Xuân Phong
~Zhihu~ Xuân Phong
Tác giả: 慵不能
Đề cử: Thời Khanh
Editor: Mộng Nguyệt
———
Thái tử cùng Thái tử phi rất mực ân ái, nhưng ta lại là trắc phi của Thái tử.
Khi ta vào Đông Cung, con trai của Thái tử và Thái tử phi đã được mười một tuổi, còn ta thì vừa tròn mười lăm.
Vào đêm đại hôn hôm ấy, Thái tử ngồi bên mép giường gỡ quạt hỉ từ trên tay ta xuống, nhưng không hành lễ hợp cẩn cùng ta.
Ngài ấy chỉ thở một hơi thật dài, đặt chiếc quạt hỉ trong tay xuống chăn hỉ thêu hoa mẫu đơn.
"Ngươi vào Đông Cung sẽ không giống như ở nhà, khó tránh khỏi sẽ có chút lạ lẫm, nếu như có yêu cầu gì dù là thức ăn hay đồ dùng thì hãy nói với Thái tử phi, nàng là người hoà nhã."
Sau đó là một khoảng yên tĩnh đến ngột ngạt, giống như là suy tư, cuối cùng lại dường như không biết phải nói tiếp điều gì, cũng như không thể chịu nổi sự im lặng khiến người ta ngại ngùng, hai tay ngài đặt trên đùi, tiếp tục nói:
"Nếu ngươi không quen ăn cơm một mình, có thể đến chỗ của Thái Tử phi dùng bữa cùng chúng ta."
Nói xong ngài ấy quay người rời đi, thậm chí chưa hề nhìn ta lấy một lần.
———
Ta không kiềm được mà bước theo ra ngoài, thấy Thái tử phi đang đứng chờ ngoài sân.
Thái tử phi quả thực rất đẹp, gương mặt hiền từ toát ra nét dịu dàng, tựa như bức tượng Phật mà ta thường bái lạy trước khi chưa xuất giá.
Vừa nhìn nàng, ta đã thấy thích.
Nàng khẽ mỉm cười, đưa tay ra đón Thái tử, ngài ấy cũng tiến lên, nắm lấy tay nàng, trong ánh mắt họ tràn đầy tình ý.
Ta bỗng nhớ đến ánh mắt mà phụ mẫu thường trao nhau.
Thái tử phi nhìn thấy ta đang đứng tựa vào khung cửa từ xa, liền nhẹ nhàng mỉm cười rồi gật đầu thay thay cho lời chào, sau đó cả hai người sánh bước rời đi.
Ta dựa vào khung cửa ngồi xuống, ngẩng đầu nhìn trăng trên cao, trong lòng bỗng nhớ nhà.
Nhà ta không ở chốn phồn hoa tấp nập như kinh thành, mà ở tận nơi xa xôi, vùng đất Ngọc Môn quan, nơi có hoang mạc và cát vàng, cùng với những hàng cây bạch dương cao lớn và từng đàn lạc đà.
Khi đoàn lạc đà đi qua, "đinh đinh đang, đinh đinh đang", ta sẽ chạy ra khỏi nhà, mang theo trân châu mà đại ca cho, hoặc tấm lụa tứ ca tặng, để đổi lấy những món đồ mới lạ mà thương nhân từ Tây Vực mang tới.
Khi ấy ta tự do tự tại, không biết hạnh phúc đến nhường nào.
Thế nhưng ba năm trước, phụ thân ta tuẫn tiết, mẫu thân vì đau lòng mà đi theo, ta cùng ngũ ca đưa linh cữu về kinh thành, ở lại đây giữ tang ba năm.
Vào yến hội Nguyên Tiêu năm nay, Hoàng thượng trông thấy ta. Người thương ta côi cút, không ai chăm sóc, nay đã đến tuổi xuất giá mà chẳng ai lo liệu, Hoàng thượng nhớ đến công lao của phụ thân, nên nhất định phải gả ta cho bậc lương duyên tốt nhất, và người đã chỉ hôn ta cho Thái tử.
Ngũ ca nói, vì các huynh đệ ta đều giữ chức quan trọng ở Ngọc Môn quan, nên ta không thể quay lại đó nữa.
Ta sinh ra và lớn lên ở Ngọc Môn quan, nhưng giờ đây lại không bao giờ trở về được nữa.
Thế nên vào đêm ta được chỉ hôn cho Thái tử, ta đã khóc suốt cả đêm. Giờ đây, ta lại muốn khóc. Bởi sau đại hôn, người thân duy nhất của ta ở Trường An, ngũ ca – người yêu thương ta nhất, cũng sắp rời đi.
Huynh ấy phải trở về Ngọc Môn quan, về bên ca ca và các huynh đệ của mình.
Trường An rộng lớn lập tức trở nên trống trải, chỉ còn lại mình ta. Càng nghĩ ta càng buồn, ôm gối khóc nức nở. Bất chợt, "bộp" một tiếng, một viên đá nhỏ rơi trước mặt ta. Ta ngẩng đầu lên, thấy trước mặt có một đứa trẻ.
Nó khoanh tay sau lưng, ánh mắt ngạo mạn nhìn ta, vẻ như rất cao ngạo.
Nó học theo giọng điệu của người lớn: "Ngươi chính là trắc phi mới của phụ vương ta?"
Ta lau khô nước mắt, ngẩng đầu lên đáp: "Phải."
"Ngươi có biết, phụ vương ta đã có mẫu phi ta rồi chứ?" Nó tiến lại gần, muốn nhìn rõ ta hơn.
Ta quay mặt đi, giọng khẽ khàng: "Biết."
"Vậy ngươi có biết, phụ vương và mẫu phi ta tình cảm sâu đậm đến mức không ai chen vào được không?" Nó lại tiến sát hơn để nhìn rõ ta.
"Ta không có." Ta cảm thấy ấm ức, ta chỉ muốn được về nhà cùng ngũ ca.
"Vậy ngươi khóc cái gì?" Nó tò mò nhìn vương miện trên đầu ta, rồi đưa tay định chạm vào đôi cánh trên đó.
Nhìn đôi mắt đen sáng lấp lánh của nó, ta không tránh, mặc cho nó chạm vào.
"Ta nhớ nhà."
"Ngươi là lần đầu tiên xuất giá." Nó chăm chú nhìn vương miện, chơi đùa say mê đến mức không biết mình đang nói gì.
Ta tức giận trừng mắt nhìn nó, nghẹn không nói được lời nào. Nhục... nhục mạ... người ta! Nhìn ánh mắt giận dữ của ta, nó mới nhận ra mình lỡ lời, vội vàng xin lỗi: "Xin lỗi, xin lỗi, ta lỡ lời. Ngươi đừng mách với phụ vương ta."
Ta hờn dỗi đứng dậy: "Ngươi... đi đi." Ta quay người định bước vào phòng. Nó vội vàng nắm lấy tay áo ta: "Này... này, ngươi đừng giận, ta thật sự không cố ý, ta chỉ là... trẻ con... vô ý vô tứ."
Ta dùng ánh mắt hung dữ nhất mà mình có để trừng nó: "Trẻ người non dạ!"
Không ngờ nó chẳng hề sợ, lại ngạc nhiên nói: "Hóa ra ngươi còn có thể nói một câu bốn chữ! Ta cứ tưởng ngươi chỉ có thể nói câu ba chữ thôi!"
Ta hất tay nó ra, không thèm nhìn: "Nhàm chán."
"Nhà ngươi ở đâu? Nhà ta ở Đông Cung, ta chưa từng thấy nơi nào ngoài hoàng cung. Nhà ngươi xa không? Lần sau ngươi về nhà có thể dẫn ta theo không? Này, nhà ngươi có ngựa không? Ta muốn cưỡi ngựa, nhưng phải đến năm sau ta mới được học cưỡi ngựa bắn cung. Ngươi có biết cưỡi ngựa không? Ta thấy cưỡi ngựa oai phong lắm. Nhưng chắc ngươi không biết cưỡi ngựa đâu."
Nhìn mắt ta rưng rưng, nó lắc đầu nói, "Ngươi khóc lóc thế này, nhìn là biết không biết cưỡi ngựa. Này, cưỡi ngựa bắn cung ra trận thật là sảng khoái."
"Ta biết cưỡi." Bị nó coi thường, ta có chút bực bội, liền lẩm bẩm đáp.
"Ngươi nói gì?" Có vẻ nó không nghe rõ.
"Ra trận, chẳng có gì sảng khoái." Ta không lặp lại, vì các ca ca của ta nói rằng nữ nhi Trường An không được phép cưỡi ngựa, nên ta cũng không thể cưỡi ngựa nữa. Nếu ta cưỡi ngựa, người ta sẽ chê cười.
Ta không hiểu, đường phố Trường An rộng lớn như vậy, có nhiều nam nhân cưỡi ngựa trên phố như thế, tại sao ta lại không được, dù ta biết cưỡi ngựa.
May thay, nó không dây dưa với lời nói của ta, chỉ kéo ta ngồi xuống, tiếp tục hỏi: "Này, ngươi tên là gì? Ta tên là Lý Ngộ."
Ta lấy lại bình tĩnh, từng chữ đáp: "Tạ Xuân Phong."
Đêm đầu tiên ta vào Đông Cung, ta cùng Lý Ngộ ngồi dưới mái hiên, những câu hỏi ríu rít của nó đã làm vơi đi bớt phần nào nỗi cô đơn trong lòng ta đêm ấy.
2.
Thái tử phi quả nhiên rất hiền hòa. Khi ta đến thỉnh an, nàng giữ ta lại dùng bữa sáng, thậm chí còn cẩn thận hỏi thăm khẩu vị của ta.
Thái tử phi nắm tay ta, hiền từ nói: "Từ nay về sau, Đông Cung chính là nhà của muội. Ta, Thái tử, và Tiểu Ngộ chính là người nhà của muội."
Thái tử cùng Thái tử phi vô cùng ân ái, thành thân đã mười mấy năm mà tình cảm vẫn không hề thay đổi.
Đông Cung chỉ có một chính thê duy nhất là Thái tử phi, nếu không phải Hoàng đế cố tình tứ hôn, Thái tử và Thái tử phi thật sự là cặp đôi hiếm có. Ta cảm thấy hơi áy náy, không nỡ và cũng không muốn phá vỡ tình cảm giữa Thái tử phi và Thái tử. Vậy nên ta chỉ ngoan ngoãn gật đầu.
Thái tử phi đối đãi với ta rất tốt, nàng sai người may y phục mới cho ta, tặng ta những món trang sức tinh xảo, thậm chí còn tự tay chải tóc cho ta, chăm sóc ta vô cùng chu đáo.
Nàng nói, nàng thường ở một mình trong Đông Cung, không có ai để bầu bạn, tâm sự. Nàng còn nói, nàng và Thái tử luôn mong có một người con gái tâm đầu ý hợp, nhưng lại chưa có duyên.
Ta hiểu ẩn ý của nàng. Thái tử và Thái tử phi muốn nuôi dưỡng ta như con gái. Vì thế, trong lòng ta âm thầm xác định lại thân phận của mình: là con nuôi, chứ không phải là một lương đệ. Không ai lại muốn chia sẻ phu quân của mình, ngay cả Thái tử phi cũng không ngoại lệ.
Ngày tháng ở Đông Cung quả thực vô cùng tẻ nhạt. Tuy rằng đôi khi Thái tử phi sẽ dạy ta thư họa, nữ công, hoặc đưa ta đi dạo thuyền trên hồ hay đi nghe hát, ngày ngày trôi qua cũng khá vui vẻ.
Nhưng Thái tử phi không thể lúc nào cũng ở bên cạnh ta, nàng còn phải chăm sóc Thái tử điện hạ.
Thế là ta thường ở bên cạnh Lý Ngộ. Lý Ngộ rất nghịch ngợm. Có người tặng cho Thái tử một con công, nó muốn nhổ lông công để làm quạt tặng Thái tử phi, ta liền giúp nó bắt công.
Chúng ta lăn lộn, dính đầy bùn đất, đầu tóc bù xù, mang quạt lông công dâng lên Thái tử phi. Thái tử phi và Thái tử nhìn thấy bộ dạng lếch thếch của ta và Lý Ngộ, cả hai bật cười nghiêng ngả, Đông Cung tràn ngập tiếng cười vui vẻ.
Sau này, chiếc quạt lông công đó trở thành món quà mà Thái tử phi yêu thích nhất. Dần dần, ta phát hiện ra ta càng nghịch ngợm, không tuân thủ lễ nghi, Thái tử và Thái tử phi càng vui vẻ, càng yêu quý ta, ánh mắt nhìn ta càng thêm hiền từ, và càng nuông chiều ta hơn.
Ta cũng ngày càng thích cùng Lý Ngộ bày trò nghịch ngợm. Họ dung túng ta, ta lại dung túng Lý Ngộ.
Họ xem ta như con gái, ta lại xem Lý Ngộ như con trai. Lý Ngộ trốn học, ta giúp nó che giấu; Lý Ngộ bị phạt, ta thay nó xin xỏ; Lý Ngộ trèo cây bắt ve, ta đứng gác cho nó.
Tiểu Ngộ đối đãi với ta cũng rất tốt, mang cho ta những món điểm tâm mà ta thích, chép lại bài tập mà Thái tử phi giao cho ta. Khi ta ngủ, nó còn đuổi muỗi giúp ta, khiến bản thân bị đốt khắp mặt.
Thái tử phi nhìn thấy nó mặt đầy nốt muỗi cắn, liền làm cho chúng ta mỗi người một chiếc túi thơm chống muỗi. Những ngày ở Đông Cung này, là khoảng thời gian vui vẻ nhất của ta ở kinh thành.
Lý Ngộ lúc này đang bám trên tường nhà ta, nhỏ giọng gọi: "Tiểu Phong!"
Ta vội kéo váy chạy đến, nói: "Xuống nhanh! Nguy hiểm đấy."
"Nhanh lên, Tiểu Phong, mau giúp ta, ta xuống không được."
Ta vội chạy ra, nhón chân định đỡ nó xuống, nhưng lại bị trượt chân, cả hai ngã lăn ra đất. Ta lấy thân mình làm đệm thịt cho Lý Ngộ. Lý Ngộ vội bò dậy, kiểm tra xem ta có bị thương không.
Ta còn đang xoa cổ tay đau nhức, chưa kịp đứng dậy thì đã thấy Thái tử mặt đen kịt đứng trên đầu. Ta vội vàng đứng dậy, cùng Lý Ngộ quỳ xuống.
Thái tử cầm cây thước phạt, nghiêm mặt nói: "Đưa tay ra." Ta và Lý Ngộ ngoan ngoãn đưa tay ra.
Thái tử giơ thước lên, thấy ta lén nhìn, ngài ấy bực dọc nói: "Không phải phạt ngươi."
Ta hoảng sợ, vội nắm tay thành nắm đấm, cẩn thận rút về.
Thái tử giơ thước lên, "chát" một tiếng đánh lên tay Lý Ngộ, khiến nó đau đến nhăn nhó, lòng bàn tay ngay lập tức đỏ lên một mảng.
"Chát", tiếng thước thứ hai rơi xuống, Lý Ngộ đau đến rơi nước mắt. "Chát", tiếng thứ ba vang lên, ta đưa tay ra đỡ cho Lý Ngộ, chịu thay cú đánh.
Lòng bàn tay nóng rát.
"Tiểu Phong! Ngươi..."
Thái tử tức giận, lắc đầu thở dài, nói: "Ngươi và Thái tử phi sớm muộn gì cũng sẽ chiều hư nó!" Nói xong, ngài ấy giận dỗi bỏ đi.
Ta và Lý Ngộ nhìn nhau cười, chẳng mấy chốc lại vui vẻ như chẳng có chuyện gì.
Lý Ngộ kéo ta dậy: "Tiểu Phong, đi, ta dẫn ngươi đến một nơi."
"Ngươi không thể gọi ta là Tiểu Phong."
"Nhưng ngươi gọi ta là Tiểu Ngộ mà."
"Ta là trưởng bối." Ta làm ra vẻ nghiêm túc.
"Vậy ta gọi ngươi là tỷ tỷ nhé. Ta luôn muốn có một người tỷ tỷ."
Ta vẫn lắc đầu: "Ngươi không thể gọi ta là tỷ tỷ."
"Tại sao?" Lý Ngộ thắc mắc, nhìn ta chẳng khác gì tỷ tỷ hắn cả.
Ta trầm tư một lát, rồi lưỡng lự nói: "Tính ra... ta nên là tiểu nương của ngươi."
" y da, đừng lo nghĩ nhiều như vậy. Đi nào, ta đưa tỷ đến một nơi thú vị. Chắc chắn tỷ sẽ thích!" Lý Ngộ kéo ta chạy đi, gió nhẹ thổi qua mặt, làm tóc ta bay lên, khiến ta nhớ đến cơn gió ngoài Ngọc Môn quan.
Gió ở Ngọc Môn quan không dịu dàng và nhẹ nhàng như gió Trường An. Gió ở đó mạnh mẽ, đủ để cuốn theo hàng trượng cát vàng, đủ mạnh để hất người khỏi lưng ngựa.
Ta từng phóng ngựa nơi Ngọc Môn quan, gió cuốn theo cát mịn quất vào mặt. Dù ta đã che mặt bằng khăn và đội nón rộng vành nhưng vẫn cảm nhận được cát vàng rát vào mặt, đau nhói.
Đã lâu rồi ta không cưỡi ngựa nữa.
Lý Ngộ dẫn ta đến bên hồ của Đông Cung. Giữa hồ có một ngọn hòn non bộ lớn, trên đỉnh hòn non bộ là một đình nhỏ.
Đệ ấy tháo một chiếc thuyền nhỏ từ bờ, đưa ta ngồi lên rồi khéo léo chèo về phía đình giữa hồ. Lý Ngộ buộc thuyền vào bờ, kéo ta lên cạn, nhưng không dẫn ta vào đình.
Thay vào đó, đệ ấy kéo ta xuống dưới đình, nơi góc khuất hiện ra một cái động nhỏ. Cửa động hẹp đến nỗi ta phải cố gắng lắm mới lách qua được.
Nếu là người lớn như Thái tử, e rằng phải nghiêng người và cúi thấp mới có thể vào.
Bên trong, khác hẳn với lối vào nhỏ hẹp, không gian rộng rãi hơn nhiều, có thể chứa được bốn, năm người. Trên vách đá treo đầy những bó thảo dược nhỏ được buộc gọn bằng dây gai mảnh. Những hốc đá lớn nhỏ xung quanh chứa đầy những món đồ nhỏ xinh: tượng đất, búp bê gỗ, dao găm nhỏ. Ở giữa là một tảng đá phẳng như mặt bàn, trên đó xếp mấy cuốn y thư, du ký và một bàn cờ.
Ta ngạc nhiên đến mức không thốt nên lời. Ai mà ngờ được trong Đông Cung rộng lớn lại có một chốn bí mật như thế này.
Lý Ngộ đắc ý khoe với ta: "Thế nào? Nơi này không tệ chứ?" Đệ ấy kéo ta ngồi xuống, rồi bắt đầu lục lọi trong đống thảo dược treo trên vách đá.
Đệ ấy gỡ xuống một bó thảo dược nhỏ, bỏ vào cối giã, không biết là lấy cối từ đâu ra. Sau khi giã nát, đệ ấy lấy bã thuốc xanh xanh đắp lên tay ta – bàn tay từng thay đệ ấy chịu đòn. Cảm giác mát lạnh thật dễ chịu.
Tiểu Ngộ thổi nhẹ lên tay ta: "Tiểu Phong, còn đau không?"
Ta lắc đầu: "Hết đau từ lâu rồi."
"Đây là nơi bí mật của ta. Tất cả những thứ ta yêu thích đều ở đây. Phụ vương quản ta rất nghiêm, không cho ta làm cái này, không cho ta làm cái kia. Khi vui hoặc khi buồn, ta đều đến đây. Ở Đông Cung này ta không có bạn chơi, giờ thì có tỷ rồi. Tỷ là người bạn duy nhất của ta, nhất định đừng phản bội ta nhé. Từ giờ nơi này là của riêng hai chúng ta, tỷ phải giữ bí mật giúp ta đó."
"Ừm." Ta ngoan ngoãn gật đầu.
"Chỉ còn vài ngày nữa là đến sinh thần của ta. Qua sinh thần, ta có thể đến giáo trường để học cưỡi ngựa bắn cung. Tỷ nhất định phải đến xem nhé. Ta chắc chắn sẽ là người học nhanh nhất, giỏi nhất."
"Đệ muốn học y thuật... phải không?" Ta không kìm được mà hỏi.
"Học y thuật không tốt sao?" Lý Ngộ đáp lại bằng một câu hỏi, "Thầy dạy ta từng nói thầy thuốc cứu người, đó là điều rất đáng kính trọng. Thầy còn dạy rằng gặp thầy thuốc lớn tuổi, phải hành lễ kính cẩn. Nhưng phụ vương không thích ta xem y thư, chỉ bắt ta học sách Tứ Thư, học chính luận. Người nói y thư đối với ta chẳng có ích gì, là đường ngang ngõ tắt, không phải chính đạo, chẳng có Hoàng tử nào cần học y thuật cả. Haizz! Nếu ta sinh ra trong một gia đình bình thường, chắc có thể học y rồi."
"Học thành tài rồi hành hiệp giang hồ, làm một vị du y, cứu người giúp đời." Lý Ngộ nói xong, khuôn mặt rạng rỡ với nụ cười ngốc nghếch.
Ta không biết phải nói gì, lòng ta mơ hồ cảm thấy Thái tử nói đúng, nhưng lại thấy học y quả thực là một điều rất tốt. Tứ ca ta cũng từng nói thầy thuốc phải có tâm từ bi.
Thế nhưng, Lý Ngộ, sinh ra trong hoàng tộc, lại không được phép học y, cũng giống như ta sống ở Trường An mà không được phép cưỡi ngựa. Đột nhiên ta cảm thấy giữa ta và Lý Ngộ có một sự đồng cảm kỳ lạ.
Ta muốn hỏi tại sao Lý Ngộ lại muốn học y thuật, nhưng ta không hỏi, vì ta biết tại sao ta lại muốn cưỡi ngựa. Ta nghĩ, tâm trạng muốn cưỡi ngựa của ta có lẽ cũng giống như mong muốn học y thuật của Lý Ngộ. Và nỗi khao khát muốn quay về Ngọc Môn quan của ta, cũng giống như mong muốn được chu du thiên hạ của Lý Ngộ.
Sau này ta mới biết, cảm giác ấy có một cái tên, gọi là "cầu mà không được."
3.
Đông Cung có hỉ sự, Thái tử phi đã hoài thai. Mọi người ai nấy đều vô cùng vui mừng, trên gương mặt của tất cả mọi người đều hiện lên nụ cười rạng rỡ.
Ta cũng rất vui, đây là chuyện đáng mừng đầu tiên từ khi ta vào Đông Cung. Điều làm ta hạnh phúc hơn là Thái tử phi dù đang mang thai nhưng không hề quên lãng ta, nàng vẫn đối xử với ta như trước, tốt đẹp vô cùng.
Ta ôm lấy cánh tay Thái tử phi, tựa đầu lên vai nàng, hỏi: "Nương nương, đợi khi hài nhi ra đời, ta có thể bế nó chơi không?"
Thái tử phi cười nhẹ, ánh mắt cong cong: "Được chứ, nhưng muội phải đối xử tốt với nó đó."
Ta gật đầu chắc chắn, cam đoan: "Nhất định còn tốt hơn Tiểu Ngộ!"
Thái tử phi mỉm cười dịu dàng, vuốt ve mái tóc ta: "Cô bé ngốc."
Ngày tháng trôi qua, bụng Thái tử phi ngày càng to. Cả Đông Cung đều trông mong sự chào đời của sinh mệnh bé nhỏ này. Mỗi ngày ta đều muốn áp tai lên bụng Thái tử phi để nghe ngóng động tĩnh của hài nhi mới chịu rời đi.
Thời tiết dần trở lạnh, tuyết rơi liên tục, bao phủ Đông Cung trong một lớp mây dày lạnh lẽo. Mọi người đều ít ra ngoài, lửa than trong phòng luôn cháy rực ấm áp, khiến ai cũng lười biếng.
Khi ra ngoài, mỗi lần thở ra lại thấy làn khói trắng mịt mù, như thể muốn tỏa hết hơi ấm ra ngoài, rồi phải bước đi trong gió tuyết, lạnh lẽo ngấm vào người.
Khi đến thăm Thái tử phi, ta không dám vào phòng, sợ mang theo khí lạnh đến cho nàng. Mỗi lần đến ta chỉ đứng ngoài cửa hỏi thăm vài câu.
Thái tử phi mỗi lần đều tức giận trách mắng, nhưng sau đó lại cẩn thận bảo người mang đồ chống lạnh đến cho ta.
"Không cần, không cần, ta không vào đâu." Ta xua tay từ chối lời mời của Hiệp Tĩnh cô cô, rồi nhận lấy túi sưởi mà Thái tử phi cho người mang tới, đẩy cô cô quay về chăm sóc chủ tử.
Ta xoay người, từng bước từng bước đi trong gió tuyết trở về.
"Chát!" Một quả cầu tuyết ném trúng vào trán ta, ngay lập tức cảm thấy lạnh buốt cả mặt.
Ta luống cuống phủi tuyết khỏi trán, thấy Lý Ngộ đang đứng phía trước, cười đến cong cả lưng. Ta giả vờ quay lưng, nhanh tay nắm lấy một nắm tuyết, vo thành quả cầu, rồi khi Lý Ngộ bước đến gần, ta nhanh chóng ném vào trán đệ ấy.
Trúng phóc!
Người cười lớn lần này là ta.
Đã bắt đầu rồi, chúng ta vui vẻ đánh trận tuyết, ném tuyết khắp người nhau, cả hai đều ướt đẫm. Khi mệt, chúng ta nằm bên nhau trên nền tuyết, thở hổn hển, làn hơi trắng bay ra khỏi miệng rồi tan biến trong không trung.
Ta ngắm nhìn mái ngói đỏ phủ tuyết và bầu trời xám xịt, cất lời: "Tiểu Ngộ, đệ sắp có đệ đệ hoặc muội muội rồi, có vui không?"
"Đương nhiên rồi!" Lý Ngộ hào hứng trả lời, "Đợi nó lớn lên, ta còn cùng nó đánh trận tuyết, cưỡi ngựa, leo núi, bắn cung, thả diều nữa!"
"Vậy nếu là một tiểu cô nương thì sao?" Ta lại hỏi.
Lý Ngộ ngẫm nghĩ một lúc, rồi đáp: "Vậy thì ta sẽ làm cho nó thật nhiều y phục xinh đẹp, tặng cho nó Đông châu lớn nhất, những món trang sức tốt nhất, đem tất cả những thứ tốt đẹp nhất, lộng lẫy nhất trên đời này tặng cho nó!"
Đã có câu trả lời, nhưng ta vẫn chưa thỏa mãn, tiếp tục hỏi: "Nếu muội ấy không thích những thứ đó thì sao? Nếu muội ấy thích cưỡi ngựa, bắn cung, đánh trận tuyết thì sao?"
"Vậy thì để muội ấy cưỡi ngựa, bắn cung, đánh trận tuyết! Dù thế nào đi nữa, nếu có muội muội, ta sẽ làm cho muội ấy trở thành cô nương hạnh phúc nhất thế gian!"
Nghe Lý Ngộ nói vậy, trong lòng ta bỗng trào dâng một niềm vui tự do, như thể ta trở lại những ngày ở Ngọc Môn quan.
Các huynh trưởng luôn chiều chuộng ta, cho ta mặc những bộ hồ phục đẹp đẽ, đeo những viên châu lớn nhất. Ta cưỡi chú ngựa đỏ nhỏ của mình, tung vó trên sa mạc, bên hồ nước, tự do phiêu du.
Khi ấy, ta là cô nương hạnh phúc nhất thế gian. Ta cũng lớn lên như lời Lý Ngộ đã nói.
Ta nằm trên nền tuyết, để những bông tuyết lả tả rơi xuống người, rơi xuống mặt, rơi vào mắt, lạnh buốt nhưng tan ngay lập tức. Ta thở dài một hơi, rồi mỉm cười. Nhờ Lý Ngộ, ta bỗng nhiên cảm thấy có chút thích Đông Cung rồi.
Mùa đông dần trôi qua, năm mới sắp đến. Thái tử phi cuối cùng cũng lâm bồn vào đầu xuân. Chúng ta đều túc trực bên ngoài, chờ đợi trong suốt một đêm dài cùng với tiếng la hét đau đớn của nàng. Gần sáng, khi ánh bình minh vừa ló dạng, cuối cùng tiếng khóc chào đời của một đứa trẻ vang lên.
Hiệp Tĩnh cô cô bước ra báo tin vui: "Là một tiểu cô nương."
Mọi người vui mừng hò reo, lập tức vây quanh Thái tử xin thưởng. Thái tử cười lớn, hét ba tiếng thưởng, vui mừng đến mức bất chấp lễ nghi, ôm lấy Lý Ngộ đang ngơ ngác vui sướng, rồi quay vòng trong sân.
Ta chen lấn qua đám đông, lao vào trong phòng, cởi bỏ chiếc áo choàng lông cáo đầy băng tuyết, đứng bên lò sưởi một lúc lâu, để cơ thể ấm áp trở lại, rồi mới bước vào nội phòng thăm Thái tử phi và tiểu hài nhi.
Thái tử phi nằm yếu ớt trên giường, tóc tai rối bời, dáng vẻ mệt mỏi, trán ướt đẫm mồ hôi. Thấy ta bước vào, nàng mỉm cười yếu ớt trách móc: "Muội còn biết tới thăm ta à, nha đầu?"
Ta lập tức chạy đến, nhẹ nhàng ngả vào lòng nàng, nước mắt không kìm được mà tuôn rơi: "Nương nương, ta sợ muốn chết."
Thái tử phi vỗ nhẹ lưng ta, an ủi: "Tiểu Phong, ta không sao, ta mệnh lớn lắm."
"Nào, lại đây, ôm lấy hài nhi." Thái tử phi dịu dàng nói, ra hiệu ta ôm tiểu hài nhi nằm trong chiếc nôi.
Ta ngập ngừng nhìn Thái tử phi, nàng mỉm cười gật đầu, khiến ta càng thêm chắc chắn. Ta vui sướng cẩn thận ôm lấy tiểu hài nhi. Cô bé nhắm mắt, khuôn mặt nhỏ nhắn hồng hào, nằm yên trong tã lót.
Thái tử phi nhìn con, ánh mắt chứa đầy yêu thương dịu dàng, như sắp tràn ra.
Ta ôm đứa bé, lòng bàn tay rịn mồ hôi vì hồi hộp, mãi mới có thể thốt lên: "Ta... Ta là người đầu tiên ôm đứa bé?"
Thái tử phi cười gật đầu, ta vui mừng đến suýt hét lên.
Trong nhà, ta là con út, không có cơ hội chứng kiến hài nhi nào ra đời và lớn lên.
Là con út, ta luôn bị các huynh trưởng chọc ghẹo về những trò ngốc nghếch thời thơ ấu.
Bây giờ, cuối cùng ta cũng có cơ hội chứng kiến sự trưởng thành của một sinh mệnh nhỏ bé.
Đợi khi nàng lớn lên, ta sẽ nói với nàng rằng, ta là người đầu tiên ôm nàng, nàng đã lớn lên trong vòng tay của ta.
Khi nhìn nàng, ta như đang nhìn thấy chính mình.
Nhưng cuối cùng, ta không thể chờ đến khi nàng trưởng thành.
Nàng chỉ ở lại nhân gian ba ngày rồi ra đi.
Khi Lý Ngộ đòi ôm nàng, mới phát hiện rằng nàng đã lạnh ngắt, nằm yên lặng trong tã.
Tiểu Ngộ đứng cứng đờ bên cạnh nôi, mặt tái nhợt, giọng run rẩy: "Muội muội... muội muội... không khóc nữa rồi."
Thái tử vội vàng lao đến, đẩy Lý Ngộ ngã xuống đất.
Đầu Lý Ngộ đập mạnh vào lư hương phía sau.
Khi Thái tử bế lấy nàng, nàng đã yếu ớt đến mức không thể khóc ra tiếng.
Ta ôm lấy Lý Ngộ, tay kia bịt lấy đầu đệ ấy, máu chảy không ngừng.
Ta nhìn Thái tử phát điên, vị nam nhân cao quý ấy như hóa cuồng, điên cuồng gọi thái y. Thái tử phi khóc thảm thiết, muốn lao xuống giường nhìn tiểu nữ nhi của mình, đứa trẻ mà nàng đã mang thai mười tháng ròng rã.
Hiệp Tĩnh cô cô phải cố hết sức ôm lấy nàng.
Mọi người rối loạn, tất cả các thái y thay nhau chẩn đoán, cứu chữa, nhưng vẫn không thể cứu vãn được sinh mệnh nhỏ bé ấy. Đứa bé yên lặng trút hơi thở cuối cùng trong vòng tay Thái tử, Thái tử phi khóc ngất đi.
Đây đã là đứa con thứ ba nàng mất. Ta ngồi bệt xuống đất, ôm lấy Lý Ngộ, lặng lẽ khóc, cả người đã lạnh buốt, máu trên tay đã khô cứng lại, giống như không khí trong Đông Cung.
Toàn bộ Đông Cung chìm trong một bầu không khí tang thương, nặng nề, mãi mãi không tan.
4.
Mùa đông thoáng chốc đã qua, xuân lại đến. Nhưng Đông Cung dường như vẫn mãi chìm trong cái lạnh giá của mùa đông ấy.
Thái tử phi ốm yếu, cả ngày nằm trên giường, nụ cười dần trở nên hiếm hoi, còn Thái tử thì bận rộn hơn trước, tính tình càng thêm nóng nảy. Tiểu Ngộ bị phạt càng lúc càng nhiều, hình phạt ngày một nặng hơn.
Tiểu Ngộ trở nên lặng lẽ, không còn hoạt bát như trước, ánh sáng trong đôi mắt dường như tàn lụi từng ngày. Ta luôn cảm thấy, cái mùa đông ấy đã lưu lại trên người Tiểu Ngộ rất lâu.
Khi ta đến nơi, Tiểu Ngộ đang quỳ trên nền đất lạnh lẽo. Thái tử giơ roi, từng nhát roi quất lên tấm lưng gầy yếu của đệ ấy, máu từ trong áo rỉ ra, từng vết hằn đập vào mắt ta đầy kinh hãi.
Đệ ấy cắn môi, kiên cường thẳng lưng không kêu một tiếng, nhưng nước mắt thì không thể kìm lại, từng giọt từng giọt rơi xuống. Tim ta như bị bóp nghẹt, không màng lễ tiết, ta xốc váy chạy đến, quỳ xuống ôm chặt lấy Tiểu Ngộ, vừa đau lòng vừa khóc không thành tiếng.
"Tiểu Phong! Tránh ra! Để ta đánh ch/ết đứa nghiệt tử này!"
Thái tử đã bị cơn giận làm mất đi lý trí, giống như một con sư tử điên cuồng. Ta cảm thấy ngài ấy thật sự sẽ đánh ch/ết Tiểu Ngộ, nên càng ôm chặt lấy đệ ấy, không chịu buông tay.
"Đừng đánh nữa, Thái tử điện hạ, người sẽ đánh ch/ết đệ ấy mất!"
"Ta phải đánh ch/ết đứa con bất hiếu, đam mê chơi bời, bỏ bê chính sự này!"
Thái tử vẫn chưa nguôi giận, chiếc roi trong tay không có chỗ rơi xuống, ngài ấy giận dữ đến mức đi vòng quanh.
"Thái phó đã dốc lòng dạy dỗ mà nó không chịu học! Cứ nhất quyết chạy đến Thái Y Viện học cái gì mà y thuật! Tề Thái phó là sư phụ của Cô! Bị nó làm tức đến ngất xỉu! Hôm nay ta không đánh ch/ết nó, thì nó sẽ không biết cái gì gọi là trời đất quân sư! Không biết thế nào là tôn sư trọng đạo!"
"Con chỉ muốn học y thì có gì sai?" Tiểu Ngộ ngẩng đầu, cố chấp không chịu nhận lỗi.
Thái độ của Tiểu Ngộ càng làm Thái tử thêm phẫn nộ: "Ngươi học y để làm gì? Thái Y Viện có bao nhiêu thái y đều là truyền từ đời này sang đời khác, từ nhỏ đã thấm nhuần! Bọn họ ai mà không giỏi hơn ngươi? 'Khổng', 'Mạnh', 'Quản' ngươi không học, 'Hán', 'Tôn', 'Lão', 'Trang'* ngươi cũng không thèm xem. Những điều bọn họ dạy lẽ nào không bằng mấy cuốn sách lang y vớ vẩn mà ngươi đọc?"
(*Câu này liệt kê một số tác phẩm triết học, tư tưởng quan trọng của Trung Quốc cổ đại, bao gồm các tác phẩm của Khổng Tử, Mạnh Tử, Quản Tử, Hán Phi Tử, Tôn Tử, Lão Tử và Trang Tử)
"Một mai thiên hạ này giao vào tay ngươi! Ngươi định dùng cái y thuật nửa vời của mình để trị quốc sao? Hôm nay ta không đánh cho ngươi tỉnh ngộ, ngày sau ngươi làm vua sẽ thành họa cho bách tính! Đó chính là lỗi của ta, không xứng làm cha làm quân!"
Nói xong, ngài ấy cương quyết kéo Tiểu Ngộ ra khỏi vòng tay ta, "Chát chát", lại hai roi nữa giáng xuống.
Ta quỳ sụp xuống, lao đến ôm lấy Tiểu Ngộ trong lòng, nước mắt rơi không ngừng: "Đừng đánh nữa! Thái tử điện hạ, xin đừng đánh nữa! Tiểu Ngộ đã biết lỗi rồi, cầu xin người đừng đánh nữa!"
"Nó biết lỗi rồi? Ta thấy nó không phục đâu!" Thái tử giơ roi định đánh tiếp, ta lao tới giữ chặt tay cầm roi của ngài ấy, khóc nói: "Nếu người muốn đánh thì hãy đánh ta đi! Nếu Tiểu Ngộ bị người đánh ch/ết, ta và Thái tử phi cũng chẳng muốn sống nữa! Dù sao Đông Cung này cũng đã ch/ết lặng từ lâu rồi!"
Lời ta nói như mũi tên đâm vào tim Thái tử.
Ngài ấy thở dài một tiếng, ném mạnh chiếc roi xuống đất, rồi phất tay áo bỏ đi. Ta ôm chặt Tiểu Ngộ trong lòng, đợi đến khi Thái tử đi xa, Tiểu Ngộ mới bật khóc thành tiếng, nước mắt từng hạt lớn rơi xuống, như từng nhát dao đâm thẳng vào lòng ta.
Ta đưa Tiểu Ngộ về phòng, thay thuốc cho đệ ấy. Trên lưng, da thịt đã rách nát, m/áu me bê bết. Vừa bôi thuốc, ta vừa không ngừng khóc, nước mắt chảy mãi không ngừng, tựa như chính mình còn đau hơn cả đệ ấy.
Nghe ta khóc thảm như vậy, Tiểu Ngộ lại dường như chẳng thấy đau nữa: "Tiểu Phong, đừng khóc nữa. Ta quen rồi. Chỉ mấy ngày thôi, ta sẽ khỏe lại nhanh thôi mà."
Ta không đáp, chỉ vì nghẹn ngào mà không thể nói thành lời, tiếp tục bôi thuốc cho đệ ấy.
"Khi ta sinh ra, đã có người nói ta là cô sát tinh chuyển thế, khắc phụ mẫu, khắc huynh đệ. Bởi thế bao nhiêu năm nay, trong đám con cái của phụ vương và mẫu thân, chỉ có mình ta sống sót."
"Đó không phải lỗi của đệ. Muội muội là vì phát ban nên mới qua đời."
"Ta cũng từng phát ban khi còn nhỏ, nhưng ta không sao. Vậy mà muội muội lại không qua khỏi."
"Đó không phải lỗi của đệ." Ta không biết phải nói gì thêm, cũng chẳng biết phải an ủi thế nào.
"Ta biết phụ vương không thích ta, nên dù ta làm gì, người cũng không hài lòng."
"Nhưng ta chỉ muốn học y thuật cho thật giỏi, chẳng qua là không muốn để mẫu thân mất đi thêm một đứa con nữa, lẽ nào điều ấy cũng sai sao?" Lý Ngộ ủy khuất bật khóc, khóc đến nỗi nghẹn lại không thở nổi.
Ta không biết phải làm gì, chỉ có thể ôm đệ ấy vào lòng. Dần dần, đệ ấy khóc đến mệt rồi gối đầu lên chân ta mà thiếp đi.
Thời tiết mỗi ngày một ấm áp hơn, nhưng tẩm cung của Thái tử phi vẫn lạnh lẽo như cũ. Nàng không cho người đốt hương, cũng không cho đặt lò sưởi, cố làm như thể mùa đông vẫn chưa kết thúc.
Bệnh tình của Thái tử phi đã khỏi hẳn từ lâu, nhưng nàng vẫn không chịu rời giường. Ta biết là bệnh trong tâm nàng chưa khỏi. Nàng không gặp Thái tử, cũng không gặp Lý Ngộ.
Mỗi ngày, chỉ nằm hoặc ngồi trên giường, ánh mắt trống rỗng, thất thần. Chỉ trong vài tháng ngắn ngủi, Thái tử phi đã gầy guộc đi, bóng dáng phai nhạt đi hẳn so với ngày xưa.
Tiểu Ngộ đứng chờ bên ngoài, muốn vào thỉnh an. Ta nhìn Thái tử phi trên giường, nhẹ nhàng vỗ lên mu bàn tay nàng. Nàng giật mình quay lại, dùng ánh mắt đầy nghi hoặc nhìn ta.
Ta khẽ nói: "Nương nương, Tiểu Ngộ đến thỉnh an người."
Thái tử phi lắc đầu, vẻ mặt uể oải, rồi quay lưng lại với ta, nhắm mắt nằm xuống. Ta thở dài một tiếng, lặng lẽ lui ra ngoài, nhìn Tiểu Ngộ đứng trong sân với ánh mắt đầy mong đợi.
Ta khẽ lắc đầu. Ánh sáng hy vọng trong mắt đệ ấy lập tức tắt lịm, rồi quay đầu chạy đi.
Ta biết, đệ ấy đang khóc.
"Tiểu Ngộ!" Ta gọi với theo rồi đuổi theo đệ ấy.
Đã mấy tháng nay đệ ấy chưa được gặp mẫu thân của mình. Ngày nào Tiểu Ngộ cũng đến, nhưng Thái tử phi, người đang chìm trong nỗi đau không thể nguôi ngoai, vẫn không chịu gặp người con của mình.
Nỗi đau khôn nguôi của phụ mẫu hàng ngày đè nặng lên vai đứa trẻ mười mấy tuổi này, điều ấy thật quá tàn nhẫn. Tiểu Ngộ chạy một mạch đến bên hồ, tháo sợi dây buộc con thuyền nhỏ duy nhất mà đệ ấy đã giấu đi, rồi ra sức chèo thuyền hướng về giữa hồ.
"Tiểu Ngộ!" Ta đứng trên bờ gọi với theo, nhưng đệ ấy không quay đầu lại. Ta biết Tiểu Ngộ rất đau lòng, vì ta cũng đau lòng như đệ ấy.
Đông Cung đã chìm trong nỗi u sầu quá lâu rồi, đã lâu lắm rồi chúng ta không còn cùng nhau ngồi ăn trên một bàn tiệc. Gương mặt mọi người đều hiếm khi nở nụ cười, như thể mùa đông chưa từng rời xa.
Ta không thể để Đông Cung tiếp tục như vậy nữa.
Ta lao mình xuống hồ. Tiểu Ngộ giật mình kinh hãi, vội bỏ lại mái chèo, bám vào mép thuyền lo lắng nhìn xuống nước tìm kiếm.
"Tiểu Phong! Tiểu Phong!"
Ta nín thở, bơi ra phía sau thuyền, rồi khi Tiểu Ngộ còn đang tập trung nhìn về phía trước, ta bất ngờ trồi lên từ phía đối diện, bám vào mép thuyền. Đệ ấy giật mình kêu lên một tiếng rồi ngồi phịch xuống đáy thuyền.
Nhìn ta cười với mình, đệ ấy mới thở phào nhẹ nhõm rồi cười theo, nhưng vẫn còn chút hoảng sợ. Qua trận đùa giỡn ấy, cuối cùng ta cũng bị bệnh. Cơn sốt kéo đến, ta nằm trên giường không thể đi đâu được. Ta đành phải chìm vào một giấc ngủ sâu.
Khi tỉnh dậy, ta nhìn ra ngoài cửa sổ, thấy hoa đào bất ngờ nở rộ, sau một mùa đông lạnh lẽo, giờ đây trong gió xuân, hoa đào bung nở rực rỡ, như thể được tái sinh.
5.
Sáng sớm tinh mơ, ta đã lao thẳng vào ngự hoa viên. Tìm lấy một cây kéo, ta trèo lên cành cây để cắt những bông hoa đào nở rực rỡ nhất.
Việc trèo cây đối với ta chẳng đáng là gì, khi còn ở Ngọc Môn quan, ta còn thường xuyên ở trên cây.
Ta biết hoa đào khi nở trên cành là đẹp nhất, nhưng cây không thể tự đi đến trước mắt người muốn nhìn ngắm nó. Vậy nên, ta cắt một bó hoa đào thật to, mang đến dâng lên Thái tử phi.
Ta dùng những bông hoa khác trộm từ ngự hoa viên, trang trí căn phòng của nàng tràn đầy hơi thở của mùa xuân. Ta ra lệnh mở toang tất cả các cửa sổ và cửa chính, để nàng có thể ngắm trời xanh trong vắt bên ngoài, mây trắng bồng bềnh, nghe tiếng chim hót líu lo và cảm nhận làn gió xuân nhè nhẹ thổi vào.
Hồi còn ở Ngọc Môn quan, tam ca từng nói với ta rằng mùa xuân ở Trường An rất khác biệt, Ngọc Môn quan dù có mùa xuân nhưng luôn pha lẫn sự hiu quạnh với hy vọng.
Còn Trường An, mùa xuân nơi đây có thể chữa lành mọi vết thương. Ta muốn mang mùa xuân của Trường An làm lễ vật dâng lên nương nương.
Dù nỗi đau chẳng thể dễ dàng được xoa dịu, nhưng mỗi ngày nhìn thấy căn phòng đầy ắp hoa tươi, lòng người chắc chắn sẽ vui hơn phải không? Dẫu cho với nương nương điều đó có thể chẳng có tác dụng gì, nhưng không sao, vẫn cần phải làm điều gì đó, đúng không?
Suốt hơn một tháng liền, những đóa hoa tươi rực rỡ cuối cùng cũng đã xua tan đi nỗi buồn trong lòng Thái tử phi, trên gương mặt nàng lại hiện lên nụ cười. Nương nương không nỡ phụ lòng ta, nay nàng ít ra cũng đã chịu cùng ta đi dạo trong hoa viên.
Ta giúp nàng thay y phục rực rỡ, còn Hiệp Tĩnh cô cô đích thân trang điểm cho nàng.
Chúng ta chậm rãi bước vào ngự hoa viên, nắng vàng rực rỡ, mây trắng lơ lửng, gió nhẹ thổi qua, trăm hoa đua nở, cảnh sắc mỹ lệ đến không ngờ. Ta hái một cành hoa đào, cài lên mái tóc nàng, người đẹp tựa hoa đào, càng thêm rực rỡ.
Thái tử phi nắm lấy tay ta, khẽ thở dài như thể vừa trút đi gánh nặng ngàn cân, rồi nhẹ nhàng mỉm cười: "Tiểu Phong, cảm ơn muội, vì tất cả những gì muội đã làm cho ta."
Ta nhẹ nhàng tựa đầu lên vai nàng, thì thầm: "Nương nương, người xem, xuân đã đến rồi, mọi chuyện sẽ tốt đẹp lên thôi."
Đông Cung dường như bừng tỉnh khỏi cơn ác mộng, mọi người cũng dần lấy lại thần sắc. Đông Cung hồi sinh, tất cả đều nhờ Thái tử phi.
Thái tử cuối cùng cũng đã thoát khỏi nỗi u sầu, trở về Đông Cung, chúng ta lại có thể ngồi cùng bàn ăn uống như xưa, nói cười vui vẻ. Mọi chuyện dường như đã thay đổi, nhưng cũng lại dường như chẳng có gì thay đổi.
Tiểu Ngộ muốn tiếp tục đến thao trường để luyện cưỡi ngựa bắn cung, đệ ấy nài nỉ ta đến xem.
Ta nhìn về phía Thái tử phi, nàng lại nhìn sang Thái tử, hai người nhìn nhau cười và gật đầu. Được sự cho phép của họ, ta vui mừng kéo tay Tiểu Ngộ chạy ngay đến thao trường.
Tiểu Ngộ thay vào bộ trang phục cưỡi ngựa, dường như đã trở thành một thiếu niên đầy phong độ.
Trước tiên, đệ ấy tập bắn cung dưới đất, cách mười bước, mười mũi tên thì chín mũi trúng hồng tâm, cách hai mươi bước thì chỉ có năm mũi trúng đích, còn một mũi thì trượt.
Xa hơn ba mươi bước thì khó mà đạt được hồng tâm.
Dù vậy, với một đứa trẻ như đệ ấy, thành tích này đã rất xuất sắc.
Ta mỉm cười, tiến tới xoa đầu đệ ấy, khen ngợi: "Giỏi lắm."
Nhưng dường như Tiểu Ngộ không hài lòng với kết quả này, liền đổi sang cây cung khác, phi thân lên ngựa để luyện bắn cung khi cưỡi ngựa.
Ta cảm nhận được sự tức giận trong đệ ấy, thời điểm này không thích hợp để luyện tập, nhưng ta chưa kịp ngăn lại, đệ ấy đã thúc ngựa phi thẳng ra thao trường.
"Vút vút vút!" Ba mũi tên liên tiếp bắn ra nhưng đều trượt mục tiêu.
Không phục, Tiểu Ngộ lại thúc ngựa muốn bắn tiếp.
Nhưng con ngựa dường như cảm nhận được sự giận dữ của chủ nhân, liền hí vang và nhấc cao hai vó trước.
Ta lập tức nhận ra điều chẳng lành – ngựa đã hoảng loạn!
Ngựa tốt thường tính tình ngang ngạnh, khi nó nổi giận, hai vó trước nhấc lên cao, muốn hất người cưỡi xuống.
Tiểu Ngộ hốt hoảng kêu lên, cây cung tuột khỏi tay, đệ ấy vội kéo dây cương để không bị ngã.
Mọi người xung quanh đều hoảng sợ, làm rối tình hình khiến con ngựa càng hoảng loạn hơn.
Con ngựa mất kiểm soát, lao thẳng ra khỏi thao trường.
Ta vội xắn tay áo, nắm lấy dây cương của một con ngựa gần đó, phi thân lên ngựa và đuổi theo.
"Giá! Giá!" Ta lớn tiếng quát, thúc ngựa đuổi theo con ngựa hoảng loạn phía trước.
Ta cưỡi ngựa phóng như bay, gió mạnh thổi tung tóc và áo ta, nhưng trong lòng ta dâng lên một niềm vui sướng kỳ lạ, như thể ta đã phá tan mọi ràng buộc, như thể ta quay lại thời thơ ấu ở Ngọc Môn quan. Ta cưỡi ngựa lao đi trong gió, giống như mũi tên rời cung, như chú chim tự do bay lượn, hít thở trong không khí một cách sảng khoái.
Dường như Trường An và hoàng thành đã bị ta bỏ lại phía sau, chẳng còn gì có thể trói buộc ta nữa. Ta gần như muốn hét lên vì sung sướng!
Ta nhanh chóng bắt kịp con ngựa hoảng loạn kia. Ta kiểm soát ngựa của mình, từ từ áp sát, và khi thời cơ đến, ta liền kéo Tiểu Ngộ vào lòng.
Tiểu Ngộ ngạc nhiên trợn tròn mắt nhìn ta: "Tỷ... tỷ... tỷ biết cưỡi ngựa sao?"
Ta mỉm cười đầy kiêu hãnh, không hề khiêm tốn đáp: "Ta cưỡi rất giỏi nữa là đằng khác!"
Nhìn ánh mắt ngạc nhiên của Tiểu Ngộ, trong lòng ta dâng lên một niềm kiêu hãnh mãnh liệt.
Ngắm nhìn đàn chim đang bay trên trời, ta rút cây cung khác từ trên yên ngựa, đưa dây cương cho Tiểu Ngộ.
"Kéo chặt dây cương!" Ta hét lớn, sợ tiếng gió sẽ làm át đi lời dặn của mình.
"Trên trời có mười ba con chim, đệ muốn bắn con nào? Đầu hay cánh?"
Ta kéo cung, nhìn Tiểu Ngộ há hốc miệng vì kinh ngạc, lòng càng thêm đắc ý.
Ta liếc nhìn Tiểu Ngộ đang ngỡ ngàng không nói nên lời, khóe miệng ta nhếch lên đầy tự mãn: "Ta sẽ bắn rơi... chiếc lông thứ ba trên cánh trái của con chim thứ ba từ bên trái."
Giọng nói của ta đầy vẻ tự tin.
"Tiểu Ngộ! Nhìn cho rõ nhé!"
Nói xong, ta kéo căng dây cung, rồi buông tay.
"Vút!" Tiếng mũi tên rời cung vang lên, tiếp đó là tiếng chim kêu, một chiếc lông chim màu xanh đen từ trời cao rơi xuống.
Đó là lần đầu tiên ta thấy Tiểu Ngộ kinh ngạc đến không thốt nên lời.
Từ hôm đó, Tiểu Ngộ không bao giờ ngủ trước canh ba. Tiếng tên bắn "vút vút" vang lên cả đêm từ sân viện nơi đệ ấy ở.
Cũng không thể trách đệ ấy được, ngay cả đại ca ta cũng từng nói rằng ta là một xạ thủ thiên bẩm.
Khi ta còn bằng tuổi Tiểu Ngộ, không ai trong quân doanh là đối thủ của ta về tài bắn cung. Dù trở về Trường An, ta đã buông cung, nhưng trong lòng ta, dây cung vẫn luôn căng.
Đại ca từng nói, muội có thể sống cùng bầy cừu, nhưng đừng bao giờ quên rằng mình là một con chim ưng. Cuộc sống xa hoa ở Trường An có thể làm chai sạn tay ta, nhưng không thể làm chai sạn trái tim ta. Bởi vì đại ca từng nói rằng, ta mãi mãi là cơn gió xuân mạnh mẽ nhất của Ngọc Môn quan.
Nhờ vào sự giám sát gián tiếp của ta, cùng với lòng tự tôn thúc đẩy, Tiểu Ngộ tiến bộ nhanh chóng về tài cưỡi ngựa bắn cung. Ngay cả Thái tử cũng hiếm hoi mà dành lời khen ngợi cho đệ ấy.
Trên bàn ăn, Thái tử tò mò hỏi Tiểu Ngộ điều gì đã khiến đệ ấy chăm chỉ như vậy. Tiểu Ngộ hiếm khi cười mà chỉ im lặng.
Ta nhìn Tiểu Ngộ bối rối, cười khẽ. Tiểu Ngộ đã hứa giữ bí mật cho ta, như ta đã từng hứa giữ bí mật cho đệ ấy.
"Tiểu Ngộ nói rằng đệ ấy muốn săn được con mồi lớn nhất trong cuộc đi săn mùa thu, để dâng tặng cho nương nương và ngài." Ta cười, nói giúp đệ ấy.
Tiểu Ngộ mở to mắt nhìn ta, vì biết rõ khả năng của mình nên đệ ấy không cảm kích điều đó lắm. Ta chỉ cười hạnh phúc, nháy mắt với đệ ấy: Đừng lo, ta sẽ giúp đệ.
6.
Vì được trở lại lưng ngựa, niềm khao khát trong lòng ta như được giải thoát, ta không thể chờ đợi mà bắt đầu mong ngóng lần kế tiếp có thể tung hoành trên lưng ngựa.
Mùa thu săn bắn là cơ hội tốt nhất. Lần này ta sẽ tùy ý phóng túng, ta lặng lẽ tự nhủ.
Do lần ta "giải vây" trước đó, Tiểu Ngộ không thể không thêm phần chăm chỉ. Dây cung cọ vào tay khiến đôi bàn tay đệ ấy rướm máu, nhưng đệ ấy chỉ có thể cắn răng chịu đựng.
Ta dùng lụa mềm quấn quanh tay Tiểu Ngộ rồi tiếp tục chỉ dẫn cách giương cung. Dĩ nhiên, việc này đều diễn ra ban đêm, tránh đi ánh mắt của kẻ khác.
Muốn đạt đến cảnh giới bách phát bách trúng không thể nào chỉ trong một sớm một chiều, chí ít mỗi ngày phải giương cung cả ngàn lần. Dù cho thiên phú có cao đến đâu, cũng cần phải có kỹ năng gấp bội, mới có thể ngẩng đầu tự đắc mà cất giấu đi sự sắc bén của bản thân.
Những buổi tập lặp đi lặp lại và đầy khô khan ấy chẳng mấy chốc khiến Tiểu Ngộ mệt mỏi đến nỗi cánh tay không còn nhấc lên nổi. Đệ ấy thất vọng buông cung xuống.
Ta đưa cho Tiểu Ngộ chén trà, tay đệ ấy đã tê đến nỗi run rẩy không cầm nổi chén.
Ta đành phải tự tay đút cho đệ ấy uống.
"Tiểu Phong, làm sao mà tỷ có thể bắn cung giỏi đến thế?" Tiểu Ngộ ngồi bệt xuống đất, mắt mở to trông chờ câu trả lời từ ta.
Ta ngồi xổm xuống bên cạnh, đưa cho đệ ấy một chiếc khăn lụa để lau mồ hôi.
Nghĩ một hồi, ta nhận ra thực sự không có con đường tắt nào: "Có lẽ là... do thiên phú!"
Nghe câu trả lời của ta, Tiểu Ngộ kêu lên một tiếng, rồi nằm hẳn xuống đất.
Thiên phú thì làm sao mà đấu lại?
Ta đành cúi xuống xoa đầu đệ ấy, trấn an: "Chăm chỉ có thể bù đắp khiếm khuyết."
Nhưng Tiểu Ngộ chẳng có vẻ gì là được an ủi, trái lại, đệ ấy trở mình, tiếp tục than thở.
Trong sân của Tiểu Ngộ có một cây ngô đồng rất lớn.
Để rèn luyện đệ ấy, ta treo đầy trên cây những món mứt yêu thích và bất kỳ thứ gì của đệ ấy trong hang động bí mật kia.
Tiểu Ngộ trông thấy cây ngô đồng được ta bày biện, không hiểu hỏi: "Tiểu Phong, tỷ làm gì thế này?" Giọng đệ ấy có vẻ như đã lờ mờ đoán được điều chẳng lành, ẩn chứa cả sự cầu xin.
"Từ nay trở đi không luyện bắn bia nữa. Đệ sẽ bắn những miếng mứt treo trên cây này."
Tiểu Ngộ có chút suy sụp, giọng như muốn khóc: "Mứt nhỏ thế thì sao mà bắn trúng được?"
"Tâm đỏ trên bia bắn chưa chắc đã lớn hơn mứt." Ta điềm nhiên đáp.
Tiểu Ngộ bắt đầu muốn thoái thác: "Đó là hai chuyện khác nhau mà!"
Quả thật không giống nhau, bia bắn là vật ch/ết, mỗi ngày luyện ngàn lần thì ngay cả nhắm mắt ta cũng có thể bắn trúng.
Nhưng mứt nhỏ, lại treo trên cây, chỉ cần gió thổi là nó trở thành một mục tiêu sống.
Cảm giác bắn trúng mứt khác xa bắn vào tâm bia.
Dù vậy ta không nói ra, vì sợ nói ra Tiểu Ngộ sẽ chẳng muốn luyện cung nữa.
"Thế thì đệ bắn dây thừng đi." Ta đổi sang phương án có vẻ dễ hơn.
"Dây thừng chẳng phải còn khó bắn hơn sao?" Tiểu Ngộ cảm thấy sắp bị ta ép đến phát đi/ên.
"Cây này treo đầy những thứ đệ thích nhất, đệ nhớ tránh bắn trúng chúng đấy." Ta nói nhẹ nhàng, tránh còn dễ hơn trúng nhiều.
Đây là điều đơn giản nhất.
Tiểu Ngộ than không ngớt, cuối cùng nằm lăn ra đất bắt đầu lăn lộn, kêu than: "Đương nhiên là ta muốn tránh rồi... nhưng những thứ tỷ treo lên kia to hơn mứt nhiều, làm sao mà tránh được..."
Lý Ngộ thực sự sắp khóc. Ta bước đến ngồi xổm xuống bên cạnh, thở dài nói khẽ: "Trước kia ta đều buộc mứt vào chân bồ câu mà bắn."
Vì thế khi ta hỏi đệ ấy rằng bắn vào đầu hay vào cánh, ta mới tự tin như vậy.
Ngồi lâu mệt, ta liền ngồi bệt xuống đất. "Tiểu Ngộ, tài bắn cung và cưỡi ngựa của ta chẳng phải hoàn toàn nhờ thiên phú. Ta cũng phải nỗ lực mười hai phần mới có được như ngày hôm nay. Bỏ qua thiên phú, chỉ riêng công sức ta bỏ ra đã đủ giúp ta trở thành một xạ thủ thần tình."
Nghe đến đây, Tiểu Ngộ không còn lăn lộn nữa, lập tức ngồi dậy, thu lại vẻ nghịch ngợm, mắt sáng rực lên nhìn ta.
"Nhưng từ khi trở về Trường An, ta chưa từng giương cung hay cưỡi ngựa nữa. Thế nhưng khi ta giương cung lại, ta có cảm giác như được trở về những ngày ở Ngọc Môn quan, như thể ta chưa từng rời khỏi cung bao giờ. Không phải do thiên phú, mà vì ta có một niềm tin vững chắc. Với hàng ngàn lần luyện tập, ta tin rằng ta đã hòa làm một với mũi tên trong tay, ta tin vào mũi tên của mình như tin vào chính bản thân. Ta bắn trúng, là vì ta tin rằng ta sẽ bắn trúng."
Đây là lần đầu tiên ta nói nhiều đến vậy, vì thế sau khi nói xong ta lặng lẽ quan sát phản ứng của Tiểu Ngộ.
Đệ ấy nhìn ta đăm đăm, trong mắt ánh lên sự tôn kính và ngưỡng mộ.
"Tiểu Phong," Tiểu Ngộ chăm chú nhìn ta, nghiêm túc nói: "Ta hiểu rồi." Sau đó đệ ấy cầm cung lên, tiếp tục luyện tập.
Lần này, gương mặt Tiểu Ngộ toát lên vẻ kiên nghị, động tác nhanh nhẹn dứt khoát, mỗi lần giương cung đều mang theo sự chắc chắn như thể không gì có thể cản phá.
Dường như chỉ trong khoảnh khắc, đệ ấy đã trưởng thành.
Nương nương không biết từ khi nào đã đứng sau ta, lặng lẽ nhìn.
Khi ta quay đầu lại, phát hiện nàng chỉ mỉm cười nhẹ nhàng với ta, ánh mắt tràn đầy yêu thương. Ta vui vẻ tiến lại gần nàng, nàng đưa cho ta một chén canh rồi dịu dàng xoa đầu ta, chẳng nói gì, chỉ mỉm cười rời đi.
Ngày săn bắn mùa thu đã nhanh chóng đến. Thái tử phi đề nghị tất cả chúng ta cùng đi, Thái tử cũng vui vẻ đồng ý.
Vui mừng nhất dĩ nhiên là ta và Tiểu Ngộ. Thái tử phi nhìn ta, trong ánh mắt có vẻ như ngầm đồng ý, khiến ta vô cùng hạnh phúc, lập tức nhào vào lòng nàng, từ tận đáy lòng tràn đầy cảm kích.
Hoàng thượng xuất hành săn thu, bá quan văn võ đều đi theo. Sau khi dựng trại và an bài mọi thứ xong xuôi, cuộc săn thu chính thức bắt đầu.
Hoàng thượng thân thể không khỏe, lần này chỉ đến để xem lễ, còn các đại thần thì háo hức tranh tài.
Chỉ có Tiểu Ngộ là bị buộc phải tham gia. Do sự siêng năng quá mức của Tiểu Ngộ đã đến tai Hoàng thượng, nên dù tuổi đệ ấy chưa đủ, cũng được phá lệ tham gia cuộc thi lần này.
Tiểu Ngộ ngồi vững trên lưng ngựa, lo lắng liếc nhìn ta. Ta mỉm cười gật đầu với đệ ấy, đệ ấy mới thúc ngựa theo đoàn người đi vào rừng.
Các nữ quyến đều ngồi cùng Hoàng thượng trên đài cao để quan sát, ta ngồi lặng yên bên cạnh Thái tử phi, cố kìm nén sự phấn khích trong lòng, nhẫn nại được một khắc. Sau đó, ta len lén đặt tay lên tay nàng, thì thầm: "Nương nương, thần thiếp muốn trở về trướng."
Thái tử phi nhẹ nhàng cười, vỗ tay ta, dặn dò: "Nhớ cẩn thận."
Ta vui vẻ gật đầu, nhanh chóng quay trở lại trướng của mình, thay vào bộ y phục cưỡi ngựa, chờ khi thị vệ sơ ý, lén dắt con ngựa đã chuẩn bị sẵn, phóng thẳng vào rừng. Ta đã hứa với Tiểu Ngộ rằng sẽ giúp đệ ấy săn được con mồi lớn nhất để dâng lên Thái tử và nương nương.
Tiểu Ngộ đang lo lắng chờ ta không xa, mặc dù đệ ấy đã săn được vài con thỏ rừng, nhưng thỏ dĩ nhiên không phải là con mồi lớn.
Khi thấy ta cưỡi ngựa đến, mắt Tiểu Ngộ sáng rực lên.
"Tỷ đến rồi!"
"Giá!" Ta không dừng lại mà tiếp tục thúc ngựa, lớn tiếng nói, "Đi thôi! Chúng ta đi săn hươu!"
Ta nói là làm, không lâu sau, ta và Tiểu Ngộ đã dễ dàng vây bắt được một con hoẵng đỏ.
Sau khi săn được hoẵng, ta chia tay Tiểu Ngộ, đệ ấy tiếp tục đi săn, còn ta quay về trướng.
Sang ngày thứ ba của cuộc săn, mọi người phát hiện ra dấu vết của gấu đen trong rừng.
Ai nấy đều phấn khích, gấp rút đặt bẫy quanh khu rừng.
Việc săn gấu đen không thể chỉ dựa vào cung tên, nên khi Tiểu Ngộ dẫn người đi đặt bẫy, ta cũng chuẩn bị nỏ và giáo dài.
Tất nhiên, để thuận lợi săn gấu, ta và Tiểu Ngộ đã dàn xếp một kế hoạch.
Chúng ta sai người tung tin giả rằng gấu xuất hiện ở phía bắc, khi tất cả mọi người ầm ầm kéo về phía đó, ta và Tiểu Ngộ âm thầm dẫn vài người tin cậy đi về hướng tây.
"Tiểu Phong!" Tiểu Ngộ gọi lớn từ trên lưng ngựa, "Tỷ từng gặp nguy hiểm khi săn gấu chưa?" Ở trên lưng ngựa, chúng ta buộc phải hét to để có thể nghe thấy nhau.
"Chưa bao giờ!" Ta đáp lớn trong tiếng gió, đảm bảo lời nói của mình không bị gió và tiếng vó ngựa át đi.
"Ta chưa từng săn gấu!" Ta thành thật thừa nhận.
Dĩ nhiên là chưa, ở Ngọc Môn quan làm gì có gấu. Nghĩ đến điều này, ta lại càng thêm phấn khích.
Nhưng khi ta vừa trả lời xong và quay sang nhìn Tiểu Ngộ, ta thấy mặt đệ ấy tái nhợt, kinh ngạc nhìn ta. Bị ánh mắt ấy làm cho bối rối, ta suy nghĩ một lát rồi mới hiểu ra.
Thì ra đệ ấy nhìn ta tự tin như vậy, là vì tưởng rằng ta có kinh nghiệm dày dặn. Không ngờ rằng ta chỉ là can đảm nhờ tay nghề cao, giống như nghé con mới sinh không biết sợ hổ.
"Tiểu Ngộ, ngươi đừng lo."
Nhìn gương mặt hoảng hốt của đệ ấy, ta hơi áy náy, liền an ủi, "Ta sẽ bảo vệ đệ!"
Ta cố gắng làm đệ ấy yên tâm, nhưng có vẻ lời hứa này chẳng làm đệ ấy bớt lo chút nào. Tiểu Ngộ nuốt nước bọt đầy khó khăn, ngoài việc tin tưởng ta, đệ ấy chẳng còn lựa chọn nào khác.
Ta thì càng cười lớn hơn, tận hưởng niềm vui sướng khi được phi ngựa không ngừng nghỉ.
7.
Chúng ta lùng sục khắp nơi hồi lâu, cuối cùng cũng tìm thấy một con gấu đen ở rìa rừng. Tiểu Ngộ cùng đám tùy tùng vội vàng giương cung.
Ta còn chưa kịp thốt ra chữ "dừng lại", thì mấy mũi tên "vút vút" đã rời dây cung, lao vào khoảng không.
Cung của Tiểu Ngộ và đám tùy tùng không đủ cứng, những mũi tên bắn ra chỉ có thể xuyên qua lớp lông da, nhưng không đủ sâu để gây tổn thương nghiêm trọng. Gấu đen bị chọc giận, gầm lên rồi lao thẳng về phía mọi người.
Đám tùy tùng lập tức thúc ngựa chạy tản ra. Gấu đen rống một tiếng, mấy con ngựa chưa từng ra trận hoảng sợ hí vang, giương vó lồng lên, khiến những kẻ cưỡi ngựa vụng về vội vã ngã nhào xuống đất.
Ta giương cung bắn liền ba mũi tên nhắm thẳng vào yết hầu của gấu đen. Nhưng gấu quá nhanh, tránh được điểm yếu, phóng lên không trung lao về phía ta với tiếng gầm rợn người.
Ta mau chóng xoay ngựa, khéo léo né tránh trong đường tơ kẽ tóc.
"Nhử nó đến hố bẫy!"
Ta hét lớn, đồng thời thúc ngựa chạy về phía hố bẫy. Những người còn lại vây hãm con gấu, buộc nó phải chạy theo hướng đã định.
Gấu đen phẫn nộ vung móng lớn đập xuống đất, lá khô cỏ dại tung bay khắp nơi, chim chóc hoảng loạn bay tứ tán. Ta quay đầu lại chỉ thấy nó há miệng toang hoác, giơ móng vuốt sắc nhọn, gầm gừ lao tới.
Không kịp giương cung, ta chỉ kịp giương nỏ, bắn thẳng vào mắt nó. Mũi tên cắm vào mắt khiến gấu đen càng điên cuồng hơn, gầm rú dữ dội, vung móng lớn nhằm thẳng ta mà vồ.
Không còn cách nào khác, ta đành phải bảo vệ đầu mình, để bị trúng đòn vào lưng. Cú vồ mạnh của gấu đen khiến vai ta đau nhức tưởng chừng gãy vụn, cả người ta bị đánh bật khỏi lưng ngựa, ngã lăn xuống đất.
Trong lúc lăn xuống, ta kịp thời rút trường thương từ lưng ngựa. Ta tay phải giương trường thương, tay trái cầm nỏ, đối diện với con gấu hung hãn, nó nhe nanh, lừ lừ tiến lại gần, trong khi hố bẫy chỉ cách ta không xa phía sau.
"Vút vút vút!" Tiểu Ngộ đã dốc hết sức lực, bắn ba mũi tên trúng vào lưng gấu đen, buộc nó chuyển mục tiêu, lao về phía Tiểu Ngộ.
Tiểu Ngộ thúc ngựa chạy về phía hố bẫy, dụ gấu đen vào bẫy. Nhưng gấu đen giận dữ, tốc độ chạy không thua kém ngựa.
Ngựa của Tiểu Ngộ bị gấu đập ngã, Tiểu Ngộ bị văng ra xa mấy trượng, cung tên trong tay rơi xuống gần đó. Đệ ấy nhăn mặt vì đau, từ từ đứng dậy.
Ta nhìn thấy con gấu đen đã chuẩn bị đứng thẳng lên, hố bẫy ngay phía sau nó! Chính là lúc này!
"Tiểu Ngộ! Đón lấy!"
Ta ném trường thương cho Tiểu Ngộ, vì chỉ khi gấu đen đứng thẳng, ta mới có thể thấy được điểm yếu nơi ngực của nó! Tiểu Ngộ không chút chần chừ, nhận lấy trường thương rồi dốc hết sức nhảy lên, hét lớn "Ya––a––!" đâm thẳng vào tim gấu đen.
Mũi thương cắm sâu vào thân thể gấu đen, nó gầm lên rồi ngã ngửa vào hố bẫy phía sau.
"Rầm!" Một tiếng vang lớn, gấu đen rơi xuống hố.
Mọi người không tin nổi, nhưng ai nấy đều vui mừng đến mức gào lên, hoan hỉ tột độ! Tiểu Ngộ đứng trước miệng hố, cả người như vừa thoát khỏi gánh nặng lớn, đệ ấy thở hổn hển, khóe miệng vẫn còn vương chút máu khô, quay lại cười ngốc nghếch với ta.
Ta biết từ giây phút này, đệ ấy sẽ không bao giờ nghi ngờ bản thân chỉ vì những lời chê bai của người khác nữa. Tiểu Ngộ của ta giờ đây thật sự đã trở thành một thiếu niên anh dũng.
Còn ta, lòng mãn nguyện, phủi áo rời đi. Chẳng mấy chốc mọi người sẽ vây quanh lại.
Tất cả sẽ đều biết chuyện Hoàng tôn Lý Ngộ, mới mười ba tuổi, đã dũng cảm săn được gấu đen vào mùa thu. Sử quan nhất định sẽ ghi lại sự kiện này vào sử sách.
Trước khi điều đó xảy ra, ta trở về lều trại, băng bó vết thương một cách qua loa, thay bộ y phục sạch sẽ rồi đến gặp Thái tử phi.
Con gấu đen chắc chắn là con mồi lớn nhất trong cuộc săn này, bệ hạ vô cùng vui vẻ, khen ngợi Tiểu Ngộ: "Quả thật là tôn tử của trẫm!"
Buổi tối, mọi người nổi lửa, mở tiệc chiêu đãi quần thần, tổ chức yến mừng công cho Tiểu Ngộ. Khi Thái tử phi nghe chuyện, nàng tròn mắt ngạc nhiên nhìn ta, không thể tin được.
Ta cười, chui vào lòng nàng, trong lòng ngọt ngào: "Nương nương, Tiểu Ngộ của chúng ta thật là giỏi, đúng không?"
Tối đó, bệ hạ hỏi Tiểu Ngộ định xử lý con gấu đen to lớn mà đệ ấy săn được như thế nào. Con gấu vẫn chưa ch/ết hẳn, nhát thương của Tiểu Ngộ chưa đủ mạnh để đoạt mạng nó.
Lúc này, gấu đen đang bị nhốt trong một chiếc lồng sắt lớn, thương tích đầy mình, không ngừng rên rỉ. Ta chợt nhớ đến những lần đi săn trước đây, ta luôn đi cùng nhị ca.
Nhị ca không mấy thích thú với việc săn bắn, nên lần nào cũng trở về tay không. Bởi vì nhị ca thường nói vạn vật đều có linh hồn, phải giữ lòng từ bi.
Huynh ấy cũng là người duy nhất trong các huynh đệ không giữ chức vụ quan trọng trong quân đội.
Mặc dù kỹ năng của nhị ca là xuất sắc nhất, cưỡi ngựa và bắn cung là ta học từ huynh ấy, nhưng huynh ấy lại chọn con đường làm quân y một cách thầm lặng.
Ta từng hỏi tứ ca tại sao, tứ ca chỉ nói: "Y giả nhân tâm."
Ta hơi chạnh lòng nhưng không nói gì. Thái tử phi bỗng nắm chặt tay ta.
Thái tử nhìn thấy, thắc mắc liếc qua, nhưng ta và Thái tử phi chỉ mỉm cười, không nói gì.
Tiểu Ngộ đứng trên đài, chắp tay bái lễ: "Bẩm Hoàng gia gia, tôn nhi muốn dâng con gấu săn được cho phụ vương và mẫu phi... và cả Tạ lương đệ."
"Ồ?" Hoàng đế không nói gì nhiều, chỉ hỏi: "Vậy Thái tử và Thái tử phi định xử lý con gấu này ra sao?"
Thái tử nhìn Thái tử phi, xin ý kiến nàng.
Thái tử phi mỉm cười, đứng lên nhẹ nhàng thi lễ: "Bẩm phụ hoàng, đêm qua nhi tức nằm mộng thấy một giấc mơ lạ. Trong mơ, một con gấu đen nói tiếng người, cầu xin tha mạng. Không ngờ hôm nay nhi tức lại săn được một con gấu đen. Quân tử gặp sinh không nỡ thấy ch/ết, nghe tiếng không nỡ ăn thịt. Lại nghĩ đến giấc mộng này, nhi tức cho rằng con gấu này có lẽ mạng chưa tận, vậy xin phụ hoàng hãy phóng sinh, cũng xem như làm việc thiện."
Hoàng đế nghe xong, cười lớn ba lần: "Tốt! Tốt! Tốt! Gấu đen nhập mộng, đây là điềm lành! Vậy cứ theo lời Thái tử phi mà làm."
Hoàng đế vui vẻ, quần thần cũng thoải mái, ai nấy đều ca ngợi bệ hạ thánh minh, muôn năm.
Từ cuộc săn trở về Trường An, vừa đúng ngày sinh thần của ta. Ngay trong ngày ấy, ta nhận được thư nhà từ Ngọc Môn quan. Ta cầm bức thư, cười rạng rỡ, gần như có thể tưởng tượng ra cảnh các huynh chen chúc nhau nói chuyện rôm rả.
Thái tử phi thấy ta cười vui như vậy, liền tò mò hỏi: "Tiểu Phong nhi, chuyện gì mà vui thế?"
"Là thư của các ca ca gửi, đại ca nói muội đã làm cô mẫu rồi, đại tẩu sinh được một bé trai."
Ta hớn hở mở thư ra, vui vẻ khoe: "Dòng đầu tiên viết rằng 'Triển tín giai, chúc muội thêm niềm vui khi có cháu trai'. Rõ ràng chính huynh ấy mới là người làm cha, nhưng câu đầu tiên lại là chúc mừng ta, cứ sợ ta không gửi lễ mừng."
"Nhưng nếu ta nhớ không lầm, ngoài nhị ca và ngũ ca, các huynh khác của muội đều đã thành thân rồi. Sao muội biết chắc là đại ca có con?" Thái tử phi thắc mắc hỏi.
"Nương nương không biết đó thôi, tuy các huynh của ta nhiều, nhưng phải ba tháng họ mới gửi cho ta được một lá thư. Mỗi người đều có bao nhiêu điều muốn nói. Câu nào câu nấy, có thể viết suốt mấy canh giờ. Lần đầu tiên ta nhận thư của các ca ca, lá thư dày như một cuốn sách vậy. Vậy nên sau này họ mới xếp thứ tự, mỗi người chỉ viết một câu, chọn những điều quan trọng mà nói."
Ta ít nói, nhưng các ca ca của ta đều lắm lời.
Họ nói vì ta đang ở Đông cung nên không thể thường xuyên gửi thư, sợ gây thị phi, làm phiền ta.
"Tiểu Phong nhi, hôm nay là sinh thần của muội, muội có điều ước gì không?" Thái tử phi nhìn ta, dịu dàng hỏi.
"Ta mong mọi người đều khỏe mạnh, trường thọ!"
Thái tử phi lắc đầu: "Ý ta là điều ước của riêng muội."
"Về Ngọc Môn quan!" Ta không nghĩ ngợi mà đáp ngay.
Thái tử phi sững lại một chút, sau đó cười dịu dàng, xoa đầu ta rồi gật đầu nói: "Điều ước của Tiểu Phong nhi nhất định sẽ thành hiện thực."
Ta không hiểu ý Thái tử phi, chỉ âm thầm nghĩ, liệu có thực sự thành hiện thực không?
Lúc này Thái tử bước vào, thấy ta liền nói: "Đúng lúc lắm, Tiểu Phong, hôm nay là sinh thần của muội, đây là quà ta chuẩn bị cho muội." Nói rồi, người trao cho ta một chiếc hộp.
Ta mở hộp ra, bên trong là một bộ văn phòng tứ bảo (bút, mực, giấy, nghiên).
Nếu ta nhớ không lầm, năm ngoái sinh thần của Tiểu Ngộ, Thái tử cũng tặng đệ ấy bộ này.
Dù vậy, ta vẫn rất vui, cười hớn hở: "Thật tốt quá! Ta sẽ viết thư đáp lại các ca ca!"
8.
Ta trở về tiểu viện của mình, cẩn thận gấp bức thư nhà lại, đặt vào hộp và cất cùng những bức thư khác.
Vừa mài mực xong, giấy cũng đã được trải ra thì Tiểu Ngộ đã từ bên ngoài lẻn vào bằng cách trèo tường.
Giờ đệ ấy trèo tường rất thuần thục, không còn bị ngã như trước nữa.
Tiểu Ngộ tiến đến bên bàn, nhìn tờ thư ta vừa viết được một dòng, nghi hoặc hỏi: "Vì sao câu đầu tiên lại viết là, Nhật Nguyệt Sơn Xuyên Hà khởi?"
"Nhật Nguyệt Sơn Xuyên Hà là tên của các ca ca ta, viết như vậy cho tiện." Ta ngại ngùng gãi đầu.
Huynh muội chúng ta không câu nệ lễ nghĩa, nên thư từ cũng khá tùy tiện.
"Nhật Nguyệt Sơn Xuyên Hà Phong sao?"
"Nhật Nguyệt Sơn Xuyên, Hà Phong Vân Vũ. Thầy bói nói rằng phụ thân vốn định có tám đứa con." Ta cúi đầu, nhớ lại chuyện buồn.
"Đại ca, nhị ca, tam ca, tứ ca và ngũ ca lần lượt là Bá Nhật, Trọng Nguyệt, Thúc Sơn, Quý Xuyên, Hạ Hà."
"Nhật Nguyệt Sơn Xuyên, Hà Phong Vân Vũ. Tiểu Phong, nhà các ngươi đặt tên thật thú vị." Tiểu Ngộ không khỏi thán phục.
"Những cái tên này đều do mẫu thân ta đặt." Ta vừa cầm bút tiếp tục viết, vừa hỏi: "Muộn như vậy rồi, Tiểu Ngộ, có chuyện gì sao?"
"Ừm?" Ánh mắt Tiểu Ngộ chớp chớp, nét mặt có chút bối rối, "Không... không có gì cả! Tiểu Phong, tỷ nghỉ sớm đi. Ta đi trước!"
Nói xong đệ ấy liền vội vàng chạy đi, nhưng trên bàn ta đã xuất hiện thêm một món đồ.
Đó là một chiếc trâm kỳ lạ, đuôi trâm làm từ lông thỏ, phần tai được gắn hai viên bảo thạch đỏ tạo thành hình dáng của một con thỏ nhỏ.
Trông thật đáng yêu.
Hai tháng sau khi từ cuộc săn trở về, giấc mơ của Thái tử phi đã ứng nghiệm. Thái y nói rằng nương nương đã mang thai được hai tháng. Ta và Thái tử vui mừng đến nỗi suýt nhảy cẫng lên.
Bởi vì giấc mơ trước đó, Hoàng thượng cũng vô cùng hoan hỉ, ban thưởng rất nhiều lễ vật. Chỉ có Tiểu Ngộ là lo lắng không nói gì.
Ta hiểu đệ ấy lo lắng điều gì, thật ra mọi người đều có cùng nỗi lo, chỉ là không ai dám nói ra. Lần này Thái tử phi nghén rất nặng, hầu như không thể ăn uống hay rời khỏi giường.
Ta liền đi xin Thái tử một số kinh Phật về để chép, cầu phúc cho nương nương.
Thái tử nhìn ta, thở dài một hơi, ngập ngừng nói: "Tiểu Phong... ngươi... ngươi ở Đông Cung có vui không?"
Ta ôm kinh Phật, ngơ ngác đáp: "Vui chứ."
"Ta... ý ta là..." Thái tử lại thở dài, "Thôi, ngươi đi đi."
Ta mơ màng gật đầu, rồi đi chép kinh. Lần này Thái tử phi mang thai vô cùng khổ cực, gần như không thể xuống giường. Thái tử thường lén mắng đứa bé chưa ra đời là bất hiếu.
Đến Tết Đoan Ngọ năm sau, Thái tử phi thuận lợi sinh hạ một Hoàng tử, mẹ tròn con vuông.
Hoàng thượng đích thân ban tên là Vọng, tự là Tử Nha.
Vì giấc mơ thấy gấu của Thái tử phi, Hoàng thượng đặt kỳ vọng rất lớn vào đứa trẻ này, còn nói rằng khi đến tuổi nhập học, sẽ cho vào cung để tự mình dạy dỗ.
Đồng thời, ta nhận được một bức thư lạ từ Ngọc Môn quan.
Đại ca nói rằng lo lắng ta ở Đông Cung không sống tốt như những gì ta viết trong thư, nên muốn tự mình quay về Trường An xem thế nào.
Đại ca dặn ta ngày mười lăm tháng sáu phải tìm cách ra khỏi cung, đến Linh Giác Tự để gặp huynh ấy.
Đại ca tuy có phần thô lỗ, nhưng dù gì cũng là tướng thủ thành Ngọc Môn quan, không có chiếu chỉ không được tự tiện hồi kinh, huynh ấy tuyệt đối không thể rời bỏ chức trách.
Vậy nên ta quyết định trước hết phải hồi thư hỏi rõ mọi chuyện. Nhưng mãi ta vẫn không nhận được hồi âm của đại ca.
Để tìm hiểu sự tình, ta quyết định đến Linh Giác Tự một chuyến. Ta bèn đến gặp Thái tử phi, thỉnh cầu được ra ngoài thành đến Linh Giác Tự lễ Phật, cầu phúc cho tiểu Hoàng tử.
Thái tử phi không ngăn cản.
Thế là, vào ngày mười lăm tháng sáu, ta khởi hành một cách nhanh chóng, lặng lẽ rời khỏi Đông Cung.
Linh Giác Tự nằm ở vùng hẻo lánh, cách thành khoảng hai mươi dặm đường núi. Ai ngờ vừa tiến vào núi không bao lâu, chúng ta đã bị tấn công.
Bên địch đông đảo, chúng ta không thể chống cự. Ta không có cung bên cạnh, vai vẫn chưa hoàn toàn hồi phục, dù có tài bắn cung thì lúc này ta cũng chỉ như một nữ tử yếu đuối, không thể trói nổi con gà.
Vì vậy, ta bị đánh ngất và bắt đi. Khi ta tỉnh lại, không biết mình đang ở đâu.
Tay chân bị trói, mắt bị che, miệng cũng bị bịt kín. Ta không biết đã hôn mê bao lâu, cũng không biết hiện tại là ngày hay đêm.
Họ rất ít nói chuyện trước mặt ta, nếu có cũng chỉ thì thầm to nhỏ. Ta cố gắng ngồi dậy, định gây sự chú ý để thu thập thêm thông tin.
Nhưng không ai thèm để ý đến ta. Điều duy nhất ta có thể chắc chắn là, họ không có ý định gi/ết ta, mà có vẻ như đang đưa ta đến một nơi nào đó.
Họ có ngựa, có xe, dựa vào âm thanh thì nhóm này ít nhất có hơn hai mươi người. Và họ đi trên quan đạo, bởi ta nghe được tiếng xe ngựa qua lại tấp nập trên đường.
Muốn hơn hai mươi người đường hoàng đi trên quan đạo mà không bị chú ý, cách tốt nhất là giả làm một đoàn thương nhân. Bọn họ rốt cuộc là người phương nào?
Muốn đưa ta đi đâu? Họ định làm gì? Đại ca có phải đã gặp chuyện chẳng lành?
Không rõ đã qua bao lâu, đoàn người dừng lại nghỉ ngơi. Bọn chúng kéo ta xuống khỏi xe ngựa, tháo dây trói.
Cuối cùng ta cũng có cơ hội mở mắt, nhưng nhận ra trời đã về đêm và nơi này là chốn hoang vu đồng nội.
Bóng tối tựa như một chiếc túi vải lớn trùm xuống, dẫu rằng họ đã nhóm lửa, nhưng ánh sáng chỉ lọt qua những khe hở nhỏ, chẳng khá hơn so với khi bị bịt mắt là bao.
Người đứng đầu quỳ xuống trước mặt ta, hành lễ quân cách.
"Mạt tướng, Chu Nhiên, phụng mệnh Tạ Đại tướng quân, đến đón tiểu thư về phủ."
Trong lúc hắn nói, ta không ngừng quan sát những người xung quanh.
Bọn chúng vô cùng cẩn trọng, dù lúc này đang là giờ nghỉ nhưng vẫn có người đứng canh gác xung quanh.
Bên cạnh đống lửa chỉ có một người ngồi ung dung, thái độ của những người xung quanh đối với hắn vô cùng cung kính, xem chừng hắn mới là thủ lĩnh thực sự của nhóm này. Hắn cố tình ngụy trang, làm bộ như không có gì nổi bật.
Tứ ca từng dạy ta, việc lạ tất có điềm ngờ.
"Đại ca phái ngươi đến đón ta?"
"Đúng vậy."
"Tại sao?" Trong thư đại ca không hề đề cập đến việc này.
"Tướng quân bị người khác hãm hại, vu cho tội mưu phản. Không bao lâu nữa sẽ bị áp giải về kinh. Ngài lo lắng tiểu thư ở Trường An có thể bị liên lụy, nên phái thuộc hạ đến đưa tiểu thư về phủ an toàn."
"Trong thư đại ca không nói đến chuyện này." Đại ca bị áp giải về kinh, muốn sắp xếp cho ta, tại sao không phái nhị ca, người không ở trong quân, mà lại gửi đến một phó tướng ta chưa từng quen biết?
Người tự xưng là phó tướng Chu Nhiên lấy từ trong ngực ra một quân lệnh và một tín phù đưa cho ta.
"Lá thư đó do thần thay tướng quân chấp bút, không dám viết rõ vì sợ lá thư rơi vào tay kẻ xấu sẽ bất lợi cho tướng quân. Nhưng tiểu thư hẳn nhận ra tư ấn của tướng quân."
Quả thật, lá thư ta nhận được không phải nét bút của đại ca, nhưng có tư ấn của huynh ấy, nên ta mới cảm thấy kỳ lạ.
Khi mở quân lệnh ra, ta cũng thấy có quan ấn của đại ca.
"Ngươi đứng lên đi." Hắn nghe vậy liền đứng dậy, ta tiếp tục hỏi, "Ngươi là phó tướng của đại ca, tại sao trước giờ ta chưa gặp ngươi?"
"Thần mới được điều đến bên cạnh tướng quân trong hai năm gần đây. Lúc ấy tiểu thư đã là lương đệ của Thái tử, nên không gặp được thần. Nhưng thần đã từng thấy tiểu thư, một lần tiểu thư theo tướng quân tuần tra, đã bắn trúng một con nhạn, chính thần là người nhặt về."
Ta quả thật từng cùng đại ca tuần tra, cũng từng bắn hạ một con nhạn.
Xem ra người này đúng là thuộc hạ của đại ca. Nhưng ta vẫn không lên tiếng, chỉ lặng lẽ quan sát đám người xung quanh. Mặc dù bọn họ đang canh gác, nhưng lại không theo cặp, hành vi cũng có phần lén lút.
Ngoài người tự xưng là Chu Nhiên kia, tất cả bọn họ đều là người Hồ.
Thấy ta còn nghi hoặc, Chu Nhiên tiếp tục giải thích: "À, bọn họ là một đoàn thương nhân người Hồ mà ta thuê. Từ Trường An về Ngọc Môn quan cần sự che chở của họ. Người kia..." Hắn chỉ vào người đang ngồi cạnh đống lửa, "Là thủ lĩnh của họ."
Nghe Chu Nhiên nói, người đó mới quay đầu lại, mỉm cười chào ta một cái. Ta giữ ý, giả vờ như vô tình đút thứ Chu Nhiên giao vào ngực áo, rồi tiếp tục hỏi: "Các vị ca ca khác thế nào rồi? Có ổn không?"
"Tiểu thư yên tâm, các tướng quân tạm thời chỉ bị quản thúc trong phủ, hiện chưa có gì nguy hiểm. Khi tiểu thư về phủ sẽ gặp lại bọn họ."
Ta gật đầu, hắn quả nhiên không có sơ hở. Sau đó, ta im lặng một lúc, như thể vừa nhớ ra điều gì, liền hỏi: "Chân nhị ca đã khỏi chưa?"
Chu Nhiên cười: "Tiểu thư nhớ nhầm rồi, Tạ quân y không hề bị thương ở chân."
Ta gật đầu, lẩm bẩm: "Phải rồi, ta nhớ nhầm. Nhị ca không bị thương ở chân, người bị thương là tam ca."
Chu Nhiên thả lỏng, nói: "Đợi tiểu thư về Ngọc Môn quan, có thể tự mình hỏi tướng quân."
9.
Nghe thấy những lời này, ta lập tức cảnh giác, bởi vì tam ca không hề bị thương ở chân!
Nhưng tam ca từng nuôi một con ngựa già, nó đã theo huynh ấy xuất trận, và con ngựa ấy đã bị thương ở chân trước, chuyện này trong quân đều biết rõ!
Thế nhưng giờ đây ta đã bị bọn họ dẫn ra khỏi Trường An, nơi này vắng vẻ, muốn thoát thân quả là không dễ. Để không làm kinh động đến bọn họ và tránh bị trói lại, ta đành phải tỏ ra bình thản, theo bọn họ đến ngồi bên đống lửa, tựa vào một gốc cây lớn để nghỉ ngơi.
Chu Nhiên cùng tên thủ lĩnh người Hồ kia trao đổi một ánh mắt, rồi đưa cho ta một ít nước và lương khô. Ta ăn vài miếng bánh, lại giả vờ uống vài ngụm nước, sau đó tựa vào gốc cây nhắm mắt nghỉ ngơi.
Một lúc sau, ta nghe thấy tên thủ lĩnh người Hồ kia hỏi: "Ngủ rồi chứ?"
Rồi ta nghe thấy Chu Nhiên gọi ta: "Tiểu thư? Tiểu thư?"
Ta không đáp lời, vì ta biết chúng đã bỏ mê dược vào trong nước. Tứ ca từng dặn dò ta, không được ăn đồ của người lạ, cũng không được uống nước của người lạ, đặc biệt là khi ta biết rõ bọn họ có vấn đề.
Chu Nhiên lại bước đến gần, khẽ đẩy ta hai cái, nhưng ta vẫn giả vờ ngủ. Nhưng bọn họ vẫn rất cẩn thận, đứng dậy đi ra xa một chút rồi bắt đầu nói chuyện nhỏ.
Thế nhưng bọn họ không ngờ rằng, từ nhỏ ta đã luyện bắn cung bịt mắt, nhờ đó mà thính lực của ta vượt trội hơn người thường. Ta có thể nghe rõ cuộc trò chuyện của chúng.
"Vì sao chúng ta không trực tiếp gi/ết nàng ta, mà lại mang theo một gánh nặng như vậy? Nếu nàng ta phát hiện thì sao?"
"Gi/ết nàng ta, chỉ khiến mọi việc thêm rắc rối mà thôi, ngu ngốc!" Giọng nói kia rất trẻ.
"Nhưng Đông cung sẽ nhanh chóng phát hiện nàng ta mất tích, rồi tìm đến chúng ta! Đến lúc đó mang theo nàng ta chỉ càng thêm phiền phức!"
Bọn họ bắt đầu tranh cãi, giọng nói dần cao lên.
"Chính vì vậy ta mới phải đích thân mạo hiểm đến xử lý việc này. Dù thế nào cũng phải bắt sống nàng ta đưa về Tây Vực, chỉ có như thế mới hoàn toàn chia rẽ được Hoàng đế Trung Nguyên và huynh đệ nhà họ Tạ."
"A Sử Na A Ba! Ngươi phải biết, mang theo người đàn bà này có thể khiến chúng ta không sống sót mà trở về Tây Vực!" Người tên Chu Nhiên kia rõ ràng vô cùng tức giận.
A Sử Na? Người Thổ Phồn?
"Chúng ta bắt cóc nàng ta chính là để khiến Hoàng đế Trung Nguyên tin rằng huynh đệ nhà họ Tạ có ý phản nghịch, cho nên mới phái người ngầm đưa người muội muội duy nhất của bọn họ đi. Nếu nàng ta ch/ết rồi, Hoàng đế sẽ biết chuyện này không liên quan gì đến huynh đệ nhà họ Tạ, đến lúc đó chúng ta chỉ phí hết công sức mà thôi!"
"Chúng ta có thể gi/ết nàng ta, rồi đổ tội cho Hoàng đế! Cũng có thể chia rẽ bọn họ như thường!"
"Đồ ngu, nàng ta là con tin mà Hoàng đế Trung Nguyên dùng để kiềm chế huynh đệ nhà họ Tạ! Trong khi bọn họ chưa tỏ rõ ý phản loạn, Hoàng đế làm sao có thể ngu ngốc mà gi/ết nàng? Tin tức nàng mất tích sẽ nhanh chóng lan đến tai huynh đệ nhà họ Tạ, bọn họ sẽ sớm biết chính chúng ta đã bắt cóc nàng. Khi ấy, bọn họ nhất định sẽ tìm cách tự biện minh, và một khi bản tấu của huynh đệ nhà họ Tạ đến tay Hoàng đế Trung Nguyên, tất cả sẽ nhận ra đây là kế ly gián của chúng ta!"
"Nàng ta ch/ết đi không mang lại chút lợi ích nào cho chúng ta, chỉ khi nàng còn sống và bị đưa về Tây Vực, trở thành con tin của chúng ta, mới có thể hoàn toàn phá hoại lòng tin giữa Hoàng đế và bọn họ! Dù bọn họ đều biết rõ đây là âm mưu của chúng ta, nhưng Hoàng đế vẫn không thể không hoài nghi. Một khi Hoàng đế không còn tin tưởng bọn họ nữa, sớm muộn gì cũng sẽ ghét bỏ bọn họ, dù cho bọn họ có giải thích như thế nào đi chăng nữa!"
"Một khi Ngọc Môn quan không còn huynh đệ nhà họ Tạ, đại quân Thổ Phồn của chúng ta có thể thuận lợi tiến xuống phía nam, chiếm lấy Trường An!"
Tam ca thường chê ta ít nói, khi ấy ta còn cảm thấy có chút ấm ức. Nhưng hôm nay, nghe đến đây, ta mới thấy việc nói ít thật sự là một cái lợi lớn khi làm việc lớn.
m mưu to lớn thế này, nếu không phải bọn chúng nói rõ ràng như vậy, ta làm sao có thể biết được những mối quan hệ lợi hại trong đó? Đây là âm mưu của người Thổ Phồn, ta nhất định phải tìm cách thoát thân, ngăn cản bọn chúng.
Khi trời còn chưa sáng, bọn chúng đánh thức ta dậy chuẩn bị lên đường. Những người khác đang dọn dẹp dấu vết của đống lửa và bánh xe.
Bọn chúng rất cẩn thận, còn đặc biệt kiểm tra xem ta có để lại dấu vết khả nghi nào trên gốc cây mà ta dựa lưng vào hay không. Tất nhiên là ta không để lại dấu vết gì trên cây, dù có để lại cũng sẽ bị bọn chúng phá hủy.
Ta chỉ tự nhiên ném đi nửa miếng bánh còn thừa mà thôi, không ai lại để ý đến một miếng bánh bị bỏ lại bên gốc cây cả. Miếng bánh có gì đáng để để ý đâu?
Trừ khi nó đã từng bị ngấm nước có mê dược. Chỉ cần có con vật nào ăn miếng bánh đó, thì đó sẽ là manh mối ta để lại cho Thái tử và mọi người.
Ta không có lương thực, buộc phải ăn đồ chúng cho, nếu không sẽ khiến chúng nghi ngờ. Chúng thường bỏ thuốc vào nước của ta vào ban ngày, khiến ta ngủ khi ban ngày và tỉnh vào ban đêm.
Như vậy ta sẽ không nghi ngờ chúng hạ độc, mà chỉ nghĩ rằng mình ngủ sai giờ mà thôi. Chúng cẩn thận và chu đáo đến mức không thể tin nổi, chẳng trách lại trở thành kẻ thù không đội trời chung của các ca ca ta.
Bọn chúng dẫn ta rời khỏi Trường An, tiến thẳng đến Hoàng Hà. Chúng định đi đường thủy, chắc hẳn trên sông còn có nội ứng của chúng, hơn nữa đường thủy lại nhanh chóng và thông suốt, chỉ cần men theo Hoàng Hà đi ngược lên phía bắc, chưa đến mười ngày là có thể về đến Thổ Phồn.
Phía trước sắp đến Hoàng Hà rồi, ta lo lắng không biết Thái tử và mọi người có kịp đến cứu ta hay không.
Ta vô cùng hồi hộp, thậm chí còn muốn ăn một bát bánh canh. Không phải vì ta thèm ăn, mà bởi vì ở ngay bên cạnh vừa khéo lại có sẵn món bánh canh đó. Ta chỉ có thể đòi ăn một bát bánh canh để tranh thủ thêm chút thời gian mà thôi.
"Ai da, bánh canh!" Ta vui vẻ chạy tới, ngồi xuống, cất tiếng gọi: "Tiểu nhị! Mang cho ta một bát bánh canh!"
Chu Nhiên đã rất sốt ruột, không muốn chậm trễ thêm chút nào: "Tiểu thư, chúng ta còn phải tiếp tục lên đường."
Ta chỉ ngây thơ nhìn hắn, hồn nhiên hỏi: "Chu phó tướng ăn lương khô lâu như vậy, chẳng lẽ không cảm thấy ngán sao?"
Chu Nhiên đành bất lực quay sang nhìn người tên là A Sử Na A Ba. Người này chỉ thản nhiên gật đầu, dáng vẻ thư thả hơn nhiều so với Chu Nhiên.
Hắn cười lớn, ngồi xuống một cách ung dung, đôi mắt xanh thẳm ánh lên vẻ chế nhạo, cất giọng cười cợt, bỡn cợt: "Cứ để cô nương ăn một bát bánh canh đi, Chu Nhiên. Một bát bánh canh chẳng đáng bao nhiêu tiền, huynh đệ ta cũng đang đói mà." Giọng nói mang âm hưởng người Hồ khiến ai nghe cũng thấy khó chịu.
Ta quay đi, không nhìn hắn, chỉ im lặng chờ bát bánh canh. Với từng này người và từng này bát bánh canh, chắc chắn có thể kéo dài thêm chút thời gian.
Bát bánh canh của ta là bát đầu tiên được mang ra. Ta không khách khí, chậm rãi ăn. Ta ăn rất từ tốn, rau chỉ nhấm nháp lá, còn cọng rau thì để lại trên bàn.
Tên người Thổ kia nhìn thấy, bật cười: "Nếu cô nương sinh ra ở Thổ Phồn, e rằng sẽ phải chịu khổ nhiều."
Lời nói của hắn chứa đầy sự châm chọc, nhưng ta không hề để tâm. Đối với người Thổ, rau xanh là thứ vô cùng quý giá. Ta tiếp tục im lặng, chỉ tập trung ăn.
Đột nhiên, hắn cầm lấy đôi đũa khác, lần lượt gắp hết rau trong bát của ta. Ta không khỏi xấu hổ, mặt nóng bừng, đỏ ửng. Ăn xong, chúng ta tiếp tục lên đường.
Cuối cùng, khi đến bờ Hoàng Hà, người của Thái tử cũng đã đuổi kịp chúng ta.
"Nhanh lên!" Tên người Thổ kia túm lấy ta, định kéo lên thuyền.
Ta giằng ra, không muốn bước thêm một bước nào nữa. Trước mặt ta là Thái tử, Thái tử phi và Tiểu Ngộ, tất cả đều ngồi vững vàng trên lưng ngựa, dáng vẻ phong trần.
Ta chưa từng biết, thì ra Thái tử phi cũng biết cưỡi ngựa.
"Tiểu Phong!" Lý Ngộ gọi tên ta.
Ta cố gắng giằng khỏi tay tên người Thổ để chạy về phía Thái tử, nhưng hắn ra sức kéo ta, muốn đưa ta lên thuyền. Tuy nhiên, đã quá muộn, những người khác đều đã lên thuyền, chỉ còn lại ta và hắn bị quân của Thái tử bao vây.
Thấy tình thế bất lợi, Chu Nhiên buộc phải dẫn người xuống thuyền để giải cứu. Ngay lập tức, trận chiến hỗn loạn xảy ra, hai phe gươm đao giao tranh không phân thắng bại.
Thái tử phi oai phong lẫm liệt, cây thương đỏ trong tay nàng múa lượn trong gió, đã đối đầu trực tiếp với Chu Nhiên.
Ta không ngờ, Thái tử phi lại biết sử dụng thương?
Thì ra, Thái tử phi dịu dàng trước mặt ta cũng đã từng oai phong lẫm liệt trên lưng ngựa, như ta đang bị vây hãm trong hoàng thành tứ phương này.
"Nương nương..." Ta thì thầm gọi, định bước về phía nàng.
Nhưng tên người Thổ đã nắm chặt lấy ta, giữ ta giữa trận chiến dao kiếm loạn lạc, khiến ta không thể nhích thêm bước nào. Cuộc chiến không mang lại kết quả tốt, Chu Nhiên muốn rút lui.
Nhưng tên người Thổ vẫn không chịu buông tha cho ta. Thuyền đã rời bến, Chu Nhiên vừa đánh vừa rút lui lên thuyền.
"A Sử Na! Mau lên thuyền!" Chu Nhiên sốt ruột hét lớn, vô tình gọi ra tên thật của hắn.
"Cô nương, đắc tội rồi!" Hắn giơ tay định đánh ngất ta để mang đi.
Ta nhất quyết không chịu, giằng ra và chạy thoát, khiến Thái tử kịp thời dẫn người đến bao vây hắn.
"Buông nàng ra, Cô sẽ để các ngươi đi!" Thái tử ngồi trên lưng ngựa, uy nghiêm mà không cần tức giận.
A Sử Na đặt lưỡi kiếm ngang cổ ta, nấp sau lưng ta mà lạnh lùng cười: "Hừ! Ta đã nhận được ủy thác của Tạ tướng quân để mang muội muội của hắn về. Nếu không hoàn thành lời hứa này, ta thà gi/ết nàng rồi tự vẫn tạ tội, quyết không để nàng rơi vào tay các ngươi!"
10.
Đao đã đặt lên cổ ta, nhưng ta chẳng hề hoảng sợ. Hắn thật ngu ngốc, đến lúc này vẫn không quên vu khống các ca ca của ta, cứ như Thái tử là người điếc vậy?
Hắn họ A Sử Na, A Sử Na là vương tộc của Khả Hãn quốc Đột Quyết, còn "A Ba" trong tiếng Đột Quyết có nghĩa là gấu.
Tên hắn có nghĩa là "Gấu mắt xanh", hắn là con út của Khả Hãn Đột Quyết, chỉ là bây giờ hắn đã thay đổi dung mạo, giả dạng thành một thương nhân trung niên người Hồ.
Khi ta còn nhỏ, ngoài cửa Ngọc Môn quan, ta từng thoáng thấy hắn một lần từ xa.
"Cánh tay trái của A Sử Na Ha Chỉ Nhi vẫn còn đau chứ?" Ta lạnh lùng hỏi.
Ha Chỉ Nhi là đại ca của hắn.
Khi ta còn nhỏ, trong một lần đi tuần với phụ thân, chúng ta đã chạm trán đoàn săn bắn của đại ca hắn, xảy ra xung đột, trong lúc cấp bách ta đã bắn trúng cánh tay trái của hắn. Chỉ vì lúc đó hai nước vẫn còn hòa thuận, và ta khi ấy còn nhỏ, chưa làm thương tổn đến gân cốt của hắn.
Bọn họ tự biết lý lẽ nên không truy cứu.
"Thì ra là vậy..." A Sử Na chợt hiểu ra, "Hóa ra, ngươi đã sớm phát hiện ra thân phận của ta, chẳng trách bọn chúng lại đuổi theo nhanh như vậy."
A Sử Na A Ba cười nói: "Vậy ngươi đoán xem, giữa ta và bọn chúng, ai sẽ coi trọng mạng ngươi hơn?" Nói đoạn, hắn lại đưa đao sát thêm một tấc vào cổ ta.
"Đừng manh động! Đừng làm tổn thương nàng!" Thái tử lập tức hô dừng lại.
A Sử Na lôi ta lên thuyền, đứng nơi mũi thuyền, đao vẫn kề bên cổ ta.
Nhưng ta biết hắn sẽ không gi/ết ta, bởi ta không chỉ là con gái nhà họ Tạ, mà còn là lương đệ của Thái tử.
Giờ đây thân phận hắn đã bị bại lộ, nếu gi/ết ta, nhất định sẽ khiến Hoàng thượng nổi giận, điều này sẽ dẫn đến cuộc chiến giữa hai nước. Hắn tốn công sức bắt cóc ta như thế này, rõ ràng là tình hình hiện tại của Khả Hãn quốc Đột Quyết không thích hợp để khai chiến, ít nhất thì thời cơ chưa đến.
Thuyền nhanh chóng hướng về giữa sông, nhưng ta biết, bằng mọi giá không thể để mình rơi vào tay bọn chúng. Lúc này, ta nhìn thấy Tiểu Ngộ trên bờ, đệ ấy mang theo cung.
"Tiểu Ngộ! Còn nhớ trên cây ngô đồng trong viện của ta treo gì không?!" Ta lớn tiếng hô.
Tiểu Ngộ nghe thế liền sững sờ, tất nhiên đệ ấy nhớ. Ta đã dạy đệ ấy làm sao để tránh tổn thương vật yêu quý của mình mà vẫn bắn trúng mục tiêu.
Ngay lập tức, Tiểu Ngộ không chút do dự giương cung nhắm về phía ta, khi A Sử Na A Ba còn chưa kịp phản ứng, mũi tên đã rời dây, xuyên thẳng qua bàn tay hắn.
Đồng thời, ta nhanh chóng đẩy hắn ra và nhảy xuống nước, thanh đao trong tay hắn rơi xuống boong thuyền. Mọi chuyện diễn ra quá nhanh, người trên thuyền không kịp phản ứng.
Lúc này, người của Thái tử đồng loạt xông lên, "Nhanh! Bắt lấy bọn chúng!" Thái tử muốn một lưới bắt gọn.
A Sử Na thấy thế liền chèo thuyền bỏ chạy, người của hắn ở bờ bên kia đã chuẩn bị sẵn tiếp ứng. Ta biết bơi, nhưng bây giờ đang vào mùa lũ, nước sông Hoàng Hà dâng cao, dòng chảy xiết, ta cố gắng bơi về bờ nhưng chẳng mấy chốc đã kiệt sức.
Bọn họ vẫn đang đuổi bắt A Sử Na, vì hắn là vương tử Đột Quyết, bắt được hắn sẽ có lợi cho triều đình.
"Tiểu Phong!" Ta nghe thấy Thái tử phi đang gọi ta, rồi "bõm" một tiếng, có người nhảy xuống nước.
Là Thái tử phi đã cứu ta. Thái tử phi vì cứu ta mà phải hao tổn nửa mạng.
Vừa mới sinh con xong, nàng lại lao xuống nước cứu ta, sự cứu giúp đó khiến nàng nằm liệt giường nửa năm, đến tiệc mừng năm mới trong cung cũng không thể tham dự.
Lúc đó ta mới biết, Tiểu Ngộ không phải là đứa con đầu tiên của Thái tử phi và Thái tử.
Đứa con đầu của nàng đã mất trên lưng ngựa...
Từ đó, nàng gác thương, buông bỏ việc cưỡi ngựa, không cho phép ai nhắc đến chuyện đó nữa.
Nhưng vì ta, nàng lại một lần nữa cầm lấy thương, cưỡi lên ngựa. Nương nương của ta, là người tốt nhất thế gian. Thế nhưng, cớ sao ông trời lại đối xử với nàng như vậy?
Thế là ta đốt hết kinh Phật, lau khô nước mắt. Từ nay về sau, ta không còn cầu Phật nữa, ta sẽ tự mình bảo vệ nàng.
Cuối cùng A Sử Na cũng trốn về Đột Quyết, từ đó Đột Quyết không còn động tĩnh gì nữa. Có lẽ có, nhưng đó là chuyện trên triều đình, trong hậu cung chẳng ai bàn đến.
Thỉnh thoảng Thái tử có trò chuyện đôi lời với Thái tử phi, nhưng phần nhiều chỉ là những tiếng thở dài.
Ta biết, có lẽ sắp xảy ra chiến tranh.
Lúc còn sống, phụ thân từng nói, chúng ta và Đột Quyết nhất định sẽ có một trận chiến ác liệt.
Vì thế, các huynh trưởng của ta dù đang trong thời gian chịu tang của phụ mẫu vẫn phải trấn giữ Ngọc Môn quan, không thể về kinh.
Thái tử phi thường nhìn về chân trời xa xăm, thở dài nói: "Sống trong cảnh ca vũ thái bình quá lâu, cốt cách cũng mềm yếu dần."
Ta cuối cùng cũng hiểu ra, không phải không ai nhận ra dã tâm của người Đột Quyết, mà là triều đình hiện tại không muốn chiến tranh, chỉ đang cố gắng tô vẽ sự bình yên giả tạo.
Thái tử phi cúi xuống nhìn đôi tay của mình, buồn bã nói: "Đã có lúc, trên tay ta cũng đầy vết chai."
Ánh mắt nàng đượm buồn, như thể nhìn xuyên qua đôi tay trắng ngần vô lực kia, thấy được quá khứ huy hoàng đầy oai phong khi nàng mặc giáp ra trận.
Sau này, Hiệp Tĩnh cô cô kể cho ta biết, gia tộc của Thái tử phi cũng là gia tộc trung liệt, thậm chí Thái tử phi cũng từng ra trận. Khi đó, nàng chưa hứa hôn với Thái tử, mới mười mấy tuổi đã theo cha huynh ra chiến trường.
Trận chiến đó mang lại vinh quang cho gia tộc Uất Trì, đưa Thái tử phi lên ngôi vị này, nhưng cũng mang đi cha huynh của nàng.
Khi ấy, nàng đầy hoài bão tuổi trẻ, chỉ mới thành thân với Thái tử được nửa năm, không chịu nổi cuộc sống an nhàn gò bó, bất chấp mọi người ngăn cản mà ra chiến trường, thề sống ch/ết bảo vệ quốc gia.
Lúc đó, người duy nhất ủng hộ nàng chính là Thái tử, cũng còn rất trẻ.
Sau đó, nàng mất đứa con đầu lòng với Thái tử.
Nhưng nàng vẫn không lùi bước.
Sau một thời gian ngắn dưỡng thương trong quân doanh, nàng lại cầm thương cưỡi ngựa lao vào chiến trường. Cuối cùng, nàng đã chiến thắng trở về.
Thế nhưng cơ thể nàng đã chịu tổn thương quá nhiều, dưỡng thương nhiều năm rồi lại sảy thai lần nữa, khó khăn lắm mới có được Lý Ngộ. Kể từ đó, nàng không bao giờ cầm thương hay cưỡi ngựa nữa.
Cho đến lần đó, vì cứu ta...
Không thể chỉ vì sự bình yên giả tạo mà nghĩ rằng có thể thật sự an ổn.
Ba năm sau, Đột Quyết liên kết với các bộ lạc Tây Vực kéo quân đến xâm phạm, tấn công thẳng vào Ngọc Môn quan.
Đột Quyết đã âm thầm chuẩn bị mười mấy năm, còn chúng ta đã an nhàn quá lâu. Quân Đột Quyết như vũ bão, quân ta liên tiếp bại trận, lòng người hoang mang, cả nước náo loạn.
Triều đình đã già cỗi, những năm gần đây Hoàng thượng suốt ngày cầu thầy thuốc chữa bệnh, những đau đớn tuổi già đã làm hao mòn ý chí của người, người chẳng còn hào khí như khi còn trẻ, chỉ muốn cầu hòa, thậm chí còn định nhượng lại chín châu Yến Vân.
Nhưng lực cản trong triều quá lớn, phe chủ hòa và phe chủ chiến giằng co không dứt.
Thái tử ngày ngày lo lắng, trán luôn nhíu chặt, tóc mai đã điểm bạc.
Có lẽ giờ phe chủ hòa đang chiếm ưu thế. Nhưng không thể được, không ai đồng ý nhượng chín châu Yến Vân.
Ngay cả ta cũng biết, mười sáu châu Yến Vân chính là tường thành vững chắc của đất nước, nhượng lại chín châu Yến Vân chỉ khiến các nước Tây Vực càng thêm tham lam.
Những ngày gần đây, Thái tử phi suốt ngày ở trong sân lau thương. Mũi thương đỏ thẫm của nàng được lau đến sáng loáng. Thái tử vừa bước vào sân, ánh sáng từ mũi thương đã làm chói mắt người.
Nhưng người chẳng nói gì, chỉ khẽ thở dài một tiếng. Nương nương cũng chẳng nói gì, nhưng Thái tử đã biết rõ lập trường của nàng.
11.
Chẳng mấy ngày sau, triều đình đã có sự biến chuyển rõ rệt. Các đại thần lần lượt dâng tấu xin xuất chinh, mạnh mẽ lên án quân địch, quyết chí xin đi đánh trận, khiến lòng người sục sôi, khí thế hào hùng lan tỏa khắp nơi.
Tuy vậy, Thái tử phi vẫn không tỏ vẻ vui mừng, nàng chỉ mỗi ngày tập thương trong sân, miệt mài suốt ba canh giờ. Phu thê vốn đồng tâm, Thái tử thường đứng ngẩn ngơ nhìn dáng vẻ oai phong của Thái tử phi khi nàng luyện thương, trong ánh mắt chứa đầy u buồn, như muốn rơi lệ.
Vài ngày sau, Hoàng thượng cuối cùng đã hạ chỉ bắc phạt, đồng thời ra lệnh Thái tử thân chinh. Chẳng ngoài dự đoán, Thái tử phi cũng xin xuất chinh đi theo, lời lẽ đanh thép không ai có thể ngăn cản.
Ta nhìn nàng khoác lên mình bộ giáp, cưỡi ngựa oai vệ, nụ cười tươi sáng và rạng rỡ trên môi. Ta chưa từng thấy Thái tử phi cười như vậy, trước kia nàng luôn cười nhẹ nhàng, đôi mày đôi mắt cong cong, dịu dàng và bao dung.
Nhưng chưa bao giờ nàng cười rạng rỡ, sảng khoái như thế này. Một Thái tử phi như vậy thật sự rất đẹp.
"Nương nương." Ta bước tới, nắm lấy tay nàng.
Nàng nhẹ nhàng nhưng mạnh mẽ nắm lại tay ta, cười nói: "Tiểu Phong nhi, đừng lo. Ta sẽ thắng trận trở về, phong quang rạng rỡ đưa muội rời khỏi Đông cung."
"Nương nương, ta muốn đi cùng người." Dù không thể ra trận, chỉ cần được che chắn cho nương nương khỏi đao kiếm cũng tốt.
Nàng dịu dàng đưa tay lau nước mắt trên mặt ta: "Ngốc, Tiểu Phong, lớn thế này rồi vẫn còn hay khóc. Nếu muội cũng đi, ai sẽ giúp ta chăm sóc Tiểu Ngộ và Vọng nhi đây?"
Ta lại khóc dữ dội hơn: "Nương nương..."
"Đừng lo, ta hứa với muội, nhất định sẽ sống sót trở về. Muội phải tin ta." Nàng nhìn về phía xa xăm, ánh mắt sâu thẳm như đang nhớ lại những ký ức xưa, "Nương nương ta đây, từng vô số lần sống sót qua màn mưa đao gió kiếm."
Ta đứng dưới ngựa, nhìn Thái tử phi và Thái tử, hai người nắm tay nhau, ta cầu nguyện cũng như gửi gắm: "Điện hạ, nương nương, Ngọc Môn đường xa, cùng đi cùng về."
Ta vốn không can đảm và kiên cường như nương nương, cả đời này cũng không thể ra trận gi/ết giặc.
Dù ta có tài bắn cung, nhưng chưa từng ai bỏ mạng dưới mũi tên của ta. Nếu Chu Nhiên thực sự từng nhặt cho ta con nhạn có vết thương, hắn sẽ biết mũi tên bắn con nhạn ấy không có đầu tên.
Ta thích cưỡi ngựa bắn cung vì ngoài cưỡi ngựa bắn cung ra, ta chẳng giỏi gì cả. Cho dù họ có gọi ta là thần xạ thủ, nhưng mỗi lần đi săn ta đều trở về tay không. Tay cầm vũ khí sắc bén, nhưng lòng lại mềm mỏng, thấy sinh mệnh, không nỡ chứng kiến cái ch/ết.
Ta sinh ra và lớn lên trong thời thái bình, là tiểu nữ trong nhà, phụ mẫu yêu chiều, huynh trưởng cưng nựng.
Chưa từng bước chân vào chiến trường, chưa từng chứng kiến chiến tranh. Ta chỉ biết bắn vào hồng tâm trên sân tập, bắn vào chiếc đùi chim bồ câu có kẹo mứt.
Vừa yếu đuối, lại vô dụng. Vậy nên ta chỉ có thể đứng nhìn bóng dáng nương nương trên lưng ngựa dần khuất xa, mà không thể làm gì được.
"Tiểu Phong, giữ vững Đông cung, đợi bọn ta trở về." Thái tử nhìn ta dặn dò.
Ta vẫn còn dấu vết nước mắt, gật đầu. Tiểu Ngộ đứng bên cạnh, khẽ nắm lấy tay ta. Ta nhìn bóng lưng họ rời đi, chợt nhớ lại ngày ta vừa gả vào Đông cung, cũng nhìn họ rời đi cùng nhau như thế.
Khi đó, ta mặc áo cưới, tay cầm quạt hỷ ngồi trên kiệu hoa, ngũ ca tiễn ta vào cung. Ta ngồi trong tân phòng, trong lòng vừa hồi hộp vừa e thẹn của một tân nương, chờ phu quân của ta tới nâng quạt hỷ, cùng ta uống rượu hợp cẩn.
Ta lo lắng và bất an. Phu quân của ta là Thái tử, là người tôn quý nhất thiên hạ, mà Thái tử đã có Thái tử phi, và tình cảm phu thê của họ rất sâu đậm.
Liệu ngài có thích ta không? Hay chỉ thích ta trong chốc lát? Nếu ngài không thích ta, hoặc chưa từng thích ta, thì ta sẽ sống thế nào trong cung?
Liệu ta có giống như lời của thi nhân, nghiêng mình tựa vào lò hương mà ngồi đợi đến sáng, rồi như đóa hoa xuân lặng lẽ già đi, trở thành một vật trang trí trong cung sâu tựa biển này không?
Nghĩ lại tâm trạng lo lắng khi ấy, ta mỉm cười nhẹ nhõm. Cũng may mắn thay, may là Điện hạ và nương nương thật sự tình thâm ý trọng, cũng may nương nương quả thật là người hiền hậu, và may mắn nhất, họ thực sự coi ta như người trong nhà.
Hiện tại thế này cũng đã tốt lắm rồi, tốt hơn nhiều so với những gì ta từng tưởng tượng. Bởi vì... ta đã gặp được Thái tử và nương nương tốt nhất trên đời.
Tiểu Ngộ thấy ta bỗng cười liền ngạc nhiên hỏi: "Tỷ cười gì vậy?" Ta đáp rằng ta nhớ đến ngày ta vào Đông cung, cũng nhìn Thái tử và Thái tử phi rời đi như vậy, và lúc đó bên cạnh ta cũng có đệ.
"Tiểu Phong, đừng lo. Đệ sẽ luôn ở bên cạnh tỷ." Tiểu Ngộ nhìn ta, nụ cười thoáng nhẹ nhàng nói.
Ta lúc này mới nghiêm túc nhìn đệ ấy. Thời gian trôi qua thật nhanh, Tiểu Ngộ giờ đã cao hơn ta một cái đầu. Dáng vẻ thanh tú, gầy gò, nhưng ngũ quan rõ ràng, cử chỉ cao quý, đôi lông mày chứa đựng sự dịu dàng, giống hệt mẫu thân của đệ ấy.
Nhớ lại lần đầu gặp Tiểu Ngộ, đệ ấy vẫn là một đứa trẻ chưa lớn, giờ nghĩ lại, mọi thứ dường như đã là chuyện của kiếp trước.
Ta chợt nhận ra, ta đã ở Đông cung hơn năm năm, Tiểu Ngộ cũng đã trở thành một thiếu niên khôi ngô.
Ta bế Vọng nhi từ tay nhũ mẫu, mỉm cười nhìn Tiểu Ngộ, cảm thấy như đang nhìn con trai mình trưởng thành: "Tiểu Ngộ đã lớn rồi, có thể cưới vợ được rồi."
Nói xong ta hướng về Đông cung mà bước đi.
Tiểu Ngộ đuổi theo, vẫn quấn quýt bên cạnh ta như ngày bé, "Đệ không muốn cưới vợ đâu."
"Khi ta bằng tuổi đệ, ta đã gả vào Đông cung rồi."
"Nhưng đệ không muốn cưới vợ. Quốc gia còn chưa định, làm sao có thể lo chuyện gia đình?"
Chúng ta đi song song trên con đường nhỏ về Đông cung, bóng hai người kéo dài dưới ánh mặt trời.
"Hơn nữa, có Tiểu Phong là đủ rồi..." Cơn gió mát thổi qua, cuốn theo lời thì thầm của Tiểu Ngộ.
Ta như nghe rõ, lại như không nghe rõ.
Là Hoàng trưởng tôn, khi Thái tử không ở triều, Tiểu Ngộ hiện giờ đã có thể vào triều nghe chính sự.
Ta vẫn luôn theo dõi sát sao tin tức từ chiến trường Tây Bắc, mỗi ngày đều mong ngóng thư từ Thái tử phi.
Ngoài cầu nguyện, phần lớn thời gian ta chẳng thể làm gì khác.
Rồi một ngày, Tiểu Ngộ trở về rất muộn. Ta đã dỗ Vọng nhi ngủ rồi, nhưng Tiểu Ngộ vẫn chưa về. Ta ra cổng cung chờ, đợi rất lâu mới thấy Tiểu Ngộ từ xa đi đến.
Đệ ấy cúi đầu ủ rũ, ta bước tới, nhẹ nhàng hỏi có chuyện gì.
Tiểu Ngộ như ngày còn bé, nhào vào lòng ta, giọng buồn rầu: "Hoàng gia gia có ý định ban hôn cho ta."
"Sao lại có thể như thế được!" Ta kinh ngạc thốt lên.
Đôi mắt Tiểu Ngộ sáng lên: "Tỷ cũng thấy không được?"
"Tất nhiên là không được rồi." Ta khẳng định, "Hôn sự của đệ là đại sự của Đông cung, Thái tử và nương nương còn chưa về kinh, Hoàng thượng sao có thể tự ý quyết định mà không hỏi ý kiến của họ?"
Ánh sáng trong mắt Tiểu Ngộ vụt tắt, đệ thở dài, bước qua ta trở về phòng. Ta nhìn bóng lưng đệ ấy, lòng dâng lên cảm giác buồn man mác. Tiểu Ngộ của ta, sao lại lớn nhanh như vậy? Nếu mọi thứ vẫn như trước đây, thì tốt biết bao.
Đêm đó, trong viện của Tiểu Ngộ lại vang lên tiếng "vút vút" của cung tên, không ngừng suốt cả đêm. Lúc ấy ta mới nhận ra Tiểu Ngộ đã thực sự trưởng thành, bây giờ đã có thể kéo cây cung mà ta chẳng thể nâng nổi.
Còn ta, đứng tựa cửa trong sân viện của mình, nhìn đôi tay, nhớ đến lời Thái tử phi đã từng nói: "Sống trong cảnh ca vũ thái bình quá lâu, cốt cách cũng mềm yếu dần."
Ta buồn bã nhận ra, có lẽ cốt cách của ta thật sự đã mềm yếu rồi.
Cuộc chiến với Hung Nô kéo dài hơn dự kiến, may mắn thay Thái tử phi đã quen trận mạc, điều binh như thần, biên quan liên tiếp báo tin thắng trận.
Nhưng Hoàng thượng tuổi cao, vì quá vui mừng mà ngất xỉu. May nhờ ngự y kịp thời cứu chữa, tạm thời không còn nguy hiểm đến tính mạng. Đêm đó, Tiểu Ngộ cho người về Đông cung báo với ta rằng đệ sẽ ở lại trong cung hầu bệnh, không cần chờ đệ ấy về. Đúng là như vậy, thân phận là Hoàng trưởng tôn, đệ ấy nên ở lại để phụng dưỡng Hoàng thượng.
Sức khỏe của Hoàng thượng ngày càng tốt lên, việc đầu tiên ngài quan tâm sau khi hồi phục chính là hôn sự của Tiểu Ngộ. Tiểu Ngộ nói, Hoàng thượng đã gửi mật hàm đến biên quan cho Thái tử và nương nương, chỉ cần họ đồng ý, hôn sự có thể được tiến hành.
Thái tử và nương nương không tự quyết định, mà gửi thư hỏi ý Tiểu Ngộ, cũng dặn dò ta để ý các tiểu thư khuê các trong kinh thành.
Khi ta cầm bức thư đến tìm Tiểu Ngộ, khéo léo dò hỏi xem đệ ấy có ưng ý tiểu thư nào không, nét vui mừng trên mặt đệ bỗng biến thành sự khó chịu. Đệ ấy giật lấy bức thư trong tay ta, đẩy ta ra ngoài cửa.
Ta đứng ngoài, nhìn cánh cửa đóng chặt. Ta hơi ngạc nhiên, đây là lần đầu tiên Tiểu Ngộ nổi giận với ta. Lúc ấy, ta thật sự không biết phải làm sao.
Sau đó không biết Tiểu Ngộ đã viết gì trong thư hồi đáp Thái tử và Thái tử phi, nhưng suốt mấy tháng liền, không còn nghe Hoàng thượng nhắc tới hôn sự của đệ ấy nữa.
12.
Thời gian tuần hoàn, chẳng mấy chốc đã đến năm cùng tháng tận. Gió lạnh thổi qua, tuyết trắng phủ kín Trường An.
Đây là năm đầu tiên ta và Tiểu Ngộ đón Tết cùng nhau, Vọng Nhi không chịu nổi cơn buồn ngủ đã được nhũ mẫu đưa về phòng nghỉ từ sớm. Chúng ta ngồi trong hoa sảnh Đông Cung, nhìn ra ngoài cửa tuyết rơi như lông ngỗng.
Tiểu Ngộ đột nhiên hỏi ta: "Tiểu Phong, tỷ có nguyện vọng gì cho năm mới không?"
Ta đáp: "Hy vọng Thái tử và nương nương bình an, sớm ngày khải hoàn trở về."
"Vậy nếu chỉ có thể có một nguyện vọng thì sao?" Tiểu Ngộ truy hỏi.
Ta trầm tư một lát rồi vẫn nói: "Hy vọng Thái tử và nương nương bình an trở về."
Nếu chỉ có một điều ước, thì về sớm có thể không cần, thắng lợi cũng có thể không cần, chỉ mong họ bình an trở về là đủ. Tiểu Ngộ thở dài một hơi nhẹ đến mức khó nghe thấy, ta chợt cảm thấy xót xa.
Tiểu Ngộ đã lớn, dường như trong lòng cũng nặng trĩu nỗi lo, không còn vui tươi như lúc bé nữa.
"Đệ thì sao? Đệ có điều ước gì không?" Ta lo lắng hỏi khi thấy nét u sầu hiện rõ trên khuôn mặt của đệ ấy.
"Ta chỉ mong, người mà ta ngày đêm mong nhớ, cũng sẽ nhớ đến ta." Tiểu Ngộ nhìn ta, ánh mắt sâu thẳm như có thể nuốt chửng vạn ngôi sao trên bầu trời.
Trong lòng ta bỗng nhói lên một cái, như thể có điều gì đó không ổn đã xảy ra.
Nhưng ta chỉ cười, như lúc Tiểu Ngộ còn nhỏ, vươn tay xoa đầu đệ ấy, nhưng lần này đệ ấy lại né tránh.
Ta lúng túng rụt tay lại, nhưng vẫn giữ nụ cười trên mặt: "Người mà Tiểu Ngộ quan tâm, cũng nhất định sẽ nhớ đến Tiểu Ngộ. Dù là ai đi nữa, Tiểu Ngộ của chúng ta..."
"Vậy còn tỷ? Tỷ có nhớ đến ta không?" Lời ta chưa dứt, đã bị Tiểu Ngộ ngắt lời.
Nhìn vào ánh mắt nóng bỏng đầy khát khao của đệ ấy, ta cười gượng gạo: "Tất nhiên là ta cũng nhớ đến đệ rồi."
Nghe vậy, Tiểu Ngộ mới nở nụ cười rạng rỡ, ta lại nói tiếp: "Dù Tiểu Ngộ nhớ đến ai, ta tin rằng nàng ấy cũng sẽ nhớ đến Tiểu Ngộ. Trong số những quý nữ mà Hoàng hậu đã chọn..."
Nụ cười trên mặt Tiểu Ngộ chợt cứng lại, ta còn chưa nói hết, đệ ấy đã phẩy tay áo rời khỏi. Ta thầm trách bản thân mình đã lỡ lời.
Ta chỉ là một tiểu lương đệ bé nhỏ, còn Tiểu Ngộ là Hoàng trưởng tôn, là Thái tử tương lai, là Hoàng đế sau này. Hôn sự của đệ ấy làm sao ta có thể xen vào? Dù Tiểu Ngộ cưới ai, cũng chẳng liên quan gì đến ta.
Qua tháng Giêng, hôn sự của Tiểu Ngộ đã được định. Đó là tiểu thư của nhà ngoại Hoàng hậu, năm nay vừa tròn mười bốn, chỉ đợi đến năm mười lăm sẽ tổ chức hôn lễ.
Bệ hạ đã báo trước cho Thái tử và nương nương, chưa đợi họ hồi âm đã lập tức ban hôn.
Dù Thái tử và nương nương có muốn hỏi ý kiến Tiểu Ngộ, thì lúc này cũng đã quá muộn rồi. Nghe nói tiểu cô nương kia tài sắc vẹn toàn, đức hạnh khiêm nhường, từ nhỏ đã nổi danh trong số các quý nữ kinh thành, quả là một mối lương duyên xứng tầm.
Người ta nói nhân gặp chuyện vui tinh thần phấn chấn, nhưng tối hôm đó Tiểu Ngộ về Đông Cung với dáng vẻ thất thần, nghe nói vì làm sai chuyện mà cãi lại Bệ hạ, bị phạt quỳ ba canh giờ trước ngự thư phòng.
Còn chuyện sai sót ra sao, Bệ hạ không cho phép ai nhắc đến.
Nhìn Tiểu Ngộ trở về Đông Cung, khuôn mặt đen kịt, bước đi cà nhắc, lòng ta thắt lại.
Ta vội vàng bước đến đỡ đệ ấy, không kìm được mà trách mắng: "Đệ mới vào triều, nếu có chỗ nào làm chưa đúng, cúi đầu nhận lỗi với Bệ hạ là xong. Hà cớ gì phải cãi lại, tự chuốc khổ vào mình?"
Tiểu Ngộ lạnh lùng nhìn ta, hồi lâu mới thở dài bất lực: "Ta có làm sai chuyện gì đâu. Hoàng gia gia phạt ta vì ta từ chối hôn sự mà người đã định."
Hóa ra là vậy, chẳng trách Bệ hạ không cho ai nhắc tới. Nếu để người ngoài biết Tiểu Ngộ vì không muốn cưới con gái nhà họ Vương mà bị phạt quỳ suốt ba canh giờ, thì mặt mũi nhà họ Vương còn đâu? Thể diện của Hoàng hậu sẽ ra sao?
Ta dìu đệ ấy chầm chậm bước về Đông Cung: "Đệ không thích tiểu thư nhà họ Vương sao?" Cuối cùng, ta cũng chỉ hỏi được một câu này.
"Không thích." Tiểu Ngộ trả lời đầy u uất.
Ta thở dài: "Đệ không thích tiểu thư nhà họ Vương, có phải vì đã có người trong lòng rồi không?"
"Ừm." Tiểu Ngộ ậm ừ đáp lại.
"Đệ đã có người trong lòng, lẽ ra nên sớm bẩm báo với phụ mẫu, nhờ người đến cầu thân, đổi bát tự định hôn sự, thì đã không lâm vào tình cảnh khó xử này."
Tiểu Ngộ hít một hơi thật sâu, hồi lâu mới lên tiếng: "Ta và người ta thích, thân phận cách biệt, sợ rằng không được người đời chấp nhận. Hơn nữa, ta còn chưa thổ lộ lòng mình, không biết nàng... có giống ta, cũng động lòng với ta hay không..." Nói đến đây, hơi thở của Tiểu Ngộ bắt đầu loạn nhịp, đôi tai đỏ bừng, khiến ta không nhịn được cười "phì" một tiếng.
"Không ngờ Tiểu Ngộ của chúng ta cũng có lúc bối rối thế này."
"Tỷ cười ta!" Tiểu Ngộ trừng mắt nhìn ta, rồi lại gục mặt, không biết làm sao mà than thở: "Ta sắp phát điên rồi."
"Được rồi, được rồi, đệ còn chưa gặp qua tiểu thư nhà họ Vương, làm sao biết mình không thích? Giờ đây hôn sự đã thành, từ nay về sau người ta đều ngầm coi đệ và nàng là một thể rồi."
"Chẳng lẽ thật sự không còn cách nào khác sao? Ta không thể cầu xin Hoàng gia gia và Hoàng nãi nãi thu hồi mệnh lệnh à?" Tiểu Ngộ bắt đầu làm mình làm mẩy với ta.
"Hoàng thượng và Hoàng hậu là tổ phụ tổ mẫu của đệ, họ sẽ không hại đệ đâu. Người mà họ chọn cho đệ chắc chắn là một cô nương tốt nhất trên đời." Ta an ủi Tiểu Ngộ, nếu sự đã thành, thì cũng đành phải chấp nhận số phận.
"Nhưng ta không muốn! Trong lòng ta, cô nương tốt nhất thế gian chỉ có một, nhưng không phải tiểu thư nhà họ Vương." Không phải tiểu thư nhà họ Vương, vậy chắc chắn là người mà đệ ấy đã đem lòng thương nhớ.
"Vậy đệ có thể tỏ rõ lòng mình với người ấy. Nếu nàng cũng đáp lại đệ, thì đưa nàng cùng vào Đông Cung cũng không phải không được." Nếu họ có thể đối xử với nhau như ta và nương nương, thì cũng không phải vấn đề lớn.
"Ta đã nói rồi, ta và nàng khác biệt thân phận... làm sao ta dám bày tỏ..." Tiểu Ngộ cúi đầu, đá bay một viên sỏi trên đường, giọng nói uể oải.
Ta có chút tức giận: "Tiểu Ngộ! Không ngờ đệ lại coi trọng môn đăng hộ đối đến vậy! Nếu môn đăng hộ đối là điều đệ quan tâm nhất, thì tiểu thư nhà họ Vương chính là lựa chọn tốt nhất của đệ!"
Ta giận dữ bỏ tay đệ ấy ra, tự mình bước đi.
"Ta đâu có coi trọng môn đăng hộ đối! Ta... ta..." Tiểu Ngộ lúng túng, tỏ vẻ rất oan ức.
Đệ ấy vội đuổi theo ta, nắm lấy tay áo ta, nói giọng đáng thương: "Ta không hề coi trọng môn đăng hộ đối! Ta thậm chí không muốn lấy ai khác vào Đông Cung cả. Từ đầu đến cuối, người ta muốn, chỉ có nàng ấy thôi." Tiểu Ngộ nhìn ta đầy kiên định, khóe mắt hơi đỏ lên, lần này trông có vẻ thật sự động lòng.
"Đệ đã không quan trọng môn đăng hộ đối, thì hãy tỏ rõ lòng mình. Nếu thật sự hai người tâm đầu ý hợp, đệ hãy xin chỉ dụ để cưới nàng. Nếu chỉ là tình cảm đơn phương, thì quay đầu lại nhìn tiểu thư nhà họ Vương cũng chưa muộn." Ta đành tiếp tục đưa ra lời khuyên.
"Nếu ta có thể tỏ bày, thì đã không khổ sở như hôm nay." Tiểu Ngộ nhìn ta đầy oán trách, thậm chí còn lườm một cái.
"Tiểu Ngộ, quân tử rộng rãi, tiểu nhân lo nghĩ. Người đời ai cũng có sở thích riêng, đệ không thích tiểu thư nhà họ Vương, có người trong lòng cũng chẳng phải chuyện gì khó nói. Nhưng sai lầm của đệ là, đệ thích người khác mà không dám nói ra, không dám đấu tranh cho tình cảm của mình. Đệ đã làm liên lụy đến tiểu thư nhà họ Vương, giờ đây hôn sự đã định, nếu đệ còn kháng chỉ mà hủy hôn, danh tiếng của nàng ấy sẽ ra sao?" Ta nhìn Tiểu Ngộ, nghiêm nghị nói.
Trong xã hội này, nữ nhân đã khó sống, tất cả đều dựa vào cha, huynh và phu quân.
Từ nhỏ, họ đã được nuôi dạy trong khuê phòng kín đáo, bị ràng buộc mà lớn lên, không có khả năng tự lập.
Nếu lại không được phu quân yêu thương, thì họ biết dựa vào ai?
Liệu còn có chỗ nào cho những nữ nhân yếu đuối như thế nương thân?
Nhị ca từng nói, chính vì xã hội này ràng buộc nữ nhân, nên mới trọng nam khinh nữ.
"Tiểu Phong, tỷ đừng nói nữa. Tất cả đều là lỗi của ta, ta không nên mơ tưởng đến thứ không thuộc về mình, nên mới không thể nói ra nỗi khổ, nên mới rơi vào cảnh ngộ này. Nàng đối với ta, như trăng trong nước, như hoa trong gương, là người ta không nên mơ tới. Nói cho cùng, tất cả đều là do ta tự chuốc lấy." Tiểu Ngộ buồn bã nói, thậm chí trong mắt còn ngân ngấn nước.
Ta đau lòng, xoa đầu đệ ấy, thì ra xã hội này cũng ràng buộc nam nhân.
"Tiểu Ngộ, đừng buồn. Nếu đệ thực sự không muốn cưới tiểu thư nhà họ Vương, đợi Thái tử và nương nương khải hoàn, hãy cầu xin họ làm chủ cho đệ, xem liệu còn có cách nào thay đổi không." Ai cũng có tình cảm riêng, ta cũng vậy, ta không muốn thấy Tiểu Ngộ phải chịu ấm ức.
Tiểu Ngộ nhào vào lòng ta, đầy tủi thân: "Tiểu Phong..."
13.
Ta ôm lấy Tiểu Ngộ, nhẹ nhàng vỗ về lưng đệ ấy, giống như khi còn nhỏ ta vẫn thường an ủi đệ ấy như vậy.
Bỗng nhiên, một chuyện chợt hiện lên trong tâm trí ta.
"Đệ có người trong lòng từ khi nào? Vì sao ta chưa từng nghe nói đến?"
Tiểu Ngộ đột nhiên đỏ mặt, nhưng lại giả vờ ngang nhiên, đáp trả mạnh miệng: "Tỷ giờ cả ngày đều xoay quanh Vọng Nhi, đâu còn để ý đến ta nữa?"
"Ta thực ghen tị với thằng bé đó, nó có thể vô tư quấn quýt bên tỷ."
Ta bật cười: "Đệ lớn rồi mà còn tranh sủng với Vọng Nhi sao?"
"Tiểu Phong, nếu một ngày nào đó, ta trở thành kẻ vô liêm sỉ, đại nghịch bất đạo, liệu tỷ vẫn ở bên cạnh ta như bây giờ chứ?"
"Tiểu Ngộ của ta sẽ không như vậy," ta kiên định đáp, "Tiểu Ngộ của chúng ta, như băng trong suốt dưới trăng thu, thanh khiết vô ngần, là người chính trực và quang minh."
"Ta không phải!" Tiểu Ngộ đột ngột bật khóc, lớn tiếng: "Ta có những ý nghĩ hèn hạ nhất, những ước vọng không nên có! Tiểu Phong, tỷ không hiểu, tỷ không biết ta ghê tởm đến nhường nào, ta thấp hèn đến mức nào đâu!"
Tiểu Ngộ khóc rất đau đớn, như thể đệ ấy thật sự đã làm điều gì tày trời mà khiến cả thiên hạ phỉ nhổ, nhìn đệ ấy như vậy, tim ta cũng đau nhói.
"Tiểu Ngộ... Tiểu Ngộ..." Nhìn thấy đệ ấy thương tâm như vậy, ta không biết phải làm sao.
Từ hôm ấy, Tiểu Ngộ như vô tình hay cố ý tránh mặt ta.
Đối với hôn sự cùng tiểu thư nhà họ Vương, đệ ấy cũng không còn phản kháng nữa, thậm chí khi Vương tiểu thư vào cung ra mắt Hoàng hậu, đôi khi đệ ấy cũng ghé qua cung Hoàng hậu một lát.
Chỉ là, ta cảm thấy Tiểu Ngộ ngày càng trở nên u sầu hơn.
Thời gian trôi nhanh như nước chảy, chớp mắt cuộc chiến với Đột Quyết đã kéo dài hai năm.
Tháng trước, từ biên cương truyền về tin thắng trận, nói rằng Thái tử và Thái tử phi đã dẫn quân thu hồi được Mạc Bắc.
Cả nước hân hoan chờ mong ngày Thái tử và Thái tử phi khải hoàn trở về.
Năm Vĩnh Ninh thứ bảy, mùa thu.
Đột Quyết bại trận, rút lui ra khỏi dãy núi Kỳ Liên, quân ta toàn thắng trở về.
Duy chỉ có điều tiếc nuối duy nhất là Thái tử, trong trận chiến cuối cùng, vì cứu Thái tử phi mà bị đại tướng Đột Quyết Khất Đạt đánh trọng thương, không qua khỏi mà băng hà.
Bệ hạ vô cùng đau xót, ngừng triều mười ngày, bệnh tình trầm trọng thêm, không dậy nổi.
Trên giường bệnh, theo tổ chế, người hạ chiếu lập Hoàng trưởng tôn Lý Ngộ làm Hoàng thái tôn, ban sách bảo, lệnh nhiếp chính.
Thái tử qua đời, Thái tử phi như mất nửa linh hồn, suốt ngày ngồi lặng trong cung, thần trí rối loạn.
Trận chiến này dù đã thắng, nhưng không ai cảm thấy vui mừng.
Ta nhớ đến lời nhị ca từng nói, trong chiến tranh, không ai thực sự giành được chiến thắng. Nhìn tất cả những gì xảy ra trước mắt, như một giấc mộng dài.
Ta chỉ mong khi tỉnh mộng, Thái tử sẽ bình an vô sự, nương nương sẽ không còn thất thần, Tiểu Ngộ sẽ không còn mang vẻ mặt u sầu, và ta cũng sẽ không còn cảm thấy đau đớn.
Mọi thứ sẽ trở lại như trước đây. Nhưng ta chẳng thể làm gì, chỉ có thể nhìn nương nương ngày càng trầm lặng hơn. Hoa tươi, rượu ngon, y phục lộng lẫy, trang sức, mỹ thực, Vọng Nhi và Tiểu Ngộ, chẳng điều gì có thể khiến nương nương hồi phục.
Nàng dường như đã quên mất cách cười, chỉ lặng lẽ rơi lệ trước tất cả những gì ta làm.
Thái tử phi bệnh nặng, bệnh đến mức ta không dám nhắc đến Thái tử, không dám hỏi về chi tiết cái ch/ết của Thái tử. Ta chỉ có thể giấu nương nương mà khóc thầm, chỉ dám âm thầm hy vọng nàng có thể dần dần thoát khỏi nỗi đau mất đi Thái tử.
Thái tử phi lúc tỉnh lúc mê, có lúc chợt bừng tỉnh hỏi ta: "Thái tử khi nào trở về?" hoặc đôi khi trong bữa ăn vô tình nói ra: "Chờ Thái tử về cùng ăn."
Nàng luôn nghĩ rằng Thái tử vẫn còn, nàng không nhớ rằng mình đã từng ra trận, đã từng gi/ết địch.
Nàng thường nghĩ rằng thời gian này là lúc ta mới vào Đông cung, khi nàng vừa mất con gái.
Ta nhớ đến nụ cười rực rỡ của nàng trước khi xuất chinh, mà không cầm được nước mắt.
Cùng năm đó, vào ngày hai mươi sáu tháng đông, Hoàng đế băng hà, Hoàng thái tôn Lý Ngộ kế vị, tôn tổ mẫu Vương Hoàng hậu làm Thái Hoàng Thái hậu, tôn sinh mẫu Uất Trì thị làm Hoàng Thái hậu, phong hoàng đệ Lý Vọng làm Cung Thân vương.
Khi ấy, ta hai mươi hai tuổi, trở thành vị Thái phi trẻ nhất trong sử sách.
Ta sống một mình trong Thừa Khánh cung, nhưng phần lớn thời gian lại ở trong Cam Lộ cung của nương nương.
Bên cạnh nương nương không thiếu người hầu hạ, nhưng để người khác chăm lo cho người, ta không an lòng.
Dù ta ngày đêm chăm sóc nương nương chu đáo, nhưng cơ thể nương nương vẫn suy yếu dần, bằng mắt thường cũng có thể thấy được.
Hôm ấy, ta sắc thuốc mang đến cho nương nương, vô tình nghe thấy nương nương đang trò chuyện cùng Tiểu Ngộ.
Nương nương nói: "Tiểu Ngộ, cơ thể mẫu hậu ngày một suy yếu, e rằng không còn sống được bao lâu. Ta có đôi lời muốn căn dặn ngươi. Vọng Nhi có tước vị Cung Vương, lại là đệ đệ duy nhất của ngươi, tương lai của nó, mẫu hậu không lo lắng. Điều duy nhất khiến mẫu hậu không yên lòng chính là Tiểu Phong. Năm ấy, khi nàng còn xuân xanh đã bị tiên đế bẻ gãy đôi cánh, bị bắt làm con tin trong Đông cung, phí hoài cả tuổi trẻ. Nàng chưa từng một ngày thực sự là Lương đệ của Thái tử, trong mắt ta và phụ vương ngươi, nàng như con gái nuôi của chúng ta."
"Mẫu hậu hy vọng, sau khi ta mất, ngươi sẽ để nàng xuất cung. Bên ngoài cung trời đất bao la, nàng sẽ sống thoải mái và vui vẻ hơn."
Tiểu Ngộ ngồi trước giường lặng lẽ nghe, đến đây, đệ ấy bỗng nhiên vén áo, quỳ xuống.
Đệ ấy quỳ thẳng lưng, mạnh mẽ nói: "Con không đồng ý!"
Một Tiểu Ngộ luôn hiếu thuận, lần này lại trái lời mẫu thân đang bệnh nặng.
Thái tử phi ho dữ dội, cất giọng khàn khàn nói: "Tiểu Ngộ! Tiểu Phong nhìn ngươi lớn lên từ thuở bé! Nàng đối đãi với ngươi thế nào, không cần ta phải nói nhiều, ngươi tự biết rõ. Ta không nói, không có nghĩa là ta không biết. Cưỡi ngựa bắn cung, chẳng phải nàng là người từng cầm tay dạy ngươi từng chút một sao? Năm ngươi mười ba tuổi săn được gấu, được tiên đế khen ngợi, cũng là nhờ Tiểu Phong âm thầm giúp đỡ! Từ nhỏ đến lớn, bao lần ngươi gây họa, chịu phạt, chẳng phải Tiểu Phong đã thay ngươi xin tội, dọn dẹp tàn cục sao?"
"Tiểu Phong đối đãi với ngươi chẳng khác gì ta, mẫu thân của ngươi! Nay ngươi làm Hoàng đế, lại muốn học theo tiên đế, giữ nàng trong cung chỉ để làm công cụ kiềm chế huynh đệ nhà họ Tạ sao?"
"Thưa mẫu hậu! Đúng như lời người nói, Tiểu Phong đối với con vừa là sư, vừa là bạn, lại cũng là tri kỷ. Con và nàng kết giao từ thuở ấu thơ, thân như hình với bóng, làm sao con có thể coi nàng là công cụ để kiềm chế huynh đệ họ Tạ chứ? Con không để Tiểu Phong xuất cung, bởi vì nàng đối với con quá quan trọng. Tiểu Phong, nàng là một nửa sinh mệnh của con! Không có nàng, thật sự con không biết phải làm thế nào để sống trong cung điện lạnh lẽo này, để làm tốt vai trò Hoàng đế!" Trong lời của Tiểu Ngộ chất chứa nỗi cô đơn và bi thương khó giấu, khiến người nghe cũng không khỏi xót xa.
Ta bưng bát thuốc đứng ngoài điện đã lâu, đến khi thuốc nguội lạnh mà vẫn không dám bước vào.
Một lúc sau, Tiểu Ngộ từ trong điện bước ra, đệ ấy không nhìn ta, lặng lẽ lướt qua ta mà đi. Gương mặt đệ ấy lạnh lùng, khiến ta cảm thấy như thể người vừa xúc động nói rằng ta là nửa sinh mệnh của mình, không phải là đệ ấy.
Năm sau, vào tháng Ba, tân đế không chịu nổi sự khuyên can của các đại thần, tuân theo ý chỉ của Thái hoàng thái hậu lập tiểu thư nhà họ Vương làm Hoàng hậu, nghênh nàng vào cung, chủ trì trung cung.
Đại lễ phong hậu kéo dài đến tận đêm khuya mới kết thúc.
Ở Thừa Khánh cung, ta chuẩn bị bảo người khóa cửa cung rồi đi ngủ. Tiểu Ngộ lại say khướt, đến đập cửa cung đòi vào.
Tân đế say mèm, ôm chặt lấy ta, không chịu buông. Ta lúng túng bảo cung nhân đi nấu canh giải rượu, rồi nhẹ nhàng khuyên nhủ Tiểu Ngộ quay về Thái Cực điện nghỉ ngơi.
Tiểu Ngộ ôm lấy ta, gục đầu trong lòng ta, vừa lắc lư vừa nói: "Ta không muốn về! Ta chỉ muốn... chỉ muốn ở đây thôi!"
Ta đẩy Tiểu Ngộ ra, cố tìm trong mắt đệ ấy một chút tỉnh táo, nhưng đệ ấy thực sự đã say quá rồi. Khóe mắt đỏ ngầu, trong mắt chỉ là lớp sương mờ mịt.
"Tiểu Ngộ, đệ say rồi! Hôm nay là ngày đại hôn của đệ, đệ nên ở bên Hoàng hậu." Ta ôn tồn khuyên bảo.
"Ta không muốn!" Tiểu Ngộ như một đứa trẻ hờn dỗi, nói lí nhí: "Ta là... Hoàng đế! Ta... muốn ở đâu thì ở đó!" đệ ấy khoác lên vẻ uy nghiêm của Hoàng đế, vung tay áo, loạng choạng suýt không đứng vững.
Ta vội đỡ lấy đệ ấy, nhận bát canh giải rượu từ cung nhân, đút cho đệ ấy uống. Sau đó, ta đỡ Tiểu Ngộ nằm xuống giường, định chờ đệ ấy tỉnh rượu rồi sẽ khuyên đệ ấy quay về bên Hoàng hậu.
Tiểu Ngộ ngủ khoảng một canh giờ, tỉnh lại với ánh mắt đầy ngạc nhiên, chẳng kém gì khi ta vừa thấy đệ ấy lúc say.
Đệ ấy đỏ bừng cả tai, ngập ngừng mãi mới nói được một câu: "Trẫm uống say, thất thố rồi. Mong Thái phi lượng thứ."
Ta mỉm cười, nhìn đệ ấy như nhìn thấy dáng vẻ mỗi lần phạm lỗi của đệ ấy khi còn nhỏ.
Ta nhẹ nhàng nói: "Hoàng thượng tỉnh rồi thì hãy về Thái Cực điện nghỉ ngơi đi."
Tiểu Ngộ như cơn gió vội vã chạy ra khỏi cửa, nhìn dáng vẻ bối rối của đệ ấy, ta không nhịn được cười thành tiếng. Thế nhưng, ngày hôm sau, ta lại nghe tin Hoàng đế không quay về Thái Cực điện, mà thức suốt đêm trong ngự thư phòng để xử lý chính sự.
Hơn ba vị đại thần đã ngoài sáu mươi bị Tiểu Ngộ gọi dậy giữa đêm, cùng thức cả đêm để bàn bạc những việc sau khi thu hồi Mạc Bắc.
Mãi đến khi trời tờ mờ sáng, bọn họ mới được cho về.
Thật đáng thương cho những thân già ấy, vừa ngáp vừa phải suy nghĩ xem làm thế nào để ngáp mà không thất lễ trước mặt Hoàng đế.
Chuyện này sau đó được sử quan ghi lại trong sử sách, nói là để khen ngợi Tiểu Ngộ là một vị vua cần mẫn, hết lòng vì dân.
14.
Ta đã gặp tiểu Hoàng hậu nhà họ Vương, vào lúc nàng đến dâng lễ vấn an nương nương.
Tiểu Hoàng hậu chỉ chừng mười lăm, mười sáu tuổi, dung nhan tươi tắn như cành hoa non, tính tình ôn nhu, cử chỉ đoan trang.
Khi cười, nàng lộ ra đôi lúm đồng tiền xinh xắn, khiến ai nấy đều sinh lòng yêu mến.
Tiểu cô nương nói năng nhẹ nhàng, giọng điệu thanh thoát.
Nàng tràn đầy sức sống, tươi trẻ, khiến bất cứ ai gặp cũng đều yêu quý, ngoại trừ Tiểu Ngộ.
Nương nương rất hài lòng với vị con dâu này, và ta cũng thế.
Tuy nhiên, Tiểu Ngộ chưa bao giờ lưu lại ở cung của Hoàng hậu, khiến tin đồn về sự bất hòa giữa Đế Hậu nhanh chóng lan truyền khắp nơi.
Thái Hoàng Thái hậu muốn Tiểu Ngộ tuyển phi, nhưng đệ ấy lại không chịu.
Triều thần khuyên can Hoàng đế nạp phi, đệ ấy cũng phớt lờ.
Mọi người lo lắng không ngừng vì chuyện của hoàng gia, còn Tiểu Ngộ thì chỉ vùi đầu vào việc triều chính. Đệ ấy dường như lúc nào cũng có công việc không bao giờ hết.
Ngày tháng cứ thế trôi qua, cho đến khi nương nương đã đến lúc dầu cạn đèn tắt. Trong những ngày cuối cùng của nương nương, chúng ta đều cố gắng ở bên người, chỉ sợ rằng mỗi lần gặp mặt có thể sẽ là lần cuối cùng.
Ngày định mệnh ấy cuối cùng cũng đến, nương nương đã không thể nuốt nổi một giọt thuốc nào.
Ta quỳ gối trước giường, nước mắt tuôn trào: "Nương nương... Nương nương..."
Nương nương yếu ớt giơ tay lên lau nước mắt cho ta: "Tiểu Phong nhi đừng khóc, khóc rồi sẽ không còn đẹp nữa..."
"Nương nương... nương nương, xin người đừng bỏ Tiểu Phong nhi ở lại một mình..." Ta đau đớn không thể chịu nổi, nghẹn ngào đến mức không thể thốt nên lời.
Nương nương khẽ thở dài, dường như mỗi hơi thở đều mang theo nỗi đau không thể diễn tả.
Ánh mắt nương nương mờ mịt nhìn về phương xa, như đang nhớ lại những chuyện xưa: "Cả đời ta đã rất tốt, rất dài rồi... Ta đã từng ra chiến trường, từng làm Thái hậu. Ta và Điện hạ tình thâm một đời, lại có Tiểu Ngộ và Vọng nhi. Điều tiếc nuối duy nhất... chính là... không có được một đứa con gái. Nhưng mà... Tiểu Phong, có muội bên cạnh... ta đã không còn gì tiếc nuối. Thật viên mãn, thật hài lòng rồi..."
"Nương nương..." Ta nghẹn ngào, chẳng biết nên nói gì, bao nhiêu lời nói chực trào ra cổ họng, nhưng ta không muốn thốt lên một câu nào.
Dường như chỉ cần không nói lời chia ly, thì nương nương sẽ không rời xa.
"Tiểu Phong nhi... chỉ là khổ cho muội... Muội vốn dĩ đáng ra phải sống một cuộc đời tự do nơi trời cao biển rộng... Ta và Điện hạ..."
Nương nương khó nhọc thở từng hơi, đứt quãng nói: "Vốn là... định đưa muội rời khỏi cung... Chỉ tiếc rằng... hết lần này đến lần khác... vẫn chưa tìm được cơ hội thích hợp..."
"Tiểu Phong nhi... Tiểu Phong nhi của ta..."
Bàn tay người run rẩy, cố gắng chạm vào mặt ta. Ta vội vàng nắm lấy tay người, áp mặt mình vào lòng bàn tay người, nước mắt rơi ướt đẫm lòng tay ấy.
Người khẽ nhìn Tiểu Ngộ đang đứng bên, không kìm được tiếng nấc, thì thầm: "Tiểu Ngộ, ta dường như thấy phụ vương con rồi..."
Nói dứt câu, tay nương nương bỗng nhiên rơi xuống, sinh mệnh người như sợi dây diều đứt, đột ngột biến mất, nhưng trên khuôn mặt vẫn còn vương nét cười. Ta tin rằng, trong giây phút cuối cùng, người thật sự đã gặp được Điện hạ.
"Nương nương!"
"Mẫu hậu!"
Trong Cam Lộ cung, tiếng khóc thương tràn ngập, không dứt.
Năm Trường Bình thứ nhất, Túc Từ Hoàng Thái hậu băng hà, an táng tại Tây Lăng, cùng lăng với Túc Tông Hoàng đế.
Sau lễ tang, vị tân hoàng trẻ tuổi đã vùi đầu vào lòng ta, khóc nức nở suốt một hồi lâu.
Ta chỉ nhẹ nhàng vỗ về lưng đệ ấy, không thể nói ra bất kỳ lời an ủi nào.
Bởi lẽ, nỗi đau này là thật, là thấu tận xương tủy, không thể diễn tả bằng lời, và chỉ những ai đã trải qua mới có thể thấu hiểu.
Sau khi nương nương qua đời, cung cấm càng trở nên lạnh lẽo.
Từng viên gạch, từng mảnh ngói, từng con người trong cung đều trở nên u ám và băng giá.
Mỗi ngày, mỗi đêm trôi qua thật dài, thật tĩnh mịch.
Mọi thứ nơi đây đều khiến người ta khó chịu, đến không khí cũng khiến người nghẹt thở.
Ta đã đánh mất nụ cười của mình, ngày ngày ở lại Thừa Khánh cung, không bước chân ra ngoài.
Tiểu Ngộ thường xuyên đến thăm ta, đệ ấy đã trở thành một vị Hoàng đế thực thụ, cần mẫn trị vì, yêu thương dân chúng, giữ đúng lễ nghi.
Điện hạ và nương nương đã để lại cho đệ ấy một thời thịnh thế, chỉ chờ đệ ấy khai mở.
Nhưng ta càng lúc càng không thể hiểu được cảm xúc của Tiểu Ngộ. Có lúc đệ ấy chỉ lặng lẽ nhìn ta rồi quay đi, không nói lời nào. Có lúc đệ ấy chỉ hỏi thăm vài câu về sức khỏe của ta.
Phần lớn thời gian, Tiểu Ngộ đều đến khi đã say, ôm lấy ta khóc, ôm ta cười, cùng ta hồi tưởng về những ngày còn ở Đông cung. Đệ ấy nói rằng mình rất mệt, rất đau khổ.
Đệ ấy kể về những chuyện phiền lòng trên triều chính, và cả những điều thầm kín, không thể nói ra, chỉ có thể biểu lộ khi say. Nhưng chúng ta, cả hai đều không hạnh phúc.
Cung cấm này như một con mãnh thú khổng lồ, trang hoàng lộng lẫy, đẹp đẽ, nhưng luôn há miệng chờ đợi, chỉ cần ngươi bước vào là sẽ nuốt chửng mọi niềm vui và hân hoan của ngươi.
Sau khi nuốt hết tất cả, nó lại tiếp tục khoác lên vẻ quyến rũ, mê hoặc thêm nhiều người nữa bước vào.
Ta qua đời vào năm thứ hai sau khi nương nương mất, vào mùa xuân.
Năm ấy là Tết Đoan Ngọ, Tiểu Ngộ đi Thái Miếu tế tổ, còn ta ở lại mừng sinh thần của Vọng nhi.
Ta đã nấu cho nó một bát mì trường thọ, nhìn nó ăn xong, ta bảo nó có thể ước một điều.
Nó vừa định nói thì ta đã đưa tay bịt miệng nó lại.
Ta nghẹn ngào dặn dò: "Nguyện vọng, nếu nói ra sẽ không linh đâu." Nó nhìn ta, không hiểu vì sao ta lại khóc, chỉ mơ hồ gật đầu.
Bất ngờ, Thái Hoàng Thái hậu ngự giá đến Thừa Khánh cung, cho người dẫn Vọng nhi đi, muốn nói chuyện riêng với ta.
Ta rất ít khi gặp vị Thái Hoàng Thái hậu đầy uy nghiêm này, ngay cả khi ta còn là Lương đệ.
Sau khi an tọa, người lên tiếng.
"Tạ thị, có người cáo buộc ngươi mê hoặc Hoàng đế, ngươi có biết tội không?"
Ta chưa kịp hiểu ra, bèn thật thà đáp: "Thần thiếp không biết."
"Hoàng đế tuổi còn nhỏ, không màng chuyện hậu cung, nhưng lại đặc biệt quan tâm đến ngươi, vị thứ mẫu của mình. Ai gia không quan tâm Hoàng đế có tình cảm gì với ngươi, nhưng Tạ thị, ngươi đừng quên thân phận của mình! Ngươi là Lương đệ của con trai ta! Là thứ mẫu của Hoàng đế!" Thái Hoàng Thái hậu giận dữ, đôi mắt nghiêm nghị nhìn ta như một pho tượng La Hán đầy phẫn nộ.
"Ta không quan tâm ngươi và con ta có thật sự là phu thê hay không, cũng không quan tâm ngươi có tình cảm gì với Hoàng đế. Nhưng Tạ thị, Hoàng đế vào đêm tân hôn lại đến cung của ngươi, mỗi khi bước vào hậu cung cũng đều đến chỗ ngươi, coi Thái Cực điện và Hoàng hậu như không tồn tại. Nếu nói rằng, Hoàng đế không thích Vương Hoàng hậu cũng có thể hiểu được. Nhưng bây giờ, người không chịu nạp phi tần, cũng không sủng ái cung nữ nào, lại qua lại quá thân mật với ngươi, vị thứ mẫu còn trẻ này! Bên ngoài đã râm ran lời đồn, lan tràn khắp nơi rồi."
"Tạ thị! Ta hỏi ngươi, tội danh làm loạn cung đình này, ngươi có gánh vác nổi hay không?"
Nghe xong những lời ấy, ta như bị sét đánh ngang tai, lạnh buốt toàn thân.
Hóa ra sự thân cận giữa ta và Tiểu Ngộ, trong mắt kẻ khác lại trở thành thứ dơ bẩn nhơ nhuốc đến vậy...
"Đế Hậu thành thân đã gần hai năm, nhưng vẫn chưa hành lễ phu thê. Hoàng hậu ngày đêm u uất, bất an không yên. Triều thần lo lắng, nhưng chẳng ai dám dò đoán thánh ý. Tạ thị, ngươi có biết Đế Hậu bất hòa, chẳng những gây hại cho hoàng gia, mà còn gây hại cho triều đình, gây hại cho quốc gia hay chăng?"
"Vậy nên, bất luận thực hư thế nào, Tạ thị! Vì công hay vì tư, ta đều không thể dung thứ ngươi nữa!"
Tâm ta như tro tàn, mặt mũi tái nhợt không còn sắc. Thái Hoàng Thái hậu trao cho ta một bình dược và một bình rượu, lặng lẽ nhìn ta uống cạn. Trước khi rời đi, người chỉ để lại một câu: "Ai gia không muốn Hoàng thượng biết chuyện này."
Ta chỉ cười thầm trong bụng, biết hay không thì có khác gì đâu? Người là tổ mẫu của Hoàng đế, chính bởi vậy mà người mới có thể thản nhiên, ung dung bắt ta phải ch/ết, phải không?
Ta nằm trên mặt đất, nhìn lên tấm biển đề chữ "Thừa Khánh cung" trên đỉnh đầu, chợt thấy cuộc đời này sao ngắn ngủi, bi thảm đến thế.
Ta vốn là cơn gió tự do ngoài Ngọc Môn quan, là con chim ưng tung cánh giữa trời rộng, vậy mà lại bị một mối lương duyên hoang đường trói buộc cả đời nơi hoàng cung lạnh lẽo. Không ai mưu hại ta, không ai gài bẫy ta, những âm mưu thâm cung ta đều chưa từng gặp qua.
Ta từ lúc khép nép cẩn thận, đến lúc giữ bổn phận quy củ, chưa từng vượt quá giới hạn, cũng nhận được rất nhiều tình yêu. Nhưng cớ sao cuối cùng lại phải chịu kết cục này?
Ta rất buồn, nhưng không thể khóc được. Ta sắp ch/ết, nhưng lại không muốn ch/ết tại nơi này.
Máu tuôn ra miệng, ta gắng gượng bò dậy, vô định không biết phải đi đâu. Cuối cùng, như một hồn ma vất vưởng, ta lại quay về Đông Cung, như ngựa già tìm đường về, như lá rụng về cội.
Nhưng đây không phải là đường của ta, cũng chẳng phải là nơi ta thuộc về, chỉ là Ngọc Môn quan quá xa xôi, chỉ là ta đã quen với nơi này. Ta đi dạo quanh Đông Cung, cuối cùng dừng chân tại Đình Hồ Tâm, nơi cất giấu báu vật của Tiểu Ngộ.
Bên trong mọi thứ vẫn như xưa, chẳng có gì thay đổi, chỉ thêm vài vật dụng mới. Bước vào động là thấy ngay một cây thương tựa vào vách đá, bên cạnh treo một chiếc cung.
Trên bàn có một chiếc hộp gỗ phủ đầy bụi, hiển nhiên đã rất lâu không ai tới đây. Ta mở chiếc hộp, bên trong có một viên đá, một thước gỗ, và một chiếc lông vũ xanh đen.
Ta để lại trong hộp bức tuyệt mệnh thư của mình, chỉ vỏn vẹn một câu: "Nếu gặp gió xuân mưa nhỏ, ấy là ta đến thăm người."
Ta sắp ch/ết rồi.
Ta nhớ đến năm ta mười lăm tuổi, khi ta cài trâm, tất cả các ca ca đều nhìn ta, vây quanh ta mà nói lời chúc phúc.
Đại ca nói, "Phong nhi nhiều phúc nhiều thọ."
Nhị ca nói, "Phong nhi vui vẻ bình an."
Tam ca nói, "Phong nhi một đời thuận buồm xuôi gió."
Tứ ca nói, "Phong nhi tự tại vô lo."
Ngũ ca nói, "Phong nhi sống lâu trăm tuổi."
Thế nhưng cuối cùng, ta vẫn ch/ết tại nơi này, ch/ết trong động báu của Tiểu Ngộ.
Ta có một nguyện ước, trong nguyện ước đó, ta hóa thành cơn gió, biến thành con chim ưng bay trở về Ngọc Môn quan, bay lượn giữa bầu trời vô tận. Trong nguyện ước ấy, tất cả mọi người đều có một kết cục tốt đẹp.
Ngoại truyện: Lý Vọng
Người luôn chăm sóc và nuôi dưỡng ta khôn lớn, Tạ nương nương, đã qua đời.
Ta buồn bã khóc suốt mấy ngày trời. Tuy rằng Tạ nương nương không phải là thân mẫu của ta, nhưng trong lòng ta, người chẳng khác gì mẫu thân ruột thịt.
Là người dạy ta cách ăn uống, dạy ta học chữ, là người may áo mới cho ta. Khi ta vấp ngã hay sợ hãi, chính người là người ôm ta vào lòng.
Hoàng huynh cũng rất đau buồn, nhưng huynh ấy không khóc. Chính huynh ấy là người đầu tiên phát hiện ra Tạ nương nương, phát hiện thấy người trong một sơn động, và hiện giờ hoàng huynh không cho bất kỳ ai bước vào sơn động ấy.
Chính hoàng huynh là người bế Tạ nương nương ra, không cho ai tới gần. Ta lén lút đi theo hoàng huynh, nhìn thấy huynh ấy bế Tạ nương nương vào cung của Thái Hoàng Thái hậu, rồi đuổi hết mọi người ra ngoài.
Hoàng huynh quỳ xuống, hỏi Thái Hoàng Thái hậu: "Nãi nãi, tại sao? Tại sao người nhất định phải lấy mạng của nàng! Người có biết không, Tiểu Phong là một nửa sinh mệnh của con! Một nửa sinh mệnh đó! Phụvương đã mất, mẫu hậu cũng không còn, giờ ngay cả Tiểu Phong cũng chẳng còn nữa, con thật sự không có nhà nữa rồi... Con không có nhà nữa, người có biết không?!"
Hoàng huynh dường như đã khóc, khóc còn đau đớn hơn ta.
Ta không hiểu, bình thường huynh ấy đối với Tạ nương nương chẳng có chút cảm xúc gì, vì sao giờ đây người mất mà huynh ấy lại đau buồn đến vậy.
"Đồ hỗn xược! Nàng chẳng qua chỉ là lương đệ trên danh nghĩa của phụ vương ngươi, sao có thể sánh với phụ mẫu ngươi? Ai gia còn sống đây, ngươi vẫn còn một đệ đệ ruột thịt, lại còn có Hoàng hậu do chính ngươi cưới hỏi. Sao ngươi có thể nói là không có nhà nữa?"
Hoàng huynh chỉ lắc đầu, khóc nức nở: "Người không chịu đòn phạt thay con, người không cưỡi ngựa cùng con, người không dạy con bắn cung, người cũng không ở bên con lúc con khôn lớn. Người chưa từng chờ con về nhà trong đêm tối! Tiểu Phong không chỉ là lương đệ của phụ thân! Nàng cùng con lớn lên, nàng là thanh mai trúc mã của con! Chính nàng ở bên con khi con khóc, cười, và đi cùng con qua những đêm tối! Nàng là vầng trăng của con! Không còn vầng trăng ấy, con biết đi thế nào qua con đường dài vô tận này đây! Đi sao đây?!"
"Không còn vầng trăng ấy, con phải đi thế nào đây..."
Ta ngẩng đầu nhìn lên trời, lạ thật, vầng trăng vẫn còn đó mà. Sao hoàng huynh lại nói rằng trăng đã biến mất?
Lời của hoàng huynh khiến nãi nãi nổi giận, người chỉ vào mặt huynh và quát: "Ngươi nên nghe thử ngoài kia họ nói gì về ngươi! Họ mắng ngươi vô liêm sỉ, mắng ngươi không bằng chó lợn! Dù gì nàng cũng là thiếp của phụ vương ngươi! Ngươi còn biết đến đạo lý hay không? Hoàng gia còn thể diện hay không? Ai gia hận không thể... hận không thể xé xác ngươi ra!"
"Đó là lỗi của con! Có liên quan gì đến Tiểu Phong đâu! Chính con vô liêm sỉ, chính con không bằng chó lợn! Nhưng Tiểu Phong của con, nàng trong sạch vô tội! Là con nảy sinh tham vọng không nên có... muốn bắt giữ ánh trăng dưới nước, là con si tâm vọng tưởng giữ lại cơn gió xuân, kẻ đáng ch/ết là con! Là con!"
Lời của hoàng huynh khiến ta quên cả việc rơi lệ, trăng sao lại ở dưới nước? Còn gió làm sao có thể bị giữ lại?
Lúc ấy, có một cơn gió thổi qua, ta đưa tay ra định bắt lấy, nhưng chẳng bắt được gì.
"Đúng, ngươi đáng ch/ết!" Nãi nãi không chút nương tình, "Nhưng ai gia có thể để ngươi ch/ết hay sao? Ai gia còn trông mong ngươi quản lý non sông của nhà Lý, mang đến một thời đại thịnh vượng cho thiên hạ! Còn bây giờ ngươi đang làm gì đây? Vì một nữ nhân mà gào khóc! Thiên hạ này là được đổi bằng mạng của phụ thân ngươi, bằng mạng của mẫu thân ngươi! Ngươi dù có ch/ết, cũng phải ch/ết trên án thư của nhà Lý!"
"Ai gia tuyệt đối không thể để lịch sử nhà Lý xuất hiện một kẻ phá hoại luân thường đạo lý. Nàng chỉ là một Thái phi, không có tư cách xuất hiện trên sử sách. Ai gia sẽ không để nàng được ghi lại. Nhưng ngươi thì khác, ngươi là Hoàng đế, mọi lời nói và hành động của ngươi đều bị người khác dõi theo từng bước. Chỉ cần có chút sai lầm, ngươi sẽ bị chìm ngập trong nước bọt của thiên hạ, huống chi là một vụ tai tiếng động trời như thế này?"
"Là con sai rồi... Là con sai rồi... Con không nên giữ nàng lại trong cung. Con đáng lẽ nên nghe lời mẫu hậu, sớm thả nàng rời cung..."
Nãi nãi thở dài, dường như không còn giận dữ nữa: "Ai gia đã cho nàng sự lựa chọn. Chính nàng tự mình... không chịu rời đi."
Hoàng huynh dường như sững người: "Sao có thể! Nàng rõ ràng... nàng rõ ràng rất nhớ Ngọc Môn quan... nàng rõ ràng rất muốn về nhà..."
"Nhà ư? Ngoài Ngọc Môn quan, nàng còn có nhà nữa sao? Nàng đã sống trong cung gần mười năm, mười năm rồi... chẳng lẽ cung này không phải nhà của nàng? Dù ngoài Ngọc Môn quan còn có người chờ đợi nàng, nhưng nàng cũng không còn dũng khí trở về. Hoàng đế đã đổi, thế sự đã khác xưa."
"Nhà họ Tạ vốn trung thành nghĩa khí, con gái nhà họ lại càng kiên cường bất khuất. Nàng nói, các huynh của nàng giữ vững Ngọc Môn quan không rời, vì trong thành còn có gia đình của họ. Còn hiện tại, hoàng cung này là nhà của nàng, ngươi và Vọng nhi là gia đình của nàng, nên nàng cũng sẽ không rời bỏ. Nàng nói, nếu phải rời đi, nàng cũng muốn ra đi một cách đàng hoàng, không phải như loài gián phải lén lút rời khỏi nơi đây."
"Nói cho cùng, nàng cũng là con gái của nhà họ Tạ, có cốt cách của riêng mình. Nàng đã ch/ết trên chiến trường của mình, để bảo vệ Ngọc Môn quan của nàng... Tất cả đều là do sự đa nghi của Tiên hoàng nên mới gây nên nghiệp chướng này."
"Sao có thể! Sao có thể! Vì sao! Vì sao nàng thà ch/ết mà không trở về nơi nàng luôn nhớ mong là Ngọc Môn quan? Sao có thể chứ?" Hoàng huynh như phát cuồng, liên tục lặp đi lặp lại những lời ấy.
"Thời gian là thứ đáng sợ, nó có thể khiến những điều không tưởng trở thành hiển nhiên, cũng có thể khiến điều hiển nhiên trở nên không tưởng. Nàng sống trong cung như một con chim ưng gãy cánh suốt mười năm trời, làm sao có thể chỉ một sớm một chiều mà tung bay trở lại bầu trời rộng lớn? Chim lồng thương cũ, nhưng sống quá lâu trong lồng rồi, cuối cùng cũng sẽ chỉ như kẻ thích giả vờ mà thôi."
"Nàng là một đứa trẻ đáng thương, là ta và Tiên hoàng có lỗi với nàng, là ngươi và phụ vương ngươi có lỗi với nàng. Nếu có kiếp sau, nhớ đến trước mộ nàng, dập đầu tạ tội thay cho chúng ta."
Những chuyện sau đó, ta không nhớ rõ nữa. Chỉ nhớ rằng hoàng huynh đã khóc rất lâu, rất lâu, còn ta cũng khóc rất lâu.
Ta biết, người đau lòng nhất khi Tạ nương nương mất, chính là hoàng huynh. Nhưng hoàng huynh chỉ khóc trước mặt Thái Hoàng Thái hậu một lần, huynh ấy không dám khóc, vì sợ những đại thần sẽ biết.
Huynh ấy nói nếu họ biết, họ sẽ bôi nhọ danh dự của Tạ nương nương, huynh ấy không thể để người bị tổn thương thêm nữa. Hoàng huynh của ta tên là Lý Ngộ, huynh ấy nói Lý Ngộ trước kia là người của gia tộc Uất Trì, sau này sẽ là viên ngọc sáng của Ngọc Môn quan.
"Còn ta tên là Lý Vọng, tổ phụ ta là Hoàng đế, hoàng huynh của ta cũng là Hoàng đế. Hoàng huynh bảo, sau này ta cũng sẽ làm Hoàng đế. Còn ngươi? Ngươi tên gì?" Đứa trẻ nói với cái bóng trên tường cung.
Một giọng nói từ xa vọng lại: "Ta họ Tạ, đến từ Ngọc Môn quan. Ta đến để thu hồi hài cốt của một cố nhân."
Ngoại truyện: Xuân Phong không thể về Ngọc Môn quan.
Khi phụ thân còn tại thế, người thường dạy bảo chúng ta rằng, trên đời này sẽ có những thứ quan trọng hơn sinh tử của bản thân.
Như mảnh đất dưới chân, sự tôn nghiêm của luật pháp, trách nhiệm của bản thân, vinh dự của gia tộc, như lòng trung thành của quân nhân, sự an khang của lê dân, sự ổn định của quốc gia, hay như sự kiêu hãnh ngạo cốt trên lưng chúng ta.
Một ngày nào đó, các con cũng sẽ gặp những thứ cần phải dùng mạng sống để bảo vệ, đến lúc ấy, ta mong rằng các con có thể đưa ra quyết định không làm hổ thẹn với nhà họ Tạ, không làm hổ thẹn với chính bản thân mình.
Vì vậy, ta không nhất thiết phải ch/ết, nhưng ta nhất định phải ch/ết. Bởi vì sự trong sạch chỉ có thể được chứng minh bằng máu.
Đương nhiên, ta có thể phóng hỏa thiêu rụi Thừa Khánh cung, cải trang mà rời khỏi nơi cung cấm này.
Nhưng lời đồn đã lan truyền, nếu ta đột nhiên biến mất một cách khó hiểu, bất kể hoàng thất có muốn hay không, thì chắc chắn trên sử sách sẽ lưu lại những nghi vấn về ta.
Việc này sẽ không ngừng bị thế nhân bàn tán, cho dù chính sử không ghi lại, thì dã sử cũng sẽ có. Họ sẽ thỏa sức tưởng tượng, sẽ không ngừng thêu dệt câu chuyện giữa ta và Tiểu Ngộ.
Khi hậu thế nhắc đến Tiểu Ngộ, người ta sẽ ngay lập tức nghĩ đến chuyện hoang đường giữa đệ ấy và người thiếp của phụ vương mình. Trong mắt hậu thế, đệ ấy sẽ là một vị Hoàng đế bất chấp luân thường, phụ tử không phân minh, dù thực ra đệ ấy không hề như vậy.
Tiểu Ngộ của ta là người trong sạch như ánh trăng mùa thu, như băng tuyết ngàn dặm. Mẫu thân đệ ấy từng chiến đấu vì quốc gia, phụ vương đệ ấy cũng hy sinh vì nước.
Sao đệ ấy có thể, ngay sau khi phụ vương vì nước mà ch/ết, lại đi lấy thiếp của phụ vương mình?
Đệ ấy không có, hoàn toàn không có.
Vì đệ ấy không làm, nên ta không thể để lại chút không gian nào cho thế nhân có thể suy đoán. Ta không chỉ phải ch/ết, mà còn phải ch/ết một cách rõ ràng minh bạch.
Chỉ khi ta quang minh chính đại ch/ết đi, mới có thể chứng minh sự trong sạch của Tiểu Ngộ, và cả sự trong sạch của chính ta. Nghĩ cũng thật lạ, dường như sự trong sạch trên thế gian này chỉ có thể chứng minh bằng cách như vậy.
Ta muốn dùng cách này để nói với thế nhân rằng, Tiểu Ngộ của ta là một người thanh liêm, trong sạch. Đệ ấy không hề hoang đường, luôn hiểu rõ luân thường.
Triều đại thịnh trị mà Thái tử và Thái tử phi để lại cho Tiểu Ngộ, đệ ấy đã cai trị một cách tốt đẹp, không hề sa đà vào vui chơi hưởng lạc nhờ vào thành tựu của đời trước.
Ta mong rằng hậu thế khi nhìn vào Tiểu Ngộ, sẽ nhớ đến công lao và tài năng của đệ ấy, chứ không phải những chuyện đáng chê cười giữa đệ ấy và thiếp thất. Ta vì điều này mà ch/ết, ta nguyện ý.
Ta là người nhà họ Tạ, nhà họ Tạ không có kẻ nào sống một cuộc đời tầm thường.
Tiểu Ngộ và các huynh trưởng của ta đều đang mang trên vai những chiến công của phụ thân, đều đang dùng cách riêng của mình để bảo vệ thiên hạ lê dân.
Ta chẳng qua cũng chỉ đang làm điều tương tự. Suy cho cùng, cái ch/ết của ta không thể trách ai.
Có trách là trách Tiểu Ngộ quá thân cận với ta sao? Nhưng ta là chỗ dựa cuối cùng của đệ ấy rồi.
Trách Thái Hoàng Thái hậu ban cho ta chén rượu độc sao? Nhưng bà cũng chẳng làm gì sai, cũng đã cho ta sự lựa chọn rồi.
Hay là trách tiên hoàng đã đưa ta vào Đông Cung? Nhưng trong mắt thế nhân, đây quả thật là một mối lương duyên tốt, Thái tử và Thái tử phi đã đối đãi với ta bằng cả tấm lòng rồi.
Ta sinh ra đã cao quý, hưởng mọi vinh hoa phú quý, lớn lên trong thời đại thịnh thế, và rồi cũng mất đi trong thời đại thịnh thế. Mọi người đều yêu quý ta, đó đã là sự may mắn lớn lao.
Vậy nên dù kết cục hôm nay có như thế nào, ta cũng không oán trách ai cả.
...
Chỉ oán một điều, Xuân Phong không thể trở về Ngọc Môn quan.
...
Chỉ là cuối cùng, rốt cuộc ai đang hát: "Nửa đêm mộng về quê nhà..."
Nửa đêm mộng về quê nhà...
Cửa sổ nhỏ,
Đang soi mình chải tóc...
Nhìn nhau không nói, chỉ có hàng ngàn giọt lệ rơi
~End~
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top