Võ lâm phong thần bảng 1
Hồi 1
Sa Mạc Tranh Hùng
Bụi bốc mù mù cả vùng sa mạc mênh mông, từng cơn gió lốc xô cát đùa lên nhau như cố xóa cho kỳ hết những dấu vết của động vật thời tiền sử ... Từng cuộn cát cuốn lên lấp lánh ánh vàng ...
Tiếng ngựa hí, tiếng lục lạc của lạc đà khua vọng đó đây, tạo cho vùng sa mạc biên cương một sắc thái hoang sơ mà cực kỳ hùng vỹ.
Ngàn dặm cát vàng bốc khói, nhiều chấm đen nhô lên rải rác và lần lần gom lại, càng lúc lại càng gom lại gần hơn.
Họ là động vật điểm xuyết hoạt cảnh cho vùng đất chết, họ là người, họ là cao thủ của Tam Sơn Ngũ Nhạc, gần như không thiếu một người nào thuộc vào hàng danh vọng của chính giới võ lâm Trung Nguyên hiện hữu ...
Họ đã từ những chỗ xa khác nhau, họ cùng có những thành tích huy hoàng, những thành tích họ đã dựng lên bằng máu và mồ hôi, bằng kinh nghiệm và trui luyện, bằng mạo hiểm và sinh mạng, bằng những gì quí báu trong đời để đổi lấy cái gọi là người hùng trong thế giới võ lâm ...
Bây giờ, giữa vùng sa mạc mênh mông này, họ đang làm một cuộc ... họ đang nhập vào một canh bạc, không phải bằng những lá bài, mà là bằng tài sức, bằng uy thế, bằng những gì mà suốt đời họ đã đem máu dựng nên ...
Bóng tịch dương đã đã xế về đỉnh phía tây, ráng hồng đổ xuống mặt cát tô màu ảm đạm, chung quanh đó đây trên vùng sa mạc, rải rác những tốp dân du mục đã đổ phân lạc đà khô nhen lửa bừng bừng như cố gom lại hơi ấm hầu chống chọi với đêm dài lạnh lẽo.
Từ trong những túp lều rải rác của người dân du mục thỉnh thoảng vẳng lên tiếng hồ cầm và giọng tình ca của những cô nàng quanh năm mặt phủ lụa đen.
Họ đã để lại sau lưng trọn một ngày mệt nhọc, họ đang quây quần tìm sinh thú trong những túp lều, họ vô tình không hay rằng quanh họ sắc máu sắp sửa dấy lên ...
Những bóng người ẩn phục đó đây vùng dậy ...
Tiếng xì xào xao náo bắt đầu vì, xa xa, dưới ánh sáng lờ mờ trăng cát bóng một con lạc đà cao lớn nhô lên, trên lưng, một bóng người ngất ngưởng.
Chương Bóng người cưỡi lạc đà càng tới gần, tiếng những người ẩn núp càng xì xào hơn nữa:
– Đến rồi!
– Đúng là hắn đến.
Tiếng người lớn nhỏ không đều nhau, có nhiều tiếng thở dập dồn, có nhiều tiếng thở như trầm nén, không khí căng thẳng tột cùng ...
Bóng người cỡi lạc đà thong dong đi thẳng vào giữa vùng người ẩn núp.
Ánh trăng màu sữa rạng rỡ trên biển cát vàng, trên lưng lạc đà đã hiện rõ một gã thanh niên, có lẽ hắn đã vào khoảng hăm lăm, hăm sáu tuổi nhưng vẻ mặt tươi trẻ của hắn không ai dám bảo rằng hắn đã quá hai mươi.
Dáng sắc gã thanh niên hết sức tự nhiên khi phát hiện số người vây quanh nơi đó, sự tự nhiên của hắn gần như ra ngoài trí tưởng tượng của mọi người ...
Hắn cho lạc đà dừng hẳn lại, hắn vẫn ngồi yên trên lưng con thú, đôi mắt sắc như dao đảo bốn bên:
– Đa tạ các vị có lòng chờ đợi, có lẽ đã đủ hết rồi đấy chứ?
Chung quanh im lặng. Không khí lại đậm thêm phần khẩn trương.
Gã thanh niên cao giọng:
– Sao thế? Các vị làm sao thế? Tại hạ đã tuyên bố trước, nếu trong cửu môn, tam phái, thất cốc và thập tứ bảo, nếu vắng đi mất một, thì cuộc hội đêm nay kể như sẽ bất thành.
Bốn bên lại im lặng.
Thật lâu, giọng của một người có tuổi vang lên:
– Mắt của các hạ không mù, đủ hay không thì tự các hạ cũng phải thấy chứ?
Gã thanh niên mỉm cười:
– Ai lên tiếng đó?
Lão già cao giọng:
– «Kim Sa Bảo Chủ» Cốc Lượng.
Tia mắt xanh rờn của gã thanh niên quét nhanh về phía lão già, làm cho kẻ danh dậy đại giang nam bắc phải rùng mình thối lui nửa bước.
Gã thanh niên dịu đôi mắt lại mỉm cười:
Chương – À, thì ra Cốc Bảo chủ, tốt lắm, là một người biết nhiều hiểu rộng, xin Bảo chủ giúp cho giùm việc kiểm điểm, tại hạ vì là người cùng các vị buổi đầu sơ ngộ, lẽ tự nhiên là phải hỏi cho rõ ràng.
Ngưng một giây, giọng của Cốc Lượng có phần hơi khó chịu:
– Không cần phải kiểm điểm, lão phu bảo đảm không thiếu một ai cả. Hai năm nay bằng hữu võ lâm chỉ chờ có một ngày này, thì thiếu làm sao chứ?
Gã thanh niên cười ha hả:
– Thế thì hay biết bao nhiêu! Vậy bây giờ chúng ta hãy bắt đầu ... Vị nào đầu tiên đây nhỉ?
Bốn phía lặng im, không khí như trầm hẳn xuống ...
Qua mấy phút, giọng một người già nhưng sang sảng nổi lên:
– Xin Cốc Bảo chủ bảo cho chậm lại một chút, bần tăng có điều muốn hỏi cho được rõ ràng.
Cốc Lượng quay sang cung kính:
– Vâng, xin thỉnh đại sư Chưởng môn nhân.
Vị Chưởng môn nhân phái Thiếu Lâm, Thống Thiền đại sư xốc áo cà sa khoan thai bước tới:
– A Di Đà Phật, bần tăng có chỗ hơi ngờ về thân thế của thí chủ!
Gã thanh niên mỉm cười:
– Đại Sư nhìn tại hạ không phải là Minh Đà Lệnh Chủ?
Thống Thiền Đại Sư chấp tay gật đầu:
– Hai mươi năm về trước, bần tăng đã hân hạnh hội kiến với Minh Đà Lệnh Chủ, và ngày nay ...
Gã thanh niên mỉm cười:
– Hai mươi năm về trước tại hạ là một đứa trẻ mới lên năm, người mà đại sư gặp đó không phải là tại hạ. Vâng, năm tháng trôi qua, sư phụ của tại hạ bây giờ đã hóa ra người thiên cổ, cho nên lời hẹn ước với các vị, tại hạ đã thừa di mạng của gia sư mà hoàn tất.
Nhiều tiếng thở phào bắn ra từ bốn phía, hình như mọi người không ai có thể tin rằng kẻ đã từng chấn động giang hồ hồi hai mươi năm về trước, kẻ đã làm cho sóng dậy võ lâm ấy bây giờ đã nằm yên dưới đáy mộ sâu ...
Chương Thống Thiền Đại Sư thoáng hơi đổi sắc:
– Độc Cô tiên sinh sức khỏe đang lúc dồi dào, sao lại có chuyện nửa đường bỏ dở cuộc hành trình nhân thế!
Giọng nói của gã thanh niên có vẻ bùi ngùi:
– Vâng, tài mạng tướng số, dường như trời xanh cũng ganh với kẻ hơn người ...
Thống Thiền Đại Sư thở ra nhè nhẹ:
– Bần tăng xin vì Độc Cô tiên sinh mà ngỏ lời tiếc nhớ, tuy nhiên, cũng mong thí chủ nên chứng minh rõ ràng hơn mình thật là Minh Đà Lệnh Chủ truyền nhân?
Khẽ nhếch môi ngạo nghễ, gã thanh niên lấy cái bọc đang đeo trên mình lạc đà, mở bọc ra, bên trong là pho tượng người một chân bằng vàng lóng lánh.
Gã đưa pho tượng soi dưới ánh trăng và nghiêm giọng:
– Minh Đà, mà tại hạ đang ngồi trên lưng đây, và thứ hai là pho tượng này có lẽ đại sư chưa quên đấy chứ?
Thống Thiền Đại Sư mỉm miệng gật đầu:
– Đúng, vật ấy quả là của Độc Cô tiên sinh, chẳng hay thí chủ có thể cho bần tăng xem rõ chút được không?
Gã thanh niên cười lớn:
– Đại sư bất tất phải hoài nghi, ngay giữa trán của pho tượng Kim Thần này có ba cái lỗ nhỏ, vết tích đó, do chính «Bồ Đề Thủ Pháp» của Đại Sư tạo thành.
Thuở sinh tiền, sư phụ tại hạ xem trọng vết tích ấy lắm, vì theo sư phụ thì khắp trong thiên hạ không một ai có thể để lại dấu vết, dù là một dấu nhỏ trên binh khí của người được cả.
Chấp tay khẽ vái về phía tượng Kim Thần trên tay của gã thanh niên, Thống Thiền đại sư tỏ vẻ hết sức cung kính:
– Vâng, bần tăng không còn hoài nghi gì nữa cả? Hồi hai mươi năm về trước, Độc Cô Tiên Sinh đang đêm một mình đến tận Thiếu Lâm phá vỡ «La Hán Trận». Bần tăng đã đem hết sức lực nhưng vẫn phải giao xuất lệnh phù của bản môn, chuyện đó đối với bản môn tuy là một cái nhục lớn, nhưng riêng đối với bần tăng thì hết sức trọng lệnh sư ... à, thật là thiên đố kỳ tài, bần tăng vô cùng thương tiếc!
Chương Gã thanh niên mỉm cười điềm đạm:
– Đa tạ đại sư đã vì sư phụ tại hạ mà ngỏ lời đoái tưởng, nhưng có lẽ đại sư cũng còn ít nhiều khách sáo, vì hai mươi năm qua, Thiếu Lâm tưởng cũng vì chuyện đó mà đã luyện thêm nhiều tuyệt học?
Thống Thiền đại sư vẫn bằng một giọng từ tốn:
– Hai tiếng tuyệt học thật tình bần tăng không dám nhận ...
Ngần ngừ một giây, đại sư nói tiếp:
– Vì cần phải thu hồi lệnh phù của bản môn, cho nên lát nữa đây có lẽ bần tăng sẽ không khỏi có điều vô lễ, xin thí chủ vui lòng ...
Gã thanh niên ngang nhiên ngẩng mặt:
– Đại sư không cần phải e dè khách sáo chi cả, không phải chỉ riêng vì phái Thiếu Lâm, mà Cửu Môn, Tam Phái, Thất Cốc và Thập Tứ Bảo, cộng chung tất cả là ba mươi ba lệnh phù tín vật, tiên sư đã giao hết cho tại hạ, cho nên nửa năm trước đây, tại hạ đã đưa «Minh Đà Lệnh» khắp nơi ước hội chư vị đến đây giao hoàn, tuy nhiên việc giao hoàn tín vật đó, tại hạ còn phải tuân theo điều kiện của tôn sư chỉ giáo.
Thống Thiền Đại Sư nhìn chăm chăm vào mặt gã thanh niên:
– Thí chủ định bao giờ là giải quyết?
Gã thanh niên khoa nhẹ tay:
– Đại sư không phải lo lắng, tự nhiên giải quyết càng sớm thì càng hay ...
Thống Thiền đại sư có vẻ hồ nghi:
– Năm xưa lệnh sư đã dùng tận thiên tài, và cũng phải ròng rã suốt nửa năm mới thuyết phục khắp thiên ha võ lâm thế phiệt, ngày nay thí chủ lại muốn một mình luân đấu với cả ba mươi võ phái có mặt ở đây sao?
Gã thanh niên mỉm cười:
– Năm xưa vì các vị phân tán mỗi nhà một chỗ xa xôi, và vì gia sư phải gõ cửa từng nhà một cho nên tự nhiên thì phí mất quá nhiều thời gian, riêng tại hạ thì tình thế có vẻ vội vàng hơn, nên xin giải quyết một lần trong nội đêm nay cho được việc.
Bị hào khí của gã thanh niên làm nghẹn đi giây phút, một lúc sau Thống Thiền đại sư mới khẽ lắc đầu:
Chương – Thí chủ đã đem mớ tuổi niên hoa của mình để dựng một sự nghiệp không tiền khoán hậu, một hành động hào hùng mà từ trước đến nay chưa có ai làm được. Bần tăng tin rằng thí chủ có thừa sức ấy, nhưng nếu thu hồi lệnh phù dưới một hoàn cảnh như thế này, thì riêng phái Thiếu Lâm xin rút tên ra khỏi cuộc hội đêm nay.
Nhìn vào mớ râu bạc phếch dưới ánh trăng của người lãnh tụ phái Thiếu Lâm, gã thanh niên có nhiều kinh nể:
– Nơi lòng của đại sư hào khí xông lên vạn trượng, tại hạ kính cẩn nghiêng mình bội phục, đại sư đã không bằng lòng chiếm lấy phần hơn thì tại hạ cũng không dám ép, vậy xin đại sư cứ đứng một bên hoan lãm, bao giờ tại hạ giải quyết xong đối với những người khác mà đại sư xét tại hạ còn đủ sức, thì bấy giờ câu chuyện Thiếu Lâm sẽ đặt ra ...
Thống Thiền đại sư khẽ lắc đầu lui ra đứng xa xa.
Gã thanh niên thong thả nhảy xuống lưng Lạc Đà, vỗ nhẹ vào lưng con vật và nói với một giọng dịu dàng:
– Bạn già, tìm chỗ nghỉ ngơi đi nhé, ta tin rằng không để cho chú phải đợi lâu đâu.
Như nghe biết tiếng người con vật khịt khịt trong lỗ mũi và chậm chạp bước đi. Sự trao đổi cử chỉ giữ con Lạc Đà với chủ thật là một hoạt cảnh đáng yêu, nhưng đối với các cao thủ vây quanh thì y như là một cách thức khêu bùng lửa giận.
Năm xưa «Minh Đà Lệnh Chủ» Độc Cô Minh dùng võ công tuyệt đỉnh thuyết phục thiên hạ giang hồ, đoạt hết tín vật lệnh phù của các môn phái võ lâm, có giao ước rằng hai mươi năm sau khoảng thời gian dài để cho các phái đủ thì giờ rèn luyện độc môn, sẽ giao đấu lại ...
Đó là một điều sỉ nhục. Nhưng vẫn không bằng hiện tại, Độc Cô Minh chết đi, để một tên oắt con thay mặt và sự ngạo mạn của gã càng làm cho sỉ nhục tăng lên ...
«Kim Sa Bảo Chủ» nhích lên giận dữ:
– Tiểu tử đừng quá cuồng ngạo như thế chứ!
Gã thanh niên nhếch mép lạnh lùng:
– Là kẻ thừa kế «Minh Đà Lệnh Chủ», lẽ tự nhiên tại hạ phải có đầy đủ sự ngạo mạn cần thiết ấy chứ?
Chương Cốc Lượng hầm hầm:
– Ta giao đấu trước.
Gã thanh niên thản nhiên:
– Được chứ sao, Bảo chủ hãy trao lại «Minh Đà Lệnh».
Cốc Lượng vùng vằng móc trong lưng ra một miếng đồng sáng chói quăng lên mặt đất. Miếng đồng mỏng nhỏ ấy bề mặt khắc một con Lạc Đà lung linh sống động y như con Lạc Đà mà gã thanh niên cỡi.
Gã thanh niên lấy một mảnh giấy nhỏ soi dưới ánh trăng đọc nhỏ:
– «Kim Sa Bảo Chủ» Cốc Lượng, một cây cờ gấm màu vàng.
Gã quay qua phía Cốc Lượng, mỉm cười:
– Bảo chủ, xin lỗi, tín vật nhiều quá tại hạ cất chung trong bọc để trên lưng Minh Đà, không sao, nếu Bảo chủ thắng thì tại hạ sẽ gọi Minh Đà mang ngay lại.
Cốc Lượng giận run:
– Hừ, ta thắng thì ngươi khỏi phải gọi đến con quái ấy.
Gã thanh niên cứ mỉm cười:
– Nếu thế thì lại càng hay hơn nữa, chẳng riêng Bảo chủ mà những người khác cũng đỡ, khỏi phải nhọc công, các vị cứ căn cứ theo mảnh giấy này mà thu hồi tín vật.
Cốc Lượng quát lớn:
– Tiểu tử, hãy chuẩn bị!
Gã thanh niên đưa bàn tay làm một cử chỉ ngăn chận.
– Khoan, Bảo chủ hãy còn chưa hỏi danh tánh của tại hạ, không may tại hạ bị hại, thật ra thì tại hạ cũng hết sức cẩn thận nhưng ở đời không có việc nào chắc chắn cả cho nên cần phải đề phòng. Và như thế để khỏi mang tiếng là kẻ vô danh ...
Dáng cách và lời kẻ của gã thanh niên càng làm cho Cốc Lượng càng thêm tức tối, nhưng ông ta chưa kịp có thái độ thì gã từ từ nói tiếp:
– Xin Bảo chủ hãy nghe cho rõ, tại hạ là Quan Sơn Nguyệt đệ nhị thế Minh Đà Lệnh Chủ.
Cốc Lượng rút thanh đao lưỡi có răng cưa, chín cái vòng sắt trên cán đao khua rổn rảng.
Chương – Tiểu tử, đến giờ ngươi sám hối chuyện ngông cuồng rồi đó.
Vẫn bằng một dáng điệu khoan thai, Quan Sơn Nguyệt đưa cao tượng đồng đang nắm trong tay:
– Cốc Bảo chủ, xin ông hãy thư thả. Những người học võ ai cũng biết điều tối kỵ trong lúc giao đấu là nóng nảy, một khi tâm trí bị phiền não, công lực sẽ ít nhiều phân tán, nhất là cuộc đấu này nó nặng nhiều về danh dự Bảo chủ, nếu không may sơ thất thì có lẽ lại phải đợi hai mươi năm nữa cũng nên ... Bảo chủ niên kỷ đã cao, làm sao mà chờ được như thế chứ?
Câu nói ẩn nhiều lẽ thật tình của gã thanh niên làm cho Cốc Lượng hơi khựng lại, ông ta nén lòng cười nhạt:
– Nếu hôm nay ta bại vào tay của ngươi thì lệnh kỳ của Kim Sa Bảo ngươi cứ tự do hủy diệt, ta không cần phải đợi thêm một ngày nào nữa cả.
Quan Sơn Nguyệt mỉm cười:
– Sao lại có chuyện như thế? Kim Sa Bảo hùng cứ cả một dãi núi sông Hà Lạc, ngọn Kim Sa Kỳ đã làm rạng rỡ danh dự của quí Bảo đã hàng chục năm nay, nhất đán mà không may cho Bảo chủ, thì ít ra tại hạ cũng phải dành một cơ hội nào đó cho đệ tử đời sau của Kim Sa Bảo chứ!
Khựng lại một lần nữa, Cốc Lượng dịu giọng:
– Đa tạ thịnh tình ...
Câu nói vừa chấm dứt, ngọn cương đao đã vung ra, một ánh thép xé ngang đỉnh đầu Quan Sơn Nguyệt ...
Là một anh hùng từng được liệt vào hàng thứ nhất trong các cao thủ võ lâm hiện đại, ngọn đao răng cưa của Cốc Lượng nặng ngót sáu trăm cân, cộng với nội lực một đời rèn luyện làm cho sức đi của nó vừa nhanh vừa nặng phi thường ...
Tất cả những kẻ có mặt nín hơi chờ đợi ...
Mọi người đều hồi hộp lạ thường, là một truyền nhân của Minh Đà Lệnh Chủ và nhất là từ lúc xuất hiện đến giờ, gã thanh niên mang tên Quan Sơn Nguyệt vẫn một mực ung dung, thái độ đó chứng tỏ con người có nhiều bản lãnh ... Và bây giờ dưới ngọn đao của Kim Sa Bảo chủ, chân tài, thực học của gã phải được chứng minh. Mọi người tập trung nhãn lực vào mặt hắn ...
Quan Sơn Nguyệt vẫn giữ nụ cười nửa miệng, hắn cầm pho tượng bằng đồng đưa ra nhè nhẹ ...
Chương «Cỗn ...!» Một tiếng khua không lớn lắm nhưng tay đao ngàn cân của Kim Sa Bảo chủ bị hóa giải cách cách như không!
Cốc Lượng lùi lại nửa bước vì phản ứng hơn là bị dội ông ta nặng mặt nhưng lại vụt cười ha hả:
– À, thì ra ỷ vào cái tiểu xảo của tà môn ấy, thảo nào ngươi lại chẳng có thái độ ngông cuồng ... Hãy đỡ chiêu thứ hai đây!
Tiếng người xao náo chung quanh, tiếng xao náo hàm hai ý nghĩa:
cao hứng và thất vọng. Họ cảm thấy sức của Quan Sơn Nguyệt cũng chỉ có chừng hạn đó, Độc Cô Minh chỉ truyền thụ cho hắn những chiêu thức xảo diệu năng về khoa trương hơn là có thực tài. Họ cao hứng vì sự sỉ nhục đã có cơ rửa sạch, nhưng họ không thất vọng vì Quan Sơn Nguyệt không thể đêm lại một trận đấu long trời lở đất mà họ ý thức ngay từ khi nhận được thư mời tụ hội của Minh Đà Lệnh.
Chỉ riêng có Thiếu Lâm Thống Thiền đại sư là có hơi thở khác, ai đứng gần ông ta và có chú tâm mới nghe được cái thở dài nhè nhẹ này.
Quan Sơn Nguyệt mỉm cười khoát tay:
– Cốc Bảo chủ, ông cho rằng tôi không đỡ nổi một chiêu kế tiếp nữa ư?
Cốc Lượng cười gằn:
– Năm Xưa, khi cùng Độc Cô Minh giao đấu, chỉ một chiêu đầu, binh khí của ta lập tức bị rơi. Cho dù bị bại nhưng trong lòng ta thán phục ...
Giọng Quan Sơn Nguyệt chợt trầm trầm:
– Năm xưa gia sư tại hạ đã lưu cho Bảo chủ chút thể diện, ông lại vì thế mà tưởng lầm rằng mình công lực cao thâm ... Không, tại hạ thì không thế, nếu Bảo chủ thấy không ngại thì chúng ta trao đổi binh khí giao đấu thử xem ...
Vừa nói, Quan Sơn Nguyệt vừa đưa thẳng hình nhân một chân bằng đồng về phía Cốc Lượng.
Khoảng cách hai người không xa lắm nên Quan Sơn Nguyệt vừa hơi thẳng tay là hình nhân đã sát đến gần bên. Cốc Lượng biến sắc vung ngọn đao lên đỡ.
Bằng một thủ pháp không ai nhìn kịp, tay trái của Quan Sơn Nguyệt đoạt phăng thanh đao của Cốc Lượng trong khi tay phải vẫn đưa tượng Kim Thần về phía ông ta.
Binh khí bị đoạt một cách quá thình lình làm Cốc Lượng giật mình hai tay chụp đại lấy hình đồng trên tay Quan Sơn Nguyệt.
Chương Quan Sơn Nguyệt buông tay mỉm cười ...
Hai tay nắm tượng Kim Thần của Cốc Lượng vụt nỗi gân vồng như quá sức, ông ta tái mặt run rẩy rồi thụt lui ... Và cuối cùng, không còn ráng được nữa, Cốc Lượng buông lỏng đôi tay, chiếc hình nhân bằng đồng đánh huỵch xuống đất lún sâu hơn phân nửa!
Quan Sơn Nguyệt ném thanh đao của Cốc Lượng ra xa và khom mình xuống nhặt lấy tượng Kim Thần, và nói bằng một giọng bình thường:
– Điều quan trọng là ông không nên lầm lẫn khi có người nhân nhượng, năm xưa, sư phụ tôi hất văng ngọn đao của ông chẳng qua là muốn lưu lại chút tình, chứ nếu người đánh trả lại một chiêu thì đừng nói thanh đao gãy, mà chính xương ông cũng biến ra thành từng mảnh nhỏ đấy.
Ai cũng biết câu nói của Quan Sơn Nguyệt một phần cũng có nói thật về công lực tôn sư của hắn, nhưng một phần lớn là nói ngay vào hoàn cảnh hiện tại, chỉ ngay về chiêu đầu hắn đã nhân nhượng vừa qua ...
Vị Bảo Chủ Kim Sa Bảo da mặt hãy còn xanh, ông ta nắm chặt đôi tay mím miệng thở dài:
– Được rồi, thôi kể từ nay trên chốn giang hồ, Kim Sa Bảo coi như tự xóa tan danh hiệu!
Rồi luôn cả thanh cương đao cũng không thềm nhặt lấy, Kim Sa Bảo chủ tung mình mất hút vào vùng bóng tối trong sa mạc.
Chỉ một chiêu đầu, chỉ một cách thay đổi về phương thức, hai người đã phân định xong thắng bại, sự việc diễn tiến quá nhanh làm cho những kẻ xung quanh vỡ mộng ... Những hứng thú của họ khi nãy tan như mây khói, và sự thất vọng lại có vẻ đậm hơn. Dĩ nhiên, sự thất vọng với một nội dung mới hẳn:
vừa thất vọng vừa lại kinh hoàng.
Từ nãy giờ đứng im bên cạnh Thống Thiền Đại Sư, Lữ Vô Úy, chưởng môn nhân phái Chung Nam lên tiếng:
– Năm xưa, khi lão phu cùng với Độc Cô Minh đấu kiếm, hắn đã dùng pho tượng đồng ấy giao đấu với lão phu hơn sáu mươi chiêu, cuối cùng khi bị bại, lão phu chỉ thấy bại về thủ pháp chứ không dè vật ấy lại nặng quá như thế!
Thống Thiền đại sư nhè nhẹ lắc đầu:
– Pho tượng Kim Thần ấy không biết đã rèn đúc nên bằng một hợp chất gì, lúc Độc Cô Minh đến Thiếu Lâm, tệ sư đệ «Đại Lực Thiền Sư» Ngộ Tịnh ra Chương nghinh chiến. Sư đệ Ngộ Tịnh sử dụng cây thiền trượng nặng lắm, cho nên cứ ngài ngại về pho tượng Kim Thần quá nhẹ sẽ không tương xứng, do đó, tệ sư đệ mới ân cần cảnh báo trước với Độc Cô Minh, hắn bèn đề nghị đem ra so thử, kết quả, thiền trượng của tệ sư đệ chỉ nặng non phân nửa chiếc Kim Thần!
Lữ Vô Úy trố mắt:
– Nghe nói thiền trượng của Đại Lực Thần Tăng nặng đến năm trăm cân, thế mà chỉ non nửa tượng Kim Thần như vậy pho tượng ấy có đến ngoài một ngàn cân?
Thống Thiền đại sư gật đầu:
– Nếu không lầm thì tượng Kim Thần ấy cũng phải ngót hai ngàn cân chứ không ít, thế mà gã thanh niên ấy lại cầm múa thong dong không chút chi gọi là gắng sức, xem thế đã biết rằng cuộc hội đêm nay, sự thất vọng của đa số người sẽ được gia tăng ...
Lữ Vô Úy cúi mặt thở dài :
Quan Sơn Nguyệt đảo đôi mắt lạnh lùng nhìn quanh khắp bốn bề:
– Kế tiếp Kim Sa Bảo chủ là vị nào đây nhỉ?
Không khí lặng im phăng phắc ...
Qua một lúc khá lâu, từ nhóm người phía trái, một thanh trường kiếm lóe lên, tiếp liền theo, một nữ trung niên bận áo màu xanh chậm rãi bước ra ... Dáng đi của người đàn bà áo xanh trông thật là dịu dàng uyển chuyển ...
Quan Sơn Nguyệt tươi cười:
– Các hạ có lẽ là «Thiên Mục Việt Nữ Kiếm» Hàn nữ hiệp?
Người bà áo xanh khẽ gật đầu:
– «Thiên Mục Môn» Hàn Như Ngọc Quan Sơn Nguyệt cười lên ánh mắt:
– Năm xưa gia sư đã «mượn» của Hàn nữ hiệp chiếc «Tử Kim Phượng Xoa» nhưng không bao giờ xem đó là một chiến lợi phẩm ... trong suốt một thời gian dài cho đến khi tạ thế, gia sư đã mân mê vật ấy bên mình, xem nó là vật kỷ niệm chung thân ...
Tuy đã tuổi trung niên, nhưng Hàn Như Ngọc vẫn còn là độc thân xử nữ, cho nên câu nói có vẻ hơi đùa cợt của Quan Sơn Nguyệt làm cho nàng đỏ mặt giận run:
Chương – Tiểu tử, ngươi không được nói càn ...
Thanh kiếm không đợi nói hết câu, ánh thép đã lóe lên xẹt xuống đỉnh đầu Quan Sơn Nguyệt ...
Bằng một cử chỉ nhẹ nhàng, Quan Sơn Nguyệt đưa chiếc Kim Thần khoa chậm nửa vòng hóa giải đường kiếm dữ dằn của Hàn Như Ngọc.
Kết quả trận thứ nhất của Cốc Lượng đủ cho mọi người ước độ được sức nặng của pho tượng Kim Thần, bây giờ họ chăm chú thấy Quan Sơn Nguyệt sử dụng quá nhẹ nhàng làm tất cả đều cảm thấy rợn lạnh ...
Đa số người có mặt công lực chỉ xấp xỉ với Kim Sa Bảo Chủ, họ đều cảm thấy trước rằng hai mươi năm nữa quả là thời gian ảo vọng ... Hai mươi năm trước đây, khi Độc Cô Minh thu lệnh phù tín vật của các môn phái, họ chỉ thấy đối phương công lực chỉ cao hơn một bậc, họ hy vọng trong thời gian hẹn ước, họ có thể gắng công tu luyện thì chuyện rửa nhục cũng không phải quá khó khăn. Họ không dè họ đã bị lừa.
Họ bị lừa hay là kẻ truyền nhân của Minh Đà Lệnh Chủ công lực vượt quá gia sư? Không một ai đoán chắc được điều đó cả, họ chỉ cảm thấy rằng họ đang đứng trước một bức tường không thể lung lay ... Bao nhiêu hy vọng trong suốt hai mươi năm trời bây giờ tiêu tan theo mây khói!
Cuộc đấu chợt kéo dài.
Hàn Như Ngọc vũ lộng thanh kiếm báu đã ngoài sáu mươi chiêu.
Sao lại có thể kéo dài hơn đến sáu mươi chiêu? Quan Sơn Nguyệt muốn biểu diễn sự dẻo dai đối với món binh khí kinh người hay là cố để cho mọi người có đủ thì giờ suy nghĩ? hay là hắn trở lại đúng y như sách lược dẫn dụ năm xưa của Minh Đà Lệnh Chủ?
Nhưng cho dù sách gì đi nữa, đứng trước hiểm cảnh, sự thất vọng vẫn như một đám mây xám nặng và chụp lên đầu các cao thủ võ lâm.
Cuộc chiến kéo dài thêm một lúc lâu, càng kéo dài ra thiên hạ càng ý thức rõ sự thất vọng của mình. Vô đầu, Hàn Như Ngọc tấn công chớp nhoáng, tấn công bằng tất cả chiêu số thuần thục nhất hiểm ác nhất của mình, bây giờ thì chiếc Kim Thần đã xoắn chặt không còn lấy một kẽ hở nào để cô ta có thể tấn công ...
Dù món binh khí nặng nề làm sợi dây trói buộc, khiến cho đối phương không chỗ phản công, cuộc chiến diễn ra trong tư thế của một con mèo vờn chuột ...
Chương Lữ Vô Úy nhích sát lại gần Thống Thiền đại sư và khẽ thở ra:
– Suốt cuộc đời xông xáo giang hồ, không biết bao nhiêu người đả dựa vào thế lực, vào bè phái để dựng cho mình một cái hư danh chỉ có nhìn tận mặt mới thấy được chân tài thực họ của Hàn Như Ngọc, so với Kim Sa Bảo chủ thì nữ hiệp họ Hàn quả là cao hơn một bực.. Thống Thiền đại sư khẽ gật đầu:
– «Việt Nữ Kiếm Pháp» khởi danh từ thuở Xuân Thu, đến nay đã ngót một trăm năm rồi đâu phải tầm thường, chỉ có điều làm cho bần tăng e ngại vì gã thanh niên này còn trội hơn Độc Cô Minh năm xưa một bậc ...
Lữ Vô Úy tỏ vẻ trầm ngâm:
– Hắn có thể là một kỳ tài, nhưng đã hơn sáu mươi hiệp trôi qua vẫn chưa phân định, riêng lão phu chưa thấy rõ lắm về thực học của hắn.
Thống Thiền đại sư lắc đầu nhè nhẹ:
– Đó là do Lữ huynh chỉ chú ý bên ngoài, điều cần phải thấu triệt là thanh kiếm của Hàn nữ hiệp chỉ bất quá hai mươi cân, trong khi đó tượng thần độc cước của gã thanh niên lại nặng trên dưới hai ngàn, nội về cân lượng không cân xứng đó cũng đủ nói lên một vấn đề quan trọng trong giao đấu.
Lữ Vô Úy gục gật đầu mím miệng làm thinh ...
Lim dim đôi mắt như cân nhắc một chuyện gì quan hệ, hồi lâu Thống Thiền đại sư nói tiếp:
– Suốt một trăm năm nay, hầu hết võ lâm đều mong yên tịnh, ai ai cũng cứ lo thủ phận mình, không ai buồn lo phát triển, nếu như không có việc Độc Cô Minh khích động thì có lẽ đời đời không ai biết được tài lực của ai, cho nên cuộc hội đêm nay, dù gì, bần tăng vẫn thấy là một điều lợi lớn ...
Lữ Vô úy vừa mở miệng định nói, chợt nghe một tiếng keng thật nhỏ khua lên trong trận đấu, thanh kiếm của Hàn Như Ngọc văng bắn ra xa và vị «Việt Nữ Kiếm» đứng một chỗ xụi lơ mặt như chàm đổ ...
Quan Sơn Nguyệt vòng tay cười tươi:
– Kính mừng Hàn nữ hiệp, qua hai mươi năm, «Việt Nữ Kiếm Pháp» quả nhiên tiến triển cao thâm, nếu chỉ bằng vào kiếm không mà luận, thì Hàn nữ hiệp được gọi là «Đệ nhất kiếm thủ võ lâm».
Sửng sốt một lúc khá lâu, Hàn Như Ngọc nói bằng một giọng yếu ớt:
Chương – Tiểu tử! Kể như ngươi đã thắng, nhưng ta mong ngươi hãy cố mà giữ chút đức trong lời lẽ ...
Quan Sơn Nguyệt lắc đầu khoát tay chận câu nói của nàng:
– Nữ hiệp đã hiểu lầm câu nói của tôi, tôi không bao giờ chế riễu một cách vô ý thức như thế ấy đâu ... Kiếm vốn đứng đầu trong những món binh khí vắn, cũng như thương là chủ của loại binh khí dài, vắn không thể thắng dài, đó là một định lý và vì thế vạn bất đắc phải dùng đến thế «Trường Long Ngọa Lãng» trong «Lục Trầm Thương Pháp» tôi mới có thể đánh rơi thanh kiếm của nữ hiệp vừa rồi đấy. Xin nữ hiệp nên hiểu cho lời khen của tôi là một thán phục thật tình.
Hàn Như Ngọc quắc mắt:
– Bảo rằng không mỉa mai mà ngươi lại nói dùng binh khí ngăn chận của ngươi thay cho ngọn trường thương à?
Quan Sơn Nguyệt vẫn ôn tồn:
– Binh khí vốn không thay đổi, nhưng sự điều khiển là do ý muốn của con người, món binh khí của tiên sư để lại mà tại hạ đang dùng đây, có thể thành cây «Trượng Bác Xà Mâu» tùy theo người sử dụng.
Hàn Như Ngọc cúi xuống nhặt thanh kiếm và cất giọng hầm hầm:
– Được rồi, kể như ngươi giỏi đấy, và xin hẹn ba năm sau cũng bằng vào «Việt Nữ Kiếm Pháp» này, ta sẽ đến đây kết liễu sinh mạng của ngươi ...
Quan Sơn Nguyệt cười cởi mở:
– Tại hạ tin rằng sẽ có một ngày như thế, xin nữ hiệp cứ an lòng ...
Hàn Như Ngọc mím môi căm hận quăng mình vào bóng tối ...
Hai trận vừa qua và bằng vào món binh khí kinh hồn lăm lăm trên tay của Quan Sơn Nguyệt đã làm cho thiên hạ gần nghẹt thở, họ im lặng nhìn nhau thảng thốt ...
Gã thanh niên không nói nữa, hắn chỉ đưa mắt nhìn quanh chờ đợi.
Lặng thinh như thế là cả một vấn đề khó chịu, sự khó chịu ấy bắt buộc Lữ Vô Úy phải lên tiếng, tuy nhiên, với cương vị của Chưởng môn phái Chung Nam, ông ta thận trọng nói trước với nhà sư lãnh tụ Thiếu Lâm:
– Lão phu phải ra mặt thật thì phần bại đã thấy trước nhiều hơn, nhưng đã đợi hai mươi năm không lẽ bây giờ im lặng ...
Thống Thiền đại sư khoát tay:
Chương – Lữ huynh nán thêm chút nữa.
Lữ Vô Úy đưa mắt tỏ vẻ chưa hiểu ý.
Thống Thiền Đại Sư nói nhỏ:
– Đợt một chút nữa rồi sẽ tính, hình như ...
Thống Thiền chưa nói hết câu thì từ trong đám bước lách ra một vị trung niên ăn bận theo lối nho sĩ tay cầm quạt giấy phất phơ ...
Cao thủ võ lâm các phái xông tới chằm chặp vào, vì vị nho sỹ này rất lạ mặt đối với võ lâm.
Quan Sơn Nguyệt chớp ánh mắt lạnh lùng:
– Các hạ thuộc phái nào?
Người trung niên nho sĩ vẫn ung dung phe phẩy cây quạt giấy:
– Tại hạ ở Lục Chiêu Sơn.
Quan Sơn Nguyệt gật đầu:
– À, thì ra là Lục Chiêu Sơn, Lạc Hồn Cốc, Khổng Cốc Chủ đây ư?
Người trung niên nho sĩ lắc đầu:
– Khổng Văn Thông là gia huynh, tại hạ tên Khổng Văn Kỷ.
Quan Sơn Nguyệt cau mày:
– Thế lệnh huynh tại sao lại chẳng đi?
Khổng Văn Kỷ cười:
– Lúc huynh đài đưa Minh Đà Lệnh đến thì gia huynh đã biết huynh đài chỉ là truyền nhân của Minh Đà Lệnh chủ, cho nên gia huynh thấy rằng phái tại hạ đi là hợp lý.
Cao thủ các phái võ lâm càng chen lên hơn nữa, họ cố dòm cho tận mặt nhân vật Lạc Hồn Cốc, vì bang phái này rất là xa lạ, thiên hạ chỉ nghe danh chứ rất ít thấy lực lượng của họ, thỉnh thoảng có gặp Khổng Văn Thông đôi bận chứ không thấy họ khoa trương gì cả. Tuy vậy tiếng tăm của Lạc Hồn Cốc vẫn lan rộng qua sự đồn đãi của giới giang hồ. Nghe đâu môn phái này cả hành động lẫn võ công thảy đều thần bí, họ tạo lập một môn phái riêng và bí mật.
Thêm vào đó, cách nói của Khổng Văn Kỷ càng làm thiên hạ tò mò hơn nữa, họ đã chứng kiến thái độ ngạo mạn của Quan Sơn Nguyệt, cho dù hắn luôn lịch sự, nhưng vẫn ngạo nghễ, câu nói vừa rồi của Không Văn Kỷ như được trả miếng Chương thích đáng. Bằng vào đó, mọi người cảm thấy rất thỏa mãn, và nhất là đứng một thanh niên cuồng ngạo có thực tài, người dám nói như thế tự nhiên phải có nhiều bản lãnh, chứng tỏ có nắm được nhiều phần thắng chứ không phải ra mặt trong thế bức bách, hoặc cầu may.
Như không nghe thấy lối trả miếng của đối phương, Quan Sơn Nguyệt vẫn cứ ôn tồn:
– Như thế cũng hay, vậy chẳng hay huynh đài định dùng phương thức nào để thu lại «Tỵ Trần Chu» của quí Cốc?
Khổng Văn Kỷ hỏi lại:
– Năm Xưa Độc Cô Minh dùng phương thức gì để bức đoạt Tỵ Trần Chu nhỉ?
Quan Sơn Nguyệt chớp đôi mắt ngời ngời:
– Tại hạ không thể nào dám sánh với tiên sư, nhưng nếu huynh đài muốn dùng theo phương thức cũ thì tại hạ cũng xin cố gắng vậy ...
Khổng Văn Kỷ cười ha hả:
– Tốt lắm, Độc Cô Minh vốn là con người văn nhã thì không lẽ các hạ lại không có một cử chỉ tương tự hay sao?
Quan Sơn Nguyệt đưa tay lên miệng làm còi rít luôn hai tiếng, con lạc đà từ xa chạy lại ...
Bằng dáng điệu hết sức ung dung, Quan Sơn Nguyệt với tay lấy một cái túi da trên cổ Lạc Đà, và khi hắn mở túi ấy ra mùi thơm ngào ngạt ...
Mọi người xông tới, thì ra đó là một túi rượu mà hương thơm men bốc lên khiến cho các đệ tử Lưu Linh bắt nuốt nước bọt thèm thuồng ...
Tư Mã Tử Yên
Võ Lâm Phong Thần Bảng
Hồi 2
Độc Môn Của Lạc Hồn Cốc
Trao túi rượu cho Khổng Văn kỷ, Quan Sơn Nguyệt nói:
– Giữa sa mạc thâm u rất khó mà tìm được rượu quí, tự nhiên không thể nào dám sánh với «Thu Phong Ngọc Lộ» của Lạc Hồn Cốc, huynh đài thử coi có dùng tạm được hay không?
Khổng Văn Kỷ cười ha hả:
– Được rồi, như thế thì quá được rồi ... thật không ngờ niên kỷ các hạ như thế mà tửu phẩm không kém Độc Cô Minh ... à, à mùi rượi này thơm quá có lẽ nó phải được cất bằng nước suối từ đỉnh Thiên Sơn đây ...
Quan Sơn Nguyệt cũng cười:
– Người của Lạc Hồn Cốc tự nhiên phải là bậc cao minh chắc «Dạ Quang Bôi» luôn có trong mình các hạ đấy chứ?
Lấy trong tay áo ra một cái chén ngọc nho nhỏ Khổng Văn Kỷ rót đầy chén rượu đưa lên:
– Tự nhiên là đệ có chuẩn bị sẵn sàng chứ, nào mời huynh đài ...
Ngồi xếp bằng trên mặt cát, Quan Sơn Nguyệt cười ha hả:
– Làm sao có thể được cùng nhau cho rượu bày dưới ánh trăng, chúng ta có thể gác bỏ thế sự để say với chị Hằng một bữa ... Nghe đâu năm xưa do Lạc Hồn Cốc ban rượu trước, vậy bây giờ xin y theo cung cách cũ cho nó có trước có sau.
Khổng Văn Kỷ mỉm cười đẩy nhẹ chén rượu lên không ... Y như có người bợ tay bên dưới, chén rượu từ từ xê dịch về hướng Quan Sơn Nguyệt rồi dừng hẳn lại ... Khổng Văn Kỷ lên tiếng:
– Xin thỉnh huynh đài.
Cùng một lượt với câu mời, họ Khổng vẫy nhẹ tay ... Chén rượu đang lơ lửng giữa không trung chợt lật ngang và một vòi rượu phun ra như một vòi rồng ...
Vẫn ngồi yên một chỗ, Quan Sơn Nguyệt lật ngửa bàn tay phẩy nhẹ trở lên.
Y như được lọc qua một búp sen, vòi rượu đang đà hướng về Quan Sơn Nguyệt vụt bay trở lại bắn ra tua tủa giống như một đám mưa.
Chỉ qua một cuộc trao đổi thật nhẹ nhàng như thế, cũng đủ làm cho quần hùng tán thưởng hoan hô, họ không biết năm xưa lúc Độc Cô Minh giao đấu với Khổng Văn Thông như thế nào, nhưng bằng vào hiện tại, Khổng Văn Kỷ và Quan Sơn Nguyệt đã chứng tỏ cho thấy đây không phải là loại tiểu xảo mà đôi bên đã thi triển một nội lực kinh người.
Khổng Văn Kỷ đang cười ha hả vụt trầm sắc mặt, đôi mắt hắn long lên xồng xộc và miệng vụt hé ra hít mạnh ... Vùng «mưa rượu» đang lờ đờ trên không bỗng gom lại trút thẳng vào mồm họ Khổng, không một giọt nào rơi rớt ra ngoài!
Trở lại tư thái tươi cười, Khổng Văn Kỷ «ngoắt» chén ngọc trở về nghiêng túi da rót ra đầy chén khác đưa ngang mặt:
– Quả không hổ là cao đệ của Minh Đà Lệnh Chủ, chiêu thứ nhất tại hạ xin nhận là thua, song cuộc hội ngày nay không phải dễ dàng có được, chẳng hay huynh đài có vui lòng cho phép kính chén thứ hai?
Quan Sơn Nguyệt mỉm cười:
– Khổng nhị tiên sinh quá khách sáo rồi đó, tại hạ đang chờ tiên sinh ở chén thứ hai đây!
Lữ Vô Úy hỏi nhỏ vị cao thủ Thiếu Lâm:
– Tại làm sao Khổng Văn Kỷ lại nhận là thua?
Thống Thiền đại sư mỉm cười:
– Lữ huynh không thấy rõ sao? Chén rượu trút thành một vòi, chứng tỏ nội lực tập trung một điểm, Quan Sơn Nguyệt phản kích biến vòi rượu thành một đám mưa, chứng tỏ nội lực tập trung bị đối phương phản kích, mà khi nội lực đối phương phân tán, thì mình chỉ còn đủ sức để gom lại thu hồi, như thế không nhận là thua thì còn gì nữa?
Lữ Vô Úy gật đầu tặc lưỡi:
– Tên tiểu tử tuổi nhỏ mà công lực thâm hậu như thế xem chừng hai mươi năm chờ đợi của chúng ta đã bị hoài công, cuộc hội đêm nay không có chút hy vọng gì đâu ...
Thống Thiền đại sư nghiêm giọng:
– Lữ huynh không nên quá bi quan như thế, cuộc diện chưa phải đi đến mức tuyệt vọng như thế ấy đâu. Theo chỗ bần tăng thấy thì hình như họ Khổng vẫn chưa thi triển hết những ngón ngầm, có chuyện lạ xảy ra bây giờ đấy.
Lữ Vô Úy lặng thinh nhìn sững vào đấu trường, câu nói của nhà sư Thiếu Lâm vừa rồi làm cho ông ta chú ý ...
Tia mắt của quần hào cũng bắt đầu nghiêng về phía Khổng Văn kỷ, những tia mắt ký thác về cuộc hội đêm nay.
Trong trận đấu ... rượu, song phương im lặng, hình như họ đang vận dụng trí thức của mình để quyết định cho vấn đề thắng bại trong một cuộc đấu không thấy dạng sắc máu nhưng đầy dẫy cam go ...
Đang trong tư thế trầm tư Khổng Văn Kỷ vụt mở bừng mắt và nói thật chậm:
– Tại hạ vừa mới nghĩ ra hai câu bất thành thi, do tức cảnh sinh tình, ngửa mong huynh đài chỉ giáo thêm cho?
Quan Sơn Nguyệt ngẩng mặt lên nhìn hắn:
– Thi của Khổng nhị tiên sinh thì nhất định phải là tuyệt tác, tại hạ rửa tai mà nghe vậy.
Khổng Văn Kỷ hai tay nâng chén rượu và cất giọng ngâm:
– Vô hạn hoàng sa thiên tải hận, bá chuyển tinh, hà kỷ độ thu ...
Ngâm dứt hai câu thơ, họ Khổng bung hai tay chén rượu bay thẳng đến trước mặt Quan Sơn Nguyệt ...
Quan Sơn Nguyệt cau mày:
“«Vô hạn hoàng sa thiên tải hận, bá chuyển tinh hà kỷ độ thu», cát vàng mịt mịt ngàn năm hận, trăng sao mấy độ chuyển thu qua ...
Câu thơ với bối cảnh rõ ràng, thì ẩn ý của nó còn có gì thêm nữa?”.
Vầng trán thông minh của gã thanh niên hằn lên nhiều vết và chén rượu tuy chậm nhưng cũng đã đến ngay trước mặt rồi, gã đành phải đưa tay đón lấy:
– Tại hạ thật tình chưa hiểu được hết ý của Khổng nhị tiên sinh?
Khổng Văn Kỷ thản nhiên:
– Huynh đài cứ cạn chén rồi tự nhiên sẽ biết.
Quan Sơn Nguyệt làm một bài tính thật nhanh:
“Rượu là của mình, hắn rót ngay trước mặt, chén tuy của hắn nhưng hắn cũng đã uống rồi, cho dù có muốn, hắn cũng khó lòng giở trò gì được ... Chỉ có điều hơi lạ là rượu đã tống sang, tại sao bàn tay của họ khổng cứ xòe ra và đưa về phía trước? Hắn định múa rối đây chăng?”.
Bàn tay vừa đụng vào chén rượu, Quan Sơn Nguyệt chợt «à» một tiếng mỉm cười:
– «Nam Minh Ly Hỏa Thần Công» thảo nào ... Chân khí của Khổng nhị tiên sinh quả đã đến độ thuần thanh!
Chén rượu trên tay của Quan Sơn Nguyệt cứ hừng hừng như đang bắt trên lò lửa và hơi rượu bốc lên càng phút càng tăng ... Cuối cùng, Quan Sơn Nguyệt lật tay trút chén rượu xuống đất, chén rượu khô queo không còn một giọt!
Cách một khoảng xa mà có thể vận dụng nhiệt khí để làm cho bốc hơi cạn rượu, lời khen của Quan Sơn nguyệt là một lời khen thành thật và quần hùng vây quanh đã nhón gót xuýt xoa, nhiếu tiếng vỗ tay tán thưởng thần công của họ Khổng. Ai cũng nghĩ rằng gã thanh niên cuồng ngạo đã bị một vố ngỡ ngàng ...
Nhưng, Quan Sơn Nguyệt vẫn điềm nhiên:
– Thần công của Khổng nhị tiên sinh quả đã hơn người. Chỉ riêng hai câu thơ, tại hạ vẫn chưa nhận ra điều lạ?
Khổng Văn Kỷ cười nhạt:
– Nếu huynh đài có thể uống cạn chén rượu ... không đó thì kể như là thấu trọn hai câu thơ non nớt của tại hạ ngay.
Quan Sơn Nguyệt mỉm cười ngẩng mặt nhìn lên không và chợt nói:
– A, trời trong sáng không có lấy một áng mây, thế mà sao lại có mưa rào ...
Bị câu nói không đầu không đuôi của Quan Sơn Nguyệt thu hút, quần hào ngẩng mặt lên nhìn ...
Thật là lạ lùng, ngay khoảng không chính giữa đỉnh đầu của Quan Sơn Nguyệt bỗng nhiên có một bựng mù mù y như một đám sương, đám sương ấy lần lần gom lại và cuối cùng tạo thành một vòi nước nhỏ từ trên trút xuống ...
Một người dùng nhiệt lực từ một khoảng cách có thể làm cho rượu bốc thành hơi cạn chén đã là một chuyện dị thường; bây giờ, lại có người vận dụng «Lãnh khí» khiến cho hơi rượu vừa bốc lên tụ lại ngưng đọng thành mưa rơi xuống, mà lại gom thành giọt thì quả là chuyện ngoài sức tường tượng ...
Tán thưởng Khổng Văn Kỷ bao nhiêu, bây giờ quần hào quay qua hoan nghinh gã thanh niên nhiệt liệt ...
Quan Sơn Nguyệt hé miệng đón hết vừng «mưa rượu» và bật cười ha hả:
– Nhờ đức tiên sư, tại hạ cố thực hiện hai câu thơ của cổ nhân «Thiên kim táng tận hoàn phục lai. Đản nguyện trường túy bất nguyện tỉnh» ... Chẳng hay Khổng nhị tiên sinh quan lãm như thế nào?
Khổng Văn Kỷ cũng cười lớn:
– Làm thơ là Lý Bạch, mà giải nổi thâm ý của câu thơ thần diệu ấy lại là các hạ, nhưng, mong rằng các hạ đừng nên «trường túy» mà phải hết sức tỉnh táo để nghe cho kỹ mùi vị của chén rượu vừa rồi ...
Quan Sơn Nguyệt cau mày:
– Trong chén rượu ấy ...
Khổng Văn Kỷ khoát tay:
– Không, rượu vốn của huynh đài mang tới tại hạ chỉ thoa thêm vào cái chén ấy chút ít chất liệu để cho nó thêm duyên thế thôi mà!
Quan Sơn Nguyệt gặn lại:
– Chất liệu gì?
Khổng Văn Kỷ nở nụ cười hiểm ác:
– Hai câu thơ tức cảnh của tại hạ khi nãy ấy mà ...
Đứng thẳng dậy ném cái chén đang cầm trong tay, Quan Sơn Nguyệt lập lại câu thơ nho nhỏ:
– Vô hạn hoàng sa thiên tải vận, bá chuyển tinh hà kỷ độ thu ...
Vầng trán thông minh của gã thanh niên vụt lấm tấm mồ hôi ...
Khổng Văn Kỷ cười ha hả:
– Tại hạ nghĩ rằng kẻ truyền nhân của Minh Đà Lệnh Chủ không chuyện chi không biết, nào dè chút xíu thế mà lại hàm hồ, đã thế, tại hạ xin nói thẳng:
trong cái chén ấy tại hạ chỉ trét phớt thật mỏng «Hoàng Hà Thiên Tinh Sa», chỉ phớt một lớp mong mỏng thôi, cũng đủ để anh hùng sa mạc mang lấy «Thiên cổ hận» ...
Quan Sơn Nguyệt tái mặt, đưa tay lên miệng làm còi rít lên mấy tiếng, con Lạc Đà từ xa chạy lại ... Với tay lấy bọc vải trên lưng Lạc Đà, và sau khi đem hết những tín vật trong túi bỏ hết xuống mặt cát, Quan Sơn nguyệt nhảy lên lưng con thú nhìn quanh bốn phía, gượng cười:
– Tín vật của các vị, tại hạ đã để lại đầy đủ tất cả, xin các vị vui lòng thân tự lựa lấy của mình ...
Quần hào ngơ ngác nhìn nhau, cuộc diện diễn biến thật quá bất ngờ, tự họ, họ cũng không biết phản ứng ra sao cho phải lẽ ...
Chờ cho bóng của Quan Sơn Nguyệt khuất lặn vào bóng tối xa, Khổng Văn Kỷ mới tiến lên nhặt lấy tín vật của mình, nhìn khắp mặt quần hào hé nụ cười đanh ác:
– Nhờ phúc đức của chư bằng hữu, đệ đã thắng được thằng oắt con quỉ quái ấy, vậy xin chư huynh đệ hãy đến nhận lại tín vật của bang phái mình đi!
Lặng im một lúc khá lâu, trong cao thủ mới bắt đầu có người nhích bước. Họ tiến ra nhặt lấy tín vật với thái độ cực kỳ miễn cưỡng.
Chung Nam Chưởng môn Lữ Vô Úy thở ra:
– Thật không dè cuộc hội đêm nay lại có thể chung kết như thế này!
Thống Thiền đại sư mỉm miệng lắc đầu, ông ta chỉ ra hiệu cho môn hạ ra nhặt tín vật mà lòng nghe buồn bã.
Người có vẻ tươi hơn hết có lẽ là Kim Sa Bảo chủ Cốc Lượng, người mà thiên hạ tưởng đâu đã bỏ về chứ không ngờ vẫn láng cháng trong bóng tối ... Ông ta, nói với họ Khổng bằng lời trang trọng:
– Khổng nhị tiên sinh, thay mặt cho quần hùng để thu lại tín vật, nhất là riêng đối với lão phu thì sự cảm kích không sao lường được, chỉ có điều ... có điều để cho hắn đi như thế thì e rằng chúng ta vấp phải chuyện thả cọp về rừng ...
Khổng Văn Kỷ cười ha hả:
– Cốc huynh cứ yên chí lớn, không thể quá sáu tiếng đồng hồ, tại vùng sa mạc này sẽ có một chiếc thây đổ xuống rã ra thành nước, và quyển sổ di trú của nhân vật võ lâm nơi địa phủ sẽ có tên Quan Sơn Nguyệt điền vào. Đệ bảo đảm một trăm phần trăm là như thế.
Cốc Lượng trố mắt:
– «Hoàng Hà Thiên Tinh Sa» là vật chi mà lợi hại như thế?
Khổng Văn Kỷ cất giọng cười đắc ý:
– Nó là thứ độc dược trên đời có một, nó là một loại giống như dây mây đặc biệt sản xuất ở tận đỉnh Hoàng Hà, gốc của nó có những củ tròn tròn dính quanh theo rễ, dùng chất nước bên trong chế thành một thứ độc dược không mùi không sắc ... À quên, nó là một thứ thuốc trị phong thấp, tê thấp cực kỳ công hiệu ...
Cốc lượng càng kinh ngạc hơn nữa:
– Như thế thì tại sao hắn lại ...
Khổng Văn Kỷ mỉm cười nham hiểm:
– Một giọt là thuốc tiên, mười giọt thuốc độc, riêng dung lượng thoa nơi chén ấy đủ sức giết một lượt mười người. Loại thuốc này ngấm lẹ lắm chỉ trong nháy mắt đã luồn vào trong máu và tự nhiên không làm sao trị được.
Cốc Lượng gật gù và vụt nhớ ra gặng lại:
– Nhưng chính Khổng Nhị Tiên Sinh cũng đã uống nơi chén ấy ...
Khổng Văn Kỷ hất mắt dương dương tự đắc:
– «Hoàng Hà Thiên Tinh Sa» là chất rất khó hoà tan nếu không có hơi nóng, đệ uống là rượu lạnh thì làm sao trúng độc cho được!
Cốc Lượng vỗ tay:
– À ... thì ra vụ cách không vận nhiệt khí là nhằm vào việc đó ...
Khổng Văn Kỷ cười lớn:
– Hắn tuy tuổi nhỏ nhưng thằng oắt con ấy dễ dầu gì mà lừa được, nếu không có một thủ đoạn thật cao ... tại hạ biết «Ly Hỏa Thần Công» chỉ để làm huê dạng để mà hoà tan chất thuốc, và khi hắn dùng «Lãnh Khí qui nguyên» thì thuốc đã tan vào rượu cả rồi.
Cốc Lượng xuýt xoa:
– Thật là thần cơ diệu toán ... Các phái thu hồi được tín vật ngày hôm nay phải kể là công đức lớn lao của Khổng nhị tiên sinh!
Khổng Văn Kỷ xua tay:
– Ồ, đó là Cốc Bảo chủ quá khen cho, tại hạ chẳng qua thấy thời cơ thuận tiện đem chút tài mọn thế chư vị đỡ nhọc công thế thôi. Vả lại, Lạc Hồn Cốc xưa nay vốn là nơi hoang dã, hy vọng nhân dịp này được cùng với chư vị cao minh kết chút thâm tình. Khi nào có dịp, chúng tôi sẽ cung thỉnh chư vị quá bước đến đấy một phen, chắc quí vị niệm tình không từ chối!
Cốc Lượng cười hè hè:
– Khổng nhị tiên sinh thật quá khiêm nhường, suốt hai mươi năm nay võ lâm chúng ta giống như bị mắc một cục xương nghẹn ngang cuống họng, hôm nay nhờ Khổng nhị tiên sinh cho thuốc tiêu tan thì bằng hữu võ lâm phải nhớ ơn ấy phải cùng với quí Cốc liên lạc để kết tình giao hảo ... nhất định trong vòng ít ngày tới đây tại hạ sẽ thân hành đến bái viếng Cốc chủ với Khổng nhị tiên sinh!
Trong lúc Cốc Lượng ba hoa tâng bốc thì có một số trong quần hào cũng xúm lại phụ họa theo.
Hình như sợ câu chuyện kéo dài đâm lợt lạt Khổng Văn Kỷ vội vã vòng tay:
– Chuyện lớn đã xong rồi, tại hạ xin phép chư vị cho lui trước để về phục lệnh gia huynh!
Cốc Lượng cúi rạp mình:
– Không dám, xin Khổng nhị tiên sinh hãy cứ tự tiện vậy.
Bọn phụ họa nãy giờ hùa lên vái chào khúm núm, họ Khổng gật gật đầu khoát tay kiêu hãnh bước đi. Quần hào cũng bắt đầu phân tán, bóng người nơi sa mạc thưa dần, thấy Thống Thiền đại sư đứng sững một chỗ dáng sắc trầm tư, Lữ Vô Úy khẽ hỏi:
– Hình như Đại sư có điều chi cảm khái?
Thống Thiền đại sư thở dài:
– Bần tăng không biết đây có phải bắt đầu cho giai đoạn thái bình, hay triệu chứng của võ lâm biến loạn?
Lữ Vô Úy ngạc nhiên:
– Đại sư nói câu ấy với ý chi?
Thống Thiền đại sư đáp bằng một giọng trầm trầm:
– Thật ra thì cũng không có gì làm căn cứ, cũng mong rằng điều mà bần tăng linh cảm ấy sẽ không thành sự thật ...
Trầm ngâm khoảnh khắc, Lữ Vô Úy khẽ gục gật đầu:
– Lời của Chưởng môn khiến cho lão phu cũng đồng dự cảm, có lẽ cuộc hội ngày nay manh nha mộng bá chủ võ lâm của Lạc Hồn Cốc, cho nên dù gã họ Khổng đã thu lại cho chúng ta tín vật, nhưng đối với gã lão phu chẳng có cảm tình.
Thống Thiền đại sư lại khẽ thở dài chào vị Chưởng môn phái Chung Nam rồi vẫy tay cho môn đệ quay về ...
Cuộc hội tưởng chừng như kinh thiên động địa kết thúc trong màu trời ảm đạm. Mọi người đã thành công nhưng đều cảm nghe như tiêng tiếc, gã thanh niên như một vì sao sáng đến đột ngột rồi đi một cách thình lình, tất cả đều vội vàng nhưng vẫn để lại trên vùng sa mạc vừng hào quang sáng chói ... Hắn đã đi rồi, ngày mai của hắn không ai biết sẽ ra sao, dấu vết của hắn trên mặt đất cũng bị gió vô tình cuốn mất, nhưng những cái tên:
Minh Đà Lệnh Chủ, Độc Cô Minh, Quan Sơn Nguyệt ... lại thành ký ức bất dịch trong tâm khảm của thiên hạ võ lâm ...
–––– oo –––– Gió phần phật cuốn lên từng bựng cát, cả sa mạc mù mù chìm trong hình ảnh mông lung ...
«Keng! Keng!» Tiếng chuông lạc đà buông rơi trong gió hú. Nó là tiếng duy nhất như nhắc nhở sự hiện hữu vì bóng dáng con người đã trở thành lạc lõng mênh mông ...
Bằng một dáng sắc cực kỳ uể oải, Quan Sơn Nguyệt mọp trên lưng con Lạc Đà suốt hai ngày. Suốt hai ngày đêm chịu đựng cho gan ruột cồn cào như lửa đốt.
Sự phát tác của «Hoàng Hà Thiên Tinh Sa» không một ai có thể sống qua bốn tiếng đồng hồ, nhưng bằng vào thể lực đặc biệt bẩm sinh trui luyện, hắn đã sống suốt hai ngày hai đêm và còn đang chịu đựng thêm lên nữa.
Hắn không kêu thành tiếng, nhưng đau thương thốn tận tâm tư:
“n sư ơi, con đã phụ lời ký thác của người rồi ... chịu bại dưới âm mưu hết sức tiểu nhân, con đã hủy hoại thanh danh của sư phụ, làm sao dưới cửu tuyền con dám nhìn thấy mặt thầy ...”.
Hắn muốn thét lên thật lớn để vơi đi niềm phẫn uất, nhưng cổ họng như đã bị cháy khô, hắn muốn vung tay cho chấn động cả vùng sa mạc, nhưng khí lực đã không còn nữa ... Nội lực gần như tiêu tan tất cả, nhưng tai hắn vẫn còn thính lắm, nghe gió chợt vang lên tiếng động, kinh nghiệm cho hắn biết đó là tiếng ngựa, đuổi theo từ phía sau lưng ...
“Ai! phải chăng bọn họ đuổi theo để kết liễu sinh mạng của mình?”.
Không! Hắn chỉ có thể vùi thây trong sa mạc, chứ không thể lọt vào tay họ.
Minh Đà Lệnh Chủ đời thứ hai không thể không thể dễ dàng chết dưới tay bọn vô danh tiểu tốt ...
Hắn muốn thúc Lạc Đà, hắn muốn vỗ lên lưng con Lạc Đà, nhưng hắn không còn đủ sức làm việc ấy, hắn cũng không nói được bằng lời, hắn chỉ tha thiết tự trong tim:
“Người bạn già ơi ngươi hãy ráng thêm chút nữa ... Minh Đà Lệnh Chủ tuy không thể chết vào tay kẻ địch, nhưng ta cũng chỉ là Lệnh chủ sau cùng ...”.
Bạch Đà, con vật có tâm linh hình như nó nghe thấu tiếng lòng, nó khịt khịt liên tiếp trong lỗ mũi và sải nhanh bốn vó ... Cát bụi cuốn lên từng cuộn bỏ lại đằng sau ...
Nghe thấy một điều an ủi lớn lao, Quan Sơn Nguyệt thở hắt một hơi dài:
“Bạn già, vẫn còn có được ngươi. Minh Đà quả nhiên bất lão nhưng, nhưng ta cũng đã phụ luôn ngươi, ta không còn bồi bạn cùng ngươi nữa được ...”.
Niềm vui heo hắt không được bao lâu, Quan Sơn Nguyệt chợt nghe hoảng hốt:
tiếng ngựa đằng sau mỗi lúc một gần, trong khi con Lạc Đà đã phi hết sức mau ...
Không, nó còn thể phi mau hơn nữa, hình như nó cảm biết được rằng kẻ cỡi trên lưng nó vị, vị chủ nhân của nó đã không còn đủ sức duy trì, chỉ còn nhanh thêm một chút nữa thôi, chủ nó sẽ ngã nhào xuống đất. Vì thế, nó chỉ chạy với sức còn gượng được ...
«Vút ... Vút ...» Tiếng roi từ phía sau rít vào không khí, và Quan Sơn Nguyệt chợt nghe tai ù mắt nặng, bị cánh tay người xốc bổng lên ...
Trong cái mông lung nửa tỉnh nữa mê, Quan Sơn Nguyệt chỉ thoáng thấy một khuôn mặt trắng hồng và hai bím tóc đen mướt chảy dài trên gò ngực vun cao, rồi hắn thiếp luôn không còn biết gì nữa ...
Không biết bao lâu, Quan Sơn Nguyệt giật mình tỉnh dậy, hắn thấy mình nằm trên bãi cỏ xanh um bên một lạch nước trong veo ...
Những kẻ sinh trưởng trên sa mạc, hầu hết đều mong mỏi được yên nghỉ trên bờ cỏ dựa dòng suối mát, cho nên việc đầu tiên khi tỉnh dậy, Quan Sơn Nguyệt có cảm tưởng rằng mình đã chết rồi ...
Hắn lẩm bẩm như lúc còn rong ruổi trên sa mạc, chỉ khác một điều là bây giờ tiếng nói phát ra một cách dễ dàng:
– Người ta bảo chết là đau đớn lắm, nhưng tại sao mình lại thấy có phần thoải mái ...
Một giọng cười thật nhẹ nhàng phát lên từ trên đỉnh đầu hắn:
– Thật là nằm mơ thấy quỉ, chết rồi thì làm sao còn biết được.
Quan Sơn Nguyệt giật mình ngẩng lên, hắn thấy một cô gái khoảng mười bảy mười tám tuổi, mặc theo sắc dân Du Mục, đôi mắt nàng đen ngời như hai hột nhãn trên khuôn mặt tròn tròn và hai biếm tóc đen tuyền chảy dài trên ngực đúng là hình bóng mà hắn thoáng thấy trước khi thiếp đi trên sa mạc. Hắn e dè hỏi nhỏ:
– Cô nương ... Tôi đang còn sống hay đã chết ...
Hắn hỏi chưa dứt tiếng, cô gái đã mở tròn đôi mắt chu miệng vùng vằng:
– Chết rồi, bây giờ đang thấy quỉ đó, quỉ là tôi đây nè!
Quan Sơn Nguyệt sửng sốt. “Đúng là cô gái giận dỗi nói lẫy, đúng là mình vẫn còn sống ...” Hắn thở ra nhè nhẹ:
– Xin cô nương đừng giận, vì mình mang trọng thương tôi nghĩ rằng phải chết, cho nên mới hồ đồ như thế ...
Cô gái vẫn còn hơi giận:
– Đã biết mình mang trọng thương thì tại sao nghe chúng tôi đuổi theo lại cứ chạy hoài? Tôi có phải là ăn cướp đâu? Dè vậy tôi chẳng thèm cứu ...
Quan Sơn Nguyệt gượng cười, không biết trả lời làm sao cho phải.
Cô gái đang định nói nữa chợt có một người đàn ông tuổi hơi quá trung niên từ sau bước tới trầm giọng:
– Thanh nhi, vị khách nhân này tuy đã uống «Thanh Độc Tán» nhưng chất độc vẫn chưa tan, không nên để y nói chuyện nhiều.
Vừa thoáng thấy bóng ông ta thì đã nghe huyệt linh đài tê điếng, nhưng trước khi mê man, hắn còn nghe thấp thoáng mấy câu đối đáp:
– Cha nè, hắn trúng độc gì thế? «Thanh Độc Tán» không giải được à?
– Đừng có hỏi nhiều làm rối trí cha, nó là một thứ độc dược đang khiêu chiến với cha đấy, hãy mang hắn về núi rồi cha nỗ lực xem sao ...
–––– oo –––– Dưới trủng Lục Chiêu Sơn, Lạc Hồn Cốc chủ gởi thiệp mời đại hội.
Do việc Khổng Văn Kỷ đầu độc được Quan Sơn Nguyệt thu hồi tín vật về cho các phái khiến cho hầu hết đại môn phái đều không thể từ chối lời mời, nhất là cuộc hội đó nhằm vào việc khánh thọ lục tuần cho Cốc chủ Khổng Văn Thông.
Lục Chiêu Sơn, nơi mà từ trước đến nay ít người biết tới, bỗng nhiên có hơi hám nổi thành vai trò lãnh đạo võ lâm, thiên hạ từ các nơi đổ xô về dự lễ lục tuần, Lẽ tự nhiên trong đó cũng có người bị buộc lòng phải tới.
Cũng không phải mới lần này, mà suốt ba năm nay, sau ngày các phái được thu hồi tín vật, ngày ngày đều có bọn dua bợ kéo nhau đến chầu hầu. Mà kẻ suốt sắng hơn hết phải kể là Kim Sa Bảo chủ Cốc Lượng. Người này vì có một vài tranh chấp cùng môn hạ, bất mãn với các đại môn phái, nên muốn nhờ vào thế lực của Lạc Hồn Cốc.
Các đại môn phái vì không muốn mang tiếng là vong ân đối với việc thu hồi tín vật, cho nên bất đắc dĩ cũng phải thân tự đi chúc thọ, do đó, Lạc Hồn Cốc bỗng trở nên náo nhiệt lạ thường.
Những năm gần đây, trong võ lâm không có xảy ra việc gì trọng đại, Cho nên khang thọ lục tuần nơi Lục Chiêu Sơn được xem là một thịnh hội tưng bừng.
Thọ nhật vào ngày mười bảy tháng chín, mười sáu là ngày tiên tịch, tân khách các nơi tề tựu đầy đủ.
Một khuôn trại mới dựng lên bàn ghế giăng giăng mười phần đã có hết tám phần lè nhè giọng rượu.
Kim Sa Bảo chủ Cốc Lượng hất bộ mặt đỏ gay đứng dậy cất giọng ồ ồ:
– Chư vị bằng hữu nè, ba năm trước đây nơi sa mạc, Khổng nhị tiên sinh chỉ bằng vào một chén rượu đã chế phục được Minh Đà Lệnh Chủ thay cho chúng ta thu hồi tín vật trở về, ân nghĩa đó, bằng hữu võ lâm ai lại chẳng ghi vào trong xương tủy ...
Hắn vừa mới nói tới đó, thì đã có người lộ vẻ không bằng lòng và hắn cũng tự thấy mình bợ đích quá kỹ cho nên vội gài câu chuyện:
– Thật ra đó cũng không phải là chuyện kinh thiên động địa gì cho lắm, song chỉ bằng vào sức của chúng ta thì cũng e khó mà đánh bại được tên oắt con Quan Sơn Nguyệt ấy.
Quả thật hắn đã khôn ngoan, vì câu nói bổ túc của hắn là một sự thật hiển nhiên không ai có thể phủ nhận, cho nên những người bất mãn cũng đành phải nuốt cơn tức tối làm thinh.
Ngưng giây lát chờ xem phản ứng, không thấy ai nói gì, Cốc Lượng đắc ý nói luôn:
– Ngày mai thọ nhật của Khổng Chủ, tại hạ có chuẩn bị chút lễ, gọi là thay mặt đồng đạo võ lâm, tỏ lòng quí kính đối Khổng Cốc chủ vậy ...
Nói vừa dứt câu, không đợi ai có ý kiến, Cốc Lượng đưa tay vẫy vẫy, lập tức bên ngoài có hai tên đại hán khiên vào một tấm hoành phi sơn son rực rỡ, với năm chữ thếp vàng lồ lộ:
«Thiên Hạ Đệ Nhất Gia»! Cốc Lượng cầm bức hoành phi nói lớn:
– Câu viết trên đây có lẽ chủ nhân Lạc Hồn Cốc nhận mà không thẹn, vậy xin mời chủ nhân ông vui lòng vì bằng hữu võ lâm mà tiếp nhận cho!
Ngồi song song với Tâm Thiền đại sư, Lữ Vô Úy không dằn được đứng lớn:
– Sao lại có chuyện dễ dàng như thế? Nên bảo đây là lễ chúc thọ của toàn thể võ lâm, thì ra toàn thể võ lâm đã nhận Khổng Cốc chủ đã là «Thiên Hạ Đệ Nhất Gia» sao? Danh hiệu ấy đâu có phải ai muốn cũng được dễ dàng như thế?
Là sư huynh của Thống Thiền, Tâm Thiền đại sư niên kỷ đã khá cao mà võ công vào hàng trượng thượng, Thiếu Lâm cử làm đại biểu chứng tỏ đã chọn người thận trọng, cho nên khi thấy Chưởng môn phái Chung Nam bắt đầu nổi nóng ông ta vội kéo vạt áo họ Lữ:
– Xin Lữ Chưởng môn hãy dành hơi sức. Bọn Cốc Lượng là lũ a dua nhưng hắn đã lựa đúng thời cơ để hành sự, vì ba năm trước đây chúng ta không thể phủ nhận việc thu hồi tín vật cho các phái là bằng vào một tay của Khổng Văn Kỷ ...
Lữ Vô Úy vẫn tỏ vẻ không bằng lòng:
– Nhưng nếu thu hồi bằng phương thức đó, thì tại hạ, chẳng thà để nó lại trong tay của Minh Đà Lệnh Chủ còn hơn ...
Tâm Thiền đại sư lắc đầu:
– Cái thắng của Khổng Văn Kỷ tuy không quang minh, nhưng bằng vào «cách không thấu nhiệt» làm hòa tan độc dược như thế, thì phải nhận rằng võ công của hắn cũng đã đến chỗ tuyệt luân đấy chứ.
Lữ Vô Úy quay phắt lại nhìn trừng trừng vào mặt Tâm Thiền:
– Là một môn phái từng lãnh đạo võ lâm, đại sư cũng cho rằng Lạc Hồn Cốc xứng là «Thiên hạ đệ nhất gia» sao?
Tâm Thiền đại sư khẽ thở ra:
– Người xuất gia tự nhiên đối với việc tranh danh đoạt lợi xem rất là lợt lạt, nhưng theo chỗ thấy và đáng ngại của bần tăng là Lạc Hồn Cốc được cái hư danh đó vẫn thấy là chưa đủ ...
Lữ Vô Úy cau mặt:
– Chúng còn muốn như thế nào nữa? Chẳng lẽ còn muốn chúng ta quì xuống mà dâng à?
Tâm Thiền đại sư lại thở dài:
– Nếu quì xuống mà có thể bảo toàn an ninh cho toàn thể thì có lẽ bần tăng cũng chẳng tiếc gì ...
Lữ Vô Úy tức tối đỏ mặt, ông ta cảm thấy vị hòa thượng này nhu nhược quá mức rồi, nhưng ngay khi đó thì tiếng vỗ tay đã làm khỏa lấp vì Khổng Văn Thông đã bước vào giữa tiệc chuẩn bị tiếp nhận hoành phi ...
Chờ cho tiếng hoan hô của những kẻ a dua dịu bớt Khổng Văn Thông trang trọng mỉm cười:
– Cốc huynh và bằng hữu có lòng thương mà đề tặng, nhưng tại hạ nghĩ rằng chuyện thu hồi tín vật ba năm về trước chẳng qua là chút công mọn đối với đồng đạo võ lâm chứ anh em chúng tôi nào dám nhận lấy thịnh danh ...
Cốc Lượng lật đật rống tiếng:
– Hầu hết bằng hữu võ lâm đều nhận rằng không còn ai cao minh hơn Khổng Cốc chủ nữa, xin Khổng Cốc chủ nhận cho để anh em được vui lòng!
Khổng Văn Thông điềm đạm mỉm cười:
– Nói thì tuy nói vậy, sự thật đệ không dám tự nhận mình là cao minh, cũng như những vị có mặt nơi đây có người không bằng lòng tự nhận mình là bất cao minh vậy mà ... không tin Cốc huynh cứ nhìn vào các bàn tiệc thì tất sẽ hiểu!
Cốc Lượng quay lại nhìn quanh bốn phía, quả nhiên có nhiều người lộ vẻ không bằng lòng. Trong chín môn phái lớn, trừ Thiếu Lâm sắc thái ôn hòa, còn hầu hết các Chưởng môn nhân và các đại biểu đều nhếch môi khinh khỉnh ... Vừa nhột nhạt vừa tức tối, Cốc Lượng cao giọng hầm hầm:
– Kẻ nào không tán thành là kẻ đó vong ân bội nghĩa!
Lữ Vô Úy nóng bừng mặt đứng lên:
– Họ Cốc ngươi là giống gì mà dám lớn lối trước quần hùng như thế?
Cốc Lượng bắt đầu nổi gân cổ nhưng Khổng Văn Thông đã đưa tay cản lại:
– Vì ngày sinh nhật mọn của đệ mà chư vị không quản đường xa lặn lội dến đây, đệ vô cùng cảm kích, xin chớ vì một việc nhỏ như thế làm mất niềm hòa khí ...
Trước đệ xin kính chư vị một chén rượu nhạt để gọi là thịnh tình ...
Vừa nói, vị chủ nhân Lạc Hồn Cốc vừa vỗ tay:
– Bay đâu!
Từ phía ngoài rạp, bốn tên gia nhân lực lưỡng dùng dòn lớn khiêng vào một ché rượu màu hồng. Ché rượu cao xấp xỉ đầu người, vòng tròn của nó hai người ôm không giáp. Ché rượu để xuống xong, lại do hai tên khác họp lực khiêng nắp ra, mùi rượu xông lên phưng phức ...
Tư Mã Tử Yên
Võ Lâm Phong Thần Bảng
Hồi 3
Sinh Nhật Thành Tử Nhật
Dùng bàn tay phải chận trên miệng chén rượu, Khổng Văn Thông mỉm cười nhìn quanh bốn phía:
– Bằng hữu quá đông, không làm sao thân tự rót từng chén một, tại hạ xin mạn phép tạm dùng cách này để mời mỗi vị một chén cho trọn tình, mong chư vị thương mà lượng thứ ...
Nói vừa dứt câu, Khổng Văn Thông nhấc bàn tay chận trên miệng chén đưa nhẹ một vòng trước mặt trong dáng cách mời trang trọng, nhưng ngay khi đó từ trong miệng chén một vòi rượu bắn vọt lên trông y như một cây trụ nước ...
Lên gần tới nóc rạp, «cây rượu» vụt tóe ra như một ngọn pháo bông, những tia bông ấy lại nhiễu đúng vào chén không đang đặt trước mặt của từng người khách một ...
Hay nhất là rượu chỉ vừa đầy chén chứ không hề rơi ra ngoài một giọt nào!
Một tràng pháo tay nổi lên như sấm, lẽ tự nhiên người phát pháo vẫn là Kim Sa Bảo chủ.
Một cái nhếch môi cười đắc ý nở lẹ trên môi, Khổng Văn Thông vòng tay chầm chậm quay quanh:
– Thật là đắc tội, xin mời chư vị nâng chén cho vui!
Một lần nữa Kim Sa Bảo chủ Cốc Lượng hai tay nâng bổng bức hoành phi đưa đến trước mặt họ Khổng:
– Khổng Cốc chủ quả thật là văn võ toàn tài, trên đời này chỉ có một chứ không hai ... bức hoành phi này e hãy còn quá khiêm tốn đối với tài ba cái thế ấy.
Xin Cốc chủ vui lòng chấp nhận, để tỏ ra rằng không phụ tấc lòng thành của bằng hữu các nơi!
Tất cả, thảy đều im lặng và vị Chưởng môn phái Chung Nam cúi mặt thở dài ...
Cố ý do dự chờ xem phản ứng một giây, Khổng Văn Thông đưa tay tiếp lấy:
– Cốc Bảo chủ và chư bằng hữu đã có thịnh tình, đệ cung kính bất như tòng mạng vậy!
Khổng Văn Thông trao bức hoành phi ra sau. Khổng Văn Kỷ bước lên đón lấy, đồng thời hắn tung thẳng lên trên ...
Theo lối «đà phong» bức hoành phi không bay đụng nóc rạp mà lại tà tà bay gắn vào tấm vách giữa nhà, không nghiêng không xéo, chứng tỏ công lực thôi phiên của họ Khổng cực kỳ chính xác.
Tiếp liền theo, bốn tên gia nhân lực lưỡng cầm bốn cây đinh to và bốn cây búa lớn nhảy lên chiếc bàn, đóng đinh bức hoành phi vô vách. Họ hành động thật rập rành ăn khớp, đúng là một hoạt cảnh đã được bố trí chu đáo từ đầu.
Tuy nhiên nhờ sự hướng dẫn của Kim Sa Bảo chủ, một màn vỗ tay nữa lại dậy lên khiến cho chuyện «xắp xếp» cũng có vẻ «tự nhiên» hết sức!
Lữ Vô Úy đỏ mặt tía tai hầm hầm đứng dậy, nhưng nhà sư già phái Thiếu Lâm đã vội nắm vạt áo ông ta giật giật liên hồi. Biết không cách nào hơn, vị Chưởng môn phái Chung Nam đành nghiến răng ngồi xuống ...
Cốc Lượng lại xung xăng bước tới mọp lưng:
– Bái thọ, bái thọ ... Xin thỉnh «Thọ Tinh Ông» ngự vị, để cho bằng hữu bốn phương ... chiêm lễ.
Đúng ra thì hắn muốn nói «bái lễ» nhưng kịp bắt gặp một số bộ mặt hầm hầm, trong đó tự nhiên là có Chưởng môn phái Chung Nam, vì thế hắn đành nén lòng giảm xuống một bậc gọi là «chiêm lễ».
Khổng Văn Kỷ lật đật vịn lấy Khổng Văn Thông, đẩy anh mình đứng lui vào ngay dưới tấm hoành phi, và như một cái máy đám học trò lễ xướng rập lên:
– Hồng chúc huy hoàng, cúc cung bá bái, phước như Đông hải, thọ tỷ Nam sơn!
Cốc Lượng lại châm ngòi, một tràng pháo tay nổ lên gần bể rạp.
Khổng Văn Thông nở nụ cười thỏa mãn, chấp tay chào bốn phía:
– Không dám, không dám ... Xin cảm tạ chư bằng hữu!
Vừa nói hắn vừa vái chào thêm một lần nữa, và khi ngẩng đầu lên họ Khổng chợt ngỡ ngàng ...
Hắn tưởng tượng trong lễ trang trọng như thế, tất cả tia mắt của thiên hạ sẽ đổ xô về phía mình, không dè khi ngẩng mặt lên thì bao nhiêu con mắt đều chăm chăm lên phía bức hoành phi bằng những tia nhìn kinh ngạc ...
Khổng Văn Kỷ quay lại ngước lên, hắn vụt trố mắt há mồm ngơ ngác ...
Không biết tự bao giờ, không biết ai đó đã dùng màu trắng viết thêm hai chữ nhỏ trên bức hoành phi thành ra là «Thiên hạ đệ nhất Minh Đà Gia».
Khổng Văn Thông kinh ngạc, thừ người ra một lúc, sau cùng trầm gương mặt hỏi qua cơn giận:
– Chẳng hay vị bằng hữu nào đùa cợt như thế?
Lão hỏi một lượt quanh lư bằng, chẳng ai đáp. Lão hỏi luôn mấy lượt nữa, quanh lư bằng vẫn im lặng, một sự im lặng nặng nề, những người hiện diện đều hoang mang lo ngại.
Khổng Văn Thông không còn che dấu niềm phẫn nộ, cất cao giọng, tiếp:
– Hôm nay là sinh nhật của tại hạ, với tấc lòng thành, tại hạ thỉnh các vị đến đây, chẳng qua chỉ mượn cái cớ có lễ mọn để tụ họp cùng các vị dùng chén rượu nhạt cho thỏa niềm khát vọng hào kiệt anh hùng, chứ nào dám nói đến sự mầng thượng thọ mà khoa trương huy hoàng, làm nhọc các vị vượt nghìn dặm xa để tỏ tình chiếu cố? Các vị đến, tại hạ cảm kích vô cùng, các vị không đến, tại hạ cũng chẳng dám oán hờn gì, trái lại còn thẹn lấy mình đức bạc, tài hèn, giao tình siển lậu. Giả như tại hạ có làm điều chi đắc tội với các vị thì các vị cứ đương diện trách cứ, tại hạ sửa mình ngay. Chứ còn đùa cợt như thế này thì thực ra có phần quá đáng!
Thốt xong một câu dài, lão biến sắc mặt tái xanh, lão lại nhìn quanh tân khách.
Ai ai cũng im lặng chẳng dám làm một cử động gì.
Bỗng đâu đây, hơi xa xa, có tiếng cười vang lên sang sảng, tiếng cười kéo dài, càng dài càng tỏ ra cái ngạo nghễ, thách thức.
Tất cả mọi người cùng giật mình, cùng hướng mắt về phía phát xuất ra tiếng cười.
Nơi phát ra tiếng cười là cuối hướng đông lư bằng, nơi đó có mấy bàn tiệc dành cho tân khách thuộc hạng nhì, hạng ba trên giang hồ. Nơi đó có một người đang đứng thẳng, người đó vận y phục vùng Quan Ngoại, một nam nhân tuổi tác trung niên, thân hình khôi vĩ.
Người trung niên đó, hoàn toàn xa lạ đối với mọi người, kể cả chủ nhân lẫn tân khách.
Một người thuộc hạng nhì, hạng ba trong võ lâm, lại dám buông tánh ngông cuồng đối với Khổng Văn Thông? Sự tình hết sức kỳ quái!
Khổng Văn Thông trầm giọng hỏi:
– Quý tánh cao danh của bằng hữu là chi.
Người trung niên cười nhạt:
– Trương Vân Trúc. Tổ phụ mấy đời cư ngụ tại Bắc Thiên Sơn. Bất quá chỉ là một tiểu tốt vô danh!
Khổng Văn Thông quan sát y một lúc, cố moi ký ức xem có nhận thức được y chăng, song lão đành chịu, bởi song phương hoàn toàn xa lạ với nhau, bình sanh lão chưa hề gặp y lần nào. Lão lạnh lùng hỏi tiếp:
– Vừa rồi Trương bằng hữu phát lên tràng cười như thế, vậy là có ý tứ gì?
Trương Vân Trúc bật cười ha hả:
– Hỏi về ý tứ, đáng lẽ phải hỏi nơi các hạ, chứ sao lại hỏi tại hạ? Cái ý tứ, riêng cũng được mà chung cũng được, nó như thế này:
Các hạ nói nhiều quá, nói trường giang đại hải, nói đến mê mẩn người nghe, nói đến cảm động người nghe, nhưng đó chỉ là lời nói thôi. Còn cái tâm của các hạ đang chứa bao nhiêu quỷ, nào ai biết được? Nếu cần nói đến ý tứ thì tại hạ muốn biết cái ý tứ chứa quỷ trong tâm của các hạ, chứ còn tràng cười của tại hạ nào có quan trọng chi đâu?
Khổng Văn Thông một lần nữa biến sắc mặt. Ánh mắt của lão ngời lên niềm hung ác, lão cao giọng thốt:
– Trương bằng hữu! Xin bằng hữu biết cho rằng hôm nay là ngày vui của tại hạ, cái ý của tại hạ là muốn cho tất cả đều vui, tại hạ không thích làm phiền lòng bất cứ ai giữa cuộc tiệc này. Nhưng, tại hạ thú thật, sự kiên nhẫn có giới hạn mà bằng hữu thì phủ nhận cái giới hạn đó. Cho nên, tại hạ tha thiết mong bằng hữu đừng bức bách tại hạ phải làm một việc mà tại hạ không muốn làm, tại hạ cố tránh.
Trương Vân Trúc cất tiếng cười vang:
– Khổng Cốc chủ ơi! Cốc chủ nói đúng quá! Hôm nay là ngày vui thực sự của Cốc chủ mà! Bởi vì, chẳng những quần hùng mừng thượng thọ cho Cốc chủ, mà lại còn quy tụ về đây sẵn sàng chịu sự khống chế của Cốc chủ. Người ta nói «phước bất trùng lai», song đối với Cốc chủ thì phước đã trùng lai rồi đó!
Khổng Văn Thông sôi giận quát:
– Nói nhảm! Cái tấm biển kia bất quá do đồng đạo võ lâm ái mộ mà tặng cho, chứ tại hạ nào dám dựa vào đó để khoác một hư danh?
Trương Vân Trúc cười nhẹ:
– Vật tặng phải không? Cốc chủ, tự động mà tặng hay do một uy hiếp nào đó mà có?
Y bật cười lớn, tiếp:
– Ha ha! Nếu chẳng có sự bức bách thì khi nào người ta lại phí công làm cái việc vẽ vời cho ngoại nhân?
Khổng Văn Thông, lượt thứ ba, biến sắc mặt. Ánh mắt của lão bốc ngời sát khí. Nhưng lão chưa kịp phát tác, Khổng Văn Kỷ đứng bên cạnh lão không dằn được tánh nóng, vụt bước tới, đồng thời y vung chưởng đáng sang Trương Vân Trúc. Chưởng kình phát ra rồi, y hét:
– Thất phu! Tiểu tốt vô danh! Ngươi từ đâu đến? Ngươi là ai? Dám ngang nhiên phá hoại cuộc vui của đại ca ta? Thế ngươi đã chán sống rồi phải không?
Y đánh ra một bàn tay, ai cũng tưởng là y phóng chưởng kình, song tay đi nửa chừng, y lại đổi chiêu thức. Thay vì phát chưởng, y đổi thành chỉ, bàn tay xòe hai ngón, hai ngón đó chọt thẳng vào ngực đối phương.
Quần hùng tại tiệc bất giác giật mình, nhận ra chiêu chỉ đó phát xuất vừa nhanh, vừa độc. Ai ai cũng cầm chắc một kẻ thuộc hạng nhì, hạng ba trong võ lâm phải chuốc khổ trước bào đệ của vị cốc chủ Lạc Hồn Cốc.
Nhưng trái lại với sự ức đoán của mọi người, Trương Vân Trúc chỉ lắc nhẹ bờ vai một chút. Bờ vai lệch qua một bên, ngực cũng chênh theo, chỉ lực của Khổng Văn Kỷ trượt ra ngoài.
Phải nhìn nhận bộ pháp của y rất vững vàng. Nếu là người nào khác, trượt đòn công đó hẳn phải chới với, và chới với là cầm như giao mạng sống cho đối phương.
Không. Khổng Văn Kỷ trụ bộ liền. Đồng thời gian, y biến chiêu ngay, bàn tay đánh ra lập tức thu về, rồi cùng một lúc với bàn tay kia, bay tới, một trên một dưới công vào hai nơi, một tại huyệt Thái Dương, một tại hông của Trương Vân Trúc.
Bị tấn công cùng một lượt ở cả hai bộ phận thượng và trung, giả như Trương Vân Trúc hụp xuống thì chỉ tránh được đòn trên và phải hứng một chưởng nơi hông. Trừ khi y nhào người sát mặt đất mới mong tránh khỏi cả hai đòn. Mà làm sao y nhào kịp nữa?
Song phương đã đứng sát bên nhau, Khổng Văn Kỷ lại xuất thủ quá nhanh, y không còn hụp mình xuống thấp được. Tân khách cầm chắc y phải khổ.
Thủ pháp của Khổng Văn Kỷ nhanh, động tác của y còn nhanh hơn một bậc.
Trong khi y uốn cong người tạt về phía hậu, y độ chừng Khổng Văn Kỷ đã đánh ra trọn đà tay, hai tay của họ Khổng giao thoi với nhau, tay nào đánh vào huyệt Thái Dương bay qua, tay nào đánh vào hông bay lại, bất thình lình Trương Vân Trúc như con trút vừa uốn mình lại tháo mình, từ chỗ lùi, vọt tới.
Đương nhiên y vọt thẳng người vào Khổng Văn Kỷ.
«Bình!» Chẳng biết y có xuất thủ hay không hay là y chỉ dùng cơ thể chạm cơ thể, Khổng Văn Kỷ bị tung bắn lên không, lộn cầu vòng về phía hậu xa hơn sáu thước, bờ vai hữu xệ xuống chừng như thọ thương khá nặng.
Khổng Văn Thông không chậm trể, «hừ» lên một tiếng, cấp tốc vung tay, tung chưởng từ phía sau lưng Trương Vân Trúc đánh tới. Chưởng kình tung ra không gây một âm thanh nào, nhưng thế đánh rất mạnh và đương nhiên rất nhanh.
Trương Vân Trúc tợ hồ không phòng bị. Mãi đến lúc chưởng thế đến sát người, y mới phát giác ra, song phát giác trong phút giây đó thì còn phản ứng quái gì kịp nữa?
Một tiếng «bịch» vang lên, Trương Vân Trúc nhào hớt về phía trước.
Bị ám kích như vậy và người ám kích lại là một Khổng Văn Thông, nhưng Trương Vân Trúc vẫn chẳng hề hấn chi cả. Nhào hớt về phía trước, y lạng người một chút như vẽ nửa vòng cung, bật đứng lên, vững chắc như thường. Y quay lại đối diện với Khổng Văn Thông, cười lạnh:
– Lão Khổng ơi! Hãy nhớ cái chưởng hôm nay nhé! Nhớ một ngày nào đó, tại hạ sẽ thanh toán đàng hoàng, tại hạ chẳng thích nợ của ai, bất cứ nợ về cái chi. Thực ra thì tại hạ không mang cái nợ bất đắc dĩ này, một món nợ người ta nhân cái lúc tại hạ quay lưng mà quăng lén vào lưng! Một món nợ do con người quang minh chánh đại nhất trần đời, chuyên môn đánh lén, cưởng bách tại hạ phải nhận! Từ nay, trên giang hồ, mỗi khi nghĩ đến tư cách của một con người quang minh chánh đại, thiên hạ phải biết ngay chính những người chuyên môn đánh lén mới là chánh nhân quân tử!
Khổng Văn Thông thẹn đỏ mặt. Lão vừa thẹn vừa uất tức mà cũng vừa kinh hãi.
Đánh lén, là một việc làm bất đắc dĩ, trong tình thế bất khả kháng này bắt buộc lão phải dùng, bất chấp lời phê phán của bao nhiêu người hiện diện.
Làm một cử động liều, song chẳng thành công, lão phải tức.
Ngoài ra, trên giang hồ, một kẻ nào đó tiếp được một chưởng của lão với năm thành lực thôi cũng là tay hữu hạng rồi. Giờ đây Trương Vân Trúc thay vì chưởng chạm chưởng, y đưa lưng hứng chưởng, như thử thách, như đo lường công lực lão, vậy mà y không thọ thương, hứng chưởng như vậy vẫn chẳng việc gì thì Trương Vân Trúc hẳn phải là tay phi phàm!
Lão phải sợ con người đối diện. Sự kiện này, bình sanh lão mới gặp lần thứ nhất.
Mọi sự kiện diễn tiến trên chỗ tưởng của Khổng Văn Thông mà cũng trên chỗ tưởng của tất cả tân khách.
Chẳng phải hôm nay Khổng Văn Thông mới nảy sanh cái ý chí tranh một chỗ đứng độc tôn trên giang hồ. Thực ra Lạc Hồn Cốc đã nuôi cái chí quật cường từ hai mươi năm về trước. Lúc đó, Khổng Văn Thông có cái mộng làm bá chủ võ lâm. Ẩn thân trong Lạc Hồn Cốc, lão điều tra từng nhân vật một hữu danh trong vũ lâm.
Muốn thành công, lão phải nắm vững tình hình võ lâm và điều trước tiên lão phải biết là thực lực của giang hồ như thế nào ... Giả như khi lão quật khởi tranh giành ngôi vị, bức bách quần hùng phải quy phục lão mà có một lực lượng liên minh chống đối thì ít nhất lão cũng có cách đánh tan lực lượng đó mới được chứ.
Qua cuộc điều tra ngầm, Khổng Văn Thông nhận ra trên giang hồ lúc đó, chẳng có một nhân vật nào đáng sợ đối với lão ta. Lão đắc chí vô cùng, tin chắc là cờ phất lên thì quyền uy phải đến, quần hùng phải khuất phục cúi đầu trước mặt lão, chịu mạng lịnh sai sử của lão. Lão chuẩn bị cuộc quật khởi, chỉ còn chờ ngày phát động đại cuộc thôi.
Ngờ đâu, đột nhiên trên giang hồ xuất hiện một nhân vật phi phàm. Nhân vật đó là Minh Đà Lệnh Chủ Độc Cô Minh, biết rõ cái dã tâm của Khổng Văn Thông, thách thức lão ta so tài, mượn một dịp thuận tiện, cảnh cáo lão nên an phận để giữ niềm hòa khí trong võ lâm đồng đạo, đừng gây nên sóng gió đang lúc giang hồ thanh tịnh.
Trong cuộc chiến đó Khổng Văn Thông thảm bại.
Cũng may, Độc Cô Minh chỉ muốn cảnh cáo thôi chứ không muốn sát hại, Khổng Văn Thông nhờ thế không thọ thương. Nhưng cũng nhờ cuộc chiến đó mà giang hồ được bình tịnh trong hai mươi năm dài, bởi Khổng Văn Thông từ sau ngày chiến bại đã lui về Lạc Hồn Cốc ẩn mình, không còn chường mặt trên giang hồ nữa.
Trong thời gian đó, lão chuyên tâm chú ý tập luyện ngày đêm, quyết tiến bộ một cách phi thường.
Ngày trước, tại đại hội Sa Mạc, Khổng Văn Thông cũng có mặt, song lão ta cải sửa dung mạo, hòa mình trong đám đông, để cho em trai lão là Khổng Văn Kỷ đại diện lão. Dự đại hội đó, lão có cái ý quan sát thực lực của hào kiệt anh hùng, nhận định nhân vật nào lợi hại, đáng được loại trừ trước, phòng chướng ngại sau này khi lão cử sự.
Sau lão lại bắt được một tin mừng là Độc Cô Minh đã tạ thế.
Độc Cô Minh chết rồi còn người đệ tử là Quan Sơn Nguyệt cũng lợi hại không kém gì sư phụ. Tuy nhiên, dù sao thì Quan Sơn Nguyệt cũng còn trẻ tuổi, kinh nghiệm giang hồ không dồi dào lắm, Khổng Văn Thông chỉ áp dụng một kế mọn, sát hại hắn dễ dàng trong một tiệc rượu với chất độc «Hoàng Hà Thiên Tinh Sa».
Sau khi Độc Cô Minh và Quan Sơn Nguyệt chết rồi. Khổng Văn Thông cảm thấy con đường trước mắt rộng thênh thang không còn một chướng vật nào nữa.
Đúng vậy, trong võ lâm thời đó rất hiếm những tay tài giỏi khả dĩ đương đầu với Cốc Chủ Lạc Hồn Cốc Khổng Văn Thông. Tuy vậy, lão ta vẫn tăng cường thực lực, chưa vội vọng động.
Mãi đến năm trước đây, uy thế có phần hùng hậu, lão mới bắt đầu tái nhập giang hồ. Lão tìm người đồng chí hướng, kết giao khắp nơi, hoạch định chương trình cử đồ đại sự.
Và hôm nay nhân ngày mừng thọ được tròn sáu mươi tuổi, lão đạt giấy mời hào kiệt anh hùng đến chuốc chén với lão, mà cũng tuyên cáo trước võ lâm, từ nay lão quật khởi chí lớn, tạo dựng một cơ nghiệp hiển hách.
Thực ra thì phần đông hào kiệt chưa thấu đáo cái dã tâm của lão, bất quá chỉ có một số ít người, đối với lão không thuận ý đồng tình lắm, nên họ chưa thân mà cũng chẳng dám sơ, họ dè dặt đối với lão, chờ xem lần tái nhập giang hồ này, lão noi theo một tôn chỉ như thế nào.
Trong khi Khổng Văn Thông cầm chắc sự thành công thì đột nhiên Trương Vân Trúc xuất hiện. Người này là một kẻ vô danh, song tài của người này thì hẳn phi thường.
Trương Vân Trúc đương trường trách mắng lão như thế, tự nhiên lão phải sôi giận.
Trong số tân khách có mấy người cũng bất bình về hành động không quang minh của lão.
Ngày đầu tiên mà có điều bất lợi như vậy thì lão làm sao thu phục được nhân tâm?
Dù cái tài của lão có trùm thiên hạ, ít nhất lòng người phải theo về lão một phần lớn thì cơ nghiệp tạo dựng nên mới vững bền, chứ nhơn bất hòa cho dù thời trời thuận và địa thế lợi thì lão cũng chẳng mong gì hưởng dụng lâu dài, và biến cố chực chờ phát sanh, thành ra lão có ăn ngon ngủ kỹ trên lợi lộc danh vọng được đâu? Cho nên, bằng mọi cách, lão phải tiêu diệt kẻ phá đời họ Trương này, bởi y là mầm hoạn họa đe dọa an toàn của lão từ đây về sau.
Lão hết sức hổ thẹn trước quần hùng. Nhưng là hồ ly tất phải gian hoạt, lão chưa phát tác vội vàng, chỉ trầm giọng hỏi:
– Công phu tu vi của bằng hữu, tại hạ hết sức khâm phục, với tài nghệ đó thiết tưởng tạo dựng danh nghiệp trên giang hồ, chẳng phải là sự khó khăn đối với bằng hữu, tại sao bằng hữu không nhìn về tương lai xán lạn đang chờ mà lại tìm đến tại hạ sanh điều phiền phức cho nhau, lại ngay trong ngày vui của tại hạ?
Trương Vân Trúc cười lạnh:
– Sở dĩ tại hạ học múa tay xoay chân là để duy trì sức khỏe kéo dài cõi thọ, chứ học võ đối với tại hạ chẳng phải để tạo một phương tiện giúp mình leo thang danh vọng. Còn như hôm nay tại hạ có mặt tại đây là điều vạn bất đắc dĩ đó, Cốc chủ! Dù có gây phiền phức cho Cốc chủ thì cũng đành vậy chứ biết sao? Bởi vì, tại hạ chẳng muốn cái ngày mừng thọ của Cốc chủ lại biến thành ngày cúng giỗ bao nhiêu người hiện diện trong tiệc rượu.
Khổng Văn Thông biến sắc mặt, không còn giữ lễ độ nữa, hét:
– Hồ đồ! Sao ngươi dám nói thế? Thực sự ngươi muốn gì?
Trương Vân Trúc ung dung tiếp:
– Hồ đồ đối với những người chưa biết cái thủ đoạn của các hạ, chứ chẳng hồ đồ đối với các hạ tí nào! Thực ra thì chất độc «Hoàng Hà Thiên Tinh Sa» do các hạ bỏ vào rượu đó, chưa chắc làm cho toàn thể hào kiệt tại đây phải táng mạng. Mà dù cho các hạ có sát hại một vài người, điều đó chẳng giúp các hạ thực hiện nổi mưu đồ hiểm độc, trái lại còn gây công phẩn trong võ lâm, xúc nộ những người có thừa hiệp khí. Thiết tưởng đến lúc đó rồi các hạ có ăn năn cũng chẳng còn kịp nữa.
Câu nói đó phát ra làm cho toàn thể tân khách đều nhao nhao lên, chẳng một ai có thể ngờ rằng Khổng Văn Thông hạ độc trong rượu.
Chưởng môn nhân phái Chung Nam là Lữ Vô Úy vốn không thích Khổng Văn Thông, sôi giận cực độ, cấp tốc rời chỗ ngồi bước ra khỏi bàn tiệc, đưa tay chỉ thẳng vào mặt Khổng Văn Thông quát to:
– Ngươi có thể làm một điều vô sỉ được sao, Khổng Văn Thông? Ta tưởng da mặt của ngươi chẳng đến đổi quá dầy ...
Việc làm của lão hết sức bí mật, ngờ đâu Trương Vân Trúc lại biết được đem tiết lộ trước quần hùng. Khổng Văn Thông vô cùng kinh hãi, tuy nhiên lão phải giữ bình tĩnh để cứu vãn tình hình, lão cười lạnh thốt:
– Sao Lữ huynh nóng thế, chưa biết nguồn cơn thế nào, chưa biết thực hư như thế nào lại phát tác nặng lời mắng tại hạ? Dù trong rượu có độc, dược lượng cũng chẳng quan trọng lắm, không đến nổi làm cho các vị phải táng mạng.
Huống chi tại hạ có sẵn thuốc giải? Tại hạ khuyên Lữ huynh nên dằn cơn phẫn nộ, bởi khi trúng bất cứ loại độc nào, nếu giữ mình được trầm tĩnh thì chất độc chậm phát tác, trái lại nếu khích động dấy mạnh thì độc dược gấp sinh hiệu lực đấy! Nếu Lữ huynh không chịu nghe lời khuyên của tại hạ, nếu có xảy ra tai hại như thế nào thì Lữ huynh đừng oán trách tại hạ!
Nói như thế có khác nào Khổng Văn Thông thừa nhận những gì do Trương Vân Trúc vừa tiết lộ?
Những người không có cảm tình với lão đều lộ vẻ bất mãn, họ cùng đứng lên, gương mặt người nào cũng trầm trầm, niềm căm phẫn hiện lộ rõ rệt.
Có người nóng tính hất bay luôn bàn tiệc cho rộng chỗ, sẵn sàng giao thủ nếu có cuộc chiến xảy ra.
Và tất cả đều bước đến tạo thành một vòng vây quanh Khổng Văn Thông.
Dù vậy, Khổng Văn Thông không hề tỏ lộ sự sợ hãi.
Khổng Văn Kỷ gượng đau, bước tới đứng cạnh trưởng huynh, sẵn sàng can thiệp nếu quần hùng vọng động.
Cũng có một số người do Khổng Văn Thông mua chuộc, thấy tình hình nghiêm trọng vội bước đến đứng cạnh Khổng Văn Kỷ dàn thành cái thế đối lập với Lữ Vô Úy.
Do đó, vòng vây chưa thành hình đã phải biến ra trận tuyến đối chiếu với trận tuyến của Khổng Văn Thông.
Song phương đã dàn thành trận thế, đáng lý Trương Vân Trúc phải đứng về cánh Lữ Vô Úy, y lại tách riêng ra đứng một mình một góc. Y thản nhiên như chẳng quan tâm đến sự căng thẳng giữa đôi bên, y hướng sang Lữ Vô Úy nói:
– Lão ấy nói đúng đó, Lữ Chưởng môn. Tuyệt đối không nên khích động!
Lữ Vô Úy phẫn nộ vì hành vi đê tiện của Khổng Văn Thông mà cũng căm hờn luôn Trương Vân Trúc. Lão cao giọng trách:
– Các hạ cũng chẳng phải là người tốt chi đó, đã biết là trong rượu có độc lại chẳng chịu cho mọi người biết sớm, để khi tất cả đã uống rồi mới tiết lộ ra ...
Trương Vân Trúc cười hì hì:
– Nói sớm hay nói muộn chẳng phải là điều tất yếu. Bởi tánh mạng của các vị chẳng đáng ngại kia mà! Khổng Văn Thông chưa có ý sát hại các vị thì tại hạ nói sớm làm gì? Lão ấy chỉ muốn khống chế các vị thôi, lão có sẵn giải dược thì khi nào các vị lại chết được? Nhưng tại hạ xin nói rõ, giải dược đó chỉ có công hiệu ngăn chất độc phát tác liền và cứ mỗi sáu tháng các vị lại phải đến bái phục lão ta, xin giải dược, uống vào lại chi trì được sáu tháng nữa, rồi từ đó cứ mỗi sáu tháng các vị phải trình diện trước lão ta một lần, ai không đến mới thực sự bị nguy.
Các vị thấy đó, muốn bảo tồn sanh mạng các vị phải mỗi năm tìm đến lão hai lượt.
Như vậy còn ai dám phản kháng lão ta?
Lữ Vô Úy hét lên:
– Câm ngay! Khi nào ta lại bái phục lão quái vật đó?
Khổng Văn Thông cười lạnh một tiếng nhưng chẳng nói gì.
Trương Vân Trúc cười nhẹ:
– Lữ Chưởng môn xem thường sanh mạng quá. Các vị đều là những người có thân phận rất cao trong võ lâm, nếu khinh thường sanh mạng như vậy thì đại cuộc giang hồ sau này còn ai lo liệu nữa chứ?
Y dừng một chút, đoạn tiếp:
– Không khéo rồi đây họ Khổng sẽ trở thành bá chủ võ lâm, nắm quyền sanh sát trong tay đấy!
Lữ Vô Úy lại hét:
– Các hạ thực sự là ai? Các hạ có ý tứ gì? Thoạt nói thế này thoạt nói thế khác, phản ứng vô lường. Thế các hạ muốn toàn thể võ lâm phải khuất phục trước lão quái vật đó?
Trương Vân Trúc bật cười ha hả:
– Lữ Chưởng môn nóng nảy nên có ý nghĩ sai lầm! Tại hạ đương nhiên là đứng về cánh các vị, chẳng qua là từ trước đến nay tại hạ có một chủ trương khác lạ, minh bạch, trong bất cứ hành động nào, luôn luôn giữ cái thế độc lập, bởi có chủ trương độc lập nên chỉ bằng vào sức lực mình, tâm trí mình, phàm việc mình trước khi làm, đều xét đoán kỹ càng, do đó ít khi bị người ám toán như các vị từng bị ...
Lữ Vô Úy quát chận:
– Ngụy biện! Chứ các hạ không uống rượu của lão quái vật ấy à?
Trương Vân Trúc bật cười vang:
– Có uống chứ, nhưng tại hạ khác hơn các vị, tại hạ biết, song cố ý uống.
Còn các vị không biết, nên uống lầm.
Lữ Vô Úy giật mình:
– Các hạ cố ý uống loại rượu có chất «Hoàng Hà Thiên Tinh Sa»?
Trương Vân Trúc gật đầu:
– Đúng vậy. Tại hạ cố ý uống, để tìm hiểu có con đường thứ ba nào chăng, ngoài hai con đường chết và khuất phục trước họ Khổng!
Khổng Văn Thông «hừ» lạnh một tiếng:
– Chẳng có con đường thứ ba, mà cũng chẳng có con đường thứ hai nào cả.
Ngươi chỉ có một con đường duy nhất, là chết. Ngươi phải chết! Mẫu người như ngươi, nếu sống sót là gieo tai rắc họa cho người đời chứ chẳng giúp ích gì cho ai cả. Dù ngươi bái phục trước mặt ta, ta cũng chẳng chấp nhận sự quỳ lụy đó!
Trương Vân Trúc bật cười ha hả:
– Đừng nuôi mộng, Khổng Cốc chủ ơi! Ba năm trước đây tại hạ từng uống phải chất «Hoàng Hà Thiên Tinh Sa» của Cốc chủ, thế mà tại hạ có chết đâu?
Hôm nay, Cốc chủ muốn dùng «Hoàng Hà Thiên Tinh Sa» sát hại tại hạ thì đúng là Cốc chủ nuôi mộng đó. Hiện tại, nếu Cốc chủ muốn giết tại hạ thì chỉ còn có cách dùng võ công của Cốc chủ mà thực hiện cái ý nguyện đó thôi!
Khổng Văn Thông biến sắc, hấp tấp hỏi:
– Ba năm trước? Thế ngươi là ...
Trương Vân Trúc bật cười ha hả.
Tràng cười của y vang dội chấn động cả tai những người hiện diện.
Vừa cười, y vừa đưa tay hất ngược chiếc mũ trên đầu về phía hậu, đồng thời y cũng vuốt mặt luôn.
Gương mặt của y, trước đó trắng nhợt giờ thì đen sạm, màu đen của gió bụi phong sương. Và hàm râu tạo cái vẻ trung niên cho y, sau khi rơi rụng rồi trả y về với lứa tuổi phong cương. Y nghiễm nhiên trở thành một thanh niên với già dặn của phong trần.
Toàn thể tân khách đều kêu lên kinh hãi. Tất cả đều buông gọn ba tiếng:
– Quan Sơn Nguyệt!
«Quan Sơn Nguyệt»! Cái tên đó còn khắc ghi rõ trong ký ức của mọi người.
Bởi cái tên đó xuất hiện trên giang hồ không lâu lắm, bất quá chỉ cách độ ba năm thôi. Con người mang cái tên đó, trước đây là thần long, là mãnh hổ vùng sa mạc.
Con người đó là truyền nhân duy nhất và đắc ý của Minh Đà Lệnh Chủ Độc Cô Minh.
Ba năm về trước, trúng độc «Hoàng Hà Thiên Tinh Sa», bỗng nhiên y nhảy lên lưng bạch đà, vượt sa mạc, ra đi về một phương trời xa thẳm. Ai ai cũng nghĩ là y đã chết, bởi suốt thời gian ba năm y không trở lại giang hồ. Và những người có cái tâm hào hiệp đều luyến tiếc y sớm mạng một khi hoài bão một chân tài.
Giờ đây y trở lại. Y xuất hiện đúng lúc Cốc chủ Lạc Hồn Cốc Khổng Văn Thông đang mưu đồ quật khởi toan khống chế quần hùng, thực hiện dã tâm chiếm ngôi bá chủ võ lâm.
Quan Sơn Nguyệt bật cười ha hả, cười một lúc, y đưa tay chỉ tấm biển mà y vừa phê phán, cao giọng phân bua với quần hùng:
– Thiên hạ đệ nhất Minh Đà Gia! Xin các vị ghi nhớ điểm này là ngày nào Minh Đà Lệnh Chủ chưa chết là ngày đó bốn tiếng Thiên Hạ Đệ Nhất không thể rơi về tay ai, bất cứ ai!
Trước kia, y là một thần long. Vắng mặt ba năm, y tái hiện, vẫn oai mãnh như thần long. Đã là thần long thì lời nói có nhiều oai khí.
Những người hiện diện tại lư bằng im lặng.
Chẳng một ai thở mạnh, một phần vì tôn kính thần long, phần khác có lẽ vì sợ hãi, sợ hiểu lầm, bởi một tiếng động trong lúc này đều có nghĩa là phản kháng, là bất mãn, là đứng về cánh Khổng Văn Thông.
Quả thật y có đủ tư cách nói một câu như vậy.
Bởi, ngày trước, sư phó của y là Độc Cô Minh, là tay vô địch, thì từ ngày y xuất đạo trên giang hồ y chưa hề gặp một đối thủ.
Vùng Đại Mạc hầu như giang san riêng biệt của y, nơi nào y đến là có người nghinh tiếp, nơi nào y ly khai là có người tiễn đưa.
Không một ai dám ngăn trở, không một ai dám khiêu khích trêu vào.
Khổng Văn Kỷ vâng lịnh trưởng huynh hạ độc vào rượu, y uống phải, từ ngày đó ai ai cũng tưởng y đã vĩnh viễn ly khai cõi đời. Ngờ đâu mạng y còn dài, y bảo trì được tánh mạng để hôm nay trở lại đây ...
Và cũng kể từ ngày hôm nay, y có mặt trên giang hồ, y sẽ là một trở lực lớn lao cho Khổng Văn Thông trong mưu đồ bá chủ võ lâm.
Chưởng môn nhân Chung Nam Lữ Vô Úy giật mình, sửng sốt nhìn y một lúc lâu. Thật khó nghĩ cho lão vô cùng.
Thanh niên kia có cái thái độ lững lờ như vậy, y là địch hay là bằng hữu, thân hay là thù?
Ba năm trước, lão có ra tận Đại Mạc, tìm Minh Đà Lệnh Chủ để quyết đấu vãn hồi danh dự phái Chung Nam, lúc đó Độc Cô Minh đã chết rồi, Quan Sơn Nguyệt thay quyền giữ ngôi Lệnh Chủ.
Khi Lữ Vô Úy đến nơi thì Quan Sơn Nguyệt đã trúng độc «Hoàng Hà Thiên Tinh Sa» do Khổng Văn Kỷ hạ vào rượu, thành ra lão đã làm một chuyến viễn hành vô ích.
Rồi nay, Quan Sơn Nguyệt trở lại. Y trở lại, cuộc quyết đấu đã dự định ngày nào có thể khai diễn rồi. Y trở lại, Khổng Văn Thông sẽ phải gờm mà không dám vọng động. Như vậy là điều đáng mừng hay đáng lo?
Riêng về Khổng Văn Thông thì lão ta kinh hãi đến xuất thần. Mãi một lúc sau lão mới lấy lại bình tĩnh, lão nhìn Quan Sơn Nguyệt không chớp mắt, trong ánh mắt có niềm hoài nghi thoáng lộ, lão hỏi:
– Quan Sơn Nguyệt! Nhờ đâu mà ngươi thoát chết với «Hoàng Hà Thiên Tinh Sa» của ta?
Quan Sơn Nguyệt bật cười ngạo nghễ:
– Trong thiên hạ chẳng có cái gì tuyệt đối cả, dù cho là một loại độc dược vô cùng lợi hại. Bởi vật tánh nào cũng có sanh có khắc, sanh ở một phương diện nào đó tất phải bị khắc ở một phương diện khác, cái lẽ sanh khắc là đạo lý của đổi thay, có đổi thay thì khi nào tuyệt đối được? Cho nên chất độc của các hạ dù lợi hại, vẫn có thể bị hóa giải như thường. Và tại hạ còn sống được, tức nhiên tại hạ có thể tìm được giải đáp.
Khổng Văn Thông lắc đầu tỏ vẻ không tin:
– Ta biết sư phó ngươi là Độc Cô Minh tài kiêm bách nghệ, song về y thuật thì lão ấy chẳng biết mảy mai, ngươi xuất thân từ môn phái của lão, làm gì ngươi biết được thuốc giải?
Quan Sơn Nguyệt gật đầu:
– Các hạ nói đúng đó. Tiên sư không rành về y thuật, chứ nếu người am tường y thuật thì người đã truyền cho tại hạ rồi, và như vậy làm sao tại hạ mắc mưu các hạ? May mắn cho tại hạ, sau khi trúng độc, tại hạ gặp một vị cao nhân, vừa cứu nạn cho mà cũng vừa truyền phương thức giải trừ chất độc «Hoàng Hà Thiên Tinh Sa» của các hạ.
Khổng Văn Thông hấp tấp hỏi:
– Vị cao nhân đó là ai?
Quan Sơn Nguyệt đưa tay chỉ ra một bên:
– Vị cao nhân đó rất khen ngợi cách chế luyện «Hoàng Hà Thiên Tinh Sa» của các hạ, nên len lỏi đến đây góp mặt trong cuộc lễ mừng thọ của các hạ để được nhìn tận mắt một tuyệt nghệ của các hạ. Cái tên giả vừa rồi do tại hạ đưa ra, chính là tên của vị cao nhân đó. Bây giờ đã đến lúc tại hạ phải giới thiệu người với các hạ. Đó, các hạ thấy, vị đó là Trương Vân Trúc lão tiền bối, một thánh thủ trong y lâm! Người ẩn cư trong một ngọn núi vùng Thiên Sơn.
Mọi người nhìn theo tay chỉ.
Nhân vật đó, tác trung niên, vận y phục Quan Ngoại, gương mặt vàng dường như có bịnh kinh niên.
Bên cạnh lão ấy có một vị tiểu cô nương vận y phục Quan Ngoại như lão nhân, mũi đỏ, mắt sáng, mày thanh, gương mặt bừng lên khí khái anh thư, tỏ rõ một cân quắc anh hùng, trong tương lai sẽ có một sự nghiệp lẫy lừng ...
Thoáng nhìn qua, ai ai cũng biết đó là một đôi phụ tử.
Điều lạ lùng nhất là Quan Sơn Nguyệt và hai cha con Trương Vân Trúc đều vận y phục hạng mục đồng!
Không có thứ y phục nào khác hơn y phục mục đồng cho họ mặc sao?
Tư Mã Tử Yên
Võ Lâm Phong Thần Bảng
Hồi 4
Cái Hận Biệt Ly
Trương Vân Trúc cách Quan Sơn Nguyệt xa xa, lúc đó lão điểm một nụ cười, lão từ từ bước tới.
Những người trước mặt lão đều tự động tạt ra hai bên, nhường lối.
Sau cùng, lão đến trung tâm lư bằng.
Lão rời chỗ cũ, bước đến chỗ mới, đương nhiên con gái lão cũng bước theo luôn. Nàng cũng cười tươi như cha, vẻ cười của nàng có điệm niềm cao hứng, chừng như nàng rất thích thú trước mọi diễn biến trong đêm nay, tại đây.
Khổng Văn Thông nhìn chăm chăm vào Trương Vân Trúc. Khi Trương Vân Trúc đến gần, Khổng Văn Thông đằng hắng mấy tiếng, cố gượng cười để che giấu sự khẩn trương đang dấy động trong lòng, sắp hiện lộ ra mặt.
– Không ngờ trong một ngọn núi hoang vu lại có dị nhân ẩn cư! Không được biết sớm bậc dị nhân hạ cố quang lâm đến tệ cốc, thật tại hạ có lỗi vô cùng, thất lễ tiếp nghinh! Mong cầu các hạ thứ cho vậy.
Trương Vân Trúc cười nhẹ:
– Cốc chủ khiêm tốn quá chừng! Tại hạ bất quá là một kẻ vô danh sống miền hoang dã, xa xôi tận quan tái lạnh lùng, nào có xứng đáng được Cốc chủ lưu tâm chiêu đãi đâu? Hôm nay, được chấp nhận ào bàn tiệc, chuốc chén rượu mầng thọ Cốc chủ, kể ra là một vinh hạnh lớn lao cho tại hạ, còn dám đâu nhìn cao mà đòi hỏi những điều phi phận?
Lão ngừng lại một chút, đoạn trầm giọng tiếp:
– Ngày vui của Cốc chủ, tại hạ chẳng có chi xứng đáng để làm vật chúc thọ, bất quá tại hạ nơi cô tịch, tại hạ có trồng được loại mai, đào đã đến thời kỳ kết trái, tại hạ hái luôn mấy quả đào mang đến đây, biếu Cốc chủ gọi là tỏ chút lòng thành. Mong Cốc chủ đừng hiềm vật mọn mà thu nhận cho, tại hạ hết sức cảm kích!
Lão quay sang thiếu nữ, bảo:
– Thanh nhi! Dâng đào và mai, chúc thọ Cốc chủ đi con!
Thiếu nữ nghiêng vai, hạ chiếc bao xuống, mở bao ra, trong đó có mấy quả đào cùng một số quả mai, mai xanh, đào hồng, trông xinh đẹp vô cùng. Nàng cầm một quả đào, bước tới trước mặt Khổng Văn Thông, mỉm cười, thốt:
– Xin Cốc chủ hưởng đào!
Trước ánh mắt của mọi người đang đổ dồn về lão, Khổng Văn Thông bắt buộc phải đưa tay tiếp nhận. Lão lại còn gượng điểm một nụ cười, thốt:
– Đa tạ! Đa tạ! Tại hạ thật không xứng đáng ...
Trương Vân Trúc cười hì hì:
– Tại hạ trồng loại đào nầy ngay trên đỉnh Thiên Sơn, về giá trị của nó, tại hạ chẳng dám đề cao, song ăn nó vào, Cốc chủ sẽ thấy mát người vô cùng, gia dĩ mùi của nó thơm, vị của nó ngọt, khác hẳn những đào thường. Giả như Cốc chủ không hiềm vật mọn, xin ăn ngay cho. Ăn để biết mùi vị của nó có đúng như như tại hạ nói hay không!
Khổng Văn Thông cầm quả đào nơi tay nhìn mãi. Lão không thấy quả đào có điểm chi quái dị khả nghi.
Lão quan sát quả đào là vì lão biết nó chẳng phải là một quả đào tầm thường như tất cả quả đào trên thế gian, hái từ cây xuống và chỉ việc há mồm ra mà cắn ...
Bởi nghĩ như vậy, lão do dự.
Trương Vân Trúc cười nhẹ:
– Cốc chủ cho rằng vật mầng rất hèn mọn phải không?
Khổng Văn Thông bối rối:
– Làm gì có việc đó?
Đoạn lão tiếp:
– Khổng mỗ được các hạ quý trọng như thế này là một vinh hạnh lớn lao, khi nào lại dám có ý nghĩ là lễ vật hèn mọn? Chính tại hạ đang suy nghĩ, chẳng biết làm cách nào để đáp tạ thạnh tình của các hạ cho vừa. Vì loại đào này, chẳng phải ai cũng có, nơi nào cũng có.
Rồi lão hỏi:
– Các hạ có thể cho tại hạ thư thả mấy phút giậy chứ?
Trương Vân Trúc cười nhẹ:
– Đương nhiên là phải vậy, bởi tùy theo Cốc chủ chứ! Chỉ vì từ lâu, tại hạ nghe thinh danh của Cốc chủ vang rền như sấm động bên tai. Hơn nữa, theo lời truyền thuyết trên giang hồ thì Cốc chủ có cái thuật tinh diệu luyện «Hoàng Hà Thiên Tinh Sa» ...
Họ Trương dừng lại một chút, nói tiếp:
– Cho nên, trên quả đào, tại hạ có ghi một chút tâm tư và vì cái tâm tư đó, tại hạ muốn thỉnh giáo Cốc chủ. Nếu Cốc chủ từ chối nếm đào, thì thực là tại hạ phí công hết sức oan uổng!
Lời nói nhẹ nhàng, khoáng đạt như chẳng có ý chống đối, thử thách, song Khổng Văn Thông nghe rồi, cảm thấy khó chịu vô cùng. Lão biết rõ, trong quả đào, hẳn có một vấn đề nan giải. Rồi Trương Vân Trúc lại nói thế nữa! Thì cái vấn đề mà lão nghi hoặc đó như hình thành rõ rệt. Tuy nhiên, lão không thể không ăn đào. Lão cố tỏ ý ra mình có tánh cách đại phương, đáp:
– Như vậy thì tại hạ không thể từ chối rồi!
Quan Sơn Nguyệt «hừ» lạnh một tiếng:
– Khổng Cốc chủ không nên đáp ứng quá vội vàng như vậy! Đào đó, sản xuất từ đỉnh Thiên Sơn, có cái tên là Nhật Thiện Đào, bằng vào cái tên mà suy ra việc, muốn có đào ăn, phải lên tận cửa trời. Một loại đào như vậy, Cốc chủ ăn được sao?
Khổng Văn Thông biến sắc mặt, thốt qua căm phẫn:
– Dù ăn vào chết ngay ta cũng chẳng ngán, ta sợ gì trong đào có độc?
Đối với ai, lão giữ lễ độ dù là lễ độ khách sáo, song đối với Quan Sơn Nguyệt thì lão dùng giọng đối lập, giọng tử thù mà nói chuyện.
Quan Sơn Nguyệt bật cười ha hả:
– Lời nói đó, tỏ rõ một bản sắc anh hùng, đáng khen lắm! Vậy các hạ còn chờ gì mà chẳng ăn?
Khổng Văn Thông nhìn y với ánh mắt ngời niềm oán độc. Đoạn, y đưa quả đào kề miệng, trầm giọng hướng thẳng vào mặt Quan Sơn Nguyệt:
– Ta ăn đào đây tiểu tử, ta sẽ ăn luốn mấy quả kia!
Khổng Văn Kỷ biến sắc, vội ngăn:
– Đừng thử, đại ca! Sao đại ca lại kém sáng suốt thế?
Khổng Văn Thông do dự.
Trương Vân Trúc cười hì hì:
– Cốc chủ là người chuyên dùng độc, có tiếng là tay rành dùng độc, đã biết là quả đào trinh bạch lắm mà, quả đào chẳng ẩn chứa một cái gì mờ ám. Giả như Khổng nhị tiên sinh còn hoài nghi, xin kiểm điểm lại xem.
Khổng Văn Thông bật cười ha hả:
– Dù có độc, tại hạ sợ sao, Trương bằng hữu?
Lão bóp mạnh tay một chút. Đào vỡ ra, nước chảy ròng ròng theo kẽ tay lão.
Khổng Văn Thông lè lưỡi liếm nước đào, sau đó, lão vứt quả đào ra xa, ngẩng mặt nhìn trời, cười dài:
– Diệu cực! Diệu cực! Vừa ngọt, vừa mát ...
Khổng Văn Kỷ hết sức khẩn trương, song đại ca của y đã ném đào rồi, y có ngăn chận cũng chẳng còn kịp nữa, đành im lặng chờ xem phản ứng.
Thời gian qua, nhanh hay chậm cũng qua, nhanh hay chậm là do người nhận xét qua ảnh hưởng của sự lòng.
Lâu lắm, Khổng Văn Thông vẫn chẳng việc gì.
Khổng Văn Kỷ thở phào.
Khổng Văn Thông đảo mắt nhìn quanh một lượt rồi hướng về Trương Văn Trúc điểm một nụ cười, thốt:
– Ăn đào, chắc không cần ăn mai vội, phải chăng bằng hữu?
Lão cao giọng hơn một chút:
– Nhị đệ ơi! Người ta có thạnh tình đối với ngu huynh thì nhị đệ cũng phải nghĩ đến việc đáp lại thạnh tình đó chứ. Hãy rót gấp hai chén rượu, loại ngon nhất của Lạc Hồn Cốc mang đến đây, để ngu huynh dâng lại cho hai vị khách quý.
Lão căn dặn:
– Trương huynh và Trương cô nương đấy nhé, chứ như Quan Sơn Nguyệt bằng hữu thì khỏi cần, bởi vị thanh niên anh hùng đó đã uống từ trước rồi.
Khổng Văn Kỳ làm ngay theo lời đại ca dặn. Hắn trao hai chén rượu cho Khổng Văn Thông, thay vì mang thẳng tới cho cha con họ Trương.
Khổng Văn Thông ung dung thốt:
– Lạc Hồn Cốc không thành danh trên giang hồ với sự dụng độc, tuy nhiên, tại hạ cũng từng nghiên cứu qua môn luyện độc, có sáng chế ra loại «Lạc Hồn Lộ» kể cũng lắm công phu mới tạo thành, Trương bằng hữu đã là một thánh thủ trong y lâm, chắc nhìn qua cũng phân biệt được chất liệu chứ?
Trương Vân Trúc mỉm cười:
– Đối, dùng đào, đáp, dùng quỳnh tương, Khổng Cốc chủ dù sao cũng còn khách sáo quá!
Lão cao giọng hơn:
– Rượu, có độc hay không độc, chẳng thành vấn đề, Cốc chủ đã bày tỏ thạnh tình thì dù uống vào mà chết, tại hạ há tiếc sanh mạng mà không tuân lời Cốc chủ sao?
Lão bật cười lớn, tiếp:
– Trao đây, Cốc chủ, trao cho tại hạ có dịp chứng minh một niềm tin đối với Cốc chủ!
Lão tiếp chén rượu, đưa lên miệng, uốn một hơi cạn.
Đến lượt thiếu nữ.
Khổng Văn Thông mỉm cười:
– Cô nương có cho lão phu được hân hạnh kính dâng một chén rượu nhạt chăng?
Thiếu nữ do dự.
Trương Vân Trúc thoáng cau mày:
– Một mình tại hạ, chẳng đủ sao, Cốc chủ?
Khổng Văn Thông cười lạnh:
– Dưới tay tướng mạnh, chẳng bao giờ có quân sĩ bạc nhược, trong nhà một y sư, còn ai sợ bịnh chứ? Một chén rượu, phỏng có nghĩa gì? Trương bằng hữu không yên tâm được sao?
Trương Vân Trúc nhìn con gái, lắc đầu:
– Thanh nhi! Thế này thì con phải uống rồi đó! Uống đi con, nếu con không uống, người ta sẽ trách là cha đa sự! Người ta tưởng là bao nhiêu năm qua, cha ẩn tên dấu tuổi để hoạch định một mưu đồ gì, rồi đột nhiên xuất hiện, vừa xuất hiện là sanh sự ngay!
Thiếu nữ bắt buộc phải tiếp nhận chén rượu, tay nàng rung rung.
Quan Sơn Nguyệt hơi ngại ngại, nhìn Trương Vân Trúc, hỏi:
– Trương lão bá uống chén đó có cảm giác chi chăng?
Trương Vân Trúc thở dài:
– «Lạc Hồn Lộ» quả thật là một loại rượu quý! Lão phu mắt từng thấy ngàn thứ độc, lưỡi từng nếm ngàn thứ vị, nhưng phải công nhận trong «Lạc Hồn Lộ» có những chất liệu bình sanh lão phu chưa hề biết! Bây giờ thì dược tánh bắt đầu phát tác rồi và lão phu đang vận chuyển chân khí trong người, đo lường phản ứng của từng chất liệu một ...
Lão ngừng lại một chút, lại thở dài, rồi tiếp:
– Muốn kiểm soát đủ bảy mươi ba huyệt đạo trọng yếu, phải mất một đoạn thời gian dài, lão phu chỉ sợ sau khi hoàn tất công việc kiểm soát đó thì lại muộn mất rồi ...
Khổng Văn Thông bật cười ha hả:
– Quả thật Trương bằng hữu am tường y thuật một cách tinh vi đấy. Trong «Lạc Hồn Lộ» có mấy chất liệu hy hữu trên thế gian, với tài của Trương bằng hữu thì bất quá trong nửa khắc thời gian, bằng hữu sẽ hiện minh tất cả những chất liệu đó, nhưng tại hạ bảo chứng là sau khi hiện minh rõ rệt rồi, bằng hữu sẽ không còn năng lực phát thoại nữa ...
Quan Sơn Nguyệt giật mình:
– Nửa khắc thời gian!
Y cao giọng hơn:
– Dù sao, nửa khắc thời gian cũng đủ lắm rồi! Đủ cho chúng ta thanh toán mọi việc!
Khổng Văn Thông trố mắt:
– Các hạ nói thế là có ý tứ gì?
Quan Sơn Nguyệt không lưu ý đến lão, đưa tay đoạt lấy chén rượu nơi tay thiếu nữ, uống ngay.
Đoạn, y quăng chén rượu xuống đất. Chén vỡ tan, bật kêu một tiếng xoảng.
Rồi y ngẩng mặt nhìn Khổng Văn Thông, hỏi:
– Chén rượu của Trương cô nương, tại hạ thay thế uống cạn như vậy có thể kể như không ai còn nợ ai được chăng?
Khổng Văn Thông đắc ý vô cùng, bật cười vang:
– Trong bình, chỉ còn vừa đủ rượu rót đây hai chén, chính ta muốn thế.
Rượu đủ hai chén thì làm sao đãi ba người? Ta mời Trương cô nương uống, chẳng qua đó là một cái cớ thôi, mời Trương cô nương để cho kẻ khác bất bình ma uống thay, và người uống thay đương nhiên không phải là Trương bằng hữu rồi! Tiểu tử ơi, cái kế hoạch của ta như thế đó, ngươi đã khẳng khái uống rồi thì nên kiên nhẫn chờ xem sự thể sẽ diễn tiến như thế nào. Còn ta, ta cũng chờ xem ngươi sẽ lợi dụng nửa khắc thời gian đó để làm gì?
Quan Sơn Nguyệt cười lạnh:
– Tại sao Cốc chủ biết là tại hạ sẽ uống thay chén rượu đó?
Khổng Văn Thông điềm nhiên:
– Rất đơn giản! Ngay từ phút giây ngươi lộ chân tướng, ta đã nghĩ đến cách đối phó ngươi. «Hoàng Hà Thiên Tinh Sa» ngươi không ngán thì ta phải dùng đến «Lạc Hồn Lộ». Nhưng làm cách nào cho ngươi uống rượu đây? Ta không ngần ngại ăn quả «Cửu Chuyển Đào». Ta biết, trong quả đào có một loại độc, ai trúng độc đó tất phải bị cứng tay cứng chân, có điều không chắc là làm chết người được hay không. Riêng đối với ta, trên thế gian này làm gì có loại độc làm chết ta nổi?
Ta ăn đào là để cho các ngươi phải đáp lễ, uống rượu của ta. Ta cố ý rót hai chén, tặng cha con họ Trương, lão Trương thì đương nhiên phải uống rồi, còn nàng con giá của lão có can gì trong vụ mà uống, song vẫn phải uống cho tròn lễ độ. Ngươi tự nhiên nổi máu anh hùng, phải vỗ ngực xưng tài, thay nàng mà uống.
Lão bật cười ha hả, tiếp:
– Ngươi phải uống, ta biết chắc như vậy. Bởi, ngươi đã thọ ơn cha con họ Trương, ngươi phải đảm đương việc khó cho nàng, có như thế ngươi mới là con người chứ! Có như thế, ngươi mới xứng đáng kết giao với họ chứ!
Quan Sơn Nguyệt trầm gương mặt:
– Khá! Khá lắm! Liệu việc như vậy kể ra Cốc chủ cũng thông minh đấy!
Nhưng, xin Cốc chủ đừng quên điều này và tại hạ cũng nói cho Cốc chủ nghe rồi.
Điều đó là Cốc chủ đã tặng tại hạ một chưởng, tại hạ tuyên bố sẽ đánh lại Cốc chủ một chưởng, quanh minh chánh đại mà đánh chứ không đánh lén như Cốc chủ đâu, trong nửa khắc thời gian chất độc trong rượu phát tác, vậy thì trước khi tại hạ bị chất độc làm hại, tại hạ phải thực hành lời tuyên bố đó.
Khổng Văn Thông cười lớn:
– Tiểu tử nói nghe oai quá! Dù sư phó ngươi là Độc Cô Minh cũng chẳng làm sao thắng nổi ta trong vòng nửa khắc thời gian. Ngươi sức lực bao nhiêu mà dám nói là đánh trả ta một chưởng trong vòng thời gian nửa khắc trước khi chết chứ? Cho ngươi biết, chẳng những ngươi không làm chi nổi ta mà cuối cùng rồi ngươi cũng phải ngã khi chất độc ngấm nhiều, chất độc sẽ hành hạ ngươi vô tưởng, ngươi sẽ van xin ta giết ngươi gấp, cho ngươi khỏi bị cơn đau đớn hoành hành, cho ngươi được chết sướng!
Quan Sơn Nguyệt bình tịnh như thường, từ từ đưa tay lên, từ từ thốt:
– Cốc chủ nói, muốn nói sao cứ nói, có quyền nói cái ý của mình, song sự tình diễn tiến không do Cốc chủ muốn thế nào được thế ấy đâu!
Đoạn y trầm giọng bảo:
– Chuẩn bị đi, Cốc chủ, mình thanh toán cho xong những gì đọng lại giữa nhau!
Khổng Văn Thông khinh thường, lão ung dung đứng lên.
Quan Sơn Nguyệt từ từ đưa tay ra, cái đích là phần ngực của Khổng Văn Thông.
Khổng Văn Thông vội vàng nghinh đón. Lão chờ cho bàn tay của Quan Sơn Nguyệt đến gần mới hoành tay nửa vòng, rồi từ bên trên chặt mạnh xuống.
Quan Sơn Nguyệt không nao núng, giữ nguyên chưởng thế đó.
Một bên bất động, một bên chặt xuống vừa mạnh, vừa nhanh, trong thoáng mắt, tay chạm nhau.
Chỉ thấy Quan Sơn Nguyệt đứng vững như thường, còn Khổng Văn Thông cảm thấy tay lão chặt xuống như chặt vào một chiếc côn sắt, đương nhiên côn sắt không hề gãy, bàn tay của lão trái lại bị bắn tung trở lên không.
Tay chặt xuống, bị bắn tung trở lên, như vậy là Khổng Văn Thông không hóa giải nổi chiêu chưởng của đối phương rồi. Chiêu chưởng không bị hóa giải, đương nhiên nó phải đi tới, đi nhanh.
«Bình!» Bàn tay của Quan Sơn Nguyệt gần như đồng thời với cái chặt của Khổng Văn Thông, chạm vào ngực lão.
Chẳng khác nào một quả cầu, Khổng Văn Thông bị vút lên cao, nốt cầu vồng, rơi xuống ngoài trượng xa. Tấu xảo làm sao, lão lại rơi đúng xuống chiếc bàn đựng đầy lễ vật chúc thọ. Bàn ngã nhào theo thân thể lão, lễ vật văng tứ tung.
Tân khách nhao nhao lên cùng đổ xô đến bao quanh nơi đó.
Khổng Văn Kỷ biến sắc, vọt mình tới, nâng Khổng Văn Thông lên.
Xương ngực của Khổng Văn Thông gãy vụn, lún vào thịt bày một lỗ trủng, máu từ nơi đó trào ra như suối chảy.
Khổng Văn Thông còn thoi thóp thở, giương tròn mắt nhìn Quan Sơn Nguyệt trừng trừng.
Bàn tay của Quan Sơn Nguyệt nhuộm máu đỏ ngời. Y bật cười ha hả:
– Tại hạ không ngờ kết quả quá tàn khốc cho Cốc chủ như vậy! Thật lỗi vô cùng! Chắc Cốc chủ cũng lượng thứ cho tại hạ đã lỡ tay!
Máu từ ngực vọt ra, máu từ miệng trào ra, Khổng Văn Thông còn nói gì được thành lời?
Trương Vân Trúc cười lớn:
– Khổng Văn Thông! Ta khen ngươi đó, biết được lai lịch quả «Cửu Chuyển Đào», kể ra ngươi cũng sành dụng độc! Nhưng ngươi vẫn không hiểu nổi là ta đã cho ngấm vào quả đào nước cốt của thảo dược «An Tức Lan», nước cốt đó có hương vị như nước quả đào, ngươi ăn đào không thể phát giác ra nổi. «An Tức Lan» có cái công hiệu làm cho võ công của ngươi tán thất dần dần, rồi khi Quan Sơn Nguyệt hiền điệt xuất thủ, ngươi chẳng còn công lực tiếp nhận một chưởng!
Bất quá, kẻ trước, người sau, ta nhanh trí hơn, cho ngươi ăn đào trước, dù sau đó ta có uống «Lạc Hồn Lộ» của ngươi cũng chẳng hại gì. Trên con đường về âm cảnh, chúng ta rồi cũng sẽ gặp nhau, kẻ nào đi trước, cố mà chờ kẻ đi sau nhé!
Giả như ngươi có căm hận ta, thì mình sẽ lại đấu trí với nhau ở một thế giới khác vậy!
Khổng Văn Thông thu tàn lực, hét lên một tiếng lớn. Theo tiếng hét, máu từ miệng lão thoát ra thành vòi, vết thương nơi ngực bị động mạnh, máu lại trào như xối. Lão tắt thở luôn.
Khổng Văn Kỷ chớp đôi mắt ngời ánh lửa, đặt xác của Khổng Văn Thông xuống nền, chuẩn bị liều mạng với đối phương.
Quan Sơn Nguyệt khoát tay, quát to:
– Nếu ngươi vọng động, ta sẽ không dung tha ngươi! Ngươi phải biết chất độc trong «Lạc Hồn Lộ» chưa phát tác trước thời gian nửa khắc, trong thời gia đó, ta thừa sức hạ sát ngươi!
Trương Vân Trúc hướng sang Quan Sơn Nguyệt, thốt:
– Hiền điệt còn gì cần nói, hãy nói gấp đi, nói cho minh bạch, chúng ta chẳng còn bao nhiêu phút giây nữa đâu!
Quan Sơn Nguyệt gật đầu, day qua Chưởng môn nhân phái Chung Nam, từ từ cất tiếng:
– Lã tiến bối! Tại hạ có ý định đem việc này tuyên cáo trước đồng đạo vũ lâm trong thiên hạ, song sợ không còn kịp làm theo ý muốn. Do đó, tại hạ ghi chép những gì cần nói trên mảnh giấy dựng trong phong bì, trước khi đến đây.
Đồng thời, tại hạ cũng chỉ điểm cách giải trừ chất độc «Huỳnh Hà Thiên Tinh Sa» giúp các vị thoát nạn. Phong bì, tại hạ xin ký gởi lại Lã tiền bối, nhờ Lã tiền bối liệu lượng ...
Y thò tay trong mình, lấy ra một phong bì, trao qua cho Lã Vô Úy.
Lã Vô Úy tiếp nhận liền.
Trương Vân Trúc, Quan Sơn Nguyệt và thiếu nữ cúi đầu chào biệt mọi người rồi hấp tấp rời khỏi lư bằng.
–––– oo –––– Lạc Hồn Cốc, một sơn cốc có tên đúng với sự thực, một sơn cốc mà ai vào lọt trong đó rồi đừng mong dẫn xác trở về.
Bao nhiêu người táng mạng tại đây như để xác định cái tên sơn cốc, và hôm nay, đến lượt Cốc chủ vĩnh viễn ra đi để xác định cái tên tàn khốc đó.
Bọn Quan Sơn Nguyệt đi rồi, quần hùng nhìn theo bóng họ, mơ màng. Ai ai cũng nặng niềm tư tưởng, trước một diễn biến hết sức bất thường. Bởi, có ai nghĩ đến cái kết quả bi đát của Khổng Văn Thông, mộng đời chưa thực hiện mà ngày mầng thọ là ngày giỗ kỵ!
Lã Vô Úy mở phong bì, lấy mảnh giấy ra đọc:
«Minh Đà Lệnh Chủ đời thứ hai Quan Sơn Nguyệt cẩn cáo trước đồng đạo võ lâm thiên hạ.
Năm xưa, tiên sư lần lượt đến từng môn, từng phái một của các vị, lấy lịnh phù, tín vật trong môn phái các vị. Sau đó, người đến sa mạc, sống cuộc đời quy ẩn, tuy nhiên, người hết sức ăn năn hối hận về những việc đã làm qua. Ăn năn, hối hận không phải tiên sư cho rằng mình có hành động bạo cường, thô mãng đối với các vị mà hối hận vì mình làm một việc hữu ích, trong các vị, chẳng ai hiểu cho cái ý sâu xa của người.
Giành quyền chấp chưởng môn phái của quý vị chăng?
Không. Tiên sư không nuôi cái tham vọng ấu trĩ đó, bởi chung quy rồi, tham vọng đó cũng sẽ đưa người đến chỗ tự diệt.
Thế thì, tại sao tiên sư làm thế?
Chẳng qua, người lo lắng cho vũ lâm Trung Nguyên, người nhận thấy các vị quá tự tôn, tự mãn, không lo tinh tiến để tự cường, các vị cho rằng mình là vô địch, rồi an nhàn hưởng thụ danh vọng, không mảy may nghiên cứu vũ thuật để cùng nhau tiến đến cảnh giới diệu huyền. Cho nê, tiên sư bắt buộc phải thu nhặt tất cả tín vật, lịnh phù để khích lệ các vị.
Bây giờ, các vị đã hiểu nổi khổ tâm của tiên sư rồi chứ?
Tuân theo di mạng của tiên sư, ba năm trước, trong đại hội sa mạc ngoài biên tái, tại hạ ấn chứng vũ công của các vị, giả như tại hạ bại, điều đó chẳng đáng làm cho tại hạ thẹn tức, trái lại, nếu tại hạ thắng thì đúng là một sự đau buồn, bởi vì từ bao nhiêu thời gian qua, các vị không tiến bộ chút nào, các vị đại diện vũ lâm Trung Nguyên, tài nghệ không vượt bậc là đáng lo ngại cho kiếp vận toàn thể.
Tại hạ cũng đã định, trong ngày đại hội, trao trả tín vật, lệnh phù cho các vị.
Ngờ đâu, đại hội chưa kết thúc, tại hạ lại bị lão gian hoạt hạ độc, thành ra nhiệt tình của tiên sư đối với các vị phải đình hoãn tỏ bày cùng các vị qua trung gian tại hạ, cho đến hôm nay.
Tuy muộn, cũng còn hơn không. Và, nếu tại hạ không may mắn không gặp vị ẩn y là Trương Vân Trúc tiền bối tại Thiên Sơn thì tâm nguyện của tiên sư sẽ mãi mãi bất thành, và các vị truyền đời nối tiếp nhau mà oán hận Minh Đà Lệnh Chủ.
Giờ đây, dù đã chậm trễ ba năm, mọi việc kể như được trình minh bạch với các vị rồi, tại hạ nghe lòng thơ thới vô cùng.
Trước khi đến đây, tại hạ có nghĩ, trong tương lai, các vị cần phải đương đầu với Lạc Hồn Cốc chủ Khổng Văn Thông, mà lão hồ ly đó có loại độc «Hoàng Hà Thiên Tinh Sa» rất lợi hại, nên tại hạ đã yêu cầu Trương Vân Trúc tiền bối chỉ điểm phương pháp giải độc. Phương pháp đó, tại hạ cũng có ghi vào mảnh giấy, kèm theo lời biện minh.
Sở dĩ tại hạ thận trọng là vì vũ công của Khổng Văn Thông cũng cao cường lắm, vạn nhất tại hạ bị lão ta hạ sát rồi thì làm sao mách với các vị phương pháp trị độc?
Do đó, tại hạ ghi luôn vào mảnh giấy, phòng bất trắc.
Còn một điều này, các vị xin lưu ý. Anh em họ Khổng, dù sao thì cũng chẳng đáng sợ lắm. Người đáng sợ, chính là con gái của Khổng Văn Thông đang theo học với một vị dị nhân trong võ lâm. Bậc dị nhân đó, sánh với tiên sư còn giỏi hơn rất nhiều. Tuy có tài cao, song chẳng rõ vì duyên cớ gì, người phát thệ chẳng bao giờ xuất hiện trên giang hồ.
Bậc dị nhân không ra mặt, điều đó chẳng nói làm chi, chỉ như nàng con gái của Khổng Văn Thông, sau khi thành tài trở về Lạc Hồn Cốc, nối chí cha gây nên hoạn họa giang hồ thì thiết tưởng các vị không thể không quan tâm được.
Tại hạ sơ lược trình bày như thế, mong các vị liệu lượng, tìm cách ngăn chặn những gì chưa phát hiện, những gì còn có thể ngăn chặn, đừng để đến lúc khẩn cấp mới bắt tay vào việc, tại hạ e tai hại sẽ đến với các vị lớn lao không tưởng nổi ...» Chưởng môn nhân phái Chung Nam lại đọc lớn lên cho mọi người nghe.
Tất cả đều trầm lặng suy tư.
Lúc đó, Khổng Văn Kỷ đã mang di thể của Khổng Văn Thông vào trong rồi.
Bọn người xu phụng Khổng Văn Thông cũng theo vào. Do đó, cánh họ Khổng chẳng một ai biết được sự tình Quan Sơn Nguyệt bày tỏ.
Tuy chẳng người nào có thể chứng minh một chi tiết có liên quan đến sự tình, song tất cả đều tin là Quan Sơn Nguyệt không bịa chuyện.
Không còn gì bắt buộc họ lưu lại nơi này, họ cùng chia tay nhau rồi Lạc Hồn Cốc. Trên con đường về quê quán, ai cũng nặng niềm ưu tư. Họ nghĩ đến cái họa trong tương lai, họ không khỏi lo sợ.
Dù sự việc, nếu có xảy ra vẫn còn xa, họ cũng thấy sợ ngay từ bây giờ. Và, những người có danh vọng lớn trong quần hùng tự cho mình có bổn phận bảo trì phong độ vũ lâm, họ càng suy tư trầm trọng trước viễn ảnh một biến cố phi thường, họ đã thấy nặng ngay từ bây giờ cái trách nhiệm đối với đồng đạo.
–––– oo –––– Trong bóng đêm, ba bóng người bước nhanh, chừng như họ có điều gì khẩn cấp lắm.
Tuy nền trời thiếu vắng trăng sao, song cũng có thể nhận ra ba người đó là ai.
Thực ra, nói là ba bóng người bước đi, bất quá chỉ có hai người và một trong hai người đó kèm một người khác, đang hôn mê.
Người hôn mê, là Quan Sơn Nguyệt, người kèm y gần như cõng y nơi lưng chính là Trương Thanh. Người thứ ba, hẳn là Trương Vân Trúc.
Họ ly khai Lạc Hồn Cốc từ lâu và hiện tại họ đã đi được một đoạn đường dài.
Trương Thanh cất giọng đầy oán trách gọi cha:
– Gia gia! Tại sao phải hành động như vậy chứ? Gia gia làm cho Quan đại ca khổ sở như thế này thật con chẳng hiểu nổi cái ý tứ của gia gia chút nào! Giả như Quan đại ca bất hạnh táng mạng đi rồi thì con hối hận biết bao nhiêu?
Trương Vân Trúc thở dài:
– Cha nào đoán được là hắn khẳng khái như thế? Thật đáng trách cho hắn, lúc nào cũng nóng nảy, đến cả những việc liên quan cả sanh mạng mà hắn cũng chẳng chịu đắn đo cân nhắc kỹ càng trước khi quyết định! Phần cha, nếu cha không phòng bị trước thì khi nào lại uống chén rượu quỷ của lão hồ ly? Phần hắn thì ... Hừ! Đáng trách hắn thật! Chính hắn làm khổ cha chứ cha nào làm khổ hắn?
Trương Thanh khóc. Giọng nói của nàng sền sệt, giọng nói phát ra đứt đoạn trong nghẹn ngào:
– Quan đại ca ... lúc nào cũng sẵn lòng hào hiệp, chẳng phải riêng đối với chúng ta mà còn đối với tất cả mọi người ... hôm nay Quan đại ca sợ con không kham chén rượu độc ... nên ...
Bỗng nàng ngưng khóc, trầm giọng hỏi:
– Không có cách gì giải độc sao gia gia?
Trương Vân Trúc lắc đầu:
– Cha chưa dám quả quyết, con ạ! Phải chờ đến khi nào mình về tới nhà, cha phân tích chất độc trong rượu, rồi mới tìm dược liêu khắc chế. Đến lúc đó, cha mới có thể đoán định là Quan đại ca của con được an toàn hay không an toàn.
Trương Thanh dậm chân:
– Nhưng Quan đại ca có chi trì được đến lúc mình về tới nhà chăng?
Trương Vân Trúc cười khổ:
– Thôi đi cô nương ơi! Tại sao cô nương càng lúc càng không tin tưởng nơi lão già này chứ? Cô nương lo sợ quýnh quáng lên rồi xem thường cả Gia gia của cô nương à?
Rồi lão dịu giọng tiếp:
– Con phải biết hiệu năng của «Băng Xạ Toàn Mạng Tán» của Gia gia như thế nào chứ? Đừng nói là trúng độc, giả như hắn có chết đi, gia gia cũng có thể làm cho hắn sống lại ít nhất trong bốn năm hôm!
Trương Thanh lại nghĩ đến lúc về nhà, giả như qua cuộc phân chất, gia gia nàng hoàn toàn bất lực thì Quan Sơn Nguyệt phải chết. Bất giác, nàng lại khóc, nàng ngưng khóc một lúc, bây giờ khóc trở lại, khóc bi thảm hơn. Nàng vừa khóc, vừa gào:
– Gia gia còn chờ phân chất thì có hy vọng gì cứu sống Quan đại ca đâu!
Thế nầy thì Quan đại ca phải chết! Bất quá «Băng Xạ Toàn Mạng Tán» của gia gia chỉ làm cho Quan đại ca chậm chết mấy ngày! Trời ơi! Gia gia ơi! Con cũng chết luôn!
Trương Vân Trúc khổ sở quá:
– Thì ... thì cha cố gắng làm hết sức mình chứ cha có là thánh đâu mà dám bảo đảm với con như thế này, thế nọ? Con thấy không, ba năm trước, cha cũng tận tình cứu hắn, lúc đó, hắn và gia đình cha con ta chưa thân nhau kia mà, huống chi ngày nay, hắn cũng như người nhà, đương nhiên là cha phải áp dụng tất cả sở học để cứu hắn. Con đừng quên, phàm là người ai cũng có định số cả, số chưa chết thì dù cha không cứu nổi cũng có người đến kịp lúc mà cứu hắn. Số hắn chết, dù thánh có hiện về cũng phải khoanh tay nhìn tử thần rước hắn đi!
TrươngThanh gào lên:
– Con không biết! Gia gia phải làm sao cứu cho Quan đại ca sống lại! Nếu không, con cũng chết luôn!
Nàng đặt Quan Sơn Nguyệt xuống đất, rồi ngồi bên cạnh khóc mướt.
Trương Vân Trúc dậm chân:
– Khổ quá, thế nầy thì ... thì ... gia gia phải đưa hắn đến một người!
Trương Thanh hấp tấp thốt:
– Chứ sao? Gia gia thấy mình bất lực thì nên tìm đến người đó, không lẽ gia gia đành để cho Quan đại ca chết oan uổng như thế này? Mà tại sao gia gia quá hận người đó như vậy? Gia gia đã thừa nhận về y thuật người đó giỏi hơn gia gia rất nhiều kia mà!
Trương Vân Trúc thở dài:
– Phải! Y thuật của người đó rất cao minh, trên gia gia mấy bậc. Song gia gia đã phát nguyện, không hề cúi mình cầu lụy y.
Bỗng, lão tiếp nối với giọng cương quyết:
– Không được! Con ạ, con đừng nhắc đến con người đó nữa! Cha không bao giờ muốn gặp mặt người đó chứ đừng nói là mở miệng van cầu chữa trị cho Quan Sơn Nguyệt! Bỏ đi con, bỏ đi!
Trương Thanh nức nở:
– Được rồi, con không nhắc đến người đó nữa, nhưng gia gia phải làm sao cứu sống Quan đại ca của con!
Trương Vân Trúc gật đầu:
– Thì cha phải tận tâm lo liệu cho hắn chứ sao! Không bằng cách này cũng bằng cách khác!
Lão đặt tay lên trán Quan Sơn Nguyệt. Bất giác, lão biến sắc, kêu lên:
– Nguy! Hắn phát nóng lên rồi đây! Trong rượu, có mật cion rít đỏ, rất độc!
Khổng Văn Thông ác quá, dám dùng cả loại độc đó để hại người!
Tuy nhiên, lão phải phục tài Khổng Văn Thông, lão lẩm nhẩm:
– Họ Khổng quả là tay lợi hại thật. Mật con rít đỏ với chất «Hạc Đỉnh Hồng», cũng là loại độc, song đem hai loại đó hiệp với nhau thì độc tánh tiêu hóa mất trở thành vô hại. Thế mà lão ta có cách hiệp cả hai loại độc lại, song vẫn giữ độc tánh còn nguyên vẹn như thường.
Trương Thanh sợ hãi cuống cuồng, hấp tấp kêu lên:
– Gia gia! Lúc này chẳng phải là lúc gia gia luận y thuật. Gia gia hãy nghỉ đến việc cứu người, cứu gấp mới được gia gia ơi!
Trương Vân Trúc suy nghĩ một chút:
– Giải trừ chất độc do mật con rít đỏ thì phải dùng máu con rắn xanh, nhưng phải là máu sống!
Trương Thanh trố mắt:
– Máu sống là máu gì?
Trương Vân Trúc đáp:
– Bắt con rắn xanh còn sống, cắt lấy máu chứ không được đập chết trước rồi lấy máu sau!
Lão thở ra, tiếp:
– Nhưng làm sao có loại rắn đó trong nhất thời?
Trương Thanh thốt gấp:
– Bây giờ đang đêm, mà loài rắn thì kiếm ăn lúc ban đêm, gia gia đi tìm đi, chắc chắn là tìm gặp mà, gia gia!
Nàng giục:
– Đi đi, Gia gia! Đi liền đi, Gia gia!
Trương Vân Trúc lại suy nghĩ một chút, rồi lấy trong mình ra một chiếc bình nhỏ, mở nút, trút ra một hoàn thuốc, nhét vào miệng Quan Sơn Nguyệt. Đoạn, lão hướng sang Trương Thanh, dặn nàng:
– Con ở đây canh chừng cho hắn nhé, cha vừa hắn uống một hoàn « Băng Xạ Toàn Mạng», cha đi tìm thanh xà đây!
Trương Thanh gật đầu.
Trương Vân Trúc không chậm trễ, đứng lên đi liền.
Tại vùng sơn dã rộng lớn, côn trùng, rắn rít rất nhiều, về đêm chúng rời hang, bò đi kiếm ăn, về đêm thì có nhiều hy vọng gặp chúng, nhưng phải cái bất lợi là đêm quá tối, rắn thì có nhiều mà làm sao trông thấy chúng?
Nếu đốt lửa đi tìm, chúng thấy lửa sẽ chui trốn mất. Cho nên, rắn thì có nhiều mà tìm được một con lại không phải là việc dễ. Huống chi, chẳng phải bắt bất cứ rắn gì cũng được mà cần có rắn xanh mới xong.
Trương Vân Trúc không nản lòng, men theo các khe đá, quanh theo các bụi cỏ, nương ánh sao mà tìm.
Mãi một lúc lâu, lão mới bắt được một con rắn xanh.
Lão mầng rỡ vô cùng, vội chạy trở lại chỗ cũ. Nhưng đến nơi, bất giác lão sững sờ vì Trương Thanh và Quan Sơn Nguyệt đã biến mất dạng.
Nơi chỗ Trương Thanh đặt Quan Sơn Nguyệt nằm xuống có một mảnh lụa, trên mảnh lụa có một viên sỏi.
Người nào đó, đặt mảnh lụa, lấy viên sỏi dằn lên sợ gió thổi bay mất đi.
Lụa, là chiếc áo của Trương Thanh đang mặc được cắt ra một mảnh. Trên mảnh lụa có mấy chữ. Chữ lại viết bằng máu.
Trương Vân Trúc chụp mảnh lụa, đọc liền:
«Gia gia, Sau khi gia gia đi rồi thì tình trạng của Quan đại ca biến đổi đáng sợ, con chẳng biết làm sao cứu giải cấp thời trong khi chờ đợi gia gia trở về mà con cũng chẳng dám bỏ chàng chạy đi tìm gia gia.
Nếu không cứu cấp kịp thời, kịp lúc thì Quan đại ca sẽ không tránh khỏi nguy hại tánh mạng.
Sở dĩ Quan đại ca ra thần hình như vậy cũng vì thay thế con uống chén rượu độc. Gia gia thấy đó, Quan đại ca không quản hiểm nguy, gánh vác cái việc khó cho con. Nhớ lại ba năm qua cùng sống chung bên nhau, con đã hiểu Quan đại ca rất nhiều và càng hiểu người, con càng mến, cuối cùng con cảm thấy yêu chàng. Ngày nay thì chàng là lẽ sống của con, mất chàng là con phải chết đó gia gia.
Chẳng phải con không tin nơi y thuật của gia gia, song con biết rõ chẳng thể nào gia gia chữa trị cho chàng lành mạnh hẳn được, mà dù gia gia làm được việc đó cũng phải qua một thời gian dài. Còn con thì ... con nóng nảy, muốn sao cho chàng bình phục tức khắc. Cho nên, con không thể do dự trước một sự cấp bách và con ra đi, mang chàng cùng theo.
Con ra đi, đi đâu thì hẳn gia gia đã biết rồi. Con đường đến Côn Lôn Sơn, xa vạn dặm, dù phải vất vả, dù phải đuong đầu với mọi hiểm nguy, con vẫn cương quyết ra đi với một tấm lòng tin tưởng thiêng liêng phù hộ con, phù hộ chàng ...
Nếu gia gia còn chút tình thương đối với con thì gia gia không nên đuổi theo con. Con nói thật, nếu con chẳng mang chàng đến tận Côn Lôn Sơn cầu xin người đó chữa trị cho chàng được thì con nguyện lấy cái chết để đáp tạ tình chàng.
Vậy, gia gia đừng bức con phải chết ngăn chận con đến gặp người mà gia gia không thuận nhãn.
Conmong gia gia bảo trọng trong thời gian con vắng mặt và tha thứ cho con.
Mình còn gặp nhau nữa, gia gia ơi và gặp lại trong ngày gần đây thì lo chi không sum họp ngày nào?» Đọc xong mảnh lụa, Trương Vân Trúc quăng nhanh con rắn ra xa, rồi thở dài ...
Tư Mã Tử Yên
Võ Lâm Phong Thần Bảng
Hồi 5
Máu Chan Lệ Thảm
Trương Thanh cõng Quan Sơn Nguyệt nơi lưng, vượt đoạn đường dài hướng về Côn Lôn Sơn.
Bạn đường là một người dở sống dở chết, không cử động, không nói năng, nói là bạn đường bởi đó là một con người, song thực ra thì có khác nào một gánh nặng?
Hành trang là số vốn nghị lực với một niềm tin nơi thiêng liêng.
Gánh nặng không làm cho nàng nản chí, hành trang tinh thần bù lại là nguồn khuyến khích lớn lao.
Đi như thế, Trương Thanh phải mất bao nhiêu ngày đường mới đến cái đích hành trình?
Thời gian dài ngắn, đối với người thường không quan trọng lắm, song đối với Quan Sơn Nguyệt, mỗi một phút giây qua là mỗi một hơi thở tiêu mòn, mỗi một giọt máu khô cạn. Mà lọ thuốc Băng Xạ Toàn Mạng Tán của vo thành hoàn của Trương Văn Trúc bất quá chỉ dùng chi trì mạng sống của Quan Sơn Nguyệt trong vòng năm mươi hôm, trong khoảng thời gian đó nàng đến được Côn Lôn chưa?
Nếu lọ thuốc hết rồi mà nàng chưa đến nơi thì phải làm sao?
Mặc, việc gì sẽ đến cứ đến. Nàng kiên tâm, trì chí, nàng khấn nguyện ơn trên phù hộ và nàng cứ đi, đi mãi, kết cuộc như thế nào, mặc cho định số sắp bày.
Thiếu ăn, thiếu ngủ, tắm nắng, dầm sương, Trương Thanh đã đi được bốn mươi ngày đường.
Đã không được chữa trị, lại vất vả suốt con đường dài, Quan Sơn Nguyệt mỗi một ngày trôi qua là mỗi một bước đi lần vào nguy cảnh. Đến ngày thứ bốn mươi, tình trạng của chàng bi đát quá độ.
Thời gian lúc đó nhằm tiết Đông Thiên, khí lạnh bao trùm vạn vật, song không làm dịu nổi nhiệt độ trong người chàng càng lúc càng dâng cao.
Cõng một người nóng như lửa đốt trên lưng, kể ra cũng khó chịu cho Trương Thanh lắm. Đó cũng là một sự khổ, cộng thêm với những cái khổ của hành trình.
Rồi một hôm, nàng cũng đến được Côn Lôn Sơn.
Nàng đến Côn Lôn Sơn là Quan Sơn Nguyệt chẳng mệnh hệ nào, bởi nếu chàng đã chết dọc đường thì nàng đến ngọn núi này làm chi nữa?
Quan Sơn Nguyệt không chết là lọ thuốc Băng Xạ Toàn Mạng Tán chưa dùng hết, là nàng chưa vượt quá giới hạn năm mươi ngày.
Nhưng, đến nơi rồi, nàng chẳng thấy một bóng người.
Một nơi hoang vắng cô tịch, làm gì nàng tìm được bóng người dễ dàng như giữa chợ đời nhộn nhịp thế nhân xu lợi bôn danh?
Dù hoang sơn là nuôi sống thợ săn, tiều phu, song chẳng phải nơi nào cũng có thợ săn, nơi nào cũng có tiều phu. Săn thú, cũng có khu vực riêng biệt, đốn củi cũng có nơi riêng biệt, do đó sự có mặt của hạng người vì sanh kế mà có mặt tại rừng sâu, núi hoang cũng tùy thời, tùy nơi mà có.
Thợ săn, tiều phu là hạng người không ở ẩn nàng còn không gặp một ai thì nói chi đến người mà nàng đang tìm?
Quanh quẩn mãi trong vùng hoang sơn, chung quy nàng vẫn chưa gặp được người nàng muốn gặp. Nàng phải tìm chỗ ngồi nghỉ mệt.
Nàng nhìn Quan Sơn Nguyệt, nàng khóc, khóc đến cạn lệ, khóc đến máu tươi.
Bỗng, nàng ngửi phải một mùi kỳ dị. Bất giác, nàng giật mình, vội đặt Quan Sơn Nguyệt xuống mặt tuyết, đoạn đảo mắt nhìn quanh.
Trời! Sau lưng nàng, một con beo trắng to lớn phi thường, loại beo chẳng phải là loài thú lớn xác, song con beo trắng này to bằng con trâu mộng. Nó đứng lặng nhìn Trương Thanh, đôi mắt nó sáng rực, đôi mắt xanh rời chớp chớp gieo cái lạnh nơi lòng nàng, cái lạnh đó thấp độ hơn cái lạnh của mặt tuyết giá ...
Đương nhiên, Trương Thanh phải sợ. Dù nàng có vũ công cao, trải qua một cuộc hành trình hơn bốn mươi ngày vất vả, công lực của nàng phải tiêu hao thì làm gì nàng chế ngự nổi một con mãnh thú?
Song nàng không chế ngự nổi nó, nó sẽ vồ nàng, nó ăn tươi nhai sống nàng.
Làm sao? Nàng phải làm sao? Nàng phải chết vì mãnh thú?
Nàng chết, Quan Sơn Nguyệt cũng phải chết!
Nghĩ đến cái chết của Quan Sơn Nguyệt, bất giác nàng phấn động tinh thần.
Nàng không muốn Quan Sơn Nguyệt chết. Nàng muốn chàng sống, bằng mọi cách, nàng bất chấp cách nào, miễn sao Quan Sơn Nguyệt được sống.
Bằng cớ, nàng nghi ngờ y thuật của cha, không dám giao sinh mạng Quan Sơn Nguyệt cho cha, vượt đoạn đường dài, tìm về Côn Lôn. Bằng cớ, nàng dám trái ý cha, tìm một người mà cha nàng không thuận nhãn, yêu cầu người đó cứu sống Quan Sơn Nguyệt. Thì hôm nay, đã đến tận cái đích của cuộc hành trình, khi nào nàng để cho Quan Sơn Nguyệt chết vì mãnh thú?
Không nói đến cái việc nàng có thể hạ mãnh thú hay chăng, cứ biết là nàng quyết tâm đối phó với bất cứ cái gì đe dọa sinh mạng Quan Sơn Nguyệt. Trừ ra, khi nàng ngã gục xuống rồi ai muốn làm gì chàng cứ làm.
Ai muốn chạm đến Quan Sơn Nguyệt phải đi qua xác chết của nàng. Mãnh thú cũng thế, nó là con vật, nó không thể nghe giảng lý, nàng phải lấy sức mạnh thay cho đạo lý. Nàng không hạ con thú, thú sẽ vập, sẽ vồ!
Nàng lại nhìn Quan Sơn Nguyệt, như mượn mãnh lực ái tình tiếp trợ sinh lực cho nàng, nàng rít lên:
– Quan đại ca! Tiểu muội phải hạ sát con thú ác độc kia, ăn thịt nó, uống máu nó cho mạnh mẽ hơn lên, cho tiểu muội còn vững tinh thần, để phát huy tình yêu trước phút giậy tuyệt vọng của chúng ta!
Trong mình, Trương Thanh chẳng có một tấc thép. Trong mình, nàng chỉ có mấy đường dây, loại dây ràng buộc cho y phục bớt hở hang. Đó là vật duy nhất mà nàng có thể xử dụng, nếu thực sự những vật đó có hữu dụng cho nàng.
Cũng may, tại sa mạc nàng từng học cách xe dây nơi bọn du mục, tập quăng dây để bắt những con ngựa chạy hoang.
Ngựa cũng là thú, beo cũng là thú, nàng có thể dùng dây chế ngự beo như du mục chế ngự ngựa hoang.
Lập tức nàng tháo tất cả những đường dây trong mình, đánh thòng lọng rồi, sau đó bốc tuyết nắn thành một quả cầu.
Dây trong mình chẳng có bao nhiêu, dây đánh lại tất phải ngắn.
Dây ngắn, không thể dùng trong khoảng cách khá xa, trước tiên, nàng phải khích nộ con beo trắng. Cốt làm sao cho nó bằng lòng nhảy tới gần nàng, như vậy nàng mới có thể quăng dây tròng cổ nó, tròng chân nó ...
Con beo trắng cào cào đôi chân trước trên mặt tuyết, rồi nó hạ thấp mình xuống, bụng nó sát với mặt tuyết. Nó chuẩn bị vọt tới.
Tại sa mạc, Trương Thanh từng tham dự nhiều cuộc săn thú, nàng đã biết đặc tính từng loài thú một, lúc bị thương, lúc tấn công, lúc tẩu thoát, chúng có những động tác như thế nào. Cho nên, nàng không nao núng dù biết rằng loài beo trắng rất hung dữ, chúng hung dữ trên mãnh sư hay ác hổ.
Nàng cầm quả tuyết cầu, nhắm ngay trán con thú, lao vút tới.
Trong trường hợp đó, con thú hoặc né tránh nếu không thì cũng phải nhảy tới. Nhưng, con beo trắng này chẳng có những phản ứng như vậy. Nó không né tránh, nó không nhảy tới.
Điều đó làm cho Trương Thanh hết sức kinh ngạc. Nhưng, chẳng lẽ nó đưa trán ra đó hứng quả tuyết cầu do nàng bắn đi, với ít nhiều cô lực? Dù nàng trung quả tuyết cầu là để nhử nó, song tuyết cầu chạm trúng trán, trán nó vẫn xây xát như thường.
Không vỡ sọ nó cũng phải đau đớn. Nó bất động, như một cao thủ bình tĩnh chờ thế công của địch đến vừa tầm tay. Rồi nó ung dung đưa chân trước lên hất quả tuyết cầu xẹt qua một bên.
Tuyết cầu chẳng phải là một vật thể cứng hoặc liền lạc nên vừa chạm chân con thú quả cầu bằng tuyết rả ra liền. Những mảnh tuyết vụn bắn ra bay về phía hậu của nó.
Đến lúc đó, nó mới rống lên một tiếng, còng lưng lên, mình co rúm lại, bốn chân thẳng đứng. Nó sẵn sàng ở trong tư thế vọt tới.
Trương Thanh biết ngay gặp phải một con vật phi thường. đương nhiên, nàng khiếp sợ, song vẫn bình tĩnh. Nàng quát:
– Súc sanh dám quật cường với ta à?
Nó biết gì mà nàng quát tháo?
Nàng chụp nhanh tay xuống mặt tuyết, hốt một nắm, rồi tung sang con beo trắng. Lần này, nàng dùng thủ pháp bắn ám khí quăng quả tuyết cầu. Quả tuyết cầu thay vì lao vút thẳng đường, lại uốn vòng cầu vẽ thành một đường cung, xẹt nhanh xuống con beo.
Con beo vẫn đứng nguyên tại chỗ, ngẩng đầu lên há rộng miệng hứng quả tuyết cầu.
Nhưng lần này thú thua người, vì trong quả cầu có sự lạ. Vật lạ đó, điều khiển quả cầu thay vì rơi ngay miệng con thú, lại trịch qua lên trên một chút, đánh xuống mắt tả của nó.
Vật lạ đó, bất quả chỉ là một viên sỏi, độ nửa quả tuyết, Trương Thanh gắn liền với tuyết, nàng tính toán làm sao khi quả tuyết cầu trút xuống thì tuyết và sỏi rời ra, tuyết rơi vào mồm con thú, còn sỏi thì trịch lên bên trán, đánh vào mắt nó.
Người không hiệu vũ công thì cho là lạ. Chứ thật ra, đó là một thủ pháp phóng ám khí.
Viên sỏi không lớn lắm, chẳng làm hỏng mắt con thú được, song vẫn chạm đau nó như thường. nó gầm lên một tiếng lớn, phóng mình tới.
Trương Thanh chỉ chờ có thế. Lập tức, nàng vung tay, đường dây bay ra, chiếc thòng lọng nơi đầu dây sắp sửa tròng vào đâu con thú.
Giống dân Duy Ngô trong thành phần du mục tại sa mạc cách quăng dây bắt ngựa đi hoang, lòng lọng tròng vào đầu rồi, con ngựa đứng yên thì còn đỡ, nếu càng vùng vẫy, thòng lọng càng rút chặt, cuối cùng nghẹt thở phải bất động chờ người bước tới, giải tỏa cho.
Trương Thanh sinh và trưởng tại sa mạc, đương nhiên có học cách quăng dây đó, thủ pháp của nàng rất thuần thục. Hơn nữa, nàng lại tập luyện võ công nên tay vung ra là rất chuẩn. Đừng mong một con thú nào thoát khỏi đường dây của nàng, trừ ra con thú đó ở ngoài xa tầm dây.
Nhưng con beo trắng này không giống những con thú khác. Có thể nó biết đường dây đó lợi hại như thế nào, nên vừa thấy nàng chớp tay lên, nó cấp tốc ngoẻo đầu sang một bên tránh cho thòng lọng trượt bên ngoài, và nó cứ lướt tới.
Nó không lướt thẳng vào người Trương Thanh, nó lại vọt đến Quan Sơn Nguyệt.
Bằng mọi giá, Trương Thanh chỉ mong muốn con vật chống đối với nàng hơn là vồ chụp xuống Quan Sơn Nguyệt. Do đó, hụt thòng lọng rồi, lập tức nàng hoành tay, dùng đường dây làm nhuyễn tiên, quật ngược trở lại. Cái đích của nàng là chân sau của con thú. Dường dây quấn quanh một chân sau của nó.
Trong khi chân trước của nó vừa chạm vào ngực Quan Sơn Nguyệt thì Trương Thanh giật mạnh đường dây. Con thú bị kéo hất về phía sau, chân trước của nó đương nhiên phải rời ngực Quan Sơn Nguyệt.
Con thú chừng như có linh giác, biết điểm nhược yếu của đối phương và nhược điểm yếu ở đây là con người bất lực. Cho nên, Trương Thanh đã mấy lần tiến công nó, nó chẳng màng đến nàng, trái lại nó quyết hạ cho kỳ được Quan Sơn Nguyệt.
Bị giật lùi lại, nó quắc đôi mắt bắn hung quang nhìn Quan Sơn Nguyệt chứ không hề nhìn Trương Thanh. Bất thình lình, nó nhào tới.
Trương Thanh sợ hãi, vội nhún mình nhảy vọt tới trước mặt Quan Sơn Nguyệt. Nhưng nàng ức độ tốc lực, không thể đến nơi kịp lúc chận ngăn con thú chụp xuống Quan Sơn Nguyệt. Thay vì nhảy thẳng đến trước Quan Sơn Nguyệt, nàng rẽ nhanh sang con đường tiến của con thú. Đồng thời, nàng co chân đá mạnh.
Con thú trúng phải cái đá đó, bị bắn lộn mình trở lại, nhào đi mấy vòng. Có lẽ đau quá, nó rống lên mấy tiếng.
Trong khi đó, Trương Thanh đảo bộ bước đến cạnh Quan Sơn Nguyệt, áng ngữ trước y.
Con thú đã đứng lên, bốn chân chồm chồm, đuôi chong thẳng, mắt lườm lườm. Đôi mắt của nó kéo đỏ những đường gân máu, chứng tỏ nó sôi giận cực độ.
Lần nầy, nó không nhìn Quan Sơn Nguyệt mà lại chuyển mục tiêu sang Trương Thanh. Nó thay đổi chiến pháp. Nó nghĩ hạ được Trương Thanh rồi, Quan Sơn Nguyệt sẽ là mồi dễ dàng của nó.
Nó nhìn nàng trừng trừng.
Nàng cũng nhìn nó lom lom.
Bỗng, nó đập duôi xuống đất kêu một tiếng «bịch», rồi bốn chân hỏng đất, thân hình lao vút tới.
Trong tay không có một tấc sắt, gia dĩ nàng không thể bỏ Quan Sơn Nguyệt, nhảy tránh cái vồ của con thú. Nàng liều lĩnh đứng nguyên tại chỗ.
Nàng đứng lặng, nhưng con thú không đứng lặng, bởi nó đã vọt sang. Nó vọt rất nhanh. Hai chân trước của nó sắp chụp xuống hai đầu vai của nàng. Đồng thời, nó há rộng miệng ra, bày răng bén nhọn, như chực ngoạm đầu nàng.
Miệng con thú gần mặt Trương Thanh quá, mùi hôi bốc ra nồng nặc làm nàng buồn nôn.
Miệng thú há rộng, răng bày chơm chởm, nếu miệng nó phập lại thì trọn chiếc đầu của Trương Thanh bị tiện lìa, đừng nói là một phần bị táp mất.
Trương Thanh hoảng hốt, không còn làm sao hơn là liều lĩnh thọc một cánh tay vào miệng thú.
Thọc một cánh tay vào miệng thú, nàng có hai chủ ý. Một là cánh tay đó sẽ quậy trong miệng thú, gây thương tích cho nó. Hai là thú nào cũng mê mồi, ngoạm được rồi thì không còn nghĩ đến miếng mồi kế cận. Miếng mồi kế cận là Quan Sơn Nguyệt, nàng cốt làm sao dời sự chú ý của con thú về nàng, nàng sẵn sàng chịu đựng mọi hiểm nguy để cho Quan Sơn Nguyệt được an toàn. Nàng có ngu dại gì chẳng biết cánh tay thọc vào miệng beo là cánh tay bỏ đi, beo ngậm miệng lại là cánh tay bị tiện lìa.
Con beo trắng khép miệng lại. Song, chẳng rõ tại sao nó không khép mạnh.
Nhờ vậy, cánh tay của nàng không bị tiện, bất quá mấy chiếc răng con beo cắm vào da thịt nàng thôi.
Hai chân trước của nó xuống sát đầu vai nàng, thay vì nó ấn mạnh chân xuống, thì nó lại rút về, qua cái rút đó, nó vuốt đôi chân đầy móng nhọn trên ngực nàng. Mảng áo ngực rách bươm, da rách, thịt rách, máu tươm ra liền.
Tại sao nó không giết nàng? Nàng đứng áng trước Quan Sơn Nguyệt, giương tròn mắt nhìn con thú.
Thương tích trên mình nàng không nặng lắm, bất quá chỉ là những vết xây xát, máu chỉ rướm ra một lúc rồi ngưng đọng.
Bỗng, nàng nhớ lại một việc. Ngày trước, phụ thân nàng có nhổ một cái răng của nàng thay vào đó bằng một chiếc răng giả. Tong chiếc răng giả có chứa chất độc.
Bây giờ, nàng cắn vỡ chiếc răng đó, phun độc sang con thú thì nó phải chết, nhưng làm vậy nàng cũng phải chết luôn vì chất độc đó hại được nàng như hại đối phương.
Bất quá, phụ thân nàng làm cái việc đó là để cho nàng tự vệ, bảo toàn danh tiết nếu gặp trường hợp bị cưỡng hiếp, tuy nàng không sống được, mà kẻ bạo cũng đi đời, danh tiết nàng được gìn giữ trong trắng.
Nàng đã quyết tâm bảo vệ sinh mạng cho Quan Sơn Nguyệt sẵn sàng tiếp nhận mọi hiểm nguy, sẵn sàng hy sinh thì có chết cũng là một việc đương nhiên, miễn sao con thú đừng làm hại Quan Sơn Nguyệt là được.
Nhưng, nàng lại nghĩ, giải pháp đó cũng không ổn. Bởi Quan Sơn Nguyệt thì hôn mê trầm trầm, đã chắc gì sau khi nàng hy sinh, yđược cứu? Trong khi y nằm thoi thóp tại đây, chờ đợi một bất trắc hoặc một nhiệm mầu, nếu có một con beo thứ hai xuất hiện thì sao?
Nàng nhìn con beo, beo nhìn nàng, song phương một người một thú ghìm nhau, như hai kẻ tử thù.
Con beo tiến tới.
Một bước, rồi hai bước, rồi ba bước ...
Khoảng cách giữa người và thú còn độ bốn năm thước. Khoảng cách đó chẳng ra gì, nếu một bên vọt tới là tới ngay bên kia.
Bỗng, con beo nhún chân vọt lên cao, qua khỏi đầu nàng đáp xuống phía hậu, ngay trên mình Quan Sơn Nguyệt. Con beo không ngoạm nát thân thể y, không dùng chân cào cấu trên mình y.
Mà Trương Thanh cũng chẳng còn cắn vỡ chiếc răng phun độc kịp.
Con beo há miệng, cắn ngực áo của Quan Sơn Nguyệt, nhấc bổng y lên, rồi phóng chân chạy đi như bay.
Trương Thanh xanh mặt, cấp tốc phóng chân đuổi theo. Nàng chẳng rõ tại sao bỗng nhiên nàng có sinh lực dồi dào, đuổi theo con thú như chẳng hề trải qua mệt nhọc trong những ngày dài trên con đường nghìn dặm, cộng thêm cuộc giao đấu vừa qua.
Động tác của nàng nhanh quá, con beo vừa phóng đi, nàng đã tới sát phía bên nó. Nàng vươn tay, chụp trúng đuôi nó, rồi trụ bộ trì đuôi nó giữ lại. Nàng dụng lực quá mạnh, vừa kéo đuôi con beo, vừa bóp mạnh tay.
Con beo đau quá, rống lên một tiếng kinh hồn. Nó rống lên, mồm há ra, Quan Sơn Nguyệt rơi xuống đất.
Đuôi bị Trương Thanh nắm chặt, nó uốn cong mình qua một bên, há miệng táp vào tay nàng.
Nàng đảo bộ tràn theo đà xoay của con thú, thành ra người và thú xoay tròn tròn, đà xoay rất nhanh, trông hết sức ngoạn mục.
Người và thú xoay quanh như vậy được một lúc, Trương Thanh cảm thấy choáng váng, suýt hôn mê mấy lượt.
Hơn nữa, tuy con beo không gây thương tích nặng nề trên mình nàng, dù sao cũng là thương tích, tét da, rách thịt, máu chảy. Máu nơi các vết thương đã khô, bây giờ nàng cử động mạnh trở lại, máu khô tróc ra, máu tươi lại rịn.
Nàng càng xoay nhanh người, máu càng bị động, chảy nhiều hơn. Máu rơi đỏ lốm đốm trên mặt tuyết.
Nàng vừa đau đớn, vừa mệt, cố gắng tri trì với con beo một lúc nữa, cuối cùng, đuối sức, nàng buông lỏng tay thì con beo sẽ nhào tới Quan Sơn Nguyệt ...
Đo đó, nàng càng cố đeo cứng vào đuôi con beo và chừng như lúc này nàng không còn kéo giật con thú nữa, mà chính là nó hăng say quay cuồng, lôi cuốn nàng theo vòng tròn với nó.
Làm mọi cách không làm sao cho nàng buông tay được, con thú nổi dã tính lên, nó rống một tiếng, chuyển động cả vùng núi hoang vắng, thay vì nó cứ chạy vòng vòng, nó lại tung mình lên không, cao hơn một trượng. Đương nhiên, nó lôi Trương Thanh theo lủng lẳng dưới đuôi nó. Rồi nó đáp xuống liền.
«Bình!» Nó đáp như vậy, chính Trương Thanh phải chạm mình vào tuyết trước nó. Nàng nghe đau nhói toàn thân, song vẫn còn bám tay nơi đuôi nó.
Nó lại tung mình lên không lượt nữa, định dùng cách nhảy lên đáp xuống, bức bách Trương Thanh phải buông tay.
Trương Thanh kinh hãi, nghĩ nếu để nó hạ xuống lần nữa, nàng bị chạm tuyết hẳn không thể chịu đựng nổi cái đau, nếu nàng không chịu nổi cơn đau, hẳn phải buông tay và như vậy là con beo được tự do, nó sẽ chụp Quan Sơn Nguyệt.
Không còn do dự được nữa, nàng thấy cần phải cắn bể chiếc răng giả có chứa thuốc độc, hạ ngay con beo, dù nàng có bị hại cũng đành.
Nhưng nàng chưa kịp cắn bể chiếc răng độc, bỗng nàng nghe tiếng gió rít lên, rồi một mũi cương xoa, chẳng rõ phát xuất từ đâu bay đến nhắm đúng lưng con beo mà lao vào.
Lúc đó, con beo chưa lên cao lắm, nó hoảng sợ, vội nhào xuống, nhờ khoảng cách không xa nên Trương Thanh chẳng đau đớn như lần trước.
Vừa lúc đó, một bóng người xuất hiện, đồng thời cao giọng mắng con thú:
– Súc sanh! Ngươi lại động dã tánh, muốn hại người phải không?
Đúng lúc người đó xuất hiện, Trương Thanh cảm thấy điểm khí lực cuối cùng còn lại nơi nàng tiêu tan mất. Tự nhiên nàng lỏng bàn tay.
Vì dù nàng có quyết nắm chặt nữa, còn đủ khí lực nắm chặt nữa, nàng cũng không kềm giữ con báo lại nổi.
Con báo tận dụng tất cả sức lực của nó, phóng mình chạy như bay thoáng đã mất dạng.
Bây giờ Trương Thanh lưu ý nhận xét người vừa xuất hiện.
Người đó, là một trung niên thiếu phụ, có thân vóc cao lớn.
Nàng chỉ nhận xét được bao nhiêu đó thôi, bỗng cảm thấy hôn mê liền.
Các diễn tiến vừa qua khích động nàng mãnh liệt, điểm lý trí cuối cùng đã ly khai nàng, nàng chìm trong hôn mê nhanh chóng sau khi không còn vận dụng bản năng tự vệ chi trì với con beo trắng nữa.
Khi nàng tỉnh lại, nàng nghe bao nhiêu đau đớn, nhọc mệt trong người tan biến mất, tinh thần phấn chấn trở lại như lúc bình thường.
Nàng đang nằm, vùng ngồi dậy nhìn quanh. Thì ra nàng được đưa về một sơn động trên bốn bức vách chung quanh có rất nhiều da thú.
Lý trí trở lại với nàng, điều lo ngại nhất cho nàng chẳng phải là trường hợp của nàng, chẳng phải cái khung cảnh hiện tại bao quanh nàng. Vừa tỉnh lại là nàng nghĩ ngay đến Quan Sơn Nguyệt.
Nàng tự hỏi:
“Quan đại ca chết rồi hay còn sống? Nếu còn sống, hiện giờ đại ca ở đâu?”.
Khoảng động quanh nàng không rộng lắm! Bất quá là một diện tích độ vài trượng vuông, trong không gian vài trượng vuông đó, chỉ có mấy vật dụng thông thường.
Chẳng có một bóng người thấp thoáng lai vãng. Như vậy còn biết hỏi ai?
Như vậy, làm sao biết được sự tình?
Nàng cấp tốc hất chăn, vẹt màn, nhảy xuống giường định bước ra ngoài quan sát địa điềm. Nhưng chân nàng vừa chạm nền động, nàng nghe lạnh mình.
Cái lạnh không do một niềm sợ hãi, cái lạnh không do khung cảnh, mà chính do nàng.
Không một mảnh vải nào trên thân mình! Nàng hoàn toàn trần truồng, như con nhộng!
Tuy trong lòng động chẳng có một bóng người, song nàng vẫn nóng mặt. Y phục của nàng đâu? Tại sao nàng trần truồng? Bây giờ lấy gì để che thân thể lõa lồ?
Nàng hoành tay vớ lấy chiếc chăn trên giường đá, quấn vội quanh mình.
Nàng vừa làm cái việc đó, vừa tự hỏi:
“Nơi đây là đâu? Ai đưa ta về đây? Tại sao lại cởi y phục của ta đi? Tại sao lại giấu mất y phục của ta? Ít nhất cũng phải để trên giường cạnh chỗ ta nằm chứ?”.
Tuy nhiên, mất y phục nàng không quan tâm lắm, dù sao thì cũng có chiếc chăn quấn đó, tạm che giấu thân mình được rồi, điều mà nàng quan tâm nhất là tình trạng của Quan Sơn Nguyệt.
Thân thể không lõa lồ nữa, nàng lại định bước ra khỏi khoảng động.
Bên ngoài cửa là một gian thạch thất, tương đối rộng hơn gian của nàng. Nơi đó chất chứa vô số vật dụng hỗn tạp.
Tại một góc, bộ y phục của nàng còn đó, song rách tơi tả trông thảm vô cùng. Giả như chẳng có chiếc chăn, chắc chắn nàng không thể mặc bộ y phục đó trở lại. Bởi mặc y phục đó vào rồi, có khác nào nàng trần truồng? Bộ y phục chẳng còn một khoảng vải nào đủ che chở một bộ phận kín trong người nàng thì làm sao nàng dám mặc? Mà mặc để làm gì, bởi mặc cũng như trần truồng?
Trông thấy bộ y phục, nàng chực nhớ lại cái cảnh đã trải qua trước đó. Con beo trắng đang vấu nàng. Rồi một thiếu phụ xuất hiện, quát đuổi con beo, nàng bất tỉnh luôn.
Nàng chẳng biết mình nữa thì làm sao biết được Quan Sơn Nguyệt an nguy như thế nào? Có thể là thiếu phụ đưa nàng về đây. Còn Quan Sơn Nguyệt?
Thiếu phụ bỏ lại đó, hay cũng đưa chàng về đây? Hay lại an trí chàng một nơi nào khác? Hoặc giả, chàng đã chết rồi và thiếu phụ vì lòng nhân đạo, mai táng chàng ở đâu đó?
Trăm ngàn nghi vấn hiện lên trong tâm tư, Trương Thanh thừ người đứng lặng.
Chẳng biết nàng sảng sốt được bao lâu, bỗng một bóng người hiện ra nơi khung cửa. Thiếu phụ bước vào.
Dù trong cơn thảng thốt, gặp thiếu phụ rồi mê luôn, Trương Thanh vẫn còn nhớ rõ con người đã cứu nạn nàng.
Thiếu phụ vác trên vai một con nai. Thấy Trương Thanh, thiếu phụ nở một nụ cười hiền dịu, gương mặt lộ vẻ từ hòa. Bà cất tiếng:
– Tiểu cô nương! Tiểu cô nương đã tỉnh lại rồi phải chăng? Trời nào có phải dễ dàng đâu, cô nương! Hơn mười mấy hơm rồi đó! Ngày nầy qua ngày khác, ta lo sợ cho cô nương biết bao! Khí lực của cô nương quá kiệt quệ! Ta nhìn máu đổ chung quanh chỗ gặp cô nương phải lắc đầu kinh hãi. Mất máu như vậy mà cô nương còn tri trì được với con thú, cô nương có thể hồi sinh! Thật trên chỗ tưởng tượng của ta!
Trương Thanh hấp tấp hỏi:
– Bà nói sao? Tôi đã hôn mê hơn mười hôm rồi à?
Thiếu phụ mỉm cười:
– Phải đó, hơn mười hôm rồi, cô nương ơi! Trong thời gian đó, cô nương mê man, nếu ngực không còn thoi thóp nhẹ, thì có khác nào người chết?
Rồi thiếu phụ trầm giọng:
– Theo tôi nghĩ, ít nhất cô nương cũng phải tịnh dưỡng ba tháng sau thời gian đó cô nương mới có hy vọng khôi phục nguyên trạng. Sống lại được đây, kể ra cô nương có chân lực hơn người ...
Trương Thanh hấp tấp hỏi:
– Còn Quan đại ca của tôi?
Thiếu phụ lại cười:
– Cô nương hỏi về tiểu tử đó à? Kỳ quái thật! Hắn chẳng có một vết thương nào trên cơ thể, thế mà hắn không cử động được. Tôi chẳng biết làm sao hơn, đành đưa hắn đến Tuyết Lão Thái Thái!
Trương Thanh giật mình:
– Tuyết Lão Thái Thái là ai? Tại sao bà lại đưa Quan đại ca đến thái thái?
Thiếu phụ điềm nhiên:
– Tuyết Lão Thái Thái là một thần y, một thánh thủ đương thời, tiểu tử có chứng bịnh kỳ quái như vậy, ngoài Thái Thái ra, còn ai biết căn nguyên như thế nào mà chữa trị cho hắn? Bên trong, hắn có bịnh gì đó, tôi chẳng biết được đã đành, nhưng bên ngoài, hắn mang nhiều dấu vết do móng beo để lại, cũng đáng ngại lắm.
Rồi, bà tiếp:
– Riêng về tôi, tôi cũng khá rành về y thuật, cho nên, trên mình cô nương có nhiều dấu móng beo, tôi vẫn trị lành được như thường, bây giờ chẳng còn một vết sẹo nào cả, cô nương hãy kiểm soát lại xem thì biết rõ.
Trương Thanh hết sức nghi hoặc. Một thần y tại Côn Lôn Sơn!
Tại Côn Lôn Sơn có bao nhiêu thần y? Nếu chỉ có một người thì người đó chính là người có sự bất hòa với gia gia nàng. Và, Tuyết Lão Thái Thái hẳn nhiên là người đó! Nếu đúng là Tuyết Lão Thái Thái thì tịa sao gia gia nàng lại bất hòa với bà ấy?
Nàng trầm ngâm một lúc, đoạn hỏi:
– Tuyết Lão Thái Thái ở đâu? Tôi muốn đến đó xem cho biết Quan đại ca của tôi ra sao hiện giờ.
Thiếu phụ khoát tay:
– Đừng đến đó, cô nương! Tuyết Lão Thái Thái có đến đâ nhìn qua cô nương một lần, bà có dặn tôi, tuyệt đối không thể để cho cô nương đi đâu, dù là đi gặp bà. Cho nên tôi mới giữ cô nương lại đây, săn sóc cho cô nương. Nơi đây, chỗ hẹp, người ít, bất quá chỉ dung chứa một người tạm trú mà thôi, do đó tôi giữ cô nương lại, còn tiểu tử thì đưa về chỗ ở của Thái thái. Khi nào có lệnh của Thái thái, tôi mới có thể để cho cô nương đi.
Trương Thanh lấy làm lạ:
– Tại sao Tuyết Lão Thái Thái không muốn cho tôi gặp bà?
Thiếu phụ lắc đầu:
– Tôi làm sao hiểu được ý tứ của Thái thái? Con beo trắng đó là gia súc của Thái thái, từ lâu nó không hề hại người, chẳng hiểu tại sao hôm đó nó lại chống cự với cô nương, còn Thái thái thì tôi cũng chẳng biết có thành kiến gì đối với cô nương, người không thích cô nương lắm. Tôi phải khẩn cầu tha thiết, nhưng người vẫn không chịu ra tay chữa trị, tôi không nỡ bỏ cô nương với tình trạng đó đành phải tận dụng sở năng, may thay cô nương lại hồi tỉnh!
Rồi, bà hỏi:
– Cô nương có mối thù chi với Thái thái không?
Trương Thanh lắc đầu:
– làm gì có thù? Bình sanh tôi đâu biết mặt Thái thái!
Thiếu phụ gật đầu:
– Phải! Phải! Cô nương chưa được hai mươi tuổi, trong vòng hai mươi năm qua, Tuyết Lão Thái Thái không hề rời khỏi sơn động đi đâu thì làm gì cô nương gạp bà mà biết mặt?
Bà trầm ngâm một lúc, đoạn lẩm bẩm:
– Lạ thật! Lạ thật! Tôi suy nghĩ mãi, chẳng hiểu tại sao Tuyết Lão Thái Thái lại không thích cô nương!
Thiếu phụ không biết, Trương Thanh đã biết rồi. Bây giờ thì nàng không còn nghi hoặc nữa.
Nàng giống cha, ai có quen biết với gia đình nàng, nhìn qua nàng là có thể nhận ra nàng là con gái của gia gia nàng ngay. Tuyết Lão Thái Thái nào đó, có biết gia gia nàng nên nhận ra nàng dễ dàng. Rồi nhân có thù với gia gia nàng, sanh hận luôn nàng, mặc dù nàng là kẽ vô tội, không liên quan gì đến mối hiềm khích xa xôi.
Thiếu phụ suy nghĩ một lúc lâu, đoạn hỏi:
– Cô nương đưa tiểu tử đó đến Côn Lôn Sơn làm gì?
Bỗng, bà kêu lên:
– Đúng rồi! Cô nương có quen biết Tuyết Lão Thái Thái! Cho nên cô nương đưa tiểu tử đó đến đây nhờ Tuyết Lão Thái Thái chữa trị chứng bịnh cho hắn!
Rồi, bà gằn giọng:
– Có đúng vậy không cô nương?
Trương Thanh lắc đầu:
– Từ bao giờ, tôi chưa hề gặp Thái thái lần nào! Chỉ vì Quan đại ca tôi trúng phải một chất độc cực kỳ lợi hại, những người biết ít nhiều việc giang hồ bảo rằng tại Côn Lôn Sơn có một vị cao nhân mai danh ẩn tích qua nhiều năm, tinh thông y thuật, có tải cải tử hoàn sanh, do đó tôi chẳng quản đường xa, đưa Quan đại ca đến đây, nhờ vị cao nhân đó chữa trị. Thật sự tôi cũng chẳng biết vị cao nhân đó danh hiệu là chi, ở tại khu vực nào trên đỉnh Côn Lôn Sơn này.
Nàng thở ra, tiếp nối như tự nói với mình:
– Chẳng hay Tuyết Lão Thái Thái có phải là vị cao nhân đó chăng?
Thiếu phụ điểm một nụ cười:
– Chính là Lão Thái Thái đó. Bởi tại Côn Lôn Sơn, người ẩn tích mai danh không nhiều, mà trong số người ẩn tích đó, am tường y thuật chung quy chỉ có mỗi một mình Tuyết Lão Thái Thái mà thôi. Thảo nào mà người chẳng hận cô nương?
Bà giả thích:
– Tuyết Lão Thái Thái ưa nhàn tịnh, không chịu bị ai quấy nhiễu. Cô nương đưa người đến nhờ Thái Thái chữa trị, tức nhiên cô nương gây phiền phức cho bà đấy!
Trương Thanh kinh hãi:
– Thế à?
Thiếu phụ gật đầu:
– Thái Thái có tánh rất quái dị. Bà từng cho tôi biết, trên thế gian này, bà chỉ có cừu nhân chứ tuyệt nhiên không có một người bằng hữu. Đương nhiên, cô nương còn ter quá, chắc chắn không phải là cừu nhân của bà rồi. Song biết đâu, cái người chỉ dẫn cô nương đến đây lại không là một cừu nhân của Thái Thái?
Thái Thái có cần gì xét đến ủy khúc của sự tình? Cho nên bà cứ xem cô nương như một cừu nhân, hoặc có liên hệ với một cừu nhân. Bà không thích cô nương là thế đó!
Thiếu phụ kết luận:
– Nếu bà lầm cô nương thì sự lầm lạc đó cũng có lý do, cũng hợp lý lắm!
Trương Thanh thán phục lập luận của thiếu phụ. Và con người có lập luận như vậy hẳn phải giàu kinh nghiệm trường đời.
Tuy nhiên, nàng làm sao đem trường hợp của phụ thân nàng nói hết cho thiếu phụ nghe? Bất quá, nàng chỉ biết là giữa phụ Thái thái và Gia gia nàng có sự bất hòa, còn như tại sao song phương sanh mối bất hòa đó thì nàng hoàn toàn chẳng hiểu chi cả. Dù bây giờ nàng muốn nói lắm, cho thiếu phụ nghe, nàng cũng chẳng biết phải nói làm sao. Nếu như thiếu phụ đi sâu vào chi tiết, nàng lại thêm khó khăn.
Nàng từ từ chuyển câu chuyện quanh ra ngoài vấn đề đó và đổi lối xưng hô luôn:
– Dám hỏi danh tánh đại nương là gì? Tại sao sống đơn độc tại vùng hoang vắng cô tịch như thế này?
Thiếu phụ thở dài:
– Nói đến danh tánh tôi làm chi? Năm xưa, thực sự thì ... cũng có lúc tôi tung hoành ngang dọc trên khắp sông hồ ... Chỉ vì ... Thôi, bỏ qua việc đó đi!
Bà dừng lại một chút, lại tiếp:
– Tôi họ Bành, cô nương cứ gọi tôi là Bành đại nương cũng được rồi. Còn cái tên, có cần chi cô nương phải biết? Hai mươi lăm năm trước, tôi thọ thương.
Tôi bị cừu nhân bức đuổi, chạy đến chân núi Côn Lôn, may mắn gặp Tuyết Lão Thái Thái. Thái Thái đánh đuổi kẻ thù của tôi, chữa trị thương thế cho tôi. Từ ngày đó, tôi lưu lại ngọn núi nầy, tuy có phần cô quạnh, song được cái an nhàn bù lại.
Lâu dần thành tánh, tôi thích thanh tịnh nên quên mất sự nhiệt náo trên giang hồ.
Bởi thế, tôi chấp nhận luôn kiếp sống ẩn dật này, như các bậc chân tu, như các vị tiền bối chưa gần tiên nhưng đã xa tục.
Vốn chưa từng giẫm bước trên giang hồ, Trương Thanh đương nhiên không thể có sự nhận xét thích đáng về mỗi người mà nàng gặp gỡ trên những đoạn đường qua, cho nên về quá khứ của thiếu phụ này, nàng không hề có một ấn tượng rõ rệt.
Vả lại, hiện giờ nàng đâu còn tâm tư nghĩ đến việc gì ngoài sự an nguy của Quan Sơn Nguyệt? Cho nên, thiếu phụ nói sao về bà, nàng cứ nghe vậy, nghe để giữ tròn lễ độ đối với người cứu mạng, chứ không thích thú nghe. Nàng không hỏi han chi cả, khi thấy thiếu phụ ngưng thốt, nàng liền hỏi:
– Tuyết Lão Thái Thái có thể chữa trị cho Quan đại ca tôi lành mạnh chăng?
Nếu có thể chữa trị, thái thái có ưng thuận ra tay tế độ chăng? Đành rằng Thái Thái không thích thấy mặt tôi, song tôi thì dù sao cũng cần gặp bà, gặp để biết tình trạng của Quan đại ca tôi như thế nào, gặp để van cầu bà chữa trị cho Quan đại ca tôi, nếu bà có ý từ khước ...
Bành đại nương khẽ thở dài:
– Từ lúc tôi đưa tiểu tử đến Tuyết Thần Cốc cho lão Thái Thái, đến nay tôi chưa gặp lại bà ngoài cái lần bà dên đây nhìn qua cô nương! Tôi cũng có đến đó mấy phen, song lần nào đến tôi cũng bị Linh Linh cản trở, không để cho tôi vào gặp mặt lão Thái Thái. Như vậy, tôi làm sao biết được tiểu tử hiện giờ như thế nào?
Trương Thanh giật mình:
– Linh Linh là ai?
Bành đại nương «hừ» một tiếng:
– Đồ đệ của Tuyết Lão Thái Thái! Con liễu đầu đó cái tật quá nặng, tật của nàng còn nặng hơn tật của lão Thái Thái! Gặp bất kỳ ai cũng cảm thấy bực tức, bởi chẳng ai chịu nổi cái tật của nàng. Nàng chẳng bao giờ nghe ai giảng lý, nàng cố chấp đến độ có thành kiến quái dị đối với bất cứ ai, bất cứ việc gì trên đời này.
Thực ra, vì tôi nể Tuyết Lão Thái Thái, bởi bà có cái ơn tái tạo đối với tôi, chứ như con liễu đầu Linh Linh đó, tôi nào có xem ra gì? Phi Thiên Dạ Xoa này từ ngày xuất hiện trên giang hồ, chưa hề biết ngán sợ ai, dù là Lạc Hồn Cốc cũng chẳng có giá trị gì trước con mắt của tôi!
Trương Thanh kinh hãi, kêu lên thất thanh:
– Lạc Hồn Cốc? Linh Linh? Linh Linh là con gái của Khổng Văn Thông sao đại nương?
Đến lượt Bành đại nương giật mình, song bà lấy ngay bình tĩnh, điểm nụ cười lạnh, hỏi:
– Cô nương cũng biết cái lão Khổng Văn Thông nữa à?
Bà có vẻ bất mãn rõ rệt. Bà đã tự tiết lộ thân thế của bà là Phi Thiên Dạ Xoa, từng gây chấn động trên giang hồ một thuở, bà tiết lộ cho Trương Thanh rõ, đáng lẽ Trương Thanh phải trố mắt, phải hãi hùng, phải thán phục và phải hỏi nhiều, hỏi gấp về những thành tích của bà. Nhưng, nàng lờ đi, như nghe nói đến một chiếc lá vàng rơi rụng bên cạnh đường qua. Chẳng những nàng lờ về sự việc của bà, nàng lại hấp tấp hỏi về Khổng Văn Thông! Chính bà đã tỏ rõ cái ý khinh thường Cốc chủ Lạc Hồn Cốc còn nàng lại chú ý một cách đặc biệt, thế ra Khổng Văn Thông là nhân vật quan trọng hơn bà sao?
Trương Thanh đã hiểu Linh Linh là con gái của Khổng Văn Thông, Linh Linh hiện đang ở cạnh Tuyết Lão Thái Thái, mà Quan Sơn Nguyệt thì lại ở trong tay lão Thái Thái, hiểu được điều đó, tự nhiên nàng phải lo lắng phi thường. nàng còn nghĩ gì đến những việc khác? Chẳng trách nàng không quan tâm đến sự tiết lộ thân thế của đại nương! Và nàng làm sao nhận thấy kịp cái vẻ bất mãn nơi gương mặt của đại nương?
Nàng khẩn trương rõ rệt, thốt gấp:
– Vô luận làm sao, tôi phải đến Tuyết Thần Cốc, gặp Quan đại ca tôi mới được! Nếu không thì ...
Nàng kêu lên:
– Nguy lắm, đại nương ơi!
Bành đại nương kinh dị, trố mắt hỏi:
– Tại sao? Cái gì nguy cấp mà cô nương khẩn trương cực độ như thế? Cái gì làm cho cô nương biến đổi lạ lùng thế?
Trương Thanh lấp vấp thốt, vì nàng mất cả bình tĩnh:
– Đừng hỏi gì hết, đại nương! Tôi phải đến đó, đến gấp! Nếu Khổng Linh Linh biết được thân thế Quan đại ca tôi thì cầm như hỏng, hỏng tất cả! Quan đại ca tôi phải táng mạng nơi tay nàng, đại nương ơi!
Bành đại nương hết sức lạ lùng, trố mắt hỏi:
– Tại sao? Cô nương sợ cô bé Linh Linh đó ăn tươi nuốt sống tiểu tử họ Quan ấy à? Thực sự thì, quỷ liễu đầu Linh Linh đã học chân truyền của Tuyết Lão Thái Thái, song tôi thì tôi chẳng hề xem nó ra quái gì. Nếu không nể mặt lão Thái Thái, tôi đã băm xác nó ra thành ngàn vạn mảnh tử lâu! Cô nương không việc gì phải sợ nó. Có điều chi cứ tỏ cho tôi biết, tôi sẵn sàng tiếp trợ cô nương.
Chứ hành động loạn lên, chỉ có hại mà không lợi mảy may nào. Vả lại, không chắc gì chúng ta lọt vào Tuyết Thần Cốc, gặp lão Thái Thái đâu! Quỷ liễu đầu đó sẽ ngăn trở chúng ta là cái chắc!
Trương Thanh biết đại nương nói thật chứ không tìm cách dọa khiếp nàng.
Dù sao thì nàng cũng thấy là còn có cái may, bởi Bành đại nương bất mãn Linh Linh, tức nhiên hận Linh Linh, nếu có cuộc xô xát với Linh Linh, nàng sẵn có một viện thủ. Giả như Tuyết Lão Thái Thái có quở trách nàng thì Bành đại nương sẽ hết lòng biện hộ.
Bây giờ, nàng có nói thật sự tình cũng chẳng sao. Nàng thốt:
– Quan đại ca tôi, tên thật là Quan Sơn Nguyệt, sau này đổi tên Nguyệt thành tên Minh, điều đổi tên đó rồi sau tôi sẽ giải thích cho đại nương hiểu một ngày nào đó, chứ hiện giờ thì không cầ n thiết lắm. Quan đại ca tôi là đồ đệ duy nhất của Độc Cô Minh ...
Bành đại nương kinh hãi:
– Sao? Ngươi nói sao? Tiểu tử là đồ đệ của Độc Cô Minh có ý tứ gì? Bình sanh lão ấy có bao giờ chịu thu nhận đồ đệ?
Trương Thanh hấp tấp giải thích:
– Đại nương đừng nghi ngờ! Độc Cô tiền bối đã chết rồi! Sự thật thì Độc Cô tiền bối có thu nhận một đồ đệ duy nhất và người đồ đệ đó chính là Quan đại ca tôi.
Bành đại nương lộ vẻ thê thảm ra mặt, thốt qua mơ màng:
– Chết rồi! Một con người chết dễ, chết nhanh như thế được sao?
Bà hỏi:
– Lão ấy chết trong trường hợp nào?
Trương Thanh đáp:
– Tôi cũng chẳng biết rõ nữa đại nương! Để sau này, Quan đại ca sẽ nói cho đại nương hiểu.
Bành đại nương lấy lại bình tĩnh, hỏi tiếp:
– Được rồi. Bây giờ ta muốn biết sự việc của tiểu tử. Hắn làm sao mà cô nương lo lắng thế?
Trương Thanh thốt:
– Quan đại ca trúng độc của Khổng Văn Thông. Bù lại, đại ca tôi đã sát hại lão ấy rồi. Nếu sự việc này thấu tai Khổng Linh Linh, nhất định nàng sẽ báo thù ...
Bành đại nương giật mình, biến hẳn sắc mặt!
– Nguy! Nguy lắm!
Bà suy nghĩ một chút rồi tiếp:
– Tuy vậy, cũng chẳng cần gì phải vội. Khổng Linh Linh theo Tuyết Lão Thái Thái từ thuở nhỏ, chính phụ thân nó cũng chẳng biết nó ở đâu. Dù có biến cố lớn lao như vậy, chưa chắc gì tin tức đến với nó sớm!
Nhưng Trương Thanh làm sao yên tâm được? Nàng hấp tấp thốt:
– Nếu Quan đại ca vô tình tiết lộ thì làm sao?
Bành đại nương lại giật mình:
– Nếu thế thì đáng lo lắm! Mình không thể không đi gấp được! Cô nương ở đây chờ tôi nhé, tôi đi lấy y phục cho, thay đổi xong rồi, mình đi liền ...
Tư Mã Tử Yên
Võ Lâm Phong Thần Bảng
Hồi 6
Nghi Vấn Trùng Trùng
Trương Thanh mặt bộ y phục bằng da nai, dĩ nhiên bộ y phục đó, là vật của Bành Đại Nương, rộng và dài.
Dài, có thể cắt ngắn, còn rộng thì trong nhất thời họ chẳng có thì giờ sửa chữa cho vừa vặn. Để giảm cái phùng phình của bộ y phục, Trương Thanh lấy một đường dây cột ngang mình.
Y phục da nai, mặc trên núi cao, có cái công dụng ngừa khí lạnh, song có cần gì bộ y phục đó, Trương Thanh vẫn nghe nóng trong người, nóng đến khó chịu. Nhiệt độ đó, do tâm tư sanh ra, bao nhiêu lo âu, sợ hãi dập dồn, xáo trộn lòng nàng, rồi khẩn trương lại từng phút từng tăng, nàng còn nghĩ gì đến ngoại vật nữa?
Nàng nóng nảy vô cùng, nóng nảy bên trong đánh đuổi cái lạnh bên ngoài, giả như hiện tại, không gian không lạnh, chắc chắn nhiệt độ trong người nàng bốc cao hơn, làm nàng điên mất. May nhờ cái lạnh bên ngoài hạ thấp nhiệt độ của nàng, nàng nghe nhẹ phần nào.
Bao nhiêu nghi vấn hiện ra trong đầu óc, nghi vấn chung quy cũng là nghi vấn, nàng không tìm được một giải đáp cho bất cứ nghi vấn nào, dù là miễn cưỡng.
Vượt qua một quãng đường dài, nàng vẫn còn cau mày.
Trong khi đó, chốc chốc, Bành Đại Nương lại lẩm nhẩm:
– Đã chết! Chết rồi! Tại sao ngươi chết dễ dàng thế?
Trương Thanh biết rõ, bà đang nghĩ đến Độc Cô Minh. Nàng tự hỏi:
“Bà ta có liên hệ như thế nào với Độc Cô Minh? Tại sao bà lo nghĩ quá độ về cái chết của Độc Cô Minh? Cái chết đó ảnh hưởng làm sao đến bà?”.
Núi quá cao, tuyết phủ đầu, trên tuyết còn có mây, mây như liền với trời.
Một nơi vừa huyền bí, vừa rùng rợn, ai đến đây rồi, hùng tâm dũng khí cũng phải giảm nhiều, nếu không mất hẳn. Trừ ra một ít người, từng sống tại đây, từng quen mặt biết những kẻ ẩn dật rải rác quanh vùng, số ít đó may ra còn thản nhiên được trước sắc thái hùng vĩ của vùng núi non chớm chở.
Đi một lúc lâu, họ đến trước sơn cốc.
Quanh năm suốt tháng, tuyết phủ dày trước sơn cốc, nghiễm nhiên trở thành một bức bình phong, che kín bên trong. Sau bức bình phong, có con đường nhỏ, hẹp, đường cũng lợp tuyết trắng xóa. Qua khỏi con đường đó là vào đến sơn cốc.
Hiện tại, giữa con đường nhỏ hẹp đó, con beo trắng ngày nào nằm ngay trên tuyết. Trông thấy Trương Thanh, nó nhìn thẳng vào mặt nàng, ánh mắt của nó hiện rõ cái ý thù địch. Nó lại gầm lên, như để báo động mà cũng để chuẩn bị tinh thần sắp sửa tái chiến với nàng.
Bành Đại Nương bước tới, cao giọng mắng:
– Súc sanh có cút đi không? Làm gì ngăn chặn lối đi của ta?
Con beo vẫn trừng mắt nhìn Trương Thanh, như tỏ cái ý là không chấp nhận cho nàng vào sơn cốc.
Bành Đại Nương đấm một đấm vào cổ nó, quát:
– Ta đưa người vào, là ta chịu trách nhiệm, ngươi có biết không? Hãy tránh ra cho ta đi!
Con beo «gừ gừ» mấy tiếng, rồi nép qua bên đường, đôi mắt vẫn đăm đăm nhìn Trương Thanh.
Bành Đại Nương vẫy tay, Trương Thanh bước tới liền, song nàng cố tránh xa xa con beo.
Cả hai đi tới. Không lâu lắm, họ đi hết con đường hẹp, đến một khoảng trống. Nơi đây, vẫn có tuyết phủ đầy, song cây to, tàng lớn, hoa không thiếu.
Cây vẫn xanh tươi, hoa vẫn nở đẹp. Cây và hoa chừng như không hề biết là có bốn mùa tám tiết trong một năm, hoa chỉ nở theo ý muốn của chủ nhân, bất cứ loại hoa nào, bất cứ thời gian nào ...
Đẹp! Còn gì đẹp hơn cảnh tuyết có hoa? Bởi những cảnh đó hi hữu là cái chắc. Dưới trần, hoa có nở, nhưng dưới trần làm gì có tuyết?
Tuyết chung quanh, tăng cái sắc thái khiết tinh cho hoa, hoa nở đẹp làm tiêu tan cái vẻ lạnh của tuyết. Do đó, người ngắm hoa, ngắm tuyết thích thú vô cùng, không hề nghe lạnh.
Trương Thanh buộc miệng tán:
– Đúng là một thắng cảnh!
Bành Đại Nương mỉm cười:
– Nơi đây nào có gì đáng gọi là thắng cảnh đâu? Cô nương vào sâu bên trong mới thấy những cái đẹp đáng ngắm!
Bà tiếp:
– Bên trong hoa toàn giống lạ, hoa nở đủ bốn mùa, hoa cũng nở sái mùa được như thường, chừng như hoa ở đây muốn nở lúc nào cũng được, tùy theo cái ý của chủ nhân. Hoa nở lại lâu tàn, đó mới là một điều lạ lùng nhất.
Bà tặc lưỡi tán:
– Tuyết Lão Thái Thái quả thật là con người phi thường, chẳng những về vũ thuật bà là một tay tuyệt vời, mà luôn về các môn học khác, như y học chẳng hạn, bà cũng là người lỗi lạc. Cả cái thuật trồng hoa, bà cũng tinh tường hơn bất kỳ ai!
Nhưng, cái đẹp trước mắt, dù hấp dẫn đến đâu cũng không làm sao khiến cho Trương Thanh xao lãng ý niệm về Quan Sơn Nguyệt.
Nhìn cảnh đẹp, bất quá nàng khen tặng một vài lời, rồi tâm tư nàng cũng hướng trở lại con người đã khắc ghi hình bóng sâu đậm trong ký ức nàng. Cho nên, Bành Đại Nương khoa trương tài học uyên bác của Tuyết lão thái thái, nàng có nghe gì đâu?
Cả hai cùng đi cùng đi tới ...
Xa xa, cạnh cội lão tùng, ẩn ước có hai bóng người đang ngồi, như cùng nhau tỉ tê tâm sự.
Một, là nữ lang, vận chiếc áo màu hồng. Một kia, là chàng trai khôi ngô, anh tuấn, vận chiếc áo xanh.
Trương Thanh giật mình, đưa tay chà mắt, tự hỏi:
“Ta có lầm chăng? Nếu không phải Quan đại ca của ta, thì là ai chứ?”.
Nàng khích động phi thường, chạy nhanh tới, vừa chạy vừa gọi:
– Quan đại ca!
Nhưng, nàng sững sờ, cấp tốc dừng chân lại ngay.
Nàng dừng chân đột ngột, nàng sững sờ, chẳng khác nào đang chạy rồi bị con beo trắng chận đường. Bởi, Quan Sơn Nguyệt lúc đó, giương tròn mắt nhìn nàng, nhìn như một người xa lạ, bình sanh chưa hề gặp nhau lần nào.
Trương Thanh nghe con tim nhói lên, qua phút giây sửng sốt lại bước tới, nắm tay chàng, khóc thành tiếng:
– Quan đại ca! Đại ca lành thương thế rồi phải không? Tại sao đại ca không quan tâm đến tiểu muội?
Quan Sơn Nguyệt rút tay về, chỉ nhìn nàng chứ không nói tiếng nào. Ánh mắt của chàng ngơ ngơ ngác ngác như chẳng hề nhận ra nàng là ai.
Trương Thanh càng khóc lớn hơn.
Trời! Trải qua bao nhiêu gian khổ, vượt ngàn dặm đưa chàng đến đây, tìm danh sư chữa trị độc cho chàng từ cái chết trở về cái sống. Làm tất cả cho chàng, để đánh đổi được cái gì? Một sự lạnh nhạt đến hãi hùng! Chàng đáp lại cho nàng sau bao nhiêu vất vả vì chàng như vậy đó sao? Chàng đáp lại tình nàng trong mấy năm dài chung sống bên cạnh nhau như vậy đó sao?
Bành Đại Nương thức tỉnh nàng ngay:
– Tiểu cô nương! Đừng gây dao động cho hắn. Cô nương không trông thấy đôi mắt của hắn sao? Hắn còn nhìn gì được nữa, mà có nhận hay không nhận ra cô nương?
Trương Thanh giật mình, nhìn kỹ đôi mắt của Quan Sơn Nguyệt. Đôi mắt lờ đờ, mất thần thấy rõ. Nàng nghĩ, có thể chàng mất luôn mọi tri giác khác.
Một con người mất cả tri giác còn có phản ứng gì trước mọi tiếp xúc? Con người đó, tuy còn biết đi, đứng, biết ăn ... song có khác gì hình gỗ?
Trong khi đó, nữ lang áo hồng lạnh lùng nhìn Bành Đại Nương, gằn từng tiếng:
– Bành Cúc Nhân! Ngươi to gan lắm đấy! Sư phụ ta đã mấy phen cho ngươi biết cái ý của người là chẳng bao giờ chấp nhận cho ngươi đưa nàng kia vào cốc. Tại sao ngươi cãi lời sư phụ ta? Ai cho phép ngươi tự tung tự tác thế chứ?
Bành Đại Nương «hừ» một tiếng:
– Ta làm việc gì, ta chịu trách nhiệm về việc đó, không ai mượn ngươi can dự vào!
Trương Thanh nghi quyết nữ lang là Khổng Linh Linh. Nàng hấp tấp hỏi:
– Khổng tiểu thơ! Quan đại ca của tôi làm sao thế này?
Đúng như nàng đoán, nữ lang chính là Khổng Linh Linh.
Khổng Linh Linh cười lạnh một tiếng:
– Ngươi không thấy chi hết sao, lại còn phải hỏi ta? Rành rành trước mắt ngươi đó mà?
Trương Thanh dù ngu xuẩn đến đâu cũng nhận ra ác cảm trong giọng nói của Khổng Linh Linh. Tuy nhiên, nàng cố nhẫn nại, trầm tĩnh thốt:
– Tôi hỏi, là hỏi về tình huống của chàng, tôi muốn biết chàng có hy vọng khôi phục nguyên trạng hay không ...
Khổng Linh Linh cười lạnh:
– Ngươi là chi của hắn, lại tỏ ra qua quan tâm như vậy?
Trương Thanh giật mình. Nàng phải đáp làm sao đây?
Bành Đại Nương gỡ rối cho nàng, bà điểm nụ cười lạnh, đáp thay:
– Nàng là vị hôn thê của thiếu niên đó. Vợ quan tâm đến chồng là lẽ đương nhiên!
Khổng Linh Linh biến sắc mặt, cao giọng hỏi dồn:
– Có chắc như vậy không?
Trương Thanh đỏ mặt. Đành rằng, nàng yêu Quan Sơn Nguyệt, nàng nuôi mộng trở thành vợ chàng. Cái ý nghĩ đó đã đến với nàng trong mấy năm qua, chứ chẳng phải mới đây. Như vậy là nàng rất quen với tiếng vợ, tiếng chồng, thế mà giờ đây, Bành Đại Nương nói đến cái việc nàng đã nghĩ đến từ lâu, nàng vẫn thấy thẹn như thường. Tuy sự thực là thế, dù chưa thành hôn, dù chưa được Quan Sơn Nguyệt chánh thức đáp ứng, nó vẫn là sự thực.
Đang nuôi mộng, nàng có thể phủ nhận lời tuyên bố của Bành Đại Nương chăng? Phủ nhận là đi ngược lại nguyện vọng của nàng, điều đó hẳn nàng không thể làm rồi! Còn thừa nhận? Tựa vào đâu, nàng dám thừa nhận một việc lớn lao? Vả lại hôn nhân là điều tối trọng trong một đời người, hôn nhân không thể được thừa nhận đơn phương, trừ khi có sự đồng ý của đối phương.
Không phủ nhận, không thừa nhận, nàng thừ người ra đó.
Bành Đại Nương một lần nữa giải nạn cho nàng. Bà nhếch nụ cười mỉa hỏi:
– Điều đó có quan hệ gì đến ngươi, sao ngươi muốn đi sâu vào đời tư của kẻ khác?
Chừng như Khổng Linh Linh sôi giận về Trương Thanh nhất là sau khi Bành Đại Nương tuyên bố như vậy. Nàng sôi giận, phải tìm cách phát tiết niềm phẫn nộ đó.
Chưa kịp trút nó lên đầu Trương Thanh, nàng lại bị Bành Đại Nương móc xéo, bất giác hét to:
– Bành Cúc Nhân! Ngươi ỷ trượng vào đâu lại dám buông những lời như thế với ta?
Bành Đại Nương cũng nổi giận:
– Câm ngay! Ngươi là cái quái gì, dám có thái độ khinh miệt đối với ta? Ta vì nể trọng Tuyết Lão Thái Thái, nên thường thường nhẫn nhịn, để cho ngươi có chút mặt mày, ngươi tưởng là mình cao quý lắm sao? Cho ngươi biết, đến thân phụ ngươi kia, gặp ta rồi còn phải nghiêng mình tỏ vẻ cung kính, chẳng hề dám gọi đến tên ta. Ngươi nên xét lại cái bé nhỏ của ngươi, khép mình trong khiêm cung từ tốn, có như vậy mới hưởng lộc lâu dài đó, cô bé ngu!
Khổng Linh Linh biến sắc mặt trắng nhợt, chỉ tay thẳng vào mặt Bành Đại Nương rít lên:
– Phi Thiên Dạ Xoa Bành Cúc Nhân! Đừng đem sự việc giang hồ hống hách dọa khiếp ta. Ta chỉ biết, ngươi chỉ xứng đáng làm một tên nô lệ cho sư phó ta, đã là tỳ bộc của sư phó ta, ngươi phải tuân theo mạng lịnh của ta. Ta ra lịnh cho ngươi rời ngay nơi này!
Nàng gằn từng tiếng:
– Ta bắt buộc ngươi ly khai ngay nơi này ngay, ngươi có nghe không?
Bành Đại Nương trầm giọng:
– Tại đây, không một ai ra lịnh đối với ta, trừ Tuyết Lão Thái Thái!
Khổng Linh Linh trợn tròn đôi mắt, tròng mắt như chực lọt ra ngoài. Nàng quát:
– Sư phó ta đang bế quan, nhập định. Ta thay mặt người, chiếu liệu trong ngoài. Ta bảo ngươi có bằng lòng cút hay không?
Bành Đại Nương quát trả:
– Dù có Thái thái ở đây, Thái thái cũng không dùng cái tiếng cút đối với ta.
Xú liễu đầu, ngươi ngông cuồng quá độ, ta phải giáo huấn ngươi! Đừng trách sao ta nghiêm khắc đấy!
Khổng Linh Linh «hừ» một tiếng, vụt đứng lên, tung ra một chưởng. Chưởng kình lao thẳng đến mặt Bành Đại Nương. Chưởng kình đi rất nhanh, ngoài sức tưởng tượng của Trương Thanh.
Bành Đại Nương chẳng hề biến đổi thần sắc. Bà chỉ hụp đầu xuống một chút, nhường cho chưởng kình bay lướt qua bên trên.
Khổng Linh Linh khoanh tay trước ngực, nghiêng nghiêng mình điểm nụ cười lạnh, gằn từng tiếng:
– Phi Thiên Dạ Xoa! Nghĩ kỹ lại đi! Giá như người muốn làm một cuộc thực nghiệm, ta sẽ cấp thời cho ngươi biết cái thú vị của cuộc thực nghiệm đó.
Một chưởng vừa rồi, giáng đúng vào mặt Bành Đại Nương, trong cơn bất ngờ, bà lãnh đủ, dư lực còn làm cho bà ngả xuống nhưng thân vừa chạm đất, bà vụt đứng lên ngay. Năm ngón tay còn lưu dấu nơi mặt bà, bà đưa tay xoa vào chỗ đó, ánh mắt rực lửa căm hờn, bà vung tay, đồng thời quát:
– Tiểu liễu đầu, ta nhất định phải trả cho kỳ được cái chưởng của ngươi, trả không được ta thề không làm người nữa!
Chưởng kình bay tới, nhắm vào ngực Khổng Linh Linh bắn vào.
Khổng Linh Linh ung dung mở vòng tay, đưa ra một cánh tay, quét song chưởng của Bành Đại Nương ra ngoài, đoạn nhanh như chớp, xoay nửa bàn tay, chụp vào mạch môn của Bành Đại Nương. Nàng cao giọng thốt:
– Bành Cúc Nhân! Nếu ta không nể mặt sư phụ ta, thì ngay trong phút giây này, ngươi mất mạng đấy!
Nàng vung tay:
– Cút đi, cho đừng bẩn mắt ta!
Bành Đại Nương bị hất dội ra xa ngã ngồi xuống đất. Bà trừng mắt nhìn Khổng Linh Linh, như muốn ăn tươi nuốt sống nàng.
Trương Thanh mục kích vũ công của Khổng Linh Linh, thấy nàng hạ Bành Đại Nương quá dễ dàng, bất giác kinh hãi. Nàng nhận thức ngay tài nghệ của nàng, đem so sánh với vũ công của Khổng Linh Linh, còn quá kém xa, cách nhau như vực với trời.
Nàng nghĩ:
“Quan đại ca sát hại thân phụ nàng, có thể là nàng chưa hay biết sự việc đó. Một ngày nào, chắc Quan đại ca khó sống được với nàng! Với vũ công đó, nàng thừa sức áp đảo Quan đại ca!”.
Càng nghĩ, nàng càng kinh khiếp, lo ngại cho tánh mạng Quan Sơn Minh trong tương lai. Có lẽ gần đây thôi, hung tin kia rồi cũng sẽ đến tai Khổng Linh Linh.
Bành Đại Nương ngồi thừ người trên mặt đất lâu lắm, bà mới rú lên một tiếng, rồi phun ra mấy bún máu tươi. Phun máu rồi, bà ngã ngửa người, mãi đến lúc đó bà mới thấm đòn.
Trương Thanh cấp tốc nhảy vọt đến nơi, ôm bà hòi gấp:
– Đại nương ... đại nương có sao chăng?
Nàng đưa tay sờ ngực Bành Đại Nương.
Từ nhỏ, nàng từng nhìn phụ thân chữa trị cho nhiều người, nàng cũng hiểu được phần nào về y thuật, nên việc quan sát tình trạng của Bành Đại Nương giờ đây, đối với nàng chẳng khó khăn gì.
Tuy không đủ tài chữa trị những chứng bịnh nặng nề, ít nhất nàng cũng biết qua một vài phương cứu cấp.
Nhờ đó, trong khoảng đường dài ngàn dặm tìm đến Cô Lôn Sơn nàng săn sóc chu đáo Quan Sơn Nguyệt, giúp chàng chi trì đến nơi đến chốn.
Nghe tim Bành Đại Nương một lúc, nàng hiểu ngay vì bà xúc nộ cực độ, nên máu ngưng lưu động, ứ lại, sau khi khôi phục bình thường máu ứ đó bà phải mửa ra, có mửa ra, bà mới khỏe người. Chứ sự thực, bà chẳng hề thọ thương, qua chưởng lực của Khổng Linh Linh.
Khổng Linh Linh cũng biết vậy, nên đứng xa xa, nàng nhìn Trương Thanh điểm nụ cười lạnh:
– Ngươi yên trí, mụ ấy chẳng sao đâu, bất quá mụ giả vờ như chết rồi, làm cho ngươi lo rối lên vậy thôi! Hãy cõng mụ rời khỏi sơn cốc đi!
Trương Thanh ngẩng mặt lên, tha thiết van cầu:
– Khổng tiểu thơ! Xin tiểu thơ để cho tôi vào gặp Tuyết Lão Thái Thái. Tôi muốn hỏi thái thái về bịnh tình của Quan đại ca tôi!
Khổng Linh Linh trầm lạnh gương mặt, lắc đầu!
– Không được đâu! Sư phụ ta chẳng bao giờ chấp nhận cho ngươi vào gặp mặt đâu! Sư phụ ta đặc biệt dặn dò ta như thế, đừng để cho ngươi vào. Giả như ngươi cãi lịnh, cứ bước tới thì ta có quyền hạ sát ngươi liền. Sư phụ ta sẽ không trách cứ ta gây án mạng tại sơn cốc. Cho ngươi biết như vậy để giữ mình.
Trương Thanh kêu lên:
– Trời! Tại sao thái thái hận tôi đến thế?
Khổng Linh Linh hét lên:
– Ta không hiểu! Ta chẳng hiểu chi hết! Ngươi hãy đi đi, nếu không đi, ta động thủ ngay!
Trương Thanh thừa hiểu, nếu có cuộc động thủ, thì phần chắc cái bại về nàng. Do đó, nàng vừa bi thương, vừa căm hận, bế xốc Bành Đại Nương, nàng khóc to, van cầu Khổng Linh Linh:
– Tiểu thơ! Tiểu thơ! Quan đại ca tôi ...
Khổng Linh Linh bực quá, song cố gượng buông một câu:
– Ngươi yên trí! Có sư phụ ta chiếu cố đến hắn, hắn chẳng chết đâu mà sợ!
Trương Thanh toan nói gì thêm, bỗng Bành Đại Nương vùng khỏi vòng tay nàng, rồi như cơn điên nổi lên, bà nhào tới Khổng Linh Linh. Bà vùng mạnh quá, trong lúc bất ngờ, Trương Thanh mất thăng bằng, không kềm vững kịp thân mình đành ngã xuống đất.
Khổng Linh Linh cũng không phòng bị, thấy Bành Đại Nương nhào tới, kinh hãi quơ tay gạt ngang, gạt như người thường chứ chẳng thành chiêu thức gì cả.
Tuy nhiên, cái gạt đó cũng khá mạnh, đủ hất tung Bành Đại Nương lên cao, rơi xuống ngoài xa mấy thước.
Nhưng Bành Đại Nương cũng đánh được một tát tay vào mặt Khổng Linh Linh. Bàn tay bà chạm vào mặt nàng vang lên một tiếng «bốp» rất lớn chứng tỏ cái tát đó rất mạnh.
Rơi xuống, Bành Đại Nương may mắn chạm chân kịp trên mặt đất giữ cho khỏi ngã, bà chập choạng mấy bước mới đứng vững. Bà nhìn Khổng Linh Linh, cất tiếng cười vang:
– Tiểu liễu đầu! Chung quy ta cũng đánh trả được ngươi một chưởng!
Gương mặt Khổng Linh Linh nhìn rõ dấu năm ngón tay, dấu tay đỏ hồng hiện trên gương mặt trắng nhợt, bên má bị tát sưng vù lên biến mặt nàng thành một bộ mặt mẫu tử.
Nàng giận quá nhún chân vọt theo Bành Đại Nương, vung hai tay đánh ra tới tấp.
Bành Đại Nương không tài nào tránh kịp, những huyệt đạo trên người một số lớn bị Khổng Linh Linh đánh trúng.
Một tiếng «bình» vang lên, Bành Đại Nương ngã nhào.
Khổng Linh Linh lướt tới, đạp một chân lên ngực bà, gằn từng tiếng:
– Bành Cúc Nhân! Hôm nay ta cho ngươi chết không đất chôn! Xác ngươi sẽ bị sài lang hổ báo cấu xé!
Bị điểm huyệt khắp thân mình, Bành Đại Nương chẳng những không cử động được, mà cũng không phương thốt một tiếng nào, bất quá trong ánh mắt rực lên cái ý chí quật cường bất khuất. Ánh mắt đó bắn sang Khổng Linh Linh những tia lửa phẫn nộ cực độ.
Khổng Linh Linh rút chân lên rồi đá mạnh vào Bành Đại Nương.
Bà lăn đi mấy vòng.
Trương Thanh trông vào tình cảnh đó, hết sức bất nhẫn cấp tốc lướt tới cạnh Bành Đại Nương, vừa ôm bà lên vừa nhìn Khổng Linh Linh, cất giọng thiết:
– Khổng tiểu thơ! Dù sao thì Bành Đại Nương cũng là một nhân vật thành danh trên giang hồ. Tiểu thơ muốn giết người, cứ giết, xin đừng làm nhục người!
Khổng Linh Linh phẫn nộ:
– Ngươi tránh đi nơi khác để mụ ấy mặc ta xử trí. Chẳng những ta giết mụ, mà ta còn hành hạ mụ đủ điều trước khi giết mụ!
Trương Thanh kêu lên:
– Khổng tiểu thơ! Tiểu thơ không nên làm thế!
Khổng Linh Linh lạnh lùng:
– Nhưng ta lại muốn làm thế!
Nàng vươn tay tới giật Bành Đại Nương vuột khỏi vòng tay của Trương Thanh.
Trương Thanh toan chồm tới giật lại, nhưng Khổng Linh Linh vung bàn tay kia đập mạnh vào vai nàng, làm người chập choạng lùi lại mấy bước mới đứng vững.
Khổng Linh Linh lại điểm thêm mấy huyệt nữa trên mình Bành Đại Nương.
Bành Đại Nương xuất hạn ướt đầu ướt mặt, da thịt rung như bị phong giật, đôi mắt láo liên. Chừng như bà ta đau đớn lắm.
Khổng Linh Linh quăng Bành Đại Nương xuống đất rồi mỉm cười đắc ý, tuy nàng cười nhưng ánh mắt bốc rực ý niệm tàn độc.
– Tiểu thơ không nên đối xử với bà như thế! Hãy giải huyệt cho bà đi, tiểu thơ!
Khổng Linh Linh cười lạnh:
– Nếu ngươi còn léo nhéo ta sẽ cho ngươi nếm chút tư vị như mụ ấy đấy!
Trương Thanh đã quá sức nhẫn nại, không cần giữ lễ độ nữa vừa vung tay đánh tới một chưởng vừa hét:
– Ngươi khát máu thì cứ giết luôn ta đi!
Khổng Linh Linh thoát một vòng tay, hất cái chưởng của Trương Thanh qua một bên, đoạn nhanh như chớp xoay bàn tay chụp vào mạch môn của Trương Thanh, gằn từng tiếng:
– Ngươi thấy chưa?
Rồi nàng bật cười lạnh rợn tiếp:
– Ta chỉ chờ ngươi nói lên câu đó! Ta chỉ chờ ngươi xuất thủ! Ngươi biết tại sao không? Chỉ vì sư phụ ta có dặn, đừng bao giờ hành động trước, mà phải chờ người ta xuất thủ đánh mình, mình mới được phản công. Nếu cần, cũng có thể giết người được. Bây giờ, ta có giết ngươi luôn cũng chẳng sao, bởi ta có lý do rồi.
Nói là làm. Nàng cử cao một cánh tay định đánh tới, nhắm đúng vầng trán của Trương Thanh.
Bỗng, từ phía sau lưng Khổng Linh Linh, một tràng cười hắc hắc vang lên, tiếp theo đó một bóng người lướt tới. Người đó nhanh như chớp vung chưởng đánh bật cánh tay Khổng Linh Linh qua một bên, đồng thời đẩy nàng ra ngoài xa hơn năm bước.
Trương Thanh nghe luồng khí lạnh truyền nhanh vào cơ thể, làm nàng rung người lên. Nàng kinh hãi, ngẩng mặt nhìn, nhưng nhìn rồi lại càng kinh hãi hơn, muốn rú một tiếng lớn, nhưng lưỡi líu lại không rú được.
Người đó nhìn Trương Thanh, ánh mắt ấm dịu vô cùng.
Nhưng ánh mắt ấm dịu đó không làm cho Trương Thanh an tâm được. Bởi, hình dáng của người đó hết sức kỳ dị. Mớ tóc rối bồng lên, gương mặt chằng chịt những xẹo to có, nhỏ có, ngang có, dọc có. Riêng đôi mắt là có thần. Mớ tóc lốm đốm bạc chứng tỏ niên kỷ của người đó đã quá ngũ tuần.
Và, người đó là một nữ nhân. Có lẽ xưa kia quái nữ nhân cũng là một trang sắc nước hương trời, cho nên ngày nay, dù mang mớ tóc rối bồng điểm trắng, dù gương mặt chằng chịt những vết sẹo, vẻ đẹp còn phảng phất nơi bà.
Bà vận bộ y phục rách nát, mường tượng một nữ gia nhân của ai trong vùng núi non này. Nhưng là nữ gia nhân, sao bà lại có vẻ vũ công ghê gớm thế?
Khổng Linh Linh trấn định tâm thần rồi, nhìn lại nữ nhân già, xấu, bất giác kêu lên:
– Mụ điên! Sao mụ lại trốn được ra đây? Sư phụ biết được thì mang khổ đấy! Mụ không sợ bị rút gân à?
Đã điên, thì còn sợ gì? Nếu người đó là một bà điên, Khổng Linh Linh còn giảng lý, còn hăm dọa làm gì? Có đúng là bà ấy điên thật sự chăng? Hay là dáng vẻ của bà ta xấu xí, dơ dáy, khôi hài quá mà nàng gọi là điên?
Trương Thanh không thể hiểu nổi sự tình, nàng chú ý theo dõi những diễn biến chuyển giữa bà ta và Khổng Linh Linh.
Nghe Khổng Linh Linh hăm dọa như vậy, lão xú nữ chừng như sợ hãi, từ ừ nép mình về một chỗ, cách cục diện xa xa ...
Trương Thanh biến sắc.
Thế ra bà ta điên thật! Tuy điên, bà vẫn có một điểm nhỏ lý trí, nhờ vậy, bà mới biết sợ trước lời hăm dọa của Khổng Linh Linh.
Điều mà Trương Thanh vừa phát hiện, là bà ấy vẫn chịu dưới hệ thống của Khổng Linh Linh. Nếu thế, nàng chẳng còn hy vọng gì nơi bà ta nữa!
Lão xú nữ rời xa cục diện rồi, Khổng Linh Linh lại bước tới, gần Trương Thanh cười lạnh thốt:
– Ngươi đừng hy vọng mụ điên ấy cứu ngươi! Chẳng bao giờ mụ ấy dám trái lịnh ta!
Nàng nhấc cánh tay lên, trong tư thế sắp sửa xuất chiêu.
Trương Thanh biết rõ, không làm sao đủ nghinh chiến với Khổng Linh Linh.
Dù có xuất thủ phản công, bất quá chỉ là một việc liều lĩnh, gượng gạo, nàng chẳng mong gì hòa chứ đừng nói là thắng.
Một phương cách duy nhất giúp nàng thoát nạn, là cầu viện nơi lão xú nữ kia. Nhưng, làm sao cầu viện nơi bà ta, khi bà ta là một người điên, Khổng Linh Linh lại sẵn sàng hăm dọa, ngăn chặn bà?
Nàng khẽ đưa mắt liếc về phía bà.
Quả nhiên, nữ nhân điên đáp ứng sự cầu cứu của nàng qua ánh mắt tha thiết đó, bà ta kêu lên mấy tiếng, âm thanh khàn khàn nghe chẳng rõ bà ta muốn nói gì. Đoạn, bà bước tới, đứng chắn trước mặt Trương Thanh đưa lưng về nàng, mặt hướng sang Khổng Linh Linh.
Khổng Linh Linh nổi giận hét to:
– Mụ điên! Tránh ra, tránh mau đừng xen vào việc của ta!
Nữ nhân điên chẳng rõ vì điên hay quật cường, lắc đầu, tỏ cái ý không tránh đi đâu cả.
Khổng Linh Linh lại hét:
– Thế là mụ tự tìm cái chết đấy, đừng trách ta nhé!
Bàn tay nàng chớp lên, chưởng phong phát ra, vút tới nữ nhân điên liền.
Nữ nhân khẽ xoay hai bàn tay của bà, nghinh đón chưởng phong của đối phương.
Như lần trước, một tiếng «bình» vang lên, Khổng Linh Linh bị bà đẩy lui về phía hậu.
Bây giờ Khổng Linh Linh giật mình, nàng bắt đầu nhận thức nữ nhân điên lợi hại phi thường. Từ trước, nàng có ý khinh miệt bà và cứ tưởng là trong cốc, ngoài Tuyết Lão Thái Thái ra chẳng còn ai là đối thủ của nàng. Nhưng, nữ nhân điên đã chứng minh sự trái ngược, qua hai lần hất dội nàng, hất dễ dàng, như hất một trẻ nít. Công lực đó, trên hẳn nàng, chẳng những trên một bậc, mà chắc chắn là phải trên nhiều bậc.
Tủi nhục cho nàng hơn nữa là người hơn nàng, chỉ là một kẻ điên, hình thể không còn giống con người nữa! Nàng quật cường, cao ngạo, trong tình thế đó, cũng cảm thấy hơi gờm gờm, và đương nhiên phải dè dặt.
Nàng «hừ» lạnh một tiếng, thốt:
– Mụ điên! Mụ dám bênh vực người ngoài chống đối lại với ta! Được rồi!
Ta sẽ tố cáo với sư phụ. Thử xem mụ có lời gì nói với sư phụ!
Nàng quay mình bước đi ngay.
Chừng như nữ nhân điên rất sợ cái việc nàng đem sự tình mách lại với Tuyết Lão Thái Thái, nên cấp tốc lướt tới, nắm áo nàng giữ lại. Bà lí nhí những gì, chẳng ai nghe rõ, song nhìn qua thần sắc của bà, ai ai cũng hiểu đại khái là bà van cầu nàng đừng đi mách sư phụ.
Bất thình lình, Khổng Linh Linh chớp tay, điểm nhanh vào một huyệt đạo dưới nhũ hoa của bà.
Nữ nhân điên không phòng bị, tự nhiên hứng đúng ngón tay của nàng. Bà đau quá, rú lên một tiếng lớn, ôm ngực ngã xuống.
Khổng Linh Linh để mặc bà nằm tại đó, cấp tốc quay mình nhảy đến trước mặt Trương Thanh, tấn công tới tấp.
Bắt buộc Trương Thanh phải nghinh chiến, song bất quá ở trong cái thế chẳng đặng đừng, nàng phải chống trả, chứ thừa hiểu là mình còn kém Khổng Linh Linh rất xa.
Đánh với sự miễn cưỡng, thì còn mong gì cứu vãn tình hình? Cùng lắm là nàng kéo dài thời gian một vài phút giây vậy thôi, dù có bại cũng không bại gấp.
Chỉ qua ba chiêu đầu, đến chiêu thứ tư thì Trương Thanh bị Khổng Linh Linh đánh bạt ra xa.
Trong khi nàng lảo đảo chực ngã, Khổng Linh Linh bật cười ghê rợn, tung tiếp theo một chưởng kình rất mãnh liệt. Chưởng phong vút đi, vù vù, cuốn gấp đến nàng.
Vừa lúc đó, nữ nhân điên đứng lên, cố gượng đau lướt tới đứng chận mơi khoảng trung gian, cũng như lần trước, đưa tay tiếp đón kình phong của Khổng Linh Linh.
Nhưng, công lực của bà kém giảm qua sự điểm huyệt của Khổng Linh Linh, lần này, bà không ngăn chặn được khí thế của Khổng Linh Linh, trái lại còn bị nàng bắn tung ra xa, lảo đảo chân, lại ngã xuống.
Ngã xuống rồi, bà vẫn sợ Trương Thanh bị Khổng Linh Linh sát hại, dùng hai chân dậm xuống mặt đất, lấy thế bật mình đứng lên, đoạn nhảy tới.
Bà đứng chắn giữa song phương, lưng trở về Trương Thanh, mặt hướng sang Khổng Linh Linh. Bà tỏ rõ ý chí cương quyết ngăn chặn Khổng Linh Linh hạ thủ đoạn tàn độc đối với Trương Thanh.
Khổng Linh Linh sôi giận cực độ, quát lớn:
– Mụ điên! Thế là mụ nhất định chống đối ta! Mụ muốn chết, ta cho chết luôn! Ta giết mụ rồi, sẽ giết nàng ấy sau!
Nàng thốt xong, vung tay liền.
Nữ nhân điên đưa tay nghinh đón. Bây giờ, bà không còn mạnh mẽ như lúc vừa xuất hiện, bị lực đạo của Khổng Linh Linh đánh sang, bà nghe toàn thân bị chấn dội rất mãnh liệt.
Tuy đón được chưởng kình của Khổng Linh Linh, bà vẫn chao chao người, phải cố gượng lắm mới đứng vững lại được.
Trương Thanh hết sức bất nhẫn thấy nữ nhân điên mấy lượt can thiệp giải cứu cho nàng, đến nỗi phải bị đánh nặng, nàng bước tới nắm áo bà, kéo về phía nàng, thốt qua niềm khích động:
– Bà! Bà khỏi cần tiếp trợ tôi! Bà cứ để cho nàng giết tôi đi!
Nàng đinh ninh là mình phải chết nơi tay Khổng Linh Linh, nên buột miệng than:
– Gia gia ơi! Đáng lý con không nên vi lịnh Gia Gia, con không nên đến đây!
Từ nay, Gia gia không còn gặp lại con nữa. Thanh nhi cam tội bất hiếu với Gia gia ...
Nữ nhân điên bỗng biến sắc mặt, cất giọng khàn khàn kêu lên:
– Thanh ... Thanh nhi ...
Có lẽ đây là lần đầu tiên, nữ nhân điên nói thành lời, cho nên Khổng Linh Linh hết sức lấy làm lạ.
Nhưng, cảm giác đó chỉ hiện lên một thoáng thôi, nàng chẳng quan tâm đến sự biến đổi thần sắc của nữ nhân điên, bởi nàng chỉ trọng đến việc hạ sát Trương Thanh, nàng lướt tới, sắp sửa tấn công.
Trương Thanh chưa kịp phản ứng, nữ nân điên lại rít lên liên tiếp mấy lượt.
– Thanh ... Thanh nhi ...
Đồng thời, bà bất chấp thương thế do chưởng kình của Khổng Linh Linh gây nên vừa rồi, vọt mình tới, nghinh đón thế công của Khổng Linh Linh liền.
Thọ thương, bà đã mất khá nhiều khí lực, chẳng rõ tại sao đột nhiên bà trở nên mạnh mẽ phi thường, vung tay đánh ra mấy chưởng, bức Khổng Linh Linh lùi lại mấy bước.
Khổng Linh Linh vừa thẹn vì bị bà bức thoái, vừa giận bà vừa chận hành động của nàng, hét lên một tiếng lớn, thay đổi thủ pháp xuất phát mấy chiêu vô cùng nguy dị.
Nữ nhân điên cố tránh né, song không tài nào thoát khỏi chưởng pháp tân kỳ của đối phương, loay hoay một chút, bà hứng trọn một chưởng kình nơi ngực.
Chưởng kình đó khá mạnh, làm bà chấn động toàn thân, đảo đảo người rồi ngã xuống, máu tươi từ miệng vọt ra, bà không còn đứng nổi.
Một chẳng làm, hai chẳng thôi, Khổng Linh Linh lướt theo ngay. Nàng cử cao cánh tay, toan giáng xuống một chưởng, kết liễu tính mạng nữ nhân điên.
Bỗng có tiếng quát đâu đây vang lên:
– Không được vọng động!
Một giọng nghiêm lạnh tiếp nối:
– Sao ngươi cố ý sát hại bà ta?
Khổng Linh Linh dừng tay ngay, cánh tay đó không thể giữ lơ lửng nửa chừng, nàng buông thõng xuống.
Câu nói vừa dứt âm vang, một lão ẩu từ xa lao vút mình tới như bay, tay cầm một chiếc quảy màu đen, bóng nhoáng.
Vừa đến nơi, lão ẩu dộng đầu quảy xuống đất cộp cộp, đồng thời quở:
– Linh Linh! Ngươi to gan lắm đấy nhé! Dám đánh người trọng thương ngay tại sơn cốc của ta!
Khổng Linh Linh kinh hãi ra mặt, đưa tay rung rung chỉ Trương Thanh, thốt:
– Sư phụ! Bành Cúc Nhân vi lịnh sư phụ, tự ý đưa nàng đó đến cốc, đệ tử mấy lượt giảng giải, mụ Bành không chịu nghe, bắt buộc đệ tử phải vâng theo lời của sư phụ phân phó từ trước, định sát hạ cả bọn họ ...
Lão ẩu lại dộng đầu gậy xuống đất cộp cộp, quát:
– Ta nói, bất quá để chứng tỏ là ta không thích ai đến đây quấy nhiễu ta vậy thôi, nào có phải là thực sự ta bảo ngươi sát nhân? Người ta lỡ đến đây, đành rằng vi lịnh của ta, song họ cũng chẳng đến đỗi phạm tội chết? Ngươi há chẳng biết là Tuyết Thần Cốc không hề nhiễm mùi máu tanh chứ? Tại sao ngươi dám gây cuộc đổ máu trong cốc?
Khổng Linh Linh giật mình, sững sờ một lúc, đoạn hấp tấp phân trần:
– Đệ tử chẳng thấu đáo ý tứ của sư phụ, cho nên nghe sao thì thi hành vậy, thành đắc tội với sư phụ. Tuy nhiên, Bành Cúc Nhân chưa chết, sư phụ ạ. Bất quá bà ấy bị đệ tử điểm huyệt mà thôi. Thực sự thì đệ tử cũng chẳng quyết tâm làm khó khăn chi cho bà ấy!
Lão ẩu «hừ» một tiếng, sắc mặt còn lộ vẻ phẫn hận:
– Ngươi không làm chi khó khăn đến người, thế sao ngươi lại dùng thủ pháp tuyệt độc đánh người đến lệch gân sai khớp xương như vậy? Khi ta truyền cho ngươi thủ pháp «Phân Cân Thố Cốt», ta có căn dặn ngươi, không nên khinh thường, sử dụng bừa bãi ...
Khổng Linh Linh xám mặt:
– Vì bà ấy vô lễ, dám buông lời xúc phạm đến sư phụ!
Trương Thanh lập tức kêu lên:
– Khổng tiểu thơ đừng vu oan cho Bành đại nương! Lúc nào Bành đại nương cũng tôn kính lão thái thái, là bậc tiền bối đáng được đời trọng vọng, thì làm gì bà ấy dám vô lễ với lão thái thái?
Có mặt lão ẩu, Khổng Linh Linh chẳng dám hung hăng như trước, tuy không dám làm gì, nàng cũng trừng mắt căm hờn nhìn Trương Thanh.
Lão ẩu «hừ» một tiếng, rồi điềm nhiên như thường, chẳng biểu lộ một cảm nghĩ nào. Bà nhìn xuống nữ nhân điên đang nằm bất động, cạnh miệng máu giọt ứ đọng, máu sắp đông đặc lại, ngả màu đen đen. Bà cao giọng hỏi:
– Việc gì, ta cũng có thể bỏ qua, nhưng ta muốn biết tại sao ngươi đánh bà này trọng thương?
Khổng Linh Linh cúi đầu:
– Lúc đệ tử toan giết nàng đó, bất thình lình bà ấy xuất hiện, can thiệp ... Bà ấy là một mụ điên ...
Nàng chưa dứt câu, lão ẩu quét chiếc quảy ngang qua, trúng lưng nàng.
Nàng ngã nhào xuống đất.
Lão ẩu hét lớn:
– Mụ điên? Nữ nhân điên? Ai cho phép ngươi gọi như vậy?
Khổng Linh Linh đau quá lăn đi mấy vòng, song chẳng dám đứng lên vừa khóc vừa thốt:
– Đệ tử còn biết gọi như thế nào? Nghe sư phụ gọi sao, đệ tử gọi vậy ...
Lão ẩu quát chận:
– Ta gọi sao mặc ta, ngươi không được gọi theo như vậy! Ngươi có biết nàng là ai chăng?
Khổng Linh Linh vẫn khóc:
– Con không biết bà ấy là ai? Sư phụ có bao giờ nói cho con biết đâu?
Lão ẩu hơi lắng dịu cơn thịnh nộ, gương mặt thoáng lộ vẻ buồn:
– Nàng là con gái của ta đó. Con gái độc nhất của ta đó!
Khổng Linh Linh biến sắc.
Nàng ngưng khóc ngay, lẩm nhẩm:
– Thực tình đệ tử không biết ...
Lão ẩu «hừ» một tiếng:
– Câm! Hãy cút đi! Cút luôn vào đơn phòng, nếu ta không gọi ngươi chẳng được ra khỏi nơi đó!
Khổng Linh Linh mất cả vẻ hung hăng, lồm cồm ngồi dậy, rồi đứng lên, bước đi liền.
Trương Thanh trố mắt nhìn sự việc xảy ra hết sức kinh dị. Nàng không tưởng là Tuyết Lão Thái Thái có một người con, người con đó lại là một nữ nhân điên.
Nàng muốn hỏi gì, lại thôi, rồi nhìn lão ẩu bước tới giải huyệt cho Bành Đại Nương.
Bành Đại Nương cử động được rồi, lẩm nhẩm:
– Lão Thái Thái! Tôi ...
Lão ẩu khoát tay:
– Khỏi nói chi hết. Ta đã hiểu rồi. Ta không trách ngươi thì được rồi!
Bành Đại Nương trầm gương mặt, nhìn sang Trương Thanh kín đáo vẫy tay, cái ý của bà ta là bảo nàng bước tới đến bái kiến Tuyết Lão Thái Thái.
Trương Thanh không kịp làm gì cả, lão ẩu đả quay mình, bước về phía nữ nhân điên, rồi ngồi xuống bên cạnh bà ấy, vừa xoa nắn vừa thốt:
– Hương nhi! Con có sao chăng? Con rời mật thất, ra đây làm gì, đến nỗi phải bị nàng hạ độc thủ ...
Nữ nhân điên nhờ lão ẩu xoa nắn một lúc, tỉnh lại ngay. Bà buông từng tiếng một, dù bà muốn nói gì đó, trọn câu liền nưng cố gắng mãi cũng thốt đứt đoạn:
– Thanh nhi ... Thanh ...
Lão ẩu lộ vẽ khích động vô cùng. Bà tiếp:
– Hương nhi! con đã nói được rồi sao? Tốt lắm, con!
Nữ nhân điên cứ gọi mãi hai tiếng Thanh nhi, ánh mắt của bà ươn ướt.
Lão ẩu lại đưa tay áo qua mắt bà, dịu giọng tiếp:
– Hương nhi! con cũng khóc được nữa à?
Bà cung cung kính kính tiếp luôn:
– Tạ ơn Trời Phật, làm cho con gái già bỗng nhiên lại nói được khóc được!
Cầu xin ơn trên phù hộ cho nó, một ngày nào đó, khỏi bịnh. Thật nó đáng thương hại quá chừng!
Nữ nhân điên mấp máy môi, muốn nói gì nữa, song lão ẩu hấp tấp hơn, gọi bà:
– Hương nhi! Con đã nói được như trước rồi, con hãy gọi mẹ đi, mẹ đây con ạ! Hơn hai mươi năm rồi, có khi nào con gọi mẹ một tiếng đâu? Gọi đi con, mẹ đây con!
Nữ nhân lần này thì khóc thật sự, nước mắt chảy ra thật nhiều chứ không ươn ướt như trước. Giọng nói của bà thấp quá, yếu quá, chừng như bà không còn một điểm sinh lực. Nhưng bà, không gọi lão ẩu, lại gọi Trương Thanh:
– Thanh nhi ... Thanh nhi ...
Lão ẩu gắt nhẹ:
– Mẹ đây, sao con không gọi, con lại gọi ai?
Nữ nhân điên càng khóc lớn:
– Mẹ ... Thanh nhi của con ... Thanh nhi ...
Trương Thanh nghe bà ta cứ gọi tên nàng mãi, nàng hết sức kỳ quái. Nàng muốn hỏi lắm, song nghĩ lại, bà ta có tỉnh hẳn chưa, hay vẫn còn đêm điên dại dại?
Nếu bà còn điên dại, thì nàng hỏi cũng vô ích. Hơn nữa, lão ẩu ở một bên đó, nàng ngại quá, nào dám hỏi han gì?
Bỗng, lão ẩu đưa tay điểm huyệt cho nữ nhân điên hôn mê đi, đoạn bà đứng lên gọi Trương Thanh:
– Bế mẹ ngươi, đi theo ta!
Trương Thanh biến sắc. Mẹ nàng? Nàng tưởng chừng vừa nghe một tiếng sét, nàng không tin là lão ẩu có nói như vậy với nàng. Nàng lẩm nhẩm:
– Mẹ tôi? Mẹ tôi đó sao?
Lão ẩu nổi giận quát to:
– Cha con ngươi đã làm cho thân thể nó ra như vậy, còn chưa vừa lòng sao?
Ta nghĩ tàn độc như bọn ngươi là cùng, dù báo cũng chẳng tàn độc hơn cha con ngươi! Nếu cha ngươi dẫn xác đến đây, ta sẽ xé xác cha ngươi ra thành vạn mảnh cho mà xem!
Trương Thanh sững sờ. Nàng như từ cung trời rơi xuống. Nàng có hiểu gì đâu? Bà ấy nói gì? Tại sao cha con nàng có liên quan đến con gái của bà?
Từ ngày nàng khôn lớn, gia gia nàng cho biết là mẹ nàng mất từ lúc nàng còn thơ ấu. Mẹ đã mất rồi, còn mẹ nào ở tại đây?
Nàng ngây người như pho tượng, đứng đờ tại đó.
Lão ẩu lại quát:
– Sao ngươi thừ người ra đó? Chưa chịu cõng nó đi theo ta? Hay là ngươi hiếm có xấu xí? Nó chẳng đáng là mẹ của ngươi phải không?
Gương mặt của Tuyết Lão Thái Thái biến sắc xanh dờn. Niềm phẫn nộ nơi bà sôi sục cực độ.
Trương Thanh kinh hoàng, hấp tấp cúi xuống, ôm xốc nữ nhân điên, lão ẩu đi trước, nàng bám sát phía hậu. Sau cùng, là Bành Đại Nương, bà cũng lẵng lặng đi theo.
Khi mọi người rời khỏi cục trường, Quan Sơn Nguyệt vẫn còn đứng đó. Đối với mọi diễn tiến chung quanh chàng vừa qua, chàng chẳng hay biết chi cả.
Nhưng, những diễn tiến đó, lại có mối liên quan trọng đại với chàng, sau này ...
Bế nữ nhân điên đi theo lão ầu, Trương Thanh nghĩ ngợi miên man về sự tình. Nhiều nghi vấn nổi lên trong tâm tư nàng, nhưng nàng làm sao tìm được những giải đáp?
Vừa suy nghĩ, vừa bước đi, khi nàng ngẩng đầu lên, nàng mới hay là mình đã đến trước một dãy nhà, có nhiều phòng.
Tuyết Lão thái thái bước vào trước, chỉ tay về phía trước giường cây, bảo:
– Đặt mẹ ngươi lên đó, ngồi một bên, canh chừng nó. Ta vào trong biện liệu mấy món thuốc, chữa trị cho nó. Phải nhớ, nó là mẹ của ngươi, ngươi nên dằn lòng chịu khó với nó.
Thốt xong, bà bước đi liền.
Bành đại nương lấy làm lạ, bước tới, hỏi:
– Mẫu thân của cô nương đây sao? Nếu thế thì chẳng hóa ra Tuyết Lão Thái Thái là ngoại tổ mẫu của cô nương sao?
Trương Thanh lắc đầu:
– Thật ra, tôi cũng chẳng biết sự tình như thế nào, đại nương ơi! Từ ngày tôi khôn lớn đến nay, tôi chưa hề thấy mặt mẹ tôi, Gia gia tôi thì bảo là mẹ tôi chết từ lúc tôi còn nhỏ. Bây giờ, lão Thái thái nói thế, tôi hết sức hoang mang ...
Bành Đại nương chớp mắt:
– Chẳng khi nào Tuyết Lão Thái Thái nói ngoa đâu. Phải có một nguyên nhân như thế nào, lão Thái Thái mới nói như vậy. Bà điên kia, hẳn phải đến núi này từ lâu, bà lại không nói năng được, thần trí hỗn loạn, do đó lão Thái Thái mới gọi là bà điên, và quản thúc trong phòng kín. Mãi đến bây giờ, ta mới biết được bà ấy là con gái của lão Thái Thái.
Trương Thanh đỏ mặt, lệ thảm chực tuôn tràn, rung rung giọng thốt qua xúc động:
– Tôi hy vọng đó là mẫu thân tôi, dù mẫu thân tôi có điên cuồng xấu xí, tôi cũng kính yêu như thường. Tôi thiếu vắng tình mẹ từ nhỏ, nhìn thấy gia đình người khác mẹ thương con, con kính mẹ, lòng tôi hết sức đau buồn ...
Tuyết Lão Thái Thái đã trở lại với nhiều thứ thuốc. Nghe Trương Thanh nói đoạn cuối, bà nhìn nàng lạnh lùng hỏi:
– Ngươi bất chấp nó xấu xí, nó điên cuồng?
Trương Thanh rơi lệ:
– Thương mẹ, là thương công ơn sanh dưỡng, chứ nào phải thương hình dạng, thương tình trạng? Mẹ xấu xí cũng là mẹ, mẹ điên cuồng là do bịnh, do căn, điều đó có ảnh hưởng gì đến tình mẫu tử? Nếu bà ấy là mẫu thân của tôi, tôi vẫn xem bà đẹp hơn tiên nữ trên cung trời, bà sáng suốt ngang bậc hiền bậc thánh.
Chừng như Tuyết Lão Thái Thái xúc động vì lời nói của nàng. Vẻ lạnh lùng nơi mặt bà tan biến dần, rồi bà tỏ lộ niềm thương cảm, thở dài, nhẹ giọng:
– Ngươi còn lương tâm! Ngươi hơn cha ngươi nhiều! Cha ngươi chẳng có một điểm nhỏ lương tâm! Ngày xưa, mẹ ngươi cũng đẹp như như ngươi, bởi nó đẹp nên cha ngươi mới yêu quí, và kết hôn với nó. Nó vì ngươi nên ra thân thể đó!
Trương Thanh hấp tấp hỏi:
– Lão ... Thái thái ... sự việc ngày trước như thế nào?
Tuyết Lão Thái Thái hừ một tiếng:
– Sau này, nếu có dịp, ta sẽ nói cho nghe. Bây giờ ngươi hãy lo chữa trị cho mẹ ngươi. Đúng là một cơ hội may mắn hiếm có!
Bà dùng khoa châm chích chữa trị cho nữ nhân điên. Việc làm hết sức khó khăn, tế nhị. Bà còn nhờ Trương Thanh và Bành đại nương phụ giúp.
Trong khi mọi người chăm chú chữa trị cho nữ nhân điên, Khổng Linh Linh đột nhiên bước vào. Vẻ phẫn hận còn hiện lên gương mặt nàng. Không ai biết nàng đã vào phòng. Nàng bước đến sau lưng Tuyết Lão Thái Thái, ánh mắt nàng ngời sát khí. Nàng đưa tay lên, bàn tay nhắm trúng hậu tâm của Thái thái.
Tư Mã Tử Yên
Võ Lâm Phong Thần Bảng
Hồi 7
Nghiệm Trước, Suy Sau
Đương nhiên, chiêu chưởng đó phải trúng đích, tiếng chạm vang lên vô cùng quái dị.
Tuyết Lão Thái Thái chúi tới, ngã mình trên người nữ nhân điên, nhưng liền sau đó, bà quay nhanh mình lại, trừng mắt nhìn Khổng Linh Linh.
Khổng Linh Linh vận dụng toàn công lực bình sanh đánh lén sư phụ, nhất định là sư phụ phải chết ngay với chiêu chưởng trí mạng đó, ngờ đâu Thái thái chẳng việc gì. Bất giác, nàng sợ hãi đến xám mặt, lùi lại từ bước, từ bước.
Tuyết Lão Thái Thái để cho nàng lùi đến khung cửa, đoạn cao giọng gọi nàng:
– Linh Linh! Hiện tại, ta bận vận công chữa trị bệnh nhân không thể phân tâm nghĩ đến tội phản nghịch của ngươi. Đó là một cơ hội duy nhất cho ngươi rời ngay nơi này, trốn đi càng xa càng có lợi cho ngươi, trốn đến nơi nào ta không còn tìm ra ngươi được. Đi đi, nếu ngươi còn muốn sống sót trên trần thế này!
Thốt xong, bà tiếp tục dùng châm, chích vào huyệt đạo của nữ nhân điên.
Bà làm cái việc chữa trị đều đều, tựa hồ chưởng lực của nàng đệ tử phản nghịch không gây nên một ảnh hưởng nhỏ nào nơi bà.
Khổng Linh Linh kinh hoàng rú lên một tiếng phóng chân chạy đi. Đúng là nàng chạy chết.
Chứng kiến cảnh đó, Bành đại nương sững sờ đến ngây người, khi bà tỉnh hồn thì Khổng Linh Linh đã chạy mất dạng rồi, bà hét lên một tiếng lớn cấp tốc đuổi theo.
Nhưng, Tuyết Lão Thái Thái gọi giật bà lại:
– Cúc nhân! Trở lại!
Bành đại nương chẳng dám cãi lời Thái Thái, dừng chân ngay, rồi quay mình trở vào phòng, cất giọng căm hờn:
– Tiện tỳ đã sanh tâm bội phản, sao Thái Thái không để cho tôi đuổi theo, bắt nàng trị tội ...
Tuyết Lão Thái Thái nhẹ thở dài:
– Công lực của ngươi không bằng nó, có đuổi theo cũng vô ích, chẳng những thế, nó có thể sát hại ngươi nữa đấy!
Bành đại nương không phục sự nhận xét đó, nhưng chẳng dám nói gì, chỉ hỏi:
– Tại sao Thái Thái dung tha cho nàng ra đi dễ dàng như vậy?
Tuyết Lão Thái Thái toan đáp, bỗng biến sắc mặt, rồi há miệng phun mấy bụm máu tươi. Bà không đứng vững nổi, phải ngồi xuống ghế.
Bành đại nương kinh hãi, hấp tấp hỏi:
– Thái Thái! Thái Thái có sao chăng?
Tuyết Lão Thái Thái cố gắng ức chế cơn trào lòng, nhẹ giọng đáp:
– Chẳng sao đâu! Cúc Nhân, ngươi không nên quá lo ngại. Bây giờ, ngươi vào trong đơn phòng của ta, lấy chiếc bình màu đỏ, ta để trên giá nơi phía đông.
Đi lấy gấp cho ta!
Bành đại nương vọt mình đi liền.
Tuyết Lão Thái Thái nhắm mắt lại, dưỡng thần, sắc mặt của bà biến đổi đáng sợ.
Trương Thanh đứng một bên, khẩn trương cực độ, song nàng còn biết làm gì hơn? Nàng cũng chẳng dám hỏi han gì, ngại làm kinh động Thái thái trong khi bà còn yên tịnh.
Không lâu lắm, Bành đại nương trở lại, với hai bàn tay không. Bà hấp tấp kêu lên:
– Thái Thái ơi! Trong đơn phòng, mọi vật dụng đều xáo trộn, chiếc bình đó chẳng biết biến mất từ lúc nào, tôi tìm mãi không thấy!
Tuyết Lão Thái Thái biến sắc, mở mắt ra, trầm giọng:
– Con tiện tỳ đó, quả thật tàn độc!
Trương Thanh lấy trong mình ra một chiếc bình thốt:
– Tôi có loại «Băng Xạ Toàn Mạng Tán» đây, lão Thái thái! Loại thuốc này chuyên trị nội thương, công hiệu vô cùng!
Tuyết Lão Thái Thái đưa tay gạt tay nàng, căm giận:
– Ta thà chết chứ không khi nào chịu dùng thuốc của phụ thân ngươi!
Bà giận, nói lên phải lớn tiếng, vì nói lớn nên tiêu hao công lực, bà lại mửa ra mấy bụm máu tươi nữa. Bây giờ thì bà kiệt sức, không còn gượng ngồi được, từ trên ghế bà ngã xuống nền.
Bành đại nương cấp tốc bước tới, nâng Thái Thái, nhưng biết làm sao đây để cứu Thái Thái?
Lúc đó, nữ nhân điên không còn quằn quại vì đau đớn nữa, nên nằm yên.
Sở dĩ bà không nghe đau, bởi Tuyết Lão Thái Thái đang bị thương thế hoành hành, không tiếp tục công việc châm chích tại các huyệt đạo còn thừa lại.
Trương Thanh thấy bà nằm yên, liền buông tay kiềm chế, đoạn rốc miệng bình, lấy ra hai hoàn thuốc màu trắng, nhét vào miệng Tuyết Lão Thái Thái. Nàng gọi Bành đại nương:
– Đại nương tìm cho chút rượu đi. Thuốc này phải có rượu dẫn, mới mau có công hiệu.
Bành đại nương lộ vẻ khó khăn:
– Trương cô nương! Tôi ngại không ổn đấy! Bởi cái tánh của Thái Thái, tôi biết quá rõ ...
Trương Thanh nghiêm sắc mặt:
– Không sao! Nhất thiết mọi hậu quả, đã có tôi hứng chịu. Tôi không thể nào ngơ nhìn người sắp chết mà không cứu, trong khi còn hy vọng cứu.
Bành đại nương chẳng biết làm sao, phải đi tìm rượu.
Có rượu rồi, Trương Thanh đổ luôn vào miệng Thái thái. Nàng ngồi xuống bên cạnh bà, xoa nắn cho máu lưu thông đều đều.
Không lâu lắm, Tuyết Lão Thái Thái tỉnh lại. Nhìn thoáng qua tình hình, bà đã biết rõ sự việc diễn tiến như thế nào. Bất giác, bà sôi giận, vung tay đánh ra một chưởng, đồng thời cao giọng hét:
– Tử liễu đầu! Sao ngươi dám lấy thuốc đó giải cứu ta? Giải cứu ta là ngươi hại ta đó, ngươi có biết không?
Trúng chưởng của Thái thái, Trương Thanh nhào ngửa, nhưng nàng có kể chi đau đớn, miễn sao cứu tỉnh được Thái thái thì thôi. Nàng rung giọng van cầu:
– Thái thái ơi! Xin hiểu giùm tôi! Đó là loại thánh dược uống vào là thương thế dịu lại liền!
Tuyết Lão thái thái lại quát:
– Câm ngay! Cha ngươi tài ba chi đó mà ngươi dám cho là thánh dược những thứ vô dụng do hắn chế ra?
Trương Thanh không nói gì nữa, bật khóc.
Bành đại nương nghĩ đến một câu nói gì cho tình thế bớt căng thẳng:
– Lão Thái Thái nên thương xót Trương cô nương, nàng có thành tâm ...
Tuyết Lão Thái Thái nạt luôn:
– Ngươi cũng câm miệng lại cho ta nhờ! Năm xưa hắn tuyệt tình cùng Hương nhi của ta, ta có phát thệ là sẽ tìm hắn trị tội. Bây giờ, ta dùng thuốc của hắn, thì làm sao ta trị tội hắn?
Trương Thanh thốt qua nức nở:
– Thái thái! Tôi chẳng biết ngày trước Gia gia tôi đắc tội với Thái thái như thế nào, tôi chỉ biết là hôm nay tự tôi, tôi muốn làm một cái gì hợp đạo lý với Thái thái, điều đó do chính cá nhân tôi, chứ chẳng phải để chuộc tội cho Gia gia tôi đâu. Bởi tôi đâu có biết oan cừu gì giữa Thái thái và Gia gia tôi, mà tôi toan cởi mở? Hơn nữa, tôi vì mẹ, vì Quan đại ca, hai người đó còn cần nhờ Thái thái chiếu cố, vạn nhất họ có bề gì, thì chắc chắn là tôi ...
Nàng làm sao dàm gọi Tuyết Lão Thái Thái là bà ngoại? Mặc dù bà chính là ngoại tổ mẫu của nàng, muốn gọi như vậy ít nữa nàng cũng phải chờ lịnh cha, hay gần một bên đây, phải có bà cho phép mới được chứ.
Tuyết Lão Thái Thái nhìn lên chiếc giường, nơi nữ nhân điên nằm bất động.
Bà khẽ thở dài, thần sắc hòa dịu lại. Rồi bà nhẹ giọng thốt:
– Oan nghiệt! Đúng là oan nghiệt! Trọn đời ta, ta gặp toàn là oan nghiệt!
Đoạn bà đứng lên, từ từ bước đến cạnh giường, nắm tay nữ nhân điên nghe mạch một lúc. Sau cùng, bà gật đầu, mặt lộ niềm vui, bà tiếp:
– Tốt lắm! Hương nhi qua cơn nguy rồi! Chỉ hận tử liễu đầu đó xuống tay quá độc, làm cho ta không thể cứu chữa Hương nhi lành mạnh đúng thời gian mong muốn! Như thế này, Hương nhi, phải chịu khổ mấy hôm nữa.
Những mũi châm còn cắm trên mình nữ nhân điên, Tuyết Lão Thái Thái nhìn qua một lượt, rồi từ từ rút từng mũi một, trao cho Bành đại nương bảo:
– Ngươi đem những mũi châm này, chôn dưới đất, nhớ chôn thật sâu nhé.
Xong rồi, ngươi lấy rượu xoa khắp người Hương nhi, phải nhẹ tay, đừng làm cho nó kinh động tỉnh lại.
Bà quay qua Trương Thanh bảo:
– Ngươi theo ta vào đơn phòng, xem con tiện tỳ đó đã đánh cắp của ta những thứ thuốc gì?
Trương Thanh biết ngay Tuyết Lão Thái Thái muốn nói riêng với nàng sự tình chi đó, nên không do dự đi theo bà liền.
Nàng còn do dự thế nào được? Giả như bà có hận thù với Gia gia nàng, thì việc đó thuộc về thời gian trước, nàng hoàn toàn vô can mà! Huống chi mẹ nàng còn kia, nàng là cháu ngoại, thì lão Thái thái có nỡ nào làm hại nàng?
Nhưng, ra đến bên ngoài cửa bỗng nàng nhớ đến một việc. Lập tức, nàng chạy đi như bay về phía cửa động.
Tuyết Lão Thái Thái gọi giật lại:
– Tiểu liễu đầu! Ngươi chạy đi đâu thế?
Trương Thanh vừa chạy vừa đáp:
– Quan đại ca của tôi, ở tại cội tùng, tôi sợ Khổng Linh Linh hạ độc thủ ...
Tuyết Lão Thái Thái «hừ» một tiếng:
– Tiểu tử đó, có chết cũng chẳng sao, làm gì ngươi lo bấn loạn lên như vậy?
Mặc bà nói chi thì nói, nàng cứ chạy đi.
Quan Sơn Nguyệt vẫn còn đứng tại cội tùng.
Từ xa Trương Thanh đã trông thấy chàng rồi, bất giác nàng thở phào, nhẹ nhõm, như trút khỏi lồng ngực một tảng đá to.
Cội tùng bên cạnh Quan Sơn Nguyệt, trên thân tùng, có dấu chưởng rành rành, sâu độ vài tấc. Có thể là Khổng Linh Linh chạy ngang qua đây, định hạ sát Quan Sơn Nguyệt, song chẳng biết tại sao, nàng cải biến chủ ý thay vì đánh người, nàng lại đánh vào cây. Do đó, mới có dấu chưởng.
Nhìn chiều sâu của dấu chưởng Trương Thanh hết sức kinh khiếp. Nàng lè lưỡi, lắc đầu, rồi lẩm nhẩm:
– Khổng Linh Linh! Ngày nay ngươi nương tình với Quan đại ca ta, ngày sau nếu gặp ngươi ta sẽ tha chết cho ngươi một lần, để đáp lại sự khoan dung của ngươi hôm nay!
Tuyết Lão Thái Thái đã theo sau nàng, lúc đó ra đến nơi nghe nàng nói thế, cười lạnh hỏi:
– Công phu của ngươi được bao nhiêu, dám nói đến việc ngày sau giết được nó? Đừng nuôi mộng!
Trương Thanh trố mắt, nhìn bà, một lúc lâu thốt:
– Tuy hiện tại, tôi không bằng nàng, song với thời gian qua Thái thái sẽ chỉ điểm cho tôi, tôi lo gì không chế ngự nổi nàng?
Tuyết Lão Thái Thái biến sắc mặt:
– Sao ngươi biết là ta sẽ chỉ điểm cho ngươi?
Trương Thanh điềm nhiên:
– Trừ ra Thái thái không muốn trị tội một đồ đệ phản nghịch thì thôi, chứ ngược lại thì chắc chắn là Thái thái sẽ chỉ điểm cho tôi học thành tài!
Tuyết Lão Thái Thái sôi giận:
– Không trị tội nó? Ta hận nó vô cùng, bắt được nó là ta lột da xé xác nó ngay! Tánh nó tàn độc, ta vốn biết từ lâu, nhưng ta không ngờ nó tàn độc cả đối với ta! Một ngày nào đó, ta sẽ tìm nó trị tội nó!
Trương Thanh lắc đầu:
– Thái thái giấu giếm tôi làm gì? Một chưởng của nàng đã làm cho nội thể của Thái thái chấn động mạnh, mạch lạc hầu như đứt đoạn, bất quá trong nhất thời Thái thái cố trấn định tinh thần để dọa nàng chạy đi, làm sao Thái thái chế ngự nàng nổi sau này. Điều đó, tôi thấy rõ ràng Thái thái không che dấu nổi đôi mắt tôi đâu!
Tuyết Lão thái thái hét:
– Ngươi cho rằng ta đã thành phế nhân?
Trương Thanh lại lắc đầu:
– Không hẳn là phế nhân, song dù sao thì vũ công của Thái thái cũng kém giảm ít nhiều, chắc chắn là không phương gì phục hồi nguyên trạng được. Do đó cái việc trị tội phản đồ. Thái thái phải ủy thác cho tôi đảm nhận!
Tuyết Lão Thái Thái vẫn phẫn nộ như trước:
– Tại sao?
Trương Thanh chỉnh sắc mặt:
– Bởi vì, tôi là máu huyết của Thái thái, vũ học của Thái thái, truyền lại cho cháu ngoại, thiết tưởng cũng là một điều hợp lý. Ngày nay, Khổng Linh Linh chưa biết được sự liên hệ giữa Thái thái và tôi, song một thời gian sau, nàng sẽ biết, nàng sẽ oán hận Thái thái hơn, nàng sẽ đến đây tìm Thái thái, có cần gì Thái thái cất công đi tìm nàng?
Tuyết Lão thái thái nổi giận:
– Nó tìm ta rồi ta sợ nó à?
Trương Thanh đổi giọng lại dịu hiền, không còn rắn rỏi, nghiêm lạnh như trước. Nàng thốt:
– Thái thái không khí khái như thế. Bởi, sự việc cô cùng quan trọng, liên hệ đến sự tồn vong của con người. Thái thái không sợ nàng, nhưng nếu Thái thái có mệnh hệ nào, thì mẹ tôi còn nương tựa vào đâu? Tôi nghĩ, chỉ có tôi ra mặt đối phó với nàng là hợp lý nhất!
Tuy cao niên, Tuyết Lão Thái Thái vẫn còn quật cường như lúc thiếu thời, bà nhất định trừng trị Khổng Linh Linh cho kỳ được và phải chính tay bà trừng trị, bà mới hả giận. Song, Trương Thanh hết lời thuyết phục, dần dần bà nguôi nóng, sau cùng bà thở dài, thốt:
– Ngươi giống mẹ không sai một điểm nhỏ nào. Mẹ ngươi ngày trước, cũng ương ngạnh, cũng độc đáo, muốn làm gì thì làm, tùy ý mà làm, ai nói chi cũng chẳng chịu nghe! Bởi hành động theo nhiệm tánh đó, giờ nó ra thân hình như vậy!
Bà trầm ngâm một chút, lại tặc lưỡi, rồi gật đầu:
– Mà thôi! Ngươi muốn vậy, ta cũng chiều theo vậy. Ta sẽ truyền vũ công cho ngươi, song với điều kiện!
Trương Thanh hấp tấp hỏi:
– Điều kiện gì, hở Thái thái?
Tuyết Lão thái thái căm hờn:
– Ta truyền vũ công cho ngươi, ngươi không được nhận hắn là Gia gia ngươi nữa!
Trương Thanh thoáng biến sắc, kêu lên:
– Sao lại có điều kiện đó, hở Thái thái? Tôi không nhận người làm Gia gia nữa thì chẳng hóa ra tôi nghịch lý sao? Huống chi, người đã nuôi dưỡng tôi từ thuở nhỏ ...
Đến lượt Tuyết Lão Thái Thái biến sắc.
Bà chưa kịp nói gì, Trương Thanh tiếp luôn, gương mặt hiện rõ vẻ khổ sở:
– Tôi chỉ sợ Gia gia tôi sẽ không nhận tôi là con!
Tuyết Lão thái thái «ạ» lên một tiếng:
– Tại sao?
Trương Thanh đưa tay chỉ Quan Sơn Nguyệt, tiếp:
– Gia gia tôi không cho tôi đến đây. Người bảo rằng, nếu tôi cãi lời người, thì cầm như tình phụ tử đoạn tuyệt rồi. Song, vì tình trạng của Quan đại ca, tôi không thể không đến đây tìm Thái thái, tôi đến đây là tôi đã cãi lời Gia gia tôi, cho nên tôi sợ người sẽ chẳng tha thứ cho tôi!
Tuyết Lão Thái Thái vụt bật cười ha hả:
– Hay! Trương Vân Trúc! Hay lắm! Đúng là cái báo ứng tuần hoàn! Ngày trước, ngươi đoạt con gái của ta, ngày nay ngươi mất con gái! Luật chí công! Chí công!
Bà lập lại hai tiếng «chí công» chẳng biết mấy lược.
Trương Thanh nào biết sự tình ra sao mà dám dàn giải. Nàng chỉ lắc đầu, cười khẽ, hỏi:
– Tại sao Thái thái hận Gia gia tôi cực độ như vậy?
Trương Thanh đinh ninh là Thái thái sẽ hét lên, sẽ mắng oang oang, mắng không tiếc lời, song lạ lùng thay, bà lại giữ sự trầm tịnh, bất quá bà thở dài mấy tiếng trầm ngâm một hồi lâu, như để hồi ức lại sự việc của bao nhiêu năm về trước. Cuối cùng, bà đem đoạn cố sự thuật lại cho Trương Thanh nghe.
Cách hai mươi lăm năm ...
Quang cảnh trong Tuyết Thần Cốc không tịch mịch như bây giờ. Cốc chủ là Tuyết Dục Dân, một thần y, tuy khứ thế, cái phong quang rạng rỡ của thế gia vẫn còn, dưới sự điều khiển gia vụ khéo léo của người vợ đảm là Lâm Kinh Hồng.
Lâm Kinh Hồng, thuở ấu niên, từng được bậc dị nhân truyền thọ vũ công, khi về làm vợ Tuyết Dục Dân, bà nghiễm nhiên là một cao thủ vũ lâm.
Vũ công của bà, y thuật của Tuyết Dục Dân tạo thành một thanh danh lừng lẫy cho Tuyết Thần Cốc một thời.
Từ ngày về nhà chồng, Lâm Kinh Hồng lại học thêm y thuật, dần dần bà cũng nổi danh luôn như chồng, có điều kém chồng phần nào vậy thôi.
Giòng họ Tuyết trải qua mấy đời, mang một ác bịnh, tiền nhân đã dùng mọi thứ thuốc linh nghiệm trên đời, song vẫn không chữa dứt hẳn. Chứng bịnh đó trở thành di truyền, đến đời Tuyết Dục Dân đã nổi danh là một thánh thủ, một thần y, cũng chẳng làm sao tự chữa trị cho mình dứt hẳn bịnh. Lão ta không còn hy vọng gì tự cứu, đành để chứng bịnh hoành hành cho đến chết.
Tuy nhiên, trong những năm cuối cùng, lão gia tâm nghiên cứu mọi phương pháp để chữa trị, lão có tìm ra được một vài phương pháp, song chưa kịp thực hiện thì lại mạng chung.
Bởi chứng bịnh di truyền, người trong họ Tuyết rất hiếm hoi. Đến Tuyết Dục Dân thì hai vợ chồng chỉ sanh được một gái thôi. Đó là nữ nhân điên, tên Tuyết Y Hương.
Y Hương sanh ra, kháu khỉnh lúc nhỏ, dần dần lớn lên, đẹp đẽ vô cùng.
Tuy dòng dõi thế gia, y Hương chỉ thích vui chơi, không chịu học vũ công cũng không nghiên cứu y thuật.
Lâm Kinh Hồng thương con, không nở cưỡng bức Y Hương học tập, đành để cho Y Hương học được bao nhiêu thì học, tùy cái hứng của con.
Khi Tuyết Y Hương vừa tròn mười chín tuổi, thì bắt đầu từ đó, biến cố xảy ra tại Tuyết Thần Cốc, gần như liên tục. Qua những biến cố đó, sơn cốc trở thành tịch mịch như nay.
Một hôm, bỗng có một thiếu niên xuất hiện quanh vùng Côn Lôn Sơn. Thiếu niên đó tên là Trương Vân Trúc, văn tài uyên bác, vũ học cao thâm lại tinh tường y thuật. Ngoài ra, họ Trương còn có dung mạo phi phàm, một dung mạo lý tưởng của hầu hết các thiếu nữ đến độ xuân thì ...
Y là người từ phương xa đến, cái đó lẽ dĩ nhiên rồi, bởi nếu là người địa phương, thì hẳn Lâm Kinh Hồng phải biết.
Sở dĩ y đến đây, là vì vùng Côn Lôn Sơn sản xuất nhiều loại dược thảo quý, y đang cần mấy loại dược thảo đó để chế luyện vài món thuốc.
Y quanh quẩn thế nào trong vùng, một ngày nọ, lại lạc vào Tuyết Thần Cốc.
Rồi y trở thành một vị tân khách của Lâm Kinh Hồng.
Trai tài, tiếp cận với gái sắc, Trương Vân Trúc và Tuyết Y Hương không bao lâu cảm thông nhau và yêu nhau.
Lâm Kinh Hồng biết rõ đôi tim non đã hướng về nhau rồi, bà cũng tán thành ngầm cuộc hôn nhân của hai người, song bà chưa tỏ lộ ý đó, bà chờ Trương Vân Trúc tự ý thốt ra trước.
Rồi, cái gì phải đến, đã đến. Trương Vân Trúc chánh thức lên tiếng cầu hôn.
Tự nhiên, Lâm Kinh Hồng chấp nhận liền, song bà buộc Trương Vân Trúc phải ở rể nơi Tuyết Thần Cốc. Bà cho Trương Vân Trúc biết rõ. Y Hương không thể rời xa cốc, vì nàng có một chứng bịnh di truyền, nếu nàng sống xa bà, thì bịnh đó phát lên, không còn làm sao cứu chữa kịp. Và như vậy, nàng chỉ có thể sống độ ba năm thôi.
Trương Vân Trúc lại chịu cái cảnh ăn nhờ ở đậu nơi nhà vợ? Y quả quyết là y chữa khỏi chứng bịnh di truyền của Tuyết Y Hương và y tình nguyện cam chịu mọi hậu quả, nếu ngày sau vợ y có bề gì.
Lâm Kinh Hồng lại viện lẽ dòng họ Tuyết chỉ có mỗi một mình nàng nếu nàng theo chồng sống nơi xứ lạ, thì chẳng hóa ra tổ tiên tuyệt tự sao?
Trương Vân Trúc lại viện lẽ y cũng là con một trong gia đình nếu y theo về bên vợ, thì dòng họ của y cũng diệt tuyệt.
Lâm Kinh Hồng chẳng biết phải làm sao, hỏi ý kiến Tuyết Y Hương.
Tuyết Y Hương bằng lòng theo chồng.
Điều đó làm cho Lâm Kinh Hồng vừa khó nghĩ, vừa căm hận con gái luyến tình mà quên mẹ.
Bời đôi bên chưa thỏa thuận mọi điều thắc mắc, cuộc hôn nhân bất thành.
Trương Vân Trúc ôm hận tình trở về quê quán.
Y rời Côn Lôn Sơn được hai hôm, thì Tuyết Thần Cốc, Tuyết Y Hương đột nhiên mất tích.
Tự nhiên Lâm Kinh Hồng thừa hiểu, Y Hương rời Côn Lôn Sơn, đến Bắc Thiên Sơn, hội hiệp với Trương Vân Trúc. Nàng đã chọn tình, phụ hiếu! Và, Lâm Kinh Hồng làm sao tránh khỏi phẫn nộ xâm chiếm tâm tư, bà liền ra tận Quan Ngoại, tìm đến Bắc Thiên Sơn với chủ định là sát hại cả hai vợ chồng Trương Vân Trúc, Tuyết Y Hương. Nhưng, đến nơi rồi, Lâm Kinh Hồng vì nhân đạo, không nỡ hại con, giết rễ, bà thở dài, âm thầm trở lại Côn Lôn Sơn.
Tuyết Y Hương sau hai năm ân ái với Trương Vân Trúc, lại mang thai.
Trong thời gian đó, Lâm Kinh Hồng thời thường sai phái người theo dõi cuộc sống con và rễ.
Rồi Tuyết Y Hương hạ sinh một gái.
Con gái của Tuyết Y Hương, chính là Trương Thanh. Khi Trương Thanh vừa tròn một tuổi, thì chứng bịnh di truyền của Tuyết Y Hương bộc phát.
Trương Vân Trúc tận dụng sở năng chữa trị cho nàng song y chỉ cứu được mạng sống, còn thì dung mạo của nàng bị phá hủy, tâm tình lơ lãng như tỉnh, như điên.
Bỗng, một hôm, Y Hương cảm thấy đời đáng tởm, bởi gương mặt của nàng tởm quá chừng, phàm ai mang gương mặt xấu xí, ghê tởm như mặt quỷ mà còn yêu đời gì được?
Trương Thanh thấy gương mặt đó, bất giác rú lên khóc thét, dù lúc đó, nàng chỉ vừa tròn tuổi thôi nôi.
Tuyết Y Hương phát cáu, định giết nàng rồi tự sát luôn.
Trương Vân Trúc phát hiện sự việc kịp thời, cứu con gái đồng thời điểm huyệt vợ cho vĩnh viễn không nói năng, cử động được. Y toan giết luôn vợ, để cha con được an nhàn.
Không phải y thấy vợ xấu xí rồi lòng ruồng rẫy, chẳng qua y sợ vợ còn sống ngày nào, là con gái y bị hăm dọa ngày ấy.
Trong hai người, một vợ một con, y phải cứu một người, và dĩ nhiên y phải cứu người lành lặn hữu dụng. Do đó, y quyết giết bà vợ điên.
Ngờ đâu, Lâm Kinh Hồng xuất hiện kịp lúc, cứu con gái, đưa nàng về Tuyết Thần Cốc.
Chán tình đời, Lâm Kinh Hồng sống theo lối ẩn dật, và từ ngày đó. Tuyết Thần Cốc bắt đầu tĩnh mịch.
Sau bà lại thu nhận Khổng Linh Linh làm đệ tử.
Tuyết Y Hương vẫn mang bịnh điên điên khùng khùng như vậy suốt hai mươi năm qua.
Và bây giờ Trương Thanh lại đến, bà cháu, mẹ con trùng phùng.
May hay rủi?
–––– oo –––– Trương Thanh ngây người nghe Tuyết Lão Thái Thái thuật lại đoạn biến cố sự của song thân nàng, dần dần nàng khóc, nàng khóc lúc nào cũng chẳng rõ, khi thái thái dứt, nàng vẫn còn khóc.
Bây giờ, còn gì bất tiện mà nàng không nhìn nhận ngoại tổ mẫu của nàng?
Nàng phải đổi lối xưng hô, dù chưa rõ Thái thái có chấp thuận hay không, dù chưa biết là Gia gia nàng có phản đối hay không. Nàng thốt qua nức nở:
– Ngoại ơi!
Thái thái thở dài:
– Ngươi muốn nói chi?
Trương Thanh tiếp:
– Ngoại tha thứ cho con nhé, nếu con nói câu này không thích hợp với ngoại! Chừng như năm xưa, ngoại đối xử gắt gao với gia đình con ...
Thái thái nhướng cao đôi mày, định phát tác, nhưng bà suy nghĩ một chút, cơn phẫn hận lắng dịu, rồi bà thở dài:
– Bất cứ về việc gì, ta cũng có thể bỏ qua cho hắn. Riêng về việc hắn toan kết liễu tánh mạng của Hương nhi, để cho hắn và ngươi được rảnh rang, thì ta mãi mãi ghi nhớ. Chẳng bao giờ ta dung thứ cho một người nỡ dứt tình ân ái, đoạn nghĩa vợ chồng khi thấy người bạn trăm năm của mình trở thành một mối phiền phức cho mình! Người ta nói một đêm vợ chồng, là ngàn năm vàng đá, huống hồ vợ hắn đã sanh con cho hắn nối dõi tông đường?
Bà nói phải quá, Trương Thanh còn lý lẽ gì để biện hộ cho gia gia nàng?
Lâu lắm, nàng tiếp:
– Tuy nhiên, với thời gian qua, lòng ngoại cũng nguôi hận phần nào, ngoại nên tha thứ cho Gia gia con đi ngoại! Năm xưa nếu người có làm điều chi, có lẽ vì sự việc chẳng đặng đừng đó ngoại. Con rắn độc cắn tay, người ta còn phải chặt tay để ngăn chận chất độc xâm chiếm toàn thân, ngoại am tường y thuật, lẽ nào không biết như vậy? Bởi muốn diệt trừ chất độc tận gốc, nhiều khi người ta có những hành động mà lý trí không dung thứ được đó ngoại!
Tuyết Lão Thái Thái «hừ» một tiếng:
– Ta chẳng biết như ngươi vậy sao! Bởi ta biết, nên hôm đó ta tha chết cho hắn, chứ nếu không thì hắn phải mất mạng từ đó rồi! Dù sao thì chủ ý của hắn vẫn tàn độc như thường, dù chủ ý đó hợp tình hợp lý.
Bà dừng lại một chút đoạn tiếp:
– Những gì đã qua, thuộc về dĩ vãng, luận phải, cũng là việc đã rồi, luận quấy, cũng chẳng làm sao lui về quá khứ được. Chúng ta hãy bỏ tất cả dưới lớp bụi thời gian, bây giờ hãy nghĩ đến những gì của thực tại những gì có liên quan đến tương lai ...
Bà nhìn Quan Sơn Nguyệt hỏi Trương Thanh:
– Tiểu tử đó, liên hệ với ngươi như thế nào? Việc gì xảy đến với các ngươi?
Trương Thanh thoáng đỏ mặt.
Thần sắc đó, Tuyết Lão thái thái đã thấy qua một lần, ở gương mặt một người.
Người đó, là Trương Vân Trúc ...
Lúc đến trước mặt bà, chánh thức cầu hôn với Tuyết Y Hương y cũng đỏ mặt như vậy!
Màu đỏ của ái tình!
Tư Mã Tử Yên
Võ Lâm Phong Thần Bảng
Hồi 8
Điểm Cố Cầu Sương
Hạ qua, Thu đến, Đông mảng, Xuân sang ...
Hoa nở, hoa tàn, hoa rụng, ngày tháng trôi qua, thấm thoát một năm đã tròn, từ cái lúc Trương Thanh đưa Quan Sơn Nguyệt đến tận Côn Lôn Sơn tìm Tuyết Lão Thái Thái nhờ chữa trị cho chàng.
Tuyết vẫn dổ, chừng như tuyết đổ quanh năm, con đường duy nhất từ Tuyết Thần Cốc thương thương với bên ngoài vẫn lợp tuyết.
Nơi đây, Tuyết Lão Thái Thái lâm Kinh Hồng quyết tâm cùng người con gái duy nhất là Tuyết Y Hương sống cuộc đời ẩn dật, vĩnh viễn xa rời nhân thế. Bà chỉ tưởng cuộc đời tịch mịch đó sẽ êm đềm trôi đi với năm tháng trong nhịp đều đều, dù có một đệ tử bên cạnh là Khổng Linh Linh, song Khổng Linh Linh rồi cũng có ngày hạ sơn, tạo lập cơ nghiệp cho nàng, chứ có thể nào nàng ở mãi mãi bên cạnh bà?
Ngờ đâu, Trương Thanh đến, mẫu tử trùng phùng, cảnh sống trong tuyết bớt đi phần sống tịch mịch.
Khổng Linh Linh, vì tức khí, làm điều phản nghịch, sợ tội với sư tôn, bỏ đi, khoảng trống của nàng đã có Trương Thanh lấp vào, không khí sơn cốc thêm phần ấm dịu hơn với tình huyết mạch nồng nàn.
Tuyết Lão Thái Thái đem tất cả sở học về vũ công cũng như về y thuật truyền lại cho đứa cháu ngoại.
Điều kiện đầu tiên, bà buộc Trương Thanh tuân theo, là không được nhìn nhận Trương Vân Trúc là Gia gia, điều kiện đó bất hợp tình, bất hợp lý, bà cũng bỏ luôn, thay vào đó, bà buộc Trương Thanh phải mang chiếc đầu lâu của Khổng Linh Linh về sơn cốc cho bà, sau khi nàng học thành tài.
Quan Sơn Nguyệt cũng được Tuyết Lão Thái Thái hết lòng chữa trị, chàng khôi phục tình trạng cũ sau những ngày dài tháng rộng tại bí cốc giữa Côn Lôn Sơn.
Trong khi đó, Phi Thiên Dạ Xoa cũng nấn ná tại cốc, chờ ngày Trương Thanh và Quan Sơn Nguyệt xuống núi, tái nhập giang hồ.
Phi Thiên Dạ Xoa Bành Cúc Nhân có sự bí mật bên lòng, sự bí mật đó liên quan đến vị Minh Đà Lịnh Chủ Độc Cô Minh sư phó của Quan Sơn Nguyệt. Đã mấy lần, bà có hỏi Quan Sơn Nguyệt về Độc Cô Minh song Quan Sơn Nguyệt đáp lơ lửng, thành bà không được toại ý lắm.
Quan Sơn Nguyệt là con người trầm lặng không hề biểu lộ những cảm nghĩ của chàng, khi nói lên câu gì, chỉ nói đủ ý mà thôi, chẳng cho thừa một lời, và cũng chẳng kéo dài câu chuyện. Cho nên, Bành Cúc Nhân chẳng khai thác được gì cho lắm bên cạnh chàng, về hoạt động của Độc Cô Minh, trước ngày Minh Đà Lịnh Chủ ly khai thế gian.
Quan Sơn Nguyệt đối với Trương Thanh, vốn thọ ơn cứu tử, thọ đến hai lần, thế mà chàng cũng chẳng nói năng gì thường với nàng, ngoài những câu hỏi đáp thông thường trong sinh hoạt hàng ngày.
Vả lại, Trương Thanh bận học hành nên thời gian tiếp cận nhau rất ít.
Ngày tháng qua, qua đều, đã đến lúc họ rời Tuyết Thần Cốc, bái biệt Tuyết Lão Thái Thái, hạ sơn hành hiệp trên giang hồ.
Quan Sơn Nguyệt lấy lại tên cũ, bỏ hẳn tên Quang Sơn Minh mà trước kia chàng tạm dùng để giấu hành tung, trong công cuộc theo dò Lạc Hồn Cốc chủ Khổng Văn Thông.
Họ ra đi ...
Họ từ hướng Tây, đi về hướng Đông, họ vào Dương Quang, vào Dương Quang rồi là họ có thể họ sẽ gặp nhiều người quen biết.
Nhưng, họ không gặp sự gì phiền phức dọc đường, chừng như khách giang hồ chẳng ai chú ý đến họ.
Dù họ có người quen, còn ai nhận ra họ được?
Phi Thiên Dạ Xoa Bành Cúc Nhân, ngày trước đành rằng cũng có danh vọng trên giang hồn, song bà quy ẩn từ lâu, sau nhiều năm bà vắng mặt, thiên hạ không còn ai nhớ đến bà nữa.
Chí như Quan Sơn Nguyệt, đành rằng chàng là truyền nhân duy nhất của Minh Đà Lịnh Chủ, đành rằng chàng có tạo nên một vài thành tích gây chấn động giang hồ như lần đại tỷ thí tại vùng Quan Ngoại, sau đó, đại náo Lạc Hồn Cốc, hạ sát Khổng Văn Thông, song chàng không thường xuất hiện, người đời nhắc đến thành tích của chàng như thuật lại một giai thoại vũ lâm, chứ nào ai gặp chàng đâu, mà hòng có người lưu ý?
Còn Trương Thanh, bất quá là một con chim non vừa tập bay trong vũ trụ bao la, hào kiệt vũ lâm nào có ai biết nàng?
Cho nên, bộ ba đó, nếu có ân oán giang hồ, thì ân oán đó cũng phôi pha từ lâu ...
Tóm lược, đối với giang hồ, Bành Cúc Nhân được xem như mất tích, Quan Sơn Nguyệt kể như đã chết rồi với chất độc của Khổng Văn Thông, còn Trương Thanh thì là mới xuất đạo chưa ai để ý.
Dọc đường, họ cũng có lắng nghe khánh lữ hành kháo chuyện nhau, theo câu chuyện của những người đó, thì trong một năm qua, giang hồ yên lặng, vũ lâm hưởng cảnh thanh bình.
Tại Lạc Hồn Cốc, sau ngày Khổng Văn Thông khứ thế, Khổng Văn Kỹ phong bế sơn cốc, ly khai giang hồ, không hề hoạt động như ngày nào.
Và chừng như Khổng Linh Linh không trở về cốc, bởi Lạc Hồn Cốc vẫn chìm trong cảnh tiêu điều ảm đạm, chẳng mảy may khởi sắc từ ngày mất chủ.
Các đại môn phái như Thiếu Lâm, Vũ Đương, Chung Nam, Điểm Thương, Không Động ... đều ức chế môn đồ, nghiêm cấm việc hạ sơn, do đó người trong vũ lâm hầu như vắng bóng, việc đụng chạm nhau không xảy ra được. Nhờ vậy, đại thế giang hồ cầm như ổn định. Mọi người toại hưởng thanh bình ...
Bọn Bành Cúc Nhân, Quan Sơn Nguyệt, Trương Thanh đi suôn sẻ đến Tửu Tuyền Thành. Họ không vào thành, họ tạm dừng chân tại Lý Mã Điếm bên ngoài thành.
Nơi đây, không khí bắt đầu nhiệt náo rồi, mặc dù còn ở vùng ngoại ô.
Thành Tửu Tuyền nằm trên trục giao thông Tây Bắc, một nơi mà hầu hết khách thương hoặc xuôi, hoặc ngược, cũng phải tạm dừng chân, để kiểm soát phương tiện di chuyển, trang bị mọi nhu cầu, cho đoạn đường cuối cùng.
Phàm khách thương không bao giờ đi riêng rẽ, họ họp đoàn có đủ xe, đủ ngựa, do đó họ không tiện vào thành.
Lý Mã Điếm chủ biết vậy, chọn một khoảng đất trống bên ngoài thành dựng lên hàng quán, khách sạn, có cả nơi đổ xe, có cả chỗ thả ngựa.
Một đoàn người đông, còn chọn nơi nào thuận tiện hơn nơi này? Và, khi nhiều đoàn người tụ họp lại một nơi, hẳn nơi đó phải nhiệt náo phi thường.
Hiện tại, nhiều đoàn khách thương đổ lại Lý Mã Điếm, ai ăn, ai uống, cứ ăn cứ uống, ai lo sửa xe, cứ sửa xe, ai đóng lại móng ngựa, cứ đóng.
Mọi tiếng động vang lên chen lẫn với tiếng người, người cười, người nói, người la, khung cảnh hết sức tưng bừng.
Bọn Quan Sơn Nguyệt chọn bàn xong, gọi thức ăn, họ từ từ ăn, tai lắng nghe khách giang hồ kháo chuyện với nhau.
Nhưng cả ba vô cùng thất vọng. Bởi, những khách quy tụ tại đây, bất quá chỉ là những người xuôi ngược vì thương vụ, hoặc giả nếu có một vài người trong giới giang hồ, thì họ chỉ là những kẻ quá tầm thường, cho nên những gì họ nói với nhau, không quan trọng lắm.
Thậm chí, có những kẻ thốt lên những lời thô tục, dù là nam nhân nghe ra cũng đỏ mặt huống hồ nữ nhân?
Cũng may, Trương Thanh sinh trưởng tại sa mạc, từng tiếp xúc với bọn du mục, bọn này phát ngôn bừa bãi, tục tằn, nàng nghe mãi thành quen, nên giờ đây nghe bọn thô bỉ vũ phu đối thoại với nhau, nàng vẫn thản nhiên như thường.
Bành Cúc Nhân thuộc hạng trung niên, cũng không còn nghiêm khắc cho lắm, nên họ nói gì mặc họ, bà không lấy làm điều.
Chỉ có Quan Sơn Nguyệt là hết sức chói tai với loại ngôn ngữ ti bỉ đó. Chàng cảm thấy khó chịu vô cùng, chốc chốc lại nhìn bọn ăn nói thô tục đó, song nhìn thì nhìn chứ làm sao được? Bởi ai ai cũng có quyền tự do, làm theo ý muốn của họ miễn cái gì họ làm, họ nói không đụng chạm đến ai khác là đủ rồi! Họ không phá hoại trật tự xã hội. Họ không gây hỗn loạn trong dòng đời, họ không chạm đến cá nhân chàng, thì chàng lấy lý do nào can thiệp đến sinh hoạt riêng tư của họ?
Chàng ngồi đó tức uất lắm nhưng đành ôm tức uất chịu.
Thực ra, cái gì gây khó chịu quá độ, cuối cùng rồi cũng tiêu diệt luôn sự kiên nhẫn của con người khó chịu đó. Và, Quan Sơn Nguyệt hầu như hết chịu nổi rồi.
Vừa lúc đó, bỗng có tiếng vó ngựa nện đều từ xa xa bên ngoài quán vọng đến. Vó ngựa nghe gấp, lại nhiều, chứng tỏ một đoàn kỵ sĩ khá đông sắp sửa đến đây, dù không bổ lại cũng chạy qua, vì đoàn kỵ đang chạy về hướng này.
Không lâu lắm, đoàn kỵ sĩ đến nơi. Họ gồm mười đại hán, người nào cũng bê bết máu tươi, người nào cũng mất vành tai tả. Nhìn vào tình trạng họ, cũng hiểu ngay họ đã bị kẻ địch làm cho họ ra thân thể đó!
Họ xuất hiện mọi người trong quán lập tức ngưng cười, ngưng nói, và tất cả đều lộ vẻ kinh hoàng, tất cả đều nhìn họ đăm đăm ...
Đại hán đi đầu cao giọng gọi:
– Chủ quán đâu, cấp tốc dọn rượu thịt lên, và đi mời ngay cho bọn ta một vị y sư!
Một người khác tiếp:
– Trước hết hãy mang nước đến cho bọn ta rửa ráy sạch máu!
Chủ quát tháo bọn làm công, tìm nước gấp, đồng thời hấp tấp hỏi:
– Việc gì đã xảy ra cho các vị thế?
Hắn tỏ vẻ khó khăn, tiếp:
– Tại đây là vùng ngoại ô, không có y sư mở hiệu hành nghề, xin các vị vào tận trong thành nơi có rất nhiều người nổi tiếng chữa bệnh rất giỏi!
Đại hán đầu đàn nổi giận:
– Nơi đây không có y sư thì ngươi đi nơi khác mà tìm. Vùng ngoại ô không có y sư thì ngươi thuê xe vào trong thành mà mời ra đây, ngươi có nghe ta nói không? Nếu bọn ta vào thành được thì tội gì lại phải dừng lại nơi ngôi quán nghèo nàn của ngươi? Ngươi biết không, nếu bọn ta vào thành, thì còn chi là danh dự của Song Anh Tiêu Cục?
«Song Anh Tiêu Cục!» Bốn tiếng đó vang lên, như bốn tiếng sét dội màng tai của bọn người hiện diện. Tiếng đùa dứt, tiếng cười dứt, và trên mặt mọi người niềm sợ hãi thoáng lộ, họ không hẹn mà đồng, tất cả hơi cúi thấp đầu một chút, chẳng dám nhìn ra, chứ đừng nói là phải hỏi một câu nào!
Tuy nhiên, họ cũng thương cảm về tình trạng của những kỵ sĩ đó. Nhưng họ là những người quá tầm thường, dù có thương cảm những kẻ ngộ nạn kia, cũng chẳng biết làm gì hữu ích cho chúng.
Quan Sơn Nguyệt chìa tay về hướng Bành đại nương. Cái chìa tay đó có cái nghĩa là bảo Bành đại nương trao chiếc bao có đựng thuốc trị thương cho chàng.
Thuốc đó, họ mang từ Côn Lôn Sơn, theo cuộc hành trình phòng cơn hữu dụng. Thuốc đó, không giống với các loại thuốc trị thương khác trên giang hồ.
Công hiệu của nó như thần, Bành đại nương từng ở bên cạnh Tuyết Lão Thái Thái nên biết rõ. Bởi bà biết rõ nên do dự.
Thuốc đó mang theo để dành cho họ chứ đâu phải phung phí bất cứ trong trường hợp, bất cứ đối với người nào? Giả như, viện cái cớ thể theo nhân đạo, gặp đâu phung phí đó, lúc hết rồi, mà mình gặp biết chuyện đến thì sao?
Bà do dự, Trương Thanh khẳng khái, chẳng rỏ nàng khẳng khái vì muốn lấy lòng Quan Sơn Nguyệt hay vì nhân đạo. Nàng mở chiếc bao ngay lấy thuốc trao cho Quan Sơn Nguyệt.
Bành đại nương tuy không đồng ý, song chẳng nói gì.
Từ lúc Tuyết Lão Thái Thái nhìn nhận Trương Thanh là cháu ngoại, Bành đại nương xem nàng như một tiểu chủ nhân, bởi trong tương lai, nàng sẽ thừa kế sự nghiệp của Thái thái, nàng sẽ là Cốc chủ Tuyết Thần Cốc, mà Bành đại nương thì còn ở tại đó lâu lắm, nếu không có sự bắt buộc bà phải di cư nơi khác.
Quan Sơn Nguyệt cầm lọ thuốc bước dến đại hán trưởng đoàn vòng tay thốt:
– Tại hạ có mang theo mình thuốc trị thương đây huynh đài cứ tự tiện dùng ...
Mong rằng trong độ đường dang dở bèo nước gặp nhau, có gì tiếp trợ được nhau, cứ làm, huynh đài không nỡ từ chối hảo ý của tại hạ!
Thuốc đành là vật rất cần khi con người mang bịnh, mang thương thế. Song, làm sao tin được của những người xa lạ, và làm sao tiếp nhận cái hảo ý của bất cứ người nào? Biết đâu trong cái hảo ý giả vờ, có một dụng tâm bất hảo nào?
Là khách giang hồ hắn có quyền nghi ngờ tất cả, để có một bảo đảm tối thiểu cho sự an toàn của hắn, của đồng bạn hắn. Huống chi, hắn nào biết được Quan Sơn Nguyệt là Lệnh Chủ Minh Đà, đời thứ hai?
Dù vậy, thấy Quan Sơn Nguyệt có vẻ thành thật hắn không nở khước từ trắng trợn nên nhẹ giọng đáp:
– Đa tạ tướng công!
Câu nói đó không hẳn tỏ rõ hắn tiếp nhận sự tiếp trợ của Quan Sơn Nguyệt.
Bất quá, hắn đáp tạ cái hảo ý của chàng, còn nhận thuốc hay không lại là một việc khác.
Quan Sơn Nguyệt phải nói thêm mấy lượt nữa hắn mới bằng lòng nhận thuốc. Đoạn chàng mở nắp chiếc bình lấy thuốc rắc lên vết thương.
Đại hán nghe mát vô cùng, chỗ đó không còn hành nhức nữa. Dĩ nhiên máu cũng ngưng chảy luôn.
Bây giờ hắn mới tin và phục hoàn toàn, hắn lí nhí tạ ơn chàng một lượt nữa.
Rồi hắn tiếp:
– Tướng công còn thừa thuốc chăng? Anh em tại hạ hơn mười người kia ai ai cũng mang thương tích, nếu tướng công cứu trị được cho toàn bọn, thì tại hạ cảm khích phi thường, nhất định ơn trọng này sẽ được báo đáp xứng đáng.
Quan Sơn Nguyệt cười nhẹ:
– Bốn biển là nhà, chúng ta dù chưa quen nhau song vẫn là huynh đệ, huynh đài cần chi phải khách sáo với tại hạ.
Rồi chàng lấy thuốc rắc chỗ bị thương cho tất cả.
Đại hán trưởng đoàn thái độ thì có vẻ văn nhã, song chí khí hiên ngang, tỏ rõ một tinh thần bất khuất, ánh mắt ngời oai nghi khiến ai nhìn đến cũng phải kính nể. Hắn vòng tay đáp tạ Quan Sơn Nguyệt lượt nữa, lần này hắn thay mặt cho đồng bạn:
– Tướng công sẵn lòng chữa trị cho bọn tại hạ như thế nầy, thực tại hạ hết sức cảm kích. Chẳng hay quý tánh cao danh là chi, tướng công cho bọn này biết để ghi khắc trong tâm, phòng có dịp đền đáp.
Hắn tự giới thiệu:
– Tại hạ là Tôn Thất, trong Song Anh Tiêu Cục, tại hạ ở ngôi vị thứ hai, bằng hữu trên giang hồ ái mộ tặng cái hiệu Hắc Ưng. Khi nào tướng công có dịp đến vùng Cam, Lương, cần người giúp đỡ, xin cứ nêu danh hiệu của tại hạ lên, tức khắc sẽ có bằng hữu võ lâm đến cùng tướng công, chờ lịnh tướng công sai khiến!
Quan Sơn Nguyệt cười nhẹ:
– Tại hạ hết sức hân hạnh được hội diện với Tôn Thất huynh. Một người có thinh danh hiển hách như Tôn huynh, chấn động cả vùng Cam, Lương, Giáp lại hạ cố đến tại hạ, thì còn chi bằng? Được kết giao với Tôn Huynh là một phúc hạnh phi phận cho tại hạ đó!
Tôn Thất mỉm cười:
– Tướng công mắng kéo tại hạ đó chăng? Một vành tai mất, đủ nói lên cái tài hèn mọn của tại hạ rồi, tướng công đừng quá tặng, tại hạ thẹn chết được!
Quan Sơn Nguyệt đắn đo rồi hỏi:
– Các hạ có thể cho tại hạ biết trong trường hợp nào các vị gặp tai nạn như thế?
Tôn thất thở dài:
– Nhắc đến việc đó, tại hạ hết sức thẹn đó, tướng công ơi! Song Anh Tiêu Cục sinh hoạt hơn hai mươi năm nay tại vùng Cam và Giáp chưa hề thất bại đến chuốc nhục thảm đạm như lần này! Trong mười sáu anh em hộ tống hai vạn lượng bạc, hai mạng dứt đầu, mười bốn mất vành tai, hai vạn lượng bạc tiêu ma!
Và thủ phạm, chỉ có một người, cỡi con lạc đà toàn sắc đen.
Quan Sơn Nguyệt giật mình:
– Kẻ cướp cởi lạc đà? Con lạc đà đó có hình dáng như thế nào?
Tôn Thất tặc lưỡi:
– Một con vật hy hữu trong loại đó! Toàn thân chẳng có một sợi lông tạp sắc! Hai vạn lượng bạc nặng ít nhất cũng ngàn cân thế mà nó chở đi nhẹ nhàng như chở một bó cỏ, nó vừa phóng chân là biến mất dạng nơi phương trời xa.
Nhanh vô tưởng đó tướng công ơi!
Quan Sơn Nguyệt kêu lên:
– Con minh đà ...
Tôn Thất nhìn chàng thoáng lạ lùng hỏi:
– Tướng công nói đến con minh đà nào?
Quan Sơn Nguyệt vội chữa thái độ ngay:
– Tại hạ nghe giang hồ truyền thuyết, con vật của Minh Đà Lịnh Chủ có sắc lông thuần trắng, nó đúng là một thần vật ...
Tôn Thật lắc đầu:
– Không phải đâu! Con vật của Minh Đà Lịnh Chủ có lông trắng, còn con lạc đà này đen tuyền. Tại hạ nhận thấy cước lực của nó nhanh lắm, nó chẳng kém con bạch đà của Lịnh Chủ Minh Đà chút nào!
Quan Sơn Nguyệt «ạ» lên một tiếng:
– Không ngờ trên đời lại có một con lạc đà ngang sức với bạch đà của Minh Đà Lịnh Chủ ...
Trong ánh mắt của Tôn Thất, thoáng hiện lên vẻ hoài nghi, hắn nhìn chàng đăm đăm.
Quan Sơn Nguyệt biết mình đã lỡ lời, vội chữa:
– Tại hạ có nghe nói đến con bạch đà của Minh Đà Lịnh Chủ, ai ai cũng cho nó là một linh vật, và cứ tưởng nó là nhất trong đồng loại của nó. Bây giờ nghe các hạ ca tụng con hắc đà này, tại hạ nghĩ, thần vật sao lại có nhiều thế?
Chàng trầm ngâm một chút đoạn hỏi:
– Các hạ nói rằng người cướp bảo tiêu có cái hiệu là Phi Lạc Đà?
Tôn Thất lắc đầu:
– Không chắc lắm. Bởi người cướp bạc giết đồng bạn của tại hạ, chẳng hề tỏ lộ một điểm gì chứng tỏ lai lịch cũng như danh hiệu, bất quá thấy y cỡi lạc đà, chạy như bay, tại hạ gọi là Phi Lạc Đà vậy thôi!
Quan Sơn Nguyệt lại hỏi:
– Người cướp bạc có hình dáng ra sao?
Tôn Thất lắc đầu:
– Không thấy rõ. Y phủ bên ngoài một lượt sa đen, trùm kín từ đầu đến chân, động tác của y nhanh như gió, vũ công cao không tưởng nổi! Vừa xuất thủ là hạ sát hai mạng, mà hai nạn nhân lại là tiêu sư, chứ nào phải tay tầm thường?
Còn lại mười bốn người thì trong thoáng mắt tất cả bị y thẻo mất một vành tai.
Bọn tại hạ chỉ nghe một luồng gió lạnh phớt qua, vành tai đứt lìa, những bao bạc trong xe y chỉ quơ tay qua một vòng chụp lấy, đặt lên lưng hắc đà rồi chạy đi như bay biến. Bọn tại hạ không kịp nhận định y là nam hay nữ, già hay trẻ, đừng nói là thấy mặt, thấy mày!
Quan Sơn Nguyệt trầm ngâm một lúc lâu lại hỏi:
– Ít nhất, các hạ cũng biết người đó cao hay thấp, mập hay ốm chứ?
Tôn Thất cười nhẹ:
– Không cao, không thấp, không ốm, không mập. Tóm tắt chẳng có một điểm đặc biệt nào!
Quan Sơn Nguyệt cau mày:
– Hai vạn lượng bạc, chẳng phải là một số bạc tầm thường, khi về đến tiêu cục, các hạ làm sao nói với Tổng Tiêu Đầu?
Tôn Thất thở dài:
– Bạc mất, người bảo tiêu phải đền là lẽ đương nhiên, tại hạ từng được Tiêu Cục tính nhiệm, chắc Tổng Tiêu Đầu sẽ chẳng nghi ngờ. Song bạc mất thì đền, đã đành, còn danh dự mất, lấy gì bù đắp? Tại hạ chỉ sợ sau việc này, Tiêu Cục Song Anh đến phải đóng cửa ngưng sanh hoạt mất!
Quan Sơn Tuyệt cũng xót xa thay cho hắn. Chàng suy nghĩ một chút, lại hỏi:
– Song Anh Tiêu Cục với phái Chung Nam có liên quan chi với nhau chăng?
Tôn Thất gật đầu:
– Chủ nhân tiêu cục là đệ tử phái Chung Nam.
Quan Sơn Nguyệt gật đầu:
– Gã Phi Lạc Đà cướp bạc của các hạ, hắn chẳng phải là một kẻ cướp tầm thường trên giang hồ đâu. Có thể gã có sự hiềm khích gì với Lữ lão sư, Chưởng môn phái Chung Nam đó! Gã chạm mặt với cát hạ chẳng phải cố ý cướp bạc mà có thể vì sự hiềm khích xa xưa nào đó với quý phái ...
Tôn Thất trố mắt nhìn Quan Sơn Nguyệt một lúc:
– Tại hạ cũng nghĩ như thế!
Hắn thở dài, tiếp:
– Tướng công là người đọc sách, thế mà cũng am tường sự việc giang hồ lập luận rất xác đáng!
Hắn cứ tưởng Quan Sơn Nguyệt là một nho sĩ chẳng hề nghi ngờ chàng là một phần tử vũ lâm.
Quan Sơn Nguyệt cười nhẹ không đáp, chuyển sang vấn đề khác, hỏi lại:
– Sự việc của các hạ, dù đúng là thật, song nghe ra vẻ huyền hoặc vô cùng, khi trở về Tiêu Cục các hạ khó nói với chủ nhân, điều đó chắc như vậy rồi! Các hạ bằng vào đâu, dám tin là để giải quyết?
Tôn Thất lộ vẻ khổ sở:
– Tướng công lo sợ cho tại hạ cũng phải! Tuy Phi Lạc Đà có lưu lại một vật, được kể như tín hiệu, song một vật nhỏ mọn đó không thể chứng minh một sự việc lớn lao ...
Hắn dừng lại, trầm ngâm một chút rồi cười khổ tiếp:
– Tuy vậy trong cái rủi có cái may, rủi là bọn tại hạ mỗi người mất một vành tai, may là nhờ Phi Lạc Đà hành động như thế, có khác nào là giải thoát bọn tại hạ khỏi một nguy cảnh! Thiết tưởng, nhìn qua mười bốn anh em tại hạ, mỗi người đều mang thương tích, chẳng lẽ chủ nhân không tin?
Quan Sơn Nguyệt trố mắt:
– Phi Lạc Đà có lưu lại một vật làm biểu ký? Vật gì thế? Các hạ có thể cho tại hạ nhìn qua được chăng?
Tôn Thất do dự một chút, hắn nghĩ, Quan Sơn Nguyệt có cái ơn chữa trị thương thế cho toàn bọn, nếu hắn cự tuyệt thì thành ra kém nhã độ đối với chàng.
Bắt buộc hắn phải lấy trong mình ra một vật, to bằng bàn tay trao qua cho Quan Sơn Nguyệt.
Vật đó là một mảnh đồng, nơi mặt trên có khắc hình một con lạc đà có cánh, ben cạnh hình lạc đà, có ba chữ:
«Phi Đà Lệnh»! Nơi mặt dưới, không có hình gì cả, chỉ có tám chữ:
«Đà Đáo, Nhân Đáo. Lệnh Phi, Hồn Phi!» Quan Sơn Nguyệt vụt biến sắc. Chàng sôi giận cực độ, đang cầm mảnh đồng trong tay, chàng bóp mạnh, mảnh đồng vỡ ra từng miếng nhỏ. Chàng lỏng tay, mấy miếng đồng vỡ vụn rơi qua kẻ mấy ngón tay rớt xuống đất.
Tôn Thất thấy cảnh tình đó hết sức kinh hoàng. Hắn không ngờ một người có dáng tư văn nho sĩ như Quan Sơn Nguyệt lại là một tay đại lực khí.
Khâm phục Quan Sơn Nguyệt là một việc, mất chiếc «Phi Đà Lệnh» là một việc khác, khâm phục tài nghệ của người chẳng thấy ích lợi gì cho hắn, nhưng mất chiếc lệnh bài là cái hại đến liền với y. Bởi đó là vật duy nhất chứng minh tai nạn dọc đường của hắn, bây giờ mất nó rồi khi trở về hắn làm sao biện hộ cho mình? Mấy vành tai mất chưa hẳn là một chứng tích thanh minh trường hợp của hắn, bởi đối với số bạc to lớn, ai ai cũng có thể ngụy tạo một vết thương, bất quá chịu đau chịu xấu một chút, mà được hưởng số bạc to.
Thế thì làm sao?
Hắn giương tròn mắt nhìn Quan Sơn Nguyệt, hắn không hỏi bằng miệng, song ánh mắt đó thay lời một cách hùng hồn.
Quan Sơn Nguyệt tự nhiên hiểu ý tứ của hắn. Chàng rằng giọng quả quyết:
– Tại hạ hứa trong vòng ba hôm, sẽ lấy lại số bạc mất cho Tôn huynh!
Tôn Thất sững sờ:
– Tướng công ...
Quan Sơn Nguyệt cao giọng:
– Hại hạ còn sống một ngày nào, là ngày đó tại hạ nhất định chẳng cho một ai dùng lạc đà làm hiệu lịnh!
Tôn Thất hành nghề bảo tiêu hơn mười mấy năm qua, từng xuôi ngược khắp đó đây, mắt thấy nhiều, tai nghe lắm, trí xét đoán người và việc cũng xảo diệu phi thường. Thấy thái độ Quan Sơn Nguyệt nghe chàng nói, hắn đã nghĩ đến một điều rồi song hắn chưa dám tin là mình nghỉ đúng.
Bởi chưa tin chắc, hắn còn do dự, hắn chỉ lẩm nhẩm mấy tiếng bâng quơ.
Quan Sơn Nguyệt gằn từng tiếng:
– Tôn huynh không tin là tại hạ thu hồi nổi số bạc mất?
Tôn Thất hấp tấp điểm nụ cười vuốt thốt:
– Nào phải tại hạ không tin lời hứa của tướng công! Bất quá ... bất quá, cao danh quý tánh của tướng công ... tại hạ ... đối với chủ nhân ...
Hắn thốt chẳng ra câu chẳng tròn ý, song Quan Sơn Nguyệt hiểu rõ, hắn muốn gì. Chàng lấy trong mình ra một tấm lệnh bài cũng bằng đồng như tấm lệnh bài chàng vừa bóp vụn, trao qua cho hắn, đoạn bảo:
– Các hạ cầm tấm lệnh bài, mang về trình chiếu với chủ nhân, mọi việc sẽ được êm xuôi!
Tôn Thất tiếp nhận tấm lệnh bài, vừa nhìn thoáng qua, hắn biến sắc ngay, tay hắn rung rung.
Minh Đà Lệnh!
Cần chi phải hỏi nữa? Hắn tự nhiên phải biết người đối diện với hắn là Minh Đà Lệnh Chủ, chứ còn là ai? Và Minh Đà Lệnh Chủ, nào có phải là một danh từ xa lạ? Bất quá, hắn chưa gặp người, chứ cái danh người chấn động màng tai hắn qua nhiều năm rồi!
Hắn ngây người, tay nắm chặt Lệnh Bài, mắt mở to nhìn Quan Sơn Nguyệt!
Quan Sơn Nguyệt cười lạnh tiếp:
– Các hạ về báo với chủ nhân rằng Quan Sơn Nguyệt chưa ly khai vĩnh viễn thế gian này!
Tôn Thất nghiêng mình, hết sức cung kính đáp:
– Tuân mạng Lệnh Chủ!
Một ngôi tửu quán, có thể chứa đựng ngàn người, ngàn ngựa xe, lúc đó im lặng như bãi tha ma. Bất cứ thực khách nào cũng nhìn Quan Sơn Nguyệt, có người nhìn thẳng có kẻ len lén nhìn.
Tuy cục diện khai diễn bất ngờ, song chẳng ai không cho là mình có vinh dự lớn lao được trông thấy Minh Đà Lệnh Chủ!
Bởi trên giang hồ, còn ai không biết thinh danh của Lệnh Chủ Minh Đà?
Biết cái thinh danh chứ chưa biết người, bây giờ đối diện với người, còn ai không khoan khoái?
Trong niềm khoan khoái đó, có sự kính phục vô biên.
Hành tung đã lộ rồi, Quan Sơn Nguyệt không còn khiêm nhượng nữa, ngay từ phút giây này, chàng hành động với tư cách một Lệnh Chủ. Chàng nghiêm giọng hỏi:
– Sự tình phát sanh tại địa phương nào?
Tôn Thất cung kính đáp:
– Tại Ưng Sầu Giản, ở phía trước đây, cách hai mươi dặm!
Quan Sơn Nguyệt cười nhẹ:
– Cát hạ có ngoại hiệu Hắc Ưng, đến một địa phương có cái tên rất kỵ, tự nhiên gặp biến cố là phải! Ngày trước, Phụng Sồ tiên sanh đến Lạc Phụng Ba, bỏ mình tại đó, hẳn các hạ cũng biết sự tích ấy chứ?
Tôn Thất cười gượng – Lệnh Chủ nói vui tai đấy thôi! Chứ tai nạn nào phải do một địa danh mà thành? Chẳng qua, cái số định gặp họa nơi nào, thì chung quy rồi mình cũng phải đi qua nơi đó, để rước lấy cái họa.
Hắn hỏi:
– Đêm nay, Lệnh Chủ định nghỉ chân tại đâu? Tại hạ sẽ cho anh em về trước, báo tin với chủ nhân, riêng tại hạ thì ở lại, tình nguyện ở bên cạnh Lệnh Chủ, hầu hạ Lệnh Chủ!
Quan Sơn Nguyệt khoát tay:
– Các hạ khỏi phải lo, vả lại tại hạ cũng chưa quyết định như thế nào.
Tôn Thất hấp tấp thốt:
– Nếu Lệnh Chủ chưa có ý định gì, thì tại hạ xin thỉnh Lệnh Chủ vào thành, trong đó có tòa Trích Anh Khách Sạn, chủ nhân ngôi khách sạn là Thất Tinh Đao Lưu Tam Thái, một nhân vật trên giang hồ, chán cảnh phiêu bồng, về đây sinh hoạt. Y vốn là bằng hữu chí thân của tại hạ, Lệnh Chủ đến đó rồi nhất định y hoan nghinh vô tưởng!
Quan Sơn Nguyệt suy nghĩ một chút:
– Cũng được! tại hạ bằng lòng đến đó, có điều y không nên đặc biệt chiêu đãi tại hạ, cho tại hạ bớt áy náy phần nào. Tại hạ nghĩ, y là một nhân vật trên giang hồ, thì dù là khách sạn của y, có xảy ra việc gì, chắc y cũng không quá kinh hãi. Sở dĩ tại hạ nói thế, là vì tại hạ nghĩ, Phi Lạc Đà chưa đi đâu xa, hắn có thể trở lại thành, tìm các hạ hoặc tìm tại hạ, để nghe ngóng mọi phản ứng của chúng ta, sau vụ cướp!
Quan Sơn Nguyệt đáp ứng lời mời, Tôn Thất hết sức hân hoan, hắn vội vã ra lịnh cho đồng bạn chạy bay vào thành, thông báo Thất Tinh Đao Lưu Tam Thái, đồng thời chuẩn bị hộ tống bọn Quan Sơn Nguyệt ba người vào thành.
Ngồi trên mình ngựa, trên con đường vào thành, Phi Thiên Dạ Xoa Bành Cúc Nhân nhìn sang Quan Sơn Nguyệt, mỉm cười, thốt:
– Ngươi hành sự đúng theo khuôn mẫu của sư phụ ngươi ngày trước, chẳng sai một điểm nhỏ. Sư phụ ngươi hoạt động trên giang hồ, đột nhiên mà đến, bất thình lình mà đi như con rồng thiêng ẩn hiện không thường, bình sanh không thích giao du bừa bãi, chứ đừng nói là hạ mình tiếp cận với hạng thấp thỏi hơn!
Bà không dùng ngôn ngữ khách sáo đối với Quan Sơn Nguyệt bới bà cùng đi một đoàn, tức nhiên có đồng chí hướng, hơn nữa chàng còn nhỏ tuổi, đáng là em, cháu của bà, nếu bà khách sáo thì mất hẳn sự thân mật giữa nhau.
Ngoài ra, cũng có thể bà dựa vào một sự quen biết nào ngày trước với sư phụ chàng nên bà dùng cái thái độ kẻ cả đối với chàng, cho nên bà không cần khách sáo.
Quan Sơn Nguyệt cười nhẹ:
– n sư ngày trước có chỗ tự cao tự phụ, biết đâu người chẳng có một lý do bí ẩn gì đó mà không muốn tiếp cận nhơn tình thế thái? Cũng vì người có hành tung bí mật nên thường xảy ra những sự hiểu lầm. Người không tiếp cận với thế nhân, song người thường khuyên tại hạ, nên giao du rộng rãi, đừng noi theo gương ích kỷ của người, tương lai của tại hạ còn dài, tại hạ phải nghĩ đến con đường tiến thủ, tạo lập nên một sự nghiệp vẻ vang, chứ như người thì cầm như bỏ đi rồi, bất quá sống lây lất qua ngày để chờ lúc về trong lòng đất lạnh. Cho nên người bảo tại hạ, nên học nghệ nơi người chứ đừng tập theo tính người!
Bành đại nương mỉm cười:
– Kết giao bằng hữu, đành là một việc tốt, nên làm, song phải biết chọn người. Kết giao được bậc cao minh, lại càng tốt. Chứ như cái gã Hắc Ưng Tôn Thất này và cái tên Thất Tinh Đao Lưu Tam Thái nào đó ở trong thành, chúng là hạng người gì, có hành vi ra sao, ngươi chẳng hiểu mảy may về chúng lại khẳng khái nhận lời tiếp cận, giả như ngươi gặp một bọn vô lại thì cái danh của ngươi sẽ mất, uy tín phải kém giảm, chừng đó ngươi làm sao tiếp xúc với các vị Chưởng môn các phái lớn?
Quan Sơn Nguyệt lắc đầu, không hoàn toàn tán đồng lập luận của Bành đại nương. Chàng thốt:
– Cái ý của tại hạ là muốn tiếp cận với hạng người bình thường, tìm trong hạng đó có người nào khá, tại hạ kết tình bằng hữu. Sở dĩ thế là vì tại hạ nhận thấy, trong hạng người bình thường rất có nhiều kẻ thành tâm, thực ý, họ không bao giờ bội phản tại hạ, họ không trước mặt tâng bốc, sau lưng khinh miệt tại hạ.
Họ không đố kỵ tại hạ, bởi họ biết là chẳng khi nào họ lên kịp đường danh với tại hạ, do đó họ chỉ lấy tâm ý thành thật đối xử với tại hạ để mong nhờ sự giúp đỡ.
Còn như giao du với bọn Cao Minh, chi cho khỏi tại hạ gặp phiền phức vì họ, bởi phần đông thường có tánh cao ngạo, họ có quyền cao ngạo vì họ cho họ tài, do đó họ không muốn ai hơn họ, họ đố kỵ mọi thành công của kẻ khác. Đại nương phải biết, khi con người đố kỵ rồi thì chẳng mấy chốc mà đến sự thù hận!
Chàng kết luận:
– Hạng bình thường biết an phận với mình, chẳng khi nào họ tranh giành cái thế đứng của những người cao minh hơn họ. Bất quá, họ nuôi dưỡng tinh thần cầu tiến, chứ họ chẳng hề cạnh tranh với hạng người cao hơn họ!
Chàng mỉm cười, tiếp luôn:
– Chính những người bình thường đó, giúp tại hạ dắc lực hơn các vị cao minh, và hiện tại, tại hạ rất cần hạng người bình thường đó!
Bành đại nương sững sờ một lúc, lâu lắm bà mới thở dài thốt:
– Ta không ngờ, ngươi sáng suốt hơn sư phụ ngươi rất nhiều!
Quan Sơn Nguyệt chừng như nghe Bành đại nương nhắc nhở đến sư phụ chàng hằng ngày, tại Côn Lôn Sơn cũng thế, dọc đường cũng thế, chàng hết sức lấy làm lạ. Đã mấy lần chàng toan hỏi, song vừa dợm hỏi, chàng lại bỏ qua. Bây giờ, chàng cho rằng dịp này thuận tiện nhất, nên hỏi liền:
– Có lẽ đại nương giao tình thâm hậu với ân sư tại hạ?
Bành đại nương giật mình. Suy nghĩ một chút, bà tránh né vấn đề.
Nghĩ cũng lạ, trước kia bà thường tìm cách khai khẩu Quan Sơn Nguyệt, mong chàng nói nhiều, rất nhiều về Độc Cô Minh. nhưng Quan Sơn Nguyệt chỉ đáp một cách hững hờ, lơ lửng, bà bực tức vô cùng, song chàng không chịu nói thì bà làm sao cưỡng bức chàng được. Bây giờ, chính chàng hỏi bà về sự liên quan với Độc Cô Minh, một dịp rất tốt cho bà truy tra hoạt động của Độc Cô Minh trong mấy năm sau nầy. Vậy mà bà lại có ý né tránh.
Bà đáp nhẹ nhàng:
– Nói là thâm hậu thì cũng quá đáng! Bất quá, ta và sư phụ ngươi có gặp nhau mấy lượt thôi!
Một ý niềm thoáng hiện trong tâm tư của Quan Sơn Nguyệt, song liền theo đó chàng gạt bỏ, bởi chàng nghĩ, sư phụ chàng bình sanh ít giao du, cam cảnh cô tịnh nơi hoang vắng. Như vậy, làm gì sư phụ chàng lại có những cảm tình thầm kín đối với ai? Nam, Độc Cô Minh còn không chịu kết giao, thì khi nào lại dây vào phái nữ?
Họ nói chuyện với nhau, quên mất đoạn đường dài hay ngắn, khi câu chuyện tạm dừng, họ đã đến cửa thành. Thất Tinh Đao Lưu Tam Thái đã chực sẵn tại đó, nghinh đón Quan Sơn Nguyệt.
Lưu Tam Thái là một hán tử, tuổi độ trên dưới ba mươi, da mặt đen sạm, dáng người trung hậu, thành phác. Hắn và Tôn Thất hết sức cung kính đối với chàng.
Vừa trông thấy Quan Sơn Nguyệt từ xa, Lưu Tam Thái đã nghiêng mình chờ sẵn, khi chàng đến gần, hắn thốt:
– Tại hạ không hay sớm, Lệnh chủ giá lâm, thành trễ tiếp nghinh, mong cầu Lệnh chủ thứ tội cho. Tại hạ đã cho dọn dẹp nơi tạm nghỉ trong thành, xin thỉnh Lệnh chủ và các vị đến đó cho tại hạ có dịp tỏ bày niềm tôn kính với bậc cao minh.
Quan Sơn Nguyệt vòng tay đáp lễ, điểm một nụ cười:
– Lưu huynh! Chúng ta tuy bình thủy tương phùng, song cảm tình của Lưu huynh dành cho tại hạ quá đậm đà, tại hạ hết sức cảm kích. Chúng ta dù sao cũng là những người trong giới giang hồ, những khuông sáo kém thành thực, mình nên bỏ đi, Lưu huynh, lấy cái tâm đối với nhau, để ghi lại một vài kỷ niệm khi chúng ta mội người mỗi ngã theo chí hướng riêng tư ...
Nghe danh không bằng thấy mặt, thấy Quan Sơn Nguyệt rồi, Lưu Tam Thái sanh lòng kính mến ngay, nhận ra chàng bình dị vô cùng, chẳng hề xem mình là Lệnh chủ hùng cứ một phương trời rồi khi thường người trong thiên hạ như con giun con dế, muốn chà đạp lúc nào tùy ý.
Chàng như vậy, còn ai không muốn tiếp cận? Và tiếp cận để kính mến chứ chẳng dám lờn, bởi trong vẻ nhu hiền hòa ái của chàng ẩn ước một uy nghi khiến cho ai trông chàng, không thể không nể nang được.
Lưu Tam Thái hận mình gặp Quan Sơn Nguyệt quá muộn nhưng muộn còn hơn không. Và y nghĩ, Quan Sơn Nguyệt hạ mình kết giao với y là chàng ban cho y một vinh dự lớn lao, y tự nguyện với lòng, phải làm sao báo đáp xứng đáng thịnh ý của chàng. Y điểm một nụ cười thật cởi mở, thốt:
– Lệnh chủ dạy quá lời! Sự hạ cố của Lệnh chủ tạo cho tại hạ một vinh hạnh lớn lao, tại hạ chỉ sợ phận mình quá thấp, với cao mà thành ra giang hồ sỉ tiếu, chứ làm gì có việc quấy nhiễu nhau như Lệnh chủ thắc mắc? Huống chi, tại hạ đã có sẵn ngôi khách sạn thì sự nghinh tiêáp Lệnh chủ cũng chẳng đòi hỏi phiền phức gì! Xin Lệnh chủ cứ tự nhiên đi cho!
Rồi y quay mình, đi trước dẫn đường.
Quan Sơn Nguyệt cũng hài lòng nhận thấy Lưu Tam Thái rất mực thành thực, chẳng giống như khách giang hồ phần đông tỏ rõ cái sáo thông thường, vừa rườm rà, vừa làm mất thì giờ.
Không lâu lắm, đoàn người đến Trích Anh Khách Sạn.
Tại Lương Châu, Thất Tinh Đao Lưu Tam Thái cũng là một nhân vật hữu danh, bề sinh ý của y lại thịnh vượng phi thường, ngôi khách sạn của y có quy mô khá đồ sộ. Trước khách sạn, có bảng hiệu chữ vàng, trong khách sạn, công nhân đông đảo. Công nhân, là gọi theo công việc họ làm trong khách sạn, dưới con mắt của người ngoài họ là công nhân, thật ra, họ là những đệ tử của y, sư và đệ quây quần tại đây, sinh sống với cái nghề lương thiện này, chẳng khác nào những trang, trại trên giang hồ, quy tụ những thuộc hạ.
Giữa một thị trấn, họ làm sao dựng lên trang trại? Mà muốn có một cơ sở, quy tụ được nhiều người, đương nhiên họ phải dựng nên khách sạn. Khai thác một khách sạn, họ có địa điểm rộng rãi hơn bất cứ một cửa hiệu nào. Ngoài ra họ còn có một cái lợi là nghe ngóng động tĩnh trên giang hồ, bởi hàng quán là nơi khách muôn phương dừng chân, vừa ăn uống, vừa kháo nhau những chuyện trên trời dưới đất, những chuyện muôn phương từ cổ chí kim.
Bọn đệ tử của Lưu Tam Thái nghe tin Minh Đà Lệnh Chủ đến khách sạn, người nào cũng lộ vẻ hân hoan ra mặt. Họ chực chờ tại cửa, nghinh đón Quan Sơn Nguyệt như bàng dân nghinh đón một vị anh hùng cứu quốc, lúc khải hoàn.
Ở đây, không phải là vị anh hùng cứu quốc, nhưng có thể là vị anh hùng cứu tinh cho họ, nếu chẳng hôm nay thì ngày mai ngày kia ... Bởi, người cao, giao du với kẻ thấp, kẻ thấp luôn luôn nhờ cậy người cao. Người cao có bổn phận bảo vệ kẻ thấp hơn là lợi dụng kẻ thấp làm tay sai thực hiện một mưu đồ.
Quan Sơn Nguyệt hết sức cảm kích thái độ của bọn Lưu Tam Thái dành cho chàng. Chàng nhìn quanh, thấy rất nhiều khách trọ chuẩn bị hành trang, rời nơi nầy, chừng như để đến nơi khác, hoặc lên đường. Họ rời đi đúng lúc ngẫu nhiên chàng đến, hay vì có chàng đến mà họ bắt buộc phải dọn đi?
Quan Sơn Nguyệt lấy làm lạ, day qua Lưu Tam Thái hỏi:
– Tại sao thế, Lưu huynh?
Lưu Tam Thái mỉm cười:
– Lệnh Chủ lưu lại khách sạn này một ngày, là ngày đó tại hạ không nhận khách trọ nào khác, quyết để trọn tòa nhà nầy cho Lệnh Chủ sử dụng. Hơn nữa, tại hạ không muốn ai ở bên cạnh Lệnh Chủ gây huyên náo, làm cho Lệnh Chủ không được an tịnh.
Y dừng lại một chút, đoạn tiếp:
– Tại hạ quyết định như thế, bất quá chỉ tỏ được một phần nhỏ của niềm tôn kính đối với Lệnh Chủ thôi, chí như sanh mạng này, nếu có cần hủy bỏ để làm được việc cho Lệnh Chủ, tại hạ cũng chẳng dám tiếc. Bởi cái vinh hạnh Lệnh Chủ ban cho quá lớn lao, tại hạ chẳng còn cách nào đền đáp cho vừa!
Quan Sơn Nguyệt áùy náy vô cùng. Thực sự thì chàng không muốn Lưu Tam Thái quan trọng hóa sự tình thế này. Quan trọng hóa trường hợp, chẳng những làm cho chàng không yên tâm mà còn gây nên tai tiếng đối với đời. Chàng không muốn có sự xáo trộn trong sinh hoạt thường ngày tại Trích Anh Khách Sạn, cũng như chàng không muốn tạo phiền phức cho khách trọ như thế này. Bất cứ một cuộc đổi đời nào cũng có gây phiền phức cả, và điều gây phiền phức nhiều hơn hết là sự dời cư, dù chỉ là dời cư tạm.
Chàng đem cài cảm nghi đó, tỏ lại cho Lưu Tam Thái biết và yêu cầu y nên đối xử đơn giản với chàng, càng đơn giản, chàng càng dễ chịu hơn!
Lưu Tam Thái mỉm cười:
– Nói thật với Lệnh Chủ, mở ngôi khách sạn này, tại hạ không có cái ý sanh nhai bằng nghề chiêu đãi khách. Chẳng qua, tại hạ mượn ngôi khách sạn làm một địa điểm để liên lạc với khách giang hồ, nghinh đón bằng hữu bốn phương ngang qua đây cần dừng bước lại nghỉ chân một đôi ngày. Lệnh Chủ chắc không biết là phần đông khách trọ đều được miễn phí. Cho nên, việc từ chối khách chẳng gây một ảnh hưởng tài chánh nào cho tại hạ cả.
Y dừng lại một chút, lại tiếp:
– Huống chi, Lệnh Chủ chỉ có ý lấy nơi này làm địa điểm hội diện với Phi Lạc Đà, thì tại hạ nghĩ càng giải tán được bọn hiếu kỳ chừng nào, càng có lợi cho Lệnh Chủ hơn!
Y kết luận:
– Chúng ta sẽ tránh được phiền phức.
Việc hội diện với Phi Lạc Đà, Thất Tinh Đao Lưu Tam Thái không dám dùng hai tiếng chúng ta. Bởi, dùng như thế là leo thang, là phạm thượng, y chẳng có tư cách gì can thiệp vào vụ, trừ trường hợp Quan Sơn Nguyệt cần đến y. Song, khi nêu ra những phiền phức có thể có, y lại dùng hai tiếng chúng ta, bởi y có quyền dùng. Vì y là địa chủ, điều phiền phức nếu có xảy ra, chính y gánh chịu phần lớn.
Quan Sơn Nguyệt đến rồi Quan Sơn Nguyệt lại ra đi, sự phiền phức chỉ có ảnh hưởng trong thời gian chàng có mặt tại đây. Còn Lưu Tam Thái ở tại địa phương, muôn đời ảnh hưởng đó sẽ lan dài mãi đến ngày cùng của y, trừ phi y muốn dời cư đi nơi khác.
Y dè dặt từng tiếng xưng hô như vậy, kể ra y cũng là con người rất chu đáo.
Quan Sơn Nguyệt thấy rõ Lưu Tam Thái thành thật với chàng vô cùng đành im lặng, chẳng còn biết nói chi hơn.
Lưu Tam Thái dành trọn ba gian phòng lớn, trang trí cực kỳ thanh nhã, đương nhiên có đủ tiện nghi, dành cho mỗi người của Quan Sơn Nguyệt một gian.
Trong một cuộc nghinh tiếp như thế, tự nhiên phải có tiệc thịnh soạn.
Tiệc, dọn tại sảnh đường. Bàn tiệc chánh, chỉ có ba ghế, đó dĩ nhiên dành cho Quan Sơn Nguyệt, Bành đại nương và Trương Thanh. Bên cạnh, có chiếc bàn nhỏ, có hai ghế dành cho Lưu Tam Thái và Tôn Thất.
Quan Sơn Nguyệt không bằng lòng, cau mày hỏi:
– Sao Lưu huynh an bày như thế này?
Lưu Tam Thái nghiêng mình:
– Lệnh Chủ là bậc đương thế kỳ tài, tuy chen đứng giữa dòng đời song chẳng khác nào là long là phượng, còn bọn tại hạ, bất quá là những tiểu tốt vô danh, đứng hàng cuối vũ lâm, sợ chẳng xứng phận, làm gì lại dám đồng bàn với Lệnh Chủ? Sự an bày này chẳng qua là một cách trong ngàn cách, tỏ sự tôn kính đối với Lệnh Chủ chứ chẳng có chủ ý gì cả, xin Lệnh Chủ lượng hiểu cho!
Quan Sơn Nguyệt trầm gương mặt:
– Nếu Lưu huynh một mực đối xử như vậy, tại hạ xin đi tìm nơi khác tạm nghỉ chân qua đêm. Nhất định chẳng dám lưu lại đây, quấy nhiễu Lưu huynh lâu hơn!
Lưu Tam Thái cảm kích phi thường, song lại áy náy, lộ vẻ khó khăn:
– Lệnh Chủ thương tình, xóa bỏ sự cách biệt giữa nhau, song tại hạ xét phận mình ...
Quan Sơn Nguyệt bật cười ha hả:
– Đã gọi là tứ hải giai huynh đệ thì có huynh đệ nào lại kém huynh đệ nào?
Lưu huynh lại rơi vào khuôn sáo của giang hồ rồi đó! Thân phận gì của nhau mà Lưu huynh cứ đề cập mãi? Lệnh Chủ cũng là người, cũng là một Chưởng môn, Chưởng giáo chứ có phải là thần là thánh đâu? Lưu huynh cũng thế, cũng đứng đầu một môn học gia truyền, cũng là bậc sư tôn, giáo huấn đệ tử, thân phận đó lại nhỏ lắm sao? Từ xưa đến nay, chẳng có môn phái nào danh dự hơn môn phái nào bằng vào vũ học, chỉ có quy luật, hành vi của môn phái mới đáng kể, chỉ có cái đức độ của môn phái đó mới đáng kể. Giả như tại hạ thật sự có tài cao mà tại hạ hành động ngược chiều chánh nghĩa giang hồ, Lưu huynh cũng nể trọng nữa sao?
Lưu Tam Thái vô cùng xúc động. Nếu có thể khóc vì xúc động mà không sợ chán chường, y khóc liền. Bởi không dám để lệ xúc động dâng trào, y nhốt lệ nơi yết hầu rồi đáp với giọng sền sệt:
– Lệnh Chủ dạy thế, nếu tại hạ còn câu nệ thì chẳng hóa ra mình khách sáo, kém thành thật! Thôi thì đành vâng lời chứ biết làm sao hơn?
Tuy nói vậy, y vẫn chưa dời bàn tiệc sang nhập hai lại làm một. Rồi y tiếp:
– Lệnh Chủ hai lượt xuất hiện trên giang hồ, tại hạ không có duyên may gặp gỡ, chỉ nghe lời truyền thuyết trong vũ lâm thôi! Cứ theo lời truyền thuyết đó, thì Lệnh Chủ ...
Y ấp úng, điều đó chứng tỏ những gì y muốn nói ra, hẳn khó nói.
Quan Sơn Nguyệt mỉm cười:
– Có thể là những lời bình phẩm về tại hạ do Lưu huynh nghe được không tốt đẹp chi đó!
Lưu Tam Thái thoáng đỏ mặt, lâu lắm, y mới lấy lại bình thường, từ từ đáp:
– Trên thế gian này, có ai được người đời cho là tận thiện tận mỹ đâu? Thất bại thì bị cười chê, thành công thì gặp đố kỵ, cho nên đã chấp nhận kiếp sống giang hồ là trước hết phải rèn luyện sự kiên trì để sẵn sàng tiếp nhận mọi thị phi.
Tuy nhiên, lời bình phẩm của giang hồ về Lệnh Chủ, xét ra, còn tốt đẹp hơn là sự phê phán của họ đối với lệnh sư Độc Cô lão tiền bối!
Quan Sơn Nguyệt thở dài:
– n sư của tại hạ, cưỡng đoạt lệnh phù, tín vật của các môn phái, kể ra cũng đáng trách. Song, nếu có ai suy nghĩ đến cái dụng ý của người khi làm việc đó hẳn phải lượng tình, hơn nữa còn cảm kích người mời hợp lý!
Lưu Tam Thái thấy chàng không được vui, chẳng dám nói gì hơn vội thỉnh mọi người nhập tiệc. Chính Lưu Tam Thái rót rượu mời từng người, rượu đầy mời cạn, rượu cạn rót đầy.
Tôn Thất qua cái bại vừa rồi, hết sức tự thẹn, lặng lẽ tham dự tiệc rượu một cách miễn cưỡng, không dám mở miệng nói một tiếng gì.
Qua vài tuần rượu, bỗng Quan Sơn Nguyệt cao giọng hỏi:
– Vị bằng hữu nào đó, đã đến đây rồi, xin cứ vào, vào uống chén rượu đuổi cái lạnh của đêm khuya xâm nhập vào người, hà tất phải đứng bên ngoài nghe ngóng?
Bọn Lưu Tam Thái và Tôn Thất giật mình, quay mặt nhìn qua cửa sổ.
Bên ngoài có tiếng cười lạnh vọng vào.
Tôn Thất đồng thời la lên:
– Phi Lạc Đà!
Nơi khung cửa sổ, hiện ra một bóng người, toàn thân phủ một lượt sa đen.
Quan Sơn Nguyệt thoáng biến sắc, song chàng kịp lấy lại bình tĩnh, điềm nhiên thốt:
– Tại hạ đoán, thế nào bằng hữu cũng đến! Không ngờ bằng hữu đến sớm quá!
Ngươi bao mặt lạnh lùng cất tiếng:
– Quan Sơn Nguyệt! Ta định chậm lại mấy hôm nữa mới tìm gặp ngươi, song ngươi đã phá hủy Phi Đà Lệnh của ta ...
Quan Sơn Nguyệt cao giọng chặn lại:
– Ngày nào trên thế gian còn Minh Đà Lệnh Chủ, ngày đó chẳng một ai được dùng cái tiếng Đà làm hiệu lệnh cả! Bằng hữu hãy nhớ rõ như vậy.
Người bao mặt cười mỉa:
– Ta nghĩ, ngươi nên câm miệng hơn là nói những lời khó nghe quá chừng!
Trên thế gian này, chỉ có một người được quyền dùng danh từ đó thôi à? Ngươi chiếm độc quyền từ bao giờ thế? Huống chi, Minh Đà Lệnh cũng chẳng có uy tín chi trên giang hồ, ngươi còn bám víu vào một hiệu lệnh vô dụng để làm gì chứ?
Cho nên, ta cho ra Phi Đà Lệnh để chứng tỏ với giang hồ là cái Lệnh Minh Đà của ngươi đã cáo chung và từ nay chỉ còn Phi Đà Lệnh thôi! Ngươi còn nhớ mấy hàng chữ nơi tấm lệnh bài của ta chứ?
Quan Sơn Nguyệt nổi giận, song vẫn giữ lễ độ, trầm giọng thốt:
– Bằng hữu nói thế, chừng như ngông cuồng đó! Tại hạ muốn thấy bằng hữu dựa vào đâu lại có thái độ cao ngạo, xem dưới mắt không người?
Chàng đứng lên, định bước ra ngoài.
Người bao mặt khoát tay:
– Hãy khoan! Bản ý của ta là muốn cho ngươi một bài học, để từ nay ngươi không còn dùng chiêu bài Minh Đà Lệnh mà hống hách với đời, song hiện tại, ngươi không có sẵn lệnh bài có hình kim nhân và bạch đà chứng minh cho thân phận Minh Đà Lệnh Chủ của ngươi thì chẳng hóa ra ta giao đấu với kẻ mạo danh sao? Như vậy dù có thắng ngươi, ta cũng chẳng được vinh dự gì!
Quan Sơn Nguyệt trầm ngâm một chút:
– Minh Đà Lệnh quả thật không sẵn nơi mình tại hạ, muốn đi lấy nó, hành trình phải mất ít nhất cũng ba tháng, tại hạ ...
Người bao mặt xua tay:
– Ba tháng cũng chẳng lâu gì, huống chi chỉ cần một tháng cũng đủ! Ta biết, những vật chứng minh thân phận của ngươi ở tại Bách Thiên Sơn nên đã cho người đến đây lấy hộ ngươi rồi. Trong vòng một tháng, ta sẽ đợi ngươi tại Đại Tán Quan, chừng đó, ngươi có tín vật và chúng ta quyết tranh thư hùng. Như vậy mới quanh minh chánh đại thử xem sau cuộc so tài, Bạch Đà hay Hắc Đà sẽ tồn tại trên thế gian!
Quan Sơn Nguyệt giật mình. Chàng nghĩ, đối phương quả là tay lợi hại, biết được nơi chàng cất giấu tín vật và lệnh bài, nhưng sự thể đã như vậy rồi, chàng cũng phải đành chờ chứ biết sao hơn? Song, chờ một tháng, riêng chàng thì chẳng quan ngại gì, còn lời hứa với Tôn Thất thì sao?
Chàng đáp:
– Bằng hữu muốn thế cũng được, nhưng tại hạ đã lỡ hứa với Song Anh Tiêu Cục à trong ba hôm sẽ tìm số bạc mất giao hoàn cho họ, thiết tưởng bằng hữu cũng thừa hiểu giá trị của chữ tín như thế nào trên giang hồ chứ?
Người bao mặt cười lạnh:
– Thực ra, ta cùng bọn Chung Nam có món nợ còn đọng lại cần thanh toán gấp, song nể mặt ngươi ta tạm đình hoãn việc hỏi tội chúng một thời gian, nương tay cho chúng lần này, số bạc mất ta chẳng hề động đến, ta để lại trong khách sạn kia, ngươi hãy giao hoàn cho tròn lời hứa với chúng. Ngươi nên nhớ là ta đã giúp ngươi được toàn danh dự một lần rồi đó nhé!
Thốt xong, y nhích động đôi chân, thân hình chớp lên, lượt sa phủ bên ngoài bọc gió như hốt y về một phương trời xa. Thoáng mắt, y đã mất dạng trong bóng đêm mờ.
Hai bao bạc đặt trong một khách sạn bên cạnh một gã công nhân. Tay gã đang cầm một tô canh bốc khói thơm phức nhưng gã đứng bất động. Đúng là gã bị điểm huyệt, có lẽ vừa bị điêm nên chưa kịp ngã.
Tư Mã Tử Yên
Võ Lâm Phong Thần Bảng
Hồi 9
Thế Sự Như Phù Vân
Quan Sơn Nguyệt không chậm trễ, vọt mình qua cửa sổ, đến cạnh gã công nhân, đưa tay ra định giải huyệt cho hắn. Ngờ đâu, tay chàng chưa chạm đến mình gã, gã ngã xuống liền, đồng thời rú lên thê thảm, chừng như đau đớn lắm.
Tại sao gã đứng được đến lúc đó, rồi mới ngã? Tại sao mãi đến lúc ngã, gã mới nghe đau?
Pháp điểm huyệt của Phi Lạc Đà quả thật lợi hại vô cùng, giới hạn đến cả thời gian hiệu nghiệm như vậy, kể ra trên giang hồ chẳng phải bất cứ cao thủ nào cũng luyện được thủ pháp đó.
Bành Cúc Nhân đã ra đến bên ngoài, trông tình hình đó, vụt biến sắc mặt ngay.
Quan Sơn Nguyệt toan cúi xuống, quan sát cơ thể của gã công nhân, Bành đại nưong đã quát to:
– Không làm gì được đâu, Lệnh Chủ! Gã bị đối phương hạ thủ bằng thủ pháp Thất Độc đấy!
Quan Sơn Nguyệt giật mình, bất động ngay. Rồi chàng hấp tấp hỏi:
– Thất Độc thủ pháp? Thủ pháp gì thế?
Bành đại nương không đáp vội, day qua Trương Thanh hỏi:
– Còn «Băng Xạ Toàn Mạng Tán» chăng?
Trương Thanh cũng không đáp, lặng lẽ lấy trong mình ra một chiếc bình bằng ngọc. Tuy gọi là thuốc tán, song Trương Vân Trúc vò viên lại, để tiện bề mang theo bên mình, và bình ngọc của Trương Thanh đựng loại thuốc được vò viên đó. Nàng mở nút bình, lấy một viên, trao cho Bành đại nương.
Bành đại nương lập tức nhét viên thuốc vào miệng gã công nhân khách sạn.
Đoạn, bà dùng phương pháp cấp cứu, xoa bóp gã một lúc, nhưng thay vì xoa xuôi chiều, bà lại áp dụng lối nghịch thế, cốt ngăn chận độc khí xâm nhập sâu vào cơ thể của gã công nhân.
Một lúc sau, gã công nhân cử động được.
Bành đại nương thở phào mấy lượt, rồi hướng sang Lưu Tam Thái, thốt:
– Phải để cho gã tịnh dưỡng ít nhất cũng nửa tháng, sau thời gian đó, gã mới khôi phục nguyên trạng. Trong thời gian tịnh dưỡng, gã phải kiêng ăn những món tanh tưởi như tôm, cá, cua ...
Lưu Tam Thái thay mặt tên đệ tử, cảm tạ Bành đại nương cứu mạng cho hắn, đoạn gọi những đệ tử khác, khiêng gã bị nạn vào trong. Cuối cùng, y mời tất cả vào bàn, tiếp tục cuộc rượu.
Phần Tôn Thất, dĩ nhiên đã ở bên cạnh hai bao bạc, đang kiểm điểm lại xem có mất phần nào chăng.
Vừa ngồi xuống ghế, Quan Sơn Nguyệt nóng nảy hỏi liền:
– Thất Độc thủ pháp có đặc điểm gì, đại nương lại cho là lợi hại?
Bành đại nương thở dài:
– Sự việc này làm cho già liên tưởng đến bao nhiêu việc khác ...
Quan Sơn Nguyệt giật mình:
– Những việc khác là việc gì?
Bành đại nương chỉnh nghiêm thần sắc, đáp:
– Những gì già liên tưởng, có quan hệ đối với Phi Lạc Đà. Và, già nghĩ rằng, Phi Lạc Đà, có thể là ...
Quan Sơn Nguyệt chận liền:
– Là Khổng Linh Linh!
Bành đại nương nhìn sững chàng, sau cùng bà thở dài, buông gọn:
– Lệnh Chủ đoán đúng!
Trước mắt ngoại nhân, bà gọi chàng là Lệnh Chủ, khi nào chỉ có hai người, thì bà dùng tiếng ngươi xưng hô với chàng. Chẳng qua, bà tự cho mình có cái thân phận trưởng thượng đối với chàng. Mà Quan Sơn Nguyệt cũng chẳng lấy đó làm điều, vì chàng có sự nghi ngờ xa xôi về một liên hệ giữa Bành đại nương và Độc Cô Minh. Huống chi, Bành đại nương đã cao tuổi, bà có thể là mẹ của chàng?
Quan Sơn Nguyệt gật đầu:
– Trong thiên hạ vũ lâm ngày nay, hảo thủ không nhiều, mà một cô nương có tâm tánh và hành vi như Phi Lạc Đà, ngoài nàng ấy ra thì còn ai nữa? Tại hạ vừa thấy Phi Lạc Đà xuất hiện, là có cái giả thuyết đó trong tâm tư rồi. Nhưng cái giả thuyết đó không vững lâu, bởi căn cứ vào thủ pháp điểm huyệt của người nầy, tại hạ nghĩ rằng tài nghệ của Phi Lạc Đà phải cao hơn Khổng Linh Linh một bậc.
Như vậy, chắc hẳn phải là một người khác chứ không nhất quyết là Khổng Linh Linh.
Bành đại nương gật đầu:
– Thoạt đầu, già cũng tưởng Phi Lạc Đà chính là Khổng Linh Linh, song, lúc biết được hắn sử dụng Thất Độc thủ pháp, già lại nghĩ đến một người khác, nếu đúng Phi Lạc Đà là truyền nhân của người đó, thì từ nay, Lệnh Chủ sẽ có một kẻ tử đối đầu, một đại kình địch!
Quan Sơn Nguyệt cau mày:
– Người đó, là ai?
Thay vì đáp lời Quan Sơn Nguyệt, Bành đại nương nghiêm giọng hỏi:
– Già muốn Lệnh Chủ thực tình cho già biết, Độc Cô Minh thật đã chết rồi, hay còn sống?
Quan Sơn Nguyệt thoáng biến sắc:
– n sư tạ thế, đó là sự thật, tại sao đại nương lại nghi ngờ?
Bành đại nương hừ một tiếng:
– Công tử!
Bà không gọi là Lệnh Chủ, lại đổi cách xưng hô, gọi Quan Sơn Nguyệt bằng hai tiếng «công tử»! Như vậy, là bà chuyển hướng tình cảm của bà, trong tiếng gọi của bà, có vẻ thân mật rõ rệt, bà dựa vào sự thân mật đó để trách cứ chàng.
Nhận xét qua thái độ của bà, đối với Quan Sơn Nguyệt, tất thấy rõ một mối quan hệ rất trọng giữa bà ta và Độc Cô Minh, có Quan Sơn Nguyệt ở trung gian ...
Và có lẽ Bành đại nương muốn làm sống động lại những gì đã chìm lặng từ lâu, nên bà tha thiết muốn biết rõ chân tình về Độc Cô Minh.
Gọi xong hai tiếng đó, bà trầm giọng tiếp:
– Già đối với công tử, có thể được cho là trọn nhân, trọn nghĩa, già không kể cái số tuổi khá cao, tình nguyện theo sát bên mình công tử trên những đoạn đường xuôi ngược khắp sông hồ, hầu giúp công tử phần nào trong những cơn bất trắc. Thế mà công tử không chịu cho già biết một sự thật, dù sự thật đó, nghĩ ra cũng chẳng quan trọng gì!
Quan Sơn Nguyệt bối rối, hấp tấp thốt:
– Đại nương trách cứ như thế, tại hạ biết đáp làm sao ...
Bành đại nương cao giọng:
– Nếu quả thật Độc Cô Minh đã chết, thì nhất định trên đời nầy chẳng còn ai sử dụng nổi thủ pháp «Thất Độc Đoạn Huyệt»! Lão ta còn sống, lão ta thu nhận môn đồ, bây giờ môn đồ của lão xuất thế hành sự, thủ pháp đó mới xuất hiện trên giang hồ!
Bành đại nương quả quyết quá, Quan Sơn Nguyệt bối rối hơn. Chẳng rõ với ý tứ gì, chàng đảo mắt nhìn quanh gian đại sảnh, nơi đặt bàn tiệc đãi chàng.
Lưu Tam Thái vội thốt:
– Giả như Lệnh Chủ có điều tỵ hiềm, thì bọn tại hạ xin tạm thời cáo thoái, để cho Lệnh Chủ tự tiện ...
Quan Sơn Nguyệt khoát tay:
– Không cần, bất quá tại hạ mong rằng sau khi nghe chuyện, Lưu huynh giữ kín cho!
Lưu Tam Thái thừa hiểu, nếu ở lại nghe chuyện riêng tư của người, thì khiếm nhã lắm, tuy Quan Sơn Nguyệt nói thế, y cũng biết chẳng lẽ chàng trắng trợn bảo y ra ngoài? Dù sao thì y cũng là chủ gia, Quan Sơn Nguyệt phải giữ lễ độ tối thiểu đối với y chứ?
Theo lệ phải, y nên đi ra, dù Quan Sơn Nguyệt có lưu y lại. Nhưng y lại hiếu kỳ. Y đoán chắc là câu chuyện Quan Sơn Nguyệt sắp nói cho Bành đại nương nghe, hẳn có tầm quan trọng lớn lao, liên hệ đến những sự việc vô cùng bí mật trong vũ lâm. Mà y lại cho mình là khách giang hồ, tự nhiên y rất muốn biết những sự việc đó. Cho nên, nghe Quan Sơn Nguyệt dặn dò y giữ bí mật, lập tức y đưa cao tay chỉ trời, long trọng phát thệ:
– Nếu tại hạ tiết lộ nửa lời về câu chuyện sắp được Lệnh Chủ cho nghe đây, thì xin thiên tru địa lục tại hạ! Lệnh Chủ yên trí!
Quan Sơn Nguyệt gật đầu. Chàng trầm ngâm một lúc lâu, đoạn từ từ thốt:
– Quả thật ân sư của tại hạ chưa chết! Tuy nhiên, cái chết cũng không xa người cho lắm!
Bành đại nương trố mắt:
– Thế là vũ công của lão bị phế hủy trọn vẹn?
Quan Sơn Nguyệt lắc đầu:
– Không có việc đó đâu! Bất quá, ân sư tại hạ không thể trở lại nhân gian nữa thôi! Lúc người trao Minh Đà Lệnh cho tại hạ, người có bảo tại hạ nên tuyên ngôn là người đã chết rồi và ân cần chúc phó tại hạ đừng bao giờ tiết lậu sự tình.
Sự thực thì người đến một nơi ước hội, rồi sau đó quy ẩn luôn.
Bành đại nương cau mày:
– Lão đến đối phương nào? Ước hội với ai?
Quan Sơn Nguyệt lắc đầu:
– Tại hạ không được rõ! Bình sanh, ân sư tại hạ không hề giấu giếm tại hạ một điều gì, chỉ có việc đó, tuyệt nhiên người không nói cho tại hạ biết. Tại hạ có van cầu mấy lượt, trước sau người vẫn giữ bí mật.
Bành đại nương mơ màng một lúc, đoạn thở dài:
– Phải! Độc Cô Minh hành động như vậy, già kính phục vô cùng! Chịu khổ, chịu đau bao nhiêu năm dài, bỗng lại tìm được nghị lực, giúp lão quyết định như thế! Đáng phục lắm!
Quan Sơn Nguyệt thoáng giật mình:
– Đại nương biết ân sư tại hạ đi về đâu?
Bành đại nương gật đầu:
– Phải! Trên thế gian nầy, ngoài già ra, không một người thứ hai nào biết được hiện nay Độc Cô Minh ở đâu!
Quan Sơn Nguyệt để lộ niềm khích đông rõ rệt, hấp tấp hỏi:
– Ở đâu, đại nương?
Bành đại nương mơ màng:
– Nói ra làm sao được! Già chỉ biết vùng, chứ không biết chỗ chính xác.
Già biết, Độc Cô Minh có đính ước với một người, cả hai cùng đến đó ...
Quan Sơn Nguyệt nóng nảy:
– Mà nơi đó là đâu?
Bành đại nương trầm giọng:
– Nơi đó, về hướng Tây, địa danh là Tiểu Tây Thiên!
Bà lại mơ màng, lẩm nhẩm:
– Tiểu Tây Thiên! Về hướng Tây, có biết bao nhiêu địa phương? Già còn biết Tiểu Tây Thiên ở nơi nào? Trong bao nhiêu năm xuôi ngược giang hồ, già chưa từng nghe ai nói đến địa phương đó, trừ một Độc Cô Minh! Già còn chưa biết thực sự địa phương đó ở đâu?
Quan Sơn Nguyệt thất vọng ra mặt. Lâu lắm, chàng thở dài, thốt:
– Đính ước với một người! Người đó là ai? Có sự tình gì giữa ân sư tại hạ và người đó?
Bành đại nương cũng thở dài:
– Sư phó ngươi không nói cho ngươi biết, thì ta làm sao tiết lộ với ngươi?
Qua phút giây xúc động, bà lấy lại bình thường, và dùng cái tiếng ngươi, xưng hô như cũ. Bà tiếp:
– Dù sao, già cũng phải trọng cái ý của Độc Cô Minh, lão muốn giữ bí mật, mà không thể tiết lộ được!
Quan Sơn Nguyệt có vẻ bất mãn.
Trương Thanh mấp máy môi định nói gì đó, song nàng chưa kịp cất tiếng, Bành đại nương lại tiếp:
– Không phải già cố ý tạo nên quan trọng cho sự tình, chẳng qua, ngày trước, già cùng Độc Cô Minh có phát thệ long trọng với nhau, lời thề đó mãi mãi ước thúc nhau, cho đến ngày trút hơi thở cuối cùng. Giả như, già bất chấp sự an nguy cho bản thân, tiết lộ sự tình cho ngươi biết, già có bề nào, đã đành rồi, song cái hậu quả sẽ tai hại vô cùng, tai hại cho nhiều người lắm đó. Già đâu dám liều lĩnh gieo họa cho nhiều người? Ngươi phải biết, trước khi đi đến nơi ước hội, Độc Cô Minh đắn đo, cân nhắc suốt mấy mươi năm dài! Mãi đến mấy năm gần đây, lão ta mới dám quyết định. Ngươi thấy đó, tầm quan trọng của sự tình rộng lớn đến đâu!
Bà dừng lại một chút, đoạn kết luận:
– Ngươi thấy đó, Độc Cô Minh là con người không sợ trời, không sợ đất, vẫn phải trì nghi, do dự qua bao năm dài, đủ biết sự tình quan trọng như thế nào!
Quan Sơn Nguyệt hồi ức lại đoạn thời gian sống chung với ân sư.
Từ ngày được Độc Cô Minh thu nhận làm môn đồ, ngoài cái việc ân cần giáo huấn chàng, việc đó chiếm một khoảng thời gian thường nhật, còn ra thì Độc Cô Minh luôn luôn ủ rũ mơ buồn, trầm tư man mác! Chàng cũng chẳng hiểu tại sao ân sư cam sống nội tâm, dứt khoát hẳn mọi tiếp xúc với đời, gần như một người bất cận nhân tình. Chàng cũng có lấy làm lạ, lắm lúc muốn hỏi, song một đệ tử làm sao dám tìm hiểu sâu đời tư của vị sư phó?
Rồi đến khi trao tín vật, lệnh phù, Độc Cô Minh có cái vẻ trang trọng như cuộc tiễn đưa bên bờ Dịch Thủy của người xưa ...
Từ đó đến nay, chàng luôn luôn mang nặng niềm thắc mắc, cố tìm một giải đáp, song tìm giải đáp về hành động của ân sư chàng, có khác nào tìm hạt cát giữa lòng biển sâu?
Bây giờ, Bành Cúc Nhân nhắc lại việc cũ, và còn tỏ lộ là biết rõ nơi quy ẩn của ân sư. Hơn thế, bà cũng tỏ lộ luôn là biết rõ ân sư đính ước với ai. Rồi bà còn cho rằng, sự tình rất hệ trọng! Sự tình gì chứ?
Nhìn thần sắc của Quan Sơn Nguyệt, Bành Cúc Nhân bất giác thở dài, thốt:
– Nhắc lại việc xa xưa, già chỉ nêu lên một mối tương quan giữa Phi Lạc Đà và Độc Cô Minh, nếu trong cuộc chiến sắp đến, ngươi thắng nổi Phi Lạc Đà, thì vấn đề không còn gì để nói nữa, bởi cuộc chiến thắng đó sẽ là sự kết thúc vĩnh viễn những liên hệ giữa ngươi và Độc Cô Minh. Còn như ngươi hy vọng gặp lại Độc Cô Minh, dù chỉ là một lần, thì tuyệt đối ngươi không nên đánh bại Phi Lạc Đà! Ngươi nghe già nói rõ chứ? Thắng hắn, là vĩnh viễn ngươi không gặp lại Độc Cô Minh, muốn gặp Độc Cô Minh, ngươi cần phải bại!
Quan Sơn Nguyệt sững sờ:
– Lời nói của đại nương, hẳn có nguyên nhân?
Bành Cúc Nhân trầm giọng:
– Già đã nói hết những gì có thể nói, còn ra thì tùy ngươi châm chước mà hành sự! Đừng hỏi nhiều hơn, già không làm thỏa mãn ngươi được đâu!
Quan Sơn Nguyệt biết lắm, không làm sao chàng bức bách Bành đại nương nói gì nhiều hơn những điều bà có thể nói. Bây giờ, còn một phương pháp duy nhất, là muốn biết điều gì, chàng phải do nơi Phi Lạc Đà.
Chàng thầm nghĩ:
“Theo đại nương, ta nên bại! Ta bại, thì còn gì danh dự của ta? Ta thắng, thì vĩnh viễn chẳng còn gặp mặt ân sư! Làm sao? Ta phải làm sao? Nên bại hay nên thắng?”.
Một vấn đề nan giải! Một vấn đề liên quan trọng đại đến tiền đồ của chàng!
Một vấn đề chỉ giải quyết bằng hai tiếng thắng, bại! Nhưng, lại khó khăn hơn việc chuyển càn khôn!
Trong khi đó, Bành Cúc Nhân nhìn thẳng vào mặt chàng, chờ nghe chàng tỏ một thái độ. Thái độ đó, là chàng chấp thuận bại hay kiên quyết chiếm phần thắng.
Chàng phải dứt khoát thái độ như thế nào? Sau cùng, chàng đáp, nhưng lời đáp của chàng cũng chẳng có vẻ gì là dứt khoát hẳn:
– Giả như, tại hạ tài hèn, thì đương nhiên là bại. Còn như, vũ công của tại hạ chẳng đến đổi kém, mà tại hạ lại là Minh Đà Lệnh Chủ, tại hạ mất hẳn cá nhân, tại hạ trở thành hình thức tượng trưng cho cả một môn phái, tại hạ chiến đấu vì môn phái đó, mà một môn, một phái nếu có phải bại, đương nhiên có thể bại vì âm mưu, vì quỷ kế, chứ nhất định không bại vì vũ công, bởi bại vì vũ công là tiêu diệt!
Bành Cúc Nhân thở dài:
– Như vậy là vĩnh viễn ngươi không mong trùng phùng vị sư phó của ngươi!
Quan Sơn Nguyệt gật đầu:
– Đại nương nói đúng! Thắng, là tại hạ không hy vọng gặp lại ân sư, mà bại, tại hạ cũng chẳng còn mặt mũi nào gặp lại ân sư, bởi tại hạ bại, là Minh Đà Lệnh nhục, tại hạ không xứng đáng nhận lãnh sự ủy thác của ân sư. Tại hạ làm nhục cho môn phái, tại hạ phải chết, nói gì đến việc dám chường mặt đến gặp lại ân sư?
Bành Cúc Nhân thở dài:
– Ngươi có lý! Già còn biết nói gì hơn?
Thế là sự tình đã được quyết định hẳn rồi, trong cuộc chiến tương lai với Phi Lạc Đà, Quan Sơn Nguyệt phải thắng. Dù có bại, thì chàng chỉ bị bại bởi vũ công kém, chứ chẳng phải vì giả vờ như Bành Cúc Nhân đề nghị với chàng.
Không ai còn lời gì để nói với nhau nữa, họ trầm lặng đến lạnh lùng, không khí khó thở vô cùng.
Lâu lắm, Trương Thanh mới cất tiếng:
– Đại Tán Quan cách đây có xa lắm không, Quan đại ca?
Lưu Tam Thái đáp thay Quan Sơn Nguyệt:
– Không xa lắm đâu, cô nương. Dùng ngựa hay, bất quá chúng ta mất độ mười ngày đường là đến nơi.
Trương Thanh «ạ» lên một tiếng:
– Thế thì thời gian ước hẹn của Phi Lạc Đà còn rộng. Tại sao hắn không thu hẹn hạn kỳ vừa đủ cho cuộc hành trình thôi?
Quan Sơn Nguyệt cau mày:
– Phải đó! Theo ước hẹn của hắn và sự dự đoán của Lưu huynh, thì chúng ta còn thừa độ vài mươi hôm, trong khoảng thời gian thừa lại đó, chúng ta sẽ làm gì? Ngu ca muốn đến Lạc Hồn Cốc, song lại sợ không kịp làm gì ...
Lưu Tam Thái thốt:
– Lệnh Chủ không cần phải đến đó, bởi hiện tại trong Lạc Hồn Cốc chẳng còn một người nào cả, kể luôn một gia nhân hèn mọn của Cốc chủ. Sau ngày Khổng Văn Thông chết, Khổng Văn Kỷ biệt tích luôn. Điều đó có thể tin được lắm, bởi bằng hữu giang hồ qua lại địa phương nầy, tiết lộ với tại hạ như thế.
Quan Sơn Nguyệt gật đầu.
Trương Thanh lại hỏi:
– Lưu đại ca có nghe tin tức chi về Gia gia của tôi chăng?
Chừng như nhận ra là mình hỏi một câu rất vô lý, Trương Thanh bổ túc luôn:
– Gia gia tôi là Trương Vân Trúc ...
Lưu Tam Thái giật mình, trố mắt nhìn nàng:
– Thế ra, cô nương là ái nữ của Trương đại hiệp? Thật tại hạ lỗi quá, chẳng biết được lai lịch cô nương, thành ra sơ sót không tiếp nghinh được chu đáo!
Rồi y tiếp luôn:
– Sau ngày đại náo Lạc Hồn Cốc, Trương đại hiệp im hơi bặt tiếng mãi đến nay. Cũng có nhiều bằng hữu giang hồ tìm Trương đại hiệp song chưa ai biết được quy ẩn tại phương trời nào.
Trương Thanh hết sức kỳ quái:
– Có nhiều người tìm gia gia tôi? Những ai thế, hở Lưu huynh? Họ tìm gia gia tôi để làm gì?
Lưu Tam Thái đưa tay gãi đầu sồn sột, đáp:
– Phần nhiều, là những môn đệ các kiếm phái. Chừng như họ có vẻ khẩn cấp, nóng nảy muốn gặp Trương đại hiệp ngay. Họ có điều gì đó, thỉnh cầu nơi Trương đại hiệp, song tại hạ không biết rõ.
Y lại hỏi:
– Cô nương đã xa cách lịnh tôn từ lâu lắm rồi sao, nên không biết tin tức về người?
Trương Thanh gật đầu.
Cái gật đầu của nàng, xác nhận nàng ly khai gia gia nàng trong thời gian sau nầy.
Đoạn, nàng cau mày lẩm nhẩm:
– Những người đó từ lâu rồi, chẳng hề giao du với Gia gia tôi ... họ có điều chi thỉnh cầu nơi người chứ? Trừ ra trong bọn họ, có kẻ trúng độc, nên tìm Gia gia tôi, nhờ giải cứu ...
Lưu Tam Thái gật đầu:
– Có thể như vậy lắm, cô nương ạ!
Y đắn đo một chút, hỏi tiếp:
– Thế cô nương có biết lịnh tôn hiện giờ ở đâu chăng?
Trương Thanh nhếch nụ cười khổ:
– Tôi cũng chẳng hiểu đích xác cho lắm, Lưu đại ca ạ. Cư sở của chúng tôi, trải qua mấy thế hệ rồi, vẫn ở tại Bắc Thiên Sơn, có thể là thời gian sau nầy người bận xuất ngoại, đến một nơi nào đó, cho nên kẻ được Phi Lạc Đà sai phái đến Bắc Thiên Sơn lấy những tín vật của Quan đại ca được dễ dàng như vậy. Nếu gia gia tôi có mặt, thì đã chắc gì kẻ đó thành công?
Quan Sơn Nguyệt vụt hỏi:
– Lưu huynh có biết là những người trong các bang phái đang tìm gặp Trương lão tiền bối đó, có người nào thuộc về một bang phái nào ở gần đây nhất chăng?
Lưu Tam Thái trầm ngâm một chút:
– Ở gần đây nhất, là Vô Cực Kiếm Phái. Mới hôm nào người con gái của m Tố Quân, Chưởng môn nhân kiếm phái đó là m Trưởng Hoa, có nghỉ chân tại khách sạn của tại hạ, nàng cho biết là đã cất công tìm Trương đại hiệp khắp nơi, song vô hiệu quả.
Quan Sơn Nguyệt sáng mắt lên:
– Chúng ta còn thừa độ mươi ngày, trước khi đến nơi ước hẹn với Phi Lạc Đà, mình nên thừa dịp nầy, tìm hiểu thêm một vài chi tiết, rất có thể hữu ích về sau ...
Trương Thanh cũng muốn biết những người đó tìm gia gia nàng để làm gì, nên tán đồng dự định của Quan Sơn Nguyệt liền.
Bành Cúc Nhân cũng không có lý do gì ngăn trở, phải xuôi theo ý của cả hai.
Được tham gia vào một công tác do Quan Sơn Nguyệt điều động, Lưu Tam Thái cao hứng vô cùng. Y ân cần mời mọi người dùng bữa, rồi ai về phòng nấy an nghỉ, chờ đến hôm sau, sắp xếp cuộc hành trình.
Sáng sớm hôm sau, Lưu Tam Thái đã chuẩn bị sẵn sàng bốn con ngựa tốt, trước khi bọn Quan Sơn Nguyệt thức dậy.
Mọi vật cần thiết, y cũng trang bị đầy đủ, xong đâu đấy, y mới đánh thức bọn Quan Sơn Nguyệt, dọn điểm tâm cho tất cả dùng, để kịp lên đường trước lúc thái dương lên cao.
Thấy hành trang và cước lực đã sẵn sàng, Quan Sơn Nguyệt mỉm cười hỏi:
– Lưu huynh cũng muốn đi theo tại hạ nữa sao?
Lưu Tam Thái gật đầu:
– Bình sanh, tại hạ có một sở thích, là muốn biết mọi diễn tiến trên giang hồ, do đó mới mở ngôi khách sạn này, nghinh đón hào kiệt bốn phương, tất cả đều cho tại hạ biết những gì đã xảy ra trong giới vũ lâm. Nếu có một cơ hội nào thu thập được một tin tức quan trọng, nhất định là tại hạ không thể bỏ qua được rồi.
Cho nên, tại hạ mạn phép Lệnh Chủ, chuẩn bị một cuộc đồng hành, mong rằng Lệnh Chủ chẳng nở từ chối ...
Quan Sơn Nguyệt bật cười lớn:
– Lưu huynh có nhiệt tâm đối với sinh hoạt của giang hồ, như vậy là điều đáng ngợi chứ, tại hạ làm sao hiềm tỵ một chủ trương hào hiệp? Ngày sau, nếu Lưu huynh khai môn lập phái, hẳn sẽ làm thỏa mãn mọi người, nếu ai ai cũng có thiện chí như Lưu huynh, thì thật là điều đáng mầng cho vũ lâm đó!
Lưu Tam Thái nghiêm sắc mặt, nói:
– Trong tương lai, chưa biết sự tình sẽ biến chuyển như thế nào, giả như tại hạ được toại nguyện trên đường tiến thủ, chắc chắn là phải cần có sự trợ giúp lớn lao của Lệnh Chủ vậy! Ngay từ bây giờ, để đáp lại thịnh tình của Lệnh Chủ hạ cố đến tại hạ, tại hạ hứa là có thể làm bất cứ điều gì cho Lệnh Chủ sai khiến, dù có phải làm thân trâu ngựa, tại hạ cũng vui vẻ mà làm ...
Thấy Lưu Tam Thái nói quá lời, Quan Sơn Nguyệt áy náy không yên tâm, sợ y nói nhiều nữa, chàng vội chận lại:
– Lưu huynh quan trọng hóa vấn đề rồi! Chúng ta tuy bình thủy tương phùng, song tâm đầu ý hợp, vậy chẳng nên dùng lời quá đáng với nhau mà thành mất tự nhiên. Bằng hữu kết giao, quý hồ trọng ở tín thành, trong tương lai, giả như Lưu huynh có cần đến tại hạ thì tại hạ nguyện đem hết sức mình, tương trợ lẫn nhau, để đáp lại phần nào sự tri ngộ hôm nay!
Chàng dừng lại một chút, đoạn tiếp:
– Chấp chưởng Minh Đà Lệnh, bất quá tại hạ vâng theo di huấn của ân sư, chứ riêng tại hạ chẳng hề tham vọng cái ngôi Lệnh Chủ, chỉ mong tại hạ không làm gì bại hoại thinh danh của ân sư là đủ.
Lưu Tam Thái mong mỏi một ngày nào đó, Quan Sơn Nguyệt sẽ chấn chỉnh môn phái Minh Đà, và y sẽ xin chàng thu nhận vào hàng môn đệ, chứ riêng y thì làm sao dám mơ tưởng đến việc tự khai sáng một giáo phái? Cho nên, nghe Quan Sơn Nguyệt nói như thế, y thất vọng vô cùng. Y trầm ngâm một lúc lâu, rồi thở dài, thốt:
– Lệnh Chủ quá khiêm tốn, chứ như tài nghệ đó, Lệnh Chủ thừa sức làm rạng rỡ môn phái, dù sao thì trong tương lai, vũ lâm còn ỷ vọng nơi Lệnh Chủ trong cuộc hưng chánh, diệt tà. Lệnh Chủ không thể nào bàng quan tọa thị được đâu! Với cái thế chẳng đặng đừng, Lệnh Chủ phải có một lực lượng làm hậu thuẫn, dù muốn dù không, Lệnh Chủ cũng phải tái lập môn phái.
Quan Sơn Nguyệt mỉm cười, lắc đầu:
– Chắc không có việc lập môn phái đâu, Lưu huynh! Mà thôi, mình bỏ qua việc xa vời đó đi, hãy nghĩ đến cái gì rất gần trước hết!
Cả bọn lên đường.
Dĩ nhiên, Lưu Tam Thái lãnh nhiệm vụ hướng đạo, con đường Cam Lương, y thuộc nằm lòng, nên đoàn người cứ thẳng tiến, không cần phải hỏi thăm ai.
Từ Lương Châu đến m Sơn, đi ngựa chỉ mất hai ngày đường. Họ đi trọn ngày đó, đến đêm xuống, họ dừng chân tại một khách sạn.
Lưu Tam Thái là nhân vật hữu danh trong vùng, nên được người trong khách sạn nghinh đón hết sức long trọng.
Họ chưa kịp nghỉ ngơi, khách giang hồ tại địa phương nghe tin Lưu Tam Thái có mặt tại thị trấn, cùng nhau kéo đến chào mầng. Những vị hào kiệt đó, từng có đi lại với Song Anh Tiêu Cục, đã biết biến cố xảy ra cho đoàn bảo tiêu dưới quyền hộ tống của Tôn Thất, nên nhân dịp nầy họ hỏi Lưu Tam Thái cho biết sự tình.
Đồng thời họ cũng có nghe Minh Đà Lệnh Chủ tái nhập giang hồ, nhưng họ không hề tưởng là Quan Sơn Nguyệt có mặt trong đoàn người. Cho nên, họ thấy Quan Sơn Nguyệt, cứ tưởng đâu là một bằng hữu của Lưu Tam Thái.
Mà Lưu Tam Thái đã được Quan Sơn Nguyệt dặn riêng rồi, đừng bao giờ tiết lộ hành tung của chàng. Do đó, Lưu Tam Thái không giới thiệu các vị hào kiệt tại vùng nầy với Quan Sơn Nguyệt, y chỉ đề cập đến việc Tôn Thất bị cướp thôi.
Quan Sơn Nguyệt đối đáp qua loa với các vị khách của Lưu Tam Thái, rồi cáo từ về phòng, trò chuyện với Bành Cúc Nhân và Trương Thanh.
Không lâu lắm, Lưu Tam Thái trở vào, tìm Quan Sơn Nguyệt, thần sắc của y thê thảm vô cùng, đi theo y còn có Tôn Thất.
Tôn Thất không theo đoàn, vì bận tải bạc về đến Song Anh Tiêu Cục, chẳng rõ có việc gì, đột nhiên hắn lại đến đây ...
Tôn Thất vừa trông thấy Quan Sơn Nguyệt, vội bước tới trước mặt chàng, quỳ xuống lạy liền. Hắn khóc ngất lên, thốt qua nức nở:
– Lệnh Chủ ơi! Xin Lệnh Chủ thương tình tại hạ, ra tay báo thù cho hai vị chủ nhân của tại hạ!
Quan Sơn Nguyệt thấy hắn sụp lạy, đã kỳ quái rồi, bây giờ nghe hắn nói thế, chàng càng kỳ quái hơn nữa, hỏi gấp:
– Việc gì đã xảy ra, hở Tôn huynh? Hai vị chủ nhân của Tôn huynh làm sao?
Tôn Thất lấy trong chiếc bao bố ra hai tấm lệnh bài, dấu máu còn ràng ràng.
Hai chiếc Phi Đà Lệnh!
Chàng biến sắc mặt, hỏi:
– Song Anh nhị vị Tiêu Cục trưởng đã ngộ hại?
Tôn Thất càng khóc lớn hơn:
– Hai vị chủ nhân của tại hạ đều bị Phi Lạc Đà sát hại rồi, Lệnh Chủ ơi!
Hắn dùng lệnh bài nầy, giết cả hai!
Quan Sơn Nguyệt suy nghĩ một chút:
– Hai vị chủ nhân của Tôn huynh bị giết tại đâu?
Tôn Thất dịu cơn bi thảm để trình bày sự tình:
– Tại quận thành Võ An.
Quan Sơn Nguyệt cau mày:
– Võ An Quận? Tiêu Cục Song Anh có cơ sở chánh tại Lạc Dương kia mà?
Làm sao họ bị giết tại Võ An quận cho được?
Tôn Thất giải thích:
– Sau khi tại hạ rời Tiêu Cục hai ngày, hộ tống đoàn bảo tiêu đến địa điểm do người thuê đã chỉ, thì tại Tiêu Cục, hai vị chủ nhân tiếp được một phong thơ của Phi Lạc Đà, báo tin là sẽ đánh cướp đoàn bảo tiêu dọc đường, đoạt lấy số bạc. Hai vị chủ nhân lo sợ vội lên đường đuổi theo bọn tại hạ, hầu tìm cách bảo vệ bọn tại hạ nếu có điều bất trắc xảy ra. Ngờ đâu, cả hai vừa đến quận Võ An thì gặp Phi Lạc Đà! Mấy tên gia nhân do tại hạ sai phái về Lạc Dương, báo cáo tình hình với chủ nhân, lại gặp hai vị chủ nhân tại Võ An quận!
Hắn lại khóc, một lúc lâu mới tiếp:
– Gặp xác chết của hai vị chủ nhân đúng hơn!
Hắn lại rên rỉ:
– Lệnh Chủ ơi! Hai vị chủ nhân của tại hạ chết oan uổng vô cùng! Xin Lệnh Chủ vì lòng nghĩa hiệp, ra tay báo thù cho họ, họ từ nơi suối vàng, sẽ hướng vọng về dương trần, cảm kích ơn trọng của Lệnh Chủ!
Quan Sơn Nguyệt luôn luôn cau mày, tỏ vẻ hết sức quan tâm đến sự việc.
Suy nghĩ một lúc, chàng thốt:
– Báo thù! Đương nhiên là tại hạ sẵn sàng giúp các hạ, bởi phận sự con nhà võ, là phải trừ hung, diệt bạo, cứu thế, độ nhân, phàm ai đã xuất thân hành hiệp trên giang hồ, gặp sự bất bình tức phải ra tay san bằng, đem lại an ninh cho đồng loại. Tuy nhiên, trước khi tại hạ can thiệp vào vụ, ít nhất phái Chung Nam cũng phải lên tiếng trước. Bởi, hai vị tiêu cục trưởng Tiêu Cục Song Anh là người trong phái Chung Nam. Theo quy củ giang hồ thì phần chánh sự việc phải do phái Chung Nam định đoạt. Còn như tại hạ, bất quá chỉ là kẻ đứng ngoài lề, nếu có can thiệp thì cũng chỉ nhân danh công đạo mà can thiệp, chứ không thể xem mình như một đương sự chánh mà đương đầu với Phi Lạc Đà.
Chàng dừng lại một chút, đoạn tiếp:
– Tôn huynh nên tìm đến Lữ Vô Úy trước, trình bày sự tình với lão ấy, yêu cầu lão xuất đầu lộ diện, phần tại hạ thì thừa cơ hội giúp giật bên ngoài, chứ thực sự thì tại hạ đâu có tư cách gánh vác trọn vẹn công cuộc đối phó với Phi Lạc Đà!
Phi Lạc Đà vấn nạn thì sao? Chung Nam phái vấn nạn thì sao? Tại hạ can thiệp trong khi Chung Nam phái chưa can thiệp có khác nào tại hạ vũ nhục phái đó, cho rằng phái đó bất lực hoặc khiếp nhược?
Tôn Thất vừa khóc vừa nói:
– Cứ theo lời những kẻ tùy hành hai vị chủ nhân, thì trước khi chết cả hai có nói rằng, hung thủ có vũ công rất cao, chỉ sợ Lữ chưởng môn không làm gì nổi hắn! Hai vị chủ nhân có ước ao, phải chi gặp được Lệnh Chủ trước giờ nhắm mắt, yêu cầu Lệnh Chủ ra sức báo thù, được như vậy may ra họ mới ngậm cười nơi chín suối!
Hắn dừng lại một chút, lại tiếp luôn:
– Làm gì có sự tấu xảo ly kỳ xui khiến cho họ gặp Lệnh Chủ một cách bất ngờ? Cho nên, tại hạ thể theo nguyện vọng của họ trong giờ phút cuối cùng, tìm đến Lệnh Chủ, mạo muội van cầu Lệnh Chủ sẵn sàng xuất thủ trừ diệt kẻ bạo tàn.
Quan Sơn Nguyệt trầm ngâm một lúc.
Tôn Thất lại gào lên:
– Huống chi, cái chết của hai vị chủ nhân tại hạ, có liên quan phần nào với Lệnh Chủ!
Quan Sơn Nguyệt giật mình:
– Liên quan đến tại hạ? Làm gì có việc kỳ lạ như thế?
Tôn Thất gật đầu:
– Thực ra, thì có thể là hai vị chủ nhân tại hạ chưa đến đổi phải bị giết. Họ vừa đến quận Võ An, Phi Lạc Đà xuất hiện bảo với họ rằng, số bạc bảo tiêu đã bị hắn đoạt rồi, song nể tình Lệnh Chủ hắn trả lại, tuy nhiên, hắn không khi nào chịu xuất trận vô công, số bạc đã được trả lại, thì hắn phải giết người bù vào. Có lẽ sau khi rời khách sạn Lưu Tam Thái, Phi Lạc Đà đi thẳng đến quận Võ An ...
Quan Sơn Nguyệt nổi giận:
– Đáng ghét cái gã Phi Lạc Đà thật! Khiếp nhược đến thế là cùng! Sợ tại hạ, chẳng dám làm chi tại hạ, lại quay về những người vô cô mà thị oai, mà tác ác!
Đúng là một con người ti bỉ cực độ!
Bành Cúc Nhân cười nhẹ:
– Không phải người ta khiếp nhược, chẳng dám tìm đến Lệnh Chủ đâu! Bất quá, thời gian đương đầu với Lệnh Chủ chưa đến đấy thôi!
Quan Sơn Nguyệt «hừ» một tiếng:
– Nhất định là trong vòng một tháng nữa, tại hạ sẽ lấy mạng hắn tại Đại Tán Quan! Tại hạ sẽ bêu xác hắn đúng trăm ngày, cho hào kiệt giang hồ thấy rõ gương mặt một ác quỷ chuyên cười trên xương máu kẻ thiện lương!
Bành Cúc Nhân lại cười:
– Già chỉ sợ sự tình không được giản đơn như Lệnh Chủ muốn!
Cứ mỗi lần chàng hằn học, chàng phát cáu, là y như Bành Cúc Nhân phá mất cái hứng của chàng.
Tại sao? Bà muốn mài giũa bớt cái tính khí quá sôi động của chàng chăng?
Bà muốn chàng trầm tịnh hơn, đừng quá lộ liễu cảm nghĩ qua mỗi sự việc chăng?
Quan Sơn Nguyệt trố mắt nhìn bà. Chàng không tin là chàng không thành công. Phi Lạc Đà bất quá chỉ là người trong lứa tuổi của chàng, chứ nào phải là hàng tiền bối, trưởng thượng chi, có nhiều năm tu vi tạo nên một công phu thâm hậu mà chàng phải ngán? Chàng tin rằng, khó mà chàng thất bại nơi tay những người xấp xỉ niên kỷ với chàng. Và chàng tưởng tượng là có thể thắng Phi Lạc Đà.
Cho nên, chàng không hiểu Bành Cúc Nhân có dụng ý gì lại thốt lên một câu, gần như khinh thường chàng. Giả như, nếu Bành Cúc Nhân không phải là người cùng đi chung một đoàn với chàng, chắc chắn là chàng đã sừng sộ rồi.
Biết rõ Quan Sơn Nguyệt bất bình trước câu nói hàm cái ý hoài nghi về tài năng của chàng, Bành Cúc Nhân điềm nhiên tiếp:
– Già nói như vậy, chẳng phải có ý chí không đẹp đâu, chẳng qua già muốn nhắc nhở Lệnh Chủ nên cẩn thận trong mọi việc, dù mình nắm cái cơ tất thắng trọn vẹn, cũng phải hết sức thận trọng khi hành động, vì chẳng ai biết trước những bất ngờ tai hại có thể chờ đợi ta. Già cảnh cáo Lệnh Chủ một việc, là khi Phi Lạc Đà dám thách thức Lệnh Chủ, và hẹn ngày giao đấu, hẳn nhiên hắn có chỗ nương cậy vững vàng. Chẳng phải vì hắn có chỗ nương cậy vững vàng đó mà già dám đoán là Lệnh Chủ bại. Già muốn Lệnh Chủ đề phòng một cạm bẫy do hắn giương ra trong ngày đó. Rất có thể như vậy lắm, Lệnh Chủ ạ!
Quan Sơn Nguyệt trầm ngâm một lúc lâu, đoạn day qua Tôn Thất, vẫy tay:
– Tạm thời, các hạ hãy về phòng nghỉ ngơi đi, việc đó rồi chúng ta sẽ thương nghị lại. Dù sao thì Phi Lạc Đà cũng chẳng có mặt tại đây, chúng ta muốn làm chi hắn cũng phải đợi đến lúc gặp hắn mới được chứ. Giả như muốn tìm hắn, ít nhất cũng phải biết hắn ở tại địa phương nào, chẳng lẽ chúng ta đi khắp bốn phương trời, tháng nầy qua năm kia, tìm một cánh chim lạc lõng trong vòm trời đất bao la? Huống chi, muốn làm chi, cũng phải đợi sau ngày ước hội của tại hạ với hắn, tại Đại Tán Quan. Một ngày nào đó, tại hạ sẽ làm một cái gì, cho Tiêu Cục trưởng Song Anh được hả dạ nơi suối vàng. Các hạ yên trí.
Tôn Thất tạ ơn, lui ra. Hắn không lưu lại khách sạn, hắn liền trong đêm đó, trở về Lạc Dương, lo mai táng hai vị Tiêu Cục trưởng.
Tôn Thất đi rồi, Lưu Tam Thái hỏi:
– Mình nên đến m Sơn hay không, Lệnh Chủ?
Quan Sơn Nguyệt trầm giọng:
– Tại sao không đi? Chẳng có lý do gì chúng ta phải bỏ dở ý định đó?
Lưu Tam Thái chỉnh nghiêm gương mặt:
– Vừa rồi, tại hạ bắt được một cái tin. Theo tin đó thì m Tố Quân đã triệu tập một số đông hảo thủ trong bang, chuẩn bị hạ sơn như đoàn quân sắp sửa viễn chinh vậy. Song, ở đây, m Tố Quân chẳng phải xuất quân mở một chiến dịch nào cả, mà chính là để nghinh đón chúng ta.
Quan Sơn Nguyệt «hừ» một tiếng:
– Tại sao lại có việc đó?
Lưu Tam Thái ấp úng:
– Tại hạ không rõ lắm, song có thể đoán là vì Trương cô nương mà họ đến.
Trương Thanh vội hỏi:
– Người họ muốn tìm, là Gia gia tôi, chứ tôi có can gì mà họ phải nghinh đón?
Lưu Tam Thái xoa hai tay vào nhau, tỏ vẻ lúng túng:
– Tại hạ cũng chẳng hiểu rõ lắm, cô nương. Bất quá, họ kéo toàn lực đến đây, và chừng như cái ý của họ không lành ...
Quan Sơn Nguyệt lại «hừ» một tiếng:
– Kỳ quái! Kỳ quái thật! Chẳng biết hiện giờ họ đi đến đâu rồi?
Lưu Tam Thái suy nghĩ một chút:
– Họ gồm toàn nữ nhân, tất họ đi kiệu, như vậy chắc họ đi không nhanh được. theo sự tính toán của tại hạ, thì độ chiều mai, họ sẽ đến đây ...
Quan Sơn Nguyệt trố mắt:
– Sự thật như vậy sao? Người trong phái m Sơn đều là nữ nhân cả sao?
Bình sanh, tại hạ chưa hề nghe nói đến họ. Năm xưa, ân sư có tra phỏng tất cả các phái trên giang hồ, song người chẳng đề cập đến họ ...
Lưu Tam Thái suy nghĩ một chút:
– Phái m Sơn chỉ thành lập được mười năm thôi. Phái đó được thành lập sau ngày Độc Cô tiền bối quy ẩn, đương nhiên Độc Cô tiền bối không hề biết.
Thực sự thì họ cũng chẳng đáng gì được gọi là một môn, một phái, bởi những đệ tử của m Tố Quân chỉ là những kẻ thân thích của bà ta, họ chuyên luyện «Vô Cực Kiếm Pháp», họ đóng cửa dạy nhau, chưa tiếp xúc với giang hồ, cho nên ít có người biết đến họ. Bởi tại hạ mở ngôi khách sạn, khách giang hồ qua lại, thường dừng chân, con gái của m Tố Quân là m Trưởng Hoa, nghĩ không nơi nào thuận tiện dò la tin tức hơn là tại ngôi khách sạn của tại hạ, do đó thỉnh thoảng nàng đến hỏi tại hạ chuyện nầy chuyện nọ. Nhờ thế, tại hạ mới biết được gần đây trên giang hồ, có một môn phái mới.
Quan Sơn Nguyệt trầm lặng giây lâu, đoạn thốt:
– Được rồi! Thế là đành đêm nay chúng ta bỏ ngủ. Chúng ta lập tức lên đường, đón đầu họ trước khi họ đến đây. Tại hạ muốn biết họ có ý tứ gì định đến tận nơi nầy, tìm Trương muội, lại kéo rốc chủ lực mà đến như thế!
Lưu Tam Thái lo lắng:
– Nhưng Lệnh Chủ cũng nên bình tĩnh, đừng vội giao thủ với họ. Nên đợi tại hạ giáp mặt m Trưởng Hoa rồi nghe nàng giãi bày như thế nào, sau đó mình sẽ quyết định nên hòa hay nên chiến. Bởi ...
Y dừng lại một chút, hơi do dự, sau cùng tiếp luôn:
– Xảy ra xung đột, Lệnh Chủ thì chẳng làm sao, chứ phần tại hạ dù gì cũng phải ngán họ, tại hạ chẳng muốn sanh thù chuốc oán đối với họ.
Quan Sơn Nguyệt mỉm cười:
– Thì cũng tại Lưu huynh đòi đi theo! Đi theo tại hạ là luôn luôn có nhiệt náo, là luôn luôn có phiền phức. Đi theo tại hạ thì còn hy vọng an phận thủ trường làm sao được? Phải biết cây muốn lặng, song gió không ngừng, mình tránh người, mà người tìm mình, thiết tưởng chẳng còn cách nào hơn là cứ thẳng đường mà tiến!
Quan Sơn Nguyệt nói:
– Tuy nhiên, Lưu huynh yên trí, tại hạ chẳng phải là con người thích gây sự.
Và việc dụng võ bao giờ cũng bất tường, nếu người ta hòa dịu với mình, thì tự nhiên mình phải giữ lễ độ đối với người ta, trừ khi nào họ dồn mình sát chân tường, thì đến lúc đó dù muốn dù không, mình cũng phải dành một thế đứng, bởi trên đời nầy, có ai không thích sống?
Chàng vừa nói xong câu đó, bỗng một tiếng rầm vang lên, chấn động cảnh tịch mịch đêm trường.
Cánh cửa phòng bật mở tung, một nữ nhân có thân vóc cao xuất hiện nơi khung cửa. Tay cầm trường kiếm, nữ nhân đó hoành ngang ngọn kiếm, mặt lộ sắc giận hầm hầm, trầm giọng hỏi:
– Gã nam nhân hôi thúi kia, ngươi vừa nói gì bọn ta? Có can đảm, hãy bước ra đây! Bổn cô nương sẽ cho ngươi một bài học!
Lưu Tam Thái giật mình, quay nhìn lại, thấy nữ nhân, vội kêu lên:
– m cô nương! Cô nương đến đúng lúc quá chừng! Bọn tại hạ đang nghĩ là ...
Nữ nhân quét mũi kiếm qua một vòng, quát chận:
– Lưu Tam Thái! Bây giờ, ta mới biết ngươi là một kẻ giảo hoạt phi thường!
Lần trước, ta hỏi ngươi về con bé họ Trương, ngươi bảo là ngươi chẳng hiểu chi hết. Bất ngờ hôm nay ta gặp ngươi, ngươi lại mang nó cùng theo, ngươi còn đưa đường bọn nó đến m Sơn! Thế ngươi muốn sanh sự với bọn ta phải không?
Cho ngươi biết, cái tin do ngươi thu nhặt vừa rồi đó, chính ta ra lịnh tiết lộ cho ngươi biết, sự thực thì ta đã đến đây từ lâu rồi!
Lưu Tam Thái chẳng biết phải mở miệng nói gì.
Trương Thanh vội bước tới, hỏi:
– Các vị định tìm tôi, để chỉ giáo điều chi?
Nữ nhân cười lạnh:
– Ngươi đừng vờ ngây thơ nữa, cô bé! Việc gì Gia gia ngươi đã làm, chẳng lẽ ngươi không biết? Gia gia ngươi là kẻ bại hoại nhất đời, hành động đê hèn, trên giang hồ không còn ai không biết? Ngươi khéo vờ vĩnh thì thôi!
Trương Thanh tái mặt. Bỗng dưng, nữ nhân từ đâu đến, vừa gặp nàng là mắng nặng gia gia nàng. Giận quá, nàng không nói năng gì được, nhún chân lao vút mình tới, đưa tay ra, ngón tay chọt thẳng vào vai nữ nhân, định điểm vào huyệt Kiên tỉnh của nữ nhân.
Nữ nhân, chính là m Trưởng Hoa, khẽ nghiêng vai, né tránh, đồng thời hoành kiếm lấy thế, đâm thẳng tới ngực Trương Thanh.
Ngày nay, Trương Thanh đã tiến bộ phi thường, nhờ cha trau dồi một căn bản vững chắc, nàng lại được Tuyết Lão Thái Thái hết lòng chỉ dạy suốt một năm dài, tài nghệ của nàng siêu việt lắm rồi. Đánh hụt chiêu đầu, trước thế kiếm thần tốc của đối phương, nàng không nao núng, xoay bàn tay, ngoặc xuống một chút, cong một ngón búng mạnh vào thân kiếm.
Trường kiếm bị ngón tay nàng chạm phải, dội ngược trở lại.
Đánh bạt thanh kiếm ra ngoài rồi, Trương Thanh nhít bàn tay lên tiếp tục điểm huyệt.
m Trưởng Hoa không phản công kịp, cấp tốc lùi lại một bước, đoạn hét:
– Con tiện tỳ có giỏi, cứ bước theo ta ra ngoài kia mà so tài!
Thốt xong, nàng vọt đi liền.
Trương Thanh không chậm trễ, phi thân đuổi theo.
Quan Sơn Nguyệt, Bành Cúc Nhân cấp tốc theo ra. Lưu Tam Thái cũng nôn nóng, muốn biết sự tình sẽ kết thúc như thế nào, cũng theo ra luôn.
Bất quá, y cố ý chậm lại một chút, như tỏ vẻ theo ra để chứng kiến một cuộc so tài, chứ chẳng phải đứng về cánh của Quan Sơn Nguyệt để chống đối lại bọn m Trưởng Hoa.
Khi ra đến nơi, nơi đó là một sân rộng, y trông thấy bọn y phục đen, bao vây bên ngoài. Bọn áo đen gồm toàn nữ nhân, nàng nào cũng thủ trường kiếm.
Ngoài xa xa, còn có bốn nữ nhân khác, cũng y phục đen, niên kỷ cao hơn bọn kia. Cả bốn cũng thủ trường kiếm, hờn sẵn, nếu đồng bọn trong nhà thất cơ, họ sẽ vào cuộc, tiếp trợ liền.
Tư Mã Tử Yên
Võ Lâm Phong Thần Bảng
Hồi 10
Một Sự Hiểu Lầm
Lưu Tam Thái thực ra chẳng phải sợ gì khi bị nghi ngờ là đồng cánh với bọn Quan Sơn Nguyệt. Chẳng qua, y muốn đóng vai kẻ bàng quan, ít nhất cũng trong lúc này để mong tìm cách hòa giải song phương đi đến chỗ quá khích. Y nghĩ, nếu bên kia thấy y đứng chung với bên này thì khi nào y nói cho bên này mà bên kia chịu nghe, dù y nói phải?
Mọi sự việc trên đời, nếu có thất bại, phần lớn do thiên kiến mà ra cả. Có thiên kiến là nông nổi, do nông nổi mà hành động kém sáng suốt, thường thường sai lầm.
Bây giờ, y thấy song phương khai chiến thực sự lại ác liệt, y vội lướt tới, đưa cao tay khoát nhanh gọi gấp:
– Các vị đừng lầm! Xin song phương cùng dừng tay lại, có lời gì cứ nói với nhau, giải thích cho nhau hiểu! Cần chi phải động thủ?
Quan Sơn Nguyệt thản nhiên như thường.
Một thiếu phụ áo đen chừng như nóng nảy hơn các người kia, cao giọng nói :
– Trưởng Hoa! Tiểu tử đó là ai thế?
Bà ấy hỏi, chẳng phải hỏi về Quan Sơn Nguyệt mà chính là bà hỏi Lưu Tam Thái, bởi y vừa lên tiếng giải hòa song phương.
Quan Sơn Nguyệt không tỏ thái độ như thế nào, chính bà lại nóng biết Lưu Tam Thái can thiệp với tư cách gì, với lý do gì?
Vừa giao đấu với Trương Thanh, m Trưởng Hoa vừa nhìn thoáng qua Lưu Tam Thái, điểm phớt một nụ cười, đáp:
– Hắn là Thất Tinh Đao Lưu Tam Thái đấy, tại đất Lương Châu hắn cũng có chút danh phận! Nơi đó người ta cho hắn là một bá chủ địa phương. Mọi sự tranh chấp tại đó đều do hắn phán quyết!
Lưu Tam Thái thẹn đỏ mặt, nhưng thẹn mà tức chứ chẳng phải thẹn mà khiêm nhượng. Y biết rõ m Trưởng Hoa mỉa mai y, cho rằng y xưng hùng xưng bá tại Lương Châu, y hay gánh vác việc người. Như vậy, nàng cho rằng y là người thích sanh sự, và rất có thể sự tình hôm nay, nàng cũng cho là y tạo nên!
Y phẫn nộ thấy rõ, nghiêm sắc mặt, cao giọng đáp:
– m cô nương. Tại hạ bất quá là một tiểu tốt vô danh đứng trong hàng ngũ khách giang hồ, có oai vọng gì đâu, cô nương nói thế hẳn mỉa mai tại hạ rồi đó!
m Trưởng Hoa bất cố, mặc y nói chi thì nói, không buồn cãi vả.
Thiếu phụ áo đen cười lạnh, hất hàm nạt:
– Bước đi chỗ khác gấp! Ai cho phép ngươi can dự vào hành động của bọn ta?
Đã cố ý xử nhũn, đã quyết tâm đem lại hòa khí giữa song phương, người ta chẳng những không tiếp nhận thiện chí của y trái lại còn tỏ thái độ ngạo mạn, chẳng xem y ra quái gì. Lưu Tam Thái dù kiên nhẫn đến đâu cũng không tránh khỏi nổi giận.
Giữa song phương, nếu có cảm tình với một bên, bên đó hẳn là phía Quan Sơn Nguyệt rồi, tuy không cảm tình với bọn m Sơn Phái, Lưu Tam Thái cũng chẳng muốn sanh mối bất hòa. Bây giờ, người ta phủ nhận y hết sức sỗ sàng, chán chường thì y còn ngại gì mà không ra mặt đứng hẳn về cánh Quan Sơn Nguyệt?
Lập tức, y rút soạt thanh Thất Tinh Đao giắt nới lưng, cầm tay, thanh đao từng giúp y tạo một thế đứng giữa dòng đời. Y ngẩng cao mặt nhìn sang thiếu phụ, từ từ bước tới, trầm nghiêm giọng hỏi:
– Bà là người chi trong m Sơn Phái?
Thiếu phụ khinh thường y thấy rõ, không buồn nhìn đến nửa mắt. Dĩ nhiên, bà không đáp.
m Trưởng Hoa cười lạnh cất tiếng:
– Lưu Tam Thái! Ngươi đúng là một kẻ hữu danh vô thực! Lạm xưng là anh hùng tại dất Cam Lương thế mà đến cả mẫu thân ta, ngươi cũng chẳng nhận ra!
m Sơn Phái là một danh từ mới, chứ trước kia thì phái đó lấy cái tên là Vô Cực, dựa vào tuyệt kỹ «Vô Cực Kiếm Pháp» mà thành danh. Cho nên, thỉnh thoảng, Lưu Tam Thái cũng gọi là Vô Cực Phái. Y không tưởng thiếu phụ áo đen đó lại là m Tố Quân, Chưởng môn nhân Vô Cực Phái.
Y không biết cũng phải, bởi m Tố Quân không thường xuất ngoại, hầu hết hào kiệt trên giang hồ chẳng một ai biết mặt bà. Đương nhiên, y cũng chưa từng gặp bà lần nào. Y giật mình, hơi chùn lòng. Bao nhiêu khí khái vừa bộc lộ, y vội thu lại, rồi cung kính vòng tay thốt:
– Thì ra phu nhân là m Chưởng môn! Tại hạ biết mình là một tiểu tốt vô danh, từ bao lâu nay, giữ ý không dám làm điều chi đắc tội với quý phái, lịnh ái làm m Trưởng Hoa cô nương từng dừng chân tại khách sạn của tại hạ, tại hạ vẫn một mực ân cần nghinh tiếp. Thiết tưởng tại hạ đối xử với người trong quý phái như vậy, kể cũng tất tình rồi, phu nhân không nên buông lời phủ phàng như vậy, đối với tại hạ ...
m Tố Quân nhướng cao đôi mày:
– Thế ta phải ăn nói với ngươi như thế nào?
Giọng nói của bà vừa lạnh, vừa mỉa mai.
Lưu Tám Thái đã quyết định lấy thái độ đối lập rồi, vẫn phải rùng mình. Tuy nhiên, y không thể đổi tư thế được, chọn vị trí rồi là phải giữ đúng vị trí đó. Y nghiêm giọng đáp:
– Chưởng môn là người có thân phận cao trong võ lâm, Chưởng môn là hàng cao thủ thượng đỉnh trên giang hồ. Thiết tưởng dù sao phu nhân cũng nên theo quy củ mà dùng cái sáo thông thường, tuy không thành thật, song cũng nhã hơn!
m Tố Quân cười lạnh:
– Ta không là người trong vũ lâm, ta không là khách giang hồ, bình sanh không thích xuôi ngược bôn ba khắp hang cùng ngõ hẻm, tìm chút lợi, chút danh, cho nên ta chẳng biết thế nào là quy củ giang hồ. Cứ như sự việc vừa diễn tiến, thì chừng như ta có tội với Lưu đại anh hùng. Chẳng hay, đắc tội như vậy thì ta phải làm sao chuộc tội?
Bà cuồng ngạo quá chừng!
Ai nghe giọng nói đó của bà mà chẳng bực tức? Dù có ngán bà đến đâu, con người quá bực tất phải nổ. Thà liều nổ, chết sướng hơn là sống mà không tiêu hóa nổi sự khinh miệt của bà.
Nếu Lưu Tam Thái có là gỗ, là đất, y vẫn bị khích động như thường. Y khoa thanh Thất Tinh Đao một vòng, đoạn cao giọng thốt:
– Vô Cực Kiếm Phái nào phải là một danh môn, chánh phái chi đó mà phu nhân cao mặt? Tại hạ bất quá lấy lễ độ đối xử với đời, tại hạ kính nể phu nhân là vì lễ độ, chứ nào phải vì khiếp sợ đâu mà phu nhân được thể khinh thường tại hạ?
Nếu phu nhân cứ tưởng mình siêu việt, trên hẳn đồng đạo, thì tại hạ sẵn sàng lãnh giáo bậc kỳ tài!
Bây giờ, Quan Sơn Nguyệt mới chen vào câu chuyện. Chàng cười lạnh gọi Lưu Tam Thái:
– Lưu huynh! Vừa rồi, Lưu huynh khuyên tại hạ nên dùng lẽ phải mà giảng giải với nhau, không nên động thủ. Sao bây giờ Lưu huynh lại sôi động tính khí như thế?
Tuy chàng không trông thấy rõ mặt mày của Lưu Tam Thái lúc đó, vì đêm dù có trăng sao song hai người đứng cách xa xa, bóng tối cũng che khuất tầm mắt phần nào chàng vẫn hiểu rõ, gương mặt của Lưu Tam Thái hẳn đang nổi gân xanh chằng chịt.
Đúng vậy, y phẫn nộ cực độ, hét lớn:
– Tại hạ dù là kẻ bất tài, song đường đường cũng là một nam nhân, vóc cao bảy thước, há đi chịu nhục trước mặt một nữ nhân sao? Lấy cái lý mà giảng, họ không nghe, chỉ còn có cách là phải dùng biện pháp mạnh mà thôi!
m Tố Quân trầm gương mặt, lạnh lùng gọi:
– Nhị muội đâu? Gã đó ăn nói ngông cuồng, phạm thượng, gã cho rằng vóc cao bảy thước, vậy nhị muội hãy bước ra, chặt bớt một vài thước xem nào!
Một thiếu phụ đứng cạnh bà, cũng vận y phục đen, khẽ «vâng» một tiếng đoạn nhít động đôi vai, thân hình lập tức bay vọt tới. Đồng thời gian, bà ta quét qua một đường kiếm ngang chân Lưu Tam Thái.
Lưu Tam Thái vung tay, hoành đao vòng xuống thấp, quét trả lại.
Đao và kiếm chạm nhau, một tiếng «soảng» vang lên. Đao và kiếm còn nguyên vẹn, chẳng thanh nào gãy, kiếm ở tại chỗ, đao bật dội trở lại.
Lưu Tam Thái lùi hai bước. Như vậy là nội lực của y kém hơn thiếu phụ.
Tuy đánh ra một kiếm, đẩy bật đối phương lùi về phía hậu, thiếu phụ đó vẫn chưa hài lòng. Bà quyết phạt cụt đôi chân Lưu Tam Thái, song đánh hụt thành tức bực, bà «hừ» một tiếng, lập tức lướt theo.
Không đợi bà xuất thủ, Lưu Tam Thái khoa đao một vòng ngăn chận bà liền, không cho bà đến gần.
Nhưng, thiếu phụ quả là tay kiếm tuyệt luân, cùng một lúc, xuất phát hơn bốn chiêu. Tuy nhiên, Lưu Tam Thái hóa giải được hết.
Đứng bên ngoài, m Tố Quân thấy thiếu phụ chưa chiếm được tiên cơ, bà trầm giọng thốt:
– Trong vòng mười chiêu trở lại, nếu nhị muội không hạ được gã đó thì đừng mang họ m nữa, cho khỏi hổ mặt ta!
Thiếu phụ chấn động thần oai, vung kiếm vùn vụt. Bà nhập nội, quét kiếm hất thanh đao của Lưu Tam Thái bật ra ngoài, đồng thời dùng tay kia, chỉa thẳng một ngón điểm nhanh vào bên trên đầu gối y.
Lưu Tam Thái chưa kịp xoay tay đao trở lại phản công, bỗng nghe nhói ở đùi, chân nhũn lại, không còn tự chủ được nữa, ngã xuống.
Thiếu phụ cười lạnh, thu kiếm lui về, đứng bên cạnh m Tố Quân.
m Tố Quân bật cười khanh khách:
– Lưu đại anh hùng! Cái vóc bảy thước, sao chẳng dựng đứng nó lên, cho thiên hạ thấy nó cao như thế nào, lại co quắp mà nằm vạ trên mặt đất để làm gì chứ? Thân vóc đó xấu xí lắm sao mà phải thun lại nhỏ hẹp như sợ người trông thấy?
Lưu Tam Thái vừa thẹn vừa giận, thẹn đến tức uất người, song giận thì làm gì được ai, khi tài nghệ của y còn quá kém?
Thẹn quá thành quẩn trí, bất thình lình, y hoành đao, chong mủi ngay yết hầu. Y quyết tự sát.
Không tự sát thì còn làm gì hơn? Y không thể tiêu hóa nổi sự nhục nhã này và ngồi đó mà nghe những lời châm chích mỉa mai của đối phương.
Thanh đao nhít động, ánh đao chớp lên ...
Vừa lúc đó, một đạo kình lực lướt ngang qua mặt y, mũi đao dịch ra ngoài, thanh đao bị đoạt mất. Đồng thời gian, một bàn tay nắm vào lưng áo y, nhấc bổng y lên, bàn tay kia vừa đoạt đao, buông đao xuống, đập vào gối y hai lượt.
Lưu Tam Thái nghe nhói khắp thân mình, đang bất động vì bị điểm huyệt, y cử động được liền. Bất giác, y quay đầu nhìn lại.
Thì ra, người ngăn chận y tự sát và giải huyệt cho y chính là thiếu phụ đồng hành với Quan Sơn Nguyệt.
Lưu Tam Thái biết bà tên là Bành Cúc Nhân, Quan Sơn Nguyệt và Trương Thanh xưng hô bà là Bành đại nương, song y chẳng biết công lực của bà như thế nào.
Bây giờ, y mới nhận thức, bà cũng có vũ công cao siêu vô tưởng. Nếu không phải là tay thượng đỉnh, khi nào bà can thiệp kịp thời ngăn chận y tự diệt?
Bành Cúc Nhân nhặt thanh Thất Tinh Đao lên, trao cho Lưu Tam Thái rồi chỉnh nghiêm sắc mặt, thốt:
– Tài nghệ kém người, bại là cái chắc! Bại vì tài nghệ kém, nào phải là một sỉ nhục? Cứ mỗi lúc bại là mỗi lần nông nổi tìm cái chết như vậy thì còn gì là dũng khí của nam nhân? Phàm ai muốn đi đến thành công cũng trải qua thất bại cả, con đường cầu tiến có biết bao nhiêu chướng ngại vật? Mỗi cái thất bại làm một chướng ngại vật đó, phải vượt mọi chướng ngại mới đến cái đích mong muốn.
Nuôi tinh thần cầu tiến mà nông nổi với mỗi cái thất bại, cho bại là nhục thì còn đi đến đâu được?
Lưu Tam Thái đã thẹn vì nhục bại, bây giờ càng thẹn với cái ý đoản của mình! Nông nổi như vậy thì còn mặt mũi nào chen đứng giữa dòng đời?
Tuy nhiên, sự can thiệp của Bành Cúc Nhân, lời quở trách của bà, đều hàm ẩn cái ý xây dựng, y tỏ vẻ khuất phục, tiếp nhận thanh đao, đứng lặng đầu cúi xuống.
Dù muốn nói một tiếng gì, y cũng chẳng biết tiếng gì để nói. Bởi có ai tạ ơn trước sự quở trách của một người dù sự quở trách đó có cái ý xây dựng? Bất quá, người ta ghi nhận thôi chứ chẳng ai thốt thành lời.
Bành Cúc Nhân hướng sang thiếu phụ áo đen, lạnh lùng thốt:
– Người trên giang hồ, gặp nhau không hòa thì chiến, chiến thắng đối phương, nếu muốn cứ giết đối phương, chứ chẳng bao giờ nhơn cái thắng mà buông lời sỉ nhục đối phương. Xưa nay, kém tài là bại, hơn tài là thắng, lẽ thường như vậy, phu nhân thắng một Lưu Tam Thái, phu nhân lên mặt với y, song ngoài Lưu Tam Thái ra, còn nhiều người khác, liệu phu nhân có thắng nổi tất cả mọi người trong thiên hạ chăng? Giả như phu nhân bại, rồi bị người vũ nhục như vậy, phu nhân nghĩ thế nào? Lấy cái thế hơn, khinh miệt kẻ bị dồn vào cái thế kém, là hèn, là thiếu tư cách anh thư! Phu nhân giết hắn, ta chẳng hề lấy làm lạ, phu nhân làm nhục hắn, ta bất bình. Bất bình là phải can thiệp.
Bà dừng lại một chút, đoạn nghiêm giọng tiếp:
– Các vị chưa đủ tư cách làm một khách giang hồ, ta có bổn phận cảnh cáo các vị! Ai nghĩ rằng mình có tài, cứ vào đây, cùng ta đọ sức thử xem nào!
Bà cười mỉa, gằn giọng:
– Song trước hết, hãy xưng tên, bởi ta không thích đánh bại những kẻ không tên!
Thấy cái lối can thiệp, vừa ngăn chặn Lưu Tam Thái tự sát, vừa giải huyệt cho y do Bành Cúc Nhân biểu lộ, thiếu phụ áo đen có ý gờm. Gờm là phải do dự.
Trong phút giây, bà ấy chưa lấy thái độ kịp và bà cũng chẳng đáp tiếng nào.
Bà ấy còn im lặng, m Tố Quân lên tiếng thay:
– Được rồi! Ngươi sẽ được thỏa mãn!
m Tố Quân day qua thiếu phụ áo đen, trầm giọng hỏi:
– Nhị muội có nghe mụ ấy nói gì chăng?
Thiếu phụ áo đen giật mình, vội cao giọng thốt:
– Ta ấy à? Ta là m Thiết Quân, môn đệ Vô Cực Kiếm Phái!
Bành Cúc Nhân bật cười khanh khách:
– Tong mấy năm qua, ta vắng bóng trên giang hồ, ngờ đâu giữa dòng đời lại xuất hiện rất nhiều ma rừng quỷ núi! Nhưng dù là ma rừng, dù là quỷ núi, các ngươi cũng phải chịu một kỷ luật khống chế các ngươi! Hôm nay, bắt buộc ta áp dụng cái kỷ luật đó, để kềm hãm tính hung hăng hại đời của các ngươi. Hãy quỳ xuống, nghe ta hài tội! Lưu tráng sĩ đã bị ngươi hành như thế nào, ngươi diễn tả lại cái cảnh đó, đúng y cho ta xem!
Giọng nói của Bành Cúc Nhân oai nghiêm vô cùng, m Thiết Quân mất cả bình tĩnh.
Bành Cúc Nhân không phải nói suông, câu nói vừa buông dứt, bà nhẹ lướt thân hình tới, phiêu phưởng như áng mây theo gió cuốn đi. Bàn tay đưa ra, mấy ngón tay cử động, từ một ngón, một đạo chỉ phong vút mạnh. Dĩ nhiên, cái đích của mấy đạo chỉ phong là m Thiết Quân.
m Thiết Quân bị tấn công bất ngờ, không còn kịp vung kiếm nghênh đón.
Bà ta nghe nhói ở đầu gối, đồng một chỗ Lưu Tam Thái bị bà điểm trúng vừa rồi.
Bà ta nghe đôi gối như nhũn xuống, đảo đảo người chực ngã, song m Tố Quân đã đẩy ra một chưởng.
Chưởng lực đó không hướng vào Bành Cúc Nhân mà lại vút sang m Thiết Quân. Chưởng lực đó bắn tung m Thiết Quân ra xa, khỏi cục trường đến mấy thước, m Thiết Quân ngã nhào lăn đi mấy vòng.
Đoạn, m Tố Quân quay về Bành Cúc Nhân, trầm giọng thốt:
– Môn đệ của Vô Cực Kiếm Phái, từ xưa nay, chết chứ chẳng hề có việc quỳ xuống như loài chuột nhắt.
Chết? Thế là m Thiết Quân chết rồi? Sao lại chết dễ dàng thế? Ai gây ra cái chết đó? Bành Cúc Nhân với mấy đạo chỉ phong hay m Tố Quân với chưởng lực vô tình?
Bành Cúc Nhân nhìn sang m Thiết Quân, thấy thất khiếu của bà ấy đều rỉ máu, bất giác sôi giận, quát to:
– Ngươi đối xử với đồng bào tỷ muội như vậy thiết tưởng tàn nhẫn vô cùng!
Trên đời nầy, chẳng có một ai tàn nhẫn như ngươi! Ta chẳng hiểu lương tâm ngươi để đâu!
m Tố Quân lạnh lùng:
– Phải! Người ngoài cho rằng tàn nhẫn, song trong môn phái của ta ai cũng xem thường, bởi đó là môn quy! Ta không mượn ngươi phải thương vay xót mướn cho người trong phái của ta! Bào muội của ta đã chết rồi, chết để bảo toàn danh dự môn quy của phái ta, chết tuy do ta, song dù sao thì món nợ nầy chính ngươi đã vay, ta bất chấp trực tiếp hay gián tiếp, ngươi phải trả! Ngươi phải lãnh trách nhiệm về cái chết của bào muội ta!
Bành Cúc Nhân càng giận dữ, quát lớn hơn trước:
– Ngươi tàn nhẫn, đang tay hạ sát em gái ngươi, rồi đổ tội cho ta bắt ta phải chịu trách nhiệm, thế là nghĩa gì? Ngươi viện lý do vì quy củ môn phái mà ngươi nỡ tương tàn cốt nhục, ta thử hỏi ngươi, quy củ gì quái dị thế, bình sanh ta chưa hề tự ta trông thấy hoặc nghe ai nói đến?
Bà dừng lại một chút, đoạn nhếch nụ cười mỉa, nói:
– Ngươi tổ tội cho ta, vậy ngươi muốn gì?
m Tố Quân lạnh lùng:
– Đã là khách giang hồ, ngươi hỏi câu đó cầm như thừa, vay máu phải trả bằng máu, sát nhân, thường mạng, rất giản đơn!
Bành Cúc Nhân bật cười khanh khách:
– Hay quá! Hay vô tưởng! Ngươi bắt ta thường mạng! Ta muốn thấy ngươi có phương pháp gì, bắt ta làm cái việc đó?
m Tố Quân khoát một bàn tay.
Hai thiếu phụ áo đen đứng cạnh bà khoa kiếm lên toan lướt tới.
Trương Thanh cấp tốc đảo bộ vọt ra đứng tại trung gian, hướng sang bọn m Tố Quân, trầm giọng thốt:
– Thư thả một chút! Trước khi động thủ, chúng ta hãy nói chuyện với nhau!
Bành Cúc Nhân nóng nảy, gắt:
– Còn nói chuyện gì với chúng nữa chứ? Chúng đã hành động vô lương rồi đổ triệt tội ác lên đầu ta, điều đó chứng tỏ chúng ngoan cố phi thường, còn giảng lý làm sao thấu được màng tai dày như da trâu của chúng? Nhất định ta phải cho tất cả bọn chúng quỳ xuống, quỷ nhận tội trước mặt ta! Thử xem bọn người trong Vô Cực Kiếm Môn có kẻ quỷ gối chăng?
Trương Thanh dịu giọng:
– Đại nương! Đại nương không thể dừng lại một chút sao? Họ đã nói là Gia gia tôi làm điều bại hoại, tôi phải hỏi họ cho rõ ràng. Tôi hỏi rồi, tùy ý đại nương muốn trừng trị họ như thế nào đó thì trừng trị, tôi không ngăn trở nữa đâu!
Bành Cúc Nhân không còn làm sao hơn, đành nghe lời nàng, lùi về phía hậu.
Trương Thanh nhìn thẳng hai thiếu phụ chực chờ xuất thủ theo lịnh của m Tố Quân, gằn từng tiếng:
– Hai vị hãy đợi một chút, cho tôi nói vài câu với Chưởng môn nhân các vị.
Sau đó, chúng ta động thủ cũng chẳng muộn gì.
Hai thiếu phụ nhìn sang m Tố Quân, như hỏi ý kiến.
m Tố Quân sôi giận, cao giọng hét:
– Ta có chuyện gì lại phải nói với ngươi? Ta tìm Trương Vân Trúc, lão ấy trốn biệt, ta lại gặp con gái lão là ta tìm đúng người rồi. Gia gia ngươi làm nên tội lỗi, sợ tội bỏ trốn, ngươi là con, phải chịu tội thay cha, như vậy là hợp lý rồi, còn muốn nói gì nữa?
Trương Thanh vừa giận, vừa khẩn cấp, hỏi:
– Gia gia tôi đã làm gì mà bà cho rằng có tội? Bà cho tôi biết đi! Việc gì?
m Tố Quân nạt:
– Ngươi là con gái của lão ấy, chẳng lẽ cha làm gì mà con không biết?
Trương Thanh lắc đầu:
– Tôi đã xa Gia gia tôi từ một năm nay rồi, trong thời gian đó, tôi chẳng hề gặp lại người, sao tôi biết được những gì người đã làm?
m Tố Quân tỏ vẻ nghi ngờ:
– Thật vậy?
Trương Thanh trầm giọng:
– Tại sao tôi phải nói dối bà? Năm trước, Quan đại ca tôi trúng độc tại Lạc Hồn Cốc, từ phút giây đó, tôi ly khai Gia gia tôi đưa Quan đại ca đi tìm thuốc giải độc. Tôi và Quan đại ca tôi chẳng rời nhau nửa bước. Không thì bà cứ hỏi Quan đại ca tôi xem.
m Tố Quân hướng sang Quan Sơn Nguyệt:
– Ngươi là Lệnh chủ Minh Đà, chắc lời nói của ngươi không ngoa. Ngươi có dám bảo là nàng không lừa ta chăng?
Quan Sơn Nguyệt cao giọng:
– Tại hạ xin lấy chiếc đầu này bảo chứng cho sự thực tâm của Trương cô nương. Trong vòng một năm nay, tại hạ và Trương cô nương sống chung nhau một nơi, cả hai chẳng hề xa nhau nửa bước. Cho nên tại hạ biết rõ Trương cô nương không hề gặp mặt Gia gia nàng.
m Tố Quân giật mình. Bà trầm ngâm một lúc, đoạn thốt:
– Kỳ quái thật! Hai hôm trước đây, có người nhìn thấy Trương Vân Trúc cùng đi với một thiếu nữ trong vùng phụ cận thành Tửu Tuyền. Bọn ta kiêm trình đuổi theo ...
Đến lượt Quan Sơn Nguyệt cũng giật mình, hấp tấp hỏi:
– Có thể như vậy sao? Trương tiền bối đi với một thiếu nữ? Thiếu nữ nào?
Ngoài Trương cô nương ra, Trương tiền bối chẳng có con, có cháu nào khác mà?
Chính bọn tại hạ cũng đang trên đường tìm gặp lại Trương tiền bối đây! Bà có chắc là người nào đó, gặp đúng Trương tiền bối chăng?
m Tố Quân trầm giọng:
– Không đúng thì lầm à? Cho ngươi biết, hiện tại chẳng những một ta tìm lão ấy mà tất cả người trong võ lâm đều muốn gặp lão ta! Ai ai cũng chú ý tìm lão thì làm gì có việc nhận lầm?
Quan Sơn Nguyệt suy nghĩ một chút:
– Cũng có thể người đó nhận đúng Trương tiền bối! Nhưng điều chắc chắn là thiếu nữ đó chẳng phải Trương cô nương!
m Tố Quân im lặng giây lâu, bỗng «hừ» một tiếng thốt:
– Dù cho thiếu nữ đó chẳng phải là con gái của Trương Vân Trúc, giờ đây ta đã gặp con gái của lão ấy, nhất định ta chẳng buông tha! Nợ cha con phải trả, tìm cha không được ta phải chụp lấy đứa con! Vô luận các ngươi nói thế nào, ta bắt buộc nàng phải trả nợ thay cha!
Trương Thanh lộ vẻ khẩn trương:
– Nhưng Gia gia tôi đã làm gì mà bà kết án chứ? Bà phải cho tôi biết mới được!
m Tố Quân căm hận:
– Ta nói ra, chắc ngươi hãnh diện lắm! Trong lần xuất hiện tại Lạc Hồn Cốc, Trương Vân Trúc sính tài, giải cứu những người mắc phải độc «Huỳnh Hà Thu Tinh Sa» của Khổng Văn Thông, người trên giang hồ chẳng ai không tôn kính lão ...
Trương Thanh mỉm cười:
– Gia gia tôi là người trong giới y học, tự nhiên phải có bổn phận cứu nhân độ thế.
m Tố Quân cười lạnh:
– Ngươi khoan đắc ý vội! Hãy nghe ta nói tiếp đây, rồi có hãnh diện cũng chẳng muộn. Sau ngày đại náo tại Lạc Hồn Cốc không lâu, bỗng nhiên Trương Vân Trúc mất tích. Mãi đến hai tháng trước đây, lão lại xuất hiện. Lão đến viếng khắp các môn các phái. Nhớ cái ơn của lão ngày trước, ai ai cũng nghênh tiếp lão hết sức long trọng. Ngờ đâu lão lại nuôi dưỡng cái tâm lang sói, làm điều vô sỉ không ai tưởng nổi.
Trương Thanh nổi giận:
– Bà bịa chuyện! Khi nào Gia gia tôi lại làm điều bại hoại?
m Tố Quân mắt nhìn nàng:
– Ngươi hãy nghe ta nói hết chuyện mới biết Gia gia ngươi tốt hay xấu chứ?
Trương Thanh «hừ» một tiếng:
– Bà nói gì cứ nói, chứ nhất định là Gia gia tôi không bao giờ làm điều bại hoại được!
m Tố Quân trầm giọng tiếp:
– Gia gia ngươi làm ra sự tình khiến tất cả những người trong thiên hạ võ lâm đều phẫn nộ cực độ, ai ai cũng muốn giêt cho được lão mới hả. Tại Thiếu Lâm Tự, lão lấy trộm pho Dịch Cân Kinh của Đạt Ma Tổ Sư lưu lại, hơn nữa, lão lại hạ độc dược làm cho vị Chưởng môn Thiếu Lâm Phái là Thống Thiền đại sư câm và điếc. Tại Võ Đang Sơn, lão lấy trộm pho kiếm quyết bí truyền của phái đó, ngoài ra còn dụng độc sát hại vị Chưởng môn là Thiên Cơ đạo trưởng. Lão còn làm nhiều điều tai hại cho các môn phái khác, song ta chưa liên lạc được với các môn phái đó nên chưa rõ sự tình chính xác. Hiện tại tất cả các môn phái đều cho người phân tán khắp sông hồ để tìm lão. Mọi người đều lộ vẻ phẫn hận, do đó ta có thể hiểu những việc lão đã làm nhất định là không tốt rồi.
Trương Thanh đưa tay che mặt, hét to:
– Bà bịa chuyện! Bà nói xấu Gia gia tôi! Bà ăn nói hồ đồ quá! Gia gia tôi chẳng khi nào có những hành động như vậy!
m Tố Quân lạnh lùng:
– Ngươi không tin? Muốn biết rõ ràng, ngươi cứ đến Thiếu Lâm Tự và Võ Đang Sơn mà hỏi!
Trương Thanh tức quá, khóc lớn, vừa khóc vừa gào:
– Đi chứ! Tự nhiên tôi phải đi, bà khỏi bảo!
Quan Sơn Nguyệt chỉnh nghiêm sắc mặt:
– Việc gì phải vội, Trương muội? Ngu ca từng sống chung với Truong lão bá qua nhiều năm, lẽ nào không biết tâm tánh của người nào? Nhất định chẳng bao giờ lão bá làm những điều đó! Ngu ca nhận thấy, trong sự tình có chỗ khả nghi, mà dù cho quả thật có những việc như vậy đi nữa, thiết tưởng nân nhân không thể nhiều như vậy. Bất quá, một vài gia đình hay một vài môn phái thọ hại rồi một truyền ra mười, mười truyền ra trăm khiến tất cả ai cũng đề cao cảnh giác.
Khi tất cả đề phòng rồi, người mưu hại còn mong gì hại ai được nữa?
m Tố Quân cười lạnh:
– Nói như thế ngươi cũng có lý, song ngươi quên rằng Trương Vân Trúc là con người thâm hiểm, cái chỗ lợi hại của lão ta là vẫn hạ thủ đoạn được như thường dù thiên hạ có phòng bị chu đáo đến đâu. Huống chi, ta đặt một giả thuyết, lão ấy có mưu đồ hèn hạ, thức nhiên lạo thực hiện gấp đôi mưu đồ đó, trước khi phong thanh đồn đãi đi khắp nơi. Do đó, còn ai phòng bị kịp thời?
Bà «hừ» một tiếng, tiếp luôn:
– Khi sự việc được truyền đi khắp sông hồ thì nạn nhân của lão đã nhiều rồi.
Vả lại lão đã đạt được mục tiêu chánh, dù lão có ngưng lại những hành động dã man cũng chả sao bởi những người chưa bị lão hãm hại có thể bảo là chẳng quan trọng gì. Lão đâu cần tận diệt toàn thể võ lâm?
Bà kết luận:
– Hãm hại một số người quan trọng, đủ cho lão lắm rồi, lão có thể biệt tích với niềm thỏa mãn trọn vẹn!
Quan Sơn Nguyệt lắc đầu:
– Khó tin lắm bà! Nếu sự thực đúng như lời bà nói. Tại sao suốt đoạn đường dài, bọn tại hạ chẳng nghe một khách giang hồ nào đồn đãi?
m Tố Quân bỉu môi:
– Việc làm của Trương Vân Trúc, có liên quan đến sự bí mật của các môn phái, trừ những vị Chưởng môn, Trưởng phái ra, hàng môn đệ còn ai dám tiết lộ?
Do đó, các ngươi không nghe khách giang hồ nói đến là lẽ tự nhiên!
Bà giải thích thêm:
– Riêng về cá vị Chưởng môn, Trưởng phái nạn nhân, họ vốn là những người thận trọng, khi nào họ gặp ai cũng tiết lộ sự tình trong phải cả chứ? Cho nên, rất ít người được biết.
Quan Sơn Nguyệt hỏi:
– Nếu là ít người biết, sao bà được biết?
m Tố Quân cười nhẹ:
– Nhờ ta có tiếp xúc thân mật với một vài đại môn phái, các vị Chưởng môn không ngần ngại cho ta biết những gì đã xảy ra trong môn phái họ.
Quan Sơn Nguyệt trầm giọng hỏi tiếp:
– Riêng trong Vô Cực Kiếm Phái của bà có những tổn thất gì?
m Tố Quân do dự một chút, đoạn nghiến răng nói:
– Tổn thất trong phái của ta rất nặng nề, hơn cả những môn phái khác!
– Mất pho kiếm quyết? Mất lịnh phù, tín hiệu? Hay châu báu ngọc ngà gì?
m Tố Quân bật cười ghê rợn:
– Kiếm quyết của Vô Cực Phái gồm hai quyển, người trong họ m tập luyện theo sự chỉ dẫn trong quyển hạ, chỉ có Chưởng môn mới tập luyện theo quyển thượng. Quyển thượng gồm tám chiêu kiếm tuyệt độc, bất truyền, làm sao lão trộm được quyển thượng chứ? Luận về giá trị, quyển thượng quý hơn quyển hạ nhiều, nếu lão muốn trộm thì phải trộm quyển thượng, khi nào lão lại nhắm vào quyển hạ? Nhưng ta vẫn còn giữ quyển thượng.
Quan Sơn Nguyệt hấp tấp hỏi:
– Vậy quý phái tổn thất như thế nào?
m Tố Quân căm hờn:
– Trạm cuối cùng của lão là m Sơn. Từ lâu, ta chưa hề gặp mặt lão, song ta từng nghe giang hồ truyền thuyết lão là một bậc đại hiệp đáng kính nhất trên đời này. Do đó, ta hết lòng nghinh tiếp lão. Ngờ đâu ...
Bà phẫn nộ cực độ, cơn giận làm bà uất nghẹn, bắt buộc phải bỏ dở câu nói.
Trương Thanh nóng nảy hỏi:
– Gia gia tôi đã làm gì?
m Tố Quân nghiến răng:
– Lão lợi dụng niềm tin của ta, dụ dỗ và gian dâm con gái của ta làm m Lệ Hoa, sau đó lại làm nó điên luôn!
Quan Sơn Nguyệt sững sờ, ngây người một lúc lâu, thốt:
– Việc đó ... chắc không thể có như vậy đâu bà! Trương tiền bối khi nào lại ...
m Tố Quân gằn giọng chận lời:
– Vô Cực Kiếm Phái gồm toàn nữ nhân, chỉ có lão là nam nhân độc nhút hiện diện trên m Sơn. Lúc đó, nếu không phải lão thì còn ai nữa? Thoạt tiên, ta cũng không nghi lão. Mãi đến lúc sau này ta gặp các vị Chưởng môn hai phái Thiếu Lâm và Võ Đang nghe họ thuật chuyện, ta mới tin quyết là chính lão làm điều bại hoại đó.
Trương Thanh khóc thét lên, vừa khóc vừa gào:
– Bà nói oan! Bà hồ đồ! Làm gì có việc như vậy!
Gương mặt của m Tố Quân biến trắng nhợt, bà trầm giọng gọi:
– Trưởng Hoa! Dẫn em gái ngươi đến đây!
m Trưởng Hoa «vâng» một tiếng, đoạn bước đến đám thiếu nữ áo đen dẫn ra một nàng, nàng đó có nhan sắc cực kỳ xinh đẹp, tuổi độ mười bảy mười tám, đôi mắt thoạt láo liên, thoạt đứng tròng, tỏ rõ một con người điên dại.
Trông thấy thiếu nữ điên, m Tố Quân sôi giận, quắc mắt nhìn Trương Thanh, cao giọng:
– Chắc ngươi cũng biết ít nhiều về y thuật. Vậy ngươi hãy bước đến xem qua tình trạng của con gái ta, để biết rõ cái tài hại người của cha ngươi!
Trương Thanh đưa tay áo lau ngấn lệ nơi mắt, bước nhanh đến trước thiếu nữ điên, nhìn thần sắc thiếu nữ một chút, rồi lấy tay vạch mắt nàng, xem rất kỹ, lại cầm tay nàng nghe mạch. Sau đó, Trương Thanh quay nhìn Bành Cúc Nhân, trầm giọng gọi:
– Đại nương ơi! Cho tôi một hoàn «Băng Xạ Toàn Mạng Tán» đi!
Bành Cúc Nhân trầm nghiêm gương mặt từ lúc đầu, nghe nàng bảo thế, lập tức mở bao, lấy chiếc bình bằng ngọc, mở luôn nút, trút ra một hoàn thuốc, đoạn bước tới trao cho Trương Thanh.
Trương Thanh nhét vội hoàn thuốc vào miệng m Lệ Hoa.
m Tố Quân hấp tấp hét lên:
– Ngươi cho nó uống thuốc gì đó?
Bành Cúc Nhân trầm giọng đáp thay Trương Thanh:
– Ngươi yên trí, không phải là độc dược đâu!
Trương Thanh lại dùng tay chà sát khắp mình m Lệ Hoa, đoạn nàng lùi ra xa hai bước, đứng chờ kết quả. Gương mặt nàng lộ rõ vẻ khẩn trương.
Quan Sơn Nguyệt cũng lo lắng cho nàng, thấy từng thớ thịt trên mặt nàng giật mạnh, vội hỏi:
– Trương muội làm sao thế?
Trương Thanh cất giọng u buồn đáp:
– Hoàn thuốc cứu nàng tỉnh lại, thì ...
Nàng không còn một điểm nhỏ nghị lực nói nốt những tiếng cuối cho tròn câu.
Nàng không nói, Quan Sơn Nguyệt cũng hiểu được, và chàng nghe một áp lực đè nặng lên tâm tư. Nàng không nói nốt, chàng cũng không nói gì. Chàng chỉ bước tới, đứng cạnh nàng như tỏ vẻ dù sao thì nàng đừng quá lo ngại, bởi đã có chàng ở bên cạnh, chàng đủ sức bảo vệ nàng.
Chờ! Chờ một cái gì mà mình không hoàn toàn tin tưởng sẽ đến đúng với ý muốn, chờ với sự khẩn trương trầm trọng trong lòng, là một điều rất khó chịu.
Thời gian chờ đợi. Dù mau, mỗi một phút giây trôi qua, sao nó lâu hơn một ngày, một tháng!
Rồi thì cái cuối cùng cũng phải đến.
Đôi mắt của m Lệ Hoa đứng tròng, một lúc sau lại chớp chớp lên được. Có tiếng sôi rột rột trong cổ họng nàng, chừng như nàng nói chi đó, nhưng âm thinh rè rè, chẳng ai nghe rõ là nàng muốn nói gì.
m Lệ Hoa chưa nói gì được, nhưng sự thực là nàng đã tỉnh lại rồi.
Trương Thanh đang lo sợ khi nàng tỉnh lại ...
Dám phí một hoàn thuốc quý để cứu tỉnh m Lệ Hoa, dĩ nhiên Trương Thanh mong mỏi Lệ Hoa tỉnh lại, mong mỏi như vậy nhưng nàng lại sợ lúc Lệ Hoa tỉnh. Chính nàng lại tự mâu thuẫn lấy nàng. Và bây giờ, sự lo sợ của nàng đã thành thực.
Thấy m Lệ Hoa tỉnh lại,Trương Thanh rú lên một tiếng đưa hai tay che mặt vừa khóc vừa kêu:
– Quan đại ca ơi, tôi không còn mặt mũi nào sống trên đời! Tôi phải chết, đại ca ơi!
Quan Sơn Nguyệt hết sức bối rối. Trước sự tình, chàng không biết phải ăn nói làm sao!
m Lệ Hoa tỉnh lại, nàng sẽ khai ra sự việc đã xảy đến cho nàng. Nếu nàng nhận rằng chính Trương Vân Trúc đã phá hoại cuộc đời nàng thì nàng và Trương Thanh sẽ đối đáp làm sao với m Tố Quân?
Trong khi chàng lặng người như tượng gỗ thì Trương Thanh cứ khóc, nàng càng lúc càng khóc to.
Bành Cúc Nhân cũng sững sờ, ngây người tại chỗ.
Bỗng, Trương Thanh buông tay, ngẩng mặt lên, vẻ quả quyết hiện rõ, hét lớn:
– Không! Tôi không tin! Nhất định là Gia gia tôi chẳng hề ...
Quan Sơn Nguyệt chặn lời:
– Phải! Ngu ca cũng không tin là Trương lão bá có làm như vậy! Dù sao, nàng ấy cũng đã tỉnh rồi, chúng ta cứ hỏi xem nàng trả lời làm sao cho biết!
Trương Thanh vọt mình tới chụp lấy m Lệ Hoa hỏi gấp:
– Tiểu muội ơi! Có một người bại hoại phá hoại cuộc đời của tiểu muội, người đó là ai?
m Lệ Hoa mở to đôi mắt ngây dại nhìn Trương Thanh một lúc lâu, lẩm nhẩm:
– Không! Y không phải là con người bại hoại! Y yêu tôi, tôi yêu y, y muốn cưới tôi, tôi muốn lấy y ...
m Tố Quân kinh hãi, những gì Lệ Hoa vừa nói đúng là ngoài ý tưởng của bà. Bà hét lớn:
– Lệ Hoa! Ngươi điên rồi!
Thì, tự nhiên rồi! Lệ Hoa điên, chính bà đã tuyên bố như thế kia mà! Sao bây giờ bà nói vậy?
Mặc m Tố Hoa hét, Trương Thanh hỏi dồn Lệ Hoa:
– Tiểu muội! Cho tôi biết đi! Người đó là ai?
m Lệ Hoa ngơ ngác:
– Tôi không biết! Y không nói tên nói họ gì với tôi cả!
Quan Sơn Nguyệt lập tức hướng sang m Tố Quân, hỏi:
– Trương tiền bối đã được các vị khoản đãi trọng hậu, lẽ nào các vị không nhận ra?
m Tố Quân «hừ» một tiếng:
– Nó có khi nào chường mặt tiếp khách đâu mà nhận ra người nầy hay người khác?
Trương Thanh lại hỏi m Lệ Hoa:
– Người đó hình dáng như thế nào?
m Lệ Hoa trầm ngâm một lúc lâu, gương mặt nàng lộ vẻ khó khăn vô cùng.
Rồi nàng thở dài, lắc đầu đáp:
– Tôi quên mất rồi! Tôi chẳng biết phải tả làm sao cho đúng hình dạng y, song nếu gặp lại thì tôi biết ngay. Chúng tôi gặp nhau trong bóng tối, bất quá tôi còn nhận thức được y, qua thinh âm ...
Trương Thanh thất vọng phi thường. Nàng thở dài song trong lòng thoáng hiện một điểm hy vọng. Nàng mơ màng lẩm bẩm:
– Rất có thể không phải Gia gia ...
Nhưng m Lệ Hoa đảo mắt nhìn quanh, ánh mắt ngời tình cảm, nàng thốt với giọng say sưa:
– Tôi nhớ rõ, tôi nhớ bộ râu của y, bộ râu đẹp làm sao! Râu mềm mại như những sợi tóc trên đầu tôi, râu đó vờn qua má tôi, êm dịu vô cùng!
Trương Thanh rú lên một tiếng, buông m Lệ Hoa ra liền rồi phóng chân chạy đi.
Nhưng m Tố Quân vươn tay, đưa kiếm ra trước mặt nàng, hét:
– Ngươi đã hỏi nó, nó nói cho ngươi nghe minh bạch rồi, ngươi lại bỏ đi đâu chứ?
Trương Thanh gào lên:
– Bà đừng ngăn trở tôi! Tôi muốn gặp ngay Gia gia tôi, tôi chạy đi tìm người!
Quan Sơn Nguyệt bước tới, nắm nàng giữ lại:
– Trương muội! Nếu thực sự, Trương lão bá có làm sự việc đó, thiết tưởng Trương muội cũng không nên đi tìm người!
Trương Thanh vừa vùng vẫy, vừa lắc đầu, thốt:
– Không! Tôi không thể không chạy đi tìm Gia gia tôi, Quan đại ca ơi. Tôi gặp người rồi, tôi sẽ giết người, nếu cần, giết người rồi tôi tự sát luôn! Làm sao tôi để cho Gia gia tôi sống với tội lỗi to lớn đó chứ, đại ca? Làm sao tôi sống được khi có một người cha như vậy chứ đại ca?
Quan Sơn Nguyệt hấp tấp an ủi:
– Đừng nghĩ quẩn, Trương muội! Đã chắc gì sự thật là thế? Ngu ca dám quả quyết là Trương lão bá không thể làm một sự việc như vậy. Giả như lão bá còn trong lứa tuổi thanh xuân, thì chúng ta cũng có thể nghi ngờ, chúng ra có thể tạm thời cho rằng người có làm điều bại hoại đó. Song lão bá đã cao niên rồi, mà bình sanh ngu ca chưa từng nghe ai nói trên giang hồ có những dâm tặc trong hàng lão nhân cả!
Chàng dừng lại một chút, đoạn nghiêm giọng tiếp:
– Ngu ca đặt ra một giả thuyết cuối cùng là nếu có sự bất hạnh như thế trong gia đình thì Trương muội cũng không nên nuôi dưỡng cái ý giết cha ...
Trương Thanh khóc ngất một lúc, đoạn thốt qua nức nở:
– Đừng khuyên can tôi làm chi Quan đại ca ơi! Thế nào tôi cũng phải giết Gia gia tôi, tôi giết người rồi tôi sẽ chết theo người! Người đã làm nên tội lỗi đó thì đâu còn là Gia gia tôi nữa, tôi đâu còn là con gái của người nữa?
m Tố Quân cười lạnh:
– Thôi đi, cô bé! Đừng tưởng là ta không biết cái khổ nhục kế của ngươi!
Ngươi tưởng đâu rằng trách cha, đòi giết cha, tự sát như vậy là ngươi làm cho ta động lòng được à? Không đâu! Không đâu! Đừng có đóng kịch nữa, ta không tin đâu!
Trương Thanh bỗng hét lên:
– Bước qua một bên ngay! Hiện tại tôi không còn nhận ra ai nữa cả! Không ai được ngăn trở tôi!
Đôi mắt của nàng, đỏ vì khóc quá nhiều, hiện tại, đỏ hơn vì cơn tức uất bừng lên, nàng như điên loạn, nàng có thể xuất thủ đối với bất kỳ ai làm nghịch ý nàng.
m Tố Quân nhìn sững nàng, tìm hiểu sự biến đổi đột ngột của nàng.
Nàng lại hét:
– Bà có cút đi không? Cút nhanh, cho trống đường để tôi chạy đi tìm Gia gia tôi.
m Tố Quân sôi giận:
– Ai cho ngươi đi mà hòng chạy đi? Ta tìm Trương Vân Trúc, hỏi tội lão dâm tặc đó, không gặp lão, ta phải giết con gái lão, cho lòng ta được hả phần nào, sau đó ta sẽ tìm lão mà giết luôn! Ngươi phải đền tội thay Gia gia ngươi, đừng hòng chạy thoát với ta!
Trương Thanh đưa nhanh tay lên đầu vai. Nơi đó, chuôi trường kiếm của nàng ló lên cao độ hai tấc. Nàng nắm chuôi kiếm, rút nhanh ra khỏi vỏ, khoa một vòng, quát lớn:
– Bà còn ngăn trở tôi nữa thì đừng trách tôi đấy! Tôi đang muốn giết người đây, ai muốn tôi giết, cứ ngăn trở tôi đi!
m Tố Quân không đợi nàng nói hết câu, vung thanh trường kiếm quét tới, như một con rắn độc dài phóng mình.
Trương Thanh cử kiếm nghinh đón ngay.
Song phương khai diễn cuộc chiến, ác liệt ngay từ phút đầu.
Quan Sơn Nguyệt không một tấc sắt trong tay, chẳng làm sao can thiệp được. Can thiệp, không phải để tiếp trợ Trương Thanh, bởi chàng đâu có muốn song phương động thủ trong khi còn có thể hòa giải nếu biết dùng lời lẽ khéo léo một chút. Chàng muốn can thiệp để tìm một giải pháp ôn hòa hơn.
Không can thiệp được, chàng thở dài, day qua Bành Cúc Nhân, thốt:
– Đại nương! Làm cách nào, ngăn trở họ, đừng để xảy ra sự việc đáng tiếc!
Bành Cúc Nhân nhếch nụ cười khổ:
– Ngăn trở ai? Chúng ta làm sao ngăn trở m Tố Quân trong khi bà ấy đang căm hờn cực độ? Còn Trương Thanh? Đến Lệnh chủ cũng chưa chắc gì khuyên dứt mà nàng nghe thì già làm sao ngăn trở nàng cho được chứ? Nàng đã mất lý trí rồi, Lệnh chủ ơi! Mà cũng không thể trách cứ nàng được, bởi sự tình đến như nàng chẳng khác nào sét nổ ngang đầu, dù cho ai cũng phải choáng váng, huống hồ nàng chỉ là một nữ nhân thanh thiếu, lại chẳng có kinh nghiệm mảy may?
Quan Sơn Nguyệt càng bối rối.
Trong khi đó, Trương Thanh và m Tố Quân đã trao đổi nhau hơn mười chiêu rồi.
Kiếm pháp Vô Cực của m Tố Quân quả nhiên linh diệu phi thường, biến ảo vô tưởng. Sở dĩ bà không thi thố trọn vẹn tinh hoa của kiếm pháp là vì bà quá tức giận, mất cả bình tĩnh, tự nhiên kém sáng suốt hơn lúc bình thường. Tuy thế, đường kiếm của bà vẫn lợi hại vô cùng.
Phần Trương Thanh thì giá như trước kia, chắc chắn là nàng đã không chịu nổi vài chiêu của m Tố Quân. Song, một năm qua, nàng nhờ Tuyết Lão Thái Thái tận tâm truyền dạy võ công, tài nghệ của nàng tiến bộ quan trọng.
Nàng vung kiếm vù vù, vừa nhanh vừa độc, luôn luôn chiếm lấy tiên cơ. Khí thế của nàng mãnh liệt quá, đúng là khí thế của một người điên. Từ chiêu thứ mười trở lên, nàng áp đảo m Tố Quân rõ rệt, bắt buộc bà ta phải lùi dần, lùi dần ...
Không chế ngự nàng được, m Tố Quân tức giận, hét to:
– Tất cả nghe đây. Vào hết đi, bắt con tiện tỳ này cho ta, ta sẽ chặt nó ra làm trăm làm ngàn đoạn mới hả lòng ta!
Các đệ tử Vô Cực Kiếm Môn cùng «vâng» một tiếng, cùng vung kiếm lướt tới.
Quan Sơn Nguyệt định xông vào tiếp trợ Trương Thanh, nhưng Bành Cúc Nhân nắm chàng, giữ lại:
– Không cần! Nàng thừa sức nghinh chiến với tất cả!
Quả nhiên, đánh với m Tố Quân, bất quá chỉ đánh với một người, Trương Thanh không hung hăng lắm. Bây giờ, toàn bộ dệ tử của m Tố Quân cùng vào cuộc, bất giác nàng sôi giận, vung kiếm ào ào, gió kiếm dậy như bão.
Kiếm quang dần dần tỏa rộng tạo một bức tường dày quanh mình nàng. Dĩ nhiên, vầng kiếm quang đó vừa kiên cố, vừa lợi hại, chỗ lợi hại là vầng kiếm quang cứ mở rộng ra, bọn đệ tử Vô Cực Kiếm Môn chẳng những không xáp lại gần nàng được mà còn bị đẩy bật ra ngoài.
Thiếu nữ nào chạm kiếm vào vầng kiếm quang, bị chấn dội tê dại cánh tay, bắt buộc phải lùi lại, nhưng lùi rồi lại sợ m Tố Quân quở trách, lại lướt vào.
Toàn bộ đệ tử đã vào cuộc cũng chẳng làm gì nổi Trương Thanh, thấy thế, m Tố Quân tức uất đến lồng lộn lên như thú dữ bị thương. Bà quát lớn:
– Cố gắng! Tất cả phải vận dụng toàn lực, quyết hạ con tiện tỳ cho kỳ được cho ta! Hôm nay, thà toàn gia họ m chết tiệt, nhất định không thể để tiện tỳ sống sót.
Trương Thanh quát trả:
– Cảnh cáo các ngươi đấy, hôm nay ta đại khai sát giới, kẻ nào muốn chết cứ hứng lấy đường kiếm của ta! Dù thanh kiếm của ta có nhuộm máu hồng, đó là do các ngươi muốn, đừng cho rằng ta hiếu sát!
m Tố Quân gầm lên:
– Giết! Các ngươi cứ giết nó cho ta! Cha nào, con nấy, cha tàn nhẫn, con khát máu, đúng là truyền thống của ác đồ!
Mắng riêng nàng, nàng tức, mắng luôn cả Gia gia nàng, Trương Thanh sôi giận bừng bừng. Nàng không đáp, cứ vung kiếm, thủ pháp của nàng càng phút càng nhanh, thân pháp của nàng cũng nhanh hơn trước. Nàng đảo bộ xoay mình một vòng tròn, thanh kiếm quét ra, một loạt tiếng rú thảm vang lên.
Trừ m Tố Quân và mấy nàng được vô sự, còn bao nhiêu thiếu nữ khác đều thọ thương, nặng nhẹ bất đồng. Có nàng tê dại cánh tay, buông kiếm, có nàng bị thương nơi tay, có nàng bị thương nơi chân. Có mấy nàng thọ thương nặng hơn, hoặc tay bị tiện lìa, hoặc chân bị tiện lìa, bọn này biến thành phế nhân, vĩnh viễn không chiến đấu được nữa.
Đôi mắt m Tố Quân tóe lửa, bà gầm lên:
– Con tiện tỳ đáng chết! Ta nhất định liều mạng với ngươi!
Bà đâm thanh kiếm tới, nhằm đúng ngực Trương Thanh, ngay khoảng tim.
Lúc đó, thanh kiếm của Trương Thanh bay vèo sang bà, thanh kiếm đó sẽ tiện mất một vành tai của bà nếu bà không tránh né.
Vậy mà bà vẫn không tránh né, cứ hùng hổ đâm kiếm vào ngực Trương Thanh. Như vậy là bà nhất quyết đồng quy ư tận với Trương Thanh như lời bà đã thốt.
Trương Thanh chỉ nghiêng mình qua một bên, vừa đủ xê dịch phần ngực khỏi mũi kiếm của m Tố Quân. Nàng vẫn giữ nguyên thế công, không hề biến chiêu.
Quan Sơn Nguyệt nhận thấy chàng không còn đứng yên mà nhìn những diễn tiến đó nữa, vội cúi mình nhặt một thanh kiếm do một thiếu nữ buông rơi đoạn lướt vào cuộc chiến. Chàng dùng lực khá mạnh, vung kiếm lên.
Một tiếng «coong» vang dội, thanh kiếm của chàng hất thanh kiếm của Trương Thanh lệch đà. Chàng không cần ngăn chặn thanh kiếm của m Tố Quân, bởi Trương Thanh đã tránh được thế công của bà. Trong khi đó thì bà lại liều mà Trương Thanh thì không nương tay. Cho nên, chàng phải ngăn chặn đường kiếm của Trương Thanh cứu bà ta. Cứu một vành tai của bà, mà cũng có thể là cứu mạng cho bà luôn bởi biết đâu Trương Thanh chẳng nhân thuận tay xoay lưỡi kiếm chặt xuống cổ bà?
Trương Thanh trố mắt nhìn Quan Sơn Nguyệt một phút, đoạn trầm giọng hỏi:
– Quan đại ca làm gì thế? Định giết tiểu muội sao? Giúp địch có cơ hội hạ sát tiểu muội phải không?
Quan Sơn Nguyệt nghiêm sắc mặt:
– Ngu ca không có ý ác đối với Trương muội, bất quá ngu ca không muốn Trương muội sát nhân!
Trương Thanh bật khóc. Nàng khóc tức tưởi, cứ khóc mãi không nói một tiếng gì. Khóc một lúc, nàng vụt chạy tới, vung kiếm uy hiếp m Tố Quân đang ngăn chặn trước mặt nàng, bức bà ta tạt qua một bên, nhường lối cho nàng thoát đi.
Quan Sơn Nguyệt toan đuổi theo, bắt nàng lại, song Bành Cúc Nhân nắm cánh tay chàng giữ lại, lạnh lùng bảo:
– Hãy để cho nàng đi, Lệnh chủ! Nàng rời khỏi nơi đây, tâm thần nàng mới ổn định trở lại được. Lệnh chủ cứ để già chạy theo nàng, chiếu cố nàng thay cho Lệnh chủ!
Quan Sơn Nguyệt toan phản đối đề nghị, Bành Cúc Nhân lại tiếp:
– Chính gia cũng không tin là phụ thân nàng đã có những hành động như vậy huống hồ nàng là con, mà con thì phải hiểu cha nhiều hơn ai hết. Nhưng, dù tin, dù không tin, bất quá chúng ta chỉ ức đoán mà thôi, bất quá chúng ta bằng vào tư cách ngày trước của Trương Vân Trúc mà cố nhận xét như vậy cho sự việc sau này. Tuy nhiên, muốn giải tỏa mọi nghi vấn, phải có chứng cớ. Muốn có chứng cứ, chúng ta phải tìm gặp cho được Trương Vân Trúc. Lệnh chủ hiểu như vậy rồi, hãy tùy nghi định liệu, làm một việc gì hữu ích cho nàng, cho chúng ta.
Bà chạy theo Trương Thanh liền.
Quan Sơn Nguyệt đứng nguyên tại chỗ, chẳng biết tại chàng vâng theo lời Bành Cúc Nhân hay chàng có một chủ trương gì khác qua đề nghị của Bành Cúc Nhân.
m Tố Quân còn sôi giận, bước tới, gằn từng tiếng:
– Gã họ Quan kia, ta tuyên bố bắt đầu từ ngày nay, Vô Cực Kiếm Môn không đội trời chung với ngươi!
Quan Sơn Nguyệt giật mình thốt:
– Tại hạ với các vị vốn không thù không oán nhau, huống chi vừa rồi tại hạ đã cứu mạng bà, sao bà lại lấy ân làm cừu, định đem oán đáp ân? Thật tình tại hạ không hiểu nổi!
m Tố Quân «hừ» một tiếng:
– Ngươi nói sao thế? Ngươi cứu mạng ta hay ngươi ngăn trở ta sát hại nàng?
Ta làm gì hèn kém đến nổi phải bị một đứa bé con sát hại? Thôi đi, ngươi đừng giả vờ có hảo ý với ta, thực ra chính ngươi cứu mạng cho nàng đó! Nếu ngươi đừng can thiệp thì ta đã sử dụng một chiêu hồi thủ, chắc chắn là cắt đứt cuống họng nàng rồi! Cho rằng ngươi cứu ta, thôi cũng được đi! Thế là ngươi có ơn với ta, ta không có lý do xem ngươi như kẻ thù, song ngươi tạo dịp cho kẻ tử thù của ta chạy thoát là ngươi can thiệp vào việc riêng tư của ta, ngươi ngăn chận ta thanh toán mối thù, chính điều đó là nguyên nhân sự oán hận của ta đối với ngươi. Nhất định sẽ có một ngày nào đó, ta sẽ hỏi tội ngươi!
Quan Sơn Nguyệt không đồng ý với lập luận của bà, vội cãi:
– Tại sao bà quyết đồng quy ư tận với nàng? Bởi, nếu những gì bà nói đó đúng sự thật thì kẻ làm nên tội lỗi là phụ thân nàng chứ có phải là nàng đâu mà bà oán hận nàng? Nàng hoàn toàn vô can mà! Thiết tưởng, muốn báo thù, trả hận, bà cũng nên tìm đứng người chứ! Chẳng lẽ tìm không được chính phạm, rồi bà gặp ai cứ vớ lấy. Mặc tình sát hại?
m Tố Quân cười lạnh:
– Trương Vân Trúc hại cuộc đời của con gái ta thì ta có quyền hại con gái của lão, như vậy là rất công bình, như vậy là ta chọn đúng người lắm chứ!
Bà ngừng lại một chút, trầm giọng tiếp:
– Nói thật với ngươi, ta có thể buông tha Trương Vân Trúc, nhưng nhất định phải hãm hại con gái lão cho kỳ được, có như vậy ta mới hả dạ!
Quan Sơn Nguyệt tức giận, nghĩ ghét con người có tính cách nhỏ nhen quá, hét to:
– Bà có điên mới định báo thù bằng cách đó!
m Tố Quân không buồn lưu ý đến chàng nữa, vẫy tay về phía các đệ tử, ra lịnh người lành mạnh dìu kẻ bị thương, rời khỏi khách sạn.
Quan Sơn Nguyệt nhìn theo bọn Vô Cực Kiếm Môn, chốc chốc buông tiếng thở dài.
Chàng thừ người tại chỗ, miên man suy nghĩ ...
Mãi đến lúc Lưu Tam Thái gọi chàng, chàng mới giật mình, trở lại thực tế ...
Tư Mã Tử Yên
Võ Lâm Phong Thần Bảng
Hồi 11
Cái Duyên Kỳ Ngộ
Một kỵ sĩ độc hành dọc theo bờ Hoàng Hà tiến tới.
Kỵ sĩ, chính là Quan Sơn Nguyệt, sau biến cố tại khách sạn cấu kết thâm thù với bọn Vô Cực Kiếm Môn, rời chỗ cũ, cùng Lưu Tam Thái đến nơi này.
Còn không xa lắm là đến bến Phong Lăng, một bến sông hữu danh mà phàm ai có đặt chân lên địa phương này, cũng phải viếng qua cho biết.
Không đến Phong Lăng Độ, là cầm như bình sanh chưa biết Hoàng Hà như thế nào.
Hiện tại, Lưu Tam Thái đã tách rời chàng, đi tìm thuyền sang sông, còn lại một mình chàng, dừng ngựa tại đó, nhìn trăng, nhìn nước.
Phải, lúc đó, trăng sáng chiếu diệu mặt sông, bởi thời gian về đêm, một đêm thanh tịnh phi trường, dù đứng cạnh bờ sông, gió vẫn rì rào nhẹ thổi ...
Gió không lớn, sông nước vẫn trập trùng, sóng như ngàn đời nhấp nhô, mặt sông chẳng bao giờ bình lặng.
Sóng vỗ bờ, bọt sóng bắn lên, trăng rọi sáng như ngàn hoa bạc, biến rồi hiện, hiện rồi biến, qua những lượt sóng vỗ, sóng lùi lùi rồi tràn tới để cuộn trở lại ra khơi.
Nhìn sông dài, mênh mông sóng nước, trong khung trời rộng, có trăng sáng, có gió rì rào, bất giác Quan Sơn Nguyệt sanh niềm cảm khái, cất tiếng ngâm nga bài Phú Xích Bích của Tô Đông Pha.
Càng ngâm nga, chàng càng cao hứng, cuối cùng thì cái hứng dâng tràn, ngập cả tâm tư, chàng hú vọng một tiếng dài, tỏ rõ cao trào khoan khoái.
Con ngựa giật mình, chồm hai vó trước, suýt hất chàng xuống đường. Cũng may, chàng tinh thông kỵ thuật, nên kịp thời kềm vững thân mình.
Nhưng, vừa trấn định con ngựa, bỗng tai chàng nghe Lưu Tam Thái rú lên một tràng tiếng thảm phía trước. Tiếng rú đó báo hiệu rõ ràng Lưu Tam Thái đang gặp tai nạn bất ngờ.
Quan Sơn Nguyệt giật mình, vội thúc chân vào hông ngựa.
Con ngựa cất vó, phi nước đại tiến tới liền.
Thực ra, trong chuyến hành trình gần như vô mục đích này, chàng chỉ muốn độc hành, chàng đi, chẳng biết đi đâu, đi cho hết thời gian thừa thãi trước khi đến nơi ước hội với Phi Lạc Đà.
Nhưng, Lưu Tam Thái hết lời cầu khẩn xin được theo chàng. Y viện dẫn lý do, từ sau khi biến cố xảy ra, chắc chắn là bọn m Tố Quân oán hận vô cùng và sẽ tìm mọi cách sát hại y. Mà y thì tự biết mình chẳng phải là đối thủ của bọn m Tố Quân, nên không thể lư lại địa phương tiếp tục khai thác ngôi khách sạn như ngày nào. Y cần nhờ sự che chở của chàng, dù chàng đi khắp phương trời góc biển, y cũng chẳng màng gian lao cực khổ, quyết đi theo chàng.
Trong cuộc hành trình Lưu Tam Thái hết lòng săn sóc chàng như thuộc hạ thân tín săn sóc chủ nhân. Mọi nhu cầu, mọi sự việc đều do Lưu Tam Thái chu biện, chàng không phải bận tâm lo liệu. Do đó, chàng cảm thấy nhẹ nhàng phần nào.
Dần dần, chàng nhận ra, Lưu Tam Thái rất cần thiết cho chàng, không có chiếu liệu trước sau, thì hẳn chàng cũng phải vất vả không ít.
Từ cái chỗ cần thiết, chàng đi dần đến chỗ mến thích Lưu Tam Thái.
Giờ đây Lưu Tam Thái rời chàng, đến bến Phong Lăng tìm thuyền, lại gặp tai họa bất ngờ, tự nhiên chàng nôn nóng, muốn biết y đã gặp điều gì bất trắc, đến đổi phải rú thảm lên như vậy.
Ngựa chàng sải nhanh, không lâu lắm, chàng nghe vó ngựa từ phía trước vọng lại. Dưới ánh trăng, chàng nhận ngay chính là con ngựa của Lưu Tam Thái, nhưng ngựa không người! Thế thì Lưu Tam Thái ở đâu?
Chàng vươn tay chụp lấy dây cương, con ngựa kia, kéo nó quay đầu lại cùng chạy theo chàng.
Thoáng mắt sau đó, chàng đã thấy Lưu Tam Thái đang giao thủ với một nữ nhân vận áo đỏ. Lưu Tam Thái ở dưới đất, nữ nhân ngồi trên mình ngựa. Lưu Tam Thái tay không, còn nữ nhân cầm ngọn roi, quất xuống mình y liên hồi.
Nói là giao thủ không đúng lắm, sự thật thì nữ nhân cứ bổ roi xuống mình Lưu Tam Thái, y vừa né tránh, vừa đưa tay chụp roi, y không tránh khỏi những ngọn roi ác liệt, lại không tài nào chụp trúng ngọn roi. Nhưng, y cố liều chịu đòn, xông vào mãi, vừa xông vào, y lại bị ngọn roi đánh hất ra, ra ngoài xa rồi, y lại xông vào. Y phục của y rách nát, da thịt hầu như cũng rách nát, máu me rơi đổ, nhuộm đỏ y phục, nhuộm đỏ mặt đường.
Quan Sơn Nguyệt chưa đến nơi, đã hét to:
– Dừng roi ngay!
Nữ nhân dừng tay liền.
Nhưng Lưu Tam Thái kêu to:
– Lệnh chủ đừng can thiệp! Cứ để cho tại hạ liều với con người đáng bỉ này ...
Một ngọn roi vút xuống, trúng mặt y, làm ngưng ngang câu nói.
Nữ nhân quát lớn:
– Ngươi còn nói một tiếng vô lễ nữa, ta đánh vỡ miệng ngươi ngay!
Ngọn roi lướt qua, lưu lại một vệt máu nơi má Lưu Tam Thái.
Đau quá, Lưu Tam Thái càng sôi giận gầm lên:
– Ta mắng! Ta mắng ngươi với tất cả những lời nặng nhất trong ngôn ngữ nhân loại, xem ngươi làm gì ta! Ngươi đánh ta chết, ta cũng mắng, ta mắng đến hơi thở cuối cùng ...
Nữ nhân thoáng biến sắc, không tưởng là gặp phải một kẻ gan lỳ chẳng sợ chết là gì. Nàng rít lên:
– Được! Ngươi muốn chết, ta cho chết!
Nàng vung tay, ngọn roi trở lên sắp sửa giáng xuống.
Nhưng, Quan Sơn Nguyệt đã lướt đến, đứng tại trung gian.
Nữ nhân nhích động cánh tay, ngọn roi rung chuyển, vừa giáng xuống, chợt nhận thấy cái đích là một người khác, nàng dừng tay liền. Thu roi về, nàng hét:
– Tránh ra, để ta đánh hắn, chừng nào hắn chịu câm mồm ta mới buông tha!
Quan Sơn Nguyệt trầm giọng:
– Đành rằng y không nên mắng như vậy, song cô nương dùng hình phạt đó, trừng trị y, thiết tưởng cũng tàn nhẫn lắm!
Nữ nhân không đáp, lại vung tay.
Ngọn roi rít gió, sắp sửa bổ xuống đầu Lưu Tam Thái. Song nghĩ sao chẳng rõ, nàng lại buông tay xuống, rồi trừng mắt nhìn Quan Sơn Nguyệt, gằn từng tiếng:
– Ngươi định chịu tội thay cho hắn à? Đừng liều lĩnh vô lý như vậy, ta không đánh kẻ vô cớ. Hãy bước qua một bên, chọc ta thì khổ đấy!
Lưu Tam Thái nhảy choi choi, hét:
– Hèn hạ! Ti tiện! Ta thách ngươi đó, ngươi dám đánh Lệnh Chủ, ta phục ngươi suốt đời!
Nữ nhân «hừ» một tiếng, quét ngọn roi ngang qua cổ Quan Sơn Nguyệt.
Quan Sơn Nguyệt điểm nhẹ một nụ cười, vẫn đứng nguyên tại chỗ, hoành tay chụp đầu roi.
Đầu roi bị Quan Sơn Nguyệt chụp trúng, thế đánh bị ngăn trở rồi, chàng dùng lực quá mạnh, cái chụp đó là dội đầu roi, chấn động bàn tay của nữ nhân.
Song, nàng cũng giật được ngọn roi vuột khỏi tay Quan Sơn Nguyệt.
Nữ nhân không tưởng là đối phương có công lực thâm hậu như vậy, trố mắt nhìn một lúc, đoạn «hừ» một tiếng, hỏi:
– Ngươi tên họ gì? Nói nhanh cho ta biết!
Quan Sơn Nguyệt chưa kịp đáp, Lưu Tam Thái mỉa mai:
– Xú nữ ti tiện kia, đến Lệnh Chủ Minh Đà mà cũng chẳng biết, thì còn chen đứng trên giang hồ lam gì nữa?
Nữ nhân «xì» nhẹ:
– Ta có giành giựt giang hồ với ngươi đâu? Ta có bao giờ xưng mình là khách giang hồ đâu? Tại sao ta lại phải biết đến những kẻ vô danh chứ?
Đáp lại cái giọng mỉa của Lưu Tam Thái, nàng có xúc phạm phần nào đến cá nhân của Quan Sơn Nguyệt, song điều đó có cần gì, bởi trên giang hồ, người ta quen với giọng trịch thượng đó lắm rồi, trước khi so tài, họ so cái lý, họ tranh nhau thốt những lời cao hảnh, cốt dằn mặt đối phương. Cho nên, có người dùng lời thẳng mà đấu lý với nhau, cũng có kẻ dùng cái sáo để phớt ngọt song bên trong lại xỏ đậm.
Lưu Tam Thái sôi giận, càng hét lớn:
– Ngươi là cái quái gì, dám xúc phạm đến Lệnh Chủ? Ngươi bất quá chỉ là một tiện tỳ trong một gia đình nào đó, nhiễm thói cao hãnh của chủ nhân, buông tính ngông cuồng! Giở mồm giở miệng, kẻo mất mạng oan uổng đấy!
Y chưa cho là đủ, lại tiếp luôn:
– Làm gì ngươi dám xưng là khách giang hồ? Bất quá quen tay vút roi đuổi gà dọa chó, chứ tài ba chi mà ngươi dám lạm dụng mấy tiếng giang hồ?
Y quên đi, quen tay đuổi gà dọa chó mà nàng đánh y tơi bời, thế là y còn kém gà, kém chó!
Người phương Bắc có lối sống nghề biểu diễn vũ nghệ, cỡi ngựa, bắn tên, động tác của họ tuyệt đẹp, song chẳng có phần thực dụng, khách giang hồ chân chính, nhìn qua biết ngay họ thuộc thành phần bán nghệ nuôi thân. Song, những người không biết vũ công lại rất khoái xem họ biểu diễn, và thời thượng thì họ rất được hoan nghinh trong giới bình dân.
Lưu Tam Thái ghép nữ nhân vào thành phần đó, cốt để chọc tức nàng cho bõ ghét, chứ thực ra, y cũng thừa nhận nàng có tài nghệ rất khá, ít nhất cũng trên y mấy bậc. Tuy nhiên, y cho rằng nàng không thể thủ thắng trước Quan Sơn Nguyệt, do đó y dám nặng lời khinh miệt nàng.
Nữ nhân không giận, trái lại còn điểm nụ cười mỉa, hỏi:
– Thế ngươi cho rằng, hễ là người trên giang hồ, thì ai ai cũng phải trọng vọng à? Người giang hồ quý lắm sao?
Nàng không đợi Lưu Tam Thái nói gì, lại tiếp luôn:
– Mẹ ta từng nói với ta, người trên giang hồ chẳng ai tốt cả, cho nên ngăn cấm ta giao du với họ. Các ngươi có phải là người giang hồ không? Nếu phải, ta không nói chuyện với các ngươi nữa đâu!
Lưu Tam Thái nổi giận:
– Mẫu thân ngươi là cái quái gì? Bằng vào đâu lại dám cho rằng tất cả người trên giang hồ đều xấu?
Nữ nhân trầm gương mặt, nhìn Lưu Tam Thái như nhìn quái vật, một lúc lâu, nàng quắc mắt gằn từng tiếng:
– Ngươi dám mắng mẹ ta? Mắng ta, còn được chứ mắng mẹ ta thì quá lắm rồi đấy! Nếu ta không cho ngươi một bài học, ngươi sẽ chẳng bao giờ chừa bỏ cái tánh lỗ mãng đó, động mở miệng là mắng người!
Tiếp liền theo câu nói, nàng vung tay. Ngọn roi rít gió kêu một tiếng vù, đầu roi quét đến Lưu Tam Thái.
Quan Sơn Nguyệt nạt khẽ, hoành tay thuận theo thế, chặt mạnh xống tay xuống đường roi.
Chàng muốn nhân cứu Lưu Tam Thái, chụp luôn đường roi, đoạt lấy, cho nàng hết hung hăng nữa.
Nhưng, nữ nhân có thủ pháp vô cùng linh hoạt, nàng trầm bàn tay xuống một chút, đầu roi chếch lên, hơi xéo ra ngoài tránh cái chặt của Quan Sơn Nguyệt, đoạn giữ nguyên tư thế đó quét luôn qua cho trọn đà.
«Trót!» Đầu roi lướt qua mặt Lưu Tam Thái, lưu lại một vệt máu dài. Lần này, nàng đánh trúng vào yếu huyệt, đường roi tuy mạnh, làm Lưu Tam Thái đau, song không đến đổi lảo đảo người. Vậy mà y ngã xuống, vì đầu roi đã chạm vào huyệt đạo. Y ngã xuống, nằm bất động luôn.
Quan Sơn Nguyệt cực lỳ sôi giận, thấy không còn nương tay được nữa, vội nhảy xuống ngựa đồng thời thét lớn:
– Cô nương xuống ngựa đi! Tại hạ phải giáo huấn cô nương một phen mới xong!
Nữ nhân «xì» một tiếng:
– Ta xuống ngựa để làm gì? Ta không sợ ngươi đâu, có điều mẹ ta dặn ta, đừng bao giờ vô duyên vô cớ mà gây sự với ngoại nhân. Ngươi chưa mắng ta, thì ta chẳng cần sửa trị ngươi. Nếu ngươi muốn ta xuống ngựa, đánh với ngươi, thì cứ mắng ta một tiếng đi! Mắng một tiếng thôi, cũng đủ cho ta viện lý do đó mà đánh ngươi!
Quan Sơn Nguyệt sững sờ. Bỗng dưng mà chàng phải mắng nàng, thì mắng thế nào được? Mà không mắng thì nàng không xuống ngựa, như vậy làm sao chàng giáo huấn nàng, để báo hận cho Lưu Tam Thái?
Nàng chỉ muốn cá nhân đối với cá nhân, chứ không chấp nhận một sự can thiệp do liên quan mà có!
Chàng nhận thấy nàng này kỳ quái thật! Song nàng đã nói như vậy, chàng làm sao hùng hổ với nàng được nữa chứ? Nếu thách thức nàng mãi, chẳng hóa ra chàng lỗ mãng, thích gây sự sao?
Chàng phì cười, hỏi:
– Thế ra, cô nương đánh vị bằng hữu của tại hạ, là do y mắng cô nương chứ chẳng phải cô nương cao hứng mà đánh?
Nữ nhân «hừ» một tiếng:
– Đương nhiên rồi! Ta đã nói, mẹ ta không cho ta vô duyên vô cớ gây sự với ai cả mà! Cho ngươi biết, ta chẳng bao giờ xuất thủ đánh ai trước cả!
Quan Sơn Nguyệt cười nhẹ, không nói gì thêm, quay mình bước đến cạnh Lưu Tam Thái vừa nâng y lên vừa dùng năm sáu phương pháp giải huyệt cho y.
Nhưng, lạ làm sao, chàng giải khai được tất cả các huyệt đạo chỉ trừ một huyệt nơi hông y. Huyệt đó vẫn bế tắc như thường, dù chàng vận dụng tận sở năng, cũng chẳng làm sao cho có kết quả. Một điều lạ lùng nữa, là rõ ràng nàng đánh vào mặt Lưu Tam Thái, thế mà một huyệt đạo nơi hông y lại bị điểm! Nhãn quang của Quan Sơn Nguyệt cũng linh hoạt lắm chứ, tại sao chàng không nhận ra kịp?
Thấy chàng loay hoay mãi, nữ nhân mỉm cười, thốt:
– Thủ pháp đó, do mẹ ta sáng chế đấy! Ngươi không làm sao giải khai được đâu, đừng cố gắng vô ích! Nếu bây giờ, ngươi bảo đảm là hắn sẽ không mắng ta nữa, ta sẽ giải cho hắn liền. Nếu không, hắn sẽ chịu cái cảnh toàn thân bất toại suốt đời!
Quan Sơn Nguyệt bất bình trầm giọng:
– Y mắng cô nương mấy tiếng, thiết tưởng cũng chẳng có gì quá đáng, cô nương lại nở hạ thủ đoạn độc ác đối với y à?
Nữ nhân cười hì hì:
– Ta đã nói rồi mà, hắn mắng ta, ta còn chịu được, bằng cớ là trước khi đến đây, ta cũng đánh hắn vậy, song ta có điểm huyệt hắn đâu? Tại hắn mắng đến mẹ ta đấy, tự nhiên ta phải trừng trị hắn nặng hơn chứ? Ngươi không hiểu cái đạo lý ấy à?
Nàng dừng lại một chút, rồi tiếp luôn:
– May mà hắn vô lễ trước mặt ta, chứ nếu mẹ ta nghe lọt câu mắng, thì mười mạng hắn cũng phải ra ma, đừng nói là một hắn!
Quan Sơn Nguyệt nổi giận thực sự:
– Mắng một câu, mà phải mất mạng? Thế ra lệnh đường quả là một nữ ma vương, hiếu sát hung ác phi thường!
Chàng tin chắc là nghe chàng phê phán mẹ như vậy, nữ nhân sẽ xuất thủ, cho nên vừa thốt xong, chàng ngưng thần, giới bị sẵn sàng đối phó. Ngờ đâu nữ nhân chỉ cười, hì hì, thốt:
– Ngươi đừng nói thế chứ! Sự thực thì, mẹ ta có làm gì đâu mà ngươi mắng?
Câu nói của ngươi bất kính lắm đấy, song ta bỏ qua cho ngươi! Có điều, ta khuyên ngươi, từ nay nên ăn nói thận trọng một chút, đừng bao giờ phê phán ngoại nhân một cách hồ đồ như vậy mà thành nông nổi!
Quan Sơn Nguyệt «hừ» lạnh:
– Lịnh đường không hiếu sát, sao lại chực giết những ai mắng bà?
Nữ nhân lắc đầu:
– Mẹ ta chẳng bao giờ giết người. Ta chưa chừng thấy mẹ ta giết ai. Chỉ vì, trong gia đình ta, ai ai cũng tôn kính bà, chẳng ai dám nói nặng bà, chứ làm gì có việc dám mắng bà?
Nàng dừng lại một chút, đoạn tiếp:
– Tuy nhiên gọi bà là Nữ Ma Vương, như ngươi vừa thốt đó, kể ra cũng đúng phần nào. Đúng danh hiệu, chứ sai rất xa về hành động bởi bà không khi nào giết người ít nhất cũng từ lúc bà còn nhỏ đến bây giờ. Còn từ đây về sau, thì ta chưa dám chắc.
Quan Sơn Nguyệt trố mắt:
– Danh hiệu lịnh đường là chi?
Nữ nhân đáp:
– Huyết La Sát! Cái danh hiệu nghe thì ghê gớm thật, song bà chưa từng nhúng tay vào máu!
Huyết La Sát?
Quan Sơn Nguyệt cố moi ký ức, cũng chẳng hình dung con người mang danh hiệu đó. Bởi, chàng chẳng hề nghe ai nói đến bà ta!
Trong khi chàng suy nghĩ, nữ nhân giục:
– Ngươi quyết định đi chứ? Nếu ngươi chần chừ một lúc nữa, thì huyệt đạo đó sẽ bế tắt vĩnh viễn, chính ta cũng vô phương cứu hắn.
Quan Sơn Nguyệt chẳng biết làm sao hơn, đành gật đầu:
– Được rồi! Tại hạ xin bảo đảm, y sẽ không mắng lịnh đường nữa.
Nữ nhân tiếp gấp:
– Luôn cả ta, hắn cũng không được vô lễ!
Quan Sơn Nguyệt bực tức, song chẳng dám chậm trễ:
– Luôn cả cô nương! Cô nương yên trí!
Nữ nhân cười nhẹ, vung roi, quất khẽ xuống mình Lưu Tam Thái.
Hứng ngọn roi đó, Lưu Tam Thái cử động được liền. Vừa rồi bị điểm huyệt, toàn thân bất động, song y vẫn nghe rõ câu chuyện giữa nữ nhân và Quan Sơn Nguyệt. Y đã thấy Quan Sơn Nguyệt không giải huyệt cho y được, sự kiện đó chứng tỏ thủ pháp của nữ nhân cũng độc đáo lắm cho nên bây giờ, được trả về tình trạng bình thường, y không dám mắng nàng nữa.
Quan Sơn Nguyệt thở phào, đoạn hỏi:
– Lưu huynh! Sự tình làm sao đến nỗi Lưu huynh và vị cô nương kia xô xát với nhau thế?
Nữ nhân lộ vẻ không vui, trầm giọng chặn lại:
– Ta đã giải huyệt cho hắn rồi, vậy là huề người còn truy cứu nguyên nhân làm chi chứ!
Quan Sơn Nguyệt chỉnh nghiêm sắc mặt:
– Không, cô nương ạ! Tại hạ không thể bỏ qua, tại hạ nhất định phải truy nguyên, để biết sự tình như thế nào. Nếu vị bằng hữu của tại hạ sái quấy, cô nương trừng trị như vậy là đáng lắm. Còn như lỗi về phần cô nương, thì tại hạ phải giải quyết trường hợp một cách công bằng mới được. Chẳng lẽ để cho cô nương tự ý hoành hành, gặp lại ai cũng hống hách?
Nữ nhân cười lạnh:
– Ngươi muốn giao thủ với ta?
Quan Sơn Nguyệt cương quyết:
– Nếu lỗi về phần cô nương, tại hạ phải cảnh cáo cô nương một lần, để từ nay về sau, cô nương nên hòa dịu với người trong thiên hạ.
Nữ nhân «hừ» một tiếng:
– Ta quấy ngươi cảnh cáo ta, còn như hắn quấy? Ngươi để yên cho hắn?
Quan Sơn Nguyệt giật mình:
– Cô nương ... đã đánh y rồi ...
Nghĩa là chàng không cần quở trách gì Lưu Tam Thái nữa, bởi nữ nhân đã hạ thủ rồi.
Nữ nhân nhướng cao đôi mày, chừng như sắp sửa phát tác suy nghĩ một chút bỏ qua ý định đó, chỉ thốt:
– Ta không sợ ngươi đâu, bất quá ta không muốn mang tiếng là uy hiếp kẻ vô cô, bởi dù sao ngươi cũng chẳng liên quan gì đến vụ này.
Dừng lại một chút, nàng gật đầu, tiếp:
– Được rồi! Ngươi muốn truy cứu, cứ hỏi hắn! Ta không ngăn trở.
Lưu Tam Thái do dự một chút, rồi thốt:
– Đến bến Phong Lăng, tại hạ không mất công nhiều, tìm được một chiếc thuyền bằng lòng đưa chúng ta sang sông, dù đang đêm. Tại hạ lập tức trở lại chỗ cũ, báo tin cho Lệnh Chủ hay. Ngờ đâu, đi đến đây, tại hạ bỗng nghe tiếng hú. Tiếng hú nghe hãi hùng quá, con ngựa giật mình, nó chạy loạn lên, đâm sầm vào ngựa của vị cô nương đó ...
Nữ nhân «hừ» lạnh:
– Chỉ có vậy thôi à? Thế thì giản đơn quá!
Lưu Tam Thái phẫn nộ:
– Chứ còn sao nữa? Trước khi hai ngựa chạm nhau, tại hạ đã thấy rõ, và có gọi gấp cô nương hãy lách ngựa tránh qua một bên. Cô nương chẳng chịu nghe, lại còn vung roi quất vào mình tại hạ rơi xuống đường liền. Còn con ngựa thì hoảng sợ, chạy luôn.
Nữ nhân lại «hừ» một tiếng nữa:
– Khá đấy, thì ra ngươi cũng còn nhớ phần nào sự việc. Song ta hỏi ngươi lúc đó, ngươi gọi ta như thế nào?
Lưu Tam Thái sững sờ không nói được những tiếng gì kế tiếp.
Nữ nhân sôi giận:
– Sao ngươi nín lặng? Ngươi không dám nói ra, phải không? Ngươi không dám ta nói hộ ngươi! Ngươi gọi to:
«Cái mụ thối có tránh đường cho ta không?» Ngươi gọi thế nghĩa là gì? Ta bao nhiêu tuổi, mà ngươi gọi là mụ này mụ kia?
Hay ngươi muốn mắng luôn mẹ ta, sanh con không giáo huấn, để con cỡi ngựa cản đường ngươi? Cho ngươi biết, đánh ngươi một roi, kể ra ta cũng nhân đạo lắm đấy! Không oan uổng gì cho ngươi đâu!
Lưu Tam Thái giám giận nhưng không dám làm gì? Y nuốt giận mà chịu cái khổ ấm ức trong tâm.
Quan Sơn Nguyệt đã hiểu sự tình như thế nào rồi.
Thì ra, chỉ vì Lưu Tam Thái ăn nói bất nhã, nàng hận, đánh một roi, Lưu Tam Thái vừa đau vừa chạm tự ái, phản công. Thế là cuộc xô xát phát sanh ra ngay!
Chàng mỉm cười thốt:
– Câu nói đó, nghe ra thì cũng có phần nào bất kính thật, song trên giang hồ, người ta thường dùng lắm cô nương ơi! Khách giang hồ vô tâm mà thốt lên, chứ chẳng có ác ý chi cả. Tại hạ bảo đảm là lúc gọi như vậy, Lưu huynh không có ý mắng cô nương đâu.
Nữ nhân trừng mắt:
– Giang hồ là cái quái gì đối với ta chứ? Thói quen gì kỳ quái thế, mở miệng là xúc phạm đến người? Thảo nào mà mẹ ta chẳng bao là trên giang hồ, chẳng có một kẻ nào tốt cả!
Bây giờ Quan Sơn Nguyệt mới quả quyết là nàng mới đặt chân lên kiếp giang hồ. Nàng có vẻ ngây ngô quá, Quan Sơn Nguyệt chẳng những không bực lại còn cao hứng đối thoại với nàng.
Cái hứng đó phát sanh, do chàng gặp một con người có tư tưởng đặc dị, chứ chẳng phải do sự gặp gỡ của một nữ nhân xinh đẹp.
Ngoài ra vũ công của nàng cũng đáng được chàng chú ý đến, nhất là nàng có thủ pháp linh diệu, cách điểm huyệt của nàng độc đáo vô cùng.
Chàng không giải huyệt được cho Lưu Tam Thái, hơn thế chàng đã dùng tuyệt kỹ «Phân Quang Bố Ảnh», mà vẫn không chụp trúng ngọn roi của nàng ...
Còn một nguyên nhân khác, không kém quan trọng, là lai lịch của Huyết La Sát, mẹ nàng. Đương nhiên, con như vậy, thì mẹ hẳn phải là một cao thủ vũ lâm.
Nhưng, bà là ai? Vì lý do gì, bà lại oán hận khách giang hồ, đến độ cho rằng tất cả đều là những con người xấu?
Trong phút giây, chàng nảy sinh cái ý muốn gặp Huyết La Sát. Gặp bà ta, cũng chẳng khó khăn gì, chàng chỉ cần đánh nàng hạ được nàng, là mẹ nàng ra mặt báo thù cho con. Chàng tự lượng sức mình, có thể hạ nàng dễ dàng.
Giá như bà ấy xuất hiện, trách cứ chàng, tại sao sanh sự với con gái bà, thì chàng viện dẫn lý do trừng trị nàng để báo hận cho Lưu Tam Thái.
Nghĩ đi, nghĩ lại, chàng cảm thấy bất tiện quá!
Nữ nhân kia xa lạ đối với chàng lại không thù không oán, đã mấy lần nàng từ chối giao đấu với chàng, bây giờ tìm cách nào sanh sự với nàng được? Chẳng lẽ cứ xuất thủ, đánh dồn nàng mặc dù nàng không muốn có cuộc đánh nhau?
Làm như vậy thì còn gì sanh dự của một nam nhân, chứ đừng nói là kém tư cách anh hùng hảo hán!
Nhất định là Quan Sơn Nguyệt không thể áp dụng phương pháp đó rồi.
Bây giờ chỉ còn có cách là gợi chuyện với nàng, rồi tùy cơ hỏi han về mẫu thân nàng.
Xem ra, nàng còn ngây ngô quá, chắc chắn là nàng không thấy được cơ mưu của chàng.
Quan Sơn Nguyệt nghĩ như vậy rồi, điểm nhẹ một nụ cười hỏi:
– Tuy là người trên giang hồ, tại hạ không hề mở miệng là mắng người, dù việc mắng người như thế không có ác ý và cũng rất thông thường, huống chi, mới đây cô nương vung roi đánh tại hạ, mà tại hạ chẳng giận chẳng hoàn thủ, cô nương có nhìn nhận tại hạ là người tốt chăng?
Nữ nhân «hừ» một tiếng:
– Ta có đánh ngươi đâu? Bất quá, ta giá roi, để bảo ngươi tránh ra xa xa thôi, ta bảo ngươi tránh, mà ngươi không chịu tránh, bắt buộc ta phải giá roi đó, đừng vu cho ta cố ý đánh ngươi!
Quan Sơn Nguyệt lại cười:
– Cô nương đánh bằng hữu của tại hạ, tại hạ cũng bỏ qua luôn, không hề trách cứ cô nương, cũng như không hề đánh lại để trả thù ...
Nữ nhân lại «hừ» một tiếng:
– Ai cấm người trách cứ? Ai cấm ngươi trả thù? Ngươi hỏi ta như thế, có phải là người hối hận chăng? Nếu hối hận, ngươi cứ đánh ta đi, đánh mà trả thù cho bằng hữu!
Quan Sơn Nguyệt mỉm cười:
– Cần gì phải đánh nhau, cô nương? Nào phải có đánh nhau mới giải quyết được trường hợp? Cho cô nương biết, có lúc người ta vì bằng hữu mà dám gây nên những cuộc đổ máu đó! Song, riêng tại hạ thì, tại hạ không thích đánh nhau, bởi tại hạ không phải là một khách giang hồ xấu xa, tại hạ không hành động xấu xa được!
Nữ nhân «xì» một tiếng:
– Ngươi cứ khoe khoang ngươi mãi! Ta đã nói người trên giang hồ không tốt, ta tin như vậy, dù bây giờ ngươi nói là ngươi tốt, ta vẫn cho ngươi xấu như thường, bởi ta nghĩ mẹ ta chẳng bao giờ nói sai.
Nàng dừng lại một chút, rồi tiếp:
– Ngươi cho rằng, vì bằng hữu, thiên hạ dám gây nên cuộc đổ máu, ta khó hiểu quá. Tại sao thế chứ?
Quan Sơn Nguyệt điềm nhiên đáp:
– Vì trên giang hồ, đạo nghĩa là điều tối trọng, ai ai cũng gìn giữ đạo nghĩa, người tốt có đạo nghĩa của người tốt, hạng xấu có đạo nghĩa của hạng xấu, không gìn giữ đạo nghĩa, thì chẳng phải là khách giang hồ đó cô nương. Bất quá, đạo nghĩa của hạng này, khác với đạo nghĩa của hạng kia, đạo nghĩa của hạng tốt là chánh khí, đạo nghĩa của hạng xấu là tà tâm. Hai kẻ có tà tâm, hợp nhau, bênh vực nhau, tức là họ có đạo nghĩa với nhau. Cũng như hai kẻ gìn giữ chánh khí, hợp nhau, bênh vực nhau, tức là họ có đạo nghĩa với nhau. Cho nên, người ta vì bằng hữu mà trả thù, báo hận, gây nên cuộc đổ máu, là vì đạo nghĩa đối với nhau.
Nữ nhân mỉm cười:
– Thế ra cuộc sinh hoạt trên giang hồ cũng có ý tứ khá đấy chứ!
Quan Sơn Nguyệt gật đầu:
– Đương nhiên! Trên giang hồ, tình bằng hữu rất quý, mà cũng rất cần, chính cái sự tương thân, tương trợ lẫn nhau, giúp nhiều người tạo dựng cơ nghiệp lớn lao. Không có bằng hữu, đừng mong xuôi ngược khắp đó đây, hành hiệp ...
Nữ nhân chận lại:
– Thôi được! Thôi, được rồi, ngươi khỏi phải nói nhiều. Ngươi nói vậy, nhưng mẹ ta lại chẳng cho là vậy, mà ta thì tin mẹ ta hơn tin ngươi! Dù sao, ta cũng tin người trên giang hồ không tốt.
Quan Sơn Nguyệt hỏi:
– Lệnh đường phê phán người trên giang hồ như thế nào?
Nữ nhân bĩu môi:
– Không tốt chứ còn như thế nào nữa? Gian manh này, xảo trá này, quỷ quyệt này, nham hiểm này, suốt ngày, suốt tháng, quanh năm, chuyên lừa gạt lẫn nhau, rồi cừu thù, rồi oán hận, rồi chém giết nhau, truyền đời, truyền kiếp, tạo cái cảnh oan gia tương báo, vĩnh viễn trầm mình trong nghiệp chướng! Bởi thế, người trên giang hồ đều yểu thọ, chưa chết sớm mai, không chắc gì còn sống đến chiều ...
Quan Sơn Nguyệt cười hì hì:
– Lịnh đường nói cũng hợp đạo lý lắm đó. Nhưng, bà chỉ nhắm vào một khía cạnh mà luận về toàn thể, do đó, lời phê phán của bà không được xác thực. Cô nương phải biết, trên giang hồ, cũng như trong bất cứ giới nào, cũng có vui, cũng có buồn, cũng có thanh cao, cũng có hèn hạ, có tốt, có xấu, có chánh, có tà, chứ nào phải chỉ có một hạng duy nhất đâu? Lịnh đường chỉ nhắm vào hạng xấu, nên thấy toàn những điều xấu, tự nhiên không nhận được cái tốt của khách giang hồ.
Còn như có sự tranh chấp đến thành cừu hận, cừu oán, là vì một số người hèn hạ ganh tỵ, đố kỵ, tham danh thích lợi, không dung dưỡng được nhau, cứ tìm nhau mà loại trừ, mà thanh toán, giành để đứng giữa dòng đời, tự nhiên họ phải dùng mọi thủ đoạn để thỏa mãn tham và dục. Cho nên người học võ, trước khi xuất đạo trên giang hồ, phải chọn con đường tiến. Chọn đúng con đường chánh, là được đòi truyền tụng đáng mặt hiệp sĩ, chọn nhầm con đường tà, là bị đời liệt vào hạng gian hùng.
Nữ nhân cười mỉa:
– Ngươi đã chọn con đường nào đó?
Quan Sơn Nguyệt giật mình, không tưởng là nàng hỏi một câu hiểm hóc như vậy. Trước câu hỏi đó, bất cứ ai cũng khó đáp, chẳng riêng gì một mình chàng.
Nói rằng mình theo con đường chánh, thì lấy gì chứng minh? Mình đã làn nên những thành tích gì? Nói suông thì ai tin? Còn như nói rằng mình theo con đường tà, thì ai có can đảm dám nói như vậy?
Vả lại, trên giang hồ, đâu dễ dàng phân tách một hành động của ai đó, để phê phán chính xác người chủ động theo chánh, hay theo tà? Bất cứ sự tình nào cũng có uẩn khúc bên trong, khi nào chưa thấu đáo những uẩn khúc đó, thì đừng ai tự hào là mình phê phán đúng!
Lâu lắm, chàng mới đáp:
– Bất cứ ai trên giang hồ cũng không thể chứng minh chính xác con đường mình chọn, bởi chẳng có tiêu chuẩn nào rõ rệt, cho nên đời có việc lấy bạo trừ bạo, lấy hung diệt hung, nếu bằng vào khởi sơ mà luận người, thì con người lấy hung bạo diệt trừ hung bạo, là hung bạo rồi, là tà rồi. Còn như chờ đợi lâu hơn, chờ cái kết quả của việc làm, thì cái hung bạo của một người, có thể ngăn chận sự hung bạo của số đông, cái hung bạo của một người đó mang lại thanh bình cho xã hội, thì con người đó không hẳn là hung bạo, như vậy là không tà, mà không tà là chánh rồi còn gì? Tóm lược lại, tại hạ khó đáp câu hỏi của cô nương lắm!
Nữ nhân lại hỏi:
– Ngươi nói, trên giang hồ, có vui, có buồn, có sướng, có khổ vậy ngươi thuộc thành phần vui sướng, hay thành phần buồn khổ?
Quan Sơn Nguyệt thở dài:
– Thực tình mà nói, một du hiệp chân chánh trên giang hồ, chẳng bao giờ vui sướng được. Bởi, con người trải thân san lấp mọi bất công trên đời, lấy sự việc xóa tan mọi bất bình cho đồng loại, làm bổn phận, thì khi nào vui sướng được nếu đời còn đầy dãy những bất công? Cô nương phải biết, những sự bất công vẫn có từ muôn thuở, có từ trước, có hiện nay, và sẽ xảy ra trong nghìn sau. Một du hiệp chân chánh luôn luôn quên mình để cứu trợ thế nhân, thì khi nào có những vui sướng riêng tư được? Họ vui khi nhân loại an bình, họ buồn khi người đời khổ lụy ...
Chàng kết luận:
– Tại hạ chỉ là một phần tử trong nhân loại đại đồng, mà nhân loại đó không có thành phần riêng biệt, nhân loại có còn điêu linh, thống khổ, nếu có vui, chỉ một số ít vui, số ít đó vị kỷ, chú trọng đến cá nhân, số ít đó không có nghĩa gì bên cạnh đa chúng khổ đau, và đời còn quá nhiều người đau khổ, thì đừng hỏi tại hạ thuộc hạng người vui sướng hay buồn khổ.
Nữ nhân trầm mơ, tựa hồ hiểu lầm, mà mường tượng hoang mang, như triết lý của Quan Sơn Nguyệt quá xa vời, còn lâu lắm mới len lỏi nổi vào tâm trí nàng.
Nàng không hỏi dồn chàng nữa, ít nhất cũng về việc đó, rồi nàng chuyển sang đề khác, hỏi:
– Vừa rồi, gã kia gọi ngươi là Minh Đà Lệnh Chủ, ta chẳng hiểu Minh Đà Lệnh Chủ là cái quái gì? Tên họ của ngươi chăng?
Quan Sơn Nguyệt mỉm cười, lắc đầu:
– Không! Minh Đà là một cái hiệu, một biểu ký, mà Lệnh Chủ là người nắm giữ cái biểu ký đó. Dùng biểu ký để giao tiếp với giang hồ, là một sự thông thường, giang hồ gọi nhau bằng biểu ký, chứ ít ai xưng hô ngay tên họ với nhau.
Chứ tên họ của tại hạ là Quan Sơn Nguyệt. Một vầng trăng sáng, soi ngàn dặm quan sơn!
Ngàn dặm quan sơn! Một vừng trăng sáng! Chừng như nữ nhân thích những danh từ đó quá, mắt nàng bừng sáng, miệng nàng cười nụ, giọng nàng ấm hơn, nàng gật gù hỏi:
– Chắc ngươi có danh lớn trên giang hồ? Ta nghe ngươi giải thích cái tên của ngươi, nghe hay vô cùng!
Quan Sơn Nguyệt cười nhẹ:
– Danh mà chi, cô nương! Cái danh nào, dù to, dù nhỏ, cũng chỉ là hư hư ảo ảo, chuốc lấy hư danh vào thân, chỉ khổ vì hư danh đó, chứ nào có lợi ích gì?
Thân không danh là thân nhàn, thân có danh là thân khổ. Bởi danh liệt thì thân bại, giữ cho danh đừng liệt, có khác nào đầu độc khoảng thời gian sống trên cõi tạm này?
Nữ nhân tặc lưỡi:
– Chắc ngươi có nhiều bằng hữu!
Quan Sơn Nguyệt lắc đầu:
– Cái đó là hẳn không rồi! Có thể nói tại hạ là người cô độc nhất đời, tại hạ luôn luôn tịch mịch, giữa thị thành đông đúc cũng như tại rừng núi âm u! Tại hạ đi đơn, về chiếc, bạn đường là một con vật bốn chân, tại hạ lấy vũ trụ làm nhà lấy cỏ cây làm bạn, sớm chợ chiều thôn, ngày rừng, đêm núi, bềnh bồng, phiêu dạt một tấm thân côi.
Nữ nhân buông nhẹ một tiếng thở dài:
– Rồi ngươi có buồn chăng?
Nàng tiếp:
– Theo ta, ta rất thích cái sống của ngươi! Giả như ngày sau, ta trở thành một khách giang hồ, ta sẽ chọn cái sống của ngươi, cái sống vô câu vô thúc, không cảm tình ràng buộc, không danh lợi triền miên, tự tại, thung dung giữa trời mây trăng nước, thích đâu là dừng lại, chán đâu là rời đi.
Nàng mơ màng, nhìn ra xa xa, ngoài trời mờ mờ sáng, lại thở dài, tiếp luôn:
– Nhưng, còn mẹ ta! Khi nào bà lại chấp thuận cho ta hưởng cái thú sông hồ?
Quan Sơn Nguyệt khuyến khích một câu:
– Cô nương sai rồi, lịnh đường nói phải đó, tuyệt đối cô nương nên nghe lời giáo huấn của lịnh đường, và hãy bỏ cái mộng trở thành khách giang hồ ... Giang hồ rộng bao la, song chẳng phải là nơi một nữ nhân chen mình, đặt chân. Phạm vi của nữ nhân là khung cảnh gia đình, thế giới của nữ nhân, là môn hộ, đừng bao giờ nghĩ đến việc hòa mình vào cuộc sống náo nhiệt, của hạng người chuyên lừa trước, dối sau!
Nữ nhân trừng mắt, sôi tánh quật cường:
– Không, mẹ ta cấm, mặc mẹ ta, ta nhất định phải trở thành một khách giang hồ! Trước kia, ta cũng có gặp một số người trên giang hồ, họ là những kẻ vô dụng, chuyên hiếp yếu, bức kém hoặc giả ăn nói hoang đường, khoác lác.
Quan Sơn Nguyệt trố mắt:
– Cô nương ghét, cô nương hạ sát họ?
Nữ nhân mỉm cười:
– Ai giết họ làm gì! Mẹ không cho ta tùy tiện giết người, ta làm sao cải lịnh mẹ! Ta chỉ đánh mỗi người mấy roi, cảnh cáo thôi.
Quan Sơn Nguyệt gật gù:
– Vậy là phải đó, cô nương! Mạng con người, nào phải là con kiến, con trùn, con dế đâu mà động một tý là giết?
Rồi chàng tiếp:
– Cô nương rút roi xem vừa đẹp, vừa nhanh, vừa lợi hại, tại hạ hết sức khâm phục! Dám hỏi cô nương, đang đêm, một mình ở tại khoảng đường thanh vắng như thế này, hẳn cũng có mục đích gì chứ?
Nữ nhân cười nhẹ:
– Mục đích gì? Bất quá, hôm qua, ta đi thăm dì ta, bởi gấp trở về nhà, nên đi luôn trong đêm, chẳng cần chờ sáng ngày đấy thôi.
Nàng tiếp luôn, tự giới thiệu:
– Ta họ Lạc, tên Tiểu Hồng, nhà ta ở bên kia bờ Hoàng Hà ...
Quan Sơn Nguyệt hấp tấp thốt:
– Thế là cô nương đang tìm thuyền sang sông, do đó mới gặp vị bằng hữu của tại hạ! Đang đêm, muốn tìm một con thuyền, chẳng phải là việc dễ đâu, cô nương. Hiện tại, bọn tại hạ đã thuê được một con thuyền, và sắp sửa sang sông đây, nếu cô nương không thấy có gì trở ngại thì chúng ta nên cùng sang chung thuyền! Tại hạ thành thật mời cô nương đó.
Lạc Tiểu Hồng chớp mắt, cười tươi:
– Được vậy là hay lắm! Nhà ta cũng khá rộng, có nhiều phòng trống. Nếu qua bờ đối diện, các ngươi không tìm được nơi tạm trú qua đêm, thì cứ ở lại nhà ta, rồi chừng nào muốn đi thì đi!
Quan Sơn Nguyệt tỏ vẻ cảm kích:
– Cô nương có hảo ý, bọn tại hạ xin đa tạ, song tại hạ nghĩ, lịnh đường không thích những người trên giang hồ, chỉ sợ bọn tại hạ đến đó, sẽ gặp nhiều bất tiện.
Lạc Tiểu Hồng khoát tay:
– Đừng sợ! Chẳng có gì ngươi phải lo ngại. Nếu ta biết được ngươi ứng phó dễ dàng «Tiên Pháp Linh Xà» của ta, chắc chắn là bà sẽ hoan nghinh tiếp ngươi đó. Bà thường nói, trong thiên hạ, rất ít người tránh được đường roi Linh Xà của ta, ngươi tránh được là ngươi có hạng lắm đấy.
Nàng tỏ vẻ cương quyết hơn, gằn từng tiếng:
– Đi! Phải đi với ta, về nhà ta! Ta nhất định phải đưa ngươi đến gặp mẹ ta, cho người biết được cái kẻ tránh dễ dàng tiên pháp của ta.
Bây giờ thì nàng đối thoại với vẻ thân mật rồi, Lưu Tam Thái ôm mặt đau bước tới, ngăn chặn Quan Sơn Nguyệt:
– Lệnh Chủ! Thêm việc không bằng bớt việc. Lệnh Chủ nên nhớ là còn cái ước hẹn tại Đại Tán Quan, không thể chậm trễ được đấy!
Y tỏ rõ chẳng có mảy mai tình cảm đối với Lạc Tiểu Hồng. Không có tình cảm cũng chẳng sao, bởi song phương hoàn toàn xa lạ không tình cảm với nhau là lẽ tự nhiên. Chẳng những y không có tình cảm đối với nàng mà y lại biểu lộ ác cảm rõ rệt. Y mượn cái cớ đến gặp Đại Tán Quan để ngăn chặn Quan Sơn Nguyệt theo Lạc Tiểu Hồng về nhà nàng. Y không muốn Quan Sơn Nguyệt giẫm chân lên cái bẫy thân tình mà nàng vừa đưa ra, bởi y cho lời mời mọc đó của nàng là một cạm bẫy, không hơn không kém.
Nhưng, chừng như Quan Sơn Nguyệt đã hiểu cái ý của y, và không đồng tình lắm, chàng vừa khoát tay vừa mỉm cười, đáp:
– Tại hạ biết rồi, Lưu huynh! Thời gian còn dài, vả lại tại hạ không lưu lại nhà nàng lâu, chắc không đến đổi dang dở hạn kỳ.
Lưu Tam Thái chẳng biết làm sao hơn, đành dắt ngựa đến trước mắt nàng đoạn thốt:
– Đã vậy, tại hạ xin đi trước.
Y nhảy lên lưng ngựa, ra roi, con ngựa vọt liền. Quan Sơn Nguyệt và Lạc Tiểu Hồng theo sau.
Không lâu lắm, họ đến bến đò, nơi đó có một con thuyền chực sẵn. Chủ thuyền là một chủ nhân, chuẩn bị xong xuôi mà đợi mãi không thấy Lưu Tam Thái trở lại, nên nằm trước quang mũi ngủ vùi.
Lưu Tam Thái phải đánh thức lão dậy đoạn cả ba cùng dắt ngựa xuống thuyền.
Thuyền tách bến tung ra giữa dòng sông.
Cả ba không ai nói với ai một tiếng nào.
Lưu Tam Thái ngồi thu mình một góc, niềm oán hận tràn lòng. Y đã bị Lạc Tiểu Hồng đánh suýt vỡ mặt mày, vậy mà Quan Sơn Nguyệt không hề trừng trị nàng, cho y được hả dạ.
Lạc Tiểu Hồng ngồi yên một chỗ, tịch mịch đến khó chịu, muốn gợi chuyện cho vui, nhưng thấy chẳng ai muốn nói gì, nàng đành im lặng, mà im lặng lại bực bội quá, nàng bèn cất tiếng ca. Giọng nàng trong trẻo, hồn nhiên vang lên ấm dịu vô cùng.
Quan Sơn Nguyệt thầm nghĩ nàng còn ngây thơ quá.
Một lúc sau thuyền ra đến giữa dòng sông, từ nơi đó nhìn vào hai bờ, dưới ánh đem mờ, hàng cây giăng mắc u buồn.
Bỗng Lạc Tiểu Hồng ngừng ca rồi kêu lên:
– Lão nhân ơi! Chèo thuyền như thế này, biết đến thời gian nào mới vào bờ?
Nghe nàng kêu lên, Quan Sơn Nguyệt và Lưu Tam Thái giật mình quay nhìn ra sau lại, thấy lão nhân cầm chèo, nhưng mái chèo không nhích động, con thuyền trôi theo dòng nước. Quan Sơn Nguyệt linh cảm có sự bất thường, bởi qua sông thì thuyền phải chỉ mũi vào bờ, cứ để cho thuyền trôi đi như thế?
Lão nhân nghe Lạc Tiểu Hồng kêu lên như thế, điềm nhiên đáp:
– Thuyền đi như vậy là vì các vị chưa trao số tiền sang sông!
Quan Sơn Nguyệt có phần nào phẫn nộ đáp:
– Nhưng thuyền nào đã đến bến đâu, mà lão trượng đòi tiền sang sông?
Có cái đạo lý nào cho phép lão trượng đòi tiền công trước khi hoàn thành sự việc?
Lão nhân bình tĩnh thốt:
– Các vị nói cũng phải, song các vị thử nghĩ lại xem, ai ai cũng cỡi ngựa, một khi đến bờ các vị lên ngựa, ra roi, thì lão phu còn làm sao chạy theo kịp mà đòi tiền? Chẳng hóa ra lão phu bỏ giấc ngủ để làm cái việc vô công à?
Quan Sơn Nguyệt sừng sộ:
– Thế lão trượng cho rằng bọn này là phường vô lại à? Chuyên lừa gạt thiên hạ hay sao chứ?
Lão nhân cười nhẹ:
– Các vị hiểu cho các vị, lão phu cứ biết cho lão phu, làm cái nghề này, chỉ mong được dịp rước khách sang sông, kiếm tiền nuôi sống, được dịp mà làm, làm lại không công, thì lấy gì mà sống chứ? Việc gì cũng thế nắm chắc trong tay là hơn.
Rồi lão trầm giọng, kết thúc:
– Nói gì thì nói, các vị nên trao tiền ra là hơn.
Quan Sơn Nguyệt toan phát tác, nhưng chàng nghĩ lại, dù sao thì lão nhân cũng cao tuổi quá rồi, đáng bậc cha chú, nếu chàng hành hung thì còn chi là lễ độ? Vả lại, biết đâu từ trước đến giờ, lão có cái lệ đòi tiền công như thế? Hoặc giả cũng có một vài người nào đó, đã quỵt tiền của lão, nên bây giờ lão thận trọng, tính việc chắc cho lão trước như vậy? Chàng dằn lòng, hỏi:
– Được rồi! Vậy lão trượng định lấy bao nhiêu tiền?
Lão nhân thản nhiên đáp:
– Mỗi người, hai ngàn lượng, ba người là sáu ngàn lượng. Lượng bạc đấy chứ chẳng phải lượng vàng đâu, các vị đừng ngán.
Quan Sơn Nguyệt, Lưu Tam Thái và Lạc Tiểu Hồng suýt ngảy dựng lên.
Qua sông một chuyến, mỗi người phải trả hai ngàn lượng bạc. Còn gì phi lý hơn chứ? Nếu không phải là kẻ cướp mượn cớ rước đưa hành khách để dễ bề bóc lột?
Lưu Tam Thái nóng tính hơn hết, kêu lên:
– Một chuyến sang sông, tiền công hai ngàn lượng? Lão trượng nói đùa đấy chứ? Có nhiều lắm cũng không thể hơn mười lượng được! Chừng như lão trượng mất lý trí rồi vậy?
Lão nhân buông mái chèo, «hừ» một tiếng:
– Lúc gọi đò, khách nhân không mặc cả giá sang sông, điều đó chứng tỏ là khách nhân mặc nhiên ưng thuận cho lão phu tùy định giá. Làm cái nghề này, lâu lâu mới gặp một vài người hào phóng, kiếm được mối lời, khi nào lão phu lại bỏ qua cho được? Bởi, để cho lão phu tùy định giá, là hào phóng rồi chứ gì?
Lưu Tam Thái nổi giận:
– Im lão đi! Không ai nghe được những lời phi ký của lão đâu!
Lão nhân bật cười ha hả:
– Sáu ngàn lượng bạc. Ha ha! Số tiền cũng khá đấy! Được số tiền này, lão phu bỏ nghề cũng vừa. Lão phu sẽ cưới một người vợ trẻ, rồi chờ nó mang thai, sanh con, lão phu sẽ cho con học hành, lớn lên nói thi đỗ, làm quan, vinh hiển tổ tông, nói nuôi lão phu đầy đủ, lúc lão phu chết, nó tống táng trọng hậu. Khách nhân thấy đó, sáu ngàn lượng bạc cũng chẳng nhiều chi đâu!
Lưu Tam Thái sững sờ, tự hỏi lão chèo đò này có điên hay không, và y thầm nghĩ không thể giản lý với lão được rồi.
Quan Sơn Nguyệt bình tịnh thốt:
– Lão trượng nói có lý đấy. Bởi không hỏi giá trước thì bọn tại hạ phải bằng lòng với bất cứ giá nào do lão trọng định. Tuy nhiên đã là khách lữ hành bọn tại hạ không tiện mang nhiều tiền theo mình, cho nên không thể ứng phó số bạc sáu ngàn lượng.
Lão nhân khoát tay:
– Tiền không sẵn, cũng chẳng sao. Nếu các vị có châu ngọc nơi mình, cứ giao cho lão phu một hạt, tương đương với cái giá sang sông chung cho ba vị.
Quan Sơn Nguyệt mỉm cười:
– Lão trượng tinh mắt lắm đấy! Tại hạ cũng định trao cho lão trượng một hạt châu để bù vào số bạc.
Chàng lấy trong mình ra một chiếc bao, từ từ mở.
Trong bao có rất nhiều hạt châu, chàng lấy một hạt trao cho lão nhân.
Lão nhân đưa tay tiếp lấy liền.
Thừa dịp đó, nhanh như chớp chàng chụp vào mạch môn của lão.
Nhưng lão nhân thản nhiên, đưa tay kia giật hạt châu.
Tư Mã Tử Yên
Võ Lâm Phong Thần Bảng
Hồi 12
Gió Sớm Mây Chiều
Nắm trúng mạch môn của lão nhân chèo đò, Quan Sơn Nguyệt vận dụng công lực truyền sang, cốt gây chấn động, áp lảo đảo, song chừng như lão không hề có cảm giác chi cả, lão cười hì hì, đưa hạt minh châu ra dưới ánh trăng, nhích động cho nó chớp chớp, rồi lão gật gù lẩm nhẩm:
– Khá lắm! Vật này xem ra cũng có giá trị đấy! Đôi tay cầm mái chèo suốt đời, chưa hề sờ mó đến một vật có giá trị như thế này! Cầm nó trong tay, lão phu có chết cũng hả dạ! Công tử ơi! Công tử rộng rãi quá chừng! Một chuyến sang sông mà công tử trả cho lão phu bằng một vật trị giá vạn lượng như thế này, đáng phục lắm đó! Dưới phàm trần, dễ có mấy kẻ sánh được công tử! Vạn lượng!
Vạn lượng! Thế là còn thừa bốn ngàn lượng cho công tử, lão phu làm sao có số bạc to lớn để trao lại cho công tử?
Quan Sơn Nguyệt đã vận dụng đủ mười thành lực, nhưng vẫn không làm sao chuyển công lực qua mạch môn, vào người lão chèo đò, như vậy lão có hề hấn gì? Bao nhiêu công lực của chàng, vừa đến mạch môn của lão nhân, là bị hóa giải, tiêu tan ngay, chẳng khác nào một ngọn gió nhẹ vờn qua, rồi đi luôn, không lưu lại một ảnh hưởng nhỏ.
Chàng vô cùng kinh hãi, buông tay ngay. Nhân dịp, chàng vờ phụ họa theo cái ý của lão nhân, cốt che lấp cái thẹn của chàng, thốt nhanh:
– Được rồi, lão trượng khỏi phải lo nghĩ. Giả như hạt minh châu có được giá trị trên số tiền đó, thì lão trượng cứ giữ luôn chỗ thừa lại đó, tại hạ xin tặng luôn cho lão trượng.
Lưu Tam Thái theo dõi tình hình, biết là sự việc rắc rối đến nơi, y nín thinh, chẳng dám thốt một tiếng nào.
Trong thời gian ở tại khách sạn, kinh doanh nghề nghiệp, y cũng tự hào dù sao mình cũng là một tay khá. Nhưng, theo Quan Sơn Nguyệt trong cuộc hành trình vòng quanh như thế này trước khi đến Đại Tán Quan gặp Phi Lạc Đà, y đã gặp nhiều tay quá lợi hại. Trước những tay lợi hại đó, y có nghĩa gì? Nghĩ ra y còn kém một bóng mờ, trước những tay đó, y chỉ là một kẻ vô dụng không xứng đáng cho bất cứ ai nhìn thoáng qua y.
Còn chi thinh danh một bậc anh tài, tại đất Lương Châu?
Thế ra từ bao lâu, y chỉ chuốc lấy hư danh, bây giờ đương đầu với những bậc chân tài, y mới nhận thức mình vô dụng!
Mới xuất hành mấy hôm, mà y thừa sống thiếu chết như thế này đi theo Quan Sơn Nguyệt nhiều ngày, thì có khác nào đi qua từ cửa ải dần vào tử địa?
Thoạt tiên, gặp bọn họ m, họ khai thì phái kiếm Vô Cực, rồi bây giờ, gặp Lạc Tiểu Hồng.
Bại trước m Tố Quân, cũng còn đi được, bởi dù sao thì bà ta là một Chưởng môn nhân, bà ta cao tuổi. Bại trước Lạc Tiểu Hồng, một cô gái chưa đến tuổi trưởng thành, thì thực là một nhục nhã lớn.
Hiện tại, lại gặp chèo đò! Chính Quan Sơn Nguyệt còn không áp đảo nổi lão, liệu y có ra cái quái gì trước mặt lão?
Rồi, chốc lát nữa đây, lại gặp Huyết La Sát! Y đã bại trước Lạc Tiểu Hồng, thì tài gì y đắc ý trước mẹ nàng? Sau bà ấy, còn những ai dọc theo con đường Quan Sơn Nguyệt sắp đi qua?
Và cuối cùng, là Phi Lạc Đà!
Trời! Sao mà lắm người tài thế? Trời! Y kém quá, từ bao lâu nay cứ tưởng mình là tay hữu hạng! Từ bao lâu nay, y nuôi mộng! Bây giờ vỡ mộng, y còn dám chen mình trên giang hồ nữa chăng?
Chẳng rõ y hận cho mình kém võ công, y hối tiếc đã đi theo Quan Sơn Nguyệt để phải trải qua hai lần suýt chết, nhìn lão già, rồi nhìn qua Lạc Tiểu Hồng, bất giác y thở dài.
Trong khi đó, lão nhân lắc đầu, chỉnh sắc thốt:
– Không được! Phàm tiền tài, trên đời này, ai ai chẳng ham? Song người quân tử chỉ ham tài sao cho phải đạo. Người quân tử chỉ nên hưởng thụ cái gì hợp lý, hợp đạo mà thôi. Lão phu đòi tiền công đưa các vị sang sông, là sáu ngàn lượng, thiếu một lượng, nhất định không được, hơn một lượng, nhất định không nhận. Huống chi còn thừa ra cho công tử đến bốn ngàn lượng? Lão phu sẽ tìm biện pháp bồi hoàn chỗ thiệt hại bốn ngàn lượng cho công tử nếu lão phu nhận lãnh hạt minh châu này.
Từ lúc nghe lão chèo đò đòi giá sang sông quá cao. Quan Sơn Nguyệt đã hiểu lão là con người phi thường rồi. Tuy nhiên, chàng không tưởng là lão có thể xem thường một cái nắm tay vào mạch môn của chàng như vậy.
Đúng là vũ công của lão quá cao minh, trên hẳn chàng mấy bậc.
Chàng lại biết, lão đòi giá cao, chẳng qua chỉ để đùa thôi, chứ khi nào một chuyến sang sông của mỗi người lại có cái giá hai ngàn lượng bạc?
Nhưng, lão có dụng ý gì?
Lão chèo đò suy nghĩ một lúc lâu, bỗng nhướng mày, reo lên:
– Có rồi! Lão phu có phương pháp rồi, công tử ơi! Vừa rồi, công tử chụp vào cổ tay lão phu, cái chụp đó sẽ được đền bù bằng bốn ngàn lượng bạc thừa lại.
Quan Sơn Nguyệt nghe mặt nóng bừng. Chàng nghĩ, lão già này đã gạt người lấy của, thì thôi cũng được đi, cớ sao còn nhắc đến việc đó? Thế lão định mỉa mai chăng? Chàng cười lạnh một tiếng:
– Tùy lão trượng định cách nào cũng được.
Niềm cao hứng hiện lên ánh mắt, lão chèo đò thản nhiên cất hạt minh châu vào mình, rồi mỉm cười thốt:
– Phàm muốn hưởng một số tiền nào tất phải có công khổ, có lý do, như vậy lão phu mới khỏi thẹn. Từ nghìn xưa, giai nhân cười một nụ, đáng giá ngàn vàng, thì lão phu bị chụp vào cổ tay, cái chụp đó chỉ đáng giá bốn ngàn lượng bạc, nghĩ ra lão phu không gặt hái nhiều tiền bằng một nữ nhân, tuy cũng chẳng sao, bởi mỹ nhân cần tiền hơn lão phu. Mỹ nhân bắt buộc phải có nhiều tiền để bảo vệ sắc đẹp, để vung phí cho xứng đáng với tư cách của một thần tượng, do đó cái nhu cầu phải vô cùng. Còn lão phu bất quá chỉ cần một số tiền nhỏ để nuôi sống, cưới vợ, sanh con đổi nghề. Một vạn lượng bạc cũng đủ lắm rồi!
Lão nhìn Quan Sơn Nguyệt, mỉm cười, tiếp:
– Công tử muốn chụp thêm vài lượt nữa chăng? Nếu muốn xin công tử cứ tự tiện, bởi công tử sẽ giúp lão phu phát tài luôn.
Quan Sơn Nguyệt sôi giận, cho rằng lão phu chèo đò khinh chàng thái quá.
Chàng toan phát tác, quyết trừng trị sự ngạo mạn của lão.
Nhưng Lạc Tiểu Hồng bật cười hì hì, hỏi:
– Như tôi đây, tôi muốn chụp cổ tay lão trượng, lão trượng có cho không?
Và nếu lão trượng bằng lòng, thì tôi phải trả bao nhiêu bạc cho mỗi cái chụp.
Quan Sơn Nguyệt biết nàng đã nhận ra lão chèo đò là một người có bản lãnh phi phàm, nên muốn thử tài. Chàng định ngăn trở, sợ nàng thất bại, song một ý miện phát sanh, chàng bất động, chờ xem sự việc như thế nào.
Lão chèo đò nhìn thoáng qua nàng, cười nhẹ, gật gù:
– Đúng là hôm nay lão phu đại phát tài! Không ngờ làm ăn quần quật luôn ngày lẫn đêm, vẫn không nuôi sống nổi một thân cũng tưởng phải chết già với túng thiếu nghèo khổ, bỗng nhiên thần tài chiếu cố, dung ruổi các vị mang tiền đến cho! Quý hóa quá!
Lạc Tiểu Hồng «hừ» một tiếng:
– Đừng nói dông dài. Lão trượng muốn đòi bao nhiêu tiền mỗi cái chụp, cứ nói.
Lão chèo đò cười hắc hắc:
– Được bàn tay ngọc của cô nương mó vào cổ tay lão phu, là một điều đại hạnh, khi nào lão phu lại dám đòi tiền? Trên thế gian này, có ai nỡ làm hao tốn cho người đẹp chứ?
Lạc Tiểu Hồng cười nhạt:
– Vậy thì tôi xin đa tạ lão trượng.
Câu nói vừa buông dứt cánh tay liền vung lên, bàn tay phất nhanh, nàng quất ngọn roi vào cổ tay của lão chèo đò.
Lão chèo đò biến sắc, toan rút tay về, nhưng không còn kịp nữa, đầu roi quấn vào cổ tay đến mấy vòng. Lập tức lão vươn cánh tay xa rồi vận công lực gặt mạnh xuống. Gặt như vậy, nếu đường roi còn thẳng, thì phải sút mấy vòng quấn.
Nói là đường roi, chứ thật ra chính là đường dây lưng đỏ của Lạc Tiểu Hồng, khi nàng vung lên, đường dây thẳng ra, nàng sử dụng nó như một ngọn roi.
Biết trước thế nào lão chèo đò cũng làm như vậy để cho đầu dây vuột khỏi tay. Lạc Tiểu Hồng chùng sợi dây, thành ra cái gặt của lão chèo đò chẳng kéo thẳng đường dây, và các vòng quấn không hề sút.
Nhận định cái gặc tay của lão chèo đò đi trọn đà rồi, lập tức Lạc Tiểu Hồng kéo đường dây cho thẳng lại như cũ. Nàng vẫn giữ cho đầu dây quấn vào cổ tay đối phương như thường.
Lão chèo đò hét lên một tiếng, vung tay kia đánh ra một chưởng bất chấp tánh cách hèn hạ của hành động.
Quan Sơn Nguyệt bất bình, lập tức vung chưởng nghinh đón chưởng kình của lão chèo đò. Đánh ra chưởng đó, Quan Sơn Nguyệt vận dụng toàn công phu nội lực bởi chàng thừa hiểu đối phương là một tay không vừa, tuy dùng toàn lực mà chàng cũng chưa chắc gì chống đỡ nổi một chưởng của lão. Do đó, chưởng phát ra rồi, chàng không dám đứng nguyên tại chỗ, cấp tốc đảo bộ nhảy sang một bên.
Nhưng, chẳng rõ tại sao, chưởng lực của lão chèo đò hết sức tầm thường, chẳng những Quan Sơn Nguyệt không nghe một phản lực nào khi song chưởng chạm vào nhau, trái lại kình đạo của chàng còn đánh bật lão về phía hậu của lão vừa ngả xuống lái thuyền, hai tay chỏi nhanh xuống sàn, tung bỗng người lên không, lộn đi một vòng, vọt luôn ra dòng sông rơi xuống kêu «ùm» một tiếng.
Cổ tay của lão còn vướng đường dây lưng của Lạc Tiểu Hồng. Nàng cũng còn nắm vững một đầu, đường nhiên nàng bị giật theo lão, ngã chúi tới, nếu Quan Sơn Nguyệt không nhanh tay đón ngang hông nàng ôm chặt giữ lại, nàng đã phải bay theo xuống dòng sông với lão rồi.
Lão chèo đò rơi xuống nước, bọt trắng ngời ánh trăng bắn lên tứ tung, khi bọt tan sóng lặng rồi, lão cũng mất dạng luôn.
Cũng may, đầu dây kia lúc đó, chẳng rõ tự nhiên sút ra, hay do lão chèo đò mở, thành lỏng lẻo, Lạc Tiểu Hồng bị Quan Sơn Nguyệt ôm chặt, chàng siết vòng tay hơi mạnh, giật cánh tay của Lạc Tiểu Hồng về, đường dây theo tay nàng được rút trở lại.
Với diễn tiến vừa qua con thuyền chao động mạnh, suýt đắm, ba con ngựa trên thuyền hoảng sợ, hí vang rền, vó chồm chồm, chực phóng xuống dòng sông.
Lưu Tam Thái và Quan Sơn Nguyệt vội đưa tay giữa ngựa của họ song chậm một giây, cả hai con đã vọt mình đi rồi.
Chỉ còn lại một con ngựa có sắc lông đỏ của Lạc Tiểu Hồng đứng nguyên tại chỗ.
Hai con ngựa xuống nước, bọt trắng bắn lên, bọt tan, ngựa cũng chìm luôn, chẳng thấy tăm dạng.
Con thuyền lắc lư một lúc, rồi bình ổn lại như cũ.
Lúc đó, Quan Sơn Nguyệt vẫn còn giữ Lạc Tiểu Hồng trong một tay, chàng lỏng cánh tay, đẩy nhẹ nàng ra xa xa.
Chàng hứng nàng, ôm nàng giữ lại cho nàng khỏi nhào luôn, chàng buông nàng ra, sự va chạm xác thịt đó không gây một cảm giác nào nơi chàng, thần sắc chàng thản nhiên như thường. Nhưng Lạc Tiểu Hồng thì khác, mặt nàng bừng đỏ, ánh mắt chớp nhanh mấy lượt. Hơi cúi đầu một chút, nàng ấp úng:
– Đa ... đa tạ ngươi ... Quan ...
Nàng muốn thay đổi cái tiếng ngươi chăng? Nàng sẽ gọi Quan Sơn Nguyệt bằng danh từ nào? Quan huynh đài? Quan đại ca? Quan thiếu hiệp? Quan Lệnh chủ? Nhưng, nàng buông lỏng, chẳng ai biết nàng định chọn danh từ nào.
Dù sao cái chuyển hướng đó cũng có lợi cho Quan Sơn Nguyệt, bởi cả hai đi dần đến chỗ thân mật hơn. Và, khi nào có sự thân mật giữa họ, Quan Sơn Nguyệt mới mong tìm hiểu được những gì muốn hiểu, về lai lịch nàng về Huyết La Sát, mẫu thân nàng.
Quan Sơn Nguyệt bạo dạn hơn, quăng cho nàng một cái phao cứu nguy:
– Tại hạ lớn tuổi hơn cô nương, cô nương cứ gọi là Quan đại ca đi, như vậy là hợp lý lắm!
Lạc Tiểu Hồng lại đỏ mặt một lần nữa, gầm đầu thấp hơn một chút nữa, rồi cũng ấp úng như:
– Quan ... đại ca ... tiểu muội đa tạ ... đại ca!
Quan Sơn Nguyệt hân hoan vô cùng. Chàng toan thốt một câu, bỗng mặt nước sôi động, bọt trắng bắn cao, nước xịt lên thành vòi. Theo vòi nước xịt, lão chèo đò hiện ra, lão đang ngồi trên lưng một con ngựa. Lão cao giọng hỏi:
– Cái vị tiểu cô nương dùng roi kia, chứ Lạc Hành Quân là chi của cô nương?
Lạc Tiểu Hồng không do dự:
– Mẫu thân của tôi đó. Lão trượng hỏi để làm gì?
Lão chèo đò cao giọng:
– Hay quá! Chung quy rồi lão phu cũng tìm được bà! Ngờ đâu bà ấy lại ở vùng này với con gái!
Lạc Tiểu Hồng còn ngây thơ quá chưa rõ lão chèo đò cao giọng thốt như vậy là có ý tứ gì, lão là thân hay thù, đáng lẽ nàng phải dè dặt, trái lại nàng còn chỉ luôn chỗ cư trú:
– Nhà tôi ở cách bến đò bên bờ đối diện độ năm dặm, lão trượng có thể hỏi bất kỳ ai trong vùng người ta sẽ chỉ Tịch Dương Biệt Trang cho mà tìm đến.
Lão chèo đò vẫn cao giọng:
– Cô nương về Biệt Trang, cho bà ấy hay, là ngày mai, đúng giờ ngọ, lão phu sẽ đến tận nơi, bái phỏng.
Nghe câu đó, Lạc Tiểu Hồng biết ngay đối tượng thuộc thành phần nào trong giang hồ rồi, và lão ấy sẽ đến gia trang của nàng với thái độ nào.
Không chịu kém, nàng cũng cao giọng đáp lại:
– Là người có liên quan với nhau, lại có công tìm kiếm nhau qua bao nhiêu tháng rộng năm dài, biết được tin tức rồi, là cứ đến, đến hôm nay được tiếp đón hôm nay, đến ngày mai, ngày kia, vẫn có người sẵn sàng tiếp đón. Chẳng những mẫu thân tôi sẵn sàng mà dì tôi cũng sẵn sàng, nếu cần, tôi cũng sẵn sàng luôn.
Nếu tôi không lầm, thì lão trượng chính là Hồ Hải Dị Tẩu có đúng vậy chăng?
Lão chèo đò sửng sốt. Một lúc lâu lão gật gù, thét:
– Được rồi! Lão phu sẽ đến! Lão phu nhất định phải đến. Cô nương cứ bảo mọi người chuẩn bị sẵn sàng đi nhé!
Lão thúc gối vào hông ngựa, ngựa quay mình, thuận theo dòng nước trôi đi.
Quan Sơn Nguyệt hấp tấp hỏi:
– Lạc cô nương nhận ra lão ta?
Lạc Tiểu Hồng lắc đầu:
– Làm gì tiểu muội nhận ra lão? Đại ca không thấy sao, thoạt đầu tôi cứ tưởng lão là một bằng hữu của mẹ tôi, do đó tôi chỉ chỗ ở liền. Về sau, khi lão ước hẹn gặp mẹ tôi, tôi mới nhận thức ra lão ta tìm mẹ tôi vì ác ý chứ không vì thiện cảm. Mẹ tôi từng đề cập đến danh hiệu của một lão nhân, cũng như hình dáng của lão ấy, có chỗ giống với lão chèo đò này, do đó tôi độ chừng, bất ngờ mà trúng. Lão ta là con người bại hoại nhất trần đời, hơn nữa, lại là một đại cừu nhân của gia đình tôi đấy. Từ bao lâu nay, ngày ngày, mẹ và dì tôi hằng mong đợi lão đến, đến để một lần giải quyết những gì còn đọng lại, dứt khoát vĩnh viễn.
Quan Sơn Nguyệt động tính hiếu kỳ, hỏi:
– Lão ấy có mối thù gì với gia đình lịnh đường?
Lạc Tiểu Hồng lắc đầu:
– Tại sao có mối thù, tôi cũng không hiểu được. Chỉ biết là từ ngày tôi lớn khôn, mẫu thân tôi luôn luôn dặn dò tôi phải lưu ý đến một người có hình dáng như lão. Đồng thời, mẫu thân tôi cũng truyền dạy một đường roi, khắc chế lão ta nếu bất ngờ tôi gặp lão. Tôi cố công luyện tập đường roi đó, hiện nay, cũng được thuần thục lắm rồi.
Quan Sơn Nguyệt hỏi gấp:
– Có phải là đường roi hiền muội vừa thi triển?
Lạc Tiểu Hồng lộ vẻ đắc ý, gật đầu.
Quan Sơn Nguyệt tiếp luôn:
– Vũ công của lão ta kỳ bí quá chừng, như có vẻ tà quái, ngu ca chụp tay lão, dùng toàn lực bóp mạnh, thế mà lão chẳng việc gì, chẳng những thế, lão còn có cách làm cho chưởng lực của ngu ca tan biến mất ...
Lạc Tiểu Hồng cười nhẹ:
– Cũng may, lão ta bị đầu roi của tôi quấn trúng vào cổ tay chứ nếu không thì lão đã có làm gì ca ca rồi, và ca ca không còn bình an mà cười nói nữa!
Quan Sơn Nguyệt kinh hãi, hỏi:
– Tại sao?
Lạc Tiểu Hồng thu đường dây lại, đưa đầu dây cho Quan Sơn Nguyệt và Lưu Tam Thái xem, rồi nàng bấm nhẹ nơi chỗ cầm.
Liền theo đó, có hai mũi nhọn, như châm, song lớn hơn châm ló ra, nếu không lưu ý tất không thấy được.
Nàng ngưng bấm, hai mũi châm thụt vào đường dây, rồi nàng bấm đi bấm lại mấy lượt, cho cả hai xem kỹ.
– Đó là một tuyệt kỹ của mẹ tôi, chế biến ra, trị lão ta. Năm xưa lão thất bại nơi tay mẹ tôi, cũng vì tuyệt kỹ đó. Bây giờ, lão bị tôi đánh một lần nữa, hẳn lão không biết tại sao mình bị đánh trúng dễ dàng, và vật gì đã gây thương thế nơi lão.
Hai mũi châm đó, trúng vào cổ tay lão, làm công lực của lão giảm sút đi một phần, do đó lão không dám hùng hổ đối phó với tôi, lão gờm tôi, hẳn cũng phải buông tha luôn ca ca.
Rồi nàng tiếp:
– Mẹ tôi có nói lão ấy luyện một bí công có cái tên là «Tiên Thiên Hổn Văn Vân Nhứ Khí Công», biến thân thể lão như một vật bằng những đường dây đánh lại, rắn chắc, không một loại vũ khí nào, không một công lực nào làm gì lão nổi, trừ ra phải dùng những mũi châm nhỏ, đâm qua kẽ hở của những đường dây mới làm tổn thương đến lão được. Quan đại ca phải biết, kẽ hở của một vật thể bằng những đường dây kết lại, nhỏ như thế nào!
Quan Sơn Nguyệt lo lắng:
– Hai mũi châm đó, có tẩm độc chăng?
Câu hỏi đó làm Lạc Tiểu Hồng không vui. Nàng trầm giọng đáp:
– Đã có cái tên Linh Xà Tiên Pháp, thì làm gì châm có tẩm độc? Nếu châm tẩm độc, tất phải gọi tiên pháp là Độc Xà chứ?
Quan Sơn Nguyệt lại hỏi:
– Nếu châm không tẩm độc, thế tại sao chạm vào cổ tay địch, mũi châm có thể làm suy giảm công lực của địch?
Lạc Tiểu Hồng «hừ» một tiếng:
– Quan đại ca học võ, mà lại có thể hỏi một câu như vậy à? Mũi châm chạm trúng mạch môn, ảnh hưởng đến khí huyết, bao nhiêu chân khí địch dồn tụ, bị cái chạm đó, phát tiết ra hết, địch đang mạnh, mất cả chân khí dĩ nhiên phải trở thành yếu như thường.
Quan Sơn Nguyệt trố mắt:
– Khí huyết ở tại cổ tay sao?
Lạc Tiểu Hồng gật đầu:
– Riêng lão ta thì vậy. Lão ta khác hẳn với tất cả mọi người cho nên tiên pháp đó ...
Quan Sơn Nguyệt chận lời:
– Thì sao?
Lạc Tiểu Hồng «xì» một tiếng:
– Thì tiên pháp đó hiệu nghiệm với hai mũi châm, chứ sao? Nếu gặp một đối thủ khác, tôi phải dùng đấu pháp khác, riêng về lão ta, tôi phải áp dụng cách đó. Cho nên, mẫu thân tôi đặc chế ra đường roi này, là cốt để đối phó với một lão ấy thôi.
Chẳng rõ để đe dọa Quan Sơn Nguyệt và Lưu Tam Thái hay nàng nói thật, nàng tiếp:
– Tôi nói hiệu nghiệm, là với cái chủ ý chế ngự hoàn toàn địch thủ, chứ chẳng phải cố tâm sát hại. Đường roi đó, chạm vào cổ tay lão, lão chỉ bị suy giảm công lực thôi, chứ nếu chạm vào cổ tay của bất cứ người nào khác, thì hiệu nghiệm mất công lực không thành vấn đề nữa, hơn thế, người đó phải mất mạng luôn. Cho nên, đường roi, mẫu thân tôi có dặn, chỉ nên sử dụng đối với mỗi một lão ta, ngoài ra đừng khinh thường sử dụng với những người khác, sợ làm chết mạng người.
Sợ Quan Sơn Nguyệt và Lưu Tam Thái không hiểu rành, nàng tiếp luôn:
– Lão ấy có môn công đặc biệt, nên dù bị châm đâm trúng mạch môn, chỉ kém giảm công lực chứ không chết. Những người khác, không có môn công đặc biệt đó, tất phải chết. Tuy nhiên cũng còn do nơi tôi có cho hai mũi châm ló ra hay không. Quan đại ca và Lưu huynh hẳn đã thấy, chính Lưu huynh cũng bị đầu dây quấn cổ tay như lão, mà có sao đâu? Đó là do tiểu muội không xuất phát hai mũi châm. Chứ ngược lại thì hiện giờ Lưu huynh đã ra ma rồi!
Lưu Tam Thái giật mình, thầm nghĩ rất may, nếu nàng có ý sát hại y thì y mất mạng rồi!
Quan Sơn Nguyệt cười nhẹ:
– Tuy chọn ngoại hiệu Huyết La Sát, nghe ra ghê gớm quá, lịnh đường thực ra là một người giàu từ tâm, đánh kính lắm. Có từ tâm mới biết trọng sanh mạng con người, có lương thiện mới luôn khuyến cáo hiền muội dè dặt gây nguy hại cho người khác!
Lạc Tiểu Hồng cũng cười:
– Tôi nghĩ mãi, chẳng hiểu tại sao mẫu thân tôi lại ưng một danh hiệu nặng mùi tử vong như thế, mẫu thân thì đã vậy, dì tôi cũng chẳng khác chút nào, dì tôi cũng có một ngoại hiệu ghê gớm không kém!
Nàng nhìn thoáng qua Quan Sơn Nguyệt và Lưu Tam Thái đoạn tiếp:
– Quan đại ca và Lưu huynh có biết không, dì tôi xưng là Cốt Ma Thần đó!
Nghe một ngoại hiệu như thế, chắc ai ai cũng phải mất ngủ mấy đêm liền!
Quan Sơn Nguyệt giật mình.
Dù chưa thấy mặt, thấy tài, chàng cũng ước đoán được Huyết La Sát và Cốt Ma Thần là những nhân vật thượng đỉnh trong vũ lâm. Những nhân vật như vậy, rất hiếm có trên giang hồ, thế tại sao chàng chẳng hề nghe ai nói đến?
Còn Hồ Hải Dị Tẩu nữa! Lão ấy cũng chẳng phải tay vừa, hẳn xưa kia lão phải có một thời oanh liệt, gây mưa tạo gió khắp nơi.
Bỗng nhiên, đêm nay, chàng lại được biết thêm ba người ngoài cái số mà chàng hoặc có tiếp xúc, hoặc nghe sư phụ đề cập đến.
Họ là những ai? Họ cam sống âm thầm tại một nơi, hẳn phải có một lý do gì, và cái lý do đó phải quan trọng lắm, nên họ cố tránh mọi tiếp xúc với thế nhân.
Chứ chẳng phải như những kỳ nhân, sau những ngày dài đầy sóng gió trên giang hồ, chán nản mọi cuộc đấu tranh, tìm nơi quy ẩn, mong tìm an nhàn để hưởng chuỗi ngày thừa. Không, họ không quy ẩn để tìm thong dong, tự tại, họ tránh đời vì một lý do nào đó!
Và, cứ theo khẩu khí của Lạc Tiểu Hồng, thì những đoạn tình cừu ân oán của họ chưa dứt khoát. Bao lâu nay, họ chờ nhau, họ tìm nhau, mãi đến ngày giờ này, họ mới biết tung tích của nhau.
Sự im lặng của họ trong nhiều năm tháng trôi qua, chỉ là lượn sóng ngầm, cục than hồng vùi dưới lớp tro dày. Bây giờ sóng ngầm đã trôi lên mặt nước, cục than hồng kia cũng nhờ gió quét bay tro mà chưởng ra. Rồi sóng đùa, rồi than cháy, cuộc đụng chạm giữa họ trong nay mai sẽ hãi hùng vô tưởng!
Chàng thầm nghĩ:
“Ta phải làm sao tìm hiểu sự tình giữa họ mới được! Biết đâu sự tình của họ chẳng liên quan trọng đại với toàn cuộc vũ lâm?”.
Chàng nhìn Lạc Tiểu Hồng, hỏi:
– Lịnh đường không thích bôn tẩu trên giang hồ nữa, tại sao người lại ưng ý một danh hiệu rùng rợn như thế?
Lạc Tiểu Hồng lắc đầu:
– Làm sao tôi hiểu được ý tứ của mẹ? Cho đại ca biết luôn, trong gia đình tôi, chẳng ai gọi ai bằng tên thật, mà chỉ xưng hô với nhau bằng ngoại hiệu thôi.
Còn người dượng của tôi nữa, cũng có cái ngoại hiệu ghê gớm không kém!
Dượng tôi là Xú Sơn Thần tuy lấy chữ Xú đặt cho ngoại hiệu, song con người thì chẳng xấu chút nào. Cho rằng dượng tôi là một mỹ nam tử, cũng không quá đáng, bất quá tuổi tác đã cao vậy thôi.
Lại thêm một nhân vật kỳ lạ nữa!
Huyết La Sát! Cốt Ma Thần! Xú Sơn Thần! Cả ba đứng về một phía đối lập với Hồ Hải Dị Tẩu!
Quan Sơn Nguyệt càng suy nghĩ, càng tin chắc là những người này có những ẩn tình hệ trọng, hoặc giả Lạc Tiểu Hồng không hiểu, hoặc nàng có hiểu nhưng không thể tiết lộ với ngoại nhân.
Chàng điểm một nụ cười, cố lấy giọng thản nhiên, hỏi:
– Ngu ca lỗi quá, nói chuyện với hiền muội quá lâu rồi vẫn không hỏi qua một tiếng về lịnh tôn! Nhất định lịnh tôn phải là một bậc kỳ nhân!
Nghe chàng đề cập đến phụ thân, đột nhiên Lạc Tiểu Hồng biến sắc. Lấy lại bình tĩnh, nàng lắc đầu, đáp:
– Tôi không có cha!
Không cha? Trên đời này, có người nào lại không cha?
Quan Sơn Nguyệt trố mắt:
– Hiền muội nói sao thế? Con người, ai lại chẳng có cha?
Lạc Tiểu Hồng thốt nhanh:
– Ai thì có, song tôi thì không! Mẹ đã bảo là tôi không có cha, tôi phải tin như vậy. Tôi cũng lấy làm lạ như đại ca đó, nên thỉnh thoảng hỏi mẹ, mỗi lần hỏi mẹ, là mỗi lần bị mắng nặng nề.
Nàng dặn luôn:
– Cho nên, khi gặp mẫu thân tôi, đại ca đừng bao giờ hỏi đến phụ thân tôi, để tránh cho mẹ khỏi bất mãn Lại một nghi vấn hiện lên trong tâm tư Quan Sơn Nguyệt.
Trong khi Quan Sơn Nguyệt và Lạc Tiểu Hồng nói chuyện với nhau thì Lưu Tam Thái cố chèo thuyền cặp bờ, y phải vất vả khó khăn lắm mới đưa thuyền từ ngoài khơi vào bến.
Khi thuyền cặp bến, thì trời đã sáng rõ. Cả ba người bỏ thuyền, lên bờ.
Lưu Tam Thái hỏi:
– Gia trang của cô nương ở về hướng nào?
Bây giờ, y không còn oán hận Lạc Tiểu Hồng vì những ngọn roi của nàng nữa, và chừng như y có phần nào lo lắng về sự ước hẹn của lão chèo đò.
Đương nhiên, phải có trường nhiệt náo tại nhà Lạc Tiểu Hồng rồi và dù sao thì y cũng thiện cảm với nàng hơn là với lão chèo đò.
Nghĩ đến cuộc chiến sắp xảy ra, chắc chắn là phải hãi hùng, y chưa biết rõ tài nghệ của Huyết La Sát và dì dượng của nàng như thế nào, trước một đối phương lợi hại như lão chèo đò, liệu họ có thủ thắng nổi chăng? Cho nên, y nóng nảy muốn đến nơi tức khắc để xem người và chờ việc.
Lạc Tiểu Hồng nhìn quanh, đoạn đáp:
– Nếu thuyền sang ngang, cặp bến, thì từ bến đến nhà tôi, đường không xa lắm. Song, thuyền đã bị nước cuốn trôi đi bây giờ mới cặp bờ được, thành ra xa hơn nhiều. Mà ngựa của hai vị thì đã nhảy xuống sông hết rồi, làm sao về nhà cho chóng?
Quan Sơn Nguyệt mỉm cười:
– Chẳng sao đâu, hiền muội! Hiền muội cứ lên ngựa, chạy trước, bọn ngu ca chạy bộ theo sau.
Lạc Tiểu Hồng lắc đầu:
– Con ngựa của tôi cất vó, là gió cũng chẳng theo kịp, đại ca và Lưu huynh có giỏi thuật khinh công đến đâu, chắc chắn là không tránh khỏi bị nó bỏ rơi sau xa!
Nàng tiếp:
– Mẫu thân tôi từng nói, nó là một con danh mã, trên thế gian ít có ngựa nào sánh bằng!
Điều đó, Quan Sơn Nguyệt cũng đã hiểu rồi, bởi chàng sanh trưởng tại sa mạc, tự nhiên chàng sành xem ngựa hơn người Trung Nguyên, huống chi, trong đêm rồi, khi thuyền tròng trành chực đắm, hai con ngựa thường của chàng và Lưu Tam Thái, nhảy xuống sông, chứ con ngựa này vẫn đứng vững như thường.
Chàng cũng biết là không thể chạy theo ngựa kịp được, song nếu không vậy thì còn làm sao hơn?
Lưu Tam Thái cau mày:
– Không lẽ cả ba lại cùng cởi một con ngựa?
Lạc Tiểu Hồng mỉm cười:
– Tại sao lại không lẻ? Đừng nói là ba người, dù có cả mươi người ngồi trên lưng nó, nó vẫn chạy nhanh như thường!
Quan Sơn Nguyệt nghĩ không còn cách nào hơn, đành chấp nhận giải pháp đó, chàng ngồi phía trước, cầm cương, Lưu Tam Thái ngồi sau, Lạc Tiểu Hồng thay vì ngồi giữa, trái lại ngồi nơi cổ ngựa.
Nghĩ sao không biết, nàng lại không ngồi, vụt đứng lên. Cỡi ngựa đứng, đã hay lắm rồi, lại đứng nơi cổ ngựa, còn tài hơn nữa!
Dọc theo đường, khách bộ hành trố mắt nhìn họ.
Một lúc lâu, ngựa rẽ vào một con đường đất nhỏ, hai bên đường, cây mọc rậm tàng, mát mẻ vô cùng.
Xa xa, có một vùng riêng biệt, nơi đó, cổ thụ vươn mình sừng sững giữa trời, tàng nào cũng tròn xoe như tán, trông như âm u, như thanh tịnh.
Khung cảnh toàn diện nhã lịch vô cùng, đúng là một nơi quy ẩn lý tưởng.
Từ xa xa, người ta thấy nhiều mái nhà trong khu cổ thu đó.
Lạc Tiểu Hồng đưa tay chỉ, miệng điểm một nụ cười, thốt:
– Sắp đến nơi rồi đó, Quan đại ca và Lưu huynh! Khu cổ thụ kia, là Tịch Dương Sơn Trang!
Đã gọi là sơn trang, hẳn trang viện được kiến tạo trong vùng phụ cận núi non, Quan Sơn Nguyệt và Lưu Tam Thái nhìn qua cảnh trí, gật đầu, cho rằng khung cảnh rất đẹp.
Ngựa đến cổng trang dừng vó.
Tại cổng trang, một thiếu phụ trung niên có gương mặt lạnh lùng đứng lặng, nhìn họ lúc còn ở xa. Họ đến gần, thiếu phụ vẫn bất động, không hỏi một tiếng nào.
Lạc Tiểu Hồng từ trên cổ ngựa, nhảy xuống đất, chạy đến trước mặt thiếu phụ, kêu lên:
– Mẹ! Con về đây! Con đưa mấy người khách đến đây!
Nàng đưa tay chỉ, như giới thiệu:
– Vị này là Quan Sơn Nguyệt ...
Quan Sơn Nguyệt cũng xuống ngựa rồi, nghe Lạc Tiểu Hồng giới thiệu mình, vội bước tới, vòng tay chào:
– Quan Sơn Nguyệt này hân hạnh được bái kiến Huyết La Sát Lạc Hành Quân tiền bối!
Thiếu phụ lạnh lùng đưa tay đẩy Lạc Tiểu Hồng vào cổng trang đồng thời quở trách:
– Tiểu Hồng! Ngươi cãi lời ta, tự tiện đưa khách đến đây, khách lại là người trong giới giang hồ! Có vào trang ngay đi không?
Chừng như chưa bao giờ thấy mẹ có thái độ đó đối với nàng, Lạc Tiểu Hồng trố mắt, thốt:
– Mẹ nói sao thế? Quan đại ca tuy thuộc giới giang hồ song chẳng giống bất cứ một người nào trong giang hồ, huống chi, bản lãnh lại cao, hóa giải Linh Xà Tiên Pháp của con rất dễ dàng!
Thiếu phụ chớp nhanh đôi mắt, «ạ» khẽ một tiếng, đoạn bà nhìn Quan Sơn Nguyệt kỹ hơn, một lúc lâu, hỏi:
– Được lắm! Ngươi đã tiếp được ngọn roi của Tiểu Hồng lại tìm đến đây, hẳn có ý muốn cùng ta so tài?
Quan Sơn Nguyệt vội đáp:
– Tại hạ nào dám có ý đó, tiền bối! Chỉ vì ... qua cuộc đàm thoại với lịnh ái, tại hạ được biết tiền bối là một nhân vật thượng đỉnh trong vũ lâm, bản tính của tại hạ là rất ái mộ bậc hiền tài, nghe nơi nào có cao nhân là tìm đến bái phỏng để tỏ lòng tôn kính, có thế thôi. Mong tiền bối hiểu cho.
Thiếu phụ vẫn lạnh lùng:
– Ta không xứng đáng cho người đời tôn kính, lời khen tặng của ngươi, ngươi hãy lấy lại, cất đâu đó, dành khi nào có gặp người có chân tài, hãy tặng họ, ta không dám nhận đâu.
Bà trầm giọng tiếp nối:
– Từ nhiều năm qua, ta chọn nơi vắng vẻ thanh tịnh này dựng lên ngôi nhà cỏ, cam sống âm thầm, không muốn tiếp xúc với người đời, nhất là hạng người thuộc giới giang hồ. Giả như người không có điều chi chỉ giáo ta, thì xin vô phép vậy, ta mời ngươi đi nơi khác. Bình sanh, ta không thích bị ai phiền nhiễu!
Bà cự tuyệt khách từ phương xa đến, cự tuyệt thẳng thắn, lạnh lùng, bất chấp cái lễ độ khuôn sáo giang hồ.
Bình sanh Quan Sơn Nguyệt chưa hề gặp một nhân vật nào nói năng cộc lốc như thế.
Bà xử sự minh bạch như vậy, Quan Sơn Nguyệt phải đối đáp làm sao?
Thốt xong, bà quay mình, chuẩn bị trở vào trang.
Bà trở vào trang, là đóng cổng trang, bỏ mặc Quan Sơn Nguyệt bên ngoài, cổng trang ngăn đôi người đời và người quy ẩn, bên trong cổng, là vùng cấm địa, chàng vĩnh viễn không được vào, bất cứ ai cũng không được vào, dù chàng được Lạc Tiểu Hồng mời đến, dù chàng đến với hảo ý rõ rệt.
Chàng sửng sốt, đã đành. Lạc Tiểu Hồng cũng sửng sốt không kém chàng.
Sự việc diễn tiến đúng là ngoài ý muốn của nàng. Nàng kêu lên:
– Mẹ! Tại sao mẹ có thái độ đó đối với họ? Chính con mời họ đến đây mà!
Thiếu phụ nạt khẽ:
– Ai bảo ngươi mời? Sao ngươi hồ đồ thế? Đã bao nhiêu lần, ta từng khuyến cáo ngươi, là tuyệt đối không nên tiếp cận người trong giới giang hồ, ngươi tự tiện cãi lời ta, chẳng những thế, ngươi còn toan cưỡng bức ta phải chiều theo ý ngươi nữa rồi! Có lẽ ngươi định vượt ra ngoài sự quản thúc của ta rồi!
Lạc Tiểu Hồng xanh mặt hấp tấp giải thích:
– Trời! Sao mẹ nói thế? Con nào dám trái ý mẹ? Chẳng qua, Quan đại ca không phải tầm thường như bất cứ ai trong giới giang hồ, huống chi tuy còn nhỏ tuổi, Quan đại ca đã có cái danh rất trọng!
Nàng nhìn thoáng qua Quan Sơn Nguyệt đoạn tiếp:
– Mẹ biết không, Quan đại ca là Minh Đà Lệnh Chủ đời thứ hai đó!
Thiếu phụ chừng như có giật mình. Bà quay người lại, đối diện với Quan Sơn Nguyệt như trước, nhìn chàng một lúc hỏi:
– Minh Đà Lệnh Chủ đời thứ hai? Lệnh chủ đời thứ nhất có phải là Độc Cô Minh chăng? Ta chưa hề nghe nói có một Lệnh chủ đời thứ hai mà? Tại sao Độc Cô Minh lại để cho ngươi mang cái danh hiệu đó?
Đến lượt Quan Sơn Nguyệt giật mình. Thế ra bà này biết rõ sự phụ chàng?
Bà là ai, tại sao ngày trước sư phụ chàng không hề đề cập đến bà?
Chàng đáp:
– Lệnh chủ đời thứ nhất, chính là ân sư của tại hạ. Người đã du tiên rồi, vâng theo di ngôn của người, tại hạ thừa kế cái danh hiệu Minh Đà Lệnh Chủ.
Thiếu phụ cười lạnh:
– Độc Cô Minh chết rồi à? Độc Cô Minh chết làm sao được chứ? Tiểu tử, giả như ngươi định lừa ta, thì ngươi lầm! Lầm to đó, tiểu tử!
Quan Sơn Nguyệt lại giật mình lượt nữa. Cái việc ân sư của chàng chết, sao lại có nhiều người không tin như thế? Người thứ nhất, là Bành Cúc Nhân. Bà ấy tuy không nói rõ, song chừng như đinh ninh là ân sư chàng vẫn còn sống trên đời này. Chàng hết sức hoang mang. Bây giờ lại có thêm một người thứ hai, không tin là ân sư chàng đã chết. Thế là nghĩa gì? Hay là thực sự, ân sư chàng chư chết?
Bành Cúc Nhân và Huyết La Sát, ngày trước, có quen biết với ân sư chàng chăng?
Nếu cả hai đều cho rằng ân sư chàng chưa chết, hẳn họ biết hiện tại ân sư chàng đang ở tại địa phương nào. Có biết như vậy, họ mói dám đến quả quyết là ân sư chàng chưa biết. Bành Cúc Nhân úp mở về việc đó, và thoái thác mãi, không chịu chỉ chỗ ở hiện tại của ân sư chàng. Huyết La Sát có chịu chỉ cho chàng biết chăng, nếu chàng hỏi bà ta?
Trầm ngâm một lúc, chàng hỏi:
– Làm sao tiền bối biết là ân sư của tại hạ chưa chết?
Thiếu phụ cười lạnh:
– Biết hay không biết, biết bằng cách nào, tại sao biết, đó là việc của ta, đâu phải bổn phận phải giải thích cho ngươi rõ? Ta không có lý do gì bắt buộc phải thỏa mãn hiếu kỳ của ngươi hay bất cứ ai khác. Cho ngươi biết, nếu lão ấy chết đi, thì cái tin lão ta chết, sẽ đến tai ta trước nhất, trước cả ngươi. Lão giao phó Minh Đà Lệnh cho ngươi, là để được rảnh trí, đến một địa phương nào, đó thôi!
Chàng ướm một câu:
– Tiền bối biết ân sư của tại hạ hiện ở đâu chăng?
Thiếu phụ cười lạnh:
– Lão ta không có nói cho ngươi biết sao?
Quan Sơn Nguyệt tỏ thật:
– Tại hạ đinh ninh là ân sư đã chết, cái ngày mà người lên đường, bỏ tại hạ lại một mình, tại hạ cho rằng người đi tìm một nơi yên tịnh, để rũ sạch nợ trần, do đó, tại hạ không hỏi gì mà người cũng chẳng nói gì. Như vậy, làm sao tại hạ biết ...
Thiếu phụ suy nghĩ một chút, đoạn gật đầu:
– Hỏi ngươi như vậy, chứ ta cũng thừa hiểu ngươi chẳng biết chi đâu. Bởi, làm gì Độc Cô Minh có can đảm nói sự thật cho ngươi nghe?
Nhưng, bà chưa đáp đúng câu hỏi của Quan Sơn Nguyệt. Bà chỉ thốt tiếp:
– Thôi, được rồi, vì ngươi là truyền nhân của Độc Cô Minh, ta phá cách tiếp đón ngươi. Vậy hãy theo ta, vào trang.
Lạc Tiểu Hồng không cần hiểu mẫu thân và Quan Sơn Nguyệt nói gì với nhau, nàng chỉ sợ mẫu thân không chấp nhận cho Quan Sơn Nguyệt lưu lại trang thôi. Bây giờ, thấy mẹ chấp thuận rồi, nàng cao hứng vô cùng, vừa cười vừa sà vào lòng Huyết La Sát, kêu rối rít:
– Mẹ tốt quá! Mẹ tốt vô cùng!
Nàng tiếp luôn:
– Mẹ ơi! Ngoài Quan đại ca ra, đêm rồi con còn gặp một người nữa, chính là cái người mẹ thường đề cập đến, và dặn dò con phải đề phòng đó! Con gặp lão ta trên dòng Huỳnh Hà, con tặng luôn lão một ngọn roi, Quan đại ca lại bồi tiếp một chưởng lão phải nhảy xuống sông!
Huyết La Sát biến sắc, hấp tấp hỏi:
– Con đã gặp Hồ Hải Dị Tẩu? Lão ta ...
Lạc Tiểu Hồng cười hì hì:
– Đúng là lão, chứ còn ai khác nữa! Hình dáng lão cũng đúng như mẹ và dì mô tả với con đó.
Rồi nàng bĩu môi, tiếp luôn:
– Mẹ và dì cứ cho lão là một tay lợi hại! Hừ! Con xem lão bất quá chỉ là một kẻ giá áo, một túi cơm chẳng có giá trị quái gì!
Huyết La Sát chận lời gấp:
– Đừng nói nhảm, con! Lão ấy có tài hay không rồi con sẽ biết. Bây giờ, con hãy thuật cho mẹ biết, sự tình như thế nào?
Lạc Tiểu Hồng đáp:
– Lão nhảy xuống sông, một lúc sau lại nhô mình lên, nêu danh tánh của mẹ, lại ước hẹn trưa nay, đến đây tìm mẹ. Nhờ vậy con mới chắc chắn là không nhận lầm.
Huyết La Sát biến sắc mặt:
– Thế thì làm sao? Bạch Cốt Ma Thần và Xú Sơn Thần vắng mặt, một mình mẹ đối phó thế nào nổi với lão?
Lạc Tiểu Hồng cười lớn:
– Con biết như vậy lắm, cho nên, lão ta đòi đến đây hôm nay, con lại bảo lão để đến ngày mai hãy đến, cho mình có thời gian thông báo dì và dượng ...
Nàng vẫn cười, nhìn thoáng qua Quan Sơn Nguyệt, đoạn tiếp luôn:
– Thực ra, điều đó không cần thiết lắm, bởi có Quan đại ca và con đây chi?
Chúng ta thừa sức đối phó với lão!
Huyết La Sát trừng mắt, gắt:
– Con biết gì mà nói?
Bà khoát tay, giục:
– Sẵn ngựa đó, con đi gấp đi, gọi ngay Bạch Cốt Ma Thần và Xú Sơn Thần đến đây cho mẹ!
Lạc Tiểu Hồng xịu mặt:
– Người ta mới về, còn mệt mẹ lại sai đi nữa! Trong trang chẳng thiếu chi người, sao mẹ không sai khiến?
Huyết La Sát chưa kịp nói gì, bỗng có tiếng cánh chim vỗ trên không, hòa lẫn với tiếng lục lạc vang rền.
Hơn mười con chim câu từ xa bay đến, vầng vầng trên đầu họ.
Lạc Tiểu Hồng vỗ tay reo lên:
– Khỏi cần đi đâu! Dì và dượng đã đến rồi!
Tư Mã Tử Yên
Võ Lâm Phong Thần Bảng
Hồi 13
Đêm Dài Lắm Mộng
Đàn chim câu bay lượn trên không một lúc, một con có sắc lông trắng rời đàn, lao vút xuống.
Lạc Tiểu Hồng vung đường nhuyễn tiên, thân roi thẳng ra, đoạn nàng gọi:
– Bạch vũ! Đáp trên đầu roi của ta đây này!
Chim câu trắng chừng như nghe tiếng người, thay vì đáp nơi đầu ngoài đường roi, xa hơn, nó lại đáp xuống chỗ tay cầm, gần Lạc Tiểu Hồng.
Nàng đưa tay kia, tháo mối dây nơi chân chim, lấy ra một mảnh giấy. Không kịp trao cho mẹ, nàng xem ngay:
«Cừu nhân đã xuất hiện, bọn tiểu muội sẽ đến trong phút giây!» Mắt sáng lên, Lạc Tiểu Hồng vừa trao mảnh giấy sang Huyết La Sát, vừa thốt:
– Dì và dượng đã hay tin rồi, mẹ ơi!
Huyết La Sát tiếp mảnh giấy, hấp tấp xem qua. Bà trầm ngâm một chút, đoạn nhìn Quan Sơn Nguyệt, cất tiếng:
– Già vốn có quen thân với Độc Cô Minh, đáng lẽ các hạ tới đây, già phải tiếp đãi tận tình, song rất tiếc việc trọng đại xảy ra bất ngờ, già không biết làm sao hơn ...
Bây giờ, bà thay đổi thái độ hoàn toàn, xưng là già, gọi Quan Sơn Nguyệt là các hạ. Như vậy, là bà không còn bất mãn về cái việc Quan Sơn Nguyệt đến đây.
Nhưng, không bất mãn, là điều may mắn cho Quan Sơn Nguyệt, bà lại tỏ cái ý khó khăn, thì có khác nào bà bất mãn?
Qua khẩu khí của bà, Quan Sơn Nguyệt hay bất cứ ai khác cũng hiểu là bà không thể lưu Quan Sơn Nguyệt tại trang, ít nhất cũng trong thời gian này. Và, rõ ràng là bà đuổi khéo chàng.
Chàng đang nặng thắc mắc về trường hợp của ân sư, trước kia, chàng không tiện hỏi chi nhiều nơi Bành Cúc Nhân, một dịp may đã bỏ lỡ.
Bây giờ, chàng gặp Huyết La Sát một người ngoài Bành Cúc Nhân, biết hành tung của ân sư. Khi nào chàng lại bỏ qua dịp may một lần nữa?
Chàng khẳng khái thốt:
– Tiền bối đã là chỗ thâm giao của gia sư, thì việc của tiền bối, cũng như việc của gia sư, tại hạ là truyền nhân của cố hữu, đương nhiên phải thay thế cố hữu, làm một cái gì, hữu ích cho tiền bối. Lẽ đâu thấy tiền bối có việc rồi đành đoạn bỏ đi?
Huyết La Sát Lạc Hành Quân cười nhẹ:
– Khen các hạ đó, các hạ có khác gì lịnh sư ngày trước, thích gánh vác việc người. Song, già xin nói rõ, việc gì khác thì các hạ có thể giúp già, chứ việc này, chắc chắn là không được rồi. Thôi đi, các hạ không nên đâu!
Quan Sơn Nguyệt trầm giọng:
– Tại hạ nghĩ, cái việc mà tiền bối đề cập đó chính là công cuộc đối phó với Hồ Hải Dị Tẩu chứ gì?
Lạc Hành Quân gật đầu:
– Đúng vậy, cho nên, già mới bảo là các hạ không nên can thiệp. Bởi lão ấy có tài nghệ vừa cao, vừa ngụy dị, võ công của lão ta kể như độc đáo trên giang hồ ...
Bà cho rằng Quan Sơn Nguyệt chưa đủ sức đương đầu với lão già chèo đò, và sợ liên lụy đến chàng, nên bảo chàng rời khỏi Tà Dương Sơn Trang.
Lạc Tiểu Hồng không muốn cho Quan Sơn Nguyệt đi đâu cả, vội lên tiếng:
– Đành là lão ấy có tài cao, nhưng Quan đại ca cũng chẳng phải là kẻ vô dụng? Mẹ biết không, Quan đại ca đã đánh lão ta một chưởng làm lão văng xuống sông trong đêm rồi!
Lạc Hành Quân cười nhẹ:
– Mẹ chỉ sợ việc đó xảy ra sau khi con vung roi quất trúng lão, hai mũi châm đâm vào mạch môn của lão! Có như vậy, lão mới văng xuống sông con ạ!
Quan Sơn Nguyệt thẹn đỏ mặt. Chàng cũng phải nhìn nhận lão nhân tài giỏi hơn chàng mấy phần, chính chàng chụp đúng cổ tay lão, vận chân khí bức lão, song lão chẳng việc gì. Chàng không giấu sự thất bại đó, thẳng thắn thốt:
– Tại hạ cũng biết mình kém lão ấy rất xa, dù có ở lại, chẳng phải để đương cự với lão, tiếp trợ tiền bối. Chẳng qua, tại hạ học thiếu, biết ít, muốn nhân dịp các vị cao minh trong vũ lâm so tài với nhau, tại hạ mục kích những đấu pháp tân kỳ để mở rộng kiến thức vậy thôi!
Lạc Hành Quân suy nghĩ một lúc đoạn cười nhẹ:
– Cũng được. Nể tình lịnh sư, già ưng thuận cho các hạ ở lại xem cuộc chiến, có điều các hạ đừng can thiệp mà thôi!
Lạc Hành Quân chấp thuận, Quan Sơn Nguyệt cao hứng vô cùng. Chàng cam kết:
– Nhất định tại hạ sẽ làm kẻ bàng quan, chẳng hề dám động!
Lạc Hành Quân nghiêm giọng:
– Làm một kẻ bàng quan, trước hạng người như lão ấy, chẳng phải dễ dàng đâu, đừng tưởng! Phải có tánh nhẫn nại cực độ mới được, lão ta như con chó điên, cắn càn, gặp người là cắn, đã chắc gì các hạ chịu đựng nổi sự khiêu khích của lão mà thản nhiên khoanh tay nhìn diễn tiến? Các hạ nên nhớ, cây có muốn lặng, ít nhất cũng phải tùy gió, gió không ngừng thì cây đừng hòng đứng im.
Quan Sơn Nguyệt giật mình:
– Thế là lão có ý sanh sự với bất kỳ ai lão gặp.
Lạc Hành Quân mỉm cười:
– Thói quen của lão là thế đó. Nếu lão biết được các hạ là truyền nhân của Độc Cô Minh, nhất định lão ta bám sát luôn, cho đến khi nào các hạ chịu đựng không nổi, phải động thủ với lão thì thôi. Lão ta có mối thù với Độc Cô Minh, kể ra còn nặng hơn đối với già nhiều!
Quan Sơn Nguyệt cau mày:
– Vậy mà ân sư không hề đề cập đến việc đó ...
Lạc Hành Quân chận lời:
– Làm sao Độc Cô Minh nói cho các hạ biết? Giả như Độc Cô Minh tiết lộ với các hạ thì rất có thể ...
Bỗng, bà ngưng câu nói, chừng như bà nhận thấy là mình hớ hênh rồi bà chuyển hướng câu chuyện sang đề tài khác:
– Dù thế nào đi nữa, các hạ không nên lưu ý đến lão là hơn mặc cho lão làm mọi trò khiêu khích, các hạ cứ lờ đi, như không nghe, không thấy gì cả. Nếu các hạ giữ được thản nhiên, lão ấy chẳng làm sao xuất thủ.
Quan Sơn Nguyệt không phục.
Bởi, mình không chạm đến ai, đó là cả một sự nhẫn nhịn rồi, vì biết rõ ai đó không có thiện cảm với mình, mà mình cũng phải lờ đi. Con nhà võ, nhịn như vậy là quá đáng. Huống hồ, khi lão khiêu khích, mình cũng nhịn luôn sao? Nhịn như vậy, được sao?
Tự nhiên, Quan Sơn Nguyệt bất bình, chàng cao giọng thốt với vẻ ngạo nghễ:
– Chắc là tại hạ khó nhịn được, nếu lão ta cứ bám theo tại hạ mà khích nộ!
Lạc Hành Quân lắc đầu, khoát tay, nghiêm sắc mặt:
– Tuyệt đối không nên lưu ý đến lão. Cho cạc hạ biết, lão có cái thói, để ý đến ai, thì bám sát mãi người đó, như bóng theo hình, lão gây phiền não luôn luôn, cho đến một lúc nào đó, phải động thủ với lão!
Lạc Tiểu Hồng bất phục:
– Động thủ thì cứ động thủ, sợ gì lão?
Lạc Hành Quân lại lắc đầu:
– Vô ích! Không làm sao thắng nổi lão ta được.
Lạc Tiểu Hồng «hừ» một tiếng:
– Thế lão là một kẻ bất khả xâm phạm?
Lạc Hành Quân gật đầu:
– Bất tử, đúng hơn. Không ai giết lão chết cả. Công phu của lão so với vũ học của chúng ta hoàn toàn bất đồng. Vũ công của chúng ta, không làm gì hạ lão được!
Quan Sơn Nguyệt lấy làm lạ:
– Thật vậy?
Lạc Hành Quân mỉm cười:
– Già bịa chuyện mà làm gì.
Quan Sơn Nguyệt mơ màng.
– Thảo nào! Trong đêm vừa rồi, tại hạ chụp vào mạch môn của lão, cố vận chân khí truyền sang gây chấn động nơi lão, song lão chẳng việc gì! Hơn thế, lão làm cách nào chẳng rõ, hóa giải tiêu tan đạo chân khí của tại hạ ...
Lạc Tiểu Hồng tỏ vẻ sợ hãi:
– Thế thì làm sao? Giao đấu với lão, không giết lão chết được, hóa ra giao đấu để chờ chết với lão sao?
Lạc Hành Quân trấn an nàng:
– Tuy vậy, chẳng sao đâu, bởi lão cũng chẳng giết được chúng ta. Bởi môn học của lão chuyên gây phiền nhiễu cho đối phương, chứ không có cái công dụng giết người. Cho nên, năm xưa, khi lập bảng Phong Thần, bọn của già đồng ý tặng lão cái danh hiệu Đầu Thống Quái Vật. Bởi lão chỉ là một quái vật, chuyên làm kẻ khác nhức đầu vì lão.
Quan Sơn Nguyệt hấp tấp hỏi:
– Phong Thần Bảng? Tại sao lại có Phong Thần Bảng, bảng đó lập như thế nào?
Lạc Hành Quân lỡ lời, nghe chàng hỏi, thoáng biến sắc mặt, khỏa lấp ngay:
– Đừng hỏi chi hết. Già không thể nói gì hơn. Già cảm thấy đã nói quá nhiều rồi, mà nói nhiều thì bất tiện. Già xin các hạ, từ nay, có gặp ai, đừng bao giờ đề cập đến cái bảng Phong Thần đó!
Quan Sơn Nguyệt có thêm một nghi vấn.
Nhất định là cái bảng Phong Thần đó có liên quan trọng đại với vũ lâm, nói chung. Còn riêng sư phụ chàng, Bành Cúc Nhân, Huyết La Sát, Bạch Cốt Ma Thần, Xú Sơn Thần, kể cả Hồ Hải Dị Tẩu, sự liên quan phải trọng đại hơn gấp mấy lần.
Đột nhiên, chàng nhớ đến một việc, vụt đọc lên một câu đối mà chàng thuộc nằm lòng:
– Hoàng Hạc bay trên sông, Tán Tiên ở bờ hồ!
Lạc Hành Quân biến sắc một lần nữa. Bà hỏi gấp:
– Các hạ nói sao? Độc Cô Minh có tiết lộ với các hạ, lão ta là Hoàng Hạc Tán Tiên à?
Quan Sơn Nguyệt không đáp, ánh mắt chàng sáng lên, miệng điểm một nụ cười đắc ý, chàng cao giọng tự thốt:
– Thì ra, ân sư là Hoàng Hạc Tán Tiên!
Chàng nghi ngờ, ân sư hẳn phải có một ngoại hiệu nào đó, rồi nhớ đến câu đối trong gian phòng của Độc Cô Minh ngày trước chàng thử đọc lên. Nào hay, Lạc Hành Quân kinh ngạc, bật hỏi.
Câu hỏi của bà vô hình trung đã xác nhận điều chàng nghi ngờ!
Chàng không đáp, chỉ tự thốt như vậy, điều đó chứng tỏ là Quan Sơn Nguyệt chưa biết được Độc Cô Minh có cái ngoại hiệu đó, và Độc Cô Minh cũng chẳng hề tiết lộ với chàng ...
Thế là Lạc Hành Quân hớ hênh rồi. Bà Hối hận, sững sờ một lúc. Nhưng, đã lỡ, bà còn biết làm sao, thôi thì đành vậy, bà hỏi tiếp:
– Các hạ nghe ai nói đến câu đối đó?
Quan Sơn Nguyệt mỉm cười:
– Chính mắt tại hạ trông thấy, tại thơ phòng của gia sư. Lúc đó, tại hạ chẳng hiểu gì cả, bây giờ nghe tiền bối đề cập đến bảng Phong Thần nào đó, tại hạ mới nghĩ ra.
Lạc Hành Quân cau mày:
– Già đã căn dặn các hạ, đừng nhắc đến cái bảng đó nữa, các hạ quên nhanh thế à?
Quan Sơn Nguyệt tắt nụ cười, chỉnh nghiêm sắc mặt:
– Tại hạ xin hứa, từ nay không đề cập đến bảng đó.
Lạc Hành Quân gật đầu, trầm lặng một chút, đoạn thở dài thốt:
– Ba tiếng đó, có cái tầm quan hệ rất trọng đại, già trong phút giây sơ suất, buột miệng nói ra, nếu có kẻ nào nghe lọt, thì tai họa sẽ xảy đến, to lớn vô lường.
Cho nên, già van cầu các hạ ...
Quan Sơn Nguyệt hết sức lấy làm lạ, chẳng rõ Phong Thần Bảng có bao hàm bí mật gì, quan hệ như thế nào, mà chỉ cần nhắc đến là tai họa lâm thân.
Chàng muốn hỏi cho rõ ràng, hỏi một lần để vĩnh viễn không còn thắc mắc nữa, song thấy thần sắc của Lạc Hành Quân ngưng trọng phi thường, chàng bỏ luôn ý nguyện, đồng thời cam kết:
– Tiền bối yên trí, tại hạ kể như chẳng bao giờ có nghe ai nói đến bảng đó, không nghe tức nhiên chẳng biết gì, và không tiết lộ với ai. Bởi có ai tiết lộ một việc mà mình chả nghe, chưa biết?
Lạc Hành Quân gật đầu:
– Tại sao, nhớ đến câu nói đó, các hạ lại nghĩ ra được ngoại hiệu của lịnh sư?
Quan Sơn Nguyệt cười nhẹ:
– Tại hạ suy diễn từ những ngoại hiệu của các vị, tự nhiên hiểu liền. Một phần, đôi liễn đó, chẳng liên quan gì với hoạt động thường ngày của gia sư, thế mà người vẫn giữ mãi và chừng như trân quý nó lắm. Phần khác, các vị là những bằng hữu của gia sư, đáng lý ra, không nhiều lần thì ít, gia sư cũng có đề cập đến các vị, trong những lúc bình luận về nhân vật giang hồ chứ. Nhưng gia sư giữ bí mật hoàn toàn. Tại sao gia sư giữ bí mật về các vị? Tại sao gia sư trân quý câu đối đó? Hẳn phải có một nguyên nhân!
Lạc Hành Quân cau mày:
– Nhưng, câu đối đó có liên quan gì đêm già đâu?
Quan Sơn Nguyệt tiếp:
– Mới xem qua, thì không thấy mối liên quan, suy nghĩ kỹ tất thấy rõ. Ngoại hiệu của các vị, có cái vẻ kỳ quái phi thường, ai ai cũng xưng hoặc thánh, hoặc thần, hoặc quỷ, hoặc ma. Thì tại sao lại chẳng có người xưng là tiên? Gia dĩ, gia sư cùng các vị quen biết nhau từ lâu ...
Trực nhớ đến một việc, chàng bổ túc:
– Ngoài các vị Huyết La Sát, Bạch Cốt Ma Thần, Xú Sơn Thần, còn có một người nữa, cũng biết gia sư như các vị. Người đó, là Bành Cúc Nhân ...
Lạc Hành Quân chớp mắt:
– Bành Cúc Nhân còn sống?
Quan Sơn Nguyệt gật đầu:
– Bành tiền bối cùng đi với tại hạ, song vì một việc riêng phải tạm phân cách nhau.
Lạc Hành Quân giục:
– Khoan nói đến bà ấy, cứ tiếp việc hiện tại đi.
Quan Sơn Nguyệt thốt:
– Tại hạ thấy các vị có ngoại hiệu kỳ quái, lại nghe tiền bối đề cập đến cái bảng đó, mà gia sư là chỗ đồng đạo của các vị, hẳn cũng có tên, tại hạ trực nhớ đôi câu đối của gia sư, ngắt hai chữ cuối của mỗi câu, ghép lại, thành Hoàng Hạc Tán Tiên! Như vậy, có Tiên, có Thánh, có Thần, có Quỷ có Ma, rất đủ để hình thành một cái bảng, như tiền bối đã cho biết.
Lạc Hành Quân lại hỏi:
– Tại sao các hạ quyết đoán lịnh sư có tên trong bảng?
Quan Sơn Nguyệt mỉm cười:
– Đã là người quen thân của các vị thì gia sư hẳn có một ngoại hiệu khác, tương xứng với ngoại hiệu của các vị, chứ cái danh Minh Đà Lệnh Chủ, bất quá chỉ để xưng hô với toàn thể giang hồ thôi! Có ngoại hiệu khác, lại không xưng ra, hẳn phải do một nguyên nhân. Và chính vì người được liệt trong bảng đó, nên người không xưng ra ...
– Thánh, Thần, Quỷ, Ma, đều có tên trong bảng, thì Tiên cũng phải có tên trong bảng, điều đó rất dễ hiểu!
Lạc Hành Quân khẽ thở dài:
– Các hạ vừa kín đáo, vừa tế nhị, thảo nào mà chẳng suy diễn ra lắm điều hay, điều lạ! Tuy nhiên, già tưởng cần khuyến cáo các hạ, là sự việc này, các hạ không nên tìm hiểu xa hơn, và cũng chẳng tùy hứng mà đề cập đến.
Quan Sơn Nguyệt lấy làm lạ, hỏi:
– Vì lý do gì tại hạ không nên truy cứu? Chẳng lẽ sự việc đó ...
Lạc Hành Quân cao giọng chận lời:
– Nếu các hạ còn nhắc mãi đến việc đó, nhất định già sẽ không để cho các hạ rời khỏi nơi này!
Quan Sơn Nguyệt nín lặng.
Bỗng từ xa có tiếng bánh xe lăn và tiếng ngựa hí vang lên vọng đến trang viện.
Lạc Hành Quân dịu ngay nét mặt thốt:
– Muội nương và muội phu của già đã đến!
Bà nhìn sang Quan Sơn Nguyệt dặn một lần nữa:
– Các hạ phải nhớ là đừng nhắc nhở đến việc đó trước mặt họ.
Quan Sơn Nguyệt gật đầu.
Cả bọn đồng nhìn ra đường.
Không lâu lắm, từ xa, một vầng bụi bốc lên cuốn tới như bay rồi một cỗ xe xuất hiện trong tầm mắt của họ.
Xe do ngựa kéo, ngựa thuộc loại tuấn mã, người đánh xe tác trung niên, có vóc dáng khôi vĩ, tướng mạo oai nghiêm, y phục rất sang trọng.
Cỗ xe dừng lại trước cổng trang, rèm xe được vén qua một bên, từ trong xe một thiếu phụ trung niên thò đầu ra ngoài. Tuy tuổi đã cao, sắp đẹp của bà vẫn còn rạng rỡ. Bà hỏi gấp:
– Thơ Thơ có tiếp được tin của bọn tiểu muội không?
Lạc Hành Quân gật đầu:
– Có. Ngu thơ cũng đã biết rồi. Con Tiểu Hồng có gặp lão quái vật đó trên sông Hoàng.
Thiếu phụ giật mình, đảo mắt sang Quan Sơn Nguyệt và Lưu Tam Thái, chừng như để dò xét.
Lạc Hành Quân giới thiệu liền:
– Vị công tử này là truyền nhân của Độc Cô Minh đấy, còn người kia là bằng hữu của công tử.
Thiếu phụ lại giật mình lượt nữa, kêu lên:
– Hoàng Hạc ...
Lạc Hành Quân mỉm cười:
– Hoàng Hạc đã đi dự hội Long Hoa, chỉ còn người của Minh Đà ở lại.
Thiếu phụ trầm ngâm một lúc lâu.
Quan Sơn Nguyệt hết sức bối rối, không biết phải xưng hô thiếu phụ như thế nào cho hợp lý.
Lạc Tiểu Hồng hiểu ra sự khó khăn của chàng, vội giới thiệu:
– Dì và Dượng tôi đó. Dượng tôi tên là Liễu Sơ Dương, còn dì tôi là Lạc Tương Quân.
Quan Sơn Nguyệt vòng tay chào:
– Tại hạ là Quan Sơn Nguyệt, kính bái nhị vị tiền bối.
Lưu Tam Thái cũng nghiêng mình chào hai người mới đến, nhưng không nói tiếng nào.
Lạc Tiên Quân gật đầu.
Liễu Sơ Dương khách sáo hơn, thốt một câu:
– Trông thế huynh có khí thái anh hùng, lão phu hết sức mừng cho bạn cũ chọn người nối nghiệp xứng đáng.
Quan Sơn Nguyệt toan đáp lại, song Lạc Hành Quân cất tiếng.
– Đứng mãi tại đây nói chuyện sao? Mình vào nhà chứ.
Liễu Sơ Dương gật đầu, đoạn đến bên cạnh xe, thốt:
– Tương Quân, ngu huynh bế hiền muội nhé!
Quan Sơn Nguyệt lấy làm lạ thầm nghĩ, dù cho họ có âu yếm với nhau đến mức độ nào, họ đã quá cao tuổi rồi, lý đâu lại ôm ẳm nhau trước mắt nhiều người như vậy?
Lạc Tương Quân «hừ» một tiếng:
– Trước mắt bọn trẻ, mình làm vậy xem kỳ quá.
Liễu Sơ Dương cười hì hì:
– Chẳng quan hệ gì. Đệ tử của Độc Cô Minh cũng như con cháu chúng ta, có chi đâu mà phải quá giữ gìn?
Lạc Tương Quân mắng yêu:
– Liễu huynh mặt dày, chứ tôi thì tôi thẹn lắm.
Bà vẹt bức rèm xe, bay vút ra ngoài như cánh bướm, đôi ống tay áo dài phất phơ giữa khoảng không, cứ như thế bà lướt đi vừa nhanh vừa ổn.
Nếu một người bình thường di động như vậy, thì chẳng có chi là đáng nói, nhưng Quan Sơn Nguyệt nhận ra đôi chân bà cụt đến gối. Bây giờ, chàng mới hiểu tại sao Liễu Sơ Dương đòi ẵm bà.
Chàng hết sức khâm phục, thuật khinh công của Lạc Tương Quân đã đạt đến mức hỏa hầu, bà không còn có đôi chân mà vẫn đi được như thường, lại đi nhanh hơn một danh thủ đệ nhất đẳng trong võ lâm.
Liễu Sơ Dương nhìn theo bóng vợ, điểm một nụ cười, gọi Lạc Hành Quân, thốt:
– Thơ thơ xem kìa, lịnh muội vẫn giữ cái tính khí như ngày nào. Trong năm vừa qua có một lần bà ta muốn lên đỉnh Thái Sơn xem Thái Dương xuất hiện nơi phương trời Đông, bà ta nhất định không chịu ngồi kiệu, cứ như thế ấy mà vượt núi, làm cho bao nhiêu du khách dâng hương tưởng là thần tiên giáng hạ, cùng rập quỳ nhau lậy, rồi cố lên núi để kịp thời van cầu ban phước lành. Bị nhiều người vây quanh, gây phiền nhiễu, nên bà ấy chẳng xem được cái cảnh Thái Dương lên!
Quan Sơn Nguyệt kinh hãi, kêu lên:
– Trên Thái Sơn, có một đỉnh cao, khách giang hồ thường đến đó, xem mặt nhật mọc nơi phương Đông, chừng như đỉnh đó có cái tên là Quan Nhật Phong, cao ngàn trượng. Vậy mà Lạc tiền bối dùng thuật khinh công lên tận đỉnh, thật là một sự kiện trên chỗ tưởng của tại hạ!
Liễu Sơ Dương cười nhẹ:
– Về những việc gì khác, lão phu không dám nói, chứ về thuật khinh công thì lão phu có thể cho rằng bà ấy là một tay vô song trên giang hồ. Hơn thế, bà ấy lại mất hai chân! Luyện khinh công đã là một việc khó, bởi khinh công là một môn học đòi hỏi lắm đặc điểm mà chẳng phải bất cứ người nào cũng có thể học được. Huống chi, luyện thuật khinh công khi mình mất cả đôi chân, nghĩ ra còn khó khăn gấp trăm gấp ngàn lần một người thường!
Lạc Hành Quân mỉm cười, mắng:
– Xú Quỷ! Ngươi lại nói xấu vợ đó à? Nếu nó nghe được, ngươi chẳng dễ chịu với nó đâu nhé! Sao ngươi dám nói nó tàn phế?
Liễu Sơ Dương dáp:
– Chẳng dễ chịu với bà ấy? Mặc dù bà mất đôi chân nhưng bà không lấy đó làm buồn phiền, trái lại bà còn lấy đó làm hãnh diện là khác bởi Thơ thơ cho rằng bà ta tàn phế chứ bà ta nghĩ là mình có tàn chứ chưa đến nổi bị phế ...
Lão vừa gật gù, vừa tiếp:
– Kể ra, bà ấy cũng có lý, và bà hãnh diện cũng phải. Có cụt đôi chân, bà mới tỏ lộ được cái thuật khinh công siêu việt, vì người còn đủ đôi chân, có giỏi khinh công, cũng là sự thường, chứ bà thì bà cụt chân mà thuật khinh công của bà cao hơn bất cứ người nào còn đủ đôi chân, điều đó mới đáng khâm phục!
Lạc Hành Quân mỉm cười:
– Kể ra, vợ chồng ngươi giàu nghị lực vô tưởng! Như ngươi chẳng hạn, nhìn ngươi hiện tại, có ai ngờ ngày trước ngươi thọ bịnh như thế nào? Ta tưởng, cái hiệu Xú Sơn Thần của ngươi, phải thay đổi mới hợp lý. Bởi ngươi có còn xấu xí nữa đâu?
Liễu Sơ Dương khoát tay gấp:
– Không! Không thay đổi! Bằng mọi giá, tiểu đệ phải giữ cái hiệu đó, thơ thơ ạ, bởi con người có căn có bổn, đừng bao giờ quên căn quên bổn. Cha mẹ sanh ra tiểu đệ với dung mạo xấu xí, tiểu đệ cải sửa rồi, đó là một cái tội bất hiếu, bây giờ lại bỏ luôn cái hiệu nữa, thì còn làm người làm sao được? Cái hiệu nhắc nhở hình hài cha mẹ sanh ra kia mà! Bỏ hiệu, là bỏ nguồn gốc luôn, không được đâu, thơ thơ ơi!
Quan Sơn Nguyệt không thể hiểu nổi họ nói với nhau những gì, nhìn theo bóng Liễu Sơ Dương thoát đi trước theo cho kịp vợ, suy nghĩ mông lung.
Lạc Hành Quân chậm lại, chờ chàng, dù bà là một vị tiền bối cũng phải giữ lễ đối với khách.
Khi Quan Sơn Nguyệt tiến lên, bà cùng chàng thong thả bước đi. Bà vừa đi, vừa đưa tay chỉ Liễu Sơ Dương, thốt:
– Ngày trước, lão ấy có gương mặt đầy nốt rỗ, trông xấu xí vô cùng.
Quan Sơn Nguyệt lắc đầu.
– Thú thật với tiền bối, tại hạ không tưởng là một con người khôi vĩ lẫm liệt như vậy, trước kia lại là một kẻ xấu xí nhất đời! Chắc Liễu tiền bối học được thuật cải sửa dung mạo tân kỳ tinh diệu lắm nên mới tự biến đổi mình như ngày nay!
Lạc Hành Quân mỉm cười:
– Dùng thuật cải sửa dung mạo, biến đổi mặt mày của mình, đó là việc rất thông thường, có gì đáng nói đâu? Cái điều đáng cho chúng mình ca ngợi, là sự kiên tâm của họ Liễu, lão ấy chuyên chú tập luyện một huyền công, chính môn công đó bức những chỗ thịt lõm, lồi ra bằng mặt, xóa mất nốt rỗ, rồi dần dần làm tiêu tan những lằn, những vết còn lại, biến gương mặt lão lành lặn như mặt người thường. Chỗ ảo diệu của môn công đó, là đồng với việc sửa chữa gương mặt bằng phẳng, tạo luôn cho lão một sắc da đẹp đẽ như các hạ đã thấy.
Bà dừng lại một chút, rồi tiếp:
– Năm xưa, khi họ lấy nhau thì vợ là một tàn phế nhân, còn chồng là một gã có gương mặt rỗ chằng rỗ chịt, giả dĩ chỗ lồi, chỗ lõm, hai vợ chồng hầu như mất cả nhân dạng, họ bị bằng hữu đàm tiếu không ít. Họ không buồn, không giận ai, trái lại họ xem những lời chê bai đó, như một khích lệ, họ cố công luyện tập. Nhờ họ có nhiều nghị lực, nên sau một thời gian họ thành công, vợ nổi tiếng là tay phi hàng đệ nhất trong vũ lâm, chồng thì trở thành một hán tử oai hùng.
Quan Sơn Nguyệt hết sức thán phục:
– Thì ra bằng hữu cười chê họ, chẳng khác nào gián tiếp khuyến khích họ tự tân, tự cường!
Lạc Hành Quân gật đầu:
– Trong số bằng hữu có hảo ý khích lệ họ, đáng lưu ý nhất là Hoàng Hạc Tán Tiên.
Quan Sơn Nguyệt lo ngại:
– Họ thực sự có oán hận những người bên ngoài thì cười chê nhưng bên trong lại khích lệ chăng? Nếu có, thì gia sư không khỏi mất cảm tình của họ!
Lạc Hành Quân mỉm cười:
– Các hạ yên trí. Vợ chồng họ đã hiểu, già dám bảo đảm là tình bằng hữu giữa họ và lịnh sư, có tăng chứ không giảm.
Quan Sơn Nguyệt trầm ngâm một chút:
– Chắc là sự việc đó cách nay phải lâu lắm ...
Lạc Hành Quân mơ màng, hồi ức lại những gì đã diễn ra trong thời xa xưa, tình hoài man mác. Một lúc lâu, bà thốt:
– Phải! Cách nay độ ba mươi năm rồi! Ba mươi năm! Một khoảng thời gian dài với một người, nhưng rất ngắn đối với sự việc giang hồ! Mới ngày nào đó, ai ai cũng còn là những trang thiếu niên, huyết khí phong cương, thích hoạt động, rồi chớp mắt đã thấy tất cả đều pha sương lên mái tóc, chẳng những thế, mỗi người phiêu bạt một phương trời, không thường gặp mặt nhau như ngày trước cùng hiệp đoàn, hiệp lũ, bôn tẩu khắp non sông! Cái nhiệt náo ngày xưa đã biến thành cái u buồn hôm nay! Nghĩ cho cùng, bao nhiêu năm xuôi ngược đó đây, cầm như vùng dậy trong giấc mộng dài, tỉnh mộng rồi, kiểm điểm lại, trong tay nắm được những gì của nhau, ngoài một mối tình hoài man mác? Cố nhân! Cố sự! Niềm lưu luyến sau phút giây về lòng đất lạnh, mãi mãi nặng đọng trong u hồn!
Quan Sơn Nguyệt xót xa vô cùng. Dù chàng chưa đến cái tuổi hoài cổ, nhưng con người rồi ai chẳng có lúc hồi đầu nhìn lại quãng đường qua. Lời nói của Lạc Hành Quân hôm nay, sẽ là những lời chàng sẽ nói sau này, sau ba mươi năm, bốn mươi năm ...
Chàng lặng lẽ bước đi, bên cạnh Lạc Hành Quân, nghĩ xa, nghĩ gần, chàng lẩm nhẩm:
– Long Hoa Hội! Phong Thần Bảng!
Lạc Hành Quân nhìn sang chàng, trầm giọng bảo:
– Các hạ quên lời già ân cần dặn dò rồi sao? Đừng bao giờ đề cập cái đó trước mặt già, già sợ lắm!
Lạc tiểu Hồng đi bên cạnh mẹ và Quan Sơn Nguyệt, lúc đó mới cất tiếng:
– Có những sự việc quan trọng như vậy, sao từ lâu rồi mẹ vẫn dấu con?
Dượng rỗ chằng, rỗ chịt, mẹ cũng không tiết lộ cho con biết! Thì ra, cái danh hiệu Xú Sơn Thần quả có nguyên nhân!
Lạc Hành Quân gắt:
– Tiểu liễu đầu oán trách ta phải không? Ta làm sao đem những việc như vậy, thuật lại cho ngươi biết chứ?
Từ giây phút đó, cả ba im lặng đi bên nhau, không lâu lắm, họ đến đại sảnh.
Vào đại sảnh, họ thấy Liễu Sơ Dương và Lạc Tương Quân ngồi trên ghế, thần sắc an tường.
Lạc Tiểu Hồng nhanh chân, vào trước, còn Lạc Hành Quân và Quan Sơn Nguyệt dừng chân bên ngoài cửa sảnh đường, cả hai cũng nhìn quanh.
Là chủ nhân, Lạc Hành Quân cũng như hầu hết những chủ nhân trên đời, có thói quen khi xuất ngoại, dù chỉ trong chốc lát, trở về rồi là đảo mắt quan sát một vòng, xem có gì biến đổi chăng. Huống chi, Lạc Hành Quân đã là người trong giới giang hồ, và Hồ Hải Dị Tẩu có hứa hẹn sẽ đến đây, biết lão ấy đến lúc nào, ai dám bảo đảm là trước khi đến, lão không quẳng một vài viên sỏi dò đường?
Cho nên, cẩn thận, dè dặt, bao giờ cũng có lợi.
Phần Quan Sơn Nguyệt, chàng muốn nhìn qua cho biết cái phong quang của khu trang viện Tà Dương này như thế nào, nên không khỏi lộ phần nào tính kiếu kỳ.
Do đó hai người chậm lại một chút. Khi họ vào trong đại sảnh, thì đúng lúc Lạc Tiểu Hồng đang tường thuật cuộc gặp gỡ giữa nàng và Quan Sơn Nguyệt cùng Lưu Tam Thái cho vợ chồng Lạc Tương Quân nghe.
Thấy Quan Sơn Nguyệt bước vào, nàng bối rối thấy rõ.
Quan Sơn Nguyệt nghe lọt mấy tiếng cuối cùng, biết là nàng đang nói gì, điểm một nụ cười bảo:
– Lạc cô nương, cứ tự nhiên, thuật tiếp sự việc cho nhị vị tiền bối nghe.
Nhưng, nói gì thì nói đừng vu oan cho gã nam nhân uy hiếp một nữ nhân đấy nhé!
Chàng bước đến chiếc ghế cuối, ngồi xuống. Chàng biết rõ, các vị tiền bối này đều là những bậc dị nhân, họ có lối sống thoát tục, không câu, không thúc, thì đối với họ, chàng phải có thái độ tự nhiên, miễn sao đừng vượt khỏi phạm vi lễ giáo là được rồi.
Đem cái sáo thông thường vào cuộc tiếp xúc với họ, chỉ gây thêm sự bực bội cho họ, chứ chẳng ích gì. Cho nên, chàng thản nhiên ngồi xuống, có điều chàng chọn chiếc ghế ở cuối hàng, tỏ sự khiêm nhường một cách kính đáo.
Chàng thản nhiên, song Lưu Tam Thái lại áy náy quá chừng.
Thấy y bối rối Quan Sơn Nguyệt đưa mắt, ngầm ra hiệu, nhưng y vẫn xớ rớ mãi, chưa dám ngồi.
Liễu Sơ Dương mỉm cười thốt:
– Nhân huynh cứ tự nhiên, ngồi xuống đi. Bọn lão phu đã nghe Tiểu Hồng thuật lại sự tình trong đêm vừa qua. Chúng ta cứ xem nhau như đã quen biết từ lâu, chẳng có gì phải dè dặt quá độ.
Bấy giờ Lưu Tam Thái mới dám ngồi xuống bên cạnh Quan Sơn Nguyệt.
Lạc Tiểu Hồng cứ thuật tiếp. Nàng nói đến đoạn bức bách Hồ Hải Dị Tẩu phải nhảy xuống sông tránh đòn. Nói đến đó, nàng thích chí vô cùng, miệng vừa nói, vừa cười cả mắt nàng cũng cười luôn.
Khi nàng dứt lời, Lạc Hành Quân hỏi:
– Làm sao hiền muội và Liễu đệ biết được lão quái vật đang có mặt trong vùng?
Liễu Sơ Dương cười nhẹ:
– Sáng sớm hôm qua, tiểu đệ tiễn đưa một người khách, khi trở vào nhà, bắt gặp một tấm thiếp của lão, kèm theo một bức họa.
Lạc Tiểu Hồng trố mắt:
– Bức họa gì, hở Dượng?
Liễu Sơ Dương tiếp:
– Một bức Hiến Thọ Đồ.
Lạc Tiểu Hồng thốt nhanh:
– Chắc là Ma Cô Hiến Đào!
Liễu Sơ Dương lắc đầu:
– Không phải đâu. Chính Ma Cô Hiến Hoa.
Lạc Hành Quân chớp mắt thích thú:
– Nghĩa là sao?
Liễu Sơ Dương mỉm cười:
– Thời gian qua đã lâu rồi, thế mà lão ta vẫn nhớ mãi những việc từ mấy mươi năm trước! Lão ta vẽ trong bức đồ hình dáng của tiểu đệ năm xưa dĩ nhiên là với gương mặt xấu xí, hai tay tiểu đệ nâng một bãi phân trâu, trên bãi phân, có cắm một đóa hoa. Hoa rất tươi!
Lạc Hành Quân cười vang:
– Lão ta vẫn còn hằn học vì việc ấy à?
Lạc Tiểu Hồng trố mắt hỏi:
– Bức họa như thế, ngụ cái ý tứ gì?
Liễu Sơ Dương toan giải thích, Lạc Tương Quân trừng mắt gắt:
– Ngươi định nói gì chứ?
Liễu Sơ Dương rụt cổ, thè lưỡi dài dài rồi cười hì hì:
– Nhất vợ, nhì trời, bà ấy không cho nói, Dượng nào dám nói, điệt nữ ơi, thôi vậy, cố suy nghĩ, tự tìm hiểu.
Lạc Tương Quân dửng đôi mày liễu, hậm hực:
– Cái lão tặc ấy vẫn không chừa bỏ thói quỷ! Cứ theo bọn chúng ta mà ám mãi! Nếu ngày mai, lão giữ lời hứa, tìm đến đây, nhất định ta xé xác lão thành ngàn vạn mảnh, ta mới hả cho! Lão tưởng đầu, ta sợ lão lắm sao!
Lạc Hành Quân khẽ thở dài:
– Hiền muội hãy bình tĩnh, sự việc quan trọng vô cùng, không giản đơn như hiền muội tưởng! Năm xưa, lão đã tỏ ra là lợi hại lắm rồi, suốt ba mươi năm nay, hẳn lão ta có tiến bộ chứ, chỉ sợ cả ba chúng ta khó lòng thủ thắng trong cuộc chạm trán với lão lần này!
Lạc Tương Quân bất phục, cao giọng:
– Thơ thơ sợ lão tặc à? Sợ gì chứ? Lão tiến bộ, chẳng lẽ chúng ta lại đứng nguyên một chỗ sao? Rồi Thơ thơ sẽ thấy, ngày mai, tiểu muội rút từ đường gân tà quái của lão cho lão biết tay!
Thấy em cương quyết phi thường, Lạc Hành Quân cũng phấn khởi lên.
Thực ra thì chẳng phải bà ta ngán gì Hồ Hải Dị Tẩu, đành là lão có vũ công cao, song nước đến thì đất ngăn, địch tới thì chận đánh, sợ gì? Chẳng qua bà quen tánh cẩn thận, hành động là một việc, dè dặt là một việc, suy người, xét ta, nhân hậu mới xuất thủ. Bà không muốn em gái khinh địch mà thành có hại. Bà thốt:
– Chính lão, lão chẳng có gì đáng cho chúng ta sợ, cái người đáng sợ, là người ở sau lưng lão, hiền muồi và Liễu đệ cũng thừa hiểu là Thất Độc Thủ Pháp vồ cùng lợi hại ...
Quan Sơn Nguyệt giật mình Lưu Tam Thái biến sắc, kêu lên:
– Thất Độc Thủ Pháp? Có phải thủ pháp của Phi Lạc Đà sử dụng chăng?
Lạc Hành Quân, Lạc Tương Quân và Liễu Sơ Dương cũng kinh hãi, trố mắt nhìn Lưu Tam Thái.
Liễu Sơ Dương hỏi:
– Các hạ cũng biết Thất Độc Thủ Pháp nữa sao? Phi Lạc Đà là ai?
Quan Sơn Nguyệt thay lời Lưu Tam Thái, tường thuật sự tình ngày trước.
Cuối cùng, chàng bổ túc một câu:
– Theo tại hạ nghĩ, thủ pháp đó không đáng sợ lắm, bởi Bành Cúc Nhân tiền bối giải khai được, thì các vị cũng giải khai được!
Lạc Hành Quân ngưng trọng thần sắc:
– Thủ pháp đó biến ảo vô lường, người sử dụng nó có trăm ngàn cách thức phát xuất, ta chỉ sợ Bành Cúc Nhân gặp lúc người đó thi triển cách thức giản đơn nhất, nên giải khai dễ dàng như vậy.
Bà dừng lại một chút rồi tiếp:
– Dù sao đi nữa, chung quy Thất Độc Thủ Pháp cũng đã xuất hiện trở lại trên giang hồ rồi. Chính cái điều đó mới đáng cho chúng ta lưu ý. Gia dĩ, kẻ sử dụng lại lấy Phi Đà làm lệnh, thì sự việc hẳn phải rắc rối lắm ...
Tư Mã Tử Yên
Võ Lâm Phong Thần Bảng
Hồi 14
Rượu Vui Kiếm Hận
Quan Sơn Nguyệt suy tư một chút, đoạn hướng qua Lạc Hành Quân hỏi:
– Nhân nói đến Thất Độc Thủ Pháp, Lạc tiền bối lại đề cập luôn về Phi Đà Lệnh, sau cùng cho biết là Hồ Hải Dị Tẩu có dính dấp trong vụ, chẳng hay mối tương quan giữa những sự việc đó như thế nào?
Lạc Hành Quân lắc đầu:
– Đừng tìm hiểu, những sự việc đó chẳng mảy may liên quan đến các hạ.
Quan Sơn Nguyệt chỉnh sắc mặt:
– Liên quan chứ, tiền bối! Liên quan trọng đại! Chủ nhân Phi Đà Lệnh có chủ trương đối lập với tại hạ kia mà! Đã một lần rồi, người đó có tìm đến tại hạ, và trong tương lai, y và tại hạ sẽ còn gặp nhau nhiều lần nữa. Cứ như sự suy đoán của tại hạ, thì sự tình liên quan đến gia sư không ít vậy! Liên quan đến gia sứ tức nhiên liên quan đến Minh Đà Lệnh, mà tại hạ thì hiện là thừa kế môn nhân của gia sư, chấp chưởng Minh Đà Lệnh!
Lạc Hành Quân giật mình, nhìn sững chàng, hỏi:
– Có sự việc như vậy à?
Quan Sơn Nguyệt gật đầu:
– Chẳng dám giấu tiền bối, Phi Đà Lệnh Chủ có ước hẹn với tại hạ, sẽ gặp nhau tại Đại Tán Quan, trong lần tại hạ chạm mặt với y, có Bành Cúc Nhân tiền bối chứng kiến, cuộc chạm mặt đó cách nay chẳng lâu gì. Bành tiền bối có cho tại hạ biết là, muốn gặp lại gia sư, tuyệt đối tại hạ không nên đánh bại Phi Đà Lệnh chủ!
Lạc Hành Quân trợn mắt:
– Phi Thiên Dạ Xoa tiết lộ với các hạ nhiều điều quá chừng! Mà toàn là những việc khó!
Quan Sơn Nguyệt hỏi gấp:
– Tiền bối có thể chỉ điểm cho tại hạ những điều hữu ích chăng?
Lạc Hành Quân cười khổ, lắc đầu, đáp:
– Không thể rồi! Già cũng như các hạ, mỗi người đều có nỗi khổ tâm riêng biệt! Trong lắm trường hợp, chúng ta phải tự nhận là bất lực, dù chúng ta muốn làm những gì hữu ích cho nhau!
Quan Sơn Nguyệt bực tức vô cùng, Bành Cúc Nhân úp mở với chàng, rồi bây giờ Lạc Hành Quân và vợ chồng Lạc Tương Quân cũng úp mở luôn, thế là nghĩa làm sao? Tại sao tất cả đều dứ bí mật đối với chàng, dù họ là bằng hữu của sư phụ chàng, dù họ biết chắc chàng là đệ tử của sư phụ chàng?
Chàng lẩm nhẩm:
– Tiểu Tây Thiên! Long Hoa Hội! Phong Thần Bảng hừ, phải có một ngày nào đó, mình khám phá tất cả những bí mật quanh những danh từ này mình sẽ công bố trước giang hồ ...
Bọn Lạc Hành Quân biến sắc.
Lạc Hành Quân và Liễu Sơ Dương cùng đứng lên, cùng bước gấp đến, kèm hai bên tả hữu Quan Sơn Nguyệt. Còn Lạc Tương Quân thì chỏi hai tay lên thành ghế, trong thế sắp sửa bay mình đến chàng.
Quan Sơn Nguyệt giật mình, hấp tấp hỏi:
– Ba vị tiền bối định làm gì thế?
Tất cả đều trầm trong tình trạng đó, một lúc lâu, Lạc Hành Quân thở dài, bà bỏ cái giọng khách sáo, đổi lối xưng hô không gọi chàng bằng hai tiếng các hạ nữa. Bà thốt:
– Quan hiền điệt! Vì thiện cảm đối với hiền điệt, vì giao tình đối với Độc Cô Minh, già có lời này, thẳng thắn nói với hiền điệt, mong hiền điệt tiếp nhận ...
Quan Sơn Nguyệt thở dài:
– Có phải tiền bối định bảo tiểu điệt giả vờ bại trước Phi Lạc Đà?
Lạc Hành Quân lắc đầu:
– Không phải vậy, dù rằng hiền điệt có ý bại trước Phi Lạc Đà là có lợi cho Độc Cô Minh, già cũng không khuyên hiền điệt phải làm. Già và các vị biết rõ Độc Cô Minh hơn ai hết, lão ấy đã trao Minh Đà Lệnh cho hiền điệt, là lão hy vọng nơi hiền điệt rất nhiều, khi nào lão tán đồng cho hiền điệt hành động như vậy?
Quan Sơn Nguyệt thốt gấp:
– Nếu tiểu điệt để cho Phi Lạc Đà đánh bại là điều bại cần thiết, có lợi cho gia sư, thì thú thật với các vị tiểu điệt sẵn sàng hy sanh cá nhân mình.
Lạc Hành Quân cao giọng:
– Sở dĩ Bành Cúc Nhân bảo hiền điệt như vậy, là vì bà ấy không hiểu rõ tâm ý của Độc Cô Minh, cho nên cái việc chiến đấu tại Đại Tán Quan sắp tới đây, hiền điệt không cần gì phải cố ý thủ bại, trái lại bọn già con mong mỏi hiền điệt chiến thắng nữa là khác. Già chỉ đề cập đến một việc cấp thiết hơn, mà hiền điệt cần phải làm, nếu thật sự hiền điệt quyết tâm đền đáp ơn sâu của sư phụ.
Quan Sơn Nguyệt ngưng trọng thần sắc, hỏi:
– Tiểu điệt phải làm sao?
Lạc Hành Quân chỉnh nghiêm gương mặt:
– Những gì hiền điệt vừa nói đó, hãy bỏ qua. Vĩnh viễn hiền điệt nên quên đi, là được.
Quan Sơn Nguyệt toan nói gì, song Liễu Sơ Dương nghiêm giọng chặn lại:
– Chỉ vì bọn lão phu có mối giao tình rất thâm hậu với sư phụ hiền điệt, nên mới khuyến cáo hiền điệt như vậy. Chứ nếu không thì, sau khi hiền điệt tuyên bố câu đó, bọn lão phu đã ...
Quan Sơn Nguyệt giật mình:
– Bảo làm sao?
Lạc Tương Quân lạnh lùng đáp:
– Giết ngươi để diệt khẩu chứ còn làm sao nữa?
Hai người kia gọi chàng là hiền điệt riêng bà này chưa chịu dùng danh từ đó, đủ biết bà chưa hài lòng về chàng.
Quan Sơn Nguyệt kinh hãi.
Liễu Sơ Dương mỉm cười:
– Thôi mà, Tương Quân! Hắn dù sao cũng chỉ là một kẻ hậu sanh, chấp hắn làm gì, cho hắn hoang mang!
Lạc Tương Quân «hừ» một tiếng:
– Tiểu tử cứ buông lung lỗ mãng, sớm muộn gì đại sự của chúng ta cũng phải hỏng ...
Lạc Hành Quân cười nhẹ:
– Hiền muội nói quá lời, sự tình làm gì nghiêm trọng đến như thế chứ? Ngu thơ nhận thấy hắn có phần nào giống Độc Cô Minh, thuở tráng niên Độc Cô Minh cũng có tính khí như hắn. Theo ngu thơ nghĩ thì nếu sau này, sự thể có cải biến khả quan, thì cái công của hắn góp vào không nhỏ đâu!
Bà không nói đại cuộc thành tựu, bà chỉ nói cải biến khả quan, như vậy là bà đánh giá Quan Sơn Nguyệt khá cao đó.
Sở dĩ bà không nói hai tiếng thành tựu, là vì bà không muốn khích nộ Lạc Tương Quân, bà ấy đang hận Quan Sơn Nguyệt không được kín đáo, nếu khen dồi chàng thì có khác nào phản đối Lạc Tương Quân và cho rằng quan niệm của Lạc Tương Quân về Quan Sơn Nguyệt sai lầm?
Lạc Tương Quân thấy chị khuyên giải, và chồng cũng dàn hòa, nên dịu thần sắc lại. Bà thốt:
– Nếu hắn biết là sau này hắn có một phần trách vụ trong đại cuộc, thì ngay từ bây giờ, hắn phải tập luyện thế nào cho tâm tình được bình tĩnh, có như vậy hắn mới tự ái, tự trọng, và giữ gìn kín đáo những bí mật hắn được biết do sự tiết lộ của chúng ta! Tiểu muội không mong gì hơn là hắn tự tân để trở thành con người hữu dụng.
Để khỏa lấp diễn tiến vừa qua, tạo cái không khí ngột ngạt phần nào, Lạc Hành Quân gọi con gái:
– Tiểu Hồng, các ngươi vất vả trọn đêm, hẳn phải nhọc và đói, vậy ngươi vào nhà trù, bảo chúng làm gấp mấy món gì đó, ăn đi cho no, rồi nghỉ ngơi. Ta cần thương lượng một vài việc với dì và dượng ngươi, nên không thể tiếp đãi khách được! Ngươi hãy thay mặt ta.
Đúng là bà mượn cái cớ đãi khách ăn uống để đuổi khéo Quan Sơn Nguyệt và Lưu Tam Thái ra khỏi sảnh đường.
Tự nhiên Quan Sơn Nguyệt thừa thông minh để hiểu cái ý ngầm của bà, không đợi Lạc Tiểu Hồng mời, chàng tự động đứng lên, điểm một nụ cười, thốt:
– Nếu tiền bối không nhắc, chắc tiểu điệt cũng quên đói luôn!
Lạc Hành Quân giục:
– Hồng nhi, ngươi có nghe Quan hiền điệt nói đó không? Khách vừa đến, ngươi chẳng lo tròn phận sự chủ nhân, để khách kêu đói như vậy, thì còn thể thống gì cho Tà Dương Trang của chúng ta nữa chứ? Hãy đưa gấp Quan đại ca ngươi vào phòng ăn đi!
Lạc Tiểu Hồng ngây thơ, nào biết ý tứ thầm kín của mẹ và lời tắc trách của Quan Sơn Nguyệt, vội gọi:
– Thế thì mình đi, Quan đại ca và Lưu huynh! Cũng tại đại ca đấy, nghe đói mà không bảo sớm cho tiểu muội biết!
Nàng đứng lên, bước ra ngoài, đưa Quan Sơn Nguyệt và Lưu Tam Thái đến phòng ăn.
Nhìn theo Quan Sơn Nguyệt đến lúc chàng khuất dạng, Lạc Hành Quân khẽ thở dài, thốt:
– Độc Cô Minh được liệt danh trong Thần Bảng, kể ra cũng phải. Lão ta cao minh hơn chúng ta nhiều, nhìn vào gã đệ tử của lão, nhận xét cách giáo huấn của lão, chúng ta phải phục ngay! Con ruột của ngu thơ, chưa sánh được một phần nào của Quan Sơn Nguyệt vậy! Con ruột của mình, mà mình không giáo huấn được như lão giáo huấn đệ tử, thật là đáng thẹn!
Liễu Sơ Dương thấp giọng:
– Hoàng Hạc là người duy nhất được chuẩn cho lộ diện trên giang hồ, điều đó chứng tỏ Hội chủ khoan dung đặc biệt! Chúng ta mong rằng trong tương lai, tiểu tử đó sẽ thành tựu phi thường, được vậy, chúng ta cũng hả dạ phần nào!
Lạc Hành Quân trầm ngâm một lúc:
– Việc thì lớn, mà chỉ có mỗi một mình Độc Cô Minh đảm trách, ngu thơ chỉ sợ khó thành công! Có lẽ chúng ta phải tiếp trợ lão một tay!
Lạc Tương Quân ngưng trọng thần sắc:
– Tính như thơ thơ cũng được, song tiểu muội lại sợ chúng hay ra chúng sẽ vịn vào cái cớ đó, tắc trách hành động của chúng. Như vậy càng sanh khó khăn thêm cho chúng ta!
Liễu Sơ Dương mỉm cười:
– Chẳng sao đâu, chúng ta cứ ngầm giúp Độc Cô Minh cần gì phải ra mặt công khai mà sợ chúng quy trách nhiệm về chúng ta? Mà dù cho chúng có biết được đi nữa, tiểu đệ nghĩ cũng vô hại, bởi ngày nay Phi Đà Lệnh đã xuất hiện rồi, mà Phi Đà Lệnh xuất hiện là rõ ràng với cái ý khiêu chiến chúng ta. Địch đã ra mặt, chúng ta không nên quá ràng buộc lấy mình trong ước thúc.
Cả ba cùng cười, rồi họ thì thầm bàn luận với nhau, chứ không nói lớn tiếng như trước.
Cả ba có biết đâu, Quan Sơn Nguyệt còn ẩn nấp phía sau bình phong, nghe ngóng. Phần đầu câu chuyện, chàng nghe rất rõ, nhưng đến lúc bọn Lạc Hành Quân thì thầm, thì chàng đành chịu, chẳng làm sao nghe được một tiếng nào.
Không nghe được, thì còn đứng đây làm gì, lỡ ra Lạc Hành Quân phát hiện, thì thêm rắc rối.
Chàng nhón chân, chạy theo Lạc Tiểu Hồng.
Lạc Tiểu Hồng hỏi:
– Đại ca có hiểu được gì về câu chuyện bàn bạc giữa mẹ tôi và dì dượng chăng?
Quan Sơn Nguyệt đang dao động tâm tư vì nhiều nghi vấn hiện lên, cố làm ra vẻ thản nhiên, mỉm cười đáp:
– Không hiểu rõ lắm, thoạt đầu các vị ấy còn nói lớn một chút, sau cùng thì họ thì thầm với nhau, ngu huynh chẳng nghe gì được. Chừng như họ bàn cách đối phó với lão chèo đò ngày mai vậy!
Chàng không muốn nói thật, bởi nghĩ rằng, có nói cho Lạc Tiểu Hồng nghe, nàng cũng chẳng biết gì. Chính chàng còn mù mờ về sự việc đó, thì nàng làm sao hiểu nổi?
Lạc Tiểu Hồng lắc đầu, hằn học:
– Thật tôi không ngờ mẹ có nhiều bí mật quá chừng!
Quan Sơn Nguyệt thở dài:
– Ngu huynh thú thật, không hiểu nổi lịnh đường! Cứ nghe lịnh đường và hai vị tiền bối kia úp mở mãi, ngu huynh hoang mang vô cùng!
Lạc Tiểu Hồng suy nghĩ một lúc, vụt hỏi:
– Đại ca có thể cho tôi cùng đi đến Đại Tán Quan trong kỳ ước hội tới đây với Phi Lạc Đà chăng?
Quan Sơn Nguyệt toan từ khước, nhưng có một ý niệm nơi tâm tư, chàng mỉm cười đáp.
– Được chứ! Có hiền muội đi theo thì càng có lợi cho ngu huynh. Hiền muội có tiên pháp thần kỳ, biết đâu chẳng có dịp giúp ngu huynh chuyển nguy thành an? Tuy nhiên, hiền muội có đi được hay không, cũng còn tùy ở quyết định của lịnh đường. Ngu huynh chắc là lịnh đường cũng không khứng cho hiền muội dấn thân vào kiếp sống giang hồ đâu!
Lạc Tiểu Hồng mỉm cười:
– Mẹ cho phép, thì tôi đi công khai, mẹ cấm đoán, tôi lén mà đi! Bây giờ tôi thấy thích cái lối sống của khách giang hồ quá chừng. Tôi muốn noi gương Quan đại ca, làm sao cho thiên hạ biết đến mình, làm sao cho mình trở thành một nữ hiệp khách!
Quan Sơn Nguyệt còn biết nói sao? Chàng chỉ nhếch một nụ cười khổ!
–––– oo –––– Thời khắc đã chuyển từ tỵ sang ngọ.
Tại sảnh đường, trong Tà Dương Trang, một tiệc rượu tươm tất đã được dọn ra. Quanh bàn tiệc có hai nam, ba nữ.
Ngồi quanh bàn tiệc, không ai khác hơn là bọn Lạc Hành Quân. Họ đang chờ Hồ Hải Dị Tẩu đến.
Để cho bớt nôn nóng trong khi chờ đợi, họ mượn cuộc kéo dài thời gian, có cuộc rượu, họ quên đi phần nào ước hẹn hôm nay, và như vậy họ không khẩn trương lắm. Bởi, dù sao họ cũng khẩn trương, dù sao thì Hồ Hải Dị Tẩu cũng là một đại địch của họ. Trong khi họ chưa nắm vững cái cơ tất thắng, tự nhiên họ phải lo ngại.
Bởi cuộc chiến sắp khai diễn, phải là một trường long tranh hổ đấu, Lưu Tam Thái tự lượng sức mình, chưa xứng đáng làm đệ tử của một ai trong Tà Dương Trang, thì y cần chi phải góp mặt? Đến cả người kém nhất là Lạc Tiểu Hồng, y cũng chẳng thắng nổi, sự có mặt của y chẳng giúp ích gì cho Trang chủ Tà Dương Trang trái lại còn gây vướng bận cho người khác phải lưu tâm bảo vệ y.
Do đó, y phải đứng ngoài vòng, xa xa, nấp một chỗ nào đó, kín đáo để xem mọi người động thủ, học cái hay cái giỏi của người.
Quanh bàn tiệc, có năm người, hai nam, ba nữ.
Ba nữ, dĩ nhiên là Lạc Tiểu Hồng, Lạc Hành Quân và Lạc Tương Quân.
Hai nam chính là Liễu Sơ Dương và Quan Sơn Nguyệt.
Trong năm người, ai ai cũng giữ được thần sắc an tường, chỉ có Lạc Tiểu Hồng thì biểu lộ phần nào vẻ khẩn trương ra mặt. Khẩn trương, là nàng muốn cuộc chiến khai diễn gấp, chứ chẳng phải là nàng khiếp sợ. Cho nên, trong vẻ khẩn trương, có thoáng hiện niềm phấn khởi.
Còn gì thích thú cho nàng bằng có cuộc chiến xảy ra, nàng sẽ thi thố tài ba bằng thích. Từ ngày học vũ công đến nay, có khi nào nàng có dịp đánh sướng tay đâu?
Mẹ nàng cấm đoán nàng sanh sự với người đời, thì chắc chắn là trọn cái kiếp sống của nàng, cầm như không phương dùng sở học. Trong khi nàng tuyệt vọng, thì có cuộc hẹn ước này. Bảo sao nàng không phấn khởi?
Nàng không cần nghĩ đến cái việc ai thắng, ai bại, nàng không cần hiểu là sau cuộc chiến này nếu mẹ nàng và dì dượng nàng bại, thì sự nghiệp của mẹ nàng đi đời, mẹ con nàng sẽ bơ vơ không nơi nương tựa ...
Nàng chỉ biết là chốc nữa đây có cuộc đánh nhau, trong đó có nàng tham gia, mặc sức cho nàng tung hoành ...
Cái nhiệt náo sắp đến làm cho nàng khẩn trương.
Bốn người kia trầm lặng, chỉ có mỗi một mình nàng, day sang người này, hỏi một câu, day sang người nọ hỏi một câu. Rồi nàng bực tức, tại sao cái lão quái vật đó cứ dần đà mãi không chịu đến gấp cho nàng xuất thủ.
Liễu Sơ Dương tỏ ra là con người trầm tĩnh nhất trong bọn.
Chừng như lão ta chẳng hề chú ý là chốc nữa đây, đại địch sẽ đến, đến để xin mỗi người một chút máu. Lão ung dung cầm bình rượu, ung dung rót, từ từ uống cạn rồi lại rót, rót đến cạn luôn, tuy lão không uống gấp, song lão uống mãi.
Uống mãi, dù uống ít, cũng thành nhiều. Cuối cùng, lão cảm thấy ngà ngà say.
Lạc Tiểu Hồng khuyên:
– Uống ít một chút chứ, dượng! Lỡ ra dượng say, thì đại sự hỏng bét đấy!
Liễu Sơ Dương bật cười khanh khách:
– Dượng mà say, thì trên đời này có ai uống rượu mà chẳng say? Say sao được mà say, hở điệt nữ! Dượng đang mượn rượu giải sầu đây, sầu chưa giải thì rượu làm say dượng sao nổi? Một say giải tỏa sầu vạn cổ! Một say thôi! Nếu ngày ngày đều say, thì đời dượng là một vườn hoa, hoa muôn sắc, hoa không tàn, hoa tồn tại đủ bốn mùa!
Lão lại cười vang.
Lạc Tiểu Hồng lắc đầu:
– Ai khác thì có thể là có sầu, chứ dượng mà cũng có sầu nữa sao?
Liễu Sơ Dương vẫn cười, song nếu ai lưu ý một chút, tất nhận ra giọng cười của lão có chua chát phần nào. Lão thốt:
– Người sanh trên thế, có ai tránh khỏi hận sầu? Bất cứ ai cũng phải có một lần sầu hận! Riêng dượng thì khí uất dồn chứa nơi tâm tư từ lâu, phải có một dịp gì cho dượng phát tiết bớt. Không có dì, thì có rượu.
Quan Sơn Nguyệt lấy làm kỳ, trố mắt hỏi:
– Tiền bối phiền não như thế nào?
Liễu Sơ Dương ngẩng mặt, há mồm, trút trọn chén rượu vào đó rồi đưa chiếc chén không ra trước mặt, tay kia vồ lấy bình rượu lắc lắc. Bình rượu không còn một giọt nhỏ.
Lạc Tiểu Hồng phải thay bình rượu đầy cho lão.
Lão lại nốc thêm một chén nữa, đoạn thở dài, thốt:
– Mượn rượu giải sầu, sầu chưa giải mà rượu đã biến thành lệ! Lệ tương tư!
Quan Sơn Nguyệt càng lấy làm lạ, chẳng hiểu nổi tại sao lão lại nói đến niềm tương tư. Chàng nhìn sang Lạc Tương Quân, thấy bà ta vẫn vui vẻ như thường. Không dằn được tính hiếu kỳ, chàng hỏi:
– Hai vị tiền bối quý mến nhau như vậy, làm gì có chuyện tương tư?
Liễu Sơ Dương nhếch nụ cười khổ:
– Lão phu nhớ đến gương mặt ngày nào, một gương mặt đầy vết rỗ, u nần ...
Niềm tương tư của lão phu, hướng về một gương mặt xa xưa!
Quan Sơn Nguyệt thức ngộ ra, lão muốn đùa, đùa cho vui nhộn lên, trong hiện tại, chỉ có cái vui mới làm quên được niềm lo lắng, tuy là quên tạm thời, song cái quên đó đủ xóa tan sự nôn nao chờ đợi. Bất giác, chàng bật cười khanh khách.
Lạc Tiểu Hồng cũng cười lớn theo chàng.
Liễu Sơ Dương càng tỏ vẻ trang trọng, trầm trầm giọng tiếp:
– Bởi lão phu có sự ưu phiền trong tâm, nên phải uống uống thật nhiều rượu.
Hiền điệt có nên biết nguyên nhân sự phiền muộn của lão phu chăng?
Đã biết là một trò đùa, cốt gây niềm vui cho mọi người, thì mọi người cùng phụ họa, mỗi người một câu rồi họ cùng cười lớn.
Nếu để ý một chút, tất nhận ra trong tiếng cười của họ, có miễn cưỡng phần nào. Trừ tiếng cười của Lạc Tiểu Hồng, vẫn hồn nhiên như muôn thuở.
Bỗng có tiếng sảnh vang lên bên ngoài. Tiếng sảnh vang rất nhỏ, nhưng nghe rất rõ ràng, người nào đó nhịp sảnh rất đều tiếng, đều khoảng cách mà cũng đều âm thanh không lơi, không nhặt, không tiếng nào lớn hoặc nhỏ hơn tiếng nào.
Ba vị tiền bối ngừng cười lập tức, gương mặt họ biến đổi sắc ngay, họ cùng đứng lên, cùng nhìn nhau.
Liễu Sơ Dương thấp giọng thốt:
– Vân Bảng Lục Đinh! Chừng như Đệ Tam Ma Quân đến. Nơi nào Vân Bảng Lục Đinh vang lên, là Ma Quân hẳn phải có mặt nơi đó!
Lão cau mày, hỏi như tự hỏi:
– Làm sao bây giờ?
Lạc Hành Quân hừ khẽ:
– Thì chính cái lão tặc gian hoạt đó chứ còn ai nữa? Mặc! Chúng ta cần gì phải nghĩ ngợi viễn vông? Ngày xưa khác, ngày nay khác, tình thế đã đổi thay rồi.
Chúng ta cứ lấy lễ, đối xử như ngày nào, rồi sau đó, có ra sao thì ra ...
Câu nói của bà chưa dứt, đúng theo cái ý của bà, từ bên ngoài hai người bước vào đại sảnh, một trước một sau.
Người đi đầu, còn trang lứa thanh niên, có thân vóc cực kỳ khôi vĩ, dung mạo tuấn tú, tuy nhiên trong cái vẻ tuấn tú đó, ẩn ước một điểm âm trầm. Người đó vận chiếc áo dài rộng, màu tím, dáng đi rất ung dung.
Người đi sau, là lão chèo đò, là Hồ Hải Dị Tẩu.
Lạc Hành Quân, Lạc Tương Quân và Liễu Sơ Dương thấy thanh niên xuất hiện, cùng giật mình chừng như cả ba không nhận ra người đó là ai.
Thanh niên có thái độ cực kỳ cao ngạo. Y đảo mắt nhìn quanh bàn tiệc, vòng tay vái tập thể, đoạn kéo ghế ngồi xuống, không đợi ai mời.
Hồ Hải Dị Tẩu cũng tự động kéo ghế ngồi xuống, nhưng ngồi dưới thanh niên.
Liễu Sơ Dương phẫn nộ, trầm giọng nói.
– Bốc Thượng Xuân! Sao ngươi buông lung tánh khí ngông cuồng như thế?
Phải biết, cuộc ước hội hôm nay, là việc riêng tư của chúng ta, sao ngươi lại ngang nhiên mời thỉnh một ngoại nhân chen vào cuộc? Đã thế lại còn dùng vân bảng ...
Câu nói đó, hướng về Hồ Hải Dị Tẩu, lão ấy chưa đáp, thanh niên đã lên tiếng đáp thay:
– Không! Ta không thể là ngoại nhân được! Sở dĩ lão Bốc nhờ ta đến đây là để chứng kiến những sự diễn tiến của sự việc giữa song phương. Các ngươi đánh nhau suốt mấy mươi năm rồi, đánh mãi, đánh một cách hồ đồ, dây dưa ra nhiều năm tháng chung quy không kết thúc ra làm sao cả. Do đó, cần phải có một chứng nhân, để phân định bên nào thắng bên nào bại, có một chứng nhân rồi, các ngươi sẽ không dám tuyên bố khoác lác trên giang hồ nữa, các ngươi không thể phao tin là mình đã thắng, trong khi thực sự thì bại thê thảm!
Y dừng lại một chút, rồi tiếp với giọng cứng rắn hơn:
– Cho nên, lần ước hội này, cầm như là một cuộc giao thủ quan trọng nhất, bởi chỉ một lần này thôi, lần quyết định, kẻ nào thắng, kể như thắng muôn đời, kẻ nào bại, kể như bại vĩnh viễn. Còn như cái tiếng vân bảng kia, chính ta bảo lão Bốc nhịp lên đấy, chứ chẳng phải lão tự động làm!
Lạc Hành Quân giật mình, hỏi:
– Thế các hạ là ...
Thanh niên cười nhẹ:
– Tiếng nhịp của vân bảng không đủ nói lên thân phận của ta sao, mà ngươi cần phải hỏi?
Bọn Lạc Hành Quân cùng giật mình.
Liễu Sơ Dương do dự một chút, lẩm nhẩm:
– Vân Bảng Lục Đinh, là tín vật của Thiên Tề Ma Quân ...
Thanh niên lại cười nhẹ:
– Thần Quân đã ra người thiên cổ, ta là thừa nhân, ta lập nghiệp tiền nhân không được sao?
Liễu Sơ Dương biến sắc:
– Các hạ nói sao? Ma Quân đã vĩnh du về tiên cảnh?
Thiếu niên gật đầu:
– Phải! Và, tính đến nay, đã có sáu năm rồi! Trước khi quy tiên, Thần Quân chỉ định tại hạ thừa tiếp sự nghiệp của người. Vì công việc quá nhiều, tại hạ không thu xếp xong trong thời gian ngắn được, để kịp thời bá cáo giữa quần hùng trong thiên hạ. Giả như ba vị không tin ...
Hắn bỏ cái giọng ngang tàn, tự xưng là tại hạ, để đáp lại lễ độ của bọn Lạc Hành Quân.
Liễu Sơ Dương hấp tấp đáp:
– Không! Làm sao bọn tại hạ không tin? Thế huynh đừng nghĩ lầm, trông vào khí độ của thế huynh, bọn tại hạ cũng biết ngay xuất xứ của thế huynh ngay.
Bất quá ...
Lão do dự một chút đoạn tiếp:
– Bất quá, lão phu chưa biết phải xưng hô thế huynh như thế nào?
Thiếu niên thản nhiên thốt:
– Tại hạ là Kỳ Hạo, lấy cái ý nghĩa hạo nhiên, góp mặt trên giang hồ.
Liễu Sơ Dương đặng hắng một tiếng:
– Thế ra Kỳ huynh! Kỳ huynh bỏ qua đi cho sự sơ suất của bọn tại hạ trong phút giây gặp gỡ đầu tiên vậy.
Kỳ Hạo không quan tâm đến điều đó, day qua Hồ Hải Dị Tẩu, hỏi:
– Lão Bốc, đã đến lúc song phương giải quyết vấn đề, chẳng hay lão có cần giao ước điều chi với họ chăng?
Hồ Hải Dị Tẩu Bốc Thượng Xuân nhìn thoáng qua bọn Lạc Hành Quân, rồi trầm giọng hướng sang bọn Lạc Hành Quân, thốt:
– Các ngươi trách ta bất tuân quy củ, chính các ngươi phạm vào quy củ đó.
Bên cạnh các ngươi có ngoại nhân. Ta muốn nghe các ngươi giải thích sự có mặt của người lạ tại cục trường.
Bọn Lạc Hành Quân chưa kịp nói gì, Kỳ Hạo cười hì hì cất tiếng:
– Lão Bốc lại nhìn sai nữa rồi! Hắn, đâu phải là người ngoại nhân? Hắn là truyền nhân của lão Độc Cô, hắn là Lệnh Chủ Minh Đà đời thứ hai đó!
Quan Sơn Nguyệt giật mình, hỏi gấp:
– Huynh đài nhận ra tại hạ?
Kỳ Hạo lại cười mấy tiếng:
– Đương nhiên tại hạ phải nhận ra, bởi đó là phần việc của tại hạ trên thế gian này!
Quan Sơn Nguyệt sững sờ, toan nói gì đó, nhưng chàng bắt gặp ánh mắt của Lạc Hành Quân, ánh mắt đó ngầm ngăn chặn chàng đi sâu vào sự việc.
Do đó, chàng im lặng.
Bốc Thượng Xuân nhìn chàng, trong ánh mắt ẩn ước có vẻ căm hờn. Lão «hừ» nhẹ, lẩm nhẩm:
– Nếu ta sớm biết được ngươi là ai, thì trong đêm trước, ta đã cho ngươi nếm mùi tân khổ với ta rồi!
Dù Lạc Hành Quân khuyến cáo chàng không nên nói gì lúc giáp mặt Hồ Hải Dị Tẩu, Quan Sơn Nguyệt cũng không làm sao chịu được trước thái độ kinh ngạo của lão ta. Lão nói như thế, có khác nào lão khi chàng như một món đồ trong tay lão, lão thừa sức thao túng chàng tùy hứng, tùy thích.
Một người, trong lúc tuổi phương cương, tiêu hóa làm sao nổi một sự miệt thị như thế? Chàng «hừ» lạnh, bĩu môi:
– Chỉ sợ không dễ dàng như các hạ tưởng!
Bốc Thượng Xuân biến sắc mặt.
Liễu Sơ Dương vụt chen vào:
– Bốc Thượng Xuân, việc nên làm, việc đáng phải làm hãy làm trước, thân cây chưa đốn ngã, thì đừng nghĩ đến những nhánh nhóc sớm. Vấn đề của chúng ta, hãy liệu giải quyết cho xong, rồi muốn nghĩ gì khác cũng chưa muộn.
Lão dừng lại một chút, đoạn tiếp:
– Vấn đề của chúng ta, thuộc phần tiên quyết, còn như các việc thị phi ngoài lề, ta tưởng ngươi bất tất phải đề cập đến trong lúc này, bởi chưa phải là lúc nghiên cứu!
Kỳ Hạo đáp thay Bốc Thượng Xuân:
– Phải đó! Người trong Ma Bảng của chúng ta từ lâu rồi, không hề nghĩ đến những thị phi ngày trước, chúng ta nên xếp qua một bên đi, giải quyết cái gì cần giải quyết trong hiện tại cho xong, rồi sau đó, việc chi phải đến, tự nó sẽ đến.
Liễu Sơ Dương nhìn thoáng qua Kỳ Hạo, trầm giọng:
– Dù sao thì tại hạ cũng cần phải thanh minh với Kỳ huynh, là kẻ truyền nhân của Minh Đà Lệnh không dính dấp gì đến sự tình!
Kỳ Hạo cười lớn:
– Biết! Tại hạ biết! Các vị cứ yên tâm! Tại hạ còn biết những gì các vị chưa nói đến, cho nên, các vị không cần phải rào trước đón sau.
Liễu Sơ Dương gật đầu, song trong ánh mắt thoáng hiện sự bối rối.
Kỳ Hạo lại cười, rồi tiếp:
– Song phương cứ bắt đầu! Đã đến lúc rồi đó! Nói mãi cũng thế thôi chỉ làm mất thời giờ chứ chẳng ích gì.
Thật là khó hiểu. Những gì đọng lại giữa họ, có lẽ ngược dòng thời gian mấy mươi năm về trước, và trải qua ít nhất cũng hai thế hệ rồi. Họ đối đáp với nhau một cách úp mở.
Nếu không ở trong vòng ân oán của họ, nghe họ đối thoại với nhau, chẳng ai hiểu được gì, và càng tìm hiểu càng thêm đau đầu, chung quy vẫn chẳng hiểu được gì.
Bốc Thượng Xuân đứng lên, tiếp lời:
– Phải đấy! Đã đến lúc khai diễn màn kịch giữa song phương rồi đó! Lão phu mong rằng, lần tái diễn hôm nay sẽ là lần cuối cùng, để kết toán những gì còn đọng lại giữa nhau qua mấy mươi năm dài!
Lão hướng qua bọn Lạc Hành Quân, buông luôn:
– Lão phu nghĩ rằng, quý phu nhân không cần phải dùng đến đường roi quái dị mà ngày nào phu nhân sở cậy để thị oai với lão phu, bởi lão phu đã hiểu cái bí quyết sử dụng đường roi đó, phu nhân còn trông mong nơi sự công hiệu của nó, là lầm to! Đêm vừa qua, lão phu đã lãnh giáo tuyệt kỹ của phu nhân khi gặp lịnh ái giữa dòng Hoàng Hà! Hãy thi thố một cái gì khác lạ đi, phu nhân, nếu không muốn chuốc lấy một thảm bại.
Lạc Hành Quân chưa kịp nói gì. Quan Sơn Nguyệt đua ánh mắt ngầm ra hiệu cho Lạc Tiểu Hồng.
Lạc Tiểu Hồng hội ý ngay, lập tức lên tiếng:
– Lão quái vật đừng khoe khoang, nếu có gan, hãy cùng bản cô nương ấn định hơn kém xem nào!
Lạc Hành Quân biến sắc, hấp tấp quát chận con gái:
– Có câm miệng hay không, tiểu liễu đầu? Sự việc hôm nay đâu đã đến phần ngươi lo liệu mà buông thói ngông cuồng, can thiệp vào chứ?
Nhưng, Bốc Thượng Xuân bật cười âm trầm thốt:
– Có sao đâu, quý phu nhân! Vậy là tốt lắm đấy!
Lão trầm giọng, tiếp:
– Huyết La Sát ơi! Lão phu nghĩ, mình rất có duyên với gia đình họ Lạc!
Món nợ đối với thế hệ mẹ chưa xong, lại cấu kết thêm một món nợ mới với thế hệ con! Đúng là một cái duyên mẹ truyền con nối!
Lạc Hành Quân thốt nhanh:
– Nó là mốt đứa bé con, lão Bốc tranh chấp với nó làm gì?
Bốc Thượng Xuân bật cười ha hả:
– Trẻ con! Một thiếu nữ mười sáu mười bảy tuổi xuân lại là một đứa bé con à? Thực ra, cái tội của nàng, dám xúc phạm đến lão phu trong đêm vừa qua, cũng đáng trừng trị lắm, song nghĩ vì nàng không nhận ra lão phu, nên vô hình trung, đắc tội, điều đó, lão phu có thể châm chế bỏ qua cho. Nhưng, hiện tại, nàng lại thách thức lão phu, lần này thì nhất định là chẳng phải vô tình mà nàng đắc tội. Lão phu dù có rộng lượng đến đâu, cũng không thể lờ đi! Tốt hơn hết, ngươi đừng tìm cách ngăn trở nàng ...
Lạc Hành Quân nói dịu không được, sôi giận, dùng giọng sẵng, hét lên:
– Ngươi không bỏ qua, liệu ngươi dám làm gì nó? Ta thách ngươi chạm đến lông chân nó ...
Bốc Thượng Xuân cười vang:
– Trong đời ta, chẳng có việc gì mà ta không dám làm. Nếu có một cái gì mà ta đành chịu bất lực, là đối với chị em ngươi ... cái duyên phần của ta quá bạc ...
Nghe đề cập đến việc xa xưa, Liễu Sơ Dương phẫn nộ, quát lên:
– Lão quái vật, ta cấm ngươi nói tiếp:
Bốc Thượng Xuân cười lạnh, gật gù:
– Được! Được! Không cho ta nói tiếp, thì thôi vậy! Ta cũng vì các ngươi, giữ bí mật đó luôn.
Lão nhìn qua Lạc Hành Quân tiếp:
– Còn như việc tiểu cô nương thách thức ta, điều đó thì chắc là ta không thể bỏ qua được rồi. Ta đã nói, đúng là cái duyên mẹ truyền con nối mà! Nợ cũ chưa trả, nợ mới lại vay thêm!
Chừng như lão đắc ý vô cùng, bật cười ha hả.
Giọng cười của lão hàm súc cái ý mỉa mai, khinh miệt, khiến bọn Liễn Sơ Dương Lạc Hành Quân căm phẫn phi thường.
Tuy nhiên, cố vớt vát lại phần nào cho phần con gái, Lạc Hành Quân ném niềm uất hận, day qua Kỳ Hạo, như van cầu:
– Công tử đã thừa kế sự nghiệp Ma Quân, giữ ngôi thứ ba chắc cũng đã hiểu ngày xưa, chị em già chưa từng đắc tội với Ma Quân ...
Kỳ Hạo gật đâu:
– Tại hạ hiểu lắm! Các vị ngày xưa giao tình rất thâm hậu đối với Tiên Quân! Tại hạ hết sức cảm kích.
Kỳ Hạo có ý mỉa mai chi chăng, điều đó chỉ có bọn Lạc Hành Quân hiểu rõ, Quan Sơn Nguyệt chỉ thấy bà ta thoáng đỏ mặt vì thẹn.
Bà tiếp:
– Công tử cũng nên nghĩ đến cái khổ chúng ta đồng đứng chung một bảng, giúp già xóa tan sự hiềm khích của lão Bốc và tiểu nữ, bởi dù sao thì nó cũng chỉ là một đứa bé con, còn non dại ...
Phải khó khăn lắm, bà mới nói được câu đó. Xưa nay, bà có van cầu ai đâu, bây giờ, vì lo sợ cho con gái bà phải hạ mình kêu gọi sự can thiệp của người có uy tín đối với kẻ thù.
Thà rằng bà đương đầu với kẻ thù, có ra sao bà cũng vui mà chịu, chứ bà không muốn con gái bị lôi cuốn vào vòng.
Kỳ Hạo lắc đầu:
– Khó lắm, phu nhân! Nếu tại hạ can thiệp, thì chẳng hóa ra vì người cùng một cánh mà xử hiếp ngoại nhân sao? Huống chi, tại hạ có tuyên bố trước khi đến đây, là chỉ làm một người chứng, bổn phận của tại hạ là bình luận, quyết đoán ai hơn ai kém thôi, còn ra thì tùy song phương giải quyết vấn đề phu nhân hãy xét cho vậy!
Lạc Hành Quân thấy Kỳ Hạo có ý thoái thác rõ ràng, căm hận gằn từng tiếng:
– Có một vị đứng đầu bảng như công tử, kể ra cũng vinh hạnh thay! Ai chết, ai sống mặc ai, ai có việc gì, tự lo mà liệu lấy!
Kỳ Hạo trầm gương mặt liền:
– Thế ra phu nhân bất phục? Và bất phục luôn Tiên Quân trong cái việc chọn người thừa kế? Bất phục vì tại hạ từ chối không giúp phu nhân một tay?
Bất phục vì tại hạ giữ vững công tâm không thiên vị?
Lạc Hành Quân giật mình, biết là bà đã nói mấy tiếng hớ hênh xúc nộ Kỳ Hạo. Xúc nộ một người có vũ công cao, lại thiên vị kẻ địch rõ rệt, hẳn là bất lợi cho bà. Giả dĩ, Kỳ Hạo biểu lộ một oai khí đáng khiếp, làm bà phải gờm ngay, bà không dám nói gì nữa, ngồi xuống, im thin thít.
Quan Sơn Nguyệt đã hoang mang từ lúc mới vào Tà Dương Trang, niềm hoang mang càng phút càng lớn mạnh, chàng nhận ra sự tình của các vị tiền bối này hết sức bí mật, lại có cái tầm quan trọng phi thường. Điều làm cho chàng hoang mang hơn hết, là sư phụ chàng có liên quan đến họ.
Dù muốn dù không, là truyền nhân của Độc Cô Minh, chàng cũng có ít nhiều liên quan trong vụ, qua thân phận Lệnh Chủ Minh Đà đời thứ hai. Thế tại sao các vị tiền bối không hề tiết lộ cho chàng hiểu dù chỉ là một phần nhỏ của sự tình?
Bây giờ, nghe họ đối đáp với Kỳ Hạo, với Bốc Thượng Xuân nhận định thái độ song phương, chàng càng hoang mang hơn nữa.
Trong khi chàng suy tư, tìm hiểu, Hồ Hải Dị Tẩu Bốc Thượng Xuân công khai gọi Lạc Tiểu Hồng động thủ.
Lạc Tiểu Hồng còn trẻ tuổi, nặng tánh hiếu thắng, đương nhiên không chịu nổi sự khiêu khích của đối phương. Gia dĩ, nàng cứ tưởng là mình có thể hạ đối phương dễ dàng bằng tiên pháp độc đáo như đã làm trong đêm qua, nên chẳng cân nhắc lợi hại, lập tức chụp lấy ngọn nhuyễn tiên, toan đứng lên rời ghế, bước ra.
Lạc Hành Quân vội nắm tay nàng, giữ lại, thở dài, bảo:
– Cũng tại ngươi đa sự đấy! Ngươi hãy thong thả một chút nữa, chờ cho sự việc cởi mở phần nào ...
Cởi mở? Bà định thương lượng điều chi với đối phương, dàn xếp vụ của Lạc Tiểu Hồng cho êm xuôi chăng?
Cái tâm ý của bà như thế nào, làm sao Lạc Tiểu Hồng biết được? Nàng đang nóng động thủ, bảo nàng thong thả chờ đợi, nàng chờ đợi làm sao được?
Nàng cao giọng đáp:
– Mẹ đừng lo! Con phải cho lão ấy nếm thử mấy roi, cho lão chừa bỏ tánh khinh người ...
Quan Sơn Nguyệt trước đó, đưa ánh mắt ngầm xúi giục Lạc Tiểu Hồng cứ động thủ với Bốc Thượng Xuân, đừng sợ chi lão ta.
Sở dĩ chàng khuyến khích nàng ra mặt thách đố Bốc Thượng Xuân, là vì chàng nghe Lạc Hành Quân cho biết là lão ấy không thể giết chết được ai, động thủ với một người không thể giết chết mình thì có gì đáng sợ đâu? Chàng còn nghĩ đến cái việc bất chợt can thiệp, tiếp trợ nàng và sự can thiệp này sẽ giúp chàng khám phá ra một vài chi tiết quanh bí mật mà mọi người cố gìn giữ.
Nhưng, thấy Lạc Hành Quân quá lo ngại cho nàng, Quan Sơn Nguyệt cũng đâm lo luôn. Chàng day qua Liễu Sơ Dương, hỏi:
– Tại sao Lạc tiền bối không chấp thuận cho Lạc cô nương động thủ với lão quái vật kia? Dù Lạc cô nương có kém tài, chịu bại nơi tay lão ta đi nữa, cũng chẳng nguy hại gì đến tánh mạng bởi lão ấy không thể giết người kia mà?
Liễu Sơ Dương thở dài:
– Giải thích một sự thắc mắc gần như hoang đường cho hiền điệt hiểu ra trong lúc này, lão phu không thể vắn tắt trong mấy tiếng được, khi nào có thì giờ dư dả, chúng ta hãy trở lại việc đó, hiền điệt không nên nóng nảy tìm hiểu, hiện tại hiền điệt chỉ nên biết là dính dấp đến lão quái vật ấy, mình sẽ khổ suốt đời, dù lão không giết ai song lão cứ ám ảnh mãi mãi. Lão phu nghĩ bị ám ảnh suốt đời, sao bằng được chết ngay? Do đó không ai muốn dính dấp đến lão. Tiểu Hồng còn nhỏ tuổi, nó sanh sự với lão chẳng khác nào nó tự đầu độc cuộc sống còn dài của nó, cho nên mẫu thân nó phải ngăn cản tránh cho con gái mang khổ về sau.
Quan Sơn Nguyệt lấy làm lạ. Nếu đúng như lời Liễu Sơ Dương nói thì sau này, nếu Lạc Tiểu Hồng bị lão ấy quấy nhiễu triền miên, chàng sẽ hối hận biết bao bởi chàng đã xúi giục nàng khiêu khích Hồ Hải Dị Tẩu Bốc Thượng Xuân.
Nhìn ra cục trường, chàng thấy Lạc Tiểu Hồng đã xốc roi, tiến đến Bốc Thượng Xuân rồi. Gương mặt của lão bốc bừng ác ý, phảng phất quanh mình lão, một vầng tà khí bao phủ lờ mờ.
Bất giác, chàng vụt đứng lên, xô ghế, nhảy vọt ra vung chưởng đánh vào mặt Bốc Thượng Xuân.
Chàng giành với Lạc Tiểu Hồng, xuất thủ đầu tiên, như để gánh một phần trong nhiệm vụ.
Vì chàng xuất thủ bất ngờ, Bốc Thượng Xuân không phòng bị, bàn tay của chàng chạm trúng mặt lão, bật kêu một tiếng «bốp».
Tuy bị chàng đánh trúng, Bốc Thượng Xuân chỉ lộ vẻ kinh ngạc thôi, chứ chẳng hề hấn gì.
Tại cục trường, không ai tưởng là Quan Sơn Nguyệt có thể động thủ như vậy được. Bởi, chàng là người ngoại cuốc, không có một lý do gì can thiệp vào một sự việc ngược dòng thời gian về ba mươi năm trước.
Giả như chàng có muốn gây sự với Bốc Thượng Xuân hay ngược lại, lão ấy muốn làm gì chàng, thì ít nhất, song phương cũng phải chờ cho sự việc tại đây giải quyết xong, sau đó song phương hoặc xuất thủ, ngay trong trang viện này, hay ước hẹn nhau vào một thời gian khác, ở một nơi khác.
Nhưng, bây giờ, chàng lại ra tay trước mọi người. Thành ra trong cuộc ước hẹn hôm nay, chàng đã giành phần ưu tiên.
Bốc Thượng Xuân nổi giận quát:
– Tiểu tử có ý tứ gì?
Quan Sơn Nguyệt mỉm cười:
– Lão quái vật! Ngươi thích cấu kết những món nợ mới, thì đây, nên cấu kết với ta. Ta muốn giành trận đầu, sau ta rồi, ngươi sẽ đối phó với các vị kia.
Người phẫn nộ hơn hết, chính là Kỳ Hạo, hắn cho rằng sự can thiệp của Quan Sơn Nguyệt là một hành động khinh miệt hắn. Bởi, tại cục trường ai ai cũng ngán hắn, ai ai cũng nhường nhịn hắn mấy phần.
Trừ ra bị bắt buộc lắm, bọn Lạc Hành Quân mới dám ra mặt đối phó với hắn.
Còn không thì, chẳng khi nào họ dám đương đầu với hắn. Vậy mà Quan Sơn Nguyệt không xem hắn ra gì, dám buông lung tính khí ngông cuồng trước mặt hắn!
Lạc Hành Quân và Liễu Sơ Dương nhận ra, tình hình chuyển biến nghiêm trọng rồi cùng đứng lên.
Tư Mã Tử Yên
Võ Lâm Phong Thần Bảng
Hồi 15
Mở Một Gút Dây
Kỳ Hạo khi nào chấp nhận một thái độ ngông cuồng của Quan Sơn Nguyệt? Hắn day qua Lạc Hành Quân, cười gằn mấy tiếng, đoạn thốt:
– Ba mươi năm qua, phu nhân đã bỏ dở hạn kỳ ước hội với lão Bốc, tại hạ có thể hỏi lý do, bởi tại hạ có bổn phận quan sát hành vi của mỗi người trong bảng. Song, tại hạ lờ đi, đó là một điều phương tiện rồi, tại hạ chỉ muốn thu mình trong phạm vi một công chứng mà không can thiệp vào sự tranh chấp của song phương. Trong khi đó, phu nhân lại nhờ tay một tiểu tử mở màn khai diễn sự tình.
Thật là điều đáng trách lắm đó, giả như tại hạ có nhúng tay vào vụ thì phu nhân cũng chẳng nên lấy làm lạ, bởi chính phu nhân đã phá cái lệ được thỏa thuận giữa nhau từ nhiều năm trước.
Hắn hướng sang Quan Sơn Nguyệt cao giọng hỏi:
– Trước mặt bổn tòa, sao ngươi dám buông lung tính khí, tự tác tự tung?
Ngươi bằng thế lực nào, nhiệm ý thi vỉ
Quan Sơn Nguyệt không đáp ngay câu nói của đối tượng mà chỉ hỏi lại:
– Các hạ cho rằng mình là một nhân vật quan trọng?
Kỳ Hạo phẫn nộ đến không còn dằn được nữa, toan phát tác, nhưng Liễu Sơ Dương đã chen vào:
– Hôm nay thế huynh đến đây là để làm một công chứng nhân, như vậy tốt hơn hết thế huynh không nên can thiệp vào cuộc tranh chấp này, bất cứ bằng cách nào, với một lý do nàọ Giả như có điều chi bất mãn, thế huynh hãy đình lại một ngày khác, bọn lão phu sẵn sàng tuân theo chỉ giáo của thế huynh. Phải thắng thắn mà nhìn nhận là người thừa kế Minh Đà Lệnh dù sao cũng là ngoại nhân của cuộc tranh chấp hôm naỵ
Đã tuyên bố mình là một kẻ giữ vai trò công chứng thì còn vịn vào lý do gì để can thiệp? Kỳ Hạo vẫn chưa chịu bỏ qua, trầm lạnh giọng hỏi:
– Công chứng nhân không can thiệp vào vụ của các vị, cái đó đã đành, song, chẳng lẽ công chứng nhân phải điềm nhiên để cho một ngoại nhân công khai khinh miệt? Cái tội bất kính đó, không thế nào tại hạ dung thứ được.
Liễu Sơ Dương suy nghĩ một chút, rồi nghiêm giọng trình bày:
– Kỳ huynh là người thừa kế của Thần Quân, mà Quan thế huynh cũng là truyền nhân của Minh Đà Lệnh Chủ, cả hai cùng suýt soát nhau trong lứa tuổi phương cương, tự nhiên có phần nào hiếu động, riêng Quan thế huynh thì nóng nảy hơn, không được trầm tịnh như Kỳ huynh, do đó khó kềm hãm được lonhg mình trước mọi bất bình. Dù sao thì cả hai vị nhân huynh cũng là người đồng đẳng, sự hơn kém giữa nhau nếu có, cũng chẳng quan trọng lắm. Giả như Quan thế huynh có buông lung tính khí một chút, sự kiện đó không thể được xem như một cái tội bất kính, bởi thực ra, Quan thế huynh không hẳn tỏ thái độ chống đối với Kỳ huynh kia mà!
Lão dừng lại, suy nghĩ một chút, đoạn tiếp luôn:
– Còn như, Kỳ huynh vì thấy Quan huynh phản đối công khai với Bốc Thượng Xuân mà muốn ra mặt bênh vực, toan phát tác với Quan thế huynh, thiết tưởng Kỳ huynh không nghĩ tình người đồng bảng trước vậy!
Kỳ Hạo sôi giận đến biến sắc mặt trắng nhợt, nhưng hắn chỉ «hừ» lạnh, gằn giọng:
– Các hạ nói nghe thẳng quá!
Liễu Sơ Dương cười nhẹ:
– Kỳ huynh quá khen!
Kỳ Hạo lại «hừ» một tiếng:
– Quy củ ngày xưa, các hạ nhớ rành hơn chính một người có bổn phận chấp pháp!
Liễu Sơ Dương thản nhiên:
– Trong kỳ đại hội lập ước pháp, định quy củ, chính lão phu ghi chép những chi tiết quy điều do toàn thể chấp thuận, và cũng chính lão phu sao ra nhiều bản, phân phối cho mọi người, cho nên lão phu nhớ rành là việc đương nhiên.
Lão mỉm cười nhìn Kỳ Hạo tiếp luôn:
– Dù sao, thế huynh cũng là người thừa kế của một trong ba vị Thần Quân, hẳn thế huynh cũng nhớ rành chứ?
Kỳ Hạo nín lặng một lúc lâụ Đột nhiên, hắn đưa ngón tay áp út của bàn tay tả lên cao, nơi ngón tay có một chiếc nhẫn bằng ngọc màu xanh. Nơi mặt chiếc nhẫn hướng về bọn Liễu Sơ Dương, có nhiều nét chạm trổ rất tinh vị
Quan Sơn Nguyệt chẳng hiểu những nét chạm đó là hình thức gì, tượng trưng một quyền uy như thế nàọ Chàng cố giương tròn mắt, nhìn xem hình chạm trên mặt nhẫn. Bất giác, chàng kinh ngạc, nhận ra, hình chạm đó là một chiếc đầu, đầu của quỷ chứ chẳng phải đầu ngườị
Hắn cao giọng hỏi:
– Các vị có biết vật chi đây chăng?
Liễu Sơ Dương và hai chị em họ lạc trông thấy chiếc nhẫn cùng biến sắc.
Liễu Sơ Dương và Lạc Hành Quân còn đủ đôi chân, đứng thẳng người, tay buông thõng trong cái dáng nghiêm trang. Còn Lạc Tương Quân, mất đôi chân không đứng được, cũng chỏi tay xuống thành ghế, nhóng mình lên, tỏ vẻ muốn đứng như hai người kia, có điều không đứng được, đành phải ngồi như vậỵ Cả ba im thin thít.
Kỳ Hạo ngẩng cao mặt, cười lạnh mấy tiếng:
– Hiện tại, tại hạ chính thức truyền Thần Ma Lệnh cho tất cả phải tuân theọ
Tại hạ hạn định ba tháng sau, tất cả phải hội hiệp tại Thần Đàn, nghe tại hạ phân phó.
Họ Liễu và hai chị em họ Lạc cùng cất tiếng một lượt:
– Xin tuân lệnh.
Kỳ Hạo cười nhẹ, tiếp:
– Đúng kỳ hạn, ai vắng mặt thì người đó đừng trách sao tại hạ nỡ nghiêm khắc, không nương tình!
Lạc Hành Quân rung rung giọng:
– Dù bọn này có bất đắc kỳ tử mà không đến nơi đúng hạn định được, cũng trăn trối người nhà, mang hài cốt đến Thần Đàn trình chiếụ
Kỳ Hạo gật đầu:
– Các vị yên trí. Trong vòng ba tháng đó, tại hạ bảo chứng chẳng một ai dám động đến chân lông các vị, làm gì có cái việc chết bất ngờ mà sợ? Tuy nhiên, tại hạ cần cảnh cáo các vị, đừng tìm cách lẩn trốn như trong những lần trước kiạ Nói thật, các vị có đi đến góc biển, chân trời, rừng sâu, núi thẳm, tại hạ cũng tìm đến các vị như thường và chắc chắn là phải tìm gặp, cho nên đừng ai mong ẩn tránh, vô ích.
Hắn lại dừng, rồi mỉm cười, tiếp:
– Tại hạ thừa kế Tiên Quân, nhưng hành sự có khác hơn Tiên Quân một chút ở cái chỗ Tiên Quân thì rộng rãi, còn tại hạ thì có phần nào nghiêm khắc một chút. Nói trước để cho các vị giữ mình.
Đoạn hắn khoát tay:
– Thôi, các vị ngồi xuống đị
Lạc Tương Quân buông tay chỏi, Liễu Sơ Dương và Lạc Hành Quân ngồi xuống. Trên gương mặt cả ba, vẻ bàng hoàng lo ngại vẫn còn.
Kỳ Hạo day qua Bốc Thượng Xuân gắt:
– Lão còn chờ gì nữa lại chưa chịu khai diễn tấn tuồng xưả
Bốc Thượng Xuân trừng mắt nhìn Quan Sơn Nguyệt, quát:
– Tiểu tử lướt tới đi, ta không tìm gặp Độc Cô Minh thì miễn cưỡng chuyển hình phạt sang ngươi cũng được ...
Quan Sơn Nguyệt không hề nao núng, bĩu môi «hừ» một tiếng:
– n sư của ta có ân oán gì với ngươi mà ngươi lại thù oán luôn đến ta chứ?
Bốc Thượng Xuân căm hờn gằn giọng:
– Giả như ngươi bảo toàn được sanh mạng chờ đến ngày gặp lại Độc Cô Minh, hẳn ngươi sẽ hiểu rõ sự liên quan giữa ta và lão ấỵ Bằng trái lại, nếu cái số của người yểu thọ thì cố mà chờ tại suối vàng, không lâu lắm, Độc Cô Minh sẽ xuống đó hội diện với ngươi, gặp nhau rồi, ngươi hỏi lão ấy cũng chẳng muộn.
Lão không chịu nói thật, thế là nghĩa gì? Đối với một kẻ mà mình xem là thù, trước khi động thủ, ít nhất mình cũng phải nói cái lý do tranh chấp chứ? Tại sao Bốc Thượng Xuân lại giữ bí mật? Thế ra, những gì liên quan đến sư phụ chàng, ai ai cũng giữ bí mật cả saỏ Và tại sao tất cả đều giữ bí mật? Từ Bành Cúc Nhân đến bọn Lạc Hành Quân, rồi bây giờ, cả người đối lập là Bốc Thượng Xuân cũng chẳng chịu tiết lộ mảy may về sự tình.
Tự nhiên, chàng hết sức hoang mang, niềm hoang mang càng lúc càng lớn mạnh, theo cái đà tiếp xúc với những người thuộc về Bảng Phong Thần, Bảng Phong Ma nào đó ...
Tuy nhiên, bởi không phải lúc chàng suy tư về những chuyện xa xôi, chàng vừa bước tới, vừa cao giọng, nạt lên:
– Lão quái vật! Đừng khoác lác sớm, chưa chắc trong hai chúng ta, kẻ nào phải về chầu Diêm Chúa trước!
Bốc Thượng Xuân điểm phớt nụ cười âm thầm, thản nhiên đứng chờ chưởng kình của Quan Sơn Nguyệt bay tớị
Chiêu chưởng đó, Quan Sơn Nguyệt nhắm ngay ngực lão ta mà tung vàọ
Một bên đánh ra, một bên không né tránh, tự nhiên chưởng kình phải chạm đích, nhưng chạm đích cũng chẳng làm gì hề hấn Bốc Thượng Xuân, chưởng kình của Quan Sơn Nguyệt trúng ngực lão như rơi vào khoảng không, thành vô dụng.
Trái lại, lão xoay bàn tay, xòe thẳng ngón, đâm vào xương cánh tay của Quan Sơn Nguyệt.
Thủ pháp đó, Bốc Thượng Xuân đã thi triển một lần trên dòng Hoàng Hà, Quan Sơn Nguyệt đã biết rồi, cho nên chàng hết sức đề phòng.
Bàn tay chàng vừa chạm vào ngực Bốc Thượng Xuân, lập tức chàng thu nhanh về tránh mấy ngón của lão đụng phảị Nhưng vô ích, chàng nhận ra không làm sao thu hồi bàn tay kịp.
Bất giác, chàng đâm liều, định thực nghiệm xem công lực của Bốc Thượng Xuân như thế nàọ Do đó, chàng cứ giữ nguyên tư thế, sẵn sàng hứng lấy ngón tay của Bốc Thượng Xuân.
Liễu Sơ Dương kinh hãi, kêu lên thất thanh:
– Quan hiền điệt! Cẩn thận đấy! Tuyệt đối không nên tiếp xúc ...
Chậm một chút. Sự va chạm đã đến cùng một lúc với tiếng kêu của Liễu Sơ Dương phát rạ
Quan Sơn Nguyệt cảm thấy chẳng có gì quan trọng lắm, chỉ phong của Bốc Thượng Xuân mãnh liệt thật, song bất quá chỉ làm cơ thể chàng chấn động nhẹ và qua cơn chấn động đó, chàng nghe ngứa ngáy khắp người một chút vậy thôị
Dĩ nhiên, chàng không quan tâm, trái lại còn khinh thường là khác.
Trao đổi nhau một chiêu đầu, Quan Sơn Nguyệt lùi lại mấy bước, suy nghĩ tìm cách khắc chế đối tượng.
Trong khi chàng tìm phương pháp, Liễu Sơ Dương lộ vẻ lo sợ ra mặt. Lão định mở miệng nói gì đó, nhưng Kỳ Hạo trầm lạnh gương mặt, gằn từng tiếng:
– Là chứng nhân, bổn tòa chấp hành công pháp, cấm chỉ mọi người bên ngoài nói năng chen vào! Để mặc song phương so tài, hơn thì thắng, kém thì bạị
Liễu Sơ Dương nín lặng. Nín lặng là về phần lão, song lão lại hy vọng người khác bất thần can thiệp, may ra mới tiếp trợ Quan Sơn Nguyệt kịp thờị Lão đưa mắt nhìn sang Lạc Tương Quân.
Chẳng rõ Lạc Tương Quân có thấy ánh mắt của lão chăng, bà ta điềm nhiên như thường, đôi mắt cứ đăm đăm nhìn vào cuộc chiến, theo dõi mọi động tác của song phương. Bà nhìn vào cuộc chiến, thần sắc của bà vẫn an tường, không hề biểu lộ một vẻ lo nghĩ nàọ
Quan Sơn Nguyệt bất động một lúc, rồi thình lình xuất chưởng đánh tiếp một chiêu thứ haị
Bốc Thượng Xuân là tay lão luyện chiến trường, trước khi vào cuộc lão đã có chủ trương rồi, bây giờ thì lão ung dung hành động đúng theo chủ trương đó.
Như lần trước, lão thản nhiên chờ, vẻ khinh khỉnh hơi lộ ra nơi gương mặt.
Nhưng khi chưởng kình của Quan Sơn Nguyệt đến gần, bỗng lão có cái cảm giác là tình hình không giống như lần trước, toan vận công ứng phó, rất tiếc đã chậm trễ rồi, không tài nào vận công kịp nữạ
Quan Sơn Nguyệt thu tay về. Chừng như bàn tay của chàng có một sức hút, tay thu về, sức hút lôi kéo Bốc Thượng Xuân theo, cho nên lão chúi mình tới trước.
Giả như Quan Sơn Nguyệt lùi lại một bước, hẳn lão cũng phải bước theo một bước. Nhưng, Quan Sơn Nguyệt không lùi, chàng điểm nhẹ một nụ cười hoành tay qua một bên, dịch luôn thân hình Bốc Thượng Xuân theo, khi lão chúi tới, ngang hàng với chàng rồi, chàng đánh mạnh vào lưng lão một quyền như búa bổ.
Bốc Thượng Xuân mất cả kháng lực, ngã cấp xuống, tuy nhiên, lão kịp chỏi tay, giữ cho thân mình không chạm đất, nhân tư thế đó, lão lạng người lăn đi mấy vòng, đứng lên liền.
Lạc Hành Quân buột miệng tán:
– Tiểu tử quả thật thông minh, chỉ qua một chiêu đầu, đã ức độ được hư thực của đối phương, tránh cái hư, công vào cái thực, áp dụng đúng phương pháp chế địch. Song rất tiếc ... chỉ sợ lần ...
Quan Sơn Nguyệt giật mình. Chàng khâm phục sự nhận xét của Lạc Hành Quân, rồi chàng cũng lo ngại về câu nói của bà.
Tại sao bà tiếc rẻ? Lần sau thì saỏ Gì thì chẳng rõ, chứ chàng cũng phát hiện ra một điều mà Lạc Hành Quân không nói trước cho chàng hiểụ Điều đó là Bốc Thượng Xuân có một kháng lực gần như ma quáị Kháng lực, bình thời thì chẳng hề có, khi nào địch chạm vào người, kháng lực mới phát huy, địch càng chạm mạnh, kháng lực càng phát huy mạnh. Kháng lực đó, làm tiêu tan áp lực của địch, áp lực địch tan biến rồi, kháng lực cũng tiêu tan luôn. Kháng lực tự nhiên mà có, chẳng cần gì Bốc Thượng Xuân phải chú tâm, vận dụng.
Sở dĩ chàng tạo được cái hấp lực, lôi cuốn Bốc Thượng Xuân nhào tới, là vì chàng áp dụng đúng phương pháp, lợi dụng cái trở lực làm trợ lực cho chàng. Cho nên, khi kháng lực nơi Bốc Thượng Xuân vừa đấy lên, nghinh đón chưởng kình của chàng, chàng lại thu tay về, tiếp thu luôn cái kháng lực đó, khiến Bốc Thượng Xuân phải chới với nhào theọ Do đó, chàng tạo được một dẫn lực, đúng theo phương pháp. Chứ thật ra chàng cũng chẳng có môn công đặc biệt nàọ
Cũng may cho Bốc Thượng Xuân, lão ta kịp thời cải biến lực đạo, nếu cứ để cho kháng lực phát huy mạnh hơn, lão sẽ không thể chịu đựng nổi một chưởng của Quan Sơn Nguyệt và chắc chắn là không đứng lên nổị Phàm kháng lực của lão chấm dứt là Quan Sơn Nguyệt không còn chỗ nương tựa để tạo dẫn lực.
Kháng lực dứt, dẫn lực phải dứt theo, lão an nhiên đứng lên như thường.
Biết rõ đấu pháp cũng như vũ học của Bốc Thượng Xuân, Lạc Hành Quân thốt lên câu đó để ngầm cảnh cáo chàng phải dè dặt ở những chiêu sau, đừng tưởng đấm được lão như vậy mà rồi cho là đắc thủ, thắng cuộc mà khinh thường.
Bốc Thượng Xuân bị Lạc Hành Quân tiết lộ chỗ yếu nhược của lão cho Quan Sơn Nguyệt biết, lão căm hận quát to:
– Lạc Hành Quân! Ta đâu có mượn ngươi ở bên ngoài chỉ khôn chỉ khéo cho tiểu tử đâủ Ngươi có tài, cứ chờ một chút nữa, thi thố tài năng với ta, bây giờ thì hãy để yên cho tiểu tử so hơn kém với tạ Tiểu tử có giỏi, cứ xông vào, cho ta nếm một quả đấm nữa, xem nào!
Quan Sơn Nguyệt mỉm cười:
– Cho ngươi nhào lăn một lần nữa, nghĩ cũng chẳng khó khăn gì. Bất quá ta thấy ngươi già đến từng tuổi đó mà lại bại, bại đến độ phải bò lăn bò lóc trên mặt đất, tránh né vất vả, ta không nỡ tái diễn cái trò vui đó nữa thôị Ta nghĩ, ngươi nên xét người xét mình, nếu nhận ra mình còn kém thì cứ lui đi, chứ càng liều mạng lại càng chuốc nhục, chẳng ích lợi gì cả!
Liễu Sơ Dương chen vào:
– Phải đó, Bốc Thượng Xuân. Dù sao thì ngươi cùng Độc Cô Minh đồng là một lớp người, đã bại rồi thì nên nhận bại đi, ngoan cố cho lắm cũng không chối được cái tiếng bại!
Lão cười nhẹ một tiếng, tiếp luôn:
– Bị người ta đấm cho một đấm, nhào xuống đất, lăn lộn mấy vòng, thế chẳng là bại thì là gì chứ?
Bốc Thượng Xuân giận đến độ suýt sôi bọt mồm bọt mép, day qua Kỳ Hạo, trầm giọng hỏi:
– Công tử là chứng nhân, công tử phán định lão phu bại hay không bạỉ
Kỳ Hạo lắc đầu:
– Không bại!
Quan Sơn Nguyệt nổi giận:
– Làm công chứng nhân như ngươi, sao gọi là công bình được? Rõ ràng là ngươi thiên vị lão quái vật! Ta không phục lời phán định của ngươi!
Kỳ Hạo trầm lạnh gương mặt:
– Bổn tòa bất công ở điểm nàỏ
Quan Sơn Nguyệt «hừ» một tiếng:
– Lão ấy đã ngã nhào, lăn lộn như vậy, không là bại thì là gì? Lão ấy không bại, dễ thường ta bại à?
Kỳ Hạo điềm nhiên:
– Ta có chối là lão không ngã, không lăn lộn đâủ Song, vì cái việc đó mà cho rằng lão bại thì bất công, bởi trước đó, ngươi cũng có bị lão đánh trúng một chiêu mà! Thế là huề! Mỗi bên bị trúng một chiêu của nhau, có bên nào hơn bên nào mà phán định một bên bại một bên thắng?
Quan Sơn Nguyệt sửng sốt:
– Ta trúng chiêu của lão ấy từ lúc nàỏ Chiêu gì chứ?
Kỳ Hạo bỉu môi:
– Ngươi không hay biết? Ngươi nghi ngờ thì cứ hỏi chị em bà ấy!
Lạc Hành Quân và Lạc Tương Quân cũng phẩn hận về sự phán đoán của Kỳ Hạo, hai bà biết rõ hắn dùng cường để đoạt cái lý, song họ chẳng còn nói gì được.
Thực ra, Quan Sơn Nguyệt làm gì chẳng biết mình bị Bốc Thượng Xuân quét trúng một ngọn chỉ phong? Có điều, chàng chẳng nghe một cảm giác gì cả, cho nên cứ tưởng là vô sự. Đã vô sự thì chàng bại làm sao được?
Bây giờ, Kỳ Hạo nhắc lại và chàng nhìn thần sắc của chị em họ Lạc, đoán biết là sự tình có quan trọng phần nàọ Chẳng lẽ ngọn chỉ phong Bốc Thượng Xuân trúng phớt qua mình chàng lại gây nên một hậu quả tai hạỉ
Chàng tự tin mình không thể bị nguy vì một đạo chỉ phong tầm thường của Bốc Thượng Xuân, cười nhạt thốt:
– Ngươi định nói đến đạo chỉ lực của lão quái vật ấy quét sang ta vừa rồỉ
Ta muốn biết chừng nào nó phát tác đâỷ
Chàng tỏ thái độ khinh thường. Điều đó khiến chị em họ Lạc hết sức lấy làm lạ, họ cùng một lượt lẩm bẩm:
– Sao lâu thế? Kỳ quái thật! Chẳng lẽ công lực của Bốc Thượng Xuân giờ đây đã kém giảm, không còn lợi hại như ngày trước?
Bốc Thượng Xuân nghe lọt câu đó, nổi giận quát:
– Nói nhảm! Các ngươi cho rằng ta không còn lợi hại như ngày nào à?
Nếu thế ta chấp cả hai ngươi, cứ vào cuộc, ta bảo chứng là các ngươi sẽ nếm lại sự thất bại như ngày trước!
Lạc Tương Quân phẫn uất, thét:
– Ngươi vẫn còn khoác lác được à? Ta sẽ lột da ngươi, rút gân ngươi cho mà xem!
Chỏi tay xuống thành ghế, bà tung mình lên bay vọt tới, đồng thời phất ống tay áo, quét chênh chếch xuống mặt Bốc Thượng Xuân.
Bốc Thượng Xuân rùn cổ, hạ thấp mình một chút, tránh cái quét của ống tay sáo địch.
Hụt ống tay áo này, Lạc Tương Quân phất luôn ống tay áo kia, rồi hai ống tay áo giao chuyền quét tới, vừa để công Bốc Thượng Xuân vừa lầy đà giữ mình trên không.
Dù sao thì mất đôi chân, lạc Tương Quân cũng phải thất thế hơn Bốc Thượng Xuân bởi bà phải vận dụng chân khí quá nhiều, phần nào giữ mình đừng rơi xuống, phần nào công địch, mà địch chẳng phải tay vừạ
Đừng nói chi địch có vũ công cao hơn bà, nếu song phương đồng tài đồng sức thì đương nhiên người có đủ đôi chân nắm nhiều phương tiện chiến thắng hơn.
Hai tay áo vung tới tấp làm Bốc Thượng Xuân có phần nào lúng núng.
Nhưng, cuộc chiến chưa ngã ngủ như thế nào, bỗng một bóng người từ phía dưới bay vọt lên, dùng chưởng chặt xuống ống tay áo của Lạc Tương Quân.
«Phặc!» Ống tay áo đứt liền. Mất thăng bằng, Lạc Tương Quân đáp xuống ngaỵ Và bà đáp xuống trong tư thế ngồị
Liễu Sơ Dương và Lạc Hành Quân biến sắc, đồng một lượt nhào tớị
Người chặt đứt ống tay áo của Lạc Tương Quân chẳng ai khác hơn là Kỳ Hạọ Thấy bọn Liễu Sơ Dương và Lạc Hành Quân xông vào tiếp trợ Lạc Tương Quân, hắn thét to:
– Bọn các ngươi chán sống rồi phải không? Trước mặt bổn tòa mà các ngươi dám buông lung ngông cuồng như vậy, liệu bổn tòa còn châm chước được cho các ngươi không chứ?
Giọng nói của hắn vang lên như sấm, làm chấn động Liễu Sơ Dương và Lạc Hành Quân, dù biết đối phương không hề có hảo ý với họ, đối phương đã chấp nhận thái độ đối với họ rồi là họ chẳng cần phải kính nể nữa, vậy mà cả hai khiếp hãi như thường, đủ biết oai khí của Kỳ Hạo chẳng phải nhỏ. Cả hai lập tức dừng chân lạị
Liễu Sơ Dương trầm giọng hỏi:
– Thế huynh đã là một công chứng nhân, tại sao bỗng nhiên xuất thủ can thiệp vào việc của bọn tại hạ?
Kỳ Hạo cười lạnh:
– Câu đó, sao các ngươi không hỏi cái mụ tàn phế kia mà lại hỏi nơi bổn tòả
Hắn trầm nghiêm, lạnh lùng tiếp:
– Mụ ta có muốn động thủ, ít nhất cũng hỏi qua bổn tòa xem bổn tòa có đồng ý hay không mới được chứ? Ai cho phép mụ ngang nhiên xuất thủ? Thế bổn tòa có mặt nơi đây để làm gì?
Liễu Sơ Dương đuối lý. Lão phải công nhận là phần quấy về phần vợ lãọ
Lão thở dài, không thể xuất thủ tấn công Bốc Thượng Xuân, đành cúi mình xuống, bế bà vợ lên mang về chiếc ghế, đặt bà ngồi yên như cũ.
Thần sắc của Kỳ Hạo hết sức nghiêm lạnh. Hắn quắc đôi mắt sáng như sao nhìn Lạc Hành Quân, như trút trọn niềm căm hận lên đầu bà, bởi dù sao thì bà cũng là chủ nhân của địa điểm, bà lại còn là vị niên trưởng trong bọn, bà phải lãnh trách nhiệm về hành động của bất cứ ai trong trang viện nàỵ
Một Quan Sơn Nguyệt vô lễ, hắn chưa trị tộị Một Lạc Tương Quân vô lễ, hắn vừa cảnh cáo, kế tiếp bà ta và Liễu Sơ Dương lại khinh thường sự có mặt của hắn, phóng túng hung hãn. Dĩ nhiên, hắn phải hận. Hắn nhìn bà đăm đăm làm bà lạnh người, không dám chịu đựng ánh mắt đó, phải cúi đầu né tránh.
Kỳ Hạo lại chuyển ánh mắt sang Quan Sơn Nguyệt, nhìn chàng một lúc lâu, đoạn gọi Bốc Thượng Xuân, thốt:
– Lão Bốc ơi! Bổn tòa sợ ngươi bại đấy!
Bốc Thượng Xuân khi nào lại tin như vậy được, vội lắc đầu đáp:
– Chưa hẳn là lão phu bại đâu, công tử! Công tử có thể chờ một lúc nữa chứ? Chờ xem cái hậu quả của đạo chỉ phong như thế nào!
Kỳ Hạo mỉm cười:
– Cần gì phải chờ? Chỉ lực của ngươi, trước kia thì còn có hiệu dụng thật đấy, nhưng hiện tại thì, bổn tòa chẳng thấy lưu lại một dấu vết nào nơi cơ thể của hắn.
Bốc Thượng Xuân nhìn Quan Sơn Nguyệt kỹ hơn một chút. Lão nhận ra chàng ung dung như thường, khí định thần nhàn, chẳng tỏ vẻ gì là khó chịụ Bất giác lão sững sờ, rồi lão thất vọng.
Kỳ hạo bắt đầu lưu ý đến Quan Sơn Nguyệt, cho rằng chàng có thực tài, chứ trước đó thì hắn khinh thường chàng và hắn đinh ninh là Bốc Thượng Xuân hạ chàng rất dễ dàng. Do đó, hắn đổi thái độ đố với chàng ngaỵ Hắn hướng sang chàng, gật gật đầu như tán thưởng khả năng của chàng, rồi hỏi:
– Các hạ khá lắm, bổn tòa thành thật khen ngợi đó. Bổn tòa có điều này khó hiểu, muốn nhờ các hạ giải thích, chẳng hay các hạ có sẵn lòng hay chăng?
Quan Sơn Nguyệt thản nhiên đáp:
– Là công chứng nhân, các hạ có quyền hỏi!
Kỳ Hạo lắc đầu:
– Không, không phải vậy đâu! Công chứng nhân chỉ có quyền phán định thắng bại giữa song phương hoặc ngăn chận ngoại nhân vô cớ chen vào vụ thôi, còn ngoài ra thì tại hạ không có quyền đến bất cứ sự việc nào không liên quan đến cuộc tranh chấp. Cho nên, câu hỏi của tại hạ, tùy các hạ ứng đáp thì đáp, không ứng thì thôi, tại hạ không cưỡng bức được.
Quan Sơn Nguyệt trầm ngâm một chút:
– Thực sự thì, tại hạ đối với các hạ, chẳng có một thiện cảm nàọ Tuy nhiên, nghĩ vì các hạ chấp pháp có phần nào công bình, do đó tại hạ không đành cự tuyệt, có thể đáp câu hỏi cũa các hạ nếu chẳng có gì khó khăn trở ngại do câu hỏi đặt nên vấn đề. Vậy các hạ cứ hỏị
Kỳ Hạo thoáng biến sắc. Lời nói của Quan Sơn Nguyệt làm cho hắn bất mãn phần nàọ Lời nói đó, chứng tỏ Quan Sơn Nguyệt khinh thường hắn, bất chấp oai khí của hắn, cao hứng thì đáp câu hỏi, không thích thì thôị Đến bọn Lạc Hành Quân còn phải nể trọng hắn, huống hồ Quan Sơn Nguyệt?
Tuy nhiên, hắn cố dằn lòng, trầm giọng hỏi:
– «Xuân Dương Chỉ Pháp» của lão Bốc, từ xưa đến nay, mỗi lần phát xuất là mỗi lần đắc thủ, chẳng khi nào vô hiệu như hiện tạị Chẳng hay các hạ dùng phương pháp gì hóa giải chỉ pháp đó trở thành vô hiệủ
Quan Sơn Nguyệt trầm ngâm một chút:
– Trước khi giải thích sự thắc mắc của các hạ, tại hạ xin được biết, cái tánh chất thực sự của «Xuân Dương Chỉ Pháp» như thế nàỏ Các hạ giải bày cho tại hạ hiểu rõ, sau đó, tại hạ sẽ nói đến phương pháp hóa giảị
Hỏi như thế, tức nhiên hỏi Bốc Thượng Xuân, dù Quan Sơn Nguyệt đang đối diện với Kỳ Hạọ
Nhưng Kỳ hạo làm gì phân tách một môn học của kẻ khác? Cho nên, Bốc Thượng Xuân phải đáp thay Kỳ Hạọ
Lão «hừ» một tiếng, hỏi lại:
– Chẳng lẽ ngươi không nghe một cảm giác nào, khi chỉ lực của ta chạm vào mình ngươỉ
Quan Sơn Nguyệt mỉm cười:
– Cảm giác, dĩ nhiên là phải có, nhưng nó ngắn quá, nó vừa thoáng hiện là tan biến ngay, cái cảm giác đó mường tượng sức nóng của ánh Xuân Dương chiếu nơi lưng, nghe nhột nhột như có một con sâu bò ngo ngoẹ
Bốc Thượng Xuân hỏi gấp:
– Rồi sau đó?
Quan Sơn Nguyệt tiếp:
– Sau đó, ta chẳng còn nghe gì nữạ Ta cứ cho là vừa mơ mộng một chút vậy thôị
Chàng lại cười, tiếp luôn:
– Theo ý ta thì ngươi nên đổi cái tên của chỉ pháp đó, cho nó hợp lý hơn.
Ngươi nên gọi là Xuân Dương Mộng Chỉ Pháp mới phải, bởi ai trúng chỉ pháp đó, đều cảm thấy như mình mơ mộng một tý ...
Bốc Thượng Xuân vừa thẹn vừa tức, không dằn tính khí được, buột miệng mắng oang oang.
Nhưng, lão chỉ mắng được mấy tiếng, Kỳ Hạo ngăn chặn liền, lão phải nín bặt, đôi mắt đăm đăm nhìn Quan Sơn Nguyệt cực kỳ phẫn nộ.
Liễu Sơ Dương thừa dịp, trút cả niềm căm phẫn chứa đựng từ lâu:
– Đó là công phu vừa dâm, vừa độc, vừa tà quái, trên đời này chẳng có công phu nào đáng khinh bỉ bằng.
Kỳ Hạo trừng mắt:
– Xú Sơn Thần! Ngươi đã có tên trong Ma Bảng, thiết tưởng không nên có cái luận điệu đó!
Liễu Sơ Dương lại nín lặng.
Quan Sơn Nguyệt thấy lão quá nể sợ Kỳ Hạo, luôn luôn bị hắn quát nạt, vội tiếp lời lão, thay lão nói lên những lời lão muốn nói nhưng không thể nói:
– Theo tại hạ nhận xét thì «Xuân Dương Chỉ Pháp» là một công phu chuyên làm mê hoặc đối phương, ai bị chỉ lực Xuân Dương trúng phải, lập tức mất hết bổn tánh ...
Kỳ Hạo cười hì hì:
– Các hạ nói đúng đó, chỗ độc đáo của lão Bốc là thế, và chỉ có thế thôi!
Quan Sơn Nguyệt bĩu môi:
– Thảo nào mà tại hạ chẳng có cảm giác nào! Ngày trước, tại hạ từng bị người hạ độc dược suýt chết, may nhờ một vị tiền bối cho uống thứ thuốc «Băng Xạ Toàn Mạng Tán», thuốc ấy chẳng những giải trừ chất độc mà còn làm cho cái tâm được thanh sáng diệt luôn tánh dục ...
Kỳ Hạo gật đầu:
– Thì ra là vậy! Bây giờ tại hạ minh bạch rồi!
Hắn day qua Bốc Thượng Xuân, cao giọng thốt:
– Lão Bốc! Ngươi nên nhận bại cho rồi!
Bốc Thượng Xuân cúi đầu không nói chi cả.
Kỳ Hạo tiếp:
– Y theo thông lệ của các ngươi, kẻ nào bại phải lủi đi như chuột. Lão Bốc, ngươi đã bại rồi, còn ở đó làm chi nữả
Chị em họ Lạc toan nói gì đó, Kỳ Hạo khoát tay ngăn chận:
– Khỏi cần phải nói, bổn tòa đã biết ý tứ các ngươị Điều oan nghiệt giữa các ngươi và lão Bốc, chẳng ai cởi mở được, do đó ta thay mặt các ngươi, an bày sự việc, trong ba tháng nữa, các ngươi hãy đến Thần Đàn, ta sẽ có cách liễu kết sự việc của các ngươi, sau đó mình sẽ luận bàn về những vấn đề khác.
Lạc Hành Quân thấp giọng:
– Đa tạ Ma Quân!
Lạc Tương Quân và Liễu Sơ Dương không nói gì.
Kỳ Hạo lại cười hì hì:
– Có chi đâủ Chúng ta là người đồng bảng, cái lẽ chiếu cố nhau là tất nhiên rồi, khó khăn hơn nữa cũng phải làm, huống hồ một việc rất nhỏ mọn?
Hắn vẫy taỵ
Bốc Thượng Xuân rời khách sảnh trước.
Kỳ Hạo day qua Quan Sơn Nguyệt, chào biệt:
– Tại hạ phải cáo từ, mong rằng chúng ta sẽ trở thành một đôi nằng hữu thân thiết! Cái việc hôm nay, đúng là một hạnh ngộ vậy đó!
Quan Sơn Nguyệt đáp lễ, thốt:
– Các hạ chỉ xuất thủ một lần, tuy chỉ ngăn chận một cuộc ác chiến xảy ra, song cũng đủ chứng tỏ vũ công cao tuyệt, tại hạ hết sức khâm phục và hy vọng có một ngày nào đó, được lãnh giáo cái bản lãnh quán thế của các hạ.
Song phương đối đáp nhau, nghe ra rất nhã nhặn, song bên trong có hàm cái ý hứa hẹn một cuộc gặp gỡ vào một ngày nào đó, và khi gặp gỡ nhau, họ sẽ có một trận thư hùng.
Hiểu cái ngụ ý của song phương trong mấy lời vắn tắt, Liễu Sơ Dương và chị em họ Lạc hết sức khẩn cấp.
Nhưng, tiếng nói đã buông ra rồi làm sao lấy lại kịp, cả ba chỉ đưa mắt ngầm ra hiệu cho Quan Sơn Nguyệt nên dịu phần nào thái độ, ít nhất cũng tạm vào lúc này, họ mong chàng sửa chữa lại cái gì đã căng thẳng, dấu diếm bớt đi sự khiêu khích đối phương.
Quan Sơn Nguyệt lờ đi như chẳng trông thấy chi cả.
Kỳ Hạo mỉm cười:
– Giả như các hạ muốn chỉ điểm tại hạ hôm nay, cũng thuận tiện lắm. Song, trong tương lai, có thiếu chi cơ hội thì vội gì chúng ta phải làm cái việc chưa đáng làm? Các hạ yên trí chờ, chắc chắn là phải có lúc hy vọng của các hạ được thực hiện!
Quan Sơn Nguyệt trầm giọng:
– Tại hạ có nhiều sự việc phải lo, chưa biết lúc nào rỗi rảnh, giả như các hạ có nhã ý giúp tại hạ học hỏi thêm một vài điều hay thì các hạ hãy cho một hạn kỳ, tại hạ sẽ cố thu xếp công việc để có thời gian, tìm đến các hạ, bái kiến lãnh giáọ
Kỳ Hạo cười nhẹ:
– Hạn kỳ? Thế các hạ chóng quên quá! Ngày ước hội không xa, nơi ước hẹn là Đại Tán Quan, các hạ đã quên, tại hạ xin nhắc lại một lần, mong các hạ đừng vì lý do gì mà thất hẹn!
Quan Sơn Nguyệt giật mình kêu lên:
– Các hạ là Phi Lạc Đà?
Kỳ Hạo đã tung mình theo Bốc Thượng Xuân rồi, tràng cười sang sảng tiếp theo là một câu xác nhận:
– Không phải Phi Lạc Đà! Tại hạ là Phi Đà Lệnh Chủ, các hạ gọi sái một tiếng thôi!
Câu nói dứt, bóng người cũng đã khuất.
Khách sảnh trở về im lặng nặng nề.
Quan Sơn Nguyệt thở dài thốt:
– Không ngờ hắn lại là Phi Lạc Đà! Hắn tự xưng là Phi Đà Lệnh Chủ!
Lạc Hành Quân biến sắc mặt, nhìn thoáng qua Quan Sơn Nguyệt, cất tiếng:
– Già có việc này, nhờ Quan thiếu hiệp ...
Cái lối xưng hô của bà thay đổi dần dần, từ hai tiếng các hạ đến hai tiếng hiền điệt, rồi bây giờ bà lại gọi chàng là thiếu hiệp ...
Sự thay đổi đó, do thói quen của khách giang hồ, sáo ngữ nằm sẵn nơi đầu môi hay vì sự nhận thức giá trị của con người Quan Sơn Nguyệt mà có?
Thoạt đầu, bà khinh thường Quan Sơn Nguyệt, sau đó bà bắt đầu chú ý đến chàng, khi chàng đánh ngã Bốc Thượng Xuân, cuối cùng Kỳ Hạo có ý gờm chàng, mà bà thì nể oai Kỳ Hạọ Do đó bà gọi chàng là thiếu hiệp chăng?
Còn sắc mặt của bà biến đổi chẳng phải bà lo ngại vì việc sắp nói ra với Quan Sơn Nguyệt, thần sắc của bà biến đổi vì các diễn tiến vừa qua, Kỳ Hạo đã đi rồi mà bà chưa lấy lại bình thường.
Quan Sơn Nguyệt vội đáp:
– Tiền bối có điều chi phân phó xin cứ nóị
Lạc Hành Quân chỉnh nghiêm sắc mặt:
– Già này hiếm hoi, chỉ sanh được một gái là Tiểu Hồng, vì gia vụ đa đoan, già không chu toàn được việc giáo huấn thành ra nó hư hỏng, lắm lúc ương ngạnh, cãi lời người trưởng thượng, có những hành động ngông cuồng. May thay, thiếu hiệp từ đâu đến, lại có cảm tình với gia đình già, già nghĩ ra, nếu như thiếu hiệp chiếu cố đến nó, dùng lời hay lẽ phải cảm hóa nó cho nên ngườị
Quan Sơn Nguyệt kinh hãi kêu lên:
– Sao tiền bối có ý nghĩ đó ...
Lạc Hành Quân thở dài tiếp:
– Thiếu hiệp đã chẳng chính mắt trông thấy đó saỏ Trong ba tháng nữa đây, khi có lịnh triệu tập, bọn của già phải lên đường, mà đi rồi lại chắc gì có hy vọng trở về? Như vậy, con đường tương lai của Tiểu Hồng cầm như mờ mịt sau thời gian đó, còn ai đâu hướng dẫn nó đi đúng nẻo nghĩa nhân? Cho nên ...
Bà lại dừng, rồi nhìn chàng, ánh mắt có vẻ khẩn thiết, một phút sau, buông tiếp:
– Giả như thiếu hiệp nghĩ đến đoạn giao tình của già đối với lịnh sư ngày trước thì thiếu hiệp nên chiếu cố đến nó ...
Quan Sơn Nguyệt lắc đầu, tỏ vẻ không hiểu, trầm giọng hỏi:
– Tại sao các vị phải cúi đầu tuân phục theo lịnh của gã thiếu niên đó? Các vị thuộc hàng tiền bối, còn hắn thì bất quá là một kẻ hậu sanh, dù hắn có thừa kế sư nghiệp của ai đi nữa, hắn vẫn là kẻ dưới đối với các vị mà? Hắn đâu có thể hống hách ỷ mình có một thân phận rồi ra lệnh cả đến những bậc trưởng thượng phải thi hành?
Lạc Hành Quân đưa mắt thoáng qua Lạc Tương Quân và Liễu Sơ Dương, lại thở dài, thốt:
– Thiếu hiệp hỏi tại saỏ Không thể nói được đâụ Khó nói lắm thiếu hiệp ơi! Giả như thiếu hiệp muốn hiểu sự tình thì trong kỳ ước hội sắp tới đây với Ma Quân Kỳ Hạo tại Đại Tán Quan, thiếu hiệp cứ hỏi ngay hắn. Già nghĩ rằng, trên thế gian này, nếu có thể giảng giải được sự tình thì người đó chính là hắn, duy nhất chính là hắn mà thôị
Quan Sơn Nguyệt toan hỏi điều gì đó, Lạc Hành Quân đã hướng sang em gái và em rể tiếp:
– Hiền muội và Liễu đệ! Hai người ngay từ bây giờ hãy trở về, chuẩn bị sẵn sàng. Tuy là ba tháng, ngu thơ thấy thời gian chẳng rộng chi lắm đâu, bởi chúng ta có trăm ngàn chuyện phải chu toàn trước ngày ước hẹn, lo cho xong tất cả mọi chuyện trong thời gian ngắn đó, cũng chẳng phải dễ dàng gì!
–––– oo –––– Thời gian vào tiết thu, gió lạnh mang cái vẻ tiêu sơ từ bốn phương về phủ trùm lên vạn vật, vẻ tiêu sơ càng rõ rệt những cảnh trí tiêu điều, hoang vắng ...
Và Đại Tán Quan càng phô vẻ tiêu sơ với hiện thân cổ lỗ qua những công trình kiến trúc từ hàng trăm năm trở lên. Có cái cổ lỗ nào không tiêu điều, dù đang lúc thạnh xuân, thì nói chi vào tiết thu niên, gió đùa lá rụng, cây cỏ xác xơ úa vàng?
Đại Tán Quan, một cổ chiến trường!
Chiến trường là nơi tan nát diễn ra, qua cơn tan nát đến lúc hoang tàn, huống hồ là cổ? Huống hồ là vào tiết thu thiên?
Đại Tán Quan, nơi ước hẹn của hai Lệnh Chủ, mang một dấu hiệu Lạc Đà.
Một là Minh Đà, một kia là Phi Đà!
Phi Đà Lệnh Chủ chưa thấy xuất hiện, Minh Đà Lệnh Chủ đã có mặt rồị
Thái dương đã chếch về Tây, Quan Sơn Nguyệt ngồi trên lưng ngựa nhìn bóng mình ngã dài theo con đường vắng vẻ, cảnh im lìm nhưng lòng chàng thì đang nổi cơn giông.
Chàng khẩn trương ra mặt. Khẩn trương vì cuộc ước hội này sẽ mang điều lợi hay điều hại cho chàng. Khẩn trương vì nhìn quanh quẩn, chàng vẫn chưa thấy Phi Lạc Đà.
Thắng, bại, đành là việc so tài, chàng không hề suy nghĩ đến cho lắm nhưng dù sao thì thắng cũng vẫn hơn bạị
Thắng hay bại là do yếu tố thực tàị
Nhưng, yếu tố đó, chưa hẳn là tuyệt đối, bởi nhân số cũng có thể định đoạt được thắng hay bạị
Nhân số? Chàng nào có mang viện thủ theo mình?
Mà, chắc gì Phi Lạc Đà lại đến đơn thân, độc lực? Hắn, là người ước hẹn, hắn là địa chủ thì biết đâu hắn chẳng an bày những phương tiện ám muội, tranh thủ phần thắng?
Chàng đã đến từ sáng sớm, chàng đã đợi suốt một ngày dàị Bây giờ, tà dương đã chếch khỏi đầu cây, hoàng hôn sẽ xuống gấp, song Phi Lạc Đà vẫn chưa xuất hiện. Chàng lẩm bẩm:
– Hắn thất ước?
Như đã thỏa thuận từ trước, Quan Sơn Nguyệt đến Đại Tán Quan không đi một mình, bên cạnh chàng có Lạc Tiểu Hồng cùng theo, và dĩ nhiên có người bạn đồng hành, tình nguyện ngay từ lúc đầu là Lưu Tam Tháị
Lạc Tiểu Hồng đã bỏ cái tính ba hoa thường ngày, trở nên trầm lặng đáng ngợị
Giả như không có sự thỏa thuận từ trước, hẳn Lạc Tiểu Hồng cũng phải đi theo Quan Sơn Nguyệt. Bởi, ba hôm sau ngày hội diện với Hồ Hải Dị Tẩu Bốc Thượng Xuân, Lạc Hành Quân và vợ chồng Lạc Tương Quân âm thầm rời gia trang đi đâu không rõ. Nàng, tứ cô vô thân, ngoài Quan Sơn Nguyệt ra, nàng chẳng còn quen biết một ai khác trên cõi đời nàỵ
Vì có sự ủy thác của Lạc Hành Quân, Quan Sơn Nguyệt phải mang Lạc Tiểu Hồng theo mình đến Đại Tán Quan, và có lẽ chàng còn mang nàng cùng theo chàng khắp bốn phương trời trong một khoảng thời gian lâu lắm ...
Nàng sầu muộn vì gia đình, chàng lại bận lo nghĩ về việc sắp đến, cả hai không ai đàm đạo với ai, dần dần rồi thành quen, bây giờ thì nàng có lẽ trầm tịnh lắm rồị
Chốc chốc, Quan Sơn Nguyệt lại thốt:
– Hắn đến không? Chẳng lẽ hắn không đến?
Lưu Tam Thái còn biết đối đáp làm saỏ
Bỗng có tiếng vó ngựa vang lên từ xa xa vọng đến.
Quan Sơn Nguyệt giật mình, kêu khẽ:
– Đến rồi! Tại sao hắn đến trễ thế? Hắn muốn hội diện lúc ban đêm saỏ
Vó ngựa nghe dần dần gần, không lâu lắm, hai con ngựa xuất hiện ở đầu đường, ngồi trên lưng ngựa là hai nam nhân.
Tuy hai kỵ sĩ còn xa, Quan Sơn Nguyệt cũng nhận ra là không có Phi Lạc Đà trong số.
Hai người đó, một vị là tiêu đầu Song Anh Tiêu Cục, tên Tôn Thất, còn người kia là Lữ Vô Uùy, Chưởng môn nhân phái Chung Nam.
Quan Sơn Nguyệt biết ngay Lữ Vô Úy đến đây không ngoài mục đích hội diện với Phi Lạc Đà, báo hận cho các đệ tử phái Chung Nam. Chàng hết sức lấy làm lạ, tại sao Lữ Vô Úy lại đến một mình, bởi có Chưởng môn nhân nào xuất ngoại lại chẳng mang theo một số đệ tử, ít nhiều tùy ý nhưng phải có mới hợp lý.
Chàng lướt tới, nghiêng mình, vòng tay chào:
– Chưởng môn nhân được bình an chứ?
Rồi chàng hỏi tiếp:
– Chắc Chưởng môn nhâ đến đây là để gặp Phi Lạc Đà? Hắn thất ước, tại hạ chờ suốt ngày nay, chẳng thấy hắn xuất hiện.
Lữ Vô Úy lắc đầu:
– Hắn không thất ước đâụ Hắn sẽ đến đây trong phút giây!
Quan Sơn Nguyệt giật mình:
– Làm sao Chưởng môn nhân biết được?
Lữ Vô Úy trầm buồn gương mặt:
– Trong chuyến đi này, lão phu có mang theo sáu cao thủ trong bổn môn, ngờ đâu vào giờ Ngọ hôm nay, tất cả sáu người đều bị giết một cách thê thảm ở dọc đường. Người giết họ là một nữ nhân, cứ theo lời Tôn Thất thì nữ nhân đó là Phi Lạc Đà ...
Quan Sơn Nguyệt trố mắt:
– Phi Lạc Đà? Phi Lạc Đà là một nữ nhân?
Lữ Vô Úy thở dài, ánh mắt của lão thoáng mờ vì màn lệ mỏng vừa lên:
– Phải! Một nữ nhân! Vũ công của nàng vừa ngụy dị, vừa cao siêu, bọn cao thủ của lão phu có đến sáu người, nàng chỉ một mình, mà qua bốn năm chiêu thôi, nàng hạ sát tất cả. Còn lão phu ... nếu nàng chẳng nới tay cho, hẳn lão phu đã ra người thiên cổ rồi đó!
Quan Sơn Nguyệt sững sờ, trầm lặng giây lâụ
Lữ Vô Úy tiếp:
– Giết xong sáu đệ tử của lão phu, Phi Lạc Đà nhờ lão phu đến đây thông tri cho Lệnh chủ rõ, vì Minh Đà Lệnh và kim nhân là tính vật của Lệnh chủ chưa được chuyển đến nàng kịp thời, do đó nàng phải đợi và đến nơi hẹn với Lệnh chủ trễ một chút.
Lão ngừng một chút, lại tiếp:
– Nàng cho biết, có lẽ lúc trăng lên nàng sẽ có mặt tại đâỵ
Quan Sơn Nguyệt vẫn nín lặng.
Lữ Vô Úy cho rằng chàng lạnh nhạt với lão, nên bất bình hằn học:
– Lão phu nghe nói, Lệnh chủ vì cao nghĩa, không sợ oán thù, xuất đầu lộ diện chống đối với Phi Lạc Đà cứu nạn hai môn nhân của lão phu, do đó lão phu chẳng quản đường xa, tìm đến đây mong gặp Lệnh chủ, để yêu cầu Lệnh chủ báo thù cho bổn môn, ngờ đâu Lệnh chủ có thái độ quá hững hờ, chừng như khinh miệt lão phu ...
Quan Sơn Nguyệt thấy Lữ Vô Úy hiểu lầm chàng, vội đáp:
– Chưởng môn nhân nghĩ sai rồi, tại hạ nào dám lạnh nhạt với Chưởng môn nhân? Chẳng qua, tại hạ đang lúc suy tư trầm trọng nên không kịp thời đối đáp với Chưởng môn nhân đó thôị Chưởng môn nhân có biết không, tại hạ hết sức hoang mang khi nghe rằng Phi Lạc Đà là một nữ nhân ...
Lữ Vô Úy giật mình:
– Thế ra, Phi Lạc Đà có chân có giả? Sao lại kỳ thế? Sao lại có nhiều Phi Lạc Đà?
Quan Sơn Nguyệt trầm giọng:
– Sự tình ra sao, thực tại hạ chưa được hiểu rõ, có điều tại hạ đã hội kiến với Phi Lạc Đà một lần rồi và chính là một nam thiếu niên, hắn có cái tên là Kỳ Hạo ...
Lữ Vô Úy cãi:
– Không phải đâu! Chính mắt lão phu trông thấy, Phi Lạc Đà là một nữ nhân mà!
Quan Sơn Nguyệt trầm ngâm một chút:
– Dù Phi Lạc Đà là nam hay nữ, điều đó chẳng quan hệ, cứ biết hắn là một kẻ hung ác, tàn bạo, chúng ta có bổn phận phải trừ diệt để cứu nguy cho người đời ...
Lữ Vô Úy tỏ vẻ cảm kích:
– Chính bổn môn tước hết tri ân Lệnh chủ vô cùng. Vì chính nghĩa, Lệnh chủ ra tay trừng hung, trị bạo ...
Bỗng có tiếng lục lạc vang lên từ xa xa vọng lạị Tiếng lục lạc của lạc đà, phàm ai có sống trên sa mạc, đều nhận ra nhất định không lầm với tiếng lục lạc ngựạ
Vầng trăng cũng đã lên rồị
Quan Sơn Nguyệt khích động vô cùng.
Đợi tiếng lục lạc của lạc đà đến gần, chàng cao giọng gọi:
– Quan Sơn Nguyệt ở tại đây, bằng hữu! Quan Sơn Nguyệt chờ bằng hữu đã lâu rồi!
Một con lạc đà có thân vóc cao lớn, sắc lông trắng như tuyết xuất hiện trong tầm mắt của Quan Sơn Nguyệt.
Quan Sơn Nguyệt vội nhảy xuống đất, đứng bên cạnh con ngựa của mình, cao giọng tiếp:
– Tại hạ cứ nghĩ, bằng hữu bị cản trở làm sao đó, chắc không thể đến nơi ước hẹn ...
Nhưng, người đâu chẳng thấy, chỉ thấy độc có một con lạc đà đó thôị Mà con vật đó, chính là vật của chàng. Chàng liền bước tới cạnh nó, vuốt ve nó. Nó lè lưỡi liếm mặt chàng, nó đưa má chà sát vào mặt chàng, tỏ vẻ an úy vô cùng, sau thời gian chủ và vật xa cách quá lâụ
Chàng lẩm bẩm:
– Cuối cùng rồi ta và ngươi cũng trùng phùng với nhau! Ai đưa ngươi đến đây với tả Người đó ở đâủ
Trong khi chàng và lạc đà mầng nhau, trong bóng tối, có một người nhìn chàng. Người đó sau một lúc, cất tiếng:
– Quan Sơn Nguyệt! Chúng ta bắt đầu so tài là vừa!
Quan Sơn Nguyệt giật mình ngẩng mặt nhìn lên.
Câu nói đó, đúng là âm thinh của một nữ nhân!
Một nữ nhân cất tiếng thách thức chàng, trong khi cái người chàng chờ đợi là một nam nhân! Thế là nghĩa làm saỏ Hai Phi Lạc Đà? Đâu là Phi Lạc Đà thật sự, đâu là Phi Lạc Đà giả mạỏ
Trước mắt chàng, một nữ nhân hiện rõ, nữ nhân lại chính là Khổng Linh Linh!
Chàng kêu lên thất thanh:
– Cô nương? Có thể là cô nương được saỏ
Khổng Linh Linh cười nhạt:
– Tại sao không thể là tả Ngươi là Lệnh Chủ Minh Đà, dễ thường ta không thể làm một Lệnh chủ như ngươi saỏ Ta cũng có thể làm Phi Đà Lệnh Chủ được chứ?
Quan Sơn Nguyệt suy nghĩ một thoáng:
– Tại hạ từng gặp một người, người đó tên là Kỳ Hạo, người đó cũng xưng là Phi Đà Lệnh Chủ ...
Khổng Linh Linh cười lạnh:
– Phải! Sự thật là vậy! Phi Đà Lệnh Chủ chẳng nhất thiết phải là một người duy nhất. Khi thì ta, khi thì hắn, hắn chính là ...
Quan Sơn Nguyệt hoang mang vô tưởng ...
Tư Mã Tử Yên
Võ Lâm Phong Thần Bảng
Hồi 16
Vạn Lý Trường Chinh
Quan Sơn Nguyệt nhìn sững thiếu nữ, chừng như chàng chẳng hiểu nàng muốn nói gì, và đương nhiên là chàng khó tin nàng rồi!
Nàng là Phi Đà Lệnh Chủ? Làm gì có việc đó? Tại Tà Dương Trang, chính Kỳ Hạo đã tự nhận là Lịnh Chủ Phi Đà và hắn ta phải là Lịnh Chủ Phi Đà mới hợp lý, chứ có đâu lại là một nữ nhân? Mà nữ nhân lại thuộc lứa tuổi đó?
Huống chi, chàng còn nhớ mang máng là có gặp nàng một lần. Lúc đó, chàng ở tại Tuyết Thần Cốc nhờ Tuyết Lão Thái Thái chữa trị thương thế cho chàng. Chàng chỉ trông thấy nàng trong thoáng qua thôi, nên cái ấn tượng không được rõ rệt cho lắm.
Tuy chính nàng mỗi ngày săn sóc chàng, song vì Tuyết Lão Thái Thái dùng quá nhiều thuốc kích thích, cốt chữa cho chàng bình phục nhanh chóng, do đó chàng phải mất thần trí một thời gian, đến Trương Thanh mà chàng cũng chẳng nhận ra, huống hồ là những kẻ khác? Cho nên, chàng không nghĩ ngợi lắm về nàng. Sau nầy, khi thuốc kích thích mất hiệu lực, chàng tỉnh trí lại, cũng có nhớ đến nàng, song lúc đó nàng đã ly khai Côn Lôn Sơn, chàng không còn gặp nàng nữa.
Giữa chàng và nàng, chẳng có sự liên quan nào khả dĩ gọi là trọng đại, nên chàng dễ quên đi, rồi bây giờ, đột nhiên gặp lại nàng, gặp lại để nghe nàng tự xưng là Lịnh Chủ Phi Đà, một kẻ đối lập với chàng. Đương nhiên, chàng phải lấy làm lạ.
Trong khi Quan Sơn Nguyệt nhìn nàng, dửng dờ, nàng lại lộ cái vẻ phẫn hận, cao giọng hỏi:
– Quan Sơn Nguyệt! Ngươi định vờ vĩnh với ta phải không? Chẳng lẽ ngươi không nhận ra ta?
Quan Sơn Nguyệt giật mình, trở về thực tại, điềm nhiên điểm một nụ cười, đáp:
– Nhận ra chứ! Tại hạ còn nhận ra cô nương mà! Trên Côn Lôn Sơn ...
Bỗng nhiên, Khổng Linh Linh phát cáu, hét lớn:
– Ngươi đừng nhắc đến cái tên Côn Lôn Sơn với ta nữa! Ta không muốn nghe ai nói đến địa phương đó!
Quan Sơn Nguyệt cười nhẹ:
– Cô nương không muốn nghe ai nhắc đến ba tiếng Côn Lôn Sơn à? Có đúng như vậy hay không đó? Tại hạ nghĩ rằng, cô nương không dám nghe thì phải hơn, bởi tại nơi đó, cô nương đã làm một chuyện hay hay!
Chàng tiếp nối với giọng mỉa mai:
– Cái chuyện hay hay do cô nương làm ra, trên giang hồ không mấy kẻ hoan nghinh, trừ cái hạng người vong ân bội nghĩa, toan phản bạn giết thầy ...
Đáng lẽ Khổng Linh Linh phải nổi giận, vì Quan Sơn Nguyệt mắng nàng quá nặng nề. Còn gì nặng hơn những tiếng mắng vong ơn bội nghĩa, phản bạn, hại thầy? Vậy mà nàng vẫn bình tịnh như thường. Nàng cười lạnh, thốt:
– Có chi đâu? Ngươi khỏi phải mỉa mai ta! Cho ngươi biết, Tuyết lão bà đâu có xứng đáng là sư phụ của ta, mà ngươi hòng nói đến việc phản bội? Thực tình thì bà ấy có dạy ta học vũ công hơn mười năm dài, nhưng tiếng là thế, kỳ thực thì ta đã lãng phí suốt thời gian mười năm dài đó! Ngươi hiểu chứ, một tấc quan âm, một tấc vàng, huống hồ mười năm dài ta bỏ phí? Ta hận bà ấy làm mất thì giờ của ta thì có, chứ ơn gì của bà ta mà ta nhớ? Nghĩa gì của bà ta mà ta trọng chứ?
Quan Sơn Nguyệt «hừ» một tiếng:
– Học tập với bà ấy hơn mười năm mà cô nương cho rằng lãng phí thời gian?
Khổng Linh Linh «xì» một tiếng lớn:
– Ta học gì? Những môn công do bà ta truyền dạy, toàn là vô dụng, chẳng có giá trị nhỏ nhặt nào cả!
Quan Sơn Nguyệt thấy nàng phủ nhận ơn nghĩa sư tôn của nàng một cách trắng trợn quá, bất giác nổi giận, quát:
– Câm đi! Cô nương càng nói, tại hạ càng khinh cô nương, nói nữa làm chi?
Con người ta, dù chỉ được kẻ khác giáo huấn cho một ngày, một bữa, kẻ đó vẫn là thầy, kẻ đó suốt đời phải được tôn kính! Huống chi Tuyết Lão Thái Thái từng nuôi dưỡng, từng giáo huấn cô nương suốt thời gian dài mười mấy năm, cô nương lại nỡ phủ nhận công ơn của bà ta thì rõ thật cô nương chẳng còn nhân tánh vậy!
Lời nói của cô nương chẳng phải là ngôn ngữ của loài người vậy!
Bây giờ thì Khổng Linh Linh phẫn uất thật sự. Nàng hét lớn:
– Quan Sơn Nguyệt! Bằng vào đâu, ngươi lại dám to tiếng mắng ta không phải là con người? Ngươi có biết tại sao ta không muốn nghe ai nhắc đến ba tiếng Côn Lôn Sơn chăng? Cho ngươi biết, chính tại đó, ta đã sơ sót buông tha kẻ thù đã sát hại phụ thân ta, cho nên nghe ai nói đến địa phương đó, ta sôi sục niềm căm hờn! Nếu lúc đó ta biết được sự tình, thì làm gì ngươi sống sót đến ngày nay?
Quan Sơn Nguyệt cười lạnh, chận lời:
– Khổng Linh Linh! Cô nương nói nghe thông vô cùng! Mười mấy năm giáo dưỡng cho cô nương nên người, lại có những phương tiện tự vệ đáng giá, thế mà Tuyết Lão Thái Thái chưa xứng là một ân sư của cô nương! Còn như phụ thân của cô nương đã trốn tránh ngay cái bổn phận làm cha, không hề chiếu cố đến cô nương ngay từ lúc cô nương còn ấu trĩ, thử hỏi lịnh tôn có ân nghĩa gì đối với cô nương? Cho nên, nghe cô nương nhắc nhở đến mối phụ thù, lại cho là mối huyết hải thâm thù, thực tình tại hạ nghi ngờ quá đi thôi, cô nương ơi! Cô nương nói thế, là do cái tâm thành mà nói, hay nói để mà nói cho có cái hậu đức lòe đời hở cô nương? Người như cô nương, bội sư, phản bạn, lại biết đến mối thù của cha nữa sao?
Khổng Linh Linh biến sắc mặt xanh dờn. Tranh luận với Quan Sơn Nguyệt, càng phút nàng càng thấy mình đuối lý, nàng phẫn uất cực độ, chuyển nhanh sang giai đoạn tranh tài liền. Lập tức, nàng rút thanh trường kiếm bên hông ra khỏi vỏ, hét lớn:
– Quan Sơn Nguyệt! Đừng khua môi múa lưỡi với ta nữa ...
Nàng gằn giọng tiếp nối:
– Những vật ta hứa trao cho ngươi, hiện ở trên lưng lạc đà kia, ngươi hãy lấy đi, lấy rồi cùng ta khai trường tử chiến, nhất định hôm nay giữa chúng ta phải có một kẻ chết, một kẻ sống! Chúng ta đã thành hai thù nhân bất cộng đái thiên, ngươi nên biết như vậy mà giữ mình!
Quan Sơn Nguyệt nạt ngang:
– Tại hạ đâu có thời giờ đùa cợt với cô nương? Hôm nay, tại hạ có ước hẹn với Phi Lạc Đà, tại hạ chỉ chấp nhận giao thủ với hắn thôi!
Khổng Linh Linh «hừ» một tiếng:
– Ta là Phi Lạc Đà đây, ngươi hãy động thủ gấp!
Quan Sơn Nguyệt lắc đầu:
– Không! Tại hạ không có ước hẹn với cô nương, làm thế nào động thủ với cô nương được? Tại hạ đang chờ một nam nhân, tên là Kỳ Hạo! Cô nương nghe rõ chưa, một nam nhân tên Kỳ Hạo, chẳng phải là một nữ nhân tên Khổng Linh Linh!
Khổng Linh Linh cao giọng:
– Y là trượng phu của ta đó, vợ chồng ta cùng một danh hiệu, ngươi chẳng còn lý do gì để tránh né cuộc chiến với ta!
Quan Sơn Nguyệt giật mình:
– Hắn là trượng phu của cô nương? Các vị kết hôn với nhau từ lúc nào thế?
Khổng Linh Linh quát:
– Kết hôn lúc nào mặc ta, việc đó can gì đến ngươi mà ngươi phải hỏi chứ?
Cứ biết, ta không lừa ngươi là đủ rồi!
Quan Sơn Nguyệt lắc đầu:
– Không thể được, cô nương ơi! Tại hạ cần phải hỏi cho minh bạch. Nợ có chủ, oan có đầu, nghiệp có duyên. Nếu không minh bạch thì khi nào tại hạ hành động hồ đồ? Cô nương phải biết, giữa tại hạ và Phi Lạc Đà, sự liên quan nào phải chỉ giới hạn trong phạm vi một cuộc chiến đâu? Sự tình còn dài, dài lắm cô nương ạ!
Khổng Linh Linh đang thủ thế, chờ Quan Sơn Nguyệt xuất chiêu, nghe chàng nói như vậy, vội hoành ngang ngọn kiếm trước ngực, xóa bỏ tư thế ứng chiến vừa rồi, đoạn hỏi:
– Ngươi còn muốn gì nữa? Cứ nói đi, ta cố gắng dằn tánh nóng thêm mấy phút giây, chờ ngươi nói.
Quan Sơn Nguyệt suy nghĩ một chút, đoạn cất tiếng:
– Ai là thủ phạm cướp bạc bảo tiêu, giết người tại thành Lương Châu?
Khổng Linh Linh cười lạnh:
– Ta! Chắc ngươi muốn biết lý do? Ta không vì số bạc, ta chỉ vì thù. Phái Chung Nam từng có thái độ vô lễ với phụ thân ta, ta có bổn phận trừng trị chúng.
Quan Sơn Nguyệt lại hỏi:
– Ai dùng Phi Đà Lệnh, cố ý ước đấu với tại hạ? Cũng cô nương luôn?
Khổng Linh Linh lắc đầu:
– Không phải ta! Việc đó, chính trượng phu ta làm. Y có cái lý do của y, cũng như ta hành sự có cái lý do của ta.
Quan Sơn Nguyệt giật mình:
– Lý do của hắn như thế nào?
Khổng Linh Linh quát:
– Ngươi hỏi vơ vẩn quá chừng! Ta làm sao biết được tâm ý của y? Y có cho ta biết đâu?
Quan Sơn Nguyệt «hừ» lạnh:
– Tốt hơn hết, cô nương nên đi gọi hắn đến đây! Giữa tại hạ và hắn, có một vấn đề hết sức quan trọng, cần phải giải quyết, càng sớm càng hay. Sự liên hệ giữa Minh Đà và Phi Đà, cô nương không thể thay mặt cho hắn giải quyết được.
Hơn nữa, tại hạ không thích xuất thủ với nữ nhân, cô nương đừng bức bách tại hạ, vô ích!
Khổng Linh Linh nổi giận:
– Quan Sơn Nguyệt! Giả như ngươi khiếp sợ ta, thì cứ quỳ xuống đi, quỳ rồi cúi đầu, chấp tay vái ta ba lượt, ta sẽ tha thứ cho!
Quan Sơn Nguyệt trầm giọng:
– Khéo nói nhảm! Chết, tại hạ còn chẳng sợ, cô nương là cái quái gì, tại hạ phải sợ chứ? Phải biết, cuộc tranh chấp giữa Minh Đà và Phi Đà rất quan trọng, cô nương không đủ tư cách dùng danh nghĩa Phi Đà, khiêu chiến tại hạ đâu!
Dưới ánh trăng, gương mặt của Khổng Linh Linh hiện ra trắng nhợt, sắc mặt đó chứng minh niềm phẫn nộ bốc cao nơi tâm tư nàng. Nhưng, Quan Sơn Nguyệt dùng lời lẽ ôn tồn, tuy có phần lạnh nhạt, nàng chẳng có một lý do nào để phát tiết niềm phẫn nộ cực độ đó. Thành thử, nàng thấy khó chịu hơn, khó chịu vì phải dồn nén trong lòng, không nơi phát tiết.
Lâu lắm, nàng mới tiếp nối với giọng trầm trầm:
– Ngươi giết cha ta, ta phải báo thù, ta khiêu chiến ngươi, như vậy chưa phải là một lý do chánh đáng sao? Ta không đủ tư cách động thủ với ngươi sao? Kỳ Hạo có lý do của y, ta có lý do của ta, sao ngươi phủ nhận cái lý do của ta, mà chỉ chủ trọng đến một nguyên nhân khác?
Quan Sơn Nguyệt trầm ngâm một phút, đoạn buộc miệng thở dài:
– Cô nương nói thế, thì tại hạ không còn cự tuyệt nữa được!
Khổng Linh Linh «hừ» một tiếng:
– Trừ ra ngươi khiếp nhược, sợ ta giết nên mới thoái thác thôi!
Nàng rời lưng Hắc Đà, nhảy xuống đất, bước đi hơn mươi bước, rồi quay đầu lại, bảo Quan Sơn Nguyệt:
– Thủ lấy Kim Thần của ngươi cho chắc đi, chúng ta bắt đầu là vừa!
Cần gì phải thủ lấy Kim Thần? Bất cứ một vũ khí nào cũng khả dụng cho chàng trong lúc nầy cả, bởi chàng tin chắc là mình sẽ thủ thắng trước Khổng Linh Linh. Như vậy, cần gì phải dùng đến vật sở trường?
Chàng day qua Lữ Vô Úy, thốt:
– Xin Chưởng môn nhân cho tại hạ mượn tạm thanh kiếm!
Lữ Vô Úy trao kiếm liền.
Tiếp lấy thanh kiếm rồi, Quan Sơn Nguyệt nhún chân nhảy đến con Minh Đà, hất chiếc Kim Thần Độc Cước xuống đất.
Khổng Linh Linh trố mắt, hỏi:
– Sao ngươi không dùng chiếc Kim Thần, giao thủ với ta?
Quan Sơn Nguyệt bật cười ha hả:
– Kim Thần, là vật tượng trưng của một Lịnh Chủ, khi nào gặp đối thủ chân chính, tại hạ mới dùng đến. Giả như Phi Đà Lệnh Chủ chân chánh đến đây, thì tại hạ mới dùng đến Kim Thần, cô nương chỉ là một kẻ giả hiệu, tại hạ cần gì phải dùng đến nó?
Khổng Linh Linh lại phải một phen phẫn uất phi thường.
Quan Sơn Nguyệt cử kiếm lên, khoa một vòng, đoạn tiếp:
– Ngoài ra, tại hạ còn có một lý do khác, dùng kiếm đối phó với cô nương.
Thanh kiếm nầy là vật của phái Chung Nam, tại hạ muốn dùng vật của phái Chung Nam, để báo thù cho những người trong phái đó, có như vậy, những oan hồn mới thỏa mãn nơi suối vàng.
Nói đoạn, chàng nhảy lên lưng Minh Đà, bảo:
– Cô nương hãy trở lại lạc đà, lên lưng nó rồi xuất thủ, đừng giao đấu dưới đất, bất tiện cho cô nương!
Khổng Linh Linh không đáp, bước nhanh trở về Hắc Đà, nhảy lên lưng nó, giục nó trở lại, đối trận với Quan Sơn Nguyệt.
Quan Sơn Nguyệt mỉm cười, giục:
– Xuất thủ đi, cô nương! Tại hạ nhường cho cô nương tấn công trước đó!
Khổng Linh Linh vận dụng toàn lực, quét qua một kiếm.
Quan Sơn Nguyệt ung dung cử kiếm đón liền.
«Keng!» Tiếng thép ngân vang, loang dài trong không gian, lửa bắn ra như ngàn sao sáng. Đang đêm, lửa chớp ngời, ắt cả ánh sáng của vầng trăng.
Quan Sơn Nguyệt vẫn ngồi bất động, thản nhiên như chẳng có việc gì, còn Khổng Linh Linh suýt rơi xuống đất. Nàng phải cố gượng lắm mới giữ nguyên mình trên lưng thú.
Minh Đà đứng nguyên tại chỗ, còn Hắc Đà thì phải lùi lại mấy thước, chính nó cũng bị chấn động như chủ nhân của nó.
Quan Sơn Nguyệt cất tiếng cười vang:
– Tại Lương Châu, cô nương ước hẹn với tại hạ, sẽ quyết tranh thư hùng với tại hạ, người chống người, thú so thú, giờ đây, đành là người chưa bại hẳn, mà thú đã kém rồi, như vậy cái lẽ phân định thư hùng đã quá rõ, cô nương thấy chứ?
Huống chi cô nương là thư, tại hạ là hùng, hùng bao giờ cũng trên thư mấy bậc, cô nương ơi!
Chàng cố dùng giọng cao ngạo, khích tiếp:
– Về đi cô nương, về bảo với đấng trượng phu, chọn cho cô nương một con vật khác, sau đó sẽ trở lại tìm tại hạ mà báo thù cho cha!
Lại một lần nữa, Khổng Linh Linh tức uất cực độ, đôi mắt tóe lửa ngời ngời.
Giận cá, chém thớt, nàng vung tay khoa thanh kiếm từ bên trên chém xuống.
Con lạc đà nào có hay biết gì? Mà dù có hay biết, nó cũng chẳng làm sao phản ứng được. Một tiếng «phập» vang lên, máu vọt thành vòi, đầu Hắc Đà rơi xuống đất, lăn long lóc.
Thân lạc đà chưa ngã, Khổng Linh Linh đã nhảy xuống đất rồi.
Quan Sơn Nguyệt giật mình, hỏi:
– Cô nương làm cái gì thế?
Khổng Linh Linh hét lớn:
– Vật vô dụng, để làm gì? Giết đi cho khỏi chướng mắt!
Quan Sơn Nguyệt nổi cáu:
– Bất quá, tại hạ tùy tiện buông đùa một câu, cô nương lại nhẫn tâm sát hại ngay một sanh vật như thế à? Phải biết Hắc Đà là con vật quý, giết nó rồi, chắc gì cô nương lại tìm được một con khác như nó?
Khổng Linh Linh cười lạnh:
– Nhẫn tâm hay từ tâm, mặc ta, vật của ta, ta có quyền xử trí tùy theo ý muốn của ta. Ngươi có lý do gì can thiệp? Có can đảm, hãy xuống đất đi, chúng ta quần nhau một lúc, xem sao!
Quan Sơn Nguyệt sôi giận, nhảy xuống lưng lạc đà, cao giọng thốt:
– Cô nương không được quyền xem rẻ sanh mạng, dù là sanh mạng một con vật!
Khổng Linh Linh cũng quát to:
– Ngươi đừng đắc ý sớm, cho ngươi biết, con Minh Đà của ngươi cũng chưa phải là hi hữu đâu! Hắc Đà của ta, bất quá chỉ là một con vật tầm thường, ta giết một, sẽ có mười, và mười quý hơn nữa kìa! Ngươi cứ chờ xem con Hắc Đà của trượng phu ta, rồi sẽ làm một cuộc so sánh với con vật của ngươi.
Quan Sơn Nguyệt trầm ngâm một chút:
– Tại sao trượng phu của cô nương hôm nay lại không đến?
Khổng Linh Linh lạnh lùng:
– Đến làm gì vội? Khi nào ngươi thắng được ta, thì y mới đến, còn như ngươi bại nơi tay ta, y cần chi phải đến?
Nàng lướt tới, vung kiếm chém liền.
Quan Sơn Nguyệt nghinh đón lập tức.
Lần nầy, giao đấu ngay trên mặt đất, phạm vi hoạt động không bị hạn chế, song phương có thể tận dụng sở năng, quyết áp đảo đối thủ trong mấy phút giây đầu, họ xuất phát toàn chiêu thức tối độc.
Trong thoáng mắt, họ đã trao đổi với nhau hơn mười chiêu. Thép kiếm chạm nhau xoang xoảng, lửa thép bắn ra, chớp ngời. Cuộc chiến càng dài, chiêu thức càng độc, cục diện khốc liệt phi thường.
Quan Sơn Nguyệt thoạt đầu còn khinh thường, dần dần chàng dè dặt hơn, cuối cùng thì chàng lại kinh ngạc, không tưởng nổi là Khổng Linh Linh lại có thực tài như thế. Một nữ nhân, có được kiếm pháp như nàng, kể ra cũng hiếm có trên giang hồ đương thời.
Tuy nhiên, kiếm pháp của Khổng Linh Linh, do chính Tuyết Lão Thái Thái truyền thọ, Quan Sơn Nguyệt thường ngày xem Trương Thanh tập luyện, đã quen mắt rồi. Bây giờ Khổng Linh Linh mang ra đối phó với chàng, chàng không bỡ ngỡ lắm, nhờ vậy mà chàng hóa giải những chiêu tuyệt độc không khó khăn gì.
Nhưng, chỉ qua giai đoạn đầu thôi, thấy không thắng nổi Quan Sơn Nguyệt, Khổng Linh Linh thay đổi kiếm pháp, và hiện tại thì nàng sử dụng toàn những chiêu thức ngụy dị, ảo diệu, ngoài chỗ hiểu biết của Quan Sơn Nguyệt. Do đó, chàng đâm ra lúng túng, phản ứng có phần nào chậm chạp, và dĩ nhiên kém công hiệu rõ rệt.
Bất giác, chàng nổi giận, thầm nghĩ, dù sao chàng cũng là truyền nhân của Độc Cô Minh, lại thua kém một nữ nhân ít tuổi hơn chàng sao?
Chàng phấn động hùng oai, phản công mạnh, chẳng còn vì đối tượng là nữ nhân mà nương tay nữa.
Thực tâm mà xét, chàng chưa đủ sức áp đảo Khổng Linh Linh. Chàng chỉ thủ nhiều hơn công, trong mười chiêu nàng đánh ra, chàng chỉ trả lại được hai chiêu, còn thì hoặc tránh né, hoặc đón đỡ hết sức vất vả.
Khổng Linh Linh thấy rõ nàng nắm cái cơ tất thắng, điểm nụ cười lạnh, gọi Quan Sơn Nguyệt:
– Khách giang hồ truyền tụng ngươi là tay lợi hại, song ta xem ra ngươi quá tầm thường. Bây giờ ta mới biết ngươi chỉ là một kẻ hữu danh vô thực. Không khéo Minh Đà Lịnh tới tay ngươi là phải lu mờ, sư phụ ngươi đã lầm người, chọn một gã giá áo túi cơm như ngươi mà đặt trọn kỳ vọng! Người sẽ tiếc hận biết bao nhiêu khi thức ngộ ra ngươi vô dụng không tưởng nổi!
Quan Sơn Nguyệt vẫn giữ bình tịnh, cho chân khí không loạn động, để ứng chiến, bởi chàng biết rõ, Khổng Linh Linh cố khích nộ chàng, cho tâm tư rối lên, đấu pháp phải mất quy củ, để cuối cùng nàng tùy cơ thủ thắng.
Khổng Linh Linh khích một lần, không hiệu quả, lại khích thêm:
– Xem kiếm pháp của đệ tử mà luận tài năng của sư tôn, ta thấy Độc Cô Minh cũng chẳng phải là bậc cao minh chi đó, bởi kẻ vô dụng thì đào tạo đệ tử vô dụng, điều đó rất hợp lý. Thầy đã kém, thì trò làm sao thành tay phi thường được, phải vậy không, hở Quan Sơn Nguyệt? Giả như ta sanh ra đời sớm hơn độ mười năm thôi, thì nhất định trên giang hồ chẳng bao giờ có cái danh hiệu Minh Đà Lịnh Chủ! Độc Cô Minh đã phải táng mạng nơi tay ta từ lâu!
Quan Sơn Nguyệt cười lạnh:
– Cô nương bất quá được Kỳ Hạo truyền cho mấy cách múa tay, cứ tưởng mình là bậc kỳ tài trong thiên hạ, rõ ngông cuồng quá chừng! Cô nương sao chẳng nhớ đến năm xưa, tín vật của nhà họ Khổng bị ân sư tại hạ lấy đi, dễ như lấy món đồ trong túi? Rồi sau đó hai mươi năm lịnh tôn lại táng mạng nơi tay tại hạ. Thầy như vậy, vô dụng sao? Trò như vậy, vô dụng sao? Đã là những kẻ vô dụng, ân sư tại hạ và tại hạ làm gì tận diệt nổi bọn người trong Lạc Hồn Cốc? Hà hà! Giả như cô nương nói sai, thì nên sửa chữa lại đi là vừa!
Tuy nói thế, bên trong Khổng Linh Linh cũng phải khâm phục Quan Sơn Nguyệt. Đành là chàng ít công hơn thủ, song lối thủ của chàng chặt chẽ phi thường, vững chắc như tường đồng vách sắt. Đã mấy lượt nàng vận dụng toàn lực, định chọc thủng bức tường phòng thủ đó, song kiếm của nàng vừa bị chạm vào là bị hất bật trở lại. Đã lâu lắm rồi, mà nàng vẫn chưa làm gì nổi chàng, mặc dù nàng luôn luôn có ưu thế.
Đánh mãi, nàng không áp đảo được Quan Sơn Nguyệt, khích mãi, chàng cũng không mất bình tĩnh, trái lại, chàng còn trêu tức nàng. Khổng Linh Linh phẫn nộ, chính nàng không giữ tự chủ nổi, bất giác lồng lên như thú dữ bị thương, thét vang dậy:
– Quan Sơn Nguyệt, ngươi phải chết với ta! Nhất định ta phải giết cho được ngươi!
Nàng vung kiếm tới tấp như bất chấp chiêu thức, bất chấp bộ phận nào trên người đối phương, cứ đâm, cứ chém.
Quan Sơn Nguyệt hết sức hãi hùng, không tưởng là khi nàng tức uất lên, lại càng hung dữ vô tưởng. Chàng phải thận trọng từng ly, từng tí, tự nhiên, trước khí thế quật khởi của nàng, chàng quay về thế thủ hoàn toàn.
Thanh kiếm của nàng ngân vang, thanh kiếm rít gió như một vật rỗng lòng được vung mạnh, bật kêu vi vu, tiếng kêu nghe rợn mình.
Phải nhìn nhận kiếm pháp của nàng quả thật tuyệt luân, một nhát đưa ra, mũi kiếm tạo nhiều điểm sao, những điểm sao đó bắn vút vào mình Quan Sơn Nguyệt. Một mũi kiếm phát xuất mà có thể công vào nhiều điểm, thủ pháp đó phải nhanh, phải ảo diệu phi thường.
Cuối cùng, nàng đánh ra một nhát, nhắm vào ba yếu huyệt của Quan Sơn Nguyệt.
Dù chàng có nhanh tay, cũng không hóa giải nổi. Dù chàng có nhanh chân, cũng không đảo bộ tránh né kịp. Bắt buộc, chàng phải liều, đòn đổi đòn, đâm thẳng tới một kiếm ngay ngực nàng. Giả như nàng cứ giữ tư thế, dù nàng có đắc thủ, ngược lại nàng cũng không tránh khỏi mũi kiếm của Quan Sơn Nguyệt xuyên thủng ngực, có thể là thấu qua sau lưng luôn. Và, như vậy, là cả hai đồng quy ư tận.
Nhưng, kiếm pháp và thân pháp của Khổng Linh Linh trên Quan Sơn Nguyệt một bậc. Nàng không khiếp hãi trước cái thế đổi đòn của Quan Sơn Nguyệt.
Nàng nghiêng người qua một bên, nhường mũi kiếm của Quan Sơn Nguyệt lướt qua cánh tay, cách độ tấc.
Nghiêng người như vậy, nàng phải lệch tay kiếm, chếch mũi ra ngoài. Không chậm trễ, nàng hoành tay quét trở lại, xuống hạ bộ của chàng. Nếu lúc đó, nàng đâm thốc lên, mũi kiếm sẽ chọc thủng dạ dưới của Quan Sơn Nguyệt.
Chẳng rõ tại sao, nàng chỉ quét phớt qua luôn, chứ không đâm thốc kiếm lên, thành thử nàng rọc tét một đường nơi tà áo của Quan Sơn Nguyệt. Đoạn, nàng thu kiếm, hồi bộ, rồi bật cười cuồng dại.
Bị đối phương dùng mũi kiếm rọc tét tà áo một đường dài, thay vì thẹn, uất, Quan Sơn Nguyệt điềm nhiên như thường. Chàng nhìn xuống chỗ áo bị tét, đoạn hướng sang Khổng Linh Linh, bình tịnh hỏi:
– Cô nương cười chi?
Khổng Linh Linh cũng nhìn chỗ áo tét của chàng, tiếp tục cười vang:
– Dọc theo đường tét nơi tà áo của ngươi đó, ngươi hãy thuê người thiêu ba chữ:
Minh Đà Lịnh, để đánh dấu cuộc gặp gỡ hôm nay với ta, để cho thiên hạ biết Lịnh Chủ Minh Đà xứng đáng là một tay vô địch trên giang hồ, Lịnh Chủ Minh Đà đáng được hưởng mọi vinh quang trong vũ lâm!
Quan Sơn Nguyệt so hai vai, lạnh lùng đáp:
– Đánh nhau, tất phải có thắng, có bại, đó là lẽ thường, kẻ nào chú trọng quá độ đến thắng, bại, kẻ đó chưa đủ tư cách làm khách giang hồ. Có chi đâu mà cô nương hãnh diện? Huống chi, dòng đời luân chuyển, khi người, khi ta, thắng hôm nay, rồi bại ngày mai, thì sao? Nụ cười đáng được ghi nhận là nụ cười sau cùng, mà tại hạ và cô nương gặp nhau hôm nay, chỉ là lần đầu tiên thôi!
Nàng thắng, Quan Sơn Nguyệt bại, vậy mà chàng thản nhiên như không, thật tình Khổng Linh Linh phải lấy làm lạ, bình sanh nàng chưa từng thấy ai có thái độ như chàng! Nàng sững sờ, nhìn chàng như nhìn một quái vật!
Đúng như vậy, phải là một quái vật, chàng mới không thẹn, không hận.
Chính những người đứng bên ngoài, như Lữ Vô Úy, Tôn Thất, Lạc Tiểu Hồng và Lưu Tam Thái cũng áy náy cho chàng thay, huống hồ chàng là người trong cuộc? Thế mà chàng dửng dưng, như cái bại nầy, người nào đó tiếp nhận chứ chẳng phải chính chàng!
Khổng Linh Linh thoạt đầu còn kinh dị, sau cùng nàng nổi giận. Có lẽ nàng nghĩ rằng Quan Sơn Nguyệt quá khinh miệt nàng, nàng rít giọng, nàng bộc lộ rõ niềm oán độc vô biên:
– Ta dung tha cho ngươi, ngươi chẳng thốt một lời cảm tạ, ta đánh ngươi bại, ngươi lại chẳng thẹn thùng! Phải biết được như thế nầy, thì ta đã đâm thốc mũi kiếm lên, xuyên thủng hạ bộ ngươi rồi, cho ngươi về chầu Diêm chúa!
Quan Sơn Nguyệt bĩu môi:
– Tại sao cô nương dung tha tại hạ? Tại sao?
Khổng Linh Linh nghiến răng keng két:
– Chỉ vì trượng phu ta ngăn trở ta. Y bảo là để ngươi sống, rồi chính tay y hạ sát ngươi!
Quan Sơn Nguyệt bật cười ha hả:
– Trượng phu cô nương nói đúng đấy! Chính hắn là kẻ đối đầu chân chánh, hắn phải giết được tại hạ, tự tay, mới sướng cho hắn! Tuy nhiên, tại hạ chờ xem, hắn có đủ tài làm cái việc đó hay chăng!
Khổng Linh Linh lại nổi giận:
– Đến ta mà ngươi còn không địch nổi, làm gì ngươi thủ thắng được trước trượng phu ta mà huênh hoang là chờ y đến? Đừng nuôi mộng, Quan Sơn Nguyệt! Ta nghĩ, ngươi nên trao Minh Đà Lịnh cho ta, rồi tìm một nơi cô tịch nào đó, sống nốt những ngày tàn, vĩnh viễn từ bỏ cái danh hiệu Minh Đà Lịnh Chủ!
Thẹn lắm! Thẹn lắm!
Quan Sơn Nguyệt cười nhẹ:
– Cũng được chứ, cô nương, song hãy đợi sau khi hội diện với trượng phu cô nương rồi hẵng hay! Bây giờ, quyết định thái độ, tại hạ e còn sớm!
Khổng Linh Linh hét:
– Cái ngông cuồng của ngươi không giúp ích gì cho ngươi cả! Ngươi không có tư cách một nam nhân, đã bại rồi mà không chịu bại, cái da mặt của ngươi chắc là dầy lắm đấy!
Bỗng, Quan Sơn Nguyệt chỉnh nghiêm thần sắc, cao giọng thốt:
– Cho cô nương biết, tại hạ đường đường là một nam nhân, tại hạ lại là Lịnh Chủ Minh Đà, danh dự của tại hạ phải lớn trên giang hồ, có môn phái nào không nể trọng tại hạ? Thì đương nhiên, nếu tại hạ bại hẳn tại hạ phải nhục chứ?
Nhưng, tại hạ dửng dưng như thường, điều đó phải có nguyên nhân. Giả như cô nương khẳng định là mình thắng, vậy cô nương thử vấn tâm xem ...
Khổng Linh Linh «hừ» một tiếng:
– Vấn tâm? Ta có làm gì mà phải vấn tâm?
Quan Sơn Nguyệt trầm giọng:
– Không vấn tâm thì cô nương đưa tay sờ ngực, nghe con tim nhảy như thế nào?
Khổng Linh Linh lấy làm lạ, bất giác đưa tay sờ nơi ngực. Vừa chạm tay vào áo, nàng biến sắc.
Thì ra, ngực áo của nàng cũng bị tét một đường, vì nàng mặc nhiều áo, mà chỉ có một lớp ở bên ngoài bị tét thôi, cho nên nàng chẳng hề nghe một cảm giác nào cả. Đã không có một cảm giác nào, thì làm sao nàng biết được ngực áo bị rọc tét lúc nào?
Nàng soát lại ký ức, nhận ra trước sau Quan Sơn Nguyệt chỉ xuất phát ba chiêu, còn thì chàng chuyên thủ thôi. Mà về hai chiêu đầu, chàng đưa ra nửa vời rồi thu về lập tức. Chỉ có chiêu cuối cùng, là chàng đánh ra trọn vẹn, cái chiêu đồng quy ư tận. Như vậy, ngực áo của nàng phải bị tét trong chiêu thứ ba của Quan Sơn Nguyệt.
Qua phút giây sửng sốt, thẹn thùng, Khổng Linh Linh mất cả vẻ cao ngạo, thấp giọng hỏi:
– Cái chiêu đó, quả thật tuyệt diệu, ngươi có thể cho ta biết, nó tên là gì chăng?
Quan Sơn Nguyệt cười nhẹ:
– Chiêu thức nào lại chẳng có tên? Song cái tên của chiêu thức nầy, nghe không được thanh tao cho lắm. Cái tên của nó, là «Tử Lý Cầu Sanh»!
Khổng Linh Linh suy nghĩ một chút:
– Ta thấy cái tên không thích hợp với chiêu thức tý nào. Giả như ta muốn liều mạng như ngươi, dù cả hai không chết, cả hai cũng phải thọ thương, chắc gì cả hai không chết, khi một bị kiếm xuyên thủng dạ dày, một cũng bị kiếm xuyên thủng ngực. Như vậy, có thể nào gọi là cầu sanh? Cầu sanh trong trường hợp đó, có khác nào vọng tưởng?
Quan Sơn Nguyệt điềm nhiên:
– Cả hai cùng thọ thương, là điều không thể có được. Bởi song phương không đồng tài, đồng sức đến độ cùng xuất chiêu đồng thời, và chiêu thức chạm đích đồng lúc. Bất cứ trong trường hợp nào, cũng có sự sai biệt, về thời gian cũng như về công hiệu, cho dù là sự sai biệt đó rất nhỏ, vẫn đủ giúp cho người trong cuộc chiếm tiên cơ, ai nắm được tiên cơ, là người đó nắm cái lẽ tất thắng.
Chàng dừng lại một chút, đoạn ngưng trọng thần sắc hỏi:
– Cô nương nhớ lại xem, trong chúng ta ai đã chiếm được tiên cơ?
Khổng Linh Linh biến sắc mặt. Nàng đã rõ cái lẽ thắng bại về ai, nàng cũng nhận ra, chính nàng xuất thủ phát chiêu kiếm trước. Nhưng thu kiếm về, lại chính là Quan Sơn Nguyệt nhanh tay hơn.
Thu kiếm nhanh hơn, tất phải lùi trước, và trong trường hợp Quan Sơn Nguyệt lùi trước, thì nếu nàng cứ đâm thốc mũi kiếm lên nhắm vào dạ dày chàng, chắc gì chiêu kiếm đó chạm trúng dạ dày của chàng? Bởi chàng lùi là khoảng cách nơi đó rộng thêm ra, có thể đối phương đã ở ngoài tầm kiếm, nàng đâm kiếm làm sao tới mình đối phương được? Như vậy là Quan Sơn Nguyệt chiếm tiên cơ, sát hại nàng nhưng chàng không lợi dụng cái tiên sơ đó, buông tha cho nàng, chỉ lùi lại thôi.
Chiếm được tiên cơ, nếu chàng cứ đâm tới, ngực nàng sẽ bị đâm thủng, nàng làm gì sử dụng cái thế kiếm đâm thốc vào dạ dày chàng, mà tự hào là mình buông tha?
Bắt buộc, nàng nhận thấy cái thắng của nàng chỉ là một hình thức, và hình thức đó sở dĩ có là vì Quan Sơn Nguyệt tha chết cho nàng. Còn cái thắng thực sự, lại thuộc về phần chàng. Nàng cúi đầu, gương mặt xanh nhợt.
Gầm đầu, biến sắc diện, sau khi nghe chỉ dẫn, điều đó chứng tỏ nàng nhận bại rồi. Nàng «hừ» một tiếng, thốt:
– Quan Sơn Nguyệt! Ta nhận bại, song ngươi khoan đắc ý vội, một ngày nào đó, ta sẽ hoàn lại ngươi, mũi kiếm hôm nay!
Quan Sơn Nguyệt thản nhiên:
– Và như vậy, đã đến lúc trượng phu cô nương xuất hiện!
Khổng Linh Linh trầm giọng:
– Hôm nay, y bận việc, ta đại biểu cho y ...
Quan Sơn Nguyệt lắc đầu:
– Bất cứ việc gì cũng không quan trọng bằng cái việc ước hẹn, bởi sự ước hẹn đánh giá chữ tín của con người, người giữ tín, mới đáng mặt làm người, cho nên sự ước hẹn quan trọng hơn mọi việc trong đời mỗi người. Tại hạ rất hối hận vì đã đính ước với một người không thủ tín!
Khổng Linh Linh quắc mắt, bắn lửa hận chớp ngời, cao giọng thốt:
– Quan Sơn Nguyệt! Ngươi từng gặp trượng phu ta, tất ngươi cũng hiểu rằng không đến là thất tín, dù biết rằng chữ tín rất trọng trong giới giang hồ, y vẫn không đến, hẳn nhiên phải có một sự việc gì quan hệ phi thường, ngăn trở y chứ?
Sự việc đó, quan hệ hơn cả việc thủ tín, cho nên y phải bỏ cái nhẹ, chọn cái nặng!
Nàng gằn từng tiếng:
– Đừng tự đắc là mình tài ba, khiến cho người ta sợ đến đỗi phải thất tín!
Quan Sơn Nguyệt phải nhìn nhận là nàng có lý. Chàng gật đầu:
– Được, tạm thời tại hạ tin như cô nương đã nói. Nhưng tại hạ tin một lần thôi đấy, xin cô nương hãy cho trượng phu cô nương biết là đừng lạm dụng lòng tin của tại hạ mà tái diễn cái điều thất tín thêm một lần nữa.
Chàng nghiêm giọng, tiếp luôn:
– Cô nương bảo là, cô nương đại biểu cho chồng, vậy cô nương hãy ước hẹn lại, vào ngày nào, tại nơi nào, tại hạ sẽ gặp lại trượng phu cô nương?
Khổng Linh Linh lắc đầu:
– Ta không thể tự chuyên ước hẹn với ngươi. Song, ta tin chắc là trượng phu ta sẽ thông tri với ngươi trong nay mai.
Quan Sơn Nguyệt mỉm cười:
– Tại hạ chờ xem.
Khổng Linh Linh «hừ» một tiếng:
– Không lâu đâu! Ta bảo đảm ngươi sẽ không thất vọng.
Nàng quay mình, bước đi.
Nàng đi được mấy bước, Quan Sơn Nguyệt gọi nàng đứng lại.
Nàng nổi giận, hỏi:
– Ngươi gọi ta để làm gì? Chẳng lẽ ngươi không cho ta đi?
Quan Sơn Nguyệt lắc đầu:
– Tại hạ đâu có ý làm khó cô nương. Huống chi, giữ cô nương lại đây, tại hạ hưởng ích lợi gì chứ? Đã buông tha cô nương dưới mũi kiếm vừa rồi, thì bây giờ còn toan làm khó cô nương chi nữa? Bất quá, tại hạ cần nói với cô nương một điều!
Khổng Linh Linh gằn từng tiếng:
– Điều gì?
Quan Sơn Nguyệt đáp:
– Cô nương đã nhận bại nơi tay tại hạ, thì cô nương cũng phải tiếp nhận luôn một điều kiện!
Khổng Linh Linh trầm ngâm một chút:
– Ngươi muốn như thế nào? Ta mong ngươi đừng đặt điều kiện quá khó khăn, trên sức của ta. Vả lại, ngươi nên nhớ, ta là kẻ có chồng, dù sao đi nữa thì cái quyền tự chủ đã mất đi một vài phần rồi ...
Quan Sơn Nguyệt mỉm cười:
– Điều kiện của tại hạ như thế nầy:
Từ đây đến lúc tại hạ giao thủ với trượng phu cô nương, cả hai vợ chồng không được dùng Phi Đà Lịnh để biểu dương cái oai thế trên giang hồ. Thời gian im hơi lặng tiếng phải được tuyệt đối tôn trọng.
Khổng Linh Linh lộ vẻ khó khăn.
Quan Sơn Nguyệt chỉnh nghiêm sắc mặt:
– Có hai trường hợp, cô nương suy nghĩ xem ở trong trường hợp nào.
Trường hợp thứ nhất, là cô nương đại biểu toàn quyền của trượng phu cô nương.
Cô nương đến đây, với tư cách một Lịnh Chủ, cô nương bại là Phi Đà Lịnh Chủ bại, Phi Đà Lịnh không còn lý do tồn tại nữa. Trong trường hợp thứ hai, là cô nương không chính thức đại biểu cho chồng, thì cái bại hôm nay không liên quan đến Phi Đà Lịnh Chủ. Nhưng, cô nương không chính thức thay mặt Phi Đà Lịnh Chủ đến ước hội, mà Lịnh Chủ lại vắng mặt, như vậy là Lịnh Chủ thất ước, không gìn chữ tín. Lịnh Chủ phải tuân theo sự ước thúc của tại hạ.
Chàng nhấn mạnh:
– Cô nương suy nghĩ kỹ, xem mình ở trường hợp nào?
Khổng Linh Linh nín lặng một lúc, rồi bật cười khan:
– Được! Cái lý luận của ngươi, đến cả trượng phu ta cũng chẳng tranh biện nổi, huống hồ là ta! Ta đáp ứng đó, Quan Sơn Nguyệt!
Quan Sơn Nguyệt vẫy tay:
– Thế là cô nương đi được rồi! Nên nhớ thông tri cho trượng phu cô nương biết gấp sự tình, càng biết sớm, càng có hy vọng khôi phục uy tín của Phi Đà Lịnh sớm!
Khổng Linh Linh bước đi luôn.
Lạc Tiểu Hồng bước tới. Nàng cao giọng tán:
– Quan đại ca tài vô cùng! Tôi cứ tưởng đại ca bại rồi chứ! Ngờ đâu đại ca thắng, mà lại có lòng nhân hậu, tha chết cho nàng ấy!
Nàng lại lộ vẻ lo ngại, tiếp nối:
– Tuy nhiên, đại ca mạo hiểm quá đấy! Có cơ hội giết nàng, lại bỏ qua. Để cho nàng quét kiếm trúng áo. Giả như đà kiếm đi xa hơn, quét trúng mình, thì mất mạng đại ca rồi! Hoặc giả, nàng đâm thốc mũi kiếm lên chọt thủng dạ dày, thì đại ca còn mong gì sống sót được chứ? Tha người để hứng cái nguy hiểm, nghĩ đáng sợ thật!
Quan Sơn Nguyệt cười nhẹ:
– Ngu huynh đã tính toán kỹ lắm rồi, mới dám làm thế chứ! Chẳng những ngu huynh biết là chiêu kiếm của nàng không làm thương tổn được ngu huynh, mà nàng còn không dám sát hại ngu huynh nữa đấy!
Lạc Tiểu Hồng trố mắt:
– Tại sao?
Quan Sơn Nguyệt thở dài:
– Nàng là vợ của Kỳ Hạo, mà giữa Kỳ Hạo và ngu huynh ...
Nói đến đó, chàng bỏ lửng, chỉ buông tiếp:
– Mà thôi, ngu huynh không nói gì nữa là hơn. Ngu huynh tin là hiền muội cũng hiểu.
Lạc Tiểu Hồng cau mày:
– Tiểu muội có hiểu được chi nhiều đâu, bất quá một vài điểm ...
Quan Sơn Nguyệt thở dài:
– Thế ngu huynh lại hiểu được gì nhiều hơn hiền muội sao? Chúng ta đành vậy, biết được bao nhiêu, hay bấy nhiêu, rồi sự việc càng ngày càng diễn tiến, cũng có lúc chúng ta sẽ hiểu tận tường.
Chàng trầm giọng, tiếp:
– Đừng nhắc lại việc nầy nữa, hiền muội, sự tình tới đâu, chúng ta ứng phó tới đó.
Lạc Tiểu Hồng thức ngộ, không hỏi gì nữa. Quanh mình nàng, có Lữ Vô Úy, có Tôn Thất, những người đó có thể nghe được chuyện bí mật về những bảng Phong Thần, Phong Ma nào đó chăng? Quan Sơn Nguyệt phải im bặt, lại còn thức tỉnh cảnh giác của nàng, lẽ nào nàng không hiểu tầm quan trọng của sự tình mà hỏi dồn?
Lữ Vô Úy, đứng bên ngoài, buột miệng thở dài.
Quan Sơn Nguyệt nhìn sang lão, hỏi:
– Chưởng môn có điều chi lo ngại?
Lữ Vô Úy cất giọng trầm buồn, đáp:
– Nào có điều gì lo nghĩ đâu, Quan thiếu hiệp! Chẳng qua lão phu nhận thấy mình hết sức vô dụng, gặp cừu nhân trước mặt mà chẳng làm gì được, như vậy còn dám xưng mình là Chưởng môn nhân một phái võ được nữa sao?
Quan Sơn Nguyệt có phần nào áy náy. Chàng nhận thấy, trong câu nói của Lữ Vô Úy có ngụ cái ý oán hờn. Nhưng, chàng biết làm sao hơn?
Khi sự việc có liên quan đến chàng, luôn những bằng hữu của sư phụ chàng, thì chàng đâu có thể tự tung tự tác làm một việc trái ngược với chủ trương, với chí nguyện của bao nhiêu vị tiền bối, và làm như vậy chỉ để thỏa mãn niềm thù hận của một người, mà người đó không mảy mai liên hệ đến chàng cũng như đến cả những vị tiền bối? Dù người đó là một Chưởng môn nhân, dù người đó thuộc chánh phái, cũng thế thôi. Người đó vẫn là kẻ lạ, đối với chàng. Chàng không thể thỏa mãn một niềm riêng của một kẻ lạ, để hủy bỏ hoài vọng của bao nhiêu người, trong đó có chàng.
Chàng thở dài, nói:
– Có lẽ Chưởng môn nghĩ lầm cho tại hạ đó. Không hạ sát nàng ấy, để báo thù cho quý phái, thực ra điều đó làm cho tại hạ khổ tâm vô cùng. Mà dù không có mối thù giữa quý phái đối với nàng, nàng cũng vẫn đáng bị trừ diệt, bởi cái tâm của nàng quá hung, cái ý của nàng quá ác, tại hạ không thể buông tha nàng một cách dễ dàng như vậy. Nhưng, Chưởng môn có biết đâu, sự an nguy của nhiều bằng hữu trên giang hồ có liên quan đến nàng, nếu hạ sát nàng bây giờ, thì bao nhiêu người sẽ chết vì cái chết của nàng hoặc gặp tai họa phi thường ...
Lữ Vô Úy giật mình, toan nói gì đó, Lưu Tam Thái bước tới, chận lời:
– Chưởng môn nhân bất tất phải hỏi thêm gì nữa, Lịnh Chủ bao giờ hành sự cũng thận trọng.
Lữ Vô Úy thở dài.
Tư Mã Tử Yên
Võ Lâm Phong Thần Bảng
Hồi 18
Đường Lên Kiếm Các
Quan Sơn Nguyệt đứng bên ngoài, bình tĩnh theo dõi cuộc giao đấu giữa Lạc Tiểu Hồng và Nhất Luân Minh Nguyệt, đồng thời cũng quan sát thái độ của hai lão nhân.
Chàng nhận ra, họ là những bậc đã đạt mức thượng thừa của vũ học, hơn nữa, chàng lại còn biết hai vị hẳn là những người có tên trong Phong Thần Bảng. Bởi, Vạn Lý Vô Vân đã nói đến ba tiếng Tiểu Tây Thiên, mà nơi đó, theo chàng nghĩ, là địa phương phát xuất ra cái bảng bí mật Phong Thần.
Họ từ Tiểu Tây Thiên đến đây, hiển nhiên lai lịch của họ liên quan đến Phong Thần Bảng.
Nhận ra điều đó, chàng thừa hiểu Lạc Tiểu Hồng chưa phải là đối thủ của Nhất Luân Minh Nguyệt.
Đáng lý ra, chàng phải vào cuộc ngay để tiếp trợ nàng, đề phòng mọi sơ thất tai hại xảy ra. Song, nhìn qua cuộc chiến, chàng thấy Nhất Luân Minh Nguyệt không hề vận dụng công lực đánh trả lại nàng. Lão nhân không ác ý, thì nàng sẽ không bị nguy hại đến tánh mạng, như chàng còn cần gì phải can thiệp?
Nhưng, cuối cùng, lão nhân chế ngự được nàng, lại mang nàng lên trên tảng đá, vô hình trung chàng lo ngại thực sự cho Lạc Tiểu Hồng chàng mất cả bình tĩnh, cứ tưởng là Lạc Tiểu Hồng sẽ gặp nguy hiểm, cho nên chàng vọt mình tới, nắm đầu dây phía dưới giật mạnh.
Sợi dây đó, là ngọn nhuyễn tiên của Lạc Tiểu Hồng một đầu lơi lỏng bên ngoài, để giao chiến, đầu kia buộc dính nơi tay.
Quan Sơn Nguyệt giật mạnh, dây lôi luôn Lạc Tiểu Hồng xuống bên dưới.
Nhất Luân Minh Nguyệt đáp xuống tảng đá, sững sờ.
Quan Sơn Nguyệt sôi giận, quát:
– Đã thuộc hàng tiền bối, sao nỡ hạ độc thủ đối với bọn hậu sanh? Tiền bối hành động như vậy, chẳng sợ giang hồ sỉ tiếu cho à?
Nhất Luân Minh Nguyệt càng sững sờ hơn. Lão thất vọng ra mặt. Một lúc lâu, lão thở dài, thốt:
– Cũng được! Ngươi muốn nói gì lão phu, cứ nói, tùy tiện nói. Ngươi yên trí, lão phu chẳng bao giờ có một phản ứng nào.
Vạn Lý Vô Vân trố mắt:
– Tại sao thế, Minh Nguyệt? Ta thấy rõ, ngươi đắc thủ rồi mà, sao bỗng nhiên lại buông lơi?
Nhất Luân Minh Nguyệt thừ người ra đó, chẳng nói tiếng gì.
Lạc Tiểu Hồng cũng chẳng biết sự tình đã xảy ra như thế nào cứ tưởng là tự nàng giải thoát cho nàng, nên cao hứng vô cùng gọi Quan Sơn Nguyệt, thốt rối rít:
– Đại ca ơi. Tiểu muội sử dụng ngọn nhuyễn tiên tuyệt diệu quá cái đầu roi đánh trúng lão ta ...
Vạn Lý Vô Vân thấy nàng ngông cuồng, tự đắc quá độ bất giác nổi giận, buông chén rượu xuống tảng đá, rồi phi thân đáp trước mặt nàng, đồng thời quát lớn:
– Lão mập ấy dù có đối xử bất nhã với ngươi, tuy nhiên ngươi phải nhận thấy là lão ta chẳng có ác ý chút nào, bất quá lão muốn đùa nơi ngươi để tạo một cái hứng thú cho tất cả cùng cười vui, tại sao ngươi lấy giả làm thiệt, quyết thi triển những chiêu độc, dồn lão vào con đường cùng?
Lạc Tiểu Hồng ương ngạnh thành tánh, hét trả:
– Ai dồn lão ấy vào đường cùng chứ?
Vạn Lý Vô Vân «hừ» một tiếng:
– Lão ấy có nói cho ngươi nghe rồi, ngươi quên sao? Lão ta bình sanh chẳng hề giao đấu với ai quá hai mươi chiêu, qua cái số đó rồi, là cầm như lão tử vong, nhưng lão vẫn kéo dài cuộc đấu với ngươi đến chiêu thứ mười chín, đáng lẽ ngươi phải thấy chỗ lão muốn đùa chứ? Ngươi tài sức bao nhiêu mà lão phải đánh đến chiêu mười chín? Cho ngươi biết, nếu cần đánh chết ngươi, lão chỉ xuất thủ qua một chiêu đầu thôi, là ngươi mất mạng ngay. Thế mà ngươi ngoan cố, cứ đánh luôn đánh mãi đến hai mươi chiêu! Với chiêu cuối cùng, lão bắt buộc phải đánh bại ngươi, đánh bại để lão khỏi phải tử vong, đánh ngươi bại để bắt buộc ngươi ăn thịt nướng, thiệt hại gì cho ngươi đó, mà ngươi phản công bằng độc thủ?
Lão «hừ» lớn hơn một chút, gằn từng tiếng tiếp:
– Ngươi đáng ghét quá chừng, thế là ngươi muốn lão không đắc thủ với chiêu thứ hai mươi thế, là ngươi dồn lão vào đường cùng! Còn biện bạch gì nữa?
Lạc Tiểu Hồng cười lạnh:
– Ai bảo lão ra cái hạn định hai mươi chiêu một cách quái dị như thế? Đúng là một quy củ của kẻ điên cuồng đó. Quy củ của lão thế nào thì mặc lão có can gì đến tôi mà lão trượng lại trách cứ tôi? Lão trượng cho rằng tôi hạ độc thủ, chứ lão chẳng hạ độc thủ trước tôi à? Độc thủ của lão hại chết tôi kia mà!
Cũng như lão nhân, nàng dừng lại, «hừ» một tiếng, rồi tiếp:
– Người ta không trách cho chẳng ơn người ta, trái lại còn trách ngược!
Trên đời sao lại có những người vô lý thế?
Vạn Lý Vô Vân đuối lý, im lặng.
Nhất Luân Minh Nguyệt thở dài, thốt:
– Thôi lão ốm ơi! Cầm như xong cho ta rồi vậy! Sự tình đã như thế thì có nói chi nhiều cũng vô ích! Có đáng trách chăng là tại ta có tánh cợt đùa, không ngờ ta phải chết vì cái tánh đó!
Vạn Lý Vô Vân lộ vẻ ảm đạm:
– Minh Nguyệt! Ngươi chết như vậy, bảo ta làm sao an tâm cho được chứ!
Nhất Luân Minh Nguyệt trầm buồn thở ra:
– Mạng lý sử nhiên, muốn an tâm cũng chẳng an tâm, mà có bận tâm cũng vô ích! Cái việc hồi phục tên họ trên Tiên Bảng, từ nay chỉ còn trông cậy ở một ngươi ... Nghĩ đến kế hoạch của chúng ta, đeo đuổi suốt mấy năm dài, gần đến lúc thành công thì lại hoàn toàn đổ vỡ! Tiếc thay!
Quan Sơn Nguyệt cau mày, hỏi gấp:
– Tại hạ có hỏi các vị, các vị có phải là những nhân vật trên Tiên Bảng hay không, các vị đối đáp hồ đồ, rồi bây giờ, các vị bỗng nhiên lại tự thú, thế là nghĩa gì? Tại hạ muốn biết về Tiên Bảng, chẳng hay các vị có thể giải thích phần nào chăng?
Nhất Luân Minh Nguyệt, nhìn thoáng qua chàng, đáp:
– Nói làm chi? Ngươi đã hiểu thì thôi, thiết tưởng không nên hỏi.
Quan Sơn Nguyệt lắc đầu:
– Nào tại hạ có biết gì đâu? Bất quá tại hạ nghe nói đến hai tiếng đó, bây giờ hai vị nhắc, nên phải hỏi cho biết vậy thôi.
Nhất Luân Minh Nguyệt tiếp:
– Việc ngươi hỏi, bọn lão phu không thể giải thích cho ngươi hiểu đâu. Bọn lão phu là những người có tên trên đó, song vì phạm lỗi mà bị xóa tên đi, khi nào phục hồi được tên hiệu ở ngôi vị cũ, mới có quyền đề cập đến.
Quan Sơn Nguyệt cau mày, suy nghĩ một chút, lại hỏi:
– Thế tiền bối nhất định tự sát à?
Nhất Luân Minh Nguyệt trừng mắt:
– Việc như vậy mà ngươi còn nghĩ là ta đùa à?
Quan Sơn Nguyệt lại trầm ngâm một chút:
– Không có cách nào bổ cứu sao, tiền bối?
Nhất Luân Minh Nguyệt thở dài:
– Cũng có phương pháp bổ cứu chứ, song lão không muốn tiếp nhận đó thôi!
Quan Sơn Nguyệt mỉm cười:
– Đành vậy, song thiết nghĩ tiền bối cũng có thể nói thử cho tại hạ nghe, nghe rồi bỏ qua, có sao đâu?
Nhất Luân Minh Nguyệt trầm giọng:
– Nếu lão phu không tự sát, thì suốt đời chịu quyền phải sai sử của tiểu cô nương! Ngươi thấy đó, lão phu có thể tiếp nhận một biện pháp như vậy chăng?
Lạc Tiểu Hồng thốt:
– Có gì đâu mà cho là không tiếp nhận được? Miễn tôi không sai sử việc này việc nọ là xong!
Nhất Luân Minh Nguyệt lắc đầu:
– Cô nương nói thế, không ổn rồi, bởi cái quy củ của lão phu, tự lão phu lập ra, lão phu phải tuân theo, cô nương chẳng liên quan gì đến quy củ đó, cho nên điều cô nương muốn, không thành vấn đề.
Lạc Tiểu Hồng «hừ» một tiếng:
– Như vậy là cầm như không còn phương pháp nào cứu vãn sanh mạng của tiền bối rồi!
Nhất Luân Minh Nguyệt thở dài.
Vạn Lý Vô Vân cũng thở dài.
Cả hai cùng nhìn nhau một lúc lâu, gương mặt người nào cũng lộ vẻ ảm đạm, song chẳng ai nói với ai một tiếng gì.
Lạc Tiểu Hồng vụt hỏi:
– Đã biết thế nào cũng phải chết, sao tiền bối còn chờ gì mà chưa tự sát?
Nhất Luân Minh Nguyệt nhếch nụ cười khổ:
– Lão phu còn chờ làm xong một việc cho cô nương, sự kiện đó cũng là một chi tiết thuộc về lời thề của lão phu. Lời thề đó là nếu có người nào chi trì nổi một cuộc đấu với lão phu trong vòng hai mươi chiêu mà không bại, thì lão phu phải phục dịch người đó suốt đời, bằng không chịu phục dịch người đó, thì lão phu cũng phải thay thế người đó, làm một việc gì, khi nào làm xong việc lão phu sẽ tự sát. Chính lão phu đang chờ làm một việc chi cho cô nương, nên chưa tự sát, chứ chẳng phải lão phu sợ chết mà dần đà ...
Lạc Tiểu Hồng bĩu môi:
– Rắc rối quá, chỉ có mỗi một cái chết, mà cũng phải qua điều kiện này, điều kiện nọ!
Nhất Luân Minh Nguyệt nổi giận:
– Chứ cô nương cho là dễ lắm à? Cho cô nương biết, trên thế gian này, không phải dễ tìm một người có thể chi trì đủ hai mươi chiêu của lão phu! Nếu mà cô nương đừng quá kém, thì lão phu đâu lại bị cô nương lừa? Bởi cô nương kém, nên lão phu đùa vui, còn như cô nương là tay khá, thì lão phu đã xuất thủ thực sự ngay từ lúc đầu, và cô nương đã bại rồi! Như vậy, sự tình đâu đáng tiếc?
Quan Sơn Nguyệt không tin lắm, hỏi:
– Nói như thế, có nghĩa là tiền bối cho mình vô địch trong thiên hạ?
Nhất Luân Minh Nguyệt lắc đầu:
– Không phải vậy đâu. Lão phu muốn nói đến cái chỗ giao đấu thực sự và giao đấu đùa, nếu giao đấu thực sự, thì dù có bại trong hai mươi chiêu, lão phu cũng chẳng ân hận, huống chi lão phu tin chắc là mình không bại trước cô nương?
Chứ còn ... giao đấu đùa như thế này, lại bại, lại phải mất mạng, thì ... oan uổng lắm chứ!
Quan Sơn Nguyệt bước đến cạnh Lạc Tiểu Hồng, thì thầm bên tai nàng mấy câu.
Lạc Tiểu Hồng vừa cười vừa gật đầu.
Khi Quan Sơn Nguyệt dứt tiếng, nàng hương sang Nhất Luân Minh Nguyệt, hỏi:
– Tiền bối chờ làm cho tôi một việc, chẳng hay việc đó có hạn chế làm sao chăng?
Nhất Luân Minh Nguyệt lắc đầu:
– Không hạn chế làm sao cả. Lão phu cứ làm hết sức mình thôi, nhược bằng không làm nổi, thì lão phu lấy cái chết đền đáp:
Lạc Tiểu Hồng mỉm cười:
– Thế thì tiền bối nghe tôi nói đây, việc tôi nhờ tiền bối làm giản đơn lắm!
Nhất Luân Minh Nguyệt ngưng trọng thần sắc, chú ý lắng nghe.
Vạn Lý Vô Vân cũng lộ vẻ khẩn trương vô cùng.
Lạc Tiểu Hồng gằn từng tiếng:
– Tôi ra lịnh cho tiền bối phải trân trọng cái mạng sống của mình, dù có gặp trường hợp hiểm nguy như thế nào đi nữa, cũng chẳng nói đến cái chết một cách dễ dàng!
Nhất Luân Minh Nguyệt sững sờ. Lâu lắm, lão mới thốt:
– Không được đâu, cô nương? Như vậy là ngược lại lời thệ của lão phu. Lão phu không thể tiếp thọ!
Lạc Tiểu Hồng chỉnh sắc mặt:
– Tiền bối đừng quên là chính tiền bối lập ra quy củ, tiền bối phải theo quy củ, tiền bối chỉ có bổn phận tuân hành, chứ không có quyền cự tuyệt.
Nàng cao giọng tiếp luôn:
– Từ hôm nay trở đi, tiền bối hãy tuân lịnh tôi, tuyệt đối phải giữ gìn sanh mạng! Không được tự ý, muốn chết là chết?
Nhất Luân Minh Nguyệt trầm ngâm một lúc, đoạn thở dài cất giọng u buồn thốt:
– Thôi thì đành vậy, chứ biết sao? Từ nay, lão phu một mực tuân mạng cô nương.
Lạc Tiểu Hồng gật gù, tiếp:
– Còn nhờ việc này nữa, tôi nhờ luôn tiền bối. Như tiền bối đã nói, tôi muốn sự gì, tiền bối phải làm sự đó. Đúng vậy chăng?
Nhất Luân Minh Nguyệt đáp:
– Lão phu khi nào quên? Tiếc chi đâu, cô nương nói đi!
Lạc Tiểu Hồng thốt nhanh:
– Tiền bối hãy nói cho tôi nghe, những gì tiền bối hiểu biết về Long Hoa Hội, và Phong Thần Bảng.
Nhất Luân Minh Nguyệt biến sắc mặt, không biết phải mở miệng nói như thê nào.
Lạc Tiểu Hồng cao giọng:
– Tôi mới ra một mạng lịnh đầu tiên mà tiền bối muốn phản kháng rồi phải không? Tiền bối bất tuân à?
Nhất Luân Minh Nguyệt do dự một lúc, sau cùng thở dài, rồi nhếch mép, sắp sửa cất tiếng.
Vạn Lý Vô Vân kêu lên:
– Lão mập định nói phải không? Ngươi mở miệng là ta xuất thủ liền, cho ngươi biết! Chỉ vì trách nhiệm của ta là thế, dù ta với ngươi giao hảo từ mấy năm nay rồi, ta không thể trọng tình bằng hữu mà bỏ qua trách nhiệm.
Nhất Luân Minh Nguyệt cười khổ:
– Vạn Lý huynh! Giết lão phu là phải, nên giết lão phu hơn là để cho lão phu sống. Sống làm gì, khi sống còn mà phải thọ tội thì thà chết mà được an hơn!
Quả nhiên, Vạn Lý Vô Vân đưa cao tay lên, bàn tay sè ra, nơi lòng bàn tay hiện ra màu vàng nhợt.
Nhất Luân Minh Nguyệt thốt xong nhắm mắt ngồi yên, như chờ đợi Vạn Lý Vô Vân xuất thủ.
Lạc Tiểu Hồng kêu to:
– Tại sao tiền bối không chống cự?
Nhất Luân Minh Nguyệt thở dài:
– Lão ấy phát xuất «Kim Phật Chưởng», lão phu còn mong sống sót sao?
Có chống cự cũng vô ích.
Lạc Tiểu Hồng tỏ vẻ nghi hoặc:
– Lão ấy có vũ công cao minh hơn hẳn tiền bối à?
Vạn Lý Vô Vân nghiêm sắc mặt:
– Không phải vậy đâu, lão ấy có chống cự cũng không thoát chết, mà chính lão phu cũng phải chết luôn theo lão. Lão không nghĩ là phải giết ta, bởi lão thừa hiểu ta giết lão vì bổn phận chứ chẳng phải vì thù. Lão bằng lòng cho ta làm bổn phận, nên lão không chống cự.
Lạc Tiểu Hồng lấy làm lạ:
– Tại sao lão ấy xuất thủ rồi tiền bối cũng chết luôn?
Vạn Lý Vô Vân giải thích:
– «Thái m Thần Công» của lão lợi hại lắm, chẳng kém gì «Kim Phật Chưởng» của lão phu, nếu lão đem ra sử dụng, thì cả hai cầm như đồng quy ư tận.
Lạc Tiểu Hồng giật mình.
Quan Sơn Nguyệt đưa tay ra hiệu cho nàng.
Lập tức nàng thốt:
– Thôi, được rồi! Tôi xin rút mạng lịnh đó lại. Và bây giờ thì tiền bối chuẩn bị đi theo tôi.
Nhất Luân Minh Nguyệt thở dài:
– Tự nhiên lão phu phải đi theo tiểu cô nương!
Vạn Lý Vô Vân cười lạnh, hướng sang Lạc Tiểu Hồng:
– Cô nương đừng tưởng dẫn lão mập đi nơi khác, xa lão phu rồi hỏi lão về việc đó! Cho cô nương biết, lão phu không ly khai lão ta đâu! Lão ta đi đến địa phương nào, lão phu cũng đến địa phương đó, lão phu sẽ giám thị lão ta, bất cứ trong phút giây nào.
Lạc Tiểu Hồng bĩu môi:
– Giả như tôi ra lịnh cho lão phải đuổi tiền bối đi nơi khác, không cho tiền bối theo?
Vạn Lý Vô Vân lại cười lạnh:
– Khó lắm, tiểu cô nương ơi! Bọn lão phu sống chung nhau đi đứng nằm ngồi đều chung nhau, từ mấy mươi năm rồi, cả hai không hề xa nhau nửa phút.
Lão ấy không thể đuổi lão phu, mà lão phu cũng chẳng thể bỏ lão đi một mình.
Nếu cô nương buộc lão dùng võ, thì lão ta và lão phu đồng quy ư tận!
Lạc Tiểu Hồng thất vọng. Nàng chẳng có biện pháp nào có thể dùng được nữa. Nàng lắc đầu tỏ vẻ chán nản, nhìn Quan Sơn Nguyệt vấn kế.
Quan Sơn Nguyệt suy tư một lúc, đoạn thốt:
– Đừng vội, tạm thời chúng ta cứ bảo lão đi theo, sau đó hãy tính.
Gặp sự việc như vậy, Lạc Tiểu Hồng và Quan Sơn Nguyệt không còn cái hứng du sơn ngoạn cảnh, cả hai quay ngựa xuống núi.
Họ đi trước, hai lão nhân theo sau.
Họ cỡi ngựa cỡi Lạc Đà, hai lão nhân đi chân, thế mà người đi chân vẫn mau như người cỡi thú, hai trẻ không làm sao bỏ hai già lại sau xa, họ muốn thực nghiệm thuật khinh công của hai lão nhân, cũng chỉ làm một việc vô ích.
Không lâu lắm, đoàn người hai trẻ hai già về đến khách sạn.
Quan Sơn Nguyệt và Lạc Tiểu Hồng đi khá lâu, thành thử Lữ Vô Úy ở tại nhà, chờ mãi, chẳng thấy họ trở về, nên có phần khẩn trương. Bây giờ, thấy có hai vị trở lại, vị Chưởng môn phái Chung Nam hết sức mầng rỡ, song lại lấy làm lạ vì họ về đây với hai lão nhân lạ mặt.
Lữ Vô Úy liền nắm tay Quan Sơn Nguyệt, lôi chàng ra xa xa hỏi nhỏ:
– Hai người đó là ai? Họ đi theo Lệnh Chủ để làm gì?
Quan Sơn Nguyệt mỉm cười:
– Khoan tìm hiểu về lão nhân đó, Chưởng môn. Tại hạ xin hỏi, người trong quý phái đã đến đây chưa?
Lữ Vô Úy đáp:
– Đã có bốn người đến, lão phu y theo kế hoạch của Lệnh Chủ, phân phó công việc cho họ rồi.
Quan Sơn Nguyệt trầm ngâm một phút:
– Tại hạ định hôm nay, mình lên đường, vào sâu trong đất Thục. Ở đây chờ đợi mãi, chắc mọi người phải nóng nảy lắm!
–––– oo –––– Cổ nhân có lưu lại một bài thi, lời thì than thở cái khó của con đường vào Thục, khó như lên trời, khó hơn lên trời. Và, khách lữ hành có việc vào đất Thục, cũng phải công nhận người xưa không hề quan trọng hóa sự lưu thông đến tận miền Tây, có thể thực tế còn cho thấy khó khăn nhiều hơn những gì đã được mô tả trong thi từ lưu lại.
Bọn Quan Sơn Nguyệt gồm bốn người, thêm hai lão nhân nữa đoàn người cộng đúng sáu mạng.
Họ âm thầm tiến bước, chẳng ai nói với ai tiếng nào.
Nhất Luân Minh Nguyệt và Vạn Lý Vô Vân vẫn đi chân dù Quan Sơn Nguyệt có thể tìm cho họ đôi ngựa, họ vẫn không thích cỡi ngựa hơn là đi chân.
Họ đi chân, con đường lại khó khăn, nhưng họ không hề lạc hậu. Họ đi, đi mãi, đoạn đường qua, càng lúc càng dài, rồi họ đến Kiếm Môn Sơn, qua khỏi nơi này là vào Kiếm Các.
Trong cuộc hành trình, chính Quan Sơn Nguyệt đi đầu, bởi chàng cần Minh Đà dẫn đường.
Chưa qua Kiếm Môn Sơn, bỗng Minh Đà rẽ vào một con đường núi nhỏ hẹp.
Vạn Lý Vô Vân khẩn cấp cực độ, vội lướt tới gần Quan Sơn Nguyệt, hỏi gấp:
– Đi đâu thế này, tiểu tử? Vào đó để làm gì chứ? Tiểu tử có biết nơi đó là địa phương chi chăng?
Quan Sơn Nguyệt cười nhẹ:
– Tại hạ nào biết nơi đó là địa phương gì? Nhưng, tại hạ biết là đến đó rồi, tại hạ sẽ gặp cái người tại hạ muốn gặp.
Vạn Lý Vô Vân giật mình, rung rung giọng hỏi:
– Ngươi muốn tìm ai?
Quan Sơn Nguyệt điềm nhiên:
– Thiên Tề Ma Quân!
Vạn Lý Vô Vân biến sắc mặt, ấp úng:
– Ngươi ... ngươi có quen biết y à?
Quan Sơn Nguyệt cười lớn:
– Quen biết? Bất quá song phương có gặp nhau một lần thôi còn về giao tình thì chưa. Tại hạ đi tìm y, là để thanh toán một sự tình còn đọng lại giữa nhau, đồng thời cởi mở mấy nghi vấn ...
Vạn Lý Vô Vân lắc đầu:
– Không được! Không được đâu, tiểu tử! Cái địa phương mà ngươi nói trước đây, chẳng phải ở phía đó đâu!
Quan Sơn Nguyệt sững sờ, song chàng lấy ngay bình tĩnh, thốt:
– Tại hạ nghĩ rằng, chỉ có một mình Thiên Tề Ma Quân là có thể cởi mở nghi vấn nơi tại hạ thôi.
Biết không lay chuyển được ý nghĩ chàng, Vạn Lý Vô Vân dọa:
– Ngươi nói đúng, nếu muốn minh bạch sự tình, thì cần phải gặp Ma Quân, song ta cho ngươi biết, qua ngưỡng cửa Ma Phủ rồi ngươi đừng hòng trở lại thế gian!
Quan Sơn Nguyệt cười lạnh:
– Điều đó, các hạ khỏi phải lo. Vả lại, tại hạ không hề yêu cầu các hạ đi theo, giả như các hạ thấy có gì nguy hại đến bản thân, thì ngay từ bây giờ, các hạ cứ trở về, thiết tưởng chẳng muộn chi đó.
Vạn Lý Vô Vân thoáng biến sắc mặt. Lão trầm ngâm một lúc lâu, đoạn hướng sang Nhất Luân Minh Nguyệt, nhếch nụ cười khổ:
– Lão mập! Chính ngươi hại ta ...
Quan Sơn Nguyệt thản nhiên, giục Minh Đà đi tới.
Đường đi, không rộng lắm, lại càng lên cao, càng có nhiều lối rẽ, ngang có, dọc có, chằng chịt như mắc lưới, nếu chẳng thuộc lối, thì không ai ai đến nơi đến trộn được. Nhưng, Minh Đà quá quen thuộc hệ thống giao thông này, nó ung dung bước đều, không hề chần chờ, do dự.
Không lâu lắm, đoàn người đến một khu rừng rất rậm, bên trong rừng tối mò, chẳng khác nào bên ngoài là ngày, bên trong là đêm. Nơi ven rừng, có một lão tăng đứng đó, chừng như canh giữ tại mặt này.
Lão tăng gầy đét, mặt đen như thoa lọ, đôi mắt thì sáng lạ thường. Thấy đoàn người bước đến, lão bước ra chận lại.
Quan Sơn Nguyệt ngồi trên Minh Đà, nghiêng mình chào rồi thốt:
– Xin đại sư cho tại hạ đi qua!
Lão tăng trầm giọng đáp không phải đáp:
– Biển khổ mênh mang, quay đầu lại là thấy bến, xin các vị thí chủ trở về.
Quan Sơn Nguyệt điềm nhiên điểm một nụ cười:
– Đại sư có tâm từ bi, muốn phổ độ chúng sang, song chẳng phải tất cả chúng sanh đều dễ độ.
Lão tăng lắc đầu:
– Không hẳn nhu vậy đâu, thí chủ! Khi con người có lòng thành thì gì mà chẳng đạt? Dù cho đá cứng, đá cũng phải gật đầu.
Lão tăng nói nhì nhằng quá, Quan Sơn Nguyệt hơi bực tức trầm giọng lạnh giọng hỏi:
– Đại sư có phải là người đồng đảng với kẻ phía sau rừng kia chăng?
Lão tăng thở dài:
– Bần tăng là người xuất gia, nào có đảng, có hội gì với ai?
Quan Sơn Nguyệt «hừ» một tiếng:
– Thế tại sao đại sư lại chận đường bọn tại hạ?
Lão tăng đưa tay chỉ Nhất Luân Minh Nguyệt và Vạn Lý Vô Vân đáp:
– Bần tăng vì hai vị cố nhân đó, cho nên khuyến cáo các vị trở về ...
Vạn Lý Vô Vân cười lạnh:
– Lão trọc đáng ghét kia, những việc năm xưa, do ngươi mà ra cả, bây giờ ngươi lại giả nhân giả nghĩa trước mặt bọn ta à? Ngươi tưởng mười tám năm qua, bọn ta đã quên mất cơ mưu ngày nào của ngươi, phải không?
Lão tăng giật mình, bỗng nhẹ tiếng thở dài:
– Đương nhiên! Trong bao nhiêu năm qua, ta luôn luôn tìm cách phục hồi tên họ trên bảng, sau đó sẽ thành toàn món nợ còn đọng lại giữa bọn ta và ngươi!
Lão tăng lại thở dài:
– Phù sanh có gì đáng cho người tham luyến? Danh là cương, lợi là tỏa, trong khi người ta tìm cách thoát vòng cương tỏa, thì các người đã thoát được rồi lại tìm mọi cách mà đút đầu vào. Thì ra cái công của ta giúp các ngươi ngày trước, các ngươi không xem là ơn, lại cho là oán! Sao các ngươi u mê đến thế?
Vạn Lý Vô Vân cao giọng:
– Ngươi nói dễ nghe quá chừng! Sao tự ngươi không thoái xuất ngoài vòng lợi danh, lại đi khuyến cáo người khác?
Lão tăng điềm nhiên đáp:
– Bần tăng có phát thệ, khi nào cứu độ xong một trăm lẻ tám bằng hữu có tên trong bảng, lúc đó nhiệm vụ của bần tăng viên mãn, bần tăng sẽ về chầu đức Phật Tây Thiên! Một ngày nào, còn một vị bằng hữu chưa giải thoát, là ngày đó, bần tăng chẳng an lòng.
Vạn Lý Vô Vân cười lạnh:
– Không ai dư công nói nhảm với ngươi, ngươi hãy tránh qua một bên, nhường lối cho bọn ta đi qua.
Lão tăng trầm ngâm một chút, đoạn thốt:
– Các vị đã không chịu nghe lời khuyên ngăn, thế thì cứ đi, các vị nên nhớ là một cái sẩy chân sẽ đưa các vị vĩnh viễn vào cảnh luân trầm, ngàn kiếp không hy vọng được siêu sanh.
Vạn Lý Vô Vân hét:
– Việc của bọn ta, chẳng cần chi đến ngươi, mà ngươi phải nhiều lời. Ta hỏi, ngươi có chịu tránh qua một bên hay không?
Lão tăng lại thở dài:
– Bần tăng đã cạn lời, các vị chẳng chịu nghe cho, thế thì thôi vậy, vì cố nhân, bần tăng tình nguyện đưa các vị một đoạn đường.
Lão quay mình, bước đi. Theo dáng đi của lão tăng, chiếc áo cà sa rộng thùng thình phồng lên, toàn thân lão phát xuất một ánh sáng vàng chiếu rực lối xuyên qua khu rừng, như một ngọn đèn rọi.
Trong ánh sáng đó, Quan Sơn Nguyệt thấy rõ, dọc theo lối đi, vô số đống xương trắng, nằm rải rác.
Vạn Lý Vô Vân và Nhất Luân Minh Nguyệt cùng nhìn nhau, cả hai cùng biến sắc, lẩm nhẩm:
– Không ngờ cái lão trọc này đã luyện thành «Pháp Thân Quang Minh»!
Quan Sơn Nguyệt lấy làm lạ, hỏi:
– Lão tăng ấy là ai? Công lực của lão ta thâm hậu phi thường!
Vạn Lý Vô Vân lấy lại bình tĩnh, điểm nụ cười lạnh, đáp:
– Lão ấy có đạo hiệu là Khổ Hải Từ Hàng. Song, ngươi đừng tìm hiểu gì hơn!
Quan Sơn Nguyệt hội ý. Chàng ung dung cho lạc đà theo sao lão tăng, mọi người theo sau chàng.
Khu rừng có chiều rộng, kém chiều sâu, đoàn người len lỏi theo con đường quanh co, một lúc sau, đã đến bên kia rừng. Nhưng, đến đó rồi, Quan Sơn Nguyệt nhận ra, lão tăng mất dạng. Chẳng rõ, lão lén đi từ lúc nào.
Vạn Lý Vô Vân thở mấy hơi dài không khí, thốt:
– Cũng may, gặp được lão trọc, lão ấy dẫn đường chứ nếu không thì chẳng biết đến lúc nào chúng ta mới vượt qua lọt khu rừng này. Cái lão Thiên Tề đó, đúng là càng ngày càng lợi hại!
Quan Sơn Nguyệt kinh ngạc:
– Lão Thiên Tề? Thiên Tề Ma Quân lại là một lão nhân sao?
Vạn Lý Vô Vân cũng ngạc nhiên, nhìn sững chàng:
– Thế ngươi chưa gặp Thiên Tề Ma Quân lần nào à?
Quan Sơn Nguyệt gật đầu:
– Có chứ! Nhưng Thiên Tề Ma Quân mà tại hạ gặp mặt, là một thanh niên, tên là Kỳ Hạo.
Vạn Lý Vô Vân và Nhất Luân Minh Nguyệt lại biến sắc mặt một lần nữa. Cả hai sửng sốt một lúc lâu, chẳng ai nói tiếng gì.
Quan Sơn Nguyệt muốn hỏi song chàng vừa trông thấy một ngôi nhà cao, hiện sừng sững trước mắt, nơi xa xa. Vì chú ý đến ngôi nhà đó, chàng quên mất việc hỏi hai lão nhân. Chàng vỗ tay lên cổ lạc đà, con thú tăng tốc độ, chạy tới.
Một phút sau, đoàn người đến trước một cổng lầu, cổng rất to, nơi cổng, có tấm biển, mang bốn chữ:
«Thiên Tề Biệt Phủ» Hai bên trụ cổng, có đôi câu đối:
«Đạo Trảm Ma, Phật Hàng Ma, Ma Tâm Sanh Sanh Bất Di, Ma Thần, Dử Nhật Nguyệt Vinh Huy.
Ma Sanh Đạo, Ma Thành Phật, Ma Phát Thế Thế Thường Tồn, Ma Thọ Cộng Hiệu Thiên Tịnh Tề.» Đại khái, đôi liễn có hàm ý ca tụng đạo ma, cho rằng ma không kém trời, kém Phật.
Quan Sơn Nguyệt cười lạnh:
– Lớn lối quá!
Vạn Lý Vô Vân lắc đầu:
– Không lớn lối đâu! Trên thế gian này từ thượng cổ, đã có Ma, có Tiên, có Phật, có Trời. Tiên Phật trời đều muốn diệt Ma, song Ma vẫn còn mãi mãi, còn từ thượng cổ đến nay, và sẽ còn đến tận ngàn muôn đời sau. Như vậy, là không ai diệt nổi Ma, như vây là Ma có thực lực mạnh lắm, Ma cũng hãnh diện như Tiên, Phật, Trời. Ma có kém chi Tiên, Phật, Trời? Không có một quyền lực nào chi phối nổi Ma!
Vừa lúc đó, từ bên trong cổng lầu, một đoàn đồng nhi bước ra, gồm đủ nam lẫn nữ. Chúng suýt soát tuổi nhau, trong lứa mười ba, mười bốn, gã đi đầu cất tiếng hỏi:
– Các ngươi là những du hồn dã quỷ từ phương nào đến đây?
Tuổi gã đồng nhi còn nhỏ, song khẩu khí quá kiêu ngạo, Quan Sơn Nguyệt không lấy làm điều, nhưng Lạc Tiểu Hồng chịu không nổi thái độ vô lễ của gã, rút ngọn roi, quật ngang mặt gã.
Bởi vô tình gã đồng nhi hứng trọn đầu roi, biến sắc mặt, cất giọng rung rung hét:
– Cái mụ thúi này, sao dám đánh ta?
Gọi một thiếu nữ bằng mụ thúi, là mắng nặng lắm rồi!
Gã vừa mắng vừa lướt mình tới.
Gã lướt nhanh, Lạc Tiểu Hồng không tưởng là gã dám làm thế, chẳng kịp đề phòng, không rút roi về kịp thời chống trả. Nàng phải dùng tay, đánh xuống một chưởng.
Nhưng gã đồng nhi quát lớn:
– Ngã!
Gã quét một chân, chân gã chạm vào đôi chân ngựa, chân ngựa gãy, ngựa ngã nhào, Lạo Tiểu Hồng cũng ngã theo.
Gã chưa kịp làm gì, Nhất Luân Minh Nguyệt đã vọt mình tới, vươn tay chụp vào lưng áo gã, giữ cứng lại. Lão hét lên:
– Tiểu ma dám buông lung dã tánh, khinh người phải không?
Bàn tay kia đưa lên, lão đập xuống đỉnh đầu gã đồng nhi, máu từ miệng gã bắn ra thành vòi. Thuận tay nắm, lão vung luôn, gã đồng nhi bị quăng ra hơn trượng.
Dĩ nhiên, gã đồng nhi tắt thở.
Lạc Tiểu Hồng ngã xuống, lấy tư thế đứng vững chân rồi, nhìn ra, thấy Nhất Luân Minh Nguyệt đánh chết gã đồng nhi, nổi giận hét lên:
– Lão quỷ vật, sao ngươi xuất thủ sát nhân?
Trong khi đó, bọn đồng nhi nam nữ còn lại kinh hãi, biến sắc mặt xanh dờn, cấp tốc chạy bay vào cổng.
Nhất Luân Minh Nguyệt thở dài:
– Lão phu không giết nó, nó sẽ giết cô nương! Trong cái thế chẳng đặng đừng, lão phu phải hạ thủ, bởi lão phu có bổn phận bảo vệ an toàn cho cô nương.
Lạc Tiểu Hồng chưa kịp đáp, từ trong cổng một đoàn người khác chạy ra.
Đoàn người này cũng gồm đủ nam nữ, song ở trong lứa trung niên.
Trên gương mặt của người nào cũng như người nào, đều lộ vẻ phẫn nộ hiện lộ rõ rệt.
Tư Mã Tử Yên
Võ Lâm Phong Thần Bảng
Hồi 19
Vào Sâu Mờ Mịt
Nhân số độ tám chín người, có nam có nữ, tất cả có một điểm tương đồng là trên mặt người nào cũng bộc lộ sát khí, chừng như họ sanh ra trên đời là để sính hiện cái hung ác, bất cứ với ai, bất cứ trong trường hợp nào.
Họ chường mặt là họ phải bộc lộ sát khí, họ phải tỏ ra oai võ cho mọi người phải khiếp, có khiếp trước họ thì đương nhiên còn phải khiếp hơn trước chủ nhân họ.
Nhìn thoáng qua họ, ai chậm hiểu đến đâu cũng phải hiểu ngay họ là những con người không nên tiếp cận. Bởi, tiếp cận họ chẳng khác nào tiếp cận bọn quỷ sứ diêm đình, bọn ngưu đầu mã diện.
Đứng đầu bọn đó là một hán tử trung niên, đã là đầu đoàn thì đương nhiên cái gì gã cũng hơn đồng bọn, nhìn gã, ai cũng phải nghĩ đến một ôn thần với tất cả những nét hung hãn vô cùng. Nơi trán hán tử có một vết sẹo to bằng một nắm tay, bởi quá to nên sẹo lấn luôn chân mày phía tả.
Chính gã cất tiếng trước, với giọng ồ ồ như cuồng phong nổi dậy, giọng nói hàm chứa niềm căm phẩn vô biên. Gã hướng về Nhất Luân Minh Nguyệt và Vạn Lý Vô Vân:
– Thì ra lại là hai cái tên bị khai trừ khỏi bảng! Gan các ngươi to lắm, dám gây đại náo ngay trước biệt phủ. Ta nghĩ các ngươi đã chán sống rồi nên đi tìm cái chết!
Nhất Luân Minh Nguyệt ngẩng mặt nhìn lên nền không, chẳng buồn lưu ý đến gã. Hơn thế lão còn hỉnh mũi bật thành mấy tiếng khịt khịt, tỏ ra khinh miệt vô cùng.
Vạn Lý Vô Vân cũng đồng thái độ với Nhất Luân Minh Nguyệt.
Cả hai không thốt một tiếng nào.
Hán tử lại hét:
– Hai lão kia, sao các ngươi câm lặng?
Nhất Luân Minh Nguyệt nhìn sang Quan Sơn Nguyệt bảo:
– Ngươi đã muốn đến đây thì cái phần đối đáp với chúng thuộc về ngươi.
Hãy bước tới mà nói gì với chúng thì nói.
Quan Sơn Nguyệt chưa kịp tỏ thái độ như thế nào, hán tử trung niên đã kêu lên:
– Ta chỉ muốn hai ngươi đối đáp, sao hai ngươi lại đẩy tiểu tử đó ra ứng phó với ta?
Nhất Luân Minh Nguyệt nổi giận:
– Bọn ta dù đã bị xóa tên trên bảng, song đâu phải vì vậy mà hạ mình đối thoại với cái lủ tiểu yêu tiểu quỷ các ngươi?
Hán tử trung niên cũng phẩn nộ:
– Ngươi là cái quái gì? Ngươi bằng vào đâu lại thị oai với ta? Chứ ta không là một nhân vật có tên trên bảng sao?
Nhất Luân Minh Nguyệt cười mỉa:
– Ngươi nói nghe hay quá! Ta cũng tạm chấp nhận như vậy, song bọn các ngươi đến mười người mà chỉ có một được liệt danh thôi, nghĩ ra đáng thẹn cho các ngươi biết bao! Muốn cho bọn ta nói chuyện, ngươi hãy gọi thủ lảnh của ngươi ra đây!
Hán tử trung niên «hừ» một tiếng:
– Đại ca ta bận việc trong phủ, có thừa thời giờ đâu để ra đây nói chuyện với các ngươi.
Nhất Luân Minh Nguyệt bỉu môi:
– Thế thì thôi, ta chẳng có gì cần phải nói với ngươi.
Hán tử trung niên xanh mặt.
Vạn Lý Vô Vân trầm gương mặt, cất tiếng:
– Trong số Thập Đại Du Hồn ta chỉ nhận ra có mỗi một mình Khôi Y Thị Giả thôi, ngươi đừng tưởng bọn ta ly khai Thần Bảng rồi, đối với bọn ta lại buông thói ngạo mạn. Giả như bọn ta gây náo loạn lên thì các ngươi có chịu nổi hay không chứ?
Câu nói hàm cái ý không muốn động thủ trừ khi bị bắt buộc, nếu hán tử trung niên sanh sự thì đúng là phần trách nhiệm về hắn rồi. Và, khi nào hắn lại dám để cho sự sanh ngay tại trước cửa biệt phủ, nếu trách nhiệm về hắn?
Hắn câm miệng ngay.
Hắn là đầu đoàn, hắn không nói gì thì mấy tên kia làm sao dám nói gì?
Vạn Lý Vô Vân cười nhẹ, nhìn Quan Sơn Nguyệt hỏi:
– Tiểu tử đó có ngoại hiệu là Độc Giác Tê. Ngươi biết tại sao người ta gọi hắn như vậy chăng?
Quan Sơn Nguyệt chưa kịp lên tiếng, Lạc Tiểu Hồng đã hỏi rồi:
– Tại sao?
Vạn Lý Vô Vân đưa tay chỉ hán tử trung niên, bật cười lớn đoạn giải thích:
– Tại vì trên đầu hắn có một cục bướu vừa to vừa nhọn giống như cái sừng con tê, do đó người ta gọi hắn như vậy! Nghĩ cũng vinh hạnh chứ?
Lạc Tiểu Hồng nhìn vết sẹo nơi trán của hán tử, lại hỏi:
– Thế cái sừng đó biến đâu mất rồi?
Vạn Lý Vô Vân điểm một nụ cười đắc ý. Lão chờ đợi câu hỏi đó. Nếu chẳng ai hỏi như vậy thì chắc là lão phải ngượng, bởi lão làm sao bổng dưng lại phanh phui cái điều của người ta cố dấu diếm? Mà, không phanh phui ra được thì lão ấm ức lắm, lão chỉ muốn nói xấu cho kỳ được hán tử trung niên.
Bây giờ Lạc Tiểu Hồng đã hỏi rồi, tự nhiên lão phải cao hứng và tự nhiên lão đáp nhanh:
– Một cố sự kỳ thú lắm tiểu cô nương ơi! Cô nương nghe rồi hẳn phải cười vỡ bụng đấy! Cố sự đó như thế này, cô nương nghe kỹ nhé. Trong một kỳ tụ hội quan trọng, sau khi phần thảo luận nghiêm chỉnh đã xong, bọn bằng hữu của lão phu hơn mười người bày ra một cuội vui, tranh làm cái việc giết trâu! Đồ tể mà giết trâu là một cái thú bởi thỉnh thoảng mới có trâu để giết, trâu đâu phải là con thú mà đồ tể có sẵn để ngả thịt hằng ngày? Nhưng tại cuộc tụ hội, trâu đâu có mà giành nhau cái việc giết trâu? Thôi thì cứ kể như bẻ được một cái sừng là giết được trâu! Rồi bọn lão phu bẻ sừng, bẻ cái sừng độc nhất đó cô nương ơi! Cô nương có biết ai là đồ ngưu dũng sĩ chăng?
Lạc Tiểu Hồng chớp mắt, điểm một nụ cười:
– Chắc là tiền bối chứ còn ai nữa?
Vạn Lý Vô Vân bật cười ha hả:
– Cô nương thông minh quá chừng! Và ... và ... cái đoạn cuối lão phu dù không thuật tiếp cô nương cũng đoán ra ...
Hán tử trung niên thoạt đầu còn xanh mặt, dần dần màu xanh biến mất, gương mặt của hắn trắng nhợt, gương mặt càng nhợt nhạt vết sẹo càng sậm hơn.
Cuối cùng thì hắn không còn kiên nhẫn được nữa, hắn hét lên:
– Lăng Tam Hoè! Ngươi khinh người quá lắm!
Vạn Lý Vô Vân cũng hét lên:
– Ngươi ngang nhiên kêu tên ta? Ngươi có biết là đã phạm tội chăng?
Hán tử trung niên giật mình, biết đã hớ hênh rồi song hắn cứ cải bướng:
– Ngươi đã bị xóa tên trên bảng rồi, ta kêu ngay tên ngươi cũng chẳng quan hệ gì, ta có phạm tội đâu?
Vạn Lý Vô Vân bật cười hắc hắc, giọng cười ẩn chứa niềm mai mỉa:
– Được! Được! Bọn ta không tưởng là trong thời gian bọn ta ly khai danh bảng, quy củ lại đổi thay như vậy! Và cái việc đổi thay quy cũ lại xảy ra ngay tại Thiên Tề Biệt Phủ, nơi có vị chấp chưởng quy củ cư trú! Để ta vào hỏi lại cái người có trách nhiệm bảo vệ quy củ xem quả thật có sự thay đổi như vậy hay là ngươi tự ý khinh thường quy củ!
Hán tử trung niên lại biến sắc.
Hắn vọt mình ra khỏi hàng ngũ vung tay đánh vào mặt Vạn Lý Vô Vân một chưởng.
Vạn Lý Vô Vân đứng nguyên tại chỗ không phản công, không né tránh.
Một tiếng «bốp» vang lên.
Vạn Lý Vô Vân vẫn đứng nguyên tại chỗ như trụ đồng, không hề nhích chân một tấc một ly.
Trái lại, hán tử trung niên chập choạng lùi lại, lùi đến mấy bước mới đứng vững được.
Bảy tám tên kia, cả nam lẫn nữ chuẩn bị xuất thủ.
Nhất Luân Minh Nguyệt quát lớn:
– Các ngươi muốn tạo phản à?
Tiếng quát lớn vô cùng, ngang tiếng sấm nổ bên tai, bảy tám tên đó giật mình biến sắc.
Tất cả đều xuôi tay đứng bất động, ý định tiếp trợ hán tử tan biến mất.
Hán tử trung niên cao giọng gọi đồng bọn:
– Hỡi các vị bằng hữu đồng trên bảng, hai cái lão già đó tự chuyên đưa người lạ đến đây, họ phạm vào điều lệ của hội. Các vị hãy cùng tại hạ liên thủ đánh họ, thiết tưởng chẳng sao đâu. Đánh kẻ vi phạm quy điều là bổn phận của chúng ta, chẳng có tội chi mà các vị phải lo sợ.
Bảy tám tên đó lại chuẩn bị xuất thủ.
Bỗng từ bên trong cửa, một thư sinh trung niên bước ra. Người đó vận chiếc áo màu tro, có mũi cong như mỏ chim ưng, đôi mắt cú vọ, tinh quang từ đôi mắt bắn ra sáng rực.
Người đó xuất hiện, bọn của hán tử trung niên lập tức im lặng.
Chỉ riêng hán tử vừa bước tới trước mặt người đó vừa hấp tấp thốt:
– Đại ca đến đúng lúc quá. Hai lão già đó bỗng dưng từ đâu kéo nhau đến đây sanh sự, họ đã giết chết một đồng tử giữ cửa.
Vạn Lý Vô Vân «hừ» một tiếng:
– Khôi Y Thị Giả! Ngươi còn nhận ra bọn ta chăng?
Thư sinh trung niên mỉm cười:
– Nhị vị là bậc anh hùng hào kiệt trong hội, vì một việc nhỏ mọn mà bị trừ danh bảng, tuy vậy các bằng hữu từ ngày ấy vẫn tưởng nhớ đến hai vị luôn. Hai vị có biết không, ngôi vị của hai vị vẫn còn dành đó, chẳng có ai thay thế, bởi ai ai cũng nghĩ là có một ngày nào đó hai vị trở về và lỗi lầm năm xưa hẳn là hai vị phải chuộc được ...
Vạn Lý Vô Vân cười nhẹ:
– Thế ra hai tên già vô dụng này cũng chẳng đến đổi phải cùng đường, bởi ở đây cũng còn có người tưởng nghĩ!
Khôi Y Thị Giả gật đầu:
– Đương nhiên là như vậy, hai vị khéo đa nghi. Phàm những ai một khi được ghi tên nơi Bảng Phong Thần rồi là vĩnh viễn thành người trong Hội Long Hoa.
Y dừng lại một chút đoạn tiếp:
– Trong mấy năm qua chắc hai vị có cơ hội phục vị?
Cơ hội phục vị? Cái cơ hội đó, tự những người bị xóa tên tự tạo cho mình và cơ hội đó chính là cái dịp tỏ tài ba, dùng tài ba mà trở về ngôi vị cũ.
Vạn Lý Vô Vân cất tiếng:
– Hay quá! Ngươi nói đến hay! Đành rằng về võ công thì ai ai cũng có thu hoạch tiến bộ cùng với năm tháng trôi qua, song bọn ta dù có tiến bộ đến đâu, vị tất tiếp nổi ba chưởng Lôi Đình!
Khôi Y Thị Giả mỉm cười:
– Nhị vị quá khiêm nhường đấy thôi! Cũng may, hội kỳ sắp đến nơi và chính là cái lúc nhị vị trổ tài kinh thiên động địa cho mọi người thưởng thức!
Nhất Luân Minh Nguyệt cười lạnh:
– Dù bọn ta có tiến bộ như thế nào cũng chưa sánh được bọn Thập Đại Du Hồn các ngươi.
Khôi Y Thị Giả giật mình:
– «Minh Nguyệt Công» nói thế là nghĩa làm sao.
Nhất Luân Minh Nguyệt «hừ» một tiếng:
– Vừa rồi cái gã Độc Giác Tê dám gọi tên tộc của lão Vô Vân, như vậy chứng tỏ sự thành tựu của Thập Đại Du Hồn phải phi thường lắm! Sự thành tựu đó có thể đưa Thập Đại Du Hồn lên trên Tiên Bảng, trên xa, mà biết đâu lại chẳng ngang hàng với Hội Chủ. Có như vậy Độc Giác Tê mới dám buông lung tính khí gọi tên tộc của người ở hàng trên chứ!
Rồi lão tặc lưỡi tiếp:
– Tuy nhiên các ngươi nóng nảy quá, đáng lẽ các ngươi phải đợi đến lúc Hội Kỳ chiếu lệ khai mạc hàng năm, lúc ấy mặc tình mà biểu dương tài nghệ thi triển sự thành tựu cho mọi người nhìn thấy. Công khai như vậy mới quang vinh, âm thầm như hôm nay là sính cường quá đáng!
Khôi Y Thị Giả biến sắc, cao giọng hỏi:
– Việc gì đã xảy ra, lão Tứ?
Hán tử trung niên ấp úng:
– Họ khi phụ người thái quá, họ công khai kể chuyện xấu của tiểu đệ ...
Khôi Y Thị Giả trầm gương mặt:
– Ngươi hồ đồ mất rồi lão Tứ. Năm xưa cái việc giết trâu bẻ sừng do Hội Chủ công nhiên chấp thuận để tạo một trò vui, dù cho ngươi không cao hứng đi nữa thì cũng không thể trách họ ...
Hán tử trung niên biến sắc mặt.
Khôi Y Thị Giả day qua Vạn Lý Vô Vân điểm nụ cười vuốt, hỏi:
– Vô Vân lão huynh có thể tha thứ cho hắn một lần chứ?
Vạn Lý Vô Vân lạnh lùng:
– Năm xưa lúc ta bị xóa tên, có ai lượng thứ cho ta chăng? Huống chi, nơi đây là Thiên Tề Biệt Phủ, một nơi chấp pháp, kiểm soát mọi người, trừng trị kẻ phạm hội quy? Ta nghe nói cái ngôi vị Ma Quân đã thay đổi người ...
Khôi Y Thị Giả gật đầu:
– Phải! Lão Ma Quân đã về cõi Phật, hiện tại Ấu Quân thay quyền.
Vạn Lý Vô Vân thở dài:
– Lần mở Hội Long Hoa sắp tới đây, bao nhiêu người cũ vắng bóng vĩnh viễn, thay thế bằng những người mới, lạ ...
Khôi Y Thị Giả cũng thở dài:
– Mười bảy vị ra đi tất cả! Nhưng người ra đi vẫn có người thừa kế, mà phần đông là những nữ nhân! Nếu tại hạ không lầm thì những người mới này đều là những bậc kỳ tài, có phần hơn lớp trước. Chắc chắn là trong kỳ đại hội tới đây phải nhiệt náo phi thường.
Vạn Lý Vô Vân lại hỏi:
– Tân Ma Quân sánh với lão Ma Quân như thế nào? Có thể vượt qua Tiên Bảng, tranh ngôi Hội Chủ chăng?
Khôi Y Thị Giả lộ vẻ đắc ý:
– Tân Ma Quân là bậc thiếu niên anh tuấn, tài cao hiện rõ ngay từ lúc nhỏ, hơn hẳn cố Quân, có nhiều hy vọng giành một ngôi vị trong số bốn ngôi Hội Chủ.
Vạn Lý Vô Vân cười lạnh:
– Tân Ma Quân lên cao là các ngươi cũng lên theo, lúc đó thì các ngươi bình đẳng với bọn ta rồi! Thảo nào mà tên Độc Giác Tê chẳng ngạo mạn trước khi tình cảnh cho phép!
Khôi Y Thị Giả biến sắc:
– Vô Vân lão huynh nhất định không dung thứ cho hắn?
Vạn Lý Vô Vân «hừ» một tiếng:
– Ta đâu có quyền định đoạt. Các ngươi hãy hỏi nơi Tân Ma Quân các ngươi!
Khôi Y Thị Giả thở dài:
– Thế là đành rồi vậy, lão Tứ tự ngươi làm ngươi phải chịu, không còn nói gì được nữa!
Hán tử trung niên biến sắc:
– Đại ca! Vì một việc nhỏ mọn như vậy, đại ca nở bức tử người anh em từng đồng lao cộng khổ với đại ca suốt bao nhiêu năm dài.
Khôi Y Thị Giả lại thở dài:
– Ta bất lực! Nếu là việc gì khác thì chẳng nói làm chi, chứ như cái việc này tự ngươi gây ra ...
Hán tử trung niên kêu lên:
– Tại sao đại ca không đem việc này trình lên Ma Quân? Biết đâu ...
Khôi Y Thị Giả lắc đầu:
– Vô ích. Tân Ma Quân mới lên cầm quyền, trước hết người phải làm mọi cách để lập oai, ngươi không có lỗi, chưa chắc khỏi tội, huống hồ đã phạm quy củ?
Nhất định là người không thể cải biến điều lệ đâu! Tốt hơn là ngươi nên tự xử để tránh mọi hình phạt thống khổ!
Hán tử trung niên nhảy dựng lên:
– Tiểu đệ chết không thành vấn đề, nhưng ít nhất cũng phải có sự công bằng. Hai lão kia vô cớ đưa người lạ đến đây cũng là một cái tội chứ, họ cũng phạm vào điều lệ chứ. Tiểu đệ nhất định phải bái kiến Ma Quân, vừa chịu tội vừa trình bày trường hợp phạm điều đố kỵ của hai lão ấy.
Khôi Y Thị Giả day qua nhìn Vạn Lý Vô Vân và Nhất Luân Minh Nguyệt.
Hắn không hỏi bằng miệng, nhưng ánh mắt của hắn thừa nêu lên câu hỏi.
Vạn Lý Vô Vân cười nhẹ:
– Thị Giả còn chờ gì nữa?
Khôi Y Thị Giả trầm ngâm một chút:
– Tại hạ chờ nhị vị giải thích.
Vạn Lý Vô Vân bật cười ha hả:
– Thị Giả ngươi từng tham gia đại hội mấy lần, tại sao ngươi càng ngày càng mù mờ đạo lý? Dù cho bọn ta có cần điều chi, bọn ta lại phải nói ngay với ngươi à?
Khôi Y Thị Giả biến sắc mặt:
– Lão Tứ! Ngươi có nghe họ nói đó không? Danh phận đã đặt ra rồi, mọi người phải ở trong danh phận đó, ta không còn biện pháp nào tiếp trợ ngươi được!
Tuy nhiên, ngươi yên trí, ta sẽ vì tình nghĩa của nhau trong bao nhiêu năm dài, tranh thủ công đạo cho ngươi!
Hán tử trung niên nín lặng.
Khôi Y Thị Giả thôi thúc hán tử xong, bỗng hán tử nhún đôi chân vọt mình tới, định thoát đi. Hắn vượt được ba bốn trượng đường, qua ngang bên trên đầu bọn Quan Sơn Nguyệt. Hắn đáp xuống rồi hắn tung mình lên lượt nữa, khi hắn đáp xuống lần thứ hai thì chân hắn nhũn lại, không làm sao nhảy lên lượt thứ ba.
Rồi hắn ngã xuống.
Khôi Y Thị Giả lấy làm lạ, bước tới xem.
Y phát hiện ra hán tử trung niên bị trúng ba mủi thích màu đen nơi lưng, thất khiếu rỉ máu, bất giác y thất sắc đứng lặng như tượng gỗ.
Một giọng nói lạnh lùng đâu đây vang lên:
– Tiêu Nhất Bình! Ngươi cai quản bọn anh em của ngươi đáng khen đó!
Quan Sơn Nguyệt giật mình.
Chàng nhận ra âm think đó chính là của Kỳ Hạo, toan cất tiếng gọi, nhưng Vạn Lý Vô Vân đã kịp thời đưa ánh mắt sang ngăn trở.
Chàng đành im lặng.
Tiêu Nhất Bình, là Khôi Y Thị Giả, biến sắc mặt xanh dờn, quay mình lại đứng nơi khung cửa, thấp giọng thốt:
– Thuộc hạ xin chờ Ma Quân trị tội.
Bên trong cửa giọng nói lạnh lùng trước đó lại vang lên:
– Hiện tại ta không có thì giờ định đoạt trường hợp của ngươi, tạm thời xếp việc đó lại một bên, chờ mấy hôm nữa ta khảo nghiệm bọn anh em của ngươi rồi sẽ có thái độ sau. Giả như ta phát giác ra tất cả những tên còn lại đó đều là những kẻ tham sanh úy tử, thì lúc đó ngươi phải chịu trách nhiệm hoàn toàn.
Giọng nói đó trở nên nghiêm nghị, song vẫn lạnh lùng như thường:
– Bây giờ ngươi hãy mời khách vào.
Khôi Y Thị Giả Tiêu Nhất Bình «vâng» một tiếng.
Mấy tên kia nghe chủ nhân lên án treo như vậy đều bạt vía kinh hồn, mặt mày xám xịt.
Quan Sơn Nguyệt chứng kiến những diễn tiến vừa qua lòng thêm hoang mang, nhiều nghi vấn phát sanh quanh cái hội mà những người hiện diện gọi là Hội Long Hoa.
Đến đây rồi chàng mới phát giác ra, Kỳ Hạo, một thiếu niên suýt soát tuổi với chàng, có một uy quyền rất lớn, bằng cớ là bọn Thập Đại Du Hồn, gồm những tên hung ác phải co đầu rút cổ trước hắn. Thậm chí đến cả Lạc Hành Quân, Lạc Tương Quân, Xú Sơn Thần Liễu Sơn Dương và Hồ Hải Dị Tẩu Bốc Thượng Xuân cũng phải tuân phục.
Khó hiểu quá chừng!
Chàng tự hỏi Hội Long Hoa là hội gì? Có mấy bảng cả thảy? Tiên Bảng?
Phong Thần Bảng? Ma Bảng? Tại sao có những bảng đó? Long Hoa Hội có tôn chỉ như thế nào? Chủ trương việc gì? Long Hoa Hội có đúng là một tổ chức gồm những tay cùng ác cực hung chăng?
Vì không a tùng theo kẻ ác nên ân sư chàng, Bành Cúc Nhân, Vạn Lý Vô Vân và Nhất Luân Minh Nguyệt bị xóa tên trên bảng?
Bị xóa tên là tức nhiên trước đó phải được liệt tên, tại sao những người đó nhắm mắt gia nhập tổ chức, để cuối cùng thấy rõ mình lạc hướng đi rồi chống đối nên bị khai trừ? Bị khai trừ khỏi tổ chức hung ác là một cái may, tại sao họ lại tìm mọi cách để phục hồi danh vị?
Dù sao thì chàng cũng không thể tin được tổ chức đó chủ trì hiệp nghĩa bởi Kỳ Hạo là kẻ độc ác, gia dĩ chính hắn lại chấp chưởng quyền kiểm soát toàn thể hội viên. Một kẻ hung ác giữ một địa vị rất cao trong tổ chức, thì cái tổ chức không thể hành thiện được rồi.
Khôi Y Thị Giả hướng sang bọn chàng vòng tay thi lễ, thốt:
– Ma Quân thỉnh các vị vào phủ đàm đạo.
Vạn Lý Vô Vân dợm chân bước tới, Quan Sơn Nguyệt vội hét to:
– Thư thả. Gọi Kỳ Hạo ra đây nghinh tiếp bọn ta!
Khôi Y Thị Giả biến sắc:
– Các hạ là ai? Tại sao dám buông lung ngạo mạn ...
Quan Sơn Nguyệt cười lạnh:
– Ta là ai? Ngươi cứ vào mà hỏi Kỳ Hạo, hắn sẽ bảo cho biết!
Khôi Y Thị Giả day mặt vào cửa định thỉnh chỉ thị. Nhưng bên trong im lìm.
Quan Sơn Nguyệt lấy trong mình ra một tấm Minh Đà Lệnh, vung tay lên, chiếc lệnh bài bay đi cắm vào khung cửa, rồi chàng cất cao giọng thốt:
– Kỳ Hạo! Ta bất chấp thân phận của ngươi như thế nào. Hôm nay ta đến đây với tư cách Minh Đà Lệnh Chủ hỏi ngươi về cái vụ thất ước tại Đại Tán Quan.
Về việc đó, ngươi phải xuất hiện để tạ tội với ta.
Bên trong cửa vẫn im lìm.
Quan Sơn Nguyệt nổi giận quát to hơn:
– Phi Lạc Đà! Ngươi dần dà, không chịu ra mặt, ta sẽ phá cửa xông vào cho ngươi biết. Đường đường là Lệnh Chủ Minh Đà, ta không lẽ chờ ngươi cho phép mới được vào sao?
Khôi Y Thị Giả phẩn nộ đưa tay rút tấm Minh Đà Lệnh.
Vừa lúc đó, Kỳ Hạo bên trong thốt vọng ra:
– Đừng vọng động! Hãy truyền lịnh bố trận, ta sẽ ra đó nghinh tiếp khách.
Khôi Y Thị Giả lộ vẻ kinh ngạc. Y đưa mắt nhình Quan Sơn Nguyệt, cố tìm hiểu thiếu niên trước mặt là nhân vật như thế nào mà Ma Quân có ý nể nang như vậy. Song, y đâu dám chậm trể, lập tức lấy trong tay áo hai tấm sanh bằng ngọc.
Đoạn y nhịp hai tấm sanh vào nhau.
Tiếng «cốc cốc» vang lên đúng sáu lượt.
Quan Sơn Nguyệt và Lạc Tiểu Hồng từng nghe tiếng sanh đó, cả hai biết là Vân Bảng Lục Truyền tín hiệu của Ma Quân.
Bọn Thập Đại Du Hồn nghiêm chỉnh thần sắc.
Nhất Luân Minh Nguyệt và Vạn Lý Vô Vân buông thỏng tay, đứng thẳng người.
Chỉ có Quan Sơn Nguyệt là cười cười nói nói ra vẻ khinh thường. Chàng mỉa mai:
– Thối tha quá chừng! Nghi thức càng rườm rà, con người càng thêm trơ trẽn. Ta không hiểu nổi tại sao lại có người thích biểu hiệu oai phong trong khi thực chất lại chẳng có gì?
Khôi Y Thị Giả liếc mắt sang chàng, song y làm gì dám phát tác?
Tiếng sanh dứt, không lâu lắm, một đội đồng nam đồng nữ bước ra. Chính là bọn đồng nam đồng nữ xuất hiện lúc chàng vừa đến. Vì một gã đã bị Nhất Luân Minh Nguyệt đánh chết nên hiện giờ hàng ngũ bất đồng.
Nhưng Kỳ Hạo chưa ra mặt.
Quan Sơn Nguyệt chờ một lúc lâu bực tức quát:
– Phi Lạc Đà! Ngươi còn chờ gì mà chưa chịu xuất hiện?
Bên trong cửa, Kỳ Hạo lạnh lùng thốt vọng ra:
– Đừng nóng nảy Quan Sơn Nguyệt! Nơi đây chẳng phải là Tà Dương Trang, mọi hành động của ta phải được xúc tiến đúng cái thân phận mà toàn thể đều công nhận.
Quan Sơn Nguyệt nổi giận:
– Bao nhiêu nghi thức đó chưa vừa với thân phận của ngươi sao? Lại còn dần dà, ra vẻ trịnh trọng?
Kỳ Hạo không buồn để ý đến chàng, điềm nhiên gọi Khôi Y Thị Giả:
– Tiêu Nhất Bình, ta đếm từ một đến mười, nếu đếm xong mà ngươi chưa lo liệu chu toàn thì ta chỉ nhận đầu lâu chứ không nhận người đấy!
Khôi Y Thị Giả lộ vẻ sợ hãi, đảo mắt nhìn quanh, chẳng biết mình đã sơ xuất điểm nào, bởi các nghi thức đã được bố trí đàng hoàng lắm rồi.
Trong khi đó, tiếng đếm vang lên, mỗi tiếng là một quả chùy nện xuống con tim y. Tiếng đếm đến số sáu rồi. Mồ hôi đổ ra ướt đầu ướt mặt Khôi Y Thị Giả.
Bọn du hồn còn lại xanh mặt.
Tiếng đếm vang lên:
– Chín!
Khôi Y Thị Giả bất thình lình vọt mình đến sau lưng một đồng nữ, đưa tay cao lên ngay đỉnh đầu nó, bàn tay đó hạ xuống ...
Một tiếng «bốp» vang lên cùng một lượt với tiếng đếm «mười», đứa bé gái ngã nhào xuống đất.
Bọn Quan Sơn Nguyệt vô cùng kinh ngạc.
Nhưng họ chưa kịp có thái độ nào, từ trong cửa Kỳ Hạo bước ra vận chiếc áo gấm. Khí tượng của hắn hôm nay khác xa ngày nào tại Tà Dương Trang.
Hắn bước đến trước mặt Khôi Y Thị Giả, điểm nhẹ một nụ cười thốt:
– May cho ngươi đó, đã kịp thời phát hiện chỗ sơ xuất. Chứ nếu không, kẻ nằm đó phải là ngươi chứ chẳng phải là nữ đồng tử đó đâu!
Hắn đưa tay chỉ xác chết, hắn cười, nói, thản nhiên như đối với hắn sanh mạng con người chẳng có nghĩa gì cả.
Quan Sơn Nguyệt chịu không nổi cái vẻ tàn bạo đó, sôi giận quát to:
– Kỳ Hạo! Ta nghĩ ngươi không còn là con người nữa!
Kỳ Hạo cười nhẹ điềm nhiên đáp:
– Các hạ khích động dể dàng quá! Thực ra thì tại hạ cũng chẳng có gì đáng trách cả. Huống chi, đối với các hạ tại hạ đã ủy khúc lắm rồi, thiết tưởng các hạ nên dừng lại một chút, tránh bước vội đến chỗ cực đoan khi chưa phải lúc.
Quan Sơn Nguyệt tự xét mình hơi quá phận, có ý thẹn thành ra sượng không nói được tiếng nào. Tuy nhiên chàng không quên được cái tánh tàn ác của Kỳ Hạo, chàng nhìn hắn đăm đăm, trong ánh mắt niềm tức uất hiện rõ.
Kỳ Hạo vẫn điềm nhiên tiếp:
– Với thân phận hiện tại của tại hạ thì tại hạ có quyền xử dụng tám cặp nam nữ đồng tử làm cái việc thị vệ và phục dịch, song các vị đã giết mất một tên rồi, hàng ngũ của chúng phải chênh lệch, do đó tại hạ bắt buộc phải ra lịnh cho hắn giết bớt một tên nữa, giữ sự đồng đều cho đội ngũ thị vệ của tại hạ. Đáng lẽ các vị phải giết nốt cái tên lẻ loi đó, các vị không làm, tại hạ phải buộc hắn làm, hắn đã làm thay các vị, sao các vị lại trách hắn, oán tại hạ?
Nhất Luân Minh Nguyệt đằng hắng một tiếng:
– Lão phu xuất thủ đánh chết một đồng tử thị vệ của Ma Quân, chẳng qua lâm vào cái thế bất đắc dĩ. Nếu không làm vậy thì gã đồng tử đã dùng «Thiên Ma Chỉ» hạ sát Lạc cô nương rồi.
Kỳ Hạo cười lạnh:
– Đồng tử chết, nó đáng tội chết, bổn tòa có trách phiền gì Minh Nguyệt Công đâu? Cái điều đáng nói, cần nói là Minh Nguyệt Công thích gánh vác việc của người ngoài thôi!
Nhất Luân Minh Nguyệt lại đằng hắng một tiếng:
– Sự an toàn của Lạc cô nương có quan hệ với lão phu, tự nhiên lão phu phải can thiệp. Huống chi hành động đó còn có liên quan đến đại cuộc của lão phu. Ma Quân nghĩ xem, lão phu đã sống đến từng tuổi này rồi mà vẫn chưa có một truyền nhân, giả như lão phu chết bất ngờ thì có phải là trên Tiên Bảng khuyết một hội viên chăng? Lão phu phải nghĩ đến cái việc bổ khuyết đó.
Kỳ Hạo «ạ» lên một tiếng:
– Minh Nguyệt Công lại có giao tình với một tiểu cô nương à?
Lạc Tiểu Hồng nổi giận:
– Ngươi đừng nói nhảm. Trong một cuộc giao đấu, ta thắng lão bại, do đó lão chịu sự ước thúc của ta, ngoài ra chẳng có giao tình chi cả.
Kỳ Hạo thoáng lộ vẻ kinh dị:
– Lại có việc như vậy à? Thế ra Minh Nguyệt Công càng cao tuổi võ công càng lụt.
Nhất Luân Minh Nguyệt cố nén cơn tức uất, thốt:
– Lão phu bại chẳng phải vì võ công kém mà bại là vì ý trời khiến vậy. Ma Quân khỏi phải tìm cách khích nộ lão phu. Ngày nay Hội Long Hoa sắp đến nơi rồi, ngày đó lão phu sẽ lãnh giáo Ma Quân, còn như hiện tại thì lão phu xem thường những lời khích thích của Ma Quân. Cái mưu của Ma Quân không thành tựu đâu!
Kỳ Hạo cười nhẹ:
– Minh Nguyệt Công như một ánh gừng, gừng càng già càng cay! Bổn tòa đành chịu kém vậy. Tuy nhiên, trong ngày Đại Hội Long Hoa bổn tòa sẽ giới thiệu với các vị một vài người mới ...
Hắn nêu lên vài người mới để làm gì, nếu không phải là dọa khiếp tinh thần đối phương?
Nhất Luân Minh Nguyệt không đáp.
Kỳ Hạo lại tiếp:
– Về cuộc ước hội tại Đại Tán Quan, tại hạ nhận lỗi đã thất ước với Quan thiếu hiệp. Song tại hạ đã cho tiện nội đại diện đến nơi ước hội phân trần với Quan thiếu hiệp. Không may cho tiện nội kém tài thành ra phải bại nơi tay Quan thiếu hiệp. Tại hạ nghĩ sự tình như vậy kể ra cũng có thể xem như giải quyết xong, nhưng Quan thiếu hiệp lại còn tìm đến tại hạ, chẳng hay thiếu hiệp có điều chi cần chỉ giáo?
Quan Sơn Nguyệt gằn từng tiếng:
– Tại hạ muốn có sự dứt khoát về Phi Đà Lệnh.
Kỳ Hạo mỉm cười:
– Thì tại hạ đã y theo lời của các hạ rồi, trong khoảng thời gian chưa định phân hơn kém giữa chúng ta, tại hạ không sử dụng Phi Đà Lệnh.
Quan Sơn Nguyệt cao giọng:
– Chưa hết, còn cái việc của phái Chung Nam nữa.
Kỳ Hạo cười nhẹ:
– Vấn đề Chung Nam phái thuộc thẩm quyền của tiện nội, tại hạ cũng như các hạ, chẳng liên quan gì, mình bỏ qua đi!
Quan Sơn Nguyệt nổi giận:
– Bỏ qua thế nào được? Ta đã hứa với người trong phái Chung Nam là sẽ thay mặt họ thanh toán việc đó.
Kỳ Hạo cười hì hì:
– Các hạ cũng có cái thích gánh vác việc người nữa à? Các hạ đã muốn thế, tại hạ phải cho tiện nội giải quyết thẳng với các hạ, song rất tiếc hiện giờ nàng bận việc không hầu tiếp các hạ ngay. Vậy các hạ cảm phiền đợi cho mấy hôm!
Quan Sơn Nguyệt nhìn đối phương không chớp mắt, chàng không tưởng nổi là Kỳ Hạo bình tĩnh cực độ như vậy. Một con người bình tĩnh như thế hẳn phải có căn cơ tu vi rất thâm hậu. Nhờ bình tĩnh, hắn cởi mở dể dàng những gì Quan Sơn Nguyệt toan gút chặc, thành ra Quan Sơn Nguyệt không còn nói được gì hơn.
Chàng hỏi:
– Ta phải chờ mấy hôm?
Kỳ Hạo thản nhiên:
– Không lâu lắm đâu, tại hạ bảo đảm điều đó. Các hạ sẽ gặp nàng giải quyết những gì cần giải quyết với nàng. Còn cái việc lệnh bài của chúng ta đến lúc đó rồi cũng sẽ được giải quyết luôn.
Quan Sơn Nguyệt trầm ngâm một lúc.
Kỳ Hạo lại hỏi:
– Các hạ từ xa đến đây hẳn không chỉ riêng có một việc đó chứ?
Quan Sơn Nguyệt gật đầu:
– Còn! Còn nhiều việc khác ...
Kỳ Hạo nghiêm chỉnh sắc mặt:
– Các hạ có thể cho tại hạ biết chăng?
Quan Sơn Nguyệt thốt:
– Ta thắc mắc về những danh từ:
Tiểu Tây Thiên, Long Hoa Hội, Phong Thần Bảng. Ta có nghe giang hồ truyền thuyết về những danh từ đó, song chẳng hiểu chi hết, nên đến đây nhân cái việc kia hỏi ngươi luôn việc này. Ngươi có thể giải thích cho ta biết chăng?
Kỳ Hạo cười lạnh:
– Tự nhiên là có thể. Nhưng trước hết tại hạ phải chiếu theo thông lệ mà làm nhiệm vụ.
Quan Sơn Nguyệt hấp tấp hỏi:
– Thông lệ như thế nào?
Kỳ Hạo lạnh lùng:
– Theo thông lệ đó, người ngoài cuộc không thể dự thính, dự kiến sự tình.
Người ngoài cuộc phải bị thanh trừ. Các hạ tự động lôi cuốn người ngoài cuộc, các hạ không rành thông lệ thì tại hạ có cái bổn phận sửa chửa sự sai lầm của các hạ.
Hắn đưa tay chỉ Lưu Tam Thái và Lữ Vô Úy. Ánh mắt của hắn ngời lên sát ý.
Quan Sơn Nguyệt kinh hãi vội đảo bộ áng trước mặt cả hai.
Khôi Y Thị Giả đã huy động tám gã du hồn bao vây bên ngoài.
Tư Mã Tử Yên
Võ Lâm Phong Thần Bảng
Hồi 20
Mường Tượng Giấc Mơ
Khôi Y Thị Giả Tiêu Nhất Bình vâng một tiếng lớn, đoạn rút trong tay áo ra một chiếc quạt. Hắn bật chiếc quạt xòe ra, kêu lên một tiếng rẹt, nghiêng mình trước Quan Sơn Nguyệt, buông gọn:
– Xin nhượng lối cho tại hạ!
Quan Sơn Nguyệt «hừ» một tiếng, hoành tay ra sau lưng, rút Kim Giáp Thần, đặt ngang trước ngực, nghiêm giọng đáp:
– Những vị đó, do tại hạ thỉnh đến đây, giả như các hạ có điều chi cần nói với họ, xin cứ nói thẳng với tại hạ ...
Kỳ Hạo đứng một bên, không biểu hiện một thái độ nào.
Khôi Y Thị Giả mấy lượt nhìn qua hắn, trông chờ một chỉ thị song hắn vẫn thản nhiên. Bắt buộc, Tiêu Nhất Bình phải tự quyết định lấy. Hắn gằn từng tiếng:
– Các hạ đã nói thế, chắc là tại hạ phải đắc tội rồi đó!
Quan Sơn Nguyệt đưa cao chiếc Kim Giáp Thần, trầm giọng thốt:
– Nếu các hạ muốn động thủ, thì xin mời! Tại hạ đến đây hẳn nhiên là không thể mang theo mình cái thiện ý. Hơn nữa, có đến đây rồi, tại hạ mới nhận ra, Phi Đà Lệnh Chủ kém tư cách quá, một con người quá kém tư cách, không đáng hưởng sự tôn kính của tại hạ, cho nên tại hạ nghĩ rằng, mình không cần phải chủ hòa!
Kỳ Hạo thoáng biến sắc, nhưng chưa nói gì.
Đột nhiên, Tiêu Nhất Bình xếp nhanh chiếc quạt, chỉ thẳng vào ngực Quan Sơn Nguyệt.
Quan Sơn Nguyệt bình tĩnh đưa chiếc Kim Thần ra.
Một tiếng «keng» vang lên, Kim Thần hóa giải lập tức chiêu thức của quạt.
Khôi Y Thị Giả Tiêu Nhất Bình giật mình:
– Công lực của các hạ khá lắm!
Bỗng, gã rẹt chiếc quạt, rồi gã tiến công, thoạt quạt, thoạt đâm thoạt hất, thoạt chặt, tùy theo động tác mà quạt xòe hoặc khép.
Với một chiếc quạt, gã đánh ra những chiêu thức thích hợp cho đủ loại vũ khí, như đao, kiếm, câu, bút ... Những chiêu thức đó, biến hóa vô cùng.
Quan Sơn Nguyệt thủ chiếc Kim Thần, bình tĩnh ứng phó. Không lâu lắm, họ trao đổi nhau độ ba mươi chiêu.
Cuộc chiến vẫn trong tư thế quân bình.
Chừng như muốn kết thúc trận đấu nhanh hơn, Khôi Y Thị Giả bỗng nhìn qua một bên, gắt:
– Sao các ngươi thản nhiên được chứ?
Trong số tám du hồ, hai người bước ra. Hai người đó, là hai thiếu phụ, tác trung niên, một cầm chiếc Hộ Thủ Quảy, một cầm kiếm. Cả hai cùng vung vũ khí, tham gia cuộc chiến.
Nhưng, bọn đó tham gia, Khôi Y Thị Giả không hài lòng, lại gắt:
– Ai gọi các ngươi trợ chiến? Ngốc ơi là ngốc!
Hai thiếu phụ sửng sốt. Nhưng, liền theo đó, họ thức ngộ ngay, người cầm quảy hướng qua Lưu Tam Thái, người cầm kiếm tiến đến Lả Vô Úy.
Lưu Tam Thái đã chuẩn bị ngay từ lúc Khôi Y Thị Giả lướt tới, thấy thiếu phụ tiến đến, lập tức vung Thất Tinh Đao chém ra.
Quảy chạm đao, một tiếng «bốp» vang lên, Lưu Tam Thái cảm thấy hổ khẩu tay nhói lên, năm ngón lỏng liền, thanh Thất Tinh Đao văng ra.
Lưu Tam Thái có đao, chống lại quảy, Lử Vô Úy tay không, phải chống với kiếm, tình cảnh phải nguy hơn, không công được thì cũng thủ, và thủ một cách chặt chẽ. Lử Vô Úy vừa thủ, vừa thừa thế, lách mình lòn theo kiếm ảnh, nhập nội, đưa tay điểm vào mạch môn thiếu phụ.
Thiếu phụ không tưởng là đối phương có thân pháp cực kỳ nhanh nhẹn như vậy, hụt chiêu kiếm đầu, liền bị tấn công, bà ta không thu kiếm về để phản công đúng lúc, mà cũng chẳng tránh kịp nên bị Lử Vô Úy điểm trúng mạch môn. Bà cảm thấy toàn thân rợn lên, rồi hầu như tê dại, bàn tay buông lỏng, thanh kiếm rơi xuống đất.
Lử Vô Úy kịp thời đưa tay kia chụp thanh kiếm.
Thế là qua chiêu đầu, Lử Vô Úy đã tước vũ khí của địch dễ dàng.
Hai du hồn xuất trận, một thắng, một bại. Dù ai thắng, ai bại, điều quan trọng không phải ở chỗ hơn kém, điều quan trọng là việc bắt hai người lạ mặt, vô cớ đến tận Biệt Phủ. Điều quan trọng đó, hai thiếu phụ đã làm, nhưng không thành công. Do đó, Kỳ Hạo trầm gương mặt, «hừ» một tiếng:
– Vô dụng quá!
Lời phê phán đó ngang với một lời kêu án, tất cả những tên du hồn, kể luôn Khôi Y Thị Giả đều sợ hãi.
Bị phê phán như vậy, chúng còn giao đấu nữa làm gì? Những tên dợm vào trợ chiến với Khôi Y Thị Giả, đều lùi lại. Những gã chưa vào, cũng lui theo. Khôi Y Thị Giả cũng bỏ cuộc luôn. Và, tất cả đứng lặng người, chờ sự trừng phạt, họ không có tội gì khác hơn là đánh không thắng bọn Quan Sơn Nguyệt.
Kỳ Hạo cười lạnh, thốt:
– Thật ta không hiểu nổi rồi đó, Tiêu Nhất Bình! Tài năng của du hồn các ngươi như vậy, thế mà cũng được tuyển dụng, và lại được tuyển dụng từ lâu! Bao lâu nay, chẳng một ai phát giác bọn các ngươi là một lũ vô tích sự!
Khôi Y Thị Giả biến sắc thành màu đất, rung rung giọng ấp úng:
– Tài nghệ của bọn thuộc hạ, cùng một xuất xứ cả, so với Độc Giác Tê, thuộc hạ không kém hắn, còn tám người kia ...
Kỳ Hạo cười mỉa:
– Riêng về ngươi, ta không đáng trách lắm, nhưng cái bọn đó ... thì đúng là một lũ vô dụng, bất quá chỉ để làm những cái túi đựng cơm, những cái giá mắc áo!
Khôi Y Thị Giả càng sợ hãi hơn:
– Tiên sư thuộc hạ từ lộc rất sớm, thành các sư đệ sư muội không được thụ huấn kỹ càng, đến nơi đến chốn, sở đắc hiện tại của họ do thuộc hạ truyền cho, được phần nào hay phần ấy. Bởi thuộc hạ chỉ điểm họ không đúng phương cách ...
Kỳ Hạo khoát tay:
– Ta không cần biết điều đó. Ta chỉ muốn rõ tại sao năm xưa các ngươi được tuyển mà thôi. Thấy vũ công của các ngươi, ta đâm nghi ngờ!
Khôi Y Thị Giả cúi đầu:
– Mười anh em thuộc hạ có một đấu pháp liên thủ, kể ra cũng hữu dụng, nhờ vậy mà trong cuộc khảo thí năm xưa, bốn vị Hội Chủ rất hài lòng, nên không ngần ngại tuyển chọn bọn thuộc hạ.
Kỳ Hạo «hừ» một tiếng:
– A? Các ngươi có một đấu pháp đặc biệt? Đâu các ngươi thử biểu diễn cho ta xem?
Khôi Y Thị Giả tỏ vẻ khó khăn:
– Tứ Đệ Độc Giác Tê đã bị Ma Quân trừng trị rồi, mười thiếu một, làm sao thuộc hạ biểu diễn được đấu pháp đó? Bởi đã gọi là liên thủ thập phương, thiếu một người thì trận thế không tròn ...
Kỳ Hạo suy nghĩ một chút đoạn gật đầu:
– Được rồi, ta cũng bỏ qua cho. Một ngày nào đó, ngươi nhắc lại ta, ta sẽ tìm người điền khuyết.
Như vậy Ma Quân đã xá tội rồi. Bọn du hồn thở phào.
Kỳ Hạo quay qua Quan Sơn Nguyệt, hỏi:
– Cái ý tứ của các hạ vừa rồi, tựa hồ cho tại hạ không dám động thủ?
Quan Sơn Nguyệt cười lạnh:
– Dám hay không, chỉ một mình ngươi biết, ta làm sao biết được chứ?
Kỳ Hạo đến bây giờ, mới tỏ lộ vẻ phẫn nộ. Hắn trầm giọng tiếp:
– Thật ra, hôm nay, tại hạ không dám khiêu chiến với các hạ, điều đó chẳng phải do tại hạ sợ gì các hạ, điều đó có một nguyên do, và tại hạ không thể bày tỏ cái nguyên do cho các hạ hiểu được. Giả như các hạ có thắc mắc, nóng muốn hiểu nguyên do đó, thì cứ hỏi hai vị ấy?
Hắn dứt tiếng, liền đưa tay chỉ Nhất Luân Minh Nguyệt và Vạn Lý Vô Vân.
Nhất Luân Minh Nguyệt không đợi Quan Sơn Nguyệt hỏi, xác nhận ngay:
– Đúng vậy! Ma Quân dù muốn động thủ với ngươi, cũng không thể động thủ được, bọn lão phu biết rõ sự khổ tâm của Ma Quân!
Kỳ Hạo cười lạnh:
– Và cũng vì các vị muốn biết rõ như vậy, nên mới dám đưa nhau đến đây, hơn nữa, đã đến đây rồi, lại còn dám sanh sự!
Nhất Luân Minh Nguyệt hấp tấp đáp:
– Ma Quân đoán sai! Bọn lão phu hoàn toàn chống đối sự vu oán đó! Thú thật với Ma Quân, chẳng phải bọn lão phu đưa người đến đây, mà chính là người đưa đi thì có!
Kỳ Hạo không tin lời nói đó:
– Không thể có việc như vậy! Trừ hai vị ra, còn ai biết được nơi này mà đến chứ?
Quan Sơn Nguyệt cao giọng:
– Lầm! Ngươi quên là còn ta! Chính ta biết ngươi ở tại đây và chính ta mang các vị lão trượng đó theo, ta đính chánh sự nghi ngờ oan uổng của ngươi!
Kỳ Hạo vẫn không tin.
Quan Sơn Nguyệt đưa tay chỉ con Minh Đà, tiếp:
– Ta nói sự thật, ngươi tin hay không tin, tùy ngươi. Chính con vật đó đưa đường, nó đánh hơi Khổng Linh Linh, theo dấu đến đây, nó thuộc loại hiếm tại vùng Quan Ngoại, có khả năng đánh hơi tinh hơn loài chó săn, dù ngươi ở ngoài ngàn dặm, nó biết cái hơi của ngươi rồi, là dẫn đường tìm ra ngươi ngay, nhất định không lệch lạc phương hướng.
Kỳ Hạo cười lạnh:
– Nó có khả năng đánh hơi đã đành, chẳng lẽ nó cũng có luôn khả năng tránh những cơ quan của tại hạ trong khu Hắc Lâm.
Quan Sơn Nguyệt giật mình, câu hỏi của Kỳ Hạo buông ra đột ngột quá, chàng chẳng biết phải đáp làm sao cho ổn thỏa.
Chàng lúng túng, Vạn Lý Vô Vân đáp thay:
– Không phải vậy đâu, việc xuyên qua khu rừng đó không liên qua gì đến con Minh Đà cả, sở dĩ lão phu qua lọt các cơ quan là nhờ Khổ Hải Từ Hàng biểu hiện «Quang Minh Thân Pháp» đưa đi.
Kỳ Hạo nổi giận, hét lên:
– Đáng hận cái lão hòa thượng đó thật! Tại sao lão dám làm thế chứ?
Vạn Lý Vô Vân cười nhẹ:
– Giả như Ma Quân có bất bình lão ấy thì cứ tìm lão mà giải quyết vấn đề!
Kỳ Hạo trầm ngâm một chút, đoạn bĩu môi:
– Không gặp lão hôm nay, thì sẽ gặp ngày mai, ngày kia. Sớm muộn gì cũng có dịp cho tại hạ giải quyết vấn đề!
Quan Sơn Nguyệt thầm cảm kích lão hòa thượng có nhã ý ám trợ bọn chàng, do đó, Kỳ Hạo hỏi, chàng không nỡ nói lên sự thật, sợ rắc rối phát sanh, bất lợi cho lão. Chàng định giấu, Vạn Lý Vô Vân lại tiết lộ ra, hơn thế Vạn Lý Vô Vân lại còn tỏ vẻ đắc ý, như khoan khoái vì đã gây nên mối hiềm khích giữa những người khác. Do đó, chàng khinh bỉ lão vô cùng, cho rằng lão chuyên xúi giục người ta thù nhau, đánh nhau, lão đứng bên ngoài, cười, vui bằng thích. Mỹ cảm chàng dành cho Vạn Lý Vô Vân, cũng như niềm kính trọng một bậc tài cao, tuổi lớn, từ lúc gặp gỡ trên đỉnh Ma Thiên Lãnh hoàn toàn tan biến.
Tuy nhiên, chàng không tỏ lộ sự khinh bỉ đó ngay bằng thái độ gì rõ rệt, chàng chỉ muốn chấm dứt câu chuyện đó, để chuyển sao đề khác. Chàng quát to:
– Kỳ Hạo! Ta hỏi ngươi, ngươi có bằng lòng giải thích thắc mắc của ta về Long Hoa Hội chăng?
Kỳ Hạo cười lạnh:
– Nói chứ! Có gì ngăn trở ta đâu mà ta chẳng nói? Bất quá, ta muốn biết, thực sự ngươi muốn nghe hay không vậy thôi!
Quan Sơn Nguyệt cao giọng:
– Nếu không muốn nghe, sao ta còn hỏi ngươi? Ngươi phải hiểu, ta ngàn dặm đến đây, ta không quản gian lao khổ nhọc, chỉ vì muốn biết Hội Long Hoa như thế nào. Đến đây rồi tự nhiên ta phải nghe ngươi giải thích chứ? Ngươi hỏi ta một câu, chừng như mâu thuẫn quá!
Kỳ Hạo đưa tay chỉ Lử Vô Úy và Lưu Tam Thái, tiếp:
– Còn hai người đó? Ngươi phải an trí họ như thế nào, cho đừng trở ngại việc giải thích của ta!
Quan Sơn Nguyệt lắc đầu:
– Không thể được!
Kỳ Hạo khoát tay lên không, kêu lên:
– Thế thì chịu thôi! Ta không làm sao thỏa mãn cái ý của ngươi được rồi!
Họ là những người ngoài, biết được những bí mật đó là họ phải chết!
Mãi đến bây giờ, Kỳ Hạo mới bỏ cái sáo giang hồ, không xưng là tại hạ, không gọi đối phương là các hạ nữa. Bởi, Quan Sơn Nguyệt không giữ lễ độ với hắn, thì hắn cần gì phải giữ lễ độ với chàng?
Quan Sơn Nguyệt cười lạnh:
– Ngươi nói nhảm! Chứ ta đây, ta có thuộc về Long Hoa Hội đâu sao ngươi dám tiết lộ những bí mật về hội đó, với ta?
Kỳ Hạo lắc đầu:
– Ngươi thì khác, ngươi không giống những người đó. Chắc ngươi hiểu tại sao chứ? Tại vì ngươi là truyền nhân của Độc Cô Minh, sớm muộn gì, trên bảng, cũng sẽ có tên ngươi ...
Quan Sơn Nguyệt khoát tay:
– Ngươi nghĩ sai! Ta sẽ không ghi tên vào bảng đó đâu! Sở dĩ ta quan tâm đến sự tình, là vì mối liên quan của sư phụ ta, đó vì sự tình, riêng về cá nhân ta, chẳng bao giờ ta thích có tên trong bảng như ngươi vừa nói. Hiện tại, sự hiểu biết của ta về Long Hoa Hội rất kém, song một cái hội thần bí, chẳng khi nào hội đó chính đáng, quang minh hơn nữa, điều lệ của hội đó quá khốc liệt tàn nhẫn, một cơ hội có những lệ như vậy, hẳn phải gồm những kẻ tà ác ...
Kỳ Hạo cười nhẹ:
– Ngươi đừng vội kết luận về một sự việc mà ngươi chưa hiểu được tận tường. Vào hội, không phải do ngươi muốn mà được, lại cũng chẳng phải tùy ý ngươi từ khước bất mãn mà không vào. Trong Hội Long Hoa, có độ nửa số hội viên không muốn gia nhập nhưng họ không thể khước từ, ngoài ra, có những người bị xóa tên, lại tìm mọi cách để được phục hồi danh vị. Bằng cớ, hai vị lão nhân kia ...
Quan Sơn Nguyệt, nhìn sang hai lão nhân, trầm giọng hỏi:
– Đúng vậy chăng?
Nhất Luân Minh Nguyệt thấp giọng:
– Đúng vậy! Bọn lão phu thực ra không muốn nhập hội, song không có phương pháp nào cự tuyệt được. Đã thế sau khi bị xóa tên rồi, lại ẩn mình một nơi, khổ luyện ngày đêm, mong một ngày nào đó, thi triển tài năng qua một cuộc khảo thí, để được ghi tên vào bảng trở lại như cũ! Biết rằng, làm như vậy là mâu thuẫn chính mình, nhưng lão phu đã nói, mình không cự tuyệt, thì bắt buộc phải nhận chứ biết làm sao?
Quan Sơn Nguyệt lấy làm lạ:
– Tại sao? Đã không muốn thì ai bắt buộc mình gia nhập, mà không phương pháp cự tuyệt?
Nhất Luân Minh Nguyệt há hốc miệng ra đó, một lúc lâu, vẫn chưa nói được tiếng nào. Sau cùng, lão thở dài, buông nhẹ.
– Lão phu cũng muốn giải thích cho ngươi hiểu, song chính lão phu cũng chẳng hiểu tại sao thì giải thích thế nào được?
Quan Sơn Nguyệt tỏ vẻ không tin:
– Trong thiên hạ làm gì có cái đạo lý kỳ quái như vậy ...
Nhất Luân Minh Nguyệt lại thở dài:
– Đến việc rồi ngươi sẽ biết! Lão phu không thể nói gì hơn.
Quan Sơn Nguyệt muốn hỏi nữa.
Kỳ Hạo nóng nảy, chận trước:
– Thực sự, ngươi định như thế nào, nói cho ta biết?
Quan Sơn Nguyệt suy nghĩ một chút:
– Ngươi nói thế, ta cứ nghe như thế, song ta bảo chứng những người cùng đi với ta đến đây, chẳng hề tiết lộ một điều bí mật. Ngươi yên trí.
Kỳ Hạo cười lạnh:
– Người trong Hội Long Hoa, chỉ có quyền bảo chứng cho một người, và chính là mình đó!
Quan Sơn Nguyệt cao giọng:
– Ta nghĩ, điều lệ đó, nên sửa đổi lại cho hợp lý hơn!
Mọi người hiện diện tại cục trường đều giật mình trước đề nghị táo bạo của chàng. Đề nghị đó, đưa ra mường tượng là một sự chỉ trích, một phê phán.
Có lẽ hầu hết những người đó đều đồng ý, nhưng nào ai dám nói ra?
Kỳ Hạo gật đầu:
– Được rồi! Ta thấy ngươi có hào khí đáng khen, nên đặc cách phá lệ thỏa mãn ý nguyện của ngươi. Vậy hãy theo ta vào trong ấy, đàm đạo.
Khôi Y Thị Giả do dự một chút, đoạn ấp úng:
– Ma Quân ... quyền hạn của Ma Quân ... không cho phép Ma Quân quyết định một việc quan trọng như vậy ...
Kỳ Hạo trừng mắt lườm y, quát:
– Tiêu Nhất Bình! Ngươi dám nói câu đó với ta à?
Khôi Y Thị Giả nín lặng.
Kỳ Hạo vẫy tay, ra hiệu mời khách, song ánh mắt của hắn ngời lên sát ý rõ rệt.
Quan Sơn Nguyệt bắt gặp ánh mắt đó, mỉm cười, hỏi:
– Ngươi tưởng ta chẳng biết tâm ý của ngươi, phải không?
Kỳ Hạo lạnh lùng:
– Biết được là tốt! Cứ đi theo ta!
Hắn bước đi liền. Hắn vừa qua cửa, bọn đồng nam đồng nữ theo luôn, cuối cùng chỉ còn một mình Khôi Y Thị Giả đứng tại đó, chờ khách.
Lử Vô Úy bước cạnh Quan Sơn Nguyệt, thốt:
– Lệnh chủ! Lão phu nghĩ rằng bên trong đó hắn có âm mưu ...
Quan Sơn Nguyệt cười nhẹ:
– Đúng vậy, Chưởng môn! Song, tiến tới, chúng ta ít hiểm nguy hơn thoái hậu.
Lử Vô Úy trố mắt:
– Lệnh chủ nói thế nghĩa là sao? Vào đó được an toàn hơn là thoái hậu?
Quan Sơn Nguyệt có phần nào áy náy, tuy nhiên, trong trường hợp này, dù hối hận cũng chẳng làm gì được. Chàng từ từ tiếp:
– Tại hạ trong một phút kém suy nghĩ, lôi cuốn hai vị vào vòng thị phi, thật là đáng trách cho tại hạ quá chừng! Song, bây giờ có nghĩ sao việc cũng đã lỡ rồi, có muốn sửa chữa lại phần nào cũng chẳng còn kịp nữa. Hiện tại, nếu muốn rút lui, chúng ta cũng có thể rút được, song chỉ đi khỏi nơi này thôi, còn như ra lọt ngoài vùng ảnh hưởng của họ, thì chúng ta không hy vọng đâu bởi chẳng khi nào họ buông tha chúng ta. Các vị cũng hiểu, lùi lại, là rơi vào mai phục, tiến tới, là có động thủ, mà động thủ dù sao cũng quang minh hơn, còn mai phục là địch thấy mình, mình không thấy địch, địch có đủ mọi cách ám toán, mình không một phương tiện tự vệ. Cho nên, tại hạ nghĩ, thà đánh nhau quang minh chánh đại mà mình còn hy vọng thủ thắng, chứ đưa mình vào mai phục để địch thao túng, thì bất lợi vô cùng.
Chàng kết luận:
– Huống chi, nào đã biết chắc là mình vào đó rồi sẽ phải động thủ? Mình cứ vào, xem họ bố trí như thế nào đối phó với mình!
Lử Vô Úy gật đầu:
– Lão phu xin theo tùy sự phân phó của Lệnh chủ.
Lưu Tam Thái khẳng khái hơn:
– Tánh mạng của tại hạ, xin hoàn toàn đặt dưới quyền sử dụng của Lệnh chủ.
Quan Sơn Nguyệt còn biết nói chi hơn là tỏ sự cảm kích trước nhiệt tâm của cả hai? Rồi chàng cương quyết bước tới.
Minh Đà muốn bước theo chàng, chàng quay lại, vỗ tay nhẹ lên cổ nó thốt:
– Bằng hữu yên trí đứng đây, chờ ta! Giả như ta không trở ra thì chắc là bằng hữu cũng biết phải làm như thế nào rồi.
Minh Đà gật đầu, như một bằng hữu thực sự.
Quan Sơn Nguyệt trước, những người kia nối theo sau, tất cả vào trong cửa, ngang qua mặt Khôi Y Thị Giả.
Ngồi bên cạnh Quan Sơn Nguyệt trong tòa đại sảnh, là Lạc Tiểu Hồng, bên cạnh Lạc Tiểu Hồng, là Lử Vô Úy và Lưu Tam Thái. Xa hơn chút nữa, là Vạn Lý Vô Vân và Nhất Luân Minh Nguyệt.
Họ tạo thành một hình vòng cung, chừa trống phía đối diện.
Phía đối diện, chỉ có một mình Kỳ Hạo ngồi, còn Khôi Y Thị Giả thì đứng, cạnh Ma Quân của y.
Song phương giữ im lặng một lúc lâu.
Sau cùng, chính Kỳ Hạo cất tiếng trước:
– Ngươi muốn biết điều gì?
Quan Sơn Nguyệt suy nghĩ một chút:
– Tiểu Tây Thiên ở đâu?
Kỳ Hạo đáp:
– Trên đỉnh Thần Nữ Phong, trong vùng Vu Sơn. Nơi đó, luôn luôn có mây trắng bao bọc suốt bốn mùa.
Quan Sơn Nguyệt lại hỏi:
– n sư ta có mặt tại đó chăng?
Kỳ Hạo gật đầu:
– Đương nhiên là có! Lão ấy là một trong bốn vị Hội Chủ nhiệm kỳ trước.
Quan Sơn Nguyệt, trầm giọng:
– n sư ta ở đó làm gì?
Kỳ Hạo mỉm cười:
– Hưởng phước thanh thản, suốt đoạn đường đời còn lại, trải qua trong khoái lạc tiêu diêu!
Quan Sơn Nguyệt trầm ngâm một lúc, chuyển sang đề khác:
– Long Hoa Hội, là cái hội gì?
Kỳ Hạo đáp:
– Một tổ chức kỳ diệu, khác hẳn mọi tổ chức thế gian. Hội gồm những bậc dị nhân, kỳ sĩ, ai ai cũng thừa tuyệt kỹ, diệu tài, phần đông đều thích ẩn mình, giấu mặt, chỉ có một thiểu số xuất hiện trên giang hồ, trong đó, có lịnh sư là một ...
Quan Sơn Nguyệt lại hỏi:
– Trong thiểu số đó, còn những ai, ngoài ân sư của ta?
Kỳ Hạo lắc đầu:
– Ta không tiện tiết lộ.
Quan Sơn Nguyệt suy tư một lúc, lại chuyển đề:
– Phong Thần Bảng là cái bảng gì?
Kỳ Hạo giải thích:
– Long Hoa Hội gồm một trăm lẻ tám hội viên, ba mươi sáu người đứng tên trong Tiên Bảng, bảy mươi người đứng tên trong Ma Bảng. Ngoài ra còn có bảng phụ, gọi là Quỷ Bảng. Thập Đại Du Hồn, dưới quyền sử dụng của ta, thuộc về Quỷ Bảng. Ngươi thấy đó, có tất cả hai bảng chánh và một bảng phụ:
Tiên Bảng, Ma Bảng và Quỷ Bảng.
Những điều hắn vừa tiết lộ. Quan Sơn Nguyệt có tưởng tượng trước, đại khái cũng chẳng sai lệch bao nhiêu. Chàng hỏi:
– Lấy gì làm chuẩn để phân biệt ba bảng, Tiên, Ma và Quỷ?
Kỳ Hạo mỉm cười:
– Ngươi hỏi thế, chứ ta đoán là ngươi có hiểu phần nào rồi. Tự nhiên phải căn cứ trên tài nghệ, và người giỏi nhất, được ghi tên vào Tiên Bảng, ngươi có bậc trung được liệt vào Ma Bảng, phần còn lại, sẽ là bảng viên của Quỷ Bảng.
Hắn kết luận:
– Ba bảng hợp lại, tức là Phong Thần Bảng.
Quan Sơn Nguyệt hỏi tiếp:
– Ngươi thuộc về bảng nào?
Kỳ Hạo cười nhẹ:
– Danh hiệu của ta là Thiên Tề Ma Quân, tự nhiên thuộc về Ma Bảng ta là thủ lĩnh quần ma, phàm những người được liệt tên trên Ma Bảng, đều thuộc quyền thống trị của ta.
Lạc Tiểu Hồng chớp mắt, hỏi:
– Mẹ ta, dì và dượng ta, có phải là người trong Ma Bảng chăng?
Kỳ Hạo gật đầu:
– Phải. Cho nên, họ chẳng dám cãi lịnh ta.
Lạc Tiểu Hồng cau mày:
– Còn Hồ Hải Dị Tẩu?
Kỳ Hạo đáp:
– Lão ấy thuộc về Tiên Bảng.
Lạc Tiểu Hồng «hừ» một tiếng, bĩu môi:
– Cái lão vô dụng đó, xứng đáng gì lại được liệt tên trong Tiên Bảng chứ?
Kỳ Hạo cười ha hả:
– Cô nương nói đúng! Bởi thế, tại hạ có cái nhận xét này, là Ma Bảng không hẳn kém Tiên Bảng, do đó tại hạ dám nêu câu liễn nơi trước cửa, cho rằng Ma cảnh có thể đẹp hơn Tiên cảnh, chắc các vị có đọc qua đôi liễn đó, lúc mới đến chứ?
Đối với Lạc Tiểu Hồng, là một nữ nhân, hẳn không tiện xưng là ta, mà phải dùng hai tiếng tại hạ, bởi dù sao thì hắn cũng chẳng thể có thái độ quá cộc lốc đối với nữ nhân, dù nàng cứ gọi hắn là ngươi.
Quan Sơn Nguyệt trầm ngâm một lúc lâu rồi cất tiếng:
– Ngoài cái quyền thống trị quần ma, ngươi còn uy lực chi khác chăng?
Kỳ Hạo mỉm cười:
– Ta chấp chưởng hình luật của Phong Thần Bảng, chức vị của ta trong Long Hoa Hội, là Tư Pháp, phàm người trong Tiên, Ma nhị bảng đều phải bị ta giám thị, bất quá, đối với người trong Tiên Bảng thì ta ít nghiêm khắc hơn phần nào vậy thôi.
Quan Sơn Nguyệt chớp mắt:
– n sư ta có bị ngươi giám thị chăng?
Kỳ Hạo thoáng biến sắc, suy nghĩ một chút, đoạn đáp:
– Không! Lão ấy là một Hội Chủ, địa vị ngang ta, chẳng ai quản trị ức chế ai được.
Nhất Luân Minh Nguyệt chen vào:
– Ma Quân nói thế, chứ Hội Chủ có quyền hành hơn Ma Quân nhiều. Có lúc Ma Quân phải tuân lịnh Hội Chủ.
Kỳ Hạo nổi giận:
– Lần đại hội sắp tới đây, tại hạ sẽ tranh chức Hội Chủ, lúc đó thì đừng hòng lão ấy ức chế tại hạ được.
Quan Sơn Nguyệt lại hỏi:
– Ai phát khởi Long Hoa Hội?
Kỳ Hạo, Nhất Luân Minh Nguyệt và Vạn Lý Vô Vân, luôn cả Khôi Y Thị Giả cùng biến sắc.
Vạn Lý Vô Vân cao giọng:
– Tiểu tử không nên tìm hiểu điều đó.
Quan Sơn Nguyệt lấy làm kỳ:
– Tại hạ không thể đề cặp đến vấn đề đó à?
Kỳ Hạo chưa hết kinh hãi, gật đầu:
– Đúng. Ngươi có thể hỏi mọi việc, trừ việc đó, bởi thuộc về trọng cấm.
Hiện tại, ngươi chưa nhập hội, nên chẳng đáng gọi là một cái tội, chứ nếu ngươi nhập hội rồi, mà còn hỏi như vậy, là khó tránh mình bị hình phạt.
Quan Sơn Nguyệt suy nghĩ một chút:
– Thế thì ta đặt câu hỏi khác. Trong Bảng Phong Thần, người có quyền oai cao lớn hơn hết, là ai?
Hình thức của câu hỏi, hoàn toàn khác, song cái ý thì hoàn toàn giống. Hỏi như vậy, có thể người ta đáp lời được. Cho nên, Kỳ Hạo do dự giây lâu, rồi thốt:
– Người có quyền uy tối thượng, là bốn vị Hội Chủ, có điều chỉ là quyền tượng trưng mà thôi, chứ chẳng phải thực quyền. Người có thực quyền chính là ta, bởi ta quyết định sự sanh tồn tử vong của tất cả. Ngươi biết không, danh hiệu của ta là Thiên Tề Ma Quân, mà Thiên Tề có nghĩa như thế nào?
Bây giờ, hắn tỏ vẻ đắc ý, hắn quên mất cái bực vừa rồi do Nhất Luân Minh Nguyệt gây cho hắn khi tiết lộ là một hội chủ có quyền ức chế hắn.
Quan Sơn Nguyệt cười lạnh:
– Nói vậy thì tại Tiểu Tây Thiên, ngươi là người có quyền hạn cao nhất?
Kỳ Hạo mỉm cười, gật đầu:
– Phải, chỉ trừ Thiên Ngoại Thiên ...
Quan Sơn Nguyệt trố mắt:
– Thiên Ngoại Thiên là gì?
Kỳ Hạo lỡ lời, biến sắc mặt xanh dờn. Hắn có cái vẻ một kẻ phạm trọng tội, một tội bất xá. Hắn nhìn quanh một vòng, xem có kẻ nào nghe lọt câu nói của hắn chăng, kẻ đó hiển nhiên phải là ngoài bọn Quan Sơn Nguyệt, nếu có.
Nhất Luân Minh Nguyệt và Vạn Lý Vô Vân cũng biến sắc như hắn, mặc dù không phải hai vị nói lên câu đó. Hai vị cũng ngưng thần nghe ngóng.
Không lâu lắm, từ trên không, có tiếng âm nhạc phát sanh, vọng đến sảnh đường. Tiếng nhạc lạ lùng, không do dây tơ, dây đồng, mà cũng chẳng phải trúc.
Tiếng nhạc kỳ lạ đó, êm dịu vô cùng.
Tiếng nhạc vang lên từ xa xa, nghe văng vẳng, dần dần âm thinh lớn, cuối cùng thì nghe rất gần.
Rồi mọi người lại ngửi một mùi hương, cũng lạ như tiếng nhạc.
Kỳ Hạo nghe tiếng nhạc, đã quỳ xuống, Khôi Y Thị Giả đứng sau lưng hắn, cũng quỳ theo, đầu của y cúi thấp quá, hầu như sát mặt đất.
Quan Sơn Nguyệt và những người kia, đều giật mình.
Nhưng, Quan Sơn Nguyệt, Lạc Tiểu Hồng, Lưu Tam Thái và Lử Vô Úy dù sao cũng chỉ là người ngoài hội, có sợ là sợ biến cố gì đó phát sanh bất ngờ, không lợi cho họ, chứ họ có biết tiếng nhạc và mùi hương kia báo hiệu sự việc gì, như bọn Kỳ Hạo mà phải sợ hãi cực độ như họ?
Riêng Nhất Luân Minh Nguyệt và Vạn Lý Vô Vân, tuy đã bị xóa tên trong bảng, vẫn còn giữ cái hơi hướm của người trong hội, huống chi, cả hai lại nuôi hy vọng phục hồi ngôi vị cũ, họ biết rõ sự gì sắp đến như Kỳ Hạo và Tiêu Nhất Bình họ cũng sợ như Kỳ Hạo và Tiêu Nhất Bình, có điều họ không quỳ xuống. Họ không quỳ song, họ không dám ngồi, đứng lên, đứng thẳng mình, hai tay buông thõng, dáng trang nghiêm phi thường.
Chừng như cả hai rung rung người, y phục của họ lung linh, dù lúc đó chẳng có một ngọn gió nào từ bên ngoài thổi vào đại sảnh.
Không lâu lắm, có bóng người chớp lên nơi cửa đại sảnh.
Đầu tiên, là hai bóng, hai bóng đó là hai tiểu tỳ nữ, tuy còn nhỏ mà nàng nào cũng đẹp, tinh anh phát tiết sớm quá!
Những người có tinh anh phát tiết sớm như vậy, hẳn phải có vũ công cao, điều đó chứng tỏ hai tiểu tỳ nữ này có vũ công rất khá, và tỳ nữ đã vậy, đương nhiên chủ nhân phải là một nhân vật siêu phàm.
Mỗi tỳ nữ cầm một chiếc đèn Lưu Ly Thất Bửu, đèn tỏa sáng như ngàn sao kết tinh lại.
Đôi tỳ nữ cầm đèn vào rồi, một đôi khác tiếp nối, cũng đồng trạc tuổi với đôi trước. Mỗi nàng sau cầm một chiếc lư bằng vàng, tượng hình thú lạ, từ lòng lư bốc lên một ngọn khói nhạt, xanh.
Mùi hương lạ tỏa ra trong đại sảnh, chính là mùi khói của hai chiếc lư vàng.
Sau cùng, là một mỹ nhân, y gấm.
Gấm, chẳng phải dệt bằng tơ, lụa, gấm dệt bằng lông chim công, hay nói đúng hơn, y phục đó, bằng lông công kết lại, màu sắc chói lọi, thoạt nhìn, đôi mắt phải chóa lên ngay.
Mỹ nhân vấn tóc cao, để lộ rõ gương mặt đẹp tuyệt vời. Nữ nhân có thần thái siêu phàm, thoát tục. Nếu cho rằng nữ nhân là một tiên nữ lâm trần, điều đó không sai sự thật lắm bởi tiên nữ dù đẹp, cũng chỉ đẹp như vậy thôi, không hơn.
Tiên nữ dù phiêu nhiên, thanh thoát, cũng chỉ như nữ nhân thôi không hơn.
Nữ nhân vào đại sảnh, nhìn thoáng qua bọn Quan Sơn Nguyệt, Lạc Tiểu Hồng, Lử Vô Úy và Lưu Tam Thái vẫn ngồi trơ nơi ghế, bất giác cau đôi mày liễu.
Đôi mày cau lại, tạo một vẻ đẹp mê hồn cho gương mặt đã đẹp tuyệt vời. Đoạn, nữ nhân hỏi:
– Những ai thế?
Kỳ Hạo còn quỳ trên nền sảnh, cạnh chiếc ghế của hắn, đưa tay chỉ Quan Sơn Nguyệt đáp:
– Truyền nhân của Độc Cô Minh.
Nữ nhân cau mày thêm chút nữa:
– Truyền nhân của Độc Cô Minh? Độc Cô Minh là ai?
Dù ngu xuẩn đến đâu, trông qua sự tình, Quan Sơn Nguyệt cũng hiểu nữ nhân có thân phận rất cao. Muốn nhân dịp này đối thoại với nữ nhân, chàng đáp chận Kỳ Hạo:
– Gia sư có hiệu trên Tiên Bảng, người là Hoàng Hạc Tán Nhân!
Nữ nhân thoáng giật mình:
– Thì ra là lão ấy ... Lão có diễm phúc đấy chứ, chọn được một truyền nhân rất khá!
Và vừa thốt, vừa nhìn Quan Sơn Nguyệt, nhìn chăm chú quá làm Quan Sơn Nguyệt hơi ngượng.
Để phá tan niềm ngượng, chàng hỏi:
– Bà là ai?
Nữ nhân cười nhẹ:
– Ngươi hỏi như vậy là vô lễ đấy nhé!
Quan Sơn Nguyệt trầm giọng:
– Tại hạ với bà, là hai người xa lạ, tại hạ không hề bị ràng buộc với bà bằng một ân oán nghĩa vụ nào cả, thì hỏi như vậy có gì là thất lễ đâu? Giả như bà là người có thân phận cao tại đây, cái thân phận đó chẳng ảnh hưởng chi đến tại hạ, bất quá tại hạ muốn biết, như vậy là vô lễ sao?
Nữ nhân lại cười:
– Người muốn hỏi Thiên Ngoại Thiên là cái chi, phải không? Ta chính là ...
Tư Mã Tử Yên
Võ Lâm Phong Thần Bảng
Hồi 21
Đường Vào Ảo Tưởng
Bà hỏi như thế, là đáp đúng ý muốn của Quan Sơn Nguyệt.
Trước khi đến đây chàng mang theo nhiều thắc mắc, về Long Hoa Hội, về Tiểu Tây Thiên, về Phong Thần Bảng. Bao nhiêu thắc mắc đó, Kỳ Hạo lần lượt giải thích hết rồi. Nhưng hắn lại nêu lên một thắc mắc cho chàng, lớn hơn, hắn lại im lặng về điều do hắn nêu ra.
Chàng đang tìm hiểu, nữ nhân lại xuất hiện.
Thiên Ngoại Thiên?
Cái gì khác, thì dĩ nhiên là chàng không thể hiểu nổi, song chàng biết nữ nhân là một nhân vật có thân phận rất cao trong tổ chức này. Cao hơn cả Kỳ Hạo cho nên hắn mới quỳ xuống, tiếp nghinh. Như vậy, hẳn bà ta có đủ thẩm quyền giải thích điểu chàng muốn hiểu.
Bà hỏi chàng như vậy, bà vẫn chưa nói gì tiếp, lại quay qua Kỳ Hạo, hỏi hắn:
– Ma Quân gọi đến, hẳn có điều chi chỉ giáo?
Ma Quân gọi? Gọi từ lúc nào? Hắn chỉ nêu lên ba tiếng Tiểu Tây Thiên là đến ngay? Thế là một cách gọi à? Cái tổ chức này, sao mà khó hiểu quá chừng!
Kỳ Hạo vẫn còn quỳ trên nền, rung rung giọng thốt:
– Thuộc hạ sơ suất trong nhất thời, xúc phạm đến tiên oai, thành đắc tội ...
Nữ nhân «ạ» một tiếng:
– Thế ra, Ma Quân đùa vui nên gọi ta đến đây?
Kỳ Hạo biến sắc mặt như màu đất:
– Tiên nữ dạy quá lời. Thuộc hạ nào dám có ý đó ...
Bỗng nữ nhân ngưng trọng thần sắc, nụ cười tắt, giọng lạnh lùng:
– Ngươi đừng tưởng, ta có thể tha thứ ngươi dễ dàng. Pháp luật đặt ra, là để cho mọi người tuân phục, pháp không lơi lỏng mà cũng chẳng làm oan uổng ai.
Pháp giải phải công bình cho người ta vui mà tuân theo, cho người ta không thán oán khi thọ hình phạt vì vi phạm. Tuy nhiên ta có thể đáp ứng ngươi lưu lại đó cánh tay của ngươi, nhưng, phải chờ đến sau hội kỳ, ngươi mới có thể sử dụng ...
Kỳ Hạo rung rung giọng:
– Thuộc hạ xin tiên nữ lượng thứ ...
Nữ nhân mỉm cười:
– Bỏ một cánh tay kể ra cũng khó chịu đấy chứ? Làm gì ngươi nhẫn nhục cam chịu cái cảnh đó? Vả lại, ta làm sao biết chắc là từ đây đến ngày đại hội, ngươi không vi phạm quy ước?
Kỳ Hạo lộ vẻ sợ sệt:
– Ý của tiên tử như thế nào?
Nữ nhân suy nghĩ một chút đoạn mỉm cười:
– Ý của ta như thế này, là ngươi tạm thời trao chân tay cho ta, đến lúc ngươi cần dùng, ta sẽ trả lại cho ngươi!
Kỳ Hạo thống khổ vô cùng, song hắn làm sao dám phản kháng? Hắn phải lên tiếng đáp ứng.
Quan Sơn Nguyệt hết sức kỳ quái, tự hỏi, tay chân con người là những bộ phận dính liền cơ thể, có thể nào muốn rứt ra lúc nào tùy ý, rồi tháp lại như thường? Chàng thắc mắc vô cùng.
Nữ nhân lại tiếp:
– Ta bất chấp cái ý của ngươi như thế nào, ta chỉ biết là ngươi phải hiểu rõ hơn ai hết, hình phạt nào dành cho tội lệ nào, bởi ngươi đảm nhận chức vụ Tư Pháp Chưởng Hình, chính ngươi phải tự xử lấy ngươi, như ngươi đã xử bao nhiêu người.
Kỳ Hạo trước đó oai phong biết bao, giờ đây, chẳng khác nào một con mèo nhúng nước. Hắn biến sắc mặt như xác chết rung rung giọng hỏi:
– Thuộc hạ tự phế một cánh tay, tiên nữ nghĩ sao?
Nữ nhân cười nhẹ:
– Chứ ta đã chẳng bảo ngươi tự xử à? Ngươi còn hỏi ta làm gì? Ngươi hy vọng ta đổi ý à?
Kỳ Hạo nghiến răng, đưa một ngón tay lên, định điểm vào một huyệt đạo nơi cánh tay kia.
Bỗng, nữ nhân quát:
– Khoan!
Kỳ Hạo mừng thầm, hy vọng nữ nhân tha thứ. Hắn nhìn nữ nhân, trong ánh mắt ngời niềm cảm kích.
Nữ nhân mỉm cười, thốt:
– Hội kỳ sắp đến, nếu ta để cho ngươi tự phế hủy một cánh tay, thì người trong Ma Bảng sẽ cho là ta không công bình, cố ý tìm lý lẽ, loại trừ thủ lĩnh của quần ma ...
Kỳ Hạo ấp úng:
– Đa tạ tiên tử ...
Nữ nhân vẫn cười tươi, cười một cánh thản nhiên:
– Ngươi đã sẵn sàng chứ?
Kỳ Hạo đưa cao cánh tay tả, bởi cánh tay hữu dù sao cũng hữu dụng hơn, nếu bắt buộc phải phế hủy một cánh tay, thì đương nhiên hắn hy sanh cánh tả.
Nữ nhân đưa ánh mắt ra hiệu với một tỳ nữ.
Nàng ấy đặt chiếc đèn lưu ly thất bửu xuống nền, bước tới trước mặt Kỳ Hạo, lấy trong mình ra một đường dây, nhỏ bằng sợi chỉ.
Kỳ Hạo co một cánh tay, dĩ nhiên là cánh tay tả, đưa ra.
Nàng ấy quấn đường dây quanh cánh tay, từ chỏ đến cổ tay. Cánh tay đó phải co lại mãi, cho đến khi có lịnh mới và lịnh mới đó nếu có, cũng phải đến ngày đại hội Long Hoa.
Đường dây đó rất bở, nếu Kỳ Hạo nhúc nhít cánh tay, nó sẽ đứt. Và, đường dây đứt, là Kỳ Hạo có tội nặng, bởi chính hắn toan vi phạm lịnh của nữ nhân, hắn phản kháng lịnh của nàng, nên hủy diệt một hình phạt, được tự do, làm điều bội nghịch.
Hắn sẽ giữ đường dây nguyên vẹn đến ngày đại hội, và giữ một đường dây như thế khỏi đứt, suốt mấy ngày đêm, là một cực hình, thà rằng nữ nhân chặt đứt của hắn một cánh tay, còn hơn!
Kỳ Hạo cũng muốn tự chặt một cánh tay lắm, song nếu hắn làm như vậy, là hắn tỏ lộ một sự bất mãn, tội của hắn sẽ nặng hơn, cho nên biết khổ, mà vẫn phải chịu khổ.
Quan Sơn Nguyệt lắc đầu, thầm nghĩ nữ nhân kia kể ra cũng ác độc thật!
Giải quyết xong trường hợp của Kỳ Hạo, dù là tạm thời nữ nhân quay qua Nhất Luân Minh Nguyệt và Vạn Lý Vô Vân, điểm một nụ cười, thốt:
– Mừng cho hai vị, sắp trở về ngôi vị cũ!
Vạn Lý Vô Vân tỏ vẻ cung kính:
– Đến lúc đó, anh em lão phu hẳn là phải nhờ đến tiên nữ mở đức từ bi!
Nữ nhân cười nhẹ:
– Các hạ nói quá lời, riêng tôi thì chẳng giúp ích gì được nhiều cho các vị, trong anh em, có thiếu chi người sẵn sàng nâng đỡ các vị, tìm mọi cách tiếp trợ các vị phục hồi danh vị trên bảng. Còn tôi thì bất quá dành một vài phương tiện nho nhỏ cho các vị thôi, giúp các vị đỡ lao nhọc hơn phần nào!
Nhất Luân Minh Nguyệt cảm kích vô cùng:
– Đa tạ tiên nữ!
Nữ nhân bật cười khanh khách. Bà từ từ chuyển mắt sang Quan Sơn Nguyệt, rồi bước đến gần chàng, đôi mắt sáng đẹp của bà dán vào người chàng, như quan sát kỹ hơn để có một nhận định đúng hơn. Một phút sau, bà thốt:
– Khá! Khá lắm! Khí độ hiên ngang, tánh khí quật cường, trước nguy không sợ, thần sắc ổn định, hơn hẳn Hoàng Hạc! Thảo nào mà lão ấy chẳng giấu ta!
Nếu ta biết được lão có một truyền nhân sáng giá như thế này, thì ta đã đến nhìn qua mặt hắn một lần rồi, đâu đợi đến ngày mới gặp mặt!
Quan Sơn Nguyệt thừa hiểu, nữ nhân có một thân phận rất cao, song về tuổi tác của bà, thì chàng hết sức mơ hồ.
Qua cách xưng hô, đối thoại giữa bà và hai vị lão nhân, thì chàng ước độ bà thuộc hàng tiền bối, nếu bằng dung mạo thì chàng nghĩ rằng bà suýt soát lứa tuổi chàng. Như vậy, chàng gọi nữ nhân với cái tiếng bà, có thích hợp chăng?
Đành rằng, bà không tỏ lộ một ác ý nào đối với chàng, song cái vẻ trịch thượng, cái giọng kê ca của bà, làm cho chàng bất mãn vô cùng. Phải chi bà thân thiện hơn một chút, nhã nhặn hơn một chút, dù bà có dùng cái sáo giang hồ, chàng cũng cảm thấy dễ chịu hơn. Chàng hỏi cộc lốc:
– Bà tên họ chi?
Nữ nhân kinh ngạc, trố mắt nhìn chàng. Bà không tưởng là đối tượng dám vô lễ với bà như vậy, và có lẽ đây là lần thứ nhất, một người dám tỏ vẻ khinh khỉnh trước mặt bà.
Nhất Luân Minh Nguyệt lo sợ cho Quan Sơn Nguyệt, nếu bà phát tác thì thật là rắc rối. Lão đằng hắng một tiếng, nhắc khéo:
– Tiểu tử! Đối với tiên tử ...
Nữ nhân khoát tay mỉm cười:
– Không quan hệ! Cái tính khí của hắn như vậy là được lắm! Huống chi, hắn chưa chánh thức là người trong hội, thì chúng ta không nên quá hạn chế ngôn từ và thái độ của hắn. Ta thích những con người đối thoại bình đẳng với ta.
Đoạn cuối câu, bà hướng về Quan Sơn Nguyệt khi bà dùng tiếng ta. Rồi bà tiếp luôn:
– Ngươi muốn biết tên ta? Ta là Liễu Y Ảo!
Quan Sơn Nguyệt thản nhiên:
– Tại hạ phải xưng hô làm sao? Gọi là tiểu thơ, là phu nhân, là bà, là cô nương?
Liễu Y Ảo thoáng đỏ mặt:
– Vấn đề đó không quan trọng lắm!
Quan Sơn Nguyệt trầm giọng:
– Sao lại không quan trọng? Phàm đối thoại, phải biết người đối diện như thế nào, phải có lối xưng hô minh bạch, chứ chẳng lẽ tại hạ gọi ngay tên họ bà mỗi lúc thốt lời? Tại hạ muốn biết phải gọi bà như thế nào, gọi sao cũng được, chứ nhất định không gọi là tiên tử!
Liễu Y Ảo «hừ» một tiếng:
– Lần thứ nhất, ta mới nghe một người bình phẩm như ngươi! Không gọi ta là tiên tử, thì hẳn là cho ta còn phàm tục!
Quan Sơn Nguyệt mỉm cười:
– Tục, thì không hẳn, còn tiên thì nhất định là không rồi!
Liễu Y Ảo hỏi gấp:
– Ngươi thấy sao mà cho rằng ta chưa phải là tiên?
Quan Sơn Nguyệt đưa tay chỉ bốn nữ đồng, đáp:
– Tiên, là những vị thích thanh tịnh, chủ trương vô vị, tiên đâu lại có những nghi thức rườm rà thế? Tiên đâu lại thích những dàn giá phô trương như thế?
Liễu Y Ảo cười nhẹ:
– Ngươi muốn nói đến hạng tiên như Lý Thiết Quảy, lem luốc bê tha như một tên hành khất, suốt đời cô độc, chẳng có một tiểu đồng phục dịch? Sao ngươi không nghĩ đến trường hợp bà Tây Vương Mẫu tại cung Dao Trì, quanh mình luôn luôn có hằng ngàn tiên tử hầu hạ, mỗi bước đi là mỗi có nhạc tấu lên?
Sao ngươi không nghĩ đến trường hợp Quan Thế m Bồ Tát, quanh mình vẫn có Thiện Tài, Long Nữ? Thì ra, có một số người phục dịch, tùy tùng, điều đó có lạ chi lắm đâu?
Quan Sơn Nguyệt cười nhạt:
– Bà nghĩ kỹ lại đi, người phàm tục, tự ví mình với Phật với Tiên, tự tạo cho mình những cái mà Phật, Tiên đã có, tự nhiên mà có, không có cũng chẳng sao, như vậy là còn so sánh, còn tham vọng, còn tranh đua, như vậy là chẳng phải tiên, trái lại còn tục hơn người tục. Bởi, càng ngày càng nuôi tham vọng, càng ngày càng chú trọng đến hình thức, phản ngược lại cái nghĩa siêu nhiên của bậc siêu trần. Phật xem sắc là không, Tiên thì vô vi tự tại, chứ bà thì luôn luôn dàn hầu nghi vệ, nào đèn, nào hương ... Bà còn chú trọng đến những cái nhỏ nhặt đó, thì lòng bà chưa hẳn thanh tịnh hoàn toàn. Bà chưa phải là tiên, cho nên tại hạ không thể nào gọi bà là tiên tử!
Chàng dừng lại một chút, đoạn cao giọng phẩm bình tiếp:
– Tiên, không hề mê luyến hồng trần, mà bà thì còn tha thiết với tục lụy quá chừng, bằng cớ là từ lúc bà đến đây, bà luôn luôn quan tâm đến trần tục, nào là hình phạt, nào là giai cấp, nào là ân, oán, tại hạ chưa nói đến cái vẻ tự cao của bà!
Liễu Y Ảo gật gù:
– Có lý! Có lý!
Quan Sơn Nguyệt quay về vấn đề chính:
– Bà có thể cho tại hạ biết về ba tiếng Thiên Ngoại Thiên chăng?
Liễu Y Ảo trầm ngâm một chút:
– Thiên Ngoại Thiên là một tổ chức, trên bậc Phong Thần Bảng, tổ chức đó gồm bảy vị sư huynh, tỷ muội của ta.
Quan Sơn Nguyệt lại hỏi:
– Tổ chức Thiên Ngoại Thiên liên quan với Long Hoa Hội chăng?
Liễu Y Ảo mỉm cười:
– Long Hoa Hội do bảy người bọn ta thành lập, và Phong Thần Bảng cũng do bảy người bọn ta tuyển chọn ...
Quan Sơn Nguyệt thức ngộ:
– Tại hạ minh bạch rồi. Long Hoa Hội được sáng lập tại Tiểu Tây Thiên, các vị lại xưng là Thiên Ngoại Thiên, thế là trên Phong Thần Bảng, còn có Tiên Bảng.
Và bà là người có tên trong Tiên Bảng.
Liễu Y Ảo lắc đầu:
– Ngươi chỉ đoán đúng một phần nào thôi. Tại Tiểu Tây Thiên, trong cái giới Thiên Ngoại Thiên, có ba Tiên, ba Ma và một Quỷ.
Quan Sơn Nguyệt lại hỏi:
– Các vị lập Long Hoa Hội với mục đích như thế nào?
Liễu Y Ảo lắc đầu:
– Về vấn đề đó thì ta không thẩm quyền giải thích cho ngươi rõ.
Quan Sơn Nguyệt lộ vẻ thất vọng:
– Thế ai có thẩm quyền giải thích?
Liễu Y Ảo suy nghĩ một chút:
– Về Tiên Bảng, chỉ có Tiên mới giải thích được, cũng như về Ma Bảng hoặc Quỷ Bảng, chỉ cho Ma hoặc Quỷ mới giải thích được.
Quan Sơn Nguyệt trố mắt:
– Bà thuộc về hạng nào?
Liễu Y Ảo mỉm cười:
– Chứ ngươi không nghe các vị kia gọi ta là tiên tử đó.
Quan Sơn Nguyệt gật đầu:
– Như vậy bà thuộc về Tiên Bảng. Tại hạ hỏi bà về những việc có liên quan đến Tiên Bảng.
Liễu Y Ảo lắc đầu:
– Cũng không được nốt! Ta đã nói cái số tiên, chỉ có ba người, mà ta thì đứng hàng cuối, về những vấn đề nhỏ nhặt, ta có thể giải đáp cho ngươi hiểu, còn những việc trọng yếu, nếu ngươi muốn biết, tất phải hỏi nơi sư tỷ của ta.
Quan Sơn Nguyệt cao giọng:
– Bà ấy ở đâu?
Liễu Y Ảo đáp:
– Tự nhiên là ở tại Tiểu Tây Thiên, nhưng ngươi không gặp được sư tỷ của ta đâu, trừ ra tại Đại Hội Long Hoa, người xuất hiện để liệu lý công vụ, còn thì chẳng bao giờ người để cho ai thấy mặt ...
Quan Sơn Nguyệt trầm ngâm một chút:
– Hội kỳ định vào ngày nào?
Liễu Y Ảo không dấu:
– Ngày mười chín tháng chín.
Rồi bà hỏi:
– Ngươi đến dự chăng?
Quan Sơn Nguyệt đáp gấp:
– Đến chứ bà! Nhất định là tại hạ phải có mặt tại đại hội. Bởi tại hạ muốn gặp ân sư tại hạ!
Liễu Y Ảo mỉm cười:
– Tốt lắm. Đến lúc đó, chúng ta sẽ gặp lại nhau. Tuy nhiên sự có mặt của ngươi tại đại hội có phần nào bất tiện, bởi ngươi không là người trong hội, vậy ngươi hãy giữ lấy tín phù của ta đây, khi nào gặp trở ngại ngươi cứ chiếu trình ra, chắc chắn là những người phụ trách đại hội sẽ không làm khó dễ chi ngươi. Hiện giờ, ta có việc cần phải đi.
Bà lấy trong mình ra một chiếc ngọc bội nhỏ, trao cho Quan Sơn Nguyệt.
Quan Sơn Nguyệt đưa tay tiếp nhận, toan nói mấy lời đa tạ, bà vụt quay mình, thoắt ra ngoài cửa, nhanh hơn làn gió phất.
Bốn nàng tiểu tỳ nữ cũng có thân pháp nhanh vô cùng, chủ nhân vừa mất dạng thì bốn nàng cũng biến luôn.
Quan Sơn Nguyệt nhìn theo bóng bà thừ người suy tư trầm trọng.
Lúc đó Kỳ Hạo mới đứng lên, một cánh tay co, có đường dây nhỏ cột quanh, hắn không dám cử động mạnh, hắn nhìn chiếc ngọc bội nơi tay Quan Sơn Nguyệt, ánh mắt lộ rõ vẻ căm hờn.
Vạn Lý Vô Vân tán:
– Tiểu tử có diễm phúc lắm đó nhé! Ngươi được tiên tử chiếu cố như vậy, đúng là ngươi được ưu đãi nhất trên đời.
Quan Sơn Nguyệt giật mình, trở về thực tại, quay qua Vạn Lý Vô Vân hỏi:
– Chiếc ngọc bội này, có công dụng như thế nào?
Vạn Lý Vô Vân cười nhẹ:
– Có chiếc ngọc bội đó nơi tay, là ngươi có quyền lực vô biên, đưa ngươi đến một địa vị chí tôn, người trong Phong Thần Bảng phải cúi đầu trước mặt ngươi, sẵn sàng tuân hành lịnh của ngươi. Cho dù là sư phụ của ngươi, cũng phải tuân phục ngươi không vì cái thân phận là sư phụ mà được đặt ngoài công lệ.
Quan Sơn Nguyệt không tin:
– Một chiếc ngọc bội bình thường như thế này, là có quyền lực to lớn như vậy à?
Vạn Lý Vô Vân gật đầu:
– Thấy tín phù, như thấy tiên tử, ngươi hiểu rõ cái lệ đó chứ?
Quan Sơn Nguyệt sững sờ. Rồi chàng nhẩm tính thời gian, đoạn hỏi:
– Bỏ hôm nay, chỉ còn mười hôm nữa là đến ngày Long Hoa Hội khai diễn.
Mình đi có kịp chăng?
Vạn Lý Vô Vân mỉm cười:
– Kịp chứ! Từ đây mình theo đường bộ đến Thành Đô, do Dân Giang thẳng đến Nghi Tân, xuôi dòng sống tiến mãi, không quá mười hôm, là Vu Sơn hiện ra trước mắt.
Nhất Luân Minh Nguyệt tiếp:
– Tuy nhiên, chúng ta không nên đam cách thời gian, nấn ná dọc đường, và cần nhất là phải khởi hành ngay bây giờ. Còn như những thắc mắc của ngươi, lão phu tưởng là ngươi không nên hỏi gì nữa, bởi chẳng ai đáp được đâu ...
Quan Sơn Nguyệt quay qua Kỳ Hạo:
– Ngươi đi dự hội chứ?
Kỳ Hạo nổi giận:
– Ngươi đã biết rõ, mà vẫn còn hỏi! Ta là người đứng đầu Ma Bảng, không đi sao được?
Quan Sơn Nguyệt gật đầu:
– Được rồi. Ta sẽ ra lịnh cho ngươi mang Khổng Linh Linh cùng theo ngươi.
Cái việc còn đọng lại giữa nàng và phái Chung Nam, ta nhất định phải giải quyết cho xong.
Kỳ Hạo trầm gương mặt:
– Tại sao ta phải tuân hành mạng lịnh của ngươi chứ?
Quan Sơn Nguyệt đưa tay lên, trong tay có vật do Liễu Y Ảo đã trao cho chàng, điềm nhiên thốt:
– Tại vật này đây!
Kỳ Hạo cứng lưỡi.
Quan Sơn Nguyệt cười hì hì:
– Chẳng những chỉ có mỗi một việc đó thôi, ta còn buộc ngươi phải phụ trách thêm hai việc khác.
Kỳ Hạo nghiến răng:
– Ta cho ngươi đắc thời, cậy thế! Được rồi, ngươi muốn gì nữa, cứ nói đi!
Quan Sơn Nguyệt chỉnh sắc mặt:
– Trước ngày hội kỳ khai diễn, ngươi đảm bảo an toàn cho hai người này tuyệt đối không được gia hại, mà cũng chẳng âm thầm sai sử thuộc hạ ám toán.
Đó là việc thứ nhất, còn việc thứ hai là ngươi không được làm khó khăn cho ba người của Lạc tiền bối.
Kỳ Hạo biến sắc mặt xanh dờn:
Hắn rung rung giọng đáp:
– Ta có thể đáp ứng mấy việc đó của ngươi, song ta cảnh cáo ngươi là phải hết sức dè dặt, trước ngày khai hội, ngọc bội còn linh hiệu, khi đai hội khai diễn rồi, thì nó sẽ trở thành vô dụng, lúc đó ...
Quan Sơn Nguyệt chặn lời:
– Đến lúc đó, ta sẽ có cách đối phó với ngươi, và không gì ổn tiện hơn hết cho ta là ta sẽ giải quyết sự tình giữa ta và ngươi.
Thốt xong, chàng quay mình, hướng dẫn mọi người ra khỏi đại sảnh, ly khai Thiên Tề Biệt Phủ.
Trở ra, là phải đi ngang qua Hắc Lâm, những cơ quan đặt tại khu rừng này đã được triệt trừ, họ không cần có sự hướng dẫn như lúc vào và vượt khỏi nơi đó, bình an vô sự. Vạn Lý Vô Vân mỉm cười, thốt:
– Chiếc ngọc bội đó, quả là một lá bùa hộ mạng, không có nó, chắc gì chúng ta chẳng gặp nguy hiểm trên con đường thoái hậu?
Quan Sơn Nguyệt chợt nhớ đến một việc, vội hỏi:
– Tại hạ còn một thắc mắc chẳng hay có thể nêu lên, nhờ hai vị giải thích chăng?
Vạn Lý Vô Vân cười hì hì:
– Tín phù nơi mình ngươi đó, thừa quyền cho ngươi dùng để hạ lịnh đối với lão phu, ngươi còn hỏi vớ vẩn làm gì chứ? Dù ngươi sai bảo chúng ta làm bất cứ việc chi, có liên quan đến an toàn của tánh mạng, chúng ta cũng không từ khước được, hà huống giải thích một thắc mắc?
Quan Sơn Nguyệt điềm nhiên:
– Xin lão trượng đừng đề cập đến hai tiếng hạ lịnh, trừ ra trường hợp đối phó với Kỳ Hạo. Chúng ta dù sao thì cũng là người nhà với nhau, thì không có vấn đề sử dụng tín phù để bức bách nhau làm việc này, việc khác.
Vạn Lý Vô Vân gật gù:
– Ngươi cứ hỏi.
Quan Sơn Nguyệt tiếp:
– Vừa rồi, Kỳ Hạo vừa nói đến ba tiếng Thiên Ngoại Thiên, thì Liễu Y Ảo đến ngay. Tại sao bà ấy đến gấp thế? Chẳng lẽ ...
Vạn Lý Vô Vân tỏ vẻ thận trọng:
– Thực ra thì, lão phu cũng chẳng hiểu rõ ràng tại làm sao có việc đó. Lão phu chỉ biết là ba tiếng đó, được kể như cấm kỵ, người trong hội được quyền đề cập đến ba tiếng đó, ngay trong kỳ khai diễn đại hội mà thôi, khi đại hội bế mạc rồi, không một ai được phép nhắc đến nữa, mãi đến kỳ khai hội kế tiếp. Ngươi phải biết, phạm vào điều cấm kỵ đó, là chuốc họa diệt thân. Như ngươi đã biết, trong Long Hoa Hội, có ba loại người, Tiên, Ma và Quỷ, ba loại đó họp thành một bảng, gọi là Phong Thần Bảng, người loại trên ức chế và giám thị người loại dưới, nhờ vậy mà sự bí mật được bảo trì từ nhiều năm qua.
Quan Sơn Nguyệt lắc đầu:
– Lão trượng đi ra ngoài đề rồi! Tại hạ chỉ muốn biết, tại sao Liễu Y Ảo đến gấp thế thôi.
Vạn Lý Vô Vân thoáng biến sắc:
– Lão phu đã nói, điều đó thực ra lão phu không hiểu được tận tường. Người trong Long Hoa Hội giữ bí mật tuyệt đối về các việc của hội, đó là một lẽ giải thích sự mù mờ của lão phu. Còn một lẽ nữa, là người bảng trên giám thị chặt chẽ người bảng dưới nên chẳng ai dám tiết lộ với ai những hiểu biết của mình.
Quan Sơn Nguyệt lộ vẻ hoài nghi:
– Họ chỉ gồm có bảy người, làm thế nào giám thị một số người khác trên trăm, lại rải rác khắp nơi?
Vạn Lý Vô Vân chỉnh sắc mặt:
– Lão phu chịu thôi, không thể nói chi dài dòng hơn về việc đó. Ngươi đã có tín phù, thì cầm chắc cái an toàn trong tay, còn bọn lão phu chẳng có vật gì bào hộ, giả như lỡ lời phạm cấm, thì sao? Huống chi, bọn lão phu còn muốn sống thêm mấy năm nữa?
Quan Sơn Nguyệt biết có hỏi gì, họ cũng chẳng nói, chàng không hỏi nữa.
Lúc đó, họ đã ra khỏi khu Hắc Lâm rồi.
Quan Sơn Nguyệt quay qua Lữ Vô Úy, thốt:
– Khổng Linh Linh không có mặt tại đây, thành ra chuyến đi này cầm như vô ích đối với Chưởng môn. Vậy, chúng ta cần phải thay đổi chiến lược. Chưởng môn hãy triệu tập tất cả những người trong phái, để tại hạ trình bày kế hoạch sắp tới.
Rồi chàng nghiêng đầu, kề miệng sát bên tai Lữ Vô Úy, thì thầm một lúc.
Lữ Vô Úy lộ vẻ khó khăn.
Quan Sơn Nguyệt trấn an lão:
– Chưởng môn yên trí, tại hạ có biện pháp đối phó với Kỳ Hạo, nhất định hắn chẳng dám gây nên điều chi bất lợi cho Chưởng môn đâu!
Suy nghĩ một lúc lâu, Lữ Vô Úy gật đầu. Lão vẫy tay chào biệt Quan Sơn Nguyệt, rồi quay mình, bước đi. Lão cũng gọi Lưu Tam Thái cùng đi theo với lão.
Vạn Lý Vô Vân và Nhất Luân Minh Nguyệt đã có tập quán bảo trì bí mật, cho nên cũng có tập quán không thích tìm hiểu sự bí mật của người khác. Do đó, họ chỉ phản ứng khi nào sự việc có liên quan trực tiếp với họ, và họ không buồn lưu ý đến bất cứ việc gì của bất cứ ai. Cho nên, Quan Sơn Nguyệt cùng Lữ Vô Úy bàn luận một lúc lâu, họ chẳng quan tâm mảy may về câu chuyện của chàng và Chưởng môn.
Họ dửng dưng, song Lạc Tiểu Hồng làm sao thản nhiên được? Nàng hỏi:
– Quan đại ca bàn luận việc gì với họ?
Quan Sơn Nguyệt mỉm cười:
– Nói chưa được, hiền muội ạ. Long Hoa Hội có nhiều bí mật, thì chúng ta cũng phải dùng bí mật đối phó với tổ chức này. Hiền muội đừng lo, ngu huynh bảo đảm chúng ta sẽ an toàn hơn bao giờ hết.
Lạc Tiểu Hồng tức uất, đối với nàng, mà chàng cũng làm ra vẻ bí mật nữa sao? Nàng lướt tới, không cần chờ ai cả.
Vu Sơn nổi tiếng là một thắng cảnh, bởi đỉnh Thần Nữ Phong có cái truyền kỳ của nó, bởi con sông xuyên ngang, vừa đẹp vừa hiểm trở, đẹp thì sông đẹp từ đầu đến ngọn, còn hiểm trở thì chẳng phải ở bất cứ khúc quanh nào cũng hiểm trở, có điều kỳ lạ là ở những nơi hiểm trở, con sông lại đẹp phi thường.
Vu Sơn với Thần Nữ Phong, với con sông đẹp, nhất là ở khoảng Vu Giáp, là hai điểm tạo nên hãnh diện cho vùng Tứ Xuyên, hai điểm hàng năm hấp dẫn rất nhiều du khách.
Thần Nữ Phong, một khu sơn thần bí, năm nay lại có cuộc hội thần bí nơi đó, hai cái thần bí khích động mạnh tính hiếu kỳ của Quan Sơn Nguyệt. Cho nên, bằng mọi giá chàng nhất định phải đến tận nơi. Dù không có chiếc ngọc bội của Liễu Y Ảo, chàng cũng đến như thường. Bất quá, chiếc tín phù của bà ta, giúp chàng phần nào đỡ vất vả vậy thôi, còn như về phương tiện trong cuộc hành trình, thì có cũng hay, mà không cũng được.
Chàng không ước vọng ai tiếp trợ chàng, bởi cái tính quật cường không cho phép chàng nhờ đến ai cả. Nhưng, có người giúp, lại càng hay, miễn sao chàng không cầu khẩn van lơn để cho có, là được rồi.
Con đường lên núi dần dần thu hẹp, dần dần trở nên khó khăn bất tiện cho thú, nhưng chưa đến nỗi nào bất tiện cho người.
Quan Sơn Nguyệt cỡi Minh Đà, Lạc Tiểu Hồng cỡi ngựa, cả hai đi sau, Vạn Lý Vô Vân và Nhất Luân Minh Nguyệt đi bộ, ở phía trước dẫn đường.
Trên lối đi trống trải, ngựa và lạc đà còn theo không kịp hai lão nhân đi bộ.
Huống hồ ở những đoạn đường hiểm trở, hẹp hòi?
Có những chỗ, người lách qua, lách lại, tiến tới dễ dàng, song ngựa và lạc đà thì phải chật vật lắm mới qua lọt. Như vậy, hai người sau làm gì kịp hai người trước?
Hai lão nhân cứ đi, chẳng cần biết là phía sau, đôi thiếu niên nam nữ có theo kịp hay không. Dần dần, hai lão nhân bỏ chàng và Lạc Tiểu Hồng ở sau xa.
Quan Sơn Nguyệt vội gọi:
– Hai vị lão trượng không thể chậm chân một chút à?
Hôm nay, là ngày mười chín, tháng chín, họ đến cũng kịp lúc đấy, có điều Quan Sơn Nguyệt chưa biết đại hội khai mạc vào giờ nào. Cho nên, chàng không gấp như hai lão nhân.
Nghe chàng gọi, Vạn Lý Vô Vân cứ đi tới, không quay đầu lại, vừa đi vừa đáp:
– Hôm nay là ngày mười chín, ngươi quên rồi sao? Mà đại hội khai mạc vào giờ Mão, bây giờ là cuối giờ Dần, còn có mấy phút nữa. Nếu không đến kịp giờ, thì chúng ta sẽ bị ngăn chặn bên ngoài nữa. Ngươi bỏ lỡ hội kỳ, điều đó chẳng hại gì cho ngươi lắm, song bọn ta trong bao nhiêu năm trường, hằng trông đợi giờ phút này, nếu bỏ lỡ đi thì đúng là một sự ân hận rất lớn, có thể làm cho bọn ta chết được vậy!
Quan Sơn Nguyệt suy nghĩ một lúc, đoạn quay qua Lạc Tiểu Hồng, đề nghị:
– Hiền muội xuống ngựa, bỏ nó lại đây, sang qua ngồi chung Lạc Đà với ngu huynh đi!
Thực ra, Lạc Tiểu Hồng rất bực với con ngựa của nàng, nó muốn chứng lúc nào, cứ chứng, bất kể ngọn roi của nàng quất vào mình nó liên hồi. Nàng cũng muốn bỏ nó đi, cho đỡ tức uất, song bỏ nó rồi nàng làm sao đi theo mọi người?
Nàng đâu đủ sức đi bộ như hai lão nhân. Cho nên, lời đề nghị của Quan Sơn Nguyệt đánh trúng ý muốn của nàng. Lập tức, nàng xuống ngựa, rồi lên lưng lạc đà, ngồi phía sau chàng, vòng tay qua ôm ngang lưng chàng.
Thêm một người cỡi trên lưng, Minh Đà không nghe nặng chút nào, nó bước đi thoăn thoắt. Lần này, nó mới có dịp trổ tài vượt núi, khỏi phải chậm chân chờ con ngựa con ngựa của Lạc Tiểu Hồng nữa. Nhờ thế, nó đi rất nhanh.
Bình minh đã lên, cảnh núi rất đẹp lúc bình minh trở lại phương Đông, mây hồng giăng mắc, mây hồng dọn đường cho Thái Dương về với vạn vật, ánh bình minh soi rõ một tấm thạch bia phía trước.
Nơi tấm thạch bia, có ba chữ, khắc rất tinh xảo, nét bút lại linh hoạt như phượng múa, rồng bay.
Ba chữ đó, là cái gì Quan Sơn Nguyệt chờ đợi từ lâu, cái gì tạo thắc mắc nặng nề cho chàng từ lâu. Bây giờ, ba chữ đó mới hiện ra trước mắt chàng.
«Tiểu Tây Thiên!» Sau tấm bia, là một tòa lâu viện, trước tòa lâu viện, ngoài một số đồng nam đồng nữ túc trực, còn có một tăng nhân chận đường. Tăng nhân đó, chính là Khổ Hải Từ Hàng, mà họ đã gặp tại khu Hắc Lâm, và họ nhờ lão đưa đường, mới vào lọt Thiên Tề Biệt Phủ.
Vạn Lý Vô Vân thở phào:
– May quá! Chúng ta vào đến kịp lúc.
Khổ Hải Từ Hàng nhìn thoáng qua hai lão nhân, khẽ thở dài, thốt:
– Bần tăng vô cùng khoan khoái, đinh ninh hai vị đã lìa biển mê, về bến giác, không ngờ hai vị lại ...
Vạn Lý Vô Vân lạnh lùng:
– Lão phu không cần nhà sư vờ vẻ từ bi, bọn lão phu cam tâm chìm đắm, thì dù ai có vớt khỏi dòng nước sâu, đưa lên bờ, cũng nhào trở lại! Chỉ mong nhà sư nương tình một chút, nếu không thì thực là phiền phức cho nhà sư phải một phen niệm chú vãn sanh!
Khổ Hải Từ Hàng lại thở dài, rồi nhìn qua Quan Sơn Nguyệt và Lạc Tiểu Hồng hỏi:
– Hai vị đến nơi đây làm gì?
Quan Sơn Nguyệt nhớ cái ơn của lão tăng đưa qua khỏi khu Hắc Lâm, sẵn niềm hảo cảm với lão, nên cung kính vòng tay, đáp:
– Vãn bối đến đây, chỉ mong mở rộng tầm mắt.
Khổ Hải Từ Hàng chấp tay chữ thập:
– A Di Đà Phật! Nơi đây, là chốn thị phi, nơi đây là cảnh phiền não, hai vị tự làm khổ chi mà phải bôn ba lặn lội dặm ngàn?
Quan Sơn Nguyệt mỉm cười:
– Thị phi là con người hay ngứa miệng, phiền não là do con người thích đấu tranh, vãn bối dù biết như vậy, song vẫn không thể không đến đây, bởi vãn bối cần tìm người giải đáp cho một vài thắc mắc!
Khổ Hải Từ Hàng trầm giọng:
– Vọng cửa này, vào thì dễ, ra thì khó, cũng may bần tăng được ủy thác phận sự giữ cửa để ngăn chặn những tấm lòng nặng mê nhẹ tĩnh, bần tăng xin khuyên hai vị, ngay bây giờ, trở lại con đường cũ, cũng chẳng muộn nào! Trần thế tuy ô trược, song cái cảnh giả tiên này cũng lắm cạm bẫy đáng sợ.
Quan Sơn Nguyệt mỉm cười:
– Dù là tiên giả, song vẫn còn hơn, bởi cũng là tiên! Trần thế sánh sao được cõi tiên? Vãn bối hy vọng đại sư dành cho phương tiện!
Khổ Hải Từ Hàng lại thở dài:
– Bần tăng dùng lời thiện, khuyến cáo, thí chủ cũng chẳng để vào tai, bắt buộc bần tăng lợi dụng quyền hạn, từ khách ...
Vạn Lý Vô Vân nổi giận:
– Lão trọc đừng lắm lời, họ có trong tay chiếc tín phù của Tự Tại Tiên Tử, ngươi dám ngăn trở chăng?
Quan Sơn Nguyệt phải lấy chiếc ngọc bội đưa ta cho nhà sư xem.
Khổ Hải Từ Hàng biến sắc mặt, rồi thở dài lượt nữa. Chừng như lão có thói quen, trước khi thốt một câu gì, phải thở dài như để thở dài. Lão thốt:
– Ý trời đã muốn, người còn ai thay! Bần tăng còn dám nói? Thôi thì hai vị cứ vào!
Lão nghiêng mình, vái sâu.
Quan Sơn Nguyệt hấp tấp đáp lễ.
Bọn đồng nam đồng nữ đứng thành hai hàng bên ngoài vọng cửa, trông thấy tín phù, cũng nghiêng mình chào. Tiếp theo đó, gã nào có nhạc khí trong tay, cùng tấu nhạc lên. Rồi một đội nam nữ thị đồng nâng lư hương, bình hoa, dẫn đường.
Quan Sơn Nguyệt kinh ngạc, hỏi:
– Chúng làm gì thế?
Khổ Hải Từ Hàng giải thích:
– Nhị vị có tín phù của Tự Tại Tiên Tử nơi tay, là nghiễm nhiên trở thành quý khách tại đại hội, nghi lễ tiếp khách phải như vậy đó, hai vị yên trí tiến vào.
Quan Sơn Nguyệt thốt lời cảm tạ, đoạn dắt Minh Đà qua cửa đi trong sương mờ, theo con đường núi tiến vào.
Không lâu lắm, họ đến một nơi rộng rãi, nơi đó quang đãng, chẳng có một đợt sương.
Nơi khoảng đất trống, rộng đó, hiện tại có rất nhiều người, đủ hình, đủ tuổi, có nữ, có nam, họ tụ năm, tụ ba, quần đàm thoại.
Rải rác quanh sân rộng, có những chiếc bàn, những chiếc đôn, bàn và đôn đều bằng đá. Trên bàn có rượu, có thức ăn, có những loại trái cây rất lạ.
Rượu còn đầy, thức ăn và trái cây còn nguyên vẹn, điều đó chứng tỏ đại hội chưa khai mạc.
Hầu rượu, có vô số đồng tử, nam có, nữ có chúng chạy tới lui, bận rộn lạ.
Tiếng nhạc, lư hương, bình hoa dẫn đạo, đưa đoàn ngườic vào, bao nhiêu vị hiện diện tại sân trường cũng đều quay mặt nhìn.
Quan Sơn Nguyệt đảo mắt quanh một vòng, nhận ra Phi Thiên Dạ Xoa Bành Cúc Nhân, Huyết La Sát Lạc Hành Quân, Bạch Cốt Ma Thần Lạc Tương Quân và Xú Sơn Thần Liễu Sơ Dương tụ nhau tại một chỗ, bên cạnh họ, còn có mấy vị trung niên, đang thì thầm bàn luận.
Chàng toan gọi họ, nhưng Bành Cúc Nhân khoát tay ngăn chặn.
Đồng thời, Lạc Tiểu Hồng cũng bị mẹ trừng mắt cự tuyệt. Do đó nàng bực tức, càu nhàu:
– Tại sao mẹ không chịu nhận bọn ta?
Quan Sơn Nguyệt thở dài:
– Nếu ngu huynh biết được? Chắc cũng có nguyên nhân quan trọng chứ, chúng ta cứ đợi lúc thuận tiện, hỏi họ, cũng không muộn.
Thị đồng đưa họ đến một chiếc bàn rất lớn, cả hai cùng xuống lưng Minh Đà.
Bỗng, Quan Sơn Nguyệt giật mình, chàng vừa trông thấy Trương Vân Trúc ở gần đó, lão đang trố mắt nhìn về phía chàng.
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top