Kim Binh Mai 26
Hồi 91
Thêm Một Người Đi
Một hôm, nhân Tiết tẩu tới nói chuyện về Tuyết Nga cho Kính Tế nghe, Kính Tế liền nhờ Tiết tẩu tới nói với Nguyệt nương, báo trước ý định của mình.
Tiết tẩu tới gặp Nguyệt nương mà thưa:
- Cậu Kính Tế hiện gặp ai cũng nói rằng cậu đã bỏ Đại Thư, không nhận làm vợ nữa, đồng thời làm đơn thưa lên quan Tuần án Tuần phủ, là lúc sinh tiền lão gia đã sang đoạt nhiều rương chứa kim ngân tiền của mà thân phụ cậu ta đã gửi lão gia lúc trước.
Nguyệt nương nghe xong, thấy nhiều chuyện tới dồn dập. Chưa hết buồn giận vì việc Tuyết Nga lấy trộm tiền bạc đồ vật, thì Lai An lại bỏ đi, rồi vợ Lai Hưng là Huệ Tú lại mới chết, vừa mới cho chôn cất xong, trong nhà còn đang ngổn ngang rối loạn. Nay nghe Tiết tẩu nói vậy, Nguyệt nương lại càng lo sợ, vội gọi kiệu cho Đại Thư đến với Kính Tế, lại sai Đại An và vài gia nhân khác đem hết giường tủ rương hòm của Đại Thư theo.
Kính Tế bảo:
- Những thứ này chỉ là của riêng của Đại Thư lúc lấy tôi, còn rương hòm kim ngân mà tôi gửi đâu, sao không thấy đem trả?
Tiết tẩu cũng theo tới, đáp:
- Mẹ kế của vợ cậu nói rằng lúc lão gia sinh tiền, thì chỉ nhận giữ giùm những thứ này mà thôi, không biết đồ đạc rương hòm nào khác.
Kính Tế lại đòi cả a hoàn Nguyên Tiêu, Tiết tẩu và Đại An trở về thưa với Nguyệt nương:
- Cậu Kính Tế đòi cả a hoàn Nguyên Tiêu nữa.
Nguyệt nương không chịu, bảo:
- Nó là a hoàn của Kiều Nhi lúc trước, nay phải ở đây để trông coi ca nhị Nay ta cho a hoàn Trung Thu đi mà thôi, vì con Trung Thu mua về là để hầu hạ Đại Thư.
Tiết tẩu và Đại An lại tới nói với Kính Tế, Kính Tế nhất định đòi Nguyên Tiêu chứ không chịu Trung Thụ Bà mẹ là Trương bà thấy vậy phải nói với Đại An:
- Ngươi về thưa lại với Đại nương là quý phủ nhiều a hoàn đầy tớ, thì cũng chẳng nên tiếc gì một con a hoàn Nguyên Tiêu. Trông coi ca nhi thì sai người nào khác chẳng được. Con trai ta nhất định đòi thì Đại nương giữ lại làm gì.
Đại An trở về thưa lại với chủ. Nguyệt nương không biết làm sao, đành phải cho a hoàn Nguyên Tiêu đến với Kính Tế. Kính Tế mừng lắm, bảo:
- Có thế chứ, chẳng lẽ dám trái ý ta sao.
Lại nói về con trai của Lý Tri huyện là Lý Nha Nội, từ dịp thanh minh, được nhìn mặt Nguyệt nương và Ngọc Lâu thì đêm mơ ngày tưởng tới nhan sắc xinh tươi mặn mà của hai người, nhưng Ngọc Lâu được Nha Nội chú ý nhiều hơn.
Nguyên là Nha Nội nhân dịp gia đình có tang nên về nhà ở đã lâu. Trong thời gia đó, thường nhờ mai mối tìm cho mình người vợ, nhưng đã nhiều đám mà chẳng đám nào được Nha Nội vừa ý. Đến khi thấy nhan sắc Ngọc Lâu, trong lòng bồi hồi rung động, thập phần vừa ý, thì lại không có cách gì tới cầu thân, lại không biết là Ngọc Lâu có định lấy chồng nữa hay không.
Nhân có vụ Tuyết Nga trộm tiền bạc đồ vật, Nha Nội suốt ngày cứ quanh quẩn tại công đường, nơi cha làm việc, hy vọng là Nguyệt nương sẽ cho người tới nhận lại các thứ bị trộm. Nhưng Nguyệt nương sợ, không dám cho người tới xin lãnh về.
Nha Nội thất vọng, không biết làm sao, mới bàn với viên Lang lại Hà Bất Vị Bất Vi đề nghị là sai một bà mối là Đào ma tới thẳng nhà Tây Môn Khánh cầu thân. Nha Nội cho gọi ngay Đào ma ma tới, hứa là thưởng năm lạng và nhiều đồ vật khác.
Đào ma mà hí hửng đi ngay.
Tới nơi, thấy Lai Chiêu đang đứng ở cổng, Đào ma ma tươi cừoi tới vái chào mà nói:
- Xin cảm phiền quản gia cho hỏi một câu. Đây có phải là phủ Tây Môn lão gia chăng?
Lai Chiêu nói:
- Lão ở đâu tới? lão gia tôi thất lộc rồi, có chuyện gì muốn thưa chăng?
Đào ma ma đáp:
- Phiền quản gia vào bẩm lại rằng tôi là bà mai do tiểu lão gia Lý Nh Nội, con trai của Lý Tri huyện lão gia sai tới. Nghe nói là trong quý phủ có một vị tiểu phu nhân muốn bước đi bước nữa nên cung kính xin tới cầu thân.
Lai Chiêu quát:
- Này, lão bà kia đừng có ăn nói hàm hồ. Lão gia ta mất đi hơn năm nay, trong nhà chỉ còn nhị vị phu nhân thủ tiết. Người ta thường nói, gió mưa sấm chớp cũng chẳng dám tới cửa nhà quả phụ, lão nghĩ thế nào mà dám tới đây nói chuyện cầu thân. Có đi ngay không, kẻo các phu nhân trong nhà biết được thì lão không tránh được khỏi ăn đòn.
Đào ma ma cười xum xoe:
- Quản gia ơi, xin đừng vội nóng. Tôi chỉ là thiên lôi chỉ đâu đánh đấy, tiểu lão gia tôi không sai bảo, làm sao tôi dám đến. Bây giờ thì dù vị tiểu phu nhân tại quý phủ đây có muốn đi bước nữa hay không thì cũng cứ phiền quản gia vào bẩm giùm cho một tiếng, như vậy tôi mới dám về thưa lại với tiểu lão gia tôi.
Nói xong đưa ra ít tiền, Lai Chiêu dịu giọng:
- Được rồi, giúp người cũng như giúp mình. Để tôi vào thưa giùm lão một tiếng vậy. Nhưng tôi cũng nói cho lão biết, là hai vị phu nhân phủ này thì một vị hiện đã có ca nhi, một vị thì không con, chằng hiểu có vị nào muốn bước đi bước nữa hay không.
Đào ma ma cười:
- Tiểu lão gia chúng tôi nói rằng có hân hạnh chiêm ngưỡng dung nhan nhị vị phu nhân quý phủ, nhưng trong lòng thì muốn kết thân với vị phu nhân người đậm đà hơn.
Lai Chiêu quay vào thượng phòng thưa với Nguyệt nương:
- Trên huyện sai người mai tới, hiện đang đứng chờ ở ngoài.
Nguyệt nương kinh ngạc hỏi:
- Nhà này có bắn tiếng gì với bên ngoài đâu, sao người mai lại tới được?
Lai Chiêu nói:
- Tiểu lão gia con trai của Tri huyện lão gia bảo là dịp Thanh minh có gặp nhị vị nương nương ở ngoại thành, và muốn xin kết thân với vị nương nương người đậm đà.
Nguyệt nương bảo:
- Thế thì đúng là Mạnh Tam nương rồi, thật không ngờ là Tam nương lại muốn bỏ nhà này mà đi.
Thật là:
Dò sông dò biển dễ dò,
Đố ai lấy thước mà đo lòng người.
Nguyệt nương xăm xăm vào phòng Ngọc Lâu, ngồi xuống hỏi:
- Tam muội à, tôi có chuyện này muốn hỏi thẳng muội muội, hiện có người mai do Lý Nha Nội, con trai Lý Tri huyện sai tới, nói là muội muội có ý bước thêm bước nữa, có phải muội muội định như vậy thật không? người mai nói là Lý Nha Nội có được gặp muội muội nhân dịp Thanh minh ở ngọai thành bữa nọ đó.
Nguyên là hôm Thanh minh đó, Ngọc Lâu ngồi trên lầu nhìn xuống, thấy Nha Nội tướng mạo khôi ngôi tuấn tú, cũng trạc tuổi mình, lại đeo cung cưỡi ngựa, muôn vẻ hào hùng, gia nhân đầy tớ xung quanh thập phần quý phái, thì cứ yên lặng mà nhìn, có lúc bốn mắt nhìn nhau, hai lòng dường đã có tình có ý. Nhưng Ngọc Lâu không biết là Nha Nội đã có vợ con gì chưa, rồi lại nghĩ bụng:
- Chồng mình đã chết, thân mình không biết nương tựa vào đâu, Đại nương có con trai, nay mai còn được nhờ, mình là người dưng nước lã, không máu mủ ruột thịt, rồi biết ra sao.
Lại thấy Nguyệt nương từ hồi có con trai, cách cư xử thay đổi nhiều, nên nghĩ thầm:
- Chi bằng mình nên bước thêm bước nữa, tìm người tử tế mà nương tựa chứa ở goá mãi trong nhà này làm gì, cho uổng phí tuổi thanh xuân.
Đến nay nghe Nguyệt nương hỏi, biết rằng người nhờ mai mối chính là người mình đã nhìn thấy trong ngày Thanh minh ở ngoại thành, thì trong lòng vui lắm, nhưng ngượng ngùng hổ thẹn, mà chỉ đáp:
- Đại nương tin làm gì lời nói hàm hồ của người ta, tôi làm gì có ý đó.
Nói xong, bất giác hai má ửng hồng, cúi mặt xuống lúng túng.
Nguyệt nương thấy vậy bảo:
- Người nào cũng có ý nghĩ riêng, tôi không dám ngăn cản ai cả.
Đoạn quay gọi Lai Chiêu vào bảo:
- Ngươi mời người mai đó vào đây.
Lai Chiêu dẫn Đào ma ma vào, Đào ma ma vái chào cung kính. Nguyệt nương mời ngồi, gọi a hoàn đem trà ra, rồi mở lời:
- Lão bà tới đây có chuyện gì không?
Đào ma ma đáp:
- Tiểu lão gia chúng tôi nói là hôm nọ ngày Thanh minh đã có hân hạnh gặp nhị vị phu nhân, và muốn xin được kết thân với vị phu nhân người đậm đà.
Đoạn quay sang Ngọc Lâu nói tiếp:
- Thưa, chắc là vị phu nhân đây. Quả là tiểu lão gia tôi nhận xét không sai. Phu nhân là trang sắc nước hương trời, quả xứng đáng trở thành chánh thất của tiểu lão gia tôi.
Nguyệt nương im lặng. Ngọc Lâu thì cười bảo:
- Thôi, lão đừng dông dài.
Đoạn hỏi:
- Tiểu lão gia năm nay niên kỷ bao nhiêu, đã có gia thất gì chưa, có chức phận gì chưa, xin lão cứ sự thật mà nói, đừng có dối.
Đào ma ma cười:
- Trời ơi, phu nhân lầm rồi, tôi tuy là người mai mối, nhưng không quen dối trá như những người mai mối khác đâu. Tôi có một thì nói một, có hai thì nói hai, chứ quyết không dối trá thêm bớt. Xin thưa để phu nhân biết rằng, Lý Tri huyện lão gia năm nay ngoài năm mươi tuổi mà chỉ được có một mình tiểu lão gia tôi. Tiểu lão gia tôi năm nay ba mươi mốt tuổi, sinh giờ Thìn ngày hai mươi tháng giêng, hiện chưa có chức phận gì, nhưng đang theo học tại Quốc tử giám, nay mai cũng Cử nhân tiến sĩ, công danh không biết sao nói trước. Tiểu lão gia rành việc cung tên, lại văn chương đầy bụng, tài học hơn người, vậy mà chưa từng có gia thất, nên mới muốn có được người chánh thất về coi sóc việc nhà. Nếu được phu nhân đây ưng thuận thì không còn gì hơn.
Ngọc Lâu lại hỏi:
- Đành là chưa có gia thất, nhưng đã có con cái gì chưa, mà quên quán ở mãi đâu, tôi sợ là xa quá thì không theo được.
Đào ma ma đáp:
- Tiểu lão gia tôi làm gì có mụn con nào, chính vì vậy mà mong sớm lập gia thất. Quê quán thì ở huyện Tảo Cường phủ Chân Định, thuộc Bắc Kinh, qua Hoàng Hà chừng sáu bảy dặm là tới. Tại đó ruộng nương đầy dãy, trâu ngựa từng bầy, gia nhân đầy tớ vô số, của cải không sao kể hết. Nay phu nhân về làm chính thất thì tiền của không thiếu gì, mà mai đây tiểu lão gia tôi thi đậu làm quan thì phu nhân cũng đường đường là bậc mệnh phu, đội mũ Ngũ hoa, ngồi kiệu Thất hương, chẳng nói hết vinh hoa phú quý.
Trong khi hai người nói chuyện thì Nguyệt nương cứ ngồi yên. Ngọc Lâu nghe Đào ma ma nói trong lòng chịu lắm, vội bảo Lan Hương:
- Ngươi dọn bàn, đem rượu thịt ra để ma ma dùng.
Đoạn quay ra bảo:
- Tôi nói câu này ma ma đừng giận, chứ mồm miệng của các bà mai thật khó lòng tin được, tôi chỉ sợ bị dối gạt mà thôi.
Đào ma ma kêu lên:
- Trời đất ơi, phu nhân dạy thế thì chết tôi còn gì. Tôi đã thưa là có sao nói vậy, không dám thêm bớt chút nào, xin đừng nghi ngại. Nếu phu nhân ưng thuận thì xin cho vài chữ để tôi đem về thưa lại với tiểu lão gia.
Ngọc Lâu đứng dậy lấy một vuông đoạn đại hồng, sai Đại An đem ra ngoài tiệm, bảo Phó quản lý viết giùm ngày sinh tháng đẻ của mình.
Nguyệt nương im lặng từ nãy tới giờ mới bảo:
- Lúc trước muội muội về đây là do Tiết tẩu làm mai, bây giờ cũng phải cho mời Tiết tẩu lại nói chuyện, mới là người biết lễ.
Đoạn quay lại bảo Đại An mời Tiết tẩu đến.
Lát sau Tiết tẩu đến. Ngọc Lâu nhờ Tiết tẩu làm bà mai đằng gái, đem vuông lụa viết ngày sinh tháng đẻ của mình tới tư dinh Tri huyện.
Thật là:
Cung Quảng Hằng Nga tìm phối ngẫu,
Vu Sơn thần nữ lấy Tương Vương.
Đào ma ma cũng cáo từ cùng đi với Tiết tẩu. Hai bà mai vừa đi vừa trò chuyện. Đào ma ma hỏi:
- Tẩu tẩu làm mai cho Tam nương về với Tây Môn Khánh lão gia phải không?
Tiết tẩu đáp:
- Đúng vậy.
Đào ma ma hỏi:
- Trước khi về với Tây Môn Khánh lão gia thì Tam nương là con gái ở nhà hay là quả phụ?
Tiết tẩu cứ sự thật thuật lại cho Đào ma ma nghe, đoạn nói:
- Tam nương tuổi thật là ba mươi bảy tuổi, lớn hơn tiểu lão gia tới sáu tuổi, có ngại gì chăng?
Đào ma ma bảo:
- Để mình ghé vào đâu nhờ thầy bói coi tuổi Tam nương có tốt không rồi có gì mình nhờ sửa lại vài tuổi cũng chẳng sao.
Đi một khúc đường thì gặp một tấm bảng vẽ hình bát quái, dưới có mấy hàng chữ:
Coi người sướng hay khô?
Xem số đoán nghèo giàu
Đặt quẻ xong tất biết
Thật tình không dối đâu.
Hai bà mai bước vào vái chào. Thầy bói mời ngồi. Tiết tẩu nói:
- Phiền tiên sinh coi gìum một quẻ cho người nhà.
Đoạn lấy ba quan đặt lên bàn mà nói:
- Xin tiên sinh đừng hiềm ít, nhân đi có việc mà ghé đây nên không sẵn đem theo nhiều, tiên sinh nhận giùm cho.
Thầy số bảo:
- Xin cho biết ngày sinh tháng đẻ.
Đào ma ma đưa vuông lụa viết ngày sinh tháng đẻ của Ngọc Lâu ra. Thầy số thấy vậy bảo:
- Thì ra chuyện hôn nhân.
Đoạn coi rồi nhẩm tính trong miệng, lát sau bảo:
- Người này năm nay ba mươi bảy tuổi, sinh giờ Tý ngày hai mươi bảy tháng mười một, tức là giờ Canh Tý, ngày Tân Mão, tháng Giáp Tý, số này nay mai vinh hoa phú quý, có quyền hành của người chính thất phu nhân, số này là số ítch phu phát lộc, được chồng sủng ái, nhưng phải qua một hai đời chồng rồi thì mới tốt, chẳng hay có đúng vậy không?
Tiết tẩu gật đầu:
- Đã qua hai đời chồng rồi.
Thầy số bảo:
- Nếu vậy thì tốt lắm, chỉ ay mai là phú quý vinh hoa.
Tiết tẩu hỏi:
- Sau này người đó có con trai không?
Thầy số đáp:
- Số này may lắm, tuy muộn màng, nhưng tới năm bốn mươi mốt tuổi sẽ có con trai.
Đoạn lấy bút viết ngay vào tấm lụa rằng:
Dung nhan như đoá hoa mai,
Má hồng mày liễu khó ai sánh cùng.
Nhờ con mà lại giúp chồng,
Vinh hoa phú quý thoa? lòng ước mơ.
Tiết tẩu lại hỏi:
- Phiền tiên sinh có thể giảng rõ hơn chăng? để chúng tôi còn về thưa lại.
Thầy số nói:
- Nếu người này có chồng tuổi Dần thì tuy được chồng yêu thương, nhưng chỉ là phận lẽ mọn, còn nếu lấy chồng tuổi Ngọ thì tức là gặp quý phu, sẽ được hưởng vinh hoa phú quý, sống tới sáu mươi tám tuổi và có được một con trai. Vợ chồng sống với nhau tới già mà lúc nào cũng ấm êm hoà thuận.
Tiết tẩu nói:
- Tiên sinh quả là thần số, đúng là người này sắp lấy chồng tuổi Ngọ, chỉ hiềm là lớn hơn mấy tuổi, nay cảm phiền tiên sinh sửa gìum năm sanh trong này có được chăng?
Thầy số bảo:
- Nếu vậy thì sửa lại là tuổi Đinh Mão, ba mươi tư tuổi được chăng?
Tiết tẩu hỏi:
- Tuổi Mão với tuổi Ngọ hợp chăng?
Thầy số đáp:
- Đinh thì thuộc hoa? mà Canh thì thuộc kim, kim gặp hoa? thì được luyện thành đại khí, hợp lắm chứ sao không.
Nói xong cầm bút sửa lại cho Ngọc Lâu còn ba mươi tư tuổi.
Hai bà mai hí hửng vái tạ mà đi.
Tới cổng nhà dinh Huyện quan, hai ngừoi nhờ lính hầu vào báo, rồi được dẫn vào, lạy chào Lý Nha Nội. Nha Nội chỉ Tiết tẩu mà hỏi:
- Người này ở đâu tới đây?
Đào ma ma vội đáp:
- Đây là người mai của đằng gái.
Rồi kể hết chuyện mai mối vừa thành tựu, đoạn nói tiếp:
- Nương tử bên đó quả là trang sắc nước hương trời, chỉ hiềm niên kỷ hơi lớn một chút nên tôi không dám tự tiện, xin tiểu lão gia cho biết tôn ý, hiện có gửi hôn thiếp theo đây.
Nói xong đưa tấm lụa viết ngày sinh tháng đẻ của Ngọc Lâu lên. Nha Nội cầm xem, thấy viết:
- Ba mươi tư tuổi, sinh giờ Tý ngày hai mươi bảy tháng mười một năm Đinh Mão.
Đọan bảo:
- Như vậy là hơn tôi ba tuổi.
Tiết tẩu tươi cười nói ngay:
- Bẩm, tiểu lão gia là người lịch duyệtn, kiến thức rộng lớn, há chẳng nghe câu nói từ thời cổ là "vợ hơn hai tuổi vàng bạc đầy nhà, vợ hơn ba tuổi trọn đời vinh hoa" hay sao. Huống chi nương tử chúng tôi nhan sắc hơn người, tính tình nhu thuận, chữ nghĩa cũng đủ hiểu được Chư tử bách gia. Mong tiểu lão gia nghĩ cho kỹ.
Nha Nội bảo:
- Ta đã được chiêm ngưỡng dung nhan rồi, bất tất phải nói nhiều, bây giờ hãy chọn ngày tốt, đem lễ qua là được.
Đào ma ma hỏi:
- Còn chúng tôi thì bao giờ phải tới hầu tiểu lão gia?
Nha Nội bảo:
- Có lẽ chằng nên để lâu lắc làm gì, ngày mai hai ngươi tới đây, rồi sang bên đó nói chuyện.
Nói xong thưởng cho mỗi người một lạng bạc. Hai người hoan hỷ lạy tạ ra về.
Về phần Nha Nội, thấy chuyện hôn nhân thành tựu thì vui mừng lắm, cho gọi viên Lang lại Hà Bất Vi tới bàn tính, rồi một mặt thưa với cha là Lý Tri huyện, một mặt mời thầy âm dương chọn ngày.
Thầy âm dương định ngày mồng tám tháng tư thì làm lễ hỏi, ngày rằm tháng tư thì cưới về.
Nha Nội xuất bạc đưa cho Hà Bất Vi và Trương Nhàn mua sắm lễ vật, chuẩn bị các thứ. Trong dinh Trinh huyện tấp nập bận rộ chuẩn bị đám cưới của tiểu chủ.
Hôm sau, hai bà mai tới, được Nha Nội cho biết ngày giờ, rồi rủ nhau qua nhà Tây Môn Khánh, thưa lại với Nguyệt nương và Ngọc Lâu.
Thật là:
Hôn nhân cũng có tiền duyên,
Như người trồng ngọc Lam Điền lúc xưa.
Ngày giờ qua mau, tới ngày mồng tám tháng tư, Nha Nội cho soạn mười sáu mâm hoa quả bánh trái, một cái mũ kim ty, một cặp kiềng vàng, một cái đai mã não cùng với nhiều nữ trang vàng bạc khác, lại có bốn xấp gấm đại hồng, bốn bộ quần áo lụa quý, và ba mươi lạng bạc. Hà Bất Vi cùng hai chục gia nhân đội mâm lễ tới nhà Tây Môn Khánh, hai bà mai cũng đi theo. Tới nơi, giao lễ, hẹn ngày đón dâu, Nguyệt nương đãi trà chu đáo.
Đến ngày mười lăm, Nha Nội đã cho lính hầu và gia nhân tới trước đem rương hòm quần áo và các đồ đạc của Ngọc Lâu. Nguyệt nương cho Ngọc Lâu đem theo tất cả những đồ đạc vật dụng có từ trước. Ngọc Lâu chỉ xin đem theo a hoàn Lan Hương đi theo, còn để a hoàn Tiểu Loan lại giúp Nguyệt nương trông coi Hiếu ca nhi, nhưng Nguyệt nương không chịu, bảo:
- A hoàn của muội muội thì muội muội cứ đem đi, sao tôi lại giữ được. Trông nom ca nhi thì đã có các a hoàn Trung Thu, Tú Xuân và nhũ mẫu Như Ý là đủ rồi.
Ngọc Lâu để lại một cặp bình bằng bạc, bảo là để tặng ca nhi cho ca nhi chơi làm kỷ niệm.
Tới chiều thì một cỗ đại kiệu bốn người khiêng, tám cỗ đèn hoa, tám tên quân hầu tới đón. Ngọc Lâu đội mũ kim lương, mặc áo đại hồng, vàng đeo ngọc giắt đầy người, vào lạy từ trước bàn thờ Tây Môn Khánh, rồi trở ra lạy chào Nguyệt nương. Nguyệt nương bảo:
- Tam muội à, tam muội ác lắm, bây giờ bỏ đi để tôi ở lại một mình, không ai bầu bạn.
Nói xong thì khóc, Ngọc Lâu cũng khóc. Lát sau, Nguyệt nương tiễn Ngọc Lâu ra cửa. Hai bà mai đưa Ngọc Lâu lên kiệu, che rèm mà đi. Nguyệt nương là quả phụ, không thể đưa Ngọc Lâu tới nhà chồng, phải nhờ một người chị đi giùm.
Kiệu ra tới đường, đôi bên hàng phố xầm xì:
- Đây là người thiếp thứ ba của Tây Môn lão gia, bây giờ lấy công tử Nha Nội, con trai Tri huyện tướng công, hôm nay tốt ngày nên cho rước về.
Có người lại nói:
- Lúc xưa Tây Môn lão gia sinh tiền, nhà cửa hưng thịnh biết bao, thê thiếp đầy nhà, gia nhân đầy tớ rộn rịp, vậy mà bây giờ chỉ còn một mình Đại nương có con trai là ở lại thủ tiết, còn bao nhiêu thì tan tác hết. Gia nhân a hoàn cũng chỉ còn lèo tèo vài người.
Dân chung trong huyện cứ xôn xao bàn tán, mỗi người một phách.
Có người lại chỉ vào kiệu của Ngọc Lâu mà nói nhỏ:
- Vợ nhỏ của Tây Môn Khánh bây giờ bỏ đi lấy người khác đó. Tên Khánh lúc sống chuyên làm những chuyện hại người, lại tham tiền hiếu sắc, gian dâm với vợ người, bây giờ chết đi, đám tiểu thiếp, người thì trộm đồ vật tiền bạc, người thì theo trai, người thì lấy chồng khác, mới biết quả báo nhỡn tiền là thế.
Kiệu của Ngọc Lâu đi giữa muôn lời bàn tán chê khen đó.
Tới nơi, thấy tư dinh huyện quan trang hoàng rực rỡ, đèn nến sáng trưng. Nha Nội cùng đám gia nhân ra rước vào, mở tiệc khoản đãi. Tiệc xong, người chị Ngọc Lâu cáo từ mà về. Hai bà mai thì được thưởng mỗi người năm lạng bạc, một xấp đoạn hoa.
Đêm đó, Nha Nội và Ngọc Lâu vào phòng riêng uống rượu hợp cẩn rồi thành thân. Đôi bên tình ý dạt dào không sao nói hết.
Hôm sau, Nguyệt nương, Mạnh Đại cữu, Mạnh Nhị cữu mẫu và Mạnh Đại di đều sai người đem lễ tới huyện. Nha Nội viết thiếp mời mọi người đằng gái tới dự tiệc "tam nhật".
Bữa tiệc đó được chuẩn bị linh đình, ca công kỹ nữ và cả một đoàn hát được gọi tới giúp vui.
Hôm đó Nguyệt nương mặc áo đại hồng, quần bách hoa, thắt dây lưng vàng, ngồi kiệu lớn tới dự tiệc.
Vì là bữa tiệc khoản đãi các nữ thân quyến bên gái nên được tổ chức tại hậu sảnh. Tri huyện phu nhân ngồi ghế chủ tiệc, thân rót rượu mời mọi người. Xong tiệc, Nguyệt nương về đến nhà, âm thầm vào phòng, chợt nghĩ tới ngày trước Tây Môn Khánh lúc còng sống, mỗi lần Nguyệt nương đi đâu về thì các tiểu thiếp và a hoàn chạy tới lạy chào, mọi người đông đúc vui vẻ, nay thì vắng lặng lạnh lùng quá.
Nghĩ tới đó thì bất giác thương tâm, chạy vào bàn thờ của chồng mà khóc. Tiểu Ngọc phải khuyên lơn mãi mới thôi. Từ đó, Nguyệt nương lúc nào cũng sầu muộn không vui.
Về phần Nha Nội và Ngọc Lâu, từ ngày sống với nhau thì nhwu cá gặp nước, khắng khít như keo sơn, ra vào một bước cũng chẳng rời nhau. Nha Nội phần thì vui mừng vì Ngọc Lâu có nhan sắc hơn người, phần thì vui mừng vì Ngọc Lâu có hai a hoàn, Lan Hương mười tám tuổi, giỏi đàn hát, Tiểu Loan mười lăm tuổi cũng xinh đẹp ngoan ngõan.
Nguyên Nha Nội lúc trước đã có một đời vợ. Người vợ trước này có một a hoàn, hiện đã ba mươi tuổi và còn ở lại hầu hạ trong nhà, tên là Ngọc Trâm. Ngọc Trâm ở với chủ đã lâu nên thường làm lộng, coi rẻ mọi người, lại ăn mặc diêm dúa, trang điểm loè loẹt. Lúc Nha Nội chưa cưới Ngọc Lâu thì Ngọc Trâm hàng ngày lo hầu hạ Nha Nội trong việc ăn uống nằm ngồi, lúc nào cũng hết lòng. Nhưng từ khi Ngọc Lâu về làm vợ Nha Nội thì Ngọc Trâm buồn khổ ghen tức trước sự gắn bó của hai người.
Một hôm, Nha Nội đang ngồi đọc sách tại thư phòng, Ngọc Trâm pha trà thơm, để vào khay, hai tay bưng tới, miệng cười toe toét đứng chờ. Không ngờ Nha Nội đọc sách mỏi mệt rồi gục ngay xuống án thư mà ngủ. Ngọc Trâm gọi mà bảo:
- Gia gia, tôi đem trà đến mà gia gia không thèm uống, lại ngủ hay sao? suốt ngày suốt đem gia gia ngủ với người ta trong chăn êm đệm ấm chưa chán hay sao mà bây giờ phải ngồi đâu ngủ đó?
Không thấy Nha Nội thức dậy, Ngọc Trâm sầm mặt bảo:
- Đồ bạc nghĩa, chẳng hiểu đêm qua thức làm những gì trong phòng mà bây giờ mệt mỏi ngủ vùi ngủ dập như thế này.
Đoạn nói lớn:
- Dậy mà uống trà.
Nha Nội giật mình tỉnh dậy quát:
- Con khốn, đem trà tới thì để đó cho ta, làm gì gào lên vậy? có cút vào trong không?
Ngọc Trâm vừa thẹn vừa giận, mặt mũi đỏ bừng, đặt mạnh khay trà xuống bàn, rồi bỏ đi, vừa đi vừa lầm bầm:
- Thật là người không biết điều, lại chẳng biết ơn biết nghĩa, người đem trà đến cho mà uống mà nỡ nào nạt nộ như thế bao giờ. Bây giờ có mới thì nới cũ ra, mới để trong nhà cũ để ngoài sân. Vậy mà lúc trước đi lại với người ta thì nói năng ôn tồn nhỏ nhẹ, rắn trong lỗ cũng phải bò ra.
Không ngờ Nha Nội nghe được, vội chạy theo đạp cho một đạp.
Từ đó Ngọc trâm ngày càng lộng, không thèm lo trà nước cho Nha Nội nữa. Gặp Ngọc Lâu cũng không thèm gọi là nương nương, mà chỉ xưng hô trống không hoặc vô lễ. Vào phòng riêng thì có khi ngồi lên cả giường Ngọc Lâu. Ngọc Lâu cũng không thèm chấp.
Ngọc Trâm lại hay bắt nạt Lan Hương và Tiểu Loan, bảo:
- Hai đứa bay không được kêu tao bằng thư thư, mà phải kêu bằng di nương, tao và nương nương của chúng bay chỉ là người lớn người nhỏ thôi. Tao không có ngang hàng với chúng bay đâu.
Nhưng lại dặn thêm:
- Trước mặt gia gia thì đừng gọi tao là di nương, chúng bay khôn hồn thì nghe lời tao, còn không thì coi chừng ăn đòn đấy.
Nha Nội cũng chẳng thèm để ý. Ngọc Trâm thấy vậy càng coi thường. Sáng ra thì ngủ tới nửa buổi chưa chịu dậy, nhà không chịu quét, cơm nước không chịu làm.
Ngọc Lâu phải dặn Lan Hương và Tiểu Loan:
- Hai ngươi đừng nhờ cậy gì Ngọc Trâm hết, hãy xuống bếp làm cơm để gia gia và ta dùng.
Hai a hoàn nghe lời chủ, xuống bếp làm cơm pha trà. Ngọc Trâm thấy vậy càng tức, thường mắng mèo quéo chó, mắng Lan Hương, đánh đập Tiểu Loan.
Một hôm Ngọc Trâm kiếm chuyện rồi mắng Lan Hương và Tiểu Loan rằng:
- Hai đứa bay không biết trước sau là thế nào hay sao? tao với chủ mày, ai là trước, ai là sau? chính chủ mày tới đây chiếm chỗ của tao mà còn phách lối. Đến nay vị nương nương lúc trước cũng chẳng bao giờ gọi thẳng tên tao, vậy mà bây giờ chủ mày một điều Ngọc Trâm, hai điều Ngọc Trâm. Mới vào được mấy ngày trong nhà này mà đã gọi tên gọi họ tao ra như vậy hay sao? Tao đâu phải kẻ ăn người ở của ai đâu. Cho chúng mày biết là lúc trước tao với gia gia là ăn cùng mâm, nằm cùng chiếu, chung chăn chung gối đấy. Nhưng từ ngày có chủ mày về đây, tao mới bị bạc đãi như thế này, mà cũng khiến cho đường nhân duyên của tao phải tan nát. Bao ngày nay tao phải sống lạnh lùng buồn khổ biết bao. Chủ mày ở nhà Tây Môn Khánh chỉ là tiểu thiếp thứ ba chứ là cái gì mà về đây lên mặt lên mũi hô hoán người nọ sai bảo người kia, chủ mày mua được gia nhân nào mà hô hoán sai bảo như thế? gia nhân nhà này có ai dưới quyền chủ mày đâu.
Lan Hương và Tiểu Loan không trả lời, chỉ yên lặng cho quạ Ngọc Trâm có ý nói lớn tiếng. Ngọc Lâu trong phòng nghe được, giận uất lên, nhưng cũng không nói lại với chồng.
Một hôm, nhân lúc trời nóng bức, Nha Nội sai lấy nước và chuẩn bị vật dụng để hai vợ chồng tắm chung. Ngọc Lâu bảo chồng:
- để gọi Lan Hương, bảo nó làm, đừng sai Ngọc Trâm làm gì.
Nha Nội bảo:
- Ngọc Trâm nó hầu hạ tôi quen rồi, để bảo nó làm.
Nói xong sai Ngọc Trâm chuẩn bị nước tắm để tắm ngay trong phòng. Ngọc Trâm nghe nói hai người tắm chung, mà mình lại phải đi lấy nước tắm thì giận lắm đem cái bồn tắm vào phòng, liệng mạnh xuống đất, rồi vừa đi ra vừa lẩm bẩm:
- Con dâm phụ này gớm thật, cứ làm như là chủ mình không bằng, tự nhiên lại bày đặt ra trò quái quỷ tắm chung, làm phiền tới lão nương này. Thật là trò tồi bại quá lắm.
Nha Nội và Ngọc Lâu đều nghe rõ. Ngọc Lâu không nói gì, nhưng Nha Nội thì giận lắm, nhất định đòi đuổi Ngọc Trâm ra khỏi nhà. Ngọc Lâu ngăn lại mà bảo:
- Nó nói gì mặc nó, chàng đừng chấp làm gì.
Nha Nội không chịu, bảo:
- Nàng cứ để tôi trị cho con nô tài vô lễ này một trận.
Nói xong gọi Ngọc Trâm vào, túm ngay lấy tóc, đánh đá như mưa. Ngọc Lâu can ngăn thế nào cũng không được. Ngọc Trâm bị đánh đau quá, hoảng quá quỳ ngay xuống khóc nói:
- Xin gia gia đừng đánh tôi nữa, nếu gia gia không dung được tôi thì xin bán tôi cho nhà khác, tôi cũng không cần ở đây nữa đâu.
Nha Nội lại càng thêm giận, nhảy tới đánh đá. Ngọc Lâu phải ôm lại mà bảo:
- Nó đã muốn ra khỏi nhà này thì chàng cũng không nên giận dữ đánh đập làm gì.
Nha Nội nghe vậy mới chịu thôi, rồi cho gọi Đào ma ma lại ngay, lãnh Ngọc Trâm đem bán cho nhà khác.
Thật là:
Có mồm thì cắp có nắp thì đậy,
Cổ nhân đã dạy, chẳng chỗ nào sai.
Hồi 92
Hoạ Vô Đơn Chí
Đào ma ma lãnh Ngọc Trâm đem bán được tám lạng, giao về cho Nha Nội. Nha Nội sai Đào ma ma mua một a hoàn khác mười tám tuổi tên là Mãn Đường.
Nói về Kính Tế, từ khi Đại Thư về ở, tuy đem về được ít đồ đạc của cải, nhưng vợ chồng cứ hai ba ngày lại đánh nhau cãi nhau ầm ỹ.
Một hôm người cậu là Trương Đoàn luyện tới vay mẹ Kính Tế là Trương bà năm chục lạng để lo công việc, nhưng Kính Tế nói hỗn, giận mà đi vay chỗ khác.
Trương bà cũng giận con mà thành bệnh, suốt ngày nằm trên giường, lang y tới điều trị cũng không bớt.
Kính Tế lại đòi mẹ phải bỏ tiền ra cho mình buôn bán. Mới đầu Trương bà không chịu, nhưng sau Kính Tế kèo nhèo quá, phải bỏ ra hai trăm lạng cho Kính Tế, bắt phải mở cửa tiệm buôn bán ngay tại nhà, có Trần Định phụ giúp.
Nhưng từ khi mở tiệm buôn bán thì Kính Tế chẳng lo việc làm ăn, chỉ suốt ngày tụ họp bạn bè như đám Lục Tam lang, Dương Đại lang, đàn hát ăn uống và cờ bạc. Do đó lời lãi chẳng thấy đâu mà tiền vốn thì ngày càng thâm thủng.
Trần Định nói lại với Trương bà, Trương bà giận mắng Kính Tế. Kính Tế vu cáo là Trần Định trộm hàng đem bán lấy tiền giấu đi, rồi không dùng Trần Định nữa mà mời Dương Đại lang về làm quản lý cho cửa tiệm của mình.
Dương Đại lang tên là Quang Ngạn, chuyên bày chuyện cười hoa cợt liễu, lại là người ăn không nói có, dối trá xảo quyệt, tham tiền.
Kính Tế lại bắt mẹ phải bỏ thêm ba trăm lạng nữa, giao cho Quang Ngạn đi mua vải lụa tại Lâm Thanh về bán.
Kính Tế và Quang Ngạn đem theo hành lý tới bến Lâm Thanh. Nơi đây là đất buôn bán nên hiện rõ cảnh phồn hoa đô hội, ngoài đường ngựa xe rầm rập ngày đêm không lúc nào ngơi, có tới ba mươi hai khu bán phấn buôn hương, bảy mươi hai nhà ca nữ. Kính Tế trẻ người non dạ, bị Dương Đại lang dẫn dắt tới các trà đình tửu điếm, các nhà kỹ nữ ca nhị Kính Tế gặp được một ca nhi là Phùng Kim Bảo, rất xinh đẹp, giỏi đàn hát, thật là thanh sắc vẹn toàn, do đó đem lòng say đắm.
Một hôm Kính Tế cùng Dương Đại lang tới nhà Kim Bảo uống rượu nghe hát. Kính Tế hỏi:
- Kim Bảo năm nay thanh xuân bao nhiêu?
Mụ chủ đáp:
- Em nó là con gái lớn của lão, lão chỉ có một mình nó, năm nay nó mới vừa đôi chín.
Kính Tế liền bỏ ra năm lạng bạc, ở lại với Kim Bảo trong hai ba đêm liền.
Dương Đại lang thấy Kính Tế quá say mê ca nhi này, nên hết lời tán tụng vun vào. Kính Tế ngỏ ý muốn cưới Kim Bảo về nhà, mụ chủ đòi đúng một trăm hai chục lạng. Kính Tế cò kè bớt được hai chục lạng, rồi bỏ tiền ra, đem Kim Bảo về. Còn dư được ít tiền, mới mua vài loại vải lụa đem về.
Trên đường về, Kim Bảo ngồi kiệu, Kính Tế và Dương Đại lang cưỡi ngựa theo, đằng sau là xe chở hàng.
Kính Tế về tới nhà, Trương bà đang bệnh, nghe con đem tiền cưới ca nhi về thì giận uất lên mà chết.
Kính Tế phải thu vén tiền bạc ma chay tụng niệm cho mẹ. Trương bà được chôn tại đất của tổ tiên, cạnh mộ chồng.
Căn nhà nhỏ hiện tại chỉ có ba gian, một gian làm tiệm buôn bán, gian giữa là bàn thờ Trương bà, còn một gian Kính Tế để Kim Bảo ở. Đại Thư thì bị đuổi xuống ở tại một phòng ở nhà dưới.
Kính Tế mua một a hoàn để hầu hạ riêng Kim Bảo. Mọi việc buôn bán, Kính Tế giao hết cho Dương Đại lang, để suốt ngày đêm rượu chè vui vầy với Kim Bảo. Đại Thư thì không được ngó ngàng gì tới.
Ít hôm sau Kính Tế nghe tin Lý Tri huyện thăng chức Thông phán Triết Giang và đã theo đường bộ đến nhận chức tại nhiệm sở mới. Kính Tế chợt nhớ là trước đó có nhặt được một cây trâm của Ngọc Lâu rơi trong hoa viên nhà cha vợ, liền nảy ra ý định là sẽ đem cây trâm tới cho Lý Thông phán coi rồi nói là trước kia Ngọc Lâu thông gian với mình, tặng mình cây trâm, lúc lấy Lý Nha Nội, Ngọc Lâu đem theo nhiều rương vàng bạc, toàn là của Dương Đề đốc lúc trước gửi. Làm vậy, Kính Tế tin tưởng là Lý Thông phán vốn là vị văn quan nghiêm khắc, sẽ đuổi Ngọc Lâu đi, và lúc đó Kính Tế sẽ đem Ngọc Lâu về làm vợ mình.
Thật là:
Việc xong, bắt thỏ cung trăng,
Mưu thành, bắt cả quạ vàng trong mây.
Tính toán xong, Kính Tế sai Trần Định coi nhà và coi tiệm, lại mở rương của mẹ, thấy có một ngàn lạng bạc, liền để lại một trăm lạng ở nhà cho Kim Bảo giữ, rồi đem chín trăm lạng theo, cùng Dương Đại lang trước hết tới Hồ Châu mua một thuyền vải lụa tơ sợi, đậu thuyền tại bến Thanh Giang, lên khách điếm của Trần Nhị Ở trên bờ, bảo Trần Nhị dọn tiệc.
Trong tiệc, Kính Tế bảo Dương Đại lang:
- Quản lý à, hãy ở lại khách điếm này vài ngày và coi thuyền hàng, tôi và gia nhân Trần An đem lễ vật tới phủ Nghiêm Châu thuộc Triết Giang, thăm một người chị của tôi có chồng tại đó, mau thì ba ngày, chậm thì năm ngày tôi sẽ về.
Dương Đại lang nói:
- Đại ca có việc xin cứ yên tâm mà đi, tôi sẽ ở lại coi hàng đợi đại ca.
Hôm sau, Kính Tế đem theo ít bạc và một số lễ vật, cùng gia nhân Trần An lên đường tới Nghiêm Châu. Tới nơi, Kính Tế vào tá túc tại một ngôi chùa trong thành, dò hỏi biết được Lý Thông phán mới đáo nhậm được chừng một tháng, gia quyến và đồ đạc thì mới theo tới được ba ngày. Kính Tế không chậm trễ, ngày hôm sau liền mũ áo chỉnh tề, sai Trần An đem theo lễ vật gồm vải lụa và rượu, cùng mình tới phủ nhạ Đến cổng phủ, Kính Tế bước tới vái chào người giữ cổng rồi nói:
- Xin cảm phiền vào bẩm là có Mạnh Nhịi cữu, em trai của con dâu Lý Thông phán lão gia tới thăm.
Người giữ cổng vội vào báo với Nha Nội, Nha Nội đang ngồi trong thư phòng đọc sách, nghe nói có em vợ tới thì vội xốc lại mũ áo, sai gia nhân mời vào.
Kính Tế được mời lên đại sảnh, cùng Nha Nội thi lễ. Hai bên phân ngôi chủ khách mà ngồi. Gia nhân đem trà ra. Nha Nội mời Kính Tế dùng trà rồi hỏi:
- Hôm trước lễ cưới, sao không thấy nhị cữu tới?
Kính Tế đáp:
- Lúc đó thì tôi đang cất hàng tại Xuyên Quảng, tôi cũng mới về nên không rõ là thư thư tôi đã kết hôn cùng đại ca đây, do đó hôm nay có chút lễ để tới thăm.
Nha Nội nói:
- Tôi cũng chưa được biết nhị cữu, thật là thất lễ, xin thứ lỗi.
Qua vài tuần trà, Nha Nội bảo gia nhân:
- Các ngươi đem các lễ vật này vào trình với nương nương là nhị cữu tới thăm.
Gia nhân đem lễ vào thưa với Ngọc Lâu:
- Có nhị cữu đem lễ tới.
Ngọc Lâu nghĩ thầm:
- Nhị cữu nào, chẳng lẽ là nhị ca Mạnh Duệ của mình, đường sá xa xôi cách trở thế này, đem lễ tới thăm làm gì.
Gia nhân lại đưa thiếp lên, Ngọc Lâu cầm xem thì rõ là viết bốn chữ "quyến sinh Mạnh Duệ", bèn một mặt sai Lan Hương dọn dẹp hậu đường cho sạch sẽ, một mặt sai gia nhân ra mời vào.
Lát sau gia nhân vào báo là nhị cữu vào. Ngọc Lâu đứng trong mành nhìn ra, thấy chồng mình đang dẫn một người vào, hai đứa mình còn dang díu hay sao? Nếu không thì cây trâm này làm sao lại lọt vào tay tôi được? cây trâm lại có khắc tên chị rành rành đây này. Chị cùng với con mụ Nguyệt nương âm mưu sang đoạt kim ngân của cải do gia đình tôi gửi giữ. Nhưng tôi nói cho biết, đó toàn là của cải của quan Đề đốc Dương Tấn lúc trước. Bây giờ chị đem theo những của cải đó về nhà chồng này. Được lắm, tôi sẽ nói chuyện với chị sau.
Ngọc Lâu nghe vậy vội trở ra, thấy quả là cây trâm ngày trước thất lạc trong hoa viên, hiện đang nằm trong tay KínH Tế, sợ là Kính Tế nói năng ầm ỹ, gia nhân nghe biết, nên vội làm mặt tươi cười bảo:
- Này, tôi đùa một tí mà giận thật hay sao? cậu tốt với tôi thì tôi cũng tốt với cậu chứ.
Kính Tế nguôi giận, thấp giọng bảo:
- Hiện tôi đang có một thuyền hàng đang đợi ở Thanh Giang. Nếu thư thư có lòng hạ cố thì đêm nay xin trốn theo tôi về làm vợ chồng. Gia đình này là gia đình văn quan, tôi nói ra thì thư thư chắc là bị đuổi, nhưng nếu thư thư trốn theo tôi, thì họ vì thể diện mà không dám làm gì cả. Thư thư tính sao?
Ngọc Lâu ngẫm nghĩ rồi đáp:
- Đã vậy thì... thôi cũng được, tối nay cậu đợi ở dãy tường sau phủ, tôi sẽ chuyển qua tường một bao kim ngân cho cậu, rồi sau đó trốn ra theo cậu về thuyền.
Thế mới biết:
Giai nhân thực quả có lòng,
Thì đâu có sá cổng trong tường ngoài.
Hai người ăn uống một hồi rồi Kính Tế cáo từ ra về. Trần An đợi sẵn ở ngoài cùng đi.
Nha Nội vào hỏi vợ:
- Nhị cữu hiện trú ngụ tại đâu, cho tôi biết để tôi tới thăm đáp lễ, rồi cũng phải có ít lễ vật đem biếu nữa chứ.
Ngọc Lâu bảo:
- Nhị cự nhị kiếc gì, nó có phải em tôi đâu, nó chính là con rể của Tây Môn Khánh. Nó giả danh em trai tôi tới đây là để dụ dỗ tôi bỏ nhà theo nó. Tôi đã vờ hẹn với nó là canh ba đêm nay sẽ ra sau phủ để trốn đi với nó. Sở dĩ như vậy là ý tôi muốn tương kế tựu kế, nhân dịp này bắt nó, ghép tội là đạo tặc để trừ hậu hoạn sau này, ý chàng như thế nào?
Nha Nội ngạc nhiên:
- Quả thật có chuyện như vậy hay sao? thằng đó sao vô lại quá như vậy? người ta có câu "vô độc bất trượng phu", không phải là tôi đi tìm mà hại nó, nhưng như thế này thì quả là nó tự đến đây tìm cái chết.
Nói xong bước ra gọi gia nhân tâm phúc và thủ hạ thân tín tới dặn dò mọi chuyện.
Kính Tế ngốc nghếch khờ dại, chưa biết cơ mưu bại lộ, canh ba đêm đó cùng gia nhân Trần An, mò tới bức tường phía sau phủ, đằng hắng làm hiệu. Trong này một sợi dây được thòng qua tường, rồi một bao bạc truyền ra. Bao này đựng hai trăm lạng bạc, nguyên là tiền phạt để trong phủ. Kính Tế mừng rỡ bảo Trần An bước tới đỡ lấy. Tức thì từ trong tối, bốn năm người trai tráng khoẻ mạnh xông ra tri hô ầm ỹ:
- Có trộm, có trộm!
Đoạn xông lại trói nghiến Kính Tế và Trần An lại, dẫn vào trình Lý Thông phán. Thông phán sai giam ngay vào đề lao.
Nguyên viên Tri phủ Nghiêm Châu họ Từ, tên Từ Phong, người phủ Lâm Thao tỉnh Thiểm Tây, Tiến sĩ khoa Canh Tuất, tính tình cự thanh liên cương trực.
Hôm sau, Lý Thông phán đăng đường, quan lại các cấp theo thứ tự ngồi thành hai hàng dài. Quan coi kho trình sự việc lên:
- Canh ba đêm qua có hai tên trộm lẻn vào phủ bẻ khoá nhà kho, lấy trộm hai trăm lạng bạc tiền phạt, rồi vượt trường phía sau phủ định tẩu thoát, nhưng bị quân lính canh gác bắt lại. Nay đem trình các lão gia, hai tên hỏi ra thì tên là Trần Kính Tế và Trần An.
Đoạn quát lính dẫn Kính Tế và Trần An ra quỳ giữa công đường. Tri phủ thấy Kính Tế trẻ tuổi, hình dung thanh tuấn thì đập bàn hỏi:
- Tên kia, mày quê quán ở đâu mà đang đêm dám lẻn vào phủ bẻ khóa nhà kho trộm tiền bạc của triều đình?
Kính Tế chỉ biết rập đầu kêu oan.
Tri phủ quát:
- Tội trạng rõ ràng còn kêu oan nỗi gì?
Lý Thông phán nghiêng mình nói với Tri phủ:
- Lão tiên sinh bất tất phải nhọc công hỏi nó làm gì. Tội trạng của nó đã rành rành ra đó, mình cứ gia hình là xong việc.
Từ Tri phủ ra lệnh đánh Kính Tế hai chục trượng. Lý Thông phán bồi theo:
- Hạng gian tà như nó thì không đánh không được, nếu không đánh đau thì nó không coi phép nước ra gì.
Lính lôi Kính Tế và Trần An ra đánh. Trượng rơi tới tấp, hai ngừoi quần áo tả tơi, thịt máu tuôn, muôn phần đau đớn. Kính Tế la lớn lên:
- Oan tôi lắm, oan tôi lăm, đây là con dâm phụ Mạnh thị hại tôi mà thôi.
Từ Tri phủ vốn người thông minh, nghe vậy biết là chuyện này còn nhiều uẩn khúc, vội ra lệnh ngưng đánh đòn, sai giam vào nhà lao chờ hôm sau tái xét.
Lý Thông phán bảo:
- Xin lão tiên sinh chớ quá rộng lượng với tên này, nó nguy hiểm lắm. Sợ rằng đêm nay nó có thể phản cung mà bày đặt thêm chuyện nọ kia.
Từ Tri phủ đáp:
- Không sao, tôi đã có chủ ý.
Ngục tốt dẫn Kính Tế và Trần An vào giam lại.
Từ Tri phủ bảo với tả hữu:
- Nên cho người tâm phúc vào nhà lao dò hỏi nguồn gốc lai lịch Kính Tế rồi cho ta biết.
Một viên cán sư giả làm tội nhân, bảo ngục tốt đưa vào nhà lao, rồi lân la làm quen với Kính Tế. Lát sau viên cán sự bảo:
- Tôi thấy huynh thanh xuân tuấn tú, nhất định không phải là trộm cướp, vậy duyên cớ gì lại sa vào vòng quan ty lao lý như thế nầy?
Kính Tế đáp:
- Tôi vốn là rể của Tây Môn Khánh ở huyện Thanh Hà. Mạnh thị, vợ của con trai Lý thông phán đây, trước là thiếp thứ ba của cha vợ tôi. Mạnh thị lúc trước có dan díu với tôi. Cũng ngày trước, lão gai tôi là Dương Đề đốc có gửi cha vợ tôi giữ giùm nhiều rương kim ngân của cải. Nay Mạnh thị lấy con trai Thông phán, đem của cải đó về đây. Tôi bèn tới đây hỏi đòi lại, nào ngờ Mạnh thị đã không trả, còn tìm cách ám hại tôi, vu oan cho tôi là trộm, khiến tôi bị đánh đòn đau đớn, giam cầm khổ nhục như thế này.
Viên cán sự nghe xong, vờ nói chuyện vài câu chuyện nữa rồi lẻn ra trình lại với Từ Tri phủ. Từ Tri phủ bảo:
- Ta biết ngay mà, thằng đó không phải là trộm đạo gì, nghe nó kêu oan rồi gọi tên Mạnh thị, ta nghĩ ngay là có chuyện bí ẩn gì đây.
Hôm sau, khi đăng đường, Từ Tri phủ cho đòi Kính Tế và Trần An ra, xét cho vô tội rồi truyền lệnh phóng thích. Lý Thông phán khẩn khoản nói:
- Sao tiên sinh lại làm vậy, tên này tội trạng rành rành làm sao thả được.
Từ Tri phủ gọi cán sự tới nói lại lời Kính Tế cho Lý Thông phán nghe, đoạn nói:
- Bản chức là chính quan trong phủ này, làm việc là làm việc cho triều đình, chứ không thể vì chuyện riêng của gia đình tiên sinh được. Tên này rõ là bị gia đình tiên sinh vu oan tội trộm. Con trai tiên sinh cưới thiếp thứ ba của Tây Môn Khánh, Mạnh thị đem về nhà chồng nhiều tiền bạc của cải. Nó là con rể của Tây Môn Khánh, tìm tới đây là để đòi lại những bạc tiền của cải đọ Như vậy làm sao tiên sinh bảo bản chức phải giúp gia đình tiên sinh oan cho nó được. Làm việc quan mà như vậy thì còn vương pháp công đạo gì nữa.
Lý Thông phán ngồi yên, hổ thẹn không sao kể xiết, tức giận nhưng không dám nói gì.
Mãn việc, Lý Thông phán về tư dinh, gặp phu nhân bảo:
- Thật dâu con chẳng ra gi khiến hôm nay bị Tri phủ làm nhục giữa công đường, trước mặt đông đủ đồng liêu, nhục nhã quá như thế này thật chỉ muốn chết cho xong.
Lý phu nhân hoảng lên hỏi:
- Mà chuyện gi vậy?
Lý Thông phán chỉ luông miệng kêu:
- Tức chết mất thôi.
Đoạn cho gọi con trai tới bảo:
- Mày đã rước giặc về nhà, mày có biết con vợ mày lúc trước là thiếp thứ ba của Tây Môn Khánh không? nó về đây đem theo tiền bạc của cải bất nghĩa. Còn thằng Kính Tế chính là con rể của Tây Môn Khánh tới đây để đòi tiền của cải đó. Vậy mà mày lấy bạc trong kho ra rồi vu cho nó là ăn trộm. Nào tao có biết đầu đuôi gì đâu, vậy mà vừa rồi tao bị Từ Tri phủ hạ nhục giữa đông đủ đồng liêu ngay tại công đường. Như vậy mày là con mà làm cho cha thọ nhục, con cái như thế thì tao còn cần làm gì nữa.
Nói xong sai tả hữu đem trượng ra đánh tới tấp. Thương cho Nha Nội máu rơi thịt nát. Lý phu nhân gào khóc khuyên can chồng. Ngọc Lâu núp trong rèm nhìn ra chỉ biết gạt lệ khóc thầm.
Đánh được ba chục trượng thì Lý Thông phán cho lệnh ngưng, rồi quát:
- Đuổi con Mạnh thị ra khỏi phủ, cho nó tìm chồng khác để ta được toàn danh tiết.
Nha Nội làm sao bỏ được Ngọc Lâu, nên chỉ quỳ trước mặt mẹ khóc mà nói:
- Xin mẫu thân nói giùm con, thà là phụ thân cho đánh con chết, chứ xin đừng đuổi vợ con.
Lý Thông phán sai xích chân Nha Nội tại hậu đường. Lý phu nhân thương con, thấy không nén được thương tâm, khóc nói với chồng.
- Xin tướng công xét lại cho, tường công làm quan bao nhiêu năm nay, nhưng chỉ có mình nó là giọt máu duy nhất nối dõi tông đường. Nay tướng công xử với nó khắc nghiệt quá, lỡ nó phẫn chí làm liều, rồi nay mai tướng công về hưu, biết nhờ cậy vào ai?
Lý Thông phán nói:
- Thà là ta không có con còn hơn là để vì con mà phải nhục với mọi người như thế này.
Lý phu nhân nói:
- Nếu tướng công còn giận mà không dung được nó ở đây, thì sao không cho vợ chồng nó về dinh cơ mình ở quê nhà.
Lý Thông phán ngẫm nghĩ một lúc rồi nghe theo lời vợ, cho thả Nha Nội ra, hạn ba ngày vợ chồng phải dọn dẹp hành trang đồ đạc, thuê xe lên đường về huyện Tảo Cường.
Về phần Kính Tế và Trần An, sau khi được phóng thích thì vội về chùa lấy hành lý rồi trở lại tửu điếm của Trần Nhị Ở bến Thanh Giang tìm Dương Đại lang.
Tới nơi, được Trần Nhị cho biết:
- Ba hôm trước, Dương Đại lang nói là huynh có gửi tin về, bảo hắn là cứ đem thuyền hàng về trước, huynh sẽ về sau chứ không ghé đây nữa, do đó hắn đem thuyền hàng đi rồi.
Kính Tế nghe xong không tin, còn đi dọc theo bến sông mà tìm nhưng không thấy thuyền hàng của mình đâu cả. Lúc đó mới vò đầu bứt tai mà than:
- Thế này thì có chết tôi không, sao không đợi mà lại về trước như vậy?
Kính Tế lúc đi không đem theo nhiều tiền, lại vừa bị lôi thôi cửa quan, đành phải cùng Trần An cầm bán áo quần, lấy tiền thuê thuyền mà về. Chủ tớ hộc tốc vội vàng như ma đuổi.
Lúc đó là vào cuối thu, cây cối rụng lá, gió lạnh thổi về, cảnh vật muôn phần thê lương ảo não.
Một hôm, Trần Định đang đứng ngoài cửa thì thấy Kính Tế từ xa đi tới, quần áo lam lũ, mặt mày hốc hác, thì giật mình chạy tới đón vào nhà, đọan hỏi:
- Thuyền hàng hiện tới đâu rồi?
Kính Tế giận uất lên, nghẹn lời, không nói được gì, mãi sau mới kể lại chuyện lôi thôi tại Nghiêm Châu, đoạn nói:
- Cũng may là có vị Tri phủ công minh, chứ không thì đã chết rụt xương rồi. Vậy mà về tới Thanh Giang thì tên Dương Đại lang đã đem thuyền hàng đi mất, chẳng hiểu là nó ở nơi nao.
Nói xong sai ngay Trần Định tới nhà Dương Đại lang dò hỏi. Gia đình Dương Đại lang trả lời rằng chưa thấy về.
Kính Tế lại thân đi dò hỏi khắp nơi cũng không có tin tức gì, về tới nhà thì Tây Môn Đại Thư và Kim Bảo đang lời qua tiếng lại. Nguyên là từ khi Kính Tế vắng nhà, hai người ngày nào cũng có chuyện nọ chuyện kia, nay KínH Tế về thì hai người gây chuyện đấu khẩu.
Đại Thư bảo:
- Kim Bảo ở nhà lấy tiền lén đưa cho mẹ mang về nhà, mẹ con ngày nào cũng rượu thịt thịnh soạn, trong lúc tôi ở nhà không có một miếng mà ăn. Ngày ngày thì ngủ tới trưa mới dậy rồi cứ lóng ngóng ra vào, chẳng biết làm chuyện gì.
Kim Bảo cãi lại:
- Đại Thư cả ngày chỉ lo ăn uống, làm bánh trái và các món ăn ngon, đem vào phòng cùng ăn với a hoàn Nguyên Tiêu.
Kính Tế bênh Kim Bảo, mắng Đại Thư rằng:
- Con dâm phụ ăn hại, lấy tiền bạc trong nhà ra để lo chuyện ăn uống hay sao?
Nói xong sấn tới đạp Đại Thư mấy đạp rồi lôi Nguyên Tiêu ra đánh cho một trận. Đại Thư giận quá, bước tới chỉ thẳng vào mặt Kim Bảo mà mắng:
- Con dâm phụ, con điếm giật chồng người, mày trộm tiền nhà này đưa cho mẹ mang về, lại còn đặt điều bịa chuyện để chồng tao giở trò vũ phu với tao. Mày coi chừng tao, tao không để mày sống làm gì đâu.
Kính Tế nạt vợ:
- Con dâm phụ, mày dọa nạt nhưng làm gì được người tả mày chưa bằng cái móng chân người ta mà.
Nói xong lại sấn tới nắm tóc Đại Thư mà đánh đá, khiến Đại Thư đổ cả máu mồm máu mũi. Kính Tế thấy vậy mới chịu bỏ vào phòng với Kim Bảo.
Đại Thư về phòng nức nở mãi không thôi. Tới nửa đêm thì quá buồn giận mà phẫn chí, dùng dây thắt cổ tự ải. Thương thay cho Đại Thư, năm đó mới hai mươi bốn tuổi.
Hôm sau, Kính Tế sai a hoàn của Kim Bảo là Trùng Hỷ tới gọi Đại Thư, nhưng cửa phòng Đại Thư đóng chặt. Trùng Hỷ gọi mãi không được, đành trở ra thưa lại với Kính Tế. Kính Tế quát:
- Con dâm phụ gớm thật, giờ này mà còn ngủ chưa chịu dậy sao? ta tông cửa vào lôi con dâm phụ ra đánh cho một trận nên thân bây giờ.
Đoạn lại sai Trùng Hỷ vào gọi lần nữa. Trùng Hỷ vạch cửa sổ nhòm vào, miệng nói:
- Đại nương nương dậy rồi, hình như đang đánh đu hay chơi nghịch gì đây này.
Nguyên Tiêu ngạc nhiên chạy tới nhìn kỹ lại rồi thất thanh la lên:
- Gia gia ơi, nguy rồi, nương nương tôi tự ải rồi.
Kính Tế lúc đó mới hỏang lên, cùng Kim Bảo chạy xuống phá cửa xông vào hạ Đại Thư xuống, cứu cấp tức thì. Nhưng Đại Thư đã là xác không hồn lạnh ngắt, không còn cứu cấp gì được nữa.
Kính Tế sợ quá, vội cho người đến báo ngay cho Nguyệt nương biết. Nguyệt nương nghe gia nhân nói là Kính Tế lấy vợ ca nữ, bạc đãi Đại Thư khiến Đại Thư tự ải chết, thì vội gọi bảy tám gia nhân a hoàn theo mình tới nhà Kính Tế.
Đến nơi, thấy tử thi Đại Thư cứng đờ, mặt tím bầm thì Nguyệt nương phục xuống mà khóc lớn, đọan túm lấy Kính Tế mà vừa chửi vừa đánh. Kim Bảo sợ quá, chui xuống gầm giường mà trốn, cũng bị Nguyệt nương sai gia nhân lôi ra mà đánh.
Sau đó Nguyệt nương hô gia nhân đập phá nhà Kính Tế, rồi dọn hết đồ đạc của Đại Thư về.
Tới nhà, Nguyệt nương sai mời Ngô Đại cữu và Ngô Nhị cữu tới bàn định. Đại cữu nói:
- Nếu không nhân dịp này làm cho ra lẽ thì nay mai Kính Tế túng thiếu, lại gởi trò đòi tiền bạc của cải, làm phiền mình. Nếu không biết lo trước thì nguy hại lắm. Bây giờ phải đem việc này lên quan, cho thằng Kính Tế bị tội tù rục xương thì mới khỏi lo hậu hoạn.
Nguyệt nương nghe xong bảo:
- Ca ca dạy rất đúng.
Nói xong chuẩn bị đơn từ.
Hôm sau, Nguyệt nương thân tới huyện đường nạp đơn tố cáo Kính Tế. Nguyên vị Tri huyện mới họ Hoắc, tên Đại Lập, người Hồ Quảng, cử nhân xuất thân, vốn là người cương trực, nghe nói có việc liên quan tới nhân mạng thì vội cho gọi Nguyệt nương vào mà nhận đơn, thấy đơn viết như sau:
"Người tố cáo là Ngô thị, chánh thất của cố Thiên hộ Tây Môn Khánh, tố cáo tên rể ác độc là Trần Kính Tế, nghe lời của hạng ca nữ điếm đàng mà bức tử vợ. Nguyên Kính Tế vì gia đình gặp chuyện tội tình nên phải nhờ vả gia đình chúng tôi mấy năm nay, tính hay uống rượu, hành hung người khác, không biết an phận thủ thường, do đó chúng tôi lo sợ mà phải đuổi ra khỏi nhà. Nào ngờ Kính Tế lấy đó làm oán hận, thường ngày hay đánh đập sỉ nhục vợ là Tây Môn thị. Nào ngờ gần đây, Kính Tế đem một kỹ nữ ở bến Lâm Thanh về nhà, tức là Phùng Kim Bảo, rồi tin lời con kỹ nữ này mà ngược đãi con gái chúng tôi thậm tệ. Hôm qua thì Kính Tế nắm tóc con gái chúng tôi mà đánh đá không tiếc tay, khiến con gái chúng tôi thương tích đầy mình, đau đớn chịu không nổi, nên đã từ trần vào canh ba đêm hai mươi ba tháng tám vừa rồi. Sau đó Kính Tế treo cổ con gái chúng tôi, bảo là thắt cổ tự ải mà chết. Kính Tế thấy chúng tôi là mẹ goá con côi nên thường khinh khi lăng nhục, có lần dọa giết cả chúng tôi. Nay chúng tôi rập đầu trình tướng công, mong tướng công cứu xét cho cái chết oan ức của con gai chúng tôi, trừng phạt kẻ hung ác để người hiền lương được sống yên, mà kẻ chết cũng được ngậm cười. Nay kính cáo".
Tri huyện xem đơn xong, nhìn thấy Nguyệt nương mặc đồ tang, dung nhan xinh đẹp, cử chỉ đoan trang, lại là chánh thê của một vị quan ngũ phẩm, thì nghiêng mình nói:
- Bản chức coi đơn, biết nãi nãi là phu nhân của cố mệnh quan, cho nên tình lý trong đơn, bản chức đã rõ. Xin nãi nãi cứ về, chỉ cần cho một quản gia tới đây hầu án là được.
Nguyệt nương lạy tạ Tri huyện rồi bước ra lên kiệu mà về, sai Lai Chiêu ở lại hầu án.
Tri huyện tống trát, sai ngay hai viên công sai tới bắt Kính Tế và Kim Bảo, đồng thời mời cả hai bên hàng xóm tới huyện đường thẩm vấn.
Kính Tế đang cuống lên vì cái chết của vợ, thấy công sai trên huyện đem trát tới bắt thì chân tay rụng rời, hồn vía lên mây. Kim Bảo thì bị gia nhân của Nguyệt nương đánh đau, đang nằm trên giường, nghe nói trên huyện tới bắt, cũng hoảng lên, không biết làm sao.
Công sai vào đưa trát ra, bắt trói Kính Tế và Kim Bảo giải lên huyện. Hàng xóm là Phạm Cương, Tôn Kỷ, và Vương Khoan cũng được mời đi.
Đôi bên nguyên, bị và nhân chứng đã đủ mặt. Tri huyện đăng đường, cho gọi tất cả vào. Lai Chiêu quỳ một bên, Kính Tế và Kim Bảo quỳ một bên, nhân chứng đứng giữa.
Tri huyện đập án quát Kính Tế:
- Tên ác phu kia, làm sao mày nghe lời con đàn bà dâm độc mà hành hung và bức tử vợ mày là Tây Môn thị?
Kính Tế rập đầu thưa:
- Cúi xin đèn trời soi xét, tiểu nhân đâu dám hành hung và bức tử vợ. Nhân vì buôn bán nơi xa, bị viên quản lý lừa hết vốn liếng, về nhà đang bực tức trong lòng, hỏi vợ bảo dọn cơm ăn thì vợ chưa làm cơm, nên có tức giận đạp nó hai đạp. Không ngờ vợ tiểu nhân quá giận, đang đêm thắt cổ tự ải.
Tri huyện nạt:
- Ngươi đã cưới tiểu thiếp, sao lại bắt vợ lớn làm cơm? rõ ràng là người không chối tội nổi. Vả lại theo đơn tố cáo của Ngô thị đây, thì ngươi đã đánh chết vợ, rồi treo cổ lên, bảo là tự ải mà chết. Ngươi còn chối nữa hay sao?
Kính Tế lại rập đầu nói:
- Ngô thị có thù với tiểu nhân, nên mới vu oan như thế, xin lão gia xét lại gìum cho.
Tri huyện nổi giận quát:
- Nhưng con gái người ta chết rành rành ra đây này, ngươi còn nói quanh co gì được nữa?
Đoạn quát tả hữu lôi Kính Tế ra đánh hai chục trượng. Lại bảo:
- Còn con Phùng Kim Bảo kia thi cho kẹp tay chân, sau đó giam hết vào nhà lao.
Sau đó Tri huyện hỏi qua làng xóm của Kính Tế, rồi cho thuộc cấp trở lại nhà Kính Tế khám nghiệm tử thi Tây Môn Đại Thư, thấy quả trên người nhiều thương tích bầm tím, cổ thì hằn vết dây thừng. Gia nhân và hàng xóm đều khai rằng Đại Thư bị đánh đau rồi phẫn uất tự ải mà chết.
Thuộc cấp về thưa lại. Tri huyện nghe trình là tử thi thương tích đầy mình thì lập tức cho dẫn Kính Tế ra sai đánh mười trượng, Kim Bảo cũng bị đánh mười roi. Sau đó Tri huyện ghép Kính Tế vào tội chồng đả thương vợ trí mạng, hình phạt là giảo hình.
Kính Tế hoảng lê, lúc Trần Định vào thăm thì vội đưa thiếp cho Trần Định, bảo về bán hết hàng còn lại trong tiệm, được khỏang trăm lạng, ngầm đem tới cho Tri huyện.
Tri huyện nhận bạc, rồi đêm đó sửa lại bản án, chỉ ghép vào tội bức tử, hình phạt là đày đi xa năm năm, làm việc khổ sai để chuộc tội.
Nguyệt nương nghe tin, thân tới huyện đường quỳ xin gia tăng hình phạt. Tri huyện bảo:
- Nương tử à, con gài nương tử tại cổ còn vết dây thừng, làm sao ghép vào tội đả thương trí mạng được. Không phải là tôi thiên vị đâu. Tôi còn biết rõ là nương tử sợ rằng sau này Kính Tế tìm cách trả thù chứ gì? Nhưng không sao, tôi sẽ bắt nó làm tờ cam kết là không bao giờ được bén mảng tới cửa nương tử nữa. Nếu hắn vi phạm, tất tôi không tha.
Đoạn một mặt cho phép mai táng Đại Thư, một mặt làm văn thư trình lên phủ. Kính Tế bị vố này, gia sản sạch trơn, nhà cửa cầm bán, Kim Bảo được thả ra cũng bỏ đi mất.
Sau khi được thoát chết và làm tờ cam kết, từ đó Kính Tế không dám kiếm chuyện với Nguyệt nương nữa.
Thật là:
Họa phúc là do mình chuốc lấy
Cho hay vui lắm tất buồn nhiều.
Hồi 93
Vị Đạo Sĩ Bất Đắc Dĩ
Kính Tế thoát chết, nhưng vốn liếng bị Dương Đại lang lừa hết, tiền bạc trong nhà không còn, căn nhà cũng phải cầm đi, gia nhân Trần Định trong lúc Kính Tế nằm nhà lao đã vơ vét đồ đạc đánh giá trong nhà đem bán rồi ôm tiền đi luôn. Kim Bảo thì bỏ về ca lâu. Kính Tế muôn phần thiếu hụt, chỉ ngày ngày tới nhà Dương Đại lang hoặc tìm gặp các bạn hàng dọ hỏi tin tức Dương Đại lang.
Một hôm, Kính Tế tìm đến nhà Dương Đại lang gọi cổng:
- Quang Ngạn có nhà không?
Dương Đại lang hiệ đã về nhà, sau khi đem thuyền hàng bán hết ở ngoài, nhưng thấy Kính Tế gặp chuyện tù tội, nhà cửa sa sút, nay tới gọi cổng, thì xui em trai là Dương Nhị Phong ra, nạt nột Kính Tế rằng:
- Huynh đem đại ca tôi đi, nói là buôn bán gì mà cả mấy tháng nay biệt vô âm tín, hay là huynh đã liệng đại ca tôi xuống khúc sông nào để đọat tiền bạc. Đã ám hại đại ca tôi như vậy mà bây giờ còn làm bộ tới đây hỏi han để che tội hay sao? Hàng hoá của huynh không quan trọng, tính mệnh đại ca tôi mới là quan trọng, huynh làm sao trả lời tôi đây.
Nguyên Dương Nhị Phong cũng là tên côn đồ, chuyên làm tiền thiên hạ, nay phùng mang trợn mắt, hoa chân múa tay mà nạt nộ Kính Tế, nói xong lại sấn tới túm lấy Kính Tế quát lớn:
- Đừng có giả mù che mưa, không cho ta biết tính mạng đại ca ta thì không xong với ta đâu. Ta đang định đi tìm ngươi thì ngươi dẫn xác tới, đã vậy ta quyết không tha, ta đánh ngươi một trận xem ngươi ăn nói làm sao?
Nói xong hoa quyền định đánh. Kính Tế hoảng lên, vuột ra mà chạy bán sống bán chết về nhà, đóng chặt các cửa trong ngoài lại.
Dương Nhị Phong làm dữ đuổi theo tới tận cửa, lấy gạch đá ném vào nhà rầm rầm rồi lớn tiếng chửi bới, réo cha réo mẹ Kính Tế ra mà chửi. Kính Tế ngồi yên trong nhà, không dám ra lời, vả lại vừa mới bị đánh thừa sống thiếu chết tại huyện đường, nên không dám hó hé gì.
Thật là:
Cỏ non sợ sương, sương sợ mặt trời,
Kẻ ác chỉ sợ kẻ ác hơn thôi.
Ít ngày sau thì Kính Tế phải bán luôn cả căn nhà, được bảy chục lạng bạc, rồi thuê một căn phòng nhỏ ở trong hẻm mà ở. Sau đó lại bán a hoàn Trùng Hỷ đi, chỉ giữ lại a hoàn Nguyên Tiêu và coi như vợ của mình.
Ít lâu sau thì gia nhân Trần An cũng bỏ đi, kế đó Nguyên Tiêu cũng bị bệnh mà chết, Kính Tế trơ trọi một mình, đồ đạc quần áo bán dần hết. Rồi tiền nhà cũng không trả nổi, bị chủ nhà đuổi ra, lang thang đầu đường xó chợ, được bọn thanh niên du thủ du thực giúp đỡ, cho làm thuê làm mướn những công việc lặt vặt.
Một đêm vào khỏang tháng chạp, tuyết rơi ngập trời, gió thổi như cắt da, lạnh như xé thịt, Kính Tế lang thang các đường các hẻm, run lên bần bật, chợt thấy một đứa bạn lạnh quá, gục xuống một chân tường, vội đi kiếm cỏ tới đốt sưởi cho tên bạn đó, rồi mệt mỏi ngả lưng xuống cạnh đó mà thiếp đi.
Trong giấc ngủ chập chờn, Kính Tế nằm mơ thấy mình sống trong nhà Tây Môn Khánh, vinh hoa phú quý, cùng Kim Liên lén lút gặp gỡ trao tình. Lát sau tỉnh dậy bật khóc.
Mấy đứa bạn du thủ du thực kéo đến, thấy vậy hỏi:
- Sao lại khóc?
Kính Tế tủi thân đáp:
- Các huynh không biết được nỗi khổ của tôi đâu, xin đừng hỏi làm gì. Tôi nay vợ đã chết, không có cái áo mà mặc, hột cơm mà ăn, đồ đạc cửa nhà bán hết, gia nhân đầy tớ bỏ đi, chỉ còn một thân một mình lang thang đây đó, la cà các nơi trà đình tửu điếm mà kiếm miếng cơm thừa, đêm thì ngủ đường ngủ chợ, thân tôi rồi biết ra sao.
Hôm sau, Kính Tế lại tiếp tục cuộc sống lang thang như vậy, có lúc đói đã phải xin cơm mà ăn, thực sự là một kẻ ăn mày.
Trong huyện Thanh Hà có một ông gìa họ Vương tên Tuyên, tự là Đinh Dụng, tuổi ngoài lục tuần, vốn người từ tâm, trọng nghĩa kính tài, chuyên cứu giúp kẻ khốn cùng nghèo khổ, lại có lòng tin tưởng trời phật quỷ thần, chăm lễ bái, sinh được hai con trai đều đã thành gia thất. Con trưởng là Vương Càn, hiện được kế tập chức tước tổ tiên, làm Chánh Thiên hộ tại sở Mục mã. Con thứ hai là Vương Thần, hiệ là học sinh tại trường phủ.
Vương Tuyên lại hùn với một người quản lý, mở một tiệm cầm đồ, lợi tức dồi dào nên trong nhà được sung túc. Vương Tuyên suốt ngày phong lưu nhàn hạ, thường đọc kinh, nghe giảng đạo hoặc ra đứng cửa bố thí cho những kẻ khốn cùng.
Sau vườn nhà có hai cây hạnh, Vương Tuyên lập một cái am nhỏ để tới đó tụng kinh niệm Phật. Do đó lấy hiệu là Hạnh Am cư sĩ.
Một hôm Hạnh An cư sĩ khăn áo chỉnh tề, đứng cửa nhìn ra đường, thấy KínH Tế từ xa đi lại, ngừng ở trước cổng, hướng vào trong mà lạy. Hạnh Am cũng vội vái trả lễ rồi bước ra hỏi:
- Cậu là ai? lão già rồi mắt nhìn không rõ nên nhất thời không thể nhận ra.
Kính Tế đứng dậy run rẩy thưa:
- Chẳng giấu gì lão ông, tiểu nhân là Trần Kính Tế, con của Trần Hồng.
Hạnh Am ngẫm nghĩ một lúc rồi hỏi lại:
- Cậu đúng là lệnh lang của Trần Đại Khoan sao?
Kính Tế đáp:
- Đại Khoan chính là thân phụ của tiểu nhân.
Hạnh Am thấy Kính Tế áo quần lam lũ, hình dung tiều tuỵ thì hỏi:
- Hiền điệt ơi, làm sao mà ra nông nổi này? phụ mẫu bây giờ ở đâu, có được bình an chăng?
Kính Tế chảy nước mắt đáp:
- Phụ thân tiểu điệt mất tại Đông Kinh, mẫu thân tiểu điệt thì cũng mãn phần cách nay ít lâu.
Hạnh Am nói:
- Ta nghe nói là hiền điệt ở với nhà vợ mà.
Kính Tế đáp:
- Nhạc phụ tiểu điệt đã qua đời, nhạc mẫu lại đuổi tiểu điệt ra ngoài, tiện nội cũng đã thất lộc. Sau đó nhạc mẫu tiểu điệt lại tố cáo tiểu điệt tại huyện đường là bức tử vợ, tiểu điệt bị đánh đòn, về phải bán hết nhà cửa đồ đạc. Có chút tiền vốn lại bị một người bạn lừa hết, hiện nay tiểu điệt không nơi trú ngụ, không cách mưu sinh.
Hạnh Am hỏi:
- Vậy hồi này hiền điệt sống như thế nào? ăn ở tại đâu?
Kính Tế nín lặng không đáp, mãi sau mới nước mắt ròng ròng kể hết nỗi khổ cực hiện tại cho Hạnh Am nghe. Hạnh Am nghe xong thương xót lắm, bảo:
- Thật không ngờ ngày nay hiền điệt lại phải đi xin ăn. Nhớ hồi xưa gia đình hiền điệt muôn phần vinh hoa phú quý. Ta với phụ thân hiền điệt là chỗ tương giao thân tình, nay thấy hiền điệt còn nhỏ tuổi này là phải mài miệt kinh sử tạo công danh, vậy mà lưu lạc không nơi nương tựa, thất đáng thương lắm. Chắc là cũng phải còn họ hàng thân thích, sao hiền điệt không tìm tới nương nhờ?
Kính Tế đáp:
- Tiểu điệt cũng còn người cậu họ Trương, nhưng không còn tại chức nữa, gia tư chẳng có gì nên không tiện nhờ vả.
Hạnh Am mời Kính Tế vào nhà, sai gia nhân dọn rượu thịt lên cho ăn. Kính Tế ăn uống đến cứng bụng mới thôi, lâu lắm rồi Kính Tế mới được ăn ngon và no như thế.
Hạnh Am thấy Kính Tế quá thiểu não, bèn sai lấy ra cho một cái áo lụa, một cái mũ nhỏ, một đôi giày, một lạng bạc và một xâu năm trăm tiền đồng, rồi dặn:
- Hiền điệt à, mũ áo giày dép này là để hiền điệt mặc tạm, tiền đồng là để hiền điệt sống qua ngày, còn một lạng bạc lấy làm vốn, buôn bán chút ít vật dụng gì đó mà sống. Cũng nên thuê tạm một căn phòng mà ở, chứ lang thang như thế này mãi sao được, tiền phòng tháng tháng hết bao nhiêu, cứ lại đây ta sẽ giúp cho.
Kính Tế sụp xuống đất lạy tạ mà nói:
- Vạn tạ lão bá, tiểu điệt xin tuân lời.
Nói xong nhận các tặng vật rồi cáo từ mà đi.
Nhưng Kính Tế chẳng tìm phòng mà thuê, cũng chẳng làm ăn buôn bán gì, chỉ dùng năm trăm tiền đồng, hàng ngày vào tiệm ăn uống, số bạc một lạng cũng đem đổi tiền mà ăn uống phung phí. Chẳng bao lâu, mũ áo, giày do Hạnh Am cho cũng cởi ra đem bán, rồi lại xin ăn như cũ.
Một hôm, Kính Tế cùng đường, lại lần mò đến nhà Vương Hạnh Am. Hạnh Am đang đứng tại cửa, lại thấy Kính Tế tới sụp lạy, quần áo lam lũ, mặt mày tiều tuỵ y như lúc trước, lạnh run cầm cập, thì ngạc nhiên, nhưng cũng đáp lễ rồi hỏi:
- Hiền điệt làm ăn buôn bán ra sao? bây giờ cần tiền trả tiền thuê nhà phải không?
Kính Tế nín lặng. Hạnh Am gạn hỏi mãi mới đáp:
- Tiểu điệt chẳng còn gì, xin lão bá thương cho.
Hạnh Am bảo:
- Hiền điệt thế thì tệ quá, chẳng chịu chăm chỉ làm ăn, khiến bây giờ lại phải đi xin ăn để người ta chê cười khinh miệt, đến nhục cả tổ tiên. Tại sao không nghe theo lời ta?
Nói xong lại gọi Kính Tế vào nhà, sai gia nhân An Đồng dọn cơm rượu ra cho ăn.
Kính Tế ăn no xong, Hạnh Am cho ít quần áo, một xâu tiền đồng và một đấy gạo mà bảo:
- Cầm lấy đi, số tiền nhỏ này cũng có thể giúp hiền điệt buôn bán mấy thứ lặt vặt mà sông qua ngày, không phải đi xin ăn nữa.
Kính Tế chỉ vâng vâng dạ dạ nhận tặng vật mà đi.
Nhưng chỉ ít hôm sau, Kính Tế lấy tiền đãi bọn du thủ du thực ăn uống hết, đến cả quần áo vừa được cho cũng đem bán luôn, và lại trở về cuộc sông lang thang như trước.
Một hôm tháng giêng, Kính Tế đói khổ quá, không chịu thấu, lại mon men tới lảng vảng gần nhà Vương Hạnh Am. Hạnh Am nhìn thấy Kính Tế nhưng cứ làm ngợ Kính Tế không biết sao, đành phải bước tới gần, bò rạp xuống đất tiến vào cổng mà sụp lạy, rồi cứ phủ phục trên đất, không đứng dậy. Vương lão ông thấy Kính Tế chứng nào tật ấy, rách rưới khổ sở như trước thì bảo:
- Thật ta không còn biết nói sao, đời hiền điệt tuy còn dài nhưng ngày tháng như thoi đưa, không lo làm ăn chăm chỉ thì làm sao sống được. Thôi, cứ đứng dậy để ta nói cho mà nghe, có một nơi mà hiền điệt có thể tới được, vừa yên thân lại được thanh nhàn, nhưng chỉ sợ hiền điệt không chịu.
Kính Tế ngẩng đầu lên, nhưng vẫn quỳ, khóc mà nói:
- Nếu được lão bá thương chỉ cho một chỗ an thân thì tiểu điệt xin nghe lời.
Vương lão ông bảo:
- Cách thành không xa có ngôi miếu, vùng đó thuộc bến Lâm Thanh, địa phương trù mật, dân sinh phong túc, thuyền bè xe cộ tấp nập, bạc tiền trong miếu dồi dào nhờ khách thập phương cúng quảy, vị đạo sĩ trụ trì tại đó lại là chỗ cực thân tình với ta, hiện có dưới tay vài ba đồ đệ. Nay ta tính là sọan một lễ cho hiền điệt tới đó xuất gia làm đồ đệ của đạo sĩ đó, để học kinh học đạo mà làm điều phúc cho người, hiền điệt nghĩ sao?
Kính Tế đáp ngay:
- Được lão bá thương mà giúp cho như vậy thì còn gì bằng.
Vương lão ông bảo:
- Nếu vậy bây giờ đi đâu thì đi, ngày mai là ngày tốt, tới đây rồi ta sẽ dẫn đi.
Kính Tế lạy tạ mà đi.
Vương lão ông gọi thợ may bảo may hai bộ quần áo đạo sĩ, lại sai mua một mũ đạo, một đôi giày đạo và chuẩn bị sẵn lễ vật.
Sáng hôm sau Kính Tế tới, Vương lão ông bảo vào trong tắm rửa sạch sẽ, đội mũ đạo, mặc áo đạo, đi giày đạo, lại sai gia nhân cho mượn một con ngựa để cưỡi, hai gia nhân An Đồng và Hỷ Đồng đem một quả lễ vật gồm hoa quả bánh trái, một hũ rượu và năm lạng bạc đi theo.
Ra tới ngôi miếu ở ngoại thành, đường xa bảy mươi dặm, đi gần một ngày. Vương lão ông xuống ngựa, dẫn mọi người vào miếu. Nơi đây tùng bách sum suê cao vút, phong cảnh thật thanh tĩnh.
Tiểu đồng trông thấy, vội vào báo với Nhiệm đạo sĩ. Nhiệm đạo sĩ mũ áo chỉnh tề ra nghênh tiếp. Vương lão ông bảo Kính Tế và gia nhân đứng ngoài chờ rồi theo Nhiệm đạo sĩ vào phương trượng.
Vào tới Tùng Hạc hiên trong phương trượng, hai người bạn già thi lễ rồi phân ngôi chủ khách mà ngồi dùng trà. Nhiệm đạo sĩ nói:
- Lâu lắm không thấy Vương lão cư sĩ quá bộ tới tệ miếu, nay tới đây quả là hân hạnh cho tiểu đạo lắm.
Vương lão ông đáp:
- Cũng vì chuyện nhà bận rộn nên lâu không tới bái vọng đạo trưởng được, xin thứ lỗi.
Qua một tuần trà, Nhiệm đạo sĩ nói:
- Bây giờ cũng chiều rôi, thỉnh lão cư sĩ nghỉ lại đêm nay.
Đoạn quay lại bảo tiểu đồng:
- Ra dẫn ngựa vào chuồng ngựa sau miếu.
Vương lão ông nói:
- Nếu vô sự thì tiểu đệ không dám tới làm rộn cửa tam bảo, hôm nay tới đây là có một việc phiền đạo huynh, chẳng hay tôn ý thế nào, có sẵn lòng giúp cho chăng?
Nhiệm đạo sĩ nói:
- Sao lão cư sĩ lại dạy thế? có điều gì, xin cứ dặn, tiểu đạo đâu dám trái mệnh.
Vương lão ông nói:
- Có đứa con trai của người bạn cũ của tiểu đệ, họ Trần, tên Kính Tế, năm nay hai mươi bốn tuổi, hình dung cũng thanh tú, trí óc cũng không quá đần độn. Vì phụ mẫu sớm qua đời nên nó thất học từ nhỏ. Gia đình nó cũng không phải thua kém gì ai, nhưng gặp cơn gia biến mà cửa nhà tan nát, của cải tiêu ma, nó hiện không nơi nương tựa, không có người dạy bảo. Tiểu đệ nghĩ tình cố tri với cha nó mà muốn xin cho nó được theo làm đồ đệ của đạo huynh, vậy xin đạo huynh cho biết tôn ý.
Nhiệm đạo sĩ đáp:
- Hiềm tiểu đệ ít đức, nên tuy có hai tên đồ đệ mà chẳng đứa nào ra hồn, còn người này chẳng hay có thật tâm không?
Vương lão ông đáp:
- Thằng nhỏ này coi cũng có vẻ thành thật, nó cũng có nguyện tâm, lại là đứa lanh lợi, dạy được nhiều việc, xin lão đạo huynh yên tâm. Nó có thể là đồ đệ của lão huynh được.
Nhiệm đạo sĩ hỏi:
- Bao giờ thì người đó tới?
Vương lão ông đáp:
- Hiện tôi đã dẫn tới và nó đang đứng hầu ở ngoài, tôi cũng có chút lễ bạc, xin lão đạo huynh đừng chê cười mà nhận giùm cho.
Nhiệm đạo sĩ vội bảo:
- Sao lão cư sĩ không nói sớm.
Đoạn quay lại bảo tiểu đồng:
- Ra mời vào.
Kính Tế và hai gia nhân đem lễ vật vào. Nhiệm đạo sĩ cầm thiếp coi, thấy viét một xấp đoạn, mười cân cá, hai cặp vịt quay, năm cân hoa quả, năm lạng bạc và một hồ rượu. Bên dưới đề: "Văn sinh Vương Tuyên kính bái". Nhiệm đạo sĩ đọc xong vội đứng dậy vái tạ:
- Lão cư sĩ cho nhiều quá, khiến cho tiểu đạo không nhận thì mang tội bất kính, mà nhận thì trong lòng hổ thẹn.
Lại nhìn sang Kính Tế, thấy ăn mặc đạo y tề chỉnh, mặt mày thanh tú, răng trắng môi hồng, da như thoa phấn, trong lòng vui vẻ lắm.
Kính Tế bước tới lạy tám lạy.
Nhiệm đạo sĩ hỏi:
- Thanh xuân bao nhiêu?
Kính Tế đáp:
- Con tuổi Ngọ, năm nay hai mươi bốn tuổi.
Nhiệm đạo sĩ bảo:
- Ta coi ngươi quả là lanh lợi, nay đặt cho pháp danh là Trần Tông Mỹ.
Nguyên Nhiệm đạo sĩ có hai đồ đệ, đại đồ đệ họ Kim, tên Tông Minh, nhị đồ đệ họ Từ, tên Tông Thuận, do đó mới đặt pháp danh cho Kính Tế là Tông Mỹ.
Lúc đó trời cũng nhà nhem tối, Nhiệm đạo sĩ sai tiểu đồng thắp đèn dọn bàn, bày cơm rượu, đầy bàn toàn là thịt cá gà vịt ngon lành.
Nhiệm đạo sĩ ân cần mời rượu Vương lão ông, nhưng Vương lão ông không uống được nhiều, chỉ qua vài tuần rượu là đã ăn cơm. Sau đó được dẫn vào trai phòng, giường chiếu dọn sạch sẽ, Vương lão ông nghỉ đêm tại đó.
Sáng sớm hôm sau, tiểu đồng đem nước rửa mặt tới. Vương lão ông rửa mặt đội khăn mặc áo tề chỉnh rồi ra ngoàoi uống trà với Nhiệm đạo sĩ. Sau vài tuần trà là bữa ăn sáng, bữa này cũng có rượu.
Ăn uống xong, Vương lão ông đứng dậy cáo từ. Nhiệm đạ sĩ sai tiểu đồng dẫn ngựa ra cho Vương lão ông, lại thưởng tiền cho hai gia nhân.
Lúc sắp ra về, Vương lão ông gọi Kính Tế ra dặn:
- Ở đây phải gắng công học tập kinh điển, lại phải nghe lời chỉ dạy của sư phu, ta sẽ tới đây thăm ngươi luôn, đem các vật dụng cần thiết tới cho ngươi.
Đoạn lại quay sang nói với Nhiệm đạo sĩ:
- Nếu nó không chịu nghe lời giáo huấn, xin lão đạo huynh cứ thẳng tay trừng trị, tiểu đệ không dám che chở cho nó.
Rồi lại quay lại dặn Kính Tế lần nữa:
- Từ nay ngươi nhất đinh phải sửa đổi tính tình mà chuyên tâm học đạo, nếu ngươi lại không chịu an phận thì ta không ngó ngàng tới nữa đâu.
Kính Tế luôn miệng vâng dạ.
Vương lão ông cáo từ Nhiệm đạo sĩ, lên ngựa mà về.
Từ đó Kính Tế trở thành một đạo sĩ.
Nhiệm đạo sĩ tuy tuổi già nhưng thân hình cao lớn tráng kiện, mặt mũi phương phi, râu rậm như chổi, tiếng nói sang sảng, giỏi nói chuyện, uống rượu nhiều, chuyên lo việc tiếp đón khách khứa tới lui. Mọi việc trong miếu đều do đại đồ đệ Kim Tông Minh lo liệu.
Nơi đây gần bến Lâm Thanh, thuyền bè qua lại rất nhiều. Khách thương qua lại thường tới miếu hoặc tế thần cầu phúc, hoặc xin xâm đoán quẻ. Tiền bạc cúng vào miếu do đó dồi dào, phẩm vật đem tới không thiếu thứ gì. Vì tiền bạc dồi dào, nên Nhiệm đạo sĩ bỏ tiền ra cho đồ đệ mở một cửa tiệm buôn bán tại bến Lâm Thanh để sinh lời.
Đại đồ đệ Kim Tông Minh cũng chẳng phải là người tốt đẹp gì, năm nay ngoài ba mươi tuổi, thường la cà tửu điếm ca lâu và các nhà kỹ nữ, rõ ràng là phường tửu sắc. Theo Kim Tông Minh còn có hai tiểu đồng giúp việc cũng thường được theo Tông Minh tới đủ các nơi.
Tông Minh thấy Kính Tế hình dung nho nhã thanh tao, mặt mày tuấn tú thì gọi tới, bảo ở chung phòng với mình. Tối đầu tiên, Kim Tông Minh dọn rượu, cùng Kính Tế uống tới đêm. Lúc đi ngủ, Tông Minh cho Kính Tế nằm cùng giường, nhưng sau thì chê chân Kính Tế đi giày có mùi hôi, bèn đuổi qua giường bên cạnh. Kính Tế không nói gì, nhưng trong bụng nghĩ thầm:
"Tên này láo thật, nó coi mình không ra gì. Được rồi, cứ để đó, mình sẽ dịu ngọt với nó để nó chia cho mình ít tiền. Nhưng bây giờ thì phải cho nó biết tay đã".
Nghĩ xong, cất tiếng kêu lớn lên. Tông Minh sợ Nhiệm đạo sĩ nghe được, vội nhỏm dậy chạy sang bịt miệng Kính Tế mà bảo:
- Kìa, hiền đệ, đừng kêu lớn như vậy, hiền đệ muốn gì tôi cũng nghe theo. Đừng có làm ồn.
Kính Tế thấy sự thử thách bước đầu có lợi, liền tấn công ngay:
- Nếu vậy thì đạo huynh phải nghe theo tôi ba điều mới được.
Tông Minh bảo:
- Điều gì cũng được, tôi nghe theo hiền đệ hết.
Kính Tế bảo:
- Từ nay huynh không được ngủ chung với hai tên tiểu đạo của huynh nữa. Điều thứ nhì là chìa khoá tất cả các cửa lớn nhỏ trong miếu, huynh phải để tôi giữ. Còn điều thứ ba là tôi muốn đi đâu thì đi, huynh không được ngăn cản hoặc mách lại với sư phụ. Nếu huynh chịu ba điều đó thì tôi không tố cáo chuyện gì của huynh cả.
Tông Minh đáp:
- Không sao, tôi bằng lòng hết.
Từ đó hai người ngủ chung, chuyện trò thân mật tương đắc lắm.
Tông Minh cũng giữ đúng lời hứa, giao hết các chìa khoá cho Kính Tế. Hai người toa rập nhau trong việc lén lút ăn chơi.
Trước mặt Nhiệm đạo sĩ, Tông Minh luôn luôn khen ngợi Kính Tế là thành tâm học đạo. Nhiệm đạo sĩ tin lắm, giao chuyện tiền bạc cho Kính Tế. Thỉnh thoảng, Kính Tế lại giấu bớt tiền bạc do khách thập phương cúng, để ra bến Lâm Thanh, ăn chơi tại các nhà kỹ nữ ca nhi.
Một lần, Kính Tế quen được với một ca nữ là Trần Tam Nhị Tam Nhi cho biết là mụ đầu của Phùng Kim Bảo đã chết rồi, Kim Bảo bị đem bán cho nhà họ Trịnh, hiện Kim Bảo đang tiếp khách tại tửu lầu của nhà họ Tạ, Trần Tam Nhi kể xong lại hỏi:
- Chàng có muốn tới đó thăm nó không?
Kính Tế nghe vậy, tưởng nhớ tới Kim Bảo khôn nguôi, bèn trở về miếu trộm thêm tiền, rồi cùng Trần Tam Nhi tới ngôi đại tửu lầu trên bến Lâm Thanh.
Thật là:
Oan gia năm đời tụ hội,
Nhân duyên mấy kiếp tương phùng.
Toà tửu lầu này lớn và đẹp bậc nhất tại bến Lâm Thanh, trên dưới có cả trăm phòng cho khách tới uống rượu vui chơi, xung quanh có lan can, lưng dựa vào núi, mặt ngó ra sông, quả là nơi ăn chơi sang trọng nhất. Trước mặt thuyền khách đậu hàng dài, xe ngựa chen chúc, vương tôn công tử và các khách thương giàu có lui tới tấp nập. Khung cảnh trong tửu lầu lộng lẫy đến hoa cả mắt, suốt ngày đêm là ca vũ đàn kịch.
Trần Tam Nhi dẫn Kính Tế lên ngồi tại một phòng trên lầu, gọi tửu bảo dọn cơm rượu, rồi xuống lầu tìm Kim Bảo.
Lát sau, có tiếng chân bước lên trên cầu thang, rồi Kim Bảo bước vào. Hai người nhìn nhau, không nói được lời nào mà chỉ khóc.
Thật là:
Mặt nhìn mặt, luống ngỡ ngàng
Nghẹn lời không nói, đôi hàng châu sạ.
Qua phút bàng hoàng, Kính Tế mới kéo Kim Bảo ngồi xuống mả hỏi:
- nàng ơi, bấy lâu nay nàng ở đâu mà tôi tìm hỏi không ra?
Kim Bảo gạt lệ đáp:
- Từ sau khi chia ly, mẫu thân tôi vì lo sợ nên chẳng bao lâu thì qua đời, tôi bị đem bán cho Trịnh Ngũ ma ma, bây giờ thì tôi tiếp khách tại các tửu lầu, nhưng thường ở tửu lầu này nhất. Hôm qua Tam Nhi có nói là chàng coi sóc cửa tiệm tại đây, hôm nay gặp lại chàng thật không biết nói gì.
Nói xong lại khóc. Kính Tế rút khăn lau nước mắt cho Kim Bảo rồi nói:
- Nàng ơi, xin đừng quá phiền não, tôi bây giờ lại khá rồi. Sau khi gặp chuyện không may như nàng đã biết, nhà cửa của cải tôi chẳng còn gì, phải vào làm đạo sĩ trong miếu gần đây, nhưng tôi được trưởng đạo tin cậy lắm, lại cũng có đồng ra đồng vào, từ nay tôi sẽ đến với nàng luôn.
Lại hỏi:
- Hiện nay nàng cư ngụ tại đâu?
Kim Bảo đáp:
- Tôi ở ngay tại tửu lầu này với Lưu Nhị. Tửu lầu này có tới một trăm mười phòng, các ca nhi kỹ nữ đều được ở luôn tại đây.
Hai người trò chuyện một lúc thì Kim Bảo mời Kính Tế về phòng mình dọn rượu khoản đã, lại lấy đàn tỳ bà ra đàn hát cho Kính Tế uống rượu. Hát rằng:
Ba chén ly bôi
Ly bôi ba chén
Lệ chảy đôi hàng
Đôi hàng lệ chảy
Loan Phụng chia lìa
Tơ duyên chợt gãy
Loan xa phượng rồi
Ánh tà huy thoi thóp bên trời
Đêm về ngày hết
Vẫn còn quyến luyến bồi hồi
Dùng dằng mãi không thôi.
Đàn hát xong, Kim Bảo ngồi cạnh chuốc rượu cho Kính Tế. Lát sau, tình cũ dâng lên lai láng, hai người chung gối chung chăn.
Tới chiều, Kính Tế đưa cho Kim Bảo một lạng bạc, lại thưởng cho Tam Nhi ba trăm tiền đồng. Lúc về, Kính Tế còn dặn Kim Bảo:
- Tôi sẽ đến với nàng luôn để cùng nàng gặp gỡ nơi đây, nàng có cần gì thì cứ nhờ Tam Nhi.
Lúc xuống lầu, Kính Tế trả cho chủ tửu lầu là Tạ Nhị lang ba tiền cơm rượu. Kim Bảo theo tiễn một quãng đường xạ Hai người bịn rịn chia tay, Kính Tế thẳng đường về miếu.
Hồi 94
Xảy Chân Vào Chốn Phong Trần
Từ đó vài ba ngày, Kính Tế lại tới gặp gỡ truy hoan với Kim Bảo một lần, mỗi khi chậm trễ thì Kim Bảo lại nhờ Trần Tam Nhi tới miếu vờ ghé vào niệm hương rồi lén đưa thư từ tặng vật của Kim Bảo cho Kính Tế và nhắn Kính Tế tới tửu lầu. Mỗi lần đến với Kim Bảo, Kính Tế tốn kém ít nhất cũng năm tiền, thường thường thì một lạng. Đi như vậy, Kính Tế đều nói dối là ra tiệm ngoài bến coi sóc công việc hoặc đem tiền về cho sư phụ. Nhưng mỗi lần như vậy, Nhiệm đạo sĩ thấy Kính Tế về miếu là mặt đỏ gay, một lần gọi lại hỏi:
- Ngươi đi uống rượu ở đâu về vậy?
Kính Tế đáp:
- Viên quản lý ngoài tiệm mời một hai chung, gọi là đi đường cho ấm bụng.
Đạo huynh Tông Minh lại hết lời che chở nên Nhiệm đạo sĩ không hỏi thêm nữa.
Thời gian qua đi, tiền bạc của Nhiệm đạo sĩ bị trộm quá nửa mà đạo sĩ vẫn không hay biết.
Nguyên Lưu Nhị Ở tửu lầu họ Tạ, có biệt hiệu là Toa. Địa Hổ, lại là cậu của Trương Thắng, gia nhân trong phủ Chu Thủ bị. Lưu Nhị mở nơi chứa ca nhi kỹ nữ tại tửu lầu để kiếm lợi, chuyên hiếp đáp kẻ yếu, giỏi chuyện hành hung, bạn bè thủ hạ lại nhiều nên không ai dám chống cự, Lưu Nhị cũng chuyên cho vay lãi cắt cổ và dùng bạo lực cướp đoạt tiền bạc của các con nợ.
Một hôm Lưu Nhị biết chuyện dan díu giữa Kính Tế và Kim Bảo, lại biết Kính Tế là đạo sĩ trong miếu của Nhiệm đạo sĩ, bèn hùng hổ vung tay trợn mắt tới hỏi Tạ Tam lang, chủ tửu điếm:
- Kim Bảo đâu?
Tạ tam lang vội đáp:
- Lưu Nhị thúc có chuyện gì vậy? nàng hiện đang ở căn phòng thứ hai trên lầu.
Lưu Nhị nhảy hai ba bực thang một mà lên lầu. Lúc đó Kính Tế đang uống rượu trò chuyện cùng Kim Bảo trong phòng. Mành ngoài cửa phòng buông xuống và cửa phòng khoá chặt.
Lưu Nhị tới giựt tấm mành xuống, thấy cửa khoá thì đập cửa gọi lớn:
- Kim Bảo đâu ra đây.
Kính Tế sợ hãi, không dám thở mạnh. Lưu Nhị đạp tung cửa bước vào, Kim Bảo vái chào rồi hỏi:
- Lưu Nhị thúc có chuyện gì tới đây vậy?
Lưu Nhị mắng:
- Con dâm phụ, mày thiếu tao ba tháng tiền phòng, mà còn ở đây sao? không cút đi cho rồi.
Kim Bảo tươi cười:
- Nhị thúc làm gì nóng vậy, cứ về nhà đi rồi tôi sẽ bảo ma ma tôi đem tiền tới nạp.
Lưu Nhị đánh ngay Kim Bảo một quyền. Kim Bảo ngã xuống đất, đập đầu vào cạnh cửa chảy máu chan hoà rồi mắng:
- Con dâm phụ, còn đợi đến bao giờ mới chịu đem tới, bây giờ tao cần tiền ngay.
Đoạn quay sang, thấy Kính Tế còn đứng đó, liền hất tung bàn tiệc bát đĩa rơi vỡ lảong xoảng. Kính Tế bảo:
- Á à, ngươi là ai mà dám tới đây hành hung đập phá như thế này?
Lưu Nhị trừng mắt quát lớn:
- Tao là ai à? tao đẻ ra đạo sĩ như mày.
Nói xong nắm đầu Kính Tế dìm xuống đất mà đánh đấm túi bụi.
Khách khứa đang ăn uống vui chơi, thấy vậy đều lảng đi hết. Chủ nhân Tạ tam lang mới đầu thấy Lưu Nhị có vẻ say lại quá hung hăng nên không dám ngăn cản, sau thấy Lưu Nhị đánh người quá tàn nhẫn, mới bước vào khuyên:
- Lưu Nhị thúc à, xin bớt giận, người này không biết đại danh của nhị thúc nên mới hỏi vậy, xin nhị thúc đừng chấp, hãy nể mặt tôi mà tha cho người ta.
Nhưng Lưu Nhị nào có chịu nghe, cứ đánh đấm đến lúc Kính Tế mềm nhũn dưới đất mới thôi, lại gọi đàn em đem dây tới trói cả Kính Tế lẫn Kim Bảo lại, đoạn quát:
- Sáng sớm mai đem nó tới phủ lão gia.
Nguyên là gần đây Chu Thủ bị cho Lưu Nhị làm công việc tìm bắt trộm đạo tại địa phương, kiêm luôn việc coi giữ an ninh trên sông, nên bây giờ Lưu Nhị mới nói vậy.
Đêm đó, Nhiệm đạo sĩ thấy Kính Tế không về miếu thì nghĩ rằng Kính Tế ngủ lại ngoài tiệm.
Sáng sớm hôm sau, đám lính tuần đem Kính Tế và Kim Bảo giải tới phủ Chu Thủ bị, nói với hai quản gia Trương Thắng và Lý An rằng:
- Lưu Nhị thúc bảo chúng tôi giải hai tên này tới đây, một tên là đạo sĩ trong miếu của Nhiệm trưởng đạo, một tên là ca nữ Kim Bảo của nhà họ Trịnh, xin nhị vị quản gia không nên coi thường chúng.
Lại kể thêm một lô tội trạng mà Lưu Nhị bịa đặt ra.
Trương Thắng và Lý An đòi có tiền trà nước. Lính tuần hạch Kính Tế, bắt đưa tiền, Kính Tế đáp:
- Đang đem thì tôi bị Lưu Nhị hành hung, thương tích đầy mình, quần áo rách nát như thế này, làm gì có tiền mà đưa, chỉ có cây trâm bạc này thôi.
Nói xong rút cây trâm trên đầu xuống đưa cho lính tuần. Bọn lính tuần ngắm nghía cây trâm, rồi đưa cho Trương Thắng và Lý An mà nói:
- Nó không có tiền, chỉ có cây trâm bạc này thôi.
Trương Thắng bảo:
- Dẫn nó lại gần đây, để ta hỏi nó.
Lính tuần dẫn Kính Tế tới, bắt quỳ trước mặt Trương Thắng. Trương Thắng hỏi:
- Ngươi vào làm đồ đệ của Nhiệm đạo sĩ từ bao giờ, sao ta không biết ngươi? tục danh của ngươi là gí?
Kính Tế đáp:
- Tôi nguyên là con nhà tử tế, cũng mới vào làm đạo sĩ chưa được bao lâu.
Trương Thắng bảo:
- Ngươi đã làm đạo sĩ thì phải chuyên tâm học đạo niệm kinh, sao lại la cà nơi tửu điếm trà đình, giao thiệp với ca nhi kỹ nữ? ngươi có biết soái phủ đây là nơi nào không, mà tới đây lại không chịu nạp tiền? mà ta hỏi tục danh ngươi là gí?
Kính Tế đáp:
- Tục danh của tôi là Trần Kính Tế.
Trương Thắng bảo:
- Cây trâm này của ngươi nào có giá trị gì, ta đâu thèm.
Tuy nhiên vẫn bỏ cây trâm vào tay áo rồi bảo đám lính tuần:
- Để thưa với lão gia vụ này, nó làm đạo sĩ, tiền bạc thí chủ thập phương cúng vào thiếu gì mà nó keo kiệt không chịu đưa. Lát nữa sẽ đánh trượng hoặc kẹp tay chân cho nó biết mùi.
Đoạn bảo dẫn Kim Bảo tới gần. Kim Bảo bước tới, đưa ra ba lạng bạc, Trương Thắng nhận bạc rồi dịu giọng bảo:
- Để lát nữa lão gia đăng đường, nếu lão gia nổi giận thì chúng ta cũng nhẹ tay, gia hình sơ sài qua loa, còn nếu lão gia vui vẻ thì chúng ta tha cho ngươi về.
Lát sau Chu Thủ bị đăng đường, quan lại ngồi nghiêm chỉnh hai bên, ngoài là lính hầu sắp hàng đứng đợi.
Nguyên Xuân Mai đã hạ sinh một con trai, nay cũng được khoảng nửa năm. Đứa nhỏ mặt đầy như mâm xôi, môi như thoa son, mắt như sao sáng. Chu Thủ bị yêu quý vô ngần, coi như bảo vật vô giá. Ít tháng sau khi Xuân Mai sinh nở, đại phu nhân chết, Xuân Mai được nâng lên hàng chính thất, tới ở tại chính phòng, gồm năm gia nhà nguy nga lộng lẫy. Chu Thủ bị lại cho mua hai nhũ mẫu là Ngọc Đường và Kim Quý, cùng hai tiểu a hoàn là Thúy Hoa và Lan Hoa, bốn người đó lo hầu hạ ca nhị Để hầu hạ riêng Xuân Mai còn có hai a hoàn rất được sủng ái, giỏi đàn hát là Hải Đường và Nguyệt Quế, đều mới mười bảy tuổi.
Ca nhi lại chỉ thích được Trương Thắng bồng ra ngoài chơi.
Những khi Chu Thủ bị đăng đường xử việc, Trương Thắng thường bồng ca nhi đứng ở thềm hậu đường nhìn ra.
Lần này cũng vậy, Chu Thủ bị đăng đường thì Trương Thắng lui vào, bồng ca nhi ra đứng trên thềm hậu đường nhìn ra.
Kính Tế và Kim Bảo được dắt lên quỳ trước thềm công đường, Chu Thủ bị xem văn thư ghi tội trạng rồi quát:
- Tên kia, ngươi đã làm đạo sĩ, sao không giữ gìn giới luật mà đêm hôm lại tới nhà ca nữ uống rượu vui chơi, khiến cho rối loạn trật tự địa phương, ngươi đã có hành động nhơ bẩn như vậy thì phải bị trừng phạt.
Đoạn quát tả hữu lôi Kính Tế ra giữa sân đánh hai chục trượng, lột mũ áo đạo, bắt phải hoàn tục. Còn Kim Bảo thì bị kẹp chân tay rồi sẽ đuổi về cho tiếp tục làm ăn.
Tả hữu lôi Kính Tế ra sân, lột bỏ mũ áo đạo rồi đem trượng đến đánh hai chục trượng. Thương cho Kính Tế đau đớn quần quại, thịt nát máu rơi, muôn phần thảm khốc.
Ca nhi trên tay Trương Thắng thấy vậy thì xua tay ra ý ngăn cản, rồi nhoài người ra phía Kính Tế như muốn đòi bồng mà khóc ầm lên. Trương Thắng sợ Chu Thủ bị nghe được, vội bồng ca nhi vào hậu đường. Ca nhi vẫn la khóc, Xuân Mai vội hỏi:
- Làm sao để ca nhi khóc vậy?
Trương Thắng đáp:
- Trần đạo sĩ, ở miếu của Nhiệm đạo sĩ mắc tội bị lão gia sai đánh đòn tại sân, ca nhi trông thấy khóc và như là muốn vị đạo sĩ đó bồng, tôi bồng vào, nhưng ca nhi vẫn khóc.
Xuân Mai nghe nói họ Trần thì trong lòng hơi ngờ vực, vội dời gót ra sau mành lén nhìn ra, thì thấy người bị đánh trông rất giống Kính Tế, liền nghĩ bụng:
- Tại sao Kính Tế lại xuất gia làm đạo sĩ như vậy?
Đoạn quay lại hỏi Trương Thắng:
- Người này tên thật là gì?
Trương Thắng đáp:
- Bẩm phu nhân, người này tục danh là Trần Kính Tế, hồi nãy tôi có hỏi nên biết.
Xuân Mai thầm nghĩ:
- Đúng Kính Tế rồi, bây giờ biết làm sao đây...
Đoạn quay lại bảo Trương Thắng:
- Ngươi ra thỉnh lão gia vào hậu đường cho ta thưa chuyện.
Tả hữu đang đánh đòn Kính Tế và kẹp tay chân Kim Bảo thì Chu Thủ bị được Trương Thắng nói là phu nhân mời có chuyện, bèn bảo tả hữu tạm ngưng rồi đứng dậy quay vào hậu đường.
Xuân Mai nói:
- Vị đạo sĩ đang bị đánh chính là người em họ con bà cô của tôi, xin gia gia vì tôi mà tha tội cho một lần.
Chủ Thủ bị vội bảo Trương Thắng:
- Nếu vậy ngươi ra bảo chúng nó tha ngay.
Đoạn quay lại bảo Xuân Mai:
- Phu nhân có cần gặp tiểu cữu đó chăng?
Xuân Mai nghe vậy liền bảo Trương Thắng:
- Ừ, ngưoi gọi người đó vào đây cho ta.
Trương Thắng vừa quay đi thì Xuân Mai ngẫm nghĩ rồi gọi lại bảo:
- Nhưng thôi, ngươi cứ cho người đó về, để hôm khác ta sẽ gọi tới cũng được. Cứ để người đó đội mũ đạo, mặc áo đạo, đừng lột ra bắt hoàn tục.
Do đó Kính Tế được tha ra, đội mũ mặc áo rồi về thẳng miếu.
Trong khi ấy, Nhiệm đạo sĩ được người tới báo:
- Đồ đệ của đạo trưởng là Trần Tông Mỹ, tối qua tới tửu lầu uống rượu với ca nữ Kim Bảo, rồi không hiểu sao bị Toa. Địa Hổ Lưu Nhị đánh cho nhừ tử, rồi cả Tông Mỹ và Kim Bảo đều bị giải lên phủ Thủ bị, nghe đâu bị đánh đòn, lột mũ áo và bắt hòan tục.
Nhiệm đạo sĩ nghe xong, quay vào phòng riêng, mở rương tiền bạc ra coi thì thấy hao hụt quá nhiều, tức giận lắm, rồi vì phần tuổi già, phần vì quá mập, nen uất lên mà ngã xuống đất. Đám đồ đệ và tiểu đồng hoảng lên chạy tới cứu cấp và gọi lang y tới cho thuốc. Nhưng cứu cấp gì cũng không tỉnh lại. Tới nửa đêm thì tắt thở, thọ sáu mươi ba tuổi.
Lúc đó Kính Tế được tha ra, mò về miếu, thì người hai bên đường bảo:
- Ngưoi còn dám về miếu nữa hay sao? sư phụ ngươi uất giận vì ngươi mà tịch rồi.
Kính Tế hết hồn, ba chân bốn cẳng tức tốc quay về huyện Thanh Hà.
Lại nói về Xuân Mai, sau khi can thiệp thả Kính Tế ra thì thấy người khó ở, quay vào phòng rieng, cởi bớt áo ngoài, lên giường nằm nghỉ. Lát sau thì tự nhiên đau bụng dữ dội, kêu gào luôn miệng. Lớn bé trong phủ náo loạn cả lên, con gái lớn của Chu Thủ bị tới hỏi:
- Phu nhân làm sao vậy? thấy trong mình thế nào?
Nhưng Xuân Mai xua tay bảo:
- các ngươi lui hết đi, để mặc ta.
Chu Thủ bị cũng vừa xong việc ngoài công đường trở vào, thấy Xuân Mai nằm trên giường kêu đau luôn miệng thì hoảng lên, bước vào cầm tay hỏi:
- Phu nhân thấy trong người thế nào?
Xuân Mai không đáp, mà hỏi:
- Người đạo sĩ vừa được tha không lạy tạ gia gia hay sao?
Chu Thủ bị bảo:
- Hay là hồi nãy tôi cho đánh em họ của phu nhân nên phu nhân đau lòng mà sinh ra thế này?
Xuân Mai không nói gì, cứ nhăn nhó kêu đau.
Chu Thủ bị không biết làm sao, liền bước ra ngoài gọi Trương Thắng và Lý An tới hỏi:
- Các ngươi biết đạo sĩ đó là em họ của phu nhân, sao không chịu nói sớm cho ta biết, để ta sai đánh đòn người đó, khiến pu nhân xúc động, rồi thành bệnh như thế này? mà ta đã có ý muốn cho gọi người đó vào bái kiến phu nhân, sao các ngươi lại cho về? thật các ngươi không được việc gì cả.
Trương Thắng đáp:
- Bẩm lão gia, hồi nãy chính phu nhân ra lệnh cho tiểu nhân là bảo người đó cứ về, ngày khác phu nhân sẽ cho gọi, tiểu nhân đâu dám tự ý cho về.
Nói xong chạy vào phòng Xuân Mai khóc lóc mà thưa:
- Xin phu nhân nói với lão gia một tiếng, kẻo lão gia đang trách phạt tiểu nhân và Lý An.
Xuân Mai chau mày bảo:
- Thỉnh lão gia vào đây.
Chu Thủ bị bước vào, Xuân Mai nói:
- Tự nhiên trong người tôi khó chịu, có liên can gì tới chúng nó đâu mà gia gia trách phạt chúng nó. Còn cậu em họ của tôi là đạo sĩ mà hành vi bất chính cũng là có lỗi, để rồi tôi sẽ cho gọi và khuyên dạy sau.
Nhờ Xuân Mai nói vậy mà Chu Thủ bị mới chịu tha cho Trương Thắng và Lý An. Rồi thấy Xuân Mai còn đau đớn, bèn sai hai người:
- Mau thỉnh y quan lại đây coi bệnh cho phu nhân.
Hai gia nhân lạy tạ bước ra.
Lát sau y quan tới chẩn mạch Xuân Mai rồi nói:
- Lệnh phu nhân đây vì lục dục thất tình xung động khiến cho khí tạ tại tâm mà thành bệnh.
Nói xong cho thuốc rồi cào từ. Xuân Mai không chịu uống thuốc. A hoàn không dám nói gì, chỉ thưa riêng với Chu Thủ bị. Chu Thủ bị phải thân vào dỗ dành, Xuân Mai chỉ chịu uống một hớp rồi nhất định không uống nữa. Chu Thủ bị không biết sao, đành bước ra.
Lát sau đại a hoàn Nguyệt Quế bưng bát thuốc tới thưa:
- Thỉnh phu nhân dùng thuốc cho mau khoẻ.
Xuân Mai cầm bát thuốc hắt vào mặt Nguyệt Quế mà mắng:
- Con khốn này, mày chỉ muốn đem những thứ cay đắng đến cho tao uống hay sao? bụng dạ tao có gì đâu mà phải uống này uống kia.
Nói xong phạt Nguyệt Quế quỳ trước mặt.
Lát sau một tiểu thiếp của Chu Thủ bị là Tôn Nhị nương đi ngang thấy Nguyệt Quế đang quỳ trong phòng Xuân Mai thì hỏi a hoàn Hải Đường:
- Nguyệt Quế làm sao mà bị đại phu nhân phạt quỳ vậy?
Hải Đường nói nhỏ:
- Nguyệt Quế đem thuốc lại thỉnh đại phu nhân dùng, nhưng phu nhân nói là trong bụng không làm sao, không phải uống thuốc, rồi đổ cả bát thuốc lên đầu Nguyệt Quế mà bắt quỳ.
Tôn Nhị nương bước vào nói:
- Nguyệt Quế nó không hiểu gì nên mới hành động ngu dại, thôi xin đại phu nhân tha cho nó.
Đoạn quay lại bảo Hải Đường:
- Từ sáng tới giờ đại phu nhân chưa dùng thức gì, ngươi xuống bếp đem cháo thịt lên đây để ta thỉnh đại phu nhân dùng.
Xuân Mai cho Nguyệt Quế đứng dậy. Hải Đường xuống bếp múc một bát cháo thịt bốc khói cùng bốn đĩa đồ ăn, để vào mâm, cung kính bưng vào phòng Xuân Mai. Thấy Xuân Mai nằm quay mặt vào tường, không ai dám vào, chờ đến lúc Xuân Mai trở mình, quay mặt ra mới dám mời ăn. Hải Đường thưa:
- Thỉnh phu nhân dùng chút cháo cho tỉnh.
Xuân Mai không nói gì, từ từ nhắm mắt lại. Hải Đường lại thưa:
- Thỉnh phu nhân dùng cháo kẻo nguội.
Tôn Nhị nương đứng bên cũng nói:
- Đại phu nhân từ sáng tới giờ chưa dùng gì, e mất sức, xin ngồi dậy dùng tạm miếng cháo cho khoẻ.
Xuân Mai uể oải ngồi dậy. Hải Đường bưng bát cháo tới, Xuân Mai cầm bát cháo húp một miếng rồi liệng bát cháo vào mâm, nhũ mẫu Kim Quỹ đến bên nhanh tay đỡ được, chỉ đổ cháo chứ không vỡ bát, trong khi Xuân Mai nhăn mặt bảo Tôn Nhị nương:
- Con tiện tỳ nó nấu cháo thế này thì ai ăn được.
Đoạn quay sang bảo Kim Quỹ:
- Ngươi tát vào mặt con tiện tỳ này mấy tát cho ta.
Kim Quỹ vội sấn tới tát Hải Đường mấy tát.
Tôn Nhị nương bảo:
- Đại phu nhân không dùng được cháo này, thì cũng phải ăn cái gì cho đỡ đói chứ.
Xuân Mai bảo:
- Ai chẳng muốn ăn, nhưng bụng dạ tôi không cho tôi ăn nên không ăn được.
Lát sau Xuân Mai gọi tiểu a hoàn Lan Hoa tới bảo:
- Ngươi xuống bếp bảo con tiện tỳ dâm phụ đầu bếp, nói là ta muốn ăn canh thịt gà, bảo nó rửa tay cho sạch, làm một con gà nấu canh ta ăn, bảo nó cho thêm ít dấm sao cho chua chua ta mới dễ ăn.
Tôn Nhị nương bảo:
- Phu nhân đã muốn ăn như vậy thì nhớ bảo Tuyết Nga nó làm mau mau lên, đừng để phu nhân chờ.
Lan Hoa nghe vậy không dám chậm trễ, chạy ngay xuống bếp bảo Tuyết Nga.
- Phu nhân muốn ăn canh thịt gà, bảo chị làm đó, chị làm mau mau lên kẻo phu nhân chờ.
Tuyết Nga nghe vậy, lật đật bắt giết một con gà giò thật béo, chuẩn bị các vật liệu, dùng dao lóc thịt gà, thái nhỏ thành tơ rồi nấu được hai bát canh gà, đưa cho Lan Hoa bưng lên.
Lúc đó đã tối, Xuân Mai sai thắp đèn lên rồi húp canh, nhưng mới húp được một miếng đã nhăn mặt thét lớn:
- Sao thế này? hỏi con dâm phụ là nó nấu thứ canh gì thế này? canh lạt lẽo vô vị như thế này mà bắt ta ăn hay sao? hay là nó muốn chọc giậ ta đây?
Lan Hoa sợ run lên, ba chân bốn cẳng chạy xuống bếp bảo Tuyết Nga:
- Phu nhân chê canh lạt lẽo vô vị, đang chửi mắng rầm lên kia kìa.
Hải Đường bưng canh xuống, Tuyết Nga nuốt giận, im lặng thêm gia vị, nếm thử lại rồi bảo Lan Hoa bưng lên.
Xuân Mai húp một miếng, nhăn mặt kêu mặn rồi hât luôn bát canh nóng xuống đất. Lan Hoa nhanh chân nhảy tránh được nên chỉ bị nước canh văng sơ sài vào quần áo mà không bị phỏng, trong khi Xuân Mai quát:
- Mày xuống bảo con dâm phụ đầu bếp là nó thù oán ta, muốn làm gi thì làm chứ đừng bắt ta phải ăn những thứ như thế này.
Lan Hoa quét dọn nước canh đổ, nhặt mảnh bát đêm xuống bếp nói lại với Tuyết Ngạ Tuyết Nga giận lắm nhưng chỉ nói:
- Mới ngày nào còn là hàng nô tỳ của ta mà bây giờ thì phách lối áp bức ta.
Không ngờ Lan Hoa lên nhà trên học lại với chủ. Xuân Mai mặt đỏ bừng, nghiến răng trợn mắt thét lớn:
- Lôi đầu con nô tỳ dâm phụ đó lên đây cho ta.
Thế là ba bốn a hòan chạy xuống bếp, xúm nhau lại lôi kéo Tuyết Nga lên, bắt quỳ trước mặt Xuân Mai. Xuân Mai nổi giận đùng đùng, túm ngay lấy tóc Tuyết Nga, dầm đầ xuống đánh mà mắng:
- Con dâm phụ nô tài, mày nói cái gì, ngày nào làm sao mà bây giờ làm sao? dù có ở trong nhà Tây Môn Khánh, mày cũng không phải là chủ ta cơ mà. Còn bây giờ tao bỏ tiền ra mua mày về là để hầu hạ cho tao. Vậy mà sai mày nấu canh, mày nấu canh lạt lẽo như nước ốc, rồi sau mày lại làm mặn như chát như chườm, tao rầy mắng thì mày lại bảo là áp bức, như thế này thì tao còn nuôi mày làm gì.
Nói xong gọi Trương Thắng, Lý An tới, sai dẫn Tuyết Nga ra sân lột áo đánh ba chục côn.
Gia nhân đốt đuốc lên sáng trưng. Tuyết Nga quỳ giữa sân. Trương Thắng, Lý An cầm côn đứng đợi cho Tuyết Nga cởi áo ra, nhưng Tuyết Nga không chịu cởi.
Chu Thủ bị thấy ồn ào cũng bước vào xem chuyện gì, đến lúc rõ chuyện cũng chỉ im lặng, sợ nói gì sẽ làm Xuân Mai giận thêm. Chỉ có Tôn Nhị nương đứng bên khuyên:
- Đại phu nhân muốn trừng phạt nó thế nào cũng được, muốn sai đánh nó bao nhiêu cũng được, nhưng cho nó được miễn cởi áo, có gia gia ở đây, nhà lại nhiều nam gia nhân, làm vậy e không tiện, xin phu nhân nghĩ lại.
Xuân Mai tức quát thét lên:
- Can ngăn ta thì ta sẽ giết ca nhi rồi thắt cổ tự ải theo, muốn bênh con tiện tỳ đó thì giữ nó lại, để ta chết cho xong.
Thét xong, thì vật vã rồi lăn ra giường hôn mê bất tỉnh. Chu Thủ bị hoảng lên, bước tới đỡ dậy mà bảo:
- Kìa, có ai dám can ngăn gì đâu, nàng muốn thế nào cũng được.
Xuân Mai từ từ tỉnh dậy, thở hồng hộc, không nói được gì.
Chu Thủ bị đưa mắt. Thế là Trương Thắng và Lý An vội bước tới lột trần Tuyết Nga ra mà đánh tới tấp. Thương cho Tuyết Nga thân thể loã lồ, máu tuôn thịt nát, đau đớn tới ngất đi.
Đánh đủ ba chục côn thì Trương Thắng và Lý An ngừng ta, vã nước cho Tuyết Nga tỉnh lại.
Đang đêm như vậy mà Xuân Mai cho gọi Tiết tẩu lại lập tức sai đem Tuyết Nga đi bán, lại dặn riêng Tiết tẩu rằng:
- Ta cũng chỉ cần bán đúng tám lạng thôi, nhưng với điều kiện là ngươi phải bán con tiện tỳ đó vào nhà ca nhi kỹ nữ. Làm đúng lời ta, ngươi sẽ có thưởng, còn làm trái lời ta thì đừng nhìn mặt ta nữa.
Tiết tẩu đáp:
- Làm trái lời phu nhân rồi làm sao tôi sống.
Nói xong lãnh Tuyết Nga về nhà ngaỵ Tuyết Nga khóc lóc tới sáng. Tiết tẩu khuyên:
- Thôi, đừng khóc nữa, chẳng qua la oan gia cả. Lão gia thì thương thư thư lắm, nhưng thư thư lại có oán cừu cũ với phu nhân nên mới bị xử ác như thế này. Phu nhân bây giờ có con trai nên lão gia không dám nói gì, chỉ biết chiều theo. Cả Tôn Nhị nương cũng phải nể sợ. Cho nên thư thư bị bạc đãi cũng không có gì lạ, vậy thì chẳng việc gì phải khóc.
Tuyết Nga cảm tạ Tiết tẩu rồi gạt lệ nói:
- Bây giờ tôi chỉ mong tẩu tẩu tìm nhà nào tử tế cho tôi vào ở, miễn sao có cơm ăn áo mặc là được.
Tiết tẩu nói:
- Chẳng giấu gì thư thư, phu nhân buộc tôi phải bán thư thư vào nhà ca nhi kỹ nữ chứ không được bán vào nhà nào khác, nhưng tôi có con có cháu cũng phải giữ cái đức, để rồi tôi tìm nơi nào chồng một vợ một hoặc một nơi tử tế nhân từ cho thư thư nương tựa.
Tuyết Nga hết lời cảm ơn Tiết tẩu rồi gắng đổi sầu làm vui.
Hai hôm sau, một người hàng xóm có cửa hàng buôn bán là Trương ma ma tới gọi Tiết tẩu:
- Nhà tẩu tẩu có vị nương tử nào mới tới mà cứ âu sầu khóc lóc vậy?
Tiết tẩu ló đầu ra bảo:
- Mời Trương ma ma vào chơi.
Trương ma ma bước vào, Tiết tẩu mời ngồi rồi nói:
- Nương tử đây vì không hợp ý một vị phu nhân nên vừa ra khỏi, hiện tạm ngụ tại đây với tôi ít ngày rồi tìm nơi nương tựa. Tôi tính là tìm cho nương tử nơi nào chồng một vợ một, tử tế nhân từ để sau này khỏi khổ.
Trương ma ma bảo:
- Ở gần đây tôi biết có một người khách thương buôn bông gòn ở Sơn Đông, ông ta họ Phan, là con thứ năm trong nhà, năm nay ba mươi bảy tuổi, thường tới nhà tôi chơi. Ông ta goá vợ đã lâu, hiện còn một mẹ già ngoài thất tuần đang nằm bệnh, nhà cũng neo người nên thường khẩn khoản nhờ tôi tìm cho một người vợ tử tế chăm chỉ, nhưng tôi chưa thấy đám nào xứng đáng. Nay nương tử đây tuổi cũng tương đương, có muốn kết thân với ông ta không?
Tiết tẩu bảo:
- Chẳng giấu gì ma ma, nương tử đây năm nay ba mươi lăm tuổi, có nhan sắc, giỏi chuyện nữ công gia chanh, lại quen ở trong gia đình quyền quý cao sang, hiện phủ Thủ bị đòi đúng giá ba chục lạng, nếu được thì ma ma giúp giùm cho.
Trương ma ma hỏi:
- Có của cải đồ đạc gì đem theo không?
Tiết tẩu đáp:
- Đồ đạc rương hòm thì không có, nhưng có nữ trang trâm thoa trên người.
Trương ma ma bảo:
- Vậy thì để tôi nói với người ta, có gì người ta tới đây coi mặt.
Nói xong cáo từ mà về.
Tới chiều, Trương ma ma tới gặp người họ Phan nói chuyện.
Hôm sau, Trương ma ma dẫn người họ Phan lại. Người này thấy Tuyết Nga có nhan sắc, còn vẻ trẻ trung lại nghe Tiết tẩu và Trương ma ma nói dối là mới hai mươi lăm tuổi, nen trả giá hai mươi lăm lạng. Tiết tẩu không kỳ kèo gì thêm, làm giấy tờ ngay rồi cho người họ Phan đem Tuyết Nga về.
Sau đó Tiết tẩu nhờ người sửa lại giấy tờ, ghi là bán với giá tám lạng, rồi đem giấy tờ và bạc vào đưa cho Xuân Mai, nói là đã bán cho nhà kỹ nữ ca nhi rồi.
Về phần Tuyết Nga, khi về với người họ Phan, thì ngay canh năm hôm sau, theo người này lên xe tới Lâm Thanh. Lúc đó là vào tháng sáu, ngày dài đêm ngắn, tới nơi thì mới chỉ xế chiều. Người họ Phan đưa Tuyết Nga tới một đại tửu lầu hơn trăm phòng, dẫn vào một phòng, trong đó có một người đàn bà khoảng ngọai ngũ tuần đang ngồi trên giường, năm bảy người con gái khoảng mười bảy mười tám tuổi đang đàn hát vui chơi, người nào cũng phấn son loè loẹt, ăn mặc mỏng manh hở hang.
Nhìn khung cảnh đó, Tuyết Nga hiểu ngay là tên Phan Ngũ chỉ là một loại Mã Giám Sinh buôn người, và nàng đã sa chân vào chốn thanh lâu, chỉ còn biết ngậm ngùi than khổ.
Tuyết Nga được đặt tên là Ngọc Nhi, ngày ngày theo đồng bạn đi các phfong tại tửu lầu đàn hát chuốc rượu mua vui cho khách bốn phương ghé lại tìm vui.
Mới đầu thì Tuyết Nga không chịu, nhưng Phan Ngũ đánh nàng một trận ê ẩm cả người, rồi nhốt trong phòng luôn mấy ngày, mỗi ngày chỉ cho hai bát cơm, bắt phải học đàn hát, học mà không thuộc là bị đòn đến thâm tím mình mẩy.
Khi học tập tạm được, Phan Ngũ mới cho quần áo đẹp, nữ trang và vật dụng son phấn quơng lược, bắt ngắm vuốt cho đẹp, rồi ra đứng cửa cười cợt chào mời.
Từ đó:
Dập dìu lá gió cành chim,
Sớm đưa Tống Ngọc, tối tìm Tràng Khanh.
Một hôm Trương Thắng được Chu Thủ bị sai tới bến Lâm Thanh mua mười thạch men rượu để về phủ làm rượu. Tọa Địa Hổ Lưu Nhị thấy anh rể mình tới thì mời lên tửu lầu, chọn một căn phòng đẹp, bày tiệc khoản đãi. Đám tửu bảo xun xoe tới thưa:
- Bẩm nhị thúc, có cho gọi mấy ca nữ lên chuốc rượu chăng?
Lưu Nhị dặn:
- Ngươi gọi mấy đứa mới mới một chút, chẳng hạn như con Thư Nhi của nhà họ Vương, con Kiều Nhi của nhà họ Triệu, con Kim Nhi và Ngọc Nhi của nhà họ Phan. Gọi bốn đứa đó lên đây hầu hạ quan nhân đâyh.
Tửu bảo vâng dạ xuống lầu. Lát sau nghe tiếng cười khúc khích, rồi bốn ca nữ lộng lẫy như bốn bông hoa, quần áo bằng lụa mỏng dính kéo nhau tới trước tiệc sụp lạy bốn lạy rồi đứng một bên chờ lệnh.
Trương Thắng nhìn bốn ca nữ, rồi chợt giật mình nghĩ thầm:
- Sao trong này có một người lại giống như Tuyết Nga... làm sao mà nàng lại tới nông nỗi này?
Tuyết Nga cũng nhận ra Trương Thắng,nhưng chỉ cúi đầu im lặng.
Trương Thắng hỏi Lưu Nhị:
- Ca nhi kia là của nhà ai?
Nói xong đưa mắt về phía Tuyết Ngạ Lưu Nhị đáp:
- Nó là Ngọc Nhi, do Phan Ngũ mua về nuôi mới được ít hôm. Con Kim Nhi kia cũng là của Phan Ngũ. Con kia là Thư Nhi của nhà họ Vương, còn con sau cùng là Kiều Nhi của nhà họ Triệu.
Trương Thắng bảo:
- Tôi thấy Ngọc Nhi có vẻ quen quen.
Đọan vẫy Tuyết Nga tới gần hỏi nhỏ:
- Nàng là Tuyết cô nương phải không? làm sao lại đến nỗi này?
Tuyết Nga nghe hỏi thì nước mắt ròng ròng mà đáp:
- Nói ra thì dài dòng lắm. Nguyên là tôi bị Tiết tẩu lừa gạt, bán với gia hai mươi lăm lạng cho một kẻ buôn người, do đó bị dẫn về đây làm ca nữ.
Nói xong gạt nước mắt, yểu điệu với tay rót rượu cho Trương Thắng. Trương Thắng từ lâu thấy Tuyết Nga xinh đẹp mà bị chủ bạc đãi, trong lòng đã thầm để ý, nay gặp cảnh này lấy làm đau xót lắm.
Tuyết Nga ngồi cạnh, ân cần tiếp đãi. Chỉ lát sau, hai người đã chuyện trò thân mật. Tuyết Nga lại lấy đàn tỳ bà tới đàn hát một khúc cho Trương Thắng nghe. Hát xong, được Trương Thắng mời ngồi cùng uống rượu, kể lể tâm tình, lấy làm hợp ý lắm.
Lưu Nhị thấy vậy, bảo Tuyết Nga đêm nay nghỉ với Trương Thắng. Tuyết Nga nhận lời ngaỵ Đêm đó, hai người khăng khít chẳng khác vợ chồng. Trương Thắng cảm thấy mình si mê Tuyết Nga thật sự.
Sáng hôm sau, Lưu Nhị lại cho bày tiệc khoản đãi Trương Thắng và Tuyết Nga. Ăn uống no say, Trương Thắng mới sai gia nhân xếp dọn hành lý và các vật dụng đã mua để về phủ Chu Thủ bị. Lúc ra về, Trương Thăng tặng Tuyết Nga ba lạng bạc, lại ân cần dặn dò Lưu Nhị phải che chở Tuyết Nga, không để ai bắt nạt.
Từ đó Trương Thắng luôn luôn tìm tới gặp gỡ ái ân với Tuyết Nga. Hàng tháng, Trương Thắng cho Phan Ngũ vài lạng bạc để bao luôn Tuyết Nga, không cho tiếp khách nữa. Lưu Nhị muốn lấy lòng Trương Thắng nên không thu tiền phòng của Tuyết Nga. Nhờ vậy, Tuyết Nga sống dư giả dễ chịu.
Hồi 95
Kẻ Vô Ơn Thọ Nhục
Lại nói về trong nhà Tây Môn Khánh, sau khi Tây Môn Đại Thư tự ải chết, thì ít lâu sau, đại quản gia Lai Chiêu cũng bị bệnh mà qua đời. Vợ Lai Chiêu đem con là Thiết Côn đi lấy chồng khác. Lai Hưng thay thế Lai Chiêu, cai quản đám gia nhân và trông coi nhà cửa.
A hoàn Tú Xuân lại xuất gia đầu Phật, theo Vương sư bà làm đồ đệ.
Lai Hưng từ khi vợ là Huệ Tú chết, vẫn ở một mình. Về sau, nhũ mẫu Như Ý thường bồng Hiếu ca nhi tới phòng Lai Hưng chơi. Lai Hưng thấy Như Ý không đẹp nhưng có duyên, thường mời ăn thức này thức kia, dần dần hai người quyến luyến, ăn nằm với nhau. Nguyệt nương biết chuyện, gọi cả hai lên mắng cho một trận, rồi chọn ngày tốt, cho Như Ý một bộ quần áo mới và bốn cây trâm bạc, cho về làm vợ Lai Hưng. Từ đó ban ngày, vợ chồng mỗi người một việc, nhưng ban đem thì sum họp đầm ấm.
Thời gian qua mau, thấm thoát đã tới rằm tháng tám, sinh nhật của Nguyệt nương. Ngô Đại cữu mẫu, Nhị cữu mẫu và ba vị sư bà cùng tới đưa lễ mừng và ở lại ăn tiệc sinh nhật. Đến tối, mọi người ngồi cả tại phòng cũ của Ngọc Lâu uống trà trò chuyện. Lát sau thì ba vị sư bà thay nhau giảng Phật pháp và đọc kệ.
Khoảng canh hai, Nguyệt nương gọi đem trà, chẳng có a hoàn nào thưa, Nguyệt nương phải trở lên thượng phòng tự mình lấy trà. Nhưng vừa đẩy cửa bước vào, thì thấy ngọn đèn trong phòng đượ vặn nhỏ lại, Đại An và Tiểu Ngọc đang ôm nhau ngồi trên tràng kỷ thầm thì trò chuyện. Hai đứa thấy chủ vào, vội buông nhau ra. Nguyệt nương chỉ mắng:
- Đồ khốn, không coi trà nước gì cả, cứ ngồi đây mà làm yêu làm quỷ hay sao?
Tiểu Ngọc vặn đèn lên rồi ngượng ngùng đáp:
- Để tôi bảo Trung Thu nó pha trà đem lên.
Nói xong lủi ra ngoài mất. Đại An cũng nhân dịp lẻn ra theo.
Hôm sau, khi khách khứa về hết, Nguyệt nương gọi Lai Hưng lên, bảo dọn nhà ra căn nhà Lai Chiêu ở trước để tiện cho Đại An. Nguyệt nương lại gọi Đại An lên cho một cái giường, một bộ quần áo mới, một cái mũ mới, một đôi hài mới, cũng gọi Tiểu Ngọc tới cho hai cái trâm bạc, hai món nữ trang bằng vàng và hai bộ quần áo lụa, rồi chọn ngày tốt, cho hai người thành vợ chồng. Ban ngày mỗi người một việc, ban đem thì vợ chồng sum họp đầm ấm.
Từ đó Tiểu Ngọc thường lén lấy đồ ăn bánh trái trong phòng Nguyệt nương đem về phòng cho chồng ăn. Nguyệt nương biết nhưng cứ lời đi. Thật đúng như người ta thường nói:
Qúa yêu không còn sáng suốt,
Tham lam không biết chán chê,
Làm chủ mà quá dễ dãi,
Gia nhân đâu biết nể vì.
Về phần Bình An, thấy Đại An được lấy Tiểu Ngọc làm vợ, lại được Nguyệt nương cho áo quần đồ đạc, thì trong lòng không vui. Bình An năm nay hai mươi hai tuổi, nghĩa là lớn hơn Đại An hai tuổi, vậy mà chưa được chủ lo cho yên bề gia thất.
Nguyên tiệm dược phẩm của Tây Môn Khánh cũng còn là tiềm cầm đồ. Một hôm có người tới cầm hai món nữ trang để lấy ba chục lạng bạc, hẹn là một tháng sau sẽ trả cả vốn lẫn lời để chuộc đồ về. Phó quản lý cất đồ vào tủ như thường lệ. Không ngờ Bình An thấy của tối mắt, lòng tham nổi dậy, đánh cắp hai món nữ trang đó, bán lấy tiền, tới nhà một kỹ nữ, gọi luôn một lượt hai kỹ nữ ngủ đêm với mình và ở luôn đó hai đêm.
Chủ chứa thấy Bình An lạ mặt, lại tiêu tiền như rác thì nghi ngờ, sợ liên luỵ, liền báo với lính tuần. Lính tuần tới đánh Bình An hai bạt tai, trói lại mà dẫn đi.
Lại nói về Ngô Điển Ân, mới thăng chức Tuần kiểm, đang cưỡi ngựa đi trên đường, tình cờ trông thấy đám lính tuần đang dẫn một người đi thì gọi là hỏi:
- Người này là ai, phạm tội gì vậy?
Lính tuần quỳ thưa:
- Tên này ở đâu tới xóm kỹ nữ, ăn tiêu phung phí, trong người nhiều tiền bạc, rất khả nghi, nên bắt lại tra hỏi.
Ngô Điển Ân bảo:
- Dẫn nó lại phủ cho ta thẩm vấn.
Nói xong cưỡi ngựa về trước. Bình An bị dẫn vào phủ Tuần kiểm. Ngô Điển Ân ngồi vào án thư tại sảnh đường, quân hầu đeo cung tên cầm giáo mác đứng dọc hai bên. Bình An quỳ trước án thư, nhận ra Ngô Điển Ân, nghĩ bụng:
- Lúc trước người này là quản lý của gia gia mình, nếu nhận ra mình tất sẽ tha ngay.
Do đó thưa rằng:
- Tiểu nhân là Bình An, gia nhân trong nhà Tây Môn lão gia.
Ngô Điển Ân hỏi:
- Ngươi đã là gia nhân, sao lại lấy cắp nữ trang tiền bạc của chủ?
Bình An đáp:
- Mấy món nữ trang đó là do Đại nương tôi cho một người thân thích ở ngọai thành mượn, hôm qua sai tôi đi đòi về, nhưng đường xa về trễ, cổng thành đã đóng, không vào thành được, nên tôi phải ngủ đỡ một đêm ở ngàoi, không ngờ lại bị hiểu lầm mà phải tới đây.
Ngô Điển Ân quát:
- Đừng nói láo, chủ mày nữ trang nhiều, tiền bạc lắm, đồ đạc vật dụng bằng kim ngân trong nhà không thiếu, nhất định là mày đã ăn cắp để tới xóm yên hoa vui thú. Có gì thì khai thật hết ra, đừng để ta phải dùng tới cực hình.
Bình An nói:
- Quả là Đại nương tôi sai tôi đòi mấy món nữ trang đó, tôi không dám nói dối.
Ngô Điển Ân đập bàn thét:
- Thằng này gớm thật, không đánh không được.
Nói xong quát tả hữu:
- Đem đại côn ra trị tên này cho ta.
Tức thì lính tráng đem côn ra đè Bình An xuống mà đánh, Bình An đau quá kêu rống lên rồi nói lớn:
- Xin cho ngừng tay, tôi xin khai thật.
Ngô Điển Ân ra lệnh ngưng đánh mà bảo:
- Ngươi khai thật thì khỏi bị đòn thêm.
Bình An nói:
- Tôi lấy cắp ngoài tiệm của chủ. Đó là mấy món nữ trang do người ta đem đến cầm thế.
Ngô Điển Ân hỏi:
- Vì cớ gì mày lại lấy cắp của chủ như thế?
Bình An nói:
- Chẳng giấu gì lão gia, năm nay tôi đã hai mưoi hai tuổi rồi mà Đại nương chưa lo gia thất cho tôi, vậy mà thằng Đại An cũng là gia nhân trong nhà, năm nay mới hai mươi tuổi, lại được Đại nương gả a hoàn cho nó, lại cho nó nơi ăn chốn ở, đồ đạc của cải, vì thế mà tôi uất ức, mới lấy trộm mấy món đó.
Ngô Điển Ân ngẫm nghĩ rồi bảo:
- Chắc là thằng Đại An và chủ mày là Ngô thị có tình ý gì với nhau nên mới gả a hoàn cho nó để có người liên lạc che mặt thế gian. Có thật như thế thì mày cứ khai ra, mày sẽ không liên can gì cả, ta thả mày ra ngay.
Bình An nói:
- Chuyện đó có hay không thì quả tôi không được biết.
Ngô Điển Ân bảo:
- Mày không nói thật thì tao kẹp mày.
Nói xong thét tả hữu lấy kẹp ra. Bình An hoảng lên:
- Xin đừng dùng cực hình, để tôi nói vậy.
Ngô Điển Ân bảo tả hữu cất kẹp đi rồi nói:
- Mày nói thật thì được yên lành, chớ có cứng đầu mà khổ.
Bình An không biết nói sao, chỉ thưa:
- Quả là Đại nương tôi và thằng Đại An có tư tình. Đại An đòi lấy con a hoàn Tiểu Ngọc, Đại nương bằng lòng ngay, lại còn cho nó quần áo nữ trang nữa.
Ngô Điển Ân sai thư lại lấy khẩu cung của Bình An, ghi vào giấy đàng hoàng, rồi cho giam Bình An lại. Đoạn cho trát gọi Nguyệt nương, Đại An và Tiểu Ngọc tới.
Lại nói về Phó Quản lý khi thấy mấy món nữ trang trong tủ biến mất thì hoảng lên, hỏi Đại An. Đại An đáp:
- Đồ đạc cầm thế tôi có biết gì đâu.
Phó quản lý bảo:
- Ta để trong tủ này mà sao biến đi đâu mất.
Nói xong sai Đại An tìm Bình An, nhưng tìm mãi cũng không thấy. Phó quản lý càng hoảng. Người cầm đồ lại tới hỏi chuộc lại, phó quản lý cứ hẹn lần hẹn lữa. Người này tới lui mấy lần không chuộc được, bèn không chịu về, cứ đứng tại tiệm làm rầm lên:
- Tôi cầm thì tôi chuộc lại, món đồ của tôi trị giá bảy tám chục lạng chứ có ít đâu. Tiền vốn tiền lời tôi trả đủ, sao không cho tôi chuộc?
Phó quản lý phải năn nỉ hết lời, người này mới chịu về và hẹn là hôm sau sẽ tới.
Bình An đi cả mấy ngày đêm không về, Phó quản lý biết chắc là Bình An đã lấy cắp, bèn cho người đi tìm kiếm khắp nơi trong huyện.
Hôm sau người cầm đồ lại tới làm rầm lên. Phó quản lý không biết làm sao, đành phải thưa thật với Nguyệt nương là Bình An ăn trộm đồ rồi trốn đi. Nguyệt nương bảo Phó quản lý lấy năm chục lạng bạc mà đền, nhưng người cầm đồ không chịu, nói:
- Món đồ của tôi trị giá bảy tám chục lạng chứ đâu có rẻ như thế.
Phó quản lý đề nghị thêm mười lạng nữa nhưng người này vẫn không chịu, đòi đúng bảy chục lạng. Đôi bên đang lời qua tiếng lại thì có người tới báo:
- Thằng Bình An ăn cắp đồ nữ trang, đem tới nhà kỹ nữ mua vui, hiện đang bị giam tại ty Tuần kiểm, sao không cho người tới lãnh nó ra?
Phó quản lý vội sai Đại An vào báo với chủ. Nguyệt nương bảo:
- Ngô Tuần kiểm là quản lý cũ của nhà này, chuyện có gì đáng lo.
Nói xong sai mời Ngô Đại cữu tới bàn tính. Ngô Đại cữu bảo là nên làm đơn xin lại những đồ vật đã bị trộm.
Hôm sau Phó quản lý cầm đơn tới ty Tuần kiểm, nghĩ bụng là Ngô Điển Ân nghĩ tình cũ, công việc sẽ dễ dàng, nào ngờ Ngô Điển Ân quát mắng thậm tệ, lại còn dọa đánh đòn, sau thì bảo:
- Thằng gia nhân đó khai là Ngô thị và Đại An thông gian, ta đang cho gọi Ngô thị tới để xét hỏi, vậy mà mày dám dẫn xác tới đây đòi nọ đòi kia hay sao?
Phó quản lý đã không lấy lại được vật bị trộm, lại còn bị một phen hoảng vía, liền ba chân bốn cẳng chạy về thưa lại hết với Nguyệt nương, không dám giấu giếm. Nguyệt nương nghe xong lạnh tóat cả người, chưa biết tính sao. Trong khi đó, người cầm đồ tìm tới cổng la lối:
- Mấy người tính sao đây? đồ của tôi không trả mà cũng không chịu đền là thế nào? cứ hẹn lần hẹn lữa dối gạt tôi, hôm nay nói là đi lấy lại đồ vật, rút cục cũng không có cho tôi. Hôm nay mà tính không xong thì biết.
Phó quản lý phải chạy ra dùng lời ngọt ngào nói:
- Xin cứ để cho chúng tôi thêm một hai ngày nữa, đồ vật sẽ được trả lại, làm sao mà mất được, mà nếu không lấy lại đựoc thì chúng tôi xin bồi thường xứng đáng.
Người này vùng vằng bỏ về.
Nguyệt nương trong lòng hết sức lo ngại, cho mời ngay Ngô Đại cữu tới để tìm người tới nói với Ngô Điển Ân, cho dẹp vụ này đi.
Ngô Đại cữu bảo:
- Chỉ sợ là hắn cố tình từ chối, có lẽ mình nên cho hắn ít tiền bạc phẩm vật.
Nguyệt nương bảo:
- Lúc hắn chưa làm quan thì hắn là quản lý cũ của nhà này, lúc đó gia gia tôi có cho hắn vay một trăm lạng, nhưng lại vị tình nên không làm giấy tờ gì cả, nay hắn nỡ lấy ân làm oán như thế này hay sao.
Ngô đại cữu nói:
- Hắn là kẻ vong ân bội nghĩa như vậy thì biết làm sao.
Nguyệt nương nói:
- Xin ca ca tính giùm cho chuyện này, hay là mình cho hắn chục lạng bạc để hắn dẹp vụ này đi, cho mình lãnh lại vật mất trộm mà còn trả lại cho ngừoi ta chứ.
Nói xong sai a hoàn dọn cơm rượu mời Ngô Đại cữu. Ăn xong, Ngô Đại cữu ra về. Nguyệt nương tiễn anh ra cổng.
Tình cờ trông thấy Tiết tẩu dẫn một a hoàn đi ngang. Nguyệt nương gọi lại hỏi:
- Tiết tẩu đi đâu mà ngang đây vậy? sao lâu quá không thấy lại chơi?
Tiết tẩu đáp:
- Đại nương trách cũng phải, nhưng hồi này quả là tôi bận quá, chẳng có lúc nào rảnh rang mà đi được tới đâu.
Nguyệt nương hỏi:
- Tiểu phu nhân Xuân Mai hồi này thế nào?
Tiết tẩu đáp:
- Không còn là tiểu phu nhân nữa mà là đại phu nhân rồi.
Nguyệt nương ngạc nhiên:
- Làm sao mà trở thành đại phu nhân được?
Tiết tẩu đáp:
- Nếu vậy thì Đại nương chưa biết, Xuân Mai thật là tốt số lắm, sinh được con trai ít tháng thì vị đại phu nhân bị bệnh qua đời, Chu lão gia nâng ngay Xuân Mai lên hàng chính thất, rồi lại mua riêng cho Xuân Mai hai nhũ mẫu trông con, bốn a hoàn để hầu hạ, lại còn a hoàn thân tín biết đàn hát nữa. Ôi thôi, bây giờ thì đại phu nhân muốn đánh ai thì đánh, muốn đuổi ai thì đuổi. Chu lão gia chỉ nhất nhất theo lời, vì chỉ sợ đại phu nhân giận. Cách nay ít lâu, chằng hiểu vì sao đại phu nhân sai lôi Tuyết Nga ra, lột áo đánh cho một trận nhừ tử rồi đang đêm cũng cho gọi tôi đến, bảo đem Tuyết Nga đi bán. Hôm nay cũng là vì chuyện đại phu nhân sai mà tôi phải tất tả thế này đây, vậy mà về chưa chắc đã khỏi bị mắng.
Nguyệt nương hỏi:
- Mà sai đi chuyện gì vậy?
Tiết tẩu đáp:
- Thì đại phu nhân đưa tiền cho tôi, bảo là đặt làm mấy thứ nữ trang, hôm nay đi lấy về.
Nguyệt nương bảo:
- Mời Tiết tẩu vào trong này, cho ta xem qua mấy thứ đó được chăng?
Nói xong dẫn Tiết tẩu vào thượng phòng. Tiết tẩu mở chiếc khăn tay đưa ra mấy món nữ trang mới đặt làm cho Xuân Mai. Món nào cũng hình phượng hình rồng, thập phần tinh xảo, lại nhận hạt trân châu, rất sang trọng quý phái. Tiết tẩu cầm từng món, nói giá tiền và tiền công, khoe khoang hết lời.
Hai người đang nói chuyện thì Đại An bước vào.
Hai người đang nói chuyện thì Đại An bước vào.
Nguyệt nương bảo:
- Người cầm đồ lại mới đến đây la lối om sòm, nhất định đòi đồ lại, còn đòi làm dữ nữa chứ. Phó quản lý phải hết lời năn nỉ mới tạm yên. Phó quản lý buồn rầu lắm, về tiệm rồi.
Đại An chưa kịp nói ghì thì Tiết tẩu đã hỏi:
- Có chuyện gì rắc rối vậy?
Nguyệt nương thở dài kể.
- Thằng khốn Bình An cạy tủ trộm mấy món nữ trang do người ta đem cầm rồi đem ra ngoại thành ăn chơi với mấy con kỹ nữ, sau đó thì nó bị bắt giam tại ty Tuần kiểm. Người cầm đồ tới chuộc đồ không được, năm lần bảy lượt tới tiệm rồi tới cả đây làm dữ. Vậy mà Ngô Tuần kiểm lại làm khó, không cho Phó quản lý nhận đồ về trả lại cho người ta, hình như Ngô Tuần kiểm có ý làm tiền. Bây giờ tôi chưa biết tính sao. Phận goá bụa thật khổ, chồng chết đi bị đủ mọi người áp bức khinh bỉ.
Nói xong tủi thân mà khóc, hai hàng nước mắt ròng ròng.
Tiết tẩu nói:
- Đại nương à, có chỗ để Đại nương nhờ cậy, sao không tìm kiếm, lại buồn rầu khóc lóc làm gì. Phu nhân Xuân Mai bây giờ danh giá, lại là người tốt, không quên tình xưa nghĩa cũ, sao Đại nương không cho viết một tấm thiếp rồi tôi đem đi chọ Phu nhân sẽ nhờ Chu lão gia nói với Ngô Tuần kiểm một câu thì chuyện gì cũng xong chứ đừng nói chuyện nhỏ như thế này.
Nguyệt nương bảo:
- Chu Thủ bị là võ quan, đâu có cai quản ty Tuần kiểm.
Tiết tẩu đáp:
- Vậy là Đại nương không biết rồi, triều đình vừa mới gởi sắc thư về, uỷ quyền rộng rãi cho Chu lão gia, hiện lão gia có trách nhiệm về đủ mọi việc, từ việc sông ngòi, việc tiền gạo xe ngựa cho đến việc an ninh tại địa phương. Hôm nọ vụ trộm đạo ở mãi tận Hà Đông mà cũng do tay lão gia xét xử đó.
Nguyệt nương nghe xong bảo:
- Nếu vậy thì phiền tẩu tẩu tới nói với đại phu nhân nhờ lão gia can thiệp gìum tôi. Nếu Ngô Tuần kiểm chịu cho nhận lại những đồ đã bị trộm thì tôi sẽ tặng riêng tẩu tẩu năm lạng để đền ơn.
Tiết tẩu bảo:
- Đại nương nói chuyện tiền bạc làm gì. Chẳng qua là tôi tình cờ biết được chuyện này thì góp ý kiến vậy thôi, chứ đâu trông hòng tiền bạc gì. Thấy Đại nương lo buồn như vậy tôi đâu đành lòng. Bây giờ Đại nương cho viết thiếp rồi tôi đem về nói với phu nhân chọ Có tin tức gì, thành hay không thành, tôi cũng trở lại báo cho Đại nương biết.
Nguyệt nương gọi Tiểu Ngọc đem trà thêm. Tiết tẩu xua tay:
- Thôi, tôi không uống nữa đâu, Đại nương bảo viết thiếp ngay đi, tôi bận rộn nhiều việc lắm, Đại nương không biết.
Nguyệt nương bảo:
- Không uống trà thì tẩu tẩu dùng ít điểm tâm vậy.
Nói xong bảo Tiểu Ngọc dọn bánh trái hoa quả ra mời Tiết tẩu. Nguyệt nương cũng ăn. Tiết tẩu chọn hai cái bánh cho Tiểu Ngọc, bảo cùng ăn. Nguyệt nương cho gọi a hoàn đi theo Tiết tẩu vào phòng, bảo ngồi ăn điểm tâm rồi hỏi:
- Con nhỏ này bao nhiêu tuổi rồi?
Tiết tẩu ngừng ăn đáp:
- Nó mới mười hai, còn nhỏ lắm.
Trong khi Tiết tẩu ăn uống thì Nguyệt nương bảo Đại An viết thiếp. Viết xong vào đưa cho Tiết tẩu. Tiết tẩu bỏ tấm thiếp vào tay áo, rồi đứng dậy cáo từ, đem nữ trang và dắt a hoàn về phủ Chu Thủ bị.
Xuân Mai đang nằm trên giường, đại a hoàn Nguyệt Quế vào thưa:
- Có Tiết tẩu lại.
Xuân Mai ngồi dậy, bảo Nguyệt Quế gọi Tiết tẩu vào, đồng thời sai Tiết tẩu a hoàn Thúy Hoa mở hết các cửa trong phòng. Ánh nắng tràn vào rực rỡ.
Tiết tẩu bước vào tưoi cười:
- Giờ này mà pu nhân chưa dậy hay sao?
Nói xong giở gói nữ trang ra cung kính đưa lên. Xuân Mai bảo:
- Tẩu tẩu cứ tự nhiên, đừng quá chấp lễ như thế, hôm nay trong người tôi hơi mệt mỏi nên dậy trễ quá.
Đọan hỏi:
- Mấy món nữ trang làm xong rồi đấy à?
Tiết tẩu đáp:
- Mãi tối hôm qua họ mới làm xong, tôi phải chờ ở đó xem họ làm, rồi lấy về, hôm nay đem tới trình phu nhân. Chắc là phu nhân đợi lắm.
Xuân Mai hờ hững liếc mắt ngó qua mấy món nữ trang, chê là làm chưa vừa ý, bảo Nguyệt Quế cất đi, và gọi đem trà lên.
Tiết tẩu gọi đứa a hoàn mười hai tuổi vào, bảo lạy chào.
Xuân Mai hỏi:
- Ở đâu đem tới vậy?
Tiết tẩu đáp:
- Nhị nương ở đây và tôi có bàn chuyện là a hoàn Hà Hoa thì chỉ lo việc cơm nước, cần thêm một đứa nữa cho học may vá để sai bảo. Hôm nay tôi dẫn con này tới, nó là con nhà tử tế chất phát ở nhà quê, năm nay mười hai tuổi, ngoan ngoãn chịu khó lắm, mà mặt mũi cũng dễ coi.
Xuân Mai bảo:
- Tìm cho nhị nương thì sao không tìm đứa nào ở thành thị, lanh lợi thạo việc hơn, chứ thứ quê mùa như thế này thì biết gì.
Đoạn hỏi:
- Bao nhiêu đây?
Tiết tẩu đáp:
- Nó quê mùa nên chỉ xin có bốn lạng thôi.
Xuân Mai bảo Hải Đường:
- Ngươi đưa nó qua phòng nhị nương. Tiền bạc ta sẽ trả sau.
Đoạn sai Nguyệt Quế dọn ít đồ ăn và lấy rượu Kim hoa ra mời, nhưng Tiết tẩu vội bảo Nguyệt Quế:
- Xin Nguyệt thư đừng dọn ra vội, để tôi có chuyện này thưa với phu nhân đã. Vả lại hồi nãy tôi cũng có ăn rồi, bây giờ chưa đói.
Xuân Mai hỏi:
- Mới sáng ra đã ăn ở đâu vậy?
Tiết tẩu đáp:
- Chằng giấu gì phu nhân, hồi nãy Tây Môn Đại nương có gọi tôi vào mời ăn điểm tâm rồi. Thật đáng thương cho Đại nương, ngồi nói chuyện với tôi mà cứ khóc. Chẳng là thằng khốn Bình An ăn cắp cái gì không ăn cắp, lại nhè ngay đồ nữ trang người ta đem tới cầm mà ăn cắp, rồi đem ra ngoại thành vui chơi với mấy con kỹ nữ. Sau đó thì nó bị bắt giam tại ty Tuần kiểm, người cầm đồ tới đòi chuộc lại, không có đồ nên làm ầm cả lên. Đại nương có sai Phó quản lý làm đơn tới ty xin lãnh đồ vật đã mất, nhưng Ngô Tuần kiểm không cho, lại còn làm khó dễ đủ điều. Thật không biết sao mà nói, Ngô Tuần kiểm trước là quản lý của Tây Môn lão gia, nhờ lão gia giúp đỡ mà được như ngày nay, vậy mà nỡ vô ân bội nghĩa, đánh đập thằng Bình An, nạt nộ Phó quản lý và còn muốn đòi hối lộ. Đại nương bây giờ góa bụa chằng biết cậy nhờ ai, nên hồi sáng có khóc lóc nhờ tôi thưa lại với phu nhân, xin phu nhân nghĩ tình, nói với lão gia để lão gia bảo Ngô Tuần kiểm trả lại đồ vật cho Đại nương, hầu Đại nương trả lại cho người tạ Xong việc, Đại nương sẽ tới đây bái tạ phu nhân.
Xuân Mai bảo:
- Được rồi, lão gia hôm nay đi khám xét ở ngoài, chắc đến tối mới về, để tôi nói cho, mà có thiếp gì không?
Tiết tẩu đáp:
- Đại nương có nhờ tôi trình phu nhân tấm thiếp này đây.
Nói xong lấy tấm thiếp trong tay áo ra. Xuân Mai đọc xong tiện tay để lên bàn phấn ở đầu giường.
Lát sau a hoàn dọn rượu thịt ra, rót rượu đầy chung mời Tiết tẩu. Tiết tẩu nói:
- Tôi làm sao uống hết chỗ này?
Xuân Mai cười:
- Không uống hết thì không xong với tôi đâu. Uống mà phải ăn nữa.
Đoạn bảo Nguyệt Quế:
- Tiết tẩu không uống hết thì ngươi cứ đổ rượu vào mũi Tiết tẩu cho ta.
Tiết tẩu nói:
- Phải để tôi ăn miếng gì lót lòng trước rồi mới uống rượu được.
Xuân Mai cười:
- Con mụ này nói chuyện hay thật, vừa rồi nói là ăn điểm tâm tại nhà Tây Môn Đại nương rồi, bây giờ lại đòi ăn lót lòng trước rồi mới uống rượu, thế là thế nào?
Tiết tẩu đáp:
- Cũng có ăn, nhưng không bao nhiêu, uống rượu phải ăn nhiều mới không say.
Nguyệt Quế nói:
- Tẩu tẩu phải uống hết chung lớn này đã, nếu không tôi sẽ đổ rượu vảo mũi cho mà xem. Phu nhân đã dặn, tôi không làm theo, phu nhân sai đánh đòn tôi rồi sao?
Tiết tẩu không biết sao đành nhắm mắt uống cạn chung rượu lớn. Uống xong thì mặt đỏ rần lên, mắt hoa đầu váng, ngồi không vững.
Xuân Mai bĩu môi, rồi bảo Hải Đường:
- Rót đầy một chung lớn như vậy để ta uống. Rồi rót một chung nữa cho Tiết tẩu.
Tiết tẩu xua tay:
- Thôi thôi, thỉnh phu nhân dùng, tôi không uống được nữa đâu.
Hải Đường cười:
- Chị Nguyệt Quế rót mời thì tẩu tẩu uống, còn tôi rót thì tẩu tẩu chê hay sao? tôi mời mà tẩu tẩu không chịu uống rồi phu nhân sai đánh đòn tôi làm sao?
Tiết tẩu hoảng lên vội quỳ ngay xuống van xin, Xuân Mai bật cười:
- Thôi, ngồi dậy ăn món gì đi vậy. Mà phải vừa ăn vừa uống rượu mới được.
Tiết tẩu ngồi dậy ăn uống. Lát sau Nguyệt Quế bảo:
- Có ai quý tẩu tẩu như tôi không, tôi để dành cho tẩu tẩu ít bánh mai côi ngon lắm.
Nói xong bưng một đĩa bánh ra. Tiết tẩu chỉ ăn một cái. Xuân Mai bảo:
- Còn bao nhiêu đem về cho ông ấy ở nhà ăn.
Nguyệt Quế gói ít bánh cho Tiết tẩu. Hải Đường lại ép Tiết tẩu uống rượu, đến lúc Tiết tẩu ói ra mới thôi.
Hai a hoàn dọn dẹp bát đĩa thì Tiết tẩu đứng dậy cáo từ. Xuân Mai dặn:
- Sáng mai tới đây sớm để biết chuyện thằng Bình An, rồi tôi trả tiền về con a hoàn luôn.
Tiết tẩu lạy chào bước ra. Xuân Mai dặn theo:
- Mấy món nữ trang hôm nay làm chưa khéo, để rồi tôi bỏ tiền ra làm mấy món khác cho tôi.
Tiết tẩu đáp:
- Thưa vâng.
Đoạn dừng lại nói:
- À, mà xin phu nhân cho ai đưa tôi ra kẻo chó cắn tôi.
Xuân Mai cười:
- Chó phủ này có mắt lắm, chỉ cắn kẻ gian mà thôi.
Nói xong sai Lan Hoa đưa ra cổng.
Đến gần tối, Chu Thủ bị về tới phủ là vào ngay hậu sảnh, vào thăm Xuân Mai. A hoàn xúm xít xung quanh cởi mũ áo.
Chu Thủ bị nhìn vợ nhìn con, vui vẻ ngồi xuống. Hải Đường đem trà tới trong khi Nguyệt Quế dọn cơm rượu.
Chu Thủ bị kể chuyện đi khám xét các nơi cho vợ nghe. Qua vài tuần trà thì ăn cơm. Xuân Mai ngồi bên cùng ăn và tiếp cho chồng.
Cơm xong, trời vừa tối, a hoàn đốt đèn lên, Chu Thủ bị và Xuân Mai uống trà, sau đó lại bày rượu, vừa uống rượu vừa trò chuyện. Chu Thủ bị hỏi:
- Hôm nay ở nhà có chuyện gì lạ không?
Xuân Mai lấy tấm thiếp của Ngô Nguyệt nương ra đưa cho chồng mà nói:
- Tên gia nhân của Tây Môn Đại nương là thằng Bình An lấy trộm nữ trang, bị Ngô Tuần kiểm bắt giam và đánh đập. Đại nương sai người làm đơn tới xin lãnh vật mất trộm về, Ngô Tuần kiểm đã không chịu, lại còn đòi hối lộ rồi vu cáo cho Đại nương là thông gian với tên gia nhân Đại An, lại doa. là đem chuyện này lên phủ lên huyện.
Chu Thủ bị coi thiếp xong nói:
- Việc này là thuộc thẩm quyền của tôi, đem lên phủ lên huyện nào? tên Ngô Tuần kiểm như vậy là gian ác, để mai tôi cho nắm đầu nó lại đây. Tôi biết tên Ngô Tuần kiểm này trước là quản lý của Tây Môn Khánh được chủ sai đem lễ lên phủ Thái sư ở Đông Kinh rồi được chủ xin xỏ cho mà có chức tước, sao bây giờ lại dám vu cáo cho vợ chủ.
Xuân Mai bảo:
- Chính vì vậy mà ngày mai chàng nên xử vụ này cho Tây Môn Đại nương được nhờ.
Uống rượu trò chuyện một lát, vợ chồng vào giường an nghỉ.
Hôm sau, Chu Thủ bị cho làm công văn sai Trương Thắng và Lý An đòi Nguyệt nương và cả Ngô Tuần kiểm tới hầu.
Trương, Lý tới nhà Nguyệt nương trước, được Nguyệt nương sai dọn rượu thịt thết đãi. Mỗi người lại được thưởng một lạng bạc gọi là đền công nhọc mệt. Phó quản lý không khoẻ nên Ngô Nhị cữu đi thay.
Ngô Tuần kiểm thì mấy hôm liền, không thấy Nguyệt nương cho người tới hối lộ, đang định cho làm văn thư trình lên huyện và phủ thì nghe có hai người công sai của phủ Thủ bị mang công văn tới.
Ngô Tuần kiểm đọc công văn, thấy triện son đỏ chói, bút phê của Chu Thủ bị rành rành đòi lên hầu thì hoảng lên, biết là bị Nguyệt nương phản công, liền dúi cho Trương, Lý mỗi người hai lạng bạc, rồi lật đật tới phủ Thủ bị đứng chờ, không quên cho lính dẫn Bình An đi theo.
Chu Thủ bị đăng đường, quan lại ngồi hai bên nghiêm chỉnh, quân lính gươm giáo sáng quắc đứng hầu. Chu Thủ bị gọi Ngô Tuần kiểm vào trình nội vụ. Ngô Tuần kiểm khúm núm đưa hồ sơ lên. Chu Thủ bị coi xong cau mày bảo:
- Chuyện này là thuộc thẩm quyền của ta, sao Tuần kiểm không trình sớm, mà cứ giam người tại ty là thế nào? thật là tệ.
Tuần kiểm khúm núm:
- Bẩm đại quan, tiện chức đang cho làm văn thư, đợi làm xong thì trình ngay.
Chu Thủ bị nạt:
- Ngươi là tên cẩu quan đáng ghét, dám lộng quyền khinh mạn phép vuạ Ta nhận sắc thư của triều đình lo mọi việc tại địa phương này, vừa coi quân vụ, vừa giữ gìn an ninh, trừng trị trộm cướp, vừa coi việc sông ngòi, chức chưởng của ta được ấn định rõ ràng, ngươi cố tình không biết, dám tự động bắt giam người, đánh đập người, lại còn vu cáo cho người nữa, rõ ràng là ngươi hành động tác tệ, còn chối cãi gì?
Ngô Tuần kiểm lật đật lột mũ ra, quỳ xuống rập đầu thưa:
- Xin thượng quan minh xét chọ.
Chu Thủ bị quát:
- Đáng lẽ là bản chức phải trừng trị ngươi, nhưng vì tình mà tha cho lần này, lần tới tái phạm, bản chức quyết không dung.
Nói xong, cho gọi Bình An tới, đập án thư mà quát:
- Tên nô tài kia, mày đã trộm đồ vật của chủ lại còn vu oan cho chủ. Đứa nào cũng như mày, thế gian này còn ai dám nuôi kẻ ăn người ở nữa?
Đoạn quay lại quát tả hữu:
- Lôi cổ nó ra đánh ba chục trượng cho tạ Bao nhiêu đồ vật trộm được sẽ giao hoàn khổ chủ, đồ vật nào lỡ bán đi cũng phải lấy lại.
Một mặt gọi Ngô Nhị cữu lên, trả lại lá đơn đã có lời phê, rồi sai cùng Trương Thắng đem thiếp của mình tới báo cho Nguyệt nương biết.
Nguyệt nương dọn rượu thịt khoản đãi Trương Thắng rồi thưởng thêm một lạng bạc nữa. Trương Thắng ăn uống xong, nhận bạc rồi cảm tạ, trở về thưa lại với Chu Thủ bị và Xuân Mai.
Tới chiều, người cầm đồ tới đòi, Nguyệt nương trả đủ số vật đã mất, người này nhận lại rồi đi, không nói một lời.
Phó quản lý mới đầu cảm sốt rồi sau thành thương hàn, điều trị không bớt, bảy ngày sau thì từ trần. Nguyệt nương sai Nhị cữu và Đại An trông coi tiệm dược phẩm để kiếm lời sông qua ngày.
Ít hôm sau, Nguyệt nương cho gọi Tiết tẩu tới đền ơn mấy lạng bạc, nhưng Tiết tẩu từ chối:
- Tôi không dám lấy đâu, lấy như vậy rồi ăn nói làm sao với phu nhân Chu lão gia.
Nguyệt nương bảo:
- Tẩu tẩu cũng có công lao mệt nhọc, tôi còn phiền luỵ nhiều, cứ lấy đi, tôi không nói ra thì làm sao phu nhân biết được.
Nói xong lại nhờ Tiết tẩu đem lễ vật, gồm bốn món ăn, nửa con lợn, nửa con dê, một vò rượu và một xấp đoạn, đem tới phủ Thủ bị tạ Ơn Xuân Mai. Đại An ăn mặc tử tế cầm thiếp đi theo.
Hai người đem lễ vật vào hậu đường, Xuân Mai bước ra, đầu đội mũ kim lương, mình mặc quần áo gấm thêu, a hoàn xúm xít xung quanh.
Đại An bước tới sụp lạy mà đưa thiếp. Xuân Mai nhận thiếp rồi sai a hoàn đem trà mời uống. Đoạn bảo:
- Chuyện không đáng gì mà Đại nương ở nhà phải phí tâm, xin miễn đi cho mới phải. Đại nương cho quá nhiều như thế này, làm sao ta dám nhận, sợ lão gia ta không bằng lòng.
Đại An thưa:
- Đại nương tôi nói rằng chuyện tên Bình An khiến cho lão gia và phu nhân đây phải phí tâm, chẳng biết lấy gì báo đáp, chỉ có chút lễ mọn, xin phu nhân nhận cho, để thưởng cho người dưới.
Xuân Mai lắc đầu:
- Nhận làm sao được.
Tiết tẩu ngồi bên nói:
- Nếu phu nhân không nhận rồi tôi biết ăn nói làm sao với Đại nương?
Xuân Mai đành nhận món ăn và rượu thịt, còn xấp đọan thì trả về, lại thưởng cho Đại An mấy cái khăn và ba tiền, đọan hỏi:
- Ca nhi ở nhà mạnh không?
Đại An đáp:
- Ca nhi chơi đùa mạnh khoẻ lắm.
Xuân Mai lại hỏi:
- Ta nghe nói ngươi và Tiểu Ngọc đã thành vợ chồng, từ bao giờ vậy?
Đại An đáp:
- Mới hồi tháng tám.
Xuân Mai bảo:
- Ngươi về thưa với Đại nương là lão gia và ta cám ơn lắm, hôm nào rảnh, thỉnh Đại nương sang đây chơi. Hồi này ta cũng rảnh, đợi ra giêng, ca nhi ở đây đầy năm xong là ta cũng tới thăm Đại nương.
Đại An nói:
- Để tôi về thưa lại, Đại nương tôi sẽ tới thăm phu nhân.
Nói xong đứng dậy cáo từ. Tiết tẩu bảo:
- Chú mày cứ về trước, ta còn ở lại hầu chuyện phu nhân đây.
Đại An ra về. Tới nhà thưa với chủ:
- Phu nhân tiếp đãi tử tế lắm, nói là hôm nào thỉnh Đại nương quá bộ qua chơi. Phu nhân mời tôi uống trà, hỏi thăm ca nhi, cho tôi mấy chiếc khăn và ba tiền, lại dặn là cảm ơn Đại nương nhiều lắm, ra giêng sẽ qua thăm Đại nương.
Nguyệt nương chưa kịp nói gì, Đại An đã kể tiếp:
- Phu nhân sang trọng lắm, một mình ở nguyên một toà hậu đường năm gian đồ sộ, đầu đội mũ kim lương, mặc toàn quần áo gấm thêu, hồi này mập mạp hơn trước, gia nhân a hoàn chật nhà.
Nguyệt nương hỏi:
- Có thật Xuân Mai nói là ra giêng sẽ tới thăm ta không?
Đại An đáp:
- Thật mà, phu nhân dặn tôi phải thưa lại như vậy.
Nguyệt nương bảo:
- Nếu vậy thì ta sẽ cho người tới rước.
Lại hỏi:
- À, còn Tiết tẩu đâu, sao không thấy?
Đại An đáp:
- Lúc tôi về thì Tiết tẩu còn ngồi lại nói chuyện với phu nhân.
Từ đó hai nhà đi lại với nhau mật thiết lắm.
Thật là:
Thế thái nhiều khi ấm lạnh,
Nhân tình có lúc nhạt nồng.
Nói cho cùng, trò đời là như vậy, ăn ở tiền khinh hậu trọng đâu phải chỉ có một mình Nguyệt nương.
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top