Kim Dung luận

Convent to PRC by tieuke07

MỤC LỤC 1

CHƯƠNG I :THỬ ĐỌC LẠI KIM DUNG 1

PHẦN 1 1

PHẦN 2 11

PHẦN 3 24

PHẦN 4 37

CHƯƠNG II:VÔ KỴ GIỮA CHÚNG TA HAY LÀ HIỆN TƯỢNG KIM DUNG 70

1 . GIỚI THIỆU 70

2. QUAN NIỆM VÕ HỌC 72

3. TRUYỆN VÕ HIỆP CỔ ĐIỂN 93

4. NGHI VẤN ĐẠO LÝ TRONG TIỂU THUYẾT KIM DUNG 95

5. VÔ KỴ GIỮA CHÚNG TA : TANG LOẠN THIẾP 102

6. NGHỆ THUẬT KỂ CHUYÊN TRONG KIM DUNG 104

7. THẾ GIỚI KIM DUNG 120

CHƯƠNG III:CHUYỆN TÌNH QUA TIỂU THUYẾT KIM DUNG 135

PHẦN I: KÌ NGỘ BÊN HỒ BÍCH THỦY HẰNG 136

PHẦN II:LĂNG SƯƠNG HOA - SỐNG VÀ CHẾT BÊN HOA 137

PHẦN III:MẤY AI HOC ĐƯỢC CHỮ NGỜ 140

PHẦN IV:MỘNG BAN NGÀY CỦA TRƯƠNG GIÁO CHỦ 142

PHẦN V:NGƯỜI YÊU CỦA THÁNH NỮ 144

PHẦN VI: TIỂU SIÊU - YÊU AI CẢ MỘT ĐỜI 147

CHƯƠNG IV :KIM DUNG VỚI CÕI SẮC KHÔNG KHÔNG 149

KÌ 1 149

KÌ 2 151

KÌ 3 154

KÌ 4 156

CHƯƠNG V: CÁC BÀI VIẾT KHÁC 158

1.VI TIỂU BẢO 158

2.GIẤC MƠ LỘC ĐỈNH KÝ 163

3.THIÊN LONG BÁT BỘ 167

4.VÕ LÂM NGŨ BÁ - DỤ NGÔN VỀ CHÍNH TRỊ 169

5.CHƯỞNG KIM DUNG CÓ PHẢI LẦ TÁC PHẨM VĂN HỌC 171

6.CHÂU BÁ THÔNG NĂM CÒN VỊ THÀNH NIÊN 174

7.TRUYỆN CHƯỞNG KIM DUNG 178

8.GÓC NHÌN KHOA HỌC 180

9.THIÊN LONG BÁT BỘ - MỘT KIỆT TÁC CỦA KIM DUNG 182

10.THƯỞNG THỨC TIỂU THUYẾT VÕ HIỆP KIM DUNG 185

11.TIỂU THUYẾT VÕ HIỆP VÀ TIỂU THUYẾT VÕ HIỆP KIM DUNG 188

12.BÀN VỀ TIẾU NGẠO GIANG HỒ 191

13.KIM DUNG VÀ TIỂU THUYẾT VÕ HIỆP CỦA ÔNG 193

14.CUỘC CHƠI CỦA VI TIỂU BẢO 199

15. HÒA ÂM TIẾU NGẠO GIANG HỒ Huỳnh 203

16.HÀNG LONG THẬP BÁT CHƯỞNG 206

17.LỰA CHỌN CỦA A CHÂU - SỰ TRỚ TRÊU CỦA SỐ MỆNH 209

18.CÁC HỒNG NHAN TRI KỶ CỦA ĐẠI LÝ HOÀNG ĐẾ ĐOÀN CHÍNH THUẦN 211

19.A CHÂU 212

20.A TỬ 214

21.HỮU TINH TIÊU PHONG - A CHÂU 215

22.HÀNG LONG THẬP BÁT CHƯỞNG 2 217

23.LỤC MẠCH THẦN KIẾM 220

24.GIÁ TRỊ NGHỆ THUẬT CỦA TIỂU THUYẾT KIẾM HIỆP 222

CHƯƠNG VI:TỪ ĐIỂN TIỂU THUYẾT VÕ HIỆP KIM DUNG 224

PHẦN 1 224

PHẦN 2 228

PHẦN 3 232

PHẦN 4 238

PHẦN 5 243

PHẦN 6 247

PHẦN 7 254

PHẦN 8 258

PHẦN 9 263

PHẦN 10 267

PHẦN 11 286

CHƯƠNG I :THỬ ĐỌC LẠI KIM DUNG

PHẦN 1

Có lẽ trong tiềm thức của tôi trong hơn 35 năm qua luôn luôn vẫn có một số thắc mắc, tức bực về tiểu thuyết kiếm hiệp của Kim Dung. Trước hết nếu so với các truyện kiếm hiệp cổ điển của Trung Quốc như Lã Mai Nương, Càn Long du Giang nam, Tiết Nhân Quý chinh đông, Thuyết Ðường, Thủy Hử v.v..., trong các truyện chưởng của Kim Dung - ít khi nào ông cho khai tử bớt những nhân vật cực ác khi đến quá nửa truyện. Thậm chí nhiều khi cho đến hết truyện những nhân vật cực kỳ nham hiểm và gian ác đó vẫn chưa được cho gác kiếm về chầu Diêm Vương, nhưng lại vẫn cứ tiếp tục sống dai và "quậy" dài dài cho đến một thế hệ tiếp nối trong một truyện kiếm hiệp nối tiếp khác. Thí dụ như Tây độc Âu Dương Phong trong Xạ điêu Anh hùng truyện đã sống luôn qua đến khoảng nửa truyện kế tiếp mang tên Thần Ðiêu hiệp lữ rồi mới lăn đùng ra chết sau khi đấu võ nghệ với Bắc cái Hồng Thất công suốt mấy ngaỳ liền trên một đỉnh núi tuyết trước sự chứng kiến của cậu thanh niên Dương Quá. Hoặc giả như Tinh Tú lão quái Ðinh Xuân Thu trong Lục Mạch thần kiếm và Thiên Long bát bộ - một nhân vật cực kỳ hung ác ai cũng ghét thế mà cứ sống dài dài - sống lâu hơn một trong những nhân vật chính là Tiêu Phong - cho đến hết truyện luôn. Cũng giống như Mộ Dung Phục - lúc đầu truyện mang cá tính nửa chính nửa tà nhưng đến lúc cuối truyện trở nên hoàn toàn gian ác bởi mang nhiều tham vọng khôi phục nước Yên - tác giả cũng không cho chết quách cho xong nhưng lại trở nên điên điên khùng khùng như Âu Dương Phong trong cuối truyện Anh hùng xạ điêu nói trên.

Tranh chấp để xem xem ai võ công cao nhất, ai là anh hùng vô địch thiên hạ cũng thường không được giải đáp cho thật chắc chắn như trong các truyện kiếm hiệp ngày xưa trước thời Kim Dung. Trong Anh hùng xạ điêu và Võ lâm ngũ bá, có tất cả 5 người với võ nghệ tuyệt luân: Bắc cái Hồng Thất công, Nhất Đăng đại sư Ðoàn Nam đế, Tây độc Âu Dương Phong, Ðông tà Hoàng Dược Sư và Trung thần thông Vương Trùng Dương. Năm người đó mỗi người có một hai ngón võ tuyệt chiêu bao trùm thiên hạ. Nhưng khổ nổi nếu họ đấu với nhau thì lại "bất phân thắng bại"!!! Vương Trùng Dương thường được xem như "trên cơ" 4 người kia một chút nhưng lại... chẳng may chết sớm, và trước khi chết thật Vương Trùng Dương đóng kịch chết giả để cố ý thọc vào chính huyệt của Tây độc Âu Dương Phong một ngón Nhất dương chỉ cho Tây Ðộc chừa bỏ tham vọng đi ăn cắp quyển võ công bí kíp Cửu Âm chân kinh. Thành ra trong hầu hết suốt các truyện Anh hùng xạ điêu hoặc Võ lâm ngũ bá ta không thấy một ai có thể xưng anh hùng vô địch hay võ lâm minh chủ cả. Thất vọng nhất trong cái "lô gích" của Kim Dung phải là anh chàng Quách Tỉnh. Anh này có nội công tự nhiên trời cho như hút được máu rắn quí của một thiền sư nào đó, học võ nghệ từ nhỏ với Giang Nam thất quái, học leo núi với Mã Ngọc, học các võ chính như Hàng long thập bát chưởng của Hồng Thất công, học thế đánh Thiên cang Bắc đẩu trận của phái Toàn Chân, học Cửu Âm chân kinh và Song thủ hỗ bác từ Chu Bá Thông một cao thủ tương đương hay hơn Võ lâm ngũ bá một chút, vài ngón nghề Nhất dương chỉ từ chính Ðoàn Nam đế. Quách Tỉnh như vậy đã học các món võ chính tông của ít lắm là 3 trên 5 vị ngũ bá đó - cộng với tuổi trẻ, với "tư duy" sẵn có, với nội công thâm hậu nhờ uống máu rắn. Thế mà lúc đấu với các cao thủ khác như Cừu Thiên Nhận (chính hiệu), Quách Tỉnh không bao giờ chứng tỏ được thế thượng phong đánh hạ được họ hay cho họ nằm "đo đất" cả. Lô gích đó của Kim Dung hồi còn trẻ người viết xem như hơi "lổng chổng" không được chặt chẽ chút nào. Thêm một thí dụ khác: Trương Vô Kỵ trong Cô gái Ðồ long đã trải qua bao nhiêu thăng trầm và học được bao nhiêu thế võ tuyệt chiêu: Cửu Dương chân linh lúc sống dưới thung lũng núi tuyết qua quyển sách dấu trong bụng con khỉ, ăn được con ếch đỏ cũng ở dưới thung lũng để bổ xung dương khí, luyện được Càn Khôn đại na di tâm pháp lúc bị nhốt trên Quang Minh đỉnh, học Thái Cực quyền và Thái Cực kiếm rất thuần thục với Trương Tam Phong, v.v... và v.v... thế đến khi đụng độ với người yêu cũ Chu Chỉ Nhược, hình như Trương Giáo chủ phải chịu lép mặc dù cô Chu chưởng môn Nga Mi chỉ học được có Cửu Âm Chân Kinh và một số chiêu của Nga Mi kiếm pháp mà thôi. Lô gích nằm ở đâu hay Kim Dung đã theo mốt thời đại trọng nữ khinh nam? Tức bực cho độc giả còn phải kể đến cái ngón Lục mạch thần kiếm của thái tử Ðoàn Dự! Võ nghệ thứ gì mà khi được khi không, trong cuộc đời thật chắc làm gì có loại võ nghệ kỳ cục như vậy - giống như chiếc xe hơi, cái radio hay tivi rất cũ kỹ khi chạy khi không? Rồi còn rất nhiều, nhiều nữa những cái lủng củng trong lô gích của Kim Dung về ai giỏi võ hơn ai trong các bộ truyện chưởng của ông.

Những thắc mắc đó hình như cứ lởn vởn trong đầu người viết qua nhiều năm tháng, rồi trở đi trở lại trong hai thập niên qua khi xem phim tập Hongkong quay đi quay lại nhiều lần các truyện của Kim Dung. Nhiều khi người viết cũng thử đặt ra một vài giả thuyết dựa trên kiến thức rất hạn hẹp của mình về triết lý Đông phương - thử giải thích các dụng ý của Kim Dung khi ông ra công sáng tác các tác phẩm kiếm hiệp để đời đó. Người viết thử dùng những triết lý như "nhân vô thập toàn" hay bắt chước các người viết khác moi Kinh Dịch, hay sưu tầm những "ẩn số chính trị" để tìm giải đáp cho một thắc mắc lâu năm về Kim Dung. Nhưng rất tiếc và nói cho đúng người viết vẫn chưa được hoàn toàn thoả mãn về những ẩn ý của Kim Dung khi ông cho vào các truyện của ông một lôgích có vẻ hoàn toàn bác bỏ lôgích của Tam đoạn luận: A giỏi hơn B, B giỏi hơn C, do đó A phải giỏi hơn C. Nói một cách khác và thông thường, nếu A có nhiều tiền và của cải hơn B, ta nói A giàu hơn B. Nếu A cùng cỡ tuổi với B và A học được và thành thục nhiều ngón võ hơn B, A chắc sẽ giỏi võ hơn B và sẽ "nốc ao" B khi đấu với B. Tương tự Trương Vô Kỵ có vẻ học được nhiều ngón võ tuyệt chiêu hơn Chu Chỉ Nhược - đại khái Cửu Dương chân kinh, Càn Khôn đại nã di, Thái Cực kiếm, Thái Cực quyền, v.v... Nội cái Càn Khôn đại nã di - một môn võ tối cao của Minh giáo thời đó có mãnh lực biến đối thủ dùng gậy ông đập lưng ông - Vô Kỵ đã học được trong lúc bị nhốt với Tiểu Siêu ở trong mật động của Quang Minh Ðỉnh - nếu theo đúng mô tả của chính tác giả - cũng đủ dùng để chế ngự được Cửu Âm Chân Kinh, nếu không kể đến các thứ võ lâm chi bảo như Thái Cực kiếm và Thái cực quyền. Càn Khôn Ðại Nả Di chắc chắn - theo lôgích của mô tả trong truyện - sẽ chế ngự được thế đánh móc vào sọ người kiểu Cửu Âm bạch cốt trảo trong Cửu Âm Chân Kinh bởi nó có thể khiến bàn tay bạch cốt trảo quay về tự móc sọ của người xử dụng nó để tấn công mình! Trong khi ấy Chu Chỉ Nhược theo với ước đoán của độc giả (vì đoạn Chu Chỉ Nhược luyện Cửu Âm Chân Kinh tác giả dấu không kể ra) chỉ biết có Cửu Âm Chân Kinh và rất có thể chỉ biết qua loa về Nga Mi kiếm pháp bởi lúc Diệt Tuyệt Sư Thái nhường ngôi chưởng môn Nga Mi cho họ Chu, Diệt Tuyệt Sư Thái đang sắp sửa tự tử nên chưa có thì giờ truyền lại trọn vẹn các ngón nghề của Nga Mi kiếm pháp cho nàng. Thế mà Kim Dung tự ý cho Vô Kỵ gần như bất lực trước Chỉ Nhược và có vẻ "dưới cơ" Chu Chỉ Nhược. Thật bực mình!!!

Thế nhưng, gần đây nhân lúc đọc được quyển "Cờ Bạc" của Huỳnh Văn Lang do Nhà văn nghệ Tổng Phát Hành xuất bản vào năm 1998, người viết tự nhiên thấy những "cái đinh" kể ra trong quyển Cờ Bạc, nhất là những chương về nghệ thuật đá gà khả dĩ có thể dùng để giải thích những hiện tượng tréo cẳng ngỗng trong các phần đấu võ trong các truyện kiếm hiệp của Kim Dung. Theo tác giả Huỳnh Văn Lang (HVL) trong suốt "sự nghiệp" đá gà ăn tiền của ông kéo dài hàng chục năm sau khi rời chiếc ghế Tổng giám đốc Viện Hối đoái VNCH, ông đã kiếm tiền khá bộn trong việc nuôi gà đá và đá gà nhờ ở việc áp dụng thuyết Ngũ hành của triết lý Trung Quốc. Tác giả kể lại một ngày nào đó năm xưa ông được một người bạn tặng cho một quyển sách cũ viết về nghệ thuật đá gà áp dụng theo thuyết Âm Dương Ngũ hành do chính đức Tả quân Lê Văn Duyệt viết. Xin tạm trích một đoạn quan trọng của quyển Cờ Bạc:

"Theo Tả quân, ...con gà cũng như con người, cùng vạn vật đã sinh ra trong vũ trụ thì tất nhiên bị vũ trụ bao vây và chi phối, mà vũ trụ cùng vạn vật lại do định luật âm dương ngũ hành chi phối, vì tất cả đều do âm dương ngũ hành mà ra... Suy luận như vậy, Tả quân đã dùng luật Ngũ hành làm tiêu chuẩn căn bản cho môn chọi gà nòi của Ngài và còn để lại cho hậu thế những bài học nghệ thuật vừa cao siêu vừa hiệu nghiệm. Theo lời Ngài dạy:

Từ thuở khai nguyên vũ trụ thì có Hoả, Hoả tự thiêu để sinh ra Thổ, Thổ sinh ra Kim, Kim sinh ra Thủy, Thủy sinh ra Mộc, để rồi Mộc lại sinh ra Hoả, làm thành một chu kỳ tương sinh của Ngũ hành. Ðộng lực để vạn vật phát triển là SINH và KHẮC. Sinh là tạo, là dưỡng. Khắc là diệt, là trừ: Hoả khắc Kim, Kim khắc Mộc. Mộc Khắc Thổ, Thổ khắc Thủy, để rồi Thủy khắc Hoả lại - thành một chu kỳ tương Khắc của Ngũ hành."

Tác giả thuật tiếp cách phân biệt Ngũ hành qua màu sắc của con gà và những phức tạp gặp phải khi con gà mang nhiều màu sắc khác nhau. Lông màu gì pha với màu gì, mồng gà màu gì và chân cẳng vảy vi mang màu gì. Sau khi đã minh định được màu sắc chính của con gà người chọi gà có thể xác nhận gà thuộc mạng nào, Kim hay Mộc, hay Thủy, hay Hoả hoặc Thổ, và đem nó đi so với gà sắp sửa phải đấu. Nếu gà mình mạng Hoả và gà đối phương thuộc mạng Kim - Hoả khắc Kim - gà bên mình rất có nhiều cơ hội để thắng. Và tác giả HVL đã xác nhận qua hằng trăm trận đấu gà từ năm 1969 cho đến đầu năm 1975 - cũng như Tả quân Lê Văn Duyệt trước khi viết quyển sách bí truyền đó, đã trải qua kinh nghiệm cở 400 độ đấu gà - luật Ngũ hành gần như có hiệu nghiệm gần đến 80-90 phần trăm. Theo khoa học, định luật Ngũ hành có vẻ rất có lý đó khi được áp dụng vào các vụ đấu gà được gọi định luật empirical (định luật thống kê). Ðịnh luật empirical rất nhiều khi vẫn có giá trị tương đương với những định luật thuần lý. Thí dụ về định luật thuần lý là luật vật lý về đun nước sôi. Ðịnh luật thuần lý luôn luôn đúng và đúng ở mọi chỗ, nói rằng khi ta đun nước nóng đến 100 độ, nước sẽ sôi và sôi ùng ục. Ðịnh luật thống kê có thể được thí dụ bằng một cuộc tổng tuyển cử lựa chọn chính quyền tại một nước dân chủ. Ðịnh luật sẽ nói rằng khi chính phủ đang cầm quyền làm mất lòng dân bằng những thất bại trong các chính sách kinh tế, y tế, và giáo dục, v.v. chính phủ đó sẽ bị thất cử dễ dàng. Ðó là luật thống kê, thường thường đúng nhưng không chính xác đến 100 phần trăm.

Thuyết Âm Dương - Ngũ hành ra đời vào khoảng thời Xuân Thu Chiến Quốc, cùng một lúc với Kinh Dịch, do ở một nhà "thông thái" tên Trâu Diễn (1) đã hệ thống hoá nó cho được mạch lạc. Ngũ hành cũng được áp dụng trong nghệ thuật Phong Thủy (Feng Shui) xem nhà xem hướng, rất phổ thông hiện nay trên toàn cầu. Tóm tắt Ngũ hành gồm có Kim, Mộc, Thuỷ, Hoả, Thổ, năm nguyên tố căn bản của vũ trụ. (Ở điểm này một vài học giả Tây Phương cho rằng Ngũ hành chịu nhiều ảnh hưởng của phái Zoroastre (2) của Ba Tư).

+ Kim tức kim loại, biểu tượng bằng màu Trắng, và theo Phong Thuỷ chỉ hướng TÂY (muốn dễ nhớ, nhớ người Âu Tây da trắng). Kim khắc Mộc, Kim có thể diệt được Mộc (nhớ cưa sắt cưa được gỗ), nhưng giúp được Thủy; + Mộc là gỗ, mang màu Xanh, đứng về hướng ÐÔNG. Mộc trị hay khắc Thổ (đóng cây vào đất - cây mọc từ đất mọc lên), nhưng giúp được Hoả (nhớ lửa cháy thường nhờ cây nhờ gỗ, giấy làm cháy lửa cũng do gỗ làm ra); + Thủy là Nước - biểu tượng màu Ðen, đi về hướng BẮC. Thủy trị Hoả (tất nhiên, nước dùng để chữa lửa) và hổ tương cho Mộc (cây cần nước để sống); + Hoả là Lửa - mang màu Ðỏ, biểu hiệu bằng hướng NAM. Hoả khắc Kim (nhớ lò luyện kim cần có lửa) và giúp được Thổ; + Thổ là Ðất - mang màu Vàng, đại diện bằng Miền Chính Giữa - TRUNG TÂM. Thổ khắc Thủy (nước thẩm thấu vào lòng đất hay đập đất ngăn được nước chảy) và tương thân với Kim.

Tóm tắt có hai chu kỳ ngũ hành:

+ Chu kỳ SINH: Kim sinh Thủy, Thủy sinh ra Mộc, Mộc sinh Hoả, Hoả tự thiêu sinh ra Thổ, Thổ sinh Kim.

+ Chu kỳ KHẮC: Kim khắc Mộc, Mộc khắc Thổ, Thổ khắc Thủy, Thủy khắc Hoả, và Hoả lại khắc Kim.

(Hiểu kĩ như vậy ta hãy trở lại quyển Cờ Bạc của HVL trước khi đọc lại Kim Dung. Sau khi đọc được quyển sách bí truyền của Tả quân Lê Văn Duyệt, tác giả HVL đã cố gắng áp dụng thuyết ngũ hành theo sách Tả quân đi đá gà ăn tiền. Sau đó không lâu ông lại được cơ hội quen biết với một "ông già gân" chuyên nghề dạy võ gốc người Quảng Ngãi vào Nam sinh sống lâu năm, mang tên Tám Long. Chính ông tám Long khuyên tác giả nếu muốn thấu triệt thuyết ngũ hành hãy đọc lại các pho truyện tàu xưa như Ngũ Hổ, Tiết Nhơn Quí, Tiết Ðinh San, Võ Tắc Thiên, v.v.... sẽ thấy trong hầu hết các truyện tàu thuyết ngũ hành luôn luôn được ứng dụng triệt để. Các nhân vật chính trong các truyện tàu đều được mô tả qua màu sắc, điển hình trong truyện Thuyết Ðường thuật chuyện các người anh hùng lo chuyện lật đổ nhà Tùy để lập nên nhà Ðường với vị vua đầu tiên là Lí Thế Dân. Qua truyện đó, người đọc có thể để ý các hổ tướng được mô tả rõ rệt qua màu sắc và mạng lý theo Ngũ hành. Thí dụ, như Trình Giảo Kim mặt đỏ râu vàng, mặc áo giáp, đầu đội kim khôi - đặc biệt có hai mạng: khi trên ngựa mạng Hoả (mặt đỏ) và khi xuống ngựa, mạng Thổ (râu vàng); như La Thành, mặt trắng, mình ưa mặc bạch bào đoản giáp trắng, hay dùng cây Bát cổn Ngân thương bạc, cỡi ngựa Kim Thiên Lý Câu: đúng thật mạng Kim; như Ðơn Hùng Tín, mặt xanh, chuyên mặc giáp xanh, hay dùng chiếc Kim đính Ðông dương sóc, cưỡi con ngựa Thanh tông mã, rõ ràng mang mạng Mộc; Tần Thúc Bảo lại khác, mặt vàng, áo giáp bằng đồng vàng, hay dùng đôi giản đồng và cưỡi ngựa có lông vàng như tơ, đích thị mạng Thổ; và Uất Trì Cung gốc thợ rèn, mặt đen, mặc thiết giáp bằng đồng đen, ra trận dùng ngựa ô tuyền, đúng là mạng Thủy. Quyển Cờ Bạc đưa một vài thí dụ chứng minh rằng các tác giả người Trung Quốc xưa và nay lúc nào cũng áp dụng thuyết ngũ hành (mạng này khắc mạng kia) trong các trận đánh với nhau. Khuôn khổ bài này có hạn nên chỉ xin trích lại một đoạn tả trận chiến giữa tướng Dương Lâm của nhà Tùy đấu với bên nhà Ðường. Bên nhà Tùy ngoài tướng Dương Lâm còn có Thập Nhị Thái bảo lập ra trận Nhất tự trường xà - toàn treo cờ xanh (mạng Mộc). Bên Ðường có Trình Giảo Kim và Tần Thúc Bảo - cả hai mang mạng Hoả và Thổ - đánh hoài nhưng không sao phá nổi trận. Sau nhờ có La Thành - mang mạng Kim - chỉ đấu với tướng Dương Lâm có 10 hiệp, đâm Dương Lâm một thương ngay tại mông, phá tan trận và thu được hơn hai vạn hàng binh của nhà Tùy. Kim khắc Mộc là như vậy. Tóm lại khi đọc truyện Tàu ta nên để ý trước bổn mạng của các nhân vật rồi sẽ xem họ đấm đá đấu chưởng với nhau ra làm sao. Hằng trăm trận ăn thua hay sống chết với nhau thường dựa sát vào những tương sinh tương khắc của luật Ngũ hành mà thôi. Thí dụ một cao thủ võ lâm mặt đỏ, cỡi ngựa màu đỏ (xích thố), mang kiếm giáp màu đỏ (mạng Hoả) chạy ngựa hay phi thân xuống núi đánh với một nhân vật võ lâm khác, cho dù đó là một bà lão mặt đen mặc quần áo màu đen (mạng Thủy), người đọc sành điệu luật Ngũ hành có thể đoán được rằng tác giả sẽ cho cao thủ từ trên núi xuống kia thế nào cũng sẽ bị thua chạy dài, nếu không bị chém đứt đầu thì cũng bị thương nặng tàn phế võ công!!! (3) (1) Trâu Diễn là người nước Tề, sống vào cuối thời Chiến quốc. Sử ký viết về Trâu Diễn như sau: "Trâu Diễn bèn xem xét kỹ sự tiêu diệt, sinh trưởng của âm dương mà viết ra việc biến chuyển lạ lùng, viễn vông. Đầu đuôi thiên Đại thánh hơn mười vạn chữ, lời lẽ mênh mông rộng lớn không giống lời thường thấy". Sinh thời ông cũng như Khổng tử, đi khắp các nước để du thuyết, nhưng rất được vua các nước chư hầu tôn kính, không hề bị đối xử tệ như Khổng tử. Xem thêm Mạnh tử, Tuân khanh liệt truyện trong Sử ký.

(2) Tức Bái hoả giáo.

(3) Quả thực điều này rất thường thấy trong các tiểu thuyết Trung Hoa. Đoạn Tống Giang phá trận Thái Ất côn thiên tượng của Ngột Nhan Quang trong Hậu Thuỷ Hử là một ví dụ rất điển hình cho việc vận dụng quy luật sinh khắc của Ngũ hành trong xây dựng truyện.

Bây giờ xin trở lại những điểm "lổng chổng" trong một vài truyện kiếm hiệp Kim Dung mà người viết còn nhớ. Tuy nhiên, trước hết xin minh định người viết không thể xác nhận người viết có tin vào luật Ngũ hành hay không, nhưng chỉ có thể tiết lộ rằng qua mấy mươi năm đọc truyện Tàu và kiếm hiệp Kim Dung, cho mãi đến lúc đọc được quyển Cờ Bạc của Huỳnh Văn Lang người viết vẫn thường cho rằng mấy ông viết truyện Tàu có vẻ quên đầu quên đuôi không áp dụng lô-gích tây phương cặn kẽ, nhất là lô gích kiểu tam đoạn luận: A thắng B, B thắng C, vậy A chắc chắn phải thắng C. Chỉ đến lúc đọc xong đoạn đá gà trong quyển Cờ Bạc, mới thấy truyện Tàu nói chung và võ hiệp Kim Dung nói riêng hiếm khi dựa trên lô-gích tam đoạn luận của Tây Phương, nhưng lại chính yếu dựa trên lô-gích của thuyết Ngũ hành. Ðem lô gích của luật Ngũ hành vào truyện Tàu, Tam Ðoạn Luận phải cuốn gói đi chỗ khác chơi. Xin trở lại với Kim Dung:

Trước hết xin xét kĩ lại "Cô Gái Ðồ Long" tức Ỷ Thiên Ðồ Long ký. Trương Vô Kỵ mạng gì? Ðầu tiên ta để ý Vô Kỵ bị Huyền Minh Thần Chưởng đánh cho bị bệnh gần chết. Huyền Minh thần chưởng lại là một băng hàn chưởng thuộc thế âm chỉ có Cửu Dương chân kinh - thế dương, chất nóng - mới trị được thôi. Sau đó Vô Kỵ làm Giáo chủ Minh giáo biểu hiệu bằng ngọn lửa, rồi lại mang vào nhiệm vụ đi tìm lại Thánh Hoả lệnh. Hỏa hỏa hỏa. Ðích thị Vô Kỵ mang mạng Hoả. Còn tại sao tác giả gọi Huyền Minh thần chưởng thứ chưởng đã khiến cho Vô Kỵ bị trọng thương gần 8, 9 năm trời mà không gọi Huyết Minh hay Hồng Minh thần chưởng cho có vẻ rùng rợn? Huyền tức Ðen chỉ mạng Thuỷ, Thuỷ (nước) dập hay khắc được Hoả (lửa). Thế Chu Chỉ Nhược mang mạng gì mà Vô Kỵ phải chịu xếp de? Ta xem binh khí hay võ công chính của Chu Chỉ Nhược là gì? Ỷ Thiên kiếm? Không phải, Ỷ Thiên Kiếm thật sự của Diêt Tuyệt Sư Thái, nó màu xanh và Diệt Tuyệt Sư Thái mạng Mộc - dễ bị Vô Kỵ làm cho quê mặt vì Vô Kỵ mạng Hoả - Mộc chỉ sinh Hoả (gỗ chỉ bị cháy vì lửa) thôi chứ không khắc được Hoả. Ta nhớ lại Chu Chỉ Nhược nghe lời dặn dò của sư phụ Diệt Tuyệt Sư Thái lo đi ăn cắp bảo đao Ðồ Long để rồi dùng Ỷ Thiên Kiếm chặt vỡ đao Ðồ Long để lấy quyển bí kiếp Cửu Âm Chân Kinh được dấu trong đao Ðồ Long. Mạng Chu Chỉ Nhược dính liền với đao Ðồ Long (thầm phục dịch giả Từ Khánh Phụng không biết vì sao ông dịch tựa Ỷ Thiên Ðồ Long Ký thành ra Cô Gái Ðồ Long - và tất nhiên Chu Chỉ Nhược chính là Cô Gái Ðồ Long - sự nghiệp của họ Chu đã dính liền với đao Ðồ Long). Ðao Ðồ Long màu gì? Kim Dung đã tả Dư Ðại Nham lần đầu thấy đao Ðồ Long, chàng cầm lấy, lau sạch và đem đến gần ánh lửa xem cho kĩ, thấy nó màu ÐEN sì, chẳng phải sắt và cũng chẳng phải vàng... (Chương Thứ 3). Màu đen đích thị là màu của mạng Thủy. Mạng của Chu Chỉ Nhược là mạng Thủy (4)[black]. Thủy khắc Hoả (mạng của Trương Vô Kỵ). Nước dùng để làm tắt lửa!! Và đó cũng xảy ra cùng lúc với chu kỳ Âm thịnh Dương suy. Vô Kỵ phải dưới cơ Chu Chỉ Nhược dù giỏi võ và nội công thâm hậu hơn Chu Chỉ Nhược!!! Vô Kỵ mang tên với nghĩa đơn sơ "Không kị thứ gì hết" thật ra lại kị Thủy và những chất âm đó chứ!

Chưa hết, nếu ta nhớ ở đoạn cuối khi Vô Kỵ, Chu Chỉ Nhược đấu nhau với 3 vị sư ở chùa Thiếu Lâm trước mặt bao nhiêu quần hùng. Chu Chỉ Nhược định dùng đòn lén để hạ thủ Tạ Tốn, đột nhiên xuất hiện một thiếu nữ mặc áo vàng phi thân từ đâu đến chỉ múa vài đường quyền qua cây gậy trúc đã đủ áp chế Chu Chỉ Nhược. Trước khi cáo biệt giới võ lâm thiếu nữ áo vàng đó tiết lộ nàng từ núi Chung Nam đến, tức con cháu của Thần Ðiêu đại hiệp Dương Quá! Thế nhưng tại sao Kim Dung cho họ mặc áo vàng? Lại không mặc áo xanh lam hay áo tím cho có màu sắc đỡ chói và thơ mộng? Áo vàng dùng để ám chỉ mạng Thổ. Thổ trị Thủy. Chỉ có nàng thiếu nữ áo vàng (Thổ) mới có cơ trị được Chu Chỉ Nhược (Thủy) theo đúng rơ và cơ sở của Ngũ hành!!!

Vẫn chưa hết, trong Ỷ Thiên Ðồ Long ký còn có Y tiên Sĩ Hồ Thanh Ngưu. Hồ dược sĩ tối ngày mài miệt với cây cỏ và các vị thuốc, liên quan đến Mộc. Trong tên Hồ Thanh Ngưu có từ THANH dùng để chỉ màu xanh. Màu xanh chính là màu của mạng Mộc. Hồ Thanh Ngưu rõ ràng mang mạng Mộc. Thế Hồ Thanh Ngưu tán mạng vì ai? Vì Kim Hoa Bà Bà, đâu từ phương Tây đến. Kim Dung đã cho thấy rõ chân tướng mạng của Kim Hoa Bà Bà: Tóc bạc trắng, có tên mang chữ KIM, gốc ở phương Tây - mạng Bà Bà mạng KIM. Kim khắc Mộc, nên vợ chồng Hồ Thanh Ngưu phải mất mạng về tay Kim Hoa Bà Bà. Thật quá rõ! Còn một chi tiết nhỏ: Hồ Thanh Ngưu mạng Mộc - Mộc sinh Hỏa, Mộc giúp Hỏa, và Hồ Thanh Ngưu đã giúp Vô Kỵ mạng Hoả một thời gian vài ba năm truyền dạy Vô Kỵ gần hết những y thuật bí truyền của ông ta.

Thế còn Triệu Minh mạng gì? Triệu Minh có hai đặc tính: người Mông Cổ và yêu rồi cuối cùng nên duyên vợ chồng với đối thủ phản động Trương Vô Kỵ. Nhìn ở bản đồ, nước Mông Cổ nằm ở hướng Tây Bắc của Trung Hoa. Hướng Tây chỉ mạng KIM, hướng Bắc chỉ mạng Thủy. Có thể Triệu Minh mang mạng Tây và chút ít mạng Thủy hay chăng? Xem kĩ thêm một chút ta thấy Triệu Minh lúc ban đầu mang sứ mệnh đi triệt hạ Minh giáo nhưng sau dần dần đâm ra phục Vô Kỵ rồi yêu con người hùng đi làm cách mạng này. Tức Triệu Minh (hay Triệu Mẫn trong bản hiệu đính mới của Kim Dung) đã khâm phục rồi yêu Trương giáo chủ hay nói cách khác bị Trương Vô Kỵ khắc phục bằng tài và ... tình. Có vẻ Triệu Minh mang mạng Kim chính, mạng Thủy phụ. Muốn chắc ăn hơn ta thử liệt kê các đặc tính của một người mang mạng Kim, một người mang mạng Thủy, mạng Hoả, mạng Thổ và mạng Mộc:

+ Tính người mạng Kim: có đầu óc tổ chức, thích ở trong thế chủ động và lãnh đạo, cần cho rằng mình đúng, thích trật tự và sạch sẽ.

+ Tính người mạng Thủy: giàu tưởng tượng, trung hậu, thông minh, rất "cứng cựa", độc lập, kín đáo, ...

+ Tính người mạng Hoả: giàu tình người, nhiều trực giác, thích được thương yêu, thích sôi nổi, giao tế giỏi, ...

+ Mạng Thổ: rất chừng mực, hài hoà, trung thành và đòi hỏi trung thành, thích chi tiết, thích bầu bạn nhưng có thể rất cứng đầu.

+ Mạng Mộc: vui tính, có mục đích, năng động, thích bận rộn, có thể rất hách xì xằng, thực tế, hiếu thắng,. ..

Theo đó Triệu Minh mang nhiều cá tính mạng Kim hơn mạng Thủy và Chu Chỉ Nhược chắc chắn mang mạng Thủy, Vô Kỵ mạng Hoả. Mối tình giữa Triệu Minh và Vô Kỵ thật sự là mối tình chớm nở bằng việc khâm phục mến tài. Hoả khắc phục được Kim. Mối tình này khác với mối tình giữa Quách Tỉnh và Hoàng Dung, như sẽ phân tích phiá dưới, đã chứng tỏ ngòi bút hết sức điêu luyện của Kim Dung - mặc nhiên nói lên tình yêu giữa người nam và người nữ - dù cho trong giới giang hồ kiếm hiệp đi nữa (trừ trường hợp anh chàng pê đê Ðông Phương Bất Bại trong bộ Tiếu Ngạo Giang Hồ) - không một mối tình nào giống mối tình nào.

(4) Theo ý kiến cá nhân của Nhất Tiếu, Chu Chỉ Nhược mạng thuỷ là hợp lý, nhưng phân tích như vậy e rằng hơi quá khiên cưỡng. Nhất Tiếu xin tạm lý giải theo một cách khác: Chỉ Nhược là con nhà thuyền chài, được Trương Tam Phong gửi lên Nga Mi. Nàng sinh trưởng ở nơi sông nước, tức là thuộc về mệnh thủy.

Bây giờ xin xem qua bộ Xạ đìêu Anh hùng truyện và Võ lâm ngũ bá. Tổng cộng chừng một phần 5 của Xạ điêu Anh hùng truyện đề cập đến truyền tích và hành vi của năm ông võ sư thượng thặng của Trung Quốc trước thời nước Tàu bị Mông Cổ chiếm đóng. Ðó là Bắc cái Hồng Thất công (Vua Ăn Xin), Tây độc Âu Dương Phong, Ðông tà Hoàng Dược Sư, Nam đế Nhất Ðăng đại sư, và Trung thần thông Vương Trùng Dương. Rõ ràng Võ lâm ngũ bá đại diện cho năm thức Ngũ hành. Bắc cái Hồng Thất công, ông vua ăn xin mặt mày đen đúa ở phiá Bắc (Bắc Cái) mạng THỦY, Tây độc Âu Dương Phong và cháu là Âu Dương Khắc đi từ BẠCH Ðà sơn đến - chuyên môn ăn mặc đồ trắng, kể cả đoàn phụ nữ tùy tùng mặc áo quần màu trắng, mạng KIM. Ðông tà Hoàng Dược Sư ở phía Ðông ưa ở trong vườn đào thích mặc áo màu xanh, đích thị mạng Mộc. Nam Ðế Nhất Ðăng đại sư ở phía Nam mặc áo cà sa màu đỏ, với ngón nghề Nhất dương chỉ, đúng mang mạng HỎA. Trung Thần Thông Vương Trùng Dương có căn cứ ở miền Trung mang mạng THỔ. Kim Dung còn nhấn mạnh ở mạng Thổ của Trùng Dương bằng cách cho ông sư tổ phái Toàn Chân này chết giả chôn vào lòng đất mấy ngày - chờ Âu Dương Phong đến cạy hòm để ăn cắp Cửu Âm chân kinh - chợt tỉnh dậy thọc vào mặt họ Âu Dương một ngón Nhất Dương chỉ đau cho gần chết (!) cho Âu Dương tởn đến già. Võ lâm ngũ bá nói nôm na dùng để chỉ sự hài hoà của 5 nguyên tố của Ngũ hành. Bởi vậy để cân bằng sự hài hoà đó Kim Dung cho vào nhân vật Lão Ngoan Ðồng Châu Bá Thông sau khi Vương Trùng Dương chết đi một thời gian. Châu Bá Thông là sư đệ hay lý lắc như con nít của Vương Trùng Dương, đặt ra để thay thế họ Vương trong mạng Thổ để đối phó cân bằng với bốn tay cao thủ hạng nhất kia. Ta để ý sự hài hoà ngũ hành đó rất ngộ ngĩnh như sau:

+ Ðông tà mạng Mộc, có thể trị Thổ (Vương Trùng Dương) nếu đánh nhau gay gắt, nhưng Kim Dung cho Ðông Tà có vẻ mến và thích Vương Trùng Dương nên ít khi chạm trán trực tiếp với họ Vương. Nhưng rõ ràng Mộc vẫn trị Thổ như thường qua việc Ðông Tà khắc phục được và giam cầm Châu Bá Thông trên đảo đào hoa suốt 20 năm trời để bắt buộc họ Châu phải chép ra hay đọc ra Cửu Âm Chân Kinh cho Ðông Tà!

+ Nam Ðế mạng Hỏa trực tiếp có thể khống chế mạng Kim của Tây Ðộc Âu Dương Phong. Thì đó Âu Dương Phong chỉ sợ có ngón Nhất Dương chỉ của người võ lâm ở phương Nam mà thôi (5).

+ Mạng Kim của Âu Dương Phong chính ra có thể thắng được Hoàng Dược Sư, mạng Mộc. Nhưng hình như giữa họ Âu Dương và họ Hoàng có tình nể nang đồng nghiệp (professional courtesy) với nhau. Ðó là tình mến nhau nhường nhau giữa tên ăn cướp và bà già ăn trộm, nên họ lại ít đấu nhau cho chí tử.

+ Mạng Thủy của Hồng Thất công có thể trị được Nhất Dương chỉ của Ðoàn Nam Ðế (mạng Hoả). Nhưng không được họ lại cùng phe thiện và thương người như nhau!

+ Tương tự mạng Thổ của Vương Trùng Dương có thể chặn mạng Thủy cuả Hồng Thất công (Bắc Cái), nhưng không họ mến tài mến đức của nhau.

+ Âu Dương Phong mạng Kim và Hồng Thất công mạng Thủy không có khắc gì với nhau - nên không ai hạ được ai hết. Rốt cuộc trong một trận đấu cuối cùng trên núi tuyết trong truyện Thần Ðiêu Hiệp Lữ (nối tiếp Anh hùng xạ điêu) hai ông lão đấu nhau mấy ngày đêm rồi đều lăn đùng ra chết, trước chứng kiến của Dương Quá.

+ Hoàng Dược Sư mang mạng Mộc nên mang tính hiếu thắng. Ông ta mất vợ cũng chỉ vì kêu vợ cố nhớ lại rồi viết ra bản Cửu Âm Chân kinh học lóm được từ Chu Bá Thông. Có lẽ ông cũng mang chút ít mạng Thổ nên ông đã đòi hỏi trung thành của mọi người, nhất là đám đệ tử. Sau khi cặp học trò Trần Huyền Phong và Mai Siêu Phong ăn cắp quyển copy của Cửu Âm Chân Kinh trốn đi, Hoàng Ðông Tà nổi giận cắt hết gân của những người học trò còn lại rồi đuổi đi hết.

Kim Dung đã cấu tạo cá tính nhân vật thật hay và Ngũ hành được đại diện rất đầy đủ, vững chắc trong Anh hùng xạ điêu. Sự cân bằng ngũ hành trong Võ lâm ngũ bá và Anh Hùng Xạ Ðiêu chính là cân bằng hài hoà trong một thế động, luôn luôn động. Người này khắc chế người kia xoay vòng cho giáp, để rồi rốt cuộc không hề có một người nào thật xuất chúng trồi lên trên cao. Thế Hoàng Dung và Quách Tỉnh mang mạng gì? Hoàng Dung nhỏ lớn sống ở Ðào Hoa Ðảo bên phía Ðông. Hoàng Dung mang mạng Mộc như thân phụ Hoàng Dược Sư. Muốn cho độc giả thấy rõ Hoàng Dung mạng Mộc tiêu biểu bằng màu xanh, Kim Dung bày ra màn Hoàng Dung được Hồng Thất công truyền chức Bang Chủ Cái Bang và giao cho nàng cây gậy trúc màu XANH với bài quyền độc đáo Ðả Cẩu Bổng Pháp (bài quyền dùng gậy đánh chó của giới ăn xin). Cây gậy trúc màu xanh và bài quyền Ðả cẩu bổng được xem như ấn tín của Cái Bang. Ai có được hai thứ đó trong tay đều được bang chúng nhìn nhận là Bang Chủ. Chọn gậy trúc màu xanh thay vì màu thông thường là màu vàng Kim Dung khẳng định Hoàng Dung mang mạng Mộc. Thế nhưng tại sao Hồng Thất công mang gậy trúc màu xanh lại có mạng Thủy? Kim Dung trốn khỏi mâu thuẩn này dễ dàng bằng cách cho ngón võ nghề chính yếu của Hồng Thất công là Hàng Long Thập Bát Chưởng, Long tức rồng liên hệ với nước, mạng Thủy. Trong khi đó Quách Tỉnh mang mạng Hoả - người gốc Hàng Châu, cũng có thể được tạm gọi phía Nam Trung Hoa (Hoa Nam) vì nằm phía Nam sông Dương Tử. Kim Dung lại muốn cho chắc chắn nên cài Quách Tỉnh làm đồ đệ của Giang NAM Thất Quái. Liên hệ mật thiết với Giang Nam Thất Quái, Quách tỉnh có gốc gác phương Nam và mạng Hoả. Mộc sinh Hoả. Cây dễ bị bén lửa. Mộc Hoàng Dung dễ cảm mến và yêu Hoả Quách Tỉnh. Mộc sinh Hoả và giúp Hoả. Nhớ trong truyện có rất nhiều đoạn Hoàng Dung cầu cạnh các cao thủ khác, nhất là Hồng Thất công, truyền dạy võ nghệ thêm cho chàng khờ Quách Tỉnh. Nàng lo nấu những bữa ăn ngon cho Bắc Cái Hồng Thất công để ông vua ăn xin này truyền ngón Hàng Long Thập Bát chưởng cho Quách Tỉnh. Tình yêu giữa Hoàng Dung và Quách Tỉnh là thứ tình yêu lo và giúp chồng thành công. Nó khác với thứ tình yêu mến và khắc phục giữa Triệu Minh và Trương Vô Kỵ trong Cô Gái Ðồ Long như đã nói ở trên. Và cũng khác hẳn mối tình giữa Tiểu Long Nữ và Dương Qua trong Thần Ðiêu Hiệp Lữ - cả hai đều cùng mạng Thổ, bởi sống và tập luyện võ với nhau dưới lòng đất nơi Cổ Mộ rất lâu năm. Ai nói Kim Dung không tuyệt chiêu trong việc tả tình yêu đôi lứa chắc phải suy nghĩ lại. Tiện ở đây cũng ghi thêm Dương Khang có lẽ cũng mạng Hoả như Quách Tỉnh (cùng gốc Hàng Châu) nên trên đường giang hồ, trong một phút ghen tưông sao đó vì nàng Mục Niệm Từ, Dương Khang đã lụi vào một cao thủ võ công giỏi hơn mình là Âu Dương Khắc thuộc mạng Kim một nhát dao đến mút cán. Ngoài ra Hoàng Dung mạng Mộc rất kị những người mạng Kim như Âu Dương Phong, Âu Dương Khắc và Thiết chưởng Thuỷ thượng phiêu Cừu Thiên Nhận. Có lần Hoàng Dung tính giỡn mặt với ông Thiết chưởng Cừu Thiên Nhận thứ thiệt vì lầm tưởng ông này là ông giả, bị ông này đập cho một chưởng như buá sắt đập (Thiết tức sắt, mạng Kim) đâm ra bệnh gần chết. Sau phải nhờ Ðoàn Nam Ðế (mạng Hoả, Hoả trị Kim) với ngón Nhất Dương Chỉ trị mới khỏi. Kim Dung đã viết thật hay và phô bày rất cặn kẽ về luật Ngũ hành trên ngót một ngàn trang sách cho Anh Hùng Xạ Ðiêu. Bố cục và sự giao động cũng như đấu chưởng tranh hùng giữa các cao thủ với nhau đều hoàn toàn nằm trong cơ sở lô-gích của thuyết Ngũ hành.

Thế còn những Ðoàn Dự, Tiêu Phong, Mộ Dung Phục, Hư Trúc, và Du Thản Chi cùng một lô các cao thủ khác trong Thiên Long Bát Bộ thì sao? Những Lệnh Hồ Xung, Nhâm Doanh Doanh, Nhâm Ngã Hành, Ðông Phương Bất Bại, Nhạc Linh San, Thanh Phong đạo nhân, Ðiền Kế Quang, Nhạc Bất Quần, v.v... trong Tiếu Ngạo Giang Hồ, họ được chiếu theo các mạng nào trong Ngũ hành?

Người viết thú thật chỉ đọc được Thiên Long Bát Bộ và Tiếu Ngạo Giang Hồ có một lần - và xem phim tập Hongkong cũng chỉ một lần thôi. Chỉ nhớ được mơ hồ rằng Mộ Dung Phục tuy có gốc tổ tiên nước Yên (ở phía cực Bắc) nhưng giấc mơ phục quốc của Mộ Dung vẫn mãi mãi một giấc mơ hảo huyền, nên Mộ Dung Phục dính liền với đất Giang Nam, mạng Hoả. Kim Dung nhấn mạnh thêm Bắc Kiều Phong Nam Mộ Dung, và cho Tiêu Phong thuộc người Khất Ðan ở phía Bắc nước Trung Hoa. Mạng Thủy của Tiêu Phong khắc mạng Hoả của Mộ Dung Phục mặc dù rất nhiều đoạn Kim Dung mô tả võ nghệ của Mộ Dung Phục rất thần sầu quỉ khốc. Mỗi lần gặp Tiêu Phong ta để ý thấy Mộ Dung Phục có vẻ hơi ngán mặc dù lúc nào anh ta cũng đầy tự tin mình giỏi võ hơn người. Có lẽ dưới cơ Tiêu Phong chỉ vì cái "rơ" mà thôi. Cái rơ Ngũ hành! (6) Phần quan sát thế ngũ hành của các nhân vật còn lại trong Thiên Long Bát Bộ và các cao thủ của Tiếu Ngạo Giang Hồ, nhân vì bài đã khá dài, người viết xin trân trọng nhường lại cho người đọc.

(5) Trong Xạ điêu Anh hùng truyện, Kim Dung có viết "Hoả phương nam khắc kim phương tây", nên Nhất dương chỉ của Nhất Đăng đại sư là khắc tinh với Cáp mô công của Tây độc). Nhất Tiếu thấy pháp danh của Nam đế là Nhất Đăng (một ngọn đèn???) quả là mệnh hoả thật.

(6) Theo ý của Nhất Tiếu thì Mộ Dung Phục dòng dõi người Hồ nước Yên, tức là ở phương Tây, mang mệnh Kim. Và trên thực tế người khắc chế Mộ Dung Phục không phải là Kiều Phong mà chính là Đoàn Dự, mang mệnh hoả phương Nam. Tại chùa Thiếu Lâm Đoàn Dự đã đả bại Mộ Dung Phục, và sau này cũng đã chinh phục được vị hôn thê của Mộ Dung Phục là Vương Ngữ Yên.

PHẦN 2

NGUỒN VIỆT VÀ KIM DUNG

C ách đây khoảng chừng 5 năm nhân một buổi trà dư tửu hậu tại nhà một người bạn - chủ khách chuyện trò lòng vòng rồi dẫn đến Kim Dung và các quyển tiểu thuyết kiếm hiệp lừng danh của ông. Một anh bạn (nếu không lầm, giáo sư Phạm ở New South Wales) chợt nhắc đến nhân vật Trần Hữu Lượng trong Cô gái Đồ long và nói anh vừa đọc được ở đâu đó có viết Trần Hữu Lượng là một người Việt. Người viết cố gắng moi óc với giúp đỡ của anh bạn đó mới nhớ rằng trong Cô Gái Đồ Long ấn bản đầu tiên của Kim Dung có một nhân vật tên Trần Hữu Lượng lớn tuổi hơn Trương Vô Kỵ một chút. Anh này xuất hiện lúc Trương Tam Phong dẫn Vô Kỵ lên Thiếu Lâm Tự để xin phép dùng Cửu Dương Chân Kinh chữa trị bệnh cho Vô Kỵ. Bệnh của Vô Kỵ có vẻ rất nan y vì Vô Kỵ đã bị một cú Huyền Minh thần chưởng từ một cao thủ Mông Cổ khi được thả lại tại chùa Võ Đang. Sau khi thử trị bệnh cho Vô Kỵ bằng nhiều cách theo kiến thức uyên bác của ông, Trương Tam Phong mới nghĩ rằng chỉ có Cửu Dương Chân Kinh mới có thể cứu Vô Kỵ khỏi cơn bệnh ngặt nghèo do thứ băng hàn chưởng kịch độc mang tên Huyền Minh thần chưởng gây nên. Khổ một nỗi Trương Tam Phong trong thuở thiếu thời chạy trốn khỏi chùa Thiếu Lâm với sư phụ Giác Viễn chỉ học được chừng phân nửa quyển Cửu Dương Chân Kinh do Giác Viễn trước khi viên tịch đã đọc lại. Phân nửa kia hiện có ở chùa Thiếu Lâm. Bởi vậy mấy mươi năm sau khi cần phải thấu triệt hết Cửu Dương Chân Kinh hầu chữa trị bệnh cho Vô Kỵ, Trương Tam Phong, một chưởng môn phái Võ Đang đang lên, đã không quản ngại nhục nhằn dẫn Vô Kỵ lên Thiếu Lâm Tự xin trao đổi kiến thức về Cửu Dương Chân Kinh của đôi bên để cả hai đều được trọn vẹn toàn bộ quyển kinh bí kiếp này. Nếu được vậy Trương Tam Phong sẽ dùng trọn bộ Cửu Dương Chân Kinh chữa trị cho cậu bé Trương Vô Kỵ.

Đến chùa Thiếu Lâm sau khi trình bày mục đích từ bi cứu khổ của mình Trương Tam Phong được đưa đến gặp một thiếu niên đang ở trong chùa tên Trần Hữu Lượng. Hai bên dàn xếp sao đó để Trương Tam Phong đọc ra phần Cửu Dương Chân Kinh của mình trước và sau đó phe Thiếu Lâm sẽ đưa ra phần Cửu Dương Chân Kinh của họ sau. Trương Tam Phong tình thật đọc hết nửa phần của quyển Võ kinh bí kiếp ông còn nhớ cho Trần Hữu Lượng nghe. Sau khi đọc xong Trương lão nhân mới hỏi xin được lãnh giáo phần Cửu Dương của bên Thiếu Lâm. Trần Hữu Lượng thay mặt cho bên Thiếu Lâm đáp rằng tưởng gì lạ chứ những gì Trương Tam Phong vừa đọc Thiếu Lâm đã có sẵn rồi. Và gã thiếu niên họ Trần đọc lại cho Trương Tam Phong nghe vanh vách không sót một chữ những gì Trương Tam Phong vừa mới đọc ra. Như thế phe Thiếu Lâm đã lấy cớ rằng Trương không có gì để trao đổi nên không cho Trương phần Cửu Dương họ có và đuổi khéo Trương Tam Phong cùng Vô Kỵ ra khỏi chùa.

Đoạn Trần Hữu Lượng này của Cô Gái Đồ Long đã bị Kim Dung cắt xén bỏ hết trong bản nhuận sắc sau cùng hiện nay. Trần Hữu Lượng cũng như Trương Tam Phong, Chu Nguyên Chương, Quách Tỉnh, Khâu Xứ Cơ, ... là những nhân vật có thật trong lịch sử của Trung Quốc. Chu Nguyên Chương, Trần Hữu Lượng và Trương Sĩ Thành (không có trong truyện của Kim Dung) là ba lãnh tụ "sáng chói" nhất trong việc nổi dậy lật đổ nhà Nguyên (Mông Cổ). Lực lượng Chu Nguyên Chương cuối cùng đã đánh đổ được nhà Nguyên, lập nên nhà Minh, và Chu Nguyên Chương lên ngôi lấy hiệu Minh Thái Tổ, một ông vua độc tài vào bực nhất của Trung Quốc. Đời nhà Nguyên bên Tàu (1277-1367) kéo dài gần như song song với triều đại nhà Trần (1225-1400) ở Việt Nam, lúc đó còn gọi là An-Nam, một quốc hiệu được đặt ra từ đời nhà Tống bên Tàu. Nhà Nguyên và nhà Trần trước sau đã 3 lần "Hoa Sơn luận kiếm" với nhau và cả ba lần quân đội nhà Trần với quyển binh thư yếu lược của Trần Hưng Đạo đã đánh bại quân Mông Cổ và con cháu của Thiết Mộc Chân tức Thành Cát Tư Hãn - cha của Hoa Tranh công chúa, người đã có mối tình còn trẻ dại với Kim Đao phò mã (hụt) Quách Tỉnh trong Anh hùng xạ điêu của Kim Dung. (Tiếc rằng Việt Nam không có một Kim Dung để kiếm hiệp hoá Trần Hưng Đạo như Kim Dung đã kiếm hiệp hoá tướng Nhạc Phi đời Tống trong bộ Anh hùng xạ điêu). Đọc sử Việt của Trần Trọng Kim hay của Phạm Văn Sơn, ta để ý trong chiều dài của cuộc luận kiếm giữa nhà Trần với Mông Cổ nhà Nguyên, nhà Trần hàng năm phải gửi chừng năm ba nhân tài xứ An Nam (gồm những nhà "khoa học", y sĩ, khoa bảng hạng nhất) sang chầu chực Nguyên Chủ và ngược lại nhà Nguyên cũng "bốc" một vài hoàng thân quốc thích xứ An Nam như Trần Di Ái và Trần Ích Tắc và một lô hầu cận sang bên đó được huấn luyện để sau này xử dụng họ vào những "lá bài" áp đặt làm vua (bù nhìn) cho nước Nam. Trần Hữu Lượng nếu có dòng máu Việt rất có thể là con của một trong những người này.

Họ Trần rất phổ thông ở mìền Hoa Nam bên Tàu và họ Trần dường như chỉ di dân sang nước Nam một vài thế hệ trước khi Trần Thủ Độ chiếm ngôi nhà Lý và thiết lập nhà Trần. Ở Hongkong họ Trần gọi là Chan, ở Trung Hoa lục địa gọi Chen, ở Mã Lai gọi Tan, ở Indo Tanoko, v.v.. Việc họ Trần từ Tàu di cư sang nước An-Nam rồi về sau lãnh đạo nước Nam chống lại Tàu không có gì lạ trong lịch sử Việt. Trước đó có Lý Bôn (hay Lý Bí) cũng gốc Tàu ở nước Nam được bảy đời vào giữa thế kỷ thứ 6 đã nổi lên đánh đuổi quân Tàu giành lại độc lập và dựng nên nhà Tiền Lý ngắn ngủi. Về sau Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ gốc họ Hồ có tổ tiên di cư sang nước Nam vào thế kỷ thứ 10 từ tỉnh Chiết Giang (quê hương của Kim Dung) bên Tàu cũng đã đánh nhà Mãn Thanh ở Bắc phương thua xiểng liểng.

Trở lại chuyện Trần Hữu Lượng, phản ứng thông thường của bất cứ ai nghe nói Trần Hữu Lượng có thể là một người "An-Nam" theo cha sang Tàu rồi ở luôn bên đó, về sau mưu đồ đại sự lật đổ nhà Nguyên, chắc sẽ cho rằng Kim Dung đúng thật một tác giả có đầu óc thương mại rất bén, vì muốn chiếm cảm tình của độc giả Việt Nam đang theo dõi những truyện kiếm hiệp của ông được dịch đăng báo hằng ngày ở Sàigòn theo kiểu feuilleton, ông đã nhét vào đó nhân vật Trần Hữu Lượng thay vì Trương Sĩ Thành bởi Trần Hữu Lượng có liên hệ tới Việt Nam! Chắc chỉ thế thôi.

Nhưng nếu đọc lại Thiên Long Bát Bộ và Lục Mạch Thần Kiếm ta lại một lần nữa cảm thấy một cái gì hơi là lạ khi Kim Dung giới thiệu một nhân vật nữ mang họ Nguyễn tức Nguyễn Tinh Châu - người tình vắn số của Tiêu Phong (hay Kiều Phong) bang chủ của Cái Bang. Trong hai bộ truyện đó, ông hoàng đa tình của nước Đại Lý tên Đoàn Chính Thuần, trên danh nghĩa là cha của thái tử Đoàn Dự, có rất nhiều người tình, mỗi bà ông tặng một hai đứa con, thường thường con gái. Một trong những người tình đó mang họ Nguyễn và có hai người con gái, người chị mang tên Nguyễn Tinh Châu, tức A Châu, người em Nguyễn Tinh Tử tức A Tử. Nguyễn Tinh Châu và Tiêu Phong gặp nhau rồi yêu nhau. Trong khi đó Tiêu Phong điều tra ra thủ phạm giết cha mẹ mình năm xưa không ai khác hơn Đoàn Chính Thuần cha ruột của Tinh Châu. (Mãi về sau này Tiêu Phong mới biết rằng điều tra đó hoàn toàn sai). Để trả thù cho cái chết thảm khốc của cha mẹ Tiêu Phong hẹn Đoàn Chính Thuần đến đấu Võ sống chết với nhau vào lúc giữa đêm. Nghe lén được, Nguyễn Tinh Châu vì mang nặng chữ hiếu với cha nên mặc áo giả dạng làm Đoàn Chính Thuần đến nơi hẹn. Tiêu Phong trong đêm tối nhìn thấy người tình muôn thuở Tinh Châu lại tưởng lầm là Đoàn Chính Thuần nên đánh cho một cú Hàng long Thập bát chưởng, món Võ bí truyền của các Bang chủ Cái bang (hội đoàn của những người khất thực ăn xin) làm cho Tinh Châu bị trọng thương và chết liền sau đó trong vòng tay thống khổ của Tiêu Phong. Trong suốt khoảng đời còn lại Tiêu Phong mang nặng nổi sầu bi không thế nào giải toả được, và cưu mang người em gái của Tinh Châu là A Tử. A Tử đem lòng yêu Tiêu Phong nhưng khổ nỗi Tiêu Phong chỉ thương A Tử như người em. A Tử lại có một anh chàng khác say mê cuồng nhiệt tên Du Thản Chi có lúc đã dâng đôi mắt người xưa của mình tặng cho A Tử "ghép mắt" vì chợt bị mù không thấy đường. (Ở đây, Kim Dung có vẻ xạo hết chỗ nói chắc với ngụ ý đề cao y thuật Trung Quốc hồi xưa!!!). Và mối tình éo le ba chiều đó đã được Kim Dung kết thúc bằng một giải đáp không có hậu, một "unhappy ending" để lại cho người đọc bao ngậm ngùi thương tiếc.

Phải nhìn nhận trong hàng trăm pho truyện Tàu chỉ có bộ Thiên Long Bát Bộ nói riêng và một số tiểu thuyết của Kim Dung nói chung đã đề cập đến họ Nguyễn và nước Đại Lý mà thôi. Họ Nguyễn mặc dù cũng xuất xứ từ miền Hoa Nam bên Tàu nhưng ngày nay còn rất ít những người mang họ này ở bên Tàu. Ngược lại ở nước Việt họ Nguyễn được rầm rộ gia tăng sau khi Trần Thủ Độ cướp ngôi nhà Lý (1010-1225) và bắt ép những người mang họ Lý phải đổi ra họ Nguyễn để thứ dân không còn nhớ đến triều đại nhà Lý xưa cũ nữa. Họ Nguyễn lại gia tăng dữ dội hơn nữa khi Nguyễn Hoàng vào trấn đất Thuận Hoá năm 1558 khởi đầu cho mầm mống nhà Nguyễn sau này. Họ Nguyễn giờ đây chiếm đến khoảng 40 phần trăm của các họ khác nhau của người Việt. Trong niên giám điện thoại ở các thành phố có đông người Việt định cư như ở Úc và Mỹ chẳng hạn - họ Nguyễn được sắp xếp theo thứ tự số đông có thể đứng từ hạng 5 đến hạng 10 rất dễ dàng. Thành ra nói tới họ Nguyễn trong thời đại hiện nay tức nói tới người Việt, Việt Nam. Kim Dung có ngụ ý gì chăng khi ông phải dùng đến họ Nguyễn cho nhân vật Nguyễn Tinh Châu mà không dùng các họ khác như họ Đào, họ Lý, họ Tô, họ Hoàng, họ Tiết, họ Nhâm, họ Địch và nhất là họ Phạm một họ có cả trong vùng Hoa Nam, nước An Nam và cả nước Lâm Ấp (hay Chiêm Thành) vào các thời xa xưa đó. Thêm vào đó trong ba bốn bộ truyện liên tiếp, Kim Dung ưa đưa vào đó những nhân vật thuộc nước Đại Lý như Đoàn Nam Đế tức Nhất Đăng Đại Sư trong Xạ Điêu Anh Hùng truyện, Đoàn Chính Thuần, Đoàn Dự trong Lục Mạch Thần Kiếm và Thiên Long Bát Bộ, v.v. Nước Đại Lý đại khái nằm ở địa bàn của tỉnh Vân Nam (Yun-Nan) ngày nay. Tỉnh Vân Nam giáp giới với phía Tây Bắc ở mạn Lào Cai, Lai Châu của nước Việt Nam. Thời cổ đại khu Đại Lý có tên Điền Việt, có thể bao gồm hay giáp ranh với nước Tây Âu hay Âu Việt và nước Nam Cương của Thục Phán. Theo Trần Trọng Kim trong bộ Việt Nam Sử Lược, Thục Phán không thể xuất phát từ nước Tây Thục ở tận Tứ Xuyên xa xôi mà chỉ có thể từ một nước nhỏ nào đó trong khu vực Vân Nam ngày nay, hay vùng mang tên Đại Lý hồi cuối đời Nam Tống bên Tàu. Gần đây Taylor dẫn cứ tài liệu các sử gia Vietnam cho rằng Thục Phán xuất quân từ nước Nam Cương nằm ở khu Cao Bằng. Thục Phán đánh dứt điểm Hùng Vương của nước Văn Lang (tức Lạc Việt) rồi sát nhập Âu Việt và Lạc Việt thành một nước mang tên Âu Lạc, xưng hiệu An Dương Vương. Sau mấy cái màn đấu võ, nhất là ngón Nhất dương chỉ của mấy hoàng thân quốc thích nước Đại Lý trong truyện của Kim Dung, nước Đại Lý bị quân Mông cổ thôn tính vào năm 1253 trước khi tiến đánh nhà Trần. Tiếp theo, nhà Nguyên đã cho di dân sang đó hơn 30000 quân lính và gia đình của họ cùng với một số người theo đạo Hồi ở vùng Tây Bắc. Chính sách đồng hoá này được tiếp diễn dưới triều đại nhà Minh vào năm 1381 Thử xem lại giả thiết đơn sơ rằng Kim Dung muốn thu hút thêm độc giả Việt Nam vào thời tiểu thuyết của ông đăng báo hằng ngày ở Saigon theo lối feuilleton bằng cách cho vào đó một số nhân vật hay bối cảnh có dính líu sơ sơ đến Việt Nam. Kim Dung đã viết [bỶ thiên Đồ long ký vào năm 1961, Thiên Long Bát Bộ vào năm 1963, và tiểu thuyết kiếm hiệp ngắn cuối cùng của ông mang tên... VIỆT nữ kiếm vào năm 1976. Truyện Kim Dung bắt đầu đăng báo hằng ngày tại Sàigòn vào khoảng 1962 và chỉ nổi như cồn vào khoảng 1964. Trước đó Kim Dung đã nổi tiếng tại Singapore, Hongkong, Đài Loan, và cộng đồng người Hoa ở Mỹ rồi. Tức là trong lúc ông viết đầu óc ông rất khó hướng về Việt Nam trong ý đồ thương mại nhỏ nhen đó. Quyển truyện mang tựa Việt Nữ Kiếm đã rõ ràng chứa chấp từ "Việt" được viết vào năm 1976 sau khi giới độc giả Việt của ông đã không còn báo chí có feuilleton để đọc đã được 1 năm. Do đó yếu tố Việt hay yếu tố liên hệ đến Việt trong truyện Kim Dung trong lý do thương mại lấy lòng độc giả Việt phải được hoàn toàn gạt bỏ. Truyện Việt nữ kiếm nói về thứ "Việt" (hay "việc") gì mà Kim Dung đã chọn làm quyển truyện ngắn kiếm hiệp cuối cùng để đóng sổ sự nghiệp viết tiểu thuyết Võ hiệp kỳ tình lừng danh của ông? Việt Nữ kiếm chưa được in thành sách "bản cứng" tiếng Việt nhưng hiện có hai bản dịch, một tiếng Việt một tiếng Anh (hay tiếng Mỹ!), đăng trọn vẹn trên mạng internet võ hiệp "chùa" "vietkiem dot com" hay "come.to /kimdung. Truyện kể lại mối tình của tướng nước Việt tên Phạm Lãi và nàng mỹ nhân Tây Thi do vua Việt là Câu Tiễn đem dâng hiến cho vua nước Ngô tên Phù Sai để dùng mỹ nhân kế hầu làm suy yếu nội tình nước Ngô trước khi "tổng phản công" đánh chiếm nước Ngô để trả thù xưa. Trong truyện có một cô gái chăn dê học được kiếm pháp thần sầu quỷ khốc từ một con vượn trắng (Nhắc lại màu trắng là màu của mạng Kim như trong tên Kim Dung của thuyết Ngũ hành - xem phần 1). Việc xuất hiện của truyện "Việt" nữ kiếm, tác phẩm kiếm hiệp cuối cùng của Kim Dung, đã tăng thêm phần tin tưởng cho giả thiết rằng các yếu tố Việt như họ Nguyễn, nước Đại Lý, Trần Hữu Lượng trong các truyện trước của Kim Dung không phải là một việc tình cờ nhưng lại là một sự sắp đặt có lớp lang bày tỏ ít nhiều ẩn ý hay "tâm sự riêng mang tính chất Việt" của tác giả.

Sau đây ta thử cố gắng khảo sát và khai triển thêm để tìm hiểu về tâm sự mang "chất Việt" của Kim Dung bằng cách lượt qua lịch sử Trung Quốc và sử Việt cổ. Tâm tư mang chất Việt này của Kim Dung chỉ là một sợi chỉ nhỏ - nhưng nếu dùng kính lúp của lịch sử để soi tỏ cho rõ sợi chỉ liên hệ đến "Việt tính" này, có lẽ chúng ta sẽ có thể lĩnh hội được một hai điều ngồ ngộ hay hay về Kim Dung nói riêng và về giới trí thức người Hoa nói chung - đối với "Việt" và Việt Nam.

Nước Việt vào cuối thời Chiến Quốc là một nước nằm ở địa đầu của vùng Hoa Nam, ven biển, ở phía Nam sông Dương Tử. Nhìn bản đồ nước Trung Quốc ta thấy sông Dương Tử (còn gọi là Trường Giang) đại khái nằm ở vĩ tuyến thứ 30 và chia nước Tàu làm hai. Ở phía Nam sông Dương Tử người Hoa thường gọi Hoa Nam hay Giang Nam (như kiểu Giang Nam Thất quái, bảy vị sư phụ của Quách Tỉnh trong Anh hùng xạ điêu). Phân nửa của nước Tàu ở phía Bắc sông Dương Tử lại có thể chia ra thành 2 phần nữa bằng con sông nổi tiếng mang tên Hoàng Hà đại khái chạy uốn mình quanh co giữa khoảng vĩ tuyến 36 đến 38. Hoàng hà có nghĩa con sông màu vàng do ở màu nước phản ảnh loại đất vàng do gió chuyên chở đến từ các sa mạc ở phiá Tây nước Tàu. Đất màu vàng này tiếng Anh gọi là loess với độ dày ở mặt đất lên đến cở 300 thước tây. Bởi người Tàu thời cổ đại tập trung hai bên sông Hoàng Hà họ chỉ thấy đất loess màu vàng mà thôi nên họ dùng màu vàng để chỉ Đất và mạng Thổ như phần 1 đã trình bày. Trung Quốc trong giai đoạn khai sinh cho tới thời Xuân Thu Chiến Quốc chỉ nằm quanh quẩn các nước ở phiá Bắc sông Dương Tử và phiá Nam sông Hoàng Hà - đặc biệt các vùng tập trung dân cư như Lạc Dương, Trường An, Tây An, An Dương đều nằm ở lưu vực của sông Hoàng Hà. Bình minh của văn minh Trung Quốc cũng ló dạng nơi khu vực đó. Và sáu nước Tần Thuỷ Hoàng đã xoá khỏi bản đồ rồi thống nhất Trung Quốc, mang tên Hàn, Triệu, Ngụy, Sở, Tề, và Yên cũng chỉ nằm ở phiá bắc sông Dương Tử mà thôi.

Ở phiá Nam sông Dương Tử là một nhóm các bộ lạc có chủng tộc thuở khai thiên lập địa cho đến thời nhà Tần nhà Hán hơi khác với chủng tộc Tàu gốc phía Bắc sông Dương Tử. Người Trung Quốc thời xưa gọi nhóm người này Nam Man tức người còn man rợ ở phiá Nam nước Tàu hồi xưa, tức phiá Nam sông Dương Tử. Họ cũng gọi hàng trăm nhóm người này là Bách Việt tức một trăm thứ tộc Việt không phải Hán thuần tuý. Lý do dễ hiểu khi người Hán tộc gốc gọi các tộc Việt ở phiá nam sông Dương Tử Nam Man, chỉ vì thuở đó người Tàu phía Bắc sông Dương Tử đã thiết lập được xã hội văn minh với hàng trăm nhà khoa học và tư tưởng gia, đếm không hết: Lão Tử, Trang Tử, Khổng Tử, Mạnh Tử, Tuân Tử, v.v., nhà quân sự và "quân sư" - tức Cố vấn An ninh Quốc gia theo kiểu gọi bây giờ - như Tôn Tử, Trương Lương, Tô Tần, Trương Nghi, v.v. - trong khi ở phía Nam tuyệt nhiên không có nghe động đậy gì hết về những đóng góp thiết yếu kể trên cho một xã hội văn minh tiến bộ, không nghe đến một nhà tư tưởng nào hết, ngoại trừ "nổi tiếng" về nghề đánh cá canh nông và đàn ông ưa có tục xâm mình. Trong các nước Việt cổ này đáng kể nhất phải kể đến: nước Việt của Việt Vương Câu Tiễn nằm ở ven biển khu vực thành phố Nam Kinh và Thượng Hải ngày nay ở ngay phía Nam sông Dương Tử; nước Mân Việt tức khu vực tỉnh Phúc Kiến, ở phía nam của nước Việt của Câu Tiễn và Tây Thi, nước Tây Việt thuộc vùng Quảng Tây ngày nay, nước Đông Việt thuộc Quảng Đông ngày nay, Nam Việt xích xuống một chút, trước thời Triệu Đà chiếm nước Âu Lạc, bao gồm khu vực bình nguyên của sông Tây Giang ở tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây ngày nay.

Lân cận về phía Bắc nước Việt của Câu Tiễn là nước Ngô. Chuyện tranh chấp giữa nước Việt và nước Ngô là một chuyện dài như chuyện Hoa Sơn luận kiếm. Vào cuối thời Xuân Thu, vua nước Ngô là Hạp Lư dùng Ngũ Tử Tư, một tướng di dân từ Sở qua, đánh bại nước Sở, nhưng sau đánh với nước Việt bị thương rồi chết. Con cháu của Hạp Lư là Ngô Phù Sai trả thù cho Hạp Lư đánh nước Việt và bắt được Câu Tiễn đem về cầm tù, bắt coi ngựa trên dưới 10 năm. Câu Tiễn có tướng giỏi Phạm Lãi giúp bày mưu đem cống hiến mỹ nhân Tây Thi cho Phù Sai để Phù Sai xao lãng việc nước. Câu Tiễn chịu nhục nếm phân Phù Sai lúc Phù Sai bị bệnh nên được thả về và sau đó chiêu mộ binh hùng tướng mạnh đánh tiêu nước Ngô tạo nên uy thế vang lừng vào thế kỷ thứ 5 trước Công Nguyên. Phạm Lãi, có lẽ nhìn bài học Hàn Tín và Trương Lương *, sau đó rút lui về ở ẩn. Có giả thuyết nói họ Phạm khi rút lui đã cỡi ngựa với người đẹp Tây Thi đi về phía mặt trời lặn, theo kiểu phim cao-bồi Western của Hollywood (!), giống như sau này, trong truyện của Kim Dung, Trương Vô Kỵ đã giả từ vũ khí, lẳng lặng từ chức giáo chủ Minh giáo để trở về với nếp sống một phó thường dân ngày ngày lo chải tóc cho Triệu Minh.

Việt Vương Câu Tiễn thừa thắng xông lên đánh tiếp về phương Bắc và hùng cứ một cõi bờ rộng lớn bên cửa sông Dương Tử chảy ra biển Hoàng Hải của Thái Bình Dương. Ở phiá Tây nước Việt là nước Sở lúc đó cũng rất hùng cường nhưng hơi thô bạo dã man. Thừa cơ nước Việt mỗi ngày một suy yếu sau khi Câu Tiễn qua đời nước Sở đem quân sang dứt điểm nước Việt vào năm 334 trước Công Nguyên (TCN) rồi thôn tính luôn nước Lỗ của Khổng Tử vào năm 249 TCN. Sau cùng nước Tần thôn tính luôn nước Sở (năm 221 T.C.N.) cùng với các nước khác ở miền Bắc sông Dương Tử và thống nhất được nước Tàu. Một số dân chúng nước Việt sau khi bị Sở thô bạo qua chiếm đóng chịu không nổi mới di tản về phía Bắc sông Dương Tử dọc theo bờ biển, và về phiá Nam, định cư lại ở vùng Mân Việt tức tỉnh Phúc Kiến ngày nay. Mân Việt tồn tại sau đó không lâu và chính thức bị nhà Hán (tiếp nối nhà Tần) sát nhập và thôn tính vào một nước Tàu mở rộng, năm 110 TCN. Có thể nói nước Tàu dưới thời nhà Hán đã hoàn toàn xâm chiếm các nước thuộc bộ tộc Việt ở phiá Nam sông Dương Tử cũng vào khoảng năm đó khi tướng Hán, Lộ Bác Đức đánh bại tướng Lữ Gia của nước Nam Việt do Triệu Đà sáng lập khi Triệu Đà dứt điểm Thục Phán (câu chuyện truyền kỳ Trọng Thủy Mị Châu) và sát nhập nước Âu Lạc của Thục Phán với phần miền Nam của Quảng Đông và Quảng Tây ngày nay.

Một điểm đáng chú ý trong sự đồng hoá các nhóm "Nam man" ở phía nam sông Dương Tử bởi Hán tộc trong suốt 2000 năm qua nằm ở chung quanh vấn đề danh xưng, tên gọi một hai bộ tộc lớn của các nhóm Bách Việt này. Nếu độc giả có dịp sang Tàu ngay ở thời bây giờ, vào một tiệm ăn ở miệt Thượng Hải hay Bắc Kinh, và hỏi hay nhờ người hướng dẫn du lịch hỏi chủ tiệm bằng tiếng quan thoại, ở tiệm có thức ăn Việt (Việt thái, yuế tsái) hay không. Khi chủ tiệm trả lời có hoặc không, chủ tiệm có ý muốn nói Việt-thái đó là thức ăn Quảng Đông! Tương tự khi người Tàu nói Yue ju (Việt kịch) họ muốn chỉ ca kịch cổ truyền kiểu Quảng Đông so với Jing ju (Kinh kịch) để chỉ kịch nghệ Bắc kinh. Thậm chí đôi khi người Hoa lục dùng Việt ngữ (yuế yu) để chỉ tiếng Quảng Đông. Từ Việt trong tên Việt Nam (Yuế nản) cũng phát âm y hệt Yuế như Yuế (Việt) dùng để chỉ tỉnh Quảng Đông.

* Chỗ này sai, vì Phạm Lãi sống ở thời Xuân Thu, trước Trương Lương và Hàn Tín, nên không thể nhìn tấm gương của hai người kia được.

Tuy nhiên chữ "Nho" để chỉ Việt trong Việt Nam có nghĩa Vượt qua, quá độ (như trong "siêu việt), bao gồm bộ "tẩu" có nghĩa dông, chạy, đi, "di tản, kẹp với một từ "qua" với nghĩa cái giáo mác, hay cây thương, hoặc cái xiên dùng để đánh trận ngày xưa hay để săn thú đâm cá, và một cái móc nho nhỏ ở giữa! Đó là Việt (vượt) trong Việt Nam. Ý nghĩa tượng hình của từ "Việt" do đó chỉ một giống người chuyên môn vượt đồng vượt núi (hay vượt biên để di tản) và sống bằng nghề chăn thú đánh cá. Việt để chỉ tỉnh Quảng Đông gồm 2 phần, phần trên có dạng giống như lá cờ Anh Quốc với bốn gạch chéo, tức từ Mễ có nghĩa Hột Gạo (!) và phần dưới gồm một cái móc có hình dạng giống như lưỡi rìu, lưỡi cày, chỉ loại người Việt chuyên làm ruộng để sinh sống. Từ Việt (Yuế) trong nước Việt của Việt Vương Câu Tiễn cũng như Việt trong Mân Việt (Mĩn Yuế) ở tỉnh Phúc Kiến cũng đều được viết y như Việt của Việt Nam (Yue Nan). Chỉ có Việt của Quảng Đông khác với 2 thứ Việt ở hai phía bắc và nam của Quảng Đông. Việt kiểu Quảng Đông viết khác đi với 2 thứ Việt có lẽ bắt nguồn từ cái nhìn rất chủ quan của người Tàu thời cổ đại. Đó là họ biết rằng người Việt của Câu Tiễn ở phía mạn trên sinh sống bằng nghề săn thú và đánh cá - còn người Việt ở mạn Quảng Đông (trừ Việt Nam) sinh sống chính bằng canh nông và làm ruộng(!). Họ loại trừ Việt Nam ra khỏi từ Yuế có cái móc lưỡi rìu (của Quảng Đông) mà lại gán Việt Nam vào nhóm từ Yuế có cái giáo cây thương (của Việt loại Câu Tiễn) tức họ đã không hiểu hay đã vì mặc cảm tự tôn cố tình không hiểu, như khoa sử học và khảo cổ học hiện đại đã tìm ra, rằng nước Văn Lang của Hùng Vương, tức nền văn minh Đông Sơn ở miền Bắc nước Việt Nam hiện nay có thể đã biết làm ruộng trồng lúa nước trước người Hán tộc ở Trung Quốc khá lâu (về điểm người Văn Lang biết làm ruộng trước người Hán, xin xem "The Birth of Vietnam - Buổi chào đời của nước Việt Nam" của Keith Weller Taylor do nhà University of California Press xuất bản, 1983). Lý do thứ hai khả dĩ dùng để giải thích việc dùng từ Việt có cái rìu để chặn nút Việt Nam ra khỏi nước Tàu có thể được giải thích qua việc nhà Hán tức bực và cay cú về vụ Triệu Đà xưng đế ở Nam Việt ngang hàng với Hán Đế ở Bắc phương. Hay vào thời nhà Lý nước Nam có tướng Lý Thường Kiệt bình Chiêm phạt Tống lăm le đòi Tàu trả lại nước Nam lưỡng Quảng mà nhà Lý cho rằng Tàu đã" chôm" của nước Nam Việt ngày xưa. Sau này vào thời Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ cũng vậy, nhưng rủi đang tính đòi lại Lưỡng Quảng thì Quang Trung bị bịnh qua đời. Đến đời nhà Nguyễn, theo rất nhiều sử sách, phái đoàn đại diện triều Nguyễn do Binh Bộ Thượng Thư Lê Quang Định dẫn đầu sang Tàu (nhà Mãn Thanh) vào năm 1803 xin xỏ nhà Thanh được đổi lại quốc hiệu Nam Việt thay cho tên nước Đại Việt đã được Lê Lợi đặt ra sau khi đánh đuổi nhà Minh ra khỏi xứ Nam (năm 1428), Thanh triều từ chối tên Nam Việt - chắc còn nhớ mối loạn Triệu Đà ngót hai ngàn năm trước - và chỉ thuận với tên Việt Nam. Năm sinh của quốc hiệu Việt Nam chính là năm 1803.

Bây giờ xin trở lại với Kim Dung và xin đặt hai câu hỏi mấu chốt: Thứ nhất, với lý do thầm kín gì Kim Dung lại chọn Việt Nữ Kiếm làm tên quyển truyện kiếm hiếp cuối cùng của mình?Thứ hai, Nếu Việt trong Việt Nữ Kiếm có nhiều cơ sở luận lý, những liên chỉ đến thứ Việt khác như Việt Nam trong vài truyện hay nhất của Kim Dung - mặc dù hơi bàng bạc như một sợi chỉ nhỏ, như Trần Hữu Lượng, Nguyễn Tinh Châu, nước Đại Lý - đã mang một thông điệp hay một tâm sự nho nhỏ gì của Kim Dung?

Trả lời câu hỏi thứ nhất, ta thử xem Kim Dung thật sự sinh trưởng ở đâu? Kim Dung tên thật là Tra Lương Dung, sinh tại thành phố Hải Ninh thuộc tỉnh Chiết Giang (hay Triết Giang). Chiết Giang nằm ở phía Nam sông Dương Tử bao gồm những thành phố lớn như Hàng Châu, Tô Châu và Thượng Hải (trong khi Nam Kinh thuộc tỉnh An Huy lân cận với Chiết Giang). Chiết Giang đích thị tương đương với phạm trù địa bàn nước Việt của Việt Vương Câu Tiễn cách đây hơn hai ngàn năm. Ta để ý kết cuộc của Ỷ Thiên Đồ Long ký với Trương Vô Kỵ từ bỏ chức vụ "tổng tư lệnh" của quân kháng chiến chống Mông Cổ thuộc cánh Ma giáo để vui cảnh sống ẩn dật với Triệu Minh cũng giống y hệt như việc từ giả vinh hoa phú quý của tướng Phạm Lãi, giả từ Việt Vương Câu Tiễn ở cuối thời Chiến Quốc tại nước Việt, tức tỉnh Chiết Giang bây giờ của Kim Dung. Vậy có vẻ rất rõ Kim Dung muốn bày tỏ cội nguồn của mình (hậu duệ của Câu Tiễn hay của Phạm Lãi!), một người Hán có gốc Việt hùng cường của nước Việt Câu Tiễn trong quyển truyện cuối cùng Việt Nữ Kiếm. Từ khám phá này ta có thể dựng lên vô số các giả thiết về tâm sự Việt tính của Kim Dung trong một số tiểu thuyết nổi danh nhất của ông. Có thêm hai điểm nổi bật cần phải để ý khi lập dựng các giả thiết chung quanh tâm sự mang chất Việt của Kim Dung. Thứ nhất, nhân vật Mộ Dung Công Tử trong Thiên Long Bát Bộ. Mộ Dung Công Tử tức Mộ Dung Phục có tổ tiên người hoàng tộc nước Tiên Ty (tức Đại Yên). Trong truyện, Kim Dung cho Mộ Dung Phục mang giấc mơ hão huyền phục quốc lại nước Tiên Ty (để trở về đó "làm vua"). Tìm đủ mọi cách để chiêu mộ binh sĩ không xong Mộ Dung Phục mới nghĩ đến chuyện lấy cho được một nàng công chuá nước nọ để anh trở thành phò mã rồi lợi dụng binh lính sẵn có của nhà vợ đem về bắc khôi phục lại nước Tiên Ty. Giấc mơ đó trở thành mây khói khi công chuá không chọn Mộ Dung Phục mà lại chọn ông thầy tu Thiếu Lâm đã cởi áo cà sa tên Hư Trúc người nước Tây Hạ, anh em kết nghĩa với Đoàn Dự và Tiêu Phong. Phục quốc không được Mộ Dung công tử đâm ra khùng khùng điên điên vào lúc kết cục pho truyện Thiên Long Bát Bộ. Vậy điểm thứ nhất có thể suy diễn cho vui vui, Kim Dung xác nhận ông không bao giờ có giấc mơ thấy chuyện hão huyền phục quốc nước Việt của Câu Tiễn ở cái thời xa xưa. Nhất là phục quốc để mình về đó làm vua!. Thứ hai, nhân vật Nguyễn Tinh Châu tức A Châu. A Châu xuất thân từ vùng Giang Nam, dĩ nhiên dưới mắt Kim Dung tất cả đều đã trở thành Hán tộc, đã thốt lên một câu nhân vụ giới giang hồ bắt đầu kỳ thị và "bề hội đồng" Tiêu Phong, sau khi khám phá ra Tiêu Phong mang dòng máu Khất Đan, đại khái rằng: "Làm người Trung Quốc chưa chắc đã là tốt và làm người Khất Đan chưa chắc đã là xấu". Điểm thứ hai do đó có thể liên chỉ đến niềm hãnh diện sâu xa của các sắc tộc xa xưa của miền Hoa Nam sau vài thế kỷ đã trở thành Hán tộc. Một niềm tự hào của người Hán tộc thật sự không kể đến gốc gác.

Kim Dung có tâm sự gì nữa không khi ông liên tiếp cho vào các tiểu thuyết nổi danh nhất của ông những nhân vật và bối cảnh liên hệ gần gũi với nước Việt Nam? Nói cách khác trong đầu của Kim Dung có những hiểu biết gì về liên hệ dân tộc của người Việt Nam với người Việt Câu Tiễn? Câu trả lời giản đơn là CÓ. Đó là sự hiểu biết truyền tụng qua ngàn đời trong sách vở và dân gian ở Trung Quốc rằng dân Việt Nam đã là 1 trong các nhóm Việt tộc ở phiá nam sông Dương Tử và sau này trước khi bị nhà Hán đô hộ đã đón nhận và cho "thẻ xanh" vô số dân "tị nạn" kéo nhau xuống định cư từ nước Việt Câu Tiễn hoặc nước Mân Việt (Có lẽ bởi vậy người Tàu cổ đại đã dùng từ Việt có cây giáo dùng để chỉ chung cho người Việt Nam, người Việt Câu Tiễn và người Mân Việt?).

Một trong những học giả nổi tiếng về sử học và nhân chủng học Việt Nam vào "thời tiền chiến" Leonard Aurousseau, dựa trên sách vở của mấy sử gia Tàu từ thời cổ đại, đưa ra giả thuyết rằng giai cấp lãnh đạo của nước Việt Câu Tiễn sau khi bị quân nước Sở xâm chiếm vào năm 333 TCN đã di tản sang các miền lân cận như Mân Việt rồi chạy tuốt xuống miền Bắc đất Việt Nam ngày nay. Taylor gọi giả thuyết này một giả thuyết chết yểu bởi có rất nhiều chống đối chỉ trích kịch liệt từ những học giả khác như Maspero và Madrolle. Madrolle gạt bỏ thuyết này và cho rằng thuyết này không để ý đến đoạn đường dài đầy chông gai hiểm trở từ nước Việt- Câu Tiễn đến Văn Lang trong khoảng cuối thời đại Hùng Vương, nếu không kể đến việc gặp sự chống đối của dân địa phương của nước Mân Việt, hay nhiều sắc tộc khác trên đường di tản "chiến lược" đó. Madrolle sau đó ấm ức tung ra lý thuyết của riêng mình cho rằng có lẽ người Lạc Việt cổ xuất phát từ Phúc Kiến và đến xứ Văn Lang bằng đường biển như là những thuyền nhân đầu tiên! Theo Taylor, Madrolle đã dựa vào một số cơ sở mơ hồ, và so sánh họ của một số bộ tộc ở Mân Việt (Phúc Kiến) với họ của người Việt cổ ở Lạc Việt để đi đến giả thuyết này. Tuy nhiên Taylor lại đưa ra một dẫn chứng lịch sử khác cho rằng một đám người thuộc giai cấp lãnh đạo của một nước vừa bị thôn tính đang trên đường đào tẩu có thể đến một nước khác "làm cha" người ta như thường và sau đó đổi tên nước mới di cư đến thành tên nước cũ của mình! Taylor viện dẫn thí dụ dân Croats gốc Iran và dân Serbs đã sang cai trị giống người Slavic ở bán đảo Balkan (khu Hy Lạp) vào thế kỷ thứ 7. Từ dẫn chứng thí dụ này Taylor trở lại cho rằng không thể hoàn toàn bác bỏ thuyết của Aurousseau!

Sợi chỉ nối liên hệ Việt của Câu Tiễn với Việt ở Việt Nam nếu có trong tiểu thuyết Kim Dung chắc chắn dựa phần lớn vào thuyết của Aurousseau và chính nó lại dựa vào sử sách của người Trung Hoa. Theo thiển ý ta có thể trả lại giả thuyết của Aurousseau cho lớp bụi của dòng thời gian che lấp, và tạm chối bỏ những lý thuyết cho rằng người Lạc Việt thời Hùng Vương có gốc là người Việt Câu Tiễn, người Sở (ở miền Động Đình Hồ, và phía trên), người Mân Việt (Phúc Kiến) - khi những sắc dân này đã "di tản chiến lược" sang miền nước Văn Lang rồi lập ra nước đó, khi bóng tối hãy còn bao trùm khoa sử học - bởi những lý do sau đây:

+ Lý do thứ nhất: Những gì xảy ra ở nước Ngô, nước Việt-Câu Tiễn, nước Sở vào cuối thời Chiến Quốc bên Tàu hoàn toàn vắng bóng trong kho tàng truyện cổ tích, thần thoại và truyền thuyết của dân gian bên nước Văn Lang hay Âu Lạc hoặc Nam Việt! Thử hỏi nếu Việt Nam có liên hệ chút đỉnh gì với Việt-Câu Tiễn thì với một nước sản xuất một mỹ nhân như Tây Thi đã làm "nghiêng thành đổ nước" cho nước Ngô, chắc chắn tiền nhân Việt Nam sẽ hãnh diện thuộc nằm lòng chuyện đó rồi truyền tụng cho con cháu từ đời này sang đời khác. Nước Văn Lang hay Âu Lạc nếu có nhận những người di tản như con cháu cuả Câu Tiễn hay Phạm Lãi rồi cho họ "thẻ xanh" thường trú sẽ rất lấy làm hãnh diện và chắc không bao giờ quên nhét nó vào kho tàng các truyện truyền kỳ của dân tộc mình. Truyền tích đầu tiên của dân Việt, chuyện bà Âu Cơ lấy Lạc Long Quân đẻ con trăm trứng, cũng có chút cơ sở qua việc Thục Phán thống nhất hai nước Âu Việt và Lạc Việt rồi đặt tên Âu Lạc vào cuối thế kỷ 3 TCN. Những truyền tích quan trọng sau đó như Phù Đổng Thiên Vương tức Thánh Gióng, lớn lên như thổi chống giặc bắc phương, Trọng Thủy Mỵ Châu - với chiếc nỏ thần một bí mật quân sự của Thục Phán bị Triệu Đà ăn cắp được nhờ con Trọng Thủy dụ được vợ Mỵ Châu (con Thục Phán) trao cho, đều có thể xác nhận với những chứng tích lịch sử ở ngay tại điạ bàn nước Văn Lang xưa hay Bắc Bộ ngày nay. Có hai điểm cần lưu ý. Điểm thứ nhất nước Việt của Câu Tiễn bị quân nước Sở xâm chiếm vào năm 333 TCN tức là trước thời Thục Phán sát nhập nước Âu với nước Lạc (năm 208 TCN) trên 100 năm. Nếu dân Việt Câu Tiễn có di tản xuống Văn Lang thì họ phải di tản trong thế hệ 100 năm đó. Và chắc chắn sẽ có thêm cổ tích Tây Thi do dân "Việt mới" đem sang, nằm ở phía trước truyện Trọng Thủy Mỵ Châu! Điểm thứ hai, theo nhiều học giả truyện Thánh Gióng có thể tìm thấy trong các cộng đồng dân tộc ở miền thượng du Bắc bộ, như người Mường, và ngay cả tại đảo Java thuộc nước In-Đô (Nam Dương) ngày nay! Người ta cũng đã tìm thấy một truyện rất giống chuyện Sơn Tinh Thủy Tinh dâng nước dâng núi, ở một dân tộc tại phía bắc Borneo cũng ở In-Đô. Chuyện Nhất Dạ Trạch cũng tìm thấy bản sao ở tận nước Phù Nam ngày xưa nằm ở Nam Bộ Việt Nam hiện nay (xem Taylor). Ngược lại không học giả nào tìm thấy truyền thuyết Tây Thi và Phạm Lãi hay giống giống một chút, từ phía nam khu Quảng Đông, Quảng Tây kéo sang Văn Lang rồi xuống tận các đảo phía Nam.

+ Lý do thứ hai: Các đền thờ hay di tích lịch sử như đền thờ An Dương Vương Thục Phán, đền thờ Thánh Gióng, thành Cổ Loa của Thục Phán đều nằm trọn trong địa phận Việt Nam. Ở núi Mộ Dạ tỉnh Nghệ An có đền thờ An Dương Vương. Đền thờ thánh Gióng có ở làng Phù Đổng tỉnh Bắc ninh. Thành Cổ Loa nằm ở huyện Đông Anh tỉnh Phúc Yên. Và tuyệt nhiên không có di tích lịch sử cổ nào của Văn Lang hay Âu Lạc nằm ở nước Sở tận miệt Động Đình Hồ hay bên tỉnh Chiết Giang của Kim Dung tức nước Việt cũ của Câu Tiễn hết. Ngay như tại thành phố Quảng Châu ngày nay, tức thành Phiên Ngung kinh đô nước Nam Việt ngày xưa, còn có đền thờ Triệu Đà chứ không có cái nào để tưởng niệm Câu Tiễn cả.

+ Lý do thứ ba: Có ít nhất hai lần trong lịch sử Việt Nam về sau, những nhà lãnh đạo phía Việt Nam đánh được quân Bắc phương lại thừa thắng xông lên đòi hỏi triều đình Trung Hoa phải trả lại hai tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây họ cho là Trung Hoa đã "chôm" từ nước Nam Việt do Triệu Đà sáng lập sau khi đánh thắng Thục Phán. Đó là Lý Thường Kiệt thời nhà Lý đối chọi với nhà Tống và Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ đánh quân nhà Mãn Thanh. Điểm rõ ràng, hai nhà quân sự lỗi lạc này chỉ đòi đất tới Quảng Đông Quảng Tây và không hề có tham vọng quá trớn đòi tới Động Đình Hồ hay sát bên phía nam sông Dương Tử như nước Việt cũ của Câu Tiễn, bởi hơn ai hết họ biết rõ ranh giới phía bắc của địa bàn dân Âu Lạc hay Nam Việt chỉ đến khoảng phía nam của Lưỡng Quảng mà thôi.

+ Lý do thứ tư: Tổ chức và cơ cấu chính trị của nước Văn Lang hay Âu Lạc hoặc Nam Việt vẫn không thay đổi cho đến hết đời nhà Triệu khi quân Hán đem quân xâm chiếm Nam Việt vào năm 111 trước Công Nguyên. Chế độ chính trị thời Hùng Vương vẫn là một vấn đề từng được bàn cãi sôi nổi giữa các sử gia nghiên cứu về Việt Nam. Nhìn sơ đó là một chế độ gồm Lạc Vương (tức Hùng Vương) với sự phụ tá của các Lạc Hầu, Lạc Tướng và phương tiện kinh tế sinh sống là Lạc điền (ruộng) và Lạc dân. Nhiều sử gia gọi đó là nền quân chủ thế tập hay quân chủ quân sự. Xã hội đã ra khỏi thời kỳ thị tộc tức tập hợp những người cùng trong họ trong gia đình lớn với nhau, và đang ở thời kỳ bộ tộc. Khi Thục Phán dứt điểm Hùng Vương thành lập nước Âu Lạc vào khoảng cuối thế kỷ thứ 3 trước Công Nguyên, sách sử chép rõ, Thục Phán vẫn giữ vững hệ thống Lạc Hầu Lạc Tướng của nước Văn Lang cũ. Đến thời Triệu Đà dứt điểm Thục Phán nhờ chiếm được chiếc nỏ thần lập ra nước Nam Việt lớn hơn, Triệu Đà tiếp tục giao cho các "đại biểu" của mình cai trị Giao Chỉ và Cửu Chân (tức Bắc bộ và bắc Trung bộ ngày nay, hay nước Văn Lang cũ) theo kiểu Lạc hầu Lạc tướng như xưa - còn Triệu Đà ngồi ở "trung ương" là thành Phiên Ngung lo cai trị phần Nam Việt bên Lưỡng Quảng. Trong thời Xuân thu Chiến quốc ở phiá bắc sông Dương Tử, vài trăm năm trước Công Nguyên, thể chế chính trị của Tàu hay các nước như Sở, Ngô, Việt đã là chế độ quân chủ phong kiến (phong điền kiến địa, cho ruộng cấp đất (7)). Ta thấy Ngô Phù Sai đã có cả một triều đình và các cung tần mỹ nữ bao chung quanh (trong khi ta không hề nghe đến vụ này đối với Hùng Vương). Các nước lớn mạnh đều có các nước nhỏ chư hầu bắt nguồn từ việc phong điền kiến địa của kiểu quân chủ đó. Do đó ta xác định rằng tất cả những người thuộc giai cấp lãnh đạo, hay ngay cả thứ dân có hiểu biết, của nước Việt Câu Tiễn, hay Sở, đều đã thấm nhuần lề lối tổ chức chính trị của quân chủ phong kiến. Ta cũng biết rõ rằng, người di tản sang một quốc gia mới thường mang theo cả thói xấu và tính hay của xã hội cũ của mình. Như vậy nếu mấy người Việt từ Sở, hay Việt-Câu Tiễn, hay ngay cả Mân Việt sang Văn Lang hay Âu Lạc trước thời Triệu Đà, và đi với số đông hay đến với giai cấp lãnh đạo tàn quân, chắc chắn họ sẽ "quậy" cái nước Văn Lang và biến nó sang chế độ quân chủ phong kiến từ khuya rồi. Sau đó khi Triệu Đà chiếm Âu Lạc Triệu Đà chỉ việc áp dụng nền quân chủ phong kiến cho nước Nam Việt (VIỆT, tiếng Hoa gọi là Yuế, Mường gọi Yịt, tiếng Việt thế kỷ 17 chắc hẳn là Yiệt) suốt từ nam chí bắc! Thực tế cho thấy Triệu Đà vẫn tiếp tục giữ thể chế Lạc Hầu - Lạc Tướng của thời Hùng Vương như xưa.

+ Lý do thứ năm: Ở xã hội Văn Lang địa vị người phụ nữ rất cao, có khi còn cao hơn ở thời đại thế kỷ 21 này, và chắc chắn cao hơn địa vị người phụ nữ ở nước Việt của Câu Tiễn! Văn Lang lúc đó là một xã hội vừa từ chế độ mẫu hệ bước sang phụ hệ. Nước Nam là nước sản xuất đầu tiên trên thế giới các nhà lãnh đạo chính trị quân sự thuộc phái nữ, như hai bà Trưng Trắc, Trưng Nhị, bà Triệu Thị Trinh (mà người Hán gọi xỏ lá là bà Triệu Ẩu tức mụ Triệu) trước Võ Tắc Thiên bên Tàu cả mấy trăm năm! Trong thời đại Hùng Vương, tại nước Việt-Câu Tiễn đã có cái màn dùng mỹ nhân kế đưa Tây Thi sang cống hiến Ngô Phù Sai để làm suy giảm tiềm năng "quân sự" của Phù Sai và nước Ngô. Nếu người Việt từ phương bắc đã di dân sang và giúp hay lập ra nước Văn Lang, chắc chắn họ nhanh chóng truyền lại đòn mỹ nhân kế này vào xã hội Văn Lang hay Âu Lạc từ lâu. Phải nói dân Văn Lang, Âu Lạc, Nam Việt, hay Giao Chỉ có vẻ vẫn chưa thấm nhuần việc áp dụng loại "độc chưởng" này của Bắc phương trong suốt ngàn năm đô hộ. Và mãi cho đến đời nhà Trần sau khi chống trả sức ép của quân Mông Cổ, vua Trần Anh Tông mới bắt đầu áp dụng thứ độc chưởng mà người Việt (đọc theo kiểu cổ: Bdiệt, như người Nhật bây giờ hãy còn gọi Vietnam là Beto-namu) đã học được ở người Hán tộc qua việc gả Huyền Trân Công Chúa cho vua Chăm là Chế Mân để bắt đầu mở mang bờ cõi nước Nam.

Thay lời kết: Những ai có đọc "Thử đọc lại Kim Dung I hẳn sẽ để ý ở cuối bài người viết có ghi "Đón đọc: Thử Đọc lại Kim Dung II". Ghi chú đó dùng để ràng buộc người viết phải chịu khó ngồi xuống viết nên bài này. Nguồn cảm hứng viết phần 1 là một bực bội lâu năm được giải toả - qua thuyết Ngũ hành và khám phá Cây đao Đồ Long màu đen chỉ mạng Thủy là mạng Chu Chỉ Nhược khắc chế được mạng Hoả của Trương Vô Kỵ. Cảm hứng viết phần 2 này bắt nguồn từ việc biết được quê hương của Kim Dung là tỉnh Chiết Giang có phạm trù rất gần giống với nước Việt của Việt Vương Câu Tiễn và nàng Tây Thi năm xưa.

Chắc chắn sẽ không có "Thử đọc lại Kim Dung III"!!!

PHẦN 3

TIẾU NGẠO GIANG HỒ

S au khi viết xong "Thử Đọc lại Kim Dung II: Nguồn Việt và Kim Dung", người viết cảm thấy nhàm nên định gác bút, hay ít ra cũng tạm giả từ đề tài về truyện chưởng với Kim Dung. Nhiều bạn hữu - đa số trên 30 năm không gặp lại nhau - vội biên điện thư email đến tại hạ khuyến khích viết thêm về Kim Dung. Một ông bạn ở Montréal (Canada) đã gởi tặng lược đồ về Ngũ hành, kèm trong bài này, và nhắn nhủ trong thư nếu viết về Kim Dung có viết đến hằng chục bài cũng không hết, nhất là những đề tài liên quan đến tình yêu, đến nhân sinh quan, đến những tình tiết éo le, v.v. dại gì mà ngưng viết. Cứ viết tiếp đi, ít ra ngoài người kiểm duyệt trong nhà còn có 1 độc giả trung thành là ông bạn đó. Sự thật, thuở tuổi học trò tại hạ chỉ được đọc vài truyện chính yếu và nòng cốt của Kim Dung thôi. Tuyệt đối ngày trước chưa có cơ hội đọc Tuyết Sơn Phi Hồ, Tiếu Ngạo Giang Hồ và Lộc Đỉnh Ký. Tiếu Ngạo Giang Hồ ấn bản do Hàn Giang Nhạn dịch thuật, được dịp đọc lần đầu tiên cách đây chừng 5 năm, rồi sau đó xem luôn phim tập HongKong. Riêng Lộc Đỉnh Ký, mặc dù nghe giới giang hồ đồn rằng rất hay và được biết truyện hiện được đăng trên một vài mạng ở internet như come.to/kimdung hoặc come.to/lunxit nhưng tại hạ không đủ sức bỏ giờ này qua giờ kia để ngồi đọc truyện này trên khung hình computer, nên đành phải hẹn lần hẹn hồi. Âu đó cũng là một cái hẹn cho một dịp nào đó của tương lai.

Bẵng đi cũng gần 12 tháng. Gần đây một người bà con ở Việt Nam gởi người thân đem sang một bộ truyện Tiếu Ngạo Giang Hồ ấn bản mới nhất do Vũ Đức Sao Biển, Trần Hải Linh và Lê Thị Anh Đào chuyển ngữ, nhà xuất bản Văn Học, trọn bộ 8 quyển, phát hành vào năm 2001. Ấn bản mới này có sự đồng tình cho phép đàng hoàng của Kim Dung (tức Louis Cha hay Tra Lương Dung), và dựa vào bản nhuận sắc sau này của Kim Dung với nhiều sửa chữa và thay đổi. Theo lời người bà con đó qua điện thư, Sàigòn lại đang trải qua cơn ghiền Kim Dung như 35 năm về trước và nhắn với tại hạ nên nhín chút ít thì giờ đọc qua cho biết.

Điểm đáng để ý trước tiên, trong vòng mười, hai mươi năm trở lại đây, một loạt các dịch giả mới bắt đầu xuất hiện trên chốn giang hồ. Đa số các cao thủ dịch thuật này, thường xuất thân từ các trường đại học Văn Khoa ban Hán Văn, mang chủ yếu rõ rệt xử dụng lối hành văn mới mẻ với nhiều tính chất Việt ngữ hơn. Một số kế nghiệp các bậc tiền bối như Nguyễn Chánh Sắt, Tô Chẩn, v.v. thay phiên nhau dịch lại các pho truyện cổ điển như Hồng Lâu Mộng, Tam Quốc Chí, Thủy Hử, v.v. và một số khác theo chân những cao thủ năm xưa như Từ Khánh Phụng, Hàn Giang Nhạn, chuyển ngữ lại các truyện chưởng của Kim Dung. Trên các mạng internet và các báo ở hải ngoại có Nguyễn Duy Chính hiện đã chuyển ngữ Ỷ thiên Đồ long ký, Thiên Long Bát Bộ, v.v. và tại Việt Nam đứng đầu phải kể đến Vũ Đức Sao Biển người đã hết sức ca tụng Kim Dung qua 3 quyển mang tựa " Kim Dung giữa đời tôi ", xuất bản vào những năm cuối thập kỷ 90 vừa qua. Thế rồi vô hình chung tại hạ bắt đầu đọc lại Tiếu Ngạo Giang Hồ ấn bản mới nhất do ê-kíp Vũ Đức Sao Biển chuyển ngữ. Và trong lúc đọc lại Kim Dung kỳ này, tình cờ lại khám phá thêm một vài bí-kíp ngồ ngộ hay hay của Kim Dung nên đành phải phá lệ cố gắng viết thêm bài này.

Theo Vũ Đức Sao Biển, Tiếu Ngạo Giang Hồ là tác phẩm độc đáo nhất của Kim Dung bởi nó "lặng lẽ dắt người đọc đi vào cuộc hành trình tìm về những suối nguồn tư tưởng của phương Đông khi lên cao chín ngàn dặm, nương mây cỡi gió mà bay như Trang Tử đã viết trong Nam Hoa Kinh. Tiếu Ngạo Giang Hồ có cái u uẩn, trầm mặc đầy suy niệm của những ngôi chùa, những đạo quan, những rừng tùng bách, bóng trăng sáng trên Trường Giang, cơn mưa tuyết mùa Đông trên Ngọc Nữ phong. Xuyên suốt tác phẩm là tiếng đàn, tiếng sáo của khúc Tiếu Ngạo Giang Hồ, tiếng ca buồn của Mạc Đại tiên sinh trong khúc Tiêu Tương dạ vũ....

... Hai trong ba nguồn tư tưởng triết học lớn của phương Đông - Phật giáo và Lão giáo - đã được Kim Dung hình tượng hoá và cụ thể hoá qua những hình tượng văn học. Phương Chứng đại sư của chùa Thiếu Lâm là con người tiêu biểu của tư duy Thiền Tông Phật giáo. Với một căn bản võ công trác tuyệt, một cái tâm từ bi, nhà sư gần như đã góp phần hoá giải những hận thù, chia rẽ, sân si. Định Nhàn, Định Dật của phái Hằng Sơn là một dạng Phật giáo khác, một Phật giáo nhập thể và nhập thế....

... Nhưng điểm đặc sắc nhất vẫn là tư duy Lão-Trang qua đường Độc Cô cửu kiếm. Phong Thanh Dương đã dạy cho Lệnh Hồ Xung dĩ vô chiêu thắng hữu chiêu...."

Tiếu Ngạo Giang Hồ (TNGH) là tên của một nhạc khúc viết cho đàn thất huyền cầm và sáo. Hai tác giả của bản nhạc khúc bất hủ này lại là hai cao thủ của hai kiếm phái đối nghịch với nhau: Lưu Chính Phong thuộc Ngũ Nhạc kiếm phái (một nghiệp đoàn liên minh năm kiếm phái: Hằng Sơn, Hoa Sơn, Tung Sơn, Thái Sơn và Hành Sơn) và Khúc Dương thuộc phe Ma Giáo. Việc kết giao bằng hữu giữa hai người bị cả hai phe lên án và cuối cùng Lưu và Khúc bị bức tử. Trước khi chết hai vị cao thủ này trân trọng gửi gấm quyển nhạc khúc này lại cho anh chàng lãng tử mê nhậu nhẹt Lệnh Hồ Xung, đệ tử thứ nhất của Nhạc Bất Quần chưởng môn phái Hoa Sơn. Truyện TNGH bắt đầu với việc Nhạc Bất Quần sai con gái mình Nhạc Linh San và đệ tử thứ hai Lao Đức Nặc đến miền Phúc Châu tỉnh Phúc Kiến để dò la tin tức của phái Thanh Thành do Dư Thương Hải lãnh đạo xuống đánh phá Phuớc Oai Tiêu Cục để chiếm quyển kiếm pháp độc nhất vô nhị mang tên Tịch Tà Kiếm Phổ. Phe Hoa Sơn đến trễ nên bọn Thanh Thành đã làm tiêu tan Phước Oai Tiêu Cục. Điểm kinh ngạc đầu tiên, Lâm Chấn Nam hậu bối của chủ nhân Tịch Tà kiếm phổ lại không thông thạo mấy về Tịch Tà kiếm nên ông và phu nhân bị thảm sát bởi phe Thanh Thành. Nhưng chưa phe nào lấy được Tịch Tà kiếm phổ bởi nó được dấu kín ở một ngôi nhà tự của họ Lâm ở Phúc Kiến. Trước khi chết Lâm Chấn Nam trối trăn với chàng lãng tử nghĩa hiệp Lệnh Hồ Xung về chỗ cất dấu quyển kiếm phổ đó và nhờ Lệnh Hồ Xung nói lại với con trai Lâm Bình Chi rằng nên lấy giữ quyển kiếm phổ đó nhưng đừng bao giờ luyện tập bởi nó rất nguy hiểm. Trước đó Lệnh Hồ Xung đã bị thương nặng sau khi liều thân đánh với một tên dâm tặc Điền Bá Quang để cứu ni cô Nghi Lâm thuộc kiếm phái Hằng Sơn. Nhạc Bất Quần (biệt hiệu Quân Tử Kiếm) gặp lại đệ tử Lệnh Hồ Xung rồi thu nhận Lâm Bình Chi làm đệ tử.

Trở về núi Hoa Sơn, Nhạc Bất Quần bắt lỗi Lệnh Hồ Xung đã vi phạm một vài giới cấm của phái võ của mình - trong đó có việc dẫn ni cô Nghi Lâm vào động làng chơi ôm ấp nàng Nghi Lâm để trốn tránh Điền Bá Quang và các phe phái khác đang truy tầm - nên phạt chàng lên núi gần đó quay mặt vào vách thạch động để sám hối trong vòng 1 năm. Lệnh Hồ Xung tuân lệnh lên núi, và ngày ngày có Nhạc Linh San hoặc một đệ tử khác mang giỏ chứa đồ ăn đến cho. Lệnh Hồ Xung có cảm tình nồng thắm với Nhạc Linh San và ngược lại Linh San cũng thương Hồ Xung. Tuy nhiên Linh San có một đàn em mới thường tập kiếm với nhau là Lâm Bình Chi nên càng ngày càng ít mang đồ ăn lên cho Lệnh Hồ Xung. Ở trên núi Lệnh Hồ Xung tình cờ khám phá ra một thạch động hoang phế lâu năm trên vách có ghi khắc tất cả những loại kiếm pháp của năm kiếm phái thuộc hội đoàn Ngũ Nhạc, và những chiêu hoá giải. Bởi nơi đây đã từng chứng kiến một trận đấu sát phạt kinh hồn giữa các cao thủ của năm kiếm phái đó với những kiếm khách thuộc Ma Giáo. Cũng trong thời gian ở trên núi Lệnh Hồ Xung may mắn gặp được lão tiền bối Phong Thanh Dương tuyệt tích giang hồ đã nhiều năm. Phong Thanh Dương chính là sư thúc (vai chú) của Nhạc Bất Quần, thầy của Lệnh Hồ Xung. Năm xưa phái Hoa Sơn đã bị phân hoá do sự tranh chấp giữa hai phe Kiếm Tông và Khí Tông. Nhạc Bất Quần thuộc Khí tông và sư thúc Phong Thanh Dương thuộc Kiếm tông. Cảm mến Lệnh Hồ Xung, Phong Thanh Dương đem hết Độc Cô cửu kiếm ra truyền lại cho chàng. Độc Cô cửu kiếm là tác phẩm của người kiếm khách vô địch thời xa xưa không bao giờ bị bại, mang biệt danh Độc Cô Cầu Bại.

Ở trên núi được vài tháng Lệnh Hồ Xung phải trở về giảng đường để hỗ trợ sư phụ Bất Quần do ở lệnh từ trung ương đòi cách chức chưởng môn Nhạc Bất Quần. Trung ương ở đây là chưởng môn phái Tung Sơn Tả Lãnh Thiền - "chủ tịch" của hội đoàn Ngũ Nhạc Kiếm Phái - một người có nhiều tham vọng triệt tiêu hết bốn phe kiếm phái kia và thống nhất tất cả lại thành một phái duy nhất để ông làm Chưởng Môn. Nhạc Bất Quần thấy tình hình không ổn nên dẫn hết đồ đệ đi lưu vong, dọ thám tình hình, và nhất là lên Tung Sơn để hỏi Tả Lãnh Thiền cho ra lẽ. Dọc đường Lệnh Hồ Xung bị nội thương rất nặng không còn sống sót bao lâu. Tình cờ chàng gặp một thiếu nữ diễm kiều Nhậm Doanh Doanh con gái giáo chủ bị đảo chánh của Ma giáo Nhậm Ngã Hành. Lúc gặp Hồ Xung, Doanh Doanh đang lén bỏ Ma Giáo đi tham quan giang hồ cho vui nên hoá trang thành một lão bà. Doanh Doanh lại đàn rất hay. Tình sư đệ giữa Hồ Xung và Bất Quần trong khi đó căng thẳng trầm trọng bởi Bất Quần nghi Hồ Xung học thêm kiếm pháp ở đâu đó và cũng đã ăn cắp quyển sách luyện nội công bí kíp của ông. Thành ra rốt cuộc Hồ Xung bị lạc ra khỏi phái đoàn của Nhạc Bất Quần. Sau đó Hồ Xung gặp lại Doanh Doanh. Hai người lưu lạc với nhau rồi Hồ Xung bệnh nặng ngã ra bất tỉnh. Doanh Doanh cõng Hồ Xung lên núi Thiếu Lâm giao mạng mình cho Phương Chứng đại sư giam giữ. Để đổi lại, Phương Chứng sẽ dùng Dịch Cân Kinh của Thiếu Lâm trị bệnh cho Hồ Xung. Khi tỉnh dậy Hồ Xung không biết việc Doanh Doanh trao đổi mạng cứu mình nên từ chối sự giúp đỡ của Phương Chứng viện lẽ mình là cao đồ của phái Hoa Sơn nên thà chết chứ không thể trở thành đệ tử Thiếu Lâm nhận truyền thụ Dịch Cân Kinh. Lệnh Hồ Xung lại khảng khái ra đi và dọc đường dùng Độc Cô cửu kiếm cứu được một trong những nhà lãnh đạo thuộc phe bị đảo chánh của Ma Giáo Hướng Vân Thiên. Hướng Vân Thiên biết Hồ Xung là tay kiếm khách vô địch mới gài cho Hồ Xung đến Hàng Châu giải cứu cho giáo chủ bị đảo chánh Nhậm Ngã Hành bị giam trong lòng đất dưới Tây Hồ. Trong lúc cứu Nhậm Ngã Hành, Lệnh Hồ Xung vô tình học được một phần Hấp Tinh đại pháp của Nhậm Ngã Hành nên tạm thời khỏi bệnh và thu hồi được nội lực. Nhậm Ngã Hành sau khi thoát nạn ngỏ ý mời Lệnh Hồ Xung gia nhập Ma giáo và nếu chàng ưng thuận lão sẽ chỉ hết Hấp Tinh đại pháp, chứ nếu không phần chàng học được sẽ gây biến chứng tai hại về sau. Lệnh Hồ Xung từ chối bỏ đi rồi sau lại thống lãnh quần hùng lên Thiếu Lâm tự cứu giải Nhậm Doanh Doanh. Trong thời gian đó phái Hằng Sơn của những nữ sư Định Dật, Định Nhàn bị phái Tung Sơn triệt hạ mãnh liệt - và cuối cùng Hồ Xung khám phá ra hai vị sư phụ này bị một cao thủ nào đó đánh cho tử vong trong cách rất kỳ bí. Trước khi chết hai vị ni cô này yêu cầu Lệnh Hồ Xung làm chưởng môn phái Hằng Sơn và tìm cách trả thù cho họ.

Hồ Xung không biết rằng chính sư phụ Nhạc Bất Quần đã dùng những loại võ công lão học được từ Tịch Tà kiếm phổ của dòng họ Lâm ở Phúc Kiến để giết đi hai ni cô của phái Hằng Sơn, tỉa bớt một kiếm phái lợi hại. Chính Bất Quần đã ăn cắp được Tịch Tà kiếm phổ nhưng mọi người, nhất là Lâm Bình Chi, đều nghi ngờ Lệnh Hồ Xung đã giữ quyển Tịch Tà kiếm phổ. Tịch Tà kiếm có thể nói là một loại kiếm pháp thần sầu quỷ khốc nhất nhì thiên hạ nhưng người xử dụng nó phải tự thiến đi bộ phận sinh dục của mình để dần dà, theo Kim Dung, trở thành ái nam ái nữ (gay hoặc transvestite). Một bản khác của Tịch Tà kiếm phổ đã lọt vào tay Đông Phương Bất Bại thường được xem đệ nhất cao thủ, người đã đảo chánh lật đổ Nhậm Ngã Hành trước đây 10 năm để lên ngôi giáo chủ Ma Giáo. Lâm Bình Chi về sau cũng ăn cắp được bản chính của Tịch Tà từ Nhạc Bất Quần và cũng phải tự thiến mình để luyện tập hầu trả được mối thù cho song thân. Khác với Lệnh Hồ Xung, Lâm Bình Chi sớm thấy được bộ mặt ngụy quân tử của Nhạc Bất Quần nên sợ lão biết mình cũng thiến như lão, phải giả vờ mình còn gin và cưới Nhạc Linh San để che mắt thiên hạ. Bất Quần trong khi đó chép ra một bản giả bày mưu tìm cách cho lọt vào tay lãnh tụ Tung Sơn Tả Lãnh Thiền để lão này học sai đường bước của kiếm pháp, nhằm lọt vào tròng của Bất Quần.

Lệnh Hồ Xung gặp lại Doanh Doanh rồi cùng Nhậm Ngã Hành, Hướng Vân Thiên lên bản doanh của Ma Giáo hợp sức lại giết được giáo chủ Pê Đê Đông Phương Bất Bại, người có võ nghệ thần sầu quỷ khốc, và phục hồi địa vị giáo chủ Ma giáo cho Nhậm Ngã Hành. Nhậm Ngã Hành lại mời Lệnh Hồ Xung gia nhập và làm phó thủ lãnh nhưng Lệnh lại khước từ, trở về Hằng Sơn. Sau đó không lâu Tả Lãnh Thiền tụ tập quần hùng tại Tung Sơn với đề nghị sát nhập hết năm kiếm phái của Ngũ Nhạc lại làm một và tôn lão làm chưởng môn. Nhạc Bất Quần gài được cái màn đấu kiếm với Tả Lãnh Thiền để tranh chức minh chủ của phái Ngũ Nhạc thống nhất. Tả Lãnh Thiền mặc dù kiếm pháp siêu phàm nhưng bị mắc hởm Nhạc Bất Quần đem Tịch Tà giả ra xử dụng nên cuối cùng bị Nhạc Bất Quần dùng Tịch Tà thứ thiệt và kim châm đâm mù hai con mắt. Nhạc Bất Quần lên ngôi Chưởng Môn Ngũ Nhạc thống nhất.

Tiếp đó Lâm Bình Chi tung ra Tịch Tà kiếm pháp gia truyền của dòng họ mình giết chết kẻ thù Dư Thanh Hải nhưng bị tai nạn mù hai con mắt. Sợ Nhạc Bất Quần phát hiện rằng mình cũng bị thiến như ai cho mục đích cao cả của Tịch Tà kiếm pháp, Bình Chi giết vợ Linh San trong vòng tay đầy nước mắt của Lệnh Hồ Xung rồi chạy sang hợp tác với Tả Lãnh Thiền. Sau đó Nhạc Bất Quần đụng độ với Lệnh Hồ Xung nhưng Kim Dung cho Tịch Tà Kiếm pháp vẫn phải thua Độc Cô cửu kiếm, và Bất Quần bị đại bại với đệ tử cũ của mình. Bình Chi cấu kết với Lãnh Thiền, hai hiệp sĩ mù bất đắc dĩ, gài Bất Quần và Hồ Xung vào một động tối đen để hạ độc thủ nhưng Lãnh Thiền bị Hồ Xung giết và Bình Chi bị chặt tay chặt chân. Còn Bất Quần trong lúc sơ ý bị ni cô Nghi Lâm vô tình đâm vào lưng chết, vô hình chung trả thù được cho hai vị sư phụ Định Dật, Định Nhàn của phái Hằng Sơn.

Thu phục được ngôi vị giáo chủ Ma giáo, Nhậm Ngã Hành đe doạ sẽ thôn tính luôn Ngũ Nhạc thống nhất rồi tới Thiếu Lâm và Võ Đang. Trong lúc quần hùng chuẩn bị đối phó, Phương Chứng lên Hằng Sơn truyền Dịch Cân Kinh chữa bệnh hoàn toàn cho Lệnh Hồ Xung nói dối rằng cách này do Phong Thanh Dương chỉ cho đại sư nhờ đại sư truyền lại cho Hồ Xung. Cũng trong lúc căng thẳng đó, Nhậm Ngã Hành bị xuất huyết não cười ha hả rồi chết. Doanh Doanh để tang cha 3 năm rồi tái hợp với Hồ Xung dạy tiếp cho Hồ Xung cách thổi sáo để rồi cả hai cùng cỡi ngựa về phiá mặt trời lặn, kẻ khảy đàn người thổi sáo, hợp tấu nhạc khúc Tiếu Ngạo Giang Hồ.

Phải nhìn nhận Tiếu Ngạo Giang Hồ có nhiều tính tiết rất éo le, ly kỳ và sôi động. Cũng hơi khác thường so với nhiều truyện khác của Kim Dung, TNGH gần như hoàn toàn không có cấu trúc dùng bối cảnh lịch sử theo kiểu chống Mông Cổ như Anh hùng xạ điêu, Thần Điêu Hiệp Lữ, Ỷ thiên Đồ long ký, v.v. Trái lại, TNGH đã trở về với đường hướng của các tiểu thuyết kiếm hiệp thời tiền-Kim Dung (như Lã Mai Nương, Ngoạ Hổ Tàng Long) bằng cách đặt trọng tâm câu chuyện chung quanh hoạt động của các tiêu cục (8) tức security guards nếu gọi nôm na theo kiểu bây giờ. Đó là câu chuyện của Tịch Tà Kiếm phổ, ngón kiếm pháp gia truyền dòng họ Lâm chủ nhân mấy đời của Phước Oai Tiêu Cục ở Phúc Kiến. Đề tài dựa vào sinh hoạt của các tiêu cục là bối cảnh chính yếu của trên khoảng 60% các truyện kiếm hiệp Tàu hoặc các phim kung-fu của Hongkong. Bối cảnh chính thứ hai để dựng nên truyện Tàu thường dựa vào tính cách dã sử, bài Mông chống Thanh, và liên quan ít nhiều đến Thiếu Lâm Tự, theo kiểu Càn Long hạ Giang Nam, hoặc Thiếu Lâm Trường Hận,.. .. Ta để ý thoạt đầu Kim Dung cũng tính tạo cho mình một đường hướng riêng trong Võ lâm ngũ bá và Xạ Điêu Anh Hùng truyện, bằng cách không đá động gì đến Thiếu Lâm Tự. Kim Dung đã tiện tay tạo ra năm người có võ công tuyệt trác: Vương Trùng Dương, Hồng Thất công, Âu Dương Phong, Đoàn Nam Đế và Hoàng Dược Sư. Năm người này hoàn toàn có những ngón võ độc lập, và tiêu biểu cho thế xung khắc của thuyết ngũ hành. Người này hạ được người kia, luân chuyển nhau trong một vòng tròn ngũ hành, để rồi rốt cuộc không ai có thể trở nên vô địch hết. Sang đến Ỷ Thiên Đồ Long ký, vì phải có chuyện quận chúa Mông Cổ Triệu Minh phải lòng giáo chủ Trương Vô Kỵ, Kim Dung bắt buộc phải gài Thiếu Lâm Tự, Võ Đang Tự trở vào câu chuyện mới ra vẻ lịch sử. Nào là hai phái Nga Mi và Võ Đang cũng có cội nguồn với Thiếu Lâm qua việc hai người sáng lập Quách Tường và Trương Tam Phong trong lúc chạy trốn sự tập nã của phe Thiếu Lâm đã lắng tai nghe trộm Cửu Dương Chân Kinh do nhà sư Giác Viễn trước khi lâm tịch đọc lại. Kết cuộc câu chuyện cũng xảy ra tại chùa Thiếu Lâm trong trận đấu kinh hồn giữa Trương Vô Kỵ cùng người tình năm xưa Chu Chỉ Nhược với ba vị Hoà Thượng của Chùa. Trở lại với chùa Thiếu Lâm, rồi trở lại với bối cảnh Tiêu Cục trong các truyện về sau, như trong TNGH, Kim Dung đã mặc nhiên thừa nhận rằng chính ông cũng không thể vượt ra khỏi khuôn khổ một truyền thống lâu đời của loại tiểu thuyết Tàu đã mọc rễ lâu năm trong tâm thức người đọc. Theo truyền thống đó, các hoạt động tranh hùng xưng bá trong giới kiếm hiệp thường xảy ra chung quanh hành trình của các Tiêu Cục với dịch vụ chính yếu bảo đảm an ninh của việc chuyên chở hàng hoá từ miền này đến miền kia. Nói rộng hơn một chút, một nhà văn dù có tài năng siêu việt cách mấy đi nữa, rất khó tạo dựng nên một truyền thống mới hay biến đổi một cái gì đã trở thành truyền thống lâu đời.

So sánh với các truyện chưởng khác của Kim Dung, TNGH cũng có vẻ mang nhiều chất bạo động chém giết, và "violent" hơn. Điển hình trong Anh hùng xạ điêu ta thấy chỉ có 1 cái chết trong lúc đầu câu chuyện: cái chết của thân phụ của Quách Tỉnh bị bọn Hoàn Nhan Hồng Liệt thảm hại. Đến giữa chuyện cái chết của Trần Huyền Phong chồng của Mai Siêu Phong, rồi gần cuối truyện cái chết của 6 vị sư phụ của Quach Tỉnh thuộc nhóm Giang Nam thất quái do Âu Dương Phong gây ra nhưng cài cho mọi người tưởng lầm là do Hoàng Dược Sư, nhạc phụ tương lai của Quách Tỉnh. Nhưng cái chết của 6 vị sư phụ này không có mô tả mà chỉ được Quách Tỉnh phát hiện sau khi trở lại Đào Hoa đảo. Tuyệt nhiên nhân vật chính Quách Tỉnh, cũng như Trương Vô Kỵ trong Cô Gái Đồ Long, không thấy chém giết ai hết. TNGH lại khác, từ đầu đến cuối truyện độc giả thấy chém giết tưng bừng. Bắt đầu câu chuyện ta thấy Lâm Bình Chi đâm chết con trai cưng của Dư Thanh Hải chỉ vì người này chọc ghẹo Nhạc Linh San đang giả làm gái bán rượu. Kế đó bọn Dư Thanh Hải kéo xuống tàn sát cả Phước Oai Tiêu Cục của gia đình Lâm Chấn Nam (cha của Lâm Bình Chi). Xong rồi tại lễ từ giả giang hồ của Lưu Chính Phong, toàn thể gia đình này bị bọn Phí Bân thuộc phe Tung Sơn đến giết sạch trước sự chứng kiến của quần hùng. Chỉ vì Lưu Chính Phong kết bạn tâm giao tri kỷ với Khúc Dương thuộc phe Ma giáo bởi hai người say mê hoà tấu bản Tiếu Ngạo Giang Hồ với nhau. Màn bạo động nhất của TNGH có lẽ chuyện 6 anh em Đào Cốc Lục Tiên võ nghệ cao siêu chuyên môn nắm hai tay hai chân bất kỳ đối thủ nào và xé xác ra làm 4 mảnh. Ngay cả bà vợ của Nhạc Bất Quần cũng kinh hoàng vì suýt nữa cũng bị xé xác. Lệnh Hồ Xung mặc dù là người hào hiệp đầy thiện tính cũng dùng mưu đâm chết một đệ tử của phái Thanh Thành ở đầu câu chuyện. Xong rồi anh ta đâm mù mắt chừng mười mấy người thuộc phái Tung Sơn. Chặt tay chặt chân Lâm Bình Chi chỉ do ở Linh San đã trối trăn xin đừng giết Bình Chi. Đâm luôn Tả Lãnh Thiền, mặc dù Lãnh Thiền đã bị mù, v.v.. Người yêu sau cùng của Hồ Xung là Doanh Doanh cũng vậy. Cô này lúc chưa hoàn thiện ai chọc giận cô ấy thì bị uống thuốc độc mỗi năm đúng ngày đúng tháng phải đến lạy lục cô ấy mới được thuốc giải. Nếu cô ta tức giận hơn nữa, cô ra lệnh bảo người chọc cô phải tự xẻo tai xẻo mũi, người đó cũng phải làm. Khác hẳn với Hoàng Dung trong Anh hùng xạ điêu hay ngay cả Triệu Minh quận chúa hoặc Chu Chỉ Nhược trong Cô Gái Đồ Long. Ta để ý một điểm khác biệt giữa Lệnh Hồ Xung với các nhân vật trước của Kim Dung như Quách Tỉnh, Trương Vô Kỵ, hoặc Dương Qua. Lệnh Hồ Xung có vẻ khôn ngoan lém lỉnh hơn mấy nhân vật kia nhiều. Tiếng Mỹ gọi Hồ Xung street-wise, tức khôn ở ngoài đường ngoài chợ, hay nôm na theo tiếng Việt, tiến sĩ chợ trời. Có phải vì nhân vật Hồ Xung có nhiều bản lĩnh chợ trời nên Kim Dung cho anh ta xem thường việc chém giết người khác hay chăng? Hoặc giả Kim Dung bắt đầu chạy theo mốt thời đại của phim ảnh Âu Mỹ lúc đó bắt đầu chuyển sang loại bạo động? Tuy nhiên những cảnh bạo động đó Kim Dung tả qua thật nhanh dễ làm người đọc không để ý đến.

Một nhà văn dù có tài năng siêu việt cách mấy đi nữa, rất khó tạo dựng nên một truyền thống mới hay biến đổi một cái gì đã trở thành truyền thống lâu đời.

Đối với những người ghiền xem xinê thời thập niên 50, TNGH đã cho thấy ít nhiều ảnh hưởng của Alfred Hitchcock, ông vua làm phim kinh dị còn giữ nhiều dấu ấn trong phim ảnh cho đến ngày hôm nay. Một trong những đặc điểm chính của phim Hitchcock là cấu tạo một người dân bình thường rồi lôi kéo vai chính đó vào một vụ án mạng hay xì-căn-đan rùng rợn, đổ vào nhân vật đó một sự tình nghi của nhà chức trách. Từ đầu cho đến cuối phim do đó nhân vật chính sẽ bị săn đuổi chạy trối chết bởi hai phe, chức trách cũng như tội phạm, để rồi cuối phim nỗi hàm oan sẽ được giải toả đem lại cho người xem một anti-climax, một kết cuộc có hậu, một happy ending. Trong phim The Wrong Man (Bắt lầm Thủ phạm), Henry Fonda thủ vai một nhạc sĩ bị bắt vì tình nghi đã ăn cướp hãng bảo hiểm chỉ vì dáng dấp ông ta giống chính thủ phạm thực thụ. Ông ta đi tìm các chứng nhân, nhưng đa số các chứng nhân hoặc đã chết đi hoặc không nhớ họ đã làm gì vào hôm xảy ra ăn cướp. Nổi tiếng nhất là hai phim The Man who knew too much (Người biết quá nhiều) với James Stewart và Doris Day, và phim North by NorthWest (Hướng Bắc và Tây-Bắc) với Cary Grant và Eva Mary Saint. (Doris Day có hát bản nhạc nổi tiếng Que Sera Sera trong phim The Man who knew too much). Trong hai phim này các nhân vật chính bị lôi kéo vào những vụ âm mưu lớn, và bị hàm oan là biết rõ các âm mưu đó, hoặc bị báo chí chụp hình (oan và sai) đã đâm một viên chức của Liên Hiệp Quốc (North by NorthWest). Những nhân vật chính này tuy ở thế yếu của một người dân bình thường - nhưng vì bị dồn vào một thế phải chọn lựa những gì phải và những gì trái, chính họ cũng không ngờ rằng họ đã huy động được sức mạnh tiềm tàng trong con người để vượt ra khỏi cảnh oan kiên và cả thắng bọn ma đầu tội phạm. Trong TNGH cũng vậy, từ đầu tới đuôi Kim Dung đã gán hoạ vào đầu Lệnh Hồ Xung với ba chữ oan, oan, oan. Đầu tiên Kim Dung cho Hồ Xung bị kết tội trước quần hùng là đã toa rập với dâm tặc Điền Bá Quang lo nhậu nhẹt và hãm hiếp ni cô Nghi Lâm của phái Hằng Sơn. Cái oan đầu tiên này Kim Dung dùng đến cả quyển 1 mới giải toả được. Sau khi Hồ Xung học được Độc Cô cửu kiếm vì không tiện nói ra với sư phụ Nhạc Bất Quần nên bị sư phụ và nhiều người khác nghi ngờ rằng đã chôm được Tịch Tà kiếm phổ hoặc học được đâu đó của quân tà ma ngoại đạo. Trong lúc nằm dưỡng bệnh, Nhạc Linh San đem quyển luyện nội công của cha đến cho Hồ Xung mượn để chữa bệnh. Hồ Xung chưa kịp đọc, quyển sách đã bị mất và một người sư đệ ngồi canh Hồ Xung bị giết chết. Ai cũng nghi (lầm) Hồ Xung chiếm quyển sách đó và thủ tiêu vị sư đệ để ém nhẹm. Nhạc Linh San do nỗi nghi ngờ và hiểu lầm này đã dần dần xa rời Hồ Xung và ngã về Lâm Bình Chi. Chính nỗi hàm oan này đã đào một cái hố chia rẽ tình thầy trò giữa Bất Quần và Hồ Xung cho đến mãi về sau. Kim Dung đã áp dụng kỹ thuật kinh dị thriller à la Hitchcock cho đến đoạn gần cuối truyện. Lúc đó trước khi Lâm Bình Chi giết Nhạc Linh San, Bình Chi mới bật mí về quyển Tịch Tà Kiếm phổ, và lột mặt nạ quân tử giả dối của Nhạc Bất Quần trước mặt Linh San. Doanh Doanh núp đâu gần đó lắng tai nghe hết.

(8) Theo ý kiến của Nhất Tiếu thì nhận định này hoàn toàn không hợp lý. Lâm Bình Chi không phải là nhân vật chính của Tiếu ngạo giang hồ, và câu chuyện không chỉ xoay quanh Tịch tà kiếm phổ. Việc khởi đầu truyện theo cách thức như vậy là một thủ pháp rất quen thuộc của Kim Dung, ta có thể thấy trong Bích huyết kiếm, Lộc Đỉnh ký chẳng hạn.

Một kỹ thuật dựng truyện khác của Kim Dung cũng có lẽ chịu ảnh hưởng phim đánh gươm của Hollywood vào khoảng năm 1952, phim Scaramouche do Stewart Granger, Janet Leigh và Mel Ferrer thủ vai chính, dựa theo một tiểu thuyết kiếm hiệp dã sử của Rafael Sabatini, một nhà văn thường được xem ngang hàng với Alexandre Dumas, tác giả của Ba người lính ngự lâm (The Three Musketeers). Scaramouche dựng bối cảnh vào khoảng vài năm trước cách mạng Pháp 1789. Anh chàng lãng tử André Moreau vì phải trốn tránh kẻ thù Hầu tước De Maines người đã giết anh bạn thân mang giòng máu cách mạng Phillippe, nên phải gia nhập một gánh xiệc lưu động, đóng vai kép hài mang mặt nạ tên Scaramouche. Ôm giấc mộng trả thù cho bạn, André tình cờ theo học đánh gươm với thầy dạy kiếm thuật cho hầu tước De Maines. Một ngày nọ De Maines phát hiện được, và đánh cho André tơi bời te tua qua một trận đấu gươm tại võ sảnh của thầy. Thấy dạy gươm cho André không được nữa vị tôn sư của André và De Maines mới chỉ cho André địa chỉ của Thầy mình hiện còn dạy đánh gươm ở Paris. André mừng quá kêu đoàn xiệc lên Paris lưu diễn và theo học kiếm pháp với Thầy của Thầy mình, và về sau trong một trận đấu gươm tại hí viện kéo dài chừng 15 phút, một trận đấu gươm lâu nhất trên màn bạc, Scaramouche (tức André) đã đánh bại được De Maines.

Kim Dung trong lúc viết TNGH có lẽ đã chịu ảnh hưởng ít nhiều của Hitchcock và thêm vào đó, của Sabatini trong Scaramouche. Ở chỗ nào? Ở chỗ lần đầu tiên trong truyện kiếm hiệp Tàu người ta thấy một điểm ngộ nghĩnh nhưng có vẻ mới lạ và chắc ăn trong việc Lệnh Hồ Xung được bậc Thầy của Thầy mình truyền dạy kiếm pháp cho. Độc giả dù ít đọc truyện Tàu cách mấy đi nữa khi thấy một anh chàng lãng tử được sư thúc của Thầy mình truyền dạy đều có thể đoán ngay thế nào anh chàng này về sau có đấu với Thầy có thể cho Thầy mình đo ván là cái chắc. Cũng như khi xem phim Scaramouche tới đoạn ông thầy của Scaramouche chỉ dẫn cho Scaramouche lên Paris để học tiếp đường gươm nét kiếm tuyệt chiêu của Thầy mình, người xem có thể đóan, trong thích thú, vào cuối phim Scaramouche sẽ đánh bại De Maines, học trò của học trò của Thầy mình. Phong Thanh Dương một bậc tôn sư hàng đầu về kiếm pháp, vai em của Thầy của Nhạc Bất Quần, Thầy của Lệnh Hồ Xung, đã đem Độc Cô Cửu Kiếm truyền lại cho Lệnh Hồ Xung. Tuy nhiên, điểm này có hơi phá đổ tôn ti trật tự của hệ thống quân sư phụ ngày trước. Để hoá giải điểm đảo lộn trật tự lổng chổng này, Kim Dung đã lồng vào đó một cái thế chẳng đặng đừng cho Lệnh Hồ Xung: Kim Dung cho dâm tặc Điền Bá Quang lên núi thách thức đấu kiếm với Lệnh Hồ Xung. Nếu thua Lệnh Hồ Xung phải bỏ việc chịu hình phạt của Thầy, đi theo hắn xuống núi. Trận đấu kiếm xảy ra nhiều ngày. Mỗi đêm Hồ Xung trở vào thạch động học tiếp với Thái Sư Thúc (vai chú của thầy mình) Phong Thanh Dương. Đến lúc học xong Độc Cô Cửu kiếm rồi, Lệnh Hồ Xung đánh cho Điền Bá Quang thua xiểng liểng và chạy dài xuống núi.

Tiếu Ngạo Giang Hồ còn cho thấy tầm nhìn rất xa của Kim Dung, ngay từ 1963 năm xuất hiện TNGH. Đó là những nhận xét về giới Gay (homosexual, đồng tính luyến ái) hoặc gọi nôm na Pê Đê, bắt nguồn từ tiếng Tây pédéraste, hay những nhận xét về ảo tưởng quyền bính hoặc thần thánh hoá lãnh tụ. Một trong những cái đinh của TNGH là Tịch Tà Kiếm Phổ của dòng họ Lâm - chủ nhân Phước Oai Tiêu Cục ở Phúc Kiến. Tịch Tà Kiếm Phổ đầu tiên do một hoạn quan (thái giám) sáng chế ra. Sau đó một ông sư hoàn tục tên Lâm Viễn Đồ - tức tổ tiên của Lâm Bình Chi - có duyên được làm sở hữu chủ quyển bí kíp này. Bởi kiếm phổ do một thái giám phát minh ra, điều kiện cần và đủ để luyện tập nó là người luyện tập phải tự cắt mất thằng nhỏ của mình đi. Càng trở thành bán nam bán nữ hay thiên nhiều về nữ tính càng tốt. Lâm Viễn Đồ muốn cho chắc ăn nên đã chờ đến khi có vợ con đàng hoàng rồi, mới tiến hành luyện tập nó! Sau này giáo chủ Ma giáo Đông Phương Bất Bại trở nên đệ nhất cao thủ cũng nhờ ở nó, nhưng chỉ sau khi lão ta gần như trở thành một phụ nữ thực thụ, e ấp một đào nhí phái nam. Rồi Nhạc Bất Quần đến Lâm Bình Chi đều bắt đầu rụng râu, xức dầu thơm, trang sức thật đẹp sau khi tập luyện Tịch Tà kiếm đến độ thành thục. Phải nhìn nhận Kim Dung vào ở đầu thập kỷ 60 đã có những nhận xét cực kỳ sắc bén về việc phối hợp Tịch Tà kiếm pháp với giới Pê Đê. Vào thời đó tại hầu hết các quốc gia trên thế giới tình huống PêĐê hãy còn nằm ngoài pháp luật. Tìm hiểu những cá tính của người gay phải nói là một việc hết sức khó khăn. Thế mà Kim Dung đã làm được và lồng vào một thế kiếm Tịch Tà vô địch thiên hạ. Tịch Tà kiếm là gì nếu không là một lối xử dụng chiêu kiếm hoặc kiếm khí cực kỳ nhanh lẹ cần vào đôi tay khéo léo nhanh nhẹn của người phụ nữ cộng với một nội lực thâm hậu của người đàn ông. Ta hãy trích một đoạn nhỏ nói về thế đánh của Đông Phương Bất Bại với Lệnh Hồ Xung:

Lệnh Hồ Xung phóng chiêu kiếm này rất hiểm, nếu Đông Phương Bất Bại không thu người lại thì lập tức bị mũi kiếm đâm xuyên qua yết hầu ngay. Nhưng ngay lúc này, Lệnh Hồ Xung cảm thấy má bên trái hơi đau, hắn hướng trường kiếm sang bên trái.

Thì ra Đông Phương Bất Bại ra tay quá nhanh, thật không thể lường được. Trong lúc nhoáng như tia chớp, lão đã dùng kim đâm lên má Lệnh Hồ Xung. May mà chiêu kiếm này của Lệnh Hồ Xung phóng rất nhanh, tấn công khiến địch nhân không thể tự cứu.

Lão liền vung kim trái phải trên dưới gạt hết bốn chiêu kiếm của Lệnh Hồ Xung. Lệnh Hồ Xung chăm chú nhìn lão ra tay. Lão dùng kim thêu gạt bốn chiêu, toàn thân không có chỗ hở.

Ngày nay cộng đồng người gay sống yên ổn hoà mình với cộng đồng người straight. Những ai có quen biết hoặc bạn bè với những cặp gay đều để ý rằng trong bất cứ cặp nào cũng có một người thủ vai người nam (mang nhiều nam tính hơn người kia), và một người thủ vai nữ, chuyên lo việc thêu thùa bếp núc trong nhà. Người thủ vai nữ rất khéo léo, tay chân nhanh nhẹn không thua gì người đàn bà nhưng thông thường hãy còn giữ sức mạnh (nội lực theo Kim Dung) của đàn ông. Kim Dung vào năm 1963 đã tạo dựng Tịch Tà kiếm pháp và chỉ dành riêng kiếm pháp đó, thật chính xác, cho loại người này. Thật tuyệt chiêu.

Cũng ở cái thời 60 đó Kim Dung đã dựng nên chuyện Lâm Bình Chi phải làm đám cưới giả với Nhạc Linh San để che mắt thiên hạ, nhất là ngụy quân tử Nhạc Bất Quần, việc mình đã trở thành gay bất đắc dĩ. Mãi cho đến khoảng cuối thập niên 1980 nhân cái chết của tài tử Rock Hudson báo chí mới bắt đầu xì ra ở Hollywood đã có không ít đám cưới giả "à la Lâm Bình Chi" để che mắt giới hâm mộ điện ảnh rằng tài tử nào đó không phải gay. Nhiều đám cưới của một vài tài tử nổi tiếng hiện nay vẫn còn bị xầm xì là đám cưới che mắt, mặc dù xã hội đã biến đổi rất nhiều và vẫn có nhiều tài tử hay nhà thể thao nổi tiếng công khai có một đời sống lứa đôi gay.

Tầm nhìn xa của Kim Dung còn thể hiện qua việc Kim Dung cho Đông Phương Bất Bại rồi sau này Nhậm Ngã Hành đâm ra mù quáng mang nhiều ảo tưởng thần thánh về quyền lực. Giáo chủ Đông Phương Bất Bại bắt thuộc hạ phải luôn quỳ xuống và xưng hô: "Giáo chủ thiên thu trường trị, thống nhất giang hồ". Bịnh hơn nữa thuộc hạ phải hô to: "Tri ân giáo chủ, nhờ nói lên tên giáo chủ thuộc hạ cảm thấy sáng suốt hơn lên", hoặc: "Ngày nào không đọc bảo huấn của giáo chủ, thì ăn không ngon ngủ không yên".

Dành một chương mô tả và châm biếm sinh hoạt tôn sùng lãnh tụ ngay ở tổng bản doanh của Ma giáo, Kim Dung chắc hẵn đã phản ảnh đến câu nói bất hủ của Lord Acton mà chính Kim Dung chắc đã từng đọc qua trong lúc theo học Luật ở Thượng Hải thuở thanh niên: "Power corrupts, absolute power corrupts absolutely" (Quyền lực làm hư thối con người, quyền lực tuyệt đối chắc chắn sẽ tuyệt đối làm hư thối con người).

Viết đoạn suy tôn thần thánh những người lãnh tụ như kiểu Nhậm Ngã Hành hay Đông Phương Bất Bại vào năm 1963, Kim Dung cũng gần như đã tiên đoán những gì sẽ xảy ra ở Trung Quốc trong cuộc cách mạng văn hoá của Mao Trạch Đông vào khoảng cuối thập niên 60, hoặc việc thần thánh hoá lãnh tụ Kim Nhật Thành ở Bắc Triều Tiên. Vào thời đó nhiều người thường dân ưa cúi đầu trước những bức hình to lớn của nhà lãnh tụ treo ở các dinh thự, các quảng trường, để cầu nguyện hay tri ân nhờ hồng phúc của lãnh tụ nhà mình được tai qua nạn khỏi, hoặc đã lao động tốt. Họ dường như quên rằng chính lãnh tụ đã gây ra bao nhiêu chết chóc và kinh hoàng trong nhân dân. Ngày nay, nhất là ở các nước tiên tiến có dân trí cao, đừng nói chi đến thần thánh hoá lãnh tụ, ngay cả chuyện thần tượng hoá nhà lãnh đạo cũng đã bắt đầu bị sụp đổ hay dẹp qua một bên. Có lẽ đó cũng nhờ hồng phúc của Monica hấp tinh đại pháp đụng độ với xi-gà kiếm pháp vào cuối thế kỷ vừa qua ở Mỹ. Phần lớn nhân loại hiện nay bắt đầu ý thức rằng lãnh tụ có giỏi đến đâu chăng nữa, cũng chỉ là con người thôi.

Thế còn luật Ngũ hành vận chuyển ra sao trong TNGH? Xin tóm tắt lại những điểm chính về Ngũ hành đã trình bày trong Thử Đọc Lại Kim Dung I. Khác với lô-gích tam đoạn luận của Tây Phương: A thắng B, B thắng C, suy ra A sẽ thắng C, lô-gích Ngũ hành sẽ cho: Kim khắc Mộc, Mộc khắc Thổ, Thổ khắc Thủy, Thủy khắc Hoả, và Hoả sẽ khắc Kim trở lại. Nếu Lô-gích Tam đoạn luận được biểu diễn bằng một đường thẳng đứng, lô gích Ngũ hành sẽ được tượng trưng bằng một vòng tròn kín.

Mạng Thủy còn được biểu tượng bằng hướng Bắc (màu Đen), Mộc hướng Đông (màu Xanh), Hoả hướng Nam (màu Đỏ), Thổ miền Trung (màu Vàng), và Kim thuộc hướng Tây (màu Trắng). Ngoài chu kỳ khắc theo lôgích kiểu Tam Đoạn Luận, Ngũ hành còn có một chu kỳ SINH tức chu kỳ hỗ trợ: Thổ hỗ trợ Kim, Kim giúp Thủy, Thủy sinh Mộc, Mộc giúp Hoả, và Hoả sinh Thổ.

Đầu tiên ta để ý đến Ngũ Nhạc Kiếm Phái tức năm phe phái phối hợp với nhau thành một khối liên minh, bao gồm: Phái Hằng Sơn ở phía Bắc, Thái Sơn phía Đông, Hành Sơn phía Nam, Hoa Sơn hướng Tây và Tung Sơn thuộc miền Trung. Nhạc Bất Quần thuộc miền Tây chưởng môn Hoa Sơn thuộc mạng Kim. Kim khắc Mộc. Hoa Sơn hướng Tây khắc phục được Lâm Bình Chi người Phúc Kiến hướng Đông (Mộc) của nước Tàu, thu Lâm Bình Chi làm đồ đệ rồi chôm được Tịch Tà Kiếm Phổ của họ Lâm.

Họ Lâm là một họ rất phổ thông của người Phúc Kiến và người Triều Châu. Tại Việt Nam, đa số những người Việt có họ Lâm thường có gốc gác người Hoa xuất từ Phúc Kiến hoặc Triều Châu. Họ Lâm cũng có nghĩa là rừng, liên hệ đến cây cối, tức mạng Mộc. Họ Lâm người gốc Phúc Kiến ở phía Đông nên Lâm Bình Chi chắc chắn mang mạng Mộc. Đông Phương Bất Bại cũng mạng Mộc bởi tên lão có từ ĐÔNG. Nhạc Bất Quần thuộc mạng Kim, có thể được hỗ trợ bởi mạng Thổ. Bởi vậy chưởng môn Tung Sơn Tả Lãnh Thiền, miền Trung mạng Thổ, âm mưu nhiều năm thống nhất năm phái Ngũ hành để lên làm minh chủ, nhưng rốt cuộc lão gần như bày mâm dọn cỗ cho đối thủ lão là Nhạc Bất Quần. Thổ đã hỗ trợ Kim. Trong trận đãu giữa Nhạc Bất Quần với Tả Lãnh Thiền - Thổ với Kim không ai khắc ai - nhưng Kim Dung đã cho Bất Quần thắng và đâm mù mắt Lãnh Thiền. Chỉ nhờ ở Bất Quần xử dụng Tịch Tà kiếm pháp (thuộc mạng Mộc ở miền Đông) mới khắc chế được Lãnh Thiền, Mộc khắc Thổ.

Phái Hằng Sơn của các vị ni cô ở phiá Bắc thuộc mạng Thủy. Phái này bị phe Tung Sơn miền Trung mạng Thổ phá rối đánh cho gần như tan hàng (Thổ khắc Thủy). Thế Lệnh Hồ Xung mạng gì? Điểm đầu tiên ta để ý Kim Dung rất thích cho nhân vật chính mang mạng Hoả: Trương Vô Kỵ, Quách Tỉnh đều mang mạng Hoả. Vậy thử cho Hồ Xung mang mạng Hoả, người phía Nam xem ra sao. Tính người mang mạng Hoả: giàu tình người, nhiều trực giác, thích được thương yêu, thích sôi nổi, giao tế giỏi, hoàn toàn thích hợp với cá tính của Lệnh Hồ Xung. Hoả thường được giúp bởi Mộc (màu xanh và hướng Đông). Lệnh Hồ Xung được Phong Thanh Dương dạy cho Độc Cô cửu kiếm. Trong tên Phong Thanh Dương có hai từ Thanh và Dương đều chỉ màu xanh thuộc mạng Mộc. Ni cô cõng Hồ Xung chạy trốn lúc Hồ Xung bị thương nặng, và thầm yêu Hồ Xung suốt đời, mang tên Nghi Lâm. Lâm tức là rừng, nhiều cây cối, mạng Mộc. Người yêu thương Lệnh Hồ Xung, giúp đỡ Lệnh Hồ Xung rất nhiều, cõng Hồ Xung lên Thiếu Lâm đổi mạng mình nhờ Phương Chứng đại sư chữa bệnh cho Hồ Xung là Nhậm Doanh Doanh. Trong TNGH Kim Dung ít mô tả về màu sắc quần áo các nhân vật, nhưng lại giới thiệu Doanh Doanh bỏ trốn khỏi tổng hành dinh Ma giáo đi tham quan giang hồ với một lão tướng bodyguard mang tên Lục Trúc Ông, trong tên có TRÚC ám chỉ mạng Mộc. Doanh Doanh mạng Mộc giúp đỡ mạng Hoả của Hồ Xung. Mạng Hoả của Hồ Xung khắc chế được mạng Kim của thầy cũ Nhạc Bất Quần, nhưng có thể chế ngự mạng Thủy của các ni cô phái Hằng Sơn ở phía Bắc. Bởi vậy Kim Dung cho các vị Định Dật, Định Tĩnh và Định Nhàn trối trăn cho Hồ Xung làm chưởng môn Hằng Sơn lãnh đạo toàn các ni cô, Hồ Xung cũng phải nhận bởi Hoả bị khắc phục, bị cảm hoá bởi Thủy.

Nhậm Ngã Hành mạng gì? Lúc Nhậm Ngã Hành bị Đông Phương Bất Bại (mạng Mộc) đảo chánh, Nhậm mang mạng Thổ. Mộc khắc Thổ. Kim Dung nói rõ Nhậm bị giam dưới lòng đất - mạng Thổ. Thế nhưng Nhậm lại bị giam dưới lòng Tây Hồ ở thành phố đẹp nhất Trung Quốc Hàng Châu (Tây Hồ => TÂY => mạng Kim) trong vòng 10 năm và luyện thành được Hấp Tinh đại pháp, Tinh thường màu trắng, lại mạng Kim. Nhậm Ngã Hành sau 10 năm bị giam cầm đã chuyển dần sang mạng Kim, để rồi Kim khắc Mộc, trở ra lật đổ và giết Đông Phương giáo chủ trả được hận xưa.

Trở lại Ngũ hành của Ngũ Nhạc Kiếm Phái. Ngũ hành ở đây cũng tương đương với Ngũ hành của Võ lâm ngũ bá: Đông Tà Hoàng Dược Sư (Mộc), Tây độc Âu Dương Phong (Kim), Trung Thần Thông Vương Trùng Dương (Thổ), Bắc Cái Hồng Thất công (Thủy), Đoàn Nam Đế (Hoả). Nhưng có điểm đáng kể, mạng Thổ của miền Trung trong Võ lâm ngũ bá là một vai chính nhân quân tử đạo mạo oai phong (Vương Trùng Dương) thì ở TNGH một vai cực kỳ gian ác hiểm độc thể hiện qua Tả Lãnh Thiền. Nhiều tác giả từng đưa giả thiết về Những ẩn số chánh trị trong truyện Kim Dung (NNH) hoặc Dụ Ngôn về Chính Trị (VĐSB) theo đó Vương Trùng Dương biểu hiệu cho Trung Hoa, Âu Dương Phong biểu hiệu cho Âu Mỹ, Bắc Cái cho nước Nga, Đông Tà cho nước Nhật, Nam Đế cho Việt Nam (?), v.v. chắc không khỏi ngỡ ngàng khi thấy miền Trung của Tả Lãnh Thiền phái Tung Sơn, một người nham hiểm và mang nhiều tham vọng dơ bẩn, không còn là một biểu tượng đáng yêu nữa cho nước Tàu. Biểu tượng nước Nga ở phiá Bắc (phái Hằng Sơn đầy từ bi độ lượng) hoặc nước Nhật qua những người hùng phải tự cắt thằng nhỏ của mình à la Lorena Bobbitt như Lâm Bình Chi, Đông Phương Bất Bại chắc cũng không còn cơ sở lý luận vững chắc nữa. Theo thiển ý con số 5 của Võ lâm ngũ bá, hoặc Ngũ Nhạc Kiếm Phái, Kim Dung chỉ đưa ra để phô trương thuyết Ngũ hành siêu đẳng của Trung Quốc. Và lô-gích ngũ hành đó, xuyên qua cá tính sinh-khắc giữa các nhân vật với nhau, Kim Dung đã trình bày rất mạch lạc chặt chẽ.

Bản dịch TNGH mới mẻ của Vũ Đức Sao Biển và ê-kíp quả nhiên là một việc làm đáng được khích lệ và hoan nghênh. Nếu trong ngành điện ảnh Âu Mỹ người ta đã từng quay đi quay lại nhiều phim hay xưa cũ, như Psycho, Rear Window, Dial M for Murder, the Three Musketeers, v.v. rồi ở giới phim tập Hongkong cứ vài năm họ lại quay lại Tiếu Ngạo Giang Hồ, Ỷ thiên Đồ long ký, Anh hùng xạ điêu, v.v. thì tại sao ở Việt Nam ta không tán thưởng công việc đưa chiếc bình mới để chứa rượu cũ này.

Trong bản dịch mới chính các tác giả cũng thừa nhận không thể hoàn toàn chuyển hết các cụm từ hoặc thành ngữ Hán sang chữ quốc ngữ. Thí dụ: Giáo chủ thiên thu vạn tải, thống nhất giang hồ. Bởi nếu chuyển hết sẽ không còn mang tính chất kiếm hiệp nữa và vô hình chung sẽ mất hết cái hay ho tinh túy của truyện Tàu nói chung và truyện chưởng Kim Dung nói riêng. Dù vậy lần chuyển ngữ này đã đem lại cho người đọc không ít thích thú, qua những từ thuộc tiếng lóng, tiếng bình dân thường được xử dụng hằng ngày. Thí dụ, rất nhiều đoạn dịch giả viết Kiếm Khách A đánh cho kiếm khách B thua te tua chạy dài. Hoặc tại hạ sẽ có ngày lên núi của các hạ để tính sổ lại, tức để thanh toán ân oán giang hồ. Nhưng vui nhất phải là đoạn Điền Bá Quang tâm sự với Lệnh Hồ Xung rằng anh ta bị Bất Giới đại sư, thân phụ của ni cô Nghi Lâm, cắt bớt phân nửa thằng nhỏ rồi! Chỗ này chính Kim Dung đã để lộ một lôgích rất chặt chẽ: Tại sao Bất Giới chỉ cắt phân nữa thằng nhỏ của Điền Bá Quang mà thôi? Kim Dung chắc chắn không cho Bất Giới cắt hết trọn thằng nhỏ của Bá Quang bởi nếu cắt hết vô hình chung Kim Dung sẽ đẩy Bá Quang vào cái nhóm tự cắt để luyện tập Tích Tà kiếm phổ, như Lâm Bình Chi, Nhạc Bất Quần, Đông Phương Bất Bại! Cho Bá Quang bị mất chỉ một demi-thằng nhỏ thôi mới giữ được Bá Quang bên phe straight của Lệnh Hồ Xung.

Một điểm nữa trong bản dịch đã khiến người đọc ở ngoài nước Việt Nam không khỏi chú ý. Đó là biến đổi của ngôn ngữ, của tiếng Việt tại Việt Nam trong vòng 25 năm qua. Bây giờ người ta gọi đánh cược thay vì đánh cuộc (đánh cá) như hồi xưa. Cược đã thay cho Cuộc và đã vào các tự điển đàng hoàng.

Hy vọng bản dịch mới Tiếu Ngạo Giang Hồ sẽ đến với giới hâm mộ Kim Dung ở bên ngoài Việt Nam trong nay mai.

PHẦN 4

LỘC ĐỈNH KÝ

Giới thiệu

Lộc Ðỉnh Ký từ lâu đã nổi tiếng một trong những tác phẩm hay nhất của Kim Dung. Thế nhưng không biết vì lý do này hay lý do nọ, cho đến lễ Phục Sinh 2003 tại hạ vẫn chưa có dịp đọc hay xem qua phim tập Hong-Kong truyện đó. Tựu chung có lẽ bởi những định kiến về sở thích của tuổi trẻ. Tuổi chỉ thích truyện kiếm hiệp, truyện chưởng thuần túy, chứ không thích lăng nhăng chính trị hay những chuyện thâm cung bí sử. Thế, một khi biết được phong phanh rằng không những nhân vật chính trong truyện Lộc Ðỉnh Ký, Vi Tiểu Bảo, chẳng phải là một cao thủ võ lâm, các vị đại sư của Thiếu Lâm hoặc Võ Ðang không mấy khi xuất hiện, lại thêm bối cảnh được dựng chung quanh vài Thái Giám ở triều đình nhà Thanh, tại hạ đành hẹn lần hẹn hồi cho đến chừng nào có dịp hãy hay.

Nước chảy qua cầu và thời gian trôi qua nhanh. Thấm thoát từ ngày Lộc Ðỉnh Ký đầu tiên xuất hiện trên chốn giang hồ đến nay cũng đã hơn 30 năm. Những người đọc truyện Kim Dung năm xưa qua những bản dịch của Hàn Giang Nhạn, Từ Khánh Phụng bây giờ đã đi vào tuổi lão. Kim Dung cũng đã tròn tuổi tám mươi. Duy chỉ có vài ba hiện tượng đáng để ý, đã mặc nhiên từ chối định luật đào thải của thời gian. Thứ nhất các phim ảnh HongKong, Ðài Loan cứ quay đi quay lại những pho truyện của Kim Dung thành phim tập chiếu từng kỳ trên Tivi rồi chuyển sang băng video cho mướn khắp nơi trên thế giới. Nhất là ở những nơi có cộng đồng người Ðông Nam Á định cư. Gần như bất cứ tài tử nào nổi tiếng hoặc đang lên cũng đều được mời đóng những vai chính của các truyện Kim Dung. Phim Tiếu Ngạo Giang Hồ đã được quay ít lắm cũng 4 lần, trong đó vai Lệnh Hồ Xung có một lần do Châu Nhuận Phát đóng. Jet Li cũng đã từng thủ vai Trương Vô Kỵ lẫn Lệnh Hồ Xung. Tony Leung tức Lương Triều Vĩ vai Trương Vô Kỵ (Ỷ Thiên Ðồ Long) và Vi Tiểu Bảo (Lộc Ðỉnh Ký). Ca sĩ số 1 của Hongkong Andy Lau vai Khang Hy hoàng đế cũng trong Lộc Ðỉnh Ký. Và thích hợp nhất cho nhân vật Hoàng Dung trong Anh Hùng Xạ Ðiêu từ trước đến giờ vẫn là vai do tài tử đoản mệnh Ôn Mỹ Linh đóng.

Hiện tượng lạ lùng nữa không đếm xỉa gì đến sức xoáy hao mòn của thời gian chính là việc say mê đọc truyện Kim Dung truyền qua nhiều thế hệ. Có thể nói thế hệ hiện nay mê đọc Kim Dung tại Việt Nam đã là thế hệ thứ ba hay thứ tư, kể từ khi Cô Gái Ðồ Long xuất hiện tại Sàigòn vào khoảng năm 1962. Dịch giả cũng chuyển qua nhiều thế hệ. Có nhiều dịch giả tại Việt Nam, và cũng có những nhà chuyển ngữ sinh sống bên ngoài Việt Nam. Tin tức mới nhất thu thập từ internet cho biết hiện nay ở Sàigòn, tại mỗi tiệm sách lớn, hằng tháng trung bình có chừng 30 người mua các bộ truyện Kim Dung mới được dịch lại. Một con số khá lớn đối với các tiểu thuyết ra đời cách đây hơn 30 năm.

Một điểm nữa đáng để ý, các nhân vật trong những truyện kiếm hiệp của Kim Dung - không một người nào già ra hết. Lần cuối nếu đọc Ỷ Thiên Ðồ Long Ký tức Cô Gái Ðồ Long, vào năm 1965, ở đoạn kết thấy Trương Vô Kỵ giã từ vũ khí cùng với Triệu Minh cỡi ngựa về hướng mặt trời lặn theo kiểu Phạm Lãi với Tây Thi của nước Việt. Lúc đó, Vô Kỵ hứa với Triệu Minh chàng sẽ dành khoảng đời còn lại chỉ để kẻ lông mày của nàng thôi. Bây giờ nếu đọc lại Ỷ Thiên Ðồ Long Ký, dù với các bản "nhuận sắc" mới mẻ của Kim Dung hay các bản chuyển ngữ mới dùng nhiều từ mang Việt Nam tính hơn chút ít, người đọc vẫn thấy như vậy. Vẫn thấy Vô Kỵ cùng với Triệu Minh bỏ trốn khỏi doanh trại của Chu Nguyên Chương, người sau này đã thành công trong việc đánh đuổi giặc Mông Cổ (nhà Nguyên) và thiết lập triều đại nhà Minh. Chỉ trừ một vài thay đổi nhỏ, như Triệu Minh đã được tác giả đổi tên thành Triệu Mẫn chẳng hạn. Lệnh Hồ Xung cũng vậy. Cũng lém lỉnh nhưng chung thủy chung tình, với ngón Ðộc Cô Cửu Kiếm, trên cơ đường kiếm Tịch Tà Kiếm Phổ của các cao thủ đã phải chia lìa với "thằng nhỏ" mới tập luyện được. Hoàng Dung cũng vẫn còn đẹp gái, nhí nhảnh dễ thương như xưa. Dương Qua vẫn mỏi mòn đi tận chân trời góc biển để tìm Tiểu Long Nữ. Chỉ có điều tất cả các tài tử thủ các vai này đều đã già đi. Một số tài tử đã qua đời. Kim Dung và những người đọc tiểu thuyết của ông cũng vậy, cũng đều lớn tuổi thêm ra.

Như các nhân vật khác, Vi Tiểu Bảo của Lộc Ðỉnh Ký cũng không già đi với thời gian. Có vẻ như chừng Vi Tiểu Bảo hãy còn sống ẩn danh đâu đó, với . . . 7 người vợ hiền, tại Vân Nam - tức nước Ðại Lý năm xưa của Ðoàn Nam Ðế, hay nước Ðiền Việt ở thời cổ đại. Trong khi vua Khang Hy - người bạn thuở thiếu niên của Vi Tiểu Bảo - đã tạ thế vào năm 1722 sau gần 60 năm trị vì.

Hiện tượng này giống y như hiện tượng các tiểu thuyết của Ian Fleming và phim ảnh Hollywood về điệp viên 007 James Bond. James Bond sau hơn 40 năm kể từ phim Dr NO, vẫn giữ vững lưá tuổi 35-45 và vẫn trẻ mãi không già. Cô thư ký Moneypenny của xếp "M" cũng vậy, lại có vẻ càng ngày càng trẻ đẹp thêm ra. Trong suốt hơn 40 năm ròng đó, chỉ có xếp M hình như đã già đi, về hưu hay qua đời sao đó, để sở tình báo của Anh Quốc phải chọn một người nữ thay thế [1]. Trưởng phòng dụng cụ và máy móc Q cũng già và qua đời sau một tai nạn xe cộ, Sở Tình Báo phải mướn người khác thay thế [2]. Bối cảnh của các công tác James Bond cũng thay đổi với thời gian. James Bond trở thành một điệp viên lợi hại của Anh quốc nhờ ở những công tác trong thời chiến tranh lạnh giữa hai khối dẫn đầu bởi Mỹ và Nga. Chiến tranh lạnh cuối cùng cũng đi đến chung cuộc. Rồi biết bao nhiêu chuyện vật đổi sao dời trong suốt thời gian 40 năm dài đó. Những thay đổi về đối tượng tranh thủ để bảo vệ và duy trì hoà bình toàn cầu. Nhưng James Bond vẫn trẻ mãi , vẫn đấm đá mạnh mẽ như xưa, và quan trọng nhất, vẫn còn đầy đủ khả năng và phong độ để yêu những người đàn bà trẻ đẹp. Phải chăng hiện tượng trẻ mãi của James Bond, của những Vô Kỵ, Ðoàn Dự, Tiểu Long Nữ, Vi Tiểu Bảo, Triệu Minh, Vương Ngọc Yến, Hoàng Dung, Nhậm Doanh Doanh, Lệnh Hồ Xung, v.v. đều là những giấc mơ . . . tiên của con người?

Trở lại chuyện Lộc Ðỉnh Ký. Mặc dù tại hạ đã đọc được chừng vài ba hồi trên các mạng kiếm hiệp, như www.Vietkiem.com hoặc www.Nhanmonquan.com, tại hạ thú nhận vẫn chưa làm quen được với việc . . . ngồi đọc truyện kiếm hiệp trước máy điện toán. Thói quen lâu năm khó bỏ. Bởi hồi xưa ưa đọc truyện Tàu, truyện Kim Dung ở trong . . .mùng, sau giờ giới nghiêm. Do đó nhân dịp một người cháu đi Việt Nam, tại hạ có nhờ người cháu đem qua cho bằng được một bộ Lộc Ðỉnh Ký - bản dịch mới của Cao Tự Thanh, nhà xuất bản Văn Học, 2002. Thế rồi cố gắng đọc quyển 1 của toàn bộ 10 quyển. Rồi quyển 2 cũng với một tốc độ bình thường như đọc những tiểu thuyết tình cảm tâm lý xã hội, hoặc phiêu lưu đường rừng. Sang đến quyển thứ 3 trở đi, vô hình chung người đọc bắt đầu phải gia tăng tốc độ, đọc ngấu đọc nghiến, háo hức xem tiếp xem tiếp. Xem xem Vi Tiểu Bảo có thoát hiểm được hay không. Hoặc rốt cuộc có uống được một liều thuốc bổ nào đó chăng, như máu rắn, hoặc ăn được ếch xanh, để cấp tốc gia tăng nội lực theo với nhu cầu giải quyết các mâu thuẫn khó khăn của cuộc đời. Hoặc giả Vi Tiểu Bảo có tình cờ gặp được một vị kiếm sư nào đó đang ẩn danh nay đây mai đó truyền lại cho chàng một đường kiếm hay một ngón chưởng nào đó đã thất truyền lâu năm. Ðể Vi Tiểu Bảo có thể đứng ra làm. . . võ lâm minh chủ theo như truyền thống lâu đời của truyện kiếm hiệp. Những háo hức và hồi hộp đó chỉ có đối với người đọc Lộc Ðỉnh Ký lần đầu. Do đó tựa đề "Thử đọc lại Kim Dung" chính ra không được chính xác mấy. Tuy nhiên để gây sự liên tục với 3 bài trước, đành phải giữ nguyên tựa cũ.

Bối cảnh lịch sử

Lộc Ðỉnh Ký được dựng lên vào khoảng 10-20 năm đầu của triều đại Khang Hy nhà Thanh.

Người ta còn nhớ, Chu Nguyên Chương nổi dậy đánh đuổi được quân Mông Cổ tức nhà Nguyên, và thiết lập nên nhà Minh vào năm 1368. Truyền lại vài đời vua, nhà Minh bắt đầu suy thoái vào khoảng đầu thế kỷ thứ 17. Giặc giả cướp bóc nổi lên khắp nơi (xin xem "Bích Huyết Kiếm" của Kim Dung). Ðáng kể nhất có 3 đám: 1 đám chiếm cứ đảo Ðài Loan, một băng do Trương Hiến Trung cầm đầu và nhóm thứ ba là nhóm của Lý Tự Thành. Người Mãn Thanh ở phía bắc Hắc Long Giang gần bán đảo Triều Tiên nhân cơ hội nhà Minh suy yếu cũng tràn sang đánh chiếm phía bắc Trung Hoa.

Vào năm 1642, Lý Tự Thành dẫn quân chiếm được Khai Phong rồi thừa thắng xông lên, quay qua đánh chiếm Thiểm Tây và thủ phủ Tây An, rồi tự xưng mình làm vua. Sau đó quân Lý Tự Thành vượt sông Hoàng Hà sang chiếm Sơn Tây rồi bao vây Bắc Kinh, kinh đô của triều đại vua Sùng Trinh nhà Minh. Triều đình nhà Minh lập tức triệu tướng Ngô Tam Quế đang ở mặt trận phía Bắc chống cự với quân Mãn - trở về để cứu nguy. Ngô Tam Quế được lệnh triệu hồi hơn cả tuần nhưng vẫn chần chờ, suy tính thiệt hơn, nhất là các nguyên tắc "đầu tiên". Bởi triều nhà Minh đã hết sức suy thoái và không còn tiền đâu để trả lương cho lính nữa. Sùng Trinh, vua cuối cùng của triều Minh đành phải tự treo cổ trên một nhánh cây ở ngọn đồi sau cung điện. Thái giám Vương Thừa Ân tuẫn tiết theo vua. Lý Tự Thành tiến vào cung điện và lên ngai vua.

Sau đó Lý Tự Thành phải đem quân đi đánh dẹp Ngô Tam Quế. Khi Lý Tự Thành đã bao vây được Ngô Tam Quế và sắp sửa thắng, quân Mãn Thanh đáp ứng lời cầu viện của họ Ngô, nhảy vào can thiệp. Lý tự Thành đang thắng trở thành thua, rút quân về Bắc Kinh, lo vơ vét vàng bạc châu báo rồi cùng quân đội tháo chạy. Ngô Tam Quế ngây thơ tưởng quân Mãn Thanh sau khi giúp hạ Lý Tự Thành - sẽ chia chác một số quyền lợi nào đó rồi rút lui. Nhưng không, quân Thanh vào tới Bắc Kinh mới viện cớ nước Tàu chưa yên nên sẽ ở lại bình định một thời gian rồi hãy hay. Viên phụ chính của Mãn Thanh bồng đứa cháu mới 7 tuổi đưa vào Bắc Kinh và đặt lên ngôi vua. [Ðó là vua Thuận Trị, thân phụ của vua Khang Hy. Vua Thuận Trị về sau xuất gia đi tu (theo Lộc Ðỉnh Ký) và nhường ngôi lại cho Khang Hy lúc đó mới 8 tuổi. Khang Hy chỉ thật sự cầm quyền lúc 13 tuồi.]

Ngô Tam Quế mất cả chài lẫn chì, vừa mất ngôi vua hay ít lắm cũng chức Tể tướng, vừa mất người ái thiếp đệ nhất mỹ nhân thiên hạ Trần Viên Viên (có xuất hiện trong Lộc Ðỉnh Ký). Ngô Tam Quế được nhà Thanh thưởng công, phong Vương cai trị miền Thiểm Tây. Nhưng, đối với người Hoa nói chung Ngô Tam Quế mang tội phản quốc, một tướng lãnh người Hán lại mở cửa cho quân Mãn Thanh vào chiếm nước Tàu.

Quân đội Mãn Thanh sau khi bình định được phía Bắc, tiến xuống đánh Nam Kinh và Dương Châu (quê hương của nhân vật Vi Tiểu Bảo) rồi thôn tính trọn nước Tàu - chỉ trừ Ðài Loan đến gần cuối truyện Lộc Ðỉnh Ký mới xong. Các phản tướng khác, Trương Hiến Trung bị quân Thanh bắt chém, còn Lý Tự Thành bị quân dân bỏ rơi và tuyệt tích giang hồ. Có sách ghi Lý Tự Thành bị quân dân giết chết. Có sách chép Lý Tự Thành khoác lên mình chiếc áo cà sa và đi tu luôn.

Từ đời Thuận Trị cho đến Khang Hy, tôn thất nhà Minh vẫn còn nổi lên lo việc phục quốc. Có ba nhóm đáng kể: Lỗ Vương ở Chiết Giang, Ðường Vương ở Phúc Kiến, và Quế Vương ở Quảng Ðông. Lỗ Vương và Ðường Vương, ông thì bịnh chết, ông bị quân Mãn bắt. Chỉ có Quế Vương chống cự hơi dai. Về sau, Quế Vương thua chạy sang Miến Ðiện (Myanmar bây giờ), bị vua Miến Ðiện trao trả lại cho Ngô Tam Quế và bị giết chết vào lúc Khang Hy mới lên ngôi vua [Ðoạn này được mô tả trong quyển 1 của Lộc Ðỉnh Ký]. Một trong những đại tướng của Ðường Vương là Trịnh Thành Công dẫn binh sĩ bộ hạ di tản sang Ðài Loan, tiếp tục kháng chiến. Một phần lớn của Lộc Ðỉnh Ký được xây dựng trên những giao tác giữa các phe phái còn lại của Ðường Vương, Quế Vương, Lỗ Vương, và phe của phản tướng Ngô Tam Quế. Và giao tác của những nhóm này cùng với Tây tạng, Mông Cổ và nước Nga đối với triều đình nhà Thanh của vua Khang Hy. Nhiên liệu dùng để vừa hoá giải vừa kích động cho những giao tác chính trị, quân sự và văn hoá của tất cả các thế lực khác nhau đó, là nhân vật chính của truyện Lộc Ðỉnh Ký, mang tên Vi Tiểu Bảo.

Người Mãn Thanh cai trị nước Tàu từ năm 1644 mãi cho đên cuộc cách mạng Tân Hợi 1911 mới cáo chung. Thời gian đó dài gấp 3 lần thời gian quân Mông Cổ cai trị Trung quốc dưới danh hiệu nhà Nguyên.

Hầu hết các sử gia, ngay cả sử gia Trung quốc, đều đồng ý nhau rằng người Mãn Châu rất khôn khéo trong việc chính trị, và già tâm lý hơn người Mông Cổ. Có lẽ cũng do ở đất Tàu quá rộng, dân lại đông, đông hơn quân dân Mãn Thanh chiếm đóng. Tuy vậy, những biện pháp dùng uy để cai trị của người Mãn Thanh không kém tàn ác. Thí dụ như bắt dân Tàu phải để một loòng tóc bím chạy tới lưng, ai không tuân lệnh bị chặt đầu.

Ban đầu quân Mãn Thanh có chính danh: mang quân vào Trung quốc để giúp trừ khử các băng đảng ăn cướp như Lý Tự Thành. Ðến lúc mới chiếm đóng, họ ra lệnh quân lính trả lại tài sản của dân chúng lính họ đã "chôm" trong một hai năm chiến tranh. Họ cũng trưng dụng các cựu thần nhà Minh, xử dụng cả hai thứ tiếng Mãn và Hán. Và lập lại những khoa thi cử như xưa, chứ không đi theo vết bánh xe cũ của nhà Nguyên. Các chức vụ lớn ở triều đình luôn luôn giao cho 2 người, một Mãn, một Hán. Tại lục Bộ, mỗi bộ có một Thượng Thư và hai Thị lang người Mãn, một Thượng Thư và hai Thị lang người Hán. Chức vụ tổng thống một số tỉnh dành cho người Mãn, nhưng tỉnh trưởng từng tỉnh cho một người Hán. Sau trên 260 năm cai trị người Mãn dần dà bị . . . đồng hoá với người Hoa, và các phong trào phản Thanh phục Minh cũng xuội lơ với thời gian bởi người Mãn rất thành công trong việc an dân kiến quốc. Có thể nói nhiều khi hay không bằng hên, 3 ông vua đầu trào Khang Hy, Ung Chính và Càn Long đều là những "minh quân", rất giỏi và . . . sống lâu - tổng cộng triều đại các vị này kéo đến hơn 120 năm [3].

Lộc Ðỉnh Ký và Vi Tiểu Bảo

Nhân vật chính Vi Tiểu Bảo lúc đầu truyện chỉ là một thanh niên chừng 13-14 tuổi. Con của một kỹ nữ tại thành Dương Châu, nhưng không biết cha là ai, Vi Tiểu Bảo thất học từ nhỏ, sống và lớn lên trong kỹ viện Lệ Xuân, nơi bà mẹ làm việc. Vi Tiểu Bảo mang nhiều tính điếm đàng và khôn lanh kiểu chợ trời. Thích phụ nữ đẹp, không kể già hay trẻ. Thích đánh bạc và thảy xí ngầu lắc.

Vào một dịp tình cờ Vi Tiểu Bảo đi theo kiếm khách Mao Thập Bát lên Bắc Kinh. Ðến nơi do một sự hiểu lầm, y bị bắt đem vào cung điện, và trở thành thái giám bắt đắc dĩ, mặc dù "thằng nhỏ" chưa bị hề hấn gì. Với công việc của một thái giám giả, Vi Tiểu Bảo được dịp làm quen với vua Khang Hy lúc đó mới chừng 15-16 tuổi. Hai người ưa tập luyện võ với nhau. Thường thường Vi Tiểu Bảo bị đánh sưng mình sưng mẩy bởi anh ta không rành võ nghệ, và lại luời biếng học. Sự nghiệp tại Thanh triều bắt đầu lên khi Vi theo lệnh ngầm của Khang Hy ra tay dùng thủ đoạn hạ cấp để bắt được tướng Ngao Bái - rồi sau đó đánh thuốc độc hạ sát Ngao Bái trong tù. Bên ngoài, trong chốn dân gian tướng Ngao Bái có rất nhiều kẻ thù, nên khi nghe tin Vi Tiểu Bảo hạ được Ngao Bái giới giang hồ rất khâm phục và tưởng lầm y là một cao thủ võ lâm hãy còn trẻ tuổi. Lãnh tụ của một phe phản Thanh phục Minh, Thiên Ðịa Hội, và cũng đồng thời quân sư của Trịnh Vương (phe phục Minh) ở Ðài Loan, là Trần Vĩnh Hoa tức Trần Cận Nam lập tức kết nạp y vào Thiên Ðịa Hội [4]. Trong Thiên Ðịa Hội, Vi Tiểu Bảo tuy mới chừng 15 tuổi được phong chức Hương chủ của Thanh Mộc Ðường, vai vế tương đương với 4 Hương Chủ khác đã lừng danh trong chốn giang hồ, và cũng trở thành đệ tử của Trần Cận Nam. Vốn tính đàng điếm, cơ hội chủ nghĩa, Vi Tiểu Bảo nhận chức vụ của Thiên Ðịa Hội qua loa để được tự do trở về hoàng cung. Từ đó về sau, y không bao giờ chịu khó học võ gì với Trần Cận Nam mặc dù mang tiếng đồ đệ. Tuy nhiên cũng kể từ đó trở đi y trở thành một thứ gián điệp nhị trùng giữa Thiên Ðịa Hội và vua Khang Hy. Rồi sau này, gián điệp tam trùng, tứ trùng cho các phe phái khác nhau.

Vi Tiểu Bảo bắt đầu có một món tiền lớn nhờ ở việc chia chác tài sản của Ngao Bái sau vụ kiểm kê. Y cũng chứng kiến nhiều vụ xì-căng-đan cùng những thâm cung bí sử. Ðáng kể nhất Vi biết Thái hậu hiện tại không phải mẹ ruột của Khang Hy và cũng lại có phần trong việc ám hại mẹ ruột của hoàng đế. Ngoài ra y còn biết phụ hoàng của Khang Hy hãy còn sống, mà chính Khang Hy không hề biết. Phụ hoàng chính là vua Thuận Trị hiện đã quy y cửa Phật và tu tại Ngũ Ðài ở gần chùa Thiếu Lâm. Vi cũng làm quen được với công chúa Kiến Ninh, vai em bà con gần của Khang Hy. Y cũng khám phá một bí mật kinh thiên, động địa. Cả Thái hậu, vua Khang Hy và nhiều phe phái phản Thanh phục Minh đều đang tìm kiếm một bộ sách bí truyền gồm cả thảy 8 quyển mang tên Tứ Thập Nhị Chương Kinh. Ai làm chủ được hết cả bộ sách đó sẽ ráp lại được một bản đồ chỉ nơi chôn dấu kho tàng châu báu của người Mãn Thanh. Ðịa điểm chôn dấu của kho tàng đó cũng là LONG MẠCH của nhà Thanh. Và tất nhiên khi Long Mạch bị phá tan, nhà Thanh sẽ suy tàn. Thái hậu, vua Khang Hy, Ngô Tam Quế, thiền sư Hành Si tức vua Thuận Trị xưa, một hoàng thân, v.v. mỗi người giữ được một quyển của bộ sách đó. Ðịa điểm chôn dấu kho tàng và cũng là Long Mạch của nhà Thanh nằm ở chân núi mang tên Lộc Ðỉnh Sơn - nơi có rất nhiều con lộc tức con hươu - tại biên giới giữa Mãn Châu, Nga La Tư và bắc Trung Hoa, gần Hắc Long giang tức sông Amour. Về sau, nhờ ở lanh tay lẹ chân, và nhiều ngón nghề thu thập được ở kỹ viện (tức nhà chứa gái mãi dâm), mặc dù không có chủ tâm, Vi Tiểu Bảo dần dà qua nhiều chuyến phiêu lưu và năm tháng đã "chôm" được toàn bộ Tứ Thập Nhị Chân kinh. Nhờ đó y biết được địa điểm của Lộc Ðỉnh Sơn. Y lại rất mánh trong việc nhờ người hộ vệ nữ phái Song Nhi (về sau thành 1 trong 7 vị hiền thê của y) ráp lại bản đồ Lộc Ðỉnh Sơn từ hàng trăm bản vẽ trên da dê, dấu trong những quyển sách, rồi khâu sách lại - trừ những miếng da dê đó - dâng cho Khang Hy.

Với biệt tài "vỗ mông ngựa" tức bợ đỡ cấp trên, Vi Tiểu Bảo đem những gì y biết được về tung tích của cựu hoàng Thuận Trị và hành vi mờ ám của Thái Hậu tâu với Khang Hy. Khang Hy mới sai Vi đi lên núi Ngũ Ðài tìm Thuận Trị. Dọc đường Vi cũng gặp nhiều chông gai nguy hiểm bởi có nhiều phe phái kể cả vài Lạt Ma từ Tây Tạng đang tìm kiếm Thuận Trị để lấy một quyển của bộ Tứ Thập Nhị Chương Kinh kể trên. Nhờ ở tài miệng mép, Vi thoát hiểm trở về trao quyển sách bí truyền đó cho nhà vua. Khang Hy vẫn thấy chưa yên tâm quyết định cải trang thân hành lên Ngũ Ðài để gặp phụ vương Thuận Trị. Nhưng vua phái Vi Tiểu Bảo đi trước, và chỉ định Vi làm "thiền sư" phụ tá Phương Trượng ở chùa Thiếu Lâm để học . . . nghề tu một thời gian - trước khi chính thức chuyển sang trụ trì chùa Thuận Trị đang tỉnh tu. Trong chuyến đi này Vi đụng độ với nhiều cao thủ trong chốn giang hồ. Trong đó có Trang gia chủ, bởi mang ơn Vi đã giết kẻ thù toàn gia đình là Ngao Bái nên . . . tặng cho Vi một a-hoàn vừa giỏi võ nghệ vừa đẹp tên Song Nhi theo y làm bạn đồng hành và cũng để bảo vệ cho y. Song Nhi sau này thành một người vợ của Vi Tiểu Bảo, và chỉ có Song Nhi được chọn - trong 7 người vợ - đi theo nguyên soái Vi Tiểu Bảo trong chiến trận với Nga La Tư về sau. Vi Tiểu Bảo cũng gặp và trồng cây si với người đẹp A-Kha, con của đệ nhất mỹ nhân Trần Viên Viên và Lý Tự Thành. Vi còn gặp công chúa con của vua cuối nhà Minh Sùng Trinh, với pháp danh Cửu Nạn ni cô, rồi được Cửu Nạn nhận làm đồ đệ. Nhưng rốt cuộc Vi cũng chẳng học được món võ gì hết trừ món "chạy trốn kẻ địch". Vi lại đụng độ với các cao thủ Tây Tạng rồi nhờ thủ đoạn giảo huyệt gài giết được khoảng năm bảy cao tăng Tây Tạng. Trong những chuyến đi - theo sứ mạng Khang Hy giao phó - Vi với tư cách một Hương chủ của Thiên Ðịa hội thường mang theo cả chục cao thủ Thiên Ðịa hội trà trộn cải trang thành quân lính nhà Thanh. Những cuộc đụng độ giữa phe Thiên Ðịa Hội với các phe khác cũng cùng chung chí hướng phản Thanh phục Minh, hoặc tiêu diệt Ngô Tam Quế, vẫn thường xảy ra. Nhất là đụng độ giữa Tổng lý Trần Cận Nam với Trịnh Khắc Sảng - con trai thứ của Trịnh Vương, chủ nhân của Trần Cận Nam và phục quốc quân ở đảo Ðài Loan.

Sau đó Vi Tiểu Bảo bị một phe khác bắt đưa về một hải đảo của Thần Long giáo. Một băng đảng thảo khấu lớn đang muốn chiếm đoạt bản đồ của kho tàng nhà Thanh ở Lộc Ðỉnh Sơn, và hiện đang cấu kết với nước Nga để đánh nhà Thanh. Tại đảo của đảng Thần Long, Vi Tiểu Bảo một lần nữa áp dụng võ . . . mồm, và cơ hội chưởng pháp - được Hồng giáo chủ và phu nhân xinh đẹp nhận làm đồ đệ và phong cho y chức Bạch Long Sứ - một trong 5 chức vụ phụ tá Hồng giáo chủ. Vi nhận sứ mệnh mới trở lại hoàng cung tìm cách đánh trộm vài quyển Tứ Thập có bản đồ của kho tàng ở Lộc Ðỉnh Sơn.

Vi Tiểu Bảo lợi dụng những hiểu biết về các phe phái chống Thanh, và những quen biết trong triều, gây được lợi cho nhiều thế lực đối chọi lẫn nhau. Thêm vào đó, Vi đã chu toàn được nhiều công tác cho Khang Hy - kể cả có lần y nhảy ra bao che cứu Khang Hy khỏi cái chết trong đường tơ kẻ tóc, nên được thăng quan tiến chức như diều.

Trở lại hoàng cung Vi được công chúa Kiến Ninh, em bà con Khang Hy, đem lòng trìu mến. Kiến Ninh mới biết thực sự Vi Tiểu Bảo vẫn chưa bị mất . . . thằng nhỏ và hãy còn "gin". Nhưng Khang Hy thì mãi về sau mới biết. Muốn thử một địch thủ chính trị và quân sự lợi hại Ngô Tam Quế, Khang Hy nghĩ ra kế gả em gái Kiến Ninh cho con trai của Quế là Ngô Ứng Hùng, rồi đưa Hùng về Kinh giữ làm con tin. Ngoài ra Khang Hy biết Ngô Tam Quế có giữ 1 cuốn sách của bộ Tứ Thập Nhị Chương Kinh. Khang Hy phái Vi Tiểu Bảo hộ tống công chúa Kiến Ninh đi đến vương phủ của Ngô Tam Quế để làm lễ đính hôn, một công đôi ba việc. Dọc đường Vi ăn nằm với công chúa để về sau công chúa phải mê mệt, có mang với y, và trở thành một người vợ của y. Tại vương phủ của Ngô ở Vân Nam, Vi ăn cắp được quyển sách quý về Lộc Ðỉnh Sơn, bắt được một gián điệp Mông Cổ, và đấu trí với Ngô Tam Quế. Công tử Ngô Ứng Hùng bị hôn thê Kiến Ninh dùng súng người Tây dương tặng, đánh vào đầu bất tỉnh để rồi bị cắt đi "thằng nhỏ" trở thành . . . thái giám bất đắc dĩ cho chính người vợ Mãn Thanh. Sau đó Ứng Hùng bị Vi tìm cách dẫn về Bắc Kinh rồi sau này bị chặt đầu khi Ngô Tam Quế dấy quân phản lại nhà Thanh.

Trong một lần phiêu lưu với Song Nhi về mạn bắc để tìm núi Lộc Ðỉnh, và lúc chạy trốn bọn Thần Long giáo, Vi tình cờ quen được công chúa Tô Phi Á (Sophia) của nước Nga. Hai người thấy thích nhau rồi Sophia đem người tình họ Vi về Mát-Cơ-Va. Nhân một cuộc chính biến Vi bày kế và giúp cho Sophia cướp lại được chính quyền. Nhờ đó khi Vi Tiểu Bảo trở về Bắc Kinh, thái hậu nhiếp chính Sophia của Nga giao cho y dâng lên Khang Hy một lá thư cầu hoà đôi bên.

Khang Hy tiếp tục giao Vi Tiểu Bảo nhiều sứ mệnh khó khăn như đi về quê của Vi là thành Dương Châu để hiểu dụ dân chúng, đi dẹp đảng Thần Long giáo ngoài một hải đảo, hoà giải với các lực lượng Mông Cổ và Tây Tạng, v.v. Tại Dương Châu, Vi Tiểu Bảo được trùng phùng với mẹ. Và ở ngay tại kỹ viện trong một dịp may hiếm có, y . . . xơi tái hết những người đàn bà y thương trộm nhớ thầm, hay trồng cây si lâu năm. Nhân dịp mấy người này bị bất tỉnh vì thuốc mê sau một trận đấu giữa các phe đối nghịch với nhau, mặc dù cùng chung một mục đích phản Thanh hoặc tiêu diệt phản thần Ngô Tam Quế. Trong những người phụ nữ này có cả Tô Thuyên tức phu nhân Hồng giáo chủ của Thần Long giáo - đáng tuổi má y. Những người này sau đó đều trở thành vợ của y. Sở dĩ Khang Hy phải hiểu dụ dân Dương Châu bởi lúc quân Mãn Thanh mới tiến chiếm Trung Hoa, họ đã tàn sát hàng ngàn người Dương Châu vô tội, sách vở thường gọi "Mười ngày thảm khốc ở Dương Châu".

Sau trận đánh dẹp Thần Long giáo, Vi Tiểu Bảo bị lạc vào một hoang đảo cùng với 7 người vợ. Hồng giáo chủ bị tử vong vì các bộ hạ không phục và bội phản. Tổng lý của Thiên Ðịa Hội Trần Cận Nam cũng bị công tử con của minh chủ mình là Trịnh Khắc Sảng đâm lén sau lưng tử mạng. Trước khi chết Trần Cận Nam dặn Vi Tiểu Bảo không được trả thù mà làm hỏng chuyện lớn. Ở trên đảo với 7 người vợ, Vi Tiểu Bảo có vài đứa con. Vua Khang Hy biết được Vi ở đó, tiếp tục giam lỏng y cho tới khi y theo một đô đốc về Ðài Loan và giúp mưu bình trị hòn đảo này. Trịnh Khắc Sảng đầu hàng và bị giải về Bắc Kinh. Trong thời gian Vi và 7 vợ sống trên đảo, Khang Hy dẹp hết tất cả các phiên vương và những phong trào phục hưng nhà Minh, kể cả Ngô Tam Quế.

Trở về Bắc Kinh Vi Tiểu Bảo được phong làm nguyên soái tư lệnh chiến dịch đánh Nga La Tư để hoạch định lại biên giới Nga-Hoa. Nhờ ở người tình không biên giới Sophia, và khả năng quân sự . . . kiểu chợ trời, chiến dịch Nga La Tư thành công mỹ mãn.

Vi Tiểu Bảo ca khúc khải hoàn trở về Bắc Kinh. Sau cùng y bị cả hai phe Khang Hy và phe chống Thanh triều nhất là dư đảng Thiên Ðịa Hội ép buộc y phải dứt khoát chọn một trong hai đường. Vi Tiểu Bảo theo bản năng tự nhiên của con người y, chọn đường thứ ba: Về Dương Châu rước mẹ, xong rồi giả chết, nhưng thực ra đem bầu đoàn thê tử và một gia tài kếch xù về Vân Nam sống ẩn danh, trong hạnh phúc cuộc đời. Vi Tiểu Bảo cố tình quên đi kho tàng to lớn ở Lộc Ðỉnh Sơn cũng như việc phá bỏ long mạch của nhà Thanh. Bí mật đó chìm luôn dưới dòng thời gian.

Ngũ Hành và Vi Tiểu Bảo

Khác với ba bài về Kim Dung trước đây, "Ðọc Lại" lần nầy thật ra chỉ đọc lần đầu. Phim video do Lương Triều Vĩ và Andy Lau đóng chỉ mới xem đến tập thứ 3. Nhiều chi tiết hay ho chắc chắn chưa được khám phá hoặc thấu triệt. Trong đó có những gút mắt của thuyết Ngũ Hành. Tuy nhiên nếu tính nhẩm, có thể thấy ngay nếu chờ đọc lại hoặc xem phim tập hai ba lần chắc không bao giờ viết nổi một cái gì về Lộc Ðỉnh Ký hết. Bởi nó sẽ dài, thật dài, đủ in thành một tập sách nhỏ. Quá nhiều điểm thật hay và lý thú. Kim Dung thật sự đã dùng hết 10 thành công lực và các tuyệt chiêu để tạm kết thúc và đánh dấu sự nghiệp trước tác của ông.

Trước hết xin thử khảo sát sơ qua thuyết Ngũ Hành. Một cấu trúc về tương quan nhân vật gần như ắt có và đủ trong các truyện Kim Dung [5]. Tóm tắt, Ngũ Hành gồm 5 yếu tố: Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ, được biểu tượng bằng 5 hướng Tây, Ðông, Bắc, Nam, Trung - tương đương với 5 màu: Trắng (bạch), Xanh (thanh), Ðen (hắc), Ðỏ (hồng), Vàng (hoàng). Mỗi người thường mang một mạng. Mạng này khắc (trị) được mạng kia, và tạo thành một vòng tròn kín. Thí dụ Chu Chỉ Nhược mạng Thủy, Trương Vô Kỵ mạng Hỏa. Thủy khắc Hỏa. Chu có thể khắc phục được Trương nhờ ở mạng Thủy hơn là tài năng. Năm yếu tố này cũng tạo nên một vòng nữa chỉ mạng này hỗ trợ (giúp) cho mạng kia. Thí dụ: Hoàng Dung (mạng Mộc) và Quách Tỉnh (mạng Hỏa). Mộc sinh (trợ) Hỏa. Hoàng Dung giúp Quách Tỉnh rất nhiều trong việc học tập võ nghệ.

Vậy thử xem qua vài nhân vật trong Lộc Ðỉnh Ký và mạng ngũ hành của họ. Trước hết, Vi Tiểu Bảo mạng gì? Mạng Thổ. Bởi Vi Tiểu Bảo người gốc Dương Châu ở miền Trung (mạng Thổ) nước Tàu. Ta có thể kiểm chứng mạng Thổ của Vi Tiểu Bảo rất dễ. Sự nghiệp của Vi bắt đầu lên khi Vi dùng mưu hạ cấp thảy bột vôi vào mắt của tướng Ngao Bái, rồi đâm một nhát dao và bắt sống được Ngao. Sau đó Vi theo lệnh ngầm ném đá dấu tay của vua Khang Hy đi vào lao xá đánh thuốc rồi giết Ngao Bái. Ngao Bái một tướng với võ công vô địch của Thanh triều sao lại bị một đứa trẻ con không biết võ hạ sát dễ dàng như vậy? Chỉ vì mạng Thổ của Vi Tiểu Bảo khắc mạng Thủy (màu Ðen, hướng Bắc) của Ngao Bái. Kim Dung nói rõ Ngao Bái mạng Thủy cũng giống y như mạng Thủy của Chu Chỉ Nhược trong Cô Gái Ðồ Long. Ðó là màu "đen xì" của con dao trủy thủ rất bén - chém đá như chém bùn - của Ngao Bái. Vi Tiểu Bảo tìm được con dao này khi kiểm kê tài sản Ngao Bái, rồi chôm con dao đó luôn. Ngoài ra họ Ngao cũng ám chỉ một loài động vật sống dưới nước, mạng Thủy. Y hệt bảo đao Ðồ Long Chu Chỉ Nhược chôm được từ Tạ Tốn cũng màu "đen xì", và Chỉ Nhược là con của một ngư ông chuyên nghề đánh cá trên sông. Ngao Bái mang mạng Thủy như Chu Chỉ Nhược.

Vua Khang Hy và công chúa Kiến Ninh đều những người mang mạng Mộc (phía Ðông màu Xanh). Tại sao? Tại vì họ người Mãn Thanh. Thanh tức màu xanh. Mãn Thanh vị trí nằm ở ÐÔNG Bắc Trung Hoa. Mãn Thanh khắc phục và chiếm được Trung quốc (Trung= mạng Thổ). Mộc khắc Thổ. Khang Hy (mạng Mộc) nếu đấu võ với Vi Tiểu Bảo (Thổ) luôn luôn thắng hạ được Vi Tiểu Bảo. Kiến Ninh cũng vậy. Cũng hạ Vi Tiểu Bảo dễ dàng - ngay cả trong chuyện chăn gối phòng the, với chút ít tính sa-điết khổ dâm.

Hai người vợ khác của Vi Tiểu Bảo: Phương Di và Mộc Kiếm Bình (họ Mộc) cũng đều mạng Mộc. Riêng Phương Di mang tên Di gợi lên từ lối gọi Bắc Dịch, Nam Man, Tây Nhung và Ðông Di của người Tàu từ thời Hán thời Ðường. Phương Di có thanh âm như Ðông Di, chỉ phương Ðông. Ðông tức mạng Mộc. Phương Di cũng xuất thân từ phe phản Thanh của Mộc Vương, mạng Mộc. Trong rất nhiều trường hợp, Vi Tiểu Bảo khi gặp người phụ nữ đẹp đều bị . . . thôi miên tức bị khắc phục trước sắc đẹp của họ. Vi chính mạng Thổ nên ưa bị khắc phục bởi các phụ nữ đẹp thuộc mạng Mộc. Bất kể già trẻ lớn bé.

Tô Thuyên, tức phu nhân hờ - không chăn gối - của giáo chủ Thần Long giáo Hồng An Thông cũng vậy. Thuyên mang nghĩa một loài cỏ thơm, mạng Mộc. Tô Thuyên đáng tuổi như má của Tiểu Bảo và Kim Dung đã khơi dậy mặc cảm Oedipus trong tình vợ chồng của Bảo và Thuyên. Cũng như đã mô tả Vi Tiểu Bảo mê mệt bà Trần Viên Viên, má vợ của y về sau.

Thế nhưng trong cái khung đối chiếu của Thần Long giáo, Vi Tiểu Bảo mang toạ độ gì? Vi Tiểu Bảo sẽ theo sắp đặt của Châu Dịch tức Kinh Dịch đổi ra mạng gì khi đứng trong hàng ngũ của Thần Long giáo? Mạng Kim, màu trắng, phương Tây. Bởi Hồng giáo chủ lúc kết nạp y vào bang giáo, vì có chỗ trống do sự qua đời của 1 trong 5 phó chủ tịch biểu hiệu cho ngũ hành, đã bổ nhiệm y làm Bạch Long Sứ. Bạch tức màu trắng, mạng Kim. Kim khắc được Mộc. Vi Tiểu Bảo (mạng Kim) làm cho Tô Thuyên (mạng Mộc) mang bầu rồi trở thành vợ của y. Trong lúc Tô Thuyên bật mí chuyện mang bầu với y, giáo chủ Hồng An Thông nổi giận giao đấu với tất cả các phó thủ lãnh kia. Hồng giáo chủ giết được các Long Sứ khác chỉ trừ Vi Tiểu Bảo bởi Vi Tiểu Bảo mạng Kim có thể khắc được mạng Mộc của Hồng An Thông. Chứ Thông mang nghĩa cây Thông (Mộc) không thể hạ được Vi Tiểu Bảo, mang mạng Kim trong vùng trời biển của Thần Long giáo. Hồng giáo chủ sau khi chiến đấu với các phó chủ tịch kia, đã bị thương, rượt đuổi Vi Tiểu Bảo không được - bởi Vi đã học được ngón nghề chạy trốn của Cửu Nạn ni cô - mệt quá lăn đùng ra chết. Ta để ý Kim Dung không cho vợ hờ Tô Thuyên hay Vi Tiểu Bảo giết Hồng giáo chủ bởi cả Tô Thuyên và Vi Tiểu Bảo đều là đệ tử của Hồng An Thông. Tô Thuyên mặc dù cũng đã là một cao thủ nhưng vẫn học được ít nhiều ngón nghề của Hồng An Thông. Vi Tiểu Bảo ngày trước được Hồng An Thông chỉ dạy một ngón võ nhảy lên vai của đối phương - nên một ngày là Thầy, muôn đời vẫn Thầy. Vi Tiểu Bảo dù thế ngũ hành có trên rơ Hồng giáo chủ cũng không thể giết Thầy được.

Kinh Dịch cũng cho ta thấy khi vào Thiên Ðịa Hội Vi Tiểu Bảo chuyển sang mạng Mộc - màu Xanh, phương Ðông. Trần Cận Nam, lãnh tụ Thiên Ðịa Hội phong y làm 1 trong 5 phó lãnh tụ (cũng biểu tượng cho ngũ hành) với tước hiệu Hương Chủ của Thanh Mộc Ðường. Thanh tức màu Xanh, Mộc tức cây cối, màu xanh và mạng Mộc. Trần Cận Nam, trong tên có Nam, ám chỉ người phía Nam, mạng Hỏa, màu Ðỏ. Trong Ngũ Hành, Mộc sinh Hỏa. Mộc giúp đỡ cho Hỏa. Vi Tiểu Bảo đã giúp Trần Cận Nam rất nhiều trong công cuộc phản Thanh phục Minh của Thiên Ðịa Hội do Trần Cận Nam tức Trần Vĩnh Hoa lãnh đạo. Và sau cùng khi Trần Cận Nam bị Trịnh Khắc Sảng đâm lén chết Vi vẫn nghe lời trối trăn của Cận Nam không giết Khắc Sảng để trả thù. Mặc dù y có rất nhiều phương tiện trong tay để làm việc đó.

Vi Tiểu Bảo trong phương thế mạng Thổ đã vận hành ra sao đối nữ hoàng Sophia (Tô Phi Á) của nước Ra-Sát (Russia) tức Nga? Ðầu tiên y gặp Sophia ở phía Bắc ngay tại biên giới 3 nước Tàu, Nga và Mãn Châu, lúc y đi tìm Lộc Ðỉnh Sơn. Sophia lúc đó trong thế tương đối mang mạng Thủy, bởi đang cư ngụ phía Bắc, và Vi từ phía Nam, mạng Hỏa. "Thủy- Sophia" chinh phục được "Hỏa- Tiểu Bảo" nhờ ở thân hình và nhan sắc diễm kiều, và rơ ngũ hành. Sau đó, Sophia đem Tiểu Bảo về Mát-Cơ-Va chơi. Vừa trở lại kinh thành, Sophia hay tin vua cha qua đời. Tiếp theo đó, một cuộc chính biến và Sophia bị giam lỏng. Vi Tiểu Bảo tìm cách cứu Sophia và thành công trong việc giúp Sophia nắm lại được chính quyền Nga - trong vai trò hoàng hậu nhiếp chính. Mạng Thổ chính tông của Vi (thể hiện từ việc Tiểu Bảo là người miền Trung và cũng Trung Hoa) đã giúp được Sophia, người Tây Phương, mạng Kim. Thổ sinh Kim. Thổ hỗ trợ Kim.

Trong những người tình và vợ của Vi Tiểu Bảo, Kim Dung có vẻ chỉ chấm Song Nhi người vợ được Vi Tiểu Bảo yêu mến nhất. Song Nhi chính là người hộ vệ Vi Tiểu Bảo - che chở, bảo vệ và cứu mạng y trong những cơn nguy khốn. Xuất thân một a-hoàn của gia đình họ Trang có tinh thần phục quốc, Song Nhi được Trang gia chủ . . . tặng cho Vi Tiểu Bảo để đáp ơn đã giết kẻ tử thù Ngao Bái, và sau này gian quan Ngô Chí Vinh. Song Nhi mạng gì? Mạng Hỏa, phía Nam. Bởi Trang chủ người gốc ở trấn Nam Tầm, phủ Hồ Châu. Song Nhi mạng Hỏa giúp Vi Tiểu Bảo mạng Thổ. Giúp trong nghĩa nâng khăn sửa túi đến trọn đời. Hỏa sinh Thổ. Ðó là một luật của Ngũ Hành. Bằng chứng hiển nhiên nhất khi Vi Tiểu Bảo làm nguyên soái trong chiến dịch Tây chinh đi đánh với Nga về sau, Vi Tiểu Bảo chỉ chọn có Song Nhi cho đi theo, trong sự bất mãn của sáu người vợ kia.

Trong việc giải quyết mâu thuẫn gây nên bởi thuyết Ngũ hành, Kim Dung nhất quyết không để lộ một chút sơ sót. Mâu thuẫn đó dễ xảy ra bởi truyện Tàu thường có rất nhiều nhân vật, và nhiều màn tình huống gay cấn khác nhau. Số nhân vật trong tiểu thuyết hình như mang tỉ lệ thuận với dân số của quốc gia. Dân số Việt Nam ít hơn dân Tàu nên tiểu thuyết Việt Nam có ít nhân vật hơn tiểu thuyết Tàu? Ðối với một tiểu thuyết kiếm hiệp có nhiều nhân vật chiến đấu lẫn nhau mà lại dựa trên Ngũ Hành sinh khắc, người viết phải rất thận trọng. Bởi A mang mạng X thắng B mang mạng Y thì được, nếu mạng X khắc mạng Y. Nhưng cũng đem A đó cho đánh với C mang mạng Z, người viết lập tức có một mâu thuẫn cần phải giải quyết. Bởi mỗi một mạng chỉ khắc (trị được) một mạng khác nữa mà thôi. A mạng X đã khắc B mạng Y rồi nên khó lòng khắc C mạng Z.

Trong tất cả truyện của Kim Dung, mâu thuẫn Ngũ Hành đều được giải quyết ổn thoả. Trong "Võ lâm Ngũ Bá", Vương Trùng Dương biệt hiệu Trung Thần Thông, người miền Trung ở gần Cổ Mộ (dưới đất) mạng Thổ. Dưới cơ mạng Mộc của Hoàng Dược Sư, ưa mặc áo xanh sống gần gũi những cây đào (mạng Mộc). Và mạng Thổ của Trung Thần Thông không thể trị được Tây Ðộc Âu Dương Phong, mạng Kim, áo màu trắng. Ðể hoá giải, Kim Dung cho Trung Thần Thông phải mượn ngón Nhất Dương Chỉ của Ðoàn Nam Ðế - phía Nam mạng Hỏa, mới thọc được một cú vào mặt Tây Ðộc cho y tởn tới già! Hỏa mới khắc được Kim. Ðông Tà nếu đánh nhau gay gắt có thể hạ được Vương Trùng Dương. Nhưng Kim Dung cho Vương bệnh chết sớm và lúc sống Ðông Tà vẫn mến phục Vương bởi Vương cũng giỏi chữ nghĩa bằng hoặc hơn Ðông Tà. Tuy vậy để thế Ngũ Hành vẫn được cân bằng, sau khi Vương chết đi, Kim Dung nâng cao vai trò Lão Ngoan Ðồng Châu Bá Thông, cũng mạng Thổ. Mộc khắc Thổ như thường: Ðông Tà mạng Mộc dễ dàng bắt được Châu Bá Thông, mạng Thổ và giam trên đảo Ðào Hoa suốt 20 năm. Trên đảo Ðào Hoa 20 năm, kinh dịch cho Châu Bá Thông biến dần sang mạng Mộc như ai - với cái tên sẵn có Thông, thuộc loài cây. Ngoài ra Kim Dung cho Thông phát minh ra một loại võ gọi Song Hổ đả bác. Mỗi tay đánh một kiểu quyền khác nhau. Hai tay như hai người. Ðể ý Song Hổ mang nghĩa 2 con cọp. Cọp sống ở đâu? Ở trong rừng. Rừng có nhiều Cây, mạng Mộc. Mộc của Thông dữ hơn Mộc của cây đào và cành hoa của Hoàng Dược Sư. Nên sau cùng Thông đánh được Hoàng Dược Sư và tự giải thoát cho mình. Ðánh lại được chứ không khắc được, bởi Thông mới chuyển sang mạng Mộc như Ðông Tà. Tương tự Tây Ðộc mạng Kim thật ra trên cơ Ðông Tà. Kim Dung cho hai người đó ít đánh nhau gay gắt và lại gán cho họ một thứ tình tương kính đồng nghiệp, giữa kẻ cướp với bà lão ăn trộm, của những người cùng chung nghề nghiệp với nhau. Nghề nghiệp của Ðông Tà và Tây Ðộc là lo đi chôm Cửu Âm Chân Kinh!

Trong Lộc Ðỉnh Ký, khó nhất của Ngũ Hành là cái màn giáo chủ Hồng An Thông phải thanh toán năm vị phó chủ tịch kia, mang 5 mạng khác nhau của Ngũ Hành. Ðể cho thật chắc ăn, Kim Dung cho Hồng An Thông mang thật nhiều mạng. Cũng như cho Vi Tiểu Bảo chính mạng Thổ nhưng vào Thần Long giáo, châu dịch chuyển sang mạng Kim với chức Bạch Long sứ - màu trắng. Kim Dung cho Thông - chính mạng Mộc - họ Hồng để ám chỉ mạng Hỏa xơ-cua của Thông. Rồi còn cho Thông thêm một mạng phụ nữa, mạng Thủy với tước hiệu giáo chủ Thần LONG giáo. Long là rồng - sống ở dưới nước. Thần Long giáo cũng có sào huyệt trên đảo giữa vùng Nước biển mênh mông. Vi Tiểu Bảo với chức Bạch Long sứ (mạng Kim trong Thần Long giáo) không chết, bởi Bảo mạng Kim khắc được Thông mạng Mộc. Chứ Thông không thể giết được Bảo. Cái chết của 4 vị Long Sứ kia mỗi người một kiểu nhưng đều phù hợp lô-gích của Ngũ Hành. Ðối với Hoàng Long Sứ (hoàng = màu vàng) mạng Thổ, Kim Dung cho Thông, mạng Mộc chỉ cần chọi vào Hoàng một cục đá. Hoàng chết ngay, Mộc trị Thổ. Ðối với Hắc Long Sứ mạng Thủy thì sao? Hắc màu đen chỉ phương Bắc mạng Thủy. Nước giúp cây sinh sống. Thủy sinh Mộc chứ không khắc Mộc. Kim Dung khôn khéo né tránh việc mô tả Hắc Long Sứ bị chết như thế nào và chỉ mượn lời Thông nói lớn cho Hồng phu nhân nghe, đại khái: Hắc Long Sứ suốt đời theo hầu hạ giúp đỡ ta, về già tự nhiên nó đâm lòng phản, và nó đã chết rồi. Ta để ý Kim Dung muốn cho chắc ăn thêm vào "Hắc long sứ về già đâm lòng phản" tức Hắc Long sứ hoặc bởi già có thay đổi, châu dịch đã chuyển y sang mạng khác (để phản lại Thông), hoặc mạng xơ-cua Thủy của Thần Long giáo chủ đã làm cho y (cũng mạng Thủy) mệt rồi chết. Còn lại Thanh Long Sứ, màu xanh, mạng Mộc như Thông và Xích Long Sứ, màu đỏ, mạng Hỏa. Ta để ý Kim Dung tránh dùng Hồng Long Sứ mà chỉ dùng Xích Long sứ, cùng chỉ màu đỏ, để tránh trùng hợp với Hồng giáo chủ. Cái chết của hai vị phó thủ lãnh này cũng sẽ đưa đến cái chết của Hồng An Thông. Bởi mấy mạng này không ai khắc ai. Thanh Long sứ bị Thông đá gảy xương sườn nhưng hai tay ôm chặt lấy chân Thông để cho Xích Long sứ chém vào vai Thông một đao. Thanh Long sứ sau đó còn lượm được phán quan bút đâm vào sườn của Thông. Mộc trả đũa với Mộc. Rồi hai vị phó đó chết vì bị thương và kiệt sức. Thông sau đó cũng chết vì bị thương và đuối sức bởi rượt khắc tinh của y là Bạch Long Sứ Vi Tiểu Bảo, rượt mãi không được.

Viết tiểu thuyết kiếm hiệp theo sát với Ngũ Hành thật ra rất khó. Hình như chưa có tiểu thuyết gia Trung quốc nào lại khoái Ngũ Hành dữ dội như Kim Dung. Và Kim Dung đã chứng tỏ ông không để một sơ hở nào trong việc áp dụng tương quan sinh khắc của ngũ hành vào các nhân vật

Vài chi tiết lý thú

Người ta để ý Kim Dung qua Lộc Ðỉnh Ký đã tiếp tục khai triển những đề mục cũ và đồng thời đưa ra thêm các đề mục mới như sau:

- Ðề mục một vai chính rất mù mờ về võ nghệ. Nối tiếp từ Ðoàn Dự trong Lục Mạch Thần Kiếm và Thiên Long Bát Bộ. Tuy nhiên Ðoàn Dự còn biết chữ nghĩa và biết được một hai ngón võ nghề như Lục Mạch Thần Kiếm và Lăng Ba Vi Bộ. Tuy nhiên võ của Ðoàn Dự khổ nỗi khi đánh ra được, khi không. Vi Tiểu Bảo mù chữ từ đầu đến đuôi mặc dù làm quan rất lớn. Võ nghệ chỉ học được một hai chiêu nhưng không đủ tự bảo vệ mình thì còn nói chi đến chỗ cứu người khác. Kim Dung đã tạo ra một đường hướng mới cho truyện võ hiệp: Nhân vật chính không cần giỏi võ nghệ, mà chỉ cần thông thuộc võ mồm.

- Ðề mục liên quan đến kỹ viện, tức nơi lui tới của giới làng chơi, đã được giới thiệu qua Tiếu Ngạo Giang Hồ. Ở đó Kim Dung dùng kỹ thuật của ngành hài kịch, cho len vào một tình huống tương phản, mâu thuẫn: Ðưa cao đồ của một chính phái Lệnh Hồ Xung vào kỹ viện trốn tránh với một ni cô ở tuổi xuân thì.. Trong Lộc Ðỉnh Ký, Kim Dung phát triển đề mục kỹ viện đến tột độ. Một ông quan lớn triều Thanh Vi Tiểu Bảo xuất thân là con một kỹ nữ làm việc tại kỹ viện Lệ Xuân ở Dương Châu. Vi sinh đẻ và lớn lên tại kỹ viện. Những lúc thối chí chốn quan trường, y ưa ôm mộng đem tiền kiếm được về mua kỹ viện Lệ Xuân và mở thêm ra vài kỹ viện hạng nhất nữa. Ðệ nhất mỹ nhân làm nghiêng thành đổ nước Trần Viên Viên cũng xuất thân từ một kỹ viện lớn ở Tô Châu. Ở tuổi trên dưới 40, Trần Viên Viên, sau này là nhạc mẫu của Vi, cũng còn đẹp để làm chàng thanh niên Vi Tiểu Bảo mê say ngây ngất. Tiếu lâm nhất Kim Dung viết ra nhiều đoạn cài xen kẻ sinh hoạt chính trị với sinh hoạt chốn kỹ viện với nhau. Trịnh Khắc Sảng và A Kha vì muốn lùng bắt Vi Tiểu Bảo mới cải trang làm hai người đàn ông đi tìm hoa tại kỹ viện Lệ Xuân. Tình cờ Vi Tiểu Bảo phát hiện ra được và tìm cách đánh thuốc mê hai người. Bởi lúc nào y cũng thấp thỏm lo sợ kẻ tình địch y Trịnh Khắc Sảng sẽ lựa chọn má y để vui vầy qua đêm. Như vậy y sẽ trở thành con hờ của Khắc Sảng thì quá khổ. Sau khi bất tỉnh vì thuốc mê, A-Kha bị tơi bời hoa lá với Vi Tiểu Bảo, để rồi sau cùng lấy y làm chồng như 6 người đẹp khác

- Tạo dựng kỹ viện song song với triều đình nhà Thanh, và vương điện của Phiên Vương Ngô Tam Quế, Kim Dung cho ta thấy nhiều điểm thật hay và ngộ, nhưng không kém chua chát của sự thật cuộc đời. Cả kỹ viện lẫn triều đình, nơi hành sự của chính trị trung ương, đều là chốn của những con người . . . giả [10]. Xưa nay người ta thường so sánh chính trường với sân khấu màn nhung, nhưng Kim Dung có lẽ nhà văn đầu tiên đem so sánh chính quyền với kỹ viện. Ði sâu hơn nữa, Kim Dung cho thấy cái trường đào tạo nên chính trị gia ưu việt Vi Tiểu Bảo không đâu khác hơn chính cái kỹ viện Lệ Xuân ở Dương Châu, nơi sinh trưởng của y. Giao tác giữa kỹ viện và chính trị cả nước còn được nhấn mạnh qua vai trò của kỹ nữ Trần Viên Viên, với sắc đẹp nghiêng thành đổ nước, đã làm điên đảo vua cuối nhà Minh, Lý Tự Thành, rồi Ngô Tam Quế, và bao nhiêu kiếm khách hiệp sĩ khác. Một người anh em kết nghĩa với Vi Tiểu Bảo là Hồ Dật Chi si mê bà Viên đến độ chỉ xin làm lao công tưới vườn nhà bà Viên để có thể ngày ngày nhìn ngắm bà trong lúc tưới cây!

- Tiểu tiết "cắt đứt thằng nhỏ" thường gọi nôm na "thiến sống" cũng được Kim Dung phát huy tối đa. Trong "Tiếu Ngạo Giang Hồ", Kim Dung nghĩ ra một thứ kiếm pháp mang tên Tịch Tà Kiếm Pháp chỉ dành đặc biệt cho người bán nam bán nữ mới tập được. Những người đó ngông cuồng . . . tự cắt mất "bảo bối" quý nhất của đàn ông để có thể luyện tập được món kiếm pháp cực kì lợi hại đó. Ðiều kiện cần và đủ để luyện tập Tịch Tà Kiếm pháp là người luyện phải tự . . . "thiến sống" hay chia lìa "thằng nhỏ" của mình. Giải thuyết đưa ra trong "Thử Ðọc Lại Kim Dung III" là Tịch Tà Kiếm pháp đòi hỏi người xử dụng phải vừa có tay chân nhanh nhẹn và khéo léo như một phụ nữ, vừa có đầy nội lực hùng hậu của một người đàn ông. Và theo Kim Dung, chỉ có một cách nhanh nhất để hội đủ hai điều kiện tương phản đó: người luyện kiếm phải . . . chia tay với thằng nhỏ. Kiếm pháp này đã do một thái giám phát minh ra đầu tiên! Trong Lộc Ðỉnh Ký, Kim Dung chiếu sáng đời sống của các thái giám trong triều nhà Thanh. Nhất là tâm lý của các phụ nữ khi gần gũi thái giám. Họ không lo sợ gì hết. Từ công chúa cho đến các công nương kiếm khách xâm nhập hoàng thành từ phía bên ngoài. Họ coi thường thái giám qua nhận diện cách ăn mặc. Họ biết thái giám chẳng làm gì được họ bởi không có vũ khí "thằng nhỏ" đó. Thái giám hỏi họ làm vợ họ cứ nhận bừa. Nhưng tiếu lâm ở chỗ trong đó có một tay thái giám giả hiệu xuất thân từ kỹ viện là Vi Tiểu Bảo. Thế mới biết đi đêm có ngày gặp ma. Kim Dung còn cho biết thái giám bởi không còn gì hết nên rất tham tiền, tham vàng bạc của cải. Chính nhờ đó, một thái giám giả hiệu người Hán Vi Tiểu Bảo đã dễ dàng mua chuộc họ bằng tiền bạc chôm từ những nơi khác.

- Trong "Tiếu Ngạo Giang Hồ" Kim Dung bắt đầu giới thiệu cá tính chợ trời của một kiếm khách vai chính Lệnh Hồ Xung. Ðây thật ra là một tuyệt chiêu mới về tiểu thuyết kiếm hiệp. Nó phá tung những huyền thoại cổ điển về những người võ hiệp, như kiểu Cam Tử Long - Lã Mai Nương, Càn Long du Giang Nam, Quách Tĩnh, Trương Vô Kỵ, v.v.Theo đó những vai chính thường là những người đôn hậu chất phác, đôi khi hơi . . . cù lần. Trung thực và tình nghĩa tới cùng. Lời nói nào cũng xuất phát ở tận đáy lòng. Lệnh Hồ Xung không hoàn toàn như vậy. Hồ Xung mồm mép và mưu lược hơn người tuy bản chất vẫn trung hậu và đầy tình nghĩa. Một týp tiến sĩ chợ trời của giới giang hồ. Sang "Lộc Ðỉnh Ký" Kim Dung mô tả Vi Tiểu Bảo - so với tiến sĩ chợ trời Lệnh Hồ Xung - như một người xứng đáng nhận giải Nobel về thành tích chợ trời của y. Từ xuất xứ không biết cha mình là ai, môi trường sống không học không hành, đánh bài gian và thảy xúc xắc, cho đến móc túi và tham nhũng . Nhưng hơn cả Lệnh Hồ Xung, Vi Tiểu Bảo được tiếp cận và giao tác với những vấn đề to lớn hơn: những người đàn bà đẹp (thường lớn tuổi hơn y), tiền tài, danh vọng, việc mất nước về tay nhà Thanh, gián điệp muôn trùng, chính trị và quyền bính. Những thử thách to tát đó thường dễ dàng làm hư thối con người. Nhưng Kim Dung cho thấy đối với một vua chợ trời kiểu Vi Tiểu Bảo, các khó khăn đầy mâu thuẫn đó đều được hoá giải như chơi. Như một cơn bài mà Vi thường vui vẻ đánh với thủ hạ.

- Kim Dung viết xong Lộc Ðỉnh Ký vào năm 1972. Lúc đó một nhận xét về đấm đá của người Tây phương chắc không có gì lạ. Nhưng đọc nhận xét này vào năm 2003, mới nhớ chuyện xưa. Người Tây phương trước thập niên 70 của thế kỷ trước, lúc đánh nhau, họ không hề hoặc rất ít khi dùng chân để đá nhau. Kim Dung đưa ra nhận xét này trong đoạn quân Thanh đánh nhau với quân Nga, dưới quyền chỉ huy của nguyên soái Vi Tiểu Bảo. Những phim Hollywood trước thập niên 70, không bao giờ thấy các vai trò trong phim dùng chân đá nhau theo kiểu Karate, Taek Won Do, hay Kung Fu. Ðiển hình các phim như Shane (Alan Ladd, Van Heflin), Giant (Rock Hudson, James Dean) và hàng trăm phim khác, nhất là loại phim cao-bồi, người ta thấy những vai trong phim đánh nhau mệt nghỉ. Toàn đánh đấm bằng tay thôi. Những cú đá bắt đầu len vào phim Âu Mỹ có lẽ bắt đầu từ phim loạt TiVi The Avengers ở cuối thập niên 1960. Với những cú đá kiểu karate của nữ tài tử Diana Rigg. Sau đó người lăng xê các cú đá kiểu kung fu vào "văn hoá" phim ảnh rồi đời sống toàn cầu chính là Lý Tiểu Long tức Bruce Lee. Rồi đến phim loạt cho Tivi Kung Fu với tài tử David Carradine. Và bây giờ phim nào có đánh nhau đều có đấm và . . . đá. Kim Dung đưa ra quy ước bất thành văn này để đối chiếu với các quy ước trong giới kiếm hiệp giang hồ Trung Hoa. Ðó là đánh lén, thảy bột vôi vào mắt địch rồi lợi dụng cơ hội nhào tới đâm địch nhân. Núp dưới gầm bàn rồi dùng dao chém chân địch. Tất cả những ngón này Vi Tiểu bảo đều xử dụng rất thuần thục. Trong đoạn đầu mặc dù y dùng thủ đoạn hạ cấp để cứu Mao Thập Bát, nhưng Mao Thập Bát vẫn mắng chửi y và từ chối không nhận y làm đồ đệ. Ðến sau này khi phải cấp bách cứu mạng Trần Cận Nam, chủ tịch Thiên Ðịa Hội, một người tiếng tăm lừng lẫy trong chốn giang hồ, Vi tiểu Bảo lại dùng ngón "nghề của chàng" nữa. Sau đó y xấu hỗ dấu nhẹm với Trần cận Nam chuyện làm sai quy ước giang hồ của y.

- Một điểm tiếu lâm "không chịu được" nằm ngay trong tên họ của nhân vật chính, Vi Tiểu Bảo. Vi là "Nhỏ", Tiểu cũng "Nhỏ", và Bảo là cái gì "quý giá", một thứ của gì quí quí. Vi Tiểu Bảo, tên một nhân vật phái nam, có thể dịch ra theo kiểu "thuần Nôm" là "của quí nho nhỏ " hoặc "thằng nhỏ" . . . của đàn ông. Kim Dung xác nhận điểm này khi Vi Tiểu Bảo với tư cách nguyên soái, ký tên vào bản hoà ước hoạch định biên giới Nga-Trung. Vốn mù chữ và đến tên Bảo họ Vi y cũng không biết. Y chỉ biết có Tiểu tên đệm thôi. Nhưng biết cũng không rõ ràng. Viết đúng chữ Tiểu phải viết một gạch thẳng và hai gạch nhỏ ở hai bên. Thế bởi mù chữ y ký tên nguệch ngoạc nhưng cũng đúng thật tên của y, bằng lối tượng hình của chữ Hán, bằng một đường nét đậm thẳng đứng với hai vòng tròn hai bên! Hết ý kiến. Hoà ước này có thật và có chữ ký của nhiều quan lớn đôi bên. Nhưng có lẽ chữ ký của Vi Tiểu Bảo rất khó xem nên sử gia đã không để ý và lướt qua. Phải chăng đề tài chính của truyện Lộc Ðỉnh Ký cũng là một khảo luận nhỏ về tên của Vi Tiểu Bảo, về cái khổ và cái quý của con người. Về những người có của quí, và không có của quí.

- Thuyết Bất-nhị-nguyên của nhà Phật cũng được Vi Tiểu Bảo xử dụng khi y bốc thơm cao tăng Tây Tạng và cao thủ Mông Cổ để cầu xin tha mạng. Y nhắc lại trận đánh năm cũ của cao thủ Mông Cổ với "sư huynh" của y là phương trượng Thiếu Lâm. Thật ra trong trận đánh đó phương trượng Thiếu Lâm hạ cao thủ Mông Cổ dễ dàng. Nhưng Vi tâng bốc người Mông Cổ bằng cách nói dóc là y nhớ người Mông Cổ hạ phương trượng Thiếu Lâm. Sau đó y lâm râm khấn với phương trượng Thiếu Lâm rằng sở dĩ y nói dóc vì y tin rằng không tức sắc, sắc là không, thắng cũng như thua, thua như thắng, Thiếu Lâm thắng Mông Cổ không khác gì Thiếu Lâm thua Mông Cổ. Phải chăng Vi Tiểu Bảo trong một giây phút gần gũi với sự sống và cái chết, bất chợt đã tự giác ngộ?.

Ảnh hưởng và vinh danh

Trong sinh hoạt văn nghệ, nghệ thuật và văn hoá nói chung, người ta thường nghe nói nhà văn này hoặc nhà đạo diễn phim ảnh này chịu ảnh hưởng của nhà văn hay đạo diễn kia. Nhiều vị, nhất là những nhà đạo diễn một khi họ đã nổi tiếng, đều tự nhiên tuyên bố danh tánh của các vị tiền bối đã ảnh hưởng đến tác phẩm của họ. Thí dụ như đạo diễn Quentin Tarantino của các phim nổi tiếng Reservoir Dogs, Pulp Fiction, thường ca tụng John Woo của Once a Thief (Chou Yun Fat, Leslie Cheung), Face/Off (John Travolta) và Broken Arrow (John Travolta). Brian de Palma, đạo diễn những phim như Dressed to Kill với Angie Dickinson; Mission: Impossible với Tom Cruise, thường được xem có thể trở thành một Hitchcock thứ hai. Thông thường nhà làm phim thường cho xen vào phim mới của mình một cái "xen" hầu như "bắt chước" y hệt cái xen hay ho của vị tiền bối gây ảnh hưởng đó. Họ gọi công việc đó, "vinh danh" tiền bối (pay tribute to). Và một khi một đạo diễn hoặc tác giả có nhiều người vinh danh - những hoạt cảnh tuyệt chiêu đi luôn vào văn hoá của bộ môn nghệ thuật đó. Nhiều khi đi tuốt đến dân gian. Thí dụ những từ như Tú Bà, Sở Khanh phát xuất từ Kiều bây giờ trở thành những danh từ chung. I couldn't give a damn (đại khái: Tôi chẳng màng nữa) của "Cuốn Theo Chiều Gió" do Rhett Butler (Clark Gable) thốt ra vào lúc cuối phim trở thành câu nói thông thường của tiếng Mỹ.

Ðối với vua phim kinh dị Alfred Hitchcock, người ta có thể nhận ngay 3 xen nổi tiếng nhất, dễ bị "cóp" nhất: Xen 1: Marion Crane (Janet Leigh) đang tắm vòi sen trong phim Psycho, bị Norman Bates (Anthony Perkins) xem trộm rồi một lão bà nhảy vào đâm chết. Xen 2: Roger Thornhill (Cary Grant) trong phim North by NorthWest - sau khi bị bắt tra tấn tại một biệt thự nọ, trốn về đi báo với cảnh sát. Lúc cảnh sát dẫn y trở lại biệt thự đó, không thấy những người gian ác đánh đập y đâu hết, và trang trí bày biện đồ vật trong phòng khách tra tấn y cũng hoàn toàn thay đổi - làm cho mọi người bị bẽ mặt. Xen 3: Cũng trong phim North by Northwest, cảnh Cary Grant trên một ngọn đồi trơ trọi phải chạy trối chết vì bị một chiếc máy bay nhỏ lờn vờn rượt bắn.

Xen số 1, một phụ nữ đang tắm vòi sen bị hung thủ lẻn vào phòng tắm rồi tấn công bằng dao hiện đã trở thành một kỹ thuật tiêu chuẩn của phim kinh dị. Có đến hàng trăm phim đâm ra bắt chước xen tắm này. Xen thứ 2 và thứ 3 cũng được phim James Bond chôm nhiều lần. Moonraker dùng xen thứ 2, From Russia with Love xử dụng xen thứ 3.

Thế Kim Dung có xử dụng hoặc vinh danh Hitchcock hay không? Thưa có:

- Trực tiếp: Trong "Tiếu Ngạo Giang Hồ" lúc Lâm Bình Chi đâm chết con trai Dư Thanh Hải tại một quán nhỏ bên đường. Sau đó Lâm Bình Chi về nhà kêu Cha là trưởng của Phước Oai tiêu cục dẫn một đoàn tùy tùng trở lại quán đó để dò la. Tới nơi không thấy chủ quán và người hầu bàn xinh đẹp (tức Nhạc Linh San) đâu hết. Bàn ghế bày biện của quán biến đâu mất, chỉ thấy đó là một nhà bỏ hoang. Xác chết của con Dư Thanh Hải chôn đâu đó cũng biến mất. Ðây là vinh danh Hitchcock xen thứ 2.

- Gián tiếp và phát triển thêm: Xen thứ 1 (và xen thứ 3). Ở chỗ nào? Ở chỗ Ngô Ứng Hùng con trai Ngô tam Quế đã được chọn làm phò mã sắp cưới công chúa Kiến Ninh bị công chúa đập bá súng bất tỉnh rồi . . . cắt đứt đi thằng nhỏ của Hùng! Muốn nhìn rõ sự vinh danh Hitchcock này ta thử phân tích các thành tố chính yếu đã đưa phim Psycho đến hạng nhất về phim kinh dị có phẩm chất từ trước đến giờ. Các thành tố của xen kinh dị 1 gồm:

(i) Nạn nhân trong trạng thái không phòng bị: đang tắm vòi sen

(ii) Nạn nhân không có gì che chở thân thể: đang trần truồng để tắm. Từ chết đến bị thương dù có chống đỡ, nếu bị đâm hay chém.

(iii) Ðịa điểm án mạng rất chật hẹp: chỗ tắm vòi sen không có đường chạy.

Kim Dung vừa vinh danh Hitchcock vừa phát triển cường độ kinh dị đến tột điểm của rùng rợn [6]. Và lại áp dụng cho nam phái! Phù hợp với đề tài thái giám của câu chuyện. Kiến Ninh phải cắt thằng nhỏ của Ngô Ứng Hùng đi bởi nàng không muốn làm vợ Hùng, một phần vì đã quen sex với Vi Tiểu Bảo qua những yêu cầu sa-điết của nàng. Cảnh Ngô Ứng Hùng lúc bị Kiến Ninh thiến sống hoàn toàn nắm đủ tất cả 3 thành tố kể trên:

(i) Nạn nhân trong trạng thái không phòng bị: bất tỉnh nhơn sự vì đầu bị đánh

(ii) Nạn nhân không có gì che thân thể: Kiến Ninh cỡi quần áo y ra trong lúc y bất tỉnh;

(iii) Ðịa điểm "hành quyết" rất chật hẹp: Khi bất tỉnh rồi thì chạy đi đâu.

Nhìn lại người ta để ý ngay cả vụ 9-11 cũng hoàn toàn hội đủ 3 thành tố đó. Nó gây kinh hoàng và mãi mãi biến đổi cục diện toàn cầu.

Ngoài Hitchcock người ta để ý đặc biệt trong Lộc Ðỉnh Ký, Kim Dung vinh danh một lô các phim hoặc truyện hiệp sĩ phương Tây, như của Alexandre Dumas, của Robert Louis Stevenson, của Edmond Dantès (Bá Tước Monte Cristo). Ðặc biệt của Alexandre Dumas trong "3 người Ngự Lâm Quân" (Les Trois Mousquetaires) và "Người đàn ông trong chiếc mặt nạ sắt" (The Man in the Iron Mask - Le Vicomte de Bragellone). Cũng như trong "Tiếu Ngạo Giang Hồ", Kim Dung đã vay mượn một ít của truyện Scaramouche của Rafael Sabatini [5].

Trong truyện "3 người Ngự Lâm Quân" ta còn nhớ D'Artagnan lúc đầu truyện có hẹn đấu gươm với 3 anh ngự lâm kia Athos, Porthos và Aramis trên đường đi tìm ông xếp Ngự Lâm quân để xin gia nhập. Mới đọ gươm với một trong 3 anh kia được vài chiêu, quân lính hoàng triều của phe Richelieu xuất hiện, D'Artagnan quay lại hợp sức với 3 ngự lâm - một cho tất cả, tất cả cho một - đánh lại bọn lính của Richelieu một trận tơi bời te tua!

Trong Lộc Ðỉnh Ký cũng vậy, đầu truyện Mao Thập Bát rất mong mỏi gặp Trần Cận Nam lãnh tụ phe Thiên Ðịa Hội như để ngưỡng mộ anh hùng và nếu được gia nhập luôn. Y có hẹn với 2 người kiếm khách khác ở ngoài thành Dương Châu để đấu kiếm hơn thua. Hai người kiếm khách này thuộc phe Thiên Ðịa Hội của Trần Cận Nam. Ðang mới bắt đầu so kiếm thì quân lính triều Thanh xuất hiện muốn tìm bắt Mao Thập Bát vì nghi Mao là thủ phạm một vụ án mạng. Mao cùng hai đối thủ hẹn đọ kiếm kia quay lại hợp sức với nhau, đánh trả quân Thanh. Với sự trợ giúp ti tiện của Vi Tiểu Bảo, phe phản Thanh đại thắng.

Một chi tiết khác cũng giống như "3 người Ngự Lâm" là Hoàng hậu Sophia nước Nga có liên hệ tình cảm với một bá tước (Vi Tiểu Bảo) của nước Trung Hoa đối nghịch. Giống y như hoàng hậu Pháp có tình nhân Quận công Buckingham của Anh quốc đang sắp có chiến tranh với Pháp.

Kim Dung còn vinh danh Alexandre Dumas với truyện "Người đàn ông trong chiếc mặt nạ sắt" qua việc dựng lên, trong Lộc Ðỉnh Ký, một Thái hậu giả mang mặt nạ đánh lừa mọi người qua nhiều năm tháng. Thái hậu thật vẫn còn sống và bị Thái hậu giả giam nhốt dưới hầm chứa quần áo. Ðọc đến đoạn này, người ta không khỏi liên tưởng đến trí tưởng tượng của Alexandre Dumas trong việc dựng lên anh em sinh đôi thay nhau làm vua Louis XIV của nước Pháp. Người không được làm vua bị mang chiếc mặt nạ sắt và lưu đày ra một hoang đảo thật xa.

Ảnh hưởng của "Ðảo Kho tàng" của Stevenson, hoặc "Bá Tước Monte Cristo" của Dantes có thể tìm thấy bàng bạc qua chuyện Vi Tiểu Bảo khám phá ra một kho tàng thật khổng lồ của nhà Thanh. Muốn tìm kho tàng đó phải kiếm ra một bản đồ tản mác trong 8 quyển sách kinh thất tung lâu năm. Nhân vật chính cũng trở thành vương tước như ai mặc dù y chẳng có học, chẳng biết võ nghệ gì hết. Ðảo Thần Long chứa chấp một băng đảng ăn cướp, với giáo chủ võ nghệ tuyệt luân - khiến người đọc dễ liên tưởng đến truyện "Ðảo Kho Tàng" của Stevenson. Có lẽ đây, lần đầu truyện kiếm hiệp Tàu có màn cao thủ bậc nhất võ lâm là ăn cướp sinh sống ở ngoài hải đảo. Cao hơn Hoàng Dược Sư rất nhiều bực.

Ở những đoạn Khang Hy mưu tính đòn chính trị, thường thường hội ý với Vi Tiểu Bảo, người đọc có thể nhận ra dáng dấp "The Prince" (Vương Công) của Machiavelli. Quyển sách của Machiavelli thường dùng như sách gối đầu giường của những người làm chính trị. Cũng giống như quyển Binh Thư Tôn Tử (The Art of War) cho những nhà quân sự, và ngày nay, cho những tổng lý của các công ty thương mại.

Ảnh hưởng của các phim James Bond cũng rất đậm nét trong các truyện Kim Dung, nhất là Lộc Ðỉnh Ký. Ðiểm đặc thù nhất của phim James Bond là gì? Là những xen đấm đá hoạt động không ngừng, gọi nôm na theo tiếng Anh là non-stop action. Những phim James Bond đã tạo thành một genre-loại đặc biệt, chứa những cảnh hiểm nguy, hoạt động đấm đá không ngừng, mà nhiều phim hoạt động hoặc kinh dị bây giờ vẫn thường xuyên xử dụng. Ðiển hình các phim với những tài tử như: Sylvester Stallone (Rambo), Wesley Snipes (Passenger 57, The Art of War), và Bruce Willis (Die Hard), v.v.. Lộc Ðỉnh Ký cũng vậy. Ta thấy Vi Tiểu Bảo cứ trải qua hiểm nguy này tiếp đến hiểm nghèo khác. Không ngừng. Những cảnh đó thường dễ làm người đọc nín thở bởi Vi Tiểu Bảo không biết mấy võ nghệ. Ngoài ra Kim Dung cũng đã vinh danh James Bond bằng cách cho Vi Tiểu Bảo có thật nhiều đào, nhiều vợ, giống như điệp viên 007.

Quay trở lại văn học Trung Quốc, Lộc Ðỉnh Ký vinh danh những văn hào nào với những tác phẩm nào? Rất nhiều, đếm không hết lại sợ thiếu sót. Nhưng rõ rệt nhất: Hồng Lâu Mộng của Tào Tuyết Cần và AQ của Lỗ Tấn. Hai tác phẩm hàng đầu của Trung Hoa nhưng hãy còn hơi xa lạ đối với người Việt.

Hồng Lâu Mộng được đứng hàng đầu trong tứ tài tử của văn đàn Trung Hoa, và đã được chính Mao Trạch Ðông hồi còn sinh thời không tiếc lời ngợi khen. Ba kiệt tác kia: Thủy Hử của Thị Nại Am, Tây Sương Ký của Vương Thực Phủ và Tam Quốc Chí của La Quán Trung.

Tác giả chính của Hồng Lâu Mộng là Tào Tuyết Cần. Với Cao Ngọc viết tiếp thêm 40 hồi sau cùng. Theo Vương Hồng Sển [7] Hồng Lâu Mộng độc đáo ở chỗ khác với các loại tiểu thuyết khác như Tây Du, Thuyết Ðường, Chinh Ðông, Chinh Tây là một tiểu thuyết đầu tiên không kết hợp từ những mẩu chuyện nhỏ un đúc trong chốn dân gian. Một sáng tác theo cảm hứng văn nghệ của Tào Tuyết Cần, tuy có dựa vào kinh nghiệm và hoàn cảnh gia đình của chính tác giả. Hồng Lâu Mộng khởi mộng từ khoảng năm 1765 vào đời vua Thanh Càn Long năm thứ 28. Câu chuyện dựng chung quanh một hai gia đình vọng tộc, trong đó có họ Giả, với những tình tiết của những người thân thuộc họ hàng với nhau. Có sex, có đồng tình luyến ái, có những mối tình tay đôi tay ba, trong chốn lầu cao cửa rộng. Về sau gia đình gặp nạn suy sút, nhân vật chánh Bửu Ngọc thi đỗ nhưng lại chọn đường xuất gia đi tu. Hồng Lâu Mộng thành công nhờ ở nhiều điểm, nhưng điểm chánh nằm ở hội tụ được phân tích tình cảm và tâm lý của một lô các nhân vật, nhất là các nhân vật nữ phái. Từ mẹ của Bửu Ngọc đến các chị, các em, các người bà con thân thuộc và luôn cả các a-hoàn phục dịch trong nhà.

Kim Dung vinh danh Tào Tuyết Cần bằng rất nhiều cách. Thứ nhất Kim Dung bắt chước đoạn đầu và đoạn cuối của Hồng Lâu Mộng. Hai hồi đó không liên hệ trực tiếp đến câu chuyện ở phần chính. Trong Hồng Lâu Mộng tác giả cho vào hồi đầu câu chuyện một tảng đá lâu ngày thu thập được linh khí biết di chuyển và biết viết lách ghi lại câu chuyện của Hồng Lâu Mộng. Chuyện đó được một ông sư đi ngang khám phá và chép lại cho đời sau. Sau khi kết cuộc câu chuyện, vị đại sư đó mới hỏi hòn đá tại sao câu chuyện không có nhân vật nào đại trung, đại thần hết vậy. Như vậy làm sao để đời được. Trong Lộc Ðỉnh Ký cũng vậy. Kim Dung cho vào một đoạn đầu kể chuyện những nhà trí thức ái quốc (có thật, như Cố Viêm Vũ, Hoàng Tông Hy và Lã Lưu Lương; cũng như nội tổ của chính tác giả Kim Dung Tra Lương Dung là Tra Y Hoàng) gặp gỡ nhau và trong lúc trà dư tửu hậu bàn về những chuyện vu oan giá họa do những gian thần người Hán gây nên để trừ khử các nhà ái quốc. Rồi vào hồi hai mới giới thiệu Vi Tiểu Bảo và vào câu chuyện. Gần đến kết cuộc Kim Dung mới lôi mấy nhà trí thức đó ra thuyết phục Vi Tiểu Bảo trở về Thiên Ðịa Hội để tiếp tục chuyện phục quốc. Nặng tình nghĩa với vua Khang Hy, và cũng thành thật với chính mình, Vi Tiểu Bảo đã chọn con đường rút lui về ở ẩn.

Lộc Ðỉnh Ký cũng vinh danh Hồng Lâu Mộng bằng cách mô tả tỉ mỉ những mâu thuẫn tâm lý tình cảm của một lô các nhân vật phái nữ. Ða số đều lọt vào tay và trở thành vợ của Vi Tiểu Bảo. Tâm lý và những ước mơ, khát vọng cùng những giằng co nội tâm của Vi Tiểu Bảo, một người con trai xuất thân bần cùng và thất học, cũng được Kim Dung phân tích đến nơi đến chốn. Nếu Hồng Lâu Mộng có tả về thủ dâm mộng dâm, Lộc Ðỉnh Ký đáp ứng bằng sex theo khổ dâm sa điết của Kiến Ninh, và mặc cảm Oedipus của Vi tiểu Bảo, si mê những người đàn bà đáng tuổi má mình: Trần Viên Viên và Tô Thuyên. Lại cũng như Hồng Lâu Mộng, Lộc Ðỉnh Ký cho thấy sau bức màn nhung bên ngoài, sự xung đột vẫn thường xuyên xảy ra giữa các tầng lớp, phe phái và thế lực, phục Minh hay ngay trong triều Thanh, của xã hội phong kiến. Lộc Ðỉnh ký còn dứt khoát theo con đường Hồng Lâu Mộng đã vạch ra: Không thèm xây dựng tiểu thuyết trên những nhân vật đại thần đại trung nữa. Ðặt kính hội tụ vào một nhân vật xuất thân từ nơi đầu đường xó chợ và đưa y đến hàng đại thần nhà Thanh hay . . . gian tặc đối với người Hán, tùy theo góc nhìn của xã hội đương thời.

Ảnh hưởng của Lỗ Tấn ra sao? Lỗ Tấn một văn hào lớn của Trung Hoa trong thế kỷ 20. Chuyên về truyện ngắn nói lên những khổ đau của con người, Lỗ Tấn nổi tiếng nhất với "AQ chính truyện" (Muốn đọc Lỗ Tấn, xem ghi chú [8]). Và Vi Tiểu Bảo của Kim Dung có nhiều điểm rất giống nhân vật AQ của Lỗ Tấn. Hai người Bảo và Q đều xuất thân từ giai cấp thấp hèn nhất của xã hội Trung Hoa. Cả hai đều thuộc lớp mù chữ. Riêng Vi Tiểu Bảo mù chữ đến nỗi ký tên thật y thành tên Tiểu viết ra như vẽ hình "thằng nhỏ". Thật thành giả, giả thành thật. Vi Tiểu Bảo ký tên "thằng nhỏ". "Thằng nhỏ" viết theo chữ Hán là Vi Tiểu Bảo. Cả AQ và Vi Tiểu Bảo đều thích cờ bạc đánh bài. Kim Dung đã vinh danh Lỗ Tấn bằng cách xây dựng những cá tính chánh của Vi Tiểu Bảo giông giống AQ. Tuy nhiên Vi Tiểu Bảo có số sướng hơn AQ rất nhiều và không bị đoản mệnh như AQ.

Thấp thoáng trong Lộc Ðỉnh Ký ta còn gặp nhiều hoạt cảnh và hình dáng của những nhân vật truyện Tàu thuở trước. Ở cặp Vi Tiểu Bảo-Song Nhi, ta có thể nhớ đến Cam Tử Long-Lã Mai Nương, trong truyện Lã Mai Nương. Lã Mai Nương do vị Thầy của Cam Tử Long cho xuống núi đi theo Cam Tử Long để tìm kẻ tử thù. Song Nhi cũng vậy - được Trang gia chủ tặng riêng cho Vi Tiểu Bảo - để theo và bảo vệ chàng bôn ba trong chốn giang hồ.

Rồi giống như Thủy Hử , Lộc Ðỉnh Ký tạo nên đám Thần Long giáo tuy ăn cướp nhưng cũng lấy được một chút chính danh, do ở việc cấu kết với Nga chống lại Thanh triều, và lo tìm kho tàng để lấy vàng bạc châu báu, cắt đứt long mạch nhà Thanh. Thủy Hử có nhà sư Lỗ Trí Thâm chuyên lén đi ăn thịt cầy, Lộc Ðỉnh Ký có sư Vi Tiểu Bảo pháp danh Hối Minh lén đi vào một kỹ viện gần chùa cho đỡ buồn trống, cho đỡ chổng. Chẳng may chưa làm ăn gì hết y bị hai cao thủ phái nữ tấn công đòi giết. Y phải hoá trang kỹ nữ trốn chạy có cờ.

Lộc Ðỉnh Ký còn thường xuyên nhắc đến các nhân vật của Tam Quốc Chí. Vi Tiểu Bảo khi thống lãnh quân đội cũng áp dụng những chiến thuật của Khổng Minh y học lóm được từ những khách làng chơi ghé lại kỹ viện Lệ Xuân, nơi y sinh sống thuở thiếu thời. Lộc Ðỉnh Ký cũng vinh danh con ngựa xích thố của Lã Bố và Quan Vân Trường bằng cách cho vào một hồi về giống ngựa đua Vân Nam của Ngô Ứng Hùng.

Lộc Ðỉnh ký cũng lên án một vài "minh quân" người Hán bằng cách nhắc lại sự tích Lưu Bang, được chim bẻ ná, giết tướng Hàn Tín sau khi thắng Hạng Yũ. Kim Dung mượn lời nhân vật Lã Lưu Lương nói với Vi Tiểu Bảo vào đoạn cuối, nhằm thuyết phục anh chàng họ Vi đứng ra lãnh đạo Thiên Ðịa Hội và các phong trào kháng Thanh: "Hán Cao Tổ (Lưu Bang) xuất thân đại lưu manh, làm chuyện bậy bạ còn nhiều hơn ngươi, nhưng rốt lại vẫn trở thành ông vua khai quốc của nhà Hán". Diễn lại vở tuồng Lưu Bang hạ Hàn Tín, Lộc Ðỉnh ký cho Trịnh Khắc Sảng công tử của xếp của Trần Cận Nam dùng dao nhọn đâm lén vào lưng của Trần Cận Nam chỉ vì Cận Nam, mặc dù hết sức trung thành với Trịnh Vương, không hoàn toàn tuân những mệnh lệnh điên khùng của công tử Khắc Sảng. Lộc Ðỉnh Ký cũng vẽ lại hoạt cảnh Hàn Tín thuở thiếu thời luồn trôn một tay anh chị đứng đường, bằng cách cho Vi Tiểu Bảo chui qua háng của Tô Thuyên để trốn chạy Hồng Giáo chủ đang rượt đuổi.

Giải hoá các mâu thuẫn

Một trong những kỹ thuật chính yếu của nghề viết tiểu thuyết là tạo cho nhân vật các giằng co tâm lý khó xử, nhiều tình huống mâu thuẫn, và nếu được những thế lực hoặc xã hội hoặc cá nhân, tương phản, kình chống với nhau, trùm lên đầu nhân vật chính. Rồi tìm cách giải tỏa chúng vào cuối câu truyện.

Tất cả những nhà văn nổi tiếng như cồn đều đã đề ra giải pháp ổn thoả cho các gút mắt trong truyện mà đa số các độc giả có thể chấp nhận được hoặc cảm thấy thoải mái. Thí dụ, truyện Kiều phải kết cuộc làm sao mới vừa tổng hợp được các triết lý Khổng Mạnh, triết lý nhà Phật, triết và hồn Việt [9], luân lý và đạo đức của dân tộc, đạo làm người, thuyết tài mệnh tương đố, v.v. vừa giải quyết được mâu thuẫn của câu chuyện. Văn hào Nguyễn Du đã thành công trong chuyện đó ngoài việc chấm bút tạo áng thi văn bất hủ.

Truyện của Kim Dung sở dĩ thành công, một phần lớn nhờ ở những giải hoá các mâu thuẫn đó. Trong "Anh Hùng Xạ Ðiêu" Quách Tỉnh trái lời 7 vị Thầy đi yêu con gái một người mang danh Ðông Tà. Trước đó y đã yêu và hứa hôn với một người công chúa Mông Cổ. Trong "Lục mạch Thần Kiếm" Kim Dung cho người đọc nín thở khi thấy thái tử Ðoàn Dự chuyên đi yêu các em gái của mình. Rồi tới màn Ðoàn bị giam chung với một em gái và bị uống thuốc kích dâm sao đó. Kết cuộc người Ðoàn Dự mê mệt, Vương Ngọc Yến, do chính bà mẹ Ðoàn Dự trối trăn, thật ra không phải là em gì của Ðoàn Dự hết. Mấy người em gái kia cũng vậy. Con muốn lấy ai thì lấy. Trong "Tiếu Ngạo Giang Hồ" Lệnh Hồ Xung được nhiều người yêu. Mỗi người yêu một kiểu. Rồi Lệnh Hồ Xung lại đi yêu con gái của giáo chủ của Ma giáo. Kim Dung phải lái người đọc làm sao để ai cũng có thể chấp nhận cô dâu Nhậm Doanh Doanh với đầy lý lịch Ma giáo đó.

Tiểu thuyết muốn được người đọc yêu chuộng hơn nữa phải luôn luôn có những mâu thuẫn tiểu tiết lồng trong những mâu thuẫn gút mắt chính. Thí dụ 1, mâu thuẫn tiểu tiết về tương quan của Ngũ Hành như đã trình bày ở trên. Thí dụ 2, một trong những mâu thuẫn tiểu tiết của Lộc Ðỉnh Ký là chuyện ăn vụng giữa Kiến Ninh với Vi Tiểu Bảo. Vua Khang Hy với mưu tính chánh trị muốn gả em gái Kiến Ninh cho Ngô Ứng Hùng con trai Ngô Tam Quế. Làm sao giải quyết chuyện động trời này, và đồng thời gây được kinh dị, tiếu lâm, thích thú, vừa thoả đáng được các đòi hỏi của luân lý - và cũng nằm trọn trong cái đề luận phụ của câu chuyện (về . . . có thằng nhỏ và không có thằng nhỏ). Kim Dung đã giải tỏa cái gút đó bằng cách cho Kiến Ninh đánh vào đầu Ứng Hùng bất tỉnh rồi lẹ tay cắt đứt . . . thằng nhỏ của Ứng Hùng đi. Rồi la to rằng Ứng Hùng vào đó tính hiếp thị cho biết mùi vợ chồng và để . . . trả thù dân tộc! Sau đó dù Ứng Hùng có trở thành chồng Kiến Ninh, Ứng Hùng cũng chỉ giống như . . . một thái giám mà thôi.

So với các tiểu thuyết trước của Kim Dung - những mâu thuẫn chính và phụ trong Lộc Ðỉnh Ký khó khăn gấp bội phần. Khó khăn ở chỗ đó là những mâu thuẫn tình cảm, thế lực và nhất là chính trị, chủng tộc và văn minh, văn hiến, v.v. Những mâu thuẫn này Kim Dung đã giải hoá thật hay.

Hai mâu thuẫn chính, thường xuyên giao tác với nhau, nằm ngay ở phần xương sống của câu chuyện: Phản Thanh phục Minh với lòng ái quốc và chủ nghĩa cá nhân. Lồng vào đó một ý niệm thể hiện qua thành ngữ quen thuộc của người Ăng Lê, nổi tiếng với đầu óc thực tiễn: "If you can't beat them, join them" (Nếu bạn không hạ được đối phương, hãy nhập bọn với chúng). Nhiều khi được kèm theo: "And beat them later" (Và để rồi hạ bọn chúng sau).

Theo với nền luân lý Khổng Mạnh và văn hoá Trung Hoa từ ngàn đời, quân dân phải luôn luôn trung thành với vua. Người ta chỉ có thể chuyển đổi sự trung thành đó khi triều đại hoàn toàn suy thoái và có một vị vua khác, do . . . mệnh trời chỉ định, đã lên được ngôi vua ở triều đình rồi. Những vị quan to có bất mãn với đương kim hoàng đế hay bị thất sủng, chỉ có nước xin vua cho trở về qui ẩn. Vua hay chúa của mình có bị thất trận, chết, và nếu không có ấu chúa cần phải bảo vệ, quần thần phải tuẫn tiết chết theo. Ðó là trường hợp Vương Thừa Ân đối với vua cuối triều Minh Sùng Trinh. Trường hợp hàng ngàn tướng sĩ theo phò các vị hoàng thân triều Minh nổi dậy chống nhà Thanh - khi chủ tướng của họ bị nhà Thanh dẹp tan. Những đám tàn quân cấp dưới có thể di tản sang một nước khác để chờ ngày trở về. Như trường hợp một nhóm Thiên Ðịa Hội di tản sang nước An Nam, sau những cuộc khởi nghĩa chống nhà Thanh bị thất bại.

Thêm vào đó, cho mãi đến thế kỷ 20, lối sống dân tộc Trung Hoa vẫn luôn dựa vào hệ thống giá trị của văn hoá ngàn đời, thể hiện bằng những câu "thánh ngữ" như: "Quốc gia hưng vong thất phu hữu trách" hoặc "Quân xử thần tử - thần bất tử bất trung". Hay tam cương ràng buộc "thần phải trung thành với quân vương, con cái phải hiểu để với cha, vợ phải tòng phục chồng". Giá trị của con người nằm ở ngũ thường: "Trung, nghĩa, lễ, trí, tín". Còn rất nhiều, nhiều "thánh ngữ" biểu tượng cho hệ thống văn hoá, và giá trị cổ truyền Trung Quốc. Nhưng hay cũng như dở, hợp lý hay vô lý, chính các "thánh ngữ" này đã giúp Trung quốc không ít trong việc tồn tại như một quốc gia cho mãi đến ngày nay. Chủ nghĩa cá nhân theo kiểu Tây Phương có một chỗ đứng rất nhỏ, nếu không nói không có, trong xã hội Trung quốc cổ xưa, nhất là trong tầng lớp quyền bính. Thánh ngữ "quân xử thần tử - thần bất tử bất trung" lan tràn mạnh mẽ sang những nước láng giềng, và lên đến tột đỉnh tại Nhật Bản tại các lãnh địa sứ quân. Như rất nhiều phim hiệp sĩ đạo của Nhật cho thấy [11]. Chủ nghĩa cá nhân, mặc dù luôn tiềm ẩn với mọi con người, làm sao phát triển được khi vua hay sứ quân bảo mình chết - không cần biết vì lí do gì - mình cũng phải chết. Nhỡ các quân vương đó bảo mình chết vì muốn chôm đào nhí hay giựt bạn trai của mình thì sao?

Cái văn hoá phong kiến đó đã chui vào xương tủy dân Hoa suốt cả ngàn năm. Không nhúc nhích. Văn chương chữ nghĩa lúc nào cũng nhồi vào sọ người dân những thứ "thánh ngữ" này. Ngay đến các tiểu thuyết trước thời Hồng Lâu Mộng - như chính Hồng Lâu Mộng có nhắc nhở - thường phải có vai trò của một vị đại trung đại thần bảo vệ giang san và . . . triều đình. Hồng Lâu Mộng chính lần đầu tiên một truyện dài đã không xử dụng vai chính những đại trung đại thần. Và Kim Dung chính tác giả đầu tiên đã đối diện trực tiếp đến những "thánh ngữ" đó và hùng hồn biện minh cho việc dung hoà với một số điều hay việc tốt của văn hoá phương Tây. Hành trình của Vi Tiểu Bảo chính là hành trình của một người mang chủ nghĩa cá nhân xuyên qua những xung đột và mâu thuẫn về chính trị, văn hoá, hệ thống giá trị Khổng Mạnh, biên giới quốc gia, quân sự, võ biền, tình cảm, luyến ái, và mưu cầu tự do và hạnh phúc cuộc đời. Tất nhiên hành trình đó đầy chông gai hiểm nghèo và người phiêu lưu bất đắc dĩ đó chỉ được trang bị bằng bản lĩnh chợ trời, và bản năng sinh tồn tự nhiên con người, mô tả bằng câu thành ngữ của người Anh: "Nếu bạn không hạ được đối phương - hãy nhập bọn với chúng, để rồi hạ chúng sau".

Vi Tiểu Bảo trước hết bị giam lỏng trong hoàng cung. Sau đó sợ chết, y phải gia nhập đoàn thái giám. Rồi tình cờ y quen biết với hoàng đế Khang Hy trạc tuổi y, ưa tập võ nghệ. Sau khi giết Ngao Bái y bị phe Thiên Ðịa Hội câu lưu vì thấy y người Hán sao lại có chức trong triều đình Thanh. Y phải gia nhập Thiên Ðịa Hội. Sau đó vài năm y bị bọn Thần Long giáo bắt ép gia nhập. Hai người y yêu Phương Di và Mộc Kiếm Bình cũng vậy. Cũng bị cho uống thuốc độc bắt phải theo Thần Long giáo. Y phải gia nhập vì sợ chết nhưng trong bụng y ghét nhất Thần Long giáo, chỉ trừ Hồng phu nhân Tô Thuyên thôi. Nhiều năm sau, chính y được Khang Hy giao sứ mệnh đi dẹp Thần Long giáo. Ðối với Thần Long giáo, đặc biệt Vi Tiểu Bảo vì "không hạ được chúng, nên đã nhập bọn với chúng, để rồi hạ chúng sau". Và gần như bản năng sinh tồn của Vi Tiểu Bảo trong những lúc nguy biến đều có thể được mô tả một trăm phần trăm như kiểu thành ngữ này. Cứ mỗi khi Vi Tiểu Bảo áp dụng thành ngữ Ăng Lê này, y đều thành công. Tuy nhiên, một đôi khi nó cũng đưa y đến bên bờ vực thẳm, mất mạng như chơi.

Thế nhưng chiến thuật kiểu cơ hội chủ nghĩa đó hiển nhiên rất mâu thuẫn với hệ thống giá trị cổ truyền Trung Hoa. Ngoài đó ra, Lộc Ðỉnh Ký còn chất chứa hàng chục thứ mâu thuẫn khác nữa. Kim Dung đã giải quyết mâu thuẫn của xung đột giữa hệ thống giá trị cổ truyền Trung Quốc với mưu cầu tự do và hạnh phúc cho con người Vi Tiểu Bảo ra sao?

Quan trọng nhất, Kim Dung cho Vi Tiểu Bảo hoàn toàn thất học. Nhưng cho Vi một mớ hiểu biết lờ mờ về lịch sử . . . theo kiểu chợ trời bởi những kiến thức đó của anh tiến sĩ chợ trời đã được thu lượm và nghe lóm từ những "tiên sinh" kể chuyện ở đầu đường hay tại kỹ viện nơi Vi sinh sống. Ðặc biệt Vi Tiểu Bảo gần như bị dị ứng đối với vấn đề học hành, từ chữ nghĩa đến võ nghệ. Ðiểm này hơi vô lý bởi Tiểu Bảo làm quan lớn một thời gian dài - y chỉ cần thuê một số lão sư đến dạy chữ nghĩa cho y, ngay cả vừa ngủ vừa học cũng được. Nhưng không, từ đầu đến đuôi Vi hoàn toàn không chịu khó học được một câu, viết được một từ đàng hoàng. Mặc dù y biết y nói sai bởi có nhiều người, kể cả Khang Hy, sửa sai những câu thánh ngữ y thốt ra, hoặc những điển tích y muốn ví von so sánh. Tại sao vậy? Tại vì nếu cho y biết chữ y sẽ bị kẹt vào thế: "nước nhà lâm nguy, người trí thức phải có trách nhiệm"! Phải gia nhập Thiên Ðịa Hội, hoặc phong trào của mấy vị hoàng thân vương tôn tàn dư của Minh Triều, một cách nghiêm túc.

Không thể nào cù cưa với Khang Hy hoặc ăn nằm với Kiến Ninh được trừ phi muốn ... trả thù dân tộc. Có chữ một chút khộng được, bởi có chữ có nghĩa Vi biết cái giá trị chính giữa của xã hội, của dân tộc Trung Hoa, biết phân biệt theo với hệ thống giá trị đó, phe ta phe thù. Những giá trị và quan niệm Trung Hoa đó không cần biết hay hoặc dở, đúng hay sai, kinh điển hay không, vẫn là một hệ thống giá trị của một dân tộc. Vi mang nợ núi sông vì đã được hưởng thụ thành quả của hệ thống giá trị đó. Do đó Vi phải trả nợ đó. Vi cũng, bởi ràng buộc của hệ thống giá trị cũ, không thể theo được chủ nghĩa cá nhân, mưu cầu tự do hạnh phúc cho riêng mình. Chính bởi ở lý do đó, muốn được tự do hành động theo riêng bản năng mình, phù hợp với chủ nghĩa tự do cá nhân, Vi không thể biết gì đến chữ nghĩa.

Vi Tiểu Bảo cũng không thể học võ với ai, bởi môi trường võ nghệ lại chỉ có một mục đích tối thượng. Người chốn giang hồ hay võ biền phải lo bênh vực kẻ yếu thế cô. Phải lo đáp ơn sông núi. Phải dùng tài võ nghệ của mình để điều binh khiển tướng hòng đánh đuổi quân xâm lăng ra khỏi bờ cõi nước nhà. Người kiếm khách Trung Hoa còn luôn luôn có những quy ước hành động bất thành văn. Trong đó, không bao giờ có cái chuyện "Nếu bạn không hạ được đối phương, hãy nhập bọn với chúng" mà Vi Tiểu Bảo hằng xử dụng như một ngón võ tuyệt chiêu không những bảo vệ tính mạng của mình, mà còn dùng nó để thăng quan tiến chức. Không được, Vi Tiểu Bảo không được biết đến chữ và võ. Kim Dung giải hoá các mâu thuẫn đó bằng cách cho Vi Tiểu Bảo hoàn toàn bị dị ứng từ chuyện học chữ đến chuyện luyện võ. Vi Tiểu Bảo vẫn mù chữ và dốt võ từ đầu đến cuối truyện. Lộc Ðỉnh Ký đã cho thấy những tình huống, những màn kịch rất hợp nhất với lô gích. Từ lô gích ngũ hành đến lô gích của hệ thống các giá trị, cũ và mới.Với một bố cục thật chặt chẽ.

Tuy nhiên, ở điểm này ta thấy, Kim Dung đã dung hoà hay đúng hơn "nhượng bộ" thế lực của hệ thống giá trị cũ của Trung Hoa. Luận đề chính vẫn không hề hấn, không bị suy suyển: Thời đó vẫn có một con người đã có thể hợp tác với Thanh triều. Vô học hay có học theo nguyên lý bất nhị cũng y như nhau! Chỉ quan trọng ở chỗ có một người Hán làm lớn trong triều nhà Thanh và làm được nhiều điều ích lợi cho dân Trung Hoa và nước Trung Hoa. Và động cơ mạnh mẽ để thúc đẩy và giúp y làm nên việc, là chủ nghĩa cá nhân, mưu cầu tự do hạnh phúc con người. Và cá nhân y thành công - không bị Khang Hy giết chết, hay các phe kháng Thanh cho đi mò tôm, dù biết y một dạ hai ba lòng - chung qui cũng nhờ ở những giá trị cổ truyền Trung Hoa vẫn có trong người y: lòng chung thủy, trung thành, và hai chữ tín nghĩa. Y cũng có trí, dù đó là một loại trí chợ trời. Trí chợ trời với trí khoa bảng, qua Lộc Ðỉnh Ký, không biết loại nào hơn loại nào. Nếu so sánh cái trí của y với cái trí của sư phụ y là Trần Cận Nam. Trần Cận Nam học sâu hiểu rộng, thường là thần tượng, người hùng kiểu mẫu trong giới giang hồ. Thế nhưng cái trí của Trần Cận Nam bị mớ giá trị cổ truyền kia làm cho Nam mù mờ không biết rằng Nam đang phục vụ một sứ quân bất tài như Trịnh Khắc Sảng để rồi về sau bị Sảng đâm lén sau lưng. Trong khi Vi Tiểu Bảo nhờ thất học nhưng với trực giác và trí thông minh của giới chợ trời biết tẩy ngay con người của Trịnh Khắc Sảng ngay khi mới gặp. Nhưng đối với lễ, y hoàn toàn không có. Kim Dung cho y chửi thề từ đầu đến cuối. Rồi lây tính chửi thề qua Khang Hy. "Con mẹ nó,...". Thỉnh thoảng y cũng khoái ăn mặc đẹp theo cách nhà quan nhưng dường như y có vẻ không được thoải mái mấy.

Phải chăng chi tiết "thất học" của Vi Tiểu Bảo được Kim Dung dùng để đưa một thông điệp chính. Với hai thành tố. Thứ nhất có nên dung hoà hoặc bổ xung hệ thống giá trị cổ truyền Trung Hoa với một số giá trị Tây phương hay không. Bút hiệu của Kim Dung đích thị mang ý nghĩa của thành tố này. Kim mạng Kim theo Ngũ hành, chỉ phương Tây, cũng có nghĩa hiện đại. Dung tức dung hoà! Kim Dung tức dung hoà với giá trị hiện đại, phương Tây? Thành tố thứ hai phải chăng khi cho Vi Tiểu Bảo, một người trẻ tuổi, hoàn toàn vô học cả văn lẫn võ Kim Dung có ngụ ý những người mù chữ, bởi không biết gì hết đến hệ thống giá trị cổ truyền và những ràng buộc của nó, và hãy còn trẻ, nên dễ hành động theo bản năng con người mình hơn và dễ . . . tiếp thu được cái hay cái mới hơn?

Còn thêm một thông điệp nhỏ nữa trong vấn đề Vi Tiểu Bảo không biết nhiều võ công. Bởi có biết cũng không giúp ích được cho y trong những công tác trọng đại Khang Hy giao phó. Thời Vi Tiểu Bảo bắt đầu là thời thế lực mạnh mẽ của súng đạn Tây Phương. Nước Tàu từ đó về sau cho dù có đến "Võ Lâm Ngũ Thiên Bá" cũng khó lòng thay đổi được cục diện quốc phòng, và an ninh quốc gia. Giới giang hồ đang bắt đầu lo gác kiếm.

Nếu nhìn kỹ, chi tiết bắt Vi Tiểu Bảo phải thất học, từ văn đến võ, thật ra là một "nhượng bộ" giả của Kim Dung. Chính ra đó là lối thuyết phục nhẹ nhàng của tiểu thuyết. Vừa để giải toả mâu thuẫn vừa đưa những người đọc khó tính, và bảo thủ đối với hệ thống giá trị cổ truyền của Trung Hoa, đến chỗ chấp nhận các hành vi của Vi Tiểu Bảo. Kim Dung đã làm người đọc khó tính dễ bị lôi cuốn bởi phiêu lưu vô bờ bến, tuy thiếu chất võ hiệp của chàng Hán tộc họ Vi. Trong lúc tác giả âm thầm tấn công hệ thống giá trị cổ và đồng thời rót nhẹ vào tai người đọc những điểm nóng hay nguội cần phải dung hoà với văn hoá và văn minh Tây phương.

Mặt khác, có nhiều chi tiết cho thấy Kim Dung vẫn chấp nhận tam cang ngũ thường nhưng đưa ra một thông điệp mới: Cần phải xem lại từng giá trị một và áp dụng theo tùy trường hợp. Thí dụ, Vi Tiểu Bảo vẫn có thể trung thành với vua gốc Ðông Di là Khang Hy, bởi vua chơi đẹp với y. Trước công tác nào cũng vậy vua hứa nếu y làm được việc vua sẽ trọng thưởng. Và vua luôn luôn giữ lời hưá. Y trung thành với vua đến nỗi sẵn sàng chết thay vua, hay không thèm đi phá long mạch người Mãn để cho nhà Thanh tiêu tùng. Trong khi đó các phe phục Minh chưa gì đã xâu xé lẫn nhau và tuy cùng chung mục tiêu vẫn thường xuyên tranh chấp với nhau, bởi mỗi phe đi phò một ông hoàng thân khác nhau. Họ không bao giờ nhất thống, trong tư tưởng và hành động. Tệ hơn nữa Trịnh Khắc Sảng chưa chi đã đâm lén công thần số 1 của mình là Trần Cận Nam chỉ vì Cận Nam chỉ tuân theo lệnh của Trịnh Vương, cha của y. Tiếu lâm hơn, Kim Dung vạch ra mặt trái của loại "tam cang" chồng chúa vợ tôi bằng cách mô tả, công chúa Kiến Ninh hành hạ Vi Tiểu Bảo trong những lần chăn gối vì sa điết, và lúc "xuất giá tòng phu" Kiến Ninh lại "xuất chiêu" cắt đứt cái phụp "thằng nhỏ" của phu quân Ngô Ứng Hùng. Vi Tiểu Bảo đã từng chui qua háng Tô Thuyên, một người vợ sau này của y. Vi Tiểu Bảo theo người yêu công chúa Sophia trở về Mát-Cơ-Va, v.v. Trong nhiều chi tiết về vợ chồng, Kim Dung cho thấy người vợ vẫn có thể trên cơ, hay nằm trên người chồng như thường.

Lộc Ðỉnh Ký cho thấy Kim Dung cũng không hoàn toàn phá tung toàn bộ hệ thống giá trị cổ truyền Trung quốc. Ta để ý Vi Tiểu Bảo sau cùng phải . . . cưới tất cả những người đàn bà nào y iêu hay iêu y. Ðặc biệt gồm cả 4-5 bà y đã xơi tái nhân cơ hội mấy người này bị hôn mê bất tỉnh. Rồi kể cả Kiến Ninh người như đã .... hiếp dâm y và cho y biết mùi khổ lụy của tình ái. Y đều cưới tất cả và đem về trình diện với má y đàng hoàng. Chỉ trừ công chúa Sophia của nước Nga, y chỉ yêu sơ sơ rờ-măng thôi. Ở điểm này ta thấy Kim Dung lại rất cẩn thận, nói lên quan niệm, luyến ái phương Tây không nhất thiết phải dẫn đến vợ chồng.

Tạo ra Vi Tiểu Bảo một người thất học trèo lên địa vị cao sang Kim Dung cũng đưa một thông điệp nhỏ: Vi Tiểu Bảo không tham lam quá độ. Lúc nào cũng thấy mình được như vậy là quá rồi. Ngay cả chết y cũng (giả bộ?) không sợ. Chỉ nhờ ở chỗ y biết y dốt và sức y có hạn. Phải chăng đó cũng là chìa khoá để đưa đến giác ngộ, tự do và hạnh phúc? Một điểm tiếu lâm nhỏ ở cuối câu chuyện phải kể, các nhà nhân sĩ đi kiếm Vi và thuyết phục y ra làm minh chủ Thiên Ðịa Hội. Họ tính gạt y bằng cách xin y tên tuổi của bố y để đi xin cho y một lá số tử vi. Chắc chắn số tử vi đó sẽ nói y có mạng đế vương để y ham mà nhảy ra lãnh chức minh chủ các phong trào kháng Thanh. Nhưng không, y không ham gì cả và đáp chính y không biết cha là ai, và nói làm lãnh tụ cực lắm y không đủ sức. Thông điệp về "tri túc", về biết đủ là đủ, lại được Kim Dung nhấn mạnh qua lời nói của Hồng phu nhân tức Vi phu nhân sau này, trước khi Hồng An Thông từ giã cõi đời. Lúc đó Hồng giáo chủ đòi giết Vi Tiểu Bảo, và lẩm bẩm đòi sống thọ ngang . . . với trời. Hồng phu nhân che chở cho Vi và nói đại khái: "Ông đã oai danh cả đời. Như vậy là đủ quá rồi".

Trong việc cấu tạo nhân vật Vi Tiểu Bảo, Kim Dung còn để ý đến gốc gác của Vi bằng cách cho bà mẹ Vi tiết lộ với Vi thật ra bà không biết cha y là ai. Bởi bà có đủ thứ khách tại kỹ viện: Hán, Mông, Tạng, Mãn, v.v. chỉ trừ người Tây dương mà thôi! Với mục đích gì? Có lẽ cho Bảo có gốc gác về huyết thống mù mờ Bảo có thêm một lý do khác để hợp tác với người Mãn Thanh. Y có thể nói cha tôi có lẽ là người Mãn. Ðể ý Kim Dung còn bảo hiểm và tránh tiếng cho Vi Tiểu Bảo bằng cách cho Vi sống trên một hòn đảo với bảy người vợ trong suốt những năm vua Khang Hy đem quân dẹp hết các nhóm phản Thanh phục Minh. Ðể Vi Tiểu Bảo hoàn toàn không bị mang tiếng Hán gian. Thật ra Kim Dung chỉ muốn Vi Tiểu Bảo được an toàn trên hệ thống xa lộ của giá trị cổ truyền, không phải đơn thuần vì lí do nhượng bộ (giả). Nhưng có lẽ bởi những thông điệp chính cần được chải chuốt đến mức tối đa, không thể bị cọ xát bởi ảnh hưởng của lý lịch.

Khi bật mí lí lịch có vẻ hợp chủng của Vi Tiểu Bảo về huyết thống của người Cha phải chăng Kim Dung lại đưa thêm một hai thông điệp nữa. Ðó là, người Tàu thật ra cũng đã là một thứ hợp chủng như người nước Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ rồi. Về huyết thống nó đã có đầy những cái hay, không thiếu chi "chất xám". Chỉ cần dung hoà thêm về quan niệm và chủ nghĩa cá nhân của Tây phương nơi khối óc. Khối óc nhỏ bé của Vi Tiểu Bảo. Thông điệp đó cũng khơi lên "giấc mộng Mỹ" nơi đó nếu có cố gắng, giấc mơ nào cũng thực hiện được. Một người nửa Hán nửa tạp chủng như Vi có thể hiện thực được giấc mơ của mình giữa triều đại quân chủ phong kiến của người rợ Ðông Di, thì triều đại đó phải là một thứ triều đại số dách rồi.

Mâu thuẫn của một người Hán, hay nửa Hán nửa gì đó, phục vụ cho một triều đại ngoại chủng còn được Kim Dung giải hoá thật hay qua chồng hồ sơ lí lịch khác của Vi Tiểu Bảo. Ðó là chồng hồ sơ một chuyên gia hay một nhà chuyên nghiệp. Chuyên gia là gì và tại sao Vi Tiểu Bảo hội đủ lí lịch đó. Một nhà chuyên nghiệp, hay chuyên gia, theo ý nghĩa "pro" thông thường của Tây phương là một người xử dụng kỹ năng của mình để kiếm sống và không để ý đến căn cước hay lí lịch của khách hàng, hay người mình phục vụ. Một bác sĩ y khoa vẫn phải chăm sóc sức khoẻ cho một bệnh nhân có thành tích ăn cướp giết người. Một chuyên viên giải phẫu khi phải lắp nối lại một "thằng nhỏ" bị cắt không bao giờ hỏi người bị cắt đó có phải là một tội nhân chuyên hiếp dâm hàng loạt hay không. Nguời luật sư luôn luôn phải bênh vực thân chủ mình dù người đó có bị cáo về tội khủng bố, ăn cướp, giết người. Hay một nhà độc tài vừa bị bắt hay truất phế. Ý niệm "nhà chuyên nghiệp" ngày nay đã lan tràn qua rất nhiều lãnh vực, nhiều ngành nghề và vượt khỏi biên giới, tinh thần quốc gia. Và hình như chỉ còn bị giới hạn ở những lãnh vực "chuyên nghiệp" liên quan đến quốc phòng mà thôi. Người ta thấy những giáo sư đại học, những khoa học gia, những tài tử và đạo diễn như Antonio Banderas, Catherine Zeta-Jones, Nicole Kidman, Penelope Cruz, Ang Lee, John Woo, Chou Yun Fat, v.v. - những nhà chuyên nghiệp với niềm hãnh diện của các quốc gia sản xuất ra họ - chẳng mấy chốc đều trở thành Mỹ kiều hết ráo. Các nhà thể thao nổi tiếng, nhất là các ngôi sao về tennis, về bóng rổ - như Martina Navratilova, Yao Ming - thường xin nhận nước Mỹ làm quê hương. Kim Dung cho Vi Tiểu Bảo là một nhà chuyên nghiệp. Dù đó, một chuyên gia chợ trời. Ở chỗ Vi Tiểu Bảo là con của một người đàn bà mang nghiệp chuyên gia xưa cũ nhất lịch sử nhân loại. Con vua thì được làm vua - con người kỹ nữ phải là thằng điếm chuyên nghiệp. Bởi Vi Tiểu Bảo một nhà chuyên nghiệp, y có thể xuyên qua hết những bức thành trì kiên cố của giá trị cổ truyền. Y muốn phục vụ ai thì phục vụ. Không cần để ý tới khách hàng hoặc người y phục vụ. Miễn y không làm suy giảm tìềm năng, tài nguyên, tài sản của đất nước và làm phương hại đến nhân dân. Vi Tiểu Bảo đã thoả mãn những yêu cầu đó và lại còn vinh danh được vai trò của chuyên gia.

Ở sự ví von chuyên gia này, ta thấy tầm nhìn của Kim Dung vào năm 1972 đã phóng thật xa. Bởi vào đầu thế kỷ 21, ngay những người được xem là "anh hùng" dân tộc như Russell Coutts và Brad Butterworth của Tân Tây Lan trong cuộc đua thuyền America's Cup, vào năm 2003 đã bỏ Tân Tây Lan nhảy sang làm việc cho thuyền đoàn của Thụy Sĩ, chỉ bởi Thụy Sĩ trả lương họ gấp đôi lương kiếm được tại Tân Tây Lan.

Thay lời Kết

Người dịch Cao Tự Thanh hiện nổi tiếng như cồn tại Việt Nam. Bản dịch của Cao có rất nhiều chú thích giúp người đọc am tường vấn đề hơn. Những chú thích đó thường cho biết chi tiết nào có vẻ hư cấu chi tiết nào đúng với lịch sử. Hành văn cũng rất dễ đọc. Duy có điểm, một số các từ và thành ngữ, chơi chữ phải giữ nguyên tiếng Hán mới tôn trọng được tính chất . . . kiếm hiệp của Kim Dung. Nhiều lối chơi chữ chính dịch giả phải thú nhận bó tay trong phần ghi chú. Một sơ sót rất nhỏ, tác giả dịch thẳng theo tiếng và âm Tàu Russia thành La Sát. Người đọc dễ thấy chới với không ít bởi không biết La Sát là nước nào mà to lớn dữ vậy. Ðến xong vài quyển rồi mới có một ghi chú nhỏ nói đó chính là nước Nga. Âm R không có trong tiếng Hán và tiếng Nôm khi xưa, và vẫn không có trong tiếng Quảng Ðông cho đến ngày nay. R đọc thành L. Russia Tàu phiên âm thành La Sát.

Nếu hỏi trong mười mấy bộ tiểu thuyết, Kim Dung đã dồn hết mười thành công lực vào bộ tiểu thuyết nào để nhằm đưa ông lên tột đỉnh của sự nghiệp. Câu trả lời chắc chắn là bộ Lộc Ðỉnh Ký.

Lý do dễ hiểu. Lộc Ðỉnh Ký không phải đơn thuần là một tiểu thuyết võ hiệp. Như người dịch Cao Tự Thanh đã viết, nhân vật chính không biết 'võ' mà cũng chẳng 'hiệp' gì. Lộc Ðỉnh Ký có lẽ là một tổng hợp lớn của đề luận về ước mơ của tuổi trẻ, của con người thời tao loạn, của tâm lý phái nữ, dục vọng con người, của chính trị, tranh chấp chủng tộc và văn hoá, của chiến tranh và bang giao quốc tế, của những ám ảnh về "tiểu bảo" tức thằng nhỏ, về sex, về vấn đề tranh sống hoặc tìm chỗ đứng trong xã hội, trong lịch sử của con người. Của chuyện lớn, triều đình - chính trị, được vận hành thành công bởi con người nhỏ, nhỏ tuổi (Tiểu Bảo và Khang Hy). Của chuyện nhỏ (thằng nhỏ) xít ra chuyện lớn (Cắt thằng nhỏ Ngô Ứng Hùng đưa đến chuyện Ngô Tam Quế làm phản một lần nữa / Vi Tiểu Bảo, người nhỏ, ăn nằm và nên duyên vợ chồng với những người đàn bà chức lớn, lớn tuổi / Từ cuộc tình nhỏ của Sophia và Bảo đến bang giao hai nước Nga-Hoa).

Lộc Ðỉnh Ký còn đưa ra một luận đề chính nữa, theo lý giải bút hiệu Kim Dung của chính tác giả, nhằm dung hoà hệ thống giá trị cổ truyền của Trung Hoa với những gì hay ho, hiện đại của phương Tây. Chính sự dung hoà Ðông và Tây này có thể tác động cho việc mưu cầu tự do và hạnh phúc cuộc đời. Thế, Kim Dung có đặt câu hỏi dân chủ có phải một yếu tố hàng đầu trong mưu cầu tự do hạnh phúc hay không? Có lẽ, không và cũng có lẽ, có. Không, ở chỗ nhiều cuộc hội họp và hội nghị toàn quốc giữa các phe chống Thanh thường không đi đến kết quả nào, theo với đa số. Họ chỉ đồng ý nhau trên căn bản kiếm hiệp giang hồ. Và chủ ai nấy giữ. Trung thành mù quáng, không cần biết chủ mình có thật tài, có đức hay không. Phe nào trừ được gian tặc Ngô Tam Quế trước, phe đó sẽ được làm minh chủ. Không, cũng ở chỗ Khang Hy thường quyết định về chuyện quốc gia đại sự một mình. Không có quốc hội gì hết. Và những quyết định của Khang Hy thường rất tốt, rất . . . minh quân. Có, có chút đỉnh, ở chỗ trong nhiều trường hợp, Khang Hy ưa hỏi ý kiến của Vi Tiểu Bảo. Hỏi ý kiến của một người tiêu biểu thuộc Hán tộc, thuộc dân bị trị. Xuất thân từ chốn bần cùng.

(Nói đến dân chủ, những người mê đọc truyện Tàu thuộc các thế hệ trước thời Kim Dung đều có thể nhớ đến truyện Phong Thần của Hứa Trọng Lâm, viết vào thời Minh. Phong Thần thuật chuyện nổi dậy của vua nước Châu chống lại nhà Thương. Mỗi bên được những đạo sĩ, những võ tướng thần thông cái thế thuộc hai phe đối nghịch nhau phò tá: Xiển giáo và Triệt giáo. Qua những chiến trận phù phép giữa hai bên, các đạo sĩ, võ tướng đều tử trận. Họ trở về cõi Trời và được phong thánh phong thần. Rồi cùng nhau "làm việc" cho Ngọc Hoàng Thượng đế. Cả hai phe đối nghịch nhau cùng làm việc cho một đấng chí tôn - chính là một ý niệm cơ bản của dân chủ theo kiểu Westminster của Anh quốc, hay kiểu nước Nhật ngày nay. Hưá Trọng Lâm có vẻ đã mơ hồ nhận thức được ý niệm này qua pho truyện Phong Thần, vào khoảng thế kỷ 16.)

Ở một góc cạnh nào đó, ta có thể thấy Lộc Ðỉnh Ký mang ít nhiều luận đề của Hồng Lâu Mộng và AQ. Nhưng những luận đề đó được viết ngược lại. Viết theo cái nhìn của Kim Dung về các vấn đề nhân sinh và mâu thuẫn giữa những hệ thống giá trị của xã hội. Viết theo một chiều hướng hiện đại và một bối cảnh rộng lớn, quốc tế hơn. Lồng trong những đường gươm lưỡi kiếm và súng đạn. Hồng Lâu Mộng cho một gia đình từ giàu sang đến suy sụp. Lộc Ðỉnh Ký cho một người từ chốn thấp hèn leo đến địa vị giàu sang phú quý. Hồng Lâu Mộng cho người giàu sang giao lạc với mọi a-hoàn trong nhà. Lộc Ðỉnh Ký ngược lại cho một người nghèo hèn đi ngủ với các công chúa, các mỹ nhân của thời đại. Hồng Lâu Mộng và AQ cho nhân vật chính đi trốn nợ đời ở chốn Phật, hay lên đoạn đầu đài để đi về bên kia thế giới. Lộc Ðỉnh Ký cho vai chính hưởng được cuộc đời hạnh phúc ẩn danh trong cõi trần gian.

Xin ghi lại lời của chính Kim Dung (ngày 22 tháng 6, 1981) đăng trong trang cuối bản dịch của Cao Tự Thanh: "Lúc gặp các độc giả gặp nhau lần đầu, câu hỏi mà tôi thường gặp nhất là 'Ông thích bộ tiểu thuyết nào của mình nhất?'. Câu hỏi này rất khó trả lời, nên tôi thường không trả lời. Còn nếu bàn về 'mình thích', thì tôi thích mấy bộ có tình cảm mãnh liệt hơn như 'Thần Ðiêu Hiệp Lữ, Ỷ thiên Ðồ long Ký, Phi hồ ngoại truyện, Tiếu ngạo giang hồ. Lại thường có người hỏi 'Theo ông bộ tiểu thuyết nào của mình là hay nhất?', thì bộ Lộc Ðỉnh Ký này là hay nhất. Có điều rất nhiều độc giả hoàn toàn không đồng ý. Tôi rất thích sự không đồng ý của họ."

Trong quyển "Thú Xem Truyện Tàu" [7] Vương Hồng Sển đã viết:

"Như chúng ta đều biết, một tác phẩm văn nghệ muốn trở nên bất hủ, chẳng những phải cống hiến cho loài người những thành thực về phương diện nghệ thuật mà còn phải có tác dụng nhứt định đối với cuộc sống. Nghệ thuật chơn chính phải giúp cho nhơn loại về mặt xã hội và tinh thần để giành lấy được tự do và bình đẳng. Nghệ thuật không gây ảnh hưởng trực tiếp đối với đời sống như chánh trị, triết học, nhưng nhứt định sẽ có ảnh hưởng gián tiếp bằng cách thông qua những lý tưởng và hành động của những nhơn vật điển hình mà nó đã tạo ra trong tác phẩm.

Vì thế, nghệ thuật tuyệt vời là phải tổng hợp và thể hiện cho được cái thiện chân thiện mỹ đó làm cơ sở, hơn thế nữa, làm mục tiêu cao nhất mà nghệ thuật mình phải đạt tới."

Với Lộc Ðỉnh Ký, Kim Dung đã đạt đến nghệ thuật tuyệt vời đó.

Sydney, đầu mùa đông 2003.

Ghi Chú

[1] Bernard Lee qua đời vào năm 1979 sau khi đóng vai xếp M trong 11 phim James Bond. Vai M sau đó được giao cho Robert Brown và Edward Fox, rồi đến tài tử nữ Judi Dench.

[2] Desmond Llewelyn đóng vai Q suốt 37 năm, tử nạn xe cộ vào năm 1999 và John Cleese thay thế.

[3] Nguyễn Hiến Lê (1997) Sử Trung Quốc. nxb Văn Hoá.

[4] Một nhóm Thiên Ðịa Hội di tản sang Việt Nam và lâu ngày hội nhập vào xã hội Việt, mang chiêu bài chống thực dân Pháp. Phan Xích Long, một người tự xưng con cháu vua Hàm Nghi, gây được ủng hộ của Thiên Ðịa Hội tức Nghĩa Hoà Ðoàn, nổi dậy chống Pháp tại Sàigòn vào năm 1913. Cuộc nổi dậy bị quân Pháp nhanh chóng dập tắt.

[5] Xin xem "Thử Ðọc Lại Kim Dung I (Ngũ Hành) & III (Tiếu Ngạo Giang Hồ)" - trong những số báo trước. Hoặc ở www.Vietkiem.com hay www.Nhanmonquan.com hay www.Talawas.org ; www.Vietnamdaily.com.

[6] Trước Kim Dung, phim ảnh cũng đã thử sơ sơ áp dụng xen 1 của Hitchcock vào phái Nam: Phim James Bond - Goldfinger. Cảnh James Bond bị Goldfinger bắt trói nằm trên một tấm bàn (thành tố: không cục cựa và trốn chạy được). Sau đó cho tia laser rà vào giữa hai chân (thành tố: không phòng bị bởi lúc đó ít ai biết tia laser ra sao). Và đưa tia laser rà về phía thằng nhỏ của James Bond (thành tố: không có gì che chở - bởi có mặc quần áo giáp tia laser vẫn xuyên qua như thường).

[7] Vương Hồng Sển (1970) Thú Xem truyện Tàu. Xuân Thu (Los Alamitos CA) tái bản 1989.

[8] Mai Kim Ngọc (1987) Tập Truyện Lỗ Tấn. Nhà xuất bản Văn Khoa (Calif.).

[9] Ðỗ Quang Vinh (2003) Bút Thuật của Nguyễn Du trong Ðoạn Trường Tân Thanh. Tác giả xuất bản. www.Geocities.com/doquangvinhvenguon.

[10] Trong phim mới Simone do Al Pacino thủ vai một nhà đạo diễn xuống dốc. Tình cờ một người bạn thân trước khi chết cho nhà đạo diễn một chương trình điện toán có thể quay phim một người tài tử, không có thật, sáng tạo bởi máy điện toán. Nữ tài tử ảo này mang tên Simone trở nên nổi tiếng khắp thế giới nhưng không ai có thể biết, gặp và thấy được, bởi Simone một người ảo chỉ xuất hiện được trên TiVi hay phim nhựa mà thôi. Cuối phim - Hollywood đưa ra một châm biếm mới về chính trị gia trong cuộc phỏng vấn trên TiVi với "minh tinh" Simone. Simone tiết lộ "nàng" đang chán ngán nghề diễn xuất và đang chuẩn bị đổi nghề. Nàng muốn nhảy ra . . . chính trường, và có thể có ngày sẽ ứng cử tổng thống.

[11] Ðiển hình là phim loạt: "Người hiệp sĩ đạo và đứa bé trong chiếc xe đẩy

CHƯƠNG II:VÔ KỴ GIỮA CHÚNG TA HAY LÀ HIỆN TƯỢNG KIM DUNG

1 . GIỚI THIỆU

"Hiện tượng Kim Dung như thế nào? Nó có nghĩa gì giữa cảnh tai biến của chúng ta và tại sao lại có thể xẩy ra? Ấy là những nghi vấn mà cố gắng của bài này là tìm ra một đáp thuyết".

Rất có thể người ta sẽ ngạc nhiên. Nhưng một trong những sự kiện đáng lưu ý nhất của văn học miền Nam trên mười năm nay là cái phong trào võ hiệp mà, cứ khi nào hết chuyện nói, người ta lại mang ra lên án như là nguyên nhân của sự suy đồi của xã hội. Nó đã bùng lên đột ngột và ồn ào để xâm lấn chớp nhoáng những giới thật khác nhau. Những lý do của phong trào ấy có nhiều. Có những lý do thường trực như nhu cầu giải trí, sự cám dỗ của những cái khác thường, tiếng gọi của phiêu lưu. Lại có những lý do thời cuộc: sự bế tắc của tình thế xô người ta trốn thực tại trong một thế giới hoang đường. Ngoài những lý do tự nhiên ấy còn phải kể đến một chiến dịch cổ động truyền khẩu cũng như trên mặt báo. Thời đại của kế hoạch. Không có gì người ta có thể tin là tự nhiên và bộc phát. Ai tuy nhiên đã gây nên phong trào ấy và với mục tiêu nào? Nghi vấn ấy người đời sau sẽ giải quyết. Có điều là cái phong trào ấy, dù ai có chủ ý gây nên chăng nữa, cũng không thể nào lên tới mức độ như người ta đã thấy, nếu những truyện kiếm hiệp được tung ra đã không diễn tả gì tâm trạng của người đương thời. Và chứng cớ là trong phong trào ấy, không phải truyện võ hiệp nào người ta cũng chạy theo mà người ta chỉ chịu, chỉ chuộng, chỉ mê thứ truyện là truyện của Kim Dung. Cho đến nỗi những ai từng để ý tới những tương quan giữa văn học và xã hội không thể không coi chúng như một hiện tượng của thời đại. Hiện tượng Kim Dung như thế nào? Nó có nghĩa gì giữa cảnh tai biến của chúng ta và tại sao lại có thể xẩy ra? Ấy là những nghi vấn mà cố gắng của bài này là tìm ra một đáp thuyết.

Thường thì ai cũng công nhận rằng truyện Kim Dung "hay" hơn những truyện võ hiệp cổ điển. Và để minh chứng cho thiên kiến ấy, người ta đã viện ra nhiều lý do: nào là tâm lý phức tạp, tình tiết éo le, truyện kể hồi hộp; nào là thiện và ác không còn minh định một cách ngây ngô như xưa nữa, trái lại, người ta không còn biết ai phải và ai trái, ai giỏi võ hơn ai, và ai sẽ thắng.... Những lý do ấy tuy nhiên, xét cho cùng, không diễn tả gì hơn là tâm sự của người đọc. Không phải thời nào người ta cũng tìm trong những truyện kể cái hồi hộp, sự phức tạp tâm lý và những xung đột khả nghi không biết ai phải và ai trái. Ấy là những đặc tính giờ làm người ta đam mê. Sự đam mê ấy nói lên rằng lòng người đã thay đổi. Nó không còn có nghĩa là người ta đã tìm ra những tiêu chuẩn khách quan của một cái "hay" muôn thuở. Truyện Kim Dung không hay hơn những truyện võ hiệp xưa. Chúng khác hẳn. Tại chúng đáp lại những nhu cầu tâm lý khác. Và công của Kim Dung không phải là đã cải thiện nghệ thuật viết truyện võ hiệp. Ông đã sáng tác ra một kiểu truyện võ hiệp mới.

2. QUAN NIỆM VÕ HỌC

1. Trong truyền thống hoang đường.

Cái ấy có lẽ người ta không ngờ rằng nó đã bắt đầu ngay trong quan niệm võ học. Ai cũng biết là từ Kim Dung mới thịnh vượng những chuyện chưởng và nội lực. Chưởng pháp dựa vào sức của bàn tay, như một biến thể của quyền thuật, thật ra không có gì lạ. Nhưng khi lòng bàn tay người ta có thể vận ra những luồng khí giết người, thời cái hoang đường nghĩ lại cũng chẳng khác gì những truyện kiếm quang. Táo bạo đầu tiên của Kim Dung là đã nối lại một truyền thống hoang đường mà truyện võ hiệp có thời đã bỏ dở. Ấy là thời được tung ra những truyện võ hiệp được gọi là đứng đắn. Trong những truyện ấy người ta cam đoan rằng những thế võ được sử dụng đều là võ thực, nghĩa là đều có tên trong những sách chân truyền, và, sợ thế cũng chưa đủ, người ta lại kèm theo những họa đồ trình bầy động tác của từng thế một. Những độc giả thực tế và nghiêm trang được yên tâm là đã không mất tiền và thì giờ một cách vô ích. Hơn thế nữa, họ lại có dịp khoe rằng đã tiếp xúc một cách ích lợi với võ học chính tông. Nhưng ai đọc truyện võ hiệp để học võ bao giờ? Võ học trong những truyện là một dịp để người ta tưởng tượng, cũng như người ta đọc những truyện khoa học giả tưởng không phải để trở thành kỹ sư, mà là để tưởng tượng trên những có thể, tưởng là không thể tưởng tượng được, của khoa học. Nhưng người ta hiểu tại sao cái hoang đường của những truyện luyện kiếm lại có thể cám dỗ người ta hơn tất cả những thứ võ ở những truyện khác.

Một thỏi sắt luyện thành một thanh kiếm tốt đã khó. Nhưng khó hơn nữa là luyện thế nào để tự nó thu nhỏ lại bằng cái lá. Khi ấy người ta có một diệp kiếm; nhỏ hơn, bằng một viên ngọc, là hoàn kiếm; nhỏ hơn nữa, bằng hạt cát, là sa kiếm. Lạ là càng thu nhỏ thì năng lực của kiếm càng lớn. Tất cả xẩy ra như năng lực ấy, càng bị dồn trong một khối thể chất nhỏ bao nhiêu lại càng tăng trưởng bấy nhiêu. Và đến khi miếng thép ấy hóa ra nước làm thủy kiếm, ra hơi làm khí kiếm, ra ánh sáng làm quang kiếm thì năng lực được kể như không cùng. Tương quan ấy giữa năng lực và thể chất làm người ta nghĩ sao? Nhưng tôi không muốn nói rằng những tác giả võ hiệp là những Einstein bị người đời quên lãng.

2. Ý nghĩa của nội lực.

Kiếm tuy nhiên vẫn chỉ là một vật ngoại thân. Căn bản của võ học theo Kim Dung lại ở nội lực. Nội lực là cái nguyên khí tản mác ngoài thiên nhiên mà, theo những cách luyện đặc biệt, người ta thâu nạp được trong người. Khi giao đấu thì nội lực ấy có thể, từ lòng bàn tay, xuất phát ra những ngọn gió lớn có sức đánh gãy cây và đập nát đá. Nói theo kiểu của giới đọc võ hiệp, người ta gọi thế là đấu chưởng. Xem như thế thì chưởng phong còn hoang đường gấp mấy lần quang kiếm. Uy lực của quang kiếm dẫu sao cũng là thể chất. Sức của chưởng phong thì tùy ở nội lực. Và nội lực là một cái gì cũng mơ hồ như nguyên khí của thiên nhiên. Người luyện kiếm tiếp tục một truyền thống thợ rèn, tìm cách chế hoá thể chất ra năng lượng. Nội lực trái lại, là một sức mạnh vô hình. Cũng như tinh thần. Và người ta không thể ngờ rằng võ học Kim Dung cũng chịu ảnh hưởng nặng nề của thần bí học. Ấy là một thần bí học duy tự nhiên. Cho nên người anh hùng Kim Dung là người nhờ gặp may uống được máu rắn, ăn được kỳ hoa, nuốt được dị quả mà tiếp thu những mãnh lực nguyên thủy của vũ trụ súc tích trong những vật ấy để trong chốc lát đạt tới một nội lực thượng thừa. Luyện nội lực như thế, để nói như các triết gia, là một cách trở lại nguồn. Thường thường một nội lực thâm hậu đòi ở người ta một công phu dài mấy chục năm. Nhưng như người ta thấy, được một dịp may trời cho thì mấy mươi năm luyện tập cũng chưa bằng. Trời trong Kim Dung có những đặc ân như muốn riễu những cố gắng của con người. Kể cũng khả nghi. Nhưng không thế thì làm sao võ lâm có thể đổi mới và sinh ra những biến cố bất ngờ?

Nội lực đã thâm hậu thì võ công nào người ta cũng học được. Luyện những võ công tinh xảo quá mà thiếu nội lực thì trái lại người ta có thể bị tẩu hỏa nhập ma, và dù có luyện được, cũng không thể nào phát huy được hết uy lực của nó. Người giầu nội lực thời dùng một thế võ tầm thường cũng có thể đạt tới một uy lực siêu phàm và khắc chế những võ công tinh xảo, như Trương Quân Bảo lấy mấy ngọn quyền nhập môn của phái Thiếu Lâm mà thắng được một Hà Túc Đạo, người mà đời xưng tụng là kiếm khách. Nhưng đặt nội lực trên cái tinh xảo của võ công, phải chăng một lần nữa Kim Dung lại đặt tự nhiên trên sức chế hoá và công phu của con người? Cũng có lẽ. Nhất là khi người ta nhớ rằng trong truyện ông, đạt tới tuyệt đỉnh của võ công không phải là một Hoàng Dược Sư chẳng hạn, muốn lấy trí năng của mình để đoạt quyền tạo hoá, mà, những nhân vật ác độc như Âu Dương Phong, ngay thẳng như Hồng Thất Công, thật thà như Quách Tĩnh, ngây thơ như Châu Bá Thông, sống toàn theo năng tính, nghĩa là theo con người tự nhiên của họ. Trở về tự nhiên, trở về nguồn, khi ấy, cũng là trở về cái phần nguyên thủy của mình. Và người ta có thể nghĩ rằng lấy nội lực làm căn bản cho võ học, Kim Dung đã chẳng làm gì hơn là đặt căn bản võ học trong lòng người. Uy lực của người anh hùng từ giờ không ở cái xảo của võ công và của khí giới nữa, cũng như cái gì đe dọa chàng trên giang hồ không còn là những nguy hiểm của thế giới bên ngoài mà ở ngay chỗ sâu xa nhất trong người chàng. Nguy hiểm ngoại tại người ta có thể lấy trí năng để giải hóa. Nhưng đấu nội lực thì ai cũng biết chỉ có một mất và một còn. Cả con người mình khi ấy phải ngưng tụ để chống trả. Suy tính gì được nữa? Sểnh một cái, tâm hồn giao động, thế là bị phân tâm và nội lực ly tán. Khi ấy thì không chết người ta cũng bị trọng thương. Và kẻ thắng trận trước hết là kẻ giữ được cái tĩnh của lòng mình trước những xôn xao của ngoại giới. Nhưng ý nghĩa của võ học cũng thay đổi hẳn. Võ học trở nên một kỷ luật của nội tâm và nội lực cũng giống cái mà, theo một ngôn ngữ khác, người ta gọi là đức tin.

Sự nội tâm hóa ấy, tuy nhiên, lại mở rộng phạm vi võ học. Xưa, võ học không ra ngoài một nghệ thuật sử dụng quyền cước và khí giới, thì giờ, người ta có thể giết nhau bằng một tiếng cười, một tiếng rống, một tiếng sáo, một tiếng đàn. Tất cả là làm thế nào cho tinh thần đối phương rối loạn. À! Các tác giả võ hiệp đã không sống uổng trong thời đại của tâm lý chiến! Nhưng còn gì đẹp và ghê người hơn cảnh một đôi cao thủ, người đàn và người sáo, một đêm trăng trên mặt biển, vận nội lực trong những tiếng nhạc thâu hồn? Tệ hơn nữa, người ta có thể dùng những điệu thoát y vũ! Nhưng bị võ lâm nguyền rủa như môn võ ác độc nhất vẫn là "Hoá công đại pháp" chuyên dùng để phá nội lực của người. Hình như chạm đến nội lực là chạm đến một cái gì thiêng liêng. Võ học chính tông trong Kim Dung tuy nhiên cũng giống như đạo. Ở chỗ tối cao của nó thì người ta trở nên "tĩnh" như núi Thái Sơn. Ấy là cái tĩnh của người đã đạt tới cái chân nguyên của tự nhiên và của lòng mình. Người và tự nhiên khi ấy là một. Những xôn xao cũa ngoại giới không còn làm gì được người ta nữa. Và trong cái tự do tuyệt đối của tinh thần, người ta có thể, không những như Hà Túc Đạo, tay kiếm tay đàn không sợ rối chí nữa, xa hơn nữa, không cần xuất thủ, còn có thể ngồi yên lấy ý điều khiển nội lực đánh lại người

3. Võ học như một yếu tố của truyện kể.

Cái tĩnh ấy, lẽ dĩ nhiên chỉ có thể có với một nội lực siêu phàm. Sức mạnh thực không cần phô trương. Ít khi Kim Dung dùng những từ mỹ lệ để mô tả cách biểu diễn của võ công. Ông không tìm trong võ công cái ngoạn mục của những động tác. Trông thì còn gì tầm thường hơn là những cuộc đấu nội lực? Nhưng ấy cũng là những cuộc đấu khẩn trương nhất và tất cả nghệ thuật giờ là làm cho người ta tham dự vào sự khẩn trương ấy. Hết làm vui mắt, võ học trở nên một yếu tố gây xúc động, nghĩa là để nói với tâm hồn. Xu hướng của nó là ngày càng tiết kiệm động tác. Như sự kín đáo ấy đã thành ra dấu hiệu của sức mạnh thực. Hãy nhìn thế võ ấy chẳng hạn: xem thật là đơn sơ nhưng thủ có, công có, và hàm chứa không biết bao nhiêu cách biến hoá, xem nhẹ nhàng nhưng cực kỳ lợi hại, xem chậm chạp nhưng uy mãnh vô cùng. Cây cổ thụ ấy ngang nhiên đứng thẳng. Nhưng phất ống tay áo là nó đổ. Khi ấy người ta mới biết rằng những thớ gỗ trong cây đã nát. Nó đã trúng "Thất Thương Quyền". Sự ngạc nhiên của người ta khi ấy, một võ công ồn ào hơn làm gì có thể gây nên? Cái ngoạn mục bớt đi, nhưng chấn động tâm lý lại càng lớn. Quãng cách giữa nguyên nhân và kết quả, nghĩa là cái phần biểu diễn ấy, được thu giảm đến cùng cực. Và người ta như bị đẩy trước một huyền bí. Ấy là cái cảnh, chẳng hạn, "không biết người khách ấy xuất thủ như thế nào mà đối phương hự lên một tiếng rồi ngã lăn ra chết". Võ công gì mà lạ thế? Không ai nhận ra, nhưng như một tia chớp, nó vụt loé lên như tiêu ký của bóng tối. Các môn phái thành danh, trong khi ấy, đều có những võ công đặc biệt. Và một miếng võ thường là một căn cước. Nhưng trước miếng võ kỳ bí ấy ai chẳng rùng mình? Rắc rối hơn nữa là có những cao thủ dùng võ công của môn phái này để giết người môn phái kia. Ấy là một dịp cho không biết bao nhiêu nghi vấn, như khi trên thân thể dập nát của Dư Đại Nham mang ấn tích của "Kim Cương Chỉ" vốn là một tuyệt kỹ bí truyền của Thiếu Lâm, làm mọi người hoang mang không biết ai là hung thủ. Chẳng lẽ lại là một thần tăng uy đức trấn giang hồ? Nhưng chắc không thể không là một cao thủ tuyệt luân và môn "Kim Cương Chỉ" trở nên một ám ảnh nhức nhối để, như một tang vật của tội ác trong những truyện trinh thám, ngưng tụ quanh nó cả một không gian chập chùng đe dọa và bí mật. Ấy là không kể những khi trên giang hồ xuất hiện những thế võ thất truyền làm người ta sực nhớ đến cả một dĩ vãng hoang đường.

Nói tóm lại thì võ lực trong Kim Dung không phải chỉ có những cái tên rất đẹp. Nó không chỉ là cơ hội cho những vũ điệu ngoạn mục mà còn góp phần vào diễn biến và sức dẫn cảm của truyện. Cho nên tuy những môn võ quan trọng trong Kim Dung chẳng có mấy và toàn là võ bịa, nhưng đã đọc qua thì người ta không thể dễ dàng quên. Ai chẳng còn nhớ đến Nhất Dương Chỉ, Lạc Anh Quyền, Đả Cẩu Bổng, Lăng Ba Vi Bộ... Những võ công ấy cứ trở lại, không những trong một truyện, mà từ truyện này sang truyện khác, như những thể tài của một nhạc tấu. Và sự thường trở lại ấy cũng đủ cho chúng một cá thể đặc biệt. Hơn thế nữa, võ công nào cũng gắn vào một nhân vật, nhắc lại một diễn biến trọng yếu, có những đặc điểm và lịch sử riêng, như Giáng Long Thập Bát Chưởng truyền từ đời này sang đời khác, cho đến khi thất truyền mà kỷ niệm còn chấn động giang hồ. Sự có mặt của chúng chẳng khác nào của nhân vật. Ấy là không kể có khi một võ công có thể thực sự trở nên nhân vật chính của truyện như Cửu Âm chân công mà trong võ lâm ai cũng muốn luyện cho được để xẩy ra bao nhiêu vụ tương tàn. Và truyện Đồ Long Đao chẳng hạn, có kể gì hơn là sự phân tán và tái thống nhất của võ lâm qua sự phân tán và tìm thấy lại Cửu Dương thần công? Truyện võ hiệp của Kim Dung cũng là truyện võ học nữa.

4. Võ học và cơ cấu luận.

"Và cái nên thơ ấy mà Kim Dung mang lại cho võ học là cái nên thơ của cơ cấu luận, nghĩa là của những gì phân tích được."

Trong truyện võ hiệp cổ điển thì võ học không đặt ra một nghi vấn nào. Chính phái và tà môn cùng dùng một thứ võ. Ấy là một kiến thức chung cho mọi giới trong giang hồ. Những môn phái có thể đánh nhau, nhưng từ môn phái này sang môn phái khác, người ta thấy vẫn những miếng võ ấy được sử dụng. Võ học khi ấy cũng vô danh như ngôn ngữ, và như ngôn ngữ, chỉ có giá trị của một phương tiện. Phương tiện chung. Hơn nhau duy ở kinh nghiệm, tài và sức riêng của mỗi người. Truyện Kim Dung bắt đầu, khi võ học đã mất sự thống nhất ấy. Mỗi môn phái giờ có một thứ võ. Lẽ dĩ nhiên, người ta vẫn coi Đạt Ma sư tổ là ông tổ của võ học Trung Nguyên. Nhưng cái vốn của ông truyền lại, những kẻ đến sau, mỗi người chỉ lãnh hội được có một phần. Và cái phần ấy, mỗi người lại hiểu theo một cách, tùy tư chất và kiến thức của mỗi người, để từ đó tham bác, chế hóa và sáng tạo thêm ra. Thành ra cũng cùng một gốc mà võ công trong thiên hạ lại không cùng lịch sử. Những trang đầu của truyện Đồ Long Đao cho người ta thấy, từ những đoạn của Cửu Dương chân kinh nghe lỏm được ở miệng Giác Viễn lúc lâm chung, Quách Tường và Trương Quân Bảo, tư chất và kiến thức khác nhau, đã lập ra hai môn phái khác nhau thế nào. Sự biến hoá ấy của võ học làm người ta nghĩ đến sự biến hóa của ngôn ngữ. Cũng một ngôn ngữ mẹ mà tùy theo địa phương biến hóa đến nỗi người của địa phương này không còn hiểu được người của địa phương kia. Võ học cũng thế, tuy cùng một gốc mà giờ võ công của mỗi môn phái lại tuân theo một qui tắc, đòi hỏi cách luyện tập và có một lối phá giải riêng. Muốn phá giải một võ công thì trước hết phải biết cách biến hóa, nghĩa là cái văn phạm đặc biệt của nó. Cho nên không thể lấy võ công này mà thắng võ công khác, cũng như không thể nói là có võ công nào hơn võ công nào. Nhưng có những võ công mà văn phạm phức tạp hơn, khó phá giải hơn và biến hóa khó lường trước được hơn. Một khi đã biết cái văn phạm ấy rồi thì sự phá giải không còn là một nan đề. Lưỡng Nghi kiếm pháp triền miên bất tuyệt như thế mà chỉ cần biết rằng sự biến hóa của nó dựa trên một cách chuyển bộ theo Bát Quái là Vô Kỵ có thể thoát vòng vây của nó một cách dễ dàng. Cái gì Kim Dung muốn người ta thưởng thức trong một võ công, một lần nữa, không phải là cái ngoạn mục của sự biểu diễn, mà là văn phạm, cơ thức, nguyên lý, nói tóm lại là sự mạch lạc nội tại của nó. Mạch lạc đến nỗi có khi một miếng võ có thể sử dụng ngược chiều mà vẫn được như thường. Lẽ dĩ nhiên thế chỉ là một chuyện nên thơ. Và cái nên thơ ấy mà Kim Dung mang lại cho võ học là cái nên thơ của cơ cấu luận, nghĩa là của những gì phân tích được.

Cái huyền bí mà những võ công của Kim Dung thoạt cho người ta thấy chợt tiêu thất. Và sự sáng sủa bắt đầu của những lý do và số lượng. Cái văn phạm khúc chiết của mỗi võ công không kể, mỗi võ công lại chia làm nhiều chiêu, mỗi chiêu lại gồm nhiều thức, mỗi thức lại chia nhiều thế. Hơn thế nữa, lại có thể tính xem mỗi võ công người ta luyện được mấy thành hỏa hầu, và được sử dụng với mấy thành công lực. "Thành" là đơn vị để ước lượng mức thành đạt của người luyện võ cũng như uy lực của mỗi đòn tung ra. Nói tóm lại thì tất cả đều đo được, tích giải được, phân chiết được. Và người ta vào thế giới của những phức thể. Ấy là cơ thể con người chằng chịt những huyệt đạo và kinh mạch như một cái lưới tinh vi; những độc dược mà thứ nào cũng là một pha trộn theo những phân lượng bí truyền, giữa rất nhiều dị thảo; những kiếm pháp chung đúc cái tinh hoa của không biết bao nhiêu môn phái khác nhau; sự phối hợp ảo diệu giữa hai cao thủ, người này sử dụng võ công vốn tương khắc với võ công của người kia, thành một thế liên hoàn không có gì phá nổi; môn Phân thân Tâm pháp cho phép người ta mỗi tay dùng một tuyệt kỹ để biến một người duy nhất thành hai cao thủ... Phân tích, phối hợp, ấy là những tác động căn bản của cơ cấu luận. Nhưng có lẽ không chỗ nào ấn tích của cơ cấu luận lại rõ ràng hơn trên những môn võ dựa vào thư pháp, như Đồ Long công chẳng hạn, mà mỗi đòn là một nét chữ. Mỗi chữ khi ấy trở nên họa đồ của một chiêu số. Không những đọc được mà, như người ta thấy, cái văn phạm nội tại của môn võ lại có thể vẽ ra được nữa! Ai làm thế nào để một người không biết võ, không cần giải thích dài lời, có thể thấy và thông đạt những cơ thức của một võ công một cách dễ dàng hơn? Nhưng lại còn chuyện Cửu Âm chân kinh....

Cửu Âm chân kinh là một võ học kỳ thư. Và các cao thủ ai cũng muốn cướp nó cho được để luyện những võ học tuyệt luân mà nó ghi trữ. Khốn nỗi tự bản duy nhất của nó đã bị hủy và chỉ có Quách Tĩnh là người đã học nó thuộc lòng. Người ta còn nhớ Âu Dương Phong đã tìm cách buộc Quách Tĩnh phải chép lại bản kinh ấy cho y như thế nào. Không thể làm khác, Quách Tĩnh đành y lời, nhưng khôn ngoan, lại cố ý chữ "tác" đánh ra chữ "tộ", chép cho sai. Lẽ dĩ nhiên Âu Dương Phong đọc không hiểu, nhưng nhũn nhặn nghĩ rằng ấy là tại văn của Cửu Âm chân kinh uẩn súc quá và cái óc thô bạo của mình không nhìn thấy chỗ tinh tế của nó. Y bắt Hoàng Dung, người yêu cực kỳ thông minh của Quách Tĩnh, giảng cho vỡ lẽ. Hoàng Dung cũng nói dựa và giảng bừa, cốt cho xuôi tai thì thôi. Âu Dương Phong cứ theo những lời giảng ấy mà luyện, thấy rất khó nhưng vẫn tự cưỡng. Là người khác thì đã "tẩu hỏa nhập ma" mà chết. Nhưng nội lực của Âu Dương Phong đã tới mức siêu phàm. Y không chết nhưng tất cả kinh mạch trong người đều chạy ngược, y phải đi bằng hai tay, chân chổng lên trời và rốt cuộc không còn nhớ Âu Dương Phong là ai. Võ công của y, trong khi ấy, lại trở nên vô địch. Ấy cũng là võ công của Cửu Âm chân kinh. Những chiêu thức tuy nhiên đều đảo ngược, và cách biến hóa của chúng tuân theo một sự mạch lạc mà người ngoài không thể hiểu: ấy là sự mạch lạc của người điên. Hóa ra người điên cũng có lý của họ và không có gì, dù tạp loạn đến đâu, mà người ta không thể đưa tới một thế tương tất. Chỉ cần một luận lý khác! Nhưng mẩu chuyện ấy không đủ chứng tỏ tinh thần nhân bản của Kim Dung. Cái gì người ta còn thấy, xô đến tận chỗ nghịch lý, là cái nên thơ của cơ cấu luận.

5. Sự tương đối hoá võ học và thế đa nguyên của võ lâm.

"Toàn thể là bố láo"

Adorno

"Ẩn tàng trong cảnh tương tàn ấy, tuy nhiên, cái gì người ta thấy, là sự huy hoàng của một giấc mơ thống nhất"

ĐLV

Một cơ cấu là một cá thể độc đáo. Nhưng nó cũng định một giới hạn. Cái độc đáo vốn là cái không phổ biến thì những gì, ở chỗ này là những ưu điểm, ở chỗ khác lại có thể xuất hiện như những khuyết điểm. Như những ngôn ngữ, mỗi võ công chỉ đáp ứng một số nhu cầu nhất định. Không thể có võ công toàn năng. Lạc Anh chưởng chẳng hạn, có mau nhưng không mạnh. Hàm Mô công mạnh nhưng thân pháp lại khó coi. Nhất Dương chỉ thì chỉ có bọn đồng tử mới học được. Thất thương quyền lợi hại bao nhiêu! Nhưng muốn luyện được thì trước hết phải tự đả thương tạng phủ đến bẩy lần. Trong khi ấy thì Lăng Ba vi bộ chỉ là phép tránh đòn nhưng cũng đủ để Đoàn Dự có thể buộc một hung thần ác sát lạy mình làm sư phụ. Nhưng đem bộ pháp ấy đối phó với cảnh loạn đả không theo qui tắc nào của những người không biết võ lại bằng thừa. Cái khéo của Kim Dung là đã chia những ưu điểm và khuyết điểm như thế nào để vừa giữ cái bản sắc đặc biệt của mỗi võ công, vừa duy trì sự diễn tiến của truyện trong một tình trạng bất trắc thường xuyên. Thử tưởng tượng một nhân vật có một võ công cứ giở ra là ai cũng thua thì truyện sẽ chán biết mấy! Cái thú với Đoàn Dự chẳng hạn, là không ai có thể biết trước khi nào Lục Mạch thần kiếm của chàng ta "chạy" và khi nào không. Nhưng nó chỉ có trong chừng nào kiến thức võ học của Đoàn Dự còn đầy khuyết điểm. Khuyết điểm chính là cái độc đáo và một dịp cho mọi bất ngờ. Cho nên trong Kim Dung nhân vật nào cũng có sở trường và sở đoản. Giỏi võ công thì không có nội lực. Người có nội lực thượng thừa thì không biết võ công. Có người giỏi ám khí. Có người tài khinh công. Có người sành độc dược. Nhưng được một đằng thì mất đi một nẻo. Võ công nào trong thiên hạ mà Vương Ngọc Yến không biết? Nhưng nàng lại không biết dùng võ công. Mưu trí như Hoàng Dung nhưng môn Song thủ Hổ bác đòi hỏi một tâm hồn chất phác thì nàng lại không tài nào học được. Tưởng một Tạ Tốn thì cái gì chẳng hơn người! Thế mà lại thua Trương Thúy Sơn ở thư pháp, cũng như Vương phu nhân đã thua Đoàn Dự ở kiến thức về hoa trà. Ngược lại thì một Trương Quân Bảo chỉ có mấy miếng quyền nhập môn mà làm cho Côn Luân tam thánh liểng xiểng ôm hận thề không bao giờ trở lại Trung Nguyên nữa. Và để kết luận, người ta bảo nhau rằng thật là ngoài trời lại có trời. Có Ỷ Thiên Kiếm thì có Đồ Long Đao; có Cửu Âm chân kinh thì có Cửu Dương chân kinh; có độc dược của Vương Nạn Cô thì có giải dược của Hồ Thanh Ngưu; có kiếm pháp của Tuyết Sơn thì phái Kim Ô cũng có đao pháp để phá giải. Không có gì sau cùng không có khắc tinh của nó. Cao thủ này lại dẫn người ta gặp cao thủ khác tài hơn. Người ta càng đi. lại càng thấy kiến thức của mình chật hẹp. Võ lâm trở nên một thế giới vô cùng và đã mất trung tâm. Mỗi phương xuất hiện một anh hùng. Khi Anh Hùng Xạ Điêu bắt đầu thì Vương Trùng Dương, con người duy nhất có thể xứng ngôi minh chủ đã tạ thế, để môn phái của ông ngày càng suy đốn và các bạn ông, những người còn sót lại trong Võ Lâm Ngũ Bá, cứ năm năm một lần, lại trở về Hoa Sơn tiếp tục những cuộc luận võ không ai được, ai thua. Cũng như thể cái chết của Dương Phá Thiên làm cho những anh hùng của Minh Giáo phân tán, không ai phục ai, mỗi người theo đuổi một cuộc phiêu lưu riêng ở một góc trời. Võ lâm sa vào cảnh chia năm xẻ bẩy. Xưa, các cao thủ đều nhìn về Thiếu Lâm như cái nguồn của võ học. Cái nguồn ấy bây giờ ở chỗ nào? Thiếu Lâm chỉ còn là một môn phái như các môn phái khác. Và võ học cũng như Thượng đế của Pascal, là một tinh cầu trung tâm ở khắp nơi, nhưng không biết đâu là giới hạn. Ngần ấy võ công là ngần ấy ngôn ngữ, và võ công nào, trong giới hạn của nó, cũng có thể gọi là vô địch. Làm thế nào có thể thu cái thế giới nát vụn ấy vào một mối? Ai cũng muốn làm bá chủ võ lâm. Người ta giết nhau như ngóe để độc chiếm những võ công kỳ bí có thể cho phép người ta khuất phục chúng anh hùng. Câu chuyện nghĩa hiệp đã nhường chỗ cho cuộc tranh cường đẫm máu. Ẩn tàng trong cảnh tương tàn ấy tuy nhiên, cái gì người ta thấy, là sự huy hoàng của một giấc mơ thống nhất.

Ghi chú:

Đỗ Long Vân , đã mất ở Sài Gòn, viết bài này trước 1975, khi lý thuyết Lỗ Đen, Big Bang chưa ồn ào như hiện nay, khi cơ cấu luận đang hợp thời, khi cuộc chiến đang ác liệt... Bài viết được in lại trong "Kim Dung, tác phẩm và dư luận", do Trần Thức sưu tầm và tuyển chọn, nhà xuất bản Văn Học Hà Nội, 2001.

Những câu trích từ bài viết làm đề từ, là do người giới thiệu bầy đặt ra, như một cách hiểu, hoàn toàn mang tính cá nhân, tức chủ quan, bài viết của Đỗ quân, và những vấn đề mà bài viết đặt ra.

Về đoạn liên quan tới Cửu Âm chân kinh "giả" mà Quách Tĩnh viết lại cho Âu Dương Phong, theo như người viết còn nhớ được, và hiểu được, tất cả là do Hoàng Dung mà ra.

Hoàng Dung, do quá thông minh, nên trở thành "lý lắc" - hơi khùng, nếu có thể nói như vậy, theo nghĩa, cực điểm của thông minh là khùng điên, bởi vì, người thông minh là người nhìn ra những nét tương đồng ẩn giấu giữa những sự vật, còn người điên thì nhìn mọi vật đều tương đồng với nhau hết! Đây là quan niệm của Michel Foucault, trong "Chữ và Vật", khi ông phân biệt giữa "Le Même", hay là những con người bình thường như chúng ta, và "L"Autre", hay người điên - và "ang ác", đã từng bị Hồng Thất Công đe nẹt; chính vì vậy Hoàng Dung đã xúi Quách Tĩnh đảo ngược văn bản, lại còn dậy Quách Tĩnh cách ngồi viết văn bản, ngô nghê như thế nào, vắt óc nhớ lại bản chính ra sao... để đánh lừa Tây Độc. Nên nhớ, Tây Độc, vốn rất độc, và cũng rất thông minh (trong thế gian thật khó có người độc mà không thông minh!), không dễ gì đánh lừa; nhưng văn bản đảo ngược lại có mạch lạc của riêng nó: đây là cái mà cả Hoàng Dung lẫn Tây Độc đều nhận ra. Nhưng Hoàng Dung, do là người bình thường (Le Même), nên đã không dám đẩy sự tương đồng đến tận cùng, nhưng lại mơ tưởng một điều: nếu có một người nào tập luyện bí kíp Cửu Âm đảo ngược như vậy, không hiểu kết quả sẽ ra sao. Tây Độc vì quá mê bí kíp - bản văn gốc, ngôn ngữ mẹ của võ học... - nên đã tập luyện và kết quả là trở thành điên, nhưng với một võ công thượng thừa! Đoạn Tây Độc và Bắc Cái sau cùng ôm nhau cùng chết trên ngọn núi cao, không có con người nào khác, cho thấy, có thể Kim Dung tin tưởng rằng, thiện ác đi tới tận cùng, là một.

Tưởng tượng thêm chút nữa: hãy giả dụ Cửu Âm đảo ngược là... chủ nghĩa toàn trị, và không phải chỉ một mình Tây Độc, mà là quá nửa nhân loại đã luyện tập môn võ công đảo ngược này, vốn một thời "tự coi" là "đả biến thiên hạ vô địch thủ, bách chiến bách thắng"... thì sao?

Michel Foucault suốt đời băn khoăn về sự khùng điên, và cái ác của nhân loại, khi đẩy người điên vào trại tù hoặc cưỡng bức lao động. Sự thắng thế của chủ nghĩa toàn trị và những trại tập trung cải tạo của nó cho thấy một tình trạng đảo ngược: người bình thường (Le Même) phải đi tù, người không bình thường (L'Autre), làm... quản giáo!

Tuy được coi là một trong những trụ cột của trường phái cơ cấu luận, M. Foucault không cho rằng ông là một người trong nhóm. Trong bài tựa, dành cho bản tiếng Anh tác phẩm "Chữ và Vật" ("The Order of Things", Luân đôn, nhà xb Tavistock, 1970; ở đây người viết sử dụng bản dịch tiếng Pháp bài tựa này, in trong "Nói và Viết", tập II, nhà xb Gallimard, 1994, tủ sách Nhân Văn), ông xin được gửi tới độc giả tiếng Anh lời "khẩn cầu" (une prière), rằng, ở Pháp một số "nhà bình luận" thiển cận đã gán cho ông cái nhãn "cơ cấu". Và ông không làm sao nhét vào cái đầu nhỏ hẹp của họ, một ý nghĩ là ... "tôi (Foucault) không hề sử dụng bất cứ một phương pháp, một quan niệm, cũng như một từ ngữ nào, của cơ cấu luận. Tôi rất biết ơn một tầng lớp công chúng cẩn trọng hơn, một khi giải phóng cho tôi ra khỏi sự gán ghép, rõ ràng là vinh danh, nhưng tôi không xứng đáng được hưởng. Có thể là, có những đồng dạng nào đó giữa công việc làm của tôi với của những nhà cơ cấu luận.... Nhưng thật quá dễ dãi khi giản lược một công trình làm việc như thế đó, bằng cách dán cho nó một nhãn hiệu, nghe thì thật rổn rảng, nhưng không thích đáng."

Nhận xét của Foucault, về tác phẩm của chính ông, cũng có thể đem áp dụng cho trường hợp Đỗ Long Vân, nhưng, nếu hệ tư tưởng của Foucault được coi là một cơ cấu luận không có cơ cấu (un structuralisme sans structures, chữ của Jean Piaget, khi giới thiệu cơ cấu luận, trong tủ sách phổ thông "Tôi biết gì?" ("Que sais-je?"), "... tác phẩm của M. Foucault là thí dụ gây kinh ngạc, về một văn phong sáng chói đầy những tư tưởng bất ngờ và trí tuệ, một sự uyên bác lạ thường...", họ Đỗ cũng đã sử dụng thuyết cơ cấu, như một phương tiện "tiện tay, đương thời" - hay nói theo Piaget, "cơ cấu luận là một phương pháp hơn là một lý thuyết, và trong chừng mực nào, nếu nó trở nên một lý thuyết, thì nó sẽ đưa đến nhiều chứ không phải chỉ một lý thuyết..." - để viết ra những tác phẩm sáng tạo, với một văn phong đầy chất thơ và cũng thật khác thường, như 'Truyện Kiều ABC', 'Nguồn nước ẩn trong thơ Hồ Xuân Hương'...

***

"Và cái nên thơ ấy mà Kim Dung mang lại cho võ học, là cái nên thơ của cơ cấu luận, nghĩa là của những gì phân tích được"(Đỗ Long Vân).

Đây là một khẳng định rất dễ gây tranh luận, vì nó đối nghịch với quan niệm "thông thường", khi cho rằng thơ là để "cảm nhận": Cái cõi nhẹ như tơ, mong manh như sương khói đó, đâu phải là để... phân tích!

Nên nhớ, cơ cấu luận là từ toán học mà ra. Người ta không thể nói về nó mà không khởi từ toán học, theo tính cách lịch sử cũng như lô gíc của vấn đề. Lévi-Strauss chẳng hạn, đã tạo nên những mẫu mã cơ cấu của ông từ môn đại số đại cương (algèbre générale).

Cho nên, từ định lý "cái nên thơ... của những gì phân tích được", chúng ta có thể có được một hệ luận, là:

"Cái gì có thể phân tích được, là thơ."

***

"Hiện tượng Kim Dung như thế nào? Nó có nghĩa gì giữa cảnh tai biến của chúng ta và tại sao có thể xẩy ra?...

"Ẩn tàng trong cảnh tương tàn ấy, tuy nhiên, cái gì người ta thấy, là sự huy hoàng của một giấc mơ thống nhất."

George Steiner, trong bài viết "Orpheus với những huyền thoại của mình: Claude Lévi-Strauss", vinh danh một trong những trụ cột của trường phái cơ cấu, đã cho rằng, một trang viết của Lévi-Strauss là không thể bắt chước được; hai câu mở đầu thiên bút ký "Nhiệt Đới Buồn" đã đi vào huyền thoại học của ngôn ngữ Pháp.

Hai câu mở đầu đó như sau: "Je hais les voyages et les explorateurs. Et voici que je m'apprête à raconter mes expéditions." (Tôi ghét du lịch, luôn cả mấy tay thám hiểm. Vậy mà sắp sửa bầy đặt kể ra ở đây những chuyến đi của mình).

Bạn hãy thử bắt chước một câu văn của Đỗ Long Vân. Bạn hãy thử lập lại câu văn "đã đi vào huyền thoại": "Tôi quá chán cuộc chiến, vậy mà bầy đặt ngồi viết 'Vô Kỵ giữa chúng ta', để nói về mấy gã đồ tể đó."

***

"Toàn thể là bố láo."

Trong bài "Work in Progress", điểm cuốn "Thương Xá" (The Arcades Project: Dự án về những vòm cung ở thương xá), của Walter Benjamin, đăng trên tờ TLS (December 3, 1999), Steiner coi "chưa hoàn tất" là mật khẩu tới chủ nghĩa hiện đại (incompletion is the password to modernism). Trích dẫn Adorno, "toàn thể là bố láo" (totality is a lie), ông chỉ ra, tất cả những tác phẩm lớn sau thời kỳ Ánh Sáng, đều chưa hoàn tất: tác phẩm của Proust, Cantos của Pound, Moses und Aron của Schoenberg... Tác phẩm "đại diện" cho thế kỷ, của Heidegger, Thời gian và Hữu thể (Time and Being), thiếu phần ba đầy hứa hẹn. Và Steiner tự hỏi: đâu là những toàn thể mang tính hình thái (formal totalities), trong những tác phẩm của triết gia Wittgenstein?

Ngoài Đạt Ma Tổ Sư, không ai là người thông thạo đủ thất thập nhị huyền công, tức 72 tuyệt kỹ Thiếu Lâm. Kim Dung mượn lời nhà sư già chuyên quét dọn trong Gác Chứa Kinh (Tàng Kinh Các) để diễn ý niệm duy vật biện chứng của Marx, khi giải thích tại sao Phật pháp (từ bi), lại rong ruổi với võ công (cái ác): trên đường rong ruổi, lý thuyết (Phật pháp) và thực hành (võ công) đều quyện vào nhau, rồi triệt tiêu lẫn nhau, để có được con người hoàn toàn (l'homme total), theo nghĩa: không còn Phật pháp mà cũng chẳng còn võ công. Hoặc nói một cách khác: hết nhị nguyên, không còn thiện ác đối đầu nữa.

Có một vài chi tiết lầm lẫn trong bài viết. Về Nhất Dương Chỉ, không phải chỉ những đồng tử mới luyện được, nhưng nếu là đồng tử thì mức thu hoạch cao hơn những người không còn là đồng tử. Lão Ngoan Đồng sở dĩ muốn chia rẽ cặp Hoàng Dung - Quách Tĩnh, một phần là vì muốn đứa em sẽ trở nên đệ nhất anh hùng, tại Hoa Sơn luận kiếm! Về Thất Thương Quyền, không phải muốn luyện là phải làm bị thương bẩy bộ phận trong cơ thể, mà là, khi luyện, là bị thương bẩy bộ phận trong cơ thể; võ công càng cao bao nhiêu, đau đớn càng tăng bấy nhiêu. "Khuyết điểm" của Hàm mô công không phải là "mạnh mà thân pháp khó coi", nhưng mà là, phải thất thủ trước Nhất Dương Chỉ. Chính vì vậy, Vương Trùng Dương đã phải giả chết, để nện cho Âu Dương Phong một đòn, cho Tây Độc không còn độc trong một thời gian, rồi sau đó chia đôi Cửu Âm Chân Kinh, giấu ở hai chỗ khác nhau, và lặn lội xuống miền nam truyền môn võ công Nhất Dương Chỉ, khắc tinh của Hàm Mô công, cho dòng họ Đoàn. Vì chuyện này mà nẩy sinh ra cuộc tình giữa Châu Bá Thông và Thần Toán Tử Anh Cô, một bà phi của Đoàn Nam Đế...

6. Trở về nguyên lý.

"Huyền hoặc thay, sở hữu thế gian không bắt đầu từ Sáng Thế Ký, mà là khi tư hữu bắt đầu, tức là từ Đại Hồng Thủy, khi con người bắt buộc phải đặt tên cho từng chủng loại, lo nơi ăn chốn ở cho chúng, tức là tách chúng ra khỏi những chủng loại khác."

(Roland Barthes: "Không độ của cách viết").

"Với những nhà thông thái, rạng đông và hoàng hôn chỉ là một hiện tượng, và những người Hy Lạp cũng nghĩ như vậy, bởi vì họ dùng một từ để xác định...."

"Rạng đông chỉ là khởi đầu một ngày, đêm xuống mới là lập lại của nó."

(Claude Lévi-Strauss: "Nhiệt Đới Buồn")

Muốn thống nhất võ lâm thì phải là một cao thủ vô địch. Nhưng khi chẳng võ công nào vô địch cả thì làm sao? Tưởng chỉ có một cách duy nhất là nghiên cứu tất cả những võ công của thiên hạ. Ấy là tham vọng của họ Mộ Dung. Nhưng ai có thể thực hiện được khi ngay võ công của môn phái mình cũng chẳng mấy người luyện hết? Hơn thế nữa, những võ công phức tạp đòi hỏi một nội lực thâm hậu. Nội lực thâm hậu thì không những võ công nào cũng luyện được mà, như người ta biết, có thể lấy những miếng võ thật là thô thiển để thắng những võ công ảo diệu hơn. Như thế thì điều trọng yếu của võ học không cứ ở võ công, mà tới một độ nào, người ta chỉ coi là những cách khoa chân múa tay, mà thật ra ở nội lực. Nội lực mới là căn bản của võ học. Nhưng người ta hiểu rằng có sự trở về nguồn, ấy là tại võ học không còn thống nhất nữa. Và nếu sau này Vô Kỵ có thể thu võ lâm vào một mối thì cũng tại chàng đã tìm lại được nguyên bản của Cửu Dương chân kinh, và luyện một cách chu toàn môn thần công chép trong kinh ấy. Sự thâm hậu của nội lực tuy nhiên, mới là một điều kiện cần nhưng chưa đủ. Cái may thứ hai của Vô Kỵ là đã vớ được Càn khôn đại nã di tâm pháp mà, nhờ nội lực siêu phàm, chàng có thể lãnh hội trọn vẹn. Võ công trong thiên hạ có nhiều thật, nhưng đều cùng một gốc và chẳng ra khỏi những qui luật của tự nhiên. Sao người ta không thể tìm ra những qui luật chung cho những võ công ở đời? Càn khôn đại nã di tâm pháp không phải là một môn võ công ảo diệu hơn những võ công khác, nó là nguyên lý của mọi võ công, và người ta có thể coi nó như một thứ văn phạm đại cương, tổng hợp và giải thích những văn phạm đặc biệt. Cho nên, dù gặp những võ công phức tạp đến mấy thì nhờ Tâm pháp ấy, Vô Kỵ cũng có thể định ra cơ thức của nó và phá giải được. Khi thì chàng dùng ngay võ công của đối thủ để trả đòn làm cho y ngơ ngác không biết tên này làm thế nào mà biết được những tuyệt kỹ bí truyền của môn phái mình. Khi thì, ngộ nghĩnh hơn, chàng chuyển những đòn của đối thủ trở về đánh lại y và đồng bọn, gây ra không biết bao nhiêu cảnh khôi hài. Ai chẳng còn nhớ trận Huyền Minh nhị lão vây đánh Vô Kỵ bị chàng giở Đại nã di tâm pháp làm cho nhị lão, đòn người này trúng phải người kia, sau cùng giận quá đâm ra đánh nhau thực sự. Ấy là thuật "lấy gậy ông đập lưng ông" và chính nó cho phép Vô Kỵ khuất phục chúng anh hùng và thống nhất võ lâm.

7. Giấc mộng bách khoa.

"Ôi! Vương Ngọc Yến! Nàng ở đâu? Người con gái ấy chưa bao giờ động thủ, nhưng võ công nào cũng thấu triệt... Và mỗi lần nàng mở miệng mách một thế võ cho một cao thủ thượng thừa thì, nghe cái giọng yêu kiều và xa xôi như đến từ một thế giới khác, người ta muốn nghĩ rằng nàng ở giữa cuộc đời như nàng tiên của tri thức thuần túy."

"Tiếc thay võ học trong đời nàng chỉ là chuyện phụ. Người con gái ấy, cũng như Đoàn Dự, ngoài tình yêu chẳng coi gì là trọng."

"Sự tổng hợp ấy, sau Vô Kỵ, không xẩy ra một lần nữa."

"Cho nên người anh hùng đích thực của Kim Dung, như Vô Kỵ, thường không phải là người của sáng tạo mà của sự trở về và sự tìm thấy lại."

ĐLV

Nhưng đâu có phải ai cũng biết Càn khôn đại nã di tâm pháp. Cái may của Vô Kỵ chỉ đến một lần. Khi Triệu Minh muốn nghiên cứu võ học Trung nguyên thì nàng chẳng biết gì hơn là bắt cóc những cao thủ của chín đại môn phái, buộc họ phải thi triển những tuyệt kỹ bản môn cho nàng xem. Những người khác cũng có thể tìm cách học từng võ công một. Càng nhiều càng hay. Và trên con đường tri thức, võ học từ một phương tiện dần dần trở nên một cứu cánh tự tại. Khi ấy sinh ra những nhân vật như Vương Nạn Cô chuyên chế những độc dược càng ngày càng độc, để hết bỏ cho người này lại bỏ cho người khác, và sau cùng bỏ cho chính nàng nữa, trong mục đích duy nhất là để cho chồng nàng là thần y Hồ Thanh Ngưu phải xin chịu thua. Lại có Châu Bá Thông mê học võ hơn mê gái, luyện võ công không để áp chế ai cả, chỉ vì võ công và để... chơi. Ấy là không kể một Cưu Ma Trí võ công đầy mình cứ hết chạy ngang lại chạy dọc, suốt đời bôn ba tìm cách học thêm, tuy chẳng biết để làm gì. Nhưng ai ngờ rằng sự uyên bác, mỉa mai thay, trong cái thế giới bạo động và sự công hiệu trực tiếp ấy, lại trở nên một giá trị! Nó là tất cả uy danh của họ Mộ Dung, cái nên thơ Vương Ngọc Yến, và biến Tàng Kinh Các, nơi tích trữ những võ học kỳ thư trong Thiếu Lâm Tự thành một ám ảnh cho những người luyện võ. Ai chẳng còn nhớ cuộc gặp gỡ mở đầu truyện Đồ Long Đao giữa Quách Tường và Vô Sắc? Vô Sắc ỷ vào kinh nghiệm và kiến thức của mình, cuộc rằng sau mười chiêu võ ông có thể nhận ra môn phái của Quách Tường. Nhưng Quách Tường cướp tiên cơ, công một loạt mười thế võ nguồn gốc khác nhau mà nàng được những cao thủ danh trấn giang hồ truyền thụ cho, trước khi chấm dứt bằng một thế của chính Thiếu Lâm tự, làm cho, nếu không xẩy ra một chuyện tình cờ, Vô Sắc suýt nữa đành chịu thua. Hào hứng của câu chuyện là cuộc đấu võ đã thành ra cuộc đấu trí. Thắng Quách Tường thì làm gì Vô Sắc không thắng nổi. Nhưng ông muốn lấy cái học của mình để khuất phục người con gái ngỗ nghịch ấy. Và người ta không biết phục gì hơn, giữa tác phong của nhà sư và sự uyên bác của một cô gái mười mấy tuổi đầu. Cuộc đua võ học ấy, tuy nhiên, trong cái phong thái tài tử của nó, như ngấm ngầm lên án cái võ lực thuần túy. Sự thắng trận nào có ý nghĩa khi tất cả đều bị tương đối hóa? Con người võ hiệp Kim Dung trong một thế giới đã mất nguyên lý, trước khi, như Đoàn Dự, nguyền rủa võ học để tôn thờ nhan sắc, bắt đầu quên sứ mạng nhập thế của mình để lạc vào một giấc mộng bách khoa. Tham vọng bách khoa ấy không chỉ giới hạn trong phạm vi võ học. Như để nhuốm cho võ học một sắc thái tinh thần ngày càng đậm, người ta thấy các cao thủ tìm mọi cách để thực hiện sự tương kết giữa võ học và các môn học khác. Triết học có: ấy là những võ công khi đựa trên Kinh Dịch, khi mượn Phật học làm căn bản, khi thì lấy cảm hứng trong Lão giáo. Y học có: ấy là cả cái hệ thống huyệt đạo và kinh mạch trên thân thể con người. Dược khoa có: ấy là cái nghề chế thuốc độc và linh đơn tinh vi và phức tạp. Nhạc thuật có: ấy là tiếng sáo thống thiết của Hoàng Dược Sư, tiếng đàn tranh gay gắt của Âu Dương Phong, tiếng đàn cầm não nùng của A Bích. Thi ca có: ấy là Đồ Long Công mà Trương Tam Phong đã tạo ra từ tự hoạch của mấy câu ca dao truyền tụng cái bí mật của đao Đồ Long và kiếm Ỷ Thiên. Ấy là không kể những võ công dựa trên một nghệ thuật cắm hoa, pha trà, đánh cờ, viết chữ vv... Một cảnh thác đổ, một thế chim bay, một kiểu rắn bò, một cách cọp ngồi, không có gì trong tạo vật giờ lại không thể là một nguồn cho võ học. Và con người võ hiệp của Kim Dung ngoài võ học, còn có hơn một sở trường. Mấy ai đã quên những trận đồ của Hoàng Dược Sư? Vừa là một kỹ sư, con người kỳ quặc ấy vừa là một nghệ sĩ tài hoa. Không những được tôn là kiếm khách, Hà Túc Đạo còn là kỳ thánh và cầm thánh nữa. Người ta thường gặp chàng, trong những khu rừng vắng, đánh cờ một mình và gảy đàn gọi chim ngàn ca múa. Trong khi ấy thì Tạ Tốn vẫn mang sử ra minh chứng cho tác phong bạo ngược của mình. Trương Thúy Sơn vẫn đam mê thư pháp. Đoàn Dự vẫn diễn thuyết về trà hoa. Anh Cô vẫn bạc đầu nghiên cứu toán pháp. Hoàng Dung vẫn thừa sức thi thơ với các danh tài nước Đại Lý. Nhưng có gì mà Hoàng Dung không biết? Kể cả khoa nấu bếp làm cho Hồng Thất Công thán phục phải truyền thụ võ công cho nàng trước khi để nàng kế nghiệp mình làm bang chủ Cái bang. Và còn tài cải trang của A Chu nữa, thoắt cái nàng đã biến thành một bà lão, thoắt cái thành một nam tử hán, và sau cùng đưa nàng đến một cái chết thảm khốc.

Con người võ học ngày càng muốn uyên bác. Tượng trưng cho cái tham vọng bách khoa ấy là Tô Tình Hà. Không môn học nào ông không nghiên cứu. Nhưng rốt cuộc trong môn nào sở năng của ông cũng dở dang. Làm thế nào một cá nhân có thể tinh thâm được tất cả những môn học ở trên đời, khi một cái mênh mông của võ học cũng đủ làm người ta chóng mặt? Sự thất bại của Tô Tinh Hà như đã nói lên tâm sự của một thời đại trước cái kiến thức chung càng ngày càng tăng trưởng và phức tạp, nhưng cũng càng ngày càng tản mác. Trong Tàng Kinh Các, các võ học kỳ thư vẫn xếp thành chồng đầy. Ai là người thực hiện được sự tổng hợp của cái di sản ấy? Nhưng ngay biết hết được cái di sản ấy cũng chưa có người. Ôi! Vương Ngọc Yến! Nàng ở đâu? Người con gái chưa bao giờ động thủ, nhưng võ công nào cũng thấu triệt. Nàng có thể nói lên từ lịch sử đến cơ thức và khả năng của một võ công của một môn phái một cách tường tận hơn cả ngay những người của môn phái ấy. Cao thủ của môn phái này mới xuất thủ thì nàng đã biết là môn võ nào và cao thủ của môn phái kia sẽ dùng môn võ nào để ứng phó. Khi những đối thủ còn mò mẫn chưa biết nên giở những đòn gì cho phải thì nàng đã tiên liệu được tất cả những diễn biến của cuộc đấu. Và mỗi lần nàng mở miệng mách một thế võ cho một cao thủ thượng thừa thì, nghe cái giọng yêu kiều và xa xôi như đến từ một thế giới khác ấy, người ta muốn nghĩ rằng nàng ở giữa cuộc đời như nàng tiên của tri thức thuần túy. Tiếc thay võ học trong đời nàng chỉ là chuyện phụ. Người con gái ấy, cũng như Đoàn Dự, ngoài tình yêu chẳng coi gì là trọng. Hai người sinh ra để lấy nhau. Một người gần như biết tất cả võ công của thiên hạ và một người, nhờ Chu cáp thần công có sức hút công lực của người khác mà súc tích trong người nội lực của không biết bao nhiêu anh hùng. Sự tương kết giữa đôi trai gái ấy sẽ đưa tới kết quả nào? Không ai biết. Nhưng người ta biết rằng cả hai đều coi võ học như một cái gì phù phiếm, và trước thế chia đôi ấy, giữa kiến thức và nội lực, người ta không thể không nghĩ rằng cái thời đã hết, một khi Vô Kỵ, vừa có Cửu dương chân công, vừa có Càn khôn đại nã di tâm pháp, thâu tóm trong một cá nhân tất cả những có thể của võ học. Sự tổng hợp ấy, sau Vô Kỵ, không xảy ra một lần nữa.

Nhưng trong Thiếu Lâm tự cũng như trong lòng người võ lâm, Tàng Kinh Các vẫn sừng sững làm chứng cho một chí chinh phục không bao giờ nguôi. Vẫn có người giết nhau, và khó hiểu thay, thí mạng để độc chiếm một võ công như ông già trong nhóm Trường Bạch tam cầm, đã trúng độc sắp chết mà cứ khư khư ôm lấy con đao Đồ Long không chịu mang ra đổi lấy giải dược, chỉ vì nghĩ rằng trong con đao ấy có giữ một võ học kỳ thư. Vẫn có những Châu Bá Thông, sau khi đã chán tất cả nhưng vẫn chưa biết chán võ học bao giờ. Vẫn có những Cưu Ma Trí suốt đời đi tìm những võ công lạ và sẵn sàng làm tất cả để đổi lấy tuyệt kỹ mà mình chưa được biết. Nhưng võ học mênh mông. Võ công này chưa thông đạt thì đã xuất hiện võ công khác phức tạp hơn. Khi chưa nắm được cái nguyên lý của võ học thì có biết bao nhiêu cũng vẫn là một cái biết dở dang. Các cao thủ phải học từng võ công một, cũng như trong Tàng Kinh Các, cuốn võ học kỳ thư này xếp lên cuốn võ học kỳ thư kia. Trí nhớ khi ấy có một ý nghĩa nên thơ. Nhưng kiến thức vẫn chỉ là một tổng số không bao giờ thành tổng hợp. Ngay Càn khôn đại nã di tâm pháp cũng chỉ là một tổng hợp rất lớn chứ chưa có thể nói là đã đạt tới nguyên lý cuối cùng của võ học. Người ta nhớ rằng Vô Kỵ đã luyện thông bẩy lớp của Tâm pháp ấy một cách dễ dàng. Nhưng tới lớp thứ tám thì chàng thấy rất khó và gặp những đoạn văn tối nghĩa chứa những mâu thuẫn không giải quyết được. Hình như người sáng tạo ra tâm pháp ấy tới một độ nào cũng đã vấp phải một bức tường không thể nào vượt qua. Hay tại Kim Dung cũng muốn dành một phần cho Thượng đế? Những Cưu Ma Trí, Mộ Dung Bác, Tiêu Viễn Sơn, sau một đời khổ luyện, tưởng đã tới giới hạn cuối cùng của võ học thì, ngay khi ấy, họ chợt khám phá ra rằng cái tham vọng vượt bực của họ nghịch lại những võ công tối cao họ luyện được, mà mục đích là dẫn tới cái ý của võ học trong một sự lãng quên, và sự tương nghịch ấy đang ngấm ngầm dẫn họ đến chỗ tẩu hỏa nhập ma. Cảnh tượng ấy mới tuyệt vọng làm sao! Nhưng con người của Kim Dung, trong giấc mộng bách khoa, trong ý chí sáng tạo, trong tinh thần chinh phục của nó, ngay khi đã bị cái tham vọng của nó quật ngã, không phải đã không nói lên một cái gì vượt bực trong con người. Sự vượt bực ấy, tuy nhiên, như mang sẵn trong nó cái ngòi của thất bại. Con người có một sức sáng tạo không cùng. Nhưng tất cả xảy ra như càng sáng tạo người ta càng xa chân lý và càng thất lạc trong cảnh tạp loạn của cái kiến thức người ta đã tạo ra. Cho nên người anh hùng đích thực của Kim Dung, như Vô Kỵ, thường không phải là người của sáng tạo mà của sự trở về và sự tìm thấy lại.

Ghi chú:

Sự ra đời của Cửu Dương thần công.

Cửu Dương thần công được viết bên lề một cuốn kinh. Bộ Thần Điêu đại hiệp chấm dứt khi Dương Qua, trước khi tuyệt tích giang hồ cùng người yêu mà cũng là thầy, là Tiểu Long Nữ, đã giúp nhà sư Thiếu Lâm bắt hai tên trộm kinh sách trong có võ công, nhưng không kiếm thấy tang vật.

Bộ Ỷ Thiên Kiếm và Đồ Long Đao bắt đầu từ nghi án đó: sự mất tích của một nguyên lý.

Nguyên lý mất tích, nhưng dấu vết của nó vẫn còn, qua Giác Viễn và đệ tử của ông, và "trở thành hiện thực", qua cuộc tỉ võ giữa Côn Luân Tam Thánh với Trương Quân Bảo.

Và qua những lời lẩm bẩm trước khi chết của Giác Viễn. Ba người được nghe. Một hiểu hết, là nhà sư Vô Sắc, nhưng ông cũng tuyệt tích giang hồ sau đó. Một nghe, nhưng không hiểu hết, là Trương Quân Bảo, do còn nhỏ chưa từng học võ công. Một nghe, nhưng cũng không hiểu hết, là Quách Tường, chỉ vì sở học trước đó của nàng khác hẳn những gì nàng nghe được, từ miệng nhà sư.

Đây là tư tưởng cơ bản của Roland Barthes: vấn đề ý nghĩa (le problème de la signification), và con người, như là kẻ tạo ra những ký hiệu (Homo significans). Quách Tường khăng khăng không tin những gì mình nghe được - những ý nghĩa mới về võ học, từ miệng nhà sư, trong cơn hấp hối, đọc tứ lung tung, đâu là trang Kinh, đâu là võ công viết bên lề- là do sở học của nàng trước đó: muốn thắng địch là phải ra đòn trước, để cướp tiên cơ. Cửu Dương thần công nói ngược lại. Vô Kỵ, khi xả thân cho Minh Giáo, chịu đòn của Diệt Tuyệt, phải tới chưởng thứ ba, mới nhận ra nguyên lý này: địch mạnh mặc kệ nó.... Một cách nào đó, Cửu Dương thần công là một nguyên lý đảo ngược quan niệm võ công có trước nó. Người ta đã chẳng coi Marx lật ngược luận lý của Hegel và sáng tạo ra duy vật biện chứng pháp? Và từ những mảnh vụn của Cửu Dương thần công, võ lâm Trung nguyên đã có thêm một số môn phái, mỗi môn phái lại đem đến cho võ học những võ công mới, những quan niệm mới về võ học: nào là một lạng đấu ngàn cân, Thái cực quyền, Thái cực kiếm mà nguyên lý của nó là phải quên hết những chiêu thức...

Và đó là một trong những hạnh phúc được làm người: được tự do ban ý nghĩa cho sự vật.

Cho nên, hãy cùng than với Đỗ quân: Cảnh tượng mới tuyệt vọng làm sao! Sự mất tích nguyên lý [Cửu Dương thần công] dẫn tới tham vọng vượt bực... và cuối cùng khám phá ra rằng nghi án mất kinh phật nằm ngay trong sự lãng quên của con người...

***

8. Tiến tới một sự phân loại.

"Dear Reader: Behind every story you read, there's another story waiting to be told"

(Bạn đọc thân mến: Đằng sau mỗi câu chuyện bạn đọc, có một câu chuyện đang chờ tới lượt mình).

The Guardian Weekly.

"Người ta thường xuyên gặp trong Kim Dung thái độ nước đôi ấy trước trí năng, vừa cảm phục vừa nghi kỵ."

"Không phải ngẫu nhiên mà họ là những đạo sĩ và tăng nhân đã thoát tục. Nhưng không lẽ..."

ĐLV

"Qui est Ky?"

De Gaulle

Cái biển võ học chập trùng chẳng biết đâu là giới hạn. Không võ công nào giống võ công nào. Nhưng nếu chưa thể thu ngần ấy cái độc đáo vào một mối, thì trong khi chờ đợi, sao người ta không thử xếp loại chúng? Hình như Kim Dung đã chia tất cả võ công trên đời ra làm hai khối lớn: Âm công và Dương công. Võ công thuộc Âm thì mau, mềm mại và ác độc; thuộc Dương thì chậm nhưng dũng mãnh và cương trực. Người ta coi thứ võ này là chính giáo còn thứ võ kia là tà môn. Võ công tuy nhiên chỉ là phương tiện. Khác nhau duy ở mục đích cuối cùng của người dụng võ. Âm hay Dương thì võ công nào chẳng giết người. Xem Kim Dung nhấn mạnh trên mọi sự phân biệt giữa Âm và Dương thì người thấy rằng tất cả những cố gắng của ông là để đem những tiêu chuẩn tự nhiên ấy thay thế cho những tiêu chuẩn nhân văn và đạo lý. Tà và Chính đổi thành Âm và Dương, nghĩa là hai mãnh lực của tự nhiên. Trong tự nhiên không có Tà và Chính. Và Âu Dương Phong và Hồng Thất Công, một người tượng trưng cho ác tâm và một người đại diện cho thiện chí, sau mười mấy ngày đấu liên tiếp, lại có thể ôm nhau để cùng chết giữa lúc tiếng cười của họ còn chấn động cái hoang vu của những đỉnh núi tuyết nghìn năm. Mẹ Tự Nhiên đã giải hóa hai đứa con xung khắc của mình. Xã hội người đặt chúng vào cái thế tương nghịch. Ác của đứa này cũng như Thiện của đứa kia đều có gốc ở năng tính. Và năng tính như một mãnh lực của tự nhiên, trong Kim Dung, người ta biết là bao giờ cũng tốt. Khả nghi nhất là con người của trí năng. Ấy là những Hoàng Dược Sư chẳng hạn. Người đời thường hỏi họ thiện hay ác. Nhưng họ khinh dư luận, coi rẻ đạo lý của người đời và tự đặt những qui luật riêng để hành động. Tham vọng của họ là đem tài mình ra cướp quyền tạo hóa. Không những giỏi võ công mà trong những lãnh vực khác, kiến thức của họ cũng thâm viễn vô cùng. Ngoài cái tài hoa của một nghệ sĩ, Hoàng Dược Sư còn thông thạo trận đồ, kiến trúc, và những kỹ thuật làm máy móc. Xa lục địa, trên đảo Đào Hoa, ông xây dựng cả một giang sơn biệt lập cho mình. Cái trí, cái xảo, cái tài hoa ấy tuy nhiên có một cái gì điêu bạc. Những con người ấy quá nhạy cảm và giàu tưởng tượng. Óc của họ không ngừng làm việc, bày mưu tính kế. Làm sao trong sự giao động thường xuyên họ có thể có cái tĩnh cần thiết để tới cái chân nguyên của võ học vốn chỉ thông đạt những tâm hồn chất phác và đơn thuần, nghĩa là gần tự nhiên hơn? Cho nên có những võ công mà chính cái tài hoa của họ làm họ không tài nào luyện được. Và võ công của họ thường cũng mang ấn tích của cái tài hoa mà họ vốn có thừa, nghĩa là ít phức tạp, khi thực khi hư, mau lẹ và uyển chuyển, nhưng, như Lạc Anh quyền, đôi khi không khỏi thiếu phần cương trực. Người ta thường xuyên gặp trong Kim Dung thái độ nước đôi ấy trước trí năng, vừa cảm phục lại vừa nghi kỵ. Ấy là cái ngòi bảo thủ trong văn ông.

Năng tính là giải thuyết của sự đối lập giữa thiện và ác. Nhưng giữa năng tính và trí năng thì sao? Hình như Kim Dung lại muốn vượt sự đối lập ấy trong con người của Đạo. Sau khi nghe giảng Thái Cực quyền một lần nữa thì xét lại, chỉ còn nhớ có hai ba chiêu trong đầu. Người ta không khỏi ngạc nhiên. Nhưng đáng ngạc nhiên hơn nữa là khi cái lối càng học càng quên ấy lại được coi là một tiến bộ. Cũng như thế, trong một truyện khác, người ta thấy một anh hùng giang hồ than thở là kiếm pháp trên đời tuy ông đã thuộc cả, nhưng vẫn chưa đến chỗ tối cao là quên được những kiếm pháp đã học ấy! Thì ra cái biết thực của võ học không ở những cách khoa chân múa tay của những chiêu lẻ mà ở nguyên lý của chúng. Khi thấy cái nguyên lý ấy rồi, nghĩa là đã thu những tạp chiêu ấy vào một mối, thì người ta không cần nhớ đến chúng nữa. Một chiêu còn nhớ là một chiêu chưa thấu triệt, sự thống nhất chưa trọn vẹn, và cái biết còn dở dang. Cái biết thực của võ học cũng như trong đạo là một sự lãng quên những ảo ảnh của ngoại thể để tới cái chân nguyên của tất cả. Người và tự nhiên khi ấy mới thật tương đồng, trí năng và tính năng là một. Và cá nhân thực hiện được sự thống nhất của mình. Những xôn xao của ngoại giới không thể làm hắn phân tâm nữa và cái tĩnh thuần nhất của lòng hắn không có gì có thể dao động nổi. Ngay võ công đã luyện được hắn cũng quên đi. Ấy là khi võ công đã thấm vào người hắn đến chỗ có thể tùy nghi tự ý phát động mà không cần sự can thiệp của ý chí. Vương Trùng Dương trong Anh Hùng Xạ Điêu, Trương Tam Phong và bộ ba Độ Ách, Độ Nạn, Độ Kiếp trong truyện Đồ Long Đao, nhà sư già coi Tàng Kinh Các trong Thiên Long Bát Bộ [Lục Mạch Thần Kiếm] là những người gần như đã tới độ tối cao của võ học. Không phải ngẫu nhiên mà họ là những đạo sĩ và tăng nhân đã thoát tục. Nhưng chẳng lẽ Kim Dung lại kể chuyện võ hiệp để ca ngợi cái đức của sự tu hành? Nhưng có lẽ một cái nhìn kỹ lưỡng vào thế giới và nghệ thuật của Kim Dung sẽ cho người ta một đáp thuyết vững vàng hơn.

Ghi chú:

Ở trên, trong phần ghi chú, người giới thiệu đã cho rằng, Đỗ Long Vân đã sử dụng cơ cấu luận như một phương pháp "tiện tay, đương thời" để đọc Kim Dung.

Gérard Genette, trong bài "Cơ cấu luận và phê bình văn học", in trong Hình Tượng I (Figures I, nhà xb Seuil, tủ sách Essais, 1966), đã nhắc tới một chương trong cuốn Tư Tưởng Hoang Sơ (La Pensée Sauvage) theo đó, Lévi-Strauss đã coi tư tưởng huyền thoại như là "một kiểu loay hoay về tinh thần" (une sorte de bricolage intellectuel). Chúng ta có thể mượn quan niệm trên đây của Lévi-Strauss, để giải thích tại sao Đỗ Long Vân lại dựa vào cơ cấu luận, khi viết "Vô Kỵ giữa chúng ta". Từ đó, chúng ta có thể đi đến kết luận: Vô Kỵ là ai? (Qui est Ky?, mượn lại câu hỏi của de Gaulle, khi hoà đàm về Việt Nam đang diễn ra tại Paris; Ky ở đây là Nguyễn Cao Kỳ). Biết đâu, nhân đó, chúng ta có thể xác định vai trò của một người viết, như Đỗ Long Vân, ở giữa chúng ta.

Thế nào là một tay loay hoay, hí hoáy (le bricoleur)?

Khác với viên kỹ sư, đồ nào vào việc đó, nồi nào vung đó, nguyên tắc của "hí hoáy gia" là: xoay sở từ những phương tiện, vật dụng sẵn có. Những phương tiện, vật dụng, được sử dụng theo kiểu "cốt sao cho được việc" như thế, ở trong một hệ thống lý luận như thế, chúng không còn "y chang" như thuở ban đầu của chúng nữa.

Cơ cấu luận đã có những thành tựu lớn lao qua một số tác giả như Lévi-Strauss, Roland Barthes, Gérard Genette... và nhất là Michel Foucault, cho dù ông đây đẩy từ chối nhãn hiệu cơ cấu (làm sao nhét vào đầu óc của những kẻ thiển cận...tôi không hề sử dụng bất cứ thứ gì của cơ cấu luận). Trong số những tư tưởng cận đại và hiện đại như hiện sinh, cơ cấu, giải cơ cấu, hậu hiện đại... đóng góp của cơ cấu luận là đáng kể nhất, theo chủ quan của người viết.

***

"Nhưng nếu chưa thể thu ngần ấy cái độc đáo vào một mối, thì trong khi chờ đợi, sao người ta không thử xếp loại chúng?"

Trong khi chờ đợi (Godot?): Thời gian chờ đợi - nếu chúng ta cùng gật gù với Barthes - "Huyền hoặc thay, sở hữu thế gian không bắt đầu từ Sáng Thế Ký, mà là khi tư hữu bắt đầu, tức là từ Đại Hồng Thủy, khi con người bắt buộc phải đặt tên cho từng chủng loại, lo nơi ăn chốn ở cho chúng, tức là tách chúng ra khỏi những chủng loại khác." - phải tính từ Đại Hồng Thủy, và cái công việc "thử xếp loại", cũng đã bắt đầu từ đó. Và đây là lịch sử nhân loại trước khi, và chắc là chẳng bao giờ được thu về một mối.

Và đó cũng làø một trong những "chủ đề" của cuốn "Chữ và Vật".

"Les Mots et les Choses", nhan đề bản tiếng Anh có lẽ sáng sủa và thích hợp với chúng ta: "The Order of Things (Trật tự của những sự vật)." Trong Lời Mở Đầu, ông cho biết, cuốn sách được gợi hứng từ một bài viết của Borges. Và cùng với bài viết, là tiếng cười làm rung rinh cõi tư duy của chúng ta (Tây phương). Borges nhắc tới một cuốn bách khoa nào đó, ở xứ sở của Kim Dung, theo đó, loài vật được chia ra như sau:

a/ thuộc về Hoàng Đế, b/ được tẩm nước thơm, c/ được thuần hóa, d/ heo sữa, e/ nhân ngư, f/ huyền hoặc, g/ chó thả rông, h/ ở trong bảng sắp xếp này, i/ cử động như người điên, j/ không thể đếm được, k/ được vẽ bằng một ngọn bút lông lạc đà thật mịn, l/v...v... và v... v, m/vừa đánh bể một cái bình, n/ ở xa trông như ruồi.

Theo Foucault một bảng phân loại như thế đúng là thách thức lối tư duy của Tây phương. Làm sao có thể hiểu nổi những con vật không có gì giống nhau, lại ở cùng trong một bảng sắp xếp, ngoài cái trật tự abcd như trên? Trong khi tìm hiểu một trật tự như vậy, ông nhìn ra một điều: lịch sử của sự khùng điên sẽ là lịch sử của Kẻ Khác, lịch sử trật tự của những sự vật sẽ là lịch sử của Ta (Le Même). Và đối với văn minh Tây phương, lịch sử của Kẻ Khác - không phải lịch sử trật tự của những sự vật - bị coi là thứ yếu, xa lạ, và bị đẩy bật ra khỏi lịch sử của những Ta. Đây là lý do người điên bị tống vào tù, hoặc bị cưỡng bức lao động.

****

Thu về một mối, ôi cái giấc mơ "thống nhất, đại đồng, hết còn vong thân, hết còn giai cấp... ", sau cùng hoá ra là một cơn ác mộng.

Và chúng ta có lẽ nên bằng lòng cứ thế chờ đợi, như anh chàng nhà quê của Kafka, trước cánh cửa mở ra cái thế giới thu về một mối...

Và con người tự do trong cái hữu hạn đó: trong khi chờ đợi, chẳng biết làm gì, bèn bịa đặt ra những ký hiệu, những ý nghĩa, đặt tên sự vật, sắp xếp, suy nghĩ về chúng, và về chính mình, như là một kẻ ở giữa hai cực điểm: nhà thơ và tên khùng, theo một định nghĩa của Foucault: Thi sĩ đẩy sự tương đồng về những ký hiệu nói lên sự tương đồng đó, người điên coi tất cả những ký hiệu đều chỉ ra, chỉ một sự tương đồng [mọi vật đều giống nhau hết], cuối cùng xóa nhoà mọi ký hiệu.

***

"Remember me,"

whispers the dust.

("Hãy nhớ đến tôi,"

Hạt bụi thì thầm.)

Peter Huchel (thi sĩ Đức)

[Joseph Brodsky trích dẫn, trong "Ca ngợi buồn phiền", "In Praise of Boredom"]

***

Đỗ Long Vân mất tại quê nhà tháng Tám năm 1997. Người viết chỉ được biết, nhân đọc mục thư tín trao đổi với bạn đọc của một tạp chí văn học ở hải ngoại.

Và sau đó có viết vài dòng về ông, như một tưởng niệm muộn, và mượn ngay tên bài viết của ông làm của mình. Cả bài viết của ông, sau bao tai biến, chỉ còn lại một cái tên trong trí nhớ người viết. Gửi theo ông rồi, mới quên điều tính hỏi: Vô Kỵ là ai, mà ở giữa chúng ta?

***

"Mỗi một bài viết bạn đang đọc...", bạn đọc hãy coi những dòng sau đây, như là một bài viết bên lề, vẫn như một lời tưởng niệm muộn, gửi theo người đã khuất.

***

Chết là hết, như người Việt thường nói. Nhưng Volkov, trong bài viết tưởng niệm thi sĩ Joseph Brodsky, "Con sói cô đơn của thơ ca", đã trích dẫn câu thơ của nữ sĩ Akhmatova, "Khi một người đàn ông chết, những bức chân dung của người đó thay đổi", và đưa ra nhận xét, "có chút chi lạnh lẽo ở hai dòng thơ này". Theo ông, thường ra, khi được tin một người bạn mất, và được trao công việc lọc lựa những bức chân dung, ông nhận thấy có những thay đổi thật tế vi, đôi khi gây kinh ngạc, từ nét mặt người quá vãng. Như thể thần chết vạch giùm cho chúng ta thấy một ý nghĩa, một viễn tượng nào đó, ở nơi người chết, chỉ sau khi đã phán bảo: người này chết rồi. Những giai thoại-sau cái chết (the posthumous legend) càng mạnh, hậu quả của chúng càng xáo trộn, ở nơi những bức chân dung đó. Và theo Volkov, chuyện như vậy đã không xẩy ra, trong trường hợp của Joseph Brodsky. Sau khi ông mất vì bịnh tim vào ngày 28 tháng Giêng năm 1996 ở New York City, giai thoại về ông khi còn sống nhập hẳn vào những bức hình của ông, qua đó, là thời niên thiếu nổi loạn trong một thành phố bị vây hãm, cuộc vây hãm 900 ngày, dài nhất trong lịch sử cận đại, chưa kịp hồi phục bị giáng thêm đòn thanh trừng thời kỳ Stalin, rồi tới bản án theo kiểu Kafka của nhà nước Xô viết...

Người viết đã có lần giới thiệu bài tưởng niệm Joseph Brodsky, của T. Tolstaya, rồi nhân đó, tưởng niệm một nhà thơ Việt. Một người quen đã bực mình, tại sao lại để hai nhà thơ kế nhau như thế? Brodsky thì ai cũng biết, nhà thơ bạn anh, đâu có ai biết đến mà chơi cái trò ăn theo!

Tôi thật sự ngạc nhiên, khi bị hỏi như vậy, lần đó.

Trong bài viết của Tolstaya có nhắc tới một người thợ mộc ở Moscow, nhân được phỏng vấn, đã trả lời: Tôi chỉ mong có một cuộc sống riêng tư. Như Joseph Brodsky!

Anh bạn nhà thơ của người viết sau 1975 đã làm nghề thợ mộc. Trước đó anh làm nghề dạy học. Anh khoe, tìm thấy những vân gỗ y hệt những vần thơ!

Cái ông thợ mộc chẳng ai biết đến đó lại mong có một cuộc đời rất riêng tư của một nhà thơ được giải Nobel văn chương!

Cái ông thợ mộc bạn tôi, giả sử như gặp nhà thơ Nga ở cái thế giới nào đó, có thể sẽ là hai người bạn thân. Tôi thực sự mong mỏi như vậy. Và tôi còn tin rằng Joseph Brodsky sẽ thèm thuồng cái số phận của anh bạn thơ của tôi, ở trong cái thế giới cả hai đã cùng từ bỏ.

Nhà thơ Nga bị nhà nước Nga tống xuất, xin xỏ mãi để được ở lại, mà không được. Bạn tôi cứ tà tà ở lại, chẳng ai đuổi, và cũng chẳng thèm đi! Bạn tôi làm thợ mộc, nhà thơ Nga phải làm nghề mổ tử thi. Ông tự hào về nghề đó, và xấu hổ khi phải bỏ nghề. Anh bạn nhà thơ của tôi tự hào là một anh thợ mộc, và anh tìm thấy thơ ở đó, khi không còn có thể làm thơ được nữa.

Thử hỏi Brodsky có tìm thấy thơ từ những xác chết hay không?

Anh bạn nhà thơ của tôi, là bạn thân của Đỗ Long Vân.

Tôi viết bài tưởng niệm Đỗ quân cũng trong ước vọng đó: được có một cuộc đời riêng tư như Đỗ quân.

Bởi vì cái cuộc đời riêng tư đó thật là hiển hách vô cùng, đối với đám tụi tôi. Đám chúng tôi, khi đi trình diện nhập ngũ, trưng đủ thứ bằng cấp, để được đi học sĩ quan (bằng tú tài), để được biệt phái về một đơn vị không tác chiến (bằng chuyên môn)...

Đỗ quân, tuy bằng cấp đầy mình, đã từng du học Paris, giáo sư đại học, đi trình diện như một cái bang chẳng có một túi nào!

Sĩ quan, binh lính miền nam trước 1975 thường mặc quân phục bó sát người. Kỷ niệm của tôi về Đỗ quân, trong lần tình cờ đi cùng anh bạn thi sĩ Joseph Huỳnh Văn ghé thăm ông tại Đài Truyền Tin Phú Lâm, là một anh lính trong bộ quần áo nhà binh rộng thùng thình, tươi cười, thoải mái. Tôi có cảm tưởng ông thoải mái hơn cả lần đầu gặp tại quán Cái Chùa, đường Tự Do.

3. TRUYỆN VÕ HIỆP CỔ ĐIỂN

"Sự khác nhau trong bản chất giữa họ, tuy nhiên, là của đêm và ngày."

ĐLV

"Rạng đông chỉ là khởi đầu một ngày; đêm xuống mới là lập lại."

Claude Lévi-Strauss

"Nhân loại tầm thường làm sao tham dự được vào cuộc xung đột ấy giữa những lý tưởng? Họ chỉ có thể chiêm ngưỡng".

ĐLV

Như trên đã nói thì võ công, trong truyện võ học cổ điển, có cái vô danh của một phương tiện. Không ai phân biệt tà và chính giữa những võ công. Nhưng giữa các môn phái thì sự phân biệt ấy lại rất minh bạch. Các môn phái đều dùng một thứ võ. Sự khác nhau trong bản chất giữa họ, tuy nhiên, là của đêm và ngày: Tà môn tượng trưng cho tội ác cũng như Chính phái tượng trưng cho công lý. Và cái thế chia đôi ấy của võ lâm không thể thừa chỗ cho một nghi vấn nào.

Người anh hùng là người của công lý. Ấy thường là một thanh niên cha mẹ sớm bị hại và may được một dị khách lượm về nuôi và truyền thụ võ công. Truyện bắt đầu khi đã thành tài, chàng từ biệt ân sư xuống núi để tính chuyện phục thù. Nhưng trước khi công thành thì đã bao lần chàng sa vào ổ giặc, đã bao lần chàng phải đương đầu với cường quyền và bạo lực, đã bao lần chàng can thiệp vào những chuyện vong luân. Thù nhân của chàng lẽ dĩ nhiên cũng là một nhân vật trọng yếu của cái xã hội phức tạp ấy của tội ác. Và người ta hiểu rằng trong công việc của chàng, công lý và tư thù chỉ là một. Con đường tầm cừu cũng là con đường nghĩa hiệp, và khi thù nhân đã đền tội dưới tay chàng thì người anh hùng cũng biết rằng tất cả chỉ mới bắt đầu, và mối thâm thù của chàng chẳng qua là một cớ để mở màn và chấm dứt một cách dễ coi một giai đoạn trong cuộc xung đột muôn đời giữa Tà đạo và Chính nghĩa.

Chính nghĩa không thể nào thua. Cho nên khi người anh hùng xuống núi là người đầy những võ công cái thế. Không ai địch nổi, từ hắc điếm đến ác tù, đả lôi đài xong lại phá sơn trang, cướp pháp trường, giết tham quan, diệt thảo khấu, chàng theo đuổi một hành trình vạn thắng và không bao giờ trong đầu chàng một nghi ngờ có thể thoáng qua về cái sứ mạng thiêng liêng của chàng. Truyện cũng diễn ra theo một đường thẳng như cuộc hành trình ấy. Lẽ dĩ nhiên cũng có lúc người anh hùng lâm nguy và tính mạng bị đe dọa. Ngay khi ấy người ta vẫn yên tâm, vì người ta biết rằng dù chàng có chết thì ấy cũng là một cái chết vinh quang cho sự thực hiện công lý ở trên đời, và người thắng trận rốt cuộc vẫn là chàng. Sự hồi hộp không thể có trong truyện võ hiệp cổ điển. Người ta theo người anh hùng từ chiến công này đến chiến công khác. Đó là ngần ấy giai đoạn của một con đường chỉ có một chiều và chúng tiếp theo nhau thành tràng hạt, nghĩa là giữa chúng không có sự tương quan nào ngoài sự tiếp theo nhau. Từ chiến công này đến chiến công khác, ý nghĩa của truyện cũng như tâm lý nhân vật không hề thay đổi. Chiến công nào thì cũng chỉ ca tụng một lần nữa cái anh hùng của người anh hùng và sự thắng trận muôn đời của chính nghĩa trên tà đạo.

Nhân loại tầm thường làm sao tham dự được vào cuộc xung đột ấy giữa những ý tưởng? Họ chỉ có thể chiêm ngưỡng. Tương quan duy nhất giữa họ và thế giới của truyện là một tương quan ngoại tại. Những nhân vật vốn là những Ý tưởng nhập thế không thể có tâm sự nào dể họ chia sẻ. Kẻ được người thua lại định sẵn từ trước. Cho nên diễn biến của truyện không dành cho người ta một bất ngờ nào và người ta cũng không có dịp để tự hỏi và trông chờ những gì sẽ xẩy ra. Tất cả đều sẵn có một ý nghĩa cố định và trong một thế giới minh bạch ấy, người ta thừa đoán là không có một chỗ nào cho bóng tối, cho nghi vấn, cho sự tò mò. Người đọc đã biến thành khán giả để xem, nhìn, ngắm sự tái diễn của một vở tuồng mà người ta thuộc kỹ từng giai đoạn.

Vẫn những vai trò và một trò ấy, khác duy ở những diễn viên và cảnh trí, nghĩa là ở những thay đổi ngoại tại. Nghệ thuật kể chuyện trở thành một nghệ thuật dàn cảnh. Và cái ngoạn mục trong nghệ thuật ấy là giá trị đầu tiên. Sự mô tả trong truyện võ hiệp cổ điển chiếm một phần quan trọng. Có gì mô tả được mà không được mô tả tỉ mỷ? Ấy là cái dị hình của những khí giới, cái hiểm hóc của những cơ quan, cái hùng vĩ của những sơn trại, cái uy nghi của những thao trường, cái náo nhiệt của những chốn phồn hoa, cái sặc sỡ của áo gấm và quần mầu, cái nhịp nhàng của những võ công như vũ điệu... Tất cả đều đập vào mắt người ta, tất cả đều phô trương sự tinh xảo của những kỹ thuật nhân văn, tất cả đều biểu diễn một trật tự minh bạch và không thể nghi ngờ. Ý nghĩa của tất cả đều có thể đọc ngay lập tức, nghĩa là đều xuất hiện ra ngoài mặt. Ngay những tình cảm cũng được diễn tả một cách trực tiếp. Khi tức giận thì thét lác ầm ĩ, khi thích chí thì cười um lên như phá, khi đau khổ thì rống như dã thú bị thương; và đáng tiếc thay, khi e lệ, những trang nữ hiệp cũng "mân mê tà áo" như một cô gái tầm thường. Nhưng người ta hiểu rằng trong cái thế giới để chiêm ngưỡng ấy, cũng như trên sân khấu, thực tính của những cử chỉ không quan trọng bằng ý nghĩa của chúng; và trước khi làm người ta cảm động thì công việc là làm cho người ta thấy đã. Càng ước lệ thì sự diễn tả lại càng công hiệu.

Tâm lý nhân vật được giản lược đến mức tối đa. Lẽ dĩ nhiên nhân vật nào cũng được gắn cho một cá tính. Nhưng cá tính ấy không có gì giống cái phức tạp của một tâm hồn mà, nếu có thể nói như thế, chỉ có thể có tính cách ngoại tại của một con số để phân biệt nhân vật này với nhân vật khác, như có kẻ trung thì có người gian, có người nóng nảy thì có kẻ ôn hòa, có kẻ mưu cơ thì có người chất phác. Cho nên không những tác phong, cử chỉ, ngôn ngữ của nhân vật đều diễn tả một cách rõ ràng cái cá tính mà người ta đã gán cho y, mà cá tính ấy còn có thể trông thấy trên y phục, võ khí, và diện mạo của y nữa. Nhất là trong các nhân vật phụ thì người ta thấy rằng các dị điểm, từ cái răng vẩu đến con mắt lồi đều được tô đậm và thổi phồng lên, như những nghịch họa, để ai cũng có thể nhận ra một cách dễ dàng. Người anh hùng tuy nhiên được miễn cái nạn tả chân thô thiển ấy. Ấy là tại con người chàng vốn là kết tinh của Chân, Thiện, Mỹ, trong sự tuyệt hảo của nó, chỉ có thể ở ngoài tầm những tĩnh từ. Uy vũ, khôi ngô, tuấn tú... chữ nào có thể xứng với cái bản chất siêu tục của người anh hùng? Cái mặt nạ người ta thấy chàng thường đeo khi hành hiệp lẽ dĩ nhiên không thể làm tăng trưởng một bí mật vốn đã trong suốt như ban ngày, nhưng [mà là] để xóa bỏ cái phần nhân loại cuối cùng trong người chàng và đưa chàng tới cái vô danh của ý niệm. Con người sau cái mặt nạ ấy không còn là một cá nhân với những dị điểm và một đời sống tư nữa. Hắn là Thần Công Lý. Khi thì như ma quỷ, khi thì như thiên thần, nhân vật võ hiệp cổ điển là những nhân vật quá độ. Không có gì giống nhau giữa họ và anh và tôi. Nhưng tất cả cố gắng của người kể chuyện là để tách họ ra khỏi cái nhân loại thường ngày, để thấy họ là người ta biết ngay rằng câu chuyện đang xẩy ra không phải là một chuyện giữa người và người và những nhân vật ấy chỉ là những diễn viên của một vở tuồng kể lại cuộc xung đột muôn đời giữa Tà đạo và Chính nghĩa. Tất cả đều xẩy ra trên bình diện của những ý tưởng.

4. NGHI VẤN ĐẠO LÝ TRONG TIỂU THUYẾT KIM DUNG

"Sự minh định giữa Tà và Chính vẫn còn được duy trì. Nhưng người ta thấy rằng nó đã bị nghi vấn hoá và không còn dĩ nhiên như xưa nữa... có lẽ không còn ai trong võ lâm có đủ ngây thơ để tự giải quyết nghi vấn ấy một cách đơn sơ như thế."

"Và cái vinh quang cho những giá trị mà chàng đại diện là cái đuơng nhiên rực rỡ của Chính nghĩa. Nhưng Chính nghĩa nào còn khi, từ trận này sang trận khác, người ta chỉ kéo dài một cuộc tương tàn không có ai được và ai thua. Ngay những đối thủ hầu như cũng đã quên mất những lý do đã làm cho họ xâu xé lẫn nhau."

"Người chưởng môn của phái Nga My đã sáng tạo được hai bộ kiếm pháp, một tên là Diệt, và một là Tuyệt. Những độc âm cộc lốc ấy..."

"Cái thời của những anh hùng nghĩa hiệp thật đã xa và, trong cuộc tương tàn miên trường vô độ của võ lâm, người ta chỉ còn thấy như sự xung đột của những mãnh lực tự nhiên. Trước khi biết ai phải và ai trái thì những đối thủ biết rằng họ phải thắng trước đã, và cái ý chí thống trị làm suy tàn tinh thần võ hiệp cổ truyền."

Tới Kim Dung thì cái trời ý tưởng ấy sụp đổ.

Lẽ dĩ nhiên vẫn có những nhân vật tự xưng là đại diện cho Chính nghĩa và những kẻ mang tiếng là của Tà đạo. Nhưng truyện Kim Dung sẽ cho người ta thấy sự phân biệt ấy là vô thực. Những con người của Tà đạo, ông cho tất cả những cám dỗ của nhan sắc, của sự thông minh, của tính anh hùng. Ấy là không kể người nào võ công cũng cao cường, cuộc đời cũng sôi nổi, tâm hồn cũng khoáng đạt. Cái tội duy nhất của họ là không coi đạo lý của thiên hạ vào đâu. Nhưng so với họ thì những người có trách nhiệm duy trì truyền thống đạo lý của võ lâm mới ương ngạnh, mới ngoan cố, mới câu nệ làm sao! Tiêu biểu cho thứ người ấy là Diệt Tuyệt Sư thái thà chết chứ không để cho Vô Kỵ động tới vạt áo bà, khi tên "tiểu dâm tặc" này định vận nội lực giúp, bà nhảy xuống từ trên một tháp cao đang phát hỏa. Diệt Tuyệt Sư thái tuy nhiên chỉ là một cô gái già gàn dở. Cái gàn dở ấy có khi tàn nhẫn, nhưng vẫn còn có thể tha thứ được, tại dù sao Sư thái vẫn còn tin và thi hành cái đạo lý của bà. Nhưng sự sa đọa xuống tới sự bất nhân, sự dâm loạn, sự ngu xuẩn của những đệ tử phái Toàn Chân thì còn ai tin gì ở Chính nghĩa? Trên đường lưu vong của chàng, mỗi lần gặp một trong những người của Chính nghĩa ấy là Vô Kỵ lại gặp sự vong ân, sự ích kỷ, sự ác độc và người ta hiểu tại sao sau cùng chàng lại chọn những người của Tà đạo làm bạn đồng hành. Sự thật thì trong Kim Dung có một cố gắng đánh tụt giá những người tự nhận là của Chính nghĩa, và qua họ, những giá trị mà họ tượng trưng. Cái đức đáng yêu nhất mà đôi khi ông cho người ta thấy trong họ là sự thật thà, sự chất phác, sự ngây ngô. Tuy nhiên đó không phải là một cái đức riêng của những người của Chính nghĩa mà chung cho tất cả những đứa con của Đất, dù như Âu Dương Phong, đứa con ấy chỉ là một đứa con hư. Sự đề cao những giá trị của Đất ấy cho người ta thấy rằng các phân loại nhân vật trong Kim Dung không trùng hợp hẳn với những nhãn hiệu đạo lý của họ.

Theo những nhãn hiệu đạo lý thì có kẻ Tà và người Chính. Nhưng sự khác nhau giữa Tà và Chính ở chỗ nào? Khi chúng anh hùng đến vây bắt Cừu Thiên Nhận để sửa tội cái tên đại-ma-đầu thì y thản nhiên hỏi mọi người: "Ta giết người. Các ngươi cũng giết người. Nhân danh cái gì các người có thể lên án ta?" Câu hỏi bất ngờ ấy không ai biết trả lời thế nào cho phải. Là người trong võ lâm thì tay ai chẳng đầy máu. Nhưng giữa lúc mọi người còn ngơ ngác thì may sao có Hồng Thất Công đứng ra dõng dạc trả lời rằng những kẻ ông giết là những kẻ như Cừu Thiên Nhận chuyên làm hại dân lành vô tội, và giết những người như thế thì giết bao nhiêu cũng được và càng nhiều càng hay. Sự minh định giữa Tà và Chính vẫn còn được duy trì. Nhưng người ta thấy rằng nó đã bị nghi vấn hóa và không còn dĩ nhiên như xưa nữa. Và ngoài một người ngay thẳng như Hồng Thất Công thì có lẽ không còn ai trong võ lâm có đủ ngây thơ để tự giải quyết nghi vấn ấy một cách đơn sơ như thế. Hồng thất Công vả lại cũng là kẻ thù tri kỷ của một đại-ma-đầu khác là Âu Dương Phong và người bạn nữa của ông là Hoàng Dược Sư thì đã nổi tiếng là một nhân vật đứng ra ngoài những thứ loại của đạo lý thông thường. Người trên giang hồ gọi ông là con người Tà ở phương Đông. Nhưng cái tà của Âu Dương Phong là của năng tính. Trong Hoàng Dược Sư, nó là một quyết định của lý trí. Hình như ông cho rằng Tà và Chính chỉ là những nhãn hiệu vô thực. Ai muốn xếp ông vào loại nào thì ông cũng mặc và coi như không. Con người kiêu ngạo ấy chỉ biết một qui luật duy nhất là cái tự do của mình. Trong lịch sử võ lâm, nhân vật như ông tượng trưng cho sự nổi loạn của cá nhân chống lại những giới hạn giả tạo của một truyền thống sa đọa.

Sự sa đọa ấy bắt đầu khi, như người ta thấy, những người của Chính nghĩa không còn xứng với vai trò của họ và, dưới tay họ, những giá trị thiêng liêng chỉ còn là những giáo điều nghiệt ngã. Nhưng trong thực tế thì lý do chính để không còn ai tin ở những giá trị ấy nữa là giữa Tà và Chính, võ công giờ ai cũng như ai và chẳng có mèo nào cắn mỉu nào. Xưa người anh hùng là người bách thắng. Và cái vinh quang cho những giá trị mà chàng đại diện là cái đương nhiên rực rỡ của Chính nghĩa. Nhưng Chính nghĩa nào còn khi, từ trận này sang trận khác, người ta chỉ kéo dài một cuộc tương tàn không có ai được và ai thua. Ngay những đối thủ hầu như cũng đã quên mất những lý do đã làm họ xâu xé lẫn nhau. Xưa người ta giết một người để trừng phạt một tội ác; giờ thì người ta không cần biết người ấy đã làm một tội ác nào chưa, nhưng đã thuộc vào một môn phái đối nghịch thì đương nhiên y là một kẻ thù để người ta thủ tiêu. Ai trách Tạ Tốn ác độc thì ông sẽ lấy sử ra để minh chứng rằng từ xưa những kẻ ác độc bao giờ cũng thành công và những người được tiếng là nhân tài thì, xét cho cùng, sự nhân đức của họ cũng chỉ là một cái tiếng. Ông thì lẽ dĩ nhiên có thừa nghĩa khí để không bao giờ có thể coi sự giết người là một trò lý thú, nhưng những nhu cầu của an ninh buộc ông thủ tiêu nhân vật vô tội đang cùng ông ôn tồn đàm thoại, và ông rất tiếc phải thất lễ với một người mà ông có cảm tình. Án mạng khi ấy chỉ là những phương thức cực đoan của vệ sinh. Nhưng Tạ Tốn là một trong những anh hùng của Tà đạo, và người ta không thể chờ ở ông một sự từ bi quá đáng. Có lẽ đáng ngạc nhiên hơn là khi thấy Diệt Tuyệt Sư thái cầm Ỷ Thiên kiếm giết một chốc mấy trăm mạng người trong Minh Giáo mà không chớp mắt. Một Tà một Chính, khi ấy, ai tàn nhẫn hơn ai? Tà và Chính đều giết người. Họ là người của võ lâm, và trong cuộc giao tranh, công việc đầu tiên của họ là cướp phần thắng và tận diệt kẻ thù... Người chưởng môn của phái Nga My đã sáng tạo được hai bộ kiếm pháp, một tên là Diệt và một là Tuyệt. Những độc âm cộc lốc ấy, trong sự thô bạo của chúng, đã tóm tắt cái đạo lý đầy máu và đích thực của võ lâm. Cái thời của những anh hùng nghĩa hiệp thật đã xa và, trong cuộc tương tàn miên trường vô độ của võ lâm, người ta chỉ còn thấy như sự xung đột của những mãnh lực tự nhiên. Trước khi biết ai phải và ai trái thì những đối thủ biết rằng họ phải thắng trước đã, và ý chí thống trị làm suy tàn tinh thần võ hiệp cổ truyền.

Nghi vấn đạo lý tuy nhiên, chưa mất hẳn. Nó đổi chỗ. Sự phân biệt giữa Tà và Chính xưa ở cứu cánh. Nhưng khi trong một cuộc xung đột không thể nào chấm dứt, mọi cứu cánh đều sa đọa và môn phái cũng chỉ biết một tham vọng duy nhất là thiết lập bá nghiệp của mình trên giang hồ thì người ta dựa vào cách đánh nhau của họ để phân biệt họ lẫn nhau. Võ học đương nhiên mang một sắc thái đạo lý. Trong truyện võ hiệp cổ điển, võ công là một phương tiện và Tà cũng như Chính đều sử dụng một thứ võ. Hơn thế nữa, người ta thấy người của Chính giáo, như tin tưởng tuyệt đối vào lẽ phải của họ, không ngần ngại trước một phương tiện nào để thắng kẻ thù. Họ cũng nghe trộm, cũng đánh lén, cũng lừa bịp. Thôi thì không có thủ đọan nào mà họ từ. Nhưng tất cả xảy ra như thiện chất trong người họ đã truyền cho những thủ đoạn ấy một ý nghĩa chính đáng và không bao giờ có ai tự hỏi về sự có nên chăng của chúng.

Sự thật thà có khi đến chỗ ngây ngô mà Kim Dung coi là đức tính quí hóa thì truyện võ hiệp cổ điển lại dành cho những người của Tà đạo. Ngược lại thì một trong những ấn tích của Tà đạo trong Kim Dung lại là sự thông minh, không phải sự thông minh theo trực giác của những tâm hồn đơn giản, mà sự thông minh làm ra kế hoạch và mưu chước, nghĩa là cái tài sáng tạo. Và người ta hiểu tại sao những võ công được coi của Tà đạo bao giờ cũng phức tạp, biến ảo, nửa thực nửa hư không biết đâu mà lường. Trong khi ấy thì người của Chính giáo sẽ tự hào là có những võ công ngay thẳng, minh bạch, và đường hoàng hơn. Một chưởng của họ là một chưởng, và họ sẽ ít khi dùng tới ám khí độc dược và mưu chước. Một bên thì nặng như núi, cứng như thép, rõ như ban ngày và một bên thì phức tạp, uyển chuyển, mơ hồ... Tuy nhiên đó chỉ là những cách giết người khác nhau, và trong sự đối lập ấy, giữa Tà và Chính, người ta nhận ra sự đối lập giữa Âm và Dương, nghĩa là giữa hai mặt của tự nhiên. Không còn ai ngoài mấy kẻ ngây ngô còn thì giờ nghĩ đến những chuyện nghĩa hiệp nữa. Và giờ nếu người ta có giết nhau chẳng qua là để cướp lấy những võ lâm kỳ thư giúp người ta thành bá chủ võ lâm. Khi những cao thủ tìm đủ mọi cách để độc chiếm cái bí mật giấu trong con đao Đồ Long thì người ta nghĩ đến những tay gián điệp quốc tế đang tranh nhau một tài liệu quân sự hay những đảng cướp trong những truyện Série Noire xâu xé lẫn nhau để giành một món hàng. Ý nghĩa của truyện võ hiệp đã đổi khác. Và tổ chức của truyện cũng đổi theo.

Ghi chú:

Vấn đề dịch thuật.

Đỗ Long Vân đã từng học chữ Nho, chỉ để đọc Kim Dung. Chắc chắn, ông đã từng bực mình vì những bản tiếng Việt, vốn chỉ là phóng tác. "Ai tuy nhiên đã gây nên phong trào ấy và với mục đích nào? Nghi vấn ấy người đời sau sẽ giải quyết" (Đỗ Long Vân, đoạn mở "Vô Kỵ giữa chúng ta"), ông biết, với cơn sốt vì hiện tượng Kim Dung, thật khó mà có một bản dịch trung thành với nguyên tác. Ông cũng đã từng dịch. Thời gian sau 1975, ông sống gần như xa cách tất cả mọi người, tại một con hẻm (Hồ Biểu Chánh ở đường Trương Tấn Bửu, hình như vậy), ở Phú Nhuận; đọc, đa số là tiểu thuyết khoa học giả tưởng, và dịch "Những hệ thống mỹ nghệ" của Alain. Chắc chắn, ông phải biết tới Simone Weil, người học trò xuất sắc nhất của Alain. Weil cũng đã từng học chữ Nho để đọc Lão Tử. Trong bài viết về Iliade, bà đã đưa ra một số câu thơ, do chính bà dịch, và ghi chú: "Những đoạn trích dẫn là mới dịch. Mỗi dòng là một câu thơ Hy Lạp, y chang nguyên tác. Trật tự từ Hy Lạp bên trong từng câu thơ cũng được tôn trọng tới mức tối đa" (nguyên văn ghi chú của Weil: "La traduction des passages cités est nouvelle. Chaque ligne traduit un vers grec, les rejets et enjambements sont scrupuleusement reproduits; l'ordre des mots grecs à l'intérieur de chaque vers est respecté autant que possible". Simone Weil, Tác phẩm, nhà xb Gallimard, tủ sách Quarto, trang 529).

***

Bây giờ, chúng ta hãy thử so sánh hai bản dịch Kim Dung, đoạn mở đầu Cô gái Đồ Long, một của Từ Khánh Phụng và một của Nguyễn Duy Chính, mới xuất hiện trên lưới Internet.

Bản Từ Khánh Phụng:

"Quách Tường, con gái thứ của Đại Hiệp Quách Tĩnh và nữ Hiệp Hoàng Dung, biệt hiệu Tiểu Đông Tà. Hôm nay nàng đi chơi một mình là muốn nguôi sầu giải muộn. Một mình một lừa cứ thấy đường là đi. Hết núi này sang núi nọ. Cũng không biết đi bao xa và đi tới đâu."

Ngoài những độc giả đã quá mê Kim Dung, không nói, một độc giả lần đầu làm quen ông, đọc đoạn mở như vậy, chắc chắn là vất tác phẩm vào thùng rác, bĩu môi, đưa ra một lời khinh khỉnh: Thế này mà bao nhiêu người ca tụng!

Tôi chắc chắn, Đỗ quân cũng bực mình, với một đoạn mở như vậy.

Bây giờ, chúng ta hãy so sánh với bản dịch của Nguyễn Duy Chính:

Ỷ Thiên Đồ Long ký

Chương I

Thiên nhai tư quân bất khả vong.

Xuân du hạo đãng, thị niên niên hàn thực, lê hoa thời tiết.

Bạch cẩm vô văn hương lạn mạn, ngọc thụ quỳnh hoa đôi tuyết.

Bài từ "Vô Tục Niệm" này vốn là của một vị võ học danh gia, cũng là một đạo sĩ ở vào cuối đời Nam Tống họ Khưu tên Xứ Cơ, đạo hiệu Trường Xuân Tử. Ông là một trong Toàn Chân Thất Tử, và là nhân vật xuất sắc nhất của phái Toàn Chân. Trong "Từ Phẩm" đã bàn về bài từ như sau: "Trường Xuân, người đời vẫn coi là một vị tiên, nên lời từ mới hay và xuất sắc đến thế."

Đọc đoạn mở như trên, mới thấy thật lạ, thật kỳ! Tiếc rằng, Nguyễn Duy Chính đã không dịch nghĩa cho chúng ta, những gì "Thiên nhai tư quân", những gì "Xuân du hạo đãng...". May thay, ngay sau đó, Kim Dung giải thích:

"Bài từ tuy nói về hoa lê, nhưng thật ra là để ca tụng một thiếu nữ xinh đẹp, mặc áo trắng... Khưu Xứ Cơ tặng nàng ba chữ 'Vô Tục Niệm' thật mười phần xác đáng."

Mở ra bằng một bài từ, để ca tụng nhan sắc một thiếu nữ, tức Tiểu Long Nữ. Từ Tiểu Long Nữ mới bắt qua Quách Tường, có như vậy người đọc mới hiểu được tâm trạng của nàng:

"Trên sơn đạo núi Thiếu Thất, tỉnh Hà Nam, có một thiếu nữ, đang cúi đầu lẩm nhẩm bài từ này. Cô gái ước chừng mười tám, mười chín tuổi, mặc áo mầu vàng nhạt, cưỡi một con lừa đen, đi chầm chậm lên núi, vừa đi vừa nghĩ thầm:

-Chỉ có người như Long tỉ tỉ mới xứng đáng lấy được chàng mà thôi.

Chữ 'chàng' hiển nhiên là nói đến Thần Điêu dại hiệp..."

Bạn thấy không: nghệ thuật của Kim Dung, hay là "cái nên thơ của cơ cấu luận". Tình nọ cuốn lấy tình kia, buồn này đuổi theo buồn nọ, sóng sau đè sóng trước, rắn luồn trong cỏ, ý thức đuổi theo cái chết của ý thức (mượn một câu của Hegel mà Simone de Beauvoir rất mê: Chaque conscience poursuit la mort de l'autre)...

Ngay đoạn tả sau đó, về cuộc gặp gỡ giữa Côn Luân Tam Thánh với Quách Tường, như đã tiên đoán, cơn điên loạn của hai đệ tử của ông sau này, trước nhan sắc của Hân Tố Tố.

Đây là tiếng đàn khi chưa tương kiến:

"... mỗi lần tiếng đàn lên cao, thì đàn chim lại ngưng tiếng, chỉ nghe tiếng vỗ cánh... tiếng đàn tuy bình hòa trung chính nhưng bên trong có ẩn một phong vị vương giả.... Phải chăng bản đàn này là 'Bách Điểu Triều Phượng"?

Và đây là tiếng đàn khi đã "triều kiến":

"Quách Tường chỉ mới nghe vài nốt, bất giác vừa mừng vừa sợ. Hoá ra bản đàn này một phần là từ 'Khảo Bàn', là khúc mà nàng đã tấu qua [lần tương kiến trước đó], nhưng một phần khác lại từ trong thơ 'Kiêm Gia', hai bản không cùng một điệu, nhưng y đã hòa lại với nhau, một ứng một đáp, nghe thật là kỳ diệu"... "trong tiếng đàn của y có nói đến y nhân, chẳng nhẽ nhắc tới ta ư. Sao điệu đàn có vẻ ý tứ triền miên đến thế, nghe đầy những nhớ thương cảm mến?"

***

"Vỗ trường kiếm, giương mi lên, nước trong đá trắng sao xa cách? Thế gian này nếu không có kẻ tri âm, dù sống đến nghìn tuổi, phỏng có ích gì?"

Côn Luân Tam Thánh, sau khi chim chóc bay đi hết, bèn than như trên, rồi vạch kiếm thành bàn cờ, một mình thủ cả hai vai ta và địch. "Quách Tường xem cờ xuất thần, từ từ nhích lại gần, nhưng vì quân trắng lúc bố cục bị thua một nước, trước sau vẫn rơi vào hạ phong... nhìn thấy thế cục... buột miệng nói:

-Sao không bỏ Trung Nguyên đi để lấy Tây Vực?"

Nội câu nói đó đã tiên đoán, thiên hạ sẽ xuất hiện một môn phái mới: Côn Luân Tam Thánh, thua trên núi Thiếu Lâm, thề không trở lại Trung Nguyên, trở về Tây Vực, lập thành môn phái Côn Luân.

Bao nhiêu người được biết đến mối tình của Quách Tường, đều cùng xuất hiện, ở ngay đoạn mở đầu - chỉ thiếu hai nhân vật trung tâm, là cặp vợ chồng Dương Quá, Tiểu Long Nữ: Vô Sắc, người tặng quà mừng sinh nhật. Giác Viễn và Trương Quân Bảo, hai người này đã gặp Quách Tường, Dương Quá và Tiểu Long Nữ, khi đuổi theo kẻ trộm kinh sách. Một mối tình câm, và chỉ những người xứng đáng được biết tới, mới xuất hiện, để rồi đi vào quên lãng: Quách Tường tới già, ngộ ra, cắt tóc, đi tu, mở ra môn phái Nga Mi, mà những người trưởng môn sau đó, đều cũng lao đao với tình, như Diệt Tuyệt Sư thái, Chu Chỉ Nhược. Trương Quân Bảo sau thành Trương Tam Phong, suốt đời không gần nữ sắc, "người nhà trời", trưởng môn phái Võ Đang. Giác Viễn viên tịch, sau khi đọc Cửu Dương chân kinh lần chót. Vô Sắc biệt tích giang hồ...

Bây giờ chúng ta hiểu, tại sao (tên gọi) Vô Kỵ; tại sao Kỷ Hiểu Phù, nữ đệ tử Nga My, thà để cho sư phụ đánh bể đầu, nát thây, chứ không chịu chỉ chỗ ở của Quang Minh Hữu Sứ Dương Tiêu, và tại sao nàng đặt tên con là Bất Hối.

Con trai là phải vô kỵ: Chẳng uý kỵ gì hết!

Còn gái là phải bất hối!

Đừng hối tiếc gì hết!

Như trong ca dao:

Cho nhau chẳng tiếc gì nhau,

Về nhà mẹ hỏi:

Qua cầu gió bay!

***

5. VÔ KỴ GIỮA CHÚNG TA : TANG LOẠN THIẾP

Với cơn sốt chưởng Kim Dung tại Sài Gòn hồi đó, thật khó mà có một bản dịch cho ra hồn. Ấy là chưa kể những Kim Dung giả như Hậu Cô Gái Đồ Long... Ngay cái tên "Cô Gái Đồ Long"thay vì "Ỷ Thiên Đồ Long ký", là cũng để qua mặt Bộ Thông Tin, với qui định, mỗi nhật báo chỉ được đăng tối đa hai truyện chưởng. Thành thử một bản dịch chính xác, như của Nguyễn Duy Chính là hết sức cần thiết. Theo như trang Web có đăng truyện dịch của ông, Nguyễn Duy Chính tốt nghiệp Quốc Gia Hành Chánh Sài Gòn, hiện đang sống tại California với phu nhân và ba người con. Ông là người thích đọc sách, ham nghiên cứu văn học Trung Hoa. Riêng về truyện võ hiệp, ông đã dịch xong Ỷ Thiên Đồ Long Ký, Việt Nữ Kiếm, Bạch Mã Khiếu Tây Phong, Uyên Ương Đao, và hiện đang dịch Thiên Long Bát Bộ của Kim Dung.

Nếu không có bản dịch của Nguyễn Duy Chính, chúng ta không thể biết được "tiền thân" của môn võ công có tên là "Đồ Long Công" mà Đỗ Long Vân đã nhắc tới; nhờ nó mà Trương Thúy Sơn và Hân Tố Tố được Tạ Tốn tha chết, tại đại hội Giương Đao Lập Oai, và sau đó là cuộc hành trình thần tiên xa lánh võ lâm giang hồ, và loài người, tới Băng Hoả Đảo...

Sau đây là đoạn văn do Nguyễn Duy Chính dịch thuật liên quan tới Đồ Long Công:

"... Chỉ thấy Trương Tam Phong đi lại một hồi, ngửng đầu ngẫm nghĩ, bỗng nhiên đưa tay phải, tại không trung làm bút viết lên thành chữ. Trương Tam Phong cả văn lẫn võ đều thông, ngâm thơ viết chữ, học trò đều biết nên cũng không lấy làm lạ. Chàng [Trương Thúy Sơn] theo dõi nét bút ở tay, hóa ra ông viết đi viết lại mấy lần hai chữ 'tang loạn'[tai nạn lớn, catastrophe, chú thích của Nguyễn Duy Chính], rồi lại viết hai chữ 'đồ độc' [làm thương tổn, phục độc, to injure, to poison. NDC]. Trương Thúy Sơn trong lòng rung động, nghĩ thầm: 'Sư phụ trong lòng nghĩ đến "Tang Loạn Thiếp'.... Khi đó chàng thấy sư phụ dùng ngón tay làm bút, đạt đến tình trạng 'không nét nào duỗi ra mà không thu vào, không nét nào đi rồi mà không quay lại', chính là bút ý của Vương Hi Chi trong 'Tang Loạn Thiếp'.... Lúc này, chàng thấy sư phụ đưa tay viết liên tiếp: 'Hi Chi đốn thủ, tang loạn chi cực, tiên mộ tái ly đồ độc, truy duy kháo thậm' mười tám chữõ, mỗi chữ đều tràn đầy uất hận bi phẫn, nên bỗng cảm thông được tâm tình Vương Hi Chi khi viết 'Tang Loạn Thiếp'.

Vương Hi Chi là người Đông Tấn, lúc đó trung nguyên đang rối ren, rơi vào tay dị tộc. Họ Vương, họ Tạ là những gia đình có thế lực nay phải di cư xuống miền Nam tránh giặc, trong cái tai biến đó, phần mộ của ông cha bị dày xéo, khiến những đau khổ trong lòng không sao phát tiết ra cho hết, nên tất cả những uất ức đều thể hiện trong bài Tang Loạn Thiếp. Trương Thúy Sơn đang tuổi thanh niên, không lo không sầu, trước đây làm sao lãnh hội được những thâm ý trong bài thiếp? Lúc này gặp phải cảnh đại họa, không biết sống chết ra sao của sư huynh mới hiểu được hai chữ 'tang loạn', hai chữ 'đồ độc', hay bốn chữ 'truy duy kháo thậm' (đau khổ cùng cực. NDC).

Trương Tam Phong viết đi viết lại mấy lần, bỗng thở dài một tiếng, bước tới giữa sân, đứng trầm ngâm mọt hồi rồi đưa ngón tay, lại bắt đầu viết chữ. Lần này cách viết chữ hoàn toàn khác hẳn. Trương Thúy Sơn theo nét bút thì thấy chữ đầu tiên là chữ 'võ', rồi đến chữ 'lâm', tiếp tục hai mươi bốn chữ chính là câu người đời thường truyền tụng'Võ lâm chí tôn, bảo đao Đồ Long, Hiệu lệnh thiên hạ, mạc cảm bất tòng. Ỷ Thiên bất xuất, thùy dữ tranh phong.'Dường như Trương Tam Phong đang tìm cách suy nghĩ cho ra thâm ý của hai mươi bốn chữ này để biết vì cớ gì Du Đại Đại Nham bị thương? Việc này có liên hệ gì đến hai món thần binh lợi khí là đao Đồ Long và kiếm Ỷ Thiên?'

Như đã nói, có rất nhiều cách đọc Cô gái Đồ Long. Chúng ta có thể coi đây là truyền thuyết về hai món võ khí tuyệt hảo trong võ lâm. Ngay ở đầu truyện, Kim Dung đã hé mở cho thấy một chút bí mật của nó, qua câu hỏi Dư Đại Nham của viên cướp bể: 'Thần điêu đại hiệp Dương Quá đã giết vua Mông Cổ bằng võ khí gì?'

***

Hãy tưởng tượng Đỗ Long Vân đã/chưa từng học chữ Nho, đã/chưa từng đọc đoạn nguyên tác trên đây, và viết 'Vô Kỵ giữa chúng ta', mới hiểu được hai chữ 'tang loạn', hai chữ 'đồ độc', bốn chữ 'truy duy kháo thậm' đã ám ảnh Đỗ quân như thế nào.

Bởi vì trong cụm từ 'tai biến của chúng ta'đã gói trọn tất cả, nào là tang loạn, nào là đồ độc... Theo cách đó, có thể coi bản văn "Vô Kỵ giữa chúng ta"là một cuộc tìm kiếm nguồn cơn của mọi tai biến của chúng ta, vậy.

Hãy tưởng tượng một chàng thanh niên Hà Nội, con nhà giầu, được cha mẹ cho qua Tây, học dược để nối nghiệp nhà làm chủ một cửa tiệm thuốc lớn ngay bên Bờ Hồ, nhưng thay vì học để thành dược sĩ, học văn chương (chắc là gặp tác phẩm Weil ở Paris), thay vì ở lại nước ngoài để trốn cuộc chiến, trở về, dạy đại học Huế, rồi bỏ dạy học, không phải để lên rừng mà đành để bị bắt đi lính.

6. NGHỆ THUẬT KỂ CHUYÊN TRONG KIM DUNG

"Người ta sẽ không quên tiếng chân nặng nề của Tạ Tốn, giọng ho khan của Kim Hoa bà bà, cái nhìn trầm mặc của Phạm Dao và tiếng cười sảng khoái của Dương Tiêu trên Côn Luân sơn, giữa những cánh rừng thu lá đổ vàng..."

"Ai sẽ thắng? Câu hỏi ấy giờ được đặt ra. Và truyện võ hiệp thêm một yếu tố mới là sự bất trắc. Tiểu thuyết bắt đầu."

"Ai sẽ thắng? Nhưng không ai biết những gì sẽ xẩy ra."

"Và con đường bách thắng đã trở thành một cuộc thất lạc trong mê cung."

"Nhưng tất cả họ cùng có một cảnh ngộ là bị ném vào một thế giới mà họ không hiểu và trong ấy họ phải tự chọn. Mà chọn gì khi Tà không ra Tà, Chính không ra Chính..."

"Chúng tượng trưng cho cái nên thơ của sự mạch lạc mà tôi muốn người ta coi truyện Kim Dung như một cố gắng để đề cao."

DLV

Nhân loại chỉ đặt để ra những vấn đề nó có thể giải quyết.

Bí mật của vô sản là cái chết của tư bản.

Marx

Sự tương đối hóa những võ công, người ta thấy, đã xô những môn phái vào trong cảnh bất phân thắng phụ. Và tình trạng ấy cũng làm mờ dần ý nghĩa nguyên thủy của sự xung đột giữa họ. Còn lại một thế giới của bạo động thuần túy. Truyện võ hiệp cổ điển không kể gì hơn những cuộc thắng trận kế tiếp nhau của Chính nghĩa trên Tà đạo. Nhưng khi giữa Tà và Chính sự phân biệt đã trở nên mơ hồ thì diễn tiến của truyện cũng mất sự tất yếu ấy đi. Không có lý do tiên quyết nào để môn phái này thắng môn phái khác và, như một hậu quả dĩ nhiên, cũng không thể có môn phái nào có một võ công vô địch. Sự tương đối hóa của võ công đã dẫn tới sự tương đối hóa những giá trị đạo lý thì, ngược lại, sự tương đối hóa những giá trị đạo lý lại đưa tới sự tương đối hóa những võ công. Ai sẽ thắng? Câu hỏi ấy giờ được đặt ra. Và truyện võ hiệp thêm một yếu tố mới là sự bất trắc. Tiểu thuyết bắt đầu. Nghĩa là truyện không còn là một cơ hội để chiêm ngưỡng, như một nghi lễ đề cao những giá trị đạo lý, những chiến công của người anh hùng mà để tìm, một cách sơ đẳng hơn, cái hồi hộp của sự trông chờ. Ai sẽ thắng? Nhưng không ai biết những gì sẽ xẩy ra.

Tại cái đang xẩy ra người ta cũng chưa biết là cái gì. Mọi vật trong một thế giới của vật lực đã mất hết ý nghĩa cố định của chúng. Và tất cả đều trở thành nghi vấn. Cái bí mật của con đao Đồ Long như thế nào mà làm người ta giết nhau? Ai đã xuống tay giết một lúc mấy mươi mạng người của Long Môn tiêu cục? Không lẽ kẻ đã dùng Kim Cương chỉ lực để tra khảo Dư Đại Nham lại là người của Thiếu Lâm? Nhân vật tài hoa, uyên bác, phóng khoáng ấy sao có thể giết người như không để cho cả võ lâm nguyền rủa? Nhưng có gì trong lúc này không là một câu hỏi! Chúng theo nhau đến dồn dập và nhức nhối. Người ta nóng ruột chờ đáp thuyết ở những sự đến sau. Cái tài của Kim Dung tuy nhiên sẽ dẫn người ta từ thắc mắc này đến thắc mắc khác. Nghi vấn này chưa được giải quyết thì nghi vấn khác đã được tung ra. Gay cấn hơn nữa là ngay người anh hùng cũng không biết mình phải làm gì và sẽ trở nên một cái gì. Người anh hùng võ hiệp cổ điển vào đời với một ý chí cố định. Và những giai đoạn trên con đường thẳng dẫn chàng đến sự thực hiện của ý chí ấy. Những biến cố trong Kim Dung trái lại là ngần ấy chỗ quẹo tách chàng xa cái hướng đi thứ nhất của chàng. Và đôi khi như Đoàn Dự, chàng cũng không có ý định nào khác hơn là đi chơi, nhưng tình cờ hết bị lôi vào chuyện lôi thôi này lại bị kéo sang chuyện rắc rối khác, để sau cùng sửng sốt thấy mình trở thành một cái gì mà mình không bao giờ nghĩ tới. Người ta theo chàng vào một Bát quái trận đồ, và con đường bách thắng đã trở thành một cuộc thất lạc trong mê cung. Ở chỗ nào cũng xuất hiện những biến cố lạ và những sự kiện khả nghi. Xưa tất cả đều có ý nghĩa cố định. Thế giới sáng sủa. Không phải không có nguy hiểm nào đe dọa người anh hùng, nhưng nguy hiểm nào thì cũng có thể gọi tên, nghĩa là có giới định và chỉ có ở ngoài. Một sự kiện giờ trái lại là một cửa ngõ dẫn người ta vào một bí mật không thể nào lường. Ấy là một thế giới đầy ban đêm, đầy bất trắc và những ngõ quanh co như mắc cửi. Sau cái mặt nạ hàm hồ của mọi vật, tất cả đều có thể xẩy ra. Không biết chỗ quẹo này sẽ dẫn người ta tới đâu và cái gì chờ đợi người ta ở cuối con đường kia. Sự nguy hiểm, trong cảnh nhá nhem ấy, như rình rập khắp nơi. Cái nguy hiểm đích thực tuy nhiên vẫn không phải là cái nguy hiểm sờ thấy được mà chính là sự ngờ vực ấy, như bóng tối, không những trùng điệp ở trước mặt mà càng ngày càng lớn trong lòng người anh hùng.

Thế giới ngoại tại đã khả nghi, nhưng có khi ngay thân phận chàng ra sao người anh hùng cũng không chắc chắn. Không phải ngẫu nhiên mà truyện võ hiệp mới thường là truyện của người anh hùng đi tìm mình. Khi thì nôm na như một thiếu niên một hôm nào được biết rằng nó chỉ là một đứa trẻ mồ côi và những người nuôi nó không phải là cha mẹ thực của nó. Khi thì thống thiết như Kiều Phong chợt có người tố cáo rằng chàng không phải là người Hán mà lại mang dòng máu Khiết Đan, nghĩa là của một dân tộc chàng coi như tử thù, và cả sự nghiệp chàng như thế đã dựng trên một điêu trác. Khi thì khôi hài như Thạch Phá Thiên từ nhỏ mang cái tên là Chó Lộn Giống, để lớn lên ra đời ai cũng nhận là người của mình, trong khi ngay chàng cũng không biết chàng là ai. Lẽ dĩ nhiên người ta cũng không quên Âu Dương Phong luyện võ bị tẩu hỏa nhập ma đến nỗi vừa nghe nói có một tên Âu Dương Phong còn giỏi hơn mình vội đâm bổ đi tìm, gặp ai cũng hỏi, "Ai là Âu Dương Phong?", và, "Ta là ai?" Câu hỏi của ông già lộn đầu ấy tuy nhiên người anh hùng nào trong Kim Dung đã không có lần đặt ra? Không phải họ đều là những người không cha không mẹ. Nhưng tất cả họ cùng có một cảnh ngộ là bị ném vào một thế giới mà họ không hiểu và trong ấy họ phải tự chọn. Mà chọn gì khi Tà không ra Tà, Chính không ra Chính và cả thế giới sa đọa trong một tình trạng báo động thường trực, không để lại gì hơn là những nghi vấn chập chùng? Đi tìm mình, người anh hùng cũng đi tìm một ý nghĩa cho thế giới. Thế giới Kim Dung là một thế giới đang chờ được định nghĩa và truyện Kim Dung chỉ là truyện của cái nghĩa đang thành. Ấy là truyện tầm-đạo trong phương thức của một truyện trinh thám.

Như trong truyện trinh thám, thoạt tiên người ta chỉ thấy những sự kiện lẻ, bất ngờ và khó hiểu. Tất cả thoạt tiên chỉ có giá trị như những manh mối của một bí mật cần phải truy tầm, như những di tích của một quá khứ phải xây dựng lại, như những mảnh vụn của một toàn thể phải khám phá dần dần. Người ta ngạc nhiên trước những gì đang xẩy ra đến từ cái đã xẩy ra, và công việc giờ, như trong truyện trinh thám, là đi ngược từ hiện tại đến quá khứ, từ kết quả đến nguyên nhân, từ xúc động đến giải thích. Nhưng trước hết phải có xúc động. Những biến cố phải làm người ta ngạc nhiên và gây sự tò mò. Của Ưng Vương chẳng hạn, thoạt tiên người ta chỉ biết một tiếng hú kinh dị giữa trời chiều và những xác chết ông để lại sau một cuộc giết người thần tốc. Nhưng thế cũng đủ để tiếng dội tâm lý trong độc giả còn vọng mãi. Và người ta phải chịu rằng Kim Dung, mỗi lần giới thiệu một nhân vật quan trọng là ông biết sửa soạn những điều kiện để sự xuất hiện của nhân vật ấy đạt tới mức công hiệu tối đa. Người ta sẽ không quên tiếng chân nặng nề của Tạ Tốn, giọng ho khan của Kim Hoa bà bà, cái nhìn trầm mặc của Phạm Dao và tiếng cười sảng khoái của Dương Tiêu trên Côn Luân sơn, giữa những cánh rừng thu lá đổ vàng. Có những nhân vật không có gì để cho người ta nhớ hơn là cách xuất hiện đột ngột lần đầu tiên của họ. Tại một khi đã định nghĩa thì, như một sự kiện đã được giải thích, nhân vật như đã chết và không còn tác dụng tiểu thuyết nào nữa. Nhưng còn là một nghi vấn, còn làm người ta thắc mắc và trông chờ thì nhân vật vẫn còn sống và người ta hiểu tại sao người anh hùng trong Kim Dung chỉ có thể là người anh hùng tập sự, người anh hùng đi tìm mình, người anh hùng chưa thành anh hùng. Các nhân vật khác cũng thế, thoạt tiên người ta chỉ biết có một nửa: khi thì như một người dị thường, tính khí ngang nhiên, võ công trác tuyệt, nhưng thân phận như chìm trong một dĩ vãng xa xôi và thần bí; khi thì như một cái tên truyền tụng trong giang hồ, người ta chỉ nhắc đến trong sự tôn kính và sợ hãi, nhưng chưa ai được thấy mặt bao giờ. Cũng có khi người ta có thể khám phá rằng con người dị thường mà cứ mỗi lần xuất hiện là gây cho người ta một nghi vấn ấy, là cái nhân vật danh chấn võ lâm mà người ta náo nức trông chờ, chỉ là một, cũng như Kim Hoa bà bà, nào ai ngờ, chính là một nhân vật của Minh Giáo đã từ lâu biệt tăm chỉ để lưu trong trí nhớ mọi người cái tên rực rỡ là Tỷ Sam Long Vương. Nhưng tất cả nghệ thuật kể truyện trong lúc này là trì hoãn đến mức tối đa cái giờ xác định căn cước của nhân vật. Mộ Dung Phục có mặt nhất khi người ta chỉ biết chàng như một tiếng đồn trong võ lâm. Sự có mặt trong sự vắng mặt ấy là tất cả sức mạnh của truyện. Nó là nơi của nghi vấn, của trông chờ và mọi sự có thể. Nghĩa là của mọi sự bất ngờ.

Ai ngờ rằng Mộ Dung Phục, vẫn trong một phong độ phong nhã, thoáng chốc có thể trở thành một kẻ giết người không gớm tay, rằng sự thùy mị của Chu Chỉ Nhược lại sửa soạn cho những tham vọng, những tuyệt vọng và những ác độc khôn lường, rằng tất cả những ân cần của Trương Linh chỉ là một kế hoạch trong một âm mưu dài hạn để cướp con đao Đồ Long. Các nhân vật, người ta chỉ biết cái vai trò của họ, và đùng một cái, họ xuất hiện dưới bộ mặt mà người ta không chờ đợi. Ấy có thể là một mặt nạ khác và cũng có thể là một con người thực chôn vùi trong tâm khảm chợt được một biến cố nào làm tỉnh giấc như Tạ Tốn nghe tiếng khóc của một đứa trẻ thơ mà tìm thấy sự sáng sủa của lương tri. Nhưng cũng có khi, như trong cơn túy sát của Mộ Dung, người ta chứng kiến một đột biến tâm lý.

Cái bất ngờ, theo định nghĩa tầm thường nhất là cái không ai chờ đợi. Khi thì thê thảm như cái chết của A Chu dưới tay người nàng yêu. Khi thì khôi hài như cảnh một đại ma đầu như Nam Hải Ngạc Thần phải lạy Đoàn Dự, một thư sinh trói gà không chặt, làm thầy. Cũng có khi nó chỉ là một bất ngờ thuần túy, không có giá trị nào khác hơn là sự nên thơ như khi người ta khám phá ra rằng Côn Luân Tam Thánh không phải là ba người mà chỉ có một, rằng đứa ăn mày nhem nhuốc làm bạn cùng Quách Tĩnh là một người con gái đẹp giả trai; rằng Âu Dương Phong, vì học một võ công chép lộn mà trở thành đệ nhất cao thủ trong võ lâm. Lẽ dĩ nhiên cũng có những bất ngờ giả tạo để thỏa mãn nhu cầu xúc động của người đọc, để thêm số dòng và số trang, để thêm đà cho một câu chuyện đã đến chỗ sa lầy. Và cũng có những bất ngờ được sửa soạn hơn để giải quyết một tình thế đã tới chỗ bế tắc.

Cái bế tắc ấy, người ta thừa đoán, cũng là một bế tắc được sửa soạn. Tác giả cố tình đưa câu chuyện đến một chỗ nghẽn để, khi ấy, mới tung ra một nhân vật mới, một phát giác mới làm tình thế đảo ngược, và câu chuyện lại tiếp tục theo một hướng mới. Khi người ta không chờ gì nữa, khi những nguy hiểm tưởng đã qua khỏi, khi mối hy vọng đã tàn lụi thì tất cả xẩy ra đúng như người ta đã chờ, đúng như người ta đã sợ, đúng như người ta đã mong. Ấy là một thứ bất ngờ bậc hai. Khi Vô Kỵ yên trí rằng mưu kế của vợ chồng Hồ Thanh Ngưu đã thành công và họ đã thoát khỏi tay Kim Hoa bà bà để chỉ còn có việc cùng nhau xây hạnh phúc đến mãn kiếp thì chàng khám phá ra xác chết của họ treo trên một cành cây; khi sau không biết bao nhiêu ngày theo đuổi, Đoàn Dự lấy được tình yêu của Vương Ngọc Yến, người ta đã thở dài nhẹ nhõm thì tin đâu sét đánh, điều mà người ta nghi ngại được chứng thực: Vương Ngọc Yến là con của Đoàn Chính Thuần và là em khác mẹ của Đoàn Dự, và thế là hai người không thể lấy nhau. Sự bất ngờ khi ấy đến như một sự thiếu: cái mà người ta tưởng thế nào cũng xẩy ra lại không xẩy ra. Nhưng giữa lúc người ta đang tuyệt vọng không biết câu chuyện sẽ ra sao thì, đùng một cái, lại có tin rằng Đoàn Dự không phải là con của Đoàn Chính Thuần mà là của Đoàn Diên Khánh, người đáng lẽ trị vì nước Đại Lý và vẫn lưu vong chờ cơ hội cướp lại ngai vàng. Cái tin ấy lại đảo ngược một lần nữa. Nó trả lại Vương Ngọc Yến cho Đoàn Dự. Hơn thế nữa, cái ngai vàng nước Đại Lý, chàng trở nên người thừa kế xứng đáng nhất. Tất cả sau cùng đều xẩy ra theo thông lệ: người anh hùng sẽ lấy vợ và làm vua. Người ta có thể nghĩ rằng để đi đến kết luận cổ điển ấy có lẽ Kim Dung không cần phải bày ra nhiều chuyện như thế. Nhưng nếu không như thế, nếu không phải trải qua một cơn tuyệt vọng thì cái kết luận ấy còn giả tạo tới đâu? Tới sau một sự bế tắc cố ý thì sự giả tạo ấy lại xuất hiện như một chứng cớ của cái tài biến hóa của tác giả. Giả tạo một ít thì hỏng. Nhưng giả tạo hơn một ít nữa thì Kim Dung lại trả cho sự bất ngờ cái nên thơ của nó.

Sự thật thì ông có thể để yên cho Đoàn Dự lấy Vương Ngọc Yến và kế vị Đoàn Chính Thuần làm vua mà không ai thấy gì là trái cựa, và những tình thế kế tiếp đảo ngược ở phút chót, thoạt tiên, vừa có vẻ thừa và quá lôi thôi. Nhưng truyện không phải chỉ là truyện của Đoàn Dự. Không có những sự đảo ngược tình thế ấy thì nhân vật Đoàn Diên Khánh người ta biết xếp vào đâu? Hình như nhân vật mà người ta vẫn chỉ biết như ác tinh của nhà họ Đoàn tới đó mới tìm ra lý do cho vai trò của nó là để trả cho Đoàn Dự cùng một lúc, cả tình yêu và ngai vàng. Và cái kết luận mà người ta tưởng là dàn xếp ở phút chót ấy, giờ, người ta mới biết rằng với nhân vật Đoàn Diên Khánh nó đã được định từ những trang đầu. Cảm tưởng sau cùng của người ta là một tổ chức cực kỳ chặt chẽ không để gì xảy ra một cách tình cờ, và trong ấy cái bất ngờ chỉ là đáp thuyết thích hợp nhất cho một tình thế tưởng không thể nào gỡ nổi. Người ta cho rằng đáp thuyết ấy là bất ngờ. Nhưng bất ngờ nhất phải chăng là khi người ta thấy rằng cái bất ngờ ấy đã được sửa soạn từ lâu? Khi trông thấy Tiểu Siêu lần đầu thì Phạm Dao chợt giật mình. Nhưng cái giật mình nhỏ nhoi ấy gần như không ai buồn chú ý, báo hiệu kết cục của truyện kể khi Tiểu Siêu được nhận ra là con của Kim Hoa bà bà, và khi ấy người ta mới hiểu tại sao trước những sứ giả của Minh Giáo, nàng phải méo mặt giả làm một đứa con gái xấu xí. Ấy chỉ là một trong những thí dụ của cách bố cục kỹ lưỡng của truyện Kim Dung. Như tất cả các truyện viết đăng từng số một, trong Kim Dung không ngớt xẩy ra những biến cố khả nghi và bất ngờ. Nhưng điều làm truyện của ông vượt xa những truyện cùng loại là trong khi những tác giả khác như thất lạc giữa những sự kiện mà họ thả sức tung ra cho đầy trang giấy để sau cùng không ai biết kết luận ra sao thì trong Kim Dung, tất cả những chi tiết rải rác mà thoạt tiên người ta tưởng là vẽ ra theo sự tình cờ của cảm hứng, sau cùng đều giải thích lẫn nhau trong một kiến trúc nhịp nhàng.

Nhưng trong sự mạch lạc ấy, ẩn sau những nghi vấn rối như tơ vò, người ta có gặp gì hơn là một đặc tính của truyện trinh thám? Như trong truyện trinh thám, công việc là tìm cho một số sự kiện khó hiểu mối tương quan thống nhất và giải thích chúng. Ấy là công việc Hoàng Dung đã làm, khi từ những tang chứng để lại trên Đào Hoa Đảo mà tang chứng nào cũng kết án cha nàng, nàng phải xây dựng lại diễn biến vụ thảm sát đã xẩy ra và truy định thủ phạm đích thực. Trên một quy mô lớn hơn thì truyện Đồ Long sẽ không dẫn người ta đi đâu xa hơn là sự tái lập cái tổ chức của Minh Giáo đã từ lâu lý tán. Người ta thấy suốt cuốn truyện xuất hiện thường xuyên những nhân vật mới và cảm tưởng của người ta là đứng trước một trí tưởng tượng không có gì kiềm chế. Ngần ấy nhân vật tuy nhiên sau đều được phát giác là những nhân vật thất lạc của Minh Giáo và người ta sẽ không ngạc nhiên nếu, khi chức vụ của ai cũng được trả cho nấy rồi, thì truyện coi như đã gần xong. Tổ chức của Minh Giáo sẽ cho truyện sự mạch lạc của nó. Tất cả xẩy ra như trong hoá học. Mỗi lần khám phá ra một chất mới thì người ta cũng khám phá ra rằng cái chất ấy đã có một ô dành sẵn cho nó trong cái bảng Mendéléev. Ngược lại thì mỗi ô để trống lại đòi sự khám phá ra một chất mới để bù vào. Những nhân vật trong truyện Đồ Long cũng thế, như đều được sáng tạo để bù vào những chức vụ bỏ không của Minh Giáo và diễn tiến của truyện, tuần tự theo sự xuất hiện của họ sẽ trả lại cho Minh Giáo bộ mặt nguyên thủy của nó, nghĩa là, dẫn người ta đến một tình trạng có trước của thế giới. Nói tóm lại thì, như trong truyện trinh thám, cái gì mà theo người anh hùng, người ta khám phá ra là một dĩ vãng. Tổ chức Minh Giáo vừa là khởi điểm, vừa là tận điểm của truyện. Nếu những biến cố của truyện võ hiệp cổ điển nối tiếp nhau theo một đường thẳng thì truyện Đồ Long được viết theo một vòng tròn. Ấy là một thứ Bát Quái trận đồ: người ta đi bao nhiêu sau cùng trở về chỗ cũ, và sự phức tạp của nó ẩn một sự mạch lạc căn bản. Không phải ngẫu nhiên mà giữa truyện Kim Dung đã bày những trận đồ của Hoàng Dược Sư như một thách đố ám ảnh. Chúng tượng trưng cho cái nên thơ của sự mạch lạc mà tôi muốn người ta coi truyện Kim Dung như một cố gắng để đề cao.

Cái nên thơ ấy, người ta sẽ gặp lại trong cách Kim Dung xếp những nhân vật thành từng bộ. Có những bộ ba như A Chu, A Bích, A Tỷ, mỗi người mang một mầu áo; có những bộ tứ như Long Vương, Ưng Vương, Sư Vương, Bức Vương, mỗi người lấy một linh vật làm danh hiệu có những bộ năm như Đông tà, Tây Độc, Nam Đế, Bắc Cái, Trung Thần Thông, mỗi người xưng bá một phương, và lẽ dĩ nhiên cũng có những bộ bẩy hoặc tám nữa. Sau cùng phải kể đến Quang Minh Lưỡng Sứ, người tên Tiêu, người tên Dao, như sinh ra để cùng đồng hành và được võ lâm xưng tụng là Tiêu Dao nhị tiên. Một điều đặc biệt trong những bộ nhân vật ấy là Bộ có trước nhân vật. Mỗi Bộ thoạt tiên là lược đồ của một guồng máy mà những cơ quan là những nhân vật chờ được sáng tạo. Nhưng một khi những cơ quan đã lập, nghĩa là những nhân vật đã có những chức vụ đang chờ đợi họ thì Bộ, tùy theo những chuyển động riêng của mỗi người, sẽ như một guồng máy có một nhịp chuyển động riêng của nó. Ngược lại thì sự chuyển động của Bộ cũng làm nhân vật chuyển động theo. Nhân vật làm ra Bộ, Nhưng trong Bộ nhân vật mới tìm thấy định nghĩa của nó. Ấy là một chức vụ, một địa vị, một mầu sắc. Tâm lý nhân vật mất quan trọng, và có lẽ Kim Dung, sau khi đã xác định nhân vật như một chiều sâu, sẽ tiến đến một quan niệm về nhân vật giống truyện võ hiệp cổ điển, nhưng được khai thác một cách ý thức và có hệ thống hơn. Sự khác nhau giữa những nhân vật khi ấy chỉ còn là sự khác nhau giữa những vị trí của họ trong một Bộ. Có những nhân vật tâm lý không có gì đặc sắc nhưng thuộc một Bộ lại có một sự có mặt khác thường Ngược lại thì đôi khi có thể nói rằng Bộ đã ăn mất con người của nhân vật chỉ để lại một số hiệu. Quả Kim Dung đã không uổng là nhà văn của thời đại tổ chức! Và trong truyện ông, Cái Bang, Minh Giáo, Thiếu Lâm, nghĩa là những môn phái có tổ chức to lớn, chặt chẽ, và phức tạp thường giữ một vai trò đôi khi còn quan trọng hơn người anh hùng. Sự phức tạp ấy tuy nhiên Kim Dung không giới hạn vào một môn phái mà đã cho nó kích thước của một thế giới. Ấy là tất cả cái mênh mông của võ lâm trong cảnh ly tán, đa sắc và phồn tạp của nó mà theo người anh hùng người ta sẽ khám phá ra. Người anh hùng không chỉ khám phá ra một thế giới. Cái gì chàng sẽ làm sống lại là cả một giai đoạn của lịch sử võ lâm, và chính trong lịch sử ấy mà chàng sẽ tìm ra lý do đã làm cho võ lâm ly tán, nghĩa là sự mạch lạc trong cảnh ly tán ấy của võ lâm, để sau cùng trả lại cho võ lâm sự thống nhất của nó.

Ghi chú:

"Chiến thắng" của Kim Dung ở Việt Nam, theo tôi, không có nghĩa là nhà nước , và nhất là những nhà văn của họ đã nhận ra giá trị của ông, và nói theo Đỗ Long Vân: nghi vấn này - việc in lại những tác phẩm đã một thời bị coi là đồi trụy, trong đó có chưởng Kim Dung - người đời sau sẽ giải quyết.

Nhưng ít ra, có một nhận xét thật tuyệt vời về chưởng Kim Dung, của một tác giả ở trong nước, qua bài viết của Vương Trí Nhàn. Đó là đạo diễn Nguyễn Đình Nghi, "một nhà hoạt động sân khấu nhưng lại rất mê văn học, và cũng mê chưởng, mới đây kể với tôi rằng ông đã phải suy nghĩ nhiều, khi có lần nghe một người lái xe nhận xét: Đọc chưởng của Kim Dung, thấy cái gì cũng bịa, song cuối cùng lại thực, trong khi xem vở kịch của anh A. đọc truyện của anh B. viết bây giờ, biết thêm nhiều chi tiết thực mà toàn bộ cứ như giả khượt." (Vương Trí Nhàn: "Ngoài trời lại có trời", in trong "Kim Dung, tác phẩm và dư luận", nhà xb Văn Học, Hà Nội).

Một "chân lý văn chương" mà lại do một anh lái xe đưa ra thì thật tuyệt vời!

Trên tờ Điểm Sách Paris (The Paris Review interviews, Writers at Work, 6th Series), khi được hỏi bắt đầu viết như thế nào, Gabriel Garcia Marquez cho biết, khi học đại học Bogota, những bạn bè mới quen biết ở đây đã giới thiệu ông một số nhà văn đương thời. "Một đêm, một người bạn cho tôi mượn tập truyện ngắn của Franz Kafka. Khi về nơi trọ, tôi mở ra, bắt đầu đọc 'Hóa Thân', và dòng đầu tiên gần như đánh văng tôi ra khỏi giường. (The first line almost knocked me off the bed). Tôi quá đỗi ngạc nhiên. Dòng đầu như sau: 'Buổi sáng đó, Gregor Samsa thức giấc và thấy mình biến thành một con bọ ở trên giường.' Khi tôi đọc dòng đó, tôi nói với tôi, mình chưa từng gặp một con người nào được phép viết một điều như vậy. Nếu biết, tôi đã khởi sự viết từ đời nảo đời nào rồi."

Nhận xét của anh chàng lái xe và của nhà văn Nobel văn chương, theo tôi, có một chút gì "tâm đầu ý hợp".

Nếu độc giả nào đã từng đọc "Cội Rễ Nhà Trời" (Les Racines du ciel) của nhà văn người Pháp Romain Gary, chắc nhận ra một điều: chuyện phịa. Làm gì có một thằng khùng chui rúc mãi tít nơi rừng sâu nước độc, ở tận trái tim của bóng đen, là xứ Phi Châu, để bảo vệ loài voi, sợ nó bị diệt chủng, là hết cột chống trời, là trời sập! Nhưng càng đọc, càng chỉ thấy "sự thực, và sự thực mà thôi", bởi vì cái nhân vật chính ở trong đó còn "người hơn tất cả mọi người", và cuộc chiến đấu tuy bịa đặt, tuy vô vọng đó, bất cứ một con người nào cũng mong được dự phần. Đây cũng là "thiên chức" của nhà văn, nếu anh ta có được một thiên chức, theo Beckett, khi ông định nghĩa, nhà văn là một kẻ bị kết án phải thất bại, "Hãy thua, thua nữa, thua cho bảnh" (Fail, fail again, fail better).

"Sự kiện" Đoàn Dự uống rượu rồi vận Lục Mạch Thần Kiếm cho rượu theo mấy đầu ngón tay chảy ra ngoài thì bố ai mà tin được, nhưng bất cứ một người nữ nào cũng có thể hy sinh cho người tình của mình như A Chu, và hình như đây chính là "thiên chức" của nàng, một khi Thượng Đế đã ban cho nàng một "cơ may" gặp được chàng!

"Cội Rễ Nhà Trời" được coi là cuốn "tiểu thuyết sinh thái" đầu tiên, khi cái từ "sinh thái" chưa được biết tới, khi thảm họa môi sinh còn là chuyện "bịa khướt". Thú thật, bản thân người viết cũng không làm sao chịu nổi hình thức văn chương có tên là "tiểu thuyết tài liệu" (roman documentaire). Và càng sợ hơn nữa, thứ tiểu thuyết tư tưởng! Còn nhớ có lần được nghe một nhà văn hải ngoại "tâm sự", cứ mỗi lần ông muốn để cho nhân vật của mình nói lên một tư tưởng gì đó, là thấy như ngường ngượng! Có vẻ như nhân vật tiểu thuyết mũi tẹt không chịu nổi món này!

Mũi tẹt hay không tẹt, thì cũng "mắm sốt" (même chose). Không phải là không có tiểu thuyết tư tưởng, nhưng thứ này hiếm. Đâu có phải ai cũng có thể viết được những tác phẩm như của Musil hoặc Thomas Mann, hay một "Bóng Đêm Giữa Ban Ngày" (Koestler), với những nhân vật từ đời thực bước thẳng sang tiểu thuyết, như những nhận định của G. Steiner: "Nhưng vâng, đó có thể là ý thức hệ. Tôi may được quen Arthur Koestler, biết được cái điều: ai mà chẳng dám đánh đổi tất cả, nếu viết được một tác phẩm như là Bóng Đêm Giữa Ban Ngày: một trong những hành động tối thượng của tư tưởng. Đối với tôi, đây là một trường hợp biên cương [giữa văn học và ý hệ]. Nó sẽ vẫn còn được đọc, không chỉ vì Gletkin và Rubashov là những nhân vật giả tưởng, mà còn vì những tranh luận về chủ nghĩa Stalin, chủ nghĩa Marx, về sự tra tấn, và khủng bố: đâu là bản chất của sự dấn thân tới chết, với ý hệ? Đâu là bản chất của dối trá, nhằm bảo vệ chính nghĩa? Đúng là một cuốn sách giầu có. Koestler đưa vô, khá đủ độ đậm của cuộc sống, khiến nó không nghèo nàn như là một kịch bản về ý hệ." (Trả lời phỏng vấn của tờ Điểm sách Paris).

Và đây cũng là lý do Kundera coi "1984" của Orwell không phải là tiểu thuyết, mà chỉ là chính trị giả danh văn chương. Ông cho rằng lỗi ở tác giả, đã quá "nghiêm trọng" khi viết văn. Ông khuyên, "đừng nghiêm trọng, cho dù đang viết về những chuyện chết người."

Nhìn rộng ra một chút nữa, nhà văn, một khi muốn "nhân danh", (hoặc muốn nhét vào miệng nhân vật mình một tư tưởng nào đó), là hỏng! Hỏng ở đây, một phần nào đó, không mắc mớ gì đến tài năng của người viết, đề tài người đó chọn... mà chính là do người viết đã tự trói, hoặc đã thui chột trí tưởng tượng của mình, rồi mới bắt đầu loay hoay tìm cách viết văn!

Có một câu chuyện ngụ ngôn, về một con hổ muốn biết trí khôn của con người ra sao, đã chịu cho người cày ruộng trói lại, khi nghe người này nói, "trí khôn tao để ở nhà". Một khi bạn muốn "chụp một cái mũ cho văn chương", như vậy là đã "cố tình" bỏ quên trí khôn ở nhà! Trong trường hợp đó, tốt nhất là để cho hổ ăn thịt, cả trâu lẫn người!

Mô phỏng Kim Dung, chúng ta có thể nói, có hai bí kíp Cửu Âm chân kinh: một, từ ảo qua thực (tiểu thuyết) và một, từ thực qua ảo (tiểu thuyết dởm). Có điều, với Kim Dung, tập luyện thứ nào thì cũng đưa đến kết quả.

Nói rõ hơn, có tư tưởng, và là thứ xịn, ở trong chưởng Kim Dung,

Cũng cùng một trường hợp như vậy, nếu chúng ta để ý tới những lời phẩm bình Lê Minh Hà, của Y Ban, một nữ tác giả ở trong nước, trong một dịp ngao du hải ngoại. Nếu bỏ qua cụm từ "nhà văn gì gì đó", những nhận xét còn lại của Y Ban, theo tôi, có điều gì hết sức chân thực, và là do cách đọc, cách hiểu văn chương của bà; nói rộng ra, của đa số nhà văn ở trong nước.

Y Ban coi những truyện của Lê Minh Hà giống như của những học sinh tập viết văn. Và những truyện như thế "chẳng tải gì cả".

Đúng như vậy! Những truyện ngắn của Lê Minh Hà chẳng tải gì cả, và đây là một điều thật là tuyệt vời! Bởi vì bà đã phải đợi cuộc chiến qua đi, rồi lại đợi, đợi mòn đợi mỏi, cho đến khi không thể đợi được nữa, đành thoát ra ngoài, chỉ để viết những câu chuyện vặt vãnh, "chẳng tải gì cả", về một miền đất. Bạn có bao giờ để ý đến những cánh hoa, sau một trận mưa, đã cố sửa soạn lại nhan sắc, cố giấu những vết thương trên mình, và lại mỉm cười như chẳng có chuyện gì xẩy ra?

"Có sợi tóc nào bay trong trí nhớ nhỏ nhoi": tôi cứ tưởng tượng ra một người đàn bà, sau khi làm hết bổn phận với chồng với con, với cuộc đời nặng nề này, trong đêm khuya, đợi cho người thân yên giấc, lặng lẽ thả từng cánh hoa xuống lòng giếng sâu là hồn mình, rồi hồi hộp, âu lo, đợi chờ tiếng vọng của một thời nào đã xưa, đã cũ... Liệu những cánh hoa như vậy có "tải" được không, và những tiếng vọng, có "nghe" được không?

Thành thử những "gì gì đó", nào là, sau một thời văn chương vết thương, tới một thời văn chương vết rạn, sau phản kháng tới ly khai, sau chống cộng tới hợp lưu... là toàn những chuyện giả danh văn chương ráo trọi!

Vẫn trong "Kim Dung tác phẩm và dư luận", Vũ Hạnh khi được hỏi, về những nhận định trước đây, khi còn nằm vùng, và bây giờ, đối với chưởng Kim Dung, ông cho rằng đây chỉ là một thứ "para-littérature", trước đây ông chống, vì nó làm ru ngủ thanh niên trong lòng địch, bây giờ, ta cho in nhưng phải kiểm soát.

[Tôi sẽ trở lại với văn chương phải kiểm soát, trong một dịp tới].

***

"Lẫm liệt một thời mà bây giờ thì... tội nghiệp quá."

Câu văn trên, trích từ "Một Thời Gió Bụi", tập truyện ngắn của Nguyễn Khải (nhà xuất bản Lao Động Hà Nội 1993). Tác giả không định nói về một miền đất, mà là một khí hậu văn chương, khi so sánh anh nhà văn hiện nay với người dân làm cói ở xã N.

"Một Thời Gió Bụi" mở ra bằng câu chuyện một làng làm cói. Thuở lẫm liệt, "vào thập niên 1970 có năm họ thu được 9 triệu tiền hàng. Tiền thu đã nhiều mà làm cói lại dễ hơn trồng lúa. Một lần cấy mống cói thu hoạch từ bẩy đến mười năm... Mọi người tin rằng sự ổn định ấy là bất di bất dịch... Vậy mà cái yên tĩnh bây giờ [không còn lo chiến tranh], cái mở ra của bây giờ... đang dồn xã anh hùng vào ngõ cụt...". Thế rồi tác giả bèn quay qua chuyện viết văn, "cũng như những người làm cói, tôi tin tưởng cái nghề viết của bọn tôi sẽ không có gì thay đổi, sẽ mãi mãi vẫn như thế. Nền văn học trong tương lai là nền văn học xã hội chủ nghĩa, làm sao nghi ngờ được... Vậy mà bỗng chốc... bỗng chốc bản thảo đưa tới nhà xuất bản từ nửa năm bị trả lại. Tại sao vậy? -Anh viết chính trị quá, cao siêu quá, bạn đọc sẽ khó mua. -Bạn đọc nào? Bạn đọc của tôi vẫn trung thành với tôi mà! -Bạn đọc quen thuộc của anh đã tới tuổi về hưu rồi, đã về hưu tiền ăn còn chả đủ lấy tiền đâu mua sách."

"Nhưng người có tiền là những người đang làm việc, họ còn trẻ, rất trẻ. Hãy viết cho tuổi trẻ đi! Khốn nỗi cái tuổi trẻ hôm nay với tuổi trẻ của bọn tôi lại khác nhau quá nhiều vì thời thế đã thay đổi... Chân lý vĩnh cửu không còn nữa... Tiêu chuẩn bây giờ là tiền. Nó là bản vị của mọi giá trị. Chẳng hạn một nhà văn mà không kiếm ra tiền là nhà văn tồi... Nên ví thân phận anh nhà văn với ai nhỉ? Chắc là phải xếp dưới thầy cúng với thầy bói. Nghề này đang hái ra tiền, vì còn rất cần thiết cho những cái mộng tỉ phú. Chỉ có thể so sánh anh nhà văn hiện nay với người dân làm cói ở xã N mà thôi. Lẫm liệt một thời mà bây giờ thì... tội nghiệp quá!"

Ấy chỉ vì "chân lý vĩnh cửu không còn nữa!"

***

Bất cứ một so sánh nào cũng khập khễnh. Đôi khi khập khễnh "cần thiết" hơn cân đối, hoàn chỉnh, ít ra là trong trường hợp ở đây.

Người viết đã từng nghe "hơn một nhà văn" ở trong nước chê Nguyễn Tuân. "Những tùy bút sau này của ông dở quá! Thua xa Võ Phiến!", một nhà văn ở trong nước đã nói với tôi như vậy. Anh kể, kỷ niệm lần đầu đụng đầu với văn chương miền nam trước 1975, "Tôi đọc câu thơ của Nguyên Sa, hình như là thế này, 'Sáng hôm nay Nga buồn như một con mèo ốm...', và sướng điên lên. Làm sao ở miền bắc lại có một câu thơ ngu ngơ dại khờ tuyệt vời đến như vậy! Làm thơ như thế thì còn quá phản động!"

Ấy là tôi diễn ý của tôi, khi nhìn anh bồi hồi với "nụ hôn đầu ôm mái tóc lang thang" (thơ Thanh Tâm Tuyền): thì cứ coi như anh lần đầu tương tư Nga, và tiện thể, tương tư câu thơ đi, có chết ai!

Tôi lạc đề như vậy, là để nói ra điều này: không thể có một thứ văn chương lẫm liệt, và nếu có một thứ văn chương lẫm liệt, thì cái hậu quả tội nghiệp bây giờ là tất nhiên!

Và nếu Nguyễn Tuân sau này dở quá, cũng là lẽ tất nhiên, theo nghĩa, có thể ông thừa sức để viết hay hơn, thừa sức kiếm ra những đề tài xứng với ông hơn, nhưng ông biết rất rõ: viết hay là bỏ mẹ!

Bởi vì hãy nhớ lại câu cảnh cáo của Adorno: Sau Lò Thiêu mà còn làm thơ thì thật là ... "tội nghiệp"! (ông dùng chữ "dã man").

Hay là mượn ngay một câu chuyện ngụ ngôn của Đông phương, về một con chó chuyên săn hùm beo, bị đánh què chân, chỉ để dùng vào việc săn chuột! Ở đây, Nguyễn Tuân đánh què chính mình, tự tay ném tác phẩm của mình vào thùng rác, vì sợ rằng sau này thiên hạ sẽ hỏi, tại sao một thời đại khốn kiếp như thế mà lại có một thằng viết văn hay như vậy?

Liệu có thể coi nhà văn đó hèn nhát? Và cái thái độ chê bai Nguyễn Tuân, có phải do quá ghen với tài năng của ông, hay là vì họ Nguyễn phải đợi ba trăm năm sau mới tìm được kẻ khóc mình?

Liệu chúng ta có thể đi đến một kết luận vội vã: lẫm liệt cho lắm vào, bây giờ tội nghiệp cho đáng kiếp!

***

Cũng một trường hợp như vậy, nếu chúng ta đọc truyện ngắn "Huyền thoại phố phường" của Nguyễn Huy Thiệp.

Đây là một câu chuyện mô phỏng "Con đầm bích" của Pushkin. Nghe nói ở trong nước có người "quá ghen" hoặc "quá ngu" đến độ chê họ Nguyễn là đạo văn! Bản thân tôi, lần đầu đọc truyện này, cũng ngạc nhiên, tự hỏi tại sao Nguyễn Huy Thiệp "viết lại" Pushkin, bằng cách đẩy cái không khí huyền hoặc của "Con đầm bích"ù - bạn đọc chắc còn nhớ cảnh tượng "nụ cười" của bà đầm già "bước ra khỏi lá bài" khiến tay sĩ quan phát điên... - vào trong "thực tại" phố phường?

Một cách nào đó, Nguyễn Huy Thiệp đã nhận ra nhu cầu phải viết khác đi, nếu không muốn làm nhục văn chương, nghệ thuật. Nên nhớ, một khi văn chương phải hạ mình xuống để làm những công chuyện như "phản kháng, ly khai, chống cộng, hợp lưu, giao lưu hoà giải..." một cách nào đó, nó đã bị tổn thương, hoặc đã tự đánh què chính nó, và nếu văn chương có một lương tâm, chắc là nó cũng cảm thấy hổ thẹn! Theo nghĩa đó, Cao Hành Kiện đã cho rằng, đây chỉ là chuyện tri âm tri kỷ mà thôi. Cũng vẫn theo nghĩa đó, những người chê thơ Nguyễn Chí Thiện (không phải là thơ!), đáng lẽ họ phải đặt ngược vấn đề và tự hỏi, nếu Nguyễn Chí Thiện ở trong tù mà còn làm thơ thì... tội nghiệp thực!

Đây chính là lý do tại sao, khi thiên hạ khen "Bác sĩ Zhivago" của Pasternak, Nabokov đã "bực mình", qua một số câu trả lời phỏng vấn mà người viết trích dịch sau đây.

Khi được hỏi, ông tiên đoán ra sao, về sức khoẻ của văn chương Nga, Nabokov trả lời:

Thật khó mà có một câu trả lời giản dị cho một câu hỏi như thế. Vấn đề là, không có một chính quyền nào, cho dù thông minh tới đâu, nhân bản tới đâu, có thể đẻ ra những nghệ sĩ lớn; ngược lại, một chính quyền tồi tệ nào cũng dư sức để mà hành hạ, làm tình làm tội, và hơn thế nữa, bách hại, làm thịt nghệ sĩ. Nên nhớ điều này, vì nó thật là quan trọng: chỉ đám thiếu thẩm mỹ (philistins), mắt mù tai điếc trước nghệ thuật, mới ăn nên làm ra trong mọi chế độ. Bởi vậy tôi chẳng có thể nào tiên đoán gì hết, nhưng hy vọng, lẽ dĩ nhiên, rồi chế độ công an trị ở Liên xô sụp dần rồi biến mất. Trong khi chờ đợi, tôi lấy làm thương hại cho mấy tên ngu đần đã lầm lẫn Staline với McCarthy, Lò Thiêu Auschwitz với bom nguyên tử...

Khi được hỏi, ông viết cho ai, Nabokov trả lời:

Tôi không tin một nghệ sĩ lại phải lo lắng đến độc giả của mình. Độc giả số một của ông ta, là cái kẻ mà mọi buổi sáng ông ta nhìn thấy trong gương, khi cạo râu. Tôi cho rằng, khán thính giả độc giả của một nghệ sĩ, mà ông ta tưởng tượng ra được, là những người làm đầy một căn phòng, và tất cả đều mang mặt nạ của ông ta.

Về cuốn Dr Zhivago, khi Robert Bingham, của tạp chí Reporter, New York, muốn biết ý kiến của ông, Nabokov đã từ chối đưa ra một lời phê bình, sợ có hại cho tác giả. Theo ông, đây là một cuốn sách ủng hộ (pro) bôn sê vích, và sai lầm về lịch sử (historiquement faux), bởi vì đã vờ đi cuộc cách mạng tự do (révolution libérale) mùa xuân 1917; hơn nữa vị bác sĩ đã mừng đến phát điên, khi cú đảo chánh của bôn sê vích xẩy ra bẩy tháng sau đó. Tuy nhiên, ông đánh giá cao Pasternak như là một thi sĩ trữ tình (poète lyrique). Ông chào mừng Pasternak được giải Nobel, chỉ vì những câu thơ của ông ta. Trong Dr Zhivago, văn đã không tới được tầm cao của thơ ông. Ông nói thêm, tầng lớp trí thức Nga không ăn ý với Đảng đã không mặn mà với cuốn sách như là độc giả Mỹ. Khi cuốn sách xuất hiện ở Hoa Kỳ, đám lý tưởng tả phái đã mừng quýnh lên: đây là một bằng chứng cho thấy "một đại tác phẩm" đã được đẻ ra, từ chế độ Xô viết.

[Về những trích dẫn trên đây, là từ "Strong Opinions" (tạm dịch Bạo Mồm), người viết sử dụng bản dịch tiếng Pháp, "Partis Pris", tủ sách 10/18, nhà xb Julliard, ấn bản 2001].

Với riêng người viết, chính cái tình trạng tội nghiệp kia, là một dấu hiệu hết sức đáng mừng của văn chương ở trong nước, nếu chúng ta nhận ra cái thông điệp của nhà văn Nam Phi Coetzee, khi viết về trường hợp cuốn Thương Xá (The Arcades Project: Dự án về những vòm cung thương xá) của nhà văn người Đức gốc Do Thái, Walter Benjamin. Khi Hitler lên nắm quyền ở Đức, Benjamin bỏ chạy qua Paris. Và khi Pháp sắp sửa lọt vào tay Quốc Xã, ông tìm đường tới Hoa Kỳ bằng ngả biên giới giữa Pháp và Tây Ban Nha, ôm theo bản thảo cuốn sách. "Nó còn quan trọng hơn cả tôi, và phải được gìn giữ", ông nói về đứa con tinh thần của mình.

Theo Coetzee, cuốn "Thương Xá", cho dù chúng ta đánh giá nó như thế nào - điêu tàn, thất bại, một dự án bất khả, impossible project - đề nghị một đường lối mới, để viết về một nền văn minh: sử dụng những rác rưởi làm chất liệu, thay vì những nghệ phẩm của cái nền văn minh đóù; lịch sử từ đáy thay vì lịch sử từ đỉnh. Và lời kêu gọi của Benjamin (trong "Những luận đề" - "Theses"), cho một lịch sử xoáy vào đau khổ của những người thua, thay vì thành tựu của những kẻ thắng: lời kêu gọi này mang đầy tính tiên tri, về cung cách mà việc viết sử bắt đầu nghĩ về chính nó, trong quãng đời [còn lại ngắn ngủi của chúng] ta.

***

Qui est Ky?

Ky là ai? Đây là câu hỏi của tướng de Gaulle, thời gian hoà đàm về chiến tranh Việt Nam diễn ra ở Paris. Câu hỏi này được báo Tây đăng tải, vì tính ngộ nghĩnh của nó (một trò chơi chữ), nhưng còn vì những hành vi "ngộ nghĩnh" của Nguyễn Cao Kỳ, khi, thay vì họp, ông kéo bà vợ "Duyên Kỳ Mai" đi trượt tuyết, hoặc chứng kiến ông biểu diễn lái phi cơ phản lực, hoặc vì tính "ngộ nghĩnh" của hòa đàm, hai, ba hay bốn bên; bàn tròn, bầu dục, hay vuông; rút quân trong danh dự hay cuộc tháo chạy tán loạn....

Nhắc tới Nguyễn Cao Kỳ, vì có một thời, "Cô Gái Đồ Long" là tác phẩm ruột của ông, và từ đó, của binh chủng không quân. Ông cũng từng được một nhà thơ miền nam, nhân chuyện ông và Nguyễn Văn Thiệu hục hặc, coi là Vô Kỵ, qua câu thơ:

"Ông về ông kẻ lông mày tí chăng?"

***

Có ít nhiều tương đồng giữa Weil và Đỗ Long Vân.

Weil là học trò đắc ý nhất của Alain. Simone Pétrément, người viết tiểu sử của Weil cho biết, ngay từ hồi đi học, Weil đã chịu ảnh hưởng của ông thầy, từ nỗi quan hoài trước bất công, tới chống lại trật tự xã hội.

Đỗ Long Vân rất mê Alain, và đã từng dịch những tác phẩm của ông thầy người Pháp này.

Có thể, cả hai cùng bị ám ảnh bởi sức mạnh, theo nghĩa Weil viết trong "Iliade hay là bài thơ của sức mạnh": "Sức mạnh biến kẻ bị nó chi phối thành đồ vật". Hoặc lời nhắn nhủ này: "Chúng ta đừng bao giờ tái diễn cuộc chiến thành Troie" (tên một bài viết của Weil, viết năm 1937). Có thể, "Vô Kỵ giữa chúng ta" được viết dưới ánh sáng của những bài viết, những kinh nghiệm của Weil về Nazi, chủ nghĩa toàn trị... Ngay cả sự kiện Đỗ Long Vân đành để bị đưa đi Trung Tâm Ba tuyển mộ nhập ngũ như là một bình nhì, và từ chối ra bưng, như một hai "bằng hữu" hay mối quen biết (?) của ông, thời kỳ Mậu Thân, có thể cũng do ảnh hưởng của Weil.

Bà là một trong những người đầu tiên, thuộc giới trí thức tả phái, lên tiếng tố cáo Liên bang Xô viết, nhưng lại bị coi là "ngây thơ" (naive), khi cho rằng nước Pháp chỉ có mỗi một cách để chứng tỏ tính "ưu việt" (superiority) của nó, là trả lại độc lập cho những xứ thuộc địa. Tiểu thuyết gia người Pháp Georges Bataille có lẽ là người diễn tả tuyệt vời nhất về Weil: một "Don Quixote", trong trường hợp của Weil, những kẻ thù của bà không phải là những cối xay gió, mà có thực, nhưng cây thương của bà là đồ dởm (imaginary).

Với Đỗ Long Vân, ông không biết đâu là kẻ thù, đâu là bạn, nhưng có thể ông cũng nghĩ như một nhân vật trong "Bếp Lửa" của Thanh Tâm Tuyền: Ra ngoài ấy thì cũng là một cách đánh đĩ tinh thần!

Theo tôi, Đỗ quân còn bị ảnh hưởng Weil, ngay ở trong văn phong của bà: một văn phong đầy hồn thơ, và cũng thật là dữ dằn (ferocious).

Ngay cả thái độ từ chối mọi tiện nghi, mọi đặc quyền của cuộc đời, như Weil: "Tôi sinh ra là để có phần của mình, ở tình yêu, không phải ở hận thù."(Antigone. Sophocle).

***

".... Trong Kim Dung, tất cả những chi tiết rải rác mà thoạt tiên người ta tưởng là vẽ ra theo sự tình cờ của cảm hứng, sau cùng đều giải thích lẫn nhau trong một kiến trúc nhịp nhàng".

ĐLV

Trước Newton, những hiện tượng vật lý như trái táo rớt xuống đất, thủy triều lên xuống theo con trăng... đều là "những chi tiết rải rác", những hiện tượng "tình cờ"của vũ trụ. Đến khi Newton xuất hiện, với luật vạn vật hấp dẫn, tất cả những hiện tượng riêng rẽ, rời rạc, tình cờ kia đều thu về một mối. Koestler đã coi Newton là người nhạc trưởng, tay cầm cây đũa thần, giơ lên cao, và bản hòa tấu bắt đầu.

Nhưng cái kiến trúc nhịp nhàng kia đâu phải là chấm dứt mà chỉ là mở đầu, nó là buổi đêm chứ không phải rạng sáng, nói theo Lévi-Strauss. Bởi vậy, sau Newton có Einstein, sau Einstein có lý thuyết Big Bang, Lỗ Đen...

***

Nhà văn Nguyễn Mạnh Tuấn, trong bài phỏng vấn in trong "Kim Dung, tác phẩm và dư luận", cho biết: "Tôi biết rằng ở Trung Quốc đang cho in lại Kim Dung, bằng bản do chính tác giả chỉnh lý: loại bỏ 30% những gì đã cho in và nâng cao lên, bằng cách văn học hóa những gì đã viết. Trong bản cũ, từng có những nhân vật bị tác giả bỏ quên: nếu tôi nhớ không lầm thì trong 'Cô gái đồ long', Khúc Phi Yến, một nhân vật khá hấp dẫn bỗng dưng không thấy mặt mũi đâu nữa, chẳng chết, cũng chẳng sống, biến mất tăm không một lời giải thích..."

Khúc Phi Yến là nhân vật trong 'Tiếu Ngạo Giang Hồ'. Theo tôi, không phải người đẹp bị Kim Dung bỏ quên. Khúc Phi Yến xuất hiện chỉ để nói một câu rồi biến mất, giống như người đẹp bay lên trời ở trong "Trăm Năm Cô Đơn" của Garcia Marquez.

Bạn đọc chắc còn nhớ đoạn hai đồng tác giả bản đàn Tiếu Ngạo Giang Hồ bị cao thủ Phí Bân phái Tung Sơn truy đuổi tận diệt, rồi Lệnh Hồ Xung và Nghi Lâm xuất hiện, Phí Bân muốn giết luôn cả hai để diệt khẩu, Lệnh Hồ Xung kêu Nghi Lâm hãy bỏ chạy, nhưng vị ni cô quyết định ở lại, và Khúc Phi Yến đã cười nói: "Chàng ngố ơi, ni cô muốn cùng chết với chàng ngố đó..."

Lời tỏ tình, Lệnh Hồ Xung không thể nói, (vì là chàng ngố), Nghi Lâm lại càng không thể nói, (vì đã gửi thân nơi cửa Phật). Kim Dung đã mượn người đẹp, cô cháu gái (?) của Khúc trưởng lão của Ma giáo nói giùm, là vậy.

Trong đời "thực", chắc còn nhiều chàng ngố, chỉ mong được nhìn thấy người đẹp một lần trong đời...

***

"Tổ chức của Minh Giáo sẽ cho truyện sự mạch lạc của nó. Tất cả xẩy ra như trong hóa học...".

ĐLV

Có ba cách đọc "Cô Gái Đồ Long", ít ra là vậy, theo tôi.

Cách thứ nhất: lấy Cửu Dương chân kinh làm nền, và đây là câu chuyện về một nguyên lý võ công mất đi, rồi tìm thấy lại.

Cách thứ nhì: lấy Vô Kỵ làm nền và đây là câu chuyện một đứa trẻ bất hạnh, như những nhân vật của Dickens chẳng hạn. Và những trang sách tuyệt vời trong "Cô Gái Đồ Long", là để tả cuộc hành trình của hai đứa trẻ bất hạnh, Vô Kỵ và Bất Hối, từ Điệp Cốc tới đỉnh Côn Luân.

Cách thứ ba, như trên, là lấy Minh Giáo làm nền, như Đỗ quân đã trình bày: "Trên một qui mô lớn hơn thì truyện Đồ Long cũng sẽ không dẫn người ta đi đâu xa hơn là sự tái lập cái tổ chức của Minh Giáo đã từ lâu ly tán..." "những nhân vật trong truyện Đồ Long [những chất hóa học trong bảng tuần hoàn Mendéléev] như đều được sáng tạo để bù vào những chức vụ bỏ không của Minh Giáo.... Tổ chức Minh Giáo vừa là khởi điểm, vừa là tận điểm của truyện."

Những ý niệm về "nhân vật xếp thành từng bộ" như Đỗ Long Vân diễn tả, là mượn từ tân toán học, theo tôi, nhưng đã bị ám ảnh bởi thời cuộc, thí dụ như những câu sau đây:

"Nhân vật làm ra Bộ. Nhưng trong Bộ nhân vật mới tìm thấy định nghĩa."

"Tâm lý nhân vật mất quan trọng... sự khác nhau giữa những nhân vật khi ấy chỉ còn là sự khác nhau giữa những vị trí của họ trong một Bộ."

"Ngược lại thì đôi khi có thể nói rằng Bộ đã ăn mất con người của nhân vật. Quả Kim Dung đã không uổng là nhà văn của thời đại tổ chức!"

Từ "tổ chức" thật là đầy ấn tượng!

7. THẾ GIỚI KIM DUNG

"There is therefore a poetics of blood. It is a poetics of tragedy and pain, for blood is never happy"

Gaston Bachelard. (Về Tưởng tượng Thi ca và Mơ mộng, On Poetic Imagination and Reverie; Colette Gaudin biên tập, nhà xb Indianapolis: Bobbs-Merrill, 1971.)

["Từ đó, có một thi học về máu. Đó là một thi học về bi thảm và đau đớn, bởi máu là chẳng thể nào hạnh phúc." J.M. Coetzee trích dẫn, trong "White Writing: On the Culture of Letters in South Africa", nhà xuất bản Yale University Press].

"As long as there are victors, there's not too much hope for the world".

"The only hero is the anti-hero".

"We have no chance against a time that needs heroes."

Christa Wolf: The Author's Dimension (tuyển tập tiểu luận, nhà xb The University of Chicago Press).

"To whom can I say that the Iliad bores me?"

(Nói với ai đây, Iliad làm tôi chán?)

Christa Wolf: Casandra (a novel and four easays).

"Heroes must suffer, not die"

(Người hùng phải đau khổ, cấm được chết")

G. Steiner

"Truyện ông như muốn quật ngã cái ý chí anh hùng và cái đạo lý của ông không giống cái đạo lý của người thống trị. Hay đúng hơn ấy chính là sự thống trị. Khi uy quyền đã vững và tới bậc cuối cùng của tham vọng người ta có thể bước sang giai đoạn của ăn năn. Còn những kẻ muốn tiếp tục truyền thống nghĩa hiệp?..."

"Và có lẽ cũng như tác giả 'Don Quichotte', ở cái thời mà vàng của Mỹ châu tràn ngập những thị trường Địa Trung Hải làm sống lại sự giao thương, tao loạn và những thuyết nhân bản, xóa nhòa trong trí nhớ mọi người sự nghiệp oai hùng của những chàng nghĩa sĩ của Charlemagne, Kim Dung đã viết những truyện võ hiệp để vừa tiếc chúng vừa mua một cuộc 'Tiếu Ngạo Giang Hồ'. Những anh hùng của ông sẽ biết sự thất bại. Nhưng còn đâu nữa những anh hùng? Chỉ có những cá nhân."

"Và lẽ dĩ nhiên cái chết nào, dù là cái chết xứng đáng của một Dương Khang, cũng đủ thảm khốc để có vẻ oan uổng. Cái gì tác giả muốn là gây cho người đọc một cảm động mạnh. Cảm động trên hết, cảm động trước đã và cảm động sẽ thắng."

"Ông sẽ cho người ta thấy trong mỗi tên đại ma đầu có một người cha muôn thuở đang ngủ."

"Nhưng dưới tác phong tàn bạo của họ, nhân vật nào trong Kim Dung mà không đa sầu, đa cảm, đa tình?"

Nhưng trước khi chắp xong những mảnh vụn ấy, thu tất cả những đầu dây vào một mối và tìm ra cái chốt của mọi sự kiện thì chàng đã trải qua những rừng nghi vấn. Hơn một lần những bất ngờ đã vồ lấy chàng. Và cuộc phiêu lưu của chàng đã là một thất lạc giữa những đe dọa chập trùng. Không có ai trong truyện cổ điển để nghi ngờ cái ý nghĩa sẵn có của mọi vật. Nhưng người anh hùng của Kim Dung trái lại vào đời để ngạc nhiên và khám phá rằng thế giới to, rộng và phức tạp hơn người ta đã dạy chàng. Ấy thường là một thiếu niên thật thà, võ công chẳng có mấy cũng như chẳng có mấy kinh nghiệm giang hồ. Khác hẳn những anh hùng cổ điển khi xuống núi là đã sẵn có những võ công trác tuyệt và chỉ có việc mang cái đạo sẵn có ra thi hành để tiếp tục một truyền thống đã gần trở thành tự nhiên, thì chàng, chàng phải học tất cả từ đầu. Những tình cờ của cuộc đời sẽ dạy chàng võ công cũng như đạo lý. Theo chàng, người ta tham dự vào sự khám phá một thế giới mới lạ và bí mật. Và đồng thời chuyện của sự khám phá ấy cũng là chuyện trở thành của người anh hùng. Không thuộc một môn phái nào cố định, nhưng học ở khắp nơi, người anh hùng Kim Dung là con của kinh nghiệm và tình cờ. Ấy là con người của những thuở giao thời khi truyền thống sụp đổ mà những giá trị mới vẫn chưa xuất hiện một cách rõ ràng. Con người ấy do cuộc đời làm ra, và có khi cuộc đời biến chàng thành một cái gì khác hẳn những tham vọng nguyên thủy của chàng. Truyện võ hiệp cổ điển trình bày những giai đoạn của sự thực hiện theo một đường thẳng của một dự định từ đầu tới cuối vẫn là một. Khi cuộc phiêu lưu của Vô Kỵ chấm dứt thì còn gì ý chí phục thù của chàng? Hình như chàng đã quên nó từ bao giờ không biết.

Con người bị thế giới thay đổi. Ấy là tại thế giới lớn hơn con người. Người anh hùng Kim Dung thường xuyên bị vây giữa cái chưa biết. Tương lai thì mịt mù, hiện tại khó hiểu, sau lưng chàng còn cả một dĩ vãng mà chàng không hề tham dự, nhưng đôi khi một võ công thất truyền như nhắc lại tiếng vọng của một cái gì thần bí và hoang đường. Chàng phải khám phá ra thế giới từng bước một. Nhưng thế giới như không có giới hạn. Hết sự lạ này lại đến sự lạ khác, hết võ công này lại có võ công khác cao hơn, và như người ta nói, ngoài trời lại có trời. Kinh nghiệm của người anh hùng là kinh nghiệm của cái vô cùng, cái bên kia, cái khác. Từ cái phồn hoa của những đô thị đến những cơ quan ác hiểm, tất cả, trong truyện võ hiệp cổ điển, đều làm chứng cho sự nhân loại hóa của thế giới. Cảnh trí trong truyện võ hiệp mới khác hẳn. Hang sâu, vực thẳm, rừng hoang, đảo vắng, sa mạc mênh mông, một thiên nhiên dữ tợn vây con người ở khắp nơi. Khắp nơi xao xác tiếng gọi của Huyền bí và Vô cùng.

Tà đạo trong Kim Dung cũng có lưỡng tính ấy. Vừa đe dọa vừa cám dỗ. Như người của Chính phái, khi lâm sự, người của Tà đạo cũng mười phần ác độc, và đôi khi những đòn của họ còn thâm hiểm gấp bội. Chỉ có người Tà đạo, chẳng hạn, mới nuôi rắn trong túi để phòng khi họ bị thua, kẻ thù có lục xác sẽ bị rắn cắn chết. Nhưng họ không bao giờ tìm cách cho sự ác độc ấy một minh chứng. Hơn thế nữa, họ còn cười đạo lý của những môn phái khác là ngây thơ, giả dối và hủ lậu. Cám dỗ đầu tiên họ mang lại là sự tự do không biên giới. Người lương thiện trước họ sửng sốt tự hỏi tại sao trên đời lại có những người như thế? Làm sao có thể vô tình trước sự thông minh của Hoàng Dung, nhan sắc của Hân Tố Tố, sự uyên bác của Tạ Tốn, tính ngạo mạn của Hoàng Dược Sư? Những đức tính ấy tuy nhiên chỉ là những cám dỗ bề ngoài. Xa hơn nữa, Kim Dung sẽ làm cho người ta thấy rằng Tội Ác tự nó có một sức thu hút lạ thường. Ai có thể đoan trang hơn Mục Niệm Từ? Nhưng người con gái suốt đời giữ thủy chung với Dương Khang, một con người ung thối, gian sảo và ngoài danh vọng ra thì chẳng thiết gì. Cũng như thế, Kỷ Hiểu Phù thà chịu chết chứ không chịu phản bội Dương Tiêu, người mà sư phụ nàng gọi là tên dâm tặc và cũng là người tình phụ bạc của chính nàng. Trong những mối tình ấy có một cái gì người ta không thể hiểu hết và người ta tự hỏi khi tả chúng thì Kim Dung muốn nói lên cái gì? Sự thôi miên của tội ác, sự phi lý của tình yêu, hay là cái thiêng liêng mà người ta muốn xác định trong những con người sa đọa nhất? Tất cả những ý tưởng ấy có lẽ cùng một lúc đã thoáng qua trong đầu người ta, khi, cái xác của Dương Khang phơi ở ngoài tòa miếu vắng, đàn quạ no nê chỉ để lại một mớ xương hoang. Con người gian xảo ấy đã đền tội một cách xứng đáng. Nhưng trong một ngôi chùa xa, ít người lai vãng, Mục Niệm Từ vẫn giữ nguyên dưới đáy lòng ảnh tượng của một người yêu.

Cái chí của Dương Khang không cao. Tham vọng duy nhất của chàng là thừa kế cái địa vị của người cha nuôi của chàng để có thể tận hưởng phú quí. Nhưng để thực hiện tham vọng ấy chàng đã phản bội tất cả: quê hương, cha mẹ, anh em, bằng hữu, và sau cùng trở thành một kẻ sát nhân. Cái họa ấy là tâm hồn chàng vẫn còn có chỗ bị cái đạo lý truyền thống uy hiếp, và cứ gặp cái nhìn của Mục Niệm Từ là chàng lại như thấy sự oán trách của lương tri. Tội ác chàng làm tự chàng lại coi là tội ác, và đứa con sa đọa ấy của một dòng nghĩa hiệp sẽ không bao giờ biết gót chân nhẹ nhàng của những người đi chinh phục những vùng đất cấm. Xã hội lên án những con người ấy là Tà đạo. Nhưng họ có làm gì hơn là muốn vượt khỏi giới hạn của cuộc sống tầm thường? Giới hạn của đạo lý lẽ dĩ nhiên, nhưng cả giới hạn tự nhiên của con người, họ cũng muốn vượt qua, và không vượt qua được thì đến Trời họ cũng chửi. Nhưng trong sự nổi loạn ấy, người ta đã nhận ra người anh hùng của văn học lãng mạn. Cơn thịnh nộ của Tạ Tốn, trong cơn bão đánh bạt thuyền ông lên Băng Hỏa Đảo, chống lại cái mà ông nguyền rủa là Lão Tạo Thiên làm người ta nghĩ đến thuyền trưởng Achab của Melville và không phải ngẫu nhiên mà đã hai lần Kim Dung lấy cái tên Phá Thiên để đặt cho nhân vật của mình. Tà đạo trong ông không phải chỉ gồm những quân đầu trộm đuôi cướp mà những người mang cái chí muốn đoạt quyền tạo hóa. Họ đã ly khai khỏi cái đạo lý của tất cả mọi người. Lẽ dĩ nhiên họ bị mọi người nguyền rủa. Tham vọng điên cuồng của họ trong khi ấy chỉ có thể đưa họ đến thất bại và sự thất bại ấy lại xuất hiện như một nguyền rủa lớn hơn nữa, là của định mệnh. Họ là những người đã thách đố Thần linh. Và như trong truyện cổ Hy Lạp, Thần linh đã trừng phạt sự kiêu ngạo của họ và làm cho họ hóa điên. Hơn là tham vọng của họ, hơn là cái tài của họ, sự thất bại của họ làm cho người ta sợ hãi, tại trong sự thất bại ấy người ta đã không gặp gì hơn là cái bất nhân. Ấy là ấn tượng của người ta trước định mệnh của một Hoàng Dược Sư, một Tạ Tốn, một Kiều Phong. Lại có những nhân vật như Dương Khang, Chu Chỉ Nhược, Du Thản Chi chẳng có gì vượt bực. Nhưng thảm kịch của đời họ đặt cho người ta những nghi vấn. Sao lại có thể có một Du Thản Chi, từ thể xác tới tinh thần, như tụ hội tất cả những tật nguyền? Những nhân vật như thế tuy nhiên, trong Kim Dung, không phải chỉ giữ một vai bàn đạp để tuyên dương cái tích cực rực rỡ chuyên chở trong những nhân vật chính. Tai họa mà họ phải gánh chịu ông còn cho người ta biết như một điều oan uổng. Người ta chạm trán trong họ với cái phi lí của định mệnh.

Định mệnh, Thần linh, Thiên nhiên, Thế giới, tất cả đều lớn hơn con người như sa mạc lớn hơn ý chí của Thiết Mộc Chân. Và cái gì ông hoàng Mông Cổ, sau khi đã khuất phục cái mênh mông của sa mạc, sẽ gặp lại trước giờ nhắm mắt là một cô độc không thể vãn hồi. Sự thất bại sau cùng ấy Kim Dung cũng sẽ dành cho những Vô Kỵ, Mộ Dung, Kiều Phong, Tạ Tốn. Truyện ông như muốn quật ngã cái ý chí anh hùng và cái đạo lý của ông không giống cái đạo lý của người thống trị. Hay đúng hơn ấy chính là sự thống trị. Khi uy quyền đã vững và tới bậc cuối cùng của tham vọng người ta có thể bước sang giai đoạn của ăn năn. Còn những kẻ muốn tiếp tục truyền thống nghĩa hiệp? Người ta sẵn sàng dành cho họ cái dễ thương của sự nhẹ dạ và ngu đần! Và có lẽ như tác giả "Don Quichotte", ở cái thời mà vàng của Mỹ châu tràn ngập những thị trường Địa Trung hải, làm sống lại sự giao thương, tao loạn, và những thuyết nhân bản, xóa nhòa trong trí nhớ mọi người sự nghiệp oai hùng của những chàng nghĩa sĩ của Charlemagne, Kim Dung đã viết những truyện võ hiệp để vừa tiếc chúng vừa mua một cuộc "Tiếu Ngạo Giang Hồ". Những anh hùng của ông sẽ biết sự thất bại. Nhưng còn đâu nữa những anh hùng? Chỉ có những cá nhân.

Cái gì người ta chiêm ngưỡng trong những nhân vật cổ điển không phải cá nhân họ mà là những giá trị họ tượng trưng. Nhưng sự sụp đổ của những giá trị trước một thế giới của vật lực cũng làm rơi những mặt nạ, và con người trong Kim Dung xuất hiện như một mớ đam mê. Khi Trương Thúy Sơn ôm cái xác của Dư Đại Nham về Võ Đương thì cái gì sư huynh đệ chàng chợt giác ngộ là sự thật đơn giản, rằng họ không phải là những thiên thần. Họ có một thân thể để mang bệnh, trúng thương và chết, không phải cái chết vinh quang mà người ta thường đợi ở những người anh hùng mà là cái chết tăm tối, ô nhục, và khả nghi không biết tại sao chết và chết dưới tay ai, có thể xảy ra cho bất cứ kẻ vô danh nào lạc bước trên giang hồ. Sinh ra ở đời ai mà không chết! Tiếng thở dài của Trương Tam Phong trước cảnh hấp hối của đứa học trò yêu của mình như cáo chung cho một giai đoạn trong lịch sử võ hiệp. Những người anh hùng giờ sẽ biết sự đau khổ. Hỉ, nộ, ai, cụ, ái, ố, dục, tâm hồn họ sẽ là nơi dao động của thất tình. Và những biến cố tâm lý cũng có một trọng lực không kém gì những biến cố ngoại tại. Tương quan giữa người đọc và truyện cũng đổi hẳn. Từ địa vị khán giả của một buổi trình diễn, người ta phải chia sẻ tâm sự của nhân vật: vui buồn, thắc mắc cùng nhân vật, nói tóm lại, tham dự trực tiếp vào cuộc phiêu lưu.

Xa cái vui mắt của những đô thị, người ta theo người anh hùng tiếp xúc với cái trữ tình của những mặt hồ man mác, những chuyến đi thuyền đêm dưới trăng, những cảnh rừng hoang xào xạc lá rụng. Ấy là những cảnh để nói với lòng người, và trong truyện, chúng là một yếu tố dẫn cảm. Cũng như thế, quan trọng của biến cố không còn ở ý nghĩa đạo lý chúng có thể trình diễn mà ở tiếng dội tâm lý của chúng. Khi thì chúng làm người sửng sốt và trông chờ, lại có khi chúng gây ra những tình cảm nhân loại hơn: lãng mạn như cuộc tương ngộ đầu tiên giữa một đôi tri kỷ, nhưng thương tâm cũng có - như cái chết của một nhân vật mà người ta đã theo như một người bạn đường. Ai có thể nghĩ rằng những Hân Tố Tố, Trương Thúy Sơn, Kỷ Hiểu Phù, A Châu, Kiều Phong, A Tỷ... lại có thể bị hy sinh? Nhưng Kim Dung sẽ đi rất xa. Ông sẵn sàng cho chết ngang xương những nhân vật được cảm tình của người đọc nhất. Và lẽ dĩ nhiên cái chết nào, dù là cái chết xứng đáng của một Dương Khang, cũng đủ thảm khốc để có vẻ oan uổng. Cái gì tác giả muốn là gây cho người đọc một cảm động mạnh. Cảm động trên hết, cảm động trước đã, và cảm động sẽ thắng. Những giá trị của truyện võ hiệp mới là những giá trị của tâm hồn. Ai có thể chờ gì hơn ở một truyện kể khi ngay những nhân vật của truyện cũng không còn thiết đến ý nghĩa đạo lý của nó? Tất cả là làm thế nào cho người ta động lòng. Xưa thế giới chia đôi: một Tà, một Chính. Giờ thì những tiêu chuẩn tình cảm sẽ thay thế những tiêu chuẩn đạo lý: sẽ có những nhân vật để người ta có cảm tình với, và những nhân vật để nhận tất cả ác cảm của người ta. Cho nên, để gợi sự thương tâm trong độc giả, anh hùng giờ sẽ là người anh hùng lâm nạn, và truyện sẽ không kể lại những chiến công mà là những tai họa kế tiếp nhau trong đời chàng. Ấy là Dương Quá trong tay những ông thầy bất công và nghiệt ngã; ấy là Thạch Phá Thiên ở với một người mẹ nuôi thù hằn; ấy là Vô Kỵ suốt thiếu thời mang một thứ bệnh nan y. Nhỏ thì chịu tất cả những tủi nhục của một đứa trẻ vô thừa nhận, lớn lên họ lại bị xã hội nghi ngờ, xua đuổi, nguyền rủa, uy hiếp. Ngoài ra còn đủ thứ cảnh ngộ éo le mà cái tình cờ của phiêu lưu thường xô họ vào để họ phải chọn giữa những tình cảm đối nghịch. Không có gì trong thế giới là minh định như xưa. Họ thường xuyên phải ngạc nhiên, tự tra vấn, xét lại những thành kiến và những ước định của mình. Cho nên người nào cũng có một cuộc sống bên trong cực kỳ sôi động. Hơn thế nữa, chẳng mấy người lại chẳng từng trải qua những cay đắng của giang hồ và đeo trong mình một quá khứ nặng nề. Kinh nghiệm ấy cho họ một tâm hồn đầy uẩn khúc, và mỗi nhân vật giờ xuất hiện như một sự sâu xa thần bí. Ấy là nguồn của cái tâm lý phức tạp mà người ta thường ca tụng Kim Dung là đã mang vào truyện võ hiệp. Tâm lý trong truyện Kim Dung có lẽ cũng không phức tạp như người ta tưởng. Nhưng ít nhất thì những nhân vật của ông cũng không phải là những vai trò mang những nhãn hiệu cố định. Sau những nhãn hiệu như thế là một thế giới riêng tư, sau những vai trò còn có con người, và con người đích thực, theo Kim Dung, là con người của năng tính. Ông sẽ cho người ta thấy trong mỗi tên đại ma đầu có một người cha muôn thuở đang ngủ. Tiếng khóc của một đứa trẻ thơ thức tỉnh Tạ Tốn khỏi cơn mê sảng đẫm máu từ bao lâu đã vùi ông trong một cuộc tàn sát tưởng không bao giờ thôi. Và cái sướng nhất đời của Âu Dương Phong, có ai ngờ, là được một thằng bé con gọi là cha. Mất con, Diệp Nhị Nương bắt trẻ của người để ăn tim uống máu. Nhưng chỉ cần nhìn thấy đứa con mụ mong thầm nhớ trộm là mụ chợt giác ngộ và tự lên án cả quá khứ của mình. Cũng như thế, một Lý Mạc Thu có thể nhảy vào lửa để cứu một đứa trẻ thơ. Nhưng dưới tác phong tàn bạo của họ, nhân vật nào trong Kim Dung lại không đa sầu, đa cảm, đa tình? Người ta chỉ cần nhớ đến sự thủy chung của Hoàng Dược Sư với người vợ sớm qua đời, và tiếng sáo của ông trên nước biếc, khi, một mình một chiếc thuyền, ông đi khắp bốn bể tìm con.

Cái tình là tiếng nói của cái phần sâu xa nhất trong mỗi con người. Không có tình giữa những vai trò xã hội. Nhưng khi hai nhân vật khám phá ra nhau như những con người, nghĩa là khi Trương Thúy Sơn thấy rằng Hân Tố Tố không giống hẳn cái ảnh tượng mà ba tiếng nữ ma đầu gợi ra trong đầu chàng thì cái tình giữa hai người đã bắt đầu. Nhân vật của truyện võ hiệp cổ điển cũng biết yêu nhau. Nhưng trong thế giới của họ chữ Tình chỉ định một tương quan ngoại tại, ước lệ và trừu tượng, qui định bởi thứ bậc xã hội và những tiêu chuẩn đạo lý. Không thể tưởng tượng được chẳng hạn một cuộc yêu đương giữa người của Tà môn và của Chính giáo. Nhưng trong Kim Dung, cái tình là cái tinh hoa của năng tính. Nó sẽ thắng những giới hạn giả tạo ấy và làm cho Dương Quá chẳng hạn suốt đời thương nhớ một người cha sa đọa. Tình cha mẹ con cái, tình thầy trò, tình đồng môn, tình bằng hữu, không tình nào mà Kim Dung không mô tả qua. Và lẽ dĩ nhiên phải kể đến tất cả những sắc thái của tình yêu: tri kỷ như giữa Hoàng Dung và Quách Tĩnh, thần tiên như giữa Dương Quá và Tiểu Long Nữ, ác độc như giữa Du Thản Chi và A Tỷ. Có những mối tình trưởng thành trong sự chia sẻ những nguy hiểm và gian khổ chung và những mối tình, như của Hân Ly với Vô Kỵ kết tinh từ một kỷ niệm nhỏ thuở thiếu thời. Lại có những mối tình sét đánh, như Đoàn Dự vừa trông thấy Vương Ngọc Yến là tưởng như những nhan sắc khác đều bị xóa nhòa. Những người yêu thì có kẻ đào hoa như Đoàn Chính Thuần, thờ phụng như Đoàn Dự, ngây thơ như Hân Ly, đau khổ như Chu Chỉ Nhược, dịu dàng như A Châu, nhưng người nào cũng yêu đắm đuối như đã gặp trong người mình yêu một cái gì không thể gặp được lần thứ hai ở trên đời. Cho nên A Châu có chết đi nhưng ảnh tượng nàng vẫn còn thao thức mãi trong lòng Kiều Phong. Hai tâm hồn gặp nhau, tương đắc, giao hội và không có gì có thể chia rẽ họ. Trương Thúy Sơn, Kỷ Hiểu Phù, A Chu nhận cái chết để khỏi phải lên án người yêu của họ, và Mục Niệm Từ giữ thủy chung với Dương Khang cho tới cùng. Tình yêu không kể tới đạo lý. Nó không thể giải thích được. Ai biết đâu sự sa đọa của Dương Khang là cái đã cám dỗ Mục Niệm Từ, cái ngây thơ của Quách Tĩnh là cái cám dỗ Hoàng Dung, sự lơ đãng của Mộ Dung Phục là cái cám dỗ Vương Ngọc Yến? Tham vọng có thể dẫn đến tuyệt vọng. Nhưng tình yêu là cái đam mê duy nhất trong Kim Dung không bao giờ biết đến sự ăn năn. Cái tên Bất Hối mà Kỷ Hiểu Phù đã đặt cho đứa con hoang của mình có lẽ đã đánh dấu trang sử diễm lệ nhất của võ lâm và có lẽ Mộ Dung Phục sẽ bị trừng phạt đến hóa điên, không phải vì tham vọng của chàng quá lớn mà tại vì chàng là nhân vật rất hiếm của Kim Dung đã không biết thế nào là tình yêu.

Sự giá trị hóa cái Tình trong Kim Dung, tuy nhiên, chỉ là tỉ dụ điển hình nhất của sự giá trị hóa đời sống tâm hồn. Tâm hồn của nhân vật võ hiệp cổ điển có thể đọc trên mặt họ. Ấy không phải là một tâm hồn mà là một vai trò, một nhãn hiệu, nhiều lắm là một cá tính. Tất cả những cử chỉ của nhân vật đều mang sắc thái của cá tính ấy mà mục đích của chúng là trình diễn cho ai cũng có thể thấy rõ. Nhưng Kim Dung biết rằng sự thật cuối cùng của một con người không bao giờ có thể đạt tới. Nhân vật của ông thường là những nhân vật đa diện, và trong họ lúc nào cũng có thể xuất hiện một con người khác hẳn con người vẫn thường biết. Hơn thế nữa, trong Kim Dung, người ta vào đời là để tự khám phá, tự đào luyện, tự xây dựng. Cho nên cái vô định tính thường là đặc tính đầu tiên của nhân vật - và nhân vật nào cũng chỉ dần dần người ta mới có thể nhận rõ. Thoạt tiên ở họ người ta chỉ biết có những cử chỉ. Nhưng cử chỉ, diện mạo, ngôn ngữ nào có thể diễn tả hết được sự thực của người ta? Cái vỏ ngoài ấy trái lại thường ẩn những nội dung khác hẳn. Sự chất phác ở sau cái cục mịch, sự tàn nhẫn ở sau cái dịu dàng, sự thủy chung ở sau cái ương ngạnh. Tác phong của nhân vật Kim Dung không diễn tả cái tâm hồn của họ. Nó giấu cái tâm hồn ấy đi và tâm hồn ấy lại xuất hiện như một cái gì rất sâu xa. Giông tố nào sau cái mặt nạ lạnh như tiền của Hoàng Dược Sư? Tham vọng nào trong con mắt lơ đãng của Mộ Dung Phục? Tuyệt vọng nào trong cơn say phá trời của Hoàng Dung? Nhân vật võ hiệp cổ điển ngược lại, cảm ra sao thì tình cảm ấy xuất hiện ra ngoài, nghĩa là được diễn tả một cách trực tiếp và minh bạch qua những cử chỉ ước lệ và cố định. Không ai có thể hiểu lầm một tiếng cười, một điệu khóc, một cơn giận dữ của họ. Nhưng cũng vì thế mà càng cố làm ra như thực, những tình cảm của họ lại càng có vẻ ngoại tại và giả tạo. Chợt bùng lên, chúng lại chợt tắt đi, và những nhân vật sau một lúc ồn ào, lại tiếp tục như không có gì xảy ra. Nhưng trong Kim Dung, những tình cảm đích thực thường ít nói. Khi biết rằng không còn cách nào để chữa cho Dư Đại Nham thì Trương Tam Phong chỉ yên lặng thở dài quay lại nhìn các môn đệ của mình và nói một câu chạm chạp: làm người ai chẳng chết một lần. Để rồi suốt đêm ngồi một mình suy nghĩ trên mấy câu thơ đang tàng trữ cái bí mật về tai nạn đã xảy ra cho đứa học trò yêu của mình và sáng tạo ra bộ Đồ Long Công. Nỗi buồn không được nói ra, nhưng nó đè nặng trên mỗi cử chỉ. Ấy là một nỗi buồn đã ngấm vào thân thể, một nỗi buồn để người ta nghiền ngẫm, một nỗi buồn đã hóa ra chất liệu của cuộc đời. Sự kín đáo của nhân vật cho nó một sự sâu xa mà không ngôn ngữ nào đạt tới. Hay là ngôn ngữ, trong một thế giới mà đối thoại duy nhất có thể có là của vũ lực, chỉ còn là một thứ xa hoa? Cho nên mới có một Hoàng Dược Sư mặc cho người đời nguyền rủa và nghi ngờ, vẫn thản nhiên tiếp tục con đường của mình mà không bao giờ tìm cách tự minh chứng. Hình như ông cho rằng ai cũng có lý do riêng để làm cái việc mình làm, và tất cả những cố gắng để thuyết phục cũng như giải thích đều thừa. Khi thật tức giận ông cũng chỉ "hừ" một tiếng ngắn ngủi. Nhưng càng ít nói thì những tình cảm càng nói nhiều. Và ở sau cái mặt nạ của Hoàng Dược Sư là một tâm hồn đầy bão tố. Người ta bước vào từ chương của những yên lặng đầy ý nghĩa, và cái gì Kim Dung mang vào truyện võ hiệp là một ngôn ngữ cho tâm hồn, khi tâm hồn của mỗi người là một tâm sự không thể nào chia sẻ. Và có lẽ cũng tại thế mà trong Kim Dung, người ta thích trá hình - theo nghĩa bóng và theo cả nghĩa đen của chữ ấy - như người ta chỉ thấy trong cái hàm hồ của những cử chỉ, một cơ hội cho sự lường đảo và cái nguồn của ngộ nhận.

Mình Trương Thuý Sơn biết rằng chàng không có tội. Nhưng làm thế nào chàng có thể tự minh oan khi tất cả những sự kiện kiểm soát được đều lên án chàng là một kẻ sát nhân? Quả Hân Tố Tố có đả thương Dư Đại Nham. Theo qui củ trong giang hồ thế chẳng có gì là trái đạo. Huống chi nàng đã tìm mọi cách để cứu chữa thương thế cho chàng. Nhưng ngờ đâu sự ân cần ấy lại gây thêm tai vạ, và con người đã bị nàng biến thành một phế nhân ấy sẽ là bạn của chồng nàng. Chủ quan mà xét thì nàng không có tội. Nhưng sự thật của những chứng nhân đâu có giống sự thật của những tác nhân. Hơn ai hết, Kim Dung đã dùng cái mâu thuẫn ấy để xây dựng một tâm sự, sửa soạn một thảm kịch, dẫn đường cho một bất ngờ và không đợi những lý thuyết gia mới của tiểu thuyết khai thác trong truyện ông sự tương đối của những quan điểm. Khi nghe Hân Ly kể lại mối tình của nàng với Vô Kỵ thì có ai, kể cả Vô Kỵ, có thể nhận ra những gì đã xảy ra? Trong thực tế thì chỉ có một cuộc cãi lộn giữa hai đứa trẻ trong một chốc tình cờ gặp nhau. Nhưng trong trí nhớ của Hân Ly câu chuyện ấy biến thành một thiên tình sử đẫm nước mắt. Cũng một sự kiện ấy nhưng tùy nhân vật, người ta có thể có nhiều chuyện khác nhau, và ngược lại những chuyện tưởng là khác nhau sau cùng chỉ là những mặt khác nhau của một chuyện duy nhất. Cái khéo của Kim Dung là bao giờ cũng trình bày những biến cố từ quan điểm đặc biệt của một nhân vật. Người đọc nhìn bằng cái nhìn của nhân vật, không biết gì hơn nhân vật và lẽ dĩ nhiên sẽ tham dự vào cuộc phiêu lưu của nhân vật như nhân vật. Sự tham dự ấy cho truyện một sức hấp dẫn cảm gia tăng. Nhưng nếu có sự tham dự ấy thì không những tại chủ quan đã được trả lại cho nhân vật để người đọc có thể cùng nhân vật đồng hóa, nghĩa là có cùng một ý nghĩ, một tình cảm, một xúc động, mà ngược lại thì những xúc động, tình cảm, suy nghĩ của nhân vật cũng là những xúc động, tình cảm, suy nghĩ mà người đọc, nghĩa là bất cứ một người tầm thường nào cũng có thể có. Nhân vật võ hiệp của Kim Dung là những nhân vật đã được nhân loại hóa.

Không những có một thân thể, họ còn có một tâm hồn. Hơn một tâm hồn, họ có một tâm sự. Những ý tưởng đại cương sụp đổ. Và giá trị của nhân vật giờ là ở cái phần độc đáo nhất của nó. Những khác biệt thi nhau đua nở và người ta ngạc nhiên trước cảnh đa sắc ấy của nhân loại. Sức sáng tạo tâm lý của Kim Dung, người ta sẽ công nhận là phi thường và có thể gọi ông là một thứ Shakespeare của truyện võ hiệp. Suốt mấy cuốn truyện, số nhân vật của ông không sao kể hết. Không nhân vật nào giống nhân vật nào. Ấy là những tổ hợp phức tạp, theo những tỷ lệ biến đổi giữa sự thông minh, sự ác độc, sự thùy mị, sự thanh cao, sự quật cường, sự kiêu ngạo, sự ngây ngô. Một cố gắng để phân loại những nhân vật của Kim Dung theo cá tính và những đam mê của họ có lẽ sẽ có ích trong việc tìm hiểu tư tưởng Kim Dung hơn là những lý luận dài dòng. Nhưng điều quan trọng giờ không phải là nội dung của sự khác biệt giữa những nhân vật, mà là chính sự khác biệt ấy, nghĩa là sự giá trị hóa những nhân vật như những cá nhân. Nhân vật Kim Dung có một trọng lực khác thường. Có nhân vật như Hà Túc Đạo chỉ xuất hiện một lần mà ấn tượng để lại tưởng không thể nào phai. Mà đặc biệt là đã xuất hiện thì mỗi nhân vật Kim Dung, dù nhỏ tới đâu, khi truyện kết thúc, người ta cũng biết là nó đã trở nên cái gì. Không những đã cho nó một tâm hồn, Kim Dung còn cho nó một tiểu sử. Và đôi khi tiểu sử ấy sẽ giải thích tâm hồn của nhân vật như những tai biến trong đời Tạ Tốn sẽ giúp người ta hiểu sự tàn bạo của ông. Sự khác biệt mà thoạt tiên Kim Dung xác định trong nhân vật của ông như một điều huyền bí sau cùng ông cho người ta thấy rằng nó không phải là không có nguyên do. Và đào sự khác biệt ấy sâu hơn một tí, cái gì người ta gặp cũng chỉ là một người như tất cả mọi người; không giống ai, nhưng, như bất cứ ai, một nửa do mình tạo ra, một nửa do cuộc đời làm thành, nói tóm lại, một cá nhân. Nhân vật cổ điển cũng có những đặc tính để người ta phân biệt họ lẫn nhau. Hơn thế nữa, những đặc tính ấy được phóng đại một cách quá đáng. Làm thế nào thì nó cũng chỉ có một tính cách ngoại tại. Trong căn bản, nhân vật vẫn chỉ là tương thân cho những ý tưởng. Nhưng nốt ruồi đỏ trên mép A Châu, khuôn mặt chữ điền của Vọ Kỵ, dáng đi cục mịch của Quách Tĩnh, những chi tiết kín đáo ấy, trái lại, không để tách nhân vật ra khỏi cái nhân loại thường ngày mà để mang họ lại gần người ta hơn. Ý nghĩa của chúng là câu chuyện giờ không xảy ra giữa những thiên thần và ác quỉ mà giữa người và người, không phải những nhân vật nhưng là những cá nhân - nghĩa là những người, giống bất cứ người nào người ta có thể gặp ngoài đường, chỉ có một trên đời và không ai có thể thay thế.

Nhưng nhân vật Kim Dung như chỉ xác định sự khác biệt của họ để trở về cái vô danh của tất cả mọi người. Sự kín đáo ấy, trên bộ mặt, ngôn ngữ, cử chỉ, người ta lại thấy trong tên họ. Truyện võ hiệp cổ điển thường cho nhân vật những cái tên thật kêu, thoạt nghe tưởng họ đều là thần tiên, ma quái. Nhưng Quách Tĩnh, Dương Quá, Vô Kỵ, những tên ấy có gợi gì cho người ta hơn là nhân loại tầm thường? Có khi Kim Dung lại cố ý tìm cho nhân vật những cái tên thật xấu như Vô Phúc, Vô Lộc, Vô Thọ. Xét trên phương diện ấy thì truyện ông thực là những phản anh hùng và chúng mở đường cho sự đột nhập của cái nôm na vào cái trời tưởng [?] của truyện võ hiệp cổ điển. Cái tên sang trọng nhất trong Kim Dung là Vương Ngọc Yến. Nhưng người ta nhớ rằng Đoàn Dự đã coi nó như khuyết điểm duy nhất trong con người thần tiên ấy, và chàng chỉ tiếc sao người ta không gọi nàng một cách mộc mạc là A Bích, A Tỷ, A Châu... Nói tóm lại, sau khi đã xác định sự khác biệt của cá nhân chống cái trừu tượng của những nhãn hiệu xã hội, Kim Dung, để chống cái lãng mạn của sự khác biệt, lại xác định sự khác biệt ấy như một sự tầm thường và tìm cách giá trị hóa cái tầm thường, cái nôm na, cái vô danh. Ấy là giai đoạn thứ hai trong cái biến trình quen thuộc của mọi thứ văn học trưởng giả.

Nhân vật được nhân loại hóa, và, như người ta đã thấy, người đọc có thể tham dự vào truyện một cách dễ dàng hơn. Xưa mục đích của truyện là trình diễn một ý nghĩa đạo lý. Người ta kể truyện theo quan điểm của Chính nghĩa. Hay đúng hơn thì trong những truyện ấy chỉ có Chính nghĩa là có thực, chứ Tà đạo chỉ có như một đồ phụ thuộc, một thứ ký sinh, một bóng tối cốt làm nổi sự rực rỡ của Chính nghĩa. Nhưng khi Tà và Chính không còn minh định thì lẽ dĩ nhiên không có quan điểm nào được coi là ưu tiên. Quan điểm tốt nhất là quan điểm người đọc có thể đồng hóa với một cách dễ dàng nhất. Mà người đọc, nhất là người đọc truyện võ hiệp thường không có máu anh hùng. Cho nên người anh hùng Kim Dung cũng không còn gì của những thiên thần giáng thế để ra oai và tác phúc nữa mà là một người, như thường thấy, đầy thiện chí, lương thiện, và ngu đốt bị lôi vào những xung đột mà chàng không thể hiểu lý do. Làm thế nào một Dư Đại Nham có thể hiểu tại sao người ta có thể giết nhau vì một võ công kỳ thư? Người anh hùng của Kim Dung trước hết là một người xa lạ với võ lâm và những qui luật của nó. Xét những cách mở đầu của truyện ông thì người ta thấy ngay rằng phiêu lưu thường đến cho họ bất ngờ. Giữa một ngày đẹp trời, khi người ta nghĩ rằng cuộc đời đáng sống hơn bao giờ hết và người ta chỉ có việc tiếp tục cuộc sống đã thành nếp từ trước đến giờ, thì tất cả xảy ra. Tất cả xảy ra khi, dưới bầu trời mưa tuyết êm đềm, Dương và Quách hai nhà đang ngồi uống rượu, tính chuyện vợ đẻ và ước định tương lai của con; khi Quách Tường thơ thẩn ngao du bên bờ núi Thiếu Thất; khi trên núi Võ Đương người ta tưng bừng sửa soạn như thường lệ sinh nhật của Trương Tam Phong. Truyện võ hiệp cổ điển thường bắt đầu, khi trong cái lâm ly của đêm khuya, cảnh vắng, gió khóc từng cơn; khi giữa cái ồn ào của những đô thị là chỗ những anh hùng tứ chiếng đến tìm nhau kiếm chuyện, nhưng bao giờ cũng là trong không khí và môi trường của phiêu lưu. Phiêu lưu trong Kim Dung xuất hiện như một điểm bất tường giữa cái trưởng giả của cuộc sống thanh bình và có ngăn nắp. Võ Đương Thất Hiệp là những người cuối cùng còn muốn tiếp tục truyền thống của người anh hùng thế thiên hành đạo. Nhưng ở một thời Thiên đạo đã suy, can thiệp vào những xung đột của giang hồ chỉ mang lại cho họ phiền lụy, tai họa và những thù oán không đâu. Có khi họ không tìm đến người ta mà người ta cũng đến họ gây sự. Mới đặt chân đến Trung Nguyên thì vợ chồng Trương Thúy Sơn đã bị võ lâm đuổi theo chận đường, tróc nã. Vô Kỵ có làm gì ai đâu mà ai cũng muốn hại? Nếu ở lại Băng Hỏa Đảo thì đâu xảy ra chuyện gia đình tan nát, để kẻ bị bức tử và người thì lưu vong! Cho nên người anh hùng Kim Dung sẽ đầy nghi kỵ với những chuyện của võ lâm mà đôi khi còn coi võ học như độc vật. Một Đoàn Dự bỏ nhà đi để khỏi phải học võ. Nhưng sự mai mỉa là chính con người ngoài cuộc ấy giờ người ta muốn lôi vào cuộc; chính con người phản anh hùng ấy người ta muốn bắt làm anh hùng; chính con người vô tội ấy người ta bắt phải trình những minh chứng về sự vô tội của mình. Ôi! Cuộc đời sao mà đẹp trên Băng Hỏa Đảo với một con vượn lông đỏ! Nhưng không bao giờ, không bao giờ Kiều Phong sẽ được trở về Nhạn Môn Quan cùng A Châu chăn cừu.

Ghi chú:

Đọc "chuyện Tầu", chúng ta nhận thấy, vua Càn Long thường xuất hiện, không phải là người Mãn Thanh, mà Trung Hoa, và là con một vị thượng thư trong triều. Không phải ông này mèo chuột gì với hoàng hậu ngoại nhân, mà bị tráo con, giống như trong tuồng Ly Miêu Hoán Chúa, Bao Công tra án Quách Hòe. Vẫn theo truyền thuyết, khi thấy cậu tí nhau của mình, sau khi theo mẹ vào cung thăm hoàng hậu trở về, bỗng biến thành một cô tí nhau, vị thượng thư bắt cả nhà câm như hến, rồi kiếm cách từ quan.

Để giải thích "hội chứng" Càn Long là người Tầu, người ta cho rằng, những ông "con trời" ở Trung nguyên, bị "rợ" Mãn Thanh đô hộ ròng rã mười ba đời (Thanh Cung mười ba triều) đã bịa đặt ra như vậy, cho đỡ đau. (Liệu có thể gọi, hội chứng Rambo?).

Kim Dung cũng đã viện tới hội chứng trên, khi cho Trần Gia Cách, thủ lãnh Hội Hồng Hoa, và vua nhà Thanh, là hai anh em ruột; nhưng "tiến bộ" hơn, ông "tưởng tượng", rằng, cả hai đã đồng ý, phản Thanh phục Minh chỉ làm tốn xương máu, và nếu một ông vua Mãn Thanh gốc Tầu mà làm được những điều tốt lành cho cả hai dân tộc, thì còn gì đáng quí cho bằng, và ông cho anh em Hội Hồng Hoa rút về xứ Hồi Cương, vui thú điền viên, lo "chăn cừu", nhường Trung Nguyên cho Mãn Thanh.

Đấy là nói về mặt "chính trị phải đạo".

Về mặt văn chương, tuyệt vời nhất, với riêng tôi, là đoạn, do hai người giống hệt nhau, nên Hồ Phỉ đã nhờ thủ lãnh Hồng Hoa Hội đóng vai kẻ bạc tình Phúc An Khang (trong Lãnh Nguyệt Bảo Đao tiếp theo Hồng Hoa Hội), để an ủi một người đàn bà si tình và bị bạc tình đang hấp hối...

Nhưng phải đợi đến khi Kiều Phong xuất hiện, người ta mới nhận ra tính sáng tạo nhân vật và cùng với nó là "tuyệt bi" của chưởng Kim Dung. Tuyệt bi theo nghĩa của triết gia người Pháp Gaston Bachelard, và của Wolf, nữ văn sĩ người Đức (thuộc Đông Đức cũ), qua những dòng trích dẫn ở trên:

Bởi vì máu là chẳng bao giờ hạnh phúc.

Còn kẻ thắng là thế gian còn mịt mùng.

Người hùng độc nhất có thể có được, là một phản-anh hùng.

Chúng ta chẳng có một cơ may nào, ở cái thời cần người hùng.

***

Người hùng Kiều Phong là một sáng tạo tuyệt vời, "đỉnh cao trí tuệ" của Kim Dung, theo nghĩa: đây là người hùng mang tính chủng tộc thay thế người hùng mang tính giai cấp, tức những A Q, Chí Phèo. Theo nghĩa đó, W. Faulkner, qua một bài điểm sách trên tờ Người Kinh Tế, được coi là nhà văn "hậu hiện đại", trước khi có thuật ngữ này.

Lẽ dĩ nhiên, chuyện dòng dõi, huyết thống đã bắt đầu từ khi có loài người, và không phải cứ cùng một huyết thống là "người ta" thương yêu nhau, là chúng ông thương chúng mày... theo kiểu suy nghĩ: một giọt máu đào hơn ao nước lã. Hoặc Miền Nam ở trong trái tim của tôi. Nhưng phải đợi đến sự bùng nổ cơn thèm khát của cải (thí dụ ngà voi, nô lệ...), thị trường, và tiếp đó là chủ nghĩa thực dân, nó mới thực sự trở nên nhức nhối, nhất là khi được "văn chương" nhòm ngó tới, qua những tác phẩm thí dụ như Trái Tim Của Bóng Đen, của Joseph Conrad. [Nhân tiện, đề nghị một đề tài tiểu thuyết ở đây: Trái Tim của Bóng Đen, viết về một anh chàng Bắc Kỳ theo chân đoàn quân viễn chinh vượt Trường Sơn, tới trái tim của bóng đen: Sài Gòn: đỉnh cao của sa đọa... cuối cùng khám phá ra Hà Nội. Đừng tưởng đùa, bởi vì đã có tới hai tiểu thuyết gia ở hải ngoại sử dụng "ẩn dụ" này rồi, một coi cuộc Nam Tiến của Miền Bắc tương tự như những cuộc xâm lăng Việt Nam của Trung Hoa, một coi đây là do cái ác muôn đời của người dân một miền đất, và muốn cải tạo, tổ quốc phải ăn năn...]

Nhà văn Nam Phi Coetzee, trong bài viết (Máu, Hôi, Hư, Rữa: Những cuốn tiểu thuyết của) Blood, Taint, Flaw, Degeneration: The Novels of Sarah Gertrude Millin (trong White Writing), đã coi "máu" (blood) là từ-chìa khóa trong những tiểu thuyết đề cập tới xã hội Nam Phi của nhà văn nữ Nam Phi viết văn bằng tiếng Anh này. Máu phân biệt dân Phi châu với dân Âu Châu, Englishman khác Afrikaner, Hottentot khác Xhosa, Gentile khác Jew. Nói tới máu là nói tới sắc dân. Nhưng 'máu" ở trong những tác phẩm của Millin không giản dị chỉ là một hình dung từ để chỉ sắc dân, mà đây là một "thực thể", một dòng nước nhờn đỏ, có thể dầy hoặc mỏng, nóng hoặc lạnh, sạch hoặc dơ, chảy từ đàn ông qua đàn bà, từ bà mẹ qua đứa con... Một thi học về máu hơn là một chính trị học về sắc dân, đã khêu dậy trí tưởng tượng của bà.

Trong một dịp khác, người viết sẽ trở lại với nhà văn Nam Phi này, bởi vì, như Coetzee nhận định, tuy hiện nay gần như bị bỏ qua, bởi vì cách chữa trị căn bệnh sắc dân của bà có vẻ lỗi thời, và còn gây phẫn nộ, nhưng chính sự quan tâm của bà khi xoáy vào vấn đề sắc dân ít ra cũng cho thấy, đây là một đáp ứng cho những vấn đề mang tính hình thức mà một nhà văn thuộc địa như bà đã gặp phải, khi đụng tới tiểu thuyết: một bi kịch về máu (a tragedy of blood, Coetzee viết), lay động con người trước bi kịch, đặc biệt là khêu dậy những xúc cảm ngỡ ngàng, kinh sợ, mang tính tôn giáo, trước huyền bí.

Đề tài đề nghị: Cuộc chiến Việt Nam: Bi kịch về máu.

***

(Đoạn viết sau đây, "Mơ Trung Hoa", viết về phim võ hiệp "Ngọa Hổ Tàng Long" và nhân đó, bàn thêm về nghệ thuật Kim Dung.)

Phim võ hiệp Ngọa Hổ Tàng Long đề nghị 10 Oscars, được 4, qua tin tức báo chí. Theo Joan Acocella, tác giả bài viết trên báo Nguời Nữu Ước số tháng Ba 26, 2001, nếu có thêm một giải thưởng đạo diễn chuyển động (mouvement direction), thì phải là 11, bởi vì những màn đánh kiếm trong phim thật tuyệt vời và là cốt lõi của phim và Yuen Wo Ping là người sáng tạo ra "cuộc khiêu vũ của cái đẹp trong lúc chuyển động" này.

Ông người Hongkong, thuộc một gia đình chuyên về phim võ hiệp. Bốn người con trai theo nghề của bố (một, là đạo diễn những màn đấm đá trong cuốn phim mới "Những thiên thần của Charlie"). Yuen khởi nghiệp bằng vai đóng thế tài tử chính ở những màn nguy hiểm, trong phim của bố.

Ông luôn luôn đóng vai kẻ [phải] chết. Ông nói với tờ Guardian (London): "Về chuyện té xuống chết, tôi là số một."

Năm nay 55 tuổi, đạo diễn những màn đấm đá trong khi bay nhẩy (fight choregrapher) trên 50 phim. Ông đã biến Jackie Chan thành một tay quyền cước tiếu lâm, để đối lại với một Lý Tiểu Long lúc nào cũng đăm chiêu. Hai năm trước đây, làm choregrapher cho phim The Matrix, ông đưa xảo thuật dây (wirework) vào trong phim này. Những diễn viên có thể bay nhẩy nhào lộn trên không, nhờ buộc vào những sợi dây (khi in phim, họ xóa những sợi dây đi).

Đây là một xảo thuật mà người viếti, khi còn là con nít đã từng say mê những nhân vật như Phàn Lê Huê đằng vân giá vũ, di sơn đảo hải... trong các tuồng Tầu, hoặc cải lương hồ quảng...

Nhưng cho dù xóa những sợi dây, thì hiệu quả của chúng vẫn còn. Khán giả tinh ý vẫn có thể nhận ra: khi diễn viên đột nhiên bị giật lên cao, theo nguyên lý quán tính, cơ thể của họ cưỡng lại; cũng vậy, khi họ đặt chân xuống đất. Theo tác giả bài viết trên Người Nữu Ước, xảo thuật dây đối nghịch với nghệ thuật khiêu vũ: một nghệ thuật của sự dung hoà (negociation) với sức hút của trái đất tạo nên sức nặng của cơ thể, trong khi với xảo thuật, chỉ cần xóa bỏ hình ảnh những sợi dây. Trong môn vũ ba lê, cú nhẩy của diễn viên làm cho khán giả ngỡ ngàng, lý do là diễn viên nhẩy lên cứ như không, như thể không phải vận dụng một sức lực nào hết, giống như thường nhân chúng ta thảnh thơi dạo chơi trên mặt đất; trong khi bất cứ một chuyển động nhẩy vọt nào, đều bị ảnh hưởng nặng nề bởi nguyên lý quán tính. Nói nôm na, trái đất trì kéo người diễn viên, trong khi người đó phải giải tỏa sức trì kéo này, mà vẫn bay nhẩy một cách thật tự nhiên.

Người Trung Hoa chia ra nhiều thứ tình. Tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung gần như bao gồm đủ loại tình "truyền thống" đó: tình si, tình hận, tình hiệp... Ngọa Hổ Tàng Long, một phim võ hiệp, chắc chắn rồi, nhưng chắc chắc hơn nữa, đây là một phim tình hiệp. Cái màn "long tranh hổ đấu" giữa vị sư muội của đại hiệp Mu Bai là Shu Lien với Jen, nữ đệ tử của Hồ Ly, theo thiển ý của người viết, là do ghen tuông mà ra. Và sở dĩ, tới phút hấp hối vị đại hiệp mới tỏ tình với sư muội, là cũng do hối hận, vì đã để lòng mình ngả nghiêng, trước "tài sắc vẹn toàn" của Jen, qua những màn đấu "giao hữu" trên những ngọn cây xanh, giữa ông và người nữ đệ tử xinh đẹp của Hồ Ly (nên nhớ, cuộc tình giữa hai người đã không thể thực hiện, vì người yêu trước của Shu Liên là bạn của Mu Bai).

Như đạo diễn Ang Lee của Ngọa Hổ Tàng Long nói, "điều tôi muốn, là một giấc mơ về Trung Hoa", và ông đã đạt được. Nhưng nếu Ngọa Hổ Tàng Long là giấc mơ Trung Hoa, thì màn "khiêu vũ bằng võ nghệ" những ngọn tre, chính là giấc mơ của võ hiệp (kung-fu): Mu Bai, vị đại hiệp, trong lòng thì như dông như bão, nhưng dáng đứng trên ngọn tre lại "trầm mặc" như dáng đứng của một ông Phật; còn Jen, nữ đệ tử của Hồ Ly, bay lui về phía sau, trong cái dáng tần ngần ngơ ngẩn thật ướt át (erotic trance).

Joan Acocella, tác giả bài viết "(Dancing): Jump, Fly, and Wail", trên tờ Người Nữu Ước, xem phim, nhận ra chất Đạo (Tao) ở trong đó. Nhưng với độc giả say mê Kim Dung, họ nhận ra điều này liền, vì đây đúng là màn đấu giữa hai đệ tử của môn phái Tiêu Dao.

Joan Acocella cho rằng trong những phim Hongkong, nam hoặc nữ đều "nghiêm túc" như nhau, khi nói tới "kiếm đạo". Theo Kim Dung, kiếm đứng đầu trong mọi thứ võ khí (độc giả Kim Dung chắc khó có thể quên, lần đầu tiên Viên Thừa Chí được quỳ trước bức tượng vị tổ sư của môn phái, và sau đó, chứng kiến sư phụ Bát Thủ Tiên Vượn Mục Nhân Thanh, dùng hỗn nguyên công phóng kiếm vào thân cây ngập tới tận chuôi, trên đỉnh Hoa Sơn, trong Bích Huyết Kiếm. Trong Ngọa Hổ Tàng Long, khi Jen hỏi nhan sắc sầu muộn Shu Lien, 'Chị cũng là một kiếm sĩ", nàng trả lời, "Đúng vậy, nhưng tôi thích đao hơn kiếm"; người xem phim tự hỏi tại sao, và sẽ thấy câu trả lời sau đó: vì kiếm cũng như trái tim vị đại hiệp đã thuộc về cô em rồi!

Nói rõ hơn, Jen khi đánh cắp thanh kiếm là đã đánh cắp luôn trái tim người cầm kiếm!

Mu Bai trao tặng thanh kiếm, là để làm mồi nhử Hồ Ly, nhưng Hồ Ly không mắc bẫy, đệ tử của bà đánh cắp thanh kiếm chỉ vì "nghịch tinh"; theo tôi, điều này cho thấy, bố cục của phim Ngọa Hổ Tàng Long rất lỏng lẻo. Ang Lee chưa học được Kim Dung ở những tình tiết lắt léo, tính nghẹt thở, và kỹ thuật "rắn nằm trong cỏ" của Đông Phương. Tôi lấy thí dụ: Trong Tiếu Ngạo Giang Hồ, khi Nhạc Linh San giả làm cô gái bán rượu, và là nguyên nhân khiến Lâm Bình Chi giết người, gây họa cho toàn gia đình... phải mãi sau đó, chúng ta mới hiểu được, từ chính miệng Lâm Bình Chi, khi biết rõ bộ mặt thật của quân tử kiếm Nhạc Bất Quần: tất cả là do Tịch Tà Kiếm Phổ mà ra. Cái chết của Nhạc Linh San, ở tay người chồng hờ, mang tính tình nghiệt, c ủa Đông Phương. Do đó, trước khi chết Nhạc Linh San năn nỉ Lệnh Hồ Xung chiếu cố tới Lâm Bình Chi, và tiễn nàng ra đi, là âm thanh của những bài hát của những cô gái hái chè vùng Phúc Kiến, quê hương nhà chồng trong trí tưởng của nàng.

Joan Acocella cũng bị quyến rũ bởi tiếng nhạc trong phim Ngọa Hổ Tàng Long. Nó làm ông nhớ tới những phim âm nhạc tuyệt vời của Tây phương thập niên 1930. Vẫn theo tác giả, phim âm nhạc tuyệt vời sau cùng của Tây phương là "West Side Story", làm năm 1961. Nhưng những độc giả của Kim Dung chắc chắc một điều, Ngọa Hổ Tàng Long chưa đạt tới tinh thần của bản đàn do hai cao thủ chính tà hợp soạn, ở trong Tiếu Ngạo Giang Hồ. Ang Lee, nhà đạo diễn phim Ngọa Hổ Tàng Long, làm sao không đọc Kim Dung, và làm sao quên được cái cảnh tượng Phí Bân truy đuổi tận sát hai cao thủ chính tà là Lưu Chính Phong và Khúc Dương trưởng lão, đồng tác giả bản Tiếu Ngạo Giang Hồ, và rồi chết dưới lưỡi kiếm của Tiêu Tương Dạ Vũ. Kiếm từ hồ cầm theo tiếng đàn bật ra, kiếm tới đâu, tiếng đàn theo tới đó, khi kiếm trở lại với đàn, cũng là lúc Phí Bân biết mình trúng tử thương, nhẩy lên cao, dồn hết nội lực theo tia máu vọt ra theo vết kiếm, trông thật ghê rợn, kỳ bí! Joan Acocella đã cảm nhận được điều này, qua tiếng trống ở trong phim Ngọa Hổ Tàng Long (Drums sound, adding to the mystery).

Tác giả cũng chú ý tới mầu tre xanh: một mầu xanh bạn chẳng thể nào tưởng tượng ra nổi, mềm như nhung, dầy như nêm; trong cõi siêu thực như thế đó nổi lên hai cánh chim trắng là Jen và Mu Bai...

Đao hơn kiếm hay kiếm hơn đao? Đây cũng là một bài toán hắc búa, theo tôi, một "đệ tử" của Kim Dung. Trong Lãnh Nguyệt Bảo Đao, thì đao lại đứng đầu, với Hồ Gia Đao Pháp. Đây là một tuyệt tác của Kim Dung, nhưng là một tuyệt tác "hỏng", theo nghĩa còn nhiều sơ hở, cho nên nó là một tuyệt tác. Chính tác giả cũng đã nhận ra những sơ hở này, và đã tìm cách viết lại tác phẩm (lần đầu xuất hiện với cái tên Thần Đao Hồ Đại Đởm). Kim Dung là bậc thầy, trong quan niệm "cái đẹp thì tuyệt hảo, do bất toàn". Lục Mạch Thần Kiếm: tuyệt hảo, nhưng lúc sử dụng được, lúc không. Dịch Cân Kinh: tuyệt hảo, nhưng "cố tình học" là không được, nếu chối đây đẩy, nó lại bám chặt lấy bạn, gỡ không ra! Bẩy mươi hai tuyệt kỹ Thiếu Lâm, chỉ Đạt Ma tổ sư là kiêm đủ...

Nhìn theo quan niệm trên, Ngọa Hổ Tàng Long đúng là một giấc mơ Trung Hoa đã trở thành hiện thực.

***

Rắn nằm trong cỏ. Sóng sau đè sóng trước. Cái nên thơ của cơ cấu luận... Michel Foucault giải thích: Không thể không có tiêu ký [để chỉ ra] sự tương đồng [giữa những sự vật]. Thế giới tri âm tri kỷ là đã được tiêu ký. (Il n'y a pas de ressemblance sans signature. Le monde du similaire ne peut être qu'un monde marqué. "Chữ và Vật", chương "Những tiêu ký", "Les Signatures".) Những độc giả tri kỷ của Kim Dung chắc là tâm đắc với những khám phá, thí dụ như: Cái chết của A Châu làm nảy sinh tình yêu của A Tỷ. Nhưng trước đó, Kim Dung đã "gài"một câu, tuy thật hợp với tình tình của A Tỷ, nhưng lại nói lên một sự thực, hay là nguồn gốc của người hùng phản-anh hùng, của nhân vật mang tính máu huyết: Người ngượm gì mà đến tên họ của mình cũng không biết! (Kiều Phong không biết mình họ Kiều hay họ Tiêu, không biết mình là người Hán hay Khiết Đan).

Tất cả xảy ra như thể một người chôn một kho tàng, rồi đánh dấu để sau này có thể kiếm thấy. (Foucault trích dẫn Paracelse).

Đâu phải tự nhiên, Hân Tố Tố giả dạng Trương Thúy Sơn. Đâu phải tự nhiên, Kiều Phong loạn đả quần hùng tại Tụ Hiền Trang, chỉ vì một đứa con gái bá vơ, người hầu của Mộ Dung Phục.

Một nhà thơ đàn anh, khi còn Sài Gòn còn gọi là Sài Gòn, nhân một buổi sáng ngồi bàn cà phê Cái Chùa, tình cờ nhắc tới Dostoevsky, nhân đó leo qua bi hùng kịch Hy Lạp, đã đưa ra nhận xét: bi hùng kịch Hy Lạp chưa tới đỉnh cao như chuyện Tầu, thí dụ như đoạn Tống Tửu Đơn Hùng Tín ở trong Thuyết Đường. Một đám huynh đệ uống máu, thề đồng sinh đồng tử, vậy mà khơi khơi mời bạn nhậu, rồi khơi khơi đưa bạn ra chặt đầu, chẳng thèm diễn tuồng xử lý nội bộ!

Theo tôi, đoạn Kiều Phong uống rượu cùng bè bạn trước khi mở một trường loạn sát, là đã được "tiêu ký" từ Tống Tửu Đơn Hùng Tín.

CHƯƠNG III:CHUYỆN TÌNH QUA TIỂU THUYẾT KIM DUNG

PHẦN I: KÌ NGỘ BÊN HỒ BÍCH THỦY HẰNG

Gươm đao không có mắt

Đường tình không lối đi

Danh trấn khắp giang hồ

Ngã ngựa trước tình si

Rất nhiều nhân vật lừng lẫy trong thế giới võ hiệp của Kim Dung đã nếm trải những cuộc tình ngọt ngào, đắng cay, êm đềm hoặc sóng gió như chính cuộc đời họ. Chẳng hạn, Đoàn Dự - một vương tử đa tình, bỏ lại cảnh sống vàng son sau lưng, để dấn thân vào "gió tanh mưa máu" đeo đuổi nàng Vương Ngữ Yến đến "cùng trời cuối đất". Song lại cũng có một Lâm Bình Chi vì tham vọng tiến thân "võ lâm xưng hùng", lén luyện Tịch tà kiếm pháp, nên phải "cung kiếm tự thiến", không "chăn gối" được, bỏ mặc nàng Nhạc Linh San sau đêm tân hôn phải bẽ bàng, tủi thẹn. Cũng có một Du Thản Chi chịu trùm cái khuôn sắt nung cháy lên đầu để mong được gần người con gái độc ác mà mình trót si mê... Họ đã "từng đôi, từng đôi" bước vào tình sử võ lâm, như Quách Tĩnh với Hoàng Dung, Kiều Phong với A Châu, Trương Thiếu Sơn với Hân Tố Tố, Lệnh Hồ Xung với Nhậm Doanh Doanh, Trương Vô Kỵ với Triệu Minh... Và nếu kể tới các cuộc tình kỳ ngộ, có lẽ nên nhắc đến hai người trong Ỷ thiên Đồ long ký là đệ nhất mỹ nhân Đại Ỷ Ty và Hàn Thiên Diệp. Họ gặp nhau lần đầu là phải xông vào tử chiến một còn một mất với nhau. Trận đánh định mệnh này diễn ra tại một địa điểm khá đặc biệt, nằm trên đỉnh núi cao, giữa hồ Bích Thủy Hằng.

Hồ này mùa hè nắng gắt nước vẫn lạnh, tới nỗi không ai dám lội xuống tắm. Sang mùa đông, nhằm lúc hai người đến đó đấu nhau thì mặt hồ đã đóng băng cứng ngăc. Hơi lạnh từ dưới hắt lên, từ xa thổi tới, đã rét thấu xương rồi, huống hồ hai người theo thỏa thuận trước, phải nhảy xuống giao đấu dưới nước. Nàng Đại Ỷ Ty mặc bộ đồ màu tía, phi thân ra giữa hồ, đứng trên mặt băng chói sáng, trông đẹp như một nàng tiên, rút trường kiếm rạch một lỗ vuông trên băng rồi dùng chân trái giậm mạnh cho mảng băng chìm đi, lộ ra khoảng nước màu xanh thẳm, lẳng lặng nhảy ngay xuống chỗ ấy. Thấy vậy, Hàn Thiên Diệp tay cầm dao găm cũng nhảy theo. Họ đấu nhau dưới làn nước giá buốt, quần hào "đứng ở trên bờ không sao trông thấy diễn biến trận đấu của hai người như thế nào, chỉ thấy dưới đầm rung động thôi. Một lát sau mặt nước ngưng hẳn. Không bao lâu mặt nước lại sùi bọt như trước (...). Qua một hồi lâu nữa, đột nhiên lại có máu tươi, cứ theo bọt sủi lên. Mọi người lại lo âu thêm. Không biết máu của Thiên Diệp hay của nàng Đại Ỷ Ty. Một lát sau nữa, Thiên Diệp bỗng trồi lên và đứng trên tảng băng thở hồng hộc. Mọi người giật mình đồng thanh hỏi: "Đại Ỷ Ty đâu? Đại Ỷ Ty đâu?". Lại thấy Thiên Diệp hai tay không, dao găm cắm trên ngực bên trái, hai bên má đều có vết thương. Ai nấy đang kinh ngạc thì Đại Ỷ Ty tựa như một con cá hóa rồng uyển chuyển từ trong nước sâu bay vọt lên cao ra khỏi mặt nước lạnh, tay vẫn cầm trường kiếm. Nàng còn lượn trên không hai vòng rồi mới hạ chân đứng trên mặt băng (...).

Không ai ngờ một cô bé ẻo lả yếu ớt như vậy mà lại có tài bơi lội giỏi như thế" (*). Nàng không giết Hàn Thiên Diệp dẫu nàng thừa sức ra tay. Trái lại, những giọt máu từ ngực Hàn chảy xuống trên băng lạnh, sau này trở thành những giọt hồng khó quên trong ký ức của hai người. Bởi không lâu sau trận huyết chiến, từ chỗ đối đầu sinh sát, họ quay ra săn sóc nhau và yêu nhau. Cuộc tình của họ không chỉ làm ngỡ ngàng, chấn động giới võ lâm Trung thổ, mà còn khiến các cao thủ của Tổng giáo Minh giáo tận bên Ba Tư phải lặn lội kéo sang truy tìm nàng Đại Ỷ Ty. Vậy Đại Ỷ Ty là ai? Tại sao lại dính dấp đến Minh giáo Ba Tư?

Theo giải thích của Kim mao sư vương Tạ Tốn, Đại Ỷ Ty là người Ba Tư lai Trung Hoa, tóc và mắt đen láy, mũi cao, đẹp như hoa nở, được coi là đệ nhất mỹ nhân và được chọn để chuẩn bị lên ngôi giáo chủ của Minh giáo Ba Tư. Ngôi giáo chủ bên ấy xưa nay do các thiếu nữ đồng trinh đảm nhận để "duy trì sự trong sạch thiêng liêng của Minh giáo - bất cứ vị nữ giáo chủ nào cũng vậy, khi vừa nhận chức xong, là phải lựa sẵn 3 người con gái - con của các nhân sĩ thuộc hàng có địa vị cao trọng nhất trong giáo để làm thánh nữ. Ba thánh nữ ấy phải thề độc trước bàn thờ tổ, rồi đi bốn phương lập công tích đức cho Minh giáo. Tới khi giáo chủ tạ thế, các trưởng lão liền họp bàn xét xem công đức 3 thánh nữ đó, để lựa người có công đức lớn nhất làm giáo chủ. Còn như trong 3 thánh nữ mà có một người bị mất trinh tiết thì người đó phải ghép tội hỏa thiêu. Dù chạy đến chân trời góc biển cũng bị người của Minh giáo ở Ba Tư truy tìm rượt bắt nhằm duy trì trinh thiện của Thánh giáo". Được chọn làm thánh nữ, Đại Ỷ Ty thừa biết nếu yêu ai, lấy ai, mình sẽ bị trừng phạt, thiêu sống. Nhưng khi sang Trung Hoa nhằm thực hiện một sứ mệnh bí mật, thì nàng dám cả gan đi ngược thánh giáo, để yêu và lấy một người Trung Hoa là Hàn Thiên Diệp sau cuộc "kỳ ngộ" ở hồ Bích Thủy Hằng. Vậy, Hàn Thiên Diệp có sức quyến rũ gì tới nỗi đệ nhất mỹ nhân Minh giáo phải lụy vì tình và phải luôn sống phập phồng, giấu mặt?

(*) Những câu trích và in nghiêng trong ngoặc kép là từ bản dịch Cô gái đồ long của Từ Khánh Phụng.

PHẦN II:LĂNG SƯƠNG HOA - SỐNG VÀ CHẾT BÊN HOA

Sớm nhìn hoa nở

Tối mơ thấy người

Mỗi đóa hoa tươi

Một vời vợi nhớ

Đến như hoa có mặt suốt cuộc tình của Lăng Sương Hoa, với ý nghĩa và vị trí đặc biệt "thăng hoa" trong tiểu thuyết Liên thành quyết, ngay từ buổi "khai hoa" của mối tình giữa nàng với giang hồ khách Đinh Điển.

Ở đó, hoa đã thay mặt nói lên tiếng nói nhớ thương của người tình ngoài cửa ngục, gửi đến người yêu bị xiềng xích bên trong. Rồi hoa lặng lẽ thở dài bên tro xương tàn tạ của hai người trong đoạn cuối. Mở đầu, họ gặp nhau trong một hội hoa. Đinh Điển trao hoa cho Lăng Sương Hoa và bảo hoa đó rất lâu tàn: "mỗi lần ngắm hoa hãy kể như có Đinh Điển trước mặt". Tuy muốn mãi gần người tặng hoa, như màu hoa và cánh hoa không tách rời nhau, nhưng tri phủ Kinh Châu Lăng Thoái Chi, cha của Lăng Sương Hoa, ngăn cấm, chia cách họ. Vì dưới mắt ông, Đinh Điển thuộc hàng giang hồ trôi giạt như mây, không xứng với Lăng Sương Hoa là tiểu thư, hoa khôi vùng Vũ Hán. Nghe tin Đinh Điển nắm bí mật của kho tàng mà mình đang ham muốn, tìm kiếm, tri phủ họ Lăng mời Đinh Điển đến để bàn chuyện tác hợp mối duyên với con gái mình, nhưng thật ra ông ta đã dùng hoa độc làm thuốc mê bắt giam Đinh Điển, tra tấn hòng chiếm đoạt Liên thành quyết để giải mã bí ẩn về kho tàng và môn Thần chiếu công. Đinh Điển nhìn qua cửa ngục thường ngày thấy hoa trên cửa phòng của tiểu thư Lăng Sương Hoa vẫn tươi, biết là hoa ấy tươi vì mình, nở cho mình, là tín hiệu tình yêu không tàn của nàng. Đoạn này, Huỳnh Ngọc Chiến liên tưởng khá thú vị: "Cảnh đưa tin của Đinh Điển và Lăng Sương Hoa giống như anh chàng Hời trong chuyện Tô Hoài. Một người ngồi dệt vải, khi nghe mùi hương thoang thoảng lan trong cảnh đêm thanh tĩnh của cánh hoa lài ném qua cửa sổ, là biết đã đến giờ hẹn với người yêu" và "chỉ có một sự hòa điệu của cung bậc tri âm trong tình yêu chân chính mới có thể giúp người con gái xinh đẹp (Lăng Sương Hoa) làm một điều mà cả thượng đế cũng phải bàng hoàng", đó là hủy hoại nhan sắc, trở nên xấu xí, để không ai muốn cầu hôn nữa và giữ chung thủy với Đinh Điển đến chết trong sầu muộn. Đinh Điển được thả khỏi nhà giam đến bên quan tài của nàng vốn đã bị tri phủ họ Lăng dùng chất độc của hoa kim ba tuần rải lên. Đinh Điển chết, tro tàn được hợp táng cùng mộ nàng Hoa. Có thể nói, chuyện tình này là một trong những chuyện lãng mạn đậm đà mà Kim Dung đã viết và đem vào thế giới võ hiệp của ông mùi hương của một loài "hoa tình yêu" mới, nhưng vẫn mang cái tên khai sinh thanh khiết và quen thuộc đặt cho người là: Hoa.

Những chuyện tình như vậy trong thế giới võ hiệp Kim Dung đến với bạn đọc Việt Nam khá sớm. Cuối những năm của thập niên 1960, đã có một số tác giả như Đỗ Long Vân, Bửu Ý hoặc Bùi Giáng viết về Kim Dung qua các bài phê bình, sáng tác của mình. Trong đó, nhận định về chữ Tình (và các đề tài triết học, văn học khác) trong tác phẩm Kim Dung đến nay vẫn được nhiều bạn đọc tâm đắc, là của nhà nghiên cứu Đỗ Long Vân với Vô Kỵ giữa chúng ta (viết cách đây hơn 38 năm, NXB Trình Bày 1967). Theo đó, các nhân vật của Kim Dung đã thường xuyên tự tra vấn, xét lại những thành kiến và những quyết định mà họ trót bị cột chặt vào đó, cho nên "người nào cũng có một đời sống bên trong sôi động". Và bên ngoài cái phong cách tàn bạo giang hồ thì "nhân vật nào trong Kim Dung lại không đa sầu, đa cảm và đa tình?". Như Hoàng Dược Sư thủy chung với người vợ sớm qua đời đã "cất tiếng sáo trên nước biếc, một mình một chiếc thuyền, ông đi khắp bốn bể tìm con".

Từ đề dẫn trên, Đỗ Long Vân viết: "Cái tình là tiếng nói của cái phần sâu xa nhất trong mỗi người", tuy cái tình đó khó biểu lộ và khá lạnh lùng giữa quan hệ của "các vai trò xã hội" nhưng nó lại bùng phát tự nhiên, ấm áp, hoặc nóng bỏng một khi "hai nhân vật khám phá ra nhau". Ví dụ khi Trương Thúy Sơn thuộc danh môn chánh phái Võ Đang thấy rằng Hân Tố Tố "không giống hẳn cái ảnh tượng mà ba tiếng nữ ma đầu gợi ra trong đầu chàng thì cái tình giữa hai người đã bắt đầu". Điều khác nơi các nhân vật của Kim Dung so với chuyện võ hiệp cổ điển là họ dám phá vỡ những khuôn khổ chật hẹp của các quan niệm cũ. Trước họ, chữ Tình "chỉ định một tương quan ngoại tại, ước lệ và trừu tượng, quy định bởi thứ bậc xã hội và những tiêu chuẩn đạo lý" nên khó có mối tình nào nảy nở đơm bông giữa hai người Tà môn và Chính giáo. Đến Kim Dung "cái tình là tinh hoa của năng tính" có sức mạnh chuyển hóa các mâu thuẫn nội tại cũng như những "giới hạn giả tạo" do con người đặt ra ngoài xã hội. Cái tinh hoa đó tự phát tiết mang lại những sắc thái của tình yêu mà Đỗ Long Vân đúc kết như sau: "Tri kỷ như giữa Hoàng Dung và Quách Tĩnh, thần tiên như giữa Dương Qua và Tiểu Long Nữ, ác độc như giữa Du Thản Chi và A Tỷ. Có những mối tình trưởng thành trong sự chia sẻ những nguy hiểm và gian khổ chung, và những mối tình như của Hân Ly với Vô Kỵ kết tinh từ một kỷ niệm nhỏ thuở thiếu thời. Lại có những mối tình sét đánh, như Đoàn Dự vừa trông thấy Vương Ngọc Yến là tưởng như tất cả những nhan sắc khác đều bị xóa nhòa. Những người yêu thì có kẻ đào hoa như Đoàn Chính Thuần, phụng hiến như Đoàn Dự, ngây thơ như Hân Ly, đau khổ như Chu Chỉ Nhược, dịu dàng như A Chu, nhưng người nào cũng yêu đắm đuối như đã gặp trong người mình yêu một cái gì không thể gặp được lần thứ hai ở trên đời". Tới đây chúng ta hãy đến với mối tình nở hoa giữa Dương Qua và Tiểu Long Nữ. Kết quả của mối tình này khác hoàn toàn với mối tình sầu muộn của Lăng Sương Hoa viết ở đầu bài. Tiểu Long Nữ là người dạy võ nghệ cho Dương Qua nên đứng về vai vế là sư phụ của Dương Qua. Vì thế trong khuôn khổ trật tự truyền thống, hai người không thể "yêu nhau" được... Nhưng họ đã vượt qua rào cản đó để đến với nhau. Tình yêu của họ nảy mầm từ một thế giới cách biệt với người đời - hồn nhiên như mây gặp gió trên trời. Như Tiểu Long Nữ từ trong cổ mộ bước ra và Dương Qua từ cõi mồ côi vắng vẻ đến gặp nàng. Khi Tiểu Long Nữ bị kẻ khác chiếm đoạt trinh tiết, Dương Qua không coi đó là hố sâu ngăn cách. Khi Dương Qua bị chém cụt cánh tay, thành tàn tật, Tiểu Long Nữ không bị ám ảnh bởi "khiếm khuyết" đó của người yêu. Họ sẵn sàng đổi sinh mạng của người này cho sự sống người kia. Suốt 16 năm xa cách, lúc nào họ cũng nghĩ đến nhau. Gặp lại bên bàn tiệc của Cái bang, trước mặt đông đảo giới giang hồ, họ vẫn ngồi kề bên nhau chuyện trò, thắm thiết. Vượt qua những cái nhìn khắt khe, không ám ảnh bởi sự thất tiết, tật nguyền, được thử thách bởi sự phân ly, sinh tử, để cuối cùng họ sống bên nhau, thiết lập "một cõi riêng" bềnh bồng trong thế giới đầy định kiến của con người. Chuyện tình của họ đến nay vẫn được nhắc đến bởi nhiều cây bút Việt Nam. Những năm gần đây, đã xuất hiện thêm các chuyên luận, bài viết và bản dịch của các tác giả: Ông Văn Tùng, Cao Tự Thanh, Phạm Tú Châu. Vũ Đức Sao Biển, Lê Khánh Trường, Huỳnh Ngọc Chiến, Nguyễn Thị Bích Hải... Trong đó Ngoài trời lại có trời của Vương Trí Nhàn gợi mở "một cách nhìn khác xưa" như thế nào về tiểu thuyết Kim Dung?

PHẦN III:MẤY AI HOC ĐƯỢC CHỮ NGỜ

Không ngờ:

Ném khỏi tam thiên cả trái núi lớn, nhưng bồng bóng mình bồng mãi không lên.

Chẳng ai ngờ vương phi Đao Bạch Phượng, một phu nhân cao quý "kiều diễm như một đóa sơn trà" lại ngã vào vòng tay một gã ăn mày hôi hám, người đầy vết thương và ruồi nhặng như Đoàn Diên Khánh.

Duyên do cũng vì ghen với chồng là Đoàn Chính Thuần, có số đào hoa với quá nhiều người tình, mà ra. Nàng oán hận, lẩm bẩm một mình như nói với chồng: "Ta đã tha thứ cho ngươi hết lần này đến lần khác, bây giờ không thể tiếp tục tha thứ nữa. Ngươi có lỗi với ta, ta cũng sẽ có lỗi với ngươi. Ngươi đi tìm người khác, ta cũng sẽ đi tìm người khác (...). Ta nên tìm một kẻ xấu xí, ô uế nhất thiên hạ để hiến thân. Ngươi là Vương gia, là Đại tướng quân, ta lại càng nên đối xử tốt với gã hành khất bẩn thỉu này" (1). Rồi nàng không nói gì, dưới gốc bồ đề chùa Thiên Long "từ từ trút bỏ y phục, đến trước mặt Đoàn Diên Khánh, chui vào lòng lão, đưa hai cánh tay như hoa như ngọc quàng lấy cổ lão (...). Nữ lang áo trắng đứng dậy lâu rồi, Đoàn Diên Khánh vẫn còn tưởng mình nằm mơ, chẳng hiểu chuyện thật hay giả. Thần trí lão vẫn hồ đồ, nghĩ rằng đây là Bồ Tát giáng trần. Mũi lão vẫn còn phảng phất ngửi thấy mùi hương nhẹ nhàng của nàng. Lão nghiêng đầu đi, lấy tay viết xuống đất bảy chữ: "Nàng là Quan Thế Âm tóc dài?". Lão viết bảy chữ này để hỏi nữ lang, thấy nàng gật gật đầu, rồi đột nhiên, mấy hạt châu nhỏ xuống bên dòng chữ. Không hiểu đó là nước mắt của nàng hay nước cam lồ của Quan Âm vẩy ra" (2).

Cái chẳng ai ngờ nữa, là gã ăn mày Đoàn Diên Khánh kia lại là hoàng thái tử của nước Đại Lý, do một biến loạn ở triều đình, đã phải lao vào gió bụi. Sau nhiều chuyện không may khác, y lê tấm thân tàn tạ, cố vươn lên. Nhưng những bi đát ngày càng bủa vây. Y lại càng vùng vẫy, trở thành đệ nhất ác nhân giang hồ. Nhưng khi sắp xuống tay giết Đoàn Dự, y bỗng nghe tiếng Đao Bạch Phượng ngâm nga: Ngoài chùa Thiên Long. Dưới gốc bồ đề. Hành khất phương xa. Quan Âm tóc dài, thì nghĩ đến chuyện cũ năm xưa, lúc tình cờ được vương phi hiến thân, rồi biết Đoàn Dự là con mình...

Những cái không ngờ vẫn đầy dẫy. Anh hùng hảo hớn như Kiều Phong có lúc phải khóc vì "ngày mình lên kế vị Bang chúa, ân sư lại ngấm ngầm viết đạo huấn dụ (về trường hợp nếu Kiều Phong thân Liêu phản Hán, giúp Khất Đan để hiếp đáp Đại Tống thì phải lập tức hạ sát ngay)"(3). Hoặc những chuyện bất ngờ xảy đến mà ngay cả người thọ nhận không hề biết trước. Như Lệnh Hồ Xung lúc võ công đột biến lên mức thượng thừa "người còn lơ lửng trên không, thừa thế rút trường kiếm ở sau lưng tiện tay phóng ra. Cổ tay chàng vừa rung động đã nghe đánh "cách" một tiếng. Thanh trường kiếm tra vào vỏ rồi, chân trái chàng cũng vừa chấm đất. Chàng ngẩng nhìn lên thấy năm chiếc lá liễu ở trên không đang từ từ bay xuống. Nguyên vừa rồi chàng phóng nhát kiếm đó dĩ nhiên đã phân biệt đâm trúng vào năm cuống lá liễu", Lệnh Hồ Xung lại rút kiếm khoa thành một đường hình cánh cung "kiếm quang vừa lấp loáng lóe mắt, năm chiếc lá liễu đều đã thu vào trên mặt lưỡi kiếm" (4).

Kiếm pháp tuyệt diệu như thế thật "khó hiểu khó tin". Như có bạn đọc trách tác giả "bịa đặt ghê gớm quá". Chỗ này, Vương Trí Nhàn viết: "lối thưởng thức văn chương trong sự ràng buộc với cái thực đã thâm căn cố đế ở nhiều người, và suy nghĩ về vấn đề này người ta thường vẫn bị các bậc thầy của văn học phương Tây ám ảnh. Rằng, tác phẩm này diễn tả thành phố Paris đúng đắn từng chi tiết. Rằng, trong tác phẩm kia, có những tài liệu có thể dùng làm dữ kiện tham khảo cho các nhà nghiên cứu kinh tế. Kể ra, đó cũng là những nhận xét xác đáng, có điều, nếu coi đó là phương hướng duy nhất để văn học đi theo thì không đúng" (5). Khó tìm ra những cái "duy nhất" làm mẫu mực cho các loài. Hoa, cũng có hoa cúc, hoa kim ba tuần. Người, cũng có người thiện, kẻ ác. Cái thiện là đáng quý. Cái ác đương nhiên phải bị bài trừ, lên án. Song cũng đừng đẩy cái ác đến mặt đối lập tuyệt đối với những tiêu chuẩn của cái thiện. Mà đặt nó trong bối cảnh xuất phát các hành vi để xem xét và hóa giải nó. Nên con đường trung đạo cuối cùng đã thức tỉnh bước chân của Tạ Tốn vốn để về lại chân tâm của mình sẵn có, chứ không phải bắt đầu học những bài vỡ lòng trong các giáo điều, văn tự. Vì dù học nghìn pho kinh con người vẫn không thể thuộc làu làu trôi chảy, chính xác bằng một máy ghi âm. Nhưng máy ghi âm dẫu in tám vạn bốn nghìn pháp môn của ba nghìn thế giới vẫn mãi mãi không thể biến thành người, huống hồ thành bậc vô sư. Những bức thư tình hay nhất thế giới cũng không thể giúp một trái tim tan vỡ trở nên lành lặn. Chúng có giá trị thực sự trong đời sống chỉ khi được sử dụng như thế nào để góp sức mở cửa một tâm hồn. Do vậy cần có những tác duyên sống động ngoài văn tự, giáo điều, như tiếng trẻ khóc trên hoang đảo, tiếng gọi cha đằm thắm bất ngờ, hoặc tiếng một người phụ nữ cất lên đúng lúc, một cành cây gãy, một đóa hoa rơi, một tiếng hét, một tách trà bị đánh vỡ, hoặc đôi khi - một niềm im lặng miên man...

Người ta yêu nhau cũng vậy. Những tác duyên lặng lẽ đưa họ bước vào thế giới của "hai người". Những cuộc chia ly của họ có thể được hẹn hò gặp gỡ ở một nơi khác, xa hơn mặt đất này. Ngược lại, dầu ở mặt đất, những người không biết yêu khó mà biết sống như Đỗ Long Vân viết: "Cái tên Bất Hối mà Kỷ Hiểu Phù đã đặt cho đứa con hoang của mình có lẽ đã đánh dấu trang sử diễm lệ nhất của võ lâm và có lẽ Mộ Dung Phục sẽ bị trừng trị đến hóa điên, không phải vì tham vọng của chàng quá lớn, mà tại vì chàng là nhân vật rất hiếm của Kim Dung đã không biết thế nào là tình yêu".

---------------------

* (1) và (2): Thiên long bát bộ, Kim Dung. Đông Hải dịch, NXB Văn học, Hà Nội 2003.

* (3) và (4): Hàn Giang Nhạn tiên sinh dịch. Xin lưu ý, những câu trích từ Cô gái đồ long trong các bài trước là theo bản dịch của Từ Khánh Phụng, không phải của Hàn Giang Nhạn như chú thích ở kỳ 1 của loạt bài.

* (5): Kim Dung - tác phẩm và dư luận (nhiều tác giả). Trần Thức sưu tầm và tuyển chọn, NXB Văn học và Công ty Văn hóa Phương Nam ấn hành, 2001.

PHẦN IV:MỘNG BAN NGÀY CỦA TRƯƠNG GIÁO CHỦ

Muôn năm trường trị

Nhất thống giang hồ

"Tình trong giây lát

Bỗng thành thiên thu"?

Bàn về Trương Vô Kỵ, ta thấy ở con người đào hoa được Kim Dung chăm chút này có hai giấc mộng tình xảy đến kế nhau. Lần thứ nhất mộng trong khi ngủ. Lần thứ hai mộng trong khi thức.

Nói về lần thứ nhất thì thật hân hoan khoái hoạt, vì họ Trương mơ thấy mình "cưới Triệu Minh, rồi lại cưới Chu Chỉ Nhược. Chàng thấy Hân Ly mặt đã hết sưng biến thành một cô gái mỹ miều và cả Tiểu Siêu cũng lấy mình". Như thế một lúc cưới hết "tứ đại mỹ nhân" trong võ lâm làm vợ. Nhưng giấc xuân tình kia quá ngắn ngủi. Thức dậy, trong lòng Vô Kỵ hổ thẹn vô cùng. Ngẫm lại mình, thì thực tâm Vô Kỵ không muốn xa cách một người nào. Bởi cả bốn nàng đều xinh đẹp và đối xử với Trương thật tử tế. Người đời nay, đọc đến đó trách Vô Kỵ "không có chủ kiến" trong tình yêu. Nhưng theo Trần Mặc tiên sinh thời Vô Kỵ sống người đàn ông lấy năm thê bảy thiếp là thường, lấy một vợ mới là lạ và cho giấc mộng đó "là điều đầu tiên đáng chú ý trong chuyện tình yêu của Trương Vô Kỵ" cũng như "là lần đầu tiên dưới ngòi bút Kim Dung một nhân vật chính phái "công khai" mơ lấy bốn vợ".

Lần thứ hai thật khốn đốn, khó xử. Khi một trong bốn mỹ nhân là Tiểu Siêu đã lên đường sang Ba Tư, còn lại ba người khác là Triệu Minh, Chỉ Nhược, Hân Ly đã cùng Trương Vô Kỵ và Tạ Tốn trôi dạt vào một hoang đảo. Suốt hơn một tháng không thấy có bóng thuyền nào chạy gần bờ. Vắng lặng, cô lập trên hòn đảo mọc trơ trọi giữa biển như thế, lại thêm rối ruột vì Tạ Tốn và Chu Chỉ Nhược trúng phải độc Thập hương nhuyễn cân tán. Tạ Tốn được Vô Kỵ vận thần công xua hết độc tố trong người ra. Nhưng đến lượt cứu chữa Chu Chỉ Nhược thì Vô Kỵ rụt tay lại. Vì cách chữa bắt buộc phải để một bàn tay áp chặt sau lưng nạn nhân, bàn tay còn lại ấn vào trước bụng ngay lỗ rốn. Khi mơ thấy gì hay nấy, bây giờ khi thức Vô Kỵ không dám chạm vào da thịt nõn nà của Chỉ Nhược. Nhưng nếu không chữa, lâu ngày lục phủ ngũ tạng của nàng sẽ tổn thương nặng. Biết Vô Kỵ khó xử, Tạ Tốn bảo: "Để nghĩa phụ đứng ra làm chủ hôn cho con cưới nàng làm vợ luôn thể, như thế con khỏi phải áy náy trong lòng". Đáp lại, Vô Kỵ chỉ xin "đính hôn" chứ chưa "thành hôn" với Chỉ Nhược vội. Còn Chỉ Nhược vì yêu Vô Kỵ từ lâu, thẹn thùa đỏ mặt. Đính hôn xong "mặt của nàng chỉ cách mặt Vô Kỵ vài tấc thôi, nên khi nàng nói, hơi thở thơm như mùi hoa lan" làm Trương ngây ngất. Vô Kỵ ôm Chỉ Nhược vào lòng, khen nàng nhu mì hiền thục (?), sau này sẽ là vợ đáng yêu của mình. Lời nói lúc thức đó thật ra cũng chỉ là mộng nữa. Bởi sau này Chỉ Nhược ngả về với Tống Thanh Thư. Còn Vô Kỵ nguyện "kẻ lông mày" cho quận chúa Triệu Minh.

Cả hai lần mộng trên (khi ngủ và khi thức) bộc lộ một Vô Kỵ vọng tưởng triền miên. Chính Vô Kỵ cũng tự thừa nhận như thế. Thừa nhận là một chuyện, còn vẫn miên man sống trong "vọng tưởng" là một chuyện khác. Không những chỉ một "Vô Kỵ giữa chúng ta" vọng thôi, mà "chúng ta" ai cũng vọng, tương tục chồng chất, dứt điều này tiếp tới điều kia. Ngay Vô Kỵ tuy mộng cưới một lúc bốn người đẹp làm vợ song tự biết "sự thật người mà ta yêu nhất lại là tiểu yêu nữ, thâm độc giảo hoạt bất cứ việc gì cũng dám làm" là nàng Triệu Minh. Mắng Triệu Minh "tiểu yêu nữ" là hiểu lầm nàng. Xem Chỉ Nhược "nhu mì, hiền lành" cũng hiểu chưa hết Chỉ Nhược. Đó vẫn là một thứ "mộng trong mộng" như mấy câu: Sống bên người đã mộng. Nói chuyện người càng mộng. Nghĩ về mình cũng mộng. Ngã, vô ngã đều mộng. Thuyết về không là mộng. Thuyết về hữu càng không. Kể làm sao hết mộng? Theo Trần Mặc tiên sinh phải: "Có nhiều cách hiểu chúng ta mới thấy chuyện tình của Vô Kỵ rất giàu nội hàm nhân văn". Nói rộng ra như nhà nghiên cứu Đỗ Long Vân, thì sự giá trị hóa cái Tình (viết hoa) trong Kim Dung "là tỷ dụ điển hình nhất của sự giá trị hóa đời sống tâm hồn". Đời sống đó bao gồm những mộng là mộng. Đến đây, sực nhớ "mộng" của thi sĩ Đinh Hùng: Anh sẽ hồi sinh - em tái sinh. Hòa đôi thể chất một thân hình. Giác quan biển động, mưa đồng thiếp. Trên thịt da đau, núi quặn mình (Trái tim hồng ngọc). Hai thể chất nhưng một thân hình, tứ thơ ấy nhắc nhớ những cuộc "tình gần". Lại chẳng quên "tình xa" của Tiểu Siêu. Khi chấp nhận làm giáo chủ Minh giáo Ba Tư, theo giới luật, suốt đời Tiểu Siêu phải trinh trắng, không được lấy ai, nên ngọn lửa duy nhất "đầu tiên và cuối cùng" thắp lên trong tim nàng là của một Trương thôi. Như mẹ nàng, Đại Ỷ Ty thánh nữ, yêu chỉ một người. Hai mẹ con hiểu tâm tư của nhau, thông cảm nhau. Có lúc không kìm được, họ đã ôm nhau trước quần hùng mà khóc. Gương mặt đẹp của họ rất giống nhau - tựa hai giọt nước mắt đầu thai từ biển khổ lên. Đi rồi, nhưng họ vẫn tiếp tục "tái sinh" và phóng xuất nỗi niềm yêu vào nhiều nhân vật khác của Kim Dung, như nàng Hân Ly - một trong những người tình "mộng" nhất qua tiểu thuyết Kim Dung. Thật vậy, thử đọc đoạn dưới đây: Vết độc của Hân Ly ngày càng thêm nặng. Trên hoang đảo lại rất ít cây thuốc, dù Vô Kỵ có phép thuật thần thông đến mấy cũng không chữa nổi (...). Đảo lại thiếu những cây gỗ lớn, bằng không Vô Kỵ đã lấy làm bè để mạo hiểm vượt sóng trở về đất liền tìm thuốc chữa rồi. Tình cảnh ấy khiến trái tim Vô Kỵ như bị muôn vạn con dao nhọn đâm trúng hoài. Ban đêm, chàng nhai một ít cỏ thoái nhiệt mớm cho Hân Ly hạ sốt. Chàng thấy nàng ta không nuốt nổi nên đau lòng đến ứa nước mắt ra. Nước mắt nhỏ xuống mặt nàng bỗng đánh thức nàng dậy và nói: "A Ngưu đại ca hà tất phải rầu rĩ như thế làm chi, em sắp xuống âm phủ và sắp được gặp tiểu quỷ Trương Vô Kỵ, con người nhẫn tâm và chết non kia, em sẽ bảo y biết trên thế gian này có một vị là A Ngưu đại ca đối xử với em tử tế hơn Vô Kỵ nhiều". Vô Kỵ nghẹn ngào vì A Ngưu mà Hân Ly tha thiết nhắc đến cũng chính là Trương Vô Kỵ. Nhưng suốt đời nàng Hân Ly chỉ biết đi tìm chân trời góc bể một A Ngưu của mình trong mộng cũ mà thôi. Đối với nàng, Vô Kỵ đã phân thân làm hai: một Vô Kỵ của quá khứ bất trắc, thương tích, cô đơn là người nàng yêu (A Ngưu) và một Vô Kỵ của hiện tại làm giáo chủ Minh giáo là người nàng xa lạ vô cùng. Không chỉ bị phân thân (như Vô Kỵ) bởi cái nhìn của tha nhân (như Hân Ly chẳng hạn), mà trong đời sống thường nhật, chính người ta cũng đã tự phân linh vô số để phổ nhập vào những "mộng ban ngày". Nghĩa là người ta cứ đem tâm mình chạy theo vạn sự, vạn cảnh bên ngoài nhiều quá, đến ngày nguồn tự tại bên trong sẽ lâm vào suy kiệt. Lúc ấy tuy mình vẫn sống, vẫn ăn, vẫn thở nhưng thân tâm không "tự tại" mà cứ long đong "ngoại tại" hoài, chìm đắm trong cuộc "lưu đày" miên viễn do chính nghiệp lực của mỗi người dẫn dắt. Bắt đầu bằng một chữ "tình" đi trước vậy. Đó là điều Kim Dung muốn nói?

PHẦN V:NGƯỜI YÊU CỦA THÁNH NỮ

Ngọn lửa tình khơi dậy

Giáo chủ cũng xiêu lòng

Trái tim hằng lạnh cóng

Bỗng hẹn lời trăm năm

Là thánh nữ và là người được chọn để lên ngôi giáo chủ, Đại Ỷ Ty phải ngoảnh mặt với tất cả những lời tỏ tình. Nàng thao thức, nghĩ tới sứ mệnh bí mật của mình khi đến Trung Hoa, đó là trà trộn vào Minh giáo bản địa, lấy pho Tâm pháp Càn khôn đại nã di vốn là thần công hộ giáo đem về Ba Tư.

Trước khi đi, giáo chủ Minh giáo Ba Tư viết sẵn một bức thư gửi giáo chủ Minh giáo Trung thổ (là Dương Phá Thiên) và giao ba sứ giả người Ba Tư cầm thư dẫn nàng ra mắt Dương giáo chủ. Thư viết: "Có một Tịnh Thiên sứ giả vốn là người Trung Hoa đến Ba Tư đã lâu, gia nhập Minh giáo lập nhiều công trạng, nên đã lấy được một người con gái Ba Tư làm vợ, sinh một con gái. Một năm trước đây, Tịnh Thiên sứ giả qua đời. Lúc sắp chết có nhớ đến cố thổ, để lại di chúc bảo đứa con gái của ông (là Đại Ỷ Ty) về đất Trung Hoa. Tổng giáo chủ (Ba Tư) tôn trọng ý muốn của vị sứ giả đó mới sai người đem cô gái về Quang Minh Đỉnh, mong Minh giáo Trung thổ nuôi nấng và dạy cho".

Đọc thư, Dương giáo chủ đồng ý ngay và cho mời thiếu nữ. Tạ Tốn kể: "Thiếu nữ vừa bước vào, khách sảnh đột nhiên như bừng sáng lên. Nàng đẹp không thể tưởng tượng được! Khi nàng quỳ xuống lạy Dương giáo chủ, Tả hữu Quang Minh sứ, ba Phán Vương, năm Tảng Nhân, Ngũ hành kỳ sứ đều chấn động. Ba sứ giả Ba Tư đi theo nàng ở trên Quang Minh Đỉnh một đêm - đến hôm sau giã từ Dương giáo chủ đi luôn! Còn thiếu nữ tuyệt đẹp tên là Đại Ỷ Ty thì ở lại trên Quang Minh Đỉnh (...). Trong giáo và ngoài giáo có hơn trăm người để ý đến, ai cũng muốn lấy làm vợ". Bấy giờ, Dương phu nhân (vợ giáo chủ Dương Phá Thiên) làm "mai mối" Đại Ỷ Ty cho hữu sứ Phạm Dao nhưng "nàng ta giơ kiếm lên định tự vẫn và nói với mọi người rằng nàng quyết không lấy ai hết, nếu cứ ép buộc thì nàng đành chết chớ không bao giờ ưng thuận". Vì thế, bao nhiêu người đeo đuổi phải nản lòng. Nhưng, tại sao Hàn Thiên Diệp là kẻ bại trận dưới tay Đại Ỷ Ty mà nàng lại nhanh chóng đem lòng thương yêu, bất chấp thánh giáo? Có thể xét đến ba yếu tố:

Thứ nhất, đó là do lòng hiếu thảo của họ Hàn. Nguyên năm xưa thân phụ Hàn Thiên Diệp bị Dương giáo chủ dùng Đại cửu thiên thủ đánh trọng thương. Quá uất giận, ông ta tuyên bố sau này nhất định sẽ sai con mình đến tìm Dương giáo chủ rửa hận. Dương giáo chủ hứa: "Hễ con của ngươi tới báo thù bất kể là trai hay gái ta cũng nhường cho họ đánh trước 3 thế võ". Nhưng thân phụ Thiên Diệp gạt đi: "Khỏi cần nhường như vậy. Chỉ cần cách đấu như thế nào phải để con cái ta chọn lấy". Dương giáo chủ đồng ý. Mười mấy năm sau, bấy giờ Hàn Thiên Diệp đã lớn, vâng lời cha lên Quang Minh Đỉnh báo thù, thuận theo chữ "hiếu".

Thứ hai, Hàn Thiên Diệp là người có "dũng". Lúc đầu, quần hào thấy anh ta "mặt mũi rất tầm thường mà dám đơn thân độc mã lên Quang Minh Đỉnh tầm thù, ai nấy đều ha hả cười, nhưng Dương giáo chủ rất nghiêm nghị đón tiếp Hàn Thiên Diệp như thượng khách vậy. Giáo chủ còn thết tiệc khoản đãi y nữa". Anh ta nhắc lại lời hứa trước kia của Dương giáo chủ để giành quyền chọn cách giao đấu. Theo đó, anh ta đòi Dương giáo chủ phải cùng nhảy vào hồ nước lạnh Bích Thủy Hằng để quyết thắng bại với mình và "nếu ai thua phải tự vẫn trước mặt mọi người". Nghe thế, ai nấy kinh hãi vì tuy Dương giáo chủ công lực luyện tới chỗ cao siêu nhưng nếu phải lặn dưới nước theo lối "thủy chiến" sẽ không thích hợp với sở trường của giáo chủ. Chắc chắn giáo chủ sẽ không thi triển được võ công và bị chết đuối nửa chừng. Vì thế, quần hùng đồng thanh quát mắng để trấn áp Hàn Thiên Diệp. Song anh ta vẫn bình tĩnh nói lớn: "Tại hạ một thân một mình lên Quang Minh Đỉnh chỉ mong chết trên này thôi. Quý vị anh hùng hào kiệt cứ việc múa đao phân thây tại hạ đi...". Chứng kiến và nghe lời khẳng khái của một thanh niên hiếu đễ can trường như vậy, Đại Ỷ Ty suy ngẫm và chắc hẳn không khỏi xao động tấm lòng...

Thứ ba, khi biết mình không thể giao đấu theo cách họ Hàn đưa ra, Dương giáo chủ lên tiếng: "Này Hàn huynh, năm xưa tại hạ quả có hứa với lệnh phụ thực. Người hảo hán phải quang minh mới được. Tại hạ nhận thua trận đấu này. Hàn huynh muốn xử lý thế nào tùy ý". Quần hùng sửng sốt. Còn Hàn Thiên Diệp bấy giờ mới để lộ một con dao sáng loáng bén nhọn dưới tay áo ra, tự dí vào giữa ngực mình, nói với Dương giáo chủ: "Con dao găm này là của tiên phụ để lại. Tại hạ chỉ mong Dương giáo chủ vái lạy con dao này 3 lạy thôi". Nói thế khác nào buộc Dương giáo chủ phải vái lạy thân phụ họ Hàn đã khuất. Đó cũng là đòi hỏi, là mục đích để họ Hàn dấn thân đến tử địa. Đồng thời đòi hỏi đó khiến quần hào ở Quang Minh Đỉnh bị xúc phạm. Họ tức giận vô cùng nhưng chưa thể đụng gì đến họ Hàn được. Vì theo quy củ giang hồ, trong trường hợp này, Dương giáo chủ "phải tuân theo ý muốn của đối phương" đúng như lời hứa. Mà lạy 3 lạy xong tất nhiên sự việc đồn đãi ra ngoài, uy thế của Dương giáo chủ sẽ xuống thấp. Trọng danh dự, Dương giáo chủ sẽ phải tự vẫn. Họ Hàn tuy đang thắng, song cũng lường trước "khung cửa hẹp" mà định mệnh đã dành sẵn cho anh ta. Nghĩa là "nhận 3 lễ của giáo chủ xong, y sẽ phải đâm lưỡi dao găm vào ngực tự tử. Vì y biết, nếu y không tự tử chết, thì thế nào cũng bị quần hào của Minh giáo giết liền". Đã dứt khoát chọn cái chết như thế, thì còn sợ gì những lời hăm he búa rìu trước mắt? Nên họ Hàn vẫn đứng sừng sững vững vàng giữa vòng vây của "triều thần" Minh giáo, ngang nhiên cất lên tiếng nói của riêng mình. Hình ảnh đó không khỏi thầm kín len vào tâm hồn thánh nữ. Rõ ràng, Dương giáo chủ danh trấn giang hồ lại đang bị một gã vô danh trẻ tuổi bức tử. Mà tất cả quần hào tinh hoa của Minh giáo đứng đó đành phải bó tay, lặng người, im phăng phắc vì "vô kế khả thi". Chính lúc ấy, thánh nữ Đại Ỷ Ty tiến lên trước quần hào tự nhận mình là con của Dương giáo chủ và nói: "Thưa cha, người ta có một người con trai hiếu thảo như vậy chẳng lẽ cha lại không có một người con gái hiếu thảo hay sao. Vị Hàn gia tới đây để báo thù cho cha anh ta. Vậy con xin phép được thay mặt cha để đối địch Hàn gia mấy hiệp". Liền đó, trận huyết chiến bên hồ Bích Thủy Hằng diễn ra như đã nói. Nếu trận đánh ấy "giải vây" được cho Dương giáo chủ và phá tan bầu khí bế tắc quanh quần hào, thì chính nó lại "bắt" thánh nữ vào lưới tình trăm năm. Sau này, Tạ Tốn có nói giữa thánh nữ và hữu sứ Phạm Dao đã "phải lòng nhau" trước ngày gặp Hàn Thiên Diệp. Nhưng dù thật như thế, tình cảm ấy cũng chưa đủ chín để "sầu rụng" lên nhau.

PHẦN VI: TIỂU SIÊU - YÊU AI CẢ MỘT ĐỜI

Ngàn mây đỡ chân thiếp

Ngàn hoa rải quanh thiếp

Không bằng được gặp chàng

Bên bờ cỏ Trường Giang

Khi thánh nữ Đại Ỷ Ty và Hàn Thiên Diệp làm lễ cưới thì hết phân nửa người trong Minh giáo ở đỉnh Quang Minh không đến dự để phản đối.

Họ hậm hực rằng: "Hàn Thiên Diệp là đại địch của bổn giáo, ngày nọ y đã muốn bức tử Dương giáo chủ và dồn mọi người vào tình huống bế tắc, nay sao nàng Đại Ỷ Ty lại chịu lấy y như vậy?". Song nhờ Dương giáo chủ và Tạ Tốn lên tiếng che chở, nên việc kết hôn của hai người hoàn tất. Trước đó, do có công lớn nên Đại Ỷ Ty được tặng mỹ hiệu là Tía Sam Long vương và được xếp ngang hàng với tam vương trong Minh giáo là: Ưng vương, Sư vương, Bức vương, hợp thành tứ vương. Về sau nàng rút khỏi Minh giáo cùng Hàn Thiên Diệp xuống núi. Để tránh sự truy đuổi của các cao thủ đến từ Ba Tư, Đại Ỷ Ty phải cải trang thành một bà già xấu xí "mũi ngửng lên trời, mặt vuông, tai to" và qua lại giang hồ với tên mới là Kim Hoa bà bà. Ngay dáng đi, cũng giả làm lụ khụ, lom khom, với tiếng cười "giống tiếng cú kêu trong đêm khuya". Vợ chồng Đại Ỷ Ty sinh một con gái là Tiểu Siêu cũng gửi đến một nơi tin cậy, không ai biết, để nhờ nuôi giùm. Cứ hai năm Đại Ỷ Ty mới đến thăm con một lần.

Tiểu Siêu lớn lên, xinh đẹp chẳng thua mẹ. Nàng được Đại Ỷ Ty giao vật tín giáo làm thánh nữ, tiếp tục sứ mệnh tìm Tâm pháp Càn khôn đại nã di trên đỉnh Quang Minh - thánh địa của Minh giáo Trung thổ - mang về Ba Tư. Muốn thâm nhập lên đó, Tiểu Siêu phải giả làm bề ngoài nhem nhuốc, biến mình từ cô gái xinh đẹp thành xấu xí, khó coi, miệng méo môi vồ. Nàng giả vờ lếch thếch cô thân trong sa mạc như người bị lạc đường và được tả sứ của Minh giáo là Dương Tiêu thương tình đem về nuôi, cho làm kẻ hầu người hạ trong nhà, trên đỉnh Quang Minh. Ở đó, đã chớm nở tình yêu âm thầm của Tiểu Siêu với một người: Trương Vô Kỵ.

Trương Vô Kỵ do nhiều nhân duyên đưa đẩy đã bị lọt giữa đường hầm hiểm hóc trên núi cao, chưa biết lối ra. Dưới địa đạo đỉnh Quang Minh ấy, Trương Vô Kỵ nghe cô bé Tiểu Siêu hát: "Hôm nay hãy biết bữa nay. Trăm năm thấm thoát đã hay một đời. Mấy ai thọ đến bảy mươi. Thời gian như nước chảy xuôi qua cầu". Nghe lời hát đó, Trương Vô Kỵ nghĩ đến "mười năm qua nếm trải đủ mùi gian khổ, đêm nay bị kẹt giữa lòng núi, trước mắt thấy không còn đường sống, bất giác cảm thấy não lòng"(*). Nhưng rồi, từ địa huyệt âm u đó, hai người tình cờ tìm được Tâm pháp Càn khôn đại nã di chép trên một tấm da dê. Để đọc những dòng chữ loằng ngoằng bí hiểm, Tiểu Siêu phải dùng đến chính máu của mình. Sau đó, Trương Vô Kỵ vận dụng Cửu dương thần công để kết hợp bí kíp tâm pháp, luyện thành "võ công kỳ diệu". Thoát khỏi địa huyệt, họ chứng kiến cảnh sáu đại môn phái bao vây giáo đồ Minh giáo vào giữa, Trương Vô Kỵ can thiệp và "Tiểu Siêu đã xả thân bảo vệ" Trương lúc cần kíp. Sau đó, lúc Trương Vô Kỵ được tôn làm giáo chủ Minh giáo, Tiểu Siêu hết lòng hầu hạ suốt hai năm dài. Trương Vô Kỵ, Dương Tiêu và tất cả quần hào Minh giáo không hề biết Tiểu Siêu xuất thân từ một địa vị tôn quý như thế nào. Họ cũng không hề hay biết Tiểu Siêu là đứa con duy nhất của thánh nữ Đại Ỷ Ty (tức Tía Sam Long vương). Tiểu Siêu vẫn đóng vai một con ở, một đầy tớ trên đỉnh Quang Minh. Những ngày đó, nàng lặng lẽ sống với "nỗi lòng" yêu Vô Kỵ. Dẫu thế, đối với nàng, đó là những ngày đẹp trôi mau.

Đến sau này, khi Trương Vô Kỵ và Tiểu Siêu (cùng Tạ Tốn, Triệu Minh, Chỉ Nhược, Hân Ly) bị hơn mười chiếc thuyền của Minh giáo Ba Tư vây khốn, họ lại kề cận một lần nữa bên cái chết. Mười hai chiếc thuyền ấy đến từ Ba Tư chở theo 12 Bảo Thụ vương sau những ngày truy tìm đã bắt được Đại Ỷ Ty thánh nữ. Bấy giờ, Đại Ỷ Ty đang giả làm Kim Hoa bà bà, chối phăng mọi lời chất vấn. Một trong 12 Bảo Thụ vương là Trí Tuệ Vương liền "cười nhạt một tiếng, đứng dậy giơ tay lột luôn mớ tóc trắng ở trên đầu Kim Hoa bà bà ra, làm hiện suối tóc đen nhánh và nhỏ mượt như tơ (...) lột luôn cái mặt nạ xuống để lộ khuôn mặt đẹp khôn tả". Rồi họ đứng trên thuyền nói to: "Đại Ỷ Ty đã phạm lỗi lớn với Tổng giáo thế nào cũng bị hành hình bằng cách thiêu thân". Tiểu Siêu khóc. Trương Vô Kỵ bối rối. Tạ Tốn nói: "Thà mình có tán thân mất mạng cũng phải cứu Đại Ỷ Ty thoát hiểm". Và họ cứu được Đại Ỷ Ty thật, nhưng diễn biến bất lợi sau đó khiến thuyền họ bị chìm dần. Thuyền Ba Tư lại áp tới vây kín. Lúc thập tử nhất sinh như vậy, một lần nữa, thánh nữ Đại Ỷ Ty đột nhiên cứu nguy, hướng về Trí Tuệ vương nói lớn những câu gì đó bằng tiếng Ba Tư. Có lẽ thánh nữ vừa nhận lỗi mình, vừa thông báo việc Tiểu Siêu nhận lời làm giáo chủ... Nghe xong, Trí Tuệ vương ngẩn người một lúc, lệnh 8 thủy thủ buông một chiếc xuồng nhỏ xuống, chèo như bay về phía thuyền sắp chìm của Trương Vô Kỵ, để vớt Đại Ỷ Ty và Tiểu Siêu lên chiếc thuyền lớn nhất của họ "rồi hoan hô reo hò chấn động cả một góc trời". Tất cả người Ba Tư trên các chiếc thuyền còn lại bao quanh đều hướng về phía Tiểu Siêu để "nằm rạp người xuống vái lễ". Cả các vị Bảo Thụ vương cũng quỳ trước mặt Tiểu Siêu. Hành lễ xong, Tiểu Siêu vẫy tay gọi: "Trương công tử!" và đưa thuyền đến vớt Tạ Tốn, Trương Vô Kỵ, Triệu Minh, Chỉ Nhược, Hân Ly lên thuyền lớn của Tổng giáo. Nàng sai người cung kính đem khăn mặt và thức ăn cho mọi người. Riêng mình thì đích thân cầm một bộ quần áo vào khoang thuyền của Trương Vô Kỵ dịu dàng nói: "Công tử hãy để tiểu nữ hầu hạ thay áo cho". Vô Kỵ xúc động: "Này Tiểu Siêu, nay cô đã là giáo chủ của Tổng giáo, tôi trở thành hạ thuộc của cô mới phải, sao cô còn hầu hạ tôi như thế?". Tiểu Siêu van lơn: "Thưa công tử, đây là lần cuối cùng xin công tử cho phép tiểu nữ được hầu hạ công tử. Rồi đây, Tiểu Siêu sẽ lên đường về Ba Tư nghìn trùng, không còn dịp nào gặp mặt nhau nữa. Lúc ấy, tiểu nữ muốn hầu hạ công tử một lần nữa cũng nào có được đâu". Tiểu Siêu vừa chải tóc cho Trương Vô Kỵ vừa khóc "nước mắt chảy thành dòng, Vô Kỵ không sao kềm chế được xúc động, liền giơ tay ôm nàng vào lòng, cúi đầu hôn nhẹ". Tiểu Siêu kể hết lai lịch và nói rõ tâm tình của mình trước đây là "không muốn làm giáo chủ của Minh giáo Ba Tư mà chỉ muốn suốt đời làm người hầu của công tử, suốt đời không muốn rời xa công tử". Nhưng nay phải nhận làm, vì lẽ gì hẳn mọi người đều có thể suy ra. Khi chia tay, Trương Vô Kỵ nhìn theo "cho tới lúc chiếc thuyền lớn của Tiểu Siêu chỉ còn là một chấm đen, nhưng mỗi khi gió bể thổi tới, Vô Kỵ còn nghe như có tiếng khóc văng vẳng của Tiểu Siêu từ xa vọng lại".

(*) Bàn về các nhân vật trong tiểu thuyết Kim Dung. Trần Mặc, NXB Hội Nhà văn (Lê Khánh Trường dịch).

CHƯƠNG IV :KIM DUNG VỚI CÕI SẮC KHÔNG KHÔNG

KÌ 1

Tôi đọc truyện Kim Dung qua nhiều thời kỳ trong đời: khi còn bé, khi đã trưởng thành và mới đây khi Nhà nước cho xuất bản truyện Kim Dung trở lại. Cũng chừng ấy tác phẩm nhưng đọc đi đọc lại vẫn thấy thích, vẫn thấy mình bị cuốn hút. Dĩ nhiên mỗi thời kỳ, tôi có những cảm nhận khác nhau. Hồi còn bé khi đọc Kim Dung, tôi như bị mê muội, nhập hẳn vào thế giới tươi đẹp kỳ ảo và diễm lệ mà tác giả đã vẽ ra. Tôi thấy như mình đang sống thực trong thế giới ảo đó - nơi mà con người chỉ lo học võ, lo hành hiệp, lo làm những chuyện nghĩa thượng cao đẹp, bỏ qua lợi danh nhỏ nhen; nơi mà những kẻ xấu xa độc ác luôn luôn bị công lý trừng trị một cách thích đáng, hả lòng.

Lớn lên một chút, vẫn bị Kim Dung cuốn hút nhưng cũng đã bắt đầu thấy những chỗ sơ sót, những nhược điểm, những chỗ lồi lõm bất hợp lý... trong truyện. Bây giờ khi đã có chút tuổi, đọc lại Kim Dung, càng thấy rõ hơn những chỗ lồi lõm bất hợp lý kia nhưng đồng thời cũng thấy được đôi điều có thể để suy gẫm, để đọng lại đằng sau những pha tung quyền, phóng chưởng thần kỳ hoặc những mối tình diễm lệ giữa các nhân vật trong thế giới võ lâm mà tác giả dựng lên.

Sắc không của hai người họ Đoàn

Trong Thiên long bát bộ, Đoàn Chính Thuần không phải là nhân vật chính nhưng ông lại xuất hiện ấn tượng và xuyên suốt từ đầu cho đến hết thiên tiểu thuyết thần kỳ này. Kể cả những lúc ông không có mặt nhưng người đọc vẫn thấy có ông. Ông là nhân vật xương sống để tác giả gửi gắm tư tưởng nhà Phật vào tác phẩm của mình.

Đoàn Chính Thuần có tất cả. Ông là Trấn Nam Vương, hoàng đệ của vua nước Đại Lý Đoàn Chính Minh. Vua Đoàn không có con để nối dõi, tuổi đã lớn, lại có ước nguyện đi tu, sẵn sàng nhường ngôi lại cho em. Đoàn Chính Thuần có một đứa con trai nối dõi rất mực thông minh và tốt bụng là nhân vật chính Đoàn Dự. Đoàn Chính Thuần võ nghệ lại tuyệt luân với ngón Nhất Dương Chỉ gia truyền oai trấn thiên hạ. Ông lại là người phong nhã, tài hoa, các ngón cầm kỳ thi họa rất tinh thông, do vậy tuy đã có vợ là Thư Bạch Phụng (mẹ của Đoàn Dự) là tuyệt thế giai nhân, đẹp thoát tục như tiên nữ giáng trần nhưng vẫn còn được bao nhiêu giai nhân tài sắc vẹn toàn khác say mê đắm đuối. Đó là các nàng Tần Hồng Miên, Nguyễn Tinh Trúc, Chung phu nhân, Vương phu nhân. Những người đẹp này vì quá yêu thương mà sẵn sàng dâng hiến đời mình cho họ Đoàn và mỗi nàng sinh ra cho ông từ một đến hai cô con gái sắc nước hương trời. Vương phu nhân thì sinh ra Vương Ngọc Yến (bản dịch mới đọc là Vương Ngữ Yên), Tần Hồng Miên thì sinh ra Mộc Uyển Thanh, Chung phu nhân thì có Chung Linh và Nguyễn Tinh Trúc với hai nàng A Châu, A Tử.

Nghĩa là Đoàn Chính Thuần có đầy đủ tất cả. Có ngai vàng đang chờ phía trước, có muôn dân Đại Lý thương yêu thần phục, có võ công trác tuyệt, có một bà vợ và bốn người tình chính thức vô cùng xinh đẹp, có một đàn con trai tài gái sắc. Họ Đoàn dường như có tất cả những gì mà thiên hạ mơ ước.

Ngược lại, Đoàn Diên Khánh là hoàng thái tử nhưng không có gì cả. Ngai vàng Đại Lý là của phụ thân ông nhưng khi phụ thân ông bị kẻ xấu hại chết ông lại đang bị giam hãm ở nơi xa xăm không về được để kế nghiệp ngôi vua. Ngai vàng đáng lẽ thuộc về ông nhưng lại trao cho Đoàn Chính Minh là anh của Đoàn Chính Thuần. Ông trở nên người tứ cố vô thân, không gia đình, không vợ con. Thân thể cũng không còn nguyên vẹn và do vậy ông không còn nhân tính, trở thành một người vô cùng hung ác, ác nhất trong tứ ác của võ lâm.

Nhưng phải chăng ông không có gì cả?

Mộ Dung Phục, Đoàn Dự và Hư Trúc: Ai có ai không?

Trong ba chàng trai trẻ của thế hệ thứ hai kể trên thì Mộ Dung Phục là người có nhiều nhất. Y là dòng dõi quý tộc chính thống của nước Yên. Tuy nước mất rồi nhưng vẫn giữ được truyền thống hoàng gia. Y còn rất trẻ nhưng đã sở hữu một bản lĩnh võ công cao cường, y có danh tiếng vào hàng bậc nhất trong thiên hạ. Danh tiếng của y ngang tầm với người anh hùng số 1 của giới võ lâm Trung Nguyên là bang chủ Cái bang Kiều Phong: Nam Mộ Dung, Bắc Kiều Phong. Y lại là người có bề ngoài tao nhã hào hoa, am thông cầm kỳ thi họa. Chung quanh y luôn luôn có một đám tôi trung là những người can trường, mưu trí đi theo phò trợ để giúp y mưu đồ nghiệp lớn. Y lại có một người yêu là giai nhân tuyệt sắc như tiên giáng trần Vương Ngọc Yến luôn cận kề, lo cho y từ bữa ăn, giấc ngủ đến cả chuyện rèn luyện võ công vì yêu y say đắm và tôn thờ y như tôn thờ thần thánh. Y có một sự nghiệp để theo đuổi là khôi phục lại nước Đại Yên và lên ngôi hoàng đế. Y có đầy đủ hình ảnh lãng mạn của một ông hoàng lưu vong anh hùng đang chuẩn bị khôi phục đại nghiệp.

Tương phản sắc nét với Mộ Dung Phục phải có đến hai chàng trai trẻ là ông hoàng khờ Đoàn Dự và nhà sư khờ Hư Trúc. Đoàn Dự tuy là con của Trấn Nam Vương hoàng đệ Đoàn Chính Thuần nhưng lại chẳng có gì ra vẻ một ông hoàng. Chàng bỏ nhà đi lang thang trên giang hồ để chạy theo hình bóng của những người đẹp. Chàng đói rách, bị hết người này đến người nọ ức hiếp, làm nhục và bao lần suýt bị giết chết trong đường tơ kẽ tóc. Chàng không có một chút võ nghệ nào, chỉ may mắn tình cờ học được phép Lăng Ba Vi Bộ là môn võ chuyên dùng để... chạy trốn. Về sau, chàng cũng tình cờ học được tuyệt kỹ công phu của dòng họ Đoàn là Lục Mạch Thần Kiếm, nhưng không kiểm soát được nó vì tùy hứng có lúc tung chiêu ra được có lúc lại... tịt đi.

Chàng cũng mê gái như cha, nhưng không tài hoa lại thêm gặp điều bất hạnh. Chàng gặp cô gái đẹp nào chuẩn bị được yêu thì y như rằng phát hiện ra nàng là con rơi của bố mình. Hết Chung Linh rồi Mộc Uyển Thanh, đều là em cùng cha khác mẹ với chàng. Cuối cùng thì chàng yêu mê mệt điên cuồng, yêu đến ngu khờ tiên nữ Vương Ngọc Yến. Nhưng người đẹp này lại đã hẹn ước và gửi trái tim của mình trọn vẹn cho chàng trai lẫy lừng họ Mộ Dung ở đất Cô Tô. Vì lê thê lếch thếch đi theo Vương Ngọc Yến như thằng ăn mày (ăn mày tình yêu) mà chàng bao nhiêu lần suýt bị họ Mộ Dung giết chết, chưa kể là bị đám cận thần của nhà này căm ghét, xua đuổi và coi khinh. Nhưng bi kịch nhất là đến cuối cùng khi được Vương Ngọc Yến đáp lại mối tình si thì cũng là lúc chàng phát hiện ra nàng cũng là em gái của chàng.

KÌ 2

Một đối ngược khác nữa với Mộ Dung Phục là tiểu tăng khờ khạo thật thà Hư Trúc. Đoàn Dự vẫn là người phong nhã thông minh, chỉ khờ đi vì quá si mê Vương Ngọc Yến chứ còn Hư Trúc là anh chàng khờ thiệt. Anh ta đúng là mẫu người không có gì hoàn toàn. Không có trí khôn, không có tướng mạo, không có gia đình, không biết cha mẹ là ai, không biết mình từ đâu đến.

Do ai đó vất vào chùa Thiếu Lâm từ lúc mới lọt lòng mẹ, được nhà chùa dưỡng dục và lớn lên từ trong chùa Thiếu Lâm, chàng chỉ biết suốt ngày lo làm lụng chuyện nặng nhọc thấp hèn để phục dịch mọi người, chàng không có ước mơ, không vọng tưởng. Chàng là con số không to tướng. Nhưng có thật vậy chăng?

Cao trào Thiếu Lâm Tự

Kim Dung đã đưa tư tưởng sắc sắc không không của nhà Phật vào tác phẩm Thiên Long bát bộ một cách tài tình. Tư tưởng này xuyên suốt như sợi chỉ đỏ từ đầu đến cuối thiên tiểu thuyết kỳ ảo diễm tình. Nó nằm ẩn sâu đằng sau những pha tung quyền phóng chưởng lở đất long trời, đằng sau những bi kịch thảm khốc về số phận con người, đằng sau những mối tình diễm lệ hoặc trớ trêu.

Kim Dung đã đẩy cái sắc sắc không không của kiếp người lên đến cao trào khi cho tất cả những nhân vật của chúng ta với những số phận khác nhau tụ hội lại trước cổng chùa Thiếu Lâm. Hầu như toàn thể giới võ lâm không kể hắc bạch chính tà, không kể Tống Liêu Cương Tạng, không kể cao thấp võ công đều tụ hội về đây tưởng rằng để tham gia thi đấu hoặc quang đấu giành ngôi võ lâm minh chủ. Họ đâu biết rằng họ bị đưa về đây để hoàn chỉnh, để kết thúc hoặc để kéo dài thêm kiếp nạn của mỗi người hầu làm rõ cái lẽ sắc không của cuộc đời tạm.

Ở đây ta gặp vợ chồng Đoàn Chính Thuần - Thư Bạch Phụng, gặp Tiêu Viễn Sơn, Mộ Dung Bác, Huyền Từ đại sư, Đoàn Diên Khánh, Diệp Nhị Nương... Thế hệ thứ hai thì có Tiêu Phong, Đoàn Dự, Hư Trúc, Mộ Dung Phục, Vương Ngọc Yến, A Tử ... Nơi đây từ đại hội võ lâm biến thành đại hội... gia đình, nơi cha mẹ, con cái trùng phùng với nhau.

Đoàn Dự gặp lại bố mẹ mình sau bao ngày lưu lạc giang hồ vì một bóng hồng. Tiêu Phong tìm ra được cha đẻ của mình là Tiêu Viễn Sơn. Lâu nay chàng cứ nghĩ mất cha, bây giờ lại biết mình vẫn còn cha. Nhưng vừa gặp lại cha mình, Tiêu Phong đã thấy mất ngay cha vì ông ta cũng chính là kẻ đại ác giết chết cha mẹ nuôi và sư phụ của mình mà bấy lâu nay chàng quyết tâm tìm cho ra để trừng trị rửa thù. Mộ Dung Phục gặp lại cha mình là Mộ Dung Bác nhưng rồi chính Mộ Dung Phục lại không còn là đứa con như người cha mong đợi.

Ngay lúc gặp lại cha là lúc chàng trai Mộ Dung đánh mất đi tất cả những gì tưởng rằng mình có sau khi bị Đoàn Dự bất ngờ phát ra được một đường Lục Mạch Thần Kiếm làm Mộ Dung Phục phải thua xiểng liểng. Từ lúc đó huyền thoại Mộ Dung đất Cô Tô phải đối diện trước một con số không to tướng: Mất đi huyền thoại phục quốc cao đẹp, mất đi bề ngoài phong lưu tuấn nhã... và mất đi cả người yêu tuyệt mỹ Vương Ngọc Yến. Thật ra thì y cũng chẳng có gì để mất. Vì y có yêu nàng Vương đâu, có cao đẹp đâu, có phong lưu tuấn nhã đâu. Mộ Dung Bác đến lúc đó mới thấy mất con nhưng thật ra y đã mất con từ lâu rồi vì y cũng đã tự đánh mất chính mình. Một cõi sắc không, không sắc đấy mà.

Đỉnh điểm của cao trào Thiếu Lâm tự là sự trùng phùng của gia đình Hư Trúc.

Trước đấy hơn 20 năm, vừa sinh ra con, Diệp Nhị Nương đã để mất con. Bà trở nên ác độc từ đó, ác độc đến mức được xếp hạng đệ nhị ác trên giang hồ chỉ sau Đoàn Diên Khánh. Bây giờ ngay tại Thiếu Lâm tự, bà phát hiện ra chàng trai đôn hậu, hiền lành nhất thế gian Hư Trúc là đứa con mất tích của mình. Sau khi mẹ con trùng phùng với nhau, mọi người đặt ra câu hỏi ai là cha của Hư Trúc?

Câu trả lời đã có ngay. Đại cao tăng Huyền Từ, phương trượng chùa Thiếu Lâm tự giác đứng ra nhận ngay mình là tác giả của cái bào thai trong bụng Diệp Nhị Nương cách đây hơn 20 năm. Huyền Từ vỗ vào đầu Hư Trúc than một câu: "Ngươi đã ở trong chùa 24 năm thế mà thủy chung ta vẫn không hay". Thế đấy, có con ở ngay bên cạnh nhưng ông nào biết có con. Không nhưng vẫn có đó. Bây giờ gặp lại con rồi, ông phải thọ tội theo pháp giới của Thiếu Lâm và hơn thế nữa, theo công lý của lương tâm ông. Ông phải tự sát. Diệp Nhị Nương cũng tự vẫn, vừa để theo người tình cho trọn nghĩa yêu đương cũng vừa để tự rửa cái ác mà hơn 20 năm qua bà đã gieo ra cho thiên hạ.

Vừa có được cha mẹ, Hư Trúc lại không còn cha mẹ, mồ côi vẫn cứ mồ côi. Không rồi có, có đó rồi không, không nhưng vẫn có. Có không chẳng khác gì nhau.

sắc tức thị không,

không tức thị sắc

sắc bất dị không,

không bất dị sắc

thọ tưởng hành thức

diệc phục như thị

Tiêu Viễn Sơn gặp lại con, Mộ Dung gặp lại con, Đoàn Chính Thuần gặp lại con, Huyền Từ nhận ra con, Đệ nhị ác Diệp Nhị Nương tìm ra con. Vậy Đệ nhất ác Đoàn Diên Khánh cũng có mặt ở cái đại hội gia đình đó, nhưng có tìm ra con không? Câu hỏi có vẻ hơi ngớ ngẩn, vì y có con đâu mà gặp!

Nhưng y vẫn có đấy. Vì có cũng như không, không cũng như có, có không nào khác gì nhau...

KÌ 3

Trà Hoa Trang, ai có ai không?

Kim Dung tiên sinh là một giáo sư triết học nên ông đưa triết lý vào tiểu thuyết quá tài tình. Ông cho cha mẹ, con cái của các gia đình họ Mộ Dung, họ Tiêu, họ Đoàn trùng phùng với nhau để làm cái nền cho sự trùng phùng đầy kịch tính của gia đình Hư Trúc.

Sự mất - còn của Hư Trúc đã là đỉnh cao chót vót của lẽ sắc - không. Nhưng Kim Dung còn siêu hơn nữa, bởi lẽ còn vài cuộc trùng phùng cha con nữa ở ngày hội gia đình kỳ lạ ấy nhưng Kim Dung không một chữ nhắc đến. Không nhắc đến nhưng vẫn có. Có nhưng lại không. Đó là sự trùng phùng của cha con Đoàn Diên Khánh.

Rồi một cuộc trùng phùng mà không trùng phùng nữa. Đó là cuộc trùng phùng giữa cha con Đoàn Chính Thuần và Vương Ngọc Yến (Vương Ngữ Yên). Ngộ nhưng không ngộ, không ngộ nhưng mà ngộ. Hai cha con gặp nhau nhưng không hề biết, không biết nhau nên xem như chưa trùng phùng. Kim Dung làm cho mọi người thích thú hơn khi cắc cớ cho Đoàn Dự đòi dắt Vương Ngọc Yến đến ra mắt gia gia của mình.

Đi bên cạnh người yêu mình là Mộ Dung Phục mà cứ bị Đoàn Dự lò dò bám theo nên Vương Ngọc Yến tìm cách đuổi chàng đi chỗ khác. Nhưng bảo chàng bỏ đi thì chàng cũng không thể nào dứt tình được. Chàng ngượng ngùng nói:

- Cái đó... à! Vương cô nương! Gia gia tại hạ cũng đã đến đây hiện ở ngoài kia.

...Vương Ngọc Yến thấy Đoàn Dự đã mấy phen hy sinh để cứu mình, nàng cũng biết rõ chàng rất thành tâm với mình nên đem lòng cảm kích. Còn về con người chàng thì chẳng bao giờ nàng để vào lòng. Có khi bàn đến võ công thì Đoàn Dự lại chẳng hiểu gì... bây giờ nàng nghe chàng nói gia gia chàng đã tới nơi cũng hơi động tính hiếu kỳ, liền hỏi:

- Phải chăng lệnh tôn từ Đại Lý qua đây? Cha con công tử gặp nhau rồi phải không?

Đoàn Dự cả mừng đáp:

- Đúng đó Vương cô nương! Tại hạ muốn dẫn cô nương đến yết kiến gia phụ được không? Gia phụ được thấy cô nương chắc người hài lòng lắm.

Vương Ngọc Yến hai má ửng hồng, đáp:

- Ta không đi. (Theo bản dịch của Hàn Giang Nhạn).

Hai cuộc ngộ mà không ngộ ấy mãi đến Trà Hoa Trang mới bộc lộ ra trọn vẹn.

Trà Hoa Trang là ngôi nhà gỗ giữa đồng cỏ mênh mông do Vương phu nhân mẹ của Vương Ngọc Yến dựng nên để làm bẫy đón lõng người tình phong lưu Đoàn Chính Thuần. Bà không bắt được "con lợn già" Đoàn Chính Thuần nhưng lại bắt nhầm "con lợn con" Đoàn Dự với một đám em gái là con rơi của cha chàng, trong đó có cả Vương Ngọc Yến là con gái bà. Nhưng rồi nhờ sự giúp sức của Mộ Dung Phục và sự tiếp tay bất đắc dĩ của Đoàn Diên Khánh bà cũng gom được trọn ổ Đoàn Chính Thuần với đầy đủ vợ và các tình nhân: Đoàn phu nhân Thư Bạch Phụng, Chung phu nhân, Tần Hồng Miên, Nguyễn Tinh Trúc.

Tại Trà Hoa Trang, Kim Dung cho bốn nhóm người tụ họp. Đó là nhóm Đoàn Dự với các cô em gái, nhóm Đoàn Chính Thuần với các người tình và đám cận thần, nhóm Mộ Dung Phục với các đồng sự phục quốc, nhóm Đoàn Diên Khánh với hai gã đàn em đệ tam và đệ tứ ác. Bốn nhóm người này hợp lại đây để rồi tiêu tan. Đoàn Chính Thuần với năm tình nhân sắc nước hương trời (kể cả vợ) đều bị thảm tử dưới tay họ Mộ Dung. Mộ Dung và Đoàn Diên Khánh vì ham mê ngai vàng mà lạnh lùng giết chết đàn em, đồng sự của mình để những người còn lại bỏ chạy tan tác. Chỉ còn lại Đoàn Dự với đám em gái mà cũng không phải là em gái... thế mới thích chứ.

Tại nơi này Đoàn Dự lại mất mẹ lẫn cha nhưng lại biết ra cha thực của mình là Đoàn Diên Khánh. Biết là cha thực của mình nhưng không chịu nhận. Đoàn Diên Khánh mừng rỡ sung sướng lên tới trời khi được Thư Bạch Phụng cho biết Đoàn Dự là con y.

Tưởng như y không có gì hết nhưng y lại có tất cả. Y có con trai, con trai y lại chắc chắn được thừa kế ngai vàng - cái mà y bỏ ra cả đời, trăm phương ngàn kế, điên cuồng giành giật nhưng chẳng bao giờ được. Y kiêu hãnh nhìn Đoàn Chính Thuần những muốn la lên: "Dù ngươi có làm hoàng đế nước Đại Lý mà ta không làm được cũng chẳng lấy chi làm vinh hạnh. Ta có con trai mà ngươi không, thế là ta hơn ngươi nhiều lắm". Nhưng rồi y lại buồn ngay vì con y không chịu nhận y là cha. Y thốt lên đau khổ: "Mình tuy có con mà con không chịu thừa nhận thì chẳng khác gì không con".

Tưởng như Đoàn Chính Thuần có hết cả thiên hạ nhưng rồi lại chẳng còn gì. Những tình nhân xinh đẹp đều bị giết chết hết, người vợ chính thức thì coi như không có vì bà ta đã "ngoại tình" từ rất lâu và bỏ đi tu rồi, đứa con trai tưởng là của mình thì thật ra là con của kẻ tử thù. Ngai vàng chưa kịp tới tay cũng đã mất vì sinh mạng ông có còn đâu. Ông chỉ còn lại một đám con gái nhưng theo quan niệm "trọng nam khinh nữ" thời phong kiến Trung Hoa thì cũng coi như chẳng có gì vì "nhất nam viết hữu thập nữ viết vô" đấy mà. Ấy vậy nhưng họ Đoàn vẫn có, trước khi nhắm mắt ông cũng đâu biết Đoàn Dự không phải là con ông, hơn nữa Đoàn Dự vẫn cứ xem ông là cha đẻ và chỉ có ông mà thôi.

Ông vẫn có con trai đấy thôi. Không - không, có - có ấy mà.

KÌ 4

Khúc vĩ thanh tại ngôi mộ bên ngoài chùa Thiên Long

Đoàn Dự cùng các cô em là Chung Linh, Mộc Uyển Thanh, Vương Ngọc Yến đi thẳng về phía nam. Đoàn Dự không muốn kinh động bá tánh, liền truyền cho các quan đừng thay đổi sắc phục vẫn ăn mặc theo kiểu khách thương.

Một ngày kia sắp tới kinh thành. Đoàn Dự muốn vào chùa Thiên Long bái kiến Khô Vinh đại sư và Hoàng bá phụ là Đoàn Chính Minh. Nhưng chàng thấy trời tối rồi mà còn cách chùa Thiên Long đến 60 dặm, đang muốn tìm một nơi nghỉ lại.

Bất thình lình trong rừng có thanh âm một đứa nhỏ la lên:

- Bệ hạ! Bệ hạ! Hài nhi đã lạy bệ hạ rồi sao không thấy bệ hạ cho kẹo?

Mọi người thấy thế làm kỳ tự hỏi:

- Sao lại có người nhận ra bệ hạ?

Mấy người chạy vào rừng cây thì nghe thấy thanh âm:

- Các ngươi phải nói: Nguyên Ngộ Hoàng đế vạn tuế, vạn vạn tuế! Thì mới được thưởng kẹo.

Thanh âm này nghe rất quen tai. Gã chính là Mộ Dung Phục.

Đoàn Dự và Vương Ngọc Yến giật mình kinh hãi. Hai người dắt tay nhau ẩn vào một gốc cây nhìn về phía phát ra thanh âm thì thấy Mộ Dung Phục ngồi trên một ngôi mộ. Gã đội mũ giấy vẻ mặt oai nghiêm.

Trước ngôi mộ có bảy, tám đứa con nít trong làng ra quỳ ở đây. Chúng theo lời Mộ Dung Phục la lên:

- Nguyên Ngộ Hoàng đế vạn tuế! Vạn vạn tuế!

Chúng vừa la vừa lạy xuống. Có đứa thò tay ra năn nỉ:

- Bệ hạ cho kẹo đi! Bệ hạ cho kẹo đi!

Mộ Dung Phục nói:

- Các khanh hãy bình thân! Trẫm đã phục hưng được cơ nghiệp nhà Đại Yên, lên ngôi đại bảo thì hết thảy đình thần đều được phong thưởng.

Gã nói xong lấy trong bọc ra một hộp vừa kẹo vừa bánh chia cho bọn con nít.

Bầy con nít vỗ tay hoan hô vừa chạy đi vừa nói:

- Sáng mai lại đến!

Vương Ngọc Yến trông vẻ mặt biểu ca mình thì biết rằng cái giàu sang của y càng ngày càng thâm trọng và nay y đã thành người mất trí. Nàng thấy vậy đau lòng khôn xiết, suýt nữa ngất đi. Đoàn Dự khẽ kéo tay áo nàng dắt đi. Mọi người cũng từ từ lui ra, để mặc Mộ Dung Phục ngồi trên phần mộ mà nói lảm nhảm".

Truyện đến đây là hết.

Mỗi lần đọc xong đến đây, tôi thả rơi cuốn sách, rồi thẫn thờ buồn đến mấy ngày. Trong đầu tôi cứ lởn vởn hình ảnh tội nghiệp của Mộ Dung Phục. Những gì chàng thanh niên này vọng tưởng và cố sức đạt cho được bằng mọi cách nhưng bất thành, thì Hư Trúc và Đoàn Dự đều có được một cách đương nhiên hoặc ngẫu nhiên dễ dàng.

Hư Trúc có được nền võ công cao cường, làm chủ được một Cung Linh Thứu với phạm vi ảnh hưởng ngang tầm phái Thiếu Lâm, làm thủ lĩnh cả hai phái hắc - bạch và cưới được một cô vợ là công chúa Tây Hạ xinh đẹp. Đoàn Dự thì nghiễm nhiên lên làm hoàng đế Đại Lý với một đoàn các "cô em" xinh đẹp suốt ngày tíu tít chung quanh.

So với cái nhân mà Mộ Dung Phục đã gieo ra, thì cái quả mà anh ta nhận vào như vậy cũng là có sự nương tay của tác giả. Phải chăng ông đã quá ác với nhân vật này nên đến hồi kết cục ông cảm thấy thương hại? Làm vua ảo như Mộ Dung Phục với ngai vàng là một nấm mộ vô tri và triều thần là đám trẻ con hồn nhiên trong trắng so với ông vua thật Đoàn Dự trong một triều đình thật đầy bất trắc chắc gì ai được hơn ai. "Thật ảo cũng chỉ là mộng thôi" - nói theo kinh Phật...

Trong các chàng trai, thì Hư Trúc là anh chàng ngớ ngẩn thật thà, Đoàn Dự là tay cà rỡn tiêu dao, Tiêu Phong là anh hùng thượng mã còn Mộ Dung Phục là một nhà hoạt động chính trị.

Anh ta sống có mục tiêu lý tưởng. Anh ta lo học hành tu chí, rèn luyện võ công đến mức cao cường, không ham mê tửu sắc, suốt ngày đêm canh cánh bên lòng mục tiêu phục quốc. Có một người yêu tuyệt hảo, tài sắc như Vương Ngọc Yến cận kề hầu hạ nhưng anh vẫn cố nén lòng để mưu cầu việc nước. Thậm chí có lúc anh lại hy sinh từ bỏ cả con người ngọc ngà ấy để tìm cách cưới cho được nàng công chúa Tây Hạ dù "nàng ta có trái tính trái nết và xấu xí như quỷ Dạ Xoa". Anh làm như vậy là để mưu cầu việc lớn. Đó là bản lĩnh của người làm chính trị. Hy sinh tình cảm riêng tư, hy sinh gia đình, hy sinh cả bản thân để mưu đồ đại nghiệp.

Thế nhưng dường như Kim Dung tiên sinh dị ứng với những người chính trị, do vậy bao nhiêu hành động xấu xa, ác độc; bao nhiêu suy nghĩ đen tối ông đều gán ghép vào cho ông hoàng lưu vong, con người chính trị Mộ Dung Phục. Như vậy không tội nghiệp cho nhà Mộ Dung đất Cô Tô lắm ư! Cho người làm chính trị lắm ư!

CHƯƠNG V: CÁC BÀI VIẾT KHÁC

1.VI TIỂU BẢO

Vào đầu thế kỷ XV, danh tướng đời Hậu Trần là Đặng Tất đã lập được nhiều chiến công khi đánh quân Minh để khôi phục lại giang sơn dất nước, nhưng bị bọn gian thần gièm pha, đố kỵ, nên bị Giản Định Đế sát hại. Con trai của ngài là Đặng Dung lập tôn thất nhà Trần là Trần Quý Khoách lên ngôi lấy niên hiệu Trùng Quang. Đặng Dung tiếp nối con đường quang phục quê hương của thân phụ, dấy binh chống quân Minh xâm lăng. Công cuộc thất bại, trên đường lưu đày sang Trung Hoa, vua tôi nhảy xuống sông tự vận. Đặng Dung làm bài thơ "Cảm Thuật", thể thất ngôn bát cú để lưu lại hậu thế, trong đó có câu:

"Thời lai đồ điếu thành công dị.

Sự khứ anh hùng ẩm hận đa"

(Bần tiện gặp thời lên cũng dễ.

Anh hùng lỡ bước ngẫm càng cay)

(Trần Trọng Kim)

Kim Dung, nhà văn xây dựng tiểu thuyết võ hiệp đã tạo dựng nhiều khuôn mặt độc đáo, sắc thái đặc biệt qua từng nhân vật trong chốn võ lâm với hàng vạn trang sách. Tác phẩm võ hiệp của Kim Dung được ăn sâu trong lòng hàng trăm triệu độc giả trên thế giới. Nói đến Kim Dung, nói đến võ hiệp, chưởng... nó lôi cuốn, hấp dẫn, trở thành thân thuộc từ tiểu thuyết đến phim ảnh.

Năm 1945, mới 21 tuổi, Tra Lương Dung (Luois Cha) đã bước vào nghề báo cho tờ Đông Nam Nhật Báo ở Hàng Châu và được gây tiếng vang. Năm 1950, ông đến Hồng Kông để cộng tác với tờ Công Báo. Sau đó, ông sáng lập ra tờ Minh Báo (Ming Pao Daily News) dưới tên Louis Cha. Vào giữa thập niên 50, để đáp ứng nhu cầu của độc giả, tiểu thuyết võ hiệp qua ngòi bút Kim Dung (Jin Yong) dưới dạng feuilleton, mỗi ngày một ngàn chữ trên tờ Tân Văn Báo, lôi cuốn và tăng vọt số lượng độc giả hằng ngày đợi báo để luyện chưởng. Tên tuổi Kim Dung được nổi danh từ Hồng Kông và vượt biên giới sang nhiều quốc gia khác... Ở Miền Nam Việt Nam vào thập niên 60, 70 hàng triệu độc giả say mê tác phẩm Kim Dung... nhiều nhân vật của ông đã đi vào tên tuổi của giới cầm bút.

Trong 17 năm (1955-1972) từ tác phẩm đầu tay Thư Kiếm Ân Thù Lục đến tác phẩm sau cùng Lộc Đỉnh Ký, toàn bộ tác phẩm trên vạn trang. Theo dòng thời gian, nhiều tác phẩm của Kim Dung được chuyển ngữ, phổ biến từ Á Châu sang Úc, Âu Châu và Mỹ Châu.

Trong cuộc phỏng ấn của phóng viên Nam Hoa Bưu Điện với Kim Dung vào mùa nè 1999 tại Hawaii, tiên sinh cho biết: "Tôi viết 15 tác phẩm dài, bộ ngắn nhất cũng 300 trang, bộ dài nhất 2000 trang. Có thể kể ra... Nói cho đúng chỉ có 12 bộ mà thôi nhưng người ta khi dịch thuật và sao chép đã nâng lên 15 bộ, tôi thấy mãi cũng thành quen nên cứ yên trí mình viết được bấy nhiêu".

Tác phẩm cuối cùng Lộc Đỉnh Ký khởi đầu từ năm 1969, mở đầu với bài phi lộ dài mười tám ngàn chữ, chiếm giải quán quân trong lịch sử văn học. Kim Dung viết liên tục trong ba năm để hoàn thành tác phẩm trước khi "gác kiếm". Lộc Đỉnh Ký qua ngòi bút dịch thuật của Hàn Giang Nhạn xuất hiện trên trang báo ở Sài Gòn. Sau đó được in thành sách, gồm 21 cuốn, gần 3,800 trang. Tác phẩm Lộc Đỉnh Ký vừa được Kim Dung tóm lược trở lại, chuyển sang Anh ngữ, xuất bản tại Anh quốc vào giữa năm 2001.

Hầu hết tác phẩm của Kim Dung được dựng thành phim truyện nhiều tập, ngay cả nhân vật trong truyện cũng dựng thành phim. Lộc Đỉnh Ký là một trong những bộ phim ăn khách nhất.

Sau khi đạo quân Mông Cổ xâm lăng thống trị, lập nên triều đại nhà Nguyên kéo dài gần thế kỷ (1279 - 1368). Mang dòng máu chính thống Hán, Châu Nguyên Chương rời cửa thiền, đứng lên chiêu tập binh mã, nối kết lòng dân đồng lòng nổi dậy, đuổi vua Thuận Đế nhà Nguyên, dựng lại cơ đồ dân tộc, lập nên triều đại nhà Minh, lên ngôi hoàng đế. Triều đại nhà Minh trị vì gần 3 thế kỷ (1368 - 1644). Đời vua Nghi Tôn niên hiệu Sùng Trinh, quân Mãn Châu đem quân chinh phạt, lấy dị tộc cai trị Trung Hoa, lập ra triều đại nhà Mãn Thanh kéo dài từ năm 1644 cho đến khi Tôn Dật Tiên đứng lên làm cuộc cách mạng Tân Hợi năm 1911.

Nhà văn Kim Dung lấy bối cảnh vào thời kỳ đầu nhà Mãn Thanh để xây dựng tiểu thuyết võ hiệp Lộc Đỉnh Ký. Dựa vào giai đoạn biến chuyển thời cuộc trong lịch sử, trong sự kiện cụ thể như Tứ Thập Nhị Chương Kinh, bộ kinh Phật gồm 42 chương được tín đồ nhà Phật dùng như kinh nhật tụng chuyển thành bộ sách gồm 8 quyển như bí kiếp vô giá chứa đựng họa đồ kho tàng bí mật, long mạch của hoàng đế Mãn Châu nơi Lộc Đỉnh Sơn bên dòng Hắc Long Giang ở Đông Bắc Trung Hoa cùng những bí ẩn dị kỳ... mà vua Thuận Trị giao cho 8 thủ lãnh của bát kỳ chia ra giữ từng quyển để tránh nạn độc quyền.

Nhân vật có tên trong sách sử như vua Thuận Trị, vua Khang Hy, Bạch Y Ni Cửu Nạn, con hoàng đế nhà Minh là Sùng Trinh, gian thần như Ngô Tam Quế, Ngạo Bái, Tang Kết Lạt Ma của Tây Tạng, Cát Nhĩ Đan vương tử của Mông Cổ... Trần Cận Nam (Trần Vĩnh Hoa) Tổng đà chúa ở Thiên Địa Hội. Thiên Địa Hội là tổ chức hội kín khi Trung hoa bị Mãn Châu thống trị, lấy danh nghĩa "phù Minh diệt Thanh" bị nhà Mãn Thanh truy lùng, năm 1680 có khoảng 3,000 hội viên lìa giang sơn trốn sang Việt Nam hoạt động...

Kim Dung xây dựng cốt truyện võ hiệp Lộc Đỉnh Ký từ nhân vật và sự kiện trên với hình ảnh hư cấu Vi Tiểu Bảo (VTB) xuất hiện từ chương đầu đến chương cuối tác phẩm. Vi Tiểu Bảo có lẽ là nhân vật không giống ai trên cõi trần nhưng mỗi trường hợp, mỗi hành động, tâm tính lúc gian manh, ranh mãnh, điếm đàng, thương vay khóc mướn, giả nhân giả nghĩa, lúc trọïng lời hứa, chí tình, xem nhẹ lợi danh... nó quanh quẩn đâu đây trong cuộc sống thường được nhắc tới qua câu chuyện, miệng thế gian, qua sách báo.

Trong cuộc phỏng vấn của sinh viên Đại học Bắc Kinh ngày 25-5-1994, Kim Dung cho rằng nhân vật Vi Tiểu Bảo biểu hiện nhân sinh trong thời điểm muốn tung hoàng ngang dọc, có tác phong như Vi Tiểu Bảo... Nó không đóng khung trong thời đại phong kiến mà ngày nay, có nhiều người, trường hợp giống như VTB.

Bên bờ Tây Hồ, thị trấn Dương Châu, nơi chốn lầu xanh mang tên ký viện Lệ Xuân, kỷ nữ Vi Xuân Phương với nhiều năm trong nghề, sinh hạ cậu bé lấy tên Vi Tiểu Bảo, không biết gốc gác tác giả là người Hán, Mãn, Mông, Hồi, Tạng vì ngày đêm nàng tiếp mọi dòng giống. VTB lớn lên trong nhà thổ, cậu dốt đặc cán mai, tuy không biết chữ nghĩa nhưng rất tinh ranh, láu lá, miệng lưỡi dẻo quẹo, liến thoắng, nói láo khỏi chê, đóng kịch tài tình với khóc, cười tự nhiên... và rành nghề đổ bác.

Năm VTB lên mười ba tuổi, tại lầu xanh Lệ Xuân bị bọn Thanh Bang quấy phá, mẹ cậu bé bị đánh đập. Bọn Thanh Bang bị khách làng chơi Giang Dương đại đạo Mao Thập Bát tiêu diệt. Mao Thập Bát thuộc hào kiệt lỗ mãng trên chốn giang hồ, đang vượt ngục, bị truy nã nhưng vẫn tìm đến chốn lầu xanh để tìm lạc thú, xúi cho cậu bé vấy máu phạm tội rồi cùng nhau vào chốn bụi đời, kết nghĩa huynh đệ. VTB biết Mao Thập Bát bị quan nha tầm nã, treo giá ba nghìn lượng bạc, cậu bé cũng giữ được máu nghĩa khí giang hồ, không đi tố cáo còn bộc lộ "có ba trăm ngàn tiền thưởng cũng không đi tố cáo".

Vào chốn giang hồ, VTB làm đệ tử của Tổng đà chúa Trần Cận Nam nên được nắm vai trò Hương Chủ trong Thiên Địa Hội. Đây là tổ chức quy mô của người Hán qui tụ người yêu nước khắp nơi nhằm tạo thế lực rộng lớn để chờ ngày phục quốc. Thấy VTB khôn lanh, ba trời ba đất nhưng không phải loại phản bội nên Thiên Địa Hội tương kế tựu kế dàn dựng cho xâm nhập kinh thành.

Theo chân Mao Thập Bát đến tận Bắc Kinh, cả hai bị bắt vào chỗ trấn giữ của thái giám Hải Đại Phú được mệnh danh Hải Lão công, tay võ công thâm hậu trong triều. Ở đây VTB làm mù mắt lão thái giám tinh quái nầy, giết Tiểu Quế Tử và giả Tiểu Quế Tử để làm thái giám trong cung đình. Từ chốn lầu xanh, vượt đường trường, đến kinh đô, xâm nhập vào hoàng cung, gây nợ máu, ân oán giang hồ, làm tiểu thái giám.

Bước vào hoàng cung, VTB trở thành nhân vật đặc biệt, tiểu thái giám bầu bạn với Tiểu Huyền Tử, hoàng đế Khang Hy nhà Đại Thanh, được nhà vua ban thưởng phẩm trật và thủ lãnh thái giám. Khang Hy cho nhập tịch người Mãn Châu theo dòng Hoàng Kỳ, được tín cẩn lên chùa Thanh Long trên Ngũ Đài Sơn hầu cận thái thượng hoàng. Thuận Trị nắm ngôi hoàng đế được 18 năm, thống trị đất nước rộng bao la nhưng bất trị đám thê thiếp hậu cung lăng nhăng nên chán ngán ngôi vị cao cả, tịnh tâm nơi cửa thiền, pháp danh Hành Si. VTB được lòng vua cha và vua con. Gã láu cá như gươm lạc giữa rừng hoa, đôi mắt láo liêng, cái miệng láu lĩnh, tuy còn bé nhưng thấy gái đẹp như mèo thấy chuột, nhìn mê mệt cho thỏa mãn thú tính. Nơi đây được công chúa Kiến Ninh, da bánh mật máu Thát Đát tuổi cập kê với gã đã "ấy làm tội" nhiều phen khiếp vía.

Gia nhập cung đình, gia nhập "tổ chức yêu nước nhằm lật đổ chính quyền", VTB bị gái dụ dỗ trôi dạt ra đảo. Phương Di lừa gã ba trợn gia nhập vào tà giáo Thần Long giáo ở Liêu Đông và không ngờ gã giữ cương vị Bạch Long sứ, chưởng môn sứ Bạch Long môn, ngôi vị cao quý trong Thần Long. Được vợ chồng Hồng An Thông giáo chủ giao phó công tác trở về hoàng cung để thu thập bộ sách Tứ Thập Nhị Chương Kinh, theo dõi Mao Đông Châu đệ tử Thần Long giáo cài vào làm cung nữ hầu cạnh hoàng thái hậu. Mao Đông Châu, con gái Mao Đông Long ở Bí Đảo, võ công cao cường với ngón đòn "Hóa Cốt Thiên Kim", khống chế hoàng thái hậu, giả hoàng thái hậu, ăn ở với vua Khang Hy, sanh hạ được công chúa Kiến Ninh, giết thứ cung Đổng Ngạc Phi và hoàng tử Vinh Thân Vương, giết Hiếu Khang hoàng hậu. Kiến Ninh công chúa tuy mới thập tam nhưng có máu "sadism" thích hành hạ địch thủ trước khi hành lạc. Khang Hy muốn đẩy cái gái nhỏ ranh đi nên gã cho cho con Hán gian Ngô Tam Quế, Bình Tây Vương ở Vân Nam. Trên đường đi đến sảnh đường của biệt cung ở Ngũ Hoa, ngày trước là nơi Vĩnh Lịch hoàng đế triều Minh, để kết hôn với Ngô Ứng Hùng, Kiến Ninh gặp VTB rồi dùng mưu mẹo để mây mưa cùng gã suốt cuộc hành trình. Được Kiến Ninh, Ngô Tam Quế công tử cảm ơn, hậu tạ Vi Đô Thống, Khâm Sai đại thần rối rít!.

Gia nhập vào Thần Long giáo, đệ tử được giáo chủ ban thưởng cho thuốc "Độc Long Địch Hoàn Cân" để khỏi phải chạy làng, mỗi năm phải uống thuốc giải, nếu không độc dược hành hạ thân thể, biến đổi cơ thể rất thảm khốc. VTB không thoát khỏi qui luật đó nhưng vốn bản tính ba trợn, chẳng có gì bận tâm, thí mạng cùi cho số phận. Gã lật tẩy ả Mao Đông Châu giả hoàng thái hậu, giáo chủ phải sai Hồng phu nhân cùng Phương Di, Mộc Kiếm Bình (một thời gã si mê) cùng nhị tôn giả để đi bắt sống nhưng gã chẳng sợ gì cả, bướng bỉnh khi lâm vào cuộc diện.

Theo qui luật trong giới võ lâm, đệ tử chỉ trung thành với một sư phụ nhưng VTB, chính tà kết nạp, gã đều tham gia, mâm nào cũng có, mồ mã nào cũng rơi nước mắt, thấp thoáng vài tên điếu đóm ngày nay. Kẻ thù không đội trời chung với triều đình nhà Mãn Thanh là hậu duệ nhà Minh. VTB nhận làm đệ tử của Bạch Y Ni Cửu Nạn. VTB gặp hai nàng áo lam và áo xanh nơi Ngũ Đài Sơn, mê mệt nàng áo xanh A Kha, bị nàng đánh dập mặt dập mày nhưng cảm thấy sung sướng vì được người đẹp "dập" thân xác. Khi gặp Bạch Y Ni với đệ tử là A Kha, VTB không ước mơ gì hơn là thọ giáo làm đệ tử.

VTB mê A Kha vô cùng tận, bị A Kha nguyền rủa, đánh cho nhiều trận nên thân nhưng được gần và được thấy bóng dáng nàng, đủ sướng run người. A Kha có người tình nhân là Trịnh Khắc Sảng, con trai Trịnh Thành Công, thống lĩnh lực lượng chống đối ở ngoài đảo Đài Loan. Trong nhiều lần gặp gỡ tay ba, gã thấy A Kha khinh khi như cỏ rác và yêu mến Trịnh Khắc Sảng, gã bôi xấu tình địch, sắp xếp, dàn dựng để làm bể mặt tình địch cho A Kha chán ngán nhưng nàng vẫn yêu. Có nhiều cơ hội để giết tình địch với uy quyền trong tay nhưng VTB lại không hạ độc thủ, kể ra gã chưa đến nỗi nhẫn tâm cùng cực.

Tuy vậy, khi trở lại chốn cũ với cương vị Khâm Sai của nhà vua, gặp mẫu thân vẫn hành nghề ở lầu xanh Lệ Xuân, Vi Xuân Phương không biết tiểu nhi đã trở thành "nhân vật quan trọng" và gã cũng một lòng với mẫu thân. Gã cà chớn, ba trợn nhưng không làm đau lòng mẫu thân, hơn phường bất hiếu, bằng cấp, quyền trọng nhưng quên mất cội nguồn, không thờ cha kính mẹ.

Vi Tiểu Bảo dốt chữ nghĩa, lúc lộng ngôn, lúc thành thật không lấp liếm, kết bạn với Tăng Kết Hoạt Phật của Tây Tạng và khi lập bản tấu chương, gã vui vẽ cho biết: "Ngay ba chữ tên của đệ cũng chỉ viết được một chữ Tiểu (3 nét) là không đến nỗi sai lầm, chữ Vi thì không chắc, chữ Bảo tiểu đệ đã viết lui viết tới vẫn không đúng" ( LĐK - Quyển 17, hồi 195 trang 3,003). Dốt như vậy nhưng thời thế đưa đẩy tung hoành đây đó, có khi được tiền hô hậu ủng, có những đại quan tham danh ham lợi cúi đầu phục tòng...

VTB giết thái giám nhưng không đền mạng, lần lượt đảm nhận Tổng Quản thái giám, Khâm Sai Đại Thần, Tư Lệnh mặt trận, Đại Sứ Đặc Mệnh toàn quyền, Đệ nhất Lộc Đỉnh Công, Phủ Viễn Đại Tướng Quân... đầy quyền cao chức trọng.

Với gái, VTB lại áp dụng thành ngữ :"Đẹp trai không bằng chai mặt", "Xấu hay làm tốt, dốt hay nói chữ" với cái miệng dẻo quẹo nên chiếm gọn những 7 vợ vào loại "thượng vàng", võ nghệ tuyệt luân, sắc đẹp tuyệt vời như A Kha, Mộc Kiếm Bình, Tô Thuyên, Phương Di, Tăng Nhu, Song Nhi và Kiến Ninh công chúa... đành ngậm ngùi ca bài "Tiếc thay cây quế giữa rừng - Để cho thằng Mán, thằng Mường nó leo"!

Kim Dung xây dựng nhân vật VTB thật độc đáo, khi xã hội tranh tối tranh sáng, xáo trộn, vàng thau lẫn lộn... cơ hội ngàn vàng cho "kẻ bần tiện" như diều gặp gió!

Tác giả: Vương Trùng Dương

2.GIẤC MƠ LỘC ĐỈNH KÝ

Đọc Lộc Đỉnh Ký của Kim Dung, tôi thật sự bồi hồi với đoạn lung khởi mở đầu cho bộ tiểu thuyết đồ sộ này. Đoạn Lung ấy dài khoảng ba chục ngàn từ, mô tả hình ảnh của một đoàn tù nhân người Hán gồm đủ đàn ông, phụ nữ, trẻ con bị một toán quan quân Mãn Châu dẫn đi trên đất tuyết giữa mùa đông giá rét. họ bị đưa đi đày ra miền Đông Bắc để làm lao dịch khổ sai .

VỤ ÁN "MINH THƯ TẬP LƯỢC"

Cái tội của họ là đã có bà con, gia đình, thân thích với những người soạn bộ Minh Thư Tập Lược, một bộ sử ký được in ra khi nhà Mãn Thanh đã tiêu diệt nhà Minh và chiếm được đất Trung Quốc, trong đó có tác giả và nhà biên soạn người Hán vẫn còn dùng các niên hiệu của Minh Triều.

Bộ Minh Thư Tập Lược ghi tên soạn giả làm Trang Kiến Long ; người đề tựa là Lý Kim Tích. Ngoài ra, mười tám người khác góp công, góp sức vào việc biên soạn, hiệu chỉnh cũng được nêu tên : Tra Kế Tá, Mao Nguyên Minh, Ngô Chí Minh, Ngô Chí Dũng, Mao Thứ Lai, Ngô Sở, Đường Nguyên Lâu, Nghiêm Vân Khởi, Tường Vân Vi, Vi Kim Hựu, Vi Nhất Viên, trương Huề, Huỳnh Nhị Dậu, Ngô Viêm, Phan Thánh Chương, Lục Kỳ, Phạm Tương, Lý Như Đào. Tên của người đầu tiên - Tra Kế Tá, chính là viễn tổ của nhà văn Kim Dung (tên thật là Tra Lương Dung). viết đoạn Lung trong bộ Lộc Đỉnh Ký này, Kim Dung muốn nêu lạI một giai đoạn đau thương nhất trong lịch sử Trung Quốc khi nhà Mãn Thanh xâm chiếm đát nước này, trong đó có nỗI đau thương của dòng họ mình bởI viễn tổ Tra Kế Tá của ông vì tham gia viết Minh Thư Tập Lược cũng đã trở thành một kẻ tội phạm.

Bộ Minh Thư Tập Lược lại lọt vào tay tên cẩu quan Ngô Chí Vinh, từng làm tri huyện Quý An ở Hồ Châu. Ngô Chí Vinh vì tham ô nhũng lạm, đã bị triều Mãn Thanh đuổi khỏi chức vụ. Hắn đang định về quê thì vớ được bộ Minh Thư Tập lược. hắn đọc bộ sách thật kỹ với mục đích ghi nhận những ý hay, đoạn hay để đến gia đình Trang Kiến Long ca ngợi và ... xin tiền quà Trang Kiến Long về quê. Nhưng hắn càng đọc lại càng khám phá ra thâm ý của các nhà nho Hán tộc muốn dùng bộ sách để thể hiện lòng yêu nước, chống lại ách thống trị của nhà Mãn Thanh. Ngô Chí Vinh quay ngoắt 180O. Hắn biết đây là cơ hội thăng quan tiến chức với nhà Mãn Thanh, cơ hội để trả thù các nhà nho ở khu vực Giang Nam đã từng khinh khi hắn, gọi hắn là cẩu quan (quan chó má). hắn làm một tờ bẩm, đưa trực tiếp lên cho Ngao Bái, tên quyền thần lớn nhất dưới triều Khang Hy Đế. Và vụ án Minh Thư Tập Lược - một vụ Văn Tự Ngục lớn nhất lịch sử Trung Hoa - đã xảy ra ; hệ quả đau thương gấp bội vụ án Phần Thư Khanh Nho (đốt sách, chôn học trò) thời Tần Thủy Hoàng. Trên 2000 người gồm toàn danh sĩ, nhà văn của đất Giang Nam bị giết ; quyến thuộc của họ bị đày đi lao dịch khổ sai.

ĐUỔI HƯƠU Ở TRUNG NGUYÊN

Đoạn Lung của Lộc Đỉnh Ký mô tả đoàn người bị quân Mãn Thanh đưa đi đày lên miền Đông Bắc. Họ đi ngang qua trước nhà của Lã Lưu Lương, một nhà văn nổi tiếng ở Giang Nam. Giang Nam đã có tuyết rơi dày huống chi là miền Đông Bắc. Cám cảnh trước hình ảnh đoàn người bị đày, Lã Lưu Lương đã dạy cho con mình là Lã Bảo Trung ý nghĩa của 2 chữa "trục lộc".

Trục lộc có nghĩa là đuổi hươu. Con hươu là động vật hoang dã, không hề ăn thịt mà chỉ ăn cỏ xanh, lá cây để sống. Khi hươu bị con người hay dã thú ăn thịt khác đuổi bắt thì nó chỉ tìm cách chạy trốn đển tự cứu lấy thân. Chạy trốn không được, nó bị con người hoặc dã thú khác bắt và ăn thịt. Nói một cách khác, con hươu không hề làm hại ai ; chỉ có bọn phường săn và dã thú ăn thị làm hại nó. Ở chừng mực nào đó, quy luật tự nhiên này quả thực không công bằng.

Người xưa đem con hươu ví với bá tánh trong một quốc gia. Bá tánh (trăm họ - số nhiều, mang tính chất tượng trưng) phần lớn là người lương thiện, chỉ muốn được yên ổn làm ăn, sinh sống. họ không có một quyền hành gì để tranh đoạt thiên hạn với các thế lực quân chủ phong kiến. Ngay tới số phận của họ, họ cũng không được quyền quyết định nữa. Khương Tử Nha đã từng tâu với Chu Văn Vương : "Lấy thiên hạ như đuổi bắt con hươu rồi chia thịt mà ăn. Con hươu dù có chạy trốn, cuối cùng cũng bị bắt. Có khi nhiều người chia nhau ăn thịt, có khi một người độc chiếm ăn hết". Lời tâu của Khương tử Nha cho ta thấy bá tánh trước thời Xuân Thu đã đau thương đến như thế nào. Trước thời Xuân Thu đã đau thương thì trong và sau đời Xuân Thu - Chiến Quốc, nỗi đau thương của bá tánh Trung Quốc ắt phải nhiều hơn bởi đây là giai đoạn mà hàng trăm thế lực quân chủ phong kiến thi nhau "trục lộc".

Hán thư viết : "Nhà Tần để sổng mất con hươu, mọi người tranh nhau đuổi bắt". câu nói đầy hình tượng ấy mô tả sự vô đạo, sự bất lực của nhà Tần khiến quần hùng các nơi nổi dậy tranh cướp nhau, tạo nên cảnh hỗn độn, đưa bá tánh Trung Quốc vào chỗ dầu sôi lửa bỏng. Sau cùng, Hán Cao Tổ Lưu Bang đánh bại được Tây Sở Bá Vương Hạng Vũ, chiếm được thiên hạ. Chữ thiên hạ ở đây được hiểu là tất cả các nước chư hầu của nhà Tần cũ (Hàn, Sở, Ngụy, Triệu, Yên, Tề, Lương ...) và toàn thể cư dân sống trên các nước chư hầu đó. Lưu Bang bắt được con hươu lớn, mở ra nhà Hán, gọi các dân tộc sống trong phạm vi cai quản của nhà Hán là Hán Tộc. khái niệm "đuổi hươu ở Trung Nguyên" chính là một cách nói hình tượng chỉ việc tranh đoạt ngôi hoàng đế Trung Quốc.

ĐỈNH - BIỂU TƯỢNG CỦA QUYỀN LỰC

Bắt được con hươu rồi, người ta ăn thịt. Các bậc Hoàng Đế không làm bếp nặn nồi mà cho đúc những chiếc vạc lớn có ba chân cao, gọi là đỉnh. Thịt hươu được bỏ vào đỉnh để nấu lên. Đỉnh là biểu tượng quyền lực của Hoàng Đế. Nhưng đỉnh không chỉ dùng để nấu thịt hươu, đỉnh còn có thể dùng để nấu tất cả thiên hạ. Sử Ký Tư Mã Thiên chép truyện Lạn Tương Như tâu với Tần Vương : "Kẻ hạ thần biết mình phạm tội khi quân, đáng bị xử tử. Thần xin bệ hạ ra lệnh quăng thần vào trong vạc". Sử Ký cũng chép truyện Tề Vương nấu Lịch Sinh trong vạc dầu sôi. Lịch Sinh là một trong những quân sư của Lưu Bang, có tài biện luận sắc sảo, có uy tín với các nước chư hầu. Lưu Bang sai Lịch Sinh sang tề thuyết phục Tề Vương ra hàng để cùng hội quân chống Hạng Vũ, vua nước Sở. Nghe Lịch Sinh thuyết, tề Vương bằng lòng dâng 80 thành, đầu hàng Lưu Bang. Tề Vương bèn định thết tiệc chiêu đãi Lịch Sinh, bày tỏ tấm lòng thành.

Nhận được tin ấy, Hàn Tín - tổng tư lệnh các tập đoàn Hán quân của Lưu Bang - dừng binh, không tấn công nước tề nữa. Quân sư của Hàn Tín thưa rằng : "Nguyên soái dùng binh mà Lịch Sinh chỉ dùng miệng lưỡi để thuyết khách. Nếu nguyên soái không đánh nước Tề mà cứ đợi Tề Vương ra hàng theo lời thuyết của Lịch Sinh thì thiên hạ cho rằng tài dụng binh của nguyên soái không bằng miệng lưỡi Lịch Sinh. Dám mong nguyên soái cứ im lặng vờ như không nghe tin Tề Vương đã đầu hàng, cứ đánh thẳng vào kinh đô nước Tề". Hàn Tín nghe quân sư nói, ngẫm nghĩ có lý, bèn cứ ra lệnh tấn công vào kinh đô Lâm Tri của Tề Vương.

Tề Vương nghe báo kinh đô bị tấn công, tưởng là Lịch Sinh dùng kế dụ hàng để mình lơ là phòng bị cho Hàn Tín mang quân đánh úp, bèn mắng Lịch Sinh : "Ngươi đã bán đứng ta rồi". mắng xong, nhà vua sai trói Lịch Sinh lại, bắt vạc dầu lớn nấu cho sôi lên rồi liệng Lịch Sinh vào nấu trong vạc dầu. Trước khi chết, Lịch Sinh đau đớn than : "Không ngờ ta chết vì tay thằng luồn trôn giữa chợ". Thằng luồn trôn giữa chợ ở đây là Hàn Tín.

Như vậy, vạc (tức đỉnh) còn là phương tiện thi hành các bản án tử hình đặc biệt nghiêm trọng trong các chế độ quân chủ phong kiến Trung Quốc. các hoàng đế và các vua chư hầu tin rằng phải tử hình những kẻ chống đối một cách tàn khốc như vậy thì mới mong răn đe được các mầm mống phản loạn. Vạc tức đỉnh còn là thước đo phẩm chất anh hùng. Hạng Vũ nhờ có sức mạnh, ôm chiếc đỉnh to lớn đi ba vòng, đặt xuống nhẹ nhàng mà hơi thở vẫn bình thường, sắc mặt không thay đổi. Người đời xưng tụng Hạng Vũ là anh hùng cử dỉnh và từ anh hùng cửa đỉnh, Hạng Vũ đã trở thành người tạo cuộc, xưng danh Tây Sở Bá Vương.

GIẤC MƠ CỦA TRIỀU THANH

Lã Lưu Lương dạy cho con trao lã bảo Trung biết khái niệm "trục lộc" để từ đó phân tích khía cạnh tàn bạo của chế độ quân chủ triều Thanh đới với trăm họ của Trung Quốc. Lão là một nhà nho yêu nước, được bọn xu phụ tiến cử ra làm quan với triều Thanh, lão khẳng khái từ chối. Sau cùng thấy việc cự tuyệt triều đình có thể mang họa vào thân, lão cạo đầu giả đi tu tại gia. Người đương thời vẫn truyền tụng hai câu thơ tuyệt vời của lão :

Thanh phong khó nỗi làm nguôi hận

Minh nguyệt sao không tỏ mặt người

Hai câu thơ trên mang khẩu khí oán thù nhà Thanh, luyến tiếc nhà Minh.

Tác giả Kim Dung kết hợp hai khái niệm Lộc và Đỉnh thành ra khái niệm Lộc Đỉnh. Ở phía bắc của biên giới Trung Quốc, giáp với nước Nga, có một dòng sông mà tiếng Trung Quốc gọi là Hắc Long Giang ; tiếng Nga đọc phiên âm ra là sông A Mộc Nhĩ Hà. Cạnh dòng Hắc Long Giang có mọt ngọn núi ; người Trung Quốc gọi là Lộc Đỉnh Sơn, người Nga gọi là Hô Mã Nhĩ Oa Tập Sơn. Trong tiểu thuyết của Kim Dung, nhân vật Vi Tiểu Bảo được vua Khang Hy phong tước Lộc Đỉnh Công (Công tước xứ Lộc Đỉnh), đem quân đi đánmh với người Nga ở biên giới. Trong việc thương thuyết với công tước Phí Diêu Đa La (Féodore), tư lệnh quân Nga, Vi Tiểu Bảo đã nổi giận khi nghe Phí Diêu Đa La đòi cắt Lộc Đỉnh Sơn đưa về bên cương giới nước Nga thì ba chữ Lộc Đỉnh Công chỉ tước hiệu của hắn cũng mất đi. Cho nên dù chỉ là một dãy núi đầy tuyết phủ quanh năm, hắn cũng cố gắng giữ gìn, đấu tranh từng câu từng chữ trước Phí Diêu Đa La.

Lộc Đỉnh Ký, rút cuộc lại là một tác phẩm viết về khát vọng chiếm lấy thiên hạ, thể hiện quyền lực trước trăm họ. Đó là giấc mơ của triều Thanh. Họ đã thực hiện được giấc mơ đó : chiếm lấy trung Quốc, cai trị được cả mấy trăm triệu người hán Tộc. Hoàng Thái Cực có công chiếm lấy Trung Quốc, Thuận Trị lên ngôi vua đầu tiên tại Trung Quốc, khang Hy Đế lên ngôi vua tiếp theo. Giấc mơ Lộc Đỉnh của nhà Thanh đã thành sự thật. Cho nên mới có Lộc Đỉnh Ký ra đời.

3.THIÊN LONG BÁT BỘ

Thiên Long Bát Bộ là chữ lấy từ kinh Phật Trong kinh của Phật Giáo đại thừa có kể lại khi đức Phật thuyết pháp cho các bồ tát, tì khưu thường có tám loại quỉ thần đến nghẹ Kinh Pháp Hoa, trong phẩm Đề Bà Đạt Đa có chép:

Thiên long bát bộ, nhân dữ phi nhân, giai dao kiến bỉ Long Nữ thành Phật (Trong tám loại chúng sinh trên trời, người cũng như không phải người đều thấy được Long Nữ thành Phật)

Phi nhân là nói về những giống trông thì hình dáng như người nhưng lại không phải ngượi Tám hạng đó đều là "phi nhân" là những hạng thần vật mà Thiên và Long đứng đầu nên được gọi là Thiên Long Bát Bộ Tám loại đó gồm có: Thiên, Long, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Gia.

- Thiên là thiên thần (Deva), trong Phật giáo không phải là cao hơn hết nhưng chỉ được hưởng phúc báu lâu dài, to lớn hơn người mà thội Thiên thần vẫn còn trong cõi sinh tử, có sống có chệt Trước khi chết thiên thần sẽ có năm triệu chứng: quần áo mủn nát, hoa trên đầu héo hon, thân thể ô uế, nách chảy mồ hôi, đứng ngồi không yên là thời kỳ đau buồn nhất của các thiên thận Có mười hai thiên thần quan trọng nhất tượng trưng cho tám hướng và bốn tinh thể của vũ trụ mặt trời, mặt trăng, bầu trời và mặt đật Đế Thích là lãnh tụ của mọi thiên thận

- Long là long thần (Naga), nhưng rồng trong kinh Phật không có chân, trông giống như một con mãng xà lợn Quan niệm về rồng và về Long Vương của Trung Hoa chính là vay mượn từ trong kinh Phật mà rạ Người Ấn Độ ngày xưa rất sùng bái Long Vương, cho rằng rồng là chúa tể các loài trong nước nên người Trung Hoa thường dùng chữ long để chỉ những gì cao quí và đức hạnh Trong kinh có chép là một con rắn tên là Mucilinda da cuộn thành một cái tàn che cho đức Phật nhập định trong một cơn giông bão và nhiều con rắn thần khác thường giả dạng người đến để nghe Thế Tôn thuyết phạp

- Dạ Xoa (Yakasa) là một loại quỉ thần (nguyên nghĩa dạ xoa là thần ăn được quỉ), rất mẫn tiệp, nhẹ nhàng, chia làm ba giống ở trên đất, trên chốn không hư và trên trợi Ngày nay nói đến dạ xoa chỉ hàm một nghĩa ác quỉ (chắc tại ảnh hưởng của truyện Tây Du Ký) nhưng trong kinh Phật thì có nhiều dạ xoa rất tột Dạ Xoa Bát Đại Tướng có nhiệm vụ bảo hộ chúng sịnh

- Càn Thát Bà (Apsaras) là một giống không ăn thịt, không uống rượu chỉ sống bằng mùi hương là một trong những nhạc thần phục thị Đế Thích, thân thể có mùi thợm Theo nghĩa Phạn văn, Càn Thát Bà có nghĩa là biến ảo khôn lường vì mùi hương và âm nhạc đều mênh mang không sao cân đo được

- A Tu La (Ashura) là một loại thần đặc biệt, đàn ông thì thật xấu xa còn đàn bà thì thật xinh đẹp A Tu La Vương thường đánh nhau với Đế Thích vì một bên có đồ ăn, một bên có mỹ nữ nên thường muốn chiếm đoạt của nhạu A Tu La tính tình đố kỵ thích tranh giành là một trong những ẩn dụ của nhà Phật để nói về tính xấu xa của con ngượi

- Ca Lâu La (Garuda) là một giống chim lớn, đầu có một cái bướu to gọi là Như Ý Chậu Loài chim này tiếng kêu bi thảm, trong thần thoại Trung Hoa gọi là Đại Bàng Kim Sí Điểu (chim đại bàng cánh vàng) mà danh tướng Nhạc Phi là hóa thân đầu thại Giống chim này thích ăn rồng, mỗi ngày phải bắt được một long vương hay 500 con rồng con để ăn thịt Vì nó ăn thịt rồng (độc xà) nhiều quá nên khi chết chất độc xông lên cháy tiêu thành tro, chỉ còn một trái tim xanh biệc Hình của chim này thầy nhiều ở các đền thờ tại Cam Bột

- Khẩn Na La (Kinaras) giống người mà không phải là người, đầu có sừng, giỏi múa hát cũng là nhạc thần của Đế Thịch

- Ma Hầu La Gia (Mahoraga) là một vị thần rắn cực lớn, thân hình là người nhưng đầu là đầu rặn

Những động vật huyền thoại này có lẽ là do ảnh hưởng của những vị thần của Ấn Độ giáo (Hindu) và thường xen lẫn trong những truyện thần thoại của nhiều dân tộc ở Nam và Tây Á không hoàn toàn là của Phật Giạo Trong những tranh vẽ, điêu tượng của Đông Á chúng ta ít thấy những hình tướng của thiên long bát bộ ngoại trừ một số bích họa từ đời Đường trở về trước ở Tân Cượng Người Việt chúng ta có thể nói hoàn toàn xa lạ với những hình ảnh này, ngay cả trong giới tu sĩ cũng ít người nghiên cứu đện.

4.VÕ LÂM NGŨ BÁ - DỤ NGÔN VỀ CHÍNH TRỊ

VŨ ĐỨC SAO BIỂN

Rất nhiều người mê truyện võ hiệp đều biết Võ lâm ngũ bá truyện là một bộ đoản thiên gồm bốn cuốn của Kim Dung. Đây là bộ tiểu thuyết làm nền móng để ông xây dựng liên tiếp ba bộ truyện kề tiếp: Xạ điêu anh hùng truyện, Thần điêu hiệp lữ, Ỷ thiên đồ long kiếm và một phần trong Lục mạch thần kiếm. Bộ đoản thiên tiểu thuyết ấy có giá trị như một đoạn lung khởi trong một bài tác văn, nhằm giới thiệu năm ông "vua" của giới võ lâm. Nếu thu hẹp thì người đọc chỉ hiểu như đó là giới võ lâm Trung Hoa, một Trung Hoa với nhiều môn phái võ thuật lạ lùng, có những con người võ học kiệt xuất (tuy nhiên tác giả đã phạm một lầm lẫn khá lớn: phái Võ Đang do Trương Tam Phong sáng lập mãi đến cuối đời nhà Nguyên, đầu đời nhà Minh, tức hơn 100 năm sau mới xuất hiện trong Ỷ thiên đồ long ký). Nhưng có lẽ Kim Dung đã không muốn thu hẹp. Ông đã truyền đến cho người đọc một dụ ngôn lớn lao hơn - dụ ngôn chính trị.

Trong Võ lâm ngũ bá, Kim Dung giới thiệu năm nhân vật đại võ sư: Đông Tà Hoàng Dược Sư, Tây Độc Âu Dương Phong, Nam Đế Nhất Đăng đại sư, Bắc Cái Hồng Thất Công và Trung Thần Thông Vương Trùng Dương.

Đông Tà Hoàng Dược Sư ngụ ở Đào Hoa Đảo. Nếu lấy Trung Hoa làm điểm chính giữa thì Đào Hoa Đảo chính là nước Nhật Bản và Hoàng Dược Sư chính là biểu tượng của dân tộc Nhật Bản vậy. Thế nhưng chẳng hiểu sao Kim Dung gọi Nhật Bản là "tà". Có lẽ, trong tâm tưởng của ông và hàng tỷ người Trung Quốc khác vẫn chưa phai mờ hình ảnh của những quân đội Nhật Bản xâm lăng, giết chóc hãm hại hàng triệu người dân Trung Quốc, đặc biệt là sự hiện diện của đoàn quân Quan Đông trên miền Đông - Bắc Trung Quốc trong thế chiến thứ hai. Đông Tà Hoàng Dược Sư có một loại võ công kỳ ảo như tên gọi của nó: Lạc anh chưởng pháp (chưởng pháp hoa anh đào rụng). Trong Võ lâm ngũ bá, Kim Dung rất ca ngợi Hoàng Dược Sư, ca ngợi tính lập dị cổ quái của nhân vật này.

Tây Độc Âu Dương Phong từ Tây Vực xuống. Khái niệm Tây Vực không xác định biên giới của quốc gia. Âu Dương Phong có nghĩa là ngọn gió biển phía trời Âu thổi đến và ta có thể hiệu được nhân vật này chính là hình tượng biểu thị cho cả khối Châu Âu, cả văn minh khoa học kỹ thuật Châu Âu. Âu Dương Phong có môn Hàm Mô Công (công phu mô phỏng tư thế con ếch), ngồi xuống đất, dạng chân ra và phát chưởng về phía trước. Tư thế của Hàm mô công nhắc người ta nhớ đến hình ảnh chiếc xe tăng của binh lực các nước Châu Âu trong Đệ nhị thế chiến. Hãy nhớ rằng về sau, trong Thần điêu hiệp lữ truyện, Kim Dung để cho Âu Dương Phong luyện võ công sai đường, bị tẩu hỏa nhập ma, phải đi lộn đầu xuống đất, chân đưa lên trời. Dụ ngôn ở đây thật rõ ràng: văn minh vật chất, khoa học kỹ thuật phương Tây quá tiến bộ đã làm đảo lộn hết mọi giá trị tinh thần, cả Châu Âu đang "tẩu hỏa nhập ma" vì chính cái cơ tâm của họ.

Nam Đế là Nhất Đăng Đại Sư. Nhân vật này trong Võ lâm ngũ bá là một nhà sư hiền lành, đắc đạo. Đây là hình ảnh biểu tượng chung cho các nước theo Phật giáo tại Đông Nam Á, trong đó có cả Việt Nam, Lào, Cambodge, Thái Lan, Srilanka (ngày trước là Ceyland - Tích Lan) và Aán Độ. Nhà sư hiền lành ấy sử dụng một loại công phu huyền môn chính tông, rất quang minh chính đại: nhất dương chỉ. Nhà sư hiền lành ấy không gây hấn với ai, không tranh hơi đua tiếng với ai. Kim Dung nghĩ đến các lân quốc phía Nam đất nước ông bằng tình cảm hết sức tốt đẹp. Rõ ràng là Phật tính đã thể hiện rất cao trong tư duy, trong hành động của nhà sư này.

Bắc Cái có tên Hồng Thất Công, chính là biểu tượng của nước Liên Xô ngày nào. Hồng Thất Công có họ Hồng (màu đỏ), chính là màu cờ Liên Xô, lân quốc phía Bắc Trung Hoa. Hồng Thất Công có Hàng long thập bát chưởng (mười tám chưởng hàng phục con rồng), một loại võ dương cương có thể làm tan bia vỡ đá, gãy cả tùng bách. Hàng long thập bát chưởng là gì nếu không phải là những hỏa tiễn - thành tựu lớn của Liên Xô?

Trung thần thông Vương Trùng Dương chính là hình ảnh biểu tượng của đất nước Trung Quốc. Phải chăng vì vậy, trong võ lâm ngũ bá, Vương Trùng Dương văn võ toàn tài, nhất là võ công đường đường chính chính, trong lần "luận kiếm Hoa Sơn" đã lần lượt đả bại cả Đông Tà, Tây Độc, Nam Đế, Bắc Cái và cuối cùng "chấp" cả bốn người liên thủ vẫn giành thế thượng phong? Vương Trùng Dương ở trong Trùng Dương cung , là sư tổ của phái Toàn Chân - chân lý toàn thiện nhất. Nhưng người đọc không thể nắm bắt được chân lý ấy, chỉ thấy một đại diện của phái Toàn Chân - lão ngoan đồng Châu Bá Thông - dở tỉnh dở điên, nửa già nua nửa trẻ nít, suốt đời rong chơi, phá phách giang hồ ! Về sau Châu Bá Thông còn sáng tạo ra một loại võ công ngộ nghĩnh: Song thủ hỗ bác (hai tay vừa giúp nhau, vừa đánh nhau). Văn minh, Triết học Trung Quốc bị tác giả Kim Dung cười cợt: cùng một lúc tay trái vẽ hình tròn, tay phải vẽ hình vuông. Tất cả những điều gì mà tác giả không lý giải được Trung Quốc thì Châu Bá Thông xuất hiện, lý giải dùm.

Võ lâm ngũ bá chính là một dạng dụ ngôn về chính trị. Khi ấy dụ ngôn ấy chưa thể (hoặc không thể) đi sâu vào lòng người, Kim Dung rời bỏ phong cách dụ ngôn để trở về với phong cách tiểu thuyết võ hiệp đích thực. Tác giả để cho cặp trai gái Quách Tĩnh, Hoàng Dung gặp gỡ và học Hồng Thất Công, dùng Hàng long thập bát chưởng đánh quân Nguyên, giữ gìn đất nước Trung Quốc. Nhưng đó là chuyện khác, chuyện được kể trong Xạ điêu anh hùng truyện

5.CHƯỞNG KIM DUNG CÓ PHẢI LẦ TÁC PHẨM VĂN HỌC

Tác giả: Đỗ Lai Thúy

Tôi là loại người mê các tiểu thuyết võ hiệp. Niềm mê ấy có lẽ bắt nguồn từ thơ ấu. Một vùng quê yên tĩnh ven sông Đáy. Con đê dài biếc xanh cỏ. Lũ trẻ chăn trâu thò lò mũi chúng tôi ngồi túm tụm nghe anh lớn đọc truyện kiếm hiệp. Sau này, khi tôi biết đọc, tôi ngấu nghiến các truyện Bồng Lai hiệp khách, Giao Trì nữ hiệp, Long hình quái khách... Chúng tôi đi bộ hàng chục cây số để trao đổi sách...

Nhưng rồi khi lớn lên, chúng tôi được dạy rằng đó là những loại sách tầm thường, nhảm nhí, chưa kể có thể gây ra những độc hại. Tôi cũng thấy rằng nếu chỉ đọc nhiều kiếm hiệp có thể sẽ làm hỏng thị hiếu. Nếu chỉ ham đọc những loại sách có cốt truyện hấp dẫn, tình tiết li kì... thì khó kham nổi những tiểu thuyết hiện đại không có cốt truyện, chỉ có tâm lý, thậm chí ngoại tâm lý mà không có hành động...

Mãi đến sau bảy năm, khi người ta rộ lên đọc chưởng Kim Dung, tôi vẫn giữ thái độ "Kính nhi viễn chi". Rồi một đêm kia, trong một chuyến đi nhỡ độ đường, nắm một mình nơi nhà khách tĩnh, trong tay không có gì để đọc. Anh bạn phòng bên cho mượn cuốn Tiếu Ngạo Giang Hồ 'giết thời gian". Sau một phút ngần ngại, tôi cầm đọc. Thế là cả một thế giới đắm say ấu thời tưởng đã được đào sâu chôn chặt, lại đội mồ sống dậy. Một thế giới của những cái phi thường, những nhân vật phi thường - tốt cũng như xấu, những hành động phi thường... Một thế giới tràn ngập âm thanh, màu sắc khác hẳn với cuộc sống thường nhạt nhẽo, tủn mủn, đầy những toan lo. Sau tiếng đàn tái hợp này, tôi lại mê say đọc tiếp những cuốn khác của Kim Dung như Thiên Long Bát Bộ, Anh Hùng Xạ Điêu, Thần Điêu Đại Hiệp...

Bạn bè vẫn có người dè bỉu truyện chưởng, hoặc mỉm cười độ lượng vì thói ham chưởng của tôi. "Nhân vô thập toàn, ai cũng có gót chân Asin cả" - ánh mắt và nụ cười của họ nói lên điều đó. Rằng mê thì thật là mê, nhưng trong tôi vẫn cứ lóe lên một phản tỉnh: "Tại sao tôi lại thích tiểu thuyết võ hiệp và truyện chưởng Kim Dung có phải là văn học không?". Có lẽ, chỉ khi giải đáp được băn khoăn này tôi mới khỏi phải giấu thú đọc chưởng như lấp liếm đi một thói xấu...

Tiểu thuyết võ hiệp thường chỉ ra đời như một thể loại ở những nơi tồn tại một tầng lớp kị sĩ, tức một tầng lớp chiến binh chuyên nghiệp. Họ có lối sống riêng với những quan niệm, lí tưởng, quy tắc khác với người thường. Tuy triệt để phục tùng lối sống đó, nhưng ý thức cá nhân của họ đã bắt đầu phát triển. Đó là tầng lớp hiệp sĩ của châu Âu trung đại, những người hiệp khách ở Trung Hoa và tầng lớp võ sĩ đạo của Nhật Bản... Độc giả Việt Nam thông thường không có điều kiện đọc chính vào tiểu thuyết võ hiệp thì vẫn có thể hình dung về tầng lớp này qua bóng dáng của nó trong Ba người lính ngự lâm của Alexandre Dumas bố, Hiệp sĩ Ivanhoe của Walter Scott, Musashi của Eiji Yoshikawa... nhất là ở các truyện kiếm hiệp của Trung Hoa. Thế giới võ hiệp này thật lạ lẫm với những người dân thường, nhất là với những người dân ở xứ sở nông nghiệp như người Việt, sống định cư trong lũy tre làng, tuân theo nhịp điệu của mùa vụ.

Cũng như truyện trinh thám, truyện khoa học viễn tưởng, truyện danh nhân, hồi kí chính trị, tiểu thuyết minh họa, truyện phiêu lưu... đều là cận văn học (paraliterature), tức sáng tạo không dành quyền ưu tiên cho việc tìm kiếm cái đẹp, tức không coi chức năng thẫm mỹ là dominate(chủ đạo), mà để thỏa mãn các chiều kích cũng cơ bản khác trong con người: óc tò mò, nhu cầu giải trí, sự ham hiểu biết, thích trải nghiệm những cảm giác mạnh, sự phát triển óc tưởng tượng, nhu cầu được sống trong những không gian và thời gian khác với ở đây và bây giờ... Nhưng cận văn học cũng chỉ làm xuất bản phát điểm, một thứ thành phần xuất thân. Nhờ tài năng cá nhân, nhờ xu hướng thời đại, nhiều tác phẩm cận văn học đã trở thành văn học, một thứ văn học đích thực, mĩ văn. Đông Ki Sốt cũng là một tiểu thuyết hiệp sĩ trung đại lúc này đã trở nên nhàm chán, một "phản - tiểu thuyết hiệp sĩ " (khái niệm "phản - tiểu thuyết hiệp sĩ " tôi dùng ở đây vẫn có ý nghĩa là tiểu thuyết hiệp sĩ đứng về mặt thể loại, nhưng đã có những cách tân táo bạo, nâng cao một bước về chất, làm cho nó khác hẳn với tiểu thuyết hiệp sĩ cũ. Cách hiểu này phù hợp với cách hiểu chung của văn học thế giới ở những khái niệm phản - tiểu thuyết, phản - kịch, phản - thơ...). Các cuốn tùy bút dân tộc học của Claude - Levy Strauss, của Maninovski như Nhiệt đới buồn, Người Argonnautes ở Tây Thái Bình Dương... đều được coi là những tác phẩm văn chương. Nhiệt đới buồn của Levy Strauss, thậm chí, trong một cuộc trưng cầu độc giả Ý, còn nằm trong số mười văn phẩm của thế kỷ XX đáng được đóng container gửi vào tương lai.

Chưởng Kim Dung cũng xuất thân từ một thể loại cận văn học - tiểu thuyết võ hiệp - nhưng đã trở thành văn học. Bởi lẽ, tác phẩm của nhà văn này đã tạo ra một thế giới nghệ thuật. Thế giới ấy có bờ cõi và quy luật riêng của nó. Quy luật đó là Kinh Dịch, khởi điểm của những khởi điểm của nền văn minh Trung Hoa. Và cùng với nó là thuyết âm dương, ngũ hành. Các triết lý này trở thành nguyên tắc cấu trúc của cách xây dựng nhân vật, võ thuật, khí công, vũ khí..., thậm chí chi phối cả cách đặt tên người, tên thế võ, binh khí. Thế giới Kim Dung dựa trên sự đối lập mà thống nhất của âm dương: trong âm có dương, trong dương có âm. Như một cái que có thể bẻ đôi, rồi lại bẻ đôi... cứ thế đến vô tận, thế giới nhân vật Kim Dung cũng chia nữa thành âm dương(tà chánh, tốt xấu...), rồi lại chia nữa thành âm âm/ âm dương và dương dương/ âm âm... cũng đến vô tận. Điều này tạo nên sự thống nhất, sự mạch lạc nội tại của tác phẩm.

Thế giới Kim Dung, nếu chỉ như vậy, thì cũng dễ rơi vào đơn điệu, xám màu nguyên lí. Nghệ thuật không chỉ là nguyên lý mà còn là cuộc sống. Nghệ thuật không phải chỉ là đối xứng, hoặc cân đối, mà còn là phản đối xứng. Kim Dung chống lại cái nhìn thế giới một cách ngắc, bất động, sự phân biệt chánh tà một cách tiên thiên, nhất thành bất biến. Bởi vậy, nhân vật chính của nhà văn thường xuất thân từ phái, hoặc chí ít cũng dính dáng đến tà phái, những Trương Vô Kỵ, Doanh Doanh, Triệu Mẫn, Lệnh Hồ Xung... cuối cùng, họ đã gạt bỏ được mọi hiểu lầm để khẳng định được sự "gần bùn mà chẳng..." của mình. Bởi vậy, nhân vật Kim Dung có nội tâm, không đơn giản, cứng nhắc như đa số các nhân vật trong tiểu thuyết kiếm hiệp trước Kim Dung hoặc những tiểu thuyết phản chưởng của nhiều tác giả cùng thời với Kim Dung.

Là tiểu thuyết võ hiệp, nhưng thế giới Kim Dung có đầy đủ những vấn đề của cuộc sống và do cuộc sống đặt ra: tình yêu, căm thù, ghen tuông, âm nhạc, hội họa, trà đạo, tửu đạo, thời trang... Ngoài ra nhà văn còn là một người dựng chuyện rất "mả". Người ta có thể tìm thấy ở chưởng Kim Dung những vụ án hình sự li kì, những truyện gián điệp và phản gián tài tình. Cũng như tiểu thuyết của Dostoievski, tiểu thuyết Kim Dung được xây dựng trên những xung đột căng thẳng. Nhà văn chẳng những biết tháo gỡ sự căng thẳng đó một cách bất ngờ, mà còn biết hãm, biết kéo dài sự căng thẳng đó bằng cách đan cài vào mạch đi của câu chuyện những đoạn trữ tình ngoại đề tuyệt vời về thư pháp, hội họa, nghệ thuật trồng hoa, nghệ thuật uống rượu, luận bàn về sách cổ... Bởi vậy, người đọc Kim Dung còn tiếp thu được ở ông nhiều tri thức về lịch sử, văn hóa, tôn giáo... của xã hội Trung Hoa. Sau cùng, Kim Dung có một văn phong riêng biệt, sáng sủa, duyên dáng và hấp dẫn, điều còn nhiều ánh xạ trong những bản dịch Tiếng Việt của Sài Gòn vốn bị xâm thực bởi nhiều yếu tố thực dụng. Tất cả những điều trên làm cho chưởng Kim Dung trở thành những tác phẩm văn chương độc đáo, khác hẳn với chưởng của những tác giả khác chỉ là một thứ cận văn học. Ở khía cạnh này có thể nói, tiểu thuyết phản chưởng. Lý thuyết thì xám, còn cây đời mãi mãi xanh tươi. Sự phân chia thành văn học, văn học đích thực, mĩ văn, cận văn học... chỉ là tương đối. Luôn luôn có những tác phẩm vượt qua thành phần xuất thân của mình để vươn lên, cũng như luôn có những tác phẩm tụt khỏi thành phần cơ bản. Điều đó, như đã nói ở trên, chủ yếu phụ thuộc vào tài năng cá nhân của tác giả. Bởi vậy, không lấy làm ngạc nhiên khi thấy tong những năm gần đây Kim Dung được đánh giá rất cao ở Trung Quốc, được mời về nước và trao hàm Giáo Sư danh dự Đại học Bắc Kinh. Thậm chí, có nhà nghiên cứu còn lấy làm lạ khi Kim Dung chưa nằm trong danh sách các nhà văn ứng cử giải Nobel Văn học.

6.CHÂU BÁ THÔNG NĂM CÒN VỊ THÀNH NIÊN

Tác giả: Huỳnh Ngọc Chiến

Bảy mươi mới bước vào đời

Tám mươi ta mới sang chơi láng giềng

Tuổi mình còn vị thành niên

Hà cớ gì phải buồn phiền như ri ?

( Thơ Trần văn Chánh)

Mỗi khi đọc câu thơ tự trào dí dỏm của người bạn gửi tặng tôi từ vùng Bắc Ninh xa lắc, lúc cả hai tấp tễnh bước vào ngưỡng ngũ tuần, tôi lại nhớ đến Lão Ngoan Đồng Châu Bá Thông. Ở vào lứa tuổi mà Khổng Tử bảo là "tri thiên mệnh", đã đủ dày dặn kinh nghiệm để hiểu được mệnh trời, ấy vậy mà vẫn thấy mình là kẻ "vị thành niên"! Cuộc sống vẫn luôn mênh mông đối với những người hồn nhiên lạc quan, luôn mang trong mình cái "xích tử chi tâm" của Lão ngoan đồng.

Khổng Tử bảo : "Tam thập nhi lập, tứ thập nhi bất hoặc, ngũ thập nhi tri thiên mệnh, lục thập nhi nhĩ thuận, thất thập nhi tòng tâm sở dục, bất du củ" (30 tuổi thì ý chí kiên định, 40 mươi tuổi thì không còn ngờ, 50 tuổi thì hiểu mệnh trời, 60 tuổi thì tai thuận, 70 mươi tuổi thì có thể làm theo lòng ham thích của tâm mà không còn sợ vượt quá khuôn phép nữa - Luận Ngữ - Vi chính II, 4). Cho nên "bảy mươi mới bước vào đời"! Lúc này đã có quyền "tòng tâm sở tục, bất du củ" rồi.

Ở cái tuổi "sang chơi láng giềng" thì người hàng xóm lọm khọm là láng giềng đã đành, thậm chí cái chết cũng là kẻ láng giềng. Lúc đó thì làm kẻ "sang chơi láng giềng" theo thể điệu "Être-pour-la-mort" (hữu thể hướng tử) của Heidegger!

Đối với nhà thơ Nguyễn Công Trứ với cái chơi: "Tân nương dục vấn tân lang kỷ, ngũ thập niên tiền nhị thập tam" (tạm dịch: Người đẹp muốn hỏi tuổi ta. Năm mươi năm trước mới hăm ba chứ gì!), ở cái tuổi 73, nghĩa là mới "vào đời" được ba năm, thì dĩ nhiên những đào nương xuân xanh hơ hớ trong tiếng ca và sênh phách luôn là kẻ láng giềng của vị Doanh điền sứ tài ba và "chịu chơi" nhất trong nền văn học Việt Nam này.

Cụ Nguyễn Công Trứ tựa như nhân vật Alexis Zorba của nhà văn Hy Lạp Nikos Kazanzaki, luôn thấy mình ở lứa tuổi đôi mươi, yêu mê đám, sống say sưa, làm việc hết mình để tận hưởng hết cái thanh sắc của trần gian cho đến lúc xuôi tay nhắm mắt. Cái tố chất "chịu chơi" của Alexis Zorba hoặc của Uy Viễn tướng công dù hiếm, nhưng vẫn còn có thể tìm thấy ở một đôi người, chứ cái tố chất hồn nhiên như trẻ con chơi đùa giữa đời của Châu Bá Thông thì chỉ có thể tìm thấy trong chính Lão Ngoan Đồng!

Nếu chọn trong tất cả các tác phẩm Kim Dung một nhân vật được mọi tầng lớp độc giả yêu thích, kể cả trẻ con thì có lẽ đó chính là Châu Bá Thông. Một nhân vật suốt đời chỉ biết chơi đùa, luôn tìm cách trốn tránh mọi trách nhiệm trong đời mà lại được độc giả yêu mến, điều đó mới lạ lùng. Người ta nói Lên ba thì cười, lên mười thì mắng, có nghĩa cùng một câu nói, nếu ở miệng đứa bé lên ba nói ra thì thấy ngộ nghĩnh đáng yêu, còn ở miệng đứa bé lên mười thì lại thấy hỗn xược vô lễ. Cái "thực" không đổi khác mà lại sinh ra hai tâm trạng yêu ghét, bởi vì câu nói của đứa bé lên ba hoàn toàn xuất phát từ trạng thái hồn nhiên vô tâm. Mà trên đời, những gì xuất phát từ cái tâm hồn nhiên đều dễ dàng tiếp cận và cảm động được lòng người một cách đằm thắm sâu xa. Châu Bá Thông được độc giả yêu mến bởi ông luôn là "đứa bé lên ba đó".

Sau khi vô tình gây nên mối tình oan nghiệt tại cung điện Đoàn Nam Đế, CBT lại suốt đời chạy trốn Anh Cô, không phải vì ông là kẻ bội bạc vô tình mà chỉ vì không muốn mang trách nhiệm với cõi đời, nghĩa là không có khái niệm "làm người lớn". Thân ở trong cõi đời, nhưng tâm lại hoàn toàn không muốn vướng bận những lụy phiền của cõi nhân gian.

Con người khi sinh ra là một đứa bé hồn nhiên, rồi lớn lên, vượt qua giai đoạn ấu thơ để vào đời, và từng bước khám phá ra những điều huyền ẩn. Nhưng chính trong cái quá trình khám phá để trưởng thành ấy, con người dần đánh mất đi cái tâm hồn nhiên mà Thượng Đế đã phú bẩm cho từ thưở ban đầu. Cái "xích tử chi tâm" dần bị chai sạn bởi những nghiệt ngã của cuộc sống. Con người, để tồn tại và để cạnh tranh vượt lên cao hơn người kách bằng mọi thủ đoạn mưu ma chước quỷ, cứ ngày càng xa dần vườn địa đàng của tuổi thơ. Cái tâm hồn nhiên kia bị tập nhiễm quá nhiều điều thô bỉ, đê tiện cùng những thói quen dối trá lọc lừa, mà chỉ khi có cơ duyên thoát khỏi những hệ lụy ấy, con người mới có thể sực tỉnh để chợt hiểu ra những trò nhảm nhí mà mình cứ mê mải múa may trên sân khấu đời. Bộ sách của Mạnh Tử gồm mấy vạn lời, suy cho cùng cũng chỉ là nỗ lực giúp con người khôi phục lại cái tâm hồn nhiên đó mà thôi. "Đại nhân giả bất thất kỳ xĩh tử chi tâm" (Bậc đại nhân không đánh mất đi tấm lòng con trẻ - Mạnh Tử, Ly Lâu hạ.). Châu Bá Thông chính là bậc đại nhân "bất thất kỳ xích tử chi tâm" đó.

Hầu hết những cao thủ võ lâm đều xem võ học là phương tiện để thỏa mãn tham vọng bành trướng uy quyền, và khoáng trương cái tôi. Chỉ có CBT xem võ học là mục đích tự thân. Thích học võ, vui học võ, say mê hoc võ. Hễ gặp ai có tuyệt lỹ lạ lùng, như Dương Quá hoặc Kim Luân Pháp Vương là CBT sẵn sàng bái làm sư phụ để xin học. Như một đứa bé ham mê những đồ chơi lạ. Và chỉ có cái tâm hồn nhiên của trẻ thơ mới có thể sáng tạo ra những điều kỳ diệu từ những cái tưởng chừng rất đỗi tầm thường.

Cậu Hoàng tử Bé trong tác phẩm Le petit prince của Saint-Exupéry luôn ngạc nhiên trước những trò bận rộn lăng xăng lỳ lạ của người lớn. Mà chỉ có những đứa bé hồn nhiên mới thấy hết được cái vẻ trịnh trọng điên đảo của người lớn. Ông Bùi Giáng có lẽ cũng đã dùng cái tâm trẻ thơ để chuyển ngũ tác phẩm trên thành Hoàng tử Bé bằng một ngôn ngữ vô cùng hồn nhiên thơ mộng, khác hẳn những cuốn sách dịch cà rỡn khác của ông. Châu Bá Thông cũng chính là cậu Hoàng tử Bé đáng yêu kia.

Tô Đông Pha hỏi Tạo vật hà như đồng tử hý! (tạo vật sao lại giống như đứa bé chơi đùa đến vậy!). Tạo hóa với đại lực luợng, đại ý chí mà lại biết chơi đùa cũng chỉ vì có cái tâm hồn nhiên của trẻ thơ. CBT suốt đời chỉ biết chơi đùa chỉ vì cái tâm đó. Chỉ vì một lời thách thức vớ vẩn mà CBT phải vượt mấy nàng dặm từ Trung Nguyên cho đến vùng hoang mạc xa xôi để tìm một lá cờ, giống như những đứa trẻ chơi trò cút bắt. Châu Bá Thông chính là "đồng tử hý" vậy.

Nhờ cái tâm hài nhi ưa đùa bỡn mà CBT không hề thù hận ai, kể cả Hoàng Dược Sư là người đã đánh gãy chân ông và bắt giam ông trên đảo hằng chục năm. Ngồi trong thạch động, không có bạn chơi thì tự mình chơi với mình bằng cách dùng hai tay đánh với nhau. Kết quả là ông sáng tạo ra môn tuyệt kỹ độc đáo nhất võ lâm: "Song thủ hỗ bác". Hai tay vừa hỗ tương vừa công kích lẫn nhau, tạo thành uy lực vô lượng, như hai đối cực âm và dương cùng vận hành trong vòng tròn thái cực. Để học được môn võ công kỳ diệu này thì bài học vỡ lòng là phải dùng hai tay để vẽ cùng lúc một vòng tròn và một hình vuông. Mới nghe thì tưởng chừng đơn giản, nhưng không ai học được. Cái công phu "phân tâm nhị dụng" (chia lòng ra làm hai để ứng dụng vào hai việc khác nhau) đó chỉ có hai người là Quách Tĩnh và Tiểu Long Nữ tiếp thu nổi. Quách Tĩnh học được là nhờ cái tâm đôn hậu chân chất. Tiểu LOng Nữ học được là nhờ cái tâm hư tĩnh như mặt nước hồ thu, không hề vướng bụi trần.

Châu Bá Thông vai vế ngang với Hồng Thất Công, Hoàng Dược Sư lại nài nỉ được kết giao huynh đệ với Quách Tĩnh, là kẻ lẽ ra phải kêu mình bằng sư thức tổ. Về sau ông lại kết giao với Dương Quá thuộc hạng con cháu của Quách Tĩnh nữa. Tôi chỉ tiếc một điều, có lẽ tại Lão ngoan đồng "kỵ" phái nữ sau "sự cố Anh Cô", nếu không thì có lẽ ông đã kết nghĩa huynh muội với cô bé Quách Tương rồi. Hai tâm khoáng đạt như vậy mà không có cơ duyên để kết nghĩa thì quả là điều uổng phí của trần gian. Phật giáo chủ trương tất cả chúng sinh đều bình đẳng trước Tam bảo, thì mọi khách giang hồ đều bình đẳng trước cái tâm của CBT.

Cuối cùng thì cuộc trốn chạy Anh Cô cũng phải chấm dứt, cùng với cái chết trong cơn sám hối của Cừu Thiên Nhận. CBT và Anh Cô về sống chung, làm người láng giềng với Nam Đế. "Tám mươi ta mới sang chơi láng giềng". Nhưng dẫu cho đến lúc đó, tôi vẫn cho rằng CBT vẫn là kẻ "vị thành niên".

Mọi người chúng ta ai cũng đã có lần có được cái tâm CBT, rồi lại đánh mất đi. Nhưng điều đáng ngạc nhiên là dường như không ai muốn tìm lại cái tâm đó, có lẽ sợ bị mang tiếng là "trẻ con"! Chúng ta say sưa xác lập những giá trị, rồi luôn tìm mọi cách để chiếm đoạt những giá trị do chính chúng ta dựng nên, trong cái "thế giới người lớn" đầy những lễ nghi phiền toái cùng những dối trá lọc lừa. Chính trong tiến trình xây dựng và chiếm đoạt các giá trị đã làm nảy sinh biết bao xung đột, hận thù. Rồi chúng ta lại vắt óc tìm mọi cách hòa giải, cũng bằng kiểu khệnh khạng của "người lớn", mà có khi nào chịu hiểu rằng chính cái kiểu cách khệnh khạng đó lại là mầm mống đẻ ra thâm các xung đột khác!

Thiên Sơn mộc trong Nam Hoa Kinh của Trang Tử chép: "Thuyền lớn vượt sông, có con đò nhỏ không người trôi đến chạm vào, thì dù là người có bụng hẹp hòi cũng không giận. Nhưng nếu trên đò có người, tất thuyền lớn sẽ hô hoán lên. Nếu gọi một hai lần mà không nghe ắt sẽ gọi lần thứ ba, rồi buông lời thóa mạ theo ngay. Lúc trước không giận mà bây giờ giận, vì lúc trước là chiếc đò không (hư) mà bây giờ là đò có người(thực). Người ta nếu biết làm mình trở thành chiếc đò không thể trôi giữa đời, thì ai mà hại được? (Nhân năng hư kỷ dĩ du thế, kỳ thực năng hại chi?)". CBT chính là "con đò không đò" đó để rong chơi trong cõi giang hồ, đã biết "hư kỷ dĩ du giang hồ!". Cái tâm "hư kỷ" của CBT là cái tâm tự nhiên, vượt trên cả chữ "năng". Ông không cần tập "năng hư kỷ" mà tự nhiên đã là "hư kỷ" rồi.

Có người hỏi thiền sư Triệu Châu: "Con chó có Phật tính không?". Ông đáp "Vô!". Châu Bá Thông cũng chính là chữ "Vô" đó.

Cái tâm hài của Châu Bá Thông là điều mà mọi tôn giáo và triết học chân chính đều nỗ lực muốn tìm lại. Hình ảnh ngây thơ của Chúa Hài Đồng hay nụ cười của đức Phật Di Lặc luôn nhắc nhở ta về cái tâm đánh mất. Và sẽ vô cùng hạnh phúc cho ai, ở những năm tháng cuối đời, tìm được cái tâm Châu Bà Thông ngay giây phút cận kề với cõi hư không.

7.TRUYỆN CHƯỞNG KIM DUNG

Lê Minh Quốc

Truyện "chưởng" của Kim Dung bắt đầu xâm nhập trên mặt báo miền Nam vào thời gian nào?

Tham khảo bài viết trong Báo chí tập san, nhà báo Sơn điền Nguyễn Viết Khánh - người chuyên viết bình luận thời sự cho các báo Dân chủ mới, Thần chung, Trắng đen...tại miền Nam trước năm 1975 và một vài tài liệu khác, ta có được những thông tin đáng tin cậy: sau đại chiến thế giới lần thứ 2, tình hình chính trị của Việt Nam biến chuyển mạnh với cuộc kháng chiến chống Pháp giành độc lập. Báo chí ngả về xu hướng tranh đấu, cách mạng, việc đăng tiểu thuyết dài trên mặt báo không được chú ý đến mấy và sau Hiệp nghị Genève vài năm, tiểu thuyết "chưởng" đã xuất hiện trên mặt báo chí miền Nam. Khoảng năm 1958 vẫn chưa có tờ báo nào dịch đăng tiểu thuyết kiếm hiệp của Tàu.

Khoảng năm 1959-1960, tờ Dân nguyện của ông Hà Thành Thọ bỗng đăng một cuốn tiểu thuyết võ hiệp của Tàu là cuốn Lam y nữ hiệp. Đó là một cuốn tiểu thuyết võ hiệp thuộc loại tân trào ở Hồng Kông, do một ông bạn già tình cờ đọc được, thấy hay nên đề nghị đem dịch đăng lên báo.

Thực ra Lam y nữ hiệp cũng không phải là cuốn tiểu thuyết hay như loạt truyện sau này của Kim Dung nhưng nó thuộc loại "tân trào võ hiệp tiểu thuyết" (danh từ của các nhà xuất bản Tàu ở Hồng Kông) nghĩa là nó khác với các loại "cựu trào" trước thời thế chiến. Vì mới và lạ, cuốn Lam y nữ hiệp được một số người đón đọc và khen hay. Thấy ăn khách, một tờ báo ở Sài Gòn hồi đó liền kêu ngay dịch giả cuốn Lam y nữ hiệp về với họ, bằng cách giản dị là trả tiền nhuận bút cao hơn tờ Dân nguyện.

Thế là cuốn Lam y nữ hiệp chấm dứt. Trên tờ báo nọ xuất hiện một tiểu thuyết võ hiệp mới: Lã Mai nương - cuốn này còn thành công hơn Lam y nữ hiệp, độc giả chú ý đến nhiều hơn.

Quái tượng "chưởng" đã bắt đầu thành hình và rộ lên ở báo chí miền Nam để câu khách. Liền đó, hai dịch giả thuộc loại này nhảy ra và xuất hiện trên vũ đài: Tiền Phong - thường gọi là "Sìn Phoóng", một nhà văn có tuổi và là người Minh Hương, nên dĩ nhiên đọc chữ Tàu nhanh như chớp và Tam Khôi, một dịch giả trẻ nhưng giỏi về Hán tự.

Thật ra, Tiền Phong là người đi trước nhất, vì từ trước ngày làng báo Sài Gòn bắt đầu có chuyện "chưởng", ông đã đọc nhiều tiểu thuyết võ hiệp ở Hồng Kông gởi sang, nhưng đọc để giải trí và để lúc vui kể lại cho vợ con và vài người bạn thân nghe chớ không phải để kiếm tiền. Thấy Lam y nữ hiệp và Lã Mai nương múa kiếm trên làng báo, ông Tiền Phong sẵn máu nghệ sĩ liền dịch luôn hai, ba bộ tiểu thuyết Tàu mà mọi người đánh giá là hay nhất, trong đó có bộ Bích huyết kiếm. Có thể nói dịch giả Tiền Phong là người đã đưa Kim Dung đến làng báo Sài Gòn vì tác giả Bích huyết kiếm chính là Kim Dung và quyển này là một trong những tiểu thuyết đầu tay của văn tài họ Kim.

Thấy Tiền Phong dịch Bích huyết kiếm, Tam Khôi liền chọn một bộ khá dài cũng của Kim Dung để dịch, đó là bộ Anh hùng Xạ Điêu.

Tờ Đồng Nai đăng những chuyện dịch của Tiền Phong, còn tờ Dân Việt đăng Anh hùng Xạ Điêu do Tam Khôi dịch. Từ đó, tiểu thuyết "chưởng" Kim Dung bắt đầu tràn ngập làng báo Sài Gòn.

Trong hồi ký Mười năm làm báo, nhà báo Vũ Mộng Long có cho biết những chi tiết khá bi hài: "Có báo sắp chết, nhờ Cô gái Đồ Long mà hồi sinh anh dũng. Khi Cô gái Đồ Long, bộ cuối cùng của trường thiên ỷ thiên kiếm, Đồ Long đao chấm dứt (trường thiên này gồm ba bộ: Anh hùng Xạ Điêu (đăng ở Dân Việt), Thần điêu đại hiệp (đăng ở Báo mới) và Cô gái Đồ Long (đăng ở Đồng Nai) thì làng báo Việt Nam khai thác trường thiên tiểu thuyết Thiên long bát bộ cũng của Kim Dung.

Nhưng tên truyện của Kim Dung được "đặt lại" cho mỗi báo. Báo thì A Tỷ Kiều Phong, báo thì Lục mạch thần kiếm, báo thì Cô Tô Mộ Dung.

Ngày ông Trần Ngọc Huyến giữ chức thứ trưởng thông tin đặc trách báo chí, liền ra tay cấm nhật báo không được đăng truyện kiếm hiệp. Mỗi nhật báo chỉ được đăng một "phơi ơ tông" cây nhà lá vườn. Ông Huyến muốn làm cách mạng báo chí và đặt báo chí vào đúng vị trí thiêng liêng của nó, nhưng ông Huyến bị văng mất chức rất sớm và tổng trưởng Phạm Thái nắm lại quyền hành, "phá" ông Huyến bằng cách tung hê tiểu thuyết Tàu, Tây, ta cho làng báo. Kết quả là nhà văn Kim Dung thao túng nhật báo miền Nam trong những thập niên 1960- 1970. Báo Chính luận cũng nhào vô khai thác. Đến nay chỉ có nhật báo Đuốc nhà Nam là không đăng tiểu thuyết kiếm hiệp.

Hiện tượng tiểu thuyết kiếm hiệp Kim Dung xâm lăng nhật báo miền Nam đẻ thêm một hiện tượng kỳ quái sau đây: nhật báo Xây dựng "ngứa ngáy" cho đăng Tàn chi lệnh do Tam Khôi dịch. Người dịch khôn ngoan không chịu tiết lộ tên tác giả nên không ai biết Tàn chi lệnh đã in thành sách, bán ở vỉa hè Chợ Lớn (!). Dịch giả Lã Phi Khanh vớ được cuốn Lệnh xé xác, thấy có vẻ hợp với độc giả Tia sáng nên dù nó rất ngắn, bèn được Lã Phi Khanh nối tiếp dài dài, vô tận... Rồi ông Lã Phi Khanh bỏ Tia sáng, đem Lệnh xé xác sang Thời đại. Thế là báo Tia sáng đã cử một dịch giả "sáng tác" tiếp theo. Trên hai nhật báo, hai "bản dịch"... đối lập nhau và cả hai dịch giả đều nhận mình dịch đúng nguyên tác, bản dịch của người kia là giả mạo! Ngoài Kim Dung, nhiều tác giả tiểu thuyết kiếm hiệp Hồng Kông, Đài Loan xuất hiện tấp nập (tuần báo Tuổi Ngọc số 27 ra ngày 25-11-1971).

Trao đổi với chúng tôi, nhà báo kỳ cựu Phan Nghị năm nay đã 80 xuân, là nhân chứng sống của báo chí miền Nam, ông đồng tình với các ý kiến trên và phát biểu :"Thời ấy, với các nhật báo, tầm quan trọng của Kim Dung còn hơn cả...sự thay đổi nội các. Người ta mê Kim Dung tới mức độ bữa nào không đăng tiếp truyện Kim Dung là ăn mất ngon. Các trí thức khoa bảng trước đây chỉ thích đọc báo Tây, nay cũng phải mua báo Việt để đọc Kim Dung. Quả là một hiện tượng lạ !".

Điều đáng nói là từ hiện tượng trên, một số nhân vật kiếm hiệp của Kim Dung đã thâm nhập vào lời ăn tiếng nói của người miền Nam, chẳng hạn như trong câu hát bình dân: "Có cô gái Đồ Long xóc bầu tôm cua cá..." hoặc trong câu nói với "tẩu hỏa nhập ma" hoặc "tiếu ngạo giang hồ" hoặc "cái bang đại hiệp" hoặc "cho một chưởng" v.v...

8.GÓC NHÌN KHOA HỌC

Trong Anh hùng xạ điêu, Kim Dung đã tạo cho nhân vật Lão Ngoan Đồng Châu Bá Thông một loại võ công kỳ lạ là "Song thủ hỗ bác" - phân tâm để làm hai công việc cùng lúc, chẳng hạn ta có thể cùng lúc tay trái vẽ vòng tròn, tay phải vẽ hình vuông. Điều này thực tế có thể xảy ra được không?

Anh hùng xạ điêu kể lại rằng trong 15 năm trời bị Đông Tà Hoàng Dược sư giam trong thạch động ở đảo Đào Hoa, để giải trí, Châu Bá Thông đã sáng chế ra võ công "Song thủ hỗ bác": dùng một tay tự đánh mình và tay kia đỡ. Khi giao chiến với địch thủ, "Song thủ hỗ bác" hoá thành thế "Phân thân hợp kích" hay "Phân thân song kích", hai tay xuất chiêu giống như hai người chọi một vậy.

Theo Kim Dung, không phải ai cũng luyện được môn võ công này, những người càng thông minh, càng cơ trí, càng không thể lĩnh hội "Song thủ hỗ bác". Trong truyện, Hoàng Dung là người cực kỳ thông minh, văn võ song toàn nhưng Châu Bá Thông dạy mãi mà chỉ bài tập đầu là hai tay vẽ hai hình khác nhau vẫn không học được. Chỉ những người tâm trong sạch, thật thà chất phác, không chút thị phi như Châu Bá Thông, Quách Tỉnh và Tiểu Long Nữ mới luyện thành môn võ công kỳ lạ này. Tất nhiên công dụng của "Song thủ hỗ bác" là rất lớn. Tiểu Long Nữ khi luyện thành công, tay phải sử dụng "Ngọc Nữ kiếm pháp", tay trái sử dụng "Toàn Châu kiếm pháp" tạo thành "Song kiếm hợp bích", một mình đại náo Trùng Dương Cung của Toàn Chân Giáo ở núi Chung Nam, địch cả hàng trăm cao thủ.

Điểm căn bản trong võ công "Song thủ hỗ bác" được gọi là "phân tâm nhị dụng" - phân tâm để làm hai công việc cùng lúc. Thực chất, nó là hiện tượng hưng phấn xuất hiện đồng thời ở cả hai bán cầu đại não, và hoàn toàn có thể trở thành thực tế.

Theo giải phẫu và sinh lý học của con người, cử động có ý thức của tay trái là do bán cầu đại não bên phải quyết định và ngược lại, cử động có ý thức của tay phải là do bán cầu đại não trái quyết định. Khi tay trái thực hiện vẽ vòng tròn thì tay phải cũng có hành động tương tự. Điều này xảy ra do có sự liên lạc giữa hai bán cầu đại não. Đây chính là nhờ chức năng của thể chai.

Thể chai, phần màu đỏ trên ảnh.

Thể chai (corpus callosum) là phần chất trắng, trên thiết đồ đứng dọc giữa não có kích thước dài 8 cm, dày 1cm, rộng 1 cm ở phía trước và 2 cm ở phía sau. Thể chai được tạo nên bởi các sợi thần kinh nối liền hai bán cầu đại não với nhau, đồng thời nối những phần cùng tên của hai vỏ bán cầu đại não. Toàn bộ vỏ đại não là hệ thống liên hợp rộng rãi, nhờ đó mà hình thành các khả năng trí tuệ, ý thức, ngôn ngữ, chữ viết. Nhờ có thể chai mà hai bán cầu đại não có thể liên lạc và phối hợp với nhau. Khi tay trái ta vẽ hình tròn thì nhóm thần kinh từ bán cầu đại não phải truyền sang điểm tương ứng của bán cầu đại não trái làm cho tay phải nếu thực hiện cùng lúc cũng sẽ có khuynh hướng vẽ hình tròn. Khi thể chai bị tổn thương hay bị cắt đứt thì hai bán cầu não sẽ hoạt động hoàn toàn độc lập, không bị chi phối lẫn nhau, như vậy hai tay mới có thể hoạt động cùng lúc khác nhau được.

Tuy nhiên điều này không đơn giản như vậy. Bán cầu não trái có chức năng nhận thức lời nói (vùng Wernicke) còn bán cầu não phải có chức năng hiểu chữ viết. Do đó, khi thể chai bị cắt đứt, muốn tay phải vẽ hình tròn thì cần được ra lệnh bằng lời nói và tay trái phải ra lệnh bằng chữ viết.

Vậy có phải ai luyện được "Song thủ hỗ bác" đều bị tổn thương thể chai? Không hẳn vậy, theo quan điểm sinh lý - thần kinh học, người bình thường cũng có thể luyện thành công qua khổ luyện chứ không chỉ riêng những người chất phác thật thà mới luyện được.

Tuy nhiên, Kim Dung có lý khi cho rằng môn võ công này phụ thuộc vào bản chất mỗi người, bởi đây là quá trình luyện tập hết sức phức tạp và lâu dài nhằm tạo hai điểm hưng phấn cùng lúc trên hai bán cầu đại não. Vỏ não sẽ xuất hiện điểm hưng phấn lan toả, khuếch tán ra xung quanh và các điểm quanh đó sẽ xuất hiện quá trình ức chế. Đó là hiện tượng cảm ứng vỏ não. Các quá trình khuếch tán, tập trung hưng phấn và ức chế diễn ra liên tục trên vỏ não, chúng gặp nhau, tổ chức lại, hệ thống hoá thành một hệ thống động học liên tục không ngừng khi cơ thể ta đang sống. Nếu cùng lúc bán cầu đại não bên kia cũng đang ra lệnh tập luyện thì điểm hưng phấn nơi ấy sẽ theo thể chai truyền sang điểm tương ứng của bán cầu đại não bên này và ức chế luồng dẫn truyền thần kinh này. Kết quả là hai bán cầu đại não đều có hai điểm hưng phấn cùng lúc và độc lập với nhau và hai tay có thể thực hiện hai động tác khác nhau cùng lúc. Người luyện đòi hỏi tâm phải tĩnh lặng, không sử dụng óc phân tích quá mức, không chịu những xao động bên ngoài, hồn nhiên, thuần phác và kiên trì sẽ thành công.

(Theo Khoa học và Đời sống)

9.THIÊN LONG BÁT BỘ - MỘT KIỆT TÁC CỦA KIM DUNG

(lời giới thiệu bản dịch Thiên Long Bát Bộ mới)

Phương Nam phát hành - dịch giả: Đông Hải

-----------------------------------

Trong năm "đại gia" tiểu thuyết võ hiệp tân phái, Kim Dung là người có số lượng tác phẩm ít nhất. Từ tác phẩm đầu tay Thư kiếm ân cừu lục cho đến tác phẩm "phong bút" Lộc đỉnh ký, Kim Dung "chỉ" viết 15 bộ tiểu thuyết võ hiệp. Con số ấy là rất khiêm tốn so với tác phẩm của bốn "đại gia" khác: Lương Vũ Sinh, Cổ Long, Ngọa Long Sinh và Ôn Thụy An.

Nhưng "đại hiệp" Kim Dung lại được giới hâm mộ và các nhà nghiên cứu phê bình công nhận là "võ lâm minh chủ". Nguyên nhân chủ yếu của sự nhất trí này là do tiểu thuyết Kim Dung đều là những "tinh phẩm thượng thừa" của tiểu thuyết võ hiệp tân phái. Trong những "tinh phẩm thượng thừa" đó, Thiên Long bát bộ luôn được đánh giá là một trong những kiệt tác của Kim Dung.

Do thị hiếu khác nhau, có người thích Lộc đỉnh ký, có người thích Tiếu ngạo giang hồ, có người lại "thiên ái" Xạ điêu anh hùng truyện, Ỷ thiên Đồ long ký hoặc Thần điêu hiệp lữ, nhưng ai cũng thừa nhận Thiên Long bát bộ là một "kỳ thư".

Ngày 3 tháng 9 năm 1963, Thiên Long bát bộ bắt đầu được đăng trên Minh báo ở Hồng Kông và Nam Dương thương báo ở Singapore, liên tục trong bốn năm. Đây là tác phẩm được viết trong thời gian lâu nhất và cũng là tác phẩm dài nhất của Kim Dung (gần 2 triệu chữ). Đành rằng độ dài cũng có ý nghĩa quan trọng trong việc tạo nên thế giới nghệ thuật phong phú của "hoằng thiên cự trứ" này, nhưng điều chủ yếu làm nên giá trị nghệ thuật của tác phẩm là ở lập ý cao minh, kết cấu hoằng vĩ hệ thống nhân vật phong phú và tinh thần nhân đạo sâu sắc mà Kim Dung đã giành cho kỳ thư Thiên Long bát bộ.

Tiểu thuyết Kim Dung thường có bối cảnh lịch sử xác định. Cũng vậy, bối cảnh lịch sử của Thiên Long bát bộ là thời Tống Triết Tông (1086 - 1101), cuối thời Bắc Tống. Đây là thời kỳ đánh dấu chế độ phong kiến ở Trung Quốc từ thịnh sang suy, các mâu thuẫn xã hội rất phức tạp và sâu sắc. Chọn thời điểm lịch sử "có vấn đề" này làm bối cảnh, Kim Dung đã có điều kiện để thể hiện cảm hứng lịch sử, ước vọng hòa bình hòa hợp dân tộc và tinh thần nhân đạo của mình.

Nhà nghiên cứu Trần Mặc cho rằng : có thể coi Thiên Long bát bộ là một bộ Lục quốc diễn nghĩa kể về các mối quan hệ phức tạp của sáu nước gồm Đại Lý ở phương Nam, Đại Tống ở Trung Nguyên, Đại Liêu ở phương Bắc cùng với Tây Hạ, Đại Kim và còn một "Đại Yên" đã bị xóa sổ và đang nuôi chí phục quốc. Đành rằng Thiên Long bát bộ là tiểu thuyết võ hiệp chứ không phải tiểu thuyết lịch sử.

Trong cái mớ bòng bong mâu thuẫn ấy nổi bật lên xung đột Tống - Liêu. Với tầm nhìn bao quát cục diện bao la vạn trượng, tác giả đã dựng nên một thế giới nhân vật "giang hồ" khác nhau về dân tộc, quốc tịch, cảnh ngộ, tính cách... ai cũng gửi thân giang hồ mà trù liệu việc "giang sơn". Nhưng cái cao minh của tác giả là ở chỗ tập trung đỉnh điểm của mọi xung đột vào một nhân vật Tiêu Phong với số phận tận cùng bất hạnh và nhân cách tuyệt vời cao thượng. Thân phụ của chàng, Tiêu Viễn Sơn, từ một nạn nhân đã trờ thành một kẻ đại ác, tắm máu trả thù. Nhưng Tiêu Phong, từ một nạn nhân bất hạnh đã vượt lên khổ nạn. Trên Nhạn Môn Quan, chàng đã đem sự hi sinh lẫm liệt, bi tráng của mình để hóa giải hận thù giữa các dân tộc. Hành vi tuẫn nạn của chàng được nhà sư vô danh chùa Thiếu Lâm tôn xưng là "tấm lòng Bồ Tát".

Có thể nói, với hình tượng Tiêu Phong và sự hi sinh cao cả của chàng trên Nhạn Môn Quan, Thiên Long bát bộ đã có phần vượt qua giới hạn của tiểu thuyết lịch sử trong truyền thống, đồng thời cũng vượt qua giới hạn của tiểu thuyết võ hiệp.

Nhìn bên ngoài, kết cấu của Thiên Long bát bộ có vẻ lỏng lẻo. Chính Kim Dung cũng thừa nhận điều này khi có người phê bình kết cấu tiểu thuyết của ông không chặt chẽ. Nhưng cái "diệu" của kết cấu Thiên Long bát bộ là ở các mối quan hệ bên trong. Chính những mối liên hệ có vẻ như ngẫu nhiên, bất ngờ nhưng lại hợp lý và tất yếu này làm nên cái "khuôn giá" đủ sức bền để nhà văn dựng nên một thế giới nghệ thuật lập thể với đỉnh điểm là hình tượng Tiêu Phong (chữ "Phong" trong tên nhân vật này có nghĩa là đỉnh núi). Không gian lưu lạc giang hồ của tiểu thuyết võ hiệp là môi trường cho Đoàn Dự thi triển khinh công "Lăng ba vi bộ", đóng vai trò con thoi đan dệt, nối kết các nhân vật, các sự kiện. Chàntg công tử đa tình dễ thương này đã rời bỏ cung đình Đại Lý (nay thuộc tỉnh Vân Nam), lỡ bước giang hồ để rồi cùng với hai người anh kết nghĩa - Tiêu Phong, Hư Trúc - và cả với cô em gái "cùng hai cha khác mẹ" là "bông hoa ác" A Tử làm nên các đường Kinh Lạc liên kết các nhân vật ở những miền không gian khác nhau thành một chỉnh thể nghệ thuật phức tạp và phong phú. Có thể nói, hầu hết các nhân vật trong tác phẩm đều "kiêm nhiệm" nhiều chức năng: vừa là bản thân "con người này", vừa là đường dây liên kết các nhân vật khác. Ở đây Kim Dung đã kế thừa hầu hết các thủ pháp kết cấu truyền thống của tiểu thuyết Trung Quốc, đồng thời tiếp thu cả nghệ thuật kết cấu của tiểu thuyết phương Tây hiện đại.

Rất nhiều điều có thể và cần phải tìm hiểu về kết cấu của "bài toán rời rạc" Thiên Long bát bộ, nhưng đó là điều mà Kim Dung muốn dành cho bạn đọc khi tiếp xúc với thế giới nghệ thuật của ông.

Tựa đề Thiên Long bát bộ của tác phẩm là một cái tên có tính chất tượng trưng. Cái tên này mượn từ thuật ngữ Phật học chỉ tám loại "chúng sinh" không phải là người "phi nhân". Thế giới nhân vật trong Thiên Long bát bộ không hề có thần tiên ma quỷ mà là con người với đủ thất tình lục dục. Nhưng do sư khắc nghiệt của lịch sử, do số phận trớ trêu, do nhưng dục vọng và tội ác dấy lên từ ba ngọn lửa độc "tham sân si" mà người ta đã gây nên bất hạnh cho người khác và cho cả chính mình, biến thế giới nhân sinh thành thế giớ phi nhân; đúng như lời của giáo sư Trần Thế Tương đã nhận xét: Vô nhân bất oan, hữu tình giai diệt (ai cũng mắc oan khiên, có tình đều nghiệt chướng).

Thiên Long bát bộ thấm nhuần tinh thần Phật giáo mà Kim Dung vốn ngưỡng mộ. Tiếng nói của Phật giáo trong tác phẩm vừa dịu dàng sâu lắng vừa thật hiển minh, quán xuyến từ đầu chí cuối tác phẩm. Điều này được thể hiện ở thế giới nhân vật và số phận có tính chất "nhân quả báo ứng" của họ. Điểm xuất phát và nơi trở về của bộ ba nhân vật Tiêu Phong, Hư Trúc, Đoàn Dự đều ít nhiều mang tinh thần Phật giáo. Tác phẩm được khởi từ cung đình nước Đại Lý, một nước mà thời ấy Phật giáo được xem là quốc giáo. Vương tử Đoàn Dự là một tín đồ Phật giáo thuần thành. Tiêu Phong được Huyền Khổ đại sư dạy dỗ; chàng học võ công chứ không học Phật giáo, nhưng "Phật tính" tiềm ẩn trong chàng đã tỏa sáng khi chàng "sát thân thành nhân" trên ải Nhạn Môn Quan. Còn tiểu hòa thượng Hư Trúc tuy bất đắc dĩ phải lần lượt phạm giới nhưng thủy chung chàng vẫn là một "tăng hiệp" đem chính tâm của một tiều hoà thượng nhân từ, lương thiện mà dung nạp và hóa giải những "tà công" để hành thiện. Đó cũng là chỗ cao minh của nhà văn: chính nghĩa và lương thiện cũng cần sức mạnh.

Tinh thần Phật giáo cũng được thể hiện ở kết thúc về cơ bản là "có hậu" của tác phẩm. Không những người ta được chứng kiến quy luật nhân quả "ở hiền gặp lành" nơi những con người như Hư Trúc, Đoàn Dự mà ngay cả những kẻ đã trở thành "phi nhân" cũng không đến nỗi tuyệt lộ. Kim Dung đã đưa "Quan Âm tóc dài" trở về nối lại sợi tơ nhân tính mong manh trong con người "đệ nhất ác nhân" Đoàn Diên Khánh. Kim Dung còn để cho nhà sư vô danh ở Tàng Kinh Các của chùa Thiếu Lâm hiện thân "chuyển nghiệt hóa si" cho hai ác nhân cừ địch Tiêu Viễn Sơn và Mộ Dung Bác. Đặc biệt chính nhà sư vô danh này lại hiện thân lần nữa để khẳng định "tấm lòng Bồ Tát" của Tiêu Phong.

Nhưng về thực chất, nhưng "oan" cùng "nghiệt" biến thế giới nhân sinh thành một thế giới "phi nhân" không phải do một lực lượng thần bí nào đó mà do chính con người tạo nên. Và sức mạnh "siêu độ" khiến những kẻ đã trở thành phi nhân có thể "hồi đầu thị ngạn", trở lại làm người cũng là do nhân tính được thức tỉnh. Còn như muốn gọi nhân tính là Phật tính thì cũng phải. Có thể nội hàm của khái niệm Phật tính rộng hơn tinh thần nhân đạo, nhưng tinh thần nhân đạo là hạt nhân của Phật tính. Chính Đức Phật cũng giác ngộ chân đế từ trong bể khổ nhân sinh. Có thể nói tinh thần nhân đạo hay Phật tính là những tên gọi khác nhau để chỉ lòng yêu thương, sự trân trọng với giá trị tôn nghiêm của con người.

Đi vào thế giới đầy những "oan", "nghiệt" ngỡ như là "phi nhân" của Thiên Long bát bộ, ta lại gặp CON NGƯỜI.

Huế, Trung Thu Nhâm Ngọ 2002.

Nguyễn Thị Bích Hải

10.THƯỞNG THỨC TIỂU THUYẾT VÕ HIỆP KIM DUNG

Tác giả : Ôn Thụy An

"Người ta đọc sách để dưỡng tâm. Những kẻ rãnh rỗi, sách không ngó tới, người không yên, lòng bất an, tâm hồn điên đảo, cuồng vọng sân si, không hiểu lẽ đời".

(Thông Anh-"Thông huấn trai ngữ")

Tiểu thuyết Kim Dung chính là thứ đáng để dưỡng tâm vậy. Cầm quyển sách trên tay, đọc vài trang, bao nhiêu vui buồn lợi danh được mất cũng tạm gác sang một bên.

Trong những buổi đầu, độc giả của tiểu thuyết Kim Dung là tầng lớp thị dân. Những quyển sách bán chạy nhất của ông lúc đó như Anh hùng xạ điêu, Thần Điêu hiệp lữ,... lần đầu tiên xuất hiện trên những tờ báo mà đọc giả là thị dân. Anh hùng xạ điêu lần đầu đăng trên Thương báo (độc giả chủ yếu là công nhân viên chức nhỏ), còn Thần Điêu hiệp lữ được đăng trên Minh báo do Kim Dung sáng lập , đối tượng phục vụ chủ yếu cũng là thị dân.

Sau này, độc giả của ông không ngừng tăng lên về lượng và chất. Ngoài số độc giả là công nhân viên chức nhỏ, giới trí thức cũng bắt đầu để ý đến tác phẩm của ông. Người ta bắt đầu công khai nhìn nhận giá trị của tác phẩm Kim Dung. Ở Hồng Kông có ông Lâm Dĩ Lượng, ở Đài Loan có giáo sư Hạ Tế An, ở Mỹ có nhà phê bình văn học Hoa Kiều Trần Thế Tương,... Nhiều người còn tự xưng là "Kim Dung mê".

Người ta tiếp nhận tác phẩm Kim Dung bởi lẽ về mặt tinh thần, nó mở ra con đường mới trong cuộc đời đầy khốn khó này. Tiểi thuyết võ hiệp Kim Dung kế thừa những nét đặc sắc của tiểu thuyết truyền thống Trung Quốc, lối viết văn bạch thoại lồng với những yếu tố trong văn hóa tryuền thống đã được độc giả yêu thích. Giáo sư Trần Bình Nguyên ở Đại học Bắc Kinh nói "Kim Dung đã đơn giản hóa tư tưởng Nho-Phật-Đạo, cùng với cầm kỳ thi họa và những yếu tố trong văn hóa Trung Quốc, cho nên có thể nói truyện Kim Dung như những bài nhập môn về văn hóa Trung Quốc"

Một chuyên gia về tác phẩm Kim Dung, chủ tịch Hội nghiên cứu tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung ở Trung Quốc, ông Phùng Kỳ Dung nói : "Kim Dung đã rất sáng tạo trong việc xây dựng kết cấu truyện, về mặt này, tôi dám nói Kim Dung đã đạt tới đỉnh cao"

Sự đánh giá của các vị trên rất xác đáng. Gần đây, tác phẩm của Kim Dung từ chốn "hồng trần gió bụi" đã đường hoàng bước vào cung điện học thuật. Năm 1990, giáo sư Trần Bình Nguyên ở Đại học Bắc Kinh đã đưa vào chương trình những môn học nghiên cứu về tác phẩm Kim Dung. Giáo sư Tiền Lý Quần cũng ở Đại học này nhận định : "Có thể nói Kim Dung đã đại diện cho dòng văn học thông tục sánh vai cùng Lỗ Tấn, người đại diện cho dòng văn học hàn lâm"

Trong khi đó, tại Đại học sư phạm Bắc Kinh, giáo sư Vương Nhất Xuyên trong cuốn Văn học Trung Quốc thế kỷ XX đã xếp Kim Dung đứng thứ tư sau Lỗ Tấn, Thẩm Tùng Văn, Út Đạt Phu, Vương Mông. Xếp tiểu thuyết võ hiệp đứng sánh vai cùng tiểu thuyết hàn lâm, đó là một cách làm đầy mới mẻ và mạnh dạn.

Mấy năm gần đây, các hội nghiên cứu về tác phẩm Kim Dung đã được thành lập tại Trung Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, Anh, Mỹ,.. các trường đại học cũng đưa vào chương trình những môn học về tác phẩm Kim Dung. Ở nước ngoài tác phẩm Kim Dung cũng được chú ý, nhiều chuyên gia nghiên cứu về tiểu thuyết Kim Dung cũng xuất hiện, tạo nên một hiện tượng nghiên cứu "Kim Dung học"

Vương Tùng Văn, một nhân vật làm công tác xuất bản ở Đài Loan nói : "Những tác phẩm nghiên cứu về tiểu thuyết Kim Dung không chỉ là nơi thể hiện ý kiến cá nhân về một thế giới võ hiệp phong phú mà còn là mối dây nối những tâm hồn đồng điệu".

Vì yêu thích tác phẩm Kim Dung nên tôi quyết định dịch tác phẩm này và mong được gặp những tâm hồn đồng điệu.

(Lời tựa của dịch giả Hồ Tiến Huân)

TỪ SAY MÊ CẢM TÍNH ĐẾN PHÂN TÍCH LÝ TÍNH

(Tác giả : Ôn Thụy An)

Đây không phải là tác phẩm nghiên cứu về Kim Dung của tôi mà chỉ là tập họp những bài viết của tôi về chủ đề này. Năm 1974, tôi tới Đài Bắc lập nên tờ "Thần Châu thi xã", và tổ chức một số cuộc tọa đàm với chủ đề thơ võ hiệp, tiểu thuyết võ hiệp, tôi cũng viết về tiểu thuyết Kim Dung đăng liên tiếp mấy kỳ trên các tờ Lục Châu, Trường Giang. Thời gian này tôi thật sự say mê tiểu thuyết Kim Dung.

Lúc đó ở Đài Loan, sách của ông bị mang tên người khác. Nhiều bạn bè mang sách tới nhờ tôi kiểm tra, vừa xem tôi đã biết ngay, ngay cả các nhà xuất bản cũng đến tìm tôi, thế là tôi trở thành chuyên gia giám định truyện Kim Dung bất đắc dĩ, cũng oai như những chuyên gia khác. Cũng có một vài tờ báo mời tôi viết về tác phẩm Kim Dung, dĩ nhiên tôi nhận lời, một số bài được đăng trên tạp chí Thần Châu, tổng cộng được khoảng sáu đến bảy mươi vạn chữ, nhưng đã thất lạc, không còn đủ. Thời đó, yêu thích tác phẩm Kim Dung thì nhiều nhưng viết về nó thì rất ít. Lúc đó, tôi cũng chưa gặp Kim Dung nhưng cũng đánh bạo viết thử, cũng gây được tiếng vang. Tuy vậy, cũng bởi quá say mê, nên tôi vẫn cứ viết, ngõ hầu giới thiệu đến quý độc giả những nét đặc sắc của tiểu thuyết Kim Dung.

Cho đến nay, tại Hồng Kông, Đài Loan, vấn đề bản quyền đã tạm ổn, ấn bản ngày càng chính xác và đẹp hơn, những ngụy tác không còn chỗ đứng. Có thể nói, ở đâu có người Trung Quốc, ở đó có truyện Kim Dung.

Sau này, tôi chuyển sang sáng tác tiểu thuyết võ hỉệp, ít viết bình luận. Mãi đến năm 1982, nhận lời mời của ông Ngô Trọng Đạt, tôi về báo Cuộc sống mới, giữ mục "Bàn về tiểu thuyết võ hiệp", trong đó có nói về tác phẩm Kim Dung.

Tuy mấy năm gần đây, tác phẩm Kim Dung không tạo ra những cơn sốt như thuở trước nữa, nhưng tôi cho rằng, đọc Kim Dung thì phải đọc cả đời. Tùy theo tuổi tác và những trãi nghiệm ở cuộc đời, bạn sẽ có những cảm nhận khác nhau về tiểu thuyết Kim Dung. Riêng tôi, tuy giờ đây đọc Kim Dung với một tâm thức lý tính, cảm giác say mê ngay ngất không còn nữa, nhưng tấm lòng đối với truyện Kim Dung thì vẫn còn nguyên sơ.

Đương nhiên, Kim Dung cũng có những hạn chế của ông, song với một tài năng đã đạt đến trình độ "lư hỏa thần thanh", bút lực đạt tới độ chín muồi thì những sai sót ấy dễ dàng được phát hiện và sửa chữa, đồng thời phát huy tốt những ưu thế vốn có của mình.

Ở Hồng Kông vài năm gần đây, người ta rất chú ý đến truyện Kim Dung, nhiều công trình nghiên cứu ra đời, tôi cũng góp lời cho vui. Ba năm trước, tôi bảo là sẽ viết "Kim Dung luận" (lúc đó tôi còn định viết Cổ Long luận), nhưng không thực hiện được. Có lần Nghê Khuông bảo : "Ai cũng nói là viết về tác phẩm Kim Dung, kết quả là tôi viết được ba cuốn, còn họ thì chưa ra cuốn nào..."

Viết về tác phẩm Kim Dung, chỉ đuợc vài cuốn, trong đó nhiều nhất là Nghê Khuông. Lại có người nói, ông không viết thì thôi đã viết thì phải đứng trên quan điểm phê bình văn học chính thống chứ không thèm viết vuốt đuôi giả tạo. Có người còn thẳng thừng cho rằng, những trang viết về tác phẩm Kim Dung chỉ đáng đem đi lau giày, Nghê Khuông đáp lại "Chỉ cần họ viết hay bằng một phần ba Kim Dung thì tôi sẽ đi lau giày cho họ"

Điểm mạnh của truyện Kim Dung là ai đọc cũng thấy hay, ai đọc cũng hiểu. Khi phân tích, với độc giả trí thức, đòi hỏi phải có "luận cứ rõ ràng, luận chứng đầy đủ", với độc giả bình dân cần phải viết dễ hiểu, dí dỏm, rõ ràng. Mười năm trước, tôi đã từng dùng phương pháp hết sức hàn lâm, tôi đưa vào bài viết của mình những kiến thức về mỹ học,văn học so sánh, tâm thần học, chú thích bằng tiếng nước ngoài,... rất có phong cách của một học giả, giờ đọc lại thấy quá chi li và khô khan.

Để hoàn thành ước nguyện viết về tác phẩm Kim Dung, tôi cho ra đời quyển sách này. Tất nhiên không thể coi đây là Kim Dung luận được. Đây chỉ là cách cảm nhận, cách nhìn của riêng tôi. Sẽ có nhiều người bảo tôi là vuốt đuôi khen bậy. Nhưng dù sao mình vẫn giữ vững quan điểm của mình. Xin góp đôi lời, mong được chỉ giáo.

11.TIỂU THUYẾT VÕ HIỆP VÀ TIỂU THUYẾT VÕ HIỆP KIM DUNG

Tiểu thuyết võ hiệp luôn thay đổi theo thời gian

Văn học Trung Quốc phát triển theo chiều hướng trữ tình, thơ ca ra đời từ sớm và đạt được những thành tựu to lớn. Tiểu thuyết ra đời trễ hơn, từ đời Thanh trở về trước, thể loại văn học này không đuợc coi trọng, nhà văn cũng không có địa vị quan trọng. Sau cuộc vận động cho văn Bạch thoại, tiểu thuyết mới được nhìn nhận, trở thành một bộ phận trong nền văn học hiện đại Trung Quốc. Tuy vậy, tiểu thuyết võ hiệp vẫn còn bị coi thường, thậm chí bị bài xích.

May mà còn có Hoàn Châu Lâu Chủ, còn có Kim Dung, còn có Cổ Long.

Hoàn Châu Lâu Chủ với trí tuởng tượng siêu phàm của mình đã nâng tiểu thuyết võ hiệp lên một tầm cao mới. Vốn quốc học sâu sắc, lối kiến giải Nho-Phật-Đạo độc đáo, bất kể tả cảnh hay người đều hấp dẫn được lòng độc giả, người ta như đắm mình vào tác phẩm. Chẳng trách khi tác phẩm Thục Sơn kiếm hiệp truyện ra đời, người ta kéo nhau đến thâm sơn cùng cốc để học đạo, tu tiên.

Nhưng cho đến Kim Dung, tiểu thuyết võ hiệp mới thực sự bước lên văn đàn. Rất nhiều người thích tác phẩm của Kim Dung. Người ta say mê những tình tiết ly kỳ hấp dẫn, rung động với tính cách mạnh mẽ, sâu sắc của những nhân vật dưới ngòi bút của ông, cảm động với những mối tình éo le trắc trở nhưng cũng thật đẹp, cuốn theo những trận đấu hào hùng, khâm phục những bậc nghĩa sĩ, dám liều mình vì nghĩa cả.

Về kết cấu, giao đãi, dựng truyện hay khắc họa tính cách nhân vật, Kim Dung hơn hẳn người khác. Với một nhà văn lớn, không phải tất cả các tác phẩm đầu hay. Đường thi có khoảng bốn vạn bài, nhưng gọi là hay thì chỉ có khoảng nghìn bài. Trong nền văn học hiện đại, lượng tác phẩm nhiều, phát hành rộng rãi, nên người viết dễ mắc sai sót. Tình trạng này cũng thường thấy trong tiểu thuyết võ hiệp. Tuy nhiên với Kim Dung thì không thế. Ông viết rất đều tay, tác phẩm thuộc loại kém của ôngcũng có thể xếp vào hàng nhất lưu.

Đương nhiên, ngoài Hoàn Châu Lâu Chủ, Kim Dung còn có những nười khác như Bình Giang Bất Tiếu Sinh, Cổ Long, Bạch Vũ, Chu Trinh Mộc, Ngọa Long Sinh, Gia Cát Thanh Vân, mỗi người đều có nét đặc sắc của riêng mình, nhưng về thành tựu thì không thể bì được với Kim Dung. Nói như Nghê Khuông "Tiểu thuyết Kim Dung là vô tiền khoáng hậu". Vô tiền đó là điều chắc chắn, còn khoáng hậu, cũng có thể lắm chứ. Bởi giờ đây, điều kiện ra đời và thưởng thức của tác phẩm võ hiệp không còn được như trước nữa. Song, như tiểu thuyết võ hiệp vẫn thường nói, lúc bất lợi nhất cũng là lúc thuận lợi nhất. Những tưởng qua thời Hoàn Châu Lâu Chủ, tiểu thuyết võ hiệp sẽ xuống dốc, nhưng lại xuất hiện một Kim Dung, biết rút tỉa những đặc sắc của những nhà văn khác, kết hợp hài hòa thủ pháp tiểu thuyết Tây phương với tiểu thuyết truyền thống Trung Quốc, tạo ra một luồng sinh khí mới cho tiểu thyuết võ hiệp. Phải chăng đây là thể loại luôn đổi mới và vượt qua mọi thử thử thách của thời gian.

Chúng ta hãy chờ xem

Tôi (Ôn Thụy An) cho rằng tiểu thuyết võ hiệp truyền thống có tám đặc điểm chính như sau :

Thắm đượm văn hóa truyền thống Trung Quốc

Trong nền văn học hiện đại, truyện võ hiệp là thể loại mang đậm dấu ấn dân tộc nhất.

Văn học cổ điển cũng có truyện võ hiệp, như Cầu Nhiêm Khách, Thủy Hử truyện, Thích khách liệt truyện,... tuy nhiên, cũng cần hiểu rằng truyện võ hiệp của ngày nay là do tác giả hiện đại viết, nhưng ta vẫn thấy trong đó thấm đượm tinh thần văn hóa Trung Quốc.

Chẳng hạn, về chủ đề, các tác giả thường đề cao tinh thần tôn sư trọng đạo, xả thân vì nghĩa, trung hiếu tiết liệt, cứu khốn phò nguy,...người đọc sẽ phải theo dõi theo từng bước chân của nhân vật, trăn trở cùng nhân vật. Ngoài ra tác giả còn đưa vào truyện những tư tưởng triết học, những tư tưởng này đan xen và tô điểm cho nhau, ví như tinh thần xả thân vì nước của Nho gia, thú ở ẩn của Đạo gia, thuyết vô ngã vô tướng của Đạo Phật. Đồng thời chúng ta có thể thấy, những nhân vật trong Đạo giáo hay Phật giáo là những người có võ công cao siêu, trí tuệ hơn người, phẩm chất tốt đẹp,...thường đóng vai trò điểm chỉ cho các nânh vật khác. Cũng có những nhân vật là đệ tử của bên này nhưng vì một cơ duyên nào đó lại học được võ công của phía bên kia, từ đó uy chấn thiên hạ.

Ta có thể thấy tinh thần này ở khắp nơi trong truyện võ hiệp. Ví như, trong các phái, sư trưởng rất quan trọng đối với các đệ tử, đệ tử phải phục tùng hoàn toàn sư trưởng, không được mạo phạm người trên. Cho nên, là một đệ tử, ngoài nợ nước thù nhà phải báo đền, còn phải nhớ mối thù diệt sư. Nhưng với một kiếm khách trong truyện võ hiệp Nhật Bản, nếu đệ tử muốn xuống núi, người đầu tiên phải đánh bại lại là sư phụ của mình.

Không những trọng nghĩa, nhân vật của tiểu thuyết võ hiệp còn phải thủ tín. Trong Hiệp Khách hành của Kim Dung, nhân vật Tạ Yên Khách thuộc hàng nhất lưu cao thủ, lại phải giữ lời hứa với một gã ngốc nghếch vì không thể thất tín với thiên hạ. Tiểu Long Nữ trong Thần Điêu hiệp lữ bất chấp tất cả để giữ lời hứa với Tôn Bà, khiến cho nửa đời phải khốn khổ vì tình, Lệnh Hồ Xung trong Tiếu ngạo giang hồ vì giữ bí mật không tiết lộ tung tích của Phong Thanh Dương mà bị giang hồ đồng đạo, sư môn hiểu lầm, không cách nào giải thích. Tinh thần trọng chữ tín ấy đuợc phát huy cao độ trong tiểu thuyết võ hiệp, "đại trượng phu nhất ngôn cửu đỉnh", trước mặt giang hồ đồng đạo một khi đã phát thệ thì "tứ mã nan truy". Nếu thất tín, hắc bạch lưỡng đạo sẽ chê cười.

Tác giả Tiếu ngạo giang hồ, phần hậu ký có viết một đoạn thế này : " Trong võ lâm, người ta rất coi trọng hai chữ tín nghĩa. Có các nhân vật bàng môn tả đạo khi đã phát thệ thì không hối hận. Nếu nuốt lời, danh tiếng sẽ tiêu tan. Ngay cả Điền Bá Quang, một tên thái hoa đại đạo cũng rất thủ tín. Vì Nghi Hòa đã thay mặt phái Hằng Sơn hứa với Dư Thương Hải không giúp Nhạc Linh San, Lệnh Hồ Xung yêu nàng là thế, vậy mà chỉ vì chữ tín mà chàng đành đứng nhìn cái chết đến gần vị tiểu sư muội yêu thương. May mà có Nhậm Doanh Doanh lấy danh nghĩa thánh cô Ma giáo rút kiếm tương trợ. Nếu không, Lệnh Hồ Xung sẽ mang tiếng là kẻ thất tín dưới mắt võ lâm đồng đạo, cho dù vì trượng nghĩa mà cứu người, độc giả chưa chắc đã thích chàng".

Văn hóa truyền thống không chỉ biểu hiện ở tính cách nhân vật, ở các tình tiết, mà còn thể hiện trong các đối thoại của nhân vật. Trong Tiếu ngạo giang hồ có câu thế này "Hôm nay may mắn gặp hai vị tiền bối, tận mắt thấy được cao chiêu, thật là vinh hạnh", đó là lời Lệnh Hồ Xung nói với hai người Võ Đang giả làm hai gã nhà quê thô lỗ nhưng kiếm pháp tinh diệu. Như vậy, có thể thấy, trong từng trường hợp giao tiếp đều có lễ tiết khác nhau.

Tiểu thuyết võ hiệp có thể biểu hiện tình cảm và tính cách dí dỏm của người Trung Quốc. Vì cứu Nghi Lâm mà Lệnh Hồ Xung đành phải mắng nào là thứ ni cô xui xẻo, gặp ni cô đánh bạc tất thua, chính là sự hài hước. Cứu Nghi Lâm không để lại tên tuổi, chính là tình cảm xuất phát từ quan niệm đạo đức của người xưa.

Lệnh Hồ Xung học đàn ở ngõ Tiểu Trúc thành Lạc Dương, cùng Hướng Vấn Thiên đàm đạo cầm kỳ thi họa với Mai Trang tứ hữu, luận rượu với Tổ Thiên Thu... đều mang đậm chất văn hóa Trung Quốc, làm độc giả thấy thú vị.

Giá trị của tiểu thuyết Kim Dung

Tôi cho rằng có năm lý do để bình luận, đánh giá tiểu thuyết Kim Dung.

1. Trong lịch sử tiểu thuyết võ hiệp, truyện của Kim Dung đạt tới đỉnh cao nhất. Độc giả của ông nhiều nhất và khắp trên thế giới, truyện của ông nhiều lần được dựng thành phim. Đồng thời luôn được sửa chữa, tạo được những cơn sốt.

2. Tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung có tính kế thừa những người đi trước đồng thời mở đường cho những người đi sau, là tập đại thành tiểu thuyết võ hiệp và tiểu thuyết truyền thống Trung Quốc. Ngoài ra, ông còn vận dụng kỹ thuật viết văn tây phương, đặc biệt là thủ pháp của nghệ thuật hí kịch, thêm vào kiến thức phong phú về các mặt, tạo ra những tác phẩm có sự kết hợpgiữa cổ điển và hiện đại, giữa Đông và Tây phương, về mặt văn học, đây là một giá trị, có mức độ quan trọng nhất định.

3. Độc giả của tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung có đủ các tầng lớp, nghề nghiệp, lứa tuổi khác nhau. Bởi lẽ, tiểu thuyết Kim Dung không chỉ là tiểu thuyết võ hiệp, nói một cách nghiêm túc, tiểu thuyết văn học, tiểu thuyết tượng trưng chính trị, tiểu thuyết lịch sử, tiểu thuyết cổ điển, nói một cách nhẹ nhàng thì đây còn là tiểu thuyết tình cảm, tiểu thuyết truyền kỳ, tiểu thuyết kỳ tình,...

4. Kỹ thuật viết tiểu thuyết của Kim Dung có là điều rất đáng chú ý để tranh luận không? Về mặt đề tài, tiểu thuyết Kim Dung hay xuất hiện những sự hiểu nhầm, những hiểu nhầm ấy rất dễ giải thích, dưới ngòi bút của tác giả thì những hiểu nhầm ấy lại vì lý do cá tính của nhân vật hay dưới sự ảnh hưởng của hoàn cảnh, tạo ra những tình huống nan giải, làm cho độc giả phải theo dõi, có thể nói đây là một kỹ thuật cổ điển của tiểu thuyết nhiều kỳ. Kim Dung vận dụng nhiều nhất mà cũng giải quyết tốt nhất. Những hiểu nhầm ấy có thể được giải thích nhưng sự giải thích không rõ ràng, có thể nói, kết cấu của tiểu thuyết Kim Dung, hiểu nhầm là một trọng điểm, và xử lý những hiểu nhầm ấy thành công hay thất bại có ảnh hưởng lớn đến tác phẩm của ông.

Một kỹ thật khác mà Kim Dung cũng hay sử dụng đó là nhân vật chính vì lý do nào đó, có thể là bị điểm huyệt hay thân mang trọng thương, không tự chủ được, sẽ phát hiện ra những bí mật động trời. Điều này thường thấy trong hí kịch tây phương, nhưng được Kim Dung vận dụng một cách thần diệu. Có lúc chỉ nghe chứ không thấy, hay ngược lại cũng có lúc nghe và thấy nhưng không thể nhúng tay vào. Những sự sắp xếp ấy là góc đẹp nhất của tác giả tiểu thuyết võ hiệp. Sử dụng nhiều sẽ tạo nên phong cách của tác giả cho toàn bộ tác phẩm.

5. Một tác phẩm kém nhất của Kim Dung cũng có thể xem là hay, ông viết rất đều tay. Trong số nhà văn viết tiểu thuyết võ hiệp, rất ít người được như ông, có thể nói rằng, không có một tác phẩm nào thất bại. Tất cả các tác phẩm của ông đều được sửa sang rồi mới xuất bản

(Ôn Thụy An)

12.BÀN VỀ TIẾU NGẠO GIANG HỒ

(Trích "Tiếu ngạo giang hồ hân thưởng"-Ôn Thụy An)

Tại sao trong số mười bốn bộ sách của Kim Dung, tôi lại chọn bình tác phẩm này ? Có năm nguyên nhân sau :

- Điều thứ nhất, Tiếu ngạo giang hồ là tác phẩm sau này của Kim Dung, so với những tác phẩm lúc mới viết thì hay hơn về mọi phương diện.

- Thứ hai, trong Tiếu ngạo giang hồ nhân vật thì nhiều nhưng không tạp. Không như Liên Thành quyết, Tuyết Sơn Phi Hồ, Tiếu ngạo giang hồ bố cục nhân vật vừa phải, mỗi nhân vật đều nổi bật, hô ứng gắn bó với nhau, đem lại ấn tượng sâu sắc cho độc giả, ngoài ra, tình tiết câu chuyện, kỹ xảo thủ pháp, đều có những ưu điểm đã đề cập.

- Thứ ba, Tiếu ngạo giang hồ mang tất cả những đặc sắc của truyện Kim Dung : Kim Dung là bậc thầy trong việc xử lý những trận chiến dù lớn hay nhỏ, cách xử lý của ông khiến người đọc phải trông chờ, nín thở theo dõi. Cái gọi là đánh lớn trong Tiếu ngạo giang hồ có thể kể đến cảnh Lệnh Hồ Xung dẫn đầu quần hùng kéo nhau lên Thiếu Thất cứu Nhậm Doanh Doanh. Trận đánh nhỏ có thể nói như cuộc đấu giữa Lệnh Hồ Xung với Điền Bá Quang ở những tập đầu, "quần chiến"như đoạn Ma Giáo lên Hằng Sơn phô trương thanh thế trong lễ nhiệm chức chưởng môn của Lệnh Hồ Xung, hay Lâm Bình Chi "độc chiến" phái Thanh Thành. Nói tóm lại, điều đó thể hiện những hiểu biết của tác giả về văn hóa Trung Quốc và cách vận dụng những kiến thức ấy. Điều này làm cho Tiếu ngạo giang hồ trở nên tuyệt vời.

- Thứ tư, tôi rất thích tính cách của Lệnh Hồ Xung, một con người hào sảng, dễ kết giao bạn bè. Dương Quá trong Thần Điêu hiệp lữ tính tình phóng khoáng nhưng sống quá cô độc, người ta cảm giác cuộc đời của nhân vật này là một chuỗi ngày lạnh lẽo, làm bạn với một người như thế, vui cho anh ta thì ít mà buồn cùng anh ta thì nhiều, chẳng thể nào giúp được. Quách Tĩnh là một đại hiệp vì dân vì nước, đầy chính khí, nhưng lại quá ngay thẳng, làm bạn với những người thế này sẽ thấy mình quá thấp kém. Hồ Phỉ là bậc anh hùng hiếm có trên đời nhưng quá xa chúng ta, chỉ có trong sách vở. Trương Vô Kỵ thì thiếu tính quyết đoán, Viên Thừa Chí, Trần Gia Lạc là một chí sĩ, lại thiếu cá tính rõ ràng.

Vi Tiểu Bảo thì ai cũng thích nhưng tôi thì "kính nhi viễn chi", có người bảo kết bạn với anh ta là chuyện may mắn, bởi anh ta không bán đứng bạn bè, không đạo đức giả, nhưng tôi cảm thấy con người này không có nguyên tắc, tuy có nghĩa khí nhưng quá giảo hoạt, quá cơ tâm, thêm nữa anh ta quá may mắn. Về thực tế mà nói, anh ta là nhân vật "người" nhất, rất nhiều người thích anh ta, nhưng tôi thì khác.

So sánh với những nhân vật khác của Kim Dung tôi thấy thích Lệnh Hồ Xung hơn. Anh ta rất trung thành, sống có tình nghĩa, nhưng không đến nỗi quá đáng. Nhớ ơn thầy không phải vì lễ giáo mà phát ra từ cái tâm của anh ta. Tuy si mê tiểu sư muội nhưng vẫn biết đến những tình cảm của các cô gái khác dành cho mình, vẫn đối xử tử tế với họ. Con người Lệnh Hồ Xung khoáng đạt, hào sảng, làm việc nghĩa không cần để lại tên tuổi. Kết bạn không phân biệt sang hèn , bất luận Lam Phượng Hoàng, Huỳnh Bá Lưu, Đào Cốc Lục Tiên, Điền Bá Quang, Tổ Thiên Thu, Lão Đầu Tử,...đều là bạn của anh ta. Xả thân vì người khác dám giúp người đang bị truy sát dù thân mang trọng thương nên quen được Hướng Vấn Thiên.

Tuy đôi khi anh ta cũng yếu mềm trong những quyết định về tình yêu nhưng đó cũng là điểm đáng yêu của anh ta. Ít ra đối với danh lợi anh ta cũng có thể nâng lên được và sẵn sàng bỏ được.

- Thứ năm, tôi rất thích bộ Tiếu Ngạo Giang Hồ này, nhớ những lần đầu tiên đọc đều là bản giả, sau mới được xem bản thật (do chính tác giả tặng). Nhiều tác phẩm tôi (Ôn Thụy An) viết ra cũng bị ảnh hưởng của tác phẩm này rất nhỉều.

13.KIM DUNG VÀ TIỂU THUYẾT VÕ HIỆP CỦA ÔNG

Phạm Tú Châu.

Tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung là hiện tượng văn học quan trọng và nổi bật của Trung Quốc thế kỉ XX.Nổi bật trước hết là ở số lượng bạn đọc đông đảo.Theo thống kê của Cục xuất bản thống kê Trung Quốc,chỉ riên năm 1985,đã có tới hơn 40 triệu bản tiểu thuyết Kim Dung được bán ra.Khi đó mới chỉ có nhà xuất bản Bách hoa văn nghệ ở Thiên Tân mua bản quyền để được ấn hành bộ tiểu thuyết đầu tay của Kim Dung là Thư kiếm ân cừu lục,tới năm 1994,nhà xuất bản Tam liên thư điếm ở Bắc Kinh được tác giả trao quyền xuất bản trọn bộ Tác phẩm Kim Dung gồm 36 cuốn,cũng tức là trọn bộ 15 bộ tiểu thuyết võ hiệp,thì chỉ hai năm sau,bộ Tác phẩm Kim Dung này đã tái bản đến lần thứ ba.Như vậy lượng bạn đọc ở Trung Quốc đã là "con số thiên văn",không biết bao nhiêu mà kể.Nếu kể cả bạn đọc ở Hồng Kông và Đài Loan(bạn đọc Đài Loan từ 1978 mói được đọc tác phẩm của Kim Dung do chính Đài Loan in ấn)thì "con số thiên văn"ấy càng lớn hơn nữa.Tác phẩm Kim Dung còn rất phổ biến ở các nước châu á như Indonesia,Malaysia,Singapore,Thái Lan.Riêng Nhật Bản gần đây cũng bỏ tiền mua bản quyền Kim Dung để được in sách và quay phim truyện trên màn ảnh lớn.ở Việt Nam,bạn đọc của Kim Dung hẳn cũng không kém"con số thiên văn"là mấy.

Số lượng bạn đọc đông đảo chứng tỏ tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung có sức hấp dẫn sâu xa từ nội dung đến hình thức và đã được thời gian thử thách hàng mấy chục năm qua.Về ưu điểm và thành công này,gần đây trên Kiến thức ngày nay,Thế giới mới.. đều đã đề cập bước đầu.Trong khi đó ,người Trung Quốc với ưu thế sẵn có,đã nghiên cứu khá kĩ hiện tượng văn học nổi bật ấy của nước họ.

Như chúng ta đều biết,tiểu thuyết võ hiệp là hình thức văn học riêng có của Trung Hoa,ra đời từ rất sớm.Thể loại văn học này bắt nguồn từ gốc gác văn hoá của những lớp người "giang hồ quen thói vẫy vùng" đầy sức hẫp dẫn thần kì có từ xa xưa.Quá trình phát triển của thể loại có mối liên hệ chặt chẽ với sự tồn vong của thế giới những con người vì nghĩa quên thân,thay trời hành đạo.Tiểu thuyết võ hiệp ra đời từ sử truyện,mà sử truyện thì nói chung phản ánh trung thực tình hình hành hiệp đương thời.Thời Xuân Thu,Chiến Quốc,chư hầu cát cứ tranh hùng là thời kì dành nhiều đất dụng võ cho nhân vật hành hiệp.Những sách có từ trước thời Tần như Tả truyện,Quốc ngữ,Chiến Quốc sách đều dành số trang đáng kể để viết về những nhân vật nghĩa hiệp ấy.Đến Sử kí thì Tư Mã Thiên đời Hán đã dành hẳn một vài chương để ghi chép và ca ngợi họ như các chương Du hiệp liệt truyện,Thích khách liệt truyện,Ngụy công tử liệt truyện.Cuối đời Đông Hán,truyện võ hiệp đầu tiên ra đời,đó là truyện Thái tử Đan nước Yên,trong đó nhân vật hiệp sĩ giang hồ Kinh Kha được thể hiện thành công hơn cả.Tuy nhiên tiểu thuyết võ hiệp chín muồi thì đến đời Đường mới có,đó là các truyện Hồng Tuyến,Côn Lôn Nô,Vô Song truyện,Nhiếp Ân nương và nhất là Cầu tu khách truyện(chuyện người khách râu xoắn)của Đỗ Quang Bình.Sở dĩ tiểu thuyết võ hiệp đời Đường phát triển với số lượng lớn,nghệ thuật viết truyện tiến một bước dài là do tinh thần hành hiệp được coi trọng và đề cao.Bởi vậy không chỉ có tiểu thuyết mà còn có nhiều thơ văn ca ngợi tinh thần đó,như Cổ kiếm thiên của Quách Chấn,Hiệp khách hành của Lí Bạch v.v..Đời Tống,Nguyên cũng có rất nhiều truyện võ hiệp.Kinh tế hàng hoá phồn vinh thúc đẩy văn hoá thị dân phát triển,trong các trà lâu,tửu quán,kĩ viện đều có các nghệ nhân kể truyện,lôi cuốn khán giả bằng những câu truyện hành hiệp phi thừong.Sang đời Minh,chuyện kể dân gian càng thịnh hành hơn nữa,rất nhiều truyện võ hiệp được chỉnh lí từ những tư liệu đó mà thành,do vậy truyện có nhiều tình tiết phong phú hơn,cấu trúc hoàn hảo hơn,chẳng hạn Triệu Thế Tổ thiên lí tống Kinh Nương(Triệu Khuông Dẫn nghìn dặm đưa Kinh Nương).Dương Khiêm Chi khách phảng ngộ hiệp tăng(Dương Khiêm Chi trên thuyền gặp sư nghĩa hiệp)v.v..trong bộ Tam ngôn rất nổi tiếng.

Trên đây là những tiểu thuyết võ hiệp đoản thiên,còn tiểu thuyết võ hiệp trường thiên thì Thuỷ Hử là bộ danh tác mở đầu,ra đời vào khoảng cuối đời Nguyên,đầu đời Minh.Bộ trường thiên nổi tiếng thứ hai là Tam hiệp ngũ nghĩa do Thạch Ngọc Côn đời Thanh chỉnh lí(phim truyền hình nhiều tập Bao Thanh Thiên dựa vào đấy mà cải biên phỏng theo).Nhưng đến cuối đời Thanh và đầu đời Dân Quốc,tiểu thuyết võ hiệp loại rẻ tiền tràn lan đến mức gây hoạ.Tác giả chỉ cốt chiều theo thị hiếu kém cỏi của tầng lớp người đọc nào đó,mặc sức bịa đặt,lời văn thô thiển,làm hại bạn đọc trẻ tuổi khiến phụ huynh họ và nhà trường phải cấm,không cho đọc.Tiểu thuyết võ hiệp được chấn hưng,có bạn đọc đông đảo như ngày nay là nhờ công sức không nhỏ của các nhà tiểu thuyết võ hiệp phái mói ở Đài Loan và Hồng Kông như Ngoạ Long Sinh,Lương Vũ Sinh,Nghê Khuông,Cổ Long,Kim Dung..

Tuy nhiên,trong số các nhà văn viết tiểu thuyết võ hiệp phái mới "cứng cựa"trên đây,chỉ riêng Kim Dung được tôn là "minh chủ" của thể loại văn học này ở Đài Loan và Hồng Kông.Chỉ riêng Kim Dung được trường đại học danh tiếng lừng lẫy khắp Trung Quốc là Đại học Bắc Kinh mời làm giáo sư danh dự của trường.Chỉ riêng Kim Dung được nhiều giáo sư ở trường Đại học Cambridge ở Anh cùng một số trường đại học khác ở Mỹ bỏ công nghiên cứu.Chỉ riêng Kim Dung được một nhà Hán học người úc là ông Milphode(tạm phiên âm từ âm Hán Minh Phúc Đức)dành nhiều năms để biên dịch toàn bộ tác phẩm Kim Dung gồm 15 bộ tiểu thuyết ra tiếng Anh,mặc dù nhiều cuốn trong số đó đã được người Hồng Kông dịch ra tiếng Anh từ trước.Năm 1994,ông đã dịch đến quyển cuối cùng là Lộc đỉnh Kí,do nhà xuất bản trường đại học quốc lập úc xuất bản.Trong lời tựa cho bản dịch này,nhà Hán học người úc viết:

"Tôi tin chắc rằng những tác phẩm này nên có mặt trong hàng ngũ các tác phẩm văn học nghiêm túc cuả thế giói.Chúng hoàn toàn có thể đứng ngang hàng với những tác phẩm nổi tiếng của Walter Scott,Dumas bố,Stevenson cùng nhiều tác giả ưu tú khác".

Để giải mã cho hiện tượng trên,các nhà nghiên cứu Trung Quốc đã vận dụng phương pháp nghiên cứu so sánh,đặt tác phẩm của Kim Dung trong lịch sử tiểu thuyết võ hiệp truyền thống và hiện đại mà nghiên cứu,từ đó họ đã rút ra những đặc điểm của tiểu thuýêt võ hiệp Kim Dung như sau:

1.Kim Dung có tri thức lịch sử rất phong phú,hiểu biết khá sâu về hai triều Minh và Thanh,tiểu thuyết của ông thường lấy bối cảnh là các triều Tống,Kim,Nguyên,Minh và Thanh.Trong tiểu thuyết,tác giả thường kết hợp chuyện giang hồ với chuyện triều đình,thường đối chiếu hiệp khách với hoàng đế.Chẳng hạn như trong Thư kiếm ân cừu lục là mối quan hệ giữa Trần Gia Lạc với Càn Long,trong Thiên Long bát bộ là hiệp khách với các vua nước Đại Lý,nứoc Đại Liêu,nước Tây Hạ..;trong Lộc đỉnh kí là Vi Tiểu Bảo với vua Khang Hy.Viết về lịch sử theo cách đối chiếu là một sáng tạo mới,qua đó người đọc thấy được tính tư tưởng của tác phẩm,thể hiện ở đại nghĩa dân tộc và tinh thần yêu nước mãnh liệt,hơn nữa còn thấy được tư tưởng triết học truyền thống uyên bác,sâu xa.

2.Kim Dung rất coi trọng việc xây dựng nhân vật,dùng nhân vật để dẫn dắt tình tiết câu truyện phát triển.Hình tượng nhân vật trong tiểu thuyết của ông thường rất sống động,để lại ấn tượng sâu sắc,đó là anh hùng bi kịch Kiều Phong đại trí đại dũng,tráng chí vời vợi,rất giàu tình cảm và lòng nhân ái trong Thiên Long bát bộ,là đại hiệp Quách Tĩnh thuần phác,đôn hậu,tấm lòng rộng mở,đặt chữ nghĩa lên trên hết trong Anh hùng xạ điêu,là Lệnh Hồ Xung tài trí hơn người,tốt bụng,chân thành,quang minh lỗi lạc,phóng khoáng cùng Nhạc Bất Quần quân tử giả hiệu,Tả Lãnh Thiền ham hố bá quyền trong Tiếu Ngạo giang hồ v.v..Tiểu thuyết của Kim Dung đã khắc phục được nhược điểm nhân vật loại hình hoá do không chú trọng miêu tả tính cách nhân vật của tiểu thuyết võ hiệp truyền thống,vì vậy đây cũng là điểm sáng tạo của Kim Dung.

3.Tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung hầu hết là trường thiên(12 bộ),tình tiết cốt truyện luôn thay đổi biến hoá,khi buông khi bắt rất cuốn hút người đọc.Với kết cấu lớn,thường là 40 đến 50 hồi,tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung có lớp lang,mạch lạc chặt chẽ hơn tiểu thuyết võ hiệp truyền thống quá dài đến hàng trăm hồi:đầu đề mỗi hồi cũng không rập khuôn,khi thì hai câu thất ngôn như trong Thư kiếm ân cừu lục,khi thì bốn chữ hoặc một câu đơn như trong Anh hùng xạ điêu hay Phi Hồ ngoại truyện.Có thể nói,chỉ một đầu đề mỗi hồi,tác giả cũng đã chú ý cân nhắc và đổi mới.

4.Tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung kết hợp khéo léo,hài hoà giữa cao nhã và đại chúng,đó là điểm cuốn hút nghệ thuật mà ít tác giả đã có được.Xưa nay Trung Quốc thường tồn tại song song hai bộ lịch sử văn học,bộ gồm những tác phẩm cao nhã,kinh điển là bộ Lịch sử văn học Trung Quốc,bộ gồm những tác phẩm đại chúng là bộ Lịch Sử văn học thông tục Trung Quốc(Trung Quốc tục văn học sử).Tác phẩm của Kim Dung không thuộc một bộ sách nào trong hai cuốn trên mà thuộc về bộ "Trung Quốc nhã tục văn học sử"trong tương lai.Đây là ranh giới nghệ thuật và ý tưởng thẩm mĩ mà biết bao nhà văn,nhà thơ các đời đeo đuổi song không phải ai cũng thành công.

Đặc điểm thứ tư trên đây giành được sự quan tâm của nhiều nhà phê bình nhất .

Có ý kiến nói,thơ,từ,tiểu thuyết,hí kịch truyền thống của Trung Quốc xưa nay đều biết kết hợp hài hoà giữa cao nhã và đại chúng.Đây là điểm mấu chốt khiến cho những thơ,từ,tiểu thuyết,hí kịch đó có đông đảo bạn đọc từ xưa đến nay.Sau này,đường lối văn nghệ của Đảng Cộng Sản Trung Quốc chủ trương "phổ cập trên cơ sơ nâng cao,nâng cao trên cơ sở phổ cập" là cũng nhằm làm cho tác phẩm văn nghệ đến với số đông quần chúng bạn đọc.Kết hợp giữa cao nhã và đại chúng là một phần nội dung của chủ trương trên,trong đó bao gồm nội dung,song chủ yếu hơn vẫn là kĩ xảo điêu luyện về nghệ thuật biểu hiện(Cho đến trước khi có đường lối văn nghệ tả khuynh hồi "Cách Mạng văn hoá").Tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung đã đạt được điểm này(Dẫn theo Lâm Hoán Bình:Về vấn đề xếp lại ngôi thứ trên văn đàn,tạp chí Lí luận và phê bình văn nghệ,số 3 năm 1995).

Sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa cao nhã và đại chúng ở tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung còn biểu hiện ở chỗ tác giả kế thừa có chọn lọc tiểu thuyết võ hiệp truyền thống,biết bỏ cặn bã,lấy tinh hoa.Truyện của ông vừa có"mười tám ban võ nghệ truyền thống"lại vừa có"mười tám ban võ nghệ" của riêng mình,tức tài nghệ và sự học rộng của ông.Về mặt kĩ xảo sáng tác,Kim Dung đã vận dụng thủ pháp biểu hiện của văn học mới bản địa kết hợp với thủ pháp văn học cận đại phương Tây.Người đọc có thể thấy thơ,từ,ca,phú,cầm,kì,thi,họa,đạo(Nho,Phật,Thiên chúa..)và cả chư tử bách gia đều xuất hiện dưới ngòi bút ông đúng nơi,đúng lúc,khiến cho ai nấyđều say sưa hưởng thụ cái đẹp và nghệ thuật trong tiểu thuyết của ông.Tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung có thể gọi là"kịch võ lời văn",với nghĩa ngụ văn hoá qua những pha đánh võ,mượn kì ảo để răn gửi tình đời,văn võ cùng lúc được phô bày để làm nổi bật lẫn nhau khiến cho truyện đạt tới ranh giới người nhã kẻ tục cùng thưởng thức chung,không phân biệt trai gái,già trẻ.Điều đó khiến tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung khác hẳn thứ tiểu thuyết đánh võ ầm ĩ,huyên náo đang có trên các sạp sách hiện nay.Loại này,thứ thì có võ nhưng không có hiệp,thứ thì có hiệp mà không võ,lối viết rẻ tiền,chữ nghĩa thô sơ,là một dạng quái thai trong làng tiểu thuyết võ hiệp,về căn bản không thể đứng chung cùng tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung được(Dẫn theo Lưu Khai Nông Bàn về tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung,Văn nghệ báo,22-7-1997).

Có ý kiến còn đi sâu hơn để phân tích mối quan hệ giữa võ và hiệp trong tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung trên cơ sở so sánh với tiểu thuyết cùng lọai của Lương Vũ Sinh và Cổ Long.Lương Vũ Sinh yêu cầu sáng tác tiểu thuyết võ hiệp của mình phải đạt tới"thà không võ chứ không thể không hiệp",cho nên ông được xếp vào hàng phái lí tưởng và phái chính thống.Trái lại Cổ Long thuộc phái hiện thực và phái hiện đại,ông chủ trương trong tiểu thuyết võ hiệp của mình"võ công không phải để mà xem mà nhằm trúng người",một khi đao đã bay đi,không khi nào bay vào khoảng trống.Nhưng đao pháp đó thuộc môn phái nào,có bí quyết gì thì Cổ Long không chú ý,cho đó là việc của bạn đọc.Ngược lại,Lương Vũ Sinh hay sử dụng Thiên Sơn kiếm pháp,tuy đó là tuyệt nghệ nhưng hồi trước hồi sau,dạy đi dạy lại,truyền tới truyền lui,đời này đời khác bạn đọc xem đến phát ngán cũng chẳng hề gì.Như vậy ,võ đối với Lương Vũ Sinh và Cổ Long tuy"dị mộng"nhưng"đồng sàng",nghĩa là không thật để tâm vào võ.

Tiểu thuyết Kim Dung đã đành coi trọng nhân vật nhưng lại không xem thường việc miêu tả nghệ thuật võ công.Võ công trong tiểu thuyết Kim Dung cố nhiên cũng nhằm sát hại kẻ thù ,song điều chủ chốt trong miêu tả là để cho bạn đọc thưởng thức.Ông miêu tả võ công rất kĩ nhưng không rập khuôn,cứng nhắc mà vô cùng sinh động,luôn luôn đổi mới.Sơ bộ thống kê,Kim Dung đề cập tới hàng ngàn môn võ công mà những võ công này chẳng những mới mẻ lạ kì mà còn đẹp và thú vị.Võ công trong tiểu thuyết Kim Dung không phải là phụ liệu mà cùng là món ăn đầu vị bên cạnh món đầu vị khác thuộc văn,và phải nếm náp thật kĩ mới nhận ra vị ngon.Có thể nói Kim Dung đã nâng võ công trong tác phẩm của mình lên tầm võ học ngang với văn học,triết học,nhân tài học v.v..để cho bạn đọc thưởng thức và ngẫm nghĩ(Dẫn theo Trần Mặc,Võ học trong tiểu thuyết Kim Dung)

Ngoài ý kiến phân tích tiểu thuyết Kim Dung qua mối quan hệ giữa võ và văn,võ và hiệp,so sánh Kim Dung với các tác giả cùng thời trong phạm vi thể lọai theo chiều ngang thì có ý kiến khác lại so sánh tiểu thuyết của ông với tiểu thuyết võ hiệp truyền thống theo chiều dọc và rút ra ưu điểm,cũng là sức cuốn hút chủ yếu trong tiểu thuyết Kim Dung,đó là tinh thần hiện đại.Tinh thần này thể hiện ở chỗ:

a)Tiểu thuyết Kim Dung về căn bản phủ định và phê bình quan niệm khoái ý đền ơn trả oán,tuỳ tiện gây chết chóc trong tiểu thuyết võ hiệp truyền thống.

b)Ngoài bộ truyện đầu tay ra,cùng với góc nhìn lịch sử của tác giả ngày một rộng mở,tư tưởng và nghệ thuật viết truyện ngày một chín muồi,nghĩa là ngày càng đột phá ra khỏi quan niệm bản vị hẹp hòi về dân tộc Hán,tiểu thuyết Kim Dung đã có cái nhìn bình đẳng giữa các dân tộc Trung Hoa,khẳng định địa vị và tác dụng của nhiều dân tộc thiểu số anh em trong sự phát triển của lịch sử nưóc nhà.Về điểm này,trong lời tựa chung cho bộ Tác phẩm Kim Dung,tác giả cũng đã đề cập tới.

c)Kim Dung có suy nghĩ và cân nhắc rất nhiều khi viết về những cuộc đấu tranh giữa chính và tà,giữa hiệp nghĩa và xã hội đen,giữa danh môn chính phái và ma giáo.Tiểu thuyết võ hiệp truyền thống do xuất phát từ quan niệm chính thống cũ kĩ nên thường là trắng đen rõ ràng về vấn đề chính tà:đã chính thì cực chính,đã tà thì cực tà.Còn trong tiểu thuyết Kim Dung,cuộc đấu tranh giữa chính và tà vô cùng phức tạp;có lúc chính tà đối lập gay gắt,có lúc vì lợi ích riêng tư nào đó,chính ngả sang tà,hoặc chính là danh,tà là thực,chính và tà không những là cuộc đấu tranh giữa môn phái khác nhau,con người khác nhau mà còn có thể diễn ra ở một con người.Tiêu chuẩn đánh giá chính tà của Kim dung dựa trên lợi ích của số đông và ông đã để cho nhân vật nói hộ mình quan điểm này:"Xưa nay anh hùng được người đời khâm phục,người đời sau hâm mộ ắt phải là người yêu dân,mang lại hạnh phúc cho dân;giết hại nhiều người mà nên danh chưa chắc đã được gọi là anh hùng"(Lời Quách Tĩnh trong Anh hùng xạ điêu).

d)Tiểu thuyết võ hiệp truyền thống thường rập khuôn theo mô thức:hành hiệp-báo đền ơn nước-phong ấm phong hầu,giàu sang.Lí tưởng nhân sinh cũng gồm trong mấy chữ"hiển vinh,con cái,tác oai tác phúc".Tới tiểu thuyết võ hiệp đời Thanh,nhân vật chính đều là quan lại hào hiệp trung nghĩa mà thực chất là phục vụ cho cung đình triều Thanh,không có nhân cách độc lập.Còn tiểu thuyết Kim Dung tuy cũng viết về đời xưa,song khuynh hướng tư tưởng khác xa,chẳng những đã chia tay với quan niệm giá trị mang tính phong kiến chồng sang vợ quý trên đây mà còn toát lên tinh thần giải phóng cá tính và độc lập về nhân cách.Trong tiểu thuyết Kim Dung có rất nhiều nhân vật chí tính,hành hiệp trượng nghĩa theo bản tính của mình,tính mạng có thể hi sinh song quyết không làm tôi tớ khuyển ưng cho quan phủ.

e)Tình yêu nam nữ dưới bút Kim Dung cũng là tình yêu lí tưởng với tình cảm thuần nhất,không vương mùi tục,không có nhân tố lợi, hại về mặt kinh tế xã hội.Ông cũng cho nhân vật Hồ Nhất Đao nói lên quan niệm chọn bạn đời như thế:"Cái quý giá nhất trên đời là tình yêu chân thành giữa hai trái tim mến mộ nhau chứ quyết không phải là kho báu có giá trị hàng mấy toà thành"(Nghiêm Gia Viêm:Bàn về tinh thần hiện đại trong tiểu thuyết Kim Dung,tạp chí Nghiên cứu lí luận văn nghệ,số 4 năm 1996).

Bên cạnh những ý kiến đánh giá khách quan tiểu thuyết Kim Dung như trên,còn có những ý kiến cực đoan về phía này hoặc phía kia.Về phía khẳng định,có ý kiến cho tiểu thuýêt Kim Dung là phương hướng phát triển của văn học đương đại Trung Quốc.ý kiến này không thoả đáng ở chỗ tiểu thuyết võ hiệp chỉ là một loại hình của tiểu thuyết nói chung,có bối cảnh là lịch sử đời trước.Văn học đương đại Trung Quốc không thể hoàn toàn theo hướng này kể cả theo hướng người nhã kẻ tục đều thưởng thức.Văn học đương đại phải có những tác phẩm lớn tiêu biểu cho thời đại.Những ý kiến khác cho tác phẩm Kim Dung"lẳng lặng làm một cuộc cách mạng văn học"hoặc"Kim dung là người đầu tiên nối bước Hồng Lâu Mộng",hoặc"Tiểu thuyết Kim Dung là tác phẩm văn học không tiền khoán hậu"v.v..đều có những khía cạnh thái quá,thiếu chừng mực và thoả đáng.

Về phía phê bình,có ý kiến"sổ toẹt"Kim Dung như ý kiến của Ô Liệt Sơn đăng trên báo Nam phương cuối tuần ngày 2/12/1964.Ông cho rằng:"Từ góc độ nhận thức lịch sử mà xét,nhân vật võ hiệp chẳng có gì đáng kể đối với sự phát triển của xã hội Trung Quốc;từ góc độ phương hướng giá trị mà xét,cho dù có miêu tả đạo đức con nhà võ khi hành hiệp siêu phàm đến đâu thì cũng không làm thay đổi được bản chất phản xã hội vi phạm pháp luật khi dụng võ..;về góc độ giải trí văn hoá mà nói,tiểu thuyết võ hiệp cũng là thứ văn hoá tiêu khiển,so với tiểu thuyết trinh thám như Sherlock phá án thì còn thua"(Xem bài Cự tuyệt Kim Dung).

Một số trí thức Đài Loan cũng chê tác phẩm Kim Dung-mà đúng hơn là chê thể loại tiểu thuyết võ hiệp,cho rằng"không khoa học,không hợp lí".Nhà nghiên cứu Đài Loan Đổng Thiên Lí đã bác bỏ ý kiến này bởi không thể lấy tiêu chuẩn khoa học và hợp lí để đánh giá tiểu thuyết(Xem Đổng Thiên Lí:Bình phẩm tiểu thuyết Kim Dung,trong Tùng thư nghiên cứu Kim Dung,Công ty sự nghiệp xuất bản Viễn Cảnh xuất bản,Đài Loan,1997).Những điều "phi lí,không khoa học" đó lại được nữ văn sĩ đại lục Trần Tổ Phần cho là đã góp phần tạo nên"đồng thoại cho người lớn"trong thời đại trí tưởng tượng ít dần như ngày nay(Xem Quang Minh nhật báo,ngày 10 tháng 12 năm 1994).

Nhìn chung,tác phẩm Kim Dung có được khen và cũng bị chê,song số người khen chiếm số đông áp đảo.Hiện tượng này chẳng khác gì cảnh"hâm rượu nhắm với mơ xanh bàn luận về anh hùng" giữa Tào Tháo và Lưu Bị trong Tam Quốc diễn nghĩa xưa kia.

Còn bản thân Kim Dung,ông tự đánh giá rất khiêm tốn về tác phẩm của mình:"Bản thân tiểu thuyết võ hiệp là có tính tiêu khiển,nhưng tôi mong chúng ít nhiều cũng phải có triết lí nhân sinh và tư tưởng để tác giả có thể thông qua truyện mà biểu hiện một số nhìn nhận của mình về xã hội"(Dẫn theo Nghiêm Gia Viêm.Bđd).Nắm vững hạn chế của thể lọai,ông nói thêm:"Cốt truyện trong tiểu thuyết võ hiệp không tránh khỏi có quá nhiều ngẫu nhiên và li kì,song tôi luôn cố gắng tạo được một điều là võ công có thể không tồn tại trong cuộc sống thực nhưng tính cách của con người thì có thể có và bao giờ cũng vậy"(Lời tựa cho cuốn Thần điêu hiệp lữ).Trên giảng đường trường Đại học Bắc Kinh,trả lời câu hỏi:"Tiểu thuyết võ hiệp có ảnh hưởng xấu không"của sinh viên nêu ra,Kim Dung đáp:"Nếu đọc tiểu thuyết võ hiệp mà không biết tiết chế,không có điều độ,làm trở ngại đến thi cử học hành thì đó là ảnh hưởng xấu,hơn nữa còn có thể có ảnh hưởng về mặt phát sinh bạo lực.Đương nhiên đó là đối với số thanh niên lêu lổng trên đường,còn đối với sinh viên thì không"(Dẫn theo Tống Điệp:Suy nghĩ về chữ "nghĩa" trong tiểu thuyết võ hiệp,tạp chí Lí luận và phê bình văn nghệ, số 5/1995).

14.CUỘC CHƠI CỦA VI TIỂU BẢO

Tác giả: Huỳnh ngọc Chiến

Nguồn: Tạp chí Kiến Thức Ngày Nay

Theo triết gia cổ đại Hy Lạp Heraclitus thì cuộc đời là một trò chơi lớn, một "Grand Jeu". Nhà thơ Tô Đông Pha nói "Tạo vật hà như đồng tử hý?"(Tạo vật sao giống như đứa trẻ chơi đùa?) Đến đấng Tạo Hóa toàn năng còn là một đứa bé thích chơi đùa, huống gì con người bình phàm chúng ta? Mà cuộc chơi có thể hiểu theo nhiều cách. Ngồi thiền định suốt bao năm tháng dưới gốc bồ đề, suốt đời rong ruổi khắp nơi thuyết pháp cứu độ chúng sinh, để rồi cuối đời ngồi tại đạo tràng bảo"Bốn mươi chín năm qua ta chưa nói lời nào"(!) như đức Phật cũng là một cách chơi. Viết "Đoạn Trường Tân Thanh" làm tan nát cả lòng người, và làm chấn động cả khối tam giáo phương Đông, nhưng lại khiêm tốn bảo"Mua vui cũng được một vài trống canh" như Nguyễn Du cũng là một cách chơi. Viết một cuốn sách vô tiền khoáng hậu, đặt lại cho cơ sở cho mấy ngàn năm triết học phương Tây, nhưng lại ỡm ờ bảo đó chỉ là "Siêu hình học nhập môn" (Introduction à la Metaphýique) như Heidegger cũng là một cách chơi. Từ chối quan tước. cứ ngồi câu cá để "du tâm ư đạn" (đem chơi lòng vào chỗ nhạt), viết Nam Hoa kinh làm kinh động cổ kim như Trang Tử cũng là một cách chơi. Chán chường thi ca nhưng cứ mãi miết làm thơ như Bùi Giáng cũng là một cách chơi. Hùng tâm vạn trượng nhưng lại làm một tên bán thịt lợn giữa chợ thành Đại Lương, để rồi giúp Nguy Công tử lập nên công lớn như Chu Hợi thời Chiến Quốc cũng là một cách chơi. Biết rằng có giết được Tần Thủy Hoàng cũng chỉ tạo ra hàng trăm tên bạo chúa khác, nhưng vì cảm nghĩa nên vẫn mang trủy thủ vượt qua sông Dịch, vờ múa vu vơ giữa triều đình vua Tần để rồi bị giết chết như Kinh Kha cũng là một cách chơi. Và có một nhân vật của Kim Dung còn "chơi" hơn thế nữa, chơi những trận quỷ khốc thần sầu, xem cõi đời là một trò chơi lớn và đàn bà là một canh bạc lớn để đem hết "vốn liếng" ra chơi theo kiểu "nhất chín nhì bù". Đó chính là VI TIỂU BẢO !

Trong tất cả các sáng tác của Kim Dung, Lộc Đỉnh Ký là một tác phẩm hoàn toàn khác biệt với các tác phẩm khác. Không còn những hoang sơn u cốc có cao nhân kỳ sĩ cư trú để truyền lại cho nhân vật chính những võ công đặc dị chấn động giang hồ. Cũng không còn những cá nhân mang hùng tài đại lược lăm le muốn làm minh chủ võ lâm. Tất cả hoạt động của bang hội hay các phe phái đều diễn ra trên một bối cảnh chính trị, đó là nhằm chiếm được bộ Tứ Thập Nhị Chương Kinh. Võ công của nhân vật chính Vi Tiểu Bảo bị đẩy xuống hàng thứ yếu, và thay vào đó là thói lưu manh cùng những trận "võ mồm"!

Trong văn học, có lẽ khó có nhân vật nào quỷ quyệt lưu manh như Vi Tiểu Bảo. Từ một đứa con hoang của cô gái điếm trong kỹ viện, tình cờ bị bắt vào hoàng cung, phải dùng đủ mọi thủ đoạn để tồn tại, chưa tới 20 mươi tuổi mà Vi Tiểu Bảo đã nhanh chóng trở thành một người bạn của vua Khang Hy, một quan đại thần đến tước công, một "bộ trưởng ngoại giao" tài ba lỗi lạc trong việc ngăn không cho Mông Cổ và Tây Tạng cấu kết với Ngô Tam Quế đánh lại triều đình, một vị anh hùng trong chốn giang hồ, Hương chủ Thanh Mộc đường của Thiên Địa hội, một phu quân của bảy bà vợ xinh như mộng. Thậm chí các bậc di thần của triều Minh còn đề nghị y làm hoàng đế của "chính phủ lâm thời phản Thanh phục Minh"!

Vi Tiểu Bảo đã đem thói lưu manh học được ở kỹ viện và dùng máu mê cờ bạc để đối phó với mọi tình huống giữa giang hồ và chốn cung đình. Oái ăm thay tất cả đều trót lọt! Những lúc phải đối phó với hoàn cảnh sinh tử cận kề, cần phải xác định "thái độ quan điểm" để trở thành hoặc kẻ thù hoặc ân nhân của những người xa lạ, thì Vi Tiểu Bảo quyết định đem sinh mạng ra chơi theo kiểu đánh bạc. Tất cả vốn liếng đem ra đánh sạch một ván theo kiểu "Được ăn cả, ngã về không". Và may mắn là lần nào y cũng thắng. Khi bị quần hùng Thiên Địa Hội bắt đem đi, VTB tính toán mãi không biết họ là bạn hay kẻ thù của Ngao Bái, nhưng y đã đánh liều thoá mạ Ngao Bái không tiếc lời. Và canh bạc đầu tiên đó đã đem lại cho y chức Hương chủ Thanh Mộc đường. Cũng như khi bị vây khốn trong ngôi nhà ma của họ Trang, VTB sau khi cân nhắc lại liều mạng chửi bới Ngao Bái, và canh bạc này đã giúp "Vi tướng công" trở thành ân nhân của nhà họ Trang, đồng thời lại được tặng một cô Song Nhi diễm kiều hiền thục!

Máu mê gái của Vi Tiểu Bảo cũng bồng bột như máu mê cờ bạc. Gặp cô nào đẹp, y cũng đều so sánh ngay với các kỹ nữ của Lệ Xuân Viện, là cái nhà chứa nơi y xuất thân. Các nhân vật A Kha hay Hồng phu nhân đều khiến y mê tít đến điên đảo thần hồn, nhưng y thừa thông minh để hiểu rằng trong "canh bạc tình yêu" này, y không thể thắng trong một cuộc chơi sòng phẳng, mà thậm chí có thể dễ dàng mất mạng, nên buộc lòng phải dùng đến trò láu cá. Khi về thăm lại mẹ trong Lệ Xuân Viện, VTB lại dùng Mê Xuân Tửu gây mê các người đẹp, trong đó có cả A Kha, Hồng phu nhân, rồi chiếm đoạt họ để họ phải mang bầu với mình. Chiếm đoạt một lúc mấy người đẹp tuyệt trần bằng thủ đoạn lưu manh, đó là một điều đáng để người đọc phải chau mày nhăn mặt!

Nhưng nếu chỉ dựa vào thói lưu manh vô lại để luồn lách và tồn tại thì "cuộc chơi" của VTB có lẽ đã sớm phải chấm dứt dưới tay của Khang Hy rồi. VTB là chú nhỏ láu cá, mồm mép trơn tuột như bôi mỡ, giảo hoạt đủ cách nhưng có điểm khả thủ là rất tôn trọng đạo nghĩa bạn bè, trong cung đình cũng như giữa chốn giang hồ. Đó là điều vua Khang Hy cảm nhận được, nên ông mới tha thứ cho nhựng việc làm động trời của tên "Tiểu Quế Tử" VTB. Tính tình hào hiệp trong tiền bạc và tấm lòng đầy nghĩa khí của VTB đối với bạn bè đã giúp cho VTB nổi bật lên những cái xấu xa, và che khuất đi những chuyện lưu manh láu cá. Nhận ra được ưu điểm ấy ở VTB, vua Khang Hy quả có "con mắt trong nghìn thu": thấy điều lợi phải nghĩ đến điều nghĩa. Cái đạo lý đơn giản đó rất khó lòng thực hiện trong đời thường.

Thời Chiến Quốc, công tử nước Nguy là Nguy Tề đắc tội với Phạm Thư là tể tướng nước Tần. Phạm Thư hạ lệnh cho vua Ngụy phải nộp đầu Nguy Tề. nếu không sẽ đem quân làm cỏ thành Đại Lương. Ngụy Tề bèn bỏ trốn đến nước Triệu, nương náu nhà tướng quốc nước Triệu là Ngu Khanh. Vua Triệu vì sợ uy của nước Tần nên muốn bắt Nguy Tề đem nộp, Ngu Khanh thấy không thể can ngăn vua được bèn cởi ấn tướng quốc, nửa đêm cùng Nguy Tề trốn đi. Vứt bỏ lợi danh vì bạn thiết. Một nhân cách sáng ngời nghĩa khí của người xưa, luôn được người đời sau ca ngợi. Khi vua Khang Hy "tương kế tựu kế" dồn tất cả quần hùng Thiên Địa hội và Mộc Vương phủ vào phủ Tử tước của VTB để tận diệt bằng đại pháo, thì VTB dám vứt bỏ tất cả tài sản lẫn quyền lực, như vứt một đôi dép rách, để ban đêm cùng họ trốn đi. VTB luôn bị xem là kẻ lưu manh vô lại, nhưng thử hỏi tấm lòng vì đạo nghĩa giang hồ đó có khác gì nhân cách của một Ngu Khanh?

Nguy Tề là tai họa cho Ngu Khanh, cũng như quần hùng Thiên Địa hội và Mộc Vương phủ là tai họa cho VTB, nhưng cả Ngu Khanh và VTB đều có chung một điểm là sẵn sàng hy sinh tất cả mọi vật ngoại thân quý báu để cứu những người bạn, dù biết rằng điều đó có thể đem tới cho mình họa sát thân. Nghĩa cử đối với thầy và bạn bè như thế đủ cảm động lòng người trong muôn thuở. Trong đời, có biết bao có trí thức chỉ vì hai chữ danh và lợi mà sẵn sàng hại bạn bè thân thiết đến thân bại danh liệt, dùng bè bạn làm bậc thang đi lên cái gọi là công danh, thử hỏi tư cách những kẻ đó có xứng đáng để xách dép cho tên "oắt con lưu manh" VTB hay không? Trong Lộc Đỉnh Ký, Kim Dung bỏ qua yếu tố "võ", nhưng không quên yếu tố "hiệp". mới là cái làm cho khách giang hồ được gọi là khách giang hồ!

Trận "chơi" của quỷ khốc thần sầu đó đã khiến cho VTB phải "mất sạch vốn liếng" và sống lưu lạc trên hoang đảo. Nhưng bù lại y có được bảy người vợ đẹp. Lần cuối cùng khi vua Khang Hy đồng ý tha cho về lại cung, thân làm đến bực công khanh, uy quyền, tiền bạc trùm đời, vậy mà VTB dám "chơi" tiếp một việc tày đình nữa là tìm cách "di hoa tiếp mộc", đem đánh tráo Phùng Tích Phạm tại pháp trường để cứu tội phạm của triều đình là Mao Thập Bát, cũng chỉ vì đạo nghĩa giang hồ. Và biết rằng không thể che giấu mãi việc làm tày đình đó với Khang Hy, nên VTB dựng nên hiện trường giả bị bọn cướp bắt đi, quyết tâm vứt bỏ tất cả để đem vợ con trốn về Dương Châu, sống cuộc đời khoái lạc của một phú ông. VTB vô hình trung lại học được tinh thần "công thành thân thoái" của Phạm Lãi: giúp Việt vương Câu Tiễn dựng nên nghiệp bá xong là đem người đẹp Tây Thi bỏ trốn khỏi triều đình, để làm một Chu công giàu có và ngao du tứ hải. VTB còn hơn thế nữa. Ung dung làm một phú ông ở Dương Châu với bảy cô vợ xinh đẹp đến mức phi tần nhà vua phải ghen tị, đó chẳng phải là điều thống khoái trên đời ư ?

Công và tội của VTB đối với Khang Hy cũng được VTB đánh giá sòng phẳng như một canh bạc. Khi thấy vua Khang Hy biết mình là "Vi hương chủ" của Thiên Địa hội, VTB phải một phen kinh hãi, nhưng cũng đề nghị vua "đánh bài ngửa" để vua cân nhắc thiệt hơn. Khi xét thấy công lẫn tội của VTB đối với triều đình là ngang nhau, "canh bạc" đó xem như hòa, nên vua tôi đều đồng ý "xóa bàn làm lại" !

Trong VTB, tôi thấy có thấp thoáng một chút hình ảnh của Lệnh Hồ Xung. VTB và LHX có nhiều điểm rất gần nhau, nhưng theo tỷ lệ đảo ngược nhau. Nếu LHX có tám phần nghĩa khí và hai phần giảo hoạt thì VTB có tám phần giảo hoạt và hai phần nghĩa khí. Điểm giống nhau giữa hai nhân vật này là rất tôn trọng tình nghĩa bạn bè giang hồ. LHX mê rượu như VTB mê đánh bạc. Để thoát hiểm trong những lúc cận kề cái chết thì LHX tám phần nhờ vào võ công, hai phần nhờ vào cái miệng, còn VTB tám phần nhờ vào cái miệng giảo hoạt bịa ra đủ thứ trên đời để tìm cách thoát nạn. Lúc LHX toàn thân bất lực trong kỹ viện Hành Sơn, trong khi Khúc Phi Yến và Nghi Lâm run rẩy nấp trong chăn, nếu không nhờ cái mồm láu cá giảo quyệt thì chắc gì đã lừa được Dư Thương Hải? Lúc Lệnh Hồ Xung và Nhậm Doanh Doanh bị trói gô lại trên gác chùa Hằng Sơn, và đám Du Tấn, Cửu Tùng Niên toan giết họ để bịt miệng thì chàng ta vờ hô khẩu quyết của Tịch Tà kiếm pháp để lứu giết được đám người kia và thoát nạn. Đem "hàng giả" để đổi lấy mạng sống thực, việc cơ biến ấy của LHX khác gì VTB ?

Thói lưu manh cờ bạc trong một tâm hồn biết xem trọng đạo nghĩa, đó là "tấm giấy thông hành" giúp VTB đi thông suốt mọi nẻo đường đời. Từ chỗ nhơ bẩn nhất là kỹ viện cho đến chỗ tôn nghiêm nhất là cung đình. Những người đàn bà mà VTB gặp đều là những "cuộc chơi nguy hiểm", nhưng y vẫn liều lĩnh nhập cuộc bằng tất cả sự đam mê. " Một trà một rượu một đàn bà, Ba cái lăng nhăng nó quấy ta, Chừa được cái nào hay cái ấy, Có chăng chừa rượu với chừa trà !" (Tú Xương). VTB cũng chỉ có thể vứt bỏ các thứ "trà rượu" của lợi danh, nhưng không thể vứt bỏ đàn bà. Riêng điểm này, VTB còn "chơi ngon" hơn cả Mộ Dung Phục, và "đứng đắn" hơn Điền Bá Quang. Trong đời có bao nhiêu người dám đem sinh mạng ra đánh "cạn láng" với những "cuộc chơi nguy hiểm" đó, trong canh bạc đời, như VI TIỂU BẢO ?

15. HÒA ÂM TIẾU NGẠO GIANG HỒ Huỳnh

Ngọc Chiến - Tạp chí Kiến Thức Ngày Nay

Tiếu Ngạo Giang Hồ có lẽ là tác phẩm lôi cuốn nhất của Kim Dung, về kết cấu cốt truyện lẫn nhân vật, về nội dung tư tưởng cũng như về bút pháp đến mức "du hí thần thông" như trong "Tiếu Ngạo Giang Hồ". Tham vọng vọng cuồng điên vì quyền lực, sự hài hước của lý luận, cõi nguồn tư tưởng của phương Đông, sự khoái hoạt tự do của cuộc đời lãng tử..., tất cả được thể hiện sinh động và đan xen nhau ở mức thượng thừa. Cảnh kiếm đao đẫm máu giữa giang hồ đã từng bước nhường chỗ cho âm thanh réo rắt trong khúc cầm tiêu hợp tấu. Tác giả bài viết không có ý định phân tích tác phẩm theo kiểu "đánh giá phê bình", mà chỉ muốn cùng độc giả nhìn tác phẩm TNGH dưới nhiều góc độ, và do đó tạm thời chia tác phẩm thành nhiều chủ đề để có thể tiếp cận tác phẩm từ nhiều bình diện.

VÔ CHIÊU THẮNG HỮU CHIÊU: BƯỚC NGOẶT TRONG QUAN ĐIỂM CỦA KIM DUNG VỀ NỘI LỰC

Nội lực là một phát kiến mới mẻ của Kim Dung trong tiểu thuyết võ hiệp và nó gần như xuyên suốt qua các tác phẩm của ông. Kim Dung thường chia võ học thành hai nguyên lý Âm Dương, như trong giới tự nhiên. Từ đường lối luyện công cho đến chiêu thức, đặc biệt là trong quan điểm về nội lực. Nội lực là sức mạnh tiềm ẩn bên trong và được xem như cái móng cho "toà lâu đài võ thuật". Cái móng không vững thì toà lâu đài dù có tráng lệ đến mấy cũng dễ dàng sụp đổ. Nội lực hùng hậu thì dùng bất kỳ chiêu thức nào cũng có thể phát huy diệu dụng. Trương Quân Bảo nhờ có thần công của Cửu Dương chân kinh mà chỉ dùng mấy chiêu thức nhập môn của phái Thiếu Lâm cũng đủ để đaùnh bại Côn Luân Tam Thánh Hà Túc Đạo, một kiếm khách quán tuyệt đương thời.

Nội lực là một khái niệm khá mơ hồ, đó là một loại năng lượng gần như thần bí, được tích tụ từ quá trình tập luyện nội công hoặc được hấp thụ từ thiên nhiên thông qua việc ăn uống kì hoa dị vật. Có người nhờ uống máu rắn hoặc ăn một loại kì hoa mà nội lực đột nhiên tăng tiến bằng người khổ luyện hằng mấy mươi năm. Người ta có thể truyền nội lực cho nhau, thậm chí có thể truyền qua một người trung gian để đánh đối thủ. Hai cao thủ mà thi đấu nội lực thì xem như đã đến lúc quyết định sinh tử. Mọi sự biến ảo của võ thuật chỉ còn lại động tác "áp hai lòng bàn tay vào nhau", nhưng chỉ chểnh mảng một chút là mất mạng. Cả hai bên đều phải tập trung tinh thần cao độ như một nhà sư trong trạng thái nhập định. Nội lực vẫn luôn được Kim Dung xem là nền tảng cho võ học, nhưng đến TNGH thì rõ ràng có sự chuyển biến mới trong tư tưởng Kim Dung qua sự phân hóa hai phe "Kiếm Tông" và "Khí Tông", trong nội bộ phái Hoa Sơn.

Phe khí tông chú trọng đến khí nên đặt kiếm thuật trên nền tảng nội lực. Phe kiếm tông lại chỉ chú trọng đến kiếm. Tất cả sự phân hóa đều bắt nguồn từ sự lĩnh hội khác nhau về Quỳ Hoa Bảo Điển của hai ông tổ phái Hoa Sơn. Kim Dung lại đi ngược lại quan điểm thông thường của mình khi đề cao phe kiếm tông. Phong Thanh Dương-một cao thủ phe kiếm tông. Phong Thanh Dương-một cao thủ phe kiếm tông-chỉ dùng kiếm đủ để giết mười trưởng lão ma giáo mà chắc chắn võ công và nội lực đều vào hạng thượng thừa.

Trước đây, các sách võ hiệp bàn về kiếm thường phân chia thành nhiều loại kiếm và nhiều loại kiếm và nhiều loại kiếm pháp, đến TNGH thì Kim Dung muốn đưa kiếm đạo đến tầm cao tuyệt đối: đó là kiếm ý! Và tư tưởng đó thực sự được khai mở một cách phiêu bồng bằng đường kiếm vô chiêu của gã tửu đồ lãng tử Lệnh Hồ Xung.

vị cao thủ phe kiếm tông đã khai tâm cho LHX yếu quyết của kiếm đạo:"Yếu tố đáo xuất thủ vô chiêu, na tài chân thị đạp nhập liễu cao thủ đích cảnh giới của bậc cao thủ). Theo quan điểm phương Đông, vạn vật hễ có thành là có hoại, do đó mọi chiêu kiếm dù cao thâm đến đâu, hễ đã thành chiêu thức thì ắt phải có chỗ sơ hở để địch nhân phản kích.

"Nễ đích kiếm chiêu sử đác tái hồn thành, chỉ yêu hữu tích khả tầm, địch nhân tiện hữu khích khả thừa. Đã như nễ căn bản khai vô chiêu thức, địch nhân như hà lai phá nễ đích chiêu thức?" (Kiếm chiêu ngươi sử dụng dẫu có tinh xảo đến đâu thì vẫn có thể tìm ra dấu vết, địch nhân nhân chỗ sơ hở đó mà phá chiêu. Nếu như ngươi đánh không theo chiêu thức nào thì địch nhân làm sao có thể phá được chiêu thúc ủa ngươi?).

Kiếm chiêu không có chiêu thức thì đối phương dù võ công cao thâm đến đâu cũng không thể phá nổi, cũng như cuồng phong có thể phá hủy mọi thứ rắn chắc trên đời nhưng không thể phá hủy được hư không! LHX khi không còn một chút nội lực nào vẫn lần lượt đánh bại các cao thủ tuyệt đỉnh như Phong Bất Bình và bốn vị trang chủ Cô sơn mai trang là hoàn toàn nhờ vào kiếm ý!

Vô ở đây được hiểu theo tinh thần của Đạo Đức kinh"Vạn vật sinh ư Hữu, Hữu sinh ư Vô"(Vạn vật sinh ra từ Hữu, Hữu sinh từ Vô) hoặc hiểu theo nghĩa tính Không trong hệ thống tư tưởng Bát Nhã của Phật giáo. Tư tưởng "Vô chiêu thắng Hữu chiêu" đã đưa tiểu thuyết Kim Dung tiếp cận với suối nguồn tư tưởng phương Đông. Tiếu Ngạo Giang Hồ xem như là "Tập Đại Thành" những gì mà Kim Dung đã triển khai trong tất cả các tác phẩm của mình trước đó.

(kỳ sau: LHX:bản trường ca lãng mạn về tự do cá nhân)

LỆNH HỒ XUNG: BẢN TRƯỜNG CA LÃNG MẠN VỀ TỰ DO CÁ NHÂN

Trong tác phẩm TNGH, khung trời máu lửa của võ lâm từ từ lắng dịu để dần nhường chỗ cho khúc hợp tấu cầm tiêu của "nữ ma đầu" phe Ma giáo và tên tửu đồ lãng tử LHX, khí đồ của phái Hoa Sơn. Nhân vật chính LHX có lẽ là nhân vật được bạn đọc yêu thích nhất trong mọi tác phẩm của Kim Dung(điều này không đúng ở MHT). LHX là đại đồ đệ của NBQ, tư chất cực kỳ thông minh, tính tình lại khoáng đạt, không câu nệ. Là một nhân vật phe chích giáo nhưng y lại kết giao với rất nhiều nhân vật đầu não phe tà giáo, một phần vì tình cờ, một phần vì bản chất hào sảng. LHX kết giao với bằng hữu giang hồ chủ yếu là vì rượu và vì tấm chân tình, bất kể người đó là chích hay tà.

Trừ sư phụ sư nương là hai người cưu mang y từ bé, được y coi như cha mẹ, và tiểu sư muội Nhạc Linh San mà y có mối tình thanh mai trúc mã, LHX không chịu khuất phục bất kỳ một ai. Y không chịu sống theo một khuôn khổ ràng buộc nào, y cũng không tham vọng lớn lao, lại coi nhẹ danh lợi, cứ sống hồn nhiên theo sở thích cốt sao không thẹn với lương tâm. Cái đời dưới mắt y chỉ là một "trò chơi lớn" theo bước chân lãng tử phiêu bồng.

Khi đột nhập vào chùa Thiếu Lâm để giải cứu cho Nhậm Doanh Doanh, y núp sau bức bình phong và nghe các cao thủ phân tích cần phải giam giữ Nhậm Ngã Hành trên núi Thiếu Thất để tránh cho giang hồ một trận phong ba, y lại thầm nghĩ: "Giang hồ mà nổi trận phong ba thì có gì là không hay?" Chỉ có những tâm hồn lãng tử hồn nhiên trước hai chữ lợi danh mới có thể có những ý nghĩ kỳ quặc nhường kia.

Lệnh Hồ Xung không chịu làm đệ tử tục gia phái TL khi bị trục xuất khỏi sư môn, dù biết rằng chỉ có Dịch Cân Kinh mới cứu mình thoát chết, y cũng khước từ gia nhập Nhật Nguyệt giáo dù để kế thừa cái ngôi vị giáo chủ mà những cao thủ tuyệt luân phải đổ bao tâm huyết và xương máu để giành lấy.

Suốt cuộc đời hành sự của LHX, những việc làm của gã dù đúng hay sai thì LHX vẫn là gã lãng tử đa tình sống bạt mạng, sống say mê, sống rất chân thành và chân tình với cái Tâm hoàn toàn trong sáng.

Chính nhờ bản tính hồn nhiên khoáng đạt, giỏi ứng biến mà môn Độc Cô Cửu Kiếm trong tay Lệnh Hồ Xung còn đạt đến những thành tựu cao hơn cả vị Thái sư thúc tổ Phong Thanh Dương. Cái bản tính hồn nhiên khoáng đạt đó, một biểu hiện khác của trạng thái vô tâm, chính là yếu quyết để lĩnh hội kiếm ý trong Độc cô cửu kiếm. Sự ứng biến thông minh, mồm miệng như bôi mỡ, tính tình khoáng đạt, chuyên kết giao bạn hữu giang hồ bằng rượu và cái tâm chân tình, LHX thực sự đã hấp dẫn bạn đọc qua nhiều thế hệ, và nhất là làm điên đảo cả vị Thánh cô phe Ma giáo ngay trong lần gặp gỡ tại ngõ trúc thành Lạc Dương. Một cô nương dung nhan tuyệt diễm, võ công cực cao vừa sành âm luật, được hết thẩy giới hắc đạo xem như thần thánh, một người khinh thường hết thảy thanh niên trong thiên hạ lại điên đảo thần hồn vì một tên đồ lãng tử, khi gã đã thân bại danh liệt, như một thây ma vất vưởng cõi giang hồ.

Và vị Nhậm đại tiểu thư cực kỳ cao ngạo kia đã liều lĩnh cõng tên lãng tử LHX bệnh hoạn lên Thiếu Lâm tự cầu xin Phương Chứng đại sư dùng Dịch Cân Kinh chữa bệnh cho y, và sẵn lòng chấp nhận cái giá phải đổi là chung thân ngục tù trong thạch thất! Sau này LHX dẫn quần hùng đại náo Thiếu Lâm tự để cứu Doanh Doanh, lại gây nên một trận phong ba trên chốn giang hồ. Chính những diễn biến ấy đã kết chặt thêm tâm hồn Lệnh Hồ Xung với Nhậm Doanh Doanh, và đặt tiền đề cho đôi uyên ương này hợp tấu khúc Tiếu Ngạo Giang Hồ

16.HÀNG LONG THẬP BÁT CHƯỞNG

Huỳnh Ngọc Chiến

Ít có tác giả tiểu thuyết võ hiệp nào lại sáng tạo ra được những môn võ công đa dang kì lạ và hấp dẫn người đọc như Kim Dung. Nào Nhất dương chỉ, nào Cà sa phục ma công, nào Vô tướng chỉ kiếp, nào Độc cô cửu kiếm, nào Hạc lệ cửu tiên thần công, nào Thiên thủ Như Lai chưởng... Với các tác giả võ hiệp cổ điển, võ học thường chỉ là một phương tiện vô danh thuộc về tất cả mọi người, ai cũng có thể học và sử dụng được, chính lẫn tà, song với Kim Dung, võ học đã được gán cho một linh hồn, một lí lịch riêng. Thông qua tên gọi, nó là tấm chứng minh thư xác định xuất xứ của người sử dụng. Ai cũng biết võ công trong tác phẩm Kim Dung hầu hết đều là... võ bịa nhưng chúng hấp dẫn người đọc ở chỗ Kim Dung đã, bằng kiến thức uyên bác và bút lực thâm hậu, lồng vào đó nhưng ý nghĩa hàm súc được rút ra từ kho tàng văn học và triết học phong phú của Trung Hoa. Rồi đến phiên nó, bản thân võ học phản ánh đúng nội dung của cái tên mà nó đã mang.

Có hai môn võ công mang những cái tên tương phản nhau nhưng đã gây nhiều ấn tượng cho người đọc, đó là Đả cẩu bổng pháp và Hàng long thập bát chưởng, hai tuyệt kĩ trấn bang của Cái bang. Gậy thì dùng để đánh chó, còn đôi tay thì lại dùng để hàng phục rồng! Đem rồng là con vật linh thiên ở trên trời để tương phối với chó là con vật hèn mọn ở dưới đất, đây quả là chỗ thể hiện sự thông minh lẫn hài hước của Kim Dung. Đi ăn xin ắt sẽ bị chó cắn, cho nên phải cầm gậy theo để đánh chó. Lâu ngày môn gây đánh chó để tự vệ đó lại biến thành một tuyệt kĩ mà đến cả một đại ma đầu như Tây độc Âu Dương Phong cũng phải kiêng dè! Nhưng còn rồng ở đâu ra để mà hàng phục, với thân phận của kẻ ăn mày? Cái bang là thế lực mạnh nhất võ lâm với tai mắt khắp mọi nơi, lại thường hành hiệp trượng nghĩa khiến giang hồ đều ngưỡng mộ. Cái thế lực vô cùng mạnh mẽ đó chỉ có thể ví với con rồng là linh vật của phương Đông.

Môn Hàng long thập bát chưởng (có sách phiên âm là Giáng long thập bát chưởng. Chữ này có hai cách đọc là Hàng (hàng phục; bắt khuất phục) hoặc Giáng (rơi xuống; từ trên cao xuống) theo âm Hán Việt, tức xiáng hoặc jiàng theo âm Bắc Kinh). Là môn võ chí dương, và cương mãnh tuyệt luân, có khả năng hàng long phục hổ, do đó chỉ phù hợp với nam giơi, mà phải là người chính trực và kiêu dũng, như chính bản thân của môn võ đó. Trong tác phẩm Kim Dung, chỉ có ba người sử dụng được môn võ này là Hồng Thất Công, Quách Tĩnh và Tiêu Phong.

Hồng Thất Công nhờ vào Đả cẩu bỗng pháp và Hàng long thập bát chưởng mà tung hoành thiên hạ. Trong hai lần luận kiếm ở Hoa sơn, hai môn tuyệt kĩ trấn bang này đã đưa Cửu chỉ thần cái vào ngôi vị của một trong Võ lâm ngũ bá, trấn giữ phương Bắc: Bắc cái Hồng Thất Công. Đưọc hưởng chân truyền từ Hồng Thất Công, môn Hàng long thập bát chưởng trong tay Quách Tĩnh lại tiếp tục phát huy ưu điểm của môn võ công hùng hậu thuần dương để trấn áp quần hùng.

Nhưng phải đến tay Tiêu Phong thì môn tuyệt học đó mới khiến người đọc thật sự sảng khoái. Nhân vật kiêu dũng Tiêu Phong đã phát huy được môn Hàng long thật bát chưởng đến chỗ "bách xích can đầu", như môn Độc cô cửu kiếm trong tay Lệnh Hồ Xung. Tư chất người sử dụng phải phù hợp với môn võ thì mới phát huy được diệu dụng. Thế lực bài sơn đảo hải của tuyệt kĩ trấn bang đó đã quét sạch mọi chướng ngại trên đường đi của nó, chỉ trừ một làn bị khuất phục bởi một nhục thân Bồ Tát: vị Vô danh tăng trong Tàng kinh các! Tại Tụ hiền trang, Tiêu Phong dùng Hàng long thập bát chưởng để trấn áp toàn bộ cao thủ hai phe chính tà, khiến ngời đọc thêm một phen thống khoái. Nhưng chính tại chùa Thiếu Lâm thì môn chưởng pháp đó mới thực sự "Phi long tại thiên" trong lòng người đọc. Khi Du Thản Chi, dưới lốt bang chủ Cái bang Trang Tụ Hiền, bị đánh bại dưới tay của Đinh Xuân Thu, và bọn môn đệ Tinh Tú tranh nhau tung hô võ công Tinh tú lão quái, thì cảnh tượng Cái bang thiếu Hàng long thập bát chưởng trông thật thiểu não và cay đắng làm sao. Tiếng quát bất ngờ "Ai bảo võ công phái Tinh Tú thắng được Hàng long thập bát chưởng?" của Tiêu Phong từ chân núi vọng lên, rồi cảnh Tiêu Phong bất ngờ dẫn bọn Yên vân thập bát kỵ phi tuấn mã rầm rập lên chùa Thiếu Lâm đúng vào lúc đó, với khí thế như thiên binh vạn mã, quả như tiếng sấm giữa trời quang. Vừa đặt chân đến nơi, Tiêu Phong đã dùng ngay tuyệt kĩ Hàng long thập bát chưởng đánh lui hai đại cao thủ Đinh Xuân Thu, Du Thản Chi và cướp lại A Tử khiến người đọc thấy tột cùng sảng khoái.

Người xưa cho rằng giữa mùa hè oi bức đã uống rượu say, không thể nào uống thêm đưọc nữa, bỗng nghe một tiếng sấm nổ, trời đổ một trận mưa giôgn xối xả, khí hậu êm dịu trở lại, khắp người thấy lâng lâng dễ chịu, bèn nâng chén uống tiếp; đó là một trong những điều thống khoái trong đời. Tiếng quát hùng hồn của Tiêu Phong vào thời điểm đó, dù chỉ trên trang giấy, nghe còn vang rền hơn cả tiếng sấm kia, và người đọc cũng thấy thống khoái, chỉ muốn nâng chén lên mà uống với người xưa!

Học được Hàng long thập bát chưởng đều là những người có thiên bẩm về võ học, rồi tự mình khổ luyện chứ không hề có cơ duyên ăn dị vật hay kỳ hoa, dị thảo... Người luyện Hàng long thập bát chưởng cũng hào sảng như bản thân môn võ đó, chỉ dựa vào chính nổ lực của bản thân mình, đúng như tinh thần "quân tự tự cường bất túc" của quẻ Kiền.

Thế nhưng trong toàn bộ tác phẩm của Kim Dung, chưa bao giờ ông liệt ra đầy đủ 18 chiêu võ cương mãnh kinh người đó, và người đọc chỉ biết được một vài chiêu quen thuộc thường được các nhân vật sử dụng như "Kháng long hữu hối", "Thần long bài vĩ"... Vậy 18 chiêu võ đầy đủ trong Hàng long thập bát chưởng gồm những gì? Chúng tôi đã thử tra cứu và cũng chỉ liệt kê ra được tên của 13 chiêu. Hầu hết tên các chiêu đều lấy ý từ một quẻ (chủ yếu là quẻ Kiền) trong kinh Dịch. Quả Kiền là quẻ mở đầu kinh Dịch, đưọc tượng trưng bằng con rồng. Con rồng có thể hiểu như là linh lực của trời đất hoặc như bản tâm của con người. Có vài chiêu có tên liên quan đến rồng như "Thần long bài vĩ", nhưng có lẽ do tác giả chỉ thuận tay mà đặt ra chứ không phải xuất phát từ Kinh Dịch. Chúng tôi chỉ xin nêu tên để người đọc hiểu thêm về tên gọi các chiêu trong môn chưởng pháp lý thú đó.

1. Tiềm long vật dụng.

2. Kiến long tại điền.

3. Hoặc dược tại uyên.

4. Phi long tại thiên.

5. Kháng long hữu hối.

6. Long chiến vu dã.

7. Lợi thiệp đại xuyên.

8. Hồng tiệm vu lục.

9. Đột như kì lai.

10. Chấn kinh bách lí.

11. Lý sương băng chí.

12. Thần long bài vĩ.

13. Song long thu thủy.

Tên các chiêu thức trong tác phẩm Kim Dung đều có hàm nghĩa rất thú vị, nếu hiểu được thì khi đọc sách ta sẽ thấy thích hơn. Trong Hàng long thập bát chưởng chún tôi chỉ giúp bạn đọc tìm hiểu được 13 chiêu. Năm chiêu còn lại, rất mong bạn đọc cùng chúng tôi tìm hiểu thêm. Khi Quách Tĩnh võ công còn non nớt, chỉ dùng một chiêu "Kháng long hữu hối" cũng đủ để đánh ngang ngửa với Lương Tử Ông. Lê Sinh của Cái bang cũng chỉ dùng một chiêu "Thần long bài vĩ" đã gây khó dễ cho Thiếu chủ Bạch đà sơn Âu Dương Khắc. Có được mấy cao thủ chống nổi ba chiêu trong Hàng long thập bát chưởng của Tiêu Phong? Chỉ với 13 chiêu này cũng đủ để "Tung hoành thiên hạ" rồi, hà tất phải cần thêm? Dù sao trên đây cũng chỉ là phần lạm bàn lai rai cùng bạn đọc yêu Kim Dung. Như thế có lẽ là tạm đủ, nếu bàn thêm chỉ e sẽ "kháng long hữu hối" mất!

17.LỰA CHỌN CỦA A CHÂU - SỰ TRỚ TRÊU CỦA SỐ MỆNH

Mến gửi A Châu!

A Châu, trước đây đã cũng có lúc ta trách cô hấp tấp vội vàng vì một chữ hiếu mập mờ khiến cho Tiêu Phong cả đời đau khổ u uất, trách cô sao nỡ để chính tay Tiêu Phong ngộ sát, nay ngẫm lại thật quá xấu hổ với cô, ta chẳng hiểu cô sao có thể trách cô bừa bãi.

Trước đây, ta tự cho mình là kẻ ngoài cuộc, nhìn thấy hết nỗi đau khổ của Tiêu Phong sau cái chết của cô, biết cái chết của cô cuối cùng hóa ra chẳng có ý nghĩa gì mà chỉ làm tăng bi kịch của TP nên cũng tự cho mình phát xét cái chết của cô là vô lý, vô nghĩa và ngốc nghếch. Giờ thử đặt mình vào hoàn cảnh của cô mà ngẫm nghĩ thì thấy bầu trời như đóng xập lại trước mặt cô.

Nếu là cô, ta sẽ phải làm gì ?

Cha ta là kẻ thù sát hại song thân Tiêu đại ca, liệu ta có thể giương mắt nhìn Tiêu đại ca giết ông, ông không có công dưỡng dục nhưng dẫu sao cũng là thân sinh, liệu ta có thể vui vẻ cùng Tiêu đại ca ra ngoài biên ải cưỡi ngựa chăn dê.

Đại ca liệu có thể có một cuộc sống an nhàn sau khi sát hại Hoàng Thái đệ của nước đại lý, họ nào có để đại ca yên? Đại ca cũng thừa nhận chàng chưa chắc đỡ nổi Lục Mạch Thần Kiếm vô song của họ Đoàn, ôi chao, cái quyển Dịch Cân Kinh mà ta tốn bao công sức mới trộm được hóa ra chỉ là một mớ giấy lộn, chả giúp gì được cho đại ca.

Hay ta thử cẩu khẩn đại ca đừng báo thù, giả sử đại ca ưng thuận thì liệu chàng có yên lòng mà sống nốt cuộc đời ngoài biên ải, liệu đại ca có thể sống vui vẻ với nỗi uất hận ngùn ngụt trong lòng, với mối thù sát hại song thân mãi không trả nổi. Cuộc sống như vậy dù có ta bên cạnh đại ca cũng có chi là thú vị.

Đại ca trả thù được rồi liệu lòng hận thù của đại ca có hết không? Thiên hạ không ai biết, chỉ có mình ta biết được nỗi thống hận trong lòng đại ca lớn đến nhường nào.

Hay ta báo tin cho cha ta để ông bỏ trốn........., cũng không được, năm xưa ông vốn vô tâm gây nên tội nghiệt, với khí phách và địa vị của thủ lĩnh đại ca nhất định ông sẽ đến chịu tội, đại ca nhất định sẽ giết ông. Giả sử ông hèn hạ bỏ trốn thì liệu trốn được bao lâu, với bản lãnh của đại ca thì e rằng chẳng được vài ngày. Sớm muộn gì thì huyết thù cũng phải trả, sớm muộn gì thì Tiêu đại ca cũng giết chết cha ta. Có trốn chạy cũng không giải quyết được gì, chuyện gì đến tất yếu nó sẽ đến.

Vậy ta phải làm gì?

A Châu, người ngoài cuộc vốn sáng hơn kẻ trong cuộc, vậy mà ta nghĩ mãi cũng chưa ra cách nào để cô cùng đại ca có cơ hội sống gần nhau dù chỉ thêm một ngày. Chỉ biết ngửa mặt trách ông trời sao quá bất công, trách Kim lão nhân gia sao lão thiếu công bằng đến thế. Lão chẳng cho cô nhiều thời gian để suy xét, chỉ để thời gian đủ để cô nấu bữa cơm cuối cùng cho đại ca, đủ để cô nói với đại ca: "chàng bây giờ phải cô đơn tĩnh mịch , thiếp cũng cô khổ lênh đênh". A Châu, quả thật cô không còn con đường nào khác.

Cái chết của cô vốn có thể giải quyết được nhiều vấn đề dù không phải là hoàn hảo. Nó đả thông sự cố chấp, thống hận trong lòng Tiêu Phong: "Thiếp muốn chàng hiểu, một người có thể lỡ tay đánh chết một người khác, hoàn toàn chẳng do bản tâm. Có khi nào chàng tưởng đến chuyện hại thiếp đâu, nhưng chính tay chàng đánh thiếp một chưởng. Phụ thân thiếp làm chết song thân chàng cũng vì vô ý mà gây nên tội tày trời".

A Châu, cuối cùng điều cô muốn cũng chỉ là Tiêu đại ca của cô đừng giữ mãi nỗi uất hận trong lòng, con người nếu suốt đời cố chấp trong hận thù thì phỏng sống còn ý nghĩa gì. Cô nhoẻn miệng cười, lòng hoan hỉ khi thấy đại ca hiểu lòng cô, thế có nghĩa là chàng đã hiểu thấu nỗi thầm kín bấy lâu nay của cô. Đại ca sẽ không giết cha cô cũng có nghĩa là đại ca sẽ không bị Đại Lý Đoạn thị trả thù.

A Châu, cô gái bé nhỏ, những tưởng dùng cái chết của mình để giải quyết yên bề mọi việc, thế nhưng, hỡi ơi ......ác nghiệt thay hậu quả của cuộc tình ong bướm trăng hoa lại đổ ụp xuống đầu cô.

Sau khi cô chết đi, chỉ còn Tiêu đại ca là nhớ đến cô. A Tử thì chỉ coi cô như công cụ để mè nheo, yêu sách với Tiêu Phong . Gia phụ gia mẫu cô cũng không đến nhìn mặt cô lần cuối, nếu không vì tấm thiếp ong bướm lả lơi thì chắc mẹ cô cũng không quay lại và cũng không có thời gian để nhỏ giọt nước mắt nào cho cô. Bà khóc đấy nhưng ngay sau đó đã nói cười đưa đẩy với Tần Hồng Miên, ngay cả đến bọn yến tử ổ, Đoàn Dự cũng chẳng có giây phút nào nhắc đến cô. A Châu, hiện giờ cô ở đâu?. Cô có biết mỗi lần A Tử mang chuyện của cô ra để mèo nheo Tiêu Phong, ta quả thực rất đau lòng. A Châu giờ này cô và Tiêu đại ca đang cưỡi ngựa thả cừu ở nơi nào đó, chắc là hạnh phúc lắm lắm!

Speed - Kim Dung & Chúng Ta

18.CÁC HỒNG NHAN TRI KỶ CỦA ĐẠI LÝ HOÀNG ĐẾ ĐOÀN CHÍNH THUẦN

Nói cho cùng, Thiên long bát bộ vẫn là tác phẩm có nhiều hồng nhan bạc mệnh nhất. Đau khổ nhất dĩ nhiên là chị em A Châu và A Tử, tuy nhiên các nhân vật nữ khác cũng không hạnh phúc gì.

Trước hết phải kế đến vợ và tình nhân của Đoàn Chính Thuần. Mang tiếng là Trấn Nam Vương phi nhưng thử hỏi Thư Bạch Phụng đã hưởng được bao nhiêu ngày ân ái mặn nồng? Mỗi lần chồng ra đi là lại có thêm một tình nhân mới. Để đến nỗi một vị Vương phi thân vàng lá ngọc vì quá tức giận đức lang quân mà đã trao thân cho một tên khất cái dơ bẩn (tên này may không thuộc Cái Bang, nếu không Kiều mỗ nhất định nghiêm trị). Sau đó lại để tóc đi là đạo cô, bao năm trời không trở lại Vương phủ, cuối cùng tự tử theo chồng. Một người phụ nữ tuy sống trong nhung lụa cao sang, nhưng không thể giữ được người đàn ông của mình bên cạnh thì cho dù có cao lương mĩ vị, kẻ hầu người hạ cũng cảm thấy vô vị mà thôi.

Bên cạnh đó là những người tình nhân của Đoàn Chính Thuần. Số phận của họ cũng chẳng may mắn gì. Tu La đao Tần Hồng Miên trốn mình trong u cốc, đến con gái cũng không cho nhận mặt. Nguyễn Tinh Trúc thì phải đem con cho người khác nuôi, cô đơn chờ đợi nơi Tiểu Kính Hồ. Cam Bảo Bảo, Vương phu nhân vì con dại mà phải chịu gả vào nhà họ Chung, họ Vương, đánh mất cả tuổi xuân của mình. Tất cả cũng chỉ vì một chữ "tình" mà chịu hi sinh. Đoàn Chính Thuần hỡi Đoàn Chính Thuần, sao ông lại tốt số thế?

Cũng có lẽ vì Đoàn Chính Thuần đã làm nhiều người phụ nữ đau khổ cho nên tất cả con gái của y đa số đều bất hạnh cả. A Châu, A Tử chết tức tưởi. Người thứ ba lại là Hương Dược Xoa Mộc Uyển Thanh. Chỉ vì một lời thề "ai thấy được mặt ta thì phải làm chồng ta", cô gái ngây thơ trong trắng đã gửi trọn trái tim cho người đường huynh Đoàn Dự của mình. Chịu biết bao gian lao khổ cực vì người yêu để cuối cùng chỉ đổi lại được hai tiếng "đại ca". Cho dù cuối cùng Đoàn Dự có thể lấy cả ba cô Vương Ngữ Yên, Mộc Uyển Thanh, Chung Linh, nhưng trái tim chàng đã hoàn toàn trao cho Vương Ngữ Yên, không còn chỗ cho Mộc Uyển Thanh nữa rồi. Kết thúc tác phẩm Kim Dung tuy không đề cập đến số phận của Mộc Uyển Thanh, nhưng độc giả có thể đoán được nàng sẽ chẳng vui vẻ gì. Chung Linh ngây thơ nhí nhảnh, Đoàn Dự là đại ca hay là chồng nàng cũng không quan tâm, nhưng Mộc Uyển Thanh, với trái tim nhạy cảm của mình, chắc chắn sẽ không có hạnh phúc nơi hoàng cung Đại Lí cô đơn lạnh lẽo để ngắn nhìn Đoàn Dự hạnh phúc bên Vương Ngữ Yên.

Những nhân vật nữ trong Thiên long bát bộ đều khổ vì tình. Từ A Châu, A Tử cho đến Thiên Sơn Đồng Mỗ hay Lý Thu Thủy, những ân oán hận thù đau khổ cũng chỉ vì một chữ "tình" mà ra. "Đa tình tự cổ không dư hận", tại sao thế gian lại khổ vì tình?

Kiều Phong - Kim Dung & Chúng Ta

19.A CHÂU

Mỗi khi đọc lại Thiên long bát bộ, tới cái đêm định mệnh nơi Tiểu Kính Hồ, lòng tại hạ lại quặn đau vì nhớ vợ. Tiểu Kính Hồ tuy thơ mộng nhưng lại đầy bi thương, vì nơi đó đã vĩnh viễn nằm lại A Châu.

Vốn là nhi nữ của Đại Lí Trấn Nam Vương Đoàn Chính Thuần, những tưởng nàng phải có một cuộc sống vô cùng hạnh phúc, với địa vị Quận chúa được mọi người tôn kính. Ngờ đâu họ Đoàn kia đã có vợ nơi quê nhà, thế mà lại vẫn lăng nhăng này nọ. Kết quả là nàng đã bị gửi cho người khác nuôi dưỡng, rồi bị đưa vào nhà Cô Tô Mộ Dung làm tì nữ. Từ địa vị đúng ra là Quận chúa lá ngọc cành vàng của vương triều Đại Lí trở thành một tì nữ tầm thường trong hậu thế của hoàng tộc Yên quốc khi xưa, thật là một điều đáng tiếc. Đau khổ hơn, đến cả họ tên cũng không rõ. Chỉ biết nàng thích mặc áo hồng nên có tên A Châu. Nhắc nhở quí vị, nếu lỡ sau này có lăng nhăng dây dưa thì cũng nên nhớ làm cái khai sinh đàng hoàng một cái, để sau này còn biết đường mà nhận họ hàng.

Và nàng đã gặp và yêu Bang chủ Cái Bang Kiều Phong. Xúi quẩy một cái là lúc đó Bang chủ bị thất sủng, bị tống cổ khỏi Bang phái với lí do là cẩu tặc Khiết Đan. Thật ra nàng cũng đã chẳng gặp xui như thế đâu. Đang lúc nàng vào Thiếu Lâm Tự trộm Dịch Cân Kinh, tưởng đâu ngon ăn, ai ngờ lại đụng ông Kiều Phong, thế là loay hoay làm sao mà dính Kim Cương chưởng của Huyền Từ Phương trượng. Đúng là sao quả tạ nó đã chiếu nàng. Cũng may Kiều Bang chủ là người có tình có nghĩa, dùng nội lực tục mạng cho nàng, rồi lại vì cầu Tiết Thần Y chữa bệnh mà liều mình xông vào Tụ Hiền Trang để anh hùng võ lâm làm thịt. Chính nghĩa cử cao cả nhưng ngu dốt ấy đã khiến cho trái tim của người thiếu nữ đang hấp hối thổn thức vì yêu.

Lời bàn của tác giả : Các vị anh hùng nào muốn lọt được vào mắt xanh của mĩ nhân thì có thể bắt chước Kiều Phong, nhưng thời nay mà làm như thế thì chỉ có đi mà không có về. Ô hô ai tai!

Thế rồi thì A Châu cũng khỏi bệnh, và đã trở ra Nhạn Môn Quan để chờ người anh hùng Kiều Phong (vâng, Kiều Phong chứ không phải tại hạ). Khổ thân nàng, một người con gái yếu đuối vừa mới khỏi bệnh lại phải bôn ba vượt ngàn dặm đường ra ngoài quan ải khỉ ho cò gáy, đợi chờ những năm ngày năm đêm. Xưa nàng Tô Thị bồng con chờ chồng mà hóa đá, chứ A Châu thì còn ghê hơn, ra đi tìm tình quân. Cũng may là Kiều Phong cũng còn may mắn giữ được cái mạng để trở ra Nhạn Môn Quan tìm lại thân thế, chứ nếu không thì dám có "hòn vọng tình quân" ở Nhạn Môn Quan lắm lắm. Thật đúng là khổ cực trăm bề!!!

Nhận xét của tác giả : Các vị cô nương thời xưa quả là có kiên nhẫn, chứ như các nữ hiệp thời nay, trễ hẹn 5 phút là đã bị chửi rồi. Còn nếu mà như Kiều Phong thì chắc chẳng còn gặp ai.

Cuộc gặp mặt nơi Nhạn Môn Quan ôi sao mà cảm động. Kiều Phong tìm được một người yêu thương mình thật lòng, còn A Châu thì đã có được một người đàn ông chân chính để nương tựa (vầng, lại phải nhắc lại là Kiều Phong chứ không phải tại hạ) Hai người đã dệt nên biết bao mộng đẹp với những thảo nguyên bát ngát, với từng đàn dê cừu béo mập. Một cuộc sống thần tiên!

Nhưng mà Tiêu Phong (thôi, dùng thế khỏi sợ lộn) lại phải quay về Trung Nguyên để trả thù rửa hận. Trải qua biết bao cực nhọc, trốn tránh đồng đạo võ lâm, lại phải truy tìm tung tích Thủ lãnh Đại ca với Đại ác nhân luôn đi theo phá đám, cuộc sống nói chung chẳng lấy chi làm thoải mái. Thất bại vẫn hoàn thất bại. Tung tích Thủ lãnh Đại ca vẫn như kim nơi đáy bể. Hi vọng cuối cùng chính là Mã phu nhân, và A Châu đã giả dạng Bạch Thế Kính để moi tin tức từ con mụ đàn bà đáng ghét ấy. Trình độ dịch dung của nàng không tồi, đến Tiêu Phong còn không nhận ra, nhưng A Châu đáng thương lại đâu ngờ rằng đường đường Chấp Pháp trưởng lão Cái Bang lại lăng nhăng giây dưa với Mã phu nhân. Thế là mắc bẫy! Từ đó cho thấy nhìn người không thể chỉ nhìn bề ngoài, cần luôn luôn tâm niệm câu "lòng người như đáy bể". A Di Đà Phật!

Kẻ chết thế cho Thủ lãnh Đại ca lần này là Trấn Nam Vương gia Đoàn Chính Thuần. Hỡi ôi, đó lại chính là gia phụ của A Châu, nhưng phụ tử lại không biết nhau. A Châu tuy biết phụ mẫu nhưng cũng không dám nhận, vì nàng lầm tưởng cha nàng là thủ phạm, là kẻ thù của Tiêu Phong. Một bên là hiếu, một bên là tình, biết chọn bên nào đây? Nàng không dám nói cho Tiêu Phong hay, cũng không dám ra nhìn mặt phụ mẫu. Hỡi ôi, phụ tử trùng phùng nhưng chỉ dám đứng xa mà nhìn trong nước mắt, thử hỏi còn nỗi đau nào đau hơn đây? Cũng chẳng thể cầu xin Tiêu Phong tha thứ cho cha nàng, cho dù thật ra chẳng có gì để mà tha thứ, chỉ vì nàng không muốn Tiêu Phong đau khổ.

Thúy Kiều bên hiếu bên tình còn có thể bán mình chuộc cha, nhưng A Châu thì chỉ có một con đường đầy nước mắt. Nàng thay cha đi phó hội, chịu năm chưởng hận thù của Tiêu Phong. Nhưng mà A Châu đâu phải là Không Kiến, chỉ một chưởng là hồn du địa phủ. Mà nàng làm thế cũng chẳng phải chỉ vì Đoàn Chính Thuần. Nàng làm thế cũng vì Tiêu Phong. Đoàn gia Đại Lí nổi tiếng với tuyệt kĩ Lục Mạch Thần Kiếm, đến một anh đồ gàn như Đoàn Dự cũng biết sử dụng, Tiêu Phong làm sao mà chống nổi. Hỡi ơi, ở đời đều không thoát nổi chữ "ngờ". Lục Mạch Thần Kiếm danh trấn giang hồ chỉ có mỗi anh đồ gàn Đoàn Dự là học được mà thôi. Chỉ đáng thương cho nàng A Châu, đến lúc chết vẫn không được cha mẹ nhận lại. Đến ước mơ đơn giản được cùng tình quân thả ngựa nuôi cừu một năm ngoài Nhạn Môn Quan cũng chẳng thành hiện thực, để cuối cùng khóc hận tử nạn dưới tay người yêu.

Lời bàn: Thần công tuyệt thế chẳng phải ai cũng học được. Làm việc cần nắm rõ thông tin thì mới không có sơ sót. Ân oán tình thù chỉ như lưu thủy hành vân, làm người không nên quá cố chấp, nếu không cũng chỉ rước lấy đau khổ về mình. Thiện tai thiện tai! Năm phút mặc niệm cho người quá cố!

Kiều Phong - Kim Dung & Chúng Ta

20.A TỬ

Có chị thì phải có em cho đủ bộ. Đoàn A Tử cũng là một hồng nhan bạc mệnh đúng với ý nghĩa của nó. Cũng giống như cô chị A Châu, cô bé A Tử khi mở mắt chào đời đã không thể có được sự chăm sóc nâng niu của mẹ cha. Nhưng kém may mắn hơn cô chị, tuy là tì nữ nhưng dù sao cũng ở trong nhà một danh gia võ lâm, cô bé A Tử thông minh lanh lợi đã rơi vào cái vũng bùn nơi Tinh Tú Hải, làm đồ đệ của Tinh Tú Lão Quái Đinh Xuân Thu. Tuy trong truyện không đề cập tới nhiều, nhưng chúng ta ai cũng hiểu rằng đấy là một cái ổ rắn độc, không cẩn thận tất bị cắn ngay. "Gần mực thì đen, gần đèn thì rạng", ông bà ta dạy chả sai. Cô bé A Tử điêu ngoa xảo trá, tàn nhẫn ác độc cũng chỉ vì lớn lên trong phái Tinh Tú, nơi mà nịnh bợ, mặt dầy, cùng tôn chỉ "thà ta phụ người chứ đừng để người phụ ta" là những môn võ công lợi hại nhất. Cuộc sống như thế đối với một cô bé mới 15-16 tuổi quả là chẳng dễ chịu lúc nào. Những sự hồn nhiên ngây thơ của tuổi ô mai chẳng thể nào có được ở cái vũng bùn ấy. Chính cái tuổi thơ ấy đã gây ra biết bao bất hạnh cho cô bé sau này.

Cô bé ấy cuối cùng cũng gặp lại cha mẹ, nhưng vì bản tính của mình, đã hại chết Lăng Thiên Lý, nên bị mọi người chán ghét. Những tưởng tìm lại gia đình sẽ được hưởng một cuộc sống êm ấm, nào ngờ cha lại quay về Đại Lí, phút đoàn viên lại trôi qua mau. Sinh trong gia đình có cha lăng nhăng quả thật vô cùng bất hạnh.

Nỗi bất hạnh lớn nhất của A Tử chính là yêu phải người anh hùng của chúng ta, Tiêu Phong. Chỉ có điều trái tim Tiêu Phong đã chôn sâu vào lòng đất cùng A Châu rồi. A Tử lại không phải là A Châu nên chẳng thể nào thay thế được hình ảnh của chị mình trong trái tim Tiêu Phong. Một A Tử nhõng nhẽo, đanh đá đâu thể nào thay thế một A Châu thùy mị dịu dàng. Tiêu Phong là đại anh hùng, mà đại anh hùng thì rất có truyền thống chung tình. Thiên hạ có thể ca ngợi sự chung tình của Tiêu Phong, nhưng nó lại là nỗi bất hạnh của A Tử. Còn gì đau khổ hơn khi ngày ngày đối diện với người mình yêu mà chẳng thể thổ lộ tâm tình? Cũng chỉ vì quá yêu Tiêu Phong mà A Tử đã làm một chuyện dại dột: định đánh thương Tiêu Phong để được chăm sóc cho tỉ phu!!! Kết quả là ăn một chưởng tí nữa là đi bán muối. Cũng chỉ vì quá yêu Tiêu Phong, yêu quá hóa giận, cho nên mới bị mù mắt. Thiên hạ có thể nói A Tử bị báo ứng như thế cũng do mình tự chuốc lấy mà thôi, nhưng mấy ai nghĩ đến bản tính độc ác của A Tử từ đâu mà có. A Tử luôn luôn cô đơn. Mọi người không quan tâm đến cô bé đã đành, ngay cả người tỉ phu thân thiết nhất thì trái tim cũng gửi tận đâu đâu, chỉ vì trách nhiệm mới chăm sóc cho cô mà thôi. Tiêu Phong có thể là một đại anh hùng, một cao thủ võ lâm xông pha vạn quân như chỗ không người, nhưng ông không phải là một nhà tâm lí học giỏi giang. Giá như, phải chỉ giá như thôi, Tiêu Phong quan tâm tới A Tử một tí, dịu dàng với cô một tí thì bi kịch đã không xảy ra. Có điều Tiêu Phong vẫn mãi mãi là Tiêu Phong. Ông không có cái thói đa tình hào hoa của Đoàn Chính Thuần, cũng không có cái tình cảm văn nhân ấm ớ như Đoàn Dự. Trái tim ông đã theo A Châu xuống dưới cửu tuyền rồi. Tiêu Phong chung tình, A Tử si tình, Du Thản Chi lại càng si tình. Một cuộc rượt đuổi vì tình yêu không có kết quả, một cái vòng luẩn quẩn không mối gỡ ra. Cuối cùng cả ba cùng chôn thân nơi vực sâu ngàn trượng. Du Thản Chi chết không đáng tiếc, Tiêu Phong thì đã chết về phần hồn từ lâu lắm rồi, chỉ đáng thương cho cô bé A Tử đã sớm lìa bỏ cuộc đời khi tuổi chưa đầy đôi chín chỉ vì một nỗi si tình đáng thương. Hỏi thế gian tình là chi?

Kiều Phong - Kim Dung & Chúng Ta

21.HỮU TINH TIÊU PHONG - A CHÂU

... Nhạn quan tương huề yên vũ lộ

Tiếu ngữ giải sầu khổ...

Ta rất thích câu nói: "Cuộc đời một đại anh hùng, đáng kể nhất là có được một hồng nhan tri kỷ như nàng vậy". Nhưng đồng đạo liệu có được mấy người, thế gian thiếu gì những lời qua tiếng lại: "Có đáng phải hy sinh vì một người con gái thân phận thấp kém không?". Bản thân Tiêu Phong cũng từng bị gia gia giáng cho một bạt tai vì "Ngu xuẩn" khi chàng đơn thân độc mã xông vào Tụ Hiền Trang, đối mặt với đám hào kiệt trong võ lâm, suýt bỏ mạng chỉ để bảo vệ một tiểu cô nương không thân thích. Tiêu Phong vì cái gì chứ? Hào khí ngất trời (có phần ngu ngốc) của một đại trượng phu đỉnh thiên lập địa, vì nàng là tì nữ của kẻ chàng muốn kết giao, vì hối hận đã làm nàng liên luỵ hay vì nàng lên tiếng bênh vực khi chàng bị vu hãm nơi Hạnh Tử Lâm.. Mãi mãi là điều băn khoăn cho hậu thế.. Nhưng một điều chắc chắn, kể từ khi đó, trái tim A Châu vĩnh viễn hướng về chàng...

Điều khiến người ta nhớ đến nàng, cảm phục nàng, thương yêu nàng, không phải vì nàng là một mỹ nhân "nhất cố khuynh nhân thành, tái cố khuynh nhân quốc". Tài trí nàng cũng chẳng sánh bằng con gái Đông Tà hay chưởng môn Cổ Mộ phái Lâm Triều Anh... Nàng chỉ là một đứa con vô thừa nhận, là tì nữ hầu trà đánh đàn trong Mộ Dung thế gia.. Cả cuộc đời nàng, điều đáng trân trọng nhất chính là tấm chân tình dành cho Tiêu Phong.. Là hạnh phúc hay bi kịch, chỉ riêng nàng có tư cách trả lời.. Người đời sau có thể oán trách hoàng thiên, cảm thương nàng, nhưng tuyệt nhiên nàng không hề hối hận.. Đúng là không thể so sánh nàng với những nữ nhân thập toàn thập mỹ của Kim Dung nhưng cũng chẳng ai trong số đó có thể so sánh với nàng...

"Nhập ngã tương tư môn", người ta có thể vì người mình yêu mà làm được những chuyện phi thường.. Đâu cần bận tâm đến chuyện thiên hạ coi chàng như đại ác nhân lòng lang dạ sói. Đâu quản ngại bôn ba và năm ngày đêm đằng đẵng đợi chờ nơi ải vắng.. Mãi mãi sau này ta cũng chẳng thể quên, cô gái nhỏ bên vách đá với những lời dịu dàng như đánh thức giấc mộng hồi sinh cho người anh hùng đang khi quẫn bách... Mãi mãi câu nói: "...Cũng có một người kính trọng đại ca, khâm phục đại ca, thương yêu đại ca, nguyện ý đời đời kiếp kiếp theo bên mình đại ca, cùng đại ca chia xẻ đắng cay gian khổ, ấm lạnh đói no... " sẽ in đậm trong trái tim của bao kẻ hữu tình.. A Châu ôi! Một người con gái có đôi chút nhan sắc mà thông mình, không ai không kỳ vọng nơi đấng lang quân một tương lai rạng rỡ phu phú phụ vinh, chỉ riêng nàng muốn từ bỏ cuộc sống sung túc nơi Yến Tử Ổ, theo chân kẻ khắp gầm trời không chốn dung thân, làm một đôi uyên ương vô danh nơi thảo nguyên mênh mông hoang vắng... Một ước mơ nhỏ nhoi như thế, thiết tưởng lão tặc thiên không nỡ chối từ....

Có ai yêu mà không ích kỷ. Có ai yêu mà không muốn được cùng ý trung nhân sống một cuộc sống thần tiên. A Châu cũng thế. Khi quyết tâm thay Đoàn Chính Thuần tương hội Tiêu Phong, nàng cũng còn chút hy vọng mong manh về khoảng thời gian một năm ngắn ngủi cùng chàng làm một đôi phu thê bình dị như bao người.. Nhưng chàng đâu thể hiểu. Và tình yêu của nàng ngăn không cho nàng bộc bạch với chàng sự thật. Nàng không thể để chàng sát hại gia gia, nhưng cũng không thể nhìn chàng đau khổ phân vân giữa hai chữ hiếu, tình... Nàng còn con đường nào để chọn nữa không????

Thoát ly liễu mẫu thể,

Tựu thị vị liễu tầm trảo nhĩ.

Một hữu liễu nhĩ bất tưởng yếu ngã tự kỷ.

Tại nhĩ hoài lý thành trưởng,

Tại nhĩ hoài lý tử khứ.

Giá tựu thị ngã tuyển trạch đích túc mệnh.

Ta từng tranh cãi với người khác: "Nếu nói A Châu là cứu tinh của chàng thì có vẻ quá lời, nhưng nếu không có người con gái đã hy sinh cuộc đời mình để chàng hiểu rằng Một người có thể làm những chuyện sai lầm mà thực không phải bản tâm họ thì liệu chàng sẽ đi về đâu???..." Có lẽ A Châu đã mãn nguyện bởi rốt cuộc Tiêu Phong cũng hiểu được nỗi lòng thầm kín bấy lâu... Người con gái với tình yêu bao la ấy đến lúc từ giã cuối đời cũng chỉ một lòng lo lắng cho Tiêu Phong: "Thiếp muốn luôn luôn ở bên mình đại ca, không muốn xa rời lúc nào. Để chàng một mình phải lẻ loi hiu quạnh, thiếp chẳng đành lòng chút nào." Tấm chân tình như thế, đừng nói Tiêu Phong chỉ là một nam tử hán cũng biết rung động, mà dù chàng có sắt đá đến đâu không thể không mềm lòng... Đáng tiếc, chàng không nhận ra tình ý sâu đậm của A Châu sớm hơn, không trân trọng nó nhiều hơn nữa... Đó cũng là nỗi đau đớn không nguôi suốt quãng đời còn lại...

Quả nhiên chàng vẫn sống, vẫn cố gắng hoàn thành tâm nguyện của nàng, chăm sóc cô em gái đáng thương của nàng. Chàng vẫn sống, vẫn chiến đấu để bảo vệ những người thân yêu bên mình, bảo vệ hai dân tộc Tống-Liêu.. Hai chữ Tiêu Phong trở thành bất tử.. Chàng có tất cả những điều thiên hạ ao ước trong tay: tiền tài, địa vị, mỹ nhân.. và những hảo huynh đệ đồng sinh tử.. Nhưng giấc mơ bình yên mà bất kỳ bá tánh nào cũng có thể đạt được thì đối với chàng lại quá đỗi xa xôi.. Bởi cuộc sống của chàng, tình yêu của chàng, trái tim chàng đã theo nàng ra đi trong đêm mưa gió nơi Tiểu Kính hồ..

.. A Châu nàng có linh thiêng hãy theo đàn hồng nhạn bay tới bên Tiêu Phong. Chốn Nhạn Môn quan nguyện làm uyên ương không làm tiên...

Như thị ngã văn ngưỡng mộ tỉ ám luyến hoàn khổ

Ngã tẩu nễ đích lộ

Nam nhi lệ nữ nhi khốc

Ngã thị nễ chấp mê đích tín đồ

Nễ thị ngã đích phần mộ

Nhập tử xuất sinh do nễ tác chủ

Nễ cấp ngã bảo hộ

Ngã hoàn nễ chúc phúc

Nễ anh hùng hảo hán

Nhu yếu bao phụ

Khả nễ khiếm ngã hạnh phúc

Nã thập ma lai di bổ

Nan đạo ái tỉ hận cánh nan khoan thứ.

©Nguyệt Minh - Kim Dung & Chúng Ta

22.HÀNG LONG THẬP BÁT CHƯỞNG 2

1. Phi long tại thiên 飛龍在天

2. Kiến long tại điền 見龍在田

3. Hồng Tiệm ư/vu lục 鴻漸於陸

4. Tiềm long vật dụng 潛龍勿用

5. Kháng long hữu bối 亢龍有悔

6. Lợi thiệp đại xuyên 利涉大川

7. Đột như kỳ lai 突如其來

8. Chấn kinh bách lý 震驚百里

9. Hoặc dược ư uyên 或躍於淵

10. Song long thủ thủy 雙龍取水

11. Ngư dược ư uyên 魚躍於淵

12. Thời thừa lục long 時乘六龍

13. Mật vân bất vũ 密雲不雨

14. Tổn tắc hữu phu 損則有孚

15. Long chiến ư dã 龍戰於野

16. Lý sương băng chí 履霜冰絰

17. Đê dương xúc phiên 羝羊觸藩

18. Thần long bãi vĩ 神龍擺尾

Tiềm long vật dụng: lời hào Sơ cửu của quẻ Kiền, có nghĩa là: "như con rồng còn đang ẩn náu; không nên dùng". Khi khí dương còn đang tiềm tàng, hoặc bản thể của tâm chưa được phát lột thì không nên hành động.

Hiện long tại điền: lời hào Cửu nhị của quẻ Kiền, có nghĩa là: "con rồng đã hiện ra trên mặt ruộng". Lúc này khí dương bắt đầu được khai mở.

Hoặc dược tại uyên: hào Cửu tứ của quẻ Kiền, có nghĩa: "hoặc nhảy vào vực thẳm". Đây là bước rẽ quyết định, con người từ bỏ thế giới rạch ròi của lý trí để đi vào thế giới huyền vi của tâm thức.

Phi long tại thiên: hào Cửu ngũ của quẻ Kiền, có nghĩa: "rồng bay lên trời". Khí dương đã phát huy rực rỡ, hoặc con người đã khai mở được bản tâm để phát huy diệu dụng.

Kháng long hữu hối: lời hào Thượng cửu của quẻ Kiền, có nghĩa: "con rồng lên cao quá sẽ có sự hối hận". Hào dương ở ngôi cao nhất của quẻ thuần dương, như để tâm chìm đắm vào chỗ lưu đãng, hư huyền xa rời mất cõi nhân sinh, ắt sẽ hối hận.

Long chiến vu dã: lời hào Thượng lục của quẻ Khôn có nghĩa: "rồng đánh nhau nơi đồng nội". Âm đã đến lúc cực thịnh nên tranh nhau với Dương.

Lợi thiệp đại xuyên: có nghĩa: "có lợi trong việc lội qua sông lớn", đây là lời thường dùng trong các quái từ, hào từ của Kinh Dịch. "Đại xuyên" là sông lớn, thường được dùng để ví với sự gian nan hiểm trở.

Hồng tiệm vu lục: lời hào Cửu tam quẻ Tiệm, có nghĩa "con chim hồng dần bay đến đậu trên gò đất". Quẻ Tiện còn có tên là Phong sơn tiệm, do được tạo thành bởi quẻ Cấn (là núi) ở dưới và quẻ Tốn (là gió) ở trên. Ý nghĩa tượng trưng của Hồng tiệm vu lục là hào Cửu tam có vị trí trên cùng của quẻ Cấn, là hào dương xử ở ngôi dương, cương kiện năng tiến, do đó mới có tượng "con chim hồng dần bay lên đậu trên gò đất".

Đột như kỳ lai: tên đầy đủ là "đột như kỳ lai như", lời hào Cửu tứ quẻ Ly, có nghĩa: "thình lình ập tới". Trong hào Cửu tam thì sự đe dọa đã bắt đầu hiện ra dưới hình thức ngọn cầu vồng lấn át ánh nắng chiều, và đến hào Cửu tứ thì đột ngột chuyển thành hiện thực.

Chấn kinh bách lý: lời quái từ và lời thoán truyện của quẻ Chấn, có nghĩa: "tiếng sấm động vang xa hàng trăm dặm".

Lý sương băng chí: tên đầy đủ là "lý sương, kiên băng chí", lời hào Sơ lục quẻ Khôn, có nghĩa: "dẫm trên sương, thì biết băng dày sắp đang tới". Đây là tượng của khí âm mới sinh.

Thần long bãi vĩ: có nghĩa: "rồng thần quẫy đuôi". Nguyên trong Kinh Dịch không có câu này, mà chỉ có câu "Lý hổ vĩ, điệt nhân, hung" của hào Lục tam quẻ Lý, có nghĩa "đi sau cọp, đạp đuôi cọp, bị nó quay lại cắn, nguy hiểm". Kim Dung giải thích tên chiêu này được lấy từ câu trên, để tả khí thế mạnh mẽ và hung dữ của chiêu thức. Người đời sau thấy chữ "hổ" không hợp trong môn chưởng pháp "hàng long" nên đổi thành "Thần long bãi vĩ".

Song long thủ thủy: có nghĩa: "hai con rồng lấy nước". Chúng tôi chưa tra cứu được xuất xứ, có lẽ tác giả chỉ thuận tay dùng các thành ngữ quen thuộc trong kho tàng văn học Trung Quốc mà đặt tên, theo kiểu các chiêu "Giao long hỷ thủy", "Lưỡng long tranh châu"... thường gặp các tiểu thuyết võ hiệp chứ không phải là câu được chọn ra từ Kinh Dịch.

23.LỤC MẠCH THẦN KIẾM

Ngoài môn Nhất Dương Chỉ, họ Đoàn Đại Lý còn một tuyệt kỹ khác là Lục Mạch Thần Kiếm, một loại kiếm khí dùng sáu kinh mạch của hai bàn tay để sử dụng.

- Thủ thái âm phế kinh bắt đầu ở trung tiêu, đi vòng xuống ruột già rồi chạy lên ngực, yết hầu đi ra cánh tay và chấm dứt ở đầu ngón tay cái.

- Thủ dương minh đại trường kinh bắt đầu từ đầu ngón tay trỏ chạy lên vai rồi chia thành hai nhánh, một nhánh xuống ruột già, một nhánh lên đầu chấm dứt ở cạnh mũi.

- Thủ thiếu âm tâm kinh bắt đầu từ tim chia ra ba nhánh, một nhánh qua hoành cách mạc xuống ruột non, một nhánh theo thực quản lên mắt, và một nhánh đi qua phổi, sang tay tới ngón tay út.

- Thủ thái dương tiểu trường kinh bắt đầu từ ngoài ngón tay út chạy theo tay lên vai gặp đốc mạch ở huyệt đại truy chi thành hai nhánh, một nhánh đi xuống ruột non, một nhánh chạy lên mặt đi vào tai.

- Thủ quyết âm bao tâm kinh bắt đầu từ ngực nối liền tam tiêu rồi chạy ra cánh tay tới ngón tay giữa.

- Thủ thiếu dương tam tiêu kinh khởi đầu từ ngón tay đeo nhẫn chạy theo tay lên vai chia thành hai nhánh một nhánh nối liền tam tiêu, một nhánh chạy lên cổ vòng qua tai rồi ngừng lại tại mắt.

Thủ thái âm PHẾ kinh, thủ quyết âm TÂM BAO kinh và thủ thiếu âm TÂM kinh là ba đường kinh ÂM nằm ở bên trong cánh tay, gọi là THỦ TAM ÂM thuộc lý (bên trong) dẫn chân khí từ ngực chạy vào tay.

Thủ dương minh ĐẠI TRƯỜNG kinh, thủ thiếu dương TAM TIÊU kinh, và thủ thái dương TIỂU TRƯỜNG kinh nằm ở mặt ngoài cánh tay gọi là THỦ TAM DƯƠNG, thuộc biểu (bên ngoài) từ tay chạy lên đầu."

Thủ tam âm kinh huyệt

1.Thiên phủ

2.Hiệp bạch

3.Xích trạch

4.Khổng tối

5.Liệt khuyết

6.Kinh cừ

7.Thái uyên

8.Ngư tế

9.Thiếu thương

10.Thiên tuyền

11.Khúc trạch

12.Khích môn

13.Giản sử

14.Nội quan

15.Đại lăng

16.Lao cung

17.Cực tuyền

18.Thanh linh

19.Thiếu hải

20.Linh đạo

21.Thống lý

22.Âm khích

23.Thần môn

24.Thiếu phủ

25.Thiếu xung

26.Trung xung

Thủ tam dương kinh huyệt

1.Kiên ngung

2.Tý nhu

3.Thủ ngũ lý

4.Trửu liêu

5.Khúc trì

6.Thủ tam lý

7.Thượng liêm

8.Hạ liêm

9.Ôn lưu

10.Thiên lịch

11.Dương khê

12.Hợp cốc

13.Tam gian

14.Nhị gian

15.Thương dương

16.Kiên liêu

17.Nhu hội

18.Tiêu lạc

19.Thanh lãnh uyên

20.Thiên tỉnh

21.Tứ độc

22.Tam dương lạc

23.Hội tông

24.Chi câu

25.Ngoại quan

26.Dương trì

27.Trung chữ

28.Dịch môn

29.Quan xung

30.Kiên trinh

31.Tiểu hải

32.Chi chính

33.Dưỡng lão

34.Dương cốc

35.Uyển cốc

36.Hậu khê

37.Tiền cốc

38.Thiếu trạch

24.GIÁ TRỊ NGHỆ THUẬT CỦA TIỂU THUYẾT KIẾM HIỆP

"Giả Bình Ao, Mạc Ngôn... nổi bật vì họ có cách giãi bày mới về số phận con người. Văn nghệ sĩ Trung Quốc dám đấu tranh với những cái lỗi thời, không chỉ về quan niệm nhìn nhận sự vật, mà còn về cách thức phản ánh, phương pháp sáng tác", dịch giả Cao Tự Thành lý giải về việc văn học Trung Quốc đang nở rộ tại Việt Nam.

Theo số liệu của Cục Xuất bản, Bộ VH-TT, quý I năm 2003, sách văn học Trung Quốc chiếm 50% thị trường sách dịch. So với mảng sách văn học phát hành trong và ngoài nước thì sách văn học Trung Hoa chiếm 25-30% thị phần. Ông Trần Trọng Minh, phụ trách phòng kinh doanh công ty Fahasa TP HCM, một trong những đơn vị phát hành lớn nhất Việt Nam, cho biết: "Trong tháng 4 và hai tuần đầu tháng 5, lượng sách phát hành tăng gấp 3 lần so với các tháng 1-3, đặc biệt là các đầu sách văn học Trung Hoa. Tiểu thuyết tâm lý Quỳnh Dao bán rất chạy, một nhà sách có thể bán 30 cuốn/tháng. Còn Ỷ thiên đồ long ký, Lộc đỉnh ký, Tiếu ngạo giang hồ, Anh hùng xạ điêu, Thần điêu đại hiệp...(Kim Dung) thì được bán khoảng 60 bộ/tháng. Còn theo tiết lộ của nhà sách Tiền Phong (175 Nguyễn Thái Học, Hà Nội), riêng cuốn Báu vật của đời, ngày cao điểm nhất bán được 300 cuốn (thu 25,5 triệu đồng).

Mảng đề tài các nhà văn hiện đại Trung Quốc thường khai thác là đời sống nông thôn những năm 40-70 và các vấn đề của cách mạng văn hóa. Đến thập niên 80-90 lại là những tác phẩm viết về thời kinh tế thị trường, chống tham nhũng... Còn các nhà văn trẻ thì đặt ra những vấn đề của thế hệ họ. Ví dụ, Điên cuồng như Vệ Tuệ của nữ văn sĩ 28 tuổi Vệ Tuệ (Sơn Lê dịch, NXB Hội Nhà văn, 2003) có thể xem là cuốn tự truyện của lớp trẻ. Nhân vật chính, Vệ Tuệ từ một tỉnh lỵ đến sống ở Thượng Hải. Chị phải sống kham khổ và nhờ cô bạn thân tên Bích làm việc ở ngân hàng giúp đỡ. Tuệ muốn dành tất cả thời gian để viết văn. Viết xong tiểu thuyết Chim đêm nhơ bẩn, Tuệ nhờ Mã Cách, một nhà thơ siêu thực thất bại phải chạy "mánh" để kiếm sống, giới thiệu tác phẩm của mình với những nhà xuất bản mà anh quen biết. Trong khi chờ đợi tiểu thuyết được in, hai người đã thuê một phòng sống chung cho đỡ tốn kém. Mã Cách ngỏ ý muốn kết hôn với Tuệ, chị từ chối vì không muốn bị ràng buộc và hai người chia tay. Chị vẫn nhớ đến Phó Lượng, chàng nhạc sĩ mà chị đã yêu từ thời còn học trung học, nhưng anh đã ruồng bỏ chị từ lâu...

Theo nhà phê bình văn học Vương Trí Nhàn, trong Điên cuồng như Vệ Tuệ, cái gọi là sự ngoan ngoãn hay hư hỏng (theo tiêu chuẩn cũ) thực ra không có gì quan trọng. Điều khiến giới trẻ bận tâm là được sống theo ý mình... Tâm trí họ không ngớt bị giày vò bởi vấn đề mang ý nghĩa nhân bản: Làm sao để biết thực ra mình là thế nào, mình có thể trở thành một con người thế nào.

Ông Vương Trí Nhàn nhận xét, ngay cả khi khai thác đề tài lịch sử, các tiểu thuyết Đàn hương hình, Báu vật của đời (Mạc Ngôn) cũng thấm đẫm hơi thở hiện đại. Thiên Long bát bộ, Anh hùng xạ điêu, Ỷ thiên đồ long ký, Lộc đỉnh ký... (Kim Dung) cũng không đơn thuần chỉ là giải trí. Ông nói: "Các tiểu thuyết kiếm hiệp này chứa đựng rất nhiều tư tưởng hiện đại về tự do, công bằng, bác ái. Vấn đề ở đây là những văn sĩ hạng hai cũng biết cách nâng tầm giá trị của thứ văn học loại ba, khiến chúng trở thành tiếng nói chung của nhân loại". Bởi thế, Kim Dung, Quỳnh Dao... hợp với độc giả thị dân. Còn Mạc Ngôn, Giả Bình Ao, Cao Hành Kiện dễ đi vào tầng lớp trí thức.

Bên cạnh đó, sự gần gũi về địa lý, văn hóa cũng là một nguyên nhân khiến văn học Trung Quốc hợp với tâm lý độc giả Việt Nam. Theo dịch giả Cao Tự Thành, Trung Hoa và Việt Nam có sự tương đồng về lịch sử, văn hóa, ngôn ngữ. Lấy ví dụ, về ngôn ngữ, văn học hiện đại Trung Quốc, có những câu người Việt đọc là hiểu ngay, nên người dịch không phải gia công nhiều. Trong khi đó, văn học nước khác nhiều khi các dịch giả không nắm kịp ngôn ngữ hiện đại của họ.

Nhà phê bình Vương Trí Nhàn cũng đồng tình: "Chuyện bá tước, tử tước của Puskin cùng những phòng khách của Chiến tranh và hòa bình, Anna Karenina hơi xa lạ với lối sống của người Việt Nam. Ông già và biển cả kể chuyện một ông già đi câu tít tắp ngoài đại dương cùng các vấn đề nhận thức luận hay Giã từ vũ khí và Chuông nguyện hồn ai nói chuyện Thế chiến II rất khó đi vào lũy tre làng của người Việt Nam".

Theo tiến sĩ Hồ Văn Hiệp, một nguyên nhân khiến văn học Trung Quốc trở thành món ăn tinh thần hấp dẫn vì "các nhà văn đương đại nước này ý thức được văn hóa là sản phẩm của kinh tế thị trường. Phong trào cải cách, mở cửa đã khiến cho các khái niệm vàng, tiền, hàng hóa nhanh chóng được phổ biến. Giới văn hóa, nghệ thuật trước đó còn xa lạ và e ngại nhắc đến khái niệm này, thì nay, với sự xuất hiện của các đặc khu kinh tế, các khái niệm văn hóa đại chúng, văn học tinh anh đã ra đời. Nhà văn không chỉ dùng các khái niệm tư duy, hình tượng mà họ còn quen dần với các khái niệm thị trường, thương phẩm và coi đó là sự tất yếu của xã hội và đời sống".

Việc các dịch giả Việt Nam thường chọn dịch tác phẩm theo sở thích cũng là lý do khiến văn học Trung Quốc nở rộ. Ví như dịch giả Trần Đình Hiến "chung thuỷ" với Mạc Ngôn. Bị Mạc Ngôn hớp hồn, ông đã dịch một loạt Báu vật của đời, Đàn hương hình, Cây tỏi nổi giận... mà không hề được đặt hàng.

Cuối cùng, khâu tiếp thị tốt cũng làm cho văn học Trung Quốc lấn át thị trường sách hiện nay. Phân tích về sự tăng đột biến này, ông Minh của công ty Fahasa nói, cùng với nội dung hay (các sách đã đựng thành phim hay tái bản nhiều lần), các yếu tố về hình thức như in đẹp, trang trọng, giá bán phải chăng, cho phát hành kịp thời theo nhu cầu bạn đọc đã giúp sách văn học Trung Hoa bội thu về số lượng phát hành tại Việt Nam.

(theo vnexpress)

CHƯƠNG VI:TỪ ĐIỂN TIỂU THUYẾT VÕ HIỆP KIM DUNG

PHẦN 1

( MAI HOA TRANG)

1. Cửu Âm chân kinh do Hoàng Thường vào núi viết nên, gồm cả phần nội công và chiêu thức có oai lực phi thường, có liên quan mật thiết đến cuộc đời của bao tôn sư võ học: Vương Trùng Dương tranh được pho bí kíp này sau khi chiến thắng trong kì Hoa Sơn luận kiếm, chia pho kinh thành 2 phần nội công và ngoại thức, đồng thời cũng tốn phí bao tâm tư để ngăn không cho nó lọt vào tay những kẻ lòng dạ độc ác như Tây độc...Hoàng Dược Sư đánh đuổi hết các đệ tử của mình khỏi đảo Đào Hoa, Âu Dương Phong trăm mưu ngàn kế chiếm đoạt để cuối đời tẩu hỏa nhập ma, hóa điên loạn, Châu Bá Thông bị cầm thù mười mấy năm, Đoàn hoàng gia xuống tóc tu hành...

Hồng Thất Công trúng chất độc của loài quái xà trên thanh trượng của Âu Dương Phong, mất hết công lực một đời, có lẽ sẽ trở thành một lão già vô dụng nếu không có phần yếu quyết Cửu Âm chân kinh giúp hồi phục... Nam đế vì trị bệnh cho Hoàng Dung cũng hao tốn nguyên khí trầm trọng, nếu không nhờ Cửu Âm chân kinh cũng chẳng thể nào kịp góp mặt trong kì Kiếm luận thứ hai... Quách Tỉnh, Dương Qua đều có nội lực cao thâm bởi được luyện môn thần công này...

Sau này Chu Chỉ Nhược theo di mệnh Diệt Tuyệt sư thái lấy được Cửu âm chân kinh dấu trong Ỷ thiên kiếm, luyện và trở thành cao thủ.

2.Cửu Dương chân kinh như một nửa còn lại của Cửu Âm chân kinh, một môn chí dương một môn chí âm. Cửu Dương chân kinh do Đạt Ma tổ sư Thiếu Lâm viết nên. Giác Viễn đại sư chỉ luyện môn chân kinh này mười năm với mục đích khỏe mạnh gân cốt mà được một kỳ tài võ học là tổ sư Võ Đang Trương Tam Phong liệt vào hàng nội lực cao khôn cùng, ngang với Quách Tỉnh... Trương Vô Kỵ về sau cũng lấy nội công chí dương của môn thần công này làm nền tảng vững chắc để vừa trục chất hàn độc, vừa làm bệ đỡ tuyệt vời để nhanh chóng đạt được tầng thứ 7 của Càn khôn đại nã di, môn võ mà giáo chủ đời trước Dương Đính Thiên chỉ luyện đến tầng thứ 4 đã trở thành thiên hạ đệ nhất nhân...

Ba người Vô Sắc thiền sư, Quách Tương, Trương Quân Bảo cùng nghe Giác Viễn truyền thụ Cửu Dương chân kinh. Mức giác ngộ của ba người không giống nhau. Vô Sắc võ công cao hơn cả. Quách Tương là ái nữ của Quách Tĩnh và Hoàng Dung, võ công uyên bác hơn cả. Trương Quân Bảo chưa có sở học gì, thành ra sở học lại tinh thuần hơn cả. Vậy, Vô Sắc được chữ "cao", Quách Tương được chữ "bác", Trương Quân Bảo được chữ "thuần", sau này đều thành những danh sư võ học. Trong đó, Quách Tương sáng lập Nga My, Trương Quân Bảo sáng lập Võ Đang (Trương Tam Phong), là những danh môn của võ lâm Trung Nguyên. Mới hay Cửu Dương chân kinh uy lực vô ngần.

Thật ra, Cửu Dương Chân Kinh có phải do Đạt Ma Tổ Sư viết hay không thì còn phải xem lại, bởi vì, xét theo thời điểm ấy, trình độ tiếng Hán của Tổ Sư thuộc hàng... amateur, khó có thể viết nên những câu kinh thông tuệ mẫn tiệp, hàm ý sâu sắc như trong truyện được ( trích lời Trương Tam Phong ). Đồng thời Cửu Dương chân kinh khác hẳn với những võ công Thiếu Lâm, mà gần với võ công Đạo gia hơn. Nên nhớ 2 bộ chân kinh thượng thừa của phái Thiếu Lâm là Dịch Cân và Tẩy Tuỷ đều được viết vào thời gian này và đều viết bằng tiếng Phạn (trong Thiên long Bát Bộ)... Có giả thuyết cho rằng các nhà sư đời sau đã viết nên bộ kinh này và lồng nó vào trong cuốn Lăng Già Kinh ở Tàng Kinh Các . Giả thuyết này xem ra có lý hơn .

3.Càn khôn đại na di: môn võ công trấn sơn của Minh giáo. Môn thần công này gồm tất cả bảy tầng. Vị cao nhân của Minh giáo Ba Tư khi xưa thực sự cũng chỉ luyện và hiểu đến phần thứ sáu. Tâm pháp tầng thứ bảy thực ra do ông dùng trí tưởng tượng, sự thông minh của mình mà suy luận, biến hóa, sáng tạo nên. Môn thần công này cực kỳ khó luyện. Giáo chủ đời thứ 33 của Minh giáo là Dương Đính Thiên chỉ luyện được đến tầng thứ 4 đã trở thành vô địch. Trương Vô Kỵ nhờ có căn bản của Cửu Dương thần công mà luyện được gần hết tầng thứ 7, chỉ thiếu 19 câu cuối cùng. Tuy nhiên 19 câu ấy chính là phần sai lệch mà vị cao nhân năm xưa tưởng tượng ra. Trương Vô Kỵ biết ngưng đúng, "tri túc bất nhục" thành ra không bị cái họa tẩu hỏa nhập ma, đứt kinh mạch vì nội công sai lệch.

Tâm pháp của Càn khôn đại na di được ghi trên mảnh da dê (mà sau này Trương Vô Kỵ và Tiểu Siêu tìm được dưới đường hầm Minh giáo); còn phần chiêu thức lại được ghi trên tám tấm thẻ Thánh hỏa lệnh của các sứ giả Minh giáo Ba Tư. Đạo lý căn bản của Càn khôn đại na di là làm thế nào để vận dụng tối đa sức lực mà con người có được. Bình thường sức người tiềm ẩn, không ai biết. Đến khi gặp những lúc bất ngờ như cháy nhà mới thấy sức người trói gà không chặt có thê bưng đồ nghìn cân. Tuy nhiên muốn luyện công, càng lên tầng cao càng cần phải có công lực mạnh, nếu không sẽ bị tẩu hỏa nhập ma. Nhiều giáo chủ Minh giáo không hiểu đạo lý này nên đã tự hủy mình.

4.Hàng Long Thập Bát Chưởng, còn gọi là Giáng Long Thập Bát Chưởng, môn võ công trấn bang của Cái Bang. Sau đây là tên 15 chiêu của Giáng Long Thập Bát Chưởng, tên 3 chiêu còn lại sẽ được bổ sung sau:

1 . Kháng Long Hữu Hối

2 . Kiến Long Tại Điền

3 . Phi Long Tại Thiên

4 . Quần Long Vô Thủ

5 . Bàn Long Thực Nhật

6 . Song Long Xuất Hải

7 . Long Chiến Ư Dã

8 . Lợi Thiệp Đại Xuyên

9 . Đột Như Kì Lai

10. Hoặc Dược Tại Uyên

11. Lý Sương Băng Chí

12 . Hồng Tàm Ư Lục

13 . Chấn Kinh Bách Lý

14 . Thần Long Bãi Vĩ

15 . Tiềm Long Hốt Dụng

Theo Kim Dung, bộ chưởng pháp này là võ công chí cương của thiên hạ, bao đời Bang Chủ Cái Bang nhờ nó mà thành danh giang hồ, uy lực tuỳ theo người sử dụng. Những cao thủ về môn chưởng pháp này có thể kể là Tiêu Phong, Hồng Thất Công, Quách Tĩnh. Tiếc thay, từ sau thời Anh Hùng Xạ Điêu, vật đổi sao dời, Hàng Long Chưởng cũng theo đó mà thất truyền cùng với sự suy vi của Cái Bang, đến thời Gia Luật Tề thì chắc không học nổi toàn bộ, Quách đại hiệp đành phải gửi gắm hi vọng vào hậu thế trong thanh Ỷ Thiên kiếm... Nhớ lại sau này bang chủ Cái Bang Sử Hoả Long chỉ tập thành có 12 chiêu mà tiếc cho Tiêu Phong 1 thân anh hùng lại vùi thây nơi hiểm địa ...

---------------------------

16.Hồng tiệm vu lục

17. Song long thu thủy

----------------------------

5. Đả Cẩu Bổng Pháp: Công nhận là ông tổ sư khai môn lập phái của Cái Bang thật lạ, một mặt sử dụng tên 1 con linh vật, Rồng, để đặt tên cho chưởng pháp (Hàng Long thập bát chưởng) mặt khác sử dụng tên một con vật tầm thường, Cẩu, để gọi môn Bổng Pháp chí bảo trấn bang...

Như ta đã biết, Đả Cẩu Bổng Pháp gắn liền với cây Đả Cẩu Bổng danh lừng thiên hạ, tương truyền tất cả các Bang Chủ Cái Bang khi tiếp nhiệm trọng trách đều được Bang Chủ tiền nhiệm dạy cho môn võ công thần diệu này. Nhưng có lẽ ít ai biết được hình dáng thực sự của cây Đả cẩu Bổng . Nó dài 3 thước lẻ 7 phân, thẳng, làm bằng trúc. Còn Đả Cẩu Bổng của Bang Chủ thì làm bằng Lục ngọc , có màu xanh như trúc vậy. Một cây gậy tầm thường như vậy nhưng lại có quyền lực tối cao, có thể sai khiến hàng vạn vạn Bang Chúng dưới quyền.

Tiếp theo là bàn về Đả Cẩu Bổng Pháp , lộ Bổng Pháp này gồm 36 chiêu, chia theo 8 chữ khẩu quyết : buộc, đập, trói đâm, khều, dẫn, khoá, xoay. Tuỳ tình hình địch thủ và gia số võ công mà sử dụng 1 trong 8 chữ khẩu quyết này là có thể khắc địch chế thắng. Điểm lợi hại của Bổng Pháp này là người võ công kém hơn khi đụng đối thủ mạnh cũng có thể chiến thắng nổi, chiêu thức Bổng Pháp biến ảo tinh diệu tuyệt kì. Tiếc là Kim Dung tiên sinh chỉ nhắc sơ qua vài chiêu: Ngao Khẩu Đoạt Trượng (dùng cướp gậy) , Áp Thiên Cẩu Bối (khẩu quyết chữ Khoá), Bổng Đả Song Khuyển (chữ Đập), Bát Thảo Tầm Xà (chữ Đâm) , Lục Phản Cẩu Điện ( chữ Đâm ) , Bát Cẩu Triều Thiên ( chữ Khoá ) ...

6. Hiệp Khách Hành: là võ công của Thạch Phá Thiên học được ở cái đảo Long Mộc. Môn võ này gọi là Thiên Thai Huyền Kinh, được chép bằng khoa đẩu cổ văn, tức dạng văn tự cổ nhìn giống như những con nòng nọc đang bơi.

Vì môn võ này mà hai vị Long Mộc đảo chủ cứ mỗi mười hai năm lại sai người lên đất liền vời những bậc chưởng môn hay tôn sư võ học, kiến thức mênh mông như biển để lên đảo luận bàn về pho thần công tuyệt đỉnh này. Bốn mươi năm rồi mà mỗi ngày lại có thêm những cách hiểu khác nhau về môn thần công này. Các vị chưởng môn, tôn sư ấy bị môn võ mê hoặc đến mức ở lỳ trên đảo, chưa tìm ra yếu quyết là chưa về đất liền, khiến những người ở lại đều tưởng họ đã qua đời.

Thạch Phá Thiên không biết chữ, nên khi nhìn những chữ chép trên vách chỉ hình dung ra những con nòng nọc đang chuyển động, giống như hồi thơ ấu hay nhìn nòng nọc bơi trong vũng nước. Vì vậy mà lại lĩnh hội được yếu quyết: dáng nòng nọc chuyển động ứng với cách vận chân khí đến từng huyệt đạo trong cơ thể. Nhờ chữ duyên ấy mà chàng trai này đã luyện được môn thần công có một không hai này.

Gồm tất cả 24 môn võ công tuyệt thế,Thạch Phá Thiên luyện được trở thành vô địch thiên hạ một thời. Nguyên bí kíp Hiệp Khách Hành này là dựa vào bài thơ nổi tiếng Hiệp Khách Hành của ông Lý Bạch đời Đường, không có gì là bí ẩn, chỉ có kiểu viết như những con nòng nọc là bí quyết luyện võ công mà thôi. Hiệp Khách Hành nguyên văn như sau:

Triệu khách mạn hồ anh

Ngô câu sương tuyết minh

Ngân yên chiếu bạch mã

Táp đạp như lưu tinh

Thập bộ sát nhất nhân

Thiên lí bất lưu hành

Sự liễu phất y khứ

Thâm tàng thân dữ danh

Nhàn quá Tín Lăng ẩm

Thát kiếm tất tiền hoành

Tương chá đạm Chu Hợi

Trì trường khuyến Hầu Doanh

Tam bôi thổ nhiên nặc

Ngũ nhạc đảo vi khinh

Nhãn hoa nhĩ nhiệt hốt

Ý khí tố nghê sinh

Cứu Triệu huy kim chuỳ

Hàm Đan tiên chấn kinh

THiên thu nhị tráng sĩ

Hiên hách Đại Lương thành

Túng tử hiệp cốt hương

Bất tàm thế thượng anh

Thuỳ năng thư các hạ

Bạch thủ Thái Huyền Kinh

PHẦN 2

7.Độc Cô Cửu Kiếm: là môn võ công tuyệt thế có lai lịch, xuất xứ rất không rõ ràng. Tương truyền (theo như Phong Thanh Dương lão tiền bối nói với Lệnh Hồ Xung ở hậu động phái Hoa Sơn) Độc Cô Kiếm là tuyệt học lừng danh thiên hạ một thời của danh kiếm Độc Cô Cầu Bại. Nhưng lạ ở chỗ vị tiền bối này xuất hiện 1 lần vào thời Tương Dương thành dưới dạng bí kíp võ công chỉ dạy cho Thần Điêu Đại Hiệp Dương Quá và tuyệt không hề có Độc Cô Cửu Kiếm nào ở đây . Trong khi đó , tiến vào bối cảnh chính của Tiếu Ngạo Giang Hồ, Độc Cô Kiếm lại xuất hiện cùng với Phong Thanh Dương. Tuy nhiên cũng cần nhắc luôn, ngoài Phong lão tiền bối ra, trong giang hồ hình như chưa ai từng nghe đến tên môn kiếm pháp tuyệt thế này cả. Đọc đến đây, MajinBoo không khỏi nảy ra thắc mắc, vậy Độc Cô kiếm này được truyền đến tay Phong Thanh Dương như thế nào? Có lẽ chẳng ai ngoài Kim Dung tiên sinh trả lời được thắc mắc trên...

Bây giờ ta nói về phần chính yếu : Kiếm Quyết .

Như ta đã biết , Độc Cô Cửu Kiếm gồm có 9 thức kiếm : Tổng Quyết Thức, Phá Kiếm Thức, Phá Đao Thức, Phá Thương Thức, Phá Sách Thức, Phá Tiên Thức, Phá Tiễn Thức, Phá Chưởng Thức, Phá Khí Thức... Mặc dù chia ra thành 9 thức kiếm như vậy, tựu chung nó cũng có 1 nguyên lý: Dĩ vô chiêu thắng hữu chiêu, được thể hiện qua lời nói của Phong lão tiền bối :"Người sử kiếm chứ không phải kiếm sử người", "Sử kiếm cần kiếm ý chứ không phải kiếm chiêu, kiếm pháp liên miên bất tuyệt như nước chảy mây trôi", "Độc Cô Cửu Kiếm, có công không thủ ".

8.Nhất Dương chỉ: một môn chỉ pháp lợi hại bậc nhất thiên hạ, được khai sinh bởi Đoàn gia nước Đại Lý. Tương truyền họ Đoàn giành được thiên hạ từ cuối thời Bắc Ngụy, tức là so với Tống Thái Tổ Triệu Khuông Dẫn còn sớm hơn khoảng 30 năm, phần lớn là nhờ môn công phu điểm huyệt kì bí này, bao đời chỉ truyền cho con cháu, không hề ngoại truyền.

Môn võ công này còn lợi hại ở chỗ ko những có thể giết người mà còn có thể cứu người (Đoàn Chính Minh dùng chỉ lực dẫn nội lực trong người Đoàn Dự tán vào 2 huyệt Thiện Trung, Khí Hải ; Đoàn Nam Đế đả thông kì kinh bát mạch cho Hoàng Dung cũng nhờ vào tuyệt kĩ này). Nhất Dương Chỉ có thể phóng ra cách không hoặc có thể điểm trực tiếp vào huyệt đạo của địch thủ hay có thể thi triển qua tuyệt kĩ cách vật truyền kình (Đoàn Diên Khánh dùng Nhất Dương Chỉ qua cây trúc trượng). Có điều ít ai rõ được là Nhất Dương Chỉ gồm 6 tầng công lực , hình như ngoài Khô Vinh đại sư Thiên Long tự ra, chưa có ai luyện đến tột cùng của 6 tầng công lực này, kể cả trụ trì Thiên Long tự là Thiên Tướng.

9. Lục Mạch Thần Kiếm:

Được ghi trên trục gỗ là Lục Mạch thần kiếm kinh, bảo vật trấn tự của Thiên Long Tự, là pháp yếu võ công tối cao của họ Đoàn nước Đại Lý, cần phải có nội công cao mới luyện được, ai không đủ nội công thì có thể phân ra 6 người có nội công thâm hậu và phải ngang nhau mà luyện 6 loại kiếm khí. Lục Mạch thần kiếm kinh ghi trên 1 quyển trục trong đó có 6 tấm hình đàn ông khoả thân, trên có ghi rõ các huyệt đạo, các đường kinh mạch; muốn ra chiêu phải có ý niệm trước sau đó mới thúc đẩy nội lực ra ngón tay

Theo lời Khô Vinh đại sư, Lục Mạch kiếm là môn công phu bá đạo, nguy hiểm tột cùng, phát ra chỉ để giết người nên chỉ truyền cho xuất gia đệ tử nhà họ Đoàn, còn tục gia đệ tử phải tự tập luyện.

Đúng như tên gọi, Lục Mạch Thần Kiếm gồm 6 đạo kiếm khí, phát ra từ 6 ngón của 2 bàn tay, trong đó 1 ngón trỏ tay phải và toàn bộ bàn tay trái. Cuốn đồ phổ cất giữ bí kíp này mang tên là Lục Mạch Thần Kiếm Kinh đã bị Khô Vinh đại sư dùng Nhất Dương Chỉ đốt đi nên có lẽ môn tuyệt thế thần công này thất truyền từ đó. Cách dẫn khí vận kình của Lục Mạch Kiếm tương tự như Nhất Dương chỉ, có điều từ đầu ngón tay phóng ra không phải là chỉ kình mà là vô hình kiếm khí sắc bén vô cùng, giết người trong chớp mắt. Chính vì Đoàn Dự ko luyện Nhất Dương chỉ nên chàng mới gặp khó khăn khổ sở khi thi triển môn võ công này, từng được người đời ca ngợi là Thiên Hạ Đệ Nhất Kiếm . So với phép đánh đơn kiếm hay song kiếm thì Lục Mạch Kiếm bá đạo hơn nhiều vì nó cho phép người sử dụng đánh 6 loại kiếm cùng một lúc, phạm vi tấn công vừa lớn lại vừa mạnh, thần tốc ko ai bì kịp. Ta có thể thấy Đoàn Dự khi phát huy kiếm pháp này, kiếm khí bao phủ một vùng rộng khoảng 1 trượng vuông, ko ai có thể xâm nhập vào vòng kiếm mà chàng tạo ra được. Uy lực của môn Thần công này quả thật thiên hạ ít thấy.

Bây giờ ta luận tiếp về 6 mạch kiếm ...

6 mạch kiếm của Lục Mạch là : Thiếu Xung - ngón trỏ trái, Trung Xung - ngón giữa trái, Quan Xung - ngón vô danh trái, Thiếu Trạch - ngón út trái, Thiếu Thương - ngón cái trái, và Thương Dương - ngón trỏ phải. Như ta đã biết, mỗi mạch kiếm pháp thiên về 1 loại kiếm khác nhau, tỷ như Thiếu Xung là mạch kiếm thiên về biến chiêu mạnh mẽ; Trung Xung là mạch kiếm hỗ trợ tấn công; Quan Xung, lấy cái vụng về thắng cái tinh xảo; Thiếu Trạch, nhìn tưởng yếu ớt vô lực nhưng thực chất thiên về độc hiểm; Thương Dương, linh hoạt nhất trong bộ 6 kiếm pháp là kiếm pháp chủ công; Thiếu Thương, kiếm pháp có uy lực mạnh mẽ nhất, loáng thoáng vài nét vạch nang vẽ dọc nhưng mạnh mẽ khôn lường, là kiếm pháp khắc địch chế thắng khi đối đầu cường địch.

Nhìn trận pháp mà 6 nhà sư Thiên Long Tự thể hiện khi đối đầu cùng Đại Luân Minh Vương Cưu Ma Trí, ta có thể thấy rõ phần nào uy lực khủng khiếp của môn võ công này. Đó là khi 6 người, mỗi người sử dụng 1 loại kiếm, nếu chỉ có 1 người dùng hết cả 6 loại kiếm , hẳn uy lực còn ghê gớm hơn rất nhiều ...

10. Song Thủ Hỗ Bác: Do lão Ngoan Đồng Châu Bá Thông bị giam 15 năm trên Đào Hoa Đảo nghĩ ra. Nguyên võ công này dịch nghĩa đen tức là 2 tay đánh lẫn nhau. Nguyên Châu Bá Thông tính tình tinh nghịch từ nhỏ, không bao giờ chịu ngồi yên một chỗ, lại là người mê thích võ công đến quên cả tính mạng, tuy nhiên tâm hồn ông ta thuần phác như đứa trẻ lên ba. Nghĩ ra môn võ này dĩ nhiên rất kỳ quái, người luyện võ Song thủ hỗ bác trước tiên phải tập cách phân tâm mà không rối, phải điều khiển được cả hai tay theo những ý nghĩ riêng biệt. Bài tập vỡ lòng của môn võ này là một tay vẽ hình tròn và một tay vẽ hình vuông (cùng một lúc). Đến khi quen rồi thì hai tay có thể sử dụng hai môn võ công khác nhau, tuy công lực không tăng nhưng về chiêu số chiếm tiện nghi rất nhiều, ví dụ như, tay phải dùng Không Minh Quyền, tay trái dùng Giáng Long Thập Bát chưởng, kẻ địch lúc đó có lợi hại đến đâu cũng hoang mang không biết đường nào mà né tránh, tựa như hai cao thủ tuyệt đỉnh đang cùng ra chiêu, thật là lợi hại.

Ban đầu, Châu Bá Thông không nghĩ rằng môn võ này ( thực ra phải gọi là bí quyết luyện võ công) có thể khắc địch chế thắng mà chỉ để cho hai tay đánh nhau làm trò tiêu khiển mà thôi. Nhưng sau cũng nhờ có Quách Tỉnh lạc vào, bày trò vui tám người đánh nhau mới tìm ra cái bí quyết này, thật là thiên hạ vô song, vì hai ông Châu Bá Thông mà cùng ra chiêu thì quả thật lúc đó thiên hạ không ai chống nổi.

Về sau có Tiểu Long Nữ cũng luyện được bí quyết này, đem song kiếm hợp bích tung hoành thiên hạ, đánh cho tên Đại Luân Minh Vương quốc sư Mông Cổ chạy toé khói. Bí quyết này đến nay không biết có người nào luyện được không, nhưng theo khoa học thì đây là hiện tượng hai bán cầu não cùng làm việc riêng biệt, khiến cho tay chân có thể tuỳ ý sử dụng theo mục đích khác nhau...thật là lợi hại.

11.Tịch tà kiếm pháp :

--- Đây là môn kiếm pháp nguy hiểm nhất trong Kim Dung truyện và có lẽ trong tất cả các truyện kiếm hiệp , môn này sở dĩ cực kì khó luyện bởi vì cửa ải đầu tiên vô cùng hung hiểm , nếu ko vượt được ải này thì khi luyện công dương khí xâm nhập , sẽ chết do tẩu hoả nhập ma ... Nhưng khi luyện thành thì uy lực vô cùng kinh khủng , ko cần phải nói .

Trong Tiếu Ngạo Giang Hồ , Tịch Tà Kiếm Phổ chính là nguyên nhân để bao nhiêu võ lâm cao thủ , bang hội , môn phái tranh giành chém giết lẫn nhau , là nguyên nhân khiến cho gia đình Lâm Bình Chi tan cửa nát nhà , khiến cho phái Hoa Sơn chia 5 xẻ 7 , có thể nói tác phẩm này của tiên sinh được xây dựng xung quanh quyển kiếm phổ này ... Vậy lai lịch của nó ra sao ???

---- Tương truyền vào thời Minh sơ , sau thời của Chu Nguyên Chương khai quốc khoảng 50 - 70 năm , một vị thái giám hậu cung đã khai sinh bộ kiếm pháp này ( nguyên tên là Quỳ Hoa Bảo Điển ) , chỉ để dành riêng cho thái giám luyện tập ( lí do gì chắc các vị đã biết ) , có vài thuyết khác lại cho rằng người viết bộ kiếm pháp này là Ngụy Trung Hiền thời Minh mạt ---> thuyết này ko đáng tin lắm , vì xét theo thời điểm của bộ Tiếu Ngạo thì việc nhà Thanh nhập quan hình như chưa xảy ra . Bộ kiếm phổ này ko biết tại sao lại lưu lạc ra ngoài giang hồ , đến tay trụ trì Thiếu Lâm Phúc Kiến là Hồng Diệp Thiền Sư , nghe nói hình như ông này cố thử luyện võ công chép trong kiếm phổ nhưng ko thành công ( có lẽ vì ko tuân theo bước đầu tiên ) , Hồng Diệp buồn bực sinh bệnh mà chết , tuy nhiên trước đó có 2 vị tiền bối phái Hoa Sơn là Nhạc Túc , Thái Tử Phong tới chơi , xem lén mỗi người nửa cuốn rồi về viết lại , nhưng khổ nỗi đầu Ngô mình Sở , ko khớp với nhau , từ đó hục hặc gây bất hoà , mối rạn nứt nội bộ Hoa Sơn bắt đấu từ đó , 2 phe Kiếm Tông , Khí Tông cũng từ đó chia ra . Hồng Diệp nghe tin , phái đệ tử đắc ý của mình là Độ Nguyên thiền sư tới Hoa Sơn thu kiếm phổ , ông này lòng trần chưa dứt , tới Hoa Sơn lại được 2 vị cao thủ kia mang kiếm phổ ra thỉnh giáo , khoái quá , nhớ lại , thêm thắt chi tiết , rồi hoàn tục , trốn khỏi Thiếu Lâm , lập ra Phước Oai Tiêu Cục lừng lẫy giang hồ với 72 đường Tịch Tà Kiếm Pháp , cái tên Tịch Tà từ đây mà ra ... Đáng hận là môn võ công này lại ko thể truyền cho con cháu , vì sợ tuyệt tự nên từ từ suy vi mất , Độ Nguyên ( lúc này đổi tên là Lâm Viễn Đồ ) , chép lên áo cà sa , giấu trên xà nhà , hi vọng sau này con cháu sẽ phục hưng kiếm pháp kì môn của Lâm gia này ...

Quay lại với Hoa Sơn Phái , lúc này bộ Quỳ Hoa Bảo Điển lưu lại vốn ko đầy đủ nên 2 huynh đệ Nhạc , Thái sinh ra bất hoà , chia bè rẽ phái , Ma giáo sai người đến cướp Bảo Điển , Hoa Sơn lực bạc thế cô , ko giữ nổi bí kíp , để lọt vào tay Ma giáo , rồi sau này Nhậm Ngã Hành đem truyền lại cho Đông Phương Bất Bại , khai sinh ra 1 quái vật của võ học đương đai , đệ nhất võ công thiên hạ ...

Vậy thực chất của môn kiếm pháp kì bí này là thế nào ? Tịch Tà kiếm gồm 72 đường , biến hoá kì ảo , thực chất dựa vào tốc độ phi thường , công kích đối phương lúc chưa kịp đề phòng để thủ thắng , điều này ta có thể thấy qua thân pháp kì ảo của Đông Phương Bất Bại , nhanh đến ko thể tưởng tượng được , thật xứng đáng 8 chữ Nhật xuất đông phương , duy ngã bất bại , dùng cây kim thêu chống 3 tay đại cao thủ đương thời mà vẫn ung dung khí khái ... Có lẽ tốc độ đó có được 1 phần nhờ vào bí quyết " dẫn đao tự cung , võ lâm xưng hùng " của môn võ này ...

PHẦN 3

12.Tiếu Ngạo Giang Hồ : Đáng nhẽ không nên đưa vào mục từ điển võ thuật này, nhưng đây là điệu nhạc du dương, kỳ ảo, cung đàn điệu sáo của khúc nhạc này xuyên suốt toàn bộ tác phẩm Tiếu Ngạo Giang Hồ, một tuyệt tác kiếm hiệp, ( với cả nếu bỏ đi thì quả thật có thiếu sót).

Tên đầy đủ là Tiếu Ngạo Giang Hồ chi khúc, nguyên là cầm tiêu hợp tấu do hai người bạn thâm giao tri kỷ là Lưu Chính Phong của Hành Sơn, thuộc Ngũ Nhạc Kiếm Phái ,và Khúc Dương trưởng lão của Ma Giáo mất mấy chục năm công lực và tâm huyết sáng tác ra. Khúc nhạc này có hai phần: Cầm phổ và Tiêu phổ.

Cầm Phổ: tức là phần nhạc điệu cho đàn cầm, nguyên là Khúc Dương trưởng lão lấy từ điệu Quảng Lăng tán, một khúc nhạc cực hay thời cổ. Tương truyền rằng đời Tấn có ông Kê Khang biết khúc nhạc này, nhưng sau Kê Khang bị Chung Hội dèm pha, bị Tư Mã Chiêu giết chết, trước lúc chết có nói rằng : "Quảng Lăng tán từ nay không còn nữa". Nhưng thực ra, Quảng Lăng tán do người đời cổ làm ra, truyền lại cho Kê Khang. Lúc ấy, Khúc Dương trưởng lão mới đi đào các ngôi mộ thời trước Tấn để tìm bằng được Quảng Lăng tán này, đào được 29 ngôi mộ, đến ngôi mộ của Thái Ung thi tìm thấy ! Dựa vào Quảng Lăng tán mà sáng tác ra Cầm phổ cho Tiếu Ngạo Giang hồ.

Tiêu Phổ: Do Lưu Chính Phong dựa vào tài năng âm nhạc tuyệt vời của mình để sáng tác ra.

Hai người Lưu, Khúc tuy Chính, Tà khác nhau nhưng lại như là Bá Nha, Tử Kỳ, lấy âm nhạc để hiểu tấm lòng nhau, quả là tri âm trên thiên hạ. Khúc Tiếu Ngạo một khi tấu lên đến lúc lâm ly tuyệt mỹ thì bách điểu ly tan, trăm hoa rơi rụng, tựa như tiếng lòng u uất, lại có lúc trong sáng vui tươi, có khi như sấm ran chớp giật lại có khi như suối thở hiền hoà...thật là một khúc nhạc có một không hai. Chỉ có hai người thật hiểu tấm lòng nhau, khi tấu lên mới có thể diễn tả được hết ý nghĩa của khúc Tiếu Ngạo này.

Về sau, tên lãng tử Lệnh Hồ Xung của phái Hoa Sơn và Thánh Cô Nhậm Doanh Doanh trong Ma Giáo thành một đôi trời sinh, cơ duyên khéo gặp, lại học được khúc nhạc này. Hai người hợp tấu, cầm tiêu hài hoà, tạo nên một đoạn đường trong sáng thanh bình trên chốn Giang hồ hiểm ác. Đáng để người đời ngưỡng mộ..

13.Cái Bang : một bang phái thường được giang hồ xưng tụng là Võ Lâm Đệ Nhất Bang vì quy củ hoạt đông và tiêu chí hành hiệp của nó ....

Trong truyện Kim Dung , Cái Bang là bang hội tập trung những tên ăn mày , hành khất , có rất đông hội viên , thường khoảng trên dưới vài chục vạn người , thanh thế cực kì to lớn . Các đệ tử Cái Bang thường được chia theo đẳng cấp , mới gia nhập là cấp 1 , đệ tử 1 túi , rồi từ từ theo công lao và thời gian mà thăng cấp từ từ lên 2 , 3 , 4 ... Cao nhất là các trưởng lão 8, 9 túi , rồi trên nữa là Phó Bang Chủ và Bang Chủ . Bang Chủ Cái Bang rất được quần hào trọng vọng vì là người nắm trong tay sinh mệnh của hàng vạn đệ tử , chi phối hầu hết các lực lượng võ lâm chính phái , cùng với phái Thiếu Lâm là lãnh tụ võ lâm Trung Nguyên . Một bên được ví với Thái Sơn , còn 1 bên là Bắc Đẩu của võ lâm .

Các đệ tử của Cái Bang có quyền học võ của bất kì môn phái nào , hay có thể được Bang Chủ truyền dạy võ công , nhưng Cái Bang cũng có 2 môn Thần Công trấn bang là Hàng Long Thập Bát Chưởng cùng Đả Cẩu Bổng Pháp , hai môn võ này được truyền tụng đời đời , các Bang Chủ chấp chưởng đại quyền đều phải biết 2 môn công phu này , Hàng Long chưởng có thể không biết nhưng nhất định phải thông thạo 36 chiêu Đả Cẩu Bổng . Suốt các đời Bang chủ luôn phải lãnh đạo Bang chúng hành hiệp trượng nghĩa , cứu khổ phò nguy , đối phó ngoại xâm , nội phản , chống lại các thế lực ác độc của võ lâm , vì vậy Cái Bang luôn có thanh thế rất lớn trên giang hồ và luôn nhận được sự kính trọng , mến phục của đồng đạo võ lâm .

Lịch sử Cái Bang : theo lời kể của Hồng Thất Công , thì Cái Bang có lịch sử cũng khá lâu đời , khoảng vào thời Đường , sau khi Thiếu Lâm khai môn lập phái , vị Tổ Sư mở bang sáng lập bang phái cùng với 18 chiêu Hàng Long chưởng , còn Đả cẩu Bổng pháp thì chưa được hoàn thiện , truyền qua từng đời , tới đời thứ 3 , vị Bang chủ này thêm vào thành 36 chiêu Đả Cẩu Bổng hoàn chỉnh ... Truyền qua nhiều đời , thời cực thịnh của Cái Bang có thể là từ lúc Tiêu Phong tiếp nhiệm Cái Bang , ông là vị Bang Chủ được đánh giá là tài ba nhất của Cái Bang với bao nhiêu công trạng to lớn lập được cho võ lâm Trung Nguyên và triều đình Đại Tống , lực lượng Cái Bang lúc đó khoảng hơn 60 vạn người , tiếc thay , anh hùng thường bị trời ghen ghét , Tiêu Phong đoản mạng , lập tức Cái Bang như rắn mất đầu , chẳng còn oai phong như khi xưa , mãi tới khi Hồng Thất Công nắm quyền , mới có thể khôi phục phần nào uy danh lừng lẫy của Bang phái năm xưa . Sau Hồng Thất Công là Hoàng Dung , vị Bang chủ nữ đầu tiên của Cái Bang từ khi mở bang (người thứ hai là Sử Hồng Thạch), cũng đã lập nhiều đại công , tạo dựng lại thanh thế cho Cái Bang trên giang hồ , rồi Lỗ Hữu Cước , Gia Luật Tề thay nhau tiếp nhiệm ... Qua nhiều năm , Cái Bang càng lúc càng suy vi , cho đến thời của Sử Hoả Long thì Hàng Long Thập Bát Chưởng thất truyền còn Cái Bang chỉ là 1 bang hội hạng 2 trên giang hồ ...

Qua nhiều năm , cơ chế của Cái Bang có đôi chút thay đổi , thời Bắc Tống , ngoài Tứ Đại Trưởng Lão Cái Bang còn có 2 vị trưởng lão là Truyền Công , Chấp Pháp , qua thời Nam Tống , các vị trưởng lão lại chia ra 2 phe : Áo Dơ , Áo Sạch và cũng chỉ còn 4 vị , đến thời Nguyên Minh , chỉ còn 2 vị lãnh đạo cao nhất là Trưởng Bát Long Đầu và Trưởng Bảng Long Đầu cùng tên Chấp Pháp ...

Các Bang Chủ Cái Bang qua các thời kì .

-- Uông Kiếm Thông : Bang chủ đời thứ 15

-- Tiêu Phong : Bang chủ đời thứ 16

-- Hồng Thất Công : Bang chủ đời thứ 18

-- Hoàng Dung : Bang chủ nữ duy nhất , đời thứ 19

-- Lỗ Hữu Cước : Bang chủ đời thứ 20

-- Gia Luật Tề : Bang chủ đời thứ 21

Sau đó còn 2 vị là Sử Hoả Long , Giải Phong ( trong Tiếu Ngạo Giang Hồ ) : không rõ đời thứ bao nhiêu ...

14.Kiếm ma Độc Cô cầu bại:

Xuất hiện lần đầu tiên trong tác phẩm Thần Điêu hiệp Lữ - gián tiếp trở thành sư phụ của Dương Qua (thông qua con linh vật là Thần Điêu).

Không ai rõ thân thế cũng như nguồn gốc của nhân vật này. Người ta chỉ thấy mờ mờ một người kiếm sĩ lang thang khắp chân trời tìm một địch thủ mà không thành nguyện, chấp nhận cuộc sống cô độc không có đối thủ - không có kẻ tri âm. Mâymứơi năm tìm kiếm địch thủ không thành, kiếm ma quy ẩn, lấy kiếm làm vợ, chim Điêu làm bầu bạn và mất khi nào không ai rõ.

Kiếm ma Độc Cô Cầu Bại để lại cuộc đời 3 thanh bảo kiếm vô giá. Hai thanh đầu chính là thanh Tử Vi và Huyền Thiết trọng kiếm. Thanh thứ 3 lại là một thanh kiếm bằng gỗ tầm thường. Tuy nhiên kiếm đạo ẩn chứa trong đó lại là quý giá nhất: khi kiếm thuật đã đến cảnh giới tối thượng, mọi vật cõ cây sỏi đá đều có thể thành kiếm. Nếu sử một thanh mộc kiếm tinh thâm thì không có thanh báu kiếm nào chống nổi nó.

Kiếm Ma Độc Cô Cầu Bại có thể nói là hình ảnh ẩn dụ Kim Dung muốn đem đến cho người đọc: võ học vô bờ - Độc Cô Cầu Bại hư hư ảo ảo có đó mà nào ai đã trực tiếp diện kiến. Như giấc mơ hư ảo của kiếm sĩ, gần đó mà lại không bao giờ vươn tới được.

Đến vài trăm năm sau, cái tên Độc Cô Cầu Bại lại một lần xuất hiện trên đỉnh Hoa Sơn. Lệnh Hồ Xung bị sư phụ phạt trên đỉnh núi, gặp được tổ sử Kiếm tông Hoa Sơn là Phong Thanh Dương, và qua vị tổ sư này học được Độc Cô cửu kiếm, tương truyền là yếu quyết của Kiếm Ma để lại, chỉ 9 thức mà có thể đánh khắp thiên hạ không địch thủ.

14.Thiếu Lâm tự: vốn được xưng tụng là cái nôi của võ học Trung Hoa , luôn giữ vị trí chí tôn trong việc chủ trì công đạo lớn nhỏ cho võ lâm Trung Nguyên , là Thái Sơn Bắc Đẩu của võ lâm.

Thiếu Lâm tự nằm trên đỉnh Thiếu Thất tỉnh Hà Nam. Không rõ Thiếu Lâm tự được thành lập năm nào; nhưng tương truyền tổ sư võ học của Thiếu Lâm tự là Bồ Đề Đạt Ma (Bodhidharama). Bồ Đề Đạt Ma tổ sư vốn chẳng phải là người Trung Nguyên, ông từ Thiên Trúc (Ấn Độ) đến Trung Hoa vào khoảng thế kỷ thứ 6 (năm 527?). Tương truyền đến chùa Thiếu Lâm, ông thấy các nhà sư ăn chay phải chống chọi với thời tiết lạnh của mùa đông rất cực khổ nên truyền lại võ công cho họ để tăng cường sức khỏe, chống chọi với những khắc nghiệt của tự nhiên.

Có nhiều truyền thuyết về vị tổ sư này. Ví như chuyện Bồ Đế Đạt Ma vượt sông Trường Giang trên một ngọn bông lau hay chuyện tổ sư quay mặt vào vách đá tham thiền trong 9 năm, rồi ngộ đạo, đạt được những thành tựu lớn về cả thiền học lẫn võ học. Pho Dịch Cân Kinh huyền nhiệm cũng do Đạt Ma viết nên, để các nhà sư luyện tâm thể chất. Riêng Thiếu Lâm thất thập nhị huyền công có lẽ là thành quả của một tập thể qua nhiều đời chứ không phải của một cá nhân.

Trong Ỷ thiên Đồ long ký có đề cập đến pho Cửu Dương chân kinh của Thiếu Lâm. Chuyện để ngỏ tác giả của pho võ công thượng thừa này. Phi Đạt Ma tổ sư hiếm có người viết được. Nhưng Trương Tam Phong cũng có nghi vấn, bởi Bồ Đề tổ sư là người Thiên Trúc, khó có thể viết những lời lẽ thâm sâu bằng chữ Hán được.

Dẫu sao, chẳng ai có thể phủ nhận tổ sư của Trung Nguyên võ lâm Bắc đẩu là một vị thiền sư đến từ Thiên Trúc: Bồ Đề Đạt Ma tổ sư.

-------------------------------------------------

Thiếu Lâm tự vốn là nơi tu hành, dùng Phật pháp phổ độ chúng sinh, không chú trọng đến võ học. Với các nhà sư, võ học chẳng qua là để rèn luyện sức khỏe, cho thân thể minh mẫn, cường tráng mà thôi. Dẫu vậy với võ lâm Trung Nguyên, Thiếu Lâm Tự luôn là Thái Sơn Bắc đẩu. Chẳng thế mà trong kỳ Hoa Sơn luận kiếm, võ lâm ngũ bá không có một vị nào xuất phát từ Thiếu Lâm (Nhất Đăng đại sư là tu hành sau này, cũng không phải là người Thiếu Lâm ). Song nhà sư gánh nước Giác Viễn trong chùa lại được Dương Qua thừa nhận rằng công lực đạt tới cảnh giới thượng thừa, chỉ có Quách Tĩnh mới có thể sánh bằng.

72 tuyệt kĩ Thiếu Lâm Tự: không ai nghe tới 72 môn võ công này mà không nghiêng đầu kính phục . Trong lịch sử gần 1500 năm của Thiếu Lâm Tự , 72 tuyệt kĩ này được truyền từ đời này sang đời khác rất kĩ càng , quyết ko để cho thất truyền ...

Trong số 72 môn tuyệt kĩ này , mỗi môn chuyên về 1 mặt khác nhau , có môn chuyên về quyền , môn khác là chưởng pháp , khinh công , ám khí , binh khí ... Tóm lại là mênh mông vô bờ , thâm sâu không thể lường hết được . Rải rác trong các tác phẩm của KD , ta có thể gặp đươc các môn tuyệt kĩ này ( Lưu ý : các tuyệt kĩ mà KD hư cấu khác hẳn các tuyệt kĩ thứ thiệt của phái Thiếu Lâm ) , nhất là trong 2 tác phẩm : Ỷ Thiên Đồ Long Kí và Lục Mạch thần Kiếm - Thiên Long Bát Bộ . Theo lý giải của nhiều hoà thượng , tăng lữ Thiếu Lâm , sở dĩ không 1 ai có thể học hết 72 môn này cùng lúc vì vốn là tuyệt kĩ bác đại tinh thâm , không phải tầm thường , muốn luyện 1 môn phải mất hàng chục năm , thậm chí hàng vài chục năm , hơn nữa có nhiều môn mâu thuẫn với nhau , như ai chuyên luyện khinh công thì khó có thể luyện sử dụng binh khí nặng , ai chuyên luyện quyền chưởng thì khó tập thành thạo tuyệt kĩ phi tiêu ám khí , vả lại , mỗi tuyệt kĩ đều có pháp môn nội công tu luyện khác nhau và đều là những môn võ công vô cùng tàn ác , bá đạo , xuất chiêu uy lực khôn cùng , lấy mạng người dễ dàng , vì vậy , " người luyện nhất định phải có định lực Phật môn , đạo hạnh cao thâm để có thể điểm hoá cho thiên hạ " ( trích lời nhà sư trong Tàng Kinh Các ) . Chính vì mỗi môn có 1 pháp môn nội công khác nhau mà 1 thiên tài võ học như Cưu Ma Trí khi cố dùng Tiểu Vô Tướng Công thi triển 72 tuyệt kĩ Thiếu Lâm như " gom dê cùng 1 mối " mới dẫn tới tình trạng tẩu hoả nhập ma , mất hết võ công ...

Theo như Kim Dung viết trong Thiên Long Bát Bộ thì 72 tuyệt kĩ trên là xuất xứ từ Thiên Trúc , do Đạt Ma Sư Tổ viết ra rồi theo Phật Giáo mà truyền vào Trung Nguyên , tuy nhiên , cũng ở trong tác phẩm này , KD lão gia cũng đưa ra 1 tình tiết khá vô lý khi lý giải 3 trong số 72 môn này lại do các đại sư đời sau của Thiếu Lâm tự sáng tạo , đó là Ma Ha chỉ pháp của Bát Chỉ Đầu đà , môn chưởng pháp nào của Nguyên Nguyên Đại Sư ( hình như là Ban Nhược Chưởng ) và 1 môn nào nữa ( MB sẽ bổ sung sau , hay vị bằng hữu nào hảo tâm bổ sung hộ cũng được ) . Vậy sự thực ra sao , các môn khác có thật sự do Đạt Ma Tổ Sư viết ra hay chăng , theo ý MB có lẽ các nhà sư đời sau viết ra rồi truyền tiếp nhưng họ vẫn mượn danh Đạt Ma Sư Tổ ...

Trong các tác phẩm KD có đề cập đền 1 số tuyệt kĩ Thiếu Lâm như sau :

Ban Nhược Chưởng

Đại Kim Cương Quyền

Niêm Hoa Chỉ

Đa la Diệp Chỉ

Vô tướng Kiếp Chỉ

Ma Ha Chỉ Pháp

Đại Bi Thủ

Thiên Trúc Phật Chỉ

Thiết Tụ Công

Thiên Cân Truỵ

Phục Hổ La Hán Chưởng

Long Trảo Thủ

Tiểu Tu Ni Chưởng

Kim Cương thiền Công Sư Tử Hống

15.Minh Giáo: nếu Cái Bang được xem là bang phái lớn mạnh nhất giang hồ, Thiếu Lâm là Bắc đẩu của võ lâm thì Minh giáo xứng đáng là giáo hội mạnh nhất trong các tác phẩm Kim Dung.

Minh giáo trong "Ỷ thiên Đồ long ký" xuất phát từ Ba Tư (Bái Hỏa giáo + Ma Ni giáo) truyền vào trung thổ từ Diên tải nguyên niên, đời Đường Võ Hậu. Minh giáo thờ "hỏa", thức là ngọn lửa làm thánh thần, đặt Tổng Đàn ở Quang Minh Đỉnh. Trải qua bao đời luôn có những giáo chủ nổi lên làm khởi nghĩa nông dân như Phương Lạp, Vương Tông Thạch, Dư Ngũ Bà, Trương Tam Thương. Đến giáo chủ đời thứ 33 là Dương Đính Thiên...

Minh giáo hay Đại Vân Quang Minh giáo được "võ lâm chính phái" coi là Ma giáo và hết sức căm thù. Đỉnh điểm là lục đại môn phái bấy giờ gồm Thiếu Lâm, Võ Đang, Hoa Sơn, Không Động, Nga My, Côn Lôn đã tấn công lên đỉnh Quang Minh để tiêu diệt Ma giáo, "chấn hưnh chính nghĩa". May nhờ Trương Vô Kỵ gặp được kỳ duyên tìm lại được Thánh Hỏa Lệnh và luyện được môn võ công hộ giáo là "Càn khôn đại na di", ra mặt nghĩa hiệp đã cứu được Minh giáo khỏi cơn tai kiếp. Và Trương Vô Kỵ trở thành Quang Minh giáo chủ đời thứ 34.

Theo Ỷ thiên Đồ Long ký, sau này các đệ tử của Minh Giáo là Chu Nguyên Chương, Từ Đạt, Thường Ngộ Xuân đã nổi dậy chiến thắng quân Nguyên đang thống trị Trung Hoa, lập nên triều đại mới tức là Minh triều, nhằm nớ đến xuất thân Minh giáo của mình.

Trong tác phẩm Kim Dung, nhân tài Minh giáo luôn là những người có bề ngoài và tính tình khác người, nhưng tự sâu trong tâm hồn là những người hành hiệp trượng nghĩa, không thẹn với tấc lòng, đáng cao quý hơn bao kẻ tự xưng là chính phái danh môn nhưng lại có những việc là tiểu nhân, đê tiện. Về sau Minh giáo đã có công lao to lớn trong việc cứu lại những vị chưởng môn của các môn phái lớn trên Trung Nguyên khỏi âm mưu thâm độc của nhà Nguyên, cũng là cứu cho võ lâm Trung Nguyên khỏi nạn diệt vong. Từ đây võ lâm mới coi Minh giáo như người đồng hành, tôn Trương Vô Kỵ làm minh chủ trong công cuộc đánh lại quân Nguyên.

Hệ thống chức vụ trong Minh giáo trong Ỷ thiên Đồ Long Ký:

Đứng đầu Minh giáo là giáo chủ Trương Vô Kỵ.

Hai vị Quang Minh tả sứ và hữu sứ là Dương Tiêu và Phạm Dao.

Tứ đại Hộ giáo pháp vương: Tử sam long vương Đại tỷ y, Bạch Mi Ưng Vương Ân Thiên Chính, Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn và Thanh dực bức vương Vi Nhất Tiếu.

Ngũ tán nhân: Bành Doanh Ngọc, Chu Điên, Thuyết Bất Đắc, Lãnh Thiêm và Thiết Quan đạo nhân.

Ngũ hành kỳ sứ của các kỳ: Nhuệ Kim Kỳ, Hậu Thổ Kỳ, Liệt Hỏa Kỳ, Hồng Thuỷ Kỳ và Cự Mộc Kỳ.

PHẦN 4

16.Tiêu Phong

Lý lịch trích ngang

Dân Tộc : Khất Đan

Họ tên cha : Tiêu Viễn Sơn

Họ tên mẹ : không rõ

Năm sinh : Khoảng 1045-1048

Năm mất : Khoảng 1085

Chức vụ : Từng là Bang Chủ đời thứ 16 cuả Cái Bang , Nam Viện Đại Vương nước Đại Liêu

Tình trạng hôn nhân : Độc thân

Hình dáng : Cao lớn khôi vĩ hơn người , " mặt vuông tai lớn , 2 mắt sáng quắc như điện , mặc trường bào bằng vải thô màu xám , phục sức sơ sài mộc mạc " ...

Tính cách : Bình tĩnh , điềm đạm , không giận mà nghiêm , làm việc cẩn thận không lỗ mãng , biết suy xét sự tình , đôi lúc hơi nóng nảy , dẫn đến phạm sai lầm đáng tiếc

Sở thích : Uống rượu , có thể uống 20 cân rượu 1 lúc , thích kết giao hào kiệt , luận quyền đấu kiếm

Võ công : Võ công tuyệt thế , ngón tủ là Hàng Long Thập Bát Chưởng và Đả Cẩu Bổng Pháp , ngoài ra còn có thời kì luyện võ Thiếu Lâm , căn bản võ công vô cùng vững chắc .

Sở trường : cũng là võ nghệ , được Kim Dung ưu ái tặng cho 2 chữ " Thần Võ " , 2 chữ mà chưa có nhân vật nào khác có được ngoài Tiêu Phong , có khả năng , thiên khiếu đặc biệt về võ công , " nhìn qua 1 lần là biết , biết là tinh thục ngay , thậm chí trong lúc chiến đấu còn phát sinh nhiều biến hóa lợi hại " . Bất kì chiêu thức dù bình thường nào nhưng qua tay ông sử dụng đều trở nên tinh diệu tuyệt luân .

Tài năng : Có khả năng lãnh đạo quần hào , từng lập nhiều công trạng cho dân tộc và quốc gia , đặc biệt là cho Cái Bang và Đại Tống , được nhiếu người mến phục và tín nhiệm , nhưng do đó mà cũng có người ganh ghét

Đánh giá của độc giả : Là Đệ nhất đại anh hùng trong Kim Dung truyện , không có gì bàn cãi về nhân cách và tài năng , không ai có thể phủ nhận võ công tuyệt thế và những chiến công to lớn cùng tinh thần hy sinh hết mình cho hòa bình của ông , Đại Anh Hùng Nhân Nghĩa Trí Dũng gồm thâu , 1 người tình chung thủy hết mực , một người anh đầy trách nhiệm , một Bang chủ danh lưu muôn thuở cuả Cái Bang , ân nhân của hàng vạn sinh linh bách tính 2 nước Tống Liêu , tuy cả đời chỉ vài lần phạm sai lầm nhưng lại là những sai lầm vô cùng đáng tiếc , dẫn đến những chia ly và đau khổ trong cuộc đời cuả chính ông .

1 con người nhiều tình nghĩa nhưng cũng không kém phần đau khổ trong đời tư , vô tình lỡ tay hạ sát người mình yêu ... Người có tài nhưng bị Trời bạc đãi , ghen ghét . Chính Kim Dung trong 1 cuộc phỏng vấn đã thừa nhận : " Tôi hơi tiếc vì đã đối xử bất công với Tiêu Phong " .

Cho dù nói ông là Đệ Nhất Võ Công cũng hoàn toàn không sai ...

17. Quách Tĩnh

Lý lịch trích ngang

Dân Tộc : Hán

Họ tên cha : Quách Khiếu Thiên

Họ tên mẹ : Lý Bình

Năm sinh : khoảng 1192 - 1195

Năm mất : khoảng 1260 - 1265

Tình trạng hôn nhân : đã lập gia đình , có 3 con : trưởng nữ Quách Phù , thứ nữ Quách Tường , trưởng nam Quách Phá Lỗ . Vợ là Hoàng Dung , Cái Bang bang chủ đời thứ 19 .

Hình dáng : Mày rậm mắt to , da ngăm đen , tướng mạo to lớn , phương phi , tay chân thô kệch ---> khá xấu trai

Tính cách : Ôn hoà khoan hậu , ít khi nổi giận , tính cách thiện lương , thực thà , chất phác , trọng tín nghĩa , nhân , nghĩa , lễ , dũng đều đủ , khí phách anh hùng mạnh mẽ , dám xả thân vì người khác , nghĩa khí đáng phục , tuy nhiên hơi chậm chạp , ngốc nghếch , nhiều lúc lại quá cố chấp , gọi theo ngôn ngữ Việt Nam thì hơi bị Gàn Dở ...

Sở thích : Săn bắn , cưỡi ngựa , thả điêu , chăn bò chăn dê trên đại mạc .

Võ nghệ : Vốn không phải là người thông minh nên học các môn võ thiên về chiêu thức kì ảo , hoa mỹ không thành công lắm , nhưng các môn quyền , chưởng thiên về sức mạnh hay Nội Gia Quyền thì tinh tiến rất mau lẹ ... Võ công phức tạp : học của Giang Nam Thất Quái các công phu căn bản , luyện nội công với Đan Dương Tử Mã Ngọc , được Bắc Cái Hồng Thất Công chân truyền Hàng Long Thập Bát Chưởng , Châu Bá Thông dạy Không Minh Quyền cùng Song Thủ Hỗ Bác , học toàn bộ võ công thượng thặng của Cửu Âm Chân Kinh , trở thành anh hùng võ công cái thế 1 thời , võ công vô địch thiên hạ .

Sở trường : Bắn tên , tài năng thần tiễn của Quách Tĩnh do Triết Biệt dạy , anh hùng xuất thiếu niên , từng bắn xuyên 2 con chim điêu bằng 1 mũi tên .

Tài năng : Chỉ huy quân đội đánh trận , lập không ít công lao hãn mã cho đế quốc Mông Cổ , sau này giữ thành Tương Dương hơn 20 năm , thách thức hàng trăm vạn quân Mông Cổ thiện chiến .

Thân thế và Sự nghiệp : Vốn là dân thôn Ngưu Gia , phủ Lâm An , gia đình gặp đại nạn do Hoàn Nhan Hồng Liệt hãm hại , cha chết , mẹ lưu lạc đại mạc Mông Cổ . Nhờ cứu Triết Biệt mà được Thành Cát Tư Hãn để ý , sau nhờ lập đại công cứu mạng 2 cha con Đại Hãn mà được chỉ phúc định hôn , ban Kim Đao , phong Phò Mã . Theo 6 vị sư phụ về Nam phó yến , gặp Hoàng Dung rồi cơ duyên đưa đẩy , học nhiều môn võ công thượng thừa , tìm cách trả thù cho cha nhưng lại bị vướng vào vòng xoáy của võ lâm , tranh chấp bí kíp võ học rồi tình yêu , bao lần gặp nguy đều có Hoàng Dung , cô vợ thân thiết ra tay cứu giúp , cuối cùng cũng trở về an lành , vẹn toàn hạnh phúc lứa đôi bên người yêu .

Đánh giá của độc giả : Quách Tĩnh là người anh hùng được yêu thích nhất của KD truyện với tính cách chất phác thực thà không tham danh lợi , không mưu mô trí xảo . Là người anh hùng của nhân dân và vì nhân dân , Quách Tĩnh chính là hiện thân của cái Chân , cái Thiện trong mỗi con người , nếu như Tiêu Phong là ước mơ , là điều mà con người luôn mong muốn vươn tới thì Quách Tĩnh lại là điều mà người ta cần phải có để đạt tới ước mơ , Quách Tĩnh cao mà không xa , gần mà không hoà , thật xứng với 8 chữ Vị Quốc Vị Dân , Chi Giả Đại Hiệp . Một người anh hùng giữa đời thường , giản dị mà tôn quí ... Một người tình thiết tha mà chung thuỷ , một người chồng người cha trách nhiệm . Xứng đáng là Đệ nhị đại anh hùng của Kim Dung .

18.Dương Quá

Lý lịch trích ngang

Dân Tộc : Hán

Họ tên cha : Dương Khang

Họ tên mẹ : Mục Niệm Từ ( bản cũ là Tần Nam Cầm )

Năm sinh : Khoảng 1213 - 1215

Tình trạng hôn nhân : Có 1 vợ là Tiểu Long Nữ , chưa có con ( tính đến kết thúc bộ Thần Điêu Hiệp Lữ ) .

Hình dáng : Là 1 trong những nhân vật đẹp trai nhất của Kim Dung , mi thanh mục tú , vóc người cao lớn , vai khoác áo bào vải lục , lưng đeo trường kiếm ( trích Thần Điêu Đại Hiệp ) , một nhân vật đẹp trai kiểu lãng tử giang hồ dày dạn phong sương .

Tính cách : Do lăn lộn giang hồ từ nhỏ , có ảnh hưởng không tốt đến sự phát triển tính cách , vả lại , trong lòng còn mang nặng mặc cảm về cái chết của người cha không rõ mặt ---> Sự phát triển tính cách phức tạp , dễ hờn , hay giận , thỉnh thoảng lại dỗi , nhưng có tấm lòng hiệp nghĩa , nhanh nhạy , nhân hậu , biết thương người , đôi khi hơi vị kỉ , thỉnh thoảng lại nhỏ nhen , hay nghi ngờ lòng tốt của người khác . Tóm lại , tính cách ngang ngạnh , cao ngạo , khó hoà đồng , ân đền oán trả rành mạch .

Sở thích : Bắt rắn , nuôi chim , đi du lịch .

Võ nghệ : Tư chất thông minh ngay từ nhỏ ( có lẽ do gene di truyền ) nên học môn võ công nào cũng đại tiến , Sở học võ nghệ kiêm tu cả 2 phái Chính - Tà , cực kì phức tạp . Lúc nhỏ học Cáp Mô / Hàm Mô Công với Âu Dương Phong , lớn lên trở thành môn đệ Toàn Chân Giáo , học nội công và võ công phái này ( dù là theo lý thuyết ) , sau bái sư Tiểu Long Nữ học Ngọc Nữ Tâm Kinh cùng Ngọc Nữ Kiếm , Cửu Âm Chân Kinh trong hầm mộ của Tổ Sư Lâm Triều Anh , cơ duyên đưa đẩy gặp Hồng Thất Công cùng Âu Dương Phong , lãnh ngộ không ít võ công của 2 người , lại được Hoàng Dung truyền cho khá nhiều Đả Cẩu Bổng Pháp của Cái Bang , Hoàng Dược Sư dạy cho bí quyết Đàn Chỉ Thần Công cùng Lạc Ảnh Thần Kiếm Chưởng , cuối cùng gặp Thần Điêu , trở thành truyền nhân của Độc Cô Cầu Bại , sáng chế ra Độc Cô Kiếm của riêng mình và 17 chiêu Ám Nhiên Tiêu Hồn Chưởng , trở thành đại tôn sư võ học đương thời ...

Sở trường : Thông minh đĩnh ngộ , sở trường là trù hoạch mưu kế , đối phó địch thủ rất lợi hại .

Tài năng : Nhớ rất dai , các lý thuyết võ công của Toàn Chân Giáo nhớ rất tốt cho đến hàng mấy năm sau ...

Thân thế sự nghiệp : Vốn quê vùng Lưỡng Chiết ( sinh ra tại đây ) sau lang bạt giang hồ , gặp Quách Tĩnh , được nuôi nấng tại Đào Hoa Đảo , sau vì mâu thuẫn với Quách Phù và 2 anh em họ Võ , lại lên Chung Nam Sơn bái sư học võ , gây sự với Triệu Chí Kính , bị hắn hãm hại phải trốn vào Cổ Mộ nương nhờ Long cô cô , trải qua thời gian dài học võ , hai người cùng nảy sinh tình cảm . Sau khi xuất sơn vì bị Lý Mạc thu truy sát . 2 người phải trải qua không biết bao nhiêu kiếp nạn mới đoàn viên được , trong thời gian này , Dương Quá được nhiều cô gái ngỏ lời yêu thương , Trình Anh , Lục Vô Song rồi Công Tôn Lục Ngạc , nhưng lòng chàng chỉ có hình bóng 1 Long cô cô mà thôi . Sau Tiểu Long Nữ bị trúng kỳ độc , đánh phải hẹn 16 năm tái ngộ , y hẹn Dương Quá quay lại và gặp người trong mộng vẫn an lành , lúc này , chàng đã là Thần Điêu Đại Hiệp danh trấn giang hồ , trận đại chiến cuối cùng với Kim Luân Pháp Vương để cứu Quách Tường - cô bé si tình tha thiết với ông anh - đã khẳng định võ công và uy thế của Dương Quá , đồng thời chàng dùng đá ném chết Mông Kha , lập kỳ công cho Tương Dương thành . Sau kì Hoa Sơn luận kiếm lần 3 , Dương Quá cùng Tiểu Long Nữ thoái ẩn giang hồ vui thú điền viên ...

19.Trương Vô Kỵ

Lý lịch trích ngang

Dân tộc : Hán

Họ tên cha : Trương Thuý Sơn

Họ tên mẹ : Hân / Ân Tố Tố

Năm sinh : Khoảng 1336 - 1340

Tình trạng hôn nhân : Độc thân , sắp lấy vợ ( tính đến hết bộ Ỷ Thiên Đồ Long Kí )

Hình dáng : Rất đẹp trai , làm say lòng bao nhiêu cô gái , được thừa hưởng nét đẹp thư sinh thanh tú từ cha và vẻ đẹp nhi nữ yểu điệu từ mẹ , mang vẻ đẹp kiêu hùng mạnh mẽ , đầy nam tính . " Mình khoác áo bào đoạn gấm , tay cầm Thánh Hoả Lệnh ... " .

Tính cách : 1 nhân vật có tính cách khá yếu đuối do cha mẹ chết thảm từ nhỏ , thiếu sự dạy dỗ và tình thương , tính tình nhu nhược , mặc dù khá thông minh , luôn thể hiện đạo lý " Nhún mình theo người " của Đạo gia không đúng lúc đúng chỗ , mập mờ ngay cả trong chuyện tình cảm của chính bản thân mình , thiếu quyết đoán ngay cả trong nhũng lúc quan trọng nhất , tự gây khó khăn cho chính mình và người xung quanh .

Sở thích : Tán chuyện với mấy cô nương xinh đẹp như hoa .

Võ nghệ : Từ nhỏ được nghĩa phụ Tạ Tốn dạy cho khá nhiều võ công của các phái , kể cả vài chiêu Hàng Long Thập Bát Chưởng thất truyền , sau học võ nghệ phái Võ Đang , học Cửu Dương Chân kinh trong người con bạch vượn , học Càn Khôn Đại Nã Di trong đường hầm trên Quang Minh đỉnh , học võ công ghi trên Thánh Hoả Lệnh của Ba Tư , cuối cùng là Thái Cực Quyền cùng Thái Cực kiếm của Trương Tam Phong , trở thành đệ nhất đại cao thủ đương thời .

Sở trường : Môn Càn Khôn Đại nã Di là món tủ , gặp ai cũng đem ra ứng dụng .

Tài năng : Y thuật cùng võ công , y thuật bất phàm không kém gì ông thầy là Y Tiên Hồ Thanh Ngưu , võ công cao siêu vô địch trong thời bấy giờ .

Thân thế sự nghiệp : Sinh ra ở Băng Hoả Đảo , 10 tuổi trở về Trung Nguyên , gặp đau khổ ngay từ nhỏ , bị Hạc Bút Ông trong Huyền Minh nhị lão tặng cho 1 chưởng , hàn độc nhập phủ tạng , chết đi sống lại mấy lần , được sư tổ Trương Tam Phong đưa lên Thiếu Lâm nhờ chữa chạy , vô tình gặp ngay ông Viên Chân lừa đảo , đả thông kì kinh bát mạch cho chết sớm hơn , cùng Thường Ngộ Xuân tới Hồ Điệp cốc nhờ Hồ Thanh Ngưu chữa bệnh và học y thuật kì diệu của họ Hồ , sau đó trốn khỏi Hồ Điệp Cốc , dắt Dương Bất Hối đi ngàn dặm lên Côn Lôn tìm cha . Chia tay Dương Tiêu , gặp tên Chu Trường Linh cùng Chu Cửu Chân lừa gạt , suýt mất mạng , may nhờ đó gặp con bạch vượn , tập luyện thành thạo Cửu Dương Thần Công , nội thương từ đó hết hẳn . Ra khỏi đáy vực , đi theo phái Nga Mi về Quang Minh đỉnh , lập đại công cho Minh Giáo ở đây , được tôn là Giáo chủ đời thứ 34 của Giáo phái này , học thần công Càn Khôn Đại nã di , lãnh đạo quần hào kháng Nguyên lập nhiều chiến công vang dội , sau đó bị cuốn vào lưới tình với 4 vị cô nương xinh đẹp : Triệu Minh - quận chúa Mông Cổ , Chu Chỉ Nhược - chưởng môn Nga Mi , Tiểu Siêu - cô hầu gái , Hân Lý - cô em họ . Thời cuộc đưa đẩy , Tiểu Siêu gạt nước mắt quay về Ba Tư xa xôi , Hân Ly dở điên dở dại , Chu , Triệu 2 cô thay nhau dắt mũi Trương Vô Kị . Cuối cùng , Vô Kị cũng yêu Triệu Minh , quyết định thoái ẩn giang hồ , truyền lại chức Giáo chủ cho Dương Tiêu , ngày ngày vẽ lông mày cho người đẹp

PHẦN 5

20. Thái Cực Quyền

Xuất hiện lần đầu trong bộ Ỷ Thiên Đồ Long Ký , là tuyệt tác cuối đời của đại sư võ học là Trương Tam Phong , tổ sư khai môn của Võ Đang . Theo như Kim Dung viết thì Trương Tam Phong đã ấp ủ bộ quyền pháp này trong hơn 10 năm trời , nhưng khi bị Cương Tướng ( tức Không Tướng giả mạo ) đả thương trầm trọng , Võ Đang đứng trước đại hoạ diệt môn , ông phải đem bộ quyền pháp này ra truyền dạy cho Tam đệ tử là Du Đại Nham nhằm giữ lại đời sau cho con cháu . Tương truyền , Trương Tam Phong lấy quyền ý từ Tang Loạn Thiếp của Vương Hy Chi . Sau này , hầu hết các đệ tử Võ Đang đều được học Thái Cực Quyền , người đắc ý nhất của Trương Tam Phong , được coi như đệ tử chân truyền Thái Cực Quyền là Nhị đệ tử Dư Liên Châu ...

Đúng như tên gọi của môn võ , Thái Cực , nhất âm nhất dương , thế thủ căn bản đầu tiên của Thái Cực Quyền : " Tay trái chắp thành hình bán nguyệt , làm âm chưởng , tay phải xoay lên là dương chưởng " . Theo như Kim Dung lý giải , Thái Cực Quyền là Nội Gia quyền , thiên về Nhu , là môn võ chí Nhu của võ học đương đại , xuất chiêu không cần dùng sức , nếu dùng sức lại không thành quyền , quyền chiêu chủ yếu xoay theo vòng tròn , rất hợp ý nghĩa của 2 chữ Thái Cực , kể cả Bộ Pháp thì Thái cực Quyền có 36 chiêu và 12 Bộ quyền riêng biệt , 1 số trong đó còn chia Thượng , Hạ , Trung Bộ . Khẩu quyết luyện quyền :

Hư linh đính kình

Hàm hung bạt cốc

Túng yêu thuỳ đồn

Trầm kiên trụy trửu

Thực chất Thái Cực Quyền thiên rất nhiều về các thủ pháp Tứ Lạng Bát Thiên Cân và Tá Lực Đả Lực , sau này khi xem Dư Liên Châu dùng 12 bộ Vân Thủ đỡ Tích Lịch Lôi Hoả Đạn , đã biểu diễn Thái Cực Quyền đến độ tinh diệu nhất " một con ruồi cũng không thể qua lọt , một sợi tóc cũng không thể đặt lên " , Thái Cực Quyền vốn lấy rất nhiều từ căn bản võ công của phái Võ Đang như Miên chưởng , hay khinh công Thê Vân Túng .

Các chiêu thức , bộ pháp của Thái Cực Quyền :

Cao Thám Mã : chia làm 3 bộ Thượng Bộ , Trung Bộ và Hạ Bộ tuỳ theo thế thủ chính .

Vân Thủ : là chiêu thức chuyển nội kình là chủ yếu .

Lâu Tất Câu Bộ : chỉ chia làm 2 bộ Thượng và Trung , không có Hạ Bộ

Loạn Hoàn Quyết : Đây là 1 thức tổng hợp , gồm 12 chiêu thế , chủ yếu là áp đụng chữ Xoay , đưa đối phương theo ý mình .

Lục Hợp Kình : Cách vận khí phát kình của Loạn Hoàn Quyết

Song Phong Quán Nhĩ : 1 chiêu cực kì hiểm ác của môn Quyền pháp này , 2 tay đánh vào màng tang địch thủ đồng thời .

Lãm Tước Vĩ : thế chủ yếu dựa thủ pháp Tứ Lạng bát Thiên Cân , dựa sức đối phương để phản kích .

Ngoài ra còn 1 số chiêu thức khác như : Tà Quải Đơn Tiên , Thủ Huy Tì Bà , Tiến Bộ Ban Lan Truy , Như Phong Tự Bế , Thập Tự Thủ , Bão Hổ Quy Sơn , Đề Thủ Thượng Thế ...

21.Thái cực Kiếm ...

Nguồn gốc:

- Do Trương Tam Phong chân nhân , tổ sư phái Võ Đang sáng chế sau 1 thời gian dài bế quan luyện công , có thể nói đây là tuyệt học tập trung những gì tinh yếu nhất của kiếm pháp phái Võ Đang .

Sau đời Trương Tam Phong , kiếm pháp này do Du Đại Nham kế thừa . Có xuất hiện trong Tiếu Ngạo Giang Hồ do Xung Hư đạo trưởng sử dụng .

Yếu chỉ

- Chỉ gồm 8 chữ : Thần tại kiếm tiên , miên miên bất tuyệt ( theo dịch giả Nguyễn Duy Chính : thần đi trước kiếm , liên miên không dứt ) , lúc Trương chân nhân truyền kiếm pháp cho Vô Kị là truyền kiếm ý , không truyền kiếm chiêu , chỉ cần thấu hiểu kiếm ý , kiếm tuỳ tâm thu phát , không câu nệ vào chiêu thức .

- Là loại kiếm pháp lấy tĩnh chế động , lấy nhu khắc cương , lấy chậm chống nhanh , chiêu nào cũng mang hàm ý âm dương biến hoá .

Chiêu thức :

- Gồm 54 chiêu : đầu tiên là Khởi Thủ Thức , sau đó là Tam Hoàn Sáo Nguyệt , Đại Khôi Tinh , Yến Tử Sao Thuỷ , Tả Lan Tảo , Hữu Lan Tảo ... chiêu thứ 53 là Chỉ Nam Châm , chiêu cuối cùng là Trì Kiếm Qui Nguyên . ( Lưu ý : đây chỉ là chiêu thức copy từ trong truyện ra , không chịu trách nhiệm nếu khác với thực tế )

- Tuy nhiên , như đã nói ở trên , Thái Cực Kiếm không quá câu nệ vào chiêu thức , lúc Vô Kị sử dụng Thái Cực Kiếm , chỉ vẽ vạch vòng tròn vô cùng vô tận , thiên biến vạn hoá , dùng Thái Cực vây bọc đối phương , chỉ có 1 chiêu mà hoá trăm ngàn chiêu , đánh ra cũng là vòng tròn , thu về cũng là vòng tròn .

- Lúc truyền Thái Cực Kiếm cho Trương Vô Kị , Trương Tam Phong bảo Vô Kị phải quên chiêu thức càng nhiều càng tốt , chỉ giữ kiếm ý , không giữ kiếm chiêu .

22.Vi Tiểu Bảo

Lý lịch trích ngang

Dân tộc : Không biết , có lẽ là Hán , cũng có thể là Mãn .

Họ tên cha : Không biết .

Họ tên mẹ : Vi Xuân Phương .

Năm sinh : Khoảng 1656 - 1657 gì đó

Tình trạng hôn nhân : Đã lập gia đình , có 7 vợ ( xếp theo thứ tự từ lớn đến nhỏ ) : Tô Thuyên , Phương Di , A Kha , Kiến Ninh công chúa , Tăng Nhu , Mộc Kiếm Bình , Song Nhi . Có 3 con , trưởng nam : Vi Hổ Đầu , con A Kha , thứ nam : Vi Đồng Truỳ : con Tô Thuyên , trưởng nữ : Vi Bản Đắng - Vi Song Song , con Kiến Ninh công chúa .

Hình dáng : Người tầm thước , không cao to lắm , có lẽ mặt mũi cũng không đến nỗi nào .

Tình cách : Tình tình gian xảo , hay nghĩ kế lừa người khác , trí trá đa đoan , hay nịnh hót , biết cách lấy lòng người khác 1 cách rất có nghệ thuật . Là người nhát gan , sợ chết nhưng trọng nghĩa khí , trung thành với bạn bè , không bao giờ bán đứng bằng hữu cầu vinh . Là con hiếu thảo với mẹ , là người chồng tốt , chung thuỷ với 7 cô vợ của mình , người cha tốt , biết lo lắng cho gia đình .

Sở thích : Đánh bạc , đặc biệt là bạc bịp , mê xem hát , thích náo nhiệt ồn ào , phù hợp nơi thị tứ đông đúc .

Võ nghệ : Rất xoàng , có môn công phu sở trường là Thần Hành Bách Biến , Mỹ Nhân Tam Chiêu . Nhận rất nhiều sư phụ , nhưng lại chẳng học được công phu của ai cho ra hồn : Hải Đại Phú , Khang Hy hoàng đế , Trần Cận Nam , Trừng Quan hoà thượng , Bạch Y Ni Cửu Nạn , Hà Thích Thủ , Thần Long Giáo Chủ Hồng An Thông .

Sở trường : Phần lớn công trạng lập được là nhờ 3 pháp bảo : Mông Hãn dược , Truỷ thủ chém sắt như bùn , Bảo y đao kiếm bất nhập . Sở trường nịnh hót dùng 3 tấc lưỡi tâng bốc đối phương , đối khi có những sáng kiến xuất thần vô cùng hiệu quả và kì lạ , ngoài ra còn môn võ mồm lợi hại , cãi nhau kì tài .

Tài năng : Có năng lực đặc biệt về làm quan , trở thành 1 vị đại quan công chính liêm minh vào bậc nhất dưới thời Khang Hy , lập vô số đại công cho nhà Thanh , thăng quan phát tài với tốc độ của tên lửa , gia sản thu nhặt được tới hàng trăm vạn lượng bạc .

Thân thế sự nghiệp : Sinh ra tại Lệ Xuân Viện , từ nhỏ sống cảnh cơ hàn nghèo khổ , năm 15 tuổi theo Mao Thập Bát thượng kinh , trở thành Thái Giám trong cung với nick name Tiểu Quế Tử , chơi đùa với Khang Hy niên thiếu , cả 2 trở thành đôi bạn tâm đầu , lập đại công bắt Ngao Bái , tạo điều kiện cho Tiểu hoàng đế chấp chưởng đại quyền . Sau đó theo Thiên Địa Hội do bị ép buộc , trở thành Hương Chủ Thanh Mộc Đường của Hội này , hoạt động gián điệp trong cung , đồng thời lên chức Tổng Quản Kiêu Kỵ Doanh , liên tục lập nhiều công trạng lớn như cứu Thuận Trị Hoàng Đế , xả thân cứu giá Khang Hy , vạch mặt Giả Thái Hậu , đồng thời cũng gia nhập Thần Long Giáo ( do bị ép ) , tước phong Bạch Long Sứ . Sau đó tiếp tục lập công cho triều đình Mãn Thanh , bắt Ngô Ứng Hùng , ép Ngô Tam Quế tạo phản . Tiêu diệt Thần Long Giáo , thay mặt vua đi viễn chinh Nga La Tư , kí hoà ước Hắc Long Giang , mang lại nhiều đặc quyền cho Thanh triều , cứu nhiều lương dân tại đảo Đài Loan , chiêu hàng Trịnh Khắc Sảng . Cuối cùng quyên góp tài sản cứu nạn dân , treo ân từ quan , vui thú điền viên cùng mẹ và gia đình .

Các chức quan đã từng trải qua : Phó Tổng Quản ngự Tiền Thị Vệ , Thủ Lĩnh Thái Giám , quan hàm lục phẩm , Tổng Quản Kiêu Kị Doanh , Tổng Quản Thái Giám , Ba Đồ Lỗ - Phó đô thống Hoàng Kì , Nhất đẳng Tử tước - Tứ Hôn Sứ , Chánh Đô Thống Hoàng Kì - Thông Cật Bá - đệ Nhị đẳng , Phủ Viễn Đại Tướng Quân - Lộc Đỉnh Công - đệ Tam đẳng , Khâm sai Đại Thần

23.Lệnh Hồ Xung

Dân tộc: Hán

Tuổi: Khoảng trên 30

Xuất thân: Mồ côi cha mẹ từ nhỏ, được vợ chồng Nhạc Bất Quần đem về nuôi dưỡng, nhận làm đại đệ tử phái Hoa Sơn.

Tình trạng hôn nhân: có vợ là Nhậm Doanh Doanh, Thánh cô Nhật Nguyệt Thần Giáo.

Ngoại hình: Nói chung là trung bình, chẳng xấu mà cũng không đẹp.

Tính cách: Là một gã không sợ trời không sợ đất, tính tình phóng khoáng, thích được tự do tự tại, có tinh thần hành hiệp trượng nghĩa. Đồng thời Lện Hồ Xung cũng là một người chính nghĩa, trọng tình cảm, tôn sư trọng đạo. Tuy nhiên hắn khá yếu đuối trong tình cảm nam nữ.

Võ công: kiếm pháp và nội công phái Hoa Sơn do Nhạc Bất Quần truyền dạy, các môn kiếm pháp của Ngũ Nhạc kiếm phái khắc trên tường thạch động ở Ngọc Nữ Phong và được Phong Thanh Dương truyền Độc cô cửu kiếm, kiếm pháp vô địch của Độc cô cầu bại. Sau đó học môn Hấp tinh đại pháp khắc trên Thiết bản dưới đáy Tây hồ. Cuối cùng là môn Dịch Cân Kinh của phái Thiếu Lâm. (nếu nói cho đủ thì có thêm môn Xung Linh kiếm pháp do chàng và Nhạc Linh San sáng tạo ra, nhưng chỉ để múa cho đẹp).

Sở thích: Sở thích lớn nhất của hắn là uống rượu.

Sở trường: Môn Độc cô cửu kiếm cực kì lợi hại cộng với Hấp tinh đại pháp kì dị khiến anh hùng thiên hạ phải nể mặt.

Tài năng: Được Thánh cô Doanh Doanh - vốn là cao thủ đàn - dạy từ cơ bản ("Thanh tâm phổ thiện trú") đến nâng cao ("Tiếu ngạo giang hồ") nên biết chút chút.

Hành tẩu giang hồ: Lện Hồ Xung mồ côi cha mẹ từ nhỏ, được vợ chồng Nhạc Bất Quần đem về nuôi và day dỗ trở thành đại đệ tử phái Hoa sơn. Hắn từ thuở nhỏ đã gắn bó và yêu cô tiểu sư muội của mình - Nhạc Linh San con gái của Nhạc Bất Quần. Thế nhưng, biến cố xảy ra trong lần Nhạc Bất Quần và đệ tử xuống núi tham dự lễ gác kiếm của Lưu Chính Phong, phó chưởng môn phái Hành sơn, Lện Hồ Xung cứu Nghi Lâm phái Hằng Sơn. Nhờ nhân duyên, Lện Hồ Xung được thái sư thúc tổ Phong Thanh Dương truyền thụ kiếm pháp Độc cô cửu kiếm của Độc cô cầu bại. Lện Hồ Xung bị sư phụ nghi ngờ lấy Tịch Tà kiếm phổ, giết sư đệ, cấu kết với ma giáo, học kiếm pháp phe khí tông, sư muội Nhạc Linh San bở rơi chạy theo gã Lâm Bình Chi. Lện Hồ Xung đau khổ vì bị nghi oan, nhưng đâu biết đó là gian kế của lão già họ Nhạc. Lện Hồ Xung liên tiếp thọ trọng thương, rồi lưu lạc khắp nơi, từ Cô Mai Sơn Trang cứu Nhậm Ngã Hành, lên chùa Thiếu Lâm quậy tưng bừng để cứu Thánh cô, làm chưởng môn Hằng Sơn. Thế Nhưng, điều may mắn nhất trong đời Lện Hồ Xung là gặp được Thánh cô Nhật Nguyệt Thần Giáo Nhậm Doanh Doanh hiểu tấm lòng mình, đem lòng yêu mến. Trải qua nhiều biến cố, cuối cùng hai người đã được ở bên nhau, cùng nhau hợp tấu khúc "Tiếu ngạo giang hồ".

24.Hấp tinh đại pháp

Trong giang hồ, có lẽ không có môn võ công nào khiến các bậc anh hùng vừa khiếp sợ vừa khinh bỉ bằng môn Hấp tinh đại pháp. Các loại võ công thông thường thì giết người hoặc đả thương đối phương, nhưng Hấp tinh đại pháp lại là môn hấp thụ nội công của đối thủ, lấy của địch làm của mình, nói thẳng ra là ăn cắp nội công của địch thủ. Tưởng tượng xem bạn là một cao thủ võ lâm, luyện tập mấy chục năm trời dầm mưa dãi nắng, khổ cực trăm bề để có được nội công thượng thặng nhưng tất cả biến mất sau vài phút chỉ bằng một cái chạm tay vào người. Ghê gớm thay! Môn võ công này được Nhậm Ngã Hành - giáo chủ Nhật Nguyệt thần giáo - sáng chế. Cơ bản của các môn nội công khác là tập trung chân khí tại đan điền, nguyên khí càng đầy rẫy thì nội công càng cao siêu. Nhưng Hấp tinh đại pháp thì ngược lại. Môn võ công này biến huyệt Đan điền thành một dạng "hố đen" thu hút nội công của đối thủ rồi phát tán vào những huyệt ở Nhâm mạch. Khi cần phát thủ thì lại tập trung lại tại huyệt Đan điền rồi phát ra. Tuy nhiên môn võ công này không được toàn bích, bởi lẽ càng hút được nhiều nội công thì các loại nội công lại không giống nhau, không thể dung hoà được, dẫn đến tình trạng các môn nội công khác nhau oánh nhau trong người khiến người luyện tập đau đớn khôn tă mà chết. Nhậm Ngã Hành một đời võ công cái thế, mưu trí cao siêu song cũng bỏ mạng bởi chính môn võ công của mình. Chỉ có một thuốc chữa chính là Dịch Cân Kinh của Thiếu Lâm, hoà giải công phu Hấp tinh đại pháp, sau này Lện Hồ Xung đã được Phương Chứng đại sư truyền thụ, hoá giải hoàn toàn.

PHẦN 6

25. Dịch Cân Kinh

"...Dịch Cân Kinh tương truyền do Đạt Ma lão tổ diện bích 9 năm mà sáng chế ra, Thiền nông nhị tổ Tuệ Khả nhặt được dưới chân tường nơi lão tổ diện bích. Tuệ Khả đại sư nguyên pháp danh là Thần Quang, người thành Lạc Dương, thông suốt Khổng học và Lão học từ thuở nhỏ. Hồi Đạt Ma lão tổ còn trụ trì ở bản tự, Thần Quang đại sư lên chùa xin thụ giáo thêm. Đạt Ma thấy những điều sở học của đại sư phức tạp mà đại sư ỷ mình thông minh, khó giác ngộ thiền lý nên cự tuyệt không muốn thu nhận, Thần Quang đại sư năn nỉ mãi, thuỷ chung vẫn không được nhập môn. Thần Quang đại sư thấy mình năn nỉ cách nào Đạt Ma lão tổ vẫn không chấp thuận liền vung kiếm lên tự chặt đứt cánh tay trái. Đạt Ma lão tổ thấy Thần Quang thành khẩn như vậy mới thu làm đệ tử và đổi pháp hiệu là Tuệ Khả. Sau đại sư được lão tổ truyền chức làm Thiền Tôn pháp thống. Đời Tuỳ có nhà sư được phong Thiền Tôn phổ giác đại sư chính là vị này.

Tuệ Khả nhị tổ lượm được "Dịch Cân Kinh" viết bằng chữ Phạn nghĩa lý rất uyên thâm. Khi lượm được di kinh thì Đạt Ma lão tổ đã viên tịch rồi cho nên không hỏi ai được. Nhị tổ nghĩ rằng Đạt Ma lão tổ diện bích chín năm mới lưu lại cuốn kinh này thì dù kinh văn sơ sài, song nhất định không phải chuyện tầm thường. Thế rồi ngài đeo kinh lên lưng đi khắp danh sơn thắng cảnh tìm kiếm cao tăng để nhờ giải thích. Nhưng hồi đó nhị tổ đã là một vị cao tăng đắc đạo đương thời, khổ tâm suy nghĩ còn chưa hiểu được. Vậy thì việc tìm kiếm một bậc diệu pháp cao thâm hơn Nhị tổ lại càng khó khăn, Vì thế mà hơn 20 năm những điều bí ẩn trong kinh văn thuỷ chung vẫn không sao hiểu được. Một hôm Nhị tổ gặp tuyệt đại pháp duyên được cùng một nhà sư Thiên Trúc pháp hiệu là Ban Thích Mật Đế trụ trì ở núi Nga My tỉnh Tứ Xuyên đàm luận Phật học rất ý nguyện tâm đầu. Nhị tổ liền lấy "Dịch Cân Kinh" ra để cùng Ban Thích Mật Đế nghiên cứu, Hai vị cao tăng ở trên đỉnh núi Nga My suy luận trong 19 ngày mới hiểu hết. Nhưng Ban Thích chỉ là một vị cao tăng về Thiên Tôn Phật học. Mãi đến 12 năm sau, Nhị tổ trên đường đi Trường An gặp một chàng tinh thông võ nghệ. Nhị tổ cùng y đàm luân 3 ngày 3 đêm mới thấu đạt được đến hổ ảo diệu về "Dịch Cân Kinh". Chàng thanh niên đó là một vị khai quốc đại công thần Đường triệu tên gọi Lý Tĩnh. Sau Tĩnh phò tá vua Thái Tôn bình định rợ Đột Huyết ra ngoài làm tướng soái, vào triều làm tướng quốc, được phong chức Vệ Công. Sở dĩ Lý Vệ Công lập được kỳ công tuyệt thế cũng một phần nhờ ở pho kinh này mà thành...'

"...Dịch Cân Kinh tuyệt diệu ở chỗ bao quát các mạch lạc con người, liên hệ với tinh thần ngũ tạng. Khắp mà không tan, đi mà không dứt. Khí ở trong sinh, huyết ở ngoài thân. Luyện được kinh rồi thì tâm động là nội lực tự phát huy như nước triều dâng. Luyện Dịch Cân Kinh khác nào bơi thuyền trên sóng dữ , đợt sóng dâng lên hạ xuống thì thuyền lúc cao lúc thấp, cần chi phải dùng sức..."

Theo Phương Chứng đại sư Thiếu Lâm tự thì Dịch Cân Kinh là môn luyện tập nội công chí tôn vô thượng, bởi lẽ nội công đã luyện thành thì có thế tuỳ tâm mà phát động. Địch yếu hay địch mạnh ta đều có thế dễ dàng biến đổi để mà dành phần hơn như con thuyền trên nước, sóng dâng thì thuyền dâng theo. Lệnh Hồ Xung vì luyện Hấp tinh đại pháp và trong người có nhiều luồng khí dị chủng, ngay cả danh y Bình Nhất Chỉ cũng đành bó tay nhưng Dịch cân kinh thì có thể dung hoà chúng, như các nhánh sông đổ về một dòng. Tuy nhiên trong TNGH, ta không thấy mặt mũi Dịch cân kinh mà chỉ qua Phương Chứng đại sư truyền lại khẩu quyết cho LHX mà luyện tập.

Trong Thiên Long bát bộ, tương truyền Dịch cân kinh và Lục Mạch Thần Kiếm là hai pho võ công ngang nhau, thiên hạ vô đich, một về nội công, một về ngoại gia. Dịch cân kinh xuất hiện là lúc A Châu giả trang vào chùa Thiếu Lâm trộm chân kinh làm quà mừng thọ Mộ Dung Phục, chẳng may bị dính một chưởng Kim Cang, tuy giảm bớt mấy thành do Kiều Phong ném tấm gương đồng che chở nhưng cũng khiến y suýt mất mạng. Nguyên sư đệ của Cưu Ma Trí là Ba La Tinh, Triết La Tinh đột nhập vào Thiếu Lâm trộm kinh mà bị giam giữ mấy chục năm (mấy ông sư ác gớm, bây giừ tội trộm cắp cũng đâu tới mấy chục năm). Sau này, khi A Châu chết, Dịch cân kinh cũng theo Tiêu Phong qua Liêu quốc, và bị đánh rơi, Du Thản Chi nhặt được. Dịch cân kinh là một quyển sách bằng giấy dầu mỏng không thấm của Thiên Trúc , trên có các hình vẽ các nhà sư trong các tư thế luyện công kì lạ (rất giống với Yoga) và các đường xanh đỏ là các đường khí vận hành trong người. Du Thản Chi vì bị trúng độc của con Băng Tầm mà luyện thành Dịch cân kinh và Hàn Băng độc chưởng. Tuy nhiên Dương Trang Chủ chỉ dựa vào đồ hình để luyện nên không hiểu được đạo lý nhà Phật bên trong. Sau này, trên Thiếu Lâm có vị đại sư già trông coi Tàng Kinh Các là người thông tuệ, tinh thông Phật pháp đã giảng giải về Dịch cân kinh: Dịch cân kinh là môn nội công của phái Thiếu Lâm dùng để luyện tập cơ thể cường tráng, tinh thần minh mẫn. Thiếu Lâm có 72 tuyệt kỹ nhưng muốn luyện các môn tuyệt kỹ đó đến độ tinh vi ảo diệu thì phải có căn cơ nội công Dịch Cân Kinh, thì khi đạt trình độ thượng thặng mới không tổn hại cơ thể. Tiêu Viễn Sơn và Mộ Dung Bác vì ko hiểu đạo lý đó mà mang thương tích, sau nhờ đại sư cứu chữa, quy y đầu Phật. Dịch Cân Kinh cuối cùng lại quay trở về Tàng Kinh Các, tiếp tục bị "đóng bụi" với thời gian.

26. Võ Lâm Ngũ Bá "Đông Tà, Tây Độc, Nam Đế, Bắc Cái, Trung Thần Thông" (Anh hùng xạ điêu - Thần điêu đại hiệp)

Năm người: Hoàng Dược Sư, Âu Dương Phong, Đoàn Trí Hưng, Hồng Thất Công và Vương Trùng Dương trên đỉnh Hoa Sơn luận kiếm bảy ngày bảy đêm, mỗi người dùng tuyệt kỹ cả đời để tranh hơn thua. Đông Tà với "Phách không chưởng", Tây Độc với "Hàm mô công", Nam Đế dùng "Tiên thiên thần công", Bắc Cái sử dụng mười tám thế "Giáng long thập bát chưởng", bốn người không phân thắng bại, cuối cùng Vương Trùng Dương bằng vào "Nhất dương chỉ" thắng được nửa chiêu, dành được Cửu âm chân kinh - cuốn bí kíp gây biết bao sóng gió giang hồ.

Đông Tà:

Tên thật: Hoàng Dược Sư.

Tuổi tác: trong Anh hùng xạ điêu khoảng trên dưới 50 tuổi, còn trong Thần điêu đại hiệp thì chắc lão cũng được bảy mí

Xuất thân: Đảo chủ Đào Hoa đảo phía đông hải.

Tình trạng hôn nhân: có vợ ( Phùng Thị Mai Hương - A Hành ) là một người thông minh tuyệt đỉnh, trí nhơ siêu phàm (chỉ đọc qua một lần mà nhớ nguyên bộ Cửu âm chân kinh và giảng giải rành rẽ), sau vợ sinh được con gài thì chết. Con gái tên Hoàng Dung cũng rất thông minh.

Ngoại hình: giống như một nhà Nho, thường mặc áo trường bào xanh, tay cầm ống lộng ngọc trông thoát tục.

Tính cách: Rất độc đoán, luôn cho rằng mình đúng, làm việc kô theo một khuôn phép nào, xứng đáng với chữ Tà. Nhưng bản thân ông luôn coi trọng chính nghĩa, ghét sự giả dối, xảo trá, bài bác những tư tưởng Nho giáo sai lầm.

Võ công: là một trong năm vị tôn sư, nỗi tiếng với "Phách không chưởng" dùng trong Hoa Sơn luận kiếm lần I. Ngoài ra còn có Lạc anh chưởng, kiếm pháp, Đàn chỉ thần công. Ngoài ra còn có bài tiểu "Thiên ma vũ khúc" vô cùng lợi hại khiến con người trở nên bấn loạn, nhảy múa điên cuồng mà chết.

Sở thích: sở thích của lão chắc là châu báu và cuốn Cửu Âm chân kinh (Cửu âm chân kinh).

Sở trường: "Phách không chưởng" uy lực kinh người, chỉ cái phất tay nhẹ mà kình lực phát ra ào ạt như sóng Trường Giang.

Tài năng: Trong ngũ bá thì Đông Tà là người có hiểu biết rộng nhất, thông tất cả các môn Âm nhạc, Thi văn, Toán số, Địa lý, Kinh Dịch, Ngũ Hành,...Đào hoa đảo là một pháo đài với nhiều cạm bẫy chết người.

Hành tẩu giang hồ: Là một trong ngũ bá xưng hùng trên võ lâm, sau khi tham gia Hoa Sơn luận kiếm, ông lập kế lấy được Cửu âm chân kinh phần hạ từ tay Lão Ngoan Đồng Châu Bá Thông. Cuốn chân kinh sau bị vợ chồng Mai Siêu Phong lấy trộm, khiến vợ Dược Sư vì muốn viết lại, lao tâm khổ trí, sinh con mắc bệnh mà chết. Tuy suốt đời theo đuổi Cửu Âm chân kinh nhưng cuối cùng ông không đạt được mục đích, dù nhốt được Lão Ngoan Đồng mười lăm năm trên Đào Hoa Đảo, mất cả vợ nên thề không đặt chân lên đất liền. Hoa Sơn luận kiếm lần hai, ông bị đả bại về tay Tây Độc với võ công kì dị. Về sau nhận Quách Tĩnh làm con rể.

Tây Độc:

Tên thật: Âu Dương Phong

Tuổi tác: xấp xỉ lão Đông Tà.

Xuất thân: Chủ nhân Bạch Đà sơn trang tại núi Côn Lôn, Tây Vực

Tình trạng hôn nhân: không vợ nhưng có nhiều thê thiếp, tư thông với chị dâu sinh ra Âu Dương Khắc.

Tính cách: tàn độc, giết người không gớm tay, mưu mô xảo quyệt, nói chung là xấu xa. Tuy nhiên lão rất thương con, đúng là "hổ dữ cũng không ăn thịt con".

Ngoại hình: to lớn, mặc áo bào trắng, cầm cây Xà trượng trên có hai con rắn độc, mặt mày gian xảo. Sau này do Hoàng Dung cố tình đọc ngược Cửu âm chân kinh nên Tây độc luyện công ngược, huyệt vị trên người đảo ngược, đi bằng hai tay.

Võ công: Công phu "Hàm mô công" (hay Cáp mô công) một chiêu bài sơn đảo hải, thực là môn võ công hiểm độc. Tuy nhiên, khắc chế của môn võ công này là "Nhất Dương Chỉ" của Vương Trùng Dương. Sau này do huyệt vị đảo ngược nên Nhất Dương chỉ cũng ko phát huy được. Ngoài ra còn có võ công của Cửu âm chân kinh, tuy ngược lại nhưng Tây Độc có cơ duyên nên luyện được thần công ngược đời. Tây Độc còn có bầy rắn độc được luyện công phu, bài binh bố trận khiến các anh hùng nhiều phen khiếp vía. Cây Xà trượng có hai con rắn thuộc loại tối độc và các loại độc dược từ rắn, Hồng Thất Công bị một chưởng Hàm mô công cộng với rắn độc cắn, níu ko nhờ Cửu âm chân kinh thì lão chỉ còn là một lão ăn mày đúng nghĩa đen.

Sở thích: đàn bà (có cả chục thê thiếp) và Cửu Âm chân kinh để xưng danh đệ nhất thiên hạ.

Sở trường: "Hàm mô công"

Tài năng: nuôi rắn, dùng độc số một thiên hạ.

Hành tẩu giang hồ: Sau khi bại dưới tay của Vương Trùng Dương tại kì đại hội Hoa Sơn lần I, Tây Độc nhân khi Vương Trùng Dương chết liền đến Toàn chân phái ăn cắp Cửu âm chân kinh nhưng bị trúng kế, Vương Trùng Dương trước khi chết "tặng" cho Tây Độc một chỉ khiến hắn phải chạy ra Tây Vực mười lăm năm. Sau khi vào Trung Nguyên, Âu Dương Khắc bị giết, Tây Độc bị Hoàng Dung lừa, hoc ngược Cửu âm chân kinh, trong Hoa Sơn luận kiếm lần II tuy đả bại Hồng Thất Công và Hoàng Dược Sư nhưng lại bị mất trí (cuối Anh hùng xạ điêu). Trong Thần điêu đại hiệp, y nhận Dương Quá làm nghĩa tử, truyền môn Hàm mô công. Cuối cùng, Tây Độc và Hồng Thất Công đánh nhau chí tử, cùng ôm nhau mà chết.

Nam Đế:

Tên thật: Đoàn Trí Hưng

Tuổi tác: khoảng 60 tuổi (đoán đại)

Xuất thân: là Đoàn Nam đế nước Đại Lý (ở Vân Nam), sau xuất gia lấy hiệu Nhất Đăng đại sư

Tình trạng hôn nhân: có nhiều thê tử nhưng yêu quí nhất là Lưu Quý Phi - Anh Cô

Tính cách: là một lão tăng đắc đạo, thông tuệ, bao dung, bác ái. Tuy trong đời đã làm một điều mà lương tâm của ông sau này không phút nào yên ổn, là nguyên nhân khiến ông xuất gia nhưng ông là hiện thân của Phật pháp từ bi.

Ngoại hình: khuôn mặt hiền từ, hai hàng lông mày trắng xoá rủ xuống che gần hết con mắt, tuy nhiên giữa hai hàng lông mày có nhiều nếp nhăn chứng tỏ có nhiều suy tư

Võ công: tuyệt kỹ "Tiên thiên thần công" đứng ngang hàng với các môn thần công khác, sau đó được Vương Trùng Dương trao đổi võ công (mà thực ra là Vương Trùng Dương dạy, vì y sắp chết, học võ công của Nam đế cũng bằng thừa) từ đó phối hợp hai tuyệt kỹ "Tiên thiên công Nhất dương chỉ" biến hoá kì ảo, uy lực vô địch, đặt biệt có thể chữa nội thương, gần như là cải tử hoàn sinh.

Sở thích: vì là nhà sư nên y ko còn ham muốn gì ặc ặc

Sở trường: "Tiên thiên công Nhất dương chỉ" có thế hoá giải được "Hàm mô công", tiếc rằng về sau Tây Độc luyện Cửu âm chân kinh ngược, huyệt vị đảo ngược nên ko thể khống chế hắn được nữa. Ngoài ra ông còn có một phần công phu của Cửu âm chân kinh dùng để khôi phục nguyên khí

Tài năng: Chữa bệnh cứu người, sắp chết cũng chữa khỏi.

Hành tẩu giang hồ: Sau kì Hoa Sơn luận kiếm, Vương Trùng Dương đến Đại Lý để truyền cho Nam đế môn Nhất dương chỉ, sau khi Vương Trùng Dương chết đi thì dùng nó để khắc chế lão Tây Độc. Trong thời gian đó, Châu Bá Thông tư thông cùng Anh Cô - thiếp yêu của Nam Đế - sinh ra một đứa con. Kẻ thù tìm đến, ám hại đứa trẻ, Nam Đế vì quá yêu Anh Cô nên nổi cơn ghen, không chữa cho đứa nhỏ. Sau khi đứa nhỏ chết, y hối hận nên quy y Phật pháp, hiệu Nhất Đăng đại sư, trong lòng y không bao giờ tha thứ cho lỗi lầm của minh. Sau vì cứu Hoàng Dung mà bị Anh Cô lập mưu trả thù, tuy không thành. Nhất Đăng gián tiếp truyền cho Quách Tĩnh môn Nhất dương chỉ đồng thời nhờ Cửu âm chân kinh mà khôi phục công lực. Hoa Sơn luận kiếm lần hai, ông tuy có mặt nhưng không tham dự (cuối Anh hùng xạ điêu).

Bắc Cái:

Tên thật: Hồng Thất Công

Xuất thân: Bang chủ Cái Bang - đệ nhất bang

Tình trạng hôn nhân: không vợ con thân thuộc.

Tính cách: là người ngay thẳng, chính nghĩa, bình sinh rất ghét tà ác, luôn vì nhân dân.

Ngoại hình: là một lão già ăn mày rách rưới, áo có hàng trăm miếng vá đủ màu sắc, tay cầm thanh Đả cẩu bổng, lưng giắt bầu rượu. Đặc biệt, ông chỉ có chín ngón tay nên còn được gọi là "Cửu chỉ thần cái"

Võ công: Môn "Giáng Long thập bát chưởng" của ông là môn võ công chí dương, sức mạnh đập tan bia nát đá. Ngoài ra còn môn "Đả cẩu bổng pháp" truyền cho người kế vị Bang chủ, kỳ ảo biến hoá khôn lường. một phần Cửu âm chân kinh

Sở trường: "Giáng Long thập bát chưởng"

Sở thích: uống rượu và ăn ngon. Ông từng vào trong bếp của hoàng cung ba tháng trời ăn vụng, khi sắp chết (hụt) ước muốn của lão là được ăn món chả của Hoàng đế. Cũng nhờ vào tính háu ăn của Hồng Thất Công mà Hoàng Dung mới dụ lão chỉ dạy cho Quách Tĩnh mười lăm chiêu Giáng long chưởng

Tài năng: chắc là ăn vụng, lão vào hoang cung được canh giữ cẩn mật, ăn vụng ba tháng mà ma chẳng hay quỷ chẳng biết.

Hành tẩu giang hồ: Sau Hoa Sơn luận kiếm, Bắc Cái hành tung bí ẩn, thoát ẩn thoát hiện, như con thần long thấy đầu không thấy đuôi. Sau, lão nhận Quách Tĩnh và Hoàng Dung làm đệ tử, truyền hết võ công thượng thừa. Nhân chuyến ra Đào Hoa Đảo, ba thầy trò bị Tây Độc hãm hại, trúng một chưởng Hàm mô công, bị rắn độc căn nên công lực mất hết, sau nhờ Cửu âm chân kinh mà khôi phục lại như cũ. Lão truyền lại chức bang chủ cho Hoàng Dung. Trong kì luận kiếm Hoa sơn lần hai, Hồng Thất Công bị đả bại bởi võ Dịch cân kinh của Tây Độc (cuối Anh hùng xạ điêu). Trong Thần điêu đại hiệp, Bắc Cái và Tây Độc huyết chiến trên núi, cuối cùng kiệt sức hai người dừng tay, cùng cười và ôm nhau chết.

Trung Thần Thông Vương Trùng Dương:

Tên thật: Vương Triết.

Xuất thân: chưởng môn Toàn chân phái.

Tình trạng hôn nhân: không vợ con, có người yêu là Lâm Triều Anh

Tính cách: là một đạo sĩ luôn vì chính nghĩa, suốt đời làm việc nghĩa hiệp, đến khi sắp chết cũng vì an nguy giang hồ mà dụng tâm lừa Tây Độc cho hắn một chỉ, truyền "Nhất dương chỉ" cho Nam Đế.

Võ công: được bốn người kia công nhận là thiên hạ đệ nhất với thần công "Nhất dương chỉ", ngoài ra ông còn sáng tạo ra Bắc Đẩu Thiên Cang trận" cực kì lợi hạ, ngay cả Đông Tà võ công cái thế cũng không thoát nổi trận pháp này do bảy đệ tử của ông là Toàn Chân thất trấn giữ.

Sở trường: Nhất dương chỉ khắc chế được Hàm mô công của Tây Độc, chỉ bằng một chỉ của Vương Trùng Dương đã khiến Tây Độc mười lăm năm không dám bước vào Trung Nguyên.

Sở thích: không biết

Tài năng: Cũng như Đông tà, lão biết các môn thuộc Ngũ hành, chiêm tinh...

Hành tẩu giang hồ: Sau khi thắng tại kì Hoa sơn luận kiếm, Vương Trùng Dương lấy được Cửu âm chân kinh. Nhưng vốn không có tham vọng, Vương Trùng Dương muốn huỷ chân kinh nhưng vì tiếc tâm huyết tiền bối nên lưu lại. Y yêu một người là Lâm Triều Anh nhưng mối tình lỡ dở, tâm bệnh khiến y không đoái hoài tới thương tật, ôm hận mà chết. Trước khi chết, lão còn lừa cho Tây Độc một chỉ khiến hắn mười lăm năm không vao Trung nguyên, truyền lại "Nhất Dương chỉ" cho Nam đế, đem Cửu âm chân kinh giao lại cho Châu Bá Thông. Tiếc thay cho cuộc đời một hán tử anh hùng.

---------------------------------------------------------------------------------------------------------------

Lời người biên tập : Trong phần viết về Võ lâm ngũ bá trên thì tác giả có đề cập đến các tuyệt kỹ võ công của họ. Theo đó thần công của Nam Đế là "Tiên Thiên Công" còn của Trung Thần Thông là "Nhất Dương Chỉ" .Tuy nhiên theo mình được biết thì có lẽ là ngược lại : "Nhất Dương Chỉ" phải là của họ Đoàn ở Đại Lý, còn "Tiên Thiên công" mới là của Vương Trùng Dương. Trong hồi 30 của XẠ ĐIÊU ANH HÙNG TRUYỆN có đoạn ngắn như sau : "Người thư sinh nói "Không sai, sư huynh đệ giáo chủ Toàn Chân ở trong hoàng cung được mười ngày, bốn người bọn ta đều hầu hạ bên cạnh. Sư phụ ta đem yếu chỉ Nhất dương chỉ ra giảng giải, nói hết cho Trùng Dương chân nhân biết. Trùng Dương chân nhân vô cùng mừng rỡ, lại đem công phu lợi hại nhất của ông ta là Tiên thiên công truyền lại cho sư phụ ta. Lúc họ đàm luận, bọn ta

tuy ở bên cạnh, nhưng vì hiểu biết hạn hẹp, cho dù nghe thấy nhưng cũng không thể lĩnh ngộ được".

PHẦN 7

27.Bích hải triều sinh khúc:Cùng với Lạc Anh thần kiếm chưởng là hai môn tuyệt kỹ đắc ý nhất của Đông Tà Hoàng Dược Sư, đảo chúa Đào Hoa Đảo. Đây là một khúc nhạc được tấu bằng ngọc tiêu kèm với nội lực thâm hậu vô song, tấn công vào định lực của đối phương, làm cho đối thủ tâm thần hoảng loạn, như điên như cuồng, không thể kìm chế được bản thân, nếu càng cố vận lực chống đỡ càng dễ dẫn đến tẩu hoả nhập ma. Khúc tiêu này mô tả biển cả mênh mông, vạn dặm phẳng lỳ, xa xa sóng biển từ từ tiến tới, càng gần càng mau, sau cùng thì cuồn cuộn dâng lên, sóng trắng như núi nối nhau, mà trong làn sóng thì cá nhảy kình bơi, trên mặt biển thì gió thổi âu bay, lại thêm yêu ma quỉ mị, quái vật giỡn sóng, thoắt thì núi băng trôi tới, thoắt thì biển nóng như sôi, biến đổi đủ vành, mà sau khi triều lui thì mặt nước phẳng lặng như gương, dưới đáy biển lại là những dòng nước chảy ngầm rất xiết, trong chốn không có tiếng động hàm chứa sự hung hiểm, càng khiến người nghe khúc nhạc này bất giác rơi vào chỗ mai phục, càng không thể đề phòng...Sau Hoàng Dược Sư bị bọn Bành Liên Hổ, Sa Thông Thiên lừa rằng con gái ông là Hoàng Dung đã chết, ông đau buồn bẻ ngọc tiêu đi, tuy sau này có thay bằng thiết tiêu nhưng từ đó không còn thấy khúc Bích hải triều sinh vang lên nữa.

28.Hoá thi phấn: Đây là chất độc lợi hại đệ nhất thiên hạ, tương truyền là do quái kiệt Tây Độc Âu Dương Phong đời Nam Tống chế biến ra, về sau có Vi Tiểu Bảo lấy cắp được của Hải Đại Phú và là một trong "tam bửu" của vị đại hào kiệt này ( truỷ thủ, áo giáp, thuốc độc). Chất độc này lợi hại ở chỗ cứ có máu là phát huy tác dụng làm nát rữa thịt xương của người ta, biến tất cả thành một đống nước vàng, nguy hiểm nhất là đống nước vàng này lại chính là một đống Hoá thi phấn...cứ thế lan truyền, cực kỳ khủng khiếp. Người bị chất độc Hoá thi phấn thì chỉ còn cách cắt bỏ phần thân thể đã bị nhiễm độc nếu không muốn biến mất như bong bóng xà phòng. Những kẻ xấu số bị chất độc này là Liễu Yến của Thần Long đảo, Thụy Đống thị vệ trong cung nhà Thanh, mấy tên sư Lạt Ma...thủ phạm đều là đại anh hùng, đại tài tử Tiểu Bạch Long Vi Tiểu Bảo.

29. Hoàng Thường trong chính sử (do Cao Tự Thanh biên khảo - in trong phụ lục của bộ Anh Hùng Xạ điêu bản dịch mới):

Hoàng Thương mà "Anh hùng Xạ điêu" nói tới là nhân vật có thật. Ông là Trần Quốc Phù thời cận đại trong Đạo tạng nguyên lưu khảo khảo chứng về các sách vở mộc bản thời Tống Huy Tông tìm kinh sách Đạo giáo trong thiên hạ đã làm sáng tỏ. Năm Chính Hoà thứ 3, Huy Tông hạ chiếu tìm kinh sách Đạo giáo trong thiên hạ, thu được rất nhiều. Năm Chính Hoà thứ 5 thiết lập Kinh cục, lệnh cho đạo sĩ hiệu chỉnh, đưa tới Mân huyện Phúc châu giao cho Quận thú Hoàng Thường thuê thợ khắc in. Sách áy có tên là , tổng cộng 554 tập, 5.481 quyển.

Hoàng Thường tự Vãn Trọng, người đời gọi là Diễn Sơn tiên sinh, người Diên Bình, Phúc Kiến, chết năm Kiếm Viêm thứ 3 đời Cao Tông, thọ 87 tuổi. Bài Diễn Sơ thần bí đạo bi nói ông "rất giỏi thuật dưỡng sinh kéo dài tuổi thọ, đọc rộng sách vở Đạo giáo, đều hiểu biết rất sâu sắc mà hàng ngày thi hành"

Hoàng Thường khắc in kinh tạng Đạo gia, tiếng tăm rất lớn, về sau Minh giáo in ấn kinh sách cũng mượn tên ông. Vị Nam văn tập quyển 5, Điều đối trạng của Lục Du nói "Kinh giả tranh ma của Minh giáo, đến như khắc bản lưu hành đều giả là do Đạo quân Trình Nhược Thanh hiệu khám, Tri châu Phúc Châu Hoàng Thường khắc bản trong năm Chính Hoà".

30. Kiếm của Độc Cô Cầu Bại

Kiếm ma Độc Cô Cầu Bại chính là người sở hữu những thanh kiếm quý báo bậc nhất trong tác phẩm Kim Dung.

Trong tác phẩm Thần Điêu Hiệp Lữ, Dương Qua vô tình bắt gặp con quái xà quấn chặt lấy con chim điêu. Vốn có ác cảm với loài rắn đã giết hại mẹ mình, Dương Qua dùng thanh Quân tử kiếm của Cổ Mộ phái, vốn chém sắt như chém bùn chém vào người con quái xà. Không ngờ thanh kiếm bị mẻ mấy khúc, và sau đó gẫy đôi. Thì ra thanh kiếm này năm xưa Độc Cô đã lỡ tay dùng để chém chết một người hào kiệt. Coi là vật bất tường, ông bỏ thanh kiếm vào "kiếm mộ". Con quái xà vì lý do nào đã nuốt phải thanh kiếm của Độc Cô Cầu Bại, thanh Tử Vi kiếm. Dù vô cùng sắc bén và cứng - nhưng thanh kiếm lại dẻo nên có thể luồn theo người con quái xà, không chọc đứt người nó.

Thanh Tử Vi kiếm vốn theo Kiếm ma lăn lộn giang hồ suốt bao năm tìm một địch thủ mà không toại nguyện. Vị tiền bối này liền ẩn cư, lấy thanh kiếm làm vợ, thần Điêu làm bạn, để vài chục năm sau có Dương Qua là một truyền nhân xuất sắc. Oan trái thay, cũng chính vì thanh bảo kiếm sắc bén có một không hai này mà Dương Qua bỏ lại một cánh tay nơi thành Tương Dương. Quách Phù trong cơn xuẩn động đã rút thanh Tử Vi kiếm chém Dương Qua. Thanh Thục nữ kiếm cũng không chống nổi sự bén ngọt của thanh Tử Vi, Dương Qua mất đi cánh tay... Âu là duyên số, vật bất tường ấy đã làm Dương Qua mất đi cánh tay.

Dương Qua rời thành Tương Dương và lặp lại con Thần Điêu của Kiếm Ma Độc Cô Cầu Bại. Dương Qua đã đến được nơi ở xưa của Độc Cô và tìm được kiếm mộ của người. Thanh thứ nhất chính là Tử Vi. Thanh thứ hai là thanh Huyền Thiết Kiếm, dài 3 thước mà nặng tới 60 cân. Lưỡi kiếm tròn mà không sắc, Độc Cô đã dùng để chu du thiên hạ năm 40 tuổi. Thanh Kiếm này rèn bằng kim loại đặc biệt, cứng rắn vô song. Thanh kiếm bị thất lạc ở Tuyệt Tình Cốc, nhưng sau đó đã tìm lại được và Quách Tỉnh đã dùng chất liệu thanh huyền Thiết Kiếm đúc nên thanh Ỷ thiên kiếm và Đồ Long đao, cất giấu Võ mục di thư và Cửu âm chân kinh - mãi trăm năm sau mới xuất hiện và gây chấn động giang hồ (Ỷ thiên Đồ long ký). (sau này 2 thanh Ỷ thiên và Đồ long chặt vào nhau vỡ ra để lấy bí kíp, Trương Vô Kỵ phải dùng đến thanh lệnh bài của Bái Hỏa giáo Ba Tư để làm kẹp, hàn lại mới không bị chảy ở nhiệt độ cao như vậy).

Còn thanh gương lợi hại nhất, khi kiếm đạo của Độc Cô Cầu Bại đã đạt đến mức thượng thừa lại là thanh kiếm bằng gỗ. Theo Độc Cô tiền bối, khi ấy vạn vật cỏ cây đều có thể trở thành kiếm được. Mộc kiếm nếu luyện thành tinh thuần sẽ không có thanh gương nào chống nổi nó.

Nói cách khác, dẫu báo kiếm quan trọng, nhưng "người sử kiếm chứ chẳng phải kiếm sử người"...

31.Võ Đang thất hiệp:

Võ Đang thất hiệp thuộc hàng đệ tử đời thứ hai của phái Võ Đang sau tổ sư Trương Tam Phong. Trương Tam Phong để tâm nghiên cứu võ học, dựng lên cả một môn phái lớn nên khi về già mới bắt đầu thu nạp các đệ tử của mình. Do vậy tuổi tác giữa tổ sư Võ Đang với các đệ tử đời thứ hai chênh lệch rất lớn.

Võ Đang thất hiệp, từ đại sư huynh đến thất đệ là: Tống Viễn Kiều, Du Liên Châu, Du Đại Nham, Trương Tòng Khê, Trương Thuý Sơn, Ân Lê Đình (Hân Lợi Hanh) và Mạc Thanh Cốc.

Nguyên tiếng Hán tên mỗi người đều chỉ một cảnh vật nào đó, lần lượt như sau:

Viễn Kiều = cầu phía xa

Liên Châu = thuyền đỗ thành hàng

Đại Nham = hẻm núi lớn

Tùng Khê = dòng suối bên gốc tùng

Thuý Sơn = núi biếc

Lê Đình = ngôi đình (không rõ nghĩa chữ Lê).

Thanh Cốc = hang đá xanh

Nguyên trong bản cũ, tên của lục đệ trong thấp hiệp là Hân Lợi Hanh, lấy tên quẻ trong Kinh Dịch (Càn nguyên hanh lợi trinh). Kim Dung thấy không cùng "một hệ" với tên của sáu người còn lại nên đã đổi thành Lê Đình cho phù hợp (Hân thành Ân giống như Hân Thiên Chính, Hân Tố Tố... thành Ân Thiên Chính, Ân Tố Tố...)

Đây là lứa đệ tử xuất sắc của tổ sư Trương Tam Phong. Không đạt những thành tựu như sư phụ mình (đâu phải ai cũng là bậc kỳ tài kim cổ như Trương chân nhân), nhưng mỗi vị huynh đệ trong thất hiệp đều đạt đến thành tựu ngang bằng với chưởng môn các phái khác, hành hiệp trượng nghĩa, anh hùng.

Tuy vậy, cuộc đời của mỗi người trong Võ Đang thất hiệp đều không giống nhau, và có những người gặp phải những bi kịch lớn dường như không thể gượng được:

1. Tống Viễn Kiều: đại sư huynh, hành xử hiên ngang, được đồng môn kính trọng nhưng lại không may, có người còn là Tống Thanh Thư vì chữ tình (Chu Chỉ Nhược) mà làm những chuyện vô đạo, giết sư thúc Mạc Thanh Cốc, phản bội Võ Đang, để kẻ gian hùng xảo quyệt Trần Hữu Lượng làm táng tận lương tâm. Đó là nỗi bi kịch lớn nhất của đời người.

2. Du Liên Châu là người bề ngoài cứng rắn, bên trong nhiệt thành, phong độ chững chạc. Trong Võ Đang thất hiệp, chàng là người ít nói cười nhất, bề ngoài nghiêm nghị nhưng lại đối đãi vơi các huynh đệ tình sâu nghĩa nặng. Các sư huynh đệ kính nể chàng còn hơn cả đại ca Tống Viễn Kiều. Sau này chàng lên làm chưởng môn Võ Đang, thay cho Tống Viễn Kiều vì dính vụ Tống Thanh Thư.

3. Du Đại Nham: vì theo dõi và can thiệp vào sự tranh giành đao Đồ Long giữa các tà phái trên giang hồ mà dính độc ngân châm của Ân Tố Tố Thiên Ứng giáo. Sau đó, chàng lại bị nhóm người của Nhữ Dương Phủ lừa cướp mất, bị A Tam (đệ tử của nhánh phản đồ Thiếu Lâm hỏa đầu đà) dùng Kim cương chỉ lực đánh đứt hết gân cốt, nằm liệt hai mươi năm trời thành người tàn phế. Sau này nhờ thuốc "Hắc ngọc đoạn tục cao" mà hồi phục được ba phần.

4. Trương Tòng Khê: tứ ca, là người có nhiều mưu trí, thông minh nhất trong thất hiệp. Cuộc đời Trương Tòn Khê khá yên ả, không có nhiều biến cố lớn lao.

5. Trương Thúy Sơn: là đệ tử được Trương Tam Phong yêu quý nhất. Tư chất võ học của chàng rất cao, là người mà Trương chân nhân hi vọng sẽ trở thành người thừa kế được những tin hoa một đời mà người dày công sáng tạo. Trương Thuý Sơn vì điều tra việc Du Đại Nham bị ám hại mà lưu lạc ra Băng Hỏa Đảo mười năm, lấy Ân Tố Tố làm vợ, bái huynh đệ với Tạ Tốn và sinh ra Trương Vô Kỵ. Sau để giải tỏa những bi kịch (nghi vợ mình ám hại sư huynh), giữ nghĩa với nghĩa huynh Tạ Tốn, Trương Thuý Sơn đã tự vẫn ngay trên núi Võ Đang, để lại niềm tiếc thương với bao huynh đệ cũng như độc giả.

6. Ân Lê Đình: tuy không trẻ nhất nhưng lại có tính tình trẻ thơ, tình cảm nhất. Nguyên chàng và Kỷ Hiểu Phù của Nga My có mối lương duyên vun đắp bởi bậc tiền nhân. Kỷ Hiểu Phù bị Dương Tiêu làm hại đời, nhưng lại đâm ra thương yêu vị Quang Minh tả sứ này , sinh ra con đặt tên là Dương Bất Hối. Đau khổ quá độ, Ân Lê Đình chuyển hết nỗi hận của mình vào Minh giáo. Sau này, Dương Bất Hối lại thương yêu, chăm sóc Ân Lê Đình - vì tình cảm trai gái có xen lẫn nỗi lòng bù đắp những lầm lỗi của cha mẹ. Hai người kết thành vợ chồng, giải tỏa cừu hận.

7. Mạc Thanh Cốc: trẻ nhất trong thất hiệp, nhưng tính tình hào sảng, ăn to nói lớn, để râu ria rậm như người lớn tuổi. Với sự bộc trực, ngay thẳng, ghét kẻ hành sữ thiếu quang minh, chính đại, Mạc Thanh Cốc đã gay gắt muốn trừng phạ Tống Thanh Thư vì đêm hôn nhòm trộm phòng ngủ của các nữ đệ tử Nga My. Cuối cùng, ông đã bị chết bởi "Chấn thiên thiết chưởng" của Tống Thanh Thư, hay đúng hơn bởi âm mư sắp đặt, kích động nham hiểm của Trần Hữu Lượng.

PHẦN 8

32.Hàm Cốc Bát Hữu

Gồm:

Cầm tiên Khang Quảng Lăng

Kỳ ma Phạm Bách Linh

Thư ngại Cẩu Độc

Họa cuồng Ngô Lãnh Quân

Thần y Tiết Mộ Hoa

Xảo tượng Phùng A Tam

Hoa si Thạch Thanh Lộ

Hí mê Lý Quỷ Lỗi

Trong Thiên Long Bát Bộ , Kim Dung không đề cập nhiều đến 8 người này , họ xuất hiện khá ít , 1 lần ở Tiết Gia Trang , 1 lần ở núi Lôi Cổ ( ? ) , 1 lần nữa ở Thiếu Lâm Tự ... Tuy nhiên , ấn tượng về họ khá rõ ràng và ngộ nghĩnh .

Xuất thân : Là đệ tử của phái Tiêu Dao , sư phụ là Thông Biện Tiên sinh Tô Tinh Hà , sư thúc là Đinh Xuân Thu , Tinh Tú lão quái và Hư Trúc .

Tài năng : Mỗi người ngoài võ công do sư phụ truyền thụ còn kiêm thêm 1 môn tuyệt nghệ .

1- Khang Quảng Lăng : Sở trường về Cầm , đánh đàn , tên của y được ghép từ Kê Khang và khúc Quảng Lăng Tán của ông . Trong bản cũ của Hàn Giang Nhạn tiên sinh , y là sư phụ của A Bích ( tiểu a hoàn nhà Mộ Dung ) , có tuyệt kĩ dùng chỉ cách không đánh đàn tương tự Hà Túc Đạo , 1 lúc có thể đánh nhiều cây đàn , là tri kỷ của Huyền Khổ Đại Sư Thiếu Lâm tự , tính tình kỳ quặc .

2- Phạm Bách Linh : Nhị sư huynh , tuyệt nghệ cờ vây , được sư phụ khen là kì thủ số 1 thiên hạ , võ công cũng đứng hàng thứ 2 trong số 8 đệ tử . Thường sử dụng bàn cờ làm bằng nam châm đúc thành , có tác dụng hút binh khí của đối phương ( Hắc Bạch Tử trong Tiếu Ngạo Giang Hồ là bản sao của y về tính tình , võ công ) .

3- Cẩu Độc : tên này hình như có nghĩa là bạ cái gì cũng đọc , đọc rất nhiều sách , tính hay cãi cùn , lý luận ( cùng dạng với Bao Bất Đồng ) . Trong Thiên long bát bộ , y dùng miệng lưõi thuyết pháp mà làm cho Huyền Thống ngộ đạo viên tịch ... Võ công đứng thứ 3 . Không sử dụng binh khí .

4- Ngô Lãnh Quân : Đứng thứ 4 trong sư huynh đệ , trước vốn là tướng quân , làm quan đánh trận nên có tên Lãnh Quân , là 1 tay họa sĩ , sử dụng phán quan bút .

5- Tiết Mộ Hoa : xuất hiện nhiều nhất trên giang hồ với danh hiệu Diệu Thủ Hồi Xuân - Diêm Vương Địch , y thuật quán thế , vô song thiên hạ ... thích kết giao bằng hữu song võ công rất tầm thường .

6- Phùng A Tam : là 1 tay thợ có hạng trước khi gia nhập phái Tiêu Dao , trong truyện , y có bản lãnh chế tạo + phát hiện cơ quan vào loại phi thường , sử dụng cây búa Lỗ Ban làm vũ khí .

7- Thạch Thanh Lộ : là nữ đệ tử duy nhất của Tô Tinh Hà , sở trường về trồng hoa và am hiểu các đặc tính dược thảo , từng dùng thuốc mê phấn hoa đánh ngã Đặng Bách Xuyên , võ công tầm thường , khống có thành tựu nổi bật .

8- Lý Khổi Lỗi : Khổi Lỗi là con rối , bản tính người này giống như tên , lúc nào cũng điên điên khùng khùng , tưởng mình đang đóng tuồng hát , đóng được cả vai đào lẫn vai kép . Võ công tầm thường , không nổi bật . Có điều thuộc rất nhiều tuồng cổ !

33.Hư Trúc

( đây là nhân vật kì cục nhất , ngay cả tên thật cũng không biết , phải mang tạm pháp hiệu ra gọi ) .

Lý lịch trích ngang

Họ tên cha : không rõ , chỉ biết pháp danh là Huyền Từ .

Họ tên mẹ : họ Diệp , đứng thứ 2 , tên là Diệp Nhị Nương . 1 trong Tứ Đại Ác Nhân .

Dân tộc : Hán

Hình dáng : rất xấu trai , môi vều , mày rậm , mũi hếch , tầm vóc bình bình , vừa phải , không lấy gì làm cao lớn .

Tính cách : Thiện lương , ôn hoà , đối đãi chân tâm với mọi người , luôn tìm cách giúp đỡ người khác . Rất nguyên tắc và biết giữ mình , đôi khi hơi gàn dở , cứng đầu . Là người nhân hậu , trọng nghĩa khí , chung thuỷ , có chút gì đó si tình .

Sở trường : không có sở trường nổi bật , cũng không có năng khiếu gì là ghê gớm hơn người . Có lẽ chỉ có khả năng tiếp thu nhanh là nổi nhất .

Thân thế - sự nghiệp : Chỉ xuất hiện ở phần sau của Thiên Long Bát Bộ , xuất thân từ Thiếu Lâm Tự , vốn chỉ là 1 nhà sư cấp thấp của Thiếu Lâm , võ công tầm thường , trong lần đầu xuất sơn gặp bao nhiêu là kỳ duyên .

Hư Trúc là con trai của Diệp Nhi Nương và Thiếu Lâm phương trượng Huyền Từ , bị Tiêu Viễn Sơn ( cha Tiêu Phong ) bắt đi từ thuở nhỏ để trả cái hận mất con , bị ném trước cổng chùa Thiếu Lâm , lớn lên trong Tự , y chẳng hiểu chút gì chuyện đời , chuyện giang hồ , chuyện thiên hạ . Lần đầu xuất sơn đi phát Anh Hùng Thiệp , gặp Đinh Xuân Thu , bị mang lên núi Lôi Cổ . Ở đây , y chỉ tiện tay đi bậy 1 nước mà phá được Trân Lung kỳ trận , trở thành truyền nhân của Vô Nhai Tử , chưởng môn Tiêu Dao phái . Trên đường trở về Thiếu Lâm , lại vô tình cứu Thiên Sơn Đồng Mỗ - chủ nhân Linh Thứu Cung tại Vạn Tiên hội , đưa mụ sang Tây Hạ trốn Lý Thu Thuỷ . Trong thời gian trốn chạy , đã phá giới với Văn Nghi công chúa của Tây Hạ rồi trở thành chủ nhân Linh Thứu Cung theo di ngôn của Đồng Mỗ ... Trở lại Linh Thứu Cung , y lại ra tay hoá giải hiềm khích giữa quần tiên 72 đảo và thuộc hạ Linh Thứu cung đồng thời giải trừ Sinh Tử Phù cho mọi người , trở thành lãnh tụ của quần hào , cũng tại đây , y có duyên kết nghĩa huynh đệ với Đoàn Dự - Thế tử Đại Lý cùng Tiêu Phong . Sau này quay lại Thiếu Lâm , dùng võ công bảo vệ chùa trước Cưu Ma Trí , cùng Tiêu Phong , Đoàn Dự chung lưng kháng địch , đại hiển thần oai , đánh bại Tinh Tú Lão Quái , thanh lý môn hộ . Hư Trúc nhận mặt cha mẹ trong tình huống bất ngờ và vô cùng thê thảm . Bị trục xuất khỏi Thiếu Lâm , y cùng Đoàn Dự , Tiêu Phong sang Tây hạ cầu hôn công chúa , không ngờ cơ duyên xảo diệu , lại gặp người tình trong mộng của mình , kết đôi vui vầy .

Cuối truyện , Hư Trúc giúp Tiêu Phong thoát nạn rồi từ biệt Đoàn Dự về Linh Thứu cung .

Võ công : Tuyệt thế võ công , là 1 trong những nhân vật võ công ghê gớm nhất của Thiên Long Bát Bộ . Trong người y có nội lực của 3 đại cao thủ : Vô Nhai Tử , Thiên Sơn Đồng Mỗ , Lý Thu Thuỷ . Được dạy võ công bí truyền của phái Tiêu Dao , Thiên Sơn Lục Dương Chưởng , Thiên Sơn Chiết Mai Thủ , Tiểu Vô Tướng Công , Bắc Minh Thần Công , Lăng Ba Vi Bộ ... Đặc biệt , còn biết Sinh Tử Phù , một thứ ám khí vô cùng bá đạo và lợi hại .

Tài năng : Tài năng về y thuật , cuối truyện trở thành 1 thần y , có khả năng thay mắt cho con người ...

34.Đào Cốc Lục Tiên:

Sáu anh em ngộ nghĩnh trong Tiếu Ngạo Giang Hồ Ký, từ lớn đến nhỏ như sau:

Ðào Căn Tiên (rễ cây)

Ðào Cán Tiên (thân cây)

Ðào Chi Tiên (cành cây)

Ðào Diệp Tiên (lá cây)

Ðào Hoa Tiên (hoa)

Ðào Thực Tiên (quả)

Thật ra giữa Ðào Chi Tiên và Ðào Diệp Tiên thì không biết ai sinh sau, ai sinh trước bởi đây là hai anh em song sinh, và cha mẹ họ cũng hồ đồ, không nhớ rõ (hay không nói cho "lục tiên" biết). Vì Ðào Chi Tiên cãi khỏe quá, đòi đứng thứ ba nên Ðào Diệp Tiên đành phải chịu lép vế làm em thứ tư.

Tuy là những lão già mặt dài như mặt ngựa, xấu xí vô cùng, nhưng "Đào Cốc Lục Tiên" lại có đầu óc ngây thơ như trẻ con. Mỗi tay trong bọn họ đều thích làm theo ý mình và cãi nhau rất khoẻ, toàn cãi những truyện hồ đồ không có ý nghĩa gì. Những việc làm của Đào Cốc lục tiên đều dở khóc dở cười: truyền 6 luồng chân khí loạn xạ phá phách nội tạng của Lệnh Hồ Xung; phanh thây Thành Bất Ưu phe kiếm tông Hoa Sơn, chui vào gầm giường định nghe lén chuyện tâm sự giữa Lệnh Hồ Xung và Nhậm Doanh Doanh đêm tân hôn... Duy nhất có lần trên đỉnh Tung Sơn, nhờ tài nghệ mồm mép trơn tuột của họ (dưới sự điều khiển của Nhậm Doanh Doanh), Đào Cốc lục tiên đã góp phần phá vỡ âm mưu cuồng ngạo của Tả Lãnh Thiền, khiến mưu đồ trấn áp quần hùng, độc bá thiên hạ của y trở thành trò hề không hơn không kém.

Đào Cốc lục tiên tuy xấu xí, thô lậu nhưng lại rất yêu thích ai đó khen mình là nho nhã, tiêu dao khoái hoạt. Nắm được tâm lý của sáu anh em này, Lệnh Hồ Xung nhiều lần "điều khiển" được "lục vị tiên nhân" và được anh em họ coi là người tốt nhất thế gian.

35.Hoàng Dung

Lý lịch trích ngang

Họ tên cha : Hoàng Dược Sư

Họ tên mẹ : Phùng Thị (1)

Dân tộc : Hán

Hình dáng : Là 1 cô gái xinh đẹp tuyệt trần , y phục toàn thân màu trắng , tóc xoã ngang vai , trên tóc buộc 1 cái vòng vàng , tuyết ánh lên chớp chớp loé sáng . Rất giống bà mẹ quá cố của mình .

Tính cách : Rất nhí nhảnh , tinh nghịch , đáng yêu , chung thuỷ với người yêu , thông minh và tài năng . Đôi lúc sử dụng trí thông minh không đúng chỗ lắm . Là con một , được cưng chiều từ nhỏ nên không khỏi có đôi chút ngang ngược trong tính tình và hành xử .

Tình trạng hôn nhân : Độc thân - tính đến cuối truyện Anh Hùng Xạ Điêu . Có chồng và 3 con - tính trong Thần Điêu Hiệp Lữ .

Sự nghiệp : Là Bang chủ đời thứ 19 của Cái Bang . Đồng thời là Bang chủ nữ duy nhất trong lịch sử của Bang này , là Bang chủ chấp chưởng đại quyền từ khi còn rất trẻ ( chỉ khoảng 15 tuổi ) . Từng cùng với chồng mình trấn thủ Tương Dương chống quân Mông Cổ , danh tiếng vang lừng thiên hạ .

Tài năng : Thông minh tuyệt đỉnh ( do được thừa hưởng gène di truyền từ cả cha và mẹ - đều là những người rất thông minh ) . Có khả năng độc đáo , nhớ rất nhanh , tiếp thu mau lẹ , học 1 biết 10 . Khả năng lãnh đạo tốt , dưới sự lãnh đạo của Hoàng Dung , Cái Bang phát triển khá tốt .

Sở trường : Ngoài năng khiếu võ học sẵn có , còn tinh thông các môn Ngũ Hành Kỳ Môn của cha , tinh thông Thi từ ca phú , âm nhạc cùng các môn học khác , đặc biệt giỏi Toán . Ngoài ra , nữ công gia chánh cũng là điểm mạnh rất lớn của Hoàng Dung . Tay nghề nấu bếp đứng đầu thiên hạ , thêu thùa may vá cũng rất giỏi , là người vợ đảm đang .

Cuộc đời : Sinh ra trên Đào Hoa Đảo , mẹ mất sớm từ nhỏ , ở với cha , được cưng chiều hết cỡ . Năm 15 tuổi , vì việc Châu Bá Thông cãi nhau với cha , bỏ nhà ra đi . Đến Trương Gia Khẩu thì gặp Quách Tĩnh , sau 1 màn làm quen thú vị , Hoàng Dung đã bị chinh phục bởi tính cách mộc mạc cùng sự đối xử chân tình hết mức của người bạn mới . Nàng quyết định cùng Quách Tĩnh tính chuyện lâu dài dù gặp nhiều sự phản đối của cha và 6 vị sư phụ của y . Bằng tài năng cùng bản lãnh và sự thông minh tuyệt vời của mình , Hoàng Dung nhiều lần giúp Quách Tĩnh thoát khỏi cái chết tưởng cận kề . Sau này , nàng đã dùng khả năng nấu ăn của mình giữ chân Hồng Thất Công , bắt y dạy Quách Tĩnh Hàng Long Thập Bát Chưởng , rồi 2 người bái Bắc Cái làm sư phụ . Kẻ địch lợi hại nhất của Hoàng Dung là 2 chú cháu Âu Dương Phong - Âu Dương Khắc nhiều lần tính kế hãm hại nàng nhưng Hoàng Dung đều vượt qua bình an vô sự . Trải qua bao nguy nan và nhiều lần phiêu lưu cùng Quách Tĩnh , tình cảm của 2 người ngày càng phát triển . Qua nhiều thử thách , thù hận tưởng chừng không sao vượt qua nổi , cuối cùng 2 người cũng ở bên nhau , viết nên 1 trong những kết truyện viên mãn , hạnh phúc nhất của Kim Dung .

Trong phần tiếp theo của Anh Hùng Xạ Điêu là Thần Điêu Hiệp Lữ , Hoàng Dung vẫn còn đó những sự sắc sảo thông minh cùng khả năng phán đoán của mình , tuy nhiên sự đối xử hơi thiếu công bằng với Dương Quá - con trai Dương Khang và Mục Niệm Từ khiến cho nhiều độc giả cảm thấy bất mãn .

Cuối đời , Hoàng Dung cùng Quách Tĩnh đã rèn ra 2 báu vật của võ lâm là Ỷ Thiên Kiếm và Đồ Long Đao , với mong muốn truyền lại võ công của mình cho đời sau tiếp tục công cuộc kháng Mông - Nguyên cứu quốc . Nàng đã cùng chồng mình tuẫn tiết khi Tương Dương thất thủ trước quân Mông Cổ .

Võ công : Được Bắc Cái Hồng Thất Công truyền cho khá nhiều võ nghệ , nhưng tinh thục nhất là Đả Cẩu Bổng Pháp , gồm thâu sở trường của cả cha mình là Đông Tà như Lạc Anh Thần Kiếm Chưởng . Học thêm võ công trong Cửu Âm Chân Kinh . Tuy võ công không bằng trượng phu mình là Quách Tĩnh nhưng cũng là nhất đẳng cao thủ trên đời .

chú thích : (1) Đây là nguyên văn mười một chữ đại tự trước ngôi mộ đá của mẹ của Hoàng Dung:

桃花島女主馮氏埋香之冢

Đào hoa đảo nữ chủ phùng thị mai hương chi trủng

đào: cây hoa đào

hoa: bông hoa

đảo: hòn đảo, gò

nữ: đàn bà, con gái

chủ: chủ, người đứng đầu

phùng: họ Phùng

thị: họ

mai: chôn, vùi, che lấp

hương: hương thơm, mùi

chi: thuộc về, của

trủng: mồ, mả

Trước đây, cứ nghĩ hai chữ "mai hương" nghĩa là hương hoa mai, là một cái tên đẹp dành cho phụ nữ. Nhưng đến nay mới biết "mai hương" nghĩa là chôn hương. E rằng khó có một bậc cha mẹ nào lại đặt cho con mình một cái tên mang ý nghĩa không tốt đến thế.

Vậy tại hạ nghĩ rằng mẹ của Hoàng Dung không phải là Phùng Thị Mai Hương đã đành, mà cũng không phải là Phùng Mai Hương nữa. Mười một chữ trên có lẽ phải được đọc là: "Đào Hoa đảo/ nữ chủ/ Phùng thị/ mai hương chi trủng" và có nghĩa là: mồ chôn hương thơm của nữ chủ đảo Đào Hoa họ Phùng",như thế chắc là hợp lý hơn chăng? Còn tên của bà là Phùng Hành hay Phùng A Hành thì tại hạ hãy còn chưa rõ lắm...

PHẦN 9

36.Giang Nam Thất Quái

Cái tên nói lên tất cả , 7 người này đều quê ở phủ Gia Hưng , Giang Nam . Tính tình kì quái , nên mặc dù người đời thường gọi họ là Giang Nam Thất Hiệp , họ vẫn thích chữ Quái hơn .

Gồm có 7 người , mỗi người 1 loại võ công , một loại binh khí sở trường .

Phi thiên biển bức Kha Trấn Ác

Diệu thủ thư sinh Chu Thông

Mã vương thần Hàn Bảo Câu

Nam Sơn tiều tử Nam Hy Nhân

Tiếu di đà Trương A Sinh

Náo thị hiệp ẩn Toàn Kim Phát

Việt nữ kiếm Hàn Tiểu Oanh

1- Phi thiên Biên / biển bức Kha Trấn Ác : Anh cả trong 7 anh em , ngoại hiệu của lão nghĩa là con Dơi bay lên trời . Bị mù trong trận đánh với Hắc Phong Song Sát . Vũ khí thường sử dụng là cây thiết trượng và ám khí hình củ ấu tẩm độc cực mạnh . Võ công cũng lợi hại nhất trong nhóm 7 người . Có điều tàn tật nên tính tình rất gàn dở , ương bướng .

2- Diệu Thủ Thư Sinh Chu Thông : Vốn xuất thân là anh tú tài , học rộng hiểu nhiều . Cái đầu của cả nhóm , đứng thứ 2 đồng thời kiêm nhiệm luôn vai trò quân sư quạt rách . Tính tình cẩn thận chu đáo , làm việc luôn suy xét trước sau . Sử dụng võ khí là cây thiết phiến điểm huyệt , võ công thiên về lanh lẹ , ứng biến nhanh chóng . Còn có ngón Diệu Thủ Không Không , có thể ăn cắp , nói nôm na là móc túi người khác trong nháy mắt , tuyệt kĩ này thiên hạ vô song , tiếc là thất truyền quá sớm .

3- Mã Vương Thần Hàn Bảo Câu : đứng thứ 3 . Người mập mạp lùn tịt như trái banh , tính tình nóng nảy . Võ khí thường dùng là cây nhuyễn tiên . Có kị thuật thiên hạ vô song và con ngựa khá xịn . Tài cưỡi ngựa của Quách Tĩnh học hỏi được từ Hàn Bảo Câu khá nhiều .

4- Nam Sơn Tiều Tử Nam Hy Nhân : Có hình dạng như 1 anh tiều phu đốn củi , là người oai phong nhất của Thất Quái , vũ khí thường dùng là đòn gánh bằng thép , sư phụ đắc ý của Quách Tĩnh . Tính ít nói , trầm lặng , nhưng suy nghĩ sâu xa .

5- Tiếu Di Đà Trương A Sinh : Đứng thứ 5 , hình dáng cực kì to béo , vốn làm nghề đồ tể mổ heo , mổ bò nên vũ khí chính cũng là con dao chọc tiết lợn . Võ công không có gì đặc sắc . Là người yểu mạng nhất của Thất Quái , có mối tình thầm lặng với Thất muội của mình nhưng chưa kịp nói ra .

6- Náo Thị Hiệp Ẩn Toàn Kim Phát : Vốn xuất thân chợ búa , làm nghề buôn bán vặt , vũ khí là đòn cân , tính cách con buôn tính toán . Là người khá có đầu óc , biết cách suy tính trước sau . Võ công cũng bình thường , không có gì đặc sắc , có điều biết cách phối hợp ném ám khí với Kha Trấn Ác .

7- Việt Nữ Kiếm Hàn Tiểu Oanh : Là nữ duy nhất , em út trong nhóm , là em họ của Hàn Bảo Câu . Người tình trong mộng của Trương A Sinh , vốn là cô gái chèo đò miệt sông nước . Sử dụng trường kiếm làm vũ khí , võ công thiên về nhanh nhẹn , có pho Việt Nữ Kiếm sở trường .

37. Thiên Ưng Giáo

Do Bạch Mi Ưng Vương Ân Thiên Chính của Minh giáo lập nên.

Khi ấy giáo chủ Minh giáo Dương Đính Thiên chết, Tử Sam Long Vương bỏ đi cùng chồng là Ngân Diệp tiên sinh đến Linh Xà đảo, Quang Minh hữu sứ Phạm Dao lưu lạc giang hồ truy tìm nguyên nhân cái chết của giáo chủ. Ở trong giáo thì Kim Mao Sư Vương đang hóa điên giết người hàng loạt (âm mưu của Thành Côn), Quang Minh tả sứ Dương Tiêu cùng Ngũ Hành Kỳ thì bất hòa với Ngũ tản nhân, tình trạng lộn xộn tranh chấp quyền lực kéo dài làm suy yếu đi Minh giáo.

Trong hoàn cảnh ấy, Bạch Mi Ưng Vương đã tách ra thành lập Thiên Ưng giáo, trong mấy năm mà uy chấn giang hồ, một mình có thể trấn áp các tà bang khác cũng như chống lại các "danh môn chính phái" trên giang hồ.

Thiên Ưng giáo bao gồm tam đường là Thiên Vi, Tử Vi và Thiên Thị và ngũ đàn là Huyền Võ, Chu Tước, Thanh Long, Bạch Hổ và Thần Xà.

Thiên Vi đường chủ là Ân Dã Vương, Tử Vi đường chủ là Ân Tố Tố, còn Thiên Thị đường chủ là Lý Thiên Viên.

Theo dịch giả - nhà nghiên cứu Nguyễn Duy Chính:

Người Trung Hoa lấy sao Bắc Thần (Bắc Cực) làm trung tâm bầu trời rồi chia chung quanh chòm sao Bắc Cực thành ba khu vực chính gọi là Tam Viên tức ba nhóm sao (constellations) gọi là Thái Vi (tức Thiên Vi) nằm phía nam sao Bắc Đẩu hay Thượng Viên bao gồm 20 tinh tòa, Tử Vi (Trung Viên) nằm chính giữa, còn gọi là Tử Vi cung, gồm ba mươi bảy tinh tòa, Thiên Thị (Hạ Viên) nằm phía đông nam (?) Tử Vi Viên, tổng cộng 19 tinh tòa.

Bao quanh ba Tinh Viên là Nhị Thập Bát Tú (28 vì sao) chia thành 4 nhóm, trấn đóng 4 phương, 7 ngôi phía đông là Thương Long (Thanh Long), 7 ngôi phía nam là Chu Điểu (Chu Tước), 7 ngôi phía tây là Bạch Hổ, bảy ngôi phía bắc là Huyền Võ .Còn những ngôi sao nằm gần sao Bắc Cực (không thuộc Nhị Thập Bát Tú) gọi là Trung Quan (tức Thần Xà).

Một điểm đặc biệt là Kim Dung đã cho Ân Tố Tố vai trò cao quí nhất (Tử Vi Viên) vì Tử Vi cũng chính là Đế Toạ . Chòm sao Tử Vi bao gồm vua, thái tử, thứ tử, hoàng hậu, công chúa ... là chòm sao đứng đầu toàn thể bầu trời . Trên trời có đủ các vai trò cũng như triều đình dưới trần, đến nỗi khi nào ngưòi ta nhìn một ngôi sao cũng biết đưọc việc dưới trần, ai khỏe, ai yếu, ai sắp chết ...

Về sau, khi Trương Vô Kỵ lên làm giáo chủ Minh giáo, quần hào thống nhất lại với nhau trên Quang Minh Đỉnh, Bạch Mi Ưng Vương đem Thiên Ưng giáo nhập vào cùng Minh giáo, chấm dứt một thời kỳ lập pháp không dài những ấn tượng và hào hùng.

38. Đồ Long đao - Ỷ Thiên kiếm:

Là hai thứ bảo khí quý báu bậc nhất của võ lâm Trung Nguyên xuất hiện vào đầu thời Minh. Gọi là bảo đao báu kiếm vì cả hai đều cứng rắn và sắc bén vô cùng. Trên Vương Bàn Sơn Đảo, Tạ Tốn dùng một sợi tóc thả lên lưỡi đao, sợi tóc bị chẻ làm đôi. Diệt Tuyệt sư thái võ công vốn yếu hơn Tử Sam Long Vương, khi ấy là Kim Hoa Bà Bà, nhưng khi có thanh Ỷ Thiên chỉ một kiếm là đánh gãy lìa thanh trượng, khuất phục Long Vương. Về sau này, khi kiếm và đao chặt vào nhau mới gãy làm đôi. Chưởng sứ Nhuệ Kim Kỳ là Ngô Kình Thảo muốn nối lại hai thanh bảo khí này, nhưng không thể dùng bất cứ thanh kẹp nào để rèn, vì không kim loại nào chịu nổi sức nóng của lò rèn ấy và chảy hết. Về sau phải dùng đến Thánh hỏa lệnh của Bái Hoa giáo Ba Tư để làm kẹp, hàn lại mới không bị chảy.

Chỗ quý nhất của đao Đồ Long và kiếm Ỷ Thiên không phải ở chỗ đó.

Nguyên cuối thời Tống, vó ngựa của đạo quân khát máu Mông Côbảt xuống phương Nam. Quách Tĩnh và Hoàng Dung cùng quần hùng chung lưng giữ Tương Dương thành, phên dậu cho nhà Nam Tống (Thần Điêu Hiệp Lữ)

Hoàng Dung vốn thông minh hơn người, nhắm trước Tương Dương thành sẽ không thể chống nổi sức mạnh của đoàn quân từng chinh phục đến xứ Trung Đông xa xôi. Bà cũng không muốn những tinh hoa của võ lâm Trung Nguyên, bao gồm các môn binh pháp (Vũ mục binh thư ?) và võ công (Cửu Âm chân kinh, Hàng Long thập bát chưởng) bị mất vào quân xâm lược. Do vậy bà đã dùng chất kim loại hiếm có của thanh Huyền Thiết Kiếm của Dương Qua mà đúc nên hai thanh vũ khí vô giá này (giải thích độ cứng của đao và kiếm). Bên trong thanh Đồ Long đao chứa binh thư, bên trong Ỷ Thiên Kiếm chứa võ công. Sau này khi thời cơ đến, lấy bảo đao chặt vào báu kiếm thì cả hai sẽ cùng gãy, đem binh thư và võ công giành lại đất nước Trung Hoa, đánh đuổi xâm lược.

Hoàng Dung muốn trao thanh đao cho con trai Quách Phá Lỗ, thanh kiếm cho con gái Quách Tương. Nhưng thành Tương Dương sớm sụp đổ, Quách Tĩnh, Hoàng Dung và Quách Phá Lỗ đều tử tiết. Thanh Đồ Long đao mất tích, Ỷ Thiên Kiếm thì Quách Tương giữ và trở thành bảo vật của Nga My sau này.

100 năm sau, thanh Đồ Long đao tự dưng xuất hiện trên giang hồ. Võ lâm truyền tụng 24 chữ:

Võ lâm chí tôn

Bảo đao Đồ Long

Hiệu lệnh thiên hạ

Mạc cảm bất tòng

Ỷ Thiên bất xuất

Thuỳ dữ tranh phong

Người đời truyền tụng vậy, nhưng bí mật của Ỷ Thiên kiếm và Đồ Long đao chỉ có Diệt Tuyệt sư thái, và sau này là Chu Chỉ Nhược của Nga My.

PHẦN 10

39. Toàn Chân Thất Tử

Mã Ngọc

Đàm Xử Đoan

Lưu Xử Huyền

Khưu Xử Cơ

Hách Đại Thông

Vương Xử Nhất

Tôn Bất Nhị

- Là 7 đệ tử của Vương Trùng Dương ( Trung Thần Thông của võ lâm Trung Nguyên ) , xuất hiện trong 2 tác phẩm Anh Hùng Xạ Điêu và Thần Điêu Hiệp Lữ . Bao gồm 6 nam và 1 nữ , đều là người có võ công thuộc hàng cao thủ .

1- Mã Ngọc : Đại đệ tử của Vương Trùng Dương , đồng thời là chưởng môn nhân đời thứ II của phái Toàn Chân , đạo hiệu là Đan Dương Tử . Hình dáng : là 1 đạo sĩ râu bạc , sắc mặt hồng hào , tay cầm một ngọn phất trần , ăn mặc mười phần cổ quái , trên đầu kết ba búi tóc cao cao nhô lên , một mảnh đạo bào không vương chút bụi .

Tuy không phải là người giỏi võ nhất của Toàn Chân Thất Tử nhưng lại người hoà nhã , hay giúp đỡ người khác . Là người có công rất lớn trong việc đào tạo Quách Tĩnh ( dù là sư phụ không chính thức ) , đặt nền móng căn bản cho võ công của QT .

2- Đàm Xử Đoan : đứng thứ 2 trong Toàn Chân Thất Tử , đạo hiệu Trường Chân Tử , vốn xuất thân là thợ rèn , theo Vương Trùng Dương học đạo , chết tại thôn Ngưu Gia do bị Âu Dương Phong đánh tử thương . Hình dáng : mày rậm mắt to , thân hình cao lớn . Võ công trong Thất Tử cũng chỉ thuộc hạng bình thường .

3- Lưu Xử Huyền : tam sư huynh , đạo hiệu Trường Sinh Tử , thân hình gầy nhỏ , mặt mũi choằt như con khỉ . Trong truyện AHXĐ không xuất hiện nhiều , chỉ trong 2 trận đánh với Hoàng Dược Sư tại thôn Ngưu Gia và Yên Vũ lâu , sang đến Thần Điêu Hiệp Lữ thì chết quá sớm . Võ công và thành tựu đều không đáng kể .

4- Khưu Xử Cơ : đệ tử thứ 4 của Vương Trùng Dương , cũng là người nổi tiếng nhất của Toàn Chân giáo trên giang hồ với đạo hiệu Trường Xuân Tử . Võ công đứng đầu Thất Tử , tính cách thẳng thắn hào hiệp , hay hành hiệp trượng nghĩa , rất được đồng đạo giang hồ kính nể . Khưu Xử Cơ ở đầu truyện Anh Hùng Xạ Điêu đóng vai trò như 1 chiếc cầu dẫn dắt mạch truyện .

Hình dáng : đạo sĩ trạc ba mươi tuổi , lông mày xếch lên , sắc mặt hồng hào , mặt vuông tai lớn , hai mắt sáng quắc ( sao thấy tả giống Tiêu Phong quá ??? )

5- Vương Xử Nhất : đệ tử thứ 5 của Vương chân nhân , đạo hiệu Ngọc Dương Tử . Nhân vật nổi tiếng thứ 2 , đồng thời võ công cũng đứng thứ 2 trong Thất Tử . Được đồng bạn giang hồ gọi bằng Thiết Cước tiên do có lần thi triển võ công nhảy qua vực bằng 1 chân . Đặc biệt rất có thiện cảm với Quách Tĩnh về tính tình hào hiệp cùa y , đã từng cứu mạng QT 1 lần tại Trung Đô nước Kim .

Hình dáng :là 1 đạo nhân trung niên mặc đạo bào màu xám

Trong bài " Vương tôn sư đạo hạnh bi minh" của Diêu Tuỵ thời Nguyên viết : " Ngọc Dương Thể Huyền Quảng độ chân nhân Vương Xử Nhất, người Đông Mâu Ninh Hải đứng co một chân, người xem nhắm mắt dựng mày, thè lưỡi kéo xuống không được, gọi là Thiết Cước Tiên..."

6- Hách Đại Thông : đạo hiệu Quảng Ninh Tử . Đệ tử thứ 6 của VTD , trước vốn xuất thân từ nhà giàu có . Hình dáng : to béo cao lớn , tướng mạo như hoạn quan . Hai tay áo đạo bào đều cắt một nửa lên tới khuỷu tay . Sau còn xuất hiện trong Thần Điêu Hiệp Lữ , gián tiếp gây ra cái chết của Tôn bà bà ...

Bài Hách tôn sư đạo đức bi minh ( bia ghi đạo đức của Hách tôn sư) của Từ Yểm đời Nguyên viết : " Thầy Hách Đại Thông, tự Thái Cổ, hiệu Quảng Ninh tử, người Ninh Hải,...tinh thông Kinh Dịch, vì hiểu sâu cái đạo Âm Dương luật lịch nên không thích làm quan, hâm mộ những người như Tư Mã Quý Chủ, Nghiêm Quân Bình, lấy việc bốc phệ làm vui...bèn bỏ nhà tới ra mắt Trùng Dương ở động Yên Hà, xin làm đệ tử, Trùng Dương...cởi áo, cắt bỏ tay áo đưa cho, nói: Đừng lo không có tay áo, ngươi nên tự thành toàn, đại khái là ý truyền pháp cho". Vì vậy trong Anh Hùng Xạ Điêu, Hách Đại Thông luôn mặc chiếc áo không có tay, là ở chỗ này.

7- Thanh Tĩnh tản nhân Tôn Bất Nhị : là vợ của Mã Ngọc trước khi xuất gia , là đệ tử cuối cùng của Vương Trùng Dương , võ công cũng kém nhất trong 7 người . Có tục gia đệ tử là Trình Dao Gia , kết hôn với Lục Quán Anh của đảo Đào Hoa .

Toàn Chân Thất Tử coi Tây Độc Âu Dương Phong của Bạch Đà Sơn là cừu địch , trước khi chết , Vương Trùng Dương đã sáng tạo ra trận pháp Thiên Cang Bắc Đẩu để cho 7 người liên thủ hợp công , lấy yếu hoá mạnh nhằm đối phó với thủ đoạn sau này của ÂDP khi sư phụ qua đời . Trận pháp này bày theo hình dáng của chòm sao Bắc Đẩu , mỗi người chiếm vị trí 1 sao như sau :

- Mã Ngọc : Thiên khu

- Đàm Xử Đoan : Thiên toàn

- Lưu Xử Huyền : Thiên cơ

- Khưu Xử Cơ : Thiên quyền

- Vương Xử Nhất : Ngọc hành

- Hách Đại Thông : Khai dương

- Tôn Bất Nhị : Dao quang .

Sau này , trận pháp Thiên Cang Bắc Đẩu được các đệ tử của Vương Trùng Dương mở rộng thành Đại Trận Pháp , truyền lại cho các đệ tử , đạo sĩ cung Trùng Dương cùng tập luyện

40. Các đệ tử của Hoàng Dược Sư:

Trần Huyền Phong

Mai Siêu Phong

Lục Thừa Phong

Khúc Linh Phong

Vũ Nhãn Phong

Phùng Mặc Phong

Trình Anh

Trừ Trình Anh được Hoàng Dược Sư thu nhận làm đệ tử sau này, khi tuổi đã già, các đệ tử còn lại của Đông Tà đều được sư phụ đặt tên mang chữ Phong. Tuy là người tính tình cổ quái ngang ngạnh nhưng trong mắt các đệ tử Hoàng Dược Sư mãi là một ân sư đáng tôn ngưỡng, dẫu chính ông cũng là người trong cơn nóng giận gây ra bao mất mát đau thương cho đệ tử mình. Đồng thời, họ luôn kính cẩn giữ vững môn quy. Tỷ như Lục Thừa Phong dù võ công cao siêu, nhưng chưa được phép sư phụ tuyệt nhiên không dạy chút võ công Đào Hoa Đảo cho con trai duy nhất của mình là Lục Quán Anh. Nhìn chung, đệ tử Hoàng Dược Sư đều là những bậc tài năng, chí khí hơn người. Những lý do này khiến dù trải qua bao sóng gió, cuối cùng con người "ta" như Hoàng Dược Sư cũng đã nghĩ lại, nhận ra lỗi lầm của mình mà thu nhận lại các đệ tử.

Trần Huyền Phong - Mai Siêu Phong: Trần Huyền Phong là đại đệ tử của Đông Tà Hoàng Dược Sư. Thời trẻ, Trần Huyền Phong là một thanh niên mắt to mày rậm, phong độ hiên ngang. Mai Siêu Phong tên thật là Mai Nhược Hoa, mồ côi cha mẹ từ nhỏ được Hoàng Dược Sư mang về nuôi dạy. Cùng tập luyện võ nghệ, dần dần Trần Huyền Phong đã yêu người sư muội của mình, cũng là nữ đệ tử duy nhất của Hoàng Dược Sư khi ấy. Hai người lén kết duyên vợ chồng, sợ Đông Tà nổi giận liền lén ăn cắp quyển hạ của bộ Cửu Âm chân kinh rồi xuống núi. Trải qua nhiều năm vợ chồng Trần Huyền Phong dần đi vào đường tà. Trần Huyền Phong thành Thây sắt, Mai Siêu Phong thành Xác đồng, khách võ lâm kinh hoàng gọi họ là Hắc Phong song sát.

Sau này, trên ngọn hoang sơn ở đại mạc, cặp vợ chồng Trần Huyền Phong và Mai Siêu Phong đã giao chiến với Giang Nam thất quái và cả cậu bé Quách Tĩnh. Tuy giết được Trương A Sinh, nhưng trong lúc không đề phòng rần Huyền Phong đã bị Quách Tĩnh dùng trủy thủ đâm chết, Mai Siêu Phong bị Kha Trấn Ác phóng độc lăng mù mắt.

Mai Siêu Phong tìm được quyển hạ của Cửu Âm chân kinh may trên người Trần Huyền Phong liền tập luyện. Song do không có người chỉ bảo đã sai đường, bị tẩu hỏa nhập ma liệt hết 2 chân. May nhờ Quách Tĩnh chỉ cách luyện công của Toàn Chân giáo mà dần dần hồi phục. Sau này Mai Siêu Phong dù là phản đồ song không làm nhục sư môn, lại bay ra đỡ một chưởng chí mạng của Âu Dương Phong cho Hoàng Dược Sư. Nàng được sư phụ tha thứ, song đã qua đời.

Các đệ tử còn lại của Đông Tà, từ Lục Thừa Phong đến Phùng Mặc Phong đều vì lầm lỗi của Trần Huyền Phong và Mai Siêu Phong mà bị vạ lây: Đông Tà Hoàng Dược Sư mất bí kíp đã nổi điên đánh gãy chân tất cả và đuổi ra khỏi sư môn.

Lục Thừa Phong: lớn hơn Quách Tĩnh chừng 20 tuổi, thân thể rất cao lớn, tuy ngồi mà vẫn cao hơn Quách Tĩnh hơn nửa cái đầu. Sau khi bị Hoàng Dược Sư đuổi khỏi sư môn, Lục Thừa Phong đã đến Thái Hồ, lập Quy Vân Trang, lấy hiệu là Phế nhân Ngũ Hồ, trở thành thủ lĩnh của các nhóm hảo hán trên sông nước. Như đã nói, Lục thừa Phong cũng như các huynh đệ khác dù bị sư phụ xử tệ, trục xuất khỏi sư môn mà lòng vẫn đau đáu ngóng về Đào Hoa Đảo, không làm nhục sư môn, tuyệt tuân thủ những đều thầy đã dạy nên cuối cùng gây được niềm xúc động mạnh ở Đông Tà.

Khúc Linh Phong: được chính Hoàng Dược Sư thừa nhận là người có võ công cao nhất trong các huynh đệ. Sau khi bị đuổi khỏi Đào Hoa Đảo, Khúc Linh Phong đã đến ẩn ở Ngưu Gia thôn, có một người con gái là cô Ngốc. Khúc Linh Phong biết sư phụ của mình rất ưa thích những bức họa cổ cùng đồ trân châu bảo vật nên dẫu đã tàn phế vẫn mạo hiểm vào hoàng cung đánh cắp những báu vật trong kho, những mong Hoàng Dược Sư sẽ vui lòng mà tha thứ, nhận mình quay về đảo Đào Hoa. Tuy nhiên do tàn phế, Khúc Linh Phong bị cao thủ đại nội truy đuổi mãi đến nhà. Tuy diệt được các thị vệ, nhưng Khúc Linh Phong cũng bị thương năng mà chết trong căn hầm của nhà mình, vẫn chưa đem được những bảo vật lấy được giao đến Hoàng Dược Sư. Một lần nữa, tấm lòng thành của Khúc Linh Phong đã khiến Đông Tà hết sức xúc động và hối hận.

Vũ Nhãn Phong: khi bị đuổi khỏi Đào Hoa Đảo một thời gian thì ngũ đệ Vũ Nhãn Phong đã qua đời.

Phùng Mặc Phong: trở thành thợ rèn, mấy mươi năm không sử dụng đến võ công thành ra không ai rõ tung tích. Mãi đến sau này, khi Dương Qua đã được 18, 19 tuổi (tức cách quảng thời gian "Xạ Điêu Anh Hùng truyện" chừng 20 năm) thì ông mới tình cờ xuất hiện ở một xóm nhỏ, đánh Lý Mạc Sầu cháy hết cả xiêm y. Cũng như các huynh đệ và sư tỷ của mình, Phùng Mạc Phong vô cùng kính phục thầy mình là Hoàng Dược Sư và thà chết chứ không để ai lăng nhục sư phụ, nói xấu đồng môn. Đồng thời, Phùng Mặc Phong hết lòng yêu nước, đã tòng quân tham gia kháng chiến chống Nguyên dù già cả, dù tật nguyền. Rồi ông lại trà trộn làm thợ rèn vũ khí cho quân Mông Cổ và bí mật giết các tên bách phu trưởng, thiên phu trưởng của quân Nguyên. Sau này vì cứu Quách Tĩnh Dương Qua mà Phùng Mặc Phong liều chiết ôm chân Kim Luân pháp vương, bị vị quốc sư Mông Cổ này đánh chết.

41. Ám nhiên tiêu hồn chưởng

Do Thần điêu đại hiệp Dương Quá sáng tạo nên trong quãng thời gian chờ đội Tiểu Long Nữ. Vốn dĩ Dương Quá bị mất một cánh tay, bất lợi hơn người khác ở chỗ chiêu thức khó biến hóa bằng; song lại có cơ duyên luyện công trong hải triều nên có lợi thế về công lực. Môn Ám nhiên tiêu hồn chưởng do vậy hoàn toàn dựa vào nội lực thâm hậu, không quan trọng những biến hóa chiêu số.

Ám nhiên tiêu hồn chưởng vốn lấy ý trong câu:

"Ám nhiên tiêu hồn giả

Duy biệt nhi kỷ hỹ"

trong bài "Biệt phú" của Giang Yên. Ám nhiên tiêu hồn chưởng gồm có tổng cộng 17 chiêu:

Tâm kinh nhục khiêu

Khởi nhân ưu thiên

Đà nê đới thủy

Vô trung sinh hữu

Bồi hồi không cốc

Lực bất tòng tâm

Hành thi tẩu nhục

Đảo hành nghịch thi

Phế tẩm vong thực

Cô hình chích ảnh

Ẩm hận thôn thanh

Lục thần bất an

Cùng đồ mạt lộ

Diệp vô nhân sắc

Tưởng nhập phi phi

Ngai nhược mộng kê

(riêng trong bộ Thần Điêu Hiệp Lữ bản mới tại hạ tìm được 16 chiêu, còn một chiêu nữa không thấy???)

42. Thiên địa hội :

Tổ sư sáng lập ra Thiên địa hội là Diên Bình quận vương, Chiêu thảo đại tướng quân nhà Đại Minh tên là Trịnh Thành Công. Tổng đà chủ đầu tiên của Thiên địa hội vốn là quân sư của Trịnh Thành Công tên là Trần Vĩnh Hoa ( còn gọi là Trần Cận Nam). Trịnh Thành Công khi xưa đem hạm đội tấn công Nam Kinh, đánh nhau với quân Thanh thảm bại, bị vây khốn ở Hạ Môn, trước lúc phá vây ra Đài Loan ông sai Trần Vĩnh Hoa ở lại đại lục lập ra Thiên địa hội nhằm qui tụ các anh hùng nghĩa sỹ Hán tộc để đứng lên lật đổ người Mãn Châu.

Thiên địa hội còn gọi là Hồng Môn hội hay Hồng Môn, Hồng là chữ Hán bỏ chữ Thổ ở bên trong ý nói giang sơn của người Hán đã bị cướp mất. Tôn chỉ của Thiên địa hội là Phản Thanh Phục Minh, khôi phục lại giang sơn của nhà Đại Minh, đánh đuổi quân Thát Đát ngoại tộc.

Tam điểm cách mạng thi của Thiên địa hội :

Tam điểm ám tàng cách mệnh tông

Nhập ngã Hồng môn mạc thống phong

Dưỡng thành nhuệ thế tùng cừu nhật

Thệ diệt Thanh triều nhất tảo không (1)

Lời thệ của Thiên địa hội : Trời đất muôn vật, hồi phục Đại Minh, diệt tuyệt Hồ lỗ. Bọn ta nên đồng sinh đồng tử học theo chuyện cũ Đào viên, kết làm huynh đệ, hộ Hồng tên Kim Lan, họp làm một nhà. Lạy trời làm cha, lạy đất làm mẹ, mặt trời làm anh, mặt trăng làm chị em, lại lạy năm tổ và thuỷ tổ Vạn Vân Long (2) lam gia thần của cả nhà họ Hồng. Chúng ta lấy giờ Sửu ngày hai mươi lăm tháng bảy năm Giáp Dần làm ngày sinh. Phàm hai kinh mười ba tỉnh trước đây đều một lòng một thể. Nay triều đình vương hầu không ra vương hầu, văn võ không ra văn võ, lòng người dao động, đó là cái điềm nhà Minh khôi phục, Hồ lỗ tuyệt diệt. Bọn ta nên theo mệnh lệnh của Trần Cận Nam, trải ngũ hồ tứ hải để tìm kiếm anh hùng hào kiệt. Thắp hương lập thệ, thuận thiên hành đạo, khôi phục nhà Minh, báo thù rửa nhục. Cắt máu ăn thề, xin thần minh chứng giám.

Thiên địa hội đứng đầu là Tổng đà chủ, tiếp sau gồm có mười đường, Tiền ngũ phòng có năm đường, Hậu ngũ phòng năm đường. Tiền ngũ phòng là Liên Hoa đường cai quản Phúc Kiến, Hồng Thuận đường cai quản Quảng Đông, Gia Hậu đường cai quản Quảng Tây, Tham Thái đường cai quản Hồ Nam, Hồ Bắc, Hoằng Hoá đường cai quản Chiết Giang. Hậu ngũ phòng là Thanh Mộc đường cai quản Giang Tô, Xích Hoả đường cai quản Quý Châu , Bạch Kim đường cai quản Tứ Xuyên, Huyền Thuỷ đường cai quản Vân Nam, Hoàng Thổ đường cai quản Hà Nam trung châu.

Thiên địa hội hoạt động mạnh nhất vào thời Thuận Trị - Khang Hy, tức là khi Trần Cận Nam còn là Tổng đà chủ. Đến khi Trần Cận Nam bị con thứ của Diên Bình Quận Vương Trịnh Kinh là Trịnh Khắc Sảng giết chết, rồi tướng quân Thi Lang ( vốn là thuộc hạ của Trịnh Thành Công đã đầu hàng Thanh triều ) đem hạm đội 300 chiến thuyền đánh chiếm lại đảo Đài Loan thì phong trào của Thiên địa hội ngày càng đi xuống. Tuy nhiên vẫn là một bang hội lớn cho tới cuối triều Thanh mặc dù luôn bị triều đình đàn áp, tiêu diệt . Những tên khác của Thiên địa hội ở từng thời điểm khác nhau : Tam điểm hội, Tam hợp hội, Thanh thuỷ hội, Truỷ thủ hội, Song đao hội, Tiểu đao hội, Bát quái hội, Ca lão hội, Hồng kỳ hội, Kiếm tử hội, Chí công hội, Quán tử hội, Bán biên thiết hội, Nhất cổ hương hội, Hồng hắc hội, Hồng bạch giáo, Hắc bạch giáo, Kết thảo giáo, Trảm thảo giáo, Khổn sài giáo...đều từ một gốc mà ra.

Chú thích : (1)Ba điểm ngầm mang ý đổi dời, Gia nhập Hồng môn chớ hở lời, Nuôi thành nhuệ khí tranh cùng giặc, Thề diệt triều Thanh để giúp đời.

(2) Thuỷ tổ Vạn Vân Long ở đây là Trịnh Thành Công, năm tổ tức là năm vị đại tướng của Trịnh Thành Công tử trận khi tấn công Nam Kinh.

43.Giang Nam tứ hữu

Giang nam tứ hữu là bốn nhân vật của Nhật Nguyệt thần giáo, hộ khẩu ở Mai Trang, Cô Sơn, Tây Hồ, Hàng Châu. Họ gồm có Hoàng Chung Công, Hắc Bạch Tử, Ngốc Bút Ông, và Đan Thanh Tiên Sinh.

Hàng Châu, cùng với Tô Châu, là hai thành thị đẹp và phát triển nổi tiếng nhất của Trung Quốc thời xưa, đã đi vào thành ngữ "Thượng hữu thiên đường, hạ hữu Tô Hàng". Tây Hồ rộng gần 6 cây số vuông, ba bề là núi bao bọc, là một thắng cảnh đệ nhất của Hàng Châu. Bên bờ Tây Hồ, cách một đoạn đê là đến núi Cô Sơn, là một trong bốn hòn đảo của Tây Hồ, cao 38 mét. Nơi đây trồng toàn mai, chính là nơi mà xưa kia Lâm Bô tự Hòa Tĩnh đời Tống từng ở ẩn, lấy mai là vợ hạc là con, được mọi người tôn xưng là Mai Tiên. Cô Sơn cũng chính là nơi ở của nàng Phùng Tiểu Thanh bạc mệnh, khi nàng bị người vợ cả cách ly trong sầu muộn mà chết khi chưa đầy mười tám tuổi, và ba trăm năm sau được đại thi hào Nguyễn Du than tiếc trong bài thơ "Độc Tiểu Thanh ký" nổi tiếng...

Chính trong núi Cô Sơn đó có một tòa trang viện thanh nhã, chính là Mai Trang. Trong Mai Trang không chỉ trồng mai mà còn các loại cây khác như tùng, trúc. Ở Mai Trang, Giang nam tứ hữu vâng mệnh của Đông Phương Bất Bại, giáo chủ của Nhật Nguyệt thần giáo, kiểm soát việc giam giữ một nhân vật võ lâm nổi tiếng là Nhậm Ngã Hành, cựu giáo chủ của Nhật Nguyệt thần giáo.

Hoàng Chung Công

Đại trang chủ của Mai Trang. Mê âm nhạc, thích gảy đàn.

Ngoại hình: khoảng sáu, bảy mươi tuổi, gầy như que củi. Da mặt đều lõm cả vào, trông như chiếc đầu lâu. Cặp mắt loang loáng tỏ ra tinh thần quắc thước. Có râu.

Vũ khí: cây dao cầm rất cổ đến mấy trăm hoặc cả nghìn năm, cùng cây ngọc tiêu toàn thân xanh biếc, gần miệng thổi có nhiều chấm đỏ.

Công phu: Thất huyền vô hình kiếm, có những chiêu như Lục đỉnh khai sơn. Yếu quyết là vận nội lực vào tiếng đàn để làm rối loạn tâm thần và kinh mạch của đối phương

Số phận: Do sơ suất để Nhậm Ngã Hành trốn thoát khỏi mật thất nên Hoàng Chung Công bị các vị trưởng lão Nhật nguyệt thần giáo hạch tội. Sau đó Hoàng Chung Công không chịu uống Tam thi não thần đan để quy phục Nhậm Ngã Hành, nên trả bản nhạc "Tiếu ngạo giang hồ" cho Lệnh Hồ Xung rồi tự sát.

Hắc Bạch Tử

Nhị trang chủ của Mai Trang. Là người tinh tế và kín đáo hơn hết trong bốn vị trang chủ. Tính rất mê đánh cờ vây, do đó lấy biệt hiệu là Hắc Bạch Tử, chỉ bàn cờ vây có hai loại quân đen, trắng.

Ngoại hình: cao lêu nghêu, gầy gò khẳng khiu. Mày thanh mắt sáng, tóc đen nhánh mà mặt thì trắng bệch, hơi xanh lướt, trông chẳng khác gì thây ma.

Vũ khí: bàn cờ vây (19 x 19) bằng sắt đen pha đá nam châm, vuông hai thước dầy một tấc, có thể hút binh khí kim loại, và con cờ dùng làm ám khí.

Công phu: Huyền thiên chỉ, âm hàn cực mạnh, có thể biến nước đóng thành băng.

Số phận: Hắc Bạch Tử suốt mười hai năm trời cầu khẩn Nhậm Ngã Hành truyền thụ cho Hấp tinh đại pháp nhưng không được chấp nhận. Về sau, Hắc Bạch Tử bị Lệnh Hồ Xung (trong vai Nhậm Ngã Hành bị giam trong mật thất) giả vờ ưng thuận truyền đại pháp cho, rồi hút hết nội lực của y và giam y vào mật thất. Hắc Bạch Tử mất hết công lực, trở thành phế nhân, về sau không được Nhậm Ngã Hành thu dụng nữa.

Ngốc Bút Ông

Tam trang chủ của Mai Trang. Mê thư pháp (Ngốc Bút có nghĩa là cây bút cùn). Có tác phẩm thư pháp "Bùi tướng quân" của Nhan Chân Khanh gồm 23 chữ, viết trên vách tường của kỳ thất.

Ngoại hình: thấp lùn, béo mập. Đầu hói mà bóng loáng, không mọc một sợi tóc nào.

Vũ khí: một cây bút phán quan, dài một thước sáu tấc, đúc bằng thép nguyên chất. Ngòi bút làm bằng một túm lông cừu có thấm mực, để viết chữ lên người, lên mặt đối thủ.

Công phu: Thạch cổ đả huyệt bút pháp, gồm có 28 chiêu.

Số phận: Do sơ suất để Nhậm Ngã Hành trốn thoát khỏi mật thất nên Ngốc Bút Ông bị các vị trưởng lão Nhật nguyệt thần giáo hạch tội. Sau đó Ngốc Bút Ông phải quy thuận Nhậm Ngã Hành, uống Tam thi não thần đan.

Đan Thanh Tiên Sinh

Tứ trang chủ của Mai Trang, khí độ rộng rãi nhất. Có ba sở thích là uống rượu đứng đầu, vẽ tranh thứ hai, và múa kiếm thứ ba, gọi là "tam tuyệt". Trong kho rượu chứa rất nhiều rượu quý, đặc biệt quý là rượu Bồ đào ở Thổ lỗ phồn, được cất theo phương pháp đặc biệt. Đồng thời có tác phẩm hội họa "Tiên nhân đồ" vẽ trong lúc say rượu, sử dụng các yếu tố, nguyên tắc kiếm pháp để vẽ nên.

Ngoại hình: vóc người cao lớn, râu dài chùng tới bụng

Vũ khí: kiếm

Công phu: Bát mặc phi ma kiếm pháp, có những chiêu như Bạch hồng quán nhật, Xuân phong dương liễu, Đằng giao khởi phụng, Ngọc long đáo huyền.

Số phận: Do sơ suất để Nhậm Ngã Hành trốn thoát khỏi mật thất nên Đan Thanh tiên sinh bị các vị trưởng lão Nhật nguyệt thần giáo hạch tội. Sau đó Đan Thanh tiên sinh phải quy thuận Nhậm Ngã Hành, uống Tam thi não thần đan. Đại để về sau số phận của Đan Thanh Tiên Sinh cũng như Ngốc Bút Ông, không thấy nhắc tới nữa.

44. Bắc Minh thần công :

- Gồm nhiều phương pháp tập luyện kinh mạch, tất cả đều dạy phép thu nội lực của người khác làm của mình, cũng giống như Hấp Tinh Đại Pháp.

Bộ nội công này của Tiêu Dao phái, mỗi ngày luyện vào các giờ Mão, Ngọ, Dậu.

- Có ghi:

"Trang Tử Tiêu Dao Du có viết: ở tận cùng phía bắc có ao tối, đó chính là ao trời. Trong ao có cá lớn, vài nghìn dặm không nhìn thấy cá bao giờ".

"Nếu như nước tích không đủ thì không có sức mang nổi thuyền lớn. Đổ 1 chén nước vào chỗ trũng, lấy cái lá cỏ làm thuyền thì được, còn lấy cái chén làm thuyền thì không xong vì nước nông mà thuyền quá lớn. Bản phái võ công cũng chẳng khác, yếu quyết đầu tiên là tích súc nội lực. Nội lực đầy đủ rồi, võ công trong thiên hạ ta đều dùng được, khác gì biển bắc, thuyền lớn thuyền nhỏ đều trở được, cá lớn cá nhỏ đều dung được. Cho nên nội lực là gốc, chiêu số là ngọn"

(yếu chỉ Bách Xuyên Hối Hải)

Bộ này có 36 hình vẽ con gái khoả thân ghi các yếu quyết, huyệt đạo, kẻ đứng, người nằm, hoặc trước mặt, hoặc sau lưng, cùng một khuôn mặt nhưng khi vui khi buồn, khi thì tình ý triền miên, khi thì tỏ vẻ bực bội, mỗi bức 1 khác. 36 bức, bức nào cũng có những sợi chỉ màu chạy trên thân hình ghi rõ bộ vị huyệt đạo và phương pháp luyện công. Bộ này được ghi trên cuốn lụa mà cuốn lụa sau cùng ghi Lăng ba Vi Bộ.

"Bắc Minh thần công lấy nội lực của thiên hạ làm của mình.Nước lớn biển Bắc không phải tự nhiên mà có.."

Thủ thái âm phế kinh là bài học đầu tiên:

"Người đời luyện công đều đi từ Vân Môn đến Thiếu Thương, phái Tiêu Dao ta lại đi ngược lại, đi từ Thiếu Thương trở về Vân Môn, ngón tay cái vừa chạm vào người khác, nội lực của người liền chảy vào thân thể mình, tới tận các huyệt. Nếu như nội lực kẻ địch mạnh hơn ta, tức là biển chảy ngược vào sông hồ, cực kỳ hung hiểm, phải hết sức cẩn thận".

"Nội công của bản môn ngược với các môn phái khác,những ai từng tu tập nội công thì phải quên hết những gì đã học để chuyên tâm tu tập công phu mới,nếu như lẫn lộn với nhau thì 2 công phu chống trọi mà lập tức thổ huyết điên cuồng, các kinh mạch bị phế, cực kỳ hung hiểm."

"Thủ Thái Âm Phế Kinh và Nhâm Mạch là cơ sở của Bắc Minh Thần Công, trong đó huyệt Thiếu Thương ở ngón tay cái và huyệt Đản Trung ở giữa 2vú là 2 nơi quan trọng nhất, 1 đằng thu vào, 1 đằng chứa lấy. Con người có Tứ hải, dạ dày là biển chứa nước và thức ăn, Xung Mạch là biển của 12 kinh, Đản Trung là biển chứa khí,c òn óc não là biển chứa tuỷ. Ăn uống chứa vào dạ dày thì trẻ sơ sinh cũng biết, nhưng người ta ăn uống thì chỉ không quá 1 ngày đã phải thải ra ngoài. Ta thu nội lực nhiều ít đều giữ lại không hề tiết ra, càng tích trữ càng nhiều, chẳng khác gì ao trời Bắc Minh đủ cho cá cô dài nghìn dặm vùng vẫy."

Huyệt Đản Trung còn là nơi chứa Bắc Minh chân khí. Luyện xong Bắc Minh thần công, khi nội lực đã thâm hậu thì mới luyện sang bộ cuối là Lăng Ba Vi Bộ.

- Lợi và hại của Bắc Minh thần công: Lợi - có thể hút nội lực của người khác làm của mình ; hại - dễ bị các luồng nội lực dị chủng hoành hành trong cơ thể.

- Những người đã tập Bắc Minh thần công như Đoàn Dự - học từ cuốn trục trong Vô Luợng động của Lý Thu Thủy hay Hư Trúc - được truyền từ hơn bảy mươi năm công lực của phái Tiêu Dao (Bắc Minh chân khí).

- Bản sao của Bắc Minh thần công : Hóa công đại pháp hoặc Hấp tinh đại pháp (của Nhậm Ngã Hành trong Tiếu Ngạo Giang Hồ). Tinh Tú lão quái Đinh Xuân Thu cũng xuất thân từ phái Tiêu Dao, lại mượn chất độc các loài rắn rết để hút công lực người khác.

45.Một số loại độc dược :

---Âm dương hoà hợp tán:không phải độc dược mà là xuân dược,vô cùng bá đạo,lam cho kẻ sĩ chíngh trực trở nên dâm dục,gái đoan trang biến thành lẳng lơ,chỉ 1 phút mê muội mà thánh hiền trở thành cầm thú.Ăn phải nếu không cho âm dương hoà hợp ,kết làm vợ chồng thì chât thuốc mỗi ngày một phát tác cực kỳ trầm trọng,da thịt nứt ra ,thất khiếu ứa máu,đến ngày thứ 8 thì không chịu nổi.

---Bi tô thanh phong:

là độc dược của Nhất Phẩm đường nước Tây Hạ,chất này là 1 loại độc khí không mùi vị,không màu sắc.Thuốc này lấy từ những độc vật trong Hoan Hỷ Cốc ngoài Đại Tuyết Sơn nước Tây Hạ,chế thành chất lỏng chứa trong bình.Người hạ độc nhét sẵn thuốc giải trong mũi,khi mở nắp lập tức độc thuỷ bốc hơi bay ra thoang thoảng như gió nhẹ,dù ai tinh mũi mắt thính đến đâu cũng không thể phát giác,đến khi mắt thấy đau nhói thì độc khí đã xâm nhập vào óc.Người trúng độc nước mắt đầm đìa nên gọi là "bi",toàn thân không cử động được nên gọi là "tô",không màu sắc ,không mùi vị nên gọi là "thanh phong".Thuốc giải độc cũng được đựng trong 1 cái bình dưới dạng thủy,người chỉ cần đưa lên mũi hít thì lập tức được giải độc,thuốc giải này có mùi rất khó ngửi.

---Hoá thi phấn:

tương truyền do Tây Độc Âu Dương Phong chế ra. Là thuốc có dạng bột,dược tính cực mạnh,chỉ cần 1 đầu tăm là đủ để tiêu huỷ 1 xác chết.Rắc thuốc đúng vào nơi vết thương có máu rỉ ra,vết thương xèo xèo thành tiếng,rồi có khói nhẹ bốc lên ,từ vết thương không ngừng có nước vàng chảy ra,khói đạm dần,nước vàng cũng chảy ra càng lúc càng nhiều,bốc lên mùi vừa chua vừa khét,vết thương càng ngày càng to ra.Da thịt cái xác gặp nước vàng thì lập tức bốc khói,từ từ hoá thành nước.Sau khoảng hơn 1 giờ thì cái xác biến thành vũng nước vàng.

---Thăng thiên hoàn:

là thuốc kịch độc có màu đỏ,ngậm vào là tắt thở ngay.Xuất hiện trong LĐK.

---Bách hoa phúc xà cao:

gặp máu tươi thì trở nên thơm nồng,vốn là 1 bí quyết chế biến hương liệu,người thường ngửi thấy thì chỉ thấy tinh thần thoải mái.Còn đối với những người trên đảo Linh Xà quen uống rượu thuốc Hùng hoàng để tránh rắn độc,mùi thơm này gặp rượu Hùng hoàng sẽ khiến gân cốt mềm nhũn,trong 12 giờ chưa giải được.Uống nước lạnh vào thì nôn hết ra.

---Báo thai dịch cân hoàn:

là độc dược mà cũng là linh đan,uống vào trong 1 năm có thể khiến người ta cường kiện thân thể,nhưng hết 1 năm mà không uống thuốc giải thì chất kịch độc sẽ phát tác.Nguời uống có thể cao hơn,lùn đi,béo ra,gầy đi.BTDCH quá nửa là dùng các vị thuốc đại bổ như Thai báo ,Thai hươu,Tử hà xa,Thận hải cẩu phối hợp với các vị thuốc quý hiếm luyện thành,dược tính đi ngược lại với đặc điểm ban đầu của cơ thể.Giáo chủ Thần Long giáo chế loại thuốc này để cải lão hoàn đồng nhưng tác dụng không như ý muốn.

---Mông hãn dược:thuốc mê,người uống cơ hồ sẽ cảm thấy choáng váng rồi ngất đi.Tuy nhiên ,với những người nội công cực kỳ thâm hậu,họ sẽ chỉ khó chịu chứ không bị ngất đi.

---Độc hoa Tình:

có từ thời Trung Cổ,được trồng ở Tuyệt Tình Cốc.Khi ăn vào thấy vừa thơm vừa ngọt như mật ong,cảm thấy lâng lâng khoan khoái nhưng nuốt xuống thì đắng chát.Cành và lá đầy gai,thân thể nếu trúng độc gai hoa Tình,trong vòng 12 canh giờ không được nhớ thưong ai,nếu không sẽ khổ sở vô cùng.Người nào nghĩ đến ái tình ,tình dục,huyết mạch không chỉ tăng nhanh mà trong máu còn sinh ra 1 chất,chất độc gai hoa Tình bình thường thì vô hại,nhưng gặp chất này sẽ làm con người đau đớn.

Nếu bị gai đâm khắp nguòi,cứ sau 1 canh giờ cái đau lại tăng lên 1 phần,36 ngày sau toàn thân sẽ đau nhức mà chết.

Tuyệt tình đơn:là thuốc giải độc hoa Tình.

có màu đen,hình vuông,mùi tanh,cực khó bào chế,là 1 bí mật gia truyền của Tuyệt Tình cốc,gồm 1 số vị dược liệu khó kiếm,phải phơi xuân lộ thu sương,3 năm sau mới chế thành.Nếu uống nửa viên,chất độc sẽ tích tụ,phát tác sẽ nhanh gấp bội.

---Độc sa thiềm thừ:

giấu trong cây lang bổng của Tiêu Tương Tử(TĐHL).

Tại hoang sơn tỉnh Hồ Nam,Tiêo Tương Tử đang luyện công nhìn thấy 1 con cóc phun ra chất "Độc sa thiềm thừ "làm 1 con mãng xà lớn trúng độc.Tiêu Tương Tử bắt cóc,lấy chất độc dịch ,chế ra :Độc sa thiềm thừ" giấu trong lòng can bổng.Đuôi cây gậy có chốt,dùng ngoán tay cái ấn ,chất độc sẽ phun ra ,mầu đen,có mùi tanh .

---Thái tuyết thù:

là 1 loại nhện sống ở vùng núi tuyết Tây Tạng,là 1 trong 3 vật cực độc trong thiên hạ,loài nhện này hình dạng cổ quái,toàn thân có sọc xanh đỏ nhiều màu tươi rói.Thái tuyết thù ngửi mùi da ngưòi ,lập tức cắn chặt,hút no máu mới nhả ra,độc tính cực mạnh,thậm chí mạng nhện cũng có độc.Loài nhện này xung khắc với ong mật.

46. Ngọc Nữ tâm kinh:

Được Lâm Triều Anh sáng tác để khắc chế võ công Toàn Chân giáo và ghi trong ngôi Hoạt tử nhân mộ, căn phòng khắc bộ tâm kinh thậm chí tương phản hoàn toàn với căn phòng luyện võ của Vương Trùng Dương.

Thưở thiếu thời Lâm Triêu Anh từng luyến ái Vương Trùng Dương nhưng Vương Trùng Dương không đáp lại tình yêu đó bởi muốn giành trọn đời mình để kháng Kim. Lâm Triều Anh vì đó đâm u uẩn, hận Trùng Dương hận luôn Toàn Chân giáo do ông sáng lập; viết nên bộ Ngọc Nữ Tâm Kinh khắc chế võ công Toàn Chân giáo.

Bộ Ngọc nữ tâm kinh đa phần là kiếm pháp, nhưng không có kiếm pháp khắc chế quyền cước Toàn Chân phái.

Võ công này phải có 2 người cùng luyện ,trợ giúp lẫn nhau.Chia làm 3 bước:

Bước 1:luyện thành các môn võ công của phái Cổ Mộ.

Bước 2:luyện võ công phái Toàn Chân.

Bước 3:luyện võ công ghi trong Ngọc Nữ tâm kinh để khắc chế võ công phái Toàn Chân.

Nội công Ngọc Nữ tâm kinh đi từ bàng môn tả đạo chiếm thượng phong, khi luyện công, hơi nóng toàn thân bốc lên ngùn ngụt, cần tập ở nơi thoáng mát và rộng rãi, cởi bỏ hết quần áo mà tập, để cho hơi nóng phát tán, không đọng lại chút nào trên cơ thể, nếu không sẽ tích tụ bên trong, nhẹ thì gây trọng bệnh,nặng thì làm chết người. Lúc luyện, 2 người phải dùng nội lực đạo dẫn phòng hộ cho nhau, nếu không sẽ tẩu hoả nhập ma.

Ngọc nữ tâm kinh gồm 9 đoạn hành công, đơn số hành công là Âm tiến, còn song số là Dương thoái. Dương thoái có thể dùng lúc nào tuỳ ý, còn Âm tiến phải liền một mạch.

Lâm Triêu Anh sáng tạo Ngọc Nữ tâm kinh để chống phái Toàn Chân, nhưng tình ý với Vương Trùng Dương thì không thay đổi, khi viết đến chương cuối, bà tưởng tượng được cùng Vương Trùng Dương chống địch, một người sử dụng võ công phái Toàn Chân, 1 người sử Ngọc nữ tâm kinh, tạo thành Ngọc nữ tố tâm kiếm pháp. Song kiếm tung hoành là khách, kề vai đánh địch mới là chủ, mỗi chiêu thức đều phối hợp nhau, chiếu cố nhau, tình ý triền miên tha thiết.

Người sử dụng Ngọc nữ tố tâm kiếm pháp:

Nếu 1 đôi nam nữ không là tình lữ thì sẽ không lĩnh hội được những chỗ tinh diệu của nó, tâm linh không thể hoà thông với nhau; nếu 2 người liên thủ là bằng hữu, sẽ quá khách sáo; nếu là kẻ trên người dưới, sẽ khó tránh dựa dẫm vào nhau; nếu là phu phụ, thì tuy tốt, nhưng 2 bên lại quá ư đắm đuối, e lệ thẹn thùng, nửa gần nửa xa, tâm linh vẫn có chỗ chênh lệch.

Sau này, Tiểu Long Nữ được Lão Ngoan Đồng Chu Bá Thông truyền thụ võ công Song Thủ Hổ Bác cũng sử được Ngọc nữ tố tâm kiếm pháp rất lợi hại.

43.Giang Nam tứ hữu

Giang nam tứ hữu là bốn nhân vật của Nhật Nguyệt thần giáo, hộ khẩu ở Mai Trang, Cô Sơn, Tây Hồ, Hàng Châu. Họ gồm có Hoàng Chung Công, Hắc Bạch Tử, Ngốc Bút Ông, và Đan Thanh Tiên Sinh.

Hàng Châu, cùng với Tô Châu, là hai thành thị đẹp và phát triển nổi tiếng nhất của Trung Quốc thời xưa, đã đi vào thành ngữ "Thượng hữu thiên đường, hạ hữu Tô Hàng". Tây Hồ rộng gần 6 cây số vuông, ba bề là núi bao bọc, là một thắng cảnh đệ nhất của Hàng Châu. Bên bờ Tây Hồ, cách một đoạn đê là đến núi Cô Sơn, là một trong bốn hòn đảo của Tây Hồ, cao 38 mét. Nơi đây trồng toàn mai, chính là nơi mà xưa kia Lâm Bô tự Hòa Tĩnh đời Tống từng ở ẩn, lấy mai là vợ hạc là con, được mọi người tôn xưng là Mai Tiên. Cô Sơn cũng chính là nơi ở của nàng Phùng Tiểu Thanh bạc mệnh, khi nàng bị người vợ cả cách ly trong sầu muộn mà chết khi chưa đầy mười tám tuổi, và ba trăm năm sau được đại thi hào Nguyễn Du than tiếc trong bài thơ "Độc Tiểu Thanh ký" nổi tiếng...

Chính trong núi Cô Sơn đó có một tòa trang viện thanh nhã, chính là Mai Trang. Trong Mai Trang không chỉ trồng mai mà còn các loại cây khác như tùng, trúc. Ở Mai Trang, Giang nam tứ hữu vâng mệnh của Đông Phương Bất Bại, giáo chủ của Nhật Nguyệt thần giáo, kiểm soát việc giam giữ một nhân vật võ lâm nổi tiếng là Nhậm Ngã Hành, cựu giáo chủ của Nhật Nguyệt thần giáo.

Hoàng Chung Công

Đại trang chủ của Mai Trang. Mê âm nhạc, thích gảy đàn.

Ngoại hình: khoảng sáu, bảy mươi tuổi, gầy như que củi. Da mặt đều lõm cả vào, trông như chiếc đầu lâu. Cặp mắt loang loáng tỏ ra tinh thần quắc thước. Có râu.

Vũ khí: cây dao cầm rất cổ đến mấy trăm hoặc cả nghìn năm, cùng cây ngọc tiêu toàn thân xanh biếc, gần miệng thổi có nhiều chấm đỏ.

Công phu: Thất huyền vô hình kiếm, có những chiêu như Lục đỉnh khai sơn. Yếu quyết là vận nội lực vào tiếng đàn để làm rối loạn tâm thần và kinh mạch của đối phương

Số phận: Do sơ suất để Nhậm Ngã Hành trốn thoát khỏi mật thất nên Hoàng Chung Công bị các vị trưởng lão Nhật nguyệt thần giáo hạch tội. Sau đó Hoàng Chung Công không chịu uống Tam thi não thần đan để quy phục Nhậm Ngã Hành, nên trả bản nhạc "Tiếu ngạo giang hồ" cho Lệnh Hồ Xung rồi tự sát.

Hắc Bạch Tử

Nhị trang chủ của Mai Trang. Là người tinh tế và kín đáo hơn hết trong bốn vị trang chủ. Tính rất mê đánh cờ vây, do đó lấy biệt hiệu là Hắc Bạch Tử, chỉ bàn cờ vây có hai loại quân đen, trắng.

Ngoại hình: cao lêu nghêu, gầy gò khẳng khiu. Mày thanh mắt sáng, tóc đen nhánh mà mặt thì trắng bệch, hơi xanh lướt, trông chẳng khác gì thây ma.

Vũ khí: bàn cờ vây (19 x 19) bằng sắt đen pha đá nam châm, vuông hai thước dầy một tấc, có thể hút binh khí kim loại, và con cờ dùng làm ám khí.

Công phu: Huyền thiên chỉ, âm hàn cực mạnh, có thể biến nước đóng thành băng.

Số phận: Hắc Bạch Tử suốt mười hai năm trời cầu khẩn Nhậm Ngã Hành truyền thụ cho Hấp tinh đại pháp nhưng không được chấp nhận. Về sau, Hắc Bạch Tử bị Lệnh Hồ Xung (trong vai Nhậm Ngã Hành bị giam trong mật thất) giả vờ ưng thuận truyền đại pháp cho, rồi hút hết nội lực của y và giam y vào mật thất. Hắc Bạch Tử mất hết công lực, trở thành phế nhân, về sau không được Nhậm Ngã Hành thu dụng nữa.

Ngốc Bút Ông

Tam trang chủ của Mai Trang. Mê thư pháp (Ngốc Bút có nghĩa là cây bút cùn). Có tác phẩm thư pháp "Bùi tướng quân" của Nhan Chân Khanh gồm 23 chữ, viết trên vách tường của kỳ thất.

Ngoại hình: thấp lùn, béo mập. Đầu hói mà bóng loáng, không mọc một sợi tóc nào.

Vũ khí: một cây bút phán quan, dài một thước sáu tấc, đúc bằng thép nguyên chất. Ngòi bút làm bằng một túm lông cừu có thấm mực, để viết chữ lên người, lên mặt đối thủ.

Công phu: Thạch cổ đả huyệt bút pháp, gồm có 28 chiêu.

Số phận: Do sơ suất để Nhậm Ngã Hành trốn thoát khỏi mật thất nên Ngốc Bút Ông bị các vị trưởng lão Nhật nguyệt thần giáo hạch tội. Sau đó Ngốc Bút Ông phải quy thuận Nhậm Ngã Hành, uống Tam thi não thần đan.

Đan Thanh Tiên Sinh

Tứ trang chủ của Mai Trang, khí độ rộng rãi nhất. Có ba sở thích là uống rượu đứng đầu, vẽ tranh thứ hai, và múa kiếm thứ ba, gọi là "tam tuyệt". Trong kho rượu chứa rất nhiều rượu quý, đặc biệt quý là rượu Bồ đào ở Thổ lỗ phồn, được cất theo phương pháp đặc biệt. Đồng thời có tác phẩm hội họa "Tiên nhân đồ" vẽ trong lúc say rượu, sử dụng các yếu tố, nguyên tắc kiếm pháp để vẽ nên.

Ngoại hình: vóc người cao lớn, râu dài chùng tới bụng

Vũ khí: kiếm

Công phu: Bát mặc phi ma kiếm pháp, có những chiêu như Bạch hồng quán nhật, Xuân phong dương liễu, Đằng giao khởi phụng, Ngọc long đáo huyền.

Số phận: Do sơ suất để Nhậm Ngã Hành trốn thoát khỏi mật thất nên Đan Thanh tiên sinh bị các vị trưởng lão Nhật nguyệt thần giáo hạch tội. Sau đó Đan Thanh tiên sinh phải quy thuận Nhậm Ngã Hành, uống Tam thi não thần đan. Đại để về sau số phận của Đan Thanh Tiên Sinh cũng như Ngốc Bút Ông, không thấy nhắc tới nữa.

44. Bắc Minh thần công :

- Gồm nhiều phương pháp tập luyện kinh mạch, tất cả đều dạy phép thu nội lực của người khác làm của mình, cũng giống như Hấp Tinh Đại Pháp.

Bộ nội công này của Tiêu Dao phái, mỗi ngày luyện vào các giờ Mão, Ngọ, Dậu.

- Có ghi:

"Trang Tử Tiêu Dao Du có viết: ở tận cùng phía bắc có ao tối, đó chính là ao trời. Trong ao có cá lớn, vài nghìn dặm không nhìn thấy cá bao giờ".

"Nếu như nước tích không đủ thì không có sức mang nổi thuyền lớn. Đổ 1 chén nước vào chỗ trũng, lấy cái lá cỏ làm thuyền thì được, còn lấy cái chén làm thuyền thì không xong vì nước nông mà thuyền quá lớn. Bản phái võ công cũng chẳng khác, yếu quyết đầu tiên là tích súc nội lực. Nội lực đầy đủ rồi, võ công trong thiên hạ ta đều dùng được, khác gì biển bắc, thuyền lớn thuyền nhỏ đều trở được, cá lớn cá nhỏ đều dung được. Cho nên nội lực là gốc, chiêu số là ngọn"

(yếu chỉ Bách Xuyên Hối Hải)

Bộ này có 36 hình vẽ con gái khoả thân ghi các yếu quyết, huyệt đạo, kẻ đứng, người nằm, hoặc trước mặt, hoặc sau lưng, cùng một khuôn mặt nhưng khi vui khi buồn, khi thì tình ý triền miên, khi thì tỏ vẻ bực bội, mỗi bức 1 khác. 36 bức, bức nào cũng có những sợi chỉ màu chạy trên thân hình ghi rõ bộ vị huyệt đạo và phương pháp luyện công. Bộ này được ghi trên cuốn lụa mà cuốn lụa sau cùng ghi Lăng ba Vi Bộ.

"Bắc Minh thần công lấy nội lực của thiên hạ làm của mình.Nước lớn biển Bắc không phải tự nhiên mà có.."

Thủ thái âm phế kinh là bài học đầu tiên:

"Người đời luyện công đều đi từ Vân Môn đến Thiếu Thương, phái Tiêu Dao ta lại đi ngược lại, đi từ Thiếu Thương trở về Vân Môn, ngón tay cái vừa chạm vào người khác, nội lực của người liền chảy vào thân thể mình, tới tận các huyệt. Nếu như nội lực kẻ địch mạnh hơn ta, tức là biển chảy ngược vào sông hồ, cực kỳ hung hiểm, phải hết sức cẩn thận".

"Nội công của bản môn ngược với các môn phái khác,những ai từng tu tập nội công thì phải quên hết những gì đã học để chuyên tâm tu tập công phu mới,nếu như lẫn lộn với nhau thì 2 công phu chống trọi mà lập tức thổ huyết điên cuồng, các kinh mạch bị phế, cực kỳ hung hiểm."

"Thủ Thái Âm Phế Kinh và Nhâm Mạch là cơ sở của Bắc Minh Thần Công, trong đó huyệt Thiếu Thương ở ngón tay cái và huyệt Đản Trung ở giữa 2vú là 2 nơi quan trọng nhất, 1 đằng thu vào, 1 đằng chứa lấy. Con người có Tứ hải, dạ dày là biển chứa nước và thức ăn, Xung Mạch là biển của 12 kinh, Đản Trung là biển chứa khí,c òn óc não là biển chứa tuỷ. Ăn uống chứa vào dạ dày thì trẻ sơ sinh cũng biết, nhưng người ta ăn uống thì chỉ không quá 1 ngày đã phải thải ra ngoài. Ta thu nội lực nhiều ít đều giữ lại không hề tiết ra, càng tích trữ càng nhiều, chẳng khác gì ao trời Bắc Minh đủ cho cá cô dài nghìn dặm vùng vẫy."

Huyệt Đản Trung còn là nơi chứa Bắc Minh chân khí. Luyện xong Bắc Minh thần công, khi nội lực đã thâm hậu thì mới luyện sang bộ cuối là Lăng Ba Vi Bộ.

- Lợi và hại của Bắc Minh thần công: Lợi - có thể hút nội lực của người khác làm của mình ; hại - dễ bị các luồng nội lực dị chủng hoành hành trong cơ thể.

- Những người đã tập Bắc Minh thần công như Đoàn Dự - học từ cuốn trục trong Vô Luợng động của Lý Thu Thủy hay Hư Trúc - được truyền từ hơn bảy mươi năm công lực của phái Tiêu Dao (Bắc Minh chân khí).

- Bản sao của Bắc Minh thần công : Hóa công đại pháp hoặc Hấp tinh đại pháp (của Nhậm Ngã Hành trong Tiếu Ngạo Giang Hồ). Tinh Tú lão quái Đinh Xuân Thu cũng xuất thân từ phái Tiêu Dao, lại mượn chất độc các loài rắn rết để hút công lực người khác.

45.Một số loại độc dược :

---Âm dương hoà hợp tán:không phải độc dược mà là xuân dược,vô cùng bá đạo,lam cho kẻ sĩ chíngh trực trở nên dâm dục,gái đoan trang biến thành lẳng lơ,chỉ 1 phút mê muội mà thánh hiền trở thành cầm thú.Ăn phải nếu không cho âm dương hoà hợp ,kết làm vợ chồng thì chât thuốc mỗi ngày một phát tác cực kỳ trầm trọng,da thịt nứt ra ,thất khiếu ứa máu,đến ngày thứ 8 thì không chịu nổi.

---Bi tô thanh phong:

là độc dược của Nhất Phẩm đường nước Tây Hạ,chất này là 1 loại độc khí không mùi vị,không màu sắc.Thuốc này lấy từ những độc vật trong Hoan Hỷ Cốc ngoài Đại Tuyết Sơn nước Tây Hạ,chế thành chất lỏng chứa trong bình.Người hạ độc nhét sẵn thuốc giải trong mũi,khi mở nắp lập tức độc thuỷ bốc hơi bay ra thoang thoảng như gió nhẹ,dù ai tinh mũi mắt thính đến đâu cũng không thể phát giác,đến khi mắt thấy đau nhói thì độc khí đã xâm nhập vào óc.Người trúng độc nước mắt đầm đìa nên gọi là "bi",toàn thân không cử động được nên gọi là "tô",không màu sắc ,không mùi vị nên gọi là "thanh phong".Thuốc giải độc cũng được đựng trong 1 cái bình dưới dạng thủy,người chỉ cần đưa lên mũi hít thì lập tức được giải độc,thuốc giải này có mùi rất khó ngửi.

---Hoá thi phấn:

tương truyền do Tây Độc Âu Dương Phong chế ra. Là thuốc có dạng bột,dược tính cực mạnh,chỉ cần 1 đầu tăm là đủ để tiêu huỷ 1 xác chết.Rắc thuốc đúng vào nơi vết thương có máu rỉ ra,vết thương xèo xèo thành tiếng,rồi có khói nhẹ bốc lên ,từ vết thương không ngừng có nước vàng chảy ra,khói đạm dần,nước vàng cũng chảy ra càng lúc càng nhiều,bốc lên mùi vừa chua vừa khét,vết thương càng ngày càng to ra.Da thịt cái xác gặp nước vàng thì lập tức bốc khói,từ từ hoá thành nước.Sau khoảng hơn 1 giờ thì cái xác biến thành vũng nước vàng.

---Thăng thiên hoàn:

là thuốc kịch độc có màu đỏ,ngậm vào là tắt thở ngay.Xuất hiện trong LĐK.

---Bách hoa phúc xà cao:

gặp máu tươi thì trở nên thơm nồng,vốn là 1 bí quyết chế biến hương liệu,người thường ngửi thấy thì chỉ thấy tinh thần thoải mái.Còn đối với những người trên đảo Linh Xà quen uống rượu thuốc Hùng hoàng để tránh rắn độc,mùi thơm này gặp rượu Hùng hoàng sẽ khiến gân cốt mềm nhũn,trong 12 giờ chưa giải được.Uống nước lạnh vào thì nôn hết ra.

---Báo thai dịch cân hoàn:

là độc dược mà cũng là linh đan,uống vào trong 1 năm có thể khiến người ta cường kiện thân thể,nhưng hết 1 năm mà không uống thuốc giải thì chất kịch độc sẽ phát tác.Nguời uống có thể cao hơn,lùn đi,béo ra,gầy đi.BTDCH quá nửa là dùng các vị thuốc đại bổ như Thai báo ,Thai hươu,Tử hà xa,Thận hải cẩu phối hợp với các vị thuốc quý hiếm luyện thành,dược tính đi ngược lại với đặc điểm ban đầu của cơ thể.Giáo chủ Thần Long giáo chế loại thuốc này để cải lão hoàn đồng nhưng tác dụng không như ý muốn.

---Mông hãn dược:thuốc mê,người uống cơ hồ sẽ cảm thấy choáng váng rồi ngất đi.Tuy nhiên ,với những người nội công cực kỳ thâm hậu,họ sẽ chỉ khó chịu chứ không bị ngất đi.

---Độc hoa Tình:

có từ thời Trung Cổ,được trồng ở Tuyệt Tình Cốc.Khi ăn vào thấy vừa thơm vừa ngọt như mật ong,cảm thấy lâng lâng khoan khoái nhưng nuốt xuống thì đắng chát.Cành và lá đầy gai,thân thể nếu trúng độc gai hoa Tình,trong vòng 12 canh giờ không được nhớ thưong ai,nếu không sẽ khổ sở vô cùng.Người nào nghĩ đến ái tình ,tình dục,huyết mạch không chỉ tăng nhanh mà trong máu còn sinh ra 1 chất,chất độc gai hoa Tình bình thường thì vô hại,nhưng gặp chất này sẽ làm con người đau đớn.

Nếu bị gai đâm khắp nguòi,cứ sau 1 canh giờ cái đau lại tăng lên 1 phần,36 ngày sau toàn thân sẽ đau nhức mà chết.

Tuyệt tình đơn:là thuốc giải độc hoa Tình.

có màu đen,hình vuông,mùi tanh,cực khó bào chế,là 1 bí mật gia truyền của Tuyệt Tình cốc,gồm 1 số vị dược liệu khó kiếm,phải phơi xuân lộ thu sương,3 năm sau mới chế thành.Nếu uống nửa viên,chất độc sẽ tích tụ,phát tác sẽ nhanh gấp bội.

---Độc sa thiềm thừ:

giấu trong cây lang bổng của Tiêu Tương Tử(TĐHL).

Tại hoang sơn tỉnh Hồ Nam,Tiêo Tương Tử đang luyện công nhìn thấy 1 con cóc phun ra chất "Độc sa thiềm thừ "làm 1 con mãng xà lớn trúng độc.Tiêu Tương Tử bắt cóc,lấy chất độc dịch ,chế ra :Độc sa thiềm thừ" giấu trong lòng can bổng.Đuôi cây gậy có chốt,dùng ngoán tay cái ấn ,chất độc sẽ phun ra ,mầu đen,có mùi tanh .

---Thái tuyết thù:

là 1 loại nhện sống ở vùng núi tuyết Tây Tạng,là 1 trong 3 vật cực độc trong thiên hạ,loài nhện này hình dạng cổ quái,toàn thân có sọc xanh đỏ nhiều màu tươi rói.Thái tuyết thù ngửi mùi da ngưòi ,lập tức cắn chặt,hút no máu mới nhả ra,độc tính cực mạnh,thậm chí mạng nhện cũng có độc.Loài nhện này xung khắc với ong mật.

46. Ngọc Nữ tâm kinh:

Được Lâm Triều Anh sáng tác để khắc chế võ công Toàn Chân giáo và ghi trong ngôi Hoạt tử nhân mộ, căn phòng khắc bộ tâm kinh thậm chí tương phản hoàn toàn với căn phòng luyện võ của Vương Trùng Dương.

Thưở thiếu thời Lâm Triêu Anh từng luyến ái Vương Trùng Dương nhưng Vương Trùng Dương không đáp lại tình yêu đó bởi muốn giành trọn đời mình để kháng Kim. Lâm Triều Anh vì đó đâm u uẩn, hận Trùng Dương hận luôn Toàn Chân giáo do ông sáng lập; viết nên bộ Ngọc Nữ Tâm Kinh khắc chế võ công Toàn Chân giáo.

Bộ Ngọc nữ tâm kinh đa phần là kiếm pháp, nhưng không có kiếm pháp khắc chế quyền cước Toàn Chân phái.

Võ công này phải có 2 người cùng luyện ,trợ giúp lẫn nhau.Chia làm 3 bước:

Bước 1:luyện thành các môn võ công của phái Cổ Mộ.

Bước 2:luyện võ công phái Toàn Chân.

Bước 3:luyện võ công ghi trong Ngọc Nữ tâm kinh để khắc chế võ công phái Toàn Chân.

Nội công Ngọc Nữ tâm kinh đi từ bàng môn tả đạo chiếm thượng phong, khi luyện công, hơi nóng toàn thân bốc lên ngùn ngụt, cần tập ở nơi thoáng mát và rộng rãi, cởi bỏ hết quần áo mà tập, để cho hơi nóng phát tán, không đọng lại chút nào trên cơ thể, nếu không sẽ tích tụ bên trong, nhẹ thì gây trọng bệnh,nặng thì làm chết người. Lúc luyện, 2 người phải dùng nội lực đạo dẫn phòng hộ cho nhau, nếu không sẽ tẩu hoả nhập ma.

Ngọc nữ tâm kinh gồm 9 đoạn hành công, đơn số hành công là Âm tiến, còn song số là Dương thoái. Dương thoái có thể dùng lúc nào tuỳ ý, còn Âm tiến phải liền một mạch.

Lâm Triêu Anh sáng tạo Ngọc Nữ tâm kinh để chống phái Toàn Chân, nhưng tình ý với Vương Trùng Dương thì không thay đổi, khi viết đến chương cuối, bà tưởng tượng được cùng Vương Trùng Dương chống địch, một người sử dụng võ công phái Toàn Chân, 1 người sử Ngọc nữ tâm kinh, tạo thành Ngọc nữ tố tâm kiếm pháp. Song kiếm tung hoành là khách, kề vai đánh địch mới là chủ, mỗi chiêu thức đều phối hợp nhau, chiếu cố nhau, tình ý triền miên tha thiết.

Người sử dụng Ngọc nữ tố tâm kiếm pháp:

Nếu 1 đôi nam nữ không là tình lữ thì sẽ không lĩnh hội được những chỗ tinh diệu của nó, tâm linh không thể hoà thông với nhau; nếu 2 người liên thủ là bằng hữu, sẽ quá khách sáo; nếu là kẻ trên người dưới, sẽ khó tránh dựa dẫm vào nhau; nếu là phu phụ, thì tuy tốt, nhưng 2 bên lại quá ư đắm đuối, e lệ thẹn thùng, nửa gần nửa xa, tâm linh vẫn có chỗ chênh lệch.

Sau này, Tiểu Long Nữ được Lão Ngoan Đồng Chu Bá Thông truyền thụ võ công Song Thủ Hổ Bác cũng sử được Ngọc nữ tố tâm kiếm pháp rất lợi hại.

PHẦN 11

51. Hoa tình :

Một loài hoa chỉ xuất hiện trong tiểu thuyết Thần Điêu Hiệp lữ của Kim Dung. Bắt đầu được miêu tả ở Hồi thứ 17 "Tuyệt tình u cốc" : Một loài hoa tuyệt đẹp, có hương thơm quyến rũ, nhiều màu sắc :

"... Đêm khuya thanh vắng, bốn bề mờ mịt, lá hoa trên cây tỏa ra một mùi hương thơm ngát dưới vòm trời đầy sao, những cánh hoa trắng phau đang bay tung theo luồng gió lạnh của đêm khuya như cơn mưa nặng hạt...hương hoa làm dịu cả không gian... Đây là loài hoa tuyệt đẹp, nhưng rất lạ, cành có nhiều hoa nhọn, lá to hơn cả lá hồng là chúa của loài hoa... "

.

Đó là vẻ đẹp của Hoa tình, trong Thần Điêu Hiệp lữ, hoa được trồng ở Tuyệt tình cốc, một nơi thâm cốc với nhiều ẩn dụ về nhân sinh.

- Hoa thì đẹp thế, nhưng trái thì trông rất xấu xí "Màu xanh, đỏ, đen lẫn lộn, lại có lông tua tủa". Và quả này thì không thể ăn được :

" - Thưa tôn khách, quả không ăn được, vì nó vừa chua, vừa chát vừa hôi.

... Cũng có quả rất ngọt, rất bùi, nhưng rất khó chọn, bởi trông bề ngoài không biết được. Có nhiều quả nhìn rất đẹp nhưng ăn lại rất đắng, có quả bề ngoài xấu xí nhưng lại ngọt ngào bên trong khi ăn"

- Hoa tình còn có thể ăn được, tuy nhiên, mùi vị của nó thì rất khác nhau nhưng đa phần là "mới nhai thì nghe ngọt dịu, sau dần nuốt vào thì thấy đắng đắng, chát chát"

Vậy, cả hoa và quả đều chỉ để ngắm, không thể ăn được.

Một điều nữa là trên cành hoa toàn là gai, dù tránh thế nào cũng dễ bị đâm vào. Thứ hoa này lại "rất ưa máu người", có máu người, hoa lại nở thêm nhanh và diễm kiều. Và trong gai của hoa, có thứ chất độc rất kỳ lạ "độc hoa tình".

Nhân vật chính trong Thần Điêu hiệp lữ là người đầu tiên nếm phải độc của hoa này. Ai bị trúng độc của nó, nếu trong lòng không nỗi lên những trận sóng ái tình, thì sẽ không sao, nhưng nếu nghĩ đến, chất độc sẽ theo vào máu làm cho toàn thân nhức nhối đến tận xương. Danh sách người bị trúng độc về sau rất nhiều (bởi trong đời có ai thoát khỏi ái tình), trong đó nặng nhất có lẽ là Lý Mặc Sầu, đến lúc chết cũng chưa thể hiểu được chữ tình giữa chốn nhân gian.

Chất giải độc hoa tình cũng được chế rất công phu và tốn nhiều thời gian, bí quyết bào chế chỉ có Cốc chủ Tuyệt tình cốc nắm giữ mà thôi. Chỉ có về sau, một vị thần tăng Thiên Trúc, sư đệ của Nhất Đăng Đại sư, sau một lần thử nghiệm bằng chính bản thân mình, đã tìm ra được một thứ "dĩ độc công độc" là Đoạn trường thảo. Để giải được chất độc hoa tình, con người phải qua những cơn đau hành hạ, như đứt từng khúc ruột.

Tóm lại, đây là một loài hoa hương thơm sắc thắm, có thể nói tượng trưng cho tình yêu đúng như tên của nó. Ai mới nếm thử sẽ thấy vị ngọt ngây nất của men rượu, nhưng sau cùng lại thấy đắng chát, khi tình hoa kết trái thì đa phần là chua chát, xấu xí, khó mà tìm được trái ngọt. Loài hoa như chỉ có trong ngụ ngôn ấy lại xuất hiện trong chốn Tuyệt tình cốc. Và ngụ ngôn đó còn được thể hiện qua nhiều mối tình của các nhân vật của Thần Điêu hiệp lữ : Công Tôn Chỉ-Cừu Thiên Xích- cuộc tình đỗ vỡ, Dương Quá-Tiểu Long Nữ- mối tình quay quắt, Quách Tĩnh-Hoàng Dung-cuộc tình cao thượng, nhất là cuộc tình của Lý Mặc Sầu-Lục Triển Nguyên-bị chìm đắm vào đáy cốc tuyệt tình.

Thần Điêu hiệp lữ, vừa tả hoa, vừa nói chuyện tình ái (tình hoa) và cả hôn nhân (tình quả). Có thể câu chuyện trong đó chưa thể tả hết được mọi mặt của ái tình hay là vì tác giả muốn chính chúng ta tự suy ngẫm qua những trãi nghiệm của cuộc đời. Xin mượn lời của Dương Quá để khái quát lại hương vị của loài hoa tình ái này :

"Loài hoa mà cũng chứa hàm ý của đời. Than ôi! Tình hoa lại hàm chứa đủ mùi vị như vậy. Mùi vị ái tình thì trước ngọt sau cay, như hai kẻ yêu nhau khi xa cách đau khổ biết nhường nào. Ta cũng sẽ như tình hoa? Người yêu của ta, cuộc tình của ta rồi sẽ ra sao?"

52. Thất thương quyền

Là môn quyền pháp trấn sơn của phái Không Động, nổi tiếng cùng với nhân vật Tạ Tốn trong Ỷ Thiên Đồ Long Ký. Đặc điểm của Thất Thương Quyền là bên trong một thế quyền bao hàm bẩy loại kình lực khác nhau không loại nào giống loại nào.Quyền lực trong cương có nhu, trong nhu có cương, thu vào nhả ra, lúc mạnh lúc yếu, huyễn ảo trăm chiều, địch thủ khó mà đề phòng chống đỡ.

Tuy nhiên môn quyền phổ này đòi hỏi người khi bắt đầu luyện đã phải đạt một trình độ nội công rất cao có thể dẫn khí đến mọi huyệt đạo, thu phát tuỳ tâm tuỳ ý. Nếu nội công chưa đủ khi luyện sẽ hại đến chính bản thân người luyện: Ngũ hành trong cơ thể con người, tâm thuộc hỏa, phế thuộc kim, thận thuộc thủy, tì thuộc thổ, can thuộc mộc, lại thêm âm dương nhị khí, một khi luyện Thất Thương Quyền thì bảy cơ quan đó đều bị thương tổn. Công phu luyện Thất Thương Quyền cao hơn một mức, chính cơ thể nội tạng mình lại bị tổn hại thêm một mức

Tạ Tốn vì nóng lòng trả thù nên vội vàng luyện Thất Thương Quyền nên tâm mạch bị tổn thương, thỉnh thoảng phát khùng... Vì vậy ngay phái Không Động cũng rất ít người dám luyện ,duy có Mộc Linh Tử luyện thành mà danh trấn thiên hạ. Trương Vô Kỵ do cơ duyên có sẵn Cửu Dương Chân Kinh trong người, do đó chỉ cần biết khẩu quyết Thất Thương Quyền đem ra vận dụng uy lực đã đạt tới mức cảnh giới cực kỳ cao thâm.

Khẩu quyết của Thất Thương Quyền:

Khí chất ngũ hành,

Âm dương điều hợp

Hỏng phế, tổn tâm,

Ruột gan tan nát.

Tạng phủ rời xa,

Tinh thần vuột mất.

Ý chí bàng hoàng,

Lòng dạ hoảng hốt,

Lộn ngược tam tiêu,

Hồn phách bay vụt.

53. Võ Đang

Trong hầu hết các truyện kiếm hiệp, nhắc đến phái Thiếu Lâm thì không thể không nhắc đến phái Võ Đang. Võ Đang luôn đứng thứ hai trong các môn phái chỉ sau Thiếu Lâm.

Tổ sư của môn phái này Trương Tam Phong chân nhân, tên thật là Trương Toàn Nhất, còn gọi là Trương Quân Bảo. Tương truyền rằng Tương Tam Phong vốn là một chủ tiểu của chùa Thiếu Lâm, theo hầu thầy Giác Viễn trong Tàng Kinh Các. Ở đây ông học được một phần của Cửu Dương Chân Kinh. Ông và sư phụ bị chùa Thiếu Lâm đuổi đi vì học trộm võ công. Sau nhiều năm lưu lạc, ông lên núi Võ Đang và lập ra một trong những môn phái đứng đầu giang hồ.

Võ Đang sơn còn gọi là Thái Hòa sơn,được mệnh danh là :"Trung Quốc đạo giáo danh sơn" nằm ở phía Tây Bắc tỉnh Hồ Bắc. Phía Bắc giáp Tần Lĩnh, Phía Nam giáp Ba sơn, núi non trập trùng, dọc ngang hơn 400 dặm. Sơn thế hùng vĩ với tổng cộng 72 ngọn núi mà chủ phong là đỉnh Thiên Trụ Phong cao 1612m. Đây cũng là tổng đàn của phái Võ Đang.

Võ Đang phái đệ tử đa số là nam giới, luôn lấy sự hiệp nghĩa làm đầu, nhờ đó mà vang danh thiên hạ. Đồng môn với nhau luôn lấy nghĩa khí , đạo lý làm trọng. Tuy là một phái của Đạo gia nhưng đệ tử của Võ Đang không bắt buộc phải ăn chay , có thể kết hôn, vì vậy đệ tử của Võ Đang phân làm hai loại: "chay giới" và "không chay giới", song chưởng môn thì bắt buộc phải ăn chay. Các đệ tử nếu như không ăn chay sẽ không thể tiếp quản chức vị chưởng môn.

Phái Võ Đang chuyên luyện nội công, là môn phái đứng đầu về nội gia. Tuyệt kĩ đứng đầu của Võ Đang là Thái Cực Quyền, lấy nhu thắng cương làm yếu quyết. Ngoài ra Võ Đang còn có các môn võ khác như Thái Cực Kiếm, Bát Quái Chưởng, Bát Quái Đao, Hình Ý Quyền, Võ Đang kiếm pháp, Võ Đang Quyền pháp, Thiên Địa Vô Cực, Vô Ngã Vô Kiếm,...

54. Long Trảo Thủ

Đây là một trong 72 tuyệt kỹ Thiếu Lâm và chắc là thuộc một trong 5 đại tuyệt kỹ Thiếu Lâm. Nếu vị nào biết có thể nêu ra giùm tiểu đệ còn tiểu đệ đoán trong 5 môn đó có Long Trảo Thủ, Kim Cang Bất Hoại Thể và Dịch Cân Kinh.

Long Trảo Thủ được Không Tính thần tăng sử dụng (một trong tứ đại thần tăng của Thiếu Lâm bấy giờ là Kiến Văn Trí Tính trong bộ Ỷ Thiên Đồ Long ký) để đấu với Trương Vô Kỵ trên đỉnh Quang Minh.

Long Trảo Thủ tổng cộng có 36 muơi sáu chiêu, yếu chỉ của nó là nhanh nhẹn độc địa, không phải biến hóa nhiều. Tiểu đệ xin nêu ra 11 chiêu, và được trích từ trong truyện và chắc cũng chỉ biết được 11 chiêu này chủ yếu là Kim Dung tiên sinh mô tả sự lợi hại của Long trảo thủ là một loại trảo pháp thuộc hàng đệ nhất và quá trình tìm hiểu những chỗ tinh diệu của Long trảo thủ của Trương Vô Kỵ nhờ vào Càn Khôn Đại Na Di.

Nã Vân Thức

Sang Châu Thức

Lao Nguyệt Thức

Bổ Phong Thức

Tróc Ảnh Thức

Phủ Cầm Thức

Cổ Sắt Thức

Phê Kháng Thức

Đảo Hư Thức

Bão Tàn Thức

Thủ Khuyết Thức

Chính TVK cũng đã công nhận 36 sáu chiêu Long Trảo Thủ không có một chút sơ hở nào, là vô thượng tuyệt nghệ của cầm nã pháp trong thiên hạ. Long Trảo Thủ quả thực lợi hại, đã được Thiếu Lâm thiên trùy bách luyện mấy trăm năm, có thể nói là một thứ võ công "bất bại". Chính vì lẽ đó TVK chỉ có cách phải dùng chính môn Long Trảo Thủ này mới có thể đối phó lại với Không Tính đại sư.

Sau đây là một phần nhỏ trích trong truyện mô tả sự lợi hại ghê gớm của Long Trảo Thủ:

" Không Tính liền liên tiếp tung ra trảo thứ ba, thứ tư, thứ năm nghe vù vù, chỉ nháy mắt, nhà sư mặc áo màu tro đã biến thành một con rồng xám, uốn lượn múa may, long trảo vươn ra, áp chế Trương Vô Kỵ không còn đường nào né tránh. Chỉ nghe xoẹt một tiếng, Trương Vô Kỵ bay vụt qua một bên, tay áo bên phải đã bị Không Tính chộp được, cánh tay trơ ra, hiện rõ năm vết xước, máu nhỏ ròng ròng. "

Đặc biệt 8 chiêu cuối Bổ Phong Tróc Ảnh-Phê Kháng Đảo Hư-Bão Tàn Thủ Khuyết tám thế liên hoàn bất tuyệt chẳng khác gì 1 chiêu biến ra 8 cách khác nhau. Long Trảo Thủ vốn dĩ là một môn võ công cương mãnh, nhưng đến hai thức sau cùng trong cương có mãnh có ẩn âm nhu, đã đạt đến mức phản phác hoàn chân, lô hỏa thuần thanh.

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top