KINH DI LẶC
KINH DI LẶC
NGHI THỨC TỤNG KINH DI LẶC
MẬT NIỆM
(Thắp đèn đốt hương, toàn thể đúng ngay ngắn, chắp tay để ngang ngực, mật niệm)
Tịnh pháp giới chân ngôn
Úm lam sa ha (ba lần)
Lục tự đại minh chân ngôn
Úm ma ni bát mê hồng (ba lần)
(Vị chủ lể quỳ thẳng, cầm ba cây hương, dâng ngang trán, đọc bài nguyện hương)
NGUYỆN HƯƠNG
Nguyện đem lòng thành kính,
Gởi theo đám mây hương.
Phảng phất khắp mười phương’
Cúng dường ngôi Tam bảo.
Thề trọn đời giữ đạo,
Theo tự tánh làm lành.
Cùng pháp giới chúng sinh,
Cầu Phật từ gia hộ:
Tâm Bồ đề kiên cố,
Xa bể khổ nguồn mê,
Chóng quay về bờ giác.
KỲ NGUYỆN
Nay ngày khánh hỷ, đệ tử chúng con, đứng trước Phật đài, chí thành đỉnh lễ, trì tụng kinh chú, xưng tán Từ tôn, kính mong mười phương Tam bảo, Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Long Hoa giáo chủ Di Lặc Tôn Phật, Cực Lạc Giáo Chủ A Di Đà Phật, Đông Phương Giáo Chủ Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Phật, Đại bi Quán Thế Âm Bồ tát, Chư Tôn Bồ tát, Chư Hiền Thánh Tăng, từ bi gia hộ: Đệ tử chúng con thân tâm thanh thái, nghiệp chướng tiêu trừ, thường được an lành, xa lìa khổ ách. Tâm bồ đề kiên cố, chí tu học vững vàng. Tự giác, giác tha, giác hành viên mãn. Phật pháp trường tồn, tuệ đăng thường chiếu, thế giới thanh bình chúng sinh an lạc. Bốn sinh đều lợi, ba cõi cùng nhờ. Pháp giới chúng sinh, cùng thành Phật đạo.
TÁN PHẬT
Đấng Pháp Vương vô thượng,
Ba cõi chẵng ai bằng.
Thầy dạy khắp trời người,
Cha lành chung bốn loại.
Quy y trọn một niệm,
Dứt sạch nghiệp ba kỳ.
Xưng dương cùng tán thán
Ức kiếp không cùng tận.
QUÁN TƯỞNG
Phật chúng sinh tánh thường rỗng lặng,
Đạo cảm thông không thể nghĩ bàn,
Lưới đế châu ví đạo tràng,
Mười phương Phật bảo hào quang sáng ngời,
Trước bảo tọa thân con ảnh hiện,
Cúi đầu xin thệ nguyện quy y.
ĐẢNH LỄ
Chí tâm đảnh lễ: Nam mô tận hư không, biến pháp giới, quá hiện, vị lai thập phương chư Phật, tôn pháp, hiền thánh tăng, thường trụ Tam Bảo. (1 lạy)
Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Sa bà Giáo chủ Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Long Hoa giáo chủ, đương lai hạ sanh Di Lặc tôn Phật, Đại Trí Văn Thù Sư Lỵ Bồ tát, Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ tát, Hộ Pháp chư tôn Bồ tát, Đạo tràng hội thượng Phật Bồ tát. (1 lạy)
Chí tâm đảnh lễ: Nam Mô Tây Phương Cực Lạc thế giới đại từ đại bi A Di Đà Phật, Đại bi Quán Thế Âm Bồ tát, Đại Thế Chí Bồ tát, Đại nguyện Địa Tạng Vương Bồ tát, Thanh Tịnh đại hải chúng Bồ tát. (1 lạy)
TRÌ TỤNG
Cành dương nước tịnh,
Rưới khắp tam thiên.
Tính không tám đức,
Lợi lạc nhân thiên.
Thấm nhuần pháp giới,
Tịnh nghiệp tăng diên.
Phúc sinh tội diệt,
Lửa hóa hồng liên.
Nam mô Thanh Lương Địa Bồ tát ma ha tát (ba lần)
CHÚ ĐẠI BI
Nam Mô Đại Bi Hội thượng Phật Bồ tát (ba lần)
Thiên Thủ Thiên Nhãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni:
Nam mô hát ra đát na đá ra dạ gia.
Nam mô A rị gia bà lô kiết đế thước bát ra gia. Bồ đề tát đỏa bà gia. Ma ha tát đõa bà gia.
Ma ha ca rô ni ca gia.
Úm tát bàn ra phạt duệ số đát na đát tả.
Nam mô tất kiết lật đỏa y mông a rị gia, bà lô kiết đế thất Phật ra lăng đà bà.
Nam mô na ra cẩn trì, hệ rị ma ha bàn đa sa mế.
Tát bà a tha đậu du bằng, a thệ đựng, tát bà tát đá na ma bà già ma phạt đặt đậu.
Đát điệt tha. Úm a bà lô hê, lô ca đế, ca ra đế.
Di hê rị, ma ha bồ đề tát đỏa, tát bà tát bà, ma la ma la.
Ma hê ma hê, rị đà đựng, cu ru cu ru kiết mông.
Cu ru cu ru, phạt xà gia đế. Ma ha phạt xà gia đế.
Đà ra đà ra địa rị ni, thất Phật ra gia.
Giá la giá la, mạ mạ phạt ma ra, mục đế lệ.
Y hê, y hê, thất na thất na, a ra sâm Phật ra xá lị.
Phạt sa phạt sâm, Phật ra xá gia. Hu lu hu lu ma la.
Hu lu hu lu hê lị, sa ra sa ra, si ri si ri, su ru su ru.
Bồ đề dạ, bồ đề dạ, bồ đà dạ, bồ đà dạ.
Di đế rị gia, na la cẩn trì, địa rị sắt ni na.
Ba dạ ma na sa bà ha. tất đà dạ sa bà ha. Ma ha tất đà dạ sa bà ha.
Tất đà dủ nghệ thất bàn ra dạ sa bà ha. Na la cẩn trì, sa bà ha.
Ma ra na ra sa bà ha. Tất ra tăng a mục khê da, sa bà ha.
Sa bà ma ha, a tất đà dạ, sa bà ha. Giả kiết ra a tất đà dạ, sa bà ha.
Ba đà ma kiết tất đá dạ, sa bà ha. Na la cẩn trì bàn già ra gia, sa bà ha.
Ma bà rị thắng kiết ra dạ, sa bà ha.
Nam mô hát ra đát na đá ra dạ gia.
Nam mô a rị gia bà lô kiết đế, thước bàn ra dạ, sa bà ha.
Úm tất điện đô mạn đá ra bạt đà gia, sa bà ha. ( ba lần )
SÁM NGUYỆN
Đệ tử kính lạy,
Đức Phật Thích Ca,
Phật A Di Đà.
Thập phương chư Phật,
Vô lượng Phật Pháp,
Cùng thánh hiền Tăng.
Đệ tử lâu đời lâu kiếp,
Nghiệp chướng nặng nề,
Tham giận kiêu căng,
Si mê lầm lạc.
Ngày nay nhờ Phật,
Biết sự lỗi lầm,
Thành tâm sám hối,
Thề tránh điều dữ,
Nguyện làm điều lành.
Ngữa trông ơn Phật,
Từ bi gia hộ,
Thân không tật bệnh,
Tâm không phiền não.
Hằng ngày an vui tu tập,
Pháp Phật nhiệm mầu.
Để mau ra khỏi luân hồi,
Minh tâm kiến tánh,
Trí tuệ sáng suốt,
Thần thông tự tại.
Đặng cứu độ các bậc tôn trưởng,
Cha mẹ anh em,
Thân bằng quyến thuộc,
Cùng tất cả chúng sinh,
Đồng thành Phật đạo.
TÁN HƯƠNG
Lò hương vừa đốt
Cõi Phật thơm lây
Chư Phật bốn biển đều xa hay.
Thấu tâm thành này,
Chư Phật hiện thân ngay.
Nam mô Hương Vân Cái Bồ tát ma ha tát ( ba lần)
Chân ngôn sạch nghiệp khẩu
Tu rị, tu rị, ma ha tu rị, tu tu rị, sa bà ha ( ba lần)
Chân ngôn sạch nghiệp thân
Tu đa rị, tu đa rị, tu ma rị, sa bà ha ( ba lần)
Chân ngôn sạch ba nghiệp
Úm sa phạt bà phạ, truật đà sa phạ, đạt ma sa phạ, bà phạ truật độ hám. ( ba lần)
Chân ngôn an thổ địa
Nam mô tam mãn đá một đà nẫm, úm độ rô độ rô địa vĩ, sa bà ha. ( ba lần)
Chân ngôn phổ cúng dường
Úm nga nga nẵng tam bà phạt phiệt nhật la hộc. ( ba lần)
TỤNG KINH PHÁT NGUYỆN
Kính lạy tam giới tôn,
Quy mệnh mười phương Phật,
Con nay phát nguyện rộng,
Trì tụng kinh Di Lặc.
Trên đền bốn ơn nặng,
Dưới cứu khổ ba đường.
Nếu ai thấy, nghe được,
Đều phát lòng Bồ đề.
Khi hết báo thân này,
Dự vào Long Hoa hội.
Nam mô Long Hoa Giáo Chủ Đương Lai Hạ Sanh DI Lặc Tôn Phật (ba lần)
KỆ KHAI KINH
Pháp Phật cao siêu rất nhiệm mầu,
Ngàn muôn ức kiếp dễ hay đâu.
Con nay nghe thấy xin vâng giữ,
Chân nghĩa Như Lai hiểu thật sâu.
Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. ( ba lần)
Nam mô Đạo Tràng Hội Thượng Phật Bồ tát. ( ba lần)
PHẬT THUYẾT KINH QUÁN DI LẶC BỒ TÁT THƯỢNG SINH ĐÂU SUẤT THIÊN
Chính tôi được nghe, vào một thời kia, đức Phật trụ tại vườn Cấp Cô Độc, rặng cây Kỳ Đà, thuộc nước Xá vệ.
Bấy giờ Thế Tôn cử động thân thể, phóng ra hào quang. Hào quang sắc vàng, quanh vườn Kỳ Đà. Quanh suốt bảy vòng, rồi chiếu vào nhà ông Tu Đạt (2) ở. Hào quang chiếu này cũng bằng sắc vàng. Hào quang vàng này, như từng đám mây lan tỏa cùng khắp cả nước Xá Vệ. Lan tới chổ nào, nơi ấy đều mưa.
Sau đó, Ngài lại hóa hoa sen vàng. Trong mổi hào quang hóa hoa sen vàng, trong đó có đến vô lượng trăm ngàn chư đại hóa Phật, và mổi hóa Phật, đều xướng lên rằng: “ Nay ở trong này có ngàn bồ tát, sẽ thành Phật đạo. Đầu tiên thành Phật, Ngài Câu Lưu Tôn. Và thời sau cùng, vị được thành Phật là ngài Lâu Chí ”.
Các vị hóa Phật, nói lời ấy rồi, ông Kiều Trần Như, từ thiền định dậy, cùng với hai trăm năm mươi quyến thuộc cùng đến nơi Phật. Ngài Đại Ca Diếp cũng cùng hai trăm năm mươi quyến thuộc, cùng đến nơi Phật. Đại Mục Kiền Liên cũng cùng hai trăm năm mươi quyến thuộc, cùng đến nơi Phật. Tôn giả Xá Lỵ cũng cùng hai trăm năm mươi quyến thuộc, cùng đến nơi Phật. Tu Đạt trưởng giả cũng cùng ba ngàn vị Ưu bà Tắc (3), cùng đến nơi Phật. Tỳ Xá Khư Mẩu cũng cùng hai ngàn vị Ưu bà Di (4), cùng đến nơi Phật. Chúng đại Bồ tát gồm mười sáu vị như là Bồ tát Bạt Đà Bà La..., cũng đến nơi Phật. Ngài pháp vương tử (5) Văn Thù Sư Lỵ cũng cùng năm trăm vị Bồ tát khác cùng đến nơi Phật. Cả đến các vị Thiên, Long, Dạ Xoa, cùng Càn Thát Ba..., hết thảy đại chúng, thấy hào quang Phật, đều cùng vân tập đến nơi Phật trụ.
Bấy giờ Thế Tôn lại phóng thêm ra hàng ngàn hào quang tướng quảng trường thiệt. Trong mổi hào quang, có ngàn màu sắc, có nhiều hóa Phật. Các hóa Phật ấy, tuy rằng khác miệng, nhưng đồng âm thanh, đều nói lên rằng: “Các đại Bồ tát đều thanh tịnh nầy, có Đà ra ni (6) rất sâu vi diệu không thể nghĩ bàn như: đà ra ni mục khư, đà ra ni không tuệ, đà ra ni vô ngại tính, đà ra ni đại giải thoát vô tướng”.
Khi ấy Thế Tôn dùng một âm thanh nói ra trăm ức môn đà ra ni. Lúc Thế Tôn nói đà ra ni song, ở trong pháp hội có một Bồ tát tên là Di Lặc, nghe lời Phật nói tức thời chứng được hàng trăm vạn ức môn đà ra ni, và ngay sau đó, Bồ tát Di Lặc, liền từ tòa ngồi, nghiêm chỉnh y phục, xoa tay. chắp tay, đứng ngay trước Phật.
Và, cùng khi ấy, ông Ưu Bà Ly, từ tòa đứng dậy, đầu diện tác lễ, bạch đức Phật rằng:“ Kính bạch Thế Tôn, xưa kia khi Thế Tôn nói trong kinh luật rằng, A Dật Đa sẽ được thành Phật, ở đời sau nầy. Nay con thấy rằng ông A Dật Đa vẫn còn đầy đủ tấm thân phàm phu và chưa dứt hết được các lậu hoặc. Khi Di Lặc mất sẽ sinh nơi nào? Bản thân Di Lặc, con người hiện nay, tuy là xuất gia, không tu thiền định, không dứt phiền não. Thế Tôn thụ ký (7) cho ông Di Lặc con không dám nghi. Nhưng, con muốn biết, khi ông mất rối, sinh vào nước nào?
Thế Tôn liền bảo ông Ưu Bà Ly:“ Ông hãy nghe kỹ, nghe cho thật kỹ và khéo nhớ nghĩ, nay Như Lai đây, bậc Chánh biến tri, ở trong chúng này, nói về Di Lặc bậc đại bồ tát, thụ ký vô thượng chính đẵng chánh giác”.
Sau mười hai năm, Di Lặc mệnh chung, quyết được sinh lên cõi trời Đâu Suất. Trên trời Đâu Suất có năm trăm ức các vị Thiên tử. Mỗi vị Thiên tử đều tu về pháp thí Ba la mật. Các vị Thiên tử vì sự cúng dường một vị Bồ tát “ Nhất sinh bổ sứ ” (8) nhờ phúc lực ấy, xây cất cung điện. Các vị trút bỏ cả các mũ báu chiên đàn ma ni, quỳ thẳng, chắp tay, phát lời nguyện rằng:“ Ngày nay chúng con đem các bảo châu và mũ thiên quan, thực vô giá này, chỉ với mục đích cúng dường cho bậc “ Đại tâm Chúng Sinh” Vì, rằng bậc này, không bao lâu nữa, ở trong đời sau, thành bậc vô thượng chính đẵng chính giác. Chúng con chỉ mong, trong đời sau này, chúng con sẽ được trang nghiêm quốc giới củ a đức Phật ấy, và được thụ ký. Nếu được như thế, mũ báu của chúng con, hóa thành dồ cúng”. Rồi cứ như thế, các vị thiên tử lấn lượt quỳ thẳng cũng lại phát nguyện, nguyện lớn như trên.
Khi các Thiên tử phát nguyện xong rồi, các mũ báu ấy hóa thành năm trăm vạn ức cung báu. Mỗi một cung báu có một trùng tường. Mỗi một trùng tường, xây bàng bảy báu. Và, mỗi thứ báu phóng ra hàng năm trăm ức ánh sáng. Trong mỗi ánh sáng, có năm trăm ức bông hoa sen lớn. Mỗi một hoa sen, lại biến hóa ra thành năm trăm ức hàng cây bảy báu. Mổi một lá cây, lại có hàng năm trăm ức sắc báu. Mỗi một sắc báu, có năm trăm ức ánh sáng vàng ròng cõi Diêm phù đàn (9). Mỗi một ánh sáng như ánh vàng ròng cõi Diêm phù đàn, hiện năm trăm ức chư thiên bảo nữ. Mỗi nàng bảo nữ, đứng dưới cây báu, cầm hàng trăm ức vô số anh lạc (10). Và, trong khi ấy, tự nhiên trổi lên âm nhạc vi diệu. Trong âm nhạc ấy, diễn thuyết ra những pháp luân bất thoái. Các cây báu ấy, sinh ra các quả, màu như pha lê. Các ánh sáng ấy, chiếu theo chiều phải, uyển chuyển phát ra nhiều thứ âm thanh. Những âm thanh ấy, nói ra những pháp đại từ, đại bi.
Về mỗi trùng tường, cao độ vào khoảng, sáu hai do tuần. Tường dầy vào khoảng mười bốn do tuần. trong trùng tường ấy, có năm trăm ức các vị Long vương vây quanh gìn giữ. Mỗi vị Long vương, hóa hàng trăm ức hàng cây bảy báu, để trang nghiêm thêm các trùng tường ấy. Rồi tự nhiên có gió hiu hiu thổi động các câu ấy. Các cành cây ấy va chạm vào nhau, diễn ra những pháp: khổ, không, vô thường, vô ngã, và cả pháp ba la mật.
Trong cung điện này, có vị đại thần, danh hiệu gọi là Lao Độ Bạt Đề, liền từ tòa ngồi đứng dậy đỉnh lễ tất cả chư Phật ở khắp mười phương, vá phát ra lời thệ nguyện rộng lớn: “Nay tôi muốm xây ngôi thiện pháp đường, chí thành cúng dường Bồ tát Di Lặc. Nếu có phúc ấy, nơi trán của tôi, tự nhiên xuất ra nhiều thứ bảo châu, để tôi được làm theo như sở nguyện”. Đại thần nguyện rồi, tự nhiên trên trán xuất ra trăm thứ bảo châu, lưu ly, và ngọc pha lê, tất cả màu sắc ấy như ngọc ma ni này, chiếu tõa hư không, liền hóa hiện ra bốn mươi chín trùng bảo cung ấy, được hợp thành lại, kể như vạn ức viên ngọc ma ni, màu sắc tía biếc, thấu suốt trong ngoài. Ánh ma ni nầy, chiếu tõa hư không, liền hóa hiện ra bốn mươi chín trùng bảo cung vi diệu. Mỗi hàng lan can cũa bảo cung ấy, được hợp thành lại, kể như vạn ức viên ngọc ma ni, ở dưới bảo sở của cõi Phạm thiên. Các lan can ấy, tự nhiên hóa sanh chín ức thiên tử, và năm trăm ức các nàng thiên nữ. Tay mỗi thiên nữ lại hóa sinh ra vô lượng ức vạn hoa sen bảy báu. Trên mỗi hoa sen, có đến vô lượng số ức hòa quang. Trong hào quang ấy đủ các nhạc khí. Các nhạc khí ấy, không đánh tự kêu. Khi tiếng nhạc khí tự nhiên phóng ra, các nàng thiên nữ cũng cầm nhạc khí, ganh đua ca vũ. Những ca vũ ấy chỉ ca diễn nói về mười điều thiện, bốn nguyện rộng lớn. Chư Thiên nghe rồi, phát vô thượng tâm.
Trong các vườn hoa, có những mương nước, tạo bằng lưu ly, tám màu xen lẫn. Trong mỗi mương nước, được hợp thành bởi hàng năm trăm ức các thứ bảo châu. Trong mỗi mương nước, nước có tám vị, tám sắc đầy đủ. Khi nước phun ra, phun vòng hành cột, ra ngoài bốn cửa, lại hóa sinh ra bốn loại hoa quý. Nước trong hóa ra, như hoa báu tỏa. Trên mỗi bông hoa, hăm bốn thiên nữ, sắc thân vi diệu, như sự trang nghiêm, thân các Bồ tát. Trong tay thiên nữ, tự nhiên hóa sinh, hàng năm trăm ức các loại bảo khí. Trong mỗi bảo khí, tự nhiên cam lộ, tràn đầy trong ấy. Các nàng thiên nữ, vai tã mang đầy những vòng anh lạc, vai hữu lại mang vô lượng nhạc khí. Âm thanh nhạc khí, như mây trên không, từ hơi nước tụ. Âm thanh lưu lượng, chỉ tán thán về sáu ba la mật của các Bồ tát. Nếu ai sinh lên cõi trời Đâu Suất, tự nhiên cũng được các thiên nữ ấy, hầu hạ săn sóc.
Có các tòa ngồi, hình sư tử lớn, tạo bằng bảy báu, cao bốn do tuần. Tòa sư tử ấy, được trang nghiêm bằng vàng Diêm phù đàn, và cùng rất nhiều các châu bảo khác. Bốn góc tòa nầy, trạm bốn hoa sen. Mỗi một hoa sen, được tạo ra bằng hàng trăm thứ báu. Mỗi thứ báu ấy, luôn luôn phóng ra trăm ánh sáng. Trong ánh sáng ấy, rất là vi diệu, chúng biến hóa ra các tạp hoa khác, bằng các châu báu, hằng trăm ức bông, để trang nghiêm cho các cờ (11) bảy báu.
Và, khi bấy giờ trăm ngàn Phạm vương mỗi vị đều mang một thứ diệu bảo cũa cõi Phạm thiên, làm thành chuông báu, treo trên ngọn cờ. Các Tiểu Phạm vương, cũng mang các thứ châu báu cõi mình, làm thành màn lưới, giăng phủ lên trên các lá cờ báu. Trăm ngàn quyến thuộc thiên tử, thiên nữ, cũng đem hoa báu, đặt trên các tòa và, các hoa ấy, tự nhiên hiện ra hàng năm trăm ức các nàng bảo nữ, tay cầm bạch phất (12), đứng hầu dưới cờ.
Nâng đỡ cung diện, bốn góc điện có bốn cây cột báu. Mỗi cột báu ấy, lại hóa hiện ra trăm ngàn lâu các, có hàng trăm ngàn các nàng thiên nữ, sắc đẹp vô cùng, tay cầm nhạc khí. Trong nhạc khí ấy, phát ra âm thanh, diễn nói các pháp: khổ, không, vô thường, vô ngã và cùng các ba la mật.
Như thế thiên cung, có trăm ức vô lượng bảo sắc. Cho đến hết thảy các nàng thiên nữ cũng bằng bảo sắc. Do đó, vô lượng chư thiên ở khắp mười phương. khi sắp mệnh chung, đều nguyện sinh lên cung trời Đâu Suất.
Cung trời Đâu Suất, có năm đại thần: Đệ nhất đại thần tên là Bảo Chàng. Thân vị thần này biến ra bảy báu, trải khắp quanh tường ở trong cung điện. Mổi thứ báu ấy, lại hóa ra thành rất nhiều nhạc khí, treo trong chổ trống. Rồi nhạc khí ấy, trổi lên tiếng nhạc. Những tiếng nhạc ấy, hợp ý chúng sinh. Đệ nhị đại thần, tên là Hoa Đức. Thân vị thần này, biến ra các hoa, rải khắp quanh tường ở trong cung điện. Các loại hoa ấy, biến thành lọng hoa. Mổi một lọng hoa, có hàng trăm ngàn đủ loại tràng phan, đi trước dẩn đạo. Đệ tam đại thần, tên là Hương Âm. Trong lổ chân lông của vị thần này, phóng ra các loại mùi hương chiên đàn, ngát thơm vi diệu. Các mùi hương này, tõa lên như mây, tạo thành trăm thứ màu sắc châu báu, bay vòng bảy lần trong cung điện này. Đệ tứ đại thần, tên là Hỷ Lạc. Thân vị thần này, phóng ra các ngọc như ý bảo châu. Mổi một bảo châu, gắn trên tràng phan, tự nhiên nói ra: nguyện quy y Phật, nguyện quy y pháp, nguyện quy y Tăng. Lại cũng nói ra gìn giử năm giới, vô lượng thiện pháp, các Ba La Mật. Và, lời lợi ích, khuyên gắng hộ trợ về tâm bồ đề. Đệ ngũ đại thần, tên là Chính Âm Thanh. Thân vị thần nầy, các lổ chân lông, phóng ra loại nước. Trên mồi loại nước, có năm trăm ức các loại tạp hoa. Trên mỗi bông hoa, lại hóa hiện ra, hăm lăm ngọc nữ. Mỗi nàng ngọc nữ, nơi lổ chơn lông, lại phóng âm thanh. Những âm thanh ấy, tiếng hay thanh thoát, hơn cả âm nhạc, trong cung hoàng hậu, của các Thiên Ma.
Sau khi diễn tả cảnh trời Đâu Suất, đức Phật liền bảo, Ông Ưu bà Ly: “ Cõi Đâu Suất này, là nơi phúc đức, báo ứng thắng diệu của mười điều thiện. Nếu ta ở đời, khoảng nữa tiểu kiếp nói về trụ xứ của vị Bồ tát “Nhất Sinh Bổ Xứ”, kết quả báo ứng của mười điều thiện cũng không hết được. Nay vì các vị, Ta nói sơ lược như thế mà thôi.
Đức Phật lại bảo ngài Ưu Bà Ly: “Nếu các Tỳ Khưu hay đại chúng nào, không chán sinh tử, muốn sinh cõi trời, nhưng tâm ưu kính vô thượng bồ đề, và muốn được làm đệ tử Di Lặc, nên quán tưởng về cõi trời Đâu Suất. Nhưng khi quán tưởng, nên giữ năm giới, bát quan trai giới, thân tâm tinh tiến. Tuy chưa mong cầu dứt hết kết sử, nhưng cần phải tu, làm mười pháp lành. Mỗi sự suy nghĩ, về sự khoái lạc vô cùng vi diệu, cõi trời Đâu Suất, cần phải phát tâm. Quán tưởng như thế, gọi là chính quán. Nếu quán khác đi, đó là tà quán”.
Đức Phật dạy xong, ông Ưu Bà Ly, từ tòa đứng dậy, nghiêm chỉnh y phục, đầu diện lễ Phật, và bạch Phật rằng: "Kính bạch Thế Tôn, trên trời Đâu Suất có những sự vui rất mực như thế, nay ông Di Lặc, vào thế gian nào, ông sẽ viên tịch tại Diêm phù đàn, và sẽ sinh lên cõi trời Đâu Suất?".
Đức Phật liền bảo ông Ưu Bà Ly: “Di Lặc sinh trong dòng Ba bà Lợi thuộc dòng Bà la môn, thôn Kiếp ba lợi, nước Ba la Nại. Sau mười hai năm, vào ngày mười lăm tháng hai nông lịch, trở về nơi sinh, ông ngồi kiết già, như vào diệt định. Thân ông sắc vàng, màu sáng tía biếc. Và, ánh sáng ấy, chói lói như là ánh sáng của hàng trăm ngàn mặt trời. Cũng ánh sáng ấy, soi suốt lên đến cõi trời Đâu Suất. Xá lợi thân ông, như tượng vàng đúc, không lay, không động. Viên quang thên ông, hiện rõ chữ nghĩa của Thủ Lăng Nghiêm tam muội, bát nhã ba la mật đa”.
Khi ấy mọi người cùng các thiên chúng dõi theo ánh sáng, tìm đến nơi này, xây cất bảo tháp, cúng dường xá lợi. Và, cùng khi ấy, trên trời Đâu Suất, ông tự hóa sinh, ngồi kiết già phu, trong hoa sen bàu, trên tòa sư tử, ở điện ma ni, trong đài thất bảo. Thân ông sắc vàng, như là vàng ròng ở Diêm phù đàn. Thân ông cao đến mười sáu do tuần. Đủ băm hai tướng, tám mươi vẻ đẹp. Nhục kế đầu ông, màu tóc xanh biếc như ngọc lưu ly. Cái mũ thiên quan được trang nghiêm bằng ngọc thích ca tỳ lăng già ma ni, trăm ngàn vạn ức ngọc yên thúc ca. Mũ thiên quan ấy, có nhiều màu sắc, trăm vạn ức sắc. Trong mỗi một sắc, có đến vô lượng trăm ngàn hóa Phật, các hóa Bồ tát, đứng bên thị giả. Các đại Bồ tát ở phương khác đến, hiện ra mười tám thần thông biến hóa (13), tùy ý tự tại. Tất cả đều hiện trong mũ thiên quan. Khoảng giữa chặn mày của ông Di Lặc, có hào quang trắng, phóng ra hàng trăm ánh sáng châu báu. Ba mươi hai tướng, trong mổi một tướng, có năm trăm ức màu sắc châu báu. Mổi một vẻ đẹp cũng có đến cả hàng năm trăm ức màu sắc châu báu. Mổi một tướng tốt, lại ánh hiện ra tám vạn bốn ngàn đám mây quang minh.
Bồ tát Di Lặc cùng các thiên tử, ngồi tòa hoa sen. Ngày đêm sáu thời (14), thường nói diệu pháp. Nói những pháp hạnh về “Bất thoái chuyễn”. Trong một thời gian, ông thành tựu cho hàng năm trăm ức các vị thiên tử, không thoái chuyễn được đạo pháp vô thượng chính đẵng chính giác. Cứ thế ngày đêm, trên trời Đâu Suất, thường nói pháp ấy, để hóa độ cho các vị thiên tử. Vào khoảng năm mươi sáu ức vạn năm của cõi Diêm phù, ông sẽ giáng sinh trở lại cõi này, như Ta đã nói ở trong quyển kinh Di Lặc Hạ Sinh”.
Đức Phật lại bảo ông Ưu Ba Ly:“Thế là nhân duyên Bồ tát Di Lặc mất ở Diêm phù, sinh lên Đâu Suất”.
“Sau Ta diệt độ, các đệ tử Ta, nếu ai siêng năng, tu các công đức, uy nghi không thiếu, quét tháp, lau đất, cúng dường các thứ hương thơm, hoa quý, tu các môn định, thâm nhập chính định, đọc tụng kinh sách, những người như thế, cần nên chí tâm. Tuy chưa dứt hết tất cả kết sử, cùng chưa chứng được sáu phép thần thông, nhưng cần hệ niệm (15). Niệm hình tượng Phật, xưng tán hồng danh của ông Di Lặc. Những người như hế, chỉ trong một niệm, thụ tám trai giới, tu các tịnh nghiệp, phát thệ nguyện rộng, sau khi mệnh chung, ví như tráng sĩ co duỗi cánh tay, liền được sinh lên cung trời Đâu Suất, ngồi kiết già phu ở trên hoa sen, trăm ngàn thiên tử, tấu nhạc cõi trời, và rãi các hoa, trên đầu người ấy, như hoa mạn đà, hoa đại mạn đà, và khen ngợi rằng:" Lành thay, lành thay, này thiện nam tử, khi ông ở cõi Nam Diên phù đề, tu nhiều phúc nghiệp, mới sinh lên đây. Nơi đây gọi là cõi trời Đâu Suất. Thiên chủ ngày nay là ngài Di Lặc. Ông nên quy y, xưng tán hồng danh và lám lễ Ngài. Lễ rồi nhìn kỹ tướng hào quang trắng ở giũa chặng mày, sẽ khỏi các tội sinh tử luân hồi, chín mươi ức kiếp”.
“Và, ngay khi ấy, tùy theo duyên trước Bồ tát Di Lặc, liền nói diệu pháp. Nói các diệu pháp, làm người ấy, giữ gìn vững vàng, không thoái chuyển được đạo tâm vô thượng.
Các chúng sinh ấy, sạch được các nghiệp, làm được sáu sự (16), quyết được sinh lên cõi trời Đâu Suất, gặp được Di Lặc, xuồng cõi Diêm phù, cùng được nghe pháp trong hội thứ nhất. Trong đời vị lai, thuộc thời Hiền kiếp, gặp được tất cả chư Phật thuyết pháp. Trong kiếp Tinh tú, cũng lại gặp được chư Phật, Thế Tôn. Và, trước chư Phật, được thụ ký đạo vô thượng bồ đề ”.
Đức Phật lại bảo ông Ưu Ba Ly:“Sau Ta diệt độ, các vị Tỳ khưu, các Tỳ khưu ni, cùng ưu bà tắc và Ưu bà di, thiên Long, Dạ xoa, Càn thát bà, A tu la, Ca lâu la, Khẩn na la, Ma hầu la già..., nghĩa là tất cả các đại chúng ấy, nếu ai được nghe hồng danh chủa ông Di Lặc Bồ tát. Nghe rồi hoan hỷ, cung kính, lễ bái, người ấy mệnh chung, chỉ trong giây lát, như khảy móng tay, liền được sinh lên cõi trời Đâu Suất, như trên không khác. Và, ngay cả đến chỉ nghe được tên Bồ tát Di Lặc, sau khi mệnh chung, không phải đọa vào những nơi hắc ám, biên địa, tà kiến và ác luật nghi. Thường được sinh vào gia đình chính kiến, họ hàng nề nếp, tin tưởng Tam bảo”.
Đức Phật lại bảo ông Ưu Ba Ly:“Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân nào, phạm các giới cấm, tạo nhiều nghiệp ác, nghe được hồng danh Di Lặc Bồ tát, ngũ thể đầu địa (17), thành tâm sám hối, các nghiệp ác ấy, chóng được thanh tịnh. Trong đời vị lai, nếu chúng sinh nào nghe được hồng danh Bồ tát Di Lặc, tạo lập hình tượng, cúng dường hương hoa, y phục, phướn lọng chí thành lễ bái, nhất tâm hệ niệm, đến khi sắp mất, sẽ được Bồ tát phóng hào quang trắng giữa chặng mày, cùng các thiên tử, rải hoa mạn đà, lại đón người ấy. Chỉ trong giây lát, người ấy liền sinh lên cõi Đâu Suất, gặp được Bồ tát, đầu diện kính lễ dưới chân Bồ tát. Và, khi người ấy chưa ngững đầu lên, đã được nghe pháp. Được nghe pháp rồi, với đạo vô thượng, không bị thoái chuyển. Trong đời vị lai, được gặp chư Phật. Chư Phật rất nhiều như cát sông Hằng”.
Đức Phật lại bảo ông Ưu Ba Ly:“ Ông nên nghe kỹ ! Trong đời sau nầy, Bồ tát Di Lặc, làm chổ quy y cho các chúng sinh. Nếu được quy y Bồ tát Di Lặc, người ấy nhất định, không bị thoái chuyển trong đạo vô thượng. Và, khi Bồ tát thành bậc Như Lai Ứng, Chính Biến Tri, người thực hành ấy, thấy hào quang Phật liền được thụ ký”.
Đức Phật lại bảo ông Ưu Ba Ly:“Sau khi diệt độ, trong hàng bốn chúng đệ tử của Ta, hay các bộ chúng Thiên, Long, quỷ thần..., nếu ai muốn sinh lên trời Đâu Suất, cần nên quán tưởng, hệ niệm tư duy về trời Đâu Suất. Cần giữ giới cấm của Phật đã dạy. Kể từ một ngày cho đến bảy ngày, suy nghĩ niệm vững về mười điều lành, siêng năng thực hành mười thiện nghiệp đạo (18), đem công đức ấy, hồi hướng tất cả, mong được sinh lên cõi trời Đâu Suất, và được tới trước Bồ tát Di Lặc”.
Nên quán như thế! Quán tưởng như thế, thấy được một người, một bông hoa sen trên cõi trời ấy; hoặc trong một niệm, xưng tán hồng danh Bồ tát Di Lặc, người ấy khỏi được tội lỗi sinh tử ngàn hai trăm kiếp. Chỉ nghe danh hiệu Bồ tát Di Lặc, chắp tay cung kính, người ấy khỏi được tội lỗi sinh tử hàng năm mươi kiếp. Nếu ai kính lễ Bồ tát Di Lặc, khỏi tội sinh tử hàng trăm ức kiếp. Ví dù không muốn sinh lên Đâu Suất, trong đời vị lai, dưới cây Long Hoa sẽ cũng gặp được Bồ tát Di Lặc, phát tâm vô thượng”.
Khi đức Thế Tôn nói lời ấy rồi, vô lượng đại chúng, từ tòa đứng dậy, lễ xuống chân Phật, và lễ dưới chân Bồ tát Di Lặc. Lễ rồi đi nhiễu, vòng quanh quanh đức Phật, Bồ tát Di Lặc hàng trăm ngàn vòng. Người chưa đắc đạo, phát lời nguyện ràng: "Tất cả chúng con thiên, nhân tám bộ..., nay trước đức Phật, thành thực thệ nguyện, nguyện đời vị lai, mong mõi được gặp Bồ tát Di Lặc. Trong đời hiện tại, chúng con mong mỏi, xả báo thân này, đều được sinh lên cõi trời Đâu Suất”.
Khi ấy Thế Tôn lại thụ ký rằng: “Tất cả các ông cùng những chúng sinh trong đời vị lai, tu phúc, trì giới, đều được tới trước Bồ tát Di Lặc, và được Bồ tát nhiếp thụ cho cả”.
Đức Phật lại bảo ông Ưu Ba Ly:“ Quán tưởng như thế gọi là chính quán. nếu quán khác đi, gọi là tà quán”.
Sau khi Phật dạy, tôn giả A Nan, từ tòa đứng dậy, chắp tay, quỳ thẳng, bạch đức Phật rằng:“ Kính bạch Thế Tôn. Lành thay Thế Tôn, Thế Tôn nói rõ về công đức của Bồ tát Di Lặc. Thế Tôn lại còn hoan hỷ thụ ký cho các chúng sinh trong đời vị lai, thực tâm tu phúc, sẽ được quả báo. Con xin tùy hỷ những công đức ấy. Kính xin Thế Tôn cho con được biết về sự quan yếu của giáo pháp này, thụ trì thế nào? Và, kinh pháp này đặt tên là gì?”
Đức Phật liền bảo ông A Nan rằng: “Ông nên nhớ đúng lời Phật đã dạy, và nên cẩn thận, chớ có lãng quên ! Ông cần vì các chúng sinh đời sau, mở ra cho họ con đường sinh thiên, và chỉ cho họ tướng của bồ đề, khiến cho Phật chủng không bị dứt mất. Kinh này được gọi là kinh Di Lặc Bồ Tát Niết Bàn. Cũng là kinh Quán Di Lặc Bồ Tát Sinh Đâu Suất Thiên. Ông khuyên mọi người phát tâm bồ đề, thụ trì như thế ”.
Khi Phật nói rồi, mười vạn Bồ tát từ phương xa lại, các vị liền chứng Lăng Nghiêm Tam Muội. Tám vạn ức vị trên các cõi trời phát tâm bồ đề, đều nguyện tùy tùng Di Lặc hạ sinh.
Khi đức Phật nói kinh này xong rồi, bốn chúng đệ tử, Thiên, Long... tám bộ, nghe lời Phật nói, đều rất hoan hỷ, lễ Phật rồi lui.
PHẬT THUYẾT QUÁN DI-LẶC BỒ-TÁT HẠ SANH KINH
Như vầy tôi nghe:
Một thời, Phật ở tại vườn Cấp-Cô-Độc, rừng Kỳ-Đà, nước Xá-Vệ, cùng một ngàn năm trăm đại chúng Tỳ-kheo. Lúc bấy giờ tôn giả A-nan sửa y về vai phải, gối phải quỳ sát đất, bạch đức Thế Tôn:
- Đức Như Lai quán sát thật sâu xa, uyên áo, không việc gì mà Ngài không soi xét, cả ba đời quá khứ, tương lai hay hiện tại Ngài đều biết rõ. Danh hiệu, tên họ của chư Phật cùng chúng Bồ-tát, Thanh văn từ thời quá khứ theo tùy tùng nhiều hay ít Ngài đều biết rõ. Dầu là một kiếp, trăm kiếp hoặc vô số kiếp Ngài đều quán sát và biết rõ như vậy. Ngài phân biệt rõ ràng tên họ của từng vua, quan, nhân dân, như cõi nước hiện tại này có bao nhiêu người Ngài đều biết rõ. Kính bạch đức Như Lai Chí chơn Đẳng chánh giác, chúng con muốn nghe sự giáo hóa, xuất hiện của Phật Di Lặc nơi thời tương lai lâu xa cùng chúng đệ tử theo Phật về cõi nước an vui sung mãn trải qua thời gian bao lâu?
Đức Phật bảo A-nan:
- Thầy hãy trở về chỗ ngồi, lắng nghe Ta nói và khéo suy nghĩ, ghi nhớ về sự xuất hiện của Phật Di Lặc và cõi nước giàu có, an vui cùng chúng đệ tử nhiều hay ít.
Tôn giả A-nan vâng lời Phật dạy, trở lại chỗ ngồi. Đức Phật bảo A-nan:
- Thời tương lai lâu xa, nơi cõi nước này sẽ có thành quách tên Sí-đầu, Đông Tây mười hai do-tuần, Nam Bắc bảy do-tuần, đất đai phì nhiêu, nhân dân hùng cường giàu có và nhiều đường sá. Trong thành có Long vương tên Thủy Quang, ban đêm tuôn những chất thơm thấm nhuần, ban ngày thì làm ôn hòa trong mát. Trong thành Sí-đầu có quỷ La-sát tên Diệp Hoa, hành động thuận với chánh pháp, không trái chánh giáo. Sau khi mọi người ngủ say thì vị này đi trừ bỏ những vật nhơ uế bất tịnh và dùng nước thơm rưới trên đất, cực kỳ sạch sẽ thơm tho.
A-nan nên biết! Đất ở Diêm Phù Đề lúc ấy các phương Đông Tây Nam Bắc rộng mười ngàn do-tuần. Các núi, sông, vách đá đều tự tiêu diệt. Nước ở bốn biển cả đều chiếm cứ một phương. Mặt đất ở Diêm Phù Đề cực kỳ bằng phẳng như tấm gương sáng sạch. Đất khắp Diêm Phù Đề đều có thực phẩm, ngũ cốc trù phú, tốt tươi. Nhân dân phồn thịnh, châu báu thật nhiều, làng mạc thôn xóm gần nhau, cùng nghe tiếng gà gáy. Bao nhiêu hoa quả, cây cối khô cằn hay những vật dơ xấu đều tự tiêu diệt. Những cây ngon quả ngọt, thơm ngon tươi tốt nhất thì sanh ra khắp mặt đất. Khí hậu ôn hòa, thời tiết thích hợp theo mùa. Con người không bị 10tám bệnh, không có tham dục, sân hận, ngu si, không cần lo âu săn sóc. Nhân tâm quân bình, cùng một ý với nhau, gặp nhau vui vẻ và nói những lời hiền thiện, cùng một loại ngôn ngữ giống như người Uất-đơn-việt không khác. Nhân dân lớn hay nhỏ ở Diêm Phù Đề đều cùng một âm giọng, không có sự sai khác. Những người nam hay nữ ở cõi này khi muốn đại tiểu tiện, đất tự nhiên nứt ra, sau khi xong việc, đất khép lại như cũ.
Lúc ấy đất đai ở Diêm Phù Đề tự nhiên sanh lúa gạo vô cùng thơm ngon, không có vỏ, ăn vào không bị bệnh khổ. Những loại vàng, bạc, trân bảo, xa cừ, mã não, chân châu, hổ phách rải khắp trên mặt đất mà không có ai quan tâm. Có khi họ cầm châu báu này và nói với nhau: “Con người xưa kia vì những châu báu này mà phải tàn hại nhau, bị tù đày và chịu biết bao khổ não. Vậy mà ngày nay châu báu này cũng như ngói gạch, không có ai cất giữ”. Lúc bấy giờ vương pháp xuất hiện, tên là Nhương Khứ, dùng chánh pháp trị nước và đầy đủ bảy báu. Bảy báu đó là: kim luân bảo, tượng bảo, mã bảo, châu bảo, ngọc nữ bảo, điển binh bảo, thủ tàng bảo. Trấn giữ Diêm Phù Đề không cần đến đao trượng mà điều phục tự nhiên.
Này A-nan! Bốn kho trân bảo là:
1- Nước Càn-đà-việt có kho báu Y-la-bát, rất nhiều trân báu và vật quý hiếm, không thể kể hết.
2- Nước Di-đề-la có kho lớn lưới báu và rất nhiều trân bảo.
3- Nước Tu-lại-tra có kho báu lớn và nhiều trân bảo.
4- Nước Ba-la-nại Nhương Khứ có kho báu lón và rất nhiều trân bảo, không thể tính kể.
Bốn kho báu lớn này tự nhiên ứng hiện. Các vị giữ kho đến tâu vua: “Cúi xin đại vương đem những vật trong kho báu này ban bố cho những kẻ bần cùng”. Vua Nhượng Khứ được những kho báu này cũng chẳng dòm ngó chúng vì không có ý nghĩ về của cải châu báu.
Tại đất Diêm Phù, trên cây tự nhiên sanh những y phục vô cùng mềm mịn để cho mọi người mặc, như hiện nay người Uất-đơn-việt tự nhiên trên cây sanh ra y phục. Đại vương có đại thần tên Tu Phạm Ma, là vị quan được vua rất kính mến từ thuở còn niên thiếu. Vị đại thần này có tướng mạo khôi ngô, không cao, không thấp, không mập, không gầy, không trắng, không đen, không già, không trẻ. Vợ của Tu Phạm Ma tên Phạm Ma Việt, là người xinh đẹp tuyệt trần nhất trong các ngọc nữ, giống như hậu phi của thiên đế. Miệng bà nói ra có mùi thơm hoa sen và thân đầy hương chiên-đàn, tám mươi tư trạng thái mà các phụ nữ khác vĩnh viễn không bao giờ có. Bà cũng không có ý niệm hay tư tưởng cuồng loạn, tật bệnh.
Lúc bấy giờ Bồ-tát Di-Lặc ở trời Đâu Suất quán sát cha mẹ không già, không trẻ, giáng thần ứng hiện sanh ra từ hông phải của mẹ, như Ta ngày nay cũng đã giáng sanh từ hông phải. Bồ-tát Di lặc cũng như thế. Tất cả chư thiên cõi Đâu Suất đều ngợi ca: “Bồ-tát Di Lặc đã giáng sanh”.
Tu Phạm Ma đặt tên cho con là Di Lặc. Bồ-tát Di Lặc có ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, thân màu vàng ròng vô cùng tốt đẹp. Người ở cõi này không có các hoạn nạn, tuổi thọ lâu dài. Họ sống đến tám vạn bốn ngàn năm, con gái năm trăm tuổi mới lấy chồng.
Di-Lặc sống ở gia đình một thời gian ngắn thì đi xuất gia học đạo. Khi đi ra khỏi thành Sí-đầu chưa bao xa thì Ngài gặp đạo thọ tên Long Hoa cao một do-tuần, ngang năm trăm bộ. Bồ-tát Di Lặc ngồi dưới cội cây này thành tựu đạo quả Vô thượng. Ngay nửa đêm Bồ-tát Di Lặc xuất gia thì đạt ngay đạo quả Vô thượng. Cả ba ngàn cõi đại thiên chấn động sáu cách. Các địa thần đều bảo nhau rằng: “Hôm nay Bồ-tát Di Lặc đã thành Phật đạo”. Dần dần đến cung Tứ Thiên Vương cũng nghe “Bồ-tát Di-Lặc đã thành Phật đạo”, và lan dần đến cõi trời ba mươi ba, trời Đâu Suất Đà, trời Hóa Lạc, trời Tha Hóa Tự Tại, cho đến Phạm thiên đều vang tiếng “Bồ-tát Di-Lặc đã thành Phật đạo”.
Lúc bấy giờ có ma vương tên Đại Tướng - giáo hóa trị vì ma quân bằng chánh pháp - nhờ nghe tiếng vang danh âm của Như Lai vô cùng hân hoan, phấn chấn, suốt bảy ngày đêm không ngủ nghỉ. Sau đó ma vương mang vô số thiên nhân ở cõi Dục đến chỗ Phật Di Lặc cung kính lễ bái. Thánh tôn Di Lặc cùng các thiên nhân dần dần nói về luận của pháp mầu vi diệu. Các luận đó là: Luận về bố thí, luận về giới, luận về sanh thiên, giải thoát khỏi dục tưởng bất tịnh là tốt đẹp.
Đức Phật Di Lặc thấy mọi người đã hoan hỷ phát tâm, Ngài liền đem những pháp chư Phật Thế Tôn thường dạy như: khổ, tập, diệt, đạo và phân tích nghĩa lý sâu rộng cho chư thiên nhân. Lúc ấy trên tòa có tám vạn bốn ngàn thiên tử đã sạch bụi trần, đắc pháp nhãn tịnh. Ma vương Đại Tướng bảo mọi người ở cõi đó rằng: “Các ngươi hãy mau xuất gia. Vì sao? - Vì Bồ-tát Di Lặc nay đã đến bờ giác ngộ và sẽ hóa độ cho các ngươi cũng đến bờ giác ngộ”.
Trong thành Sí-đầu có trưởng giả tên Thiện Tài nghe giáo lệnh của ma vương, lại nghe âm vang của Phật nên đem tám vạn bốn ngàn chúng đến chỗ Phật Di Lặc cung kính đảnh lễ dưới chân Phật rồi ngồi qua một bên. Đức Phật Di Lặc dần dần nói pháp luận vi diệu cho đại chúng. Pháp luận đó là: luận về thí, luận về giới, luận về sanh thiên, giải thoát khỏi dục tưởng bất tịnh là tốt đẹp.
Đức Phật Di Lặc thấy mọi người tâm ý được khai mở theo như pháp chư Phật Thế Tôn đã nói, Ngài giảng về khổ, tập, diệt, đạo và phân tích nghĩa rộng các pháp ấy cho mọi người. Lúc ấy tám vạn bốn ngàn người dứt sạch bụi trần, đắc pháp nhãn tịnh. Trưởng giả Thiện Tài cùng tám vạn bốn ngàn người đến trước đức Phật cần cầu xin xuất gia, khéo tu phạm hạnh, tất cả đều thành tựu đạo quả A-la-hán. Hội đầu tiên của Phật Di Lặc có tám vạn bốn ngàn người đắc quả A-la-hán. Lúc ấy vua Nhương Khứ nghe Bồ-tát Di-Lặc đã thành Phật đạo, ông muốn được nghe pháp nên vội đến chỗ Phật. Pháp đức Phật nói cho vua ban đầu thiện, giữa thiện, cuối cùng thiện và nghĩa lý rất sâu xa. Một thời gian sau, đại vương lập thái tử lên làm vua, bao vật quý báu vua cho người thợ cắt tóc rồi đem các loại châu báu ban cho các Phạm chí và dẫn tám vạn bốn ngàn chúng đến chỗ Phật xin làm Sa-môn. Cuối cùng, họ thành tựu đạo quả, đắc đạo A-la-hán.
Đại trưởng giả Tu Phạm Ma nghe Bồ-tát Di Lặc thành Phật đạo cũng đem tám vạn bốn ngàn chúng Phạm chí đến chỗ Phật cầu xin làm Sa-môn. tất cả đều chứng đắc A-la-hán, duy nhất có Tu Phạm Ma đoạn tận ba kiết sử và chắc chắn chấm dứt hết khổ.
Phật mẫu Phạm Ma Việt cũng đem tám vạn bốn ngàn chúng thể nữ đến chỗ Phật xin làm Sa-môn. Các thể nữ đều chứng đắc A-la-hán, duy nhất có Phạm Ma Việt đoạn tận ba kiết sử, chứng quả Tu-đà-hoàn.
Các bà dòng Sát-lợi nghe tin Phật Di Lặc xuất hiện ở thế gian, thành Đẳng chánh giác, đem cả ngàn vạn chúng đi đến chỗ Phật cung kính đảnh lễ dưới chân Ngài rồi ngồi qua một bên. Họ phát tâm mong cầu được xuất gia học đạo, làm Sa-môn. Có người chứng đắc đến bờ giác, có người không chứng đắc. Lúc ấy, này A-Nan! Những người chưa vượt bậc để chứng đắc đều là những người phụng hành giáo pháp, nhàm chán tất cả thế gian và tu hành quán tưởng không có dục lạc. Phật Di Lặc sẽ nói giáo nghĩa Tam thừa như Ta hiện nay. Trong các đệ tử của Ta có Đại Ca Diếp thực hành mười hai hạnh Đầu-đà, như chư Phật thời quá khứ đã khéo tu phạm hạnh, người này sẽ ở bên cạnh Phật Di Lặc khuyến hóa mọi người tu tập.
Ca Diếp cách Như Lai không xa, ngồi kiết-già, thân ý chánh niệm tỉnh giác. Đức Thế Tôn bảo Ca Diếp:
- Nay Ta đã tám mươi, tuổi đã già suy và có bốn đại Thanh văn kham nhận việc giáo hóa khắp nơi. Họ có đầy đủ phước đức và trí tuệ vô tận, đó là: Tỳ-kheo Đại Ca Diếp, Tỳ-kheo Quân-xa-bát-thán, Tỳ-kheo Tân-đầu-lô, Tỳ-kheo La-vân. Bốn Thanh văn các ông chưa được nhập Niết-bàn mà chờ đến khi giáo pháp Ta không còn, khi ấy mới được nhập Niết-bàn. Đại Ca Diếp cũng không nên nhập Niết-bàn mà cần phải đời Phật Di lặc xuất hiện ở thế gian. Vì sao? - Vì đệ tử của Phật Di Lặc đều là đệ tử của Phật Thích Ca Văn, nhờ Ta giáo hóa chấm dứt hữu lậu. Trong thôn Tỳ Đề, cõi nước Ma Kiệt, Đại Ca Diếp cư trú trong núi đó và Di Lặc Như Lai sẽ đem vô số ngàn người lần lượt cùng nhau đến núi này. Nhờ hồng ân Phật, các quỷ thần đều mở cửa làm cho họ được thấy Ca Diếp thiền định trong hang động. Khi đó, Phật Di Lặc đưa cánh tay phải chỉ Ca Diếp và bảo mọi người: “Thời quá khứ xa xưa, đệ tử của Phật Thích Ca Văn tên Ca Diếp hiện đang tu khổ hạnh Đầu-đà tối thượng đệ nhất”. Mọi người thấy sự kiện như vậy, ngợi khen là việc chưa từng có. Có vô số trăm ngàn chúng sanh dứt sạch bụi trần, đắc pháp nhãn tịnh. Hoặc có chúng sanh đượïc thấy thân Ca-Diếp, gọi đó là hội đầu tiên. Có 9sáu ức người đều đạt quả A-la-hán. Những người này đều là đệ tử của Ta. Vì sao? - Vì họ được Ta giáo hóa mới đạt kết quả này. Và nhờ bốn nhân duyên bố thí, nhân từ, mang lại lợi lạc cho hết thảy quần sanh.
Này A-nan! Di Lặc Như Lai sẽ trao Tăng-già-lê cho Ca Diếp đắp. Lúc ấy thân thể Ca Diếp chợt sáng như sao sa. Phật Di Lặc lại đem các loại hương hoa cúng dường Ca Diếp. Vì sao? - Vì chư Phật Thế Tôn có tâm tôn kính chánh pháp và Bồ-tát Di-Lặc cũng đã từng do Ta truyền trao giáo hóa chánh pháp, thành tựu đạo Vô thượng Chánh chơn.
A-nan nên biết! Hội kỳ hai của Phật Di Lặc có chín mươi tư ức người đều đắc quả A-la-hán, đều là đệ tử đã từng được Ta giáo hóa thực hành bốn sự cúng dường nên được kết quả như vậy. Hội kỳ ba của Phật Di lặc có 92 ức người đắc quả A-la-hán, cũng là đệ tử do Ta giáo hóa. Lúc bấy giờ đệ tử của Ta là Tỳ-kheo tên Từ Thị, như Ta ngày này các Thanh văn đều xưng là đệ tử của Thích Ca. Phật Di Lặc thuyết pháp cho các đệ tử: “Này các Tỳ-kheo! Hãy nghĩ đến vô thường, tưởng vui có khổ, tưởng ngã và vô ngã, tưởng thật có không, tưởng sự biến đổi của sắc, tưởng sự ứ dịch, tưởng về sưng trướng, tưởng ăn chưa tiêu hết, tưởng về máu mủ, tưởng tất cả thế gian không an vui. Vì sao? - Này các Tỳ-kheo! Đây là 10 tưởng mà Phật Thích Ca Văn đã dạy cho các ông, làm cho tất cả được dứt trừ tâm hữu lậu và được giải thoát. Những ai trong chúng này là đệ tử Phật Thích Ca Văn đều do thời quá khứ đã tu hành thanh tịnh nên đến cõi của Ta. Hoặc có người ở thời Phật Thích Ca Văn cúng dường Tam bảo mà sanh đến chỗ Ta. Hoặc có người ở chỗ Phật Thích Ca Văn tu tập thiện căn trong khoảng khảy móng tay mà sanh đến chỗ Ta. Hoặc có người ở chỗ Phật Thích Ca Văn thực hành Tứ đẳng tâm rồi sanh đến đây. Hoặc có người ở chỗ Phật Thích Ca Văn thọ trì năm giới, ba pháp tự quy nên sanh đến chỗ Ta. Hoặc có người ở chỗ Phật Thích Ca Văn xây dựng tháp miếu nên sanh đến chỗ Ta. Hoặc có người ở chỗ Phật Thích Ca Văn sửa sang chùa cũ nên sanh đến chỗ Ta. Hoặc có người ở chỗ Phật Thích Ca Văn giữ tám pháp trai giới nên sanh đến chỗ Ta. Hoặc có người ở chỗ Phật Thích Ca Văn cúng dường hương hoa nên sanh đến đây. Hoặc có người ở chỗ Phật Thích Ca Văn nghe pháp mà rơi lệ nên sanh đến chỗ Ta. Hoặc có người ở chỗ Phật Thích Ca Văn nhất tâm lảnh hội giáo pháp nên sanh đến chỗ của Ta. Hoặc có người suốt đời tu hành phạm hạnh nên sanh đến chỗ Ta. Hoặc có người ghi chép, đọc tụng nên sanh đến chỗ Ta. Hoặc có người phục vụ cúng dường nên sanh đến chỗ Ta.
Đức Phật Di Lặc nói kệ:
- Tăng thêm giới, văn, đức
Thiền và nghiệp tư duy
Khéo tu hạnh thanh tịnh
Nên đến chỗ của Ta
Bố thí phát tâm vui
Tâm tu hành căn bản
Ý không nghĩ bao la
Đều đến chỗ của Ta
Biết phát tâm bình đẳng
Cúng dường các đức Phật
Cúng Thánh chúng thực phẩm
Đều đến chỗ của Ta
Hoặc tụng giới, khế kinh
Dạy cho người khổ, tập
Thắp sáng chánh pháp Phật
Nay đến chỗ của Ta
Thích chủng khéo biến hóa
Cúng dường các xá-lợi
Phục vụ pháp cúng dường
Nay đến chỗ của Ta
Nếu người ghi chép kinh
Tuyên nói điều cao tột
Và cúng dường kinh điển
Đều nên đến chỗ Ta
Gấm vóc và mọi vật
Cúng dường nơi chùa tháp
Tự xưng “Nam mô Phật”
Đều nên đến chỗ Ta
Cúng dường Phật hiện tại
Cùng chư Phật quá khứ
Thiền định chánh bình đẳng
Cũng không có tăng giảm
Thế nên đối pháp Phật
Kính thờ các bậc Thánh
Chuyên tâm thờ Tam bảo
Ắt đến chỗ vô si
A-Nan nên biết! Di Lặc Như Lai ở nơi chúng đó nói bài kệ này, chư thiên, loài người trong đại chúng tư duy về mười tưởng này có mười một ức người dứt sạch bụi trần, đắc pháp nhãn tịnh. Trong một ngàn năm chúng Tăng ở cõi Phật Di Lặc không có lỗi lầm, Ngài thường dùng một bài kệ để làm giới cấm ngăn:
Miệng, ý không làm ác
Thân cũng không trái phạm
Hãy dứt ba nghiệp này
Chóng thoát đường sanh tử.
Trải qua một ngàn năm sau sẽ có người phạm giới, Phật thiết lập ra giới cấm. Di Lặc Như Lai thọ tám vạn bốn ngàn năm. Sau khi Phật nhập Niết-bàn, giáo pháp của Ngài tồn tại đến tám vạn bốn ngàn năm. Chúng sanh lúc ấy đều lợi căn. Những người thiện nam hay thiện nữ nào muốn được gặp Phật Di-Lặc, ba hội chúng Thanh văn và thành Sí-đầu, muốn gặp vua Nhương Khứ cùng bốn kho trân bảo lớn, muốn ăn lúa gạo ngon tự nhiên và mặc y phục tự nhiên, sau khi chết được sanh lên trời. Những người thiện nam, thiện nữ ấy không nên lười nhác mà hãy nỗ lực tinh tấn, hãy cúng dường hầu hạ các Pháp sư, cúng dường các loại vật dụng, hoa hương... chớ để thiếu sót.
Này A-nan! Hãy học và thực hành như vậy.
Tôn giả A-nan và các đại hội nghe lời Phật dạy hoan hỷ phụng hành.
KINH DI-LẶC HẠ SANH
Đại trí Xá Lợi Phất, bậc tướng vĩ đại trong pháp Phật, bậc theo đức Thế Tôn chuyển bánh xe pháp, vì thương thưởng chúng sanh nên bạch Phật:
- Bạch đức Thế Tôn! Theo trình tự như trong kinh dạy, Bồ-tát Di Lặc sẽ hạ sanh làm Phật. Chúng con muốn nghe đức Thế Tôn dạy rõ về sự trang nghiêm cõi nước và thần lực công đức của Phật Di Lặc. Chúng sanh bố thí như thế nào? Giữ giới thế nào và được trí tuệ gì để được gặp Phật Di lặc?
Đức Phật bảo Xá Lợi Phất:
- Nay Ta giảng rộng việc này. Thầy hãy nhất tâm lắng nghe.
Này Xá Lợi Phất! Nước trong bốn biển cả giảm bớt một ít còn ba ngàn do-tuần, lúc ấy đất ở Diêm Phù Đề dài mười ngàn do-tuần, rộng tám ngàn do-tuần, bằng phẳng như gương gọi là Hoa Nhuyến. Cỏ phủ khắp mặt đất, các loại cây cối, hoa quả thật sum suê. Cây ở đây đều cao ba trăm dặm, thành phố nối tiếp nhau, gà có thể bay qua lại, tuổi thọ của con người là tám vạn bốn ngàn năm. Họ có đầy đủ oai đức, trí tuệ và sắc lực an vui. Chỉ có ba bệnh: 1- Đại tiểu tiện. 2- Ăn uống. 3- Già suy. Người nữ ở đây năm trăm tuổi mới kết hôn.
Khi ấy có một thành lớn tên Sí-đầu-mạc, dài mười hai do-tuần, rộng bảy do-tuần, vô cùng sạch sẽ, trật tự và tốt đẹp. Người ở trong thành này phước đức sung mãn và nhờ phước đức nên họ rất giàu sang, vui vẻ, an bình. Thành này có bảy báu và lầu gác, cửa lớn, sửa sổ, lan can đều do bảy báu tạo thành, lưới chân châu bao phủ lên trên, đường sá rộng mười hai dặm, được quét dọn sạch sẽ, có đại lực Long vương tên Đa-la-thi-khí. Ao và cung điện của Long vương gần thành. Vào lúc nửa đêm, trong ao này thường có mưa phùn để đầm bụi, vì thế mặt đất ướt sáng như thoa dầu, người đi đường không bị bụi bám. Đây là nhờ phước đức của dân chúng nên được như vậy. Đường sá khắp nơi đều có trụ ngọc minh châu cao mười dặm, ánh sáng chiếu tỏa suốt ngày đêm phát ra từ trụ này nên không cần dùng đến ánh sáng của đèn đuốc. Từ những nẻo đường đến nhà cửa, thành ấp hoàn toàn không có một cục đất nhỏ nào, mặt đất được phủ thuần bằng cát vàng và có những đụn vàng bạc ở khắp nơi. Có thần đại Dạ-xoa tên Bạt-đà-ba-la-xa-tắc-ca luôn bảo vệ và quét dọn sạch sẽ trong thành. Nếu có những vật dơ hay đại tiểu tiện thì mặt đất nứt ra tiếp nhận những vật dơ đó, xong rồi khép lại như cũ. Người nào sắp chết, tự nhiên đi đến giữa mộ mà chết. Đời sống thật an vui, không có những nạn trộm cắp, giặc cướp hay oán thù. Làng mạc, phố xá không ai đóng cửa, cũng không buồn phiền vì những nạn binh đao, nước, lửa hay độc hại, đói khát. Người người sống với nhau bằng tâm từ ái, cung kính, thuận hòa. Họ chế phục các căn, nói năng khiêm tốn.
Này Xá Lợi Phất! Ta nói tóm tắt cho thầy nghe về sự an vui, giàu có tại thành ấp ở cõi nước kia. Trong những ao, suối, vườn, rừng nơi đây, tự nhiên có nước tám công đức và trên mặt ao phủ đầy hoa sen đủ màu sắc: xanh, hồng, đỏ, trắng xen nhau rất đẹp ; bốn phía ao có bốn bậc thềm bằng châu báu. Có nhiều giống chim tụ tập lại thường trú ngụ nơi ao, hót líu lo tạo thành âm thanh tuyệt diệu như chim thiên nga, chim uyên ương, chim công, chim phỉ thúy, chim anh vũ, chim xá-lợi, chim cưu-na-la, chim kỳ bà kỳ bà... Và còn những loài chim khác hót hay tuyệt vời, không thể tính hết. Trong nước có đầy cây thơm, quả ngọt. Bấy giờ trong Diêm Phù Đề thường có mùi hương tuyệt hảo, giống như là núi hương, chảy ra những vị ngọt thơm ngon trừ bệnh hoạn. Mưa nhuần thấm theo thời tiết nên lúa gạo tốt tươi, không sanh ra loài cỏ dại mà chỉ thuần một loại lúa ngon, dùng công sức rất ít, thu hoạch lại nhiều, người ăn cảm thấy thơm ngon, tăng nhiều khí lực.
Trong nước lúc ấy có vua Chuyển-luân tên Nhương Khứ, có bốn loại binh, không cần dùng đến oai lực để trị vì dân chúng. Vua có ngàn người con tráng kiện, oai hùng, phá tan giặc oán. Vua có bảy báu: kim luân bảo, tượng bảo, mã bảo, châu bảo, nữ bảo, chủ tàng bảo và chủ binh bảo. Đất nước này có đài bảy báu, tất cả đều cao ngàn trượng, ngàn đầu, ngàn bánh xe và rộng sáu mươi trượng. Có bốn kho tàng lớn, mỗi một kho tàng lớn lại có bốn ức kho tàng nhỏ xung quanh. Kho tàng Y-lặc-bát ở nước Càn-đà-la, kho tàng Bàn-du-ca ở nước Di-đề-la, kho tàng Tân-ca-la ở nước Tu-la-tra, kho tàng của vua Nhượng Khứ ở nước Ba-la-nại. Bốn kho tàng lớn này chu vi một ngàn do-tuần, trong đó đầy ắp trân bảo. Mỗi kho tàng lớn lại có bốn ức kho tàng nhỏ phụ. Có bốn con rồng lớn tự bảo vệ kho tàng. Bốn kho tàng lớn và các kho tàng nhỏ tự nhiên phun ra như hình hoa sen, vô số người cùng đến tham quan. Các kho báu này không có người trông giữ, những người trông thấy cũng không sanh tâm tham đắm, bỏ ra đất giống như ngói đá, cỏ cây, cục đất... Những người trông thấy châu báu đều sanh tâm nhàm chán mà nghĩ thế này: “Xưa kia, các chúng sanh do châu báu này mà cùng tàn hại lẫn nhau, lại cùng quanh co, lường gạt, cướp đoạt nhau, làm cho tăng thêm tội lỗi ràng buộc nơi đường sanh tử”.
Thành Sí-đầu-mạc được các lưới châu báu phủ khắp bên trên và trang hoàng những phong linh báu, mỗi khi gió nhẹ xao động chúng vang ra những thanh âm trầm nhẹ ngân nga như chuông đồng. Trong thành Sí-đầu-mạc có người chủ đại Bà-la-môn tên Diệu Phạm. Người nữ Bà-la-môn tên Phạm-ma-ba-đề, Bồ-tát Di Lặc thác sanh làm con của hai vị Bà-la-môn này. Ngài có thân màu vàng ròng, ba mươi hai tướng tốt, chúng sanh trông thấy nhìn mãi không nhàm, thần lực vô lượng không thể nghĩ bàn, hào quang tỏa chiếu xuyên suốt tất cả, phủ mờ hết ánh sáng của mặt trăng, mặt trời và hỏa châu. Thân Bồ-tát cao ngàn thước, ngực rộng ba trăm trượng, mặt dài mười hai trượng bốn thước. Thân thể toàn vẹn đoan chánh, không gì sánh được. Ngài thành tựu tướng tốt như tượng vàng ròng, mắt thịt thanh tịnh nhìn xa mười do-tuần, thường tỏa ánh sáng bốn phía mặt hàng trăm do-tuần, ánh sáng của mặt trăng, mặt trời và hỏa châu không hiện ra được. Chỉ có hào quang đức Phật là tốt đẹp vi diệu đệ nhất.
Bồ-tát Di-Lặc vô cùng thương xót khi quán thấy cuộc đời ngũ dục đưa đến nhiều hoạn nạn và làm chìm đắm biết bao chúng sanh vào biển cả sanh tử. Vì lý do đó mà Ngài chánh niệm tư duy, không thích sống ở gia đình. Vua Nhương Khứ cùng các đại thần đem đài báu này dâng lên Bồ-tát Di-Lặc. Bồ-tát nhận xong đem cho các Bà-la-môn. Các Bà-la-môn nhận xong liền làm hủy hoại, phân tán hết. Bồ-tát Di Lặc nhìn thấy đài báu tốt đẹp này bị vô thường trong thoáng chốc và nhận thấy tất cả những gì hiện hữu cũng đều bị hoại diệt nên tu quán vô thường, xuất gia học đạo. Bồ-tát ngồi dưới cội cây Bồ-đề Long Hoa, lá cành thân cây cao năm mươi dặm. Vào ngày Bồ-tát xuất gia, liền đắc quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Lúc đó, chư thiên, long thần vương ẩn thân, tuôn hoa hương xuống cúng dường Phật. Ba ngàn đại thiên thế giới đều chấn động mạnh. Phật phóng hào quang tỏa chiếu vô lượng cõi nước, những ai có duyên hóa độ đều được thấy Phật.
Lúc bấy giờ mọi người tự nghĩ: “Dầu cho ngàn vạn ức năm hưởng thụ thú vui ngũ dục vẫn không thoát khỏi khổ đau trong ba đường ác, vợ con hay tài sản vẫn không cứu giúp được. Cuộc đời mong manh, mạng người khó giữ được lâu dài, nay chúng ta nên tu hành phạm hạnh nơi giáo pháp Phật”. Suy nghĩ như vậy rồi họ xin xuất gia học đạo.
Khi ấy, vua Nhương Khứ cùng tám vạn bốn ngàn đại thần cung kính xung quanh Phật xin xuất gia học đạo. Có tám vạn bốn ngàn các Bà-la-môn nhiều trí tuệ thông minh cùng xin xuất gia trong giáo pháp Phật. Trưởng giả Tu-đạt-na nay là trưởng giả Tu-đạt cùng với tám vạn bốn ngàn người đều xin xuất gia.
Có anh em Lô-sư-đạt-đa Phú-lan-na cùng với tám vạn bốn ngàn người xin xuất gia và có hai đại thần, một người tên Chiên-đàn, một người tên Tu-mạn được vua yêu mến, trọng dụng cũng cùng với tám vạn bốn ngàn người xin xuất gia trong giáo pháp Phật. Bảo nữ của vua Nhương Khứ tên Xá-di-bà-đế nay là Tỳ-xá-khư cùng với tám vạn bốn ngàn thể nữ đều xin xuất gia. Thái tử của vua Nhương Khứ tên Thiên Sắc, nay là Đề-bà-na cùng với tám vạn bốn ngàn người đều xin xuất gia. Tu-ma-đề con của một Bà-la-môn là thân tộc của Phật Di Lặc, có trí tuệ và các căn lanh lợi, nay là Uất-đa-la cùng với tám vạn bốn ngàn người xin xuất gia trong giáo pháp Phật. Vô lượng ngàn vạn ức đại chúng này vì thấy cuộc đời khổ não nên muốn xuất gia trong giáo pháp Phật Di Lặc.
Đức Phật Di-Lặc biết tâm niệm của đại chúng nên nói:
- Nay các ngươi không vì thú vui sanh lên trời, không vì thú vui đời hiện tại mà đến chỗ Ta, chỉ vì nhân duyên Niết-bàn, thường, lạc. Những người như vậy là đã trồng nhiều thiện căn nơi pháp Phật, do đức Phật Thích Ca Mâu Ni để lại giao phó cho Ta. Thế nên hôm nay các ngươi đến chỗ Ta, Ta xin tiếp nhận. Những người này do đọc tụng, phân tích, quyết định tu tạng A-tỳ-đàm, Đố-lộ-tỳ-ni và tu tập các công đức nên đến chỗ Ta. Hoặc đem cơm áo cúng dường cho người trí tuệ giữ giới, do tu các công đức này nên đến chỗ Ta. Hoặc đem tràng phan, hoa hương cúng dường Phật, do tu công đức này nên đến chỗ Ta. Hoặc bố thí, giữ trai giới, tu tập tâm từ, thực hành công đức này nên đến chỗ Ta. Hoặc vì sự khổ não của chúng sanh, muốn làm cho họ được an vui nên tu tập công đức này và được đến chỗ Ta. Hoặc giữ giới, nhẫn nhục, tu trí tuệ thanh tịnh, do công đức này nên đến chỗ Ta. Hoặc cúng dường thực phẩm, cúng dường chư Tăng, cúng dường thức ăn cho lễ hội, giảng kinh, vì tu công đức này nên đến chỗ Ta. Hoặc giữ giới, nghe nhiều, tu tập thiền định và trí tuệ vô lậu, do công đức này nên đến chỗ Ta. Hoặc xây tháp, cúng dường xá-lợi, do công đức này nên đến chỗ Ta. Lành thay đức Phật Thích Ca Mâu Ni! Đã khéo giáo hóa trăm ngàn vạn ức chúng sanh như vậy, làm cho họ đến chỗ Ta.
Phật Di Lặc ba lần ngợi khen đức Phật Thích Ca Mâu Ni, sau đó Ngài thuyết pháp và nói thế này:
- Những chúng sanh nào ở trong cuộc đời xấu ác, nhiều tham dục, sân hận, ngu si, mê hoặc và mạng sống ngắn ngủi mà làm được việc khó làm như: tu hành, giữ giới, làm các công đức thì thật là hy hữu. Trong lúc có những chúng sanh không biết đến cha mẹ, Sa-môn, Bà-la-môn; không biết đạo pháp, gần gũi với đao binh, giặc cướp, sát hại lẫn nhau, đam mê nơi ngũ dục, ganh tị, dối trá, quanh co; tà ngụy vẩn đục, không có tâm thương mến, uống máu, ăn thịt, làm việc giết hại. Những ai ở trong chốn đó mà có thể tu hành, làm việc thiện thì thật là hy hữu.
Hay thay, đức Phật Thích Ca Mâu Ni! Ngài đã đem tâm đại bi ban rải cho khắp chúng sanh bị khổ não bằng những lời răn dạy vô cùng chân thật. Và Ngài đã chỉ dạy Ta sự giáo hóa cứu độ các ngươi trong tương lai. Bậc thầy như vậy thật khó được gặp. Trong thâm tâm Ngài luôn thương tưởng chúng sanh trong cuộc đời xấu ác. Ngài cứu giúp họ thoát khỏi khổ đau và làm cho họ được an ổn. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vì các ngươi mà bố thí đầu, tai, mũi, tay, chân, thân thể... Ngài đã chịu biết bao khổ não để mang lại lợi lạc cho các ngươi.
Đức Phật Di Lặc an ủi vô lượng chúng sanh bằng những lời khại đạo như vậy, khiến họ vô cùng hoan hỷ. Sau đó Ngài mới thuyết pháp. Trong số chúng sanh đó có người phước đức sung mãn, cung kính tin thọ và khát ngưỡng đại sư, họ muốn nghe pháp nên suy nghĩ: “Nguồn gốc các khổ do năm dục bất tịnh. Chúng ta nên từ bỏ lo sầu khổ não, biết pháp khổ vui đều là vô thường”.
Phật Di Lặc quán sát tâm của đại chúng khi ấy đều thanh tịnh, thuần thục. Ngài thuyết pháp Tứ đế, những người được nghe đồng thời đạt đạo Niết-bàn.
Lúc bấy giờ Phật Di Lặc ở vườn Hoa Lâm. Vườn này có diện tích một trăm do-tuần, đại chúng đầy khắp vườn. Hội thuyết pháp lần đầu có chín mươi sáu ức người đắc quả A-la-hán. Đại hội thuyết pháp lần hai có chín mươi tư ức người đắc quả A-la-hán. Hội thuyết pháp lần ba có chín mươi hai ức người đắc quả A-la-hán.
Phật Di Lặc đã chuyển pháp luân hóa độ chư thiên và loài người rồi, Ngài dẫn các đệ tử vào thành khất thực. Vô lượng chúng trời Tịnh Cư cung kính theo Phật vào thành Sí-đầu-mạc. Trong lúc vào thành, họ hiện vô số thần lực và vô lượng sự biến hiện. Thích Đề Hoàn Nhân cùng chư thiên cõi Dục, Phạm Thiên Vương cùng chư thiên cõi Sắc trỗi trăm ngàn loại âm nhạc ca ngợi công đức Phật và mưa tuôn những hoa trời, bột thơm Chiên-đàn cúng dường đức Phật. Họ dựng tràng phan, lọng che khắp các nẻo đường và đốt những loại hương thơm, khói tụ như mây.
Khi đức Thế Tôn vào thành, Đại Phạm Thiên Vương và Thích Đề Hoàn Nhân chắp tay cung kính nói kệ tán thán:
Đấng Chánh biến tri Lưỡng túc tôn
Trời người thế gian không sánh kịp
Thế Tôn Thập lực rất hy hữu
Ruộng phước tốt cao tột vô biên
Ai cúng dường Phật sanh lên trời
Cung kính đảnh lễ bậc tinh tấn.
Lúc ấy, trời người, La-sát... trông thấy đại lực rộng lớn của Phật chinh phục tất cả. Ngàn vạn ức vô lượng chúng sanh đều rất hoan hỷ. Họ chắp tay ca ngợi:
- Vô cùng hy hữu! Vô cùng hy hữu! Công đức thần lực của Như Lai viên mãn không thể nghĩ bàn.
Các trời người đem hoa sen đủ màu sắc xen lẫn và hoa Mạn-đà-la để rải trên đất Phật. Hoa tụ lại cao đến đầu gối. Chư thiên trong hư không trỗi trăm ngàn âm nhạc ca ngợi công đức Phật. Từ đầu đêm đến cuối đêm, Ma vương luôn cảnh tỉnh mọi người rằng:
- Các ngươi đã được làm thân người, được gặp thời tốt đẹp, chớ nên ngủ nghỉ suốt đêm để tâm trí mê muội. Hoặc đứng hay ngồi, các ngươi cũng cần phải nỗ lực tinh tấn giữ chánh niệm, quán sát chân chính về 5 ấm, vô thường, khổ, không, vô ngã. Các ngươi hãy thực hành theo lời Phật dạy, chớ có buông lung. Nếu ai phát sanh nghiệp ác, sau này chắc chắn đưa đến hối hận.
Khi đó trên các nẻo đường, nam nữ đều bắt chước nói theo:
- Các ngươi hãy thực hành theo lời Phật dạy, chớ có buông lung. Nếu ai phát sanh nghiệp ác, sau này chắc chắn sẽ hối hận. Hãy nỗ lực phương tiện, tinh tấn cầu đạo, chớ đánh mất pháp lợi lạc mà rong ruỗi theo con đường sanh tử. Khó thay được gặp đấng đạo sư cứu vớt khổ não cho chúng sanh như vậy. Nhờ tâm kiên trì tinh tấn sẽ được Niết-bàn thường lạc.
Các đệ tử của Phật Di Lặc đều đầy đủ oai nghi, thân đoan chánh. Họ nhàm chán sanh - già - bệnh - chết, học rộng, nghe nhiều, bảo vệ kho tàng chánh pháp, được lìa bỏ các dục như chim sổ lồng.
Lúc bấy giờ Phật Di Lặc muốn đến chỗ trưởng lão Đại Ca Diếp, Ngài cùng bốn chúng vân tập đến núi Kỳ-xà-quật và tất cả đều trông thấy đại Ca Diếp trên đỉnh núi. Trong thâm tâm của đại chúng vô cùng kinh ngạc. Đức Phật Di Lặc ngợi khen:
- Tỳ-kheo Đại Ca Diếp là vị đệ tử lớn của Phật Thích Ca Mâu Ni. Phật Thích Ca Mâu Ni ở trong đại chúng thường ca ngợi, tán thán hạnh đầu-đà đệ nhất của thầy. Thầy thông đạt thiền định giải thoát tam muội, mặc dầu có nhiều thần lực nhưng tâm không cao ngạo, còn làm cho chúng sanh được nhiều hoan hỷ. Thầy luôn thương tưởng những chúng sanh bần cùng, hạ tiện, khổ não và cứu giúp họ hết khổ não, được an vui.
Đức Phật Di Lặc ngợi khen nhục thân của Đại Ca Diếp:
- Lành thay Đại Ca Diếp! Vị đại đệ tử của đấng có thần đức lớn Thích Ca Mâu Ni ở nơi đời xấu ác vẫn có thể giữ tâm tu tập. Mọi người thấy Phật Di Lặc ngợi khen Đại Ca Diếp nên có trăm ngàn ức người nhờ nhân này mà nhàm chán cuộc đời và đắc đạo. Họ suy nghĩ: “Phật Thích Ca Mâu Ni ở trong cuộc đời xấu ác đã giáo hóa vô lượng chúng sanh, làm cho họ được đầy đủ sáu thần thông, thành tựu đạo quả A-la-hán”. Đạo tràng thuyết pháp rộng tám mươi do-tuần, dài một trăm do-tuần. Những người ở trong đạo tràng này hoặc đứng hoặc ngồi, hoặc gần hoặc xa đều tự thấy Phật ở ngay trước mặt và chỉ thuyết pháp cho riêng họ mà thôi. Phật Di-Lặc trụ thế sáu vạn năm. Ngài thương xót chúng sanh, làm cho họ được mắt pháp. Sau khi Ngài diệt độ, chánh pháp trụ ở đời cũng sáu vạn năm. Các ngươi hãy nên tinh tấn phát tâm thanh tịnh, phát khởi các nghiệp thiện, được gặp Phật Di Lặc như ngọn đèn sáng của thế gian, chắc chắn không nghi ngờ.
Đức Phật dạy kinh này xong, tôn giả Xá Lợi Phất... đều hoan hỷ thọ trì, đảnh lễ Phật mà lui ra.
PHẬT THUYẾT DI-LẶC HẠ SANH THÀNH PHẬT KINH
Tôi nghe như vầy:
Một thời đức Như Lai ở trên đỉnh núi Linh Thứu, thành Vương Xá cùng đại chúng Bí-sô. Tôn giả Xá Lợi Phất là bậc đại trí, bậc tướng đệ nhất về giáo pháp trong hàng đệ tử Phật. Vì thương tưởng chúng sanh nên ngài rời tòa đứng dậy, sửa y bày vai phải, gối phải quỳ sát đất, cung kính chắp tay bạch Phật:
- Bạch đức Thế Tôn! Con có ít điều muốn thưa hỏi, cúi xin Ngài cho phép.
Đức Phật bảo Xá Lợi Phất:
- Thầy cứ tùy ý hỏi, Ta sẽ trả lời.
Tôn giả Xá Lợi Phất dùng kệ thỉnh hỏi đức Thế Tôn:
- Phật đã thọ ký cho
Tương lai Phật hạ sanh
Hiệu Di Lặc Từ Thị
Như trình tự kinh thuyết
Cúi xin Phật Thế Tôn
Tóm tắt và phân tích
Oai đức thần thông kia
Nay con mong muốn nghe.
Phật bảo Xá Lợi Tử:
- Nên chí tâm lắng nghe
Tương lai Phật Từ Thị
Ta giảng rộng cho thầy
Thời ấy nước biển cả
Giảm dần bớt ba ngàn
Hai trăm du-thiện-na
Bồi đất thành đường đi
Cõi Ta-bà rộng thêm
Hơn vạn du-thiện-na
Chúng sanh ở cõi ấy
Đầy đủ và sung mãn
Cõi nước giàu, tốt đẹp
Không hình phạt, tai nạn
Các nam nữ cõi này
Sanh ra từ thiện nghiệp
Đất không có gai góc
Cỏ xanh mọc mềm mại
Như trải thảm nhung êm
Người đi rất vừa ý
Tự nhiên sanh gạo thơm
Đầy đủ chất thơm ngon
Các cây sanh y phục
Màu sắc đều tốt đẹp
Cây cao ba câu-xá
Hoa quả rất sum suê
Người trong cõi nước này
Tuổi thọ tám vạn năm
Không có các bệnh khổ
Thân tâm thường an lạc
Đủ các tướng đoan nghiêm
Sắc lực đều viên mãn
Chỉ còn ba nỗi lo:
Ăn, già, đại tiểu tiện
Con gái năm trăm tuổi
Mới làm lễ kết hôn
Nếu người đại tiểu tiện
Đất nứt ra, khép lại
Khi người sắp qua đời
Tự đến rừng Thi Lâm
Có thành Diệu Tràng Tướng
Kinh đô của Luân vương
Dài mười hai do-tuần
Rộng bằng bảy do-tuần
Người sống trong thành ấy
Đều đã trồng nhân tốt
Thành này đức cao vời
Ai ở cũng an vui
Lầu đài đều tốt đẹp
Do bảy báu tạo thành
Đại sảnh và các cửa
Trang hoàng bằng châu báu
Các ao báu quanh thành
Đầy những trân bảo quý
Hoa đẹp nở đầy vườn
Nhiều chim đẹp líu lo
Bảy hàng cây đa-la
Bao bọc chung quanh thành
Cũng trang hoàng bảy báu
Lưới báu và phong linh
Gió thoảng vào cây báu
Tạo âm thanh tuyệt vời
Giống như nhạc bát âm
Người nghe sanh hoan hỷ
Nơi nơi có ao hồ
Phủ đầy những hoa đẹp
Công viên hoa thơm ngát
Làm đẹp thành quách này
Hoàng đế cai trị nước
Danh hiệu là Hướng Khư
Kim luân vương cai trị
Giàu sang nhiều oai lực
Phước đức nghiệp của vua
Hùng mạnh kiêm bốn binh
Thành tựu bởi bảy báu
Vua có đủ ngàn con
Bốn biển đều an vui
Không có việc chiến chinh
Chánh pháp dạy quần sanh
Hình pháp đều bình đẳng
Vua có bốn kho tàng
Mỗi kho ở một hướng
Cả bốn kho đều có
Trăm vạn ức trân bảo
Kho tàng Băng-kiệt-la
Ở nước Yết-lăng-già
Kho tàng Bát-trục-ca
Ở nước Mật-hy-la
Kho Y-la-bát-la
Đặt tại nước Kiền-đà
Kho tàng tên Hướng-khư
Nước Ba-na-bặc-tư
Bốn kho tàng kín này
Thuộc về vua Hướng Khư
Do trăm phước sanh ra
Quả báo tu thành tựu
Đại thần bảo vệ nước
Bà-la-môn Thiện Tịnh
Thông đạt cả bốn minh
Là uốc sư học rộng
Và bác học luận triết
Khéo dạy người nghe nhận
Thông tuệ và rõ ràng
Tất cả đều tường tận
Vợ ông tên Tịnh Diệu
Là phu nhân đại thần
Tướng đoan trang xinh đẹp
Ai gặp cũng mến yêu
Đại trượng phu Từ Thị
Từ cõi trời Đâu Suất
Thác vào thai phu nhân
Làm nơi sanh cuối cùng
Phu nhân mang đại thánh
Đủ mười tháng cưu mang
Một hôm Từ tôn mẫu
Đi dạo vườn hoa đẹp
Ở trong vườn hoa đó
Không ngồi cũng không nằm
Khoan thai vin cành hoa
Đản sanh Ngài Từ Thị
Bấy giờ bậc tối thắng
Hông phải mẹ chui ra
Như mặt trời rực rỡ
Tỏa ánh sáng muôn phương
Không nhiễm mùi tục lụy
Như hoa sen khỏi nước
Ánh sáng chiếu ba cõi
Đều quy ngưỡng đại từ
Khi Bồ-tát giáng sanh
Chư thiên, Đế Thích vương
Đưa tay đỡ Bồ-tát
Mừng gặp Lưỡng túc tôn
Bồ-tát ngay lúc này
Tự nhiên đi bảy bước
Và khắp dưới chân Ngài
Hiện ra hoa sen báu
Ngài nhìn khắp mười phương
Bảo hết các thiên nhân
Này thân cuối của Ta
Chứng Niết-bàn vô sanh
Rồng tuôn nước trong mát
Tắm gội sạch thân Ngài
Trời rải hoa tuyệt đẹp
Bao phủ đấng Đại từ
Ai cũng tâm hy hữu
Bảo vệ nơi Bồ-tát
Bảo mẫu bế hài nhi
Ba mươi hai tướng tốt
Đầy đủ ánh hào quang
Đem trao cho từ mẫu
Xa giá để cung nghinh
Trang hoàng bằng châu báu
Mẹ con cũng vào thành
Chư thiên theo hầu hạ
Muôn ngàn âm nhạc hay
Dẫn đường trở về cung
Từ Thị vào thành quách
Hoa trời như mưa rơi
Ngày đản sanh Bồ-tát
Các thể nữ mang thai
Đều được thân an ổn
Sanh con trai trí tuệ
Phụ thân Từ Thiện Tịnh
Thấy con đẹp diệu kỳ
Đủ ba mươi hai tướng
Lòng rất đổi vui mừng
Cha xem số cho con
Biết con có hai tướng
Ở đời làm Chuyển luân
Xuất gia thành Chánh giác
Bồ-tát lúc trưởng thành
Từ mẫn các quần sanh
Khổ đau trong hiểm nạn
Mãi quanh quẩn luân hồi
Thân như vàng sáng chói
Tiếng giống đại Phạm Vương
Mắt cánh sen xanh biếc
Các chi đều tròn đầy
Cao tám mươi khuỷu tay
Vai hai mươi khuỷu tay
Mặt rộng, vai cân xứng
Xinh đẹp như trăng tròn
Bồ-tát thông tài nghệ
Khéo giáo hóa mọi người
Đến cần cầu xin học
Tám vạn bốn ngàn người
Vua Hướng Khư nghe tiếng
Xây dựng tràng bảy báu
Tràng cao bảy mươi thước
Rộng mười sáu thước hơn
Bảo tràng đã lập xong
Vua phát tâm đại xả
Bố thí Bà-la-môn
Mở hội thí không hạn
Khi ấy các Phạm chí
Số có một ngàn người
Được tràng báu đẹp này
Chỉ khoảnh khắc vỡ vụn
Bồ-tát thấy như vậy
Nghĩ cuộc đời cũng thế
Sanh tử khổ lao lung
Sao không cầu giải thoát?
Nếu mong đạo tịch diệt
Hãy bỏ tục xuất gia
Trong sanh già bệnh chết
Phải làm sao ra khỏi
Từ Thị phát nguyện xong
Tám vạn bốn ngàn người
Đều sanh tâm nhàm chán
Theo tu tập phạm hạnh
Ngày đêm đều phát tâm
Xuất gia bỏ thế tục
Đến nửa đêm hôm ấy
Chứng đắc địa Đẳng giác
Có một cây giác ngộ
Cũng gọi cây Long Hoa
Cao bốn du-thiện-na
Sum suê và râm mát
Nhánh tỏa đều bốn mặt
Bóng sáu câu-lô-xá
Từ Thị đại bi tôn
Thành Chánh giác dưới cây
Tối thắng trong mọi người
Có tám tiếng Phạm âm
Thuyết pháp độ chúng sanh
Giúp xa lìa phiền não
Khổ và nơi sanh khổ
Tất cả được diệt trừ
Siêng tu tám chánh đạo
Đến bờ giác Niết-bàn
Nói bốn pháp chơn đế
Cho những người thanh, tín
Được nghe pháp vi diệu
Chí thành vâng làm theo
Trong vườn hoa tươi đẹp
Chúng tập hợp như mây
Đầy trăm ngàn do-tuần
Và quyến thuộc đông đủ
Kim luân vương Hướng Khư
Nghe pháp sâu nhiệm mầu
Bỏ lâu đài châu báu
Lòng cầu khẩn xuất gia
Tám vạn bốn ngàn người
Theo vua đi xuất gia
Và tám vạn bốn ngàn
Thanh niên Bà-la-môn
Nghe vua bỏ trần tục
Cũng cầu xin xuất gia
Trưởng giả chủ tàng thần
Có tên là Thiện Tài
Cùng ngàn người bà con
Cũng đến xin xuất gia
Bảo nữ Tỳ-xá-khư
Cùng tất cả thị tùng
Tám vạn bốn ngàn người
Cũng đến xin xuất gia
Và hơn số trăm ngàn
Chúng hiện nam thiện nữ
Nghe Phật giảng pháp mầu
Cũng đến xin xuất gia
Vô thượng Chúng trung tôn
Thánh chúa Đại từ bi
Xem khắp tâm chúng sanh
Mà giảng nói pháp yếu
Bảo đại chúng nên biết
Thích Ca Phật từ bi
Dạy người tu chánh đạo
Nay sanh trong pháp Ta
Hoặc đem vòng hoa thơm
Tràng phan và lọng báu
Cúng dường Phật Thích Ca
Nay sanh trong pháp Ta
Hoặc chiên-đàn, trầm thủy
Hương bột để tô phết
Cúng dường tháp Mâu-Ni
Nay sanh trong pháp Ta
Quy y Phật, Pháp, Tăng
Thường cung kính thân cận
Chuyên tu những hạnh thiện
Nay sanh trong pháp Ta
Hoặc đối với pháp Phật
Vâng thọ các kinh điển
Khéo giữ không khiếm khuyết
Nay sanh trong pháp Ta
Đối với Tăng bốn phương
Cúng thực phẩm, y phục
Tất cả thuốc thang hay
Nay sanh trong pháp Ta
Hoặc giữ bốn ngày trai
Và thập trai, nguyệt trai
Thọ trì tám trai giới
Nay sanh trong pháp Ta
Hoặc tu ba thần thông
Truyền trao dạy thần cảnh
Giáo hóa chúng Thanh văn
Giúp họ đoạn phiền não
Hội thứ nhất thuyết pháp
Độ khắp chúng Thanh văn
Chín mươi sáu ức người
Khiến khỏi chướng phiền não
Hội thứ hai thuyết pháp
Độ khắp chúng Thanh văn
Chín mươi bốn ức người
Vượt khỏi biển vô minh
Hội thứ ba thuyết pháp
Độ khắp chúng Thanh văn
Chín mươi hai ức người
Khéo biết điều phục tâm
Ba lần chuyển pháp luân
Trời, người tâm thuần tịnh
Đem tất cả đệ tử
Vào trong thành khất thực
Khi đến thành Diệu Tràng
Các nẻo đường trang hoàng
Để cúng dường đức Phật
Trời mưa hoa Mạn-đà
Tứ thiên vương, Phạm vương
Cùng tất cả thiên chúng
Cúng dường hương hoa thơm
Hầu bên đấng Đại từ
Chư thiên nhiều oai đức
Cúng y phục tốt đẹp
Khắp thị thành rộn rịp
Chiêm ngưỡng đại Y vương
Mang hoa thơm châu báu
Rải sạch các nẻo đường
Phủ đầy trên mặt đất
Ví như đổ-la-miên
Âm nhạc và tràng phan
Dọc hai bên đường đi
Chúng nhân thiên Đế Thích
Tán thán đức Thế Tôn
Nam mô Thiên Thượng Tôn
Nam mô Phật Tối Thắng
Lành thay đấng Như Lai
Thương xót khắp trần gian
Có trời nhiều oai đức
Đang làm vua các ma
Nhất tâm cung kính lễ
Quy ngưỡng đấng Đạo sư
Pham vương và thiên chúng
Cùng quyến thuộc vây quanh
Mang âm thanh Phạm thiên
Xiển dương pháp vi diệu
Ở trong thế giới này
Phần đông A-la-hán
Dứt sạch nghiệp hữu lậu
Khổ phiền não không còn
Chúng trời, người, long thần
Càn-thát, A-tu-la
La-sát và Dược-xoa
Đều hoan hỷ cúng dường
Đại chúng lúc bấy giờ
Đoạn chướng, trừ nghi hoặc
Vượt khỏi dòng sanh tử
Khéo tu hạnh thanh tịnh
Tất cả các đại chúng
Không tham đắm của cải
Vô ngã và ngã sở
Khéo tu hạnh thanh tịnh
Tất cả các đại chúng
Phá vỡ lưới tham ái
Tâm tịnh lự viên mãn
Khéo tu hạnh thanh tịnh
Thiên nhân tôn Từ Thị
Thương tưởng chúng hữu tình
Sáu vạn năm ở đời
Thuyết pháp độ chúng sanh
Giáo hóa trăm ngàn ức
Thoát khỏi biển phiền não
Người đủ duyên độ hết
Mới nhập thành Niết-bàn
Từ Thị đại bi tôn
Sau khi nhập Niết-bàn
Chánh pháp trụ ở đời
Cũng đủ sáu vạn năm
Người nào trong pháp Ta
Tâm tin nhận sâu xa
Tương lai khi hạ sanh
Ắt thờ đấng đại bi
Nếu có người thông tuệ
Nghe nói các việc này
Ai mà chẳng vui mừng
Nguyện gặp Phật Di-Lặc
Người nào cầu giải thoát
Mong gặp hội Long Hoa
Thường cúng dường Tam bảo
Nỗ lực chớ buông lung
Khi ấy, Xá Lợi Phất và đại chúng nghe đức Thế Tôn dạy về những sự việc của Ngài Từ Thị trong tương lai rồi, Phật lại dạy Xá Lợi Phất:
- Có người nam, người nữ nào nghe pháp này mà thọ trì, đọc tụng, giảng nói cho người khác tu hành theo giáo pháp, cúng dường hương hoa và ghi chép kinh điển, tương lai những người đó chắc chắn được gặp Phật Di Lặc hạ sanh, ở trong ba hội đều được nhờ ân cứu độ.
Lúc đức Phật nói bài kệ này, tôn giả Xá Lợi Phất và các đại chúng hoan hỷ tin thọ, đảnh lễ, phụng hành.
PHẬT THUYẾT KINH DI LẶC ĐẠI THÀNH PHẬT
Tôi nghe như vầy:
Một thuở nọ, Đức Phật ở trên núi Cô Tuyệt của nước Ma-kiệt-đà. Đây là nơi mà chư Phật thời quá khứ thường hàng phục ma quân. Bấy giờ là vào mùa an cư kiết hạ, Thế Tôn đang đi kinh hành trên đỉnh núi với Trưởng lão Xá-lợi-phất, và rồi Ngài nói kệ rằng:
"Nhất tâm nhiếp ý hãy lắng nghe
Từ trong ánh sáng đại tam-muội
Có bậc thánh nhân sẽ xuất thế
Vô thượng công đức không ai hơn
Vị kia sẽ thuyết vi diệu Pháp
Tất cả đều được viên mãn túc
Như đang khát nước uống cam lộ
Liền vụt thẳng đến Đạo giải thoát"
Lúc bấy giờ bốn chúng đệ tử đều đến hội họp. Họ sửa sang đường lộ, rưới nước quét đất và đốt hương. Họ mang theo những phẩm vật để cúng dường Như Lai cùng chư Tỳ-kheo Tăng. Họ chăm chú chiêm ngưỡng Đức Như Lai, ví như hiếu tử nhìn người cha hiền, như đang khát thèm nước uống. Họ tưởng nhớ và yêu mến bậc Pháp phụ cũng lại như thế. Mỗi mỗi đều đồng nhất tâm muốn thỉnh Pháp Vương lăn chuyển bánh xe Chánh Pháp. Với các căn bất động, tâm họ lần lượt lưu chảy về hướng của Phật.
Khi đó chư Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, thiên long quỷ thần, càn-thát-bà, a-tu-la, ca-lâu-la, khẩn-na-la, ma-hầu-la-già, người và phi nhân, đều từ chỗ ngồi đứng dậy, đi nhiễu bên phải của Thế Tôn, đầu đảnh lễ sát đất và hướng về Đức Phật mà rơi lệ than khóc.
Lúc bấy giờ, Đại trí Xá-lợi-phất sửa y phục chỉnh tể và trịch áo lộ vai phải. Ngài biết được tâm niệm của Pháp Vương. Lại khéo có thể tùy thuận theo Pháp Vương tu học Phật Pháp, lăn chuyển bánh xe Chánh Pháp, là đại thần của Phật và là một đại tướng trì Pháp. Bởi lòng thương xót chúng sanh và muốn họ thoát ra khỏi sự ràng buộc của khổ ách nên bạch Phật rằng:
"Bạch Thế Tôn! Vừa rồi Đức Như Lai ở trên đỉnh núi nói bài kệ ngợi khen bậc trí tuệ đệ nhất. Trong các Kinh trước đây, Thế Tôn chưa từng bao giờ nhắc qua. Nay trong lòng của các đại chúng đều khát ngưỡng, lệ rơi như mưa lớn. Họ muốn nghe Như Lai nói về Đức Phật vị lai, bậc sẽ khai mở Đạo cam lộ, cùng danh tự của ngài Di-lặc, công đức thần lực và quốc độ trang nghiêm. Phải dùng thiện căn, trì giới, bố thí, thiền định, trí tuệ, và trí lực như thế nào mới thấy được Đức Di-lặc? Trong tâm phải tu Bát Chánh Đạo ra làm sao?"
Khi ngài Xá-lợi-phất thưa hỏi lời ấy, thì trăm ngàn thiên tử với vô số Phạm Vương, đều chắp tay cung kính, dị khẩu đồng âm và bạch Phật rằng:
"Bạch Thế Tôn! Kính mong Ngài hãy khiến chúng con vào đời vị lai sẽ thấy được Đức Phật Di-lặc, bậc có đại quả báo tối thượng, là con mắt sáng của Tam Giới. Vị ấy sẽ rộng vì chúng sanh mà thuyết Pháp với lòng từ bi rộng lớn."
Khi đó, tám bộ chúng cũng đều cung kính chắp tay và khuyến thỉnh Như Lai.
Khi ấy chư Phạm Vương và hàng Phạm chúng, dị khẩu đồng âm, chắp tay tán thán và nói bài kệ tụng:
"Nam-mô bậc mãn nguyệt
Đầy đủ cả mười lực
Là bậc đại tinh tấn
Dũng mãnh cùng vô úy
Thánh nhân Nhất Thiết Trí
Siêu xuất lìa ba cõi
Thành tựu tam đạt trí
Hàng phục bốn chúng ma
Thân ngài là Pháp khí
Tâm lượng như hư không
Tĩnh nhiên chẳng dao động
Là hữu cũng phi hữu
Là vô cũng phi vô
Thông đạt giải pháp không
Thế gian đều tán thán
Chúng con đồng nhất tâm
Đều cùng xin quy y
Nguyện thỉnh chuyển Pháp luân"
Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn bảo ngài Xá-lợi-phất:
"Ta sẽ rộng vì các ông phân biệt giảng giải. Lắng nghe, lắng nghe và khéo tư duy! Nay các ông dùng thiện tâm vi diệu mà muốn hỏi Như Lai về Đạo nghiệp vô thượng để đến đại Bát-nhã. Như Lai thấy rõ như quán trái a-ma-la trong lòng bàn tay."
Phật bảo ngài Xá-lợi-phất:
"Nếu ai đã từng ở nơi của bảy Đức Phật quá khứ mà nghe được danh hiệu các Đức Phật kia cùng lễ bái cúng dường, thì do nhân duyên này nên nghiệp chướng sẽ tiêu trừ. Nếu lại nghe về sự tích đại từ của Đức Phật Di-lặc, thì tâm họ sẽ được thanh tịnh. Nay các ông phải nhất tâm chắp tay và quy y với bậc đại từ bi của đời vị lai. Ta sẽ rộng vì các ông phân biệt giảng giải.
Cõi nước của Đức Phật Di-lặc thanh tịnh, không có sự nịnh hót hay gian xảo, bởi vì Ngài chẳng thọ và không chấp trước vào sự Bố Thí Ba-la-mật, Trì Giới Ba-la-mật, hay Bát-nhã Ba-la-mật. Phật quốc vi diệu là do 10 đại nguyện trang nghiêm của Ngài. Hết thảy chúng sanh nào thấy Đức Di-lặc và được tâm đại từ của Ngài nhiếp thọ, thì họ sẽ khởi sanh tâm nhu nhuyễn. Họ sẽ sinh về cõi nước kia với các căn điều phục và luôn thuận theo sự giáo hóa của Phật.
Này Xá-lợi-phất! Khi mặt nước của bốn biển lớn giảm bớt đi ba ngàn do-tuần, lúc ấy đất đai ở châu Diêm-phù-đề sẽ dài và rộng là mười ngàn do-tuần. Đất ấy bằng phẳng và trong sạch như gương kính lưu ly. Nơi đó sẽ có hoa thích ý lớn, hoa duyệt khả ý, hoa với mùi hương thơm ngát, hoa ưu-đàm, hoa với cánh vàng lớn, hoa với cánh làm bằng bảy báu, và hoa với cánh làm bằng bạc trắng. Nhụy của những bông hoa này mềm mại như vải lụa cõi trời. Chúng sinh ra các trái cây cát tường với đầy đủ hương vị và nhu nhuyễn như bông gòn cõi trời. Ở trong rừng có rất nhiều cây bông hoa xinh đẹp và trái cây thơm ngọt, vượt hơn cả vườn Hoan Hỷ của Thiên Chủ Đế-thích. Cây to sừng sững và cao đến ba mươi dặm.
Các thành ấp gần kề và chỉ cách bằng một chuyến bay của con gà. Chúng sanh nước ấy đều đã trồng căn lành rộng lớn ở nơi chư Phật hiện tại và do quả báo của hạnh từ tâm nên đều sanh ở quốc độ kia. Họ có oai đức cùng trí tuệ, đầy đủ các đồ ngũ dục để thọ hưởng và sống vui sướng an nhàn. Không có chín loại khổ não và cũng chẳng phải chịu các thứ bệnh do từ nóng lạnh cùng gió lửa gây ra. Họ có tuổi thọ trọn vẹn, sống đến tám mươi tư ngàn năm và không một ai bị chết yểu. Thân người đều cao đến mười sáu trượng. Mỗi ngày họ luôn thọ hưởng những điều an vui vi diệu; niềm vui của họ là nhập sâu vào thiền định. Duy chỉ có ba bệnh:
1. Cần phải ăn uống
2. Cần phải đại tiểu tiện
3. Phải bị già yếu
Khi người nữ được năm trăm tuổi thì họ mới đi xuất giá. Lúc đó sẽ có một đại thành tên là Sí-đầu-mạt, rộng dài một ngàn hai trăm do-tuần, cao bảy do-tuần, và được trang nghiêm bằng bảy báu. Trong thành tự nhiên hóa sanh những lầu các bằng thất bảo, đẹp đẽ tráng lệ và trang nghiêm thanh tịnh. Xuyên qua những khung cửa sổ có thể nhìn thấy các bảo nữ, trong tay họ đều cầm màn lưới trân châu. Bên trên những lầu các ấy được trang trí với các châu báu khác nhau. Lại treo những chuông báu; tiếng vang của chúng tựa như âm nhạc cõi trời. Bên trong của các hàng cây bảy báu có những kênh nước, suối phun và đều do thất bảo hợp thành. Chúng chảy ra những dòng nước với màu sắc khác lạ và hỗ tương chiếu sáng lấp lánh. Chúng chảy chầm chậm thành những đường viền và chẳng hề chướng ngại lẫn nhau. Ở hai bên bờ rải toàn là cát vàng. Những con đường lộ có chiều rộng là mười hai dặm. Hết thảy đều thanh tịnh và được quét rửa sạch sẽ như khu vườn ở cõi trời.
Lúc đó sẽ xuất hiện một vị đại long vương tên là Đa-la-thi-khí, oai lực cùng phước đức thảy đều cụ túc. Nơi ao hồ cư trú của vua rồng gần cạnh bên thành. Cung điện của long vương giống như lầu các bảy báu, từ nơi xa xa cũng hiển hiện rõ rệt. Vào giữa đêm khuya, long vương thường hóa thành hình người, lấy bình cát tường để đựng nước hương và rưới trên đất bụi cho đến khi đất ấy thấm ướt tựa như dầu. Những người nào đi trên đó đều chẳng dính bụi bặm.
Do phước đức của dân chúng thời đó, cho nên trên những cột trụ ở khắp đường lộ và lối đi đều có một hạt minh châu. Chúng chiếu soi ở bốn phương và sáng hơn cả mặt trời. Mỗi một hạt minh châu chiếu soi tám mươi do-tuần và thuần chỉ một màu hoàng kim. Ánh sáng đó ngày đêm chiếu soi êm dịu như nhau. Ánh sáng của đèn đuốc mà so sánh với ánh sáng này thì ví như là vũng mực. Khi có làn gió hương thơm thổi qua những cột trụ minh châu, lúc đó sẽ mưa xuống các xâu chuỗi anh lạc báu. Dân chúng đều lấy đeo và tự nhiên họ được niềm vui sướng như ở đệ tam thiền. Ở mọi nơi đều có vàng, bạc, trân châu, ma-ni, và các châu báu khác; chúng tích tụ tạo thành như núi. Những hòn núi báu này phóng ra ánh sáng chiếu khắp cả thành. Khi dân chúng được ánh sáng đó rọi đến, hết thảy đều hoan hỷ và phát Bồ-đề tâm.
Lúc đó sẽ có một đại dạ-xoa tên là Bạt-đà-bà-la-xa-tắc-ca, ngày đêm sẽ luôn bảo hộ thành Sí-đầu-mạt cùng các dân chúng. Vị thần này quét dọn sạch sẽ mọi nơi. Giả như có người đi đại tiểu tiện thì đất sẽ nứt ra để hứng lấy và khép lại như cũ khi xong. Sau đó nơi ấy sẽ mọc ra hoa sen đỏ để tẩy trừ đi mùi hôi.
Những người ở thời đó như đến lúc tuổi già suy thì họ sẽ tự động đi lên rừng và ngồi dưới gốc cây. Họ vui vẻ, an nhiên và chỉ chuyên tâm niệm Phật cho đến khi thọ mạng chấm dứt. Khi mạng chung, phần lớn sanh lên trời Đại Phạm hoặc sanh ở trước chư Phật.
Cõi nước ấy bình an, không có oán tặc hay nạn cướp bóc. Cửa ngỏ trong thành ấp hay thôn xóm đều chẳng khép kín. Lại cũng chẳng có sự khổ não từ nước lửa, đao binh, cùng nạn đói khát hay các thứ độc hại gây ra. Dân chúng luôn hiền từ, cung kính hòa thuận và các căn điều phục. Họ đối đãi với nhau như con yêu cha, như mẹ thương con, lời nói khiêm tốn. Đây đều là do Đức Di-lặc từ tâm dạy bảo. Những ai thọ trì giới không sát sanh và không ăn thịt thì do nhân duyên này nên họ sẽ sanh về quốc độ kia. Các căn của họ rất điềm tĩnh, có diện mạo đoan chánh và uy tướng đầy đủ như đồng tử cõi trời.
Xung quanh thành Sí-đầu-mạt lại có tám mươi tư ngàn tiểu thành báu, thành Sí-đầu-mạt nằm ở trung tâm. Nam nữ lớn bé, tuy gần hay xa, do thần lực của Phật nên đều trông thấy lẫn nhau mà chẳng hề chướng ngại.
Có dạ quang ma-ni và hoa như ý châu biến mãn thế giới kia. Trên trời mưa xuống các hoa bảy báu, hoa sen hồng, hoa sen xanh, hoa sen vàng, hoa sen trắng, hoa mạn-đà-la, hoa ma-ha mạn-đà-la, hoa mạn-thù-sa, và hoa ma-ha mạn-thù-sa. Chúng rơi khắp trên mặt đất, hoặc có hoa khi gặp gió và sẽ thổi bay lượn trong không trung.
Lúc đó ở cõi nước kia, thành ấp xóm làng, khu viên lâm, ao tắm, sông hồ, và ao suối sẽ tự nhiên có nước tám công đức. Có chim cộng mạng, ngỗng, vịt, uyên ương, khổng tước, anh vũ, phỉ thúy, xá-lợi, chim tu hú hót tiếng hay, chim la-kỳ-bà-xà-bà, chim khoái kiến, và những loài chim khác. Chúng hót vang líu lo. Lại có nhiều vô số kể các loài chim khác lạ nữa, chúng hót lên những âm thanh vi diệu và cũng đều bay đến đậu ở rừng cây hoặc ao tắm.
Lại có hoa kim sắc vô cấu tịnh quang minh, hoa vô ưu tịnh tuệ nhật quang minh, hoa tiên bạch thất nhật hương, hoa ngọc lan lục sắc hương, và có trăm ngàn vạn loại hoa ở dưới nước cùng hoa ở trên mặt đất. Màu xanh tỏa ánh sáng xanh, màu vàng tỏa ánh sáng vàng, màu đỏ tỏa ánh sáng đỏ, màu trắng tỏa ánh sáng trắng, hương thơm thanh tịnh, không gì sánh bằng. Suốt ngày đêm chúng luôn nở và không bao giờ bị héo tàn.
Lại có cây sanh ra quả như ý, mùi hương thơm ngát lan tỏa khắp cõi nước kia. Trên núi báu lại có cây hương thơm. Chúng phóng ra ánh sáng vàng đến khắp cõi nước kia và tỏa ra mùi hương thích ý xông khắp mọi nơi.
Lúc bấy giờ ở trong châu Diêm-phù thường có mùi hương thơm ngát, chúng tích tụ ví như một ngọn núi hương thơm. Mùi vị của những dòng nước sẽ rất ngon ngọt và có thể trừ đi hoạn nạn. Mưa gió đúng mùa và lúa thóc chín đều. Do bởi thần lực như chư thiên của chúng sanh vào thời đó nên chỉ trồng một lần mà thu hoạch đến bảy lần, họ chỉ dùng một chút công sức nhưng thu hoạch lại rất nhiều. Cây lúa tốt tươi và chẳng có cỏ dại. Do quả báo phước đức của chúng sanh nên khi thức ăn vào miệng thì liền tiêu hóa, đầy đủ trăm vị, thơm ngon vô cùng, và làm cho khí lực sung túc dồi dào.
Lúc bấy giờ ở cõi nước kia sẽ có một vị Chuyển Luân Thánh Vương tên là Nhương-khư, đầy đủ ba mươi hai tướng hảo của bậc đại nhân. Ngài có bốn bộ binh chủng, nhưng ngài sẽ không dùng sức mạnh để trị vì bốn châu thiên hạ. Nhà vua có một ngàn hoàng tử dũng mãnh đoan chánh. Tất cả oán địch đều sẽ tự nhiên thần phục. Nhà vua có thất bảo:
1.Kim luân báu - trục, vành và một ngàn cây tăm thảy đều có đầy đủ.
2.Voi trắng báu - da trắng như tuyết sơn, thất chi đứng trên đất, trang nghiêm hiển hách như vua núi.
3.Ngựa xanh báu - da màu xanh biếc, bờm và đuôi lông màu đỏ, vành móng ngựa làm bằng bảy báu, khi hạ chân xuống sẽ nở hoa.
4.Thần châu báu - xuyên suốt sáng trong, dài hai khuỷu tay, phóng ra ánh sáng và mưa châu báu để mãn nguyện điều ước mong của chúng sanh.
5.Ngọc nữ báu - nhan sắc mỹ miều, mềm mại tựa như chẳng có xương.
6.Chủ tàng thần - trong miệng nhả ra châu bảo, khi hạ chân xuống sẽ tuôn mưa châu báu, còn hai tay hiện ra bảo châu.
7.Chủ binh thần - khi thân thể dao động thì bốn bộ binh chủng như mây sẽ từ trên không mà hiện ra.
Một ngàn vương tử và nhân dân trong vương quốc bảy báu của ngài, hết thảy đều chẳng mang lòng tà ác, họ đối với nhau như là mẹ thương con. Khi đó, mỗi một hoàng tử trong một ngàn người con của nhà vua đều lấy trân bảo để cùng tạo lập một kỳ đài bảy báu ở trước chánh điện. Kỳ đài này có ba mươi tầng, cao ba mươi do-tuần với thiên đầu thiên luân và du hành tự tại.
Lúc đó sẽ có bốn bảo tàng lớn. Xung quanh mỗi bảo tàng lớn có bốn ức bảo tàng nhỏ.
-Đại bảo tàng Y-bát-đa ở tại nước Càn-đà-la.
-Đại bảo tàng Bàn-trục-ca ở tại nước Di-đề-la.
-Đại bảo tàng Tân-già-la ở tại nước Tu-la-tra.
-Đại bảo tàng Nhương-khư ở tại nước Ba-la-nại, gần nơi Cổ Tiên Sơn.
Bốn đại bảo tàng này sẽ tự nhiên khai quật, phóng ánh sáng lớn hiển hách và chiếu đến một ngàn do tuần. Ở trong ấy có đầy khắp trân bảo và mỗi bảo tàng lớn có bốn ức bảo tàng nhỏ ở xung quanh. Lại có bốn con rồng lớn canh giữ bốn đại bảo tàng này cùng với các bảo tàng nhỏ nơi đó. Các bảo tàng kia sẽ tự nhiên vọt ra và có hình dạng như hoa sen. Khi đó sẽ có vô số người đều cùng đến tham quan. Các châu báu vào thời đó sẽ không có người canh giữ. Khi dân chúng thấy các bảo tàng này, lòng họ đều chẳng tham luyến. Họ bỏ chúng trên đất như ngói đá, cỏ cây, cục đất. Lúc họ thấy xong, tâm sanh nhàm chán và ai nấy đều nói với nhau rằng:
'Như Phật đã nói, chúng sanh thuở xưa vì những châu báu này mà hỗ tương tàn hại. Họ trộm cắp lẫn nhau, lừa dối vọng ngữ, khiến cho nghiệp duyên của sanh tử khổ não cứ càng ngày càng tăng, rồi kết cuộc là phải đọa vào đại địa ngục.'
Phủ trùm trên thành Sí-đầu-mạt là màn lưới báu. Ở trên ấy treo những chuông báu trang nghiêm. Khi gió thổi qua, chúng phát ra âm thanh hòa nhã như tiếng vang khi gõ vào cái khánh, diễn nói quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng.
Lúc bấy giờ trong thành sẽ có một vị đại Bà-la-môn chủ tên là Tu-phạm-ma. Phu nhân của ngài tên là Phạm-ma-bạt-đề, là một hiền thê với tâm tánh nhu hòa. Khi Di-lặc hạ sanh, họ sẽ là cha mẹ của Đức Bồ-Tát. Tuy ở trong bào thai nhưng ngài du hành như ở thiên cung. Lúc ở trong thai mẹ, Bồ-Tát phóng đại quang minh và trần cấu chẳng thể làm chướng ngại.
Thân của Di-lặc có màu vàng tím, cụ túc ba mươi hai tướng của bậc đại trượng phu. Sau đó, Di-lặc ngồi trên tòa hoa sen báu, khi chúng sanh nhìn thấy, mắt của họ không muốn dời một thoáng. Đức Di-Lặc phóng ánh sáng chói lòa đến chẳng thể nhìn đặng. Cả người lẫn chư thiên đều xem là việc chưa từng thấy bao giờ.
Sức lực của Đức Di-lặc là vô lượng. Mỗi một phần trên thân thể của ngài đều vượt hơn hết tất cả loài rồng hay voi có oai lực lớn. Những lỗ chân lông nơi thân phóng ra ánh sáng chẳng thể nghĩ bàn, chiếu diệu đến vô lượng và không gì có thể chướng ngại. Ánh sáng của mặt trời, mặt trăng, tinh tú, nước lửa cùng châu báu đều như là bụi bặm và thảy đều chẳng hiện.
- Thân hình cao bằng tám mươi khuỷu tay của Đức Phật Thích-ca-mâu-ni.
- Bề ngực rộng hai mươi lăm khuỷu tay
- Gương mặt dài mười hai phẩy năm khuỷu tay
- Sống mũi cao thẳng và nằm ở giữa khuôn mặt.
Đức Di-lặc có thân tướng cụ túc, đoan chánh, tướng hảo thành tựu và không một ai sánh bằng. Mỗi tướng hảo gồm có tám mươi tư ngàn vẻ đẹp dùng để tự trang nghiêm như pho tượng vàng đúc.Trong mỗi vẻ đẹp phóng ra ánh sáng và chiếu soi đến một ngàn do-tuần.
Đức Di-lặc có nhục nhãn thanh triệt, xanh trắng rõ rệt. Ngài luôn có hào quang nhiễu quanh thân, trải rộng đến một trăm do-tuần. Nhật nguyệt tinh tú, trân châu ma-ni, và hàng cây bảy báu thảy đều hiện rõ ở trong Phật quang. Còn những ánh sáng khác đều bị che khuất. Thân Phật cao lồng lộng như núi hoàng kim. Phàm ai thấy ngài đều tự nhiên thoát khỏi ba đường ác thú.
Lúc bấy giờ Đức Di-lặc quán sát tường tận sự tai hại của ngũ dục ở thế gian. Ngài từ bi thương xót các chúng sanh thọ khổ, phải lặn hụp và lưu chuyển mãi theo dòng sanh tử. Tự nghĩ như thế xong, ngài chánh niệm quán sát: khổ, không, vô thường. Ngài chẳng vui thích cuộc sống thế tục mà nhàm chán như là lao ngục.
Lúc bấy giờ, vua Nhương-khư cùng các vị đại thần và dân chúng trong nước, mang kỳ đài bảy báu với một ngàn màn che báu, một ngàn chiếc xe báu, một ngàn ức chuông báu, một ngàn ức tràng phan báu, một ngàn khí cụ báu và một ngàn cái lư báu để dâng lên Đức Di-lặc. Khi Đức Di-lặc nhận xong, ngài bố thí cho các Bà-la-môn. Khi các Bà-la-môn nhận xong, họ tự phân chia với nhau các vật đó. Các Bà-la-môn hết sức ngạc nhiên khi thấy Đức Di-lặc có thể làm đại bố thí như vậy.
Khi Di-lặc Bồ-Tát nhìn thấy sự vô thường ngắn ngủi của kỳ đài báu kia, ngài biết là pháp hữu vi và đều sẽ hoại diệt. Sau đó, ngài nghĩ tưởng đến sự vô thường và tán thán bài kệ vô thường, thanh lương cam lộ của chư Phật vào thuở quá khứ đã nói:
'Các hành đều vô thường
Là pháp của sanh diệt
Khi sanh diệt diệt tận
Tịch diệt sẽ an vui'
Khi nói bài kệ này xong, ngài sẽ xuất gia học Đạo và ngồi dưới cây Bồ-đề Long Hoa ở Đạo Tràng Kim Cang Trang Nghiêm. Cành cây có hình dáng như con rồng báu phun ra một trăm đóa hoa báu. Mỗi một cánh hoa có màu sắc của thất bảo. Quả trái cây có nhiều màu sắc khác nhau, chúng sanh trông thấy đều rất vui thích. Dù trên cõi trời hoặc dưới chốn nhân gian, không một loại cây nào có thể sánh bằng. Cây đó cao năm mươi do-tuần, cành lá trải rộng ở bốn phía và phóng đại quang minh.
Lúc bấy giờ, Đức Di-lặc cùng với tám mươi tư ngàn Bà-la-môn sẽ đi đến Đạo Tràng. Đức Di-lặc sẽ tự xuống tóc và xuất gia học Đạo. Ngài sẽ xuất gia vào buổi sáng và ngay tối hôm đó, ngài hàng phục bốn loại ma, rồi thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Sau đó liền nói bài kệ rằng:
'Chúng sanh khổ từ lâu luôn nhớ
Muốn cứu bạt nhưng đều chẳng thể
Giờ đây Ta chứng Đạo Bồ-Đề
Bỗng hoát nhiên không gì ngăn trở
Cũng liễu đạt chúng sanh vốn không
Hiểu như thật bổn tánh của họ
Vĩnh dứt trừ chẳng còn ưu khổ
Vô duyên từ đồng thể đại bi
Vì cứu độ tất cả các ông
Lấy đầu mắt quốc gia thành trì
Vợ con hiền cùng với tay chân
Đem bố thí vô số chúng nhân
Ngày hôm nay chứng đắc giải thoát
Đại tịch diệt vô thượng Bồ-đề
Vì các ông Ta sẽ giảng nói
Rộng khai mở chánh Đạo cam lồ
Pháp Lục Độ sanh đại quả báo
Như Bố Thí Trì Giới Nhẫn Nhục
Cùng Tinh Tấn Thiền Định Trí Tuệ
Cũng phát sanh từ lòng đại bi
Và sẽ được vô nhiễm công đức'
Khi nói bài kệ này xong, Ngài giữ lặng yên. Lúc đó các thiên long quỷ thần ẩn tàng bất hiện thân và mưa xuống hoa trời để cúng dường Đức Phật kia. Khi ấy, Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới chấn động sáu cách. Thân của Phật phóng ra ánh sáng và chiếu đến vô lượng quốc độ. Chúng sanh nào đáng được độ thời sẽ đều được thấy Phật.
Lúc bấy giờ ở trong Hoa Lâm Viên, Thích-đề Hoàn-nhân, Hộ Thế Thiên Vương, Đại Phạm Thiên Vương cùng vô số thiên tử, đầu đảnh lễ dưới chân Phật, chắp tay và khuyến thỉnh chuyển Pháp luân. Khi đó Đức Phật Di-lặc lặng yên thọ thỉnh và bảo Phạm Vương rằng:
'Trong đêm dài, Ta đã nhẫn chịu biết bao khổ não. Tuy nhiên, Ta vẫn luôn siêng tu hành Pháp Lục Độ. Mãi cho đến hôm nay, biển Pháp mới được viên mãn. Hãy lắng nghe, Ta nay sẽ vì các ông thuyết Pháp, dựng Pháp tràng, đánh trống Pháp, thổi loa Pháp và mưa Pháp vũ. Duy chỉ có chư Phật mới có thể lăn chuyển bánh xe Pháp của Bát Thánh Đạo, chư thiên và người thế gian đều không thể chuyển. Nghĩa lý đó là bình đẳng và thẳng tiến đến vô thượng của vô vi tịch diệt. Nó có thể khiến các chúng sanh đoạn trừ các thống khổ trong đêm dài. Pháp này là thậm thâm vi diệu, nan đắc nan nhập, nan tín nan giải. Tất cả người trong thế gian đều chẳng thể biết và cũng chẳng thể thấy. Tuy nhiên, nó có thể tẩy trừ đi cáu bẩn trong tâm và khiến người được muôn vạn Phạm hạnh.'
Khi nói lời ấy xong, lại có vô số trăm ngàn vạn ức thiên tử thiên nữ và Đại Phạm Thiên Vương đã đến từ các thế giới phương khác. Họ du hành trong cung điện cõi trời mà đến nơi này. Họ mang theo hương hoa cõi trời và phụng hiến cho Đức Như Lai kia, rồi nhiễu quanh trăm ngàn vòng, đầu đảnh lễ sát đất, chắp tay và khuyến thỉnh chuyển Pháp luân. Khi đó, các nhạc khí cõi trời đều không khảy mà tự vang. Lúc ấy chư Phạm Vương, dị khẩu đồng thanh mà nói kệ rằng:
'Vô lượng vô số trăm ngàn năm
Thời gian trôi qua chẳng có Phật
Chúng sanh sa đọa nơi ác đạo
Con mắt thế gian đã diệt mất
Ba chốn ác đạo rộng thênh thang
Con đường sanh thiên vĩnh đoạn tuyệt
Hôm nay Phật-đà xuất thế gian
Ba nẻo ác thú liền diệt tan
Tăng trưởng phước lành lợi nhân thiên
Nguyện Phật khai mở cam lộ môn
Khiến tâm chúng sanh vô sở trước
Liền mau chứng đắc Đạo Niết-bàn
Chúng con hết thảy chư Phạm Vương
Nghe Phật xuất thế tại nhân gian
Bây giờ chúng con đắc kiến Phật
Bậc đại Pháp Vương vô thượng Tôn
Phạm thiên cung điện sẽ huy hoàng
Ánh sáng trên thân cũng hiển hách
Nguyện vì mười phương các hữu tình
Chúng con kính thỉnh đại Đạo sư
Xin hãy khai mở cam lộ môn
Lăn chuyển vô thượng diệu Pháp luân'
Khi nói bài kệ ấy xong, họ cúi đầu đảnh lễ, rồi lại chắp tay và ân cần khuyến thỉnh ba lần như vầy:
'Duy nguyện Thế Tôn hãy chuyển Pháp luân thậm thâm vi diệu để bạt trừ gốc rễ khổ não của chúng sanh, khiến họ lìa xa ba độc, phá tan bốn ác đạo cùng các nghiệp chẳng lành.'
Lúc bấy giờ Đức Di-lặc Thế Tôn vì chư Phạm Vương, Ngài liền mỉm cười rồi phóng ra ánh sáng năm màu và lặng yên hứa khả. Khi biết được Phật hứa khả, các thiên tử cùng vô số đại chúng đều hết mực hoan hỷ, khắp toàn thân vui mừng nhảy nhót. Đây ví như có đứa con hiếu thảo vừa mới mai táng đấng từ phụ xong, bỗng nhiên người cha sống trở lại. Đại chúng hoan hỷ cũng lại như vậy.
Khi đó các thiên chúng đi nhiễu bên phải của Đức Thế Tôn kia vô số vòng, cung kính quyến luyến mà chẳng hề mệt mỏi. Sau đó, họ đứng qua một bên. Lúc bấy giờ đại chúng đều nghĩ như vầy:
'Tuy chúng ta có thể thọ hưởng vui sướng của ngũ dục đến cả ngàn ức năm, nhưng lại cũng chẳng thể nào thoát miễn khổ ách của ba ác đạo. Vợ con và tài sản đều chẳng thể tương cứu. Thế gian là vô thường, mạng sống ngắn ngủi. Nay chúng ta hãy nên tu Phạm hạnh thanh tịnh trong Phật Pháp.'
Nghĩ như vậy xong, họ lại suy nghĩ rằng:
'Giả như chúng ta được thọ hưởng ngũ dục dài đến vô số kiếp như ở cõi trời Vô Tưởng, có thọ mạng vô lượng ức năm, cùng với các thể nữ vui sướng và thọ hưởng các sự xúc chạm trơn tru mềm mại, nhưng cuối cùng sẽ hoại diệt và rồi sẽ đọa vào tam ác đạo để thọ lấy vô lượng thống khổ. Sự vui sướng kia chẳng có là bao, nó ví như huyễn hóa, nói chẳng thành lời. Khi rơi vào địa ngục, lửa lớn thiêu đốt đến trăm ức vạn kiếp và phải chịu lấy vô lượng thống khổ, cầu thoát khỏi khổ ách của đêm dài cũng khó mà được. Hôm nay gặp Phật, chúng ta phải cần tinh tấn.'
Lúc đó Nhương-khư Vương cao thanh xướng rằng:
'Dù sanh thiên thọ hưởng vui sướng
Rồi cuối cùng cũng sẽ diệt tan
Chẳng bao lâu sa đọa địa ngục
Như đám lửa phừng phừng bốc cháy
Vì thế nên chúng ta hãy mau
Đi xuất gia tu học Phật Đạo'
Khi nói lời ấy xong, tám mươi tư ngàn đại thần cung kính vây quanh Nhương-khư Vương và cùng với bốn vị Thiên Vương hộ tống Chuyển Luân Vương đến Hoa Lâm Viên. Nhà vua đến đảnh lễ Đức Phật Di-lặc ở dưới cây Long Hoa và cầu mong được xuất gia. Khi ngài còn chưa ngẩng đầu lên thì râu tóc đã tự rụng, áo cà-sa khoác trên thân và trở thành Sa-môn.
Lúc bấy giờ Nhương-khư Vương cùng tám mươi tư ngàn đại thần, chư Tỳ-kheo và vô số thiên long bát bộ cung kính vây quanh Đức Phật Di-lặc. Sau đó, họ theo Ngài vào thành Sí-đầu-mạt. Khi Ngài vừa bước vào cổng thành thì Thế Giới Ta-bà chấn động sáu cách. Mặt đất của châu Diêm-phù-đề sẽ hóa thành màu vàng. Mặt đất ở trung ương của đại thành Sí-đầu-mạt được làm bằng kim cang. Có tòa báu kim cang của chư Phật thuở quá khứ đã ngồi cùng các hàng cây báu sẽ tự nhiên trồi lên. Chư thiên ở trong hư không mưa xuống những hoa báu lớn. Long vương khảy các loại nhạc khí, trong miệng nhả ra hoa và các lỗ chân lông mưa xuống bông hoa để cúng dường Phật.
Đức Phật kia sẽ ngồi bảo tòa này và chuyển bánh xe Chánh Pháp:
- Đây là khổ, Khổ Thánh Đế.
- Đây là tập, Tập Thánh Đế.
- Đây là diệt, Diệt Thánh Đế.
- Đây là đạo, Đạo Thánh Đế.'
Ngài lại diễn nói ba mươi bảy Phẩm Trợ Bồ-đề Pháp.
Ngài cũng tuyên nói Thập Nhị Nhân Duyên:
- Vô minh duyên hành;
- Hành duyên thức;
- Thức duyên danh sắc;
- Danh sắc duyên lục nhập;
- Lục nhập duyên xúc;
- Xúc duyên thọ;
- Thọ duyên ái;
- Ái duyên thủ;
- Thủ duyên hữu;
- Hữu duyên sanh;
- Sanh duyên lão tử và các ưu sầu khổ não.'
Lúc bấy giờ đại địa chấn động sáu cách. Khi đó sẽ có âm thanh như thế này vang đến Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới và còn vượt hơn số thế giới trên, vô lượng vô biên, dưới đến tận địa ngục A-tỳ, trên lên đến trời Sắc Cứu Cánh.
Mỗi vị trong Tứ Đại Thiên Vương đều thống lãnh vô số quỷ thần và cao thanh xướng rằng:
'Khi mặt trời trí tuệ của Phật xuất hiện ở thế gian, Ngài sẽ mưa xuống Pháp cam lồ. Hôm nay con mắt của thế gian đã khai mở. Tất cả tám bộ chúng hữu duyên với Phật hãy đều nên hay biết.'
Chư thiên ở trời Đao-lợi, trời Dạ-ma, trời Đâu-suất-đà, trời Hóa Lạc, trời Tha Hóa Tự Tại và cho đến trời Đại Phạm, mỗi mỗi đều ở nơi thống lãnh của mình mà cao thanh xướng rằng:
'Khi mặt trời trí tuệ của Phật xuất hiện ở thế gian, Ngài sẽ mưa xuống Pháp cam lồ. Hôm nay con mắt của thế gian đã khai mở. Những ai hữu duyên hãy đều nên hay biết.'
Lúc ấy hàng trời rồng tám bộ chúng, thần núi, thần cây, thần thảo dược, thần nước, thần gió, thần lửa, thần đất, thần thành trì, thần nhà cửa cùng các vị thần khác, họ vui mừng nhảy nhót và cũng cao thanh xướng những lời như trên.
Lại có tám mươi tư ngàn vị Bà-la-môn thông minh tài trí cũng theo đại vương Nhương-khư để xuất gia học Đạo trong giáo Pháp của Phật.
Lại có trưởng giả tên là Tu-đạt-na, nay cũng chính là Trưởng giả Tu-đạt, cùng với tám mươi tư ngàn người đồng đi xuất gia.
Lại có anh em Lê-sư-đạt-đa và Phú-lan-na, cùng với tám mươi tư ngàn người đồng đi xuất gia.
Lại có hai vị đại thần đã từng được nhà vua mến trọng, vị thứ nhất tên là Phạm-đàn-mạt-lợi, vị thứ nhì tên là Tu-mạn-na, cùng với tám mươi tư ngàn người đồng đi xuất gia học Đạo trong giáo Pháp của Phật.
Bảo nữ của Chuyển Luân Vương tên là Xá-di-bà-đế, nay cũng chính là Tỳ-xá-khư Mẫu, cùng với tám mươi tư ngàn thể nữ đồng đi xuất gia.
Thái tử của Nhương-khư Vương tên là Thiên Kim Sắc, nay cũng chính là con của Trưởng giả Đề-bà-bà-na, cùng với tám mươi tư ngàn người đồng đi xuất gia.
Tu-ma-đề, con của một vị Bà-la-môn, có trí tuệ sáng suốt và cũng là thân tộc của Đức Phật Di-lặc, nay cũng chính là con của Tỳ-kheo-ni Uất-đa-la Thiện Hiền, cùng với sáu mươi ngàn người đồng đi xuất gia trong giáo Pháp của Phật.
Một ngàn con trai của Nhương-khư Vương, duy chỉ lưu lại một người con để kế thừa vương vị. Chín trăm chín mươi chín hoàng tử còn lại và cùng với tám mươi tư ngàn người đồng đi xuất gia trong giáo Pháp của Phật.
Lại có vô lượng ức chúng người như thế, vì thấy khổ não của thế gian và sự thiêu cháy của ngũ uẩn nên đều đồng đi xuất gia trong giáo Pháp của Đức Phật Di-lặc.
Lúc bấy giờ Đức Phật Di-lặc khởi lòng đại từ và bảo các đại chúng rằng:
'Nay các ông đến chỗ của Như Lai, chẳng vì sự cầu mong sanh lên trời để thọ hưởng vui sướng, lại cũng chẳng vì sự an vui ở đời này, mà chỉ vì nhân duyên thường lạc ngã tịnh của Niết-bàn. Các ông đây đều đã từng ở trong Phật Pháp gieo trồng những căn lành. Khi Đức Phật Thích-ca-mâu-ni xuất hiện ở đời ác năm trược, Ngài đã dùng mọi sự quở trách phương tiện để thuyết Pháp cho các ông, dạy các ông gieo trồng nhân duyên cho đời vị lai để có thể thấy gặp Ta. Nay Như Lai sẽ nhiếp thọ các ông.
Trong các ông đây, hoặc có người sanh đến chỗ của Ta là do tu các công đức, như là đọc tụng Kinh điển, luật Tỳ-ni, Vô Tỷ Pháp, lại vì người khác diễn nói, tán thán nghĩa lý, không sanh tật đố và dạy người khác thọ trì.
Hoặc lấy y phục cùng thức ăn đem bố thí cho người, trì giới luật và tu trí tuệ, do tu công đức này nên sanh đến chỗ của Ta.
Hoặc dùng âm nhạc, tràng phan, hương hoa, và thắp đèn để cúng dường Phật, do tu công đức này nên sanh đến chỗ của Ta.
Hoặc thường lấy thức ăn, tạo lập phòng xá và cung cấp bốn sự cúng dường cho chư Tăng, thọ trì giới Bát Quan Trai, tu tập lòng từ, do tu công đức này nên sanh đến chỗ của Ta.
Hoặc vì sự khổ não của chúng sanh mà sanh lòng từ bi, tự mình gánh chịu nỗi khổ của họ và khiến họ được an lạc, do tu công đức này nên sanh đến chỗ của Ta.
Hoặc trì giới nhẫn nhục, tu hạnh từ tâm thanh tịnh, do tu công đức này nên sanh đến chỗ của Ta. Hoặc xây chùa, cúng dường thức ăn chay cho chư Tăng đến từ khắp nơi để dự Pháp hội, do tu công đức này nên sanh đến chỗ của Ta.
Hoặc do trì giới, đa văn học rộng, tu hành thiền định cùng trí tuệ vô lậu, do tu công đức này nên sanh đến chỗ của Ta.
Hoặc xây tháp để cúng dường xá-lợi, tưởng niệm Pháp thân của Phật, do tu công đức này nên sanh đến chỗ của Ta.
Hoặc có người đang bị khổ ách, bần cùng cô độc, lệ thuộc người khác, mắc phải luật vua hay sắp bị hành hình, hoặc có người đang chịu khổ não cùng cực của tám nghiệp nạn, mà cứu vớt giúp đỡ, khiến họ được giải thoát, do tu công đức này nên sanh đến chỗ của Ta.
Hoặc có người đang chịu khổ não cùng cực do ân ái biệt ly, tranh tụng gây gỗ, mà có thể dùng sức phương tiện để khiến họ được hòa thuận, do tu công đức này nên sanh đến chỗ của Ta.'
Khi nói lời ấy xong, Đức Phật Di-lặc sẽ xưng tán Ta như vầy:
'Lành thay, lành thay! Đức Phật Thích-ca-mâu-ni có thể ở trong đời ác năm trược, giáo hóa trăm ngàn vạn ức các chúng sanh tạo nghiệp ác, khiến họ tu trồng căn lành và sanh đến chỗ của Ta.'
Lúc ấy Đức Phật Di-lặc sẽ xưng tán Ta ba lần như thế và sẽ nói kệ rằng:
'Nhẫn nhục dũng mãnh đại Đạo sư
Khéo ở năm trược đời bất thiện
Giáo hóa thành thục ác chúng sanh
Khiến họ tu hành đắc kiến Phật
Gánh vác chúng sanh thọ đại khổ
Dẫn vào thường lạc nơi vô vi
Dạy các đệ tử đến chỗ Ta
Ta nay vì họ thuyết Tứ Đế
Cũng nói Ba Bảy Phẩm Trợ Đạo
Trang nghiêm Niết-bàn Thập Nhị Duyên
Các ông hãy nên quán vô vi
Nhập vào không tịch bổn vô xứ'
Khi nói bài kệ ấy xong, Đức Phật Di-lặc lại ngợi khen các chúng sanh thuở xưa có thể ở trong đời ác lắm khổ mà làm được những việc khó làm. Ngài sẽ nói như vầy:
'Các ông có thể trì giới và làm các việc công đức ở giữa chốn người đầy tham lam, sân hận, ngu si, mê muội và đoản mạng. Thật là hy hữu thay!
Các chúng sanh thời đó chẳng kính trọng cha mẹ, bậc Sa-môn và hàng Bà-la-môn. Họ chẳng biết Đạo Pháp, hỗ tương não hại và dẫn đến chiến tranh. Họ chìm đắm trong ngũ dục, đố kỵ, nịnh hót, dối trá, xảo quyệt và chẳng có tấm lòng thương xót. Họ sát hại lẫn nhau, ăn thịt uống máu, bất kính sư trưởng, chẳng biết bạn lành và chẳng biết báo ơn. Thế nên phải sinh ra trong đời ác năm trược và còn chẳng biết hổ thẹn. Ngày đêm sáu thời luôn luôn làm việc ác mà chẳng biết thôi nghỉ. Họ chỉ chuyên làm những việc bất thiện. Các tội ác ngỗ nghịch của họ chồng chất lớp lớp như vảy cá kế nhau mà chẳng hề biết chán. Thân tộc và dù cả chín hàng thân quyến cũng chẳng có cách nào cứu giúp lẫn nhau.
Lành thay, lành thay! Đức Phật Thích-ca-mâu-ni với lòng từ bi sâu thẳm, Ngài đã dùng sức phương tiện rộng lớn của thiện xảo trí tuệ cùng Tôn nhan đẹp đẽ, có thể ở trong các chúng sanh khổ não mà nói lời thành thật rằng Ta vào đời vị lai sẽ độ thoát các ông. Vị đạo sư có trí tuệ thông triệt như thế thật là hiếm có ở thế gian và rất khó gặp. Với lòng lân mẫn sâu xa, Ngài bạt trừ khổ não cho chúng sanh ở đời ác trược, khiến cho họ được bình an và dẫn họ nhập vào đệ nhất nghĩa của Pháp tánh thậm thâm.
Trong ba a-tăng-kỳ kiếp, Đức Phật Thích-ca-mâu-ni đã vì các ông mà tu khổ hạnh, làm những việc khó làm. Vì Bát Thánh Đạo và Pháp giải thoát mà Ngài đã lấy đầu đi bố thí, cắt xẻo tai mũi, tay chân, thân thể và thọ nhiều khổ não để làm lợi ích cho các ông.'
Khi ấy Đức Phật Di-lặc sẽ khai thị như thế, Ngài an ủi vô lượng chúng sanh và khiến họ đều hoan hỷ. Các chúng sanh vào lúc đó, toàn thân của họ là Pháp, trọn tâm của họ là Pháp, khẩu của họ thường thuyết Pháp. Người phước đức trí tuệ có đầy khắp trong cõi nước kia; chư thiên đều cung kính, tin tưởng và ngưỡng mộ họ.
Lúc ấy bậc đại Đạo sư sẽ khiến mỗi một người họ đều nghe được về những việc khổ não thuở xưa của mình.
Sau đó, Ngài lại nghĩ như vầy: 'Ngũ dục bất tịnh, là căn bổn của mọi sự khổ não. Nếu như ai có thể xả bỏ đi ưu sầu oán hận, biết được pháp nào khổ pháp nào vui thì sẽ thấy chúng đều là vô thường.'
Sau đó Ngài sẽ thuyết giảng về sắc thọ tưởng hành thức, khổ, không, vô thường và vô ngã.
Khi nói lời ấy xong, 9sáu ức người đều không còn chấp trước vào các pháp và được lậu tận ý giải. Họ đắc Đạo A-la-hán, Tam Minh, Lục Thông và đầy đủ Bát Giải Thoát. Ba mươi sáu vạn thiên tử và hai mươi vạn thiên nữ phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Trong hàng thiên long bát bộ, có vị đắc quả Tu-đà-hoàn, có vị trồng nhân duyên của Đạo Bích-chi-phật. Số lượng đại chúng phát tâm Vô Thượng Đạo, số ấy rất đông và chẳng thể nào tính đếm kể cho xuể.
Lúc bấy giờ, Đức Phật Di-lặc và chín mươi sáu ức đại Tỳ-kheo Tăng cùng vua Nhương-khư, tám mươi tư ngàn đại thần, Tỳ-kheo và hàng quyến thuộc vây quanh. Đây ví như các tinh tú đi theo hầu nguyệt thiên tử. Đức Phật Di-lặc dẫn họ rời khỏi thành Sí-đầu-mạt và trở về giảng đường trong Hoa Lâm Viên. Khi đó, các tiểu vương và trưởng giả của thành thị, xóm làng cùng hàng tứ tánh đều đến hội họp ở dưới gốc cây Long Hoa trong Hoa Lâm Viên.
Lúc ấy Di-lặc Thế Tôn sẽ thuyết giảng lại Pháp Tứ Đế và Thập Nhị Nhân Duyên. chín mươi tư ức người sẽ đắc Đạo A-la-hán. Chư thiên ở cõi nước phương khác cùng tám bộ chúng và sáubốn ức Hằng Hà sa số người sẽ phát tâm A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề và họ sẽ trụ ở quả vị bất thối chuyển.
Trong đại hội thứ ba, Đức Phật Di-lặc sẽ thuyết Tứ Thánh Đế và chuyển thậm thâm vi diệu Pháp luân. Chín mươi hai ức người sẽ đắc Đạo A-la-hán. Ba mươi bốn ức thiên long bát bộ sẽ phát Bồ-đề tâm.
Khi đã độ hàng trời người xong, Ngài sẽ dẫn chư Thanh Văn đệ tử, thiên long bát bộ cùng hết thảy đại chúng vào thành khất thực. Khi đó, vô lượng chư thiên từ cõi trời Tịnh Cư sẽ cung kính đi theo Phật và cùng vào thành Sí-đầu-mạt.
Đương lúc vào thành, Đức Phật Di-lặc sẽ biến hiện mười tám loại thần túc. Phần dưới của thân vọt ra nước, như châu báu ma-ni và hóa thành đài quang minh, chiếu soi mười phương thế giới. Phần trên của thân phun ra lửa, chiếu ánh sáng vàng tím to lớn như núi Tu-di. Ngài hiện thân lớn trùm khắp hư không rồi hóa thành lưu ly. Ngài lại hiện thân nhỏ như hạt cải rồi sau đó biến mất. Ngài hiện ra ở mười phương và ẩn mất ở mười phương. Ngài khiến cho tất cả người đều có thân tướng như Phật. Ngài sẽ biến hiện vô lượng các thần lực để khiến cho những ai hữu duyên đều được giải thoát.
Khi đó Thích-đề Hoàn-nhân cùng ba mươi hai phụ thần của ngài, chư thiên ở cõi trời dục giới, các vua trời Đại Phạm, chư thiên ở cõi trời sắc giới, và cùng với thiên tử thiên nữ, sẽ cởi xâu chuỗi anh lạc cõi trời và lấy thiên y mà rải lên Đức Phật. Lúc ấy những thiên y sẽ hóa thành lọng hoa. Nhạc trời không khảy tự vang và ca tán công đức của Phật. Thiên hoa và các loại hương chiên đàn khác nhau sẽ rơi xuống để cúng dường Phật. Những cây tràng phan sẽ được dựng lên ở các con đường lộ. Nhiều loại hương quý sẽ được đốt lên và khói hương lan tỏa như mây.
Khi Di-lặc Thế Tôn đi vào thành, Đại Phạm Thiên Vương cùng Thích-đề Hoàn-nhân sẽ chắp tay cung kính và dùng kệ tán thán Phật:
'Lưỡng Túc Tôn bậc Chánh Biến Tri
Khắp trời người không một ai bằng
Hy hữu thay thập lực Thế Tôn
Là phước điền vô thượng tối thắng
Ai cúng dường Ngài sẽ sanh thiên
Vị lai giải thoát trụ Niết-bàn
Khể thủ vô thượng đại tinh tấn
Khể thủ từ tâm đại Đạo sư'
Đông phương Trì Quốc Thiên Vương, nam phương Tăng Trưởng Thiên Vương, tây phương Quảng Mục Thiên Vương, bắc phương Đa Văn Thiên Vương và cùng hàng quyến thuộc, cung kính chắp tay và với tâm thanh tịnh, họ tán thán Di-lặc Thế Tôn:
'Tam Giới chẳng ai hơn
Đại bi dùng trang nghiêm
Liễu giải đệ nhất nghĩa
Chẳng thấy tánh chúng sanh
Cùng với các pháp tướng
Đồng nhập không tịch tánh
Khéo trụ vô sở hữu
Tuy hành đại tinh tấn
Vô vi chẳng dấu tích
Con nay xin cuối đầu
Từ tâm đại Đạo sư
Chúng sanh không thấy Phật
Đêm dài thọ sanh tử
Sa đọa tam ác đạo
Cùng làm thân người nữ
Hôm nay Phật xuất thế
Trừ khổ ban an vui
Giảm thiểu ba đường dữ
Nữ nhân chẳng nịnh hót
Đình chỉ việc xấu ác
Cụ túc đại Niết-bàn
Đại bi bậc cứu khổ
Ban vui mà xuất thế
Khi hành Bồ-Tát Đạo
Thường ban tất cả vui
Chẳng giết chẳng não người
Lòng nhẫn như đại địa
Con nay xin khể thủ
Nhẫn nhục đại Đạo sư
Con nay xin đảnh lễ
Từ bi đại trượng phu
Dứt trừ sanh tử khổ
Khéo bạt chúng sanh nạn
Như lửa sanh hoa sen
Thế gian không ai bằng'
Lúc bấy giờ, Di-lặc Thế Tôn sẽ đi khất thực theo thứ tự. Sau đó, Ngài dẫn chư Tỳ-kheo trở về bổn xứ và nhập sâu trong thiền định, tịch nhiên bất động suốt bảy ngày bảy đêm.
Hàng đệ tử của Đức Phật Di-lặc có sắc tướng như chư thiên và thảy đều đoan chánh. Họ đều nhàm chán sanh lão bệnh tử, đa văn học rộng, khéo thủ hộ Pháp tạng và siêng tu thiền định. Họ xa hẳn mọi dục vọng, như chim rời khỏi vỏ trứng.
Lúc bấy giờ, Thích-đề Hoàn-nhân và chư thiên ở cõi trời dục giới đều vui mừng hớn hở, họ lại nói kệ rằng:
'Thế gian sở quy đại Đạo sư
Tuệ nhãn sáng trong thấu mười phương
Trí lực công đức thắng chư thiên
Danh nghĩa cụ túc phước chúng sanh
Nguyện vì chúng con quần manh loại
Cùng chư đệ tử đến núi kia
Cúng dường vô não Thích-ca sư
Đầu-đà đệ nhất đại đệ tử
Chúng con sẽ thấy áo cà-sa
Cùng lời di giáo Phật quá khứ
Sám hối tiền thân kiếp trược ác
Bất thiện ác nghiệp được thanh tịnh'
Lúc bấy giờ, Đức Phật Di-lặc và những chúng sanh, tiền thân của họ là những chúng sanh cang cường ở Thế Giới Ta-bà, cùng các vị đại đệ tử, đều đi đến núi Kỳ-xà-quật. Khi đến dưới chân núi, Đức Di-lặc và chúng đệ tử đi một cách an nhiên lên núi Lang Tích. Khi tới đỉnh núi, Đức Di-lặc ấn ngón chân cái xuống đất. Lúc đó đại địa chấn động 1tám cách. Sau đó, Đức Di-lặc lấy hai tay bẻ hòn núi ra, như vua Chuyển Luân mở cổng đại thành.
Khi ấy các Phạm Vương mang dầu thơm từ cõi trời rưới trên đảnh và thân thể của Đại Ca-diếp. Khi rưới xong, họ đánh vào cái kiền chùy lớn và thổi loa Pháp lớn. Đại Ca-diếp liền tỉnh giác từ trong Diệt Tận Định. Ngài sửa sang y phục chỉnh tề, trịch áo lộ hở vai, gối phải quỳ sát đất và chắp tay. Sau đó, ngài quỳ hai gối, rồi cầm Pháp y Tăng-già-lê của Đức Phật Thích-ca-mâu-ni để trao cho Đức Di-lặc và nói lời như vầy:
'Đại sư Thích-ca-mâu-ni Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Chánh Giác, khi sắp nhập Niết-bàn, Ngài lấy Pháp y này và phó chúc cho con sẽ dâng lên cho Đức Thế Tôn.'
Trong lúc ấy, tất cả đại chúng đều thưa hỏi Đức Phật Di-lặc rằng:
'Tại sao hôm nay trên đỉnh núi này có một người đầu trùng, lùn nhỏ, xấu xí, mặc y phục Sa-môn, mà có thể lễ bái và cung kính Thế Tôn?'
Khi đó, Đức Phật Di-lặc quở trách các đại đệ tử và bảo chớ khinh người này, rồi Ngài nói kệ rằng:
'Tuy con công có màu sắc đẹp
Nhưng cũng bị diều hâu ăn thịt
Dẫu voi trắng sức mạnh vô lượng
Sư tử con tuy chỉ cỏn con
Vồ ăn thịt ví như đất bụi
Tuy rồng lớn thân to vô lượng
Nhưng cũng bị sí điểu bắt ăn
Tuy thân người dáng vóc cao lớn
Da trắng mịn đoan chánh đẹp xinh
Như phân chứa trong bình bảy báu
Thật ô uế chẳng thể nào kham
Tuy người này thấp nhỏ bé con
Nhưng trí tuệ như vàng kim luyện
Phiền não tập từ lâu tận diệt
Sanh tử khổ một chút chẳng còn
Vì hộ Pháp nên mới ở đây
Hạnh đầu-đà thực hành luôn khi
Trong trời người là bậc tối thắng
Tu khổ hạnh không ai sánh bằng
Phật Thích-ca phước trí vẹn toàn
Sai vị này đến chỗ của Ta
Chúng đệ tử cần phải nhất tâm
Hãy chắp tay cung kính đảnh lễ'
Khi nói bài kệ ấy xong, Đức Di-lặc bảo các Tỳ-kheo:
'Đức Thích-ca-mâu-ni Thế Tôn đã ở trong đời ác năm trược giáo hóa chúng sanh. Trong một ngàn hai trăm năm mươi đệ tử, có một vị là đầu-đà đệ nhất và có thân màu vàng kim. Vì muốn học Đạo, ngài đã xuất gia và rời khỏi vị hiền thê cũng có thân sắc vàng kim. Ngày đêm ngài luôn tinh tấn, như đang cứu lửa trên đầu mình. Ngài có lòng từ bi thương xót đối với các chúng sanh nghèo khổ, thấp kém và luôn luôn mong muốn độ thoát họ. Ngài vì Pháp nên mới trụ lại thế gian. Vị này không ai khác chính là Đại Ca-diếp.'
Khi nói lời ấy xong, hết thảy đại chúng đều đảnh lễ.
Lúc bấy giờ Đức Di-lặc sẽ cầm Tăng-già-lê của Thích-ca-mâu-ni Phật và đắp lên tay phải, nhưng chỉ che được hai ngón tay của Ngài. Đức Di-lặc lại đắp qua bên tay trái, nhưng cũng chỉ che được hai ngón tay. Khi ấy đại chúng hết sức kinh ngạc về kích thước bé nhỏ của Đức Phật trước và đều hiểu rằng đó là do lòng tham lam cùng sự kiêu mạn của chúng sanh thuở xưa.
Lúc ấy Đức Phật Di-lặc sẽ bảo Đại Ca-diếp rằng:
'Bây giờ ông có thể hiện thần túc và thuyết Kinh Pháp của Đức Phật quá khứ.'
Lúc bấy giờ Ma-ha Ca-diếp sẽ vọt lên hư không và hiện ra mười tám phép biến hóa.
- Hoặc hiện thân lớn đầy khắp hư không.
- Từ thân lớn lại hiện ra nhỏ như bằng hạt rau đay.
- Từ thân nhỏ lại hiện ra thân lớn.
- Phần trên của thân vọt ra nước.
- Phần dưới của thân phun ra lửa.
- Vào trong đất như vào trong nước.
- Đi trên nước như đi trên đất.
- Nằm hay ngồi trong hư không mà thân chẳng bị rơi xuống.
- Hiện ra ở phương đông và ẩn mất ở phương tây.
- Hiện ra ở phương tây và ẩn mất ở phương đông.
- Hiện ra ở phương nam và ẩn mất ở phương bắc.
- Hiện ra ở phương bắc và ẩn mất ở phương nam.
- Hiện ra ở cạnh bìa và ẩn mất ở chính giữa.
- Hiện ra ở chính giữa và ẩn mất ở cạnh bìa.
- Hiện ra ở trên và ẩn mất ở dưới.
- Hiện ra ở dưới và ẩn mất ở trên.
Sau đó, Đại Ca-diếp sẽ ở trong hư không hóa thành một hang động lưu ly. Rồi ngài nương thần lực của Phật và dùng tiếng Phạm âm để tuyên thuyết mười hai bộ Kinh của Thích-ca-mâu-ni Phật. Khi đại chúng nghe xong, họ kinh ngạc chưa từng có. tám mươi ức người sẽ xa rời trần cấu, ở trong các pháp, họ sẽ chẳng còn chấp trước vào các pháp và đắc Đạo A-la-hán. Vô số hàng trời người phát Bồ-đề tâm.
Đại Ca-diếp sẽ từ trên không hạ xuống, nhiễu Phật ba vòng, rồi đảnh lễ Phật và nói rằng tất cả pháp hữu vi đều là vô thường. Sau đó, Đại Ca-diếp từ biệt Phật và cáo lui. Đại Ca-diếp sẽ trở về nơi bổn xứ ở núi Kỳ-xà-quật, thân thượng xuất hỏa và nhập Bát-niết-bàn. Sau đó, đại chúng sẽ gom xá-lợi của Đại Ca-diếp và xây tháp trên đỉnh núi để phụng thờ.
Lúc ấy, Đức Phật Di-lặc sẽ ngợi khen rằng:
'Đức Phật Thích-ca-mâu-ni thường ở trong đại chúng hay ngợi khen Tỳ-kheo Đại Ca-diếp là vị đầu-đà đệ nhất, thông đạt thiền định và Giải Thoát Tam-muội. Vị này tuy có đại thần lực nhưng không hề cao ngạo. Ngài có thể khiến chúng sanh được sự an vui lớn lao và luôn thương xót những kẻ khốn khổ cùng hàng thấp kém.'
Đức Phật Di-lặc sẽ ngợi khen xá-lợi của Đại Ca-diếp rằng:
'Lành thay! Ma-ha Ca-diếp, vị đệ tử lớn của đại thần đức chúa sư tử Thích-ca, có thể ở trong đời ác kia mà tu tâm của mình.'
Lúc bấy giờ xá-lợi của Đại Ca-diếp liền nói kệ rằng:
'Đầu-đà là bảo tạng
Trì giới là cam lộ
Phàm ai hành đầu-đà
Tất đến bất tử địa
Trì giới sẽ sanh thiên
Cùng được Niết-bàn vui'
Đại Ca-diếp sẽ hiện ra như nước lưu ly và khi nói bài kệ xong thì ngài trở vào lại trong tháp.
Nơi thuyết Pháp của Đức Phật Di-lặc vào thời bấy giờ sẽ có chiều rộng là tám mươi do-tuần, dài một trăm do-tuần. Mỗi người trong đại chúng, hoặc đứng hay ngồi, hoặc gần hay xa, mỗi mỗi đều thấy Phật ở tại trước mình và chỉ thuyết Pháp cho riêng họ.
Đức Phật Di-lặc sẽ trụ thế sáu vạn ức năm. Vì thương xót chúng sanh nên Ngài sẽ khiến họ đều đắc Pháp nhãn. Sau khi diệt độ, chư thiên và người ở thế gian sẽ hỏa táng kim thân của Phật. Lúc đó, vua Chuyển Luân sẽ gom xá-lợi và mỗi châu trong bốn châu thiên hạ đều xây tám mươi tư ngàn tháp. Chánh Pháp của Đức Phật Di-lặc sẽ trụ thế sáu vạn năm, Tượng Pháp hai vạn năm.
Các ông phải cần tinh tấn, phát tâm thanh tịnh và làm mọi việc lành. Như thế thời sẽ thấy được ngọn đèn sáng của thế gian. Khi thấy được thân tướng của Đức Phật Di-lặc, các ông cũng sẽ dứt trừ đi mọi sự hoài nghi."
Khi Phật nói lời ấy xong, Tôn giả Xá-lợi-phất và Tôn giả A-Nan liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Đức Phật, hai gối quỳ, chắp tay và bạch Phật rằng:
"Bạch Thế Tôn! Kinh này tên gọi là gì, và chúng con phải phụng trì như thế nào?"
Phật bảo ngài A-Nan:
"Ông nhớ khéo thọ trì, hãy rộng vì hàng trời người mà phân biệt diễn nói, và đừng để Pháp này bị đoạn diệt. Pháp yếu này tên là Nhất Thiết Chúng Sanh, Đoạn Ngũ Nghịch Chủng, Tịnh Trừ Nghiệp Chướng Báo Chướng Phiền Não Chướng, Tu Tập Từ Tâm Dữ Di-lặc Cộng Hành. Hãy nên thọ trì như thế. Cũng tên là Kinh Nhất Thiết Chúng Sanh, Đắc Văn Di-lặc Phật Danh, Tất Miễn Ngũ Trược Thế, Bất Đọa Ác Đạo. Hãy nên thọ trì như thế. Cũng tên là Kinh Phá Ác Khẩu Nghiệp, Tâm Như Liên Hoa Định, Kiến Di-lặc Phật. Hãy nên thọ trì như thế. Cũng tên là Kinh Từ Tâm Bất Sát Bất Thực Nhục. Hãy nên thọ trì như thế. Cũng tên là Kinh Thích-ca-mâu-ni Phật Dĩ Y Vi Tín. Hãy nên thọ trì như thế. Cũng tên là Kinh Nhược Hữu Văn Phật Danh, Quyết Định Đắc Miễn Bát Nạn. Hãy nên thọ trì như thế. Cũng tên là Kinh Di-lặc Thành Phật. Hãy nên thọ trì như thế."
Phật bảo ngài Xá-lợi-phất:
"Sau khi Ta diệt độ, nếu có Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, thiên long bát bộ, và các chúng quỷ thần nào mà nghe được Kinh này, rồi thọ trì đọc tụng, lễ bái cúng dường và cung kính Pháp sư, thời tất cả nghiệp chướng, báo chướng và phiền não chướng sẽ tiêu trừ. Họ sẽ thấy được Đức Di-lặc và một ngàn chư Phật trong Hiền Kiếp. Họ sẽ tùy theo ý nguyện mà thành tựu ba loại Bồ-đề. Họ sẽ không còn thọ thân người nữ, chánh kiến xuất gia và đắc đại giải thoát."
Khi nghe Phật nói xong, các đại chúng đều rất hoan hỷ, họ đảnh lễ Đức Phật rồi cáo lui.
PHẬT THUYẾT KINH TỚI THỜI DI LẶC
Xá Lợi Phất là đệ tử bậc nhất trong các đệ tử của Phật. Với tâm Từ Bi nghĩ về thiên hạ, vãng tới nơi Phật ở, quỳ xuống xoa tay hỏi rằng: Phật thường nói: “Sau khi Phật ra đi, sắp tới có Di Lặc. Xin muốn nghe điều đó từ Phật.”
Thế Tôn nói rằng: Tới thời Phật Di Lặc ra đời. Ở Diêm Phù Lợi đất núi cây cỏ đều bị cháy trụi. Đất ở Diêm Phù Lợi ngày nay dài rộng khoảng ba trăm ngàn do tuần. Thời Di Lặc ra đời, đất của Diêm Phù Lợi từ Đông sang Tây dài khoảng hai trăm ngàn do tuần, từ Bắc xuống Nam rộng khoảng một trăm bảy mươi ngàn do tuần. Trên đất đều đang sinh năm loại dưa. Trong bốn biển không có núi đồi hang suối. Đất bằng như đá mài. Cây đều to dài. Nhân dân thời đó, người tham lam dâm dục thù hận ngu si ít. Nhân dân đa phần sống trong làng ấp, cùng nhau nghe được tiếng gà gáy. Nhân dân đều thọ tám mươi tư ngàn tuổi. Phụ nữ năm trăm tuổi mới xuất giá. Nhân dân không ốm đau. Hầu hết Thiên hạ có ba loại bệnh: một là đại tiểu tiện, hai là đói khát, ba là trẻ già, nhân dân mặt mắt đều có màu hoa đào, nhân dân đều kính trọng nhau. Có thành tên là Kê Đầu Mạt. Có một Quốc vương cai quản thành Kê Đầu Mạt. Bốn phía thành rộng trên hai trăm bốn mươi do tuần, thành đắp bằng đất, lại dùng tấm gỗ ốp lên. Lại dùng vàng bạc lưu ly thuỷ tinh trân bảo đính lên thành. Bốn phía mỗi bề có mười hai cửa, cửa đều làm bằng thép được chạm khắc. Lại dùng vàng bạc lưu ly thuỷ tinh trân bảo dát lên. Tên Quốc vương là Tăng La. Bốn biển đều thuộc Tăng La, khi đi là có thể bay tới nơi cần đến. Nhân dân Quỷ Thần đều khâm phục thành. Có bốn báu vật: Một là vàng được con Rồng coi giữ. Tên của Rồng Nghê Duyện Phong, chúa bảo vệ vàng. Nơi ở của rồng là núi đất có tên là Kiền Đà. Hai là Bạc, trong nước đó lại có một con Rồng coi giữ tên là Phan đầu. Ba là châu Minh nguyệt được sinh ở trong đất tên là Tu Tiệm, Rồng coi giữ trân châu tên là Tân Kiệt. Bốn là Lưu ly được sinh trong thành tên là Phiếm La Na Di.
Có một Bà La Môn tên là Tu Phàm đang được làm Cha của Di Lặc. Mẹ của Di Lặc tên là Ma Ha Việt Đề. Di Lặc đang làm con, dòng họ của Di Lặc đang là Bà La Môn. Thân có ba mươi hai tướng, tám mươi diện mạo tốt, thân cao năm mươi ba mét. Di Lặc sinh trong thành đất, mắt nhìn rõ trong vòng năm ngàn do tuần, ánh quang trên đầu chiếu tới hai ngàn do tuần. Lúc Di Lặc được làm Phật ngồi ở dưới cây Long Hoa. Cây cao hai mươi do tuần, rộng cũng khoảng hai mươi do tuần. Khi Di Lặc thành Phật có tám mươi tư ngàn Bà La Môn, đều vãng tới nơi Thầy Di Lặc, Liền rời gia đình làm Sa Môn. Di Lặc tới ngồi dưới cây, Nhờ ánh Sao xuất hiện ngày mồng tám tháng tư được thành Đạo Phật. Quốc Vương Tăng La nghe tin Di Lặc thành Phật, Liền cùng với tám mươi tư Vương gia, đều cùng bỏ Vương vị, phó thác nước cho Thái tử, cùng nhau tới nơi Phật Di Lặc ở. Đều cắt bỏ râu tóc làm Sa Môn. Lại có một ngàn tám trăm Bà La Môn, cùng nhau tới nơi Di Lặc ở làm Sa Môn. Cha mẹ của Di Lặc cũng ở trong số đó. Lại cũng có một ngàn tám trăm bốn mươi người là Thánh Bà La Môn, đều cùng tới nơi Phật Di Lặc ở làm Sa Môn. Nước có đại hào Hiền giả tên là Tu Đàn, mọi người gọi là Tu Đạt. Lại cũng kêu gọi nhân dân đem vàng dâng Phật Di Lặc và các Sa Môn, tên là Thanh Nhật Bố Phương Viễn. Tu Đạt lại cùng với mười bốn ngàn người Hiền thiện cùng tới nơi Phật Di Lặc ở làm Sa Môn. Lại có hai anh em, anh là Cổ Đạt, em là Phù Lan. Anh em đều nói: Chúng ta sao có thể trụ chắc ở Thế gian này, cần tới nơi Phật ở xin làm Sa Môn thôi.!
Anh em đều nói: Tôi tới ngay nơi Phật ở làm Sa Môn.
Lại có tám mươi tư ngàn cô gái, đều mặc áo đẹp đính châu trắng vàng bạc chuỗi ngọc, cùng tới nơi Phật Di Lặc ở, đều tháo bỏ trân bảo chất trên đất.
Bạch Phật rằng: Chúng con muốn dâng lên Phật và các Sa Môn. Con muốn đi theo Phật làm nữ Tì kheo.
Phật liền giúp họ thành nữ Tì kheo. Di Lặc Phật ngồi vì các nam Tì kheo Tăng, nữ Tì kheo thuyết Pháp như thời Thích Ca Mâu Ni Phật.
Người tụng Kinh, người tâm Từ, người bố Thí, người không thù hận, người xây Chùa Tháp, người bảo vệ linh cốt Phật trong tháp, người đốt hương, người đốt đèn, người treo tăng cái, người rắc hoa, người đọc Kinh. Những nữ Tì kheo đó đều là người ở thời Thích Ca Mâu Ni Phật.
Người giữ Giới, người thành tâm ngày nay tới hội. Các Tì kheo ở khắp nơi được nghe thuyết Kinh, đều ngồi dưới cây Long Hoa được thành Đạo.
Di Lặc Phật khi thuyết Kinh này trong lần đầu khai hội có chín mươi sáu ức người đều được đạo quả A La Hán. Khi thuyết Kinh này trong lần thứ hai có chín mươi tư ức Tì kheo đều được quả A La Hán. Khi thuyết Kinh lần thứ ba có chín mươi hai ức Sa Môn đều được quả A La Hán.
Nhìn lên cõi Trời các người Trời đều cầm hoa rắc lên thân Di Lặc.
Phật Di Lặc đang cùng với các A La Hán đi tới nơi ở của Vua cai quản thành Kê Đầu Mạt. Trong nội cung Vua đều dâng đồ ăn uống, ban đêm ánh sáng trong thành như ban ngày.
Di Lặc ngồi ở trong cung thuyết Kinh rằng: Thiện không thể không làm, Đạo không thể không học, Kinh không thể không đọc.
Phật thuyết Kinh xong, các Tì kheo Vua và bách Quan đều đang tin tưởng thừa hành Kinh Giới Phật, đều được độ thoát.
Phật thuyết Phật Di Lặc như thế nhưng lùi về sau sáu trăm ngàn năm nữa mới hạ sinh thành Phật, sáu mươi triệu năm sau mới kết thúc.
TÂM KINH BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA
Khi ngài Quán Tự Tại Bồ tát thực hành sâu xa pháp Bát nhã ba la mật đa, Ngài soi thấy năm uẩn đều không, qua hết thảy khổ ách.
Này ông Xá lỵ Tử ! Sắc chẵng khác Không, Không chẵng khác Sắc, Sắc tức là Không, Không tức là Sắc. Thụ, Tưỡng, Hành, Thức cũng đều như thế.
Này ông Xá lỵ Tử ! Tướng Không của mọi pháp, không sinh, không diệt, không nhơ, không sạch, không thêm, không bớt.
Cho nên trong “Chân Không ” không có Sắc, không có Thụ, Tưởng, Hành, Thức; không có mắt tai, mũi, lưỡi, thân, ý; không có sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; không có nhãn giới, cho đến không có ý thức giới; không có vô minh, cũng không có cái hết vô minh; cho đến không có già chết, cũng không có cái hết già chết; không có khổ, tập, diệt, đạo, không có trí tuệ, cũng không có chứng đắc.
Vì không có chỗ chứng đắc, nên Bồ tát y theo Bát nhã ba la mật đa, tâm không ngăn ngại. Vì không ngăn ngại, nên không sợ hãi, xa hẳn mộng tưởng điên đảo, đạt tới cứu cánh Niết bàn.
Chư Phật trong ba đời cũng y vào Bát nhã ba la mật đa, được đạo quả vô thượng chánh đẵng chánh giác.
Cho nên biết Bát nhã ba la mật đa là đại thần chú, là đại minh chú, là vô thượng chú, là vô đẳng đẳng chú, trừ được hết thảy khổ, chân thực không hư.
Vì vậy nói ra bài chú Bát nhã ba la mật đa, liền nói bài chú ấy rằng:
“Yết đế, yết đế, Ba la yết đế. Ba la tăng yết đế. Bồ đề tát bà ha”.
NIỆM PHẬT
Thân Phật thanh tịnh tựu lưu ly.
Trí Phật sáng ngời như trăng sáng
Phật ở thế gian thường cứu khổ.
Tâm Phật không đâu không từ bi.
Nam mô Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật (10 lần)
Nam mô Đương Lai Hạ Sinh Di Lặc Tôn Phật (10 lần)
Nam mô Cực Lạc Giáo Chủ A Di Đà Phật (10 lần)
Nam mô Đông Phương Giáo Chủ Dược Sư Lưu Ly Quang Phật (10 lần)
Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát (3 lần)
Nam mô Đại Thế Chí Bồ tát (3 lần)
Nam mô Địa Tạng Vương Bồ tát (3 lần)
Nam mô Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ tát (3 lần)
TIÊU TAI CÁT TƯỜNG THẦN CHÚ
Nam mô tam mãn đá mẫu đà nẫm, a bát ra để, hạ đa xá, sa nãng nẫm, đát điệt tha. Úm khư khư, khư hê, khư hê, hồng hồng, nhập phạ ra, nhập phạ ra, bát ra nhập phạ ra, bát ra nhập phạ ra, để sắt sá, để sắt sá, sắc trí rị, sắc trí rị, sa phấn tra, sa phấn tra, phiến để ca, thất ri duệ sa phạ ha. (3 lần)
CHÚC NGUYỆN
Nguyện ngày an lành, đêm an lành,
Đêm ngày sáu thời thường an lành,
Tất cả các thời đều an lành,
Xin nguyện Từ bi thường gia hộ.
HỒI HƯỚNG
Công đức tụng kinh khó nghĩ lường,
Vô biên thắng phước đều hồi hướng.
Khắp nguyện chúng sinh trong pháp giới,
Đều được vãng sinh về cực lạc.
Nguyện tiêu ba chướng trừ phiền não,
Nguyện chân trí tuệ thường sáng tỏ,
Nguyện bao tội chướng thảy tiêu trừ,
Kiếp kiếp thường tu Bồ tát đạo.
Nguyện sinh Cực lạc cảnh phương Tây,
Chín phẩm hoa sen là cha mẹ.
Hoa nở thấy Phật chứng vô sinh,
Bồ tát bất thoái là bạn hữu.
PHỤC NGUYỆN
Kính mong:
Phật nhật tỏ thêm, pháp luân quay mãi,
Mây từ rợp khắp, nguổn đạo dài lâu,
Quốc gia hưng vượng, dân chúng an hòa,
Thế giới thanh bình, chúng sinh hoan lạc.
Cúi xin:
Công đức trì chú, niệm Phật, tụng kinh hồi hướng Tây Phương, trang nghiêm Tịnh độ. Báo bốn trọng ân, giúp ba đường khổ. Hiện tiền tứ chúng, tăng trưởng thắng nhân. Quá vãng chân linh, siêu sinh lạc quốc. Âm dương đều lợi, ba cõi cùng nhờ, pháp giới chúng sinh đồng thành Phật đạo.
(đại chúng cùng đọc)
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT
Tự quy y Phật, xin nguyện chúng sinh, thể theo đạo cả, phát lòng vô thượng. (1 lạy)
Tự quy y Pháp, xin nguyện chúng sinh, thấu rõ kinh tạng, trí tuệ như biển. (1 lạy)
Tự quy y Tăng, xin nguyện chúng sinh, thống lý đại chúng, hết thảy không ngại. (1 lạy)
Nguyện đem công đức này
Hướng về khắp tất cả.
Đệ tử và chúng sinh,
Đều trọn thành Phật đạo.
===o0o===
ẤN TỐNG
Hiệu Pháp Lạc Huệ
Hiệu Phúc Quốc
Hiệu Phúc Viên
Hiệu Diệu Độ
Hiệu Phúc Quang
Tự Phúc Viên
Hiệu Diệu Lễ
Hiệu Diệu Hạnh
Tự Phúc Thông
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top