khql lonely
ĐỀ CƯƠNG KHQL
CHƯƠNG I
1: KHÁI NIỆM VÀ VAI TRÒ CỦA QL
A. KHÁI NIỆM
QL có thể được xem xet dưới nhiều góc độ khác nhau: một loại hoạt động khoa học. dưới góc độ hoạt động xã hội, quản lý xuất hiện từ rất lâu khi bát đầu hình thành xã hội loài người. cho đến nay , quản lý bao quát hầu hết các ngành, lĩnh vực của đời sống: QL trường học, bệnh viện, công sở; doanh nghiệp, quản lý ngành, vùng, lãnh thổ hoạc quản lý các lĩnh vực chính trị, xã hội, kinh tế, môi trường…
Hoạt động quản lý được xem xét dưới nhiều góc độ khác nhau. Theo quan điểm của điều khiển học, quản lý là sự tác động có mục đích đến một hệ thống nào đó nhằm định hướng hệ thống tới một trạng thái mong muốn. bản thân hệ thống là một tổng thể gồm nhiều yếu tố, nhiều phân hệ hợp thành trong mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau. Do vậy quản lý không chỉ tác động đến từng thành tố, các mối quan hệ giữa các thành tố, mà còn tác động tới hệ thống như một tổng thể để điều khiển toàn bộ hệ thống theo một định hướng nhất định.
Theo quan điểm của tổ chức học, hoạt động quản lý là sự tác động của chủ thể quản lý tới tổ chức, trong đó hạt nhân là con người. hoạt động quản lý thường gắn với một tổ chức bao gồm từ hai người trở nên được phân công và phải có các cách liên kết, phối hợp những con người trong tổ chức đó lại để đạt mục tiêu của tổ chức. việc thực hiện liên kết, phối hợp các thành viên trong một tổ chức đó chính là hoạt động quản lý.
Từ các quan điểm trên, khái niệm quản lý thường được xem xét trong nội bộ hệ thống tức là trong nội bộ một tổ chức.
Quản lý là hoạt động có ý thức của chủ thể quản lý tác động đến dối tượng quản lý nhằm tổ chức, điều hòa, phối hợp hoạt động của các đối tượng quản lý nhằm đạt tới mục tiêu đã định.
Như vậy, quản lý là một hoạt động có tính hệ thống, bao gồm các yếu tố cơ bản hợp thành: chủ thể quản lý, đối tượng quản lý, cơ chế tác động, mục tiêu và khách thể ( hay các yếu tố môi trường bên ngoài )
Từ đó có thể khái quát hệ thống quản lý như hình dưới đây.
Chủ thể QL
(Phân hệ QL)
Đối tượng QL
(Phân hệ bị QL)
Mục Tiêu
Khách Thể QL
Hình 1: Hệ thống
2. Vai trò của QL
Trong quá trình phát triển nền SX xã hội, do sự phát triển của khoa học công nghệ, sự phân công hiệp tác, Xu hướng xã hội hóa, quốc tế hóa quy mô của nền sản xuất hiện đại đã làm phong phú và đa dạng đối tượng quản lý gắn liền với xu hướng nâng cao vai trò quản lý cả bề rộng lẫn bề sâu.
Từ lịch sử và thực tiễn phát triển kinh tế xã hội trên thế giới có thể rút ra luận đề: ngày nay, ổn định hay rối loạn, tăng trưởng hay suy thoái, giàu hay nghèo đều tìm thấy nguyên nhân từ phía quản lý, thực hiện quản lý có hiệu quả là động lực quan trọng thức đẩy tiến bộ xã hội. nhiều quốc gia coi quản lý, khoa học công nghệ là trụ cột của nền sản xuất hiện đại.
Trong nền kinh tế cổ điển, sự giàu có của một quốc gia chủ yếu dựa vào tài nguyên, nhưng trong nề kinh tế hiện đại, giàu có chủ yếu dựa vào năng lực quản lý. Rõ ràng, vai trò quản lý trở thành yếu tố nổi trội trong quan hệ với các yếu tố cổ điển như lao động, đất đai, vốn. kinh tế xã hội sẽ không phát triển nếu không nâng cao được trình độ tổ chức quản lý, đặc biệt là quản lý vĩ mô: chiến lược, hệ thống luật pháp, phân bổ các nguồn lực.
Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, đối với các nước đang phát triển, mở cửa, hội nhập là xu hướng tất yếu để thoát khỏi vòng luẩn quẩn “ đói nghèo – kém phát triển”, sự cung cáp tiền bạc, công nghệ có thể đem lại sự phát triển ban đầu cho quốc gia, nhưng để chủ động, tìm được lợi thế trong quan hệ đa phương, đảm bảo sự phát triển lâu bền phải do khả năng quản lý. Trong nền kinh tế hiện đại, cạnh tranh trước hết là cạnh tranh về trí tuệ. Nền kinh tế nhiều tiềm năng là nền kinh tế có nhiều tiềm lực kinh tế, sự chuẩn bị về đội ngũ lao động quản lý.
Trong sự vận động, phát triển của đời sống xã hội, quản lý ngày càng có vai trò quan trọng, biểu hiện cụ thể như:
v Tạo nên sự thống nhất về nhận thức, ý chí tư tưởng và hành động ( với những tiêu chí, căn cứ xác đáng ) để thực hiện đường lối, kế hoạch đã định.
v Tổ chức, ddieuf hòa, phối hợp và hướng dẫn các hoạt động của đối tượng quản lý, nhằm đảm bảo sự ổn định, hợp lý,và đạt hiệu quả cao.
v Tạo môi trường và điều kiện an toàn, thuận lợi cho các tổ chức và cá nhân phát huy tính tự chủ, năng động, sáng tạo trong các hoạt động của mình, khai thác tối đa hợp lý các tiềm năng, nguồn lực, động lực để đạt két quả cao nhất.
v Kiểm tra, đánh giá kết quả các hoạt động, đề ra và thực hiện các giải pháp thích hợp nhằm hạn chế, khắc phục những sai lầm, tiêu cực, đảm bảo thực hiện thắng lơi các mục tiêu của quản lý.
v Tạo lập và duy trì các tỉ lệ cân đối, các cơ cấu hợp lý, nhất là sự hài hòa về quan hệ lợi ích, đảm bảo tăng trưởng kinh tế hài hòa với công bằng, tiến bộ xã hội, bảo vệ môi trường sinh thái, an ninh xã hội, phát huy dân chủ, tăng cương pháp chế.
v Mở rộng giao lưu, hợp tác quốc tế về kinh tế, văn hóa..
2. đối tượng và phương pháp nghiên cứu.
a. Đối tượng nghiên cứu của khoa học quản lý là các quan hệ quản lý.
Khoa học quản lý có nhiệm vụ nghiên cứu: Tìm ra các qui luật và tính qui luật của hoạt động quản lý, từ đó xác định các phương pháp, công cụ và các hình thức tổ chức quản lý để không ngừng hoàn thiện, nâng cao chất lượng quản lý, bảo đảm quản lý một cách khoa học.
b. Phương pháp nghiên cứu của môn khoa học quản lý là cách thức khoa học quản lý nghiên cứu các quan hệ quản lý nhằm tìm ra qui luật của quản lý để đề ra các nguyên lý, nguyên tắc, các phương pháp,.. chính là để giải quyết mối quan hệ giữa chủ thể quản lý và đối tượng quản lý, giúp nhà quản lý đưa ra những quyết định đúng đắn trong từng tình huống cụ thể.
• Phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử đây là phương pháp cơ bản, nền tảng.
Vì: Nó cung cấp phương pháp nhận thức các đối tượng khách quan trong sự vận động và phát triển của đối tượng quản lý hết sức sinh động với hàng loạt các mâu thuẫn mà nhà quản lý cần giải quyết.
• Các phương pháp cụ thể khác:
Phương pháp mô hình hoá: đây là phương pháp tái hiện những đặc trưng của đối tượng nghiên cứu bằng một mô hình khi việc nghiên cứu của chính đối tượng đó không thể thực hiện được.
Phương pháp thực nghiệm: đây là phương pháp thử một phương án xem điều gì xảy ra, nếu đúng thì tiếp tục, nếu sai thì sửa chữa hoặc thay đổi phương án khác.
KHQL còn sử dụng nhiều các phương pháp để nghiên cứu: điều tra, phỏng vấn, cố vấn,…
3. đặc điểm của khoa học quản lý.
Để hiểu rõ hơn bản chất của khoa học quản lý và để phân biệt khoa học quản lý với các bộ môn khoa học khác, cần phải hiểu rõ đặc điểm của khoa học quản lý. Ngoài những đặc điểm chung của một môn khoa học xac hội, khoa học quản lý còn có các đặc điểm như sau:
Thứ nhất khoa học quản lý là một khoa học có tính ứng dụng.
Khác với các môn khoa học cơ bản là các khoa học có mục đích nhận thức sâu sắc và giải thích bản chất và quy luật vận động của các sự vật khách quan nhằm nâng cao nhận thức thế giới của con người, khoa học quản lý vận dụng các quy luật để xây dựng các nguyên lý, nguyên tắc, tìm kiếm những ứng dụng mới và sát hợp với thực tế, đưa ra các phương án quản lý mang tính nguyên lý trong thực tiễn quản lý. Khác với khoa học tự nhiên và các khoa học xã hội và nhân văn khác, khoa học quản lý đưa ra các phương pháp luận trong quản lý, trong đó vấn đề mang tính quy luật là cơ chế quản lý hay tác động quản lý phải phù hợp với đối tượng quản lý, điều đó càng thể hiện tính chất ứng dụng của khoa học quản lý.
Việc nghiên cứu và đưa ra các nguyên lý quản lý là cần thiết. song diều đó chưa thể nói khoa học quản lý đã hoàn thành sứ mệnh của mình, khoa học quản lý còn phải chỉ cho người quản lý biết vận dụng các nguyên lý trong đó trong từng điều kiện cụ thể. Sẽ là sai lầm nếu chỉ biết áp dụng một cách máy móc, rập khuôn các nguyên lý quản lý, các cơ chế chính sách chung nhất, mặc dầu được coi là có giá trị khoa học và thực tiễn cho bất cứ đối tượng quản lý nào. Điều đó chỉ cho thấy rằng, trong khi trình độ khoa học và nghệ thuật quản lý của các nước phát triển đã đạt được nhũng đỉnh cao, đòi hỏi các nước đi sau phải nghiên cứu và học tập nhưng phải biết cách học tập, biết vận dụng một cách sáng tạo vào điều kiện cụ thể phù hợp với đặc điểm kinh tế - xã hội và truyền thống văn hóa dân tộc của mỗi quốc gia, mỗi địa phương, mỗi vùng.
Thứ hai khoa học quản lý là môn khoa học có tính liên ngành, liên bộ môn, là chỗ giáp ranh của nhiều bộ môn khoa học
Khoa học quản lý nghiên cứu các quan hệ quản lý nhằm giải quyết các vấn đề phức tạp về kinh tế - xã hội và quan hệ con người mà bản thân các quan hệ đó cũng rất phức tạp, do đó khoa học quản lý phải dựa vào những thành tựu của các môn khoa học khác:
Nhóm thứ nhất: khoa học quản lý phải dựa vào các môn khoa học cơ bản, đó là triết học, kinh tế học chính trị, chủ nghĩa xã hội khoa học, khoa học nhà nước và pháp luật, điều khiển học … các khoa học này cung cấp cho người nghiên cứu và các nhà quản lý những tri thức về phương pháp luận, làm cơ sở cho khoa học quản lý. Trong nhóm thứ nhất này, có thể chia thành hai phân nhóm: khoa học xã hội và nhân văn, khoa học về tổ chức. trong khoa học xã hội và nhân văn, môn triết học có vai trò quan trọng về mặt phương pháp luận cho khoa học quản lý, giúp nhận thức đối tượng khách quan, phát hiện các mâu thuẫn và giải quyết mâu thuẫn, giải quyết mối quan hệ giữa chủ quan và khách quan. Cũng chính vì thế từ trước tới nay, các nhà triết học đã đóng góp công lao to lớn cho khoa học quản lý.
- Nhóm thứ hai, gồm những môn khoa học hỗ trợ, đó là xã hội học, tâm lý học, khoa học pháp lý, khoa học sư phạm, khoa học tính toán… các môn khoa học này nghiên cứu từng khía cạnh hoặc một mặt nào đó của quản lý. Chẳng hạn nghiên cứu mặt tâm lý của quản lý, hoặc từng khía cạnh pháp lý của quản lý.
Thứ ba khoa học quản lý vừa có tính khoa học, vừa có tính nghệ thuật.tính quy luật, làm rõ bản chất các quan hệ quản lý, hình thành các khái niệm và phạm trù, xây dựng các nguyên lý và quy trình quản lý.. chỉ có nắm vững khoa học thì người quản lý mới vững vàng trong việc xác định mục tiêu, bước đi, nguyên tắc và phương pháp hành động trong tình hình hết sức phức tạp, đầy biến động và sóng gió của thực tiễn. quan trọng hơn, khoa học quản lý cung cấp cho người quản lý phương pháp nhận thức và phương pháp hành động một cách khách quan, khoa học.
Khoa học quản lý còn là bộ môn khoa học thực hành, phải sử lý tình huống khác nhau nên phụ thuộc tài nghệ của từng người, được gọi là nghệ thuật quản lý. Môn khoa học này còn cung cấp cách thức sử lý các tình huống điển hình, đúc rút kinh nghiệm quản lý để hình thành những bài học quản lý bổ ích. Ngoài ra, khoa học quản lý còn giúp giải quyết công việc trong điều kiện thực tại của tình huống mà những kiến thức quản lý và sách vở không thể chỉ ra hết được. nghệ thuật sử dụng phương pháp, công cụ, nghệ thuật dùng người, nghệ thuật giao tiếp ứng xử… nghệ thuật do kinh nghiệm được tích lũy và còn do sự mẫn cảm, nhanh nhạy của từng người quản lý. Hơn nữa, nếu chỉ nắm kiến thức quản lý, không nhanh nhạy trước tình huống bằng tài nghệ của mình thì sẽ dẫn tới giáo điều, bảo thủ, tự trói mình và bỏ lỡ thời cơ trong quản lý. Trái lại, nếu chỉ có nghệ thuật bằng kinh nghiệm mà thiếu cơ sở khoa học, mặc dầu trong một số tình huống có thể giải quyết tốt, đem lại kết quả nhưng về cơ bản và lâu dài là thiếu vững chắc và sẽ bó tay khi những vấn đề cần giải quyết đã vượt ra khỏi tầm kinh nghiệm, do đó thành công và thất bại chỉ còn là sự may rủi.
Khoa học quản lý ngày càng phát triển và được khẳng định là một môn khoa học độc lập. đây là một môn vừa có tính khoa học, vừa có tính nghệ thuật. tính khoa học thể hiện ở việc nghiên cứu
Thứ năm khoa học quản lý là một khoa học phát triển nhanh cả về cơ sở lý thuyết và cơ sở kỹ thuật – công nghệ.
Kể từ khi F.W.Taylor đặt nền móng cho khoa học quản lý vào đầu thế kỷ XX đến nay, bộ môn khoa học này được hinh thành chưa dầy một thế kỷ - còn rất trẻ so với các nghành khoa học khác.
Trên cơ sở phát triển lý thuyết quản lý có khoa học của F.Taylor, nhiều trường phái lý thuyết quản lý ra đời như: lý thuyết chung về quản lý của Fayal, lý thuyết về phân cấp quản lý của Weber, lý thuyết về quan hệ giữa người với con người của Mayor, lý thuyết x và lý thuyết y của Mc George. Cùng với các lý thuyết quản lý “ cổ điển”, một loạt các trường phái quản lý hiện đại ra đời như: trường phái hệ thống xã hội của C.I.Baruard, trường phái quyết sách mà đại diện là H.A.Simon, trường phái quản lý theo quá trình của H.Koontz và C.O’dounell..
Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của lý thuyết quản lý, các mô hình quản lý thực tiễn cũng phát triển mạnh như mô hình của nhật bản, mô hình quản lý theo chuỗi “ cung- ứng”..
Ngoài ra, việc ứng dụng các thành tựu khoa học công nghệ của các ngành khoa học khác cũng tác động mạnh đến phát triển khoa học quản lý, trong đó đặc biệt là lý thuyết hệ thống mà đại diện là nhà triết học người Áo L.Phôn Bectalanphi, điều khiển học của N.Viener và đặc biệt là việc ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông vào quản lý.
Chương II. Sự phát triển của các tư tưởng quản lý
Chương III. Các chức năng quản lý.
1. Khái niệm chức năng quản lý.
- Chức năng quản lý là những tập hợp các hoạt động được phân chia thành các nhóm tương tự nhau, đã được xác định trước cho các đối tượng cụ thể.
- Chức năng quản lý là một dạng hoạt động quản lý chuyên biệt mà thông qua đó CTQL tác động lên ĐTQL nhằm đạt mục tiêu đề ra.
Hoạt động lãnh đạo, quản lý mang tính đa dạng và hệ thống, bao gồm nhiều công việc khác nhau nhưng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Các hoạt động quản lý dù được thực hiện trong bất cứ kiểu tổ chức nào ( doanh nghiệp, cơ quan hành chính nhà nước, tổ chức, đoàn thể, quân đội, trường học, bệnh viện…), đều có những tính chất giống nhau nếu xét trên giá trị tác động của chủ thể quản lý đến đối tượng quản lý. Những hoạt động có tính chất giống nhau này mang tính tất yếu trong tổ chức quản lý, có thể được chuyên môn hóa trong phân công lao động, góp phần quyết định đến hiệu quả của các tổ chức. những hoạt động quản lý mang tính tất yếu, lặp đi lặp lại, làm cơ sở cho việc phân công lao động trong tổ chức quản lý là các chức năng quản lý.
Chức năng quản lý là một thể thông nhất những hoạt động quản lý nhất định mang tính tất yếu, là kết quả của quá trình chuyên môn hóa tổ chức quản lý, qua đó thể hiện vai trò của tổ chức, bộ phận, cá nhân trong mối quan hệ với các tổ chức, bộ phận khác.
Việc nắm vững bản chất và vận dụng tốt chức năng quản lý có ý nghĩa rất lớn trong nâng cao hiệu quả quản lý. Điều đó thể hiện ở ba điểm sau:
v Giúp người lãnh đạo, quản lý có hiểu biết sâu sắc hơn bản chất, nội dung của hoạt động lãnh đạo, quản lý.
v Giúp xác định chính xác và phù hợp với cơ cấu tổ chức bộ máy, định biên cán bộ và đào tạo nhân viên.
v Xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, công việc cụ thể và hệ thống trách nhiệm, quyền hạn của các bộ phận và cá nhân trong bộ máy lãnh đạo, quản lý.
2. Chức năng kế hoạch.
Chức năng kế hoạch là quá trình xác định các mục tiêu phát triển của tổ chức và lựa chọn những biện pháp tốt nhất để thực hiện mục tiêu đã đề xuất.
Cac Mac đã phân tích rõ tầm quan trọng của chức năng định hướng – kế hoạch trong quản lý nói riêng và hoạt động của con người nói chung khi so sánh công việc của kiến trúc sư với công việc của đàn ong xây tổ. đúng như các Mac đã phân tích, hoạt động của con người khác với hoạt động của tất cả các loài động vật là ở chỗ con người làm việc có ý thức và trước khi làm một việc gì đều cần phải có dự tính trước, có kế hoạch trước. yếu tố dự tính, định hướng, kế hoạch trở thành một trong những chức năng chủ yếu của quản lý, hơn nữa, nó trở thành một trong những chức năng quyết định sự thành công và sức mạnh của các tổ chức trong thời đại ngày nay.
Làm tốt chức năng đinh hướng-kế hoạch, sẽ giúp tổ chức phát triển vững chắc, ổn định, khai thác có hiệu quả thế mạnh và các cơ hội, đồng thời khắc phục được những điểm yếu và vượt qua các thách thức.
Chức năng định hướng-kế hoạch bao gồm các hoạt động, công việc mang tính bao trùm hệ thống. đó là dự báo, xác định và thực thi chiến lược, lập quy hoạch, kế hoạch dài hạn và ngắn hạn.
Là vai trò khởi đầu, định hướng cho quá trình quản lý;
- Là cơ sở huy động tối đa các nguồn lực;
- Là căn cứ cho việc kiểm tra đánh giá quá trình thực hiện các mục tiêu.
Nội dung của chức năng định hướng-kế hoạch là:
v Dự báo triển vọng của tình hình, triển vọng phát triển của tổ chức.
v Xác định các mục tiêu sẽ đạt tới trong tương lai.
v Tính toán các nguồn lực đảm bảo cho sự phát triển, vận động của tổ chức đạt tới mục tiêu.
v Vạch ra các bước hoạt động trong tương lai.
v Đảm bảo các hoạt động hướng tới mục tiêu đã xác định.
Sản phẩm của các hoạt động thuộc chức năng định hướng – kế hoạch là: báo cáo dự báo, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, dự án, chương trình, mục tiêu…
Các hoạt động định hướng-kế hoạch gọi chung là hoạch định cũng rất đa dạng và có thể phân loại thành các loại sau đây: hoạch định chiến lược, hoạch định chiến thuật và hoạch định tác nghiệp thường gắn với ba cấp cuả quản lý là cấp hệ thống, cấp bộ phận và cấp cá nhân); hoạch định dài hạn, hoạch định trung hạn và hoạch định ngắn hạn; hoạch định pháp lệnh và hoạch định hướng dẫn; hoạch định một lần và hoạch định định kỳ…
3. Chức năng tổ chức.
Là quá trình phân phối, sắp xếp nguồn nhân lực và các nguồn lực khác tạo ra một cơ cấu tổ chức thích hợp đảm bảo thực hiện tốt mục tiêu đề ra để tổ chức phát triển.
Chức năng tổ chức bao gồm các hoạt động xác định các công việc cần thiết của quản lý, kiến tạo ra các bộ phận của bộ máy quản lý, giao phó các công việc cho các bộ phận, phân công quyền hạn giải quyết công việc và trách nhiệm, tạo các liên kết ngang và dọc giữa các bộ phận ( khâu) và các thang bậc ( cấp ) quản lý.
Tổ chức là chức năng cốt lõi của hoạt động quản lý quyế định đến sự thành công hay thất bại của tổ chức. lời dạy của Bác Hồ “ chủ trương một, biện pháp mười…” cũng chính là ám chỉ mối quan hệ giữa chức năng hoạch định với chức năng tổ chức. trong quản lý hiện đại, thường rất coi trọng yếu tố con người, trong khi đó, muốn sử dụng được con người đúng người đúng việc, muốn phát huy năng lực và sở trường của từng người, muốn tạo ra sức mạnh tập thể, sức mạnh phối hợp thì chức năng tổ chức phải được thực hiện tốt.
• Hiện thực hóa các mục tiêu
• Có khả năng tạo ra sức mạnh mới cho tổ chức.
Chức năng tổ chức bao gồm các nội dung sau:
v Xác định các công việc cần thiết của tổ chức, gom nhóm các công việc cùng loại làm cơ sở để thành lập các bộ phận quản lý hoặc phân công cho các chức danh cụ thể.
v Ra quyết định về cơ cấu tổ chức của bộ máy quản lý, xác định chức năng, nhiệm vụ của từng bộ phận và quy chế làm việc.
v Bố trí cán bộ cho các bộ phận, bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo các bộ phận.
v Giao quyền hạn, trách nhiệm và xác định cơ chế hoạt động.
v Triển khai các mối liên hệ ngang và dọc trong bộ máy quản lý.
Thực hiện chức năng tổ chức đòi hỏi phải quán triệt một số nguyên tắc tổ chức nhất định. Nguyên tắc tổ chức trở thành yếu tố sống còn củ tổ chức và quyết định sự thành công của tổ chức. mỗi một loại tổ chức có thể có các nguyên tăc tổ chức khác nhau nhưng nói chung có những nguyê tăc chung sau đây:
+ Nguyên tắc thống nhất chỉ huy – lãnh đạo. nguyên tắc này trong một số loại hình tổ chức như doanh nghiệp, đơn vị vũ trang được biến thể thành nguyên tắc một thủ trưởng. trong hệ thống lớn và phức tạp, nguyên tắc thống nhất chỉ huy – lãnh đạo thường gây tranh luận về cách hiểu và do vậy có nhiều biến thể khác nhau như tập trung ( tập quyền ), phân cấp ( cát cứ ). Đảng và nhà nước Việt Nam trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước đã đúc kết và quán triệt nguyên tắc tổ chức phổ biến của mình là tập trung – dân chủ. Chính nguyên tắc này là một trong những nguyên tắc tổ chức phổ biến bỏa đảm sự thống nhất lãnh đạo, đồng thời đảm bảo phát huy quyền dân chủ và óc sáng tạo cảu các cấp dưới.
+Nguyên tắc tối ưu số lượng cấp dưới. trong tổ chức quản lý, vấn đề xác định cơ cấu tổ chức, bổ nhiệm chức vụ, phân công quyền hạn là rất quan trọng. vấn đề là trong tổ chức, khi công việc quản lý ngày càng trở nên phức tạp thì số lượng tham gia bộ máy quản lý càng nhiều và số lượng các bộ phận trong bộ máy càng nhiều, xu thế đó phát triển cho đến khi chính bộ máy trở thành vật cản quan liêu hóa người lãnh đạo, quản lý, làm giảm hiệu quả quản lý. Do vaayjj trong quản lý phải xác định số lượng tối ưu các cấp quản lý trong cơ cấu bộ máy và số lượng các bộ phận cấu thành của từng cấp. tiêu chuẩn của tối ưu trong tổ chức là chi phí quản lý phải thấp nhưng khả năng kiểm soát tổ chức phải được bảo đảm.
+ Nguyên tắc phân công, phân quyền hợp lý. Trong quản lý, việc phân công đúng người, đúng việc có ý nghĩa phát huy năng lực của thuộc cấp, tạo ra hiệu quả cao trong công việc. việc phân công phải dựa trên cả lợi thế tuyệt đối và lợi thế tương đối của từng người trong bộ máy. Trong lãnh đạo, trong điều hành cần có sự phân quyền cho cấp dưới sao cho phát huy hết năng lực và tinh thần trách nhiệm của cấp dưới nhưng vẫn giữ được khả năng kiểm soát tình hình của cấp trên.
+ Nguyên tắc gắn quyền hạn với trách nhiệm và lợi ích. Nguyên tắc này đòi hỏi khi bố trí con người, giao nhiệm vụ, quyền hạn cho cấp đưới phải gắn trách nhiệm lợi ích tương xứng với quyền hạn được giao. Việc không gắn kết các yếu tố này thường dẫn đến các tình huống trớ trêu như “ Quyền rơm vạ đá”, “ ăn cơm nhà vác tu và hàng tổng”, lạm quyền hoặc tham nhũng vật chất và tham nhũng tinh thần…
4. Chức năng chỉ huy
Là quá trình tác động ảnh hưởng tới hành vi, thái độ của những người khác nhằm đạt tới các mục tiêu với chất lượng cao.
Chức năng chỉ huy ( chỉ đạo, điều hành ) bao gồm các hoạt động hướng dẫn, ra mệnh lệnh, đôn đốc, động viên, khích lệ những người dưới quyền để họ phát huy năng lực, sáng kiến cùng với người lãnh đạo, quản lý đạt tới mục tiêu chung một cách hiệu quả nhất.
Chức năng chỉ huy là chức năng cốt lõi của người lãnh đạo. thực hiện chức năng này đòi hỏi không những kiến thức và kỹ năng quản lý về điều hành, khích lệ cấp dưới, hiểu được động cơ của cấp dưới và cách thức, phương pháp tác động đến con người mà còn phải có nghệ thuật tác động, nghệ thuật khích lệ hứng thú làm việc, nhệ thuật làm việc với con người.
Thực hiện chức năng chỉ huy cần đòi hỏi người lãnh đạo quản lý phải ra các quyết định quản lý ( các mệnh lệnh ) để chỉ đạo, hướng dẫn cấp dưới. để quản lý có hiệu quả, việc ra mệnh lệnh cũng đòi hỏi khoa học và nghệ thuật. khi nào cần tránh mệnh lệnh, nên sử dụng hình thức mệnh lệnh nào, phương pháp thông qua các quyết định mệnh lệnh, chỉ thị, các biện pháp truyền đạt và thực hiện mệnh lệnh…
• Hướng dẫn các hoạt động;
• Là cơ sở để phát huy tối đa động lực của ĐTQL.
5. Chức năng điều phối
Chức năng diều phối ( điều hòa, phối hợp ) bao gồm các hoạt động điều hòa, phối hợp các hoạt động của tổ chức nhằm định hướng tổ chức thực hiện mục tiêu.
Chức năng điều phối đòi hỏi phải thực hiện gắn bó với chức năng kiểm tra. Để điều phối tốt, cần phải kiểm tra, giám sát tốt.
Thực hiện tốt chức năng điều phối, việc thực hiện các mục tiêu quản lý sẽ hiệu quả hơn, hệ thống quản lý phát triển ổn định và bền vững hơn. Điều phối tốt giúp cho người quản lý khắc phục các sai lệch, mất cân đối trong công việc của các bộ phận dưới quyền. việc thực hiện các mục tiêu của tổ chức cần phải có sự phối hợp thực hiện của các bộ phận (các khâu) của hệ thống tổ chức, trong khi đó, các khâu quản lý luôn có xu hướng theo đuổi các mục tiêu bộ phận, có nguy cơ triệt tiêu các nỗ lực hoạt động của các khâu khác. Thực hiện điều phối sẽ gips hoạt động của các khâu riêng lẻ tạo thành sức mạnh chung và thống nhất.
6. Chức năng kiểm tra
Là quá trình đánh giá và điều chỉnh nhằm bảo đảm cho các hoạt động đạt tới mục tiêu của tổ chức với hiệu quả cao.
Chức năng kiểm tra bao gồm các hoạt động giám sát, theo dõi, đánh giá các hoạt động của cấp dưới và của toàn bộ tổ chức nhằm phát hiện ra các sai lệch trong thực hiện mục tiêu và tuân thủ các nguyên tắc quản lý, từ đó có các biện pháp thích ứng kịp thời để điều chỉnh sai lệch.
Như vậy, chức năng kiểm tra không chỉ bao gồm khâu giám sát, kiểm tra cấp dưới mà còn bao hàm cả khâu đánh giá và thực hiện điều chỉnh các sai lệch. Sự gắn bó và toàn vẹn của chu trình kiểm tra – đánh giá – diều chỉnh sai lệch đòi hỏi khi thực hiện chức năng này phải tiến hành toàn bộ chu trình kiểm tra một cach đồng bộ, có hệ thống và thường xuyên.
Khi thực hiện chức năng kiểm tra, cần tuân thủ quy trình 3 bước: bước 1: xây dựng các chỉ tiêu, tiêu chuẩn kiểm tra; bước 2: tiến hành đo lường các kết quả thực hiện trên thực tế và đánh giá mức độ sai lệch ( nếu có); bước 3: áp dụng các biện pháp để điều chỉnh sai lệch.
• Phát hiện ra những sai sót;
• Tìm ra các căn cứ, bằng chứng cụ thể, rõ ràng phục vụ cho việc hoàn thành các quyết định trong quản lý;
• Đôn đốc việc thực hiện kế hoạch;
• Đánh giá khen thưởng chính xác;
• Thực thi quyền lực quản lý;
• Đối phó kịp thời với sự thay đổi của môi trường;
• Tạo tiền đề cho quá trình hoàn thiện và đổi mới.
Chương IV. Quyết định quản lý.
1. Khái niệm
Quyết định quản lý là hành vi có tính chỉ thị của chủ thể quản lý tác động đến đối tượng quản lý nhằm định hướng, tổ chức, điều hòa, phối hợp, kích thích hoạt động của đối tượng quản lý để thực hiện những mục tiêu của quản lý.
Hoạt động quản lý, suy cho cùng là quá trình ra quyết định và tổ chức thực hiện quyết định quản lý.
Chất lượng quyết định quản lý ( sản phẩm của lao động quản lý ) và kết quả tổ chức thực hiện quyết định quản lý là chỉ tiêu cơ bản và tổng hợp phản ánh trình độ, năng lực của người lãnh đạo, quản lý. Nó ảnh hưởng trực tiếp và quyết định đến quá trình vận động, phát triển của đối tượng quản lý cũng như cả hệ thống quản lý.
Nội dung quyết định quản lý phải bao hàm việc xác định mục tiêu và lựa chọn phương án tối ưu về huy động, tổ chức các nguồn lực để thực hiện mục tiêu.
Phạm vi tác động của quyết định quản lý là tùy thuộc cấp ra quyết định, theo chức năng, thẩm quyền đã định.
Quyết định quản lý là sản phẩm chủ quan của chủ thể quản lý. Nó chỉ đúng và đạt kết quả tích cực khi phù hợp với yêu cầu của quy luật và hoàn cảnh thực tế khách quan.
2. Quy trình ra quyết định quản lý
Việc ra quyết định quản lý được thực hiện qua các bước sau:
Một là: phát hiện vấn đề cần giải quyết, sơ bộ đề ra phương hướng nhiệm vụ.
Dây là bước xuất phát của quy trình ra quyết định và xác định nội dung quyết định quản lý. Nó đòi hỏi chủ thể quản lý trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ quản lý của mình phải xem xét toàn diện thực trạng đối tượng quản lý để phát hiện những vấn đề cần giải quyết, nguyên nhân làm nảy sinh vấn đề cũng như xu hướng vận động của vấn đề, những khả năng và điều kiện giải quyết… Từ đó phác thảo phương hướng, nhiệm vụ của quyết định quản lý ( có xem xét nội dung và quá trình thực hiện quyết định quản lý trước đó).
Trên thực tế, chủ thể quản lý có thể phát hiện cùng một lúc rất nhiều vấn đề. Tuy nhiên, để thực hiện tốt nhất mục tiêu quản lý đã đặt ra, chủ thể quản lý phải xác định được vấn đề then chốt nhất cần giải quyết trong hàng loạt vấn đề được phát hiện.
Hai là: chọn tiêu chi đánh giá kết quả của quyết định quản lý.
Một quyết định quản lý không thể giải quyết được tất cả mọi vấn đề đặt ra trong quản lý, cũng như không chỉ tác động đến một mặt riêng biệt nào đó của đối tượng quản lý và toàn bộ hệ thống quản lý, mà là tạo ra hệ quả trên nhiều mặt ( lợi ích, tâm lý, văn hóa, môi trường…). do vậy, cần chọn tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả cho từng quyết định quản lý cụ thể trên cơ sở xác định mục tiêu ưu tiên, mục tiêu chủ yếu, mục tiêu cơ bản… mà quyết định quản lý cần đạt được. việc lựa chọn tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả không đúng hoặc không nhất quán sẽ dẫn đến những kết quả sai lầm, bỏ sót mặt này, thổi phồng mặt khác, dẫn đến tác hại không nhỏ.
Ba là, thu thập và sử lý thông tin.
Thông tin là cơ sở ban đầu, là tư liệu quan trọng và cần thiết cho việc ra quyết định quản lý. Do vậy, phải thu thập các thông tin liên quan, đảm bảo càng đầy đủ, đa chiều, chính xác, kịp thời… càng tốt.
Trên cơ sở nguồn thông tin đã thu thập được, chủ thể quản lý tiến hành phân loại, sàng lọc, phân tích, sắp xếp… từ đó ra những nhận định, dự báo, làm cơ sở cho việc đề ra phương án, nhiệm vụ cần giải quyết. việc thực hiện tốt bước này có ý nghĩa quan trọng trong việc đảm bảo tính khoa học, tính hiện thực, tính vững chắc, của quyết định quản lý.
Bốn là: dự kiến các phương án giải quyết vấn đề, bao gồm việc xác định các mục tiêu và phương tiện, cách thức thực hiện.
Trong quá trình chuẩn bị ra quyết định quản lý, cần có nhiều phương án quyết định để từ đó lựa chon phương án tối ưu. Do tính phức tạp và tầm quan trọng của quyết định quản lý nên việc xây dựng các phương án phải có luận chứng dầy đủ, vững vàng ( điều tra khảo sát, phản biện, hội thảo…) phù hợp với hoàn cảnh, yêu cầu, khả năng thực tế và tính khả thi.
Năm là, ra quyết định quản lý.
Trên cơ sở các phương án dự kiến ở bước trên, chủ thể quản lý tiến hành phân tích, chọn lựa, so sánh, kết hợp… để xác định phương án tối ưu và đưa ra quyết định quản lý.
Nội dung quyết định quản lý có thể do nhiều người đóng góp, nhưng người toàn quyền quyết định và trực tiếp chịu trách nhiệm về nội dung và kết quả thực hiện quyết định quản lý là người đứng đầu ( thủ trương ) cấp có thẩm quyền và chức năng quản lý.
Đối với quyết định quản lý quan trọng, có tính chiến lược, phức tạp, trước khi đưa ra quyết định mới cũng cần phải lấy ý kiến phản biện.
Ra quyết định là khâu cơ bản, trung tâm và đặc biệt quan trọng của hoạt động quản lý. Nó phản ánh trình độ, năng lực của chủ thể quản lý ( đúng hay sai; kịp thời hay chậm trễ; dứt khoát hay do dự; rõ ràng hay mập mờ; tối ưu hay hạn chế; kiên quyết hay nửa vời…) và đưa đến hệ quả sâu sắc, lâu dài về kinh tế, chính trị, xã hội… cũng như niềm tin của đối tượng quản lý đối với thể chế quản lý hiện hành.
Chương V. Nguyên tắc và Phương pháp QL.
1. Các nguyên tắc.
a. Khái niệm.
NTQL là các qui tắc chỉ đạo, những tiêu chuẩn, hành vi, quan điểm cơ bản có tác dụng chi phối mọi hoạt động quản lý mà các cơ quan quản lý, CTQL phải tuân thủ trong quá trình quản lý.
2. Các phương pháp.
a. Khái niệm
Người quản lý khi thực hiện các mục tiêu của mình có thể sử dụng nhiều cách thức tác động khác nhau. Các cách thức tác động khác nhau này được lựa chọn và sử dụng dựa trên đặc điểm của tổ chức, đặc điểm của đội ngũ nhân viên, mục tiêu cần đạt tới, các nguồn lực sẵn có của tổ chức.
Phương pháp quản lý là cách thức mà chủ thể quản lý tác động vào đối tượng quản lý nhằm đạt những mục tiêu nhất định.
Phương pháp quản lý là yếu tố tác động trong hệ thống các phạm trù quản lý, thường được sử dụng linh hoạt tùy thuộc vào tình huống quản lý. “ Dĩ bất biến, ứng vạn biến” chính là phương châm hành động nói lên quan hệ giữa phương pháp với mục tiêu và nguyên tắc quản lý.
Cơ sở khoa học để vận dụng phương pháp quản lý là cơ chế tác động, động lực của con người. con người có động cơ hành động và động cơ đó dựa trên các loại động lực khác nhau. Phương pháp quản lý chính là cách thức mà người quản lý vận dụng các loại động lực khác nhau tác động đến người dưới quyền, hình thành động cơ hành động, định hướng hoạt động của cấp dưới vào việc thực hiện mục tiêu chung.
Việc nhận thức và sử dụng hiệu quả các phương pháp quản lý đòi hỏi không những tri thức khoa học mà còn cả nghệ thuật quản lý của người lãnh đạo quản lý. Yếu tố khoa học đòi hỏi người quản lý phải nắm vững tri thức khoa học về động cơ, động lực, phương pháp quản lý, hiểu được người, nhất là những con người cụ thể trong tổ chức của mình. Yếu tố nghệ thuật đòi hỏi người quản lý phải biết khéo léo trong sử dụng các phương pháp sao cho khích lệ, động viên người dưới quyền hăng hái và tự giác làm việc, sao cho phối hợp được sức mạnh tập thể, của toàn bộ tổ chức.
b. Các phương pháp quản lý
v Phương pháp hành chính.
Phương pháp hành chính dựa vào quyền uy tổ chức – hành chính của người quản lý tác động vào người dưới quyền, bắt buộc người dưới quyền phải tuân thủ các mệnh lệnh.
Phương pháp hành chính sử dụng cơ chế của quyền lực trong tổ chức. do vậy, nó chỉ có hiệu lực và hiệu quả khi hệ thống quyền lực trong tổ chức được xác lập rõ ràng. Hệ thống quyền lực lại dựa trên cơ cấu tổ chức và hệ thống quy chế - thể chế trong tổ chức.
Đặc điểm cơ bản của phương pháp hành chính là tính chất bắt buộc, tuân thủ trong quá trình tác động thực hiện các mệnh lệnh, chỉ thị của người quản lý. Các thành viên trong tổ chức, do ý thức tổ chức kỷ luật trong tổ chức, do cơ chế của các biện pháp kỷ luật mang tính trừng phạt, răn đe, luôn có nghĩa vụ và tinh thần chấp hành các mệnh lệnh của người quản lý cấp trên. Cơ chế quyền uy, cưỡng chế đã tạo ra động lực làm việc của cấp dưới định hướng theo các biện pháp hành chính của người quản lý.
Ưu thế của phương pháp hành chính là hiệu lực tác động nhanh, đảm bảo sự thống nhất trong hành động, dễ sử dụng. tuy nhiên, nhược điểm của phương pháp này là dễ bị người quản lý lạm dụng dẫn đến sự chấp hành khiên cưỡng, thụ động của cấp dưới, không phát huy được sáng kiến của họ, làm giảm hiệu quả của tổ chức. do vậy, phương pháp hành chính chỉ nên sử dụng trong những tình huống quản lý bắt buộc, đó là trong xác lập cơ cấu tổ chức, các tình huống cấp bách, khẩn trương.
Để sử dụng phương pháp hành chính có hiệu quả, cần chú ý các nội dung sau:
v Các mệnh lệnh, chỉ thị mang tính chất hành chính phải dựa trên các căn cứ thể chế, pháp lý và khoa học rõ ràng, đảm bảo chúng có đầy đủ tính “chính danh” và mang tính thuyết phục cao.
v Các biện pháp áp dụng phải rõ ràng, dễ hiểu, khả thi đối với cấp dưới.
v Người quản lý áp dụng phương pháp hành chính phải có uy tín, có quyền lực tổ chức, hiểu biết sâu sắc về tổ chức và nắm sát đối tượng quản lý.
v Gắn quyền hạn với trách nhiệm đối với cả người quản lý và người thi hành các biện pháp hành chính.
v Sử dụng kết hợp các phương pháp quản lý khác.
v Phương pháp kinh tế
Phương pháp kinh tế tác động đến người dưới quyền dựa vào động cơ, động lực kinh tế thông qua lợi ích kinh tế. phương pháp kinh tế không sử dụng cơ chế cưỡng bức, tuân thủ mà chủ yếu sử dụng công cụ - đòn bẩy kinh tế như tiền lương, tiền thưởng, lợi nhuận, thuế, trợ cấp, giá cả, lãi suất… các công cụ - đòn bẩy kinh tế, khi được sử dụng như một phương pháp kinh tế, trở thành chính sách kinh tế của chủ thể quản lý với mục tiêu và các phương pháp, liều lượng tác động nhất định.
Tác động của phương pháp kinh tế mang tính gián tiếp. chủ thể quản lý không cần sử dụng mệnh lệnh cưỡng bức vẫn có thể đạt được mục tiêu đề ra. Về phía đối tượng quản lý, được chủ động, sáng tạo trong hoạt động nhưng thông qua cơ chế kích thích và động cơ kinh tế, vừa hướng đến các mục tiêu của mình, vừa góp phần thực hiện mục tiêu của chủ thể quản lý.
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, phương pháp kinh tế là phương pháp chủ đạo và có vai trò trung tâm trong hệ thống các phương pháp quản lý. Trong quản lý, điều hành toàn bộ nền kinh tế, nhà nước chủ yếu dựa vào cơ chế thị trường áp dụng các biện pháp kinh tế để định hướng, hướng dẫn, điều tiết các hoạt động cua các doanh nghiệp và dân cư. ở tầm vi mô, trong từng đơn vị, tổ chức kinh tế, phương pháp kinh tế được sử dụng trong định hướng, kích thích người lao động làm việc theo mục tiêu, kế hoạch của đơn vị.
Ưu thế cơ bản của phương pháp kinh tế là khả năng kích thích hành động mạnh nhưng vẫn bảo đảm và phát huy quyền tự chủ, tính năng động, sáng tạo của cấp dưới. nhược điểm cơ bản của phương pháp này là dễ dẫn đến tình huống rối loạn mục tiêu, mất điều khiển. do vậy, phương pháp kinh tế khi sử dụng phải được cân nhắc, tính toán cẩn trọng; phải thường xuyên đánh giá hiệu lực tác động để thường xuyên điều chỉnh, bổ xung kịp thời.
Để sử dụng tốt phương pháp kinh tế, cần chú ý một số nội dung sau:
v Phối hợp tối đa với các phương pháp khác. Các biện pháp sử dụng đòn bẩy kinh tế thường phải lựa chọn hình thức, khuôn khổ hành chính – pháp lý phù hợp và hiệu quả. Ngoài ra, cần tích cực tuyên truyền, vận động đối tượng quản lý tự giác thực hiện nghiêm chỉnh và hiệu quả, tránh lợi dụng, lạm dụng các biện pháp, chính sách của cấp trên.
v Phải bám sát hoạt động của đơn vị, chú ý nghiên cứu, rà soát hệ thống các biện pháp, cơ chế kinh tế để kịp thời phát hiện những sai sót, lỗ hổng hoặc tình trạng thiếu hiệu lực của các biện pháp, từ đó, điều chỉnh, hoàn thiện kịp thời.
v Chú ý đén tính hệ thống của toàn bộ các phương pháp kinh tế áp dụng, đảm bảo sao cho chúng đồng hướng và phối hợp hiệu quả với nhau trong việc tác động đến đối tượng quản lý đạt tới các mục tiêu đặt ra.
v Đảm bảo sự vận hành hiệu lực và hiệu quả của cơ chế kích thích kinh tế thông qua động cơ – động lực – lợi ích kinh tế. muốn vậy, cần phải loại bỏ sự tác động ngoại lai làm mất hiệu lực của cơ chế kích thích kinh tế; đảm bảo liều lượng kích thích của các giải pháp phải đủ mạnh để định hướng đối tượng; chống các hành vi lợi dụng các biện pháp kinh tế để mưu cầu lợi ích cá nhân, hoặc lợi ích cục bộ.
v Phương pháp tâm lý - giáo dục.
Phương pháp tâm lý – giáo dục tác động đến đối tượng quản lý thông qua các yếu tố tâm lý như tư tưởng, tình cảm, ý thức, thái độ… để họ tự giác điều chỉnh hành vi trong quá trình thực hiện các mục tiêu và nhiệm vụ của tổ chức.
Như vậy phương pháp tâm lý giáo dục giống phương pháp kinh tế ở chỗ không tác động trực tiếp đến đối tượng thông qua mệnh lệnh hành chính mà tác động gián tiếp thông qua cơ chế tự điều chỉnh hành vi. Tuy nhiên, khác với phương pháp kinh tế sử dụng cơ chế lợi ích kinh tế, phương pháp tâm lý - giáo dục sử dụng cơ chế tác động vào các nhu cầu thuộc lĩnh vực tình cảm, tinh thần. do vậy, hiệu ứng tác động của phương pháp tâm lý giáo dục có thể không nhạy bén như phương pháp kinh tế nhưng hiệu quả tác động trong nhiều trường hợp rất cao.
Dư địa sử dụng của phương pháp tâm lý – giáo dục rất lớn. thực vậy, xét về nhu cầu của con người hiện đại, có rất nhiều nhu cầu thuộc lĩnh vực tinh thần, tình cảm như nhu cầu thăng tiến, nhu cầu được tôn trọng, nhu cầu được làm việc trong một môi trường thân thiện, nhu cầu có cơ hội học tập nâng cao tay nghề, nhu cầu được phát huy, triển khai các sáng kiến cá nhân… theo phân tích của Maslow, các nhu cầu này được coi là nhóm nhu cầu bậc cao và có xu hướng tăng mạnh khi thu nhập tăng lên. Từ các nhu cầu đó, xuất hiện động cơ làm việc thực hiện nhu cầu. người quản lý nếu biết khơi dậy các động cơ tâm lý của cấp dưới sẽ có thể phát huy những tiềm năng còn ẩn giấu trong quá trình thực hiện mục tiêu chung.
Người lãnh đạo, quản lý muốn sử dụng tốt phương án tâm lý giáo dục cần phải:
- Gần gũi và hiểu được đặc điểm tâm lý cũng như động cơ, tâm tư, nguyện vọng của cấp dưới. muốn vậy, người quản lý phải có phong cách sống tạo sự tin cậy của cấp dưới, biết lắng nghe họ và có khả năng hiểu rõ các yếu tố tâm lý của họ.
- Có kỹ năng khích lệ, truyền cảm hứng làm việc thông qua các tác động tâm lý giáo dục. muốn vậy, người quản lý cần phải thuần thục các kỹ năng giao tiếp với cấp dưới.
- Có phong cách, đạo đức gương mẫu, giữ được uy tín trước cấp dưới.
- Có lòng bao dung, nhân hâu, cảm hóa đối với cấp dưới.
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top