Kiến thức căn bản Phật giáo

KIẾN THỨC

CĂN BẢN PHẬT GIÁO

TT.Thích Bảo Lạc

--- o0o ---

CHƯƠNG 1

KHÁI NIỆM

1.- KHỞI NGUYÊN PHẬT GIÁO (^)

Xã hội Ấn-Độ lúc bấy giờ (năm 624 trước kỷ nguyên Tây lịch) chia ra thành nhiều giai cấp khác nhau. Mỗi giai cấp giữ một thế sinh hoạt riêng biệt. Lịch sử còn chứng minh có ít nhất là bốn giai cấp, trong mỗi giai cấp đều có sự bất bình đẳng không thể tưởng tượng được trong kiếp người !

Giai cấp đứng đầu là Bà-La-Môn (Blamon) hay giáo sĩ chuyên việc tế tự và có uy tín tuyệt đối trong đám quần chúng. Thứ đến là giai cấp Sát-Đế-Lợi (Ksatrya) hay dòng dõi vua chúa có uy quyền tối cao, chi phối toàn thể dân tộc Ấn-Độ. Giai cấp thứ ba là Phệ-Xá (Vaisya) hay giới bình dân và cuối cùng là giai cấp Thủ-Đà-La (Sudra) tức là hạng người suốt đời làm nô lệ cho ba giai cấp trên, còn gọi là bất xúc dân (untouchables). Họ sống một cuộc đời cơ cực lầm than, không có quyền ăn nói và cũng không được đóng góp ngang hàng với mọi người, như một giống dân mọi rợ sống bên lề của xã hội.

Với một tình trạng xã hội đầy bất công như thế, Đức Phật Thích-Ca thị hiện ra đời tại thành Ca-Tỳ-La-Vệ, thuộc Trung Ấn-Độ vào ngày rằm tháng tư âm lịch 624 năm trước kỷ nguyên (năm nay Phật lịch là 2541 - 1997 = 544 năm). Sau khi ra đời Đức Phật nhìn thấy cảnh khổ của chúng sanh, Ngài quyết chí xuất gia tầm đạo để giải thoát cảnh khổ cho con người trong xã hội. Ròng rã suốt sáu năm tu khổ hạnh trong rừng sâu và 49 ngày nhập định dưới cây bồ-đề, Đức Phật đã giác ngộ được đạo quả Vô-Thượng Chánh-Đẳng Chánh-Giác vào ngày mùng 8 tháng 12 âm lịch. Bánh xe pháp bắt đầu chuyển lần đầu tiên tại vườn Lộc-Uyển để độ cho năm người bạn đồng tu với Ngài lúc trước là các ông Kiền-Trần-Như bằng pháp Tứ-Đế và chính năm vị tỳ kheo nầy liền sau đó đều chứng quả A-La-Hán.

Lịch trình và khởi nguyên của Phật giáo qua nhiều chặng đường lịch sử do sự chứng ngộ mà Phật đã đạt được để dẫn dắt người đời đồng tu đồng chứng qua câu nói muôn đời bất diệt của Ngài :

"Ta là Phật đã thành, các ngươi là Phật sẽ thành".

2.- PHẬT GIÁO THÀNH HÌNH TỪ LÚC NÀO ? (^)

Phật giáo chỉ thật sự thành hình sau khi đức Phật Thích-Ca Mâu-Ni ra đời, hành đạo và chứng quả. Phật giáo, do chữ Phật (Buddha) ghép chung với chữ Pháp (Dharma) tức là giáo pháp của Ngài mà thành một tôn giáo hay một triết thuyết.

Sự xuất thế của đức Phật Thích-Ca trải qua các giao đoạn thực hành phương pháp tu tập, giác ngộ chân lý và thuyết pháp giáo hóa chúng sanh suốt trong 49 năm tại thế là một bài học sống động, hùng hồn nhất trong lịch sử xã hội loài người. Phật vì một đại sự nhân duyên là "khai thị chúng sanh ngộ nhập Phật tri kiến" (chỉ bày cho chúng-sanh giác-ngộ được trí-tuệ sáng-suốt Phật tánh) mà hiện thân ra cỏi đời. Ngài không đến với loài người bằng uy quyền, thế lực mà đến với một tâm đại từ-bi, đại hùng-lực để dẫn dắt con người tu-tập pháp lành và cầu đạt được chân-lý giải-thoát mọi sự khổ ở đời.

Lịch-sử chứng-minh rõ-ràng, sau khi Phật nhập diệt, giáo pháp của Ngài được các chúng đệ tử kiết tập lại thành giáo điển qua bốn lần diễn ra tại những địa điểm và thời gian khác nhau. Điều nầy còn chứng tỏ rằng Phật giáo đã thành hình ngay từ khi đức Phật còn tại thế và suốt trong 25 thế kỷ trôi qua với biết bao nhiều triều đại đã sụp đỗ mà giáo pháp của Phật và sự hiện diện của Phật giáo trong xã hội loài người khắp nơi trên mặt trái đất vẫn còn tồn tại mãi mãi với thời gian...

Đạo Phật là đạo như thật, lấy từ bi, trí giác soi sáng lương tâm nhân loại qua mọi thời đại để cải tạo con người và xã hội được công bằng, hợp lý trong tinh thần lợi tha, vô ngã. Vì thế các dân tộc Tây-phương ngày nay đang tìm về với triết học Đông-phương mà Phật giáo là đề tài hấp dẫn qua môn Thiền-học hay Tư-duy (meditation) để định tỉnh tâm tư mà họ đang quay cuồng trong xã hội văn minh vật chất nên không tìm ra được một lối thoát thoải mái cho đời sống nội tâm.

Sự có mặt của Phật giáo trong cuộc đời cũng có nghĩa là còn ánh sáng của chân lý soi thấu tận cùng trong tâm thức tối tăm của loài người đang tới hồi kiệt lực vì sự cạnh tranh sanh tồn của cuộc sống phức tạp, đa diện hiện nay.

3.- PHẬT GIÁO QUAN NIỆM THẾ NÀO VỀ CUỘC ĐỜI VÀ CON NGƯỜI ? (NHÂN SINH QUAN) (^)

Con người là một hợp chất do 4 yếu tố : Đất, nước, gió, lửa hợp lại mà thành hình và chỉ tồn tại trong khoảng thời gian hữu hạn chừng trăm năm, rồi các yếu tố vật chất kia đều tan rã trở về nguyên trạng thái cũ, còn phần thần thức đi đầu thai làm kiếp khác do một nghiệp lực dẫn dắt đến cảnh giới an vui hay khổ sở.

Như vậy con người theo quan niệm của Phật giáo có hai phần là tinh thần và thân xác. Tinh thần không thể tồn tại ngoài thân xác, cũng như thân xác không thể thiếu tinh thần là phần trí tuệ hiểu biết, sự phán đoán đúng sai mọi sự mọi vật. Vì thế, sống ở đời con người cố gắng tu sửa hành vi, ngôn ngữ, tư tưởng ... để khi thân xác nầy tan rã được sanh về cảnh giới an lành.

Chư Phật xuất thế, các vị Bồ-Tát hiện thân ra đời đều mang thân xác như người, nhưng các Ngài giác ngộ được nhờ vận dụng tinh thần và chuyên tâm tu tập mà thành tựu viên mãn. Cuộc đời nầy được coi như là cỏi tạm và con người chỉ hiện diện được theo đúng chu kỳ có giới hạn rồi thân xác lại trả về cho 4 trạng thái như lúc ban đầu và tinh thần rời khỏi xác để nương vào một lớp khác mà tồn tại. Do đó, câu nói "sống gởi thác về" để chỉ cho cỏi thế gian lúc ta sống và sau khi chết sẽ về một cảnh giới an lành khác là thế giới Cực-Lạc của đức Phật A-Di-Đà. Nơi đó vĩnh viễn không già, không chết mà mọi người được sống đời an lạc tự tại. Đó là quan niệm theo pháp môn tu Tịnh-Độ, còn người thực hành pháp tu Thiền-Định một khi tỏ ngộ được chân tâm tức kiến tánh thành Phật. Nếu không tận lực tu tập đạo hạnh, chúng ta khó mong giải thoát được các nghiệp chướng ràng buộc mà muốn được như vậy con người sống ở đời phải làm tròn bổn phận của mình để xây dựng xã hội nhân gian tốt đẹp, đó là một cách cải thiện hay trang nghiêm cõi Tịnh-Độ trong tương lai sau khi nhắm mắt lìa đời.

Việc làm đẹp cá nhân và xây dựng tâm thể vững mạnh để tạo được một xã hội có trật tự và hòa bình mà Phật giáo chủ trương, nếu không gọi là sự tích cực lành mạnh hóa cỏi đời uế trược thành cảnh Tịnh-Độ nhân gian là gì ?

4.- PHẬT GIÁO QUAN NIỆM THẾ NÀO VIỆC HÌNH THÀNH THẾ GIỚI ? (VŨ TRỤ QUAN) (^)

Một Thái-dương-hệ gồm mặt trời, mặt trăng và trái đất gọi là vũ trụ. Phật giáo quan niệm thế nào về thế giới hiện thực mà chúng ta đang sống ?

Phật giáo không cho rằng chỉ có một thế giới duy nhất mà ngoài vũ trụ nầy còn có vô số cảnh giới khác nhau, như 33 cõi trời thuộc về Sắc-giới và Vô-sắc-giới, còn cõi thế gian nầy thuộc về Dục-giới. Theo như kinh Hoa-Nghiêm luận rằng pháp giới trùng trùng duyên khởi tức là các cảnh giới chồng chất nhau do nhân duyên hình thành. Ngoài ra, Kinh Kim-Cang chủ trương phá ngã chấp, sắc thân để chứng nhập chân tâm hay bản lai diện mục của con người, trong khi kinh Bát-Nhã với vạn pháp đều vô tướng, vì tất cả đều không tăng, không giảm, không sanh, không diệt, không dơ, không sạch ... để hướng dẫn con người đừng mê chấp vào đó mà bị kẹt không thoát ra được ngoài quan niệm thường tình của thế gian về sự vọng chấp qua tướng mạo, hình dung.

Vũ trụ nầy hình thành là do các nhân duyên hợp lại và tồn tại đúng chu kỳ rồi cũng bị hoại diệt như con người qua 4 thời kỳ : Thành, trụ, hoại, không. Vì căn thân và thế giới có là do nơi mỗi niệm của chúng sanh mà tồn tại, cũng như vũ trụ chỉ là một tập hợp các tinh thể lại và đây chỉ là một trong những cõi khác nhau, không có gì lớn lao, vĩ đại cả. Hơn nữa, vũ trụ không làm áp đảo được con người mà chính loài người ngày nay đã chinh phục được cả vũ trụ như việc thám hiểm cung trăng qua những cuộc bắn hỏa tiển và đưa người vào không gian. Điều khoa học khám phá ra được hiện giờ đủ chứng minh cho thấy rằng những lời dạy của đức Phật cách đây 25 thế kỷ vẫn là chân lý và sẽ còn được nhân loại triển khai ở các mức độ khác nhau do tầm hiểu biết của con người.

Vũ trụ được quan niệm một cách có khoa học như Phật giáo, điều nầy có nghĩa là ngày nào khoa học kỹ thuật càng tiến bộ thì Phật giáo càng đứng vững vàng trong phạm vi nghiêm cứu về thế giới hữu hình và vô hình.

5.- PHẬT GIÁO VÀ TRIẾT HỌC (^)

Phật giáo là một tôn giáo hay triết học ? Câu hỏi nầy được nêu ra và mãi cho đến trong khoảng thời gian gần đây, khi khoa học tiến bộ, nhất là về khoa nhân chủng học (khoa học nhân văn), khoa-học xã-hội, tôn-giáo, xã-hội-học ... đã tìm ra được lời giải đáp cho vấn đề trên một cách thỏa đáng.

Phật giáo với kho tàng kinh điển phong phú gồm Kinh, Luật, Luận gọi là tam tạng mà trong đó chỉ dẫn phương pháp tu tập rõ ràng rành mạch để giúp cho con người vượt ra khỏi cảnh giới tối tăm đau khổ của thế gian và đạt đến quả vị giải thoát an vui. Đối với muôn loài vạn vật trong các cõi, nếu biết áp dụng đúng cách, chúng sinh cũng đều được quả báo tốt đẹp trong kiếp tương lai. Như thế, chúng ta có thể gọi Phật giáo là một tôn giáo. Nhưng nếu chỉ luận như trên rồi dừng lại và cho rằng Phật giáo là tôn giáo như nhiều tôn giáo khác hẳn không được đúng. Vì sao ? Ngoài sự hiện hữu của muôn vật trong vũ trụ ra, Phật giáo còn chủ trương có các cảnh giới khác nhau. Các cảnh giới đó ở trọng 3 cõi : Dục-giới, Sắc-giới và Vô-sắc-giới. Mỗi một cảnh giới đều có sự cấu tạo theo một chu kỳ qua 4 giai đoạn thành, trụ, hoại, không (diệt) mà ngày nay khoa học đã khám phá ra được sự hình thành của những tinh thể quả đúng như chân lý mà đức Phật đã khám phá ra cách đây 25 thế kỷ. Điều nầy cho chúng ta kết luận được rằng Phật giáo là triết học. Đứng về mặt tu chứng và các quả vị để nhìn, người ta cho rằng Phật giáo là tôn giáo cũng đúng, còn đứng trên lý luận thành lập vũ trụ và các cảnh giới khác nhau để phân tích, chúng ta có thể kết luận Phật giáo là triết học cũng không sai.

Riêng đối với những ai ít có dịp nghiên cứu tới kinh điển của đạo Phật, có thể ngộ nhận cho rằng lối lập luận như thế nào có tính cách co dản quá, nhưng nếu đi sâu vào rừng giáo điển của Phật giáo và phóng cái nhìn ngay thật, người ta sẽ không còn có điểm nghi ngờ và hiểu thiên lệch sự vật được.

Tóm lại, Phật giáo bao hàm cả triết học và tôn giáo. Tùy theo tầm nhìn của chúng ta mà Phật giáo được quan niệm như một tôn giáo hay như môn triết học cũng đều được cả.

6.- ĐỨC GIÁO CHỦ THÍCH CA MÂU NI PHẬT (^)

Đức Phật Thích-Ca Mâu-Ni (Sakya Muni) là thái tử Tất-Đạt-Đa (Shidartha), con vua Tịnh-Phạn (Suddhodana) và hoàng hậu Ma-Da (Maya), nước Ca-Tỳ-La (Kapilavastu) thuộc miền Trung Ấn-Độ.

Họ của Phật là Kiều-Đáp-Ma hay còn gọi là Cù-Đàm. Còn chữ Thích-Ca (Sakya) có nghĩa là "năng nhân", có ý nói người ưa làm việc lợi lành trong tinh thần nhân đạo và là tên của một chủng tộc ; chữ Mâu-Ni (Muni) là tịch mặc, chỉ cho sự yên tỉnh của tâm thức. Danh từ Phật chỉ có sau khi Ngài chứng được đạo quả và đạt được 3 yếu tính : Tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn. Sự giác ngộ ấy do công trình tu tập tự thân mà đạt thành rồi đức Phật đem điều đã giác ngộ chỉ dạy cho nhiều người tu tập để đạt tới được sự thanh thảnh của tâm thức, cho đến khi trọn được hạnh nguyện nên gọi Phật hay Thế-Tôn, là lời tôn sùng tán dương đức Giáo-chủ Thích-Ca Mâu-Ni.

Đức Phật nhờ công tu hành mà đạt được đạo. Ngài không như một vị thần quyền thế lực, cũng như không do phép thần linh biến hiện ra đời. Từ là một Thái-tử, Ngài vượt ra sự ràng buộc của những lạc thú vật chất để quyết chí xuất gia tìm ra chân lý cứu độ chúng sinh đang trầm luân trong biển khổ. Chính ý chí cương quyết, dứt khoát ấy, đức Phật đã vượt qua các pháp tu khổ hạnh trong 6 năm và chứng ngộ được đạo quả vào một buổi bình minh ngày mồng 8 tháng 12, sau khi đã trải qua 49 ngày tư duy dưới gốc cây Bồ-Đề với lời thề nguyền sắt đá : "Nếu không thành đạo chứng quả, dù thịt nát xương tan, ta quyết không rời khỏi chỗ ngồi nầy".

Sau khi chứng được đạo quả, đức Thế-Tôn đi chu du khắp xứ Ấn-Độ thuyết pháp độ sanh trong 49 năm và cuối cùng Ngài vào Niết-Bàn tại thành Câu-Thi-Na trong rừng cây Ta-La Song-Thọ. Ngài thọ được 80 tuổi. Phật nhập diệt rồi, giáo pháp của Ngài được các hàng đệ tử kết tập thành 3 tạng : Kinh, Luật, Luận và truyền lại mãi cho đến ngày nay.

Đức Phật Thích-Ca đã đến với nhân loại và mang lại cho loài người một bài học quí giá như phương thuốc chữa cơn bịnh trầm kha, nếu thực hành đúng ta sẽ thấy sự ứng nghiệm hoàn toàn, tức đạt đến chỗ giải thoát, giác ngộ như Phật.

7.- GIÁO PHÁP (^)

Phật giáo gồm một hệ thống triết lý đa diện, cống hiến cho xã hội loài người mặt an sinh và tu chứng.

Mặt an sinh xã hội, Phật giáo chủ trương thế giới đại đồng huynh đệ trong tình tương thân tương ái ; còn về mặt tu chứng, với phương pháp tu hành đạt đến giải thoát khỏi luân hồi, sanh tử để chứng nhập vào cảnh Niết-Bàn (Nirvana) tịch tịnh an vui.

Phật giáo vì thế được quan niệm như là một tôn giáo, một triết lý sống thực, một siêu hình học hay là một mớ giáo điều mê tín dị đoan như người duy vật nhận xét thì Phật giáo vẫn giữ được nguyên cương vị của nó trên mọi bình diện khách quan. Vì chân lý không bao giờ thay đổi trước bất cứ một thế lực hay khuynh hướng chánh trị nào. Điều nầy đủ chứng tỏ cho thấy giáo pháp của Đức Phật suốt trên 2500 năm lịch sử vẫn giữ được địa vị độc tôn mà không bị sự chi phối bởi không gian và thời gian. Dù chúng ta đứng ở khía cạnh nào để nhìn đi nữa, Phật giáo vẫn đúng theo tầm nhận xét của con người trong mọi thời đại. Một ví dụ cụ thể hơn, trong các nước thuộc Xã-hội Chủ-nghĩa ngày nay, người Cộng-sản cho rằng tôn giáo là thuốc phiện ru ngủ quần chúng, lừa bịp một số người nhẹ dạ, dễ tin. Mục đích của họ là cố tách rời số tín đồ đông đảo đang tinh theo tôn giáo bằng những lối tuyên truyền độc đáo, nhưng âm mưu chánh trị nầy đã bị phơi bày trước ánh sáng của chân lý. Chúng ta khẳng định một cách dứt khoát rằng, không riêng ở Việt-Nam ngày nay mà ở bất cứ một quốc gia nào đạo Phật đã thâm nhập vào trong lòng dân tộc đó rồi thì cái tinh ba của Phật giáo như một chất keo gắn liền với con người bản xứ vậy.

Phật giáo luôn luôn tồn tại dưới bất cứ một chế độ chánh trị nào, nếu bị tiêu diệt, đó cũng chỉ là một hình thức Phật giáo mà không ai có thể tẩy xóa được đức tin sâu xa của người Phật tử !

8.- TỨ ĐẾ LÀ GÌ ? HÌNH TƯỚNG VÀ SỰ ẢNH HƯỞNG RA SAO ? (^)

Tứ-Đế hay còn gọi là Tứ-Thánh-Đế là bốn pháp căn bản để làm trợ duyên cho việc tu tập đạt đến chân lý, tức là thấu triệt được cái chân tướng của vạn vật vậy.

Tứ-Đế không có hình tướng, vì cái Khổ không thể hình dung ra được nó lớn, nhỏ, dài, ngắn là thế nào cả nên gọi Khổ đế (đế là điều chắc thật). Những hạt mầm kết tụ lại từ nhiều đời, tức là sức chứa nhóm trong "Tập-Đế". Khi nào ta trừ được cái khổ, không cho dây dưa những hạt mầm nẩy nở nữa, đó là "Diệt-Đế". Cuối cùng đạt đến chân lý trong phần "Đạo-Đế" là phần thứ tư trong pháp bốn đế.

Đức Phật Thích-Ca đã thân chứng và giác ngộ được chân lý giải thoát dưới cội Bồ-Đề sau 49 ngày đêm tư duy và lần đầu tiên Ngài chuyển bánh xe pháp độ cho 5 anh em ông Kiều-Trần-Như tại vườn Lộc-Giả bằng pháp bốn đế.

Con người do cái khổ triền miên kết tập từ lâu đời nên phải chịu trong vòng luân hồi, sanh tử. Quan sát cái khổ và nguyên nhân phát sinh ra khổ để tận diệt thì những mầm mống khổ, những ý niệm sai lầm cũng tiêu tan, tức là ta đã tìm cách diệt được nguyên nhân của khổ. Một khi cái khổ không còn thì con đường đạo sẽ rộng mở thênh thang, để chúng ta ung dung tự tại đi tới cứu cánh của đạo giải thoát. Trong pháp bốn đế có thể chia ra hai phạm vi : thế tục và xuất thế. Khổ và Tập thuộc về tục đế, còn Diệt và Đạo thuộc về thánh đế. Sống ở đời con người biết là khổ nhưng không làm sao tránh cho khỏi được khổ mà chỉ có những người tu hành ngộ đạo mới lìa khổ được vui.

Người nào muốn thực hành cái đạo chân thật phải quan sát kỹ bốn tướng trạng của pháp Tứ-Đế nầy.

Pháp bốn đế tóm lược như bảng dưới đây :

TỨ-ĐẾ

KHỒ ĐẾ TẬP ĐẾ DIỆT ĐẾ ĐẠO ĐẾ

Thế gian xuất thế gian

9.- THẬP NHI NHÂN DUYÊN LÀ GÌ ? CÓ SỰ LIÊN HỆ MẬT THIẾT NÀO GIỬA CÁC PHÁP ẤY ? (^)

Mười hai nhân duyên là đầu mối của kiếp sống con người. Nó là hạt giống tạo ra thế giới của muôn loài vạn vật có hình dạng sai khác ở thế gian.

Con người từ khi thọ thai, cho tới khi ra chào đời, được nuôi dưỡng lớn lên, rồi tồn tại cho tới khi chết là cả một trường kỳ phấn đầu không ngừng nghỉ. Từ chỗ vô minh, con người thọ hình hài nhi do hai giọt máu huyết kết tinh của cha mẹ tạo thành và lớn dần theo năm tháng, cho đến ngày đứa bé ra chào đời là một chuổi xích liên hệ chặc chẻ với nhiều yếu tố khác nhau hợp lại. Mười hai nhân duyên gồm có : Vô-minh, Hành, Thức, Danh-sắc, Lục-nhập, Xúc, Thọ, Ái, Thủ, Hữu, Sanh, Lão Tử ; tức là do từ chỗ không sáng suốt, hành vi tạo tác, nhận thức hình sắc của vật thể dài ngắn, rộng hẹp, xấu tốt .., sáu yếu tố tạo thành cơ thể : Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý đụng chạm với hoàn cảnh hay khi ra tiếp xúc với đời, thọ nhận những thứ tình cảm như yêu, ghét, đau, buồn, khổ sở, giữ chặc làm của riêng, sinh ra đời, già và chết. Do 12 nhân duyên nầy dẫn dắt con người tới bất cứ một thế giới nào do nghiệp lực đã tạo trong quá khứ cảm thọ nên. Động cơ chính thúc đẩy là do vô minh mà có căn thân và thế giới hiện thực.

Cái vòng lẩn quẩn nầy, tất cả chúng ta dù giàu nghèo, sang hèn đều không ai tránh khỏi được. Kiếp người cứ theo đó tiếp tục trôi lăn mãi không ngừng nghỉ như bánh xe lăn.

Muốn phá tan được vô minh phải tu tập để không thọ thai trong kiếp sau nữa, vì vô minh là đầu mối của dòng sanh tử vô tận.

10.- NHÂN QUẢ TRONG PHẬT GIÁO CÓ PHẢI LÀ MỘT HÌNH THỨC PHẢN KHOA HỌC TIẾN BỘ KHÔNG ? (^)

Phật giáo quan niệm lý nhân quả một cách rộng rãi và khoa học. Vậy nhân quả trong Phật giáo có phải là một hình thức phản khoa học tiến bộ không ?

Nhân là hột mầm, quả là sự hình thành do từ cái nhân tức hạt mầm mà ra. Nhân xấu thì quả xấu và nhân tốt thì quả tốt. Đó là một quan niệm rất thực tế, như người gieo hạt hay lúa mạ lúc làm mùa. Khi gieo giống ta phải chờ một thời gian ba hoặc bốn tháng mới có kết quả được. Nhưng có khi chúng ta gieo hạt giống tốt, nhưng gặp phải khí hậu hay thời tiết xấu và sự thay đổi bất thường như hạn hán, bão lụt, dĩ nhiên cái kết quả sẽ không có được như ý ta mong muốn. Câu nói : "Nhân nào quả nấy" chỉ mới đúng được 70%, còn câu "gieo gió, gặp bão" cũng chưa hoàn toàn đúng 100% được. Cái nhân dù lớn hay nhỏ cũng là hạt giống, còn cái quả ra sao lại còn tùy thuộc nơi hoàn cảnh nữa. Phật giáo quan niệm lý nhân quả rất thực tế và chia ra làm ba thời kỳ : Hiện báo, sanh báo và hậu báo. Hiện báo là nhân và quả đồng thời xuất hiện cùng một lúc như đánh người ta sẽ bị đánh lại, kẻ trộm cướp bị giam tù ... Sanh báo là nhân gây ra xong nhưng chưa có kết quả liền mà phải chờ trong một thời gian 5 năm, 10 năm hoặc 20 năm sau quả báo mới đến, còn hậu báo là nhân và quả có khoảng cách rất xa như trong đời nầy ta gieo nhân nhưng mãi chờ cho đến đời con cháu sau nầy mới hiện thành quả báo.

Nhân quả là một chân lý đúng trong mọi trường hợp, nhưng khi nào chúng ta biết cởi mở trong việc tìm hiểu thì mới thấy rõ được chân giá trị của vấn đề rốt ráo.

11.- LUÂN HỔI TRONG PHẬT GIÁO CÓ PHẢI LÀ THUYẾT ĐỂ RU NGỦ VÀ DỖ NẠT QUẦN CHÚNG ? (^)

Khoa học mỗi ngày càng tiến bộ thì thuyết luân hồi trong Phật giáo càng được nghiên cứu một cách rộng rãi và cởi mở, không như người duy vật vội vàng lên án thuyết luân hồi chỉ để ru ngủ và có tính cách dọa nạt những người nhẹ dạ dễ tin.

Luân là xoay vần và hồi là trở lại. Như vậy, chữ luân hồi là một cái vòng tròng lẩn quẩn không có chỗ bắt đầu, cũng như không có nơi chấm dứt. Có người đưa ra vấn nạn : nếu quan niệm luân hồi theo Phật giáo như thế thì con gà và cái trứng gà, cái nào có trước ? Nếu bảo cái trứng gà có trước con gà là một điều phi lý, vì con gà chưa có thì con gì đẻ ra được trứng gà ? Còn như cho rằng con gà có trước trứng gà lại càng phi lý hơn nữa, vì con gà cũng do từ trong cái trứng gà mà ra !

Phật giáo chủ trương chúng sanh vì còn ở trong vòng thất tình, lục dục (xem bài riêng) nên cứ mãi đắp đổi lên xuống làm cha mẹ, anh em lẫn nhau không ngừng nghỉ. Chỉ khi nào con người nói riêng và mọi loài nói chung biết tu thiện để đạt đến được đạo quả giải thoát rồi mới rảnh nghiệp đi đầu thai và thoát ra khỏi vòng luân hồi. Luân hồi thường đi kèm theo với nghiệp chướng tức là những sự ràng buộc, vướng víu. Vì thế, những nhà tu theo đạo Phật phần đông không gia đình vợ con là muốn không còn dây dưa tái sanh trở lại trong vòng lục đạo chúng sanh nữa.

Thuyết luân hồi trong Phật giáo không phản lại khoa học, trái lại khoa học càng tiến bộ bao nhiêu lại càng cần phải có lý luân hồi để bổ túc cho những thiếu sót mà khoa học chưa đủ khả năng đạt được.

Quan niệm cho rằng thuyết luân hồi là để làm mê hoặc quần chúng hay là một thứ thuốc phiện làm ru ngủ nhiều người nên cần phải xa lánh. Đây là một lối nhồi sọ phan giáo dục và bóp chết tự do của con người mà chỉ có kẽ vô thần (vô tôn giáo, vô gia đình, vô tổ quốc) mới chủ trương một cách độc đáo như thế !

Trong đời sống hằng ngày, không nhiều thì ít chúng ta đều có nghe qua những việc luân hồi có thật và chính những người sống đồng thời với chúng ta trong cùng một nơi hay khác nhau về chủng tộc, quốc gia, nhưng việc đầu thai, thoát kiếp không còn là điều xa lạ hay mới mẽ nữa.

12.- QUẢ PHÚC, BÁO ỨNG LÀ GÌ ? (^)

Quả phúc và báo ứng là hai vấn đề nói lên khía cạnh nhân và quả thành hình liên tục trong Phật giáo.

Quả phúc là kết quả của việc làm phước. Kết quả có được là do nhờ nhiều nhân tố hợp thành. Nhân tốt thì quả tốt, còn nhân xấu dĩ nhiên kết quả sẽ xấu. Câu ca dao :

"Cây xanh thì lá cũng xanh,

Cha mẹ hiền lành để phúc cho con".

Có liên hệ đến lý nhân quả liên tục kéo dài từ đời nầy qua đời khác. Còn báo ứng là đền trả hay thù đáp lại cũng giống như quả báo. Như vậy, quả phúc và báo ứng giống hay khác nhau ? Chữ quả phúc bao hàm cái nghĩa thiện, còn báo ứng có sự trả vay vô hình do luật nhân quả hỗ tương mà thành. Có nhiều trường hợp ta làm thiện trong đời nầy liền được hưởng báo ứng ngay gọi là hiện báo. Có người làm nhiều việc lành nhưng hiện tại chưa được đền đáp xứng đáng mà phải chờ thời gian 5, 10, 20 hoặc 30 năm sau mới có báo ứng gọi là sanh báo, nhưng đôi khi còn có những trường hợp ta ra sức làm việc thiện và chờ mãi cho tới lúc lìa đời vẫn không thấy được chút phước báo nào tới cả mà phải đợi tới đời con cháu mới được hưởng phước gọi là hậu báo. Chữ báo ứng hay quả báo vì thế có ba nghĩa : Hiện báo, sanh báo và hậu báo như đã trình bày trên đây.

Khi biết qua ý nghĩa nầy rồi, chúng ta không còn thắc mắc hay trông chờ cũng như không chán nản, thối chí đạo tâm trong bất cứ một công việc làm thiện nào, dù nhỏ đến đâu cũng phải cố gắng làm cho đến cùng và cái kết quả tốt hay xấu đưa lại đều phải vui vẽ chấp nhận, thì mới tỏ ra xứng đáng là người thực hành và hiểu lý nhân quả của đạo Phật một cách đúng mức, không thiên lệch.

Thái độ chán nản, than trách số phận, chờ mong việc tốt đến ... là những việc không phải của người Phật tử chân chánh đã hiểu sâu về ý nghĩa của nhân và quả liên tục kéo dài.

13.- NGHIỆP, NGHIỆP LỰC, NGHIỆP CHƯỚNG KHÁC HAY GIỐNG NHAU ? (^)

Nghiệp đóng một vai trò quan trọng trong kiếp người, cho nên người Phật tử phải cẩn thận tìm hiểu vấn đề cho thật chính xác để biết được việc của chính mình làm.

Nghiệp là hành động, tức hành vi tạo tác do thân miệng và ý tạo thành. Nghiệp gồm có nghiệp lành và nghiệp ác. Phần lớn nghiệp của chúng ta tạo đều do ý chí quyết định cả. Nếu tư tưởng không nghĩ sai, hành động sẽ đúng. Nghiệp hay nghiệp lực chỉ cho hành động của ta có một sức mạnh phi thường không gì sánh nổi. Còn nghiệp chướng là hậu quả của hành động sai quấy đưa lại. Nghiệp gồm có hai loại là cộng nghiệp và biệt nghiệp, nói một cách khác là nghiệp chung và nghiệp riêng. Nghiệp chung do nhiều người tạo ra ở trong cùng một hoàn cảnh như trường hợp của một quốc gia lâm cảnh chiến tranh ; còn nghiệp riêng do chính mỗi người tạo. Cũng trong cùng cảnh binh lửa của chiến trường, chưa hẳn ai nấy đều chết theo lằn tên mũi đạn. Còn nếu phân chia theo kinh "nhân quả" dựa vào yếu tố thời gian thì nghiệp có bốn loại :

- Hiện nghiệp : Hành động nghĩ ra đều có kết quả.

- Sinh nghiệp : Phải chịu quả báo ở đời sau.

- Hậu nghiệp : Đời nầy tạo và phải chờ sang mấy đời sau mới chịu quả báo.

- Bất định nghiệp : Là hậu quả do hành động chúng ta không rõ sẽ xẩy ra lúc nào. Cũng có một lối phân chia khác : Nghiệp do nhiều đời còn lại, nghiệp do thói quen tạo ra, nghiệp cực trọng gồm cả thiện và ác, nghiệp lực lúc gần trút hơi thở lìa đời.

Những hành động của ta chưa hẳn đã mất đi khi chưa đủ yếu tố để hiện ra kết quả đó thôi. Người Phật tử biết được điều đó nên tránh gây nghiệp ác bằng cách tạo cho tư tưởng ngay chính trong đời sống để tránh quả báo chẳng lành về sau.

14.- KINH ĐIỂN TRONG PHẬT GIÁO CÓ HỆ THỐNG, THỨ LOẠI NÀO KHÔNG ? (^)

Kinh điển của Phật giáo nhiều vô số như rừng, biển bao la mà trong thời gian 49 năm tại thế, đức Phật Thích-Ca đã giảng thuyết và được hình thành trong ba tạng Thánh giáo.

Ba tạng là Kinh, Luật và Luận. Kinh điển để cho người thọ trì, đọc tụng, học hỏi ; Luật là những điều răn cấm không cho môn đệ Ngài làm điều lầm lỗi ; còn Luận là bàn rộng các vấn đề vũ trụ, nhân sinh mà đức Thích-Ca, chư Tổ, đã tu hành đạt đạo nói ra để dạy cho chúng ta con đường tu chứng giải thoát.

Sau khi đức Phật nhập Niết-Bàn, các môn đệ của Ngài tuần tự nhóm họp tăng chúng lại biên chép những lời của Phật nói thành hệ thống, thứ loại. Trải qua bốn thời kỳ kiết tập kinh điển :

Lần thứ nhất, sau khi Phật nhập diệt, tại thành Vương-Xá, núi Kỳ-Xà-Quật, thuộc nước Ma-Kiệt-Đà, có 500 Đại-Đức, Tỳ-kheo họp lại, do ngài Ca-Diếp làm chủ tịch và ngài A-Nan trình bày mọi diễn tiến, thời gian, nơi chốn Phật nói pháp.

Kỳ kiết tập lần thứ hai sau đức Thế-Tôn diệt độ khoảng 100 năm, chúng Tỳ-kheo nhóm họp lại được 700 người tại thành Tỳ-Xá-Ly và để giải quyết các nghi vấn trong giới luật, chứ chưa biên chép kinh điển bằng văn tự.

Lần kiết tập kinh điển thứ ba, cách Phật diệt độ 200 năm do vua A-Dục triệu tập được 1000 tăng sĩ tại thành Hoa-Thị và ngài Mục-Kiền-Liên được bầu làm chủ tịch, có tổ chức biên chép kinh điển hẳn hoi.

Lần kiếp tập kinh điển thứ tư, sau Phật nhập diệt khoảng 500 năm, do vua Ca-Nị Sắc-Tra triệu tập được 1500 người gồm cả tăng, tín đồ Phật giáo tới thành Ca-Thấp-Di-La kiết tập lời dạy của Phật. Lần nầy do ngài Hiếp tôn-giả và ngài Thế-Hữu chủ tọa và kinh điển cũng được biên chép cẩn thận.

Đó là những giai đoạn hình thành kho tàng kinh điển của Phật giáo còn được truyền bá sâu rộng đến các nước trên khắp thế giới ngày nay.

15.- KINH BÁT ĐẠI NHÂN GIÁC NÓI VỀ NHỮNG GÌ ? (^)

Bát-Đại-Nhân-Giác là 8 điều giác ngộ của bậc đại nhân, tức chỉ cho hạng Bồ-Tát vì phát nguyện rộng lớn vào đời cứu độ chúng sanh, lấy đây làm kim chỉ nam cho việc tu tập hàng ngày.

Tám điều giác ngộ là :

- Điều thứ nhất, giác ngộ được cuộc đời là vô thường. Tất cả mọi vật đều bị thay đổi, cho đến các yếu tố cấu tạo nên cơ thể đều không bền chắc và còn có tác dụng gây ra đau khổ nữa. Con người do một tập hợp các yếu tố vật chất, tinh thần mà thành, không có thực ngã, sự sanh và diệt thay đổi không ngừng, giả dối và không có chủ thể.

- Điều thứ hai, giác ngộ rằng càng nhiều ham muốn thì càng nhiều đau khổ, bởi mọi sự cực nhọc ở đời đều do lòng ham muốn mà ra. Trái lại, người ít ham muốn thì không bị hoàn cảnh chi phối. Thân và tâm đều được thư thái, nhẹ nhàng.

- Điều thứ ba, giác ngộ rằng, vì tâm ta đuổi theo danh lợi không nhàm chán, tội lỗi theo đó càng ngày càng tăng lên. Riêng đối với các bậc Bồ-Tát lại khác. Các Ngài luôn tưởng nghĩ tới điều tri túc (biết đủ), biết an vui để sống trong đạm bạc, lấy việc hành đạo và trí tuệ làm sự nghiệp lâu dài.

- Điều thứ tư, giác ngộ rằng tánh lười biếng đưa tới chỗ buông tha, vì vậy ta phải chuyên cần tu tập, phá giặc phiền não để khắc phục mọi ràng buộc, vướng mắc trong cỏi trời, người.

- Điều thứ năm, giác ngộ rằng do vô minh che lấp trí sáng suốt nên con người phải bị giam hảm trong sanh tử. Các vị Bồ-Tát nhờ học rộng, biết nhiều, phát triển trí tuệ và có tài biện luận thông suốt, nên giáo hóa chúng sanh cùng đạt tới niềm vui trọn vẹn.

- Điều thứ sáu, giác ngộ được sự nghèo khó khiến người ta dễ sinh ra oán hận và nuôi lòng căm thù, do đó càng ngày càng tạo thêm những nhân xấu. Các vị Bồ-Tát biết thế nên thực hiện phép tu bố thí. Đối với kẻ ghét, người thương đều coi bình đẳng như nhau, cũng như các Ngài bỏ qua điều ác mà người khác đã gây ra, không để tâm ghét bỏ kẻ làm điều ác đối với mình.

- Điều thứ bảy, giác ngộ được rằng năm thứ dục vọng (1) gây nên tội lỗi và tai họa. Người xuất gia tuy ở trong thế tục, nhưng không nhiễm theo cái vui của phàm tục, biết quan niệm được rằng tài sản của mình chỉ có 3 chiếc áo cà-sa và một bình bát. Vì chí nguyện của người xuất gia là sống thanh bần để tu hành và giữ hạnh thanh cao, cũng như đem lòng từ bi tiếp xử với tất cả mọi người không phân biệt giai cấp.

- Điều thứ tám, giác ngộ rằng vì lửa sanh tử cháy bùng cho nên mọi loài đang phải chịu biết bao niềm thống khổ. Do ý thức được điều đó, ta phải phát tâm Đại-thừa, nguyện cứu độ cho tất cả mọi người và nguyện thay thế cho mọi người chịu khổ. Một lòng cầu mong cho tất cả chúng sanh đều đạt tới niềm vui cứu cánh, giải thoát (2).

Với những nguyện lực cao cả như thế, người có tâm hạnh Bồ-Tát mới làm nổi việc khó làm nầy nên gọi là Đại Nhân vậy.

16.- THẬP THIỆN VÀ THẬP THIỆN NGHIỆP ĐẠO GIỐNG HAY KHÁC NHAU ? (^)

Thập Thiện là 10 điều lành mà người hành trì Phật giáo phải thực hành để nuôi lớn ý chí, nghị lực trong việc tu tập hầu đạt đến giải thoát khỏi mọi nghiệp lực chi phối nên còn gọi là Nghiệp đạo.

Do từ nơi thân thể, miệng và ý chúng ta phát ra mỗi hành vi, tư tưởng và cũng từ đó mà hình thành thế giới, vạn sự vạn vật trên thế gian nầy. Nếu người nào biết cải đổi 10 điều ác sẽ thành 10 điều lành như dưới đây :

- Thân có 3 là không sát sanh, không trộm cắp và không tà dâm.

(1) năm thứ dục vọng là : Của cải, sắc đẹp, danh vọng, ăn uống và ngủ nghỉ (tài, sắc, danh, thực, thùy).

(2) theo kinh Tám điều giác ngộ của bậc Đại Nhân do Nhất-Hạnh dịch và chú giải, xuất bản Lá Bối, Paris - 1979.

- Miệng có 4 là không nói dối, không nói lưỡi đòn xóc nhọn hai đầu, không nói lời chải chuốt êm tai và không sử dụng lời nói độc địa để chửi mắng kẻ khác.

- Ý có 3 là không tham lam, không sân hận và không si mê. Nếu mỗi người trong chúng ta đều hoàn thành được 10 điều lành như thế sẽ có được một giá trị đạo đức cao và xứng đáng là người tốt trong cộng đồng xã hội.

Trong ba nghiệp thân, miệng và ý đều có những hành động hỗ tương với nhau, tuy nhiên ý chí mới là phần quyết định quan trọng. Do động cơ của lòng tham xúi cho thân phạm vào tội sát sanh và trộm cắp. Do mê mờ nên phạm việc tà dâm, rồi do từ nóng giận và ngu si nên buông ra những lời nói thiếu cân nhắc kỹ lưỡng.

Ngăn chặn 10 điều ác do ý thức thiếu sáng suốt tạo nên và thực hành 10 việc lành lợi ích cho mình và người là ta sống đúng nhân cách của một người Phật tử chân chánh.

17.- KINH HOA NGHIÊM HÀM CHỨA NHỮNG GÌ ? VỀ BỘ LOẠI VÀ VIỆC PHIÊN DỊCH RA SAO ? (^)

Kinh Hoa-Nghiêm nói cho đủ là Đại-Phương-Quảng-Phật Hoa-Nghiêm Kinh, tức là pháp bao hàm cả vũ trụ, theo thứ lớp khó tính đếm được. Chính đức Phật Thích-Ca là người đã chứng được lý mầu của pháp rốt ráo nầy và nói ra kinh vậy.

Hai chữ Hoa-Nghiêm là ví cho Phật, vì chư Phật mới có đủ được vạn hạnh như đóa hoa muôn sắc và lấy cái hoa nầy trang nghiêm quả vị tu đắc nên gọi là Hoa-Nghiêm. Nói một cách khác, Phật có đủ muôn đức tướng sáng rỡ như hoa tươi đua nở, lấy hương sắc mỹ miều của hoa để trang nghiêm cho pháp thân, huệ nghiệp gọi là Hoa-Nghiêm. Chữ "đại" có nghĩa là bao hàm cái thể tánh, còn chữ "Phương Quảng" gồm cả nghiệp và dụng. "Phật" là quả vị viên giác (tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn). "Hoa" là phần tinh túy của cây, vì thế bộ kinh nầy đức Phật chỉ nói ra trong vòng 21 ngày cho các hàng Bồ-Tát thiện căn, lần đầu tiên tại Long-Cung, sau khi Ngài đắc đạo. Kinh Hoa-Nghiêm có 3 nhà dịch thuật : vào đời Đông-Tấn ngài Phật-Đà Bạt-Đà-La dịch 60 quyển gọi là lục thập Hoa-Nghiêm. Sau có ngài Trí-Nghiễm làm bộ sớ 5 quyển là "Sưu Huyền Ký" và ngài Hiền-Thủ tạo ra bộ "Thám Huyền Ký" gồm 20 quyển đều căn cứ vào lý kinh Hoa-Nghiêm. Người dịch thứ hai là ngài Thật-Xoa Nan-Đà, gồm 80 quyển vào đời Đường nên còn gọi là Đường kinh hay Tân kinh, để đối lại với Cựu kinh của ngài Phật-Đà Bạt-Đà-La. Theo đó, ngài Huệ-Uyển tạo tập "San Định Ký" 60 quyển, ngài Thanh-Lương làm ra các bộ sớ 20 quyển và "Diễn Nghĩa Sao" 40 quyển. Người dịch thứ ba là ngài Bác-Nhã cũng đời Đường, gồm 40 quyển gọi là tứ thập Hoa-Nghiêm.

Theo truyền thuyết, kinh Hoa-Nghiêm do ngài Văn-Thù và ngài A-Nan kết tập tại Long-Cung. Sau có ngài Long-Thọ vào Long-Cung thấy kinh nầy có phân làm 3 bổn : Thượng, trung và hạ. Quyển hạ gồm có 38 phẩm và 10 vạn bài kệ, quyển trung có 1.200 phẩm và 49.800 bài kệ, quyển thượng chứa tới 14.000 cõi số vi trần và vô số bài kệ nói về cõi 3000 đại thiên thế giới. Ngài Long-Thọ bèn lấy quyển hạ có 10 vạn bài kệ đem về truyền cho cõi thế gian nầy. Do đó, Phật giáo Trung-Quốc gọi là tam bổn Hoa-Nghiêm kinh là dựa vào lý do vừa dẫn.

Ngoài ra Phật giáo Trung-Quốc còn lập ra tông Hoa-Nghiêm đều căn cứ vào lý kinh nầy làm tông chỉ thành lập. Tông Hoa-Nghiêm được thành lập vào đời nhà Đường do ngài Đỗ-Thuận Hòa-Thượng khai sáng và kế thừa Tổ đạo như sau : Đỗ-Thuận tổ thứ nhất, Trí-Nghiễm Đại-sư tổ thứ hai, Pháp-Tạng Pháp-sư, tổ thứ ba, Thanh-Lương Trừng-Quán Pháp-sư, tổ thứ tư. Ngài Quế-Phong Tông-Mật Thiền-sư, tổ thứ năm. Đời Tống ngài Mã-Minh kế thừa làm tổ thứ sáu và ngài Long-Thọ là tổ thứ bảy.

Kinh Hoa-Nghiêm là vua của các kinh, ngài Long-Thọ đã vận dụng sức thần thông để mang về truyền bá trong dân gian. Ngài Đỗ-Thuận là Hóa thân của Bồ-Tát Phổ-Hiền và là tổ thứ nhất của tông Hoa- Nghiêm vậy.

18.- KINH A HÀM, THỜI GIAN NÓI KINH, BỘ SỐ VÀ NÉT ĐẶC THÙ GỔM CÓ NHỮNG GÌ ? (^)

Kinh A-Hàm là một bộ kinh thuộc về Tiểu-thừa Phật giáo, có nghĩa là "pháp quy", tức là có ý muốn nói vạn pháp đều nằm trong lý của kinh nầy.

A-Hàm còn có một nghĩa là "Vô Tỷ Pháp : Tức muốn nói không có pháp nào sánh kịp hay là "Thủ Vô", nghĩa là không thể nói hết được ý thú cứu cánh của kinh vậy. Trong năm thời nói pháp của đức Phật, bộ kinh A-Hàm được đem giảng lần thứ hai sau kinh Hoa-Nghiêm tại vườn Lộc-Uyển cho các thầy Tỳ-kheo và gồm có 4 bộ :

1.- Tăng-Nhất-A-Hàm 51 quyển

2.- Trường-A-Hàm 22 quyển

3.- Trung-A-Hàm 60 quyển

4.- Tạp-A-Hàm 50 quyển.

Tổng cộng là 183 quyển. Về ý thú của kinh : Bộ thứ nhất bàn về pháp số của các pháp, như là phần sưu tập. Bộ thứ hai là phần luận về mọi sự vật ở thế gian qua các đề mục có tính cách lý thú, gây được hứng khởi sôi nổi người đọc, vì văn mạch dài và bàn rất sâu rộng mọi vấn đề. Bộ thứ ba gồm các kinh không phân biệt ngắn hay dài, với các chủ đề đủ loại nói về nhân duyên, duyên khởi của vạn vật. Bộ thứ tư là phần tổng hợp các phần trên lại.

A-Hàm là một bộ kinh thật lý thú có lập luận rõ ràng cho người mới bắt đầu tu qua các pháp như bốn đế, 12 nhân duyên, 6 độ, 37 phẩm trợ đạo bồ-đề ... cùng các quả Thánh-đế tu chứng. Ở các nước thấm nhuần tư tưởng Phật giáo như Nhật-Bản, Tích-Lan, Ấn-Độ, Thái-Lan, Việt-Nam ... các đại học Phật giáo năm chứng chỉ cử nhân I, các sinh viên phải chọn kinh A-Hàm là môn học tất tu vậy.

Ngoài lẽ sanh tử của kiếp người ra, kinh A-Hàm còn nêu rõ những gương tu chứng của các bậc A-La-Hán, những câu chuyện thần bí ẩn hiện mà chỉ có bậc tu hành đắc đạo có đủ thiện căn mới thâm nhập được trí tuệ tuyệt vời ấy.

Tóm lại, A-Hàm tuy là bộ kinh thuộc hàng Tiểu-thừa, nhưng hành giả muốn thực hành được hạnh Bồ-Tát phải nghiên cứu kỹ toàn bộ lý kinh nầy để nhận chân ra được chỗ thâm áo của vạn pháp.

19.- KINH PHƯƠNG ĐẲNG HÀM CHỨA NHỮNG GÌ ? (^)

Chữ Phương-Đẳng có 3 lối phỏng dịch theo lý như sau : Phương, là vuông vức ngay thẳng, Đẳng, là bình đẳng để chỉ cho lý trung đạo.

Kinh Phương-Đẳng thuộc Đại-thừa Phật giáo. Phương-Đẳng hay còn gọi là Phương-Quảng để chỉ cho các hàng Bồ-Tát thực hành tu chứng, đắc đạo đều dựa theo lý của kinh nầy. Nếu căn cứ theo "sự" để dịch, chữ Phương có nghĩa là rộng, còn Đẳng là đều đặn, quân bình. Đức Phật Thích-Ca nói kinh nầy vào thời điểm thứ ba trong năm thời thuyết giáo để hướng dẫn hàng Bồ-Tát theo 4 tiêu chuẩn : Tạng-giáo, Thông-giáo, Biệt-giáo, và Viên-giáo (chứa nhóm, tánh chung, tánh riêng, tròn đầy rốt ráo) để đưa kẻ đại căn trí đạt ngộ chân lý giải thoát. Nói một cách khác hơn :

Phương là phương pháp và chia ra làm 4 như sau : Hữu-môn, Không-môn, Song-diệc-môn và Song-phi-môn (phàm, thánh, cả phàm và thánh đều nương vào nhau, phàm thánh đều không còn trên danh nghĩa nữa mới đạt được chân lý).

Đẳng, là đều nhau, chan hòa đến tất cả muôn loài vạn vật như nhau là căn cứ vào sự, còn lý theo như pháp tứ môn hợp với lý tánh bình đẳng nên có tên "Phương-Đẳng". Bộ kinh Phương-Đẳng Phật đã thuyết trong 8 năm, sau thời kinh A-Hàm.

Trong 5 thời kỳ nói pháp của Phật chia ra như sau :

1.- Thời thứ nhất : Kinh Hoa-Nghiêm trong 21 ngày.

2.- Thời thứ hai : Kinh A-Hàm, 12 năm.

3.- Thời thứ ba : Kinh Phương-Đẳng 8 năm.

4.- Thời thứ tư : Kinh Bát-Nhã 22 năm.

5.- Thời thứ năm : Kinh Pháp-Hoa 8 năm và kinh Niết-Bàn trong 1 ngày 1 đêm.

Có bài tụng bao hàm ý nầy như sau :

Hoa-Nghiêm tối sơ tam thất nhựt.

A-Hàm thập nhị.

Phương-Đẳng bát

Nhị thập nhị niên Bát-Nhã đàm

Pháp-Hoa Niết-Bàn cộng bát niên.

Đó là cách phân biệt theo tông Thiên-Thai, chọn kinh Hoa-Nghiêm làm tông chỉ cho việc thành lập tông. Còn tông Niết-Bàn lại chia 5 thời thuyết pháp của Phật có khác.

1.- Thời thứ nhất : Kinh Hoa-Nghiêm.

2.- Thời thứ hai : Kinh A-Hàm.

3.- Thời thứ ba : Kinh Phương-Đẳng.

4.- Thời thứ tư : Kinh Pháp-Hoa

5.- Thời thứ năm : Kinh Niết-Bàn.

Theo như cách phân 5 thời trên, ta thấy không có kinh Bát-Nhã, vì chỗ rốt ráo đạt đến chân lý của mỗi tông đều chủ trương khác nhau. Cách chia ra 5 thời nói kinh dù khác nhau nhưng lý kinh đều không khác mà tất cả đều nhắm tới lý thâm sâu để cho hàng Bồ-Tát tu tập đạt đến giải thoát, rốt ráo.

20.- KINH BÁT NHÃ : TRỌNG TÂM PHẬT MUỐN GIẢNG THUYẾT LÀ GÌ VÀ THỜI ĐIỂM NÀO TRONG CÁC THỜI NÓI PHÁP ? (^)

Kinh Bát-Nhã có hai tên gọi khác nhau là Bát-Nhã Ba-La-Mật kinh (gọi theo cổ) và Ma-Ha Bát-Nhã Ba-La-Mật-Đa Tâm kinh (theo danh từ ngày nay). Tất cả gồm có 10 bộ, do ngài Huyền-Trang (thế kỷ thứ 7 T.L.) dịch từ chữ Sanskrit sang tiếng Trung-Hoa gọi là Đại Bát-Nhã Ba-La-Mật kinh và 600 quyển.

Ngài La-Thập trước đó cũng có dịch kinh nầy và chia thành 5 bộ là : Ma-Ha Bát-Nhã Ba-La-Mật kinh, Kim-Cương Bát-Nhã, Thiên-Vương Vấn Bát-Nhã, Năng-Đoạn Kim-Cương Bát-Nhã và Quy-Tán Bát-Nhã. Riêng bộ sau nầy còn nằm trong văn tiếng Phạn chưa được phiên dịch.

Trong suốt 49 năm tại thế đức Phật nói kinh chia ra làm 5 thời kỳ mà bộ kinh Bát-Nhã ở vào thời điểm thứ tư theo thứ tự. Kinh nầy trình bày lý tánh tuyệt đối của sự vật, do đó thời gian giảng thuyết kéo dài trong 22 năm, Phật muốn các hàng đệ tử thấy tỏ được chân lý rốt ráo. Điểm căn bản của kinh luận rằng : Sắc tức thị không, không tức thị sắc, thọ-tưởng-hành-thức diệc phục như thị. Thị chư pháp không tướng, bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm, nãi chí nhãn, nhỉ, tỹ, thiệt, thân, ý, sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp diệc phục như thị (sắc tức là không, không ấy là sắc cho đến việc thọ nhận - tưởng nghĩ hành động - sự phân biệt đúng sai cũng đều không. Đó là cái không tướng của các pháp như không sanh, không diệt, không dơ, không sạch, không tăng, không giảm, cho đến cả mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý để tiếp xúc với sáu cảnh sắc bên ngoài như : Màu sắc, âm thanh, mùi vị, đụng chạm với sự vật cũng đều không có hình tướng như vậy).

Bộ kinh nầy được tóm lược trong bài kinh Bát-Nhã ngắn gọn chỉ có 272 chữ mà các chùa thường tụng, đủ để nói lên thật tướng các pháp trong vũ trụ.

21.- KINH PHÁP HOA : BỘ SỐ, DỊCH GIẢ VÀ VIỆC TRUYỀN THỪA RA SAO ? (^)

Kinh Pháp-Hoa nói cho đủ là kinh Diệu-Pháp Liên-Hoa. Luận về lý viên dung (tròn đầy), phân biệt rõ ràng sự ứng hóa thân của chư Phật, Bồ-Tát thị hiện ra đời độ thoát chúng sanh khỏi sanh tử luân hồi.

Bộ kinh Pháp-Hoa gồm có 7 quyển và 27 phẩm, trong đó phẩm thứ 25, tức kinh Phổ-Môn mà các hàng Phật tử thường hay tụng niệm để cầu an.

Phật giáo Nhật-Bản thuộc các tông như Tào-Động, Lâm-Tế, Chân-Ngôn, Nhựt-Liên, Sáng-Giá Học-Hội, Lập-Chánh-Giảo Thành-Hội ... đều lấy phẩm Phổ-Môn trong kinh Pháp-Hoa hay toàn bộ làm kinh tụng chính thức trong các khóa lễ. Sáng giá học hội dùng đề kinh 7 chữ : "Nam-mô Diệu-Pháp Liên-Hoa Kinh" (NAMYO HO RENGEI KYO) Tượng trưng cho tôn chỉ trong việc tu hành. Tại Việt-Nam, kinh Pháp-Hoa cũng được chọn như là bộ kinh cốt yếu trong các khóa lễ cầu an. Trong khi đó, Trung-Quốc cũng có một tông Pháp-Hoa cũng lấy từ lý kinh nầy làm kim chỉ nam.

Kinh Pháp-Hoa hiện đang lưu hành do ngài Cưu-Ma-La-Thập dịch từ chữ Phạn (Sanskrit) sang chữ Hán vào đời Diêu-Tần (đầu thế kỷ thứ 5 T.L). Bộ kinh Pháp-Hoa bằng chữ Hán đã được dịch sang tiếng Việt do Hòa-Thượng Thích-Trí-Tịnh, vào khoảng năm 1950. Vào những năm sau, còn có Thượng-Tọa Tuệ-Hải cũng dịch kinh nầy, đã ấn hành vào năm 1963.

Kinh Pháp-Hoa chỉ rõ 3 yếu tố cấu tạo nên sự vật là thể - tướng - dụng để độc giả quan sát được chân tướng của vạn sự vạn vật một cách có phương pháp như khoa học, để thấu đạt được tới chân lý rốt ráo. Trong phẩm "Phương Tiện" thứ hai có trình bày "thập như thị", tức là mười chân tướng của các pháp như là : Như thị tướng, như thị tánh, như thị thể, như thị lực, như thị tác, như thị nhân, như thị duyên, như thị quả, như thị báo, như thị bổn mạt cứu cánh đẳng (thật tướng của các pháp là tướng, tánh, thể, lực, tạo tác, gây nhân, các yếu tố, hòa hợp, kết quả, từ gốc gác ngọn ngành đều như vậy cả) để chỉ chung cho sự hình thành muôn loài vạn vật trong vũ trụ đều có sự cấu tạo giống nhau từ vật nhỏ đến vật lớn.

Kinh Pháp-Hoa do Phật Thích-Ca nói sau cùng, đồng thời với kinh Niết-Bàn, trước khi vào Niết-Bàn. Việc nghiên cứu, đọc tụng để hiểu được tinh thần của bộ kinh Pháp-Hoa là ý hướng căn bản mà phần đông Phật tử chúng ta đều mong đạt thành.

22.- ĐỨC PHẬT NÓI KINH NIẾT-BÀN LÚC NÀO, TẠI ĐÂU, VỚI MỤC ĐÍCH GÌ ? (^)

Kinh Niết-Bàn gồm chung cả Tiểu-thừa và Đại-thừa do đức Phật giảng thuyết cho các hàng đệ tử tại thành Câu-Thi-La trước khi vào Niết-Bàn và sau thời nói kinh Pháp-Hoa.

Kinh Niết-Bàn có nhiều người dịch thuật. Đời Tây-Tấn, ngài Bạch-Pháp dịch là Phật-Bát-Nê-Hoàn kinh gồm 2 quyển. Đời Đông-Tấn ngài Pháp-Hiển dịch là Đại-Bát Niết-Bàn kinh gồm 6 quyển. Kinh Niết-Bàn nói về việc tu hành, chứng quả và hóa thân của đức Phật Thích-Ca. Trong kinh Trung A-Hàm cũng có đề cập tới kinh Niết-Bàn. Đời Tây-Tấn còn có ngài Trúc-Pháp-Hộ dịch là Phật Thuyết Phương-Đẳng Bát-Nê-Hoàn kinh, gồm 2 quyển. Đời Tùy, ngài Xà-Na Quật-Đa dịch là Tứ-Đồng-Tử Tam-Muội kinh, 3 quyển và ngoài ra còn có ngài Đàm-Vô-Sấm (đời Bắc-Lương) dịch là Đại-Bát Niết-Bàn, gồm 10 quyển. Đến đời Đường ngài Nhược-Na Bạt-Đà-La cũng có dịch kinh nầy, sau có ngài Huệ-Quán đời Tống cũng dịch kinh Niết-Bàn gồm có 36 quyển.

Kinh Niết-Bàn nói : Phật tuy diệt độ, nhưng pháp thân Ngài thường còn không diệt. Phật cũng có nói về việc thiêu xác và phân phối Xá-lợi để phụng thờ sau khi Ngài vào Niết-bàn. Đây là một cách giáo hóa thực tiển để cho các hàng đệ tử nào chưa có dịp gần gũi đức Phật, cũng có được cơ duyên phụng sự Phật một cách có hiệu quả.

Kinh Niết-Bàn được xem như là những lời di chúc sau cùng của đức Phật để dẫn dắt hàng đệ tử con đường tu tập và cũng là những lời trấn an những đệ tử nào quá bi ai khổ não về việc Phật không còn tại thế.

Phật dạy rằng các ngươi nên tin tưởng nơi tự thân, cho dù không có Phật cũng có thể tự tu tự độ được, nếu mỗi người không tự cố gắng, Phật dù ở gần bên cạnh, chúng ta cũng không thể nào giải thoát được mọi khổ não.

23.- DUY THỨC, CÁCH THÀNH LẬP VÀ PHÂN LOẠI RA SAO ? (^)

Duy-Thức tiếng Phạn là Ma-Hằng Thích-Đa, dịch là Duy và Tỳ-nhược-đế dịch là Thức. Đây là một lối dịch đảo ngữ từ thành Duy-Thức.

Thức còn có nghĩa là liễu-biệt (phân biệt rõ ràng chi li), thông đạt cả nhân và quả và được chia ra làm 3 loại : Thức thứ 8 hay A-lại-da-thức, thức thứ 7 hay còn gọi là Mạt-na-thức và 5 thức là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân. Nói cách khác, con người gồm có 8 thức : 5 thức, thức thứ 6 hay ý thức, thức thứ 7 hay Mạt-na-thức và thức thứ 8 hay Alaya thức. Thức chính là nơi chứa nhóm các chủng tử để phát khởi ra hiện hành (phát ra sự hiểu biết sự vật) nên gọi là duy tâm và do phân biệt để thấu suốt mọi vật tức là duy thức. Theo bộ "Duy Thức Thuật Ký" thì Duy-thức có hai nghĩa chỉ sự hiển bày "giản - biệt" tức do vọng chấp mà có thức, không có tâm ngoài cảnh mà do tâm tạo ra tất cả. Trong Duy-thức Tam Thập Tụng có bài kệ nói về ý nầy như sau : "Tâm dẫn đầu vạn pháp, tâm chủ, tâm tạo tác và theo nghĩa thứ hai là "quyết-định" tức xa lìa mọi sự tăng hay giảm mà trong đó có 8 thức vậy. Có các loại Duy-thức : Tam Thập tụng (30 bài tụng), Nhị Thập tụng (20 bài tụng), thành Duy-Thức, Bát-Thức Qui-Củ, Đại-Thừa Bách Pháp Minh Môn Luận ... Theo quan điểm của lý Duy-thức có 3 tánh : Biến kế sở chấp, tức chấp các Pháp ở ngoài tâm, y tha khởi tánh cho rằng nhân duyên của các pháp sanh ra chủng tử (hạt mầm) và tánh viên thành thật, nhờ nương vào tánh y tha cho là thật thể, chân như ... Có một tông phái Duy-thức gọi là Pháp-tướng-tông do ngài Long-Thọ và Vô-Trước (thế kỷ 9 T.L.) khởi xướng. Duy-thức dùng lối lý luận để chứng minh vạn vật đều do thức biến. Do đó, chúng ta biện giải thông suốt lẽ sinh tồn trong vạn vật muôn loài.

Muốn hiểu rõ được lý Duy-thức, hành giả phải thực hành và gia công nghiên cứu kinh điển Phật giáo trong nhiều năm tháng qua các bộ kinh Đại-thừa mới thấu đạt lý mầu của môn học nầy.

24.- PHẬT ĐẢN VÀ PHẬT LỊCH KHÁC HAY GIỐNG NHAU ? (^)

Một người thường ra chào đời gọi là sinh và ngày đó là ngày sinh nhật. Các bậc Thánh ra đời thì gọi là Đản-sanh, Giáng-sanh hay Khánh-đản hoặc Phật-đản.

Đức Phật Thích-Ca là giáo chủ của đạo Phật, ra đời vào năm 624 trước Tây lịch. Do công phu tu hành, Phật đã giác ngộ, chứng quả giải thoát rồi truyền bá pháp tu ấy cho nhân loại. Cứ mỗi năm đến ngày Đản-sanh Ngài, người Phật tử ở khắp năm châu đều tổ chức lễ kỷ niệm một cách thật trọng thể để tưởng niệm đấng chí Tôn Vô-thượng Chánh-giác.

Theo truyền thống của dân tộc Việt, lễ Phật-đản mỗi năm đều vào ngày mồng 8 tháng 4 âm lịch. Từ năm 1951 trở đi, nhân kỳ đại hội Phật giáo thế giới lần thứ nhất tại Colombo (Tích-Lan) quy định trở lại ngày giáng sinh của đức Phật vào ngày Rằm trăng tròn tháng tư theo lịch Ấn-Độ để phù hợp với đại đa số các nước theo Phật giáo Đại-thừa.

Phật-đản và Phật-lịch khác hay giống nhau ? Như đã trình bày, Phật-đản để đánh dấu một ngày quan trọng mà bậc Thánh nhân là đức Thích-Ca ra đời. Trong khi đó Phật-lịch tính sau khi Phật nhập Niết-bàn tới nay là 2541 (1997) năm. Chữ Lịch có nghĩa là trải qua, để đánh dấu chuỗi thời gian mà Phật giáo tồn tại trong nhân loại qua thời gian tính theo năm tháng Phật diệt độ. Có một vài cuốn sách chọn Phật lịch không được thống nhất, vì có thể lấy ngày Phật-thành-đạo làm Phật-lịch, hoặc ngày Phật nhập Niết-Bàn làm Phật-lịch mà niên đại có khác nhau trồi sụt khoảng 100 năm. Dù chọn ngày vào trong đời của Phật làm Phật-lịch thì ý nghĩa việc thị hiện độ sanh của Ngài nơi cõi đời nầy vẫn không thay đổi.

25.- VỀ Ý NGHĨA CỦA NGÀY PHẬT-THÀNH-ĐẠO VÀ GIÁ TRỊ LỊCH SỬ CỦA NÓ. (^)

Sau khi đã thực hành và nhận chân ra được phương pháp tu ép xác theo lối khổ hạnh như các đạo sĩ thuộc nhóm ông Kiều-Trần-Như không thể đạt đến giải thoát rốt ráo, đức Phật bèn rời khỏi họ để tìm ra một lối thoát do chính mình bằng con đường thực nghiệm tu chứng.

Nhờ áp dụng pháp tu tĩnh tọa tham thiền, Phật Thích-Ca đã giác ngộ được sau 49 ngày tư duy dưới cây Bồ-Đề, và chứng được sáu phép thần thông : 1- Thiên-nhãn-thông, 2- Thiên-nhĩ-thông, 3- Lậu-tận-thông, 4- Tha-tâm-thông, 5- Thần-túc-thông, 6- Túc-mạng-thông (1- Mắt tinh thông, thấy suốt được tất cả các cõi, 2- Tai nghe rõ thấu được tất cả tiếng kêu than của mọi loài, 3- Các phiền não mê mờ đã được đãi lọc sạch không còn thấm lọt được tâm thanh tịnh, 4- Thấu rõ được tâm địa của kẻ khác một cách dễ dàng, 5- Thay hình đổi dạng tùy theo nhu cầu mà biến hiện cho thích hợp, 6- Biết rõ được kiếp trước của mình đã tạo ra nhân gì và thọ quả báo ra sao). Sáu phép thần thông hay còn gọi tắt là lục thông cũng cùng một ý nghĩa. Trong lúc tu hành quan sát lý vô thường, khổ, không và vô ngã (không có cái ta) trong Tứ-niệm-xứ (4 ý niệm căn bản phải luông ghi nhớ về kiếp nhân sinh) mà đức Phật đã nghĩ về kiếp nhân sinh chỉ giả tạm chứ không có gì thực thể, không bền chắc, vì con người sống ở đời bị mọi thứ ràng buộc chi phối. Do tham thiền nhập định, Đức Phật đã đạt được giác ngộ (Englightenment)lúc sao mai vừa mọc vào ngày mùng 8 tháng 12 âm-lịch. Lúc Phật chứng quả, chư Thiên cùng nhau hoan hỷ rải hoa cúng dường và xưng tán đức Phật là bậc thầy của cả Trời và người.

Nhớ lại năm thầy đạo sĩ cùng tu khổ hạnh ép xác lúc đầu, đức Phật lần đầu tiên đến vườn Lộc-Uyển thuyết về nguyên nhân của sự khổ và tìm cách diệt khổ mới đạt được chân lý (4 chân lý) để hướng dẫn họ tu tập theo chánh pháp.

Ngày Đản-sanh của đức Phật đánh dấu trang sử vàng son của Phật giáo, nhưng ngày Thành-Đạo mới chính là thời điểm lịch sử huy hoàng chói lọi nhất còn vang vọng trong lòng nhân loại qua mọi thời đại.

26.- GIỮA NHẬP-DIỆT VÀ NIẾT-BÀN KHÁC HAY GIỐNG NHAU ? (^)

Người thường chúng ta sau khi tắt hơi thở lìa khỏi cõi đời nầy gọi là chết, còn người theo đạo Lão khi chết gọi là quy tiên. Trong khi đó đối với người lớn tuổi có đạo đức lúc qua đời gọi là "Hóa" hay "Vãng" và Phật giáo còn có một vài danh từ để chỉ cho trạng thái nầy.

Nhập-diệt hay Niết-bàn đều có nghĩa giống nhau để chỉ cho trạng thái vắng lặng mà chỉ có Phật mới đạt được, khi lìa bỏ xác thân ở đời. Nhập-diệt là vào nơi yên tỉnh không bị phiền não câu thúc bó buộc hay lôi kéo. Còn Niết-bàn là không còn sanh diệt nữa, đã được tự tại và đạt tới an lạc hoàn toàn. Tiếng Phạn gọi Niết-bàn là Nirvana cũng đều có ý nghĩa là không bị sanh tử chi phối nữa, vì thế còn gọi là "viên tịch".

Người tăng sĩ Phật giáo khi nhắm mắt, tắt thở gọi là viên tịch, tịch diệt, hay thị tịch để nói lên cái ý nghĩa rằng không còn bị ràng buộc bởi cái nghiệp lực chi phối. Do kinh nghiệm hay do một vài người kể lại, có nhiều nhà sư biết trước được giờ chết, lo tắm rữa sạch sẽ, thay quần áo gọn gàng và dặn dò đệ tử những điều cần thiết trước khi lìa đời. Nhờ công đức tu hành nên lúc bỏ thân xác nầy, các tăng sĩ đều được an nhiên mà hóa, nghĩa là con người của họ đã làm chủ được thần thức, không bị các ý niệm xấu tới lôi kéo đi thọ sanh vào một kiếp khác. Thông thường, chỉ có Phật mới gọi là nhập Niết-bàn, nhưng trong một ít trường hợp các Hòa-Thượng lớn tuổi có nhiều thành tích hoạt động, lúc chết cũng được gọi là nhập Niết-bàn hay nhập-diệt vậy. Tưởng cần nói thêm là nghĩa của chữ vắng lặng trong chữ Tịch-diệt không có nghĩa là trống không như hư không và đã có người cho rằng Phật giáo chủ trương phá chấp để cuối cùng chọn lấy một chữ "KHÔNG" như là con số zero. Nếu chủ trương một cách thuần vật lý như nhận xét vừa nêu, hẳn Phật giáo đã bị đào thải bởi các ngành khoa học thực nghiệm ngày nay.

Đi từ khái niệm vật chất để đạt tới lý tưởng do công phu tu tập mà thành, chỉ có con đường thực nghiệm tâm thức do Phật giáo chủ trương là được tồn tại lâu dài.

27.- HÃY PHÂN BIỆT PHẬT GIÁO VỚI ĐẠO PHẬT KHÁC NHAU THẾ NÀO ? (^)

Phật giáo và đạo Phật là hai danh từ đã dùng quen thuộc, hầu mhư ít có ai để ý phân biệt được chỗ giống và khác nhau thế nào để làm gì, có lẽ việc tìm hiểu như thế không cần thiết chăng ?

Thật ra, chữ Phật giáo và đạo Phật có khác nghĩa nhau đôi chút. Phật giáo là tiếng gọi tổng quát rất phổ thông để chỉ cho một tôn giáo như Phật-giáo, Thiên-chúa-giáo, Cao-đài-giáo v.v... tức là gồm cả một hệ thống của một tôn giáo có một giáo chủ, giáo lý và giáo đoàn thuộc phạm vi khách quan. Trong khi đó, danh từ đạo Phật được thu hẹp nghĩa hơn và chỉ lưu hành trong phạm vi của một quốc gia hay nhìn xa hơn thuộc về phạm vi chủ quan của từng cá nhân. Ví dụ: Tôi theo đạo Phật hay đạo Phật của tôi, hoặc đạo Phật, đạo Hòa-hảo, đạo Islam...

Ngoài ra Phật giáo còn bao hàm được cái nghĩa nguyên thủy của nó, còn đạo Phật theo dòng thời gian, đã biến thái và đi vào dân gian như một tôn giáo qua sự đãi lọc và truyền thừa bởi các nhà truyền giáo, các vị tổ khai sáng tông phái, các bậc thiện-tri-thức ... để đem đạo Phật gần gũi và hòa nhập vào các sinh hoạt dân gian.

Do đó, chúng ta có thể nói rằng Phật giáo là chỉ cho cái chung của một tôn giáo về chiều rộng, còn đạo Phật phải đòi hỏi ở sự thực hành thuộc về chiều sâu hơn. Từ trước tới nay hai danh từ nầy có sự dùng lẫn lộn và cho tới bây giờ cũng chưa ai phải bận tâm đem tách rời nhau ra làm hai phạm vi cả, vì trên danh nghĩa hình như hai, nhưng ý nghĩa đều chỉ có một, là một tôn giáo thuần túy mà thôi. Biết được sự khác nhau của cách dùng như thế để khỏi có sự lầm lẫn mỗi khi gặp kẻ khác hỏi để tìm hiểu hay chất vấn về Phật giáo.

Vấn đề danh từ đơn giản ta chưa giải quyết được thì đừng nói chi tới phần giáo nghĩa sâu xa của Niết-Bàn, Cực-Lạc, Chơn-Tâm ... còn xa lạ khó hiểu đến chừng nào !

28.- GIẢI THOÁT LÀ THẾ NÀO ? NHỮNG PHƯƠNG PHÁP GÌ ĐỂ TU CHO ĐẠT ĐƯỢC ? (^)

Như những tội nhân được cứu ra khỏi lao tù, như người sắp chết đói được thức ăn, cũng như chúng ta sống trong đời nầy gặp nhiều oan trái vây ngặt nên phải tìm cách vượt ra mà chỉ có giáo lý đạo Phật mới đủ công năng giải thoát được sự ràng buộc ấy.

Đức Phật từ bỏ ngai vàng, bệ ngọc, vợ con vào núi tu hành cho đến khi đạt được chân lý là một sự giải thoát vô tiền khoáng hậu. Vì Phật không những tu để tự cứu mình mà khi giải thoát được tất cả khổ não rồi còn giải thoát cho tất cả chúng sanh đang trầm luân trong biển khổ sanh tử nữa. Người tu hành sống đời đạo hạnh, không vướng bận cảnh vợ con là một hình thức giải thoát. Chúng ta tự chủ được mình trong những dục vọng thấp hèn cũng là một hình thức giải thoát nhưng chính ta không tự thấy được. Muốn được giải thoát, trước hết chính ta phải tự ý thức để cứu lấy mình ra khỏi cảnh ràng buộc. Ngoài ra, do nhờ tha lực trong những trường hợp như bị áp bức, ép ngặt ... để được tự do, tự tại. Nhưng trong đời phần nhiều do ta tự giải thoát lấy mình. Có phương pháp để đạt đến giải thoát là dứt bỏ lòng tham muốn bất chánh và khi đã bắt tay vào làm một công việc gì phải trung thành với việc đó cho đến khi hoàn thành mới thôi (quan niệm giải thoát theo thế gian), thứ hai là hy sinh thì giờ để nghiên cứu, học hỏi, thực hành những việc thiện hay từ bỏ gia đình để tu theo Phật cho đến khi tìm ra được chân lý (quan niệm) giải thoát hướng thượng vượt ngoài phạm vi thế gian).

Đức Phật Thích-Ca nhờ thực hành đúng và rất táo bạo về cuộc cách mạng để giải phóng cho nhân sinh thoát khỏi vòng sanh tử và chính Ngài được xưng tụng là bậc Thiên Nhơn chi Đạo-Sư (Thầy của Trời và Người).

Nói cách khác, việc giải thoát không khó, nhưng khó ở thái độ trù trừ của chúng ta không chịu bắt tay vào việc tu tập thì khó mong đạt được mục đích.

29.- THẦN THÔNG LÀ GÌ ? NHỮNG AI ĐẠT ĐƯỢC ? (^)

Ngày nay chúng ta thường nghe danh từ thôi miên thuật cũng đã là một hình thức nhờ luyện tập công phu mà đạt được. Phật giáo có thần thông để nói phép tùy cơ ứng biến mà chư Phật thị hiện ra đời và biết rõ suốt được tất cả việc quá-khứ, hiện-tại và tương-lai một cách rõ ràng.

Thần thông gồm có 6 loại, sáu phép hay lục thông như :

1- Thiên-nhãn-thông : Con mắt nhờ luyện thần nên trông thấy suốt được mọi thời, mọi cảnh giới.

2- Thiên-nhĩ-thông : Lỗ tai nghe thấu suốt được tất cả âm thanh của thời đại và ngày cả âm thanh trên các cõi trời.

3- Lậu-tận-thông : Các mê lầm của vô minh đã diệt không sót lại, trong tâm thức hoàn toàn tĩnh lặng.

4- Tha-tâm-thông : Biết rõ được tha nhân một cách tự nhiên.

5- Thần-túc-thông : Bay đi tự tại qua mọi nơi, mọi lúc nhanh chóng như trở bàn tay.

6- Túc-mạng-thông : Biết rõ được mạng sống kiếp trước của mình một cách thấu suốt trong mỗi một hành động tạo nghiệp và cũng nhờ đó phối kiểm lại những việc đã qua.

Đạt được sáu phép thần thông nầy, chỉ có Phật, còn các bậc Bồ-Tát chỉ đạt được lậu tận thông và một phần của tha-tâm-thông.

Muốn đạt được thần thông, cần phải tập trung định lực bền chắc như chất kim cương mới không bị bất cứ ma lực nào chi phối được. Còn những người tu hành bình thường, lúc ngồi thiền tự nhiên cũng thấy mình phi thân tới chỗ nầy chỗ nọ. Điều đó không phải là trạng thái chứng ngộ, giải thoát mà chỉ là ma chướng thường hiện ra để thử thách mà thôi.

Tu tập để đạt được thần thông không phải chỉ một sớm một chiều mà thành công, chúng ta cần phải tích lũy công phu lâu dài, liên tục như đức Phật Thích-Ca đã thực hành.

30.- XÁ-LỢI LÀ GÌ ? AI CÓ ĐƯỢC NGỌC XÁ-LỢI ? (^)

Chư Phật, Bồ-Tát, các vị Tổ sư khi viên tịch (nhắm mắt lìa đời), xác thân được đem thiêu và còn lại phần tinh ba gọi là Xá-lợi.

Như thế, Xá-lợi có khác với xương cốt mà người thường chúng ta khi chết cũng đốt và thu lại trong một cái bình để thờ không ? Nói một cách khác dễ hiểu hơn, Xá-lợi là do cái tinh túy của con người dồn lại. Người tu do sức thiền định, cũng như tinh tủy không dùng vào việc ân ái nên tích tụ lại và kết thành một chất sáng long lanh như kim cương sau khi xác thân đã được thiêu đốt. Chất sáng ấy chính là ngọc Xá-lợi. Chư Phật, các vị Tổ sư đã tu chứng đắc đạo, lúc nhập Niết-bàn mới có được ngọc Xá-lợi. Đức Phật Thích-Ca lúc nhập diệt, Xá-lợi của Ngài được chia thành 8 phần để cho các hàng đệ tử phụng thờ. Hiện nay, Xá-lợi Phật vẫn còn tại một vài nơi như Népal, Tích-Lan và được dân chúng hết sức kính ngưỡng. Việt-Nam có chùa Xá-Lợi Sàigòn, thành lập vào năm 1952 cũng có rước được một phần Xá-lợi Phật từ Tích-Lan về thờ. Ngọc Xá-lợi nguyên thủy có lẽ đã bị biến dạng và hiện nay có còn lại chăng một phần (của ngọc Xá-lợi) đều do sáng tạo của hàng Phật tử sùng kính muốn ghi ơn đức Phật nên tìm cách duy trì. Tại Pháp vào năm 1979, chùa Việt-Nam tại Nice có tổ chức một cuộc rước đất thiêng do phái đoàn hành hương đến Ấn-Độ chiêm bái các nơi Phật tích mang về.

Đức tin của con người rất quan trọng, những gì đã được tôn thờ đều có một giá trị tinh thần rất cao !

Ngày nay, Xá-lợi Phật vẫn còn sáng ngời trong lòng mỗi chúng ta qua mọi thời đại, nếu biết tùy hoàn cảnh của mỗi quốc độ mà duy trì chánh pháp để tạo cho người đời một lòng tin tưởng mãnh liệt vào ánh sáng của đạo mầu giải thoát là chúng ta đã cúng dường Xá- lợi Phật một cách đúng nghĩa vậy.

31.- KHỒ TRONG PHẬT GIÁO CÓ PHẢI LÀ MỘT HÌNH THỨC THAN THÂN TRÁCH PHẬN ĐỂ CHÁN ĐỜI ? (^)

Cái khổ của con người có muôn mặt thuộc về tâm sinh lý, là một sự thực hiển nhiên ta không thể chối cải được. Phật chỉ nói khổ, vì thấy rõ được chân tướng của nó và chỉ bày phương pháp để diệt khổ.

Trong mỗi sinh hoạt hàng ngày, chúng ta chưa thấy có ai hài lòng với chính mình. Chẳng hạn người buôn bán hơi bận rộn một chút đã than bận quá, còn như lúc rãnh lại than ế ẩm. Học trò tới kỳ thi vùi đầu vào sách vở thì than bận đã đành, nhưng khi đã thi xong thì cũng còn bao nhiêu mối bận rộn khác như nghỉ hè ở đâu, tiệc vui bè bạn... Như thế con người từ khi sinh ra đời, lớn lên, già rồi chết, chúng ta gặp biết bao nhiêu cảnh khổ, không được toại ý. Khổ về tinh thần và khổ về vật chất mà Phật giáo chia làm 8 loại khổ khác nhau là : Khổ về sanh, già, bịnh, chết, yêu nhau phải xa lìa, mong cầu không được toại nguyện, thù ghét nhau nhưng phải sống chung đụng và các phần thuộc sắc, thọ, tưởng, hành, thức (5 uẩn) có sự bất bình thường cũng gây ra sự khổ.

Nêu ra cái khổ không phải để chán nản, bi quan mà là để tìm cách thoát ra nó, đạo Phật không chủ trương khổ để đưa người vào chỗ mê lộ không lối thoát, như có người cho rằng đó là tư tưởng chán đời, yếm thế ... Chữ khổ có nghĩa là DUKKHA (suffering), tức là chồng chất lẫn lộn những điều bất như ý vào trong các sinh hoạt thường ngày của chúng ta. Muốn diệt khổ, chúng ta phải biết kiên nhẫn (perseverance) và trì chí hay nhẫn nại (patience), tận tâm (thoroughness) và chăm chỉ (industry) làm hết bổn phận của mình mỗi ngày, tâm hồn sẽ an vui, thư thái. Kinh 42 Chương, phẩm "Thiểu dục và tri túc" nói :

"Người biết đủ dù ở bất cứ chỗ nào trên mặt đất, tâm trí cũng được thỏa mãn, còn người không biết đủ dù cho có ở trên thiên đường cũng không vừa ý".

Chúng ta biết được khổ để tìm cách tiêu diệt, vì không thể chạy trốn được. Người chạy trốn cái khổ mới chính là kẻ bi quan, yếm thế vậy.

32.- 37 PHẨM TRỢ ĐẠO BỔ ĐỀ (^)

Có nhiều người nghĩ và giải thích khác nhau về 37 Phẩm-trợ-đạo Bồ-Đề, bởi do sự hiểu lầm hoặc vì thiếu sự nghiên cứu đúng đắn gây ra. Để bổ túc cho được đúng, ở đây bút giả cố gắng trình bày những chi tiết sau đây để quý vị hằng lưu tâm tới Phật giáo dễ dàng trong việc đối chiếu với các kinh điển.

37 Phẩm-trợ-đạo Bồ-Đề là một trong các phương pháp tu hành để giúp cho hành giả tấn tu trong khi thực hành Phật giáo và được chia ra làm 3 lãnh vực là chuyên tâm, chánh niệm và chọn lọc. Trong phần chuyên tâm có 4 Niệm-Xứ, 4 pháp Chánh-Cần và 4 điều Như-Ý. Phần Chánh niệm gồm có 5 căn và 5 lực và phần chọn lọc có Thất-Bồ-Đề-Phần và 8 Chánh-Đạo (những danh từ vừa nêu trên xin xem bài riêng).

Thất-Bồ-Đề-Phần hay Thất-Giác-Chi mà trong đó việc lựa chọn các pháp tu trước tiên để được thích hợp cho việc tu hành, chứng tỏ rằng giai đoạn chọn lọc tức là đãi lọc những cáu bợn phiền não ra khỏi tâm thức rất quan trọng.

Trong 3 giai đoạn chuyên tâm, chánh niệm và chọn lọc, nếu hành giả thực hành được trong một hoàn cảnh thuận lợi và tâm trí không bị chi phối bởi các tạp niệm (nhớ nghĩ vẫn vơ vô ích) bên ngoài xen vào thì thật là điều lợi ích thiết thực cho việc tu tập.

Tóm lại, 4 Niệm-Xứ, 4 Chánh-Cần, 4 điều biết đủ Như-Ý, 5 căn, 5 lực, 7 Bồ-Đề-Phần, 8 Chánh-Đạo là 37 phương pháp trợ giúp hành giả tấn tu huệ nghiệp.

33.- HÃY CHO BIẾT "TỨ NIỆM XỨ" VÀ CÔNG DỤNG RA SAO ? (^)

Hành giả trên bước đường tu tập, đầu tiên là những phương pháp thực hành để đạt đến tỏ ngộ chân tâm. Đây là 4 pháp môn mở đầu trong 37 Phẩm Trợ-Đạo Bồ-Đề.

Bất cứ lúc nào và ở đâu, nếu thấy thuận tiện, người thực hành Phật giáo cũng có thể tưởng nghĩ tớ 4 điều căn bản nầy để quan sát rõ về hình tướng thật của thân mạng nầy thay đổi theo từng khoảnh khắc. Có quan sát được như thế chúng ta mới biết được chân giá trị của kiếp sống con người để bồi dưỡng cho đời sống đạo đức cho được hoàn hão hơn.

Bốn điều nhớ nghĩ của người hành trì Phật giáo có thể được chia ra như sau :

* Về thân thể : Quan sát thân nầy dơ nhớp, do các yếu tố đất, nước, gió, lửa tạo nên và nó chỉ tồn tại được trong một thời gian hữu hạn rồi cũng tiêu hủy theo năm tháng. Nếu ta không chú ý săn sóc, như tắm rửa hay trang điểm thì xác thân nầy sẽ bẩn thỉu khó chịu, nhất là khi ta phải tiếp xúc với mọi người chung quanh.

* Về nhu cầu vật chất : Có thân xác dĩ nhiên phải có những nhu cầu vật chất để nuôi dưỡng nó và đây là điều cần nên suy nghĩ kỹ tới việc thọ nhận là khổ. Nói như thế không có nghĩa là từ chối tất cả để cho thân thể héo gầy, bịnh hoạn. Khi thọ nhận những nhu cầu vật chất không nên quá độ, vì ngoài thân thể ra, tinh thần mới đáng quý.

* Về tâm lý đổi thay : Tâm con người luôn luôn thay đổi như con vượn leo cây (tâm viên), như ngựa chạy rông (ý mã), không một giây phút nào ngừng nghỉ cả. Việc cần thiết là chúng ta nên suy nghĩ hay quan sát kỹ tâm ta vốn không cố định, từ đó mới bắt đầu tìm cách chế ngự nó định tĩnh lại theo sự điều khiển của chủ nhân chính là ta.

* Các pháp đều không có thật tướng, tức là tất cả các pháp đều vô ngã. Thật vậy, tự nơi bản chất của các pháp đều không có gì gọi là cái "NGÃ" được cả. Ví dụ : Thân thể cũng không phải là ta, vì khi xác thân nầy rã rời, thì các phần đất, nước, sức ấm và hơi thở đều hoàn nguyên cho các trạng thái lúc ban đầu.

Khi chúng ta quan sát kỹ 4 ý niệm căn bản nầy để tấn tu, vì thân thể bất tịnh, thọ nhận là khổ, tâm vô thường và pháp không có thật ngã thì việc tu hành mới tấn bộ ngỏ hầu đạt đến giải thoát an vui.

34.- TỨ-CHÁNH-CẦN LÀ GÌ ? HÌNH TƯỚNG VÀ CÔNG DỤNG CỦA CÁC PHÁP ẤY RA SAO ? (^)

Trong 37 pháp giúp cho việc thực hành Phật giáo được hoàn bị mà 4 pháp môn quan trọng chánh đáng rất cần thiết nên gọi là Chánh-Cần.

Bốn pháp Chánh-Cần là : Điều thiện chưa sanh cần làm cho phát sanh, việc thiện đã sanh phải làm cho nó tăng trưởng mãi, điều ác chưa sanh phải cố ngăn chặn không cho phát sanh và việc ác đã sanh phải tìm cách diệt trừ. Đó là 4 pháp tu chánh đáng mà bất cứ hành giả nào muốn đạt được đạo không thể không thực hành.

Đã gọi là pháp Chánh-Cần thì bất cứ lúc nào người tu hành cũng có thể nhớ nghĩ và thực hành được cả. Tuy nhiên, để cho công việc tu tập đạt tới kết quả tốt, thì giờ thích hợp và thuận tiện nhất để nghĩ tới 4 pháp Chánh-Cần là lúc ngồi thiền, quan sát và tập trung tư tưởng hoặc lúc nào ta cảm thấy tâm trí nhẹ nhàng, không bị chi phối bởi hoàn cảnh phức tạp chung quanh.

Điều ác và việc thiện vốn không có hình tướng nên khó có thể diễn tả cho đúng hoàn toàn được. Ở đây có thể lấy một vài ví dụ để làm cho vấn đề được sáng tỏ hơn như : Tánh tỵ hiềm, lòng tham muốn, ý ganh ghét v.v... là những việc xấu, điều ác cần nên tránh, còn việc thiện là những điều mà ai cũng thích như lòng tha thứ, yêu thương rộng khắp, tánh rộng rãi v.v... Nhưng, còn những việc xấu ác chưa sanh thì làm sao mà biết được để ngăn chặn cho nó đừng sanh ? Việc ác dù nhỏ nhoi đi nữa cũng là hạt mầm của bao nhiêu sự sai lầm tai hại, cho nên dù một sự móng tâm nào có tính cách bất chính và có phương hại tới mọi người và mọi vật chung quanh cũng đều phải tức thời tìm cách dập tắt ngay từ lúc nó mới nhen nhúm phát khởi.

Tập trung được mọi ý tưởng tốt cho tới khi nào ta nghĩ tới điều thiện thắng được điều ác như người đãi lọc vàng trong đất cát thì việc tu tập mới gọi là thuần thục vậy.

35.- TỨ-NHƯ-Ý-TỨC LÀ GÌ ? (^)

Tứ-như-ý-túc là bốn điều biết đủ như ý hay là bốn pháp môn tùy thuộc vào việc suy nghĩ và là phần cốt tủy trong việc thực hành các pháp lành vậy.

Bốn điều biết đủ như ý là : Lòng ham muốn vừa đủ, ý niệm, tinh tấn và định hay nói một cách khác việc mong cầu, việc suy nghĩ, về hành động và tư tưởng phải đúng. Mong muốn, suy nghĩ, hành động và tư tưởng là 4 khía cạnh của một vấn đề để từ đó con người có thể làm được thiên thần hay quỉ vật. Tại sao ? Vì một khi mà lòng ham muốn hay dục vọng của ta quá độ dễ đưa tới chỗ sa ngã, mù quáng và gây ra nhiều tội ác. Đối với người tu, mọi việc đều phải biết đủ (tri túc) nên chữ "túc" ở đây còn có nghĩa là tri túc. Trong khi đó việc suy nghĩ và hành động là những yếu tố quan trọng hơn cả. Nếu ta chỉ nghĩ và hành động một chiều, tức là thiếu sự cân nhắc kỹ càng để đưa tới việc làm thô bạo có phương hại kẻ khác. Sau cùng là phần tư tưởng mới quyết định được mọi việc đúng hay sai ở đời. Tư tưởng đúng, hành động đúng ; tư tưởng sai, dĩ nhiên hành động không thể nào đúng được. Một người có tư tưởng hướng thượng, tức là biết hướng đời sống tới một lý tưởng và sẽ đi đúng theo con đường đã chọn. Nếu tư tưởng lệch lạc, sai lầm sẽ kéo theo cuộc đời khổ não, đau đớn không thể lường được.

Nguyễn-Công-Trứ trong bài "chữ nhàn" có câu : Tri túc, tiện túc, đãi túc, hà thời túc ; tri nhàn, tiện nhàn, đãi nhàn, hà thời nhàn, nghĩa là biết đủ cứ cho là đủ, chờ đợi cho đủ thì chừng nào mới đủ được ; cũng như biết nhàn cứ tự nhiên hưởng cái nhàn, chờ đợi tới lúc thực sự nhàn nhã thì làm gì có được cảnh ấy ?

Trong kinh "Tứ Thập Nhị Chương" cũng có đoạn nói về thiểu dục và tri túc, đức Phật dạy các thầy Tỳ-kheo : Người biết đủ dù có ở đâu trên mặt đất, tâm hồn vẫn cảm thấy được thư thái nhẹ nhàng ; còn người không biết đủ cho dù ở trên cảnh thiên đường cũng không được vừa ý.

Tri túc là phương thuốc cần cấp cho người tu hành, cũng như biết đủ như ý rất quan trọng trong bất cứ mọi trường hợp ta muốn thực hiện một công việc gì dù lớn hay nhỏ.

36.- NGŨ CĂN CÓ PHẢI LÀ 5 PHẦN THUỘC VỀ CƠ THỂ ? (^)

Ngũ căn là 5 pháp môn căn bản thuộc về khía cạnh tinh thần mà người tu muốn hoàn thiện tư cách, không thể không suy nghĩ để thực hành cho đúng cách.

Ngũ-căn là tín, tấn, niệm, định và huệ hay nói cách khác là lòng tin tưởng, sự chuyên cần, điều suy nghĩ, tập trung tư tưởng và trí hiểu biết phán đoán. Ở đây, vấn đề có thể triển khai theo nhiều khía cạnh trong môi trường xã hội. Chữ Tín đứng đầu trong mọi việc giao tế, do đó trong kinh Qui-Nguyên Trực-Chỉ có câu "Tín vi đạo nguyên công đức mẫu" (lòng tin là nguồn mạch của bao nhiêu mẫu ruộng công đức). Mọi việc từ nhỏ đến lớn ở đời, nếu thiếu lòng tin cậy lẫn nhau, người ta khó có thể cộng tác với nhau được. Sự chuyên cần cũng là yếu tố quyết định cho tư cách đàng hoàng và đúng đắn của một người. Ví dụ làm việc đúng giờ ; khi đã hứa việc gì ta phải giữ lời ; việc nào chưa biết phải tìm tra cứu đến tận gốc rễ mới thôi, có như vậy mới đủ uy tín để cho người khác đặt được lòng tin tưởng nơi ta. Ngoài ra, việc suy nghĩ cũng giữ một phần quyết định quan trọng trong đời sống. Nghĩ đúng, hành động đúng. Việc định tĩnh tâm thần và trí hiểu biết sáng suốt là điều không thể thiếu được trong đời sống. Trí tuệ sáng suốt sẽ đẩy mạnh công việc của ta đến chỗ thành công tốt đẹp như ý. Muốn có được trí hiểu biết lẹ làng, thông minh, một phần do bẩm sinh mà có còn một phần do ta tập luyện và tu tập nơi kinh nghiệm mới thành tựu được.

Ngũ-căn là phần trợ duyên cho tư tưởng như phân bón, hóa chất thêm vào cho cây cối được xanh tốt. Đây là những chất liệu cần thiết để làm phong phú cho đời sống tinh thần ngày càng bén nhậy, tinh vi.

Người tu hành biết áp dụng trong việc thực hành đúng mức pháp môn nầy sẽ thành tựu được đạo nghiệp lâu dài vậy.

37.- NGŨ-LỰC LÀ GÌ ? (^)

Như trên đã luận về ngũ-căn rồi, phần ngũ-lực chỉ là cái tác dụng của ngũ căn mà thôi. Ngũ-lực là 5 sức mạnh tinh thần làm động cơ thúc đẩy tư tưởng suy nghĩ đúng.

Như vậy, ngũ-lực là tín, tấn, niệm, định và huệ lực. Tại sao 5 căn và 5 lực có cùng một hình tướng và tên gọi giống nhau lại chia ra làm hai lãnh vực cho thêm phức tạp ? Hình tướng của 5 căn và 5 lực tuy giống nhau, nhưng cái tác dụng của chúng hoàn toàn khác biệt. Chữ Lực là sức mạnh mà trong Phật giáo mỗi hành vi tạo tác ra nghiệp lành, nghiệp dữ của chúng sanh đều do cái "Lực" nầy thúc đẩy mà ra cả. Giả sử ta tin một điều gì cũng giống như bao nhiêu kẻ khác tin, còn cái hấp dẫn để tin lại là việc khác, cho nên cái sức mạnh để tin đó mới là điều quan trọng. Chuyên cần là một đức tính tốt mà ai cũng có thể nghĩ được, nhưng cái động cơ thúc đẩy việc chuyên cần kia mới là điều đáng nói hơn cả. Trí tuệ phán đoán mọi việc đúng, sai đều phải có một sức mạnh tiềm tàng bên trong làm trợ duyên. Lực hay động lực, nếu chỉ dùng chỉ thuần vật chất nó là cái đầu máy (moteur) của toàn bộ máy vậy. Lực trong phạm vi tinh thần là đầu dây mối nhợ sai sử con người quyết định, lựa chọn hay từ chối, tán đồng hay phản đối ... mọi việc đúng hoặc sai.

Vì vậy, người thực hành Phật giáo cần phải đặc biệc chú trọng tới cái sức mạnh lôi kéo nầy của tư tưởng để kiểm soát mọi hành vi của mình, nếu không, sẽ bị cái sức chi phối nầy dắt dẫn tới những việc làm tai hại, lỗi lầm và cuối cùng ta không còn cách nào để sửa đổi được nữa.

Hành động, tư tưởng, trí phán xét của ta phải do ta làm chủ để giữ được thế quân bình trong mọi khía cạnh sinh hoạt là vai trò của năm sức mạnh tinh thần nầy chi phối.

38.- THẤT-BỔ-ĐỀ-PHẦN VÀ THẤT-GIÁC-CHI GIỐNG HAY KHÁC NHAU ? (^)

Thất Bồ Đề Phần là 7 yếu tố quan trọng trong việc phát tâm tu tập đạo quả Bồ-Đề tức là giải thoát hay đạt đến giác ngộ.

Bảy phần trợ giúp cho công việc tu học đạt thành viên mãn, là một trong các pháp của 37 phẩm trợ duyên cho hành giả tấn tu đạo nghiệp. Bảy yếu tố đó là những gì ?

Đó là : Trạch-pháp, tinh-tấn, hỷ, khinh-an, niệm, định, xã ; về ý nghĩa của mỗi pháp và việc thực hành như thế nào ?

- Trạch-pháp là chọn lực phương pháp hay các pháp môn thích hợp để tu, tức là các pháp lành, đúng với trình độ căn cơ của ta. Ngoài ra, phương pháp nào không thích hợp thì loại bỏ như người thích tu thiền thì nên chọn thiền, kẻ thích tu quán tưởng niệm Phật thì nên chọn pháp môn tu Tịnh-độ.

- Tinh-tấn là tiến tới không ngừng nghỉ. Khi làm bất cứ một công việc gì, muốn đạt đến chỗ thành công cần phải có ý chí cương quyết, dứt khoát.

- Hỷ là niềm phấn khởi vui tươi trong mọi việc hoặc hỷ xã, tức là vui vẽ chấp nhận các pháp lành để tu tập, trong tinh thần phấn chấn tự nhiên lúc thực hành điều kiện ấy giúp ta dễ thành tựu mọi việc.

- Khinh-an là nhẹ nhàng, thư thái, hòa hoản, không gấp rút vội vàng, nhờ đó ta có đủ sự sáng suốt để công việc tu học không bị thối chí nản lòng.

- Niệm là suy nghĩ những việc cần thực hành, tức là chú tâm vào một công việc không có ý chểnh mảng lơ là.

- Định là tập trung tư tưởng. Trong trường đời, ta phải sống vật lộn với bao nhiêu khó khăn, thử thách nên tâm bị giao động và cần phải có thì giờ định tĩnh lại để tìm lấy những giây phút bình an.

- Xả là bỏ, xa lánh những pháp bất thiện để tìm về chân tướng thật của con người, hầu tạo dựng một đời sống tốt đẹp hơn.

Như thế, giữa chữ Bồ-Đề và Giác-Chi (giác là sự hiểu biết, chi là nhánh hay ngọn tức là từng bộ phận) đều có nghĩa là các pháp cơ bản đưa tới giác ngộ.

Tóm lại, nếu hành giả biết thực hành đúng pháp tu, tức là chọn lựa phương pháp để chấp nhận hay từ bỏ các pháp không thích hợp thì kết quả sẽ tốt đẹp.

39.- BÁT-CHÁNH-ĐẠO LÀ GÌ ? XIN KỂ RÕ THỨ LOẠI RA SAO ? (^)

Bát-Chánh-Đạo là 8 con đường chơn chánh hay 8 phương cách thực tiển để giúp cho việc tu hành đạt đến thành tựu viên mãn.

Bát-Chánh-Đạo nằm trong các phương pháp tu tập của 37 Phẩm-Trợ-Đạo Bồ-Đề. Tám pháp môn chính đáng nầy là động cơ của mắt, miệng, hành vi, tư tưởng và ngay cả thân thể nữa cũng ảnh hưởng dây chuyền hợp thành. Thấy biết đúng để nhận ra được sự vật không lầm thuộc về chánh kiến, suy nghĩ ngay thật (Chánh-tư-duy) không mang tâm niệm xấu có hại cho kẻ khác. Miệng luôn luôn nói lời chân thật, hòa nhã, không cố ý thêm bớt, đặt điều vô ích (Chánh-ngữ). Hành động, việc làm chân chính (Chánh-nghiệp) luôn luôn chuyên cần để đẩy mạnh công việc làm đạt tới kết quả tốt (Chánh-tinh-tấn), lúc nào cũng nhớ nghĩ tới điều hay lẽ thật (Chánh-niệm), chọn lựa những công việc nào thích hợp với khả năng và trình độ của mình không làm phương hại tới kẻ khác trong việc mưu sinh (Chánh-mạng). Lòng lúc nào cũng hướng tới những tư tưởng hay, những điều bổ ích thiết thực cho đời sống của mình là ta đã theo đúng chánh định. Nếu hiểu biết suy nghĩ chân chánh theo như tám phương pháp nầy, chúng ta có thể rút tỉa ra được từ đó một bài học thực tiển thật hữu ích để ứng dụng vào đời sống hầu cải tạo cho riêng cá nhân mình và tư tưởng theo đúng con đường chánh đáng, là con đường duy nhất chân thật làm kim chỉ nam cho cuộc sống đúng nghĩa, hữu ích và an lạc.

Sống là một nghệ thuật mà mỗi người phải tự tạo ra cho cuộc đời mình tốt đẹp hay xấu xa. Người Phật tử biết sống đúng theo chánh pháp sẽ tạo được hạnh phúc an vui trong chánh đạo.

40.- A-NẬU ĐA-LA TAM-MIỆU-TAM BỔ-ĐỀ LÀ GÌ ? (^)

A-Nậu Đa-La Tam-Miệu-Tam Bồ-Đề là trí tuệ sáng suốt của Phật, dịch là trí hiểu biết rộng lớn. Do con đường tu chứng đã đạt được, là trí tuệ vô thượng, là chân lý của sự an lạc.

Chữ A nghĩa là "vô", Nậu-Đa-La nghĩa là "thượng", Tam-Miệu là "chánh", Tam-Bồ-Đề là "biến" hay "đạo". Dịch tổng quát có nghĩa là Vô-thượng Chánh-đẳng Chánh-giác hay Vô-thượng Chánh-biến-đạo và gọi tắt là A-Nậu Bồ-Đề.

Chỉ có chư Phật là bậc Đại giác ngộ hoàn toàn mới được tôn hiệu nầy. Các vị Bồ-Tát, La-hán, Thanh-văn ... chưa đủ tư cách để được tôn xưng. Con người từ khi phát tâm tu hành cho tới khi đạt được quả Vô-thượng Chánh-đẳng Chánh-giác phải trải qua vô số kiếp tinh tấn không ngừng mới phá dẹp được hai trận tuyến của quân giặc đang bủa vây từ trong nội tâm là sự phiền não quấy phá, cho đến giặc ngoại cảnh như ma chướng và các thứ sắc dục khác theo cám dỗ. Nếu người tu bẻ dẹp được 2 thứ giặc hùng hậu kia rồi cứ tiến thẳng tới quả vị Bồ-Đề là con đường rộng mở để vào ngôi nhà chánh pháp tức là giác ngộ giải thoát vậy.

Người Phật tử trong lúc sơ cơ học đạo, vì còn nặng gánh gia đình, chúng ta nên thực hành từng bước một những điều Phật dạy để tạo dựng một nếp sống gia đình thoải mái, lành mạnh, an vui, hạnh phúc, nhờ đó làm thềm thang đưa tới quả vị Bồ-Đề. Nếu luận rằng quả Phật khó đạt và việc Phật sự khó thực hành, chúng ta không biết đến đời nào mới chứng quả ? Sự giác ngộ và giải thoát không gì khác là ngay trong mỗi hành động, lời nói của ta trong sạch và lợi lành cho kẻ khác.

Phật đã dạy "Ta là Phật đã thành, các ngươi là Phật sẽ thành" thì quả Vô-thượng Chánh-đẳng Chánh-giác không xa đối với người Phật tử chân chánh, biết quyết tâm thực hành Phật giáo.

KIẾN THỨC

CĂN BẢN PHẬT GIÁO

TT.Thích Bảo Lạc

--- o0o ---

CHƯƠNG 2

CẢNH GIỚI

1.- CON NGƯỜI THEO QUAN NIỆM PHẬT GIÁO NHƯ THẾ NÀO ? (^)

Con người là một trong những loài động vật có lý trí ở trên thế gian. Chung quanh thế giới chúng ta đang sống còn có nhiều loài khác nữa. Vậy thì theo quan niệm của Phật giáo, con người chiếm một địa vị ra sao ?

Ở trong sáu đường (thiên, nhân, A-tu-la, địa-ngục, ngạ-quỷ, súc- sanh), con người đứng hàng thứ hai sau chư thiên thần, như thế hẳn nó phải mang một tính chất gì đặc biệc ! Chư Thiên do tu 10 điều thiện mà thành, còn con người nhờ biết giữ gìn giới (không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không uống rượu) mà được báo thân trong đời nầy. Trong trường hợp người không tin theo Phật giáo thì sao ? Đây là luật tự nhiên hình thành, dù tin hay không, cái nhân làm người vẫn đều do các yếu tố kia kết nạp lại, không ai chối cải được cả.

Có thể nói con người có lý trí, tư tưởng để cân nhắc việc lợi hại, đúng sai, trong khi đó loài động vật cũng có trí hiểu biết nhưng lại thiếu phần tư tưởng. Sự khác nhau là ở điểm nầy. Con vật nhiều lúc cũng biết mừng giận ghét thương như người và chúng cũng quý đời sống hơn là phải đi vào chỗ chết, như con heo, con chó, gà, vịt ta nuôi trong nhà lâu ngày là một điều dễ hiểu.

Mặt khác, con người rất khôn ngoan nhưng lại là con vật yếu đuối không thể tưởng tượng được, nhất là lúc mới sanh.

Con người không biết tu nhân tích đức, sau khi chết cũng phải bị đọa lạc như các giống vật khác.

2.- THẬP NHỊ XỨ LÀ GÌ ? (^)

Thập nhị xứ là mười hai xứ hay nơi chốn tùy thuộc vào các yếu tố như : sáu yếu tố thuộc về cơ thể và sáu phần còn lại thuộc về hoàn cảnh bên ngoài (sáu nội xứ và sáu ngoại xứ) hợp thành con người và cuộc sống hiện tại.

Sự phân biệt của ta do 5 yếu tố như màu sắc, lãnh thọ, tư tưởng (nghĩ), hành vi và phần quan trọng là nhận thức, gọi là năm uẩn (chỗ chứa nhóm), hợp lực với 6 căn (1) hay là 6 nội xứ là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý cùng với 6 trần (2) là màu sắc, âm thanh, mùi vị, tiếp xúc hay đụng chạm và các pháp hay còn gọi là 6 ngoại xứ hình thành mười hai xứ.

Mắt để nhìn và phân biệt màu sắc, tai để nghe các âm thanh động tịnh, mũi để hửi mùi hôi, tanh, thơm, thối, lưỡi nếm qua các vị ngọt, lạt, chua, cay, thân thể phải đụng chạm với hoàn cảnh trong hàng ngày, ý hợp với các pháp bên ngoài tức là cảnh trần và được gọi một cách nôm na là thập nhị xứ.

Có thể tóm lược 6 nội xứ và 6 ngoại xứ trong bản sau :

12 xứ

6 nội xứ 6 ngoại xứ

mắt tai mũi lưỡi thân ý sắc thanh hương vị xúc pháp

Xứ còn có nghĩa là nơi hay điểm phát xuất, tức là điểm tựa để cho tâm phân biệt được thế giới vạn vật bên ngoài.

(1) Căn là gốc, căn cứ, điểm phát sinh.

(2) Trần là cảnh trần, bụi bặm.

3.- THẬP BÁT GIỚI LÀ GÌ ? (^)

Như trên đã trình bày, 12 xứ gồm 6 nội xứ và 6 ngoại xứ cộng thêm với 6 thức hợp thành 18 giới.

Chữ Giới có nghĩa là giới hạn hay phạm vi nào đó mà mỗi phần của tâm, cảnh, thức hay thân nương gá vào nơi mỗi cơ quan hoạt động để hoàn thành được việc nhận thức.

Mười tám giới được chia ra làm 3 phần như dưới đây :

Sáu thức : Nhãn thức, nhĩ, tỹ, thiệt, thân, ý thức tức là cái biết hay điều phân biệt của mỗi cơ quan.

Sáu nội xứ : Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý.

Sáu ngoại xứ : màu sắc, âm thanh, mùi, vị, tiếp xúc và các pháp.

Như vậy, 6 thức và 6 nội xứ giống hay khác nhau ? Về hình thức giữa 6 thức và 6 nội xứ tuy giống nhau, nhưng về sự phân biệt nhận thức thì hoàn toàn khác biệt. Trong mỗi cơ quan : Nhãn, nhĩ, tỹ, thiệt, thân, ý còn có chữ thức kèm theo, tức là hàm ý nói do sự nhận thức bên trong. Còn 6 nội xứ là phần tự nhiên, mặc dù không ý thức tới ngoại cảnh chúng ta cũng có thể biết được mọi vật một cách tổng quát.

Hiểu biết và phân biệt là 2 khía cạnh khác nhau, nếu rõ được điều đó tức là ta phân biệt được dễ dàng 18 giới.

4.- THEO QUAN NIỆM CỦA PHẬT GIÁO TAM GIỚI LÀ GÌ ? (^)

Hầu hết chúng ta sống ở cõi nầy và chỉ biết được những gì trong phạm vi hữu hạn mà thôi. Theo như khoa học cho biết thì ngoài thế giới nầy, còn có những thế giới khác mà Phật giáo gọi là tam giới.

Tam giới gồm có Dục-giới, Sắc-giới và Vô-sắc-giới. Giới hay cõi đều có nghĩa như nhau. Con người ở cõi Dục luôn luôn nghĩ tới những thỏa mãn vật chất, danh vọng hay địa vị cao sang và chính chúng ta đang sống trong cõi dục nầy. Sắc-giới cao hơn một bậc, ở đó không còn có những ham muốn thô như cõi dục mà chỉ có những hình sắc, âm thinh làm cho con người say đắm, nhưng vẫn còn bị sa đọa một khi hết phước như các tiên nhân chẳng hạn. Vô-sắc-giới là cảnh giới không còn có hình sắc, tướng mạo và là cõi trời như phi-tưởng, phi-phi-tưởng-xứ. Con người nhờ tu hành 10 điều thiện mà đạt được phước báo ở cõi nầy và vẫn còn bị vướng mắc vào sự chấp có, chấp không nên chưa hoàn toàn thoát ra khỏi ngoài vòng sanh tử luân hồi. Nói một cách khác, tất cả các chúng sanh trong 3 cõi đều còn phải bị kiếp luân hồi, tức là khi hưởng hết phước vẫn phải bị sa đọa. Tuy nhiên con người sống ở cõi Sắc và cõi Vô-sắc nhờ đã dày công tu luyện mà thành, nhưng còn bị một phần của nghiệp lực chi phối, do đó chưa giác ngộ hoàn toàn được.

Ở mỗi cảnh giới đều có sự sinh hoạt khác nhau. Chúng ta ăn uống bằng thức ăn, người ở cõi Sắc thọ thực bằng nhạc trời và muôn ngàn chất hoa thơm thiên nhiên khác và cõi Vô-sắc thưởng thức món ăn qua giác quan là đủ. Con người ở đó bay đi tự tại qua lại trong các cõi khác.

Hưởng được phúc đức như các cõi trời gọi là sung sướng nhưng vẫn còn bị luân hồi, người Phật tử chân chánh không cầu mong như thế.

5.- CỬU PHẨM LÀ GÌ ? (^)

Cửu phẩm là chín bậc sắp xếp theo thứ tự 9 bậc cao thấp khác nhau cho việc tu giải thoát và dùng cánh hoa sen để tượng trưng. Cửu phẩm hay chín phẩm hoa sen phân ra như sau :

Thượng phẩm : Thượng sanh, trung sanh, hạ sanh.

Trung phẩm : Thượng sanh, trung sanh, hạ sanh.

Hạ phẩm : Thượng sanh, trung sanh, hạ sanh.

Trên hoa sen có 9 cánh, xen kẻ vào nhau, gồm có 3 tầng : Tầng trên cùng, tầng giữa và tầng dưới.

Người nào khi chết thoát sanh vào được phần trên hết gọi là Thượng-phẩm thượng-sanh, cho đến cánh hoa sau chót là Hạ-phẩm hạ-sanh. Dù có phân ra Hạ, Trung, Thượng nhưng đều trong cùng một cánh hoa sen. Tu hành được lên cửu phẩm sen, sau khi lìa cõi đời nầy là người đã dày công thực hành Phật giáo lúc sống. Chín phẩm hoa sen chỉ có ở thế giới Cực-Lạc của đức Phật A-Di-Đà. Trong các lễ cầu siêu, chúng ta thường nghe chư Tăng phục nguyện "thoát hóa liên đài" (thoát sanh vào cánh hoa sen) hay trong bài Hồi-Hướng có câu "Cửu phẩm liên hoa vi phụ mẫu, hoa khai kiến Phật ngộ vô sanh, Bất-thối Bồ-Tát vi bạn lữ" (chín phẩm hoa sen là cha mẹ, Hoa nở ta gặp được Phật và ngộ đạo mầu chứng lý vô sanh, vì tất cả các bậc Bất-thối Bồ-Tát là bạn hữu). Ở đời chúng ta chỉ cần thành tâm niệm danh hiệu đức Phật A-Di-Đà và tụng kinh, trì chú, đến lúc quá vãng sẽ được Ngài tiếp rước thần hồn đưa về thế giới Cực-Lạc, tùy theo công tích của người để được định lượng vị trí nơi chín phẩm hoa sen.

Phật tử chúng ta nên cố gắng tu phước huệ thế nào để sau khi trả báo thân nầy có thể lên được đài hoa sen báu nơi cõi An-Lạc Tây- phương.

6.- NIẾT BÀN LÀ CẢNH GIỚI NHƯ THẾ NÀO ? (^)

Niết-Bàn (Nirvana) là trạng thái vắng lặng an vui mà chỉ có các bậc tu chứng mới đạt ngộ được.

Chỗ cứu cánh của Phật giáo là tu để đạt đến Niết-bàn. Cảnh giới Niết-bàn không phải là thế giới Cực-Lạc của đức Phật A-Di-Đà, lại cũng không phải là cảnh sung sướng tuyệt đỉnh như một số người nghĩ mà là nơi tịch tịnh vượt ra ngoài ngôn ngữ nghĩ bàn của chúng ta. Chư Phật và các vị Bồ-Tát đã chứng đắc mới biết rõ được trạng thái của cảnh ấy mà thôi. Muốn diễn đạt theo ngôn ngữ thường của chúng ta để chỉ rõ Niết-bàn thì cảnh giới ấy ra sao ?

Căn cứ theo tư tưởng Đại-thừa Phật giáo, Niết-bàn không ở đâu xa lạ mà ngay trong đời sống hiện tại cũng có thể chứng minh được. Chẳng hạn, nơi mỗi hành động, ngôn ngữ, cử chỉ của ta làm việc lành, tự nhiên tâm hồn được thoải mái an vui, đó chính là trạng thái không ràng buộc, là cảnh giới Niết-bàn, giải thoát rồi vậy.

Thật vậy, Niết-bàn đồng nghĩa với giải thoát, chỉ khi nào tâm tư chúng ta không bị câu thúc bởi phiền não, tham đắm và vọng chấp mê lầm thì đó là Niết-bàn. Nói như thế không có nghĩa là chủ trương xóa bỏ cảnh Niết-bàn thật sự mà để chứng minh cho dễ hiểu cái lý thú của trạng thái giải thoát thôi. Đối với người đã nghiên cứu nhiều về Phật giáo có thể hiểu tinh thần của Niết-bàn không câu chấp, nhưng người chưa có cơ duyên với Phật Pháp phải có một cảnh giới thực thể ở ngay trước mắt và bên kia nhãn giới, vì có được như vậy thì những kẻ thực hành đúng mức tinh thần lợi tha, vô ngã của Phật giáo mới có được điểm tựa nhắm tới sau khi bỏ Báo thân nầy.

Phật giáo không chủ trương ru ngủ con người, bằng cách đưa ra một cảnh giới hoàn toàn an vui giải thoát để mê hoặc sự dễ tin của quần chúng mà chính chúng ta phải đích thân thực hành rồi tùy theo trình độ hiểu biết của mình mà cảnh Niết-bàn sẽ là đáp số cho việc tìm hiểu của mỗi người.

Niết-bàn được quan niệm như là một thực thể chỉ có khi nào chúng ta đã diệt trừ được mọi phiền não vi tế mới có thể chứng biết được trọn vẹn.

7.- HÃY NÓI VỀ CẢNH GIỚI CỰC LẠC CỦA ĐỨC PHẬT A-DI-ĐÀ ? (^)

Người tu theo pháp môn "Tịnh-độ" chuyên việc tụng kinh và niệm danh hiệu đức Phật A-Di-Đà luôn luôn nghĩ tới cảnh giới Cực-Lạc và cầu mong được sanh về đó sau khi chết.

Nơi đó, theo như kinh A-Di-Đà diễn tả, thì có ao bảy báu, nước tám công đức, trong nước có cát vàng trải làm đất, bốn bên có mành lưới bao bọc, cây cối xanh tươi suốt quanh năm. Ngoài ra còn có cả ngọc xa-cừ, lưu-ly, pha-lê lót dưới lối đi để trang sức cho cảnh trí nữa. Mặt khác, con người cảnh Cực-Lạc đẹp đẽ, tướng mạo trang nghiêm, thường được trẻ mãi không già. Chính đức Phật A-Di-Đà có phát lời thệ nguyện là cứu độ hết tất cả chúng sanh để đưa về cảnh giới Cực-Lạc rồi Ngài mới thành đạo chứng quả. Ở Việt-Nam pháp môn Tịnh-độ thịnh hành nhất từ đời Lý Trần. Thời kỳ nầy Phật giáo phái Thiền pha lẫn lộn với Tịnh-độ và Mật-giáo. Pháp môn tu Tịnh-độ rất đơn giản bằng phương pháp niệm Phật. Đức Phật A-Di-Đà thường được xưng niệm danh hiệu trong lúc niệm Phật. Người thực hành miệng niệm, tâm nhớ nghĩ tới Phật, gạt bỏ mọi ý niệm xấu ác khác xen tạp vào trong tâm tưởng, tức là phải có sự chí thành thì mới có sự cảm ứng để gần gũi được thế giới Cực-Lạc và niệm cho tới khi thuần thục mới đạt được điều lợi ích.

Việc niệm Phật rất dễ thực hành, ai cũng có thể làm được, không luận già trẻ lớn bé. Nhất là những vị lớn tuổi thường để ra hằng giờ mỗi ngày để niệm Phật. Nhờ công đức niệm Phật mà có người biết trước được giờ chết và dặn dò con cháu những điều tâm phúc hay tắm rửa sạch sẽ trước khi nhắm mắt lìa đời. Đối với kẻ làm ác thì khó mà hưởng được phút vui hiếm có nầy, như những người lúc sống làm việc mổ thịt trâu bò, cắt tiết heo, dê đến khi chết như có ai tới đòi đền mạng nên họ không thể nào nhắm được mắt, lại còn phải chịu vậy vùng đau đớn, có khi còn la rống lên lớn tiếng rồi mới tắt hơi thở. Vậy thì còn chần chờ gì nữa mà chúng ta không tu để được về thế giới giải thoát an vui của cảnh Cực-Lạc. Ở đó có nhạc trời tấu khúc, chim hót líu lo suốt bốn mùa và mọi phiền lo như đều được lắng sạch, cho đến món ăn đều hoàn toàn bằng pháp thiền định vui vẻ.

Tu mau kẻo trễ là một cách khuyến khích mọi người cố gắng thực hành theo pháp môn niệm Phật cầu vảng sanh sau khi chết đã được nhiều người tin tưởng, áp dụng.

8.- THEO PHẬT GIÁO ĐỊA NGỤC LÀ CẢNH NHƯ THẾ NÀO ? (^)

Cảnh địa ngục có phải là một cái cớ để dọa nạt mà đạo Phật cố tình đưa nhân sinh vào con đường cùng không lối thoát hoặc lợi dụng lòng tin của người đời để ru ngủ như đã có người nghĩ không ?

Địa ngục là cảnh có thật với đủ các hình phạt để xử trị kẻ nào ở thế gian làm việc ác, khi chết oan hồn đi vào đó nhận lấy quả báo. Các hình phạt được ghi nhận là : Ngục thiết-hoàn (vòng sắt nóng), cưa xẻ, đập (đánh, tra tấn, xiềng, kẹp v.v..). Do đó, nhiều người khi nghĩ tới cảnh địa ngục liền phát rợn tóc gáy lên. Có nhiều sự tích còn chứng minh đầy đủ có cảnh giới tối tăm bẩn thỉu nầy. Ngay cả những người ngồi đồng thiếp hồn cũng đi vào chốn địa ngục và chứng kiến được cảnh tra tấn rùng rợn ở đó về thuật lại. Sư Từ-Đạo-Hạnh tìm cách báo thù cho cha, ông Từ-Vinh bị chết oan do tay Pháp-sư Đại-Điên trù yếm, sau đó món nợ máu đã trả xong mới được yên chuyện. Bà Thanh-Đề bị hành hạ trong kiếp đói khát ở cảnh địa ngục ... là những chứng minh cho thấy được hình tướng của cảnh giới địa ngục như thế nào. Nói về sự tướng thì luận như thế, còn đứng về mặt lý, nhất là căn cứ theo hành vi thiện ác trong đời hiện tại, thì chính những việc đau đớn, đọa đày, ức hiếp, bị tù hảm giữa xã hội loài người bây giờ, chúng ta cũng có quyền kết luận được đó là thế giới của đọa lạc, đau thương. Đối với người nào chưa hiểu về lý, chúng ta phải chỉ ra được địa ngục có hình tướng dài ngắn, lớn nhỏ ra sao để hướng dẫn họ cách tu và tìm ra con đường thoát khỏi sự ràng buộc u tối kia.

Chỉ có tư tưởng của Đại-thừa Phật giáo mới chứng tỏ được cái viên dung vô ngại mà người bình dân cũng như giới trí thức đều học hỏi tu tập để mong thoát khỏi địa ngục.

Tùy theo trình độ của người cao thấp mà đạo Phật hướng dẫn cho kẻ tu hành đạt đến giải thoát khỏi vòng sanh tử để chứng nhập Niết-bàn tịch tịnh, tức là không còn bị đọa lạc vào cảnh giới khốn khổ lầm than ...

9.- CẢNH GIỚI CỦA NGẠ QUỈ Ở ĐÂU ? (^)

Cảnh ngạ quỉ tức là cảnh giới mà nơi đó chúng sanh phải chịu đói khát, bị hành phạt đau đớn về thể xác lẫn tinh thần.

Những ai sống ở đời có tính tham lam, keo kiệt như có tâm bòn rút của người để thu lợi về cho mình, lúc chết phải chịu cảnh đọa đày, lạnh lẽo đói khát. Hành động bẩn thỉu của con người nơi trần thế kéo theo cho tới lúc chết phải bị đọa vào kiếp đói khát trong loài quỉ để trả cho xong món nợ truyền kiếp ở đời. Loài quỉ đói được kể rằng có nhiều hình tướng khác nhau như quỉ một giò, quỉ sứ, quỉ hóa đá, quỉ đoạt mệnh, quỉ đói, quỉ ưa phá phách v.v... Con quỉ có thể không giống với hình người. Chúng có hình lông lá dễ sợ và thường sinh sống cạnh thế giới loài người, vì nghiệp nặng, những hồn oan của người khi chết không đi đầu thai được nên hóa thành quỉ và ở lơ lững giữa từng không như một thế giới vô hình mà mắt thường của ta khó hình dung ra được.

Không luận Phật giáo mới nói tới cảnh ngạ quỉ, nhiều người cũng kể lại rằng chính họ đã thấy được loài quỉ dữ. Có một điều lạ lùng là trong thời buổi chiến tranh, có nhiều tiếng vũ khí nên loài quỉ cũng ít thấy xuất hiện nơi thế giới loài người, có lẽ chúng sợ binh khí chăng ?

Quỉ là một vấn đề lớn mà các nhà khoa học không thể nào giải thích nổi, theo Phật giáo, những người chết oan ức linh hồn không đi đầu thai được và còn vất vưởng nơi đình miếu, gốc cây để khuấy phá người đời. Do đó, Phật giáo có những cuộc lễ như chẩn tế cô hồn vào dịp lễ Vu-Lan rằm tháng bảy để nhờ lời kinh kệ và hơi hương khói mà các hồn oan được ấm lòng đi đầu thai ở kiếp khác.

Muốn biết sau khi chết chúng ta thành kiếp gì, chỉ cần nhìn vào hành vi của việc làm hiện tại để có thể đoan chắc đúng được 90% theo luật nhân quả luân hồi, không hề sai lệch.

10.- SÚC SANH LÀ LOÀI GÌ VÀ CHÚNG SINH HOẠT Ở ĐÂU ? (^)

Súc sanh là giống thú hay còn gọi là loài lục súc như : Trâu, dê, heo, ngựa, chó, gà là sáu loài vật được người ta nuôi dưỡng trong nhà để chúng phục vụ cho người.

Mỗi khi giận người nào ta thường nghe kẻ ấy dùng câu chửi rủa là : "Đồ súc sanh", tức có ý ám chỉ cho kẻ đối diện là thứ trâu bò ngu ngốc không ra gì cả. Con trâu và con ngựa được coi là loài động vật nặng nghiệp nhất phải mang kiếp kéo cày, kéo xe để trả nợ, vì kiếp trước chúng vốn đã tạo ra nhiều ác nghiệp. Do đó, để thỏa mãn cơn giận của mình, người ta ưa dùng lời độc địa nặng nề đối với kẻ khác. Nhưng tất cả loài người đều ghét ai gắn cho mình điều xấu xa, sỉ nhục ấy, vì đó là một sự xúc phạm đến danh dự kẻ khác một cách trầm trọng và như thế cũng có nghĩa rằng chính mình không muốn bị gán ghép cho những lời bất hão hạ cấp ấy, thì đừng mở lời độc ác xấu xa để làm cho người phải buồn khổ. Mặc dầu những giống vật nầy được chúng ta nuôi dưỡng, bảo hộ. Người Nhật cấm ăn thịt chó, nếu ai phạm sẽ bị phạt nặng. Người Ấn-Độ cấm ăn thịt bò, vì bò được xem như vật tổ, nên tuyệt đối cấm giết hại chúng. Người Việt-Nam theo đạo "Ông" không ăn thịt trâu v.v.. là những hình thức tôn trọng loài vật.

Lục đạo, theo Phật giáo, thì loài súc sanh được liệt vào hàng thức sáu (Nhơn, Thiên, A-tu-la, địa-ngục, ngạ-quỉ, súc-sanh) vì được xem như giống dơ dáy, xấu xí nhất vậy. Chúng ta phải biết tôn trọng loài vật, đừng đánh đập hành hạ chúng cách tàn nhẫn mà phải bảo vệ tất cả mọi loài.

Kiếp của loài súc sanh rất khổ sở, vì chúng phải chịu đủ mọi cực hình do loài người và các loài vật mạnh khác lấn hiếp.

11.- CÁC CÕI THIÊN CÓ LỐI SINH HOẠT NHƯ THẾ NÀO ? (^)

Thiên là trời, tiếng dùng để gọi chung cho tất cả các cảnh giới trên thế giới của loài người. Các cõi trời được ghi nhận gồm có 33 cảnh giới khác nhau.

Nhờ tu theo pháp Thập thiện (10 điều lành), sau khi mãn báo thân nầy ở đời, con người được sanh lên các cõi trời Sắc-giới và Vô-sắc-giới. Cõi trời Vô-sắc-giới có các trụ xứ như : Phi-tưởng, phi-phi-tưởng-xứ, thức-vô-biên-xứ, vô-sở-hữu-xứ ...

Con người sống nơi các cõi trời được hưởng mọi sự sung sướng, nhưng vẫn còn phải bị đọa lạc như con người ở thế gian nầy, nếu hết phước báo mà không lo tu thiện. Do đó, việc lấy 10 điều lành làm nhân trong việc tu tập là điều cần thiết để hưởng được quả nơi các cõi trời. Ngoài ra, thì giờ ở các cõi trời cũng dài hơn ở thế giới chúng ta. Cõi phi tưởng, con người nơi đó không còn tưởng nghĩ như chúng sanh cõi dục nữa. Vượt cao hơn thêm một bậc, người ở cõi phi-phi-tưởng xa lìa tất cả mọi việc nói năng nghĩ bàn. Cho đến món ăn của họ đều bằng thiền định, thức mặc cũng do thiên y tạo thành. Cõi thức-vô-biên-xứ, con người không còn trụ tâm vào nơi ý thức nữa mà đã vượt ra ngoài ngôn ngữ luận bàn của chúng ta. Xa hơn một từng nữa, cõi vô-sở-hữu-xứ, con người ở đó lìa tất cả mọi ý nghĩ, sống bằng trực giác, cũng như việc giao thiệp với nhau đều do trực giác cả.

Người nơi các cõi trời có thể bay đi tự tại từ thế giới nầy qua thế giới khác trong khoảnh khắc thời gian chừng một bửa ăn mà không cần thủ tục thông hành rắc rối lôi thôi. Mỗi sáng, mọi người tụ tập hội lại một nơi do hiệu lệnh báo giờ ăn. Thức ăn toàn bằng hương hoa, mỹ nhạc trổi lên để mọi người tới đó hưởng cái hương vị cũng đủ no, không cần phải ăn uống thô tục như chúng ta. Sau khi thọ thực xong, mỗi người ai về cõi nấy và hẹn ngày hôm sau lại gặp nhau ở một nơi đã định.

Dù được hưởng phước báo sung sướng trên các cõi trời, nhưng chưa phải nơi đã được giải thoát hoàn toàn, cho nên người Phật tử chân chánh cần nên có thái độ dứt khoát để chọn nghiệp sau nầy.

12.- HÃY NÓI RÕ CẢNH GIỚI CỦA LOÀI A-TU-LA NHƯ THẾ NÀO ? (^)

Trong ba đường ác là địa-ngục, ngạ-quỷ và súc-sanh được coi là những nơi xấu xa, bẩn thỉu nhất, và trên đó một bậc có cảnh giới của loài A-tu-la, cũng còn nằm trong vòng trầm luân của sáu đường dữ.

A-tu-la là loài quỷ thần ở giữa thế giới của loài người. Thần có khi là thiện thần và có khi là ác thần. Thiện thần thường hay gần gũi, ủng hộ người, nhưng ác thần lại tìm cách khuấy phá cuộc sống của dân gian. Con người phần nhiều đều không hiểu nổi loài thần, nên phải cúng cấp, cầu khẩn để mong được gia hộ, chở che. Những anh hùng, chí sĩ khi chết trên tên đạn một cách oan ức thường hiện thành thần và được dân chúng cúng bái đầy đủ, cũng có những ý niệm về loài quỷ thần, không còn xa lạ đối với chúng ta.

Cảnh của A-tu-la không có hình tướng nhất định và loài quỷ thần cũng biến dạng thay hình rất nhanh chóng. Ngoài ra, thần cũng có thể bay đi tự tại được trong thế giới như chỗ không người mà ít có ai thấy được hình dung.

A-tu-la nhiều khi được người ta kính nể, có lẫn sự căm thù do nhiều nguyên nhân khác nhau, cho nên dù được coi trọng, chúng cũng phải ở dưới loài người một bậc.

13.- TỨ SANH LÀ GÌ ? (^)

Tứ sanh là bốn loài động vật có sanh mạng và hình thành trong một thân xác không đồng nhau.

Bốn loài động vật là :

- Thai sanh

- Thấp sanh

- Noản sanh

- Hóa sanh

Thai sanh là loài động vật thọ hình bằng bào thai như người, trâu, bò, heo, chó ... Con người từ khi thọ thai cho tới lúc sanh ra phải ở trong bụng mẹ hơn 9 tháng, trong khi đó loài trâu, bò, ngựa có khoảng thời gian thọ thai lâu hơn lên tới một năm từ lúc bắt đầu tượng hình cho đến khi ra đời.

Thấp sanh là loài vật sanh nơi ẩm thấp như trùn, dế, sâu, bọ, rắn, rết ... Những loài nầy có thân hình lớn nhỏ không đồng nhau, hoặc có 4 chân hoặc không chân hay nhiều chân ...

Noản sanh là loài đẻ trứng như gà, vịt, chim, cá ... Sau khi đẻ trứng, con mẹ phải ấp trứng một thời gian 20 ngày như gà, chim hoặc 30 ngày như vịt để sau đó trứng nở thành con. Có một điều đặc biệt hơn cả là loài đẻ trứng khi vừa nở ra con là có thể chạy nhảy, ăn uống được tự nhiên rất mạnh khỏe. Trong khi đó loài mang thai cũng có một hoàn cảnh tương tự, trừ loài người. Người là loài động vật yếu đuối nhất trong muôn vật. Con người từ lúc sanh ra cho tới khi biết đi đứng, nói năng phải trải qua từ 8 đến 12 tháng mới thành được. Lúc đầu con người không tự ăn uống được mà phải do người mẹ săn sóc sú mớm sữa, cơm hay cháo cho độ 6 tháng sau, em bé mới tập ăn uống dần dần được.

Hóa sanh là loài biến hóa như loài ấu trùng, loài bướm, nhộng, muỗi, ve ... Chúng phải thay hình đổi xác như lột da hay vỏ để thành một giống vật khác như con ngài hóa nhộng, tằm hóa bướm, lăng quăng hóa muỗi v.v...

Trong bốn loài động vật đó, loài người được ghi nhận là khôn lanh hơn cả, biết biến chế đồ vật để sử dụng và có trí khôn tuyệt vời. Nhưng nếu không tu, con người cũng sẽ bị đọa làm thú sau khi chết. Đó là luật nhân quả tất định.

14.- THAI SANH LÀ LOÀI SINH SỐNG Ở ĐÂU ?

Chúng sanh có rất nhiều loài như sanh bằng cách biến hóa thay hình đổi xác, hoặc do trứng nở thành, con ở trong bào thai sanh ra gọi là thai sanh.

Cùng loại với thai sanh, con người được coi như là giống vật tinh vi nhất, biết biến chế đồ vật thành đồ sử dụng, đồ trang sức và biết sống nương tựa lẫn nhau. Con người thời cổ cũng đã biết sử dụng lửa để nung chín các thức ăn. Trí khôn của loài người đã đạt được đến chỗ tuyệt đỉnh, biết khám phá ra màn bí mật của vũ trụ và những hiện tượng thiên nhiên như sấm, chớp, gió, mưa, động đất ... để dự phòng những tai họa xảy đến. Ngày nay khoa học tiến bộ, con người đã lên được cung trăng mà năm, mười thế kỷ trước được xem như là việc quá xa vời và khó khăn. Tuy nhiên chúng ta phải nhìn nhận rằng loài người yếu đuối nhất trong các loài động vật sinh trưởng trong lốt thai bào. Thật vậy, lúc em bé vừa cất tiếng khóc chào đời, đã phải do sự săn sóc của người mẹ và trải qua trong vòng 8 tháng, 12 tháng hoặc hơn nữa, trẻ mới tập đi và học nói cũng như tự ăn uống được một vài thức mềm nhẹ, dễ tiêu hóa. Chính nhà bác học Pascal (1623-1662) cũng đã nhận xét về con người qua câu nói bất hủ như sau :

"L'homme est un roseau faible dans l'universe, mais un roseau en pensant".

(Con người là một cây sậy yếu đuối trong vũ trụ, nhưng là một cây sậy biết suy nghĩ).

Thế nhưng các loài động vật khác có cùng lối sinh nở giống loài người như trâu, bò, heo, ngựa v.v... khi vừa mới sinh ra là đã biết chạy và ăn uống mạnh khỏe như thường.

Loài người chỉ khôn hơn muôn vật về khía cạnh tư tưởng, nhưng chưa chắc đã giỏi bằng loài đồng vật về bản năng sinh tồn, làm tổ, di động ...

15.- THẤP SANH LÀ LOÀI VẬT NHƯ THẾ NÀO ? (^)

Muôn loài, vạn vật đều ở trong 4 loài sanh sản khác nhau, nhưng cùng là giống động vật. Phật giáo gọi những loài nầy trong một danh từ tổng quát là chúng sanh.

Thấp sanh là giống vật sanh ra dưới những nơi ẩm thấp, dơ dáy như trong bùn, trong đất cát có loài trùng, giun (trùn), rắn, rết ... Chúng có thân hình nhỏ, thường là loài bò sát có chân hoặc không chân. Khoảng thời gian sanh ra và tồn tại của loài động vật ở những nơi ẩm ướt thường ngắn ngủi. Chúng thường bị đe dọa, khủng bố, sát hại bởi các loài vật lớn hơn như là thứ mồi dinh dưỡng. Khi Thái-tử Tất-Đạt-Đa chưa xuất gia, Ngài có lần đi ngoạn cảnh và chứng kiến cảnh một người nông dân đang cày ruộng, những loại côn trùng vừa từ luống đất cày mới lật lên, liền bị loài chim mổ bắt, đàng sau bầy chim, người thợ săn đang rình bắt chúng.. Cứ như thế mà sự tranh nhau để sống giữa các loài vật tiếp tục diễn ra thành một trường tranh đấu chém giết không ngừng. Đây là một trong nhiều động cơ khiến Thái-tử lìa bỏ ngôi báu để xuất gia tầm đạo.

Chúng ta vì nhân danh trí khôn của loài người để sát hại các loài khác không cùng giống loại. Chư Phật, các vị Bồ-Tát vì lòng bi nguyện, xem muôn loài, vạn vật đều bình đẳng như nhau. Từ loài bò, bay, cựa, động thấp nhất như giống côn trùng nhỏ nhoi cho đến các loài cao đẳng động vật như người đều có thể tiến hóa được nếu biết tu sửa theo thuyết nhân quả, nghiệp báo của Phật giáo để được thoát kiếp đi đầu thai ở kiếp sau. Còn như con người nếu không biết tu thiện vẫn bị đọa làm giống vật như thường.

Muôn loài vạn vật nếu biết nhìn nhau bằng con mắt tương ái, không cạnh tranh chém giết nhau, thì thế giới sẽ bớt cảnh nồi da xáo thịt và các cuộc chiến tranh đẩm máu không còn xảy ra nữa.

16.- LOÀI NOÃN SANH SANH SỐNG Ở ĐÂU ? (^)

Như trong bài Tứ Sanh đã trình bày, noãn sanh là một trong bốn loài động vật có sanh mạng và sống ở trên không, trong đất, dưới nước ...

Noãn-sanh là loài đẻ trứng. Từ trứng nở ra thành con như gà, vịt, chim, cá ... là những loài động vật lớn ta có thể nhìn thấy dễ dàng, nhưng còn có những loài vật nhỏ hơn cũng sinh nở theo lối để trứng như chí rận, dán, nhện, kiến, tuy chúng vẫn sống lẫn lộn chung quanh loài người, lại ít có ai để ý hay lưu tâm tới. Nếu chịu khó tìm tòi, chúng ta sẽ thấy rằng loài đẻ trứng đông hơn loài người, chúng sống rải rác thành đoàn thể có tổ chức như kiến, nhện, cá ... hay sinh hoạt rời rạc như dán, chí ... Loài đẻ trứng thường có mạng sống ngắn ngủi như loài gà, vịt chỉ sống lâu nhất được 5 năm là cùng. Dù cho sanh mạng ngắn hay dài, đẹp hay xấu, đạo Phật vẫn tôn trọng mọi loài đều có một giá trị như nhau. Vì câu nói "Tứ sanh chi từ phụ" (cha lành của bốn loài) có một giá trị từ bi và bình đẳng mà chỉ có người Phật tử mới quan niệm được như thế mà thôi.

Tại sao đạo Phật lại chủ trương bình đẳng để hạ thấp giá trị con người ngang xuống với hàng hạ đẳng động vật như thế ?

Thật ra cái giá trị không được căn cứ nơi một thân hình to lớn, cũng không phải do quyền lực và trí khôn để tự nhận mình có giá trị hơn mọi loài mà là do nơi sức mạnh của tinh thần mới thực tiển, đáng kể. Con người có giá trị đáng quý thật, nhưng lúc sống ta chỉ biết làm những việc ác, tới khi chết còn thua kiếp của con vật, thì cái giá trị nào hơn ?

Chúng ta đừng vì cậy thế, ỷ quyền mà coi rẻ sinh mạng của các giống vật khác, nếu không khéo tu con người cũng sẽ đọa làm loài động vật không khác.

17.- LOÀI HÓA SANH CÓ SỰ SANH SỐNG RA SAO ? (^)

Các loài động vật do sự xếp loại mà thành bộ loại khác nhau. Theo Phật giáo, chúng sanh là chỉ chung cho 4 loài động vật từ nhỏ đến lớn. Hóa-sanh được xếp và hàng thứ tư trong 4 loài.

Hóa-sanh là loài vật có lối sinh nở bằng cách biến, tức không do từ bao thai mà ra, cũng không do trứng nở, lại cũng không phải từ nơi ẩm thấp để thành hình. Chúng từ một giống vật nầy mà hóa ra giống vật khác như con tằm hòa thành bướm, con lăng quăng hóa muỗi, con ve hóa hình từ con sùng trong lòng đất mà ra. Loài động vật trong lớp hóa sanh thường có thân hình nhỏ và mạng sống rất ngắn ngủi như con lăng quăng chỉ sống được một ngày một đêm, con ve sanh tồn trong vòng một tuần lễ, mặc dù chúng phải ở trong kiếp trùng dưới đất suốt từ 5 đến 6 tháng mới hiện được nguyên hình.

Dù là một sinh vật nhỏ đến đâu, Phật giáo vẫn quan niệm rằng giữa chúng có một giá trị ngang nhau. Con người vì không biết hay do khinh thường các giống vật khác mà không tôn trọng mạng sống của nhau. Cái điểm cao cả nhất, theo Phật giáo, không phải căn cứ vào sức mạnh hay mưu mẹo để hơn được các loài động vật khác mà do nơi giá trị tinh thần mới là điều đáng quý. Loài hóa sanh không nhiều như các loài đẻ trứng, loài sanh nơi ẩm thấp bẩn thỉu, nhưng không phải ít đối với chúng ta. Con vật nào có sanh mạng cũng đều biết tham sống và sợ chết như người cả. Tại sao chúng ta không chịu tìm hiểu ở điểm nầy giữa các loài vật khác mà chỉ nhìn thấy riêng thế giới của con người là tối linh, quan trọng ?

Các loài đều được coi như có sự bình đẳng trong việc cấu tạo nên thân mạng, dù chúng mang lớp gì đi nữa, chỉ có đạo Phật mới chủ trương được như thế mà thôi.

18.- TAM THỪA, TỨ QUẢ LÀ GÌ ? (^)

Quả vị tu chứng của hàng Tiểu-thừa và Đại-thừa có 3 bậc là Thanh-văn, Duyên-giác và Bồ-Tát thừa.

Cả 3 thừa, Thanh-văn, Duyên-giác, và Bồ-Tát tu theo pháp môn gì để chứng đắc ?

Hàng Thanh-văn hay còn gọi là Độc-giác nhờ quan sát âm thanh của vạn vật mà thành tựu, như quan sát chiếc lá rơi, cành cây gãy, sấm chớp v.v... nói chung, các hiện tượng vũ trụ ... để tìm ra chỗ rốt ráo của lý duyên sinh trong muôn loài vạn vật. Việc quan sát đến khi được thành tựu viên mãn, tức là tự giác ngộ hoàn toàn (độc giác).

Duyên-giác tu quán pháp 12 nhân duyên để tìm ra chân lý của sự vật. Pháp 12 nhân duyên là vô minh, hành, thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử. Con người và muôn vật ở trong vòng lẩn quẩn của pháp 12 nhân duyên. Do từ vô minh, con người đi đầu thai làm thân xác, rồi do hoàn cảnh chung quanh kéo lôi phải lăn lộn trong cuộc đời để thọ nhận các nghiệp báo từ nhiều đời, mãi cho tới khi già và chết. Khi chết rồi lại tái sanh và cứ như thế tiếp tục không lúc nào ngừng nghỉ như bánh xe quay trong vòng tròn, hễ giáp chu kỳ lại quay tiếp. Người tu quán các pháp ấy để thành đạo tức hàng Duyên-giác.

Bồ-Tát nhờ tu các pháp Lục-độ : Bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ và vạn hạnh mà thành Chánh-giác. Bồ-Tát luôn xả thân vì người để thực hành hạnh lợi tha. Nơi nào cần tới bàn tay cứu giúp, vị Bồ-Tát xả thân, ngay trong hiểm nạn cũng vẫn xong xáo thi hành hạnh nguyện của mình. Hàng Bồ-Tát thế không tiếc thân mạng. Chúng sanh nào cần tai, mắt, mũi, lưỡi, chân tay để cứu mạng nguy cấp, Bồ-Tát cho không tiếc, đúng theo hạnh bố thí không sợ sệt, không so đo, tính toán như ngài Quán-Thế-Âm Bồ-Tát đã hiện đủ mọi thân hình để cứu độ chúng sanh.

Tứ quả là 4 quả vị tu chứng của riêng hàng Tiểu-thừa gồm có : Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm và A-la-hán. Cách tu tập và dư báo của 4 quả thánh nầy sẽ nói riêng ở mỗi bài sau.

Người tu muốn đạt được quả vị cao phải do cái nhân tu tập cũng như người bỏ vốn đầu tư nhiều hay ít để được kết quả lớn hoặc nhỏ.

19.- TU-ĐÀ-HOÀN LÀ QUẢ VỊ NÀO TRONG HÀNG THÁNH ? (^)

Trong hàng Thánh, tức là bậc đã chứng đắc được đạo quả giác ngộ của Phật giáo có 4 quả vị thuộc hàng Tiểu-thừa mà Tu-đà-hoàn là quả vị tu chứng đầu tiên.

Tu-đà-hoàn hay còn gọi là Dự-lưu, tức là chỉ cho người mới tu đắc và bắt đầu nhập vào quả Thánh, nhưng vì còn các trần sa nghiệp (nghiệp quả vi tế của nhiều đời) nên chưa giải thoát trọn vẹn được. Ngoài ra, còn có các tên gọi khác cũng để chỉ quả vị Tu-đà-hoàn như Nhập-lưu hay Nghịch-lưu, tức từ chỗ phàm phu chứng vào được bậc Thánh, vì đi ngược lại với dòng lưu chuyền của sanh tử để chứng Thánh. Mới nhập vào dòng Thánh cho nên hành giả còn phải gia công tu tập các pháp lành để được tiến xa hơn lên ở các quả vị khác trong hàng Thánh.

Bậc Tu-đà-hoàn thực hành pháp môn gì mà đạt được, cũng như phải trải qua thời gian tu tập bao lâu để thành ?

Tu-đà-hoàn tu theo pháp Tứ-đế và quán pháp Nhân-duyên, đã đoạn sạch được kiến-hoặc (cái thấy biết do cố chấp) mà thành. Theo kinh Đại-Thừa Nghĩa-Chương nói rằng Tu-đà-hoàn là tiếng ngoại quốc, dịch ra thành 3 nghĩa :

Thứ nhất, dịch theo nguyên nghĩa, gọi là Vô-Lậu, tức tu pháp môn vô lậu mà thành.

Thứ hai, theo nghĩa phóng dịch là Nghịch-Lưu, tức là vĩnh viễn không còn chịu sanh tử trong 3 đường dữ nữa.

Nghĩa thứ ba, là Xúc-Trái, tức do cái nhân đã xa lìa 3 đường mà không còn thọ quả báo trong ấy nữa.

Trí-Độ-Luận gọi quả Tu-đà-hoàn là "LƯU", tức là nhập vào một phần trong Bát-thánh-đạo, cũng có nghĩa là lưu nhập vào cõi Niết-bàn an lạc vĩnh viễn.

Từ phàm phu, muốn chứng nhập vào dòng Thánh, quả Dự-lưu, phải trải qua 3 a-tăng-kỳ-kiếp hay còn gọi là vô-số-kiếp mới thành tựu viên mãn. Vì phàm phu cho nên chúng ta nghĩ số kiếp như thế là lâu, nhưng các bậc đã chứng quả Thánh nghĩa đó chỉ là khoảng cách như lúc khảy móng tay mà thôi.

Các quả vị tu đạt được, ta cần phải thực hành mới chứng nghiệm được lời trong kinh điển, cũng như có uống nước ta mới cảm được vị và việc đả khát như thế nào.

20.- LÀM THẾ NÀO ĐỂ BIẾT ĐƯỢC LÀ TU CHỨNG QUẢ ? (^)

Sống trong một xã hội có nhiều xáo trộn, tranh chấp diễn ra mỗi ngày, chúng ta ít thấy có ai tu hành chứng quả ngay trong đời nầy. Trừ những vị Bồ-Tát ra đời do một nguyện lực để lẫn lộn trong chúng ta, rồi tu hành đắc đạo, nhưng vì con mắt phàm của người đời khó ai biết được.

Việc chứng quả chỉ có chư Phật và Bồ-Tát mới đạt tới được, còn các vị Tổ cũng tu chứng, nhưng trong hiện thế chúng ta không thấy được sự nhiệm mầu mà phải đợi lúc các vị ấy viên tịch (lìa đời) mới hiện ra những điềm lành. Ví dụ, khi sắp tịch, các vị Tổ thường di chúc lại cho các đệ tử một ngón tay hay chừa lại cả cánh tay, sau khi đốt xong mà vẫn không cháy. Gần đây nhất, vào năm 1963, Hòa-Thượng Quảng-Đức ngồi trong lửa hồng tự thiêu để cúng dường Phật Pháp mà không hề nao núng trước sức nóng của lửa, điều đó đủ chứng tỏ Ngài chính là vị Bồ-Tát do một nguyện lực kim cương mới đạt được. Có những trường hợp, người tu hành thấy mình đi trên hoa sen và thấy trước mắt hiện ra những thế giới muôn hình đẹp đẻ, đó không phải là chứng quả mà do ma lực hiện ra để thử thách, cũng như để đo trình độ tu tập của người ấy đạt tới chỗ thuần thục hay chưa. Cũng có người phát điên hoặc tâm trí tán loạn do bị ác ma cám dỗ trong lúc quá chú tâm vào cảnh huyễn tướng để bị lạc mất chánh niệm. Người nào tu hành đến một trình độ cao như kêu mưa, hú gió và sai sử được người khác làm theo mệnh lệnh vẫn chưa có thể gọi là người chứng quả mà phải gọi rằng kẻ đó nhờ tập trung tinh thần nhất quán mới đạt được thành công như thế trong việc tu niệm.

Do đó, ta cần phân biệt giữa chứng quả với những cảnh giới huyễn do mã hiện để thử thách người tu hành, bằng cách thực hành pháp môn tu quán để khỏi bị nhận lầm chân và giả.

21.- TƯ-ĐÀ-HÀM LÀ GÌ ? (^)

Tư-đà-hàm là quả vị tu chứng thứ hai trong 4 bậc Thánh của hàng Tiểu-thừa, và do tu nhân gì mà đạt thành ?

Tư-đà-hàm, người Tàu dịch nghĩa là Nhất-Lai, tức là còn thọ sanh lại làm người một lần nữa để tu hành, những nghiệp lực của "tư hoặc" trong cõi dục còn lại một phần nên chưa hoàn toàn ra khỏi cảnh giới trần ai được (chín phẩm tư-hoặc : Dục giới, sơ thiền, nhị thiền, tam thiền, tứ thiền, không vô biên xứ, thức vô biên xứ, vô sỡ hữu xứ, phi tưởng phi phi tưởng xứ). Do vướng mắc 3 phẩm tư-hoặc sau cùng chưa đoạn sạch nên quả tu chưa trọn vẹn, hành giả phải tấn tu thêm một lần nữa. Chín phẩm tư-hoặc ở trong 3 cõi gồm có 3 bậc thượng, trung và hạ được nhân lên thành 81 món tư-hoặc cả thảy. Quả vị của Tiểu-thừa hay 4 quả Thánh của Thanh-văn mà Tư-đà-hàm là bước thứ nhì trên đoạn đường tu giải thoát vậy. Cũng như người học viên học cấp bậc Cao-học, còn phải trải qua 2 năm lao lực nữa mới tiến lên Tiến-sĩ được. Ví dụ như thế có lẽ dễ hiểu cho tất cả những người quan tâm tới việc nghiên cứu, để biết lý do tại sao người sinh viên phải vất vả lắm trong việc học hỏi mới thành công. Tu hành cũng phải trải qua nhiều giai đoạn luyện tập công phu như việc học mới đạt được kết quả tốt.

22.- A-NA-HÀM LÀ GÌ ? (^)

Quả vị thứ ba trên đường tu thuộc hàng Thanh-văn là A-na-hàm. Vậy A-na-hàm là gì ?

A-na-hàm, Tàu dịch là Bất-Lai, tức là không thọ sanh trở lại nơi đời nầy nữa, vì đã dứt sạch tất cả tư-hoặc ở cõi dục. Quả vị nầy cũng ví như một người học sinh, bắt đầu từ vở lòng đi nốt đoạn đường dài suốt 22 năm để lấy được mãnh bằng Tiến-sĩ. Người đổ xong Tiến-sĩ còn có thể lấy thêm Thạc-sĩ, cũng như thế, hành giả muốn đi nốt đoạn đường tu niệm phải đạt tới quả A-la-hán sau cùng mới thành công viên mãn. Người tu đã chứng tới quả A-na-hàm thuộc hàng Tiểu-thừa Phật giáo, cũng có nghĩa là không còn bị chi phối bởi dòng sanh tử luân hồi của cõi dục nữa. Cũng cần nói rõ về nghĩa của chữ tư-hoặc là cái mê lầm về sự, do mê muội nơi sự vật mà ra. Ví dụ : 3 nhu cầu tối thiểu trong đời sống là sự ăn, mặc và ở khiến cho ta tham trước. Ý niệm nẩy sinh cùng trong một thân nầy cho nên nó còn có tên là mê lầm về câu sanh. Muốn tận diệt sự mê lầm đó, cần phải gắng chí tu trì để từ từ dứt bỏ những điều mê lầm căn bản đó gọi là tư hoặc.

A-na-hàm đã trừ bỏ hẳn những mê lầm căn bản ấy từ thô đến tế để dũng mãnh đứng vào hàng Thánh mà không sợ bị chi phối bởi nghiệp lực nữa.

Muốn tu hành chứng quả, chúng ta phải tinh tấn không ngừng trải quả nhiều đời nhiều kiếp mới đạt được.

23.- A-LA-HÁN LÀ GÌ ? (^)

Giai đoạn sau cùng để đạt được mục đích của quả Thanh-văn thuộc Tiểu-thừa Phật giáo là A-la-hán. A-la-hán là gì, và tu pháp môn gì mà thành tựu ?

A-la-hán Tàu dịch là vô sanh hay Ứng-Cúng, tức là không còn thọ sanh làm người trong cõi dục nữa mà là bậc đã giác ngộ sáng suốt xứng đáng thọ nhận của trời và người cúng dường. A-la-hán cũng như cấp bậc Thạc-sĩ, tức là người đã đạt được quả tu rốt ráo của việc tu tập. Thế thì quả vị của hàng Thanh-văn đâu có khác với Bồ-Tát ? Chỗ cứu cánh của bậc Thanh-văn là tu giải thoát lấy mình, trong khi đó Bồ-Tát không những tự độ cho chính bản thân mà còn cứu độ cho nhiều người khác đồng tu và đồng chứng quả. Khi đạt đến quả A-la-hán, hành giả không trở lại trần gian nữa nhưng Bồ-Tát mang hạnh nguyện từ bi và lăn xã trong đời gần gũi chúng sanh để cứu giúp cho họ.

Ví dụ : Hai Bác-sĩ cùng học tốt nghiệp ra từ một Đại-học Y-khoa. Sau 10 năm một người giàu có dư dã, còn một người làm việc chỉ vừa đủ tiêu nhưng thân chủ của ông ta lại là những người rất có nhiệt tình và thường hay lui tới. Vì tư cách của ông một phần và giá cả phải chăng cũng là một khía cạnh tâm lý quan trọng.

Quả tu của bậc Thánh thuộc Tiểu-thừa cũng như vậy mà A-la-hán là một chứng minh.

24.- CHÚNG SANH CHỈ CHO NHỮNG LOÀI NÀO ? (^)

Chúng sanh chỉ chung cho các loài động vật sống trên mặt đất, trên không, kể cả những loài côn trùng nhỏ nhất như loài bò bay, cựa động ...

Chúng sanh hiểu theo Phật giáo có 4 loài : Thai-sanh (loài sanh sản bằng bào thai) như người, trâu bò, chó, ngựa, heo ...,

Noãn-sanh (loài đẻ trứng) như gà, vịt, chim muông ...,

Thấp-sanh (loài sanh nới ẩm thấp) như trùng, dế, rắn rết ...,

Hóa-sanh (loài sanh bằng cách thay hình đổi lớp) như các loại côn trùng, bướm, tằm, ngài (nhộng)...

Như thế, danh từ chúng sanh dùng để chỉ chung số đông các loài động vật có thân xác ở trong thai bào sanh ra hoặc do từ trong trứng mà thành hình hay do nơi ẩm thấp để phát triển. ngoài ra, có loài còn do sự biến hình đổi xác mà thành được mạng sống.

Tất cả các loài chúng sanh đều phải trải qua 4 thời kỳ : Sanh, trụ, dị, diệt (sanh ra, tồn tại trong một giai đoạn hữu hạn, thay đổi, và cuối cùng mất đi) hay nói cách khác theo danh từ thông thường cho dễ hiểu là sanh, già, bịnh và chết, để chỉ cho một giai đoạn từ khi một động vật có ra cho tới khi tan hoại vào trong lòng đất.

Loài người nhân danh có trí khôn hơn các giống khác và có một đời sống lâu hơn mọi vật khác, phải biết lợi dụng ở điểm nầy để xây dựng xã hội ngày thêm tốt đẹp theo như tinh thần từ bi của Phật giáo biết tôn trọng mạng sống của tất cả mọi loài, như bốn đại nguyện của người hành Bồ-Tát hạnh.

- Chúng sanh không số lượng, thệ nguyện đều độ khắp.

- Phiền não không cùng tận, thệ nguyện đều dứt sạch.

- Pháp môn không kể xiết, thệ nguyện đều tu học.

- Phật đạo không gì hơn, thệ nguyện được viên thành. (^)

25.- NGŨ ẤM GỔM CÓ NHỮNG GÌ ?

Ngũ-ấm hay Ngũ-uẩn là sự chứa nhóm và kết hợp lại của 5 yếu tố căn bản để hoàn thành con người nơi trần thế.

Ngũ-ấm gồm có sắc (mầu sắc), thọ (nhận lãnh), tưởng (tưởng nghĩ), hành (hành động) và thức (nhận thức hay sự hiểu biết). Nói một cách khác 5 ấm chia ra thành :

- Vật chất : Đất, nước, gió, lửa (tứ đại) tức phần cấu tạo nên thân xác.

- Cảm giác : Như các việc vui, buồn, mừng, giận, ghét, thương, việc nhận lãnh, từ chối ... đều thuộc về phần cảm giác của một người.

- Tư tưởng : Tư tưởng là phần quan trọng nhất trong đời người. Tư tưởng còn có tư tưởng hướng thượng, tư tưởng thấp hèn, tư tưởng bi quan v.v... đều nhắm tới phần quyết định sự thành bại nên hư trong cuộc đời hiện tại và cho tương lai hay nói rộng hơn cho cả kiếp sau nữa. Vì thế, người có tư tưởng đúng sẽ làm việc theo con đường chính nghĩa và đem lại nhiều lợi ích thực tiển. Còn người có tư tưởng bạc nhược luôn luôn gieo rắc sự ủy mị chán nản đến cho mọi người và ngay chính họ cũng đã sóng một cuộc đời bê tha, lây lất.

- Hành nghiệp : Tức là hành động và nghiệp lực song hành với nhau. Ta biết làm điều lành và tâm luôn hướng tới việc thiện thì tự nhiên đời sống nội tâm sẽ được thư thái dễ chịu. Một khi lỡ làm một việc trái với lương tâm, ta cảm thấy đau nhói, cắn rứt. Điều đó chứng tỏ rằng người biết hối lỗi và có thể sống hòa mình với cộng đồng xã hội để cùng nhau xây dựng một đời sống lành mạnh và tin yêu.

- Nhận thức : Phần quan trọng số một đối với người biết thăng tiến cuộc đời mình. Việc nhận thức lệch lạc sẽ dẫn ta đến bờ vực thẳm của thất bại, đau khổ. Nhận thức chính là đội quân tiền đạo, thành trì giữ vững được mọi giá trị tinh thần cho đời sống.

Năm ấm là đầu dây mối nhợ dẫn dắt con người vào mọi nẽo đường đời. Muốn cho khỏi rơi vào một thế giới đen tối sau khi chết, ta phải phát khởi lòng từ bi rộng lớn đối với mọi loài.

26.- THẬP PHƯƠNG LÀ GÌ ? CHÚNG TA ĐANG Ở PHƯƠNG NÀO ? (^)

Thập phương nói cho đủ là thập phương pháp giới chúng sanh, danh từ thường dùng trong phạm vi Phật giáo để chỉ cho khoảng không gian rộng lớn bao la, tức là cái vô giới hạn của vũ trụ, vạn vật.

Thập phương là 10 phương hay 10 hướng là đông, tây, nam, bắc, đông nam, tây nam, đông bắc, tây bắc, trên và dưới. Có người còn gọi là 9 phương trời và 10 phương Phật cũng để chỉ cho cái vô hạn của vạn loại hữu tình. Sở dĩ gọi 9 phương trời là vị hạ phương tức hướng phía dưới ta không có ánh sáng mặt trời chói rọi chăng ? Tất cả mọi loài chúng sanh đều ở khắp trong 10 phương. Từ loài động vật hạ đẳng cho đến loài Người, Trời, Thần, Tiên, Phật v.v... đều hiện hữu ở trong các hướng nầy. Chúng ta đang ở phương nào ? Thật khó ai có thể xác định đúng được vị trí chúng ta ở phương nào. Nhưng căn cứ vào các cõi thể giới cấu tạo thì thế gian nầy tức là thế giới Ta-bà mà ta đang sanh sống nằm trong hướng Nam của 4 châu lớn (Bắc-cu-lô-châu, Tây-ngưu-hóa-châu, Nam-thiệm-bộ-châu, Đông-thắng-thần-châu). Ngoài ra, trong 10 phương ấy, chư Phật ở phương nào ? Phật là do Ứng-thân và Hóa-thân mà thành cho nên có thể hiện thân ở khắp trong 10 phương được tự tại, không có sự ngăn ngại nào cả, nghĩa là chư Phật qua lại trong 10 phương do sức hiện thần thông để cứu độ chúng sanh. Chỗ nào cần các Ngài liền thị hiện ngay đến đó để thuyết pháp và giáo hóa chúng sanh ngay trong khoảnh khắc. Trong kinh Pháp-Hoa, Phẩm Phổ-Môn thứ 25 có đoạn nói rằng người đáng dùng thân Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lầu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-dà, nhân cùng phi nhân để được độ thoát thì ngài Quán-Thế-Âm liền đều hiện ra mà vì đó nói pháp. Đức Bồ-Tát Quán-Thế-Âm do thành tựu các công đức như thế, dùng các thân hình dạo đi trong 10 phương các cõi nước để độ thoát chúng sanh, cho nên người nào một lòng chuyên niệm đến danh hiệu Ngài sẽ được như nguyện.

Tóm lại, khi muốn diễn tả một việc rộng lớn ta thường dùng chữ thập phương, như người ấy ưa làm việc thập phương, vị Tỳ-kheo đi khất thực của thập phương v.v...

27.- ĐẠI-HỔNG-CHUNG CÓ Ý NGHĨA RA SAO ? (^)

Đại-Hồng-Chung là cái chuông lớn hay còn gọi là chuông U-minh. Chuông U-minh mang một ý nghĩa tinh thần rất lớn lao.

Tiếng vang của chuông có thể nghe thấu suốt được đến cõi tối tăm u ám nơi địa ngục, nhờ đó, chúng sanh nào bị đọa vào đó, khi nghe liền được giải thoát. Ở các ngôi chùa cổ thường có quả chuông lớn để gióng mỗi ngày hai buổi sáng và tối cho việc cầu nguyện. Giờ gióng chuông buổi sáng lúc 5 giờ, trước khi tụng thời công phu buổi sáng. Người thỉnh chông vừa đánh vừa đọc bài kệ.

Nguyện thử chung thinh siêu pháp giới,

Thiết vi u ám tất giai văn.

Văn trần thanh tịnh chứng viên thông,

Nhứt thiết chúng sanh thành chánh giác.

Nghĩa là :

Nguyện cầu cho tiếng chuông thấu suốt tới các cảnh giới, nơi tối tăm vây phủ bởi sắt nóng thảy đều nghe. Khi nghe chuông thì lòng trần (phiền não) nhẹ, chứng được đạo giải thoát và tất cả chúng sanh cùng thành chánh giác.

Chuông thường gióng 108 lần tượng trưng cho 108 phiền não nơi mỗi chúng sanh mà cần cầu cho tất cả đều được siêu thoát.

Buổi sáng sớm là giờ yên tỉnh, khi gióng lên, tiếng chuông ngân vang có thể nghe thấu suốt được các cỏi. Buổi tối, giờ ăn của loài quỷ đói, khi nghe chuông, chúng được nhẹ bớt lòng sân hận mà giải thoát khỏi kiếp ngạ quỷ.

Về lịch sử của Đại-Hồng-Chung, không thấy có sách nào đề cập tới. Theo truyền thuyết cho rằng chuông do Lương-Võ-Đế (thế kỷ thứ 6) khởi xướng đầu tiên để cầu nguyện cho các oan hồn bị đọa trong chốn U-minh do đạo nhãn của ông Chí-Công nhìn thấu suốt được và báo cho vua biết điềm ấy.

Việc gần nhất của công dụng tiếng chuông là đánh thức dân chúng trong làng dậy để chuẩn bị ra đồng làm việc và giờ tan việc, ở thời buổi mà chiếc đồng hồ chưa được thông dụng ngày xưa trong các xã hội nông nghiệp.

(^)28.- THẤT TÌNH LỤC DỤC LÀ GÌ ?

Bảy thứ tình cảm biểu lộ ra bên ngoài và sáu việc ham muốn của con người gồm chung trong câu nói ngắn gọn là "thất tình lục dục". Vậy 7 thứ tình cảm và 6 điều ham muốn đó là những gì ?

Bảy thứ tình cảm mà mỗi chúng ta đều có như : Vui mừng, giận dữ, buồn bã, vui vẻ, yêu thương, ghét và ham muốn hay nói cách khác là hỉ, nộ, ai, lạc, ái, ố và dục vậy.

Bảy trạng thái tâm lý nầy luôn luôn tiềm ẩn ở nơi tâm thức chúng ta, hễ khi nào gặp một cơ hội thuận tiện, tự nhiên cái tình cảm ấy sẽ hiện nguyên ra bên ngoài như bộc lộ ra nơi nét mặt hay nơi cử chỉ, trong lời nói v.v... Như khi vui, người ta có bộ mặt tươi tắn, lúc buồn mặt ủ dột, lạnh nhạt. Còn giận thì mặt tái mét, xanh xao ; yêu thương mặt đỏ, nóng bừng v.v... Một trong 7 thứ tình cảm trên thái quá cũng khiến cho tâm sinh lý con người xáo trộn mất quân bình và gây ra những hành động thiếu ý thức và tai hại. Để đối trị lại với thất tình, Phật giáo đưa ra Thất-giác-chi tức là 7 điều hiểu biết đúng đắn là : Chọn lựa phương pháp, chuyên cần, mừng vui, nhẹ nhàng, suy nghĩ, định tĩnh tâm thức và xã bỏ những ý tưởng thấp hèn.

Còn lục dục là gì ? Lục dục là 6 điều ham muốn đã trở thành thói quen khó sửa đổi :

- Sắc dục : Ham muốn sắc đẹp.

- Dung mạo dục : Ưa thích diện mạo đẹp đẽ.

- Tư thái dục : Mong có dáng chững chạc, dịu dàng.

- Muốn đụng chạm vào thân xác giữa nam nữ.

- Say đắm lời ngọt ngào êm dịu.

- Thích người cao lớn đẫy đà, phương phi, gọn gàng.

Ngoài ra, còn một định nghĩa khác là tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến cũng nằm trong khía cạnh xấu của lục dục, nhưng theo thiển ý của bút giả, định nghĩa nầy không thể chấp nhận được. Đối với người tu, không phải dứt 7 thứ tình cảm, lìa 6 dục mà đạt được đạo, nhưng nương vào đó mà chuyển hướng tình cảm, ý muốn bất chánh trở lại với con đường thiện, tức là tự làm một cuộc cách mạng ngay chính bản thân.

Cá nhân tốt, xã hội sẽ được cải thiện mà Phật giáo chủ trương phải hướng thiện ngay nơi mỗi ý nghĩ, lời nói.

29.- TỘI NGŨ NGHỊCH TRONG PHẬT GIÁO LÀ TỘI GÌ ? (^)

Trong Phật giáo, tội ngũ nghịch là một tội nặng như ngoài đời là tội bị tử hình vậy. Tội ngũ nghịch còn gọi là tội vô gián bị đọa vào địa ngục, vì trái với luân thường đạo lý nên gọi là nghịch.

Năm tội cực ác ấy như là : Giết cha, giết mẹ, giết bậc A-la-hán, hủy phá thân Phật ra máu, phá hoại hòa hợp Tăng.

Căn cứ vào kinh ngũ nghịch tội do vua A-Xà-Thế hỏi Phật, thì có năm tội thật nặng nề mà người tu hành phải tránh để khỏi gây ra hậu quả xấu, bị đọa vào địa ngục. Trong năm tội nghịch nầy, tội nào cũng nặng tầy trời cả. Theo truyền thuyết cho rằng khi đức Phật Thích-Ca còn tại thế, Đề-Bà-Đạt-Đa cố tâm hại Phật như cho lăn đá đè, cho voi dữ cán lên mình Phật, nhưng nhờ sức thần thông, đức Phật đã thoát ra được các nạn dữ đó. Những tội như thế được liệt vào tội thứ tư trong năm tội nghịch nầy. Cũng trong cùng một ý nghĩa đó, việc hủy phá hình tượng Phật như bắn phá, đâm đục đều có tội rất nặng. Cả năm tội nghịch nầy đều có chung hình tướng cho cả ba thừa (Thanh-văn, Duyên-giác, Bồ-Tát), tức bao gồm cả Đại-thừa và Tiểu-thừa.

Người não đã lỡ phạm vào một trong năm tội trên, còn cách nào cứu thoát được không ?

Những kẻ phạm phải tội nghịch ác như thế, tâm sinh lý họ đã có sự mất quân bình nên gây ra sự lầm lỗi quá nặng. Muốn giải cứu, phạm nhân phải tự mình phát nguyện sám hối trước Tam-Bảo, hứa chừa bỏ những hành vi, ý nghĩ xấu ác thô bỉ kia và quyết tâm thực hành điều thiện thì mới có thể xóa bỏ được lỗi phạm trước, để bắt đầu làm lại mọi việc đổi mới hoàn toàn và phải cảnh giác việc ác trong mỗi ý niệm, trong hành vi, tư tưởng ...

Người Phật tử khi đã biết lý nhân quả và tội phước báo ứng rồi thì đừng nên gây ra cho kẻ khác bất cứ một tội nhỏ nào, huống chi trong năm tội nghịch ác lại cần phải tìm cách lánh xa.

30.- NGŨ THỪA TRONG PHẬT GIÁO LÀ NHỮNG GÌ ? (^)

Thừa có nghĩa là cái xe chuyên chở đưa người đi tới nơi chốn. Trong Phật giáo, thừa dùng chỉ cho giáo pháp để người tu đạt đến quả vị giải thoát. Ngũ thừa là 5 cổ xe vận chuyển người vào bến bờ định hướng.

Ngũ thừa là : Nhơn thừa, Thiên thừa, Thanh-văn, Duyên-giác, Bồ-Tát thừa.

1- Nhơn thừa : Do tu hành theo năm giới mà được làm người ở trong cõi nhân gian.

2- Thiên thừa : Do tu theo 10 điều thiện để được sanh lên các cõi trời.

3- Thanh-văn : Tu theo pháp tứ đế cầu đạt đến quả A-la-hán.

4- Duyên-giác : Tu theo pháp 12 nhân duyên hoàn thành quả Bích-chi-Phật.

5- Bồ-Tát thừa : Tu theo pháp Lục-độ mà chứng được đạo mầu giải thoát.

Trong năm thừa gồm chung cả hàng Đại-thừa và Tiểu-thừa. Nói một cách khác, năm thừa còn phân loại theo cách thứ hai như :

- Bồ-Tát

- Duyên-giác

- Thanh-văn

- Các loài hữu tình tánh căn chậm, lẹ khác nhau.

- Nhơn Thiên thừa.

Như trong kinh Đại-Thừa Trang-Nghiêm Công-Đức và kinh Lăng-Già thì phân 5 thừa như cách trình bày thứ nhất ở trên. Giữa Bồ-Tát và Phật do tu nhân hành theo nhân quả "quyền", trong khi đó Phật tu hành theo nhân quả "Thật" và do đó có sự tu chứng đạt ngộ cũng khác nhau. Ngoài ra, các thừa khác chỉ biết áp dụng giáo lý của Phật một cách triệt để theo mẫu mực sẳn có, còn Bồ-Tát biết quyền do sức sáng tạo trong việc tu hành, nên quả vị tu chứng không đồng nhau.

Theo trình độ và căn cơ của mỗi chúng sanh tu tập mà quả vị có cao thấp cũng đều do sức cố gắng là nhân đưa đến quả hiển nhiên.

31.- THẬP ĐỊA LÀ GÌ ? HÃY PHÂN BIỆT CHỖ KHÁC NHAU GIỮA QUAN NIỆM CỦA BA THỪA ? (^)

Thập-địa hay còn gọi là Thập-trụ là 10 giai đoạn tu đạt được của 3 thừa : Thanh-văn, Duyên-giác và Bồ-Tát. Thập-địa có nhiều cách phân chia.

Bồ-Tát thừa quan niệm về Thập-địa như sau :

1/. Hoan-hỉ-địa. 2/. Ly-cấu -ịa. 3/. Phát-quang-địa. 4/. Diệm-huệ-địa. 5/. Cực-ly-thắng-địa. 6/. Hiện-tiền-địa. 7/. Viễn-hành-địa. 8/. Bất-động-địa. 9/. Thiện-huệ-địa và 10/. Pháp-vân-địa.

Ngoài ra, còn một cách phân chia khác :

1/. Càng-huệ-địa, càng là khô khan. Dùng phép quán ngũ đình tâm (bất tịnh quán, từ bi quán, nhân duyên quán, giới phân biệt quán, sổ tức quán, tức quán hơi thở).

2/. Tánh-địa, từ nơi phàm phu mà thành.

3/. Nhẫn-địa, do nhẫn nhục mà đạt được chân lý.

4/. Kiến-địa, đoạn được kiến hoặc của 3 cõi và ngộ được chân lý của pháp Tứ-đế.

5/. Bất-địa, đoạn lìa các dục vọng của Dục-giới, chứng được Nhất-lai tức là quả Tư-đà-hàm và còn phải sanh trở lại nơi đời một lần nữa.

6/. Ly-dục-địa : Chứng quả A-na-hàm hay Bất-hoàn và không còn sanh vào thế gian nầy nữa.

7/. Dĩ-biện-địa : Đã trừ được kiến-hoặc và tư-hoặc trong 3 cõi, chứng thành A-la-hán.

8/ Chi Phật-địa : Tức quả Bích-chi-Phật của hàng Tiểu-thừa.

9/ Bồ-tát-địa : Do tụ lục độ, vạn hạnh trải qua vô số kiếp đã tròn đủ và chứng được quả vị Bồ-tát.

10/ Phật-địa : Thân rốt sau của Bồ-Tát được hoàn toàn giác ngộ. Còn nếu phân chia theo Thanh-văn-thừa Thập-địa lại là quy y Tam- Bảo, Tấn, Tín-pháp, Nội-phàm-phu, Học-tín-giới, Bác-nhân-địa, Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm và A-la-hán.

Nhưng đối với hàng Duyên-giác lại quan niệm Thập-địa có khác :

1.- Khổ hạnh đầy đủ

2.- Ngộ pháp 12 nhân duyên

3.- Ngộ được pháp Tứ-đế

4.- Trí tuệ thậm thâm

5.- Chứng được cửu thánh

6.- Quan sát tường tận cỏi hư không pháp giới và cõi chúng sanh

7.- Nhập vào chỗ tịch tĩnh an vui

8.- Đạt được 6 phép thần thông

9.- Thấu triệt được chân lý bí yếu của vạn pháp

10.- Tập khí và tưởng nghĩ của kiếp hiện tại còn lại một ít nơi tâm niệm.

Tóm lại, 10 cấp bậc tu chứng nầy chung cho cả hàng Thanh-văn, Duyên-giác và Bồ-Tát đã dày công tu tập trong nhiều đời mà thành tựu Phật đạo.

32.- KIẾP LÀ GÌ ? CÓ KHÁC VỚI ĐỜI KHÔNG ? (^)

Chữ kiếp thường dùng để chỉ kiếp sống con người, tức khoảng thời gian lâu dài mà chúng ta không biết được đích xác là bao nhiêu năm. Nhưng theo sự đo lường của khoa học hiện đại đã cho một con số rõ ràng về kiếp như sau :

Thế giới thành hình và hoại diệt luôn luôn xoay chuyển không ngừng. Mỗi một thế giới đều trải qua bốn thời kỳ là thành, trụ, hoại, không hay thành hình, tồn tại trong một thời gian, thay đổi và tiêu diệt. Mỗi thời kỳ đều có 20 tiểu kiếp, mỗi tiểu kiếp độ khoảng 16,000,000 năm. Chữ kiếp nói đủ, theo tiếng Phạn là Kiếp-ba (Kalpa) nghĩa là thời phận, tức việc phân chia ranh giới của thời gian có hai trường hợp : Đại thời và Trường thời.

Kiếp-thành là thời kỳ thế giới thành lập. Kiếp-trụ là sau khi thế giới đã thành hình và có các loài hữu tình chung sống lẫn lộn ở đó. Kiếp-hoại là giai đoạn phá hủy và kiếp không là thời kỳ bị tiêu diệt hoàn toàn không còn lại gì cả. Do đó, khi nói tới một kiếp là chỉ cho khoảng thời gian lâu xa thăm thẳm ! Các vị Bồ-Tát tu hành từ lúc phát tâm cho tới khi chứng quả phải trải qua 3 a-tăng-kỳ kiếp mới thành Phật. Một kiếp khoảng thời gian đã lâu, lại còn phải qua 3 lần nhiều hơn như thế để hành giả thực hành đạo giải thoát, đủ cho thấy rằng công phu tu tập lâu xa đến chừng nào !

Tóm lại, một đại kiếp gồm có 4 thời kỳ tức là 4 trung kiếp. Mỗi thời kỳ có 20 tiểu kiếp. Mỗi tiểu kiếp là 16,000,000 năm. Như vậy, số năm của một đại kiếp là :

Đ = tk x Tk = (20 x 4) = 80 x 16,000,000 = 1,280,000,000 năm.

(một ngàn hai trăm tám mươi triệu năm)

33.- A TĂNG LÀ GÌ, SỐ LƯỢNG CÓ THỂ TÍNH ĐẾM ĐƯỢC KHÔNG ? (^)

Chữ A-tăng-kỳ có nghĩa là vô số, dùng để chỉ cho số nhiều như số cát sông Hằng không thể nào tính đếm hết được. A-tăng-kỳ kiếp là kiếp sống hay sự tồn tại của thế giới qua hàng ngàn triệu năm.

Theo như sự ước tính của khoa học thì một đại kiếp gồm có 4 trung kiếp, một trung kiếp có 20 tiểu kiếp và một tiểu kiếp là 16,000,000 năm. Như vậy, câu nói 3 a-tăng-kỳ kiếp gồm một tiểu kiếp, một trung kiếp và một đại kiếp mà thành. Số năm giữa một kiếp với a-tăng-kỳ kiếp khác nhau hàng triệu triệu năm vậy.

Đức Phật mỗi khi thuyết pháp gặp con số nhiều thường ví với số các của sông Hằng hay là a-tăng-kỳ kiếp. A-tăng-kỳ kiếp là khoảng thời gian để cho các hàng Thanh-văn, Duyên-giác, Bồ-Tát tu tập đạt đến đạo giải thoát, và như thế số năm trong thời gian thực hành Phật giáo phải dài lâu biết bao nhiêu !

Chúng sanh vì không thấy được hết sự cấu tạo nên thế giới vũ trụ và do đó cũng lại càng mù mịt hơn khi nói tới niên số để hình thành các cõi. Con người chỉ biết hạn hẹp trong phạm vi nơi thế giới đang tồn tại, ngoài ra chung quanh chúng ta còn có biết bao nhiêu thế giới khác cũng hoạt động và người ta phải đợi đến một giai đoạn mà khoa học tiến bộ như ngày nay mới khám phá ra được màn bí mật của vũ trụ ! Nhưng khoa học cũng chưa đạt được tới chỗ sau cùng của những công cuộc thăm dò, thám hiểm, tìm tòi ... mà hiện còn có vô lượng vô số thế giới đang trãi qua các thời kỳ thành hình, tồn tại, hoại diệt và không. Chư Phật và các vị Bồ-Tát nhờ dày công tu luyện đã chứng minh được sự hiện hữu của muôn ngàn cõi khác nhau và số lượng niên đại trong mỗi thời kỳ mà con mắt thường của chúng sanh không thể hình dung hay tính đếm được.

Con người chỉ biết được khoảng thời gian qua các thế hệ (một thế hệ 30 năm), đời, thế kỷ chứ không thể nào xác định rõ được số năm nhiều hơn ở mỗi thời kỳ thành hình của các thế giới khác nhau.

34.- CỬU-ĐỊA LÀ GÌ ? CÓ KHÁC NHAU VỚI THẬP-ĐỊA ? (^)

Trong 3 cõi : Dục, sắc và vô-sắc lại chia thành Cửu-địa. Vậy Cửu-địa là gì ?

1- Ngũ-thú tạp-cư-địa : 5 loài hữu tình chung nhau ở cõi dục.

2- Ly-sanh hỷ-lạc-địa : Các bậc tu hành đã chứng được sơ quả và các khổ ở cõi dục đã dứt nên sanh tâm vui mừng.

3- Định-sanh hỷ-lạc-địa : Bậc nhị thiền ở cõi sắc do sức thiền định mà được an vui.

4- Ly-hỷ diệu-lạc-địa : Người tu chứng được quả tam thiền ở cõi trời sắc giới, vì đã xa lìa sự vui ở cõi dục và cõi sắc để có được cảnh vui mầu nhiệm hơn.

5- Xả-niệm thanh-tịnh-địa : Chứng được quả tứ thiền và ở cõi sắc đã dứt trừ được tâm niệm xấu ác, hành giả chỉ còn lại thuần tự tánh thanh tịnh, bình đẳng và an trú được trong chánh niệm, không còn nhiễm trước các tạp niệm, vọng tâm nữa.

6- Không-vô-biên-xứ : Thuộc về cõi trời thứ nhất của cõi vô-sắc, không còn các hình sắc nữa, người tu an trú trong thiền định.

7- Thức-vô-biên-xứ : Cõi trời thứ hai thuộc về vô-sắc-giới và chúng sanh ở đó thường an trú trong cảnh định thức an ổn.

8- Vô-sở-hữu-xứ : Cõi trời thứ 3 thuộc về vô-sắc-giới, chúng sanh nơi đó an định trong phép thiền quán sát, không còn có chỗ sở hữu.

9- Phi-tưởng phi-phi-tưởng-xứ : Cõi trời thứ 4 thuộc vô-sắc-giới chúng sanh phần nhiều đều an trú với cảnh định phi-tưởng và phi-phi-tưởng.

Nói một cách dễ hiểu hơn, cõi dục gọi là tán địa tức là nơi gây ra nhiều xáo trộn, loạn động do tâm thức vẫn đục của chúng sanh tạo ra. Cõi sắc và vô sắc gọi là định địa, nhờ tu tập thiền định mà cảm thọ được quả báo an vui. Như vậy, cữu địa đây có khác với thập địa không ?

Trong thập địa có cả hàng Bồ-tát, Thanh-văn, Duyên-giác và Phật địa và dung thông cho tất cả các bậc Thánh. Trong khi đó cữu địa chỉ là những bước tu tập từ thấp đến cao của hàng Tiểu thừa mà thôi. Đó là sự khác biệt nhau giữa hai trường hợp, mặc dù cả 2 đều có dùng chữ "Địa", nhưng ta không thể lầm lẫn được.

Muốn đạt đến đơn vị rốt sau trên bước đường tu tập, hành giả phải tinh tấn tu tập để mới có thể thành tựu viên mãn.

35 TỨ ĐẠI LÀ NHỮNG GÌ ? (^)

Mỗi một cá nhân có được thân nầy một phần do tinh huyết của cha mẹ tạo thành, một phần do các yếu tố vật chất bên ngoài nuôi dưỡng.

Nếu phân tích kỹ ta sẽ thấy rõ thân xác nầy gồm có 4 phần hợp lại như đất, nước, gió, lửa cấu thành. Các phần : Xương, thịt, da, tóc, răng, móng trong cơ thể thuộc về chất đất. Trong khi đó các chất lỏng như đờm, nước mũi, nước miếng, nước tiểu, nước mắt, máu huyết ... thuộc về chất nước. Còn gió chỉ cho hơi thở, cơ quan hô hấp, các lỗ bài tiết ... Phần còn lại là chất nóng trong người, tức là nhiệt lượng tỏa khắp toàn thân thể để bảo tồn được xác thịt đứng vững, đó gọi là hỏa.

Thân xác ta thành hình do 4 yếu tố kia gắn chặc vào nhau để tồn tại. Nếu một trong bốn yếu tố của tứ đại nầy thay đổi hoặc mất sự quân bình, tự nhiên cơ thể không thể giữ được thăng bằng, trái lại còn gây ra những triệu chứng bất bình thường, như khi thân thể bị thương thì toàn thân phải chịu ảnh hưởng. Người bị tăng huyết áp có những triệu chứng đau nhói khó chịu, hơi thở không điều hòa là dấu hiệu của người bịnh hoạn. Khi nào cả 4 yếu tố đều ngưng hoạt động thì cuộc đời của một người coi như đã mãn phần ở thế gian nầy.

Lúc thân xác tan rã, các phần đất, nước, gió, lửa đều hoàn nguyên trở về trạng thái cũ, rốt cuộc con người không còn lưu lại được gì cho chính mình cả.

Những người lúc sống biết tu phước làm thiện, khi chết được an lành. Với ý niệm đó, theo Phật giáo mỗi khi có người nhà sắp tắt hơi thở lìa đời thì mọi người thân thuộc nên hợp nhau lại cầu nguyện bằng lời kinh, để cho thần thức của người sắp chết được nhẹ nhàng đi đầu thai kiếp khác.

Với thân tứ đại nầy không có gì đáng quí trọng cả, mà chúng ta chỉ lưu ý hướng thượng tinh thần mới là điều quyết định trong kiếp lai sinh !

36.- THẬP TRỤ TRONG PHẬT GIÁO LÀ GÌ ? (^)

Thập-trụ là chỗ của các bậc tu hành nương vào để an trụ. Chỗ an trụ ấy từ thấp đến cao có chia ra làm 10 thứ bậc như dưới đây :

1- Phát-tâm-trụ : Lúc đầu mới phát tâm tu tập.

2- Trị-địa-trụ : Chọn điểm tựa để nương náu.

3- Tu-hành-trụ : Gia công thực hành việc tu tập.

4- Sanh-quy-trụ : Phát tâm quy hướng.

5- Phương-tiện-trụ : Do nơi pháp phương tiện mà hành đạo.

6- Chánh-tâm-trụ : Tâm an định trong chánh niệm.

7- Bất-thối-trụ : Lòng không thối chuyển.

8- Đồng-chơn-trụ : Thiết thạch trong lành, tâm như gương sáng không bị vẫn đục.

9- Pháp-vương-tử-trụ : Dũng mãnh phi thường như vua của các pháp.

10- Quán-đảnh-trụ : Quán chiếu nơi đảnh đầu phát ra điện quang.

Các bậc Bồ-Tát ra đời để trên cầu Phật đạo, dưới cứu độ chúng sanh (thượng hoằng Phật đạo, hạ hóa chúng sanh) mà an trụ tâm. Đây là giai đoạn thứ nhất trong 3 a-tăng-kỳ kiếp của hành giả trên đường tu. Ngoài ra, để thành tựu được 10 nơi trụ tâm vững chắc, người phát tâm tu hành cần phải có thêm lòng tin tưởng nữa. Đó là :

1- Tín tâm, 2- Tinh tấn, 3- Niệm tâm, 4- Định tâm, 5- Huệ tâm, 6- Thí tâm, 7- Giới tâm, 8- Hộ tâm, 9- Nguyện tâm, 10- Hồi hướng tâm.

Trước hết người hành trì Phật giáo phải tin rồi phát tâm tu tập thì mới đạt được kết quả như điều mong muốn. Khi định và huệ đã đủ, bèn khởi lòng từ bi bố thí và răn nhắc, ngăn ngừa tâm loạn động để giữ cho điều hòa từ nội thân đến ngoại cảnh. Nguyện cho mình được tròn đầy phước trí để hồi hướng về cho tất cả chúng sanh đồng thành Phật quả.

Phát lòng tin tưởng để an trụ tâm trong chánh pháp mà tu tập cho tới khi đạt được đạo, và việc tu hành vì chưa được thành tựu tới chỗ rốt ráo nên hành giả phải cần nương trụ.

37.- THẬP HẠNH LÀ GÌ ? (^)

Người phát tâm tu tập đã trải qua được giai đoạn đầu và tiến lên xa hơn nữa trong pháp sáu độ (bố-thí, trì-giới, nhẫn-nhục, tinh-tấn, thiền-định, trí-tuệ) và vạn hạnh tức là tu các hạnh khác nhau, trong đó có 10 hạnh như dưới đây :

1- Hoan-hỷ-hạnh : Vui vẽ tự nhiên không có gì vướng bận tâm.

2- Nhiêu-ích-hạnh : Làm cho nhiều người được lợi ích.

3- Vô-nhuế-hạnh : Không để cho tâm vẩn đục, não loạn.

4- Vô-tận-hạnh : Không cùng tận, tức không ranh giới, chướng ngại.

5- Ly-si-loạn-hạnh : Lìa xa sự si mê ám chướng.

6- Thiện-hiện-hạnh : Nghĩ và làm các việc thiện.

7- Vô-trước-hạnh : Không tham trước mọi vật hay không đắm nhiễm.

8- Tôn-trọng-hạnh : Tự tôn trọng mình và kính nhường người khác.

9- Thiện-pháp-hạnh : Các pháp lành đều đầy đủ để trợ lực cho hành giả.

10- Chơn-thật-hạnh : Lòng ngay thẳng, tánh cương trực.

Bậc Bồ-Tát tu theo phép vạn hạnh để hoàn thành đạo nghiệp và đặc biệt chú trọng tới 10 hạnh căn bản trên đây mà đạt đến chân lý. Trong 10 hạnh có thể chia ra thành 2 bậc : Thấp và cao. Từ hạnh hoan hỷ tới hạnh thiện hiện, do nơi tự tâm hành giả phát sanh và chỉ cần sự gia công tu tập là có thể đạt được ; trong khi đó các hạnh không tham đắm trước mọi vật, lòng tôn kính, thực hiện các pháp lành và tánh ngay thật cần đòi hỏi cả một trời công phu ! Đây là một bước quan trọng trong suốt hành trình tiến và đường đạo rất khó khăn trở ngại, nếu không thật thận trọng rất dễ bị thối chí nản lòng nên nó đòi hỏi phải có sự cương quyết và dũng mãnh để chiến thắng được những cạm bẩy từ bên trong tâm thức cho tới bên ngoài cảnh vật.

Khi thực hành trọn đủ 10 hạnh như vậy, bậc Bồ-Tát đã có một tâm niệm không thối chuyển để tiến lên được xa hơn trong các bậc thang kế tiếp của đạo giải thoát.

38.- THẬP-HỔI-HƯỚNG LÀ GÌ ? (^)

Thập-hồi-hướng là 10 việc lợi lành hướng về tất cả muôn loài để chia sớt bớt phước báo và cùng nhau hướng tới Phật quả.

Mười công đức để hồi hướng là :

1- Cứu hộ chúng sanh ly chúng sanh tướng hồi hướng : Ra ân giúp đỡ cho chúng sanh, nhưng không vì đó mà chấp trước việc cứu giúp.

2- Bất hoại hồi hướng : Không có một thế lực hay sức mạnh nào phá nổi để thoát lui việc giúp đỡ chúng sanh của hành giả.

3- Đẳng chư Phật hồi hướng : Do lòng từ bi rộng lớn như chư Phật xin nguyện cứu giúp tất cả chúng sanh.

4- Chí nhứt thiết xứ hồi hướng : Hoàn tất trong việc cứu giúp muôn loài.

5- Vô tận công đức tạng hồi hướng : Có ngần nào công đức xin đem san sẽ ra cho tất cả chúng sanh.

6- Tùy thuận nhất thiết kiên cố thiện căn hồi hướng : Tất cả những căn lành vững bền có được, tùy theo đó mà cứu giúp chúng sanh.

7- Đẳng tâm tùy thuận chúng sanh nhứt thiết hồi hướng : Đem tâm bình đẳng để hòa nhập vào trong tất cả chúng sanh.

8- Như tướng hồi hướng : Quay về với tánh thật của mình.

9- Vô trước vô phược giải thoát tâm hồi hướng : Không chấp trước, không ràng buộc, tâm được giải thoát tự tại.

10- Pháp giới vô lượng hồi hướng : Hướng về pháp giới chúng sanh để cầu cho trọn thành Phật đạo.

Trong 10 chỗ trụ tâm, 10 hạnh an lạc và 10 việc lợi lành hồi hướng gọi là tam hiền. Trong 3 bậc nầy hành giả đều nhất tâm hướng về đạo Vô-thượng Chánh-đẳng Chánh-giác. Do tu tập các công đức lợi lành mầu nhiệm ấy như là rường cột của việc tu nên gọi là tư lương vị hay là món ăn tinh thần cao khiết.

Từ chỗ sơ tâm tiến lên tới cấp bậc nầy hành giả đã trải qua bao nhiêu việc thực hành khó khăn trong suốt một đại a-tăng-kỳ kiếp.

39.- THẤT PHẬT LÀ NHỮNG VỊ PHẬT NÀO ? (^)

Thất Phật là bảy đức Phật trong quá khứ tính cho đến Phật Thích-Ca, giáo chủ cõi Ta-Bà, Đản-sanh năm 624, Tịch-diệt năm 544 trước kỷ nguyên Tây-lịch.

Quá-khứ Trang-Nghiêm kiếp có ba đức Phật :

- Phật Tỳ-Bà-Thi, Phật Thi-Khí, Phật Tỳ-Xá-Phù

Hiền-kiếp quá-khứ có bốn đức Phật :

- Phật Câu-Lưu-Tôn, Phật Câu-Na-Hàm Mâu-Ni, Phật Ca-Diếp, Phật Thích-Ca-Văn.

- Phật Tỳ-Bà-Thi hay Phật Di-Vệ.

- Phật Thi-Khí cũng đọc là Thức-Khí

- Phật Tỳ-Xá-Phù dịch là Biến-Nhất-Thiết Tự-Tại. Ba vị Phật này ở vào kiếp chót của kiếp Trang-Nghiêm đời quá-khứ.

- Phật Câu-Lưu-Tôn dịch là Sở-Ưng-Đoạn, ra đời đầu tiên trong 1000 đức Phật.

Lúc đó thọ mạng con người là 6 vạn tuổi, trong tiểu kiếp thứ chín thuộc Hiền Kiếp hiện tại.

- Phật Câu-Na-Hàm Mâu-Ni dịch là Kim-Tịch, ra đời lúc con người sống bốn vạn tuổi.

- Phật Ca-Diếp dịch là Ẩm-Quang, ra đời lúc con người sống hai vạn tuổi.

- Phật Thích-Ca Mâu-Ni dịch là Năng-Nhân Tịch-Mặc, ra đời lúc con người sống 100 tuổi.

Phật Thích-Ca ra đời thuyết giáo chia thành ba thời kỳ : Chánh-pháp ; khoảng 500 năm sau đức Phật nhập diệt, Tượng-pháp từ khoảng sau 500 năm đến 2000 năm, và cuối cùng là thời kỳ Mạt-pháp, sau Phật nhập diệt khoảng 2000 năm. Chúng ta đang ở trong đời Mạt-pháp, tuổi thọ mạng giảm dần từ 100 xuống 80 như hiện tại.

Bảy đức Phật ra đời cứu độ chúng sanh, và kế tiếp đức Phật Di-Lặc xuất thế đem an vui cho nhân loại chúng sanh trong pháp giới.

40.- THẾ GIỚI THEO QUAN NIỆM CỦA PHẬT GIÁO RA SAO ? (^)

Thế giới là nơi có loài người và muôn vật sinh tồn nên còn gọi là Thế-gian. Do đó chữ thế gian được chia ra làm 2 loại : Hữu tình thế gian và môi sinh của các loài chúng sanh.

Thế nào là hữu tình và môi sinh thế gian ?

Loài hữu tình có thân hình, có cảm giác, còn môi sinh như sông ngòi, núi rừng, biển, cơm ăn, áo mặc và những tiện nghi vật chất cống hiến cho loài động vật sanh tồn. Do chánh-báo, tức tạo nhân gì chúng sanh sẽ cảm thọ nên nghiệp ấy mà thành hình hài và phải nương vào y-báo (các tiện ích) để hiện hữu.

Theo quan niệm của Phật giáo, trong vũ trụ có những thế giới khác nhau, hợp nhau 1000 thế giới thành một Tiểu-thiên thế-giới, gồm chung 1000 Tiểu-thiên thế-giới lại là một Trung-thiên thế-giới, gồm chung 1000 Trung-thiên thế-giới lại thành Đại-thiên thế-giới. Đó là Tam-thiên Đại-thiên thế-giới, tức là bao dung cả Tiểu, Trung và Đại mà thành hình 3 ngàn cõi khác nhau.

Theo các nhà khoa học ngày nay, ngoài thế giới chúng ta đang sống còn có vô số thế giới nhỏ li ti như hạt bụi ở khắp các cõi trong mười phương.

Thế giới ngày nay nơi mà chúng ta đang tồn tại đây gọi là thế giới Ta-Bà. Chữ Ta-Bà vốn nghĩa là kham nhẫn, tức có ý nói rằng loài chúng sanh ở đó phải chịu đựng tất cả những điều thống khổ.

Muốn thoát được sự thống khổ ở thế gian, chúng ta phải biết tu nhân lành và tạo điều phước đức mới cảm thọ được chánh báo an lạc.

KIẾN THỨC

CĂN BẢN PHẬT GIÁO

TT.Thích Bảo Lạc

--- o0o ---

CHƯƠNG 3

GIỚI LUẬT

1.- Hình Tướng Của Ngũ Giới Và Ai Có Thể Thọ Trì Được ? (^)

Ngũ giới là năm giới hay năm điều răn cấm căn bản mà người Phật tử khi đã quy y Tam-Bảo đều phải giữ gìn.

Trong năm giới có chia ra làm 2 phần là trọng và khinh như các tội sát sanh, trộm cắp, tà dâm thuộc về trọng và nói dối, uống rượu thuộc về tội nhẹ hơn có thể sửa đổi được. Về hình tướng của năm giới có thể nói một cách cụ thể hơn như sau :

- Giới thứ nhất : Không sát sanh, tất cả mọi sanh vật dù lớn hay bé đều không được giết hại. Vì tôn trọng sự sống của mọi loài, cho nên trong ý nghĩ sát sanh có phân ra làm 2 trường hợp khác nhau : cố ý sát, vui theo hay đồng lõa khi thấy sinh vật bị giết đều phạm tội cả.

- Giới thứ hai : Không được trộm cắp, vật sở hữu của kẻ khác chính là mồ hôi nước mắt của họ mới tạo ra được. Từ những vật lớn cho đến một cây kim, sợi chỉ, nếu không được sự đồng ý của chủ nhân thì không được lấy hay tìm cách chiếm đoạt dưới mọi hình thức thuộc về tội trộm cắp cả. Chẳng hạn như lén khi người ta không hay biết mà lấy vật gọi là đánh cắp, dùng hình thức thô bạo đánh đập hay xử dụng súng đạn để uy hiếp của gọi là đánh cướp, rình rập chờ lúc người ta ngủ hoặc sơ ý để tìm cách lấy đồ gọi là ăn trộm. Những cách dùng mánh khóe tráo trở đồ xấu để lấy vật tốt hoặc cân non, đo thiếu v.v... cũng đều thuộc về hành động gian manh trộm cắp cả. Ngay cả việc đi làm trễ giờ, lên xe, tàu không mua vé, khai gian tên họ lãnh trợ cấp, sai hẹn cũng là một hình thức trộm cắp.

- Giới thứ ba : Không tà dâm, đối với người Phật tử tại gia, khi đến tuổi trưởng thành được tự do lập gia đình. Ngoài vợ chồng chính thức ra không được lang chạ tình ý với người khác. Bởi vì, người có hành động như thế là làm hư hại hạnh phúc gia đình và còn gây ra cho người khác sự khổ đau, ân hận, nên người Phật tử cần phải tránh việc tà dâm.

- Giới thứ tư : Không được nói dối, việc nói dối có 4 hình thức khác nhau :

a) Nói lưỡi đòn xóc nhọn hai đầu để làm cho cả đôi bên có sự nghi ngờ, hiềm khích lẫn nhau.

b) Nói thêm bớt như chuyện có nói không, chuyện không nói có hay cố bôi son trét phấn cho việc nhỏ trở thành chuyện lớn.

c) Lời nói độc ác hung hăng như chưởi rủa, mắng nhiếc, trù ẻo, hăm dọa ...

d) Nói lời hoa mỹ trau chuốt cốt để làm mê hoặc lòng người. Tất cả các hình thức trên đây đều thuộc về loại nói dối cả.

Người nói dối không bao giờ được người khác tin tưởng để có thể giao phó cho bất cứ một công việc gì.

- Giới thứ năm : Không được uống rượu, rượu có chất men dễ làm say người. Khi uống nhiều ta đâm ra mất thăng bằng, có thể mù quáng gây ra nhiều tội lỗi. Ví dụ : Người say lái xe dễ gây ra tai nạn. Người say ưa đập đồ đạc trong nhà và hay gây gỗ, ấu đả với người chung quanh. Vì thế, người thực hành Phật giáo muốn cho tâm được thanh tịnh nên Phật cấm uống rượu.

Tuy nhiên, có trường hợp được dùng tới rượu và coi đó như là một thứ thuốc hay trong lúc mắc bịnh, y sĩ bảo cần có rượu để pha với thuốc uống thì được tạm dùng, nhưng trước khi uống phải cho chư Tăng biết thì không phạm. Đến khi bịnh lành phải chấm dứt ngay việc uống rượu.

Người Phật tử giữ được năm giới của Phật cấm một cách trọn vẹn sẽ tạo được hạnh phúc cho chính mình và đem lại được niềm an lạc cho mọi người.

2.- Thế Nào Gọi Là Luật Tứ Phần ? Đó Là Những Phần Gì ? (^)

Luật Tứ Phần là bộ luật trong đó thuyết minh 4 phần về giới tướng của Tỳ-kheo và Tỳ-kheo-ni. Đây là phần giải thích rõ các tội phạm khinh trọng của đoàn thể xuất gia lấy giới luật làm khuôn thước trong việc tu hành.

Bộ Luật Tứ Phần rút ra từ bộ luật tạng "Đàm Vô Đức" và do ngài Sa-môn Thích-Hoằng-Tán, đời Minh (thế kỷ 14) dịch từ chữ Phạn ra chữ Hán. Luật Tứ Phần chia ra làm 4 mục như sau :

Phần đầu : Giới luật của thầy Tỳ-kheo.

Phần hai : Giới luật của Tỳ-kheo-ni và cách thức thọ giới, cách nói giới.

Phần ba : Bàn rõ về điều kiện an-cư và phép tự-tứ.

Phần bốn : Nghị định cách tổ chức, tạo lập phòng xá cho Tăng chúng trong Tự Viện.

Luật Tứ Phần chỉ dành riêng cho giới xuất gia thực hành nên ít có vị cư sĩ tại gia nào biết tới. Nhưng giả sử có đọc qua Luật nầy, người không chuyên cũng không biết cách hành trì và Thể - Tánh - Dụng của phần giới tướng ra sao. Trong thời gian gần đây có một số ít vị cư sĩ hằng lưu tâm tới nền Phật giáo trong tính cách muốn tìm hiểu để nghiên cứu cũng tìm đọc tới Luật Tứ Phần đã được dịch sang tiếng Việt, và còn một số quý vị khác không phải để nghiên cứu cũng đọc qua Luật Tứ Phần vì muốn thỏa mãn tính tò mò. Việc nầy không có gì phương hại cả nhưng không cần thiết vì nó vượt ngoài phạm vi và cách thức thọ trì của những người tu học Phật còn vướng bận nhiều việc gia đình.

Điều cần và thực tế nhất là chúng ta làm thế nào đọc và nhớ cho được Luật Tứ Phần gồm những gì và để cho ai thọ lãnh. Nghĩ và làm được như thế là tỏ ra xứng đáng người Phật tử chân chánh đang thực hành Phật giáo dù bất cứ là người xuất gia hay tại gia.

Tóm lại, giới Luật Phật chế không phải chỉ có Luật Tứ Phần nhưng đây là bộ Luật tiêu biểu cho giới xuất gia nên được xem là phần cốt cán trong tạng Luật Phật giáo.

3.- Bát Quan Trai Được Áp Dụng Lúc Nào ? (^)

Bát-Quan-Trai giới là 8 giới cấm của người Phật tử giữ gìn trong vòng 24 giờ, tức là 1 ngày 1 đêm ở tại chùa để tập sống theo đời sống của người xuất gia.

Tại sao gọi là Bát-Quan-Trai ?

Bát là tám, quan là cửa ngỏ, trai là ăn chay, tức là ngoài việc giữ 8 giới ra người phát nguyện tu hành còn phải ăn chay trong suốt thời gian 24 giờ tại chùa. Tám giới gồm có :

1/- Không sát sanh. 2/- Không trộm cắp. 3/- Không dâm dục. 4/- Không nói dối. 5/- Không uống rượu. 6/- Không dùng hương phấn và dầu thơm. 7/- Không nằm giường cao tốt rộng lớn, vì sợ móng tâm buông lung bậy bạ. 8/- Không ăn uống trái giờ giấc.

Tám giới hay tám cửa ngỏ nầy giúp ta khép chặc hay đóng cửa phiền não không xen tạp vào tâm trí cho lòng được thanh tịnh, an ổn. Khóa tu ngắn hạn nầy thường được tổ chức vào ngày rằm và mồng một trong tháng. Tuy nhiên, việc nầy cũng còn tùy thuộc vào thì giờ và cách sắp xếp của mỗi chùa để cho phù hợp với mỗi người. Vì người Phật tử muốn đạt đến giải thoát cần phải thực hành cách tu tập của người xuất gia, mà phương pháp tu Bát-Quan-Trai rất dễ thực hành và có nhiều lợi ích thiết thực. Ngoài ra, Bát-Quan-Trai giới cũng được xem như là gạch nối giữa đời sống của người xuất gia với đời sống của người cư sĩ tại gia.

Sự ảnh hưởng của pháp tu nầy là mang lại cho người thực hành có được tâm thức vắng lặng, an vui. Những tạp niệm như cải cọ, nói năng thô tháo đều được dẹp bỏ.

Từ chỗ bắt đầu tu một ngày đêm trong tám pháp trai giới nầy làm nhân cho việc giải thoát ở kiếp sau vậy.

4.- Tại Sao Phật Tử Phải Giữ Giới Cho Mất Tự Do ? (^)

Giới cấm của người Phật tử tại gia chỉ có 5 điều. Đây là 5 cấp bậc làm nền tảng cho bậc thang của các quả Thánh ở sau nầy.

Người Phật tử không phân biệt tại gia hay xuất gia, khi đã thọ giới cần phải giữ giới, nhất là những điều cấm tự mình đã phát nguyện trước thầy tổ và trước ngôi Tam-Bảo lúc quy y.

Năm giới của người Phật tử tại gia là : Không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không uống rượu. Người nào giữ trọn vẹn được cả 5 giới như thế gọi là toàn phần, người chỉ giữ được 3 giới trong số 5 giới gọi là bán phần. Khi nào lở phạm giới cần phải tự sám hối để chừa bỏ lỗi lầm và phát nguyện sửa đổi. Người tu hành chân chính là kẻ biết nghiêm chính giữ gìn giới luật không trái phạm.

Sa-di có 10 giới, Tỳ-kheo có 250 giới, Tỳ-kheo-ni có 348 giới.

Giới như dây cương ràng buộc con ngựa không đi sai đường, người tu hành cũng nhờ giữ giới mà phát sanh trí tuệ. Giữ giới để tạo một đời sống quân bình và xây dựng xã hội loài người thêm vững mạnh và an lạc.

Người Phật tử biết giữ giới đúng đắn sẽ có ảnh hưởng tốt đến gia đình, đoàn thể, tôn giáo và rộng hơn nữa, tạo cho thế giới hòa bình và trật tự.

5.- Ưu Bà Di Dùng Chỉ Cho Ai ? (^)

Người Phật tử tu tại gia có hai phái : Nam và nữ. Người nữ hay nữ giới Phật tử gọi là cận-sự-nữ, tức là người đàn bà thân cận với Phật Pháp. Nói một cách khác là tín-nữ hay Ưu-bà-di.

Ưu-bà-di tiếng Phạn là Upasika có nghĩa là người nữ gần gũi để thực hành và hộ trì Phật giáo. Nhưng trong trường hợp chỉ mới tin hoặc có cảm tình với Phật giáo mà chưa quy y Tam-Bảo, người đó chưa gọi được là Ưu-bà-di. Như vậy, Ưu-bà-di chính là người biết áp dụng Phật giáo vào đời sống hằng ngày từ hành động, lời nói và ý nghĩ đều thấm nhuần tính chất từ bi của đạo Phật. Ưu-bà-di còn có nghĩa là người nữ ưu tú trong hàng ngũ Phật tử, vì họ đã dày công với đạo như góp phần vào việc tu tạo chùa chiền, phát tâm làm việc tu phước, cũng như tham gia vào các hội từ thiện khác, giúp đỡ kẻ nghèo và ra tay làm việc nghĩa để an ủi tha nhân, không từ nan bất cứ một công việc Phật sự nào, miễn có lợi cho người khác thì sẵn sàng xả thân thực hiện ngay.

Riêng đối với giới luật, người Phật tử Ưu-bà-di cũng chỉ giữ năm giới căn bản của người tín đồ tại gia như nam giới, tức Ưu-bà-tắc mà thôi. Tuy nhiên, về tuổi tác, những em bé nữ Phật tử chưa gọi được là Ưu-bà-di, vì ở vào lớp tuổi còn nhỏ, các em chưa làm được việc gì lợi ích thiết thực cho đạo và đời.

Người Phật tử Ưu-bà-di còn biết phát nguyện tụng kinh, ăn chay, niệm Phật để thể hiện được tâm từ bi. Có nhiều trường hợp và tùy theo hoàn cảnh mà phát tâm tu niệm, nếu gia đình thuận tiện, người nữ Phật tử nên dành nhiều thì giờ vào việc tụng kinh, niệm Phật. Vì mỗi tâm niệm thiện của chúng ta có thể đem lại lợi ích cho mọi người chung quanh và có khi còn cứu sống được cả các giống sinh vật khác nữa.

Người nữ vì nặng nghiệp hơn người nam, nên ở trong đời phải chịu nhiều điều khổ cực hơn, ngay trong gia đình là một ví dụ dễ hiểu hơn cả.

Người nữ Phật tử đã quy y nên cố gắng thực hành Phật giáo và cũng để xứng đáng là Phật tử chân chánh.

6.- Ưu Bà Tắc Là Gì Và Chỉ Cho Ai ? (^)

Trong giới luật của Phật giáo có chia làm hai phần : Giới luật của người xuất gia và giới luật của người Phật tử tại gia.

Kinh Ưu-bà-tắc giới còn phân biệt : Người nữ Phật tử đã thọ 5 giới và quy y Tam-Bảo gọi là Ưu-bà-di, còn người nam gọi là Ưu-bà-tắc. Ưu-bà-tắc là người Phật tử phái nam hay còn gọi là thiện-nam-tử, tức chỉ cho người trai lành gần gũi Phật Pháp để tu học theo các pháp lành. Cũng theo kinh Ưu-bà-tắc giới thì người tu tại gia còn chia ra làm ba hạng, tùy theo cách giữ giới ít hay nhiều mà thành như :

- Thiểu phần Ưu-bà-tắc, để chỉ cho người nam Phật tử nào chỉ có khả năng lãnh thọ và thực hành 1 hay 2 trong 5 giới.

- Đa phần Ưu-bà-tắc là những người giữ từ ba giới trở lên.

- Toàn phần Ưu-bà-tắc : Người vâng giữ được trọn vẹn cả 5 giới.

Tùy theo lời phát nguyện lúc quy y để giữ giới, theo đó mà người thực hành Phật giáo được phân chia ra như trên. Nếu một Phật tử biết lễ lạy cúng Phật, và thường hay đi chùa, nhưng chưa quy y thì chưa gọi được là Ưu-bà-tắc hay Ưu-bà-di. Chữ Ưu-bà-tắc lấy từ tiếng Phạn ra là Upasak, để chỉ cho người phái nam có sức khỏe, gọn gàng, gánh vác được công việc Phật Pháp.

Người Phật tử tại gia biết giự gìn giới luật không những có lợi cho mình mà còn tăng phần hữu ích cho mọi người chung quanh nữa.

7.- Sa Di Có Mấy Hạng Và Điều Kiện Ra Sao ? (^)

Bước đầu tiên của người xuất gia là làm Sa-di hay gọi theo danh từ thông thường tức chú tiểu hoặc điệu. Thật ra, điệu hay chú tiểu để chỉ cho các em bé mới xuất gia đầu còn để chỏm tóc ở phía trước ; còn Sa-di phải tiến xa hơn lên một bậc.

Sa-di dịch là "tức từ" nghĩa là ngưng ác làm lành hay "cần sách" là siêng năng tinh tiến hoặc còn một nghĩa nữa là "cầu tịch" tức tìm tới đời sống an tịnh. Tuổi thích hợp cho Sa-di là từ 14 đến 19 tuổi. Những vị lớn tuổi mới xuất gia cũng phải trải qua thời kỳ làm Sa-di.

Sa-di có 4 nghĩa :

- Sa-di đuổi quạ (khu-ô Sa-di) : Các em bé dưới 14 tuổi tập sự sống theo quy tắc của chùa và tuổi còn quá nhỏ nên chưa làm được việc gì khác ngoài đuổi quạ để chúng đừng làm náo động các khu vực chư tăng đang tọa thiền.

- Sa-di danh-tự (danh-tự Sa-di) : Những người đã quá 20 tuổi mà không có đủ điều kiện thọ giới Tỳ-kheo.

- Sa-di hình-đồng : Người có tướng mạo và cốt các trông giống như Sa-di, nhưng không đủ tư cách thọ lãnh giới pháp như bị căn tật, cơ thể không tròn đủ v.v...

- Sa-di hợp-pháp (ứng-pháp Sa-di) : Người tuổi từ 14 đến 19 và tỏ ra cố gắng trong việc tu học và có tác phong đạo đức.

Sa-di chưa phải lãnh một công việc nào nặng nhọc trong chùa cả, ngoài việc tu học và công phu bái sám ra, chỉ cần tập theo lối tham thiền của các vị Đại-Đức Tỳ-kheo lớn tuổi. Về sinh hoạt, Sa-di phải đảm đương việc cơm nước, bếp núc, chợ búa, củi than ... (nếu chùa không có người giúp việc) và hầu thầy để giúp đỡ các vị Tỳ-kheo đang bận tâm vào việc tọa thiền hay nghiên cứu. Sa-di chỉ cần giữ 10 giới luật, trong khi vị Tỳ-kheo phải thọ 250 giới. Sa-di phải chứng tỏ khả năng đầy đủ mới theo giới Tỳ-kheo được. Tuổi sớm nhất và hợp lý để thọ giới Tỳ-kheo là 20 tuổi, có những chú tiểu ở chùa từ nhỏ và có khả năng nhưng tuổi còn nhỏ, cũng không được phép thọ giới Tỳ-kheo.

Sa-di là thời kỳ dễ thực hành và đẹp nhất trong đời tu học của một người xuất gia học Phật.

8.- 10 Giới Của Sa Di Có Hình Tướng Ra Sao ? (^)

Giới luật của Sa-di có 10 điều và chính những phần căn bản nầy làm thềm thang tiến lên giới Tỳ-kheo trong tương lai. Mười giới Sa-di là :

1- Không sát sanh

2- Không trộm cắp

3- Không dâm dục

4- Không nói dối, thêu dệt, lưỡi hai chiều và không chưởi mắng.

5- Không uống rượu

6- Không được dùng nước hoa và những cách trang điểm lòe loẹt khác

7- Không được nằm giường nệm cao sang, vì sự đắm tâm ưa thích

8- Không được khiêu vũ, hát xướng

9- Không được xử dụng vàng bạc phi pháp

10- Không được ăn ngoài giờ ăn (ăn uống không độ lượng sái giờ giấc)

Về giới thứ 5 có thể không phạm, trong trường hợp bịnh nặng, y sĩ bảo cần phải dùng rượu hòa với thuốc để trị lành bệnh thì được tạm dùng, nhưng trước khi uống rượu phải thưa hỏi và cho chư Tăng biết rồi mới được dùng.

Giới không ăn phi thời thứ 10, có nghĩa là ngoài bửa ăn chính thức ra, không được phép ăn lặt vặt. Chư Tăng ăn đúng giờ ngọ buổi trưa, còn bửa ăn chiều chỉ phụ thôi, vì buổi tối là giờ ăn của loài ngạ quỉ, buổi sáng giờ ăn của các cõi trời ; chánh ngọ : Giờ ăn của chư Phật. Người tu học Phật, ngoài giờ ăn chính ra cần phải giữ cho hoàn toàn được thanh tịnh. Loài quỷ đói một khi nghe tiếng khua động chén bát bèn nổi lên lòng thèm khát muốn ăn không tốt, do đó người giữ giới phải nghiêm chỉnh không cho trái phạm điều nầy.

10 giới Sa-di là bậc thang đầu tiên bước lên giới Tỳ-kheo. Sa-di không thực hành đúng và đầy đủ phần giới tướng thì khó có thể tiến xa lên được trên đường tu tập để hoàn thiện tác phong đạo đức của người tăng sĩ xuất gia. Người nữ thọ 10 giới trên gọi là Sa-di-ni.

Giới luật có tinh chuyên thì trí tuệ, đạo nghiệp mới phát triển được. Người tu hành không thể nào lơ là trong khi giữ giới luật.

9.- Thức Xoa Ma Na Là Gì, Và Cách Phân Biệt Ra Sao ? (^)

Những người nữ tu sĩ Phật giáo khi đến tuổi 18 dù đã thọ giới Sa- di-ni hay chưa cũng phải thọ giới Thức-xoa-ma-na trong 2 năm trước khi được thọ giới Tỳ-kheo-ni.

Giới Thức-xoa-ma-na là những giới điều cơ bản chuẩn bị cho giới Tỳ-kheo-ni và gồm có 6 giới khinh, trọng như sau :

1- Không dâm dục

2- Không trộm cướp

3- Không sát sanh

4- Không nói dối

5- Không uống rượu

6- Không ăn ngoài giờ ăn (giờ ăn chính thức của người tu sĩ vào đúng giờ ngọ buổi trưa, ngoài ra không nên ăn uống một cách tạp nhạp).

Sáu giới Thức-xoa-ma-na đều có trong 10 giới của Sa-di-ni, tại sao có sự trùng lặp giới luật như thế ? Theo Luật-tông, đây không phải đã bỏ bớt 4 giới để chỉ còn 6 giới cho nhẹ bớt phần hành trì mà trong thời gian thọ giới Thức-xoa-ma-na, Sa-di-ni tập giữ giới luật của Tỳ-kheo-ni. Sự giữ giới Thức-xoa-ma-na kéo dài trong thời gian 2 năm. Nhưng ai chưa thọ giới Sa-di-ni mà đã đến tuổi 18 cũng có quyền xin thọ giới Thức-xoa-ma-na và sau thời gian hành trì đủ 2 năm cũng đủ tư cách để thọ giới Tỳ-kheo-ni vậy. Ngoài ra, những thiếu phụ trước kia đã lập gia đình hay sống độc thân (đã ly hôn hay chồng chết), nếu muốn thọ giới Thức-xoa-ma-na phải đợi 10 năm sau ngày ly hôn hay ngày chồng chết mới thọ được giới pháp của người nữ tu. (*)

Nữ giới có phần nghiệp chướng nặng nề hơn, cho nên người nào tìm tới ánh sáng của đạo và ly khai gia đình để học hạnh của người xuất gia là đã làm một cuộc cách mạng lớn trong đời sống. Người đàn bà đầu tiên xuất gia thọ Sa-di giới trong Phật giáo khi đức Phật còn tại thế là bà Da-Du-Đà-La.

(*) Theo Việt-Nam Phật-Giáo Sử Luận của Nguyễn-Lang, nhà xuất bản Lá Bối in tại Paris năm 1978.

10.- Tỳ Kheo Là Tiếng Dùng Để Chỉ Cho Ai ? (^)

Người tăng sĩ xuất gia tu theo Phật giáo đã thọ đủ 250 giới (giới cụ túc) chia ra hai giới là Tỳ-kheo-tăng và Tỳ-kheo-ni.

Tỳ-kheo có nghĩa là khất sĩ. Khất là cầu xin, sĩ là người : Như vậy thầy Tỳ-kheo cầu xin những gì ? Thầy Tỳ-kheo về mặt nội tâm lo tu đức thanh nhã, còn mặt ngoài xa lìa những nhận lãnh và hưởng thọ vật chất một cách quá đáng, ngược lại phải làm việc lành lợi ích cho mọi người, mọi vật cốt để giúp mình thành tựu được đạo nghiệp và giữ tròn hạnh nguyện của người xuất gia. Khất còn có nghĩa là trừ đói khát, tức có ý nói người xuất gia giữ tròn giới hạnh làm ruộng phước mà nơi đó có thể sanh ra vật lành để người đời đặt trọn tin tưởng vào nơi thầy Tỳ-kheo quy y và cúng dường mong gieo trồng phước đức. Ví dụ : ruộng có bón phân tạo cho đất mầu mới sanh ra được lúa tốt nhờ đó trừ được nạn đói thiếu cho người gieo mạ, cấy lúa.

Tỳ-kheo có 8 hạng như dưới đây :

1- Danh-tự Tỳ-kheo (hình tướng giống vị Tỳ-kheo nhưng không thọ 250 giới)

2- Tương-tợ Tỳ-kheo

3- Tự-xưng Tỳ-kheo : Mạo danh nghĩa cốt để người đời cung kính.

4- Thiện-lai Tỳ-kheo : Người tốt gần gủi Phật Pháp giữ giới tu hành.

5- Khất-cầu Tỳ-kheo : Trên cầu Phật Pháp, dưới xin cơm ăn để làm việc đạo.

6- Cát-tuyệt-y Tỳ-kheo : Dứt đường tình ái, phát túc siêu phương, khác người đời.

7- Phá-kiết-sử Tỳ-kheo : Đoạn diệt phiền não, nghiệp chướng ràng buộc.

8- Thọ-đại-giới bạch 4 lần Yết-ma như pháp thành tựu đắc xứ sở Tỳ-kheo.

Như trên, cho có 5 hạng Tỳ-kheo đúng nghĩa theo như hạnh nguyện người tăng sĩ, còn hạng 1, 2, 3 là những trường hợp không được giới luật thừa nhận và họ là phần tử giả trang thiền tướng để cầu được tiếng khen.

Tỳ-kheo đúng nghĩa là Bhikhu, chỉ cho người hành trì và truyền bá giáo pháp nhiệu mầu của chư Phật, chư Tổ cho chúng sanh được thấm nhuần lợi lạc. Thầy Tỳ-kheo khi thọ giới cụ túc thường thọ luôn giới Bồ-Tát. Vì giới Tỳ-kheo rất nghiêm khắc nên người giữ giới không thể ra tay cứu độ người bị nạn khác phái trong lúc khẩn cấp. Trong khi đó, giới Bồ-Tát khai mở cho để người thọ trì có thể rộng đường thực hành Bồ-Tát hạnh một cách trọn vẹn và cởi mở mà không sợ phạm giới.

Thầy Tỳ-kheo vừa làm hạnh Bồ-Tát như thế là tự bảo toàn được thanh đức cho mình và làm lợi cho người.

Phụ : Vị Tỳ-kheo có 4 chỗ nương tựa tu hành :

- Nương tựa vào 3 pháp y

- Nương tựa vào chiếc bình bát

- Nương tựa tự viện hay gốc cây

- Nương tựa tăng đoàn hay tăng thân

Và theo bốn phép xử sự như sau :

- Bị người đánh không đánh lại

- Bị mắng không mắng lại

- Bị sỉ nhục không sỉ nhục lại

- Bị giết không giết lại.

11.- Tỳ Kheo Ni Có Những Điều Cấm Giới Nào ? (^)

Khác với tăng sĩ ở cách thọ giới và hình thức của giới Tỳ-kheo-ni cũng nhiều hơn.

Trước khi muốn thọ giới Tỳ-kheo-ni, Ni chúng phải thọ giới Thức-xoa- ma-na trước đó 2 năm mới hợp cách.

Về phần giới tướng của Tỳ-kheo-ni cũng có phần khác biệt với bên tăng. Như những giới trọng của thầy Tỳ-kheo là không sát sanh, trộm đạo, không dâm dục ... còn giới trọng của Tỳ-kheo-ni là không dâm dục, không trộm cắp, không sát sanh ... Về lượng số, giới của Tỳ-kheo-ni gồm 348 giới, trong khi đó Tỳ-kheo chỉ giữ 250 giới.

Ngoài ra, khi đã cầu thầy bên Ni chúng truyền Tỳ-kheo-ni giới cho rồi, Giới-Tử nội trong ngày ấy, chớ không được để qua đêm, phải đến nhờ Tăng truyền trao giới tướng cho mới gọi được là thọ giới Tỳ-kheo-ni đúng pháp.

Khi xin thọ giới tướng với Tỳ-kheo-tăng, Giới-tử phải báo trước cho bên Tăng biết. Thầy truyền Tỳ-kheo-ni giới phải báo cho Giới-tử lễ lạy sám hối trước một tháng hoặc 2 tuần để cho 3 nghiệp thân, miệng, ý được thanh tịnh.

Những thiếu phụ lớn tuổi mới xuất gia, dù đã quá tuổi qui định cho việc thọ giới (20 tuổi), Tỳ-kheo-ni cũng vẫn phải theo tập sự từ bước đầu trong việc tu hành. Sau đó một thời gian chịu sự huấn luyện ở trong tự viện, người ấy đủ lý giải được Phật Pháp, thầy Bổn-Sư mới cho thọ giới.

Ni-cô đã thọ giới Tỳ-kheo-ni một thời gian có đủ tư cách mở giới đàn truyền giới, thu nhận đệ tử và phát triển đạo theo khả năng.

12.- Bố Tát Và Bồ Tát Khác Hay Giống Nhau ? (^)

Bố-Tát là tập họp tăng chúng lại một nơi như điện Phật hay giảng đường để đọc tụng giới luật mỗi tháng hai lần vào ngày rằm và mồng một và chỉ ra những điều lầm lỗi để sửa đổi.

Bố-Tát theo định nghĩa như trên, ta không nên lầm lẫn với Bồ-Tát được. Bồ-Tát là quả vị tu chứng của hàng Đại-thừa, là những bậc căn trí thông đạt không còn câu chấp vào sự tướng.

Nơi nào chư Tăng, Ni cùng nhau lo tu học, thường lệ mỗi tháng sau khi sám hối xong, vào ngày hôm sau, tất cả tăng chúng nhóm họp lại và đề cử người đọc lại giới luật Phật dạy.

Việc sám hối vào tối 14 và tối 30 hay 29 (nếu tháng thiếu) thì lễ Bố-Tát vào sáng ngày mùng một và ngày rằm. Khi làm lễ Bố-Tát, các thầy Tỳ-kheo đọc từng giới Tỳ-kheo. Trong khi đó, Sa-di chỉ được phép nghe tụng 10 giới và 24 oai nghi của Sa-di mà thôi. Sa-di không được phép nghe các thầy Tỳ-kheo tụng giới, cũng như các chú tiểu không được dự vào lễ Bố-Tát của các thầy Sa-di.

Khi vào chánh điện lễ Phật xong, thầy Yết-Ma đọc phần giới tướng căn bản cho Sa-di. Sau đó, chúng Sa-di phải lui ra khỏi chánh điện để về lại hậu Tổ tụng lại một lần nữa giới của Sa-di. Trong khi đó, các thầy Tỳ-kheo tự kiểm và chỉ lỗi cho nhau, nếu được thầy Tỳ-kheo khác thấy lỗi lầm bèn chỉ cho người phạm lỗi phát nguyện sám hối trước ngôi Tam-Bảo.

Lễ Bố-Tát là một hình thức hết sức dân chủ và có ý nghĩa rất sâu xa, nhưng không rõ do ai sáng kiến sắp đặt ra lễ nầy. Có lẽ sau khi đức Phật nhập diệt, các hàng đệ tử của Ngài muốn duy trì giới luật trong việc tu hành nên nghĩ ra cách tụng giới nầy. Mặt khác, các vị Tổ sư như ngài Quy-Sơn (người làm ra Văn Cảnh-Sách gồm 24 thiên oai nghi cho thầy Sa-di trong mỗi động tác như việc đi, đứng, nằm, ngồi phải giữ cho đúng phép của người xuất gia). Tổ Bách-Trượng (Trung-Hoa) đặt ra quy tắc bất tác, bất thực (không làm việc thì không ăn uống) để duy trì quy luật Thiền môn cho được chặc chẽ, hẳn là những nhà luật sư mô phạm trong Phật giáo !

Tóm lại, Bố-Tát chỉ thành tựu được khi có từ 4 vị Tăng trở lên mới đủ tư cách của một đoàn thể tăng hòa hợp.

13.- Nngười Phật Tử Tại Gia Đã Có Pháp Danh, Khi Xuất Gia Thọ Giới Có Cần Thay Đổi Gì Không ? (^)

Người Phật tử đã thọ 5 giới và quy y Tam-Bảo đều có pháp danh. Một trong những nghi vấn cần được giải đáp là khi đã có pháp danh rồi mới vào chùa tu, lúc thọ giới xuất gia có cần lấy thêm pháp danh nữa không ?

Có hai trường hợp như sau :

- Người xuất gia chọn cùng một thầy với lúc chưa đi tu, thì pháp danh có thể giữ nguyên như trước.

- Lúc xuất gia và khi còn tại gia có hai thầy khác nhau, trong trường hợp nầy pháp danh phải thay đổi. Vì người xuất gia chỉ lấy pháp danh sau khi đã thọ giới Sa-di. Chữ đầu của pháp danh được dùng chung cho cả Phật tử tại gia và xuất gia, căn cứ theo bài kệ truyền pháp của Tổ lưu truyền lại.

Ví dụ : Dòng kệ pháp Lâm-Tế do ngài Minh-Hải truyền như sau :

Minh thiệt pháp toàn chương,

Ấn chơn như thi đồng,

Chúc thánh thọ thiên cữu,

Kỳ quốc tô địa trường ...

Thầy Bổn-Sư có pháp danh là Minh-Tánh thì cho pháp danh xuống đệ tử là Thiệt Diệu, Thiệt Hòa ... Thầy mang pháp danh là Đồng Chơn, người đệ tử phải có pháp danh mang chữ Chúc như Chúc Hải, Chúc Quang.

Pháp danh, vì thế phải chọn đúng dòng kệ truyền pháp, cũng như ở đời phải có tên do cha mẹ đặt từ lúc còn nhỏ. Nhưng cái tên đạo rất quan trọng, vì nó đánh dấu giai đoạn mới trong đời sống tinh thần. Kể từ lúc cạo tóc xuất gia, cái tên do cha mẹ đặt ít khi được dùng tới nữa.

Pháp danh ghi dấu một gian đoạn như một kỷ niệm trong đời tu học lúc còn sơ cơ, cho nên có người giữ nó như một bảo vật trong đời sống tại tự viện.

14 Tự Tứ Là Gì ? (^)

Sau ba tháng Kiết-hạ An-cư (từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy) của chư Tăng đã mãn, trong lễ mãn hạ nầy gọi là lễ Tự-tứ, tức lễ nhận tội và chỉ lỗi cho nhau khi hai vị Tăng đối diện làm lễ, vào ngày rằm tháng 7 âm lịch.

Tự-tứ có nghĩa là thỉnh cầu một vị Tăng khác chỉ cho mình biết những khuyết điểm đã lỡ trái phạm trong việc giữ gìn giới luật suốt trong thời gian ba tháng Kiết-hạ để mình biết lỗi mà sám hối. Trong lễ Tự-tứ, chư Tăng theo như pháp Yết-Ma, đề cử ra 2 vị gọi là nhận lãnh Tự-tứ (thọ Tự-tứ). Hai vị nầy ra trước chánh điện và chư Tăng để lạy nhau rồi quỳ xuống đối diện nhau, một vị làm phép Tự-tứ trước bằng cách nói với người kia :

Bạch Đại-Đức, hôm nay là ngày chư Tăng Tự-tứ, tôi là Tỳ-kheo ... cũng xin Tự-tứ với Đại-Đức, nếu Đại-Đức thấy hoặc nghe hay nghi tôi có những khuyết điểm lỗi lầm nào về giới luật thì xin thương xót chỉ bảo cho tôi. Nếu tôi nhận được lỗi lầm, tôi sẽ theo đúng như pháp mà sám hối (đọc ba lần).

Nếu thấy vị kia không có khuyết điểm nào, vị Tăng đóng vai Tự-tứ đối diện đáp :

Rất tốt (thiện).

Vị Tăng tự tứ liền đáp :

Cám ơn Đại-Đức (nhĩ).

Và lạy xuống một lạy.

Lạy xong thì quỳ lên để đóng vai nhận lãnh Tự-tứ cho vị kia làm lễ Tự-tứ. Khi hai người đã Tự-tứ xong, đại chúng chia ra làm hai toán. Mỗi vị nhận lãnh Tự-tứ đi về phía một toán, các vị Tăng trong toán bắt đầu thay phiên nhau tới quỳ trước vị nhận lãnh Tự-tứ. Vị nầy thấy vị kia tới quỳ trước mình cũng tự quỳ xuống để Tự-tứ. Tất cả chư Tăng trong chánh điện đều làm y như vậy cho đến khi mọi người trong đại chúng đều Tự-tứ xong.

Phép Tự-tứ để chư Tăng chỉ lỗi cho nhau thấy và tự nhận lỗi lầm để sửa đổi hầu tấn tu đạo hạnh là một hình thức rất công bằng và dân chủ. Chư Tăng đã cùng nhau tu học trong cùng một hoàn cảnh và cùng thọ nhận pháp kính nhường trong tinh thần hòa hợp.

Lễ Tự-tứ được tổ chức sau 3 tháng tu tập, cũng có nghĩa là mỗi người đã để tâm thanh tịnh và muốn tu sửa những hành vi bất thiện nhỏ mà chính mình không tự hay biết nên cần người khác chỉ lỗi cho để tu niệm.

15.- Nói Rõ Về Ý Nghĩa Của Kiết Hạ An Cư (^)

Kiết-hạ An-cư là mùa chư Tăng an định ở một nơi để chuyên tâm vào việc tu học, nhất là việc giữ gìn giới luật cho chu đáo trong phạm vi đã qui định.

Mùa An-cư mỗi năm có 3 tháng, tính từ rằm tháng 4 âm lịch cho đến rằm tháng 7. Trong khoảng thời gian đó, các Đại-Đức, Tỳ-kheo tập hợp lại để thực hành pháp Yết-Ma kiết giới, tức là qui định ranh giới cho việt cư trú trong suốt mùa An-cư. Lấy ngôi chùa làm trung tâm và đánh dấu các góc Đông Nam, Tây Nam, Đông Bắc, Tây Bắc để giới hạn sự đi lại của chư Tăng trong bốn nơi đã làm phép kiết giới ấy. Khi Yết-Ma kiết giới đã được thực hiện, không một vị Tăng nào có quyền đi ra khỏi ranh giới ấy nữa. Tuy nhiên, trong trường hợp bất khả kháng, vị Tăng có thể chỉ được phép ra khỏi phạm vi đã ấn định, nếu có làm phép Yết-Ma giải giới trong vòng 24 tiếng đồng hồ hay 48 tiếng tùy theo công việc giải quyết mau hoặc chậm của vị ấy.

Đến hết mùa An-cư Kiết-hạ, chư Tăng một lần nữa thực hiện phép Yết-Ma giải giới và làm lễ đối đầu tỏ bày lỗi lầm của nhau trong thời gian ba tháng vừa qua. Lễ nầy gọi là lễ Tự-tứ vậy.

Tại sao chư Tăng phải làm lễ Kiết-hạ An-cư ?

Khi đức Phật còn tại thế, Ngài cùng với các thầy Tỳ-kheo đi khất thực và bố giáo trong khắp xứ Ấn-Độ cũng như các vùng phụ cận, nhưng vào giữa tháng tư cho tới giữa tháng bảy là mùa mưa, đồng thời cũng là mùa sanh nở của các loài côn trùng. Để tránh sự dẫm đạp lên sanh mạng của những sinh vật nhỏ ấy, vì lòng từ bi, Phật chế ra phép Kiết-hạ An-cư để sách tấn chư Tăng cùng nhau tu học các pháp lành, hồi hướng các công đức lành ấy về cho khắp pháp giới chúng sanh cùng được lợi nhuần ơn đức.

Việc Kiết-hạ An-cư là phương pháp tu kiến hiệu nhất, một thầy Tỳ-kheo đã thọ 250 giới, nếu chưa theo các khóa tu tập ngắn hạn nầy mỗi năm thì chưa đủ tư cách của người xuất gia vậy.

16.- Pháp Lục Hòa Và Những Ai Thực Hành ? (^)

Lục-hòa là 6 phương thức sống hòa kính của người tăng sĩ ở trong cùng một tự viện hay ở tại các chùa và bất cứ nơi nào có đoàn thể xuất gia cùng ở chung nhau tu học.

Sáu pháp hòa kính như sau :

- Thân hòa đồng trụ : Cùng trong một hoàn cảnh và giống nhau ở trong một môi trường sinh hoạt, chư Tăng sống hòa mình với nhau để nhắc nhở nhau tu học.

- Giới hòa đồng tu : Trong phạm vi của một tự viện, chư Tăng cùng giữ một số giới luật giống nhau. Ngoài ra, còn có bản nội quy riêng của tự viện để việc chấp hành giới luật được đúng đắn, nhờ đó nhắc nhủ nhau tu tập để cố tránh điều lầm lỗi.

- Khẩu hòa vô tránh : Cùng hợp lực và xa lánh việc dùng lời lẽ thiếu nhã nhặn cố gây ra sự bất hòa để tránh sự xung đột và giữ được niềm hòa khí với nhau.

- Kiến hòa đồng giải : Những ý kiến bất đồng, những sự hiểu lầm tai hại phải được đem ra mổ xẻ và phải trao đổi sự hiểu biết, cùng chia xẻ những kiến thức và quan niệm của nhau trong một thái độ thật cởi mở và khiêm tốn.

- Ý hòa đồng duyệt : Cùng nhau kết hợp mọi ý kiến dị đồng để tạo nên sự hòa hợp vui vẽ trong đại chúng, hầu giữ được một nếp sống đạo hạnh trong sạch và một lòng tin yêu lẫn nhau.

- Lợi hòa đồng quân : Mọi điều kiện vật chất đều phải có sự phân chia đồng đều, vì tất cả của cải vật chất đều được xem như của chung cho mọi người.

Trong tinh thần tự giác ấy, người tăng sĩ phát tâm xuất gia là đã phát nguyện từ bỏ tất cả của cải vật chất ở đời, kể cả vợ đẹp con ngoan, để hòa mình vào nếp sống đại chúng. Theo tinh thần đó, sáu phép hòa kính chỉ là trợ duyên cho việc tu tập mà thôi. Nếu ý thức được như thế, người tăng sĩ rất dễ dàng học hỏi và tiến xa hơn trong mọi trường hợp và hoàn cảnh.

Từ hai vị tăng trở lên sống chung nhau mà biết áp dụng đúng theo sáu pháp hòa kính trong tinh thần tôn trọng lẫn nhau nầy thì đoàn thể xuất gia trở nên có uy tín và gây được ảnh hưởng tốt.

17.- Bất Tác Bất Thực Là Nghĩa Thế Nào ?(^)

Câu "bất tác bất thực" đã trở thành Thiền-ngữ lưu hành trong Phật giáo, nhất là Phật giáo phái Thiền-tông.

Bất tác bất thực nghĩa là không làm thì không ăn hay là nhứt nhựt bất tác bất thực, tức là một ngày không làm việc thì không có sanh lợi nên không chi tiêu, được áp dụng đúng theo tiêu chuẩn kinh tế và lợi tức, theo như tinh thần tự lực cánh sinh vậy.

Thiền-sư Bách-Trượng (749-814) thuộc phái Thiền Lâm-Tế Trung-Quốc, khởi xướng ra câu tiêu ngữ trên đã được Thiền-sư Vô-Ngôn-Thông đem áp dụng tại Việt-Nam vào đầu thế kỷ thứ 9. Sau đó lại có thêm danh từ "chấp lao phục dịch" (làm việc phục vụ theo sức lực) cũng xuất hiện trong giới Thiền-môn. Tinh thần làm việc lao động như trồng cây, cuốc đất, tưới hoa, làm vườn ... vừa tu tập vừa tìm ra thêm được món lợi cho chùa để góp phần vào việc chi phí hàng ngày. Sự xen lẫn việc công tác vào công phu tu Thiền tạo cho thiền sinh có một tinh thần khai phóng, cũng như tạo sự lành mạnh cho cơ thể và đạt sự hiệu quả trong việc tu tập, ngoài ra, còn bảo đảm được một phần nào về đời sống kinh tế cho tự viện.

Như vậy, ngược dòng lịch sử hơn 1000 năm về trước, không riêng gì xã hội Trung-Quốc mà ngay như hoàn cảnh nghèo nàn của Việt-Nam, lại còn không phải ở ngoài đời sống thế tục mà ngay trong giới thiền môn đã biết tận dụng triệt để tinh thần tự lập đúng theo "cung cầu" của luật kinh tế và tạo được thế quân bình giữa vật chất với tinh thần song song nhau để phát triển và tồn tại. Những Thiền-sư là người nghĩ và làm đúng theo tinh thần đó, nên câu nói trên đã được lưu lại qua nhiều thế hệ cho tới ngày nay.

Mỗi một thiền sinh trong bước đầu tu tập thiền định là một nhà khám phá và chinh phục. Khám phá những điều mới lạ nơi tâm thức và chinh phục những phiền não tự thân tâm. Vì thế, ngoài giờ tu thiền ra, thiền sinh còn phải phân phiên làm một số những công tác khác để cho cơ thể hoạt động có sự đồng đều, và đồng thời cũng để cho hành giả tìm thấy sự thoải mái tâm hồn trong lúc làm việc.

Công tác và thiền định là hai việc song hành giúp cho người tu chóng đạt được mục đích của việc tu tập và cũng để nhiếp tâm trong chánh niệm, không nghĩ ngợi buông lung.

18.- Tam Sư Thất Chứng Là Gì ? (^)

Hội đồng truyền giới Tỳ-kheo phải có ít nhất là 10 vị trưởng lão gọi là Thập-sư. Trong số đó, 3 vị quan trọng nhất là Hòa-Thượng, Yết-Ma và Giáo-Thọ, còn 7 vị kia thuộc hàng Tôn-chứng nên gọi là thất chứng.

Giáo-Thọ là vị Thượng-Tọa chỉ dẫn và trao truyền giới pháp cho người xin thọ giới. Trong trường hợp số người thọ giới đông thì phải cần hai vị Giáo-Thọ. Các vị Giáo-Thọ dạy cho giới tử tất cả những điều cần biết, cần hiểu, cần làm và cần nói trong lễ thọ giới. Còn 7 vị Tôn-chứng là những người được mời chứng minh cho việc truyền giới và có phận sự quyết định sự thành tựu của việc làm phép Yết-Ma. Địa điểm và lễ truyền giới được gọi là Giới-đàn hay Đàn-tràng. Giới-tử khi đi làm lễ cầu thỉnh Hòa-Thượng, Yết-Ma, Giáo-Thọ và Tôn-chứng phải được hướng dẫn bởi một số tăng sĩ gọi là các thầy dẫn thỉnh. Các vị dẫn thỉnh có nhiệm vụ hướng dẫn và giới thiệu người thọ giới với các vị được thỉnh cầu vào Hội-đồng truyền giới tức là Tam sư Thất chứng.

Các Giới-tử có thành tựu được đạo nghiệp hay không một phần quyết định quan trọng đều do nơi Giới-đàn truyền Tỳ-kheo-giới và nó cũng còn tùy thuộc vào các bậc thầy chứng minh nữa. Như vậy, cuộc đời tu hành và huệ mạng của Giới-tử đều do từ đạo hạnh của các vị tôn chứng mà thành tựu được công đức tu hành vậy.

Do đó, trước khi tổ chức thọ giới Tỳ-kheo, ban điều hành cuộc lễ phải cân nhắc cẩn thận và mời những vị thiền đức xứng đáng có tác phong đạo đức gương mẫu mới đưa lại cho lễ truyền giới được trang nghiêm, thanh tịnh và nhờ đó mới có thể thu đạt được kết quả viên mãn. Trong những Giới-đàn tổ chức thu hẹp không có đủ 10 vị cao đức tăng chứng minh, nhưng tối thiểu phải có 4 vị để được gọi là chúng.

Tóm lại, các bậc tu hành cao đức đáng được tôn kính, quy thuận ở trong Hội-đồng truyền giới là những bông hoa tỏa ngát hương thơm đến hàng Giới-tử, nếu trái lại như thế, lễ truyền giới sẽ không được nhiều lợi lạc.

19.- Phép Yết Ma Là Gì ? Và Ở Đâu Làm Phép Yết Ma ? (^)

Trong tự viện, nơi chúng tăng ở tu học, mỗi tháng hai lần tập họp nhau lại để thuyết giới, nghĩa là ôn nhắc lại những giới luật và kiểm điểm ưu khuyết của việc hành trì giới cấm trong nữa tháng trước.

Những hành động phát lồ ăn năn như tự thú tội, sám hối hay bị xử trị cũng như các lễ thọ giới, lễ kiết-hạ an-cư đều được thực hiện trong nguyên tắc pháp Yết-ma. Yết-ma là "tác pháp biện sự" để chỉ cho tính cách hợp pháp của những giải quyết căn cứ theo một nghi thức tuyên cáo đọc và quyết nghị trong tăng chúng. Bất cứ một quyết định hay một hành động nào liên hệ đến đời sống giới luật của chư tăng đều phải do sự thực hành phép Yết-ma mới hợp pháp. Muốn thực hiện phép Yết-ma, phải hội đủ hai điều kiện :

1/. Số người tối thiểu phải đủ. Ví dụ, việc xử tội một tăng sĩ, hội đồng nhóm họp ít nhất phải có 20 vị đã thọ giới Tỳ-kheo. Trường hợp tối thiểu phải đủ 4 vị Tỳ-kheo chứng kiến thì việc xử phạt mới thành. Khi làm lễ tác bạch theo phép Yết-ma như sau :

Thầy Yết-ma : Xin chư Đại-Đức nghe đây : Các vị có tên .... xin thọ giới cụ túc với ngài .... làm trách vụ Hòa-Thượng. Lời tác bạch như thế có đúng pháp không ? Các thầy tôn chứng chấp tay trả lời : Đúng pháp.

2/. Quyết nghị phải được thực hiện trong sự hòa hợp hoàn toàn. Nếu thiếu sự hòa hợp tức là còn có ý kiến chống đối thì phép Yết-ma không có hiệu lực. Người có trách vụ tuyên cáo Yết-ma gọi là thầy Yết-ma do chư Tăng đề cử hoặc thỉnh mời. Như trong trường hợp thọ giới Tỳ-kheo, thầy Yết-ma được các Giới-tử (người sắp thọ giới) cung thỉnh vào vai trò nầy. Các vị Tăng thọ giới phải tới trước vị tăng mà họ muốn cung thỉnh làm thầy Yết-ma làm lễ, quỳ đọc 3 lần :

Nay chúng con xin thỉnh Đại-Đức làm thầy Yết-Ma, xin Đại-Đức vì chúng con mà nhận trách vụ, chúng con sẽ nhờ Đại-Đức mà được thọ giới Tỳ-kheo.

Sau đó, thầy Yết-Ma để cho thành tựu theo đúng nguyên tắc sẽ hỏi đại chúng :

- Chư Tăng đã nhóm họp lại chưa ?

Vị chủ lễ đáp : Chư Tăng đã nhóm họp xong.

Thầy Yết-Ma : Có sự hòa hợp không ?

Thầy chủ lễ : Có sự hòa hợp.

Thầy Yết-Ma : Chư Tăng tập hợp hôm nay để làm gì ?

Thầy chủ lễ : Để thực hiện Yết-Ma truyền giới Tỳ-kheo.

Phép Yết-ma có sự dân chủ và rành mạch như thế mỗi khi chư Tăng cần thưa thỉnh việc gì có liên hệ tới sự tu hành cũng như giới luật.

20.- Lễ Thế Phát Là Gì ? (^)

Thế phát là cạo tóc râu hay chất bẩn bám vào thân thể. Lễ thế phát là lễ cạo tóc cho người xuất gia tu học theo đoàn thể tăng già.

Người mới phát tâm tu học phải y chỉ vào một vị sư và liền sau đó được thầy làm lễ cạo tóc cho mới chánh thức trở thành là một tăng sĩ. Lễ nầy tuy đơn giản, nhưng rất quan trọng và thiêng liêng. Vì đây là giờ phút quyết định cho cuộc hành trình của hành giả trên bước đường tu tập. Người phát tâm tu hành tự phát nguyện trước Bổn-Sư và Phật tổ bằng cách hướng về bốn hướng để lễ lạy mỗi phương một lạy gọi là tạ ơn. Ý nghĩa của các hướng như sau :

- Hướng về phương Nam, lễ một lạy để tạ ơn cha mẹ đã dày công nuôi dưỡng cho ta khôn lớn nên người và có được thân mạng ngày nay.

- Hướng về phương Bắc lễ một lạy để đền ơn quốc gia, thủy thổ đã cho ta có được một đời sống bình an, khỏe mạnh.

- Hướng về phương Đông lễ một lạy đền đáp công ơn thầy học, bạn bè đã giúp đỡ dẫn dắt ta nên người.

- Hướng về phương Tây lễ một lạy để tạ ơn Tam-Bảo, các vị tổ sư tiền bối đã hy sinh pháp thân huệ mạng để bồi đắp cho ngôi nhà Phật giáo được tồn tại lâu bền trong đời.

Bằng thành tâm trong chí nguyện, người xuất gia trong lễ cạo tóc cảm thấy tâm hồn nhẹ lâng lâng như cảm thông được với các đấng thiêng liêng để bắt đầu bước vào ngôi nhà của đại gia đình Phật giáo.

Bài kệ khi làm lễ xuống tóc là :

Thế trừ tu phát

Đương nguyện chúng sanh

Viễn ly phiền não

Cứu cánh tịch diệt.

(Nghĩa là : Cạo bỏ râu tóc, nguyện cho chúng sanh xa lìa phiền não để đạt đến chỗ rốt ráo vắng lặng, tức giải thoát)

Lễ cạo tóc có thể không xảy ra đúng theo nghi thức trên, tùy theo mỗi vị thầy hướng dẫn. Tuy nhiên, nếu các bậc tôn túc am tường về giới luật phải tổ chức lễ cạo tóc cho đệ tử thật trọng thể và trang nghiêm, nhờ đó nhắc nhở họ dễ dàng trong việc tu niệm.

Người mới xuất gia, cái ấn tượng đầu tiên khi thầy đặt con dao lên đầu và đọc thần chú cũng như lời phát nguyện khắc sâu vào tâm tư một hình ảnh đẹp và khó quên trong đời tu học về sau.

21.- Xuất Gia Phải Cần Những Điều Kiện Gì ? (^)

Xuất gia theo nghĩa gần nhất là ra khỏi nhà, nhưng theo lối giải thích đó không được ổn thỏa lắm, vì người tu theo Phật giáo muốn trở thành một Tăng-sĩ hay Ni-cô chân chánh phải có sự nhiếp tâm giữ giới luật để diệt được giặc nội tâm và ngoại cảnh.

Chữ xuất gia bao gồm trong 3 ý nghĩa như sau đây : 1) Xuất thế tục gia, xuất tam giới gia và xuất phiền não gia, nghĩa là ra khỏi nhà thế tục, tức là hành giả từ bỏ cha mẹ, anh em, thân bằng quyến thuộc và ngay cả vợ con (nếu có) để dấn thân vào con đường tu học, hầu sữa mình và trau dồi đức hạnh để trở thành một người gương mẫu dẫn dắt những kẻ sơ cơ học đạo. 2) Cầu mong ra khỏi nhà của 3 cõi : Dục-giới, Sắc-giới và Vô-sắc-giới, là một tâm niệm thật cao thượng của người tu muốn hướng trọn đời mình phục vụ cho tha nhân. 3) Mong khỏi bị vướng mắc vào trong những sự phiền não, các việc vui khoái lạc ở trong vòng ô nhiễm của kẻ phàm tục mà cố nhiếp tâm trong chánh niệm để thắng trận sau cùng là giặc phiền não nơi tự tâm. Đó là thoát ra được khỏi mọi ràng buộc của đời sống phức tạp và đa diện để cầu mong đạt được đạo quả giải thoát.

Với ý nghĩa đó, người tu theo Phật giáo muốn đạt đến giác ngộ được mọi mặt cần phải gạn lọc hay thanh trừng cho hết sạch những chướng ngại bên trong lẫn bên ngoài để thành tựu đạo quả Vô-thượng Bồ-đề. Hiểu đúng mức ý nghĩa xuất gia cũng như thực hành nghiêm chỉnh giới luật, người tăng sĩ mới xứng đáng là trưởng tử của đức Phật, kẻ rao giảng chánh pháp của Như-Lai cho nhân sinh.

Xuất gia vì thế rất khó thực hành, người nào suốt đời không thối chí trong việc tu tập là tự dâng hiến trọn đời mình cho đạo pháp để phục vụ tha nhân. Người xuất gia cần các điều kiện : Thân thể vẹn toàn tức là 6 căn : Mắt, tai, mũi, lưỡi, chân tay và ý thức minh mẫn. Ngoài ra không phải vì trốn lánh xã hội, không mắc nợ người, không thất tình, không phạm pháp ... mà xuất gia thì mới được thừa nhận là người tu hành ở trong hàng ngũ tăng già.

Người xuất gia mang một sứ mạng cao cả là hoằng pháp lợi sanh và lấy trí huệ làm sự nghiệp, nếu không hội đủ một số điều kiện như trên thì khó mong thành tựu được ý nguyện tu hành đúng nghĩa.

22.- Thế Độ Là Gì, Và Trong Trường Hợp Nào ? (^)

Thế độ là tiếp, đưa người thế tục vào với ánh sáng của đạo mầu giải thoát, tức là người được nhận cho sống đời xuất gia và phát nguyện một đời theo thầy học đạo.

Thế độ còn có nghĩa là thay đổi lối sống của người trần để dấn thân vào cửa chùa, thực hành Phật giáo theo đời sống của người xuất gia và xã bỏ tất cả những cái vinh hoa phú quý của đời sống thế tục. Một người phát tâm xuất gia như thế phải cần nương tựa vào một vị thầy có uy tín, đạo đức để học hỏi giáo lý giải thoát. Thầy nhận cho người ấy xuất gia gọi là thầy thế độ. Người đệ tử coi vị thầy mà mình nương tựa như là người hướng dẫn gương mẫu, sáng suốt để nhờ đó phát triển trí tuệ. Từ lúc xuất gia trở đi, có điều gì thắc mắc cần hỏi, người đệ tử đều tham khảo nơi thầy hướng dẫn, nhất là việc tu hành và việc học hỏi ở lúc ban đầu.

Như vậy, giữa thầy Bổn-Sư và thầy Thế-độ có giống nhau ? Có nhiều trường hợp người tu lúc đầu chưa biết gì về đời sống tu hành và cần nhờ một thầy hướng dẫn. Sau khi đã vào tu ở chùa người ấy lại chọn một thầy khác, do đó thầy Bổn-Sư chưa hẳn là người đã chỉ dẫn cho các kinh nghiệm tu tập lúc mới nhập môn. Nói một cách khác, chữ Thế-độ có tính cách giai đoạn và ngắn hạn mà người tu cần y chỉ để học hỏi nơi một thầy đạo hạnh xứng đáng. Tác phong đạo đức của một người tu hành có được một phần lớn đều nhờ nơi thầy Thế-độ mà thành tựu.

Ở đời dù chúng ta làm bất cứ một công việc gì, lúc ban đầu rất quan trọng, vì nó đánh dấu cho cả một tương lai rạng rỡ hay khó khăn.

23.- Pháp Hiệu Là Gì ? Ai Có Pháp Hiệu ? (^)

Người Phật tử tại gia khi quy y chỉ nhận được Pháp-danh, trong khi đó người tăng sĩ, ngoài Pháp-danh lúc thọ 10 giới, còn có Pháp-hiệu khi thọ 250 giới.

Pháp-hiệu là tên do thầy truyền pháp đặt cho theo một câu thi kệ có ý nghĩa nào đó trong Phật Pháp hoặc một bài thơ do Bổn-Sư sáng tác. Như vậy, Pháp-hiệu không quan trọng bằng Pháp-danh ? Người tăng sĩ đã có Pháp-danh hoặc Pháp-tự được chọn làm tên gọi hằng ngày trong đời tu học, còn Pháp-hiệu chỉ là tên dùng trong phạm vi của chùa và có liên hệ giữa thầy trò với nhau. Pháp-hiệu thường ít được dùng tới, nhưng tới lúc người mang tên hiệu qua đời phải viết đầy đủ lên bài vị để cho người sau dễ nhận ra tông môn.

Pháp-hiệu cũng khác với Bút-hiệu, vì Bút-hiệu có thể có tới 3 hoặc 5, nhưng Pháp-hiệu chỉ có một thôi. Pháp-hiệu do thầy chọn đặt cho, chứ không phải đương sự tự chọn lựa.

Người xuất gia vì thế có đủ 3 tên là Pháp-danh, Pháp-tự và Pháp-hiệu, cũng như trong tăng đoàn đều lấy theo dòng họ Thích của đức Phật Thích-Ca để chứng tỏ là dòng Thích tử (con Phật). Tên đạo, đầu tròn, áo vuông là 3 yếu tố quan trọng tạo nên hình ảnh nhà tu đạo hạnh đáng làm nhà mô phạm cho người đời noi theo. Ngoài ra, người tăng sĩ còn tâm niệm tới 3 mối liên hệ mà họ đang được thừa hưởng là ở nhà Như-Lai (chùa), ăn cơm Đàn-việt (người tín đồ đem của tới cúng) và mặc áo Như-Lai (chiếc áo nhà tu là pháp y).

Người tu có Pháp-hiệu cũng có nghĩa là đã tu hành trong nhiều năm kinh nghiệm và đã tới lúc có thể tự ra đảm đang công việc Phật sự một mình được.

24 Pháp Danh Là Gì ? (^)

Pháp-danh là tên dùng theo thứ tự của dòng kệ truyền pháp mà người tín đồ Phật giáo lúc thọ 5 giới và quy y Tam-Bảo được thầy đặt cho.

Người xuất gia và Phật tử tại gia đều có Pháp-danh cả. Pháp-danh của một người lấy ra từ một chữ của bài kệ do Tổ lưu truyền lại, theo tông phái mà thành hình. Ví dụ : Dòng Lâm-Tế do Thiền-sư Minh-Hải truyền xuống có câu :

Ứng chơn như thị đồng

Chúc thánh thọ thiên cữu ...

Mỗi đời truyền pháp lấy một chữ nơi bài kệ ấy. Chẳng hạn thầy có Pháp-danh chữ Thánh như Thánh Tâm thì cho Pháp-danh xuống đệ tử là Thọ như Thọ Trường, Thọ Xuân ... Có một vài trường hợp người thọ giới mang Pháp-danh chữ Thị, mặc dù người ấy là đàn ông. Chữ Thị theo thứ tự của bài kệ trên, chứ không phải Thị là đàn bà. Thầy có Pháp-danh chữ Như, bắt buộc cho xuống các đệ tử phải là chữ Thị. Lúc cho Pháp-danh, hẳn thầy truyền giới đã giảng giải rõ ý nghĩa nầy.

Từ khi người Phật tử nhận lãnh Pháp-danh, được xem như có đủ tư cách là một Phật tử đã quy y Phật Pháp Tăng và luôn luôn hướng tâm niệm thiện về 3 ngôi báu ấy để mong làm điều lành tránh điều dữ.

Cái tên của một người rất quan trọng, và Pháp-danh lại càng cần thiết hơn cho người Phật tử đã chọn Phật giáo như lý tưởng để tôn thờ, vì nó được gắn liền với đời sống tinh thần của chúng ta.

25 Pháp Sư Có Phải Là Thầy Phù Thủy Có Đủ Pháp Thuật Trừ Tà Yếm Quỉ Không ? (^)

Chữ Pháp-sư có nghĩa là thầy tinh thông về Phật Pháp hay là vị giảng sư của Phật giáo có khả năng diễn giảng giáo lý đạo Phật cho quần chúng.

Danh từ Pháp-sư đã bị nhiều người hiểu lầm là thầy pháp có thuật trừ ma, luyện chú giỏi hay là ông thầy chuyên việc cứu nhân độ thế. Pháp-sư nói cho đúng nghĩa theo tinh thần Phật giáo là vị Thượng-Tọa có nhiều kinh nghiệm trong đạo. Người đã thọ giới Tỳ- kheo (250 giới) và tinh chuyên giới hạnh, đã trải qua 10 năm theo học tại các khóa an-cư kiết-hạ. Vị ấy đã là tôn chứng cho các đại giới-đàn Tỳ-kheo và Bồ-Tát giới hoặc là vị giảng sư lưu động của Phật giáo được đề cử đến thuyết pháp ở các nơi để cho quần chúng thấm nhuần giáo lý đạo Phật được gọi là Pháp-sư.

Khi phân biệt như thế, chúng ta đừng đồng hóa Pháp-sư trong Phật giáo với thầy pháp bên đạo phù thủy. Mặc dù ngày nay không còn những hình thức của các thầy pháp phù thủy nữa, vẫn có người còn lạm dụng danh từ hay đúng ra vì không phân biệt nổi chỗ khác nhau chăng ?

Người Phật tử Trung-Hoa và Nhật-Bản xử dụng danh từ Pháp-sư dùng trong giới Phật giáo để tôn kính các vị Thượng-Tọa chuyên việc diễn giảng.

Trong Phật giáo, bất cứ một sự tướng nào, chúng ta cũng nên tìm hiểu cho tường tận để khỏi bị nhầm lẫn và hiểu sát nghĩa. Còn một điểm sai lầm tai hại nữa là có những tăng sĩ hành nghề thầy cúng chuyên môn, cũng được gọi bằng Pháp-sư. Danh từ trong Phật giáo không thể bị lạm dụng đến như vậy.

Người Phật tử nên nghiêm chỉnh trong việc dùng cách xưng hô cho đúng trong khi gặp các vị lãnh đạo tinh thần để tránh những lỗi lầm tai hại.

26 Pháp Tự Là Gì Và Những Ai Có Pháp Tự ? (^)

Pháp-tự là tên chữ theo đúng dòng kệ truyền pháp được thầy đặt cho khi người tăng sĩ Sa-di-giới. Mỗi tăng sĩ đều có 3 tên riêng biệt là Pháp-danh, Pháp-hiệu và Pháp-tự.

Trong 3 tên ấy, có thể chọn tên nào để gọi cũng được, nhưng thông thường Pháp-danh được chọn để gọi tên hơn, vì ở giai đoạn đầu Pháp-danh gắn liền với đời sống tu học khi người mới vào chùa tu và mang nhiều nét đặc biệt, nhất là đã quen dùng nên khó sửa đổi. Tuy nhiên, tên gọi là do người ấy quyết định, vì thế cũng có đôi lúc Pháp-hiệu được dùng làm tên gọi từ khi thầy Tỳ-kheo thọ 250 giới về sau. Pháp-hiệu cũng được dùng nhưng ít phổ thông hơn. Trong trường hợp người tăng sĩ qua đời, bắt buộc phải viết tên gồm Pháp-danh, tự, hiệu lên bài vị để thờ.

Đã có Pháp-danh và Pháp-hiệu, còn Pháp-tự không cần có được không ?

Người xuất gia mỗi một giai đoạn trong đời tu học là để đánh dấu một bước tiến lên, vì đã trải qua nhiều thử thách để đạt tới được, do đó tên mới cũng làm cho người được mang tên thay đổi về lối sống và cách suy nghĩ. Tâm lý học cho chúng ta thấy rằng, khi mặc quần áo mới ta tự nhiên có cảm tưởng như có sự thay đổi toàn diện. Như vậy, cái tên gọi rất là quan trọng, nên thầy Tỳ-kheo được mang thêm tên Pháp-hiệu lúc thọ giới cũng là việc dễ hiểu.

Pháp-tự phải giống với tánh tình và tư cách của người ấy mà thầy Bổn-Sư cần phải theo dõi người đệ tử qua nhiều năm tháng ở tự viện mới hiểu rõ được mà chọn để đặt cho.

Người tăng sĩ nhận Pháp-tự cũng có nghĩa là để đánh dấu giai đoạn trưởng thành trong đời tu học và có thể lãnh trọng trách hoằng pháp lợi sanh.

27.- Ai Thực Hành Phép Tam Đề Trong Phật Giáo ? (^)

Tại các tự viện, chư Tăng theo đúng qui tắc của một thiền môn, trước khi ăn cơm phải làm phép tam-đề và ngũ-quán.

Ngoài việc giải thích ra, để quý độc giả có thể hiểu thêm về chiều rộng của vấn đề, ở đây xin được bàn tới thái độ thọ nhận của cúng một cách nghiêm túc của người tăng sĩ trong lúc ăn uống để nhiếp tâm cầu nguyện cho mọi việc phước lành đến với người và chính người thọ nhận của cúng cũng được lợi lạc.

Tam-đề là ba muổng hay ba miếng cơm làm phép trước khi thọ thực. Chư Tăng trước khi vào bàn ăn phải bưng chén cơm hay bình bát đưa lên ngang trước trán vừa tầm với chân mày trong tư thế bắt ấn Cam-lồ (3 ngón tay giơ thẳng lên, chỉ ngón đeo nhẫn cung lại giáp với ngón tay cái). Tất cả đều đồng thanh đọc bài "cúng dường thanh tịnh ..." Nghi thức nầy chỉ trong vòng 10 đến 15 phút, sau đó bửa ăn bắt đầu. Trước khi ăn chư Tăng phải làm phép. Ý nghĩa của 3 miếng cơm đầu tiên như sau :

- Muổng thứ nhứt : Nguyện đoạn nhứt thiết ác. Tức là người thọ cơm tự hứa với mình đoạn trừ tất cả điều ác dù nhỏ hay lớn. Điều ác ở đây cũng có nghĩa là lòng tham lam như muốn ăn ngon, ăn nhiều và ăn quá phần ăn của mình.

- Muổng thứ hai : Nuyện tu nhứt thiết thiện. Phát khởi lòng từ bi tu tập tất cả những pháp lành, nghĩa là không từ nan bất cứ một việc thiện nhỏ nào. Người tu hành hễ có cơ hội làm được việc lợi ích là cứ hăng hái bắt tay vào việc không chút do dự.

- Muổng thứ ba : Thệ độ nhứt thiết chúng sanh. Tất cả mọi loài đang còn bị đói khổ, thiếu thốn, ngay cả miếng ăn thức mặc, nên hành giả phải phát tâm vì tất cả những chúng sanh nào còn đang gặp phải khó khăn trong đời sống về vật chất, và nhất tâm cầu nguyện cho tất cả được ấm no đầy đủ.

Khi phát ra những lời nguyện rộng lớn như thế xong, sau đó mới bắt đầu bửa ăn trong tinh thần cầu nguyện, rất yên lặng và trang nghiêm (nên nhớ : 3 muổng cơm tượng trưng, mỗi muổng chỉ vài ba hột thôi, chứ không phải là một muổng đầy). Nghi thức nầy vẫn áp dụng cho Phật tử tu tại gia về thọ giới Bát-Quan-Trai tại chùa trong 24 giờ.

28.- Ngũ Quán Diễn Ra Lúc Nào ? (^)

Ngũ quán là năm điều quán tưởng trước khi vào bửa ăn của chư Tăng Ni trong các tự viện.

Năm phép quán tưởng nầy để người tu hành luôn nhớ nghĩ tới những việc làm lợi ích giữa mình và người khác. Năm phép quán ấy như sau :

- Phép quán thứ nhứt : Nghĩ tới công ơn khó nhọc của người sản xuất ra hạt lúa cho đến khi thành hình nên gạo và do công người nấu nước để thành cơm. Như vậy khi thành được chén cơm đây phải trải qua bao nhiêu mồ hôi nước mắt của nhiều người kết tụ lại mới có được.

- Phép quán thứ hai : Khi đã nghĩ tới công khó của người rồi, phải xét kỹ lại tài đức của mình đã tròn đủ chưa để xứng đáng thọ nhận được hạt cơm nầy.

Nếu tự xét thấy chưa đủ tư cách và đạo hạnh để người tin tưởng thì phải biết tự hỗ thẹn khi nhận lãnh hột cơm của người tín đồ đem tới dâng cúng.

- Phép quán thứ ba : Cần phải ngăn chận lòng tham lam quá độ dấy lên.

- Phép quán thứ tư : Tự xem hột cơm đang ăn như là một phương thuốc hay cứu chửa cơn bịnh đói cho cơ thể mà thôi.

- Phép quán thứ năm : Muốn làm việc đạo để đem lại lợi lạc cho nhiều người nên mới thọ nhận cơm nầy.

Như thế, trong bửa ăn của người tăng sĩ rất thanh tịnh trong sự nhiếp tâm cầu nguyện. Người hiến cúng đặt trọn tin tưởng vào để cầu phước, kẻ nhận của cúng không cảm thấy hỗ thẹn khi thọ lãnh của tín đồ một cách phí phạm.

(Nguyên văn của 5 phép quán tưởng ấy như sau : Nhất kế công đa thiểu, lượng bỉ lai xứ, nhị thốn kỷ đức hạnh, toàn khuyết ứng cúng, tam phòng tâm ly quá, tham đẳng vi tôn, tứ chánh sự lương dược, vị liệu hình khô, ngũ vị thành đạo nghiệp ưng thọ thử thực)

Vì làm việc đạo mà thọ nhận của người cúng, giới tăng sĩ xuất gia có bổn phận ban bố pháp cho mọi người để biết mà tu, như vậy, cả hai bên mới được lợi ích, thiết thực.

29.- Tam Tụ Tịnh Giới Hình Tướng Ra Sao ? (^)

Trong bộ đại tạng luật có nói về tam-tụ-tịnh-giới. Ngoài ra, trong các bộ luật của Tiểu-thừa không thấy nói tới phần nầy. Vậy tam-tụ-tịnh-giới là gì ?

Tam-tụ-tịnh-giới là sự kết hợp giữa ba phần giới luật căn bản để xây dựng xã hội. Hình tướng của ba phần giới luật căn bản nầy gồm :

- Nhiếp luật nghi giới.

- Nhiếp thiện pháp giới

- Nhiêu ích chúng sanh giới (hữu tình)

Thường thường vị tăng sĩ khi thọ giới Tỳ-kheo là thọ luôn giới Bồ-Tát để việc cứu độ chúng sanh được tự tại, không bị bất cứ một cản trở nào làm lui sụt ý chí muốn làm việc lợi ích cả. Do đó, phần giới luật của Bồ-Tát có 2 phần là Tỳ-kheo giới và Bồ-Tát giới, và bao hàm ở khía cạnh :

- Nghiêm chỉnh giữ gìn các giới đã thọ

- Làm việc thiện lợi ích khắp cho mọi người

- Phụng sự cho mọi loài hữu tình và coi tất cả như là anh em trong tình đồng đạo.

Cả ba phần trên đều bổ túc cho nhau để người thực hành có thể hoàn thành được sứ mạng tự cứu lấy mình và cảm hóa được người chung quanh tìm về với đạo giải thoát. Nói về giới luật có rất nhiều, nhưng chỉ đề cập tới 3 phần cơ bản của giới Tỳ-kheo Bồ- Tát, vì đây là phần giới luật qui định rõ phạm vi tu tập của người xuất gia.

Nhờ y cứ vào ba phần giới đây mà thầy Tỳ-kheo rộng đường ra tay cứu giúp tất cả mọi chúng sanh dù ở bất cứ nơi đâu, để hoàn thành sứ mạng độ sanh cao cả của người đệ tử xuất gia.

30.- Bố Tát Giới Và Bồ Tát Có Khác Nhau Không ? (^)

Trong Phật giáo có nhiều danh từ cần phân biệt để khỏi có sự lẫn lộn với nhau. Danh từ Bồ-Tát-Giới và Bồ-Tát hoàn toàn khác nhau.

Bồ-Tát-Giới là giới luật cho người phát tâm Đại-thừa gồm có 10 giới trọng và 48 giới khinh (nhẹ), có thể áp dụng chung cho cả người xuất gia và Phật tử tại gia. Kinh Phạm-Võng của Đại-thừa, phẩm Bồ-Tát Tâm Địa Giới có nói rõ về phần giới tướng nầy.

Giới Bồ-Tát khai mở phương tiện độ đời, giúp đỡ chúng sanh rất rộng rãi về nhiều phương diện. Phật giáo quan niệm rằng nếu thuyết phục được một vị lãnh đạo quốc gia thọ Bồ-Tát-Giới là một công đức vô lượng. Vì mọi chữ ký và sắc lệnh của nhà vua ban hành rất quan trọng đối với quốc dân như việc ân xá các tội phạm, việc giảm miễn sưu thuế cho dân chúng đều là những công việc có tính cách từ bi cao thượng cũng như giọt nước cam lồ với nhành dương liệu của Bồ-Tát Quán-Thế-Âm rưới tắt mọi hận thù, si mê cho tất cả mọi người. Do đó, vào ngày mồng một và rằm mỗi tháng tại các ngôi chùa lớn có nghi thức lễ thù ân chúc tán, xưng tán và cầu nguyện cho vị Bồ-Tát nhân vương có đủ sáng suốt, cũng như lòng quảng đại để trị dân hầu đem lại thái bình cho trăm họ.

Còn Bồ-Tát là quả vị thứ 3 trong 4 bậc Thánh là Thanh-văn, Duyên- giác, Bồ-Tát và Phật.

Sách Tam Tổ Thực Lục còn ghi rõ vào năm 1304 vua Anh-Tông mời chư Tăng vào cung để cho các quan thọ giới và chính vua cũng đã phát tâm thọ Bồ-Tát-Giới.

Chỉ có hạnh Bồ-Tát hay giới Bồ-Tát thì người Phật tử mới rộng phương tiện cứu giúp tất cả mọi loài theo như tinh thần từ bi của Phật giáo.

31.- 250 Giới Của Tỳ Kheo Hay Cụ Túc Giới Là Gì ? (^)

Cụ-túc-giới (điều cấm đầy đủ) là giới luật của thầy Tỳ-kheo gồm có 250 điều để ngăn ngừa những lỗi lầm do hành vi, động tác, lời nói, cách đi, đứng, nằm, ngồi (4 oai nghi) gây ra. Trong 250 giới cụ túc chia ra 8 phần :

1.- Đức hạnh không trong sạch gồm có 4 pháp ba-la-di có nghĩa là tội nặng như sâu bọ đục khoét cây cối không còn phương pháp cứu chửa được nữa.

2.- Việc tiếp xúc giữa nam nữ trong 13 pháp tăng-tàng, nếu phạm một trong số 13 giới đây còn có cách dự cứu được, nhưng phải nhờ y cứ trong pháp tăng già mà làm phép xả tội nên gọi là tăng-tàng.

3.- Lòng dục dấy động thuộc về 2 pháp bất-định, vì tội không có hình tướng nên gọi là bất-định.

4.- Chứa của cải sanh tâm tham đắm có 30 pháp xả-đọa. Nếu thầy Tỳ- kheo mắc vào tội nầy cần phải đem xả cho người khác và tội đọa phải đối trước chúng tăng mà tỏ bày sám hối.

5.- Về tư cách bê bối gồm 90 pháp ba-la-dật-đề như nói dối, chê bai, nói lưỡi đòn xóc nhọn hai đầy và hành vi lem luốt có thể do đó bị đọa lạc trong đường dữ do từ cửa miệng độc địa mà ra.

6.- Ăn năn lỗi trước đã phạm có 4 pháp hối quá. Người phạm tội tới trước chúng Tăng tỏ bày sửa đổi về việc thọ nhận ăn uống đã làm tăng lòng tham lam không đúng cách để mất lòng tin của tín đồ.

7.- Các oai nghi trong các sinh hoạt hằng ngày trong 100 pháp chúng học, tức là 100 điều cần phải học hỏi gồm có 10 việc như : Đắp y, vào làng, đứng ngồi, ăn uống, giữ gìn bình bát, đại tiểu tiện, thuyết pháp, xây tháp đắp tường, đi đường, trèo cây.

8.- Việc rầy rà tranh cải qua 7 pháp diệt-tránh (cần phải trừ diệt). Đó là lời nói rầy rà, tìm lỗi rầy rà, phạm tội rầy rà và việc không gọn gàng.

Tội gồm có thô và tế, ta có thể chia ra làm 2 : Các điều thuộc phần 1, 2, 3 về tội thô nên là trọng tội. Các điều còn lại thuộc tế tội chỉ các oai nghi chửng chạc của thầy Tỳ-kheo trong phần khinh tội.

Trong 250 giới Tỳ-kheo cũng có những giới cấm không cần thiết và không hợp thời nữa, nhưng vẫn còn duy trì, cũng chỉ vì trọng tôn ý của các bậc khai sáng chế ra giới cấm chăng ?

32.- Giới Cụ Túc Của Tỳ Kheo Tăng Gồm 250 Điều Khoản Có Thể Tóm Tắt Như Lược Đồ Dưới Đây : (^)

1.- 4 pháp ba-la-di : Thầy Tỳ-kheo đức hạnh không trong sạch.

2.- 13 pháp tăng-tàng : Việc tiếp xúc, đụng chạm giữa nam nữ.

3.- 2 pháp bất-định : Móng tâm và làm việc dâm dục.

4.- 30 pháp xả-đọa : Của cải chứa quá nhiều sanh tâm tham đắm và nhiễm trước vật chất, không chuyên tâm vào việc tu tập.

5.- 90 pháp ba-dật-đề : Nói dối, chê bai, nói lưỡi đòn xóc nhọn 2 đầu và tư cách bê tha, giải đải không hợp với hạnh người xuất gia.

6.- 4 pháp hối-quá : Việc thọ nhận ăn uống từ người cúng không đúng cách làm tăng trưởng lòng tham để mất lòng tín kính của người tín chủ.

7.- 100 pháp chúng-học : Tư cách của người tăng sĩ qua công việc sinh hoạt hằng ngày nằm trong 4 oai nghi như đi, đứng, nằm, ngồi phải cho đàng hoàng chững chạc.

8.- 7 pháp diệt-tránh : Trừ diệt những điều phiền toái rầy rà vô ích để chuyên tâm tu tập.

Trên đây là 250 giới, nếu thầy Tỳ-kheo biết ứng dụng những điều răn cấm vào đời sống tu tập hàng ngày sẽ tạo được cho mình một khuôn mậu đúng và đem lại cho người điều lợi lành không nhỏ vậy.

33.- Sám Hối Ăn Năn, Hối Quá, Phục Thiện Khác Hay Giống Nhau ? (^)

Sám hối tiếng Phạn gọi là Samma, có nghĩa là tự mình thú tội và hứa sửa đổi những lỗi lầm đã phạm, không còn tái phạm nữa.

Việc sám hối có nhiều hình thức như tự mình đối trước tượng Phật và phát nguyện chừa bỏ điều quấy đã lỡ phạm phải hoặc ở trước mặt chư tăng tự nêu lỗi lầm ra để nhờ có sự chứng minh nầy mà xin sửa đổi điều sai trái, xấu ác. Chữ sám hối có rất nhiều nghĩa như kinh sám, tức là kinh dùng để tụng trong việc sám hối như Hồng-Danh Bảo-Sám. Bái sám là lễ lạy để xin chừa sữa lỗi lầm, sám pháp tức cách thức sám hối.

Sám hối còn ở sự thành tâm mới trừ diệt được tội lỗi. Ngoài ra, chúng ta còn phải phát nguyện chừa bỏ những thói hư tật xấu đã bám sâu vào trong tâm thức lâu ngày.

Ăn năn nghĩa là biết cải đổi học hỏi để tiến bộ, nhưng trong ý nghĩa nầy có thể là những lỗi nhỏ đã phạm và mong được người khác tha thứ.

Hối quá là lấy làm tiếc một việc không đáng xẩy ra mà đã lỡ phạm như do lời nói vụng về khiến kẻ khác giận, làm hư hỏng đồ đạc của kẻ khác, sau đó ta tự cảm thấy lương tâm cắn rứt khó chịu nên muốn được người bỏ qua.

Còn phục thiện là làm lại việc lành hay điều hay đẹp mà ta đã lỡ cơ hội đánh mất nó, để chuộc lại và bù vào chỗ thiếu trống trước kia vì lỡ vô ý thức gây ra.

Những danh từ sám hối, ăn năn, phục thiện về hình tướng cũng như tội trạng không giống nhau. Chữ sám hối có một nghĩa bao hàm sâu xa các tội lỗi trong quá khứ, hiện tại, có phương hại tới đời sống nội tâm rất lớn lao nên phải gấp rút chừa bỏ. Trong khi đó, chữ ăn-năn và hối-quá ở trong phạm vi thu hẹp, hàm cái nghĩa việc phạm vào những lỗi nhỏ, có thể sửa đổi được. Phục thiện được xem như một việc lỗi nhẹ thôi, không có tính cách liên tục kéo dài, khi nào ta nảy ra được ý định biết được việc làm quấy, tội ấy liền tiêu diệt.

Từ thấp đến cao, từ việc nhỏ đến việc lớn mà danh từ có khác nhau, nhưng tất cả đều có nghĩa là sửa đổi điều sai trái để cầu tiến bộ vậy.

34.- Hồi Tâm Là Gì ? Danh Từ Nầy Được Dùng Trong Phạm Vi Nào ? (^)

Hồi tâm (conversion) là nghĩ lại và nhận chân ra được những sự việc đã diễn ra nơi ý thức ta, thuộc về phạm vi tinh thần trong tôn giáo.

Danh từ hồi tâm không giống với động từ "to remember", vì nó có một phạm vi rộng hơn nhiều trong khía cạnh tâm thức của đạo giáo. Có mấy danh từ ta cũng cần phân biệt giữa : hồi tưởng, quán tưởng, suy tư với hồi tâm. Hồi tưởng là tiếng thường dùng để nhớ lại những sự việc đã qua, hồi tưởng lại thời thơ ấu, hồi tưởng cuộc chiến tranh Việt Pháp .. Trong khi đó quán tưởng và suy tư (meditation) có một ý nghĩa sâu sắc hơn thuộc lãnh vực đạo giáo trong lúc ta tập trung tư tưởng để thiền định vậy. Nói một cách khác, khi nào chúng ta dùng thì giờ để chú tâm vào một vấn đề gì đều được gọi là suy nghĩ mà không thể gọi được là meditation có tính cách quán tưởng nầy. Chữ hồi tâm còn có nghĩa là cải đổi nhân cách và hoàn toàn theo một lối sống mới tiến bộ hơn để được thích hợp với mỗi giai đoạn trong cuộc đời. Vì thế, hồi tâm có thể ở bất cứ nơi đâu và lúc nào cũng làm được cốt để hoàn thiện nhân cách của mình đối với tôn giáo đang theo. Do đó, danh từ hồi tâm không những chỉ đúng trong phạm vi Phật giáo mà còn có tính cách phổ thông chung cho các tôn giáo khác để chỉ trạng thái vắng lặng của tâm thức, khi ta nghĩ tới những việc làm vừa qua. Tuy nhiên, ở đây không như phản tỉnh, vì chỉ thấy xấu hỗ lương tâm rồi thôi ; trong khi đó, hồi tâm ngoài việc nghĩ tới điều lầm lẫn trong quá khứ ra, còn phải cố gắng tích cực nhiều hơn nữa để làm đẹp cho cuộc sống, nhất là cuộc sống về nội tâm cho được phong phú và sáng suốt hơn.

Tóm lại, ngoài phạm vi tôn giáo ra, chúng ta ít thấy danh từ "hồi tâm" được xử dụng, vì có chăng cũng chỉ là phản tỉnh, ăn năn và tạ lỗi ... mà thôi.

35.- Vu Lan Với Giá Trị Lịch Sử Của Nó Và Cách Thực Hành Ra Sao ? (^)

Vu-Lan nói cho đủ là Vu-Lan-Bồn. Người Trung-Hoa dịch là Cứu-Đảo- Huyền, tức có ý nói cứu thoát tội lỗi bị treo ngược đối với người đã chết.

Lễ Vu-Lan trong Phật giáo gắn liền với rằm tháng 7 hay rằm trung ngươn hoặc còn gọi là ngày Xá tội vong nhân vào giữa tháng 7 Âm lịch của mỗi năm.

Khi đức Phật Thích-Ca còn tại thế, ngài Mục-Kiền-Liên tôn giả có mẹ là bà Thanh-Đề chết và bị đọa vào loài quỷ đói đã phải chịu nhiều cực hình rất khổ sở, đau đớn. Biết được nghiệp báo của mẹ phải đền trả, ngài Mục-Kiền-Liên bèn vận dụng thần thông đến đó để cứu nguy mẹ, nhưng chỉ có một mình Ngài nên đành bất lực. Tôn giả bèn trở lại bạch Phật để tìm phương pháp cứu thoát mẹ ra khỏi chốn u đồ. Phật dạy rằng sức của một người không thể nào cứu nổi, dù có vận dụng sức thần thông cũng khó mà làm được việc trọng đại kia. Do đó, cần phải nhờ vào sức chú nguyện của chư Tăng thì may ra những oan hồn bị đọa mới có thể thoát kiếp khổ được. Sau đó Phật chỉ dạy phương pháp thực hành bằng cách vào ngày rằm tháng 7 mỗi năm, người con hiếu thảo muốn đến đáp phần nào công ơn cha mẹ hiện tại và bảy đời quá khứ, nên thành tâm sắm đủ những thức ăn ngon lạ, thơm sạch, các thứ trái cây đủ năm màu đựng trong bình bát có sự chú nguyện của chư tăng để nhờ oai đức của các vị thiền đức mà các tội đồ được siêu sanh vào cảnh giới an vui.

Nhờ thực hiện đúng như lời Phật dạy, ngài Mục-Kiền-Liên đã cứu được mẹ ra khỏi cảnh đói khát trong kiếp ngạ quỉ.

Ngày nay những ai muốn đền ơn cha mẹ đã hy sinh cho ta mà chưa có dịp báo đáp thì nên thực hành lễ Vu-Lan vào rằm tháng 7 theo như lời đức Phật đã chỉ dạy để cầu nguyện cho cha mẹ hiện tiền được tăng phước tăng thọ, cha mẹ bảy đời siêu sanh Tịnh-độ là một phương pháp báo hiếu hữu hiệu nhứt.

36 Bỉ Ngạn Là Gì ? Đáo Bỉ Ngạn Là Đi Tới Đâu ? (^)

Bỉ ngạn là bờ bên kia. Con người trần thế sống trong cõi đời nầy bị dòng sanh tử chi phối nên phải chìm đắm trôi lăn trong 3 nẻo (tức 3 cõi : Dục, sắc và cõi vô sắc), 6 đường (địa-ngục, ngạ-quỉ, súc-sanh, thiên, nhơn, A-tu-la) như đang chơi vơi bên bờ vực thẳm và chờ con thuyền giải thoát đưa qua bên kia bờ an lạc.

Đáo bỉ ngạn là đến bờ bên kia, tức là bờ bến an vui giải thoát, không còn bị các dục vọng, phiền não chi phối nữa. Nhờ sự tu hành mà chúng sanh gạn lọc được những điều bất thiện như tham, sân, si và khi đạt đến một trình độ cao thì những mê chấp đều xa lìa, tâm được thanh tịnh an ổn. Đó là sự giải thoát, tức là đã đến được bờ giác ngộ.

Lễ Bỉ-ngạn người Nhật gọi là O HIGAN vào tháng 3 của mỗi năm và kéo dài trong một tuần lễ từ 13 đến 20. Vào dịp nầy, người tín đồ Phật giáo đến cúng viếng mồ mã tổ tiên ở ngay trong phạm vi của chùa. Thường thường con cháu thuê chùa viết các bài vị bằng cây thông mỏng nhẹ và dài độ 2m gọi là tô-ba (tháp bà) để cắm lên ngôi mộ người quá vảng gọi là tưởng niệm báo ân.

Lễ nầy không rõ có phải người Việt-Nam chọn vào dịp lễ Thanh-Minh trong tháng 3 chăng ? Theo thiển nghĩ, tiết Thanh-Minh để cho con cháu đi tảo mộ ông bà, cũng như cúng bái tưởng niệm người chết, cũng là một hình thức đượm tính chất Phật giáo. Trong truyện Kiều, Nguyễn-Du có tả tiết Thanh-Minh như sau :

Thanh-Minh trong tiết tháng ba,

Lễ là tảo mộ, hội là đạp thanh.

Gần xa nô nức yến oanh,

Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân.

Dập dìu tài tử giai nhân,

Ngựa xe như nước áo quần như nem.

Ngổn ngang gò đống kéo lên,

Thoi vàng gió rắc, tro tiền giấy bay ...

Lễ Bỉ-ngạn ở Việt-Nam chưa được phổ thông, vì chỉ có một số ít người biết tới. Trong Phật giáo những ngày lễ đã trở thành tục lệ trong dân gian như lễ Bỉ-ngạn cần phải được phổ cập sâu rộng để duy trì được nếp cũ, vì đó là nét đẹp thuần túy của Đông-phương, nên người Phật tử không thể lơ là.

37.- Tam-Bảo Là Gì ? (^)

Người Phật tử khi quy y được thầy giảng giải kỹ cho biết Tam-Bảo là gì rồi, để cho dễ nhớ ở đây tôi xin nhắc lại danh từ nầy.

Tam-Bảo là 3 ngôi báu mà chúng ta không thể nào tìm ra được trong đời sống vật chất, song chỉ có thể tìm thấy được trong phạm vi của Phật giáo. Ba ngôi báu ấy là Phật, Pháp, Tăng. Phật Pháp Tăng sao gọi là Tam-Bảo ? Vì Phật rất khó gặp, Pháp khó tìm, Tăng khó hành, và cả ba đều hiếm thấy trong đời sống chúng ta nên gọi là "bảo" vậy. Bảo có nghĩ là của báu hay vật quý giá khó tìm. Nơi nào có chùa thờ Phật, kinh điển được lưu truyền, tức là giáo pháp của Phật được lưu hành rộng rãi và đoàn thể tăng già an trú để tu học được gọi là Tam-Bảo. Người tăng sĩ đại diện cho chư Phật và các vị tổ sư để truyền bá giáo pháp của đức Phật cũng như hướng dẫn tín đồ tu học. Người Phật tử tại gia đặt trọn tinh tưởng vào các thầy lãnh đạo tinh thần, nhất là khi đã quy y với thầy ấy và quyết chí tu học để lánh dữ làm lành. Người Phật tử đã quy y là bắt đầu bước sang một giai đoạn mới trong đời sống tinh thần. Nó đánh dấu một thời điểm tinh thần rất quan trọng khó quên trong việc tu học ngay khi đã chánh thức quy y Tam-Bảo. Từ đây trở đi người tín đồ mới đủ tư cách nhận mình là một Phật tử chân chánh. Ngoài ra, chư tăng thay Phật để duy trì chánh pháp phải là những người hành trì giới luật nghiêm chỉnh và có tác phong đạo đức đàng hoàng để xứng đáng là nhà lãnh đạo tinh thần cho tín đồ Phật tử. Trong đời sống phức tạp và đa diện ngày nay, một số trường hợp người tu hành lợi dụng danh nghĩa tăng sĩ để lừa dối lòng tinh tưởng của người Phật giáo đồ, chúng ta nên mạnh dạn ly khai khỏi họ và tố cáo ra trước công luận những hạng người sâu dân mọt nước ấy, cũng như phải tìm cách khai trừ họ ra khỏi hàng ngũ tăng sĩ.

Tam-Bảo hàm ý nghĩa quý báu, trong sạch mầu nhiệm làm điểm tựa cho hàng tín đồ tin theo, nếu chư Tăng thiếu giới đức thanh tịnh trang nghiêm thì không xứng đáng ở trong 3 ngôi báu vậy.

38.- Giới Như Con Thuyền Có Lái Là Thế Nào ? (^)

Từ việc nhỏ cho tới việc lớn chúng ta muốn thành công cần phải có sự ràng buộc hoặc sự giới hạn nào đó từ những điều lệ, bản nội quy, hiến chương v.v... là thước đo của những người ở trong việc điều hành một tổ chức.

Trong kinh Phạm-Võng Bồ-Tát-Giới nói rằng giới là chiếc bè nổi đưa người vượt qua biển khổ. Biển khổ tức là dòng sanh tử luân hồi mà chúng sanh đang vướng mắc ở trong đó. Người tu theo Phật giáo mhờ biết được những giới cấm Phật dạy mà được thoát ra ba cõi, cũng như con thuyền có lái, con ngựa có dây cương ; giới cũng có công năng ràng buộc chặc chẽ như vậy. Một nhà tu không giữ giới thì còn gì để gọi được là có giá trị đạo đức ! Nói một cách khác, giới có công năng hướng dẫn chúng ta đúng theo đường ngay lẽ chánh để tu tập. Người nào biết áp dụng giới luật đúng mức ở trong bất cứ một tổ chức nào sẽ tạo cho mình có một phẩm cách đúng đắn đàng hoàng và cũng làm cho tổ chức phát triển và uy tín. Như vậy, người học Phật, việc giữ gìn giới luật lại càng quan trọng hơn. Giới có nhiều cấp bậc khác nhau từ thấp đến cao. Tùy theo phạm vi lãnh thọ của các chúng đệ tử Phật khác nhau mà có phân ra 5 giới, 10 giới, 48 giới, 250 giới v.v...

Có người lý luận cho rằng tôi có đi tu đâu mà phải giữ giới cho mất tự do ?

Điều lý luận như trên có phần không được chính xác, vì giữ giới là do chính ta phát nguyện lúc quy y Tam-Bảo và thọ các giới cấm, chứ không có ai bắt buộc, nhưng chỉ có lương tâm của chúng ta mới là quan tòa phán đoán đúng nhất.

Ta tự khép mình vào trong khuôn khổ của bất cứ một hình thức sinh hoạt nào cũng có nghĩa là ta biết tuân theo giới luật vậy.

39.- Nhàn Cư Vi Bất Thiện Là Gì ? (^)

Câu tục ngữ của Việt-Nam mà những người thường đọc sách nhiều hay áp dụng là "nhàn cư vi bất thiện ..." Như vậy đứng về mặt giới luật mà nói câu ấy có tác dụng ra sao ?

Nhàn cư vi bất thiện có nghĩa là người không có công việc gì làm hay ưa nghĩ bậy để giết chết thì giờ. Nếu chúng ta dùng thì giờ thừa vào việc giải trí lành mạnh cũng tạm chấp nhận được, nhưng phần nhiều những người không làm gì cả suốt quanh năm dễ đâm ra chán nản, bực bội. Có khi họ ngồi nghĩ ra kế hoạch, mưu mẹo tính toán làm mưa hại kẻ khác. Đó là chưa nói tới một số trường hợp, vì nhàn nhã mà người ta chuyên la cà nơi các quán rượu và tối ngày cứ say sưa đánh chén. Lúc về nhà họ đánh đập vợ con, gây gổ cải vả với hàng xóm làm xáo trộn sự yên tỉnh của người láng giềng. Trong số 100 người nhàn hạ, có tới 90 người làm việc bất chánh rồi. Người nào có công việc làm cũng bị bó buộc bởi một số điều kiện, luật lệ qui định sẵn, như mỗi ngày phải đến sở đúng giờ, phải làm việc chuyên cần, làm việc cho tới nơi tới chốn không bỏ dỡ dang ... đều là những quy ước tối thiểu của người tác viên cộng sự.

Ở đời những ai còn khả năng làm việc mà không chịu lăn xã hy sinh lại chỉ lo trốn lánh việc nặng tìm việc nhẹ hay muốn hưởng nhàn đều là những phần tử bị xã hội ruồng bỏ lên án gắt gao.

Những người ở không bất hợp pháp là con sâu đục mòn xã hội, cũng như những người tu hành không biết giữ giới đều là những kẻ đáng được đề phòng hơn cả.

40.- Bồ Tát Sợ Gây Nhân Chúng Sanh Sợ Quả Báo Là Thế Nào ? (^)

Chúng sanh là những kẻ còn phàm phu, tâm trí luôn luôn quay cuồng trong lạc thú ở đời, còn Bồ-Tát là những bậc tu hành đã giác ngộ nên sáng suốt, có thể biết được tâm niệm của kẻ khác.

Bồ-Tát biết nhìn sâu rộng hơn trong nhiều lãnh vực, nhất là con đường sanh tử, nên không tạo ra cuộc đời xấu ác trong vòng lục đạo (thiên, nhân, A-tu-la, địa-ngục, ngạ-quỉ và súc-sanh). Do đó, các Ngài không bao giờ tái sanh làm người trở lại, trừ phi do một nguyện lực, các vị Bồ-Tát có thể trở lại nhân gian, nhưng mẫu người mà họ muốn phải có một cái quyền tối thiểu nói cho mọi người nghe và tin tưởng. Trong khi đó chúng sanh vốn biết mang thân xác hiện tại là khổ mà vẫn tạo sự ân ái dục tình, thì không biết đến kiếp nào mới dứt được quả báo khổ đau!

Hai trạng thái trái ngược nầy cốt để khuyên răn người đời như là một điều giới cấm, không nên làm việc gì thái quá. Một ví dụ khác cho dễ hiểu hơn, tên trộm vốn biết thân phận của mình sẽ ra sao lở khi chủ nhân bắt được, nhưng vẫn cứ thèm thuồng món đồ phi nghĩa ! Một khi cái nhân chính là lòng tham lam không chừa mà chỉ lo sợ rằng mình sẽ vào tù là điều khó mong thoát được. Cũng như trong những cuộc chiến tranh đều là mầm mống của diệt chủng, thế nhưng các nước ôm mộng bá chủ hoàn cầu vẫn hăm he muốn chiếm đoạt các nước nhỏ láng giềng là điều không thể tránh gây ra đại họa cho mọi người.

Biết ngăn ngừa để chận đứng những hành vi bất thiện trong mỗi người là chúng ta đã tạo được một hạt nhân tốt rồi.

KIẾN THỨC

CĂN BẢN PHẬT GIÁO

TT.Thích Bảo Lạc

--- o0o ---

CHƯƠNG 4

SINH HOẠT

1.- Cầu An Có Phải Là Một Hình Thức Mê Tín ? (^)

Sống trong đời không một ai trong chúng ta tự thỏa mãn cả, từ người giàu có cho đến kẻ nghèo khó đều mang tâm trạng hồi hợp lo sợ, bất an.

Ngoài phạm vi hiểu biết của con người, nhưng chúng ta tin tưởng vào tha lực tức sự huyền bí nào đó và như vậy, khi gặp sự đau khổ, nguy nan ... mọi người đem lòng cầu cho tai qua nạn khỏi. Việc làm nầy phải chăng là một hình thức mê tín, dị đoan ? Cầu an theo một nghĩa bi quan tức là phó mặc mọi việc rủi may cho các đấng linh thiêng định đoạt, với người mang tâm địa như thế, việc cầu an hoàn toàn nằm trong khía cạnh mê tín, vì trông mong vào sự cứu rỗi hoàn toàn, trong khi đó vẫn làm việc bất chánh một cách mù quáng. Nếu chúng ta cầu an cho người đi xa đi đến nơi về đến chốn trong sự yên ổn, và cầu cho người bịnh chóng được lành, cầu cho cảnh gia đình sum họp, đoàn viên ... Tại chùa, chúng ta cầu cho dân tộc thái bình, nhân dân an cư lạc nghiệp ... đều là điều mong ước có hàm ý tích cực như lời trông mong và hiệp lực đẩy mạnh cho lời nguyện của ta thành sự thật. Cũng cần nói thêm trong việc cầu an, có người nghĩ rằng cầu cho mau giàu có, cầu để thắng kẻ thù ... những cách cầu an như thế chứng tỏ ra người cầu đã mang một tâm trạng bất an rồi. Cầu an ngoài việc tin tưởng vào tha lực ra, chúng ta cần phải nổ lực nhiều hơn mới mong hoàn thành được lời mong ước.

Một người Phật tử khi đã hiểu được lý nhân quả rồi thì việc cầu an mới thật lợi ích và đúng nghĩa.

2.- Ý Nghĩa Của Việc Cầu Siêu Trong Phật Giáo Ra Sao ? (^)

Cầu siêu là do sự góp lời cầu nguyện của nhiều người để mhờ đó linh hồn của người chết được siêu thoát và sanh vào một cảnh giới lành.

Cầu siêu có nghĩa là mong cho vượt lên và thoát khỏi. Vượt ở đây là lên được một nơi cao hơn, vì Phật giáo quan niệm có 6 cõi khác nhau để con người đi đầu thai. Đó là : Thiên, Nhân, A-tu-la, địa-ngục, ngạ-quỉ (quỉ đói), súc-sanh. Việc cầu siêu tốt nhất là vào lúc người chết sắp tắt hơi thở, vì giữa thân xác và thần thức lúc đó sắp tách rời nhau, nếu mọi người đọc kinh nhắc cho người ấy biết con đường thiện nên theo, thần thức theo đó mà thoát kiếp đi đầu thai trong kiếp khác dễ dàng. Thần thức chưa đi đầu thai ngay, do đó chúng ta hay tổ chức cúng tuần 7 ngày, 14 ngày, 21 ngày, 35 ngày, 49 ngày, và 100 ngày để mong cho người qua đời được nhẹ nghiệp đi đầu thai. Ngoài ra, tại các chùa còn có tổ chức lễ cầu siêu tập thể vào ngày rằm tháng 7 của mỗi năm trong dịp lễ Vu-Lan hay cũng còn gọi là ngày xá tội vong nhân rất trọng thể.

Mọi việc khóc kể, thương tiếc người vừa mới mất là một cách níu kéo thần thức người ấy trở lại với người thân thật hết sức tai hại, cho nên Phật giáo khuyên người Phật tử khi có người nhà chết không nên khóc than là như vậy. Đây không phải là một việc bất hiếu, bất nghĩa mà là có ảnh hưởng tới động lực tinh thần rất lớn.

Cầu siêu còn là một hình thức trợ lực giữa hai thế giới sống - chết qua một mối dây vô hình, nhưng lại là việc làm thật thiết thực cho người Phật tử lúc lâm chung.

3.- Việc Dâng Sớ Điệp Lúc Cầu Siêu Có Tác Dụng Gì ? (^)

Lá sớ, tờ điệp ghi đầy đủ tên tuổi năm sinh, mất như là lời thưa thỉnh để bạch Phật cầu cho người đã chết được nhẹ nghiệp sớm đi thọ sinh ở kiếp khác.

Tuy nhiên, sớ không phải để cầu siêu thuần túy, đôi khi sớ còn dùng cho việc cầu an nữa. Về hình thức của lá sớ được chia ra làm 7 phần :

1.- Lời bạch Phật, 2.- Địa điểm tổ chức lễ, 3.- Tên, tuổi, năm sinh, năm mất, 4.- Danh hiệu đức Phật A-Di-Đà cầu tiếp độ hương linh vãng sanh về cảnh giới Cực-Lạc, 5.- Lời chí thành cầu nguyện của người cầu xin, 6.- Năm, tháng, ngày làm lễ, 7.- Ấn dấu chứng thực.

Lúc dâng sớ thường là vị sư trụ trì của một ngôi chùa đọc, trong khi đó chủ nhà quỳ ở phía sau và đội bì sớ nhiếp tâm cầu nguyện, chờ cho đến khi nào thầy đọc xong mới hạ bì sớ xuống. Sớ bằng giấy màu vàng, xếp thành 6 mảnh tượng trưng cho lục đạo : Thiên, nhân, A-tu-la, địa-ngục, ngạ-quỉ, súc-sanh, có hàm ý rằng con người không thoát ra được khỏi 6 đường ấy. Còn điệp không đọc trước bàn thờ Phật mà chỉ đọc trước bàn vong. Trên là điệp cũng có ghi rõ tên tuổi của người chết và ngày giờ hẳn hoi. Sớ gồm cả cầu an và cầu siêu, trong khi đó điệp chỉ có trong dịp lễ cầu siêu mà thôi. Điệp thường thì màu trắng. Có người cho rằng việc cầu khẩn như thế là quá đáng, vì nó có tính chất mơ hồ. Thật ra, việc cầu siêu còn tùy thuộc vào quan niệm và ý hướng của người cầu xin, còn bản chất của sớ, điệp vốn không là gì cả để ta phê phán hết.

Người Đông-phương chọn chữ hiếu đứng đầu trong muôn hạnh, cho nên cha mẹ hoặc người thân lúc chết được con cháu tổ chức cầu siêu là một việc cần được duy trì.

4.- Ý Nghĩa Của Việc Phóng Sanh Và Vật Được Thả Là Gì ? (^)

Phóng sanh là giải phóng những con vật bị nhốt và sắp bị đem giết chết để lấy thịt.

Phóng sanh thường được tổ chức vào các dịp lễ vía quan trọng trong năm như ngày Phật-Đản, lễ Vu-Lan, ngày vía đức Quán-Thế-Âm v.v... Những loài vật thường được cứu sống như chim, cá, rùa, ba ba ... Vì loài động vật cũng biết ham sống sợ chết như loài người, không thể vô cớ làm cho chúng mất tự do, mất mạng sống.

Do lòng từ bi thúc đẩy, ta có thể bỏ tiền mua những con vật sắp bị giết oan để thả cho chúng tự do, nhờ đó tạo được phước như thêm tuổi thọ, cũng như gặp nhiều may mắn ở đời. Người ưa phóng sanh thường được thiên thần ủng hộ trong mọi trường hợp. Muốn phóng sanh phải nhờ tăng sĩ chú nguyện cho những con vật được thả mới được nhiều lợi ích hơn là mình tự đem thả. Cũng có nhiều trường hợp việc thả loài động vật không do nghi thức Phật giáo mà diễn ra vào dịp lễ Quốc-Khánh, ngày Cách-Mạng ...

Ý nghĩa của việc giải phóng loài vật cũng giống như việc phóng thích những tội phạm bị giam trong lao ngục lâu ngày và có cơ hội tốt để họm tìm thấy lại được sự tự do. Mặt khác, phóng sanh còn nói lên một khía cạnh tinh thần của lòng từ bi bao la không phân biệt giữa người và vật.

Phóng sanh để làm tăng trưởng lòng thương muôn loài vạn vật, vì tự nghĩ chúng cũng khao khát sống đời tự tại như người.

5.- Nói Qua Ý Nghĩa Của Việc Phóng Đăng Và Sự Lợi Ích ? (^)

Phóng đăng là thả đèn cho trôi trên hồ hoặc trên sông để cầu nguyện cho những người chết oan trên sóng nước được siêu thoát.

Việc thả đèn cần đòi hỏi cơ hội thuận tiện. Những cây đèn được thả trôi trên mặt nước phần nhiều cần bảo đảm nước khỏi lọt vô. Đèn dùng vào việc nầy thường hình hoa sen để khi gặp gió đèn không bị tắt, vì thế thả đèn ban đêm thì rất thích hợp. Đèn thả trước sau thứ tự theo dòng nước chảy, để người xem như có cảm tưởng rằng đó là những con thuyền nhỏ đang chở những linh hồn lạc lõng về bến an lạc.

Vào năm 1979 khoảng hạ tuần tháng 7, tại Geneve, có một hội nghị thượng đỉnh của các nước để giải quyết vấn đề tỵ nạn của người Đông dương. Các đoàn thể tôn giáo các nước Việt - Miên - Lào đã tổ chức một cuộc tuyệt thực suốt trong ba ngày tại ngay cổng chính của trụ sở Liên-Hiệp-Quốc để đưa thỉnh nguyện thư nhờ can thiệp giúp đỡ các đồng bào tỵ nạn. Vào đêm cuối cùng cuộc tuyệt thực có một người đàn bà Nhật tổ chức lễ thả đèn trên hồ "Le Man" để cầu nguyện cho những người vượt biên thiếu may mắn bị chết đắm trong lòng đại dương. Việc làm nầy đã gây được tiếng vang rất lớn và tầm ảnh hưởng quốc tế rất có lợi cho người tỵ nạn.

Xem một cuộc thả đèn trên sông hồ ta thường hay liên tưởng tới những oan hồn đã chết mà còn vất vưởng chưa đi đầu thai được nên phải cần có sự trợ niệm của chúng ta.

6.- Nói Rõ Ý Nghĩa Của Việc Rước Vong, Vong Và Linh Theo Phật Giáo Khác Hay Giống Nhau ? (^)

Theo Phật giáo, người chết được quan niệm như là một sự thay đổi, cũng như kép lớp trong vở tuồng trên sân khấu của trường đời.

Chết không phải là chấm dứt mà chỉ tiếp tục đóng một vai trò khác của kiếp người. Do đó, sau khi tắt thở con người còn lại phần thần thức ; riêng phần thân xác bị tan rã và hoàn nguyên trở về bốn trạng thái cũ là đất, nước, gió, lửa của bốn đại tạo thành cơ thể.

Rước vong là tiếp dẫn bằng lời kinh tiếng kệ để đưa vong của người chết trở lại nhà hay chùa để an trí. Sau khi chôn cất hay thiêu xác người chết xong, thân nhân của người ấy mời chư Tăng trở lại nhà với bài vị và di ảnh để thiết lập bàn thờ qua một nghi thức ngắn gọn. Chữ vong ( ) có nghĩa là quên hay mất như trong nghĩa của chữ vong hồn, linh hồn, oan hồn. Trong khi đó, chữ linh mang tính cách trừu tượng hơn để ám chỉ trường hợp người nào bị chết oan ức như bị ép ngặt, bị tra tấn cho đến chết hay tự tử đều gọi là linh cả. Chữ linh có hoàm ý là linh thiêng. Đối với người chết lớn tuổi gọi là hương linh, còn người chết nhỏ tuổi gọi là vong linh. Chữ vong linh theo nghĩa sau nầy gồm chung lại thành một nghĩa, có ý nói rằng thần thức của kẻ chết oan chưa được toại nguyện, vì còn đang nuối tiếc như vợ con, gia đình, bè bạn, của cải nên phải được cúng cấp để vong hoặc linh khỏi về phá phách con cháu.

Việc thờ cúng do đó, theo Phật giáo rất quan trong để tưởng niệm người chết cũng như lúc còn sống, vì chết chưa phải là đoạn tuyệt mà còn kiếp tái sanh.

7.- Hộ Niệm Là Gì ? Vai Trò Và Tổ Chức ? (^)

Hộ niệm là góp sức, phụ lực cho việc niệm Phật của nhiều người để cầu nguyện cho người thân trong gia đình được nhẹ nhàng đi đầu thai đến một cảnh giới an lành lúc sắp trút hơi thở cuối cùng để lìa đời.

Với ý nghĩa nầy, chúng ta thường thấy trong những gia đình khi có người sắp chết, được mọi người thân thuộc hợp nhau lại để đọc kinh và niệm Phật cho tinh thần người ấy được tỉnh táo, không bị mê muội. Do đó Phật giáo chủ trương người thân không được than khóc mỗi khi có người nhà mất là do ý nghĩ nầy, chứ không phải là điều bất hiếu như có một số người đã nghĩ.

Để trợ lực cho người chết được siêu thoát, trong Phật giáo thường thường ở mỗi chùa đều có lập thành một ban-hộ-niệm. Ban nầy có ý nghĩa như một hội-tương-tế. Ngoài việc tang ma ra, các ban viên còn có thể dự vào các việc hôn lễ và chung vui của nhau để chia xẻ nỗi vui buồn trong đời sống. Việc nầy được quan niệm như là sự liên đới chặc chẽ giữa những cá nhân với nhau trong đại gia đình Phật giáo. Một ban-hộ-niệm được nhiều Phật tử nhiệt tâm tham gia và tổ chức có qui tắc hẳn hoi là điều ưu tư số một của các vị lãnh đạo tinh thần Phật giáo. Nhờ sự trợ sức hộ niệm của nhiều người mà cứu thoát được các vong linh ra khỏi cảnh đọa lạc trầm luân sau khi chết.

Mỗi một ngôi chùa cần có một ban-hộ-niệm và kết nạp cho được ít nhất là 10 người lập thành một tổ chức do vị sư trụ trì hướng dẫn trong việc tụng niệm là điều cần thiết và cấp bách không thể thiếu được.

8.- Hãy Cho Biết Sự Khác Nhau Giữa Tín Chủ Và Tang Chủ ? (^)

Tín chủ là người tin Phật, tin Pháp và chư Tăng, đem vật dụng cúng vào chùa để tạo phước lành trong đời nầy và mai sau.

Người ra của có tạo được phước đức hay không còn tùy thuộc vào thái độ và tâm lý của người ấy nữa. Người Phật tử thường cúng dường chư Tăng như dịp lễ trai-tăng (mời chư Tăng tới dùng cơm chay rồi cúng đồ thường dùng như y phục, xà phòng, thuốc thang, đồ trãi ngồi thiền ...) các dịp lễ lớn trong năm như việc sắm sẵn thức ăn và cung đón chư Tăng về nhà hay tại chùa và lễ Trung-Nguyên, rằm tháng 7 chẳng hạn.

Còn tang chủ là người có thân nhân vừa mới qua đời. Tức là gia đình đang có tang và mọi người đều để tang hay mang tâm trạng buồn rầu.

Tín chủ và tang chủ không hề liên hệ gì cả, mặc dù cả hay đều là tín đồ Phật giáo. Những danh từ Phật giáo phần nhiều đều nằm trong chữ Hán, người ít có dịp tiếp xúc với tiếng cổ rất khó phân biệt nổi. Việc hiểu lầm danh từ hay hiểu lờ mờ cần phải chấm dứt, nếu không, đó là một lỗi rất lớn mà các vị lãnh đạo tinh thần phải chịu trách nhiệm. Vì tăng sĩ phần nhiều đều có học qua kinh điển bằng Hán văn lúc mới nhập môn, không nên để tình trạng nầy kép dài nữa.

Ngày nay, một số các thầy đang có mặt ở ngoại quốc phải chịu trách nhiệm trước lịch sử Phật giáo về việc truyền bá chánh pháp sâu rộng trong đời.

9.- Thiện Nam, Tín Nữ Là Những Thành Phần Nào Trong Phật Giáo ? (^)

Thiện nam, tín nữ là danh từ chỉ cho hai giới Phật tử tại gia, phái nam và phái nữ đã quy y Tam-Bảo và thọ năm giới cấm.

Thiện nam gọi đủ là thiện-nam-tử, là người trai lành gần gũi Phật - Pháp - Tăng để học hỏi giáo lý giải thoát. Người nam được gọi là thiện-nam-tử phải hội đủ hai điều kiện : Đã thọ trì năm giới Phật tử tại gia, tuổi thích hợp và có khả năng gánh vác được công việc của Phật giáo. Thiện nam hay còn gọi là thiện tín, tức người tín đồ tu theo các pháp lành của Phật đã chỉ dạy. Còn người tín nữ hay thiện-nữ-nhơn là nữ giới Phật tử tốt gần gũi đạo Phật và cũng hội đủ các điều kiện như nam giới.

Thiện nam, tín nữ là 2 thành phần Phật tử có khả năng phục vụ đắc lực cho Phật giáo phát triển về mặt chiều rộng, tức là họ chỉ có khả năng vận động quần chúng, đóng góp tích cực vào các công tác từ thiện xã hội như việc xây dựng chùa chiền, đúc chuông, tạo tượng, ấn tống kinh sách v.v... để cầu phước. Còn chư Tăng lo việc phát triển đạo Phật về chiều sâu như giảng dạy giáo lý cho hàng Phật tử, khuyến khích con em Phật tử sinh hoạt trong các đoàn thể hầu giúp chúng tạo một đời sống tinh thần lành mạnh, trẻ trung theo châm ngôn Bi - Trí - Dũng của đạo Phật. Tuy nhiên người Phật tử tại gia cũng có thể có đủ khả năng trong việc phát triển Phật giáo ở chiều sâu nữa.

Ngoài ra, trong mỗi gia đình của người Phật tử, chúng ta nên thu xếp cho gọn gàng, ngoài thì giờ làm việc ra cũng nên để tâm tới việc học Phật và làm công việc tạo phước để khi nhắm mắt lìa đời mới thừa hưởng quả báo lành được. Đạo Phật phát triển mạnh được là nhờ các hàng Phật tử không phân biệt nam hay nữ, tùy theo hoàn cảnh và địa vị của mỗi người mà hiệu quả việc đóng góp nhiều hay ít.

Một người Phật tử đã quy y rồi mà chưa có dịp đóng góp vào ngôi nhà Phật giáo nên cố gắng tinh tấn nhiều hơn nữa để thực hành, vì có công mới mong có quả vậy.

10.- Thế Nào Gọi Là Công Quả ? (^)

Công quả là những người Phật tử tự nguyện làm việc giúp cho chùa không nhận bất cứ một phần thù lao nào cả.

Người hy sinh làm việc phước đức nầy gồm có 2 thành phần : Lực sanh công quả và phước điền phụ nhơn công quả.

Thế nào gọi là lực sanh công quả ? Những người trai trẻ có đủ sức khỏe làm việc năng nhọc như xây tường, làm vườn, cày ruộng ... gọi là lực sanh công quả tức là do sức lực làm nên công việc.

Còn nghĩa thứ hai là gì ? Phần nhiều những người đàn bà lớn tuổi và công việc gia đình đã có người sắp xếp, nên có thì giờ và họ phát tâm muốn vào chùa làm việc như lo cơm nước cho chư Tăng để cầu gieo trồng được phước đức, như kẻ làm ruộng bón phân tốt vào cho được mùa về sau. Trường hợp nầy, có người còn xin ở luôn tại chùa cho đến khi chết và chôn xác luôn tại chùa (nếu là người không con trai thờ cúng).

Ngày nay, chúng ta ít thấy người nào phát tâm làm công quả cho chùa dài hạn, vì đời sống vất vả không đủ điều kiện, thì giờ.

Do ý nghĩa nầy, ta thường nghe nói tới tiếng "chùa" như là một việc miễn phí hoàn toàn như : Cơm chùa, đồ chùa ... đã được dùng quen trong dân chúng.

Việc làm công quả còn tùy theo thói quen của mỗi dân tộc. Ở Nhật không bao giờ có việc làm thí công cho chùa cả, vì chùa lúc nào cũng giàu có hơn người đời.

11.- Muốn Niệm Phật Phải Cần Những Điều Kiện Gì Và Niệm Danh Hiệu Đức Phật Nào ? (^)

Niệm Phật là một phương pháp tu hành dể thực hành nhất cho tất cả mọi người thuộc bất cứ ở hạng tuổi nào cũng có thể làm được.

Người niệm Phật cần phải hội đủ hai điều kiện sau đây :

- Tâm thanh tịnh tức tư tưởng phải an định, không thể dùng tâm tán loạn để niệm Phật được.

- Khoảng thời giờ thích hợp, tức là đòi hỏi giờ giấc phải thuận tiện như vào ban tối, trước khi đi ngủ, buổi sáng trước khi mọi người trong gia đình thức dậy.

Việc niệm Phật có thể xảy ra bất cứ ở đâu và bất cứ nơi nào cũng đều được cả, miễn sao người niệm có chú tâm mới đạt được lợi ích. Cách niệm Phật dễ hơn cả là lần tràng hạt. Cứ mỗi một tiếng niệm Phật lần qua một hạt và cứ như thế tiếp tục mãi trong khoảng nữa tiếng hoặc một giờ do ta phát nguyện. Niệm Phật có hai cách ngồi : bán già (để bàn chân trái lên đùi bên phải) và kiết già (bàn chân trái lên đùi bên phải và bàn chân phải trên đùi bên trái). Chúng ta thường niệm đức Phật A-Di-Đà và đức Quán-Thế-Âm Bồ-Tát. Vì các Ngài phát lời thệ nguyện cứu độ chúng sanh nào niệm đến danh hiệu sẽ hiện ngay tới đó để cứu giúp. Ngài Quán-Thế-Âm thường hiện đủ hình tướng và lăn xã vào xã hội loài người để cứu độ, mỗi khi nghe tiếng kêu cầu là Ngài hiện thân ngay trước người đó để ban vui, cứu khổ, nhờ đó tai qua nạn khỏi.

Danh hiệu đức Phật nào cũng niệm được cả, nhưng do thói quen và theo hạnh nguyện ta kêu cầu đúng thì việc cảm ứng mới có hiệu quả.

12.- Ăn Chay Và Cách Thức Ăn Chay Ra Sao ? (^)

Phật giáo lấy Bi - Trí - Dũng làm phương châm hoạt động, vì lòng từ bi là một yếu tố quan trọng nhất trong các hạnh lành.

Ăn chay là ăn các loại rau cải, hay nói một cách khác những vật nào không có máu huyết, để nuôi dưỡng lòng thương đối với các loài động vật khác. Ăn chay có 2 trường hợp : Ăn chay kỳ và ăn chay trường hay trường trai. Ăn chay kỳ là chỉ ăn chay mỗi tháng đúng kỳ vào 2 ngày rằm và mồng một gọi là nhị trai, 4 ngày như : 14, 15, 30, và mùng 1 gọi là tứ trai, 6 ngày gọi lục trai là : Mùng 1, 8, 14, 15, 23, và 30 ; có khi ăn chay kỳ theo tháng như trọn tháng giêng, tháng 7 và tháng 10, tùy theo tâm thành của người phát nguyện. Còn ăn chay trường là phát tâm ăn chay suốt đời. Có nhiều động cơ khiến phải ăn chay để cầu nguyện cho cha mẹ, thân bằng quyến thuộc an lành do một sự khủng hoảng tinh thần nào đó. Vì thế, việc ăn chay không phải để khoe khoang với mọi người như là niềm hãnh diện rằng mình đã làm được một việc ít có trong đời. Nếu mang lòng tự cao như thế thì việc ăn chay chẳng đem lại được một lợi ích nào cả.

Có nhiều cách biến chế thức ăn chay như xào, chiên, kho, luộc, nướng ... để thức ăn luôn luôn được thay đổi. Đừng nên có quan niệm cho rằng ăn chay là phải kham khổ, chịu đựng. Mỗi bửa ăn chỉ cần muối, dưa, tương, chao đơn sơ là đủ. Điều nầy không thích hợp cho sức khỏe của ta.

Việc ăn chay rất quý, nhưng ta thể hiện được tâm thanh tịnh trong việc ăn uống lại càng cao khiết hơn, vì : "Ăn mặn nói ngay, hơn ăn chay nói dối" là như vậy.

13.- Tràng Hạt Ý Nghĩa Và Hình Thức Ra Sao ? (^)

Tràng hạt khác với chuỗi cườm đeo cổ mà những người giàu có thường dùng để trang sức. Tràng hạt trong Phật giáo dùng để niệm Phật.

Tràng hạt có nhiều tên gọi khác nhau như chuỗi tràng, lần tràng là những hạt rời rạc được xâu lại thành vòng đeo cổ hoặc đeo tay. Trong lúc miệng niệm danh hiệu Phật một lần, tay lần sang một hột và cứ thế tiếp tục mãi cho đến khi nào muốn nghỉ mới thôi. Khi ta phát nguyện niệm Phật vào mỗi đêm là bao nhiêu lần thì phải niệm và lần chuổi cho đủ số, còn như niệm Phật tính theo điểm thời gian như đếm hơi thở thì niệm cho tới khoảng thời gian đã ấn định. Chuỗi tràng có 4 loại :

1.- Chuỗi 12 hột dùng để đeo tay

2.- Chuỗi 18 hột

3.- Chuỗi 54 hột dùng để đeo cổ

4.- chuỗi 108 hột

Về chất lượng, tràng hạt có thể bằng hột bồ-đề, hột huyền, bằng đá mài, gỗ, chất kim khí v.v... Người nào chuyên lần tràng, tự nhiên xâu chuỗi và hạt tràng càng ngày càng thêm bóng láng thấy rõ. Mỗi ngày chúng ta nên cố gắng dành thì giời để lần chuỗi cho được sáng suốt. Niệm danh hiệu đức Phật A-Di-Đà hay đức Quán-Thế-Âm đều được cả. Lúc niệm phải cho thật chú tâm vào việc niệm được chuyên nhất, đừng để những tạp niệm xen vào, tức là những ý nghĩ trong sinh hoạt hằng ngày. Nếu niệm đến chỗ nhất tâm, trí huệ sẽ sáng suốt và lòng nhẹ nhàng an vui.

Việc lần tràng không dành riêng cho một người nào cả, tất cả mọi người Phật tử đều thực hành được cả.

Ở chùa, các nhà sư mới chuyên xử dụng tới chuỗi tràng, thường chuỗi 18 hột là được thông dụng, vì gọn và tiện lợi.

Chúng ta lần tràng mỗi ngày nhiều lần được càng tốt, suốt quanh năm xâu chuỗi luôn luôn ở bên mình là dấu hiệu chứng tỏ người tinh tấn thực hành việc niệm Phật.

14.- Đàn Gia VÀ Đàn Việt Có Nghĩa Là Gì ? (^)

Đàn-gia hay đàn-na hoặc đàn-việt đều chỉ cho người tín đồ của Phật giáo đem đồ vật cúng vào chùa để cầu phước. Như thế giữa danh từ đàn-na, đàn-gia và đàn-việt khác nhau ra sao ?

Cả 3 danh từ đều mở đầu bằng chữ Đàn, có nghĩa là mùi thơm của một thức gỗ trầm rất quý để chỉ cho sự phát tâm thơm sạch mà người đem của cúng muốn cầu được an lạc như là bổn phận. Đàn-gia là nhà người tín đồ Phật giáo, tu tại gia và thường lui tới chùa lễ bái, học hỏi ; còn đàn-na để nói lên sự hòa hợp, dung thứ, thuận theo. Đàn-việt là một cách nói khác hơn cũng để chỉ người Phật tử tu tại gia. Chữ Việt có nghĩa là vượt qua, để chỉ cho người có lòng cao thượng biết ra ơn giúp đỡ cho kẻ khác mà chẳng cần ai biết đến mình, đó là hạnh nguyện của Bồ-Tát trong đời nầy vậy. Ở mỗi ngôi chùa đều có một số đàn gia trung tín giúp đỡ khi cần thiết, gọi là những kẻ hộ trì Phật Pháp. Người cúng dường theo Phật giáo phái Tiểu-thừa là những kẻ hộ vệ chư Tăng trong bốn thứ cúng dường như : Áo quần, đồ ăn thức uống, thuốc thang, đồ trãi ngồi thiền (tọa cụ) để giúp nhà tu thực hiện việc tu được trọn vẹn.

Học hỏi giáo lý, tu hành và làm việc phước là 3 công đức lớn hàng đầu mà hàng Phật tử không thể bỏ qua.

Bổn phận của người Phật tử là hộ đạo mà việc giúp cho chùa được phát triển là công đức không thể nghĩ bàn.

15.- Chuông Có Khác Với Đại Hồng Chung Không Và Có Công Dụng Gì ? (^)

Chuông là vật dùng làm hiệu khi tụng kinh ở chùa hay ở nhà, nhờ tiếng chuông để phân biệt được đoạn mạch, văn kinh.

Khi tụng kinh có phần khai chuông mõ rất dơn giản như nhập chuông - cốc - cốc - cốc - cốc.

Sau đó tiếp tục : cốc - boong - cốc - boong - cốc - boong - cốc - cốc - cốc - cốc - nhập chuông và bắt đầu tụng kinh.

Chuông hay còn gọi là chuông gia trì, vì nhờ tiếng chuông có thể khiến cho người nghe được thanh thoát, nhẹ nhàng và lòng buồn phiền vơi bớt. Tiếng chuông còn dùng cho việc hòa âm theo với lời tụng kinh quyện vào trong không trung như một duyên lành gần gũi với chư Phật. Ngoài ra, chuông còn có công dụng làm chấm dứt ý của mỗi đoạn kinh để báo cho người đọc biết tới đâu phải dứt. Chuông khác xa với đại hồng chung về hình thức và ý nghĩa. Chuông thường nhỏ, hình bầu dục, nhẹ dễ di chuyển, thường để nơi bàn kinh trước điện Phật, trong khi đó Đại-hồng-chung lớn, hình quả bí đao, nặng khó di chuyển, thường để nơi gác chuông trước hiên chùa.

Người đứng điều khiển bên chuông gọi là "duy-na". Duy-na nghĩa là ra hiệu cho việc đọc tụng nên tiếp tục hay ngừng. Tiếng chuông như một hiệu lệnh nên ít gõ có ai để làm trò đùa, chỉ khi nào có lễ bái hay đọc kinh chúng ta mới được nghe tiếng chuông mà thôi.

Chuông phần nhiều đều bằng đồng để có được tiếng vang ấm và thanh.

Chuông gõ lên để hòa với nhịp tụng kinh, đồng thời là âm thanh cầu nguyện cho kẻ còn người mất được lợi ích an vui.

16.- Nhương Sao Giải Hạn Là Một Hình Thức Mê Tín Dị Đoan ? (^)

Trong Phật giáo có nhiều sự tướng mà khi mới nhìn vô ta thấy rườm rà như việc nhương sao giải hạn, đoán xăm, coi tướng v.v...

Do đâu có sự việc hình như quá phức tạp nầy ? Phật giáo khi đi tới đâu dân chúng ở đó tôn sùng và những lúc bị bài xích, người Phật tử vẫn tin tưởng nơi đạo giáo một cách tín thành, chí kính. Để đức tin ấy không bị giảm sút, một số các hình thức pha trộn tạp nhạp giữa các đạo khác như phù thủy, tướng số ... được xen vào trong Phật giáo. Từ đó trở đi mới thành thói quen, nên trong giới chùa chiền nảy sinh ra một hiện tượng mới, là cầu xin cứu rỗi. Điều nầy cũng hết sức dễ hiểu, mỗi khi con người bất lực trước cuộc sống đa diện khó khăn, nhất là cảnh vũ trụ bao la, thiên nhiên hùng vĩ, và những đau ốm bất thường do trái thời đổi tiết gây ra. từ nhận xét đó, chúng ta đi vào sự tướng trong việc cúng cấp của Phật giáo để tìm ra một lối giải thích thỏa đáng, bằng một cái nhìn khách quan, khoa học. Nếu chỉ căn cứ vào lý mà bỏ sự thì các hình thức như cầu an cầu siêu, nhương sao giải hạn, xem quẻ, đoán tướng v.v... trong Phật giáo đều nhuốm mầu mê tín dị đoan, vì thái độ cầu xin là một việc làm lệ thuộc hoàn toàn vào tha lực mà không có phần tự lực. Điều nầy có nghĩa là ở trong đời ta chưa một lần làm được việc phước thiện, thì việc cầu an làm sao cho an được ! Theo quan niệm của Phật giáo, con người hiện hữu hôm nay là do nghiệp lực dẫn dắt, chi phối để kết quả là thọ nhận quả khổ hoặc vui. Tuy nhiên, Phật giáo còn có việc ứng lý, hợp cơ tức là thích hợp chân lý, cũng như trình độ của người tin mà pháp tu có thay đổi. Đối với người căn trí còn thấp kém, cạn cợt có thể nhờ những sự tướng như vừa nêu trên để làm chỗ nương tựa cho đến khi thấu suốt được chân lý giải thoát. Do đó, việc cúng bái, cầu an, nhương sao... không trái với giáo lý của đạo Phật mà còn là một việc làm cần thiết ở buổi đầu đáng khuyến khích, duy trì. Phật giáo không chấp vào sự mà bỏ lý, cũng như tùy thuận theo chúng sanh để đem ánh sáng đạo gần với quần chúng. Ngược lại, chúng ta chỉ chấp lý mà bỏ sự thì đạo Phật phải đi xa rời dần với quần chúng. Nhận xét nầy có được chỉ có người Phật tử chân chánh mới hiểu được lý đạo nhiệm mầu mà thôi. Người duy vật chỉ dựa theo sự tướng trong Phật giáo để đưa ra kết luận cho rằng tôn giáo, trong đó có ám chỉ Phật giáo, là thuốc phiện làm mê hoặc lòng người thì thật là điều nhận xét phiến diện, mơ hồ.

Việc làm của người tín đồ đạo Phật theo mọi hình thức cúng bái có là mê tín, dị đoan hay không đều do thái độ của mỗi cá nhân, còn ý nghĩa và kết quả của hành động mới là điều quan trọng.

17.- An Vị Phật Xảy Ra Lúc Nào ? (^)

Một ngôi chùa mới, niệm Phật đường, thiền thất mới đều có một pho tượng được thỉnh về thờ. Ngay cả người Phật tử tại gia muốn thờ Phật cũng đều phải tổ chức lễ an vị.

An vị Phật có nghĩa là tôn trí đức Phật vào một nơi cố định để ngày ngày chúng ta đến trước đốt nhang đọc kinh kỳ nguyện. Lễ an vị lớn nhỏ tùy theo khả năng của mình. Trong các lễ an vị tốt nhất nên thỉnh được chư Tăng đến chú nguyện, tụng kinh để được thêm công đức lành. Về hình thức lễ an vị gồm có : Sau khi lễ Phật, khai chuông mõ, khai kinh, tới lúc tụng chú đại bi, người chủ lễ (Tăng) cầm một cành hoa và ly nước đi chung quanh tượng Phật vừa đọc chú, vừa rảy nước. Việc làm nầy có nghĩa là tẩy rửa, tiêu trừ mọi phiền não, nghiệp chướng để cầu an lạc cho tất cả mọi người. Người Phật tử tin tưởng rằng, từ khi có tôn tượng đức Phật, như là một biểu tượng gần gũi với các sinh hoạt hằng ngày của chúng ta lúc vui buồn, khi mừng giận, chán nản, khổ tâm ... ta cũng mong đức Phật chứng minh cho với nụ cười hỹ xã, đức tánh từ bi mà tha thứ cho việc làm do vô minh của mình gây ra. Do sự tin ấy, có một số người đi tới chỗ mù quáng như việc thần thánh hóa tượng Phật và kiêng cử những việc vô ích như không cho đàn bà, trẻ con đi qua trước tượng Phật, hoặc dùng vải che khuất mặt bức tượng lại.

Thờ Phật là do lòng thành kính. Người Phật tử tin Phật không đặt ở sự cứu rỗi tuyệt đối thì ý nghĩa của việc làm mới hợp tình hợp lý.

18.- Bình Bát Xử Dụng Vào Việc Gì ? (^)

Bình bát tiếng Phạn là Bát-đa-la, tàu dịch là Ứng-lượng-khí, là cái bát để đựng vừa lượng. Thức ăn của chư Tăng và ngay chính đức Phật Thích-Ca cũng đã dùng bình bát mỗi khi đi khất thực.

Cái bát ăn cơm của nhà sư hình tròn có nắp đậy hẳn hoi, lớn bằng cái tô đựng canh đủ chứa chừng 2 - 3 lon sữa bò gạo. Về phẩm chất, bình bát có thể bằng đất sét nung, bằng gỗ, thau, chì, và có thể bằng đồng. Tuy nhiên, chất đồng thau, nhôm, thiếc dễ nóng khi cho cơm vào thành khó bưng lên tay lâu được, nhất là trước khi ăn cơm chư Tăng phải bưng bát cơm lên ngang tới chân lông mày trước trán để cúng dường. Loại bình bát phổ thông hơn cả là thứ bằng đất sét nung.

Giới tăng sĩ khất thực thường dùng cái bình bát có kích thước lớn hơn để thu nhận đồ cúng nhiều chỗ đều dồn vào đó. Sau khi thức ăn đã đầy bình các vị ấy trở về chùa, chia ra cho các bạn đồng liêu cùng nhau thọ dụng của cúng dường để cầu cho người cúng được phước đức, kẻ nhận vì muốn làm nên được việc đạo.

Bình bát có thể được lưu truyền lại đời đời cho các thế hệ kế tiếp để nối dòng Phật Pháp gọi là truyền y bát. Người đệ tử nào được Bổn-Sư truyền cho y bát thay thầy duy trì tông phái là mang cả sứ mạng lớn lao trong công cuộc truyền pháp độ sanh. Người nhận y bát phải có đủ nhân duyên, đã được thầy tín cẩn mới giao phó cho trọng trách. Tổ Huệ-Năng nhận lãnh y bát từ tổ Hoằng-Nhẫn (tổ thứ 5) để truyền bá phái thiền Lâm-Tế tại Trung-Quốc. Ngài Ca-Diếp mĩm cười khi thấy Phật đưa hoa sen lên giữa đại chúng tại hội Linh-Sơn, do đó được đắc truyền tâm pháp. Y bát hay tâm pháp hẳn cũng chỉ là một, nhưng vì căn cơ và trình độ ngộ đạo có khác, cho nên chúng ta phân biệt như thế cho người căn trí thấp thấu hiểu rõ chỗ rốt ráo của Phật Pháp.

Ngày nay, chư Tăng ít dùng tới bình bát để ăn cơm, chỉ còn một vài nơi giữ được hình thức cổ truyền nầy vào mùa an-cư kiết-hạ. Việc duy trì và bảo vệ cái cổ là điều cần thiết, các vị tăng sĩ trẻ không thể không nghĩ tới điều nầy.

19.- Chuông Trống Bát Nhã Có Công Dụng Gì Trong Chùa ? (^)

Tại mỗi chùa khi cử hành lễ, trước giờ khởi sự và sau khi chấm dứt cuộc lễ đều có thỉnh chuông trống bát nhã.

Chuông trống bát nhã dùng để thỉnh Phật tổ và thỉnh chư Tăng cùng nhau hướng về điện Phật để chứng minh cho buổi lễ sắp diễn ra được thanh tịnh trang nghiêm.

Bài kệ thỉnh chuông trống bát nhã như sau :

Thỉnh Phật thượng đường

Đại chúng đồng văn

Bát nhã âm

Nhập bát nhã ba la mật đa (đọc 3 lần)

Nghĩa là :

Thỉnh chư Phật vào chánh điện,

Xin tất cả quý vị hiện diện lưu ý

Âm vang của chuông trống bát nhã sẽ hòa nhập theo cùng với trí tuệ sáng suốt của chư Phật thành một thể tánh duy nhất.

Thường thường chuông trống bát nhã được cử lên ba hồi lúc bắt đầu cuộc lễ, nhưng khi chấm dứt có thể chỉ thỉnh một hồi và cũng đọc bài kệ như trên. Ngoài việc đón rước và đưa chư Tăng, chư Phật, Hộ Pháp.., việc đánh chuông trống bát nhã còn tượng trưng cho ý nghĩa tinh thần rất lớn là nhân tiếng chuông trống để mọi người có mặt trong giờ sắp hành lễ đều chú tâm vào việc nhiếp tâm cầu nguyện.

Thật vậy, khi nghe tiếng chuông trống bát nhã gióng lên ai nấy trong chánh điện đều đứng dậy chấp tay cầu nguyện, đồng thời tâm hồn người nghe cũng cảm thấy như lắng lặng thanh thoát. Về lịch sử, chuông trống bát nhã không do ai bày ra, nhưng Phật giáo các nước thuộc vùng Đông-Nam-Á châu đều xử dụng trống cùng một mục đích và với một ý nghĩa về tinh thần rất lớn lao vậy.

Muốn cho cuộc lễ được tươn tất và thành kính, chuông trống bát nhã không thể thiếu được lúc bắt đầu và khi chấm dứt lễ.

20.- Mõ Hình Thức Và Ý Nghĩa Như Thế Nào ? (^)

Mõ là Phật cụ dùng trong việc tụng kinh để dẫn tiếng tụng đọc của nhiều người hòa âm lên xuống cho được nhịp nhàng.

Trong lúc tụng kinh có người phụ trách việc gõ mõ gọi là duyệt chúng. Duyệt chúng có nghĩa là làm cho mọi người có mặt đều được vui vẽ. Về hình thức, mõ hình tròn đục phổng trong ruột, chỉ chừa một đường kẻ hở độ 1 - 2 cm, làm bằng gỗ, mít, dâu ... phía trên mặt có chạm nổi hình con cá mở to đôi mắt, khi gõ mõ, dùi mõ chạm ngay vào hình con cá ấy. Tại sao lại chạm hình con cá vào trong mõ ? Loài cá lúc ngũ cũng như khi thức đều mở mắt cả, tức là lúc nào cũng như vậy, cũng như người tu hành phải luôn luôn tỉnh táo, không mê muội, u ám để chú tâm vào việc nhiếp tâm an định trong tinh thần tỉnh thức.

Tiếng mõ lúc đánh lên còn làm lấn át mọi sự xen tạp ngoài đời vào tâm trí người đọc kinh trong giờ phút yên tỉnh trang nghiêm trước bàn thờ Phật. Ngoài ra, người phụ trách thủ mõ còn phải rành để đưa được âm điệu lên xuống điều hòa theo nhịp đọc kinh làm cho mọi người thơ thới tâm tư nên gọi là "duyệt chúng" vậy.

Mõ có hình thức lớn nhỏ tùy theo vị trí của mỗi chùa. Tại tư gia cũng sử dụng mõ vào việc tụng kinh, bái sám. Tiếng vang của mõ phải thanh thản, nhẹ nhàng. Ở các ngôi chùa lớn phải chọn cái mõ cho cân xứng với chuông để vừa với tầm nhìn cho được đẹp mắt.

Chùa không thể thiếu mõ được, vì đó là một vật cần thiết trong các buổi lễ trong Phật giáo. Ngoài công dụng dẫn tiếng tụng kinh ra, mõ còn để nhắc nhở người tu hành luôn luôn phải định tỉnh tâm thức.

21.- Người Phật Tử Nào Được Gọi Là Bổn Đạo Trong Phật Giáo ? (^)

Bổn đạo khác với đạo hữu, vì chỉ dùng giới hạn trong phạm vi của một ngôi chùa nào đó, như bổn đạo chùa A, chùa B chẳng hạn, là người tin Phật - Pháp - Tăng và hướng về với ánh sáng Phật-đà.

Nghĩa nguyên thỉ của danh từ thì không có gì để người khác ganh ghét, đố kỵ cả, nhưng trong thực tế đã có một số Phật tử do thành kiến, cố chấp, lòng nhỏ mọn đã đưa tới một vấn đề tranh chấp trầm trọng với nhau giữa chùa nầy với chùa kia hay giữa thầy nầy với các thầy khác. Tất cả đều do óc địa phương, bè phái và sự kỳ thị vô ích là nguyên nhân chính làm cho đôi bên không phân biệt được phải trái, chánh tà, do đó mới nảy sinh ra nhiều cuộc xung đột trầm trọng đáng tiếc. Ở Việt-Nam năm 1964, có 2 Viện-Hóa-Đạo Ấn- Quang và Việt-Nam Quốc-Tự cũng do mối bất bình vì sự hẹp hòi gây nên. Việc chia rẽ trên không do người Phật tử bổn đạo thuần túy mà do chư Tăng tạo ra. Trên danh nghĩa thì người bổn đạo nên lấy lòng từ bi đối xử với tất cả mọi người, nhưng trong thực tế, những việc quá đáng gây ra ngoài ý muốn như sự kình chống của người đệ tử 2 chùa và 2 thầy khác nhau, đều khó mong tránh được.

Chỉ khi nào chúng ta biết cố gắng khắc phục mọi khó khăn để cùng ngồi lại với nhau chung lo công việc Phật sự và mỗi người đều tâm niệm rằng đó là việc chung thì mới tạo được niềm hòa khí, để vui vẻ bắt tay thực hiện trong tinh thần hoan hỷ hầu xây dựng ngôi nhà Phật giáo.

Trong nội bộ có sự chia rẽ cũng chứng tỏ rằng tác phong đạo đức và tư cách của người học đạo từ bi và con đường giải thoát khó mong đạt tới đích.

22.- Cúng Dường Để Cầu Nguyện Việc Gì ? (^)

Cúng dường là dâng lễ vật cúng để tỏ lòng biết ơn chư Phật, chư Tăng, do lòng thành của mình, mong rằng sự chí thành nầy sẽ đạt được như lời cầu nguyện.

Cúng dường gồm có vật chất, cộng với thái độ của ta, tức là yếu tố tinh thần. Đồ dâng cúng không cao quý bằng lòng thành thực hiến dâng. Những người phát tâm cúng dường là hàng Phật tử có đạo tâm muốn gieo trồng phước đức cho đời hiện tại và trong tương lai. Người nhận của cúng là hàng tăng chúng đã sống trong tăng đoàn với tinh thần hòa hợp. Việc cúng nầy thường được tổ chức vào dịp lễ Vu-Lan, rằm tháng 7. Vì chư Tăng sau 3 tháng tịnh tu giới đức tinh nghiêm, nhờ đó khiến cho người phát tâm cúng dường tăng thêm phước đức và lợi ích. Thể thức cúng dường gồm 4 món đồ thường dùng gọi là tứ sự cúng dường như : Y phục, ẩm thực, ngọa cụ, y dược (quần áo, thức ăn, đồ ngủ, thuốc men) để hồi hướng công đức lành về cho cha mẹ hiện tiền được sống lâu và mạnh khỏe, cha mẹ trong nhiều đời được siêu sanh vào cảnh giới an lành.

Tăng sĩ nhận vật cúng phải nhiếp tâm cầu nguyện và người đem của cúng tới dâng không cầu mong gì hơn là mong cho cả đôi bên đều được phước lành, lợi lạc.

23.- Nói Qua Hình Tướng Của Việc Bố Thí Như Thế Nào ? (^)

Bố thí là ban phát cho những gì mà ta nghĩ là có lợi cho kẻ khác. Trong nghĩa của chữ cho nầy theo Phật giáo có hai khía cạnh : cho pháp và đồ vật.

Bố thí là một páp tu thuộc hạnh Bồ-Tát trong 6 độ như : Bố-thí, Trì-giới, Nhẫn-nhục, Tinh-tấn, Thiền-định, và Trí-tuệ. Đem pháp lành hay đồ vật ban cho kẻ khác để trừ được lòng tham. Một khi lòng tham đã dứt thì mọi tánh tốt đều thể hiện. Việc bố thí có rất nhiều hình thức khác nhau : Bố thí vật chất như tiền bạc, thuốc men, cơm áo cho người nghèo khổ ; còn bố thí tinh thần là dùng lời êm nhẹ đẹp đẽ khuyên răn mọi người tu theo pháp lành để giúp họ cùng nhau thực hành pháp giải thoát sự khổ để được an vui. Ví như nhà tu là kẻ đem pháp giải thoát ra bố thí cho mọi người, còn người Phật tử là người bố thí vật như áo quần, thức ăn, thức uống ... Bố thí có hai ý nghĩa : Bố thí bất vụ lợi và bố thí vụ lợi. Bố thí mà không mong kẻ nhận đền ơn trả nghĩa, nhưng tự nghĩ rằng đó là bổn phận phải làm ; còn bố thí mà chỉ mong có lợi cho mình và muốn được đền ơn xứng đáng, nhưng một khi sự mong mỏi không thành lại đâm ra chán nản, kém vui, như thế gọi là việc đem cho có hàm ý còn vụ lợi.

Phần nhiều ở đời mọi người muốn giúp ai một việc từ nhỏ tới lớn đều có ý tưởng mong cho họ giúp trở lại, đó là người làm việc chỉ mới thực hiện trong sự tướng của việc bố thí mà thôi.

Khi nào ta thực hành theo hạnh Bồ-Tát thì việc ban cho kẻ khác mới không còn trụ vào hình thức, là đã thể hiện cách cho đúng theo pháp không vụ lợi.

24.- Trong Phật Giáo Có Chẩn Tế Cô Hồn Và Thí Thực Cô Hồn Sự Khác Biệt Nhau Như Thế Nào ? (^)

Chẩn tế cô hồn là lập đàn cúng chay thật trọng thể để cầu nguyện những vong hồn chết oan được siêu độ. Thời gian lập đàn chay một tuần hoặc 3 ngày, thường thường vào dịp rằm tháng 7, lễ Vu Lan, nên cũng gọi mùa chay hội.

Lễ chẩn tế có ít nhất ba tăng sĩ giới đức ngồi đàn. Người chủ đàn phải lớn tuổi, có tu hành đạo hạnh nghiêm chỉnh mới lãnh trọng trách được. Cô hồn thường hay hung dữ, phá phách, nếu người thiếu đạo đức đứng vai chủ lễ, chẳng những không thuyết phục được những hồn bị sa đọa, trái lại còn bị cô hồn làm hại nữa là khác. Ở trong thôn xóm có những bóng ma hay quỉ dữ thường hiện về ban đêm để khuấy phá dân làng, do đó dân chúng hay lập đàn cúng cầu siêu độ. Tại Việt-Nam có tục lệ chẩn tế cô hồn vào tiết Trung-Nguyên, mà Phật giáo gọi là ngày xá tội vong nhân. Địa điểm thường ở những nơi có nhiều người bị chết oan như tai nạn, do tự tử hoặc tại các nhà thương. Lễ chẩn tế vì thế rất tốn kém, trong khi đó thì thí thực cô hồn không cần tổ chức linh đình. Chẩn tế xảy ra bất thường và thí thực cô hồn là việc làm hàng ngày của mỗi chùa, chỉ cần cháo lỏng và nước trong là đủ.

Tuy cả hai việc làm đều cùng chung mục đích để cầu siêu thoát các oan hồn, nhưng chẩn tế có hàm ý nói rằng nhiều người chết tập thể, linh hồn có tầm hoạt động mãnh liệt hơn, khiến cho dân chúng phải lo sợ.

Trong bài : Chiêu hồn thập loại chúng sinh của Nguyễn-Du có đoạn tả như sau :

"Trong trường dạ tối tăm trời đất,

Có khôn thiêng phảng phất u minh.

Thương thay thập loại chúng sinh,

Hồn đơn, phách chiếc lênh đênh quê người.

Hương khói đã không nơi nương tựa,

Hồn mồ côi lần lửa đêm đen.

Còn đâu ai khá, ai hèn,

Còn chi mà nói ai hiền, ai ngu..."

Vào dịp các lễ chẩn tế cô hồn tổ chức lớn lao, thường có lễ rước vong hồn. Hình thức nầy có lẽ đã pha trộn với đạo phù thủy, và trở thành tập tục trong Phật giáo. Cuộc rước diễn ra như : Có một hai hay ba chiếc ghe và một thiền sư đứng tụng các bài thần chú, tay bắt ấn để phá 10 cửa ngục cho các oan hồn ra khỏi.

Việc làm có đạt được kết quả hay không chưa ai chứng minh được cả, và nó chỉ có trong thời buổi chiến tranh, dân chúng lầm than, khổ sở.

25.- Trí Tự Là Gì ? (^)

Phần nhiều ở những ngôi chùa lớn đều có tài sản như đất ruộng, nhà cửa, trường trại ... Những của cải vật chất ấy một phần đều do của trí tự mà ra. Trí tự nghĩa là gì ?

Trí tự là để (cúng hiến) vào cho chùa những tài vật, cầu phước đức cho con cháu mai sau. Người giàu có thường phát nguyện cúng cho chùa những bất động sản để chùa thu lợi chi cấp vào việc nuôi dưỡng tăng chúng. Có những trường hợp người sắp chết nhóm họp con cháu lại dặn dò lời cuối cùng như để mẫu đất A hay ngôi vườn B cúng cho chùa mà lúc còn sanh tiền người ấy thường lui tới. Tài sản đã cúng vào chùa rồi, con cháu không có quyền lấy lại, dù dưới bất cứ hình thức nào. Việc trí tự trước đây rất được nhiều tín đồ Phật giáo áp dụng tại Việt-Nam, nhưng ngày nay đã trở thành xa lại đối với lớp người trẻ, có lẽ chúng ta đang sống trong xã hội đầy đủ văn minh vật chất, ai cũng phải ra sức làm việc mới có sống, hình như ít người nghĩ tới việc tạo phước đức nầy. Ngoài ra, ở những ngôi chùa mới hiện tại, việc lui tới lễ bái của hàng Phật tử cũng không đông đảo lắm, vì một phần bị ảnh hưởng bởi cuộc sống vật lộn bon chen ở ngoài xã hội gây nên. Người Phật tử khi đã biết việc phước thiện là thế nào rồi thì nên chú tâm làm phước và tu huệ.

Ở những ngôi chùa tại Việt-Nam xưa như Quán-Sứ (Hà-Nội), chùa Linh-Mụ (Huế), Non-Nước (Đà-Nẵng), Chúc-Thánh (Hội-An), Thập-Tháp (Bình-Định), Hải-Đức (Nha-Trang), Giác-Lâm (Gia-Định), Vĩnh-Tràng (Mỹ-Tho) v.v... đều là những nơi có đất ruộng để cho người canh tác. Khi đến mùa thu hoạch chùa thu về được một số lợi tức khá lớn. Số ruộng đất đó một phần lớn đều do của trí tự và một phần do chùa bỏ tiền ra mua làm kinh tế tự túc.

Trí tự là một hình thức tu phước đối với người Phật tử biết đầu tư của cải cho các thế hệ con cháu mai sau, bằng cách hy sinh một phần tài sản hiện tại đem hiến vào chùa, và của ấy khó lấy ra nhưng rất chắc chắn, an toàn.

26.- Trụ Trì, Tọa Chủ, Viện Chủ Khác Nhau Thế Nào ? (^)

Một số các danh từ trong Phật giáo có nghĩa gần giống nhau như dưới đây :

Trụ-trì là một tăng sĩ coi sóc, điều hành một ngôi chùa với một số tín đồ để duy trì và phát triển Phật giáo. Tọa-chủ là người là chủ chốt của một ngôi chùa. Viện-chủ là vị trông coi tổng quát một cơ sở Phật giáo. Nói chung cả 3 cách gọi đều chỉ chung cho vị lãnh đạo tinh thần nắm quyền đầu não của một trung tâm Phật giáo. Tuy nhiên chữ Trụ-trì và Tọa-chủ đã được sử dụng lâu và thành thói quen để chỉ các vị sư lớn tuổi chủ của ngôi tự viện, còn trường hợp chữ Viện-chủ mới có sau nầy, nhằm chỉ cho hàng tăng sĩ trẻ tuổi lãnh trách nhiệm duy trì phát triển trung tâm Phật giáo nơi vị ấy cư trụ. Chữ Viện còn hàm cái nghĩa lớn hơn chùa và có lối kiến trúc hiện đại, không theo lối cổ điển. Trụ có nghĩa là trụ Như-Lai sứ, và trì là trì Như-Lai sự, tức là người lãnh trọng trách thay đức Phật để giữ gìn và phát huy đạo pháp. Danh từ Như-Lai sứ giả (sứ giả của đức Như-Lai) cũng cùng trong ý nghĩa nầy vậy. Viện-chủ, ngoài việc trông coi ngôi chùa ra, vị ấy còn có khả năng lập thêm các cô ký-nhi-viện hay trường tiểu-học Bồ-Đề ở trong phạm vi của mình đảm trách. Chính vị Viện-chủ đồng thời cũng là giám đốc của các cơ sở phụ thuộc nầy. Trong một vài trường hợp chùa không có đủ những điều kiện như trên, nhưng thầy cả là người hoạt động đắc lực, đã được nhiều người biết qua tên tuổi, vị ấy cũng được tôn xưng là Viện-chủ.

Nói khác hơn, người giữ vai trò lãnh đạo tinh thần, duy trì và phát triển nguồn mạch của đạo Phật một cách đắc lực, được tôn kính là sứ giả của đức Phật mang lại tinh thần hòa bình nhập thế cho nhân quần xã hội.

27.- Cúng Ngọ Và Ngọ Trai Khác Nhau Thế Nào ? (^)

Các tự viện có đông tăng chúng ở tu học, mỗi ngày có bốn khóa lễ, mà cúng ngọ là một trong các thời tụng kể trên.

Tại sao phải cúng ngọ ?

Cúng để tưởng nhớ tới Phật, vì khi còn tại thế Phật chỉ thọ mỗi ngày có một bửa trưa vào đúng giờ ngọ. Trong khi đó giờ ăn của chư Thiên vào buổi sáng và giờ ăn của loài quỷ đói và buổi tối.

Cúng ngọ là dâng cơm lên bàn cúng Phật vào đúng 12 giờ trưa, còn ngọ trai là bửa ăn của chư Tăng cũng vào giờ ngọ, nhưng sau khi khóa lễ cúng Phật xong. Trước giờ ngọ trai chư Tăng tập họp ở Tổ đường với y áo chỉnh tề và bắt đầu bằng một nghi thức ngắn trước khi dùng cơm. Vào bàn ăn, mỗi người cùng đọc bài "cúng dường thanh tịnh pháp thân". Mọi người tay mặt bắt ấn Cam-Lồ, tay trái bưng chén cơm đưa lên ngang trán, vừa với tầm chân lông mày. Sau khi đọc kinh xong độ 15 phút, ai nấy bắt đều ăn trong sự chí tâm cầu nguyện bằng 3 "miếng và" nhỏ gọi là tam đề (3 muổng), sau đó nâng chén trong lòng 2 tay để tưởng tới 5 phép quán (*) để mong cho nơi nơi chốn chốn an lạc, thái bình và tự nghĩ rằng hột cơm có ra là do mồ hôi nước mắt của nhiều người phải lao động vất vả.

Cúng ngọ và thọ trai là 2 công việc khác nhau nhưng cùng diễn ra trong giờ ngọ. Hình thức nầy chỉ có ở các chùa có tăng chúng đang tu học mà thôi.

* Xem bài Ngũ Quán.

28.- Mỗi Ngày Có Mấy Thời Công Phu Ở Chùa ? (^)

Công phu hay nói cho đủ là công phu bái sám là một hình thức tu hành theo pháp môn Tịnh-độ bằng cách tụng kinh, lạy Phật mỗi ngày trong các tự viện Phật giáo.

Có 2 thời công phu căn bản cho các chùa là công phu buổi sáng và công phu buổi chiều. Thời công phu hay tụng kinh buổi sáng vào lúc 5 giờ, gồm các bài kinh : 5 đệ Lăng-Nghiêm, 1 bài chúc tán Phật Thích-Ca, 10 bài thần chú như : Đại-Bi, Như-Ý Bảo-Luân- Vương, Tiêu-Tai Cát-Tường, Công-Đức Bảo-Sơn Thần-Chú, Chuẩn-Đề, Dược-Sư Quán-Đãnh Chân-Ngôn, Quán-Âm Linh-Cảm, Thất-Phật Diệt-Tội Chơn-Ngôn, Vãng-Sanh Tịnh-Độ, Đại-Cát-Tường Thiên-Nữ. Sau đó tới bài kinh Bát-Nhã, đảnh lễ Chư Phật, 1 bài sám như : "Quy mạng thập phương" hoặc,"Thập Nguyện Phổ-Hiền" và tụng Tự-Quy-Y, Hồi-Hướng. Thời khóa tụng buổi chiều gồm các kinh như A-Di-Đà Kinh, thần chú Vãng-Sanh Tịnh-Độ, 108 danh hiệu chư Phật, Thí-thực Cô-hồn, Tâm Kinh Bát-Nhã, niệm Phật, Hồi-Hướng và sau cùng đọc ba quy y. Hai buổi công phu còn gọi là nhị thời khóa tụng. Đây là một sự tổng hợp giữa Thiền-tông, Tịnh-độ-tông và Chơn-ngôn Mật-giáo. Có nhiều chùa tăng chúng phải lễ sám 6 lần trong một ngày gọi là lục thời nghi. Theo sách "Tam Tổ Thực Lục" thì tự viện của Thiền-sư Pháp-Loa áp dụng nghi thức 6 thời khóa tụng một ngày. Tuy nhiên, 2 thời khóa lễ mỗi ngày đã được hầu hết các chùa ở Việt-Nam hành trì. Do đâu có sự tổng hợp giữa 3 tông phái để trở thành nghi thức tụng niệm ? Sau các thời kỳ thịnh đạt vào các đời Đinh - Lê - Lý và đến đời nhà Trần, Phật giáo dần dần mất thế đứng. Vào cuối đời nhà Trần, Phật giáo phái Thiền được đồng hóa với Mật-giáo và Tịnh-độ-tông. Do đó, việc trì tụng thần chú thuộc Mật-giáo, niệm Phật là của tông Tịnh-độ và chí tâm chuyên nhất thuộc về Thiền-tông.

Tụng niệm là một công tác thường nhật tại mỗi chùa để chúng tăng chuyên tâm vào việc tu tập, nhờ đó phát chiếu được trí tuệ.

29.- Cho Biết Mộc Dục Là Gì ? Việc Nầy Có Ảnh Hưởng Ra Sao ? (^)

Mộc dục là tắm gội hay rửa sạch những bụi bặm bám víu vào để vật trở nên trong sáng, sạch sẽ.

Trong Phật giáo lễ mộc dục rất quan trọng. Đây là nghi thức tắm Phật trước ngày lễ Phật-Đản-Sanh hay vào các lễ vía quan trọng khác. Lễ tắm Phật thường bằng một thứ nước bông hoa thơm sạch. Chữ mộc dục còn có nghĩa là gội nhuần hay thấm cho ướt. Theo như truyền thuyết cho rằng có người tin tưởng vào sự thiêng liêng nhiệm mầu đã dùng nước tắm Phật uống để trị bịnh nan y. Việc làm nầy, ngày nay ta thấy trái với khoa học, vì mất tính cách vệ sinh và thiếu tính cách tự nhiên. Một thứ nước dơ do bụi bặm bám víu vào lâu ngày đã đóng thành hạt mà lại có được công năng diệu kỳ đến như thế ?

Nhưng ở đời, việc gì xưa tin thì nay cũng cho là đúng với sự thật. Còn hiệu quả có ra sao thì lại là một việc khác. Đó là một việc làm sai lệch và tin tưởng một cách mù quáng thật tai hại vô cùng.

Về khía cạnh tinh thần thật khó giải thích thỏa mãn mọi người được, vì hẳn có đôi trường hợp đã có sự linh diệu nào chăng ? Có một điều chúng ta nhận thấy là lễ tắm Phật vẫn còn được các chùa duy trì vào các dịp lễ vía Phật trong năm.

Tắm Phật cũng còn có nghĩa là chúng ta tự tay rửa phiền não tự thân tâm và mong cho hình tượng Phật cũng sạch như lòng để tìm thấy bản tâm thanh tịnh của mình.

30.- Thí Thực Cô Hồn Là Thế Nào ? (^)

Thí thực cô hồn là cúng cháo lỏng cho các hồn ma đã chết không có ai săn sóc hương khói, chưa đi đầu thai được, nên còn vất vưởng ở lại thế gian để quấy phá người sống, nếu không ai cúng.

Thí thực cô hồn diễn ra ở các ngôi chùa vào buổi chùa sau thời công phu. Thường trước cửa chùa có thờ bàn cô hồn để cúng kẻ chết oan nhờ vào nơi hương khói và thức cúng mà được ấm lòng. Cúng thí thực cô hồn không cần gì nhiều, ngoài một chén cháo lõng và ly nước trong là đủ.

Sau đây là một đoạn trích trong bài văn tế thập giới cô hồn của tác giả khuyết danh mà có người cho là của Lê-Thánh-Tôn, qua các câu :

"Riêng xét vậy : Ngựa cửa sổ, kiến đầu cành,

Xem ngày tháng dễ qua thoăn thoắt,

Bọt ghềnh sông vờ mặt nước,

Tựa thân thời kíp biến mờ mờ,

Cổ tới nhẫn kim, sinh thời có hóa.

Ấy vậy, hồn là thần, phách là quỷ,

No nên Bụt, đói nên ma.

Khó miễn song mặc há khác nhau,

Đói cùng rách lòng thời cũng vậy..."

và bài văn tế Thập-Loại Chúng-Sanh của Nguyễn-Du trong phần mở đầu như sau :

"Tiết tháng bảy mưa dầm sùi sụt,

Toát hơi mây lạnh buốt xương khô.

Não người thấy buổi chiều thu,

Ngàn lau nhuốn bạc, lá ngô rụng vàng.

Đường bạch dương bóng chiều man mác,

Díp đường lê lác đác sương sa.

Lòng nào lòng chẳng thiết tha,

Cõi dương còn thế, nữa là cõi âm..."

Đó là những bài văn tế cô hồn rất nổi tiếng từ trước đến nay. Trong thời chiến tranh cơ khí, ta ít thấy bóng dáng cô hồn, nhưng việc cúng bái vẫn còn được duy trì liên tục.

31.- Lãnh Chúng Là Ai ? (^)

Lãnh chúng là coi sóc chúng tăng đang tu học ở trong một tu viện hay tại một Phật-học-viện về mọi sinh hoạt hàng ngày như công tác tu học.

Việc lãnh trách nhiệm đôn đốc chư tăng nầy ngoài ban giám đốc ra, còn có một ban lãnh chúng mà thành phần như sau : Một liên chúng trưởng, trông coi tổng quát toàn viện nơi chúng tăng ở tu học. Một phó liên chúng trưởng, phụ giúp liên chúng trưởng trông việc sắp xếp công việc, phân công trong chùa cho hợp lý. Một tổng thư ký phụ trách việc sổ sách và các chúng trưởng. Mỗi chúng độ 10 tăng sinh và bầu ra một chúng trưởng. Đây là việc phân công hợp lý để cùng nhau nhắc nhở việc tu học cho chư tăng trong viện Phật học có đông người. Những việc mà các trưởng chúng phải làm như phân công tác về gánh nước bửa củi, đi chợ, nấu ăn, tiếp khách, làm vườn, tưới hoa, trồng cây, hương đèn bàn Phật, và việc chi thu của chùa. Về phần tu học, ban lãnh chúng đôn đốc việc tu thiền, việc tụng niệm công phu, giờ học. Ngoài ra, ban nầy còn thay ban giám đốc giải quyết mọi việc tranh chấp nhỏ trong chúng. Như vậy, vai trò của ban lãnh chúng không nhỏ cho việc điều hành đều đặn việc chư tăng trong viện.

Trong chúng được yên vui hòa nhã để tu hành cũng làm cho ban giám đốc rãnh thì giờ lo nhiều việc khác. Những người xuất gia từ các nơi đỗ về tu viện, họ vốn không bà con thân thiện gì với nhau, nhưng từ khi bước vào ngôi chùa, lại trở nên thương yêu nhau hơn tình anh em trong cùng một nhà.

Tinh thần hòa nhã có được ở các chùa là nhờ chúng tăng biết giữ đúng theo 6 pháp hòa kính trong Phật giáo.

32.- Vận Thủy Có Phải Là Bộ Thủy Cục Không ? Dùng Trong Trường Hợp Nào Và Ở Đâu ? (^)

Ngày xưa trong những ngôi chùa phần nhiều đều không có hệ thống dẫn nước như bây giờ. Mỗi ngày chư tăng phân phiên nhau đi lấy nước về để dùng trong việc ăn uống. Phụ trách việc nầy là vai trò của ban vận thủy.

Vận thủy là chuyên chở nước hay mang, gánh nước từ xa lại cung cấp cho chùa. Ở các ngôi chùa trên núi, nước là một vấn đề khó giải quyết, tăng sinh phải xuống tận dưới đất liền lấy nước đem về chùa xài trong giờ công tác vào buổi sáng. Việc chuyên chở nước vì thế, chỉ có trong phạm vi của một tự viện, trong khi đó thủy cục là chỉ chung cho cả một hệ thống chuyên chở nước của cơ quan nhà nước cung cấp cho mọi gia đình. Tuy cả hai danh từ đều có liên hệ tới việc chuyển nước, nhưng ý nghĩa hoàn toàn khác nhau. Chùa có đông tăng chúng thường chia ra thành nhiều ban để lo mọi việc như nấu nướng, củi than, nước uống ... Mỗi ban phải lo tròn bổn phận của mình trong một ngày để phục vụ đại chúng.

Ban lấy nước quan trọng hơn cả. Đây là một việc nặng nề, cần đòi hỏi nơi những người có sức lực khỏe mạnh mới đủ khả năng đem nước lại đủ cho toàn viện dùng suốt trong ngày. Việc xây hồ lộ thiên (Xitặc) trên núi để chứa nước mưa là điều hiển nhiên như ta thường thấy nới các ngôi chùa cổ tại miền Trung và một vài nơi ở miền Nam.

Khi nào hệ thống dẫn nước đầy đủ, mới tránh được nạn chuyên chở khó khăn do sức người, như đã từng xảy ra trong các chùa ở xa thành phố và ở trên núi đồi hẽo lánh.

Nước là một nhu cầu cần thiết không thể thiếu được, cũng như thức ăn, nên chùa tìm ra nhiều cách để ngăn chặn không cho nạn khan hiếm nước xảy ra, nhất là chùa có đông tăng chúng.

33.- Ban Sài Là Gì ? (^)

Ban sài, tiếng mới nghe qua ta lấy làm khó hiểu, vì ngày nay hầu như không ai còn dùng tới nữa.

Ở các ngôi chùa lớn ngày xưa, nhứt là chùa trên núi hay ở miền quê làm gì có hệ thống bếp gas, lò điện như ngày nay. Do đó, chùa thường đun bếp bằng củi và chư Tăng phải lặn lội vào trong núi sâu để đẵn cây, cưa ra từng đoạn ngắn phơi khô, rồi chở về chất lại thành đống để dùng vào việc nấu nướng. Ban sài chính là người giữ vai trò bửa củi vậy. Bửa củi, đốn cây làm chất đốt trong việc cơm nước chỉ có tại các chùa thuộc về xã hội nông nghiệp kém mở mang. Hầu hết các chùa hoặc nhà xa thành phố đều phải vất vả trong vấn đề nhiên liệu bằng chân tay nầy. Việc bửa củi vì thế cần người có sức khỏe cho thật lực lưỡng mới kham nổi được việc.

Ban phụ trách việc củi than cho chùa tối thiểu phải từ 3 người trở lên mới lo chu toàn được công việc.

Ở trong các xã hội văn minh, khi nghe nói tới việc bửa củi, gánh nước người ta lấy làm khó hiểu, nhưng đó lại là một công việc thật. Chính tác giả khi còn là một chú tiểu cũng đã từng giữ các vai trò như gánh nước, bửa củi, đi chợ, nấu ăn khi xưa tu ở chùa trên núi Non-Nước. Sau nầy vào Nam, việc làm quen thuộc nầy vẫn còn được tái diễn như ăn cơm bửa.

Đây là cái thú vui mà các thiền sư thường lấy đó làm đề tài trong việc khai tâm cho người đệ tử.

Theo thiển nghĩ, ngày nay ngôi chùa còn giữ cho tăng chúng làm việc bửa củi là thể hiện đúng theo tinh thần của Phật giáo cổ truyền vậy.

34.- Có Thể Giải Thích Rõ Trị Nhật Hay Trực Nhựt Là Gì ? (^)

Ở một tự viện quá đông chư Tăng cư trú, việc cơm nước không thể giao cho một vài người lo liệu được, do đó chư Tăng phải cắt đặt người phụ lực vào việc nấu ăn, là vai trò của trị nhật.

Trị có nghĩa là điều khiển, trông coi chu đáo, nhật là ngày, tức là trong một ngày, những viên có bổn phận làm việc bếp nước phải làm cho đầy đủ để phục vụ cho đại chúng. Còn chữ trực có nghĩa là thường xuyên có mặt suốt trong một ngày để lo việc cơm cháo cho chư Tăng trong tự viện. Ban-trị-nhật, ngoài việc làm phận sự hỏa đầu quân ra, còn phải đi chợ mua sắm các thứ cần thiết để cung cấp đủ cho một ngày. Trường hợp gặp phải những ngày bận học, ban phụ trách cơm nước trong ngày phải lo sắp đặt trước như nhờ người khác phụ giúp thế vai trò cho họ. Trị nhật có bổn phận phải lo đầy đủ các bửa ăn cơm trong ngày như việc đúng giờ và khéo tay cũng là điều kiện cần thiết để làm đẹp lòng đại chúng. Sau khi nấu nướng các thức ăn xong, đồ ăn phải được cho vào bát đĩa, sắp ra ngay hàng và chờ cho đúng giờ, ban-trị-nhật có phận sự báo hiệu bằng 3 tiếng bảng để cho ban hành đường (dọn cơm) đến bưng sắp đồ ăn ra bàn. Ngoài việc nấu nướng ra, ban-trị-nhật còn phải dọn dẹp, rửa ráy sạch sẽ nồi chảo chén bát sau bửa ăn. Khi đâu vào đó xong, ban-trị-nhật mới xử dụng thì giờ còn lại trong ngày cho sinh hoạt cá nhân. Đây là một việc làm luân phiên có tính cách công bằng và hợp lý.

Những tăng sinh xuất gia buổi đầu phải nhờ những người đi trước có kinh nghiệm hướng dẫn cho công việc trị nhật. Tăng sinh nào ở trong các tự viện đông người ra mà không biết nấu ăn, cũng chứng tỏ chưa thấm nhuần được tương chao của tu viện.

Nhờ được huấn luyện như kiểu quân sự, các tăng sĩ trẻ phần nhiều không còn cảm thấy ngỡ ngàng hay vụng về trong việc bếp núc nữa.

35.- Hãy Giải Thích Tri Viên ? (^)

Những ngôi chùa có đất rộng, nhất là sân vườn chùa dùng vào việc trồng cây kiểng để làm tăng thêm vẽ đẹp cho cảnh trí chốn thiền môn.

Tri-viên là người coi sóc vườn cây và hoa cảnh của chùa. Ở các ngôi chùa cổ hay tại các thiền viện, thường trước sân có trồng nhiều loại hoa đủ mầu sắc hay các loại cây cảnh như cau, dừa, trúc, ngọc lan ... Việc săn sóc cây như nhổ cỏ, bón phân, bắt sâu, tỉa lá cho hoa kiểng xanh tươi là nhiệm vụ của người trông coi vườn chùa vậy. Người được cắt đặt phụ trách việc nầy phải biết rành về lối sinh trưởng của từng loại cây, cũng như phải khéo tay trong việc cắt tỉa, tưới bón để cho cây đâm chồi, kết hoa đúng theo thời tiết trong năm.

Khách viếng chùa, đầu tiên là ngắm cảnh trí toàn diện mà vườn hoa lại đập vào nhãn quang trước nhất. Ngôi chùa có vườn hoa đẹp, cũng có nghĩa là nếp sống đạo hạnh của tăng chúng nơi tự viện cũng được đàng hoàng. Vì thế, khách chỉ cần nhìn thoáng qua cách chơi hoa kiểng là có thể đoán được phần nào cách tổ chức bên trong của một ngôi chùa. Vườn hoa còn là trợ duyên cho các thiền sinh trong việc tu tập thiền định. Ngoài giờ tham thiền ra, hành giả có thể đi dạo quanh vườn để vừa niệm Phật, vừa quán tưởng lý vô thường như những cành hoa rơi trước cơn gió thoảng và cuộc đời cũng chỉ tồn tại trong mấy chốc rồi tàn dần theo tuổi tác với thời gian.

Tri-viên là một công việc tuy đơn giản, nhưng phải cần đòi hỏi người có đầu óc biết tổ chức, nhiều thiện chí và khéo tay mới đảm trách được công việc có tính cách nghệ thuật hòa hợp giữa lý - tình - cảnh nầy.

36.- Tri Liêu Phụ Trách Công Việc Gì ? (^)

Mỗi một ngôi chùa có một số những công việc được chia ra cho mỗi người phụ trách một phần. Tri-liêu cũng cùng trong ý nghĩa đó. Vậy Tri-liêu là gì ?

Tri-liêu là người phụ trách việc chi thu hàng ngày như việc chợ, gạo thóc của chùa. Chữ liêu vốn có nghĩa là nhà chứa đồ lặt vặt đặt ở kế bếp. Như vậy tri liêu là người lo về thủ quỷ, nhất là việc hết còn cho ngân khoản của chùa để báo cáo cho thầy trụ trì hay thầy giám đốc biết. Nhiều ngôi chùa lớn, người giữ việc biên chép sổ sách tài chánh, làm việc do thầy tri sự chỉ định (người coi sóc tổng quát việc chùa). Người tính toán với kế hoạch khéo làm cho tăng chúng trong chùa hoan hỷ, nhất là trong các bửa cơm hàng ngày, phải được thay đổi do người phụ việc bếp núc một phần, nhưng còn phải tùy thuộc vào vật liệu nữa, để được đầy đủ dinh dưỡng. Ngoài ra, liêu cũng còn có nghĩa là cái phòng nhỏ dùng cho một người ở, gồm có sách vở và vật dụng cần thiết khác. Danh từ tri liêu không mấy thông dụng. Ngày nay ta có thể gọi bằng mấy tiếng đồng nghĩa như quản lý, thủ quỷ, tài chánh ... đều chỉ người lo việc chi, thu. Còn một số mấy từ ngữ thường dùng khác như đồng liêu, để chỉ người cùng làm một nơi hay học chung trường, trà liêu chỉ nơi các bạn bè, thân hữu hay lui tới để uống trà và mạn đàm, khách liêu là phòng dùng để tiếp đó khách.

Những tên gọi thuộc về sự tướng mà chùa xưa thường hay dùng, nếu không phải là người đã từng kinh nghiệm trong thiền môn thì ít có người biết rành được.

Sách vở Phật giáo cũng không ghi chép về các sinh hoạt chùa rành mạch, người tín đồ nhiều lúc tới chùa như đi vào trong khu rừng mờ mịt qua một lô danh từ tiếng Hán.

37.- Hành Đường Là Thế Nào ? (^)

Ở những ngôi chùa lớn hay tại các Phật-học-đường có đông chư Tăng cư trú mới có sự luân phiên trong việc hành đường.

Hành đường là làm việc dọn cơm, pha nước trong bửa ăn cho chư tăng, từ lúc bắt đầu cho tới lúc mãn giờ ăn. Khi tới giờ cơm ban hành đường vào ngay trong nhà bếp bưng cơm canh ra sắp đặt trên bàn ăn tại trai đường, đâu đó xong xuôi rồi mới cử một hồi và cử ba tiếng kiểng để tập trung chúng tăng lại. Trong tự viện, trừ vị Thượng-Tọa và các vị Tỳ-kheo lớn tuổi ra, tăng chúng ai cũng phải làm việc phân công đều đặn liên tục và kéo dài. Trong trường hợp của một tu viện có 50 tăng sinh đang tu học thì việc hành đường chia thành bốn hoặc năm ban. Mỗi ban ba hay bốn người tùy theo sự sắp xếp trong chư Tăng. Ban hành đường làm việc trong suốt một ngày trong các bửa cơm. Công việc nầy được tiếp tục luân phiên mãi như thế. Sau khi nghe kiểng báo hiệu, tăng chúng y áo chỉnh tề hướng về phía nhà tổ, nơi có trai đường, để dùng cơm. Trong lúc chư Tăng ăn cơm, ban hành đường có bổn phận phải coi xem việc thiếu đủ ra sao để tiếp tế thêm thức ăn tới hay mang bớt chỗ thừa tới bàn đang cần cơm, canh, tương, rau ... Sau khi mọi người đã dùng bửa xong, ban hành đường phải đến từng người để pha nước. Tiếp đó lo dọn dẹp chén bát, trong lúc chư Tăng tụng kinh hồi hướng. Hành đường cũng còn có nghĩa là đi chung quanh phòng ăn của chúng tăng để coi sóc và dọn dẹp cho gọn gàng và chu đáo. Ban hành đường luôn luôn phải ăn sau giờ ăn của đại chúng.

Việc luân phiên nhau dọn cơm cho chư Tăng trong tự viện ngoài tinh thần bình đẳng ra, còn giữ gìn các oai nghi trong bửa ăn được thanh tịnh trang nghiêm.

38.- Tri Khố Có Nghĩa LÀ Gì ? (^)

Chùa có đất ruộng nên tới mùa lại thâu hoa lợi về chứa vào kho, nhất là kho dùng để dựng lúa, bắp, đậu v.v... Người chịu trách nhiệm trông coi việc xuất nhập nầy gọi là Tri-khố.

Những ngôi chùa lớn có từ 5 đến 10 mẫu ruộng thường cho người khác canh tác, tới mùa thu hoạch hoa mầu về chứa vào kho để chi dụng hàng ngày trong tự viện. Muốn cho việc hết còn được phân minh chùa phải cắt đặt sẵn một người trông coi về việc nầy. Người ấy có bổn phận báo cáo cho thầy trụ trì biết rõ sổ sách việc xuất kho, tồn kho để dự tính ngân sách sắp tới. Người biết tính toán sổ sách và rành về tiền bạc có thể phụ trách việc nầy. Ngoài ra, Tri-khố còn là người giữ tài chánh cho chùa nữa. Như mỗi ngày phải chi bao nhiêu và trong một tháng số tiền chi, thu phải được ghi vào sổ sách rành mạch để dễ dàng quyết định được khả năng kinh tế cho chùa. Trong trường hợp, có những việc bất thường trong tự viện như việc tu bổ phòng xá, đám tiệc cũng do viên Tri-khố biết tính toán khéo là mọi việc có thể chạy đều.

Tri-khố ngoài việc giữ sổ sách và chi, thu ra, còn có bổn phận phát triển cho ngân quỷ của chùa để có được một vị thế kinh tế quân bình và hợp lý cho tự viện. Trong một tu viện có từ 10 tăng sĩ trở lên là vai trò của Tri-khố phải có để lo về việc tiền bạc. Theo danh từ phổ thông ngày nay, Tri-khố chính là thủ quỷ, tức là người giữ tài chánh trong việc thu, xuất mỗi ngày của chùa. Chùa có tổ chức kinh tế tự túc, tức là vai trò của người trông coi về tài chánh rất nặng nề và quan trọng. Tuy nhiên, cho tới nay chúng ta vẫn chưa có được một nền kinh tế tự lập hoàn toàn cho chùa mà phải còn nhờ vào sự hão tâm đóng góp của người tín đồ để nuôi dưỡng tăng chúng, là một hình thức không tiến bộ cần phải được cải đổi. Tại Nhật-Bản, các ngôi chùa có nền kinh tế tự túc thật dồi dào và việc chi thu ở các ngôi chùa trung bình có thầy trụ trì quyết định, còn ở các trung tâm Phật giáo lớn hơn có thủ quỷ phụ trách việc tài chánh.

Phật giáo Việt-Nam cho đến khi nào có ngân quỷ tự trị hoàn toàn về phương diện tài chánh mới mong phát triển tổ chức giáo hội đúng mức được.

39.- Cho Biết Tri Tạng Là Gì ? (^)

Để cung ứng cho nhu cầu tri thức, tại các chùa lớn thường có thiết lập một hệ thống thư viện, nơi tàng trữ những kinh sách giá trị.

Tri-tạng là người trông coi về thư viện. Chữ Tạng có nghĩa là kho tàng dùng để chỉ cho kinh, luật, luận của Phật giáo. Như thế, chùa có nhiều kinh điển giá trị cần phải có người coi sóc. Người được đề cử trông coi việc nầy gọi là Tri-tạng, nếu gọi theo danh từ ngày nay là viên quản thủ thư viện. Kinh sách phải xếp đặt theo thứ tự để dễ tìm mỗi khi có người muốn tìm đọc tới loại nào, cũng như để xem chừng sâu mọt nhấm gậm tới các quyển kinh sách quí, phải có người chịu trách nhiệm trông coi tủ sách của tự viện.

Tri-tạng hay người quản thủ thư viện có nhiệm trao đổi sách quí, thay đổi vị trí sách trong tủ vào làm dồi dào tủ sách cho độc giả có sách mới để đọc là việc làm rất cần thiết và hữu ích vậy. Tri-tạng ngoài việc trao đổi bằng kinh nghiệm để duy trì và phát triển tủ sách của chùa ra, còn phải nghiên cứu xem loại kinh điển, sách báo nào phù hợp với trình độ tri thức của chư Tăng trong tự viện, bằng mọi cách phải vận động mua thêm sách mới về làm phong phú cho kiến thức của đại chúng là điều thật lợi ích vô cùng.

Trong mỗi một ngôi chùa đều cần phải có một tủ sách để làm món ăn tinh thần là điều cần thiết. Kinh sách càng nhiều, vai trò của người coi sóc càng lớn, nhất là việc sắp xếp thứ loại theo mục lục để được dễ dàng trong việc tra cứu.

Việc phụ trách một thư viện như vậy, không cần đòi hỏi người có kiến thức cao mà cần nơi khả năng chuyên môn cũng như người nhiều thiện chí đảm trách.

40.- Vai Trò Của Tri Khách Trong Tự Viện Như Thế Nào ? (^)

Vai trò của Tri-khách rất quan trọng đối với một ngôi chùa, đó là bộ mặt đối ngoại, cũng như trong một quốc gia là bộ Ngoại giao vậy.

Tri-khách là người đại diện cho chùa tiếp đãi, hướng dẫn, giải thích các nghi vấn trong mọi trường hợp, mỗi khi khách cần. Ở trong các tổng bổn sơn (tổ đình) của chùa Nhật thường có ít nhất là hai người Tri-khách, ngoài ra còn có một ban tiếp tân phụ lực, cũng giống như các tổ chức đám tiệc quan trọng khác. Viên Tri-khách có thể giải thích, tường trình rõ ràng mọi sinh hoạt của tự viện, để khách nhờ đó có một khái niệm chính xác về cách tổ chức là việc cần thiết.

Người phụ trách việc tiếp đãi khách của chùa phải cho thật khéo léo và niềm nỡ từ lời nói cho tới thái độ tiếp đón mời mọc khách, nếu không tế nhị trong việc nầy khó mà gây được cảm mến của người viếng thăm. Tại các ngôi chùa nhỏ, việc tiếp khách thường do vị trụ trì đảm trách luôn.

Một ngôi chùa có phát triển lớn mạnh hay không, một phần đều do thái độ ngoại giao khéo của người tri khách, nhất là việc giao tế cần thiết. Ngôi chùa chỉ có một hay hai vị tăng sĩ và do một ban quản trị điều hành mọi việc thì vai trò của tri khách không còn cần thiết nữa, trong trường hợp nầy do một ủy viên giao tế hoặc ban ngoại giao trông coi. Viên tri khách của chùa phải biết qua lịch sử tạo lập chùa, các vị Tổ sư kế thừa tông phái, các di tích lịch sử có liên hệ v.v.., cũng như những bút tích, thi kệ của các vị Tổ để lại (nếu có) phải tìm hiểu cho thật tường tận để khỏi phải lúng túng khi bị chất vấn.

Theo một tinh thần mới, chúng ta lần lần phải tìm cách thoát xác khỏi những danh từ chữ Hán, nhưng vẫn giữ nguyên được ý nghĩa của tiếng khó hiểu trong phạm vi của Phật giáo như tri khách có nhiều người biết, còn như thư trạng, tri tạng v.v... cần phải thay đổi cho được thích hợp và dễ hiểu.

Muốn được nhiều người biết đến ngôi chùa cho được chính xác cần cắt đặt người tiếp đãi khách thật nồng hậu, vì đó là bộ mặt nổi của tự viện.

41.- Thị Giả Có Phải Là Dùng Một Người Hầu Như Nô Lệ Cho Mấy Nhà? Tu ? (^)

Ở trong các chùa ngày nay hầu như danh từ thị giả không còn dùng nữa. Đây là tiếng Hán cổ cho nên chúng ta cần phỉ biết qua ý nghĩa.

Các Hòa-Thượng, Thượng-Tọa, Đại-Đức lớn tuổi thường tu nhập thất có khi 10 ngày, 2 tuần lễ. Mọi việc tiếp xúc với bên ngoài đều cắt đứt, do đó phải có người giúp đưa cơm nước, giặt giũ quần áo và mỗi khi các thầy cần điều gì. Người phụ trách, lo công việc nầy gọi là thị giả. Người hầu thầy thường là một chú tiểu lanh lẹ và đàng hoàng, để giúp các Thượng-Tọa đang cần nhiều thì giờ cho việc viết sách, trì kinh, tọa thiền v.v... trong các việc lặt vặt, nhờ đó người đệ tử tạo thêm phước đức.

Ngay ở những ngôi chùa trong phố mà không phải tọa lạc trên núi non xa xôi hẽo lánh, các thầy lớn tuổi đều phải có người giúp đỡ. Hình thức hầu thầy không có nghĩa kẻ được sai nhờ là nô lệ mà là kẻ mong làm việc thiện để giúp cho đạo hạnh tròn đầy, vì người mới xuất gia lúc nào cũng phải nương theo thầy để học hỏi. Việc đi sát gần thầy để săn sóc, người đệ tử có cơ hội tốt học được nhiều điều bổ ích cho mình.

Việc hầu thầy là bổn phận của người đệ tử mới tập sự xuất gia, để nhờ đó học được những kinh nghiệm trong việc tu hành rất có lợi.

42.- Cho Biết Ý Nghĩa Và Vai Trò Của Hương Đăng Là Gì ? (^)

Hương-đăng là người được đề cử để lo việc hương đèn, hoa quả nơi chánh điện thờ Phật cho được tươm tất, trang nghiêm.

Thường mỗi ngày vào buổi sáng và buổi chiều, người phụ trách đèn nhang lo việc quét dọn chánh điện thờ Phật, thay đổi, sắp xếp, trang hoàng bàn thờ Phật, bàn thờ tổ, bàn kinh có ngăn nắp gọn gàng. Người lo việc hương đèn phải coi sóc, báo cáo để người giữ tài chánh mua sắm những thứ cần dùng cho chùa. Nhiệm vụ hay vai trò của Hương-đăng vì thế không có gì nặng nhọc cả. Tuy nhiên, về mặt hình thức của ngôi chánh điện rất quan trọng cho việc bài trí, người phụ trách hương đèn ít nhất có cặp mắt thẩm mỹ hay nghệ thuật là điều rất cần thiết. Ở trong các ngôi chùa nhỏ, nhiệm vụ nầy là của thầy trụ trì, hay chùa ít người thì việc cắt đặt riêng một người giữ việc hương đèn không cần thiết. Việc sắp xếp bàn thờ Phật cho đẹp cũng làm tăng thêm giá trị tinh thần để mọi người trong chánh điện phấn khởi, tinh tấn tu hành.

43.- Hãy Nói Rõ Danh Từ Thư Trạng Và Cách Xử Dụng Ra Sao ? (^)

Thư-trạng là người lo việc giấy tờ hay sổ sách ở trong một ngôi chùa. Danh từ nầy đồng nghĩa với thư ký ngày nay.

Trước đây trên các công văn, sớ giấy của chùa chỉ có ấn dấu, không ký tên. Đây là một hình thức khác hẳn với bây giờ. Nói khác hơn, Thư-trạng là người chuyên giữ việc hành chánh cho công việc điều hành của chùa. Người lãnh nhiệm vụ nầy cần có khả năng về nhiều mặt, nhất là có khả năng biết tổ chức. Trước đây, trong thời kỳ các chùa còn xử dụng chữ Hán, Thư-trạng là người phải cần được chọn lựa kỹ lưỡng mới làm việc được. Viên thư ký làm việc dưới sự điều hành của thầy trụ trì. Tuy nhiên, thư ký có quyền thay thầy điều hành mọi giấy tờ cần thiết khi thầy vắng mặt. Thư ký của chùa hay của bất cứ một tổ chức nào cũng đều quan trọng cả, nhất là về mặt điều hành tổ chức, một phần lớn công việc làm đều có ảnh hưởng sâu rộng tới quần chúng. Thường các chùa lớn có đông tín đồ nên việc cúng kiến như cầu an, cầu siêu, cưới xin ... rất bận rộn, do đó một người lo việc giấy tờ không kịp nên phải có thêm một người phụ tá để giúp việc.

Những danh từ khó hiểu trong các kinh sách của Phật giáo dần dần được dịch sang tiếng Việt. Đây là một điều mà mọi Phật tử đều mong muốn.

44.- Duy Na Là Người Phụ Trách Việc Gì ? (^)

Duy-na là người thủ chuông trong thời khóa tụng ở chùa hay nơi nào có thờ Phật.

Ở hai bên tả hữu của chánh điện thờ Phật có hai người, một bên chuông và một bên mõ ngay trước bàn kinh. Khi nào có người chủ lễ đứng giữa thì người thủ chuông khỏi phải xướng lễ. Trong trường hợp thiếu chủ lễ, bên thủ chuông kiêm luôn chủ lễ. Việc gõ chuông cũng phải đúng với nhịp dứt của mỗi đoạn kinh. Duy-na chỉ điểm tiếng chuông khi nào biết là ý của đoạn trên dứt và sang một đoạn khác, nhờ đó mọi người theo đúng nhịp mõ đễ tụng. Lời kinh, tiếng kệ khi lên bỗng lúc xuống trầm theo tiếng ngân cũng do người thủ chuông một phần. Chúng ta cần phải luyện tập cho nhiều mới gõ chuông rành được. Một người có nhiều kinh nghiệm trong việc tụng kinh khi điểm tiếng chuông khiến người nghe thanh thoát nhẹ nhàng, ngược lại, chúng ta sẽ cảm nghe như âm thanh làm chát tai, mệt óc lúc tụng kinh.

Một sự tướng tuy rất nhỏ trong chùa như việc thỉnh chuông cũng rất tế nhị như vậy, vì mọi người lúc vào chánh điện hay nơi thờ Phật đều lắng lòng chăm chú vào bài kinh đang đọc.

Âm thanh của tiếng chuông nhẹ lâng đưa lời hòa âm của người tụng vào trong không gian tĩnh lặng như lời cầu nguyện cho chúng sanh đều được gội nhuần công đức.

45.- Duyệt Chúng Nghĩa Là Gì ? (^)

Người đứng phụ trách việc gõ mõ cho mọi người tụng kinh theo một nhịp điều hòa gọi là Duyệt-chúng, tức làm mọi người hòa vui.

Thường bên mõ ở về phía tay trái của chánh điện, phía ngoài ngó vào. Tiếng mõ phải hòa theo lời kinh của mọi người, có nghĩa là lúc giọng lớn, phải nâng tiếng mõ lên cao, còn khi giọng của mọi người xuống thấp, tiếng mõ cũng nhỏ lại. Việc gõ mõ tuy không khó, nhưng có người cầm tới dùi mõ là khiến mọi người đọc muốn đứt hơi, mệt mỏi. Duyệt-chúng có nghĩa là làm cho tâm lý mọi người phơi phới vui vẽ. Như vậy, một người thủ mõ giỏi là biết giữ thật điều hòa hơi lên xuống của mọi người với tiếng mõ để có sự hòa nhịp từ tâm cho tới cảnh bên ngoài. Tiếng chuông lúc thỉnh lên, ta còn nhận ra được tâm của người gõ, thì nhịp mõ lại là thước đo đúng nhất về người giữ việc làm phấn khởi tâm lý mọi người trong giờ phút trang nghiêm của buổi lễ.

Ngày xưa các chùa quan niệm rằng, chùa nào giữ tiếng mõ cho thường xuyên, cũng có nghĩa là vấn đề tài chánh khỏi phải lo lắng, có ý nói rằng, tăng chúng của chùa biết lo tinh tấn tu hành.

Mỗi tôn giáo có một hình thức riêng về các nghi thức. Giữ nhịp mõ cho khoan thai trong nghi lễ Phật giáo, cũng là một cách cảm hóa người nghe như tiếng pháp âm vi diệu ...

46.- Tọa Cụ : Hình Thức Và Công Dụng Ra Sao ? (^)

Tọa-cụ là tấm vải dùng để ngồi thiền hay lạy Phật của tăng sĩ Phật giáo, nhất là Phật giáo phái thiền. Mỗi khi trải tấm vải để ngồi thiền, phải đọc bài kệ như sau :

Tọa cụ ni sư đàn

Trưởng dưỡng tâm miêu tánh

Triển khai đăng thánh địa

Phụng trì Như-Lai mạng

Án đàn ba, đàn ba tóa ha.

Dịch nghĩa : Tấm tọa cụ bằng một thứ vải bền chắc nuôi dưỡng tâm niệm thiện, ngõ hầu bước lên thềm thang của bậc Thánh, nhờ đó vâng giữ giáo pháp của Phật.

Khi thọ giới Tỳ-kheo, người thọ giới phải sắm đủ các pháp cụ cần thiết như : Y hậu, bình bát, một tấm tọa cụ và một đảy lọc nước. Nếu thiếu một trong các thứ cần dùng nêu trên, thầy Sa-di không thể thọ được giới Tỳ-kheo.

Tấm vải nầy thường vuông vức bằng 1m x 1m, xếp gọn lại và bỏ trong xách tay hay cặp táp. Thầy Tỳ-kheo khi đi đâu cũng không rời y hậu và tọa cụ, vì lúc lễ Phật đều phải cần tới các thứ ấy.

Ngày nay, chúng ta ít thấy tăng sĩ Việt dùng tới miếng vải lót trải khi ngồi thiền hay vào chánh điện lạy Phật tụng kinh, phải chăng họ đã đi xa rời với hình thức của Phật giáo cổ truyền ? Tấm vải nầy về mầu sắc thường là mầu đà hay vàng lợt da cam.

Duy trì nếp sống và hình thức cố hữu trong Phật giáo, cũng có nghĩa là giữ gìn được mạng mạch của Phật pháp, vì cái gì hễ "phi cổ bất thành kim" vậy.

47.- Kiết Già Và Bán Già Khác Nhau Thế Nào ? (^)

Người tu thiền trong tư thế ngồi có hai cách : Ngồi kiết già hay bán già.

Thế nào là kiết già và thế nào là bán già ?

Những ai có thể ngồi thiền theo lối kiết già và những người nào ngồi theo lối bán già hay cả hai đều thực hành được ?

Thế ngồi bán già tức là ngồi vắt bàn chân trái để lên trên đùi bên chân phải. Thế ngồi nầy dễ đối với người mới tập sự tu Thiền, vì ít mỏi hơn so với thế ngồi kiết già. Người mới bắt đầu học theo phép tu Thiền định có thể ngồi theo lối bán già, rồi dần dần để cho việc ngồi được thục luyện, sau đó mới tập ngồi theo lối kiết già được. Kiết già là thế ngồi vắt bàn chân trái để lên trên đùi của chân bên phải và bàn chân phải để lên đùi của chân trái, ngồi hướng thẳng người đúng 90 độ, rồi bắt đầu tập trung tư tưởng.

Người nào chưa từng tập luyện bao giờ mà bắt đầu bằng thế ngồi nầy đều cảm thấy nhức mỏi khó chịu và chỉ cố gắng chịu đựng được trong vòng 10 hay 15 phút. Sau đó chân bị tê cóng và bước đi khập khểnh loáng choáng, vấp ngã. Những Thiền-sư chuyên tâm vào việc tọa thiền thường chú tâm ngồi thiền định suốt trong 5 đến 10 tiếng đồng hồ vẫn không biết mỏi. Một người trung bình có thể ngồi theo thế kiết già trong vòng một hoặc hai tiếng đồng hồ cũng không thấy có gì thay đổi cả.

Chúng ta có thể ngồi thiền theo lối kiết già và bán già cùng một thời gian thiền định đều được cả, nghĩa là lúc đầu ta ngồi theo cách kiết già, sau đó độ 20 phút hoặc nữa tiếng, tự cảm thấy mỏi và khó chịu thì đổi sang cách bán già cũng không có gì trở ngại cả.

Việc ngồi kiết già hay bán già không quan trọng mà điều cần thiết hơn cả là trong lúc ngồi như vậy, ta có tập trung được tư tưởng hay không mới đáng đề cập tới mà thôi.

48.- Du Tăng Khất Thực Và Hành Khất Khác Nhau Ở Điểm Nào ? (^)

Du tăng khất thực là người tăng sĩ sống đúng theo hạnh của Phật, ngày ăn một bửa, tối ngủ dưới gốc cây, không nhà cửa, chùa, thất mà cứ đi ta bà như thế suốt quanh năm để xin ăn và truyền bá Phật Pháp.

Chữ du trong du tăng có nghĩa là đi chu du hay vòng quanh tới nhiều nơi chốn khác nhau để xin của cúng. Do đó, bài thơ diễn tả ý nầy, có đoạn như sau :

Gót đạo sĩ bốn phương trời rải bước,

Cõi Ta-bà đâu chẳng phải nhà ta.

Một mình đi với bình bát, cà sa,

Đói xin ăn, nơi gốc cây nằm ngủ.

Mùi phú quí mặc ai người hưởng thú,

Bả vinh hoa ta nào có sá gì.

Chỉ một lòng tu niệm đạo từ bi,

Diệt phiền não cõi lòng thường thanh tịnh...

Đó cũng là hạnh nguyện của người tăng sĩ khất thực, thực hành đúng theo như Phật lúc còn tại thế. Phái Phật giáo quấn y vàng không chủ trương lập chùa, thiền viện, cơ sở ... mà chỉ có một tấm lòng hiến dâng cho đạo trong hạnh đi du phương cầu thực và lấy việc lợi sanh làm sự nghiệp. Họ biết bỏ cái "ngã" làm kẻ ăn xin, khiến cho người phát tâm đem lòng kính phục. Nếu có dịp chứng kiến thái độ kiên nhẫn của các sư khất thực nơi các khu phố, chợ có đông người để xin đồ, chúng ta mới thấy được là một việc rất khó thực hành đối với kẻ tầm thường.

Tuy nhiên, việc tu hành và truyền bá đạo Phật như thế, không thể nào gây được ảnh hưởng lớn được, vì thiếu cơ sở, thiếu tổ chức cũng như ít người hậu thuẩn, thì việc phát triển đạo Phật cũng bị thu hẹp và chậm chạp.

Chữ khất thực có nghĩa là khất cầu Phật Pháp để đổi lại thức ăn nuôi lấy pháp thân huệ mạng, do nơi phát tâm cao thượng của người thực hành mà có, trong khi đó, hành khất có nghĩa là xin ăn theo một ý nghĩa xấu hoàn toàn, nhằm gán cho kẻ tồi trong xã hội.

Trong hiện tại, ta ít thấy các nhà sư tu theo hạnh khất thực, có lẽ một phần vì tập quán các nơi có khác, một phần vì người tu theo hạnh du phương đã ít, và một số các nước theo truyền thống nguyên thủy Phật giáo lại nằm trong vùng kiểm soát của Cộng-sản.

49.- Tham Thiền, Thiền Định Và Tọa Thiền Khác Nhau Thế Nào ? (^)

Phật giáo phái Thiền-tông chủ trương tu thiền hay thiền quán, tức là ngồi định tâm để tập trung tư tưởng vào một điểm cố định theo ý muốn của hành giả.

Việc tu thiền có nhiều căn cơ và trình độ khác nhau, tùy theo công phu tu tập của người thực hành nhiều hay ít mà có chỗ đạt ngộ cao thấp không đồng nhau. Những danh từ tham thiền, thiền định và tọa thiền đều có nghĩa là tu theo phép quán tưởng để tập trung tư tưởng cả, tuy nhiên ý nghĩa có sự khác nhau, ta cần phân biệt :

Tọa thiền mà Phật giáo phái thiền Nhật-Bản gọi là Zazen, dùng để chỉ chung cho mọi trình độ cao thấp khác nhau về việc thực hành, kể cả người mới bắt đầu tu cũng đều gọi là tọa thiền được vậy.

Thiền định chỉ cho một người có trình độ tu tập cao và đã đạt được đến giai đoạn thuần thục, trong việc tập trung tư tưởng rất dễ dàng, như đức Phật Thích-Ca ngồi thiền định (nhập định) suốt 49 ngày dưới cây Bồ-đề cho tới khi giác ngộ tức là chứng quả thành Phật.

Tham thiền hàm chứa 2 ý nghĩa khác nhau :

1.- Đại tham là một cuộc tập họp đại chúng rộng rãi do vị Thượng- Tọa Thiền-sư chủ xướng để mọi thiền sinh có cơ hội tham cứu về lý thuyết lẫn thực hành việc tu thiền. Tuy nhiên, trong trường hợp có mặt đông đảo các thiền sinh nầy, những người nào có căn cơ khá vững chắc về thiền mới dám đặt câu hỏi. Vì vị thiền sư thường hay lật ngược các câu hỏi để khám phá ra trình độ tu chứng của người hỏi.

2.- Tiểu tham là việc tham cứu về thiền một cách bán chính thức. Trong những giờ rãnh rỗi, vài ba người gặp vị Thượng-Tọa Thiền-sư nơi sân cỏ hoặc ngoài vườn hoa đều có thể lợi dụng cơ hội tốt để hỏi thêm về những cách thức tu tập. Những người mới bắt đầu học tu thiền nên theo lối tham cứu nầy rất lợi ích vậy.

Môn thiền ngày nay rất thịnh hành ở Âu Mỹ, vì con người sống trong các xã hội văn minh cơ khí nên đầu óc luôn luôn bận rộn, họ cần có thì giờ để tập trung tư tưởng mà thiền Phật giáo là pháp môn hữu hiệu nhất.

50.- Tự Viện Có Khác Với Chùa Không ? (^)

Tự viện là tiếng gọi chung cho ngôi chùa, nơi ấy tăng chúng tu học và sống trong tinh thần lục hòa (xem bài 6 phép lục hòa) của Phật giáo.

Tự viện nói cho đủ là chùa và Phật-học-viện hay Phật-học-đường gồm có một số đông tăng sĩ cùng nhau chung sống để học hỏi và thực hành Phật giáo dưới sự chăm sóc và điều hành của một Giám-viện hay Ban-giám-đốc. Danh từ tự viện còn được dùng theo lối kính ngữ, như trong trường hợp người đối diện với ta là trụ trì của một ngôi chùa. Khi muốn hỏi thăm về cách sinh hoạt của ngôi chùa ấy chẳng hạn, ta dùng tiếng "quý tự" hay "quý viện" rất đẹp vô cùng.

Cũng cần phân biệt giữa "tự" và "viện". Tự thường nhỏ hơn viện, trừ những ngôi cổ tự (chùa cổ) còn hầu hết các ngôi chùa kiến trúc theo lối tân đều có cả trường học, có sân rộng, vườn hoa ... Như vậy, nơi nào có đông tăng chúng ở tu học, với một ban giảng huấn điều hành việc giảng dạy được gọi là Phật-học-viện, còn ngược lại, thiếu hai yếu tố trên gọi là chùa hay tự.

Hiện tại ở hải ngoại, chùa và viện Phật học lần lượt được thiết lập tại nhiều nơi như Hoa-Kỳ, Pháp, Đức, Canada, Úc-Đại-Lợi. Đây là công tác Phật sự quan trọng của cộng đồng người Việt từ sau năm 1975, vì ở trong nước các ngôi chùa, các Phật-học-viện đã bị đóng cửa vĩnh viễn, tăng sĩ phải hoàn tục hay đi vùng kinh tế mới. Hiện tại các Phật-học-viện cho mở lại dưới kế hoạch của nhà nước.

Nhiều chùa và Phật-học-viện càng được xây thêm, càng chứng tỏ rằng tiếng pháp âm của Phật giáo còn được tiếp tục duy trì và phát triển ở nhiều nơi trên thế giới.

KIẾN THỨC

CĂN BẢN PHẬT GIÁO

TT.Thích Bảo Lạc

--- o0o ---

CHƯƠNG 5

CÁCH XƯNG HÔ

2.- Hòa Thượng Là Gì ? Ai Được Tôn Xưng Danh Hiệu Nầy? (^)

Hòa-Thượng (the most venerable) dịch là "lực sanh" nghĩa là nhờ đời sống tâm linh thanh tịnh của vị đó khiến cho đạo lực của giới tử (người theo học) được phát sanh.

Hòa-Thượng còn có nghĩa là "thân giáo sư" tức là thầy gần gũi nhất của mình để học hỏi, vì thế cũng có nghĩa là "y học" tức là người mình nương tựa để học đạo. Hòa-Thượng còn là người chứng minh tối cao trong hội đồng truyền giới Tỳ-kheo, Bồ-Tát...

Những Tăng sĩ nào mới được tôn xưng là Hòa-Thượng ?

Trong Phật giáo vốn không có giai cấp, tuy nhiên, trong khi truyền giới để làm tăng sự trang nghiêm cho buổi lễ cũng như gây được cho người thọ giới một ấn tượng tốt và đặc biệt khó quên trong đời tu học nên phải cung thỉnh một vị Hòa-Thượng lớn tuổi chứng minh. Hòa-Thượng phải là người đã thọ giới Tỳ-kheo và có an cư kiết hạ từ 20 năm trở lên. Những tăng sĩ tuy đã thọ giới Tỳ-kheo, nhưng không sống theo tăng đoàn tu học mỗi năm 3 tháng vào mùa mưa để tinh chuyên giới hạnh thì không đủ tư cách để tôn xưng Hòa-Thượng. Hòa-Thượng khác với Thượng-Tọa ở tuổi đạo và tuổi đời, vì nhiều kinh nghiệm tu hành và giới đức tinh nghiêm hơn.

Ở trong một xã hội vô trật tự thì giới nhà tu cũng nảy sinh ra một hiện tượng mới là những Hòa-Thượng trông có vẽ luộm thuộm thiếu tư cách, thiếu tác phong đạo đức như phá giới và tự xưng là bậc thánh có thể làm được phép nầy phép nọ để làm thay đổi dược hoàn cảnh hay các hiện tượng thiên nhiên. Người tăng sĩ chân chánh tu hành không cần đề cao về mình như thế. Giá trị đạo đức và tư cách sống là thước đo đúng đắn nhất về một người. Kẻ giả danh đạo đức và cao ngạo, tự tỏ ra khinh khi mọi người để lừa bịp sự dễ tin của quần chúng, sẽ bị gán cho nhiều danh từ không mấy tốt đẹp.

Người Phật tử chân chánh phải phân biệt rõ ràng để khỏi nhầm lẫn khi xưng hô các thầy lãnh đạo tinh thần một cách quá đáng.

3.- Đại Đức Phải Đủ Những Đức Tánh Gì ? (^)

Đại-Đức (Reverend, Reverand) là người xuất gia tu hành đã thọ đủ 250 giới Tỳ-kheo và tuổi từ 20 trở lên. Ở trong đạo, vị ấy là người đã thông suốt được kinh luật, có khả năng ứng dụng Phật Pháp trong quần chúng một cách linh động.

Như vậy, danh từ Đại-Đức chỉ người có cả phước lẫn huệ dầy đủ, xứng đáng nhận lãnh vai trò lãnh đạo tinh thần cho hàng Phật tử tại gia.

Khi Phật còn tại thế, các Tỳ-kheo cũng xưng Phật là Đại-Đức Thế-Tôn hay bạch Đại-Đức ... mỗi khi có việc cần thưa thỉnh. Vì danh từ Đại-Đức Thế-Tôn dùng để gọi chung cho các đức Phật về đời quá khứ, nên cũng còn có nghĩa là mẫu người đáng kính và đáng tôn trọng. Đại-Đức dùng để tôn xưng các giáo sĩ, các nữ tu thuộc các tôn giáo khác mà không riêng gì Phật giáo. Ví dụ : La Reverende Mère superieure : Đức Mẹ bề trên.

Với ý nghĩa cao đẹp đó, nếu những tu sĩ tuổi đời tuy cao, nhưng khi vào đạo chưa thọ giới Tỳ-kheo cũng như chưa có khả năng thâm hiểu về đạo Phật thì chưa đủ tư cách Đại-Đức được. Tuy nhiên, việc tôn xưng còn tùy thói quen ở mỗi nơi như ở một số những ngôi chùa không mấy đông Tăng chúng, thầy Bổn-Sư thu nhận đệ tử xuất gia có khả năng về trình độ học thức ngoài đời, đã lớn tuổi có tác phong đứng đắn cũng được bổn đạo chùa tôn kính vào hàng Đại-Đức.

Thật ra cách xưng hô trong Phật giáo không mang tính cách chức vị, quyền uy như các phẩm trật ngoài đời. Trong Phật giáo còn một tính cách hết sức dân chủ là chúng Tỳ-kheo tự tôn trọng nhau về tuổi đạo hơn tuổi đời, như trường hợp vị lớn tuổi hơn nhưng thọ giới Tỳ-kheo sau người nhỏ tuổi cũng phải kính vị nhỏ tuổi kia như người đi trước, bậc đàn anh.

Khi dùng cách xưng hô đối với nhà lãnh đạo tinh thần các tôn giáo, chúng ta phải thật thận trọng để khỏi phải hạ mình cách quá đáng và nhiều khi tạo cho người đối tượng một vách ngăn cách biệt !

4.- Hãy Phân Biệt Chú Tiểu, Điệu Hoặc Ông Đạo ? (^)

Chú tiểu, điệu hay ông đạo là những danh từ mà người tín đồ Phật tử thường dùng để gọi những Tăng sinh mới xuất gia ở trong giai đoạn bắt đầu thực hành Phật giáo.

Miền Bắc Trung Nam có một số từ khác biệt nhau, dĩ nhiên chỉ có người trong cùng một miền mới biết rành mà thôi. Chú tiểu là danh từ người miền Bắc hay dùng để gọi các chú bé mới xuất gia vào chùa tu, đầu đã cạo tóc nhưng còn chừa lại một chỏm tóc dài ở phía trước, còn điệu là tiếng của người miền Trung để gọi chú bé vừa mới tập sự học Phật. Trong khi đó, ông đạo là tiếng được dùng ở miền Nam cũng chỉ cho người mới xuất gia vào ở chùa. Chú tiểu là thời kỳ chưa phải làm việc gì nặng nhọc cả, ngay cả giới luật cũng chỉ có mới thọ 5 giới như người tu tại gia mà thôi. Trường hợp các em bé ở chùa lâu năm, cho tới khi thọ giới Sa-di, tín đồ bổn đạo vẫn gọi là điệu hoặc chú tiểu như thường, vì quen miệng và thân thiết chăng ! Ở miền Bắc còn có danh từ "Sư Bác" để gọi các tăng sinh đã thọ giới Sa-di và đã lớn tuổi. Thay vì gọi Đại-Đức hay Thầy, còn danh từ ông Đạo của người miền Nam gọi trong thời kỳ mà thầy tăng còn tuổi nhỏ, mới thọ 10 giới Sa-di thật đàng hoàng và đúng nghĩa.

Một vài khác biệt về cách xưng hô đối với người tăng sĩ trẻ tuổi là như vậy, trên thực tế ngày nay mọi người đều hiểu được ý nghĩa và cả cách dùng nữa.

Biết được thói quen của mỗi nơi, chúng ta mới dùng đúng cách và chính xác được những danh từ trong Phật giáo rất phổ thông nầy.

Cả ba cách xưng hô trên cũng đều nằm trong cùng một ý nghĩa, do thói quen của mỗi nơi mà tên gọi có khác.

5.- Đệ Tử Là Gì ? (^)

Đệ tử là người học trò, người nhỏ tuổi hơn tự xưng với người lớn tuổi và những bậc thầy dẫn đạo có đủ tư cách chỉ dẫn cho mọi việc để học hỏi.

Trong Phật giáo, danh từ đệ tử được dùng chỉ tất cả mọi người theo học hỏi giáo lý giải thoát và tôn xưng đức Phật là bậc thầy sáng suốt, kẻ chỉ đạo đúng đắn để nương theo. Ở các bài Sám Nguyện thường hay mở đầu bằng tiếng đệ tử như :

Đệ tử chúng con từ vô thỉ

Gây bao tội ác bởi lầm mê.

Đắng trong sanh tử đã bao lần,

Nay đến trước đài vô thượng giác ...

Hoặc : Đệ tử hôm nay gặp ngày Khánh-Đản, hay : Đệ tử kính lạy đức Phật Thích-Ca v.v...

Như thế, chữ đệ tử mang một ý nghĩa bao quát và có hàm ý rằng y như pháp mà thành tựu được việc tu hành của kẻ khao khát muốn tìm về chân lý của Đức Phật. Đức Phật có đủ mọi đức tính : Từ bi, bình đẳng, bao dung ... đáng để cho chúng ta nương theo học hỏi, cũng như người học trò quý mến thầy và tự nhận mình là đệ tử. Không những trong phạm vi Phật giáo tiếng đệ tử được dùng mà ngay trong các lãnh vực sinh hoặc ngoài đời cũng vẫn áp dụng nói một cách tự nhiên.

Các nhà mô phạm, những bậc thánh nhân, các giáo chủ của tôn giáo là thước đo giá trị đạo đức cho đời sống tinh thần đúng đắn nhất mà người theo học là kẻ đến sau, như là học trò vậy.

6.- Nam Mô Có Nghĩa Là Gì ? Và Tại Sao Trước Danh Hiệu Phật VÀ Bồ Tát Đều Có Tiếng Nầy ? (^)

Nam-mô vốn là tiếng Phạn đã quen dùng trong giới Phật tử và trở nên phổ thông nên ít có ai để ý tìm hiểu ý nghĩa. Mỗi khi chúng ta niệm chữ Nam-mô, thiết tưởng nên biết rõ để việc làm nầy thêm phần lợi ích thiết thực.

Nam-mô tiếng Trung-Hoa dịch ra thành sáu nghĩa như : Cứu ngã, độ ngã, quy mạng, đảnh lễ, sám hối, độ thoát ; tức là chúng ta đang sa ngã vào cõi đời trần tục phải cầu chư Phật, Bồ-Tát cứu độ ra khỏi cảnh khổ, sự mê lầm để nhờ đó ta nương về với các đấng giác ngộ, học theo hạnh từ bi và nguyện với lòng thành lễ lạy cầu được phước đức cho chính ta và những người liên hệ. Vì tin tưởng vào sự nhiệm mầu ấy, chúng ta thành kính, nguyện đem lòng thành hướng về với chư Phật, Bồ-Tát để học hỏi, nương tựa theo những lời giáo huấn sáng suốt làm kim chỉ nam cho việc tu hành hầu xây dựng một đời sống tốt đẹp. Do đó, khi đi đường, lúc vào chùa gặp một vị Tăng Ni, chúng ta thường chắp tay niệm Nam-mô A-Di-Đà Phật. Người đối diện cũng đáp lễ lại bằng câu niệm ấy. Cách chào hỏi của người Phật tử, thay vì bắt tay như người Tây-phương mỗi khi gặp nhau, lại dùng câu niệm Phật, thật đầy đủ ý nghĩa.

Nói khác hơn, Nam-mô là tiếng xưng hô dùng cho Phật, Bồ-Tát và các bậc tu hành đã giác ngộ để tỏ ra cung kính, tán dương mà người học Phật luôn luôn có tâm niệm muốn noi dấu chân Phật.

7.- Cho Biết Tứ Hoằng Thệ Nguyện Là Gì ? (^)

Tứ hoằng thệ nguyện là bốn lời phát nguyện rộng lớn của người Phật tử để cầu cho tất cả chúng sanh đạt đến đạo Vô-thượng Bồ-đề.

Bốn điều thệ nguyện đó như sau :

- Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ : Chúng sanh có muôn loài, xin thề nguyện cứu độ tất cả.

- Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn : Phiền não không cùng tận xin nguyện đều dứt sạch.

- Pháp môn vô lượng thệ nguyện học : Các pháp môn có nhiều và sâu rộng như biển cả mênh mông nhưng người tu học nguyện học hỏi để đạt tình thấu lý.

- Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành : Cầu mong tu hành đạt đến giác ngộ, giải thoát an vui.

Đây là phần tụng trước khi hồi hướng (trong các khóa lễ kỳ an hay kỳ siêu) và người hành trì nguyện đem tất cả phước lành đã tạo được, hướng về tất cả nhân loại chúng sanh, mong cho đều được hạnh phúc, an vui. Xin gợi ý, bốn lời phát nguyện nên dịch sang vần để dễ dàng thuộc và nhớn lúc tụng đọc :

Chúng sanh độ khắp xa gần

Não phiền rũ sạch lòng trần nhẹ lâng

Pháp mầu số lượng chuyên tâm

Đạo Phật vô thượng thậm thâm nguyện thành.

Kinh điển của Phật giáo rất nhiều không kể xiết, mỗi lời, mỗi câu đều mang một ý nghĩa rất sâu sắc. Khi đã hiểu được trọng vẹn mạch ý của cả bài, lúc tụng đọc chúng ta mới thấy được lý thú.

8.- Thất Chúng Trong Phật Giáo Là Thế Nào ? (^)

Đệ tử của Phật gồm 2 thành phần là xuất gia và tại gia mà trong đó còn chia ra thành bảy chúng khác nhau.

Đoàn thể xuất gia gồm có 5 chúng và Phật tử tại gia có 2 chúng như sau :

Xuất gia gồm : Sa-di (nam giới thọ 10 giới căn bản) Sa-di-ni (nữ giới), Tỳ-kheo (nam giới thọ 250 giới và phải trên 20 tuổi), Tỳ-kheo-ni (nữ giới 348 giới) và Thức-xoa-ma-na (nữ giới xuất gia phải thọ 6 giới Thức-xoa trước khi thọ giới Tỳ-kheo-ni). Còn thành phần của Phật tử tại gia có 2 chúng là Ưu-bà-tắc hay Cận-sự-nam, tức nam giới Phật tử thực hành Phật giáo tại gia và Ưu-bà-di hay Cận-sự-nữ hoặc thiện nữ nhơn, để chỉ cho người Phật tử đã quy y Tam-Bảo và giữ năm giới cấm. Tuy nhiên, gọi 6 chúng đệ tử Phật cũng không sai vì giới Thức-xoa-ma-na chỉ dự bị cho giới Tỳ-kheo của bên Ni mà thôi. Dù tu tại gia hay xuất gia, người Phật tử vẫn làm được việc Phật sự. Hai thành phần đệ tử của Phật bày hợp nhau lại để chung sức chung lòng phát triển ngôi nhà Phật giáo. Một đời vua Asoka của Ấn-Độ sau Phật Niết-Bàn 300 năm, vua Trần-Thánh-Tông của Việt-Nam ... là những vị Bồ-Tát hiện thân cư sĩ tu tại gia đã tạo nên cho Phật giáo những công trình thật vĩ đại, đáng ghi nhớ đời đời. Do đó, việc duy trì và phát triển Phật giáo là vai trò của người xuất gia và bổn phận của người Phật tử tại gia.

Người tu sĩ hay cư sĩ Phật tử cũng đều là đệ tử của Phật nên việc hợp lực nhau để làm việc Phật sự thì không còn lãnh vực tại gia hay xuất gia mà tùy thuộc vào khả năng, thiện chí và phương tiện thực hiện.

9.- Hãy Giải Thích Ý Nghĩa Của Cổng Tam Quan Chùa ? (^)

Ở những ngôi chùa cổ phía trước chánh điện, nơi mặt tiền, cách một cái sân, nơi lối ra vào có một cửa chính chia ra làm 3 lối đi gọi là cửa tam quan.

Tam quan là 3 cửa hay 3 lối đi dẫn vào phía bên trong chùa. Chính giữa rộng, hai lối đi hai bên thường hẹp, chỉ đủ cho một người vào lọt. Cổng chỉnh thường đóng kín lại, mỗi khi có lễ lạc gì lớn mới được mở ra để cho khách vào chùa chiêm bái.

Ngày xưa, những ngôi quốc tự do nhà nước lập ra, cổng chính dành riêng cho các quan chức cao và vua chúa mỗi khi đến lễ Phật, còn dân chúng và hàng quan lại cấp nhỏ chỉ được phép vào chùa bằng lối đi hai bên cổng mà thôi.

Những ngôi chùa lớn có lối kiến trúc cổng tam quan cũng đồ sộ để cho được cân xứng, mỹ thuật. Những ngày thường nhật cửa tam quan thường đóng và chỉ mở một cổng bên phía tay phải để cho khách vào ra lễ Phật, ngoạn cảnh. Cổng chùa không lập quá xa với chánh điện thờ Phật, nghĩa là tùy theo phạm vi rộng hẹp của mỗi nơi và cổng tam quan chỉ cách điện Phật một cái sân thôi. Những ngôi chùa ở trên núi cao, cũng có lối kiến trúc cổng tam quan gần với chánh điện mà không quá xa, cách biệt ở dưới chân núi.

Ngày nay, việc xây chùa và cổng chùa không còn giữ được theo lối kiến trúc thuần túy mỹ thuật cổ điển nữa mà đã bị pha trộn theo đủ lối, đủ kiểu Âu Á lẫn lộn. Do đó danh từ cổng tam quan không còn mấy thông dụng cũng như ít có người biết đến, như trường hợp những ngôi chùa trong các đô thị theo hình thức mới nầy.

Nếp sinh hoạt tăng viện thay đổi cho phù hợp với thời đại, nhưng hình thức cổ điển của cổng chùa và mái chùa tượng trưng cho dân tộc tính cần được duy trì thì hay hơn cả.

10.- Mười Hiệu Xưng Tán Đức Phật Gồm Có Những gì ? (^)

Phật thường đầy đủ phước đức, tướng mạo trang nghiêm với 80 vẽ đẹp và 32 tướng tốt, xứng đáng là bậc thầy của nhân loại. Mười hiệu xưng tán đức Phật là : 1- Như-Lai, 2- Ứng-cúng, 3- Chánh-biến-tri, 4- Minh-hạnh-túc, 5- Thiện-thệ, 6- Thế-gian-giải, 7- Vô-thượng-sĩ, 8- Điều-ngự-trượng-phu, 9- Thiên-nhơn-sư, 10- Phật, Thế-Tôn.

Tại sao phải dùng 10 hiệu khác nhau để xưng tán đức Phật ? Đức Phật ra đời vì muốn chỉ bày cho chúng sanh tìm thấy Phật tánh của mình do công phu tu tập để đạt đến giác ngộ hoàn toàn như Phật. Như hoa sen trong bùn lầy mà vẫn có mùi thơm ngào ngạt. Đức Phật cũng như thế, dù ở trong cõi đời khổ đau mà vẫn giác ngộ nên đáng ca tụng là bậc thầy của cả trời và người. Chữ Như-Lai có nghĩa là thừa cái đạo như thật để chứng quả Chánh-đẳng Chánh-giác nên gọi là Như-Lai. Ứng-cúng tiếng Phạn là A-la-ha tức là thọ nhận của trời và của người cúng dường. Chánh-biến-tri là giác ngộ. Minh-hạnh-túc là do tu tập ở túc mạng nhiều đời mà tỏ ngộ. Thiện-thệ dịch là Tu-già-đa tức là lấy trí huệ sáng suốt chứng được Niết-Bàn. Thế-gian-giải dịch là Lộ-già-bị tức giải bày rõ về pháp "Hữu" và "Vô" ở thế gian. Vô-thượng-sĩ, tiếng Phạn gọi là A-nậu-đa-la tức giải thoát mọi ràng buộc. Điều-ngự-trượng-phu : Điều phục mọi ý niệm xấu ác dũng mãnh không sợ sệt. Vì Đức Phật là bậc thầy soi đường cho cả trời và người và hiệu sau cùng để tán tụng bậc trí giác toàn vẹn được đời chiêm ngưỡng.

Ở bài kinh sám hối có 10 hiệu Như-Lai để tán dương công đức tu hành của Đức Phật và người học Phật nguyện học hành theo các công đức lành ấy.

11.- Lục Độ Là Những GÌ ? (^)

Lục độ hay 6 pháp độ được người qua khỏi bể sanh tử mà hàng Bồ-Tát chọn làm pháp môn tu tập là :

- Bố thí : Ban cho kẻ khác niềm an lạc. Không cứ cho đồ vật mới gọi cho mà có thể cho cả lời nói, cử chỉ để an ủi người cô thế, tức là ta đã thực hiện được hạnh bố thí rồi.

- Trì giới : Giữ gìn giới cấm, trước là để răn mình làm điều phi pháp, sau để làm gương cho người khác noi theo.

- Nhẫn nhục : Nhịn chịu mọi nghịch cảnh không có nghĩa là người dại dột mà để thể hiện sức cố gắng của người mà tâm địa đã đạt được một trình độ cao mới thực hiện nổi.

- Tinh tấn : Tiến tới không lùi sụt hay ngừng nghỉ khi bắt tay vào làm một việc gì khó khăn.

- Thiền định : Dùng con mắt quan sát, suy tư trong yên tịnh và lắng lòng để gạn lộc phiền não nơi tâm.

- Trí huệ : Là sự nhận thức đúng, suy đoán lanh lợi, như con dao sắt cạnh của mỗi người dùng cắt mọi ràng buộc, chi phối trong đời sống nội tâm. Trí huệ cũng còn là sự nghiệp hành đạo của người tu hành (duy huệ thị nghiệp).

Người nào thực hành đúng theo phép 6 độ một cách trọn vẹn tức là thể hiện được phần não hạnh Bồ-tát trong đời nầy.

12.- Tứ Vô Lượng Tâm Là Gì ? (^)

Bồ-Tát tu hành pháp bố thí trong 6 độ (bố-thí, trì-giới, tinh-tấn, nhẫn-nhục, thiền-định, trí-huệ) và Tứ-vô-lượng-tâm là một trong muôn hạnh lành.

Tứ-vô-lượng-tâm là tâm-từ, tâm-bi, tâm-hỷ, tâm-xả, tức là lòng quảng đại, thương xót, vui thuận và tha thứ là bốn yếu tố cần thiết làm tư lương cho việc tu tập tâm từ bi thường gắn liền với nhau, nhưng trong ý nghĩ có sự khác biệt rất xa. Vì cái tâm rộng khắp không lường có thể làm Phật, Thánh Hiền, ma quỷ cũng từ đó phát sanh. Để diễn tả cái tâm, cổ nhân có tác bốn câu thơ như vầy :

Tam điểm như tinh tượng

Hoành câu tợ nguyệt tà

Phi mao tùng thử đắc

Tác Phật giả do tha.

Dịch :

Ba chấm như vì sao

Cong vòng vành trăng khuyết

Lông sừng từ đây đội

Làm Phật cũng do tâm.

Tâm tạo ra sơn hà đại địa, thế giới muôn loài, cho nên người tu cần phải vận dụng hết lòng ngay thật của mình vào việc tu niệm để giúp đỡ cho kẻ khác. Đây là hạnh nguyện độ sanh mà hàng Bồ-tát thường xả thân làm việc thiện.

Bốn thứ tâm lành rộng lớn chỉ có được khi nào người Phật tử biết hy sinh cả thân mạng để làm việc lợi ích cho kẻ khác mới có được.

13.- Chùa Và Tự Viện Khác Nhau Ra Sao ? (^)

Chùa là tiếng rất phổ thông ai cũng biết cả. Chùa do chữ Tự (pagoda hay temple) có từ thế kỷ thứ 2 thứ 3 Tây-lịch. Các ngài Ca-Diếp Ma-Đằng và Trúc-Pháp-Lan từ Ấn-Độ qua Giao-Châu ở Hồng-Lô tự dịch kinh Tượng-Đầu-Báo-Nghiệp Sai-Biệt và kinh Tứ-Thập-Nhị-Chương.

Chùa và Tự Viện khác nhau ra sao ? Cho tới nay cả 2 danh từ đều được dùng lẫn lộn, ít có ai phân biệt được chỗ khác nhau. Tuy nhiên, hiểu theo văn hiện đại người ta ưa dùng chữ Tự Viện hơn Chùa, nhất là trên các văn thơ về phương diện ngoại giao. Chữ Tự Viện ngoài ra, còn hàm ý rằng nơi rộng rãi khoảng mát, do một Tăng sĩ trẻ tuổi trụ trì. Nói chung, Chùa hay Tự Viện đều chỉ có một người trông coi. Vị nầy là Viện-chủ, tức là người giữ mối giềng thể thống của tông môn mà duy trì mạng mạch của Phật giáo cho các thế hệ kế tiếp.

Chùa đối với người Việt-Nam có tín ngưỡng là nơi nương tựa tinh thần cần thiết không thể thiếu được. Nó cũng như chất dinh dưỡng cho các mầm non của các lớp tuổi trẻ mai sau. Chùa vì thế rất quen thuộc đối với người dân quê, như gắn liền vào đời sống của họ. Trong khi đó, ở thành thị được nhắc tới danh từ Tự Viện hơn chùa. Nói một cách khác, theo thói quen người ta dùng Chùa hay Tự Viện, nhưng chữ Tự Viện có phần văn vẽ hơn nhiều.

Chùa là hình ảnh quen thuộc khó quên trong đời người. Dù có đi đâu xa, ngôi chùa làng vẫn như còn ngự trị nơi tâm tư của người lữ thứ. Do ý nghĩa nầy, các nhà thơ, nhà văn không tiếc lời để diễn tả nỗi niềm cảm mến cảnh chùa của mình thật đậm đà và chan chứa tình nước tình quê. Đây ta hãy nghe nhà thơ Nguyễn-Bính bộc lộ ý nghĩ chân thành nầy qua mấy câu thơ sau :

Quê tôi có gió bốn mùa,

Có trăng giữa tháng, có chùa quanh năm.

Sương khuya, gió sớm, trăng rằm,

Chỉ thanh đạm thế, âm thầm thế thôi.

Mai nầy tôi bỏ quê tôi,

Bỏ trăng, bỏ gió chao ôi bỏ chùa !

Chùa hay Tự Viện là nơi công cộng cho tín đồ làm chỗ sinh hoạt vào những dịp lễ vía hay sám hối và hội họp v.v... Như vậy, nơi nào có vị Sư trụ trì, có tổ chức đoàn thể như gia đình Phật tử, ban-hộ-niệm, ban-tương-tế xã-hội ... đều được gọi là chùa cả.

Người Việt hải ngoại ngày nay đều lập ra các hội Việt kiều Phật tử, phần nhiều lại thiếu thầy lãnh đạo, nhưng các hội nầy là bước đầu trong việc lập các ngôi chùa trong tương lai.

14.- Thiền Thất Hay Thảo Am Là Gì ? (^)

Phật giáo Thiền-tông rất quen thuộc với danh từ thiền thất hay thảo am. Vậy, ý nghĩa của nó là gì ?

Thiền thất là nhà thiền nơi mà vị Tăng sĩ lập ra để tu tập, nhưng lấy việc tọa thiền làm chánh. Thiền thất vì thế không lớn, chỉ vừa đủ một người tu tập thôi. Bên trong thiền thất, thiền sinh thường không trang hoàng gì nhiều, ngoài những hình ảnh và cách tu thiền như mười bức họa chăn trâu (thập mục ngưu đồ), hình Tổ Bồ-Đề Đạt-Ma, hình con trâu đen hoặc trắng có một người dắt trong tư thế đã hàng phục được trâu, tượng trưng cho tâm hành giả cũng được chế ngự mọi phiền não do công tu luyện mà thành. Bên ngoài thiền thất thường có sân rộng với cây cảnh mát mẻ, nhất là vườn có trồng hoa cho bông đơm nở tốt tươi để làm trợ duyên cho việc tu thiền.

Thảo am không là danh từ Phật giáo thuần túy, vì những nhà thơ văn muốn có một đời sống biệt lập với mọi người, cũng như cần sự yên tỉnh để làm việc viết lách, đọc sách nên lập ra một túp lều tranh nho nhỏ xinh xắn để sinh hoạt trong đó. Thảo am vì thế thường không rộng mà chỉ đủ cho một người ở để việc sinh hoạt về lý trí được yên tỉnh, không bị hoàn cảnh chung quanh chi phối.

Ngày nay chúng ta không tìm thấy thảo am nào ở trong xã hội văn minh vật chất nầy cả, một phần do cuộc sống hiện tại đã bị nhiễm độc bởi tiếng động cơ, hơi độc của chất hóa học phóng ra khắp nơi trong vũ trụ, một phần tâm thức con người cũng đã bị mất thăng bằng giữa đời sống vật chất và tinh thần, nên ít ai nghĩ tới việc tìm về nơi núi sâu rừng thẳm để luyện trí chăng ? Song song với danh từ thảo am còn có "cốc" cũng giống như thiền thất, do các thiền sinh lập để làm nơi tham thiền, biện đạo.

Thiền thất, thảo am, cốc là những nơi dành riêng cho người nào có một tâm thức sáng ngời và muốn sống gần gũi với thiên nhiên để phát triển tinh thần trong phạm vi tu tập rất thích hợp.

15.- Chánh Điện và Đại Hùng Bảo Điện Khác Nhau Như Thế Nào ? (^)

Chánh điện (sanctuary) là nơi tôn trí, thờ phụng hình tượng Phật, Bồ-Tát thường được xây ở gian giữa của ngôi chùa.

Khách từ ngoài vào cổng chính bước vào chùa liền thấy ngay được hình ảnh đức Phật tọa trên tòa sen trong tư thế bán già hay kiết già đang nhìn ra hướng sân chùa. Chánh điện chữ Hán đã được dùng theo nghĩa tiếng Việt tức là điện thờ Phật. Nếu gọi một cách thành kính trang nghiêm là Đại-hùng-bảo-điện, điện báu thờ đức đại hùng, tức là đức Phật có đại-hùng, đại-lực, và đại-từ-bi. Chữ bảo là báu như ngọc ngà châu báu, trong ý nghĩa của 3 ngôi báu : Phật, Pháp, Tăng, tức là Tam-Bảo được thờ trong chùa vậy. Mỗi khi ở ngoài vào lễ Phật, ta gọi là lên chánh điện, ít người gọi điện đại hùng, vì danh từ chỉ dùng để khắc bản trước điện thờ Phật. Trong ý nghĩa đó, người Nhật-Bản không gọi điện thờ Phật là chánh điện mà gọi là Hondo (bổn đường). Hondo có nghĩa là gian nhà chánh giữa, cũng đồng nghĩa với chữ chánh, trong nghĩa của chữ chánh điện vậy.

Chánh điện có lối trang trí như thế nào còn tùy thuộc vào khả năng tài chánh của mỗi ngôi chùa và theo khiếu thẩm mỹ của người lập nên nữa. Có nhiều ngôi chánh điện chúng ta mới bước vào đã cảm thấy tâm trí nhẹ nhàng thư thái như trút bớt được những phiền não ưu tư của cuộc sống phức tạp ngoài đời. Việc tôn trí chánh điện cho được trang nghiêm cũng thu hút nhiều người quy về với chánh pháp của Phật Tổ ... Trong điện thờ Phật thật đơn giản và chỉ một tôn tượng của đức Thích-Ca, hay Bồ-Tát Quán-Thế-Âm hoặc tượng Phật A-Di-Đà mà thôi.

Người hành trì Phật giáo nhờ sự mới thấu đạt lý, cho nên ngôi chánh điện phải thật gọn gàng, nhưng không kém phần trang nghiêm và mỹ thuật.

16.- Bát Công Đức Thủy Là Thế Nào ? (^)

Cảnh giới Cực-Lạc của đức Phật A-Di-Đà an vui thanh tịnh mà ở đó, theo kinh A-Di-Đà, bốn mùa cây cối xanh tươi và nhạc trời tấu khúc, chim hót líu lo vang lừng suốt ngày đêm, có ao thất bảo, trong ao chứa nước đủ 8 thứ công đức. Nước 8 thứ công đức đó là :

1.- Nước lóng trong

2.- Lạnh mát không cáu bợn

3.- Vị ngọt thơm ngon

4.- Uống vào tâm hồn nhẹ nhàng khoan khoái

5.- Thấm nhuần

6.- An hòa

7.- Nước uống vào trừ được đói khát

8.- Nước uống vào các căn lành đều tăng trưởng.

Một đoạn trong kinh Di-Đà nói về nước tám công đức như sau : "Hữu thất bảo trì, bát công đức thủy sung mãn kỳ trung trì để thuần dĩ : Kim sa bố địa, tứ biên giai đạo kim ngân, lưu ly, pha lê, xa cừ, mã não, nhi nghiêm sức chi ..."

(Có ao bảy báu với nước tám thứ công đức đầy đủ. Trong đáy ao thuần toàn cát vàng trải ra. Mặt đất và quanh bốn bên lát toàn vàng bạc, lưu-ly, pha-lê, xa-cừ, ngọc mã-não để trang sức cho cảnh Tịnh-độ ...)

Cõi Tịnh-độ do tâm tạo nên, vì thế, những gì diễn tả trong kinh Di-Đà đều là điều có thật. Ngoài ra, con người ở đó được sống lâu, không già, không bịnh, không chết. Món ăn, thức uống của người ở cảnh giới Cực-Lạc toàn bằng thiền định mà được no đủ vui say nên không cần tới thức ăn.

Ở đời, chúng ta gắng công tu hành cho tinh tấn và niệm danh hiệu đức Phật A-Di-Đà nhất tâm tới khi chết được sanh vào thế giới Cực-Lạc là bi nguyện của đức Phật A-Di-Đà.

17.- Y Phục Thường Dùng Của Tăng Sĩ Có Chia Ra Thứ Loại Nào Không ? (^)

Trong Phật giáo không có giai cấp và chức vị song giới hạnh và đạo đức được chú trọng tới nhiều hơn. Y phục cũng chia ra làm 4 loại như sau :

* Áo dài 5 thân : Áo gồm 5 mãnh vải ráp lại và có 3 hột nút cài chéo trước ngực từ cổ bên trải qua nách bên phải. Loại áo dài nầy dùng cho các em bé mới tập sự xuất gia ở chùa và tuổi từ 8-15 còn trong thời kỳ hành điệu (chú tiểu)

* Áo nhật bình : Áu mầu nâu hoặc lam mà trước ngực có một mãnh vãi cắt thành hình chữ nhật có chiều dài từ ngang vai xuống tới trên rốn độ vài phân (2cm) với bề dài 25cm x 10cm ngang. Loài áo nầy dùng cho thầy nào đã thọ 10 giới, với số tuổi từ 16-20. Đặc điểm là một hàng nút từ ngực xuống tới chân gồm 5 hoặc 7 hột.

* Áo tràng : Áo có tràng vắt ngang qua phía trước ngực từ vai bên trái qua nách bên phải và 3 hột nút cài bên nách phía tay phải. Các thầy Tỳ-kheo (Tăng đã thọ 250 giới) thường mặc loại áo tràng khi đi đường và lúc giảng đạo.

Dù y phục có phân ra như thế, nhưng một số các thầy lớn tuổi vẫn thích mặc áo nhật bình hơn, nhất là khi tiếp khách và lúc làm việc trong chùa.

* Áo vạt hò : Loại nầy ngắn và trông giống như áo bà ba của người nông dân Việt-Nam. Tuy hình thức có phần khác hơn áo bà ba, vì áo của người thường có hàng nút thẳng từ cổ xuống giữa bụng, trong khi đó áo vạt hò thường dài tới quá gối lại có hàng nút nằm phía tay phải gần bên hông tay phải. Áo vạt hò ngắn gọn rất tiện lợi lúc làm việc, khi nhổ cỏ, tưới hoa trong vườn chùa.

Đại loại về y phục của người tu sĩ Phật giáo được phân ra như thế để chúng ta dễ nhận thức. Còn riêng về phẩm phục lúc hành lễ lại có hình thức khác hơn nhiều.

18.- Y Phục Của Tăng Sĩ Về Mầu Sắc Tại Sao Có Sự Khác Nhau ? (^)

Y phục của hàng tăng sĩ mầu sắc tuy có nhiều song mầu thông dụng nhất vẫn là mầu vàng cam. Chính đức Phật Thích-Ca vẫn thường mặc chiếc y vàng để đi du thuyết hóa độ chúng sanh khi Ngài còn tại thế.

Mầu sắc y phục được thay đổi theo mỗi quốc gia để được phù hợp với phong tục, địa lý của từng nơi, do đó người Tăng sĩ Phật giáo không hẳn bắt buộc phải theo đúng một khuôn mẫu cố định nào. Tuy nhiên, trên hình thức chúng ta phân biệt được hai hạng tu sĩ : Quấn y vàng khi họ đi đường và một số khác mặc y phục mầu đà hoặc mầu lam. Khi ra đường đắp y mầu vàng là hình thức của người tu theo phái nguyên thủy Phật giáo hay phái Therevada. Như ở các nước Tích-Lan, Thái-Lan, Cambodia, Lào một số chư Tăng thực hành Phật giáo theo hạnh khất thực nầy. Trong khi đó, mầu lam hay mầu khói hương lại rất thông dụng với người tu hành các nước như Trung-Quốc, Triều-Tiên, Việt-Nam. Phật giáo Nhật-Bản tùy theo mỗi tông phái và cấp bậc của họ mà mầu sắc y phục cũng thay đổi. Theo phái Thiền-tông, mầu đem rất thông dụng, và các mầu vàng, tím, xanh lá mạ cũng dùng cho y phục lúc hành lễ.

Câu nói : "Chiếc áo không làm nên thầy tu" thì mầu sắc của y phục cũng chỉ là trên mặt hình thức và thói quen của mỗi dân tộc.

Việc quan trọng và cần thiết đối với người học Phật là nghiên cứu giáo điển để cầu đạt ngộ chân lý, còn hình thức chỉ là sự tướng mà thôi.

19.- Phẩm Phục Của Tăng Sĩ Phật Giáo Ra Sao ? (^)

Phẩm phục là áo dùng khi hành lễ và người Tăng sĩ gọi là chiếc y và cái áo hậu (áo mặc trong).

Có 3 loại y như sau :

- Y năm điều : Vải may y cắt thành từng ô ráp lại, mỗi ô hình chữ nhật dài và ngắn xen kẻ nhau trên toàn thể chiếc y chia thành 5 đường dọc và 2 đường ngang (chữ nhật dài 40 cm x 20 cm, khung chữ nhật ngắn 30 cm x 20 cm).

- Y bảy điều : Trên toàn thể chiếc y chia thành bảy phần dọc và 3 phần vải cắt ngang 2 khung dài 1 khung ngắn. Tiếng Phạn gọi là Uất-đa-la-tăng và tiếng Trung-Hoa dịch là Thượng-trước-y : Cái y ở ngoài và mặc lúc làm lễ trong chùa.

- Y chín điều : Gồm 9 khung dọc và 3 khung ngang với 2 mãnh hình chữ nhật dài liền nhau rồi tiếp theo một mãnh ngắn trên toàn thể chiếc y, gọi đây là Tăng-già-lê cũng dùng trong việc lễ bái, khi đi đường hoặc các cuộc gặp gỡ quan trọng. Ngoài 3 loại phẩm phục, người Tăng sĩ còn 2 loại y phục nữa là y 12 điều và y 25 điều. Y 9 điều gọi là hạ phẩm của đại y, y 12 điều là trung phẩm và y 25 điều là đại phẩm của đại y. Y 25 điều hay y bách nạp gồm có 100 mãnh vải khác màu sắc kết lại mà thành. Người Tăng sĩ coi chiếc y như mạng sống, vì y pháp bất ly thân. Do đó, lúc đi xa, khi có công việc cần cấp họ đều mang y theo bên mình để tùy cơ ứng pháp, Vì Phật pháp bất ly thế gian pháp.

Chiếc y là ruộng phước đức để hàng Phật tử gieo trồng vào mãnh vườn của ngôi nhà Phật giáo, nên người mang y không thể không cẩn trọng giữ gìn.

20.- Tăng Già Có Phải Là Tăng Sĩ Lớn Tuổi Không ? (^)

Tăng-già không có nghĩa là các vị tu hành đã lớn tuổi như có một số người giải thích. Danh từ Tăng-già, chư Tăng hay chúng Tăng chỉ một đoàn thể hòa hợp từ 4 thầy Tỳ-kheo trở lên mới gọi được là Tăng-già.

Tăng-già còn dùng chỉ các tu sĩ Phật giáo có học thức, đạo đức và giữ gìn giới luật của Phật Tổ được thanh tịnh, trọn vẹn không sái phạm. Chư Tăng sống chung nhau trong cùng một tự viện có sự hòa hợp nhường nhịn nhau từ lời nói, ý nghĩ, hành động, nhờ đó có thể giải quyết được mọi tranh chấp, cải vả ... vô ích để cùng nhau răn nhắc tu hành giới đức trang nghiêm, ngỏ hầu thực hành Phật giáo một cách đầy đủ theo phương pháp khoa học và sau đem áp dụng giáo lý vào đời sống xã hội. Những Tăng sĩ ưa tranh chấp, ngã mạn, tự cao không còn đủ tư cách xứng đáng để gọi là Tăng-già được nữa, vì chính bản thân các Tỳ-kheo ấy đã không có sự hòa hợp chung với các bằng hữu đồng tu khác thì việc hòa mình của họ với tín đồ khó thành tựu được.

Ngoài ra Tăng-già không có nghĩa hòa hợp trong phạm vi đoàn thể chư Tăng mà nó còn chỉ cho cái cung cách gương mẫu, đạo đức nơi họ đối với hàng Phật tử tại gia nữa. Có người lấy làm thắc mắc rằng một thầy Tỳ-kheo trụ trì trong một ngôi chùa thì không đủ tư cách để gọi được Tăng-già chăng ? Như đã nói ở trên, nhưng riêng cá nhân vị ấy cũng đủ tác phong đạo đức để cho hàng Phật tử cung kính, học hỏi. Nếu trong trường hợp chỉ có một Tăng sĩ độc nhất thì chỉ gọi được Tăng sĩ hoặc tu sĩ mà không thể xưng Tăng-già được, vì chưa đủ số chúng Tăng trong phép hòa hợp.

Nơi nào có chư Tăng cùng nhau tu học và giữ gìn giới hạnh thật trang nghiêm, nơi đó chứng tỏ đạo Phật được hưng thịnh và giáo pháp Phật-Đà được xiển dương sâu rộng trong quần chúng để nhiều người có cơ hội tu học.

21.- La Hán Là Quả Vị Thứ Mấy Trong Việc Tu Chứng ? (^)

La-hán nói cho đủ là A-la-hán (Arahan), quả vị tu chứng cao tột đỉnh của hàng Tiểu-thừa Phật giáo.

Trong 4 quả vị Thánh của bậc Tiểu-thừa là Tu-đà-hoàn, (mới nhập vào dòng Thánh gọi là Dự-lưu), Tư-đà-hàm (còn một lần sanh trở lại thế gian nữa nên gọi là Nhất-lai), A-na-hàm (phiền não hoặc nghiệp đã đoạn trừ và không vào đời nầy nữa ở kiếp sau gọi là Bất-hoàn) và A-la-hán (không còn bị dòng sanh tử chi phối nên gọi là Bất-sanh). A-la-hán có 3 nghĩa :

1- Sát-tặc : Tức là đoạn diệt tất cả giặc phiền não nơi tự thâm tâm và giặc ngoại cảnh.

2- Ứng-cúng : Bậc đã giác ngộ có thể thọ nhận của trời người cúng dường.

3- Bất-sanh : Tức nhập Niết-Bàn vĩnh viễn không còn thọ quả báo trong vòng sanh tử nữa.

A-la-hán còn gọi Bích-chi-Phật, vì hàng Tiểu-thừa chí đạt tới quả vị tu chứng cuối cùng là A-la-hán mà thôi. Ngoài ra, 18 hình tượng La-Hán được thờ trong một số các chùa là chững vị nào ? Đó là :

1- Tân-Đỗ-La-Bạt-La-Đọa-Xà tôn giả

2- Tân-Đầu-Lư-Phả-La-Đọa tôn giả

3- Ca-Nặc-Ca-Phạt-Tha tôn giả

4- Tô-Tần-La-Dà tôn giả

5- Nặc-Cự-La tôn giả

6- Bạt-Đà-La tôn giả

7- Ca-Lý-Ca tôn giả

8- Phạt-Xà-La-Phất-Đa-La tôn giả

9- Thú-Bác-Ca tôn giả

10- Bán-Thát-Ca tôn giả

11- La-Hầu-La tôn giả

12- Na-Già-Tê-Na tôn giả

13- Nhơn-Yết-Đà tôn giả

14- Phạt-Na-Bà-Tư tôn giả

15- A-Thị-Đa tôn giả

16- Chú-Trà-Bán-Thác-Ca tôn giả

17- Châu-Lợi-Bàn-Đặc (Châu-Lợi-Bàn-Đà) tôn giả.

18- Khánh-Hữu (Nan-Đề-Mật-Đa-La) tôn giả.

Những vị La-hán thường được nhắc tới tên là ngài Tân-Đầu-Lư tôn giả, ngài Châu-Lợi-Bàn-Đà hay ngài Nan-Đề-Mật-Đa tôn giả. Kinh Trung-A-Hàm có nói về sự tích của các vị A-la-hán nầy.

22.- Phật Học Viện Và Phật Học Đường Khác Hay Giống Nhau ? (^)

Nơi nào chư Tăng hay Ni cùng nhau tập trung lại một chỗ để tu học dưới sự lãnh đạo của một Ban-giám-đốc gọi là Phật-Học-Đường.

Nhìn tổng quát ta vẫn tưởng rằng giữa Phật-Học-Viện và Phật-Học-Đường giống nhau, nhưng phân tích để tìm hiểu ta sẽ thấy sự khác nhau. Phật-Học-Đường vốn có một lịch sử lâu dài như Phật-Học-Đường chùa Quán-Sứ Hà-Nội, Phật-Học-Đường Báo-Quốc (Huế), Phật-Học-Đường Lưỡng-Xuyên (Vĩnh-Bình). Phật-Học-Đường chỉ cho nơi nào có từ 10 Tăng sĩ sinh hoạt trở lên và tổ chức thành lớp học với một ban giảng huấn hẳn hoi, cũng như giảng đường, trai đường, thiền đường và chánh điện thờ Phật nơi đó gọi là Phật-Học-Đường. Ngoài ra, việc giáo dục ở trong các Phật-Học-Đường phải theo một hệ thống giáo dục thuộc Giáo-Hội, tức là có chia ra thành nhiều cấp bậc từ thấp đến cao như : Sơ-đẳng, Trung-đẳng và lớp Cao-đẳng Phật-giáo. Trong khi đó, Phật-Học-Viện cũng có lối tổ chức giống nhau, nhưng có tính cách quy mô rộng lớn hơn nhiều. Phật-Học-Viện chỉ mới xuất hiện sau nầy vào thập niên 1960-1970 như Phật-Học-Viện Hải-Đức (Nha-Trang), Phật-Học-Viện Huệ-Nghiêm (Sàigòn), Phật-Học-Viện Nalanda (Ấn-Độ) ... là những nơi có thể dung nạp được từ 50 Tăng sinh trở lên đến 300 Tăng sinh trở lại. Trong lịch sử Phật giáo Việt-Nam có lẽ lần đầu tiên tại Phật-Học-Viện Huệ-Nghiêm có tới con số dưới 300 tăng sinh cùng nhau ở chung tu học (1964-1965).

Ngoài ra, Phật-Học-Viện còn theo chương trình giáo dục song phương, tức là ngoài Phật học ra, chư Tăng còn theo học cả chương trình của bộ giáo dục nữa. Sau khi chư Tăng tốt nghiệp Trung-đẳng Phật giáo, đồng thời cũng tốt nghiệp Trung-học đệ nhị cấp, nếu tiếp tục việc học họ sẽ vào các Đại-học ngoài đời hay Đại-học Phật giáo hoặc theo học ở một lớp cao đẳng Phật học chuyên khoa.

Phật-Học-Viện và Phật-Học-Đường đều là những nơi đào tạo tăng tài để cung ứng cho nhu cầu Phật sự những cán bộ trung kiên của Phật giáo.

23.- Nhị Giáo Là Gì ? (^)

Danh từ nhị giáo do tông Chân-ngôn Thiên-Thai phân biệt từ Hiển-giáo và Mật-giáo mà thành nhị giáo.

Dựa vào giáo pháp của đức Phật Thích-Ca mà thành lập Hiển-giáo hay Mật-giáo hay tiệm và đốn-giáo. Căn cứ vào đâu để chia ra tiệm và đốn ? Các vị Bồ-Tát thuộc hàng Đại-thừa trực tiếp lãnh hội giáo pháp của đức Phật để tu hành và được giải thoát ngay trong đời nầy gọi là đốn-giáo, trong khi đó hàng Tiểu-thừa y cứ vào các kinh điển tu tập tức là tự tu tự độ, do đó việc giải thoát có phần chậm hơn gọi là tiệm-giáo. Tiệm có nghĩa là dần dần theo cấp độ của bài tính cộng.

Những nhà Phật-học Trung-Quốc còn chia thành Nội-giáo và Ngoại-giáo. Phàm phu chúng ta muốn thoát ly khỏi tam giới cần phải nương vào giáo pháp thực hành gọi là Nội-giáo. Các bậc Bồ-Tát tu theo các pháp lục-độ vạn-hạnh (xem bài riêng) để thoát được ba cõi gọi là Ngoại-giáo. Ngài Đàm-Vô-Sấm đời Tây-Tấn còn chia nhị giáo như sau : Bán-tự-giáo và mãn-tự-giáo cũng để chỉ phiền não và Bồ-đề vậy.

Theo như kinh Pháp-Hoa Huyền-Nghĩa lại chia làm Biên-giáo và Viên-giáo hay Quyền và Thật. Nhưng nếu căn cứ vào Luận Chỉ Quán lại chia thế-gian-giáo và xuất-thế-gian-giáo. Theo Luận Đại-Thừa Nghĩa-Chương thì gọi liễu-nghĩa và bất-liễu-nghĩa, gọi là nhị-giáo để chỉ cho sự giải thoát của Đại-thừa và Tiểu-thừa.

Sự lập luận tuy có nhiều trình độ tu tập của các chúng đệ tử Phật, và do sự đạt ngộ cao hay thấp để phần Đốn hoặc Tiệm, Quyền và Thật v.v...

Phật giáo cần nhất ở thực hành, còn hình thức phân chia dù có nhiều hơn nhị giáo đi nữa, cái tinh thần giải thoát và giáo pháp của đức Phật không vì đó mà tăng hay giảm.

24.- Bảy Cách Lễ Phật Ra Sao ? (^)

Lễ Phật có nhiều cách khác nhau, nếu để ý phân biệt ta sẽ thấy rõ ý nghĩa của mỗi cách như dưới đây :

- Lễ Phật vì tâm cống cao ngã mạn

- Lễ Phật để cầu danh

- Đem cả thân tâm lễ Phật

- Lễ Phật do lòng thanh tịnh

- Lễ Phật để cầu nhập vào cõi pháp giới

- Thành tâm tu quán các pháp mà lễ Phật

- Vì thật tướng bình đẳng nên lễ Phật.

Hai cách lễ đầu tiên do tâm trí tạp loạn của những người chưa thật tâm trong việc lễ bái đúng nghĩa. Có nhiều lý do khiến người lạy Phật mà ngay chính nơi thâm tâm họ không thật sự cung kính, với mục đích khác ngoài việc phát tâm tu hành theo Phật đạo. Còn 5 cách lễ sau mới thật sự là người có thật tâm lễ Phật trong cung cách của kẻ tu hành học đạo. Cách lễ Phật cung kính nhất là từ đầu mặt, cho tới chân tay và cả tâm tư đều chí thành đảnh lễ mới đúng nghĩa lạy đối với người thực hành Phật giáo.

Hành giả muốn tu có kết quả, tức là muốn đạt đến giải thoát, việc trước tiên trong khi lạy Phật phải thật tâm để tỏ "sự" rồi mới đạt đến lý sâu xa. Nếu còn nuôi dưỡng tâm cống cao ngã mạn hay để cầu được tiếng tăm mà lễ Phật, thì việc lễ bái đã không có lợi ích gì lại còn làm trò cười cho người khác nữa.

Lễ Phật chỉ có một lòng chí thành cung kính và tập trung tư tưởng trong chánh niệm mới đạt được lợi ích thiết thật cho người thực hành.

25.- Mười Đại Nguyện Trong Bài Sám Phổ Hiền Là Gì ? (^)

Tại các chùa chư Tăng mỗi buổi sáng, sau khi tụng kinh Lăng-Nghiêm xong, thường tụng bài Sám-Thập-Nguyện của ngài Phổ-Hiền. Mười nguyện đó là gì ?

1- Kính lễ chư Phật.

2- Xưng tán các đức Như-Lai

3- Cúng dường chư Phật

4- Sám hối tội lỗi

5- Vui, ưa làm việc công đức

6- Thỉnh cầu chư Phật chuyển nói chánh pháp độ sanh.

7- Cầu Phật an trụ lâu nơi đời.

8- Thuận theo Phật Pháp để tu hành.

9- Hòa thuận, lăn xã vào đời để làm việc lợi ích chung.

10- Hồi hướng công đức đến tất cả mọi loài chúng sanh.

Trong 10 lời phát nguyện trên, gồm có 5 phần quang trọng, gọi là ngũ hối (5 điều ăn năn hối lỗi) được chia thứ tự nhau sau :

1- Nguyện thứ 1-3 : Quy mạng tức đem thân mạng nương về với Phật, Pháp, Tăng.

2- Sám hối tội chướng cho việc ác tiêu trừ.

3- Vui theo việc thiện của người khác làm.

4- Nguyện thứ 6-8 : Cầu thỉnh Phật nói pháp và nguyện theo học.

5- Nguyện thứ 9-10 : Hồi hướng công đức lành đến mọi loài chúng sanh đều được lợi lạc, an vui.

Người Tăng sĩ sống trong Tự Viện luôn luôn tâm niệm những ý nguyện cao cả độ sanh và thực hành lòng đại bi như ngài Phổ-Hiền vậy.

26.- Nhị Môn Là Gì ? (^)

Có rất nhiều lý luận và định nghĩa về danh từ nhị môn. Nhị môn là hai cửa theo nghĩa thông thường. Còn theo Phật giáo, nhị môn là gì ? sau đây là một số những định nghĩa :

- Cửa Thánh đạo và cửa Tịnh-độ.

- Cửa che lập (phàm tục) và cửa mở rộng (Thánh môn)

- Cửa lưu chuyển và cửa hoàn diệt.

- Cửa chân như và cửa sanh diệt.

- Cửa phước đức và cửa trí huệ.

Trở lên qua những cách phân chia hai cửa cho thấy rằng cửa của phàm phu và cửa của bậc Thánh nhân là một sự đối nghịch nhau. Nếu biết tu sửa những hành vi thô xấu của con người trần thế, ta có thể từ nơi phàm mà vào dòng Thánh là hai lối đi, tuy không có hình tướng nhưng luôn mở rộng để đón tiếp những người nào chuyên cần tinh tấn trong việc tu niệm. Tùy theo người chọn phương pháp (pháp môn) tu để đạt được chân lý mà có phân ra thành nhiều nghĩa khác nhau, thật ra cũng chỉ để phân biệt giữa kẻ phàm tục và người đã giác ngộ mà thôi. Vì tất cả đều chỉ sự giải thoát và mê lầm vậy. Con người khi chưa tu hành tức còn những phiền não, nhiễm trước gọi là phàm phu và những kẻ đã dày công tu niệm lại tìm thấy được niềm an vui, tự tại, đó là các bậc siêu phàm hay là Thánh nhân.

Như vậy, nhị môn là chỉ cho hai cánh cửa đang mở tung ra để cho người nào khéo xếp đặt có thể bước vào được ngôi nhà rộng của chánh pháp, còn như đối với kẻ lơ là sẽ bị lạc đường đi vào những ngỏ ngách tối tăm nguy hiểm của đọa lạc, tối tăm.

27.- Bụt Là Gì ? Danh Từ Nầy Ở Đâu Hay Dùng ? (^)

Người bình dân Việt-Nam gọi Phật là Bụt. Chữ Bụt có lẽ do chữ Buddha, Buddhi đọc ra có nghĩa là giác ngộ, sáng suốt. Tiếng Bụt cũng còn có nghĩa là hiền lành, từ bi như Bụt.

Phương ngôn còn ví von : Để làm hòn đất, cất lên ông Bụt. Ngoài ra, chúng ta cũng thường nghe những câu tục-ngữ, ca-dao nói đến danh từ Bụt rất phổ thông như sau :

- Hiền như Bụt.

- Đi với Bụt mặc áo cà-sa,

- Đi với ma mặc áo giấy.

- Gần chùa gọi Bụt bằng anh v.v...

Đó là những cách nói quen thuộc mà người bình dân ưa dùng một cách tự nhiên. Chữ Bụt nghe có vẽ gần gũi và thân thiết với người dân quê hơn là Phật. Tuy nhiên, Bụt hay Phật cũng đều có nghĩa là những bậc đã giác ngộ hoàn toàn về cả 3 khía cạnh : Tự-giác, giác-tha và giác-hạnh viên-mãn, tức là cả hai sự giác ngộ bên trên hoàn toàn tròn đầy vậy. Lòng từ bi của Phật cũng vô lượng vô biên rộng tỏa khắp nơi để cứu giúp cho muôn loài vạn vật đều được lợi ích an vui. Như vậy, danh từ Bụt đã xuất hiện lâu lắm trong giới bình dân, nên đã thâm nhập vào trong tâm não của mọi người như chất keo hay sợi dây vô hình gắn liền với đời sống hằng ngày.

Trong văn chương cổ điển và người miền quê ưa dùng chữ Bụt, trong khi đó tiếng Phật vẫn thông dụng hơn trong mọi giới.

28.- Thập Huyền Môn Hay Thập Huyền Duyên Khởi Lý Sự Vô Ngại Pháp Môn Là Gì ? (^)

Lập luận của Đại-thừa Phật giáo đưa người tu hành đạt tới chỗ chứng đắc cần hiểu rõ cả sự và lý mà 10 pháp môn huyền diệu sau đây là cửa ngỏ để đi vào ngôi nhà Chánh-pháp của chư Phật.

Có nhiều cách trình bày 10 pháp môn, song cách phổ thông hơn cả mà nhiều người biết tới là :

1.- Đồng thời cụ túc tương ưng môn (các pháp tương ứng hòa hợp)

2.- Quảng hiệp tự tại vô ngại môn (rộng, hẹp đều tự tại không gì ngăn ngại)

3.- Nhất đa tương dung bất đồng môn (một và tất cả đều tương dung nhau)

4.- Chư pháp tướng tức tự tại môn (thật tướng của các pháp đều như vậy)

5.- Bí mật ẩn hiện câu thành môn (mật, hiển đều thành hình sự vật)

6.- Vi tế tương dung an lập môn (mọi vật dù nhỏ đến đâu cũng hình thành tự nhiên)

7.- Nhân Đà-la-ni cương cảnh giới môn (Cảnh giới Đà-la-ni là cảnh bao la vô tận, các bậc giác ngộ chứng đắc và lấy đó làm khuôn mẫu cho người tu hành)

8.- Thát sự hiển pháp sanh giải môn (nương vào sự vật để đạt tới lý hầu giải thích sự vật)

9.- Thập thế cách pháp dị thành môn (các pháp môn tu tập khác nhau phải trải qua nhiều đời mới đạt được)

10.- Chủ bạn viên minh cụ đức môn (không còn phân biệt chủ và khách nữa mà đồng viên thành các đức tánh đầy đủ)

Nói tóm lại, Mật-giáo căn cứ vào lập trường theo lý chân không của kinh Bát-Nhã, sắc tức thị không, không tức thị sắc ... và triển khai tư tưởng nầy mà lập thành 10 cửa huyền diệu để dẫn hành giả đạt tới lý mầu của Đại-thừa Phật giáo.

***********

Sách tham khảo :

- Tư-Tưởng Việt-Nam của Nguyễn-Đăng-Thục. Nhà xuất bản Khai-Trí, Sàigòn 1964.

- Tục ngữ, ca dao, dân ca Việt-Nam của Vũ-Ngọc-Phan. Nhà xuất bản Khoa-Học Xã-Hội, 1978.

29.- Pháp Quán Ngũ Đình Tâm Là Gì ? (^)

Ngũ-đình-tâm-quán là một pháp tu quán tưởng để cho tâm dừng các vọng niệm mà hàng Tiểu-thừa thực hành trong 5 pháp quán. Đây là quả vị đầu tiên hàng Thanh-văn chứng nhập có 2 loại :

1.- Bất-định-quán : Quán sát tướng trạng của các cảnh giới đều bất tịnh để làm đình chỉ việc tham dục, đối với người tu có tâm nhiều tham trước.

2.- Từ-bi-quán : Hướng về các loài hữu tình chúng sanh đều có sự liên quan với nhau, là một pháp làm dứt tâm sân hận.

3.- Nhân-duyên-quán : Quán pháp 12 nhân duyên liên tục cả quá-khứ hiện-tại và tương-lai để đình chỉ ngu si đối với người tu hành nhiều ngu tối.

4.- Giới-phân-biệt-quán : Theo các pháp phân ra 6 giới hay 18 giới là pháp làm dứt ngã kiến áp dụng cho người tu kiến chấp sai lầm.

5.- Sổ-tức-quán : Cách đếm và điều hòa hơi thở để làm cho tâm loạn động trở thành thanh tịnh. Còn một lối phần ngũ-đình-tâm như sau : Bất-định, từ-bi, nhân-duyên, niệm Phật và sổ-tức-quán (đếm hơi thở).

Nhờ quán sát kỹ các tướng trạng hay mặt thật của vũ trụ muôn loài mà tu tập đạo giải thoát để thấy rõ chân lý, thật tánh của các pháp do tâm đã gạn lọc sạch vọng niệm. Hành giả trải qua 5 phép quán niệm như thế gọi là 5 cách dừng tâm tạp niệm.

Quán sát đến khi nào tâm ta lắng trong như mặt nước không bị cáu bợn và không còn vẫn đục nữa, lúc đó là giai đoạn tỏ rạng được lý mầu của đạo sáng tỏa mười phương.

30.- Thập Mục Ngưu Đồ LÀ Gì ? (^)

Thường thường tại các trung tâm tu thiền, nơi vách tường có trưng bày 10 bức họa chăn trâu. Cái tâm ta buông lung theo ngoại cảnh và nhờ tu thiền định mà hàng phục được, nhưng phải trải qua 10 giai đoạn như người chăn dắt con trâu hung dữ :

1- Tìm trâu

2- Thấy được dấu chân trâu

3- Nhận ra đúng là trâu

4- Bắt trâu trở lại

5- Trâu đã bị xỏ mũi

6- Cưởi trên lưng trâu trở về nhà

7- Quên trâu, chỉ còn thấy bóng dáng người chăn

8- Cả người và trâu đều không ai cần để ý tới nữa.

9- Trở về với nguồn gốc, tức tìm lại bản chân tâm.

10- Xông xáo đi vào đời một cách an nhiên không trở ngại.

Mười bức họa tượng trưng nầy không rõ do ai tạo ra và có từ lúc nào, nhưng căn cứ vào tranh vẽ hội họa do Quách-Am Thiền-sư (?) làm ra đồ hình và có kèm theo 10 bài tụng để giải thích rõ mỗi giai đoạn trong bức họa. Còn nếu ta khảo cứu kỹ ở các bộ ngữ lục thì 10 bức họa chăn trâu do ngài Thanh-Cư Thiền-sư tác (điều nầy cũng chưa lấy gì làm chắc chắn), vì 10 bức họa do ngài Thanh-Cư tạo khác với nét vẽ ở những đồ hình ngày nay. Song căn cứ vào thứ tự hình thức trong các hình vẽ thì chính ngài Quách-Am đã sửa đổi lại các bức họa cho phù hợp với các giai đoạn chuyển biến của tâm để lưu hành cho tới ngày nay chăng ?

Nhìn vào 10 bức tranh, chúng ta thấy có sự tiến bộ rõ rệt trong việc tu tập vì hành giả phải vận dụng rất nhiều công phu. Con người từ chỗ vô minh (lúc đi tìm trâu), tìm thấy dấu chân và nhận ra không lầm trâu, đến chỗ hàng phục được mọi khó khăn (ở bức họa số 4 và 5) của dục vọng, phiền não khuấy động từ tâm thức. Từ đó hành giả cần phải gia công tu tập mới đạt được trạng thái an tỉnh tâm hồn (hình 6) mà không còn bị giặc phiền não chi phối nữa. Đến đây là giai đoạn đã khá vững vàng trên đường tu tập và có thể hòa nhập vào chân tâm, tức tìm lại được bản lai diện mục của mình (bức họa 8 và 9). Cuối cùng là nắm được trọn vẹn bí pháp để lăn xả vào đời cứu độ chúng sanh mà không ngại bất cứ một chướng duyên nào có thể ngăn chặn được chí hướng của ta cả.

Đó là tất cả ý nghĩa của 10 bức họa. Người tu hành chịu khó nhìn vào nơi mỗi bức họa quan sát và suy nghĩ sẽ rõ được ý nghĩa sâu sắc trong việc tu thiền cũng chẳng khác gì người tìm trâu vậy.

KIẾN THỨC

CĂN BẢN PHẬT GIÁO

TT.Thích Bảo Lạc

--- o0o ---

CHƯƠNG 6

TÔNG PHÁI PHẬT GIÁO

1.- Các Tông Phái Phật Giáo Được Phân Chia Như Thế Nào? (^)

Đức Phật xuất thế vì lòng đại bi, đem giáo pháp giải thoát chỉ dạy cho tất cả mọi chúng sanh. Tùy theo căn cơ, lãnh vực của người thực hành Phật giáo mà phân chia ra Tiểu-thừa hay Đại-thừa.

Sau khi đức Phật diệt độ, các chúng đệ tử ý thức rõ bổn phận của mình đã tổ chức các kỳ kiết tập kinh điển. Có tất cả bốn lần trùng tuyên giáo pháp của Như-Lai tại bốn địa điểm khác nhau :

- Lần kiết tập thức nhất tại thành Vương-Xá, do ngài Ma-ha Ca-Diếp triệu tập 500 vị Đại-Đức Tỳ-kheo liền sau khi Phật nhập diệt để trùng tụng lại những lời Phật đã giảng thuyết rải rác khắp nơi trong 49 năm, khi Ngài còn tại thế. Lần kiết tập nầy không ghi chép lại bằng văn tự mà do trí nhớ của những bậc hiền giả cao đức thuộc nằm lòng những lời dạy thâm áo của Phật. Mặt khác, lúc bấy giờ chưa có giấy mực cho việc in ấn, vì thế một phần lớn các kinh điển được ghi trên lá bối nên gọi là : Bối-diệp kinh. Ngoài ra, ngài Ba-Sư-Ca (Caspa) cũng triệu tập tăng chúng lại một địa điểm khác để kết tập kinh điển, đó là nguyên nhân đầu tiên chia thành hai bộ phái : Thượng-tọa-bộ và Đại-chúng-bộ.

- Lần kiết tập thứ hai, chuyên giải quyết về những nghi vấn trong giới luật, đã diễn ra tại thành Tỳ-Xá-Ly gồm 700 vị Đại-Đức Tỳ-kheo, sau khi Phật nhập Niết-Bàn 100 năm, do ngài Da-Xá chủ tọa.

- Lần kiết tập thứ ba vào năm 200 năm sau khi đức Bổn-Sư thị tịch, do vua A-Dục triệu tập 1000 vị Đại-đức và các bậc Thiện-hữu-tri-thức tại thành Hoa-Thị. Lần nầy kinh điển được tổ chức biên chép thành bộ loại và ngài Mục-Kiền-Liên được bầu làm chủ tọa.

- Lần kiết tập thứ tư, sau khi Phật diệt độ 600 năm, do vua Ca-Nị-Sắc-Tra chủ xướng và nhóm họp tại thành Ca-Thấp-Di-La, gồm 1,500 người do ngài Hiếp tôn giả và ngài Thế-Hữu chủ tọa. Việc ghi chép kinh điển bằng hai thứ văn tự Pali và Sanskrit lần nầy có phần hoàn bị hơn trong lần kiết tập thứ ba.

Mục đích của việc kiết tập giáo pháp của đức Phật là để quảng bá sâu rộng tinh thần từ bi, vô ngã, lợi tha của Phật giáo đến khắp mọi nơi.

Vào thế kỷ thứ 8 và 9 có các ngài Long-Thọ, Di-Lặc, Vô-Trước thành lập các tông như Trung-Quán, Du-Già, Duy-Thức cũng để truyền bá giáo pháp của Phật-Đà sâu rộng theo nhu cầu của thời đại.

Việc chia các tông phái bắt nguồn từ Ấn-Độ, sau Phật giáo truyền vào Trung-Quốc (thế kỷ 1 Tây-lịch, năm 67, niên hiệu Vĩnh-Bình thứ 10) và tinh thần Phật giáo cũng biến thái cho phù hợp với dân tộc, nên Phật giáo lại chia ra thành 13 tông phái khác nhau như sau : Tỳ-Đàm, Thành-Thật, Luật, Tam-Luận, Niết-Bàn, Địa-Luận, Tịnh-Độ, Thiền, Nhiếp-Luận, Thiên-Thai, Hoa-Nghiêm, Pháp-Tướng và Chân-ngôn-tông. Việc lập tông của Phật giáo Trung-Quốc lại ảnh hưởng dây chuyền sang Phật giáo Nhật-Bản, vì Phật giáo Nhật-Bản ảnh hưởng sâu đậm từ Phật giáo Trung-Quốc, và theo từng giai đoạn lại chi ra thành 8 tông, 9 tông, 10 hoặc 12 tông như : Tam-Luận, Pháp-Tướng, Pháp-Hoa, Câu-Xá, Thành-Thật, Luật, Thiên-Thai, Chơn-ngôn-tông và sau thêm vào Thiền-tông thành 9 tông phái và dần dà có thêm Tịnh-độ là 10 tông. Ngoài ra, còn có thêm Tịnh-độ-chơn-tông và Nhật-liên-tông tức là 12 tông phái tất cả.

Phật giáo Việt-Nam cũng chịu ảnh hưởng bởi Phật giáo Trung-Quốc, nhưng chỉ phái Thiền-tông là được phổ thông hơn cả. Còn các tông khác như Tịnh-Độ, Thiên-Thai ... cũng có người nghiên cứu và tu tập, nhưng tầm ảnh hưởng không sâu rộng như Thiền-tông. Sau có tông Tịnh-độ cũng gần như sát nhập vào với Thiền-tông làm một về nội dung lẫn hình thức.

Ngày nay các tông phái thạnh hành nhất tại các nước theo Phật giáo như Nhật-Bản, Trung-Quốc, Tây-Tạng, Thái-Lan, Tích-Lan ... là pháp môn tu thiền định mà tầm ảnh hưởng của nó cũng rất lớn mạnh ở khắp Âu, Mỹ.

2.- Câu Xá Tông Căn Cứ Vào Đâu Để Thành Lập Và Do Ai Khởi Xướng ? (^)

Bộ Luận-Câu-Xá do ngài Thế-Thân tạo, nói cho đủ là "A-Tỳ-Đạt-Ma Câu-Xá-Luận", có hai nhà dịch giả là ngài Trần-Chơn-Đế và ngài Huyền-Trang.

Bản dịch trước đã bị thất truyền. Đến đời nhà Đường (thế kỷ thứ 7) ngài Huyền-Trang sau khi đi tham học ở Ấn-Độ về mới dịch lại bộ Luận Câu-Xá.

Tông Câu-Xá hẳn do ngài Trần-Chơn-Đế khởi xướng thành lập tông, nhưng không thấy dấu hiệu phát triển. Bộ Luận-Câu-Xá gồm có 9 phẩm và 30 quyển. Nội dung gồm 5 phần : 1- Giải thích, 2- Vạn loài, 3- nhân quả của mê lầm, 4- nhân quả của tỏ ngộ, 5- luận về vô ngã. Đây là bộ Luận thuộc Tiểu-thừa mà ngài Thế-Thân Bồ-Tát lập để đối lại lối lý luận của Tiểu-thừa về pháp Tứ-Đế và trạng thái an lạc của Niết-Bàn. Ngài căn cứ vào bộ Luận Đại-Tỳ-Bà-Sa gồm có 200 quyển để rút tỉa ra ý chính cho Câu-Xá-Luận.

Tông Câu-Xá bị thất truyền ngay nơi phát nguyên ra, không phải lý do chính là tông chỉ lập tông thuộc Tiểu-thừa mà do thiếu người kế thừa. Mặc dù không được truyền bá sang các nước khác như các tông phái khác, tông Câu-Xá vẫn giữ một thế đứng độc tôn trong số 13 hệ phái Phật giáo ở Trung-Quốc trong hơn 10 thế kỷ.

Ngày nay, tông Câu-Xá chỉ còn được nhắc đến trong giới Phật giáo cũng chỉ thuộc về phạm vi nghiên cứu hơn trên thực tế.

3.- Tông Thiên Thai Phát Xuất Từ Đâu ? Do Ai Thành Lập Vào Thời Nào Và Y Cứ Bộ Kinh Gì Lập Tông ? (^)

Thiên-thai-tông phát xuất từ Phật giáo Trung-Quốc, do ngài Thiên-Thai Trí-Giả Đại-sư thành lập tại núi Thiên-Thai. Ngài mở đạo tràng giáo hóa đồ chúng tại đó nên lấy tên là tông Thiên-Thai.

Vào đời nhà Tùy (thế kỷ 7 Tây-lịch) có ngài Thiên-Thai, tên tự là Đức-An, một bậc danh Tăng cao đức mở trường giảng kinh Pháp-Hoa, Luận-Trí-Độ, kinh Niết-Bàn ... cho nhiều người tu đắc và y cứ vào đó Ngài lập tông Thiên-Thai. Tông Thiên-Thai lấy kinh Pháp-Hoa làm căn bản, căn cứ vào bộ Luận-Trí-Độ làm kim chỉ nam và lấy kinh Niết-Bàn làm điểm tựa. Ngài Thiên-Thai là người kế thừa tông pháp của ngài Huệ-Văn Đại-sư. Đời Bắc-Tề (566) ngài Huệ-Văn căn cứ vào bộ Luận-Trung-Quán để phát minh được cái diệu lý của các pháp. Sau truyền xuống ngài Nam-Nhạc Huệ-Tư. Ngài Huệ-Tư truyền xuống ngài Thiên-Thai Trí-Giả là người kế thừa tông môn đời thứ 3. Sau khi ngài Trí-Giả Đại-sư viên tịch có các ngài Chương-An tổ thứ 4 ; Thiên-Cung tổ thứ 5 ; Tả-Khê tổ thứ 6 ; Tạm-Nhiên tổ thứ 7 ... kế tục nối dòng y pháp. Nhờ sự triển khai rộng rãi trong tông môn của ngài Thiên-Thai mà tầm ảnh hưởng rất lớn lao trong Phật giáo Trung-Quốc lúc bấy giờ.

Nhờ đó tông Thiên-Thai được truyền sang Nhật-Bản và duy trì được kế tục mãi cho tới ngày nay.

Tại Việt-Nam, tông Thiên-Thai cũng được nhiều người biết đến, nhưng tầm ảnh hưởng không mấy lớn rộng như Thiền-tông.

Việc phân chia tông phái trong Phật giáo chỉ có lợi khi nào các hàng đệ tử của Phật biết cùng nhau tu dưỡng và phát huy tinh thần Phật giáo để quảng bá sâu rộng trong dân gian ; còn như việc phân chia trong tánh cách chia rẽ vì bè nhóm, địa phương, thầy tổ, óc kỳ thị, cố chấp, hẹp hòi ... là những mối nguy cơ cho Phật giáo, không đưa lại được một lợi ích nào cả.

Khi nói đến tông Thiên-Thai là người ta luôn nhắc tới tên ngài Trí-Giả, người đã có công đầu trong việc toàn thành pháp môn tu tập mà chư tổ đã di chúc nối dòng tông phái được duy trì bất tuyệt trong dân gian.

4-. Tông Hoa Nghiêm, Người Sáng Lập Và Dựa Vào Đâu Làm Tông Chỉ ? (^)

Tông Hoa-Nghiêm phát xuất từ Phật giáo Trung-Quốc vào đời nhà Đường (608-907) do ngài Đế-Tâm Đỗ-Thuận sáng lập.

Dựa vào bộ kinh Hoa-Nghiêm để lập tông và có chia ra thành 5 hình thức giáo hóa khác nhau gọi là Hoa-Nghiêm ngũ giáo như : Tiểu, thỉ, chung, đốn, viên (tiểu thừa, đầu mối, cuối cùng, đạt đến đích và thành chánh quả tức giải thoát).

Kế truyền ngài Đỗ-Thuận có các Ngài : Vân-Hoa Trí-Nghiêm Pháp-sư là tổ thứ 2, ngài Hiền-Thủ Pháp Tạng Pháp-sư tổ thứ 3, ngài Thanh-Lương Trừng-Quán tổ thứ 4 cho đến đời tổ thứ 5 là ngài Quế-Phong Tông-Mật Thiền-sư.

Đến đời nhà Tống (thế kỷ 9 Tây-lịch) các ngài Mã-Minh, Long-Thọ tiếp nối truyền đăng giáo pháp của tông Hoa-Nghiêm và là tổ thứ 6 và thứ 7 vậy. Bộ kinh Hoa-Nghiêm được xem như là vua của các kinh. Theo truyền thuyết, kinh Hoa-Nghiêm đang còn nằm bí mật tại Long-Cung, được ngài Long-Thọ vận dụng sức thần thông đến đó lấy được quyển hạ đem về truyền lưu trong dân gian. Chính Hòa-Thượng Đỗ-Thuận là Hóa thân của ngài Văn-Thù Bồ-Tát đã căn cứ vào bộ kinh nầy để thành lập tông Hoa-Nghiêm và là vị Sơ tổ kế truyền chánh pháp. Tông Hoa-Nghiêm được truyền bá sâu rộng là nhờ sự biết triển khai giáo lý Đại-thừa như thập huyền môn (1), lục tướng (2), ngũ giáo để làm ra các sách luận giải nhiều vô số, nhất là lý nghĩa sâu sắc của kinh Hoa-Nghiêm như ánh sáng mặt trời rọi chiếu khắp không gian vô tận.

Giáo lý Phật-Đà gồm hai tính chất là khế-lý và khế-cơ tức là dù triển khai cách nào đi nữa cũng phải cho phù với chân lý và hợp trình độ căn cơ của người lãnh hội. Tông Hoa-Nghiêm cũng từ chỗ khế hợp đó mà chánh pháp được truyền đăng là công đức không thể nghĩ bàn mà chỉ có các bậc thiện căn ngộ đạo mới làm được.

********

(1( và (2) xem bài nói chương V

5.- Tông Lâm Tế Được Truyền Thùa Ra Sao Và Ai Là Người Chủ Xướng ? (^)

Tông Lâm-Tế là một trong 5 tông thuộc về Thiền-tông. Tông Lâm-Tế từ lúc tổ Huệ-Năng (đất Tào-Khê) truyền xuống tới các ngài Nam-Nhạc, Mã-Tổ, Bách-Trượng, Hoàng-Mai tới ngài Lâm-Tế Nghĩa-Huyền là tổ thứ 5 nối dòng tông pháp.

Nhưng phải nói chỗ phát nguyên của tông Lâm-Tế là do tổ Bồ-Đề Đạt-Ma, tổ 28 của Phật giáo Ấn-Độ sang truyền giáo tại Trung-Quốc vào đời nhà Lương (thế kỷ 6 Tây-lịch) và phó pháp cho ngài Huệ-Khả. Từ ngài Huệ-Khả kế tục truyền lưu dòng Thiền cho tới đời Lục-tổ Huệ-Năng. Đời thứ 6 dòng Lâm-Tế là ngài Thạch-Sương-Viên Thiền-sư, dưới Ngài lại chia ra làm hai phái là Dương-Chi và Hoàng-Long.

Phật giáo Việt-Nam ảnh hưởng dòng Thiền-Lâm-Tế rất sớm, do ngài Tỳ-Ni-Đa-Lưu-Chi, người Thiên-Trúc đến ruyền đạo tại Trung-Quốc, nhưng Phật giáo ở đó lúc bấy giờ đang bị ách nạn vào đời Võ-Đế Bắc-Chu (574 Tây-lịch), Ngài bèn đến Quảng-Châu (giáp giới Bắc Việt) để dịch kinh Tượng-Đầu Báo-Nghiệp Sai-Biệt từ chữ Phạn sang chữ Hán. Đời nhà Chu (580 Tây-lịch) niên hiệu Đại-Tường thứ 2, Ngài sang Việt-Nam trụ tại chùa Pháp-Vân (tỉnh Hà-Đông) dịch kinh Tổng-Trì. Năm 594 Ngài truyền tâm pháp cho ngài Pháp-Hiền rồi tịch. Dòng Lâm-Tế do ngài Pháp-Hiền kế truyền được cả thảy là 19 đời cho tới năm 1916 và được 31 vị kế thừa ngôi Pháp-bảo.

Tại Việt-Nam còn một phái thiền thứ 2 do ngài Vô-Ngôn-Thông là sơ tổ. Ngài đến nước ta vào đầu thế kỷ thứ 9 (820) ở chùa Kiến-Sơ (tỉnh Bắc-Ninh). Sau truyền pháp cho ngài Cảm-Thành Thiền-sư rồi tịch vào năm 826, niên hiệu Bảo-Lịch đời Đường. Dòng Vô-Ngôn-Thông truyền đến thế kỷ 13 là 15 đời pháp và 40 vị cao đức kế tục truyền bá chánh pháp. Tông Lâm-Tế thạnh hành mãi và sau có các ngài Minh-Hải Pháp-Bảo đến Hội-An, Quảng-Nam lập nên chùa Chúc-Thánh để truyền pháp và dòng thiền Lâm-Tế Việt-Nam tới nay truyền được là 44 đời pháp (ngài Minh-Hải đến Hội-An đời chúa Nguyễn thế kỷ 17).

Tông Lâm-Tế không mấy thịnh hành tại Nhật-Bản, vì thiền Tào-Động với tầm ảnh hưởng quá sâu rộng đã làm cho tông nầy không tìm ra thế đứng trong giới Phật -giáo tại đây, nhưng lại thích hợp tại Trung-Quốc, Việt-Nam ....

6.- Tông Pháp Tướng Là Gì ? Dựa Vào Kinh Nào Và Do Ai Khai Sáng ? (^)

Tông Pháp-Tướng là một trong 13 tông phái thuộc Phật giáo Trung-Quốc, lấy chỗ rốt ráo tận cùng về tánh, tướng của vạn pháp để thành lập tông, nên gọi là Pháp-Tướng.

Căn cứ bộ kinh Giải-Thâm-Mật, phẩm "Nhất thiết pháp tướng" và cũng dựa vào luận Duy-thức, cho rằng vạn pháp do thức biến để tạo thành nên tông Pháp-Tướng còn gọi là tông Duy-Thức.

Lấy thâm ý của phẩm Du-Già trong kinh Giải-Thâm-Mật thì cái lý của Không và Hữu ứng nhiếp lẫn nhau tạo thành viên mãn chân thật. Đó cũng là thâm ý của phẩm Thắng-Nghĩa-Đế trong kinh Giải-Thâm-Mật, nên có một tên gọi khác cho tông Pháp-Tướng là Thừa-giáo, tức là ý nghĩa đức Phật nói pháp lần thứ 3 trong các thời thuyết giảng chánh pháp. Tông Pháp-Tướng đã được ngài Khoán-Cơ chùa Từ-Ân Trung-Quốc khai sáng nên còn có tên là tông Từ-Ân. Tông chỉ đều dựa vào bộ kinh cốt cán Giải-Thâm-Mật và các bộ luận như Du-Già, Duy-Thức ... Căn nguyên sâu xa của tông Pháp-Tướng đã phát nguyên từ Ấn-Độ, sau khi đức Phật nhập Niết-Bàn khoảng 1000 năm có ngài Bồ-Tát Vô-Trước từ nơi giảng đường thuộc nước A-Du-Đà, hằng đêm thường lên cung trời Đâu-Suất để nghe Phật Di-Lặc giảng luận Du-Già. Ngài Vô-Trước bèn giảng thuyết lại luận Du-Già cho đại chúng và hình thành được 100 quyển. Sau ngài Vô-Trước có em là Thế-Thân cũng làm ra luận Duy-Thức và đề cao giáo nghĩa do anh chủ xướng nên lúc bấy giờ tông Pháp-Tướng còn gọi là tông Du-Già.

Khi ngài Huyền-Trang đời Đường đến Tây-Thiên-Trúc và thọ giới ngài Giới-Hiền ở chùa Na-Lan-Đà và tông Du-Già hay Pháp-Tướng được truyền sang Trung-Quốc. Khi vào Trung-Quốc tông ý Pháp-Tướng được triển khai do tông môn của phái chùa Từ-Ân kế tục nối truyền.

Tông Pháp-Tướng thuộc về lý nên khó cho người có căn cơ trình độ thấp thực hành. Ngày nay việc kế thừa tông pháp vì thế không còn được phát huy sâu rộng trong giới Phật giáo nữa.

7.- Tông Tịnh Độ : Người Sáng Lập Và Căn Cứ Vào Kinh Gì Để Tu Chứng ? (^)

Tông Tịnh-độ là một tông phái có tầm ảnh hưởng sâu rộng trong dân gian trong thời kỳ mạt pháp để hướng dẫn hành giả con đường tu tắt cầu sanh về thế giới Cực-Lạc của đức Phật A-Di-Đà, sau khi chết.

Tông Tịnh-độ từ ngài Phổ-Hiền là sơ tổ. Ngài chuyên tu tập pháp môn niệm Phật cầu vãng sanh về cảnh giới an lạc. Trong đời mạt pháp, pháp môn tu tập dễ thực hành và chứng đắc nhất chỉ có tông Tịnh-độ. Tại Trung-Quốc, Nhật-Bản, Việt-Nam pháp môn niệm Phật có nhiều người tu tập, vì thế tư tưởng tông Tịnh-độ được xiển dương rộng rãi và gần như đã gắn liền song song với Thiền-tông làm một. Tại Trung-Quốc, vào đời nhà Tấn (381) có ngài Huệ-Viễn ở núi Lô-Sơn chuyên việc đề xướng pháp môn tu Tịnh-độ và có thành lập hội Tịnh-độ Liên-xã, đã kết nạp được 123 người vào trong hội để thực hành Phật giáo. Đời Ngụy có ngài Đàm-Loan, đời Đường ngài Đạo-Trác đều là những vị danh Tăng thiền đức chuyên tu pháp môn Tịnh-độ. Tông Tịnh-độ còn có tên khác là Liên-tông, cũng rất thạnh hành tại Nhật-Bản.

Tại Việt-Nam, tông Tịnh-độ vào đời Lý Trần (thế kỷ 10-12) đã được pha trộn với Thiền-tông và mãi cho tới nay trong các thiền môn Việt-Nam còn chịu ảnh hưởng của hai luồng tư tưởng nầy như torng thời tụng kinh Tịnh-độ buổi tối gồm các kinh Di-Đà, niệm danh hiệu Phật A-Di-Đà, chú Vãng-Sanh và Sám-Nguyện-Thập-Phương thuộc về Tịnh-độ và các bài thần chú Đại-Bi, Bát-Nhã Tâm Kinh, danh hiệu chư Phật, Bồ-Tát, thuộc về Thiền, và các bài thần chú thuộc Chơn-ngôn-tông.

Pháp môn tu Tịnh-độ rất dễ thực hành và có thể áp dụng cho bất cứ hạng tuổi nào, vì hành giả chỉ cần việc chuyên tâm chánh niệm là đủ.

Đức Phật Thích-Ca đã nói kinh Di-Đà để dẫn dắt chúng sanh con đường tu nhanh chóng, vậy thì hành giả nên thực hành pháp môn niệm Phật để được vãng sanh Cực-Lạc.

8.- Tông Thành Thật : Việc Truyền Pháp VÀ Tông Yếu Thế Nào ? (^)

Tông Thành-Thật phát nguyên từ Ấn-Độ, là tông sau cùng của việc thành lập tông phái và lấy chỗ tánh tướng của Tiểu-thừa hay căn cứ vào bộ "Thành-Thật-Luận" của ngài Ha-Lê-Bạt-Ma tạo để lập ra một tông gọi là Thành-Thật.

Khởi đi từ pháp Tứ-Đế : Khổ, tập, diệt, đạo mà vạn vật hình thành. Người nào muốn diệt khổ phải tinh tấn tu hành mới đạt được, là chân lý đúng cho mọi hoàn cảnh, thời gian. Thành-Thật còn có nghĩa là trung tín với chính mình và thật tâm tự trọng đới với người. Hành giả phải gạn lọc tâm phiền não để tu tập các pháp lành tức là không tự dối mình và luôn luôn có tinh thần cầu tiến với các đức tánh : Khoan dung, chân thật ... Người tu hành không tự cao ngã mạn mà cần phải hòa đồng vào trong đại chúng để học hỏi kinh nghiệm và tu luyện trí, đức cho được vẹn toàn.

Tông Thành-Thật khi truyền đến Trung-Quốc lại chia ra thành 3 tông : Thành-Thật, Nam-tông và Bắc-tông. Đến đời nhà Lương (thế kỷ 6) có ngài Tam-Đại Pháp-sư cũng y cứ vào tông yếu tổ truyền để hành đạo và triển khai thêm chỗ cốt yếu của tông môn mà thành.

Tại Nhật-Bản và Việt-Nam, tông Thành-Thật không được thạnh hành. Tuy nhiên, cho tới nay tông Thành-Thật vẫn còn tồn tại, nhưng sự bành trướng không được mạnh như các tông : Tào-Động, Lâm-Tế, Tịnh-Độ ...

9.- Tam Luận Tông Căn Cứ Vào Đâu Để Thành Lập ? Do Ai Khai Sáng Ra Tông Nầy ? (^)

Tam-Luận-Tông y cứ vào luận tạng để thành lập. Lấy 3 bộ luận : Trung-Luận do ngài Long-Thọ tạo với 500 bài kệ và 27 phẩm ; Thập-Nhị-Môn-Luận cũng do ngài Long-Thọ tạo. Trong ấy các pháp môn có chia ra thành 12 nên gọi là Thập-Nhị-Môn ; Bách Luận, do đệ tử ngài Long-Thọ là ngài Đề-Bà tạo, gồm 20 phẩm, mỗi phẩm 5 bài kệ và tổng số là 100 bài kệ nên gọi là Bách Luận để thành hình tông chỉ của tông nên gọi là Tam-Luận-Tông.

Tông Tam-Luận khởi nguyên từ Bồ-Tát Văn-Thù sau truyền đến ngài Mã-Minh và ngài Long-Thọ là đời pháp thứ 3. Đến đời ngài Long-Thọ có 2 người đệ tử và được chia ra thành 2 nhánh : Nhánh thứ nhất từ ngài Long-Thọ truyền xuống các ngài Long-Trí, Thanh-Biện, Trí-Quang, Sư-Tử-Quang ; nhánh thứ hai kể từ ngài Long-Thọ kế tục truyền xuống ngài Đề-Bà, La-Hầu-La, Đa-Sa-Xa-Vương-Tử và ngài La-Thập. Ngài La-Thập khi đến Trung-Quốc đã tận lực dịch bộ Tam-Luận. Đối với Phật giáo Trung-Quốc về Tam-Luận-Tông thì ngài La-Thập là vị cao tổ. Ngài truyền xuống cho đệ tử có hơn 3000 người. Trong số đó đáng kể nhất là các ngài Đạo-Dung, Tăng-Thục, Tăng-Kích, Đạo-Sanh đều là những vị trước thuật rất nhiều để xiển dương giáo nghĩa của tông môn và được người đương thời gọi là Tứ-Kiệt vậy. Kế ngài Đạo-Sanh có các ngài Đàm-Tế, Tăng-Cẩn, Đạo-Thú. Sau ngài Đàm-Tế có ngài Đạo-Lãng. Kế ngài Đạo-Lãng có ngài Tăng-Thuyên ở vào đầu đời Bắc-Tề và việc truyền lưu tông pháp được liên tục không dứt. Sau ngài Tăng-Thuyên, các vị cao tăng thay nhau kế tục truyền thừa tông pháp là các ngài Pháp-Lãng, Biện-Công, Huệ-Dũng, Huệ-Bố đều lấy những tác phẩm trước thuật của thầy làm tông yếu cho việc truyền pháp. Sau đó có Đại-sư Gia-Tường y cứ vào 3 bộ luận căn bản nói trên để xiển dương giáo nghĩa Đại-thừa của Tam-Luận-Tông và từ Ngài trở về trước gọi là Cổ-Tam-Luận hay còn được gọi là Tam-Luận của miền Bắc.

Tam-Luận-Tông ngày nay không thấy còn được duy trì, nhất là đối với Phật giáo Nhật-Bản và Phật giáo Việt-Nam.

10.- Địa Luận Tông Do Ai Thành Lập Và Việc Kế Truyền Tông Pháp ? (^)

Địa-Luận-Tông căn cứ vào Thập-Địa-Luận (*) để thành lập nên gọi tên theo chỗ luận về các pháp viên dung vậy.

Phật tánh đồng nhất, nhưng theo tinh thần Hoa-Nghiêm lập thành 3 kỳ thành Phật mà không cho rằng nhất niệm thành Phật, nên gọi là "phi viên giáo". Thập-Địa-Luận trong kinh Hoa-Nghiêm hội thứ 6, phẩm thứ nhất và phần luận thích kinh Thập-Địa biệt hạnh có các ngài Luận-sư Kiên-Huệ, Kim-Cương-Quân và Thế-Thân cùng nhau luận giải chỗ rốt ráo về lý tánh của vạn pháp. Ngày nay, căn cứ vào Thập-Địa-Luận của ngài Thế-Thân làm luận dẫn cho việc thành lập tông.

Đời nhà Lương có các ngài Quang-Thống, Huệ-Thuận, Đạo-Thận là những bậc danh tăng đứng ra đề xướng giáo nghĩa của tông nầy. Tới đời Đường, tông Hoa-Nghiêm thạnh hành, do đó tông Địa-Luận cơ hồ ít được người lưu tâm tới.

Mỗi tông phái được thành lập là do công trình nghiên cứu, áp dụng và quảng bá của người sáng lập, rồi sau đó truyền lưu cho các thế hệ kế tiếp kế tục duy trì và phát triển thì tông môn mới được tồn tại. Tông Địa-Luận, căn cứ vào chỗ thâm áo của các bộ luận của ngài Thế-Thân tạo để hình thành. Khi đến Trung-Quốc, tông phái nầy chỉ được kế thừa trong một giai đoạn rồi phải bị đình thoái mà nguyên nhân chính hẳn giáo nghĩa quá cao sâu không theo kịp với trình độ của người tu tập.

Tông Địa-Luận cho tới nay chỉ còn lại trên danh nghĩa và sử liệu truyền pháp, còn trên thực tế không có dấu hiệu nào cho thấy sự tồn tại, ngay chính nơi phát tích ra tông như Trung-Quốc cũng vậy.

--------

(*) Thập địa : Hoan-hỷ địa, ly-cấu địa, phát-quang địa, diệm-huệ địa, cực-nan-thắng địa, hiện-tiền địa, viễn-hành địa, bất-động địa, thiện-huệ địa, và pháp-vân địa. Ngoài ra còn có 2 các phân biệt khác nhau theo Tiểu-thừa và theo bộ luận Trí-Độ cũng đều chỉ các giai đoạn tu đạt đạo của các hàng Thanh-văn, Duyên-giác, Bồ-tát vậy.

11.- Nhiếp Luận Tông Do Ai Sáng Lập Và Việc Kế Truyền Ra Sao ? (^)

Nhiếp-Luận-Tông lấy từ bộ luận Nhiếp-Đại-Thừa của ngài Vô-Trước. Sau đó hai ngài Thế-Thân và Vô-Tánh đều có tạo thêm luận Nhiếp-Địa-Thừa và tông nầy được thành lập căn cứ vào bộ luận nói trên.

Đời nhà Lương, ngài Chân-Đế dịch bộ luận của ngài Vô-Trước và của ngài Thế-Thân. Đời nhà Đường, ngài Huyền-Trang cũng dịch bộ luận của ngài Vô-Trước và của 2 ngài Thế-Thân, Vô-Tánh. Chánh pháp được truyền lưu y cứ vào các bộ luận dịch nầy mà truyền bá rộng ra là Nhiếp-Luận-Tông. Đương thời có ngài Huệ-Khoảng thân cận để nghe ngài Chân-Đế giảng bộ luận Nhiếp-Đại-Thừa và đồng thời còn có các vị sa-môn như Pháp-Thường, Trí-Nghiễm cũng nghiên cứu bộ luận nầy. Sau đó những vị Thiền-đức kế tục con đường nghiên cứu là các ngài Đạo-Khuyết, Huệ-Hưu ở vào đời Trần, đời Tùy đều đề xướng giáo nghĩa của tông nầy. Nhưng đến khi tông Pháp-Tướng được đề xướng, thì tông chỉ của Nhiếp-Luận-Tông không còn nữa. Có phải chăng giáo pháp tùy duyên nhưng bất biến và vì thế mà danh nghĩa của tông có đổi thay, song việc hoằng truyền chánh pháp không thay đổi.

Các bản dịch của ngài Chân-Đế gọi là cựu dịch, trong khi đó bản dịch của ngài Huyền-Trang gọi là tân dịch. Căn cứ vào văn mạch và tánh cách để truyền thông giáo nghĩa Phật-Đà mà người đời gọi như thế, cũng có phần nào đúng theo ngôn ngữ thông thường ngày nay.

Như vậy, Nhiếp-Luận-Tông là một trong 13 tông phái thuộc Phật giáo Trung-Quốc mà không phổ cập được ở các nước theo Phật giáo Đại-thừa như các tông khác.

12.- Tông Chơn Ngôn Căn Cứ Vào Bộ Kinh Gì Để thành Lập Và Do Ai Chủ Xướng ? (^)

Chơn-ngôn là tông phái thuộc Đại-thừa Phật giáo vừa có tính cách bí mật lại vừa có tính cách siêu hình, nên vượt ra ngoài việc nghĩ bàn của chúng ta.

Phật là bậc đã giác ngộ, tu đạt được chánh quả mới hiểu thấu suốt được chỗ sâu sắc của những lời mật ngữ, do đó, tông Chơn-ngôn còn có tên khác gọi là Chơn-ngôn Đà-la-ni.

Các tông thuộc Đại-thừa Phật giáo như Pháp-Tướng y cứ vào phẩm "Pháp Tướng" trong kinh Giải-Thâm-Mật. Trong khi đó, Tam-Luận-Tông y cứ vào chỗ lý luận biện chứng trong giáo lý để lập tông ; còn tông Thiên-Thai lại căn cứ vào chỗ trụ xứ nơi chánh bổn của kinh Hoa-Nghiêm để lập tông, tông Chơn-ngôn lại do nơi mật ngữ (lời lẽ bí mật khó diễn tả) trong tam mật ngữ để thành lập tông chỉ.

Tam mật là gì ? Đó là ngữ mật, thân mật và tâm mật. Theo truyền thuyết, quan niệm cho rằng đức Phật Đại-Nhựt Như-Lai một thuở nọ đã vượt qua cõi tam giới ở cõi trời Sắc-cứu-cánh và chứng ngộ được Kim-cang-tát-đỏa, do nơi nội tâm phát ra, tức là thành Phật và chính Ngài nói kinh Đại-Nhựt để giáo hóa quần sanh mà tông Chơn-ngôn y cứ vào kinh nầy để lập tông.

Cũng như tông Niết-Bàn, tông Chơn-ngôn không được truyền bá thạnh hành tại Việt-Nam, Trung-Quốc mà chỉ có Phật giáo Nhật-Bản ngày nay còn duy trì và phát triển tông phái Chơn-ngôn. Tổng bổn sơn của tông Chơn-ngôn đặt tại Cao-Dã-Sơn thuộc huyện Wakayama ở miền nam nước Nhật. Nơi đây có cả một làng Phật giáo gồm 6 ngôi tổ đình trên núi như một làng du lịch nổi tiếng cho du khách từ nhiều nơi đến viếng thăm Nhật-Bản vào những dịp nghỉ hè.

Tông Chơn-ngôn trong cách hành trì cũng có phần nào khác với các tông Tào-Động, Lâm-Tế ... vì trong tự thể của nó đã có phần bí mật mà hành giả tin rằng chỉ có niềm cảm ứng thì đạo mới giao hòa được.

13.- Luật Tông Do Ai Thành Lập VÀ Căn Cứ Vào Đâu Hình Thành ? (^)

Luật tông căn cứ vào giới luật để thành lập. Luật là một trong 3 tạng kinh điển của Phật giáo, nhờ giới luật mà duy trì được mạng mạch của người tu hành.

Luật-tông, người khởi xướng là ngài Đạo-Tuyên tu ở núi Nam-Sơn vào đời nhà Đường, y cứ vào bộ Luật-Tứ-Phần (xem bài riêng) để hoằng truyền giới pháp nên gọi là Luật-tông. Nguyên lai của bộ Luật-Tứ-Phần có từ sau Phật nhập Niết-Bàn khoảng 100 năm (444 năm trước Tây-lịch), ngài La-Hán Đàm-Vô-Đức lập riêng thành một bộ. Khi Phật giáo truyền đến Trung-Quốc thì bộ Luật-Tứ-Phần được dịch sang tiếng Trung-Hoa, cho đến đời Đường, ngài Nam-Sơn mới hệ thống hóa lại và lập nên một tông phái. Đương thời có 3 nhà Luật-sư chuyên đề xướng bộ Luật-Tứ-Phần là ngài Pháp-Khoáng chùa Nhật-Quang, đất Tương-Châu, y cứ vào bộ Luận-Thành-Thật để tạo ra bộ Luật-Tứ-Phần sớ gồm có 10 quyển ; ngài Đạo-Tuyên căn cứ vào Luận-Duy-Thức làm ra bộ Luật-Tứ-Phần hành sự sao, 3 quyển vào ngài Hoài-Tố chùa Tây-Thái-Nguyên tạo ra bộ Luật-Tứ-Phần khai thông ký, gồm 10 cuốn. Cả 3 nhà Luật-sư trên đều ở vào đời Đường, đã có sự tranh chấp nhau chỗ thành lập tông bất đồng nên gọi là 3 nhà Luật-sư vậy.

Luật-tông lấy giới luật làm đầu trong việc tu học và để răn cấm người tu giữ gìn đúng luật. Mặt khác, tông nầy không được phổ cập rộng rãi trong quần chúng, một phần vì bộ Luật-Tứ-Phần là giới luật dành riêng cho hàng xuất gia, một phần vì sự tranh chấp nhau giữa các nhà luật gia chủ trương, và do đó Luật-tông chỉ hình thành được trong một giai đoạn mà không có tính cách lâu dài.

Trên phương diện phân chia tông phái, Luật-tông cũng như một phần ưu thế trong cách truyền pháp, tuy không gây được nhiều ảnh hưởng như các tông Thiền, Tịnh-độ ....

14.- Tông Niết Bàn Lấy Kinh GÌ Làm Tông Chỉ Và Do Ai Sáng Lập ? (^)

Tông Niết-Bàn là một trong số 13 tông thuộc Phật giáo Trung-Quốc. Tông Niết-Bàn y cứ vào bộ kinh Niết-Bàn để lập tông. Lập luận cho rằng Phật tánh thường trụ bất biến theo đúng như tinh thần của kinh Niết-Bàn mà đức Phật đã giảng dạy cho các hàng đệ tử trước khi Ngài viên tịch. Vào đời Lương có ngài Đàm-Vô-Sấm là người đầu tiên dịch bộ kinh Niết-Bàn từ chữ Phạn sang chữ Hán. Đến đời nhà Tống (thế kỷ thứ 10) có các ngài Huệ-Thành, Đàm-Vô-Thanh, Tăng-Trang, Đạo-Uông, Tĩnh-Lâm, Huệ-Định, Đàm-Võ, Siêu-Tấn, Pháp-Đao, Đạo-Đăng, Đàm-Độ, Đạo-Thành là những vị cao tăng thạc đức viết sách làm sớ văn truyền bá chánh pháp sâu rộng bằng cách xiển dương giáo nghĩa và chỗ thâm áo của kinh Niết-Bàn. Đời Tùy (581) thì có các ngài Tịnh-Ảnh, Trí-Huy, Pháp-Khoáng, Đạo-Trác ... là những vị cao tăng lấy kinh Niết-Bàn làm tông chỉ cho việc biện đạo nhiếp chúng. Đến đời Đường (608-907) có các ngài Đạo-Tuyên, Pháp-Bảo, cũng đều y cứ vào lý thú của kinh Niết-Bàn mà hoằng pháp lợi sanh. Tông Niết-Bàn sau nầy được sát nhập vào với tông Thiên-Thai là một.

Ngày nay tại Trung-Quốc không lấy tông Niết-Bàn làm tông chỉ mà chỉ còn lại tông Thiên-Thai. Việc thay đổi có nhiều lý do mà điều chính yếu vẫn do nhân tâm không thấu đạt được diệu lý của kinh điển mà thành.

Tông Niết-Bàn tại Nhật-Bản và Việt-Nam cũng không mấy phát triển. Tông nầy được nhắc tới như là một sự nghiên cứu hơn là trên thực tế. Có người còn cho rằng, tông Niết-Bàn là một tông phái kém linh động, vì trước khi Phật sắp nhập diệt Ngài mới nói ra kinh nầy. Điều nhận xét trên không đúng, vì việc truyền bá chánh pháp là do chư Tổ kế thừa, còn giáo lý gồm trong 3 tạng kinh điển của Phật luôn luôn vẫn là chân lý có một giá trị thực tiển để xây dựng cho xã hội nhân gian một nền hòa bình an lạc và pháp tu chứng đạt đạo.

Trong Phật giáo bất cứ tông phái nào biết áp dụng đúng mức tinh thần vị tha, vô ngã để đem lạm lợi ích cho mình và người khác đều được duy trì và phát triển lớn mạnh.

15.- Phái Đại Thừa Phật Giáo Phát Triển Như Thế Nào Tại Các Nước Trên Thế Giới Ngày Nay ? (^)

Ngay sau khi đức Phật Thích-Ca nhập Niết-Bàn, trong Phật giáo đã chia ra làm 2 bộ phái là Thượng-tọa-bộ và Đại-chúng-bộ hay Tiểu-thừa và Đại-thừa.

Sau Phật nhập diệt khoảng 100 năm, các bộ phái được chia thành 20 tông khác nhau. Từ đó mỗi tông hay bộ phái đều giữ một đặc tính riêng trong việc kế truyền Phật Pháp. Ngày nay, các tông như Lâm-Tế, Tào-Động, Hoa-Nghiêm, Pháp-Tướng, Tịnh-Độ ... đều được duy trì và phát triển tại các nước sớm ảnh hưởng Phật giáo như Nhật-Bản, Trung-Quốc, Triều-Tiên, Tây-Tạng ... Điểm nổi bậc hơn cả là mỗi tông trong Phật giáo đều chủ trương đạt ngộ chân tâm kiến tánh thành phật theo như tinh thần vô ngã và vạn pháp đều vô tướng (phá ngã chấp tức chấp chặt cái "TA" và pháp chấp "TƯỚNG" như lớn, nhỏ, dài, ngắn ...) của Đại-thừa Phật giáo để đưa người hành trì tới con đường giải thoát an vui. Do từ chỗ phân phái đó mà các học giả Âu-Châu khi nghiên cứu về Phật giáo có chia ra làm 2 lãnh vực là Nam-phương và Bắc-phương hay Phật giáo truyền theo đường bộ và đường thủy. Và cũng do từ quan niệm truyền giáo mà Phật giáo có Tiểu-thừa và Đại-thừa. Vấn đề Tiểu-thừa hay Đại-thừa không phải là điều quan trọng, vì Phật giáo Nam-phương căn cứ vào kinh điển bằng văn tự tiếng Pali, trong khi đó, Phật giáo truyền theo Bắc-phương theo kinh điển bằng tiếng, Phạn, Sanskrit, điều cần thiết là chúng ta có biết áp dụng phương pháp đạo Phật vào đời sống hằng ngày hay không, mới đáng luận bàn, phê phán.

Phật giáo phát nguyên từ Ấn-Độ, nhưng trải qua nhiều thời kỳ suy vong và bị đình đốn, áp bức ... cho tới ngày nay tại Ấn chỉ còn lại một sống những di tích lịch sử, tháp chuông, trụ đá kỷ niệm, những ngôi chùa cổ, còn việc truyền bá Phật giáo hầu như không mấy thạnh hành !

Tại Trung-Hoa lục địa, Phật giáo cũng bị ngưng trệ trải qua nhiều giai đoạn cam go, nhấn là từ năm 1966, sau cuộc văn hóa đại cách mạng (thời kỳ Mao-Trạch-Đông), Phật giáo được xem như một món đồ cổ để trang sức trong viện bảo tàng cho du khách thập phương ! Vào cuối năm 1979 chính quyền Trung-Quốc tìm cách cho phục hồi Phật giáo trở lại, nhưng đây lại là một thứ Phật giáo không thuần túy tôn giáo cổ truyền mà đã pha trộn lẫn mầu sắc chính trị ...

Nhật-Bản ngày nay, Phật giáo không có dấu hiệu nào cho thấy đang trên đà phát triển về mặt hình thức cả, nhưng đạo Phật đã bám sâu được gốc rễ trong lòng dân tộc qua ngôn ngữ, văn tự, giáo dục, kiến trúc ... thật hết sức đặc biệt. Đời sống trong các tự viện cũng đã được cải cách hoàn toàn từ hơn 100 năm nay. Người Tăng sĩ Nhật hầu hết đều có gia đình vợ con ở ngay trong chùa. mặc dù vậy lòng tôn kính của người tín đồ vẫn không hề bị sút giảm. Ở mỗi chùa đều có một đời sống kinh tế rất dồi dào sung túc. Hẳn đây là nét nổi bậc hơn cả trong các nước Phật giáo, theo con đường truyền giáo Bắc-phương mà chỉ có Nhật-Bản : Là dân tộc đầu tiên áp dụng đạo Phật đi vào nhân gian một cách thành công.

Riêng tại Việt-Nam, Phật giáo đã bị ách hại từ ngày Cộng-sản chiếm miền Nam vào mùa xuân năm 1975, chùa chiền bị tàn phá, tượng Phật bị hủy diệt, Tăng sĩ bị tù đày, hoàn tục, tín độ bị bắt bớ, hăm dọa là dấu hiệu báo nguy cho thời đại của chúng ta hôm nay !

Một điều hiển nhiên mà ai cũng phải thành thật công nhận là Phật giáo đang có khuynh hướng truyền bá rộng rãi ở khắp các nước Âu Mỹ ngày nay.

16.- Tông Tào Động Do Ai Sáng Lập Và Việc Kế Truyền Ra Sao ? (^)

Tông Tào-Động là một trong năm tông phái lớn và có tầm hoạt động lớn mạnh ngày nay của Phật giáo phái Thiền-tông.

Người sáng lập tông do Thiền-sư Hy-Thiên, đệ tử của ngài Thanh-Nguyên, tu ở một cái am dựng trên một tảng đá lớn thuộc núi Hoành-Sơn, nên người đương thời ưa gọi ngài là Thạch-Đầu Hòa-Thượng. Ngài Hy-Thiên truyền cho ngài Dược-Sơn, ngài Dược-Sơn truyền cho ngài Vân-Nham, ngài Vân-Nham truyền cho ngài Lương-Giới, tu ở núi Đông-Sơn, nên còn gọi là ngài Đông-Sơn, ngài Đông-Sơn truyền cho ngài Bổn-Tịch ở núi Tào-Sơn thuộc đất Vũ-Châu, đó là việc kế truyền trong hệ phái của tông Tào-Động.

Căn cứ theo sách "Tổ-Đình Sự-Uyển" thì ngài Bổn-Tịch (Tào-Sơn) là con kế tự của Thiền-sư Đông-Sơn. Ngày nay khi nói tới Phật giáo Tào-Động phần nhiều người chỉ biết có ngài Tào-Sơn mà không tìm hiểu thấu chỗ phát khởi của tông môn. Tông Tào-Động rất có ảnh hưởng tới Phật giáo các nước thuộc hệ tư tưởng Đại-thừa.

Tại Nhật-Bản có ngài Hám-Sơn Thiền-sư cùng với ngài Đạo-Nguyên Thiền-sư là những bậc cao tăng thạc đức đã đem ánh sáng đạo thiền soi sáng trong dân chúng vào đầu thế kỷ thứ 12 Tây-lịch. Nhờ tinh thần phóng khoáng biết dung hòa tư tưởng thiền, các Thiền-sư đã mang lại niềm phấn khởi cho người hành trì. Thiền Tào-Động vì thế còn sáng lạn trong lịch sử văn học Phật giáo Nhật-Bản mãi đến ngày nay. Trong các tông phái thiền tại Nhật, có lẽ tông Tào-Động phát triển mạnh nhất, rồi mới đến tông Lâm-Tế, Chơn-Ngôn, Nhật-Liên ...

Ở một số các nước khác như Trung-Quốc, Việt-Nam ... tông Tào-Động không lớn mạnh bằng tông Lâm-Tế, Tịnh-Độ .... nhưng vẫn còn được duy trì.

17.- Tông Chỉ Của Thiền Tông Trong Phật Giáo Ra Sao? (^)

Trong Phật giáo có chia ra thành Hiển-giáo và Mật-giáo. Y cứ theo kinh điển của Phật thuyết, thiền lấy tâm truyền tâm, trực chỉ lòng người, thấy tánh thành Phật ngay không lập thành văn tự. Đây gọi là giáo ngoại biệt truyền.

Cũng như người dùng ngón tay chỉ mặt trăng, giáo lý chỉ là phương tiện để hiển bày chân tánh. Chư Tổ không dùng ngôn ngữ mà lấy tâm truyền tâm để đưa người hành trì ngộ được chân tâm của mình.

Theo như kinh Phạm-Thiên hỏi Phật về những điều nghi vấn thì khi đức Phật còn tại thế, một hôm, Ngài đang thuyết pháp tại hội Linh-Sơn, giữa đại chúng có hơn 1000 người. Phật không nói một lời mà cầm hoa sen giơ cao lên trước đám thính chúng. Mọi người đều yên lặng, duy chỉ ngài Ca-Diếp mĩm cười, vì ngộ được tôn ý của Phật. Phật bèn truyền tâm ấn cho ngài Ma-Ha Ca-Diếp và dạy rằng : Ta có Chánh pháp nhãn tạng, Niết-Bàn diệu tâm, thật tướng vô tướng, nay giao phó lại cho ông ; Chánh pháp nhãn tạng, Niết-Bàn diệu tâm là thấu rõ được nguyên lý cấu tạo nên vũ trụ vạn hữu. Không quá lệ thuộc vào văn kinh cũng không bài bác ý kinh và cũng không chấp chặt nơi văn tự, là ý chính của việc truyền tâm pháp trong đạo thiền.

Bồ-Đề Đạt-Ma là tổ thứ 28 của Thiền-tông thuộc Phật giáo Ấn-Độ, khi qua Trung-Quốc vào năm 520 đời Hậu-Ngụy vua Hiếu-Minh-Đế, niên hiệu Chánh-Quang năm đầu. Sau Ngài tu ở chùa Thiếu-Lâm tại Tung-Sơn cho đến khi ngộ đạo rồi truyền tâm pháp cho ngài Huệ-Khả, ngài Huệ-Khả truyền cho ngài Tăng-Xáng, ngài Tăng-Xáng truyền cho ngài Đạo-Tín, ngài Đạo-Tín truyền cho ngài Hoằng-Nhẫn, ngài Hoằng-Nhẫn (602-675) truyền cho ngài Huệ-Năng. Đó là phát nguyên của phái Thiền mà ngài Đạt-Ma là sơ tổ.

Phái Thiền truyền tới đời lục tổ Huệ-Năng lại chia ra thành nhiều tông khác như Lâm-Tế, Tào-Động ... nhưng tôn chỉ Thiền vẫn là một.

18.- Tông Quy Ngưỡng Trong Phật Giáo Có Phát Triển Như Các Tông Phái Khác ? (^)

Phật giáo khi truyền đến Trung-Hoa một thời gian bốn năm thế kỷ lại chia ra thành nhiều tông phái.

Quy-Ngưỡng là một trong số 13 tông khác nhau và chỉ tồn tại được trong một thời gian hữu hạn thôi.

Tổ Bách-Trượng Thiền-sư khai sơn ra tông Quy-Ngưỡng rồi truyền đến ngài Linh-Hiệu ở núi Qui-Sơn đất Đàm-Châu, ngài Qui-Sơn truyền cho ngài Ngưỡng-Sơn đất Viên-Châu. Đó là nguyên lai của việc kế thừa tông phái. Ngài Ngưỡng-Sơn tu tại núi Qui-Sơn để tiếp tục thay thầy duy trì tôn chỉ. Bách-Trượng Thiền-sư là người đầu tiên trong học giới Thiền gia đề ra nguyên tắc "bất tác bất thực", tức là không làm thì không có ăn để áp dụng trong sơm môn cho chúng thiền sinh. Nguyên tắc tuy nghiêm khắc, nhưng lại phù hợp cho thời đại ngày nay, không những chỉ riêng tại Trung-Quốc mà nó còn được áp dụng tại Nhật-Bản, Việt-Nam ... ở một số những ngôi chùa còn giữ theo đúng phép tắc của một thiền đường. Đó là phương pháp "chấp lao phục dịch" (phải ra sức làm việc để bù lại được một số lợi tức xứng hợp) mà Thiền-sư Vô-Ngôn-Thông đã đem thực hiện ở nước ta vào thế kỷ thứ 9 Tây-lịch.

Tông Quy-Ngưỡng cũng như các tông phái khác, khi mới khai sanh ra thì được chính người khởi xướng tận lực phát triển và truyền bá cho môn đệ thừa hành. Sau một thời gian rồi do hoàn cảnh tạo nên một phần và một phần đều căn cứ vào tông chỉ thành lập tông mà tồn tại hay không.

Đó là lý do tại sao chúng ta không thấy tông Quy-Ngưỡng còn phát triển hay duy trì được ở các nước sớm chịu ảnh hưởng Phật giáo.

19.- Thế Nào Gọi Là Tiểu Thừa Phật Giáo ? (^)

Vấn đề phân phái Phật giáo đã có sau khi đức Phật Thích-Ca nhập Niết-Bàn, ngay trong kỳ kiết tập kinh điển lần thứ nhất, đã có chia ra làm Thượng-tọa-bộ và Đại-chúng-bộ, đó là nguồn gốc của Đại-thừa và Tiểu-thừa Phật giáo sau này.

Qua lần kiết tập kinh điển lần thứ hai (sau Phật Niết-Bàn 100 năm) trong Phật giáo lần lượt chia ra thành 20 bộ phái khác nhau. Mặc dầu có phân chia ra làm nhiều tông phái, nhưng tựu trung Phật giáo vẫn lấy việc giải thoát độ sanh làm cứu cánh và vẫn tôn thờ đức Giáo-chủ Thích-Ca Mâu-Ni làm thầy, cũng như tất cả các tông đều nương vào nhưng lời dạy của Phật Tổ làm kim chỉ nam cho việc tu hành, chứng đắc.

Do đó, Phật giáo được chia ra hai ngã truyền giáo là Bắc-phương và Nam-phương hay theo lối truyền theo đường bộ và đường thủy. Phật giáo truyền theo ngã phía Bắc qua các nước Népal, Tây-Tạng, Trung-Quốc, Nhật-Bản, Việt-Nam gọi là Đại-thừa Phật giáo và theo ngã phía Nam thuộc các nước Tích-Lan (Ceylon), Miến-Điện, Thái-Lan, Lào, Cao-Miên gọi là Tiểu-thừa Phật giáo. Nam-phương Phật giáo hay Tiểu-thừa theo kinh điển tiếng Pali. Trong khi đó Bắc-phương Phật giáo hay Đại-thừa theo kinh điển tiếng Phạn (Sanskrit). Tiểu-thừa Phật giáo giữ nguyên hình thức cổ như chư Tăng quấn y vàng và hành theo hạnh khất thực, ngày ăn một bửa giống như Phật lúc còn tại thế. Việc truyền giáo của phái Tiểu-thừa lưu động, không chủ trương lập chùa chiền, cơ sở nhiều mà chỉ cần một chiếc cà-sa với một bình bát và tối lại người Tăng sĩ chỉ cần ngủ dưới gốc cây là đủ.

Trong lịch sử truyền thừa Phật giáo từ Ấn-Độ, đức Giáo-chủ Thích-Ca Mâu-Ni khai sáng đạo Phật năm 544 trước Tây-lịch. Tiếng pháp âm vi diệu của Ngài được truyền đi khắp năm châu trên toàn thế giới. Mỗi nơi tùy theo căn cơ của chúng sanh mà Phật giáo có Đại-thừa hay Tiểu-thừa để duy trì mạng mạch đạo pháp trường tồn bất diệt.

20.- Hãy Nói Về 20 Bộ phái Trong Phật Giáo ? (^)

Vấn đề phân phái trong Phật giáo đã có từ sau khi đức Phật nhập Niết-Bàn 100 năm. Có hai phái bảo thủ và cấp tiến hay Đại-chúng-bộ và Thượng-tọa-bộ, rồi phân thành 20 bộ phái khác nhau.

Hai mươi bộ phái trong Phật giáo là :

9 bộ phái Đại-thừa :

Đại-chúng-bộ

Nhất-thuyết-bộ

Thuyết-xuất-thế-bộ

Kê-dẫn-bộ

Đa-văn-bộ

Thuyết-giả-bộ

Chế-đa-sơn-bộ

Tây-sơn-trụ-bộ

Bắc-sơn-trụ-bộ

11 bộ phái Tiểu-thừa :

Tuyết-sơn-bộ

Thuyết-nhất-thiết-hữu-bộ

Độc-tử-bộ

Pháp-thượng-bộ

Hiền-vị-bộ

Chánh-lượng-bộ

Mật-lâm-sơn-bộ

Hóa-địa-bộ

Pháp-tạng-bộ

Ẩm-quang-bộ

Kinh-lượng-bộ.

Các bộ phái tuy có phân chia và mỗi bên đều có một lối kiến giải khác nhau, nhưng trên căn bản vẫn y cứ vào giáo lý giải thoát cứu cánh của Phật tổ Thích-Ca đã chỉ dạy để tu hành. Một điều đáng tự hào là trong Phật giáo từ khởi thủy cho đến ngày nay, trải qua hơn 2500 lịch sử, đạo Phật được truyền bá sâu rộng khắp nơi trên thế giới, nhưng chưa có một cuộc thánh chiến đẫm máu nào xảy ra, vì các nhà nghiên cứu Phật học, cũng như các hàng đệ tử của Ngài đều biết dựa theo tinh thần từ bi, bình đẳng của Phật tổ để truyền thừa giáo pháp.

Khi Phật giáo vào Trung-Quốc, Nhật-Bản, Việt-Nam ... lại có lối phân phái khác nhau mà phái Thiền được coi như phổ thông hơn cả. Đây hẳn là phương pháp tùy duyên nhi bất biến hay pháp tùy theo mỗi hoàn cảnh, quốc độ để truyền thừa chánh pháp.

Tiếng Việt

Trang nhà Quảng Đức

Tiếng Anh

Phật Học Cơ Bản

..... ... .

KIẾN THỨC

CĂN BẢN PHẬT GIÁO

TT.Thích Bảo Lạc

--- o0o ---

CHƯƠNG 7

CHƯ THÁNH, CÁC VỊ TỒ

1.- Đức Phật A-Di-Đà Và Những Hạnh Nguyện Của Ngài (^)

Phật A-Di-Đà là hình ảnh và danh hiệu quen thuộc đối với người tu hành theo pháp môn Tịnh-độ.

A-Di-Đà Phật có 3 nghĩa như sau :

- Vô lượng quang.

- Vô lượng thọ.

- Vô lượng công đức.

Có ý nói rằng đức Phật A-Di-Đà tượng trưng cho ánh sáng vô lượng vô biên, tuổi thọ mạng của Ngài cũng không hạn định và công đức không thể nghĩ bàn. Vì sao, vì đức Phật A-Di-Đà có phát lời thệ nguyện rộng lớn cứu độ khắp tất cả chúng sanh đều được giải thoát, rồi sau Ngài mới vào Niết-Bàn. Ngài có phát 48 lời nguyện với lòng từ bi vô bờ bến muốn cứu khổ cho mọi loài bị đọa lạc nơi địa ngục được giải thoát để sanh về thế giới Cực-Lạc, với một điều kiện duy nhất là hễ ai niệm đến danh hiệu Ngài tới 10 niệm cho được thành tâm sẽ được cảm ứng. Do đó, người Tăng sĩ mỗi khi gặp nhau hay người tín đồ, tại chùa hay tại bất cứ một nơi nào, thường hay chấp tay chào hỏi nhau bằng câu "Nam mô A-Di-Đà Phật" để nhắc nhở nơi mỗi người Phật tử đều có sẵn lòng từ bi vô lượng, cũng như công đức không thể nghĩ lường ở nơi tự tâm mình. Với ý nghĩa đó, mỗi khi gặp gỡ nhau, người Phật tử không dùng lối bắt tay để chào xã giao như cách chào của người Tây-phương mà hay dùng hình thức niệm danh hiệu đức Phật A-Di-Đà thật là đầy đủ và có một ý nghĩa cao sâu.

Ngoài ra, người Phật tử còn tin nơi lời nguyện thứ 19 của đức Phật A-Di-Đà rằng mười phương chúng sanh phát Bồ-đề-tâm, tu các công đức nguyện sanh về cõi Cực-Lạc, đến lúc lâm chung, nếu Ngài không cùng với đại chúng hiện thân trước người đó, thì Ngài nguyện không ở ngôi chánh giác, cho đến những việc thọ mạng còn hữu hạn (nguyện thứ 15) lúc chết còn bị sa vào 3 đường ác (nguyện thứ 2), trí sáng suốt còn bị hữu hạn (nguyện thứ 12) v.v... Ngài nguyện không vào ngôi Chánh-giác. Với những lời nguyện cao cả ấy đủ nói lên ý nghĩa danh hiệu của Ngài.

Muốn được giải thoát mọi phiền não, ràng buộc, mỗi ngày chúng ta cố gắng thành tâm niệm đức Phật A-Di-Đà cho được thường xuyên để nuôi dưỡng lòng từ bi, nhờ đó trí huệ sáng suốt sẽ tỏa rạng sáng ngời và làm áp đảo được mọi mê mờ tăm tối.

2.- Sự Tích Và Ý Nghĩa Phật Quan Âm Hay Bồ Tát Quán Thế Âm (^)

Sự tích đức Phật Quan-Âm hay đức Quán-Thế-Âm Bồ-Tát có 2 tích truyện rất phổ thông, đã được người bình dân cũng như giới trí thức Việt-Nam, không ai là không biết đến.

Đó là tích Nam-Hải Quan-Âm và vở tuồng chèo Quan-Âm Thị-Kính. Trước hết về tích Nam-Hải Quan-Âm, do một vị Tăng đời Nguyên (TH) sáng tác, rồi truyền vào đất Việt khoảng thế kỷ 14-15, câu chuyện kể như sau : Ngày xưa tại nước Hưng-Lâm (Tây-Trúc) có vua Diệu-Trang trị vì, đã lớn tuổi, vua không có con trai để nối ngôi nên đến cầu tự ở đền Tây-Nhạc-Đế. Lời cầu xin thành khẩn của vua cảm đến Ngọc-Hoàng, vua được toại nguyện, nhưng sau lại chỉ hạ sanh được 3 người con đều là công chúa, đó là 3 người con trai con nhà họ Thi có tiếng nhân đức sau khi chết đã được tái sanh thành Diệu-Thanh, Diệu-Âm và Diệu-Thiện hay Chúa-Ba. Chúa-Ba sớm tin kính Phật, không chịu nghe theo lời cha về việc kết hôn, bèn bỏ nhà đi tu. Vua quá giận cho người bắt giam. Nhưng không vì thế mà bà nãn lòng, chí xuất gia đầu Phật lại càng mạnh mẽ hơn. Đức tin như có sức mạnh phi thường không làm gì lay chuyển nổi. Vua cha càng giận, tìm hết mọi cách để thuyết phục rồi dùng áp lực cũng không thể nào làm thay đổi chí hướng bà.

Sau cùng, vua ra lịnh đốt chùa, Diệu-Thiện hóa phép cầu trời, rồng xuống phun nước dập tắt ngọn lửa. Còn ni-cô bị xử chém, nhưng đao phủ vừa đưa gươm tới cô Diệu-Thiện thì liền bị gãy đôi. Trời sấm chớp nổi lên, đột nhiên một con mãnh hổ nhảy chòm tới mang Diệu-Thiện đi mất dạng. Được biết, khi chết hồn ni-cô du xuống 18 cửa địa ngục nơi địa phủ và chứng kiến các tội nhân đang bị hình phạt đau đớn, bèn động lòng từ bi mới khẩn cầu :

Khẩn cầu tụng chú, niệm kinh,

Ngọc-Hoàng cảm động lòng thành tự nhiên.

Rồi hóa phép để giải phóng các hồn oan đang bị tù tội, khiến vua Diêm-Vương thán phục lòng độ lượng của ni-cô.

Sau đó, hồn ni-cô trở lại dương thế, nhập lại vào xác và đến đất Giao-Châu, tức lưu vực sông Nhị-Hà (Bắc Việt). Ở đấy, ni-cô quyết lòng tu niệm. Phật tổ Như-Lai hóa phép thành một thanh niên tuấn tú để thử lòng một lần sau chót, nhưng không có cách gì cám dỗ nổi được bà. Đức Phật tổ bèn hiện ra nguyên hình và chỉ đường cho ni-cô về chùa Hương-Tích. Nhờ tinh tấn tu hành, ni-cô Diệu-Thiện chứng thành chánh quả, tức là Phật Bà Quan-Âm. Phật Bà có 2 đệ tử là Thiện-Tài, chú bé mồ côi theo hầu một bên và bé gái vốn giòng Long-Nữ, đội lốt lý ngư bị mắc nạn, được Phật Bà cứu thoát nên theo Ngài luôn.

Chẳng may tin vua cha mắc bịnh hiểm nghèo. Vua yết bảng tìm lương y và hứa trao ngôi báu sau khi lành bịnh, các danh y đều chịu bó tay. Diệu-Thiện biến thành một lương y xin vào cứu vua. Đoán bịnh xong, lương y bảo : Bịnh vua muốn trị lành chỉ cần tới mắt và tay của vị tiên nữ tu trên núi Hương-Tích thì chữa khỏi ngay. Vua bèn giữ lương y lại và cho người lên chùa Hương-Tích theo lời dặn. Vì lòng từ bi Phật Bà sẵn sàng hy sinh thân mạng để cứu người. Xin được mắt và tay đem về trị bịnh vua được lành ngay như thần, theo đúng như lời vị lương y chẩn mạch, cho toa. Liền sau khi lành bịnh vua định làm lễ truyền ngôi cho lương y thì người đã biến mất dạng. Nhờ phép thần thông, Phật Bà cứu được vua cha khỏi hiểm nạn, vừa hiện hình lại đủ cả mắt và tay. Hai người đệ tử cũng đã dùng thần thông cứu thoát hai chị của Phật Bà là Diệu-Âm và Diệu-Thanh giác ngộ được đạo mầu giải thoát. Lúc lành bịnh, vua cha mới tỉnh ngộ, tỏ lòng biết ơn đạo Phật đã cứu mình và giải nguy cho cả nhà, cả nước. Cho tới lúc được thoát nạn, vua vẫn chưa biết chính công chúa Ba, con mình đã đắc đạo có đủ phép thần thông biến hóa như thế để làm tròn bổn phận của con đối với cha mẹ, gia đình, của người dân đối với nước.

Sau khi toàn thể gia đình vua Diệu-Trang-Vương gặp nhau ở chùa Hương-Tích, nói Chúa-Ba đã thành Phật, thì cả nhà đều quy y theo Phật giáo :

Phật Bà phép chí vô biên,

Một thân hóa mấy mươi ngàn muôn thân.

... Thần thông nghìn mắt nghìn tay,

Phổ môn biến để độ loài ngu mông

Lấy câu sắc sắc không không,

Giả làm nam tử thử lòng người ta.

Bảo đèn sen chín tầng hoa,

Gió nhân, mưa phép khắp hòa chúng sanh.

Trên trời dưới đất xoay quanh,

Bao nhiêu khổ nạn tầm thanh hộ trì.

Tóm lại, người xuất gia tu học Phật cũng có thể làm tròn đạo hiếu đối với gia đình và thực hiện đầy đủ lòng nhân như việc cứu người, là triết lý sống động, thực tiển, rất thích hợp với tâm lý của người dân Việt.

3.- Phật Di Lặc Tại Sao Có Người Gọi Là Bồ Tát Di Lặc ! (^)

Di-Lặc họ A-Dật-Đa, tên là Di-Lặc hay Vô-Năng-Thắng, người Nam-Thiên-Trúc, dòng Bà-la-môn. Di-Lặc nghĩa là Từ-Thị tức hiền lành. Ngài sẽ kế vị đức Phật Thích-Ca và là vị Bồ-Tát bổ xứ.

Đức Phật Di-Lặc có nhiều tên gọi khác nhau như Di-Đế-Lệ, Mai-Đế-Lệ, Mê-Đế-Lệ, Mai-Hằng-Lệ, Mỗi-Hằng-Lý, Mai-Hằng-Lệ-Dược, Vị-Hằng-La-Duệ, Ông mang đảy vải, Ông Phật bụng phệ ... để chỉ cho danh hiệu của Ngài.

Trước khi đức Phật Thích-Ca nhập diệt có nói rằng đức Phật Di-Lặc sinh ở nội viện của cung trời Đâu-Suất trải qua 4000 năm sẽ hạ sanh vào cõi đời nầy, nơi vườn Hoa-Lâm tại hội Long-Hoa để dẫn dắt chúng sanh tu tập chánh pháp. Ngài tu pháp tam-muội từ-bi nên gọi là "Từ Thị". Từ đó cho đến sau khi thành Phật Ngài mang tên nầy. Đức Di-Lặc sẽ là vị Phật thứ 5 trong Hiền kiếp (Câu-Lưu-Tôn, Câu-Nam-Hàm Mâu-Ni, Ca-Diếp, Thích-Ca và Phật Di-Lặc) sẽ ra đời kế tiếp đức Phật Thích-Ca để truyền bá chánh pháp tại hội Long-Hoa kỳ 3. Ngài sẽ thuyết pháp độ sanh cho cả trời và người.

Có nhiều bộ kinh mang tên Ngài như : Di-Lặc Thượng kinh, Di-Lặc Hạ kinh, kinh Di-Lặc thành Phật, kinh Di-Lặc Đương Lai Hạ Sanh Thành Phật .... Ngài là vị Phật thể hiện lòng từ bi vô lượng. Bên cạnh chỗ Ngài ngồi luôn luôn có 6 em bé theo quấy nhiễu như đứa chọc nách, đức móc mắt, đứa vỗ mặt ... nhưng Ngài vẫn nở nụ cười hoan hỷ. Sáu đứa nhỏ tượng trưng cho lục tặc tức sáu món giặc phiền não (tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến) luôn quấy phá người tu hành, nhưng Ngài vẫn an trụ tâm thanh tịnh không hễ nao núng trước nghịch cảnh.

Hình ảnh đức Phật Di-Lặc rất gần gủi và thân thiện với trẻ con cũng như với người bình dân. Người Nhật-Bản gọi đức Phật Di-Lặc là MIROKUNO HOTOKE cũng hàm ý nghĩa từ bi nầy.

4.- Đức Phật Dược Sư Có Những Hạnh Nguyện Gì ? Ngài Là Chủ Của Thế Giới Nào ? (^)

Đức Phật Dược-Sư hay nói cho đủ là Dược-Sư Lưu-Ly-Quang Như-Lai hoặc còn gọi là Phật Đại-Y-Vương, với tên là Y-Vương-Thiện-Thế Phật.

Đức Phật Dược-Sư là vị Giáo-chủ cõi Đông-phương Lưu-Ly Thanh-Tịnh. Phật Di-Đà là Giáo-chủ cõi Tây-phương, Phật Thích-Ca là Giáo-chủ cõi Ta-Bà tức là thế gian nơi chúng ta đang sống.

Sở dĩ đức Phật Dược-Sư được xưng tán, vì Ngài là một đại y được làm chủ cảnh giới Đông-phương. Ngài có phát 12 lời thệ nguyện rộng lớn cứu độ hết tất cả chúng sanh nào mắc bịnh nan y, dù đã cầu cứu tới nhiều vị danh y, nhưng bịnh vẫn không lành ; nếu kêu tới danh hiệu của Ngài thì sẽ được toại nguyện. Sau đây là 12 lời thệ nguyện của Ngài :

1- Nguyện đem thân mình làm đuốc soi sáng cho kẻ khác.

2- Nguyện đem oai đức cao cả che chở cho tất cả chúng sanh.

3- Nguyện làm cho chúng sanh được no đủ như chỗ mong cầu đều được toại ý.

4- Nguyện dẫn dắt chúng sanh tu theo pháp của Đại-thừa.

5- Khiến cho chúng sanh thực hành hạnh thanh tịnh và giữ giới, tu tập các công đức lành.

6- Nguyện làm cho chúng sanh nào mà các căn (tai, mắt, mũi, lưỡi, thân thể, chân tay) không đầy đủ được trọn đủ.

7- Nguyện chữa trừ các bệnh tật cho chúng sanh, khiến chúng thân tâm an lạc và chứng được đạo quả Vô-thượng Bồ-đề.

8- Nguyện cho tất cả chúng sanh chuyển thân nữ thành thân nam.

9- Khiến các loài hữu tình thoát khỏi thiên ma, ma ba tuần, ngoại đạo và phá rừng tà kiến để nhập vào chánh đạo.

10- Nguyện làm cho chúng sanh giải thoát khỏi điều xấu ác bủa vây, hảm ngặt khó mong ra khỏi.

11- Làm cho bịnh đói khát của chúng sanh không còn và chỉ hưởng thức ăn thiền định vui vẽ an lạc.

12- Nguyện cho những người thiếu thốn y phục hoặc không đủ áo quần che thân được y phục tốt đẹp.

Với những hạnh nguyện cao cả ấy, đức Phật Dược-Sư luôn luôn được người đời xưng tán như một vị danh y trong đời sống đa nạn nầy.

5.- Ngài Văn Thù Bồ Tát Có những Hạnh Nguyện Gì ? (^)

Văn-Thù nói cho đủ là Văn-Thù-Sư-Lợi Bồ-Tát hay còn gọi là Mạn-Thù-Thi-Lợi hoặc Mạn-Thù-Thất-Lợi.

Văn-Thù theo cựu và theo tân dịch đều có 6 nghĩa khác nhau như theo kinh Vô-Lượng-Thọ và kinh Niết-Bàn dịch là "Diệu-Đức", còn kinh Vô-Hành dịch là "Diệu-Thủ", kinh Quán-Sát-Tam-Muội và kinh Đại-Tịnh Pháp-Môn dịch là "Phổ-Thủ", kinh A-Mục-Khiếp Phổ-Siêu dịch là "Nhu-Thủ", kinh Vô-Lượng-Môn-Triệt-Mật và kinh Kim-Cương-Anh-Lạc dịch là "Kính-Thủ". Trở lên 5 nghĩa theo cựu dịch, còn theo kinh Đại-Nhựt dịch là "Diệu-Kiết-Tường". Vì chữ Văn-Thù hay Mạn-Thù đều có nghĩa là "Diệu", còn chữ Sư-Lợi hay Thất-Lợi có nghĩa là "Đức" tức có ý tốt đẹp trong nghĩa của chữ Kiết-Tường. Ngài thường đứng hầu bên tay trái của đức Phật Thích-Ca, tượng trưng bậc trí tuệ tuyệt vời, còn ngài Phổ-Hiền tượng trưng lý tánh viên dung, vì giữa lý và trí tuệ tròn đủ vô ngại của cả hai, nên thường đứng cạnh nhau. Tóc trên đỉnh đầu Ngài kết thành 5 xoáy, biểu hiệu trí tuệ sáng suốt như mặt trời chiếu sáng, tay cầm kiếm tượng trưng trí tuệ chiếu soi mọi chướng ngại phiền não. Ngài ngồi trên lưng sư tử tượng trưng oai dũng, do đó chữ Văn-Thù có nhiều nghĩa khác nhau và trong nhiều bộ kinh dịch theo một cách khác tuy đồng một Văn-Thù. Ngài là vị Bồ-Tát có trí tuệ bậc nhất, theo hầu cận như cánh tay trái của Phật tổ để duy trì ủng hộ Phật Pháp. Ngài cùng với ngài Phổ-Hiền là pháp hữu đồng tu và chứng đắc đạo quả tại hội Long-Hoa, do đó, Văn-Thù còn được gọi là Văn-Thù Sư-Lợi Pháp-Vương-Tử, có ý nói rằng Ngài là con của đấng Pháp-Vương tức đức Như-Lai, do nương theo giáo pháp của Phật để tu và đạt được đạo.

Ngài là vị Bồ-Tát xứng đáng cho hàng đệ tử Phật lễ bái xưng tán danh hiệu để noi theo trí sáng suốt qua mọi thời gian và không gian.

6.- Ngài Phổ Hiền Bồ Tát Và Những Lời Phát Nguyện Ra Sao ? (^)

Phổ-Hiền tiếng Phạn là Bật-Du-Bạt-Đà hay còn gọi là Tam-Mạn-Đa-Bạt-Đà-La và người Tàu dịch chữ Phổ-Hiền là Biến-Kiết tức chỉ cho điều lành trải rộng khắp.

Chính ngài Phổ-Hiền tròn đầy lý tánh, đức tướng, lý hạnh, cùng với trí đức như ngài Văn-Thù. Ngài Phổ-Hiền thường được gọi là bậc hiệp sĩ đứng hầu bên phía tay phải của đức Phật Thích-Ca, cỡi trên lưng con voi trắng. Voi trắng tượng trưng giữa lý trí và đức hạnh tương dung, cũng như Tam-Muội và Bát-Nhã đều là pháp thân biến chiếu khắp nơi của đức Phật Tỳ-Lô-Giá-Na. Kinh Hoa-Nghiêm chứng minh rằng y theo đức Phật nầy (Tỳ-Lô) và pháp môn của 2 vị Bồ-Tát (chỉ Văn-Thù và Phổ-Hiền) nên gọi là Hoa-Nghiêm Tam-Thánh và lấy từ căn bản đức trí đó của ngài Phổ-Hiền mà lập nên 10 đại nguyện, là cái thể thật tướng của các pháp. Còn theo kinh Pháp-Hoa thì do nguyện Tam-Muội mà ngài Phổ-Hiền hiện ra thân hình thật tướng. Vì chữ Tam-Mạn-Đà có nghĩa là "phổ" tức là cùng khắp hay phổ cập các nơi, còn Bạt-Đà-La là "hiền" vậy. Ngoài ra, chữ Biến-Kiết cũng có cùng nghĩa Biến là "phổ" và Kiết tức là "hiền". Theo người Tàu có chú giải trong nhiều bộ kinh thì sự biến hóa không lường gọi là phổ và tu chứng được bậc Á-Thánh nên gọi là hiền.

Ở các chùa thường thờ ngài Phổ-Hiền và ngài Văn-Thù ở hai bên tả hữu đức Phật Thích-Ca. Ngài Văn-Thù thì ngồi trên mình sư tử bên phía tay trái của đức Phật.

Đây là vị Bồ-Tát hóa thân theo hầu cận Phật tổ để ủng hộ và giữ gìn Phật Pháp trong 10 lời đại nguyện do Ngài phát ra (xem bài 10 nguyện Phổ-Hiền).

7.- Ngài Ma Ha Ca Diếp Dòng Dõi Và Việc Kế Thừa Tâm Pháp Ra Sao ? (^)

Ma-Ha Ca-Diếp hay còn gọi là Ma-Ha Ca-Diếp-Ba. Chữ Ma-Ha có nghĩa là lớn lao, vĩ đại ; chữ Ca-Diếp-Ba là sáng rỡ, nơi nương tựa, người dòng Bà-la-môn, mang tên là Tát-Ba-La.

Cha mẹ Ngài kỳ nguyện thần linh nơi cây Tát-Bát-La mà thọ sanh nên gọi tên Tất-Bát-La, là con của một nhà giàu có, nhưng không màng thế giá, phát tâm tu theo hạnh đầu đà, và là người biết rộng hiểu sâu. Do đó Ngài mang tên Đại hay còn có biệt danh là Thập-Lực hoặc Ưu-Lâu-Tần-La. Ngài là một trong 10 đệ tử gần gủi đức Phật để thực hành theo hạnh Đầu-Đà, nên gọi là bậc Đầu-Đà đệ nhất. Theo kinh Tăng-Nhứt A-Hàm, chỉ riêng ngài Ca-Diếp có nên còn gọi là Đại Tỳ-kheo Ca-Diếp vậy.

Tương truyền rằng khi đức Phật Thích-Ca thuyết pháp tại núi Linh-Sơn, một hôm Ngài cầm hoa sen giơ lên giữa đại chúng có hơn 1000 người. Lúc bấy giờ mọi người đều yên lặng, vì không ai lãnh hội được thâm ý của Phật, nhưng chỉ có một mình ngài Ca-Diếp mĩm cười, Phật biết cơ duyên đã đến, liền phó pháp cho Ngài và dặn dò những lời tâm pháp : "Ta có chánh pháp nhãn tạng, Niết-Bàn diệu tâm, Thật tướng Vô tướng là pháp vi diệu, không lập văn tự, nhưng truyền rộng khắp nơi, vượt ra ngoài những lời chỉ dạy, nay pháp ấy thuộc về ngươi".

Do những lời di chúc truyền tâm pháp ấy, sau nầy Thiền-tông lấy đó làm kim chỉ nam cho việc truyền pháp là dĩ tâm truyền tâm (lấy tâm truyền tâm) tức là có sự cảm ứng giữa hai người với nhau mới hiểu được. Việc nầy nói ở kinh nào và do ai truyền đạt, trong Đại tạng kinh không thấy nói tới. Mãi cho tới đời Tùy, đời Đường (618-907) có nhiều bậc Thiền đức cũng không thấy đề cập tới. Nhưng vào đời Tống (960-1279), vua Tống-An-Thạch cho rằng tích lấy từ kinh "Đại-Phạm Thiên-Vương Vấn Phật Quyết Nghi" và theo sách "Tông Môn Tạp Lục" có dẫn lời ngài Huệ-Tuyên Thiền-sư cũng đồng một quan điểm như trên, lại còn cho biết rõ thêm chi tiết rút ra từ bộ kinh ấy, quyển thứ ba.

Bộ kinh nầy bàn phần nhiều những vấn đề do các vị vua hỏi Phật về chỗ tu hành đạt ngộ chân lý, do đó, đã không được nhiều người biết tới lai lịch (trong Phật tổ thống kỷ quyển 5 cũng có dẫn ra thuyết nầy).

8.- Mục Kiền Liên Có Công Hạnh Gì Trong Phật Giáo ? (^)

Mục-Kiền-Liên hay Mục-Càng-Liên, trong kinh Di-Đà còn gọi là Ma-Ha Mục-Kiền-Liên hoặc Mục-Liên là một trong mười vị đại đệ tử của Phật có phép thần thông bậc nhất.

Ngài còn có tên là Ma-Ha Một-Đặc-Già-La, dịch là Đại-Tán-Tụng tương truyền rằng, Ngài cùng với ngài Xá-Lợi-Phất lúc đầu đồng tu hành với sáu vị thầy ngoại đạo, sau vì nhận thấy pháp tu của họ không thể giải thoát rốt ráo được, nên chán bỏ đi và từ giả Xá-Lợi-Phất để theo hầu cận đức Phật tinh tấn tu hành. Một hôm Xá-Lợi-Phất đến thành Vương-Xá gặp được 5 thầy Tỳ-kheo trong đó có Mục-Kiền-Liên dung nghi đạo mạo bèn hỏi lý do mới hay có Phật ra đời, họ được nghe pháp mầu nên tâm được an vui trong chánh niệm. Liền đó, Xá-Lợi-Phất xin theo các thầy Tỳ-kheo về đến tinh xá Trúc-Lâm để gặp Phật. Tại đây, Xá-Lợi-Phất được nghe Phật nói pháp và sau đó xin ở lại luôn cũng như xin làm đệ tử Phật. Sau nhờ tinh tấn tu hành ngộ được chánh pháp và chứng được trí huệ bậc nhất. Chính Xá-Lợi-Phất cùng với Mục-Kiền-Liên là hai đệ tử trung tín đứng hai bên tả hữu của đức Phật Thích-Ca.

Theo truyền thuyết trước khi đức Phật nhập diệt, ngài Xá-Lợi-Phất và ngài Mục-Kiền-Liên thưa thỉnh Phật giảng dạy về Niết-Bàn. Phật dặn dò hai vị đệ tử thượng thủ rằng : Theo lẽ thường của chư Phật trong ba đời quá-khứ, hiện-tại và vị-lai đều thị hiện ra đời và tịch diệt, ta cũng theo thông lệ ấy mà hóa, các ngươi đừng vì lẽ đó mà u sầu khổ não. Dù ta không còn trụ thế nhưng giáo pháp còn tức là hình ảnh Như-Lai luôn luôn ở bên cạnh các ông. Lúc bấy giờ ngài Mục-Kiền-Liên vào thành La-Duyệt khất thực, có người Phạm-Chí thấy Mục-Kiền-Liên đến bèn dồn dập hỏi : "Ngài có phải là đệ tử Sa-môn Cù-Đàm (tức đức Phật Thích-Ca) không ?"

Ngài Mục-Kiền-Liên biết mình sắp ngộ nạn, lặng thinh không đáp. Người kia tự nghĩ, trong số các đệ tử của ông ấy không có ai như người nầy cả. Chúng ta nên đánh và giết tên nầy ! Các người Phạm-Chí cùng nhau xúm lại đả thương Mục-Kiền-Liên tới tấp. Lúc đó, Mục-Kiền-Liên liền vận thần thông để về đến tinh xá Kỳ-Hoàn tìm gặp Xá-Lợi-Phất và trình bày rõ mọi việc. Xá-Lợi-Phất nói : Trong số các đệ tử của Phật, Ngài là bậc thần túc thông bậc nhất sao không dùng thần túc để tránh né bọn côn đồ ? Mục-Kiền-Liên trả lời, tôi vì nghiệp chướng quá sâu dày nên việc sử dụng thần thông lúc đó không có hiệu quả gì cả, cho nên thật lấy làm khổ não và hổ thẹn. Tôi đến đây để từ biệt tôn huynh và vào Niết-Bàn trước để tu luyện. Xá-Lợi-Phất nói : Nay Ngài thiếu duyên ở đời và muốn thoái thác, vậy thì tôi xin vào Niết-Bàn trước. Nói xong Xá-Lợi-Phất liền tiến đến chỗ đức Phật để từ giả, trong khi đó đức Phật cũng sắp vào Niết-Bàn. Xá-Lợi-Phất đọc kệ rằng : Đi và đến nơi đời, rồi thác sanh làm người, thân thích đồng hương, nói pháp rồi diệt độ, ta nay cũng theo lẽ ấy mà thị tịch ... Ngài Mục-Kiền-Liên cũng đến từ giả đức Thế-Tôn để an trụ vào Niết-Bàn. Ngài Mục-Kiền-Liên lúc sanh tiền đã tỏ ra là người con đại hiếu đối với mẹ. Bà Thanh-Đề lúc sống vì bỏn sẻn, nên khi chết bị đọa vào trong kiếp ngạ quỷ phải chịu đủ mọi cực hình đói khát. Mục-Kiền-Liên đã vận thần thông vào trong địa ngục tìm thấy mẹ đang thọ cực hình. Quá thương xót, Mục-Liên muốn cứu mẹ, nhưng không thể nào cứu được, bèn trở về bạch Phật chỉ dạy cách cứu thoát cho mẹ ra khỏi cảnh khổ đói khát. Phật dạy, vào ngày Rằm tháng Bảy chư Tăng sau ba tháng an-cư tâm được thanh tịnh, nếu thành tâm cầu nguyện mọi việc sẽ được thành tựu. Ông nên thiết lễ cúng dường Trai Tăng bằng cách sắm đồ ăn, thức mặc, đủ vị đủ màu thỉnh cầu các bậc chư sơn Thiền đức lại chú nguyện cho thì mẹ ngươi sẽ thoát được kiếp ngạ quỷ. Thực hiện đúng theo lời Phật dạy, ngài Mục-Kiền-Liên đã cứu được bà Thanh-Đề thoát qua hiểm nạn. Lễ Vu-Lan có bắt đầu từ đó và mỗi năm vào ngày Rằm Trung-nguyên những người con hiếu muốn đền đáp công ơn cha mẹ kẻ còn người mất đều được lợi lạc nên tổ chức lễ thật trọng thể.

9.- Đại Thế Chí Bồ Tát VÀ Hạnh Nguyện Ngài (^)

Ở nhiều ngôi chùa thờ 3 vị Phật ; Di-Đà chính giữa, Quán-Thế-Âm bên tả và Đại-Thế-Chí bên hữu. Chính Bồ-Tát Đại-Thế-Chí biểu tượng cho ánh sáng của trị tuệ biến chiếu khắp các cõi tối tăm.

Theo như kinh Bi-Hoa phẩm Bồ-Tát Thọ Ký chép thì, lúc chưa xuất gia Ngài là con trai thứ tư của vua Vô-Tránh-Niệm. Vua cha tin Phật và thường cúng dường Phật cùng chư Tăng, do nhân duyên đó Ngài thường gần gũi đức Phật Bảo-Tạng và phát nguyện xuất gia tu hành và đắc đạo hiệu là Đại-Thế-Chí.

Nhờ trí tuệ tuyệt vời, Ngài tu theo pháp môn niệm Phật tam-muội mà thành Chánh-giác cứu độ muôn loài. Ngài cũng dùng ánh sáng trí giác tu chứng soi sáng tâm địa cho chúng sanh trong các cõi tối tăm được giải thoát.

Hình tượng Bồ-Tát hiện thân là tướng người cư sĩ, nơi cổ có đeo chuỗi ngọc anh lạc và trên tay cầm một hoa sen màu xanh, tượng trưng cho sự thanh tịnh. Có ý rằng nhờ trí tuệ sáng suốt mà dứt sạch được mọi phiền não mê lầm nơi tự thân và đưa tay cứu vớt chúng sanh ra khỏi mê lầm, tội lỗi.

Trí tuệ là thanh gươm tinh nhuệ cắt đứt mọi ràng buộc, vướng mắc trong cõi trần ai mà đức Đại-Thế-Chí đã đạt được trải qua nhiều kiếp tu hành tích lũy biết bao công phu !

Phương châm thường dùng trong Phật giáo là Bi-Trí-Dũng, tức là từ bi, trí tuệ và dũng mãnh cũng trong cùng một ý nầy.

10.- Địa Tạng Bồ Tát Với Lời Phát Nguyện Ra Sao ? (^)

Người Phật tử mỗi khi có người thân qua đời thường hay phát nguyện trì tụng kinh Địa-Tạng. Việc làm nầy có liên hệ ra sao với Bồ-Tát Địa-Tạng ?

Địa-Tạng là tên của Bồ-Tát có nhiều nghĩa khác nhau : Nhẫn nại, như như bất động, tư duy kín mật. Nhờ các đặc tính kia mà Ngài tu hành chứng đạo và nguyện xả thân vào trong chốn địa ngục để cứu độ những chúng sanh bị đọa lạc, khốn cùng. Bồ-Tát có phát lời nguyện rộng lớn cứu độ tất cả chúng sanh trong chốn địa ngục và có thệ rằng nếu còn một chúng sanh nào bị đọa lạc vào đường dữ thì Ngài không thành đạo chứng Phật quả. Do nguyện lực kim cương ấy đủ chứng minh cho hàng Phật tử tin tưởng nơi Ngài một cách tuyệt đối. Mỗi khi ta niệm thành tâm danh hiệu Ngài hoặc trì kinh Địa-Tạng cho chí thành sẽ cảm ứng tới Phật, vì có cảm ứng thì đạo mới giao hòa được ...

Hình Ngài thường đứng thẳng, mặc y mầu đỏ, tay phải cầm tích trượng (gậy chống) có 12 khoen và, tay trái nâng hạt minh châu ; trên đầu có đội mão. Tướng mạo trang nghiêm Ngài có thể ra vào tự tại trong chốn địa ngục, với pháp 12 nhân duyên mà Ngài như đã thu gọn vào trong lòng bàn tay bằng cây gậy chống, để dẫn đường cho chúng sanh thoát bể khổ của vòng sanh tử.

Muốn cho việc lễ bái, tụng niệm của chúng ta có kết quả thì cần phải chí tâm mới đạt được mục đích mong cầu.

11.- Ngài A Nan Và A Nan Đà Cùng Một Tên ? (^)

A-Nan là con vua Hộc-Phạn, em vua Tịnh-Phạn và là em họ với Phật Thích-Ca, sinh nhằm ngày với đức Phật Thích-Ca thành đạo, nên tên Ngài có nghĩa là Khánh-Hỷ (vui mừng) mà tiếng Phạn là Ananda.

Được theo hầu hạ Phật trong những cuộc đi du thuyết giáo hóa và lại có trí tuyệt luân, cho đến khi Phật nhập diệt, ngài A-Nan cũng vẫn còn hầu cận một bên.

Ngài là một trong số 10 đệ tử danh tiếng của Phật có trí tuệ sáng suốt và được Phật tôn xưng là "đa văn đệ nhất". Sau khi Phật vào Niết-Bàn, Ngài là người đứng ra vận động chư Tăng kiết tập lại kinh điển lần thứ nhất tại núi Kỳ-Xà-Quật thuộc nước Ma-Kiệt-Đà, ở thành Vương-Xá gồm có 500 người toàn là Tăng sĩ. Tuy nhiên trong lần kiết tập đầu tiên kinh điển chưa biên chép thành văn tự mà do trí nhớ của ngài A-Nan tuyên lại những lời Phật đã giảng thuyết ở khắp các nơi cho đại chúng nghe. Thường trong các kinh ở phần mở đầu đều bằng câu : "Như thị ngã văn " (ta nghe như thế nầy), đó chính là lời ngài A-Nan tự thuật vậy.

Ngài thường được thờ chung với đức Phật Thích-Ca và bên phía tay mặt, trong khi đó tượng ngài Ca-Diếp bên tay trái của Phật. Ngoài ra, ngài A-Nan cũng là người đầu tiên bạch xin cho nữ giới xuất gia, tức là bà Da-Du-Đà-La đã tu hành chứng quả A-la-hán.

Người Phật tử luôn luôn học theo hạnh nguyện của Ngài để trí tuệ minh mẫn, đạo tâm bền chặt.

12.- A Dục Vương Có Công Gì Trong Phật Giáo Và Ở Thời Kỳ Nào ? (^)

Vua A-Dục hay vua Asoka có nghĩa là Vô-Ưu, sanh năm 321 trước Tây-lịch, là cháu của vua Thi-Đà-Quật-Đa Đại-vương, người có công thống nhất toàn xứ Ấn-Độ và bảo vệ cũng như truyền bá Phật giáo khắp nơi.

Căn cứ vào truyện A-Dục-Vương thì lúc nhỏ vua tính cuồng bạo, cải lời vua cha không thuận lập anh là Tu-Tư-Ma lên kế vị. Nhân trong nước có loạn do nước Xoa-Thi-La đem quân sang gây hấn, ông phụng mạng lệnh cha đi dẹp loạn, nhưng không cần kiếm cung mà cần binh lực thuộc bốn binh chủng (thủy, lục, mã, bộ binh, vì lúc đó chưa có không quân). Dẹp yên được giặc uy tín vang lừng từ đó. Sau khi vua cha băng hà, bèn giết anh Tu-Tư-Ma để lên ngôi vua. Nhưng theo Nam truyện và căn cứ vào bộ Đại-Sử chương 5 thì lời thuật có khác nhau là lúc A-Dục chưa làm vua đã làm phó vương trông coi việc nuôi chim. Lúc tại nhiệm ông chuyên lo việc kiếm cung, khi nghe tin cha mất liền trở về kinh đô và lập mưu giết anh Tu-Tư-Ma để lên kế ngôi. Trong hơn 4 năm liền cùng lập mưu với người anh trai của mẹ là Đế-Tu đã giết tất cả những anh em trong giòng họ cả thảy 99 người và sau đó lên làm vua vào năm 280, sau đức Phật nhập Niết-Bàn.

Cả hai thuyết đều khác nhau, nhưng niên đại thì giống. Tánh vua hung bạo, chuyên việc giết hại và dưới tay vua vô số sanh linh bị chết một cách hàm oan. Để đoái công chuộc tội, vua quy y theo Phật giáo và phát huy tinh thần đại từ bi trong công việc nổ lực tuyên dương chánh pháp, cũng như lập được 84,400 ngôi chùa và 84,400 ngôi tháp. Vua ở ngôi trong 17 năm, có công trong việc nhóm họp đại chúng kết tập kinh điển lần thứ 3 sau Phật nhập diệt 300 năm tại thành Hoa-Thị. Trong lần kiết tập nầy ngài Mục-Kiền-Liên tử đế tu được bầu làm chủ tọa.

Vua còn cho thiết lập những di tích nơi đức Phật tu khổ hạnh, nơi thành đạo và nơi nhập diệt mà ngày nay những trụ đá lịch sử nầy vẫn còn tồn tại với thời gian tại Ấn-Độ.

13.- Tổ Bồ Đề Đạt Ma Xuất Thế, Dòng Dõi Và Truyền Pháp Ra Sao ? (^)

Bồ-Đề Đạt-Ma dịch là Pháp, tức quy tắc hay chấp trì. Ngài là sơ tổ của phái Thiền-tông Trung-Quốc và là tổ thứ 28 của Phật giáo Ấn-Độ. Ngài kế thừa Phật Pháp từ tổ Ca-Diếp là đệ nhất tổ.

Ngài người Nam Thiên-Trúc dòng Sát-Đế-Lợi, con trai thứ ba của vua Hương-Chí, với tên thật là Bồ-Đề-Đa-La. Sau khi gặp tổ thứ 27 là Bác-Nhã-Đa-La và được nối dòng Tông pháp nên được đổi tên từ Đa-La sang Đạt-Ma. Vào đời Lương (520) niên hiệu Phổ-Thông nguyên niên, Ngài vượt biển cả, trải qua hàng ngàn dặm với nhiều nguy khó và sau cùng đến đất Quảng-Châu. Tại đây ngài được vua Võ-Đế đón về đất Kiến-Nghiệp, nhưng tiệt nhiên không nói một lời nào cả. Sau khi ở Quảng-Châu một thời gian, Ngài vượt sông sanh đất Ngụy, nhưng đến đời Hậu-Ngụy (?) năm Chánh-Hiếu-Minh nguyên niên, Ngài dừng chân tại chùa Thiếu-Lâm, suốt ngày ngồi xoay mặt vào vách mà tọa thiền nên người đương thời gọi Ngài là tỵ quán (xoay mặt vào tường). Trong thời gian ở chùa Thiếu-Lâm có nhiều thiền giả đến học đạo thiền với Ngài, trong số đó có ngài Huệ-Khả, sau được truyền y bát. Trước khi tịch Ngài truyền pháp cho ngài Huệ-Khả qua bài kệ sau :

Ta đến từ đất lành

Truyền pháp cứu quần sanh,

Một hoa nở năm cánh (*)

Quả mãn tự nhiên thành.

(Ngô bổn lai tư độ,

Truyền pháp cứu quần sanh

Nhứt hoa khai ngũ diệp

Kết quả tự nhiên thành !)

Ngài tịch vào năm 529 niên hiệu Đại-Thông năm thừ 2 đời nhà Lương. Hài cốt được an táng tại núi Bi-Nhĩ - Vua Lương-Võ-Đế có khắc bia ghi công hạnh Ngài. Đến đời Đường Đại-Tông vua sắc phong cho Ngài là "Viên-Giác Đại-Sư".

*******

(*) Từ đời ngài Đạt-Ma truyền dòng Thiền xuống tới đời ngài Huệ-Năng là 5 đời. Câu thứ ba trong bài kệ có ý nói dòng Thiền do Ngài sáng lập sẽ kế tục được 5 đời truyền pháp. Đó là : Ngài Huệ-Khả, ngài Tăng-Xáng, tổ Đạo-Tín, tổ Hoằng-Nhẫn và tổ Huệ-Năng.

14.- Huệ Năng Tổ Thứ Mấy Của Phật Giáo Trung Quốc ? Thân Thế Và Công Hạnh Ra Sao ? (^)

Ngài Huệ-Năng là vị tổ thứ 6 nối dòng Thiền từ tổ Bồ-Đề-Đạt-Ma thuộc Thiền phái Lâm-Tế của Phật giáo Trung-Quốc.

Ngài họ Lư, lúc nhỏ mồ côi cha. Gia đình lâm cảnh nghèo thiếu nên phải ngày ngày vào rừng đốn củi lấy tiền về nuôi mẹ. Một hôm, khi đem củi vào chợ bán, giữa đường nghe có người tụng kinh Kim-Cang tới đoạn : "Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm ..." Ngài dừng lại để nghe và ngộ được thâm ý của bài kệ, bèn tìm tới yết kiến ngũ tổ Hoằng-Nhẫn, lúc đó đang tu tại núi Hoàng-Mai ở đất Quán-Châu. Tổ thấy người hơi lạ kỳ, bèn cho vào liêu (chái bếp sau của chùa) làm việc giả gạo và từ đó mang tên là Lư-Hành-Giả. Tại đây. Lư làm việc ròng rã 8 tháng. Một hôm, Tổ biết cơ duyên đã đến, bèn họp đồ chúng lại và mỗi người phải trình một bài kệ để được truyền tâm pháp. Lúc đó, ngài Thần-Tú làm xong bài kệ đem trình tổ như sau :

Thân thị Bồ-đề thọ,

Tâm như minh cảnh đài.

Thời thời cần phất thức

Vật sứ nhá trần ai.

(Thân như cây Bồ-đề,

Tâm như đài gương sáng

Luôn phải năng lau chùi,

Làm gì có bụi bám.)

Ngài Huệ-Năng đọc được thâm ý của bài kệ và biết rằng chính người làm ra bài kệ nầy chưa đạt được tới chỗ thâm áo của đạo Thiền. Ban đêm, trong lúc mọi người đang ngủ, Huệ-Năng nhờ người viết bài kệ của mình lên vách, nội dung như sau :

Bồ-đề bổn vô thọ

Minh cảnh diệc phi đài

Bổn lai vô nhất vật

Hà xứ nhá trần ai ?

Tạm dịch :

Bồ-đề chẳng thật phải cây,

Kiếng soi đâu hẳn vật dày đài gương

Xưa nay vạn pháp chẳng thường

Bụi trần há dễ bám nương được nào ?

Tổ biết được đó là bài do Huệ-Năng làm nên vào tận trong liêu hỏi :

- Gạo đã trắng chưa ?

Huệ-Năng đáp :

- Gạo trắng đã từ lâu.

Tổ lấy gậy gỏ miệng cối 3 cái rồi lui về phòng, Huệ-Năng ngộ được tâm ý Tổ và chờ tới canh ba mới vào gõ cửa phòng của Tổ. Tổ truyền y pháp và bảo phải mau ẩn lánh về phương Nam trong một thời gian, nếu không sẽ có kẻ ám hại.

Chia tay Tổ, Ngài về phương Nam vào tháng giêng năm Nghi-Phụng nguyên niên và gặp được ngài Ấn-Tông Pháp-sư ở chùa Pháp-Tánh. Sư nghe qua tông yếu Thiền của Ngài, bèn nhận cho làm đệ tử. Đúng vào ngày 15 tháng ấy, Pháp-sư bèn nhóm họp các vị Đại-Đức lại để làm lễ thế phát (cạo tóc) cho Huệ-Năng. Trong thời gian tu học tại chùa Pháp-Tánh, Huệ-Năng tỏ ra tinh tấn và được Bổn-Sư để ý cũng như Tăng chúng mến trọng, nên ngày mồng 8 tháng 2, xin thọ giới Tỳ-kheo với ngài Trí-Quang Luật-sư. Sau đó, Ngài lui về đất Tào-Khê. Ngài tịch vào ngày 3 tháng 8 niên hiệu Khai-Nguyên nguyên niên đời Đường-Huyền-Tông (712) thọ được 76 tuổi.

Đến đời vua Nguyên-Hòa năm thứ 10, vua sắc phong cho Ngài đạo hiệu là "Đại-Giám Thiền-Sư".

15.- Ngài Minh Hải Pháp Bảo Hành Trạng VÀ Pháp Phái ? (^)

Sử liệu không thấy ghi rõ năm sinh và mất cũng như thời kỳ xuất gia của Ngài. Chúng ta chỉ biết được hành trạng và phú pháp cho ngài Minh-Hải còn truyền qua dòng kệ của hệ phái Lâm-Tế thuộc chùa Chúc-Thánh, Quảng-Nam do Ngài sáng lập.

Ngài Minh-Hải Pháp-Bảo người tỉnh Phúc-Kiến, Trung-Quốc, qua An-Nam vào năm 1687, đời vua Anh-Tôn, tức là Ngài đến đồng thời với ngài Nguyên-Thiều. Ngài Nguyên-Thiều phụng mệnh vua Anh-Tôn trở về Trung-Quốc thỉnh chư Tăng và pháp bảo sang Việt-Nam. Một đại giới đàn cũng được tổ chức tại chùa Thiên-Mụ trong thời gian nầy. Ngoài ngài Minh-Hải ra, còn có các ngài Minh-Hoằng Tử-Dung, Minh-Vật Nhất-Trí, Minh-Hoằng Định-Nhiên ... đồng sang nước ta cũng một lúc. Ngài Minh-Hải sau khi đến Việt-Nam được mời chứng minh trong hàng thập sư của đại giới đàn tại Huế. Sau đó, Ngài vào Quảng-Nam, khai sơn chùa Chúc-Thánh, Hội-An. Lúc bấy giờ tại Bình-Định có ngài Nguyên-Thiều đang ra sức xiển dương Phật Pháp, thì tại Quảng-Nam ngài Minh-Hải Pháp-Bảo cũng tận lực đề xướng giáo nghĩa của phái Thiền Lâm-Tế. Hệ phái Lâm-Tế do Ngài truyền xuống tới đời ngài Trí-Thắng Bích-Dung là 41 đời. Các chùa Tam-Thai, Linh-Ứng, Quan-Âm (Ngũ-Hành-Sơn, Non-Nước), chùa Long-Tuyền, Phước-Lâm, Vạn-Đức, Viên-Giác ... (Hội-An) đều thuộc hệ phái của ngài Minh-Hải. Các chùa thuộc tỉnh Quảng-Nam, mỗi năm chư Tăng và tín đồ đều về chùa tổ đình Chúc-Thánh để làm lễ húy nhật tổ thật trọng thể.

Ngài Minh-Hải là tổ sáng lập ra phái Lâm-Tế ở Quảng-Nam, nhưng việc hành đạo trong khoảng thời gian bao lâu, cũng như năm tịch của Ngài không được sử sách ghi lại đầy đủ. Đây là một điều thiếu sót rất lớn vậy.

16.- Thiên Thai Trí Giả Đại Sư Hành Trạng Và Truyền Pháp? (^)

Thiên-Thai Trí-Giả Đại-sư hay còn gọi là Thiên-Thai Đại-sư, tên tự Đức-An, họ Trần.

Năm lên bảy tuổi có cơ hội gần gũi nơi Già-Lam (chùa) và nghe vị Tăng tại chùa tụng kinh Pháp-Hoa phẩm Phổ-Môn một lần, sau đó liền thuộc nằm lòng. Năm lên 18 tuổi xuất gia ở chùa Quả-Nguyện, đất Tương-Châu. Năm 20 tuổi, thọ giới Tỳ-kheo. Trước tiên theo học luật với ngài Huệ-Khoáng Thiền-sư và tinh thông các kinh điển, nhất là kinh Phương-Đẳng. Đời Trần-Văn-Đế, niên hiệu Gia-Nguyên năm đầu (?) có Tư Thiền-sư tu tại núi Đại-Tô đất Quý-Châu, Ngài tìm lên tới đỉnh núi để lễ bái. Thiền-Sư nói : Ngày trước tại hội Linh-Sơn tôi với Ngài đã có túc duyên nghe kinh Pháp-Hoa phẩm "An-Lạc-Hạnh". Khi về, Trí-Giả suốt ngày đêm chuyên tụng kinh Pháp-Hoa trải qua 27 ngày, khi đọc tới đoạn nói về ngộ được kinh Pháp-Hoa như "thị chơn tinh tấn, thị danh chơn pháp cúng dường Như-Lai, thân tâm thoát nhiên nhập định chiếu liễu Pháp-Hoa" bèn khoan khoái reo lên : Không phải ngươi không chứng, không phải ta không biết chỗ sâu sắc của việc nhập định Pháp-Hoa Tam-Muội, pháp phương tiện, nơi phát sinh công đức đầu tiên là Đà-La-Ni vậy. Do đó, Ngài nhóm họp 100,000 người lại để biện luận. Tất cả đều tôn Ngài là bậc thượng thặng thứ nhất và đem lòng kính phục. Đời Trần, niên hiệu Quang-Đại-Nguyên niên, Ngài cùng với các bạn đồng tu 27 người đến kinh đô Kim-Lăng. Sau đó, Ngài được mời vào chùa Ngỏa-Quang để giảng kinh Pháp-Hoa, vào năm thứ 30 niên hiệu Đại-Kiến-Nguyên Niên. Ngài giảng qua bộ đại Trí-Độ-Luận và thứ lớp của pháp môn tu thiền định. Đời Trần, niên hiệu Đại-Kiến thứ 7, tháng 9 vào mùa thu, Ngài vào núi Thiên-Thai để an cư. Hai năm sau, vua nghe danh mới cho xây cất chùa để Ngài ở tu. Niên hiệu Đại-Kiến thứ 10, vua Trần một mực muốn thỉnh Ngài về Kim-Lăng. Buộc lòng Ngài phải nghe theo và dừng chân tại chùa Linh-Siêu đất Kim-Lăng để giảng kinh luận, cũng như giảng kinh Bát-Nhã ở điện Thái-Cực cho hoàng phái, sau dời về chùa Quang-Trạch, nhưng bị thất bại nên các cuộc giảng pháp không còn tiếp tục được nữa. Ngài lui về an dưỡng tại núi Lư-Sơn. Đời Tùy (581-617) niên hiệu Khai-Hoàng thứ 11, vua Tấn là Trần-Kiến-Khương cho người tới Kim-Lăng (núi Lư-Sơn) thỉnh Ngài, Ngài nói : Ta với vua Tấn vốn có duyên lành từ trước nên mới được gặp nhau lại đây và chấp thuận theo lời mời. Vào ngày 23 tháng 11 năm đó, vua thiết lễ Trai Tăng cho 1000 vị Đại-Đức tại điện Kim-Thánh và chính vua xin thọ giới Bồ-Tát. Sau, vua cho lập tinh-xá tại núi Ngọc-Tuyền để Ngài giảng kinh truyền đạo. Các bộ kinh Pháp-Hoa Huyền-Nghĩa và kinh Ma-Ha Chỉ-Quán đều được giảng tại chùa Ngọc-Tuyền.

Sau một thời gian hành đạo tại đấy, Ngài từ giả đồ chúng vào núi Thiên-Thai để tu niệm, nhưng vua cho người vào tận núi Thiên-Thai thỉnh Ngài về kinh đô để truyền bá Phật Pháp. Do lời khẩn khoản của vua theo lời sứ giả, Ngài phải trở lại Kim-Lăng một lần nữa. Vì tuổi già sức yếu, nên khi trên đường về mới tới Thạch-Thành thì bị phát bịnh Ngài liền tịch ngay tại đó, vào ngày 24 tháng 11 năm Khai-Hoàng thứ 17 (?) thọ được 60 tuổi.

Ngài là người khai sáng ra tông Thiên-Thai, một trong số 13 tông phái lớn của Phật giáo Trung-Quốc còn truyền thừa cho đến ngày nay, nên được người đời tôn xưng luôn tên Ngài là Thiên-Thai Trí-Giả Đại-sư.

******

Sách tham khảo :

- Thật dụng tối tân Phật học từ điển của nhà xuất bản Tân-Văn-Phong - Đài-Bắc.

- Cao-Tăng truyện.

- Betonamu no minsoku shoshi của Nobuhiro Matsumito. 1969.

****

17.- Cưu Ma La Thập Là Người Có Công GÌ Trong Phật Giáo ? (^)

Cưu-Ma-La-Thập nói cho đủ là Cự-Ma-La-Thập-Bà, Cưu-Ma-La-Thời-Bà hay Cưu-Ma-La-Kỳ-Bà có nghĩa là Đồng-Thọ, tức có ý nói người tuổi trẻ nhưng chí lớn vô cùng.

Cha Ngài tên là Cưu-Ma-La-Viêm, người Thiên-Trúc, sau dời nhà đến nước Quy-Tư, kết hôn với em gái vua Quy-Tư sanh là La-Thập. Sau đó mẹ La-Thập xuất gia tu hành và chứng được đạo quả. Khi lên 7 tuổi La-Thập xuất gia theo mẹ và đi du phương tòng học tại nước Tây-Vức (Ấn-Độ), thấu suốt được chỗ thâm áo của Đại-thừa. Lúc bấy giờ nước Quy-Tư có loạn do vua Tần là Phù-Kiên, năm Kiến-Nguyên thứ 19 đem quân sang chinh phạt nước Quy-Tư. Tình thế bất an khiến La-Thập phải trở về cố quốc. Khi về đến đất Lương-Châu nghe tin Phù-Kiên bại trận bèn dừng lại đó. Sau đó vua Diêu-Tần đem binh khôi phục lại được đất Lương-Châu. La-Thập vào đất Trường-An để hành đạo, tiếng tăm lừng lẫy và được tôn làm bậc Quốc-sư, vua mời Ngài vào cung Tây-Minh-Cát và Triệu-Dao-Viên để ở dịch kinh. Ngài là người đầu tiên dịch nhiều bộ kinh nổi tiếng như Pháp-Hoa, Di-Đà Kinh trên 380 quyển còn truyền tới nay. Ngài tịch tại Trường-An năm thứ 11 đời Tần-Thỉ-Hoàng, niên hiệu Tấn-Khương-Ninh năm thứ 5 (410 ?)

Trong các bộ kinh do Ngài dịch, ở phần mở đầu có ghi : Diêu-Tần Tam-Tạng Pháp-Sư Cưu-Ma-La-Thập, phụng chiếu dịch. (Đời Diêu-Tần, ngài Tam-Tạng Pháp-Sư Cưu-Ma-La-Thập vâng theo lời vua để dịch), tức là lúc ở trong cung nhà vua thỉnh Ngài làm việc phiên dịch nầy.

Kinh điển Phật giáo lưu truyền ngày nay bằng chữ Hán là do công của hai ngài La-Thập và Huyền-Trang phiên dịch. Những kinh điển do ngài La-Thập dịch gọi là cựu dịch, còn kinh điển ngài Huyền-Trang dịch gọi là tân dịch. Tại sao cùng là văn tự chữ Hán lại phân cựu và tân ? Cựu ngoài cái nghĩa là lâu, còn có ý chỉ cho văn thể theo lối cổ, không được bóng bảy êm xuôi ; còn tân là văn hiện đại nên được nhiều người đọc hiểu.

Các kinh sách của Phật giáo được lưu truyền rộng rãi khắp Trung-Quốc, Nhật-Bản, Triều-Tiên, Việt-Nam ... một phần lớn đều do những người phiên dịch từ Phạn-văn sang Hán-văn mà ngài La-Thập là một trong số các nhà đại dịch giả lúc bấy giờ.

18.- Ngài Huyền Trang Có Công Gì Trong Phật Giáo ? (^)

Trong bộ "Đại-Đường Tây-Vức Ký" có chép rằng một vị Thánh Tăng từ Đông-Độ sang Tây-Trúc thỉnh kinh Phật đã trải qua nhiều nguy hiểm, sau cùng cũng đạt được mục đích để trở về xứ sở trong vinh quang ròng rã suốt 16 năm, đó là ngài Đường-Tam-Tạng.

Ngài Huyền-Trang hay Đường-Tam-Tạng họ Trần, ở chùa Đại-Từ-Ân đời nhà Đường (618-907). Ngài xuất gia học Phật năm lên 13 tuổi ở chùa Tịnh-Độ đất Lạc-Dương. Sau tìm đến kinh đô Trường-An để tham học với các bậc cao đức như ngài Huệ-Hưu, Triệu-Châu ... nhưng chưa ngộ được chỗ thâm áo của các kinh luận nhiếp Đại-thừa, A-Tỳ-Đạt-Ma, Câu-Xá ... bèn tỏ ý muốn sang Ấn-Độ để tầm học. Không được chấp thuận, nhưng Ngài không thối chí, vào năm Trinh-Quán thứ 3, đời Đường-Cao-Tông (629) Ngài băng rừng, vượt núi, đi bộ trải qua hàng ngàn dặm đường khó khăn nguy hiểm suốt bốn năn ròng rã. Năm Trinh-Quán thứ 7 (632) Ngài mới tới được đất Ấn-Độ. Tại đây Ngài chiêm bái nhiều nơi Phật tích như chỗ đức Phật Đản-Sanh, nơi Phật nhập Niết-Bàn, vườn Lộc-Uyển và xứ Ma-Kiệt-Đà, nơi có cây Bồ-Đề và tòa kim-cương, chỗ đức Phật đã ngồi tu cho đến khi chứng quả khi xưa. Ngài cũng đến chiếm bái núi Kỳ-Xà-Quật, nơi kiết tập kinh điển lần thứ 2 và tinh-xá Trúc-Lâm là những nơi đất Thánh của Phật giáo. Sau cùng Ngài tới viếng chùa Na-Lan-Đà. Tại đây, Ngài được ngài Giới-Hiền nhận làm đệ tử và được học qua Luận Du-Già.

Ngài làm được cả thảy 3000 bài tụng phá đổ tà thuyết để lập chánh giáo, trong số đó có 1600 bài tụng bênh vực lý thuyết Đại-thừa để trả lời lại 700 bài tụng phá lập luận Đại-thừa tại Ấn-Độ lúc bấy giờ. Nhờ cuộc biện luận nầy thành công, Ngài được vua Giới-Nhật kính trọng rất thâm hậu và cho mở đại hội tại thành Khúc-Nữ. Ngài được mời làm chủ tọa đại hội. Ngài đăng đàn luận giải, chuyên tán dương luận Đại-thừa, nhưng không một ai trong đại hội bắt bẻ được những lời lẽ lý luận mạch lạc của nhà đại luận sự với nhiều sự biện bác giỏi như Ngài.

Sau đó, Ngài chia tay vua Giới-Nhật để trở về nước vào năm Trinh-Quán thứ 19 (645) đời Đường Thái-Tôn. Khi Ngài về tới kinh đô Trường-An có mang theo được cả thảy là 75 bộ kinh Phật bằng chữ Phạn hiến cho nhà vua. Được vua Thái-Tôn triệu Ngài đến ở chùa Hoằng-Phước để phiên dịch các bộ kinh nầy từ chữ Phạn sang chữ Hán. Vào đời vua Cao-Tông, niên hiệu Vĩnh-Triệt thứ ba cho thỉnh Ngài vào triều ở chùa Từ-Ân để giảng pháp. Năm Hiển-Thánh thứ tư, vua Cao-Tông lại cho xử dụng cung Ngọc-Hoa sửa lại thành chùa và mời Ngài về ở đó. Năm sau, Ngài bắt đầu dịch bộ kinh Đại-Bát-Nhã tại đây.

Ngài tịch vào năm Kiền-Đức nguyên niên, ngày mồng 5 tháng 2 thọ được 65 tuổi.

Cuộc đời ngài Huyền-Trang gắn liền như một trang sử Phật giáo sáng chói do việc phiên dịch kinh điển. Ngài dịch được cả thảy là 75 bộ kinh gồm 1335 quyển. Những bản kinh của Ngài dịch, người sau gọi là "tân dịch", so với các bản dịch trước của ngài La-Thập thì có văn vẽ dễ hiểu.

*****

Tài liệu tham khảo :

Đại-Đường Tây-Vức Ký - Quảng-Hoằng-Minh tập Tục Cao Tăng truyện quyển 4 - Tam Tạng Pháp sư truyện - Phật tổ thống tải quyển 12 - Thật dụng tối tân Phật học tự điển - Việt Nam Phật giáo sử lược của Thượng-tọa Mật-Thể.

19.- Ngài Vô Ngôn Thông Và Phật Giáo Phái Thiền Tông Tại Việt Nam (^)

Ngài Vô-Ngôn-Thông họ Trịnh, người Quảng-Châu, Trung-Quốc, xuất gia từ nhỏ ở chùa Song-Lâm (Chiết-Giang). Tánh tình điềm đạm, ít nói, nhưng hiểu tất cả mọi việc về sự lý, nên người đời đặt cho hiệu là Vô-Ngôn-Thông.

Năm Canh-Tý niên hiệu Nguyên-Hòa thứ 15 đời Đường (820) Ngài qua An-Nam, trú tại chùa Kiến-Sơ (tỉnh Bắc Ninh) trọn ngày lo việc thiền định. Chỉ có Cảm-Thành Thiền-sư biết được hạnh nguyện của bậc cao Tăng đắc đạo nên đem lòng kính phục và thờ làm bậc thầy.

Ngài tịch năm 826, niên hiệu Bảo-Lịch đời Đường. Trước khi tịch, Ngài có truyền thi kệ cho ngài Cảm-Thành Thiền-sư và dạy rằng :

Ngày xưa Tổ Sư là ngài Nam-Nhạc, khi sắp tịch có dặn lại mấy lời:

"Nhất thiết chư pháp, giai tùng tâm sanh,

Tâm vô sở sanh, pháp vô sở đắc,

Nhược đạt tâm địa, sở trụ vô ngại,

Phi ngộ thượng căn, thận vật khinh hứa".

(Hết thảy các pháp đều do tâm sanh, nếu tâm không sanh, pháp cũng không thể có được ; khi hiểu được như thế thì làm việc gì cũng không trở ngại (với cái tâm ấy), nếu không gặp được người hiền tài thì chớ nên truyền bậy) nay ta cũng dặn lại ngươi câu ấy. Đọc xong kệ, Ngài an nhiên mà hóa.

Phái Thiền tông thứ nhất tại Việt-Nam do ngài Tì-Ni-Đa-Lưu-Chi (580) làm Sơ tổ, đến đời ngài Vô-Ngôn-Thông (820) lại có thêm phái Thiền thứ hai do Ngài là Sơ tổ truyền pháp. Pháp phái dòng Thiền Vô-Ngôn-Thông truyền xuống được 15 đời. Danh hiệu và hành tích của những vị kế thừa cộng là 40 người. Đến đời cư sĩ Ứng-Thuận (1221) là người cuối của phái Thiền nầy.

Hiện tháp mộ của ngài Vô-Ngôn-Thông còn tại núi Tiên-Du, tỉnh Bắc-Ninh (Bắc Việt). Ngài là vị tổ đã đem lại nguồn Thiền Tư-Duy (meditation) cho người Phật tử Việt-Nam ngày nay.

20.- Ngài Tỳ Ni Đa Lưu Chi Và Thiền Phái Của Ngài Tại Việt Nam (^)

Theo sách "Cổ Câu Pháp Vân Phật Bổn Hạnh Ngữ Lục" và "Đại Nam Thuyền Uyển Tập Anh" chép : Vào đời Đông-Hán, niên hiệu Tả-Kiến (569-582) có một Pháp-sư tên là Tỳ-Ni-Đa-Lưu-Chi, người Ấn-Độ nhân biết có Phật giáo ở Nam-Việt liền qua trú tại chùa Pháp-Vân để giảng Phật Pháp.

Phật giáo bắt đầu thạnh hành từ đó. Ngoài ra, sách Tập-Anh còn dẫn lời ngài Thông-Biện Thiền-sư nói : "Tỳ-Ni-Đa-Lưu-Chi là Sơ tổ của Thiền-tông ở nước ta". Ngài tên chữ Phạn là Vinitaruci, người Nam Thiên-Trúc, sang Tây Thiên-Trúc để tham khảo đạo Phật, nhưng cơ duyên chưa gặp, nên Ngài qua cõi Đông-Độ, tiến vào Trung-Quốc và đến đất Trường-An năm 574. Lúc bấy giờ Phật giáo ở Tàu đang bị bài xích, nhằm đời Võ-Đế Bắc-Chu. Ngài muốn qua đất Nghiệp (tỉnh Hồ-Nam bây giờ), may gặp được ngài Tăng-Xáng, Tổ thứ ba của Phật giáo Trung-Quốc, tu ở núi Tử-Không. Ngài liền đem lòng kính mộ và xin theo làm đệ tử, Tổ thuận cho và sau đó khuyên Ngài qua An-Nam mà tiếp độ chúng sanh, chớ không nên ở đây làm gì. Ngài bèn từ giả thầy ra đi đến Quảng-Châu, Ngài trụ tại chùa Chế-Chỉ và dịch bộ kinh "Tượng-Đầu Báo-Nghiệp Sai-Biệt" chữ Phạn sang chữ Hán, năm Canh-Tý, niên hiệu Đại-Tường thứ 2 vào đời nhà Chu (580), Ngài qua Nam Việt trụ trì ở chùa Pháp-Vân (tỉnh Hà-Đông), dịch bộ kinh "Tổng Trì". Uy danh Ngài chẳng bao lâu đã lừng lẫy khắp nơi. Vua Lý-Thái-Tông (1028 - 1054) sau có làm bài tán ngưỡng Ngài như sau:

Sáng tự nam lai quốc

Văn quân cửu tập thiền

Ứng khai chư Phật tín

Viễn hợp nhất tâm nguyên

Hạo hạo lăng già nguyệt

Phân phân bát nhã liên

Hà thời hạnh tương kiến

Tương dữ thoại trùng huyền

Nghĩa:

Nhớ từ mới đến nước Nam

Nghe đồn sư vốn lòng ham mùi thuyền

Mở đường tin Phật khắp miền,

Xa xa hợp lại tâm nguyên một dòng

Lăng già (1) bóng nguyệt sáng trong

Đóa sen Bát Nhã (2) hương nồng nơi nơi

Bao giờ lại được gặp người

Cùng nhau trò chuyện cơ thời huyền vi !

Vào đời nhà Tùy, năm Quý Sữu niên hiệu Khai-Hoàng thứ 14 (594), Ngài truyền tâm ấn cho ngài Pháp-Hiền rồi tịch.

Theo sách Thiền-Uyển Tập-Anh, ngài Tỳ-Ni-Đa-Lưu-Chi người nước Thiên-Trúc qua Trung-Hoa vào năm Nhâm Ngọ (562), niên hiệu Đại Kiến thứ 6 nhà Trần, tại đất Trường-An.

Khi Phật giáo Trung-Quốc bị Võ-Đế dàn áp (574), ông đi về đất Hồ-Nam, nơi đây Tổ thứ 3 của Thiền-tông, ngài Tăng-Xáng đang lánh nạn và ẩn tu tại núi Tư-Không. Hai người đã có duyên Phật Pháp, Tổ khuyên Ngài nên đi về phương Nam, mà tiếp xúc với đồ chúng. Nghe lời Tổ, Ngài tới đất Quảng-Châu ở chùa Chế-Chỉ. Tại đây, Tỳ-Ni-Đa-Lưu-Chi đã dịch được các bộ kinh như Tượng-Đầu Báo-Nghiệp Sai Biệt chữ Phạn sang chữ Hán. Vào năm 580, niên hiệu, Đại-Tường thứ hai, tháng 3 năm Canh-Tý, Ngài đến nước ta, trụ tại chùa Pháp-Vân và dịch bộ kinh "Tổng-Trì", rồi tịch vào năm 594. Khi Ngài đến ở chùa Pháp-Vân thì đã có một Thiền-sư người Việt-Nam tên là Quán-Duyên đang mở lớp dạy thiền cho tăng đồ tại đây. Ngài trụ tại đó trong một thời gian, sau chọn Thiền-sư Pháp-Hiền làm đệ tử. Ngài Pháp-Hiền vốn là học trò của ngài Quán-Duyên.

Việc truyền thừa của phái thiền Tỳ-Ni Đa-Lưu-Chi được cả thảy 19 thế hệ như sau:

1- Tỳ-Ni Đa-Lưu-Chi (594)

2- Pháp-Hiền (626)

3- Huệ-Nghiêm (?)

4- Thanh-Biện (686) HUỆ-SINH (?)

5- Khuyết-Lục

6- Khuyết-Lục

7- Long-Tuyền

8- Định-Không (808) 2 người khuyết lục

9- Thông-Thiện (?) 2 người khuyết lục

10- La-Quý-An (936): - Pháp-Thuận (991)

- Mahamaya (1029)

- 1 người khuyết lục

11- Thiền-Ông (979): - Sùng-Phạm (1087)

- 2 người khuyết lục

12- Vạn-Hạnh (1018):

- Định-Tuệ (?)

- Đạo-Hạnh (1112)

- Trì-Bát (1117)

- Thuần-Chân (1101)

- 2 người khuyết lục

13- Huệ-Sinh (1063): - Thiên-Nham (1163)

- Minh-Không (1141) - Bản-Tịch (1140)

- 2 người khuyết lục.

14- Khánh-Ty (1142): - 4 người khuyết lục

15- Giới-Không (?): - Pháp-Dung (1174)

- 1 người khuyết lục

16- Nhất-Trí (?): Chân-Không (1100) -

- Đạo-Lâm (1203)

17- Diệu-Nhân (1113): - Viên-Học (1136)

- Tĩnh-Thiền (1193) - 1 người khuyết lục

18- Viên-Thông (1151): 1 người khuyết lục

19- Y-Sơn (1213): - 1 người khuyết lục.

********

(1) Lăng-già: Phật Lăng-Già ở bờ bể Nam-Hải, theo tiếng Trung-Hoa là không thể đến nơi được mà chỉ có bậc chân tu mới nhìn thấy được, chứng và đạt ngộ.

(2) Bát-Nhã: tức trí tuệ dùng để chỉ cho bậc đã giác ngộ sáng suốt.

*********

Sách tham khảo :

Việt Nam Phật Giáo Sử Lược của Mật-Thể

Việt Nam Phật Giáo Sử Luận của Nguyễn-Lang

21.- Ngài Khương Tăng Hội Với Thiền Tông Tại Việt Nam (^)

Ngài Khương-Tăng-Hội là vị Tổ khai sáng phải Thiền đầu tiên tại Việt-Nam vào đầu thế kỷ thứ 3 Tây lịch.

Theo sách "Cao Tăng Truyện", Khương-Tăng-Hội cha mẹ mất sớm lúc mới lên 10 tuổi. Khi lớn lên Tăng-Hội xuất gia tu Phật rất tinh tấn. Vốn người Thiên-Trúc, nhưng ông rất giỏi tiếng Việt, do đó được nhiều người tin kính. Sau khi đã ở Việt-Nam một thời gian, Ông đến đất Nghiệp thuộc nước Ngô (tức Nam-Kinh) vào năm Xích-Ô thứ 10, Tây lịch năm 255, và ở lại đấy cho tới khi mất vào năm 280, niên hiệu Thái-Khương năm thứ nhất, đời nhà Tấn.

Tư tưởng Thiền của Khương-Tăng-Hội đã được kinh "Tứ-Thập-Nhị Chương" nói tới trong đoạn mở đầu : "Quán thiên địa, niệm vô thường", là một phép thiền quán về lý vô thường của vũ trụ vạn hữu. Ngoài ra, trong bài tựa của sách (An Ban Thủ Ý Kinh), Tăng- Hội nói : "Trong thời gian búng ngón tay, tâm ý ta có trải qua 960 lần chuyển niệm : Trong thời gian một ngày một đêm, ta có thể trải qua 13 ức ý niệm. Dùng phương pháp đếm hơi thở ... ta có thể khử bỏ 13 ức ý niệm không trong sạch ấy", vì ảnh hưởng sâu đậm của giáo lý KHÔNG và CHÂN NHƯ của Đại-thừa Phật giáo mà Khương-Tăng-Hội đã nói về tâm : Tâm không hình sắc, không có âm thanh, không tiền hậu, tâm thâm sâu vi tế không tóc tơ hình tướng, cho nên Phạm-Thiên, Đế-Thích và các Tiên Thánh khác cũng không thể thấy được. Kẻ phàm tục không thể thấy được sự hóa sinh từ hình thức này sang hình thức khác của các chủng tử, khi thì minh hiển, khi thì trầm mặc trong tâm. Đó gọi là "ấm" vậy".

Chính ngài Khương-Tăng-Hội đã chỉ cái diệu tâm như bản thể giác ngộ của Thiền Đại-thừa. Ngài mở màn ngành Thiền bằng cách nói về cái tâm uyên nguyên, cũng như cái "Chân Như" của vạn pháp mà Phật giáo Việt-Nam đã chịu ảnh hưởng sâu đậm tư tưởng này trong mấy thế kỷ đầu, lúc Phật giáo mới du nhập vào nước ta.

22.- Khuôn Việt Thiền Sư (^)

Vào giữa thế kỷ thứ 10 đất nước ta lật qua một trang sử mới, vua Đinh-Tiên-Hoàng đã dẹp yên được giặc giả, và đồng thời là thời điểm ra đời của ngài Khuông-Việt.

Ngài sinh năm 930 tại thôn Cát-Lỵ, quận Thường-Lạc, họ Ngô tên Chân-Lưu và là bà con với vua Thuận-Đế.

Lúc nhỏ theo học Nho, sau ngài theo học Phật với Thiền-sư Vân-Phong tại thiền đường Khai-Quốc-Tự. Năm Ngài 30 tuổi được Bổn-Sư truyền y bát và từ đó trở thành Tổ thứ 40 của dòng thiền phái Vô-Ngôn-Thông.

Năm Thái-Bình nguyên niên (970) vua Đinh-Tiên-Hoàng thỉnh Ngài vào cung giảng đạo. Được học phép mầu vi diệu, vua đem lòng kính phục và sắc phong ngài làm Tăng-Thống. Việt-Nam, lần đầu tiên một Thiền-sư mang chức Tăng-Thống trong lịch sử Phật giáo bắt đầu từ đấy.

Đến đời vua Lê-Đại-Hành, Đại-sư Khuông-Việt (chức vị do vua Đinh ban sau khi nhận chức Tăng-Thống) cùng với ngài Đỗ-Thuận Pháp-sư và Thiền-sư Vạn-Hạnh đã giúp vua Lê kế hoạch phá tan quân xâm lăng nhà Tống.

Cuối đời Lê-Đại-Hành, Ngài lui về núi Du-Kỷ dựng chùa, dạy chúng và học trò theo học rất đông. Trong số đó nổi tiếng có ngài Đa- Bảo, nên sau được truyền y bát.

Ngài tịch vào ngày 15 tháng 2 năm Thuận-Thiên thứ 2 (1011). Trước khi biết mình sắp vào Niết-bàn, Ngài họp đại chúng lại rồi ngồi kiết già tọa thiền, đọc bài thị kệ và yên lặng mà hóa. Ngài trụ thế được 82 năm.

23.- Ngài Mãn Giác Thiền Sư, Quê Hương Và Bút Tích (^)

Mãn-Giác Thiền-sư tên là Nguyễn-Tràng, người xã An-Cách, thôn Lũng-Triều, tại Bắc-Việt, sanh vào cuối thế kỷ XI. Con trai quan Trung-Thư Viên-ngoại-lang tên là Nguyễn-Hoài-Tố.

Khi vua Nhân-Tông (1072-1127) chưa trị vì, có tuyển con nhà danh giá vào làm thị vệ, ông được trúng tuyển. Nhưng sau khi vua lên ngôi thì ông lại đi tu, thực hành theo hạnh du phương bố giáo (đem giáo pháp ban bố đến các nơi cho mọi người được thấm nhuần Phật đạo). Suốt ngày, chỉ giử một bình bát và một gậy trúc, Ngài chu du khắp thiên hạ, đi tới đâu Ngài cũng được tôn kính, cúng dường. Trước khi tịch Ngài có để lại bài kệ như sau:

Cáo tật thị chúng

Xuân khứ bách hoa lạc

Xuân đáo bách hoa khai

Sự trục nhãn tiền quá

Lão tùng đầu thương lai

Mạc vị xuân tàn hoa lạc tân

Đình tiền tạc dạ nhất chi mai

Dịch nghĩa:

Cáo bịnh để dạy bảo chúng

Xuân đi hoa rụng tơi bời,

Xuân về hoa lại tươi cười nở hoa

Việc theo trước mắt trôi qua,

Mái đầu điểm tuyết, cái già theo chân

Đừng lo hoa rụng hết xuân

Đêm qua mai nở trước sân một cành.

Lý vô thường đã được dùng để diễn tả việc đời đi đến đến di thật đúng mức. Mọi việc đều qua đi và chỉ còn lại có một, đó là cái chân tinh thần sáng sạch như gương, nếu không tu hành thì chúng ta khó mà đạt đến.

24.- Ngài Nguyên Thiều, Dòng Dõi Và Truyền Pháp (^)

Ngài họ Tạ, quê ở Trinh-Hương, huyện Triều-Châu, tỉnh Quảng-Đông. Ngài xuất gia năm 19 tuổi tu ở chùa Báo-Tư, thọ giáo với ngài Bổn-Khoa Khoán-Viên Hòa-Thượng.

Niên hiệu Cảnh-Trị năm thứ ba đời Lê-Huyền-Tôn (năm Ất-Tỵ thứ 17 đời chúa Nguyễn-Phúc-Tần 1665), Ngài theo tàu buôn qua An-Nam (tên nước ta lúc bấy giờ), trụ ở Bình-Định và lập chùa Thập-Tháp Di-Đà, cũng như mở trường đào tạo tăng tài, rồi ra Thuận-Hóa lập chùa Hà-Trung, Ngài đến Huế lập chùa Quốc-Ân và dựng tháp Phổ- Đồng (tháp đã bị quân Tây-Sơn phá hủy).

Sau Ngài về lại Quảng-Đông mời được Thạch-Liêm Hòa-Thượng và nhiều vị danh tăng khác, cũng như thỉnh được một số kinh điển tượng khí đem sang nước ta. Chúa Nguyễn-Phúc-Trăng (1687-1691) liền sắc mở giới đàn truyền giới rất long trọng tại chùa Thiên-Mụ (Huế). Ngoài ra, chúa Nguyễn còn sắc ban cho Ngài chức trụ trì chùa Hà-Trung. Dấu chân hoằng hóa của Ngài từ miền Trung Trung-phần ra Bắc Trung-phần, ở những nơi nào có trường đào tạo tăng tài đều được Ngài lưu tâm trợ lực. Ngài rất có công đối với việc chấn hưng Phật-giáo miền Trung, cũng như lãnh chủ giảng Phật Pháp cho chư tăng, ni, tín-đồ tại Huế trong nhiều năm, nhất là Tăng Học-Đường chùa Báo-Quốc.

Trước khi tịch Ngài còn để lại bài thị kệ để nhắc nhở đồ chúng như sau:

Tịch Tịch cảnh vô ảnh

Minh minh châu bất dung

Đường đường vật phi vật

Liêu liêu không vật không

Tạm dịch:

Pháp thân sáng sạch như gương,

Minh châu ngọc báu tỏ tường làu thông

Hiển bày sự vật ngàn muôn

Tánh không vắng lặng in tuồng là không

Ngài tịch ngày 19 tháng 10 niên hiệu Bảo-Thái thứ 10, nhà Lê. Đệ tử Ngài họp nhau lại xây tháp Hóa-Môn để dung nạp hài cốt (tháp này hiện vẫn còn ở làng Dương-Xuân-Thượng, Thuận-Hóa) phụng thờ.

25.- Ngài Liễu Quán Dòng Dõi Và Phó Pháp Ra Sao ? (^)

Ngài Liễu-Quán họ Lê, húy Thiệt-Diệu, người làng Bạc-Mã, huyện Đồng-Xuân, tỉnh Phú-Yên (sông-Cầu), Trung Việt.

Lúc 6 tuổi mồ côi mẹ, cha đem đến chùa Hội-Tôn cho thọ giới với ngài Tế-Viên Hòa-Thượng (người Tàu). Sau Ngài ra Thuận-Hóa (Thừa- Thiên) xin theo học với Hòa-Thượng Giác-Phong chùa Báo-Quốc. Năm Tân-Mùi (1691), Ngài phải trở về phụng dưỡng cha già trong việc đốn củi để kiếm tiền giúp đỡ việc chi tiêu trong gia đình. Năm Ất Hợi (1695) cha chết, Ngài lại trở ra Huế thọ giới Sa-di với ngài Thạch-Liêm Hòa-Thượng. Năm Đinh Sửu (1697) Ngài thọ giới Tỳ-kheo với Hòa-Thượng Từ-Lâm. Ngài tìm đến các vị Hòa-Thượng giỏi để học đạo thiền. Từ năm 1699 cho tới năm 1702 (Nhâm Ngọ) mới gặp được ngài Minh-Hoằng Tử-Dung để xin theo học phép tham thiền. Được Hòa-Thượng dạy câu : Vạn pháp qui nhất, nhứt qui hà xứ (muôn pháp đều qui về một, một qui về đâu ?) Ngài tham cứu câu này ròng rã suốt 8, 9 năm mà chưa tỏ ngộ được, nên luôn luôn cảm thấy hỗ thẹn. Nhưng nhân duyên đến, Ngài nhân đọc truyện (Truyền-Đăng-Lục) đến câu "Chỉ vật truyền tâm, nhân bất hội xứ", thoạt nhiên ngộ được chân tâm. Năm Mậu Tý (1708) Ngài trở ra Huế để cầu Hòa-Thượng ấn chứng.

Hòa-Thượng (Minh-Hoằng) đọc câu : Huyền thời triệt thủ, tự khang thừa đương, tuyệt hậu tái tô khi quân bất đắc,

nghĩa là : Phải bước ra bỏ vỏ mà buông tay, chết sống tự mình chịu lấy, ngất đi mà sống lại mới khỏi bị người dối gạt.

Liền đó, Ngài vỗ tay cười.

Hòa-Thượng bảo : Chưa nhằm.

Ngài đáp : Bình trung nguyên thị thiết : Trái cân vốn là sắt.

Hòa-Thượng lại bảo : Chưa nhằm.

Ngày hôm sau, Hòa-Thượng gọi Ngài đến bảo : Chuyện ngày qua chưa xong, nói lại xem ?

Ngài đáp : Tảo tri đăng thị hỏa, phạn thục dĩ đa thời : Sớm biết đèn là lửa, cơm chín đã lâu rồi.

Bấy giờ Hòa-Thượng mới khen ngợi ...

Năm Nhâm Tý (1742) Ngài dặn dò môn đồ bài kệ sau đây rồi tịch :

Thất thập dư niên thế giới trung,

Không không sắc sắc diệt dung thông.

Kim triêu nguyện mãn hoàn gia lý

Hà tất bôn man vấn tổ tông

Nghĩa:

Ngoài bảy mươi năm trong thế giới,

Không không sắc sắc thảy dung thông

Ngày nay nguyện mãn về nơi cũ,

Nào phải ân cần hỏi tổ tông.

26.- Vua Trần Nhân Tông Có Công Gì Với Phật Giáo ? (^)

Vua Trần-Nhân-Tông là Thái-tử Khâm-Tín, con vua Trần-Thánh-Tông. Lên trị vì năm 1278, lúc Ngài mới 16 tuổi.

Vua Nhân-Tông rất sùng tín đạo Phật, nên khi được cha truyền ngôi, bèn cố tìm cách từ chối để nhường ngôi cho em, nhưng không được. Sau đó Ngài trốn triều thần vào núi Yên-Tử tìm thầy học đạo thiền nhưng vua cha hay tin, cho người đi đón về triều để đưa lên ngôi Thiên Tử. Ở ngôi báu Ngài vẫn quyết chí tu hành và lo truyền bá Phật Pháp.

Tuệ-Trung Thượng-sĩ Thiền-sư là thầy học nên Ngài rất chuyên tâm vào việc tu thiền.

Năm 1293, Ngài truyền ngôi cho con là Anh-Tông để rãnh rỗi hầu lo việc tu niệm lúc về già. Đến năm 1299, Ngài quyết từ giả hoàng cung để thực hiện xuất gia. Vào tu ở núi Yên-Tử, Ngài lấy hiệu là Hương-Vân Đại-đầu-đà. Số tín đồ theo học đạo thiền với Ngài rất đông có tới hàng vạn người.

Từ đó phái Trúc-Lâm Yên-Tử trở thành một phái thiền đặc biệt thuần túy Việt-Nam, do Ngài sáng lập.

Ngày nay trong lịch sử Phật giáo Việt-Nam khi nhắc tới tên của một người đã biết áp dụng đạo Phật đúng mức để tu hành đắc đạo, người ta phải nêu danh vua Trần-Nhân-Tông như là một vì sao sáng.

27.- Vua Lý Nhân Tông Đã Tán Ngưỡng Ngài Vạn Hạnh Thiền Sư Thế Nào Qua Thi Văn ? (^)

Trong lịch sử Việt-Nam, đời Lý (1010-1225) là thời kỳ thái bình thịnh trị nhất, Phật giáo được xem như là Quốc giáo. Vạn-Hạnh Thiền-sư là nhân vật sáng giá trong giai đoạn này.

Vua Nhân-Tông húy là Kiền-Đức hay Càng-Đức (1072-1127), tánh nhân từ và hiếu hạnh. Ngài là con vua Thái-Tông (1028-1054), lên kế vị vua Thánh-Tông. Vua Thánh-Tông (1054-1072) đồng thời là một vị đạo sĩ, bỏ ngôi đi tu và đắc đạo. Ngài là Sơ tổ phái Thảo-Đường tại Việt-Nam. Do đó, Nhân-Tông lên ngôi lúc còn nhỏ, nhưng rất thông minh, anh dũng, lại hâm mộ đạo Phật. Lúc bấy giờ ngài Vạn-Hạnh là một tay cự phách giúp triều đình việc trị quốc an dân. Bài thơ Lý-Nhân-Tông làm để tặng ngài Vạn-Hạnh như sau :

Tặng tăng Vạn-Hạnh

Vạn-Hạnh dung tam tế (1)

Chân phù cở sấm thi

Lạng khai danh Cổ-Pháp

Quải tích (2) trấn Vương Kỳ

Nghĩa là : Sư Vạn-Hạnh hiểu thấu được cả thiên văn, địa lý, và nhân tình, thế sự (tam tế), thực phù hợp với câu sấm cổ. Quê nhà sư ở làng Cổ-Pháp thuộc tỉnh Bắc-Ninh, nhưng luôn luôn chống gậy nhà tu trấn giữ kinh đô nhà vua.

Thơ tặng sư Vạn-Hạnh

Thiền sư Vạn-Hạnh tuyệt vời

Dung hòa ba cõi in lời sấm thi

Quê làng Cổ Pháp gần kia,

Gậy tu trấn giữ Vương Kỳ từ lâu.

Vua Nhân-Tông kế nghiệp nhà Lý, đã làm cho quốc gia được hưng thịnh, đạo Phật phát triển huy hoàng. Vua ở ngôi được 55 năm và mất năm 1127, thọ được 63 tuổi.

*********

Chú thích :

(1) Tam tế : trời, đất, và người

(2) Tích : gậy của nhà tu, còn gọi là tích trượng

28.- Thiền Sư Không Lộ Sự Truyền Đạo Và Hành Trạng Ra Sao ? (^)

Ngài Không-Lộ họ Dương, người Hải-Thanh (Bắc-Việt), đã mấy đời chuyên về nghề đánh cá, nhưng đến đời ông lại đổi nghề để sang học đạo thiền Phật giáo.

Ông kết bạn với Thiền-sư Giác-Hải, trụ trì chùa Hà-Trạch. Cả hai và nhất là ngài Không-Lộ rất giỏi về pháp thuật nhà chùa, như ứng hiện những truyện lạ kỳ mà người đời rất khó lường được, do đó tiếng tăm Ngài được nhiều người biết đến. Ngài mất vào khoảng niên hiệu Hội-Tường và Đại-Khánh (?), còn để lại bài thơ "Ngôn Hoài" sau đây :

Ngôn Hoài

Cư đắc long đà địa khả cư

Đa tình chung nhật lạc vô dư

Hữu thời trúc thượng cô phong đỉnh

Trường khiếu nhứt thanh hàm thái hư.

Nghĩa : Chọn được nơi nhiều rồng rắn vẫn có thể ở được. Tối ngày vui với cảnh thôn dã không gì hơn, có khi leo lên đỉnh núi thở dài một tiếng, làm lạnh cả bầu trời.

Dịch theo văn vần :

Đất rồng rắn ở vẫn ung dung,

Vui thú thâu ngày dạo cảnh đồng.

Có lúc trèo lên đầu núi đứng,

Kêu dài một tiếng lạnh bầu không.

Tại chùa Keo làng Dũng-Nghĩa, tỉnh Thái-Bình có thờ tượng ngài Không-Lộ, pho tượng bằng gỗ trầm hương không sơn phết, quanh năm mùi trầm bốc lên thơm ngào ngạt khắp chùa ! Theo truyền thuyết, pho tượng không phải do người đời tạc, mà khi Ngài tịch hóa thành Thánh tượng. Do sự linh ứng đó, ngôi chùa Keo còn mang tên Thần-Quang-Tự là vì vậy.

Được biết pho tượng ngài Không-Lộ hiện nay, dưới chế độ cộng sản cũng đã bị giam vào trong cung cấm. Có người còn cho hay rằng mặt mũi chân tay Ngài khác thường lắm !

29.- Giám Trai Sứ Giả Là Ai ? Các Chùa Thờ Hình Ngài Tượng Trưng Gì ? (^)

Khi vào các chùa, nơi trai đường (phòng ăn của chư Tăng) ta thường thấy hình tượng của một người chống búa đứng trong tư thế đang nghỉ ngơi, đó là ngài Giám Trai.

Giám Trai là một bậc thiên thần coi sóc, giám hộ việc ăn uống cho Tăng chúng. Vì Ngài thường lân mẫn làm việc công đức, nên được tôn xưng là Giám-Trai sứ giả Bồ-Tát. Ngài thay thế các vị Bồ-Tát như một đặc phái đến thử hộ (giữ gìn) chốn già lam (chùa). Trong nghi thức cúng ngọ có danh hiệu của Ngài và mỗi khi chư Tăng dùng ngọ trai đều vái niệm để cầu nguyện cho chùa được cát tường. Sự tích Ngài phát xuất từ đâu không ai rõ, nhưng Phật giáo Trung-Hoa, nhất là những chùa Tăng-học-viện, đều có thờ tôn tượng nơi phòng thọ trai. Ở Việt-Nam có lẽ cũng chịu ảnh hưởng theo Phật giáo Trung-Hoa, hình tượng Ngài có một số chùa đúc tạo để chiêm bái. Tác giả có ở và đến thăm nhiều chùa Nhật, nhưng không thấy thờ hình tượng Ngài, tuy nhiên theo bộ Phật giáo đại từ điển của Chức-Điền Đắc-Năng (cách đọc) nơi trang 215, có tả diện mạo Ngài như sau : "Giám-Trai Sứ-Giả là một thần nhân giám hộ việc ăn uống cho chư Tăng. Ở các chùa Trung-Hoa gọi là Giám-Trai Bồ-Tát. Ngài mặt xanh, tóc đỏ" (Đông-Kinh, Đại-Tạng xuất bản lần thứ V ngày 20/1/80).

Chỉ cần đọc tên Ngài cũng đủ nói lên được ý nghĩa là kẻ hổ trợ việc trai đường rồi. Khi nào gặp tôn tượng vị Bồ-Tát như đã diễn tả thờ ở nhà trai của chùa, chúng ta rất dễ nhận ra được.

30.- Một Danh Tăng Làm Chấn Động Cả Thế Giới Trong Thời Cận Đại : Hư Vân Lão Hòa Thượng (^)

Sau thế chiến thứ hai, trong giới Phật giáo không ai là không nghe đến tên tuổi của bậc cao tăng tài đức Trung-Hoa, ngài Hư-Vân Lão Hòa-Thượng.

Hư-Vân là pháp hiệu, còn tên Ngài là Cổ-Nghiêm và họ Tiêu, người làng Tương-Châu tỉnh Hà-Nam. Cha Ngài làm quan Tri-phủ ở Tuyền-Châu thuộc tỉnh Phúc-Kiến. Ngài sanh vào ngày 30 tháng 7 (Bính Ngọ) năm 1846, niên hiệu Đạo-Quang năm thứ 26, đời nhà Thanh.

Mang tâm niệm xuất gia từ nhỏ, và xin phép cha Ngài không chấp thuận. Năm lên 18 tuổi Ngài bèn trốn gia đình vào chùa thọ giới xuất gia với ngài Diệu-Liên. Từ khi được thầy nhận làm đệ tử, Ngài tinh tấn tu hành theo lối khổ hạnh, từ Đông chí Hạ chỉ dùng một cái nón và một chiếc võng duy nhất hộ thân, thức ăn bằng cây rừng, thức uống bằng suối nước thiên nhiên, suốt trong 3 năm liên tục kiên trì, cho đến nổi râu tóc Ngài mọc dài ra trông tướng người dữ tợn.

Qua năm thứ 4, Ngài 22 tuổi, xin thầy vào núi Thiên-Thai học đạo với ngài Hoa-Đình Pháp-sư. Được lão Pháp-sư dạy cho phương pháp tu thiền định và Ngài thâm nhập say mê theo pháp tu quán trong mười năm. Hạnh tu nhập thất của Ngài có một không hai trong thời cận đại. Ở trong thất có khi một thất, khi ba, bốn thất, hoặc bảy - tám thất cũng có khi Ngài ở luôn trong thất suốt ba tháng mới xuất định. Theo như lời truyền lại, lúc nhập thất Ngài quên cả ăn mà sức khỏe vẫn bình phục, có lẽ do sức kiên định trong nhiếp tâm tu thiền. Do đó, tiếng tăm Ngài lừng lẫy khắp nơi, đến nỗi Trung-cộng sợ uy danh Ngài, nên khi chiếm được vùng Hoa-Nam, đã bắt nhốt và tra ấn Ngài thời gian 3, 4 tháng, chẳng cho ăn uống mà tinh thần Ngài vẫn không hề nao núng đổi thay !

Đối với Cộng-sản, Ngài chỉ có một tội là tội ưa tham thiền nhập định. Thấy uy hiếp tinh thần nhà tu hành chay lạt không thành, Cộng-sản bèn nới tay cho Ngài hành đạo. Môn đồ, đệ tử Ngài độ được rất đông.

Ngài tịch vào ngày 13 tháng 9 năm 1959 tại chùa Vân-Môn, tỉnh Quảng-Đông. Hưởng thọ 113 tuổi.

Trong khoảng từ 1960 đến 1965 các tờ báo Phật giáo tại Việt-Nam, như tờ Từ-Quang (Nguyệt San) do ông Mai-Thọ-Truyền, hội Phật-Học Nam-Việt chủ trương, có viết liên tục nhiều loạt bài nói về công hạnh, đạo đức tu chứng và những điều huyền diệu về cuộc đời tu hành của vị cao tăng thoát tục trong thời đại hổn loạn lúc đó, để giới thiệu Ngài như một ngôi sao sáng cho hàng Phật tử Việt-Nam.

Có thể nói, Ngài là một Thánh Tăng hay vị Bồ-Tát hóa thân ra đời để dập tắt lửa tham lam, hận thù, lòng si mê ... nên chẳng hề thay đổi trước uy quyền, thế lực !

Tiếng Việt

Trang nhà Quảng Đức

Tiếng Anh

Phật Học Cơ Bản

..... ... .

KIẾN THỨC

CĂN BẢN PHẬT GIÁO

TT.Thích Bảo Lạc

--- o0o ---

CHƯƠNG 8

VĂN HỌC PHẬT GIÁO

1.- Tam Đồ Bát Nạn Là Gì ? (^)

Trong bài sám "Quy Mạng" có câu : "Tam đồ bát nạn cu ly khổ". Vậy tam đồ và bát nạn là những gì mà chúng sanh phải chịu qua các cảnh khổ triền miên đó ?

Tam đồ có nghĩa là sự sống chết lẫy lừng như trong lửa đang cháy bừng, trong máu huyết và binh đao, do con người đem tỉ thí để mong phần thắng về mình. Như vậy, tam đồ là hỏa đồ (đường lửa), huyết đồ (đường máu), và đao binh đồ (đường đao binh) vậy. Còn bát nạn là tám con đường chướng ngại xấu xa khiến chúng sanh bất hạnh khó khăn trên đường đời. Đó là : Sanh nhằm vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, Bắc-câu-lư-châu cõi trời Trường-Thọ, manh, lung, ám, á (đui mù, điếc, câm, ngọng), sanh trước Phật và sanh sau Phật khó thấy được Phật và thiếu duyên không được nghe giáo pháp của Phật là một trở ngại lớn cho việc tu hành. Chúng ta sanh gặp gia đình có thế lực, quyền uy cũng đều được xem như một nạn lớn. Người nào có nhiều mưu mẹo, trí xảo cũng là một việc xấu, thậm chí cho đến kẻ có tài hùng biện giỏi và người thông suốt mọi việc quá khứ, hiện tại, tương lai cũng là một trong tám điều xấu ác như trên. Ngoài ra, đối với những người thiếu may mắn, sanh nhằm phải miền giá buốt quanh năm như miền Bắc-cực và những kẻ sanh gặp miền tối tăm, thiếu ánh sáng mặt trời thuộc miền Nam-cực thuộc vùng Nam-thiện-bộ-châu cũng là những việc thiếu may mắn, và bị trở ngại lớn cho cuộc sống. Tất cả những cảnh đó đều là việc xấu, không thích hợp cho kiếp người.

Con người sanh ra trong ba đường máu huyết, đao binh, lửa chiến tranh ; rồi hận thù cứ chồng chất giẩy đầy nên lúc nào cũng chờ dịp để thanh toán lẫn nhau. Dù cho kẻ khôn ngoan tài trí cũng bị người khác tìm dịp hãm hại. Do đó, tục ngữ luôn nhắc tới câu "cao nhân tắc hữu cao nhân trị", vẫn còn đúng nhất.

Như thế, kiếp sống của con người không được bảo đảm chút nào, và chúng ta lúc nào cũng cảm thấy bất an, lo sợ cho sanh mạng bị đe dọa nếu không là một ác nạn thì còn gọi là gì ?

2.- Tam Khổ , Bát Khổ Là Gì ? (^)

Tam khổ là ba việc khốn đốn và khó khăn kéo theo cuộc sống triền miên không bao giờ rời khỏi. Đó là khổ khổ, hoại khổ và hành khổ.

Con người có nhiều nổi đau khổ tâm linh vật chất chồng chất lên nhau, sự mất mát hư hỏ và những nghiệp lực hành vi lối kéo theo một hướng đi định sẳn đều là việc thống khổ. Còn bát khổ có hình tướng ra sao ?

Trong cuộc sống nhân sanh bao hàm tám điều khốn khổ là khổ sanh ra đời, lớn lên già bệnh hoạn và chết là cả một trường tranh đấu cam go nhưng bên cạnh đó còn có những việc như đang yêu nhau mà phải chia lìa do hoàn cảnh trái ngang chi phối bắt buộc, thật là khổ. Chúng ta cầu mong nhưng không được toại nguyện cũng gây ra sự đau buồn khổ não. Trong trường hợp ghét nhau mà hai người cứ phải gặp nhau thật là cảnh chán trường không thể tả được ! Ngũ ấm hay ngũ uẩn là năm yếu tố cấu tạo cơ thể như sắc thân, thọ nhận, tưởng nghĩ, hành vi, ý thức hợp thành. Một trong năm phần đó bất bình thường đều gây ra sự bất an cho tinh thần lẫn cơ thể - đều khổ sở.

Muốn diệt khổ, có bốn phương pháp căn bản nầy làm phương châm dẫn đạo, là quán thân thể không sạch, việc lảnh thọ và tích chứa tạo thêm mối bận tâm lo nghĩ, tâm luôn luôn thay đổi và vạn pháp đều không thật ngã. Bốn pháp quán nầy gọi là Tứ-Niệm-Xứ, nếu áp dụng đúng, chúng ta sẽ lìa khổ được vui.

Ở đời, kẻ nào tâm trí không bị chi phối bận rộn, phiền lo vào những việc bất thiện sẽ có một đời sống thoải mái nhẹ nhàng, chắc chắn đời sau thoát khỏi cái khổ ràng buộc.

3.- Phật Trong Nhà Không Thờ Lại Thờ Thích Ca Ngoài Đường, Nghĩa Là Gì ? (^)

Câu nói trên đã bao hàm nhiều ý nghĩa để nhắm vào những ai thiếu một căn bản đạo đức và chỉ lo lao theo tiếng khen hão, những lời tán thưởng không thật tế.

Ở đời có đủ các hạng người như kẻ thích sống khoa trương, và người muốn nội tâm phong phú. Do đó, có nhiều người ở nhà thờ hình tượng Phật, nhưng không bao giờ thắp được nén nhang hay dọn dẹp lau chùi gì cả. Tệ hơn nữa, để những nơi thờ tượng bụi đất bám đầy, nhưng không bao giờ chịu để ý quét tước cho sạch sẽ, trái lại người ta chỉ lo đi chùa là những nơi có đông người để chứng tỏ cho mọi người thấy rằng ta đây là người tu hành đứng đắn.

Người tu Phật đừng bao giờ nghĩ và làm những công việc thiếu thực tế cả. Muốn giác ngộ được người khác, trước phải giác ngộ chính mình. Đức Phật Thích-Ca cũng phải qua công lý nầy mới đạt được đạo quả và xứng đáng để người đời ca tụng là "Thiên nhân chi đạo sư" (Thầy của trời và người)

Người Phật tử không vì một lẽ gì mà không tự tu sửa thân tâm, thí dụ muốn lên Cực-Lạc thực quả là một ý tưởng điên rồ ! Người nào hiện đời còn cha mẹ nên cố gắng phụng dưỡng để an ủi lúc xế bóng về chiều. Bổn phận làm con đã tròn được hiếu đạo đối với đấng sanh thành đó cũng chính là cách báo ân phụng thờ Phật tổ trong muôn một vậy. Bởi lẽ, "Cha mẹ tại tiền như Phật tại thế", nếu hiểu được ý nghĩa nầy, chúng ta cố gắng thật hành Phật giáo ngay trong lúc mạnh khỏe với một lòng thành thật, không vọng ngoại, không cầu mong để tự rèn luyện ý chí, đạo đức là một món ăn tinh thần cho tương lai.

Chỉ khi nào chúng ta hoàn thành được trọn vẹn đức Phật của chính mình, lúc đó mới có quyền nghĩ tới những việc lợi lành khác là điều cần thiết không thể không suy nghĩ của người Phật tử chân chánh.

4.- Giải Thích Câu : Chớ Đợi Tuổi Già Mới Học Đạo, Mồ Hoang Lắm Kẻ Tuổi Xuân Xanh (^)

Hai câu thơ bảy chữ nầy rất quen thuộc và dễ nhớ, khi mới đọc lên ta nghe như không có gì quan trọng, nhưng nếu đem phân tích kỷ, câu nói hàm chứa cả một triết lý vô thường theo quan niệm Phật giáo.

"Chớ đợi tuổi già mới học đạo" có nghĩa là người muốn học đạo ở bất cứ hạng tuổi nào cũng có thể được cả. Có một số bạn trẻ vì mắc cở hay có tính rụt rè không dám đi tới chùa sinh hoạt hay tham gia vào các tổ chức gia đình Phật tử. Còn một số các bạn nam nử thanh niên khác quan niệm rằng đời còn trẻ, ở ngoài thế tha hồ mà hưởng thụ, đợi đến lúc gối mỏi lưng còm rồi tìm học đạo cũng đâu có muộn gì ! Quan niệm như thế là sai, vì cái chết không đợi người nào cả. Sống trên đời nầy đâu phải người nào cũng chết lúc tuổi già cả đâu. Theo lý vô thường, thì con người lúc sống luôn luôn vật lộn với cái chết. Thế thì việc đợi cho tuổi già mới lo tới đời sống tinh thần thật quá muộn. Do đó, sống ngày nào, ta cần phải lo nghĩ tới cái chết trước nhất để lở khi tử thần đến réo gọi còn kịp trở tay. Nói như thế có nghĩa là người nào biết tu phước, làm thiện thì nghiệp lực được nhẹ nhàng, vì chưa biết được một lúc nào đó sẽ từ giả cõi đời, và mồ hoang lắm kẻ tuổi xuân xanh ! Kìa ta thử nhìn xem ngoài nghĩa địa có bao nhiêu nắm mồ mà phần đông là tuổi trẻ đã vào nằm trong lòng đất lạnh !

Câu thơ không những diễn tả lý vô thường mà còn hàm chứa một ý nghĩa đích thực hơn là khuyên răn người đời nên tinh tấn tu học. Người nào không ý thức trước vấn đề sanh tử sẽ có hối hận về sau và tới lúc đó cũng đã quá muộn rồi.

Ngay bây giờ ta phải bắt tay vào việc tu sửa mình để gieo trồng cội phúc mới mong cứu vãng được trong kiếp sau.

5.-Giải Thích Câu Ca Dao : Thương Nhau Cau Sáu Bổ Ba, Ghét Nhau Cau Sáu Bổ Ra Làm Mười (^)

Tình cảm của con người thay đổi theo một nhịp độ nhanh chóng, ta không thể nào đo lường được. Chính tâm lý học ghi nhận được rằng trong một ngày chúng ta thay đổi trạng thái trong tâm lý đến ba triệu lần.

Việc thương ghét nơi mỗi người có thể tráo trở một cách đột ngột. Do đâu mà có ra sự thương ghét đó ? Theo Phật giáo quan niệm, đó là do bảy thứ tình cảm : Mừng, giận, buồn, vui, yêu, ghét, mong muốn và sáu điều ham muốn sáu điều (lục dục) là tiền, của, sắc đẹp, danh vọng, ăn uống, ngủ nghỉ mà ra. Ngoài thất tình lục dục ra tình cảm còn do tham sân, si gọi là tam độc chi phối dẫn dắt nữa. Nói một cách dể hiểu, khi đã dể ý ưa thích người nào rồi ta tìm đủ cách để bao bọc, che chở, cho dù người đó có lỗi lầm ta cũng tha thứ dễ dàng.

Trong khi đó, một người đã bị chúng ghét rồi dù có lội nhỏ đến đâu cũng bị thêm thắt ra thành chuyện lớn. Câu ca dao lại dùng trái cau để cho người bình dân dễ hiểu. Cau dùng để ăn trầu, người ta thường bổ ra 6 hoặc 8 miếng. Nếu trái cau nhỏ hơn, có thể bổ ra làm 4 phần. Cau 6 bổ 3 có nghĩa là bổ lớn miếng cau hơn và có hàm sự che chở, tha thứ và độ lượng dể dãi. Nhưng câu : "Ghét nhau cau 6 bổ ra làm mười" nghĩa hoàn toàn trái ngược lại. Người ta thường nói, ít xít cho nhiều là thế. Khi nào chúng ta đem lòng ghét một người nào rồi, khó có dịp hàn gắn lại nổi, vì tình cảm trước đó đã bị tổn thương, sứt mẻ.

Người Phật tử phải biết giữ mức trung bình giữa 2 thái độ : Ghét, thương. Vì câu tục ngữ thường nhắc: yêu nhau lắm, cắn nhau đau hoặc yêu nhau yêu cả đường đi, ghét nhau ghét cả tông chi họ hàng vẫn còn có giá trị ...

6.- Cho Biết : Trăm Năm Bia Đá Vẫn Mòn, Ngàn Năm Bia Miệng Vẫn Còn Trơ Trơ Là Gì ? (^)

Bia đá do người tạo lập để ghi tên tuổi, chức vị của người chết, còn bia miệng tuy không có hình tướng nhưng lại tồn tại rất lâu trong đời này và lưu truyền lại mãi cho đến tận mai sau.

Ta có thể phân biệt câu ca dao ra làm 2 phần :

Câu một, chỉ cho vật chất có tính cách hoại diệt, dù vật cứng rắn như đá, cũng chỉ tồn tại được trong một khoảng thời gian hữu hạn nào đó.

Câu hai, thuộc về khía cạnh tư tưởng hay tinh thần thuộc phạm vi phán đoán. Tiếng thị phi ở đời rất quan trọng. Chúng ta sống đừng bao giờ xem thường dư luận cả, vì dư luận nhiều khi cũng giúp cho ta tu sửa được mình và trau dồi tác phong đạo đức. Người nào xem thường dư luận là tự tách rời ra khỏi sinh hoạt cộng đồng xã hội. Tuy nhiên, dư luận nghiệt ngã có khi sai với sự thật, cũng dễ gây ra cho ta sự bực bội, khó chịu, chán chường rồi không tìm ra được cách để giải quyết. Vì thiếu ý thức nên chúng ta hay mắc phải lầm lỗi này. Câu "tiếng lành đồn xa", còn "việc xấu" cũng gây ra tác động tâm lý quần chúng không kém phần tai hại rất quan trọng. Câu nói trên không luận ở bất cứ một tôn giáo nào mà mọi người ai cũng có thể thuộc nằm lòng.

Bia miệng tuy độc thật, nhưng nếu ta làm được việc lợi ích chung cho đời, hẳn tiếng thơm sẽ lưu truyền lại cho hậu thế mãi tới tận mai sau, vẫn còn được người đời tán dương, ghi nhớ.

Còn câu nói "để tiếng đời" có nghĩa là lưu lại tiếng thơm hay tiếng xấu lại cho đời, cốt để ca tụng công ơn của những người đã dày công tô điểm cho hậu thế hoặc chê bai kẻ xấu ác có một tác dụng tâm lý rất sâu rộng trong quần chúng nên được truyền rộng ra khắp nơi trong dân gian và truyền lưu cho đời mãi mãi.

7.- Hãy Chứng Minh Câu : "Hùm Chết Để Da, Người Ta Chết Để Tiếng" Là Thế Nào ? (^)

Hùm là một loại thú dữ ưa ăn thịt người, ít có ai dám đến gần chúng. Nhất là trẻ con, khi nghe nói tới hùm hay beo hoặc cọp, chúng ta đều cảm thấy rợn tóc gáy lên.

Đồng loại với hùm còn có beo, sư tử ... Chúng dữ tợn, hung hăng không những đối với loài vật nhỏ hơn mà ngay cả đối với người ta cũng phải sợ trước tiếng kêu lẫm liệt của chúng. Lúc còn sống, loài mạnh thú này vốn dữ tợn như vậy. Cho đến khi chết chúng còn để lại lớp da. Da hùm được xử dụng vào việc trang trí phòng xá, khách sãnh rất đẹp và lâu bền. Do ý này mà ta ưa gọi hùm chết để da là vậy.

Còn câu : "Người ta chết để tiếng" là thế nào ? Tiếng đây có nghĩa là dư luận thị phi và gồm có 2 loại : Tiếng tốt và tiếng xấu. Đối với những người có công và biết hy sinh cho đời như đóng góp tài năng, sức lực vào việc xây dựng cộng đồng xã hội, sau khi họ chết được người đời luôn luôn nhắc đến tên tuổi. Ngược lại, hạng người thứ hai cũng để lại tiếng đời, nhưng lại là tiếng dèm pha, khinh rẽ. Với những kẻ lúc sống chỉ biết thủ lợi riêng với nhiều mưu mô để lường gạt và khiến cho nhiều người phải điêu đứng, tan gia bại sản. Đến khi chết họ bị quần chúng nguyền rũa, lên án không tiếc lời. Tiếng đời rất quan trọng như vậy, cho nên chúng ta sống ở đời đừng bao giờ làm một việc gì trái với lương tâm, lẽ phải và có phương hại đến kẻ khác. Ta nên tự nghĩ rằng: việc gì mình muốn và ưa thích, thì chính kẻ khác cũng nghĩ như vậy.

Chúng ta cố gắng đến mức tối đa thực hành điều thiện để sau khi nhắm mắt lìa đời còn lưu lại được tiếng thơm mãi mãi như da thú còn hữu dụng cho nhiều người.

8.- Giải Thích Câu : Ta Là Phật Đã Thành Các Người Là Phật Sẽ Thành (^)

Đức Phật Thích-Ca luôn nhắc nhở chúng ta, ngài thành Phật là do công tu tập nhiều đời mà đạt thành Chánh-đẳng Chánh-giác, còn đối với chúng ta, nếu biết lo tinh tấn tu hành cũng sẽ đạt được kết quả như đức Phật vậy.

Câu nói trên hàm chứa cả một triết lý bình đẳng cao siêu. Tất cả chúng sanh đều có sẵn Phật tánh, nhưng vì màn vô minh che lấp nên không thể nào chứng ngộ được sự tự giác, giác tha và giác hạnh viên mãn như Phật. Phật không chủ trương ngài là bậc toàn năng tuyệt đối mà Ngài tự cho mình như một vị lương y mang phương thuốc hay trừ căn bịnh hiểm nghèo cho nhân thế. Chính Đức Phật đã chỉ dạy cho chúng sanh con đường tu hành diệt khổ để đạt đến Niết-Bàn an lạc. Ngài quan niệm rằng tự nơi mỗi người đều có sẵn mầm Phật tánh, nếu biết triên khai triệt để bằng cách tu sửa, đãi lọc những phiền não tự tâm, chắc chắn ai cũng có thể đạt tới đích giải thoát mọi ràng buộc khỏi sanh tử luân hồi. Khi mới nghe qua câu nói trên, chúng ta nghĩ là dễ thực hành, nhưng trên thực tế, muốn trở thành một vị Phật phải đòi hỏi nhiều công phu tu tập. Đức Phật nhờ thiền quán suốt 6 năm và sau 49 ngày đêm dưới gốc cây Bồ-Đề mới giác ngộ thành Phật. Sau đó Ngài đem ánh sáng đạo mầu giải thoát, trước hết độ cho 5 người bạn đồng tu lúc trước là nhóm ông Kiều-Trần-Như.

Nhờ sự tinh tấn tu hành mà đương thời lúc Phật còn tại thế đã có nhiều người chứng quả, đắc đạo. Quả thật câu nói của Ngài rất bình đẳng và tôn trọng mọi loài đều có trí giác như nhau.

9.- Cha Mẹ Tại Tiền Như Phật Tại Thế Có Nghĩa Là Gì ? (^)

Chúng ta ra đời, lớn khôn rồi góp mặt với xã hội là do công ơn cha mẹ tạo thành. Bổn phận làm con là phải biết báo đền công ơn dưỡng dục sanh thành của cha mẹ để làm tròn được đạo hiếu. Vậy, câu nói : Cha mẹ tại tiền như Phật tại thế là gì ?

Người Phật tử kính ngưỡng đức Phật bao nhiêu, lại càng phải tôn kính cha mẹ bấy nhiêu. Đức Phật đã nhập Niết-Bàn, nhưng người Phật tử vẫn luôn luôn tôn thờ như lúc Ngài còn tại thế. Cũng như thế, lúc cha mẹ còn sống, con cái phải phụng dưỡng, chăm sóc và khi các người trở về già yếu bổn phận làm con phải hầu cận cháo cơm và lo chu toàn mọi nhu cầu vật chất, tinh thần để an ủi cha mẹ trong lúc tuổi già. Tâm lý con người lúc còn trẻ và khi trở về già có thể giống nhau. Do đó việc sớm chiều gần gủi, giúp đỡ cha mẹ của con cái là điều cần thiết và rất quan trọng. Mỗi người Phật tử chúng ta nên nghĩ rằng, còn cha mẹ để được săn sóc, phụng thờ là niềm hãnh diện lớn lao. Có nghĩ và làm được như thế, chúng ta mới không phụ đấng sinh thành. Trong kinh Phụ Mẫu, "Phẩm Báo Ân" đức Phật dạy rằng : "Công ơn cha mẹ sánh như trời biển người con cho dù suốt đời cỏng cha bên vai trái và mẹ bên vai phải đi suốt từ nguồn tới biển để báo ơn cũng chưa thể báo đền công ơn sanh thành được trọn vẹn" và ca dao Việt-Nam cũng có câu :

Công cha như núi Thái-sơn,

Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra,

Một lòng thờ mẹ kính cha,

Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con.

Chúng ta có bổn phận phải săn sóc cha mẹ lúc còn sống để khỏi phải ân hận khi các ngài đã nhắm mắt lìa đời ; và tới lúc đó dù cho có nghĩ tới cách báo ơn, ta cũng không thể nào thực hiện được.

10.- Chứng Minh Câu : "Cây Xanh Thì Lá Cũng Xanh, Cha Mẹ Hiền Lành Để Phước Cho Con" (^)

Trong một vườn cây, chúng ta thấy hễ cây nào có thân to lớn bụ bẫm được tưới bón phân nước dồi dào tự nhiên cành lá trở nên sum xuê, xanh tốt ; cũng như vậy, con người sống ở đời phải có một mối dây liên hệ mật thiết với nhau. Theo Phật giáo, thuyết nhân quả, nghiệp báo thì cái hạt mầm gieo xuống sẽ không bao giờ mất. Nó nằm tiềm ẩn trong lòng đất, rồi chờ cơ hội tốt mầm sẽ mọc lên thành cây và ra hoa kết quả.

Qua 2 câu thơ trên ta nhận thấy ở mỗi câu đều bao gồm 2 phần : Nhân và quả. Hễ nhân lành thì quả tốt : Cây xanh thì lá cũng xanh, và cha mẹ hiền lành để phước cho con. Tuy nhiên, theo lý nhân quả, không hẳn cái quả đi liền theo cái nhân như cây xanh thì lá cũng xanh mà ở phần thứ hai của câu thơ 8 chữ đã cho ta thấy, cái nhân lành là do cha mẹ gieo trồng thế mà cái quả được phước lại phải đợi tới đời con cháu mới thành hình. Điều đó chứng tỏ rằng, lý nhân quả liên tục theo một chu kỳ không đầu mối và kỳ hạn không nhất định mau hoặc chậm. Có 3 trường hợp xảy ra như sau : Nhân quả đồng thời sanh khởi (như cây và lá); nhân quả hiện thời sanh khởi (trong khoảng thời gian 20, 30 năm) và nhân quả dị thời sanh khởi (cha mẹ hiền lành để phước cho con).

Khi đã phân tích xong câu nói, chúng ta biết rõ hơn lý nhân quả theo một tiến trình tiệm tốc nhứt định. Có khi gieo nhân tốt, nhưng gặp hoàn cảnh xấu như thời tiết, sâu bọ ... thì không thể nào có được kết quả tốt như ý ta mong muốn được. Trái lại, đôi khi chúng ta gieo nhân rồi phải chờ lâu mới có kết quả.

Như thế, người ta phải biết tu phước chỉ cần làm việc lành và đừng mong đợi kết quả tốt. Lẽ dĩ nhiên kết quả tốt sẽ đến mà không cần đắn đo lúc làm việc thiện.

11.- Hãy Cho Biết Rõ : Người Nào Ăn Mặn, Người Ấy Khát Nước Là Sao ? (^)

Sống ở đời, mỗi hành vi, ngôn ngữ, cử chỉ của ta đều có một tác dụng hết sức lớn lao đối với mọi người chung quanh, nhưng trách nhiệm và chủ nhân của việc làm vẫn là ta chứ không phải do người nào khác.

Ví dụ : Người ăn trộm sẽ bị vào tù,

Kẻ giết người phải bị tội tử hình...

Cho đến những hành độ nhỏ, như ta đánh người sẽ bị người đánh lại ... Như thế, tất cả những hành động của ta làm đều do chính ta nhận lấy cái hậu quả đã gây ra. Dù cha con, anh em, bạn bè cũng không thể thay thế để chịu những lỗi lầm đó được. Câu nói : "Người nào ăn mặn, người ấy khát nước" có một ý nghĩa hết sức rõ ràng như vậy. Vì những gì ta làm có phương hại tới cá nhân hay đoàn thể về thể diện, uy tín thì cũng chính ta phải nhận lấy cái xấu, cái dỡ trước công luận. Trong trường hợp những tù nhân chính trị được các đoàn thể hay tôn giáo làm thành một bản thỉnh nguyện yêu cầu nhà cầm quyền tha tội, thì lại là vấn đề khác. Đó là cộng nghiệp (nghiệp chung) trong biệt nghiệp mà mỗi cá nhân sống trong xã hội phải có sự liên đới, hỗ tương nhau. Nếu luận như thế, thì câu nói trên có tính cách buộc tội cho kẻ đã gây ra tội lỗi hơn là biết linh động uyển chuyển vấn đề.

Có thể lấy thêm một ví dụ nữa cho dễ hiểu : Lúc đói bụng ta cần ăn, lúc khát ta cần uống là những nhu cầu tối thiểu phải có trong cuộc sống hàng ngày. Dĩ nhiên, việc ăn và uống không làm no bụng, đở khát được kẻ khác mà là cho ngay chính ta. Câu nói nhằm ngăn chặn những việc làm tai hại quá đáng đối với người nào thiếu suy nghĩ và hay bừa bãi.

Phải gạn lọc những việc xấu ác ra khỏi tư tưởng và làm những việc lành lợi ích cho nhiều người ta mới tránh được cảnh kẻ ăn mặn, người khát nước.

12.- Quan Âm Thị Kính Nói Qua Ý Nghĩa Và Sự Tích (^)

Đây là một vở tuồng chèo rất phổ thông trong giới bình dân Việt-Nam, và không một ai rõ được tác giả cả. Người ta chỉ biết Thị-Kính là một người con gái nhà trung lưu, vừa có nhan sắc lại có đức hạnh.

Sau khi kết hôn với Thiện-Sĩ, con nhà dòng dõi quý tộc. Vợ chồng Thị-Kính sống bên nhau rất hòa thuận, đầm ấm, bỗng nhiên, một hôm lại xảy ra một việc tình cờ là trong lúc chồng đang ngủ, vợ bận tay ngồi khâu vá, chợt nhìn thấy sợi râu mọc ngược trên cằm chồng, nàng cầm dao định cắt, thì chàng vừa tỉnh giấc. Lúc nửa tỉnh nửa thức, vừa thấy lưỡi dao đang kề cổ, chàng bèn tri hô lên là bị vợ mưu ám sát.

Thị-Kính bị buộc tội giết chồng và bị gia đình nhà chồng đuổi về nhà cha mẹ. Nàng không còn có cách nào bào chửa được nữa. Vì quá oan ức, nàng bỏ nhà đi tu, để tránh cho khỏi lộ tung tích, Thị-Kính cải dạng nam trang tới chùa Vân-Tự xin Sư cụ trụ trì xuất gia đầu Phật với pháp danh là Kính-Tâm.

Lòng trần tưởng đã rửa sạch, do công phu tu tập mỗi ngày chú tiểu càng tỏ ra tinh chuyên hơn. Nào ngờ việc oan lại đến, thật đúng là "người trung mắc nạn". Một cô gái con nhà giàu, có tính trăng hoa, bèn đem lòng mê đắm chú Kính-Tâm, vì tưởng là nam nhi. Hơn nữa nàng đang mang bụng chửa hoang, rồi bèn đỗ lỗi cho là đã thông dâm với Kính-Tâm. Kính-Tâm bị làng bắt tra tấn, hạch tội đủ điều, nhưng quyết một mực không khai. Động mối từ tâm được sư phụ bảo lãnh nên chú tiểu mới được tha tội.

Sau khi Thị-Mầu sanh con lại đem đứa bé tới bỏ trước cửa tam quan chùa. Nghe tiếng khóc, Kính-Tâm nhận vào chùa nuôi dưỡng, mặc dù gặp sự phản đối của sư cụ. Khi đứa bé lên ba tuổi thì Kính-Tâm viên tịch (qua đời). Trước khi nhắm mắt lìa đời, Kính-Tâm có để bức thơ lại cho cha mẹ trong ấy có kể rõ đầu đuôi mọi việc.

Sau khi Kính-Tâm tịch rồi, người ta mới khám phá ra được đâu là sự thật của một người suốt đời bị hàm oan. Nhờ phép Phật nhiệm mầu, người xuất gia âm thầm nhẫn nại chịu đựng cho đến giờ phút cuối cùng của cuộc đời cho tới khi đã rõ nổi oan ức của Kính-Tâm, dân làng bắt Thị-Mầu phải để tang và trả mọi chi phí cho việc mai táng.

Cha mẹ Thị-Kính sau khi nhận được thơ, tức tốc tới tìm, vừa kịp để dự trai đàn, cùng với Thiện-Sĩ và gia đình bên chàng. Mọi người đều trông thấy cảnh Đức Phật hiện ra truyền cho ông bà họ Mảng (tức cha mẹ Kính-Tâm) và đứa trẻ cũng được lên tòa sen, còn Thiện-Sĩ hóa thành chim vẹt bay hầu bên Phật bà.

Nhờ phép Phật thần thông mầu nhiệm, Kính-Tâm vào Niết-Bàn thành Phật Quan-Âm :

"Truyền rằng nào tiểu Kính-Tâm,

Phi thăng làm Phật Quan-Âm nhứt thì".

Do sự tích trên, mỗi khi có người nào mắc oan không thể cải được, người ta nói rằng : oan như oan Thị-Kính là do tích chuyện nầy vậy.

13.- Ăn Mặn Nói Ngay Hơn Ăn Chay Nói Dối Là Thế Nào ? (^)

Việc ăn chay hay ăn mặc là một vấn đề tối quan trọng để người Phật tử lấy đó làm thước đo được lòng từ bi của người đang thực hành Phật giáo.

Ăn chay để nuôi dưỡng lòng từ bi trong ta mỗi ngày cho thêm tăng trưởng. Việc ăn chay có nhiều cách như : Ăn chay trường, ăn chay kỳ hay ăn chay vì một đại nguyện. Ăn chay trường tức là ăn thường trực các loại rau trái không ngừng nghỉ và có thể ăn chay suốt đời. Ăn chay kỳ là ăn chay theo lời phát nguyện định kỳ mỗi năm hoặc 3 hay 6 tháng và hết thời gian đó lại tiếp tục ăn mặc trở lại. Cũng có nhiều người ăn chay kỳ trong mỗi tháng theo những ngày rằm và mồng một gọi là nhị trai (hai ngày ăn chay), 14, 15, 30 và 1 (tứ trai), 1, 8, 14, 15, 21, 30 (lục trai). Ngoài ra, cũng có người từ nhỏ tới lớn chưa từng biết tời việc ăn chay, nhưng phát nguyện, khi thành tựu được một công việc trọng đại nào đó là ăn chay hoặc ăn chay trước khi bắt tay vào làm công việc khó.

Trường hợp các vị vua chúa muốn cầu quốc thái dân an hay mưa thuận gió hòa, trước khi vào đàn tế lễ phải ăn chay nằm đất 3 ngày cho tâm được thanh tịnh (theo tục lệ cổ). Sau 1975 có một số người phát nguyện ăn chay, nếu cha mẹ, anh em được sum họp ở ngoại quốc hay sau chuyến vượt biên thập tử nhất sanh, đã đến được các nước tự do.

Câu nói "ăn mặn nói ngay, hơn ăn chay nói dối" cốt để châm biếm những người nào lòng không ngay thật, thì dù có ăn chay mãn đời mà không thành tâm thì cũng vô ích. Với người ăn chay mà mang tâm địa nham hiểm, độc ác cố làm hại kẻ khác thì thà ăn mặn mà làm được việc phước thiện, có lợi lạc cho mình và người còn hơn ăn chay mà tâm hồn hẹp hòi, rỗng tuếch !

Việc ăn chay có một giá trị không tuyệt đối mà còn tùy thuộc vào quan niệm và trình độ hiểu biết của mỗi người, theo đúng tinh thần của Phật giáo đã bám rễ sâu vào tâm thức như Nhật-Bản đã áp dụng.

14.- Cây Muốn Lặng Mà Gió Chẳng Dừng, Con Muốn Đền Ân Nhưng Song Thân Bất Tại Là Thế Nào ? (^)

Công ơn cha mẹ đối với con cái rộng sâu như trời biển, cho nên ca dao có câu :

Công cha như núi Thái-sơn,

Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.

Con muốn báo đáp công sanh thành dưỡng dục của cha mẹ cũng không thể nào đền đáp nổi. Cha mẹ nuôi con từ khi tấm bé cho đến ngày lớn khôn, rồi mỗi người lại tạo một đời sống riêng và làm chủ một mái gia đình. Người con hiếu luôn luôn phải nghĩ tới cha mẽ lúc trở về già, tóc bạc da nhăn cũng như cây giữa rừng, có thể bị gió lay động và làm ngã đỗ bất cứ lúc nào ; cũng như thế, trong gia đình con cái khi mới lớn lên cứ nghĩ rằng cha mẹ sẽ chung sống đời đời, nhưng không ngờ được cái chết đang rình rập để rước các người đi lúc nào cũng không ai đoán trước được. Khi sự việc xảy đến người con đâm ra thương nhớ, luyến tiếc và tới lúc đó mới nghĩ việc hiếu và muốn báo đền công ơn thì than ôi cha mẹ đã lìa đời !

Thật chua xót, thương tâm đối với những người con thảo, cháu hiền ! Đối với người Phật tử, lúc cha mẹ còn sống chúng ta cố gắng làm sao để đấng sanh thành được vui từ thể chất đến tinh thần. Nhất là người con phải biết cản ngăn những việc trái mà mình biết là điều xấu, ác khi cha mẹ tuổi già lầm lỡ có thể phạm phải. Con không nên chiều theo ý cha mẹ để phạm vào những việc sái quấy mà phải lấy lời chân thật, hành động đùng để khuyên nhắc cha mẹ tránh việc làm xấu. Như vậy, đến lúc cha mẹ có qua đời cũng không có điều gì muối tiếc ăn năn cả.

Kính thờ cha mẹ lúc sống cũng như khi chết cho được tốt đẹp và đầy đủ để chứng tỏ người con giữ tròn đạo hiếu đối với gia đình và tròn bổn phận của người tín đồ đối với lý tưởng của tôn giáo mà mình đang thờ.

15.- Sống Gởi Thác Về Là Gì Và Về Đâu ? (^)

Chúng ta thường quan niệm rằng cuộc đời nầy rất tạm bợ, vì mỗi người chỉ có thể sống lâu được tới trăm tuổi là cùng.

Sống gởi có ý nói từ khi ta sinh ra đời cho tới lúc chết phải sống nương nhờ vào cõi đời tạm bợ nầy. Khi chết còn để lại cho con cháu nắm xương tàn nơi trần thế và chẳng mang theo được gì cả. Nhưng con người, phần quan trọng nhất là tinh thần. Theo Phật giáo, ở đời ta làm ác dĩ nhiên khi chết sẽ khó mà thoát đi đầu thai trở lại cõi thiện được. Câu : "Sống gởi, thác về" có ý khuyên răn chúng ta nên nổ lực làm lành lánh dữ để sau khi chết được sanh về một thế giới an lành hơn. Đó là cõi Cực-Lạc của đức Phật A-Di-Đà hay một cõi trời, đối với người không có đạo, hoặc cảnh tiên dành cho người tu luyện phép trường sanh bất tử ... Đó là những cảnh giới mà với con mắt phàm của chúng ta khó hình dung ra được hay diễn đạt qua ngôn ngữ. Nói như thế, ở đời ta khỏi cần làm việc thiện chi cả và cứ chờ cho đến lúc chết để về một cảnh giới an vui khác có phải khỏe thân xác lẫn tinh thần không ? Câu nói trên hàm hai ý nghĩa bi quan và lạc quan. Nếu chúng ta nghĩ rằng cần một thế giới khác sung sướng hơn và ngồi chờ mãi cho tới ngày để được về nơi đó, thật là điều mơ hồ không bao giờ có được. Còn theo nghĩa tích cực, sống ở đời chúng ta ra sức làm việc lợi ích, đến khi chết còn để lại được những công trình tốt cho người sau, thì cho dù thân xác nầy có mất đi, nhưng ảnh hưởng của việc làm thiện kia vẫn còn nơi trần thế để được đời nhắc tới tên tuổi.

Muốn sau khi chết được sanh về một cảnh giới lành, trong đời hiện tại chúng ta phải làm tròn bổn phận với xã hội và tôn giáo để làm điểm tựa cho tinh thần có chỗ dựa nương sau khi bỏ lại xác thân nơi cõi tạm để hướng về cảnh tự tại an vui.

16.- Gieo Gió Gặt Bảo Hay Gieo Nhân Hưởng Quả Là Thế Nào ? (^)

Định luật nhân quả tất yếu không thể nào sai chạy đi đâu được là trồng cây ắt phải có trái, điều mà xưa nay ai cũng hiểu được như thế.

Gieo gió gặt bảo có nghĩa là nhân và quả đồng thời có cúng một lúc như ta đánh người một tát tay thì sẽ bị đánh lại ngay. Việc dễ hiểu hơn là hai võ sĩ cùng đấu trên võ đài. Hiệp đầu anh A thắng, nhưng vì mặc cảm trước đám đông khán giả, anh B cố tìm cách hạ thủ cho được anh A trong hiệp nhì cũng là điều dễ hiểu. Nhưng còn câu : "Gieo nhân hưởng quả" lại có một nghĩa hơi khác và có phần sâu sắc hơn nhiều. Trong trường hợp ta gieo hạt giống tốt hay trồng cây bụ bẫm, nhưng chưa hẳn được hưởng quả lành ngay, vì mầm cây lớn lên được là nhờ ở thời tiết như mưa thuận gió hòa và nhờ sự gia công tưới nước, làm cỏ, bón phân của người trồng cây thì mới có được trái tốt. Ở đời phần nhiều hễ gieo nhân lành là được quả tốt, như trong vụ làm mùa trồng lúa chẳng hạn. Nhưng về khía cạnh tinh thần, người làm phúc chưa chắc đã được hưởng quả ngay trong đời nầy, vì nó còn phải tùy thuộc vào nhiều yếu tố liên hệ khác. Câu ca dao sau đây nói lên được ý nầy :

Người trồng cây hạnh người chơi,

Ta trồng cây phúc để đời mai sau.

Và đều có ý nghĩa nhân và quả liên tục, kéo dài.

Muốn tránh gây nhân xấu cho người khác, ta phải biết sửa đổi từ trong hành vi, tư tưởng, không làm bất cứ một việc ác nhỏ nào, cũng như không từ chối bất cứ một điều thiện nhỏ nào.

Mỗi người đều nghĩ và làm được như vậy mới mong xây dựng được một xã hột tốt đẹp và xem kẻ khác, đồng trong tình huynh đệ tương thân.

17.- Phật Tại Tâm Là Thế Nào ? (^)

Nơi mỗi người chúng ta đều có sẵn lòng từ bi, nhưng vì bị màn vô minh che lấp chân tánh thiện ấy để dong đuổi theo cảnh vật hào nhoáng bên ngoài. Chính đức Phật Thích-Ca đã nói rằng, chúng ta có thể thành Phật như Ngài.

Ở trong ta có hai thứ ý thức : Tỉnh và động. Ý thức tỉnh tức là tâm thức sáng suốt có thể quyết định mọi việc một cách lẹ làng mà không gặp phải một trở ngại khó khăn nào ; còn ý thức động để chỉ cho thú tính hay các dục vọng thấp hèn đang tiềm tàng ở bên sau tầng ý thức, cốt chờ dịp thuận lợi sẽ nổi lên khuấy phá vùng sáng suốt của tâm từ bi. Ta có thể ví nó như con rắn độc nguy hiểm chờ dịp giao đấu nơi trường ý thức của con người. Nếu biết tu thiện, ta sẽ nhờ đạo quân tinh nhuệ của trí tuệ đẩy lui được đám tàn quân của đạo tặc vào sâu trong vùng bóng tối.

Tâm Phật là những đức tánh tốt tự nhiên có sẵn bên trong con người. Do từ ý nầy, ngài Khuông-Việt Đại-sư (930-1011) trước khi tịch có dặn lại Cảm-Thành Thiền-sư bài thi kệ sau đây :

Mộc trung nguyên hữu hỏa

Nguyên hỏa phục hoàn sanh

Nhược vị mộc vô hỏa

Tỏa toại hà do manh

Nghĩa :

Trong cây vốn có lửa

Có lửa lửa mới sanh

Nếu bảo cây không lửa

Cọ mạnh sao lửa ra ?

Chúng ta không cần phải mất công tìm kiếm Phật ở đâu xa lạ cả, mà chỉ cần quay về với chân tâm của mình để tu tập các pháp lành thì tâm sáng suốt ấy sẽ hiện ra nơi ý thức.

Ý thức tự giác trong suốt như trăng rằm chiếu rọi khắp cả bầu trời tự tại và tâm tư ta vắng lặng như hồ thu soi rọi được cả vũ trụ, vạn vật bao la tức là tâm Phật lộ hiện.

18.- Giải Thích Và Chứng Minh Khẩu Phật Tâm Xà Là Gì ? (^)

Mỗi khi có dịp tiếp xúc với nhiều người ngoài xã hội, chúng ta sẽ gặp đủ mọi thành phần : Chất phác, thật thà, hiền lương, ngay thẳng, gian manh, quỷ quyệt, lừa đảo, mưu mẹo, xảo trá, bất lương ...

Cũng có nghĩa ta chỉ nhìn qua tư cách của họ là đã có cảm tình ngay. Nhưng rất nhiều trường hợp chúng ta phải sống chung đụng với người khác mới biết được phần nào về họ. Câu tục ngữ : Khẩu Phật tâm xà chỉ hạng người bề ngoài có vẽ đạo đức, nhưng trong thâm tâm hiểm độc và luôn luôn gây mối tỵ hiềm, bất hòa với kẻ khác. Với thành phần như thế cho dù ngoài miệng có đường mật trau chuốt bao nhiêu cũng không được người khác tin yêu, và chính tự họ muốn sống tách rời với quần chúng, đã bị xã hội cô lập trong mọi trường hợp. Vì trong nhất thời người khác có thể lầm, nhưng dần dần khi biết được dã tâm của kẻ bất chính mọi người sẽ tìm cánh xa lánh ngay.

Đối với người Phật tử muốn gây được lòng tin kính nơi kẻ khác, trước hết phải thành thật với chính mình, từ ngôn ngữ, cử chỉ, tư cách phải đồng nhất, nghĩa là không nói một đường làm một nẽo hay chơi trò lật lọng tay trên. Ngược lại phải giữ lòng chân thật, ngay thẳng, không có tính cách mầu mè, tỏ vẽ để bịp người khác. Người mang tâm địa độc ác là một đại tai họa cho tập thể đang cần sự tin yêu lẫn nhau để tồn tại.

Chúng ta nên đề cao cảnh giác, những kẻ ưa dùng lời đường mật để lung lạc người khác qua lời nói thánh thiện mà thâm tâm ẩn chứa mầm độc ác nguy hiểm.

19.- Miệng Thì Luôn Niệm Nam Mô, Trong Tâm Lại Chứa Một Bồ Dao Găm Là Thế Nào ? (^)

Tục ngữ và ca dao Việt-Nam có nhiều câu hàm chứa được ý nghĩa trong khía cạnh tinh thần rất sâu sắc, cốt để châm biếm, chế giễu hay có tính cách cảnh tỉnh người đời như hai câu nầy :

"Miệng thì luôn niệm Nam Mô,

Trong tâm lại chứa một bồ dao găm".

Hai câu ca dao lục bát trên bao hàm được hai ý nghĩa : Thiện và ác. Câu 6 chữ ẩn chứa hành vi thiện, vì chữ Nam mô đã gồm được trong 6 nghĩa : Cứu ngã, độ ngã, quy y, quy mạng, đảnh lễ, cung kính (xin cứu giúp xin độ thoát, nương tựa, đem thân mạng hướng về, đảnh lễ và cung kính chư Phật, Bồ-Tát).

Nghĩ và thực hành được như thế chỉ có người tu thiện mới làm trọn được bổn phận như một Phật tử chân chánh. Nhưng qua câu 8 chữ tiếp theo lại hàm chứa một ý nghĩa xấu hoàn toàn và có ý nói rằng người tu hành (xuất gia lẫn tại gia cư sĩ) dù cho ngoài miệng có niệm Phật, tụng kinh đi nữa mà trong lòng lại độc ác, với nhiều mưu lược gian xão, để được lợi lộc riêng tư thì việc làm trước cũng sẽ trở thành vô ích. Chữ "Bồ" được hiểu là một thứ đồ vật đan bằng tre hay mây có thành cao dùng để đựng thóc gạo, nhưng chữ "bồ" xử dụng trong câu nầy không có nghĩa như vậy, vì thuộc về tinh thần nên ta phải hiểu theo một nghĩa bóng, tức là chỉ nơi chứa nhóm bẩn thỉu, xấu xa. Còn chữ "dao găm" đi liền theo sau cũng đủ nói lên trọn vẹn được hành vi bất thiện (hảo) của những kẻ mang tâm hồn vẫn đục như thế. Vì chưa tin người hay do khinh dễ kẻ khác, chúng ta mới có những việc làm bề ngoài trông có vẽ đạo đức, nhưng bên trong có sự lật lọng, tráo trở, như con dao hai lưỡi chờ hại người trước và đâm thẳng vào chính mình sau.

Một việc làm thiện của ta dù nhỏ cũng đã đóng góp vào việc xây dựng cho cộng đồng xã hội tốt đẹp, nhưng chỉ một ý niệm xấu ác thôi cũng là bước cản trở lớn cho việc tiến bộ và gây ra chia rẽ, hận thù.

20.- Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du Có Diễn Tả Về Cái Tâm Qua 2 Câu : Thiện Căn Ở Tại Lòng Ta Chữ Tâm Kia Mới Bằng Ba Chữ Tài Là Nghĩa Gì ? (^)

Phật giáo quan niệm cái TÂM là chủ tể, tâm tạo tác sơn hà, đại địa. TÂM còn là cái bản thể bao hàm cả thế giới TAM TÀI : trời, đất và con người. Do đó, Nguyễn-Du viết :

Thiện căn ở tại lòng ta,

Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài.

Con người muốn làm thánh hiền, thần linh hay ma quỷ cũng do từ cái tâm mà ra. Phật giáo chủ trương tu sửa thân tâm thanh tịnh và phải cố sửa đổi để diệt trừ tam độc là tham, sân, si, nhờ đó kết hợp được giữa con người với tại vật thành "Hồn Thiêng Sông Núi", không có sự phân chia giới hạn vật chất, tinh thần mà chỉ có một dòng sống luân lưu không ngừng trong cái chu kỳ có sự dung hợp, điều lý tuyệt vời.

Tư tưởng dung hợp nầy bắt nguồn từ trong tinh thần Tam Giáo Đồng Nguyên giữa đạo Nho, đạo Lão và đạo Phật đã thành hình từ thời kỳ lập quốc - nhà Đinh - để tạo cho dân tộc Việt có một tinh thần độc lập, tự chủ thật vô cùng phong phú.

Cái Tâm ấy không do ai ban tới cho ta cả mà chính do từ nơi mỗi người đã có sẵn căn tánh thiện, nhưng vì bị màn vô minh che lấp căn tánh thiện ấy, cho nên chúng sanh không thấy được cái chân tánh sáng suốt của mình. Người nào biết tu sửa để gạn lọc những thói xấu, tánh bất thiện, tự nhiên trí giác sáng suốt hiển hiện như trăng soi đáy nước.

Mỗi người tự giữ được sự hòa nhã, lòng từ ái, tánh khiêm cung đối với mọi người đều do nơi tâm thành lộ hiện và như thế là đã thể hiện trọn vẹn được cái tâm tánh thiện nơi ta.

21.- "Y Kinh Diễn Nghĩa Tam Thế Phật Oan, Ly Kinh Nhứt Tự Tức Đồng Ma Thuyết" Là Thế Nào ? (^)

Kinh điển của Phật giáo rộng sâu như biển cả, nước trăm sông đều đỗ dồn về đó để cùng hòa nhịp lại thành một vị : Vị mặn của chất muối. Cũng như thế giáo lý của Phật giáo bao hàm trong ba tạng Kinh, Luật, Luận cũng chỉ hàm chứa một vị : Vị giải thoát mà thôi.

Trải qua trên 2500 năm, từ khi đức Phật Thích-Ca xuất thế, con người phải trải qua nhiều thời đại nhiểu nhương, tao loạn, nhưng cái tinh hoa của đạo Phật vẫn còn được nhìn ngắm như một khu vườn với đủ loại kỳ hoa dị thảo. Điều nầy chứng tỏ rằng nhờ tính chất đa diện của những lời Phật dạy một phần, phần còn lại nhờ tinh thần cởi mở, sự linh động, uyển chuyển trong việc khế hợp giữa chân lý và trình độ tại những nơi mà đạo Phật có mặt của các nhà truyền giáo. Thật vậy, giáo lý đạo Phật không có phần nào chủ trương chấp chặt vào một vấn đề nào cố định cả. Nếu các nhà truyền thừa Phật giáo không khéo trong vấn đề diễn đạt tư tưởng "tùy duyên" của Phật cho con người thời đại hiểu thấu trọn vẹn, lại nhai đi nhai lại chất bả của cây mía, trong khi đó chất ngọt của nước mía lại hời hợt, thì có phải kinh Phật dạy sai hay người chỉ đường không biết áp dụng phương pháp đạo Phật đúng mức ? Còn như người nào tự hào là mình đạt được thánh ý, lúc diễn bày lại không căn cứ vào kinh điển, để dẫn dắt người khác đi vào tà thuyết. Đó chẳng phải lời Phật dạy vậy. Câu "tùy duyên nhi bất biến" trong Phật giáo là một chìa khóa có thể mở được tất cả kho tàng châu báu của giáo lý Phật-đà. Tùy duyên nhi bất biết có nghĩa là thuận theo hoàn cảnh để tồn tại, nhưng không thể để cho hoàn cảnh chi phối, sai sử hay lèo lái được người trong cuộc đi lạc đường hướng để làm lạc tôn chỉ của đạo Phật.

Chỉ khi nào người Phật tử biết nhìn đạo Phật dưới con mắt bao dung, tức là hàm chứa tâm đại từ bi mới quán triệt được lý mầu nhiệm trong biển giáo pháp của Phật một cách trọn vẹn. Muốn có được tâm địa phóng khoáng như vậy cần đòi hỏi chúng ta phải gia công thực hành và nghiên cứu giáo điển thật tích cực và lâu dài. Những gương tu chứng còn để lại trong sử sách mà các bậc thầy tổ đã dày công giáo huấn cho nhiều thế hệ là những bài học sống động và hùng hồn nhất cho chúng ta trong thời đại hôm nay. Do tính chất đặc biệt đó mà có một vài dân tộc như Nhật-Bản biết quý trọng các tổ sư hơn. Họ nghĩ rằng nhờ các Ngài mà dân tộc họ thấm nhuần được ân đức của chư Phật trong quá khứ. Chúng ta không lấy làm lạ, khi hầu hết các chùa Nhật đều thấy bàn thờ tổ khai sáng ra tông phái, cũng như ngày kỵ giỗ của tổ linh đình hơn là ngày Phật-Đản, ngày Phật Thành-Đạo.

Người thừa hành sứ mạng thay Phật truyền bá chánh pháp phải luôn luôn để ý giữ gìn oai nghi, tế hạnh để làm gương mẫu cho hàng Phật tử.

22.- Nhứt Nhơn Tác Phước Thiên Nhơn Hưởng, Độc Thọ Hoa Khai Vạn Thọ Hương Là Nghĩa Gì ? (^)

Việc làm phước và gieo nhân lành trong đời nầy là tâm niệm của những người có một đời sống nội tâm phong phú và họ chính là tấm gương sáng xứng đáng để chúng ta học hỏi. Ảnh hưởng dây chuyền và sự liên đới của mọi người sống trong xã hội rất quan trọng, cho nên qua ca dao Việt-Nam chúng ta nhận thấy câu :

Nhứt nhơn tác phước thiên nhơn hưởng,

Độc thọ hoa khai vạn thọ hương.

Nghĩa là một người làm phước thì muôn người được hưởng, cũng như một cây trổ hoa thì cả vườn cây đều ngào ngạt mùi hương. Tại sao một người làm phước mà nhiều người được hưởng ? Mọi người được hưởng ở đây có hai ý nghĩa : Chúng ta sống có sự tương quan mật thiết với nhau trong cùng một hoàn cảnh, hành động trong việc làm tốt của ta có ảnh hưởng sâu rộng đến nhiều người chung quanh là điều không ai chối cải được, cũng như trong sân vườn có một cây hoa đang trỗ, một mùi thơm từ cây ấy tỏa ra xông khắp cả khu vườn.

Trong cùng ý nghĩa ấy còn có câu : "Nhứt nhơn hành đạo cữu huyền thăng" (một người tu hành gương mẫu đứng đắn sẽ cứu độ được 9 đời người quá cố được siêu thăng). Như trường hợp đức Phật Thích-Ca, sau khi tu hành chứng quả, Ngài độ được cả phụ vương, vợ con và bà con đều tu hành giải thoát khỏi cảnh đọa lạc.

Hành vi đạo đức tốt của chúng ta rất có ảnh hưởng sâu rộng đến mọi người, nhất là bà con thân thuộc của ta, cho nên người Phật tử nên cố gắng tạo phước và gây nhân lành.

23.- Pháp Thân Phật Là Sao ? (^)

Pháp thân là chân thân Phật ứng hóa hiện thành để thuyết pháp độ sanh. Phật có thể hóa ra nhiều pháp thân khác nhau. Các loại pháp thân như :

- Tự tánh pháp thân tức là muốn hóa hiện thân hình thế nào. Tùy đó mà hiện thành được tự tại không gì ngăn ngại.

- Thọ dụng pháp thân : Dung hợp giữa lý trí để hoàn thành.

- Biến hóa tức là thay hình đổi dạng tùy nghi ứng biến.

- Đẳng lưu pháp thân : Ra vào tự tại được trong 9 cõi mà không bị chướng ngại gọi là đẳng lưu.

Ngoài cách phân chia pháp thân 4 loại như trên, theo như kinh Anh-Lạc có 5 loại pháp thân là :

- Như như trí pháp thân : Pháp thân trí như thật.

- Công đức pháp thân : Do tu tập các công đức lành mà thành tựu.

- Tự pháp thân : Tự do, tự tại theo ý muốn.

- Biến hóa pháp thân : Thay đổi tùy nghi, tùy thời.

- Hư không pháp thân : Pháp thân biến khắp trong hư không.

Pháp thân có nhiều hình tướng, thứ loại, nhưng không ngoài pháp tánh chân thật mà chư Phật hóa hiện ra đời để cứu độ chúng sanh. Kinh Pháp-Hoa, phẩm Phổ-Môn cũng có diễn tả cách hóa thân trong pháp thân của Bồ-Tát Quán-Thế-Âm như sau : Nếu có chúng sanh trong quốc độ nào đáng dùng thân Phật để được độ thoát, cho đến thân Duyên-giác, Thanh-văn, Phạm-vương, Đế-thích, Thân Tự-Tại hay Đại-Tự-Tại Thiên, thân Thiên-Tướng-Quân, Tỳ-Sa-Môn, Tiểu-Vương, Trưởng-Giả, Cư-Sĩ, Tể-Quan, Bà-La-Môn, Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, thân Phụ nữ, Đồng-nam, Đồng-nữ, thân Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lầu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-dà, Nhân và Phi nhân ... thì đức Quán-Thế-Âm liền hiện ra thân đó ngay để thuyết pháp hóa độ chúng sanh. Pháp thân Phật là chân lý bất nhị, là sức biến hóa vô cùng trong phép thần thông tự tại mà chỉ có Phật hay Bồ-Tát vì đại nguyện mới thành tựu được.

Pháp thân Phật ở trong 6 phép thần thông (xem bài riêng) của chư Phật, Bồ-Tát đem dánh sáng giác ngộ, giải thoát lợi sanh để độ muôn loài giải thoát và tiến tới chân lý như Phật.

24.- Chùa Một Cột Sự Tích Và Lịch Sử Thành Lập (^)

Chùa Một-Cột còn có tên là chùa Diên-Hựu, xây năm 1049 vào đời Lý-Thái-Tông. Bên trong chùa thờ đức Phật Quan-Âm.

Chùa được dựng trên một cột trụ đá giữa hồ sen đồng thời ngôi chùa cũng hình hoa sen, là một công trình kiến trúc cổ rất tinh vi. Nghệ thuật kiến trúc đời Lý qua việc xây cất ngôi chùa lịch sử nầy đã đạt được tới chỗ tuyệt mỹ. Trước sân chùa còn có ngôi bảo tháp bằng ngọc thạch cao chót vót lên không độ 16m. Có đường cầu bắc ngang qua từ tháp vào chùa rất tiện lợi cho du khách thăm viếng. Ngoài ra, chùa còn nổi tiếng về quả chuông Qui-Điền, qua câu chuyện thần kỳ được truyền lại, chuông nặng 12,000 cân, đúc vào đời Lý năm 1108, vì chuông nặng quá nên được dự trù phải treo trên một cái giá bằng đá xanh, cao 3m, nhưng khi đúc xong, giá ấy không chịu đựng nổi sức nặng của chông. Vì thế chuông phải để dưới đất thành khi thỉnh không có tiếng kêu. Do đó, dân chúng chung nhau lại di chuyển chuông đi chỗ khác. Cứ di động mãi, chuông lăn nhào ra ngoài ruộng phía trước chùa. Cuối cùng, rùa chun vào ở bên trong quả chuông, từ đó chuông giác thế (chuông thức tỉnh người đời) được đổi thành chuông Qui-Điền (chuông ruộng rùa). Quả chuông lịch sử nầy bị quân nhà minh phá vào năm 1427 để lấy đồng dùng vào việc đúc súng, nhưng cũng đã bị thất bại nặng nề.

Chùa Một-Cột trải qua gần 1000 năm lịch sử, đã nhiều lần được trùng tu trở lại để giữ được vẽ uy nghiêm của ngôi cổ tự quốc bảo nầy.

Hiện tại, ngôi chùa Một-Cột vẫn còn trơ lại với tuế nguyệt, nhưng khách tham quan hầu như thưa vắng, trừ một số ít du khách người ngoại quốc được phép tới thăm có tính cách phô trương cái võ tôn giáo của chế độ.

Sách tham khảo :

- Sổ tay văn hóa Việt-Nam.

- Năm mươi năm chấn hưng Phật giáo.

25.- Lịch Sử Bút Tích Chùa Hương (^)

Theo truyền thuyết thì Phật Bà Quan-Âm tức Ni-cô Diệu-Thiện hay Chúa-Ba, con vua Diệu-Trang-Vương tu hành chứng quả ở chùa Hương-Tích vào khoảng thế kỷ thứ 15, như vậy lịch sử thành lập chùa hẳn đã có từ lâu đời.

Chùa Hương-Tích hay còn gọi là chùa Hương thuộc tình Hà-Tỉnh, quận Mỹ-Đức, xã Hương-Sơn, thôn Yên-Vĩ, là ngôi danh lam đứng vào bậc nhất ở miền Bắc, Việt-Nam. Chùa vốn có tiếng nhờ cảnh trí nơi các hang động đẹp như núi Tuyết-Sơn, núi Hình Bông, núi Hương-Tích với động Hương-Tích nổi tiếng đẹp nhất Việt-Nam từ xưa. Động Hương-Tích được xem như vẽ đẹp thần tiên, tự nhiên qua những công trình thiên nhiên hùng vĩ như nhủ đá hình kỳ diệu, đã tượng hình chuồng thú không do ai tạc mà thành với đủ vẽ mỹ quan, thần kỳ. Do vẽ đẹp tuyệt vời nầy mà Trịnh-Sâm (1767 - 1782) có đề ngoài cửa động là "Nam Thiên đệ nhất động" (động đẹp nhất nước Nam)

Trong động có thờ tượng đức Phật Bà Quan-Âm bằng đá xanh đúc vào đời vua Cảnh-Thịnh (1793). Pho tượng vốn bằng đồng đúc vào đời Lê-Cảnh-Hưng thức 28, tức năm 1767, nhưng đã bị quân Tây-Sơn xua quân ra đánh chúa Trịnh, phá hủy pho tượng lấy đồng (1786) dùng vào việc đúc súng đạn. Ngoài ra, chùa còn có quả chuông lớn, là những công trình kiến trúc đời Tây-Sơn mà hai di tích lịch sử nầy còn sót lại tới ngày nay.

Nhà thơ Chu-Mạnh-Trinh (1862 - 1905) đã tả cảnh chùa Hương-Tích như sau :

Bầu trời cảnh Bụt,

Thú hương sơn ao ước bấy lâu nay,

Kìa non non, nước nước, mây mây,

Đệ nhất động hỏi rằng đây có phải ?

Thỏ thẻ rừng mai chim cúng trái,

Lững lờ dưới suối cá nghe kinh,

Lẳng bên tai một tiếng chày kình,

Khách tang hải giật mình trong giấc mộng.

Nầy suối giải oan, nầy chùa Cửu-Võng,

Nầy am Phật-Tích, nầy động Tuyết-Quynh.

Nhác trông lên ai khéo vẽ hình,

Đá ngũ sắc long lanh như gấm dệt.

Thăm thẳm một hang lồng bóng nguyệt,

Gập ghềnh mấy lối uốn thang mây.

Chừng giang sơn còn đợi ai đây,

Hay tạo hóa khéo ra tay xếp đặt.

Lần tràng hạt niệm Nam mô Phật

Cửa Từ-Bi công đức biết bao !

Càng trông phong cảnh càng cao ...

26.- Chùa Dâu Đôi Nét Lịch Sử Và Sự Ứng Nghiệm (^)

Chùa Dâu hay còn gọi là chùa Diên-Ứng, ở làng Khương-Tự, quận Thuận-Thành, tỉnh Hà-Tĩnh (Hà-Bắc bây giờ).

Trong chùa thờ Phật Bà Đại-Thánh Pháp-Vân, tục truyền rằng có vị cao tăng Ấn-Độ tên là Khâu-Đà-La, sang nước ta truyền đạo và trụ trì ở chùa Phúc-Nghiêm, cạnh thần Liên-Lâu vào thời Sĩ-Vương. Một hôm vì vô ý vị tăng bước qua mình người con gái tên là Man-Nương. Sau đó nàng thụ thai. Khi sanh con xong cô đem con tới trả cho vị cao tăng ấy và vào chùa tu. Nhà sư, vì không muốn cho tăm tiếng lộ ra ngoài, bèn đem đứa bé đấu trong một hốc cây, nhưng chẳng may gặp bảo nổi lên, cây ấy trốc gốc lại trôi dọc theo sông đến chùa Man-Nương ở tu và quanh quẩn mãi ở đấy, cô thấy lạ bèn dìu cây vào và bóc đứa bé ra thì nó đã chết khô từ bao giờ. Ni-cô đem đứa bé vào chùa dấu bên trong tượng Phật. Tượng Phật lại tỏa ra ánh hào quang. Từ đó, mỗi ngày mọi người đến chùa cầu khẩn một đông. Man-Nương được tôn hiệu là Phật-Mẫu hay còn gọi là Phật-Bà Đại-Thánh Pháp-Vân, còn cây gỗ kia được cưa ra làm 4 khúc để tạc bốn pho tượng : Pháp-Vân, Pháp-Vũ, Pháp-Lôi, Pháp-Điện thờ ở bốn ngôi chùa. Chùa nầy hiện còn thờ pho tượng Pháp-Vân cao 2m, bên dưới bệ có 4 vòng sắt để luồn đòn bẩy vào khiêng, mỗi khi có lễ rước hằng năm.

Ngoài ra, còn có tượng Kim-Đồng Ngọc-Nữ, theo lối điêu khắc chạm trỗ xưa rất mỹ thuật.

Thiết nghĩ, những chuyện tích linh ứng diệu kỳ của lịch sử dân tộc, nhất là trong tín ngưỡng Phật giáo hẳn phải có nguyên nhân, tìm ra được điểm phát xuất tức là khám phá được màn bí mật trong thuyết luân hồi nghiệp báo của Phật giáo một cách đúng mức, khoa học.

Tham khảo : sổ tay văn hóa Việt-Nam, nhà xuất bản Văn-Hóa Saigon, 1978

27.- Sự Tích Chùa Keo, Tỉnh Thái Bình (^)

Chùa Keo tọa lạc tại Dũng-Nghĩa, quận Vũ-Thư, tỉnh Thái-Bình (Bắc-Việt). Chùa vốn có tên là Thần-Quang Tự, lập nên từ đời nhà Lý. Theo truyền thuyết, chùa có sự thần bí mà câu chuyện đã được nhiều người biết đến.

Bên trong chùa có thờ tượng Thiền-sư Không-Lộ đã bị dời chỗ nhiều lần. Cuối cùng, đến đời Hậu Lê vào thế kỷ thứ 17 mới được yên trụ ; cho đến ngày nay cũng còn có một sự thay đổi lớn nữa. Điểm đặc biệt về pho tượng chân dung ngài Không-Lộ bằng gỗ trầm hương, để nguyên chất cây không sơn phết chi cả và quanh năm mùi trầm vẫn bốc lên thơm ngào ngạt. Theo tục truyền thì pho tượng không phải do ai tạc nên cả, mà khi Thiền-sư Không-Lộ tịch, hóa thành thánh tượng. Do sự linh ứng kỳ lạ ấy, cho nên ngôi chùa mang tên Thần-Quang là vì vậy. Hiện nay, dưới chế độ Cộng-sản, chủ trương thuyết tam vô (1), đã cấm đoán không cho dân chúng đến chùa, pho tượng cũng bị giam vào trong cung cấm, hàng ngày cửa khóa chặt lại, không ai có thể vào được cả. Theo lời các vị sư (2) cho hay thì "mặt mũi, chân tay Ngài khác thường lắm".

Đây là điềm lành hay dữ ? Với cái tên ngôi cổ tự nầy đã chứng tỏ có nhiều điều thần bí, thì nay dưới chế độ độc tài phi nhân Cộng-sản, chúng ta mong Ngài vì lòng từ bi có thể hiện phép lành cho người đời tin tưởng !

Ngoài ra, chùa Thần-Quang còn có lầu chuông ba tầng là một công trình kiến trúc theo lối cổ điển rất công phu và có giá trị lịch sử lâu đời.

Niềm mong ước của chúng ta là đất nước sớm được thanh bình và hết tay cánh bạo tàn để có dịp ta viếng qua ngôi chùa lịch sử nầy và chiêm bái pho tượng linh thiêng của ngài Không-Lộ.

(1) Thuyết tam vô của Cộng-sản là : Vô gia đình, vô tổ quốc, và vô tôn giáo. Do đó, người duy vật chủ trương cho rằng tôn giáo là thuốc phiện ru ngủ quần chúng và làm mê hoặc nhân dân.

(2) Các vị sư nầy sống dưới chế độ phi nhân của Cộng-sản mà còn tin ở sự linh thiêng của pho tượng đến như thế !

Tài liệu tham khảo : Sổ tay Văn-Hóa Việt-Nam của Trương-Chính và Đặng-Đức-Siêu, nhà xuất bản Văn-Hóa Saigon năm 1978.

28.- Chùa Bút Tháp, Sự Tích, Thành Lập Vào Năm Nào ? (^)

Chùa Bút-Tháp còn gọi là chùa Ninh-Phúc, ở xã Bút-Tháp, quân Thuận-Thành, tỉnh Hà-Tĩnh (Hà-Bắc) gần hữu ngạn sông Đuống.

Chùa thành lập đã lâu, nhưng không ai biết rõ năm nào, mãi cho tới thế kỷ 17 bà Hoàng-hậu Trịnh-Thị-Ngọc pháp danh Diệu-Viên, vợ vua Lê-Thần-Tông cho tu tạo trở lại. Khi Lê-Thần-Tông mất (1662) bà đang mang thai bốn tháng, sau sinh ra Lê-Gia-Tông, được Trịnh-Tạc đem về phủ chúa để nuôi, còn bà Ngọc ở lại tu nơi chùa nầy. Chùa nổi tiếng vì pho tượng Phật-Bà Quan-Âm nghìn mắt nghìn tay bằng gỗ, sơn son thiếp vàng chiều cao 3m, có ghi tên người tạc là : Trương-Văn-Thọ, tước nam, phụng khắc năm Bính Thân (1656). Tượng có 11 mặt. Mặt chính lớn như mặt người thường, còn hai mặt hai bên và 8 mặt phụ gồm 1000 tay. Trong số đó có 42 tay tháo gỡ ra được. Với hai tay chấp trước ngực, còn những tay nhỏ xòe ra, xếp thành hình lá sen. 1000 con mắt, nơi mỗi bàn tay một con mắt. Tượng ngồi trên tòa sen, bên dưới là đầu rồng và tứ quy (bốn con rùa). Do lấy theo sự tích : Phật-Bà là Nam-Hải Quan-Âm, con vua Diệu-Trang sùng tín đạo Phật. Bà cưỡng lời vua cha đi tu nên bị xử hình, hồn xuống âm phủ. Tại đó bà trì chú, tụng kinh và giải cứu được cho nhiều người đang bị mắc đọa trong chốn địa ngục. Sau đó, bà hiện hồn về chữa bịnh cho vua cha bằng cách lấy tay và mắt của mình để làm thuốc trị lành bịnh nan y cho cha. Khi thành đạo bà biến hóa ra 1000 tay, 1000 mắt. Trước chùa còn có tháp sen, xây thành 9 lớp (9 phẩm hoa sen), tám mặt đều sơn son nằm trên một cái trụ quay. Ngoài ra, chùa còn thờ tượng Tây Thiên Đông Độ Việt Nam Lịch Đại Tổ Sư, tức là tổ Bồ-Đề Đạt-Ma.

Chùa cũng có thờ tượng Hoàng-hậu Diệu-Viên, với gương mặt giữ vẽ tự cao của một người tu hành nhưng không quên mình là dòng quý tộc.

Sách tham khảo : Sổ tay Văn-Hóa Việt-Nam.

29.- Chùa Tây Phương Lai Lịch Và Đặc Điểm Như Thế Nào ? (^)

Chùa Tây-Phương còn có tên là chùa Sùng-Phúc tọa lạc trên núi Câu-Lậu thuộc xã Thạch-Xá, quận Thạch-Thất, tỉnh Hà-Nam (Hà-Sơn-Bình ngày nay).

Ngọn núi hình cong như lưỡi câu. Từ dưới chân núi lên chùa có 360 bậc đá ong được lát theo lối xen kẻ nhau. Chùa có từ thế kỷ thứ 3 và trải qua nhiều lần được tu bổ lại. Đến thời kỳ Tây-Sơn (1798) chùa được nới rộng lớn hơn và tên chùa Tây-Phương có bắt đầu từ đó.

Chùa Tây-Phương nổi tiếng nhờ có 76 pho tượng lớn nhỏ đủ cở gồm cả Phật, Bồ-Tát, La-Hán, Hộ-Pháp, Long-Thần ...

Các pho tượng đều bằng gỗ mít sơn son thiếp vàng. Tám tượng Kim-Cang, 16 tượng La-Hán, một tượng ông Thiện, một tượng ông Ác. Tất cả đều theo lối điêu khắc cổ rất tinh vi. Đặc biệt tượng La-Hầu-La (Rhahula) con của Thái-tử Tất-Đạt-Đa (Shidarta), tay cầm gậy, tay để trên đầu gối và tượng ngài Tuyết-Sơn Phật má hóp, mắt sâu còn da bọc lấy xương, bộ ngực để lộ rõ 12 đốt xương sườn đang trầm tư mặc tưởng ...

Nhìn lại nghệ thuật cổ truyền của dân tộc ta, đây là một công trình điêu khắc rất công phu mà ngày trước tổ tiên, cha ông chúng ta đã đạt được đến độ tinh vi nầy ! Vào năm 1976, chính quyền Cộng-sản Hà-Nội cho làm những bộ tem hình tượng Phật chùa Tây-Phương. Trong số đó có những tem hình La-Hầu-La, hình đức Phật Thích-Ca tu khổ hạnh trong núi tuyết thân thể đến héo gầy còn da bọc xương !

Ngày nay dưới chế độ độc tài Cộng-sản, những công trình điêu khắc cổ của ta hiện vẫn còn ở miền Bắc, nhưng người dân trong nước khó mà có dịp lui tới những nơi danh lam thắng cảnh như thế nầy để học hỏi và tìm hiểu nghệ thuật cổ truyền. Còn riêng đối với du khách người ngoại quốc, hẳn chánh quyền còn để một lối hỡ cho nhìn thấy cái lớp son tôn giáo của chế độ với thế giới bên ngoài !

Đất nước ta đẹp phong phú về nghệ thuật điêu khắc nhân gian, nhưng rất tiếc mọi người không được chứng kiến tận mắt, nhìn tại chỗ những công trình cổ điển của quê hương ta đó, vì màn mây đen còn che phủ cả bầu trời Việt thân yêu !

Tham khảo : Sổ tay văn hóa Việt-Nam.

30.- Lịch Sữ Chùa Láng Hay Chùa Chiêu Thiền Và Sự Tích Ra Sao ? (^)

Chùa Láng còn tên là Chiêu-Thiền tự tọa lạc ở quận Từ-Liêm thuộc ngoại ô thành phố Hà-Nội, nằm trên đường Láng.

Chùa lập nên từ đời nhà Lý (1010 - 1225) và bên trong chùa có thờ Thiền-sư Từ-Đạo-Hạnh. Chùa được dựng ngay trên nền nhà cũ của ông thân sinh Từ-Đạo-Hạnh là Từ-Vinh. Sự tích kể rằng ông Từ-Vinh làm chức Tăng-Quân đô án, đã dùng tà thuật làm phật lòng Diên-Thành-Hầu và bị Diên-Thành-Hầu mượn tay vị Pháp-sư Đại-Điên dùng pháp thuật đánh chết và ném thây xuống sông Tô-Lịch. Tử thi Từ-Vinh trôi đến cầu Quyết, trước nhà Diên-Thành-Hàu thì dựng đứng dậy như người sống không trôi nữa. Tay chỉ vào nhà Hầu suốt ngày. Hầu sợ quá bèn tìm Đại-Điên giải cứu. Đại-Điên đọc chú đến câu : "Người xuất gia có giận ai cũng không quá một đêm ngày". Tử thi bèn trôi đi ...

Sau vì muốn báo thù cha, Từ-Đạo-Hạnh cùng với Nguyễn-Minh-Không và Giác-Hải sang Ấn-Độ học pháp thuật, nhưng đi mới đến được tới xứ Miến-Điện thì đường sá quá hiểm trở nên đành trở về và ẩn tu torng núi Từ-Sơn. Hàng ngày chuyên trì tụng chú Đại-Bi Tâm Đà-La-Ni. Khi tụng đủ được 108,000 lần thì thấy một thần nhân xuất hiện đến trước mặt nói : "Đệ tử là tứ trấn Thiên-Vương cảm công đức Ngài trì chú cho nên đến hầu Ngài để Ngài sai bảo". Từ-Đạo-Hạnh biết pháp thuật mình đã viên thành và thù cha có thể trả được, liền dùng gậy tìm đến đánh chết được Đại-Điên. Sau khi chết, Từ-Đạo-Hạnh đầu thai làm con trai Sùng-Hiền-Hầu, em Lý-Nhân-Tông. Được Lý-Nhân-Tông đem vào cung lập làm Thái-tử là Dương-Hoán tức Lý-Thần-Tông (1128 - 1138) sau nầy. Tục truyền ông còn đầu thai một lần nữa và cũng làm vua vào đời nhà Lê, là Lê-Thần-Tông (1619-1643). Do sự tích nầy, trong chánh điện của chùa Thần-Quang có thờ ba pho tượng của Từ-Đạo-Hạnh. Khi đạo sĩ, lúc hóa Phật và khi làm vua (vi tăng, vi Phật, vi Quốc-vương, sinh hóa tam thân lưu di tích), sinh hóa ba thân với nhiều phép lạ. Tượng Lý-Thần-Tông làm bằng mây sợi đan bện thành, trong khi đó, tượng Từ-Đạo-Hạnh bằng gỗ ngồi trên tòa sen. Chùa Láng và chùa Keo (tức chùa Thầy) có liên hệ mật thiết, vì Từ-Đạo-Hạnh tu ở chùa Thầy.

Vào ngày mồng 7 tháng 3 mỗi năm có hội chùa Láng, đã được dân chúng tổ chức thật trọng thể :

Nhớ ngày mồng bảy tháng ba,

Trở vào hội Láng trở ra hội Thầy.

Sách tham khảo : Việt-Nam Phật-Giáo Sử Luận, sổ tay văn hóa Việt-Nam.

31.- Chùa Tam Thai Non Nước Người Khai Sơn Và Thành Lập Năm Nào ? (^)

Chùa Tam-Thai (Non-Nước) thuộc núi Ngũ-Hành-Sơn do Quốc-sư Hưng-Liên, pháp danh Quả-Hoằng, người Trung-Quốc, khai sáng vào đời chúa Nguyễn-Phúc-Chu (1695).

Ngài là đệ tử của Thạch-Liêm Hòa-Thượng (1633 - 1704) được chúa Nguyễn-Phúc-Chu mời sang Đại-Việt vào cuối thế kỷ thứ 17 tức là năm 1695 và là người khai sơn chùa Tam-Thai ở tỉnh Quảng-Nam. Chùa tọa lạc trên đỉnh núi thấp, có năm ngọn là Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ tượng trưng cho ngũ hành hay còn gọi là Ngũ-Chỉ-Sơn (núi bàn tay năm ngón), cách Đà-Nẵng 9km ở về hướng Đông Nam. Chùa nằm về phía Tây núi Ngũ-Hành, thuộc làng Hà-Thân, xã Diên-Phước. Núi Non-Nước có ba ngôi chùa là chùa Tam-Thai, nằm trên ngọn Kim-Mộc, chùa Linh-Ứng trên ngọn Thủy và chùa Quan-Âm trên ngọn Thổ-Sơn. Hòn quả sơn đứng rời xa cách các ngọn núi kia độ vài trăm thước có những hang động mới được khám phá ra từ năm 1960, cũng như dưới chân núi có nhiều đá quí dùng để khắc tượng Phật rất nổi tiếng và nhiều đồ dùng khác rất thông dụng như bình hoa, vòng đeo tay, cối nghiền tiêu ... Các đời trụ trì kế tục duy trì quốc tự Tam-Thai như : Ngài Huệ-Quang, ngài Hoằng-Ân, ngài Mật-Hạnh, ngài Chí-Thành. Đến đời vua Thành-Thái sắc phong các vị Tăng-Cang : Từ-Trí, Từ-Nhẫn, Phước-Điền, Phước-Trí, Thiện-Trung, Thiện-Quả. Kế đến các vị trụ trì : Phước-Thông, Tôn-Bảo, Huệ-Tràng và hiện nay ngài Chí-Giác.

Chùa Tam-Thai bị phá hủy bởi chiến tranh vào cuối thế kỷ thứ 18 và đã được tu sữa vào năm 1825, đời Minh-Mạng. Chùa Tam-Thai có các động Huyền-Không, bên trong động có hai thạch nhũ (vú đá có nước chảy), nước dùng để uống rất tốt, đã bị nghẽn hết một bên và chỉ còn một bên chảy nước. Tục truyền rằng khi vua Minh-Mạng (1820-1840) vào viếng động đã sờ vào một thạch nhũ, rồi từ đó nước bị tắt nghẽn luôn, ngoài ra, còn có các hang động như Hoa-Nghiêm, động Vân-Thông, đường Lên-Trời, vọng Giang-Đài (nơi ngắm các khúc sông từ xa trên đỉnh núi) là những nơi rất nổi tiếng cho du khách đến tham quan. Chùa Tam-Thai đã được sửa lại nhiều lần, ngày nay vẫn giữ lại được sắc thái cổ kính của một ngôi danh lam thuộc di tích lịch sử Việt-Nam, và chùa được trùng tu lại năm 1995.

Từ năm 1975, du khách ít có dịp viếng chùa như trước đây, vì con người dưới chế độ xã hội chủ nghĩa phải lo làm việc nên không còn thì giờ cũng như tiền bạc để đi chiêm bái ? Ngày nay khách thập phương tới hành hương cảnh Non-Nước ngày càng đông.

32.- Chùa Linh Ứng Non Nước : Duyên Cách Và Thành Lập (^)

Chùa Linh-Ứng cũng như chùa Tam-Thai đều tọa lạc trên ngọn núi Ngũ-Hành-Sơn, thuộc tỉnh Quảng-Nam, cách thành phố Đà-Nẳng độ 9km về phía Đông Nam.

Chùa không rõ do ai thành lập vào năm nào, nhưng có lẽ được xây dựng sau chùa Tam-Thai, tức là vào đời nhà Nguyễn vào thế kỷ thứ 17 do Hòa-Thượng Quang-Chánh, hiệu Bảo-Đài khai sơn. Chùa Linh-Ứng ở về phía Đông núi Non-Nước, xoay hướng mặt ra biển, nằm trên ngọn thủy sơn với hai con đường : Đường ăn thông qua chùa Tam-Thai băng qua ngọn núi và đường xuống núi, đồng thời cũng là lối ra biển. Con đường dốc gồm có 108 cấp đá xây thoai thoải ... chung quanh chùa còn có các hang động nổi tiếng như động Tàng-Chơn, chính giữa an trí hình đức Phật Thích-Ca ngồi thiền định, đục vào trong núi đá, ở trên cao cách mặt đất chừng 3, 4m. Phía bên trong còn có hang Dơi (nơi tàng quân của loài dơi chuột ở, có cả hàng trăm ngàn con nhởn nhơ bay lượng suốt ngày trong rất đẹp mắt). Ngoài ra, còn có động Ngũ-Cốc với năm thứ hạt hoa mầu như : Lúa, bắp, đậu, mè, kê tự nhiên hiện rõ trên vách đá như một kho tàng thực lượng mà tạo vật đã dành cho con người, không do ai tu tạo chi cả. Con đường xuống âm phủ âm u, mờ mịt, trong dễ sợ. Phía Tây chùa còn có vọng Hải-Đài (nơi để nhìn ngắm ra biển).

Việc kế thừa ngôi Quốc-Tự Linh-Ứng có các vị trụ trì : Hòa-Thượng Quang-Chánh hiệu Bảo-Đài, Hòa-Thượng Chơn-Như, Mật-Hạnh, Hòa-Thượng Ấn-Lang tự Tổ-Huệ, hiệu Từ-Trí, ngài Hải-Nghiêm, hiệu Phước-Nghi, ngài Đạo-Cát hiệu Hưng-Long, ngài Như-Thông hiệu Tôn-Nguyên, Hòa-Thượng Tôn-Thắng, Thượng-Tọa Thích-Hương-Sơn hiệu Trí-Hữu trụ trì từ năm 1960 đến 1976. Thầy Thiện-Nguyện trụ trì từ năm 1977 đến nay.

Vào năm 1939, bà Bản-Nhãn nữ sĩ vợ ông Tú-Quỳ viếng chùa có làm bài thơ vịnh cảnh chùa Non-Nước như sau :

Cảnh trí nào hơn cảnh trí nầy,

Bồng Lai thời cũng hẳn là đây.

Núi chen sắc đá pha mầu gấm,

Chùa nức hơi hương khói lẫn mây.

Ngư phủ gác cần ngơ mặt nước.

Tiều phu chống búa tựa lưng mây.

Nước non một cõi xa trần tục

Cảnh trí nào hơn cảnh trí nầy.

Năm 1966, trên ngọn núi Ngũ-Hành, quân đội Mỹ dùng làm địa bàn hoạt động tại vùng núi và vùng biển. Ngôi chùa Linh-Ứng cũng đã bị dội bom tiêu điều, pho tượng Phật thờ trong chánh điện cũng bị thương tích, cột kèo, tường gạch đều xiêu vẹo, đỗ nát ...

Đứng trước cảnh tang thương nầy, tác giả có làm bài "Non-Nước Chùa Xưa" qua mấy câu sau :

Lòng bàng hoàng nhìn qua cảnh tiêu sơ,

Chùa tiêu điều hàng cột cháy còn trơ

Ngói gạch đỗ ngổn ngang chùa xiêu sụp,

Tượng Phật lỗ dấu bom hờ mụt nát...

Trong thời buổi chiến tranh, nhiều ngôi chùa ở miền Trung đều cùng trong cảnh ngộ. Linh-Ứng tự đã được trùng tu năm 1972 - 1973, nay rất khang trang thanh tịnh.

33.- Sự Tích Quả Chuông Thần Chùa Thiên Ấn Ra Sao ? (^)

Câu chuyện xảy ra vào năm 1845 khi Tổ thứ ba của chùa Thiên-Ấn là Hòa-Thượng Bảo-Ấn trụ trì. Chùa do Thiền-sư Minh-Hải Phật-Bảo người Phúc-Kiến, Trung-Hoa, tức là Thiền-sư Pháp-Hoa khai sơn vào năm 1694. Tổ thứ hai là ngài Khánh-Vân.

Tích kể lại như sau : Một hôm trong giờ thiền định, ngài Bảo-Ấn thấy một vị Hộ-Pháp tới làm lễ và mách rằng tại làng Chú-Tượng (xã Đức-Thọ, quận Mộ-Đức, Quảng-Ngãi) có một quả Đại-hồng-chung để không ông nên đến đó mà thỉnh về chùa ! Khi xuất định, ông nhờ vị sư tên Điển-Tọa đến làng trên để dọ hỏi. Quả thật, dân chúng địa phương tại đấy nói rằng họ vừa đúc xong một quả chuông để dùng trong chùa làng, nhưng vì chuông không kêu nên ban tổ chức định phá ra để đúc lại. Sư bèn hỏi mua lại chuông cho chùa Thiên-Ấn và được dân làng thuận ý. Chuông được đưa về chùa. Hôm cử hành lễ khai chuông với bao nhiêu sự hồi họp của mọi người, vì ai cũng nghĩ rằng chuông sẽ không kêu. Nhưng Hòa-Thượng Bảo-Ấn vẫn nhất tâm chú nguyện ... Đến khi Ngài cầm dùi lên để khai chung thì tiếng ngân tròn và ấm vang vọng khắp núi đồi. Đó là một điều thần diệu thật đặc biệt ! Quả chuông hiện vẫn còn, có ghi tên làng Chú-Tượng được treo bên tả chánh điện của chùa Thiên-Ấn.

Nguyễn-Cư-Trinh (1716 - 1767) có làm bài thơ vịnh cảnh chùa Thiên-Ấn và quả chuông thần như sau :

Phong cảnh ta đây thật rất xinh,

Niêm ha (1) có ấn của trời sinh.

Xem kìa dấu tích còn vương vức.

Nhắc lại non sông rõ dáng hình.

Cách thức như in đồ cổ tự,

Cỏ cây nào phụ tiếng chuông linh.

Châu sa đỏ dưới chân chờ mãi,

Trấn chỉ sau lưng núi Cẫm-Thành (2)

Tích chuông chùa Thiên-Ấn có nhiều người biết đến hay nghe kể lại, nhứt là những vị lớn tuổi hẳn còn rõ về câu chuyện quả chuông thần nầy.

(1) Núi Thiên-Ấn vuông hình quả ấn, có nhiều đá son dùng như mực đỏ vậy.

(2) Án ngữ sau núi Thiên-Ấn là núi Cẫm-Thành.

34.- Sự Tích Chùa Thiên Hậu Gần Chợ Cầu Ông Lãnh, Sài Gòn (^)

Bà Mị-Châu, Bồ-Dương (xã Phúc-Kiến), sanh ngày 23, tháng 3 năm Giáp Thân (1044) đời vua Tống-Nhân-Tông. Tám tuổi đã thông suốt mọi việc, mười một tuổi bà tu theo đạo Phật, mười ba tuổi thọ lãnh thiên thơ : Thần Võ y xuống cho một bộ "nguyên vị bí quyết" và bà tìm được dưới giếng loạn một xấp cổ thư khác. Bà xem theo đó mà luyện tập rồi đắc đạo.

Cha tên Lâm-Tích-Khanh, ngồi thuyền cùng hai anh của bà chở muối đi bán tỉnh Giang-Tây, giữa đường thuyền lâm nạn, bị bảo lớn làm lật nhào ... Cả ba người cùng té lặn hụp chới với giữa biển khơi ! Ngay lúc đó, Bà đang ngồi dệt vải bên cạnh mẹ ở nhà. Bên khung cửi, bà bỗng nhắm mắt lại, cắn nghiến hai hàm răng, hay tay đưa tới trước dường như đang trì niếu một vật gì nặng lắm. Mẹ ngồi gần thấy cử chỉ lạ lùng ấy phát sợ nên bèn gọi, bà vẫn lặng thinh khiến mẹ càng sợ thêm liền đến gần bà nắm vai vừa lắc vừa la lớn : "Sao vậy con ? Trả lời đi con ! Nói mau kẻ mẹ sợ lắm !" Bà mở mắt, ư một tiếng dài như vừa tỉnh giấc chiêm bao, bỗng òa lên khóc kể : "Mẹ ơi ! Thôi rồi, Cha đã mắc nạn lớn, thuyền bị bảo đắm chìm nay con không cứu cha được cũng chỉ vì mẹ một hai trục con về. Âu chẳng qua cũng tại số trời !" Rồi bà thuật lại đầu đuôi mọi việc. Lúc nãy bà làm như vậy là một tay bà nắm anh cả, một tay kéo anh thứ, vì cả hai đang chới với giữa ngọn ba đào. Trong lúc đang bối rối đó, bổng bà thấy cha đang lặn hụp dưới thủy triều và sắp bị nước cuốn trôi phăng nên bà vừa dùng răng cắn được chéo áo của cha, bà sắp cứu được cả ba thoát nạn giữ, chợt nghe mẹ kêu giựt dội một hay lay gọi ép bà trả lời. Bà vừa hở môi thì sóng cuốn cha mất dạng nên bà chỉ cứu được hai anh. Sau đó, hai người về thuật đúng như lời bà nói trước đó mấy hôm về cái chết của cha.

Từ đó tin đồn truyền ra, uy tín của bà nổi lên như cồn, xa gần đều biết và mỗi khi ngoài biển thuyền bè bị đắm, nếu gọi vái đến Bà là tai qua nạn khỏi ngay. Về sau dân gian quá ngưỡng mộ danh Bà, mỗi khi có nguy hiểm, tai nạn gì đều van vái Bà, nhất là những khách buôn đi thuyền trên biển. Do đó, dân chúng người Hoa-Kiều khi đến sanh sống tại Sàigòn lập chùa mang tên Bà là Thiên-Hậu Tự để cầu nguyện cho mọi việc được tai qua nạn khỏi.

(Theo "Sàigòn Năm Xưa" của Vương-Hồng-Sển Khai-Trí xuất bản năm 1969).

35.- Chùa Quốc Ân Thành Lập Năm Nào, Do Ai Khai Sáng ? (^)

Phật tử miền Trung dòng Lâm-Tế tại Bình-Định không thể nào quên được công ơn của người mang tông phái nầy từ Trung-Hoa sang Việt-Nam vào hậu bán thế kỷ thứ 17, đã lập chùa Thập-Tháp Di-Đà, sau đó người ra Huế lập chùa Hà-Trung và chùa Quốc-Ân.

Chùa Quốc-Ân được thành lập vào năm Ất Tỵ, niên hiệu Cảnh-Trị thứ 3 đời chúa Nguyễn-Phúc-Tần, 1665 do Hòa-Thượng Nguyên-Thiều khai sáng. Chùa cách thành phố Huế chừng 3 cây số ở về phía Tây Nam, thuộc quận Hương-Thủy, tỉnh Thừa-Thiên. Quốc-Ân là ơn vua, ơn nước, hẳn ngài Thọ-Tôn Nguyên-Thiều đã được sự đãi ngộ đặc biệt của chúa Nguyễn, cũng như sự giúp đỡ trong việc tạo dựng ngôi chùa, vì nhớ công ơn đó mà ngôi chùa mang tên Quốc-Ân trong cảnh trí trước sân vườn chùa Quốc-Ân còn có ngọn tháp Phổ-Đồng cũng do ngài Nguyên-Thiều lập ngay sau ngôi chùa thành hình, nhưng tháp đã bị quân Tây-Sơn phá hủy, nay không còn lại di tích gì cả. Tuy nhiên, ngôi chùa Quốc-Ân vẫn còn tồn tại với tháng năm cho tới ngày nay, dù trải qua nhiều lần trùng tu lại.

Sau khi Hòa-Thượng Nguyên-Thiều tịch vào năm Bảo-Thái thứ 10 ngày 19 tháng 10, đời nhà Lê, các đệ tử Ngài hợp nhau lại xây tháp Hóa-Môn để thờ phụng. Tháp được xây trên ngọn đồi, làng Dương-Xuân-Thượng, quận Hương-Thủy, Thừa-Thiên.

Sách tham khảo : Hoàng-Lê Nhất-Thống-Chí, Tỉnh Thừa-Thiên.

Phật Pháp của Minh-Châu, Thiên-Ân, Đức-Tâm, Chân-Trí.

36.- Chùa Thuyền Tôn Lập Nên Từ Bao Giờ, Do Ai Khai Sáng ? (^)

Người Phú-Yên không ai không biết tới một vị danh tăng ở vào tiền bán thế kỷ thứ 18, xuất thân là người Sông-Cầu đã ra Huế lập nên chùa Thuyền-Tôn.

Chùa Thuyền-Tôn do Hòa-Thượng Liễu-Quán khai sáng vào khoảng năm Vĩnh-Thạnh thứ tư 1708, đời Vua Lê-Dục-Tôn từ Phú-Yên, Ngài ra Huế cầu pháp với Hòa-Thượng Minh-Hoằng Tử-Dung, sau có lập nên một cái am nhỏ bằng tranh để làm nơi nương náu tu hành. Sau đó, nơi nầy dần trở thành ngôi tổ đình lịch sử trong các ngôi chùa danh tiếng ở Việt-Nam. Chùa cách thành phố Huế chừng 7 cây số, ở trên một ngọn đồi cao, thuộc làng An-Cựu, Huyện Hương-Thủy, tỉnh Thừa-Thiên. Chùa còn có một chiếc Đại-hồng-chung đề tạo năm Cảnh-Hưng thứ 8 và một bức biển lớn nay vẫn còn.

Chùa Thuyền-Tôn là một ngôi tổ đình lớn ở Thừa-Thiên mà cũng là nơi căn nguyên của phái Liễu-Quán. Phái Liễu-Quán là một nhánh của dòng Lâm-Tế. Hiện nay tăng tín đồ từ Trung đến nam Trung Việt phần nhiều đều thuộc phái Lâm-Tế. Ngài Liễu-Quán là một vị danh tăng đầu tiên ở Trung Việt được thừa truyền tổ đạo. Ngài tịch năm Cảnh-Hưng thứ 3, tức năm 1742.

Chùa Thuyền-Tôn là di sản tinh thần đầu tiên của dòng thiền phái Lâm-Tế đã được trùng tu nhiều lần. Đến năm 1943, Giáo-hội Tăng-già tỉnh Thừa-Thiên đứng ra trùng tu lại chùa nầy, Hòa-Thượng Giác-Nhiên, Tăng-Thống Giáo-hội, trụ trì cho đến năm 1976.

37.- Chùa Giác Lâm Ngôi Cổ Tự Lâu Đời Tại Miền Nam (^)

Những ngôi chùa cổ ở Việt-Nam phần nhiều đều nằm ở miềm Bắc và miềm Trung, nhưng tại Nam Phần một trong những ngôi chùa cổ nhất vào giữa thế kỷ thứ 18 là chùa Giác-Lâm.

Chùa Giác-Lâm còn có tên là "Cẩm-Sơn-Tự" do một người Tàu tên là Lý-Thoại-Long người Minh-Hương đứng ra vận động quyên góp tiền bạc và lập vào năm 1744 nhằm đời vua Thế-Tông, Nguyễn-Phúc-Khoát - chùa có lối kiến trúc thật đồ sộ nguy nga, với những đường nét chạm trỗ thật hết sức tinh vi. Nơi chánh điện thờ Phật là cả một công trình điêu khắc tuyệt sảo trong nghệ thuật cổ của người Trung-Hoa. Hòa-Thượng Hải-Tịnh tu ở chùa nầy hậu bán thế kỷ thứ 18, Ngài giao chùa nầy lại cho thầy Yết-Ma Phạm-Văn-Tiên để về trụ trì chùa Giác-Viên gần đó. Chùa tọa lạc trên một khu đất có chu vi vuông vức chừng 4000 m vuông, thuộc vùng Phú-Thọ-Hòa, quận Tân-Bình, Gia-Định. Trước sân chùa có trồng cây Bồ-Đề gốc Ấn-Độ của Tích-Lan, với cành lá sum xuê tỏa rộng và cho bóng mát rợp cả sân chùa. Thân cây to lớn với rễ đan chằn chịt nổi lên trên mặt đất, mặc dù cây ấy chỉ mới có từ năm 1951.

Chùa cũng có thể ví như một thư viện lớn gồm có 3 dãy nhà ngang rộng rãi, khoảng mát. Trong mỗi phòng có kê nhiều bộ ván bằng gõ dày, đẹp và giá trị như một kho bảo vật của một viện bảo tàng vậy. Cảnh chùa thật yên tỉnh nên sinh viên, học sinh hễ gần đến mùa thi thường hay đến đó để học bài rất đông.

Trước sân và sau vườn chùa cũng có nhiều ngôi tháp cổ bảy tầng hoặc năm tầng thờ các tổ kế nghiệp, như âm thầm chịu đựng qua tháng năm ...

Con đường Hương lộ 14 nối liền từ Bình-Thới ra tới Ngã-Tư Bảy-Hiền ăn thông qua trước chùa, vào những năm trước đây rất bùn lầy, dơ bẩn. Từ năm 1969, con đường được tân trang trở lại, nay mang tên là đường Lạc-Long-Quân.

Ngôi cổ tự Giác-Lâm chắc hẳn sẽ còn tồn tại mãi với thời gian cho dù chế độ chính trị có đổi thay, hưng phế !

38.- Chùa Giác Viên Hay Ngôi Tổ Đình Của Phật Giáo Cổ Sơn Phái (^)

Chùa Giác-Viên thuộc khu vực Bình-Thới, Gia-Định cũng chiếm một ưu thế trong các ngôi cổ tự của Việt-Nam, vì là ngôi tổ đình của tăng tín đồ Phật giáo Cổ sơn phái.

Chùa Giác-Viên còn có tên là chùa Hồ-Đạt, thành lập vào năm 1803 đời vua Gia-Long. Trải qua nhiều lần tu bổ, chùa trở nên nguy nga tráng lệ đều do công lao của Hòa-Thượng Hải-Tịnh. Nguyên Hòa-Thượng tu ở chùa Giác-Lâm - cùng trong khu vực gần đó - vì nhận thấy chùa hư mục, đỗ nát nên Ngài phát nguyện về chùa Giác-Viên để tu bổ sửa lại. Sau khi Hòa-Thượng tịch, năm nào không thấy ghi rõ, chùa được đệ tử Ngài là Hòa-Thượng Hoằng-Ngại kế tục duy trì cho tới ngày Ngài viên tịch vào năm 1929. Trong khuôn viên chùa có 3 ngôi tháp mà ngôi của Hòa-Thượng Hoằng-Ngại mới xây năm 1930, nét kiến tạo đã pha lẫn hòa hài cả tân và cổ. Chùa Giác-Viên cho đến sau năm 1945 đã bị tàn phá bởi tàn tích của chiến tranh nên hư hại rất nhiều. Tết Mậu Thân (1968) chùa cũng bị dội bom, cả vườn chùa cây cối đều cháy nám, nhưng có một điều thật huyền diệu là ngôi chánh điện thờ Phật vẫn còn tồn tại nguyên vẹn.

Nếu so với chùa Giác-Lâm thì chùa Giác-Viên kém về nét mỹ thuật chạm trổ và công trình kiến trúc, còn so với phạm vi đất đai thì chùa Giác-Viên rộng rãi hơn nhiều.

Cho tới nay chùa Giác-Viên vẫn còn tồn tại, nhưng nét đỗ nát vẫn còn nguyên vẹn đó và chư Tăng hầu như thưa vắng !

39.- Việt Nam Quốc Tự Thành Lập Và Ý Hướng Thống Nhất Nền Phật Giáo Nước Nhà Của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam (^)

Sau những năm thăng trầm bị pháp nạn, Phật giáo Việt-Nam thật sự bắt tay vào việc xây dựng và củng cố khi Cách-Mạng 1/11/1963 thành công. Đúng như tinh thần thống nhất nền Phật giáo tại Việt-Nam theo bản hiến chương của giáo hội đã được 11 phái đoàn thuộc các giáo phái Phật giáo tại Việt-Nam ký nhận ngày 4/1/1964, Phật lịch 2508.

Ngôi Việt-Nam Quốc-Tự theo lối kiến trúc thuần túy Việt-Nam để cho phù hợp với dân tộc tính. Địa điểm tại khu đất bên đại lộ Trần-Quốc-Toản và Petrus Ký, trung tâm của thủ đô Saigon. Ngôi chùa được dự định gồm 3 phần chính : Quốc-Tự, viện Tăng-Thống và viện Hóa-Đạo. Ngôi Quốc-Tự khi thành hình sẽ đáp ứng đủ cho nhu cầu lễ bái. Nơi tầng lầu thứ hai thiết lập chánh điện thờ Phật rộng rãi, chứa khoảng từ 2000 đến 5000 người. Tầng dưới dành riêng cho phần thiết trí về hành chánh như một đại giảng đường, văn phòng, trai đường, bưu điện ...

Lễ đặt đá xây cất ngôi Quốc-Tự đã được tổ chức vào ngày 26/4/1964 thật vô cùng trọng thể, với những nhân vật quan trọng của quốc gia tham dự. Khu đất xây ngôi chùa rộng 45,000 m2. Giáo hội cũng đã cho khởi công xây cất ngôi chánh điện vào tháng 9 năm 1964 và dự trù hoàn thành trong vòng 2 năm. Vấn đề khó khăn thứ nhất để hoàn thành ngôi chùa không phải là về tài chánh mà về việc thống nhất nhân tâm chưa được hoàn bị. Trên danh nghĩa thì giáo hội Phật giáo Việt-Nam đã thống nhất thật sự, sau bản hiến chương đã được ký nhận vào đầu năm 1964, nhưng trên thực tế người ta chưa thấy có dấu hiệu nào chứng tỏ có sự thống nhất toàn diện. Từ năm 1964 trở đi mầm chia rẽ ngấm ngầm giữa hai phái Việt-Nam Quốc-Tự và Ấn-Quang đã bước tới giai đoạn trầm trọng khó hàn gắn lại được ! Công việc xây ngôi Quốc-Tự do đó cũng bị ảnh hưởng và làm ngưng trệ, dỡ dang. Mầm chia rẽ của các nhà lãnh đạo mỗi ngày càng bộc lộ rõ rệt. Thay vì dự trù hoàn tất ngôi chùa vào năm 1966, thì giáo hội PGVN đã bị sa lầy bởi các thế lực chính trị chi phối toàn diện. Từ vụ đưa bàn thờ Phật xuống đường, vụ đàn áp đẩm máu Phật tử tại miền Trung của chính quyền quân nhân lúc đó, đến việc tăng ni, Phật tử phái Ấn-Quang qua chiến dịch "thu hồi Việt-Nam Quốc-Tự" vào ngày 4/5/1970 v.v... là những bước cản trở khó khăn, khiến cho ý hướng muốn thống nhất Phật giáo tại Việt-Nam của giáo hội khó thực hiện được.

Ngôi Việt-Nam Quốc-Tự nếu được hoàn thành sẽ đồ sộ nguy nga và là nơi trang nghiêm để phụng sự Phật Pháp. Các vị Thánh tăng, chư Thánh-tử-đạo cũng có được nơi thờ tự khang trang ấm cúng. Ngoài ra, nơi đây cũng còn là nơi đủ tiện nghi thiết lập văn phòng lãnh đạo tối cao của hai viện Tăng-Thống và viện Hóa-Đạo của giáo hội PGVNTN và các cơ quan liên hệ. Nhưng công việc tạo dựng chùa đi chưa tới đâu thì những mầm chia rẽ phá hoại lại đến. Mọi công tác xây cất hoàn toàn bị đình trệ. Ngay cả ngôi chánh điện cũng chưa hoàn thành. Bên cạnh chánh điện còn có ngôi bảo tháp cao 12 tầng cũng đã được xây dang dỡ. Cho đến khi cộng sản vào chiếm miền Nam (30/4/75) ngôi Quốc-Tự đã bị trưng dụng vào việc làm văn phòng cho cơ quan hành chánh của nhà nước. Tài liệu, vật dụng cũng bị tháo gỡ để cán bộ dùng làm của riêng.

Bao nhiêu mồ hôi, xương máu và nước mắt của tăng ni, tín đồ Phật giáo đã đổ xuống để tạo nên cơ sở nầy, rồi một sớm đã bị ma vương hiện về quấy phá, ước mong ý hướng xây ngôi Quốc-Tự nơi mỗi Phật tử chúng ta vẫn còn được tiếp nối cho tới khi nào hoàn thành viên mãn !

40.- Sơ Lược Vài Nét Về Thánh Tích Thích Ca Phật Đài Vũng Tàu (^)

Những danh lam (các ngôi chùa nổi tiếng), thắng cảnh (cảnh đẹp nổi tiếng), một phần do thiên nhiên hình thành, một phần do con người tu tạo mà có. Ở Việt-Nam vào những năm sau chiến tranh, khi nói tới một thắng cảnh nổi tiếng miền Nam, không ai là không biết tới thánh tích Thích-Ca Phật đài tại Vũng-Tàu.

Thích-Ca Phật đài nằm trên bãi sau của thị xã Vũng-Tàu. Cảnh trí rất nên thơ, vì được thiết lập trên một khu triền núi trông ra mặt biển. Pho tượng đức Phật Thích-Ca trong tư thế ngồi kiết già lộ thiên, cao 2 mét, chưa kể tòa sen, mặt hướng ra biển và vùng thị xã Vũng-Tàu. Tượng Phật có thể nói là đẹp vào bậc nhất nhì so với tượng đức Phật Thích-Ca nơi chánh điện của chùa Xá-Lợi, Sàigòn. Tượng được sơn màu bạch kim trông thật sáng sủa. Chung quanh Phật tích toàn cây cối rậm rạp. Phía dưới bao bọc bởi nước biển mầu biếc, bên trên phản chiếu bầy trời xanh lơ như dãi lụa mỏng căn phồng thành nhiều lượn trong gió sớm, nắng chiều. Khi nào có sương mù, pho tượng Phật trở nên như tỏa hào quang sáng rõ cả một góc chân trời, quyện lẫn mây nước thành mầu khói lam tuyệt mỹ ! Thánh tích lịch sử nầy do Phật giáo Nam-tông, tức là phái Nguyên-Thủy thành lập vào năm 1962 và hoàn thành vào đầu năm 1963. Lễ Khánh-Thành đã được tổ chức thật trọng thể vào hai ngày 9 và 10 tháng 3 năm 1963, với sự tham dự đông đảo của chư Hòa-Thượng thuộc các giáo phái Phật giáo, cũng như hàng Phật tử và cơ quan chính quyền.

Từ lúc thành hình thánh tích, Vũng-Tàu đã đẹp, nhờ cảnh trí Thích-Ca Phật đài lại trở nên thơ mộng hơn trước. Nhiều du khách ngoại quốc khi viếng Vũng-Tàu đều ghé qua viếng ngôi Phật tích kỳ quan nầy.

Tiếng Việt

Trang nhà Quảng Đức

Tiếng Anh

Phật Học Cơ Bản

..... ... .

KIẾN THỨC

CĂN BẢN PHẬT GIÁO

TT.Thích Bảo Lạc

--- o0o ---

CHƯƠNG 9

PHẬT GIÁO THẾ GIỚI

1.- Phật Giáo Ấn Độ : Khởi Nguyên Và Kế Truyền Ra Sao ? (^)

Từ khi đức Phật Thích-Ca xuất thế vào năm 624 năm trước Tây lịch, thì Phật giáo bắt đầu thành hình tại Ấn-Độ.

Đức Phật ra đời tại xã hội Ấn, vì Ngài nhận thấy sự bất công trong các tầng lớp dân chúng, lúc bấy giờ có phân ra ít nhất là 4 giai cấp như :

- Bà-la-môn (Brahman) tức hàng giáo sĩ có học, nắm giữ tất cả mọi uy quyền thế lực.

- Sát-đế-lợi (Ksatrya) hay dòng dõi vua chúa.

- Phệ-xá (Vaisary) thuộc hàng thương mãi

- Thủ-đà-la (Sudra) thuộc đám dân lao động cùng khổ. Ngoài ra, còn một hạng tiện dân (untouchables) hay nô lệ.

Đức Phật chủ trương sau bằng tất cả các giai cấp, Ngài quan niệm mỗi người sanh ra đều bình đẳng, vì "không có giai cấp trong dòng máu cùng đỏ và trong giọt nước mắt cùng mặn". Từ đó, Ngài mở ra cho xã hội Ấn-Độ một kỷ nguyên mới : Kỷ nguyên Phật giáo. Đức Phật Thích-Ca sanh ở thành Ca-Tỳ-La-Vệ, con vua Tịnh-Phạn và Hoàng-hậu Ma-Gia (Sudhadana and Maha-Maya), tên là Tất-Đạt-Đa (Siddharta), họ là Thích-Ca (Sakya). Sau khi thành Phật hiệu là Mâu-Ni hay Cồ-Đàm. Ngài sanh vào ngày mồng 8 tháng 4 đời Chiêu-Vương nhà Chu (trước Tây lịch 624 năm). Do công phu tu tập, Phật đã giác ngộ được. Sau khi chứng đắc đạo quả, Phật đi chu du khắp xứ Ấn-Độ để truyền giáo cho đến năm 80 tuổi Ngài nhập diệt vào ngày rằm tháng 2, tại rừng Câu-Thi-La. Giáo pháp của Ngài sau đó được các chúng đệ tử kiết tập thành 4 kỳ và chia ra thành nhiều bộ phái. Sau Phật diệt độ khoảng 300 năm có vua A-Dục ra đời, ra sức phát huy chánh pháp nên Phật giáo rất thịnh hành. Đến đầu kỷ nguyên Tây lịch, tại Bắc Ấn-Độ, ngài Mã-Minh ra đời, xiển dương Phật giáo, đã được vua Ca-Nỵ Sắc-Tra (Kaniska) hết sức ủng hộ và Phật giáo phái Đại-thừa được thạnh hành từ đó. Cho tới thế kỷ thứ 9 - 10 Tây lịch có các ngài Vô-Trước, Thế-Thân ra đời ở Bắc Ấn-Độ, sau đến Trung Ấn khởi xướng Đại-thừa Phật giáo qua duy thức học.

Phật giáo mặc dù phát nguồn từ Ấn-Độ nhưng không phát triển mấy. vào thế kỷ thứ 11, Hồi-Giáo thắng thế. Quân Hồi tìm cách tiêu diệt Phật giáo. Vào thế kỷ thứ 19, người Anh tìm tới xứ Ấn để nghiên cứu Phật giáo. Năm 1893, Sarat Chaand Rodas, một người Anh, thành lập "Hội Nghiên Cứu Phật Giáo Ấn-Độ và Nhân Loại Học Thuật". Năm 1891, "Hội Bồ-Đề" được thành lập có các chi nhánh tại Nữu-Ước, Luân-Đôn ... và việc truyền bá Phật giáo lan rộng khắp Âu Mỹ do những tác phẩm đã dịch được từ kinh điển chữ Phạn. Có lẽ, nhờ vào các ảnh hưởng đó mà người Tây-phương có dịp tiến gần hơn về Đông-phương để nghiên cứu tìm hiểu tư tưởng Phật giáo.

Tuy nhiên, Phật giáo Ấn-Độ hiện thời không còn được thạnh hành như ở vào những kỷ nguyên trước mà chỉ còn lại trên hình thức cũng như những di tích lịch sử cổ của Phật giáo mà thôi.

2.- Phật Giáo Trung Quốc Thời Kỳ Du Nhập Và Sự Phát Triển Ra Sao ? (^)

Theo sử liệu Phật giáo Trung-Quốc có ghi rõ ràng đạo Phật đã truyền vào quốc độ nầy trước kỷ nguyên Tây lịch, nhưng mãi đến năm 67 Tây lịch mới sáng tỏ.

Hậu bán thế kỷ thứ nhất (năm 67) niên hiệu Vĩnh-Bình năm thứ 10, vào đời Đông Hán. Phật giáo mới thực sự được xiển dương sâu rộng do vua Minh-Đế khởi xướng. Vua Hán Minh-Đế đã cử người sang Tây-Thiên-Trúc (Ấn-Độ) mời được các vị sư như Ca-Diếp Ma-Đằng và Trúc-Pháp-Lan qua Trung-Quốc truyền đạo và thỉnh được tượng Phật cùng kinh điển đem về xứ sở. Ngoài ra, vua còn cho dựng chùa Bạch-Mã ở Lạc-Dương để thờ Phật và mời hai vị sư người Ấn về ở đó dịch kinh. Bộ kinh đầu tiên được dịch từ chữ Phạn sang chữ Hán là kinh 42 Chương. Đó là giai đoạn mở đầu của Phật giáo Trung-Quốc và đạo Phật dần dần có cơ hội bành trước mãi đến nổi đã khiến đạo Lão gần mất hết cả thế đứng trong quần chúng. Đạo Phật Trung-Quốc thời bấy giờ thịnh đạt một phần nhờ kinh sách chữ Phạn đã được dịch hơn 300 bộ, mặt khác, nhờ ảnh hưởng nơi các bậc cao Tăng như ngài An-Thế-Cao, Chi-Lâu-Ca-Sấm, Chi-Diệu, Trúc-Phật-Sóc ... là những người từ Ấn-Độ sang truyền giáo.

Đời Tam-Quốc : NGỤY - THỤC -NGÔ (250-300) ngài Khương-Tăng-Hội từ Tây-Vực sang truyền đạo tại Trung-Quốc. Vua Ngô-Tôn-Quyền đã quy y theo Phật giáo. Vào năm 250, niên hiệu Gia-Bình thứ 2 đời Ngụy-Minh-Đế có ngài Đàm-Ma-Ca-La từ trung Ấn-Độ sang Trung-Quốc mở giới đàn truyền giới Tỳ-kheo.

Năm 310, niên hiệu Vĩnh-Gia đời Tây-Tấn có vị tăng tên Phật-Đồ-Trừng từ Tây-Vực sang giảng kinh thuyết pháp đã được dân chúng mến mộ rất đông. Cũng trong khoảng thời gian nầy, ngài Cưu-Ma-La-Thập đã dịch nhiều kinh chữ Phạn sang chữ Hán. Phật giáo bắt đầu chia ra làm 2 tông phái : Thành-Thật và Tam-Luận-Tông.

Đến thế kỷ thứ 5 - 6 (420 - 588) đời Nam Bắc triều, Phật giáo càng thịnh đạt. Ngài Bồ-Đề Đạt-Ma đem Thiền-tông truyền vào Trung-Quốc cũng trong thời kỳ nầy. Các tông Thiên-Thai, Niết-Bàn đều được thành lập đồng thời với Thiền-tông.

Năm 446, Phật giáo Trung-Quốc bị ách nạn lần thứ nhất vào đời vua Hậu Ngụy Thái-Võ-Đế, còn gọi là "Tam Võ Nhất tôn chỉ ách". Vào đầu thế kỷ thứ 6 (508) Phật giáo lại cực thịnh dưới đời vua Tuyên-Võ-Đế. Chùa chiền mọc lên như nấm, Tăng sĩ tu rất đông. Nhưng vào hậu bán thế kỷ (574) đời Võ-Đế Bắc-Chu, Phật giáo lại bị ách nạn lần thứ 2. Sau đó, Phật giáo được phục hưng trở lại và cực thịnh suốt trong đời nhà Đường (609 - 907) và có thêm các tông như : Tịnh-Độ, Pháp-Tướng, Luật, Câu-Xá, Hoa-Nghiêm, Chân-Ngôn được thành lập. Đến đời Ngũ-Đại (Hậu Lương, Hậu Đường, Hậu Tấn, Hậu Hán, Hậu Chu), Phật giáo suy vi do chiến tranh và thời cuộc gây ra. Đời nhà Tấn Phật giáo lại được phục hưng. Kế các đời nhà Nguyên và nhà Minh (?) cũng bảo vệ Phật Pháp nhưng không có những hoạt động nổi bậc đáng kể.

Đời nhà Thanh bị nhiểm bởi làn sóng văn minh Tây-phương truyền vào Trung-Quốc, Phật giáo càng trở nên suy yếu dần. Đầu thế kỷ 20 (1912), sau cuộc cách mạng Tân-Hợi (1911), Tôn-Văn lên cầm quyền, Phật giáo cũng được nhiều người tìm hiểu nghiên cứu.

Thời kỳ Trung - Nhật chiến tranh (1940-1945), Phật giáo Trung-Quốc bị suy yếu. Đến khi cộng sản nhuộn đỏ toàn lục địa Trung-Hoa (1949), Phật giáo chỉ duy trì được ở giai đoạn đầu (1950-1960). Năm 1966 có cuộc đại cách mạng văn hóa, mọi giá trị tinh thần đều bị đem ra xét lại. Từ đó, Phật giáo được xem như món đồ trang sức trong viện bảo tàng hơn là trên thực tế.

Mãi tới cuốc năm 1979, nhận thấy thời cơ thuận tiện, phó Thủ-Tướng Đặng-Tiểu-Bình và chính quyền Trung-Quốc cho khôi phục lại Phật giáo. Đây có tính cách như cái loa để tuyên truyền cho chính trị hơn là thuần túy muốn chấn hưng Phật giáo đúng nghĩa.

3.- Phật Giáo Nhật Bản Có Từ Lúc Nào Và Do Ai Truyền Tới ? (^)

Suốt trong mấy thế kỷ đầu của lịch sử, dân tộc Nhật-Bản chưa có một tôn giáo nào khác hơn Thần đạo. Mãi cho đến thế kỷ thứ 6 Tây lịch Phật giáo mới có cơ hội truyền vào đất nước nầy.

Thánh-Đức Thái-tử (Shotoku Taishi : 574-622) đã nghiên cứu các tư tương cổ điển của Khổng, Lão vào Phật giáo trong nền văn minh cổ Trung-Hoa về những yếu tố hình thành guồng máy xây dựng quốc gia, xã hội. Đặc biệt ông có thảo 17 điều trần tình mà trong đó tư tưởng Phật giáo được xem như những nguyên lý căn bản để xây dựng công bằng xã hội. Mặt khác, ông còn khuyến khích nhiều học giả, nghệ sĩ và nhất là tu sĩ Phật giáo trong việc sáng tác. Ngoài ra, hai ngôi chùa danh tiếng ngày nay tại Kyoto như chùa Pháp-Long (HORYU JI) đã được Thái-tử cho thành lập vào đầu thế kỷ thứ 7 (năm 621) và chùa Tứ-Thiên-Vương (Shiten o ji) thành lập năm 623. Thánh-Đức Thái-tử cũng còn khuyến khích các Tăng sĩ sang du học Trung-Quốc. Năm 606, trước triều đình, ông luận về kinh Pháp-Cú, phẩm Liên-Hoa đã gây được ảnh hưởng sâu rộng trong chánh giới Nhật-Bản lúc bấy giờ. Ông từ trần năm 624. Trong đời Thánh-Đức đã tạo được 46 ngôi chùa và 816 Tăng sĩ cùng với 569 Ni-cô. Nhưng, Phật giáo đã truyền vào Nhật-Bản bằng hình thức nào ? Có nhiều thuyết khác nhau và điều chắc chắn phải nói rằng Phật giáo Nhật-Bản chịu ảnh hưởng sâu đậm, trực tiếp từ Phật giáo Trung-Quốc. Những tác phẩm Phật giáo mà người Nhật đã nghiên cứu lúc đó là những bản dịch từ chữ Hán sang.

Thời kỳ Nara (625-754) Phật giáo đã phát triển cũng như đặt nền móng về cơ sở tri thức cho dân tộc bản xứ, nhất là việc nghiên cứu sâu rộng giáo nghĩa Phật-Đà.

Năm 754, Hòa-Thượng Giám-Chân (Kanzin Wazo) người Trung-Quốc đã đặt chân tới Nhật-Bản và làm cho Phật giáo thêm phần khởi sắc nhờ công hạnh đạo đức và tài năng xuất chúng của bậc chân tu đại Thánh nhân nầy. Chùa Đông-Đại Tự (Todai Ji) tại vùng Nara, Kyoto đã được xây cất vào năm 754. Tương truyền rằng chính Hòa-Thượng Giám-Chân (lúc đó đã bị mù lòa cả 2 mắt do bảo tố trên đường từ Trung-Quốc tới Nhật-Bản gây nên) là người xem địa hình cho việc thiết lập ngôi chánh điện chùa nầy.

Thời đại Bình-An (Heian : 793-800) có 2 vị tăng sĩ là Truyền giáo Đại-sư (Dengyo đaishi) tên là Tối-Trừng : 767-822, Sơ tổ của tông Thiên-Thai và Hoằng-Pháp Đại-sư (Kobo daishi) tên Không-Hải : 774-835 là Sơ tổ tông Chân-Ngôn, đã ra sức phát huy Phật giáo và nhờ đó ảnh hưởng rất sâu rộng trong quần chúng. Tư tưởng Thiền đồng thời cũng được phát huy kể từ thời kỳ nầy.

Vào đầu thế kỷ 13 có các ngài Nhật-Liên đại thánh nhân (Nichi ren : 1222-1282) xuất hiện đã mang lại cho Phật giáo Nhật-Bản một sinh khí mới về cách tu chứng và sự khế cơ của Phật giáo vào đời sống xã hội. Ngoài ra còn có ngài Đạo-Nguyên Thiền-sư (Dogen : 1200-1253) cũng là một bông hoa khởi sắc mở đầu cho Thiền-tông (Zen) tại Nhật-Bản. Dogen đã sang du học Trung-Quốc về môn Thiền Phật giáo tông Tào-Động trong thời gian 5 năm. Sau khi về nước, ngài lập ra phái Thiền Tào-Động tại Nhật-Bản vào năm 1227, vào thời kỳ Kamakura.

Từ thế kỷ 14 - 17 chiến tranh liên tiếp xảy ra, nhất là những cuộc nội chiến, khiến cho Phật giáo phải bị đình đốn. Vào hậu bán thế kỷ 17 và tiền bán thế kỷ 18 có những cuộc chiến tranh tôn giáo diễn ra vào thời kỳ các võ sĩ đạo và tướng quân tranh quyền hành ở mỗi địa phương. Lúc bấy giờ đã có những tư tưởng cấp tiến, có nhiều học giả chống lại việc nghiên cứu hệ thống triết học Trung-Quốc, nhưng tư tưởng Phật giáo vẫn được tôn trọng.

Minh-Trị Duy Tân (1868), Phật giáo lần hồi được tái hưng và từ đó tới nay Phật giáo Nhật-Bản giữ một vài trò quan trọng dẫn đạo về mặt tư tưởng cho dân tộc bản xứ và nếp sinh hoạt chùa chiền tại Nhật-Bản cũng khác hẳn với các nước Phật giáo thuộc vùng Á châu.

4.- Phật Giáo Việt Nam Có Từ Thời Kỳ Nào ? Do Ai Truyền Tới Và Ảnh Hưởng ? (^)

Thời kỳ Phật giáo du nhập vào Việt-Nam có nhiều thuyết khác nhau. Sớm nhất Phật giáo cũng đã được truyền vào nước ta vào cuối thế kỷ thứ 2 hay đầu thế kỷ thứ 3 Tây lịch.

Dựa vào mấy lý do sau đây để có thể giải thích sự có mặt của đạo Phật tại Việt-Nam vào thời kỳ du nhập :

- Những thế kỷ đầu của lịch sử hẳn ta chưa có môn sử hay nói khác hơn là chưa có ai quan tâm tới sử học, cũng như chưa kinh nghiệm khoa học về sử liệu, do đó những gì diễn ra trên đất nước cũng chỉ được ghi nhớ và biên chép sơ sài thôi.

- Còn một điều nữa là vào những thế kỷ đầu của lịch sử, nước ta có nhiều người ngoại quốc lui tới buôn bán. Các tăng sĩ cũng theo thuyền buôn đến truyền đạo ở trong nước từ Thuận-Hóa trở ra Bắc. Lúc bấy giờ cũng chưa có cơ quan thông tin nghị luận gì để phổ biến tin tức cả, do đó việc các tăng sĩ người Ấn, Hoa-Kiều ... dù có đến hay đi, cũng ít có người quan tâm tới. Đó là những nguyên nhân khiến chúng ta không biết đích xác được đạo Phật vào nước ta đúng vào năm nào.

Theo truyền thuyết, Phật giáo du nhập vào Việt-Nam từ thế kỷ thứ 2, do ngài Khương-Tăng-Hội và Ma-Ha-Kỳ-Vực là người Ấn-Độ đem tới. Ngoài ra, còn có thuyết cho rằng Phật giáo truyền vào đất Giao-Châu từ thế kỷ thứ nhất, tức là đồng một lúc với thời kỳ Phật giáo du nhập vào Trung-Quốc, nhưng chỉ có các thuyết cho rằng Phật giáo tới An-Nam vào cuối thế kỷ thứ 2 là hợp hơn cả. Theo sách Le Bouddhisme en Annam của Trần-Văn-Giáp thì vào khoảng năm 194-195 có ngài tên là Mâu-Tử người Ấn-Độ sang Giao-Châu truyền bá đạo Phật và đã được người trong nước bắt chước tin theo rất nhiều. Dần dà ở những thế kỷ sau có nhiều vị sư ngoại quốc đến và phát huy tinh thần Phật giáo tại đây.

Năm 580 có ngài Tỳ-Ni-Đa-Lưu-Chi, người Ấn-Độ sang truyền Phật giáo phái thiền tại nước ta.

Năm 820, ngài Vô-Ngôn-Thông, người Tàu đem truyền Thiền-tông vào đất nước Việt và chính ngài được tôn lên tổ Thiền phái thứ 2. Dòng Thiền Vô-Ngôn-Thông truyền xuống được 15 đời, gồm 40 người kế nghiệp cho tới đời thứ 15 : Ứng-Vương (1221) là dứt.

Đời Tiền-Lê (Lê-Đại-Hành) ngài Khuông-Việt là một vị thiền sư nổi tiếng. Niên hiệu Thái-Bình thứ hai (năm 971) vua phong chức "Khuông-Việt Thái-sư".

Đời vua Lý-Thái-Tổ (1010 - 1028) Vạn-Hạnh Thiền-sư là một bậc cao tăng tài đức kiêm toàn, đã đem tư tưởng Đại-thừa Phật giáo phục vụ quốc gia dân tộc, nên lúc bấy giờ nước nhà được thạnh trị và dân tộc thái bình. Chính Vạn-Hạnh Thiền-sư, được vua Lê tôn lên làm bậc Quốc-sư. Ngài tịch vào năm 1018.

Đời Lý-Thái-Tôn (1028-1054) cũng sùng mộ đạo Phật, có lập được 95 ngôi chùa và ảnh hưởng của Phật giáo cũng khá lớn mạnh.

Đời Lý-Thánh-Tông (1054-1072) có thêm phái Thảo-Đường, do ngài Thảo-Đường người Tàu, nhân là một tù binh theo thầy qua Chiêm-Thành bị vua Thánh-Tông bắt được trong lúc đánh với Chiêm-Thành. Sau vì biết rõ được tông tích Ngài qua tài năng vượt chúng, vua phong chức Quốc-sư. Phái Thảo-Đường truyền xuống được 18 dời, do vua Thánh-Tông là Sơ tổ. Chùa Diên-Hựu (chùa Một-Cột) do vua lập nên 1049, niên hiệu Sùng-Hưng-Đại-Bảo nguyên niên. Vua Thánh-Tông là đệ tử ngài Thảo-Đường thuộc dòng thiền thứ 3 tại Việt-Nam.

Đời Trần (1225 - 1400), Phật giáo cũng được truyền bá nhưng không có tầm ảnh hưởng sâu rộng bằng Phật giáo đời nhà Lý. Vua Trần-Nhân-Tông (1278 - 1308) là vị chân tu. Vua xuất gia năm 1299 và là Sơ tổ của phái Trúc-Lâm Yên-Tử do Ngài sáng lập. Phái Trúc-Lâm truyền được 4 đời cho 20 vị tiếp tục kế truyền tông pháp.

Trần-Anh-Tông (1239 - 1314) cũng là người rất sùng tín đạo Phật, là đệ tử của Thiền-sư Pháp-Loa.

Phật giáo Việt-Nam đời Lý - Trần rất cực thịnh.

Các đời vua đều cho dựng chùa, xây tháp, đúc chuông, tô tượng và xiển dương Phật giáo, vì thế trong nước dân chúng được an cư lạc nghiệp.

Phật giáo Việt-Nam vào thế kỷ 15-17, trở nên suy yếu. Một phần bị chiến tranh Chiêm-Việt ; mặt khác, các triều vua không phải là những Phật tử thuần túy biết nhiệt tâm vì đạo.

Đến hậu bán thế kỷ 17 (1665), ngài Nguyên-Thiều, người Tàu qua An-Nam lập chùa Thập-Tháp (Bình-Định) và ảnh hưởng cũng rất lớn lao.

Chùa Thiên-Mụ (Linh-Mụ - Huế) được chúa Nguyễn-Hoàng cho xây vào năm 1601 và đến đời Nguyễn-Phúc-Chu (1691) chùa mới hoàn thành.

Đời Nguyễn (1802 - 1884) các vua cũng cho lập chùa xây tháp. Tháp chuông chùa Thiên-Mụ được vua Thiệu-Trị cho xây 7 tầng vào năm 1844 gọi tháp Từ-Nhân hay Phước-Duyên. Nhưng Phật giáo thời nầy không lấy gì làm thạnh cho lắm.

Thời cận và hiện đại, Phật giáo trải qua nhiều lần bị pháp nạn và chiến tranh chi phối. Vào đệ nhất và đệ nhị thế chiến, Phật giáo phải bị đình đốn.

Từ năm 1925-1945, phong trào chấn hưng Phật giáo thành hình. Các trường Phật học nổi lên khắp nơi Bắc Trung Nam, nhưng đến năm 1945 cũng phải ngưng hoạt động. Từ năm 1945-1951, Phật giáo hầu như chỉ còn ảnh hưởng rất ít trong quần chúng. Mãi cho đến năm 1952, làn sinh khí Phật giáo lại tiếp tục được hồi sinh.

Thời Ngô (1954-1963), vì vấn đề kỳ thị tôn giáo, Phật giáo bị pháp nạn năm 1963 rất khốc liệt. Sau đó, toàn dân nổi lên làm cuộc cách mạng lật đỗ chế độ bạo tàn Ngô-Đình-Diệm vào ngày 1/11/1963. Một trang sử mới lật qua, Phật giáo lại phải đương đầu với một giai đoạn mới.

Năm 1964, Hiến Chương của Giáo Hội Phật Giáo Việt-Nam Thống Nhất ra đời, kết nạp các tông phái lại thành một khối để đủ uy tín duy trì pháp âm của Phật-Đà. Nhưng mầm chia rẽ giữa 2 khối Phật giáo : Ấn-Quang - Việt-Nam Quốc-Tự nhen nhúm thành hình.

Năm 1975, cộng sản lên cướp chính quyền miền Nam vào ngày 30/4/75, mọi sinh hoạt của Phật giáo đều bị ngưng trệ. Từ đó đến nay, Phật giáo đứng trước gông cùm của bạo quyền cộng sản, chỉ còn chờ thái độ của người Phật tử đối với đạo pháp và dân tộc.

5.- Phật Giáo Pháp Quốc Buổi Bình Minh Của Tư Tưởng Đạo Phật Truyền Vào Pháp Vào Năm Nào Và Do Ai ? (^)

Phật giáo tại Pháp chịu ảnh hưởng rất sâu đậm từ Phật giáo Trung-Quốc. Nổi bậc nhất là sự hình thành hội "Liên Hữu Phật Giáo" (les amis du Bouddhisme) vào năm 1929. Hai sáng lập viên là Thượng-Tọa Tai-Hsu người Trung-Hoa và cô G. Constant Lounsbery, người Anh.

Thượng-Tọa Tai-Hsu chu du sang Âu Châu năm 1928. Trong thời gian lưu trú tại Paris đã tặng cho Viện Bảo Tàng Guimet một số kinh điển Phật giáo đã dịch sang tiếng Pháp. Đồng thời trong cùng năm sách Phật giáo dịch sang Anh-ngữ cũng đã được xuất bản tại Paris. Nhờ duyên hạnh ngộ đó mà cô G. Constant Lounsbery mới bắt tay cộng tác trong việc Phật sự. Lúc đó cô đang nghiên cứu Phật giáo và thực hành thiền định. Cả hai người cùng nhau lập hội Phật giáo tại Pháp vào năm 1929. Ta có thể nói được rằng đây là buổi bình minh của tư tưởng Phật giáo được truyền vào đất Pháp ? Phật giáo hẳn đã có mặt từ trước tại đây rồi, nhưng chưa có một hoạt động cụ thể nào nổi bậc và đến giai đoạn nầy là thời kỳ chín muồi để cho hình thức tiêu biểu Phật giáo kết duyên lành với người bản xứ !

Hội Phật giáo tại Pháp hoạt động không ngừng. Từ năm 1940 trở đi do sự trực tiếp điều hành của cô Suzanne Karpeles và sự cộng tác của cố thi hào Mauric Margre (mất năm 1942). Hội cũng đã xuất bản một số sách Phật giáo đáng kể như : Les Meditations Bouddhique của cô Lounsbery, La Parole Bouddha do cô Lafuente dịch từ sách chữ Phạn.

Năm 1939 hội Phật giáo Pháp có xuất bản tờ tạp chí tên là "La Pensée Bouddhique" và cho đăng tải phần giáo lý các bài dịch từ chữ Pali sáng tiếng Pháp.

Ảnh hưởng của tờ báo rất sâu rộng trong học giới Tây-phương. Các vị Thượng-Tọa, Đại-Đức, nhiều học giả Âu Mỹ, Trung-Hoa, Nhật-Bản và ngay cả hội Viễn-Đông Bác-Cổ Hà-Nội đều cộng tác. Hội Phật giáo Pháp với cơ quan ngôn luận mở rộng, là nơi gặp gở thuận tiện giữa các nước Phật giáo như Lào, Thái và đặc biệt hơn cả có ảnh hưởng tới Phật giáo Việt-Nam trong giai đoạn nầy.

Hội hoạt động đều đặn và mỗi năm đều có tổ chức ngày lễ đức Phật Đản-Sanh và ngày Phật Thành-Đạo. Năm 1950 hội Phật giáo Pháp chính thức được mời tham dự đại hội Phật giáo thế giới lần đầu tiên tại Tích-Lan với 27 quốc gia hội viên tham gia, do cô Lounsbery làm Trưởng phái đoàn và cũng là Phó hội trưởng hội Phật giáo Pháp-quốc. Các kỳ đại hội Phật giáo thế giới kế tiếp được tổ chức tại Tokyo (1952), Ngưỡng-Quang (1954), Nepal (1956), hội đều có tham dự.

Từ năm 1950 hội đã mời được Thượng-Tọa tiến-sĩ Rahula vào chức hội trưởng. Từ đó hội đã thu nạp được nhiều hội viên, tổ chức các lễ lộc quan trọng trong năm, cũng như mỗi tuần đều có giảng kinh, thuyết pháp.

Hy vọng rằng, ngày nay với tầm hoạt động lớn mạnh của các tổ chức Phật giáo Việt-Nam tại Pháp, là cơ hội tốt cho người bản xứ có được cái nhìn toàn vẹn và việc tìm hiểu Phật giáo hẳn dễ dàng và sâu rộng hơn.

6.- Phật Giáo Hoa Kỳ : Việc Truyền Bá Và Phát Triển Ra Sao ? (^)

Hoa-Kỳ có thể nói là một nước mà đạo Thiên-chúa đã sớm được truyền vào, với một số người tin theo. Như thế, đạo Phật làm sao có thể vào được xứ sở vốn cá dân số tạp chủng nhất thế giới nầy ?

Chính người Nhật-Bản và người Trung-Hoa đã tiền phong trong việc đem đạo Phật vào xứ sở Hiệp-Chủng-Quốc. Cho tới nay chúng ta chưa biết đích xác được Phật giáo đã có mặt tại đây vào đúng năm nào, nhưng có lẽ buổi bình minh của Phật giáo tại Hiệp-Chủng-Quốc sau đệ nhị thế chiến năm 1946-1950.

Hội Phật giáo Mỹ-Nhật đã được thành lập rải rác trong các Tiểu-bang Hoa-Kỳ như Hawaii, Seattle, San Francisco, Fresno. Los Angeles ... Ngôi chùa Phật giáo ở Honolulu là trung tâm du lịch đã được thiết lập ngay giữa ánh sáng của đô thị. Đại học Phật giáo mới tại New York được xây đối diện với sông Hudson là nơi thuộc vùng ảnh hưởng Phật giáo quan trọng nhất thuộc về bờ biển phía Tây. Ngoài ra, còn có những trung tâm Phật giáo thế giới và những ngôi chùa Thiền do người Nhật thành lập trong hơn 30 năm trước đây tại Nữu-Ước. Tại New Jersey còn có một ngôi chùa Mông-Cổ hay một vài chùa Phật giáo Trung-Hoa ở Los Angeles và vài năm sau vào năm 1973 Viện Đại-học Đông-Phương (College of Oriental Studies) cũng được thành hình tại thành phố nầy. Hai nơi nầy đã quy tụ được một số người bản xứ theo học Thiền và nghiên cứu Phật giáo. Ngoài ra, các ngôi chùa Phật giáo Việt-Nam cũng được thành lập tại Washington D.C. và rải rác khắp các tiểu bang.

Ngày nay, người Hoa-Kỳ để ý đến việc nghiên cứu tư tưởng Phật giáo là dấu hiệu cho thấy nền văn minh Tây-phương đã không đáp ứng được nhu cầu cho cuộc sống tinh thân của con người một cách trọn vẹn.

7.- Phật Giáo Đức Quốc Thời Kỳ Du Nhập Và Tầm Ảnh Hưởng (^)

Khi đề cập tới Phật giáo ở phương trời Tây, người ta đặc biệt lưu tâm tới dân tộc Đức nhiều hơn từ sau đệ nhất thế chiến chấm dứt. Và cũng kể từ đó Phật giáo có cơ hội nẩy nở tại đất nước nầy.

Tại sao tôi xác quyết như vậy ? Căn cứ vào bài viết của Max Hoppe, người Đức đã đăng trong tạp san Pháp Á (France-Asie) xuất bản vào năm 1959 tại Sàigòn, thì chính tiến-sĩ George Grimm là người đầu tiên khai sáng ra Hội Phật giáo tại Đức lấy tên là : Alt Buddhistisch Gemeinde" (Old Buddhist Commuty) vào năm 1921 và đã quy tụ được hàng ngàn hội viên cùng nhau tu học và nghiên cứu Phật giáo. Chính Dr. George Grimm cũng đã viết những cuốn sách về Phật giáo như : Die Lebredes Buddha (The Doctrine of The Buddha), Die Religion der Vernunft und der Meditation (The Religion of Reason and Meditation), đã được cơ sở Hoble Verlag xuất bản. Các sách ấy hiện nay cũng đã được K.E. Neumann dịch sang tiếng Anh để phổ biến sâu rộng khắp các nơi. Đặc biệt, cả Grimm và Neumann lúc tuổi trẻ có nghiên cứu về A. Schopenhauer. Chính Schopenhauer tự nói mình là một Phật tử chân chính, hiểu rất nhiều về giáo lý của đức Phật. Tại nhà có thờ một pho tượng Phật mạ vàng vĩ đại. Cuộc đời của Schopenhauer được xem như là vị Đại-Đức có đức hạnh sáng ngời.

Ngoài ra dân tộc Đức còn đọc sách về Phật giáo của Friedrich Zimmermann (1857-1917) như : Buddhist Catechism đồng thời được dịch ra nhiều thứ tiếng. Nhiều học giả khác như tiến-sĩ Karl Seidenstiicker (1876-1936) có nghiên cứu về tư tưởng Đông-phương. Đặc biệt những sách dịch kinh điển Phật gtíao từ tiếng Pali sang tiếng Đức của ông cũng được xuất bản vào năm 1923. Mục đích của hội Phật giáo là nghiên cứu triết học tôn giáo và tìm những nguyên lý cho cuộc sống, mà giáo lý của đạo Phật như là sự hướng dẫn cần thiết cho con người trong xã hội hiện đại.

Hội Phật giáo Đức đã nổ lực hoạt động và duy trì được cho tới ngày nay. Sau khi George Grimm qua đời vào ngày 26/8/1945, thọ được 78 tuổi, thì người con gái là bà Maya Keller Grimm kế tục phát triển công việc của cha cho hội Phật giáo.

Ngôi nhà, trụ sở của hội Phật giáo Đức tại Utting on-Ammersee (upper Bavaria) mang tên là George Grimm. Hiện nay, cơ sở ấy trở thành nơi thờ phụng và cũng là một địa điểm hành hương cho du khách các nơi đến thăm viếng.

Từ năm 1950, các sách của George Grimm như Ewige Fragen (Eternal Questions), Die Botschaft des buddha, der Schliissel Zur Unster Blichkeit (the Message of the Buddha, the Key to Immortality), Der Buddha Weg fiir Dich (the Buddha way for you) đã được xuất bản.

Năm 1955, Hội Phật giáo thứ hai tại Đức được thành lập tại Franckfurt-am-Main lấy tên là "Deutsche Buddhistische Gesellschaft (German Buddhist Society) và các chi hội được thành lập tại Hamburg, Munchen, Berlin ...

Dân tộc Đức ngày nay đang hướng về Đông-phương để tìm hiểu mà tư tưởng Thiền của Phật giáo đặc biệt được chú trọng hơn cả.

8.- Phật Giáo Miến Điện : Việc Truyền Bá Và Phát Triển Ra Sao ? (^)

Khó có ai xác định đúng thời kỳ và niên đại nào Phật giáo đã du nhập vào Miến-Điện (Burma) được cả.

Theo sử liệu cho biết thì vào thế kỷ thứ 5, tức là thời kỳ Thiri Khettara đã có những tăng sĩ Phật giáo thuộc phái Đại-thừa (Mahayanists) từ phương Bắc (chỉ Ấn-Độ) đã đem Phật giáo vào xứ nầy rồi.

Ngoài ra, vào tháng 12 năm 1952 chùa Shway Sandaw thuộc miền Đông đã khám phá ra được thánh tích của chiếc răng Phật bằng vàng và nhiều tượng Phật đồng hay bằng vàng khác. Những chi tiết trên, chứng tỏ cho thấy, Phật giáo đã có mặt tại Miến-Điện rất sớm, từ hàng ngàn năm trước. Ngôi chùa vừa nêu do vua Dvattabaung thành lập (?). Do đó, Miến-Điện còn gọi là xứ Kim-Xỉ (răng vàng) cũng do dựa vào di tích lịch sử nầy mà thành hình. Phật giáo phái Theravada truyền vào Miến-Điện do vua Anoratha vào năm 1044. Ta có thể nói được rằng Phật giáo Miến-Điện chịu ảnh hưởng bởi hai luồng tư tưởng Đại-thừa và Tiểu-thừa hay bằng đường bộ và đường thủy. Nhưng chỉ có phái Phật giáo Theravada là thích hợp hơn cả.

Năm 1622-1629 vua Sawlu lên thay vua Anoratha, nhưng suốt trong thời kỳ tại vị, ông không có một hoạt động nào nổi bậc đáng kể cho Phật giáo, ngoài việc xây dựng 2 ngôi chùa ở vùng Monywa và Minbu.

Năm 1629 vua Kyansittha lên kế vị hoàn thành việc xây cất ngôi chùa Shwe see-khon đã được vua Anoratha xây cất dở dang. Ông nổ lực trong việc truyền bá phật giáo cũng như việc xây dựng chùa chiền.

Năm 1635 ông xây chùa Ananda ở Pagan, là một di tích lịch sử rất nổi tiếng. Vua Kyansittha là người đầu tiên cho lập nhiều chùa nhứt và còn thiết lập các tự viện nổi tiếng như chùa Myazedi và tháp chuông Myazedi.

Năm 1657 vua Alaungsithu lên thay. Năm 1686, chùa That-Byin-Nyu được xây theo lối kiến trúc kiểu Ấn-Độ.

Suốt trong hai triều vua Narathu (1712-1715) và Naratheinkha (1715-1718) không có một hoạt động Phật giáo nào đáng kể.

Năm 1818, vua Nara Pati-Sithu lên thay, là người rất sùng kính Phật giáo ra sức truyền bá giáo lý đạo Phật. Miến-Điện ngày nay là một trung tâm du lịch nổi tiếng về những di tích lịch sử Phật giáo hơn là sự phát triển của đạo Phật.

9.- Phật Giáo Bỉ Quốc Như Thế Nào ? (^)

Bỉ là một quốc gia rất đặc biệt về địa lý cũng như về mọi mặt sinh hoạt khác. Trong toàn quốc chia ra làm 2 phần : Phần một gồm những người Fanders khoảng chừng 8,500,000 người nói được tiếng Đức và 80% đều là Thiên-chúa-giáo. Trong khi đó tất cả những vùng còn lại nói tiếng Pháp. Wallony là vùng kỷ nghệ có độ 6,500,000 người và chỉ có chừng 40% theo đạo Thiên-chúa. Như thế Phật giáo truyền vào xứ nầy bằng cách nào ?

Nhờ nghiên cứu những tác phẩm viết về Phật giáo mà nhiều người Bỉ đã hiểu được giáo lý của đạo Phật và họ bắt đầu tiếp xúc với Á Châu bằng tinh thần Phật giáo. Một Hội Phật giáo được thành lập tại Bruxelles lấy tên là "Eglise Bouddhique Universelle" (Societe Bouddhique Belge) vào khoảng năm 1940. Năm 1944, ở Liberation một số người Bỉ có khuynh hướng cấp tiến đã lập nên một Hội Phật tử mang tên là "Buddhist Group" để tu học, tức là Hội Phật giáo thứ hai tiếp theo hội đã thành lập tại Bruxelles.

Vào khoảng năm 1956 có một nhà sư người Tây-Tạng đến đây và truyền bá Phật giáo rộng rải tại Bỉ quốc. Ông có mở trường và dạy đạo cho người bản xứ. Nhờ đó tinh thần Phật giáo ngày càng ảnh hưởng sâu rộng trong quần chúng. Những tổ chức Phật giáo được thành lập bởi người Bỉ hay do các tăng sĩ ngoại quốc. Một trung tâm Phật giáo được thành lập tại Bruxelles sau hội Buddhist Group là do một người Anh, ông Ficher chủ trương. Hội cũng đã có những hoạt động Phật giáo rất tích cực. Ngoài ra, ông Kiere (người Bỉ) thành lập hội nghiên cứu Phật giáo vào khoảng từ 1950-1960 bên cạnh tổ chức Mission Bouddhique Belge.

Tóm lại, người Bỉ có dịp tiếp xúc với nền văn minh Đông-phương qua tư tưởng Phật giáo là nhờ những kinh sách và người ngoại quốc đem đạo Phật truyền bá tại đây như một luồng sinh khí mới thổi vào trong mọi sinh hoạt cho dân tộc bản xứ.

10.- Phật Giáo Cambodge Thành Hình Và Phát Triển Như Thế Nào ? (^)

Campuchia sớm ảnh hưởng nền văn minh Ấn-Độ. Vì thế đạo Bà-la-môn và đạo Phật là 2 tôn giáo thiết lập những yếu tố cần thiết cho nền văn minh Ấn, hẳn đã chịu tiếp thu tư tưởng Phật giáo lâu đời.

Buổi sơ khai, dân tộc Khmer tin vào thiên nhiên như các thần linh : Lửa, gió, sấm, sét và những tín ngưỡng dân gian khác ở từng địa phương. Đó là lý do khiến cho Phật giáo hòa nhập được dễ dàng tại đây.

Có nhiều giả thuyết cho rằng, Phật giáo đã có mặt tại Campuchia vào thế kỷ thứ 3 Tây lịch, do các vị tăng sĩ theo các nhà hàng hải Ấn-Độ đến từ các hải cảng phía nam của xứ Phù-Nam (tên củ ?) Campuchia còn gọi là xứ vàng (Pays de l'Or, the land of Gold) hay Kin-lin hoặc "Muraille de l'Or". Theo tài liệu nghiên cứu của Tích-Lan thì Phật giáo đã được thiết lập tại Campuchia vào năm 309 Tây lịch. Xứ Khmer lúc bấy giờ là một phần của Đông dương Suvarnadhumi hay miền Đông-Nam-Á. Lúc đó người bản xứ tự cho mình là vua của miền rừng núi, nhưng người Trung-Hoa gọi họ là Fou-nam (Phù-Nam). Kinh đô đặt tại T'O-mou tức là Dalmark và có nghĩa là "Chasseur" (người thợ săn).

Vua Tchen-La chinh phục đất Phù-Nam lên ngôi gọi là Bhavavarman đệ I vào giữa thế kỷ thứ 6, mở ra kỷ nguyên cho triều đại Tchen-La. Phật giáo Theravada cũng như đạo Bà-la-môn cùng phát triển song song ở vào thời kỳ nầy.

Năm 802, vua Jayavarman đệ II nối ngôi và dời kinh đô từ Siem-Reap sang Phnom-Kulin, mặc dù vua không theo đạo nào, nhưng Phật giáo vẫn tiếp tục tồn tại.

Năm 1811, vua Jayavarman đệ VII lên thay, mở ra một kỷ nguyên mới cho Campuchia, vì là một Phật tử thuần thành, ông biết đem áp dụng đạo Phật vào việc trị quốc an dân.

Từ thế kỷ thứ 15 cho tới nay, Phật giáo mất dần ảnh hưởng. Một phần lớn các chùa đều bị hư mục bởi chiến tranh gây ra, một phần do sự chậm tiến của dân tộc Khmer không theo kịp nền văn minh hiện đại. Phần nhiều các ngôi chùa tại Cambodge đều có nóc nhọn chỉa lên trời và phần đông các tăng sĩ đều quấn y vàng. Có lẽ cũng vì lý do nầy mà người ngoại quốc ưa gọi xứ Miên là xứ Chùa Tháp hay là xứ của nhà tu Phật áo vàng vậy.

Còn một điểm son đáng kể là người dân Campuchia từ vua, quan, dân giả đều chịu sự giáo dục của Phật giáo từ nhỏ. Lúc lên 12 tuổi nam giới phải vào ở chùa 2 năm và gọi là lễ Samanera. Năm 20 tuổi hay 21 tuổi những người bạn trẻ ấy nếu tiếp tục tu luôn ở chùa sẽ được thọ giới Tỳ-kheo (tức 250 giới để lên hàng Đại-Đức).

Bất cứ một người Miên nào, nếu chưa một lần vào chùa tu thì không được xã hội thừa nhận. Đây chính là một dân tộc biết áp dụng triệt để tinh thần hòa bình, từ bi, lợi tha của Phật giáo trong việc trị quốc an dân. Vì họ tin theo lý nhân quả tất định : Ai gây nhân lành sẽ được hưởng quả tốt (Qui fait lebien recoit le bien ; qui fait le mal recoit le mal)

Mặc dù vậy, nhưng đến đầu năm 1975, dân tộc xứ Khmer bị nhuộm đỏ dưới chế độ độc tài cộng sản và họ hiện đang thoi thóp kêu gọi sự cứu trợ của thế giới tự do, cho những người dân xứ Chùa-Tháp khổ đau bằng tinh thần cứu khổ của đạo Phật.

11.- Phật Giáo Nam Dương Có Từ Bao Giờ Và Tầm Ảnh Hưởng Ra Sao ? (^)

Nam-Dương là một xứ quần đảo cheo leo nằm ngoài biển và ít có sự liên lạc với đất liền. Muốn biết rõ Phật giáo có mặt tại đây đích vào năm nào cho tới nay chưa có ai trả lời được cả.

Căn cứ vào những tác phẩm Phật giáo bằng tiếng Pali đã được đưa vào Nam-Dương cuối thế kỷ thứ 3 Tây lịch, theo truyền thuyết. Ngoài ra cũng còn có thuyết cho rằng vào thời vua Gunavarma (420-424) Phật giáo mới thật sự có mặt tại Java (tên cũ).

Năm 665 có một tu sĩ Phật giáo người Trung-Hoa là Houei-neng sang Java và ở lại đây trong 3 năm để hướng dẩn cho Phật tử những sinh hoạt cần thiết. Nhất là tư tưởng Phật giáo sớm ảnh hưởng trong dân tộc bản xứ qua văn hóa Á-Châu.

Năm 671 lại một vị sư người Trung-Hoa tên là Yi-Tsing sang Ấn-Độ du học Na-Lan-Đà, lúc trở về có ghé lại Sri Wijaya (thủ đô) trong 4 năm từ năm 685-689.

Năm 717 có một tăng sĩ người Tích-Lan (Ceylan) là Vajrabodhi trên đường đi Trung-Hoa có ghé lại Sri Wijaya trong 5 tháng để dò xét đường đi và được nghe kể lại rằng hơn 50 năm về trước ngoài Yi-Tsing ra, còn có 20 tăng sĩ người ngoại quốc khác đã có mặt tại Nam-Dương. Trong số đó phần nhiều đều là người Trung-Hoa, với một vị tăng người Việt-Nam và 2 người Đại-Hàn đã sống tại Java. Chính Yi-Tsing và nhiều đoàn hành hương khác đã đặt chân tới Sri Wijaya để nghiên cứu tiếng Sanskrit trước khi tiếp tục sang Ấn-Độ. Sri Wijaya, vì thế có thể nói là trung tâm cho việc nghiên cứu Phật giáo, đồng thời cũng là thủ đô của Nam-Dương.

Ngày nay tại Java, trong số những lâu đài Phật giáo cổ kính nhất đều nằm nơi đảo Candi Sari. Tất cả những tác phẩm nghệ thuật Phật giáo ngày nay đều được bảo tồn tại Viện-Bảo-Tàng Jakarta.

Tư tưởng Phật giáo đã bám rễ sâu vào lòng dân tộc Nam-Dương. Cho tới ngày nay, dân chúng bản xứ sống trong hòa bình được là nhờ ảnh hưởng nơi Phật giáo về tinh thần từ bi và bình đẳng.

12.- Phật Giáo Thái Lan Hình Thành Và Phát Triển Như Thế Nào ? (^)

Phật giáo truyền vào Thái-Lan lúc nào và do ai mang đến, có lẽ cho tới nay không ai còn thắc mắc nữa, vì chính Thái-Lan đã sống trong tinh thần Phật giáo và giáo lý đạo Phật được triển khai áp dụng một cách rộng rãi và cỡi mở tại đây.

Nói về Phật giáo Thái-Lan, chúng ta căn cứ vào 4 thời kỳ như sau:

Thời kỳ thứ nhất : Phật giáo Tiểu-thừa hay Hinayana mà hiện nay tại Nakon Pathom pho tượng Phật Chuyển-Pháp-Luân (Dharma Chakra, Wheel of Law) ngồi trên tòa sen vẫn còn. Theo truyền thuyết, Phật giáo đã có mặt tại Thái-Lan từ thế kỷ thứ 5, trước Tây lịch, vào thời đại vua Asoka (Ấn-Độ). Đây là một hình thức Phật giáo thuộc phái Theravada đến từ con đường phía Nam.

Thời kỳ thứ hai : Phái Đại-thừa hay Phật giáo Bắc truyền, cũng ảnh hưởng trực tiếp từ Ấn-Độ. Năm 757, vua Srivijaya lên trị vì lấy tinh thần lợi tha của Phật giáo làm căn bản.

Thời kỳ thứ ba : Chịu ảnh hưởng Phật giáo Miến-Điện. Vào năm 1050 vua Amurudh của Miến-Điện là một Phật tử, mở mối bang giao chặc chẻ với Thái-Lan, và Phật giáo Theravada cũng được đưa tới các vùng như Chiengmai, Lopbari và Nakon Pathom ngày nay đều thuộc phái Tiểu-thừa. Điều nầy có nghĩa là Phật giáo miền Bắc Thái chịu ảnh hưởng của Tiểu-thừa, trong khi đó miền Nam thuộc Đại-thừa.

Thời kỳ thứ tư : Ảnh hưởng Phật giáo Tích-Lan năm 1696, vua Parakramabahu cai trị Tích-Lan dưới ảnh hưởng lớn của Phật giáo. Vua là người đứng ra tổ chức một hội nghị Phật giáo thế giới tại Maha Kassappa Thera (Tích-Lan). Nhiều tăng sĩ từ Miến-Điện Pegu, Kambuja, Lào đều được trao đổi sang Thái-Lan để học Phật giáo.

Năm 1300, sau khi học ở Tích-Lan về, những tăng sĩ Thái-Lan, trước hết thiết lập tại Nakon Sri Thammarath (miền Nam) nhiều trường Phật giáo chịu ảnh hưởng nền giáo dục theo Phật giáo Tích-Lan. Do đó, Phật giáo Tích-Lan đã được phổ cập tại đất Thái-Lan.

Như vậy, Phật giáo Thái-Lan trước đây chịu ảnh hưởng từ Ấn-Độ, sau dần dần chuyển hướng sang Phật giáo Miến-Điện và cuối cùng ảnh hưởng sâu đậm bởi Phật giáo Tích-Lan cho tới ngày nay. Phật giáo vẫn được duy trì và phát triển với những ngôi Quốc-Tự tại đây, với những Tăng sĩ A-xà-lê (A-Chan) và tinh thần Phật giáo đã thấm nhập vào văn hóa, tư tưởng của dân tộc Thái-Lan qua tinh thần Đại-thừa và Tiểu-thừa Phật giáo.

13.- Phật Giáo Tây Tạng Có Từ Bao Giờ, Sự Phát Triền Ra Sao ? (^)

Lịch sử Phật giáo Tây-Tạng chỉ mới bắt đầu từ hậu bán thế kỷ thứ 7 và đầu thế kỷ thứ 8. Vợ vua Srong-Tsan-Gam-Po là Hoàng-hậu xứ Nepal, bà Bhrikuti và một người Trung-Hoa, bà Wang-Chen, là những Phật tử. Đây là giai đoạn mở đầu cho Phật giáo vào Tây-Tạng ở thế kỷ thứ 7.

Vua Ti-Srong sang du lịch Ấn-Độ và viếng các nơi Thánh tích Phật giáo, cũng như đã mang về nước một số tác phẩm Phật giáo bằng tiếng Sanckri để truyền bá cho dân chúng. Phật giáo Tây-Tạng ảnh hưởng từ Phật giáo Ấn-Độ.

Triều đại Ti-Srong-De-Tseu vào thế kỷ thứ 8, với việc tranh chấp quyền lực quân sự đã diễn ra. Vua có ý hướng tôn quân như bậc Thiên-tử, nên chống lại tôn giáo và gây khó khăn cho những Tăng sĩ Ấn-Độ đang hành đạo tại Tây-Tạng. Em vợ vua là Padmasam-bhava là một Phật tử thuần thành và là một trong những giáo sư nổi tiếng của đại học Nalanda. Ông đến Tây-Tạng vào năm 747 và truyền bá đạo Phật, nhất là việc lập lại trật tự tôn giáo, phương pháp tư duy ... đã được dân chúng nhiệt tình ủng hộ. Vua Ti-Srong từ trần vào năm 786.

Một nhóm 7 Tăng sĩ Tây-Tạng đã làm việc phiên dịch kinh Phật từ tiếng Phạn sang tiếng Tây-Tạng. Một vị nỗi danh trong số đó là Vairocana, đã dịch một số lớn những sách Phật nổi tiếng. Việc trao đổi quan hệ giữa Ấn-Độ - Tây-Tạng nhờ những tác phẩm phiên dịch kia mà thành tốt đẹp.

Những tác phẩm của Thế-Thân, Vô-Trước, Long-Thọ Bồ-Tát, nhất là phần Duy-Thức-Học đều đã được dịch sang tiếng Tây-Tạng. Người cháu vua Ti-Srong-De-Tseu là Bons là một Phật tử lên kế vị năm 900, nhưng không nhiệt tâm ủng hộ và Phật giáo phải chịu đình trệ trong 2 thế kỷ.

Năm 1122, có Marpa cũng như Padmasambhava đều không phải là tu sĩ Phật giáo, nhưng họ là những người được dân chúng coi như bậc Tôn-sư hướng dẫn tinh thần.

Năm 1575, nhà sử gia nổi tiếng là Taranatha lập một chi nhánh của trường phái Sa-skya-pa được điều hành bởi vị Thánh sống Ourga "Jetsun Dampa" (Saint Reverend).

Vào những năm đầu thế kỷ 16, vị đại thánh Lama d'Ourge đã từ trần. Lúc bấy giờ trật tự, xã hội, chính trị trong nước trở nên rối ren.

Năm 1356, vua Tsong-kha-pa thành lập triều đại Dge-lugs-pa là một hình thức tôn giáo quốc gia và đây là thời kỳ mở đầu cho chế độ Đạt-Lai Lạt-Ma, chúng ta ưa gọi là những vị Phật sống tại Tây-Tạng.

Từ khi có các vị Đạt-Lai Lạt-Ma, Phật giáo dưới triều Dge-lugs-pa bành trướng rất mạnh. Giáo pháp Đại-thừa được xiển dương rộng rãi. Những Tăng sĩ được sự khuyến khích giúp đở, nhờ đó dân tộc Tây-Tạng thấm nhuần được giáo lý đạo Phật như món ăn tinh thần cần thiết.

Ngày nay nhìn vào Phật giáo Tây-Tạng, người ta nghĩ ngay tới hình ảnh sống thực của những vị Đạt-Lai Lạt-Ma mà chính dân tộc bản xứ cũng coi như những vị Bồ-Tát hóa thân vậy.

phật giáo Tây-Tạng được xem như là quốc giáo vì biết áp dụng tinh thần từ bi, hùng lực của tôn giáo vào việc xây dựng quốc gia, đã đem lại được cho toàn dân một nền hòa bình an lạc.

Bất hạnh thay năm 1959, Tây-Tạng bị Trung-Cộng đàn áp. Đức Đạt-Lai Lạt-Ma đời thứ 14 phải lánh nạn sang Ấn-Độ, có đem theo khoảng 100,000 dân, lập thành trung tâm Phật giáo. Từ đó đến nay đức Đạt-Lai Lạt-Ma không ngừng vận động dư luận quốc tế cho dân tộc Tây-Tạng thoát ách thống trị Trung-Hoa, đòi độc lập tự do.

14.- Phật Giáo Úc Đại Lợi Có Từ Lúc Nào Và Sự Phát Triển? (^)

Lịch sử Phật giáo Úc là một câu chuyện ly kỳ khó tin nhưng đó là việc có thật còn truyền lại nơi sử liệu : Một Tăng sĩ quốc tịch Hoa-Kỳ muốn tranh tài với các người chị mạo hiểm đi từ Tích-Lan sang Trung-Quốc vào thế kỷ thứ 18 như một chuyến du lịch không ngày về, sau cũng đến Úc. Đó là Đại-Đức Dhammadina.

Dân tộc Úc chưa biết gì nhiều về Phật giáo, ngoài việc đọc được một số các sách dịch sang tiếng Anh, tư tưởng Đông-phương của chính những tác giả người Âu Mỹ.

Đại-Đức Dhammadina đã mở những cuộc vận động tinh thần rộng rãi, vì thế đạo học Đông-phương, nhất là Phật giáo sớm ảnh hưởng tại xứ nầy. Dưới sự bảo trợ của ông ta, nhiều Hội Thiền được thành lập tại các đô thị lớn. Nhờ đó dân chúng hiểu biết về Phật Pháp và cách thức thực hành Phật giáo. Đại-Đức Dhammadina đã mở màn kỷ nguyên mới cho xứ Úc bằng tinh thần Phật giáo. Vào những thế kỷ sau, nhất là ở thế kỷ 19 các Tăng sĩ Tích-Lan, Miến-Điện, Thái-Lan cũng đã lần lượt đặt chân tới Úc. Họ là những người mang đến tinh thần hòa bình, lợi tha của Phật giáo. Dân tộc Úc ngày nay đã làm quen với các sinh hoạt Phật giáo nhờ những cuộc vận động, lễ bái qua nghi thức Phật giáo hằng năm.

Hiện nay tại Úc có 3 Hội Phật giáo thành hình. Tổng số hội viên gồm cả trên 1000 người đang nghiên tu Phật giáo. Đó là Hội Thanh Niên Phật tử Úc tại Victoria, Hội Phật giáo tại New South Wales. Hội có ra tờ bán nguyệt san để phổ biến giáo lý Phật-Đà. Hội Phật giáo tại Victoria và New South Wales họp thành liên minh Phật tử để thống nhất đường lối cũng như giúp đở nhau trong tinh thần từ bi, bình đẳng. Hội cũng đã ra tờ bản tin "Metta" để truyền thông những sinh hoạt cần thiết và một ít bài giáo lý căn bản. Tờ tạp chí ấy nay cải danh thành Buddhism Today.

Trong tương lai, Phật giáo Úc-Đại-Lợi như thế nào ? Từ năm 1970, số Việt kiều mỗi ngày tới định cư tại Úc càng đông, trong số đó đa số là Phật tử. Năm 1980, hai Hội Phật giáo Việt-Nam được thành lập tại Sydney và Brisbane là Vietnamese Buddhist Society, cũng như hội Phật giáo vừa mới thành hình tại miền Tây Úc và số tín đồ ngày càng đông hơn.

Với đà hoạt động của các hội Phật giáo rầm rộ như thế, chắc chắn Phật giáo còn lớn mạnh hơn tại xứ Úc. Theo như thống kê của Bộ Di Trú Úc, số tín đồ Phật giáo vào năm 1994 là 150,000 người, và còn tiếp tục gia tăng.

15.- Phật Giáo Anh Quốc (^)

Anh-Quốc cũng như các nước Tây-phương khác, chưa biết nhiều về Phật giáo, mãi đến thế kỷ thứ 19, dân tộc bản xứ mới có dịp tiếp xúc với nền văn minh Đôn- phương qua các sách dịch kinh điển sang tiếng Anh và Pháp.

Ảnh hưởng mạnh nhất là Thiền-sư D.T. Suzuki (người Nhật-Bản ở vào tiền bán thế kỷ thứ 19), đã viết những tác phẩm về Phật giáo như "Essays in Zen Buddhism", "Zen", và một trường Theravada do giáo sư Rhys Davids thành lập vào năm 1927.

Đầu tiên ánh sáng đạo Phật truyền vào Tây-phương như là một trong 5 tôn giáo lớn của thế giới (Phật giáo, Thiên-chúa-giáo, Tin-lành, Bà-la-môn và Hồi-giáo hay đạo Islam). Tuy nhiên, cho tới giữa thế kỷ thứ 18, hai tôn giáo Lão và Khổng vẫn được xem như là những tôn giáo lớn, rồi dần dần bị mất hết ảnh hưởng. Mãi tới nay đạo Lão và đạo Khổng không còn đóng một vai trò gì đáng kể trong sinh hoạt tinh thần nữa.

Năm 1907-1908, nhiều học giả người Anh theo nghiên cứu kinh điển Đại-thừa. Đặc biệt năm 1902, ông Robe thành lập hội Phật giáo lần đầu tiên tại xứ nầy.

Năm 1905, ông R.J. Jackson là một Phật tử đã vận động và lập trường Theravada để truyền bá giáo lý Phật-Đà cho dân tộc bản xứ.

Năm 1924, các hội Phật giáo như "The Original Buddhist Society of Great Britain và Ireland" được thành lập. Tại London có hàng ngàn người biết qua tư tưởng Phật giáo bằng các sách và chính họ cũng thực hành Phật giáo như là Phật tử.

Năm 1926, A.C. March thành lập hội Phật giáo "Buddhism in England". Hội đã cho xuất bản cuốn sách "What is Buddhism ?" vào năm 1928. Theo thư tịch, hiện tại nước Anh có trên 3000 tác phẩm viết về Phật giáo, nhất là Phật giáo phái Thiền.

Trong tương lai, Phật giáo nước Anh sẽ ra sao ? Việc nầy còn tùy thuộc vào thái độ và thiện chí của tất cả những Phật tử không những người Anh mà nhất là người Việt-Nam hiện có mặt tại Anh quốc trong vòng 10 năm nay.

16.- Phật Giáo Tích Lan Thời Kỳ Du Nhập Và Ảnh Hưởng (^)

Theo sử liệu chứng minh thì Phật giáo đã truyền vào Tích-Lan vào thế kỷ thứ 3 trước kỷ nguyên Tây lịch, đời vua Devanampiya-Tissa (250-210 B.C). Lúc bấy giờ vua Asoka trị vì ở Ấn-Độ, ra sức xiển dương Phật giáo. Một phái đoàn truyền giáo do Mahinda cầm đầu gồm có 11 người, trong số có 4 vị Tăng Ni và 7 Cư-sĩ đã tới đảo Tích-Lan.

Sự hoạt động của phái đoàn Mahinda rất được vua Tích-Lan kính phục. Họ tổ chức giảng kinh thuyết pháp và các lễ quan trọng khác. Lần thuyết pháp đầu tiên nói về kinh "Tiếu tượng tích dụ" vua rất lấy làm mãn duyệt. Phái đoàn đã quy tụ được đông đảo tín đồ, nên vua tặng một khu vườn để làm tinh-xá gọi là "Đại-Vân Viên". Đây là buổi bình minh Phật giáo Tích-Lan có ngôi chùa đầu tiên còn gọi là Đại-Tự-Viện hay Maha-Vihara thuộc cứ điểm của Phật giáo phái Thượng-tọa-bộ trên bán đảo Tích-Lan (đảo Tam-Bảo). Sa-di Smara cũng đã có đem theo được một phần Xá-Lợi của Phật và bình bát từ Ấn-Độ sang. Ngoài ra, em gái của Mahinda, là Ni-cô Sanga-Mitta cũng mang theo được một nhánh con của cây Bồ-Đề, nơi đức Phật ngồi tham thiền và chứng đạo khi xưa đem tới trồng tại Tích-Lan. Cây Bồ-Đề nầy nay vẫn còn và giữ một vai trò quan trọng trong tín ngưỡng Phật giáo tại Tích-Lan. Đồng thời sau đó, ngôi chùa Bồ-Đề cũng được thiết lập bên cạnh cây Bồ-Đề để nói lên lòng khát ngưỡng và tôn sùng Phật giáo của dân tộc bản xứ. Cũng như để đánh dấu buổi đầu Phật giáo có mặt tại Tích-Lan. Mahinda đến Tích-Lan năm 32 tuổi và nỗ lực truyền đạo không ngừng nên là bậc trưởng lão, người đã có công với Tích-Lan, như một ân nhân mang ánh sáng tới cho họ, tịch vào năm 80 tuổi, xác được hỏa thiêu tại đó.

Vào đầu kỷ nguyên Tây lịch, Phật giáo phái Đại-thừa hưng thạnh trở lại ở Ấn-Độ, nhưng tình trạng Phật giáo Tích-Lan lúc bấy giờ vẫn không có sự thay đổi, một phần do tình thế bất ổn định, phần vì việc ảnh hưởng khi tiếp xúc với Phật giáo phía Nam Ấn-Độ để mong đem lại nền hòa bình cho chính quốc không mấy tiến triển tốt đẹp. Nhưng các đời vua kế tiếp nhìn thấy sự quan trọng của Phật giáo nên lần lượt cho thành lập các tinh-xá và xây tháp mới để phụng thờ, cũng như khuyến khích nhiều người xuất gia tu học Phật ; nhờ đó, Phật giáo Tích-Lan sớm được phục hồi trở lại như xưa.

Đến thế kỷ thứ ba thì Phật giáo phái Đại-thừa được toàn thịnh. Một tín đồ Phật giáo, thuộc phái Đại-thừa từ Ấn-Độ đến đem theo kinh Phương-Quảng và truyền rộng khắp nơi tại đây. Nhưng tới đời vua Voharika-Tissa (214-236) ra sức bảo vệ phái Thượng-tọa-bộ và ra lệnh cho người điều tra sự hoạt động của phái Đại-thừa. Kết quả phái Phương-Quảng được coi là tà thuyết dị đoan nên bị đàn áp và cấm chỉ ! Mặc dù bị áp chế, cấm đoán phái Đại-thừa vẫn âm thầm hoạt động. Đời vua Gothbhaya (253-266) cho phục hồi phái Vô-Úy Sơn-Tự (Abhayagiri-vihara), trong đó có 60 vị Tỳ-kheo thuộc phái Đại-thừa bị truy nả đến tận bờ biển Ấn-Độ. Thời kỳ nầy phái Đại-thừa coi như bị tiêu diệt ! Trong khi đó, 300 vị Tỳ-kheo khác tách riêng ra lập chùa Dakkina để thành một bộ phái mới, là phái Sagariya.

Đời vua Maha-Sena (276-303) cũng tín kính các bậc Tăng sĩ Phật giáo, nhưng cũng đặt kế hoặc triệt hạ phái Đại-thừa. Ai bảo hộ phái nầy như Tỳ-kheo Sangha-Mitra và Vương-phi đều bị xử phạt nặng nề. Các sách của phái Phương-Quảng cũng bị đốt sạch. Tới đời vua Siri Meghavanna (303-331), lên ngôi và nối chí Phụ-vương, ra sức phục hưng Phật giáo và cho tái thiết những nơi di tích bị hư hoại cũng như các chùa cũ đã mục nát. Mỗi năm vua đều thiết lễ kỷ niệm những ngày vía Phật quan trọng và tổ chức cúng dường Trai Tăng, vì thế có thể nói thời kỳ nầy Phật giáo thạnh hành nhất, nên được người đời sau gọi là thời "hoàng kim của chiếc răng Phật". Tương truyền về chiếc răng Phật như sau : Khi vua ở ngôi vào năm thứ 9 (311), có Hoàng-hậu nước Caringa của Ấn-Độ là Hemamara, cùng chồng là Danta-Kumara đến đảo Tích-Lan và mang theo được cái răng cửa bên trái của đức Phật biếu cho nhà vua. Vua cho an trí đệ phụng thờ trong đền Danmachakka do vua Tissa lập. Từ đó phái Phật giáo chùa Vô-Úy-Sơn mỗi năm đều có thiết lễ tế răng Phật. Lễ nầy sau đã trở thành quốc lễ của Tích-Lan và mỗi năm đều có tổ chức rước linh đình từ đền thờ sang chùa Vô-Úy-Sơn.

Vua Kassapa đệ nhất (477-495) giết cha để lên ngôi, về sau vì muốn hối tội lỗi nên lập tinh-xá và mời chư Tăng về ở tu học cũng như ra sức duy trì bảo hộ phái Thượng-tọa-bộ.

Từ thế kỷ thứ 6 trở đi, Tích-Lan có những cuộc dấy loạn nổi lên, do đó tình thế bất an. Phật giáo cũng không phát triển được. Đến thế kỷ thứ 7, vua Dhatupa-Tissa đệ nhất cũng là người ủng hộ Phật giáo, vua lấy việc cầu kinh và làm phước để trừ được tai họa làm phương châm trị quốc. Đến thời Sena đệ nhị (853-887) cũng xiển dương Phật giáo, tổ chức tế lễ cầu nguyện cây Bồ-Đề trường thọ để cho tương lai Phật giáo Tích-Lan được sáng ngời !

Cuối thế kỷ thứ 9 và thế kỷ thứ 10, Phật giáo bị đàn áp, chùa chiền bị phá, tăng ni bị sút giảm, một số phá giới phạm trai rất trầm trọng. Đây là thời kỳ mà quân Cola của Ấn-Độ sang quấy nhiểu biên giới Tích-Lan.

Năm 1055-1110, vua Vizaya-bahu đệ nhất, lên ngôi mới dẹp được loạn quân Cola để đem lại nền độc lập cho Tích-Lan, mở ra thời kỳ Polonnarwa, cũng như ra sức phục hưng lại Phật giáo. Ở ngôi được 55 năm là thời kỳ dài nhất trong lịch sử trị vì, sau vì có sự tranh dành ảnh hưởng trong phái quý tộc và vua chúa, theo đó Phật giáo cũng bị ngưng trệ.

Parakkama-bahu đệ nhất (1153-1186) cũng ra sức chấn chỉnh lại Phật giáo như việc cải tổ lại toàn bộ và cho thống nhất cả ba phái : Đại-Tự phái, Vô-Úy-Sơn phái Và Kỳ-Đà-Lâm phái thành một phái Đại-Tự duy nhất. Phái nầy được coi như trung tâm của Phật giáo lúc bấy giờ. Ngoài ra những vị tăng sĩ nào phạm trai, phá giới đều được cho hoàn tục. Đây là một cuộc cải cách táo bạo, nhưng cũng đạt được nhiều hiệu quả sáng giá trong lịch sử Phật giáo tại Tích-Lan. Một số các chùa chiền cũ mục đã được xây cất mới trở lại. Vua còn ban bố "qui luật tăng đoàn" để làm đẹp đoàn thể xuất gia. Nhưng sau khi vua mất, tình trạng đất nước lâm vào cảnh rối ren kéo dài gần hai thế kỷ và Phật giáo phải chịu chung cảnh ngộ ấy.

Vào Hậu bán thế kỷ thứ 13, đời vua Vizaya-bahu đệ tứ (1270-1272) cũng là một tín đồ Phật giáo thuần thành. Vua cho mở đại giới đàn truyền giới Tỳ-kheo cho những tăng sĩ ưu tú, có đủ điều kiện, và một số hoạt động cho Phật giáo khác rất đáng kể như chính vua thọ giới Bồ-Tát và lấy tư cách là một Phật tử để thi hành việc quốc gia, do đó ảnh hưởng rất thuận lợi cho Phật giáo.

Vua Bhuvaneka-bahu đệ nhị (1293-1302) lên ngôi để chấm dứt htời kỳ Polonnarwa và lập ra thờ kỳ Kerne-Gara. Tiếp tới đời vua Parakkama-bahu đệ tứ (1302-1326) là những thời kỳ tái thống nhất xứ sở và cũng là giai đoạn phục hưng lại nền Phật giáo cổ truyền. Nhưng tới đời vua Vaneka-bahu đệ tứ (1341-1351) lại tin theo Ấn-Độ giáo (Hindus) nên có sự thờ tự lẫn lôn giữa Phật với thần, mặc dù không bài xích Phật giáo, Vua vẫn có một tín ngưỡng khác, do đó Phật giáo thời kỳ nầy không có dấu hiệu phát triển như ở các đời vua trước.

Vào Hậu bán thể kỷ thứ 15, vua Bhavaneka-bahu đệ lục (1470-1476) rất tích cực trong việc phát triển và bảo vệ Phật giáo. Lúc bấy giờ tại Miến-Điện, vua Dammacedi (1472-1492) một mặt lo kiến thiết xứ sở, mặt khác vua muốn Phật giáo có ảnh hưởng sâu rộng, nên cử một phái đoàn tăng sĩ sang Tích-Lan để nghiên cứu kinh điển Phật giáo bằng tiếng Pali tại Colombo, thủ đô của Tích-Lan.

Thế kỷ thứ 16, Tích-Lan bị Hòa-Lan (Holland) và Bồ-Đào-Nha (Portugal) chi phối, đến nổi tiếng Bồ-Đào-Nha trở thành chữ Quốc-ngữ và có sự pha trộn huyết thống hỗn tạp giữa hai dân tộc. Bị Bồ-Đào-Nha chi phối hơn 100 năm, sau đó Tích-Lan lại rơi vào sự thống trị của Hòa-Lan. Đây là thời kỳ Phật giáo bị triệt hạ vào thế kỷ thứ 18 và đầu thế kỷ thứ 19, bởi người Hòa-Lan đem đạo Thiên-Chúa và đạo Protestant (Tin-Lành) truyền vào Tích-Lan. Vì thấy sự mai một của đạo Phật cổ truyền, nên khi lên ngôi vua Kitti siri Razasihi (1747-1781) có ý hướng muốn chấn chỉnh trở lại. Do lời đề nghị, vua cử Sa-di Velivita Saranankara sang Thái-Lan để thỉnh kinh và tượng Phật về thờ, vào năm 1650, được vua Thái lúc bấy giờ là Danmika cử một phái đoàn gồm 15 người, do Tỳ-kheo trưởng lão Upali cầm đầu mang theo nhiều kinh điển và tượng Phật bằng vàng để tặng cho Tích-Lan. Năm 1753 một Đại-giới-đàn cũng được mở tại Colombo để truyền Tỳ-kheo-giới. Vua cho sửa đổi lại quy ước tăng đoàn và phong tăng cho Sa-di Velivita Saranankara, người có công lao lớn nhất trong việc thỉnh được phái đoàn và pháp khí, tượng Phật về thờ tại Tích-Lan, là tăng đoàn vương (Sangharaza) ; đây là thời kỳ Phật giáo huy hoàng rực rỡ và còn ảnh hưởng cho tới nay một phái gọi là phái Siam, do phái đoàn Thái-Lan lập.

Sau khi thoát khỏi sự thống trị của Hòa-Lan, Tích-Lan lại rơi vào ách thống trị của người Anh từ năm 1832. Trải qua hơn 100 năm cho tới năm 1948, Tích-Lan mới thoát được ách đô hộ của ngoại bang và tuyên bố độc lập. Từ đó đến nay Tích-Lan tìm về tình tự dân tộc trong tinh thần lợi tha bình đẳng của Phật giáo.

Năm 1950 kỳ đại hội Phật giáo thế giới lần đầu tiên được tổ chức tại Sri-Lanka, Colombo gồm có 27 quốc gia hội viên tham dự, trong đó có phái đoàn Phật giáo Việt-Nam, là dấu hiệu cho thấy tinh thần Phật giáo đã bắt được theo nhịp sống của dân tộc Tích-Lan.

Ngày nay, theo sự điều tra của chánh phủ Tích-Lan vào năm 1971, so với dân số thì Phật giáo đồ chiếm 2/3 tổng số và chia ra như sau : Phật giáo 67.4%, Ấn-Độ giáo 17.6%, Thiên-Chúa giáo 7.8%, đạo Islam 7.1% ngoài ra, độ 1% dân số Tích-Lan theo các tín ngưỡng phức tạp khác.

Về sinh hoạt của giới Tăng sĩ Tích-Lan hầu hết đều quấn y vàng và thực hành hạnh khất thực (Phật giáo phái Nguyên-thủy hay Thượng-tọa-bộ) như hình thức của đức Phật khi còn tại thế. Mỗi ngày chư Tăng chia thì giờ ra như : Trì bát (đi khất thực), đọc kinh, tọa thiền, thọ thực, học tập, xem sách ...

Hiện tại có hai hình thức tăng đoàn : Một hình thức tu trên núi và ít tiếp xúc với các sinh hoạt xã hội và một hình thức Tăng sĩ tu tại các trung tâm Phật giáo trong đô thị. Phái tu trên núi thỉnh thoảng mới đi khất thực, phần đông đều có bổn đạo trợ lực trong việc nuôi dưỡng tăng chúng, vì người tín đồ tin vào việc "phước điền" nên họ cố gieo trồng phước đức vào ruộng phước nơi chư Tăng để mong được quả phước.

Tóm lại, Tích-Lan lấy Phật giáo làm quốc giáo. Các đời vua đều biết khế hợp giữa tôn giáo và chính trị để đem lại cho dân tộc bản xứ hướng đi đúng theo tinh thần đại hùng, đại lực, đại từ bi, nên đã được độc lập, tự chủ cho đến ngày nay.

17.- Phật Giáo Hàn Quốc : Thời Kỳ Du Nhập Và Ảnh Hưởng Ra Sao ? (^)

Triều-Tiên (Hàn quốc) là nước sớm chịu ảnh hưởng Phật giáo cũng như các nước thuộc vùng Á Châu khác. Con đường gần gủi nhất từ Trung-Hoa sang, Phật giáo cũng theo đó mà vào Đại-hàn vào hậu bán thế kỷ thứ 4 Tây lịch.

Nước Cao-Ly (Koryo) tên cũ của Hàn-quốc, tức Bắc-Hàn ngày nay, năm 372 Tây lịch, Phật giáo từ Trung-Quốc truyền vào do các nhà sư người Hoa đem lại, và được dân chúng tại đây nhiệt liệt tin tưởng trong việc cầu phước để dựng nước và giữ vững quốc gia. Tư tưởng nầy đã được triều đình khuyến khích dân chúng nên được nhiều người tin theo. Có thể nói thời kỳ Phật giáo rất thịnh hành và được xem như là quốc giáo. Những ngôi chùa như : An-Hòa, Hưng-Quốc, Quốc-Thanh, Hưng-Vương, Diên-Phước, Pháp-Vương, Vương-Luân, Đại-Dư, Khai-Quốc, Nhật-Nguyệt, Báo-Ân, Quy-Pháp, Chấn-Quán, Cam-Lồ, Quảng-Phước ... đều được thành lập vào thời kỳ nầy. Tăng lữ tu học rất đông do nhà nước cung cấp mọi vật dụng hàng ngày. Vua rất kính trọng các bậc Tăng già như phong chức cho các vị Tăng-Thống, Vương-sư và Quốc-sư. Chính nhà vua đã thọ giới Bồ-Tát và lập tòa Bạch-Cao, Đạo-Tràng, đền Khổng-Tước, Tiêu-Tai đạo tràng và lập hội Vu-Lan. Tất cả những chi phí đều lấy của nhà nước ra xử dụng. Ngoài ra vua còn tổ chức cúng dường cho 30,000 tăng sĩ.

Bán đảo Triều-Tiên lúc bấy giờ chia thành 3 nước : Phía Bắc là Cao-Ly, phía Đông là Tần-La (Shilla), phía Tây là Bách-Tế (Pekutie) do chế độ bộ tộc chia ra để cai trị. Đó là thời kỳ Tam-Quốc vào hậu bán thể kỷ thứ tư Tây lịch tại Hàn-quốc.

Theo tại liệu "Tam quốc sử ký" thì Phật giáo sơ kỳ của thời đại Bách-Tế vào năm 384 Tây lịch, đã được phát triển mạnh tại đây. Những nhà quý tộc tôn sùng đạo Phật và nhiều ngôi chùa được thành lập, tượng Phật, tranh vẽ cũng được tạc, họa ở khắp các nơi trong nước. Đây là thời kỳ mà mỹ thuật Phật giáo nổi bật và phong phú nhất tại Triều-Tiên.

Phía Đông của Tần-La (một phần của Triều-Tiên) bị Trung-Quốc đời nhà Đường (thế kỷ thứ 7) chi phối. Mỗi năm phải gởi sứ bộ sang "Thiên Triều" để lãnh mệnh lệnh. Ngoài ra, chính quền thuộc địa còn phải gởi du học sinh, lưu học tăng sang Trung-Quốc để học về nền văn minh của nhà Đường. Nhờ sự trao đổi đó mà thời kỳ nầy Phật giáo phát triển rực rỡ. Mọi nguyên lý chỉ đạo quốc gia đều dựa theo tinh thần hòa bình của đạo Phật. Những chùa chiền, tượng Phật, tháp chuông đều do nhà nước bỏ tiền ra tạo lập. Nhà nước còn cung cấp ruộng đất cho chùa làm tài sản để sinh hoạt tự viện trong việc nuôi dưỡng tăng chúng. Nhưng đến cuối thời nầy, phần nhiều việc tạo dựng chùa chiền đều bị giảm sút, thay vào đó, đến đời vua Trang-Vương (806) lại ra lệnh cấm xây cất chùa mới.

Nhờ ảnh hưởng của thời đại Tần-La, nên giới quý tộc, vua chúa biết lấy giáo pháp Phật giáo để bảo hộ việc trị quốc an dân, do đó trải qua nhiều triều đại các vị vua chúa vẫn tôn sùng đạo Phật. Đời Văn-Võ-Vương (661-681) khi chết cho đốt xác, tro tàn thả trôi trong biển Đông-Hải theo lời di chúc, do ảnh hưởng sâu đậm về Phật giáo lúc vua còn sống. Mỹ thuật Phật giáo đã đạt được tới chỗ tuyệt vời. Ngôi chùa Phật-Quốc tại Khánh-Châu được dựng vào đời vua Pháp-Hưng năm thứ 22 (535), sau tới đời Cảnh-Đức thứ 50 (756) mới cho kiến thiết ngôi quốc tự nầy trở lại, cho tới nay vẫn còn, chùa có điện Đại-Hùng lớn rộng và những điện khác như Cực-Lạc, điện Tỳ-Lư, điện Quan-Âm, điện Văn-Thù, điện thờ 500 vị thánh, điện thờ 1000 đức Phật v.v... Trong cảnh chùa còn có cầu Bạch-Vân, cầu Thất-Bảo cao 10 mét và tháp Đa-Bảo bằng đá vân là những công trình mỹ thuật cổ rất công phu.

Đời vua Thiện-Đức nữ vương (632-646) dựa vào thuyết vũ trụ của Phật giáo lập nên đài Thiên văn đầu tiên tại Khánh-Châu.

Nhưng đến đời nhà Lý vào thế kỷ thứ 15, Phật giáo dần dần bị mất ảnh hưởng. Vua Lý-Thái-Tổ bắt đánh thuế chùa và đất ruộng của chùa. Tới đời Thái-Tông bài xích Phật giáo rõ rệt như việc giới hạn đến mức tối đa các sinh hoạt Phật giáo. Đời Lý-Thế-tông (1418-1450) việc bài xích Phật giáo lại càng dữ dội hơn như hạng chế người xuất gia, ban hành lệnh nghiêm ngặt cấm không cho cất chùa.

Các thời đại huy hoàng của Phật giáo không còn nữa, giới tăng sĩ bị khủng hoảng, hàng quý tộc không còn đất đứng và coi như mất nước nên họ tìm cách lánh nạn sang Nhật-Bản mà trong số đó có đủ thành phần : Vương tôn, quý tộc, học giả, tăng sĩ, các nhà nghệ thuật, kiến trúc sư, nhà binh pháp ... Họ tới Nhật-Bản lập nghiệp bằng cách khai khấn đất hoang, khai phá các ngành kim thuộc, khoáng chất, mỏ quặng ươm tơ ... rất phát đạt.

Chúng ta không lấy gì làm ngạc nhiên, ngày nay tại Nhật-Bản người Đại-Hàn sinh sống rất đông, vì trải qua mấy đời lập nghiệp và đã mang lại cho dân tộc xứ Phù-Tang tinh thần Phật giáo và mỹ thuật cổ truyền. Họ có một đời sống dễ thở hơn các dân tộc khác về mặt pháp lý.

Hàn-quốc ngày nay vẫn còn bị chia đôi đất nước. Bắc-Hàn theo chủ nghĩa duy vật Cộng-sản. Nam-Hàn theo chủ nghĩa tư bản. Phật giáo còn duy trì và phát triển ở phía Nam Triều-Tiên.

18.- Phật Giáo Lào Quốc Thời Kỳ Du Nhập Và Sự Phát Triển (^)

Các nước sớm chịu ảnh hưởng của Phật giáo, thuộc vùng Á-Đông mà trong số đó Lào-Quốc là một quốc gia đã hấp thụ Phật giáo theo con đường truyền giáo phía Nam, tức là Phật giáo truyền theo con đường bộ hay còn gọi là Nam-phương Phật giáo.

Thời kỳ phật giáo du nhập vào nước Lào, cho tới đây chưa có sử liệu nào chứng minh xác thực được cả. Tuy nhiên, căn cứ vào những dữ kiện sau đây để chúng ta có thể xác định được rằng Phật giáo đã tuyền vào nước Lào từ thế kỷ thứ 4 và đầu thế kỷ thứ 5 Tây lịch.

Theo một số sử liệu thì từ thế kỷ thứ 4, Phật giáo đã truyền vào xứ Phù-Nam (founan), tức là tên của Lào thời cổ, những nhà truyền giáo từ Trung-Hoa đã đến đây và đạo Phật đã được người địa phương tôn sùng như việc lễ bái, cầu kinh và dân chúng cũng đã biết tin vào việc phước báo, nhân quả, luân hồi. Vùng Tchen-La là một trung tâm Phật giáo thứ hai thuộc ảnh hưởng của người Chàm, tức là ở về phía Nam hay Nam Lào đã có nhiều tín đồ theo Phật giáo. Sự kiện nầy đã có ghi rõ trên các bia khắc bằng đá và đã được khám phá tại miền Kratie và K'Orat vào khoảng thế kỷ thứ 7, cũng như những tác phẩm của Yi-Tsing đều là những chứng minh cần thiết.

Trải qua nhiều thế kỷ, Phật giáo đã bắt được gốc rể tại đó và dân chúng tin vào thuyết luân hồi quả báo của đạo Phật trong kiếp sua, nên được các đời vua duy trì và bảo hộ. Thêm một chứng minh rõ ràng nhất là vào năm 1356 dưới triều vua Fa-Ngum, tín ngưỡng Phật giáo đã được phát triển sâu rộng trong dân chúng. chính bà Nang-Keo Lotfa, vợ của vua, yêu cầu cho người sang Cambogde thỉnh chư tăng sang Lào để dân chúng được dịp tiếp xúc và tìm hiểu thêm Phật giáo nước láng giềng. Một phái đoàn Phật giáo thuộc hệ phái Theravada, do P'ra Maha Pasaman Chao cầm đầu đã đến vương quốc Lang-Xang, tức là tên cũ của Vương quốc Lào, theo lời yêu cầu để xiển dương Phật pháp.

Tại Lào, những ngôi chùa cổ, những pho tượng Phật bằng đồng tại Vientiane, cũng như các pho tượng Phật bằng gỗ còn tồn tại cho tới nay là những bằng chứng cho thấy Phật giáo đã đặt nền móng đầu tiên tại Bắc Lào rồi dần dần lan rộng ra trong toàn quốc, tùy thuộc vào các yếu tố của mỗi địa phương. Ở những vùng Trấn-Ninh, Bassac, Luang-Brabang, đều có những ngôi chùa nổi danh hiện nay vẫn còn. Nhờ ảnh hưởng Phật giáo lâu đời, do đó tư tưởng Phật giáo cũng đã thấm nhập vào văn hóa và các sinh hoạt khác như : Các ngày tết, việc tế tự, ma chay tại Lào.

Từ thế kỷ 15 trở đi cho tới hiện nay, Phật giáo Lào không có dấu hiệu nào cho thấy có sự tiến triển nổi bậc đáng kể. Dân tộc Lào vốn ít, đất đai lại hẹp và có một nền văn minh thấp, nghĩa là chậm tiến hơn các dân tộc khác trong vùng Á-Châu. Dân chúng phần đông sống bằng nghề nông, nên họ đã bị các thế lực chính trị lớn mạnh hơn đồng hóa. Thời Pháp (1884-1954), Lào là một nước thuộc địa của Pháp trong vùng Đông-Dương. Sau khi thoát khỏi ách đô hộ của người Pháp, Lại lại bị chi phối bởi hai thế lực : Quốc-gia và Cộng-sản. Cuối cùng vào năm 1975, Cộng-sản thắng thế ở Việt-Nam, rồi toàn thể xứ Lào cũng bị nhuộm đỏ bởi quân Phathet Lào nhân danh giải phóng quê hương của họ do sự cố vấn của chính quyền Hà-Nội.

Ngày nay, Phật giáo Lào có còn chăng cũng chỉ là một số những ngôi chùa cổ và các di tích lịch sử, nghĩa là trên hình thức , trên thực tế người dân bị khống chế bởi thế lực chính trị vô minh quốc tế.

19.- Lá Cờ Phật Giáo Thế Giới Tượng Trưng Cho Ý Nghĩa Gì, Cũng Như Nói Qua Sự Xuất Hiện ? (^)

Là cờ Phật giáo thế giới là biểu tượng cho linh hồn của Phật giáo qua sự hiện hữu của đạo Phật trong cuộc đời nầy.

Một điều mới lạ là cờ Phật giáo mới xuất hiện sau đệ nhị thế chiến, mặc dầu đạo Phật đã có một lịch sử lâu dài trên 2500 năm ! Người có sáng kiến phát họa lá cờ Phật giáo là một nhà quân sự Hoa-Kỳ, ông Henry Steel Olcoltt (1832-1907). Là một học giả Phật giáo uyên thâm và là một ký giả tài ba, ông từng phục vụ với chức vụ Đại-Tá trong quân lực Hoa-Kỳ. Là người đắc lực trong việc chấn hưng Phật giáo tại Tích-Lan. Ông là tác giả lá cờ Phật giáo thế giới có một giá trị lịch sử, vì thế trong kỳ đại hội Phật giáo thế giới lần đầu tiên tại Sri Lanka, Colombo, vào năm 1950, được Thượng-Tọa tiến-sĩ Hikkduwe Susmangala Thera, Giám-đốc Viện Đại-học Phật giáo Tích-Lan chuẩn nhận,

Năm mầu cờ tượng trưng cho 5 sắc hào quang của đức Phật hay 5 căn như : Xanh đậm (Tín), vàng (Huệ), trắng (Niệm), đỏ (Định), hồng (Tấn), và một mầu tổng hợp bằng 1/5 của lá cờ. Ngoài ý nghĩa tinh thần ra lá cờ Phật giáo còn tiêu biểu cho màu da, chủng tộc và tượng trưng cho năm Châu nối liền nhau không cách ngăn ranh giới.

Phật giáo Việt-Nam cũng như các nước Phật giáo thế giới ngày nay đều dùng thống nhứt lá cờ Phật giáo 5 sắc và một màu tổng hợp nầy. Lần đầu tiên tại kỳ đại hội Phật giáo Việt-Nam tại Hà-Nội (1951), lá cờ Phật giáo thế giới tung bay trước đại hội, qua bài Phật kỳ "Phật giáo Việt-Nam Thống Nhất Bắc Nam Trung từ nay ..." do nhạc sĩ Lê-Cao-Phan sáng tác, đã đem lại cho người Phật tử niềm phấn khởi, tin tưởng nơi các đại biểu Phật giáo toàn quốc.

Lá cờ Phật giáo thế giới được dương cao lên ở bất cứ nơi nào, chứng tỏ rằng ở đó chánh pháp được phát huy và con người thắm nhuần trong giáo lý giải thoát, giác ngộ của đạo Phật vậy.

20.- Tự Do Tôn Giáo. Thế Nào Là Tự Do Tôn Giáo ? (^)

Trong bất cứ một quốc gia nào mà tôn giáo bị cấm chỉ mọi hoạt động hay nhà cầm quyền tìm đủ mọi cách để hạn chế sự sinh hoạt của đạo giáo. Từ đó vấn đề tự do tôn giáo được đặt ra.

Không có tụ do tôn giáo có nghĩa là tôn giáo không được quyền truyến bá sâu rộng trong dân chúng tức là có hàm ý nghĩa mất cả sự tự do thuộc lãnh vực tinh thần, một trong bốn quyền tự do căn bản như tư tưởng, tín ngưỡng, ngôn luận và hội họp.

Tự Do Tôn Giáo Và Tự Do Tín Ngưỡng Khác Hay Giống Nhau ?

Nhìn một cách tổng quát thì tự do tín ngưỡng bao hàm một nghĩa rộng và nằm trong khía cạnh chọn lựa. Bởi lẻ, mọi người khi sinh ra cho tới giai đoạn biết nhận thức hay do truyền thống lâu đời, có quyền tin theo bất cứ một vị giáo chủ của bất cứ một tôn giáo nào, kể cả những vị thần linh, cho tới việc chú thuật, phù phép, đồng bóng, luyện đơn, giáng cơ .., tức là tin theo những điều mà chính ta cho là hợp lý và đúng thì không một ai nhân danh dưới bất cứ một quyền lực hay danh nghĩa nào để tước đoạt được quyền tối thượng nầy của con người cả. Từ đó, người ta mới phân biệt được rằng tự do tín ngưỡng là giai đoạn còn đắn đo, cân nhắc và lựa chọn mà con người phải có một thái độ dứt khoát trước khi thực hiện đức tin. Trong khi đó, tự do tôn giáo mang một ý nghĩa tích cực hơn thuộc về chiều sâu và đã nằm trong khuôn khổ của lãnh vực tinh thần thuần lý tức là đức tin của người tín đó đã đặt được cơ sở nơi tôn giáo mà họ đang tôn thờ và tích cực bảo vệ, duy trì.

Bản tuyên ngôn quốc tế nhân quyền được ban hành ngày 10/12/1948 nơi điều 18 cũng đã qui định quyền tự do tín ngưỡng là một quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm. Tất cả mọi người sinh ra trên mặt trái đất không phân biệt sang hèn, quí tiện, trai gái, già trẻ đều có quyền chọn lựa đức tin thích hợp để tôn thờ như là một lý tưởng cao cả của họ, không một ai có thể dùng thế lực để uy hiếp buộc phải theo tôn giáo nầy hoặc tôn giáo khác.

Trước khi chưa có bản tuyên ngôn quốc tế nhân quyền và sau khi bản minh văn nầy ra đời, quyền tự do tôn giáo có được tôn trọng một cách đúng mức ?

Quyền tự do tín ngưỡng (tôn giáo) đã bị đàn áp, tước đoạt dưới các chế độ quân chủ chuyên chế, độc tài phát xít, cũng như ở nhiều nơi trên thế giới, nhất là tại các nước Cộng-Sản nắm quyền. Do đó, các nhà lãnh đạo các quốc gia yêu chuộng tự do trên thế giới nhìn thấy tình trạng bi đát ấy và muốn cho quyền tự do tối thượng của con người phải được tôn trọng, nên đã đồng ý với nhau thảo soạn bản văn gồm các điều khoản căn bản của quyền làm người mà vấn đề tôn giáo chiếm một phần quan trọng, đã được ban hành 50 năm trước. Điều nầy cũng có nghĩa là từ khi có mặt loài người trên mặt đất cho tới ngày nay đã trãi qua một giai đoạn trường kỳ lịch sử, vấn đề giới hạn, ức chế, đàn áp tôn giáo đã diễn ra nhiều nơi, nhưng vì con người chưa đạt tời một trình độ văn minh đủ để nhận chân ra được đức tin của mình đã bị tước đoạt phi lý. Hoặc giả, trong thời buổi mà phương tiện truyền thông chưa được tinh vi ngày trước, con người ở đâu có bị đàn áp cũng âm thầm lãnh nhận mọi hậu quả và tiếng kêu cứu của họ, nếu có, quả thật rất bé bỏng và vô hiệu !

Ngày nay, vấn đề tự do tôn giáo không hẳn đã được tôn trọng đúng mức, nhất là ở trong các chế độ độc tài, chuyên chính vô sản, chủ nghĩa duy vật của người cộng sản phi nhân...vẫn còn bị cướp đoạt quyền tối thượng nầy của người dân một cách quá đáng như tại các nước Việt-Miên-Lào và một số quốc gia thuộc Á-Phi và Châu-Mỹ La-Tinh.

Theo Thích-Đức-Niệm, trong quyển "Nghiên Cứu Văn Học Việt-Nam Triều Lý Và Văn Học Trung-Quốc" đã viết :

"Trong phạm vi sinh hoạt của nhân loại được cấu thành bởi hai khía cạnh tâm linh và cơ thể. Để cho đời sống được quân bình toàn vẹn thì giữa đời sống vật chất và tín ngưỡng không thể thiếu một. Cũng như loài chim phải đủ đôi cánh mới bay đi tự tại, loài người có bộ chân mới đi lại được trong thiên hạ. Nguồn gốc của văn hóa, triết học nhân loại đều từ tín ngưỡng tôn giáo mà thành. Đạo Do-Thái (Thiên-Chúa) làm nẩy sinh ra Triết-học Tây-phương, cũng như đạo Nho, đạo Lão và đạo Phật là giềng mối của Triết-học Đông-phương ..." (Luận án Tiến-sĩ Đại-học Sư-phạm Đài-Loan, Thích-Đức-Niệm)

Vì thế, một khi quyền tự do tôn giáo đã bị xâm phạm và tước đoạt, thì người tín đồ của tôn giáo sẽ vùng lên tranh đấu bằng bất cứ giá nào, để đòi cho được quyền nầy phải thuộc về toàn dân, kể cả việc hy sinh thân mạng cho tôn giáo để được tự do, người ta vẫn không tiếc đời sống vật chất tầm thường mà tinh thần bị câu thúc, gò bó. Cũng vì nghĩa của hai chữ TỰ DO mà đã có biết bao nhiêu vị Thánh-tử vì đạo đem đổi sinh mạng mình cho lý tưởng của tôn giáo một cách hào hùng, bất khuất.

Vấn đề đời sống tinh thần của con người càng bị chèn ép, ức chế, giới hạn bao nhiêu, người ta càng vùng lên như một sức công phá ngấm ngầm làm tan rả chế độ khát máu độc tài như lịch sử đã minh chứng.

21.- Việc Truyền Bá Của Phật Giáo Trên Thế Giới Ngày Nay Ra Sao ? (^)

Phật giáo có một lịch sử lâu dài nhất, phát xuất từ Ấn-Độ, do đức Phật Thích-Ca Mâu-Ni làm giáo chủ từ năm 624 trước Tây lịch và tính cho đến năm 1977 vừa đúng 2541 năm Phật lịch.

Phật giáo đã mang lại cho nhân quần xã hội nói chung và các nước Phật giáo trên thế giới nói riêng một sức sống tinh thần rất cao qua các lãnh vực văn hóa, mỹ thuật, âm nhạc v.v... không phải nhỏ vậy. Phật giáo có thể nói là một đạo hòa nhập vào xã hội loài người, vì nơi nào ánh sáng chân lý được soi tới, nơi đó liền thích hợp ngay với cơ duyên mà tồn tại. Tại các nước mà đạo Phật đã truyền vào có một lịch sử lâu dài như Trung-Quốc, Nhật-Bản, Triều-Tiên, Nam-Dương, Tích-Lan, Miến-Điện, Thái-Lan, Việt-Nam ... đã không ngừng thoát xác để thích nghi với từng hoàn cảnh của mỗi nơi cho phù hợp với con người tại đó, đúng theo như tinh thần tùy duyên nhi bất biến mà trong giáo lý đạo Phật có nêu ra. Đạo Phật cũng biến thiên theo với dòng vận mệnh của các quốc gia, tức là cùng trải qua những sự thăng trầm vinh nhục với tình trạng chính trị mà đạo Phật đóng một vai trò quan trọng trong suốt dòng lịch sử đấu tranh, nghĩa là cùng chia sớt nổi an nguy với chính người trong cuộc. Nói như thế có nghĩa là đạo Phật không rời dân tộc khi đã bắt tay vào xây dựng cho quốc gia hùng cường và dân tộc thịnh vượng như Ấn-Độ thời Asoka, Nhật-Bản thời Kamakura, Việt-Nam thời Lý-Trần.

Ngày nay Phật giáo không phát triển rầm rộ ở chiều rộng mà có ảnh hưởng lớn về bề sâu như một chất thẩm thấu sâu vào trong lòng dân tộc không thể rời nhau được. Nếu có dịp đến Nhật, chúng ta sẽ thấy tinh thần Phật giáo làm nhựa sống cho dân tộc xứ Phù-Tang. Thật vậy, sự ngay thẳng, không tham lam, tính trung thành đã được giáo dục cho con em từ thời kỳ mẩu giáo. Có người còn bảo : Nhật là xứ "Cực-Lạc" cũng đúng phần nào. Mặt khác, Thiền Phật giáo là môn học thực tiển đã được các học giả Tây phương say sưa nghiên cứu và nhiều người Âu Mỹ đang thực hành Phật giáo tại các trung tâm tu thiền quốc tế.

Phật giáo tiến theo trào lưu của mọi thời đại mà tồn tại, chúng ta có thể nghĩ rằng đạo Phật bị mai một dưới các xã hội chủ nghĩa, nhưng đó chỉ là luồn sống ngầm chờ ngày thoát xác.

22.- Hội Phật Giáo Thế Giới. Thành Lập - Mục Đích - Hệ Thống Tổ Chức - Hoạt Động. (^)

Phật giáo không cần phô trương lực lượng, vì thế suốt hơn 2500 năm Phật lịch, kể từ khi đức Phật Thích-Ca xuất thế, mới nhìn vào ta tưởng chừng như Phật giáo thiếu sự tổ chức nhất trí. Do đó, các nhà nghiên cứu Phật giáo muốn chứng tỏ một cách cụ thể, nên lập Hội Phật Giáo Thế Giới.

- THÀNH LẬP :

Hội Phật giáo thế giới (The World Fellowship of Buddhist : WFB) được thành lập vào ngày 25-5-1950 tại Sri Lanka, Colombo, thủ đô Tích-Lan, gồm có 27 quốc gia hội viên thuộc Á Châu (1), Âu Châu và Bắc Mỹ. Đồng thời đây cũng là đại hội Phật giáo thế giới lần đầu tiên được tổ chức tại một Quốc gia có truyền thống đạo Phật lâu đời.

- MỤC ĐÍCH :

Mục đích của Hội Phật gGiáo Thế Giới là kết hợp rộng rãi các nước hội viên Phật giáo trên toàn thế giới thành một khối duy nhất để trao đổi những kinh nghiệm hoằng pháp giúp đỡ lẫn nhau trong tinh thần từ bi, bao dung của Phật, để cùng nhau thực hành những lời Phật dạy, cũng như để duy trì và phát triển Phật giáo ở khắp năm Châu thuộc vùng ảnh hưởng của đạo Phật. Theo như tinh thần của Bản Nội Quy được thành lập, Hội đã vạch đường hướng và mục đích hoạt động :

- Đôn đốc việc giữ gìn giới luật và thực hành theo lời Phật dạy.

- Thắc chặc tình thân hữu huynh đệ giữa các nước Phật giáo thành một khối duy nhất.

- Quảng bá sâu rộng giáo lý Phật-Đà trong các môi trường sinh hoạt, đời sống xã hội.

- Áp dụng Phật giáo vào các lãnh vực xã hội, giáo dục, văn hóa và các phạm vi nhân đạo khác.

- Đem lại nền hòa bình thực sự cho con người và sự hạnh phúc cho nhân loại, cũng như sẵn sàng hợp tác với những tổ chức có cùng một mục đích.

- HỆ THỐNG TỒ CHỨC.

Hội Phật Giáo gồm có : Một Hội-trưởng và mười hai Hội-phó, hội trưởng được chọn lựa trong số các đại biểu có uy tín nhất trong các trung tâm Phật giáo địa phương, một Tổng-thư-ký, hai Phó Tổng-thư-ký và một Thủ-quỷ. Văn phòng thường trực hay bổn bộ của Hội PGTG không đặt cố định ở một nơi mà do các kỳ đại hội được tổ chức hai năm một lần, quyết định. Từ năm 1950-1958 trụ sở của Hội PGTG đặt tại Colombo, thủ đô Tích-Lan (Sri Lanka). Từ năm 1958-1963 văn phòng hội đặt tại Ngưỡng-Quang thủ đô Miến-Điện (Burma), từ năm 1963 cho tới nay bổn bộ của hội đặt tại Bangkok, thủ đô Thái-Lan.

- HOẠT ĐỘNG :

Hội Phật Giáo Thế Giới hoạt động dựa theo các bộ môn sau đây :

- Tài chánh.

- Xuất bản, phiên dịch, giáo dục, văn hóa và nghệ thuật.

- Hoằng pháp và tổ chức.

- Xã hội.

- Hành chánh và liên đới.

- Thanh niên.

Trưởng thành gần 50 năm (1950-1997). Hội Phật Giáo Thế Giới đã có những hoạt động cụ thể như tổ chức được cho tới nay là 20 kỳ đại hội, gồm các nước Phật giáo trên toàn thế giới tham dự tổ chức đại hội. Đại hội PGTG được quy định tổ chức hai năm một lần để kiểm điểm Phật sự đã qua và đặt kế hoạch hoạt động Phật sự tại mỗi vùng hay mỗi trung tâm Phật giáo địa phương. Vào lần đại hội thứ 5 tại Bangkok, năm 1958, HPGTG qui định ngày trăng tròn tháng tư âm lịch làm ngày Phật-Đản.

Trong chiều hướng ấy, liệu hội PGTG có làm được gì để cứu nguy Phật giáo các nước đang bị áp bức dưới chế độ bạo tàn của cộng sản như Việt - Miên - Lào ?

Cho đến giờ phút nầy, Phật giáo tại những nơi vừa nêu trên đã bị khống chế, khủng bố, tiêu diệt bằng đủ mọi cách, dưới các chiêu bài lừa bịp quần chúng Phật tử của người Cộng-Sản duy vật phi nhân, nhưng chưa có dấu hiệu nào cho thấy hội PGTG tìm ra được một biện pháp thích ứng cụ thể để giải quyết vấn đề một cách có hiệu quả, theo đúng với tinh thần tương hỗ mà hội đã vạch ra. Mặc dù, có những thỉnh nguyện rất chính đáng như torng kỳ đại hội PGTH lần thứ 12 nhóm họp tại Tokyo Nhật-Bản, từ ngày 1 đến 6 tháng 10 năm 1978, sáu vị tăng sĩ thuộc chi bộ Phật giáo Việt-Nam Thống-Nhất đã tuyệt thực trước đại hội ba ngày để đưa những thỉnh nguyện yêu cầu đại hội giải quyết :

- Yêu cầu đại hội PGTG nỗ lực vận động cho hòa bình thế giới và nhân quyền tại Việt - Miên - Lào.

- Yêu cầu đại hội PGTG đưa vấn đề đàn áp nhân quyền và tôn giáo tại Việt-Nam vào nghị trình đại hội.

- Yêu cầu đại hội PGTG đề cử một phái đoàn quan sát sang Việt-Nam để gặp các nhà lãnh đạo Phật giáo và các vị lãnh đạo tinh thần thuộc các tôn giáo khác hiện đang bị giam giữ trong các lao tù Cộng-sản Việt-Nam.

- Yêu cầu đại hội PGTG can thiệp với chính quyền Cộng-sản Việt-Nam thả tức khắc những tù nhân chính trị, tôn giáo và hàng trăm ngàn người yêu nước khác đang ở trong các trại học tập cải tạo.

Đây là một vấn đề mà ai cũng nghĩ là ngoài phạm vi của đại hội, nhưng ít ra các khía cạnh liên quan tới tôn giáo phải được giải quyết tận gốc với uy tín sẳn có của các nhà lãnh đạo PGTG.

Ngoài ra, Ủy ban liên lạc Tăng Ni Việt-Nam tại Pháp cũng đặt ra ba điểm và yêu cầu đại hội tìm biện pháp giải quyết :

- Vấn đề nhân quyền phải được tôn trọng để mọi người trên thế giới góp chung tiếng nói xây dựng cho nền hòa bình thực sự cho nhân loại.

- Tìm cách can thiệp với chính quyền ba nước Đông dương thả tức khắc các tăng ni đã bị bắt giam trái phép cũng như các nhà lãnh đạo tinh thần thuộc các tôn giáo khác. Ngăn chặn việc đập phá các tượng Phật, chiếm đoạt chùa chiền một cách trái phép.

- Kêu gọi sự họp tác chặt chẻ giữa các nước trên thế giới tìm cách giúp đỡ hữu hiệu cho những người tị nạn đang còn lênh đênh trên biển cả tìm tới đất liền nơi các nước tự do, đặc biệt là các nước trong vùng Đông-Nam-Á.

Những thỉnh nguyện đã được đại hội hứa giải quyết ổn thỏa, đã ghi vào bản đúc kết của chương trình đại hội. Suốt trong thời gian một tuần lễ, các đại biểu tham dự đại hội còn hứa sẽ vận động phong trào địa phương ủng hộ cho công cuộc tranh đấu chính nghĩa của chúng ta sớm đạt thành kết quả, chúng ta hãy chờ xem ...

GHI CHÚ :

(1) Kỳ Đại Hội PGTG lần đầu tiên tổ chức tại Sri Lanka, Tích-Lan gồm có 27 nước hội viên tham dự, trong số đó có phái đoàn Phật giáo Việt-Nam do Thượng-Tọa Tố-Liên làm trưởng đoàn phó hội. Lá cờ PGTG được phổ cập tại Việt-Nam kể từ kỳ đại hội Phật giáo toàn quốc năm 1951 tại Huế.

(2) Các kỳ Đại Hội PGTG đã được tổ chức tại các nước : Colombo, Tích-Lan vào năm 1950, lần thứ nhất

- Tokyo, Nhật-Bản lần thứ 2 vào năm 1952.

- Ngưỡng-Quang, Miến-Điện lần thứ 3 vào năm 1954.

- Kathmandu, Nepal lần thứ 4 vào năm 1956.

- Bangkok, Thái-Lan lần thứ 5 vào năm 1958.

- Pnompenh, Cambodge lần thứ 6 vào năm 1961.

- Sarnath, Ấn-Độ lần thứ 7 vào năm 1964.

- Chieng Mai, Thái-Lan lần thứ 8 vào năm 1966.

- Kuala Lumpur, Mã-Lai lần thứ 9 vào năm 1969.

- Sri Lanka, Colombo lần thứ 10 vào năm 1972.

- Bangkok, Thái-Lan lần thứ 11 vào năm 1976.

- Tokyo và Kyoto, Nhật-Bản lần thứ 12 vào năm 1978.

- Bangkok, Thái-Lan lần thứ 13 vào năm 1980.

- Colombo, Tích-Lan lần thứ 14 vào năm 1984.

- Kathmandu, Nepal lần thứ 15 vào năm 1986.

- Los Angeles, Hoa-Kỳ lần thứ 16 vào năm 1988.

- Seoul, Nam-Hàn lần thứ 17 vào năm 1990.

- Taiwan, Đài-Loan lần thứ 18 vào năm 1992.

- Bangkok, Thái-Lan lần thứ 19 vào năm 1994.

- Dự định tổ chức lần thứ 20 vào năm 1996 tại Tích-Lan, sau đó đổi sang Nam-Hàn nhưng vì các biến cố chính trị tại 2 quốc gia nầy cho tới nay (1997) đại hội lần thứ 20 vẫn chưa triệu tập.

SÁCH THAM KHẢO.

Hán-văn :

1- Tối Tân Thật Dụng Phật Học Tự Điển Đinh-Phước-Bảo, Hà-Tú-Bồi Taipei 1976.

2- Trung-Quốc Phật Giáo Sử và Phật Giáo Sử Tích Dương-Gia-Lạc Taiwan 1972.

3- Ấn-Độ Phật Giáo Sử Lược Đạt-Danh biên Taipei 1970.

4- Lĩnh-Nam Chích Quái Võ-Quỳnh hiệu đính.

5- Trung A-Hàm.

6- Trường A-Hàm.

7- Tạp A-Hàm.

8- Tăng Nhất A-Hàm.

9- Hán Việt Tự Điển Thiều-Chữu.

10- Tứ-Thập-Nhị-Chương Kinh.

11- Cao Tăng Truyện Ven. Thích-Huệ-Đạo Taipei 1975.

12- Tân, Tục Cao Tăng Truyện Hành-Dương, Dư-Vị-Am Taiwan 1973.

13- Tam-Tạng Pháp Sư Truyện Thích-Huệ-Lập Taipei 1978.

14- Phật Học Ngũ Thư Dương-Gia-Lạc Taiwan 1974.

15- Phật Học Đại Cương Tạ-Mông Taiwan 1968.

16- Trung-Quốc Văn Học Sử Việt-Nam Lý Triều Văn Học Chi Nghiên Cứu Ven. Dr. Thích-Đức-Niệm Taiwan 1978.

Nhật-văn :

1- Shukyo Senshi Keitai To Kiron Yanagawa Keiichi dịch 1972.

2- Betonamu No Shukyo 1976.

3- Shukyo Gaku Hand Book Mizunokogen & Shibatadoken 1976.

4- Bukkyo Shi Yasuaki Nara 1979.

5- Nihonshi Toro Sakamoto 1970.

6- Se Kaizinmeijiten Kyogaku Kenkyusha 1980.

7- Sekai Zinmei Jiten Naosuke Sato & Koji Hirata 1973.

8- Kodera Junrei Eizaburo Saito 1980.

9- Kodai Jiin No Seiritsu Masaji Shimizu 1979.

10- Kankoku Kodera Hakkutsu Tomaru Katsumi 1980.

11- Tanbo Nihon No Kodera 1980.

12- Bukkyo Shiso I & II Mistu Yoshisaigusa 1975.

13- Toichi Stushin Youshioka Roshi 1977-1980.

14- Bukkyo Times Shoto Shu 1976.

15- Zen Toichi Yoshi Oka 1978

16- Zen No Tomo Shoto Shu 1975-1980.

17- Bukkyo Daiziten Shikita.

Anh Và Pháp-văn :

1- English - Japanese dictionary Kenkyusha 1978.

2- La Rousse Librairie Larousse 1979.

3- Presence du Buddhisme France - Asie, Saigon 1959.

4- Essais sur le Buddhisme Zen D.Z. Suzuki Paris 1954.

5- Buddhism & Zen in Vietnam Ven. Thich-Thien-An Tokyo 1975.

6- Dialogue Writers Laboi Saigon 1965.

7- Vietnamese Studies & Their Relationships to Asian Studies.

8- L'art Vietnamien Louis Bezacier Paris 1955.

9- History of Buddhist Thought E.J. Thomas London 1933.

10- Le Buddhisme En Annam, Des Origines Au 13e Siecle Tran-Van-Giap.

11- Beyond Vietnam Edwin O. Reischauer Tokyo 1970.

12- Religions in Japan William K. Bunce Tokyo 1959.

13- Buddhist Scriptures Translated by Edward Conge London 1959.

14- Zen Philosophy, Zen Practice Thich-Thien-An USA 1975.

Việt-văn :

1- Việt Nam Phật Giáo Sử Lược T.T. Thích-Mật-Thể, Phật Học Viện Trung Phần 1960.

2- Việt Nam Phật Giáo Sử Luận Nguyễn-Lang Paris 1978.

3- Hoàng-Việt Thi Tuyển Đại học sư phạm Saigon.

4- Na-Tiên Tỳ-kheo Kinh

5- Tứ-Phần Giới Luật

6- Kinh Pháp-Hoa T.T. Thích-Trí-Tịnh dịch 1966.

7- Phật Pháp Thích-Minh-Châu, Thích-Thiên-Ân, Thích-Đức-Tâm, Thích-Chân-Trí 1959

8- Phật Học Phổ Thông Thích-Thiện-Hoa

9- Đạo Phật Ngày Nay Thích-Nhất-Hạnh

10- Đạo Phật Ngày Mai B'sudanglu Saigon 1970

11- Đạo Phật Hiện Đại Hóa Nhất-Hạnh Saigon 1965

12- Đạo Phật Đi Vào Cuộc Đời Nhất-Hạnh Saigon 1964

13- Kinh Pháp-Cú

14- Kinh Bác Đại Nhân Giác Nhất-Hạnh dịch và chú giải Paris 1978

15- Tư Tưởng Việt Nam Nguyễn-Đăng-Thục Khai-Trí 1964

16- Saigon Năm Xưa Vương-Hồng-Sển Khai-Trí 1969

17- Sổ Tay Văn Hóa Việt Nam Trương-Chính, Đặng-Đức-Siêu, Văn-Hóa 1978

18- 50 Năm Chấn Hưng Phật Giáo Thích-Thiện-Hoa Saigon 1970

19- Văn Học Đời Lý Ngô-Tất-Tố Khai-Trí 1960

20- Phật Giáo Việt Nam Nguyễn-Đăng-Thục Saigon 1974

21- Thiền Học Việt Nam Nguyễn-Đăng-Thục Saigon 1964

22- Thiền Học Trần-Thái-Tông Nguyễn-Đăng-Thục Vạn-Hạnh 1971

23- Văn Học Sử Phật Giáo Cao-Hữu-Đính Saigon 1971

24- Huyền Học Đạo Phật và Thiên Chúa Giáo

25- Nghi Thức Tụng Niệm

26- Tam Quy Ngũ Giới Thích-Thanh-Từ

27- Nẽo Vào Thiền Học Nhất-Hạnh

28- Chữ Thời Kim-Định

29- Vấn Đề Quốc Học Kim-Định Saigon 1971

30- Kim Cổ Kỳ Quan

31- Việt Nam Văn Hóa Sử Cương Đào-Duy-Anh Saigon 1971

32- Việt Nam Sử Lược Trần-Trọng-Kim Bộ Giáo Dục 1968

33- Nho Giáo Saigon 1971

34- Văn Minh Việt Nam Lê-Văn-Siêu Saigon 1965

35- Tuấn, Chàng Trai Nước Việt Nguyễn-Vỹ 1969

36- Từ Thực Dân Đến Cộng Sản Hoàng-Văn-Chí NVTĐ Tokyo 1980

37- Một Cơn Gió Bụi Trần-Trọng-Kim 1969

38- Việt Nam Phật Giáo Tranh Đấu Sử Tuệ-Giác Saigon 1964

39- Tìm Về Dân Tộc Học Lý-Chánh-Trung Saigon 1967

40- Phật Giáo Khái Luận Mật-Thể, Minh-Đức 1971

41- Việt Nam Khảo Cổ Tập San Bộ Quốc Gia Giáo Dục Saigon 1961

42- Dược Sư (Kinh sám) Trí-Quang Saigon 1974

43- Thành Ngữ Điển Tích Danh Nhân Từ Điển Trịnh-Văn-Thanh Saigon 1966

44- Hoàng-Lê Nhất Thống Chí Nguyễn-Đức-Văn, Kiều-Thu-Hoạch dịch 1970

45- Nhận Định Nguyễn-Văn-Trung Nam-Sơn 1966

46- Lược Sử Triết Học Đông Phương Hoàng-Xuân-Việt Khai-Trí 1968

47- Đường Về Cực-Lạc Thích-Trí-Tịnh 1970

48- Sám Giảng Thi Văn Toàn Bộ Huỳnh-Phú-Sổ PG Hòa-Hão 1964

49- Ý Thức Mới Trong Văn Nghệ và Triết Học Phạm-Công-Thiện, An-Tiêm 1966

50- Việt Nam Văn Học Sử Yếu Dương-Quảng-Hàm Bộ Giáo Dục 1968

Các Tạp Chí :

1- Hải Triều Âm Tổng Vụ Văn Hóa Saigon 1973-1974

2- Phật Giáo Việt Nam Tổng Hội PGVN Hoa-Kỳ 1978-1980

3- Khuông-Việt Chi bộ PGVN Tokyo 1975-1980

4- Tư Tưởng Vạn Hạnh Đại Học Vạn Hạnh 1964, 1970, 1973

5- Khánh-Anh Chùa Khánh-Anh Paris 1976-1980

6- Dân Tộc Sinh Viên Thụy Sĩ 1974-1980

7- Dân Việt Hội Sinh Viên Tây Đức 1975

8- Young East Hội Phật Giáo Tohokai Nhật 1977

9- Phổ Thông Nguyễn-Vỹ Saigon 1962

10- Văn Hóa Á Châu Hội Văn Hóa Á Châu Saigon 1956

11- Bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền 1948

12- Hiến Chương Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Saigon 1964

32- Việt Nam Sử Lược Trần-Trọng-Kim Bộ Giáo Dục 1968

33- Nho Giáo Saigon 1971

34- Văn Minh Việt Nam Lê-Văn-Siêu Saigon 1965

35- Tuấn, Chàng Trai Nước Việt Nguyễn-Vỹ 1969

36- Từ Thực Dân Đến Cộng Sản Hoàng-Văn-Chí NVTĐ Tokyo 1980

37- Một Cơn Gió Bụi Trần-Trọng-Kim 1969

38- Việt Nam Phật Giáo Tranh Đấu Sử Tuệ-Giác Saigon 1964

39- Tìm Về Dân Tộc Học Lý-Chánh-Trung Saigon 1967

40- Phật Giáo Khái Luận Mật-Thể, Minh-Đức 1971

41- Việt Nam Khảo Cổ Tập San Bộ Quốc Gia Giáo Dục Saigon 1961

42- Dược Sư (Kinh sám) Trí-Quang Saigon 1974

43- Thành Ngữ Điển Tích Danh Nhân Từ Điển Trịnh-Văn-Thanh Saigon 1966

44- Hoàng-Lê Nhất Thống Chí Nguyễn-Đức-Văn, Kiều-Thu-Hoạch dịch 1970

45- Nhận Định Nguyễn-Văn-Trung Nam-Sơn 1966

46- Lược Sử Triết Học Đông Phương Hoàng-Xuân-Việt Khai-Trí 1968

47- Đường Về Cực-Lạc Thích-Trí-Tịnh 1970

48- Sám Giảng Thi Văn Toàn Bộ Huỳnh-Phú-Sổ PG Hòa-Hão 1964

49- Ý Thức Mới Trong Văn Nghệ và Triết Học Phạm-Công-Thiện, An-Tiêm 1966

50- Việt Nam Văn Học Sử Yếu Dương-Quảng-Hàm Bộ Giáo Dục 1968

Các Tạp Chí :

1- Hải Triều Âm Tổng Vụ Văn Hóa Saigon 1973-1974

2- Phật Giáo Việt Nam Tổng Hội PGVN Hoa-Kỳ 1978-1980

3- Khuông-Việt Chi bộ PGVN Tokyo 1975-1980

4- Tư Tưởng Vạn Hạnh Đại Học Vạn Hạnh 1964, 1970, 1973

5- Khánh-Anh Chùa Khánh-Anh Paris 1976-1980

6- Dân Tộc Sinh Viên Thụy Sĩ 1974-1980

7- Dân Việt Hội Sinh Viên Tây Đức 1975

8- Young East Hội Phật Giáo Tohokai Nhật 1977

9- Phổ Thông Nguyễn-Vỹ Saigon 1962

10- Văn Hóa Á Châu Hội Văn Hóa Á Châu Saigon 1956

11- Bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền 1948

12- Hiến Chương Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Saigon 1964

Nguồn quangduc.com

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top