về cuộc

đời sướng ít khổ nhiều trong v

òng Luân-hồi,

để t

ìm theo con

đường

giải-thoát.

4) Mới thật xứng-danh là bực Tỳ-kheo: thực-hiện

đầy-đủ các đức-tánh kể tr

ên, áp-dụng trong cuộc sống hằng ngày, nặng nghiêng về nội-tâm thanh-tịnh bên trong,

đấy mới thật xứng danh l

à bực Tỳ-kheo; chớ nào phải chỉ có mỗi một việc ôm bình-bát

đi khất-thực.

(201).- Tích chuyện các người ngoại-

đạo.

Vào một thời kia,

Đức Phật ngụ tại ch

ùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có

đề-cập đến các người ngoại-đạo.

Thuở ấy, các du-sĩ ngoại-

đạo khi đi khất-thực, thường có lời tán-thán công-đức các thí-chủ. Sau khi nhận thực-phẩm, họ thường nói

: "Nguyện cho thí-chủ

được may-mắn, gi

àu-sang và sống lâu!" Trong khi

đó, các vị tỳ-kheo tuân theo lời Phật dạy, lặng-lẽ nhận tặng-phẩm m

à chẳng nói lên lời chúc-tụng nào. Dân-chúng thích

được nghe lời khen-ngợi việc bố-thí, n

ên bắt

đầu b

àn-tán, so-sánh hai thái-

độ đi khất-thực v

à có phần thiên về phiá ngoại

đạo.

Khi

Đức Phật được biết sự-việc đó, Ng

ài cho phép các tỳ-kheo, sau khi thọ-thực nơi nhà các tín-chủ, thì hồi-hướng công-

đức họ đ

ã bố-thí

đến cho gia-đ

ình của họ. Bấy giờ các du-sĩ ngoại-

đạo lại chỉ-trích, cho rằng các tỳ-kheo đ

ã lắm lời, nói dông-dài, chẳng bằng họ là người biết giữ

đúng hạnh tĩnh-mặc của các bực Mâu-ni. Đức Phật mới bảo các vị tỳ-kheo

: "Nầy chư tỳ-kheo, có nhiều kẻ giữ im-lặng, chỉ vì họ nhút-nhát và ngu-dốt, cũng có kẻ chẳng chịu nói ra

để chia-xẻ sự hiểu-biết thâm-sâu của họ với kẻ khác. Như thế, chẳng phải v

ì im-lặng mà trở thành một bực Mâu-ni. Chỉ xứng danh là bực Mâu-ni, người nào biết im-lặng khi

đ

ã hoàn-toàn khắc-phục

được mọi điều ác.

"

Rồi

Đức Phật nói l

ên hai bài Kệ sau

đây

:

Biết nín thinh nhưng vẫn ngu-si

Đâu gọi là Mâu-ni tĩnh-mặc.

Như vị cầm cân, cân-nhắc

Chọn lành lánh dữ, bậc Mâu-ni.

(Kệ số 268.)

Vì lẽ ấy: chọn lành, lánh dữ,

Người

được xưng l

à bực Thánh-hiền.

Nội, ngoại-giới ai thông-suốt

đủ,

Danh-vị Mâu-ni xứng

đáng liền.

(Kệ số 269.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Ngoại-

đạo

:Ngoại = ngoài. Chữ ngoại-

đạo

trong Phật-học dùng

để chỉ các tôn-giáo khác với đạo Phật, ở ngo

ài

đạo Phật.

- Du-sĩ: Du = đi đó đây; Sĩ = người. Du-sĩ,

đây, chỉ các vị tu-h

ành ẩn-cư, chẳng có nơi ở nhứt-

định, đi đó đây để khất-thực.

- Tán-thán = khen-ngợi.

- Thí-chủ: người bố-thí; còn gọi là thí-giả.

- Thiên = thiên-vị, nghiêng về một bên.

- Hồi-hướng: Hồi = quay trở lại; Hướng = nhắm vào. Hồi-hướng công-

đức

là nguyện

đem công-đức tu-h

ành của mình mang phước-báo hướng

đến cho ai.

- Tĩnh-mặc: Tĩnh = yên-lặng; Mặc = nín thinh. Chữ tĩnh-mặc dùng

để dịch chữ Phạn

Muni, bực tĩnh-lặng,

đ

ã diệt-trừ mọi

điều ác.

- Cầm cân cân nhắc: nghĩa bóng, chỉ sự phán-

đoán thiện-ác r

ành-rẽ

- Nội, ngoại-giới: Nội = bên trong; Ngoại = ngoài; Giới = cảnh-giới. Ở

đây chữ

nội-giới chỉ vào thân-tâm n

ăm uẩn của chính m

ình, còn ngoại-giới là thân-tâm n

ăm uẩn của kẻ khác, ở b

ên ngoài.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện thuật lại việc các du-sĩ ngoại-

đạo chỉ-trích khất-sĩ Phật-giáo nói d

ài-dòng khi hồi-hướng công-

đức đến các thí-chủ, cho rằng các khất-sĩ chẳng biết giữ hạnh tĩnh-mặc của bực Mâu-ni. Đức Phật dạy, muốn xứng-danh l

à bực Mâu-ni ( =tĩnh-mặc), chẳng phải chỉ im-lặng suông, mà trong tâm phải diệt hết mọi

điều ác.

Ý-nghĩa của Tích chuyện là phải biết lúc nào nên im-lặng, lúc nào nên nói, trong tâm thanh-tịnh phân-biệt rõ ràng

điều l

ành và việc ác.

(2) Ý-nghĩa của hai bài Kệ số 268 và 269:

Hai bài Kệ phân-biệt sự tĩnh-mặc (giữ im-lặng

đúng lúc) của bực Mâu-ni, với sự nín thinh v

ì dốt-nát hay vì làm hiểm chẳng muốn chia-xẻ sự hiểu-biết của mình với kẻ khác. Ngoài ra, riêng bài Kệ sau còn dạy những

đức-tánh của bực Mâu-ni: (1) chọn l

ành lánh dữ; (2) thông-suốt cả nội và ngoại-giới ( = hiểu rõ thân-tâm n

ăm uẩn của m

ình và của kẻ khác.)

(202).- Tích chuyện người

đánh cá t

ên là Thánh-Hiền.

Vào một thời kia,

Đức Phật ngụ tại ch

ùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có

đề-cập đến một người đánh cá, mang t

ên là Thánh-Hiền.

Thuở ấy có một chàng thanh-niên làm nghề

đánh cá, có t

ên là Thánh-Hiền. Hôm ấy,

Đức Phật quán-thấy đ

ã

đủ cơ-duy

ên cho người

đánh cá ấy chứng-đắc được sơ-quả, mới c

ùng các tỳ-kheo

đi đến bờ sông. Ch

àng thanh-niên nom thấy

Đức Phật v

à chư T

ăng dừng lại b

ên bờ, mới buông cần câu,

đến gần b

ên Phật.

Đức Phật liền tuần-tự hỏi t

ên mỗi vị tỳ-kheo. Tới phiên chàng

đánh cá, anh ta liền thưa, t

ên là Thánh-Hiền.

Đức Phật bảo

: "Bực Thánh-hiền

đâu có sát-hại sanh-mạng chúng-sanh; anh l

àm nghề

đánh cá, giết hại mạng sống của lo

ài cá, sao xứng

được cái t

ên Thánh-hiền nầy!"

Rồi

Đức Phật mới nói l

ên bài Kệ sau

đây, nhờ đó m

à chàng thanh-niên

đánh cá chứng được quả-vị Tu-đ

à-huờn:

Còn gây thương-tổn cho chúng-sanh,

Sao

được gọi bực l

ành Hiền-Thánh?

Chẳng sát-hại mọi loại hữu-tình,

Mới xứng danh là bực HIền-Thánh.

(Kệ số 270.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Thánh-Hiền: tên của người

đánh-cá nầy,dịch chữ

Pali là Ariya. Theo nghĩa chuyên-môn trong Phật-học, bực Hiền gồm ba quả-vị

đầu-ti

ên: Tu-

đ

à-huờn, Tư-

đ

à-hàm và A-na-hàm, còn phải tái-sanh; bực Thánh là A-la-hán,

đ

ã giải-thoát ra khỏi cảnh sanh-tử của Luân-hồi.

- Quán-thấy

đ

ã

đủ cơ-duy

ên: nhìn thấy rõ trong tâm là

đ

ã

đủ cơ-hội tốt cho ch

àng thanh-niên chứng

được quả-vị.

- Sơ-quả = quả-vị

đầu-ti

ên, tức là quả-vị Tu-

đ

à-huờn.

- Loài hữu-tình: các sanh-vật có mạng-sống, có tình-cảm, như loài người, loài thú. Trái với hữu-tình vật vô-tình, như

đất, đá, cát.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện rất giản-dị: nhơn thấy một chàng thanh-niên sống về nghề

đánh-cá m

à lại có tên là "Thánh-Hiền",

Đức Phật bảo, bực Thánh-hiền đâu có sát-hại sanh-mạng chúng-sanh. V

ì thế, cái tên "Thánh-Hiền" kia, chàng thanh-niên chẳng xứng mang lấy, vì lẽ nghề

đánh-cá chẳng đúng với Chánh-mạng.

Ngoài ý-nghĩa về chữ Thánh-hiền là các bực

đ

ã chứng quả-vị ra, Tích chuyện còn mang thêm ý-nghĩa về Chánh-mạng. Chánh-mạng là một ngành trong Bát-Chánh-

Đạo, con đường đưa người tu-h

ành

đến quả-vị Thánh. Theo đúng Chánh-mạng, ta chẳng n

ên chọn các nghề gây thương-tổn

đến chúng-sanh, như nghề đánh-cá, nghề săn-bắn, nghề chế-tạo v

õ-khí giết người, nghề mãi-dâm, nghề nấu và bán rượu, cùng các chất

độc, chất ma-tuý.

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 270:

Ý-nghĩa bài Kệ rất rõ-ràng: bực Thánh-hiền, vì lòng Từ-bi, chẳng hề gây thương-tổn

đến chúng-sanh.

(203).- Tích chuyện các tỳ-kheo tự-mãn.

Vào một thời kia,

Đức Phật ngụ tại ch

ùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có

đề-cập đến các vị tỳ-kheo tự-m

ãn.

Thuở ấy, ở chùa Kỳ-viên có một số các vị tỳ-kheo tu-tập

đạt được các kết-quả khả-quan. Có vị giữ đúng

giới-luật thật thanh-tịnh; có vị theo hạnh đầu-đà rất khắc-khổ; có vị chứng

được

thiền-

định

; có vị

đ

ã

đắc được quả-vị A-na-h

àm. Họ thường nghĩ rằng,

đ

ã thành-công trong việc tu-tập như thế, họ dễ thừa sức

để đạt được quả-vị A-la-hán, trong một tương-lai rất gần đây. Họ c

ùng nhau

đến yết-kiến Đức Phật v

à nói lên ý-nghĩ

đó.

Đức Phật bảo: "Nầy chư tỳ-kheo, chẳng phải vì

đ

ã giữ giới-

đức thanh-tịnh, chẳng phải v

ì

đ

ã

đắc được định-tâm, chẳng phải v

ì theo

đúng hạnh đầu-đ

à, chẳng phải vì chứng-

đắc quả-vị A-na-h

àm, mà người tu-hành có thể xem

đó l

à

đ

ã

đầy-đủ rồi sanh ra tự-m

ãn,

để nghĩ

lầm rằng, chẳng còn khó-nhọc chi

để chứng được đạo-quả A-la-hán. Nếu c

òn chưa diệt hết các lậu-hoặc, tự-mãn còn

đó, th

ì chưa thể nào chứng

được quả-vị Thánh A-la-hán.

"

Rồi

Đức Phật nói l

ên hai bài Kệ sau

đây, nhờ đó m

à các tỳ-kheo bỏ

được l

òng tự-mãn, tinh-tấn tu-tập hơn nữa và chứng quả A-la-hán:

Chẳng phải vì trì giới nghiêm-túc,

Chẳng phải do kiến-thức thật cao,

Chẳng phải vì thiền-

định thâm sâu,

Chẳng phải do sống xa trần-tục,

Mà có thể tự-mãn:

"Ta nay hưởng phước hạnh viễn-ly

Mà các phàm-phu làm gì hưởng

được

!"

Tỳ-kheo! Chớ xao-lãng

Kiên-trì diệt lậu-hoặc cho xong.

(Kệ số 271 và 272.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Tự-mãn: Tự = chính mình; Mãn = đầy-đủ. Lòng tự-mãn thường tự cho là mình

đ

ã

được đầy-đủ đức-tánh tốt, thiếu sự hăng-hái buổi đầu.

- Hạnh

đầu-đ

à:

Đầu-đ

à = phiên-âm chữ Pali là Dhùtanga, lối tu theo một kỷ-luật thật khắt-khe, như chỉ mặc áo may bằng vải vụn lượm

được, chỉ ăn đồ ăn xin được, mỗi ng

ày một bữa trưa mà thôi, từ sáng

đến tối, chỉ đứng, ngồi chớ chẳng nằm, sống nơi g

ò mả, dưới cội cây. Vị

đại-đệ-tử giỏi nhứt về hạnh đầu-đ

à là Tôn-giả

Đại-Ca-diếp (

Maha Kassapa), người sau nầy kế-vị

Đức Phật điều-khiển Giáo-hội.

- A-na-hàm: quả-vị thứ ba, tiếng Pali là Anàgàmi, có nghĩa là chẳng tái-sanh lại nơi cõi người nữa, dịch là Bất-Lai.

- Thiền-

định, Định-tâm:

trong khi ngồi Thiền, tâm lắng-

đọng, chẳng đi lang-thang, chú-tâm v

ào

đề-t

ài thiền-quán, chẳng lo ra.

- A-la-hán: quả-vị thứ tư, cao nhứt,

đ

ã diệt

được hết tất cả lậu-hoặc, phiền-n

ão, chứng

được

vô-sanh ( = chẳng còn tái-sanh trong vòng Luân-hồi nữa), tự-tại trong cảnh-giới Niết-Bàn an-lạc, vắng-vẻ.

- Nghiêm-túc: Nghiêm = nghiêm-trang; Túc = đầy-đủ. Nghiêm-túc

đầy-đủ đ

àng-hoàng.

- Kiến-thức: Kiến = thấy; Thức = hiểu-biết rõ. Kiến-thức là sự thông-hiểu; ở

đây, nói đến sự thông-thạo r

õ-ràng về Chánh-pháp.

- Sống xa trần-tục = sống nơi vắng-vẻ, xa người

đời; bốn chữ nầy trỏ v

ào hạnh

đầu-đ

à nói trong Tích chuyện.

- Hạnh viễn-ly: Hạnh = đức-hạnh; Viễn = xa; Ly = lià. Hạnh viễn-ly

đức-tánh xa-li

à mọi tham-muốn, dứt bỏ mọi thú-vui vật-chất, dẹp xong mọi ràng-buộc, tâm

được tự-tại. Ở đây,

hạnh viễn-ly nói

đến bực A-la-hán, dứt được mọi phiền-n

ão, sống an-vui, tự-tại.

- Phàm-phu: Phàm = thường, người thường; Phu = người. Phàm-phu là người thường, chưa tu;

đối-

nghĩa với Thánh-hiền, bực tu-hành

đ

ã chứng-

đắc quả-vị.

- Kiên-trì: Kiên = cứng-cỏi; Trì = giữ vững. Kiên-trì là bền-chí, giữ vững, chẳng hề thoái-lui.

- Lậu-hoặc: Xin nhắc lại: Lậu = rỉ chảy ra; Hoặc = điều sai-lầm, sái-quầy, xấu-ác, như tham, sân, si, mạn, nghi, ác-kiến. Các lậu-hoặc (tiếng Pali là àsava) khởi lên trong tâm, rỉ chảy ra ngoài, bộc-lộ thành hành-

động sai-lầm hay bằng lời nói thô-ác.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện thuật lại một nhóm tỳ-kheo tu-hành

được kết-quả khả-quan, n

ên sanh lòng tự-mãn.

Đức Phật dạy, dầu cho giữ giới, tr

ì-pháp, thiền-

định, theo hạnh đầu-đ

à, chứng quả A-na-hàm,

đ

ã dược kết-quả tốt, cũng chớ nên sanh lòng tự-mãn, vì mục-tiêu chứng quả-vị Thánh, A-la-hán,

đ

òi hỏi người tu-hành phải dứt hết mọi lậu-hoặc, mà lòng tự-mãn chính là một lậu-hoặc còn sót lại

đó.

Ý-nghĩa của Tích chuyện khuyên ta

đừng bao giờ n

ên sanh lòng tự-mãn, thấy có kết-quả tốt,

đ

ã cho là

đủ rồi, m

à chẳng cố gắng thêm hơn lên

để sớm đạt được mục-ti

êu. Lòng tự-mãn, bắt nguồn từ sự tự-kiêu, xem mình nay

đ

ã khá lắm rồi, nên chẳng còn giữ

được sự nỗ-lực lúc ban đầu nữa; v

ì có sự lơ-là, xao-lãng khiến ta chẳng tiến-bộ thêm.

Nên

để-ý, chớ lẫn-lộn l

òng tự-mãn là một nết xấu, với sự tri-túc là một

đức-tánh tốt, đáng

quí. Tri-túc là biết

đủ (

tri = biết; túc = đủ). Kẻ tự-mãn cho rằng

đức-tánh tốt của m

ình

đ

ã quá

đủ, chẳng cần cố-gắng hơn l

ên thêm nữa làm gì. Còn người tri-túc thì chẳng

đ

òi hỏi thêm gì nữa cho mình, vì mình nhận thấy nhu-cầu nơi mình

đ

ã thoả-mãn vừa

đủ. So-sánh hai người, một b

ên tự-mãn thì tự

đánh-giá m

ình qua cao, vì thế sanh ra kiêu-c

ăng; c

òn một bên tri-túc, biết tự-chế sự ham-muốn của mình chẳng cho

đi quá mức.

(2) Ý-nghĩa của hai bài Kệ số 271 và 272:

Hai bài Kệ nhập chung lại thành một bài, khuyên ta chớ nên sanh lòng tự-mãn, phải luôn-luôn nỗ-lực, kiên-trì dẹp cho xong mọi lậu-hoặc

để chứng quả-vị A-la-hán.

Thử phân-tách từng câu bài Kệ nầy:

1) Chẳng phải vì trì-giới nghiêm-túc: đây chẳng phải bài Kệ chê việc trì-giới, mà bài Kệ muốn nói rằng trì-giới còn chưa

đủ, chớ n

ên tự-mãn. Trì-giới

để được

định-tâm, rồi nhớ tâm an-

định m

à trí-huệ mới phát-triển, sớm

đến nơi

giac-ngộ và giải-thoát.

2) Chẳng phải do kiến-thức thật cao:

đây chẳng phải b

ài Kệ chê kiến-thức về

đạo-pháp; trái lại,

biết suông chưa

đủ, chớ tự-m

ãn, phải

đem sự hiểu-biết ra ứng-dụng tu h

ành trên bản-thân mình nữa.

3) Chẳng phải vì thiền-

định thâm-sâu:

đây chẳng phải bài Kệ chê việc thiền-định; trái lại, thiền-

định

giúp cho trí-huệ phát-triển, thấy rõ con

đường

giác-ngộ và giải-thoát, chớ chẳng nên tự-mãn, thấy thân-tâm

được an-lạc rồi cho l

à

đủ, bám v

ào cảnh ấy mà trì-trệ.

4) Chẳng phải do sống xa trần-tục: đây chẳng phải bài Kệ chê hạnh

đầu-đ

à; trái lại, biết xa-lìa các thú-vui vật-chất còn chưa

đủ, phải tận-diệt b

ên trong các mầm-mống lậu-hoặc còn sót lại, chớ tự-mãn mà lơ-là, quên mất mục-tiêu giải-thoát.

5) Mà có thể tự-mãn: "Ta nay hưởng phước hạnh viễn-ly, mà các phàm-phu làm gì hưởng

được

": đây là lời cảnh-cáo, hạnh viễn-ly đem lại phước-báo, sống tự-tại, nhưng chớ tự mãn, cho rằng mình đã hơn kẻ phàm-phu, đó là ngã-mạn, còn xem mình là hơn kẻ khác.

6) Tỳ kheo! Chớ xao-lãng, Kiên-trì diệt lậu-hoặc cho xong": đây là lời kêu gọi khẩn-thiết, phải bền-chí, dõng-mãnh diệt các lậu-hoặc còn sót lại trong tâm, nhứt là lòng tự-mãn.

-ooOoo-

XX.- Phẩm

ĐAO.

(204).- Tích chuyện các tỳ-kheo bàn về

đường đi.

Tích chuyện giống với Tích chuyện số (33).

Vào một thời kia,

Đức Phật ngụ tại ch

ùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có

đề-cập đến các vị tỳ-kheo b

àn-luận cùng nhau về các con

đường đ

ã trải qua.

Thuở ấy, sau chuyến du-hành theo

Đức Phật đi hoằng-pháp ở các l

àng-mạc trở về, vào buổi chiều, các tỳ-kheo tụ-tập nhau, bàn luận về các

đoạn-đường đ

ã trải qua, khi xuyên qua các làng-mạc. Người nói

đoạn đường nầy gồ-ghề, kẻ bảo đoạn đường kia bằng-phẳng. Có vị khen khúc lộ nầy trống-trải dễ đi, có vị ch

ê khúc lộ kia trơn-trợt dễ té. Bấy giờ

Đức Phật vừa đi ngang qua đó, nghe lời b

àn-luận của các tỳ-kheo, Ngài mới dạy rằng: "Nầy chư tỳ-kheo, các

đoạn-đường m

à các vị

đang b

àn nhau

đó l

à những

đoạn-đường ở b

ên ngoài thân-tâm. Sao chư tỳ-kheo lại chẳng lưu-tâm

đến con đường

thánh-

đạo

cùng những việc cần làm

để sớm đắc được Đạo v

à Quả Niết-bàn an-lạc?"

Rồi

Đức Phật mới nói l

ên bốn bài Kệ sau

đây:

Bát-Chành-

Đạo

quí nhứt mọi

đường,

Lý tột-cao là Tứ-Diệu-

Đế.

Ly tham-ái, có pháp nào bằng,

Loài hai chơn, ai hơn Phật-nhãn.

(Kệ số 273.)

Chỉ

đường nầy, chẳng đường n

ào khác,

Đưa đến thanh-tịnh-hoá kiến-tri,

Mau theo

đường ấy ngay đi

Ma-quân muốn phá cũng thì chào thua.

(Kệ số 274.)

Dấn chơn vào bước

đường nầy,

Con người chấm dứt

được ngay khổ-sầu.

Ta

đ

ã qua cầu, nay chỉ lại

Lối

đi diệt chướng-ngại, chông-gai.

(Kệ số 275.)

Các người hãy tự mình nỗ-lực,

Như-Lai chỉ là bực dẫn

đường.

Thực-hành thiền-

định cho thường,

Thoát vòng kiềm-toả Ma-vương buộc-ràng.

(Kệ số 276.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

-

Đạo

=

tiếng Hán-Việt, có hai nghĩa chánh: (1) con

đường; (2) đường-lối tu-h

ành, tôn-giáo. Trong bài nầy, nhơn nói về các con

đường b

ên ngoài mà bước chơn ta trải qua,

Đức Phật nói đến con đường đưa ta ra khỏi v

òng sanh-tử khổ-sở của Luân-hồi.

- Thánh-

đạo:

đường-lối tu-hành đưa đến quả-vị Thánh, thoát khỏi khổ-đau của Luân-hồi sanh-tử. Đó là Bát-Chánh-

đạo.

-

Đạo v

à Quả:

Đạo

=

đường-lối tu-hành, việc cần làm, điều cần tránh, để chứng được quả-vị. Tiếng Pali là Magga. Quả là kết-quả tốt của việc tu-tập thành-công, tức là quả-vị. Tiếng Pali là Phala.

- Bát-Chánh-

Đạo: Bát

=

tám; Chánh = chơn-chánh,

đứng-đắn;

Đạo = đường-lối tu-tập. Bát-Chánh-

Đạo

gồm có: (1)Chánh-kiến ( = thấy biết

đúng-đắn), (2)

Chánh-tư-duy ( =suy-nghĩ

đứng-đắn),(3)

Chánh-ngữ ( =lời nói

đứng-đắn),(4)

Chánh-mạng ( = lối sanh-sống

đứng-đắn), (5)

Chánh-nghiệp ( = sự-nghiệp

đứng-đắn), (6)

Chánh tinh-tấn (nỗ-lực

đứng-đắn), (7)

Chánh-niệm ( =ý-tưỏng

đứng-đắn), (8)

Chánh-

định

( = tâm an-

định đứng-đắn).

- Tứ-Diệu-

Đế: Tứ

=

bốn, Diệu = nhiệm-mầu; Đế = Chơn-lý. Tứ-Diệu-

Đế

hay bốn Chơn-lý nhiệm-mầu gồm có: (1) Khổ-

đế,

đời là Khổ; (2) Tập-

đế,

nguyên-nhơn gây ra Khổ là sự tham-ái; (3) Diệt-

đế,

sự chấm-dứt hết mọi Khổ, tức là Niết-bàn; (4) Đạo-đế, con

đường Thánh đưa đến sự chấm dứt

Khổ, tức là Bát-Chánh-

Đạo.

- Ly tham-ái: Ly = lìa; Tham = ham muốn quá chừng; Ái = thương, thích. Ly tham-ái là cắt bỏ lòng tham-muốn, nhứt là sự bấu-víu vào các thú-vui của

đời sống trong v

òng lẩn-quẩn của Luân-hồi.

- Phật-nhãn: Phật = giác, hiểu rõ cùng-tột; Nhãn = con mắt. Tiếng Phật-nhãn ở

đây chỉ người có sự hiểu-biết, nh

ìn thấy

được mọi vật một cách c

ùng-tột.

- Thanh-tịnh-hoá Kiến-tri: Thanh-tịnh-hoá = làm cho trong-sạch lên; Kiến-tri: Kiến = thấy; Tri = biết; Kiến-tri là sự hiểu-biết, thấu rõ.

- Ma-quân, Ma-vương: nghĩa bóng là sự cám-dỗ, thúc-dục ta phải làm

đ

ìều ác

- Đã qua cầu:

đ

ã vượt qua xong,

đ

ã có kinh-nghiệm về việc

đó.

- Chướng-ngại = điều ngăn-trở, gây khó-khăn.

- Kiềm-toả: Kiềm = cây kềm; Toả = ống khoá. Kiềm-toả dùng theo nghĩa bóng, chỉ sự ràng-buộc.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện rất giản-dị: nhơn các tỳ-kheo bàn-luận về các con

đường đất đ

ã

đi qua, Đức Phật dạy các tỳ-kheo n

ên nghĩ

đến con đường tu-h

ành

để chứng quả-vị Thánh. Đó l

à con

đường Bát-Chánh-đạo, nói trong Tứ-Diệu-Đế.

(2) Ý-nghĩa của bốn bài Kệ số 273, 274, 275 và 276:

Cả bốn bài Kệ

đều nói về con đường

Thánh-

đạo, Bát-Chánh-Đạo,

đưa người tu-hành đến quả-vị Thánh, thoát vòng Luân-hồi.

1) Kệ số 273 nêu ra bốn

điều cao-tột

: Bát-Chánh-

Đạo, Tứ-Diệu-Đế, Ly tham-ái

Phật-nhãn. Nhờ biết

đi theo con đường Thánh, li

à xa tham-ái, chứng

được

Phật-nhãn, nhìn biết tất cả muôn sự-vật, muôn loài, nên giác-ngộ được Chơn-lý và giải-thoát khỏi Luân-hồi.

2) Kệ số 274 nói rõ Bát-Chánh-

đạo

là con

đường duy-nhứt l

àm cho thân-tâm trở nên thanh-tịnh, chẳng có Ma-quân nào cám dỗ

được cả.

3) Kệ số 275 cho biết, con

đường đó Đức Phật đ

ã trải qua; Ngài vượt qua hết mọi chông-gai cản trở, nay chỉ lại cho ta,

để chấm-dứt hết mọi khổ-đau, khỏi phải tái-sanh trong v

òng Luân-hồi lận-

đận.

4) Kệ số 276 nhắc nhở mọi người phải tự mình nỗ-lực lấy, siêng thực-hành việc thiền-

định, để thoát khỏi mọi sự cám-dỗ của Ma-vương. Phải tự m

ình nỗ-lực lấy, mau dấn bước theo con

đường Bát-Chánh-đạo, chẳng n

ên chờ mong sự cứu-

độ của ai cả, v

ì

Đức Như-Lai chỉ l

à kẻ dẫn-

đường đưa lối m

à thôi.

(205).- Tích chuyện các tỳ-kheo quán-chiếu về Vô-thường, Khổ và Vô-ngã.

Vào một thời kia,

Đức Phật ngụ tại ch

ùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có

đề-cập đến ba nhóm tỳ-kheo quán-chiếu về các chơn-lý Vô-thường, Khổ v

à Vô-ngã.

Thuở ấy, có ba nhóm tỳ-kheo

đến yết-kiến Phật, để xin đề-t

ài quán-chiếu mà thực-tập thiền-

định. Nhóm thứ nhứt được dạy về

Vô-thường, nhóm thứ hai về Khổ và nhóm thứ ba về Vô-ngã. Họ

đi v

ào rừng vắng, tu-tập một thời-gian. Sau

đó, nhiều người chẳng thấy có tiến-bộ, trở về tr

ình Phật.

Đức Phật bảo:

"Nầy chư tỳ-kheo, các hành đều Vô-thường, cứ biến-đổi rồi huỷ-diệt. Tại sao lại hay biến-đổi, chẳng thường-trụ? Vì bản-thể rỗng-rang, do nhơn-duyên mà hợp, rồi lại vì nhơn-duyên mà huỷ-diệt

đi, đó l

à tính-chất Vô-ngã. Vì các hành đã Vô-thường lại Vô-Ngã, chẳng hoàn-mãn, nên sanh ra Khổ. Tỳ-kheo dùng tuệ-giác quán-thấy rõ ba tánh-chất đó, trở nên nhàm-chán sự Khổ-đau, sớm theo đường thanh-tịnh-

đạo

để mau được giải-thoát.

"

Rồi

Đức Phật mới nói l

ên ba bài Kệ sau

đây, nhờ đó một số tỳ-kheo chứng-đắc được quả-vị A-la-hán

:

Vô-thường là tất cả các hành.

Nhờ tuệ-giác, quán-chiếu thấy rành,

Mới sanh nhàm-chán niềm khổ-não,

Thanh-tịnh-

đạo liền rảo bước nhanh.

(Kệ số 277.)

Đau-khổ là tất cả các hành.

Nhờ tuệ-giác, quán-chiếu thấy rành,

Mới sanh nhàm-chán niềm khổ-não,

Thanh-tịnh-

đạo liền rảo bước nhanh.

(Kệ số 278.)

Vô-ngã là tất cả các hành,

Nhờ tuệ-giác, quán-chiếu thấy rành,

Mới sanh nhàm-chán niềm khổ-não,

Thanh-tịnh-

đạo liền rảo bước nhanh.

(Kệ số 279.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Quán-chiếu: tâm an-

định v

à suy-nghĩ sâu-xa về một

đề-t

ài.

- Vô-thường: Vô = chẳng; Thường = hằng còn. Vô-thường là hay biến-

đổi, chẳng c

òn mãi

được.Tiếng

Pali là Anicca.

- Khổ: sự khổ-

đau, sự bất-toại-nguyện; tiếng

Pali là Dukkha.

- Vô-ngã: Vô =chẳng; Ngã = Ta, bản-thể. Vô-ngã là bản-thể rỗng-rang, chẳng có chi bên trong làm chủ-thể, do nhơn-duyên mà tạm-có; rồi cũng do nhơn-duyên mà hủy-diệt

đi; tiếng

Pali là Anatta.

- Hành: dịch chữ Sankhàra của Pali; có nhiều nghĩa: Xin xem lại trang 575, 576. Chữ Hành có nghĩa là sự tập-hợp, do nhơn-duyên mà tạm-có,

để rồi theo nhơn-duy

ên mà huỷ-diệt. Lại cùng nghĩa với chữ uẩn (Pali là khandha ), trong chữ Hành-uẩn.

đây, xin hiểu chữ

Hành là các sự-vật hữu-vi, do sự tạo-tác mà nên, bị

điều-kiện-hoá, biến-chuyển để đi đến huỷ-di

êt. Thí-dụ về hành là thân-tâm n

ăm uẩn, chẳng thường c

òn, bị

điều-kiện-hoá, rồi sẽ tan-hoại sau nầy.

- Hoàn-mãn: Hoàn = tròn, trọn-vẹn; Mãn = đầy-đủ, hợp ý. Chẳng hoàn-mãn, hay là bất-toại-nguyện, nghĩa là chẳng làm ta vừa ý. Tại sao? Vì chẳng có bản-thể bền-vững, vì có

đó rồi lại mất đó.

- Tuệ-giác: Tuệ = trí-huệ; Giác = biết; Tuệ-giác là khà-n

ăng hiểu-biết của tâm-trí;

Pali: Vipassana Panna, dịch là trí Bát-nhã Minh-sát.

- Thanh-tịnh-

đạo:

conđường thanh-lọc thân-tâm; tiếng Pali là Visuddhi Magga.

- Rảo bước = đi mau.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện chẳng có gì

đặc-biệt: các tỳ-kheo thực-tập quán-chiếu về Vô-thường, Khổ, Vô-ng

ã,

được Đức Phật chỉ-dạy th

êm.

(2) Ý-nghĩa của ba bài Kệ số 277, 278 và 279:

Ba bài Kệ nầy rất quan-trọng về mặt Giáo-lý; cả ba bài khác nhau chỉ có mỗi hai chữ ở câu

đầu:

Vô-thường,

Đau-khổ

Vô-ngã.

Ý-nghĩa của ba bài Kệ: vì muôn sự-vật

đều

vô-thường vô-ngã, chẳng

đem lại sự toại-nguyện v

à ổn-cố cho ta, nên chúng gây ra Khổ. Vậy muốn thoát Khổ, phải theo con

đường

thanh-tịnh-hoá thân-tâm.

(206).- Tích chuyện tỳ-kheo Thi-sa lười-nhác.

Vào một thời kia,

Đức Phật ngụ tại ch

ùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có

đề-cập đến vị tỳ-kheo lười-nhác l

à Thi-sa

Thuở ấy, ở nước Xá-vệ, có hàng tr

ăm thanh-ni

ên trẻ tuổi

được thâu-nhận v

ào Giáo-hội. Tỳ-kheo Thi-sa cùng với các bạn vừa mới nhập-

đạo, đến yết-kiến Đức Phật v

à

được chỉ-dạy một đề-t

ài thiền-quán. Họ liền

đi v

ào rừng, tìm chỗ yên-tịnh, nỗ-lực thực-tập, tinh-tấn tu-hành. Riêng tỳ-kheo Thi-sa, tánh-tình lười-nhác, bê-trễ trong việc hành Thiền. Mấy tháng sau, cả

đo

àn quay về Tịnh-xá, tường-trình thành-quả việc tu-học.

Đức Phật khen ngợi cố-gắng tu-tập của mọi người. Ri

êng Tỳ-kheo Thi-sa

đang đứng phía sau, cảm thấy hổ-thẹn v

ì

đ

ã lãng-phí thời-giờ, chẳng

đạt được kết-quả n

ào.

Tối hôm ấy, nghĩ

đến các bạn đồng-tu nay đ

ã chứng

được quả-vị m

à mình vẫn còn dốt-nát, Tỳ-kheo Thi-sa mới quyết-

định thức cả đ

êm nay

để tập Thiền. Trong bóng tối chập-chờn ngo

ài sân chùa, Thi-sa bước

đi thiền-h

ành, chẳng may vấp ngã, gãy xương mông. Nghe tiếng kêu cứu, các vị tỳ-kheo khác chạy

đến đỡ Thi-sa v

ào trong. Khi nghe kể lại sự-việc,

Đức Phật bảo

: "Nầy chư tỳ-kheo, chẳng nỗ-lực khi

đang cần nỗ-lực, lại b

ê-trễ lãng-phí thi-giờ, nay dầu có gắng sức nhiều trong một lúc, cũng chẳng thể nào chứng

được định-tâm.

"

Rồi

Đức Phật mới nói l

ên bài Kệ sau

đây

:

Chẳng nỗ-lực khi cần gắng sức;

Sức-khoẻ nhiều và vẫn trẻ-trung;

Tánh lười, trí lại lông-bông,

Chánh-

đạo, đừng h

òng kẻ ấy tìm ra.

(Kệ số 280.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Thi-sa: tên vị tỳ-kheo nầy, tiếng Pali là Tissa.

- Lười-nhác = làm biếng, biếng-nhác.

- Nhập-

đạo: Nhập

=

vào; Nhập-

đạo

là bước vào

Đạo để tu-h

ành

-

Đề-t

ài thiền-quán:

một

đầu-đề để suy-nghĩ sâu-xa khi ngồi Thiền

-

Đi thiền-h

ành:

bước chầm-chậm, tâm-trí chú vào

đề-t

ài Thiền.

- Tường-trình thành-quả: thuật lại rõ các kết-quả tốt-

đẹp.

-

Định-tâm: Định

=

an-

định;

Tâm = lòng. Khi hành Thiền, tâm dừng lại, chẳng lo ra, trí suy-nghĩ sâu-xa về

đề-t

ài thiền-quán.

- Lông-bông: đi lang-thang, vơ-vẩn.

- Chánh-

đạo: Chánh

= chơn-chánh,

đứng-đắn;

Đạo = đường-lối tu

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện kể lại một vị tỳ-kheo, trong thời-gian khoá thiền trong rừng, thì tỏ ra lười-biếng, bê-trễ việc tu-tập. Khi trở về Tịnh-xá, thấy

Đức Phật khen ngợi th

ành-quả của bạn

đồng-tu, vị ấy mới sanh ra hổ-thẹn, quyết cố-gắng tu-tập suốt đ

êm, chẳng may bị trợt té gãy xương, trong khi

đi thiền-h

ành.

Đức Phật dạy, phải cố gắng si

êng-n

ăng, khi cần phải nỗ-lực trong các khoá tu; dầu nỗ-lực thật nhiều trong một thời-gian ngắn, cũng chẳng chứng được định-tâm.

Ý-nghĩa của Tích chuyện là: khi có

đủ điều-kiện để tu-h

ành, cần nên gắng sức trong thời gian

đó, th

ì có kết-quả tốt;

đừng đợi đến giờ phút chót mới nỗ-lực, th

ì chẳng

đạt được kết-quả tốt.

Học-sinh nên ứng-dụng: suốt n

ăm phải chăm-chỉ học-h

ành,

đừng đợi sắp đến ng

ày thi, mới thức khuya, học rút, sao cho kịp

được.

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 280:

Bài Kệ nêu rõ ý-nghĩa của Tích chuyện kể trên: khi có

đủ điều-kiện để tu-tập, phải nỗ-lực cho tinh-tấn, đừng để khi tuổi-trẻ v

à sức khoẻ

đ

ã

đi qua rồi, mới bắt đầu dụng công gấp-gấp, th

ì chẳng

được kết-quả mong-muốn.

Thử phân-tách từng câu bài Kệ:

1) Chẳng nỗ-lực khi cần gắng sức: khi

đủ điều-kiện để tu-tập, phải gắng sức v

ào lúc

đó, chớ bỏ qua cơ-hột tốt;

2) Sức khoẻ nhiều và vẫn trẻ-trung: đây là hai điều-kiện rất thuận-tiện để tu-hành; chớ chờ lúc già, sức yếu mới tu, chậm mất;

3) Tánh lười, trí lại lông-bông: hai

điều-kiện bất lợi cho việc tu

4) Chánh-

đạo, đừng h

òng kẻ ấy tìm ra:

chẳng thể nào, trong

điều-kiện

lườilông-bông mà tìm thấy

được con đường Thánh-đạo.

(207).- Tích chuyện ngạ-quỉ

đầu heo m

ình người.

Vào một thời kia,

Đức Phật ngụ tại tịnh-xá Trúc-lâm, gần th

ành Vương-xá, nước Ma-kiệt-

đ

à, trong một kỳ giảng-pháp, có

đề-cập đến một ngạ-

quỉ

đầu heo m

ình người.

Thuở ấy, Tôn-giả Mục-kiền-liên

đang c

ùng một vị Trưởng-lão, từ trên

đỉnh núi Linh-thứu đi xuống, bỗng Tôn-giả nh

ìn lên, mỉm cười mà chẳng thốt lên lời nào.

Đến khi về đến tịnh-xá, Tôn-giả tr

ình cùng

Đức Phật, dọc đường có nh

ìn thấy một ngạ-quỉ

đầu heo m

ình người, miệng bị nhiều dòi, bọ cắn-xé,

đang r

ên-xiết

đau-đớn. Đức Phật bảo, khi Ng

ài chứng

được Đạo Vô-thượng Chánh-đẳng Chánh-giác, Ng

ài cũng nhìn thấy ngạ-quỉ

đó. Rồi Đức Phật mới kể lại tiền-kiếp của ngạ-

quỉ

đầu heo, m

ình người

đó, như sau

:

Vào thời

Đức Phật Ca-diếp, có một vị tỳ-kheo rất thông-thuộc Chánh-pháp, giảng-dạy giáo-lý rất hay. Trong một chuyến đi du-h

ành, vị ấy

đến ngụ tại một tu-viện, do hai vị tỳ-kheo khác trụ-tr

ì. Kể từ ấy, dân-chúng trong làng rất hoan-nghinh vị tỳ-kheo mới, mỗi khi nghe vị nầy nói pháp. Và cũng vì thế mà vị tỳ-kheo ấy mới nổi lên trong lòng một ý-

định xấu, muốn một m

ình làm chủ ngôi tu-viện, và tìm cách

đẩy hai vị kia ra khỏi ch

ùa. Mưu-kế rất thâm-hiểm, ông ta

đặt điều xúi-dục vị tỳ-kheo nầy nói xấu vị kia, khiến cho cả hai c

ãi nhau, nặng lời cùng nhau, rồi cả hai bỏ

đi khỏi ch

ùa. Vì tội-ác nói

đâm-thọc khiến kẻ khác sanh ra th

ù-oán nhau, nên vị tỳ-kheo ấy bị sa vào

điạ-ngục Vô-gián. Sau khi m

ãn hạn trong ngục tối, lại tái-sanh thành ngạ-quỉ,

đầu heo, miệng thối, bị d

òi bọ cắn-xé,

để đền nốt tội-ác . Đức Phật kết-luận:

"Tỳ-kheo phải giữ tâm thanh-tịnh, thận-trọng biết tự-chế

để ba nghiệp

thân, miệng, ý thuận theo

đường thiện-đạo.

"

Rồi

Đức Phật mới nói l

ên bài Kệ sau

đây

:

Hãy thận-trọng giữ-gìn lời nói,

Thu-thúc thân-tâm khỏi

điều t

à.

Nghiệp thanh-tịnh

đủ cả ba,

Thánh-

đạo Phật-đ

à

đ

ã dạy, chứng xong.

(Kệ số 281.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Ngạ-quỉ: quỉ

đói. Đây l

à hạng chúng-sanh ở một trong ba

đường dữ, bụng to m

à cổ rất nhỏ, luôn luôn

đói khát. C

òn

được gọi l

à ngã-quỉ; tiếng Pali là Peta.

- Tịnh-xá Trúc-lâm, thành Vương-xá, nước Ma-kiệt-

đ

à:

Vua Tần-bà-sa-la (Bimbisara), nước Ma-kiệt-

đ

à (Magadha),

đóng đô tại th

ành Vương-xá (Rajàgaha), xây cất tịnh-xá trong vườn trúc, dưng-cúng Phật. Tînh-xá mang tên Trúc-lâm, rừng trúc, tiếng Pali là Veluvana.

- Núi Linh-thứu: núi nầy gần thành Vương-xá,

đỉnh núi trông giống h

ình chim thứu ( =kên-kên), hai cánh xoè ra.

Đức Phật giảng kinh

Pháp-Hoa tại núi nầy. Tên núi tiếng Pali là Gijjhakùta.

-

Đạo Vô-thượng Chánh-đẳng Chánh-giác:

chứng

được Đạo nầy tức l

à thành Phật, bực

đại-giác đ

ã hoàn-toàn giác-ngộ và giải-thoát.

- Tiền-kiếp: Tiền = trước; Kiếp = đời. Tiền-kiếp

đời trước.

- Du-hành: Du = đi dạo; Hành = đi; các vị tăng đi du-hành, chẳng có nơi ở nhứt-định, đi tìm thầy học đạo thêm. Còn gọi là du-t

ăng.

- Phật Ca-diếp: Đức Phật Ca-diếp giáng-sanh trước Đức Phật Thích-ca. Tên tiếng Pali là Kassapa.

- Trụ-trì: Trụ = ở yên

đó;

Trì = giữ-gìn. Trong Phật-học, chữ Trụ-trì dành cho vị sư-trưởng cai quản một ngôi chùa.

- Thâm-hiểm: Thâm = thâm-

độc, ác ngầm;

Hiểm = nguy-hiểm, hiểm-ác. Thâm-hiểm là ác-

độc ngầm, ác-độc m

à dấu-kín.

- Nói

đâm-thọc

=

đặt điều raxúi người nầy nói xấu người kia, khiến cho hai người thù nhau.

- Điạ-ngục Vô-gián: nơi chịuhình-phạt chẳng hề ngưng-nghỉ (Vô = chẳng; Gián = gián-

đoạn, ngưng-nghỉ). Tiếng

Pali là Avici niraya.

- Tái-sanh: sanh trở lại, theo luật Luân-hồi.

- Tự-chế = tự mình giữ mình chẳng cho làm

điều quấy, nói lời ác.

- Thiện-

đạo: Thiện

=

lành; Đạo = con

đường, lối sống.

- Thu-thúc: chế-phục, tự-chế, giữ gìn

đúng theo kỷ-luật; chẳng hề buông-lung theo tôi-ác.

- Thánh-

đạo:

con

đường Thánh, tức l

à Bát-Chánh-

Đạo.

- Phật-

đ

à:

phiên-âm chữ Buddha, có nghĩa giác, là hiểu-rõ tất cả mọi sự-vật; tức là bực đại-giác-ngộ.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện thuật lại tiền-kiếp của ngạ-quỉ

đầu heo m

ình người; vì nói lời

đâm-thọc, phá sự ho

à-hợp của hai vị t

ăng, để d

ành chức trụ-trì, mà một vị tỳ-kheo phải sa vào

địa-ngục v

à sau

đó tái-sanh l

àm ngạ-quỉ, miệng hôi-thối bị dòi bọ cắn xé.

Đức Phật khi kể lại sự-tích, khuy

ên ta phải biết giữ-gìn lời nói, thu-thúc thân-tâm cho ba nghiệp, thân, miệng, ý, được thanh-tịnh.

Tích chuyện mang các ý-nghĩa sau

đây

:

1) Nói lời

đâm-thọc, phá sự ho

à-hợp T

ăng,

bị sa vào

địa-ngục Vô-gián. Trong Kinh, có nói

tội ngũ-nghịch phải sa vào

điạ-ngục Vô-gián l

à: (1) giết cha, (2) giết mẹ, (3)giết A-la-hán, (4)phá hoà-hợp T

ăng, (5)l

àm chảy máu Phật. (Ngũ-nghịch = n

ăm điều trái-nghịch)

2) Vì miệng nói lời

đâm-thọc,

nên kiếp nầy miệng ngạ-quỉ hôi-thối, bị dòi bọ cắn-xé. Trong Kinh, kể ra bốn tội-ác do lời nói chẳng ngay-thẳng, chẳng

đoan-chánh gây ra: (1)

nói dối, sai sự thật; (2) nói khéo, dùng lời ngon-ngọt

để xúi-dục, dụ-dỗ; (3)

nói lưỡi

đôi chiều,

nói

đâm-thọc để gây chia-rẻ, th

ù-oán; (4) nói lời vô-nghĩa, ngồi lê

đôi mách, kháo nhau chuyện h

àng xóm.

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 281:

Bài Kệ mang hai ý-nghĩa: (1) lời nói phải

đứng-đắn; (2) phải giữ ba nghiệp

thân, miệng, ý cho thanh-tịnh.

1) Hãy thận-trọng giữ-gìn lời nói: đây là lời khuyên dạy ta phải suy-nghĩ cho chín-chắn trước khi mở lời.

2) Thu-thúc thân-tâm khỏi

điều t

à:

lời dạy nầy gồm có hai việc:(1) thu-thúc thân, tức là

đừng có h

ành-

động sái-quấy; (2)

thu-thúc tâm, tức là chẳng có ý-nghĩ xấu-ác.

3) Nghiệp thanh-tịnh

đủ cả ba:

Ba nghiệp nào?

Đó l

à hành-

động

của thân, lời nói của miệng ý-tưởng của tâm.

4) Thánh-

đạo Phật-đ

à

đ

ã dạy, chứng xong:

Câu nầy có vẻ khúc-mắc, xin

đọc lại cho suông:

(...Nếu giữ ba nghiệp thanh-tịnh) thì

đ

ã chứng xong

được Con đường Thánh-đạo (tức l

à Bát-Chánh-

Đạo) của Đức Phật đ

ã dạy.

(208).- Tích chuyện Trưởng-lão Phổ-thi-la.

Vào một thời kia,

Đức Phật ngụ tại ch

ùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có

đề-cập đến Trưởng-l

ão Phổ-thi-la.

Trưởng-lão Phổ-thi-la là một vị tỳ-kheo lớn tuổi, rất thông-thạo Tam-Tạng Kinh-

điển, l

àm giáo-thọ dạy Chánh-pháp cho chư T

ăng. V

ì thông-hiểu giáo-pháp nhiều, nên Trưởng-lão mới sanh lòng tự-phụ. Quán-thấy tâm-

địa đó của Trưởng-l

ão Phổ-thi-la,

Đức Phật biết ông nầy chẳng si

êng-n

ăng thực-tập v

à chưa

đắc được đạo-quả, cũng chưa chứng được bực Thiền n

ào cả. Ngài dùng phương-tiện, mỗi khi ông Phổ

đến đảnh-lễ, Ng

ài gọi ông Phổ là "vị tỳ-kheo vô-dụng" .Nghe

Đức Phật gọi m

ình như thế, ông Phổ rất hổ-thẹn, nhìn lại bên trong tâm mình, thấy quả thật mình còn chưa tu-tập

đúng mức để áp-dụng tr

ên bổn-thân, và sự hiểu-biết giáo-lý của mình quả là vô-dụng.

Lặng-lẽ, ông Phổ bỏ ra

đi, đến một tu-viện nhỏ, cách

chùa Kỳ-viên hơn hai mươi do-tuần, có ba mươi vị t

ăng tu-tập, để xin v

ào học

Đạo. Trước hết, ông Phổ xin vị sư-trưởng chỉ dạy Thiền cho m

ình. Vị nầy từ-chối, bảo hãy

đến nhờ vị sư-phó. Vị sư-phó cũng chẳng nhận, bảo h

ãy

đến vị thứ ba. Bị đẩy lần-lượt như thế, sau c

ùng Trưởng-lão phải

đến gặp một chú Sa-di bảy tuổi. Vị Sa-di bằng l

òng chỉ dạy cách thực-tập Thiền-

định cho, nhưng với điều-kiện l

à ông Phổ phải tuân-theo thật kỹ-lưỡng mọi chỉ-thị. Ông Phổ vâng lời, nỗ-lực quán-chiếu ngày

đ

êm về bản-thể chơn-thật của thân-tâm n

ăm uẩn, ngồi Thiền, đi Kinh-h

ành rất nhiệt-thành và tinh-tấn. Chẳng bao lâu, Trưởng-lão

đắc được định-tâm, lần lượt chứng được bốn bực Thiền. Bấy giờ Đức Phật v

à chư T

ăng

đi du-hành đến đó, thấy nỗ-lực tu-tập của Trưởng-lão, Ngài khen-ngợi ông Phổ, khuyên nên cố-gắng mãi lên như thế.

Rồi

Đức Phật mới nói l

ên bài Kệ sau

đây, nhờ đó m

à Trưởng lão Phổ-thi-la chứng

được đạo v

à quả A-la-hán:

Thật vậy, thiền-

định sanh trí-huệ,

Chẳng hành thiền, trí-huệ mờ phai.

Biết

đường hai ng

õ, t

ăng c

ùng tệ,

Hãy cố sao trí-huệ t

ăng ho

ài.

(Kệ số 282.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Phổ-thi-la: tên vị Trưởng-lão nầy, tiếng Pali là Potthila.

- Tam-Tạng Kinh-

điển:

tất cả giáo-pháp của

Đức Phật chỉ dạy, đựng chung th

ành ba giỏ ( Tam-tạng: Tipitaka; Tam = ba; Tạng = cái giỏ

đựng kinh-sách), gồm: (1)

Luật-tạng (Vinaya Pitaka), nói về giới-luật, (2) Kinh-tạng (Suttanta Pitaka), nói về giáo-lý ghi trong Kinh-Kệ, và (3)Luận-tạng (Abhidhamma Pitaka), nói về các bài luận-giải về giáo-lý.

- Giáo-thọ = vị thầy dạy giáo-lý cho các tỳ-kheo.

- Tự-phụ: Tự = chính mình; Phụ = cậy giỏi; Người tự-phụ là kẻ cậy mình giỏi, hay khinh kẻ khác chẳng bằng mình.

- Tâm-

địa: Tâm

=

lòng; Điạ = đất. Tâm-

địa

là tâm-trạng, bên trong tấm lòng tốt, xấu như thế nào.

- Đạo, Quả: Đạo =

đường lối tu-h

ành; Quả = kết-quả tu-tập thành-công. Thí-dụ: đạo Tu-đà-huờn là những

đường-lối tu-tập để diệt thân-kiến, nghi-ngờ v

à mê-tín dị-

đoan;

quả tu-

đ

à-huờn là kết-quả chứng

được khi bỏ sự chấp thân nầy l

àm Ta, hết nghi-ngờ về Phật-pháp, bỏ dứt các sự cúng-tế theo tà-giáo. Tiếng Pali: Magga Đạo; Phala Quả. Có bốn đạo và bốn quả trong hàng Thanh-v

ăn

: Tu-

đ

à-huờn, Tư-

đ

à-hàm, A-na-hàm và A-la-hán.

- Bực Thiền: tu thiền lần lượt chứng

được bốn cấp

: sơ-thiền, nhị-thiền, tam-thiền và tứ-thiền.

- Phương-tiện: cách-thức khéo, dùng

để đạt mục-đích. Ở đây, Đức Phật d

ùng phương-tiện nói khích, chê ông Phổ là người vô-dụng, để ông ấy biết hổ-thẹn mà siêng tu-rập, chớ đừng ỷ mình biết nhiều lý-thuyết về giáo-pháp, mà tâm vẫn còn nhiều lậu-hoặc.

- Vô-dụng: Vô = chẳng; Dụng = dùng; Vô-dụng = vô-ích, chẳng biết dùng vào việc gì.

- Đảnh-lể = đến yết-kiến, lễ-lạy ra mắt.

- Do-tuần = đơn-vị đo chiều dài đường-xá, vào khoảng hơn một cây-số, tiếng Pali là yojana.

- Sư-trưởng, Sư-phó: Sư = thầy; Trưởng = lớn; Phó = phụ-giúp. Sư-trưởng là vị sư lớn nhứt; Sư-phó là vị sư thứ nhì, phụ-giúp Sư-trưởng.

- Sa-di: tiếng Pali là Sàmanera, vị tu hành chưa thọ giới tỳ-kheo.

- Chỉ-thị: những

điều ra lịnh, chỉ-dạy phải tuân theo.

-

Định-tâm: Định

= ổn-

định, y

ên; Tâm = lòng.

Đắc được

định-tâm là tâm trở nên an-tịnh, chẳng chạy lang-thang, dừng yên lại một chỗ.

- A-la-hán: quả-vị thứ tư, cao nhứt, dẹp hết phiền-não, chứng

được

vô-sanh ( = chẳng còn bị tái-sanh trong vòng lẩn-quẩn Luân-hồi)

- T

ăng c

ùng tệ: T

ăng

= gia-t

ăng, th

êm lên; Tệ = dở hơn, xấu hơn.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện thuật lại một vị Trưởng-lão thông Kinh-kệ, làm thầy dạy Giáo-lý cho chư T

ăng, nhưng chính m

ình chưa tu-tập Thiền-

định. Thấy vị ấy hay tự-phụ, Đức Phật nói khích, gọi ông ta l

à tỳ-kheo vô-dụng. Ông Phổ bị chạm tự-ái, hổ-thẹn, biết mình còn kém,

đến học Thiền với một chú Sa-di bảy tuổi. Nhờ nỗ-lực h

ành Thiền, trí-huệ phát-triển nên khi nghe Phật nói bài Kệ số 282, ông Phổ chứng

được đạo-quả A-la-hán.

Tích chuyện mang hai ý-nghĩa sau

đây

:

1) Biết nhiều về Giáo-lý mà chẳng tập Thiền là còn chưa tu, vì cái biết về lý-thuyết thật là vô-dụng. Phải tu-tập trên bản-thân, mới biết

được con đường

giác-ngộ và giải-thoát.

2) Lời nói khích của

Đức Phật, ch

ê ông Phổ là tỳ-kheo vô-dụng, rất có hiệu-quả, khiến ông biết hổ-thẹn, xét lại lòng mình mà gắng công tu-tập.

Đó l

à lối dạy theo phương-tiện, rất khéo, của Phật.

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 282:

Ý-nghĩa bài Kệ thật rõ-ràng, học lý-thuyết suông chưa

đủ, phải thực-h

ành bằng cách tập Thiền.

Thử phân-tách từng câu bài Kệ:

1) Thật vậy, thiền-

định sanh trí-huệ:

đúng theo Tam-học: Giới,

Định, Huệ;

thiền-

định giúp

tâm dừng yên, vẹt

được các chỗ che-mờ, nhờ đó

trí-huệ phát-triển

được.

2)Chẳng hành thiền, trí-huệ mờ phai: tại sao mờ phai? Vì bị sự ngu-tối che mờ tâm đi, trí-huệ chẳng có dịp nẩy-nở được.

3) Biết

đường hai ng

õ, t

ăng c

ùng tệ:

biết rõ hai ngả

đường, tốt v

à xấu, Thiền-

định l

à

đường l

àm cho Trí-huệ phát-sanh lên;

4) Phải cố sao (cho) trí-huệ t

ăng ho

ài:

Trí-huệ càng t

ăng, c

àng chóng

đến ng

ày giác-ngộ và giải-thoát.

- 612 - Kinh Pháp-Cú: Phẩm

Đạo.

(209).- Tích chuyện n

ăm vị tỳ-kheo gi

à.

Vào một thời kia,

Đức Phật ngụ tại ch

ùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có

đề-cập đến năm vị tỳ-kheo gi

à.

Thuở ấy, ở nước Xá-vệ, có n

ăm người bạn thân nhau, đ

ã lớn tuổi rồi mới

đi tu. Hằng ng

ày, họ thường mang bình-bát, trở về nhà cũ

để khất-thực. Trong các người vợ của năm vị nầy, có một b

à tên là Mã-thu, nấu-nướng rất khéo-léo, nên thực-phẩm cúng-dường cho các vị tỳ-kheo lớn tuổi rất là ngon-lành; vì thế, các vị ấy thường

đến nh

à bà

để khất-thực. Chẳng may, một hôm b

à Mã-thu ngoạ-bịnh rồi từ-trần một cách

đột-ngột. Năm vị tỳ-kheo thương nhớ, l

òng rất sầu-thảm, thường hay than-vãn.

Đức Phật được biết việc đau buồn đó, mới cho gọi các vị tỳ-kheo ấy đến và dạy rằng: "Nầy chư tỳ-kheo, các ông

đau buồn, thương nhớ người đ

àn-bà bất-hạnh

đó, chẳng qua l

à trong lòng các ông còn tham-luyến thức

ăn ngon-ngọt, lại th

êm sự si-mê chẳng biết

được lẽ

vô-thường, rồi sanh ra buồn-khổ.

Đấy cũng như đang sống trong một khu rừng u-tối; phải n

ên

đốn sạch khu rừng ấy đi, để được giải-thoát khỏi sự

tham-luyến, sự sân-hận, sự si-mê."

Rồi

Đức Phật nói l

ên hai bài Kệ sau

đây, nhờ đó năm vị tỳ-kheo lớn tuổi chứng được quả-vị Tu-đ

à-huờn:

Đốn rừng "dục-vọng", chớ

đốn cây,

Vì cảnh rừng nầy gây sợ-hãi.

Lại

đốn cả l

ùm non "khát-ái",

Tỳ-kheo, rừng "ái" thoát ra ngày.

(Kệ số 283.)

Chừng nào chưa

đốn tiệt xong

Lùm cây ‘luyến-ái" trong lòng nữ-nam,

Chừng ấy, vẫn còn tâm ràng-buộc,

Như bê theo bú vú mẹ bò.

(Kệ số 284.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Bình-bát: cái chén lớn, như cái nồi nhỏ,

đựng thức ăn xin được.

- Khất-thực: đi xin ăn. Tỳ-kheo còn gọi là khất-sĩ ( = Bhikkhu).

- Mã-thu: tên bà nầy, tiếng Pali là Madhurapàcikà.

- Ngoạ-bịnh: Ngoạ = nằm; Ngoạ-bịnh là ngã bịnh, bị

đau nặng.

- Từ-trần: Từ = từ-giả; Trần = trần-thế, cõi

đời.

Từ-trần là chết

đi.

- Đột-ngột = bất ngờ, thình-lình chẳng biết trước

được.

- Bất-hạnh: Bất = chẳng; Hạnh = may mắn; Bất-hạnh là chẳng may

- Tham-luyến: Tham = ham quá chừng; Luyến = luyến-ái, mê-

đắm.

Tham-luyến là ham-muốn quá nên chẳng rời ra

được, m

à bị ràng buộc

- Vô-thường: Vô = chẳng; Thường = còn hoài; Lẽ vô-thường có nghĩa là muôn sự-vật

đều bị biến-đổi rồi ti

êu-diêt

đi. Ở đây, chữ

vô-thường có nghĩa là sự chết.

-Sân-hận: Sân = giận; Hận = hờn, thù.

- Dục-vọng: Dục = ham-nuốn; Vọng = mong-cầu.

- Lùm non: bụi cây nhỏ.

- Khát-ái: Khát = thèm-khát; Ái = thương, thích.

Đây l

à tình-cảm ràng-buộc khiến ta bấu-víu mãi vào sự-vật ta thích. Khát-ái chínhlà nguyên-nhơn của Khổ: trong Tứ-Diệu-

Đế đó l

à Tập-

đế.

- Lòng nữ-nam: Nữ = đàn-bà; Nam = đàn-ông; Đây nói về sự thương nhau giữa hai phái nam và nữ.

- Bê = con bò-con.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Ý-nghĩa của Tích chuyện là

đừng v

ì luyến-ái mà bị ràng-buộc.

Đức Phật ví sự

khát-ái như khu rừng u-tối, phải dẹp cho sạch hết, mới hết bị ràng-buộc mà

được giác-ngộ v

à giải-thoát.

(2) Ý-nghĩa của hai bài Kệ số 283 và 284:

Hai bài Kệ cùng có ý-nghĩa là phải dứt bỏ dục-vọng khát-ái .

Đức Phật dạy phải

đốn rừng, là dẹp bỏ sự luyến-ái như khu rừng u-tối, nhưng ngại các tỳ-kheo hiểu-lầm, nên Ngài nói rõ thêm: chớ

đốn cây.

Tình thương

điều tốt, nhưng nếu

thương quá, sanh ra tríu-mến, bị ràng-buộc, nên Ngài dạy phải đốn cho tiệt sự luyến-ái giữa trai gái.

(210).- Tích chuyện con của người thợ bạc.

Vào một thời kia,

Đức Phật ngụ tại ch

ùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có

đề-cập đến một vị Trưởng-l

ão, vốn là con của một người thợ bạc.

Thuở ấy, có một chàng thanh-niên khá

đẹp trai, con của một người thợ bạc, được Tôn-giả Xá-lợi-phất nhận l

àm

đệ-tử. Tôn-giả đem đề-t

ài thiền-quán về thân-tâm n

ăm uẩn

nầy

đáng gớm-ghiếc ra chỉ dạy cho ch

àng trai. Chàng thanh-niên liền theo lời thầy dạy,

đi v

ào rừng vắng, ngồi thiền và quán-chiếu; sau một tuần-lễ chẳng thấy có kết-quả, chàng trở về thưa lại với thầy. Tôn-giả Xá-;lợi-phất mới dẫn chàng ta

đến yết-kiến Đức Phật.

Đức Phật nghe nói chàng ta là con của một người thợ bạc, liền đổi đề-tài thiền-quán, thay vì quán-chiếu về tấm thân gớm-ghiếc, Ngài đưa ra một cành sen có bông-hoa to lớn, sắc rất đẹp mà hương cũng rất thơm. Ngài bảo đem cắm vào nơi vắng-vẻ và vừa nhìn hoa vừa quán-chiếu. Chàng thanh-niên vâng lời,

đem c

ành sen ra sau vườn, cắm xuống

đất cát, rồi ngồi tĩnh-toạ, ngắm vẻ đẹp của hoa sen. Từ trong tâm ch

àng khởi lên một niềm phỉ-lạc sâu-xa, tồi tuần-tự từng bước một, tâm-trí chàng tiến lên các bực thiền-

định.

Từ nơi hương-phòng,

Đức Phật quán-thấy sự tiến-bộ của ch

àng trai, Ngài liền dùng sức thần-thông, biến cành hoa sen

đang tươi n

õn, bỗng từ tư héo dần, hương phấn bay lả-tả. Tâm-trí chàng trai vụt ngộ

được lẽ

vô-thường, muôn sự-vật rồi cũng chóng tàn-phai và huỷ-diệt. Sau

đó, ch

àng trai trở vào yết-kiến

Đức Phật v

à

được Phật nói cho nghe b

ài Kệ sau

đây, nhờ đó, ch

àng chứng

được quả-vị A-la-hán

:

Hãy tự mình cắt dây tham-ái,

Như tay người bẻ hái sen thu.

Đường Niết-Bàn tịch-tĩnh siêng tu,

Như bực Thiện-thệ từng chỉ dạy.

(Kệ số 285.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Tôn-giả Xa-lợi-phất: vị

đại-đệ-tử của Đức Phật Thích-ca, nổi tiếng l

à thông-minh bực nhứt; tên tiếng Pali là Sàriputta.

-

Đệ-tử: Đệ

= em; Tử = con; Đệ-tử có nghĩa là học-trò học

Đạo.

- Đề-tài Thiền-quán: Xin nhắc lại:

đó l

à một

đề-mục d

ùng

để suy-nghĩ sâu-xa khi ngồi Thiền, để tâm được an-định.

- Thân-tâm n

ăm uẩn đáng gớm-ghiếc:

vì tấm thân nầy bên trong chứa nhiều chất dơ, sẽ sình-thối lên khi tan-rả, nên

đáng gớm-ghiếc.

- Yết-kiến = ra mắt bực trưởng-thượng,

để được chỉ-dạy.

- Tĩnh-toạ: Tĩnh =yên-tịnh; Toạ = ngồi. Tĩnh-toạ là ngồi yên.

- Phỉ-lạc = Phỉ =Lạc = vui. Phỉ-lạc là niềm vui về tinh-thần, tâm nhẹ lâng-lâng;

đối

nghĩa với chữ dục-lạc, sự sung-sướng về vật-chất.

- Các bực Thiền-

định:

khi ngồi Thiền chứng

được định-tâm, lần lượt vượt qua các bực Thiền thứ nhứt, thứ hai, thứ ba v

à thứ tư

- Hương-phòng: c

ăn ph

òng có hương thơm, dành riêng cho

Đức Phật

; tiếng Pali là Gandhakuti.

- Ngộ = hiểu rõ một cách sâu-xa, hiểu thẳng chẳng do lý-luận.

- Vô-thường = sự biến-

đổi, chẳng thường-hằng;

Pali = Anicca.

- Cắt dây Tham-ái: dứt bỏ sự tham-luyến, khát-ái.

- Niết-Bàn = cảnh-giới tịch-tĩnh, yên-vui và tự-tại; Pali = Nibbana

- Thiện-thệ: tức là

Đức Phật.

Thiện-thệ là một trong mười danh-hiệu của

Đức Phật;

thiện là khéo; thệ

đi qua cầu;

Pali là Sugata.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện cho thấy sự hơn-kém giữa Tôn-giả Xá-lợi-phất và

Đức Phật về việc dạy đệ-tử. Đề-t

ài bông sen của

Đức Phật hợp với căn-cơ của ch

àng thanh-niên trẻ

đẹp hơn l

à

đề-t

ài thân bất-tịnh. Tại sao? Vì chàng vốn con nhà thợ bạc, thường hay xem các vật

đẹp-đẽ. Nhờ hợp với căn-cơ, ch

àng trai thực-hành Thiền-quán và ngộ

được lý

Vô-thường của muôn pháp ( =muôn sự-vật) trong thời-gian ngắn.

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 285:

Ý-nghĩa bài Kệ rất rõ-ràng: hãy cắt

đứt dây tham-ái

siêng tu con

đường tịch-tĩnh

của Niết-Bàn.

(211).- Tích chuyện vị thương-gia

Đại-Nghiệp.

Vào một thời kia,

Đức Phật ngụ tại ch

ùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có

đề-cập đến thương-gia t

ên

Đại-Nghiệp.

Thuở ấy, có một thương-gia tên là

Đại-Nghiệp rất gi

àu-có,

đem cả trăm xe b

ò chở hàng-hoá từ thành Ba-la-nại

đến nước Xá-vệ để bán v

à

đồng thời để dự một cuộc hội-h

è vui chơi lớn.

Đến bờ sông gần th

ành Xá-vệ, bị nước lũ tràn cả hai bên

đường, cả đo

àn xe phải dừng lại, chờ ngày nước rút. Sau cả tuần-lễ, mưa dầm, nước lại dâng to lên, trễ kỳ

đại-hội, n

ên ông

Đại-Nghiệp định lưu lại đó, chờ bán hết h

àng-hoá sẽ trở về xứ. Ông nói, ta cứ ở

đây hết m

ùa hè, sang mùa thu, qua mùa

đông rồi khi trời ấm-áp, đến m

ùa xuân ta sẽ trở về xứ. Bấy giờ,

Đức Phật c

ùng chư T

ăng đi khất-thực ngang qua đó, nghe ông Đại-Nghiệp nói, Ng

ài mỉm cười. Tôn-giả A-nan chẳng hiểu lý-do vì sao Ngài lại mỉm cười mới thưa cùng

Đức Phật. Đức Phật bảo

: "Nầy A-nan, ông có nghe thấy vị thương-gia

đó không

? Ông ấy bảo, cứ ở

đây hết m

ùa hè, mùa thu, mùa

đông, m

à chẳng biết mình sắp chết trong bảy ngày nữa. Những gì cần làm ngay bây giờ, thì phải làm ngay

đi; Thần Chết đến, đâu có hẹn ng

ày giờ trước. Người biết tỉnh-giác, dẹp bỏ mọi lậu-hoặc, tinh-tấn tu-hành dõng-mãnh, thì dầu chỉ sống thêm một ngày hay một

đ

êm, cũng còn hơn kẻ phóng-dật."

Tôn-giả A-nan thương-tình,

đến báo cho thương-gia Đại-nghiệp biết ông ta sắp chết. Đại-Nghiệp nghe qua hoảng-hốt, nghĩ m

ình chưa làm

được điều g

ì có công-

đức, mới thỉnh Đức Phật v

à chư T

ăng đến cúng-dường, trai-tăng trong bảy ng

ày.

Đến hôm chót, sau khi nghe Đức Phật giảng-pháp v

à hồi-hướng công-

đức, ông Đại-Nghiệp tiễn chơn Đức Phật v

à chư T

ăng một đỗi đường. Khi quay trở về, ông bị nhức đầu như búa bổ, v

ài giờ sau thì chết.

Trên

đường về ch

ùa,

Đức Phật nói l

ên bài Kệ sau

đây

:

‘’Mùa mưa, ta sống ở

đây,

Mùa

đông, m

ùa hạ, cũng ngay nơi nầy".

Người ngu cứ tưởng là như vậy,

Đâu ngờ nguy-hiểm "chết" chờ

đây.

(Kệ số 286.)

TÌM HIỂU:

- A.- Nghĩa Chữ:

-

Đại-Nghiệp

=

sự-nghiệp lớn, có tiền-bạc, tài-sản nhiều; dịch chữ Pali là Mahadhana.

- Thương-gia = người buôn-bán.

- Ba-la-nại: tên thành-phố lớn của Ấn-

độ (

Bénarès, nay là Vàrànasi)

- Nước lũ: nước lụt, ngập cả khắp nơi.

- Tỉnh-giác: Tỉnh = chẳng mê; Giác = biết. Người tỉnh-giác tâm luôn chú-ý, khi nói, làm hay nghĩ

điều g

ì, thì biết rõ mình

đang nói, l

àm, nghĩ về

điều đó v

à chỉ

điều đó m

à thôi, chẳng lo ra.

- Lậu-hoặc: xin nhắc lại,

đó l

à các phiền-não như tham, giận, si-mê, nổi lên trong tâm rồi lộ ra bằng lời nói thô-ác hay hành-

động xấu.

- Tu-hành tinh-tấn: tu-hành siêng-n

ăng, có sự tấn-bộ.

- Dõng-mãnh: Dõng =Mãnh = mạnh-mẽ.

- Phóng-dật = buông-lung, chẳng biết tự-kềm-chế, lười-nhác.

- Trai-t

ăng: Trai

=

bữa

ăn chay;

T

ăng

= tu-sĩ Phật-giáo. Trai-t

ăng

là tiếng nhà chùa, nói

đến việc dưng-cúng thức-ăn, quần-áo cho tỳ-kheo.

- Hồi-hướng: Hồi = quay về; Hướng = nhìn thẳng về phiá

đó;

Hồi-hướng = nguyện công-

đức tu-h

ành của mình sẽ

đem lại phước-báo cho người m

ình

đang hướng về, đang nghĩ đến.

- Công-

đức

=

việc lành,

đem lại phước-báo tốt về sau.

- Nguy-hiểm "Chết" = mối hiểm-nguy

đang r

ình tất cả mọi người, chẳng sót một ai,

đó l

à sự Chết.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện thuật lại việc một thương-gia muốn lưu lại một nơi thật lâu, chẳng biết mình sắp chết,

được Đức Phật cho biết, mới tạo công-đức cúng-dường chư Tăng. Ý-

nghĩa của Tích chuyện là: Vì Vô-thường là sự Chết

đang r

ình chờ mọi người, chẳng biết lúc nào sẽ

đến, n

ên ngay bây giờ, ta phải lo tu-tập

để sớm được giác-ngộ v

à giải-thoát.

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 286:

Ý-nghĩa bài Kệ rất rõ-ràng: mọi người, bất luận là ai, cũng

đều sắp chết cả, vậy phải lo tu-h

ành, tạo phước ngay bây giờ

đi; đừng chần-chờ rồi sẽ hối-tiếc chẳng kịp nữa.

(212).- Tích chuyện bà Kỷ-sa-cơ.

Tích chuyện nầy giống với Tích chuyện số (93), trang 299.

Vào một thời kia,

Đức Phật ngụ tại ch

ùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có

đề-cập đến b

à Kỷ-sa-cơ có con bị chết.

Thuở ấy, bà Kỷ-sa-cơ rất

đau-buồn v

ì

đứa con trai vừa bị chết, đến xin Đức Phật cho thuốc cứu sống. Đức Phật bảo, h

ãy tìm một mớ hột cải ở gia-

đ

ình nào chẳng hề có người chết,

đem về Đức Phật sẽ cho thuốc. Hột cải th

ì có, mà gia-

đ

ình chẳng người chết thì không. Khi trở lại gặp

Đức Phật, b

à Kỷ-sa-cơ

được Phật dạy rằng

: "Nầy Kỷ-sa-cơ, bà cứ tưởng chỉ có bà mới mất một

đứa con thôi hay sao. Thần Chết đến mọi nh

à, chẳng chừa ai, lôi họ

đi ngay, trước khi đạt được một sở-nguyện n

ào."

Rồi

Đức Phật mới nói l

ên bài Kệ sau

đây

:

Kẻ nào tâm-ý

đắm-say

Cả

đ

àn gia-súc, cả bầy cháu con.

Thần Chết bắt người còn mê

đó,

Như làng

đang ngủ, có lụt to.

(Kệ số 287.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Kỷ-sa-cơ: tên ngươi nầy, tiếng Pali là Kisàgotamì.

- Sở-nguyện: Sở = chỗ; Nguyện = điều mong-muốn. Sở-nguyện

điều ao-ước muốn có được.

- Gia-súc: Gia = nhà, Súc = thú-vật. Gia-súc là thú-vật nuôi trong nhà, như heo gà, vịt, trâu, bò.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Xin xem lại Tích chuyện

đầy-đủ c

ùng Ý-nghĩa ở bài số (93), nơi các trang từ 299

đến 301 của Tập 2.

(2) Ý-nghĩa của bài kệ số 287:

Bài Kệ mang ý-nghĩa nầy: người còn

đang say-đắm, m

ê-luyến về tài-sản, về con cháu, sẽ bị Thần Chết

đến dẫn đi một cách bất-ngờ, cũng như dân-chúng trong l

àng

đang ngủ say, bị cơn lụt to nửa đ

êm thình-lình cuốn trôi ra biển. Kết-luận: nên sớm chấm-dứt tham-luyến.

(213).- Tích chuyện bà Phả-tha-ca.

Tích chuyện nầy giống với Tích chuyện số (92).

Vào một thời kia,

Đức Phật ngụ tại ch

ùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có

đề-cập đến b

à Phả-tha-ca.

Chỉ trong một buổi sáng, bà Phả-tha-ca bị mất cả chồng, lẫn hai con. Rồi lại hay tin cha, mẹ, anh chị em cũng

đều chết hết, b

à hoá ra mất trí.

Đến khi gặp Đức Phật, b

à tỉnh lại và

được nghe Ng

ài dạy rằng: "Nầy Phả-tha-ca, trước cái chết, con-cái, cha mẹ, họ-hàng, thân-hữu cũng chẳng thể làm gì

để giúp đỡ được. Người hiền-trí, ngay khi c

òn khoẻ-mạnh, biết giữ-gìn giới-luật, và dọn-dẹp cho thật sạch-sẽ các chướng-ngại trên con

đường đưa tới Niết-B

àn."

Rồi

Đức Phật mới nói l

ên hai bài Kệ sau

đây

:

Một khi Thần Chết bắt mang

đi,

Con cái, mẹ cha giúp

được g

ì?

Cả trong vòng bà con, thân-hữu,

Ai là người bảo-bọc, hộ-trì?

(Kệ số 288.)

Người hiền-trí biết rành như thế,

Giới-luật giữ-gìn thật nghiêm-minh,

Mau khai quang chướng-ngại sạch-sẽ,

Dẫn

đường tới Niết-B

àn vô-sanh.

(Kệ số 289.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Phả-tha-ca: tên người nầy, tiếng Pali là Patàcàrà.

- Thân-hữu = bạn-bè.

- Hiền-trí: Hiền = hiền-lành; Trí = trí-huệ. Danh-từ Hiền-trí trong Phật-học chỉ vào người thông-hiểu Chánh-pháp, dạy lại cho kẻ khác; còn

được gọi l

à bực Thiện-tri-thức.

- Giới-luật: các

điều răn-cấm trong Đạo.

- Chướng-ngại = cản-trở. Các chướng-ngại làm cản-trở con

đường

đưa đến Niết-Bàn?

Đó l

à mối

độc to lớn

: tham, sân, si. Cũng có thể nói

đó l

à tam chướng, gồm có: (1) phiền-não-chướng ( =phiền-não như tham, sân, si, mạn, nghi, v.v.); (2) sở-tri-chướng ( = các sự hiểu-biết sai-lầm); (3) báo-chướng (chướng-ngại do tấm thân n

ăm uẩn c

òn chịu nghiệp-báo).

- Hộ-trì: Hộ = bảo-hộ, bao-bọc; Trì = giữ-gìn. Hộ-trì là giúp-

đỡ.

- Khai-quang = dọn dẹp cho trống-trải.

- Niết-bàn: cảnh-giới an-vui, tịch-tĩnh, tự-tại của người

đ

ã dứt trừ phiền-não và chứng

được

Vô-sanh. Theo giáo-lý Nam-tông, có hai thứ Niết-Bàn: (1) Hữu-dư Niết-Bàn, người chứng

được c

òn chịu nốt nghiệp-báo của tấm thân n

ăm uẩn (Tiếng

Pali là Sopàdisesa Nibbàna Dhàtu); (2)Vô-dư Niết-Bàn, người chứng

được

vô-sanh,

đ

ã trút bỏ tấm thân n

ăm uẩn, tự-tại trong tịch-diệt. (Tiếng

Pali là Anupadisesa Nibbàna Dhàtu).

- Vô-sanh: Vô = chẳng; Sanh = sanh trở lại cõi Luân-hồi. Chứng

được

Vô-sanh là thoát khỏi vòng tái-sanh lẩn-quẩn của Luân-hồi lận-

đận, được tự-tại trong cảnh an-lạc v

à vắng-vẻ.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Xin xem lại Tích chuyện

đầy-đủ c

ùng Ý-nghĩa ở bài số (92), nơi các trang 294

đến 298), Tập 2.

(2) Ý-nghĩa của hai bài Kệ số 288 và 289:

Ý-nghĩa của bài Kệ số 288:

đến khi gần chết, chẳng có ai giúp-đỡ m

ình khỏi chết cả, dầu

đó l

à con cái, cha mẹ, anh chị em, họ-hàng hay bạn-bè. Tại sao? Vì chẳng ai

đ

ã sanh ra mà lại khỏi chết cả; có sanh tất phải có chết.

Bài Kệ số 289 khuyên ta hai

điều

: (1) giữ giới-luật cho thật nghiêm-minh,

để thanh-lọc

thân-tâm, sống trong giới-

đức vẹn-to

àn; (2) dọn-dẹp thật sạch-sẽ các chướng-ngại, trên con

đường đưa tới cảnh Niết-B

àn. Ba món

độc lớn

tham, sân, si là các chướng-ngại lớn nhứt.

Người chứng vô-sanh, hết bị tái-sanh, làm sao mà chết nữa

được

?

-ooOoo-

XXI.- Phẩm TẠP-LỤC.

(214).- Tích chuyện cômg-

đức xưa của Đức Phật.

Vào một thời kia,

Đức Phật ngụ tại ch

ùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có

đề-cập đến các công-đức về tiền-kiếp của Đức Phật Thích-ca.

Thuở ấy ở xứ Tỳ-da-ly, trời hạn-hán, cỏ cây khô-héo, muà-màng ruộng vườn

đều

hư-hỏng, gây nên nạn

đói-kém nặng-nề; nhiều người chết đói.

Thây người nằm ngổn-ngang chẳng

được chôn-cất, khiến bịnh dịch lan-tr

àn. Theo mùi tử-khí, các bầy ác-quỉ

đến gây th

êm tác-hại. Dân chúng chẳng biết tìm

đường n

ào

để sống-sót. Họ nghe nói có Đức Phật ở nước Xá-vệ, l

òng từ-bi thường hay cứu khổ, cứu nạn cho chúng-sanh, nên mới cử người

đến thưa c

ùng các vị hoàng-tử xứ Ly-xa,

đến thỉnh Đức Phật. Vương-tử Đại-ly mới c

ùng một phái-

đo

àn các người Ba-la-môn trong vùng,

đến yết-kiến vua Tần-b

à-sa-la nhờ nhà vua

đến thỉnh Đức Phật, v

ì hiện Ngài

đang ngụ gần th

ành Vương-xá, thủ-

đô xứ Ma-kiệt-đ

à của vua Tần-bà-sa-la.

Khi vua Tần-bà-sa-la

đến gặp Đức Phật, tr

ình-bày sự thống-khổ của dân-chúng trong xứ Tỳ-da-ly,

Đức Phật liền nhận lời đến viếng xứ ấy, trước l

à giúp

đỡ các nạn-nhơn đói-khổ, sau l

à

để tạo cơ-duy

ên tốt cho dân-chúng trong vùng biết

đến Chánh-pháp v

à chứng-

đắc quả-vị. Vua Tần-b

à-sa-la rất vui lòng, ra lịnh sửa-sang

đường-xá từ th

ành Vương-xá

đến tận bờ sông Hằng, cứ độ v

ài do-tuần, cho dựng một nhà nghỉ mát, có

đầy đủ tiện-nghi về thực-phẩm. B

ên kia bờ sông Hằng, vương-tử

Đại-ly cũng chuẩn-bị y như thế, từ bờ sông đến th

ành Tỳ-da-ly.

Đến ng

ày lên

đường, Đức Phật c

ùng với

đông-đảo tỳ-kheo rời th

ành Vương-xá, ngày

đi đ

êm nghỉ; vua Tần-bà-sa-la theo tiễn chơn

đến bờ sông Hằng, rồi mới quay về.

Hôm

Đức Phật v

à chư t

ăng vừa vượt qua khỏi sông Hằng, trời đổ mưa dầm li

ên-tiếp trong nhiều ngày, nước chảy tràn khắp, cuốn các tử-thi ở Tỳ-da-ly trôi theo sông ra biển cả. Nhờ

đó, quang-cảnh ở Tỳ-da-ly được đổi mới, sạch-sẽ; bầu không-khí trở n

ên dễ chịu, uế-khí tan-rả, các loài chim kên-kên

ăn xác người chết bỏ bay đi cả; bịnh dịch

ngưng lan-tràn.

Đức Phật lại khiến Tôn-giả A-nan c

ùng một số tỳ-kheo

đi diễn-h

ành qua

đường-phố trong th

ành, vừa

đi vừa đọc tụng Kinh

Tam-Bảo. Nghe tiếng tụng Kinh, các ác-quỉ hoảng-sợ, bỏ chạy cả, và các bịnh-nhơn lần lần hồi-phục, cùng rủ nhau theo sau Tôn-giả

đến hầu Đức Phật . Trong bảy ng

ày liền,

Đức Phật giảng Kinh

Tam-Bảo, và Tôn-giả A-nan hằng ngày hướng-dẫn các tỳ-kheo

đi v

òng quanh thành tụng-

đọc Kinh ấy. Th

ành Tỳ-da-ly trở lại bình-thường sau một tuần-lễ. Các vị hoàng-tử xứ Ly-xa rất vui mừng, mở

đại-hội bố-thí v

à cúng-dường

Đức Phật c

ùng chư T

ăng rất l

à trọng-thể. Sau

đó, các vị ho

àng-tử và dân-chúng cùng

đi tiễn Đức Phật v

à chư T

ăng trở về, đến tận bờ sông Hằng.

Bên kia bờ sông Hằng, vua Tần-bà-sa-la cùng với quan-dân

đang chờ đón Đức Phật v

à chư T

ăng, trong khung-cảnh thật tưng-bừng v

à trang-nghiêm. Trên không-trung, chư Thiên nghinh

đón trong tiếng nhạc trời. Long-vương, vua lo

ài rồng, cùng quyến-thuộc cũng có mặt. Sau khi mọi người

đảnh-lễ v

à dưng-cúng lễ-vật lên t

ăng-đo

àn xong, Long vương thỉnh

Đức Phật c

ùng chư tỳ-kheo ngồi lên thuyền rồng, trang-hoàng bằng các loại hoa sen màu sắc thật rực-rỡ,

đi viếng Long-cung. Đức Phật muốn tỏ l

òng quí-trọng Long-vương, nên nhận lời. Ngài thi-triển thần-thông, ánh-sáng n

ăm m

àu chiếu rực-rỡ lên; quang-cảnh ấy giống như khi trước, lúc

Đức Phật vừa từ cung Trời Đao-lợi trở lại thế-gian.

Khi cả

đo

àn trở về thành Vương-xá, các tỳ-kheo rất hoan-hỉ

được chứng-kiến cảnh tráng-lệ vừa qua, vô c

ùng khen ngợi công-

đức của Đức Phật trong việc cứu-độ dân-chúng ở Tỳ-da-ly. Đức Phật bảo:

"Nầy chư T

ăng, chẳng phải v

ì việc cứu-

độ vừa qua, hay đ

ã thi-triển thần-thông trên sông Hằng, mà nay Như-Lai

được sự cúng-dường trọng-thể. Đó thật ra l

à nhờ trong

đời quá-khứ, Như-Lai đ

ã có nhiều công-

đức tuy nhỏ nhưng đ

ã

đem đến các phước-báu ng

ày nay." Rồi

Đức Phật mới kể lại tiền-kiếp, như sau

:

Vào thuở xa-xưa, ở thành Ta-xi-la, có một người Bà-la-môn tên là San-kha, có

được một người con trai t

ên Sử-sĩ-mã rất thông-minh.Ông San-kha gởi con

đến học với một vị B

à-la-môn khác về khoa thiên-v

ăn. Sử học rất tấn-bộ, chẳng bao lâu, kiến-thức đ

ã ngang với thầy, nên

được thầy giới-thiệu đến thọ-giáo với một vị Bích-chi-Phật. Vị nầy bảo Sử, phải thọ-giới l

àm tỳ-kheo, mới

được chỉ-dạy. Sử vâng lời v

à từ

đó giữ-g

ìn giới-luật rất

đầy-đủ, tu-tập thiền-định rất tinh-tấn, trong một thời-gian đ

ã tự mình chứng-ngộ

được Bốn Chơn-lý Nhiệm-mầu v

à

đắc quả-vị Bích-chi-Phật. Nghiệp-báo đời trước đ

ã sớm dứt, nên Sử-sĩ-mã chẳng sống lâu thêm, liền nhập Niết-bàn. Ông San-kha tìm

đến Ta-xi-la thăm con, hay tin con đ

ã nhập-diệt, lòng rất

đau-buồn, mới thi

êu-xác con, lấy xá-lợi

đem thờ trong ngôi tháp. Hằng ng

ày, ông quét dọn sạch-sẽ chung quanh tháp, trang-trí với nhiều bông hoa rừng

đẹp-đẽ. Đức Phật kết-thúc câu chuiyện

: "Chính nhờ công-

đức dựng tháp để kính-lễ một vị Bích-chi-Phật đó m

à ngày nay Như-lai hưởng

được phước-báu cúng dường vừa qua của Trời v

à người."

Rồi

Đức Phật mới nói l

ên bài Kệ sau

đây

:

Chính nhờ từ bỏ dục-lạc nhỏ,

Mà ta tìm thấy phước-lạc to.

Thú vui nhỏ-nhặt, người hiền bỏ,

Phước lớn Niết-Bàn, cố tìm lo.

(Kệ số 290.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Tạp-lục: Tạp = có nhiều thứ khác nhau, lẫn-lộn; Lục = ghi chép. Phẩm Tạp-lục ghi chung lại các bài Kệ có nhiều

đề-mục khác nhau.

- Tiền-kiếp Tiền = trước; Kiếp = nhiều

đời;

Tiền-kiếp là các cuộc

đời trước, trước đời hiện-tại nầy.

- Thành Ty-da-ly, xứ Ly-xa: tên các

điạ-danh nầy, tiếng

Pali là thành Vesàli, xứ Licchavi, ở miền Bắc Ấn-

độ xưa.

-Hạn-hán = trời nắng lâu ngày chẳng mưa, thiếu nước nên cây cỏ khô-héo.

- Bịnh dịch = bịnh truyền-nhiễm lây nhanh sang kẻ khác, dễ chết.

- Tác-hại: Tác = làm; Hại = tổn-hại; Tác-hại là tàn-ác gây tổn-hại.

- Từ-bi: Từ = thương người mà mang lại niềm vui; Bi = xót, tội-nghiêp cho kẻ khác mà cứu khổ họ.

- Vua Tần-bà-sa-la, thành Vương-xá, nước Ma-kiệt-

đ

à: tiếng Pali: vua Bimbisara, thành Ràjagaha, nước Magadha, xưa ở miền Bắc Ấn.

- Chánh-pháp: giáo-lý của

Đức Phật, tiếng

Pali là Dhamma.

- Sông Hằng: một con sông lớn ở Ấn-

độ, tiếng

Pali là Gangà.

- Do-tuần: đơn-vị đo chiều dài đường-xá, hơn một cây-số; tiếng Pali là Yojana.

- Tử-thi: Tử = chết; Thi = thây ma; Tử-thi là thây chết chưa chôn cất

- Uế-khí: Uế = dơ bẩn; Khí = hơi; Uế-khí

đây l

à mùi hôi-thối.

- Đi diễn-hành: Diễn = trải qua; Hành = đi; Đi diễn-hành là nhiều người

đi trong trật-tự, từ-từ bước qua các đường phố lớn trong th

ành.

- Kinh Tam-Bảo: Tam = ba; Bảo = kho-tàng quí-báu. Trong Phật-học, chữ Tam-Bảo nói về sự quí-báu của (1)

Đức

Phật, (2)Chánh-pháp của Phật và (3) T

ăng-gi

à, đoàn-thể các đệ-tử tu theo giáo-lý của Phật. Tiếng Pali là Ratana Sutta (Ratana = kho báu; Sutta = Kinh). Chữ Tam Bảo thường

được nói gọn l

à: Tam-Bảo = Phật, Pháp, T

ăng.

- Đại-hội bố-thí: cuộc bố-thí, phát chẩn, tặng cơm gạo, quần-áo cho những người nghèo-khổ.

- Cúng-dường: đọc trại từ chữ Hán-Việt: cung-dưỡng; cung = cung-cấp; dưỡng = nuôi-dưỡng.

- Trọng-thể: Trọng = lớn, nặng; Thể = hình-thể; Trọng-thể là rất lớn, rất trang-trọng.

- Chư Thiên = Chư = số nhiều, số

đông;

Thiên = Trời.

- Long-vương: Long = rồng; Vương = vua.

- Quyến-thuộc: Quyến = gia-quyến, bà-con; Thuộc = thân-thuộc, họ-hàng.

- Long-cung: Long =rồng; Cung = cung-

điện.

- Thi-triển thần-thông = biến-hoá ra các phép-tắc lạ-thường; ở

đây, Đức Phật phóng h

ào-quang (= phát ra ánh-sáng) n

ăm m

àu rực-rỡ.

- Đức Phật từ cung Trời Đao-lợi trở lại thế-gian: sau khi giảng pháp ở trên cõi Trời

Đao-lợi cho mẹ nghe, Đức Phật trở lại ch

ùa Kỳ-viên, ở thế-gian nầy. Xin xem lại Tich chuyện số 149, trang 464, Tập 3

- Tráng-lệ = thật hết là

đẹp-đẽ.

- Thành Ta-xi-la: tên thành nầy ở nước Xá-vệ, tiếng Pali là Taxila

- San-kha, Sử-sĩ-mã: các tên nầy, tiếng Pali là Sankha, Susìma.

- Bà-la-môn: phiên-âm chữ Brahmana, giai-cấp tu-sĩ ở Ấn-

độ.

- Thiên-v

ăn:

khoa-học khảo-sát các vị tinh-tú trong không-gian.

- Kiến-thức: Kiến = thấy; Thức = biết; Kiến-thức là sự hiểu-biết.

- Thọ-giáo: Thọ = nhận lãnh; Giáo = chỉ dạy. Thọ-giáo = theo học.

- Bích-chi-Phật: vị tu-hành tự mình giác-ngộ và giải-thoát vào thời chẳng có Chánh-pháp của một

đức Phật n

ào. Tiếng Pali là Pacceka-Buddha, còn

được dịch l

à Duyên-giác. Vị Bích-chi-Phật chỉ có sự tự-giác, chẳng có sự giác-tha (giúp cho kẻ khác giác-ngộ theo).

- Bốn Chơn-lý Nhiệm-mầu: chữ Hán-Việt là Tứ-Diệu-

Đế,

gồm có: (1)Khổ-

đế,

đời là Khổ; (2) Tập-

đế,

nguyên-nhơn của Khổ là Tham-ái; (3) Diệt-

đế,

sự tận-diệt hết Khổ, tức là Niết-bàn; (4) Đạo-đế, con

đường đưa đến cảnh hết Khổ(Niết-b

àn), tức là Bát-Chánh-

Đạo.

- Niết-Bàn: chữ Phạn là Nirvana, chữ Pali là Nibbana, cảnh-giới

đ

ã dứt hết mọi khổ. Người chứng Niết-Bàn

đ

ã diệt hết mọi phiền-não, lià mọi tham-dục, hằng sống tự-tại trong cảnh tịch-diệt, hết tái-sanh.

- Nhập-diệt: Nhập = vào; diệt = tiêu mất. Nhập-diệt tức là chết

đi.

- Dục-lạc: Dục = ham-muốn; Lạc = vui; Dục-lạc là ham các thú vui về vật-chất, về thân-xác; vì dục-lạc chỉ là tạm-bợ.

- Phước-lạc: niềm vui chơn-thật và bền-vững về tinh-thần; Phước-lạc

đây l

à hạnh-phước thoát

được mọi khổ, tự-tại trong Niết-B

àn.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện rất dài, có thể chia ra làm ba phần: (1) nạn chết-

đói v

ì hạn-hán ở Tỳ-da-ly; (2)

Đức Phật cứu-độ dân-chúng ở Tỳ-da-ly; (3) trong một tiền-kiếp l

àm người Bà-la-môn,

Đức Phật có công xây tháp v

à kính-lễ một vị Bích-chi-Phật.

Ý-nghĩa của Tích chuyện là sự tiếp-

đón long-trọng của Trời, Người trong dịp Đức Phật đến th

ành Tỳ-da-ly

để cứu nạn cho dân-chúng, chẳng phải v

ì công-

đức cứu-độ đó m

à

được hưởng phước-báu, m

à chính là do trong một tiền-kiếp làm người Bà-la-môn, Ngài

đ

ã xây tháp thờ-cúng một vị Bích-chi-Phật, nên nay Ngài mới

được sự cung-kính của Nhơn,Thi

ên. Ý

Đức Phật muốn khuy

ên ta

đừng bỏ qua các việc thiện nhỏ, phải dứt-bỏ các thú-vui nhỏ m

à tìm phước-báu lớn là

được chứng-nhập cảnh Niết-b

àn.

(2) Ý-nghĩa của Bài Kệ số 290:

Tuy bài Kệ chỉ có bốn câu ngắn, gọn, dễ hiểu, nhưng tầm quan-trọng

đối với người tu tại-gia rất l

à to lớn. Tại sao? Vì bài Kệ vạch rõ hai con

đường

: một

đường chạy theo các thú-vui vật-chất, thoả-m

ãn các nhu-cầu thể-xác, tạm thời; còn một

đường n

êu rõ phước-báu to lớn,

được thoát khỏi vĩnh-viễn cảnh khổ-đau của cuộc đời, ra khỏi v

òng sanh-tử, tử-sanh lẩn-quẩn của cõi Luân-hồi lận-

đận v

à chứng

được cảnh-giới an-vui, tự-tại của Niết-B

àn. Bài Kệ dạy rõ: từ bỏ các thú-vui nhỏ, để cố tìm lo chứng

được

Niết-Bàn phước-báu to lớn, bền chặt nhứt. Bằng cách nào? Học-tập và ứng-dụng Chánh-pháp trong cuộc sống hằng ngày.

Nói cách khác, bài Kệ chỉ ra hai con

đường

: sống buông-trôi theo thú-vui vật-chất tạm-bợ,

để phải chịu khổ triền-mi

ên trong cảnh tái-sanh, và lối sống tu-hành, biết khước-từ các dục-lạc (ham-muốn về thể-xác), tìm theo các lạc-thú tinh-thần, dẹp hết phiền-não, dứt mọi lậu-hoặc,

để sớm chứng-đắc cảnh an-nhi

ên, tự-tại của Niết-Bàn. Con

đường n

ào

đưa tới Niết-B

àn?

Đó l

à con

đường

thánh-

đạo,

tức là Bát-Chánh-

Đạo.

HỌC TẬP:

1.- Học thuộc lòng bài Kệ, để ghi nhớ sự so-sánh giữa hai việc: dục-lạc nhỏ phước-báu lớn.

2.- Tập dứt bỏ các thói-quen nhỏ mà xấu, như: mỗi sáng, khi tỉnh-giấc, hay "nằm nướng" trên giường; nay h

ăng-hái ngồi dậy rửa mặt, lo đi ngồi thiền hay niệm Phật ngay.

3) Tập khước-từ vài thú-vui nhỏ như ngồi nán xem thêm phim Chưởng, nên tắt sớm Tivi, lên giường xem qua vài

đoạn Kinh rồi dỗ giấc ngủ.

4) Chứng

được Niết-B

àn

điều cao-xa đối với người tu tại-gia, nhưng nhường-nhịn nhau một câu khiến cho gia-đ

ình khỏi rầy lộn, từ-chối lời mời của bạn ghé quán rượu "nhậu sơ ba sợi",

để về nh

à sớm phụ vợ dọn cơm cho vui, thì sẽ khỏi bị ... cằn-nhằn, lỗ tai khỏi phải "nhức-nhối", tâm khỏi hờn mát, tránh

được những cái khổ... nho-nhỏ đó, đấy l

à

đang bước đến ngưỡng cửa của

Niết-Bàn ở thế-gian!

(215).- Tích chuyện một bà hay

ăn hột g

à.

Tích chuyện nầy giống với Tích chuyện Nữ-quái Kha-ly, số (4),trang 17, T

ăp 1.

Vào một thời kia,

Đức Phật ngụ tại ch

ùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có

đề-cập đến người đ

àn-bà hay

ăn hột g

à.

Thuở ấy, ở một làng gần thành Xá-vệ, có một người

đ

àn-bà nuôi một con gà mái

đẻ trứng; mỗi ng

ày, gà vừa

đẻ xong, b

à lượm trứng

đem v

ào bếp, luộc

ăn. Con g

à mái lòng

đau-khổ v

ì mất trứng chẳng nở gà con, nên phát lời nguyền sẽ trả mối thù

đó. Trong kiếp tới, g

à mái

đầu-thai l

àm mèo, còn người

đ

àn-bà lại thành gà mái, bao nhiêu gà con sanh ra lần-lượt bị mèo cắn chết hết.

Đến kiếp tới, một đ

àng sanh làm beo gấm

ăn thịt nai con của nai-mẹ. Cứ thế m

à mối thù truyền kiếp kéo dài hết

đời nầy sang đời khác. Cho đến khi Đức Phật thị-hiện ở nước Xá-vệ, th

ì một

đ

àng sanh ra làm

đ

àn-bà, còn một

đ

àng làm ngạ-quỉ.

Một hôm, người

đ

àn-bà cùng chồng, bồng con về th

ăm qu

ê mẹ. Dọc

đường, trời nóng, người chồng xuống ao tắm; người đ

àn-bà bỗng trông thấy ngạ-quỉ

đi tới, chực bắt con m

ình, mới lật-

đật bồng con, chạy v

ào chùa Kỳ-viên,

đặt con dưới chơn Đức Phật nhờ che-chở. Ngạ-

quỉ rượt theo

đến cổng ch

ùa, bị ng

ăn lại. Đức Phật nh

ìn thấy, bảo cứ cho vào,

để Ng

ài phán dạy. Sau khi nghe hai bên trình-bày mối thù truyền-kiếp,

Đức Phật bảo

: ‘Nầy hai tín-nữ, nếu hai bà chẳng

đến đây gặp Như-Lai, th

ì mối thù truyền-kiếp giữa hai bà chẳng bao giờ chấm-dứt. Hận-thù

đâu dập-tắt được hận-th

ù. Chỉ có lòng từ-bi mới khiến hận-thù

được giải-kết.

"

Rồi

Đức Phật mới nói l

ên bài Kệ sau

đây, nhờ đó m

à người

đ

àn-bà chứng

được sơ-quả Tu-đ

à-huờn và ngạ-quỉ xin quy-y Tam-Bảo:

Ai gieo

đau-khổ cho người,

Để tìm hạnh-phước vui-tươi cho mình;

Kẻ ấy bị hận-tình ràng-buộc

Biết bao giờ thoát

được oán-th

ù.

(Kệ số 291.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

-

Đầu-thai:

Theo giáo-lý nhà Phật, mỗi chúng-sanh mãn

đời nầy được tái-sanh v

ào

đời sau; khi nhập v

ào thai mẹ, gọi là đầu-thai.

- Truyền-kiếp = kéo dài từ

đời nầy sang nhiều đời khác.

- Thị-hiện: Thị = bày tỏ ra; Hiện = nổi lên, cho thấy rõ; chữ Thị-hiện

đây muốn nói Đức Phật giáng-sanh ở c

õi

đời nầy, hiện l

ên cho thấy.

- Ngạ-quỉ: quỉ

đói; một hạng chúng-sanh thuộc đường dữ, bụng to, cổ nhỏ, thường bị đói-khát. Tiếng

Pali là Peta.

- Giải-kết: Giải = mở ra; Kết = buộc lại. Giải-kết là mở chỗ buộc ra

- Sơ-quả Tu-

đ

à-huờn: Sơ = đầu-tiên; Quả = quả-vị, kết-quả tu-hành thành-công. Tu-

đ

à-huờn là quả-vị thứ nhứt, còn gọi là Nhập-lưu, được vào dòng Thánh, hoặc Thất-Lai, chỉ còn tái-sanh cõi người bảy lần nữa; tiếng Pali là Sotàpatti.

- Quy-y Tam-Bảo: Quy = trở về; Y = nương-tựa; Tam = ba; Bảo = ngôi báu; Quy-y Tam-Bảo là nương-tựa tinh thần vào ba ngôi báu; tức là tin-tưởng vào Phật, Pháp và T

ăng.

- Hận-tình = tình-cảm thù-oán; như chữ Hận-thù.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện nầy giống với Tích chuyện Nữ-quái Kha-ly, có ý-nghĩa dạy ta, thù-oán chỉ nên cởi mở ra, chớ

đừng đem th

ù trả oán; thù-oán vì thế cứ kéo dài mãi chẳng thôi, ràng-buộc cả hai bên, chẳng bao giờ

được giác-ngộ v

à giải-thoát.

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 291:

Ý-nghĩa của bài Kệ rất rõ-ràng, khuyên ta chớ nên vì hạnh-phước của mình, gây thù-oán với kẻ khác. Vì thù-oán gây ra ràng-buộc, khiến ta phải mắc vòng Luân-hồi mãi, chẳng giải-thoát

được.

HỌC TẬP:

1.- Học thuộc lòng bài Kệ, để dạy trẻ, anh chị em trong nhà chớ giận nhau, chẳng chịu nhìn mặt, hay nói chuyện cùng nhau.

2.-

Ăn hột g

à, có tội sát-sanh không? Hột gà có "trống", có mầm-mống của gà-con sẽ nở ra. Nếu không, chẳng có tội sát-sanh.

(216).- Tích chuyện các tỳ-kheo

đan dép cỏ.

Vào một thời kia,

Đức Phật ngụ tại th

ành Bá-

đi-gia, trong một kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến các vị tỳ-kheo lo đan dép cỏ để mang.

Thuở ấy,tại một tu-viện ở thành Bá-

đi-gia, có một số tỳ-kheo để công ra t

ìm cỏ lau,

đan th

ành dép và dùng hoa khô trang-trí lên quai dép.

Đức Phật biết được sự-việc đó, mới quở rằng

: "Nầy các tỳ-kheo, các ông

đ

ã từ-bỏ

đời sống thế-tục, gia-nhập Tăng-đo

àn là

để lo tu-h

ành cho sớm

được giác-ngộ v

à giải-thoát. Cớ sao lại lãng-phí thì-giờ, lo

đan dép cỏ, kết hoa khô v

ào quai, mang

đi để khoe đẹp

?"

Rồi

Đức Phật mới nói l

ên hai bài Kệ sau

đây, nhờ đó m

à một số tỳ-kheo biết nỗ-lực hành-thiền, sớm chứng

được quả-vị A-la-hán

:

Chẳng làm

điều đáng l

àm,

Chẳng nên làm, lại làm.

Thiếu tỉnh-giác, kiêu-c

ăng,

Lậu-hoặc ắt gia-t

ăng.

(Kệ số 292.)

N

ăng quán thân bất-tịnh,

Siêng làm

điều đáng l

àm,

Tránh

điều chẳng n

ên làm,

Thông-suốt và giác-tỉnh,

Lậu-hoặc ắt tiêu-trừ.

(Kệ số 293.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Bá-

đi-gia

:

tên thành-phố nầy tiếng Pali là Baddiya.

- Thế-tục: Thế = đời; Tục = thường; Đời sống thế-tục

đời sống thường, có gia-đ

ình, trong xã-hội.

- T

ăng-đo

àn: T

ăng

=

tu-sĩ Phật-giáo. Cứ bốn vị t

ăng trở l

ên tu chung với nhau, thành một T

ăng-đo

àn. Tiếng Pali là Sangha, T

ăng-gi

à

- A-la-hán: quả-vị thứ tư, cao nhứt, dứt hết phiền-não, lìa bỏ mọi ham-muốn, thoát khỏi cảnh khổ Luân-hồi, chứng

được Niết-B

àn an-vui, tự-tại. Tiếng Pali là Arahant.

- Tỉnh-giác: Tỉnh = chẳng mê; Giác = biết. Người tỉnh-giác khi làm, nói, nghĩ

điều g

ì thì trong tâm biết rõ mình

đang l

àm, nói hay nghĩ về

đ

ìều ấy, và chỉ

điều ấy m

à thôi, chẳng hề lo ra, luôn luôn chú-ý.

- Lậu-hoặc: Lậu = rỉ chảy ra; Hoặc = điều sái-quấy. Chữ Lậu-hoặc chỉ các

điều sái-quấy khởi l

ên trong lòng, bộc-lộ ra ( =rỉ-chảy) bằng hành-

động xấu, hay lời nói thô-ác. C

ùng nghĩa với chữ phiền-não.

- Kiêu-c

ăng

=

làm phách, tự-cao và khoe-khoang.

- Quán = ngồi Thiền, tâm yên-tịnh và suy-nghĩ sâu-xa về một

đề-t

ài; thường nói là quán-tưởng hay quán-chiếu.

- Quán Thân bất-tịnh: Bất = chẳng; Tịnh = sạch. Quán Thân bất-tịnh là suy-nghi sâu-xa về tấm thân vật-chất nầy, bề ngoài xem là

đẹp m

à bên trong chứa nhiều chất dơ-dáy, như máu, mủ, ghèn, nước tiểu, phẩn, v.v. Do quán thấy chỗ dơ trong thân mà sanh ra nhàm-chán thân, chẳng chạy theo sắc

đẹp nữa; nhờ đó m

à biết thân nầy sẽ tan-rả theo lẽ Vô-thường. - Phép qán Thân bất-tịnh là một trong bốn phép quán của Tứ-niệm-xứ: (1) quán Thân bất-tịnh; (2) quán Thọ ( = cảm-giác) là khổ; (3) Tâm là vô-thường; (4) Pháp ( = muôn sự-vật) là vô-ngã Tu theo phép quán Tứ-niệm-xứ được thuần-thục, thông-suốt được ba lẽ: Khổ, Vô-thường, Vô-ngã thì sẽ chứng

được quả-vị A-la-hán.

- Gia-t

ăng, Ti

êu-trừ: Gia =

thêm lên; T

ăng

= hơn lên; Tiêu = mất; Trừ = bớt. Hai chữ Gia-t

ăng

Tiêu-trừ nầy

đối-nghịch nhau, một đ

àng thì thêm lên, còn một

đằng mất đi hết.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện rất giản-dị,

Đức Phật quở các tỳ-kheo đan dép, chẳng lo h

ành Thiền, cho chóng

được giác-ngộ v

à giải-thoát.

(2) Ý-nghĩa của hai bài Kệ số 292 và 293:

Bài Kệ trước nói khi nào lậu-hoặc gia-t

ăng;

bài Kệ sau chỉ cách tiêu-trừ lậu-hoặc. Cách nào? Phải luôn luôn tỉnh-giác, nỗ-lực tu-tập quán-chiếu về thân bất-tịnh.

(217).- Tích chuyện Trưởng-lão Phát-di-gia, người thấp-lùn.

Tích chuyện nầy hơi giống các Tích chuyện: số (65) và số (197).

Vào một thời kia,

Đức Phật ngụ tại ch

ùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có

đề-cập đến vị Trưởng-l

ão Phát-di-gia, người thấp-lùn.

Thuở ấy, có một nhóm tỳ-kheo từ phương xa

đến yết-kiến Đức Phật. Lúc bấy giờ, có Trưởng-l

ão Phát-di-gia dáng người thấp-lùn,

đang đứng ở cuối ph

òng.

Đức Phật hướng về phía Trưởng-l

ão, bảo các vị tỳ-kheo rằng: ‘Nầy chư tỳ-kheo, các ông có trông thấy vị T

ăng đang đứng phía kia không

?

Đó l

à người

đ

ã giết xong cha cùng mẹ, nay ra

đi nhẹ-nh

àng, chẳng còn chút khổ-

đau n

ào cả." Vừa nghe xong lời nói của

Đức Phật, chúng tỳ-kheo rất ngạc-nhi

ên, chẳng hiểu

được thâm-ý của Đức Phật, mới xin Đức Phật giải-thích th

êm.

Đức Phật liền đọc hai bài Kệ sau đây để giải-thích lời ẩn-dụ:

Giết cha NGÃ-MẠN, mẹ ÁI-DỤC,

Diệt

ĐOẠN-KIẾN,THƯỜ

NG-KIẾN hai vua,

Tổng-Tài ÁI-LUYẾN vừa thu-phục,

Vương-quốc MƯỜI HAI XỨ

đánh thua,

Phạm-Chí ra

đi chẳng sầu-muộn.

(Kệ số 294.)

Giết cha, giết mẹ vừa xong,

Bà-la-môn dòng hai chúa, giết luôn.

Ngũ hổ-tướng NGHI-NAN diệt hẳn,

Phạm-Chí ra

đi chẳng ưu-phiền.

(Kệ số 295.)

Xin lưu-ý: Tích chuyện và Bài Kệ mới

đọc qua, thấy khó hiểu, v

ì ý của

Đức Phật được nói ra th

ành lời ẩn-dụ, nghĩa là nói thí-dụ một cách thầm-kín; vì thế mà khó hiểu

được ngay. Xin chịu khó đọc qua PHẦN T

ÌM HIỂU, rồi trở lại

đọc Tích chuyện v

à hai bài Kệ, sẽ rõ hơn.

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Phát-di-gia: tên vị Trưởng-lão thấp-lùn nầy, tiếng Pali là Bhaddiya

- Thâm-ý: Thâm = sâu-kín; Ý = ý-tưởng; Thâm-ý là ý sâu bên trong, tuy khó hiểu liền, nhưng

đó mới thật l

à ý của người muốn nói.

- Lời ẩn-dụ: Ẩn = dấu kín; Dụ = thí-dụ. Lời ẩn-dụ là lời nói thí-dụ một cách bóng-bảy, ý sâu dấu-kín trong sự so-sánh của thí-dụ. Như muốn nói, tôi

đói bụng,

mà lại nói, trong bụng tôi có kiến cắn, vì bụng

đói cồn-c

ào, tựa như bị con kiến cắn vậy. Ở

đây, Đức Phật nói

giết cha, giết mẹ, là ý Ngài muốn nói, đã diệt xong các nguyên-nhơn khiến ta phải tái-sanh ra lại; vìcác nguyên-nhơn

đó l

àm cho ta tái-sanh, thì chúng cũng như là cha, là mẹ đã sanh ra ta vậy. Hễ diệt

được các nguy

ên-nhơn gây tái-sanh nầy xong, thì thoát khỏi vòng Luân-hồi, tức là

đâu c

òn phải sanh lại

để chịu đau-khổ nữa. Nguy

ên-nhơn nào gây ra sự tái-sanh?

Đó l

à ngã-mạn ái-dục.

- Ngã-mạn: Ngã = ta; Mạn = kiêu-mạn, tự-cao. Ngã-mạn, tiếng thường là làm phách, coi Ta là hơn cả, chẳng muốn Ta bị thua thiệt, bị hao-mòn, bị chết mất. Vì còn quá trọng cái Ta như thế, nên khi lìa

đời, chẳng muốn cái

Ta mất

đi, cho n

ên phải tái-sanh

để cái

Ta tiếp-tục sống nữa,

đó l

à nguyên-nhơn gây ra tái-sanh vậy. Vì thế,

Đức Phật gọi

ngã-mạn "cha". Tiếng Pali gọi ngã-mạn Mana.

- Ái-dục: Ái = thương, thích; Dục = ham-muốn. Ái-dục là một tình-cảm sâu-

đậm nhứt của con người, thúc-dục ta phải khao-khát, đ

òi hỏi chiếm cho

được điều m

ình thương, việc mình thích; như thèm-khát các thú-vui vật-chất, thoả-mãn các giác-quan, hưởng-thọ khoái-lạc giữa nam-nữ, tất cả những dục-lạc do cuộc sống mang lại. Vì sự khao-khát

đó, n

ên sanh ra sự cố bám chặt vào

đời sống sướng th

ì ít mà khổ lại nhiều nầy; do

đó,

ái-dục được Đức Phật xem là nguyên-nhơn gây ra Khổ, trong Chơn-lý thứ hai của Tứ Diệu-

đế, tức l

à Tập-

đế.

ái-dục là nguyên-nhơn gây ra cảnh Khổ trong cuộc tái-sanh trong vòng Luân-hồi, cho nên

Đức Phật mới ví như

bà mẹ sanh con vậy. Tiếng Pali gọi ái-dục Tanhà.

-

Đoạn-kiến: Đoạn

=

cắt rời, làm

đứt đoạn;

Kiến = ý-kiến. Đoạn-kiến là một tà-kiến, một tư-tưởng sai-lầm, cho rằng con người khi chết

đi l

à hết, chẳng còn gì nữa, chẳng có

đời sau, cũng như chẳng có đời trước; đ

ó là "cắt

đứt

" cuộc sống vốn vô-thủy, vô-chung ( = chẳng biết lúc bắt

đầu, cũng chẳng biết khi n

ào chấm dứt), chẳng có quả-báo chi cả. Người chấp vào đoạn-kiến chỉ biết làm sao

để hưởng-thụ thật nhiều ngay trong hiện-tại, chẳng kể chi thiện-ác, v

ì họ

đâu có tin v

ào Luật Nhơn-quả, chết

đi l

à hết cả kia mà. Vì đoạn-kiến khiến họ có lối sống như thế, nên đoạn-kiến được xem như một ông vua đã sai-khiến dân chúng trong nước phải mang tà-kiến sai-lầm nặng-nề đó, bị ràng-buộc mãi trong kiếp sống trầm-luân, khổ-ách của Luân-hồi, chẳng thấy biết được ánh-sáng của sự tự-do giải-thoát . Tiếng Pali gọi đoạn-kiến Ucchedaditthi.

- Thường-kiến: Thường = thường còn, chẳng hề mất

đi;

Kiến = ý-kiến. Thường-kiến cũng là một tà-kiến, một tư-tưởng sai-lầm, cho rằng con người có sẵn một linh-hồn bất-diệt, nay sống

đây, dầu có phạm v

ào

điều g

ì sái-quấy, hay thực-hiện

được việc g

ì

đạo-đức đi nữa, cũng chẳng có ảnh-hưởng chi đến

linh-hồn bất-diệt kia cả, một mai thân nầy chết

đi,

linh-hồn đó vẫn tiếp-tục mãi trong một thế-giới thường-hằng, chẳng biến-diệt. Người vướng vào thường-kiến cũng phủ-nhận luật Nhơn-quả, lý Luân-hồi, chỉ tin vào cuộc sống ở cõi

đời hiện-tại nầy, chẳng hề lo nghĩ đến các c

õi ác khác, mà cái "linh-hồn" kia sẽ phải sa-

đoạ. V

ì thường-kiến thúc-dục con người cứ

đinh-ninh sẽ giữ m

ãi

được hiện-trạng, n

ên

được ví như một ông

vua đã khiến dân chúng cứ vui sống mãi trong thân-phận khổ nhiều sướng ít nầy, cứ bị trôi lăn trong vòng lẩn-quẩn của Luân-hồi mà chẳng hề nghĩ đến việc giải-thoát khỏi, để được tự-do, tự-tại. Tiếng Pali gọi Thường-kiến Sassataditthi.

- Tổng-Tài: đây là dịch rất gượng chữ Pali sànucaram, vị quan trông coi kho bạc của nhà vua; Tổng-Tài

đây muốn nói đến vị

tổng-trưởng tài-chánh, người chịu trách nhiệm về tiền-bạc trong nước.

- Ái-luyến: Ái = thương, thích; Luyến = mê-luyến, say-

đắm, đeo chặt.

Ái-luyến là thái-

độ bám-viú v

ào, ôm chặt lấy vào

điều m

ình thương, vào việc mình thích, chẳng thể rời ra

được, v

ì thế mà bị ràng-buộc nặng-nề. Sự ái-luyến sanh ra từ lòng ái-dục, vì thèm-khát mà trở nên bám chặt vào sự ước-muốn

được có m

ãi, chẳng cho mất

đi. Đây l

à sự thương-mến đi quá mức, trở nên một nết xấu, ràng-buộc nhiều.

Tiếng Pali gọi sự Ái-luyến Nandiràga.

- Thu-phục: Thu = thâu giữ; Phục = làm cho phải tuân theo lịnh mình; Thu-phục

đ

ã thắng và buộc kẻ kia phải phục-tùng mình.

- Vương-quốc: Vương = vua; Quốc = đất nước; Vương-quốc là cõi

đất nước của một vị vua cai-trị

; ở

đây chữ

Vương-quốc dùng theo nghĩa bóng, chỉ

đến thân-tâm con người c

ùng hoàn-cảnh chung quanh

- Mười hai xứ: chữ Xứ

đây

dùng theo nghĩa bóng, chỉ vào sáu c

ăn

( = mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý) và sáu trần ( = sáu hình-thể của cảnh-vật: màu-sắc, âm-thanh, mùi, vị, cảm-xúc và tư-tưởng);

đó l

à chỉ sáu nội-nhập ( = các cơ-quan thâu nhận cảnh-vật bên ngoài

đem v

ào tâm; nội = trong; nhập = đưa vào) và sáu ngoại-nhập ( = các hình-thái từ bên ngoài xuyên qua các giác-quan

đi v

ào tâm; ngoại = bên ngoài). Ở

đây, nói

đánh thua Mười hai xứ Vương-quốc, có nghĩa là

đ

ã làm chủ

được các giác-quan, biết tự-kềm-chề, khiến cho

thân-tâm chẳng bị cảnh-vật bên ngoài lôi cuốn nữa. Tiếng Pali gọi các C

ăn

Indriya và các Trần Dhàtu, sáu nội-nhập Ajjhatta àyatana, sáu ngoại-nhập Bahiddha àyatana.

- Phạm-Chí: cùng nghĩa với chữ Bà-la-môn (Brahmana), là bực tu-sĩ,

đạo-đức cao. Ở đây, chữ

Phạm-chí chỉ bực tu-sĩ

đ

ã

đắc được quả-vị A-la-hán, diệt hết phiền-n

ão, lìa mọi dục-vọng, chứng

được

vô-sanh ( = chẳng còn bị tái-sanh trong Luân-hồi), an-vui và tự-tại.

- Bà-la-môn dòng hai chúa: câu v

ăn nầy khúc-mắc, nếu nói cho xuôi lại th

ì: hai chúa dòng Bà-la-môn. Hai chuá dòng Bà-la-môn

đây nhắc lại hai

Vua Đoạn-kiến Thường-kiến, được nói đến ở bài Kệ trước, số 194. Câu "Bà-la-môn dòng hai chúa, giết luôn" có nghĩa là

đ

ã diệt bỏ hẳn hai tà-kiến về đoạn-kiến thường-kiến xong rồi.

- Ngũ-hổ-tướng NGHI-NAN: Ngũ-hổ-tướng là n

ăm vị tướng mạnh-mẽ như cọp;

Nghi-nan = nghi-ngờ, ở

đây l

à nghi-ngờ, chẳng chịu tin theo Chánh-pháp của

Đức Phật. Sao lại gọi l

à ngũ-hổ-tướng? Ba chữ nầy dùng theo nghĩa bóng,

để chỉ năm điều

ng

ăn-che,

danh-từ Hán-Việt gọi là ngũ-cái, n

ăm cái nấp-vung che đậy, dấu kín b

ên trong, chẳng thấy

được Sự-Thật; đó l

à: (1) tham, (2) sân, (3) thùy-miên ( = mê ngủ nhiều), (4) trạo-hối ( = quá xao-

động) v

à nghi-nan. nghi-nan là vị "tướng" thứ n

ăm trong

ngũ-cái, nên mới gọi là ngũ-hổ-tướng.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện thuật lại việc một nhóm tỳ-kheo từ phương xa

đến yết-kiến Đức Phật. Họ được Đức Phật chỉ cho thấy Trưởng-l

ão Phát-di-gia, và nói cho họ biết,

đó l

à người

đ

ã giết cha, giết mẹ, nay ra

đi một cách tự-tại.

Các vị tỳ-kheo rất ngạc-nhiên khi nghe nói như thế. Họ

được Đức Phật đọc hai b

ài Kệ giải-thích, mới hiểu thâm-ý

Đức Phật l

à muốn nói

đến một vị tỳ-kheo đ

ã chứng

được quả-vị A-la-hán.

Ý-nghĩa của Tích chuyện là: muốn chứng

được quả-vị A-la-hán, cần phải diệt xong các

phiền-não, dứt các tà-kiến, kềm-chế các giác-quan, giữ tâm an-tịnh trước hoàn-cảnh chung quanh; các

điều nầy được Đức Phật kể tiếp ra trong hai b

ài Kệ.

(2) Ý-nghĩa của hai bài Kệ số 294 và 295:

Ý-nghĩa của hai bài Kệ là: con

đường tu-tập để đi đến quả-vị A-la-hán gồm có những bước n

ào? Xin phân-tách từng câu và giải nghĩa thêm về các lời ẩn-dụ của Phật

đ

ã nói trong hai bài Kệ:

1) Giết cha NGÃ-MAN, mẹ ÁI-DUC: chẳng phải là giết cha-mẹ thật của mình, mà giết hay là diệt bỏ các nguyên-nhơn gây nên sự tái-sanh trong cõi

đời nầy.

Cha Ngã-mạn, Mẹ Ái-dục mới thật-sự khiến ta phải tái-sanh

để mang lấy thân-tâm nầy sống trong cuộc Luân-hồi.

2) Diệt

ĐOAN-KIẾN, THƯžNG-KIẾN hai vua

:

hai tà-kiến Đoạn và Thường nầy thúc-

đẩy ta sống cuộc đời chẳng đúng theo đạo-đức, cũng tựa như hai Vua buộc ta phải sống theo luật-lệ trong nước của các vị ấy.

Diệt hai vua đó là lìa bỏ hai tà-kiến ấy.

3) Tổng-tài ÁI-LUYẾN vừa thu-phục: Tổng-tài là Tổng-trưởng Tài-chánh, vị cầm giữ kho bạc trong nước; ý so-sánh ở

đây l

à gọi sự say-

đắm của

Ái-luyến như sẵn có tiền, có bạc, dễ xài-phí

để chạy theo các sự ham-muốn.

Thu-phục được vị nầy, sự ái-luyến nầy, tức là nắm lại

được quyền tự l

àm chủ lấy mình, tự biết kềm-chế lấy mình.

4) Vương-quốc MƯžI HAI XỨ

đánh thua

:

thắng

được nước kia gồm có mười hai xứ. Xứ n

ào?

Đó l

à sáu c

ăn

cộng với sáu trần. Tâm bên trong yên-tĩnh

được l

à nhờ khéo biết lúc nào nên

đóng, lúc n

ào nên mở, sáu cánh cửa nhìn ra ngoài, chận

được sáu h

ình-thể của cảnh-vật bên ngoài chẳng len vào

được khuấy rối

tâm.

Đánh t

hua ở

đây l

à biết

điều-phục các căn vậy.

5) Phạm-Chí ra

đi chẳng sầu-muộn: Phạm-Chí

tức là Bà-la-môn,

đây chỉ vị tu-sĩ Phật-giáo, đó l

à vị Trưởng-lão Phát-di-gia

đ

ã chứng

được quả-vị A-la-hán. Vị Phạm-Chí đắc quả đó từ nay sống cuộc đời tự-tại, an-vui trong cảnh Niết-b

àn, nên khi ra

đi chẳng c

òn sầu-muộn.

Về bài Kệ thứ nhì, số 295:

1) Giết cha, giết mẹ vừa xong: diệt xong Ngã-mạn là cha, Ái-dục là mẹ, hai

đấng sanh-th

ành

đ

ã

đưa ta tái-sanh v

ào cõi

đời nầy.

2) Bà-la-môn dòng hai chúa, giết luôn: nói lại cho xuôi câu: giết luôn cả hai vua dòng Bà-la-môn. Hai vua

đó l

à hai tà-kiến:

đoạn-kiến v

à thường-kiến, đã nói qua trong bài Kệ trước.

3) Ngũ-hổ-tướng NGHI-NAN diệt hẳn: ông tướng-lãnh thứ n

ăm, mạnh như cọp nầy chỉ v

ào sự Nghi-ngờ, thiếu tin-tưởng vào Chánh-pháp của

Đức Phật. Sao lại gọi l

à ông tướng thứ n

ăm

? Vì ông ấy

đứng h

àng thứ n

ăm trong năm

"ông" trong ngũ-cái, là n

ăm điều ngăn-che, chẳng cho ta thấy được Chơn-lý. (Năm ông n

ào vậy? Xin xem lại Phần Nghĩa Chữ ở trên.)Hễ diệt

được sự Nghi-nan, bắt đầu tin-hiểu Chánh-pháp, th

ì vững bước trên con

đường tiến đến đạo-quả.

4)Phạm-Chí ra

đi chẳng ưu-phiền

: Vị Phạm-Chí nầy,

đắc quả A-la-hán, chính l

à Trưởng-lão Phát-di-gia, mà

Đức Phật muốn giới-thiệu với các tỳ-kheo khi họ đến đảnh-lễ Đức Phật, nói trong Tích chuyện.

HỌC TẬP:

1.- Nếu bỏ công ra học thuộc lòng hai Bài Kệ, mà chẳng tìm hiểu hết ý-nghĩa ẩn-kín, thì chẳng có ích-lợi chi nhiều cho việc tu-tập. Vì hai bài Kệ chứa nhiều danh-từ chuyên-môn trong Phật-học, nên Phần Tìm Hiểu cũng giúp ích

được đôi chút, nhưng phần quan-trọng chính l

à ở chỗ người tu-hành, phải tự-mình thực-hành, bằng không

đó chỉ l

à sự hiểu-biết về danh-từ suông mà thôi.

2) Hai tà-kiến:

đoạn-kiến v

à thường-kiến,

sở dĩ ta vướng phải, là vì: hoặc vì chưa hiểu thấu các hình-thức và sự nguy-hiểm của hai tà-kiến

đó; hoặc đ

ã biết nhưng vì tự-cao, chẳng chịu tin theo Chánh-pháp, cứ ngoan-cố giữ mãi tà-kiến. Bỏ

được không, chỉ do quyết-tâm.

3) Xin

để dịp khác sẽ b

àn thêm về cách dứt

được

Ái-Dục.

(218).- Tích chuyện con của người

đốn củi.

Vào một thời kia,

Đức Phật ngụ tại ch

ùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có

đề-cập đến người con của kẻ đốn củi.

Thuở ấy, ở thành Vương-xá có một người tiều-phu hằng ngày thường cùng với

đứa con trai v

ào rừng

đốn củi. Hôm ấy, trời xế chiều, họ đốn được một xe củi, mới quay về. Dọc đường, hai cha con dừng lại b

ên nghĩa-

địa, lấy cơm ra ăn. Họ cởi cái ách khỏi cổ của đôi b

ò, thả cho chúng

đi ăn cỏ. Hai con b

ò

đi từ bụi cỏ nầy sang b

ãi cỏ khác, chẳng mấy chốc

đ

ã

đi xa; đến khi người tiều-phu sực nhớ, nh

ìn lại chẳng thấy

đôi b

ò

đâu cả. Ông liền dặn con cứ ngồi lại b

ên xe, chờ ông chạy

đi kiếm. Theo dấu chơn b

ò, người cha

đi m

ãi vào thành.

Đến khi t

ìm

được hai con thú, th

ì trời

đ

ã tối mò, cửa thành

đ

ã

đóng lại, ông chẳng trở ra được để t

ìm con.

Đứa con chờ cha m

ãi chẳng thấy trở lại,

đ

ành nằm xuống dưới gầm xe,

đánh một giấc ngủ ngon.

Trời càng về khuya, theo cơn gió lộng, có hai hồn ma

đi lang-thang, nh

ìn thấy

đứa bé nằm ngủ dưới gầm xe, mới dừng lại khuấy rối. N

ào kéo chơn, kéo tay, nào hù doạ; nhưng

đứa trẻ vốn l

à một Phật-tử thuần-thành, chẳng sợ-hãi, chấp tay, miệng niệm "Mô Phật" vang lên, lòng tưởng

đến công-đức của Phật-đ

à. Nghe tiếng niệm Phật, hai hồn ma hoảng sợ,

định bỏ chạy, nhưng nh

ìn thấy

đứa trẻ thơ-ngây đang nằm một m

ình, e nó bị hại, mới sanh lòng thương. Rồi một hồn ma ở lại bên xe, canh chừng, còn hồn ma kia

đi t

ìm thức

ăn cho nó. V

ào

đền vua, hồn ma ấy thấy trong nh

à bếp có dọn sẵn một mâm cơm, liền bưng

đi, để lại một miếng giấy l

àm tin.

Sáng hôm sau, người nhà bếp thấy mất mâm cơm, có tờ giấy trên bàn, mới

đem tr

ình Vua Tần-bà-sa-la. Vua

đọc mảnh giấy xong, biết nơi t

ìm, mới sai người ra nghĩa-

địa. Được hạch hỏi, đứa bé chỉ trả lời l

à

đ

êm qua bị ma nhát, nó liền niệm Phật

được b

ình-yên, rồi sau

đó, cha mẹ nó dọn cơm cho nó ăn, ăn xong nó nằm xuống ngủ, nó chỉ biết có thế m

à thôi. Vua ra lịnh dẫn cha con người tiều-phu

đến ch

ùa, trình lên

Đức Phật sự-việc đ

êm qua. Nhà vua hỏi: "Bạch Thế-tôn, lòng tưởng-niệm

đến công-đức của Phật-đ

à, chí thành niệm "Mô Phật" như thế, có

đủ năng-lực tránh được các tai-hoạ chăng

?"

Đức Phật bảo

: "Nầy

Đại-vương, tâm hằng tỉnh-giác tưởng-niệm đến sáu việc nầy, sẽ giúp ta tránh khỏi tội-ác v

à tai-hoạ."

Rồi

Đức Phật đọc l

ên sáu bài Kệ sau

đây, kể r

õ sáu việc

đó

:

Hằng tỉnh-giác, chuyên-cần thúc-liễm,

Các

đệ-tử Phật Gotam

a,

Chẳng kể ngày ngày,

đ

êm

đ

êm qua,

Công-

đức Phật-đ

à luôn tưởng-niệm.

(Kệ số 296.)

Hằng tỉnh-giác, chuyên-cần thúc-liễm,

Các

đệ-tử Phật Gotama,

Chẳng kể ngày ngày,

đ

êm

đ

êm qua,

Công

đức Chánh-pháp luôn tưởng-niệm.

(Kệ số 297.)

Hằng tỉnh-giác, chuyên-cần thúc-liễm,

Các

đệ-tử Phật Gotama,

Chẳng kể ngày ngày,

đ

êm

đ

êm qua,

Công-

đức Tăng-gi

à luôn tưởng-niệm.

(Kệ số 298.)

Hằng tỉnh-giác, chuyên-cần tinh-tấn,

Các

đệ-tử Phật Gotama,

Chẳng kể ngày ngày,

đ

êm

đ

êm qua,

Sắc-thân bất-tịnh luôn tưởng-quán.

(Kệ số 299.)

Chuyên-cần tinh-tấn, hằng tỉnh-giác,

Các

đệ-tử Phật Gotama,

Chẳng kể ngày ngày,

đ

êm

đ

êm qua,

Luôn vui với

đức vô-hại-tác.

(Kệ số 300.)

Chuyên-cần tinh-tấn, hằng giác-tỉnh,

Các

đệ-tử Phật Gotama,

Chẳng kể ngày ngày,

đ

êm

đ

êm qua,

Luôn vui thoả-thích tu thiền-

định.

(Kệ số 301)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Tiều-phu = người

đốn củi trong rừng để đem bán.

- Vương-xá: tên thủ-

đô xứ Ma-kiệt-đ

à (Magadha), tiếng Pali là Ràjagaha. Gần thành Vương-xá, vua Tần-bà-sa-la (Bimbisara) có xây tịnh-xá Trúc-lâm (Veluvana), trong vườn trúc,

để dưng-cúng Đức Phật.

- Ách: thanh gỗ cứng,

đ

è lên cổ trâu, bò,

để buộc chúng v

ào xe.

- Gầm xe = bên dưới chiếc xe, khoảng giữa hai bánh xe.

- Gió lộng = gió thổi lồng-lộng, gió thổi mạnh.

- Hồn ma = theo sự tin-tưởng trong Phật-học,

đây l

à một hạng chúng-sanh vô-hình,

đi lang thang, vất-vưởng, thuộc v

ào

đường dữ, thường gọi l

à ngạ-quỉ hay là quỉ

đói.

- Hù-doạ = doạ nạt, khiến cho sợ-hãi.

- Phật-tử thuần-thành: người tin theo

đạo Phật, tuân theo Chánh-pháp, si

êng-n

ăng đi ch

ùa nghe giảng pháp, sống có

đạo-đức. (

Thuần = chuyên-cần,

đứng-đắn, tốt;

Thành = nhiệt-thành, thành-thật.)

- Mô Phật: nói tắt bốn chữ Nam-mô Phật-

đ

à, tiếng Pali là Namo Buddhassa, có nghĩa là Chí-tâm

đảnh-lễ Đức Phật,

kính lạy

Đức Phật.

- Nghĩa-

địa

= bãi tha-ma, nơi chôn cất người chết.

- Hạch hỏi = tra hỏi, hỏi cho kỹ

để biết Sự-thật; điều-tra.

- Tỉnh-giác: Tỉnh = tỉnh-táo, chẳng mê; Giác = biết. Người tỉnh-giác là người luôn luôn chú-ý,

đang l

àm, nói hay nghĩ

điều g

ì, trong tâm biết rõ mình

đang l

àm, nói hay nghĩ về

điều đó v

à chỉ

điều đó thôi.

- Thúc-liễm: Thúc = bó-buộc; Liễm = gom-góp lại; Thúc-liễm là giữ mình cẩn-thận, chẳng lơ-là, chẳng phóng-túng, tự canh-chừng lấy mình, ráng giữ

để tránh các lỗi-lầm, tội-ác.

- Phật Gotama = Đức Phật Thích-ca; Gotama là họ,

đọc l

à Gô-ta-ma, phiên-âm Hán-Việt là Cồ-

đ

àm.

- Tưởng-niệm: luôn luôn ghi nhớ trong lòng, chẳng hề quên.

- T

ăng-gi

à:

phiên-âm chữ Pali Sangha, đoàn-thể tu-sĩ Phật-giáo có từ bốn vị tu chung với nhau trở lên; dịch là Giáo-hội Phật-giáo.

- Tưởng-quán Sắc-thân bất-tịnh: Tưởng-quán = tâm an-

định suy-nghĩ sâu-xa về một đề-t

ài thiền-quán. Sắc-thân: tấm thân vật-chất; Bất-tịnh: Bất = chẳng; Tịnh = trong-sạch. Quán-tưởng sắc-thân bất-tịnh là một phép quán, trong Kinh Tứ-niệm-xứ, riêng quán về tấm thân con người, bề ngoài xem

đẹp-đẽ, m

à bên trong chứa ba-mươi-hai chỗ dơ-dáy,

đáng gớm-ghiếc; hễ si

êng tu-tập về

đề-t

ài thiền-quán nầy sẽ dứt bỏ

được sự say-m

ê theo các thú-vui xác-thịt, từ từ diệt bỏ

được cái

Ngã, thấy rõ tấm thân nầy hay biến-

đổi rồi sẽ hoại-diệt, gây ra đau-khổ, nhờ đó m

à thấu-hiểu

được các lẽ

Vô-thường, Khổ Vô-ngã.

- Vô-hại-tác: dịch gượng chữ Pali Ahimsa, đức-tánh chẳng hề làm tổn-hại ai, ngay cả đối với kẻ thù, đối với loài côn-trùng nhỏ-nhít đi nữa. (Vô = chẳng; Hại = gây sự tổn-hại; Tác = làm.)Danh-từ vô-tác-hại còn

được dịch l

à Vô-não (Não = não-hại, gây sự phiền-não, tổn-hại.)

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện tuy dài, có thể tóm-tắt lại như sau: một

đứa bé bị ma nhát, liền niệm Phật thật to, nhờ đó m

à chẳng bị hại.

Ý-nghĩa của Tích chuyện là nhờ tâm hằng tỉnh-giác, luôn luôn tưởng-niệm

đến lời Phật dạy, n

ên tránh

được tai-hoạ v

à tội-ác.

(2) Ý-nghĩa của sáu bài Kệ từ số 296

đến số 301:

Đọc kỹ sáu bài Kệ, ta thấy chúng giống nhau gần hết, chỉ trừ ở mỗi bài, nơi câu chót, có bốn chữ khác nhau:

1) Phần giống nhau giữa sáu bài Kệ: Các

đệ-tử Phật luôn luôn

tỉnh-giác, tâm hằng tưởng-niệm hoặc

đến công-đức Phật, Pháp, Tăng, hoặc quán-tưởng sắc-thân bất-tịnh, hoặc vui trong tánh vô-hại-tác, hoặc thoả-thích trong Thiền-định.

2) Phần khác nhau về

đề-mục tưởng-niệm hay quán-tưởng

:

a)Bài Kệ số 296 nói về sự Tưởng-niệm công-

đức Phật:

đó là tưởng-niệm về sự tự-giác, giác-tha và giác-hành viên-mãn của

Đức Phật.

Nói cách khác,

Đức Phật l

à bực tự mình giác-ngộ lấy,

đi dạy kẻ khác giác ngộ theo, v

à công-cuộc dạy-dỗ kẻ khác của Ngài

đ

ã

được ho

àn-thành tốt-

đẹp.

b) Bài Kệ số 297 nói về Tưởng-niệm công-

đức Chánh-pháp:

đó là tưởng-niệm về Giáo-pháp của Đức Phật đã chỉ rõ cho chúng ta thấy được con đường giác-ngộ và giải-thoát khỏi mọi khổ-đau.

c) Bài Kệ số 298 nói về Tưởng-niệm công-

đức Tăng-gi

à:

đó l

à dạy ta biết noi theo tấm gương tốt tu-hành của các vị

đệ-tử của Đức

Phật, lìa bỏ mọi ham muốn ràng-buộc, giữ giới-luật nghiêm-minh.

d) Bài Kệ số 299 nói về Quán-tưởng về sắc-thân bất-tịnh: nhờ

đó m

à lìa bỏ

được các thú-vui thể-xác, thấu-hiểu r

õ

được các lý-lẽ

vô-thường, khổ và vô-ngã, để tiến lần đến sự giác-ngộ.

e) Bài Kệ số 300 nói về Quán-tưởng về

đức vô-hại-tác

: nhờ chẳng làm hại ai, biết

đem ơn ra báo oán, diệt được sân-hận, rải

Tâm Từ-bi rộng

đến muôn lo

ài, khiến cho cuộc sống chung trở nên hài-hoà

f) Bài Kệ số 301 nói về sự Thoả-thích tu Thiền-

định

: nhờ

đó sớm đắc

định-tâm, khiến cho Trí-huệ Bát-nhã được phát-sáng, sớm đến nơi giác-ngộ và giải-thoát.

Tóm lại sáu bài Kệ là sáu đề-tài Thiền-quán, dùng

để suy-nghĩ sâu-xa khi ngồi Thiền, v

à

để áp-dụng trong đời sống đạo-đức.

HỌC TẬP:

1.- Sáu bài Kệ tuy dài, nhưng cũng dễ nhớ; nếu muốn học thuộc lòng, chỉ cần học thuộc bài thứ nhứt;

đến các b

ài kế, nhớ

đổi bốn chữ đầu-ti

ên của câu chót.

2.- Học-tập về sáu bài Kệ, chẳng phải cố học sao thuộc nằm lòng, ngâm-nga lên cho thú-vị, mà phải

đem các lời Phật dạy ra thi-h

ành trong

đời sống hằng ng

ày, như:

- Tưởng-niệm công-

đức Tam-Bảo, Phật, Pháp, Tăng

: trong các khoá lễ, miệng

đọc

Quy-y Phật, thân cúi xuống lạy, thì trong tâm phải nhớ

đến các công-đức của

Phật; Quy-y Pháp T

ăng

cũng vậy;

- Khi Quán thân bất-tịnh, nên soát lại ngày hôm nay, có bớt các

đ

òi hỏi về

ăn mặc được phần n

ào chưa, bụng còn muốn các món trang-sức

đắt tiền không, soát lại để bỏ bớt từ từ, đó l

à làm thanh-tịnh cho phần tinh-thần của thân-tâm.

- Học

đức

vô-hại-tác bằng các hành-vi nhỏ-nhặt trước, vứt bỏ mấy chai thuốc giết sâu-bọ ngoài vườn; rồi

đến thái-độ ho

à nhã, bị

đạp chơn nơi đông người, biết vui nhường bước chẳng hề c

ãi-vã.

- Tập thoả-thích tu Thiền-

định,

bằng cách tự-kiểm lại tâm mình, trước khóa Thiền, bụng có viện cớ nầy, cớ nọ

để bỏ qua không, trong khi ngồi, có bực m

ình khi nghe tiếng

động không, sau khi ngồi, l

òng mình có thanh-thản nhẹ-nhàng hơn trước khi ngồi thiền không?

(219).- Tích chuyện vị tỳ-kheo ở Tỳ-da-ly.

Vào một thời kia,

Đức Phật ngụ tại tịnh-xá Trúc-lâm, gần th

ành Vương-xá, trong một kỳ giảng-pháp, có

đề-cập đến một vị tỳ-kheo ở Tỳ-da-ly chẳng thấy thoả-thích trong nếp sống xuất-gia.

Thuở ấy, vào một

đ

êm rằm, trời trong sáng, dân-chúng trong thành Tỳ-da-ly mở hội hoa-

đăng, vui đ

ùa, ca múa thật tưng-bừng rộn-rịp,

để mừng trăng-sao. Tại nơi tu-viện, một vị tỳ-kheo đứng dưới gốc cây cổ-thọ, lặng-lẽ nh

ìn ánh-sáng rực-rỡ nơi kinh-thành, lòng chán-nản, chép miệng than: "Trên cõi

đời nầy, chẳng ai có thân-phận buồn-khổ hơn thân-phận tỳ-kheo của ta nữa

!" Vào lúc ấy, vị thọ-thần trên cây cổ-thọ nghe thấy, mới hiện lên

đứng b

ên cạnh và nói: "Nầy thầy tỳ-kheo, các kẻ bị

đoạ trong địa-ngục rất th

èm-khát cuộc sống trên các cõi Trời. Các người lao-

động trong th

ành cũng ước mong

được tự-tại trong cảnh rừng vắng-vẻ nơi tu-viện nầy.

" Nghe nói thế, vị tỳ-kheo liền tỉnh-ngộ, hiểu

được lời khuy

ên kín-

đáo v

à tỏ ra hối-tiếc

đ

ã có ý-nghĩ chẳng tốt

đối với đời sống xuất-gia.

Sáng hôm sau, vị tỳ-kheo ấy

đến yết-kiến Đức Phật, tr

ình lại lời nói của vị thọ-thần.

Đức Phật dạy th

êm: "Nầy tỳ-kheo, cuộc sống của chúng-sanh trong cõi Luân-hồi,

đều mang sẵn nỗi-niềm đau-khổ cả.

"

Rồi

Đức Phật mới nói l

ên bài Kệ sau

đây, nhờ đó vị tỳ-kheo giác-ngộ, nỗ lực tu-tập, chẳng bao lâu chứng được quả-vị A-la-hán

:

Rời khỏi nhà,

đi tu l

à khó,

Vui hạnh tỳ-kheo, khó lắm thay!

Chủ gia-

đ

ình hằng ngày chịu khổ;

Gần người chẳng hợp, khổ nào tày?

Luân-hồi trôi lặn

đắng cay,

Chớ theo khổ, phải dứt ngay Luân-hồi.

(Kệ số 302.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Tỳ-da-ly: tên thành nầy, tiếng Pali là Vesàli.

- Tịnh-xá Trúc-lâm = tu-viện cất trong vườn Trúc, tiếng Pali là Veluvana, do vua Tần-bà-sa-la dưng-cúng Phật, gần thành Vương-xá.

- Xuất-gia: Xuất = ra khỏi; Gia = nhà. Trong Phật-học, chữ xuất-gia có nghĩa là rời khỏi nhà, lìa cuộc sống trong gia-

đ

ình,

đi tu. Đối-

nghĩa với xuất-gia tại-gia, người tu-hành còn sống trong gia-

đ

ình.

- Hoa-

đăng: Hoa

=

bông-hoa; Đăng = đèn; Hội hoa-

đăng

là buổi lễ vui treo

đ

èn, kết hoa.

- Cổ-thọ: Cổ = xưa; Thọ = cây to lớn; Cổ-thọ là cây lâu n

ăm, to lớn

-Thân-phận: cảnh-ngộ; vận-mạng, hoàn-cảnh

đời sống của m

ình.

- Thọ-thần: Thọ = cây cổ-thọ; Thần = thần-linh. Thọ-thần là một vị thần-linh, thuộc hạng A-tu-la, sống trên cây cối.

- Tự-tại = tự-do, chẳng bị ràng-buộc.

- Tỉnh-ngộ: Tỉnh = hết mê, thức-tỉnh; Ngộ = hiểu; Tỉnh-ngộ là biết rõ trước mình

đ

ã lầm, nay theo

điều đúng.

- Luân-hồi: Luân = bánh xe; Hồi = trở lại. Phật-học tin rằng, chúng-sanh sau cuộc sống nầy sẽ sanh trở lại, vào một cuộc sống mới,

để phải chết đi rồi tái-sanh m

ãi, như bánh xe cứ quay tròn. Tiếng Pali là Samsàra.

- Giác-ngộ: Giác = biết rõ; Ngộ = hiểu thấu. Người giác-ngộ là người

đ

ã hiểu rõ Chơn-lý, biết

đúng lẽ sống chết của chúng-sanh. Đức Phật l

à bực đại-giác.

- Quả-vị: kết-quả của việc tu-hành

đ

ã thành-công. Có bốn quả-vị trong hàng Thanh-v

ăn l

à các

đệ-tử sống gần b

ên Phật, nghe kinh mà tu-tập (Thanh = tiếng nói; V

ăn

= nghe; tiếng Pali là Sàvaka);

đó l

à (1) Tu-

đ

à-huờn (Sotàpatti) hay Nhập-lưu, hay Thất-Lai, còn bảy lần tái-sanh; (2) Tư-

đ

à-hàm (Sakadàgamì) hay Nhứt-Lai, còn một lần tái-sanh; (3) A-na-hàm (Anàgami) hay Bất-Lai, chẳng sanh lại cõi người; (4) A-la-hán (Arahant), chứng

được

vô-sanh, hết phải tái-sanh.

- A-la-hán: quả-vị thứ tư, cao nhứt trong hàng Thanh-v

ăn. Bực

A-la-hán đã diệt xong các phiền-não, lià bỏ mọi ham-muốn, chẳng phải tái-sanh nữa (gọi là chứng vô-sanh), sống an-vui, tự-tại trong cảnh Hữu-dư Niết-bàn, đến khi tịch-diệt ( = chết), thì vào Vô-dư Niết-bàn.

- Hạnh Tỳ-kheo: Hạnh = hạnh-kiểm,

đức-hạnh;

Tỳ-kheo phiên-âm tiếng Pali là Bhikkhu, hay Bí-sô hoặc Tỳ-khưu, còn dịch là Khất-sĩ, tức là tu-sĩ Phật-giáo phải

đi xin ăn, tuân theo 250 điều giới-luật, sống xa gia-đ

ình thế-tục. Phái nữ là tỳ-kheo-ni (Bhikkhuni) thọ 348 giới-luật.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện thuật lại một vị tỳ-kheo

đứng nơi tu-viện vắng-vẻ, hướng nh

ìn về cảnh vui nhộn của hội hoa-

đăng trong th

ành Tỳ-da-ly, cảm thấy buồn-tẻ, mới than-thở về thân-phận tỳ-kheo của mình. Một vị thọ-thần nghe thấy hiện lên bảo cho biết, ở dưới

địa-ngục có kẻ c

òn

đang đau-khổ, ở trong th

ành còn có người lao-

động thiếu tự-do. Vị tỳ-kheo sực-tỉnh, hối-tiếc đ

ã nghĩ chẳng tốt về nếp sống xuất-gia. Hôm sau, vị ấy

được Đức Phật dạy th

êm, chúng-sanh phải chịu khổ

đau nhiều trong ba đường dữ, vậy n

ên phải cố-gắng tu-tập

để ra khỏi cảnh tái-sanh của v

òng Luân-hồi lẩn-quẩn.

Ý-nghĩa của Tích chuyện là: xuất-gia

đi tu được l

à

đang có phước lớn, v

ì

đ

ã chọn

đúng con đường giải-thoát dứt khoát mọi khổ-đau.

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 302:

Bài Kệ chẳng có chữ chi khó hiểu cả, nhưng ý-nghĩa rất thâm-sâu, xin phân-tách từng câu:

1) Rời khỏi nhà,

đi tu l

à khó:

Tại sao khó? Vì trong lòng còn bận-bịu, quyến-luyến

đời sống ở nh

à. "Rời khỏi nhà" nghĩa sâu ở

đây l

à lìa bỏ "nhà phiền-não", tức là thân-tâm còn

đeo nặng

tham, sân, si.

2) Vui hạnh tỳ-kheo, khó lắm thay: Tại sao khó? Vì phải tuân giới-luật

đ

ã nhiều, lại nghiêm-khắc; nhưng tự khép mình trong kỷ-luật,

đó lại chính l

à

đang tự giải-thoát m

ình ra khỏi phiền-não và tội-ác, nên

đấy mới l

à niềm vui của hạnh tỳ-kheo mà ít người biết

đến.

3) Chủ gia-

đ

ình hằng ngày chịu khổ:

Tại sao khổ? Vì phải vật lộn với

đời để mưu-sanh, tranh sống cho m

ình và cho gia-

đ

ình mình.

4) Gần người chẳng hợp, khổ nào tày: Tại sao gần người chẳng hợp lại chẳng khổ nào bằng? Vì trái ý nhau, chống-

đối nhau luôn, sanh ra khó chịu, khổ-sở. Nhưng câu nầy c

òn nhắc

đến bảy nỗi khổ khác nữa:

sanh, già, bịnh, chết, thương mà xa nhau, cầu mà chẳng

được, thân-tâm chẳng thăng-bằng.

5. Luân-hồi trôi lặn

đắng cay

:

Tại sao

đắng cay

? Vì sẽ phải

đoạ v

ào các

đường dữ

:

điạ-ngục,

quỉ

đói v

à thú-vật.

6) Chớ theo khổ, phải dứt ngay Luân-hồi: Dứt bằng cách nào? Chỉ có cách duy-nhứt là tu-hành theo Chánh-pháp, và con

đường nhanh v

à chắc nhứt là "vui theo hạnh tỳ-kheo" đó.

(220).- Tích chuyện về vị gia-chủ Chi-ta.

Vào một thời kia,

Đức Phật ngụ tại ch

ùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có

đề-cập đến vị gia-chủ t

ên là Chi-ta.

Thuở ấy ở thành Mã-chi-kha, có một người gia-chủ tên Chi-ta, rất giàu-có,

được nghe Tôn-giả Xá-lợi-phất giảng pháp, n

ên chứng

được đạo-quả A-na-h

àm. Chi-ta dùng n

ăm trăm xe b

ò chở

đầy thực-phẩm v

à lễ vật, cùng với cả ngàn bạn

đạo, l

ên

đường đến ch

ùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ,

để đảnh-lễ Đức Phật. Sau hơn một tháng, cả đo

àn

đến nơi. Trong khi Chi-ta v

à các bạn

đạo đang yết-kiến Đức Phật th

ì trên không-trung chư Thiên rải hoa trời xuống như mưa. Chi-ta và cả ngàn bạn

đạo lưu lại ch

ùa Kỳ-viên trọn tháng, hằng ngày dâng cúng thực-phẩm lên

Đức Phật v

à chư T

ăng v

à nghe giảng Chánh-pháp.

Đến gần ngày từ-giả, Chi-ta đem tất cả những bảo-vật còn lại trong các xe, chất hết vào kho chùa; nhưng lạ thay, đến lúc quay về, các xe bò đều đầy vật quí như cũ. Tôn-giả A-nan biết chư Thiên

đ

ã ban-cấp cho Chi-ta, mới vào trình

Đức Phật

: "Bạch Thế-tôn, vì Chi-ta

đ

ã dưng-cúng lên

Đức Phật v

à chúng t

ăng n

ên

được chư Thi

ên hiến- tặng lại các quí-vật; chẳng biết khi Chi-ta

đi bố-thí ở những nơi khác, có được khen-ngợi v

à ban-tặng của-cải như thế không?"

Đức Phật bảo

: "Nầy A-nan, một người tin-tưởng vào Phật-pháp như Chi-ta,

đức-hạnh đầy-đủ, rộng l

òng bố-thí như thế,

đi đâu lại chẳng được cung-kính v

à dâng-hiến của cải."

Rồi

Đức Phật mới nói l

ên bài Kệ sau

đây

:

Niềm tin

đủ, vẹn-to

àn giới-hạnh,

Danh-tiếng cao, tài-sản dồi-dào,

Dù cho

đi đến nơi n

ào,

Vị nầy cũng

được kính ch

ào, tôn-vinh.

(Kệ số 303.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Chi-ta: tên người chủ gia-

đ

ình nầy, tiếng Pali là Citta ( = tâm.)

- Mã-chi-kha: tên thành-phố nầy, tiếng Pali là Macchikàsanda.

- Tôn-giả Xá-lợi-phất: Tôn-giả = người

đáng tôn-trọng;

Xá-lợi-phất = tên tiếng Pali Sariputta, vị

đại-đệ-tử của Phật Thích-ca, được nổi tiếng l

à thông-minh bực nhứt.

- Đạo-quả A-na-hàm: Đạo = đường-lối, cách thức tu-hành, tiếng Pali là Magga; Quả = kết-quả tu-hành thành-công, tiếng Pali là Phala; A-na-hàm tiếng Pali là Anàgàmi, là quả-vị thứ ba, dịch là Bất-Lai, chẳng trở lại cõi người nữa, sanh lên Trời, tu tiếp sẽ chứng A-la-hán.

- Đảnh-lễ = cúi

đầu lạy để l

àm lễ ra mắt bực trưởng-thượng.

- Chư Thiên = các vị Trời.

- Chánh-Pháp: Chánh = chơn-chánh,

đứng-đắn;

Pháp = phép tu. Chánh-pháp là lời Phật dạy cách tu-hành

để giác-ngộ v

à giải-thoát.

- Bảo-vật: Bảo = quí-báu. Các bảo-vật như là vàng bạc, ngọc-ngà.

- Thế-tôn: Thế = thế-gian; Tôn = tôn-kính; Thế-tôn là bực

được cả thế-gian tôn-kính. Các đệ-tử thưa với Phật bằng

Thế-tôn; Phật tự xưng là Như-lai.

- Bố-thí: Bố = rộng khắp; Thí = tặng,. Bố-thí là hiến-tặng tiền-của, phẩm-vật, hoặc công-sức, hay lời khuyên, an-ủi, cho người cần

đến.

- Tôn-vinh = kính trọng và khen ngợi với mọi người.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện kể lại việc một gia-chủ giàu-có tên là Chi-ta, cùng với

đông-đảo các bạn-đạo, đi cả tháng, chở thực-phẩm v

à bảo-vật

đến cúng-dường Đức Phật v

à chư T

ăng ở ch

ùa Kỳ-viên. Khi họ

đảnh-lễ Đức Phật, chư Thi

ên trên Trời rải hoa xuống khen ngợi. Họ ở lại trọn tháng

để cúng-dường thực-phẩm v

à nghe Phật giảng Chánh-pháp. Trước khi ra về, Chi-ta

đem tặng hết các

quí-vật trong xe, cất vào kho trong chùa; nhưng chư Thiên

đ

ã khiến cho các xe

đầy trân-bảo như cũ.

Ý-nghĩa của Tích chuyện là công-

đức bố-thí chẳng hề mất, người bố-thí được mọi người kính-trọng v

à giúp-

đỡ của-cải th

êm

để bố-thí.

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 303:

Bài Kệ kể ra bốn

điều-kiện để được mọi người kính-trọng

: (1)

đầy đủ niềm tin v

ào Phật-pháp, (2) giữ vẹn giới-luật, (3) có tiếng tốt, (4) của-cải nhiều, sẵn lòng bố-thí.

( 221).- Tích chuyện cô Chu-la-sử.

Vào một thời kia,

Đức Phật ngụ tại ch

ùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có

đề-cập đến cô Chu-la-sử, con gái của đại-cư-sĩ Cấp-cô-độc.

Ông Cấp-cô-

độc vốn l

à một Phật-tử rất thuần-thành, mua khu vườn của Thái-tử Kỳ-

đ

à

để xây cất ch

ùa Kỳ-viên dưng cúng

Đức Phật v

à T

ăng-đo

àn. Thuở nhỏ, ông cùng học một trường với ông Úc-gia, một người theo phái ngoại-

đạo. Hai người thân nhau, n

ên ông Cấp-cô-

độc gả con gái l

à Chu-la-sử cho con trai ông Úc, ở xa cách

đó hơn một trăm hai mươi do-tuần. Từ khi về l

àm dâu nhà ông Úc, cô Chu thường khen ngợi công-

đức của Đức Phật. B

à mẹ chồng mong-mỏi có dịp

được yết-kiến Đức Phật.

Một hôm, bà mẹ chồng bảo con dâu, bà muốn cung-thỉnh

Đức Phật v

à chư T

ăng về nh

à

để cúng-dường. Cô Chu rất mừng, đem hương-hoa l

ên trên từng gác thượng, hướng về chùa Kỳ-viên, cầu nguyện rằng: "Bạch Thế-tôn, con là Chu-la-sử thành-tâm phụng-thỉnh Thế-tôn và chư T

ăng ng

ày mai

đến nh

à con,

để mẹ con kính dâng lễ-vật cúng-dường trai-tăng.

" Nguyện xong, cô Chu tung các cành hoa lên không-trung, lạ thay, hoa bay theo gió thổi

đến ch

ùa Kỳ-viên, kết thành tràng, lơ-lửng giữa chánh-

điện, nơi Đức Phật đang thuyết-pháp. Sau thời pháp, cư-sĩ Cấp-cô-độc đứng l

ên thỉnh Phật ngày mai

đến thọ-thực tại nh

à mình.

Đức Phật từ-chối, bảo rằng Ng

ài vừa nhận lời

đến thọ-trai ở nh

à cô Chu-la-sử. Ông Cấp-cô-

độc rất ngạc-nhi

ên, bạch với

Đức Phật

: "Bạch Thế-tôn, nhà của Chu ở cách thành Xá-vệ nầy hơn tr

ăm do-tuần.

" Nhưng

Đức Phật bảo

: "Nầy thiện-nam-tử,

đúng vậy, nhưng một việc thiện dầu cách xa h

àng tr

ăm do-tuần, cũng vẫn sáng r

õ lồ-lộ." Rồi

Đức Phật nói l

ên bài Kệ sau

đây

:

Người lành dầu ở thật xa,

Sáng lồ-lộ giống như toà Tuyết-sơn.

Chẳng ai nhìn kẻ ác, gần hơn,

Như mũi tên bay trong

đ

êm tối.

(Kệ số 304.)

Sáng hôm sau,

Đức Phật c

ùng chư T

ăng ngồi tr

ên nhiều chiếc thiên-xa, trang hoàng rực-rỡ, giữa tiếng nhạc trời, bay

đi trong giây phút đ

ã

đến nh

à ông Úc-gia. Toàn thể gia-

đ

ình ra nghinh-tiếp, ông Úc rất

đổi tán-thán vẻ trang-nghi

êm của T

ăng-đo

àn, nên thành-tâm dưng-cúng lễ-vật lên

Đức Phật. Sau đó, cả nh

à

được ngồi nghe Đức Phật giảng Chánh-pháp. Đức Phật lưu lại đây trong bảy ng

ày dạy

đạo, khiến cho cả nh

à ông Úc

đều quy-y Tam-Bảo.

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Chu-la-sử: tên người con gái của ông Cấp-cô-

độc, tiếng

Pali là Cùlasubhaddà.

- Cấp-cô-

độc:

danh-hiệu người

đời tặng

ông Anàthapindika, vì ông xuất nhiều tiền-bạc ra bố-thí, cứu-giúp người

đơn-côi, ngh

èo-khổ

- Úc-gia: tên người ngoại-

đạo nầy, tiếng

Pali là Ugga.

- Do-tuần: đơn-vị đo chiếu dài đường-xá ở Ấn-độ xưa, vào khoảng hơn một cây-số. Tiếng Pali là yojana.

- Ngoại-

đạo: Ngoại

= ngoài. Ngoại-

đạo

là các môn-phái tu-hành chẳng theo

đạo Phật. V

ào thời

Đức Phật, ở Ấn có sáu phái ngoại-đạo.

- Từng gác thượng = sân thượng, từng cao nhứt trong nhà.

- Phụng-thỉnh: thành-tâm kính mời.

- Trai-t

ăng: Trai

= bữa

ăn chay;

T

ăng

= tu-sĩ Phật-giáo. Trai-t

ăng

là dâng cúng thực-phẩm lên các tu-sĩ Phật-giáo.

- Tràng = các bông-hoa

được xâu lại th

ành vòng hoa lớn.

- Chánh-

điện:

c

ăn ph

òng lớn thờ Phật tại chùa.

- Cư-sĩ: Cư = ở, ở nhà; Sĩ = người. Cư-sĩ là người tu tại-gia theo

đạo Phật, có đạo-đức cao v

à danh-tiếng lớn.

- Thọ-thực, Thọ-trai: ăn cơm chay.

- Thiện-nam-tử: Thiện = lành; Nam = đàn-ông; Tử = con trai. Thiện-nam-tử là người

đ

àn-ông có lòng làm lành. Phái nữ gọi thiện-nữ-nhơn.

- Tuyết-sơn: dãy núi Hi-mã-lạp-sơn, Himalaya, cao nhứt thế-giới.

- Thiên-xa = chiếc xe trên trời. (Thiên = trời; Xa = xe.)

- Tán-thán: khen-ngợi.

- Tam-Bảo: Tam = ba; Bảo = quí-báu. Tam-Bảo là ba ngôi quí-báu: Phật, Pháp và T

ăng

( =

Đức Phật, Giáo-pháp v

à các

đệ-tử của Phật.)

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện thuật lại việc cô Chu-la-sử

đem hương-hoa l

ên sân thượng, hướng về chùa Kỳ-viên cầu-nguyện, cung thỉnh

Đức Phật đến nh

à

để cúng-dường trai-tăng. Truyện kể hai việc nhiệm-mầu: thứ nhứt l

à lời cầu-nguyện của cô Chu cảm-ứng

đến Đức Phật ở xa, cách đó hơn trăm dặm; thứ hai l

à hôm sau,

Đức Phật c

ùng chúng T

ăng ngồi tr

ên thiên-xa bay từ chùa Kỳ-viên

đến nh

à cô Chu. Hai việc lạ thường nầy có thể gây thắc-mắc, khiến nhiều người chẳng tin. Nhưng sự cầu-nguyện

được cảm-ứng chính do

tâm thành-khẩn của người cầu

đ

ã phát ra những luồng sóng tư-tưởng chuyển-

động đến

tâm thanh-tịnh của

Đức Phật. V

à sự di-chuyển trên không-trung là do sức thần-thông của

Đức Phật. Ng

ày nay, hai việc

đó dễ-d

àng xảy ra nhờ ở vô-tuyến-

điện truyền-tin v

à phi-cơ hàng-không, cũng chẳng có chi là mê-tín.

Tuy nhiên ý-nghĩa của Tích chuyện chẳng phải ở hai việc nhiệm-mầu

đó, m

à chính là lời

đáp của Đức Phật với ông Cấp-cô-độc

: "Việc thiện dầu ở xa cũng vẫn sáng rõ lồ-lộ."Tại sao? Vì việc lành cũng như hương bay theo chiều gió, toả rộng khắp nơi, mọi người

đều nh

ìn thấy;

đấy l

à lời khuyên ta nên theo con

đường l

ành.

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 304:

Khác với Tích chuyện, bài Kệ chẳng chứa một sự nhiệm-mầu nào cả, mà lại nói lên một sự-thật mọi người

đều biết: người l

ành dầu ở thật xa cũng vẫn sáng rõ

được mọi người đều trông v

ào; còn kẻ dữ dầu có ở gần

đi nữa, ai cũng lánh xa như tránh mũi t

ên

độc.

HỌC TẬP:

1) Có mấy thái-

độ

cầu-nguyện sai-lầm cần nên tránh:

-

đem hương-hoa, lễ-vật v

ào chùa, cầu cho con thi

đậu, m

ình

được buôn may bán đắt, đó chẳng khác g

ì

đi lo-lót đấng thi

êng-liêng.

- trong lời khấn, thường hứa sẽ ăn chay mấy tháng, hoặc phóng-sanh chim, cá,

để tạ ơn, đó n

ào khác gì trả tiền công cho sự linh-ứng.

2) Cầu-nguyện đứng-đắn là tâm thành-khẩn hướng về người thân, rải lòng Từ đến người ấy, có nhiệt-thành mới có hiệu-quả: kẻ đang cầu thì an-tâm; thân-nhơn hưởng điển lành do tâm từ mang

đến.

(222).- Tích chuyện Trưởng-lão

độc-cư Y-kha.

Vào một thời kia,

Đức Phật ngụ tại ch

ùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có

đề-cập đến vị Tỳ-kheo thường sống một m

ình là Trưởng-lão Y-kha.

Trưởng-lão Y-kha rất ít khi gia-nhập vào các nhóm tỳ-kheo thảo-luận hay trò chuyện. Trưởng-lão thường im-lặng,

đứng ri

êng một mình nơi vắng-vẻ. Trưởng-lão sống một mình,

đi một m

ình,

đứng một m

ình, mà ngồi, nằm cũng một mình. Nhiều vị tỳ-kheo khác chẳng thích thái-

độ độc-cư đó, cho rằng Trưởng-l

ão chẳng có tinh-thần hoà-hợp, mới

đến tr

ình với

Đức Phật. Đức Phật chẳng những chẳng hề quở-trách Trưởng-l

ão Y-kha, trái lại Ngài còn khen thái-

độ sống một m

ình

đó v

à bảo: "Nầy chư tỳ-kheo, biết sống một mình mà không buồn chán như tỳ-kheo Y-kha là

điều đáng n

ên bắt chước!"

Rồi

Đức Phật nói l

ên bài Kệ sau

đây

:

Ngồi một mình, nằm cũng một mình,

Đi một mình, lòng không buồn chán.

Tự mình

điều-phục chính m

ình,

Sống vui thoải-mái cảnh rừng xanh.

(Kệ số 305.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Trưởng-lão: Trưởng = lớn; Lão = già. Chữ Trưởng-lão dành cho vị tu-hành

đ

ã lâu n

ăm, chứng-đắc quả-vị. Tiếng

Pali là Thera.

-

Độc-cư: Độc

= cô-

độc, ri

êng một mình; Cư = ở. Độc-cư là lối sống riêng một mình nơi vắng-vẻ.

- Y-kha: đây là danh-hiệu mà các vị tỳ-kheo khác đặt cho Trưởng-lão độc-cư; tiếng Pali là Ekavìhàri (Eka = một; vihàri = đang cư-trú.)

- Hoà-hợp = có tinh-thần hoà-hợp thì thường tham-gia vào

đời sống chung, sanh-hoạt chung, chẳng có sự tranh-c

ãi.

- Điều-phục = sửa

đổi lại cho đúng, giữ đúng trong v

òng kỷ-luật. Tự

điều-phục

là tự mình kềm chế lấy mình trong kỷ-luật tu-hành.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện rất giản-dị, thuật lại việc một vị Trưởng-lão sống

độc-cư ngay trong ch

ùa, giữa những bạn

đồng-tu. Trưởng-l

ão

đi một m

ình,

đứng một m

ình, ngồi một mình, nằm cũng một mình, tâm luôn tỉnh-giác, lòng chẳng buồn chán. Các vị tỳ-kheo khác hiểu lầm cho

đó l

à thái-

độ thiếu ho

à-hợp trong T

ăng-đo

àn, nhưng

Đức Phật lại khen lối vui sống trong cảnh độc-cư đó v

à khuyên các tỳ-kheo nên bắt chước.

Ý-nghĩa của Tích chuyện là nhờ biết luôn luôn quay vào bên trong, lòng hằng tỉnh-giác, người tu-hành theo dõi mọi biến-chuyển của tâm, khiến các vọng-tưởng thưa dần, sớm chứng

được

định-tâm.

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 305:

Bài Kệ cũng rất giản-dị nhưng ý-nghĩa lại rất thâm-trầm, xin phân-tách từng câu:

1) Ngồi một mình, nằm cũng một mình: thông thường, ngồi một mình hay nhớ chuyện cũ, tưởng việc sắp

đến; nằm một m

ình thì thả hồn mơ-mộng;

đó chưa hẳn l

à

đang

sống một mình, còn

đang

"làm bạn" với các ý-nghĩ vẩn-vơ

đó.

Người biết sống một mình, khi ngồi, khi nằm, tâm giữ chánh-niệm, theo dõi nhịp thở ra vào

đều-đặn, c

ùng với sức sống bên trong nhập lại "làm một",

đấy mới thật-sự l

à đang sống một mình.

2) Đi một mình, lòng không buồn chán: thông thường khi

đi một m

ình, hay trông cho mau

đến, dọc đường bị cảnh-vật b

ên ngoài lôi-cuốn,

đó chưa hẳn l

à đi một mình, vì còn có nơi sắp

đến, có cảnh-vật dọc đường, đi theo

làm bạn

đồng-h

ành. Chỉ khi bước chơn lên,

đặt chơn xuống, tâm biết r

õ mình

đang đi, bao giờ đến, cảnh g

ì vui, chẳng màng

đến, chỉ nương theo

nhịp thở ra vào của chính mình mà di-chuyển, mới sớm

đắc được

định-tâm trong việc thiền-hành.

3) Tự mình

điều-phục chính m

ình:

tâm theo dõi mỗi cử-

động tr

ên thân, mỗi biến chuyển trong tâm,

đó l

à tự-

điều-phục,

làm sao vọng-tưởng có dịp khởi lên

được để đánh mất

định-tâm.

4) Sống vui thoải-mái cảnh rừng xanh: tâm an-

định trong cảnh

sống một mình, đó là niềm vui nhẹ-nhàng, thoải-mái, kéo dài mãi, bất cứ ở nơi đâu, thì "cảnh rừng xanh, cảnh-giới Niết-bàn" chắc cũng chẳng hơn nhiều cảnh độc-cư thật-sự

đó bao nhi

êu

đâu.

-ooOoo-

XXII.- Phẩm

Đ

ỊA-NGỤC.

(223).- Tích chuyện bà Sơn-

đ

à-ly.

Vào một thời kia,

Đức Phật ngụ tại ch

ùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có

đề-cập đến b

à Sơn-

đ

à-ly, người ngoại-

đạo, muốn l

àm giảm thanh-danh của

Đức Phật.

Thuở ấy, các nhóm ngoại-

đạo nhận thấy các tín-đồ của họ lần lần ngả theo Phật-giáo, số phẩm-vật lợi-dưỡng của họ bị giảm bớt, n

ên mới tìm cách phá-hoại thanh-danh của Phật. Họ bàn mưu tính kế với một thiếu-phụ trẻ

đẹp t

ên Sơn-

đ

à-ly,

để vu tội dâm cho Đức Phật.

Mỗi buổi chiều trời chạng-vạng, bà Sơn

ăn mặc di

êm-dúa,

đi về hướng ch

ùa Kỳ-viên, gặp ai hỏi thì

đáp, v

ào chùa ngủ chung với Phật ở hương-phòng. Gần

đến cổng, b

à ta lại rẽ sang khu-vực nhóm ngoại-

đạo. Đến sáng sớm ra về, dọc đường khoe với kẻ khác, đ

êm qua bà ở trong hương-phòng. Cứ như thế,

được ba hôm, nhóm ngoại-đạo mướn bọn côn-đồ say rượu r

ình giết chết bà Sơn,

đem thây chôn dưới đống rác phía sau ch

ùa. Chúng sai người

đến tố-cáo nơi đền Vua rằng, các tỳ-kheo đ

ã giết bà Sơn-

đ

à-ly

để che-dấu tội dâm của Đức Phật.

Chưa kịp

điều-tra sự thật cho r

õ-ràng, các quan

đ

ã cho phép bọn ngoại-

đạo đi khắp đường phố trong th

ành, rêu-rao tội các tỳ-kheo

đ

ã giết người dấu xác

để che đậy sự dâm-loạn của tu-sĩ Cồ-đ

àm. Thấy dân-chúng xôn-xao, nhà Vua ra lịnh truy-tầm hung-thủ, bắt

được bọn côn-đồ say rượu, họ thú-nhận đ

ã lấy tiền của nhóm ngoại-

đạo m

à thi-hành tội-ác. Nhà vua liền bắt các kẻ chủ-mưu dẫn

đi khắp th

ành, hô to lên: "Chính chúng tôi mới là kẻ giết người

để vu-oan tội dâm cho tu-sĩ Cồ-đ

àm." Thanh-danh của

Đức Phật chẳng hề bị thương-tổn.

Nơi chùa Kỳ-viên, khi nghe các tỳ-kheo tường trình lại biến-cố vừa qua,

Đức Phật nói l

ên bài Kệ sau

đây

:

Người nói dối phải sa

địa-ngục,

Kẻ làm ác, chối: "chẳng có làm",

Cả hai bị

địa-ngục giam,

Ác-nghiệp

đ

ã làm,

đồng khổ kiếp sau.

(Kệ số 306.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Sơn-

đ

à-ly: tên người

đ

àn-bà nầy, tiếng Pali là Sundarì.

- Lợi-dưỡng: Lợi = có ích-lợi; Dưỡng: nuôi-dưỡng. Lợi-dưỡng là các phẩm-vật, tiện-nghi cung-cấp cho người tu-hành

để nuôi thân.

- Vu tội = đặt điều nói xấu khiến cho người khác mắc tội oan.

- Chạng-vạng: trời sắp tối.

- Hương-phòng: c

ăn ph

òng có hương thơm dành cho

Đức Phật, tiếng

Pali là Gandhakutì.

- Cồ-

đ

àm: họ của

Đức Phật Thích-ca, tiếng

Pali là Gotama.

- Truy-tầm hung-thủ = lùng kiếm kẻ

đ

ã gây tội-ác (giết người).

- Thanh-danh: danh-tiếng tốt; danh-dự.

- Điạ-ngục: Điạ = đất; Ngục = nhà giam tù.Theo giáo-lý nhà Phật, kẻ làm tội-ác nặng, khi chết

đi, phải chịu h

ình-phạt nơi cõi u-tối, gọi là Điạ-ngục (tiếng Pali là Niraya). Điạ-ngục là một trong ba đường dữ, hai

đường kia l

à quỉ

đói

súc-sanh ( =thú-vật.)

- Ác-nghiệp = những việc ác

đ

ã làm tạo nên ác-nghiệp. (Nghiệp = những hành-

động đ

ã làm, gồm có việc làm, lời nói và ý-tưởng.)

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện thuật lại việc các nhóm ngoại-

đạo bị mất tín-đồ v

ì họ

đi theo Phật-giáo, muốn vu tội dâm cho Đức Phật, n

ên họ nhờ bà Sơn-

đ

à-ly giả làm người

đi lại với Phật, rồi sai kẻ côn-đồ giết chết, dấu xác b

à sau chùa. Về sau, nhà vua cho

điều-tra ra sự-thật, bắt được kẻ chủ-mưu, truyền dẫn đi khắp th

ành, nói lên tội-ác của họ.

Ý-nghĩa của Tích chuyện là lời Phật nói trong bài Kệ: kẻ nói dối sẽ bị sa

điạ-ngục.

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 306:

Bài Kệ nêu rõ tội nói dối, vu oan kẻ khác và chối tội, sẽ phải chịu hình-phạt sa vào điạ-ngục khi chết

đi. Nhưng ngay trong hiện đời, kẻ quen nói dối chẳng bao giờ được sự tín-nhiệm của ai cả. Sự nói dối tạo n

ên ác-nghiệp, đeo theo người nối dối, phải chịu khổ trong kiếp tới nữa. Vì lẽ đó, giới-luật thứ tư của người tu tại-gia là cấm nói sai sự-thật, chỉ trừ một trường-hợp duy-nhứt là nói dối

để cứu mạng người.

(224).- Tích chuyện Tôn-giả Mục-kiền-liên thấy ngạ-quỉ.

Vào một thời kia,

Đức Phật ngụ tại tịnh-xá Trúc-lâm, gần th

ành Vương-xá, trong một kỳ giảng-pháp, có

đề-cập đến các ngạ-

quỉ do Tôn-giả Mục-kiền-liên nhìn thấy.

Thuở ấy, Tôn-giả Mục-kiền-liên cùng với một vị Trưởng-lão, một hôm

đi từ tr

ên

đỉnh núi Linh-thứu xuống, đến triền núi, bỗng thấy một con

quỉ-

đói, thân h

ình ốm-o như một bộ xương khô. Tôn-giả nhìn kỹ, lại thấy thêm bốn vị tỳ-kheo mặc áo vàng,

đang oằn-oại trong ngọn lửa bốc cháy. Khi về đến tịnh-xá, Tôn-giả mới tr

ình với

Đức Phật những điều trông-thấy. Đức Phật bảo

: "Vào thời

Đức Phật Ca-diếp, có bốn tỳ-kheo đ

ã phạm nhiều tội-ác, họ vừa mãn hạn trong

điạ-ngục xong, nay phải chịu nốt h

ình-phạt trong kiếp ngạ-quỉ bị lửa

đốt cháy.

"

Rồi

Đức Phật mới nói l

ên bài Kệ sau

đây

:

Nhiều người khoác áo cà-sa,

Tâm chưa nhiếp-phục, ác-tà nhiễm-ô.

Vì nghiệp dữ

đẩy xô v

ào

điạ-ngục,

Cảnh khổ nầy do ác-hạnh sanh ra.

(Kệ số 307.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Mục-kiền-liên: tên vị

đại-đệ-tử của Phật, giỏi nhứt về thần-thông, tiếng

Pali là Moggallàna.

- Tịnh-xá Trúc-lâm, thành Vương-xá: tu-viện nầy do vua Tần-bà-sa-la (Bimbisàra), nước Ma-kiệt-

đ

à (Magadha), xây cất gần thủ

đô

Vương-xá (Ràjagaha), trong vườn trúc,

để dâng-cúng Đức Phật. Tịnh-xá Trúc-lâm, tiếng

Pali là Veluvana.

- Linh-thứu: chim kên-kên; ngọn núi giống hình chim kên-kên xoè hai cánh ra; nơi

đây Đức Phật giảng Kinh Pháp-Hoa. T

ên ngọn núi nầy, tiếng Pali là Gijjhakùta.

- Ngạ-quỉ = quỉ

đói; một hạng chúng-sanh ở c

õi dữ, thân ốm, bụng to, cổ nhỏ, luôn

đói khát. Tiếng

Pali là Peta.

- Phật Ca-diếp: Đức Phật Kassapa ra

đời trước Đức Phật Th

ích-ca.

-

Điạ-ngục

=

cõi u-tối, nơi các tội-nhơn chịu hình-phạt khi chết.

- Cà-sa: tiếng Pali là Kasaya, áo choàng bên ngoài, màu vàng, của tu-sĩ Phật-giáo.

- Nhiếp-phục: điều-phục, tuân theo kỷ-luật. Tâm nhiếp-phục chẳng còn chạy lang-thang nữa, biết tập-trung tư-tưởng và chú-tâm.

- Ác-tà: Ác = dữ; Tà = xiêng-xéo, chẳng

đúng-đắn.

- Nhiễm-ô = Nhiễm = lây, dính dơ; Ô = ô-trọc; dơ-dáy.

- Ác-hạnh: Ác = xấu, dữ; Hạnh = hạnh-kiểm; Ác-hạnh là tánh-tình xấu- ác, thường gây ra tội-lỗi.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện nầy giống với Tích chuyện số (207), trang 607, Tập 3 nói về vì sao phải tái-sanh làm ngạ-quỉ, tức là quỉ

đói. Ở Tích chuyện nầy, bốn vị tỳ-kheo v

ào thời

Đức Phật Ca-diếp, v

ì chẳng giữ

đúng giới-luật, tâm buông-lung, phạm nhiều tội-ác, n

ên sau khi mãn hạn ở

điạ-ngục ra, phải sanh l

àm quỉ

đói bị lửa đốt cháy. Theo kinh-sách, khi c

òn sống mà quá bỏn-xẻn, rít-róng, keo-kiệt, thì kiếp sau sẽ vướng vào

đường dữ của

quỉ

đói, đó l

à ý-nghĩa của Tích chuyện.

Nhơn

đây, xin nói th

êm về sáu cõi trong Luân-hồi: chúng-sanh tùy theo nghiệp

được sanh v

ào một trong sáu cõi, chia ra ba

đường l

ành và ba

đường dữ

:

- Ba

đường l

ành:

(1) cõi Trời; (2) cõi Người; (3) cõi A-tu-la, tức là cõi thần-linh;

- Ba

đường dữ

:

(4)

điạ-ngục; (5) ngạ-

quỉ; (6) súc-sanh.

Tùy theo nghiệp lành hay dữ, chúng-sanh cứ trôi l

ăn m

ãi trong sáu cõi của Luân-hồi. Tu chứng

được quả-vị A-la-hán, mới dứt.

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 307:

Bài Kệ nói về các vị tỳ-kheo tu-hành chẳng

đứng-đắn, phạm giới-luật, gây tội-ác, n

ên phải sa vào

điạ-ngục. Sau một đời ở điạ-ngục rất lâu, lại phải tái-sanh l

àm ngạ-quỉ, chịu

đói-khát trong một đời nữa. Đó l

à ý-nghĩa r

ăn-dạy của hai câu

: "Vì nghiệp dữ

đẩy xô v

ào

điạ-ngục; Cảnh khổ nầy do ác-hạnh sanh ra.

" (Chữ "cảnh khổ nầy" ám-chỉ cảnh khổ của loài ngạ-quỉ.)

(225).- Tích chuyện các tỳ-kheo t

ăng-thượng-mạn.

Vào một thời kia,

Đức Phật ngụ nơi rừng Đại-lâm, xứ Tỳ-da-ly, trong kỳ một giảng-pháp, có đề-cập đến một nhóm tỳ-kheo tăng-thượng-mạn.

Thuở ấy, xứ Hoa-di

đang bị đói-kém, thực-phẩm khan-hiếm, dân chúng phải chịu đói khổ. Có một nhóm tỳ-kheo đến b

ên bờ sông Lạc-thuỷ, sống qua mùa an-cư kiết-hạ ở xứ

đó. Họ b

àn-luận cùng nhau làm cách nào

để được dân-chúng cúng-dường thực-phẩm đầy-đủ . Họ kháo l

ên rằng trong nhóm có người nầy

đ

ã chứng

được

Đạo, người kia

đ

ã

đắc được

Quả, vị nọ thường vào Thiền-

định.

Mỗi khi có dân-chúng

đến viếng, họ thưa gọi nhau bằng các

quả-vị, xưng-tụng

đạo-hạnh lẫn nhau, khiến cho dân-chúng lầm tin l

à họ

đ

ã thật-sự chứng-

đắc, n

ên bớt phần thực-phẩm trong nhà,

đem dâng-cúng dồi-d

ào cho họ.

Mãn mùa an-cư, chư T

ăng quay về tịnh-xá để đảnh-lễ Đức Phật. Ng

ài th

ăm hỏi chư tỳ-kheo, đ

ã trải qua mùa hè ra sao, tu-tập như thế nào. Hầu hết các vị tu-sĩ

đều xanh-xao v

ì thiếu

ăn trong ba tháng; chỉ ri

êng có nhóm tỳ-kheo sống bên bờ sông Lạc-thủy xem ra hồng-hào, lại có phần mập-mạp ra.

Đức Phật hỏi họ

: "Xứ Hoa-di

đang đói kém, chư Tăng ở b

ên sông Lạc-thủy có gặp khó-kh

ăn trong việc ăn-uống không

?" Họ thưa, không.

Đức Phật gạn hỏi lý-do, họ liền thưa lại việc họ gọi nhau bằng các

quả-vị, nên

được dân-chúng tin-tưởng cúng-dường đầy-đủ. Đức Phật hỏi lại

: "Trong số các ông

đây, ai đ

ã thật-sự chứng

được

Đạo, Quả?" Chẳng ai

đáp có. Đức Phật liền quở trách họ:

"Chưa chứng-

đắc m

à bảo là

đ

ã chứng-

đắc, đó l

à t

ăng-thượng-mạn,

tỳ-kheo phải dẹp bỏ lòng ngã-mạn mới chứng

được

Đạo, Quả."

Rồi

Đức Phật mới nói l

ên bài Kệ sau

đây

:

Thà nuốt hòn-sắt

đỏ lửa hồng,

Hơn

ăn vật-thực được cúng-dường,

Nếu chưa giữ

được tr

òn giới-hạnh:

Nghĩ, nói, làm, xấu cả ba

đường.

(Kệ số 308.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- T

ăng-thượng-mạn: Tăn

g = gia-t

ăng, th

êm; Thượng = trên; Mạn = kiêu-c

ăng, quá tự-cao.

T

ăng-thượng-mạn

là nết xấu hay khoe-khoang, của kẻ tu-hành, chưa chứng-

đắc quả-vị m

à tự nhận

đ

ã chứng-

đắc.

-Rừng

Đại-lâm, xứ Tỳ-da-ly:

khu rừng lớn, tiếng Pali là Mahàvana trong xứ Vesàli, miền Bắc của Ấn-

độ xưa.

- Xứ Hoa-di, sông Lạc-thuỷ: phiên-âm và dịch gượng hai

điạ-danh nầy; tiếng

Pali là xứ Vaggis, sông Vaggumudà ( =khả-ái và an-vui.)

- An-cư kiết-hạ: An-cư = ở yên; kiết-hạ = qua mùa hè.An-cư kiết-hạ: ở Ấn-

độ m

ùa hè, mưa dầm, côn trùng sinh-sản nhiều, tỳ-kheo chẳng

đi ra ngo

ài

để khất-thực, ngại đạp chết côn-tr

ùng, lưu lại tịnh-xá lo tu-tập, sống nhờ sự cúng-dường của các tín-

đồ. Cứ mỗi m

ùa an-cư như thế, người tu t

ăng th

êm một tuổi-

đạo,

được gọi là lạp-tuế.

-

Đạo, Quả: Đạo

= đường, đường-lối, cách-thức tu-hành; Quả = kết-quả việc tu-hành

đ

ã thành-công. Có bốn Đạo: Tu-

đ

à-huờn-hướng, Tư-

đ

à-hàm-hướng, A-na-hàm-hướng, A-la-hán-hướng và bốn Quả Tu-

đ

à-huờn-quả, Tư-

đ

à-hàm-quả, A-na-hàm-quả và A-la-hán-quả.

- Thiền-

định:

tu Thiền

đắc

định;

khi ngồi Thiền, tâm an-

định

- Ngã-mạn: tự-cao, phách-lối, coi cái Ngã ( =Ta) của mình là hơn hết

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện thuật lại mưu-mô của các tỳ-kheo t

ăng-thượng-mạn,

gọi nhau bằng các quả-vị còn chưa xứng vì họ chưa chứng

được, với mục-đích l

à

để dân-chúng lầm họ đ

ã

đắc đạo m

à cúng-dường nhiều. Họ bị

Đức Phật quở về tội

t

ăng-thượng-mạn

đó.

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 308:

Bài Kệ khuyên các vị tu-hành phải tự-xét

đức-hạnh của m

ình có

đầy-đủ mới dám nhận lễ-vật cúng-dường của các tín-đồ hiến-tặng.

1) Hai câu

đầu:

thà chịu

đói-khát chớ chẳng lạm-nhận của cúng-dường. Tại sao

? Vì người

đi tu m

à lạm-nhận, sẽ bị sa vào điạ-ngục., để phải nuốt hòn sắt nóng

đỏ.

2) Hai câu chót nhắc nhở

đến

ba nghiệp: thân, miệng, ý có trong-sạch, thì giới-

đức

mới

được

tròn vẹn.

(226).- Tích chuyện thanh-niên Khê-ma-ca.

Vào một thời kia,

Đức Phật ngụ tại ch

ùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có

đề-cập đến ch

àng thanh-niên

đẹp trai, tánh hay trăng-gió, t

ên là Khê-ma-ca.

Khê-ma-ca là con nhà giàu-có, gọi cư-sĩ Cấp-cô-

độc bằng bác. Dáng-vóc đẹp trai, ăn nói duy

ên-dáng, nên Khê

được nhiều phụ-nữ trong v

ùng mê-say, do

đó Kh

ê

đ

ã phạm nhiều lần tội thông-dâm với kẻ

đ

ã có chồng.

Đ

ã bị bắt quả-tang cả ba lần, nhưng nhà chức-trách nể-nang cư-sĩ Cấp-cô-

độc, n

ên chẳng truy-tố Khê về tội gian-dâm. Nhưng lần phạm tội sau cùng, cư-sĩ Cấp-cô-

độc bắt dẫn Kh

ê-ma-ca

đến tr

ình

Đức Phật. Đức Phật giảng cho Kh

ê-ma-ca biết sự

đồi-bại của tội t

à-dâm và các hậu-quả nặng-nề mà gian-phu, dâm-phụ phải chịu.

Rồi

Đức Phật nói l

ên hai bài Kệ sau

đây

:

Bốn

điều bất-hạnh đang chờ-chực

Kẻ dể-duôi dâm-dật vợ người:

Mang tai-hoạ, ngủ

đâu y

ên giấc,

Ba: bị trách; bốn: sa

điạ-ngục.

(Kệ số 309.)

Mang tai-hoạ, phải

đọa v

ào

đường dữ,

Vui phút giây,

đôi dâm-đ

ãng phập-phồng;

Vua lại ban-hành cực-hình xét-xử.

Vậy,

đừng phạm tiết những ai có chồng.

(Kệ số 310.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Khê-ma-ca: tên chàng thanh-niên nầy, tiếng Pali là Khemaka.

- Tánh hay tr

ăng-gió:

nghĩa bóng là ham thích thú-vui với phụ-nữ

- Cư-sĩ Cấp-cô-

độc:

vị cư-sĩ nổi tiếng nầy, thường giúp

đỡ kẻ cô-đơn, cất ch

ùa Kỳ-viên; tên tiếng Pali là Anàthapindika.

- Thông-dâm, gian-dâm, tà-dâm: Dâm = sự giao-hợp giữa trai gái Gian-dâm, tà-dâm là tội-phạm lấy vợ hay lấy chồng của kẻ khác. Giới thứ ba của người tu tại-gia là cấm tà-dâm, phải có lòng trung-thành với nhau trong tình-nghĩa chồng-vợ.

Đối với kẻ xuất-gia,

giới-luật cấm hẳn việc dâm-dục, phải sống

độc-thân.

- Bắt quả-tang = bị bắt tại trận, bị bắt

đủ bằng-cớ đang phạm tội.

- Nể-nang = vị bụng, vì kính-nể mà bỏ qua chẳng nói

đến.

- Truy-tố = đưa ra xét xử để trị tội.

- Đồi-bại = xấu-xa, hư-hỏng

đáng phỉ-nhổ.

- Gian-phu, dâm-phụ: Gian-phu = đàn-ông gian; Dâm-phụ =đàn-bà dâm-đãng.

- Bất-hạnh: Bất = chẳng; Hạnh = may-mắn. Bất-hạnh = chẳng may

- Dể-duôi = thiếu sự tự kềm-chế, dễ theo

điều quấy.

- Dâm-

đ

ãng, Dâm-dật = chạy theo thú-vui thể-xác giữa trai gái.

- Cực-hình = hình-phạt nghiêm-khắc, nặng-nề.

- Phạm tiết: vi-phạm trinh-tiết; vì gian-dâm khiến mất sự trung-thành giữa vợ-chồng.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện thuật lại việc chàng Khê-ma-ca

đẹp trai, con nh

à giàu,

ăn nói có duy

ên, ham-thích việc gió-tr

ăng, phạm tội thông-dâm c

ùng phụ-nữ có chồng. Chàng

được người bác l

à cư-sĩ Cấp-cô-

độc dẫn đến nghe Đức Phật chỉ-dạy về tội-ác

tà-dâm cần tránh,

để khỏi bị các hậu-quả tai-hại, trong đó có việc sa v

ào

điạ-ngục l

à nặng-nề nhứt.

(2) Ý-nghĩa của hai bài Kệ số 309 và 310:

Hai bài Kệ kể ra những hậu-quả tại-hại của tội tà-dâm:

1) Hai câu

đầu của b

ài Kệ số 309 báo bốn

điều

bất-hạnh:

2) Câu thứ ba nêu ra hai hậu-quả: (1) mang tai-hoạ, vì người chồng trả thù; (2) ngủ chẳng yên-giấc, vì cứ lo-sợ lộ tội; (3) bị trách phạt; (4) sa vào

điạ-ngục.

3) Câu

đầu của b

ài Kệ số 310: "Mang tai-hoạ, phải

đoạ v

ào

đường dữ,

đó là sa vào điạ-ngục, chịu hình-phạt nặng và lâu ở cõi âm.

4) Câu "Vui phút giây,

đôi dâm-đ

ãng phập-phồng" cho thấy rõ thú-vui thể-xác rất ngắn-ngủi,

đâu b

ù lại sự lo-lắng kéo dài, sợ lộ tội.

5) Câu ‘’Vua lại ban-hành cực-hình xét-xử" nói rõ hình-phạt ngay trong hiện-

đời nầy, bị t

ù-tội theo luật-lệ trong xã-hội.

6) Câu chót là lời kết-luận:

đừng phạm tội

tà-dâm.

(227).- Tích chuyện vị tỳ-kheo xem nhẹ giới-cấm nhỏ.

Vào một thời kia,

Đức Phật ngụ tại ch

ùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có

đề-cập đến một vị tỳ-kheo hay khinh thường các giới-cấm nhỏ.

Thuở ấy, có một vị tỳ-kheo vô-ý cắt

đứt một nắm cỏ, phạm v

ào giới-luật cấm

đốn cây, nhổ cỏ, trong Tăng-đo

àn. Mặc dầu vị ấy

đ

ã theo

đúng thủ-tục thú-tội m

ình với bạn

đồng-tu rồi, nhưng trong tâm vẫn c

òn thắc-mắc, lo-ngại mình

đ

ã trót vi-phạm giới-luật. Một vị tỳ-kheo khác nghe than-thở, mới bảo: "Một vi-phạm nhỏ vào giới-luật, theo

đúng thủ-tục thú-tội xong, th

ì kể như giới-

đức đ

ã

được thanh-tịnh rồi, có chi m

à phải thắc-mắc. Vả lại, nhổ cỏ là việc nhỏ, chẳng quan-trọng gì, nè, tôi thử nhổ cho bạn xem." Nói xong, vị ấy cúi xuống vừa bứt một nắm cỏ, miệng vừa cười.

Sự-việc

đó đến tai Đức Phật. Ng

ài cho gọi vị tỳ-kheo cố-tình nhổ cỏ ấy

đến quở trách v

à nói lên ba bài Kệ sau

đây

:

Ai vụng nắm cỏ kusa,

Bàn tay bị cỏ cắt

đứt.

Cùng thế ấy,

đ

ã xuất-gia

Hạnh Sa-môn mà lơ-là

Ắt phải sa

điạ-ngục.

(Kệ số 311.)

Một hành-

động l

àm cho có lệ,

Giữ giới-

đức bị ô-nhiễm tệ,

Sống Phạm-hạnh một cách khả-nghi,

Chứng

được quả cao, đâu có lẽ

!

(Kệ số 312.)

điều cần phải l

àm, làm ngay,

Làm h

ăng say, l

àm hết n

ăng-lực.

Sống cuộc

đời tu-sĩ phóng-dật,

Chỉ làm t

ăng cát bụi tung bay.

(Kệ số 313.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Khinh thường = xem nhẹ, chẳng coi là quan-trọng chi cho lắm.

- Cấm

đốn cây, nhổ cỏ:

đây là một giới-cấm Phật đặt ra, để tránh sự sát-hại các loại côn-trùng sống dưới mặt đất.

- Thủ-tục thú-tội: theo Luật-tạng, các gìới-luật được phân ra thành trọng-cấm khinh-cấm. Các tội n

ăng như tội

dâm, tội sát-sanh nếu phạm phải sẽ bị trục-xuất khỏi T

ăng-đo

àn. Các tội nhẹ, như nhổ cỏ, chỉ cần thưa thiệt với vị tỳ-kheo

đồng-tu, tỏ l

òng sám-hối là

đủ.

- Giới-

đức thanh-tịnh:

giữ cho hạnh-kiểm, thái-

độ của m

ình

được đứng-đắn, chẳng bị tội-lỗi l

àm dơ-bẩn.

- Cỏ kusa: một loại cỏ có mùi thơm, lá bén như lá xả.

- Xuất-gia: Xuất = ra khỏi; Gia = nhà, gia-

đ

ình. Bực xuất-gia là người

đ

ã rời bỏ cuộc sống trong nhà,

đi tu.

- Hạnh Sa-môn: Hạnh = giới-hạnh, hạnh-kiểm; Sa-môn = tu-sĩ Phật-giáo. Chữ Sa-môn có ba ý-nghĩa: (1) cần-giả, siêng làm việc lành; (2) tức-giả, thôi chẳng làm việc ác; (3) bần-giả, nguyện chịu nghèo-khổ

để tu-h

ành.

- Làm cho có lệ = làm qua loa, chẳng chú tâm vào; như tụng kinh, miệng

đọc thuộc l

òng mà bụng lo ra, nghĩ

đến việc ... đi chợ.

- Ô-nhiễm tệ: Ô = đen, dơ; Nhiễm = dính, lây; Tệ = xấu, dở.

- Phạm-hạnh: hạnh tu thanh-tịnh, nguyện dứt bỏ hẳn sự dâm-dục

- Khả-nghi: đáng ngờ-vực, khó tin được.

- Phóng-dật: buông-lung, chẳng siêng-n

ăng, cố-gắng chi cả.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Ý-nghĩa của Tích chuyện là chớ xem thường mọi

điều g

ìới-cấm, dầu nặng, dầu nhẹ, lúc nào cũng phải tuân-phục. Vì nếu tỏ ra lơ-là, giới-

đức sẽ bị nhiễm-ô, mất sự thanh-tịnh.

(2) Ý-nghĩa của ba bài Kệ số 311, 312 và 313:

Bài Kệ số 311 khuyên ta chớ lơ-là trong việc giữ gìn giới-luật, vì nếu

đ

ã nguyện giữ mà lại phá giới, sẽ bị tội sa vào

điạ-ngục

. Hai câu: "Ai vụng nắm cỏ kusa, Bàn tay bị cỏ cắt

đứt

" so-sánh sự sắc-bén của giới-luật với lá cỏ bén kusa; nếu chẳng khéo cầm-giữ sẽ bị

đứt tay.

Bài Kệ số 312 chê-trách kẻ tu-hành giữ giới-luật một cách lấy lệ, làm cho có chừng vậy thôi. Thái-

độ lơ-l

à nầy dễ khiến giới-

đức bị

nhiễm-ô, mất cả sự thanh-tịnh. Hậu-quả là chẳng thể nào chứng

được đạo-quả.

Bài Kệ số 313 khuyên nên tu-hành cho thật tinh-tấn:

- "Có

điều cần phải l

àm, làm ngay":

điều chi?

Đó l

à việc giữ gìn giới-

đức thanh-tịnh để chóng đến ng

ày giác-ngộ và giải-thoát.

- "Làm h

ăng-say, l

àm hết n

ăng-lực

":

đấy là thái-độ tinh-tấn của người tu-hành

đang gắng sức, chẳng có lúc n

ào lơ-là cả.

- "Sống cuộc

đời tu-sĩ phóng-dật, Chỉ l

àm t

ăng cát-bụi tung bay

"

Cuộc

đời phóng-dật, ở đây, l

à chẳng biết, chẳng chịu, khép mình vào kỷ-luật của giới-

đức.

Như thế chỉ làm t

ăng th

êm tội-lỗi, ví như cát-bụi dơ-bẩn tung bay lên, nêu gương xấu cho dân-chúng.

HỌC TẬP:

Tuy Tích chuyện cùng ba bài Kệ nói

đến các vị xuất-gia tu-h

ành, nhưng chúng ta cũng rút ra

được những b

ài học nhỏ về việc giữ gìn giới-luật cho người tu tại-gia.

1) Người Phật-tử tu tại nhà phải giữ trọn ngũ-giới gồm có: (1) chẳng sát-sanh; (2) chẳng trộm-cắp; (3) chẳng tà-dâm; (4) chẳng nói dối; (5) chẳng uống rượu. Đây là năm điều căn-bản của việc tu-hành tại-gia, có là bao, khi so-sánh với 250 điều của tỳ-kheo và 350

điều của

tỳ-kheo-ni của các bực xuất-gia.

2) Xin kể vài

điểm lơ-l

à thường thấy trong việc giữ ngũ-giới:

-

ăn chay

để tránh sát-sanh; tối đói bụng, nói

"Tối rồi, Phật

đi ngủ, m

ình cứ

ăn tô phở nhỏ cho hết xót ruột

!"

- cấm trộm-cắp

để diệt l

òng tham; trong sở sẵn giấy trắng, cứ lấy vài tờ ra viết thơ cho bạn, có hề chi!

- cấm tà-dâm

để giữ l

òng trong-sạch, lại thích làm bộ lỡ

đụng nh

è-nhẹ vào người

đẹp khác phái

!

- cấm nói dối

để tôn-trọng sự-thật; đi xa về kể chuyện thường th

êm-thắt vài chi-tiết vẽ-vời ra, cho câu chuyện thêm ... dòn!

- cấm uống rượu

để trí-óc được sáng-suốt; trong buổi tiếp-tân, pha rượu loảng nhâm-nhi chơi, chút đỉnh m

à, nào có hại chi

đâu

!

(228).- Tích chuyện người vợ ghen-tuông.

Vào một thời kia,

Đức Phật ngụ tại ch

ùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có

đề-cập đến việc một người đ

àn-bà tánh hay ghen-tuông, hành-hạ một

đứa tớ gái.

Thuở ấy ở nước Xá-vệ có một người

đ

àn-bà tánh hay ghen-tuông, nghi chồng mình tằng-tịu với

đứa tớ gái. B

à ta bắt

đứa tớ, đem trói lại, tra khảo, rồi trong cơn ghen-giận, b

à xẻo tai, cắt mũi nó,

đem giam nó v

ào phòng tối. Sau

đó, b

à theo chồng

đến ch

ùa

để lạy Phật.

Một lát sau, thân-nhơn của

đứa tớ gái, đến nh

à chủ

để thăm nó, nghe tiếng nó r

ên la trong phòng tối, mới vào cổi trói cho nó và dẫn nó

đến ch

ùa, thưa trình cùng Phật. Bấy giờ

Đức Phật đang giảng pháp cho đông-đảo tín-đồ ngồi nghe. Sau thời pháp, thân-nhơn đứa tớ gái tr

ình Phật sự-thể vì sao nó bị hành-hạ tàn-nhẫn như thế. Rồi họ chỉ vào thân-thể tiều-tuỵ, bị

đánh-đập nhiều vết thương-tích tr

ên mặt của

đứa tớ gái cho mọi người trông thấy. Đức Phật bảo

: "Nầy chư thiện-nam, tín-nữ, chớ nên làm

điều ác, v

ì

điều ác dầu dấu kín mấy đi nữa, cũng lộ ra sau nầy v

à

đem lại đau-khổ ray-rứt cho người

đã làm ác. Còn việc thiện dầu âm-thầm làm, cũng mang lại hạnh-phúc và yên-vui."

Rồi

đó Đức Phật mới nói l

ên bài Kệ sau

đây

:

Việc ác, tốt hơn, nên bỏ dứt,

Trót làm sanh ray-rứt trong lòng.

Việc thiện, tốt hơn, làm lập-tức,

Chẳng hề hối-tiếc khi làm xong.

(Kệ số 314.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Ghen-tuông: nết xấu sợ chồng hay vợ mình thương-yêu kẻ khác

- Tằng-tịu = dan-díu tình-ái với kẻ khác một cách bất-chánh.

- Tra-khảo = đánh-đập để vặn hỏi.

- Thân-nhơn: người thân trong gia-

đ

ình.

- Tín-

đồ: Tín

= tin-tưởng; Đồ = đồ-đệ; học trò. Tín-

đồ

= kẻ theo

đạo.

- Thiện-nam, tín-nữ: Thiện = lành; Tín = tin-tưởng; Thiện-nam = đàn-ông làm lành; Tín-nữ = đàn-bà tin đạo. Ở đây, chỉ các tín-đồ.

- Ray-rứt: gây sự

đau-khổ kéo d

ài, ngấm-ngầm bên trong tâm.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện thuật lại việc người vợ ghen-tuông

đánh-đập, h

ành-hạ một

đứa tớ gái v

ì nghi nó dan-díu tình-ái với chồng mình, rồi giam nó trong phòng kín. Nhưng nó

được thân-nhơn giải-cứu, dẫn đến tr

ình cùng

Đức Phật. Đức Phật bảo

: "Việc ác dầu dấu kín, sớm muộn chi cũng lộ, rồi gây

đau khổ ray-rứt trong l

òng người làm ác..."

Ý-nghĩa của Tích chuyện là

đừng v

ì ghen-tuông mà có những hành-

động ác, h

ãy dẹp bỏ ngay sự sân-hận.

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 314:

Bài Kệ số 314, chẳng nói

đến việc đánh ghen trong Tích chuyện, chỉ phân-biệt r

õ hai hành-

động

thiện ác:

1) Việc ác sanh ray-rứt trong lòng: Tại sao? Vì người làm ác hối-tiếcđã gây đau-khổ cho người khác, trong lòng ray-rứt chẳng nguôi. Do đó, phải dứt bỏ ngay việc ác, mỗi khi ác-ý vừa khởi lên trong tâm.

2. Việc thiện nên làm ngay lập-tức: Tại sao? Nên làm, vì việc thiện

đem an-vui đến cho kẻ khác v

à cho mình. Phải làm ngay lập-tức, vì nếu chần-chờ làm việc thiện, cơ-hội

đi qua, sẽ mất dịp tạo th

êm nghiệp lành cho bản thân.

(229). Tích chuện càv Tỳ-kheo qua mùa an-cư nơi biên-ải.

Vào một thời kia,

Đức Phật ngụ tại ch

ùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có

đề-cập đến một nhóm Tỳ-kheo qua m

ùa an-cư tại một nơi xa-xôi gần biên-giới.

Thuở ấy, vào mùa an-cư kết-hạ, có một nhóm Tỳ-kheo

đến cư-trú tại một v

ùng gần biên-giới. Trong tháng

đ

àu của mùa mưa, họ

được dân-chúng trong v

ùng cung-cấp

đ

ày-

đủ thực-phậm v

à các tiện-nghi khác.

Vào tháng thứ hai, vùng biên-giới bị giặc-giã

đến cướp-phá, nhiều người dân bị giặc bắt đi. Dân chúng v

ì phải lo phòng-vệ cửa ải, cứu-trợ người bị thương, xây-dựng lại các nơi bị tàn-phá, nên chẳng thể cung-ứng

đầy-đủ cho chư Tăng. V

ì thế, các tỳ-kheo

đ

ã trải qua mùa an-cư trong thiếu-thốn, nhưng chẳng vì thế mà việc tu-tập bớt phần tinh-tấn.

Mãn mùa an-cư, chư T

ăng quay về ch

ùa, tường-trình lên

Đức Phật kết-quả tu-tập trong ba tháng h

è vừa qua.

Được biết chư Tăng gặp khó-khăn nơi bi

ên-ải,

Đức Phật bảo

: "Nầy chư tỳ-kheo, rất khó mà có

được đời sống vật-chất đầy-đủ đủ tiện-nghi m

à chẳng cần phải cố-gắng. Cũng như dân-chúng vùng biên-thuỳ

đ

ã phòng-vệ thị-trấn của họ, gìn-giữ cả bên trong thành cũng như bên ngoài ải, tỳ-kheo phải biết phòng-hộ thân-tâm mình, cả bên trong lẫn bên ngoài."

Rồi

Đức Phật mới nói l

ên bài Kệ sau

đây, nhờ đó một số tỳ-kheo nỗ-lực tu-tập m

à chứng

được quả-vị A-la-hán

:

Canh-phòng cửa ải ngoài biên-giới,

Phải canh cả trong thành ngoài ải.

Tự phòng-vệ mình, nào có khác.

Gặp dịp tốt học Pháp, chớ bỏ qua,

Lỡ dịp,

đau buồn khi sa c

õi ác.

(Kệ số 315.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

-Biên-ải, Biên-giới, Biên-thuỳ: Biên =ngoài bià, gần lằn ranh; Ải = đồn-binh giữ giặc; Giới, Thuỳ = ranh-giới. Biên-ải

đồn lính đóng ngo

ài biên-giới, để giữ vững biên-thùy cho

đất nước

.

- An-cư kiết-hạ: An-cư = ở yên; Kiết hạ = trải qua mùa hè. An-cư kiết-hạ là trong thời-gian ba tháng hè, mưa dầm, các tỳ-kheo chẳng ra ngoài

đi khất-thực, v

ì ngại

đạp chết côn-tr

ùng

đang sanh-sản nhiều, lưu lại nơi tịnh-xá để tu-tập, sống nhờ sự cúng-dường của tín-đồ.

- Phòng-vệ, phòng-hộ: Phòng = đề-phòng; Hộ =Vệ = giữ gìn.

- Cung-ứng = châu-cấp cho

đầy-đủ; tiếp-tế.

- Thị-trấn: Thị = chợ, thành-thị; Trấn = trấn-giữ; nơi

được canh chừng.

Thị-trấn là thành-phố

được tăng-cường việc ph

òng-thủ.

- A-la-hán: quả-vị thứ tư, cao nhứt của bực tu-hành

đ

ã diệt hết các phiền-não, vượt các chướng-ngại, lìa bỏ mọi ham muốn, chứng

được

vô-sanh ( = chẳng phải tái-sanh trong Luân-hồi nữa), sống tự-tại trong cảnh-giới Niết-Bàn. Tiếng Pali là Arahant.

- Pháp = Chánh-pháp, lời dạy của Phật ghi trong Kinh-kệ, chỉ rõ

đường-lối tu-h

ành

để được

giác-ngộ và giải-thoát.

- Cõi ác: ba

đường dữ trong Luân-hồi: điạ-ngục, ngạ-

quỉ, súc-sanh.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện thuật lại mùa an-cư kiết-hạ của một nhóm tỳ-kheo

đến sống gần bi

ên-giới. Họ gặp phải khó-kh

ăn trong vấn-đề ăn-uống, v

ì dân-chúng phải lo phòng-vệ cửa ải, nên chẳng cung-ứng

đủ thực-phẩm. Đức Phật nhơn chuyện đó, dạy các tỳ-kheo phải biết ph

òng-hộ thân-tâm mình, cũng như dân-chúng phòng vệ cửa ải, bên trong cũng như bên ngoài.

Ý-nghĩa của Tích chuyện là việc phòng-hộ thân-tâm phải luôn luôn gìn-giữ và

điều-phục

tâm bên trong cũng như các c

ăn

bên ngoài.

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 315:

Bài Kệ số 315 khuyên ta nên phòng-hộ thân-tâm ta cũng như dân-chúng vùng biên-giới phòng-vệ cửa ải, cả trong thành lẫn ngoài ải. Như thế, người tu-hành phải, bên ngoài điều-phục các căn, bên trong tỉnh-giác, giữ chánh-niệm trong tâm. Nhưng cách phòng-vệ hữu-hiệu và bền-lâu nhứt, chính là việc học-tập Chánh-pháp; nếu có dịp

được nghe Pháp m

à bỏ qua, về sau hối-tiếc

đ

ã quá muộn, khi

đau-khổ phải sa v

ào ba

đường ác của c

õi Luân-hồi.

HỌC TẬP:

1) Điều-phục các căn như thế nào? Mắt đừng chạy theo cảnh; tai đừng mê âm-thanh; mữi chớ quá thích mùi thơm; lưỡi chớ thèm vật ngon-ngọt quá; tay chớ ham sờ vật êm-láng;

để giữ cho

tâm yên.

2) Điều-phục tâm như thế nào? Luôn giữ chánh-niệm theo hơi thở ra vào nhẹ-nhàng, khiến cho tâm an-tịnh, chẳng vọng-

động.

(230).- Tích chuyện nhóm loã-thể Ni-kiền-tử.

Vào một thời kia,

Đức Phật ngụ tai ch

ùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong kỳ giảng-pháp, có

đề-cập đến nhóm tu-sĩ lo

ã-thể Ni-kiền-tử.

Thuở ấy có nhóm tu-sĩ loã-thể Ni-kiền-tử

đi khất-thực, tay cầm b

ình bát có miếng vải nhỏ che bên trên, mình chỉ quấn khố che hạ-bộ. Các vị tỳ-kheo trông thấy, bảo: ‘Các vị tu-sĩ Ni-kiền-tử có khố che phiá dưới, trông ra có phần trang-nhã hơn các ẩn-sĩ loã-lồ." Các tu-sĩ Ni-kiền-tử

đáp

: "Chúng ta che phiá dưới thân-thể, chẳng phải là vì sợ xấu-hổ

đâu. Chúng ta lấy vải đậy b

ình bát lại là

để tránh bụi-bặm, v

ì trong bụi-bặm vẫn có sự-sống."

Khi trở về chùa, các vị tỳ-kheo trình lại Phật những

điều các tu-sĩ Ni-kiền-tử đ

ã nói.

Đức Phật bảo

: "Nầy chư T

ăng, bọn Ni-kiền-tử chỉ che hạ-bộ m

à chẳng biết thẹn ở chỗ

đáng thẹn, họ lại che b

ình bát, thẹn ở nơi chẳng

đáng thẹn. Vướng-mắc t

à-kiến như thế, họ sẽ sa vào

đường dữ của Luân-hồi.

"

Rồi

Đức Phật mới nói l

ên hai bài Kệ sau

đây, v

ài người trong nhóm Ni-kiền-tử nghe hiểu

được, mới xin quy-y Tam-Bảo

:

Chẳng

đáng hổ-ngươi m

à lại thẹn,

Việc

đáng thẹn m

à lại trơ-trẻn.

Tà-kiến

đó, chúng-sanh n

ào ôm-ấp

Sẽ

đoạ v

ào cõi thấp, khi tái-sanh.

(Kệ số 316.)

Chẳng

đáng sợ m

à lại hãi-hùng,

Việc

đáng gh

ê mà lại dửng-dưng.

Tà-kiến

đó, chúng-sanh n

ào ôm-ấp,

Sẽ

đoạ v

ào cõi thấp, khi tái-sanh.

(Kệ số 317.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Loã-thể Ni-kiền-tử: Loã = loã-lồ, chẳng che-

đậy;

Thể = thân-thể; Ni-kiền-tử = phiên-âm tên nhóm tu-sĩ loã-thể, tiếng Pali là Nigantha.

- Khất-thực: Khất =đi xin, Thực = ăn. Theo giáo-lý nhà Phật, các tỳ-kheo theo hạnh khất-sĩ, hạ mình xuống

đi xin ăn, để diệt l

òng tự-ái và có dịp gặp dân-chúng

để chỉ-dạy Chánh-pháp cho họ.

- Bình bát: tô chén lớn như cái nồi, bằng sành, bằng gỗ hay bằng

đồng, d

ùng

đựng thức-ăn khi xin được.

- Khố = mảnh vải nhỏ và dài, che phiá dưới, chẳng mặc quần.

- Hạ-bộ: Hạ = dưới, Bộ = bộ-phận. Hạ-bộ tức là bộ-phận sanh-dục

-Tà-kiến: Tà = xiêng-xéo; Kiến = ý-tưởng; Tà-kiến là ý-tưởng sai-lầm

- Đường dữ: Luân-hồi có ba

đường dữ, điạ-ngục, ngạ-

quỉ, súc-sanh

- Quy-y Tam-Bảo: Quy-y = Quy = trở về; Y = nương-tựa; Tam =ba; Bảo = ngôi báu.

Đó l

à quay về nương-tựa nơi Phật, Pháp và T

ăng.

- Hổ-ngươi = thẹn, mắc-cở.

- Trơ-trẻn: chẳng biết thẹn, chẳng biết mắc-cở, chai-lỳ lắm!

- Hãi-hùng: sợ-hãi lắm, ghê-sợ nhiều.

- Dửng-dưng = chẳng hề cảm-

động, chẳng động tâm, trơ-trơ.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện mô-tả thái-

độ chẳng đứng-đắn của nhóm lo

ã-thể Ni-kiền-tử, chẳng thẹn chỗ

đáng thẹn, lại thẹn chỗ chẳng đáng thẹn. Đức Phật dạy, thẹn v

à chẳng biết thẹn như thế, cùng với sự sợ và chẳng sợ

đúng chỗ l

à

đang vướng phải hai t

à-kiến, sẽ

đưa ta v

ào cõi thấp trong Luân-hồi, khi tái-sanh.

Ý-nghĩa của Tích chuyện là phải gạt bỏ các tà-kiến, biết thẹn và sợ-hãi, khi lỡ làm việc ác.

(2) Ý-nghĩa của hai bài Kệ số 316 và 317:

Hai bài Kệ giống nhau ở hai câu chót: đưa ta tái-sanh vào đường thấp, và khác nhau ở chỗ thẹn sợ chẳng

đúng chỗ.

Vướng vào hai tà-kiến thẹn và sợ chẳng

đúng chỗ

nầy, là vì chẳng thông-hiểu Chánh-pháp, chưa phân-biệt rõ

điều

chánh với

điều

tà.

HỌC TẬP:

Ứng-dụng: (1) biết thẹn khi lầm-lỗi; chẳng hề thẹn : màu da, nòi-giống, tật-nguyền, nghề lao-

động, cảnh ngh

èo-khó. (2) biết sợ các

đ

ìều ác mà tránh; chẳng hề sợ vì: ma nhát, bạo-quyền, sự giàu-sang của kẻ khác cùng sự kỳ-thị.

(231).- Tích chuyện nhóm người dị-giáo.

Vào một thời kia,

Đức Phật ngụ tại ch

ùa Cây Sung, trong một kỳ giảng-pháp, có

đề-cập đến nhóm người theo Dị-giáo.

Thuở ấy, những người theo Dị-giáo thường dạy con cháu họ, chớ nên chơi

đ

ùa với những

đứa trẻ theo Phật-giáo, chẳng được v

ào chùa Kỳ-viên, chẳng nên chào-kính các vị tỳ-kheo. Một hôm, lũ trẻ nô-

đ

ùa ngoài sân chùa, có một số khát nước, muốn nhờ các trẻ theo

đạo Phật, v

ào chùa lấy nước

đem ra cho chúng giải-khát. Một đứa đi v

ào chùa, gặp

Đức Phật, Ng

ài bảo nó cứ trở ra mời bọn trẻ vào chùa mà uống nước. Cả bọn

đồng v

ào trong. Sau khi chúng

đ

ã uống xong,

Đức Phật hỏi han từng đứa v

à nhơn

đó t

ùy theo sự hiểu-biết mỗi

đứa m

à giảng pháp cho chúng nghe. Bọn trẻ nghe hiểu, tỏ lòng quy-ngưỡng ba ngôi báu: Phật, Pháp và T

ăng.

Về nhà, mấy

đứa trẻ rất thích-thú, kể lại cho cha mẹ chúng nghe. Cha mẹ chúng phần đông ít học, hoảng-sợ l

ên: "Thôi rồi, trẻ con nhà mình bị Phật quyến-rũ, từ nay mình sẽ mang tiếng là phản-

đạo mất rồi.

" Họ khóc lên, kể lể; người hàng xóm nghe

được, khuy

ên họ dẫn con lên chùa gặp

Đức Phật. Họ nghe lời, đến ch

ùa Kỳ-viên, lại

được Đức Phật giảng cho nghe giáo-lý rồi Ng

ài nói lên hai bài Kệ sau

đây, khiến cho cả cha con người theo Dị-giáo đều xin quy-y Tam-Bảo

:

Chẳng sái-quấy lại bảo là sai,

Việc lỗi-lầm, lại bảo

đúng ngay.

Tà-kiến

đó, chúng-sanh n

ào ôm giữ

Sẽ sa vào cõi dữ, khi tái-sanh.

(Kệ số 318.)

Sai, bảo là sai.

Phải, bảo là phải.

Ai biết giữ chánh-kiến nầy

Vào cõi lành, khi sanh lại.

(Kệ số 319.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Dị-giáo: Dị = khác; Giáo = tôn-giáo. Dị-giáo là tôn-giáo khác với

Đạo Phật; tạm dịch từ tiếng

Pali là Titthi.

- Chùa Cây Sung: tạm dịch từ tiếng Pali là Nigrodàràma, (Nigrodha là loại cây lớn như cây da, có trái giống trái sung.)

- Quy-ngưỡng: Quy = quay về; Ngưỡng = ngưỡng-mộ, kính-trọng.

- Tam-Bảo = Ba ngôi báu: Tam = ba; Bảo = quí-báu. Tam-Bảo là ba ngôi quí-báu: (1)Đức Phật, bực

đại-giác, (2)

Chánh-pháp, lời Phật dạy

đường-lối giác-ngộ v

à giải-thoát;(3) T

ăng-gi

à,

các

đệ-tử tu-h

ành theo

đúng đường-lối của Phật.

- Quy-y: Quy = quay về; Y = nương-tựa. Quy-y là tìm về nương-tựa tinh-thần vào ngôi Tam-bảo.

- Cõi dữ: có ba cõi dữ trong Luân-hồi: (1)

điạ-ngục, ngạ-quỉ (

=quỉ

đói), súc-sanh (

=thú-vật). Cõi dữ,

đường dữ,

tiếng Pali: Duggati

- Cõi lành: ba cõi lành: (1) cõi Người; (2) cõi A-tu-la, thần-linh (Asura); (3) cõi Trời. Cõi lành,

đường l

ành, tiếng Pali là Suggati.

- Chánh-kiến: Chánh = chơn-chánh,

đứng-đắn;

Kiến = kiến-thức. Có chánh-kiến là có kiến-thức ( = nghe thấy, hiểu-biết) thật

đúng-đắn.

Chánh-kiến đứng đầu trong Bát-chánh-

đạo,

con

đường Thánh đưa ta đến cảnh-giới Niết-b

àn. (Pali: Sammaditthi = Chánh-kiến.)

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện thuật lại cơ-duyên rất may-mắn của nhóm người ngoại-

đạo theo Dị-giáo, được Đức Phật dạy cho Chánh-pháp, biết r

õ con

đường

giác-ngộ và giải-thoát. Họ bỏ

được t

à-kiến mê-tín, noi theo Chánh-kiến mà quy-y Tam-Bảo.

Ý-nghĩa của Tích chuyện: rời bỏ tà-kiến của Dị-giáo

để theo

Chánh-kiến của

đạo Phật giải-thoát, đó chẳng phải l

à "phản-

đạo

", mà là sự sáng-suốt và can-

đảm biết thoát khỏi sự r

àng-buộc của mê-tín.

(2) Ý-nghĩa của hai bài Kệ số 318 và 319:

Hai bài Kệ nêu rõ sự khác nhau giữa tà-kiến chánh-kiến: sai, bảo là sai;

đúng, bảo l

à

đúng.

Tà-kiến

đưa ta v

ào cõi dữ, chánh-kiến dắt ta theo

đường

lành. (Tưởng ta nên học thuộc lòng hai bài Kệ nầy).

-ooOoo-

XXIII.- Phẩm VOI.

(232).- Tích chuyện bà Mã-can-di-hoa.

Tích chuyện nầy hơi giống với Tích chuyện số (15): Hoàng-hậu Sa-mã-hoa.

Vào một thời kia,

Đức Phật ngụ tại tu-viện Cô-si-ta, nước Cô-sâm-bi, trong một kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến b

à Mã-can-di-hoa.

Thuở ấy ở nước Cô-sâm-bi có một thiếu-nữ tên là Mã-can-di-hoa nhan-sắc rất lộng-lẫy,

được nhiều vương-tôn, công-tử gấm-ghé. Cha cô c

òn chưa ưng gả cho ai,

đến khi ông trông thấy dáng-mạo trang nghi

êm của

Đức Phật, tr

ên

đường khất-thực, ông liền ngỏ lời cầu-thân c

ùng

Đức Phật. Đức Phật từ chối v

à bảo: "Đối với tấm thân bên trong đầy chất dơ-bẩn, nước tiểu và phẩn, ta chẳng muốn để chơn ta đụng phải." Trước lời nói thẳng-thắn của

Đức Phật, cha mẹ cô M

ã-can-di-hoa sực tỉnh-ngộ, hiểu

được lẽ vô-thường của sắc-thân, chứng được quả-vị A-na-h

àm; nhưng cô Mã bị chạm tự-ái, rất c

ăm-hận Đức Phật, nguyện sẽ trả th

ù.

Về sau, cô Mã

được chọn v

ào hoàng-cung, vua Ưu-

đề-na phong l

àm vương-phi. Khi hay tin

Đức Phật v

à chư T

ăng đến xứ Cô-sâm-bi, cô M

ã liền cho thuê nhiều tay du-

đ

ãng cứ

đi theo sau lưng Đức Phật, d

ùng lời thô-tục mà nhục-mạ Ngài. Tôn-giả A-nan chịu chẳng nổi các lời bỉ-ổi, hỗn-láo với

Đức Phật như thế, mới xin Phật h

ãy rời thành Cô-sâm-bi

đi sang xứ khác. Đức Phật từ-tốn nói

: ‘Nầy A-nan,

đi sang nơi khác, rồi cũng bị nhục-mạ nữa, th

ì phải làm sao? Chi bằng, cứ giải-quyết vấn-

đề khó-khăn ngay tại đây. Cũng như con voi xông-pha t

ên

đạn tứ phía ngo

ài mặt trận, ta vẫn thản-nhiên kiên-nhẫn hứng chịu các lời nói nhục-mạ kia, từ cửa miệng của bọn người còn thiếu

đạo-đức

!"

Rồi

Đức Phật nói l

ên hai bài Kệ sau

đây, khiến cho bọn du-đ

ãng biết hối lỗi mà tự giải-tán:

Như voi chiến xông ngoài trận-mạc,

Hứng lằn tên, mũi

đạn tơi-bời,

Như-Lai chịu phỉ-báng mọi lời

Của những người vẫn còn

đức bạc.

(Kệ số 320.)

Voi, ngựa thuần mới

đem dự hội.

Con nào nhuần-nhã

được Vua cởi.

Quí nhứt, người

đ

ã luyện tinh-thông

Nhẫn-nhịn chịu mọi lời chửi-bới.

(Kệ số 321.)

Ngựa rặc giống, la con thuần nết,

Đại-tượng ngà dài, đều quí hết.

Nhưng tối-thượng lại chính là người

Trang-nghiêm giới-

đức, tự điều-tiết.

(Kệ số 322.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Mã-can-di-hoa: tên người

đẹp nầy, tiếng

Pali là Màgandiyà.

- Tu-viện Cô-si-ta, nước Cô-sâm-bi: tên ngôi chùa nầy, tiếng Pali là Ghositàràma, ở nước Kosambi, thuộc miền Bắc Ấn-

độ xưa.

- Vương-tôn = cháu vua; Công-tử = con quan.

- Gấm-ghé: muốn xin cưới làm vợ.

-Cầu-thân: nghĩa rộng ở

đây l

à muốn gả con

để l

àm thân với nhau

- Tỉnh-ngộ: Tỉnh = hết mê; Ngộ = hiểu

được Sự-thật. Người

tỉnh-ngộ là người nhận ra trước mình lầm, nay biết

được Sư-thật.

- Sắc-thân = tấm thân vật-chất.

- Vô-thường: chẳng bền-chặt, hay biến-

đổi để đi đến hoại-diệt

- A-na-hàm: quả-vị thứ ba, còn

được dịch l

à Bất-lai, chẳng phải bị tái-sanh vào cõi người nữa, sanh lên trời, tu tiếp

để chứng

A-la-hán. A-na-hàm, tiếng Pali là Anàgàmi.

- Vua Ưu-

đề-na:

tên vua xứ Cô-sâm-bi, tiếng Pali là Udena.

- Vương-phi = vợ vua.

- Du-

đ

ãng = côn-

đồ, bọn du-côn hay phá l

àng, phá xóm.

- Từ-tốn: nói-n

ăng chẫm-r

ãi,

điềm-đạm, chẳng hề tức-giận.

- Thản-nhiên: tâm yên-tịnh, lời nói hiền-hoà, lòng chẳng hờn-giận, dửng-dưng.

- Kiên-nhẫn = bền-chí.

- Nhục-mạ = nói lời xấu-ác nặng-nề

để người nghe buồn-l

òng.

- Giải-tán = bỏ

đi chỗ khác.

- Trận-mạc = bãi chiến-trường, nơi

đánh giết nhau.

- Như-Lai: tiếng

Đức Phật tự xưng khi nói với kẻ khác; tiếng

Pali là Tathàgata.(Như = như thế; Lai = đến; Người đã đến đây như thế vậy.)

-

Đức bạc

= thiếu

đức-hạnh, đạo-đức c

òn mỏng-mảnh.

- Thuần = Nhuần-nhã = được luyện tập kỹ-lưỡng rồi, dễ sai-khiến.

- Rặc giống = (loài thú) chẳng lai giống, thuần một nòi, rất quí.

- La = giống lai giữa ngựa và lừa.

- Đại-tượng = con voi lớn.

- Ngà = một cặp r

ăng nanh d

ài của voi, màu trắng

đục, rất đẹp.

- Tối-thượng: Tối = hết sức, bực nhứt; Thượng = cao, trên. Tối-thượng là cao-quí nhứt, chẳng chi hơn

được.

- Tự

điều-tiết: Tự

= chính mình; Điều = điều-phục, điều-khiển; Tiết = tiết-chế, chế-phục. Tự

điều-tiết

là tự mình biết giữ lấy kỷ-luật nghiêm-khắc, chẳng

để sơ-hở m

à phạm lỗi.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện thuật lại việc bà Mã-can-di-hoa c

ăm-hận Đức Phật đ

ã chẳng khen bà

đẹp, lại thẳng-thắn nói l

ên Sự-thật về tấm thân bất-tịnh của bà, bên trong chứa nhiều chất dơ-bản, nên bà mướn du-

đ

ãng theo chủi-rủa

Đức Phật. Ng

ài thản-nhiên, kiên-nhẫn chịu

đựng các lời nhục-mạ thô-tục của bọn côn-đồ mất dạy.

Ý-nghĩa của Tích chuyện dạy ta phải biết nhẫn-nhục khi nghe lời mắng-nhiếc, chẳng hờn-giận, chẳng

để dạ th

ù-oán.

(2) Ý-nghĩa của ba bài Kệ số 320, 321 và 322:

Cả ba bài Kệ

đều dạy ta n

ên nhẫn-nhục, nghe lời nhục-mạ mà chẳng khởi tâm lên tức-giận, chẳng hề

để dạ căm-th

ù. Thái-

độ nhẫn-nhục nầy được Đức Phật so-sánh với sự d

õng-mãnh của con voi trận, sẵn-sàng hứng chịu lằn tên, mũi

đạn chẳng chút nao-núng.

Ý-nghĩa của các bài Kệ khuyên ta nên cố-gắng tập-luyện cho tinh-thông sự nhẫn-nhục; đây là một đức-tánh rất quí-báu cho người tu-hành: tự chiến-thắng

được l

òng sân-hận bên trong tâm mình, hơn là cố tranh thắng với người

đang l

àm nhục mình. Tự chiến-thắng

đó mới l

à chiến-thắng "tối-thượng", vẻ-vang nhứt.

(233).- Tích chuyện người quản-tượng.

Vào một thời kia,

Đức Phật ngụ tại ch

ùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có

đề-cập đến một vị tỳ-kheo trước kia l

àm nghề quản-tượng.

Thuở ấy, có hai vị tỳ-kheo

đang đi dọc bờ sông A-xi-ra, trông thấy một người quản-tượng dẫn voi xuống sông tắm. Con voi lún b

ùn, rút chơn lên chẳng

được, người quản-tượng lúng-túng chẳng biết l

àm thế nào

để kéo voi ra giữa d

òng. Một vị tỳ-kheo, nguyên trước làm nghề quản-tượng, cười bảo vị

đồng-tu, mách cách thúc voi sao cho nó biết rút chơn khỏi b

ùn. Người quản-tượng nghe thấy, liền làm theo lời chỉ-dạy, con voi mới ngoan-ngoãn ngâm mình xuống nước.

Khi về

đến tịnh-xá, vị tỳ-kheo thuật lại t

ài khéo

điều-phục voi của bạn m

ình lên

Đức Phật nghe. Đức Phật bảo

: "Nầy chư T

ăng, chẳng phải khoe t

ài khéo huấn-luyện voi mà kẻ tu-hành sớm

đến được cảnh-giới Niết-b

àn. Chỉ những ai khéo tự huấn-luyện mình mới sớm chứng

được cảnh vô-sanh, an-lạc ấy.

"

Rồi

Đức Phật mới nói l

ên bài Kệ sau

đây

:

Chẳng phải cởi voi, ngựa ấy lên

đ

àng,

Mà ta

đến được Niết-b

àn vô-sanh.

Chỉ có người tự-ngã khắc-phục

Đến được mục-tiêu, nhờ thuần-thục.

(Kệ số 323.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Quản-tượng: Quản = cai-quản,

điều-khiển;

Tượng = voi lớn. Người quản-tượng là kẻ ch

ăn voi, huấn-luyện voi.

- Sông A-xi-ra: tên con sông nầy, tiếng Pali là Aciravatì.

- Mách: chỉ bảo cho.

-

Điều-phục: Điều

=

điều-khiển; Phục = thâu-phục. Điều-phục voi là huấn-luyện voi, bắt nó theo lịnh của mình.

- Cảnh-giới Niết-bàn: Cảnh-giới = nơi, vùng, trong giới-hạn; Niết-Bàn: tiếng Phạn là Nirvana, tiếng Pali là Nibbana; đây là tâm-trạng (chớ chẳng phải một cõi nào trong không-gian) của bực tu-hành đã diệt xong các phiền-não, chướng-ngại, lìa mọi ham-muốn, chứng được vô-sanh ( =chẳng còn tái-sanh trong Luân-hồi), nay sống an-vui.

- Mục-tiêu: Mục = con mắt; Tiêu = cái mốc. Có nghĩa là mục-

đích.

- Tự-ngã khắc-phục: Khắc-phục = thắng

được v

à bắt theo lịnh của mình; Tự-ngã = cái "Ngã", cái "Ta" của mình. Người

đ

ã khắc-phục tự-ngã của mình là người

đ

ã quên mình, xem thân-tâm nầy tạm-bợ, dẹp hết các phiền-não và tuân theo giới-luật

đầy-đủ.

- Thuần-thục = nhuần-nhã, rành-rẽ lắm rồi.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện thuật lại việc một vị tỳ-kheo, trước làm nghề quản-tượng, nhơn

đi dọc bờ sông, thấy một người chăn voi lúng-túng chẳng biết l

àm sao thúc-

đẩy voi ra khỏi vũng b

ùn,

để ra sông tắm. Vị ấy cười nói với bạn đồng-tu cách-thức phải điều-phục voi l

àm sao cho nó ngoan-ngoãn theo lịnh mình. Người ch

ăn voi nghe được, l

àm theo, dắt voi khỏi chỗ sa lầy. Khi

Đức Phật nghe được sự-việc đó, Ng

ài quở vị tỳ-kheo cựu-quản-tượng và dạy rằng: "Chẳng phải nhờ

điều-phục voi m

à ta

đến Niết-B

àn

được, chỉ những ai biết điều-phục tự-ng

ã của chính mình mới chứng

được Niết-b

àn an-vui và tự-tại."

Ý-nghĩa của Tích chuyện: chớ xao-lãng việc khắc-phục tự-ngã của mình, có tuân-hành giới-luật, nỗ-lực tu-tập mới chứng

được Niết-B

àn.

(2).- Ý-nghĩa của bài Kệ số 323:

1) "Chẳng phải cởi voi, ngựa ấy lên

đ

àng, Mà ta

đến được Niết-B

àn vô-sanh": vì Niết-bàn chẳng phải là nơi chốn, mà là một tâm-trạng của mình

đ

ã dứt hết phiền-não, cho nên chẳng có voi, có ngựa, hay phương-tiện chuyên-chở nào,

đưa ta đến

cảnh-giới ấy

được.

2) "Chỉ có người tự-ngã khắc-phục":người khắc-phục

được tự-ng

ã là người làm chủ

được

thân-tâm mình, chẳng xem cái"Ta", và những sự-vật "của Ta" là quí nữa.

3) "Đến được mục-tiêu, nhờ thuần-thục": mục-tiêu nào?

Đó l

à cảnh-giới an-vui tự-tại của Niết-bàn, khi tâm thanh-tịnh đãdứt xong các phiền-não, vượt mọi chướng-ngại và lià mọi ham-muốn.

(234).- Tích chuyện người cha già bị các con ruồng-bỏ.

Vào một thời kia,

Đức Phật ngụ tại Tịnh-xá Trúc-lâm, gần th

ành Vương-xá, trong một kỳ giảng-pháp, có

đề-cập đến một cụ-gi

à bị bốn người con trai ruồng-bỏ.

Thuở ấy, ở nước Xá-vệ có một vị Bà-la-môn nhà giàu-có, sanh

được bốn người con trai; gia-t

ài lên

đến tám mươi vạn đồng. Khi mỗi người con trai lập gia-đ

ình riêng, cụ tặng cho mười vạn

đồng. Đến khi b

à vợ chết, cụ còn

được bốn mươi vạn. Các con mới thưa, cha nay gi

à-cả quá rồi, cứ

đem số tiền chia cho chúng con, chúng con sẽ thay phi

ên nhau phụng-dưỡng cha. Cụ nghe lời,

đem của cải ra phân-chia hết cho các con. Rồi cụ về ở chung với người con cả. Chưa đầy một tháng, người con dâu lớn đ

ã bảo: "Cha có cho con trai trưởng của cha thêm vài ngàn

đồng n

ào

đâu, m

à sao cha cứ ở lì tại

đây m

ãi vậy? Bộ cha chẳng biết

đường đi đến ở nh

à mấy chú khác hay sao?" Nghe lời nói

đó, tội-nghiệp

! cụ già tủi thân

đi sang nh

à người con thứ. Cũng vậy, chưa

được ba tuần-lễ, người con dâu thứ lại cũng nói với cụ những lời tương-tợ như lời của chị dâu lớn. Cụ lại dọn sang nh

à

đứa con thứ ba, rồi đến đứa con út, m

à cũng chẳng

được đối-xử khá hơn chút n

ào. Buồn lòng, cụ mang một cái bát, chống một cây gậy,

đi xin ăn, lần bước đến ch

ùa, vào thưa với

Đức Phật.

Sau khi nghe cụ kể-lể nỗi lòng, bị các con lấy hết tiền, rồi hất-hủi,

Đức Phật nói

: "Nầy Bà-la-môn, nay ta dạy cho ông một bài thơ, cứ vừa

đi xin, vừa đọc l

ên, nhứt là vào chỗ

đông người

:

Tôi nay có bốn người con,

Miệng thưa "Cha!" ngọt, mà lòng chẳng thương.

Nghe lời vợ,

đuổi ra đường.

Tay cầm chiếc bát, thân nương gậy nầy.

Ai thương cảnh khổ già

đ

ây,

Nhớ cho bát, gậy hơn bầy con hư!"

Cụ chống gậy, ôm bát, nghêu ngao hát cả ngày. Dân-chúng nghe thấy,

động l

òng thương cụ và trách bốn người con trai quá bất-hiếu, hất-hủi cha già. Các người con hổ-thẹn, rước cha về nhà, mỗi ngày mỗi ngưòi dâng một mâm cơm

đầy-đủ thức ăn ngon. Cụ chẳng d

ùng hết mỗi ngày

đến bốn mâm, mới bảo con mang hai mâm đem v

ào chùa cúng-dường

Đức Phật v

à chư T

ăng. Nhơn đó, Đức Phật giảng Chánh-pháp cho họ nghe, Ng

ài lại nói

đến l

òng hiếu-thảo của con voi rừng tên là Tài-Hộ, bị bắt, bỏ cả

ăn-uống, l

òng thường nghĩ

đến voi cha, voi mẹ trong rừng xanh.

Rồi

Đức Phật mới nói l

ên bài Kệ sau

đây

:

Voi tên Tài-Hộ rất hung-h

ăng,

Khi phát-dục tiết mùi hôi-thối,

Bị bắt nhốt, chẳng chịu uống

ăn,

Tưởng nhớ rừng voi, hằng mong-mỏi.

(Kệ số 324.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Ruồng-bỏ = đuổi đi, chẳng săn-sóc, chẳng giúp đỡ chi cả.

- Bà-la-môn: tiếng Pali là Brahmana, giai-cấp tu-sĩ ở Ấn-

độ xưa.

- Phụng-dưỡng = ch

ăm nuôi người bề tr

ên.

- Con trai trưởng = người con trai lớn nhứt trong nhà.

- Con thứ = người con kế, sau người con trưởng.

- Hất-hủi = tỏ ra lạnh-nhạt, chẳng

đối-xử tốt nữa.

- Bất-hiếu: Bất = chẳng; Hiếu = lòng thương cha-mẹ, biết lo s

ăn-sóc, phụng-dưỡng cha mẹ.

- Cúng-dường = đọc trại hai chữ Hán-Việt cung-dưỡng; cung = cung-cấp;dưỡng =nuôi-dưỡng. Tiếng nhà chùa chỉ sự dưng-cúng lễ vật

- Tài-Hộ: tên con voi nầy, dịch nghĩa chữ Pali là Dhanapàla. (Dhana = tài sản; pàla = bảo-hộ, giữ-gìn)

- Phát-dục: Phát = khởi lên; Dục = dục-tình, ý-muốn giao-hợp với kẻ khác phái.

Đây nói về con voi đang khởi dục-t

ình, muốn giao-hợp, phát ra mùi hôi-thối.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện thuật lại một cụ-già, vì chia hết tài-sản cho các con đến sống ở nhà các con. Vì nghe lời vợ cứ nói ra nói vào, các con cụ hất-hủi cha, nên cụ buồn lòng cầm bát, chống gậy đi xin ăn. Cụ gặp Đức Phật, được dạy cho một bài thơ về con bất-hiếu, để đến chỗ đông người hát lên. Bị dân-chúng chê-bai, các người con hổ-thẹn mới rước cha về nuôi-dưỡng. Khi gặp các người con,

Đức Phật kể lại chuyện con voi T

ài-Hộ, mặc dầu hung-h

ăng, nhưng khi bị bắt, nó bỏ cả ăn-uống, l

òng chỉ nhớ nghĩ

đến voi cha, voi mẹ trong rừng.

Ý-nghĩa của Tích chuyện là làm con phải hiếu-thảo với cha mẹ, kẻo lại thua con voi Tài-Hộ, dầu là thú-vật, còn biết thương cha mẹ.

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 324:

Ý-nghĩa của bài Kệ là nêu lên lòng hiếu-thảo của một con voi,

để l

àm gương cho những kẻ hất-hủi mẹ cha lúc tuổi già.

(235).- Tích chuyện vua Ba-tư-nặc

ăn quá no.

Tích chuyện nầy giống với Tích chuyện số (162).

Vào một thời kia,

Đức Phật ngụ tại ch

ùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong kỳ giảng-pháp, có

đề-cập đến việc vua Ba-tư-nặc ăn quá no.

Thuở ấy, vua Ba-tư-nặc, xứ Câu-tát-la, sau một bữa

ăn rất thịnh-soạn, đến ch

ùa Kỳ-viên

đảnh-lễ Đức Phật. Nh

à vua

ăn mỗi bữa cả mấy tô cơm, nhai cả đ

ùi dê nấu cà-ri. Khi ngồi nghe Phật giảng, nhà Vua buồn ngủ,

đầu cứ gật l

ên gật xuống, hai mắt muốn sụp lại. Sau thời pháp, Vua thưa: "Bạch Thế-tôn, hôm nay vì

ăn no quá, buồn ngủ, con cảm thấy nhọc-mệt, chẳng chú tâm nghe pháp được.

"

Đức Phật bảo

: "Nầy

Đại-vương, những người tham ăn quá cũng đều cảm thấy nặng bụng v

à buồn ngủ như thế cả."

Rồi

Đức Phật nói l

ên bài Kệ sau

đây, nhờ đó vua Ba-tư-nặc biết bớt ăn, bụng thon lại, hăng-hái hoạt-động v

à vui-vẻ hơn xưa:

Người khờ lười-biếng, tham

ăn

Vật-vờ, vất-vưởng, nằm l

ăn cả ng

ày.

Giống như con lợn mập thây,

Luân-hồi phải chịu, biết ngày nào ra.

(Kệ số 325.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Vua Ba-tư-nặc xứ Câu-tát-la: tên vị vua cai-trị xứ nầy, tiếng Pali là vua Pasenadi, nước Kosala, ờ miền Bắc Ấn-

độ xưa.

- Thịnh-soạn = nói về bữa

ăn có nhiều thức ăn ngon.

- Đảnh-lễ: cúi

đầu l

àm lễ ra mắt bực trưởng-thượng.

- Thế-tôn: Thế = thế-gian; Tôn = tôn-trọng.

Đức Phật được gọi l

à Thế-tôn, bực

được cả thế-gian tôn-trọng.

- Vật-vờ, vất-vưởng = lừ-

đừ, chẳng muốn l

àm gì cả, lười-biếng.

- Luân-hồi: Luân = bánh xe; Hồi = quay trở lại. Theo giáo-lý nhà Phật, chúng-sanh khi chết

đi, lại sanh trở lại, để rồi lại chết nữa; cuộc sống lẩn-quẩn chịu khổ nhiều, sướng ít đó gọi l

à Luân-hồi, như bánh xe cứ quay một vòng rồi l

ăn trở lại m

ãi. Vì thế, người tu-hành phải lo diệt hết các phiền-não, dẹp mọi tham-muốn,

để chứng được

vô-sanh, dứt khoát ra khỏi cảnh tái-sanh lẩn-quẩn của Luân-hồi,

đó l

à giải-thoát mọi khổ

đau,

được tự-tại mãi trong cảnh an-vui của Niết-Bàn.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện rất giản-dị, thuật lại vì

ăn quá no, n

ên vua Ba-tư-nặc mệt-mỏi và buồn ngủ, chẳng nghe

được b

ài pháp của

Đức Phật.

Ý-nghĩa của Tích chuyện là lời dạy của

Đức Phật, n

ên

ăn-uống vừa phải, chớ tham ăn v

à chớ lười-biếng.

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 325:

Bài Kệ so-sánh kẻ tham

ăn, lười-biếng như

con heo

ăn mập thây.

Kẻ chỉ biết

ăn cho sướng miệng, mập thây, sẽ mắc v

òng Luân-hồi, vì chẳng chọn con

đường tu-h

ành giải-thoát: đó là ý-nghĩa của bài Kệ.

HỌC TẬP:

1) Ăn-uống

để bồi-bổ cơ-thể; ăn quá mức, số dư tích-trữ lại sẽ gây ra ph

ì-béo, chậm-chạp và lười biếng. Tập cho trẻ con

ăn-uống đúng giờ, bỏ thói ăn qu

à vặt.

2) Ngoài thức

ăn vật-chất ra, con người c

òn cần thức-

ăn về tinh

-thần: mỗi tuần siêng

đi ch

ùa, lạy Phật, nghe giảng kinh,

đó l

à nuôi-dưỡng, bồi-bổ tinh-thần. Nên dắt con cháu nhỏ theo khi

đi ch

ùa.

(236).- Tích chuyện Sa-di Sà-nhu.

Vào một thời kia,

Đức Phật ngụ tại ch

ùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có

đề-cập đến một vị Sa-di t

ên là Sà-nhu.

Thuở ấy, Sa-di Sà-nhu tuy còn nhỏ tuổi nhưng cũng thông-thuộc nhiều kinh-kệ. Một hôm, các vị tỳ-kheo trộng tuổi bảo Sa-di Sà-nhu bước lên

đ

ài cao, ngồi tụng-

đọc kinh-kệ cho đại-chúng nghe. Sa-di S

à-nhu vâng lời, sau khi tụng xong, chấp tay nói: "Nguyện

đem công-đức nầy hướng về tất cả các cha mẹ đời nầy, đời trước của đệ-tử được hưởng nhiều phước-lạc.

" Vào lúc

đó, có một vị nữ-phi-thi

ên, vốn là mẹ của Sa-nhu trong tiền-kiếp, nghe

được lời hồi-hướng, mới thốt l

ên rằng: ‘Lành thay! Lành thay! Nay

được chia-xẻ phước-báu với con ta l

à Sà-nhu." Nhờ công-

đức hồi-hướng đó m

à vị ấy

được các h

àng phi-thiên kính-trọng.

Mấy n

ăm sau, S

à-nhu thọ giới tỳ-kheo một thời-gian, lại bỗng nẩy ra ý-

định ho

àn-tục. Sà-nhu trở về nhà cũ, xin mẹ trao lại cho mình y-phục của thường-nhơn. Người sanh-mẫu buồn lòng, thấy con có ý thoái-chuyển, mới khóc mà nói rằng: "Nay con

đ

ã xuất-gia, gia-nhập T

ăng-đo

àn, cầu

đường giải-thoát, sao con lại thối-chí quay về cuộc sống khổ-lụy của thế-tục

?" Cùng lúc ấy, vị phi-thiên, mẹ trong tiền-kiếp của Sa-nhu cũng nghe thấy, mới nghĩ, nếu con mình hoàn-tục, mình sẽ bị các phi-thiên khác chê-cười; bà mới nhập vào Sà-nhu, khiến Sà-nhu té ngửa xuống, sùi bọt mép. Cả nhà hoảng-hốt, cấp-cứu,

đến khi tỉnh-dậy, S

à-nhu còn nghe tiếng mẹ cũ

đang nói văng-vẳng:

"Con

đừng ho

àn-tục, hãy mau trở lại chùa tu-hành

để t

ìm

đường giải-thoát, ra khỏi cảnh Luân-hồi lận-đận.

"

Sau

đó, khi S

à-nhu trở về tịnh-xá, các vị tỳ-kheo khác trình sự-việc lên

Đức Phật. S

à-nhu

được gọi đến, nghe Đức Phật dạy rằng:

"Nầy tỳ-kheo, chẳng nên trở lại cuộc sống buông-lung của người thế-tục. Con muốn

được an-vui, th

ì phải biết

điều-phục tâm-ý, theo con đường Chánh-đạo, như anh quản-tượng d

ùng móc sắt r

ăn-dạy v

à kiểm-soát con voi hung-h

ăng.

"

Rồi

Đức Phật mời nói l

ên bài Kệ sau

đây, nhờ đó S

à-nhu sực-tỉnh, biết nỗ-lực tu-hành, chẳng bao lâu chứng

được quả-vị A-la-hán:

Ngày trướcc, tâm lang-thang, lêu-lổng,

Đuổi theo thú-vui cùng dục-vọng.

Ngày nay, bằng chánh-niệm, kềm tâm

Như quản-tượng tay cầm móc dạy voi.

(Kệ số 326.)

TÌM HIỂU:

chùa chỉ số

đông người đang ngồi nghe giảng-pháp.

- Phi-thiên: Phi = chẳng phải; Thiên = Trời. Phi-thiên là hạng thần-linh.

A.- Nghĩa Chữ:

- Sa-di: tiếng Pali là Sàmanera, người mới vào chùa tập-sự tu-hành, chưa thọ giới tỳ-kheo. Trong chùa thường gọi là chú tiểu.

- Sà-nhu: tên vị sa-di nầy, tiếng Pali là Sànu.

-

Đại-chúng: Đại

=

lớn; Chúng = số

đông.

Đại-chúng là tiếng nhà chưa phải là Trời, còn gọi là A-tu-la (Asura), có thần-thông, tánh hay nóng-giận, thường gây tranh-chiến với chư Thiên.

- Tiền-kiếp: Tiền = trước; Kiếp = đời sống trước. Tiền-kiếp là những

đời sống trước, trước đời hiện nay.

- Hồi-hướng: Hồi = trở về; Hướng = hướng về, quay về phiá. Hồi-hướng là xin hướng công-

đức đến người m

ình

đang cầu-nguyện cho.

- Lành thay: lời khen

đ

ã làm việc thiện; dịch tiếng Pali là Sàdhu.

- Hoàn-tục = Hoàn =trở lại; Tục = đời sống thế-tục. Hoàn-tục là thôi chẳng

đi tu nữa, quay về sống lại trong gia-đ

ình như trước.

- Sanh-mẫu: Sanh = đẻ ra; Mẫu = mẹ; Sanh-mẫu là người nẹ sanh mình ra trong cõi

đời hiện nay.

- Thoái-chuyển: Thoái = lùi lại; Chuyển = động chuyển; Thoái-chuyển

đi thụt l

ùi; trở lại chỗ thấp-kém.

Đối-

nghĩa với chữ Tinh-tấn.

- T

ăng-đo

àn: T

ăng

=

tu-sĩ Phật-giáo; Đoàn = đoàn-thể. Một t

ăng-đo

àn gồm có ít nhứt bốn vị t

ăng-sĩ tu chung. Tiếng

Pali là Sangha.

- Khổ-lụy = Khổ = đau-khổ; Lụy = phiền-lụy. Khổ-luỵ = phiền-khổ.

- Thế-tục = Thế = đời; Tục = thường; Thế-tục

đời sống thường, có gia-đ

ình, chẳng tu-hành.

- Cấp-cứu: Cấp = gấp, mau; Cứu = cứu-giúp. Cấp-cứu là cứu ngay.

- Lận-

đận

=

đau buồn, gặp nhiều khó khăn, khổ-sở.

- Buông-lung: thiếu kềm-chế, lười-biếng;

đồng-

nghĩa = phóng-dật

- Tịnh-xá = Tînh = yên-tịnh; Xá = nhà. Tịnh-xá là ngôi chùa nhỏ.

-

Đ

ìều-phục tâm-ý: giữ-gìn tâm chẳng cho khởi bụng quấy.

- Chánh-

đạo

= Chánh = chơn-chánh; Đạo = đường; tức là Bát-chánh-

đạo,

con

đường Thánh tám ng

ành

đưa ta ra khỏi cảnh Luân-hồi.

- Quản-tượng: Quản = cai-quản; Tượng = voi lớn; Quản-tượng là người ch

ăn voi, huấn-luyện voi, điều-khiển voi.

- A-la-hán: quả-vị Thánh, chẳng còn tái-sanh nữa; tiếng Pali là Arahant. A-la-hán có ba nghĩa: (1) ứng-cúng = xứng

đáng được Trời, Người cúng-dường; (2)

sát-tặc = giết giặc, giặc phiền-não; (3) vô-sanh = chẳng còn tái-sanh nữa, ra khỏi Luân-hồi, vào cảnh Niết-bàn.

- Dục-vọng = Dục = muốn; Vọng = mong; Dục-vọng là các ham-muốn thấp-hèn về vật-chất.

- Chánh-niệm: Chánh = chơn-chánh,

đứng-đắn;

Niệm = ý-nghĩ. Người có chánh-niệm đang làm, nói hay nghĩ việc gì, thì biết rõ và chú-tâm vào việc đang làm, nói, nghĩ đó và chỉ việc đó mà thôi.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện thuật lại việc vị Sa-di Sà-nu thông-thuộc nhiều kinh-kệ, sau khi thọ-giới tỳ-kheo một thời-gian, lại muốn hoàn-tục.

Được cả hai b

à mẹ, mẹ

đương-thời v

à mẹ kiếp trước, cản-ng

ăn, S

à-nu trở lại chùa. Nghe

Đức Phật dạy, phải kềm-chế tâm-ý m

ình như người quản-tượng

điều-khiển voi, S

à-nu nỗ-lực tu-hành, chứng

được quả-vị Thánh.

Ý-nghĩa của Tích chuyện là

đang tu m

à có ý-

định ho

àn-tục, thì

đó cũng như đang từ chỗ sáng m

à quay về trong bóng tối, bỏ mất con

đường giác-ngộ v

à giải-thoát

để ra khỏi cảnh khổ của Luân-hồi.

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 326:

Ý-nghĩa của bài Kệ so-sánh việc kềm-chế tâm-ý cũng như việc

điều-khiển voi bằng móc sắt

; lòng phải cương-quyết chẳng thối-chí. Kềm-tâm bằng cách nào? Luôn luôn giữ chánh-niệm trong tâm.

1) Hai câu

đầu

: Ngày trước, tâm còn vọng-

động, chạy theo các thú-vui c

ùng dục-vọng( =ham-muốn),

để tâm thả lỏng;

2) Hai câu chót: Ngày nay, biết dùng chánh-niệm kềm tâm lại, như người quản-tượng dùng móc sắt

điều khiển con voi hung-hăng.

(237).- Tích chuyện con voi già.

Vào một thời kia,

Đức Phật ngụ tại ch

ùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có

đề cập đến con gi

à tên là Ba-vi-gia.

Voi Ba-vi-gia khi còn trẻ là một con voi chiến rất mạnh-mẽ, nay

đ

ã già-yếu. Một hôm, voi Ba-vi-gia ra bờ ao

định xuống uống nước, rủi thay, chân bị sa lầy, chẳng rút ra khỏi b

ùn

được. Vua Ba-tư-nặc xứ Câu-tát-la hay tin, liền sai một người quản-tượng đến giúp. Người quản-tượng đến nơi, nhận ra voi chiến Ba-vi-gia, mới cho gọi đo

àn quân-nhạc tới. Rồi tiếng trống, tiếng kèn, tiếng chiêng khua vang lên thành một nhạc bản quân-hành hùng-dũng. Voi Ba-vi-gia cảm thấy như

đang lâm trận, tinh-thần hăng l

ên, nhẹ-nhàng rút chơn ra khỏi vũng bùn, giữa tiếng hoan-hô vang-dậy.

Khi các tỳ-kheo thuật lại sự-việc trên,

Đức Phật bảo

: "Nầy chư tỳ-kheo, cũng như con voi rút chơn ra khỏi vũng bùn, các ông nên sớm thoát ra khỏi vũng sình kết-sử."

Rồi

Đức Phật mới nói l

ên bài Kệ sau

đây, nhờ đó nhiều vị tỳ-kheo nỗ-lực tu-tập, chứng được quả-vị A-la-hán

:

Trong chánh-niệm, hãy tìm thích-thú,

Tâm-ý nên hết lòng phòng-thủ.

Như voi sa lầy cố rút chơn ra,

Hãy tự kéo khỏi vũng sình kết-sử.

(Kệ số 327.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Voi chiến Ba-vi-gia: tên con voi

đánh giặc nầy, tiếng

Pali là Pàveyyaka.

- Sa lầy: bị lún bùn, kẹt chơn dưới bùn chẳng rút ra

được.

- Vua Ba-tư-nặc, xứ Câu-tát-la: tên vị vua nầy, tiếng Pali là Pasenadi, cai-trị xứ Kosala, ở miền Bắc Ấn-

độ xưa.

- Quản-tượng: Quản = cai-quản,

điều-khiển;

Tượng = voi lớn. Quản-tượng là người ch

ăn voi, huấn-luyện v

à

điều-khiển voi.

- Quân-nhạc = ban nhạc nhà-binh.

- Chiêng = một loại nhạc-khí bằng

đồng, h

ình giống cái mâm lớn

- Bản quân-hành: bản nhạc hành-quân, tấu lên trong khi quân lính

đi ra trận, để l

àm tinh-thần chiến-sĩ phấn-khởi lên.

- Lâm trận = sắp giao-chiến, sắp

đánh giặc.

- Chánh-niệm: ý-nghĩ chơn-chánh. Người giữ chánh-niệm là người

đang l

àm, nói, nghĩ gì, thì trong tâm chú-ý, biết

đến việc đang l

àm, nói, nghĩ

đó v

à chỉ việc ấy mà thôi, chẳng lo ra

đến chuyện khác.

- Kết-sử: Kết = ràng-buộc lại; Sử = sai-sử, sai khiến. Kết-sử còn

được gọi l

à thúc-thằng (thúc = trói-buộc; thằng = sợi dây), tiếng Pali là Sanyojana, là những tình-cảm, tư-tưởng có tánh-cách ràng-buộc, gây ra phiền-não, và thúc-dục ta làm

đ

ìều quấy.

Theo giáo-lý Bắc-tông, có mười kết-sử, phân ra:

a) Ngũ

độn-sử,

n

ăm mối kết-sử thấp: (1)

thân-kiến ( = chấp thân nầy làm Ta, Pali: Sakkàyaditthi); (2) nghi ( = nghi ngờ Chánh-pháp, Pali: Vicikiccha); (3) giới-cấm-thủ ( = tin vào các nghi-thức cúng-tế tà-

đạo,

Pali: Silabhataparàmàsa); (4) tham (Kàmaràga); (5) sân ( = giận-hờn, Pali: Patigha). Diệt xong ngũ

độn-sử,

chứng quả A-na-hàm

b) Ngũ lợi-sử, n

ăm mối kết-sử cao: (6)

sắc-ái ( = mê-luyến cõi sắc-giới; Pali: Rùparàga); (7) vô-sắc-ái ( = mê-luyến cõi vô-sắc-giới; Pali: Arùparàga); (8) mạn ( =kiêu-c

ăng, Phạn:

mano); (9) trạo ( = giao-

động, bối-rối;

Pali: Uddaccha); (10) vô-minh ( = si-mê; Pali: Avijja). Diệt xong nốt ngũ lợi-sử, chứng quả A-la-hán.

Giáo-lý Nam-tông chia 10 thúc-thằng ( =kết-sử,Pali: Sanyojana) ra:

- ba thúc-thằng đầu-tiên, diệt xong, chứng quả-vị thứ nhứt là Tu-đà-huờn (Pali: Sotàpatti);

- hai thúc-thằng kế-tiếp, diệt xong, chứng quả-vị thứ hai là Tư-

đ

à-hàm (Pali: Sakàdagàmi);

- cả n

ăm

thúc-thằng đầu-tiên ( = ngũ

độn-sử

), diệt xong, chứng quả-vị thứ ba là A-na-hàm (Pali: Anàgàmi);

- cả n

ăm

thúc-thằng chót ( = n

ăm

lợi-sử), diệt nốt, chứng quả thứ tư, cao nhứt là A-la-hán (Pali: Arahant).

Nhớ

đủ cả mười

kết-sử thì khó, chỉ cần nhớ ba mối chánh, gọi là tam

độc

( = ba món thuốc

độc)

: tham, sân, si.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện kể lại việc con voi Ba-vi-gia bị sa lầy, nhờ nghe tiếng quân-nhạc, h

ăng-hái tinh-thần l

ên mà rút chơn ra khỏi vũng bùn. Nhơn chuyện nầy,

Đức Phật dạy các tỳ-kheo cũng n

ên rút chơn mình ra khỏi vũng sình kết-sử.

"Rút chơn ra khỏi vũng sình kết-sử", có nghĩa là,

đ

ã diệt xong n

ăm

độn-sử và n

ăm

lợi-sử, tức là tất cả mọi phiền-não

đ

ã tận-diệt, như thế là

đang chứng-đắc được quả-vị A-la-hán, thoát khỏi v

òng tái-sanh lẩn-quẩn của Luân-hồi, hoàn-toàn

được

giải-thoát.

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 327:

Ý-nghĩa bài Kệ nhắc nhở

đến công-việc tu-tập của vị tỳ-kheo, diệt hết mười

kết-sử

để chứng quả-vị A-la-hán, thoát được v

òng sanh-tử lận-

đận của Luân-hồi.

Xin phân-tách từng câu bài Kệ:

1) Trong chánh-niệm, hãy tìm thích-thú: lời khuyên nầy khó thực-hiện

được, nếu chẳng nỗ-lực bền-bỉ. Tại sao

? Vì giữ chánh-niệm thì phải luôn luôn chú-ý

đến b

ên trong tâm, mau mệt trí, dễ chán. Nhưng người hay xao-lãng, lơ-là, sống cũng như cái máy; chánh-niệm khiến ta sống trọn-vẹn với ta.

2) Tâm-ý nên hết lòng phòng-thủ: Phòng-thủ chống lại việc gì? Chống lại ác-ý, vì ác-ý xúi ta phải sa vào tội-lỗi, tạo nghiệp dữ. Chống lại vọng-tưởng, các ý vẩn-vơ, dắt tâm

đi lang-thang, chạy theo ngoại-cảnh, đuổi theo các thú-vui thấp kém. Vậy

phòng-thủ tâm-ý

đây có

nghĩa là thanh-lọc tâm-ý để sớm đạt được tâm thanh-tịnh.

3) Như voi sa lầy cố rút chơn ra: Voi phải tự mình nỗ-lực rút lấy chơn ra;

đây l

à ý Phật dạy ta phải tự mình nỗ-lực, chớ chẳng phải chờ người khác

đến ...

cứu-

độ

mình, cỏng giùm mình sang bờ giác.

4) Hãy tự kéo khỏi vũng sình kết-sử: Trong số mười món kết-sử, quan-trọng là ba món

độc

tham, sân, si vì chúng chi-phối các món kia. Có hai món dễ trừ là: (1)nghi, hễ tin vào Chánh-pháp thì hết nghi; (2)giới-cấm-thủ, bỏ

được m

ê-tín dị-

đoan, đừng xin xâm, chẳng cúng ông Địa nữa, đâu có khó

!

(238).- Tích chuyện con voi hầu-hạ Phật.

Tích chuyện nầy giống với Tích chuyện số (5).

Vào một thời kia,

Đức Phật ngụ tại rừng B

à-li-lai, trong xứ Cô-sâm-bi, trong một kỳ giảng-pháp, có

đề-cập đến con voi B

à-li-gia.

Thuở ấy, chư T

ăng ở Cô-sâm-bi chia rẻ th

ành hai nhóm, tranh-cãi nhau: một nhóm cho rằng Giới-luật là hơn, còn một nhóm bảo Kinh-tạng mới quí. Họ cãi nhau sôi-nổi, náo

động cả nơi tu-h

ành.

Đức Phật đ

ã nhiều lần ng

ăn-cản chẳng được, Ng

ài bỏ

đi, sống qua m

ùa hè một mình trong rừng, có con voi tên là Bà-li-gia phục-vụ.

Mãn mùa an-cư, Tôn-giả A-nan cùng chư tỳ-kheo

đi v

ào rừng, thỉnh Phật trở về tịnh-xá. Tôn-giả A-nan thưa: "Bạch Thế-tôn, ba tháng mùa mưa, Thế-tôn ở một mình trong rừng, chắc thiếu-thốn nhiều."

Đức Phật bảo

: "Nầy A-nan,

đừng nói thế

! Trong ba tháng qua, voi Bà-li-gia

đ

ã tận-tụy phục-vụ Như-Lai, như một người bạn tốt.

Được một người bạn tốt như thế, ta n

ên chung sống với nhau; còn nếu gặp bạn chẳng hiền, thà cứ sống lẻ-loi một mình nơi rừng vắng còn hơn."

Rồi

Đức Phật nói l

ên ba bài Kệ sau

đây

:

Nếu gặp người hiền-trí hạnh lành,

Thích-hợp nhau làm bạn

đồng-h

ành,

Hãy sống chung vui và giác-tỉnh,

Mọi hiểm-nguy sẽ vượt an-lành.

(Kệ số 328.)

Nếu chẳng gặp người

đạo-đức cao,

Trí-huệ nhiều

đáng kết thâm-giao,

Thà như Vua bỏ nước vừa chinh-phục,

Như voi giữa rừng, hãy sống lẻ-loi.

(Kệ số 329.)

Chẳng thà phải sống cô-

đơn

Còn hơn kết bạn với phường người ngu.

Chẳng lo-âu, khước-từ ác-hạnh,

Sống thong-dong như cảnh voi rừng.

(Kệ số 330.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Rừng Bà-li-lai, xứ Cô-sâm-bi: tên khu rừng nầy, tiếng Pali là Pàlileyya, ở xứ Kosambi, miền Bắc Ấn-

độ xưa.

- Voi Bà-li-gia: tên con voi nầy, tiếng Pali là Pàlileyyaka.

- Giới-luật, Kinh-tạng: Tất cả kinh-

điển Phật-giáo gọi l

à Tam tạng, gồm có: (1)Luật-tạng ( =các giới-luật,Vinaya); (2)Kinh-tạng( =các Kinh Kệ,Suttanta); (3)Luận-tạng ( = luận về Chánh-pháp, Abhidhamma.) (Tam = ba; Tạng = cái giỏ

đựng sách; tiếng

Pali Tam-Tạng = Tipitaka.)

- Muà an-cư: Trongba tháng mùa mưa, chư T

ăng chẳng đi ra ngo

ài, sợ

đạp chết con tr

ùng sinh-sản nhiều, ở yên tu trong tịnh-xá.

- Thế-tôn, Như-Lai: Các

đệ-tử Phật gọi Đức Phật l

à Thế-tôn ( = bực

được cả thế-gian tôn-trọng), v

à

Đức Phật tự xưng l

à Như-Lai ( = người

đến đây như thế đó) khi nói chuyện với đệ-tử.

- Hạnh lành = đức-hạnh hiền-lành.

-

Đồng-h

ành =

cùng

đi với nhau, bạn đường.

- Giác-tỉnh, Tỉnh-giác = trong tâm luôn giữ chánh-niệm, chẳng phút nào lơ-là, hằng chú-tâm.

- Kết thâm-giao: Thâm = sâu-

đậm;

Kết thâm-giao là kết tình bạn thân-mật, thấm-thiết.

- Chinh-phục = đánh thắng, thâu-phục được.

- Khước-từ ác-hạnh: Khước-từ = rời bỏ; Ác-hạnh = tánh dữ.

- Thong-dong = được tự-do, chẳng bị ràng-buộc.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện thuật lại việc

Đức Phật rời tịnh-xá v

ào rừng sống một mình, vì chư T

ăng chẳng biết nghe lời Ng

ài

để chấm dứt sự c

ãi-vã quá ồn-ào về Luật-tạng và Kinh-tạng. Mãn mùa an-cư, Tôn-giả A-nan khi thỉnh Phật trở về, có hỏi

Đức Phật ba tháng qua có bị thiếu thốn nhiều chăng. Đức Phật đáp, không, v

ì Ngài

được Voi B

à-li-gia hết lòng hầu-hạ. Nhơn

đó Đức Phật bảo, gặp bạn hiền n

ên vui chung sống; còn gặp kẻ dữ, thà sống lẻ loi một mình chốn rừng hoang.

Ý-nghĩa của Tích chuyện: gặp bạn-

đạo tốt, n

ên chung sống; chớ kết thâm-giao với kẻ kém

đức-hạnh.

(2) Ý-nghĩa của ba bài Kệ số 328, 329 và 330:

Cả ba bài Kệ

đều nói về sự lựa chọn bạn hiền để sống chung với nhau v

à tránh xa những người thiếu trí-huệ và

đức-hạnh.

Xin phân-tách từng câu trong mỗi bài Kệ.

Bài Kệ số 328:

1) Nếu gặp người hiền-trí hạnh lành: Người hiền-trí hạnh lành,

đây, chính l

à bực thiện-tri-thức, đã thông-hiểu Chánh-pháp, đức-hạnh cao-dày; nếu gặp

được, đó l

à cơ-duyên may-mắn lớn, nên theo học;

2) Thích-hợp nhau làm bạn

đồng-h

ành:

Đồng-h

ành,

hiểu theo nghĩa rộng là chẳng những cùng

đi chung một đường m

à còn theo chung một lối tu-hành, vì thế thích-hợp với nhau, nên kết bạn ngay;

3) Hãy sống chung vui và giác-tỉnh: Nhờ hợp nhau nên cuộc sống chung vui-vẻ; nhưng mỗi người phải tỉnh-giác, luôn luôn chú-ý, quán-sát bên trong tâm mình,

để giúp nhau tự kềm-chế;

4) Mọi hiểm-nguy sẽ vượt an-lành: Nhờ chung-sức nhau nên khi gặp trở-ngại, sẽ vượt qua an-toàn. Trong việc tu-hành, hiểm-nguy to lớn nhứt là sự thoái-tâm, chán-nản; có bạn lành an-ủi, sẽ nung-chí lên.

Bài Kệ số 329:

1) Nếu chẳng gặp người

đạo-đức cao, Trí-huệ nhiều, đáng kết thâm-giao

: đây là thiếu thuận-duyên, chẳng có người xứng-đáng, đầy-đủ đức-hạnh, để kết thân-tình

2) Thà như Vua bỏ nước vừa chinh-phục: đây là thái-độ chẳng luyến-tiếc những gì mình vừa có được thêm, dứt khoát bỏ ra đi.

3) Như voi giữa rừng, sống lẻ-loi: Tuy lẻ-loi, nhưng

được

tự-do, chẳng bị phiền-lụy ràng-buộc,

đó l

à "người biết sống một mình".

Bài Kệ số 330:

1) Chẳng thà phải sống cô-

đơn, C

òn hơn kết bạn với phường người ngu: Tuy sống

đơn-độc một m

ình, nhưng khỏi phải bị bọn người ngu theo phiền-nhiễu, thì còn chi tốt hơn nữa.

2) Chẳng lo-âu, khước-từ ác-hạnh: đây là hai đức-tánh quí trên

đường tu: một l

à chẳng lo-âu, tâm

đ

ã an-

định; hai l

à khước-từ

điều ác,

khiến thân-tâm thanh-tịnh, sớm dứt

được

nghiệp dữ.

3) Sống thong-dong như cảnh voi rừng: Cảnh thong-dong của voi rừng, đây chính là cảnh an-nhiên, tự-tại của bực

đ

ã chứng Niết-Bàn.

(239).- Tích chuyện Ma-vương cám-dỗ Phật.

Vào một thời kia,

Đức Phật ngụ tại một tịnh-xá gần núi Tuyết-sơn, trong một kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến việc Ma-vương tới cám-dỗ Đức Phật.

Thuở ấy,

Đức Phật cư-trú gần d

ãy núi Hi-mã-lạp-sơn. Ngài nhận thấy dân-chúng trong vùng bị ngược-

đ

ãi, các vị lãnh-chúa thì tàn-ác, bất-công.

Đức Phật nghĩ cách giúp-đỡ dân-chúng thoát khỏi cảnh bị đ

àn-áp và khiến cho các vị lãnh-chúa phải cai-trị trong công-bằng luật-pháp. Bấy giờ, Ma-vương

đoán biết ý-định của Đức Phật, mới hiện l

ên thưa với Phật: "Bạch Thế-tôn, sao Ngài lại chẳng lên làm Vua, cai-trị toàn-dân trong thanh-bình, an-lạc!"

Đức Phật nh

ìn biết Ma-vương

đến cám-dỗ, mới đáp

: "Nầy Ma-vương hiểm-

độc, chớ có cám-dỗ Như-Lai. Giáo-pháp của Như-Lai chẳng giống với lời dạy của ông chút n

ào cả.

Đây h

ãy lắng nghe Chánh-pháp của Ta."

Rồi

đó, Đức Phật mới nói l

ên ba bài Kệ sau

đây, Ma-vương nghe xong, bẽn-lẽn bỏ đi, biết chẳng khuấy-rối nổi Đức Phật

:

Vui thay, gặp bạn khi cần!

Vui thay, biết

đủ với ngần nầy đây

!

Vui thay, thiện-nghiệp dầy khi chết!

Vui thay

đau khổ diệt-trừ xong

!

(Kệ số 331.)

Vui thay, phụng-dưỡng mẹ già!

Vui thay, hiếu-kính với cha trên

đời

!

Vui thay, phục-vụ Sa-môn!

Vui thay, thừa sự Thánh-nhơn ra

đời

!

(Kệ số 332.)

Vui thay, giữ giới tới già!

Vui thay, tín-niệm rất là bền lâu!

Vui thay thành-

đạt trí mầu

!

Vui thay ác-hạnh từ lâu khước-từ!

(Kệ số 333.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Ma-vương = Vua Ma; theo kinh-sách,

đây l

à vị Thiên-vương ở cõi Trời Tha-hoá tự-tại, thường thích

đi cám-dỗ kẻ khác l

àm

điều quấy. Tiếng

Pali là Màra.

- Hi-mã-lạp-sơn = Tuyết-sơn = dãy núi cao nhứt thế-giới (hơn tám ngàn mét), tuyết

đóng quanh-năm, dọc theo bi

ên-giới Ấn-

độ v

à Trung-hoa. Tiếng Pali là Himalaya.

- Ngược-

đ

ãi: Ngược = bạo-ngược, ác; Đãi = đối xử.

- Lãnh-chúa: vị vua chúa cai-trị một vùng

đất.

- Hiểm-

độc: Hiểm

= ác ngầm; Độc = dữ ác. Kẻ hiểm-

độc

hại ngầm người khác, mà làm bộ như thương-yêu, giúp-

đỡ bề ngo

ài.

- Giáo-pháp: Giáo = dạy; Pháp = phép. Giáo-pháp, giáo-lý, là lời dạy trong

Đạo khuy

ên người tu-hành.

- Chánh-pháp: Chánh = chơn-chánh,

đứng-đắn;

Pháp = phép tu. Trong Phật-học, chữ Chánh-pháp chỉ lời dạy của

Đức Phật.

- Biết

đủ với ngần nầy đây:

biết

đủ với những g

ì mình có, chỉ cần

đến ngần ấy, chẳng tham đ

òi thêm. Biết

đủ,

tiếngHán-Việt là tri-túc.

- Thiện-nghiệp: Thiện = lành; Nghiệp = tất cả hành-

động, lời nói v

à ý-nghĩ của một người, có ảnh-hưởng

đến vận-mạng người ấy.

- Phụng-dưỡng = nuôi-nấng, s

ăn-sóc.

- Hiếu-kính: tỏ lòng kính-trọng và thương-yêu, giúp

đỡ.

- Sa-môn: phiên-âm chữ Pali là Samana, nghĩa là tu-sĩ Phật-giáo. Có ba nghĩa: (1) cần-giả, siêng làm lành; (2)tức-giả, ngưng làm ác; (3) bần-giả, nguyện chịu nghèo-khó

để tu-h

ành.

- Thánh-nhơn: bực Thánh, từ quả-vị A-la-hán trở lên (thoát khỏi tái-sanh của Luân-hồi.) Tiếng Pali là Ariya. Đối-nghĩa với phàm-phu.

- Giới: điều răn-cấm trong Đạo. Tiếng Pali là Sila.

- Tín-niệm: Tín = tin-tưởng; Niệm = ý-tưởng. Tín-niệm là niềm tin; ở

đây l

à niềm tin vững chắc vào Tam-Bảo: Phật, Pháp và T

ăng.

- Trí mầu = Trí-huệ nhiệm-mầu.

Đây l

à Trí-huệ Bát-nhã Ba-la-mật, Prajna pàramità, thường dịch là Trí-

Độ,

cái Trí

đưa ta đến bờ

giác-ngộ.

- Ác-hạnh = hạnh-kiểm xấu-ác; cùng nghĩa với ác-nghiệp.

- Khước-từ: từ bỏ hẳn.

- Phục-vụ = hầu-hạ; giúp-

đỡ.

- Thừa-sự = nhận làm việc giúp cho ai.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện thuật lại việc Ma-vương

đến cám-dỗ Đức Phật, thỉnh Ng

ài ra làm Vua.

Đức Phật từ-chối mối

danh-lợi nầy và giảng Chánh-pháp cho Ma-vương nghe.

(2) Ý-nghĩa của ba bài Kệ số 331, 332 và 333:

Cả ba bài Kệ

đều nói đến niềm vui của bực tu-h

ành theo con

đường

giác-ngộ và giải-thoát. Xin vạch các niềm vui

đó ở mỗi b

ài Kệ:

Bài Kệ số 331: niềm vui sống yên, chết lành.

1) Vui thay, gặp bạn khi cần!: đây là niềm vui có được bạn hiền giúp-đỡ mỗi khi cần đến;

2) Vui thay, biết

đủ với ngần nầy đây

!: niềm vui tri-túc, lòng thoả-mãn với những gì mình

đang có, chẳng tham-cầu đ

òi hỏi thêm.

3) Vui thay, thiện-nghiệp dầy khi chết!: lià

đời m

à vui vì biết thiện-nghiệp sâu dầy của mình sẽ

đưa m

ình

đến c

õi an-lành.

4) Vui thay

đau khổ diệt-trừ đ

ã xong!:

đây l

à niềm vui thoát khổ Luân-hồi,

đ

ã diệt-trừ mọi phiền-não, chứng

được

vô-sanh.

Bài Kệ số 332: niềm vui báo bốn trọng-ân.

1. Vui thay, phụng-dưỡng mẹ già; Vui thay hiếu-kính với cha trên

đời

!:

đây l

à niềm vui báo trọng-ân của cha-mẹ ngay khi còn sống.

2) Vui thay phục-vụ Sa-môn; Vui thay, thừa-sự Thánh-nhơn ra

đời

!:

đây l

à niềm vui báo trọng-ân của Thầy, Tổ,

được cúng-dường các bực

Hiền-Thánh.

Bài Kệ số 333: niềm vui chuyên tu

đến ng

ày viên-mãn.

1) Vui thay, giữ giới tới già!:

đây l

à niềm vui trọn

được

giới-

đức thanh-tịnh

suốt

đời.

2) Vui thay, tín-niệm rất là bền lâu!: niềm vui có đức tin kiên-cố

3) Vui thay thành

đạt trí mầu

!: niềm vui chứng Trí-huệ Bát-nhã Ba-la-mật đưa đến bờ giác-ngộ và giải-thoát.

4) Vui thay, ác-hạnh từ lâu khước-từ!: niềm vui

đ

ã từ lâu hoàn-toàn xa lánh con

đường ác.

-ooOoo-

XXIV.- Phẩm THAM-ÁI.

(240).- Tích chuyện con cá vàng.

Vào một thời kia,

Đức Phật ngụ tại ch

ùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có

đề-cập đến một con cá v

àng rất

đẹp nhưng miệng phát ra m

ùi hôi.

Thuở ấy, có người

đánh cá bắt được một con cá v

àng rất xinh

đẹp, mới đem dâng cho Vua để l

ãnh thưởng.

Đức Vua trầm-trồ khen ngợi cá đẹp đang bơi lội tung-tăng, bỗng cá trồi l

ên mặt nước

đớp mồi, miệng mở ra, toả một m

ùi hôi nồng-nặc. Vua lấy làm lạ, mới

đem chậu cá đến ch

ùa Kỳ-viên, thưa hỏi

Đức Phật. Đức Phật bảo, cá v

àng nầy, thân hình dẹp-

đẽ nhưng miệng phát ra m

ùi hôi-thúi, vì

đang chịu quả-báo của tội-ác đ

ã làm trong tiền-kiếp. Rồi

Đức Phật mới kể lại chuyện xưa như sau

:

Vào thời

Đức Phật Ca-diếp, có một vị tỳ-kheo t

ên là Ca-bi-la rất thông-suốt Tam-tạng Kinh-

điển. Ỷ m

ình có sức học cao, tỳ-kheo Ca-bi-la thường tỏ ra khinh-mạn các bạn

đồng-tu. Mỗi khi có sự tranh-luận n

ào về giáo-lý, Ca-bi-la khinh-khỉnh nói với người

đối-thoại

: "Đạo-hữu đã hiểu-biết giáo-lý đến mức nào?", ngầm khoe kiến-thức sâu-rộng của mình. Vào một dịp lễ Bố-tát tụng giới, trong khi các tỳ-kheo cùng

đọc

giới Ba-la-

đề-mộc-xoa,

Ca-bi-la chẳng tụng theo, lại bảo: "Ta còn lạ gì với Luật-tạng, Kinh-tạng Luận-tạng; các ông chỉ biết

đọc vanh-vách, có hiểu được như Ta không

?" Nói xong, Ca-bi-la bỏ ra ngoài. Tuy có công chỉ-dạy giáo-lý cho các tỳ-kheo khác, nhưng thái-

độ khinh-mạn của Ca-bi-la đ

ã gây khó-kh

ăn nhiều trong việc truyền-bá Chánh-pháp. V

ì tội-ác nầy, Ca-bi-la phải sa vào

địa-ngục, chịu h

ình-phạt trong suốt thời

Đức Phật Ca-diếp. Nhưng nhờ có công giảng-dạy giáo-lý, n

ên khi mãn hạn ở

địa-ngục, được tái-sanh v

ào hàng súc-sanh, thành con cá vàng, có thân-hình

đẹp-đẽ, nhưng miệng lại thở ra m

ùi hôi-thối.

Kể

đến đây, Đức Phật hướng về các tỳ-kheo, bảo

: "Nầy chư T

ăng, đối với

Chánh-pháp, chẳng những phải thông-hiểu thấu-

đáo, m

à còn phải thực-hành cho tinh-chuyên nữa."

Rồi

Đức Phật mới nói l

ên bốn bài Kệ sau

đây

:

Nơi người sống cuộc

đời phóng-dật,

Như dây leo, ái-dục t

ăng nhanh.

Nhảy từ

đời nầy sang đến đời khác,

Như khỉ rừng ham trái cứ chuyền cành.

(Kệ số 334.)

Trên

đời, người bị ngập tr

àn,

Lòng tham khát-ái buộc ràng khít-khao.

Ái-dục t

ăng mau như đám cỏ,

Gặp

được mưa r

ào mọc tràn lan.

(Kệ số 335.)

Trên

đời, người khắc-phục xong

Bụng tham khát-ái khó hòng diệt tiêu.

Ưu-sầu, phiền-muộn

đều xa lánh

Như nước rơi trên cánh lá sen.

(Kệ số 336.)

Đây, điều lành Như-Lai chỉ-dạy

Cho mọi người họp tại nơi

đây.

Hãy

đ

ào ái-dục ngay tận rễ

Như ngườì bứng xới rễ cỏ thơm.

Chớ

để Ma-vương sớm hôm theo phá

Như giòng nước lũ ngập cả bụi lau.

(Kệ số 337.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Quả-báo: Quả = hậu-quả; Báo = báo ứng. Theo thuyết Nhơn-Quả của nhà Phật, một hành-

động cố-ý l

àm, chẳng những mang kết-quả trong hiện-tại, mà còn gây hậu-quả về sau. Vì

đ

ã làm ác trong quá-khứ, nên nay phải chịu

điều khổ-sở, đó gọi l

à quả-báo xấu.

- Tiền-kiếp: Tiền = trước; Kiếp = các

đời sống;

Tiền-kiếp là các

đời sống đ

ã qua trước, trước

đời hiện-tại nầy.

- Đức Phật Ca-diếp: vị Phật hiện ra thế-gian trước

Đức Phật Thích-ca; t

ên tiếng Pali là Kassapa Buddha.

- Ca-bi-la: tên vị tỳ-kheo nầy, tiếng Pali là Kapila.

- Tam-Tạng Kinh-

điển: Tam

=

ba; Tạng = cái giỏ

đựng kinh-sách;

Tam-Tạng Kinh-

điển

là tất cả kinh-sách về giáo-lý,

được Đức Phật giảng, ghi chép lại; gồm có (1)

Luật-tạng: các giới-luật r

ăn cấm trong Đạo (

Vinaya); (2) Kinh-tạng: các bài kinh, kệ ghi lời Phật giảng-dạy (Suttanta); (3) Luận-tạng: các bài luận-giảng về Chánh-pháp (Abhidhamma). Tam-tạng, tiếng Pali là Tipitaka.

- Khinh-mạn = Khinh = chê, xem nhẹ; Mạn = tiếng Phạn là Mano, ngạo-mạn, kiêu-c

ăng, quá tự-cao. Kẻ

khinh-mạn xem thường người khác, quá tự-cao, sanh ra phách-lối trong lời nói và hành-

động.

- Đối-thoại: Đối = đang ở trước mặt; Thoại = nói chuyện; Kẻ đối-thoại là người

đang nói chuyện với m

ình.

- Kiến-thức; Kiến = thấy; Thức = biết; Kiến-thức là sự hiểu-biết.

- Lễ Bố-tát tụng giới: Lễ Bố-tát, tiếng Pali là Uposatha, cứ vào

đầu tháng v

à giữa tháng các tỳ-kheo họp lại

để đọc-tụng

giới-luật, nhắc-nhở kỷ-luật tu-hành cho nhau, gọi là tụng giới.

- Giới Ba-la-

đề-mộc-xoa:

tiếng Pali là Pàtimokkha, dịch tiếng Hán-Việt là Biệt-giải-thoát, thường

được gọi trong ch

ùa là Giới-bổn, tức là c

ăn-bản các giới-luật của tỳ-kheo v

à tỳ-kheo-ni.

- Chánh-pháp: Chánh = chơn-chánh,

đứng-đắn;

Pháp = pháp-tu; Phật-học gọi Chánh-pháp là giáo-lý của chính

Đức Phật giảng-dạy

; tiếng Pali là Dhamma.

-

Điạ-ngục: Điạ

= đất; Ngục = nhà giam tù. Theo kinh-sách, người phạm tội nặng khi sống,

đến chết sẽ chịu h

ình-phạt khổ-sở lâu dài nơi điạ-ngục u-tối ở cõi âm.

- Súc-sanh: thú-vật.

- Thực-hành cho tinh-chuyên = đem lời Phật dạy ra áp-dụng trong cuộc sống tu-hành hằng ngày, cho nhuần-nhã.

- Phóng-dật = buông-lung, chẳng biết tự kềm-chế; lười-biếng.

- Dây leo: đây là loại cây cỏ quấn leo quanh cây lớn mà sống.

- Ái-dục: Ái = thích; Dục = muốn; Ái-dục là tình cảm chẳng tốt, cứ ham muốn chạy theo các thú-vui vật-chất tạm-bợ và thấp-hèn.

- Khát-ái: Khát = khao-khát; Ái = mê-thích;

đây dịch chữ

Tanhà của tiếng Pali, còn

được dịch l

à Tham-ái, tên Phẩm XXIV của Kinh nầy.

- Khắc-phục = thắng

được.

- Ưu-sầu: Ưu = lo-lắng; Sầu = buồn-bã.

- Như-Lai: Như = như thế; Lai = đến. Đức Phật tự-xưng là Như-Lai khi nói với kẻ khác; có nghĩa là: người đã đến như thế đó) Theo Kinh Kim-cang, chữ Như-Lai được giải-nghĩa như vầy: "Chẳng từ

đâu đến, cũng chẳng đi về đâu, đó l

à Như-Lai". Ý-nghĩa:"Chẳng từ

đâu đến

" là chẳng biết nguồn-gốc, chẳng do sanh ra mới có;"Chẳng

đi về đâu

" là chẳng biết tương-lai sẽ như thế nào, chẳng biết khi mất sẽ về

đâu. Ý-

nghĩa sâu-xa: Người như thế (Như-Lai) tức là bực vô-sanh, chẳng bị tái-sanh, nên chẳng sanh ra mà cũng chẳng chết

đi, cứ

như thế mãi!

- Ma-vương: Vua Ma, sự cám-dỗ, xúi-dục làm

điều quấy.

- Nước lũ = nước lụt, nước dâng tràn lên khắp nơi.

- Bụi lau = bụi cây lau, mọc ở ven sông như cây sậy.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện thuật lại tiền-kiếp của con cá vàng, thân

đẹp m

à miệng thúi. Nguyên tỳ-kheo Ca-bi-la vào thời

Đức Phật Ca-diếp, phách-lối v

ì thông-hiểu kinh-kệ, phạm lỗi ngã-mạn, khinh chê lễ Bố-tát, bị sa

điạ-ngục,

sau

đó

tái-sanh làm con cá vàng.

Khi kể lại tiền-kiếp của Ca-bi-la,

Đức Phật dạy:

Chánh-pháp chẳng những phải thông-suốt, mà còn phải

đem áp-dụng tu-h

ành cho nhuần-nhã nữa:

đó l

à ý-nghĩa của Tích chuyện, có phần nặng về luật Nhơn-Quả; hễ lấy việc tu-tập làm nhơn lành trong kiếp nầy, thì kiếp sau sẽ

được hưởng

quả tốt.

(2) Ý-nghĩa bốn bài Kệ số 334, 335, 336 và 337:

Ý-nghĩa chung của bốn bài Kệ nầy có liên-quan

đến Luật Nhơn-Quả, do nguy

ên-nhơn nào mà ta phải bị tái-sanh chịu khổ trong cõi Luân-hồi:

đó l

à do lòng Tham-ái cứ theo bám chặt, bấu-víu mãi vào các thú-vui tạm-bợ của cuộc sống.

Xin phân-tách ý-nghĩa riêng từng bài Kệ:

Bài Kệ số 334: sống phóng-dật sẽ khiến ta trôi l

ăn m

ãi

trong vòng Luân-hồi lận-

đận.

1) Nơi người sống cuộc

đời phóng-dật:

sống buông-trôi, chẳng tu-hành,

đó l

à nguyên-nhơn sẽ khiến ta mắc vòng Luân-hồi mãi.

2) Như dây leo, ái-dục t

ăng nhanh:

lòng ham-muốn cứ t

ăng m

ãi tựa như ngọn cây dây leo quấn quanh thân cây to, càng ngày lá càng thêm rậm-rạp. Tại sao ái-dục t

ăng

? Vì lười-biếng, sống buông-lung.

3) Nhảy từ

đời nầy sang đến đời khác

:

đây l

à tả cảnh tái-sanh, cứ sanh sanh, tử tử mãi chẳng ngừng, trong nhiều

đời kiếp

:

đó l

à quả tái-sanh của nhơn ái-dục và phóng-dật, nói ở hai câu trước.

4) Như khỉ rừng ham trái cứ chuyền cành: hình-ảnh sống-

động so-sánh sự tái-sanh chẳng dứt như con khỉ rừng ham trái, cứ chuyền m

ãi từ cành nầy sang cành khác, chẳng thôi.

Bài Kệ số 335: Khát-ái ràng-buộc con người vào Luân-hồi.

1) Trên

đời, người bị ngập tr

àn, Lòng tham khát-ái buộc ràng khít-khao:

Ta cứ tưởng

đời ta sống trong tự-do, chẳng ngờ bị r

àng-buộc chặt-chẽ bởi lòng tham, bám vào các thú-vui vật-chất tạm-bợ.

2) Ái-dục t

ăng mau như đám cỏ, Gặp được mưa r

ào mọc tràn lan:

hình-ảnh sống-

động so-sánh sự

ái-dục, ham theo dục-vọng, càng

được c

àng muốn thêm, với đám cỏ non gặp mưa rào mọc tràn lan.

Bài Kệ số 336: dứt

được

Khát-ái là diệt tiêu hết phiền-não.

1) Trên

đời, người khắc-phục xong, Bụng tham khát-ái khó h

òng diệt tiêu:

sự Khát-ái rất khó mà diệt cho tiêu, nhưng người nào khắc-phục

được nó sẽ chấm-dứt được mọi phiền-n

ão do nó gây cho mình.

2) Ưu-sầu, phiền-muộn

đều xa-lánh, Như nước rơi tr

ên cánh lá sen:

hình-ảnh thơ-mộng so-sánh các ưu-phiền chẳng còn vướng bận tâm người

đ

ã khắc-phục

được

tham-ái, cũng như nước

đổ l

ên lá sen!

Bài Kệ số 337: Đức Phật dạy, đào bỏ Ái-dục hết gốc rễ.

1) Đây, đìều lành Như-Lai chỉ-dạy, Cho mọi người họp tại nơi đây: đây là lời dạy quan-trọng bực nhứt của Phật, chớ xem thường.

2) Hãy

đ

ào ái-dục ngay tận rễ, Như người bứng-xới rễ cỏ thơm

: phải

đ

ào-xới hết gốc rễ của Ái-dục cho tiệt hẳn, cũng như nhổ cỏ, phải nhổ sạch hết cả rễ cái, rễ con chằng-chịt.

3) Chớ

để Ma-vương sớm hôm theo phá, Như gi

òng nước lũ ngập cả bụi lau:

nhổ chưa hết gốc rễ Ái-dục, dễ bị sự cám-dỗ (của Ma-vương) lôi kéo, rồi cứ trôi l

ăn m

ãi trong vòng lẩn-quẩn khổ-

đau của Luân-hồi, như

nước lụt ngập tràn cả bụi lau.

(241).- Tích chuyện con heo nái.

Vào một thời kia,

Đức Phật trú tại Tînh-xá Trúc-lâm, gần th

ành Vương-xá, trong một kỳ giảng-pháp có

đề-cập đến một con heo nái.

Thuở ấy,

Đức Phật c

ùng chư T

ăng đi khất-thực trong th

ành Vương-xá, bỗng Ngài mỉm cười, khi nhìn thấy một con heo nái

đang ủi đất b

ên gốc cây. Về

đến tịnh-xá, Tôn-giả A-nan thưa hỏi lý-do. Đức Phật bảo

: "Nầy A-nan, ông có thấy con heo

đang ủi đất dưới gốc cây b

ên vệ

đường, lúc nảy không

? Vào thời

Đức Phật Câu-lưu-tôn, nó l

à một con gà mái, thường

đứng b

ên hông chùa, nghe giảng Kinh, nên

được tái-sanh l

àm một nàng công-chúa. Một hôm công-chúa

đi cầu, nh

ìn thấy các dòi bọ nhung-nhúc bên dưới, quán-tưởng

đến tấm-thân vô-thường rồi cũng bị d

òi, bọ

đục-khoét, mới phát tâm tu-h

ành. Mãn

đời đó, được sanh l

ên cõi Trời Phạm-thiên làm thiên-nữ. Hưởng hết phước, lại vì nghiệp-báo ở tiền-kiếp, phải tái-sanh dưới thân-hình con heo nái nầy. A-nan, ông có thấy ch

ăng,

nghiệp lành nghiệp dữ đã lôi kéo ta phải trôi lăn, lên xuống, mãi trong cõi Luân-hồi lận-đận."

Rồi

Đức Phật mới nói l

ên sáu bài Kệ sau

đây

:

Như cây

đốn c

òn gốc bền, rễ cứng

Sẽ

đâm chồi mọc lại vững như xưa,

Gốc ái-dục tuỳ-miên chưa nhổ bứng,

Khổ "sanh-già-chết" cứ mãi dây-dưa.

(Kệ số 338.)

B

ăm-sáu d

òng "ái-dục" cuồn-cuộn chảy,

Đẩy mạnh người mê vào lạc-thú.

Tư-tưởng ái-tham vùng nổi dậy,

Lôi cuốn người tà-kiến như cơn lũ.

(Kệ số 339.)

Dòng "ái-dục" chảy tràn khắp chốn

Khiến dây leo bám chặt,

đâm chồi.

Thấy rõ dây leo bò lổn-ngổn,

Với "dao" trí,

đoạn hết gốc ngọn.

(Kệ số 340.)

Trong chúng-sanh, niềm vui cuộn chảy

Từ lục-trần, bị ái-dục nhuốm dơ.

Cầu hạnh-phước, nhưng dục-lạc mê-mờ,

Cảnh sanh-già nên mới chịu lấy.

(Kệ số 341.)

Ái-dục bao-vây, người vùng-vẫy

Như thỏ mắc lưới nhảy loanh-quanh.

Hễ còn bị ái-dục hành,

Là còn

đau-khổ tử-sanh lâu d

ài.

(Kệ số 342.)

Ái-dục bao vây, người vùng-vẫy

Như thỏ mắc lưới, nhảy loanh-quanh.

Ly-dục, tỳ-kheo muốn

đạt th

ành

Ái-dục, phải mau nhiếp-phục vậy.

(Kệ số 343.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Tịnh-xá Trúc-lâm, thành Vương-xá: ngôi tu-viện nầy cất trong vuờn Trúc, gần thủ-

đô nước Ma-kiệt-đ

à (Magadha) do vua Tần-bà-sa-la (Bimbisara) dâng-cúng lên Phật và T

ăng-đo

àn. Tên tiếng Pali là tu-viện Veluvana, ở thành Ràjagaha. (Tịnh = yên-vắng; xá = nhà)

- Khất-thực: Khất = đi xin; Thực = ăn. Theo giới-luật, tỳ-kheo (còn gọi là Khất-sĩ ), chẳng

được phép có nghề ri

êng

để sanh-sống, phải đi xin ăn, trước để dẹp l

òng tự-ái, hạ mình xuống

đi xin kẻ khác, sau l

à

để có dịp gặp dân-chúng để chỉ-dạy cách tu-h

ành cho họ.

- Tôn-giả A-nan: tên người thị-giả( = hầu-cận) của

Đức Phật Thích-ca, tiếng

Pali là Ananda. Tôn-giả vốn là em chú-bác với

Đức Phật.

- Phật Câu-lưu-tôn: vị Phật nầy là vị Phật thứ nhứt ở Hiền-kiếp; tên bằng tiếng Pali là Kakusandha Buddha.

- Tái-sanh: Tái = trở lại một lần nữa; Sanh = sanh ra. Theo thuyết Luân-hồi trong

đạo Phật, chúng-sanh có nhiều đời sống, cứ sanh rồi chết đi, lại sanh nữa, m

ãi mãi chịu khổ-

đau trong v

òng Luân-hồi.

- Quán-tưởng: suy-nghĩ sâu-xa.

- Vô-thường: Vô = chẳng; Thường = hằng còn. Lẽ vô-thường là Chơn-lý, theo

đó muôn vật có h

ình-tướng phải chịu sự biến-

đổi m

ãi,

để đi đến hoại-diệt, chẳng thường-c

òn luôn luôn

được.

- Phát-tâm tu-hành: mới khởi lòng muốn tu gọi là phát-tâm.

- Trời Phạm-Thiên: cõi Trời thuộc cảnh Sơ-thiền, trong Sắc-giới.

- Thiên-nữ: Thiên = Trời; Nữ = cô gái.

- Nghiệp-báo: Nghiệp = những hành-

động đ

ã qua; Báo = báo-ứng. Theo thuyết nghiệp-báo của nhà Phật, chúng-sanh sẽ tuỳ theo hành-

động đ

ã qua và ngày nay mà chịu lấy vận-mạng mình, gọi là chịu nghiệp-báo. Hễ làm lành,

được

nghiệp lành, sanh vào nơi sung-sướng; còn làm ác, có nghiệp dữ, sẽ

đầu-thai v

ào nơi khổ-sở.

- Luân-hồi: Luân = bánh xe; Hồi = trở lại. Theo thuyết nhà Phật, chúng-sanh cứ sanh ra, rối chết

đi, rồi theo nghiệp-báo tái sanh lại, để rồi lại chết nữa, cứ như thế m

ãi, cũng như bánh xe cứ l

ăn tr

òn vòng.

- Kệ: bài thơ ngắn, tóm-tắt lời giảng của

Đức Phật.

- Ái-dục: Ái = thích, thương; Dục = ham-muốn. Ái-dục là tình-cảm thèm-khát, ham muốn theo các thú-vui vật-chất tạm-bợ ở

đời. Tiếng

Pali là Tanhà, còn

được dịch l

à Tham-ái.

- Tuỳ-miên: đang ngủ, nằm sẵn đấy chờ cơ-hội sẽ nổi lên.

- B

ăm sáu d

òng ái-dục:

ba mươi sáu dòng ái-dục, 36 thứ ham-muốn, bám-víu. Tại sao có

đến 36 d

òng ái-dục? Vì ái-dục:

- sanh ra từ sáu c

ăn:

mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý: ... ... 6 dòng

- bám-víu vào sáu trần: sắc, thanh, hương, vị, xúc và pháp: ... 6 dòng

- khởi lên trong ba thời: quá-khứ, hiện-tại vị-lai: ... ... ... x 3 thời

Tổng cộng lại: (6 + 6) x 3 = 36 dòng ái-dục.

- Lạc-thú: Lạc = vui. Lạc-thú là thú vui.

- Tà-kiến: Tà = xiêng-xéo, chẳng

đúng;

Kiến = ý-kiến. Có hai tà-kiến quan-trọng: (1) thường-kiến: cho rằng chúng-sanh có linh-hồn bất-biến, thường-còn, hễ

đ

ã sanh làm người rồi thì chẳng tái-sanh làm thú -vật

đuợc

; (2) đoạn-kiến: cho rằng chết là hết, chỉ có

đời nầy thôi

- Cơn lũ = cơn lụt-lội, nước dâng cao ngập tràn khắp nơi.

- Dây leo: loài cây thân như dây leo quấn vào thân cây khác.

- Dao trí: ví Trí-huệ như con dao bén, cắt

đứt được hết phiền-n

ão

- Lục-trần: sáu trần, tức là sắc, thanh, hương, vị, xúc pháp.

- Bị ái-dục hành: bị ái-dục hành-hạ, bị sự thèm-khát thúc-

đẩy.

- Ly-dục: Ly = lià xa; Dục = ham muốn.

- Nhiếp-phục:: khuất-phục, kềm-chế, lấy lại quyền làm chủ.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện kể lại tiền-kiếp của một con heo nái, trôi l

ăn trong v

òng lẩn-quẩn của Luân-hồi. Trong một kiếp trước, vốn là một con gà mái, biết nghe kinh; sau sanh làm công-chúa, phát-tâm tu-hành, nên

được sanh l

ên cõi Trời; rồi vì hết phước và phải chịu nghiệp-báo mới tái-sanh vào hàng súc-sanh, mang thân heo. Khi kể lại tiền-kiếp

đó, Đức Phật dạy, phải tu để dứt

nghiệp mới thoát khỏi vòng Luân-hồi.

(2) Ý-nghĩa của sáu bài Kệ, từ số 338

đến số 343:

Cả sáu bài Kệ

đều nói về

nguyên-nhơn gây

đau-khổ cho chúng-sanh trôi lăn trong Luân-hồi chính l

à ái-dục và khuyên ta nên

đ

ào-bứng hết gốc-rễ của lòng ham-muốn chạy theo thú-vui tạm-bợ ở

đời.

Xin phân-tách

để t

ìm ý-nghĩa riêng từng bài:

Kệ số 338: gốc ái-dục nhổ chưa hết rễ, còn chịu khổ dây-dưa.

1) "Như cây

đốn c

òn gốc bền, rễ cứng, Sẽ

đâm chồi mọc lại vững như xưa

":

gốc còn rễ là còn mầm sống,

đâm chồi trở lại, cũng như c

òn luyến-tiếc là chưa dứt bỏ

được

ái-dục (tham muốn);

2) "Gốc ái-dục tùy-miên chưa nhổ bứng, Khổ ‘sanh-già-chết’ cứ mãi dây-dưa": ‘Tuỳ-miên’ là còn

đang ngủ đó, chưa chết đâu; hễ c

òn ái-dục là còn phải tái-sanh, do

đó c

òn phải chịu mãi cảnh khổ sanh, già, bịnh, chết trong cõi Luân-hồi.

Kệ số 339: sức lôi-cuốn của ái-dục mạnh-mẽ như cơn lũ-lụt.

1) "B

ăm-sáu d

òng ái-dục cuồn-cuộn chảy,

Đẩy mạnh người m

ê vào lạc thú": sáu c

ăn

bấu-víu vào sáu trần qua ba thời quá-khứ, hiện-tại và vị-lai, tạo nên sức mạnh xô-

đẩy người m

ê

đi t

ìm thú-vui tạm-bợ

2) "Tư-tưởng ái-tham vùng nổi dậy, Lôi cuốn người tà-kiến như cơn lũ": vì sáu c

ăn

kẹt vào sáu trần khiến tà-kiến bên trong tâm nổi dậy, lôi-cuốn người mê chẳng khác nào cơn lụt to tràn ngập khắp nơi.

Kệ số 340: dùng ‘dao’ Trí-huệ cắt

đứt hết gốc ngọn của

ái-dục

1) "Dòng ái-dục chảy tràn khắp chốn, Khiến dây leo bám chặt,

đâm chồi.

": sức mạnh của ái-dục khiến cho sự bấu-víu của c

ăn-trần

càng chặt-chẽ, như dây leo

đâm chồi, mọc lá, bám quanh thân cây;

2) "Thấy rõ dây leo bò lổn-ngổn, Với ‘dao’ Trí

đoạn hết gốc ngọn

": NhờTrí-huệ soi sáng thấy ái-dục bám-víunhư các dây leo bò lổn-ngổn, liền chặt

đứt, liền đoạn hết cả gốc rễ của sự tham-luyến. Nói cách khác, nhờ

tỉnh-giác, thắp sáng lên đuốc Tuệ, vung gươm Trí lên mà cắt

đứt được

ái-dục.

Kệ số 341: lạc-thú

đời bị

ái-dục nhuốm dơ, nên phải chịu khổ

1) "Trong chúng-sanh, niềm vui cuộn chảy, Từ lục-trần, bị ái-dục nhuốm dơ": Cuộc sống trong Luân-hồi khổ nhiều sướng ít, nhưng vẫn có niềm vui; tiếc thay, nguồn vui sống

đó v

ì các c

ăn

bám-víu vào các trần, nên bị ái-dục làm nhiễm dơ;

2) "Cầu hạnh-phước, nhưng dục-lạc mê-mờ": việc tìm cầu hạnh-phước trong cuộc sống là

đ

ìều chánh-

đáng, nhưng tiếc thay, con người lại bị m

ê-mờ vì quá tham muốn các dục-lạc, các thú-vui vật-chất thấp-hèn và tạm bợ, nên phải khổ;

3) "Cảnh sanh-già nên mới chịu lấy": vì cố bám chặt vào các dục-lạc vật-chất còn chưa

được thỏa-m

ãn hết, nên cứ mãi chịu cảnh khổ của sanh-già-bịnh-chết.

Kệ số 342: còn chưa thoát lưới ái-dục là còn chịu khổ tử-sanh.

1) "Ái-dục bao vây, người vùng-vẫy, Như thỏ mắc lưới, nhảy loanh-quanh": con người bị ái-dục bao vây nào khác chi con thỏ bị mắc lưới, cố vùng-vẫy mà chẳng thoát ra

được. Tại sao

? Vì còn tiếc.

2) "Hễ còn bị ái-dục hành, là còn

đau khổ tử-sanh lâu d

ài": Ái-dục

hành-hạ con người bằng cách thúc-

đẩy chạy theo các thú-vui vật-chất quá tầm tay, chẳng được thoả-m

ãn nên chẳng những khổ trong hiện-

đời, m

à còn phải trôi-l

ăn m

ãi trong cảnh sống-chết của Luân-hồi.

Kệ số 343: muốn ly-dục hoàn-toàn, tỳ-kheo phải diệt ái-dục.

1) Hai câu

đầu nhắc lại thí-dụ

thỏ mắc lưới ở bài Kệ 342 trước.

2) "Ly-dục, tỳ-kheo muốn

đạt th

ành, Ái-dục, phải mau nhiếp-phục vậy": đạt thành bực ly-dục là chứng quả A-la-hán vô-sanh, c

ăn bản tu-tập l

à phải mau diệt ái-dục, dẹp bỏ hẳn sự tríu-mến, luyến-tiếc.

(242).- Tích chuyện tên trộm bị xử tử.

Vào một thời kia,

Đức Phật ngụ tại Tînh-xá Trúc-lâm, gần th

ành Vương-xá, trong một kỳ giảng-pháp, có

đề-cập đến một t

ên trộm bị xử tử-hình.

Thuở ấy, có một vị tỳ-kheo làm

đệ-tử cho Tôn-giả Đại Ca-diếp, tu-tập đắc được bốn cảnh Thiền. Một hôm trong khi đi khất-thực tại nh

à người chú, thấy một người

đ

àn-bà, người ấy sanh lòng thương-yêu muốn cưới, mới xin hoàn-tục. Sau khi rời T

ăng-đo

àn, vị ấy trở về nếp sống của thường-nhơn, nhưng chẳng biết làm nghề chi

để sanh-nhai. Bị đuổi ra khỏi nh

à, người ấy

đi lang-thang một dạo, rồi kết b

è với bọn trộm. Chẳng may, cả bọn bị bắt và bị lên án tử-hình.

Trên

đường bị dẫn ra

nghĩa-

điạ để chém đầu, vị cựu-tỳ-kheo gặp được Tôn-giả Đại Ca-diếp. Tôn-giả trông thấy người đệ-tử cũ sắp bị h

ành-hình, mới dạy rằng: "Nầy

đệ-tử, con phải n

ên tập-trung tư-tưởng ngay

để quán-chiếu về lẽ

thân-tâm vô-thường." Vị cựu-tỳ-kheo vâng lời, liền khẩn-thiết quán-tưởng. Trong khi các người

đao-phủ lo dọn-dẹp pháp-trường để h

ành-quyết thì vị cựu-tỳ-kheo

đ

ã nhập định, gương mặt tươi-tỉnh, chẳng có chút gì lo-sợ như các tội-nhơn khác

đang k

êu khóc. Dân-chúng rất ngạc-nhiên và các

đao-phủ dừng đao lại, chẳng dám chém vị cựu-tỳ-kheo. Họ trở về tr

ình lại,

đức Vua liền ra lịnh tha tội v

à sai dẫn vị ấy

đến gặp Đức Phật. Đức Phật liền đọc b

ài Kệ sau

đây

:

Lià rừng ‘ái’, hướng

đến rừng ‘tu’

Bỏ rừng ‘tu’, trở lại nhà nầy.

Xuất-gia hoàn-tục xem

đây,

Như người cổi trói lấy dây buộc mình.

(Kệ số 344.)

Sau khi lắng nghe bài Kệ, tâm vị cựu-tỳ-kheo quán-chiếu tánh-cách vô-thường, bất-toại-nguyện và vô-ngã của thân-tâm n

ăm uẩn

nầy, nên chứng

được quả-vị Tu-đ

à-huờn. Khi

được tự-do khỏi tội, vị ấy liền xin phép

thọ-giới tỳ-kheo trở lại, và tinh-tấn tu-tập, chẳng bao lâu chứng

được quả-vị A-la-hán.

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Tịnh-xá Trúc-lâm, thành Vương-xá: ngôi chùa nầy cất trong vườn trúc,

được vua Tần-b

à-sa-la (Bimbisara) dâng cúng

Đức Phật, gần thủ-đô

Ràjagaha nước Ma-kiệt-

đ

à (Magadha). Tiếng Pali: Veluvana.

- Tử-hình: Tử = chết, Hình = hình-phạt; Tử-hình là xử tội chết.

- Tôn-giả

Đại Ca-diếp

= vị

đại-đệ-tử của Phật Thích-ca, giỏi bực nhứt về hạnh đầu-đ

à; tên tiếng Pali là Mahà Kassapa.

- Bốn cảnh Thiền: tu Thiền lần-lượt chứng

được

sơ-thiền, nhị-thiền, tam-thiền tứ-thiền.

- Hoàn-tục: Hoàn = trở lại; Tục = thế-tục,

đời sống thường;

Hoàn-tục là nói

đến các vị ty-kheo rời ch

ùa trở lại

đời sống cũ với gia-đ

ình.

- Hành-hình = đem ra xử tội; ở đây là đem chém đầu.

-Tập-trung tư-tưởng: gom ý lại, chú tâm vào một

điểm duy-nhứt.

- Thân-tâm vô-thường: thân-tâm nầy chẳng thường còn mãi, sẽ bị hư-hoại, chết

đi. Ở đây, biết đệ-tử m

ình sắp bị xử chém, Tôn-giả dạy như thế là

để cho đệ-tử khỏi lo-sợ trước khi chết.

- Khẩn-thiết: Khẩn = gấp;Thiết = tha-thiết. Ở

đây l

à cố làm hết sức.

- Đao-phủ: người cầm

đao chém đầu tội-nhơn.

- Nhập

Định: Nhập

=

vào; Định = an-ổn, ở yên. Khi tu Thiền, tâm dừng lại, chú vào

đề-t

ài quán-tưởng, chẳng lo ra, chẳng bị cảnh bên ngoài lôi-cuốn nữa,

đó l

à

đang

nhập

định.

- Xuất-gia: Xuất = ra khỏi; Gia = nhà; Xuất-gia là rời nhà

đi tu.

- Vô-thường: chẳng thường-còn, bị biến-

đổi để rồi hư-hoại mất.

- Bất-toại-nguyện: Bất = chẳng; Toại = vừa-ý; Nguyện = mong cầu. Tánh-cách bất-toại-nguyện là chẳng

đem lại sự vừa-ý mong-muốn.

- Vô-ngã: Vô = chẳng; Ngã = Ta. Tánh-cách vô-ngã là chẳng có Ta, chẳng có chủ-thể, chẳng có linh-hồn bất-diệt ở nơi thân nầy cả.

- Thân-tâm n

ăm uẩn

= N

ăm uẩn l

à: (1)sắc-uẩn, thân thể-xác; (2)thọ-uẩn, các cảm-thọ; (3)tưởng-uẩn, các tư-tưởng; (4)hành-uẩn, các hành-

động; (5)

thức-uẩn, các hiểu-biết. Sắc-uẩn là thân; bốn uẩn còn lại là tâm.

- Tu-

đ

à-huờn: quả-vị

đầu-ti

ên, còn gọi là Nhập-lưu (gia nhập vào dòng Thánh), hay Thất-lai (chỉ còn tái-sanh bảy lần nữa thì nhập Niết-bàn). Tiếng Pali là Sotàpatti.

- Thọ-giới tỳ-kheo: làm lễ nhận tuân theo 250 giới của tỳ-kheo.

- A-la-hán: quả-vị thứ tư, cao nhứt, chẳng còn tái-sanh nữa, dứt

được Luân-hồi, chứng-đắc Niết-b

àn. Tiếng Pali là Arahant.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện thuật lại việc một vị tỳ-kheo hoàn-tục, theo bọn bất-lương

đi ăn trộm, bị bắt v

à kết tội tử-hình. Trên

đường ra pháp-trường, người ấy gặp Tôn-giả Đại-Ca-diếp l

à thầy cũ dạy

đạo. Tôn-giả khuy

ên người

đệ-tử phải chí-tâm quán-tưởng

thân-tâm vô-thường. Nhờ biết nghe lời thầy, khẩn-thiết hành Thiền ngay lúc ấy, nênvị cựu-tỳ-kheo trở nên bình-thản, gương mặt tươi-tỉnh, chẳng chút lo-sợ. Bọn

đao-phủ ngạc-nhi

ên, chẳng dám chém, trình lại Vua. Vua ra lịnh dẫn

đến gặp Phật. Nghe lời Phật dạy, vị ấy trở lại thọ-giới tỳ-kheo, chẳng bao lâu chứng được quả-vị A-la-hán.

Ý-nghĩa Tích chuyện là

đ

ã

đi tu l

à chọn con

đường giải-thoát, m

à lại hoàn-tục,

đó cũng như người được cổi trói rồi, nay lại lấy dây tự buộc m

ình lần nữa.

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 344:

Ý-nghĩa của bài Kệ:

đi tu l

à

đang được giải-thoát; c

òn hoàn-tục là

đang được cởi trói, m

à lấy dây ra buộc mình lại.

Xin phân-tách từng câu của bài Kệ:

1) "Lià rừng ‘ái’, hướng

đến rừng tu

":

Lìa rừng tham-ái là lià

đời sống thế-tục đầy tham-ái, dục-vọng v

à ràng-buộc, tức là xuất-gia; hướng

đến rừng tu

là bước vào con

đường tu-tập, để được giác-ngộ v

à giải-thoát.

2) "Bỏ rừng tu, trở lại nhà nầy": Rời bỏ nơi

đang tu-h

ành yên-tịnh mà trở lại c

ăn nh

à phiền-não ồn-ào trước kia, tức là hoàn-tục.

3) "Xuất-gia, hoàn-tục, xem

đây, Như người cổi trói lấy dây buộc m

ình":

Người xuất-gia là người

được cổi trói.

Ai

đ

ã trói? Vợ, con, gia-

đ

ình ràng-buộc. Cái gì

đ

ã trói? Các thú-vui vật-chất trong

đời sống thế-tục, cảnh tranh-đấu v

ì tiền-tài, sự-nghiệp, danh-vọng

đang trói. Đ

ã

được cổi các sợi dây r

àng-buộc rồi, nay quay về chốn cũ

để tự trói m

ình lần nữa,

đó l

à hành-

động thiếu suy-xét, rất đáng tiếc.

(243).- Tích chuyện các người tù bị xiềng-xích.

Vào một thời kia,

Đức Phật ngụ tại ch

ùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có

đề-cập đến các người t

ù bị xiềng-xích.

Thuở ấy, có ba mươi vị tỳ-kheo

đi khất-thực trong th

ành Xá-vệ, trông thấy một

đo

àn người tù-tội tay bị còng, chơn bị xích

được dẫn đi ngang qua h

àng phố. Lúc về chùa, khi trình lên

Đức Phật các điều đ

ã trông thấy buổi sáng, có một vị tỳ-kheo thưa với Phật: "Bạch Thế-tôn, chẳng biết còn có vật nào trói buộc bền-chặt hơn còng, xiềng hay xích nữa ch

ăng

?"

Đức Phật đáp

: ‘Nầy chư tỳ-kheo, xiềng xích bằng sắt

đó trói buộc c

òn chưa chặt chẽ bằng khát-vọng về thực-phẩm, về y-phục, về tài-sản, về gia-

đ

ình. Tham-ái kềm-kẹp con người nặng-nề gấp tr

ăm, gấp ng

àn lần xiềng, xích sắt. Cho nên, người hiền-trí mới cắt

đứt

tham-ái, rời xa c

ăn nh

à phiền-não mà gia-nhập T

ăng-đo

àn.

Rồi

Đức Phật nói l

ên hai bài Kệ sau

đây

:

Xiềng bằng sắt, bằng gỗ, bằng gai,

Người trí bảo, chưa dai, chưa bền.

Luyến-lưu con thảo, vợ hiền,

Ngọc-ngà, trang-sức là xiềng chặt hơn.

(Kệ số 345.)

Ràng-buộc

đó thật bền, người trí bảo,

Tuy mềm, nhưng trì nặng, thật khó tháo.

Bực hiền-trí dứt xong bao kiềm-toả,

Dục-lạc khước-từ, thoát khổ thế-gian.

(Kệ số 346.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Xiềng, xích: sợi dây, thường bằng sắt,

để cột trói.

- Còng = cái khoá kẹp hai bàn tay chập lại nhau.

- Khát-vọng = ham-muốn nhiều;

đ

òi cho

được.

- Tham-ái = ham-muốn, thương-thích, tríu-mến

đến quá mức.

- T

ăng-đo

àn: nhóm tu-sĩ Phật-giáo từ bốn người trở lên.

- Xiềng bằng gai = xiềng làm bằng dây gai (cây gai giống như cây bố, vỏ cây dùng dệt bao tải

đựng lúa gạo.)

- Hiền-trí = người tánh hiền-lành và có trí-huệ thông-minh.

- Kiềm-tỏa: Kiềm = cây kềm;Toả = ống khoá. Nghĩa bóng: trói buộc.

- Dục-lạc: Dục = ham-muốn; Lạc = vui; Dục-lạc là ham sự vui-thú.

- Khước-từ = từ-chối, từ bỏ, lià xa.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện rất

đơn-sơ, thấy các người t

ù bị còng tay, xích chơn

đi ngang qua, vị tỳ-kheo hỏi Phật, có vật trói buộc n

ào còn chặt-chẽ hơn xiềng, xích ch

ăng. Đức Phật đáp, sự tham-ái, m

ê-luyến tài-sản và gia-

đ

ình ràng-buộc con người còn nặng-nề hơn gấp tr

ăm ng

àn lần.

Ý-nghĩa của Tích chuyện khuyên ta nên sớm cắt

đứt sự

tham-ái, khước-từ mọi ham-muốn

để chọn con đường tu-h

ành giác-ngộ và giải-thoát.

(2) Ý-nghĩa của hai bài Kệ số 345 và 346:

Hai bài Kệ nhập chung lại thành một bài dạy ta phải sớm cắt-

đứt sự

tham-ái, tríu-mến bên trong tâm ta, ràng-buộc chặt hơn xiềng-xích.

1) "Xiềng bằng sắt, bằng gỗ, bằng gai, Người trí bảo, chưa dai, chưa bền": các loại xiềng-xích bằng sắt, bằng gỗ, hay bằng dây gai còn chưa bền, chưa dai, vì còn có thể tháo ra

được.

2) "Luyến-lưu con thảo, vợ hiền, Ngọc-ngà, trang-sức là xiềng chặt hơn": Thương con thảo, mến vợ hiền, quí tài-sản,

đó l

à

điều chánh-đáng; nhưng thương-mến đến mức quá

tưng-tiu, chiều-chuộng, giữ bo-bo, đó là điều sai-lầm khiến ta trở thành nô-lệ mà chẳng hay biết; vì chẳng hay-biết mình

đang bị r

àng-buộc, nên sự ràng-buộc mới bền, mới dai, chẳng hề nghĩ

đến lúc n

ào nên tháo-gỡ ra.

3)"Ràng-buộc

đó thật bền, tuy mềm, nhưng tr

ì nặng, khó tháo":

sự luyến-ái vì quá êm-dịu nên chính mình chẳng chịu tháo-gỡ ra, cho nên sức ràng-buộc của nó tuy mềm nhưng trì nặng, đeo-đẳng mãi.

4) "Bực hiền-trí dứt xong bao phiền-não, Dục-lạc khước-từ, thoát khổ thế-gian": đây là bực chứng quả A-la-hán ly-dục (dứt mọi phiền-não, dục-vọng), thoát

được

khổ bị tái-sanh ở cõi Luân-hồi, hoàn-toàn giải-thoát, sống an-vui trong cảnh Niết-bàn vắng-lặng.

(244).- Tích chuyện Hoàng-hậu Khê-ma.

Tích chuyện nầy giống với Tích chuyện số (122) về công-chúa Gia-nhã-ba.

Vào một thời kia,

Đức Phật ngụ tại Tịnh-xá Trúc-lâm, gần th

ành Vương-xá, trong kỳ giảng-pháp, có

đề-cập đến ho

àng-hậu Khê-ma.

Bà Khê-ma là hoàng-hậu của vua Tần-bà-sa-la, nước Ma-kiệt-

đ

à, rất hãnh-diện về nhan-sắc tuyệt

đẹp của b

à.

Đức Vua muốn mời ho

àng-hậu

đến viếng Tịnh-xá Trúc-lâm v

à

đảnh-lễ Đức Phật. Nhưng ho

àng-hậu nghe nói

Đức Phật thường chẳng khen-ngợi về sắc-đẹp, n

ên bà tránh né chẳng muốn gặp Phật. Vua sai các nhạc-sĩ tấu-nhạc lên ca-tụng cảnh-trí thanh-vắng và thơ-mộng của Tịnh-xá Trúc-lâm, khiến cho hoàng-hậu mê-thích, mới cùng

đức Vua l

ên

đường đến lễ Phật. Bấy giờ, Đức Phật đang giảng pháp. Ng

ài nhìn thấy bà Khê-ma, biết rõ tâm-trạng hãnh-dện sắc-

đẹp của b

à, nên mới dùng thần-thông biến ra một cô thiếu-nữ trẻ, xinh-tươi lộng-lẫy, ngồi quạt hầu sau lưng

Đức Phật. Chỉ ri

êng có hoàng-hậu mới nom ra cô thiếu-nữ, hoàng-hậu càng ngắm, càng nhận ra nhan-sắc của mình thua xa cô ấy. Bỗng, cô gái biến thành một người thiếu-phụ trung-niên với mấy sợi tóc bạc phất-phơ trên trán. Chẳng mấy chốc, người thiếu-phụ lại khòm lưng, tay cầm quạt chẳng muốn nổi, nét nh

ăn tr

ên da mặt trông như một cụ-già. Ô kià, cụ già

đó lại ng

ã l

ăn ra chết, rồi thân-thể s

ình chướng lên, dòi bọ

đục-khoét để lộ xương trắng-hếu. Vừa lúc đó, b

ài pháp của

Đức Phật cũng chấm-dứt. Tâm-trạng của ho

àng-hậu biến-

đổi nhanh-chóng, từ sự m

ê-luyến tấm thân

đẹp-đẽ, chuyển sang sự ngao-ngán thấy nhan-sắc t

àn-phai quá mau lẹ, lẽ vô-thường sớm

đưa đến sự hoại-diệt của thân-tâm. Đức Phật soi thấy r

õ tâm-trạng

đó của ho

àng-hậu, mới nói tiếp: "Nầy Hoàng-hậu, Hoàng-hậu có nhìn thấy nhan-sắc lộng-lẫy kia chẳng mấy chốc

đ

ã biến thành một

đống xương trắng, để nhận ra lẽ

vô-thường của thân-tâm không? Mê-luyến nhan-sắc chẳng bền-vững kia chỉ khéo kéo ta vào khổ-

đau của Luân-hồi.

"

Rồi

Đức Phật nói l

ên bài Kệ sau

đây, nhờ đó ho

àng-hậu Khê-ma chứng

được quả Tu-đ

à-huờn, về sau thọ-giới tỳ-kheo-ni và

được Phật mời cầm đầu Ni-đo

àn:

Người mê dục-lạc rơi trở vào dòng,

Như nhện ch

ăng tơ lọt v

ào lưới nó.

Bực hiền-trí, ái-tham

đều cắt bỏ,

Thoát mọi ưu-phiền, cất bước thong-dong.

(Kệ số 347,)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Khê-ma: tên tiếng Pali là Khemà; Tần-bà-sa-la = Bimbisara.

-Trúc-lâm = Veluvana; Vương-xá = Ràjagaha; Ma-kiệt-

đ

à = Magadha.

- Tâm-trạng = những gì

đang xảy ra b

ên trong tâm của một người

- Thần-thông = khả-n

ăng mầu-nhiệm, do định-lực tu-h

ành cao.

- Trung-niên: tuổi trung-bình khoảng bốn, n

ăm mươi; sồn-sồn.

- Vô-thường: chẳng bền, hay biến-

đổi, để đi đến ti

êu-diệt.

-Tu-

đ

à-huờn:

quả-vị thứ nhứt, còn gọi là Nhập-lưu hay Thất-lai, tiếng Pali là Sotàpatti

-Ni-

đo

àn: đoàn-thể nữ-tu-sĩ Phật-giáo. Ni = tỳ-kheo-ni = Bhikkhuni

- Dục-lạc: Dục = ham-muốn; Lạc = vui. Dục-lạc chỉ thú-vui thấp.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Nhờ trông thấy sắc

đẹp một cô thiếu-nữ chóng t

àn-phai, trở thành một cụ-già lụm-cụm rồi l

ăn ra chết, Ho

àng-hậu Khê-ma sớm thức-tỉnh. Bà nghe lời khuyên của

Đức Phật, l

ìa bỏ sự tham-luyến vào thân-tâm vô-thường, gia-nhập Ni-

đo

àn, thoát khỏi cảnh khổ Luân-hồi.

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 347:

Bài Kệ khuyên ta sớm cắt bỏ sự ái-dục để chọn đường giải-thoát.

1) "Người mê dục-lạc rơi trở vào dòng": Vì ham thú-vui vật-chất, tạm-bợ, ta lọt trở lại vào dòng khát-ái từ trong tâm ta chảy ra.

2) "Như nhện ch

ăng tơ lọt v

ào lưới nó": ta bị chính tham-ái của ta kéo vào cảnh khổ, nào khác chi nhện kia lọt vào lưới của nó.

3)"Bực hiền-trí, ái-tham

đều cắt bỏ, Thoát mọi ưu-phiền, cất bước thong-dong

": đây là bực tu-hành đã chứng được quả-vị A-la-hán: mọi ái-tham cắt-đứt, mọi phiền-não dứt sạch, mọi chướng-ngại vượt qua, thoát khỏi cảnh tái-sanh trôi-lăn trong vòng Luân-hồi, nay được thong-dong, tự-tại trong cảnh-giới Niết-bàn an-vui, vắng-lặng.

(245).- Tích chuyện người diễn trò nhào-lộn.

Vào một thời kia,

Đức Phật ngụ tại ch

ùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong kỳ giảng-pháp, có

đề-cập đến ch

àng Úc-ga diễn trò nhào-lộn.

Thuở ấy, có một

đo

àn hát xiệc

đến tr

ình-diễn ở thành Vương-xá trong bảy ngày.

Đủ bảy ng

ày, chàng Úc-ga, con nhà giàu-có,

đều theo coi, l

òng mê-tít nhan-sắc của cô gái trẻ-

đẹp có t

ài nhào-lộn trên

đầu ngọn tre cao gần mười thước. Ch

àng xin cưới nàng, và bỏ nhà theo gánh xiệc. Vì chẳng có nghề gì

để sanh-sống, Úc-gia xin l

àm phu khuân-vác

đồ-đạc, đẩy xe cho đo

àn hát. N

ăm sau, sanh được một đứa con trai, vợ ch

àng thường hát ru con ngủ:

Con ơi, con ngủ cho say,

Cha con ngu-dốt cả ngày

đẩy xe.

Chẳng tài, chẳng học, chẳng nghề.

Lớn lên, con chớ theo bề cha con.

Mỗi khi nghe giọng ru con của vợ, Úc-gia rất hỗ-thẹn, mới xin người cha vợ dạy cho nghề nhào-lộn. Chẳng bao lâu, học-hành có tấn-bộ, Úc-gia trình-diễn cũng

được nhiều người hoan-hô.

Một hôm, Úc-gia

đang nhún-nhẩy tr

ên ngọn sào tre, dân-chúng vỗ tay tán-thưởng, thì

đo

àn khất-sĩ của

Đức Phật đi đến. Mọi người tranh nhau đảnh-lễ Phật, chẳng ai m

àng nhìn tiếp trò nhào-lộn.

Đứng tr

ên ngọn sào, lòng Úc-gia chán-nãn, nhưng tai lại nghe lời

Đức Phật đang nói văng-vẳng b

ên dưới: "Nầy chư thiện-nam, tín-nữ, chớ tham-luyến vào thân-tâm n

ăm uẩn, h

ãy mau mau tìm lối thoát khỏi vòng tử-sanh lận-

đận của Luân-hồi.

"

Rồi

Đức Phật lại nói l

ên bài Kệ sau

đây, khiến cho Úc-gia thức-tỉnh, sau đó rời đo

àn hát, xin thọ-giới tỳ-kheo, chẳng bao lâu chứng

được quả-vị A-la-hán

:

Dĩ-vãng bỏ qua,

Tương-lai chẳng ngại,

Hiện-tại chẳng màng.

Bờ bên kia dòng sanh-tử, vượt sang,

Trí thanh-tịnh, cùng với tâm tự-tại,

Cảnh Luân-hồi sanh-lão, chẳng trở lại.

(Kệ số 348.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Úc-ga = tên chàng trai nầy, tiếng Pali là Uggasena.

- Xiệc = phiên-âm chữ Pháp là cirque, gánh hát diễn trò nhào-lộn

- Trình-diễn: diễn trò cho dân-chúng xem.

- Tán-thưởng = khen-ngợi.

- Thiện-nam, tín-nữ: Thiện = lành, Nam = đàn-ông; Tín = tin-tưởng; Nữ = đàn-bà. Thiện-nam, tín-nữ chỉ về dân-chúng tin nghe theo

đạo.

- Khất-sĩ: Khất = đi ăn xin; sĩ = người; Khất-sĩ, Tỳ-kheo, Bhikkhu, là tu-sĩ Phật-giáo,

đi xin để nuôi thân, chẳng được phép có nghề ri

êng.

- Thân-tâm n

ăm uẩn

: thân người gồm có n

ăm uẩn: (1)

sắc-uẩn, thân xác-thịt; (2) thọ-uẩn, các cảm-thọ; (3) tưởng-uẩn, các tư-tưởng; (4) hành-uẩn, các hành-

động;

(5) thức-uẩn, các sự hiểu-biết. Sắc-uẩn thân, bốn uẩn còn lại là tâm. Thân-tâm nầy do n

ăm uẩn do nhơn-duy

ên tạm-thời họp nhau mà thành, hết duyên sẽ tan-rả, chẳng bền-vững, vô-thường; do

đó, ta chớ n

ên tham-luyến quá.

- Luân-hồi: Luân = bánh xe; Hồi = trở lại. Theo thuyết nhà Phật, chúng-sanh có nhiều

đời sống, m

ãn kiếp nầy sẽ tuỳ nghiệp mà sanh lại,

để rồi lại chết đi, rồi lại tái-sanh, cứ như thế m

ãi, cũng như bánh xe quay một vòng rồi l

ăn tiếp; đó l

à vòng sanh-tử lận-

đận của Luân-hồi.

- Thức-tỉnh = tỉnh-ngộ, biết mình trước lầm, nay nghe nói mới hiểu ra

được sự-thật.

- Thọ-giới tỳ-kheo = làm lễ nhận tuân theo giới-luật của tỳ-kheo mà tu-hành. Tỳ-kheo-giới còn gọi là cụ-túc-giới, gồm có 250

điều răn-cấm; trong khi đó người tu tại-gia chỉ có 5 điều cấm m

à thôi.

- A-la-hán: quả-vị thứ tư, bực Thánh. Tu

đ

ã dứt

được hết các

phiền-não, vượt qua hết các chướng-ngại, lià bỏ mọi tham-muốn ( = ly-dục), chứng

được

vô-sanh ( = chẳng còn bị tái-sanh trong Luân-hồi) mới

đắc quả A-la-hán. Theo

nghĩa chuyên-môn, A-la-hán có ba nghĩa: (1) ứng-cúng, xứng-

đáng cho Trời, người cúng-dường; (2)

sát-tặc, giết hết giặc, giặc phiền-não (như tham, sân, si...); (3) vô-sanh ( = chẳng còn tái-sanh, vào Niết-bàn tịch-diệt), Tiếng Pali là Arahant.

- Tự-tại: tự-do, chẳng bị ràng-buộc. Ngoài

đời nói

tự-do, trong

Đạo gọi

tự-tại.

- Sanh-lão = sanh già. Nói

đủ bốn điều Khổ l

à: sanh, lão, bịnh, tử.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện thuật lại việc thanh-niên Úc-ga vì mê cô

đ

ào trong gánh xiệc, cưới cô và theo sống trong gánh hát, phụ-giúp việc khuân-vác. Sau chàng học

được nghề nh

ào-lộn; một hôm

đang tr

ình-diễn, bỗng nghe

Đức Phật nói pháp, liền tỉnh-ngộ, rời gánh hát đi tu, chứng được quả-vị A-la-hán.

Ý-nghĩa của Tích chuyện là lời dạy của

Đức Phật

: chớ mê-luyến thân-tâm n

ăm uẩn, phải chuy

ên-tu

để thoát khỏi Luân-hồi.

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 348:

Đây là một trong các bài Kệ quan-trọng nhứt của Kinh Pháp-Cú, tưởng nên học thuộc lòng để ghi nhớ lời Phật dạy mãi.

Xin phân-tách từng câu:

1. Ba câu

đầu

: "Dĩ-vảng bỏ qua, Tương-lai chẳng ngại, Hiện-tại chẳng màng": Sao lại bỏ qua dĩ-vãng? Vì dĩ-vãng

đ

ã qua rồi, có nhớ lại cũng chẳng sửa

đổi được. Sao lại chẳng ngại

tương-lai? Vì tương-lai còn chưa

đến, dầu có ngại cho lắm cũng chẳng ích-lợi chi, chỉ cần biết sẵn-s

àng

đối-phó l

à

đủ. C

òn hiện-tại mà chẳng màng nữa, thì màng cái chi? Trong hiện-tại biết mình

đang tu-tập đúng đường-lối giải-thoát, đó l

à

điều đáng m

àng.

Đang tu-tập l

à

đang gát qua b

ên cảnh-vật hiện-tại ở chung-quanh, chỉ biết ngay trong giờ phút nầy

đây, tâm ta đang hướng về b

ên trong, gột bỏ mọi phiền-não, chận

đứng mọi vọng-tưởng, đó l

à

điều

đáng màng. Nói cách khác, hiện-tại chỉ

đáng m

àng, khi giữ

được chánh-niệm trong tâm.

2) "Bờ bên kia dòng sanh-tử, vượt sang": Bờ bên kia là bờ giác-ngộ. Vượt được dòng sanh-tử là thoát khỏi cảnh tái-sanh của Luân-hồi. Trọn câu nầy nói

đến sự tu của bực

thánh, chứng quả-vị A-la-hán.

3) "Trí thanh-tịnh, cùng với tâm tự-tại": đây là Trí-huệ Bát-nhã Ba-la-mật, chơn-tâm vừa thanh-tịnh, vừa chẳng bị ràng-buộc. Nói cách khác, tâm, trí ấy chính là tâm-trí của bực

đắc quả Thánh.

4) "Cảnh Luân-hồi sanh-lão, chẳng trở lại": đây là chứng-đắc Niết-Bàn, chẳng còn phải tái-sanh mãi trong vòng Luân-hồi

để chịu khổ nữa.

(246).- Tích chuyện người thiện-xạ.

Vào một thời kia,

Đức Phật ngụ tại ch

ùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có

đề-cập đến một vị tỳ-kheo m

à kiếp trước là một chàng thiện-xạ.

Thuở ấy, có một vị tỳ-kheo sau khi

đi khất-thực, ngồi ăn trong một cái am vắng. Sau đó, khát nước, vị ấy mới lần v

ào một xóm nhà, xin nước uống. Một người

đ

àn-bà

đem nước ra dâng, trông thấy dáng-mạo đoan-trang của vị tỳ-kheo, bỗng nổi l

ên lòng thương-yêu, muốn dùng cách

để m

ê-hoặc. Khi sắp ra

đi, vị tỳ-kheo được người đ

àn-bà thỉnh ngày mai trở lại

để nhận lễ cúng-dường. Sáng hôm sau, đợi khi vị tỳ-kheo thọ-thực xong, người đ

àn-bà lên tiếng than-thở: "Bạch

đại-đức, nh

à con vắng-vẻ quá, chẳng có người

đ

àn-ông trông trước trông sau!" Vị tỳ-kheo nghe hiểu

được ý-ngầm của người đ

àn-bà, tuy ra về chùa, mà lòng còn vấn-vương mơ-tưởng.

Ngày qua ngày, vị tỳ-kheo ấy lòng buồn-bã, biếng việc tu-hành, thân-hình càng ngày càng tiều-tụy. Các bạn

đồng-tu mới thưa-tr

ình sự-việc lên

Đức Phật. Đức Phật bảo

: ‘Nầy tỳ-kheo, người

đ

àn-bà làm cho con tơ-tưởng mãi trong tâm, vốn là vợ con trong tiền-kiếp.

Đời trước, con vốn l

à một nhà thiện-xạ, bắn cung thật giỏi. Một hôm, hai vợ chồng

đang đi trong rừng vắng, bỗng bị bọn cướp chận đường. Trong khi con nỗ-lực chiến-đấu với t

ên

đầu-đảng, th

ì vợ con nhìn thấy thân-hình vạm-vỡ của tướng cướp mà sanh lòng yêu. Con hô lên, bảo vợ

đưa thanh gươm trong bịt để chém t

ên cướp; nhưng vợ con lại trao thanh kiếm cho kẻ thù. Kết-quả là con bị giết chết và vợ con

đi theo sống với t

ên

đầu-đảng. Người đ

àn-bà ấy

đ

ã hại một

đời con như thế, nay lại t

ìm cách quyến-rũ con hoàn-tục, phá luôn thêm cuộc

đời tu-h

ành giải-thoát của con."

Rồi

Đức Phật mới nói l

ên hai bài Kệ sau

đây:

Người bị ý chẳng lành kích-thích,

Ái-tham nhiều, thấy sắc mê-tít;

Ái-dục nơi người càng gia-t

ăng,

Ma-vương trói buộc thêm chằng-chịt.

(Kệ số 349.)

Người dẹp ý chẳng lành an-

định,

Tỉnh-giác, thường quán thân bất-tịnh,

Ái-dục nơi người bỏ dứt xong,

Ma-vương muốn trói,

đừng có h

òng.

(Kệ số 350.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Thiện-xạ: Thiện = giỏi; Xạ = bắn. Thiện-xạ là người bắn giỏi.

- Am = cốc, ngôi nhà nhỏ làm nơi thờ-phượng.

- Đoan-trang = đẹp và trang-nghiêm.

- Mê-hoặc = dụ-dỗ vào

đường quấy.

- Thọ-thực: Thọ = nhận; Thực = ăn. Tiếng nhà chùa, nghĩa là

ăn.

- Đại-đức = tiếng tôn-xưng gọi bực tu-hành.

- Ý-ngầm = ý dấu kín bên trong, chỉ nói mí, chẳng nói toạc ra.

- Tơ-tưởng = mơ-tưởng

đến ho

ài và có ý-

định về t

ình-ái.

- Tiền-kiếp = kiếp trước.

- Hoàn-tục = trở lại

đời sống có gia-đ

ình, bỏ việc tu ở chùa.

- Kích-thích = gây cảm-xúc mạnh khiến cho phải hành-

động; xúi-dục, thúc-đẩy.

- Ái-tham: Ái = thương, thích; Tham = ham muốn quá chừng. Chữ ái-tham dùng dịch chữ Tanhà của tiếng Pali.

Đây l

à nguyên-nhơn gây ra

đau-khổ, tức l

à Tập-

đế

trong Tứ-diệu-

đế.

Hễ diệt

được

ái-dục, bứng hết gốc rễ của nó, thì thoát

được khổ-đau trong c

õi Luân-hồi, chẳng còn phải tái-sanh nữa.

- Ái-dục: Ái = thương, thích; Dục = ham-muốn. Chữ ái-dục được dùng để chỉ sự ham-muốn chạy theo các thú-vui vật-chất thấp và tạm-bợ.

- Gia-t

ăng

= thêm lên.

- Tỉnh-giác = tâm chú-ý luôn giữ chánh-niệm, chẳng buông-lung

- Quán thân bất-tịnh: suy-nghĩ sâu xa về tấm thân vật-chất bên trong chứa nhiều chất dơ, như mủ, nước tiểu,

để hết đắm-say sắc-đẹp

- Ma-vương = vua Ma; nghĩa rộng là sự cám-dỗ, xúi làm bậy.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện thuật lại việc một vị tỳ-kheo bị một người

đ

àn-bà quyến-rũ, lòng mơ tưởng

đến sắc-đẹp, muốn ho

àn-tục, nên tu-hành biếng-nhác, thân-thể tiều-tụy. Vị tỳ-kheo

được dẫn đến gặp Đức Phật, nghe kể lại, trong tiền-kiếp, người đ

àn-bà ấy

đ

ã từng là vợ phản-bội mình, trao gươm cho tướng cướp

để giết chồng. Nay trong kiếp nầy, người ấy lại muốn phá-hoại th

êm cuộc

đời tu-h

ành của mình nữa, vị tỳ-kheo tỉnh-ngộ, dẹp bỏ ý hoàn-tục, mà tinh-tấn tu-hành trở lại.

Ý-nghĩa của Tích chuyện là khi ý bất-thiện nổi lên trong tâm, phải dùng chánh-niệm mà chận bỏ

đi ngay.

(2) Ý-nghĩa của hai bài Kệ số 349 và 350:

Bài Kệ số 349 nêu lên sự nguy-hiểm của ý chẳng lành ( = ý bất-thiện), khiến ta bị Ma-vương ( = sự cám-dỗ) lôi kéo theo con

đường dữ.

Ái-tham, ái-dục là những ý bất-thiện đó.

1) "Người bị ý chẳng lành kích-thích, Ái-tham nhiều, thấy sắc mê-tít": Vì chẳng biết

điều-phục các

c

ăn,

để mắt chạy theo sắc-đẹp bên ngoài, nên ái-tham bên trong tâm xúi-dục theo con

đường quấy.

2) "Ái-dục nơi người càng gia-t

ăng, Ma-vương trói buộc th

êm chằng-chịt"

: Ái-dục, sự ham-muốn theo các thú-vui vật-chất càng ngày càng thêm chồng-chất,

đó l

à

đang bị Ma-vương (

=sự cám-dỗ) trói buộc chặt-chẽ, khó thoát

được.

Bài Kệ số 350 dạy ta cách cổi trói của Ma-vương, tức là làm cách nào

để khỏi bị cám-dỗ theo các thú-vui vật-chất thấp-h

èn và tạm-bợ.

1) "Người dẹp ý chẳng lành an-

định

":

mỗi khi ý bất-thiện nổi lên trong tâm, chánh-niệm nhận ra

được ngay, liền chận lại, đuổi đi, khiến cho

tâm trở nên an-

định.

2) "Tỉnh-giác, thường quán thân bất-tịnh":

đây l

à hai cách hữu-hiệu, giữ tâm an-

định

và chận ý bất-thiện: (1) Tỉnh-giác: tâm luôn luôn chú-ý vào mọi ý-nghĩ khởi lên trong tâm; (2) Quán thân bất-tịnh: thường suy-nghĩ sâu-xa về tấm thân bề ngoài xem

đẹp m

à bên trong chứa chất dơ, nên sanh ra nhàm-chán, chẳng mê sắc-dẹp nữa.

3)‘’Ái-dục nơi người bỏ dứt xong, Ma-vương muốn trói,

đừng có h

òng"

: Vì lòng ham-muốn( = ái-dục)

đ

ã dứt,

đâu c

òn bị cám-dỗ nữa.

(247).- Tích chuyện Tôn-giả La-hầu-la bị Ma khuấy.

Vào một thời kia,

Đức Phật ngụ tại ch

ùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp có

đề-cập đến việc Ma-vương khuấy-phá Tôn-giả La-hầu-la.

Thuở ấy, có một nhóm

đông-đảo các tỳ-kheo từ các phương xa, về ch

ùa Kỳ-viên,

đảnh-lễ Đức Phật. Để đủ chỗ an-nghỉ về đ

êm, Tôn-giả La-hầu-la, con trai của Thái-tử Tất-

đạt-ta khi chưa đi tu, mới nhường chỗ của m

ình, ra ngủ ở ngoài cửa hương-phòng của

Đức Phật. Đến khuya, Ma-vương hiện l

ên làm một con voi to lớn, lấy vòi quấn chặt

đầu Tôn-giả rồi lại rống l

ên nhiều tiếng quái-dị,

để doạ-nhát. Nhưng Tôn-giả vẫn dửng-dưng chẳng chút lo-sợ, nao-núng chi cả. Từ trong

hương-phòng, Đức Phật biết được cảnh ấy, mới nói với Ma-vương: "Nầy Ma-vương hiểm-

độc, dầu cả h

àng ngàn Ma-vương như ngươi

đến phá, có l

àm sợ-hãi

được con ta đâu. La-hầu-la chẳng hề sợ-h

ãi, thoát khỏi tham-ái, luôn luôn tỉnh-giác và sáng-suốt."

Rồi

Đức Phật nói l

ên hai bài Kệ sau

đây, khiến cho Ma-vương biết Đức Phật đ

ã rõ

được sự khuấy-rối của m

ình, nên biến

đi mất

:

Mục-tiêu cứu-cánh, người

đ

ã chiếm,

Hết sợ, ly-tham, chẳng ô-nhiễm,

Nhổ mũi tên sanh-tử

độc-hiểm,

Thân nầy là thân chót Luân-hồi.

(Kệ số 351.)

Lià ái-dục, chẳng hề chấp-thủ,

Biện-tài vô-ngại

đủ bốn thứ

:

Nghĩa, pháp, từ, thuyết có thứ-tự;

Thân nầy là thân chót Luân-hồi,

Vị ấy là

Đại-trí vĩ-nhơn.

(Kệ số 352.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- La-hầu-la: tên tiếng Pali là Ràhula, con của Thái-tử Tất-

đạt-ta (

Sidharta) khi Ngài chưa

đi tu th

ành Phật.

-

Đảnh-lễ:

cúi

đầu lạy, l

àm lễ ra mắt bực trưởng-thượng.

- Hương-phòng: c

ăn ph

òng có hương thơm dành riêng cho

Đức Phật; tiếng

Pali là Gandhakuti.

- Ma-vương: Vua Ma, trên cõi Trời Tha-hoá tự-tại, hay

đi cám-dỗ, xúi dục người l

àm việc quấy; nghĩa bóng là sự cám-dỗ. (Pali là Màra.)

- Hiểm-

độc

= nguy-hiểm và

độc-ác; tánh ác ngầm.

- Tỉnh-giác = Tỉnh = hết mê; giác = biết. Người tỉnh-giác luôn luôn bình-tỉnh, chú-ý

đến mọi h

ành-

động, lời nói v

à ý-nghĩ của mình; tâm giữ chánh-niệm, chẳng hề buông-lơi.

- Mục-tiêu cứu-cánh: Mục = con mắt; Tiêu = cái mốc nhìn

để bắn v

ào; Mục-tiêu là chỗ mình nhắm vào khi làm việc gì; gần nghĩa với chữ Mục-

đích. Cứu-cánh: cứu

= cánh = cuối cùng, kết-quả chót. Mục-tiêu cứu-cánh,

đây, l

à chứng-

đắc được quả-vị A-la-hán, bực Thánh.

- Nhổ mũi tên sanh-tử: thoát khỏi cảnh sanh-tử của Luân-hồi.

- Chấp-thủ: nắm chặt, ôm cứng, bấu-víu chẳng chịu buông-bỏ

đi.

- Biện-tài vô-ngại: Biện = hùng-biện, tranh-luận; Tài = tài giỏi; Vô = chẳng; Ngại = ngại-ngùng, lo-sợ. Biện-tài vô-ngại là có tài tranh-luận với kẻ khác mà chẳng hề sợ-hãi; cũng như tài hùng-biện.

- Nghĩa = ý-nghĩa thâm-sâu; Pháp = pháp-tu; Từ = chữ, lời nói; Thuyết = nói. Bốn chữ Nghĩa, Pháp, Từ, Thuyết là bốn

điều m

à người nói pháp nắm vững, khi tranh-luận với kẻ khác chẳng lo-ngại bị thua.

- Thân chót Luân-hồi: đây là tấm thân cuối-cùng, chẳng còn phải tái-sanh để mang thêm thân nào khác nữa, vì chứng được pháp-thân, thân vô-hình, bất-hoại và tự-tại trong cảnh Niết-bàn.

- Vĩ-nhơn: Vĩ = to-lớn, cao-cả; Nhơn = người. Bực vĩ-nhơn có tài-n

ăng lớn, có chí-khí cao. Gần

nghĩa với chữ Anh-hùng.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của T1ch chuyện:

Tích chuyện rất giản-dị, Tôn-giả La-hầu-la bị ma nhát mà chẳng hề sợ-hãi. Ý-nghĩa của Tích chuyện dạy ta phải bình-tỉnh, tỉnh-giác mỗi khi bị cám-dỗ,

để theo đúng con đường thiện-l

ành.

(2) Ý-nghĩa của hai bài Kệ số 351 và 352:

Hai bài Kệ cùng nói

đến bực Thánh, đ

ã

đạt được mục-ti

êu tu-tập là chứng

được quả-vị A-la-hán, thoát khỏi v

òng sanh-tử của Luân-hồi.

Xin lần-lượt kể ra những

đức-tánh của bực đ

ã chứng A-la-hán:

Kệ số 351:

1) "Mục-tiêu cứu-cánh, người

đ

ã chiếm":

mục-tiêu

đó l

à chứng

được quả-vị A-la-hán, bực Thánh.

2) "Hết sợ, ly-tham, chẳng ô-nhiễm": ba

đức-tánh (1) chẳng lo-ngại; (2) dứt tham-ái; (3) chẳng hề dính-nhiễm điều dữ-ác.

3) "Nhổ mũi tên sanh-tử

độc-hiểm,Thân nầy l

à thân chót Luân-hồi":

chẳng còn bị tái-sanh nữa trong cõi Luân-hồi

đau-khổ nầy.

Kệ số 352:

1) "Lià ái-dục, chẳng hề chấp-thủ": hai

đức-tánh: (1) bỏ hết mọi ham-muốn các thú-vui vật-chất thấp-h

èn; (2) dẹp bỏ mọi thành-kiến, mọi tà-kiến, chẳng bấu-víu vào

điều g

ì cả.

2) "Biện-tài vô-ngại

đủ bốn thứ

: Nghĩa, pháp, từ, thuyết có thứ-tự": vì

đ

ã thấm-nhuần Chánh-pháp, lại

được t

ài hùng-biện, nên khi tranh-luận, lúc giảng-pháp,

đều th

ành công mỹ-mãn.

3) "Thân nầy là thân chót Luân-hồi, Vị ấy là

Đại-trí vĩ-nhơn

": đó là vị Thánh dùng Trí-huệ lớn ( = Trí Bát-nhã Ba-la-mật) mà vượt qua

được v

òng sanh-tử của Luân, bỏ nhục-thân, chứng pháp-thân bất-hoại

(248).- Tích chuyện ẩn-sĩ Ưu-ba-ca.

Thuở ấy, khi

Đức Phật vừa th

ành

Đạo dưới cội cây Bồ-đề, Ng

ài nghĩ

đến năm người bạn-đạo cũ, muốn chỉ-dạy cho họ đường-lối tu-h

ành mà Ngài

đ

ã thành-công, mới

đi đến vuờn Lộc-uyển

, gần thành Ba-la-nại

để gặp họ.

Khi xưa, lúc còn theo lối khổ-hạnh mỗi ngày chỉ

ăn một nắm m

è

để sống, tu-sĩ Cồ-đ

àm có n

ăm người bạn, đứng đầu l

à ông Kiều-trần-như

đi theo học đạo. Đến khi nhận thấy lối ép-xác chẳng đưa đến kết-quả mong-muốn, tu-sĩ Cồ-đ

àm trở lại

ăn uống b

ình-thường, mỗi ngày một bữa, các người bạn-

đạo tưởng Ng

ài

đ

ã thối-chí nên bỏ

đi. Nay th

ành

Đạo, Đức Phật muốn độ cho các bạn cũ thấy được con đường Trung-đạo. Tr

ên

đường t

ìm

đến vườn Lộc-uyển, Đức Phật gặp một tu-sĩ khổ-hạnh t

ên là Ưu-ba-ca. Nhìn tướng-mạo trang-nghiêm, dáng

đi

thanh-thoát của

Đức Phật, Ưu-ba-ca rất cảm-phục, mới cất tiếng hỏi

: "Chẳng hay Ngài

đ

ã theo học vị thầy dạy

đạo n

ào?"

Đức Phật liền đáp, Ng

ài tự tìm lấy con

đường giải-thoát, chẳng có thầy n

ào dạy cả.

Rồi

Đức Phật mới nói l

ên bài Kệ sau

đây

:

Ta chinh-phục, làu-thông tất cả,

Dứt trói buộc, ta

đ

ã thoát-ly,

Lậu-hoặc, ái-dục, ta còn gì?

Tự ta, ta

được thắng-trí cao,

Ta còn gọi ai là Thầy ta sao?

(Kệ số 353.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Ẩn-sĩ Ưu-ba-ca: tên vị tu-hành ở ẩn nầy, tiếng Pali là Upaka.

- Vườn Lộc-uyển, thành Ba-la-nại: vườn nai (Pali: Migaedàya), còn gọi là Vườn Tiên (Isipatana), gần thành Bénarès, nay là Vàranàsi.

- Khổ-hạnh: đường-lối tu-hành ép-xác, ăn-uống rất ít, thân gầy.

- Cồ-

đ

àm: họ của

Đức Phật Thích-ca, tiếng

Pali là Gotama.

- Kiều-trần-như: đệ-tử đầu-tiên của Phật, tiếng Pali: Kondana.

- Trung-

Đạo

:

con

đường ở giữa, tránh xa hai cực-đoan

; khổ-hạnh (ép-xác) và lợi-dưỡng (hưởng

đủ mọi sung-sướng vật-chất).

- Lậu-hoặc: Lậu = rỉ chảy; Hoặc = điều sái-quấy. Lậu-hoặc là các phiền-não như tham, sân, si... từ trong tâm bộc lộ ra bằng việc quấy.

- Thắng-trí: trí vượt thắng tất cả; tức là Trí-huệ Bát-nhã Ba-la-mật

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện rất

đơn-sơ, Đức Phật trả lời câu hỏi của ẩn-sĩ Ưu-ba-ca

: Ngài tự tìm lấy con

đường giác-ngộ v

à giải-thoát, chẳng có thầy.

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 353:

Bài Kệ nầy, nếu thốt ra từ một người nào khác, sẽ mang ý-nghĩa rất kiêu-c

ăng; nhưng đây l

à lời nói của

Đức Phật, nói l

ên Sự-thật tự mình tìm ra con

đường giải-thoát, lời nói chơn-th

ành của một bực

Đại-giác, chứng được Nhứt-thiết chủng-trí, thấu-hiểu r

õ tất cả mọi loài.

(249).- Tích chuyện Trời

Đế-Thích thưa hỏi Phật.

Vào một thời kia,

Đức Phật ngụ tại ch

ùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có

đề-cập đến việc vua Trời Đế-Thích thưa hỏi Đức Phật bốn câu về Chánh-pháp.

Thuở ấy, trên cung Trời

Đao-lợi, chư Thi

ên

đang học-tập về Chánh-pháp, c

òn chưa tìm lời giải-

đáp thoả đáng về bốn câu hỏi quan-trọng. Vua Trời Đế-Thích chẳng t

ìm ra giải-pháp, mới cùng với chư Thiên

đến ch

ùa Kỳ-viên, yết-kiến

Đức Phật. Vua Trời tr

ình Phật bốn câu hỏi như sau:

1) Trong các vật hiến-tặng, vật nào quí nhứt?

2) Trong các hương-vị, mùi-vị nào ngon nhứt?

3) Trong các sự vui-mừng,

điều n

ào

đáng hoan-hỉ nhứt

?

4) Tại sao sự diệt-tận mọi tham-ái là công-

đức tối-thượng

?

Đức Phật đáp: "Nầy chư Thiên, Chánh-pháp là tặng-phẩm quí-báu nhứt, Pháp-vị là hương-vị

đậm-đ

à nhứt, Pháp-hỉ là niềm hoan-hỉ cao-cả nhứt, Ái-tận là công-

đức th

ù-thắng nhứt, vì

đưa đến quả-vị Thánh A-la-hán.

"

Rồi

Đức Phật nói l

ên bài Kệ sau

đây

:

Pháp-thí quí hơn mọi bố-thí,

Pháp-vị thắng hơn mọi hương-vị,

Pháp-hỉ vui hơn mọi hoan-hỉ,

Ái-tận vượt khỏi mọi

đau-khổ.

(Kệ số 354.)

Chư Thiên vui mừng, tán-thán. Vua Trời

Đế-thích liền bạch Phật

: "Bạch Thế-tôn, bố-thí Chánh-pháp là quí-báu nhứt, sao chúng-sanh còn chưa

được thọ-hưởng hết

? Con kính xin Thế-tôn hứa-khả cho mọi loài chúng-sanh

đồng hưởng lợi-lạc cao-

quí nầy."

Đức Phật liền cho tập-hợp tất cả tỳ-kheo lại, c

ùng hồi-hướng công-

đức đến tất cả pháp-giới chúng-sanh.

Và kể từ

đó, nghi-thức

Hồi-hướng được thực-hành sau mỗi khoá lễ chánh-thức trong chùa.

TÌM HIỂU:

- A.- Nghĩa Chữ:

- Vua Trời

Đế-thích:

vị vua trên cõi Trời

Đao-lợi, tiếng

Pali: vua Sakka, ởcõi trời Tàvatimsa

- Chánh-pháp: Chánh = chơn-chánh,

đứng-đắn;

Pháp = pháp-tu. Chánh-pháp là lời dạy của

Đức Phật, để tu-h

ành

được giác-ngộ v

à giải-thoát. Tiếng Pali là Dhamma.

- Giải-

đáp thoả-đáng:

trả lời rõ-ràng cho vừa ý mọi người.

- Chư Thiên: Chư = số

đông;

Thiên = Trời; tiếng Pali là Deva.

- Hoan-hỉ = vui mừng.

- Diệt-tận tham-ái: Diệt = làm cho tiêu mất; Tận = tận cùng, mất hết cả;Tham = ham muốn quá chừng; ái = thương, thích. Lòng tham-ái quá ham muốn tìm các thú-vui nhưng chẳng thoả-mãn, khiến ta phải chịu khổ mãi trong cuộc sanh-tử lận-

đận của Luân-hồi; muốn chấm dứt khổ-đau, cần phải

diệt-tận tham-ái.

- Công-

đức tối thượng: Công-đức

=

việc làm tốt giúp vào việc tu-hành

đưa đến giác-ngộ v

à giải-thoát; Tối-thượng = rất cao-cả.

- Tặng-phẩm = phẩm-vật

đem ra hiến-tặng.

- Pháp-vị: Pháp = Chánh-pháp; pháp-tu; Vị = hương-vị; nghĩa bóng là ý-nghĩa sâu-xa, thâm-trầm. Pháp-vị là ý-nghĩa sâu-xa của pháp-tu khiến ta biết con

đường giải-tho

át mà vui lòng tu theo.

- Pháp-hỉ: Pháp = Chánh-pháp; pháp-tu; Hỉ = vui mừng và sung-sướng. Pháp-hỉ là lòng vui nhẹ-nhàng, cảm thấy thật sung-sướng khi nghe và hiểu-biết

được ý-

nghĩa sâu-xa của lời dạy về pháp-tu.

- Ái-tận: Ái = tham-ái, sự ham-muốn quá mức về các thú-vui; dịch nghĩa chữ Tanhà trong tiếng Pali là khát-ái, ví sự ham-muốn, tham-ái, như sự khát-khao

được uống nước của người đ

ã uống phải nước mặn, cứ khát hoài. Tận = dứt tiệt. Lòng ái-tận là tâm-trạng của bực tu-hành

đ

ã diệt xong mọi sự ham-muốn,

đạt đến sự

ly-dục (ly = lià xa; dục = ham-muốn) của bực Thánh A-la-hán.

- Tán-thán = khen-ngợi.

- Hứa-khả = nhận cho, cho phép.

- Hồi-hướng: Hồi = trở về; Hướng = hướng về, nhắm vào. Hồi-hướng công-

đức

là nguyện

đem công-đức nầy chia-xẻ với người m

ình

đang hướng về.

- Thù-thắng = hơn tất cả, thắng

được tất cả; tốt v

à mạnh nhứt.

- Nghi-thức: Nghi = lễ-nghi; Thức = cách-thức. Nghi-thức là những

điều cần l

àm theo thứ-tự và trang-nghiêm trong các buổi lễ.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện thuật lại việc vua Trời

Đế-thích c

ùng chư Thiên

đến thưa hỏi Phật về bốn câu có li

ên-quan

đến Chánh-pháp. Đức Phật giải-đáp v

à

đọc l

ên bài Kệ, chỉ rõ Chánh-pháp là

điều

quí-báu nhứt, vì nhờ

đó m

à ta biết

đường-lối tu-h

ành

để được

giác-ngộ và giải-thoát.

Ý-nghĩa của Tích chuyện là nghe Pháp, hiểu

được ý-

nghĩa thâm-sâu, sanh lòng vui-mừng, ráng tu-tập

để diệt mọi

tham-ái, dứt mọi khổ-

đau. Đem chia-xẻ sự hiểu Pháp với mọi người l

à bố-thí Pháp, một công-

đức thật l

à quí-báu.

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 354:

1) "Pháp-thí quí hơn mọi bố-thí": Pháp-thí

đem Chánh-pháp đến vớí mọi người

: (1) giảng Kinh-kệ, (2) ấn-tống kinh-sách, (3) mời người cùng tu. Bố-thí có: (1) tài-thí (tặng tiền-của), (2) pháp-thí; (3) vô-uý-thí (an-ủi người cho bớt sợ-hãi, lo-lắng). Tại sao Pháp-thí lại quí nhứt? Vì nhờ biết Chánh-pháp tu-hành

được giải-thoát vĩnh-viễn mọi khổ-đau, trong khi các bố-thí khác chỉ tạm thời xoa-dịu nổi khổ.

2) "Pháp-vị thắng hơn mọi hương-vị": Pháp-vị là ý-vị, là ý-nghĩa sâu-xa của Chánh-pháp. Tại sao pháp-vị hơn mọi hương-vị? Vì hương-vị pháp-tu, giữ mãi

được trong tâm, khiến ta nỗ-lực tu-h

ành

để được giải-thoát, trong khi các hương-vị khác, qua khỏi cổ th

ì mất.

3) "Pháp-hỉ vui hơn mọi hoan-hỉ": Pháp-hỉ là niềm vui nhẹ-nhàng trong tâm sau khi thấm-nhuần Chánh-pháp. Niềm vui nầy kéo dài cả cuộc sống, vì nhờ tu theo Chánh-pháp,

được thoát khổ Luân-hồi, trong khi các sự vui khác hễ chấm-dứt th

ì lại sanh khổ-

đau tiếp.

4) "Ái-tận vượt khỏi mọi khổ-

đau

": Ái-tận là diệt cho sạch bụng ham-muốn. Tham-ái là nguồn-gốc sanh ra

đau-khổ trong cảnh sanh-tử của Luân-hồi.

Tận-diệt tham-ái là cốt-tuỷ của Chánh-pháp, là pháp-vị;

đó l

à con

đường tu-tâm, tự giải-thoát

ngay trong

đời nầy

mọi khổ

đau của cuộc sống, v

à chấm-dứt vĩnh-viễn

được nguy

ên-nhơn

đ

ã gây ra sự tái-sanh, khỏi phải trôi l

ăn m

ãi trong các nẻo Luân-hồi lận-

đận.

(250).- Tích chuyện một người tuyệt-tự.

Vào một thời kia,

Đức Phật ngụ tại ch

ùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong kỳ giảng-pháp, có

đề-cập đến một người nh

à giàu mà tuyệt-tự.

Thuở ấy, một hôm vua Ba-tư-nặc, xứ Câu-tát-la,

đến đảnh-lễ Đức Phật v

à thưa: " Bạch Thế-tôn, hôm nay con

đến trễ để nghe pháp, v

ì bận phải

đi trông coi việc tịch thu v

ào công-khố tài-sản của một người rất giàu-có, chết

đi chẳng có con cháu, hay b

à con

để thừa hưởng gia-t

ài. Người ấy rất rít-róng, tuy giàu chẳng dám tiêu-pha, mặc áo quần lam-lũ,

ăn-uống khắc-khổ lắm.

"

Đức Phật đáp: ‘Nầy Đại-vương, người tuyệt-tự đó, trong tiền-kiếp nhờ có l

àm một việc thiện nên

đời nầy được gi

àu-có lớn, nhưng cũng vì hành-vi bất-thiện khác mà phải chịu cảnh tuyệt-tự." Nhà Vua muốn nghe chuyện xưa,

Đức Phật kể tiếp:

Vào một kiếp xa xưa, có một người nhà giàu, tánh rất bỏn-xẻn, chẳng hề bố-thí cho ai. Một hôm sắp

đi ra phố, có một vị Bích-chi-Phật đến khất-thực tại nh

à. Người ấy bảo vợ

đem thực-phẩm ra dưng, rồi ra đi. Người vợ thấy chồng, ng

ày thường rất hà-tiện, nay lại phát-tâm cúng-dường như thế, mới

đem các món ăn

quí trong nhà ra dưng-cúng. Sau khi

đi chợ về, người nh

à giàu gặp lại vị Bích-chi-Phật, lén nhìn vào bình bát, thấy thực-phẩm quí-giá, mới tiếc-rẻ, trong bụng nghĩ, vợ mình dại quá, chẳng

để món ấy cho bọn gia-nhơn ăn, chúng sẽ thích m

à làm việc giỏi hơn cho mình, sao lại

đem cho vị tỳ-kheo nầy, ông ấy ăn no sẽ buồn ngủ mất.

" Vì bố-thí mà còn bỏn-xẻn tiếc của, cho nên

đời nầy, người ấy có tiền m

à chẳng dám

ăn x

ài, cam chịu

đói khát. Lại nữa, người ấy lén thu

ê du-côn giết chết con trai của em mình,

để gi

ành hưởng gia-tài của em

để lại. V

ì tội-ác nầy, nên

đời nầy người ấy bị tuyệt-tự, gia-t

ài bị tịch thu vào công-khố theo luật.

Rồi

Đức Phật mới nói l

ên bài Kệ sau

đây

:

Tiền-tài làm hỏng người ngu,

Hại chi

được đến người tu Niết-b

àn,

Kẻ cuồng-dại hám giàu-sang,

Hại mình mà cũng hại lan

đến người.

(Kệ số 355.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Tuyệt-tự = chẳng có con-cái hay thân-nhơn

để nối d

òng.

- Vua Ba-tư-nặc, xứ Câu-tát-la: tiếng Pali: Pasenadi, Kosala.

- Tịch-thu vào công-khố = lấy hết bỏ vào kho nhà-nước.

- Bích-chi-Phật: bực tu-hành giác-ngộ và giải-thoát vào thời chẳng có Chánh-pháp của

Đức Phật. Tiếng

Pali Paccekabuddha.

- Bỏn-xẻn = rít-róng, keo-kiệt, kẹo, hà-tiện quá mức.

- Niết-bàn: tâm-trạng người

đ

ã dứt hết phiền-não, chứng

được

vô-sanh ( =hết bị tái-sanh), sống tự-tại. Phạn: Nirvana; Pali: Nibbàna.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện thuật lại việc một người giàu-có mà tít-róng, chẳng dám

ăn-mặc, chết đi chẳng có con cái, n

ên gia-tài bị tịch-thâu vào công-khố, theo luật

đînh. Đức Phật kể th

êm, tiền-kiếp của người ấy, làm

được việc thiện l

à cúng-dường vị Bích-chi-Phật, nhưng lại tiếc của; và một tội-ác, giết cháu,

để gi

ành gia-tài của em.

Ý-nghĩa của Tích chuyện là tiền-bạc chẳng

đem lại hạnh-phước cho người ngu, v

à dạy ta phải bỏ bụng rít-róng mà bố-thí rộng-rãi.

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 355:

Ý-nghĩa bài Kệ rất rõ-ràng, dạy ta phải biết làm chủ

đồng tiền, chớtrở th

ành nô-lệ cho tiền-bạc.

1. Tiền-tài làm hỏng người ngu: Tại sao lại bảo là ngu? Vì kẻ có tiền

đó bị l

àm nô-lệ cho

đồng tiền.

Làm hỏng bằng cách nào? Vì muốn có thêm nhiều tiền, nên chẳng dám tiêu-xài, quá rít-róng mà khổ thân. Lại nếu có nhiều tiền mà tiêu-xài phung-phí, chẳng mấy chốc sẽ trở lại nghèo túng.

2. Hại chi

được đến người tu Niết-b

àn: người tu Niết-bàn biết lìa xa mọi ham-muốn ( =ly-dục), chẳng còn ham làm giàu, nên chẳng quá trọng tiền-bạc nữa, biếy vừa

đủ (

=tri túc).

3. Kẻ cuồng-dại ham hiàu-sanh, Hại mình mà cũng hại lan

đến người

: Hại mình phải chịu khổ-sở làm nô-lệ cho

đồng tiền.

Hại lan

đến người,

chẳng nói chi xa, ngay trong hàng con cái ở gần, ỷ tiền-của, ỷ quyền-thế, mà sanh ra nhiều tội-lỗi như hoang-phí, kiêu-c

ămg.

(251).- Tích chuyện vị Thiên-nam An-khư-ra.

Vào một thời kia,

Đức Phật l

ên cung Trời

Đao-lợi thuyết-pháp, có đề-cập đến vị Thi

ên-nam tên là An-khư-ra.

Thuở ấy,

Đức Phật l

ên cung Trời

Đao-lợi thuyết-giảng Vi-diệu-pháp (A-tỳ-đạt-ma) cho mẹ l

à Hoàng-hậu Ma-gia, nay là thiên-nữ San-tư-sĩ nghe. Chư Thiên

đến tham-dự, nghe Phật giảng, trong số có vị Thi

ên-nam tên là Yên-

đ

à-kha, người

đ

ã cúng-dường cho Trưởng-lão A-na-luật. Nhờ công-

đức nầy được thực-hiện v

ào thời Chánh-pháp của

Đức Phật, n

ên vị thiên-nam nầy

được sanh l

ên cõi Trời

Đao-lợi, hưởng được mọi sự sung-sướng

quí-báu.

Đồng thời, có vị Thi

ên-nam, tên An-khư-ra cũng giàu lòng bố-thí,

được sanh l

ên cõi Trời, nhưng hưởng sự khoái-lạc chẳng sang-trọng bằng vị thiên-nam Yên-

đ

à-kha. Thiên-nam An-khư-ra thắc-mắc chỗ khác-biệt

đó, mới đến thưa c

ùng

Đức Phật. Đức Phật bảo

: "Nầy thiên-nam, khi bố-thí, ông phải nên chọn

đúng người thọ-thí, v

ì tặng-vật cũng tựa như các hạt giống, hễ gieo vào

đất tốt mầu-mỡ th

ì trỗ sanh hoa-quả tươi ngọt, còn nếu gieo vào nơi cằn-cỗi, sẽ thâu-hoạch

được ít oi.

"

Rồi

Đức Phật mới nói l

ên bốn bài Kệ sau

đây

:

Cỏ hoang làm hại ruộng nương,

Tham-lam làm hại mọi

đường chúng-sanh.

Người vô-tham, ta thành-tâm bố-thí,

Phước lành, do

đó,

quí-báu hơn.

(Kệ số 356.)

Cỏ hoang làm hại ruộng nương,

Hận sân làm hại mọi

đường chúng-sanh.

Người vô-sân, ta thành-tâm bố-thí,

Phước lành, do

đó,

quí-báu hơn.

(Kệ số 357.)

Cỏ hoang làm hại ruộng nương,

Si-mê làm hại mọi

đường chúng-sanh.

Người vô-si, ta thành-tâm bố-thí,

Phước lành, do

đó,

quí-báu hơn.

(Kệ số 358.)

Cỏ hoang làm hại ruộng nương,

Dục-tham làm hại mọi

đường chúng-sanh.

Người ly-dục, ta thành-tâm bố-thí,

Phước lành, do

đó,

quí-báu hơn.

(Kệ số 359.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Thiên-nam, Thiên-nữ: Thiên = trời; Nam = đàn-ông; Nữ = đàn-bà.

- An-khư-ra: tên vị thiên-nam nầy tiếng Pali là Ankura.

- Yên-

đ

à-kha: tên vị thiên-nam nầy, tiếng Pali là Indaka.

- Trời

Đao-lợi

= cõi Trời trong Dục-giới, tiếng Pali là Tàvatimsa.

- Hoàng-hậu Ma-gia, thiên-nữ San-tư-sĩ: Mẹ của thái-tử Tất-

đạt-ta, sau khi sanh Thái-tử được bảy ng

ày thì mất, tái-sanh lên cõi Trời Đâu-suất (Tusita). Pali: Hoàng-hậu Mahà Màyà, thiên-nữ Santusita.

- A-na-luật = đại-đệ-tử của Phật, tên tiếng Pali là Anuruddha.

- Thọ-thí: còn gọi là thọ-giả, người nhận của bố-thí.

- Vô-tham: Vô = chẳng; Tham = ham-muốn quá. Người vô-tham đã diệt hẳn bụng tham. - Vô-sân: người vô-sân chẳng hề giận-hờn; còn người vô-si là bực có trí-huệ thông-minh, hết si-mê, ngu-tối.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện thuật lại một vị thiên-nam cõi trời

Đao-lợi hỏi Phật tại sao c

ùng có công-

đức bố-thí m

à nay người

được hưởng phước-báu nhiều, người ít hơn. Đức Phật đáp, bố-thí cũng như gieo hạt giống, nếu gặp đất mầu-mỡ sẽ trỗ trái ngọt; nếu gặp người thọ-thí có đức-hạnh m

à bố-thí, sẽ

được phước-báu nhiều.

Tích chuyện tuy giản-dị nhưng ý-nghĩa lại tế-nhị: trong việc bố-thí, phải biết chọn người

để trao-tặng hiến-vật, gặp được bực giới- đức vẹn-to

àn, mà thành-tâm cúng-dường thì phước báu sẽ to lớn, còn nhẹ dạ nghe theo lời bọn buôn thần bán thánh mà

đem tiền của ra để bố-thí cầu-danh th

ì chẳng những phước-báu sẽ ít-ỏi mà lại còn nuôi-dưỡng các tổ-chức mạo danh nghĩa cứu-trợ lén-lút làm

ăn bất-chánh.

Ý-nghĩa sâu-xa của công-

đức bố-thí l

à, về phiá người thí-giả, bỏ

được bụng xẻn-tham của m

ình, chia-xẻ những gì mình có cùng với kẻ khác; về phía người thọ-giả, được cứu-giúp trong cơn thiếu-thốn mà khởi lên lòng tự-cứu lấy mình. Bố-thí chơn-thành đúng theo ý-nghĩa trên

đây, chẳng mong-cầu báo-đáp, chẳng chút vướng-bận háo-danh.

Muốn

đạt đến phước-báu to-lớn nhứt trong công-đức bố-thí, phải đạt đến mức

Bố-thí Ba-la-mật, nghĩa là bố-thí cách nào mà thí--giả vượt

đến

bờ bên kia (Ba-la-mật, Parami, có nghĩa là xong-xuôi, hoàn-mãn rồi; tức là

đến được

bờ giác-ngộ và giải-thoát.) Giáo-lý Bắc-tông dạy rằng, người thi-hành bố-thí Ba-la-mật, trong tâm chẳng hề khởi lên ba việc, Tam-Không: (1) không thấy mình là người bố-thí, ban ơn cho kẻ khác; ( =Ngã-không); (2) không thấy người kia là kẻ chiụ ơn, phải lo báo-

đáp lại, (

= Nhơn-không); (3) không thấy vật

đem ra hiến-tặng, để tiếc-rẻ,

không thấy việc làm của mình là việc thiện

đáng khen-ngợi chi,(

= Pháp-không). Tam-Không nầy là Tam giải-thoát-môn, ba cánh cửa mở rộng cho ta

đến nơi giải-thoát.

(2) Ý-nghĩa của bốn bài Kệ 356, 357, 358, 359:

Bốn bài Kệ cùng một lối hành v

ăn, giống nhau ở ý-

nghĩa khen tặng sự bố-thí, mà chỉ khác nhau ở mỗi bài một

đức-tánh

quí, hễ tập

được sẽ đưa ta đến bờ giác-ngộ v

à giải-thoát. Xin kể bốn

đức-tánh

quí

1) Vô-tham để đối-trị bụng Tham-lam: Tham đứng đầu trong tam

độc,

khiến ta trôi-l

ăn m

ãi trong cảnh sanh-tử khổ-

đau của Luân-hồi. B

ài Kệ ví tham như cỏ hoang làm hại ruộng nương,

đây l

à làm hại đất tâm của người tu-hành. Trị tham chẳng gì hơn là việc bố-thí. Dứt

được

tham

được giải-thoát, đó l

à phước lành quí-báu nhứt.

2) Vô-sân để đối-trị lòng hờn-giận, oán-thù, gây oan-trái kéo dài nghiệp-báo phải chịu mãi cảnh Luân-hồi. Cũng như tham, sân-hận là cỏ hoang làm hại đất tâm của ta.

3) Vô-si để đối-trị sự si-mê, che-mờ tâm-trí ta, chẳng biết rõ đường tu-hành để giác-ngộ và giải-thoát. Si-mê cũng là cỏ hoang.

4) Ly-dục để đối-trị bụng ham-muốn, tức là tham-dục, chạy theo thú-vui vật-chất thấp-hèn và tạm-bợ. Ta hãy nhổ cỏ tham-dục đi.

Khi bố-thí, ta khó có dịp

để lựa kẻ thọ-giả đủ các đức-tánh đó, nhưng b

ài Kệ cũng ngầm khuyên ta, hãy cố tập cho mình các tánh ấy.

-ooOoo-

XXV.- Phẩm TỲ-KHEO.

(252).- Tích chuyện n

ăm vị tỳ-kheo c

ãi về n

ăm căn.

Vào một thời kia,

Đức Phật ngụ tại ch

ùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có

đề-cập đến việc c

ãi nhau của n

ăm vị tỳ-kheo về sự điều-phục năm căn.

Thuở ấy, có n

ăm vị tỳ-kheo ở nước Xá-vệ, mỗi người tu-tập cách chế-phục một trong năm căn; người lo điều-phục mắt, người tiết-chế tai, kẻ tự-chế về mũi, kẻ lo kềm-giữ lưỡi, người khắc-phục thân. Người n

ào cũng nói việc chế-phục một giác-quan riêng-biệt của mình là khó nhứt, chẳng ai

đồng-ý với ai. Họ liền đến thỉnh-ý của Đức Phật. Đức Phật bảo

: "Nầy chư tỳ-kheo,

điều-phục căn n

ào cũng khó như nhau; nhưng người tu-hành phải

đồng thời kềm-giữ cả năm căn, có khắc-phục được cả năm th

ì mới thoát khỏi vòng tử-sanh Luân-hồi lận-

đận.

"

Rồi

Đức Phật mới nói l

ên hai bài Kệ sau

đây

:

Mắt

đây, chế-phục, l

ành thay!

Lành thay biết chế-ngự hai tai nầy!

Khéo

điều-phục mũi, l

ành thay!

Lành thay, nhiếp-phục lưỡi nầy cho yên!

(Kệ số 360.)

Lành thay, chế-phục thân-hành!

Tiết-chế khẩu-nghiệp

đ

ã rành, lành thay!

Lành thay, ý-nghiệp tịnh ngay!

Chế-phục tất cả

đủ-đầy, l

ành thay!

Mọi

điều tự-chế khéo, hay,

Tỳ-kheo giải-thoát

được ngay khổ-sầu.

(Kệ số 361.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Tỳ-kheo:tu-sĩ Phật-giáo; tiếng Pali là Bhikkhu, thường

đọc l

à tỳ-khưu, hoặc bí-sô, dịch nghĩa là Khất-sĩ (Khất = đi ăn xin; sĩ = người). Theo giới-luật, Tỳ-kheo chẳng

được có nghề ri

êng sanh-sống, phải

đi xin ăn, để dẹp l

òng tự-ái xuống, lại có dịp gần dân, dạy

đạo cho họ.

- N

ăm căn

=

n

ăm giác-quan: mắt, tai, mũi, lưỡi v

à da trên thân.

-

Điều-phục, Khắc-phục, chế-phục, nhiếp-phục, tiết-chế, chế-ngự, tự-chế

=

những chữ nầy có nghĩa là kềm-giữ, giữ-gìn chẳng cho chạy buông-lung theo cảnh-vật bên ngoài, nhờ

đó

tâm bên trong mới an-

định.

- Thỉnh-ý: Thỉnh = mời; Thỉnh-ý là nhờ người trên cho ý-kiến.

- Thân-hành: Thân = thân-thể; Hành = hành-

động.

- Khẩu-nghiệp, Ý-nghiệp = Khẩu = miệng; Ý = ý-tưởng; Nghiệp = hành-

động.

Nghiệp có ba thứ: thân-nghiệp, khẩu-nghiệp ý-nghiệp. Nghiệp là hành-

động, lời nói, tư-tưởng hoặc đ

ã qua, hoặc

đang l

àm, gây ra hậu-quả khiến ta phải mang lấy vận-mạng tốt xấu ở cõi

đời. Chính

nghiệp dẫn-dắt ta phải tái-sanh và trôi l

ăn m

ãi trong Luân-hồi.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện rất

đơn-sơ, năm vị tỳ-kheo c

ãi nhau về cách

điều-phục các giác-quan. Đức Phật dạy, khi điều-phục các căn, căn n

ào cũng khó giữ, nhưng phải

đồng thời điều-phục đủ cả năm mới thoát khỏi được khổ trong v

òng sanh-tử lẩn-quẩn của cõi Luân-hồi lận-

đận.

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 360 và 361:

Nhờ các giác-quan mà ta giao-tiếp

được với cảnh-vật b

ên ngoài. Nhưng nếu

để cảnh-vật lôi-cuốn,

tâm chẳng an-

định; muốn

định tâm, trước phải biết kềm-giữ các c

ăn,

cũng như nhà ( =thân-tâm) có sáu cửa, phải canh

đủ sáu cửa, mới giữ được trộm

giặc len vào.

Đó l

à ý-nghĩa sâu-xa của bài Kệ số 360.

Bài Kệ số 361 có sáu câu, chia ra hai phần: ba câu

đầu nói về

ba nghiệp: thân, miệng, ý; ba câu sau khen vị tỳ-kheo

đ

ã khéo tự-chế

đầy-đủ ba nghiệp, được giải-thoát cái khổ của Luân-hồi (hết tái-sanh).

HỌC TẬP:

1.- Chế-phục mắt: đừng tưởng lầm là phải nhắm mắt lại, trái lại phải biết chỉ nhìn vào chỗ

đáng nh

ìn, và khi thấy vật, chỉ biết

đang có

vật mà chẳng sanh lòng quá thích

đeo theo, hay quá

ghét muốn bỏ.

2.-

Điều-phục các căn

để giữ

tâm an-

định

khi tiếp-xúc bên ngoài, khác hẳn với thái-

độ

tự-

đóng-kín

như kẻ vừa mù, câm và

điếc.

(253).- Tích chuyện vị tỳ-kheo giết con thiên-nga.

Vào một thời kia,

Đức Phật ngụ tại ch

ùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có

đề-cập đến một vị tỳ-kheo khoe t

ài qu

ăng đá, đ

ã giết chết một con thiên-nga.

Thuở ấy, có một vị tỳ-kheo có tài ném

đá, trăm phát trúng cả trăm. Một hôm, c

ùng với bạn

đồng-tu đang tắm gội b

ên bờ sông A-xi-ra, bỗng trông thấy hai con ngỗng trời nhởn-nhơ bơi lội bên dòng nước. Vị tỳ-kheo ấy khoe tài với bạn, bảo có thể ném trúng một con. Hai con ngỗng nghe tiếng người nói, quay lại nhìn và cất cánh bay lên. Vị tỳ-kheo lấy hòn

đá cuội, ném mạnh, trúng v

ào con mắt bên trái, viên

đá xuy

ên qua

đầu con ngỗng v

à lọt ra khỏi mắt bên mặt. Con vật kêu

đau thương, rơi xuống chết.

Các vị tỳ-kheo khác về thưa trình cùng

Đức Phật. Đức Phật cho gọi vị tỳ-kheo ném đá đến quở-trách v

à chỉ dạy rằng: "Nầy tỳ-kheo, tại sao lại giết chết con vật vô-tội? Một người

đ

ã gia-nhập T

ăng-đo

àn phải luôn luôn tỏ lòng Từ-bi

đến muôn lo

ài chúng-sanh, phải biết làm chủ chơn tay mình, và cả cái lưỡi hay khoe-khoang kia!"

Rồi

Đức Phật nói l

ên bài Kệ sau

đây

:

Người chế-phục tay chơn, lời nói,

Tận

đỉnh đầu tr

ên cao vòi-vọi,

Lòng thoả-thích trong cơn thiền-

định,

Biết

đủ, sống độc-cư, trầm-tĩnh,

Người ấy xứng danh là tỳ-kheo.

(Kệ số 362.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Thiên-nga = ngỗng trời, lông trắng như tuyết.

- A-xi-ra: tên sông nầy, tiếng Pali là Aciravatì.

- T

ăng-đo

àn: T

ăng

=

chữ Pali là Sangha; cứ bốn người trở lên tu chung với nhau thành một T

ăng-đo

àn.

- Từ-Bi: Từ = ban vui; Bi = cứu khổ. Lòng Từ-bi thương cả mọi loài.

- Chế-phục:kềm-giữ và làm chủ

được.

- Thiền-

định:

tu thiền, giữ tâm an-tịnh, chẳng xao-lãng.

- Biết

đủ:

chữ Hán-Việt là tri-túc, biết vừa

đủ, chẳng ham đ

òi quá

- Sống

độc-cư: Độc

= ở một mình; Cư = ở. Người sống

độc-cư

tránh nơi ồn-ào, biết sống một mình, tĩnh-tu nên tâm sớm an-

định.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện thuật lại một vị tỳ-kheo muốn khoe tài ném

đá, trong khi đang tắm với bạn, thấy hai con ngỗng, ném chết một con. Đức Phật nghe được việc ấy, quở-trách v

à dạy, tỳ-kheo phải làm chủ chơn tay mình, chớ khoe-khoang.

Ý-nghĩa của Tích chuyện: vì khoe tài mà phạm tội sát-sanh, chẳng xứng-

đáng l

à người tu-hành có lòng từ-bi.

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 362:

Bài Kệ số 362 dạy người tu-hành phải luôn luôn giữ gìn thân-tâm cho

đứng-đắn trong bốn tư-thế, gọi l

à tứ oai-nghi: nằm, ngồi,

đi đứng

. Nằm ngay-ngắn chẳng ưỡn-ẹo, ngồi thẳng-thớm chẳng kề dựa,

đi chửng-chạc chẳng hấp-tấp, đứng nghi

êm-chỉnh chẳng ngả-ngớn. Muốn xứng danh là một vị tỳ-kheo, còn cần phải có

đủ các đức -tánh:

biết vừa

đủ, sống độc-cư v

à tâm trầm-tĩnh luôn tỉnh-giác.

Xin phân-tách từng câu bài Kệ:

1) "Người chế-phục tay chơn, lời nói, Tận

đỉnh đầu tr

ên cao vòi-vọi": sự kềm-thúc ba nghiệp: thân, miệng, ý được thi-hành thật kỹ-lưỡng: tay chơn chẳng buông lung, lời nói phải hoà-nhã, ý-tưởng trong

đầu phải thanh-tịnh, cao-cả.

2) "Lòng thoả-thích trong cơn thiền-

định

": nơi mọi tư-thế của thân-thể, bên trong hằng tỉnh-giác, theo dõi mọi cử-

động, mọi lời nói, mọi ý-nghĩ, n

ên tâm mới thoả-thích an-trú trong chánh-niệm.

3) "Biết

đủ, sống độc-cư, trầm-tĩnh

": ba

đức-tánh quan-trọng của người tu-h

ành: biết vừa

đủ

là dẹp

được l

òng ham muốn, sống

độc-cư

tránh chỗ ồn-ào, hằng "làm bạn" với tâm của mình, là giữ tâm thanh-tịnh; trầm-tĩnh, chẳng vọng-

động, l

à luôn

được an-nhi

ên, tự-tại. Ba

đức-tánh đó đưa ta sớm đến ngưỡng cửa của Niết-B

àn, yên-vui và giải-thoát.

(254).- Tích chuyện tỳ-kheo Cơ-khả-ly.

Vào một thời kia,

Đức Phật ngụ tại ch

ùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có

đề-cập đến vị tỳ-kheo Cơ-khả-ly.

Thuở ấy, có vị tỳ-kheo tên Cơ-khả-ly, vì bất-mãn nói nhiều lời hỗn-láo với hai Tôn-giả Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên. Vì hành-vi bất-thiện nầy, tỳ-kheo Cơ-khả-ly bị

đất nứt hút sa xuống điạ-ngục. Khi nghe kể lại thân-phận của Cơ-khả-ly, các vị tỳ-kheo nhận xét rằng, v

ì chẳng biết kềm-giữ lưỡi của mình mà Cơ-khả-ly phải sa

điạ-ngục. Đức Phật dạy

: "Nầy chư tỳ-kheo, tỳ-kheo phải kềm-chế cái lưỡi của mình, hạnh-kiểm phải

đoan-nghi

êm, tâm-tư phải bình-thản, an-

định, chẳng để

tâm buông-lung, chạy lang-thang

đây đó.

"

Rồi

Đức Phật nói l

ên bài Kệ sau

đây

:

Tỳ-kheo

đ

ã chế-phục miệng lưỡi,

Khiêm-nhường, khéo nói, chẳng thừa lời,

Giải-thích rõ nghĩa Pháp sáng ngời,

Ngọt-ngào thay, lời nói Tỳ-kheo!

(Kệ số 363.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Cơ-khả-ly: tên vị tỳ-kheo nầy, tiếng Pali là Kolàlika.

- Bất-mãn: chẳng vừa lòng, tức-giận.

- Tôn-giả: Tôn = tôn-kính; Giả = người. Tôn-giả là bực

đáng kính

- Xá-lợi-phất: tên của Tôn-giả, tiếng Pali là Sariputta.

- Mục-kiền-liên: tên của Tôn-giả, tiếng Pali là Moggallàna.

-

Điạ-ngục: Điạ

=đất, Ngục = nhà giam tù. Theo sự tin-tưởng trong Phật-học, kẻ làm ác khi sống, chết

đi phải chịu h

ình-phạt khổ-sở và lâu-dài nơi cõi âm u-tối.

- Đoan-nghiêm = đoan-trang và nghiêm-nghị, đàng-hoàng.

- Chế-phục: kềm-giữ, lấy quyền làm chủ lại, sửa cho

đúng.

- Khiêm-nhường: biết nhún-nhường, khiêm-tốn, chẳng phách-lối.

- Chẳng thừa lời: lời nói vừa

đủ, chẳng dư thừa, chẳng d

ài-dòng.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện rất giản-dị, thuật lại việc vì bất-mãn, một vị tỳ-kheo có lời hỗn-láo với hai vị

đại-đệ-tử của Đức Phật, m

à bị sa

điạ-ngục. Nhơn đó, Đức Phật dạy các tỳ-kheo phải giữ-g

ìn lời nói, tâm phải hằng tỉnh-giác.

Ý-nghĩa của Tích chuyện: nói lời thô-ác là vi-phạm vào giới-luật thứ tư của người tu tại-gia.

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 363:

Bài Kệ dạy ta phải giữ-gìn miệng-lưỡi, chớ nói lời thô-ác. Muốn giữ gìn lời nói, trước phải giữ tâm cho thanh-tịnh, chẳng

để

tâm buông-lung, chạy

đi lang-thang, thiếu kềm-chế mới lỡ lời nói quấy.

1) "Tỳ-kheo

đ

ã chế-phục miệng-lưỡi, Khiêm-nhường, khéo nói, chẳng thừa lời": khi biết giữ gìn miệng-lưỡi, trước khi nói suy-nghĩ chín-chắn thì lời nói sẽ dịu-dàng, khéo-léo; chẳng nói dông-dài chán tai người nghe, lại biết nhún-nhường chẳng tự khoe mình.

2) "Giải-thích rõ nghĩa Pháp sáng ngời": lời nói chín-chắn dùng giải nghĩa Chánh-pháp, sẽ rõ-ràng, thông-suốt, giúp cho người nghe dễ hiểu, dễ nhớ và dễ thì-hành theo.

3) "Ngọt-ngào thay, lời nói Tỳ-kheo!": lời nói

được

ngọt-ngào nhờ

đượm đầy

pháp-vị ( =

đầy ý-

nghĩa tu-hành)nhẹ-nhàng chỉ dạy rõ-ràng

đường-lối tu-h

ành giải-thoát cho người nghe.

HỌC TẬP:

1.- Trong Kinh Thập-Thiện, dạy mười

điều l

ành, có bốn

điều răn về

lời nói: (1) chẳng nói dối, nói

đúng theo Sự-thật, có sao nói vậy; (2)

chẳng nói thêu-dệt, chẳng thêm-thắt, chẳng

đặt điều

"thêm mắm thêm muối"; (3) chẳng nói

đâm-thọc,

gặp người nầy nói vầy, gặp người kia nói khác,

để gây bất-ho

à; (4) chẳng nói lời thô-ác, lời vô-nghĩa: lời thô-ác khiến người tức-giận; nói lời vô-nghĩa là khi ngồi lê

đôi mách,

kháo nhau chuyện hàng xóm cho vui.

2.- "Nói là bạc, nín là vàng": lời khuyên quí: biết kềm cái lưỡi lại, giữ im-lặng

để lắng nghe.

"Quay lưỡi bảy lần trước khi nói" vẫn còn thua "thủ khẩu như bình" ( = miệng giữ im như miệng ... cái bình! )

(255).- Tích chuyện Trưởng lão Pháp-hỉ.

Tích chuyện nầy giống với các Tích chuyện trong Tập 3, số (136) trang 431,

về Trưởng-lão Ất-tha-

đạt v

à số (163), trang 503, về Trưởng-lão Thi-sa.

Vào một thời kia,

Đức Phật ngụ tại ch

ùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có

đề-cập đến Trưởng-l

ão Pháp-Hỉ.

Thuở ấy, khi nghe

Đức Phật Thích-ca tuy

ên-bố, bốn tháng nữa Ngài sẽ nhập

Đại-Bát-Niết-B

àn, các vị tỳ-kheo còn chưa chứng-

đắc được

Đạo Quả, rất lo-lắng, hằng ngày cứ quanh-quẩn gần bên

Đức Phật. Ri

êng Trưởng-lão Pháp-Hỉ, lui về am vắng, nỗ-lực hành Thiền. Các vị tỳ-kheo khác cho rằng Trưởng-lão Pháp-Hỉ chẳng có lòng thương-mến Phật, mời trình lên

Đức Phật. Khi nghe Trưởng-l

ão thưa-bày sự cố-gắng của mình

để chứng được quả-vị A-la-hán, trước khi Đức Phật nhập-diệt, Đức Phật khen-ngợi thái-độ đó v

à khuyên các tỳ-kheo khác noi gương Trưởng-lão Pháp-Hỉ, hơn là lẩn-quẩn bên Phật.

Rồi

Đức Phật mới nói l

ên bài Kệ sau

đây, nhờ đó Trưởng-l

ão chứng-

đắc được ngay quả-vị A-la-hán

:

Tỳ-kheo nào trú trong Chánh-pháp.

Thoả-thích suy-tư theo Chánh-pháp,

Tâm-niệm hằng tưởng nhớ Chánh-pháp,

Ắt chẳng sa-

đọa l

ìa Chánh-pháp.

(Kệ số 364.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Trưởng-lão Pháp-Hỉ: tên vị Trưởng-lão, tiếng Pali là Dhammaràma.

- Nhập

Đại-Bát-Niết-B

àn:

vào cảnh-giới tịch-diệt. Đại-Bát-Niết-Bàn, tiếng Pali là Parinibbàna. Chữ Nhập-diệt có nghĩa là chết.

- Đạo, Quả: Đạo = đường-lối tu-hành, Pali là Magga; Quả = kết-quả việc tu-hành thành-công, Pali là Phala.

- Am = cốc, c

ăn nh

à nhỏ, vắng-vẻ,

để tu-h

ành hay thờ-phượng.

- A-la-hán: quả-vị thứ tư, cao nhứt, tiếng Pali là Arahant. Bực A-la-hán diệt xong các phiền-não, chứng

được

vô-sanh ( =chẳng còn bị tái-sanh trong cõi Luân-hồi nữa), vào cảnh-giới Niết-bàn.

- Trú trong Chánh-pháp: tâm an-trú trong Chánh-pháp, chẳng lúc nào quên Chánh-pháp.

- Sa-

đoạ

:

bị rớt xuống chỗ thấp-kém.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Ý-nghĩa Tích chuyện: cách tốt nhứt

để tỏ l

òng thương-mến người sắp mất là thực-hiện

được lời người ấy dạy, trước khi người ấy li

à

đời.

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 364:

Ý-nghĩa bài Kệ rất rõ-ràng: tỳ-kheo nào thoả-thích an-trú trong Chánh-pháp, chắc-chắn khỏi bị sa-

đoạ.

(256).- Tích chuyện vị tỳ-kheo muốn ngả theo nhóm

Đề-b

à-

đạt-đa.

Vào một thời kia,

Đức Phật ngụ tại ch

ùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có

đề-cập đến một vị tỳ-kheo muốn ngả theo nhóm Đề-b

à-

đạt-đa.

Thuở ấy,

Đề-b

à-

đạt-đ

à vốn là em họ của

Đức Phật, tu-h

ành

đắc được thần-thông, l

òng sanh kiêu-mạn, viện cớ

Đức Phật đ

ã già-cả, yêu-cầu

Đức Phật nhường cho y cầm đầu Tăng-đo

àn. Bị từ-chối,

Đề-b

à-

đạt-đa th

ành-lập một Giáo-hội mới và cũng

được một số tỳ-kheo theo y. Bấy giờ, có một vị tỳ-kheo tu-tập ở ch

ùa Kỳ-viên,

đi theo một người bạn đến chơi ở tu-viện của Đề-b

à-

đạt-đa v

à lưu lại

đấy ba bốn ng

ày, lòng rất thích-thú vì

được ăn ngon, ngủ kỹ, hưởng đầy-đủ mọi tiện-nghi vật-chất. Các bạn đồng-tu thưa tr

ình sự-việc lên

Đức Phật. Đức Phật cho gọi vị tỳ-kheo ấy đến, quở-trách v

à dạy: "Nầy tỳ-kheo, mặc dầu chưa theo hẳn với

Đề-b

à-

đạt-đa, nhưng thái-độ của ông xem ra như l

à

đồ-đệ của y. Một tỳ-kheo đứng-đắn chẳng hề ham lợi-dưỡng, phải biết đủ với những g

ì mình

đi khất-thực được v

à chẳng hề ganh-tị với những người

được cúng-dường nhiều. Tham-lam v

à ganh-tị trong lòng khiến ta chẳng

đắc được định-tâm khi h

ành Thiền, thì biết

đến bao giờ chứng được đạo-quả Niết-B

àn."

Rồi

Đức Phật mới nói l

ên hai bài Kệ sau

đây

:

Chẳng khinh-rẻ những gì mình lãnh-thọ,

Chẳng hờn-ganh kẻ khác

được người cho.

Tỳ-kheo còn ganh hiền ghét ngỏ,

Hành thiền, chẳng

đắc định bao giờ.

(Kệ số 365.)

Tuy nhận ít mà chẳng hề chê,

Sống thanh-tịnh

đúng bề Chánh-mạng,

Chẳng lười-nhác nên

được lời xưng-tán

Của Chư Thiên gởi

đến vị Tỳ-kheo.

(Kệ số 366.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

-

Đề-b

à-

đạt-đa:

anh của Tôn-giả A-nan, em họ của Phật Thich-ca, tên tiếng Pali là Devadatta. Tánh hay kiêu-mạn, Đề-bà-đạt-đa chống-

đối với Đức Phật Thích-ca, lập một Giáo-hội khác, phá sự ho

à-hợp giữa chư T

ăng.

- Thần-thông = khả-n

ăng đặc-biệt có được nhờ tu định-lực cao, như bay bỗng tr

ên không,

đi được tr

ên mặt nước, v.v.

- Kiêu-mạn = kiêu-c

ăng, ng

ã-mạn, tự coi mình hơn mọi người.

- Lợi-dưỡng = các mối lợi

để nuôi-dưỡng; ý nói các phẩm-vật được hiến-tặng để nuôi mạng sống.

- Đạo-quả Niết-Bàn = đường-lối tu-hành đưa đến cảnh-giới tịch-diệt hằng an-vui.

- Lãnh-thọ = nhận lãnh của hiến-tặng.

- Hờn-ganh = ganh-tị, cà-nanh,

đ

òi bằng hay hơn kẻ khác.

- Ganh hiền ghét ngỏ = ganh-ghét những người hơn mình.

- Hành-thiền = tu Thiền.

- Đắc định = khi tu Thiền, tâm trở nên vắng-lặng, an-tịnh.

- Chánh-mạng: Chánh = chơn-chánh,

đứng-đắn;

Mạng = mạng sống. Chánh-mạng là lối mưu-sanh

đứng-đắn bằng nghề-nghiệp chơn-chánh.

Chánh-mạng là một ngành trong Bát-Chánh-

đạo.

- Xưng-tán = khen ngợi.

- Chư Thiên = các bực trên cõi Trời.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện thuật lại việc một tỳ-kheo ở chùa Kỳ-viên

đến tu-viện ri

êng của

Đề-b

à-

đạt-đa, thấy thoả-thích trong việc thọ-hưởng các tiện-nghi vật-chất v

à các phẩm-vật

được cúng-dường ở đấy. V

ì

Đề-b

à-

đạt-đa chống-đối Đức Phật, gây chia-rẽ trong Tăng-đo

àn, nên các vị

đồng-tu mới tr

ình sự-việc lên

Đức Phật. Đức Phật quở trách vị tỳ-kheo kia v

à dạy, chẳng nên ganh- tị với người

được cúng-dường, chớ tham lợi-dưỡng, th

ì hành Thiền mới

đắc được định-tâm, mau chứng được đạo-quả Niết-B

àn.

Ý-nghĩa của Tích chuyện:

đừng theo con đường ham-m

ê lợi-dưỡng mà sanh tâm ganh-tị với các bực

được cúng-dường.

(2) Ý-nghĩa của hai bài Kệ số 365 và 366:

Cả hai bài Kệ nói về thái-

độ của tỳ-kheo đối với vấn-đề lợi-dưỡng

: chẳng khinh-chê những gì mình

được hiến-tặng, chẳng ganh-tị với bạn đồng-tu được cúng-dường.

Phân-tách bài Kệ số 365:

1) "Chẳng khinh-rẻ những gì mình lãnh-thọ": chẳng nên chê-bai các món

đi khất-thực được, v

ì thức-

ăn chỉ l

à một "món thuốc"

để trị bịnh đói của m

ình, chớ chẳng phải

để cho khoái-khẩu (ngon miệng)

2) "Chẳng hờn-ganh kẻ khác

được người cho

":

chẳng phân-bì, so-

đo với người được tặng nhiều, c

òn mình thì

được cho ít.

3) "Tỳ-kheo còn ganh hiền ghét ngỏ, Hành thiền, chẳng

đắc định bao giờ

":

Tạo sao chẳng đắc định

được

? Vì trong tâm còn vấn-vương sự so-

đo, sự ganh-ghét, chẳng an-tịnh được m

à

đắc

định.

Phân-tách bài Kệ số 366:

1) "Tuy nhận ít mà chẳng hề chê": đây là vị tỳ-kheo tri-túc, biết vừa

đủ, chẳng ham-muốn để đ

òi hỏi thêm.

2) "Sống thanh-tịnh

đúng bề Chánh-mạng

": Chánh-mạng của tỳ-kheo là theo hạnh khất-sĩ, xin

được bao nhi

êu, sống với bấy nhiêu.

3) "Chẳng lười nhác nên

được lời xưng-tán, Của chư Thi

ên gởi

đến vị tỳ-kheo

": siêng-n

ăng h

ành Thiền chẳng hề lười nhác, nên vị tỳ-kheo

được chư Thi

ên khen ngợi.

(257).- Tích chuyện người bố-thí hoa-quả

đầu m

ùa.

Vào một thời kia,

Đức Phật ngụ tại ch

ùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có

đề-cập đến người nông-phu B

à-la-môn thường

đem ra bố-thí hết hoa-quả đầu m

ùa vừa gặt hái

được.

Thuở ấy, có một người Bà-la-môn theo nghề làm ruộng, thường

đem hết những g

ì gặt-hái

được v

ào

đầu m

ùa ra bố-thí. "Đầu muà" đối với ông ấy có bốn nghĩa, là: số lúa vừa gặt-hái

được, số gạo vừa gi

ã và sàng xong, số cơm vừa nấu chín, và phần

ăn tr

ên dĩa sắp

đem ra d

ùng. Một hôm, vợ chồng ông

đang ăn sáng, bỗng có Đức Phật v

à chư T

ăng đến khất-thực. Chồng ngồi quay mặt v

ào trong, còn vợ ngồi ngó ra, trông thấy các tỳ-kheo, mới

đứng án mặt chồng, che khuất Đức Phật. B

à ta nghĩ, nếu chồng mình trông thấy

Đức Phật, sẽ bưng hết phần ăn ra dưng-cúng, b

à ta lại phải vào bếp nấu-nướng nữa cho chồng

ăn. B

à bước ra cửa,

đến gần b

ên

Đức Phật, nói nho-nhỏ

: "Bạch Ngài, hôm nay con chẳng có chi

để cúng-dường, xin Ng

ài

đi đến nơi khác.

"

Đức Phật lẵng-lặng, chẳng nói g

ì, chỉ lắc

đầu. Thấy cử-chỉ đó, người đ

àn-bà bỗng bật lên tiếng cười. Người chồng quay lại, nhìn thấy

Đức Phật, vội chạy ra, tạ lỗi rối rít:

"Bạch Thế-tôn, xin Thế-tôn tha lỗi cho vợ con và nhận dĩa thực-phẩm nầy, con vừa mới dùng có mấy muỗng."

Đức Phật ôn-tồn đáp

: "Nầy Bà-la-môn, ta vui lòng nhận mọi thức

ăn, dầu đ

ã

được ăn dở, hay đ

ã

ăn hết phân-nửa, hoặc cả khi chỉ c

òn lại một muỗng thôi." Nghe Phật nói, người Bà-la-môn rất ngạc-nhiên mà cũng rất sung-sướng

được cúng-dường Đức Phật. Ông mới thưa hỏi

: "Bạch Thế-tôn, thế nào mới xứng-danh là một vị tỳ-kheo?"

Đức Phật dạy

: "Nầy Bà-la-môn,thân nầy gọi là sắc, tâm nầy gọi là danh; vị tỳ-kheo xứng-danh chẳng hề mê-luyến danh-sắc."

Rồi

Đức Phật nói l

ên bài Kệ sau

đây, nhờ đó m

à vợ-chồng người nông-phu chứng

được quả-vị thứ ba l

à A-na-hàm:

Đối với thân-tâm là danh-sắc,

‘Ta’ và ‘của Ta’ chẳng thắc-mắc,

Chẳng lo-âu những gì chưa

đắc,

Đó mới xứng danh là Tỳ-kheo.

(Kệ số 367.)

TÌM HIỂU:

A.- Giải-nghĩa:

- Bà-la-môn: giai-cấp tu-sĩ trong xã-hội xưa ở Ấn; tiếng Pali là Brahmana. Có bốn giai-cấp xưa ở Ấn-

độ: (1)

Bà-la-môn; (2) Sát-

đế-lợi

(Khattiya), vua, quan; (3) Phệ-xá (Vessa), buôn-bán; 4) Thủ-

đ

à-la (Sudda), nông-phu, công-nhơn.

- Khất-thực: Khất = đi xin; Thực = ăn. Khất-thực giới-luật nhà Phật, buộc tỳ-kheo chẳng

được có nghề ri

êng

để sanh-sống, phải đi xin ăn để dẹp l

òng tự-ái, và có dịp gặp dân-chúng

để dạy giáo-lý .

- Thế-tôn: Thế = thế-gian; Tôn = tôn-kính. Thế-tôn chỉ

Đức Phật l

à bực

được cả thế-gian tôn-kính.

- Cúng-dường: đọc trại chữ cung-dưỡng, cung-cấp

để nuôi-dưỡng.

- A-na-hàm: quả-vị thứ ba, tiếng Pali là Anàgàmi, dịch là Bất-Lai, chẳng còn phải sanh lại ở cõi người nữa.

- Danh-sắc = thân-tâm; danh là tên, tâm; sắc là vật-chất, thân-thể

- Tỳ-kheo: tiếng Pali là Bhikkhu, âm là bí-sô, dịch là khất-sĩ, tu-sĩ theo

đạo Phật, phải tuân h

ành 250

điều giới-luật.

- Của Ta: chữ Hán-Việt là Ngã-sở (Ngã = ta; Sở = chỗ), tức là những gì thuộc về của Ta, như thân của ta, nhà của ta, con cái của ta.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện thuật lại vợ-chồng người Bà-la-môn

đang ăn sáng, Đức Phật đến khất-thực. Người vợ đứng án che chẳng cho chồng thấy Phật. Nhưng người chồng biết được, đem dưng cả di

ã thực-phẩm.

Đức Phật nhơn đó dạy họ, chớ n

ên mê-luyến thân-tâm quá

đáng, đừng bám-víu quá chặt v

ào "Ta" "của Ta".

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 367:

Bài Kệ nầy định-nghĩa, thế nào mới xứng-

đáng l

à một vị tỳ-kheo: chẳng mê-luyến danh-sắc ( = thân-tâm); chẳng bám-víu vào "Ta" "của Ta".

Đây l

à nguyên-tắc Vô-ngã, cửa cuối-cùngtrong ba cửa giải-thoát (tam giải-thoát-môn)là: vô-thường, khổ và Vô-ngã.

Sao gọi Thân-tâm Danh- Sắc? Thân nầy tạm thời có hình-dạng là do các yếu-tố vật-chất (Sắc) hoà-hợp lại tạo nên, ngày kia sẽ tan rả. Tâm nầy biến chuyển luôn, chỉ có tên (Danh) mà chẳng có

(258).- Tích chuyện mẹ của Trưởng-lão Sơn-na.

Vào một thời kia,

Đức Phật ngụ tại ch

ùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong kỳ giảng-pháp, có

đề-cập đến người mẹ của Trưởng-l

ão Sơn-na.

Thuở ấy, ở thành Cưu-ra-ga, có một vị phu-nhơn rất giàu-sang sanh

được một người con trai, t

ên là Sơn-na,

đi tu từ lúc c

òn nhỏ. Một hôm, tỳ-kheo Sơn-na

đi ngang qua l

àng cũ. Bà mẹ hay tin, mướn người dựng một

đ

ài cao và rộng, tổ-chức một buổi lễ bố-thí thật lớn

để mừng con v

à mời dân-chúng tối

đến để nghe Trưởng-l

ão Sơn-na giảng pháp. Tối hôm ấy, vị phu-nhơn cùng với tất cả thân-nhơn trong nhà

đến dự, chỉ lưu lại một đứa tớ gái nhỏ trông nom cửa nh

à.

Bấy giờ, có một bọn cướp

đông người gần trăm t

ên, thừa cơ nhà vắng, mới

đến cướp-bóc. T

ên

đầu-đảng lại đến đ

ài giảng-pháp, ngồi gần vị phu-nhơn

để canh-chừng, với ý-định gây cản-trở, nếu phu-nhơn bất-thần trở về. Đến nửa đ

êm,

đứa tớ gái chạy đến đ

ài, thưa với phu-nhơn, rằng nhà bị trộm-cướp vào. Phu-nhơn

đang chăm-chú nghe pháp, quay lại bảo nó

: "Cứ mặc kệ chúng, con trở về

đi, đừng l

àm rộn,

để b

à nghe pháp." Con bé vâng lời ra về; lát sau, nó trở lại thưa: "Bà ơi, bọn trộm

đang lấy hết các choé bạc ở nh

à ngang rồi!" Vị phu-nhơn quở nó: "Sao con cứ làm rộn bà, ai muốn lấy gì cứ lấy, con

để y

ên cho bà nghe pháp, về

đi.

"

Đứa tớ chẳng dám c

ãi lời, bước

đi; độ nửa giờ sau, nó hộc-tốc chạy trở lại

: "Bà ơi, bọn cướp phá cửa phòng riêng của bà, khuân hết vòng vàng, ngọc-ngà, châu-báu rồi!" Vị phu-nhơn quắc mắt bảo nó: "Mầy thật chẳng biết nghe lời bà, cứ theo làm bà chẳng chú-ý

đến hết b

ài pháp. Về ngay

đi, c

òn mất gì bà cũng chẳng cần!" Tự

đầu hôm, t

ên chúa

đảng đ

ã nghe rõ từng lời của vị phu-nhơn, anh ta rất ngạc-nhiên, bỗng tỉnh-ngộ, ta cướp giựt bất-lương như thế, rồi sẽ bị quả-báo không sai. Biết

đâu lại bị sét đánh bể đầu, hay bị đất nứt sa v

ào

địa-ngục. Anh ta liền chạy đi, hét đồng-bọn đem trả lại hết t

ài-vật, rồi cả lũ

đến đ

ài giảng-pháp, qùi xuống lạy xin lỗi vị phu-nhơn. Bài pháp vừa dứt, Trưởng-lão Sơn-na vừa bước xuống

đ

ài, cả bọn cướp

đến xin cải t

à qui chánh.

Hôm sau, Trưởng-lão dẫn cả tr

ăm t

ên

đầu trộm đuôi cướp đang ăn-năn bước theo sau, đến ch

ùa Kỳ-viên, xin xuất-gia tu-hành.

Đức Phật tuỳ căn-cơ mỗi người m

à nói lên chín bài Kệ sau

đây

:

Tỳ-kheo, tâm từ-bi an trú,

Tín-thành hành giáo-pháp Phật-

đ

à;

Cảnh tịch-tĩnh Niết-bàn thành-tựu,

Các hành hữu-lậu

được an-ho

à.

(Kệ số 368.)

Thuyền rỗng-không nầy ví tấm thân,

Tỳ-kheo mau tát cho khô nước,

Hãy dập tắt ngay lửa tham-sân,

Thuyền nhẹ

đi nhanh đến Niết-b

àn.

(Kệ số 369.)

Cắt

đứt NĂM l

à ngũ

độn-sử,

Dứt bỏ N

ĂM l

à ngũ lợi-sử,

Trau-dồi N

ĂM l

à ngũ-lực,

Vượt khỏi N

ĂM l

à ngũ phược,

Đó gọi là bực "Vượt Bộc-lưu" .

(Kệ số 370.)

Tỳ-kheo, hãy hành thiền tinh-tấn,

Chớ thả tâm quanh-quẩn thú vui.

Phóng-dật, nuốt hòn sắt nóng

đỏ,

Lửa

điạ-ngục thi

êu, chớ than khổ!

(Kệ số 371.)

Chẳng có

định-tâm nơi người thiếu trí,

Chẳng có trí nơi kẻ thiếu

định-tâm.

Vị nào

được cả hai

:

định, huệ,

Vị ấy kề bên bệ Niết-bàn.

(Kệ số 372.)

Tỳ-kheo

đến ẩn nơi vắng-vẻ,

Tâm-tư thường lặng-lẽ an-nhiên.

Chứng thông Giáo-pháp hành thiền,

Hưởng nguồn phỉ-lạc siêu-nhiên thoát trần.

(Kệ số 373.)

Mỗi khi quán-tưởng và thấu rõ

Các uẩn khởi-sanh rồi hoại-diệt,

Phỉ và lạc, tỳ-kheo hưởng-thọ,

Chỉ bực Bất-tử mới

được biết.

(Kệ số 374.)

Đây là chỗ bắt đầu nỗ-lực,

Tỳ-kheo có trí, biết tri-túc,

Các giác-quan

đều được thu-thúc,

Giới-luật c

ăn-bản luôn nghi

êm-trì.

(Kệ số 375.)

Bạn hiền gần-gũi khéo kết thân,

Đúng chánh-mạng, cử chỉ đoan-trang,

Do

đó, thấm-nhuần trong phỉ-lạc,

Phiền-não sớm dứt, hướng Niết-bàn.

(Kệ số 376.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Sơn-na: tên vị Trưởng-lão nầy, tiếng Pali là Sona.

- Cưu-ra-ga: tên thành nầy, tiếng Pali là Kuraraghara.

- Tỉnh-ngộ = nhờ suy-nghĩ biết trước mình

đ

ã lầm, nay sửa lại.

- Bất-lương: Bất = chẳng; Lương = tốt. Bất-lương là chẳng ngay.

- Quả-báo: Quả = kết-quả, hậu-quả; Báo = báo ứng. Hễ làm

điều l

ành, hưởng

được l

ành, gọi là

được

quả-báo tốt. Ác-báo thì ngược lại.

- Cải tà qui chánh: Cải = sửa lại; Tà = quấy; Qui = theo về; Chánh = đúng, phải. Cải tà qui chánh là bỏ

điều quấy để theo điều l

ành.

- Xuất-gia: Xuất = ra khỏi; Gia = nhà. Xuất-gia là bỏ

đời sống có gia-đ

ình trong xã-hội, vào chùa

đi tu.

- C

ăn-cơ:

tâm-tánh hay trí-huệ riêng-biệt của mỗi người.

- Từ-bi: Từ = ban vui; Bi = cứu-khổ. Tâm từ-bi rộng thương mọi loài

- Tín-thành: Tín = tin-tưởng; Thành = thật-tình. Tín-thành là lòng tin

- Phật-

đ

à:

tiếng Pali là Buddha; Phật giác, là hiểu biết rõ.

- Tịch-tĩnh: Tịch = vắng; Tĩnh = yên-lặng.

- Các hành hữu-lậu: chữ Hành dịch nghĩa chữ Pali sankhàra, nghĩa rất rộng, ở

đây, chỉ xin lấy một

nghĩa hẹp là các hiện-tượng tâm-linh bên trong tâm; chữ hữu-lậu, hữu là có; lậu là (chất dơ) rỉ chảy ra. Các hành hữu-lậu nếu

được hiểu gọn l

à phần tâm-linh bên trong bị nhiễm-ô thành các phiền-não như tham-sân, si, v.v., bộc lộ ra bằng các hành-

động, lời nói, hay ý-tưởng chẳng l

ành. "Các hành hữu-lậu

được an-ho

à", là giữ cho thân-tâm được quân-bình, tỉnh-lặng.

- Ngũ

độn-sử

= n

ăm món

kết-sử thấp (kết =buộc; sử = sai khiến): (1) thân-kiến, chấp Thân làm Ta; (2) nghi, chẳng tin Chánh-pháp; (3) giới-cấm-thủ, tin theo các nghi-thức cúng-tế tà-

đạo; (4)

tham; (5)sân,

- Ngũ lợi-sử = n

ăm món

kết-sử cấp cao: (1) sắc-ái-kết, mê-luyến cảnh sắc-giới; (2) vô-sắc ái, mê-luyến cảnh vô-sắc-giới; (3) mạn, kiêu-c

ăng; (4)

trạo, giao-

động, bối-rối; (5)

vô-minh, si-mê, ngu-tối.

- Ngũ lực = n

ăm sức mạnh tinh-thần: (1)

tín-lực, niềm tin vững; (2) tinh-tấn-lực, nỗ-lực, cố-gắng; (3) niệm-lực, suy-nghĩ

để phá các ác-kiến; (4)

định-lực, tâm an-

định phá các vọng-tưởng; (5)

huệ-lực, trí sáng phá sự ngu-tối.

- Ngũ phược: (Phược = lấy dây mà trói buộc) = n

ăm sự trói-buộc; đó l

à: tham, sân, si, mạn tà-kiến.

- Vượt Bộc-lưu: Bộc-lưu là thác nước, từ trên cao cứ

đổ xuống m

ãi. Bực Vượt Bộc-lưu là hàng Thánh

đ

ã phá mười kết-sử, dẹp n

ăm sự trói-buộc, được năm sức-mạnh, tóm lại, đ

ã giác-ngộ và giải-thoát.

- Phóng-dật = lười-biếng, buông-lung, chẳng cố-gắng.

- Kề bên bệ Niết-bàn: đến nơi ngưỡng cửa( = bệ) của Niết-bàn.

- Phỉ-Lạc: = niềm vui sướng. Phỉ, dịch chữ Pali Piti, niềm vui khi ngồi thiền

đắc định.

Lạc là các thú-vui, ở

đây, chỉ thú vui tinh-thần.

- Siêu-nhiên: Siêu = vượt lên trên; Nhiên = tự-nhiên; Siêu-nhiên là khác với thế-tục, trần-thế; Thoát trần là vượt cảnh thường-tình.

- Quán-tưởng: khi ngồi

định tâm, suy-nghĩ sâu-xa về một đề-t

ài.

- Uẩn: còn gọi là ấm, nghĩa là tập-hợp chung lại và che mờ. Thân-tâm con người có n

ăm uẩn:

sắc, thọ, tưởng, hành và thức.

- Bất-tử: Bất = chẳng; Tử = chết. Bực Bất-tử là bực

đ

ã chứng

được

vô-sanh, chẳng còn sanh lại nữa nên chẳng hề chết

đi.( Bực A-la-hán)

- Tri-túc: Tri = biết;Túc = đủ. Tri-túc là biết vừa

đủ, chẳng đ

òi thêm

- Thu-thúc: kềm-giữ, nhiếp-phục,

điều-phục.

- Nghiêm-trì: Trì = giữ-gìn; Nghiêm-trì là tuân theo cẩn-thận.

- Chánh-mạng: Chánh = chơn-chánh;

đứng-đắn;

Mạng = mạng sống.Chánh-mạng là cách mưu-sanh

đứng-đắn bằng nghề chơn-chánh

-

Đoan-trang

= nghiêm-trang và

đứng-đắn.

- Niết-Bàn: tiếng Phạn Nirvana; Pali Nibbàna, tâm-trạng người dứt phiền-não, lìa mọi ham-muốn, chứng

được vô-sanh, sống tự-tại.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện thuật lại một vị phu-nhơn ch

ăm-chú nghe Pháp, chẳng th

èm lưu-tâm

đến việc nh

à

đang bị trộm-cướp. Ý-

nghĩa rất hứng-thú của Tích chuyện là thái-

độ của vị phu-nhơn chẳng m

àng việc mất cả tài-sản, chỉ lo theo dõi bài giảng-pháp,

đ

ã làm thức-tỉnh

được t

ên chúa-

đảng khiến y v

à

đồng-bọn biết cải-t

à qui-chánh.

(2) Ý-nghĩa các bài Kệ từ số 368

đến số 376

:

Mặc dầu các bài Kệ

được Đức Phật đọc để dạy các tỳ-kheo, nhưng người tu tại-gia cũng có thể học-tập theo. Để tiện phân-tách chín b

ài Kệ, xin sắp xếp lại thành ra ba nhóm:

- Nhóm 1)Bốn bài dành cho người mới bắt

đầu tu

: số 375, 376, 368 và 369;

- Nhóm 2) Bốn bài khuyên tu Thiền: số 371, 372, 373 và 374.

- Nhóm 3) Một bài dành cho bực thượng-c

ăn

:

số 370.

Nhóm 1:

Bài Kệ số 375: đây là bài Kệ quan-trọng, chỉ rõ khi mới vào tu phải làm những gì trước:

(a) có trí, tức là phải siêng-n

ăng học-hỏi giáo-lý;

(b) biết tri-túc, tức là dẹp bỏ mọi

đ

òi hỏi, biết vừa

đủ;

(c)các giác-quan

đều được thu-thúc,

tức là kềm-giữ mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, chẳng

đua đ

òi chạy theo cảnh-vật bên ngoài;

(d) giới-luật c

ăn-bản luôn nghi

êm-trì,

tức là theo

đúng thật kỹ-lưỡng mọi điều ngăn-cấm, tự đặt m

ình trong vòng kỷ-luật khắt-khe,

để buộc

thân-tâm vững tiến trên

đường tu-tập.

Bài Kệ số 376: dạy phải noi gương theo những gì

để tu-tập

:

(a) gần-gũi, kết thân với bạn hiền: được khuyên-nhũ làm điều lành, được an-ủi khi lo-lắng, được vui khi cùng tu với nhau;

(b) đúng Chánh-mạng: nếu xuất-gia, theo

đúng

hạnh khất-sĩ, dẹp

được l

òng tự-ái, ngã-mạn khi

đi xin; nếu

tại-gia, làm tròn nhiệm-vụ trong khi hành-nghề chơn-chánh;

(c)cử-chỉ

đoan-trang:

trong các oai-nghi:

đi, đứng, nằm, ngồi, nói v

à nín,

đều nghi

êm-trang, tập theo cách của người bạn hiền

đi trước;

(d) phiền-não dứt,

được phỉ-lạc, hướng đến Niết-b

àn: nhờ có bạn hiền cùng tu, nên phiền-não sớm dứt,

được niềm vui thanh-cao, hướng đ(c) sớm chứng được

cảnh tịch-tĩnh Niết-bàn, nhờ các hành hữu-lậu ( = các phiền-não nơi thân-tâm) trở nên an-hoà: đây là kết-quả từ-từ trên bước đường tu-tập, vui mà nhận thấy mình có tiến-bộ.

Bài Kệ số 369: đây là bài Kệ nên học thuộc lòng, vì hình-ảnh "chiếc thuyền rỗng-không" đáng ghi-nhớ mãi trong tâm-khảm:

(a) Thuyền rỗng-không nầy ví tấm thân: thân-tâm nầy do n

ăm uẩn tạm hợp, sẽ tan-rả, n

ên xét kỹ mà thấy nó thật là rỗng-không;

(b) Tát cho khô nước tức là dập tắt ngay lửa tham, sân: thuyền khô nước trở nên nhẹ-nhàng, thân-tâm dẹp sạch tham-sân trở nên thanh-tịnh,

đó l

à

điều-kiện tốt để sớm chứng được cảnh Niết-b

àn;

(c) Thuyền nhẹ

đi nhanh đến Niết-b

àn:

hình-ảnh ngồi thuyền

đi nhanh đến Niết-b

àn rất ư là ... thơ-mộng.

Tóm lại, các bài Kệ thuộc nhóm 1 đặt căn-bản cho việc bắt đầu tu-tập: niềm tin vững-chắc, giới-luật nghiêm-trì, kết thân bạn hiền, phát tâm Từ-Bi, dẹp lòng tham-sân.

Nhóm 2: ghi rõ các bước

để tu Thiền

:

Bài Kệ số 371: bước

đầu tu Thiền l

à tập gom Tâm lại, tức là hết sức ến sự giác-ngộ và giải-thoát của Niết-bàn.

Bài Kệ số 368: dạy hai

đức-tánh căn-bản của người tu-h

ành: tâm Từ-Bi niềm tin vững-chắc:

(a) Tâm an-trú trong Từ-Bi: luôn luôn

đem nguồn vui đến cho mọi người, cứu khổ cho mọi lo

ài;

(b) Tín-thành theo giáo-pháp Phật-

đ

à: Tâm Bồ-

đề

thật kiên-cố, dẹp mọi nghi-ngờ, tránh

được sự thối-chí;

chú-ý và tập-trung tư-tưởng.

(a) ...hành Thiền tinh-tấn, chớ thả Tâm quanh-quẩn thú-vui: theo dõi hơi thở, giữ chánh-niệmtỉnh-giác thì Tâm phải ngừng lại, chẳng thể nào chạy lang-thang theo thú-vui bên ngoài

được;

(b) Phóng-dật, nuốt hòn sắt nóng

đỏ, Lửa điạ-ngục thi

êu, chớ than khổ!:

Tỳ-kheo nhận của bố-thí mà chẳng lo tu-hành, phóng-dật, lười-biếng thì sẽ sa

điạ-ngục, nuốt sắt nóng đỏ, uống nước đồng sôi. Người tại-gia tu thiền m

à giãi-

đ

ãi, lúc tu lúc không, sẽ bị ngoại-cảnh lôi-cuốn theo các thú-vui vật-chất thấp-kém, khiến sa vào cõi ác khi tái-sanh.

Đây l

à lời Phật cảnh-cáo cho cả xuất-gia và tại-gia.

Bài Kệ số 372: tu Thiền

đắc được

Định Huệ, tiến

đến cảnh giác-ngộ v

à giải-thoát của Niết-bàn.

(a) Chẳng có

định-tâm nơi người thiếu trí

:

người thiếu trí khi tu Thiền chẳng biết cách gom tâm lại

để kéo d

ài sự chú-ý, thì làm sao mà tâm an-

định được;

(b) Chẳng có trí nơi người thiếu

định-tâm:

điều nầy dễ thấy, vì người để tâm chạy lang-thang, chẳng chú-ý, làm sao nhìn rõ, thấy rõ, biết rõ cho được, đó chẳng phải thiếu trí hay sao;

(c)...

được cả hai Định, Huệ, ... kề b

ên bệ Niết-bàn:

Tâm an-

định, Trí-huệ phát-sáng, thấy đúng đường-lối tu-h

ành, thì ngày chứng

được Niết-b

àn

đ

ã gần kề.

Bài Kệ số 373: phương-cách tập Thiền, chọn nơi vắng-vẻ.

(a) Tỳ-kheo

đến ẩn nơi vắng-vẻ:

Đức Phật thường khuyên tỳ-kheo nên vào rừng vắng để dễ tu Thiền; ngày nay ta có thể chọn căn phòng vắng, vào giờ thuận-tiện sáng sớm, hay khuya trước khi đi ngủ, tâm dễ lắng yên, chẳng bị ngoại-cảnh chi-phối;

(b) Tâm-tư thường lặng-lẽ an-nhiên: đến nơi vắng chưa đủ, tâm còn phải vắng nữa, phải lặng-lẽ nữa, mới

đủ điều-kiện để tập Thiền. Tâm lặng-lẽ cách n

ào? Dẹp bỏ hết mọi ý-nghĩ vẩn-vơ,

đuổi hết các ý-nghĩ giận người nầy, thương người kia, ganh-tị với bạn-b

è, v.v.

(c) Chứng thông giáo-pháp hành-thiền: tu Thiền, nên có Thầy hướng-dẫn, chẳng những tránh

được các đường tẻ, khỏi lọt v

ào tà-kiến, tà-

định, m

à còn biết những

điểm c

òn thiếu-sót

để sửa-chữa.

(d) Hưởng nguồn phỉ-lạc siêu-nhiên thoát trần: trong khi ngồi Thiền, quên

được các mối lo-âu nơi cuộc sống thế-tục, chính giờ phút đó l

à

đang

hưởng nguồn phỉ-lạc, vui-sướng vì tâm-trí

được nhẹ-nh

àng.

Bài Kệ số 374: cách quán-tưởng khi ngồi Thiền.

(a) Mỗi khi quán-tưởng thấu rõ, Các uẩn khởi-sanh rồi hoại-diệt: đây là chọn đề-tài quán-tưởng về thân-tâm ngũ-uẩn. Ngồi Thiền, khi tâm bắt

đầu an-định, nhờ sức quán-tưởng mạnh (

= chú-tâm), chiếu soi

được các khía-cạnh của đề-t

ài, lần-lượt nhận ra

được

chơn-lý. Trong

đề-t

ài quán thân-tâm ngũ uẩn, nhìn biết rõ sự khởi-sanh của các ý-tưởng bên trong, sự kéo dài trong khoảnh-khắc và sự biến mất của chúng,

đó l

à theo dõi

được

sự khởi-sanh và hoại-diệt của một ý-tưởng trong tưởng-uẩn. Với kinh-nghiệm, sẽ chứng tánh-cách vô-thường, vô-ngã của mỗi uẩn, mà nhận ra thân-tâm n

ăm uẩn vốn rỗng-không.

(b) Phỉ và lạc, tỳ-kheo hưởng-thọ, Chỉ bực Bất-tử mới

được biết:

Chứng

được

định-tâm, hành-giả cảm thấy thân-tâm nhẹ-nhàng, thấm nhuần một niềm vui thanh-khiết,

đó l

à phỉ. Vì biết rõ trong thời gian tịnh-tu, tâm rỗng-rang, chẳng vướng-bận lo-lắng, ưu-phiền,

đó l

à sự vắng-mặt của Khổ, tức là

đang hưởng

Lạc, vui vì hết khổ trong lúc ấy. Kéo dài

được tâm-trạng thanh-thản, an-nhi

ên nầy, là các bực

đ

ã chứng

được các quả vị Thánh, gọi l

à bực Bất-tử ( = hết bị tái-sanh.)

Tóm lại, đường lối tu Thiền: chọn nơi vắng-vẻ, dọn sạch Tâm, chú-ý mạnh, quán-tưởng sâu,

đắc

định,

huệ sẽ chói-sáng.

Nhóm 3:

Bài Kệ số 370: dành cho bực c

ăn-cơ cao

, dạy phải dẹp mười kết-sử, vượt qua n

ăm dây r

àng-buộc, trau-dồi n

ăm sức mạnh tinh-thần

(a) Cắt

đứt năm độn-sử

: trong số nầy, có ba kết-sử chẳng quá khó vượt qua,

để chứng được quả thứ nhứt l

à Tu-

đ

à-huờn:

đừng chấp chặt v

ào thân; dứt nghi về Chánh-pháp; bỏ mọi mê-tín tà-

đạo.

(b) Dứt bỏ n

ăm lợi-sử

: n

ăm lợi-sử khó dẹp l

à vì thiếu sự quân-bình giữa định và huệ; giữ định, huệ bằng nhau, nhờ giới phụ giúp vào, sẽ chiến-thắng nốt n

ăm lợi-sử.

(c) Bực"Vượt Bộc-lưu" là bực Thánh

đ

ã vượt qua

được thác g

ành, nhờ trau-dồi n

ăm

sức-mạnh,

để dẹp năm

dây trói-buộc. Kể ra thì nhiều, 5x4 món tất cả, người tu tại-gia chỉ cần nhớ ba món

độc

: tham, sân, si, dồn nỗ-lực

để ti

êu-diệt chúng là

được kề b

ên Niết-bàn.

(259).- Tích chuyện các vị tỳ-kheo nhìn hoa lài rơi trong khi ngồi Thiền.

Vào một thời kia,

Đức Phật ngụ tại ch

ùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp có

đề-cập đến các vị tỳ-kheo nh

ìn hoa lài rơi rụng trong giờ tập Thiền.

Thuở ấy có n

ăm trăm vị tỳ-kheo được Đức Phật chỉ-dạy cho mỗi người một đề-t

ài thiền-quán, liền

đi v

ào rừng vắng, nỗ-lực tu-tập Thiền-

định. Nơi đây, họ nh

ìn thấy các bông hoa lài nở tươi-

đẹp v

ào buổi sáng, rồi

đến chiều th

ì tàn-tạ, lả-tả rơi khỏi cành. Trông thấy cảnh ấy, các vị tỳ-kheo mới cố-gắng dẹp bỏ mọi lậu-hoặc trong tâm, cũng như cành lài rủ bõ các bông-hoa tàn-héo. Bấy giờ,

Đức Phật, từ nơi

hương-phòng, quán thấy tâm-trạng của các vị tỳ-kheo, Ngài phóng

đạo h

ào-quang

đến khu rừng, khiến các vị tỳ-kheo nh

ìn thấy

Đức Phật trong tâm họ, v

à nghe lời dạy rằng: "Nầy chư tỳ-kheo, cũng như cây lài giũ bỏ các cánh hoa tàn-héo, tỳ-kheo nỗ-lực dẹp bỏ mọi lậu-hoặc trong tâm,

để sớm ra khỏi v

òng tái-sanh lận-

đận của Luân-hồi.

"

Rồi

Đức Phật nói l

ên bài Kệ sau

đây, nhờ đó nhiều vị tỳ-kheo đ

ã chứng

được quả-vị A-la-hán

:

Như cây lài rủ bỏ hoa tàn-héo,

Tỳ-kheo, nên khéo trút sạch tham-sân.

(Kệ số 377.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

-

Đề-t

ài thiền-quán:

một

đầu-đề để suy-nghĩ sâu-xa khi ngồi Thiền

- Lậu-hoặc: Lậu = rỉ chảy ra; Hoặc = điều sai-lầm. Lậu-hoặc là các phiền-não tham, sân, si,v.v. khởi nơi tâm, lộ ra bằng hành-

động xấu.

- Hương-phòng: c

ăn ph

òng có hương thơm, dành riêng cho

Đức Phật, tiếng

Pali là Gandhakuti.

- Hào-quang: ánh-sáng rực-rỡ toả chiếu từ vị tu-hành

định-lực cao.

- Luân-Hồi: Luân = bánh xe; Hồi = trở lại. Theo giáo-lý nhà Phật, chúng-sanh khi chết

đi phải t

ùy nghiệp mà tái-sanh trở lại,

để rồi chết nữa, lẩn-quẩn m

ãi, tựa như bánh xe cứ l

ăn tr

òn vòng (Pali: Samsàra.)

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện rất

đơn-sơ: các vị tỳ-kheo khi tập Thiền, nhơn nh

ìn thấy hoa lài rơi tàn-tạ khỏi cành cây, quyết nỗ-lực dẹp bỏ lậu-hoặc tham, sân, si... ra khỏi tâm, như cành cây giũ bỏ hoa héo.

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 377:

Bài Kệ cũng rất rõ nghĩa: khi tu Thiền, phải dẹp ra khỏi tâm các lậu-hoặc tham, sân, mới mong sớm

đắc dược

định-tâm.

(260).- Tích chuyện Trưởng-lão San-ta-kha.

Vào một thời kia,

Đức Phật ngụ tại ch

ùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp có

đề-cập đến Trưởng-l

ão San-ta-kha.

Thuở ấy, ở chùa Kỳ-viên, có một vị tỳ-kheo tên là San-ta-kha, tánh-tình rất trầm-tĩnh,

đi đứng nghi

êm-trang, thường ngồi, nằm nơi vắng-vẻ, ít nói, ít tiếp-chuyện với bạn

đồng-tu. Các vị tỳ-kheo cho thái-độ lặng-lẽ đó có vẻ khác thường, mới đến thưa-tr

ình cùng

Đức Phật. Đức Phật bảo

: "Nầy chư T

ăng, tỳ-kheo San-ta-kha kiếp trước l

à một con sư-tử chúa, dáng-

điệu rất oai-vệ, săn được mồi, ăn xong liền nằm im, lặng-lẽ. Thái-độ trầm-tĩnh ng

ày nay của tỳ-kheo San-ta-kha rất

đáng khen ngợi, các tỳ-kheo n

ên noi theo gương

đó.

"

Rồi

Đức Phật nói l

ên bài Kệ sau

đây

:

Thân an-tịnh, lời cùng an-tịnh,

Ý an-tịnh, tâm thường giác-tỉnh.

Mọi thế-sự, tỳ-kheo dẹp qua,

Mới xứng danh là "Bực tịch-tịnh"

(Kệ số 378.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- San-ta-kha: tên vị Trưởng-lão nầy, tiếng Pali là Santakàya, có nghĩa là thân an-tịnh.

- Trầm-tĩnh: Trầm = chìm; Tĩnh = yên-lặng; Trầm-tĩnh là an-tịnh.

- Giác-tỉnh: Tỉnh-giác: Tỉnh = thức-tỉnh, chẳng mê; Giác = biết rõ. Tâm giác-tỉnh là luôn luôn giữ chánh-niệm, làm gì, nói gì, nghĩ gì, tâm

đều đang biết r

õ

điều ấy v

à chỉ

điều ấy m

à thôi, chẳng lo ra việc khác.

- Thế-sự: Thế = đời; Sự = việc. Thế-sự là việc

đời, việc thi

ên-hạ.

- Bực tịch-tịnh: dịch chữ Pali Muni, chữ Hán-Việt là Mâu-ni, có nghĩa là trầm-tĩnh, an-nhiên. Mâu-ni là danh-hiệu PhậtThích-ca Mâu-ni

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện thuật lại việc các tỳ-kheo hiểu lầm thái-

độ trầm-tĩnh, ít nói của Trưởng-l

ão San-ta-kha, cho

đó l

à khác thường. Nhưng

Đức Phật nhắc đến tiền-kiếp l

àm sư-tử chúa của Trưởng-lão,

đi đứng oai-vệ, nằm ngồi lặng-lẽ v

à khuyên các tỳ-kheo nên noi gương trầm-tĩnh

đó của Trưởng-l

ão.

Ý-nghĩa của Tích chuyện là: phải giữ thân-tâm an-tịnh, bằng cách giữ thân trầm-tĩnh, lời nói trầm-tĩnh và ý-nghĩ trầm-tĩnh, cả ba nghiệp đều thanh-tịnh.

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 378:

Bài kệ dạy ta một

điều rất quan-trọng trong việc tu-h

ành: giữ thân-tâm cho an-tịnh,

đó l

à

đường-lối

tu tâm.

Xin phân-tách từng câu:

1) Thân an-tịnh, lời cùng an-tịnh: đây là nói về nghiệp thân nghiệp khẩu ( = miệng). Thân an-tịnh có cử-chỉ từ-tốn, chẳng vụt-chạc, nghiêm-trang. Lời nói an-tịnh thì dễ nghe, dịu-dàng, ôn-tồn, khiến người nghe

được vui l

òng. Hai nghiệp nầy mà tịnh được thì tránh được biết bao tội-ác, gây thêm được biết bao căn lành.

2) Ý an-tịnh, tâm thường giác-tỉnh: đây là nói về ý-nghiệp, quan-trọng nhứt trong ba nghiệp, ý-nghiệp dẫn ta

đi thác-sanh. Tâm

tỉnh-giác được là nhờ luôn luôn giữ chánh-niệm, làm gì, nói gì, nghĩ gì,

đều biết r

õ cả, chẳng buông-lung chạy theo ngoại-cảnh.

3) Mọi thế-sự, tỳ-kheo dẹp qua, Mới xứng danh là "Bực tịch-tỉnh": dẹp chuyện

Đời qua một b

ên,

để lo chuyện Đạo, tức l

à lo tu sửa tâm-tánh mình. Người biết sống một mình, hằng theo dõi mọi biến-chuyển trong tâm mình, mới xứng danh là người theo gót

Đức Mâu-ni

.

(261).- Tích chuyện Trưởng-lão Nan-ga-la.

Tích chuyện nầy hơi giống với Tích chuyện số (116), về Trưởng-lão Phí-lộ-thi.

Vào một thời kia,

Đức Phật ngụ tại ch

ùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có

đề-cập đến Trưởng-l

ão Nan-ga-la.

Thuở ấy, ở nước Xá-vệ, có một người nông-phu nghèo khó phải

đi c

ày ruộng mướn cho chủ, rất cực-khổ. Một hôm, một vị tỳ-kheo

đi ngang qua, thấy anh ngồi nghỉ b

ên bờ ruộng, mới hỏi th

ăm. Biết cảnh khó-nhọc của kẻ l

àm mướn chẳng

đủ ăn, vị tỳ-kheo hỏi anh có muốn đi tu không. Anh đồng-ý, theo v

ào chùa, làm lễ xuất-gia. Theo lời thầy dạy, vị tỳ-kheo mới

đem cái c

ày và quần-áo cũ rách-rưới của mình, ra bỏ nơi gốc cây gần chùa. Thời-gian sau,

ăn uống no đủ, anh mập-mạp ra, nhưng trong l

òng lại nhớ

đến cảnh sống ng

ày xưa và bắt

đầu chán-ngán cuộc đời tu-h

ành. Anh liền

đi đến b

ên gốc cây, nhìn lại chiếc cày và

đống quần-áo cũ, thầm trách m

ình: "Sao mình chẳng biết hổ-thẹn,

đ

ã

đi tu để được giải-thoát, lại c

òn muốn quay về với cuộc

đời bần-c

ùng với chiếc cày nặng, với

đống giẻ rách nầy

?" Tự-trách mình như thế, ý-tưởng quay về

đời sống thế-tục liền tan biến, anh trở lại ch

ùa. Rồi

độ bốn năm ng

ày sau, ý ấy lại khởi lên trong tâm anh, anh cũng trở lại gốc cây, cũng tự-trách như trước nữa. Các vị tỳ-kheo khác thấy anh mỗi tuần hai lần

đi thăm chiếc c

ày như thế, mới

đặt t

ên anh là tỳ-kheo Nan-ga-la, có nghĩa là chiếc cày.

Bẵng

đi một dạo, chẳng thấy Nan-ga-la đi thăm gốc cây nữa, các vị tỳ-kheo lấy l

àm lạ, mới hỏi lý-do. Nan-ga-la

đáp:

"Trước kia tôi thường

đến đấy, để thăm

"thầy tôi" và học-hỏi thêm, nay tôi thấy chẳng còn cần-thiết nữa, nên thôi." Cho rằng Nan-ga-la có ý bảo ngầm rằng, mình nay

đ

ã thành bực vô-học, các vị tỳ-kheo ấy mới

đến thưa c

ùng

Đức Phật

: "Bạch Thế-tôn, tỳ-kheo Nan-ga-la tự-phụ bảo mình là bực vô-học chứng quả A-la-hán."

Đức Phật bảo

: ‘Nầy chư Tỳ-kheo, Nan-ga-la là người biết tự quán-sát mình, tự-trách mình và tự tu sửa mình, quả thật,

đ

ã chứng

được quả-vị A-la-hán.

"

Rồi

Đức Phật mới nói l

ên bài Kệ sau

đây

:

Tỳ-kheo, hãy tự kiểm-thảo mình,

Tự mình phòng-hộ và dò soát.

Tâm-tư hằng tỉnh-giác,

Cuộc sống

được an-l

ành.

(Kệ số 379.)

Mình là nơi mình

đang nương-tựa,

Ta

đi t

ìm ẩn-trú nơi ta.

Thế nên tự-chế, chớ lơ-là,

Như khách thương luyện thuần bầy ngựa.

(Kệ số 380.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Nan-ga-la: biệt-hiệu của vị Trưởng-lão nầy, Pali là: Nangalakula

- Xuất-gia: Xuất = ra khỏi; Gia = nhà; Xuất-gia là bỏ

đời sống thế-tục, rời gia-đ

ình, vào chùa tu.

- Thế-tục: Thế = đời; Tục = thường;

Đời

Thế-tục

đời sống của thường-nhơn có gia-đ

ình trong xã-hội.

- Vô-học: dịch chữ Pali Asekha, bực

đ

ã học-hỏi xong cách diệt-trừ các phiền-não và tu-tập thành-công. Trái với bực vô-học, là bực hữu-học (Sekha), thấp hơn, còn phiền-não, cần học-tập cách tận-diệt các lậu-hoặc. Chứng

được quả Thánh A-la-hán mới l

ên hàng Vô-học.

- Tự-phụ = khoe-khoang, tự-cao, xem mình là hơn.

- Tự-kiểm-thảo: tự mình xét lấy lỗi mình

để tu sửa lại

- Phòng-hộ = bảo-vệ, giữ-gìn cẩn-thận.

- Tự-chế = tự mình kềm-chế lấy mình, chẳng buông lơ.

- Khách thương = người buôn-bán, làm nghề thương-mãi.

- Luyện thuần = huấn-luyện cho thuần-thục, nhuần-nhã, dễ khiến

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện thuật lại một người nông-phu

đi tu, mỗi khi trong tâm khởi l

ên ý-tưởng muốn quay về

đời sống thế-tục, mới đến b

ên gốc cây, nhìn chiếc cày và

đống quần-áo cũ, m

à tự-trách mình sao chẳng chuyên-tu. Nhờ biết tự kiểm-thảo như thế, chẳng bao lâu người ấy trở thành bực vô-học, chứng quả Thánh.

(2) Ý-nghĩa của hai bài Kệ số 379 và 380:

Hai bài Kệ khuyên ta phải biết thường thưòng xét lỗi của chính mình,

để tu sửa lại, chẳng n

ên lơ-là.

Bài Kệ số 379: khuyên hai

điều: (1) tự kiểm-soát; (2) tỉnh-giác

1) Tỳ kheo, hãy tư kiểm-thảo mình, Tự mình phòng-hộ và dò-soát: Tự mình kiểm-thảo, phòng-hộ, dò-soát là biết nhìn vào trong tâm mình, xét thấy các lỗi-lầm của mình và tự mình sửa lại.

2) Tâm-tư hằng tỉnh-giác, Cuộc sống

được an-l

ành:

Muốn tự mình kiểm-thảo lấy mình cho

đúng-đắn,

tâm phải luôn luôn tỉnh-giác, nghĩa là mọi biến-chuyển trong lòng,

đều được

chánh-niệm theo dõi.

Chánh-niệm là gì? Chánh-niệm niệm-giác, ý-nghĩ

đứng-đắn khởi l

ên trong tâm

để nhận-biết các ý-niệm khác vừa xảy ra trong tâm, ngay lúc chúng đang khởi l

ên, trong lúc chúng

đang kéo d

ài, và lúc chúng

đ

ã tan biến

đi.

Niệm-giác chính là tâm

đang nh

ìn chính tâm, biết rõ những gì

đang diễn-biến nơi tâm. Đó cũng như vị cảnh-sát từ b

ên trong tâm,

đang đứng ra canh-chừng tâm, tuy

chẳng chuyên-chở thêm một ý-tưởng nào, một ý-niệm nào, nhưng lại biết rõ tất cả các niệm khác vừa hiện-diện nơi tâm.

Thông-thường, ta cứ

để tâm muốn chạy đi đâu cũng chẳng để-ý, đó l

à cảnh thất-niệm tức là

đang đánh mất

chánh-niệm. Thắp sáng lên Chánh-niệm là ngay trong lúc lơ-là, liền bừng-tỉnh lại, chú-tâm nhìn vào tâm, ấy là gọi chánh-niệm chổi dậy nơi mình

để theo d

õi tâm.

Tu tâm là phải bắt

đầu

thắp sáng lên Chánh-niệm nơi tâm, giữ-gìn mãi chánh-niệm ấy, chẳng phút lơ-là, chẳng phút thất-niệm.

Bài Kệ số 380: khuyên ta phải biết tự-chế, chớ lơ-là, chớ buông-lung cho tâm chạy lang-thang.

1) Mình là nơi mình

đang nương-tựa:

chẳng có nơi nương-tựa nào an-toàn bằng chính tâm thanh-tịnh của mình. Muốn tâm mình an-tịnh, phải biết tự-chế, nghĩa là thắp sáng Chánh-niệm để luôn luôn tự kiểm-soát lấy mình, chận-đuổi mọi vọng-tưởng khởi lên trong tâm.

2)...Nên tự-chế,...như khách thương luyện thuần bầy ngựa: dùng Chánh-niệm dẹp yên "bầy ngựa ý" trong tâm, cũng giống như vị khách thương tập-luyện bầy ngựa, nghĩa là phải bền-chí, kiên-nhẫn.

(262).- Tích chuyện tỳ-kheo Hoa-kha-ly.

Vào một thời kia,

Đức Phật ngụ tại Tịnh-xá Trúc-lâm, gần th

ành Vương-xá, trong kỳ giảng-pháp, có

đề-cập đến vị tỳ-kheo Hoa-kha-ly.

Thuở ấy ở nước Ma-kiệt-

đ

à, có người tên là Hoa-kha-ly, một hôm trông thấy

Đức Phật đi khất-thực, nh

ìn dáng-mạo trang-nghiêm của Ngài, nên sanh lòng ngưỡng-mộ, muốn

đi tu. Từ khi được gia-nhập Tăng-đo

àn, Hoa-kha-ly cứ lẩn-bẩn gần bên

Đức Phật, m

à xao-lãng các bổn-phận của một vị tỳ-kheo, lơ-là việc hành Thiền.

Đức Phật thấy thế mới bảo

: "Nầy Hoa-kha-ly, ông cứ

đứng m

ãi bên ta, có

được ích lợi g

ì? Gần Phật, thấy

được Như-lai, l

à phải biết gần Chánh-pháp, học-tập Chánh-pháp kia. Thôi, ông hãy lui ra,

đừng đến trước mặt ta nữa.

"

Nghe Phật dạy thế, lòng Hoa-kha-ly buồn vô-cùng, chán-nản lui ra và nẩy ý-

định leo l

ên núi Linh-thứu nhảy xuống tự-tử.

Đoán biết tâm-trạng của Hoa-kha-ly, Đức Phật l

ên

đỉnh Linh-sơn trước. Khi Hoa-kha-ly sắp thực-hiện ý-định đen tối, Ng

ài phóng hào-quang chiếu lên rực-rỡ. Hoa-kha-ly nhìn thấy, lòng hân-hoan dào-dạt, hết muốn tìm cái chết nữa, liền qùi xuống

đảnh-lễ. Bấy giờ Đức Phật mới nói l

ên bài Kệ sau

đây, nhờ đó Hoa-kha-ly tỉnh-ngộ, nỗ-lực tu-tập, chẳng bao lâu chứng được quả-vị A-la-hán

:

Tỳ-kheo thường hân-hoan dào-dạt,

Vững niềm tin giáo-pháp Phật-

đ

à.

Cảnh-giới tịch-tịnh sớm chứng qua,

Các hành hữu-lậu

được tịnh-lạc.

(Kệ số 381.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Hoa-kha-ly: tên vị tỳ-kheo nầy, tiếng Pali là Vakkali.

- Trúc-lâm, Vương-xá, Ma-kiệt-

đ

à:

Tịnh-xá Trúc-lâm (Veluvana), do vua Tần-bà-sa-la (Bimbisara) cất trong vườn trúc, gần thành Vương-xá (Ràjagaha), thủ-

đô xứ Ma-kiệt-đ

à (Magadha), miền Bắc Ấn-

độ xưa.

- Như-Lai: tiếng tự-xưng của

Đức Phật, chỉ

pháp-thân Phật; tiếng Pali là Tathàgata ( = bực

đ

ã đến

đây

như thế ) (Như = như thế; Lai =đến)

- Linh-thứu: tên

đỉnh núi giống h

ình chim kên-kên (Gijjhakuta).

- Hân-hoan dào-dạt = vui mừng hết sức.

-Phật-

đ

à:

phiên âm chữ Buddha. Phật có nghĩa là giác, hiểu biết thấu-

đáo về tất cả muôn lo

ài.

Đức Phật l

à bực đại-giác.

- Cảnh-giới tịch-tịnh: Cảnh-giới là cõi; Tịch-tịnh là vắng-vẻ và lặng-lẽ;Cảnh-giới tịch-tịnh,

đây, l

à cảnh-giới Niết-bàn yên-vui, tự-tại

- Các hành hữu-lậu: Các hành chỉ thân-tâm; hữu-lậu là chứa các phiền-não, dơ-xấu, rỉ chảy ra., thành hành-

động bất-thiện.

- Tịnh-lạc = Tịnh = thanh-tịnh, trong-sạch; Lạc = vui. Các hành hữu-lậu

được tịnh-lạc

=

thân-tâm còn phiền-não nầy

được thanh-tịnh-hoá.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện thuật lại một vị tỳ-kheo chỉ vì quá ngưỡng-mộ thân-tướng trang nghiêm

đẹp-đẽ của Đức Phật m

à xin

đi tu để được gần luôn b

ên Phật.

Đức Phật bảo, thấy Như-Lai, gần Như-Lai, l

à biết

đến Chánh-pháp, học-tập để thấy được

pháp-thân của Phật, chớ lẩn-bẩn bên Phật mà chẳng lo tu-tập, thì chẳng

được ích-lợi g

ì. Vị tỳ-kheo hiểu

được lời Phật, nỗ-lực tu-tập, sớm chứng được quả-vị Thánh.

Ý-nghĩa của Tích chuyện: ngưỡng-mộ Phật là biết

đem Chánh-pháp Phật dạy ra tu-tập để được giác-ngộ v

à giải-thoát.

Về một phương-diện khác, nghe nói Kinh nầy linh-thiêng lắm, thỉnh về,

đóng bi

à da, mạ chữ vàng, kính-cẩn

đặt tr

ên bàn thờ Phật, mà chẳng hề mở ra

đọc-tụng, th

ì sự linh-thiêng kia chẳng cảm-ứng

được đạo-tâm của m

ình, làm sao mà hưởng

được sự lợi-lạc

!

(2) Ý-nghĩa cửa bài Kệ số 381:

Bài Kệ khuyên ta nên vững tin nơi Giáo-pháp, hân-hoan học-tập,

để thanh-tịnh-hoá thân-tâm, sớm chứng được cảnh an-vui Niết-b

àn.

1) Tỳ-kheo thường hân-hoan dào-dạt, Vững niềm tin giáo-pháp Phật-

đ

à: đây là hai đức-tánh quan-trọng của một vị tỳ-kheo: (1) niềm tin ở Tam-Bảo thật vững chắc, (2) vui-thích trong nỗ-lực tu-hành.

2) Cảnh-giới tịch-tịnh sớm chứng qua: nhờ nỗ-lực tu-tập, mà sớm chứng

được cảnh-giới

tịch-tịnh, an-vui và vắng-vẻ của Niết-Bàn, tức là sớm có

được tâm-trạng an-nhi

ên và tự-tại, trong

đời sống tu-h

ành.

3) Các hành hữu-lậu

được tịnh-lạc:

thân-tâm n

ăm uẩn đầy phiền-n

ão nầy sẽ sớm

được thanh-tịnh-hoá, m

à dẹp sạch

được các lậu-hoặc.

(263).- Tích chuyện Sa-di Sử-mã.

Vào một thời kia,

Đức Phật ngụ tại tu-viện Đông-vi

ên, nước Xá-vệ, trong kỳ giảng-pháp, có

đề-cập đến vị sa-di trẻ tuổi t

ên là Sử-mã.

Sa-di Sử-mã,

đệ-tử của Trưởng-l

ão A-na-luật, tuy mới lên bảy tuổi mà tu-tập rất giỏi, chứng

được quả Thánh A-la-hán, đắc được thần-thông. Khi Trưởng-l

ão A-na-luật trú gần dãy Hi-mã-lạp-sơn, một hôm bị bịnh, sa-di Sử-ma

đ

ã bay

đến hồ An-nô-ta cách đó hơn trăm dặm, lấy nước về cho thầy d

ùng.

Đến khi Trưởng-l

ão trở về Xá-vệ, tới

đảnh-lễ Đức Phật, có dẫn sa-di Sử-m

ã

đi theo.

Tại tu-viện

Đông-vi

ên, các chú tiểu thấy sa-di còn trẻ, cứ theo chọc-ghẹo, kẻ véo tai, người cú

đầu, m

à Sử-mã cũng chẳng chút nào hờn-giận. Bấy giờ,

Đức Phật trông thấy, Ng

ài mới nghĩ cách khiến cho mọi người phải thán-phục sa-di Sử-mã, liền cho gọi Tôn-giả A-nan vào bảo, Ngài cần dùng một lu lớn chứa nước từ hồ An-nô-ta

đem về. Chẳng vị tỳ-kheo, hay sa-di n

ào

đi lấy nước được, v

ì hồ An-nô-ta cách

đây hơn mấy trăm dặm, m

à cái lu lại vừa to vừa nặng. Sau cùng, sa-di Sử-mã tình-nguyện

đi lấy nước. Trong khoảnh-khắc, với sức thần-thông, sa-di Sử-m

ã vác lu bay

đến hồ múc nước rồi trở về chờ lịnh. Mọi người tập-họp ở giảng-đường, hết lời khen-tặng kỳ-công của Sử-m

ã.

Đức Phật nói

: "Nầy chư T

ăng, người tu-tập theo Chánh-pháp ng

ày

đ

êm chuyên-cần, chứng

được quả-vị quả-vị Thánh v

à

đắc thần-thông, mặc dầu c

òn trẻ tuỗi, như sa-di Sử-mã

đây.

"

Rồi

Đức Phật mới nói l

ên bài Kệ sau

đây

:

Tỳ-kheo dẫu tuổi

đời c

òn trẻ,

Siêng tu theo pháp Phật hằng ngày,

Sáng soi rực-rỡ thế-gian nầy,

Như vầng tr

ăng vừa thoát khỏi mây.

(Kệ số 382.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Sa-di: người mới vào chùa tập-sư tu-hành, chưa thọ-giới tỳ-kheo; trong chùa thường gọi là chú tiểu. Tiếng Pali là Sàmanera.

- Sử-mã: tên vị Sa-di nầy, tiếng Pali là Sumana.

- Tu-viện

Đông-vi

ên:

do bà Vi-sa-kha cất, ở phiá

Đông ch

ùa Kỳ-viên; tên tiếng Pali là Pubbàràma.

- A-na-luật: còn gọi là A-nâu-lâu-

đ

à,

đại-đệ-tử của Đức Phật Thích-ca; tên tiếng Pali là Anuruddha.

- A-nan: tên vị thị-giả hầu bên Phật, tiếng Pali là Ànanda.

- Hi-mã-lạp-sơn: tên dãy núi cao nhứt thế-giới ở biên-giới Ấn-

độ v

à Trung-hoa; tiếng Pali là Himalaya, có nghĩa: quanh-n

ăm có tuyết.

- An-nô-ta: tên hồ nước nầy, tiếng Pali là Anotatta.

- Thần-thông: khả-n

ăng đặc-biệt như bay bổng tr

ên không,

đi tr

ên mặt nước v.v. nhờ

định-lực tu-tập cao.

- A-la-hán: quả-vị thứ tư, cao nhứt; tiếng Pali là Arahant. Chữ A-la-hán có ba nghĩa: (1) ứng-cúng, xứng-

đáng được Trời, Người cúng-dường; (2)

sát-tặc, giết hết giặc, giặc phiền-não; (3)vô-sanh, chẳng còn bị tái-sanh ở cõi Luân-hồi nữa.

- Tuổi

đời:

tuổi

đời khác với tuổi đạo; cứ tham-dự mỗi mu

à an-cư kiết-hạ là t

ăng th

êm một tuổi

đạo; tuổi đạo c

òn gọi là lạp-tuế.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện thuật lại việc một vị sa-di bảy tuổi

đời, học đạo rất giỏi đắc được thần-thông, chứng quả A-la-hán. Vị ấy mang lu nặng từ ch

ùa

Đông-vi

ên bay

đến hồ An-nô-ta lấy nước, cách đó hơn mấy trăm dặm, đem về cho Phật, được mọi người thán-phục.

Ý-nghĩa của Tích chuyện: mặc dầu nhỏ tuổi, nếu tu-tập chuyên-cần, cũng chứng

được quả-vị cao.

(2) Ý-nghĩa bài Kệ số 382:

Bài Kệ ý-nghĩa rất rõ-ràng: tu-hành tinh-tấn, mặc dầu còn trẻ tuổi, cũng chứng

được quả-vị cao, đức-hạnh sáng ngời như vừng trăng thoát khỏi mây mờ.

HỌC TẬP:

Chẳng phải vì mong

đắc được thần-thông

mà cố sức tu-tập

đ

êm ngày; chính sự phá tan các phiền-não, giải-thoát

được thân-tâm, khỏi cảnh khổ tái-sanh lận-đận, mới l

à mục-

đích chơn-chánh.

-ooOoo-

XXVI.- Phẩm BÀ-LA-MÔN.

(264).- Tích chuyện vị Bà-la-môn tâng bốc các vị tỳ-kheo là A-la-hán.

Vào một thời kia,

Đức Phật ngụ tại ch

ùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có

đề-cập đến một vị B

à-la-môn vì quá trọng-vọng tỳ-kheo, nên gọi tâng họ là bực A-la-hán.

Thuở ấy, ở nước Xá-vệ, có một người Bà-la-môn,

được nghe Đức Phật thuyết-pháp, rất ngưỡng-mộ giáo-lý của Đức Phật, n

ên thường thỉnh các vị tỳ-kheo

đến nh

à

để cúng-dường. Khi các vị tỳ-kheo đến khất-thực, vị B

à-la-môn ấy cung-kính gọi họ là các bực A-la-hán. Vì chưa chứng-

đắc được Thánh-quả, n

ên các vị tỳ-kheo cảm thấy bối-rối, và sau cùng quyết-

định chẳng đến nh

à vị Bà-la-môn ấy nữa. Vị Bà-la-môn rất thất-vọng, chẳng hiểu vì lẽ gì mà chư T

ăng chẳng đến nh

à mình nữa, mới

đến thưa tr

ình cùng

Đức Phật.

Đức Phật cho gọi các vị tỳ-kheo đã đến nhà người Bà-la-môn ra hỏi. Nghe họ trình-bày sự thật, Đức Phật hỏi: "Nầy các vị Tỳ-kheo, trong số các vị có ai

đ

ã chứng

được Thánh-quả

?" Chẳng ai trả lời có,

Đức Phật hỏi tiếp

: "Khi nghe gọi mình là bực A-la-hán, trong tâm quí-vị có khởi lên sự tự-cao không?" Các vị tỳ-kheo thưa, chẳng có.

Đức Phật liền dạy

: "Chẳng sanh tự-cao khi

được gọi tâng như thế l

à chẳng hề vi-phạm giới-luật. Sự-thật là vì quá trọng-vọng người tu-hành, nên vị Bà-la-môn nầy mới gọi quí-vị là bực A-la-hán. Các vị nên nỗ-lực dẹp bỏ cho sạch lòng ham-muốn

được đề-cao đi, v

à cố-gắng tu-tập, rồi sẽ chứng

được quả-vị A-la-hán.

"

Rồi

Đức Phật nói l

ên bài Kệ sau

đây

:

Nầy Bà-la-môn,

Hãy tinh-tấn

đoạn d

òng áí-dục,

Thú vui vật-chất nên lià bỏ,

Các hành hoại-diệt

đ

à thấu rõ,

Hãy làm người chứng-

đắc vô-vi.

(Kệ số 383.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Bà-la-môn: giai-cấp tu-sĩ ở Ấn-

độ xưa. Xin lưu-ý, nơi Phẩm B

à-LA-MÔN nầy, chữ Bà-la-môn trong các bài Kệ lại có nghĩa là A-la-hán

- Tâng = nói nâng cao lên. Vị Bà-la-môn gọi các tỳ-kheo chưa chứng-

đắc l

à các bực A-la-hán, gọi tâng họ lên hàng Thánh.

- Trọng-vọng = tỏ lòng quá kính-mến.

- A-la-hán: quả-vị thứ tư, cao nhứt, vào hàng Thánh. Bực A-la-hán (Arahant) dẹp xong phiền-não, lìa mọi tham-muốn, chứng

được vô-sanh,

nghĩa là chẳng còn bị tái-sanh trong vòng Luân-hồi nữa.

- Tự-cao: tự xem mình là hơn, còn gọi là ngã-mạn. Tỳ-kheo chưa chứng-

đắc, tự nhận m

ình

đ

ã chứng-

đắc, phạm tội

t

ăng-thượng-mạn.

-

Đoạn d

òng ái-dục:

Đoạn

là cắt bỏ

đi, cắt đứt đoạn;

Dòng ái-dục là những sự say-

đắm, m

ê-luyến, khởi từ các giác-quan, như mắt muốn nhìn sắc-

đẹp, lưỡi muốn nếm vị ngon-ngọt, tay muốn sờ vật láng,v.v.

- Các hành: hiểu cho gọn, các hành

đây trỏ

thân-tâm n

ăm uẩn.

- Vô-vi: Vô = chẳng; Vi = làm. Sự-vật ở thế-gian chia ra hai loại: (1) hữu-vi, do tạo-tác mà có, bị thay-

đổi, rồi hoại-diệt, như

thân-tâm, như ngôi nhà, tức là những gì bị điều-kiện-hoá; (2) vô-vi, chẳng do tạo nên mới có, chẳng biến-

đổi, như

hư-không, chơn-lý, tức là chẳng bị

điều-kiện-hoá.

đây, chữ

vô-vi trỏ vào cảnh Niết-Bàn vắng-lặng.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện thuật lại việc các vị tỳ-kheo

được tâng-bốc, tỏ ra bối-rối. Đức Phật dạy, khi được đề-cao m

à chẳng sanh lòng ngã-mạn thì chẳng vi-phạm giới-luật.

Ý-nghĩa Tích chuyện khuyên ta chớ nên sanh kiêu-c

ăng khi được ai nói ... nịnh

!

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 383:

1) Hai câu

đầu: đoạn d

òng ái-dục tức là lià bỏ mọi thú-vui vật-chất.

2) "Các hành hoại-diệt

đ

à thấu rõ" =

đ

ã hiểu thấu thân-tâm n

ăm uẩn

nầy, hiện có

đây, rồi sẽ bị tan-rả, đừng quá chấp chặt v

ào thân.

3) Câu chót: khuyên nên cố-gắng tu-hành

để chứng được cảnh

vô-vi, tức là chứng

được cảnh an-vui, vắng-lặng của

Niết-Bàn.

(265).- Tích chuyện về hai pháp: Chỉ và Quán.

Vào một thời kia,

Đức Phật ngụ tại ch

ùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có

đề-cập đến việc ba mươi tỳ-kheo nhờ nghe hai pháp m

à chứng

được quả Thánh.

Thuở ấy, có một nhóm ba mươi vị tỳ-kheo từ xa

đến đảnh-lễ Đức Phật. Duy

ên may, Tôn-giả Xá-lợi-phất cũng có mặt tại

đó, quán thấy đ

ã

đến lúc cho ba mươi vị tỳ-kheo chứng-đắc được quả-vị Thánh, A-la-hán. Tôn-giả liền bạch Phật:

"Bạch Thế-tôn, thế nào là hai pháp?"

Đức Phật đáp

: ‘Nầy Xá-lợi-phất, hai pháp

đó l

à Chỉ và Quán."

Rồi

Đức Phật mới nói l

ên bài Kệ sau

đây, nhờ đó m

à các vị tỳ-kheo chứng

được quả-vị A-la-hán

:

Khi an-trú hai pháp: Chỉ, Quán,

Bà-la-môn

đạt tới bỉ-ngạn.

Đối với "người thông-suốt" nầy,

Mọi kết-sử

đều đoạn-tận.

(Kệ số 384.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Quả Thánh: Quả = kết-quả việc tu-tập thành-công; Thánh = bực

đ

ã dứt

được sanh-tử trong Luân-hồi. Có bốn quả-vị

: (1) Tu-

đ

à-huờn, còn sanh lại bảy lần;(2)Tư-

đ

à-hàm, còn sanh lại một lần; (3) A-na-hàm, chỉ sanh lên cõi Trời, chẳng trở lại cõi trần; ba quả-vị nầy thuộc bực Hiền, còn bị tái-sanh; (4) A-la-hán, chứng vô-sanh, dứt cảnh tái-sanh,

được gọi l

à bực Thánh. Trái với Thánh-hiền phàm-phu, chưa tu

- Tôn-giả Xá-lợi-phất: tên tiếng Pali là Sàriputta, vị

đại-đệ-tử của Đức Phật Thích-ca, nổi tiếng l

à thông-minh

đệ nhứt.

- Chỉ, Quán: Chỉ = ngưng lại; Quán = xem xét kỹ-lưỡng, suy-nghĩ sâu-xa.

Đây l

à hai Pháp-tu về Thiền-

định. Theo giáo-lý Bắc-tông, Thiền-quán phân ra l

àm sáu phép-tu, gọi là Lục diệu-pháp-môn: (1) Sổ-tức, đếm hơi thở, (2)Tùy-tức, theo dõi hơi thở;(3) Chỉ, ngưng tất cả ý-nghĩ, tư-tưởng lại; (4) Quán, dùng tâm quán-xét tâm, suy-nghĩ sâu-xa; (5) Hoàn, quay trở lại; (6) Tịnh, làm cho tâm trở nên trong-sạch và yên-tĩnh. Ngồi Thiền là lần-lượt thực-hành sáu phép-tu

đó.

- Bỉ ngạn: Bỉ = kia;Ngạn = bờ. Bỉ-ngạn là bờ bên kia, tức là bờ giác-ngộ.

Đáo bỉ ngạn

đến bờ giác-ngộ b

ên kia; bờ bên nầy là bờ mê-lầm.

- Người thông-suốt: người hiểu rõ mọi việc, tức là

đ

ã

đạt được

Trí-huệ Bát-nhã Ba-la-mật, cái Trí đưa ta đến bờ giác.

- Kết-sử: Kết = ràng-buộc; Sử = sai-khiến. Có mười Kết-sử ràng-buộc tâm-trí ta, xúi-dục làm quấy, xin kể mấy kết-sử chánh: tham, sân, si, mạn, nghi, khát-ái,v.v... Dẹp xong các kết-sử, chứng A-la-hán.

- Đoạn-tận:

Đoạn

=

cắt

đứt;

Tận = dứt hết xong.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện thuật lại việc ba mươi tỳ-kheo nghe

được hai pháp

Chỉ Quán trong phép tu Thiền-

định m

à chứng

được quả A-la-hán. Chẳng phải chỉ đến nghe m

à

đắc quả ngay, v

ì còn phải tu-tập nữa, tuy Tích chuyện chỉ kể ra vắn-tắt như thế.

Ý-nghĩa của Tích chuyện là nêu lên hai

điểm quan-trọng trong khi ngồi Thiền: (1) dừng lại tất cả ý-tưởng, (2) quán-sát thâm-sâu tâm m

ình, theo dõi mọi biến-chuyển bên trong,

để chấm-dứt vọng-tưởng.

(2) Ý-nghĩa của Bài Kệ số 384:

Bài Kệ nêu rõ công-n

ăng của hai pháp Chỉ v

à Quán, là dẹp tan mọi kết-sử, chứng

đắc Trí-huệ Bát-nh

ã, và

được

giác-ngộ và giải-thoát

Xin phân-tách từng câu:

1) Khi an-trú (trong)hai pháp:Chỉ, Quán: khi

đ

ã tu-tập thật thuần-thục cả hai pháp Chỉ ( =ngưng

được tất cả tư-tưởng) v

à Quán ( =theo dõi thật sát mọi biến-chuyển trong tâm, suy-nghĩ sâu-xa), thì...

2) Bà-la-môn

đạt tới bỉ-ngạn:

chữ Bà-la-môn,

đây, có

nghĩa là bực A-la-hán, bực ấy

đ

ã

đến bờ giác b

ên kia, tức là

đ

ã hoàn-toàn giác-ngộ và giải-thoát (nhờ an-trú trong hai pháp Chỉ và Quán).

3) Đối với "người thông-suốt" nầy, Mọi kết-sử

đều đoạn-tận:

Người thông-suốt,

đây, l

à người

đ

ã

đạt được

Trí-huệ Bát-nhã Ba-la-mật, cái trí

đưa ta đến bờ giác-ngộ v

à giải-thoát, người ấy chẳng còn bị các kết-sử ràng-buộc

được nữa. Đó l

à nhờ công-n

ăng của hai pháp-tu Chỉ v

à Quán, khiến tâm trở nên hoàn-toàn thanh-tịnh.

(266).-Tích chuyện Ma-vương thưa hỏi

Đức Phật.

Vào một thời kia,

Đức Phật ngụ tại ch

ùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có

đề-cập đến Ma-vương tới hỏi Phật.

Có một hôm, Ma-vương hoá hình thành một người thường,

đến thưa hỏi Đức Phật

: "Bạch Thế-tôn, Ngài thường nói

đến

bỉ-ngạn, chẳng hay nghĩa

đó ra l

àm sao?"

Đức Phật quán thấy Ma-vương giả-dạng, mới đáp

: ‘Nầy Ma-vương, ông

đừng h

òng qua mặt

được Như-Lai. Đối với ông,

thử-ngạn hay bỉ-ngạn nào có quan-hệ chút gì

đâu

! Bỉ-ngạn là bờ bên kia, chỉ có bực A-la-hán

đ

ã tận-diệt mọi phiền-não, hoàn-toàn giải-thoát, mới

đạt tới bờ giác-ngộ b

ên kia."

Rồi

Đức Phật nói l

ên bài Kệ sau

đây

:

Người chẳng chấp bờ nầy, bờ nọ,

Cả hai bờ chẳng chấp có, không.

Thoát-ly phiền-não, hết trói buộc,

Như-Lai gọi là Bà-la-môn.

(Kệ số 385.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Ma-vương = Vua Ma trên cõi Trời, thường

đi cám-dỗ l

àm quấy.

- Như-Lai: Như = như thế; Lai = đến; Đức Phật tự-xưng là Như-Lai khi nói với kẻ khác. Pali là Tathàgata. Các

đệ-tử gọi Phật l

à Thế-tôn.

- Chấp = ôm chặt trong ý-nghĩ, chẳng chịu buông-bỏ.

- Bà-la-môn = Brahmana, ở

đây,

nghĩa là bực chứng quả A-la-hán.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện rất giản-dị: Ma-vương giả dạng

đến hỏi Đức Phật

nghĩa chữ bỉ-ngạn. Đức Phật đáp, bực A-la-hán đã dứt hết phiền-não, mới đáo bỉ ngạn, tức là

đến bờ giác-ngộ b

ên kia.

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 385:

Bài Kệ cũng rất giản-dị,

đặt nặng ở chữ

chấp. Chấp là cứ ôm khư khư trong lòng, chẳng chịu buông-bỏ

để khỏi bị r

àng-buộc. Bực A-la-hán (bài Kệ gọi là Bà-la-môn) chẳng chấp bờ nầy, bờ nọ; ...chẳng chấp có, không; ...thoát-ly phiền-não, hết trói buộc, là bực

đ

ã

đến

bỉ-ngạn.

(267).- Tích chuyện một vị Bà-la-môn hỏi Phật.

Vào một thời kia,

Đức Phật ngụ tại ch

ùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có

đề-cập đến một vị B

à-la-môn

đến thưa hỏi Đức Phật, thế n

ào là Bà-la-môn.

Thuở ấy có một người Bà-la-môn nghĩ rằng: "Phật Cồ-

đ

àm gọi các

đệ-tử l

à Bà-la-môn; ta

đây thuộc giai-cấp B

à-la-môn, vậy ta phải

được gọi l

à Bà-la-môn như họ." Nghĩ xong, người ấy

đến ch

ùa, thưa hỏi

Đức Phật về vấn-đề đó. Đức Phật đáp:

"Ta chẳng gọi là Bà-la-môn những người sanh trong giai-cấp nầy. Ta chỉ gọi là Bà-la-môn những ai

đ

ã chứng

được quả-vị A-la-hán.

"

Rồi

Đức Phật nói l

ên bài Kệ sau

đây, nhờ đó vị B

à-la-môn chứng

được sơ-quả Tu-đ

à-huờn:

Người hành Thiền, ẩn-cư, vô-nhiễm,

Thoát-ly lậu-hoặc, nhiệm-vụ xong,

Thành-

đạt được mục-đích tối-tôn,

Như -Lai gọi là Bà-la-môn.

(Kệ số 386.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Cồ-

đ

àm: Gotama,

họ của

Đức Phật Thích-ca.

- Giai-cấp = tầng-lớp trong xã-hội. Ở Ấn-

độ xưa, có bốn giai-cấp: (1)

Bà-la-môn, Brahmana, tu-sĩ; (2)Sát-

đế-lợi, Khattiya,

vua quan; (3) Phệ-xá, Vessa, buôn-bán; (4)Thủ-

đ

à-la, Sudda, thợ, làm ruộng.

- Sơ-quả = quả-vị

đầu-ti

ên, tức là quả Tu-

đ

à-huờn (Sotàpatti.). Còn gọi là Nhập-Lưu, được vào dòng nước Thánh; hay Thất-Lai, chỉ còn tái-sanh lại bảy lần nữa ở cõi người, rồi sẽ chứng quả Thánh.

- A-la-hán: Arahant, quả-vị thứ tư, cao nhứt, dứt sạch phiền-não, chứng-

đắc Niết-B

àn (chẳng còn tái-sanh trong cõi Luân-hồi nữa.)

- Ẩn-cư = ở ẩn, dấu mình ở nơi vắng người.

- Vô-nhiễm = chẳng bị nhuốm dơ, tức dẹp phiền-não, trừ lậu-hoặc

- Lậu-hoặc: Lậu = rỉ chảy ra; Hoặc = chỗ dơ-xấu, các lỗi-lầm. Lậu-hoặc là những phiền-não như tham, sân, si khởi lên trong tâm, lộ ra bằng cử-chỉ hay lời nói chẳng lành, chẳng sạch.

- Tối-tôn: Tối = hết sức, Tôn = đáng kính. Mục-đích tối-tôn là mục-

đích cao-cả nhứt, tức l

à chứng

đắc Niết-b

àn, hết bị tái-sanh nữa.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện rất

đơn-sơ, một người sanh trong giai-cấp B

à-la-môn

đến hỏi Đức Phật, có được gọi l

à Bà-la-môn như các

đệ-tử Phật hay không

?

Đức Phật đáp,

Bà-la-môn,

đây, có

nghĩa là bực A-la-hán.

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 386:

Bài Kệ định-nghĩa thế nào là bực A-la-hán, được Phật gọi là Bà-la-môn: hành Thiền, ẩn-cư, vô-nhiễm, hết lậu-hoặc, xong nhiệm-vụ, chứng

được Niết-b

àn là mục-

đích cao-thượng, đáng tôn-

quí nhứt.

Xin phân-tách từng

điểm

:

1) Người hành Thiền: tu-tập Thiền tức là tu Tâm, làm sao cho tâm được hoàn-toàn thanh-tịnh, để trí-huệ phát sáng. Người hành Thiền quán-sát mọi biến-chuyển trong tâm, chận

được các vọng-tưởng, khiến tâm trở n

ên vắng-lặng, an-nhiên, do

đó vui trong tự-tại.

2) Ẩn-cư: biết sống một mình, nghĩa là vứt bỏ các thú-vui vật-chất thấp-hèn trong xã-hội, gạt bỏ các phiền-não

để giữ tâm được vắng-vẻ; chớ chẳng phải chỉ t

ìm nơi rừng sâu, non cao mà ẩn thân.

3) Vô-nhiễm: chẳng bị nhuốm dơ, tức là thân-tâm thanh-tịnh, giới-

đức vẹn-to

àn, do

đó, các sự cám-dỗ của các dục-lạc, các tội-lỗi chẳng thể n

ào làm lung-lay

được ý-chí quyết theo con đường l

ành.

4) Thoát-ly lậu-hoặc: chẳng còn bị các lậu-hoặc, tức là các phiền-não như tham, sân, si, mạn, nghi, tà-kiến theo khuấy rối nữa. Nói cách khác,

đ

ã dẹp xong hết mười kết-sử, hết bị sai-khiến,

được thoát-ly, n

ên hoàn-toàn tự-do, tự-tại.

5) Nhiệm-vu xong: Nhiệm-vụ nào? Làm xong nhiệm-vụ thanh-lọc thân-tâm, khiến việc tu-tâm cho thanh-tịnh đã hoàn-tất.

6) Đạt mục-đích tối-tôn: Thường, ta

ăn chay, đi ch

ùa, lạy Phật, tụng kinh là

để

cầu phước,

được may-mắn, sung-sướng cả đời. Đó l

à mục-

đích tốt, nhưng c

òn thấp, so với mục-

đích tối-tôn,

cao hơn,là thoát Khổ vĩnh-viễn, khi chứng

được

vô-sanh, (nghĩa là chẳng phải tái-sanh mãi trong cõi Luân-hồi lận-

đận), được v

ào cảnh-giới an-vui, thường-hằng, tự-tại của Niết-bàn,

đó mới l

à mục-

đích cao-

quí nhứt.

(268).- Tích chuyện Tôn-giả A-nan nhìn hào-quang Phật.

Vào một thời kia,

Đức Phật ngụ tại tu-viện Đông-vi

ên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có

đề-cập đến việc Tôn-giả A-nan khen ngợi h

ào-quang toả ra từ

Đức Phật.

Hôm ấy vào ngày rằm tháng Bảy, bầu trời trong xanh chẳng gợn chút mây. Tôn-giả A-nan

đứng nh

ìn mặt trời sắp lặn, tia nắng hồng chiếu cả phương Tây. Sau rặng cây, nơi phương

Đông, trăng rằm rạng-rỡ đang toả ánh-sáng v

àng dịu mát qua khe lá. Vừa lúc ấy, vua Ba-tư-nặc, xứ Câu-tát-la, trong y-phục lộng-lẫy nạm vàng và kim-cương chói lọi, bước vào.

Đưa vua v

ào trong, Tôn-giả A-nan nhìn thấy Trưởng-lão Ca-lưu-

đ

à-di

đang ngồi thiền, trong cơn đại-định, gương mặt rạng-rỡ cả góc ph

òng. Bấy giờ

Đức Phật đang ngồi tr

ên bồ-

đo

àn, thân-tướng trang-nghiêm, ánh hào-quang toả ra vô cùng rực-rỡ. Tôn-giả A-nan buột miệng, thưa: "Bạch Thế-tôn, ánh tà-dương, vầng tr

ăng rằm, trang-phục ho

àng-gia lộng-lẫy, gương mặt rạng-rỡ trong thiền-

định, chẳng rực-rỡ bằng ánh h

ào-quang toả ra từ thân-tướng của Thế-tôn."

Đức Phật đáp lời bằng b

ài Kệ sau

đây

:

Ban ngày mặt trời chiếu sáng,

Ban

đ

êm ánh tr

ăng tỏ rạng.

Khí-giới chói loà Sát-

đế-lỵ,

Đắc thiền-định sáng nơi Phạm-chí.

Chỉ riêng

đức Phật chiếu h

ào-quang

Rạng-rỡ

đ

êm ngày khắp thế-gian.

(Kệ số 387.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- A-nan: tên vị thị-giả ( = hầu bên cạnh) của

Đức Phật Thích-ca, tiếng

Pali là Ànanda.

- Hào-quang: ánh-sáng toả ra từ bực tu-hành cao, nhờ

định-lực.

- Ba-tư-nặc, Câu-tát-la: tên vua Pasenadi, xứ Kosala.

- Ca-lưu-

đ

à-di:

đại-đệ-tử của Phật Thích-ca, tên Pali: Kàludàyi.

-

Đại-định:

tâm trạng lắng-yên, thâm-sâu của thiền-giả.

- Bồ-

đo

àn =

nệm lót bên dưới

để ngồi Thiền.

- Thân-tướng: hình-dáng của thân-thể.

- Tà-dương: mặt trời xế chiều sắp lặn.

- Trang-phục hoàng-gia: y-phục của nhà vua.

- Sát-

đế-lỵ

=

phiên-âm chữ Khattiya, giai-cấp vua chúa ở Ấn-

độ.

- Phạm-chí: đồng một nghĩa với chữ Bà-la-môn, Brahmana.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện rất giản-dị: Tôn-giả A-nan khen ngợi hào-quang toả từ thân-tướng của

Đức Phật. H

ào-quang

đó rực-rỡ hơn cả y-phục của vua, hơn cả gương mắt rạng-rỡ của người ngồi Thiền nhập-định, hơn cả ánh sáng mặt trời v

à mặt tr

ăng.

Ý-nghĩa của Tích chuyện là

đức-hạnh từ-bi của Đức Phật chói sáng ng

ày

đ

êm khắp cả thế-gian.

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 387:

Bài Kệ cho rằng hào-quang của

Đức Phật hơn cả mọi ánh-sáng, v

ì chiếu cả ngày

đ

êm, khắp thế-gian. Hào-quang ấy tượng-trưng cho

đức-hạnh cao-

quí của

Đức Phật, chẳng chi sánh bằng.

(269).- Tích chuyện một vị Bà-la-môn ẩn-sĩ.

Vào một thời kia,

Đức Phật ngụ tại ch

ùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có

đề-cập đến một vị B

à-la-môn ẩn-cư tu khổ-hạnh.

Thuở ấy, có một vị Bà-la-môn ở Xá-vệ, sống cuộc

đời ẩn-dật, tu theo lối khổ-hạnh. Một hôm, ông ta nghĩ, Đức Phật gọi các đệ-tử của Ng

ài là bực xuất-gia; ta sống ẩn-cư, tu khổ-hạnh, thì cũng

đáng gọi l

à người xuất-gia. Ông ta

đến gặp Phật v

à nói lên ý-nghĩ ấy.

Đức Phật đáp

: "Nầy ẩn-sĩ, chẳng phải chỉ sống

độc-cư m

à

đủ để được gọi l

à bực xuất-gia. Hãy nghe bài Kệ nầy kể rõ những

đức-tánh của người

xuất-gia."

Rồi

Đức Phật mới nói l

ên bài Kệ sau

đây, nhờ đó m

à vị Bà-la-môn chứng

được quả-vị thứ nhứt l

à Tu-

đ

à-huờn:

Lià ác-nghiệp là Bà-la-môn.

Sống trong an-tịnh là Sa-môn.

Tự mình dứt bỏ mọi ô-nhiễm

Nên

được gọi l

à bực xuất-gia.

(Kệ số 388.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Ẩn-sĩ: người sống nơi xa-vắng, ít tiếp-xúc với kẻ khác.

- Khổ-hạnh = lối tu ép-xác, sống quá kham-khổ.

- Xuất-gia: Xuất = ra khỏi; Gia = nhà. Người xuất-gia là kẻ bỏ

đời sống thế-tục, rời gia-đ

ình,

đi tu. Ở đây,

xuất-gia = ra khỏi nơi ô-uế.

- Tu-

đ

à-huờn: quả-vị thứ nhứt, dịch là Nhập-Lưu, nghĩa là

được gia-nhập v

ào dòng nước Thánh, còn

được gọi l

à Thất-Lai, nghĩa là còn tái-sanh lại bảy lần nữa, sẽ chứng quả Thánh. Tiếng Pali: Sotàpatti. Chứng quả Tu-

đ

à-huờn, khi: (1) bỏ

được

thân-kiến, tức là chẳng chấp thân-tâm nầy làm Ngã, Ta; (2) hết Nghi, tức là hết nghi-ngờ về Chánh-Pháp; (3) bỏ giới-cấm-thủ, tức là chẳng theo các lối cúng-tế tà-

đạo.

- Ác-nghiệp: Nghiệp ác gồm có: (1)thân làm ác; (2) miệng nói ác; (3) ý nghĩ ác.

- Sa-môn: tu-sĩ Phật-giáo; tiếng Pali: Samanera, có ba nghĩa: (1) cần-giả, siêng làm

điều thiện; (2)

tức-giả, ngưng làm

điều ác; (3)

bần-giả, cam chịu nghèo khó

để tu-h

ành.

- Ô-nhiễm = dính dơ; ở

đây, bị các phiền-n

ão, tội-lỗi nhuốm dơ.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện rất giản-dị: một vị Bà-la-môn ẩn-cư tu khổ-hạnh, tự cho mình là bực xuất-gia như các tỳ-kheo.

Đức Phật đọc b

ài Kệ nói rõ thế nào mới xứng-danh là bực xuất-gia.

(2) Ý-nghĩa bài Kệ số 388:

Bài Kệ nêu ra: (1) bỏ ác-nghiệp, thân, miệng, ý đều lành; (2) sống an-tịnh, trong-sạch và vắng-vẻ; (3) lià xa các cấu-nhiễm ( = tội-lỗi, phiền-não nhuốm dơ tâm), là những

đặc-tánh căn-bản của một bực

xuất-gia.

Ý-nghĩa của bài Kệ: xuất-gia là ra khỏi nơi ô-uế, phiền-não.

(270).- Tích chuyện về

đức nhẫn-nhục của Tôn-giả Xá-lợi-phất.

Vào một thời kia,

Đức Phật ngụ tại ch

ùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ-giảng-pháp, có

đề-cập đến đức nhẫn-nhục của Tôn-giả Xá-lợi-phất.

Tôn-giả Xá-lợi-phất là vị

đại-đệ-tử nổi tiếng thông-minh bực nhứt, đứng đầu Tăng-đo

àn. Tôn-giả thường

được khen-ngợi l

à người nhẫn-nhục, chẳng hề tức-giận khi bị ai nói hỗn-hào, hay hành-hung. Tiếng

đồn vang xa, có một người B

à-la-môn ganh-tị, chẳng phục, muốn tìm cách khởi-hấn

để xem Tôn-giả quả có nhịn-nhục được chăng. Một hôm, Tôn-giả Xá-lợi-phất đi khất-thực. Vị B

à-la-môn bước theo sau, thình-lình vung tay

đập mạnh v

ào lưng Tôn-giả Xá-lợi-phất. Tôn-giả vẫn bình-thản, bước

đi, chẳng hề quay lại xem ai đ

ã

đánh m

ình. Lại một cú

đấm mạnh nữa, Tôn-giả vẫn điềm-nhi

ên

đi tới. Vị B

à-la-môn ngạc-nhiên trước thái-

độ trầm-tĩnh của Tôn-giả, mới sanh ra hối-hận, liền đến trước Tôn-giả, q

ùi xuống tạ lỗi. Tôn-giả ôn-tồn chấp-nhận lời hối-tiếc. Vị ấy bước theo thưa tiếp: "Bạch Tôn-giả, Ngài có tha tội cho thì mai nầy xin Ngài

đến nh

à con,

để con cúng-dường.

"

Hôm sau, Tôn-giả Xá-lợi-phất cầm bình bát

đến nh

à kẻ

đ

ã hành-hung mình

để khất-thực. Các vị tỳ-kheo khác thấy thế mới nghĩ bụng, kẻ B

à-la-môn kia chẳng bị khiển-trách, lại

được tha tội dễ-d

àng như thế, biết

đâu lại chẳng sanh tâm hiếp-đáp các vị Tăng khác. Họ liền thưa tr

ình sự-việc lên

Đức Phật. Đức Phật trả lời với hai b

ài Kệ sau

đây:

Chớ nên

đánh-đập vị Phạm-chí.

Bị

đập, Phạm-chí chớ trả th

ù.

Xấu-hổ thay, ai

đập Phạm-chí

!

Xấu-hổ hơn, Phạm-chí trả thù!

(Kệ số 389.)

Đối với người được gọi là Phạm-chí,

Lợi chẳng nhỏ, nếu bỏ ý trả thù.

Đến mức nào, tâm tác-hại bị chận,

Đến chừng ấy, tiêu-trừ xong khổ-hận.

(Kệ số 390)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Xá-lợi-phất: còn

được gọi l

à Xá-lợi-tử, tên tiếng Pali là Sàriputta là vị

đại-đệ-tử đệ-nhứt trí-huệ của Phật Thích-ca.

- Nhẫn-nhục: nhịn-nhục, bền chí chịu

đựng chẳng tức-giận.

-Hành-hung: Hành = làm;Hung = dữ.Hành-hung, làm dữ,

đánh-đập

- Ganh-tị: cà-nanh, ghen-ghét,

đ

òi bằng hay hơn kẻ khác.

- Khởi-hấn: gây chuyện

để đánh nhau.

- Phạm-chí = đồng nghĩa với Bà-la-môn (Brahmana); ở trong Phẩm Bà-la-môn nầy, chữ Phạm-chí, Bà-la-môn lại có nghĩa là bực A-la-hán.

- Tâm tác-hại: Tác = làm; Hại = gây ra

đau-khổ, hư-hại. Người có

tâm tác-hại làm hại kẻ khác, gây ra

đau-khổ cho họ. Trái ngược với

tâm tác-hại tâm từ-bi.

- Khổ-hận: đau-khổ và thù-oán.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện thuật lại

đức nhẫn-nhục v

à tánh trầm-tĩnh của Tôn-giả Xá-lợi-phất:

đang đi bị đập sau lưng, chẳng quay lại xem ai đánh m

ình, cứ thản-nhiên

đi tới. Ý-

nghĩa Tích chuyện lại nằm trong bài Kệ.

(2) Ý-nghĩa của hai bài Kệ số 389 và 390:

Ý-nghĩa của hai bài Kệ là

đức

nhẫn-nhục. Xin phân-tách hai bài Kệ:

1) "Xấu-hổ thay, ai

đập Phạm-chí

!": Tại sao xấu-hổ? Vì

đ

ã hành-hung một người tu-hành hiền-lành, chẳng hề làm hại gì

đến ai.

2) "Xấu hổ hơn, Phạm-chí trả thù": Tại sao lại xấu-hổ hơn? Thông-thường, bị

đập, đập lại trả-th

ù,

đâu có chi quá xấu-hổ. Nhưng đ

ã là Phạm-chí, nguyện tu-hành, bỏ cả sân-si, nay vì tức-giận mà trả thù, do

đó, chẳng xứng với danh-

nghĩa tu-hành, nên mới xấu-hổ hơn.

3) "Đối với người được gọi là Phạm-chí, Lợi chẳng nhỏ, nếu bỏ ý trả thù": Lợi chi mà chẳng nhỏ? Có ý trả thù

đang tạo

ý-nghiệp ác, rồi sẽ bị tái-sanh vào cõi dữ.

Đ

ã là bực Phạm-chí, tu-tập

để chứng được

vô-sanh, thì lià hẳn

được

ác-ý trả-thù là lợi-lạc to-lớn khỏi còn bị ý-nghiệp dẫn

đi tái-sanh trong các nẻo dữ của Luân-hồi.

4) Hai câu chót: tâm tác-hại được chận đứng chừng nào, thì sự khổ-hận được tiêu-trừ đến chứng ấy. Chận cách nào? Bằng tâm từ-bi.

(271).- Tích chuyện Ni-bà Ba-xà-ba-

đề.

Vào một thời kia,

Đức Phật ngụ tại ch

ùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có

đề-cập đến Ni-b

à Ba-xả-ba-

đề, d

ì ruột của

Đức Phật.

Khi Thái-tử Tất-

đạt-ta sanh ra được bảy ng

ày, Hoàng-hậu Ma-gia từ-trần; dì của Thái-tử là bà Ba-xà-ba-

đề l

ên làm Hoàng-hậu, nuôi-dưỡng Thái-tử như con

đẻ. Bấy giờ, b

à Ba-xà-ba-

đề cũng vừa sanh ho

àng-tử Nan-

đ

à

được năm ng

ày, giao cho người vú nuôi, còn bà thì cho Thái-tử bú.

Đến khi Thái-tử xuất-gia đi tu, th

ành

Đạo, trở về th

ành Ca-tỳ-la-vệ thuyết-pháp, bà Ba-xà-ba-

đề thỉnh-cầu Đức Phật cho phụ-nữ được gia-nhập Giáo-hội với tư-cách tỳ-kheo-ni. Đức Phật chẳng hứa-khả, m

à trở về rừng

Đại-lâm ở Tỳ-da-ly. Khi đức Vua Tịnh-phạn đ

ã qua

đời, b

à Ba-xà-ba-

đề liền c

ùng với n

ăm trăm cung-nữ, cạo đầu, mặc nâu-sồng, đi chơn không, đến gặp Phật v

à thỉnh-cầu lần nữa.

Đức Phật vẫn chẳng khứng. Tôn-giả A-nan nh

ìn thấy cảnh-tượng thê-thảm các vị phu-nhơn, áo quần rách-rưới, chơn tay trầy-trụa,

đứng khóc lóc ngo

ài sân,

động l

òng vào n

ăn-nỉ Phật. Đức Phật bảo, nếu chịu tuân-theo

tám

điều giới-luật đặc-biệt,

thì

được chấp-nhận v

ào Giáo-hội. Bà Ba-xà-ba-

đề ưng-thuận tuân theo, v

à sau

đó b

à lên cầm

đầu Ni-đo

àn.

Thời-gian sau, có một số tỳ-kheo-ni nghĩ lầm, cho rằng bà Ba-xà-ba-

đề lúc trước chẳng có l

àm lễ chánh-thức xuất-gia, chẳng có vị giáo-thọ

đỡ-đầu, n

ên họ chẳng chịu dự các lễ Bố-tát, lễ An-cư kiết-hạ, do bà Ba-xà-ba-

đề tổ-chức. Họ đến tr

ình lý-do lên

Đức Phật. Đức Phật dạy

: "Nầy chư tỳ-kheo-ni, sao lại nghĩ sai-lầm như thế. Chính ta

đưa ra

tám

điều giới-luật đặc-biệt

để th

ành-lập Ni-

đo

àn, lại chính Ta là giáo-thọ

đỡ-đầu cho Ni-b

à Ba-xà-ba-

đề. Chư ni chẳng n

ên nghi-nan về một bực A-la-hán như thế."

Rồi

Đức Phật nói l

ên bài Kệ sau

đây

:

Với người, ác-nghiệp chẳng tạo nhơn,

Bằng thân, bằng miệng hay bằng ý,

Tự

điều-phục trong ba đường ấy,

Như-lại gọi là Bà-la-môn.

(Kệ số 391.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Ni-bà: bên T

ăng có

Hoà-thượng, Thượng-toạ,

Đại-đức

thì bên Ni có các cấp tương-

đương:

Ni-bà, Ni-sư Ni-cô.

- Ba-xà-ba-

đề:

tên người dì ruột của

Đức Phật,

Pali là Mahàpajàpati

- Tất-

đạt-ta:

tên của

Đức Thích-ca, khi chưa đi tu,

Pali: Siddhatta

- Ma-gia: tên Hoàng-hậu, mẹ của

Đức Phật,

Pali là Màyà.

- Ca-tỳ-la-vệ: thủ-

đô nước Xá-vệ

(Sàvatthi), Pali là Kapilavatthu.

- Tỳ-kheo-ni: nữ tu-sĩ Phật-giáo, tiếng Pali là Bhikkhuni.

- Hứa-khả = hứa cho, ưng-thuận.

- Tỳ-da-ly: tên xứ nầy, tiếng Pali là Vesàlì.

- Mặc nâu-sồng = mặc áo màu dà, như người tu-hành.

- Tám

điều giới-luật đặc-biệt:

gồm có các

đ

ìều bắt-buộc chư ni phải nhận sự ưu-tiên của chư t

ăng, như

: một ni-cô dầu cao tuổi

đạo cũng phải đứng sau một vị tỳ-kheo dầu chỉ mới thọ-giới có một ng

ày. Tám

điều giới-luật đặc-biệt, tiếng

Pali là Garudhamma.

- Ni-

đo

àn =

đoàn-thể các nữ tu-sĩ Phật-giáo.

- Lễ Bố-tát = lễ tụng-

đọc giới-luật v

ào

đầu tháng v

à giữa tháng, tiếng Pali là Uposatha.

- Lễ an-cư kiết-hạ: vào ba tháng mùa mưa, t

ăng-ni chẳng đi ra ngo

ài khất-thực (sợ

đạp côn-tr

ùng), tu-tập nơi tịnh-xá (Pali: Pavàranà)

- Giáo-thọ: vị Tỳ-kheo dạy giáo-lý cho chư T

ăng-ni.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện thuật lại tiểu-sử của Ni-bà Ba-xa-ba-

đề, d

ì ruột của

Đức Phật. B

à

đ

ã

đi bộ hơn trăm dặm đường để xin Phật chấp-nhận cho đi tu. Ý-

nghĩa của Tích chuyện nêu lên quyết-tâm tu-hành của một vị Hoàng-hậu,

để l

àm gương cho giới phụ-nữ.

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ:

Bài Kệ ít liên-quan

đến Tích chuyện, dạy giữ

ba nghiệp: thân, miệng, ý cho thanh-tịnh, bằng cách tự mình kềm-chế lấy chính mình.

Hai câu

đầu của b

ài Kệ

được dịch ra hơi khúc mắc, xin viết lại cho xuôi câu, như thế nầy

: Đối với người tu-hành, chẳng nên tạo nguyên-nhơn gây ra ác-nghiệp, bằng thân, bằng miệng hay bằng ý.

(272).- Tích chuyện Tôn-giả Xá-lợi-phất mỗi

đ

êm hướng về thầy dạy

đạo, lạy rồi mới đi ngủ.

Vào một thời kia,

Đức Phật ngụ tại ch

ùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có

đề-cập đến việc Tôn-giả Xá-lợi-phất, mỗi đ

êm hướng về Thầy dạy

đạo của m

ình, lễ-lạy rồi mới

đi nghỉ.

Thuở ấy, có một số tỳ-kheo thấy mỗi

đ

êm, Tôn-giả Xá-lợi-phất thường hướng về một phương, thành-kính lễ-lạy, rồi mới

đi ngủ. Họ cho rằng Tôn-giả c

òn chưa bỏ thói quen lễ-lạy sáu phương của các người Bà-la-môn ngoại-

đạo, n

ên mới

đến tr

ình lên

Đức Phật. Đức Phật cho gọi Tôn-giả Xá-lợi-phất đến hỏi. Tôn-giả thưa

: "Bạch Thế-tôn, con nhớ

đến công-ơn của Trưởng-l

ão Át-bệ chỉ dạy cho con bài Kệ về Lý Nhơn-duyên, nhờ

đó m

à con tìm

đến quy-y Tam-bảo v

à tu-hành

đến nay. Mỗi đ

êm, con hướng về Người

để lễ-lạy, v

à nằm ngủ

đầu con hướng về đấy.

"

Đức Phật rất bằng l

òng và nói lên bài Kệ sau

đây

:

Trước nhờ ai chỉ ta vào cửa

Hiểu sâu Chánh-pháp Như-Lai dạy.

Hãy trang-trọng kính-lễ người ấy,

Như Bà-la-môn thờ thần lửa.

(Kệ số 392.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Lễ-lạy sáu phương: sáu phương là:

Đông, Tây

, Nam, Bắc, trên và dưới.

Đây l

à tục-lệ Bà-la-môn ngoại-

đạo, mỗi sáng lễ-lạy như thế. Trong Kinh

Thiện-sanh (Singàla), thuộc Trường-Bộ-Kinh (Digha Nikàya)

Đức Phật có dạy

: phải hiểu sáu phương tượng-trưng cho: (1) cha-mẹ, (phương

Đông); (2)

thầy học,(phương Nam); (3) vợ-con,(phương Tây); (4) bạn-bè,(phương Bắc); (5) tôi-tớ (phương dưới); (6) các bực sa-môn (phương trên). Lạy sáu phương là giữ

đúng bổn-phận m

ình

đối với sáu hạng vừa kể, chớ chẳng phải để cầu phước theo ngoại-đạo m

ê-tín.

-Trưởng-lão Át-bệ (Assaji) = một trong n

ăm vị tỳ-kheo nhóm Kiều-trần-như, trước đồng-tu khổ-hạnh với tu-sĩ Cồ-đ

àm, sau

được Đức Phật giảng cho nghe Kinh Chuyển Pháp-Luân ở vườn Lộc-Uyển.

- Bài Kệ về Lý Nhơn-Duyên: xem lại trang 32, Tập 1, có cắt nghĩa

Muôn pháp do nhơn-duyên sanh

Cũng do nhơn-duyên mà diệt.

Thầy ta, Phật

Đại Sa-môn

Thường nói rõ

đúng như thế.

- Quy-y Tam-Bảo: tìm về nương-tựa ba ngôi báu: Phật, Pháp, T

ăng

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện thuật lại một số tỳ-kheo lầm tưởng Tôn-giả Xá-lợi-phất còn giữ thói quen lễ sáu phương của ngoại-

đạo. Tôn-giả giải-thích, v

ì kính-trọng Trưởng-lão Át-bệ

đ

ã chỉ

đường cho m

ình vào cửa

Đạo, n

ên mới hướng về Ngài mà lạy mỗi

đ

êm như thế.

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 392:

Ý-nghĩa bài Kệ rất rõ-ràng, phải nhớ ơn và kính-lễ người

đ

ã

đưa m

ình vào cửa

Đạo.

Xin nói thêm: (1) "chỉ ta vào cửa" là chỉ cho ta vào cửa Đạo; (2)"Như Bà-la-môn thờ thần lửa": thờ lửa là mê-tín ngoại-

đạo, phải bỏ; ở đây, b

ài Kệ chỉ muốn so-sánh hai sự thành-kính mà thôi, chớ chẳng khuyên ta thờ lửa. Vả lại, ở câu Kệ nầy, chữ Ba-la-môn chẳng hề có nghĩa là A-la-hán, như ở các bài Kệ khác trong Phẩm Bà-la-môn.

(273).- Tích chuyện vị Bà-la-môn Gia-thi-la.

Vào một thời kia,

Đức Phật ngụ tại ch

ùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có

đề-cập đến vị B

à-la-môn tên Gia-thi-la.

Thuở ấy, có một người Bà-la-môn tu khổ-hạnh, nghĩ rằng, ta sanh ra thuộc dòng-dõi Bà-la-môn, vậy phải

được gọi l

à Bà-la-môn đúng theo nghĩa các tỳ-kheo của

đạo Phật. Anh ta đến nói l

ên ý-nghĩ với

Đức Phật. Đức Phật đáp:

"Nầy Phạm-chí, chẳng phải vì dòng-dõi, giai-cấp, hay vì tóc bện, mà ta gọi là Bà-la-môn. Người nào thông-hiểu thấu-

đáo Bốn Chơn-lý Nhiệm-mầu mới thật l

à bực Bà-la-môn."

Rồi

Đức Phật mới nói l

ên bài Kệ sau

đây

:

Đâu vì giai-cấp, họ-hàng, tóc bện,

được trở th

ành bực Bà-la-môn.

Chỉ ai CHÂN, CHÁNH, TINH

đủ trọn-vẹn

Người ấy quả thật là Bà-la-môn.

(Kệ số 393.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Gia-thi-la: tên người Bà-la-môn nầy, tiếng Pali là Jatila.

- Tu khổ-hạnh = tu ép-xác, chịu kham-khổ quá mức.

- Bốn Chơn-Lý Nhiệm-Mầu: Tứ Diệu-

Đế,

gồm có: (1) Khổ-

đế,

chơn-lý về

đời l

à khổ; (2) Tập-

đế,

chơn-lý về nguồn-gốc gây ra sự Khổ; (3) Diệt-

đế,

chơn-lý về sự tận-diệt nổi Khổ; (4) Đạo-đế, chơn-lý về Bát-Chánh-

Đạo, con đường thánh-lộ đưa đến sự chấm-dứt Khổ.

- Chân = chơn-lý, Sự-thật; Chánh = đúng-đắn, thẳng ngay; Tịnh = trong-sạch và vắng-lặng.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Ý-nghĩa của Tích chuyện là chẳng phải vì dòng-dõi, giai-cấp mà

được gọi l

à Bà-la-môn, theo nghĩa A-la-hán; mà phải thông-hiểu, tu-tập viên-mãn Tứ-Diệu-

Đế

mới xứng danh là vị Bà-la-môn.

(2) Ý-nghĩa của Bài Kệ số 393:

Bài Kệ nêu lên ba

đức-tánh cần tu-tập mới xứng-danh

Bà-la-môn:

1) Chân: hiểu rõ chơn-lý của Tứ-Diệu-

đế;

2) Chánh: theo

đúng con đường

Bát-Chánh-

Đạo;

3) Tịnh: sống cuộc

đời tu-h

ành thanh-tịnh.

(274).- Tích chuyện người Bà-la-môn lừa-gạt.

Vào một thời kia,

Đức Phật ngụ tại tu-viện Cưu-ta-ga, xứ Tỳ-da-ly, trong một kỳ giảng-pháp, có đề-cập đến một người B

à-la-môn lừa-gạt.

Thuở ấy, trong thành Tỳ-da-ly, có một người Bà-la-môn nghĩ ra một cách

để lừa-gạt dân-chúng. Anh ta leo l

ên cửa thành, lộn

đầu xuống treo t

òn-ten như con dơi, và nói rằng: "Mau

đem đến cho ta đủ một trăm con trừu, một trăm tiền v

àng và một chục người nô-lệ, bằng không ta buông mình xuống thì cả thành Tỳ-da-ly nầy sẽ bị tiêu-diệt." Dân-chúng nghe nói hoảng-sợ, xúm nhau

đem đủ số tiền, thú v

à nô-lệ cho y và mời y trở xuống

đất. Bấy giờ, các vị tỳ-kheo nghe được tin-tức đó mới thưa tr

ình cùng

Đức Phật. Đức Phật bảo, kẻ lừa-dối kia chỉ phỉnh-gạt được người ngu, c

òn bực có trí ai lại tin hắn."

Rồi

Đức Phật nói l

ên bài Kệ sau

đây

:

Ngu ơi! Bện tóc có ích gì?

Mặc áo da dê

được lợi chi

?

Nội-tâm phiền-não còn rối-rắm,

Sao cố

điểm tô ở ngoại-vi

?

(Kệ số 394.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Cưu-ta-ga: tên tu-viện nầy, tiếng Pali là Kùtàgàra.

- Tỳ-da-ly: tên xứ nầy, tiếng Pali là Vesàli.

- Phỉnh-gạt = lừa dối, gạt-gẫm.

- Nội-tâm: Nội = bên trong; Tâm = lòng. Nội-tâm là trong lòng.

- Điểm tô = trang-

điểm, chưng-diện cho đẹp.

- Ngoại-vi: Ngoại = bên ngoài; Vi = chung-quanh. Ngoại-vi làbên ngoài; ở

đây, muốn nói cứ lo chưng-diện bề ngo

ài, chẳng lo tu tâm bên trong

để cho dứt được các phiền-n

ão còn rối-rắm.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện thuật lại việc buồn-cười của dân-chúng thành Tỳ-da-ly bị người Bà-la-môn lừa-gạt.

Đức Phật bảo người ngu dễ bị gạt, c

òn người có trí thì không.

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 394:

Nhơn vệc người Bà-la-môn lừa gạt dân ngu,

Đức Phật dạy, mấy kẻ B

à-la-môn lo chưng-diện bên ngoài, bện tóc, mặc áo da dê nào có ích-lợi chi cho việc tu-tập, chẳng biết lo dứt trừ phiền-não rối-rắm ở bên trong tâm là những kẻ ... ngu ơi là ngu!

(275).- Tích chuyện Ni-bà Kỷ-sa-cơ tu khổ-hạnh.

Vào một thời kia,

Đức Phật ngụ tr

ên

đỉnh núi Linh-thứu, gần th

ành Vương-xá, trong một kỳ giảng-pháp, có

đề-cập đến Nữ trưởng-l

ão Kỷ-sa-cơ, vị Ni-bà tu khổ-hạnh vào bực nhứt.

Một hôm, vua Trời

Đế-Thích c

ùng với chư Thiên

đến đảnh-lễ Đức Phật tại núi Linh-sơn. Bấy giờ, Nữ Trưởng-l

ão

đang thi-triển thần-thông, vừa bay đáp xuống, định v

ào lạy

Đức Phật. Thấy chư Thi

ên

đang đứng trước

hương-phòng, Ni-bà bước lui ra. Vua Trời

Đế-Thích trông thấy, mới thưa hỏi Phật đó l

à ai vậy.

Đức Phật đáp

: "Nầy Thiên-

đế, đó l

à tỳ-kheo-ni Kỷ-sa-cơ. Trước

đây, khi đứa con trai y

êu-quí vừa mất, Kỷ-sa-cơ

đau-buồn đến gặp Như-Lai. Sau khi nghe giảng về lý

vô-thường, bất-toại-nguyện và vô-ngã của muôn pháp hữu-vi, Kỷ-sa-cơ chứng

được sơ-quả, gia-nhập Ni-đo

àn, tu khổ-hạnh, mặc áo phấn-tảo, sống cô-

độc nơi rừng vắng, chẳng bao lâu đắc quả A-la-hán.

"

Rồi

Đức Phật nói l

ên bài Kệ sau

đây

:

Người mặc áo phấn-tảo,

Da lộ gân, thân gầy,

Cô-

độc h

ành-thiền giữa rừng cây,

Như-Lai gọi là Bà-la-môn.

(Kệ số 395.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Ni-bà, Nữ Trưởng-lão: nữ tu-sĩ Phật-giáo có nhiều tuổi

đạo, ngang h

àng với Hoà-thượng bên nam-giới.

- Kỷ-sa-cơ = tên vị Ni-bà nầy, tiếng Pali là Kisàgotamì; tiểu-sử

được kể lại nơi Tích chuyện số (93), trang 299, Tập 2, Kinh nầy.

- Tu khổ-hạnh = tu theo kỷ-luật khắt-khe,

ăn-mặc rất kham-khổ.

- Vua Trời

Đế-Thích:

vua cõi trời

Đao-lợi, t

ên tiếng Pali là Sakka.

- Linh-thứu, Linh-sơn = tên

đỉnh núi

Gijjhakùta giống hình chim thứu ( =kên-kên), xoè cánh ra; gần thành Vương-xá (Ràjagaha), xứ Ma-kiệt-

đ

à (Magadha). Nơi

đây, Đức Phật từng giảng Kinh Pháp-Hoa.

- Thi-triển thần-thông = dùng các sức

đặc-biệt khác thường như bay bổng tr

ên không,

đi tr

ên mặt nước, nhờ ở

định-lực tu-h

ành cao.

- Hương-phòng = c

ăn ph

òng có hương thơm, dành riêng cho

Đức Phật, tiếng

Pali là Gandhakutì.

- Vô-thường = chẳng thường còn, thay

đổi luôn v

à sẽ bị hoại-diệt.

- Bất-toại-nguyện = chẳng làm vừa-ý, thường gây ra

đau-khổ.

- Vô-ngã = chẳng có linh-hồn, chẳng có tự-ngã, bổn-thể rỗng.

- Muôn pháp hữu-vi: tất cả sự-vật có hình-tướng, bị thay

đổi, sẽ ti

êu-hoại; thường

được dịch l

à sự-vật bị

điều-kiện-hoá,

nghĩa là tuỳ theo

điều-kiện chung quanh m

à biến-

đổi để đi đến hoại-diệt.

- Sơ-quả: quả-vị

đầu-ti

ên: Tu-

đ

à-huờn, hay Nhập-Lưu, Thất-Lai.

- Áo phấn-tảo: còn gọi là nạp-y, lượm các giẻ rách bỏ nơi

đống rác, đem về giặt, may l

àm áo.(Phấn = bụi dơ, phẩn; tảo = quét, rác.)

- A-la-hán: quả-vị thứ tư, cao nhứt. Bực A-la-hán diệt xong phiền-não, dứt mọi ham-muốn, chứng vô-sanh ( =chẳng còn bị tái-sanh trong cõi Luân-hồi), sống an-nhiên, tự-tại trong cảnh Niết-bàn.

- Hành-thiền: tu-tập Thiền-

định, giữ thân-tâm an-tịnh.

- Bà-la-môn: nghĩa

đặc-biệt ở đây l

à A-la-hán.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện thuật lại việc

Đức Phật giới-thiệu b

à Kỷ-sa-cơ tu khổ-hạnh với vua Trời

Đế-Thích.

Ý-nghĩa của Tích chuyện là dẫn

đến b

ài Kệ về lối tu khổ-hạnh, tự

đặt m

ình trong kỷ-luật khắt-khe, chịu kham-khổ

để sớm đạt được mục-ti

êu chứng

đắc vô-sanh, sống an-nhi

ên trong cảnh Niết-bàn.

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 395:

Bài Kệ mô-tả người tu khổ-hạnh

để sớm chứng-đắc được quả-vị A-la-hán. Xin phân-tách từng câu

:

1) "Người mặc áo phấn-tảo": Áo phấn-tảo bằng giẻ vụn, dơ, lượm ở

đống rác, tượng-trưng cho sự từ-khước các tiện-nghi vật-chất, như ăn mặc đẹp.

2)"Da lộ gân, thân gầy":

ăn-uống kham-khổ, thân-thể gầy, lộ gân; mục-đích l

à kềm-chế thân

để thanh-lọc

tâm.

3)"Cô-

độc h

ành-thiền giữa rừng cây": biết "sống một mình" chuyên-tâm tu tập Thiền-

định, dẹp mọi phiền-n

ão, tham-muốn.

4) "Như-lai gọi là Bà-la-môn": xứng-danh là bực A-la-hán.

(276).- Tích chuyện vị Bà-la-môn ở Xá-vệ

đến hỏi Phật.

Vào một thời kia,

Đức Phật ngụ tại ch

ùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có

đề-cập đến một vị B

à-la-môn

đến thưa hỏi Đức Phật.

Thuở ấy, ở nước Xá-vệ, có một người Bà-la-môn, cha-mẹ thuộc giai-cấp Bà-la-môn,

đến hỏi Đức Phật, sanh ra từ bụng mẹ B

à-la-môn có

đáng được gọi l

à Bà-la-môn như các vị tỳ-kheo chứng-quả A-la-hán ch

ăng

?

Đức Phật đáp:

"Nầy Phạm-chí, ta chẳng gọi là Bà-la-môn, kẻ nào chỉ vì sanh ra từ cha-mẹ thuộc dòng Bà-la-môn. Bực Bà-la-môn phải là người

đ

ã dẹp xong các lậu-hoặc, cắt

đứt sự luyến-ái v

ào cuộc

đời ở c

õi Luân-hồi."

Rồi

Đức Phật nói l

ên bài Kệ sau

đây

:

Như-Lai chẳng gọi là Bà-la-môn

Kẻ từ bụng mẹ Phạm-chí sanh ra,

Nếu tâm còn phiền-não

Chỉ

đáng gọi

"mầy tao".

Người thoát-ly luyến-ái và phiền-não,

Như-Lai mới bảo là Bà-la-môn.

(Kệ số 396.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Xá-vệ: tên nước nầy, nơi

Đức Phật sanh ra, tiếng

Pali: Sàvatthi.

- Bà-la-môn = Phạm-chí = giai-cấp tu-sĩ xưa ở Ấn-

độ, tiếng

Pali là Brahmana. Trong Phẩm Bà-la-môn của Kinh Pháp-Cú, chữ Bà-la-môn được Phật dùng để chỉ các bực tu-hành đã chứng quả A-la-hán.

- Lậu-hoặc = Lậu = rỉ chảy ra; Hoặc = chổ dơ-bẩn;

điều sái-quấy. Chữ

Lậu-hoặc, dịch chữ Àsava, nghĩa

đen l

à mủ chảy ra từ mụt nhọt, nghĩa bóng chỉ các phiền-não (như tham, sân, si) khởi lên trong tâm, bộc lộ ra ngoài bằng cử-chỉ xấu, lời nói ác.

- Luyến-ái: Luyến = mê-luyến, tríu-mến; Át =thương, thích. Chữ Ái-luyến hay Khát-ái, hay Tham-ái, dùng

để dịch chữ

Tanhà, sự thèm-khát, cố

đ

òi cho

được, như kẻ uống nước mặn bị khát. Chính sự

luyến-ái, bám vào

đời sống vui ít khổ nhiều nầy l

à nguyên-nhơn tạo nên Khổ

- Luân-hồi: Luân = bánh xe; Hồi = trở lại; Luân-hồi, dịch chữ Pali Samsàra, chỉ vòng lẩn-quẩn sanh ra chết

đi, sanh lại để chết nữa, cứ như bánh xe lăn tr

òn vòng quay mãi.

- A-la-hán: quả-vị thứ tư cao nhứt trong hàng Thanh-v

ăn (

Thanh-v

ăn,

Pali là Savaka, các

đệ-tử sống gần b

ên Phật, nghe kinh mà tu-tập; Thanh = âm-thanh, V

ăn

= nghe.) Bực A-la-hán (Arahant)

đ

ã dứt hết các phiền-não trong tâm (chẳng còn tham, sân, si, mạn, nghi, tà-kiến) bỏ hết mọi ham-muốn (tận-diệt tham-ái, Tanhà), chứng

được

vô-sanh (chẳng còn bị tái-sanh nữa, nên khỏi phải chịu Khổ trong Luân-hồi), sống tự-tại, an-nhiên trong cảnh Niết-Bàn( = tâm trạng người dứt mọi khổ-

đau, sống trong cảnh hằng vắng-lặng, an-vui.)

- Như-Lai: Như = như thế; Lai = đến. Chữ Như-Lai dịch chữ Pali là Tathàgata, (Tathà = như thế; gata = đi qua); Đức Phật thường tự-xưng là Như-Lai khi nói chuyện với kẻ khác; các

đệ-tử gọi Ng

ài là Thế-tôn. Tronh Kinh Kim-Cang, chữ Như-Lai được định-nghĩa: chẳng từ

đâu tới, cũng chẳng đi về đâu,

để chỉ đến pháp-thân của Phật.

- "Mầy-tao": tạm dùng tiếng sỗ-sàng bình-dân mày, tao, mi, tớ của Việt-Nam

để dịch chữ

Bho trong nguyên-v

ăn

Pali: Bhoyadi. Chữ Bho dùng

để nói, một cách thiếu lễ-độ, với kẻ dưới hay ngang h

àng. Thiện-Nhựt xin chấp tay sám-hối sự vụng-về trong lời dịch nầy.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện rất

đơn-sơ nhưng ý-

nghĩa rất thâm-trầm: một người mà cha-mẹ là dòng Bà-la-môn

đến hỏi Phật, anh ta có được gọi l

à Bà-la-môn ch

ăng

? Theo nghĩa thông-thường, hắn quả là người Bà-la-môn, nhưng hắn chẳng có

được các đức-tánh của bực

Bà-la-môn

Đức Phật d

ành cho các bực

đ

ã chứng quả Thánh A-la-hán.

Nghĩa sâu của Tích chuyện là chớ quá tự-hào vì

được sanh v

ào nơi dòng-họ sang.

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 396:

Chỗ

đáng ghi nhớ trong b

ài Kệ là: Người.. nếu tâm còn phiền-não, chỉ

đáng gọi l

à "mầy tao", chẳng cần phải tôn-trọng, vì người ấy còn kém

đức-hạnh. Với người đ

ã thoát-ly luyến-ái và phiền-não, ta mới tôn-kính mà gọi là bực Bà-la-môn.

(277).- Tích chuyện Tỳ-kheo Úc-ga.

Tích chuyện nầy tiếp theo Tích chuyện số (245) về người diễn trò nhào lộn.

Vào một thời kia,

Đức Phật ngụ tại ch

ùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong kỳ giảng-pháp, có

đề-cập đến t

ài nhào-lộn của tỳ-kheo Úc-ga.

Thuở ấy, thanh-niên Úc-ga là con nhà giàu, vì mê nhan-sắc cô

đ

ào trong gánh xiệc, xin cưới cô, rồi bỏ nhà, theo gánh hát.

Được cha vợ dạy cho nghề nh

ào-lộn, Úc-ga trình-diễn cũng

được nhiều người hoan-nghinh. Một hôm, Úc-ga đang trỗ t

ài nhào lộn, thì

đo

àn khất-thực của

Đức Phật đi đến. Dân-chúng quay lại nghe Đức Phật thuyết-pháp. Đứng tr

ên cây sào cao hơn mười thước, Úc-ga lắng nghe lời Phật dạy, mới tỉnh-ngộ, xin xuất-gia. Từ

đó, Úc-ga tinh-tấn tu-h

ành, chứng

được quả-vị A-la-hán. Các vị đồng-tu thường hỏi Úc-ga, khi leo l

ên cây sào cao như thế, trong lòng có sợ-hãi không. Úc-ga trả lời, không. Các vị tỳ-kheo chẳng tin, mới bạch lại với

Đức Phật. Đức Phật bảo

: "Nầy chư T

ăng, một vị A-la-hán đ

ã tháo bỏ xong mọi xiềng-xích kết-sử, chẳng bao giờ sợ-hãi cả."

Rồi

Đức Phật mới nói l

ên bài Kệ sau

đây

:

Người

đ

ã cắt

đứt mọi kết-sử,

Chẳng còn sợ-hãi, chẳng

đắm-trước,

Thoát khỏi tất cả mọi ràng-buộc,

Như-Lai gọi là Bà-la-môn.

(Kệ số 397.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Úc-ga: tên vị tỳ-kheo nầy, tiếng Pali là Uggasena.

- Gánh xiệc: Xiệc, (chữ Pháp: cirque), gánh hát diễn trò nhào lộn.

- Tỉnh-ngộ: Tỉnh = thức-tỉnh, hết mê; Ngộ = hiểu rõ. Tỉnh-ngộ là nay hiểu rõ biết trước mình

đ

ã lầm.

- A-la-hán: quả-vị thứ tư, cao nhứt; tiếng Pali là Arahant. Theo giáo-lý Bắc-tông, chữ A-la-hán có ba nghĩa: (1) Ứng-cúng, xứng-

đáng được Trời, Người cúng-dường; (2)

Sát-tặc, giết hết giặc, giặc phiền-não; (3) Vô-sanh, chẳng còn bị tái-sanh trong Luân-hồi nữa.

- Xiềng-xích: dây sắt

để trói tay, c

òng chơn.

- Kết-sử: Kết = buộc chặt; Sử = sai-khiến. Có mười kết-sử là những mối ràng-buộc, thúc-

đẩy, sai-sử con người l

àm

điều quấy. Tiếng

Pali là Sanyojana, dịch là thúc-thằng (thúc = trói buộc; thằng = sợi dây). Các kết-sử quan-trọng là tham, sân, si, mạn, nghi, giới-cấm-thủ, thân-kiến.

-

Đắm-trước: Đắm

= say-

đắm;

Trước = dính vào, gắn vào. Đắm-trước là vì mê-say, ham-muốn quá nên mắc kẹt vào

đó.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện nhắc lại cuộc

đời phi

êu-lưu của Úc-ga, có tài nhào-lộn, sau xin xuất-gia, tu-tập chuyên-cần, chứng

được quả A-la-hán. Được hỏi khi leo cao tr

ên cây sào, có sợ-hãi không, Úc-ga

đáp l

à không. Ý-nghĩa của Tích chuyện là với người

đ

ã bỏ mọi ràng-buộc, hết tham-

đắm nữa, th

ì chẳng còn sợ-hãi gì nữa.

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 397:

Bài Kệ rất rõ nghĩa, cùng có một ý-nghĩa như Tích chuyện:

đối với người đ

ã lià khỏi mọi ràng-buộc, thì chẳng còn sợ-hãi chi nữa.

(278).- Tích chuyện

đấu trâu.

Vào một thời kia,

Đức Phật ngụ tại ch

ùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong kỳ giảng-pháp, có

đề-cập đến hai người B

à-la-môn

đấu trâu.

Thuở ấy, ở thành Xá-vệ, có hai người Bà-la-môn, mỗi người có một con trâu cui; người nào cũng cho rằng trâu mình mạnh và giỏi nhứt, chẳng ai chịu thua ai. Sau cùng, họ

đem trâu ra đấu với nhau. Họ dẫn trâu ra bờ sông, lấy dây buộc trâu v

ào một chiếc xe

đổ đầy đất cát, rồi cho trâu kéo l

ên bờ, con nào lên

được trước th

ì thắng.

Đôi trâu h

ùng-hục kéo, chẳng xe nào chuyển bánh cả, lát sau, dây

đứt hết. Có một nhóm tỳ-kheo đi tắm, trông thấy, mới về tr

ình sự-việc lên

Đức Phật. Đức Phật bảo

: "Nầy chư tỳ-kheo, các sợi dây buộc trâu mà ta nhìn thấy

đó, cũng dễ tháo gỡ, cũng dễ bứt đứt. Nhưng các sợi đai

sân-hận, với dây cương tham-ái ở bên trong tâm, rất khó tháo, tỳ-kheo các ông phải nên sớm cắt bỏ

đi.

"

Rồi

Đức Phật nói l

ên bài Kệ sau

đây

:

Bỏ

đai da

"sân", cắt cương "ái-mộ";

Chặt dây "tà-kiến", phụ-tùng "tùy-miên".

Phá chốt "vô-minh",

đ

ã giác-ngộ,

Như-Lai gọi là Bà-la-môn.

(Kệ số 398.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Trâu cui = trâu

đực, to-lớn, mạnh-mẽ v

à hơi ... cứng

đầu.

- Sợi

đai

=

dây da buộc ở bụng ngựa.

- Dây cương = dây buộc vào mõm ngựa,

để điều-khiển ngựa chạy theo ý m

ình.

- Sân-hận: Sân = giận; Hận = hờn, thù.

- Tham-ái: Tham = ham muốn quá; Ái = thương, thích.

- Ái-mộ: Ái = thương, thích; Mộ = mến, tríu-mến.

- Tà-kiến: Tà = xiêng-xéo, chẳng ngay thẳng; Kiến = ý-kiến. Trái với Tà-kiến Chánh-kiến, ý-kiến ngay thẳng,

đứng-đắn, chơn-chánh.

- Phụ-tùng: Phụ = phụ-thuộc; Tùng = theo.

Đồ

phụ-tùng là những vật phụ-giúp vào một vật khác,

để cho tốt hơn.

- Tuỳ-miên: còn

đang ngủ đó (

miên = ngủ); ý nói chưa bị diệt hẳn, gốc còn

đó, sẽ có hồi nổi trở dậy.

- Chốt = cái then

để g

ài cửa; chặn, khóa,

đóng lại.

- Vô-minh: Vô = chẳng; Minh = sáng. Vô-minh là si-mê, ngu-tối.

- Giác-ngộ: Giác = biết; Ngộ = hiểu rõ. Giác-ngộ là nay hoàn-toàn biết rõ, hiểu rõ, chẳng còn mê-tối như trước nữa.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Nhơn việc

đấu trâu, dây buộc trâu bị đứt, Đức Phật dạy, c

òn có sự ràng-buộc quan-trọng hơn là các sợi dây trói thú-vật bên ngoài dễ thấy, dễ tháo

đó: sự

sân-hận, sự tham-ái bên trong tâm, cần phải mau mau cắt

đứt để sớm được giác-ngộ v

à giải-thoát.

(2) Ý-nghĩa của Bài Kệ số 398:

Muốn hiểu bài Kệ số 398 cho dễ, cần phải tưởng-tượng một con ngựa, với tất cả những

đồ

bắt-kế ngựa, như dây

đai, y

ên, cương v.v.

để khớp ngựa lại.

Ý-nghĩa của bài Kệ: sự ràng-buộc của các phiền-não, kết-sử, còn chặt-chẽ, khó tháo-gỡ hơn các sợi dây trói buộc bên ngoài.

Xin phân-tách từng "món" ràng-buộc

được kể trong b

ài Kệ:

1) Bỏ

đai da

"sân": Giận là một tình-cảm mạnh và dai-dẳng, tựa như sự bền-chặt của sợi

đai bằng da trâu

đang trói-buộc. Người giận dai thường nói trong bụng: mối hận nầy sống

để bụng, chết mang theo

! Giận như thế, chỉ có hại cho mình, tâm chẳng yên.

Để dẹp mối

giận, dùng sự nhẫn-nhục

đối-trị. Tha-thứ cho kẻ l

àm mình giận,

đó l

à mình tha cho tâm mình khỏi mang nặng tình-cảm xấu.

2) Cắt cương ‘ái-mộ’: sự luyến-ái là một tình-cảm êm-dịu nhưng sức mạnh thúc-dục, sai-khiến mình lại lớn, khó mà tránh chẳng tuân theo

được; cũng tựa như sợi

dây cương buộc ở miệng ngựa, hễ giựt mạnh bên nào là ngựa phải quay

đầu về b

ên ấy. Vì êm-dịu chẳng muốn cởi-bỏ

đi, n

ên sự luyến-ái mới ràng-buộc lâu,

đeo-đẳng m

ãi.

Để dẹp sự

luyến-ái, phải bỏ tánh so-

đo,

quá thương vật nầy, quá ghét vật kia, giữ tâm cho bình-thản, đừng tríu-mến mà cũng đừng ghét-bỏ.

3) Chặt dây ‘tà-kiến’: Tà-kiến là các ý-nghĩ sai-lầm, vì ngu-tối mà nuôi-dưỡng trong tâm. Dùng trí-huệ sáng-suốt mà chặt

đứt t

à-kiến

4) Phụ-tùng ‘tùy-miên’: nói cho dễ hiểu,

đó l

à các tình-cảm chẳng tốt, còn

đang nằm y

ên ngủ trong tâm, gặp cơ-hội sẽ nổi dậy. Thường có bảy món phụ-tùng ‘tùy-miên’: dục ( =ham-muốn), tham, sân, si, mạn, nghi tà-kiến. Bỏ các phụ-tùng nầy cách nào? Phải tỉnh-giác, hễ chúng chổi dậy, là biết ngay

để dẹp chúng xuống.

5) Phá chốt ‘vô-minh’: đây là hình-ảnh rất linh-động, ví sự vô-minh, ngu-tối như cái then cài kín, chẳng cho tâm-trí mở rộng ra

để vươn l

ên Chơn-lý. Phá cái chốt vô-minh bằng cách nào? Phải ch

ăm-chỉ v

à chuyên-cần học-tập Chánh-pháp.

6) Đã giác-ngộ: Giác-ngộ là hiểu-hiết rõ. Có giác-ngộ nhỏ, khi nhờ tỉnh-giác mà nhận thấy lỗi mình; có giác-ngộ lớn, khi chứng

được

đạo và quả. Trở thành bực Đại-giác thì còn lâu, còn dài và chẳng dễ, nhưng hãy tỉnh-giác, một niệm quấy khởi lên, chánh-niệm biết ngay,

đó l

à con

đường đi từ

tiểu-ngộ đến đại-giác, tuy chậm mà chắc.

(279).- Tích chuyện bốn anh em lỗ-mãng.

Vào một thời kia,

Đức Phật ngụ tại tịnh-xá Trúc-lâm, gần th

ành Vương-xá, trong một kỳ giảng-pháp, có

đề-cập đến bốn người anh em B

à-la-môn

ăn nói lỗ-m

ãng.

Thuở ấy ở thành Vương-xá, có một người Bà-la-môn tên Bát-lạp-hoà, vợ lại tin theo

đạo Phật, mỗi khi nhảy mũi hay giựt m

ình bị ai thình-lình

đụng phải, th

ì miệng bà liền nói: "Nam-mô Phật!". Hôm ấy, Bát-lạp-hoà mời bạn-hữu

đến ăn tiệc. Trong khi bưng món ăn l

ên, người vợ bỗng nhảy mũi, và nói to: "Nam-mô Phật!" Người chồng chẳng ưa gì

đạo Phật, tức m

ình lên, mới

đến gặp Phật, định nói hỗn với Phật v

à

đặt câu hỏi thật khó cho Phật trả lời. Anh ta hỏi hai câu. Câu thứ nhứt

: "Phải giết chết những gì

để có thể được sống an-vui v

à có hạnh-phước?"

Đức Phật đáp:

"Phải giết sân-hận mới sống

được hạnh-phước.

" Câu thứ hai: "Diệt pháp nào thì

được chấp-nhận?

"

Đức Phật bảo

: "Chư Phật trong ba

đời đều khen ngợi sự tận-diệt

sân-hận." Nghe Phật giải-

đáp r

õ-ràng, vị Bà-la-môn lấy làm thoả-mãn, liền xin

Đức Phật cho quy-y, v

à xuất-gia ngay hôm ấy.

Bát-lạp-hoà còn có ba người em tánh hay lỗ-mãng cũng như anh ngày trứớc. Người em thứ nhì, tên Ác-câu, khi hay tin anh mình

đ

ã gia-nhập T

ăng-đo

àn, liền nổi-giận, chạy

đến ch

ùa, nói nhiều lời hỗn-láo với

Đức Phật. Đức Phật điềm nhi

ên hỏi: "Nầy ông Ác-câu, thí-dụ như nhà ông mở tiệc mời khách

đến ăn. Nếu khách chẳng nhận dự tiệc, th

ì các thức

ăn lại thuộc về ai

?" Ác-câu

đáp, th

ì tôi sẽ

ăn hết. Đức Phật nói tiếp

: "Ông

đ

ã dùng lời thô-ác nói với Ta mà Ta chẳng nhận, vậy các lời lỗ-mãng

đó lại quay về với ông.

" Ác-câu bừng tỉnh, hiểu

được chỗ thâm-thúy trong lời Phật dạy, liền q

ùi xuống xin quy-y.

Hai người em của Ác-câu, hay tin hai anh mình nay

đ

ã làm tỳ-kheo, tức-giận lắm,

đến nói lời thô-ác với Đức Phật v

à cũng

được Đức Phật lấy sự nhẫn-nhục v

à trầm-tĩnh mà cải-hoá. Chư T

ăng tán-thán công-đức Phật cải-hoá cả bốn anh em Bát-lạp-ho

à.

Đức Phật dạy:

"Đừng bao giờ làm hại kẻ đã hại mình, hãy nhẫn-nhục chịu đựng mà làm nơi nương-tựa cho kẻ khác."

Rồi

Đức Phật nói l

ên bài Kệ sau

đây:

Chẳng sân-hận, nhận lời trách-móc,

Cam chịu cực-hình và roi-vọt

Lấy nhẫn làm sức mạnh ba quân,

Như-Lai gọi là Bà-la-môn.

(Kệ số 399.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Lỗ-mãng: lời nói hung-dữ làm mất lòng người nghe.

- Bát-lạp-hoà: tên vị nầy, Pali là Bhàradvàja; Ác-câu = Akkosaka.

- Nam-mô Phật: Pali là Namo Buddha = Kính lạy

Đức Phật.

- Sân-hận: Sân = giận; Hận = hờn, thù-oán.

- Quy-y: Quy = quay về; Y = nương-tựa. Quy-y = tìm về nương-tựa tinh-thần nơi

Đức Phật, Chánh-Pháp v

à T

ăng.

- T

ăng-đo

àn: đoàn thể các vị tu-sĩ Phật-giáo, từ bốn người trở lên

- Thâm-thúy = ý-nghĩa sâu-xa,

đúng với Chơn-lý.

- Cực-hình: hình-phạt nặng-nề.

- Nhẫn-nhục = nhịn-nhục bền chí chịu

đựng, chẳng oán hờn.

- Ba quân = quân-

đội; lính bộ, lính thủy, lính cởi ngựa (ng

ày xưa.)

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện thuật lại việc

Đức Phật cảm-hoá cả bốn người anh em lỗ-m

ãng bằng

đức nhẫn-nhục v

à sự trầm-tĩnh.

Ý-nghĩa của Tích chuyện: hoà-nhã trước lời hỗn-láo, sẽ khiến cho kẻ

đối-thoại phải hổ-thẹn trong l

òng.

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 399:

Ý-nghĩa của bài Kệ nằm gọn trong câu: "Lấy nhẫn làm sức mạnh ba quân", có nghĩa là dùng sự nhẫn-nhục để đối-phó với mọi sự khó-khăn, cũng như đó là sức mạnh của Quân-đội chống-đỡ kẻ thù.

Thông-thường, hễ nhịn ai thì người khác cho

đó v

ì yếu-kém mà chịu thua,

để bị hiếp-đáp. Nhưng

biết nhịn khi mình yếu, chẳng gây thêm

đổ-vỡ, đó l

à khôn-ngoan tránh trước cái hại to-lớn. Vả lại, biết mình

đang nhịn,

chẳng phải là mình

đang thua đâu;

trái lại, người biết nhịn là người

đang thắng.

Thắng ai

đâu

? Thắng chính mình, thắng được lòng oán-ghét đang nổi lên khỏi kéo dài để làm khổ lòng mình.

(280).- Tích chuyện Tôn-giả Xá-lợi-phất nhẫn-nhục nghe mẹ nhiếc-móc.

Vào một thời kia,

Đức Phật ngụ tại tịnh-xá Trúc-lâm, gần th

ành Vương-xá, trong một kỳ giảng-pháp, có

đề-cập đến đức nhẫn-nhục của Tôn-giả Xá-lợi-phất khi bị mẹ nhiếc-móc.

Thuở ấy, Tôn-giả hướng-dẫn một số

đông tỳ-kheo trở về qu

ê cũ ở làng Na-la-ca,

đến trước cửa nh

à mình mà khất-thực. Mẹ của Tôn-giả, vốn là người ngoại-

đạo, mời tất cả v

ào nhà, dọn thực-phẩm lên

đ

ãi. Khi sớt món

ăn v

ào bát của Tôn-giả Xá-lợi-phất, bà mẹ nói: "Con lại

đi ăn đồ thừa, bỏ cả gia-t

ài to-lớn

để l

àm tỳ-kheo, hại cả nhà mẹ của con!" Tôn-giả lẵng-lặng ngồi nghe, mặt chẳng

đổi sắc. Khi chia thức ăn cho các tỳ-kheo, b

à mẹ lại nói: "Các ông bắt con tôi theo hầu-hạ,

đây thức-ăn, d

ùng

đi

!" Tôn-giả im-lặng thọ-thực, rồi từ-tốn

đứng dậy, ôm b

ình bát về chùa.

Các vị tỳ-kheo

đi theo, khen ngợi đức nhẫn-nhục của Tôn-giả với Đức Phật. Đức Phật bảo:

"Đối với bực A-la-hán, chẳng hề nổi nóng, chẳng hề để sân-hận khởi lên bao giờ."

Rồi

Đức Phật nói l

ên bài Kệ sau

đây

:

Chẳng sân-hận, làm tròn bổn-phận.

Giới-hạnh trang-nghiêm, tham-ái tận,

C

ăn nhiếp-phục, thân nầy l

à chót,

Như-Lai gọi là Bà-la-môn.

(Kệ số 400.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Xá-lợi-phất: tên Tôn-giả, tiếng Pali là Sàriputta, nghĩa là con của bà Sàri. Sàri là chim Thu, nên Tôn-giả còn

được gọi l

à Xá-lợi-tử, hay là Thu-tử.

- Na-la-ca: tên làng nầy, tiếng Pali là Nàlaka.

- Trúc-lâm, Vương-xá: tịnh-xá cất trong vườn trúc của vua Tần-bà-sa-la (Bimbisara), gần thủ-

đô

Vương-xá (Ràjagaha) nước Ma-kiệt-

đ

à

(Magadha).

- Nhiếc-móc = mắng-mỏ.

- Thọ-thực: đang ăn các đồ-ăn nhận được.(Thọ = nhận; Thực = ăn)

- Giới-hạnh trang-nghiêm: giữ tròn các

điều răn-cấm cẩn-thận

- Tham-ái tận: Tham = ham muốn quá; Ái- = thương, thích; Tận = dứt hết sạch. Tham-ái tận là dứt hết mọi ham-muốn.

- C

ăn nhiếp-phục: Căn

là các giác-quan như mắt, tai, mũi, lưỡi,.. Nhiếp-phục = khéo kềm-giữ, chẳng cho chạy theo cảnh-sắc bên ngoài.

- Bà-la-môn:

đây có

nghĩa là bực A-la-hán.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện thuật lại gương nhẫn-nhục của Tôn-giả Xá-lợi-phất. Sự nhẫn-nhục nầy rất khó thực-hiện, vì Tôn-giả bị mẹ mắng-mỏ ngay trước mặt các vị tỳ-kheo học-trò của mình.

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 400:

Ý-nghĩa của bài Kệ

đề-cao đức nhẫn-nhục, như nơi b

ài Kệ trước. Xin phân-tách từng câu,

để ghi th

êm vài

điểm quan-trọng

:

1) Chẳng sân-hận, làm tròn bổn-phận: Bổn-phận nào? Bổn-phận của tỳ-kheo: tu sao cho dứt phiền-não,

để chứng quả-vị A-la-hán;

2) Giới-hạnh trang-nghiêm: Giới đứng đầu trong tam-học ( =giới,

định, huệ

), giữ giới hoàn-toàn mới có định-tâm, trí-huệ phát-sáng.

3) C

ăn nhiếp-phục

: làm chủ các giác-quan, chẳng cho dính-mắc theo cảnh-vật bên ngoài,

để giữ

tâm bên trong thanh-tịnh.

4) Thân nầy là chót: tức là chẳng còn bị tái-sanh

để mang lại

thân-tâm khác ở cõi Luân-hồi; nói cách khác,

đ

ã chứng

được

vô-sanh.

5) Như-Lai gọi là Bà-la-môn: đấy là bực A-la-hán (Arahant).

(281).- Tích chuyện Ni-bà Bích-Liên.

Tích chuyện nầy tiếp theo Tích chuyện số (54) về Nữ Trưởng-lão Bích-Liên.

Vào một thời kia,

Đức Phật ngụ tại ch

ùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp có

đề-cập đến Ni-b

à Bích-Liên.

Thuở ấy, tỳ-kheo-ni Bích-Liên sống một mình trong am vắng nơi rừng Hắc-lâm, bị kẻ bất-lương là Nan-

đ

à hãm-hiếp.

Khi biết sự-việc

đó, các tỳ-kheo mới hỏi Phật, chẳng biết bực A-la-hán có c

òn dục-tình, cảm thấy khoái-lạc về nhục-thể nữa không, vì dầu sao thân vật-chất của mọi người cũng giống nhau.

Đức Phật bảo

: "Nầy chư T

ăng, bực A-la-hán chẳng đắm m

ình trong thú-vui thể-xác, chẳng vướng vào các trần, chẳng

đeo theo sự thoả-m

ãn của các c

ăn,

khác nào như nước

đổ tr

ên lá sen, như hột cải

để tr

ên

đầu mũi kim.

"

Rồi

Đức Phật nói l

ên bài Kệ sau

đây

:

Như nước

đổ tr

ên lá sen,

Như hột cải trên

đầu kim,

Người dục-lạc chẳng ố-hoen,

Như-Lai gọi là Bà-la-môn.

(Kệ số 401.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Ni-bà: tỳ-kheo-ni ngang hàng với Hoà-thượng bên nam-giới.

- Bích-Liên: tên Ni-bà, tiếng Pali là Uppalavannà, bông sen xanh.

- Hắc-lâm = khu rừng u-tối, tiếng Pali là Andhavana. (Hắc = đen)

- Hãm-hiếp = cưỡng-bức ép việc gian-dâm.

- Dục-tình = sự ham-muốn giao-hợp giữa trai gái.

- Dục-lạc = Dục = muốn; Lạc = thú vui. Dục-lạc là thú vui vật-chất.

- Khoái-lạc = sự sung-sướng, nhứt là về thể-chất.

- C

ăn, trần:

sáu c

ăn

là mắt, tai, mũi, lưỡi và da; các trần là sắc (hình-sắc), thanh (âm-thanh), hương, vị, xúc (cảm-xúc), pháp (sự-vật).

- ố-hoen: nhiễm dơ.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện nhắc lại câu hỏi của các vị tỳ-kheo, A-la-hán còn hưởng dục-lạc về thân-xác không?

Đức Phật đáp, A-la-hán đ

ã dẹp bỏ mọi dục-lạc; các thú-vui vật-chất chẳng cám-dỗ

được, như nước đổ tr

ên lá sen chẳng dính, như hột cải

để tr

ên mũi kim chẳng

đứng vững.

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 401:

Ý-nghĩa bài Kệ rất rõ-ràng: có dẹp bỏ mọi dục-lạc, lià xa mọi thú-vui vật-chất và thể-xác, thì mới chứng

được quả-vị A-la-hán.

(282).- Tích chuyện người nô-lệ

đắc quả A-la-hán.

Vào một thời kia,

Đức Phật ngụ tại ch

ùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có

đề-cập đến một vị A-la-hán, trước l

àm nô-lệ cho một người Bà-la-môn.

Thuở ấy, có một người nô-lệ trẻ tuổi,

được chấp-nhận v

ào T

ăng-đo

àn, tu-hành thật tinh-tấn nên sớm chứng quả A-la-hán. Một hôm, vị ấy cùng với

Đức Phật, đi khất-thực trong th

ành Xá-vệ. Bỗng người chủ cũ trông thấy, mới chạy lại nắm chặt lấy áo cà-sa.

Đức Phật hỏi nguy

ên-do, người chủ bảo,

đấy l

à kẻ nô-lệ của ông ta.

Đức Phật bảo

: "Vị tỳ-kheo nầy

đ

ã

đặt gánh-nặng xuống đất rồi

!" Người chủ chẳng hiểu, hỏi lại,

Đức Phật mới cho biết vị tỳ-kheo nay được giải-thoát ho

àn-toàn, vì

đ

ã chứng xong quả-vị A-la-hán.

Rồi

Đức Phật nói l

ên bài Kệ sau

đây, nhờ đó người chủ chứng được quả-vị Tu-đ

à-huờn:

Ai ngay tại cõi

đời nầy,

Chứng-tri

đau-khổ mảy-may chẳng c

òn,

Siêu-thoát, bên

đường buông gánh nặng,

Như-lai gọi là Bà-la-môn.

(Kệ số 402.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Nô-lệ: đầy-tớ ở suốt đời với chủ, chẳng có tự-do cá-nhơn.

- Cà-sa: tiếng Pali: kàsàya, áo màu vàng của tu-sĩ Phật-giáo.

- A-la-hán:Arahant, quả-vị thứ tư, diệt hết mọi ham-muốn, chứng

được

vô-sanh, hoàn-toàn giải-thoát khỏi mọi

đau-khổ của Luân-hồi.

- Tu-

đ

à-huờn: Sotàpatti, quả-vị thứ nhứt, còn gọi là Nhập-Lưu, được dự vào dòng Thánh, hay Thất-Lai, chỉ còn tái-sanh bảy lần nữa.

- Chứng-tri: chính mình biết rõ nơi mình (Tri = biết)

- Siêu-thoát: Siêu = vượt lên trên; Thoát = thoát khỏi.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Ý-nghĩa của Tích chuyện là mặc dầu là kẻ nô-lệ, nếu biết tu-hành tinh-tấn, sẽ chứng

được quả-vị cao-

quí là A-la-hán.

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 402:

Ý-nghĩa bài Kệ nói về người

đ

ã giải-thoát hoàn-toàn ( = chứng quả A-la-hán). Khi nào

được giải-thoát

? Khi tự-mình chứng-tri ( = biết rõ) nơi mình chẳng còn mảy-may

đau-khổ, buông bỏ gánh nặng của

thân-tâm, sống an-nhiên, tự-tại. Thế nào là bỏ gánh nặng?

Đó l

à xem thân-tâm n

ăm uẩn nầy

vô-thường, chẳng tríu-mến

đến nó nữa.

(283).- Tích chuyện Ni-bà Khê-ma.

Tích chuyện nầy tiếp theo Tích chuyện số (244) về Hoàng-hậu Khê-ma.

Vào một thời kia,

Đức Phật ngụ tr

ên núi Linh-sơn, trong một kỳ giảng-pháp, có

đề-cập đến Ni-b

à Khê-ma.

Một hôm, vào lúc sắp rạng

đông, vua Trời Đế-Thích v

à chư Thiên

đến núi Linh-sơn chi

êm-bái

Đức Phật. Bấy giờ, ni-b

à Khê-ma thi-triển thần-thông cũng bay

đến núi để đảnh-lễ Đức Phật. Thấy có chư Thi

ên

đang quay-quần trước hương-ph

òng, ni-bà cúi xuống lễ Phật, rồi bước ra. Vua Trời

Đế-Thích trông thấy mới thưa hỏi Đức Phật đó l

à ai vậy.

Đức Phật đáp

: "Nầy Thiên-

đế, đó l

à tỳ-kheo-ni Khê-ma, người nữ

đệ-tử có trí-huệ xuất-sắc nhứt trong Ni-đo

àn, kiến-thức thật sâu-xa, biết phân-biệt rõ-ràng

đường chánh với nẻo t

à."

Rồi

Đức Phật nói l

ên bài Kệ sau

đây

:

Người có trí, kiến-thức sâu xa,

Phân-biệt rành

đường chánh nẻo t

à,

Thành-

đạt được mục-ti

êu tối-thượng,

Như-Lai gọi là Bà-la-môn.

(Kệ số 403.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Ni-bà: hay Nữ-Trưởng-lão, là bực cao-cấp trong hàng ni-chúng.

- Khê-ma: tên vị Ni-bà, tiếng Pali là Khemà.

- Núi Linh-sơn: tên núi nầy, tiếng Pali là Gijjhakuta, ngọn giống hình chim thứu( =kên-kên);

Đức Phật nói Kinh Pháp-Hoa tại núi nầy.

- Trời

Đế-Thích: Sakka,

vua cõi Trời

Đao-lợi.

- Chiêm-bái: Chiêm =nhìn; Bái = lạy. Chiêm-bái là kính nhìn và lạy

- Thi-triển thần-thông: xử-dụng các khả-n

ăng khác thường như bay bổng tr

ên không,

đi tr

ên mặt nước, nhờ

định-lực tu-tập cao.

- Thiên-

đế

=

vua Trời.

- Hương-phòng: c

ăn ph

òng có hương thơm dành riêng cho Phật.

- Kiến-thức: Kiến = thấy; Thức = biết. Kiến-thức là sự hiểu-biết.

- Tối-thượng: Tối = hết-sức; Thượng = cao; Tối-thượng là cao nhứt.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện chẳng có ý-nghĩa chi

đặc-biệt, ngo

ài việc dùng

để giới-thiệu t

ài-

đức của Ni-b

à Khê-ma với vua Trời

Đế-Thích, v

à dẫn

đến b

ài Kệ.

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 403:

Bài Kệ nêu lên Trí-huệ Bát-nhã Ba-la-mật của bực A-la-hán. Trí-huệ đó là gì? Bát-nhã (chữ Phạn: Prajna) là Trí-huệ; Ba-la-mật (Phạn: Paramitra) là

đưa qua bờ b

ên kia, bờ giác-ngộ. Nhờ Trí-huệ nầy mà vị tu-hành

được

giác-ngộ và giải-thoát, chứng quả A-la-hán Bất-tử,

đó l

à mục-tiêu tối-thượng được nói trong câu thứ ba của Bài Kệ.

(284).- Tích chuyện Trưởng-lão Thi-sa và vị thần-linh.

Vào một thời kia,

Đức Phật ngụ tại ch

ùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có

đề-cập đến Trưởng-l

ão Thi-sa và vị thần-linh trong

động núi.

Thuở ấy, vào cuối mùa mưa, tỳ-kheo Thi-sa

được Đức Phật chỉ-dạy một đề-t

ài thiền-quán, liền lên núi, tìm

được một hang động vừa-ý, sống một m

ình ở

đấy để tu-tập. Động ấy vốn l

à nơi nương-tựa một vị thần-linh. Khi Thi-sa

đến ở, vị thần-linh phải lánh ra ngo

ài, vì chẳng dám cùng cư-trú với bực tu-hành giới-

đức thật thanh-tịnh. Hằng ng

ày, Tỳ-kheo Thi-sa

đi v

ào làng khất-thực tại nhà một nữ tín-chủ có một người con trai còn nhỏ tuổi. Vị thần-linh chẳng dám hiện lên

để mời tỳ-kheo Thi-sa đi ở chỗ khác, mới nghĩ ra một kế gi

ành lại

động đá. Vị ấy liền nhập v

ào

đứa bé, khiến nó trợn ngược mắt, ngoẹo đầu ra sau,

trông rất dễ sợ. Bà mẹ hoảng-hốt, khóc lóc. Vị thần hiện lên mách kế, ngày mai có tỳ-kheo nào

đến khất-thực, cứ năn-nỉ xin dội nước v

ào chơn

đứa con, th

ì nó sẽ khỏi bịnh.

Sáng hôm sau, khi dưng thực-phẩm cúng-dường xong, người mẹ khóc, nhờ Tỳ-kheo Thi-sa dội nước rửa chơn cho con

để cứu nó. Thi-sa vừa xối nước v

ào chơn

đứa bé, th

ì nó trở lại bình-thường. Ông liền từ-giả, trở về

động. Tới hang đá, vị thần-linh chận lại v

à bảo rằng: "Ông vừa phạm giới, sáng nay hành-nghề trị bịnh ở nhà thí-chủ, chẳng xứng-

đáng l

àm tỳ-kheo." Thi-sa nhớ lại mình chỉ dội nước vào chơn

đứa bé, theo lời y

êu-cầu của mẹ nó, chớ nào có vi-phạm giới-luật hành nghề trị bịnh

đâu. Quán thấy giới-đức m

ình hoàn-toàn thanh-tịnh, tâm Thi-sa tràn ngập một niềm phỉ-lạc lâng-lâng, rồi

đi sâu v

ào

đại-định, chứng được quả A-la-hán, ngay tại cửa động. Sau khi xuất-định, trưởng-l

ão Thi-sa bảo vị thần-linh biết và khuyên nên

đi t

ìm nơi ẩn-trú ở chỗ khác.

Khi trở lại chùa, Trưởng-lão thuật lại việc bị thần-linh ng

ăn-trở ở cửa động, các vị tỳ-kheo khác hỏi, lúc ấy Trưởng-l

ão có khởi tâm tức-giận không. Trưởng-lão lắc

đầu. Các vị tỳ-kheo c

òn chưa tin, mới trình lại với

Đức Phật. Đức Phật bảo

: "Nầy chư T

ăng, tỳ-kheo Thi-sa nay đắc quả A-la-hán, chẳng c

òn tức-giận nữa." Nhơn sự-việc vừa qua của Trưởng-lão Thi-sa,

Đức Phật mới nói l

ên bài Kệ sau

đây để n

êu lên

đức-độ của một bực A-la-hán

:

Chẳng thân-thiết quá với cả hai:

Kẻ tại-gia, như hàng t

ăng-lữ

;

Thiểu-dục,

độc-thân, đi đó đây,

Như-Lai gọi là Bà-la-môn.

(Kệ số 404.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Thi-Sa: tên của Trưởng-lão, tiếng Pali là Tissa.

-

Đề-t

ài thiền-quán: một

đầu-đề để suy-nghĩ sâu-xa khi ngồi Thiền; ví-dụ như

quán thân bất-tịnh, quán lý vô-thường, v.v.

- Nữ tín-chủ: người

đ

àn-bà có lòng tin-tưởng nơi

đạo Phật, thường hay cúng-dường các vị tu-h

ành.

- Hành nghề trị bịnh: Theo giới-luật Khất-sĩ, tỳ-kheo chẳng

được có nghề ri

êng

để sanh sống, m

à phải

đi khất-thực. V

ì lẽ nầy mà cấm việc tỳ-kheo

đi trị bịnh cho các tín-chủ, để được đền ơn.

- Phỉ-lạc: tiếng Pali là Piti, niềm vui nhẹ-nhàng trong lòng khi

đắc được định-tâm.

-

Đại-định:

tâm an-

định thâm-sâu, khi chứng cảnh thiền.

- Quá thân-thiết: quá thân-mật,

đi xa quá sự x

ã-giao thường.

- Tại-gia = tu tại-gia, tu tại nhà, chẳng thọ giới tỳ-kheo ở chùa.

- Hàng T

ăng-lữ

=

các vị tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni nói chung.

- Thiểu-dục: Thiểu =ít; Dục = muốn; Thiểu-dục = bớt ham muốn

- Độc-thân: ở một mình.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện thuật lại việc tranh-chấp

động đá tr

ên núi giữa vị tỳ-kheo và vị thần-linh. Vị thần-linh tìm kế vu-oan cho vị tỳ-kheo là phạm giới hành nghề trị bịnh, chận ngoài cửa hang chẳng cho vào. Tỳ-kheo Thi-sa chẳng hề tức-giận, quán thấy giới-

đức m

ình thanh-tịnh, khởi tâm phỉ-lạc, nhập vào

đại-định, chứng được quả-vị A-la-hán.

Nhơn việc nầy,

Đức Phật dạy, bực A-la-hán chẳng quá thân-thiết với kẻ tăng người tục, sống một m

ình, ít ham-muốn, rày

đây mai đó.

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 404:

Bài Kệ nêu lên

đức-độ của vị A-la-hán trong cuộc sống ẩn-dật. Xin phân-tách các điểm chánh

:

1)"Chẳng quá thân-thiết với cả hai: Kẻ tại-gia, như hàng t

ăng-lữ

": Tại sao tỳ-kheo chẳng nên quá thân-thiết với kẻ t

ăng người tục

? Vì quá thân-thiết sẽ sanh ra suồng-sã, rồi dễ

đi đến t

ình-cảm l

ăng-nhăng, khiến giới-đức mất thanh-tịnh.

2)"Thiểu-dục": ít ham-muốn, biết tự-chế, dễ khép mình vào kỷ-luật tu-hành.

3)"Độc-thân": biết sống một mình chẳng cảm thấy cô-

đơn, vui

"làm bạn" với những tiến-bộ của mình trên

đường tu-tập.

4)"Đi đó đây": chẳng quyến-luyến ở mãi một nơi,

để khỏi bị r

àng-buộc; ngay cả ngồi nghỉ cũng chẳng chọn mãi một gốc cây, nay gốc cây nầy, mai gốc cây nọ,

để cắt đứt sự tr

ìu-mến.

(285).- Tích chuyện vị tỳ-kheo bị

đánh đập.

Vào một thời kia,

Đức Phật ngụ tại ch

ùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có

đề-cập đến một vị tỳ-kheo bị đánh đập.

Thuở ấy, có một vị tỳ-kheo

được Đức Phật chỉ-dạy một đề-t

ài thiền-quán,

đi v

ào rừng sâu, nỗ-lực tu-tập ngày

đ

êm,

đắc được định-tâm, chứng được quả-vị A-la-hán. Vị ấy liền quay về ch

ùa Kỳ-viên

để tạ ơn Phật. Dọc đường, đi ngang qua một căn nh

à, nghe tiếng cãi-vã dữ-dội của hai vợ chồng giận nhau. Bỗng người vợ bỏ nhà, ra

đi, bước theo sau vị tỳ-kheo. Người chồng rượt theo, trông thấy, nổi cơn ghen, hăm-doạ, chửi mắng vị tỳ-kheo l

à quyến-rũ vợ mình. Anh ta chạy

đến đánh đập vị tỳ-kheo rất t

àn-nhẫn. Người vợ càng can, người chồng càng mạnh tay

đánh. Vị tỳ-kheo vẫn im-l

ìm chịu

đựng, chẳng chút giận-hờn.

Về

đến ch

ùa, các vị tỳ-kheo khác trông thấy các vết thương, vừa b

ăng-bó, vừa hỏi chuyện. Nghe kể lại trận đ

òn ghen oan-ức, các vị tỳ-kheo hỏi, có tức-giận không. Thấy nạn-nhơn lắc

đầu, các vị tỳ-kheo chẳng tin, tr

ình cớ-sự lên

Đức Phật. Đức Phật bảo

: "Nầy chư T

ăng, một vị A-la-hán đ

ã buông bỏ gậy-gộc và gươm-

đao từ lâu, n

ên chẳng hề tức-giận khi bị hành-hung."

Rồi

Đức Phật mới nói l

ên bài Kệ sau

đây

:

Kẻ nào

đao trượng đ

ã từ-khước,

Đối mọi chúng-sanh cường hay nhược,

Chẳng hề giết, chẳng hề bảo giết,

Như-Lai gọi là Bà-la-môn

(Kệ số 405.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

-

Đề-t

ài thiền-quán:

đầu-đề để chiêm-nghiệm khi ngồi Thiền.

-

Định-tâm:

tâm an-

định, chẳng xao-động, trong khi ngồi Thiền.

- A-la-hán: quả-vị thứ tư, cao nhứt, tiếng Pali: Arahant. Có ba nghĩa: (1) ứng-cúng, xứng

đáng được Trời, Người cúng-dường; (2)

sát tặc, giết hết giặc, giặc phiền-não; (3) vô-sanh, chẳng còn bị tái-sanh trong cõi Luân-hồi nữa.

- Buông bỏ gậy-gộc và gươm-

đao:

ý nói

đ

ã từ-khước việc dùng võ-lực

đánh đập lại kẻ khác.

- Hành-hung: Hành = làm; Hung = dữ. Hành hung

đánh đập dữ

-

Đao trượng: Đao

=

gươm

đao;

Trượng = gậy gộc.

- Từ-khước: dứt bỏ, chẳng dùng, chẳng theo.

- Cường, nhược: Cường = mạnh-bạo; Nhược = yếu-ớt.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện kể lại vị tỳ-kheo bị trận

đ

òn ghen oan-ức, thân-thể bị thương-tích, mà chẳng hề oán-giận, chẳng chống trả lại.

Đức Phật, nhơn việc nầy, n

êu lên

đức-tánh

quí của bực A-la-hán: tâm vô-tác-hại, chẳng hề muốn gây thương-tổn về vật-chất cũng như về tinh-thần,

đối với mọi chúng-sanh.

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 405:

Bài Kệ dạy ta về tâm vô-tác-hại của bực A-la-hán:từ bỏ hẳn việc dùng võ-lực gây

đau-khổ cho mọi chúng-sanh. Chẳng những chẳng d

ùng sức mạnh

để chống lại sức mạnh, m

à cả việc chẳng sát-hại các sanh-vật nhỏ-nhít, yếu-ớt như côn-trùng. Chẳng những chẳng gây

đau-khổ về vật-chất, m

à còn tránh cả các hành-

động, lời nói gây tổn-thương về tinh-thần. Chẳng những chính m

ình chẳng sát-hại, mà còn phải can-thiệp

để ngăn kẻ khác sát-hại; tránh thái-độ dửng-dưng m

à vô-tình làm

đồng-lo

ã với kẻ hung-bạo.

(286).- Tích chuyện bốn vị Sa-di.

Vào một thời kia,

Đức Phật ngụ tại ch

ùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có

đề-cập đến bốn vị Sa-di c

òn nhỏ tuổi mà

đ

ã chứng

đắc quả A-la-hán.

Thuở ấy, có một người

đ

àn-bà sửa-soạn thức

ăn để cúng-dường. B

à nhờ chồng

đến ch

ùa Kỳ-viên thỉnh cho

được bốn vị Trưởng-l

ão

đ

ã chứng-

đắc quả-vị A-la-hán, đến để nhận lễ. Người chồng đến ch

ùa thỉnh và có bốn vị sa-di tên là Sơn-khí-ca, Bàn-

đi-ta, Sơ-ph

à-ca và Lê-va-ta,

được chỉ-định đi đến nh

à. Người

đ

àn-bà thất-vọng, bảo chồng phải mời cho

được bốn vị Trưởng-l

ão

đến. Người chồng gặp được Tôn-giả Xá-lợi-phất, liền thỉnh đến nh

à. Vào

đến cửa, trông thấy bốn vị Sa-di đang ngồi chờ, Tôn-giả mới hỏi đ

ã thọ-thực chưa, và thực-phẩm

được chuẩn-bị cho mấy người. Khi được biết cả bốn vị Sa-di c

òn chưa thọ-thực, Tôn-giả liền bỏ ra về. Người

đ

àn-bà lại giục chồng

đi mời lần nữa. Chuyến nầy, Tôn-giả Mục-kiền-li

ên

đến, khi biết thực-phẩm chỉ đủ cho bốn người, cũng lại ra về như Tôn-giả Xá-lợi-phất.

Trời

đ

ã trưa, các vị Sa-di

đ

ã bắt

đầu cảm thấy đói. Vua Trời Đế-Thích nh

ìn thấy tình-cảnh của các vị Sa-di, liền hiện xuống làm một vị Bà-la-môn già-cả,

đi v

ào nhà. Người

đ

àn-bà mừng-rỡ lắm, mời lên ngồi trên. Nhưng vị ấy

đến lạy ch

ào bốn vị Sa-di, xong lại ngồi dưới

đất, nói m

ình thật là Vua Trời

Đế-Thích đang kính-lễ bốn vị A-la-hán. Vợ chồng người tín-chủ nghe nói, rất hân-hoan, mới dâng thực-phẩm l

ên. Sau khi thọ-thực, cả n

ăm vị thi-triển thần-thông, bay bổng l

ên không-trung; vua

Đế-Thích trở về cung Trời Đao-lợi,

quí vị Sa-di quay lại chùa Kỳ-viên.

Chiều hôm ấy, các vị tỳ-kheo hỏi bốn vị sa-di trẻ tuổi, hồi trưa bị

đói, v

ì gia-chủ chê họ còn nhỏ, chẳng chịu dưng thực-phẩm cho

ăn, có tức-giận không. Các vị lắc đầu. Đức Phật bảo

: " Bực A-la-hán chẳng hề tức-giận, ngay cả với kẻ chống-

đối, hay khinh-khi m

ình."

Rồi

Đức Phật nói l

ên bài Kệ sau

đây

:

Thân-thiện giữa những người thù-nghịch,

Ôn-hoà giữa bọn

địch hung-hăng,

Vô-nhiễm giữa những ai hằng

đắm-chấp,

Như-Lai gọi là Bà-la-môn.

(Kệ số 406.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Sa-di: người mới vào tập-sự tu ở chùa, chưa thọ-giới tỳ-kheo. Tiếng Pali là Sàmanera.

đây, bốn vị Sa-di v

ì còn nhỏ, chưa

đủ hai mươi tuổi để thọ-giới tỳ-kheo, nhưng tu-tập giỏi n

ên chứng A-la-hán.

- A-la-hán: Arahant, quả-vị thứ tư, cao nhứt. Bực A-la-hán dẹp bỏ xong mọi phiền-não, lìa mọi ham-muốn, chứng

được

vô-sanh ( =chẳng còn bị tái-sanh ở cõi Luân-hồi), tự-tại trong cảnh Niết-bàn.

- Tên tiếng Pali của các vị Sa-di: Sơn-khí-ca (Samkicca); Bàn-

đi-ta

(Pandita); Sơ-phà-ca (Sopàka) và Lê-va-ta (Revata).

- Trưởng-lão: Thera, vị tu-sĩ

đạo-đức cao trong h

àng tỳ-kheo.

- Tôn-giả Xá-lợi-phất: tên tiếng Pali là Sàriputta.

- Tôn-giả Mục-kiền-liên: tên tiếng Pali là Moggallàna.

- Vua Trời

Đế-Thích:

vi vua trên cung trời Đao-lợi (Tàvatimsa), có tên là Sakka.

- Bà-la-môn: Brahmana, giai-cấp tu-sĩ ở xã-hội Ấn xưa. Trong bài Kệ, chữ Bà-la-môn lại có nghĩa là bực A-la-hán.

- Thi-triển thần-thông = xử-dụng các khả-n

ăng khác thường, như bay bổng, đi v

ào lửa, v.v. nhờ

định-lực tu-tập cao.

- Thân-thiện: có nhiều tình-cảm tốt

đối với ai.

- Ôn-hoà: Ôn = ấm-áp; Hoà = hoà-thuận. Người ôn-hoà là người hiền-lành, chẳng gây-gổ, chẳng hiếp-

đáp ai.

- Đắm-chấp: Đắm = mê-

đắm;

Chấp = cố-chấp.Người

đắm-chấp

là người say-mê, bám chặt vào một

điều g

ì thì chẳng hề lơi ra.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện thuật lại bốn vị Sa-di bị

đói, v

ì bà chủ nhà chờ mời

được bốn vị Trưởng-l

ão lớn tuổi mới chịu dâng-cúng thực-phẩm.

Được hỏi bị đói, bị đối-xử như thế, có tức-giận không, cả bốn vị đều trả lời không, v

ì họ

đ

ã chứng

được quả-vị A-la-hán, trong tâm đ

ã dẹp sạch phiền-não tham, sân, si.

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 406:

Bài Kệ nêu lên

đức-tánh cao-

quí của vị A-la-hán vì tâm thanh-tịnh và bình-thản, nên chẳng hề bị hoàn-cảnh sai-sử, lôi-cuốn, do

đó m

à biết thân-thiện giữa những người thù-nghịch, biết ôn-hoà giữa những người hung-h

ăng:

chẳng ô-nhiễm giữa những người mê-

đắm.

Giữ

được

tâm bình-thản trong mọi hoàn-cảnh là khó, vì:

1) thân-thiện với người thân thì dễ, mà rất khó khi gặp người thù-nghịch cứ chống-

đối luôn;

2) ôn-hoà với người hiền thì dễ, mà rất khó khi gặp kẻ hung-h

ăng thường gây-hấn với m

ình;

3) vô-nhiễm giữa người mê-

đắm rất khó, v

ì bị cám-dỗ luôn.

(287).- Tích chuyện Trưởng-lão

Đại-Phan.

Tích chuyện nầy tiếp theo Tích chuyện số (17) về Tôn-giả Tiểu-Phan-tha-ca.

Vào một thời kia,

Đức Phật ngụ tại tịnh-xá Trúc-lâm, gần th

ành Vương-xá, trong kỳ giảng-pháp, có

đề-cập đến Trưởng-l

ão

Đại-Phan.

Trưởng-lão

Đại-Phan đ

ã chứng-

đắc quả-vị A-la-hán, khi em Ng

ài là Tiểu-Phan mới thọ-giới tỳ-kheo. Trí thông-minh của Tiểu-Phan rất chậm-lụt, vì trong tiền-kiếp, Tiểu-Phan cứ theo chọc-ghẹo một vị T

ăng ngu-tối. Tiểu-Phan học một b

ài Kệ bốn câu mà cả bốn tháng chưa thuộc. Trưởng-lão

Đại-Phan thấy thế bảo em, th

à hoàn-tục còn hơn.

Các vị tỳ-kheo khác nghe nói, mới

đến bạch Phật:

"Bạch Thế-tôn, một vị A-la-hán như Trưởng-lão

Đại-Phan, có c

òn nóng-giận không? Sao lại bảo người em học chậm phải hoàn-tục?"

Đức Phật đáp

: "Nầy chư tỳ-kheo, một vị A-la-hán chẳng còn phiền-não, làm sao nổi nóng

được

? Tỳ-kheo

Đại-Phan chỉ v

ì muốn xây-dựng cho em nên nói thế."

Rồi

Đức Phật nói l

ên bài Kệ sau

đây

:

Người chẳng còn chi bám dính nổi,

Tham, sân, kiêu-mạn, tị, hiềm,

Cũng như hột cải rơi khỏi

đầu kim,

Như-Lai gọi là Bà-la-môn.

(Kệ số 407.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

-

Đại-Phan:

tên vị Trưởng-lão nầy, tiếng Pali là Mahàpanthika.

- Tiểu-Phan: tên vị tỳ-kheo nầy, tiếng Pali là Cùlapanthika, phiên-âm theo tiếng Hán-Việt là Châu-lợi-bàn-

đ

à-già.

- Tiền-kiếp = kiếp trước,

đời trước trước đời nầy.

- Hoàn-tục: Hoàn = trở về; Tục = đời sống thế-tục. Hoàn-tục là bỏ cuộc tu-hành trong chùa, trở lại

đời sống có gia-đ

ình ngoài xã-hội.

- Thế-tôn: Thế = đời, thế-gian; Tôn = tôn-trọng. Thế-tôn tức là

Đức Phật, bực được cả thế-gian tôn-kính.

- Kiêu-mạn = phách-lối, quá tự-cao, xem mình là hơn tất cả.

- Tị, hiềm: Tị = ganh-tị, ghen-ghét; Hiềm = hiềm-nghi, nghi-ngờ.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện rất giản-dị: Trưởng-lão

Đại-Phan thấy em m

ình kém thông-minh, học bài Kệ trong bốn tháng chẳng thuộc, bảo em nên hoàn-tục

đi. Các vị tỳ-kheo khác cho l

à Trưởng lão nóng-giận em, mới

đến thưa tr

ình với Phật.

Đức Phật bảo, đối với người đ

ã chứng A-la-hán như Trưởng-lão

Đại-Phan, chẳng hề nổi nóng, v

ì trong tâm

đ

ã dẹp xong mọi phiền-não rồi.

Ngoài ý-nghĩa chẳng nổi sân ra, còn một ý-nghĩa khác: Tiểu-Phan vì kiếp trước chọc ghẹo một vị t

ăng ngu-tối, n

ên kiếp nầy phải làm một t

ăng-nhơn bị kém trí thông-minh: đó l

à quả báo.

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 407:

Cũng như các bài Kệ trước trong Phẩm Bà-la-môn, bài Kệ nầy nêu

đức-tánh chẳng bị

ô-nhiễm của một vị A-la-hán: Người, chẳng còn chi bám dính nổi, chẳng còn chi làm ô-uế

được. Đức-tánh nầy được b

ài Kệ nêu lên với hình-ảnh hột cải nhỏ để trên đầu mũi kim, chẳng thể nào dính vào cây kim

được.

Trong số các tâm-sở bất-thiện: tham, sân, kiêu-mạn, tị, hiềm, hai tâm-sở tham, sân và tâm-sở si làquan-trọng và khó

đối-trị, thường được gọi l

à c

ăn-bản phiền-n

ão; còn các tâm-sở bất-thiện khác như kiêu-mạn, ganh-tị, hiềm-nghi, v.v.

được gọi l

à tuỳ-phiền-não, hay là các phiền-não phụ-thuộc, vì chúng dựa theo các tâm-sở chánh tham, sân, si mà cùng phát-khởi lên trong tâm.

Muốn

đối-trị các tâm-sở bất-thiện nói chung, cần phải

tỉnh-giác luôn luôn, mỗi khi chúng khởi lên, ta liền biết mà chận chúng

đi.

(288).- Tích chuyện Trưởng-lão Phí-linh-

đa.

Vào một thời kia,

Đức Phật ngụ tại tịnh-xá Trúc-lâm, gần th

ành Vương-xá, trong kỳ giảng-pháp, có

đề-cập đến Trưởng-l

ão Phí-linh-

đa

Thuở ấy, tỳ-kheo Phí-linh-

đa tánh hay trịch thượng, thường xưng-hô với kẻ khác như l

à nói với cấp dưới của mình. Nhiều vị tỳ-kheo khác bất-mãn, mới thưa trình cùng

Đức Phật. Đức Phật quán thấy, trải

qua nhiều

đời kiếp, Phí-linh-đa sanh trong gia-tộc B

à-la-môn, nên thường tự xem mình là người cao-quí, còn những kẻ khác thấp kém hơn mình. Mặc-cảm tự-tôn

đó cho đến đời nầy vẫn c

òn dấu-vết.

Đức Phật mới bảo các tỳ-kheo

: "Nầy chư T

ăng, Phí-linh-đa tuy ăn nói thiếu nh

ã-nhặn, vì thói quen nhiều

đời trước, chớ trong tâm chẳng có ác-ý muốn l

àm mất lòng người khác. Người chứng

được quả A-la-hán chẳng hề l

àm hại ai."

Rồi

Đức Phật mới nói l

ên bài Kệ sau

đây

:

Người nói lời hoà-nhã, êm tai,

Lời xây-dựng, cùng lời chơn-thật,

Chẳng bao giờ nói mích lòng ai,

Như-Lai gọi là Bà-la-môn.

(Kệ số 408.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Phí-linh-

đa:

tên vị tỳ-kheo nầy, tiếng Pali là Pilindavaccha.

- Tịnh-xá Trúc-Lâm: Tịnh-xá = ngôi tu-viện yên-tịnh; Trúc-lâm = rừng trúc. Tịnh-xá Trúc-lâm được vua Tần-bà-sa-la (Bimbisara) xứ Ma-kiệt-

đ

à (Magadha) xây trong vuờn trúc gần thành Vương-xá (Ràjagaha)

- Bất-mãn = chẳng vừa ý, hơi có ý giận.

- Quán thấy = dùng con mắt-tâm mà nhìn bên trong.

- Mặc-cảm tự-tôn = Mặc-cảm là tình-cảm chìm-lắng trong tiềm-thức lâu

đời, thường khởi l

ên nơi tâm mà người chủ-

động ít ngờ đến.

Tự-tôn là xem mình cao hơn kẻ khác. Trái với mặc-cảm tự-tôn là mặc-cảm tự-ti.

- Nhã-nhặn, hoà-nhã = dịu-hiền, dễ nghe, dễ thương.

- Bà-la-môn: Brahmana, giai-cấp tu-sĩ ở xã-hội Ấn ngày xưa. Chữ Bà-la-môn trong bài Kệ lại

được d

ùng với nghĩa là A-la-hán.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện chê kẻ

ăn nói trịch-thượng.

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 408:

Ý-nghĩa bài Kệ rất rõ ràng, khen ngợi người nói lời hoà-nhã.

(289).- Tích chuyện vị tỳ-kheo lượm vải.

Vào một thời kia,

Đức Phật ngụ tại ch

ùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp có

đề-cập đến một vị tỳ-kheo lượm vải ngo

ài

đường.

Một hôm, có vị tỳ-kheo trên

đường đi khất-thực về, trông thấy một miếng vải bị gió bay dưới đất, mới cúi xuống lượm l

ên. Nào ngờ,

đó l

à miếng vải của một người Bà-la-môn

đem phơi. Người nầy thấy vị ty-kheo nhặt lấy, mới chạy theo đ

òi lại, miệng nói hỗn: "Ê! Tên trọc kia, sao lấy trộm vải của ta?" Vị tỳ-kheo ngỏ lời xin lỗi.

Về

đến ch

ùa, vị ấy thuật lại cho các bạn nghe. Các vị

đồng-tu khác hỏi tr

êu-chọc, vải dài ngắn, ngang

được mấy tấc, m

àu vàng hay màu trắng, v.v. Vị tỳ-kheo

đáp

: "Dài, ngắn, trắng, vàng chi cũng mặc-kệ, ta

đâu c

òn chút ham-muốn bám-víu vào vật chi." Các vị tỳ-kheo khác nghe nói, cho rằng vị ấy tự nhận mình

đ

ã chứng

đạo-quả A-la-hán, mới tr

ình cùng

Đức Phật. Đức Phật bảo

: "Nầy chư T

ăng, một vật chẳng được cho, vị A-la-hán chẳng hề lấy.

"

Rồi

Đức Phật nói l

ên bài Kệ sau

đây

:

Người chẳng lấy của chửa

được cho,

Dầu

đó l

à vật nhỏ hay to,

Dài hay ngắn, hoặc thô, hoặc

đẹp,

Như-Lai gọi là Bà-la-môn.

(Kệ số 409.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Như-Lai: tiếng Phật tự-xưng khi nói với ai. Như = như thế; Lai = đến. Ý muốn nói, ta là người đến đây như thế. Tiếng Pali là Tathàgata.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện nhắc lại giới thứ hai của người tu tại-gia: lấy vật chẳng

được cho l

à phạm tội trộm cắp.

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 409:

Bài Kệ rất rõ nghĩa, dạy ta tránh tội trộm-cắp.

(290).- Tích chuyện Tôn-giả Xá-lợi-phất và việc dâng y.

Vào một thời kia,

Đức Phật ở tại ch

ùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong kỳ giảng-pháp, có

đề-cập đến Tôn-giả Xá-lợi-phất v

à việc dâng y.

Vào mùa mưa n

ăm ấy, Tôn-giả Xá-lợi-phất có hướng-dẫn một số đông tỳ-kheo đến trú tại một tu-viện trong ngôi l

àng nhỏ. Cuối mùa mưa, Tôn-giả dặn các tỳ-kheo, hễ có thiện-nam, tín-nữ nào làm lễ dâng-cúng y-phục cho chư T

ăng, th

ì phải trình cho Tôn-giả biết trước. Sau

đó, Tôn-giả trở về ch

ùa Kỳ-viên

để đảnh-lễ Đức Phật. Các vị tỳ-kheo nghe nói như thế, mới tưởng-lầm l

à Tôn-giả còn tham-luyến vào tứ sự cúng-dường, mới

đến thưa tr

ình cùng

Đức Phật. Đức Phật bảo

: "Nầy chư T

ăng, Xá-lợi-phất chẳng hề c

òn chút tham-ái nào cả. Khi dặn bảo về việc dâng-y, Xá-lợi-phất muốn tạo cơ-hội cho các thiện-nam tín-nữ

được th

êm công-

đức bố-thí, v

à các sa-di có

đủ y-phục.

"

Rồi

Đức Phật nói l

ên bài Kệ sau

đây

:

Bất cứ

điều g

ì, người chẳng tham-cầu,

Trong

đời nầy hay v

ào các

đời sau,

Dứt tham-ái, nên

được giải-thoát,

Như-Lai gọi là Bà-la-môn.

(Kệ số 410.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Dâng-y: buổi lễ vào cuối mùa An-cư kiết-hạ, dưng-cúng áo cà-sa

- Tứ-sự cúng-dường: bốn thứ lễ-vật

để dưng-cúng chư Tăng, ni: thực-phẩm, quần-áo, giường chiếu, v

à thuốc-men.

- Thiện-nam, tín-nữ: tiếng

để chỉ chung những người tin-tưởng v

ào

đạo Phật, thường đến giúp chư Tăng, ni ở ch

ùa.

- Bố-thí: Bố = rộng khắp; Thí = hiến-tặng. Bố-thí là hiến-dâng của-cải, công-sức hay lời an-ủi

đến người cần đến.

- Sa-di: người mới tập-sự tu ở chùa, chưa thọ giới tỳ-kheo. Phái nữ gọi là Sa-di-ni. Tiếng Pali Sa-di Samanera.

- Tham-cầu: tham-lam và mong-cầu.

-Tham-ái: Tham = ham quá chừng; Ái = thương, thích. Tham-ái, tiếng Pali là Tanhà. Đây là nguyên-nhơn tạo ra Khổ

đời.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện thuật lại việc hiểu-lầm của các tỳ-kheo về ý-

định của Tôn-giả Xá-lợi-phất trong việc tổ-chức lễ

dâng-y cho chư T

ăng, Ni. Lễ dâng-y có hai ý-

nghĩa: tạo phước cho thiện-nam tín-nữ, giúp cho các sa-di có

đủ y-phục.

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 410:

Ý-nghĩa quan-trọng của bài Kệ là nói về sự tham-ái. Tham-ái là nguyên-nhơn tạo ra Khổ

đời, đó l

à Chơn-lý thứ hai, Tập-

đế,

trong Tứ-Diệu-

đế. V

ì mình thích, mình ham, nên mình mới bị ràng-buộc lâu mà chẳng chịu cởi bỏ ra. Dẹp

được

tham-ái

được

giải-thoát ngay.

(291).- Tích chuyện Tôn-giả Mục-kiền-liên bị hiểu lầm.

Vào một thời kia,

Đức Phật ngụ tại ch

ùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có

đề-cập đến việc Tôn-giả Mục-kiền-li

ên bị hiểu lầm.

Tích chuyện nầy cũng giống với Tích chuyện số (290) về Tôn-giả Xá-lợi-phất. Tôn-giả Mục-kiền-liên cũng bị nghi-ngờ là còn luyến-ái vào các sự-vật ở ngoài

đời thế-tục, nhơn lễ dâng-y. Nhơn việc hiểu lầm nầy, Đức Phật nói l

ên bài Kệ sau

đây

:

Người lìa tham-ái, tri-kiến

đủ,

Ngộ Chơn-lý, chẳng chút nghi-nan,

Chứng cảnh-giới Bất-tử Niết-Bàn,

Như-Lai gọi là Bà-la-môn.

(Kệ số 411.)

TÌM HIỂU:

Việc Tìm Hiểu ở

đây, quan-trọng nơi b

ài Kệ số 411: bực A-la-hán

đ

ã lià tham-ái, đầy-đủ Trí-huệ để ngộ được Chơn-lý, dứt mọi sự nghi-ngờ, nên chứng

được

Niết-Bàn, là cảnh-giới Bất-tử, nghĩa là chẳng hề chết. Tại sao chẳng hề chết? Vì chẳng còn bị tái-sanh lại, thì làm sao có thêm một

đời sống

Khổ ở cõi Luân-hồi, mà phải bị chết nữa

được.

Bất-tử Vô-sanh cả hai chữ

đều đồng một

nghĩa như nhau.

(292).- Tích chuyện Sa-di Lê-va-ta.

Vào một thời kia,

Đức Phật ngụ tại ch

ùa

Đông-vi

ên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có

đề-cập đến vị Sa-di L

ê-va-ta còn trẻ mà

đ

ã

đắc quả A-la-hán.

Một hôm, các vị tỳ-kheo khen-ngợi

đức-hạnh của Tôn-giả L

ê-va-ta, còn trẻ tuổi mà

được danh-tiếng cao, dân-chúng cúng-dường rất hậu-hĩ. Mặc dầu sống ẩn-cư nơi rừng vắng, Tôn-giả L

ê-va-ta

đ

ã thi-triển thần-thông, xây dựng nhiều chùa tháp cho chư T

ăng trú-ngụ. Đức Phật nghe lời tán-thán đó, mới bảo rằng

: "Nầy chư tỳ-kheo, người

đ

ã dứt bỏ

được

tham-ái như Lê-va-ta, các mối ràng-buộc về

điều thiện, điều ác đều được vuợt l

ên trên hết."

Rồi

Đức Phật nói l

ên bài Kệ sau

đây

:

Đời nầy, kẻ vượt thoát ràng-buộc,

Của cả hai

điều thiện v

à ác,

Chẳng sầu, thanh-tịnh và giải-thoát,

Như-Lai gọi là Bà-la-môn.

(Kệ số 412.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Sa-di Lê-va-ta: tiếng Pali là Samanera Revata. Vì còn nhỏ tuổi chưa thọ-giới tỳ-kheo, nên vẫn gọi là Sa-di, mặc dầu

đ

ã chứng quả A-la-hán. (Sa-di = người còn tập-sự tu, chưa chánh-thức là tỳ-kheo.)

- Chùa

Đông-vi

ên:

do bà Vi-sa-kha xây cất ở phiá

Đông ch

ùa Kỳ-viên, tên tiếng Pali là Pubbàràma.

- Hậu-hĩ: rất nhiều và quí.

- Thi-triển thần-thông: xử-dụng các khả-n

ăng khác thường như bay bổng tr

ên không, biến-hoá,

đi tr

ên mặt nước, v.v.

- Tán-thán = khen ngợi và thán-phục.

- Tham-ái: Tham = ham quá; Ái =thương, thích. Tham-ái, dịch chữ Pali Tanhà, là nguồn-gốc gây ra Khổ, tức là Tập-

Đế

trong Tứ-Diệu-

đế.

- Các mối ràng-buộc:

đây trỏ v

ào các tâm-sở bất-thiện: tham, sân, si, mạn, nghi và tà-kiến.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Ý-nghĩa của Tích chuyện là: vượt khỏi mọi ràng-buộc của Thiện và Ác. Thế nghĩa là sao? Điều ác ràng-buộc

đ

ã

đ

ành, vì gây ra nghiệp dữ, lôi ta theo nẻo ác của Luân-hồi (

điạ-ngục, ngạ-

quỉ, súc-sanh). Còn điều lành lại cũng ràng-buộc hay sao? Cũng ràng-buộc như thường, vì tạo nên nghiệp lành, đưa ta đến các cõi lành của Luân-hồi (cõi Trời, thần và người).

Thế thì Tôn-giả Lê-va-ta

đ

ã thoát

được cả hai mối r

àng-buộc

đó bằng cách n

ào? Tôn-giả làm lành, tránh

được

nghiệp dữ; Tôn-giả chẳng dừng lại

đó như những người

tu phước, mà Tôn-giả còn

đi xa hơn,

tu giới-

định-huệ

để chứng-đắc quả A-la-hán, thoát khỏi vòng sanh-tử của Luân-hồi, khiến cho cả hai nghiệp lành, nghiệp dữ

đều chấm-dứt hết.

Đó là nghĩa sâu của Tích chuyện.

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 412:

Ý-nghĩa của bài Kệ cũng giống với ý-nghĩa của Tích chuyện, nhưng

được Phật nói r

õ thêm. Xin phân-tách từng

điểm

:

1) "Đời nầy, kẻ vượt thoát ràng-buộc, Của cả hai điều: thiện và ác": đây là nói đến ngay trong

đời nầy,

dứt

được

nghiêp lành và dữ, tức là

đ

ã chứng

được

vô-sanh, thoát vòng tái-sanh của Luân-hồi. Nói cách khác,

đó l

à bực A-la-hán trong hiện

đời.

2) "Chẳng sầu": "Sầu" là vì Khổ; nay dứt khổ, tức là "chẳng sầu" và vì chẳng khổ-sầu, cho nên

được

an-vui,

đó l

à tánh-cách an-lạc của cảnh-giới Niết-bàn.

3) "Thanh-tịnh": trong-sạch và yên-tịnh, vắng-lặng;

đó l

à tánh-cách tịch-diệt của cảnh-giới Niết-Bàn.

4) "Giải-thoát": hết bị trói-buộc trong vòng lẩn-quẩn khổ-

đau của cảnh sanh-tử nữa, m

à hằng

được

tự-tại: đó là tánh-cách an-nhiên, tự-tại của cảnh-giới Niết-bàn.

Tóm lại, ý-nghĩa sâu của bài Kệ nói lên các tánh-cách an-lạc, tịch-diệt và giải-thoát của cảnh-giới Niết-bàn mà bực A-la-hán

đang hưởng

ngay trong hiện-

đời.

(293).- Tích chuyện Trưởng-lão Can-

đ

à.

Vào một thời kia,

Đức Phật ngụ tại ch

ùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có

đề-cập đến Trưởng-l

ão Can-

đ

à.

Can-

đ

à,

tiếng Pali có nghĩa là mặt tr

ăng, l

à biệt-hiệu mà người

đương-thời gán cho một người, khi sanh ra có một vầng sáng chói ở rún. Nguy

ên người ấy, vào thời

Đức Phật Ca-diếp có dưng-cúng một khúc gỗ chi

ên-

đ

àn

để tạc tượng thờ Phật trong ngôi tháp, n

ên khi tái-sanh, có

điểm lạ nơi rún chói sáng l

ên. Bọn ngoại-

đạo lợi-dụng l

òng mê-tín của dân chúng, chở Can-

đ

à lên xe

đi rong, ai muốn rờ v

ào rún chói sáng

đó th

ì phải trả một

đồng tiền.

Khi

đến gần ch

ùa Kỳ-viên thấy các thiện-nam, tín-nữ vào nghe

Đức Phật giảng-pháp, bọn ngoại-đạo bảo rằng, Can-đ

à có thần-thông còn hơn

Đức Phật. Người ta chẳng tin, họ mới dẫn Can-đ

à vào chùa,

để khoe ... cái rún chói sáng. Nhưng v

ào

đến b

ên trong chùa, rún Can-

đ

à chẳng chiếu lên,

đến khi trở ra mới chiếu trở lại. Chính Can-đ

à cũng lấy làm lạ, mới quay trở vào, hỏi

Đức Phật đ

ã dùng thần-chú nào mà làm tắt ngúm ánh-sáng nơi rún của anh ta, xin chỉ-dạy cho anh thần-chú

đó. Đức Phật bảo, muốn học, phải thọ-giới tỳ-kheo trước đ

ã. Can-

đ

à liền bảo bọn ngoại-

đạo ra ngo

ài chờ, bao giờ học xong thần-chú, sẽ gặp nhau lại.

Tỳ-kheo Can-

đ

à

được chỉ các phép

quán thân bất-tịnh, tâm vô-thường, nỗ-lực tu-tập, chẳng bao lâu chứng

được quả-vị A-la-hán. Đến khi các bọn ngoại-đạo đến thăm hỏi đ

ã học xong thần-chú chưa, thì Trưởng-lão Can-

đ

à bảo họ: "Các ông nên trở về

đi, ta nay đ

ã chứng-

đắc được

Đạo và Quả rồi, chẳng theo các ông nữa

đâu.

" Các vị tỳ-kheo khác nghe vậy, mới

đến thưa tr

ình với

Đức Phật, có phải Can-đ

à nay

đ

ã chứng

được quả-vị A-la-hán rồi chăng

?

Đức Phật đáp

: "Nầy chư T

ăng, Can-đ

à dẹp xong mọi lậu-hoặc, chứng quả A-la-hán."

Rồi

Đức Phật nói l

ên bài Kệ sau

đây

:

Người nào như vầng tr

ăng thanh-tịnh,

Rạng-rỡ, trắng trong và trầm-tĩnh,

Luyến-ái vào hiện-hữu dứt xong,

Như-Lai gọi là Bà-la-môn.

(Kệ số 413.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Can-

đ

à:

biệt-hiệu nầy tiếng Pali là Candàbha. (Candà =mặt tr

ăng).

-

Đức Phật Ca-diếp: Kassapa,

đản-sanh trước Đức Phật Thích-ca.

- Gỗ chiên-

đ

àn:

một loại gỗ màu sậm, có mùi thơm như trầm.

- Thần-chú: chơn-ngôn, lời nói bí-mật có hiệu-lực lạ thường.

-Quán thân bất-tịnh: quán-sát tấm thân bên trong chứa 32 chỗ dơ-dáy như mủ, nước tiểu, v.v. sanh ra nhàm chán thú-vui nhục-dục.

- Quán Tâm vô-thường: quán-sát tâm bên trong cứ thay-

đổi luôn, để kềm-giữ lại m

à

được định-tâm khi tu Thiền.

- Đạo và Quả: Đạo = đường-lối tu-tập (Magga); Quả = quả-vị chứng

được (

Phala) khi tu-tập thành-công.

- Lậu-hoặc: Lậu: rỉ chảy ra; Hoặc = chỗ dơ. Lậu-hoặc là phiền-não như tham, sân, khởi lên trong tâm, lộ ra bằng cử-chỉ và lời nói xấu-ác.

- Luyến-ái vào hiện-hữu: mê-

đắm v

ào hiện-hữu ( =

đời sống hiện nay). Có ba thứ

luyến-ái vào ba cõi ở thế-gian: (1)dục-ái, mê cõi dục (

đang sống đây); (2)

sắc-ái, mê cõi sắc; (3) vô-sắc-ái, mê cõi vô-sắc.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện thuật lại một người có

điểm lạ tr

ên thân-thể, rún chói sáng, theo bọn ngoại-

đạo l

àm tiền những kẻ mê-tín dị-

đoan. Đến khi v

ào gặp Phật, rún chẳng chói nữa, tưởng Phật có thần-chú chi bí-hiểm mới xin theo học. Nhưng

được Phật chỉ dạy phép

quán Tứ-niệm xứ, người ấy theo tu-tập tinh-tấn mà chứng

được quả-vị A-la-hán.

Tích chuyện chẳng kể thêm, nhưng nếu ta chiêm-nghiệm kỹ, thì thấy; ngay khi

được Phật chỉ dạy phép

quán thân bất-tịnh, tâm vô-thường, người ấy

đ

ã chứng

được quả-vị thứ nhứt l

à Tu-

đ

à-huờn, vì: (1) dẹp bỏ thân-kiến, chẳng xem thân nầy là Ta nữa (nói chi là cái rún chói sáng!); (2) dứt

được

nghi-ngờ nơi Chánh-pháp mà nỗ lực tu; (3) bỏ luôn bọn ngoại-

đạo t

à-kiến, dứt

được

giới cấm-thủ ngay. Sau

đó, lần-lượt chứng các quả-vị kế-tiếp, cho đến c

õi vô-sanh của Niết-bàn.

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 413:

Ý-nghĩa Tích chuyện nêu trên,

đ

ã

được Đức Phật diễn r

õ bằng thơ, trong bài Kệ

đầy ý-nhị nầy.

(294).- Tích chuyện Trưởng-lão Sĩ-hoa-ly.

Vào một thời kia,

Đức Phật ngụ trong rừng Cung-đ

à-na, trong một kỳ giảng-pháp, có

đề-cập đến việc Trưởng-l

ão Sĩ-hoa-ly.

Thuở ấy, ở thành Cung-

đ

à-cô-ly-gia, gần bộ-tộc Thích-ca, có nàng công-chúa mang thai

đến bảy năm m

à chưa sanh-nở. Công-chúa rất tin-tưởng nơi ngôi Tam-Bảo, nên nhờ chồng

đến đảnh-lễ Đức Phật v

à trình-bày về hoàn-cảnh của mình. Khi nghe hoàng-tử thuật lại việc vợ mang thai nặng-nề quá lâu như thế,

Đức Phật bảo

: "Nầy vương-tử, nguyện-cầu cho công-chúa sớm sanh

được con trai kháu-khỉnh

!"Hôm ấy, công-chúa sanh

được ho

àng-nam. Cả triều vui mừng, nhà vua mới thiết lễ trai-t

ăng, thỉnh Đức Phật v

à chư T

ăng đến dự. Đức Phật v

à chúng t

ăng lưu lại th

ành Cung-

đ

à trong bảy ngày,

để thuyết-pháp.

Về sau, hoàng-nam lớn lên

đi tu, gia-nhập Tăng-đo

àn mang tên là Tỳ-kheo Sĩ-hoa-ly. Tu-hành rất tinh-tấn, Sĩ-hoa-ly sớm chứng

được đạo-quả A-la-hán. Dân chúng rất ngưỡng-mộ v

à lễ-vật dâng-cúng cho Trưởng-lão Sĩ-hoa-ly nhiều hơn tất cả mọi người.

Vào một buổi chiều, có vị tỳ-kheo muốn biết vì sao Trưởng-lão Sĩ-hoa-ly tài-

đức như thế m

à lại phải nằm lâu trong bụng mẹ

đến bảy năm. Đức Phật đáp

: "Nầy chư T

ăng, trong một tiền-kiếp, Sĩ-hoa-ly l

à vị hoàng-tử tài-giỏi, nhưng chẳng may, nước bị giặc xâm-l

ăng. Để giải-phóng nước nh

à, hoàng-tử

đ

ã bao-vây một kinh thành chặt-chẽ. Trong bảy n

ăm trời, dân-chúng trong th

ành

đói khát, nhiều kẻ bị chết. V

ì hành-

động độc-ác đó, n

ên kiếp nầy, Sĩ-hoa-ly phải chịu bảy n

ăm ở cảnh u-tối trong bụng mẹ. Nhưng ng

ày nay, Sĩ-hoa-ly

đ

ã chứng quả A-la-hán,

đang cất bước th

ênh-thang trong cảnh-giới Niết-Bàn."

Rồi

Đức Phật nói l

ên bài Kệ sau

đây

:

Người thoát khỏi vũng lầy ‘tham-ái’,

Trải qua

đường ‘phiền-n

ão’ hiểm-nguy,

Vượt trùng-dương ‘Luân-hồi’ mê tối,

Sang

đến bờ ‘thiền-định’, dứt nghi,

Tịch-tĩnh, chẳng bấu-víu

điều chi,

Như-Lai gọi là Bà-la-môn.

(Kệ số 414.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Sĩ-hoa-ly: tên vị Trưởng-lão, tiếng Pali là Sìvali.

- Rừng Cung-

đ

à-na: tên khu rừng nầy tiếng Pali là Kundadhàna.

- Thành Cung-

đ

à-cô-ly-gia: tên thành nầy, Pali là Kundakoliya.

- Tam-Bảo: ba ngôi báu: Phật, Pháp và T

ăng.

- Lễ trai-t

ăng:

lễ dưng-cúng thực-phẩm lên các vị tỳ-kheo.

- A-la-hán: Arahant, quả-vị thứ tư, cao nhứt. Bực A-la-hán dứt hết phiền-não, lìa mọi ham-muốn, chứng vô-sanh (hết bị tái-sanh)

- Xâm-l

ăng:

đánh chiếm đất nước.

- Giải-phóng: đuổi giặc ra khỏi nước, giành lại nền độc-lập, tự-chủ.

- Vũng lầy: vũng bùn-lầy. Tham-ái = quá ham sống theo thú-vui

- Trùng-dương: biển cả sóng to. Luân-hồi: tái-sanh trở lại.

- Tịch-tĩnh: Tịch = vắng-vẻ; Tĩnh = yên-lặng.

- Bà-la-môn: Brahmana, giai-cấp tu-sĩ xưa ở Ấn-

độ. Ở trong b

ài Kệ, chữ Bà-la-môn lại có nghĩa là bực A-la-hán.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện thuật lại vì sao Sĩ-hoa-ly phải nằm trong bụng mẹ bảy n

ăm mới được sanh ra: đó l

à quả-báo của việc vây thành trong bảy n

ăm, ở kiếp trước.

Ý-nghĩa của Tích chuyện ngoài việc quả-báo ra, còn nói

đến con đường tu-tập để chứng đắc quả-vị A-la-hán. Vượt qua con đường đó như thế n

ào, bài Kệ sẽ nói rõ.

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 414:

Bài Kệ số 414 ghi lại các

đoạn đường tu-tập để chứng quả A-la-hán, bằng các danh-từ cụ-thể, tượng-trưng. Xin phân-tách các điểm quan-trọng tr

ên

đoạn đường đó:

1. Vũng lầy ‘Tham-ái’: Tham-ái, bám vào

đời sống, l

à vũng sình níu chặt con người vào cõi tử-sanh của Luân-hồi. Bắt

đầu tu l

à bỏ ngay sự tham-ái, để rút chơn ra khỏi vũng lầy, mà cất bước lên đường.

2) Đường hiểm-nguy ‘Phiền-não’: đường hiểm-nguy là đoạn đường chông-gai, gây trở-ngại khiến ta bỏ dở nửa chừng. Hiểm-nguy do đâu gây ra? Ba mối

độc chánh:

tham, sân, si, nghi đi kèm.

3) Trùng-dương ‘Luân-hồi’: sự sống

đi chết lại triền-mi

ên ví như các ngọn sóng lặn hụp nơi biển cả, biển Luân-hồi. Vượt

được

trùng-dương Luân-hồi là chứng

được

vô-sanh, chẳng bị tái-sanh nữa, chẳng bị sóng dập gió dồn nữa giữa biển cả minh-mông.

4) Sang bờ ‘thiền-

định’ dứt nghi:

lên

đến được bờ

giác-ngộ, chẳng còn nghi-ngờ gì, bằng phương-cách tu Thiền-

định.

5) Tịch-tĩnh, chẳng bấu-viú

điều chi

: từ nay sống trong sự vắng-lặng an-nhiên của cảnh Niết-bàn tịch-tĩnh, hoàn-toàn giải-thoát, vì buông-bỏ tất cả, chẳng còn bấu-víu vào bất-cứ

điều chi nữa.

(295).- Tích chuyện Trưởng-lão Sơn-

đ

à.

Vào một thời kia,

Đức Phật ngụ tại ch

ùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có

đề-cập đến Trưởng-l

ão Sơn-

đ

à.

Tỳ-kheo Sơn-

đ

à vốn con nhà giàu-có ở Xá-vệ, sau khi gia-nhập T

ăng-đo

àn, liền rời chuà Kỳ-viên

đi đến th

ành Vương-xá, vào khu rừng vắng

để tu-tập thiền-định. Bấy giờ ở th

ành Xá-vệ có hội hoa-

đăng, đ

èn

đuốc rực-rỡ, thi

ên-hạ vui-vầy. Cha mẹ của Sơn-

đ

à, nhớ

đến con nay chịu cực-khổ, chẳng được hưởng các thú-vui tưng-bừng đang diễn ra tại đây. Ông b

à ngồi khóc. Có một nàng dâm-nữ

đi ngang, nghe thấy, mới hỏi duy

ên-cớ. Nghe xong nổi-niềm thương nhớ con, nàng ấy liền

đề-nghị:

"Con có cách làm cho chàng Sơn-

đ

à hoàn-tục, trở lại xum-họp với gia-

đ

ình, nhưng chẳng biết ông bà thưởng cho con bao nhiêu tiền?"Hai ông bà hứa cho nhiều tiền-bạc. Cô dâm-nữ mượn trước một số tiền to, rồi

đi đến th

ành Vương-xá.

Cô mướn một ngôi nhà lầu xinh-

đẹp, nằm tr

ên

đường đi khất-thực hằng ng

ày của tỳ-kheo Sơn-

đ

à. Cô chuẩn-bị thức-

ăn thật ngon, để cúng-dường ngo

ài cổng. Tuần sau, cô mời vị tỳ-kheo vào sân. Rồi cô mua kẹo cho trẻ nhỏ, bảo chúng chạy giỡn ở sân; khi tỳ-kheo Sơn-

đ

à

đến khất-thực, cô viện cớ trẻ ồn-

ào, mời vị tu-hành vào nhà,

để thọ-thực. Hôm sau nữa, cô cũng mời v

ào, lấy cớ từng dưới nhà chưa kịp dọn-dẹp sạch-sẽ, mời tỳ-kheo Sơn-

đ

à lên lầu. Cả hai vừa bước vào phòng, cô khoá chặt cửa lại, rồi giở giọng quyến-rũ. Lời cô dịu-dàng, thân cô ưỡn-ẹo. Tỳ-kheo Sơn-

đ

à giựt mình, biết mình

đang sa v

ào cạm-bẫy. Tự-trách mình chẳng tỉnh-giác, lơ-là

để mắc phải tội-lỗi, vị tỳ-kheo liền chấp tay, khẩn-thiết hướng về ch

ùa Kỳ-viên, cầu

Đức Phật cứu-giúp. Bấy giờ, Đức Phật quán thấy cảnh lâm-nguy của tỳ-kheo Sơn-đ

à, Ngài phóng

đạo h

ào-quang

đến căn lầu, hiện thân l

ên nói: "Nầy tỳ-kheo, hãy quyết-tâm dẹp bỏ mọi dục-vọng, mọi tham-ái, chớ chạy theo các thú-vui nhục-dục thấp-hèn và tạm-bợ." Tâm Sơn-

đ

à phấn-khởi lên, liền nhập-

định. Đức Phật mới nói l

ên bài Kệ sau

đây, nhờ đó tỳ-kheo Sơn-đ

à chứng ngay

được quả-vị A-la-hán, thi-triển thần-thông, bay theo sau Phật về ch

ùa Kỳ-viên:

Ai

đời nầy dục-lạc li

à bỏ,

Rời gia-

đ

ình theo ngõ xuất-gia,

Dục-ái, hữu-ái

đ

à

đoạn-tận,

Như-Lai gọi là Bà-la-môn.

(Kệ số 415.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Sơn-

đ

à: tên vị Trưởng-lão nầy, tiếng Pali là Sundarasamudda.

- Hoa-

đăng: Hoa

= bông hoa; Đăng = đèn. Hội hoa-

đăng

là buổi lễ về

đ

êm, có

đ

èn hoa rực-rỡ.

- Dâm-nữ: cô gái bán dâm, mua vui cho

đ

àn-ông.

- Hoàn-tục: Hoàn = trở về; Tục = đời sống thế-tục. Hoàn-tục là bỏ cuộc

đời tu-h

ành, trở về sống lại với gia-

đ

ình trong xã-hôi.

- Vương-xá: Ràjagaha, thủ-

đô nước Ma-kiệt-đ

à (Magadha).

- Tho-thực: Thọ = nhận; Thực = ăn. Thọ-thực

ăn, tiếng nh

à chùa.

- Uỡn-ẹo = uốn-éo

để kh

êu gợi.

- Tỉnh-giác: Tỉnh = chẳng mê; Giác = biết. Người tỉnh-giác luôn luôn chú-ý,

đang l

àm, nói, nghĩ

điều g

ì thì tâm bên trong biết mình

đang l

àm, nói, nghĩ về

điều đó, v

à chỉ

điều đó m

à thôi, chẳng lo ra.

- Khẩn-thiết: Khẩn = gấp, mau; Thiết = thành-tâm, tha-thiết.

- Quán thấy = trong cơn thiền-

định, nh

ìn thấy rõ bằng mắt-tâm

- Hào-quang = ánh-sáng rực-rỡ toả ra từ bực tu-hành

định-lưc cao

- Nhục-dục: Nhục = thịt; Dục = ham-muốn. Nhục-dục là ham muốn thú-vui về thể-xác, giữa dàn-ông,

đ

àn-bà.

- Thi-triển thần-thông: xử-dụng các khả-n

ăng khác thường như bay bổng tr

ên không,

đi v

ào lửa

đỏ, v.v. nhờ ở định-lực tu-h

ành cao.

- Dục-lạc: Dục = ham muốn; Lạc = thú-vui. Chữ dục-lạc

đây, chỉ các thú-vui vật-chất thấp v

à tạm.

- Dục-ái: Dục = cõi dục-giới, nơi con người

đang sanh-sống;

Ái = thương; Dục-ái

đây l

à quá mến-thích cảnh sống ở cõi dục-giới. (Có ba cõi trong thế-gian: (1) cõi dục-giới; (2) cõi sắc-giới; và (3) cõi vô-sắc-giới.)

- Hữu-ái: Hữu = hiện-hữu,

đời sống hiện-tại;

Ái = thương. Hữu-ái

đây có

nghĩa là tham sống hoài, muốn

được tái-sanh lại m

ãi trong cõi Luân-hồi.

-

Đoạn-tận: Đoạn

=

cắt

đứt đoạn;

Tận = dứt hết cả. Đoạn-tận là tiêu-diệt hết tận, chẳng còn gì.

- Bà-la-môn: giai-cấp tu-sĩ xưa ở Ấn-

độ. Trong b

ài Kệ, chữ Bà-la-môn lại có nghĩa là bực A-la-hán.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện thuật lại việc cám-dỗ của một dâm-nữ, nhưng chẳng thành-công

để quyến-rũ tỳ-kheo Sơn-đ

à vào tội-dâm,

để ho

àn-tục. Nhờ trong phút lâm-nguy, khẩn-thiết tưởng-niệm

đến Phật, Sơn-đ

à thoát nguy.

Ý-nghĩa của Tích chuyện là lời tự-trách mình thiếu tỉnh-giác của tỳ-kheo Sơn-

đ

à. Nếu tâm luôn luôn tỉnh-giác, chắc-chắn sẽ

đoán ngay được sự nguy-hiểm khi bước chơn v

ào nhà người dâm-nữ.

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 415:

Bài Kệ nêu ra ba

điểm

: (1) lià bỏ dục-lạc; (2) rời gia-

đ

ình

để

xuất-gia; (3)

đoạn-tận

dục-ái và hữu-ái. Xin lần-lượt xét qua các

đ

ìểm

1)Ai

đời nầy dục-lạc li

à-bỏ: bỏ các thú-vui vật-chất,

để t

ìm thú-vui tinh-thần, tu-hành chứng quả

để thoát Khổ vĩnh-viễn.

2)Rời gia-

đ

ình theo ngõ xuất-gia: đó là con đường giải-thoát, nhưng người thường lại cho là cực-khổ.

3) Dục-ái, hữu-ái

đ

à

đoạn-tận:

cắt

đứt hẳn sự tríu-mến v

ào

đời sống Luân-hồi, tức l

à dục-ái, hữu-ái, để tìm về cuộc sống giải-thoát, an-nhiên, tự-tại trong cảnh Niết-bàn, bằng cách chứng quả A-la-hán.

(296).- Tích chuyện Trưởng-lão Gia-tị-la.

Vào một thời kia,

Đức Phật ngụ tại tịnh-xá Trúc-lâm, gần th

ành Vương-xá, trong kỳ giảng-pháp có

đề-cập đến Trưởng-l

ão Gia-tị-la.

Sau khi

Đức Phật Ca-diếp nhập Niết-B

àn, có một vị Trưởng-lão

đi quy

ên tiền xây tháp

để thờ xá-lợi Phật. Đến nh

à người thợ-bạc, hai vợ chồng

đang c

ãi-vã, vị Trưởng-lão bị xô-

đuổi. Người chồng quát với vị tu-h

ành: "Đem tượng Phật quăng xuống sông cho rảnh, quyên với góp gì, mau đi ra!" Người vợ nói: "Sao lại hỗn-láo với bực tu-hành? Giận em, cứ mắng em,

đánh em cũng được, cớ sao lại mạ-lỵ Đức Phật v

à vị Trưởng-lão. Tội nầy to lắm!" Người chồng sực-tỉnh, vội tạ lỗi và dâng ba bình hoa bằng vàng

để thờ trong tháp của Đức Phật Ca-diếp.

Đến kiếp nầy, người thợ bạc sanh ra làm con ngoại-hôn của một thiếu-nữ nhà giàu. Khi sanh con, sợ mang tiếng, người mẹ để con vào một cái nồi, thả trôi sông. Bấy giờ, có người đàn-bà đi tắm, vớt nồi lên, nuôi đứa bé, đặt tên là Gia-tị-la. Lớn lên được mẹ nuôi gởi

đến ở trọ nh

à người phú-thương trong thành Ta-xi-la

để ăn học, Gia-tị-la được chủ nh

à mến, mới gả con gái cho. Hai vợ chồng trẻ

được cha tặng một ngôi nh

à

đẹp-đẽ trong th

ành. Lại may mắn

đ

ào

được trong vườn một hủ v

àng to. Sau sanh

được ba người con trai, th

ì Gia-tị-la xuất-gia, tu-hành rất tinh-tấn, chứng

được quả-vị A-la-hán.

Một hôm, Gia-tị-la và các tỳ-kheo khác cùng theo chơn

Đức Phật đến nhận lễ cúng-dường tại nh

à cũ của mình. Các người con trai của Gia-tị-la dâng-cúng thực-phẩm trong mười l

ăm ng

ày liên-tiếp. Trở về tịnh-xá, các tỳ-kheo hỏi Gia-tị-la, về nhà thấy vợ con và tiền-bạc, có nhớ tiếc ch

ăng. Gia-tị-la bảo, chẳng c

òn quyến-luyến vào

điều chi cả. Các tỳ-kheo chẳng tin, tr

ình với

Đức Phật. Đức Phật bảo

: "Gia-tị-la

đ

ã chứng-

đắc quả A-la-hán, đâu c

òn khát-ái và kiêu-mạn nữa."

Rồi

Đức Phật nói l

ên bài Kệ sau

đây

:

Ai

đời nầy, khát-ái li

à bỏ

Rời gia-

đ

ình, theo ngõ xuất-gia,

Dục-ái, hữu-ái

đ

à

đoạn-tận

Như-Lai gọi là Bà-la-môn.

(Kệ số 416.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Gia-tị-la: tên vị tỳ-kheo nầy, tiếng Pali là Jatila.

- Phật Ca-diếp: Đức Phật giáng-sanh trước Đức Phật Thích-ca; tiếng Pali là Kassapa Buddha.

- Nhập Niết-bàn = lià bỏ xác thân, vào cõi Niết-Bàn yên-vắng.

- Quyên = đi xin tiền, góp lại để làm việc ích-lợi chung.

- Xá-lợi =Sarìra, ngọc xá-lợi, tro cốt bực Thánh sau khi hoả-táng.

- Mạ-lỵ = nói lời thô-cộc, hỗn-láo với ai.

- Tháp = ngôi nhà mồ xây nóc nhọn nhô cao lên,

để thờ-phượng.

- Con ngoại-hôn = Ngoại = ở ngoài; Hôn = đám cưới. Con ngoại-hôn sanh ra do vợ-chồng chẳng chánh-thức cưới nhau.

- Phú-thương: Phú = giàu; Thương = buôn-bán.

- Ta-xi-la: thành nầy tên tiếng Pali là Taxila.

- Xuất-gia: Xuất = ra khỏi; Gia = nhà; Xuất-gia là lìa bỏ nhà

đi tu.

- A-la-hán: quả-vị thứ tư, cao nhứt, chẳng còn bị tái-sanh nữa.

- Cúng-dường: đọc trại chữ Hán-Việt cung-dưỡng = cung-cấp

để nuôi-dưỡng.

Tứ sự cúng-dường: thức-

ăn, quần-áo, giường, thuốc-men.

- Khát-ái = tham-ái = dục-ái = hữu-ái, đồng một nghĩa.

- Kiêu-mạn: Kiêu = kiêu-c

ăng, phách-lối;

Mạn = chữ Phạn là mano, tự-cao, coi mình là hơn kẻ khác.

- Đoạn-tận =

Đoạn

=

cắt; Tận = hết; Đoạn-tận là cắt

đứt hết tiệt.

- Bà-la-môn: Brahmana, giai-cấp tu-sĩ; ở

đây có

nghĩa là A-la-hán.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện kể lại tiểu-sử của Tỳ-kheo Gia-tị-la: vì kiếp trước có lời hỗn-láo với một vị Trưởng-lão, nhưng biết hối lỗi và dưng-cúng bình vàng

để thờ Phật, n

ên kiếp nầy Gia-tị-la sanh ra bị thả trôi sông, nhưng về sau lại

được gi

àu-có. Nhưng ý-nghĩa của Tích chuyện, ngoài vấn-

đề

quả-báo ra, còn là lời dạy của

Đức Phật: tu đến bực A-la-hán th

ì dẹp xong khát-ái, kiêu-mạn, lìa bỏ hết ham-muốn, sống an-nhiên.

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 416:

Hai bài Kệ số 415 và 416 giống nhau in hệt (có hai chữ tuy khác: dục-lạc khát-ái, nhưng nghĩa rất gần nhau), xin xem lại ở bài trước.

(297).- Tích chuyện Trưởng-lão Giô-thi-ca.

Vào một thời kia,

Đức Phật ngụ tại tịnh-xá Trúc-lâm, gần th

ành Vương-xá, trong kỳ giảng-pháp, có

đề-cập đến Trưởng-l

ão Giô-thi-ca.

Thuở ấy, ở thành Vương-xá có chàng thanh-niên tên Giô-thi-ca, nhà cửa thật sang-trọng, lộng-lẫy, lại

được thần-linh giữ cửa. Vua Tần-b

à-sa-la dẫn Thái-tử A-xà-thế

đến viếng nh

à, hết lời khen-ngợi. Giô-thi-ca

đem vi

ên hồng-ngọc ra tặng Vua. Thái-tử trông-thấy cảnh huy-hoàng

đó, nguyện rằng khi l

ên làm vua, sẽ xung-công cơ-nghiệp

đó.

Về sau, Thái-tử A-xà-thế, nghe lời xúi-dục của tỳ-kheo

Đề-b

à-

đạt-đa, nổi l

ên cướp ngôi vua, giam cha trong ngục, bỏ

đói cho chết. Vua A-x

à-thế dẫn quân

đến chiếm nh

à của Giô-thi-ca, nhưng bị thần giữ cửa ng

ăn-cản. Bấy giờ, vua A-x

à-thế mới dẫn quân

đến tịnh-xá Trúc-lâm, thấy Giô-thi-ca đang ngồi nghe Phật giảng-pháp. Vua A-x

à-thế nổi giận, sai quân lính bắt. Giô-thi-ca biết vua chiếm nhà mình chẳng

được, mới đến đây t

ìm. Ông liền xoè bàn tay ra, có mấy chiếc nhẫn, bảo vua cứ cổi ra mà lấy. Vua cổi mãi chẳng

được. Giô-thi-ca nói:

"Tôi có lời nguyện, vật của tôi chẳng ai dành lấy

được, trái với ý muốn của tôi.

" Nói xong, Giô-thi-ca lấy chiếc kh

ăn tay trải ra, chống các ngón tay xuống khăn, các chiếc nhẫn tuột ra, lấy đem dưng cho vua A-x

à-thế. Sau

đó, Giô-thi-ca xin Đức Phật cho xuất-gia. Nhờ tinh-tấn tu-h

ành, chẳng bao lâu, Giô-thi-ca chứng

được quả-vị A-la-hán.

Một hôm, các vị tỳ-kheo hỏi Giô-trhi-ca có còn nhớ tiếc ngôi nhà

đẹp-đẽ nữa không, Giô-thi-ca đáp, bây giờ chẳng c

òn tham-luyến gì nữa cả. Các tỳ-kheo chẳng tin, mới trình Phật.

Đức Phật liền bảo

: "Giô-thi-ca

đ

ã chứng quả A-la-hán rồi, mọi tham-dục

đều dứt hẳn.

"

Rồi

Đức Phật nói l

ên bài Kệ số 416 (

đ

ã

được ghi ở b

ài trước.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Giô-thi-ca: tên vị Trưởng-lão nầy, tiếng Pali là Jotika.

- Trúc-lâm, Vương-xá: tịnh-xá Veluvana nầy cất trong vườn trúc, do vua Tần-bà-sa-la dưng cúng Phật, gần thành Vương-xá (Ràjagaha.)

- Tần-bà-sa-la: Bimbisara, vua nước Ma-kiệt-

đ

à

(Magadha), bị con mình là Thái-tử A-xà-thế (Ajàtasattu) cướp ngôi.

- Xung-công = lấy bỏ vào kho nhà-nước.

- Cơ-nghiệp = tài-sản, sự-nghiệp.

- Đề-bà-đạt-đa: tên vị tỳ-kheo, anh của Tôn-giả A-nan, tánh kiêu-mạn,

đ

òi thay-thế

Đức Phật cầm đầu Tăng-đo

àn. Tên Pali: Devadatta.

- Chiếc nhẫn = chiếc cà-rá

đeo ở ngón tay.

- A-la-hán: Arahant, quả-vị thứ tư, cao nhứt. Chữ A-la-hán có ba nghĩa: (1) ứng-cúng, xứng-

đáng được Trời, Người cúng-dường; (2)

sát-tặc, giết hết giặc, giặc phiền-não; (3) vô-sanh, chẳng còn bị tái-sanh trong cõi Luân-hồi, sống tự-tại, giải-thoát trong cảnh Niết-bàn.

- Tham-dục: Tham = ham quá chừng; Dục = muốn.

B.- Nghĩa Ý:

Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện thuật lại việc Trưởng-lão Giô-thi-ca từ bỏ cả nhà cửa, của-cải

để đi tu, chứng được quả-vị A-la-hán.

Ý-nghĩa của Tích chuyện, cũng như ý-nghĩa của bài Kệ số 416 nơi Tích chuyện nầy,

đều nói l

ên

đức-tánh

xả-bỏ của bực A-la-hán. Xả-bỏ là chẳng luyến-tiếc

điều chi cả; nhờ chẳng luyến-tiếc, n

ên chẳng bị ràng-buộc, do

đó m

à

được

giải-thoát.

(298).- Tích chuyện Trưởng-lão Na-ta-bút (1).

Vào một thời kia,

Đức Phật ngụ tại ch

ùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có

đề-cập đến Trưởng-l

ão Na-ta-bút.

Na-ta-bút là con một người vũ-nữ, thường

đi ra đường ca hát, nhảy múa. Một hôm, Na-ta-bút theo chơn các vị tỳ-kheo đến ch

ùa, nghe Phật giảng pháp. Na-ta-bút hiểu

được mới xin xuất-gia, thọ-giới tỳ-kheo. Kể từ đó, Na tinh-tấn tu-h

ành, chẳng bao lâu chứng

được quả-vị A-la-hán. Một hôm, đang đi khất-thực, thấy có đứa bé múa hát b

ên lề

đường, các vị tỳ-kheo hỏi Na-ta-bút, có c

òn mê-thích ca múa nữa không. Na-ta-bút

đáp, đ

ã từ lâu, dứt bỏ mọi mê-luyến rồi. Các vị tỳ-kheo chưa tin, về tịnh-xá, thưa hỏi

Đức Phật. Đức Phật bảo

: "Nầy chư T

ăng, Na-ta-bút đ

ã vượt qua mọi ràng-buộc, chứng A-la-hán rồi."

Rồi

Đức Phật nói l

ên bài Kệ sau

đây

:

Người tách khỏi ràng-buộc cõi người,

Vượt lên trên câu-thúc cõi Trời,

Thoát-ly mọi hệ-lụy

Như-Lai gọi là Bà-la-môn.

(Kệ số 417.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Na-ta-bút: tên vị Trưởng-lão, tiếng Pali là Nataputtaka.

- Vũ-nữ: phụ-nữ có tài nhảy múa.

- Thọ-giới tỳ-kheo = làm lễ nhận tuân 250 giới-cấm của tỳ-kheo.

- A-la-hán: quả-vị thứ tư, cao nhứt, chứng

được

vô-sanh, nghĩa là thóat khỏi sự tái-sanh trong vòng Luân-hồi.

- Câu-thúc: Câu = bắt giữ; Thúc = bó-buộc. Câu-thúc là trói buộc.

- Hệ-lụy: Hệ = sợi dây tơ; Lụy = buộc lại. Hệ-lụy là ràng buộc.

- Bà-la-môn: Brahmana, nghĩa gốc là giai-cấp tu-sĩ xưa ở Ấn-

độ. Trong các b

ài Kệ thuộc phẩm Bà-la-môn, chữ Bà-la-môn lại

được Đức Phật d

ùng theo nghĩa chữ A-la-hán.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện thuật lại việc Na-ta-bút, trước ham nhảy múa, ca hát, sau

đi tu chứng được quả-vị A-la-hán. Khi gặp một đứa trẻ ca múa, các tỳ-kheo hỏi Trưởng-l

ão Na-ta-bút còn mê vũ nữa không, Trưởng-lão bảo, không.

Đức Phật nói, đ

ã chứng A-la-hán rồi thì mọi mê-luyến ràng-buộc

đều dẹp tan.

Cũng như Tích chuyện trước, ý-nghĩa giải-thoát mọi ràng-buộc được nêu trong Tích chuyện nầy.

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 417:

Bài Kệ nói lên sự hoàn-toàn giải-thoát mọi ràng-buộc của bực A-la-hán. Ràng-buộc ở cõi người, thì khi xuất-gia, ta

đang cởi bớt đi, để qua một b

ên các lo-lắng về gia-

đ

ình. Còn ràng-buộc ở cõi Trời là gì?

Đó l

à phải tái-sanh lại ở các cõi khác, khi

đ

ã hưởng hết phước nơi cõi Trời. Bực La-hán chẳng còn tái-sanh nữa, nên thoát

được mọi

hệ-lụy.

(299).- Tích chuyện trưởng-lão Na-ta-bút (2)

Tích chuyện nầy trùng với Tích chuyện số (298), tên và sự-việc giống nhau, nhưng lại xảy ra ở hai nơi khác.

Vào một thời kia,

Đức Phật ngụ tại tịnh-xá Trúc-lâm, gần th

ành Vương-xá, trong kỳ giảng-pháp, có

đề-cập đến Trưởng-l

ão Na-ta-bút.

Thuở ấy, ở thành Vương-xá có người tên Na-ta-bút rất ham múa hát. Một hôm,

được nghe Đức Phật giảng-pháp, Na-ta-bút liền xin quy-y v

à thọ-giới tỳ-kheo. Do tu-tập tinh-tấn, chẳng bao lâu Na-ta-bút chứng

được quả-vị A-la-hán. Các bạn đồng-tu hỏi, bây giờ c

òn ham-mê ca múa nữa không, Na-ta-bút lắc

đầu. Đức Phật bảo

: "Na-ta-bút chứng quả A-la-hán,

đ

ã buông-bỏ mọi ham-thích về muôn sự-vật."

Rồi

Đức Phật nói l

ên bài Kệ sau

đây

:

Người

đ

ã bỏ

điều thích, điều phiền,

Kiên-trì, chẳng ô-nhiễm, thản-nhiên,

Khắc-phục xong thế-giới ‘n

ăm uẩn’,

Như-Lai gọi là Bà-la-môn.

(Kệ số 418.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Na-ta-bút: tên vị Trưởng-lão, tiếng Pali là: Nataputtaka.

- Trúc-lâm: tịnh-xá Veluvana ở gần thủ-

đô

Vương-xá (Ràjagaha) thuộc nước Ma-kiệt-

đ

à (Magadha).

- Kiên-trì: Kiên =kiên-nhẫn, bền chí; Trì = giữ. Kiên-trì = rất bền chí

- Khắc-phục: thắng

được, bắt phải theo lịnh m

ình.

- Thế-giới ‘n

ăm uẩn’

= là thân-tâm con người gồm có n

ăm

uẩn: (1)sắc-uẩn, thân vật-chất; (2) thọ-uẩn, các cảm-thọ; (3) tưởng-uẩn, các tư-tưởng; hành-uẩn, các hành-

động; (5)

thức-uẩn, các hiểu-biết. Sắc-uẩn thuộc về thân; tâm thì gồm bốn uẩn còn lại.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện: giống Tích chuyện trước.

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 418:

Bài Kệ nêu nhiều

đức-tánh của bực A-la-hán, xin lần-lượt phân-tách:

1) ‘Người

đ

ã bỏ

điều thích, điều phiền’:

Thông thường, hễ gặp việc vừa ý, mình thích, muốn có hoài; gặp việc trái ý, mình ghét, muốn bỏ mau

đi. Tánh phân-biệt so-đo đó gây th

êm

đau-khổ. Người

thản-nhiên,

điềm-tĩnh,

chẳng quá vui, cũng chẳng quá buồn, tâm quân-bình, thanh-thản, là

đang sống trong sự an-lạc; vui v

ì nhờ chẳng cảm thấy phiền, an-lạc vì vắng bóng phiền-não ở nơi tâm.

2) ‘Kiên-trì, chẳng ô-nhiễm, thản-nhiên’: Ba

đức-tánh nầy giúp cho tâm an-tịnh.

Kiên-trì là bền-chí, nhẫn-nại trước sự trái-ý. Chấp-nhận sự-việc trái-ý là tránh cho sự buồn-phiền nổi lên trong tâm:

đang gặp chuyện khó, đó l

à một mối khổ, rồi lại nổi lên sự giận-ghét việc khó

đó, l

à

đang chồng th

êm một nổi khổ nữa cho tâm. Vậy, sự kiên-trì tránh cho ta mối khổ thứ hai

đó,

do chính ta tạo nên.

Chẳng ô-nhiễm là chẳng

để ho

àn-cảnh lôi-cuốn tâm;

đây l

à mình làm chủ tâm mình,

đồng-thời cũng l

àm chủ luôn cả hoàn-cảnh. Muốn chẳng bị ô-nhiễm, phải tỉnh-giác đề-phòng, giữ tâm lắng-yên, mặc cho cảnh bên ngoài có cám-dỗ, có thúc-dục, mình cứ giữ vững.

Thản-nhiên là "như-như chẳng

động

", việc

đâu c

òn có

đó, vội g

ì mà phải sợ cuống lên. Nếu biết kiên-trì, nếu biết giữ chẳng ô-nhiễm, thì thái-

độ

thản-nhiên sẽ tự

đến cho m

ình.

3) ‘Khắc-phục xong thế-giới n

ăm uẩn’

:

Câu nầy có nghĩa là mình làm chủ cả thân-tâm của mình. Làm chủ bằng cách nào? Làm chủ thân-tâm bằng sự tỉnh-giác, làm gì, nói gì, nghĩ gì, cũng biết chính mình

đang l

àm,

đang nói, đang nghĩ

; chớ chẳng phải cái máy đang làm, cái loa đang nói, hay con vẹt lia-lia cái mỏ mà chẳng hiểu nó

đang nóí g

ì.

Tóm lại, bực A-la-hán chính là người tỉnh-giác, làm chủ

được thân-tâm, n

ên lúc nào cũng thản-nhiên, chẳng mảy may xao-

động trước ho

àn-cảnh xung quanh. Tập

đến được mức đó, cần phải

kiên-trì.

Trên

đây l

à ý-nghĩa của bài Kệ số 418, mà cũng là

đường-lối tu-tập chung cho cả hai: xuất-gia v

à tại-gia. Bực xuất-gia sẽ chứng

được A-la-hán, sống tự-tại trong cảnh-giới Niết-B

àn. Còn người tại-gia, tuy chưa chứng A-la-hán, nhưng tu-tập

được

tánh thản-nhiên, tâm thanh-tịnh, thì ngưỡng cửa an-lạc của Niết-Bàn tại thế-gian nầy cũng gần kề.

(300).- Tích chuyện Trưởng-lão V

ăn-di-sa.

Vào một thời kia,

Đức Phật ngụ tại ch

ùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có

đề-cập đến Trưởng-l

ão V

ăn-di-sa.

Thuở ấy, ở thành Vươbg-xá có một người Bà-la-môn tên V

ăn-di-sa có được biệt-t

ài mỗi khi gõ vào

đầu-lâu người chết th

ì biết kẻ ấy tái-sanh về

đâu. Văn-di-sa c

ùng một nhóm Bà-la-môn,

đi khắp xóm l

àng, rao lên ai chịu trả hai mươi

đồng, th

ì nói cho biết thân-nhơn

đ

ã mất, nay sanh về

đâu.

Họ

đi dạo như thế, cho đến một hôm tới gần ch

ùa Kỳ-viên, nơi

đông-đảo dân chúng đang tu-tập nghe Đức Phật giảng-pháp. Họ bảo, ở đây, có B

à-la-môn V

ăn-di-sa t

ài-giỏi lắm, biết cả nơi thác-sanh của người chết. Dân-chúng chẳng tin, thách họ vào gặp

Đức Phật. Bấy giờ Đức Phật mới sai các tỳ-kheo đem lại năm cái đầu-lâu của năm người, sắp th

ành một hàng: kẻ bị sa

điạ-ngục, kẻ bị đoạ v

ào loài súc-sanh, kẻ

được tái-sanh l

àm người, kẻ

được sanh l

ên Trời và một chiếc của vị chứng A-la-hán. V

ăn-di-sa nói đúng bốn cái trước, c

òn

đầu-lâu thứ năm hắn chẳng biết thác-sanh về đâu. Đức Phật bảo

: "Nầy V

ăn-di-sa, ông chẳng biết được nơi thác-sanh của người chủ đầu-lâu chót nầy

; nhưng ta biết

được.

" V

ăn-di-sa mới hỏi Phật nhờ thần-chú n

ào mà biết

được, hắn muốn học thần-chú đó được không. Đức Phật đáp, muốn học th

ì trước phải làm lễ thọ-giới tỳ-kheo. V

ăn-di-sa bảo mấy người B

à-la-môn ra về

đi, c

òn mình ở lại chùa tu-tập.

Được Đức Phật chỉ-dạy phép

quán thân bất-tịnh với ba mươi hai chỗ ô-uế bên trong thân, V

ăn-di-sa nỗ-lực tu-tập quán-chiếu, chẳng bao lâu chứng-đắc được quả-vị A-la-hán.

Hai bài Kệ sau

đây được Đức Phật nói l

ên khi nhắc

đến việc Trưởng-l

ão V

ăn-di-sa đắc quả A-la-hán:

Người khéo vượt qua, hiểu triệt-

để

Lẽ sống chết của mọi chúng-sanh,

Vô-nhiễm, giác-ngộ Tứ-diệu-

đế,

Như-lai gọi là Bà-la-môn.

(Kệ số 419.)

Bực mà người, Trời, Càn-thát-bà,

Chỗ thọ-sanh, chẳng tìm ra

được,

Lậu-hoặc-tận, chứng A-la-hán,

Như-Lai gọi là Bà-la-môn.

(Kệ số 420.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- V

ăn-di-sa:

tên vị Trưởng-lão, tiếng Pali là: Vangisa.

- Vương-xá: tên thủ-

đô

Ràjagaha của nước Ma-kiệt-

đ

à (Magadha)

- Đầu-lâu: xương sọ người chết.

- Tái-sanh: Tái = một lần nữa; sanh = sanh ra. Theo thuyết Luân-hồi của nhà Phật, chúng-sanh khi chết

đi, t

ùy theo nghiệp mà sanh trở lại.

- Thác-sanh, Thọ-sanh = đồng-nghĩa với tái-sanh.

- Súc-sanh = thú-vật.

- Thần-chú: còn gọi là chơn-ngôn, các lời nói bí-mật, tin rằng có hiệu-lực phi-thường.

- Lễ thọ-giới tỳ-kheo: lễ nhận tuân theo 250 giới-cấm của tỳ-kheo.

- Quán thân bất-tịnh = suy-xét sâu-xa về lẽ trong thân-thể con người có nhiều chỗ dơ-dáy, như mủ,

đờm, nước tiểu, gh

èn, v.v. Phép quán thân bất-tịnh nằm trong Pháp Tứ-niệm-Xứ ( = bốn

đề-t

ài quán-chiếu: (1) thân bất-tịnh, (2) thọ là khổ; (3) tâm vô-thường; (5) pháp vô-ngã.

- Triệt-

để: Triệt

= thấu tận; Để = đáy. Hiểu triệt-

để

là hiểu cặn-kẽ.

- Vô-nhiễm = chẳng dính dơ, chẳng lây chỗ xấu.

- Giác-ngộ: Giác = biết; Ngộ = hiểu. Giác-ngộ là hiểu-biết suốt cả.

- Tứ-diệu-

đế

= bốn Chơn-lý nhiệm-mầu: (1) Khổ-

đế,

đời là khổ; (2) Tập-

đế,

nguyên-nhơn gây ra Khổ là tham-ái; (3) Diệt-

đế,

cảnh-giới

đ

ã diệt hết Khổ, tức là Niết-Bàn; (4) Đạo-đế, con

đường Thánh-đạo đưa đến sự diệt Khổ vĩnh-viễn, tức l

à Bát-Chánh-

đạo.

- Càn-thát-bà: Gandhabba, Hương-thần hay Nhạc-thần, một hạng chúng-sanh trên cõi Trời.

- Lậu-hoặc-tận = diệt hết các lậu-hoặc, tức là các phiền-não, như tham, sân, si, mạn, nghi, ác-kiến, v.v.(Lậu-hoặc = phiền-não; tận = dứt)

- A-la-hán: Arahant, quả-vị thứ tư cao nhứt, chứng

được

vô-sanh.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện thuật lại việc V

ăn-di-sa có t

ài

đặc-biệt biết được nơi thác-sanh của ngư

òi chết, bằng cách gõ vào

đầu-lâu. Đến khi gặp Phật, Văn chẳng biết nơi thác-sanh của vị A-la-hán, mới xin quy-y, rồi nỗ-lực tu-tập, sau chứng được quả A-la-hán.

Ý-nghĩa của Tích chuyện là: biết

được nơi thác-sanh của kẻ khác chưa đủ, phải tu-tập th

êm

để chứng được

vô-sanh (chứng quả A-la-hán)mới hết bị vướng vào vòng lẩn-quẩn khổ-

đau của Luân-hồi.

(2) Ý-nghĩa của hai bài Kệ số 418 và 419:

Bài Kệ trước nói về sự giác-ngộ của bực A-la-hán; bài Kệ sau nói về sự vô-sanh của bực A-la-hán. Xin phân-tách từng câu cả hai bài:

Bài Kệ số 418:

1) ‘Người khéo vượt qua, hiểu triệt-

để, Lẽ sống chết của mọi chúng-sanh’

:

(a) "Khéo vượt qua"

được

giải-thoát, dứt mọi ràng-buộc. (b)"Hiểu triệt-

để lẽ sống-chết của mọi chúng-sanh

" là giác-ngộ

được lẽ sanh-tử,

biết thấu-suốt chúng-sanh từ

đâu tới, sống đau-khổ như thế n

ào, rồi sẽ

đi về đâu, v

à làm sao thoát

được khổ vĩnh-viễn.

2) ‘Vô-nhiễm, giác-ngộ Tứ-diệu-

đế’

:

(a)Vô-nhiễm là bực Thánh chẳng bị nhuốm dơ, làm chủ

được

tâm bên trong và hoàn-cảnh bên ngoài. (b)"Giác-ngộ Tứ-diệu-

đế

" là thông-suốt Chánh-pháp, hiểu rõ bốn Chơn-lý Nhiệm-mầu, biết Khổ do

đâu sanh, biết cách diệt-trừ

Khổ

Bài Kệ số 419:

3) ‘Bực mà người, Trời, Càn-thát-bà, Chỗ thọ-sanh, chẳng tìm ra

được’:

xin viết lại cho xuôi câu: "Bực mà Trời, Người còn chẳng biết

được nơi thọ-sanh

". Tại sao chẳng biết

được nơi thọ-sanh của bực ấy

? Vì bực ấy

đ

ã chứng vô-sanh, đâu còn tái-sanh lại nữa mà có chỗ thọ-sanh để biết được. Đó là bực hoàn-toàn giải-thoát khỏi cảnh Luân-hồi.

4) ‘Lậu-hoặc-tận, chứng A-la-hán’: (a) Dứt

được mọi

lậu-hoặc là dẹp xong mọi phiền-não, thân-tâm hoàn-toàn thanh-tịnh. (b) Chứng A-la-hán

đắc được

vô-sanh, chẳng còn sanh-tử, tử-sanh, trôi l

ăn trong cảnh Khổ của Luân-hồi. Chớ lầm

Vô-sanh là diệt mất hết; phải hiểu: Vô-sanh = Vô tái-sanh, chẳng còn bị nghiệp lôi-kéo trôi l

ăn trong sáu nẻo của Luân-hồi, nay được

tự-tại, an-nhiên mãi nơi cảnh Niết-Bàn

(301).- Tích chuyện Ni-bà

Đ

àm-ma.

Vào một thời kia,

Đức Phật ngụ tại tịnh-xá Trúc-lâm, gần th

ành Vương-xá, trong một kỳ giảng-pháp, có

đề-cập đến Ni-b

à

Đ

àm-ma.

Thuở ấy, ở thành Vương-xá, có một vị ưu-bà-tắc tên là Vi-sa-kha, nhà giàu, nhờ nghe

được Đức Phật giảng-pháp m

à chứng

được quả-vị A-na-h

àm. Một hôm, vị ấy nói vợ rằng: "Kể từ nay, xin bà nhận lấy hết tài-sản sự-nghiệp nầy, tôi chẳng còn muốn dự vào việc nhà nữa." Người vợ là bà

Đ

àm-ma liền

đáp:

"Ai lại dại gì nuốt vào

đờm-d

ãi của kẻ khác

đ

ã phun nhổ ra? Tôi xin phép ông, kể từ nay,

được xuất-gia l

àm tỳ-kheo-ni." Sau khi

được chồng đồng-ý, b

à xin thọ-giới tỳ-kheo-ni, rồi theo các vị ni-cô khác

đến một tu-viện nhỏ trong l

àng vắng, nỗ-lực tu-tập, chẳng bao lâu, chứng

được quả-vị A-la-hán v

à trở lại thành Vương-xá. Người chồng

đến thăm, muốn thử xem sức học Đạo của b

à

Đ

àm-ma

đến mức n

ào, mới hỏi thế nào là bốn Đạo, bốn Quả.

Đ

àm-ma trả lời rất rõ ràng thấu-

đáo về ba Đạo-Quả đầu, đến Đạo-Quả thứ tư, ông Vi-sa-kha chẳng hiểu nổi, mới hỏi th

êm. Bà

Đ

àm-ma nói: "Ông còn chưa

đủ sức để hiểu r

õ

Đạo v

à Quả của bực A-la-hán; nếu ông muốn biết, thì tới thưa với

Đức Phật.

" Ông Vi-sa-kha mới

đến tr

ình Phật.

Đức Phật nói

: "Nầy Vi-sa-kha, tỳ-kheo-ni

Đ

àm-ma

đ

ã trả lời câu hỏi của ông rồi; ông có hỏi thêm, ta cũng chỉ

đáp như thế.

"

Đức Phật nói như thế l

à có ý bảo Bà

Đ

àm-ma nay

đ

ã chứng quả-vị A-la-hán, nhìn thấy rõ trình-

độ tu-tập của chồng.

Rồi

Đức Phật nói l

ên bài Kệ sau

đây

:

Người chẳng hề bám-víu vào chi

Trong quá-khứ, vị-lai, hiện-tại,

Chẳng nắm giữ, vì chẳng có gì,

Như-Lai gọi là Bà-la-môn.

(Kệ số 421.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Ni-bà: hay Sư-bà, vị tỳ-kheo-ni cao-cấp, ngang hàng với bực Hoà-thượng bên Nam-giới.

-

Đ

àm-ma: tên vị Ni-bà, tiếng Pali là Dhammadinnà.

- Ưu-bà-tắc: còn gọi là cận-sự-nam, tiếng Pali là Upàsaka, người thiện-nam tu tại-gia,

đến ch

ùa làm công-quả. Nữ-giới là Ưu-bà-di, hay cận-sự-nữ, tiếng Pali là Upàsika.

- Vi-sa-kha: tên vị Ưu-bà-tắc nầy, tiếng Pali là Visàkha.

- A-na-hàm: Anàgàmi, quả-vị thứ ba, còn gọi là Bất-Lai, nghĩa là chẳng sanh lại cõi Người nữa, sanh lên Trời, tu tiếp chứng A-la-hán.

- A-la-hán: Arahant, quả-vị cao nhứt, chứng

được

vô-sanh. Chữ A-la-hán có ba nghĩa: (1) ứng-cúng, xứng-

đáng được sự cúng-dường của Trời, Người; (2)

sát-tặc, giết hết giặc, giặc phiền-não như tham, sân, si; (3) vô-sanh, tức là vô-tái-sanh, chẳng còn sanh lại trong cõi Luân-hồi nữa, mà tự-tại trong cảnh-giới Niết-bàn an-lạc.

-

Đờm-d

ãi = chất nhờn dơ trong miệng khạc phun ra.

- Xuất-gia: Xuất = ra khỏi; Gia = nhà; Xuất-gia là lìa nhà

đi tu ở ch

ùa

- Tỳ-kheo-ni: Bhikkhuni, nữ tu-sĩ Phật-giáo, tuân theo 350 giới-cấm

-

Đạo, Quả: Đạo

=

con

đường, đường-lối tu-tập,

Pali là Magga; Quả = kết-quả của việc tu-tập thành-công, Pali là Phala. Trong hàng Thanh-v

ăn

(Savaka), các

đệ-tử sống gần b

ên Phật, nghe kinh mà tu-tập, có bốn Đạo và bốn Quả: (1) Tu-

đ

à-hườn-hướng và Tu-

đ

à-huờn-quả; (2) Tư-

đ

à-hàm-hướng và Tư-dà-hàm-quả; (3) A-na-hàm-hướng A-na-hàm-quả; (4) A-la-hán-hướng A-la-hán-quả.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện rất ý-nhị: chồng muốn giao sản-nghiệp cho vợ

để lo đường tu-h

ành; vợ bảo, ai thèm nhận gánh-nặng

đó v

à xin xuất-gia. Vợ tu ở chùa, mau chứng quả A-la-hán. Chồng tu tại-gia chỉ chứng quả thứ ba là A-na-hàm, muốn thử xem vợ tu

đến bực n

ào.

Đến chừng vợ nói đến

đạo-quả A-la-hán, chồng chẳng hiểu nổi,

đi hỏi Phật, mới vở lẽ vợ m

ình

đ

ã

đắc quả Thánh, m

ình còn thua một bực.

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 421:

Bài Kệ rất rõ nghĩa: bực A-la-hán xả-ly tất cả, nên

được ho

àn-toàn giải-thoát. Xả-ly ( =bỏ) những gì? Tất cả, từ quá-khứ, hiện-tại

đến tương-lai.

Ý-nghĩa thâm-trầm nhứt là ở câu thứ ba: "Chẳng nắm-giữ, vì chẳng có gì", còn gì

đâu nữa m

à nắm giữ, thân-tâm có cũng như không, sống chết xem ngang nhau, an-nhàn, tự-tại nơi cảnh Niêt-bàn.

(302).- Tích chuyện Trưởng-lão Chỉ-man.

Tích chuyện nầy tiếp theo Tích chuyện về Trưởng-lão Vô-não, số 142.

Vào một thời kia,

Đức Phật ngụ tại ch

ùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có

đề-cập đến Trưởng-l

ão Chỉ-man.

Thuở ấy, vua Ba-tư-nặc và Hoàng-hậu Mạt-lợi, xứ Câu-tát-la, thiết-lập một trai-

đ

àn

Đại-bố-thí để dưng-cúng lễ-vật v

à thực-phẩm lên

Đức Phật v

à n

ăm trăm vị tỳ-kheo. Buổi lễ được tổ-chức vô c

ùng trọng-thể: mỗi vị tỳ-kheo

được che mát tr

ên

đầu, bằng một chiếc lọng gấm trắng, do một con voi được luyện tập thuần-thục cầm giữ. Tuy nhi

ên, số voi

được huấn-luyện c

òn thiếu một, phải

đem một con đại-tượng chưa được tập-luyện cầm lọng che cho Trưởng-l

ão Chỉ-man. Con

đại-tượng ng

ày thường rất hung-h

ăng, nhưng khi Trưởng-l

ão

đến gần nó, nó lại tỏ ra ngoan-ngo

ãn,

đứng y

ên chẳng gây chút trở-ngại.

Sau buổi lễ, các vị tỳ-kheo hỏi Trưởng-lão Chỉ-man có sợ-hãi ch

ăng, khi đứng gần con đại-tượng hung-hăng. Trưởng-l

ão

đáp, không. Đức Phật bảo

: "Nầy chư T

ăng, người đ

ã chứng

được quả-vị A-la-hán như tỳ-kheo Vô-n

ão

đâu c

òn sợ-hãi

điều g

ì nữa, nói chi là con

đại-tượng.

"

Rồi

Đức Phật nói l

ên bài Kệ sau

đây

:

Bực ngưu-vương chẳng hề úy-kỵ,

Bực

đại-sĩ anh-h

ùng cao-quí,

Bực chiến-thắng, chẳng hề nhiễm-ô,

Bực tẩy-tịnh, bực

đại-giác-ngộ,

Như-lai gọi là Bà-la-môn.

(Kệ số 422.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

- Chỉ-man: Chỉ = ngón tay; Man = chùm. Tên thật của Trưởng-lão là Ahimsaka, dịch là Vô-não ( = chẳng gây phiền-não cho ai), nhưng vì theo ngoại-

đạo, giết người lấy ngón tay kết th

ành chùm,

đeo ở ngực, n

ên người

đời gán cho t

ên là Angulimàla, phiên-âm là Ương-quật ma-la, dịch là Chỉ-man. Xem tiểu-sử ở Tích chuyện số 142.

- Ba-tư-nặc, Mạt-lợi: tên tiếng Pali là Pasenadi Mallikà.

- Câu-tát-la: tên xứ nầy tiếng Pali là Kosala.

- Trai-

đ

àn:

thiết-lập một

đ

ài cao

để cúng-dường v

à nghe pháp

- Chiếc lọng = một cây dù lớn,

đẹp, mặt tr

ên tròn, bằng-phẳng.

- Đại-tượng = con voi lớn.

- Ngưu-vương: Ngưu = trâu; vương = vua. Ngưu-vương là trâu chúa

- Úy-kỵ = Úy =sợ; Kỵ = chống-

đối.

Úy-kỵ = sợ-hãi và lo ngại.

- Đại-sĩ: Đại = lớn; Sĩ = bực tôn-quí. Kinh sách Bắc-tông gọi cấp Bồ-tát là Đại-sĩ, như Bồ-tát Quán-âm gọi là Quán-âm

đại-sĩ

.

- Tẩy-tịnh: Tẩy = rửa;Tịnh = sạch. Bực tẩy-tịnh là bực rất trong-sạch

- Đại-giác-ngộ: Đại = lớn; Giác = biết; Ngộ = hiểu. Bực đại-giác-ngộ là bực

đ

ã thông hiểu hoàn-toàn về lẽ sống-chết của chúng-sanh.

- Bà-la-môn: Brahmana, giai-cấp tu-sĩ xưa ở Ấn-

độ. Trong các b

ài Kệ của Phẩm Bà-la-môn nầy, chữ Bà-la-môn lại có nghĩa là A-la-hán.

B.- Nghĩa Ý:

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện rất giản-dị: Trưởng-lão Chỉ-man chẳng hề sợ-hãi khi

đứng gần b

ên một con

đại-tượng hung-hăng.

Ý-nghĩa của Tích chuyện dẫn

đến b

ài Kệ, nói lên

đức

vô-úy của bực A-la-hán.

(2) Ý-nghĩa của bài Kệ số 422:

Bài Kệ nêu lên các

đức-tánh

quí-báu của bực A-la-hán, trong

đó sự

vô-úy được đề-cao. Có nhiều danh-từ được dùng theo nghĩa tượng-trưng, xin phân-tách ra như sau:

1) Bực ngưu-vương, chẳng hề úy-kỵ: Tánh chẳng hề úy-kỵ, chẳng sợ-hãi gì cả,

được ví với con trâu chúa có sức mạnh hung-hăng.

2) Bực

đại-sĩ:

bực Bồ-tát (Bodhisatta), bực

đ

ã tự-giác, quên nình

đi lo chia-xẻ sự giác-ngộ với kẻ khác (gọi l

à giác-tha)

3) Anh-hùng cao-quí, bực chiến-thắng, chẳng hề nhiễm-ô:: Chiến-thắng ai? Chiến-thắng

được sự cám-dỗ (

= Ma-vương), tội-lỗi.

4) Bực tẩy-tịnh: Tẩy-tịnh là rửa sạch. Rửa cái chi? Rửa sạch cõi lòng, cho tâm

được thanh-tịnh,

khiến cho tội-lỗi chẳng nhiễm

được.

5) Bực

Đại-giác-ngộ:

Sao gọi là đại-giác?

đ

ã tự-giác, đi giác-tha,

đ

ã giác-hành viên-mãn (công-cuộc giáo-hoá chúng-sanh

đ

ã hoàn-tất). Bực Đại-giác chính là

Đức Phật. Ng

ài

đ

ã tự-mình giác-ngộ lấy,

đó l

à tự-giác.

Đi giáo-hoá chúng-sanh trong bốn mươi năm cho họ được giác-ngộ theo, đó l

à giác-tha. Công-cuộc giáo-hoá của Ngài kéo dài

đến phút chót của cuộc đời, để lại

Chánh-pháp cho

đời sau, đó l

à giác-hành viên-mãn.

(303).- Tích chuyện ông

Đề-va-hy.

Vào một thời kia,

Đức Phật ngụ tại ch

ùa Kỳ-viên, nước Xá-vệ, trong một kỳ giảng-pháp, có

đề cập đến vị B

à-la-môn tên là

Đề-va-hy

Thuở ấy, một hôm

Đức Phật bị đau bụng. Ng

ài sai Trưởng-lão Ưu-bà-hoà

đến nh

à vị Bà-la-môn

Đề-va-hy xin nước nóng. Ông Đề-va-hy rất hoan-hỉ được dịp dâng-hiến chút g

ì lên

Đức Phật. Ngo

ài bình nước nóng, ông còn trao cho Trưởng-lão một chén mật-mía nữa, rồi theo chơn Trưởng-lão vào th

ăm-viếng Đức Phật. Trưởng-l

ão pha nước cho

Đức Phật tắm-rửa, xong lấy mật-miá ho

à với nước nóng

đem dâng. Đức Phật uống xong, hết đau bụng. Bấy giờ, vị B

à-la-môn mới thưa: "Bạch Thế-tôn, hiến-tặng cho ai thì

được phước lớn

?"

Đức Phật đáp:

"Nầy

Đề-va-hy, cúng-dường cho bực đ

ã dẹp xong mọi tội-ác sẽ

được lợi-lạc to lớn nhứt.

"

Rồi

Đức Phật nói l

ên bài Kệ sau

đây

:

Bực Thánh biết cả quá-khứ mình,

Thấy cảnh Trời, cùng các

đoạ-xứ,

Ngay

đời nầy, chấm dứt sanh-tử,

Với thắng-trí tự mình cải-tiến,

Hoàn-tất

đạo-quả được vi

ên-thành,

Như-Lai gọi là Bà-la-môn.

(Kệ số 423.)

TÌM HIỂU:

A.- Nghĩa Chữ:

-

Đề-va-hy:

tên vị Bà-la-môn nầy, tiếng Pali là Devahita.

- Ưu-bà-hoà: tên vị Trưởng-lão, tiếng Pali là Upavàna.

- Mật mía = ép mía nấu kẹo lại nước lỏng sền-sệt.

- Cúng-dường: đọc trại chữ Hán-Việt cung-dưỡng, cung-cấp và nuôi dưỡng. Tiếng nhà chùa, chỉ sự dâng-hiến phẩm-vật cho các tu-sĩ.

- Bực Thánh = bực

đ

ã dứt

được

nghiệp, chẳng còn bị tái-sanh trong vòng Luân-hồi (Samsàra) nữa. Trong bốn quả-vị, ba quả Tu-

đ

à-huờn, Tư-

đ

à-hàm, A-na-hàm, vì còn tái-sanh, nên gọi là bực Hiền; đến quả A-la-hán, chứng

được

vô-sanh, nên gọi là bực Thánh.

- Các

đoạ-xứ

= ba nẻo dữ (Apàya)trong cõi Luân-hồi: (1) điạ-ngục; (2) ngạ-quỉ ( = quỉ

đói), (3)

súc-sanh ( = thú-vật).

-Thắng-trí: Thắng = hơn tất cả; Trí- = trí-huệ; Thắng-trí,

đây, l

à Trí-huệ Bát-nhã ba-la-mật, trí-huệ

đưa ta đến

bờ bên kia, bờ giác-ngộ.

- Cải-tiến: Cải = sửa-

đổi;

Tiến = tiến-bộ. Cải-tiến là sửa

đổi tốt hơn.

- Hoàn-tất: Hoàn = tròn; Tất = xong; Hoàn-tất làxong-xuôi hết cả, ở

đây, l

à chứng

được quả-vị A-la-hán, giải-thoát khỏi Luân-hồi.

- Viên-thành: Viên = tròn, trọn; Viên-thành là xong trọn-vẹn.

- Bà-la-môn: giai-cấp tu-sĩ xưa ở Ấn-

độ. Chữ

Bà-la-môn trong Tích chuyện có nghĩa là giai-cấp. Nhưng trong bài Kệ, chữ Bà-la-môn lại có nghĩa là bực A-la-hán.

B.- Nghĩa Ý;

(1) Ý-nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện thuật lại vị Bà-la-môn

Đề-va-hy dâng nước nóng v

à mật mía lên

Đức Phật, rồi hỏi Phật, hiến-tặng cho ai th

ì

được phước lớn. Đức Phật đáp, cúng-dường cho bực Thánh, đ

ã diệt hết tội-ác thì hưởng

được lợi-lạc to-lớn nhứt.

Ý-nghĩa của Tích chuyện: công-

đức bố-thí đem lại phước l

ành to.

(2) Ý-nghĩa bài Kệ số 423:

Bài Kệ nói về bực Thánh: (1)biết

đời quá-khứ, (2) thấy được sáu c

õi trong Luân-hồi, (3)chấm-dứt sự sanh-tử lẩn-quẩn theo nghiệp-báo, (4)dùng thắng-trí tự cải-tiến và (5) hoàn-tất

được các

đạo-quả.

Xin lần-lượt phân-tách n

ăm đ

ìểm vừa nêu:

(1) ‘Biết cả quá-khứ mình’:

đó l

à túc-mạng minh, nhớ lại

được hết các kiếp trước của m

ình;

(2) ‘Thấy cảnh Trời và các

đoạ-xứ’

: đây là thấy rõ cả sáu cõi trong Luân-hồi, gọi là Thiên-nhãn-minh, thấy biết chúng-sanh luân-chuyển theo nghiệp-báo, trong vòng Luân-hồi. Sáu cõi gồm có: ba

đường

lành: cõi người, cõi thần và cõi Trời; ba

đường

dữ: cõi

điạ-ngục

, cõi ngạ-quỉ và cõi súc-sanh.

(3) ‘Ngay

đời nầy, chấm-dứt tử-sanh’:

ngay hiện-

đời, chứng được

vô-sanh, nghĩa là chẳng còn bị tái-sanh lại,

để rồi chết nữa, hết quanh đi quẩn lại trong v

òng

đau-khổ của Luân-hồi, m

à

được tự-tại, an-vui trong cảnh vắng-lặng của Niết-b

àn.

(4) ‘Với thắng-trí, tự mình cải-tiến’: nhờ tu-luyện theo giới,

định, huệ,

giữ giới cho ba nghiệp thân, miệng, ý được thanh-tịnh, tập định cho tâm

được thanh-tịnh, mở-mang được

trí-huệ chói-sáng,

đó l

à tự mình cải-tiến lấy mình, từ phàm-phu trở nên bực hiền-thánh. Nói cách khác, sự tự-cải-tiến

đưa đến sự chấm-dứt tất cả các phiền-n

ão, các lậu-hoặc, khiến thân-tâm hoàn-toàn

được

giải-thoát.

Đây l

à chứng

được

Lậu-tận-minh.

(5)’Hoàn-tất

đạo-quả được vi

ên-thành’: tu-tập tinh-tấn nên lần-lượt chứng

được

bốn

đạo v

à bốn quả, từ cấp Tu-

đ

à-hườn, qua Tư-

đ

à-hàm, A-na-hàm,

để rồi chứng nốt quả-vị

vô-sanh của A-la-hán.

Nói tóm lại, bài Kệ nêu lên sự chứng-

đắc

Tam-minh của bực Thánh: (1) túc-mạng-minh, (2) thiên-nhãn-minh và (3) lậu-tận-minh.

-ooOoo-

Xin thưa nốt vài

điều.

Trước khi chấm dứt việc lược-dịch và tìm hiểu về KINH PHÁP CÚ, Thiện-Nhựt xin

được phép thưa th

êm vài

điều, li

ên-quan

đến bản Kinh v

à cách xử-dụng Kinh nầy trong việc tu-tập.

1) Kinh PHÁP-CÚ, DHAMMAPADA, là quyển thứ hai trong Tiểu-Bộ-Kinh (Khuddhaka Nikàya) thuộc Tạng Kinh (Suttanta Pitaka), trong hệ Pali. Kinh ghi lại 423 bài Kệ ngắn,

được chính Đức Phật Thích-Ca nói l

ên suốt trong thời-gian bốn mươi n

ăm truyền-giảng Chánh-Pháp của Ng

ài,

để dạy cho các đệ-tử xuất-gia cũng như tại-gia. Sau khi Đức Phật nhập Niết-B

àn, các vị Trưởng-lão sợ lời vàng-ngọc của bực

Đạo-sư bị qu

ên-lãng, mới họp nhau lại,

đọc-tụng để ghi nhớ. M

ãi

đến gần ba trăm năm sau, v

ào thời-

đại vua A-dục (

Asoka), Kinh mới

được ghi bằng chữ viết, trong kỳ Kết-tập Kinh-Tạng lần thứ ba.

Các Tích chuyện, gồm có 303 bài, (trong bản Pali ghi là 305 bài, vì Tích-chuyện số (205)

được phân ra l

àm ba bài: Vô-thường, Khổ và Vô-ngã)

được tin rằng do Ng

ài Phật-Âm (Buddhaghosa) chép lại vào khoảng thế-kỷ thứ 5 sau Tây-lịch. Các Tích chuyện dẫn

đến các b

ài Kệ

đ

ã giúp cho việc tìm hiểu Kinh Pháp-cú

được dễ-d

àng hơn.

Kinh Dhammapada

được dịch ra rất nhiều thứ tiếng, xem như một kho-t

àng Chơn-lý rất quí-báu trong v

ăn-chương của nhơn-loại. Bản dịch Anh-văn của Max Muller được xuất-bản năm 1870.

Kinh Pháp-Cú lại

được xem như quyển sách gối đầu giường; các tu-sĩ Nam-tông ngay khi bước v

ào cửa

Đạo, phải học thuộc l

òng các bài Kệ trong Kinh Pháp-Cú, trước khi học các bản Kinh khác.

2) Giữa rừng giáo-lý cao-siêu của

Đức Phật, Kinh Pháp-Cú nổi bật l

ên với những thí-dụ giản-dị, thông-thường, xảy ra hằng ngày, lời chỉ-dạy thật rõ-ràng và thiết-thực:

đó l

à

điễm cao-

quí nhứt của Kinh Pháp-Cú, chẳng những thích-hợp cho các tu-sĩ xuất-gia theo con

đường giác-ngộ v

à giải-thoát, mà còn có ích-lợi to-lớn trong cuộc sống ở xã-hội cho hàng tại-gia, dầu

đó l

à người kiến-thức rộng-rãi, hay người bình-dân ít học.

3) Thiện-Nhựt xin chấp tay sám-hối, trong khi lược-dịch,

đ

ã bỏ bớt nhiều chi-tiết nhiệm-mầu trong các Tích chuyện,

đ

ã viết lại một cách vụng-về bằng v

ăn-vần các b

ài Kệ thâm-trầm

đầy ý-vị trong bản nguy

ên-tác bằng chữ Pali. Mục-

đích l

à khiến cho phần dịch-thuật và tìm-hiểu

được gọn-g

àng và dễ hiểu mà chẳng

đi xa quá với lời giảng-dạy cao-

quí của

Đức Từ-phụ.

Trong phần Tìm Hiểu, vì muốn tránh cho người

đọc phải giở lại các trang phía trước xem lại các danh-từ chuy

ên-môn về Phật-học, nên Thiện-Nhựt

đ

ã giải-nghĩa một danh-từ rất nhiều lần. Tuy nhiên, Thiện-Nhựt nghĩ sự lập-lại đó cũng có một công-dụng là vừa nhắc-nhở người đọc nghĩa

đ

ã

được học qua, vừa nhẹ-nh

àng và từ-từ

đưa cất v

ào tiềm-thức mà chẳng cần phải khổ-công ghi nhớ.

Ước mong to-lớn của Thiện-Nhựt là, khi các Tập sách tìm hiểu về Kinh Pháp-Cú nầy vào tay người

đọc, th

ì chúng sẽ

được xem qua, hơn thế nữa, được đọc l

ên cho con cháu nghe, và quí hơn nữa là

đem các b

ài Kệ ra ngâm-nga cho chính mình nghe, và dùng

để ru cho con cháu ngủ. Nếu một Tích chuyện, một b

ài Kệ, ngay cả một câu Kệ, mà

được người chưa biết chữ Việt chỉ nghe thuật lại m

à

đọc l

ên

được trôi chảy, đem kể lại cho người khác nghe th

êm, chắc-chắn là giáo-lý của

Đức Phật c

òn sống mãi và truyền-tụng mãi trong dân-gian.

Đọc Tích chuyện hiểu được ý-nghĩa thú-vị, tụng bài Kệ thưởng-thức lời dạy quí-báu của

Đức Phật, đó l

à

đang thấy được

hương-vị của bài pháp, gọi là pháp-vị. Nhưng còn phải biết nếm pháp-vị nữa, bằng cách theo

đó m

à tu-tập, tự cải-tiến lấy mình.

Đấy mới l

à cách xử-dụng

đúng-đắn

Kinh Pháp-Cú nầy

đó.

Thành-tâm sám-hối về các lỗi-lầm trong khi lược-dịch và tìm hiểu, Thiện Nhựt cầu mong trên

được các bực cao-minh chỉ dạy th

êm, và chung quanh

được các bạn đạo vui l

òng khuyến-khích.

Montreal, 09 Tháng 04, 2001,

Thiện Nhựt kính thưa.

Sách Tham-khảo:

1. The Dhammaoada, Verses & Stories, Myanmar Pitaka Association, Yangon, 1990.

2. Dhammapada, A Practical Guide To Right Living, Venerable Buddharakkhita, Sukhi Hoti Dhamma Publications.

3. Kinh Pháp Cú, H.T. Minh-Châu, Phật-Học-Viện Vạn Hạnh, Saigon, 1977.

4. Kinh Pháp-Cú, Dhammapada, Venerable Narada, Phạm-Kinh-Khánh dịch, Paris 1981

5. Kinh Pháp-Cú, T.T. Trí-

Đức, Phật-Học-Viện Quốc-Tế, 1985.

-ooOoo-

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top

Tags: