kien thuc
Châu Mỹ được đặt tên như thế nào ?
Ngày nay châu Mỹ được coi là châu trù phú nhất trên thế giới. Chúng ta biết rằng Colombus đã khám phá ra châu Mỹ. Vậy thì tại sao tên của ông ta không được đặt cho châu Mỹ. Đó là một vấn đề ngẫu nhiên. Câu chuyện châu Mỹ được đặt tên như thế nào thật là hào hứng. Colombus, nhà du hành người Ý, khởi hành trên một chuyến tàu biển để đi tìm nước Ấn Độ.
Ông tới một quần đảo nào đó vào sáng ngày 12 tháng mười , 1492. Ông ta lên bờ và đặt tên nó theo tên của vua Ferdinand và Nữ hoàng Isabella của Tây Ban Nha là "San Salvodor". Quần đảo này chỉ là một phần nhỏ của châu Mỹ. Bây giờ nó được gọi là quần đảo Watling. Ông tưởng đó là nước Ấn Độ nên gọi các cư dân là người Ấn (Indian). Thậm chí ngày nay các cư dân này cũng được gọi là Indian. Từ nơi này, ông ta muốn đi tới Nhật Bản nhưng thay vì như vậy, ông tới Cuba và Hispaniola. Thất vọng vì đã định vị sai nước Ấn Độ, Columbus trở về Tây Ban Nha vào ngày 13 tháng ba, 1493.
Ông thực hiện chuyến đi biển lần thứ hai vào ngày 24 tháng chín, 1493, ông đã khám phá ra một số đảo hoang như Puerto, Rico, Jamaica. Nhưng ông vẫn chưa tìm ra được Ấn Độ. Vào chuyến đi thứ ba năm 1498, ông khám phá ra đảo Trinidad và đã tới gần Nam Mỹ. Trong giai đoạn này, một người thuỷ thủ Tây Ban Nha, tên là Amerigo Vespucci, công bố rằng chính ông ta là người đặt chân lên vùng đất Nam Mỹ vào ngày 16 tháng sáu năm 1497. Tuy nhiên, các chuyên gia cho rằng tới năm 1499 Amerigo mới thực hiện chuyến đi biển. Vào năm 1499, Florentine Amerigo Vespucci cùng với Aloso de Ojeda đi tàu tới eo biển Orinoco và khám phá ra Venezuela.
Trong thời gian từ 1501 đến 1502, chính Vespucci đã hướng dẫn một chuyến đi biển dưới lá cờ Bồ Đào Nha và khám phá các bờ biển Brazin. Điều này rõ ràng là vùng đất mà Columbus đã tới là đại lục tân thế giớ. Vào đầu năm 1500, những sách của Amerigo Vespucci phát hành rất rộng rãi và ông ta được mang vinh dự là người châu Âu đầu tiên khám phá ra Nam Mỹ. Một nhà địa lý học người Đức, Waldsee Miller, đã đặt tên lãnh thổ Braxin là America để tỏ lòng tôn kính Amerigo và toàn thế giới bắt đầu sử dụng cái tên này.
Thuật thôi miên là gì ?
Thuật thôi miên là một nghệ thuật có thể làm thay đổi hoặc kiểm soát trạng thái tinh thần của một người đến mức người đó phải làm theo các chỉ thị của người thôi miên. Người ta đã áp dụng thuật thôi miên từ thời cổ xưa để thể hiện quyền lực bí hiểm, phép thần thông. Một bác sĩ người Áo, Franz A.Mesmer, khởi xướng một cuộc nguyên cứu khoa học về thuật thôi miên. Suốt một thời gian dài người ta biết được thuật thôi miên dưới cái tên là "mesmerism" . Từ "hypnotism" ( thuật thôi miên) được Jame Braid, một bác sĩ người Scotland, sử dụng đầu tiên vào năm 1840. Từ này có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp. "Hypnos" có nghĩa là "trạng thái ngủ".
Thật vậy, một người bị thôi miên giống như người bị mơ mơ màng màng. Đầu óc của người đó bị tác động đến nỗi có thể làm bất cứ điều gì theo chỉ thị của người thôi miên. Lực thôi miên được những người có ý chí mạnh mẽ sử dụng. Một người sắp sửa bị thôi miên được yêu cầu ngồi trong một phòng tối. Sau đó người thôi miên bảo người đó ngồi thư giãn thoải mái với một giọng nói khẽ lặp đi lặp lại. Kế đến người đó được yêu cầu tập trung chú ý và để mắt vào một vật gì đó, khi nhìn vào một vật một lúc lâu thì mắt bắt đầu mỏi dần ; lúc đó họ được yêu cầu nhắm mắt lại. Bây giờ người này đang trong trạng thái ngủ. Lúc ấy, nhà thôi miên mới bắt đầu đưa những chỉ thị cho ông ta. Ông ta hiện đang bị thôi miên và làm bất cứ điều gì mà nhà thôi miên yêu cầu.
Thuật thôi miên có thể làm một người cảm thấy như thể mình bị mù, câm hoặc điếc. Nó có thể làm cho người ta run lẩy bẩy. Thuật thôi miên có thể được sử dụng để làm cho người ta bị hoảng sợ. Một người bị thôi miên có thể làm những điều mà người đó sẽ không bao giờ làm ở lúc tỉnh và khi người đó tỉnh lại thì không thể nhớ được những gì mình đã làm khi bị thôi miên.
Thuật thôi miên là một trong những phương pháp giải phẫu không gây mê. Thuật thôi miên có thể áp dụng cho chính bản thân mình. Đó gọi là thuật tự thôi miên.
Thuật thôi miên không phải là một trò chơi : Nó có thể rất nguy hiểm khi một người không được huấn luyện kỹ càng lại đem ra áp dụng.
Hội chữ thập đỏ là gì và nó ra đời như thế nào ?
Hội chữ thập đỏ là một tổ chức nhân đạo quốc tế. Ban đầu, phạm vi hoạt động của nó giới hạn trong việc chăm sóc các binh lính bị thương trong chiến tranh.
Nhưng sau đó, nó mở rộng tầm hoạt động là làm xoa dịu tất cả những nỗi đau bệnh tật của con người. Hầu hết các quốc gia trên thế giới đều có chi nhánh của Hội chữ thập đỏ hoạt động trong thời chiến cũng như thời bình. Nó phục vụ con người và không phân biệt màu da, sắc tộc. Trong thời bình, các hoạt động của nó là : cấp cứu, ngăn ngừa tai nạn, giữ cho nước uống sạch sẽ an toàn, huấn luyện y tá và các bà đỡ, chăm sóc các trung tâm bà mẹ và trẻ em, thành lập bệnh viện, thiết lập các ngân hàng máu, v.v... Tổ chức này là một người bạn của toàn thể nhân loại.
Nguồn gốc của Hội chữ thập đỏ thì rất thú vị. Người thành lập ra tổ chức này là Jean Henri Dunant, một giám đốc ngân hàng người Thuỵ Sĩ. Vào ngày 24 tháng sáu 1895, ông tới thành phố Lombardy, miền bắc nước Ý, để liên kết làm ăn. Vào thời gian đó, thành phố này là nơi xảy ra trận chiến Solferino giữa Pháp và Áo. Hàng ngàn đàn ông và phụ nữ bị thương trong chiến tranh. Nhiều người trong bọn họ cần sự cấp cứu. Cảnh tượng thương tâm này đã tác động mạnh đến ông. Ông đã quên công việc riêng của mình và tổ chức một nhóm dân địa phương chăm sóc những người bị thương của cả hai phía trong trận chiến. Những nổ lực của ông đã cứu được nhiều mạng người.
Vào năm 1862, Dunant viết một quyển sách có tựa là "Hồi ức về trận Solferino", trong đó ông ta kêu gọi con người trên thế giới hãy thành lập các hội cứu trợ đặc biệt. Bởi vì những binh lính bị thương trong chiến tranh là những người không được giúp đỡ hoặc không thể tự lo liệu được, và vì là đồng loại, giúp đỡ họ là nhiệm vụ của mỗi người. Lời kêu gọi này đã có tác động rất mạnh ; và trong buổi hội thảo quốc tế được tổ chức vào năm 1864 tại Geneva, mười sáu quốc gia đã chấp thuận thành lập Hội chữ thập đỏ. Lá cờ của Thuỵ Sĩ có một dấu thập trắng in trên nền đỏ. Để lập ra lá cờ của Hội chữ thập đỏ, người ta đổi thành dấu chữ thập đỏ nằm trên nền trắng. Như vậy, Hội chữ thập đỏ đã được ra đời. Dấu thập đỏ trở thành biểu tượng của tổ chức quốc tế này, một tổ chức làm xoa dịu những nỗi đau đớn do bệnh tật, thảm hoạ thiên nhiên , v.v... và trợ giúp các nạn nhân của chiến tranh.
Trong thời gian có chiến tranh, Hội chữ thập đỏ quốc tế thực hiện chức năng là tổ chức trung gian giữa Hội chữ thập đỏ quốc tế và quốc gia đang lâm chiến. Hội chăm sóc các tù nhân chiến tranh trong trại lính và tổ chức cứu trợ. Hội cũng lo việc gửi thư và tiếp xúc với các thân nhân của tù binh. Tổ chức này cũng trợ giúp những nạn nhân thiên tai, bão lụt, nạn đói , v.v...
Bụi hữu ích với chúng ta như thế nào ?
Theo cách nghĩ thông thường , bụi rất có hại đối với chúng ta. Nhưng đó chỉ là một mặt của vấn đề. Bụi cũng rất hữu ích đối với chúng ta. Trước khi thảo luận về các hữu ích của bụi, ta nên tìm hiểu bụi là gì và nó được hình thành như thế nào ?
Mỗi chất rắn đều gồm có các phần tử rất nhỏ. Khi các phần tử nhỏ này bị phân tán, chúng trở thành các phần tử bụi. Chẳng hạn, khi ta đập một cục gạch hoặc một cục đá thành những mảnh vụn, nó sẽ trở thành những phần tử bụi. Bụi được hình thành trong nhiều cách khác nhau. Khi những chất rắn bị vỡ ra, bụi được hình thành. Khói tỏa ra từ việc đốt than, gỗ, xăng dầu... cũng tạo nên bụi. Các phần tử bụi cũng do từ cây cối bị chết, phân súc vật, muối biển, cát ở sa mạc, tro bụi núi lửa... các phần tử này hoà với không khí và được gọi là các phân tử bụi. Không khí mang các phân tử bụi từ nơi này tới nơi khác. Các phân tử ở bề mặt trái đất cũng bay trong không khí dưới dạng bụi.
Điều hữu dụng lớn nhất của các phân tử bụi là chúng giúp cho việc tạo ra mưa. Hơi nước ở trong mây đọng lại trên các phân tử bụi tạo ra những giọt mưa rơi xuống mặt đất. Nếu thiếu các phân tử bụi, thì việc tạo mưa có thể bị đình chỉ lại. Tương tư, sương ban mai, sương mù v.v... cũng được hình thành như vậy vì có hiện diện của các phân tử bụi trong không khí rải rác đủ mọi hướng dưới ánh sáng mặt trời.
Do sự rải rác này nên trời mờ mờ tối khoảng từ một đến hai tiếng đồng hồ sau khi mặt trời lặn. Trời ánh hồng vào lúc bình minh và hoàng hôn là do bởi các phân tử bụi và hơi nước. Ánh tà dương đẹp lộng lẫy mà ta thấy cũng do những phân tử bụi này tạo nên. Do đó, ta thấy rằng những phân tử bụi mà người ta cho là hoàn toàn có hại, thì rất hữu ích trong thực tế.
Giải thưởng nobel là gì ?
Giải thưởng Nobel được trao hàng năm cho các thành tựu nổi bật trong các lĩnh vực khoa học, văn chương và việc thúc đẩy hoà bình thế giới. Những người nhận được igải Nobel được nêu tên khắp thế giới. Cuộc đời và công trình của họ được in trên báo chí. Tên của họ được phát thanh trên đài phát thanh và truyền hình.
Người đạt giải này nhận một huy chương vàng, mọt giấy chứng nhận và một khoản tiền lớn. Giải Nobel là một giải thưởng quan trọng nhất trên thế giới. Giải này được trao cho những người có những cống hiến nổi bật nhất trong sáu lĩnh vực : vật lý, hoá học, văn chương, y khoa, hoà bình và kinh tế. Lĩnh vực kinh tế được bổ sung trong danh sách này vào năm 1969. Mỗi giải được trao cho mỗi lĩnh vực. Nếu cùng một lĩnh vực , có hơn một người lãnh giải, thì tiền thưởng sẽ được chia đều cho mỗi người.
Bạn có biết giải Nobel được bắt đầu như thế nào không ? Một điều thật sự đáng ngạc nhiên là giải này được thành lập do một nhà phát minh ra ngành khoa học về sự phá huỷ. Đó là nhà khoa học Alfred Bernhard Nobel, ông sinh tại Stockholm, ngày 21 tháng Mười, 1833 và mất ngày 10 tháng Mười hai , 1896. Cha của ông cũng là một nhà khoa học. Mặc dù là công dân của Thuỵ Điển nhưng ông học hành ở Nga. Ông đã phát minh ra chất nổ. Chất này được sử dụng rộng rãi trong việc phá các tảng đá, đào giếng dầu và sử dụng trong chiến tranh. Vì sự phát minh có giá trị này nên Nobel đã nổi tiếng khắp thế giới. Ông đã kiếm được số tiền khổng lồ từ việc bán chất nổ. Năm 1896, sau khi qua đời, ông đã để lại một khoản tiền kếch sù là 90.000.000 đô la, với một di chúc ghi rằng tiền lời của số tiền này từ ngân hàng sẽ được trao cho những người có những cống hiến nổi bật về ngành vật lý, hoá học, y khoa, văn chương và hoà bình. Giải này được mang tên là giải Nobel. Giải Nobel đầu tiên được trao cho Roentgen vào ngày 10 tháng Mười hai năm 1901 vì sự nguyên cứu độc đáo về tia X của ông. Tiền thưởng của giải này là 40.000 đô la.
Mặc dầu, tiền thưởng không lớn lắm nhưng những người nhận giải được mọi người trên khắp thế giới kính phục.
Một hội đồng được gọi là Ban tổ chức giải Nobel Thuỵ Điển trao giải thưởng. Học viện khoa học Hoàng gia ở Stockholm chọn ra các khoa học gia giỏi nhất trong năm về các lĩnh vực vật lý và hoá học. Học viện Caroline ở Stockholm chọn ra người giỏi nhất trong lĩnh vực y khoa và Học viện văn chương Thụy Điển đảm trách về giải văn chương. Tương tự một uỷ ban gồm có năm người, được quốc hội Na Uy bổ nhiệm, chọn ra những người có công nhất cho việc mưu tìm nền hoà bình thế giới.
Một số các nhân vật nổi tiếng trên thế giới được nhận giải Nobel là : Albert Einstein, George Gernard Shaw, Rabindra Nath Tagore, Ngài C.V Raman, Hargobind khorana, Mẹ Teressa v.v...
Người trẻ tuổi nhất nhận giải Nobel là Ngài William Lawrrênc Bragg, người Anh. Ông ta nhận giải Nobel về vật lý khi ông mới 25 tuổi.
Nobel nổi tiếng khắp thế giới đến nỗi nguyên tố thứ 102 được đặt theo tên của ông là Nobelium. Ở Thụy Điển có một học viện cũng đặt tên trường theo tên ông là Học viện Nobel Thuỵ Điển.
Oxy hữu ích với chúng ta như thế nào?
Không có oxy sẽ không có sự sống trên trái đất này. Không có sinh vật, cây cối hoặc động vật nào có thể sống sót được. Do đó, người ta gọi oxylà chất đem lại nguồn sống. Bạn có biết nó là gì không và tại sao nó lại tối cần thiết với chúng ta ?
Oxy là một chất khí do hai nhà khoa học khám phá ra một cách độc lập. Carl Scheele, nhà hoá học người Thuỵ Điển khám phá ra oxy vào năm 1772 và Joseph Priestley khám phá ra oxy vào năm 1774 tịa Anh. NÓ là chất khí không màu, không muivf và khong vị. Trong không khí có chứa 21%oxy, 78% nitơ và còn lại là các chất khsi khác. Trong vỏ trái đất , nguời ta tìm thấy nó dưới dạng oxit kim loại, tỉ lệ lên tới 50%. Ở nhiệt độ - 182.9oC dưới áp suất thường, oxy có thể bị hoá lỏng. ở trạng thái lỏng, nó có màu xanh dương nhạt. ở nhiệt độ -218.4oC, nó có thể chuyển sang thể rắn.
Trong phòng thí nghiệm, ta có thể lấy oxy bằng cách đun nóng hỗn hợp clorat kali và dioxit manhê. Ở ngoài không khí, điều này có thể thực hiện được bằng cách chưng cất không khí theo từng phần ( phương pháp phân đoạn ) . Không khí được nén lại tới hai trăm lần áp lực không khí bình thường và được chuyển qua một lỗ hẹp và một cái khoang. Khi áp suất đột ngột hạ xuống, không khí bị hoá lỏng và tụ lại ở trong khoang này. Khí nitơ được tách ra theo cách thức này và ta có thể lấy oxy ở thể lỏng.
Tất cả các sinh vật đều cần oxy để thở. Cây cối cũng "hít" oxy. Chúng hấp thụ oxy vào ban đêm. Ban ngày chúng nhả oxy ra theo quá trình quang hợp.
Bằng cách đốt oxy với axetylen (C2H2), ta có được một ngọn lửa có nhiệt độ cao. Ngọn lửa này được sử dụng để hàn và cắt kim loại. Oxy lỏng cũng được sử dụng làm nhiên liệu trong các con tàu không gian.
Các bệnh nhân sử dụng bình oxy khi bị khó thở và cũng được những người leo núi hoặc thợ lặn sử dụng. Tất cả các nhiên liệu đều được đốt cháy khi có oxy. Ta không thể hít thở oxy nguyên chất vì oxy nguyên chất có hại cho các tế bào cơ thể. Không khí trong lành thì cần thiết cho chúng ta bởi vì nó chứa oxy và các loại khí khác theo tỉ lệ chuẩn mực, do đó khi hít thở không khí trong lành, ta cảm tháy khoẻ khoắn. Vì thế ta nên mở cửa trong nhà để có không khí trong lành. Ta không nên che mặt lúc ngủ vì thiếu không khí làm ta khó thở.
Chúng ta cảm thấy ngột ngạt ở trong đám đông bởi vì lượng oxy ở đó bị hút đi. Vào mùa đông,ta không nên ngủ trong phòng đóng kín có đốt lò sưởi. Việc đốt này chuyển oxy thành dioxitcabon (CO2) và oxit cacbon (CO). Oxit cacbon là một chất khí độc hại đối với sức khoẻ.
Cầu vồng được hình thành như thế nào ?
Cầu vồng là một vòng cung ánh sáng có nhiều màu sắc, xuất hiện khi ánh mặt trời chiếu qua các hạt mưa.
Cầu vồng được hình thành như thế nào ? Ánh sáng mặt trời trông có vẻ là màu trắng, thật ra nó gồm có bảy màu. Đó là những màu :tím, chàm, xanh dương, xanh lá cây, vàng, cam và đỏ. Những màu này được viết tắt là VIBYOR, mỗi chữ biểu thị cho một màu sắc. Sự tách ánh nắng thành ánh sáng đơn sắc được gọi là độ tán sắc và dải các màu sắc được gọi là quang phổ.
Người ta thường thấy cầu vồng sau cơn mưa khi bầu không khí đầu những giọt nước nhỏ. Những giọt nước mưa hình cầu này có chức năng giống như các lăng kính nhỏ xíu. Khi tia nắng mặt trời chiếu lên các giọt nước, các tia nắng bị khúc xạ khi chúng chiếu vào các giọt nước ,sau đó phản xạ khi ra khỏi giọt nước. Các tia nắng bị khúc xạ lần nữa khi chúng chiếu qua các giọt nước khác. Mỗi tia nắng bị khúc xạ ở những góc độ khác nhau. Đó là lý do tại sao chúng ta thấy được sự khác biệt của màu sắc.
Cầu vồng hình cung có các màu chính và màu phụ. Vòng cung màu chính thì rực rỡ hơn, bên trong là màu tím, bên ngoài là màu chàm, xanh dương, xanh lá cây, vàng, cam và đỏ. Các màu sắc của vòng cung màu phụ thì có màu nhạt hơn. Màu đỏ ở bên trong và màu tím ở bên ngoài, vòng cung màu phụ thì ở phía trên vòng cung màu chính. Cầu vồng màu phụ được tạo ra là do các tia nắng bị phản chiếu và khúc xạ một lần nữa sau khi bị phản xạ và khúc xạ trong các giọt nước mưa.
Ta thường thấy cầu vồng ngược với phía mặt trời. Cơ bản về cách hình thành cầu vồng là ánh nắng chiếu sau cơn mưa và cũng là điều cơ bản rằng tia nắng, tầm mắt của chúng ta và trung tâm của cầu vồng nằm trên cùng một đường thẳng.
Tại sao vàng lại quý giá ?
Từ thời cổ xưa, vàng được xem là một biểu tượng của quyền lực và của cải. Trong nhiều xã hội, vàng được xem là một chất thần kỳ có khả năng che chở con người tránh được bệnh tật và tà ma. Vào thời xưa, những tượng thần và các ngôi đền được trang trí bằng vàng. Vàng có gì đặc biệt đến nỗi nó luôn luôn quý giá vậy ?
Vàng là một nguyên tố kim loại . Số nguyên tử là 79. Khối lượng nguyên tử là 197.2 .
Tính quý giá của nó phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Trướ tiên là tính hiếm có của nó, kế đến là tính tiện dụng, rồi đến tính thẩm mỹ, sau cùng là tính ít bị phản ứng hoá học đối với không khí và nước.
Vàng được dùng trong công nghiệp vì nó không bị xỉn màu, gia công được, gần như khong thể huỷ hoại, bền , có tính phản chiếu và dẫn điện. Khoảng 10% sản lượng vàng hàng năm được sử dụng cho các quy trình công nghiệp.
Vàng được tính bằng đơn vị trong ounce (31,1 gam). Một ounce có thể kéo thành một sợi dài 80km.
Những lớp mạ vàng dày 0,000024mm được dùng để tản nhiệt từ các ống thải khí của động cơ phản lực.
Phi thuyền không gian được bảo vệ chống lại các tia phóng xạ nhờ một lớp vàng mỏng.
Vàng dẫn điện tốt và không bị xỉn màu nên nó được sử dụng rộng rãi trong các máy vi tính và các vật dụng tiêu thụ điện.
Vàng pha với dầu được dùng để vẽ hoa văn trên các đồ sứ và thuỷ tinh. Vàng cũng được dùng trong việc chế tạo ngói lợp nhà vì có tính phản quang tốt.
Vàng được chỉ định làm thuốc trị cho nhiều loại bệnh như ung thư và viêm khớp, nó cũng được sử dụng rộng rãi trong ngành nha. Vàng cũng được sử dụng cho mục đích trang trí. Ta có thể thấy nhiều tác phẩm bằng vàng được sáng tạo từ nhiều nền văn minh lớn của thời xa xưa.
Đồ trang sức được làm bằng vàng gồm : nhẫn, bông tai, vòng cổ, vòng đeo tay, dây chuyền, v.v... thậm chí vàng được sử dụng để trang trí trên bút máy, bật lửa, ly tách, v.v...
Đồ trang sức bằng vàng được chế tạo theo 4 tiêu chuẩn : 22,18,14 và 9 cara. Vàng 18 cara là 18 phần vàng ròng trên 24 phần vàng, nghĩa là 18 cara tương đương với 75 % vàng ròng. Vàng 24 cara thì quá mềm đối với hầu hết các công dụng.
Đồng tiền vàng đầu tiên do vua Croesus xứ Lydia phát hành vào thế kỷ thứ 6 trước công nguyên. Ngày nay, vàng vẫn giữ một vai trò quan trọng trong hệ thống tiền tệ quốc tế.
Tại sao Vạn Lý Trường Thành được xây dựng ?
Tất cả chúng ta đều nghe đến Vạn Lý Trường Thành. Đây là bức tường dài nhất thế giới, trên 2.400 cây số (1.500 dặm). Chiều cao của nó từ 4 mét 57 tới 9 mét 2 và bề dày là 9 mét 75. Nó được xây bằng gạch và đá. Việc xây dựng bức tường vĩ đại này được bắt đầu vào năm 221 trước công nguyên và phải mất đến gần 15 năm mới hoàn tất. Bạn có thể tưởng tượng ra điều gì cần thiết để xây dựng bức tường này không ?
Bức tường vĩ đại này được xây dựng để bảo vệ Trung Quốc tránh quân xâm lược Mông Cổ. Vào khoảng năm 246 trước Công nguyên, Trung Quốc bị phân chia thành nhiều tỉnh. Vua Tần là Tần Thuỷ Hoàng đã thống nhất nhiều tỉnh và lập thành một triều đại. Ở phương Bắc có quân hung nô Mông Cổ, Tần Thuỷ Hoàng sợ rằng chúng có thể tấn công bất cứ lúc nào. Để bảo vệ Trung Quốc khỏi mối nguy hiểm này, ông ra lệnh xây dựng một bức tường khổng lồ. Vì thế bức tường bắt đầu xây dựng từ Độc Thạch Khấu (Hà Bắc) tới Cam Túc. Một con đường chạy dọc theo bức tường và các thông điệp sẽ nhanh chóng được các binh lính tuần tiểu gởi đi.
Nhà vua này đã đạt được mục đích của mình hay không? Tiếc thay là không, bởi vì bức tường đã bị vỡ ở nhiều nơi và quân Mông Cổ có cơ hội tấn công Trung Quốc. Mục đích xây dựng bức tường này đã không thể thực hiện được.
Vạn Lý Trường Thành là một trong rất ít các công trình nhân tạo có thể nhìn thấy được từ mặt trăng.
Tại sao khi mặt trời mọc và lặn lại có màu đỏ ?
Khi mặt trời mọc ở hướng đông , nó trông giống như một trái banh màu đỏ và khi mặt trời lặn ở hướng tây cũng vậy. Bạn biết tại sao lại như vậy không ?
Ta biết rằng trái đất có bầu khí quyển bao quanh. Ánh mặt trời chiếu qua bầu khí quyển trước khi chiếu tới mặt đất. Ta cũng biết ánh mặt trời gồm có bảy màu :tím, chàm, xanh dương, xanh lá cây, vàng, cam và đỏ. Vào buổi sáng và buổi chiều, khi mặt trời ở gần đường chân trời, các tia nắng ở gần đường chân trời, các tia nắng chiếu tới mặt đất phải đi một đoạn đường gấp khoảng 50 lần so với buổi trưa. Bụi, khó và hơi nước trong khí quyển làm tán xạ những màu này. Màu tím, màu chàm và xanh dương bị tán xạ nhiều nhất và màu đỏ , màu cam bị tán xạ ít nhất. Đó là lý do tại sao khi mặt trời lặn và mọc lại có màu đỏ.
Silic hữu ích với chúng ta như thế nào?
Silic là một chất phi kim loại . Nó được tìm thấy trong thiên nhiên duới dạng tinh chất. Silic nguyên chất là một chất rắn có màu xám đậm. Nó bóng như kim loại và giống như pha lê. Ở nhiệt độ bình thường, nó không phản ứng với các nguyên tố khác nhưng ở nhiệt độ cao nó hoà trộn với các nguyên tố khác.
Vỏ trái đất có 28% silic trong khi đất sét làm đồ sứ có 50% silic. Silic cũng được tìm thấy trong các tảng đá, cát, nước, xương, v.v... Cát có một lượng lớn silic.
Silic được lấy ra từ hỗn hwọp dioxít silic (SiO2). Khi thuốc dioxít silic được nung nóng trong một lò nung bằng điện, oxy bị khử đi và silic được tách ra thành dioxít silicon.
Hầu hết silic được tìm thấy dưới dạng silica (silic oxit) , cũng được gọi là dioxit silic, nó là một hỗn hợp silic và oxy. Thạch anh, thạch anh đỏ, đá trắng sữa và cát đều là những dạng khác nhau của silica. Silicát là một hỗn hợp khác của silica. Mica và amiăng là những dạng silicat rất phổ biến.
Silicát rất hữu ích đối với chúng ta. Nó được sử dụng trong việc chế tạo ra kính, men sứ, v.v...
Sodium silicát (SiO3Na2) được dùng để chế tạo ra xà phòng, chất ngăn ngừa mụn gỗ, ủng trứng và dùng trong việc nhuộm màu. Nó cũng được sử dụng trong việc chế tạo ra cao su nhân tạo.
Người ta trộn silic với cát và đất để chế tạo ra gạch.
Ứng dụng chính của silica dưới dạng tinh chất là việc chế tạo ra các tế bào quang, linh kiện bán dẫn và các vi mạch silicon (silicon chip) trong các vi mạch của máy vi tính. Một hỗn hợp giữa silic và carbon được gọi là cacbua silic được sử dụng để đánh bóng kim loại. Trộn silic với thép thì tính năng của nó sẽ tăng lên. Silic cũng được dùng trong việc chế tạo ra các chất bán dẫn rất hữu ích trong đời sống của chúng ta.
Hệ thống bưu điện được bắt đầu như thế nào ?
Tất cả chúng ta đều biết đến tầm quan trọng của hệ thống bưu điện. Bởi vì ta có thể nhận thư từ của bạn bè thân nhân từ Mỹ, Anh quốc trong vòng 10 ngày đổ lại.
Tương tự, chỉ độ 2 hoặc 3 ngày ta có thể nhận thư từ trong nước. Đó là điều tuyệt vời của hệ thống bưu điện.
Vào thời xa xưa, thư từ được gửi đi bằng chim hoặc thú nuôi trong nhà. Những vị vua có các sứ giả triều đình đưa tin bằng ngựa, xe ngựa trạm chở khách, hoặc bất kỳ phương tiện nào. Tuy vậy, thật khó gửi thư từ qua lại đối với đại đa số quần chúng. Như thế, cần phải có một hệ thống bưu điện cho những người dân thường. Người ta nói rằng hệ thống bưu điện đã có ở Ai Cập, Trung Quốc, Ba Tư vào thời cổ xưa. Và đế quốc La Mã có một hệ thống bưu điện phát triển mạnh nhất thế giới vào thời đó.
Khoảng năm 1500, nước Anh đã có một bưu điện và năm 1700, nước Anh có một tổng cục bưu điện do một vị tổng cục trưởng tổng cục bưu điện đứng đầu. Vào năm 1839, chính phủ đã tiếp quản hệ thống này.
Nói chung, người gởi hoặc người nhận thư đều phải trả tiền cho việc gửi thư, số tiền tuỳ thuộc vào trọng lượng của bức thư và quãng đường gửi thư đi. Vào năm 1840, Rowland Hill, người Anh, đã nghĩ ra việc dán những con tem lên trên phong bì để gởi thư. Đó là một bước thay đổi lớn bởi vì số tiền mua tem để gởi thư rất thấp phù hợp với túi tiền của mọi người dân. Hệ thống bưu điện này đã phổ biến rộng rãi và được các nước trên thế giới áp dụng.
Cao su là gì ?
Cao su thì rất cần thiết trong đời sống của chúng ta. Nó là một chất hữu cơ có độ co giãn cao, nó có thể kéo dài ra gấp tám lần so với chiều dài ban đầu. Nó được sử dụng rất nhiều ở trong nhà, các ngành công nghiệp, bệnh viện, v.v... Lịch sử của cao su có lex rất là lâu đời. Người ta đã tìm ra những dấu vết vật dụng làm từ cây cao su cách đây ba triệu năm.
Có hơn 400 loại cây cao su . Cây cao su cho nhiều mủ nhất được gọi là Hevea - Brasiliensis, nó cao khoảng 35 mét. Một loại khác cũng cho nhiều mủ là cây Castilla.
Cây cao su ban đầu được trồng ở Braxin. Hiện nay, Malaysia là nới cung cấp cao su thiên nhiên nhiều nhất.
Người ta rạch cạo cây cao su để lấy mủ. Mủ cao su rò rỉ qua những chỗ cắt xoắn vòng trên vỏ cây. Sau đó, nó đông sền sệt lại, lúc này nó không có độ co giãn (đàn hồi ) cao. Người ta cán luyện cao su để có độ bền chắc và có tính co giãn cao bằng cách cho sulfua hoặc cho bột cacbon, oxýt silic và bông hoặc len vào cao su rồi nung lên ở nhiệt dọ cao. Người ta sử dụng loại cao su này rất rộng rãi.
Cao su nhân tạo hay cao su tổng hợp được sản xuất trong thời Thế chiến thứ hai. Cao su tổng hợp được sử dụng trong các ngành công nghiệp bởi vì nó có tình bền đối với các loại hoá chất. Các loại nhựa silicon là một thành tựu gần đây, nó chịu được độ nóng và độ lạnh rất cao.
Lịch năm tháng được bắt đầu như thế nào?
Khi bắt đầu có nền văn minh, con người đã quan sát mặt trời mọc và lặn, để ý đến hiện tượng ngày và đêm. Ý tưởng về tháng có thể nảy ra từ việc quan sát chu kỳ của mặt trăng và sự thay đổi về mùa màng có thể đã nảy sinh ra ý tưởng về năm. Với sự phát triển khoa học, người ta đã biết được nhiều điều chính xác hơn. Người ta đã tính được chu kỳ quay của trái đất quanh mặt trời là một năm, thời gian hết một vòng quanh trục của mình là một ngày.
Lịch ban đầu của Ai Cập gồm có 12 tháng trong một năm, mỗi tháng có 30 ngày. Như vậy, 5 ngày dôi ra được cộng vào tháng cuối của năm để tròn 365 ngày. Người Hy Lạp sử dụng âm lịch theo lịch này, cứ 8 năm thì dôi ra 3 tháng. Vào năm 432 trước Công nguyên, Meton, nhà thiên văn học, đã khám phá ra rằng 234 tháng âm lịch bằng với 19 năm.
Năm 46 trước Công nguyên, Julius Caesar đã đưa ra một bước quan trọng đầu tiên trong việc định hướng lập ra lịch năm tháng. Ông đã nhờ sự trợ giúp của nhà thiên văn học người Hy Lạp, Sosigenes, làm công việc này. Lịch này căn cứ vào thời gian mà trái đất quay hết một vòng quanh mặt trời, được gọi là dương lịch. Trái đất quay một vòng quanh mặt trời mất 364 1/4 ngày.
Một phần tư ngày dôi ra đó gây ra sự nhầm lẫn , rối rắm.
Các nhà thiên văn học xác định một năm có 365 ngày và cứ bốn năm thì có một năm 366 ngày cốt để một phần tư ngày dôi ra của mỗi năm được dồn vào năm thứ tư. Năm thứ tư này được gọi là năm nhuần. Bất cứ năm nào chia được cho 4 đều là năm nhuần. 365 ngày trong một năm được chia thành 12 tháng. Tháng giêng, tháng ba, tháng năm, tháng bảy, tháng tám, tháng mười và tháng chạp có 31 ngày. Tháng tư , tháng sáu, tháng chín và tháng mười một có 30 ngày, riêng tháng hai có 28 ngày nhưng vào năm nhuần tháng hai có 29 ngày. Lịch này đã sử dụng được 1600 năm. Tuy nhiên, sau đó, người ta tìm ra một sai lệch đến 10 ngày, bởi vì trái đất thật sự phải mất 365.2422 ngày để quay quanh một vòng mặt trời. Như vậy, trong 1000 năm sẽ bị sai lệch mất 7 ngày 8 giờ. Năm 1582, Gregogy XIII đã quyết định bỏ đi mười ngày của năm 1582 và ông ta ra lệnh rằng trong năm cuối của mỗi thế kỷ, năm nhuần sẽ được bỏ đi trừ phi nó chia được cho 400. Như vậy năm 1700, 1800 và 1900 không phải là những năm nhuần nhưng vào năm 2000 sẽ là năm nhuần có tháng hai 29 ngày. Lịch này được gọi là lịch Gregogy hiện đang được sử dụng trên thế giới.
Hiện nay có một loại lịch khác đang được sử dụng đó là âm lịch. Lịch này căn cứ vào chu kỳ của mặt trăng. Mặt trăng quay quanh trái đất phải mất 29 ngày rưỡi. Để thực hiện 12 vòng quanh trái đất, mặt trăng phải mất 354 ngày (29 1/2 x 12). Như vậy một năm âm lịch có 354 ngày, ít hơn năm dương lịch là 11 ngày. Do đó cứ 3 thì dôi ra 33 ngày, nên theo âm lịch cứ mỗi 3 năm thì có một tháng nhuận và trong 19 năm sẽ có 7 tháng nhuận.
Ngoài hai loại lịch này ra, một số nước cũng có vài loại lịch khác được sử dụng với mục đích tôn giáo của xứ họ.
Tại sao pháo bông có nhiều màu?
Pháo bông được sử dụng vào các dịp lễ, hội hè ở khắp nơi trên thế giới. Khi chúng được mồi lửa, chúng phát nổ và tung ra rất nhiều màu sắc. Bạn có biết tại sao chúng có nhiều màu không ?
Pháo bông được làm bằng một hỗn hợp nitrat potassium, lưu huỳnh , than và muối của một số kim loại. Màu sắc có được là do muối của các kim loại như Strontium, barium, magnesium và sodium. Chúng được trộn với clorat potassium. Muối barium cho ra màu xanh lá cây, sunfat strontium cho màu xanh da trời nhạt. Cacbonát strontium cho màu vàng, nitrat strontium cho màu đỏ, muối sodium cho màu vàng, muối của đồng cho màu xanh dương. Bột nhôm trong pháo bông tạo ra hình ảnh giống như đám mưa bạc. Khi pháo bông phát nổ, những loại muối này cháy trong pháo bông, nhiều loại màu sắc tung ra và tạo nên một cảnh ngoạn mục. Trung Quốc là nước đầu tiền chế tạo ra pháo bông.
Sau đó hàng trăm năm, Châu Âu, Ả Rập và Hy Lạp mới chế tạo pháo bông.
Quốc gia nào nhỏ nhất trên thế giới ?
Quốc gia là một lãnh thổ có một biên giới nhất định và một chính phủ riêng của nó. Mỗi đất nước đều có lá cờ riêng và một hệ thống hành chính. Theo như định nghĩa này thì Vatican là một quốc gia nhỏ nhất trên thế giới.
Vatican là một đất nước có Đức giáo hoàng, vị lãnh đạo tinh thần của những người theo đạo Thiên Chúa. Nó toạ lạc ở trung tâm thành phố Rome, thủ đô của Ý. Đất nước này hoàn toàn dưới sự kiểm soát của Đức giáo hoàng. Nó có lá cờ riêng, có hệ thống bưu điện độc lập, ga xe lửa, hệ thống điện thoại và các phương tiện truyền thanh . Bạn sẽ ngạc nhiên khi biết rằng tổng diện tích của nó chỉ có 0.45 km2. Mặc dù đất nước này không có bất kỳ nguồn thu nhập nào cả nhưng nó được người theo đạo Thiên Chúa khắp nơi trên thế giới đóng góp vào. Ở đất nước này, nơi trú ngụ của Đức giáo hoàng là một lâu đài lộng lẫy có vườn cây đẹp, một thư viện và một viện bảo tàng . Thành phố Vatican vẫn duy trì các mối quan hệ ngoại giao với những nước khác trên thế giới.
Câu chuyện hình thành đất nước Vatican thì rất thú vị. Cách đây hàng trăm năm, nước Ý đã có một trung tâm hoạt động cho những người Thiên Chúa giáo. Sau một thời gian dài , Đức giáo hoàng điều khiển hoạt động chính trị tại một khu rộng lớn ở trung tâm nước Ý. Năm 1859, phần đất này được coi là "tiểu bang thuộc giáo hoàng". Lúc đó, diện tích của nó là 16.000 dặm vuông. Năm 1870, Rome được đặt là thủ đô của nước Ý và lãnh thổ của Đức giáo hoàng bị sát nhập vào vương quốc Ý mà không có sự tán thành của Đức giáo hoàng. Kết quả là các mối quan hệ giữa nhà vua và Đức giáo hoàng trở nên căng thẳng. Mối bất đồng này đã chấm dứt vào năm 1929 với sự dàn xếp giữa chính phủ Ý và Đức giáo hoàng. Cuối cùng, Vatican được công nhận là một đất nước độc lập và có chủ quyền.
Chất kháng sinh là gì?
Chất kháng sinh là loại thuốc đặc biệt, nó ngăn chặn hoặc tiêu diệt sự phát triển của vi khuẩn hoặc các vi sinh vật có mầm bệnh. Chất kháng sinh giúp cho chúng ta có thể chống lại các bệnh tật và được sử dụng trong việc điều trị nhiều căn bệnh.
Từ "antibiotics" (kháng sinh) có nguồn gốc từ chữ "antibiosis" . "anti" có nghĩa là "chống lại" và "biosis" có nghĩa là "cuộc sống". Chất kháng sinh tác động, chống lại một số loại vi khuẩn. Thật vậy, chất kháng sinh là chất hoá học lấy từ cơ thể các vi sinh vật như vi khuẩn, nấm mốc, hoặc một vài thực vật.
Thời đại chất kháng sinh bắt đầu vào khoảng năm 1982 cùng với việc khám phá các loại Penicillin của bác sĩ Alexandra Flemning. Flemning đã đặt tên cho chất Penicillin. Chất kháng sinh này rất hữu hiệu cho việc điều trị các bệnh như viêm phổi, họ , viêm cuống họng, mụn mũ, đau nhức, v.v... Streptomycin là một chất kháng sinh khác được dùng để điều trị bệnh lao phổi. Ngoài ra còn có những chất kháng sinh khác như ampicilin, tẻtacyclin, chloromycetin, v.v... được dùng để trị những căn bệnh khác. Một vài loại kháng sinh rất hữu hiệu trong việc chống lại một số vi sinh vật, vài loại khác hữu hiệu trong việc chống lại các vi sinh vật ở phạm vi lớn được gọi là chất kháng sinh phổ rộng.
Khi một chất kháng sinh được đưa vào cơ thể, nó sẽ giết chết các vi khuẩn gây bệnh.
Bạn có biết chất kháng sinh được làm như thế nào không? Hầu hết các kháng sinh đều được làm từ vi khuẩn và nấm. Các khoa học gia thật sự đã không biết toàn bộ cách thức mà chất kháng sinh giết được các vi khuẩn mầm bệnh. Một vài khoa học gia cho rằng chất kháng sinh ngăn chặn oxy không tới được các vi khuẩn mầm bệnh nên các vi khuẩn này chết vì thiếu oxy. Một vài khoa học gia khác cho rằng , chất kháng sinh ngăn chặn các vi khuẩn không lấy được thức ăn . Dù cho cách thức tác động của chất kháng sinh có như thế nào đi nữa, nó vẫn là loại thuốc hữu ích cho con người. Mỗi năm hàng triệu bệnh nhân trên thế giới được chữa trị nhờ chất kháng sinh. Năm 1930, 20% đến 85% tổng số tử vong ở Mỹ là do bệnh lao phổi. Năm 1960 con số này giảm xuống còn 5%. Tương tự, số tử vong do sốt thương hàn gây ra đã giảm từ 10% đến 2%. Các bệnh truyền nhiễm cũng đỡ đi nhiều nhờ chất kháng sinh. Chất kháng sinh cũng hữu dụng trong việc ngăn ngừa những căn bệnh như nhiễm trùng cuống họng, bệnh sốt gây đau nhức các khớp xương và các bệnh lây qua đường tình dục, v.v...
Chất kháng sinh cũng có những phản ứng phụ, tạo ra phản ứng của cơ thể đối với chất kháng sinh chẳng hạn như chứng ban đỏ và các triệu chứng khác có thể gây ra những căn bệnh khác. Phản ứng trầm trọng nhất là dẫn tới tử vong. Đôi khi, chất kháng sinh không có hữu hiệu đối với một số vi khuẩn mầm bệnh.
Ngân hàng được bắt đầu như thế nào ?
Từ "ngân hàng" có nguồn gốc từ chữ "Banco" của tiếng Ý, nó mang ý nghĩa là "băng ghế dài" . Vào thời Trung cổ, người Ý thường ngồi trên băng ghế dài khi giao dịch mua bán. Sau đó, từ "Banco" đã được thay đổi và trở thành từ "bank". Hiện nay, tất cả các nước trên thế giới đều có các hệ thống ngân hàng. Bạn có biết ngân hàng được bắt đầu như thế nào không?
Ban đầu, việc cho vay tiền và gửi tiền vào ngân hàng do người Do Thái thực hiện và sau đó là do các thợ vàng. Thật ra, các thương gia trả tiền cho các thợ vàng đã giữ giùm số tiền mặt còn dư của họ. Các thợ vàng này đã ghi những hoá đơn giống như tờ ngân phiếu giao cho các thương gia. Không phải chỉ có việc đó, các thợ vàng có thể cho người khác vay một phần số tiền đó để kiếm lời và họ cho các thương gia một khoản tiền khích lệ khi gởi tiền cho họ. Đây là khởi điểm của việc gởi tiền tiết kiệm vào ngân hàng.
Các thương gia cũng viết những lá thư cho các thợ vàng yêu cầu họ trả tiền cho một thương gia khác, số tiền mà họ đã gửi. Điều này giống như việc lưu hành tờ séc (ngân phiếu) vậy. Hệ thống ngân hàng hiện đại được bắt đầu tại Venice năm 1587, cùng năm đó ngân hàng "Banco di Rialto" được thành lập. Người ta có thể gởi tiền vào nhà băng này và có thể rút ra bất cứ lúc nào họ cần. Năm 1619, ngân hàng "Banco di Giro" đã quản lý ngân hàng này, người ta có thể gởi tiền, thậm chí có thể gởi vàng hoặc bạc vào ngân hàng này và ngân hàng phát hành các hoá đơn . Những hoá đơn này được sử dụng như tiền giấy hiện hành.
Vào những thời kỳ đầu, ngân hàng chỉ có hai chức năng, cụ thể là nhận tiền và cho vay để lấy lời. Ngày nay, ngân hàng phục vụ với nhiều mục đích khác chẳng hạn phát hành thẻ tín dụng và trao đổi ngoại hối , v.v...
Đá hoa cương là gì?
Đá hoa cương (cẩm thạch) là một loại đá vôi có nhiều màu sắc. Đá hoa cương trắng được sử dụng cho việc xây dựng các toà nhà từ thời cổ xưa. Người Hy Lạp và Ai Cập sử dụng loại đá này để xây dựng các ngôi đền. Đền Taj Mahal cũng được làm bằng đá hoa cương trắng. Nó không bị ảnh hưởng bởi độ nóng lạnh, mưa gió, v.v...
Đá hoa cương cũng được tìm thấy trong thiên nhiên dưới dạng đá tảng. Những khối đá tảng này được hình thành từ những khối đá vôi. Độ nóng khủng khiếp và áp lực bên dưới của Trái Đất đã biến đá vôi này thành đá hoa cương. Nếu bạn phân tích thanhphâfn hoá học của đá hoa cương bạn sẽ thấy hầu hết là chất cacbônát canxi . Một vài loại đá hoa cương có chứa 99% cacbônát canxi. Đá hoa cương có nhiều màu sắc là do có vài loại muối của nhôm và manhê ở trong đó. Người ta dùng máy để cắt những tảng đá hoa cương và đưa vào xưởng để cắt thành những kích cỡ tiêu chuẩn. Đá hoa cương cũng được lấy từ những khối đá nhám, không mịn. Để làm mịn láng bề mặt, người ta dùng một loại máy đặc biệt để chà láng. Sau đó mới đem sử dụng. Nước Ý có những mỏ đá hoa cương nổi tiếng trên thế giới. Mỗi năm ở Ý khoảng 100.000 tấn đá hoa cương được khai thác. Ở Mỹ, tại Vermont có một mỏ đá hoa cương lớn nhất.
Vì đá hoa cương đẹp nên nó luôn là một vật liệu cho ngành kiến trúc, điêu khắc và nhiều mục đích khác. Những điêu khắc gia nổi tiếng như Michelangelo và Leonardo da Vinci đã sử dụng đá hoa cương làm chất liệu cho các tác phẩm của mình.
Thế vận hội Olympic là gì ?
Như bạn biết, Thế vận hội Olympic được tổ chức bốn năm một lần và hầu hết các nước trên thế giới đều tham dự. Lịch sử của thế vận hội Olympic thì rất lâu đời. Sự thật là thế vận hội đầu tiên được tổ chức vào năm 776 trước Công nguyên ở Olympia, Hy Lạp. Thế vận hội đầu tiên này được tổ chức trong năm ngày và được nhiều người dân Hy Lạp chứng kiến.
Ban đầu, chỉ có những vận động viên Hy Lạp tham gia các cuộc thi đấu. Vào thời đó, các cuộc thi đấu này được coi là một kỳ hội hè mang tính chất tôn giáo. Chúng được tổ chức như một thể hiện tôn kính thần Zeus. Mỗi vận động viên sẽ làm lễ ở đền thần Zeus trước khi tham gia thi đấu. Người thắng cuộc được trao một nhánh cây ô liu trồng trong sân của ngôi đền. Vào thời đó, phụ nữ không được tham gia các trận đấu. Thậm chí đến mức họ không được xem các trận đấu. Thế vận hội tiếp tục được gần 1100 năm, nhưng vào năm 393, vua La Mã, Theodosius, đã cấm tổ chức thế vận hội sau khi chiếm được Hy Lạp. Việc này kéo dài 1465 năm. Năm 1859, Japas, người Hy Lạp , đã tổ chức bốn kỳ thế vận hội vào năm 1895, 1870, 1875, 1889. Nhưng sau khi ông ta chết, những kỳ thế vận hội lại bị gián đoạn.
Một giáo viên người Pháp tên là Baron pierre de Coubertin bắt đầu tổ chức lại thế vận hội Olympic vào năm 1896 tại Athen, thủ đô của Hy Lạp. Có 311 vận động viên từ 13 quốc gia tới tham gia. Trong số đó có 230 người Hy Lạp.
Sau kỳ thế vận hội Olympic hiện đại năm 1896, từ đó kỳ thế vận hội khác được tổ chức tại những quốc gia khác nhau cứ cách bốn năm một lần, trừ những năm 1916, 1940 và 1944 bởi vì thế chiến thứ nhất và thế chiến thứ hai. Thế vận hội mùa đông cũng được tổ chức một cách riêng rẽ tại một quốc gia khác nhau. Thế vận hội mùa đông đầu tiên được tổ chức vào năm 1924 tại Charnon nước Pháp.
Bạn có biết ở Thế vận hội có các môn thi đấu nào không ? Những môn thi đấu chính là :bóng đá, bơi lội, chạy đua, đấu vật, khúc côn cầu, bóng rổ, đua xe đạp, thi bắn, v.v...
Uỷ bạn Olympic quyết định nơi tổ chức Thế vận hội kế tiếp. Vị lãnh đạo tiểu bang hoặc thành phố của quốc gia tổ chức Thế vận hội sẽ long trọng tuyên bố khai mạc Thế vận hội. Đại diện của quốc gia tổ chức Thế vận hội kỳ trước sẽ trao ngọn đuốc Olympic lấy từ đền thần Zeus, sau đó nó được đem tới sân vận động chính, nơi ngọn lửa này sẽ cháy cho tới khi Thế vận hội bế mạc. Những đoàn tham dự Thế vận hội của mỗi quốc gia sẽ diễu hành qua khán đài. Đoàn tham dự của Hy Lạp đi đầu và đoàn của quốc gia đang tổ chức thế vận hội đi sau cùng. Ở chính giữa là tất cả các đoàn tham dự Thế vận hội nối đuôi đi theo nhau theo thứ tự tên nước sắp xếp theo mẫu tự. Sau đó, các vận động viên sẽ tuyên thệ. Những con chim bồ câu trắng, biểu tượng của hoà bình, được thả tung bay và những quả bóng bay phất phới. Vào ngày cuối cùng, có một buổi lễ đọc diễn văn chia tay và ngọn lửa Olympic được dụi tắt.
Người ta lấy xăng dầu như thế nào ?
Xăng dầu là một trong những sản phẩm hữu ích nhất trên thế giới. Tất cả các phương tiền di chuyển đều sử dụng xăng dầu. Nó cũng là nguồn chất đốt và các nguồn năng lượng khác.
Xăng dầu lấy từ dầu mỏ, một loại chất lỏng đen sậm và sền sệt, được tìm thấy trong lòng trái đất. Từ "petroleum" có nguồn gốc từ chữ "petra" và "oleum" của tiếng La tinh. "Petra" mang nghĩa là "đá" và "oleum" mang nghĩa là "dầu". Nó thường được tìm thấy trong những "túi dầu" bên dưới bề mặt trái đất. Dầu mỏ đôi khi được gọi là "vàng đen" bởi vì nó cực kỳ hữu ích cho chúng ta. Bạn có biết dầu được hình thành như thế nào ở trong lòng đất hay không ?
Cách đây hàng triệu năm, cây cối, động vật bị chôn trong lòng đất do những biến động về mặt địa chất. Áp lực cực độ và sức nóng bên trong trái đất đã biến các thực vật và động vật bị mục rữa thành dầu.
Dầu thô được lấy từ các giếng dầu. Dầu thô chế tạo ra xăng, dầu nâpt, dầu lửa, diesel , hắc ín, v.v... sau khi được đưa vào nhà máy lọc dầu để tinh chế, dầu thô được đun nóng trong những nồi rất to có hình trụ. Những thành phần khác nhau của dầu thô được tách ra ở những nhiệt độ khác nhau và được lấy ra bằng những đường ống riêng biệt. Quá trình này được gọi là sự chưng cất từng phần. Những sản phẩm khác được lấy từ dầu thô là nhựa, sơn, các chất tẩy rửa, v.v...
Interpol là gì ?
Interpollà một tổ chức cảnh sát chống tội phạm quốc tế. Interpol là do hai chữ international và police ghép lại. Interpol là một tổ chức phi chính trị, phi tôn giáo và phi chủng tộc trong đó có hơn trăm quốc gia cộng tác với nhau. Tổng hành dinh của nó đặt ở Paris.
Công việc của "Interpol" là truy tìm tội phạm. Theo luật quốc tế, cảnh sát của một quốc gia không thể vào một quốc gia khác để bắt một tội phạm đã lẩn trốn ở đó. Trong những tình huống như thế Interpol hỗ trợ việc truy lùng tội phạm. Mỗi quốc gia đều có thành viên trong Interpol.
Sau Thế chiến thứ nhất, tội phạm gia tăng đáng kể ở Châu Âu, đặc biệt là ở Áo. Sau khi phạm tội, những tên tội phạm thường lẫn trốn ở những nước lân cận.
Để bắt những tên tội phạm như thế, Johann Scober lúc đó là cảnh sát trưởng của thành phố Vienna, đã triệu tập một cuộc họp gồm các sĩ quan cảnh sát của nhiều quốc gia khác nhau vào năm 1923. Trong cuộc họp này 20 quốc gia đã liên kết thành lập Interpol. Trụ sở chính đầu tiên là ở Vienna và Johann trở thành vị chủ tịch đầu tiên.
Năm 1938, Đức xâm chiếm Áo và huỷ bỏ hệ thống Interpol này. Suốt Thế chiến thứ hai, Interpol vẫn không hoạt động gì cả. Sau Thế chiến, Flaurent Lovagay, Tổng thanh tra lực lượng cảnh sát Bỉ mới phục hồi nó lại. Bởi vì không có sẵn các điều kiện cần thiết ở Bỉ nên trụ sở chíng không thể đặt tại đó được và trụ sở mới này được đặt tại Paris. Năm 1989, trụ sở Interpol chuyển đến Lyon (Pháp).
Interpol áp dụng các phương tiện khoa học hiện đại nhất để bắt tội phạm. Truy lùng và bắt giữ tội phạm là chức năng duy nhất của tổ chức này. Nó không được sử dụng cho bất kỳ hoạt động nào mang tính chất chính trị, quân sự, tôn giáo.
Uranium là gì ?
Uranium là một nguyên tố kim loại, màu bạc và có tính phóng xạ.
Heinrich Martin Klaprothk, nhà hoá học người Đức, đã tìm ra uranium vào năm 1789 trong một quặng khô, ông gọi nó là "Uranit". Nhưng sau đó một năm Klaproth đã đổi tên nó thành "Uranium theo tên của sao Thiên Vương (Uranus). Vào cuối thế kỷ 18, các nhà khoa học đã tạo ra nhiều hợp chất của uranium. Năm 1896, Henry Becquerel đã khám phá ra tính phóng xạ trong uranium.
Uranium là một kim loại bóng láng có màu trắng nhưng nó hoá đen khi tiếp xúc với không khí.
Uranium là một kim loại rất nặng. 30.48cm3 (30.48cm khối) uranium nặng gần nửa tấn. Uranium tự nhiên là một hỗn hợp có hai nguyên tố đồng vị. Uranium 238 và uranium 235.99.27% được tìm thấy trong tự nhiên là uranium 238 và 0.72% là uranium 235.
Những tia phóng xạ phát ra từ nhân nguyên tử uranium rất hữu dụng. Những tia này được sử dụng trong nông nghiệp, công nghiệp, sinh học và y khoa. Uranium còn được sử dụng trong lãnh vực năng lượng hạt nhân . Năm 1938 quá trình phân hạt nhân đã được tìm ra bằng cách bắn mạnh vào các nhân nguyên tử uranium bằng các nơtrôn. Sự phân hạt nhân ra là quá trình nhân nguyên tử Uranium 235 bị tách ra làm hai phần do việc bắn mạnh các nơtrôn. Do đó, năng lượng mạnh khủng khiếp được tạo ra. Bom nguyên tử được chế tạo theo quá trình này. Ngoài ra, ứng dụng của nó rất là đa dạng.
Ngày nay, sự phân hạt nhân được sử dụng cho việc chế tạo ra năng lượng điện. Một pound (~ 0,452g) uranium tạo ra một năng lượng bằng với năng lượng mà ta đốt khoảng 1.400 tấn than đá. Do đó nguyên tố đồng vị uranium 235 được dùng trong các lò phản ứng hạt nhân để sản xuất ra năng lượng. Năng lượng hơi này sẽ đi qua tuốc bin để tạo ra điện.
Uranium cũng được dùng để hút các tia X và tia Gamma. Các loại oxít của nó được dùng làm chất xúc tác trong vài phản ứng hoá học.
Có bốn phần uranium trong một phần triệu của vỏ trái đất. Các hợp chất của uranium cũng được tìm thấy trong các khối đá. Uranit là một trong những quặng uranium quan trọng. Quặng Uranit được tìm thấy nhiều ở Anh, Ấn Độ và Châu Phi.
Nước là gì?
Giống như không khí, nước thì tối cần thiết cho đời sống, không có nước, ta không thể sống sót trong vài ngày được. Con người, cây cối và thú vật đều cần nước để tồn tại. Trên 70% bề mặt của trái đất là nước. Khoảng 97% lượng nước trên trái đất là ở các đại dương.
Nước là một hợp chất gồm hydro và oxy. Tính theo thể tích, nó có hai phần hydro và một phần oxy. Nước tinh khiết thì không màu, không mùi và không vị. Chúng ta lấy nước từ sông, hồ, suối, giếng, biển cả, v.v... Nước tồn tại trong ba trạng thái :rắn, lỏng và hơi. Ta thường thấy nước ở trạng thái lỏng nhưng kh đông lạnh tới 0 độ C, nó biến thành nước đá và khi được đun sôi tới 100 độ C nó biến thành hơi nước.
Nước được lấy từ thiên nhiên thì không tinh khiết vì nó có chứa nhiều loại muối và chất khoáng hoà tan trong đó. Bởi vì các đặc tính không tinh khiết này nên nước có vị. Nước có nhiều muối khoáng sẽ không tạo bọt khi ta dùng nó với xà bông. Ta gọi đó là độ cứng của nước. Độ cứng của nước gồm có hai loại : tạm thời và lâu dài. Độ cứng tạm thời là nước có bicacbonat canxi và bicacbonat manhê. Khi đun sôi nước thì hai chất này bị khử đi.
Độ cứng vĩnh viễn là nước có florua, sunphát canxi và manhê. Để làm mất độ cứng của nước, ta phải hoà sodium cacbônát vào trong nước. Chẳng hạn, nước đá thì nhẹ hơn nước. Đó là lý do tại sao nước đá và các tảng băng lại nổi trên mặt nước. Nước có độ đông đặc cao nhất ở 4 độ C . Vì tính chất này nên vào mùa đông nước ở bề mặt các ao hồ đông lại, còn những lớp nước ở bên dưới thì không đông. Nước được gọi là một dung môi phổ biến. Nước biển mặn bởi vì có nhiều chất khoáng hoà tan trong đó. Không khí tự nó hoà tan trong nước, nên các động vật sống ở dưới nước có thể thở được.
Nước là một chất lỏng không dễ bị bay hơi. Đó là lý do tại sao đất giữ được độ ẩm trong thời gian dài do đó cây cối mới có thể sống được.
Hàm lượng nước trong các sinh vật thì khác nhau. Cây cối có từ 60% đến 80% hàm lượng nước. Trái cây tươi có từ 85% đến 95% và các loại cây sống ở dưới nước có 98% , cơ thể con người có 65%.
Nước thường có các vi khuẩn gây bệnh như : thương hàn, dịch tả, kiết lỵ, tiêu chảy, v.v... Do đó ta nên uống nước được đun sôi.
Tại sao đồng hồ lại có các chân kính ?
Khi mua một chiếc đồng hồ đeo tay, người ta thường hỏi nó có bao nhiêu chân kính. Số chân kính được khắc hoặc in ở vỏ đồng hồ hoặc trên mặt đồng hồ. Người ta thường nghĩ rằng số chân kính càng nhiều thì chiếc đồng hồ sẽ chạy tốt hơn và bền hơn. Bạn có muốn biết các chân kính là gì không và tại sao chúng lại được gắn vào đồng hồ?
Một chiếc đồng hồ tốt sẽ chạy đúng giờ và không dễ bị hư, nếu mở một chiếc đồng hồ ra, bạn sẽ thấy cấu trúc bên trong của một chiếc đồng hồ rất phức tạp. Nó có nhiều phần lớn nhỏ khác nhau đủ loại. Một chiếc đồng hồ có khoảng 211 bộ phận. Trong số các bộ phân này có một bánh xe nhỏ luôn luôn chuyển động. Dọc theo bánh xe này có một sợi dây kim loại giống như cọng tóc được gọi là dây cót. Khi ta lên dây, đồng hồ bắt đầu kêu tích tắc. Dây cót giữ lại lực lên dây đồng hồ và làm cho đồng hồ chạy. Ngoài bánh xe này ra, cũng có nhiều bánh xe khác luôn quay tròn. Những bánh xe này làm quay kim chỉ giờ, phút, giây. Những trục của các bánh xe này tì lên những trục trụ. Khi các bánh xe quay tạo ra sự ma sát này, các trục trụ có thể mau bị mòn và đồng hồ sẽ chạy không chính xác, người ta dùng những mẫu vật liệu nhỏ rất cứng nhưng rất mịn làm trục trụ. Những mẩu vật liệu nhỏ này gọi là chân kính, chúng được làm bằng những loại đá cứng gần như kim cương. Những trục bánh xe xoay quanh trục chính này và không bị ma sát nhiều. Vì độ cứng của chúng nên các chân kính không bị mòn và đồng hồ không dễ dàng bị hư. Do đó, các chân kính được sử dụng để làm tăng tuổi thọ của chiếc đồng hồ.
Tại sao những vật nóng làm chúng ta bị bỏng ?
Vật nóng là vật có nhiệt độ cao hơn thân nhiệt của chúng ta. Nếu ta đụng vào một vật như thế thì độ nóng của nó sẽ truyền tới cơ thể chúng ta và chúng ta cảm thấy nóng. Tương tự, một vật lạnh là vật có nhiệt độ thấp hơn thân nhiệt của chúng ta. Khi ta đụng vào nó, thân nhiệt của chúng ta truyền vào vật đó. Bạn có biết tại sao lại như vậy không?
Ta biết rằng cơ thể chúng ta được cấu tạo bởi các tế bào. Do vậy các tế bào này cấu thành bởi các phân tử. Ở mức thân nhiệt bình thường, các phân tử này chuyền động. Khi một vật nóng đụng vào một phần cơ thể, nó làm tăng tốc các phân tử của tế bào nơi vật này đụng vào. Và khi các phân tử của tế bào ở chỗ đó chịu đựng những dao động nhanh, các tế bào bị đứt ra. Đó chính là việc làm đứt tế bào tạo ra cảm giác bỏng. Để chữa lại những tế bào tạo bị tổn thương , sự lưu thông của máu trở nên nhanh hơn ở chỗ bị thương. Đó là lý do tại sao chỗ bị thương lại đỏ lên.
Khi một vật có độ nóng cao đụng vào cơ thể thì rất nhiều tế bào và dây thần kinh bị đứt ra. Độ nóng của chất này làm ráo khô nước các tế bào da và chúng bị đứt ra. Đó là hiện tượng bị bỏng.
Đôi khi những chất cực nóng làm thiệu huỷ mỡ và xương và gây ra những vết thương sâu trên cơ thể. Những vết sẹo do bỏng gây ra được xoá đi bằng cách ghép mô da lấy từ các phần khác của cơ thể.
Các vết bỏng được phân loại thành bốn cấp độ. Vết bỏng cấp độ một chỉ là vết đỏ ở lớp da bên ngoài. Vết bỏng cấp độ hai là làm bỏng những lớp da sâu hơn và da bị rộp lên. Vết bỏng cấp độ ba là toàn bộ các lớp da đều bị bỏng. Vết bỏng cấp độ bốn không những làm bỏng da mà còn làm bỏng các mô da bên dưới da.
Các vết bỏng không chỉ do độ nóng gây ra mà còn do các loại hoá chất, axít, chất kiềm, tia X và các tia phóng xạ.
Tại sao phải mở cuộc điều tra dân số ?
Hiện nay, chiến dịch điều tra dân số thì phổ biến ở các quốc gia trên thế giới. KHông thể nói chắc chắn rằng việc điều tra dân số được bắt đầu khi nào và theo cách thức như thế nào . Nhưng có lẽ con người nhận ra tầm quan trọng của việc điều tra dân số khi họ sống trong những cộng đồng lớn. Vào năm 2000 trước Công nguyên, dân số trên thế giới là 85 triệu. Con số này chứng tỏ hệ thống điều tra dân số đã được triển khai vào thời đó. Tại sao phải mở cuộc điều tra dân số ? Những lý do được nêu ra ở những thời điểm khác nhau.
Vào thời cổ xưa, các vị vua thường mở cuộc điều tra dân số để ước lượng số người có thể tham gia trong các trận chiến và mục đích khác là để thu thuế. Trước đây có thể có hai lý do chính này nhưng hiện nay việc điều tra dân số có tầm quan trọng hơn nhiều.
Việc điều tra dân số thể hiện một bức tranh rõ nét về các khía cạnh khác nhau của người dân ở một nước. Điều này giúp chính quyền trong việc chuẩn bị và thực hiện các kế hoạch về giáo dục, y tế, công ăn việc làm, v.v...
Việc điều tra dân số cho biết dân số tăng hay giảm và biết được số sinh suất để thiết lập những kế hoạch phục vụ các nhu cầu của con người trong tương lại. Nó cũng cho ta biết tỉ lệ dân số ở nông thôn và thành thị, và rất hữu dụng trong việc tổ chức các cuộc bầu cử bởi vì dựa trên cơ sở số dân, con số cử tri sẽ được xác định trong một khu vực bầu cử. Ngoài ra , việc điều tra dân số làm củng cố thêm luật lệ, trật tự, các điều kiện xã hội, kinh tế, v.v...
Đồng hữu ích với chúng ta như thế nào ?
Đồng là kim loại có màu cam đỏ, nó đã được con người sử dụng trên 5000 năm nay. Nó là kim loại đầu tiên được tìm ra sau vàng.
Đồng nguyên chất ở dạng tự nhiên được tìm thấy dưới dạng hạt với số lượng ít. Hầu hết đồng ở dưới dạng hợp chất như sunfua, cacbonat, silicat và oxit. Sulphít đồng là quặng quan trọng nhất của nó. Khoảng 50% nguồn cung cấp đồng trên thế giới là sulphít đồng.
Lịch sử cho thấy rằng đồng được con người sử dụng vào thời kỳ đồ đá. Vào năm 4000 trước Công nguyên , việc đào mỏ đồng đã bắt đầu có vào năm 6000 trước Công nguyên con người đã sử dụng đồng làm các dụng cụ, vũ khí và đồ trang sức. Sau đó, con người khám phá rằng đồng thiếc, một hợp kim gồm đồng, kẽm và thiếc, còn cứng hơn cả đồng. Lúc đó người ta mới sử dụng đồng thiếc làm vật dụng, vũ khí và đồ trang sức. Những hợp kim đồng khác chẳng hạn như đồng thau cũng được sử dụng cho các mục đích tương tự. Đồng với nhôm cũng tạo ra một hợp kim được gọi là đồng nhôm.
Cho tới nay đồng vẫn là một trong các kim loại quan trọng nhất trên thế giới, nó được sử dụng rộng rãi trong công nghiệp điện và các ngành khác để chế tạo ra dây điện, đi na mô, các cuộn dây motơ , được sử dụng trong việc đúc tiền xu, trong công nghiệp cơ khí v.v... Đồng được sử dụng khắp thế giới để chế tạo ra dây điện vì tính mềm và bền của nó. Nó là một chất dẫn nhiệt và điện tốt. Đồng có rất nhiều ở Canada, Mỹ, Chilê, Zambia và Nga.
Hạt trai được hình thành như thế nào?
Hạt trai thật thì rất đắt tiền. Bạn sẽ ngạc nhiên khi biết rằng con sò, một sinh vật nhỏ ở biển, làm ra hạt trai. Một con sò có thể bò trên mặt đất. Sinh vật nhỏ này khi ở dưới biển nó bị cá hoặc những con cùng loài lớn hơn ăn thịt. Khi sò lên bờ để cứu mạng sống của mình thì bị con người ăn. Để tự bảo vệ, nó tạo ra một vỏ sò cứng quanh mình làm bằng một chất độc đáo gọi là vỏ ốc xà cừ. Hạt trai được tạo ra ở trong lớp vỏ cứng này. Việc khám phá ra hạt trai có một câu chuyện rất thú vị. Cách đây khoảng 4.000 năm, một người Trung Quốc bị đói quá, để thoả mãn cơn đói, ông ta đã mở những vỏ sò ra để ăn. Bên trong con sò, ông ta thấy một hạt sáng long lanh. Viện hạt này được gọi là hạt trai.
Bất cứ lúc nào, khi một hạt cát tình cờ lọt vào trong vỏ sò và chà xát lên cơ thể mềm mại của con vật này. Để làm giảm việc cọ xát nó bắt đầu tiết ra một chất phủ lên hạt cát này từng lớp một. Những lớp này được hình thành do chất cacbônát canxi. Sau một thời gian, hạt trai bên trong vỏ sò được hình thành. Hạt trai có hình tròn, trắng và bóng láng. Tuy nhiên, hạt trai có thể là màu đen, trắng, hồng, xanh dương nhạt, vàng, xanh lục , màu hoa cà.
Hiện nay, người ta đã có những kỹ thuật chế tạo ra hạt trai nhân tạo. Người ta bỏ những hạt cát vào bên trong vỏ sò. Sau hai hoặc ba năm, sò được lấy lên khỏi mặt nước và sẽ có được hạt trai nhân tạo trong đó. Người Nhật có một kỹ thuật tuyệt hảo về việc cấy những hạt trai. Bởi vì hạt trai thiên nhiên rất đắc tiền do đó người ta thường sử dụng hoặc mua bán hạt trai nhân tạo.
Vào ngày 7 tháng năm, 1934 người ta tìm thấy một hạt trai ở Philippines có đường kính là 13cm, cân nặng khoảng 6,37 kí lô được gọi là hạt trai Laozi.
Số học được bắt đầu như thế nào ?
Số học là một môn học về phép cộng , trừ, nhân và chia.
Từ "Arithmetic" (số học) có nguồn gốc từ chữ "arithmos" của Hy Lạp mang nghĩa là "các con số". Vào thời kỳ đầu của nền văn minh, con người đã đếm những con cừu, bò và các thú vật khác bằng ngón tay . Từ "digit" (chữ số) được dùng để biểu thị những số từ 0 đến 9, có nguồn gốc từ chữ "digitus" của La tinh mang nghĩa "ngón tay" hoặc "ngón chân". Sau đó, con người bắt đầu đếm bằng các que gỗ. Nhưng cách thức này không tồn tại được lâu và con người bắt đầu sử dụng những dấu hiệu khác nhau cho mỗi con số. Người Ai Cập sử dụng những đường thẳng để đếm từ một đến mười. Người Hy Lạp sử dụng các mẫu tự, chẳng hạn họ viết á để chỉ số 1, b' để chỉ số 2 và j' chỉ số 10. Người La Mã viết 5 chữ số đầu tiên là I, II, III, IV, V và X chỉ số 10, L chỉ số 50, C chỉ số 100, D chỉ số 500, M chỉ số 1000. Trong ngôn ngữ La Mã hiện nay, các con số cũng được viết như thế.
Con số hiện nay đang được sử dụng là số Ả Rập. Những người Ả Rập phổ biến những con số này tới Châu Âu. Thật ra, những con số này có nguồn gốc từ Ấn Độ, và đúng ra chúng nên được gọi là số Ấn Độ.
"Zero" (số không) cũng có nguồn gốc từ Ấn Độ, người Ấn Độ gọi là "Shoonya" mang nghĩa "trống rỗng" hoặc "không có gì" và ở Ả Rập nó trở thành "Sifr" mang cùng một nghĩa như vậy. Năm 1202, một người Ý đã soạn một quyển sách số học đầu tiên dựa trên hệ thống số Ả Rập này. Quyển sách số học đầu tiên được in bằng tiếng La Tinh vào năm 1478 . Vào thời gian đó, những hàng phép tính cộng, trừ, nhân, chia đã được phát triển đầy đủ. Các nhà số học phải mất nhiều thế kỷ mới phát triển các phép tính số học mà hiện nay đang được sử dụng. Số học rất cần thiết trong mọi ngành, mọi giới trong đời sống hàng ngày của chúng ta.
Tiếng vang dội là gì?
Khi ta nói to trong một căn phòng trống hoặc trong một ngôi đền, ta sẽ nghe rõ tiếng nói của ta dội lại. Dó là tiéng dội. Một tiếng dội có thể nghe được bằng cách la to gần một cái giếng sâu. Tiếng sấm cũng là một thí dụ về tiếng vang dội.
Ta biết rằng âm thanh di chuyển dưới dạng sóng âm.
Tốc độ của âm thanh trong không khí là 340 mét một giây. Khi ta nói, các sóng âm phát ra từ miệng chúng ta và đi khắp mọi hướng. Khi những sóng này gặp phải một bức tường hoặc một vật cản khác, chúng sẽ bị phản hồi. Ta sẽ nghe những sóng phản hồi này, đó là tiếng dội. Do đó tiếng dội tạo ra khi ccs sống âm bị phản hồi khi gặp một vật cản. Có một vài vật không phản hồi âm thanh. Đó là gỗ, sợi đay, các tông.... bởi vì những vật liệu này hút âm thanh.
Để nghe được một tiếng dội, vật phản hồi âm thanh phải cách chúng ta một cự ly ít nhất là trên 17 mét. Bởi vì hiệu úng âm thanh tiếp tục vang dội vào tai của chúng ta trong một phần mười giây. Nếu một âm thanh đi dến tai của chúng ta và trong vòng một phần mười giây, nếu có một âm thanh khác đến tai của chúng ta, nó sẽ không thể nghe được bởi vì trong lúc này hiệu ứng âm thanh của âm đến trước vẫn vang dội trong tai của chúng ta. Âm thanh đi với tốc độ khoảng 34 mét trong một phần mười giây. Như vậy, nếu một vật phản hồi được các sóng âm phải cách xa người nói là 17 mét, thời gian nói tới vật cản và dội lại phía người nói sẽ là một phần mười giây và tai của ta có thể nghe được tiếng vang dội này.
Trong các toà nhà hiện tại, kiến trúc sư sử dụng những phương pháp và các vật liệu làm giảm tiếng vang dội và làm thuận tiện cho việc truyền âm thanh. Các giảng đường được xây dựng với những góc tròn và các bề mặt phẳng rộng lớn. Điều này làm cho các sóng âm tahnh không bị phản hồi. Các sóng âm đi khắp mọi hướng và ta nghe được âm thanh ở nguồn phát. Những tấm ván ép có nhiều lỗ được sử dụng làm chất cách âm ở trong phòng. Bằng cách sử dụng những vật liệu này, các sóng âm vừa bị hút đi hoặc bị phân tán để làm giảm tiếng vang dội. Các hệ thông Rađa và thiết bị định sóng âm ở dưới nước vận hành trên nguyên tắc của tiếng dội.
Những thành phần của sữa là gì ?
Sữa là chất lỏng bổ dưỡng màu trắng được lấy từ các động vật vú giống cái. Bơ, phômát, v.v... được chế tạo từ sữa.
Không có cơ sở nào chắc chắn để xác định rằng con người bắt đầu dùng sữa chính xác vào lúc nào , nhưng cách đây năm ngàn năm con người đã nuôi những động vật cho sữa.
Bò, trâu, cừu và dê là những con vật cho sữa. Ở Bắc Âu, người ta cũng dùng sữa của con tuần lộc, ở những nước Trung Đông, sữa dê được dùng rất phổ biến
Đã từ lâu, sữa được coi là một loại thực phẩm tuyệt vời. Nó chứa nhiều chất bổ dưỡng như đường, protein, chất béo, sinh tố, chất khoáng, chất muối và nước.
Sữa bò chứa 87.2% nước, 3.7% chất béo, 3.5% protein, 4.9% đường và nhiều loại chất khoáng, sinh tố. Sữa của các động vật khác đều có những chất dinh dưỡng kể trên nhưng khác nhau về hàm lượng phần trăm.
Ta lấy chất béo trong sữa để làm ra bơ. Chất béo cung cấp nhiều năng lượng. Protein có trong sữa làm cho cơ bắp được khoẻ hơn, cơ thể dễ hấp thụ đường trong sữa. Các chất khoáng như canxi và phốtpho thì rất tố cho xương. Các sinh tố A, B, C, D, K và niaxin có trong sữa sẽ tăng sinh tố trong cơ thể của chúng ta.
Sữa rất mau bị hư. Do đó ta nên để lạnh tới 10 độ C và nên duy trì ở nhiệt độ này cho tới khi sữa được đưa tới những nơi khác. Ta có thể đem đun sôi một ngày vài lần để tránh sự lên men.
Ở nhiều quốc gia, người ta bán sữa tiệt trùng. Những người ăn kiêng thường uống sữa đã được rút gần hết chất béo có trong sữa.
Nước đá khô là gì ?
Ta thường thấy nước đá là do nước đông đặc ở 0 độ C. Ngoài ra còn có một loại nước đá khác gọi là nước đá khô.
Nước đá khô là dạng dioxyt cácbon ở thể rắn. Nó được hình thành khi hidoxyt cácbon chuyển trực tiếp từ thể khí sang thể rắn ở nhiệt độ khoảng 80 độ C. Nó lạnh đến mức có thể làm bỏng lạnh da của ta. Nó thường được chuẩn bị bằng cách làm lạnh dioxyt cácbon dưới áp suất cao. Trông nó giống như tuyết nhưng có thể ép thành từng khối một.
Nước đá khô rất quan trọng cho việc bảo quản đông lạnh thức ăn như kem, thịt và thuốc. Nó cũng được sử dụng để tạo ra những lớp sương trên sân khấu bởi vì nó nhanh chóng chuyển sang thể khí ở nhiệt độ bình thường mà không hoá lỏng.
Những cách thức đo thời gian?
Qua nhiều thời đại, con người đã sử dụng nhiều cách thức đo thời gian, chằng hạn như tính chu kỳ quay của trái đất, thời gian mặt trời mọc và lặn, sự di chuyển của mặt trăng , các ngôi sao và sự thay đổi mùa màng.
Chu kỳ của trái đất quay quanh mặt trời được gọi là thời gian thiên văn. Năm thiên văn gồm có 365 ngày 6giờ 9 phút và 9.54 giây.
Những cách thức lâu đời nhất được sử dụng để đo thời gian là đồng hồ nến, đồng hồ nước, đồng hồ mặt trời, đồng hồ cát.
Đồng hồ mặt trời đo thời gian bằng cách dùng một cái cây để đo bóng mặt trời chiếu qua.
Đồng hồ nến đo thời gian bằng cách tính thời gian cháy hết của một cây nến.
Đồng hồ nước là một cái chậu và một chỗ rò rỉ nước xuống một cái chậu khác. Đơn vị thời gian là thời gian rò rỉ hết nước từ một cái chậu này sang một cái chậu khác.
Tương tự, đồng hồ cát cũng vậy. Nó là một thùng chứa cát, những hạt cát rơi từ thùng này sang thùng khác là một đơn vị thời gian.
Đồng hồ lên dây cót được phát minh vào cuối năm 1400. Đồng hồ hiện đại ngày nay gồm có hai loại chính : đồng hồ máy và đồng hồ điện tử.
Đồng hồ máy khi dùng ta phải lên dây nó mới vận hành được, còn đồng hồ điện tử chạy bằng pin. Đồng hồ Quartz là đồng hồ chạy bằng pin, nó vận hành theo sự dao dộng của tinh thể thạch anh. Và mức chính xác của nó lên tới 60 giây trong một năm.
Vào thập niên 1970, đồng hồ kỹ thuật số (digital) đã trở nên phổ biến. Loại đồng hồ này chạy rất chính xác, nó có một hệ thống hiển thị bằng tinh thể lỏng hoặc hệ thống hiển thị bằng đèn diốt và nó cũng được làm bằng thạch anh.
Dụng cụ đo thời gian chính xác nhất là đồng hồ nguyên tử. Nó đo được tốc độ dao động của các nguyên tử Sezi (cesium) hoặc khí amoniac. Người ta tính rằng trong một triệu năm, đồng hồ nguyên tử mới sai lệch chỉ có vài giây.
Nhựa dẻo hay plastic là gì?
Nhựa dẻo không có trong thiên nhiên, người ta phải chế tạo ra nó. Từ "plastic" có nguồn gốc từ chữ "Plastiko" của Hy Lạp nó mang nghĩa là "đúc hình".
Plastic được làm từ các hoá chất hữu cơ đơn giản và có nhiều loại và màu sắc khác nhau. Plastic được một người Anh tên là Alexander Pakers chế tạo ra vào năm 1862. Vào thời gian có nó được gọi theo tên của ông ta là chất "Parkesine". Parkesine là một chất nhựa dẻo đầu tiên được chế tạo ra. Nhiều chất nhựa dẻo có chữ "poly" ở đầu, chẳng hạn chữ "Polyten". "Poly" có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp mang nghĩa là "nhiều". Polyten có nghĩa là nhiều phân tử eten được nối kết vào nhau.
Leo Hendirk Backerland đã chế tạo ra plastic và tung ra thị trường lần đầu tiên. Ông làm plastic từ phénol và formaldehyd. Sau đó, những kỹ thuật mới được phát triển trong việc sản xuất plastic. Ngày nay, các nhà khoa học đã khám phá ra những nguyên liệu được dùng để chế tạo ra nhiều sản phẩm plastic. Hầu hết plastic đều được làm từ các hoá chất có trong dầu, có vài loại được lấy từ gỗ, than và chất khí tự nhiên. Các loại plastic thông dụng là pôtilen, polystiren, PVC và nilông.
Ngày nay, plastic đã trở thành một phần thiết yếu trong đời sống của chúng ta. Công dụng của nó thì vô cùng. Plastic trong được dùng để làm thấu kính, cửa sổ máy bay. Túi nhựa pôtilen được sử dụng khắp nơi. Những đồ gia dụng như xô nước, ly tách, bàn chải, lược, rổ, v.v... đều được làm bằng plastic.
Đồ chơi và các mặt hàng thể thao được làm bằng nhựa thì tràn lan khắp thị trường ở mọi nơi. Sợi chỉ để làm vải terylen cũng làm bằng nhựa dẻo.
Ngày nay, các nhà khoa học đã thành công trong việc chế tạo ra các loại nhựa cách nhiệt. Gối cao su, ghế ngồi trên xe lửa, otô và máy bay đều được làm bằng plastic. Ngày nay, plastic được dùng trong phẫu thuật.
Plastic gần như được sử dụng trong mọi lãnh vực.
Viễn vọng kính là gì ?
Viễn vọng kính là một loại kính được dùng để xem những vật ở thật xa một cách rõ ràng và có thể phóng to những vật đó lên. Han Lippershey, nhà làm dụng cụ về quang học người Hà Lan đã phát minh ra viễn vọng kính vào năm 1608. Năm 1609, Galileo, nhà thiên văn người Ý, đã chế tạo viễn vọng kính đầu tiên của ông ta và quan sát những quầng xung quanh sao Thổ và các vệ tinh của sao Mộc. Ngày nay, có ba loại kính viễn vọng chính : kính viễn vọng khúc xạ ánh sáng, kính viễn vọng phản xạ và kính viễn vọng vô tuyến.
* Kính viễn vọng khúc xạ ánh sáng
Là loại kính sử dụng hai thấu kính được gắn ở cuối ống kính. Một kính viễn vọng thiên văn có một thấu kính lồi có kích cỡ lớn và một thị kính (chỗ để mắt nhìn vào) có thấu kính lồi trong khi đó kính viễn vọng của Galileo sử dụng một thấu kính lồi và một thị kính có thấu kính lõm. Kính viễn vọng khúc xạ ánh sáng hiện đại thường có các hệ thống thấu kính phức tạp để điều chỉnh quang sai về màu sắc.
* Kính viễn vọng phản xạ
Được làm bằng một tấm gương lõm có thể tụ lại và tập trung các loại sóng ánh sáng. Có một tấm gương khác ở gần điểm nơi các sóng ánh sáng hội tụ lại và nó phản chiếu vào trong thị kính.
Kính viễn vọng của Newton sử dụng một tấm gương đặt ở một góc 45 độ để phản chiếu ánh sáng vào trong thị kính.
Kính viễn vọng của Casegran có một tấm gương lồi phản chiếu ánh sáng qua một lỗ nhỏ ở trung tâm gương vật thể. Ánh sáng đi qua thị kính và làm cho ảnh vật được lớn hơn. Kính viễn vọng lớn nhất trên thế giới được đặt tại đài thiên văn Yerkes, bang Wisconsin , Hoa Kỳ. Thấu kính vật thể của nó có đường kính là 102 cm.
* Kính viễn vọng vô tuyến
Có một gương phản chiếu khổng lồ giống hình cái chén dùng để phản chiếu các loại sóng vô tuyến tới bộ phận dò sóng. Kính viễn vọng vô tuyến được sử dụng trong ngành thiên văn. Loại kính này có thể sử dụng dưới bất kỳ điều kiện thời tiết nào.
Phẫu thuật tạo hình là gì?
Phẫu thuật tạo hình là một ngành giải phẫu phục hồi và chữa lại những chỗ dị dạng của mô. Nó không những làm cho các mô trở lại dạng bình thường mà còn phục hồi chức năng của nó nữa. Ngành phẫu thuật có nhiều phân ngành như :giải phẫu thẩm mỹ, giải phẫu xử lý các dị tật bẩm sinh, vết bỏng, vết thương, v.v...
Giải phẫu thẩm mỹ làm cho ngoại hình đẹp hơn như giải phẫu thẩm mỹ mắt, mũi, khuôn mặt và ngực. Loại giải phẫu thông dụng nhất là sửa mũi, mắt và xoá nếp nhăn ở mặt hoặc ở cổ.
Phẫu thuật tạo hình trị được những dị tật bẩm sinh hoặc những dị tật do bệnh lý hoặc thương tích gây ra. Phần cơ thể bị tổn thương hoặc có dị tật thì không làm đúng chức năng của nó. Trong trường hợp như thế, phẫu thuật tạo hình giúp cho việc tái tạo chức năng. Việc này thường đòi hỏi cần phải cấy hoặc ghép mô. Da cơ, xương, hoặc sụn từ những phần lành mạnh của cơ thể được cấy vào những phần bị tổn thương. Đôi khi giải phẫu phục hồi chức năng cũng nối tay chân lại được, cải tạo các mô, phục hồi các dây thần kinh và các mạch máu bị tổn thương.
Phẫu thuật tạo hình đã được áp dụng hàng trăm năm nay ở Trung Quốc và Ấn Độ. Các bác sĩ thời đó đã sửa mũi, môi cho người khác cách đây đã lâu.
Thực phẩm được đóng hộp như thế nào ?
Đóng hộp thực phẩm là một trong những cách thức bảo quản thức ăn. Thực phẩm đóng hộp phải được tiệt trùng. Hộp thực phẩm phải thật kín, không để cho không khí lọt vào, nếu không nó sẽ tạo vi khuẩn trong thực phẩm.
Trong một cơ xưởng đóng hộp, thực phẩm được chuẩn bị trong những thùng chứa lớn. Thực phẩm được đun nóng để diệt vi khuẩn và ngăn chặn hoạt động lên men. Hầu hết các vi khuẩn bị khử đi ở nhiệt độ từ 100 độ C đến 121 độ C. Thịt, cá và rau được đun nóng khoảng 120 độ C. Thời gian tiệt trùng tuỳ thuộc vào nhiệt độ, thùng chứa và loại thực phẩm.
Sau khi đun nóng xong, thực phẩm được đưa tới bộ phận đóng hộp. Thực phẩm được cho vào những hộp bằng kim loại hoặc thuỷ tinh. Không khí được rút ra khỏi hộp và được ráp những nắp đậy kín hơi.
Đa số thực phẩm đóng hộp có thể giữ được trên một năm. Những cách thức khác về việc bảo quản thức ăn là trữ lạnh, làm đông lạnh, sấy khô, ngâm muối phơi khô, v.v... tất cả những cách thức này đều dựa trên cơ sở khoa học và được thực hiện cực kỳ sạch sẽ và vệ sinh.
Truyền hình vệ tinh là gì?
Một máy phát sóng truyền hình ở mặt đất có thể phát những tín hiệu chỉ tới một cự ly giới hạn. Mặc dù ăngten truyền đi được đặt ở trên những ngọn đồi cao, cũng có thể làm tắc nghẽn những tín hiệu. Vệ tinh truyền hình có thể được xem là một ăngten nhưng nó được đặt ở trong không gian.
Các đài truyền hình sử dụng vệ tinh để trao đổi các chương trình TV. Các tín hiệu được phát đi từ trái đất tới không gian và được dò tìm bởi hệ thống ăngten của vệ tinh. Những tín hiệu này được vệ tinh truyền lại xuống trái đất nơi có ăngten đĩa tiếp nhận những tín hiệu này. Đài truyền hình tiếp nhận lúc đó mới phát những tín hiệu tới máy truyền hình của người xem. Bằng cách này, các tín hiệu truyền hình được phát đi từ nước này sang nước khác. Quá trình truyền hình phát từ một đài truyền hình ở mặt đất tới vệ tinh và được phát ngược trở lại tới một đài truyền hình khác được thể hiện bằng mã số.
Hiện nay, nếu ta có một loại ăngten đĩa đặc biệt, ta có thể xem chương trình phát trực tiếp từ vệ tinh.
Cao su tổng hợp được chế tạo như thế nào ?
Cao su, gồm có hai loại cao su thiên nhiên và cao su tổng hợp. Cao su thiên nhiên được lấy từ nhựa cây cao su và cao su tổng hợp được chế tạo từ các loại hoá chất.
Cao su tổng hợp được chế tạo đầu tiên vào trước năm 1900. Nó được chế tạo bằng cách tổng hợp Hydrocacbon từ nhựa thông. Hầu hết các loại nhựa tổng hợp được lấy từ dầu, chủ yếu từ các chất acetylen, stiren và butadien. Hai loại cao su tổng hợp quan trọng nhất là cao su butin và cao su stiren butadien. Hai loại cao su này cùng với cao su thiên nhiên đáp ứng được 90% nhu cầu trên thế giới.
Cao su tổng hợp cũng là một loại cao su quan trọng cho công nghiệp. Từ Thế chiến thứ hai, rất nhiều sản phẩm được chế tạo trực tiếp từ nhựa cao su hoặc từ cao su tổng hợp.
Các nhà hoá học đã phát triển cao su tổng hợp ngày càng tốt hơn. Có những loại cao su chống oxy hoá, chiu đựng được các chất dầu và các loại hoá chất khác tốt hơn cao su thiên nhiên. Cao su nitril có thể chịu nhiệt tới 177 độ C, nó được sử dụng trong các đường ống xăng dầu, các sản phẩm thuộc da và nhiều loại vải. Các loại cao su polysulfat, polyurêtan, cao su silicon có độ bền rất cao so với cao su thiên nhiên.
Dù là cao su tự nhiên hay tổng hợp, nó cũng là một trong những vật liệu có nhiều công dụng nhất đối với ngành công nghiệp.
Bộ điều khiển từ xa của máy truyền hình
Bộ điều khiển từ xa (còn gọi là remote) là một dụng cụ nhỏ, cầm tay, được dùng để bật, tắt, chỉnh đài, chỉnh âm thanh to nhỏ, v.v... trên máy truyền hình mà không phải nhấn nút trên máy. Nó là một dụng cụ vận dụng các kỹ thuật thuộc điện tử, quang học và phần cứng.
Bộ điều khiển từ xa phát ra một tia và mọt bộ phận "điều khiển ánh sáng" gắn trong máy truyền hình dò được. Trong bộ điều khiển từ xa có một bộ phận gọi là "multivator" tạo ra các xung điện. Các xung điện này được khuếch đại lên và điều chỉnh tia này dưới dạng các xung điện theo hình răng cưa. Một transistor tiếp nhận các cung điện này và đưa vào máy truyền hình, các xung điện này được khuếch đại và được sử dụng như một cái cò để tạo ra các tín hiệu xung điện. Những tín hiệu này được sử dụng để thay đổi âm lượng hoặc các kênh.
Ta có thể dùng bộ điều khiển từ xa để làm thay đổi độ tương phản ánh sáng trên màn hình, âm lượng và các kênh. Nếu máy truyền hình được nối với một đầu máy video, ta có thể thâu hoặc phát hình lại các chương trình bằng bộ điều khiển từ xa.
Mã vạch là gì?
Mã vạch là những dấu sọc trắng đen được mã hoá bằng máy vi tính. Những đường sọc trắng đen chứa những thông tin được mã hoá, từ con số thành viên của một câu lạc bộ thể thao cho đến giá cả hoặc số lưu kho của một gói bột giặt trong một siêu thị . Thật vậy, mã vạch được sử dụng để lưu giữ các dữ liệu của tất cả các loại.
Mã được rà quét bởi một tia ánh sáng. Khi tia sáng đi qua thì chỉ có những vạch trắng phản chiếu ánh sáng.
Một máy dò hình thu được sự phản chiếu này và phát ra một mạch điẹn. Vì thế, mã vạch trắng và đen làm tắt mở các mạch điện. Những mạch điện này được đưa vào một máy tính giải mã. Ngày nay, người ta dùng tia Laze để đọc mã vạch.
Bàn ủi hơi nước vận hành như thế nào ?
Bàn ủi dùng để ủi những nếp nhăn của quần áo. Hầu hết các bàn ủi đều chạy bằng điện. Bên trong bàn ủi có một bộ phận làm nóng. Một bàn ủi hơi nước vừa toả nhiệt, vừa toả hơi nước trong khi ủi quần áo. Hơi nước làm cho vải bị ẩm nước điều này làm cho các nếp nhăn quần áo dễ bị mất đi khi ủi bởi vì hơi ấm làm mềm vải đi và làm cho dễ ủi hơn.
Một bàn ủi hơi nước có một ngăn chứa nước. Khi cắm điện, mặt bàn ủi nóng lên và làm sôi nước. Khi ta mở một cái nút ở trên mặt bàn ủi, một cái van sẽ mở ra và hơi nước sẽ đi qua những cái lỗ để xuống lớp vải đang được ủi. Nếu ta khoá nút này lại, hơi nước sẽ không xuống lớp vài đang được ủi thì bàn ủi vận hành như một bàn ủi bình thường.
Nguyên lý hoạt động của máy bay tự động
Hầu hết các máy bay hiện nay đều có bộ phận bay tự động, nó được vận hành bằng một máy vi tính. Bộ phận này sẽ lái máy bay mà không cần có người điều khiển thậm chí nó có thể điều khiển việc cất cánh và đáp máy bay.
Nguyên lý về bộ phận bay tự động thì tương tự như việc lái tàu tự động nhưng nó có ba bộ cảm ứng hồi chuyển và thiết bị liên hợp được sử dụng để điều khiển ba chiều thay đỏi vị trí của máy bay. Ba chiều thay đổi này là :sự đi lệch đường, sự trồi lên tụt xuống và sự quay lộn vòng theo trục dọc của máy bay. Hệ thống bay tự động phức tạp sử dụng một máy vi tính để khởi động các động cơ trợ lực cho việc chỉnh hướng. Một đường dây rađa được nối với máy vi tính để điều khiển việc cất cánh và đáp máy bay.
Compact disc là gì?
Compact disc (hay còn được gọi là đĩa CD) là một loại đĩa được thâu và phát bằng tia Laze. Bề mặt của Compact disc có màu bạc trông giống như gương và lấp lánh ánh sáng như cầu vồng. Dĩa CD nhạc có đường kính khoảng 12cm trong khi dĩa CD video có kích thước bằng đĩa LP.
Trong quá trình thâu, các tín hiệu âm thanh được chuyển thành con số để mỗi phần của tín hiệu có một mã số chính xác. Những con số này được thâu thành những chữ số nhị phân 0 và 1. Về mặt vật lý, âm thanh được thâu vào một đĩa CD theo một loạt vết lõm li ti hoặc những vật phẳng tương ứng với các chữ số nhị phân.
Đĩa Laze có bề mặt kim loại rất óng ánh, bề mặt này được phủ một lớp nhựa trong để bảo vệ. Một bộ phận vận hành bằng tia Laze hoặc bán dẫn được sử dụng để rà quét tín hiệu chữ số này. Khi cho đĩa vào hốc máy, nó được xoay tròn và được rà quét bằng tia laze. Bề mặt óng ánh của đĩa được một bộ phận điện tử ở trong máy tiếp nhận được. Điều này tạo ra một tín hiệu mà máy hát sẽ giải mã ngược lại thành các âm thanh và hình ảnh. Tia laze đọc được khoảng 20.000 chữ số mỗi giây.
Điều thuận lợi lớn nhất của đĩa CD là chúng không bị mòn vì chúng không cọ xát với đầu tư mà chỉ tiếp xúc với tia sáng.
Con cú có thể thấy rõ như thế nào vào ban đêm ?
Cú là một loài chim ăn mồi, đầu và mắt to, cổ ngắn, cánh rộng và có móng nhọn. Người ta tìm thấy có khoảng 130 loài cú trên thế giới. Ở một vài quốc gia, cú được coi là loài chim mang điềm lành. Trong khi ở những nước khác, cú được coi là biểu tượng của sự giàu có và thông thái. Điều đặc thù của cú là chúng có thể thấy rõ vào ban đêm hơn là vào ban ngày. Thật vậy, chúng hoạt động vào ban đêm.
Ắt hẳn bạn muốn biết tại sao cú có thể thấy rất rõ vào ban đêm chứ ?
Trước tiên, ta nên biết chúng ta thấy được mọi vật như thế nào. Khi ta nhìn vào một vật thì ánh sáng chiếu trên vật đó tập trung vào võng mạc của chúng ta. Hình ảnh của vật này bị lộn ngược trên võng mạc và được các dây thần kinh mắt truyền lên não, tới não hình này được dựng thẳng lại.
Mắt của cú có bốn đặc điểm làm cho chúng có thể thấy rõ được vào ban đêm. Thứ nhất, khoảng cách giữa thuỷ tinh thể của mắt và võng mạc thì xa hơn so với mắt của con người. Do vậy, hình ảnh của một vật ở trên võng mạc lớn hơn. Kế đến, có rất nhiều tế bào trong võng mạc của cú, có khoảng 10.000 tế bào trên mỗi mm vuông (mắt chúng ta có khoảng 2000 tế bào trên mỗi mm vuông) . Như vậy, sức nhìn của cú lớn hơn sức nhìn của chúng ta đến 5 lần. Thứ ba là mắt của cú nhạy cảm đối với ánh sáng . Cuối cùng, các đồng tử mắt của cú có thể mở lớn hơn, như thế ánh sáng yếu nhất cũng có thể lọt vào mắt được.
Do bốn yếu tố trên, cú có thể thấy rõ hơn trong bóng tối. Bởi vì tính cực nhạy của mắt cú đối với ánh sáng nên vật nào quá sáng thì cú thấy không rõ. Và một điều ngạc nhiên là cú có thể quay đầu của nó ngược 180 độ, điều này có nghĩa là cú có thể thấy được ở phía sau lưng được.
Kiến có vương quốc của chúng không?
Kiến là côn trùng thuộc loài có cánh màng. Các nhà khoa học đã nghiên cứu trên hai ngàn loài kiến. Kiến có mặt khắp nơi trên thế giới.
Kiến là loài vật có cuộc sống cộng đồng và có vương quốc riêng của chúng, nghĩa là chúng sống theo từng nhóm từng đàn có thể đến hàng triệu con và chúng làm tổ ở dưới đất hoặc trong những thân cây mục.
Trong mỗi đàn có ba loại kiến :kiến chúa (đẻ trứng) , kiến đực (là những con không có lao động) và một đàn kiến thợ cái. Trong một tổ kiến thì có rất nhiều khoang nhỏ được sử dụng cho nhiều mục đích khác nhau. Kiến chúa sống trong một khoang và đẻ trứng. Kế bên là chỗ ấp trứng nơi ấu trùng kiến biến thành nhộng kiến rồi được đưa tới nơi khác để phát triển. Những chỗ khác được sử dụng cho các mục đích đặc biệt chẳng hạn như dự trữ thực phẩm v.v...
Một tổ kiến có thể có nhiều kiến chúa và mỗi con ở một chỗ riêng. Kiến thợ thâu gom thực phẩm ,cho các kiến con ăn và xây tổ. Một vài loài có kiến lính cái, chúng có nhiệm vụ bảo vệ tổ kiến.
Kiến ở rừng già nhiệt đới hàng ngày đi từng đàn tới một nơi khác, vừa đi vừa kiếm ăn. Kiến đàn có thể ăn thịt từ những khúc xương của con vật chết một cách rất mau lẹ.
Kiến có thể đi những đoạn đường xa và biết đường quay về tổ của chúng bằng cách để lại mùi hương riêng của kiến trên quãng đường đi. Kiến rất khoẻ, chúng có thể khiêng vác những thứ nặng gấp 50 lần so với trọng lượng cơ thể của chúng.
Tại sao chó bị điên ?
Chó được coi là một con vật trung thành nhưng khi bị điên nó trở nên rất nguy hiểm. Nếu một con chó điên cắn người ta, nó sẽ gây thiệt mạng hoặc khó lòng chữa trị được cho người bị cắn.
Người ta gọi đó là bệnh chó dại. Bệnh này do một vi khuẩn gây ra và được truyền bởi không khí hoặc do một trong những con thú hoang nào đó mang tới cơ thể của chó qua một vết thương ngoài da. Vi khuẩn này giống như hình viên đạn có đường kính khoảng 70 milimcrôn và dài khoảng 210 milimicrôn. Nó di chuyển từ nước miếng tới những vết thương bị nhiễm trùng và qua các dây thần kinh xúc giác tới hệ thống thần kinh trung ương, rồi tăng số lượng gấp đôi lên ở đó và huỷ hoại trung ương thần kinh. Con chó trở nên lười biếng, bị sốt và không thèm ăn. Khoảng từ 4 đến 6 tuần, khi vi khuẩn gây ảnh hưởng mạnh trong não bộ của chó, con chó trở nên kích động. Nó gầm gừ sủa và sủi bọt và có thể cắn bất kỳ ai. Đây là thời kỳ con chó bị điên. Sau những triệu chứng này, con chó có thể bị chết trong vòng từ 3 đến 5 ngày. Một vài con chó bị nhiễm trùng nhưng không phát điên, nó có những dấu hiệu bị tê liệt, ta gọi đó là "bệnh chó dại câm".
Khi chó điên cắn một người, vi khuẩn trong nước miếng của nó theo vết cắn đi vào cơ thể con người. Lúc đầu, người đó bị suy nhược thần kinh và cảm thấy khó chịu, sau đó thì bị sốt. Người đó bị mất ngủ, và cảm thấy sợ hãi. Các cơ ở cuống họng bị chùng đi, rất khó khăn cho việc ăn uống và cảm thấy sợ nước. Dấu hiệu này xuất hiện từ 1 đến 3 tháng sau khi bị chó cắn.
Trong trường hợp bị chó cắn, những chỗ bị cắn phải lau sạch sẽ ngay lập tức và phải tiêm thuốc ngừa bệnh chó dại từ 3 đến 14 mũi trong vòng ba ngày từ khi bị chó cắn.
Tại sao mắt của một số loài vật lại sáng ánh lên trong bóng tối ?
Bạn có bao giờ thấy một con méo đang ngồi trong bóng tối chưa ?
Ta chỉ thấy đôi mắt của nó sáng lên trong bóng tối, mắt của cọp, báo, sư tử đều giống như vậy .
Mắt của những con vật này có một lớp màng mỏng giống như pha lê có thể phản chiếu ánh sáng được. Ánh sáng phản chiếu này là nguyên nhân của việc sáng ánh lên. Vào ban đêm, một lượng ánh sáng rất nhỏ lọt vào lớp mắt pha lê và được phản chiếu, vì thế ta thấy mắt của những con vật này sáng ánh lên.
Những nghiên cứu về mèo cho biết phía sau võng mạc của mắt mèo, có một lớp pha lê gọi là "lớp phát quang" . Do lớp "phát quang" này nên mèo có thể thấy rõ trong bóng mờ và mắt của chúng sáng ánh trong bóng tối khi ánh sáng chiếu trực tiếp vào. Nhiều con vật không có lớp pha lê ở mắt nên mắt của chúng không sáng ánh trong bóng tối.
Người ta quan sát rằng màu sắc ánh lên ở mắt các con vật này thì khác nhau. Điều này tuỳ thuộc vào số lượng mạch máu có trong mắt của chúng. Nếu số lượng mạch máu nhiều, thì màu mắt ánh lên sẽ là màu đỏ và nếu số lượng mạch máu ít thì sẽ có màu trắng hoặc vàng nhạt.
Con Kănguru có thể nhảy được bao xa ?
Kănguru là loài thú có túi nuôi con, sống ở Châu Úc và Tây Guiné. Đa số sống ở đồng bằng và ăn cây cỏ. Chúng đi theo từng đoàn, nhảy đi bằng chi sau có bàn chân to, cái đuôi dài của chúng dùng để giữ thăng bằng khi nhảy.
Có năm loại Kănguru. Loại đỏ và xám là loại to nhất. Một con Kănguru đỏ có thể cao hơn và nặng hơn một con người. Kănguru xám có thể chạy 40 cây số một giờ khi bị rượt đuổi. Loại Wallarro là loại Kănguru nhỏ hơn con màu đỏ.
Một con Kănguru trưởng thành cao khoảng 1,8m. Chi trước thì ngắn nhưng chi sau thì rất dài. Chi sau có thể làm cho con Kănguru nhảy xa tử 3 đến 5 mét. Khi bị rượt đuổi, nó có nhảy từ 7 đến 9 mét trong mỗi bước nhảy. Khi nó bị những con chó săn dồn vào một góc, nó có thể vồ chộp lấy một con chó bằng chi trước và giết con chó này bằng cách dùng chi sau giẫm đạp lên con chó.
Kănguru cái có một cái túi ở bụng nằm giữa hai chân sau, dùng để giữ con của chúng cho tới khi lớn. Khi một con Kanguru được sinh ra, nó dài khoảng 2,5cm và nặng khoảng 1 gam. Không phải chỉ có Kănguru sơ sinh mới cần sự bảo vệ của mẹ chúng, mà ngay những con Kănguru lớn cũng vậy. Kănguru con sống nhờ sữa mj của chúng cho tới khi nó rời túi mẹ khoảng từ 6 đến 8 tháng tuổi. Một con Kănguru sống được khoảng từ 6 đến 8 năm. Khi thấy những đứa con mình bị nguy hiểm , Kănguru mẹ dùng miệng bỏ chúng vào trong túi.
Kănguru là một con vật hiền lành giống như cừu và dê. Giống như con thỏ rừng, Kănguru không thể thấy được một vật ngay phía trước đó, nhưng khả năng về khứu và thính giác thì rất mạnh.
Vi rút là gì?
Vi rút là những sinh vật cực nhỏ, gây ra nhiều bệnh tật khác nhau ở tất cả các cơ thể sống thậm chí đến những vi khuẩn vẫn có thể bị nhiễm vi rút.
Có một loại vi rút hữu ích được gọi là "loài ăn vi khuẩn" , loại vi rút này rất nhỏ, mắt thường không thể thấy được, ta chỉ có thể thấy chúng được bằng kính hiển vi và cũng được coi là phi sinh vật. Khi chúng phát triển và tăng số lượng lên gấp bội trong các tế bào sống thì chúng được coi là sinh vật. Khi chúng không phát triển bên ngoài các tế bào sống thì chúng được coi là các phi sinh vật.
Mayer là người đầu tiên phát hiện ra vi rút vào năm 1988. Ông tìm ra chúng ở trên những lá thuốc. Có nhiều loại vi rút, chúng khác nhau về hình dạng lẫn kích thước. Một vài loại có hình que, những loại khác có hình lục giác. Vi rút nhỏ nhất có kích thước bằng một phần triệu mm. Chúng được tìm thấy ở trong các tế bào cây cối, thú vật hoặc con người. Khi được sinh ra ở trong các tế bào này, chúng sinh sôi nảy nở ở đó và truyền các loại bệnh tật. Những loại bệnh chính do vi rút gây ra là : bệnh đậu mùa, bệnh thuỷ đậu, bệnh bại liệt, quai bị, cảm cúm, bệnh viêm gan, bệnh sởi, bệnh vàng da.
Một vài vi rút gây ra các bệnh thuộc về não, chẳng hạn như chứng bại liệt, bệnh chó dại. Một số loại vi rút cũng gây ra ung thư. Vi rút cũng gây ra nhềiu loại bệnh trong các cây cối như cà chua, chuối, cây mía, chanh, cây bông.
Hầu hết các vi rút chết ở nhiệt độ cao hoặc ở nhiệt độ thấp. Tuy vậy, có một vài loại không bị ảnh hưởng đối với những thay đổi về nhiệt độ.
Người ta dùng axit clohydric để khử vi rút. Cơ thể của chúng ta chống lại vi rút bằng cách tạo ra các chất kháng thể và chất Interferon. Chất kháng thể dồn vi rút thành từng cụm và tiêu diệt chúng. Chất Interferon ngăn cản sự phát triển của vi rút.
Nhiều vacxin đã được chế tạo ra để trị những căn bệnh do vi rút gây ra.
Nấm là gì ?
Nấm là loại cây không có hoa, có cuống hoa, không có lá và không có chất diệp lục. Vì thiếu chất diệp lục nên nấm sống nhờ vào các ký sinh trùng hoặc thực vật hoại sinh ( các vi sinh vật sống trên các chất hữu cơ thối rữa).
Khi nhìn thấy nấm qua kính hiển vi, ta thấy chúng có nhiều sợi xơ màu đen, xanh lá cây, vàng hoặc xanh dương. Những sợi xơ này có hai phần. Phần thứ nhất là phần xơ trải dài giống như rễ cây, sống dựa vào chất ở bên dưới mà chúng mọc lên từ đó. Phần thứ hai giống như cái mũ tròn, có chứa bào tử. Nấm bắt đầu sinh sôi nảy nở ở những nơi nóng và ẩm thấp.
Nấm vừa có ích vừa có hại với chúng ta. Nấm được dùng cho việc làm bánh mì, bia, pho mát, rượu vang, các axit hữu cơ, enzym, các sinh tố và chất kháng sinh. Thuốc penixilin được làm từ loại nấm penicilin có màu xanh lục và xanh dương, rất hữu ích trong việc chữa trị nhiều căn bệnh.
Men nấm là loại nấm được dùng cho quá trình lên men. Một vài loại nấm được làm thực phẩm, một số nấm khác thì rất độc, không thể ăn được và một số nấm gây ra các bệnh tật hoặc gây hại cho mùa màng.
Vi khuẩn là gì ?
Vi khuẩn thuộc về loại thực vật thấp nhất. Chúng là các vi sinh vật đơn bào. Kích thước trung bình của chúng bằng một phần 1.000mm. Một số vi khuẩn có kích thước nhỏ hơn. Ta không thể thấy chúng bằng kính hiển vi bình thường. Chúng tái sinh qua quá trình phân đôi tế bào. Dưới những điều kiện thích hợp, mức tăng trưởng của chúng tăng rất nhanh. Trong vòng hai mươi phút, một con vi khuẩn sẽ tăng số lượng lên gấp bốn lần và gấp sáu mười bốn lần trong hai tiếng đồng hồ. Và cứ như thế này, một con vi khuẩn sẽ tăng số lượng là 4.000.000.000.000 con vi khuẩn trong 24 tiếng đồng hồ. Và nếu mức sinh trưởng của vi khuẩn như vậy thế thì trọng lượng của vi khuẩn sinh trưởng trong vòng 72 tiếng đồng hồ sẽ nặng hơn gấp 33.000 lần so với trọng lượng của trái đất. Nhưng điều này sẽ không xảy ra được bởi vì thiếu thực phẩm và nước nên chỉ có một phần trăm vi khuẩn có thể sống sót được. Vi khuẩn có thể sống trong đất, nước, không khí và trong các sinh vật khác.
Vi khuẩn có thể được phân làm bốn loại. Một vài vi khuẩn có hình tròn, chúng được gọi là khuẩn cầu. Vi khuẩn có hình que được gọi là khuẩn que, vi khuẩn có hình xoắn gọi là khuẩn xoắn và vi khuẩn có hình dấu phẩy gọi là khuẩn phẩy.
Vi khuẩn vừa có hại và vừa có lợi. Chúng gây nhiều thứ bệnh cho con người, động vật và thực vật ; chẳng hạn như bệnh sốt thương hàn, têtanốt ( bệnh phong đòn gánh), bệnh dịch tả, bệnh bạch cầu, bệnh kiết lị, ho gà... Ngược lại, một vài vi khuẩn rất hữu ích cho con người. Sự chuyển đổi từ sữa sang sữa đông là pho mát được thực hiện bởi vi khuẩn. Chúng làm mục rữa các thực vật chết hoặc động vật chết. Giấm ăn cũng được làm ra nhờ vi khuẩn. Vi khuẩn tạo ra men sử dụng để làm bánh mì và tạo ra các loại thực phẩm, nhuộm màu da súc vật.
Một số chất kháng sinh cũng được làm từ vi khuẩn.
Như vậy, vi khuẩn vừa hữu ích và vừa có hại đối với chúng ta.
Sự tái sinh là gì ?
Thật tuyệt vời nếu như ta bị mất một bộ phận nào đó của cơ thể trong một tai nạn - chẳng hạn như một bàn tay hoặc một ngón tay - và nó mọc ra một bàn tay hoặc một ngón tay để thay thế. Điều đó sẽ không xảy ra trong thực tế đối với con người. Tuy nhiên, có một vài sinh vật khi mất một cái chân chẳng hạn, thì nó sẽ mọc ra một cái chân khác. Việc mọc ra một phần trong cơ thể để thay thế cho bộ phận đã bị mất đi, được gọi là sự tái sinh.
Nếu một cánh tay của một con sao biển bị mất đi, nó sẽ mọc ra cái khác. Con thuỷ tức, con thằn lằn, con sứa, con sa giông (một loại tắc kè sống được ở dưới nước lẫn trên đất ) và con giun đất, tất cả những con này cũng có khả năng tái sinh một bộ phận trong cơ thể.
Khả năng tái sinh thì khác nhau trong các sinh vật. Những sinh vật có cơ cấu phức tạp thì ít có khả năng tái sinh. Con người và các loại động vật có vú có cấu tạo phức tạp , nên ít có khả năng tái sinh. Các động vật có vú có thể thay lông, móng vuốt, da và cũng có thể làm lành những chỗ xương bị gãy hoặc những mô bị thương tổn. Những con chim có thể mọc cánh lại được. Trong một vài động thực vật, những mô mới mọc ra từ bề mặt của vết thương để thay thế cho phần cơ thể đã bị thương tổn hoặc bị mất đi. Đôi khi, những mô mới tái sinh này khác với mô lúc ban đầu, chúng có thể nhỏ hơn hoặc yếu hơn.
Tre là một loại cây hay một loại cỏ ?
Đa số mọi người cho rằng tre là một cây bụi. Thật ra, không phải vậy. Nó là một loại cỏ thân bản. Chiều cao của nó có thể lên tới 35 mét và dày khoảng 30cm. Có khoảng 600 loại tre. Tất cả các loại tre đều có thân cứng chắc và nhẵn. Mức phát triẻen của chúng thì rất nhanh. Nó có thể mọc cao ở mức 40cm một ngày. Người ta nói rằng có loại tre mọc cao 90cm trong 24 tiếng đồng hồ. Một vài loài tre nở hoa chỉ một lần trong vòng 30 năm. Những loài tre khác phải mất một trăm năm mới nở hoa. Tre chết sau khi nó nở hoa. Những hạt giống sau lần nở hoa mọc ra những cây mới.
Thân tre rất hữu dụng , nó được sử dụng để lợp mái nhà, làm chòi, làm chiếu, rổ, ống sáo, làm giấy, làm cần câu hoặc làm vũ khí. Người ta lấy được một chất lỏng từ những mắt thân tre để làm các vị thuốc. Ở Nhật, người ta khoét rỗng lõi thân tre để làm ống nước.
Tre có rất nhiều ở các nước Đông Nam Châu Á và các quần đảo Thái Bình Dương.
Ở Việt Nam, tre rất hữu ích cho các vùng nông thôn trong hầu hết các hoạt động hàng ngày.
Động vật và cây cối tồn tại ở sa mạc như thế nào ?
Sa mạc là nơi có những điều kiện về khí hậu rất khắc nghiệt (nóng, khô, nhiều gió và nước rất hiếm hoi). Các động vật và cây cối thật khó mà tồn tại ở sa mạc. Tuy nhiên, có một vài động và thực vật thích nghi được các điều kiện khí hậu ở sa mạc. Ta hãy tìm hiểu xem tại sao các động và thực vật đó tồn tại ở sa mạc như thế nào?
Thực vật ở vùng sa mạc chủ yếu là loại cây có gai, cây xương rồng và cây chà là. Cây xương rồng và các loại cây ở vùng sa mạc đã tự thích nghi để tồn tại trong các điều kiện khí hậu ở sa mạc. Chúng có những cách trữ nước trong thân cây. Lá của cây tự ép lại thành những gai nhỏ để giảm bớt sự tiêu thụ nước. Rễ của chúng bám sâu xuống đất và trải rộng ra để hút từng giọt nước ở dưới mặt đất. Thân cây trữ nước, nó sẽ héo dần nếu lượng nước bị sử dụng hết. Gai của vài loại xương rồng chĩa xuống mặt đất. Những giọt sương đọng trên cây rồi rơi xuống đất. Do đó, bên dưới cây xương rồng, đất vẫn có độ ẩm.
Những con vật thường thấy ở sa mạc là ốc sên, chuột, v.v... Hầu hết động vật ở sa mạc đều ngủ ngày để tránh nhiệt độ nóng bức và xuất hiện vào ban đêm để tìm thức ăn. Một vài loại thú ngủ suốt vào những thời gian nóng nhất trong năm. Những con thú chẳng hạn như Kănguru, chuột sa mạc, chúng cũng có thể tồn tại được với lượng nước thật ít.
Những loài bò sát tự điều chỉnh thân nhiệt của chúng để đối phó với cái nóng và mức lạnh ở sa mạc.
Con cóc ở sa mạc Australia trữ nước trong cơ thể của nó. Một vài loài vật khác cũng có thể sống ở sa mạc được, chẳng hạn như : thằn lằn, kiến , rắn, và con cú.
Các loại chim di trú tìm đường bằng cách nào ?
Vào mỗi mùa xuân, hàng triệu con chim di trú từ những khu vực mùa đông đến những miền có nhiệt độ ôn hoà để sinh sản. Những miền này có thực phẩm rất dồi dào để nuôi dưỡng những chim non.
Chim di trú nhiều nhất là tới những nơi như Bắc Mỹ, Châu Âu và Châu Á. Cũng có một số loài di trú tới Nam Cực. Chẳng hạn như chim choi choi đuôi kép bay từ Australia tới New Zealand để sinh đẻ. Chim choi choi ở Châu Mỹ có màu vàng bay không ngừng một đoạn đường là 3325km giữa Alaska và Hawaii . Ở Bắc cực, loài ngỗng hoang bay tới phương Bắc, là nơi sinh sản của chúng và vào mùa thu chúng bay xuống miền Nam.
Sự di trú chủ yếu là do các thay đổi về thời gian của ngày đã làm thay đổi các hoocmôn của các loài chim.
Vấn đề chúng ta đang bàn là các loài chim tìm đường bằng cách nào khi chúng di trú tới một nơi khác và rồi trở về chốn ban đầu.
Một vài loài chim học theo cách của cha mẹ chúng. Trong chuyến di trú đầu tiên, chúng đi với con chim già hơn, những con đã từng thực hiện chuyến di trú và chúng dạy lại cho con cái của chúng cho chuyến đi của năm tới.
Một vài loài có thể tự dò đường bằng cách ghi nhớ các điểm nổi bật của một nơi nào đó, chẳng hạn như núi, hồ, hoặc đường bờ biển. Những con khác có thể dò đường theo mặt trời, hoặc các ngôi sao, bởi vì khi bầu trời u ám chúng thường bị lạc đường. Các nhà khoa học vẫn không thể biết hết được tất cả các loài chim di trú tìm đường bằng cách nào.
Không chỉ có các loài chim mới di trú, nhiều loài động vật khác cũng di trú chẳng hạn như cá, động vật có vũ, côn trùng, châu chấu và lươn.
Động vật có thể suy luận được không?
Người ta thường nghĩ rằng động vật có khả năng suy luận, có đúng như vậy không. Thật ra, chúng cũng có khả năng suy luận, nhưng khả năng rất kém so với con người. Trong các con vật, mức độ suy luạn của chúng cũng khác nhau.
Một vài thí nghiệm đã cho thấy loài khỉ và loài dã nhân có khả năng suy luận tốt hơn những loài thú khác. Trong một thí nghiệm kiểm tra khả năng suy luận của loài khỉ, người ta đặt hai thùng gỗ trong một căn phòng và một nải chuối treo ở độ cao ngoài tầm với của con khỉ. Khi một con khỉ được đưa vào căn phòng này, nó nhìn nải chuối một lúc rồi nhìn vào những cái thùng gỗ. Sau đó, nó chồng thùng này lên thùng khác để có thể hái được nải chuối. Điều này chứng tỏ rằng con khỉ có thể đã suy nghĩ ra cách chồng các thùng gỗ lên nhau để lấy được nải chuối. Hơn nữa, khỉ là một con vật biết phân biệt được màu sắc và nó có thể làm được nhiều thứ nếu được huấn luyện và dạy dỗ.
Chó, mèo và một số thú vật khác cũng có khả năng suy luận ở những mức độ khác nhau. Chẳng hạn, chó nuôi trong nhà nếu được dạy dỗ có thể làm được nhiều thứ.
Con gấu có thể diễn tuồng trên sân khấu theo các chỉ thị của người huấn luyện. Loài chim luôn chú tâm vào việc tìm kiếm nguồn thức ăn. Thằn lằn luôn tiến gần tới con mồi của chúng một cách thận trọng.
Nếu bạn nhìn vào các tổ chim, bạn phải thừa nhận rằng loài chim ắt phải có khả năng suy luận mới có thể làm được những cái tổ như thế, chúng được sắp xếp để điều chỉnh ánh sáng và độ nóng. Tổ chim được dựng lên để làm nơi sinh sản và bảo vệ các chim con.
Thực vật tiêu hoá thức ăn như thế nào ?
Cây cối cũng là các sinh vật như con người. Chúng cần thức ăn, nước và không khí để tồn tại. Các bạn có biết cây cối tiêu hoá thức ăn như thế nào không?
Cây cối lấy thức ăn từ đất và không khí. Nếu bạn nhìn kỹ vào rễ của chúng bạn sẽ thấy rằng các ngọn rễ cây giống như sợi thơ. Ta gọi chúng là rễ con, chúng hút nước, các loại chất khoáng rồi đưa những chất này lên thân cây.
Lá có những lỗ thông chứa đầy không khí và nó cũng có một chất màu xanh gọi là chất diệp lục. Chất này có chức năng như một chất xúc tác, nó lấy cacbon từ đioxýt cacbon và lấy hydro từ nơi có trong lá cây để tạo ra cacbon hydrat (các loại đường). Trong quá trình này, nước và oxy được thải ra do lá cây bài tiết.
Từ những chất cácbon hydrat này, thực vật có thể tạo ra những chất được dùng làm thực phẩm. Những chất này bao gồm prôtêin , nước trái cây, dầu, v.v...
Nước mà thực vật lấy được trong quá trình quang hợp có chứa loại khoáng chất cần thiết trong việc nuôi dưỡng cây cối, chủ yếu là những hợp chất của : nitơ, sunfua, phốtpho, natri, canxi, manhê, chất sắt, v.v...
Vỏ cây được hình thành như thế nào?
Vỏ cây là phần bọc ngoài để che chở thân cây, cành cây và rễ cây.
Vỏ cây gồm có ba lớp. Phần ngoài cùng gọi là chu bì, là phần các tế bào cây bị chết. Phần này thì dầy, nó bảo vệ cây chống lại thời tiết, côn trùng và các loại bệnh tật. Phần giữa là phần các tế bào không còn phát triển được nữa. Phần trong cùng là phần đem thức ăn có trong lá cây xuống tới rễ.
Khi lớp cây được hình thành trong chồi cây thì một lớp tế bào gần phía ngoài vỏ cây bắt đầu phân chia và tạo ra những lớp tế bào già, những lớp tế bào này mau chóng trở nên dầy đi cùng với một chất không thấm nước. Những lớp tế bào này chết đi tạo ra vỏ cây.
Tại sao động vật không thể nói được như chúng ta ?
Trong những câu chuyện cổ tích, người ta kể rằng động vật có thể nói chuyện như con người. Điều đó là do óc tưởng tượng của con người mà thôi. Trong tất cả các sinh vật, chỉ có con người mới có thể thông tin, truyền đạt với nhau bằng lời nói. Đó là do sự phát triển ở mức độ cao trong não bộ của chúng ta. Bởi vì não bọ của động vật phát triển ở mức độ thấp không thể sáng tạo ra một ngôn ngữ để truyền đạt cảm xúc của chúng được.
Động vật cũng có cảm xúc vui, buồn, sợ hãi, yêu thương, v.v... như con người. Vì chúng không có khả năng diễn đạt cảm xúc của chúng bằng lời nói được, nên chúng diễn đạt bằng các cử chỉ, dáng bộ hoặc những âm thanh. Chẳng hạn như khi bạn thấy một con mèo đi đến gần một đàn chim thì tất cả những con chim trong đàn sẽ kêu chiêm chiếp lên để diễn tả nỗi lo sợ của chúng. Tương tự, một con chó thể hiện sự giận dữ của nó bằng cách sủa lên và khi vui mừng thì nó vẫy đuôi. Con khỉ khi giận dữ thì nó kêu khẹt khẹt.
Đó là những biểu hiện cảm xúc của động vật.
Tại sao lưỡi cho ta biết được mùi vị ?
Con người có 5 giác quan :khứu giác, thị giác, thính giác, vị giác và cảm giác. Lưỡi thuộc vị giác, cho ta biết được mùi vị của thức ăn hoặc thức uống.
Lưỡi nằm bên trong miệng và là một phần cơ quan trọng của cơ thể. Mặt trên của lưỡi có những hạt sần nhám, những hạt này gọi là gai lưỡi. Gai lưỡi gồm những hạt "núm" vị giác. Cuống lưỡi có những thớ tế bào giống như sợi tóc. Ở chóp lưỡi có những thớ tề bào thần kinh. Những thớ này nối với dây thần kinh vị giác.
Có bốn vị chính :ngọt, mặn, chua và đắng cay.
Tất cả các vị khác là sự kết hợp của các vị được kể ở trên .Bốn vị chính này được cảm nhận theo những phần khác nhau của lưỡi. Chẳng hạn, vị mặn và vị ngọt được cảm nhận ở đầu lưỡi, vị chua được cảm nhận ở hai bên cạnh lưỡi và vị đắng được cảm nhận ở phần cuối lưỡi. Lưỡi cũng nhạy cảm với các chất kích thích như tiêu chẳng hạn.
Vị của thức ăn chỉ được cảm nhận khi nó ở dạng lỏng. Khi ta nhai, một phần thức ăn trộn vào trong nước bọt làm kích hoạt những gai vị giác, các thớ tế bào thần kinh truyền tín hiệu vị giác tới trung tâm vị giác trong não bộ. Ngoài lưỡi ra, mũi của chúng ta cũng có thể ngửi được mùi thức ăn. Ngửi là một phần của vị giác.
Khi chất lỏng được đưa vào miệng, thì lưỡi nếm thông qua các "dây thần kinh mùi vị". Tín hiệu mùi vị này được truyền lên não và ta cảm nhận được vị của thức ăn này. Chúng ta không cảm nhận được mùi vị một cách chính xác khi bị cảm, sốt hoặc bị táo bón (chứng khó tiêu hoá). Bởi vì những hạt gai vị giác lúc đó bị phủ bởi những chất đục và không được kích hoạt lên. Nhiệt độ của cơ thể hoặc thậm chí độ nóng của thức ăn cũng không kích hoạt những hạt gai vị giác.
Như vậy, khi đau yếu, chúng ta không cảm thấy muốn ăn. Số lượng các hạt "gai" vị giác ở trên lưỡi của một người trưởng thành có khoảng chừng 5000 hạt, lưỡi của trẻ con thì ít hơn rất nhiều. Khi chúng ta già đi, những hạt này sẽ mất đi khả năng của chúng và số lượng các hạt này sẽ giảm đi. Người ở lứa tuổi 70, số lượng hạt này chỉ còn 40 hạt. Giống như tế bào da của chúng ta, nó thường xuyên được thay thế. Cứ mỗi 10 ngày, những hạt gai vị giác sẽ được thay thế.
Tại sao phụ nữ không có râu?
Tất cả các động vật có vú đều có lông trên cơ thể và con người cũng vậy. Một vài động vật có lông phủ khắp cơ thể, nhưng trên cơ thể của con người, lông chỉ mọc ở một số nơi.
Lông, tóc trên cơ thể của chúng ta làm giữ ấm cho thân người và bảo vệ lớp da. Lông mày, lông mi, lông tai, lông mũi có nhiệm vụ không để bụi bặm lọt vào.
Vấn đề đang bàn là tại sao phụ nữ không có râu trong khi đàn ông lại có ? Khi mới sinh ra, con người chỉ có lớp lông tơ trên cơ thể. Khi lớn lên, lông (tóc) trở nên cứng hơn, nam nữ đến tuổi dậy thì ở lứa tuổi từ 11 đến 13 thì những tuyến sinh dục phát triển nhanh. Ở cơ thể người nam, tinh hoàn và những tuyến sinh dục khác tại ra các hoócmon này là định hình những đặc điểm của phái nam ; chẳng hạn như mọc râu, mọc lông ngực, mọc lông ở bộ phận sinh dục và giọng nói ồ ồ khàn khàn ở lứa tuổi dậy thì. Ở cơ thể người nữ, buồng trứng và những tuyến sinh dục khác tạo ra các hoocmốn được gọi là "hoocmốn nữ".
Chức năng của các hoocmôn nữ là định hình những đặc điểm của phái nữ. Chẳng hạn như sự thay đổi về kích cỡ của vú, mọc lông ở bộ phận sinh dục và hình thành chu kỳ kinh nguyệt. Những hoocmôn này tạo ra những thay đổi khác nhau trong cơ thể của người nam và người nữ. Chẳng hạn cơ thể của người nữ trở nên mềm mại và dịu dàng. Trái lại, cơ thể của con người nam trở nên rắn chắc hơn. Có một nhóm hoocmôn đặc biệt, được gọi là "hoocmôn giúp thụ thai".
Về việc phụ nữ không có râu là do thiếu "hoocmôn nam".
Bệnh mất trí nhớ là gì?
Một vài người bị mất trí nhớ sau một tai nạn hoặc sau khi nghe một tin khủng khiếp, họ quên quá khứ và không nhận ra thân nhân hoặc bạn bè. Thậm chí có những người quên cả tên của mình.
Bệnh mất trí nhớ do nhiều yếu tố gây ra, chẳng hạn như sự đau đớn tuyệt vọng, chấn động thần kinh, các phản ứng thuốc, giải phẫu não, tuổi già, hậu quả của việc uống rượu v.v... Dù cho nguyên nhân nào gây ra chứng mất trí nhớ đi nữa, thì hậu quả của nó trong não đều giống nhau . Ký ức là một hệ thống gồm ba phần :
- Phần lưu trữ thông tin thuộc giác quan (thông tin được lưu trữ trong não khoảng 3/10 giây).
- Phần lưu trữ ký ức ngắn hạn (có thể lưu trữ thông tin được trong một thời gian ngắn).
- Phần lưu trữ ký ức dài hạn (có thể lưu trữ thông tin trong nhiều năm).
Khi bị mất trí nhớ, người đó quên hết các sự kiện. Chứng mất trí nhớ có thể kéo dài nhiều tuần, nhiều tháng hoặc thậm chí nhiều năm. Có những người mất trí nhớ cả đời.
Khi trí nhớ được phục hồi , người đó có thể nhớ được những chuyện trong quá khứ nhưng lại quên những chuyện trong thời gian bị mất trí nhớ. Mặc dù trí nhớ được phục hồi, khả năng của người đó cũng bị giảm đi.
Người ta có thể tồn tại được bao lâu nếu không có thực phẩm ăn ?
Giống như không khí và nước, thực phẩm cũng tối cần thiết cho tất cả các sinh vật. Tất cả đều cần thức ăn để tồn tại, thậm chí cây cỏ không thể sống lâu được nếu không có thức ăn. Mỗi người hằng ngày cần phải có một lượng thức ăn, tuỳ theo tầm vóc, trọng lượng và mức hoạt động. Hầu hết chúng ta đều cảm thấy bị xáo trộn nếu chúng ta bỏ không ăn một bữa và nếu ta thử không ăn trong 12 tiếng đồng hồ, ta sẽ thấy rất khó chịu.
Thức ăn cho ta năng lượng để làm việc. Nó làm cho các tế bào và các mô bị thương tổn được lành lại. Thực phẩm rất cần trong việc phát triển cơ thể.
Ta có thể tồn tại được bao lâu nếu không có thực phẩm để ăn ? Có một số loài thú có thể trữ thức ăn trong cơ thể của chúng. Các động vật thuộc loài máu nóng tiêu thụ thức ăn trữ trong người của chúng một cách mau lẹ. Một con chó có thể tồn tại được 20 ngày nếu không có thức ăn. Con rệp có thể tồn tại được một năm mà không có thức ăn.
Con người không thể trữ thức ăn trong dạ dày được. Nếu không ăn một bữa, ta sẽ cảm thấy yếu mệt. Cần phải có thức ăn để lưu chuyển máu huyết. Tất cả các thành phần của máu đều lấy từ thức ăn. Khi máu thiếu những chất dinh dưỡng, sẽ có một "tín hiệu" thông qua đường máu, tới trung tâm bộ não và chúng ta sẽ cảm thấy đói, muốn ăn.
Có những người tồn tại rất lâu mà không có thức ăn. Chẳng hạn như Angus Warvien, người Scotland có thể tồn tại được 382 ngày mà không ăn gì cả (từ tháng sáu 1965 đến tháng bảy 1966). Trong thời gian này, ông ta chỉ uống cà phê, trà nước lạnh và nước sôđa. Một phụ nữ Nam Phi có thể tồn tại được 102 ngày, chỉ sống nhờ nước lã và nước sôđa. Stefan Taylor người New Zealand tồn tại được 40 ngày (năm 1970), mỗi ngày chỉ uống một cốc nước. Những người như thế này có một khả năng chịu đựng thật là đặc biệt. Người bình thường , nói chung, có thể tồn tại được một tuần mà không ăn gì cả.
--------------------------------------------------------------
Tóm tắt các sự kiện lớn trong lịch sử VN
Trước thế kỷ 29 trước CN: Có người sống ở vùng châu thổ sông Hồng.
2879-257 trước CN: Thời đại Hồng Bàng
Danh sách 18 đời vua Hùng
1. Kinh Dương Vương
2. Lạc Long Quân
3. Hùng Lân (Hùng Quốc Vương).
4. Hùng Việt Vương
5. Hùng Hi Vương
6. Hùng Huy Vương
7. Hùng Chiêu Vương
8. Hùng Vị Vương
9. Hùng Định Vương
10. Hùng Uy Vương
11. Hùng Trịnh Vương
12. Hùng Vũ Vương
13. Hùng Việt Vương
14. Hùng Anh Vương
15. Hùng Triều Vương
16. Hùng Tạo Vương
17. Hùng Nghị Vương
18. Hùng Duệ Vương
257 - 207 trước CN: Nhà Thục
257 trước CN: Thục Phán thắng vua Hùng thứ 18. Lên ngôi tức là An Dương Vương.
207 trước CN: An Dương Vương thua Triệu Đà, phải tự tử tại Thanh Hóa.
207 - 111 trước CN: Nhà Triệu
Triệu Vũ Vương 207 - 137 trước CN (Triệu Đà)
Triệu Văn Vương (Hồ) 137 - 125 tr CN. (Cháu Triệu Đà tức con Trọng Thủy)
Triệu Minh Vương (Anh Tề) 125 - 113 tr CN
Triệu Ai Vương (Hưng) 113 tr - 112 tr CN.
Triệu Dương Vương (Kiến Đức)112 - 111 tr CN.
111 trước CN Tướng Hán là Lộ Bác Đức chiếm Nam Việt, bắt giết Lữ Gia và Triệu Dương Vương, mở đầu thời kỳ Bắc Thuộc.
111 trước CN - 39: Bắc Thuộc lần thứ Nhất.
40 - 43: Hai Bà Trưng khởi nghĩa
43 - 544: Bắc Thuộc lần thứ Hai.
248: Bà Triệu khởi nghĩa.
544: Lý Bôn khởi nghĩa, đánh đuổi Tiêu Tư (nhà Lương), thành lập nước Vạn Xuân.
544-602: Nhà Tiền Lý
Lý Nam Đế 544 - 549
Triệu Việt Vương 549 - 571 (Triệu Quang Phục)
Hậu Lý Nam Đế 571 - 602 (Lý Phật Tử)
571: Lý Phật Tử đánh thắng được Triệu Việt Vương. Việt Vương tự tử.
602: Lý Phật Tử đầu hàng Lưu Phương (tướng nhà Tùy).
603 - 939: Bắc Thuộc lần thứ Ba.
722: Mai Hắc Đế (Mai Thúc Loan) khởi nghĩa.
791: Bố Cái Đại Vương (Phùng Hưng) khởi nghĩa.
906 Khúc Thừa Dụ lên ngôi Tiết Độ Sứ.
907 Nhà Đường bị diệt. Khúc Thừa Dụ chết. Con là Khúc Hạo lên thay (907-917).
917 Khúc Hạo chết. Con là Khúc Thừa Mỹ lên thay (917-23).
923 Nam Hán đánh chiếm Giao Châu, bắt được Khúc Thừa Mỹ. Sai Lý Tiến sang làm Thứ Sử Giao Châu.
931 Dương Diên Nghệ đánh đuổi Lý Tiến. Tự xưng làm Tiết Độ Sứ.
938 Kiều Công Tiễn giết Dương Diên Nghệ. Ngô Quyền (rễ Dương Diên Nghệ) giết Kiều Công Tiễn.
939 Ngô Quyền phá quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng. Bắt đầu thời đại tự chủ.
Nhà Ngô (939-965)
Tiền Ngô Vương (Ngô Quyền) 939 - 944
Dương Tam Kha (Em vợ Ngô Quyền) 945 - 950
Hậu Ngô Vương 950 - 965
944: Ngô Quyền chết. Em vợ là Dương Tam Kha cướp ngôi.
950: Ngô Xương Văn (con thứ Ngô Quyền) phế Dương Tam Kha. Rồi lập anh là Ngô Xương Ngập lên cùng làm vua. Sử gọi là Hậu Ngô Vương.
954: Thiên Sách Vương (Xương Ngập) mất.
965: Nam Tấn Vương (Xương Văn) bị loạn tên bắn chết khi đang dẹp loạn ở hai thôn Thái Bình.
965: Bắt đầu loạn 12 sứ quân.
965-967: Loạn 12 sứ quân.
967: Đinh Bộ Lĩnh dẹp xong loạn 12 sứ quân.
968: Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi (Đinh Tiên Hoàng)
979: Đinh Tiên Hoàng cùng con trưởng là Đinh Liễn bị cận thần là Đỗ Thích giết chết.
979: Quần thần lập Đinh Tuệ làm vua. Lê Hoàn chuyên quyền. Nguyễn Bặc, Đinh Điền, Phạm Hạp chống lại Lê Hoàn, bị thất bại và bị giết.
980: Nhà Tống mang quân xâm chiếm. Dương Thái Hậu (Vân Nga) cùng tướng quân Phạm Cự Lượng tôn Lê Hoàn lên làm vua
981: Lê Hoàn phá quân Tống ở Chi Lăng.
982: Lê Hoàn đánh Chiêm Thành.
1005: Lê Hoàn (Đại Hành) mất. Con là Long Việt nối ngôi. Long Việt làm vua được 3 ngày thì bị em là Long Đĩnh sai người đâm chết. Long Đĩnh lên làm vua. Sử gọi Long Việt là vua Trung Tông.
1009: Lê Long Đĩnh (Ngoạ Triều) mất. Quần thần tôn Lý Công Uẩn lên làm vua. Khởi đầu nhà Lý.
Nhà Hậu Lý (1009 - 1225)
Lý Thái Tổ (Công Uẩn) 1010 1028
Lý Thái Tông (Phật Mã) 1028 1054
Lý Thánh Tông (Nhật Tông) 1054 1072
Lý Nhân Tông (Càn Đức) 1072 1127
Lý Thần Tông (Dương Hoán) 1128 1138
Lý Anh Tông (Thiên Tộ) 1138 1175
Lý Cao Tông (Long Cán) 1176 1210
Lý Huệ Tông (Sam) 1211 1225
Lý Chiêu Hoàng (Phật Kim) 1225
1010: Lý Thái Tổ dời đô về Thăng Long.
1028: Lý Thái Tổ mất. Các hoàng tử tranh ngôi. Lê Phụng Hiểu giúp thái tử Phật Mã định loạn.
1038: Nùng Tồn Phúc làm phản. Thái Tông thân chinh đi đánh, bắt được Nùng Tồn Phúc giết đi.
1041: Nùng Trí Cao (con Tồn Phúc) xưng đế. Nhà Lý đánh bắt được Trí Cao, nhưng sau lại thả ra.
1044: Thái Tông đánh Chiêm Thành, bắt được vua Chiêm là Xạ Đẩu giết đi. Và bắt được Mỵ Ê.
1048: Trí Cao lại tự xưng đế. Chiếm tám châu bên Tàu. Sau bị Địch Thanh phá.
1054: Thái Tông chết. Thánh Tông lên ngôi. Đổi tên nước là Đại Việt. Sai lập nhà Văn Miếu thờ Khổng Tử và thất thập nhị hiền.
1069: Thánh Tông đánh Chiêm Thành. Bắt được vua Chiêm là Chế Cũ.
1075: Nhân Tông mở khoa thi đầu tiên.
1075: Lý Thường Kiệt và Tôn Đản đánh 3 châu (Khâm, Liêm, Ung) bên Tàu.
1076: Mở trường Quốc Tử Giám.
1076: Quân Tống do Quách Quì chỉ huy sang đánh nước ta, nhưng bị chặn đứng trên sông Như Nguyệt.
1104: Lý Thường Kiệt đánh Chiêm Thành.
1138: Thần Tông mất. Anh Tông lên. Nhà Lý bắt đầu suy.
1141: Thân Lợi làm phản. Vua sai Tô Hiến Thành đánh dẹp được.
1176: Anh Tông mất. Cao Tông lên.
1208: Có loạn ở kinh thành. Cao Tông chạy ra ngoài. Thái tử Sam lưu lạc đến nhà họ Trần ở Tức Mạc. Trần Lý gả con gái cho. Sau đó Trần Lý mộ quân về kinh dẹp loạn.
1218: Trần Thừa (con Trần Lý) được phong làm Phụ Quốc Thái Úy.
1219: Trần Thủ Độ được phong làm Điện Tiền Chỉ Huy Sứ, tóm thâu quyền hành về nhà họ Trần.
1224: Huệ Tông (Sam) truyền ngôi cho con là Phật Kim. Đi tu ở chùa Chân Giáo.
1224: Phật Kim lên ngôi tức là Lý Chiêu Hoàng.
1225: Nhà Lý mất sau một cuộc phế lập. Trần Cảnh (con Trần Thừa) lên ngôi tức vua Trần Thái Tông.
Nhà Trần (1225 - 1400)
Trần Thái Tông (Cảnh) 1225 - 1258
Trần Thánh Tông (Hoảng) 1258 - 1278
Trần Nhân Tông (Khâm) 1278 - 1293
Trần Anh Tông (Thuyên) 1293 - 1314
Trần Minh Tông (Mạnh) 1314 - 1329
Trần Hiến Tông (Vượng) 1329 - 1341
Trần Dụ Tông (Hạo) 1341 - 1369
Trần Nghệ Tông (Phủ) 1370 - 1372
Trần Duệ Tông (Kính) 1372 - 1377
Trần Phế Đế (Hiển) 1377 - 1388
Trần Thuận Tông (Ngung) 1388 - 1398
Trần Thiếu Đế (Án) 1398 - 1400
1225: Trần Cảnh lên làm vua. Thủ Độ giết Huệ Tông.
1228: Nguyễn Nộn dẹp Đoàn Thượng. Nhưng sau đó Nguyễn Nộn chết. Nhà Trần dẹp được các cuộc nổi loạn.
1232: Thủ Độ tận diệt họ Lý.
1232: Nhà Trần mở khoa thi Thái Học Sinh (Tiến Sĩ).
1247: Lần đầu tiên lấy Trạng Nguyên, Bảng Nhản, Thám Hoa.
1252: Thái Tông đánh Chiêm Thành, bắt được vua Chiêm.
1257: Mông Cổ đánh nước ta lần thứ I.
1258: Mông Cổ thua trận, rút về. Thái Tông nhường ngôi cho thái tử lên làm Thái Thượng Hoàng.
1271 Hốt Tất Liệt xưng Đế, đặt quốc hiệu là Nguyên. Sai sứ sang nước ta dụ Thánh Tông sang chầu. Thánh Tông không đi.
1276 Nguyên đánh chiếm Lâm An.
1278 Thánh Tông nhường ngôi cho Nhân Tông. Lên làm Thái Thượng Hoàng.
1279 Nam Tống diệt vong.
1284 Hịch Tướng Sĩ của Trần Hưng Đạo.
1284 - tháng Chạp. Nguyên đánh nước ta lần thứ 2.
1285 Quân Nguyên thua phải rút về.
1287 Quân Nguyên đánh nước ta lần thứ 3.
1288 Quân Nguyên thua lần 3 phải rút về.
1294 Trần Quang Khải mất.
1300 Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn mất.
1301 Thượng Hoàng Nhân Tông sang thăm Chiêm Thành. Hứa gả công chúa Huyền Trân cho vua Chiêm là Chế Mân.
1306 Vua Chiêm sang cầu hôn. Sính lễ là 2 châu Ô Rí.
1307 Vua Chiêm Chế Mân chết. Vua Anh Tông sai Trần Khắc Chung đón công chúa về. Từ đó Việt Chiêm hục hặc với nhau.
1311 Huệ Võ Vương tiến quân sang Chiêm bắt Chế Chí.
1318 Huệ Võ Vương và Phạm Ngũ Lão tiến quân sang đất Chiêm, đuổi vua Chiêm là Chế Năng.
1320 Phạm Ngũ Lão mất.
1337 Đánh giặc Ngưu Hống.
1344 Đánh Ai Lao.
1353 Nhà Trần đưa Chế Mộ về Chiêm Thành làm vua. Nhưng quân Việt bị quân Chiêm đánh thua. Từ đây, Chiêm bắt đầu bỏ cống.
1358 Minh Tông mất. Nhà Trần bắt đầu suy.
1367 Quân nhà Trần lại thua Chiêm thêm 1 trận nữa.
1368 Minh Thái Tổ khôi phục Trung Hoa.
1369 Dụ Tông mất, không có con. Nhật Lễ tiếm ngôi.
1370 Các quan bắt giết Nhật Lễ, tôn Nghệ Tông lên.
1370 Quân Chiêm Thành vào đánh phá Thăng Long.
1377 Duệ Tông thân chinh đi đánh Chiêm Thành, trúng kế "không thành" tử trận tại Đồ Bàn.
1378 Chiêm Thành lại tiến quân vào Thăng Long.
1380 Quân Chiêm lại sang cướp phá.
1382 Quân Trần đánh thắng được quân Chiêm.
1383 Quân Chiêm lại sang.
1389 Chế Bồng Nga lại sang cướp phá.
1390 Chế Bồng Nga trúng đạn tử trận ở Hoàng Giang.
1396 Hồ Quý Ly ép vua dời đô về Thanh Hóa.
1400 Hồ Quý Ly phế vua Trần, lập nên nhà Hồ.
Nhà Hồ (1400 - 1407)
Hồ Quý Ly 1400
Hồ Hán Thương 1401- 1407
1400 Quân Hồ sang đánh Chiêm Thành, bất lợi phải rút về.
1402 Hồ Quý Ly lại đánh Chiêm Thành, chiếm được đất.
1403 Minh Thái Tổ mất. Yên Vương cướp ngôi cháu tức vua Thành Tổ nhà Minh.
1404 Minh Thành Tổ ngấm nghé chiếm Đại Việt.
1406 Thành Tổ sai Quốc Công Chu Năng dẫn quân chiếm Đại Việt. Đi được nửa đường Chu Năng chết, phó tướng là Trương Phụ lên thay.
1407 Quân Hồ thua luôn mấy trận. Quý Lý và Hán Thương bị bắt và giải về Tàu. Nhà Minh chia Đại Việt làm 17 phủ để đô hộ.
Hậu Trần (1407 - 1413)
Giản Định Đế 1407 - 1409
Trùng Quang Đế 1409 - 1413
1407 Giản Định Đế (Trần Quỹ) khởi nghĩa.
1409 Giải Định Đế ghi kỵ giết công thần. Đặng Dung bỏ đi, sau tôn Trùng Quang Đế lên làm vua.
1409 Trần Quý Khoách (Trùng Quang Đế) được Đặng Dung và Nguyễn Cảnh Dị ủng hộ, lên ngôi ở Hà Tĩnh. Giản Định Đế bị Trương Phụ bắt, giải về Kìm Lăng rồi bị giết.
1413 Vua Trùng Quang, Đặng Dung, Nguyễn Cảnh Dị đều bị bắt và giải về Kim Lăng. Giữa đường, vua tôi nhảy xuống biển tự tử. Nhà Hậu Trần dứt.
Thuộc nhà Minh (1414-1427)
1418 Lê Lợi khởi nghĩa ở Lam Sơn
1418 Lê Lợi thua, rút về Chí Linh lần thứ 1.
1419 Lại thua, rút về Chí Linh lần thứ 2. Lê Lai mặc hoàng bào chịu chết thế cho Lê Lợi.
1422 Rút về Chí Linh lần thứ 3.
1424 Bình Định Vương lấy được Nghệ An. Đánh dấu bước ngoặc mới trong cuộc kháng chiến.
1425 Quân kháng chiến vây Tây Đô.
1426 Quân kháng chiến vây Đông Đô. Nhà Minh sai Chinh Di Tướng Quân Vương Thông sang tiếp viện. Vương Thông bị quân kháng chiến đánh tan ở Tụy Động.
1427 Quân viện do Liễu Thăng chỉ huy đi chặn đánh ở Chi Lăng. Liễu Thăng tử trận.
1427 Vương Thông xin hoà với Bình Định Vương để rút quân về. Chấm dứt thời kỳ thuộc Minh.
Nhà Lê (Hậu Lê) (1428 - 1527)
Lê Thái Tổ (Lợi) 1428 - 1433
Lê Thái Tông (Nguyên Long) 1433 - 1442
Lê Nhân Tông (Bang Cơ) 1442 - 1459
Lê Thánh Tông (Tư Thành) 1460 - 1497
Lê Hiến Tông (Tăng) 1497 - 1504
Lê Túc Tông (Thuần) 1504
Lê Uy Mục (Tuấn) 1505 - 1509
Lê Tương Dực (Oanh) 1509 - 1516
Lê Chiêu Tông (Ỷ) 1516 - 1524
Lê Cung Hoàng (Xuân) 1524-1527
1428 Lê Lợi lên ngôi vua tức Lê Thái Tổ.
1429 Giết Hữu Tướng Quốc Trần Nguyên Hãn
1430 Giết Thái Úy Phạm Văn Xảo
1433 Lê Thái Tổ mất. Con là Nguyên Long lên ngôi tức Thái Tông
1434 Giết Tư khấu Lê Nhân Chú.
1437 Giết Lê Sát. Tháng 12. Giết Lê Ngân.
1442 Vua đi tuần phía đông. Ghé thăm Nguyễn Trãi. Đêm ấy vua mất. Triều đình đổ cho Nguyễn Trãi giết vua. Tru di tam tộc Nguyễn Trãi.
1446 Lê Thụ, Lê Khả lại đánh Chiêm. Chiếm được thành Đồ Bàn và bắt được vua Chiêm là Bí Cai.
1451 Giết Thái Úy Lê Khả và con là Lê Quát.
1459 Lạng Sơn Vương Nghi Dân cho người vào cung giết Lê Nhân Tông.
1460 Nguyễn Xí, Đinh Liệt phế Nghi Dân, rước Bình Nguyên Vương Tư Thành lên ngôi, tức vua Thánh Tông.
1470 Nhà Lê lại đánh Chiêm, bắt được vua là Trà Toàn. Sau đó chia nước Chiêm làm 3. Chiêm Thành suy yếu từ đó.
1505 Lê Uy Mục lên ngôi, ham mê tửu sắc. Nhà Lê bắt đầu suy yếu.
1509 Giản Tu Công giết Lê Uy Mục, rồi lên ngôi tức vua Tương Dực. Vua Tương Dực còn tàn ác hơn vua Uy Mục.
1516 Vua Tương Dực bị Trịnh Duy Sản giết. Sau đó Trịnh Duy Sản lập Quang Trị lên ngôi được 3 ngày thì bị giết. Sau đó, Duy Sản lại lập Chiêu Tông lên ngôi. Trong nước loạn to. Chiêu Tông phải nhờ Mạc Đăng Dung dẹp loạn. Từ đó, Đăng Dung nắm giữ quyền hành.
1524 Vua Chiêu Tông thấy Mạc Đăng Dung chuyên quyền, bèn chạy vào Tây Kinh, Đăng Dung cho người đuổi theo giết vua Chiêu Tông, rồi lập người em là Xuân (tức vua Cung Hoàng) lên thay.
1527 Đăng Dung ép vua truyền ngôi cho mình, rồi giết vua Cung Hoàng. Nhà Lê chấm dứt
Nhà Mạc (1527 - 1592)
Thái Tổ Mạc Đăng Dung 1527 - 1529
Thái Tông Mạc Đăng Doanh 1529 - 1540
Hiến Tông Mạc Phúc Hải 1540 - 1546
Tuyên Tông Mạc Phúc Nguyên 1546 - 1561
Mạc Mậu Hợp 1561 - 1592
Nam Bắc triều
Nhà Lê trung hưng
Vua Lê Trong thời Nam Bắc triều (1533 - 1592)
Lê Trang Tông 1533 - 1548
Lê Trung Tông 1548 - 1556
Lê Anh Tông 1556 - 1573
Lê Thế Tông 1573 - 1599
1529 Cựu thần nhà Lê là Nguyễn Kim dấy binh ở Ai Lao để phò Lê.
1533 Nguyễn Kim tìm được vua Trang Tông (tên húy là Duy Ninh), mang về lập làm vua ở Thanh Hóa. Từ đó gọi là Nam Bắc triều.
1539 Trịnh Kiểm (rể Nguyễn Kim) thắng quân Mạc.
1543 Quân Lê đến Tây Đô. Tướng Mạc là Dương Chấp Nhất đầu hàng.
1544 Dương Chấp Nhấu đầu độc Nguyễn Kim. Nguyễn Kim chết. Trịnh Kiểm nắm binh quyền.
1548 Trang Tông băng, Trung Tông lên nối ngôi.
1556 Trung Tông băng, không có con kế vi. Triều thần lập Duy Bang là cháu của ông Lê Trừ (anh Lê Lợi) làm vua.
1556 Nguyễn Hoàng vào trấn phía Nam, mở đầu nhà Nguyễn.
1559 Trịnh Kiểm tiến quân ra Bắc lần thứ nhất.
1570 Trịnh Kiểm chết. Trịnh Tùng nắm giữ binh quyền.
1573 Trịnh Tùng giết vua Lê Anh Tông, lập con là Thế Tông.
1592 Trịnh Tùng tiến binh ra Bắc, bắt được Mạc Mậu Hợp giết. Nhà Mạc chấm dứt (Con cháu nhà Mạc còn chạy lên Cao Bằng được 3 đời nữa).
Họ Mạc ở Cao Bằng
Mạc Kính Chương (bị bắt 1596)
Mạc Kính Dụng
Mạc Kính Cung
Mạc Kính Khoan
1638 Kính Khoan chết, con là Kính Vũ lên thay.
1667 Kính Vũ bị bắt. Họ Mạc dứt.
Trịnh - Nguyễn phân tranh
Lê Kính Tông 1560 - 1619
Lê Thần Tông 1619 - 1643
Lê Chân Tông 1643 - 1649
Lê Thần Tông 1649 - 1662 (làm vua lần thứ hai)
Lê Huyền Tông 1663 - 1671
Lê Gia Tông 1672 - 1675
Lê Hi Tông 1676 - 1705
Lê Dụ Tông 1706 - 1729
Lê Đế Duy Phương 1729 - 1732
Lê Thuần Tông 1732 - 1735
Lê Ý Tông 1735 - 1740
Lê Hiển Tông 1740 - 1786
Lê Mẫn Đế (Chiêu Thống) 1787 - 1788
Các Chúa Trịnh ở Bắc
Trịnh Tùng 1570 - 1623
Trịnh Tráng 1623 - 1657
Trịnh Tạc 1657 - 1682
Trịnh Căn 1682 - 1709
Trịnh Cương 1709 - 1729
Trịnh Giang 1729 - 1740
Trịnh Doanh 1740 - 1767
Trịnh Sâm 1767 - 17882
Trinh Cán 1782 - 1783 (làm chúa được 2 tháng)
Trịnh Khải 1783 - 1786
Các Chúa Nguyễn ở Nam
Nguyễn Hoàng 1600 - 1613 Chúa Tiên
Nguyễn Phúc Nguyên 1613 1635 Chúa Sãi
Nguyễn Phúc Lan 1635 - 1648 Chúa Thượng
Nguyễn Phúc Tần 1648 - 1687 Chúa Hiền
Nguyễn Phúc Trăn 1687 - 1691 Chúa Nghĩa
Nguyễn Phúc Chu 1691 - 1725 Quốc Chúa
Nguyễn Phúc Trú 1725 - 1738
Nguyễn Phúc Khoát 1738 - 1765
Nguyễn Phúc Thuần 1765 - 1777
1599 Trịnh Tùng xưng vương
1614 Có người Âu Châu sang nước ta.
1623 Trịnh Tùng mất, Trịnh Tráng thay làm chúa.
1627 Trịnh Nguyễn phân tranh lần I
1630 Trịnh Nguyễn phân tranh lần II
1635 Trịnh Nguyễn phân tranh lần III
1648 Trịnh Nguyễn phân tranh lần IV
1655 phân tranh lần V
1661 phân tranh lần VI
1672 phân tranh lần VII (lần chót)
1693 Chiêm Thành mất nước.
1743 Nguyễn Hữu Cầu (Quận He) khởi nghĩa.
1751 Hữu Cầu bị bắt.
1765 Chúa Nguyễn Phúc Khoát mất. Trương Phúc Loan chuyên quyền.
1771 Tây Sơn khởi nghĩa
1774 Quân Trịnh vào đánh miền Nam. Chiếm Phú Xuân. Chúa Nguyễn phải chạy vào Nam.
1776 Tây Sơn lấy được Sài Côn.
1777 Tây Sơn hoà với Trịnh, diệt Nguyễn. Giết chết được Thái Thượng Vương và Tân Chính Vương.
1780 Nguyễn Phúc Ánh xưng vương, nổi lên chống lại Tây Sơn.
1782 Tây Sơn phá quân Nguyễn ở Cần Giờ. Nguyễn Vương chạy ra Phú Quốc rồi qua Xiêm.
1784 Nguyễn Vương cầu viện quân Xiêm về giúp nhưng bị Tây Sơn phá tan ở Rạch Gầm.
1786 Tây Sơn tiến binh ra Bắc diệt họ Trịnh. Vua Lê Hiển Tông mất, cháu là Duy Kỳ (Mẫn Đế) lên ngôi. Tây Sơn rút về, để Nguyễn Hữu Chỉnh ở lại. Hữu Chỉnh phản Tây Sơn.
1787 Vũ Văn Nhậm bắt giết Hữu Chỉnh.
1787 Nguyễn Vương trở về nước.
1788 Vua Mẫn Đế (Chiêu Thống) chạy sang Tàu. Nhà Lê chấm dứt.
1788 Nguyễn Vương chiếm lại được Sài Côn (Sài Gòn).
1788 Vua Chiêu Thống cầu viện quân Thanh sang.
1788 Nguyễn Huê lên ngôi vua.
1789 Vua Quang Trung đại phá quân Thanh.
1792 Vua Quang Trung mất. Nhà Tây Sơn bắt đầu suy.
1792 Nguyễn Vương đánh Quy Nhơn lần thứ 1.
1793 Vua Chiêu Thông mất ở bên Tàu. Thọ 24 tuổi.
1797 Nguyễn Vương đánh Quy Nhơn lần thứ 2.
1798 Đánh Quy Nhơn lần thứ 3.
1800 Tây Sơn vây thành Bình Định.
1801 Võ Tánh, Ngô Tùng Châu tự tử. Trần Quang Diệu lấy được thành Bình Định.
1801 Nguyễn Vương lấy được Phú Xuân.
1802 Nguyễn Vương lấy được Thăng Long, bắt vua Quang Toản, Trần Quang Diệu, Bùi Thị Xuân, Võ Văn Dũng, thống nhất đất nước. Nhà Tây Sơn mất.
1802 Nguyễn Vương lên ngôi hoàng đế, xưng hiệu là Gia Long, mở đầu nhà Nguyễn, triều đại phong kiến cuối cùng của VN.
1804 Nhà Thanh sang phong cho vua Gia Long làm quốc vuơng, đổi quốc hiệu là Việt Nam (vua GL xin đặt quốc hiệu là Nam Việt).
1820 Vua Gia Long mất, con là hoàng tử Đảm lên ngôi, tức là vua Minh Mạng.
1826 Phan Bá Vành nổi loạn
1833 Lê Duy Lương, Lê Văn Khôi nổi loạn
1854 Cao Bá Quát nổi loạn.
1858 Pháp đánh Đà Nẳng, nhưng không chiếm được.
1861 Pháp xoay qua đánh Nam Kỳ, hạ đồn Kỳ Hòa (Sài Gòn). Gia Định mất. Pháp thắng thế lấy luôn 3 tỉnh miền Đông.
1862 Triều đình Huế ký hoà ước Nhâm Tuất, nhượng 3 tỉnh miền Đông cho Pháp.
1867 Pháp chiếm luôn 3 tỉnh miền Tây. Phan Thanh Giản uống thuốc độc tử tử. Toàn bộ Nam Kỳ bị mất.
1873 Pháp hạ thành Hà Nội lần thứ I. Nguyễn Tri Phương tử tiết.
1874 Pháp & Việt ký hòa ước năm Giáp Tuất, chịu quyền bảo hộ của Pháp ở Bắc Kỳ.
1882 Pháp hạ thành Hà Nội lần thứ 2. Hoàng Diệu tự vẫn.
1883 Pháp & Việt ký hòa ước năm Quý Mùi, VN hoàn toàn chịu quyền bảo hộ của Pháp. Vua Tự Đức băng hà.
1884 Sau một thời gian loạn lạc, vua Hàm Nghi lên ngôi.
1884 Ký hoà ước Giáp Thân, tương tự như hoà ước 1883. VN không chịu quyền bảo hộ của Tàu. Cái ấn của nhà Thanh được mang ra hủy.
1885 Pháp chiếm kinh thành Huế. Trong trận này, theo VNSL thì Pháp chết 16 người, bị thương 80. Bên ta chết vài nghìn người, bao nhiêu tiền của trong kinh thành đều bị mất cả. Vua Hàm Nghi chạy ra ngoài lập chiếu Cần Vương.
1885 Pháp lập vua Đồng Khánh lên ngôi và sai tìm vua Hàm Nghi.
1888 Vua Hàm Nghị bị bắt và bị đày đi Algerie.
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top