Khoa học tự nhiên

Niu-tơn, người đã vượt lên trên tất cả mọi thiên tài!

Nhà bác học vĩ đại Niu-tơn đã phát minh ra những định luật cơ bản của cơ học, định luật vạn vật hấp dẫn, định luật phân ly ánh sáng trắng và lý thuyết sóng - hạt của ánh sáng. Ông đã nghiên cứu ra phép tính vi phân và tích phân. Khi nghiên cứu về sự chuyển động của các vật trong chất lỏng nhớt ông đã tìm ra định luật về lực cản của chất lỏng nhớt tác dụng lên vật chuyển động trong nó. Để đo nhiệt độ, Niu-tơn đã thiết kế và chế tạo ra một trong số những nhiệt kế đầu tiên. Ông còn là người đi tiên phong xây dựng được một chiếc kính viễn vọng phản xạ. La-grăng-giơ có nói về ông như sau: “Ông là người hạnh phúc nhất, chỉ một lần thôi mà ông đã có thể lập nên một hệ thống thế giới”.

Chú bé I-xa-ắc ra đời vào mùa đông năm 1643 khi bão tuyết đang rít lên sầu não trên những mái nhà cao nhọn của thành phố Vun-xtép, Vương quốc Anh. Chú bé bị sinh thiếu tháng nên ốm yếu đến nỗi cha đạo Vác-na Xmit cho rằng chú khó lòng sống nổi. 

Nhưng chú cứ sống, cứ lớn lên và lạ lùng thay, suốt cuộc đời dài đằng đẵng của mình, I-xa-ắc hầu như chưa bao giờ mắc bệnh. Mãi đến năm 84 tuổi mới chỉ mất một cái răng. I-xa-ắc không biết mặt cha mình vì ông đã mất trước khi I-xa-ắc ra đời. Bố dượng của ông kể lại rằng bố đẻ ông là một người thô tục, kỳ dị và yếu đuối. Khi Niu-tơn lên ba, bố dượng cùng với mẹ đi nơi khác còn chú bé ở lại với bà nội. Hai bà cháu cứ sống với nhau như thế trong một ngôi nhà bé nhỏ ở nông thôn xây bằng đá xám, xung quanh có bờ dậu thưa bao bọc. Cậu đã học xong trường làng và có thể lấy làm thoả mãn về điều đó như bọn trẻ láng giềng. Một điều may mắn cho I-xa-ắc Niu-tơn là người thân đã gửi cậu về học tại trường Hoàng gia ở Gren-them, một thị trấn cách quê nhà mười cây số. 

Đó là chuyến đi đầu tiên của Niu-tơn. Ông là một người ít đi đây đó và suốt cả đời mình chưa bao giờ rời khỏi ngôi nhà thân yêu quá 180 cây số. Ông cũng chưa bao giờ vượt qua eo biển Măng-sơ và chưa xa đất nước Anh một ngày nào. Viết về ông kể cũng khó: Chẳng có chuyện gì mạo hiểm, rủi ro hoặc bất ngờ, chẳng có sự kiện nào kỳ lạ, chẳng có một va vấp hiếm có nào. Nếu trong một đám đông chắc bạn cũng chẳng bao giờ để ý tới một người ít nói, trông không có gì là sắc sảo, tầm vóc thấp bé, nhẹ cân, diện mạo quá đỗi bình thường. Theo moị người kể lại thì ông là một người khó bắt chuyện, có khi trong lúc đang chuyện trò ông thình lình lặng im và trầm ngâm suy nghĩ. Những lúc này đôi mắt lanh lợi sinh động của ông dường như ngưng đọng lại và đờ ra. Ông hay e thẹn, rụt rè trước mặt phụ nữ, có lẽ vì vậy mà mãi không lấy được vợ. Hồi còn đi học ở Gren-them, Niu-tơn say mê một thiếu nữ xinh đẹp, nết na. đó là tiểu thư Xto-ri. Cô ta là người con gái độc nhất trong đời mà ông yêu dấu. Ông giữ trọn lòng chung thuỷ đối với hình tượng tiểu thuyết này, thậm chí về già ông vẫn đến thăm cô gái Xto-ri nay đã trở thành bà lão. 

Tại trường trung học Tri-ni-thơ, cũng như trường Đại học Kem-brit-giơ, Niu-tơn cũng sống một cách bình thường, lặng lẽ, xa lánh những nhóm sinh viên vui vẻ. Ông cũng không hề tham dự các buổi dạ hội. Nếu có cần đến những nơi đó ông cũng không uống gì, chỉ ngồi như chiếu lệ. Niu-tơn học hành cũng bình thường, học lực thuộc loại trung bình. Chúng ta không thể hiểu được chỉ trong vòng có mấy năm mà bước ngoặt thần thoại đã biến cậu học trò tỉnh lẻ trở thành nhà nghiên cứu khoa học thực thụ và hoàn toàn tự lập này. Không có cách nào giải thích được sự biến chuyển đó, không có một tác động nào từ bên ngoài. Ta chỉ có thể phỏng đoán rằng quá trình này đã xảy ra một cách từ từ từng bước trong bộ óc thần thoại của ông. 

Sau khi thoát khỏi những tai hoạ khủng khiếp của bệnh dịch hạch (chỉ riêng tại Luân Đôn người ta đã phải hoả thiêu 31 ngàn xác người), ông đã trở về quê hương hai năm. Người ta gọi những năm này là “Mùa thu quả cảm đầy tự tin” của Niu-tơn. 

Ông làm việc cật lực. Các phép tính vi phân và tích phân được khai sinh tại đây. Trên chiếc bàn gỗ thô sơ mộc mạc, chỉ bằng một chiếc lăng kính ông đã phân ly chùm tia nắng, bóc trần bí mật quang phổ ánh sáng mặt trời. Cũng tại đây, bên dưới cửa sổ, cây táo nổi tiếng nhất thế giới đã mọc lên. Từ cây táo ấy quả táo nổi tiếng nhất thế giới đã có lần chín rụng báo trước cho Niu-tơn định luật vạn vật hấp dẫn. 

Ông đã biết những lực giữ cho mặt trăng đứng nguyên trên bầu trời mà mãi sau 20 năm thế giới mới biết đến đièu đó. Tính cách của ông cũng rất lạ là không thích xuất bản những công trình, tác phẩm của mình. 

Đến cuối đời, trực giác linh tính thiên tài đầy sáng tạo cũng không làm thay đổi được Niu-tơn. Ông quan sát rất lâu những tia lửa phóng ra từ cái kim và miếng hổ phách cọ xát vào len dạ. Theo ghi chép của ông thì chúng làm ông liên tưởng đến những tia chớp nhỏ bé. Ông cảm thấy mình đang đứng trước cửa một thế giới đầy bí hiểm - thế giới điện và từ. ông đã sẵn sàng mở toang cánh cửa đó ra nhưng không còn đủ thời gian. Năm tháng sẽ trôi đi, những người cùng tổ quốc với ông. Pha-ra-đây và Mắc-xoen, đã cống hiến cho loài người điều mà ông không kịp làm. 

Ngay từ khi còn sống, tài năng xuất chúng của Niu-tơn đã đựoc toàn giớ khoa học châu Âu công nhận. Năm 1699, Viện Hàn lâm khoa học Pa-ri lần đầu định ra thể thức bầu các viện sĩ nước ngoài và chọn ngay I. Niu-tơn làm viện sĩ nước ngoài thứ nhất. Tháng 11-1703, toàn thể Hội Hoàng gia Anh nhất trí cử ông làm Chủ tịch Hội và năm nào cũng bầu ông vào vị trí cao quý ấy cho đến khi ông qua đời. 

Từ đầu thế kỷ mười tám, Niu-tơn đã được đánh giá là một nhà bác học vĩ đại bậc nhất thế giới. Lý thuyết toán học mới do ông và Lây-nit-xơ xây dựng đã nhanh chóng phát triển thành một lĩnh vực quan trọng của toán học cao cấp hiện đại gọi là giải tích học. Các nhà bác học Bec-nu-li, Ơ-le, Lô-pi-tan, Tây-lơ, Mác-lâu-rin, Mô-péc-tuy, Cơ-le-rô, La-gơ-ran-giơ... đã hoàn chỉnh cơ sở lý luận và vận dụng có kết quả phương pháp toán học mới để nghiên cứu hàng loạt vấn đề thuộc các lĩnh vực khoa học kỹ thuật rất khác nhau. Niu-tơn xứng đáng được xếp vào danh sách gồm rất ít những người bất tử vĩ đại nhất thế giới từ cổ chí kim. 

Cho đến lúc già, Niu-tơn vẫn không ngừng làm việc. ông vẫn tiếp tục hoàn thiện các tác phẩm đã công bố, nêu lên những vấn đề còn phải nghiên cứu đồng thời cố gắng giải quyết các vấn đề đã nêu ra. Năm 1717, ông cho tái bản cuốn sách “Quang học” mà ông đã để hết tâm trí trong mười năm sửa chữa. Năm 1722, tức là lúc đã 80 tuổi ông bắt tay vào việc chỉnh biên tác phẩm “Những nguyên lý” chuẩn bị cho lần xuất bản thứ ba. Còn nhiều công việc đang tiến hành thì đầu năm 1727, bệnh sỏi thận và bệnh sưng huyết phổi đã buộc nhà bác học phải giao lại công việc này cho một người học trò là Pem-bơ-tơn để về nghỉ dưỡng bệnh tại một miền quê cách Luân Đôn không xa. 

Ba tuần lễ sau, nhà bác học thấy mình hơi khoẻ nên đã đi Luân Đôn và chủ trì cuộc họp của Hội Hoàng gia tổ chức vào tháng ba năm đó. Khi quay về nơi dưỡng bệnh, cơn đau đột nhiên trở lại. I-xa-ắc Niu-tơn ốm nặng và mê man bất tỉnh. Ngày 31 tháng 3 năm 1727, Niu-tơn qua đời tại Ken-xinh-tơn, gần thủ đô Luân Đôn. Thi hài nhà bác học được mai táng tại nghĩa trang nhà thờ Oét-minx-tơ là nơi an nghỉ cuối cùng dành riêng cho các bậc vĩ nhân nước Anh. Trên mộ chí của ông, người ta đọc được những dòng chữ khắc sâu sau đây: 

Đây là nơi an nghỉ của Tôn ông I-xa-ắc Niu-tơn, một con người có trí tuệ thiên thần, lần đầu tiên đã dùng phương pháp toán học của mình giải thích được sự chuyển vận và hình dạng của các hành tinh... 

Trường đại học Tơ-ri-ni-ti ở Kem-bơ-rít-giơ cũng dành cho người con ưu tú của mình một vị trí xứng đáng. Bức tượng bán thân của Niu-tơn được đặt tại mặt trước thánh đường, cao hơn tất cả các bức tượng những bậc vĩ nhân khác xuất thân từ trường đại học đó. Ngay dưới bức tượng sáng ngời dòng chữ:


MICHAEL FARADAY (1791 - 1867): NHÀ BÁC HỌC BIẾN TỪ THÀNH ĐIỆN

Michael Faraday (1791 - 1867), nhà vật lí và hoá học Anh. Xuất thân nhà nghèo, tự học thành tài. Bậc thầy về thực nghiệm. Phát hiện ra hiện tượng cảm ứng điện từ, xây dựng lí thuyết điện phân, nghiên cứu các chất điện môi, sự hưởng ứng tĩnh điện (màn chắn tĩnh điện), vv. Viện sĩ danh dự Viện Hàn lâm Khoa học Pêtecbua (1830).
Mai-cơn Pha-ra-đây là nhà bác học vĩ đại đã hiến dâng cuộc đời cho tất cả những máy phát điện và đi-na-mô trên thế giới. Nhiều năm về sau, nhà vật lý học Nga nổi tiếng Xtô-lê-tốp đã viết: “Sau Pha-ra-đây, thế giới chưa bao giờ được chứng kiến từ cùng một bộ óc phát ra những phát minh cừ khôi và muôn hình vạn trạng đến như thế. Hẳn thế giới sẽ khó mà thấy được một Pha-ra-đây khác trong những ngày tới đây”... 

Pha-ra-đây xuất thân từ một gia đình có bố là thợ rèn. Năm 12 tuổi, chứng kiến cảnh người cha đầm đìa mồ hôi, ráng sức nện buá lên những thanh sắt nung đỏ, trong không khí ngột ngạt và hơi nóng hầm hập phả ra từ bếp than. Cậu bé Pha-ra-đây hiểu rằng cha mình đã làm đến sức cùng, lực kiệt mà vẫn không đủ nuôi một gia đình đông con. Pha-ra-đây xin với cha cho thôi học để bớt gánh nặng trong nhà.

Ông tự lập bằng nghề bán báo dạo, rồi đưa báo đến những gia đình giàu có đặt mua. Trong số báo chí được chuyển đi có nhiều tờ thuộc danh mục khoa học. Cậu tranh thủ đọc nó trên đường đi đưa báo, rồi trích một số tiền ít ỏi để mua tờ tạp chí yêu thích nhất: Tạp chí hoá học. 

Qua sách báo, Pha-ra-đây đã nhìn thấy bức thành trì khoa học uy nghi trước mặt nhưng còn kín cổng cao tường với những người còn chưa có kiến thức. Từ lúc này, một ý nghĩ khát khao cháy bỏng cứ luôn ám ảnh trong đầu óc cậu bé là sẽ có một ngày bước chân được vào toà thành trì đó. 

Ông Mi-ra-bô là một chiến sĩ Cộng hoà Pháp phải sống lưu vong tại nước Anh là khách hàng quen thuộc của cậu bé đưa báo. Ông là chủ một hiệu sách và đóng sách thường thu nhận những cậu bé nghèo khổ vào làm việc. Thấy Pha-ra-đây ngoan ngoãn, lễ phép, ham học và có chí hướng, ông đã nhận cậu bé vào làm tại cơ sở của mình. Sau khi về nhà ông Mi-ra-bô, Pha-ra-đây đã có điều kiện sinh hoạt và học tập tốt hơn rất nhiều. Tủ sách nhà ông Mi-ra-bô đã cho phép Pha-ra-đây tìm hiểu thế giới khoa học đầy huyền bí. Ông chủ còn cho cậu dùng gầm cầu thang làm một phòng thí nghiệm đầu tiên khiến Pha-ra-đây thích thú vô cùng. Ông Mi-ra-bô là người có công nhen nhóm ngọn lửa khoa học trong khối óc đầy triển vọng của Pha-ra-đây để rồi ngọn lửa ấy bùng phát thành khát vọng nghiên cứu khoa học mãnh liệt. 

Một lần, có một giáo sư trung học về hưu đến cửa hàng mua sách. Pha-ra-đây đã đem những vướng mắc trong quá trình tự mầy mò nghiên cứu về môn hoá học ra hỏi. Vị giáo sư già đã cho phép Pha-ra-đây đến nhà và tận tình chỉ bảo. Ông đã dẫn dắt Pha-ra-đây từ những bước đi chập chững trên con đường nghiên cứu khoa học đầy gian khổ. Ông đã tặng cho anh tập giáo trình của nhà hoá học nổi tiếng thời bấy giờ là giáo sư Đê-vi. Qua các bài giải xúc tích, sâu sắc của giáo sư đã giúp anh xác định hướng tới của cuộc đời. Lòng khát khao kiến thức đã khiến cậu mạo muội viết cho giáo sư Đê-vi bầy tỏ nguyện vọng được thu nhận làm phụ tá. Lá thư này không được hồi âm. Được vị giáo sư già giới thiệu, Pha-ra-đây đã được phụ giúp giáo sư Clê-man, một nhà hoá học nổi tiếng người Pháp trong một buổi thuyết trình trước Hội Khoa học Hoàng gia Anh. Buổi thuyết trình thành công mỹ mãn có một phần quan trọng của nhân viên phụ giúp làm thí nghiệm là cậu bé làm tại hiệu đóng sách xuất thân từ một gia đình làm nghề rèn. 

Trước khi rời nước Anh về Pháp, giáo sư Clê-man đã chào từ biệt giáo sư Đê-vi và giới thiệu Pha-ra-đây với nhà hoá học lừng danh nước Anh. Ồng Đê-vi chợt nhớ ra một chuyện cách đây khá lâu, chàng trai này đã viết cho ông một lá thư kèm theo những thu hoạch, nhận xét về các bài giảng môn hoá học của ông. Trong bức thư ấy, có những nhận xét khá táo bạo và chính xác. Pha-ra-đây đã bầy tỏ trong thư “Gần 10 năm nghiên cứu hoá học, tôi hoàn toàn chỉ tự học, mầy mò làm lại các thí nghiệm vật lý và hoá học tìm thấy trong các sách giáo khoa hay các từ điển chuyên môn vì chưa từng học qua trung học.” Lúc này, giáo sư Đê-vi mới lập một phòng thí nghiệm tại nhà để tiện việc kiểm tra những phát minh của mình. Đê-vi quyết định cho Pha-ra-đây vào làm nhân viên giúp việc. Đúng lúc nhận được tin vui bất ngờ từ giáo sư Đê-vi, Pha-ra-đây lại gặp cảnh gia đình khó khăn. Cha Pha-ra-đây qua đời, gánh nặng gia đình dồn lên vai người con lớn, anh phải tìm cách kiếm tiền giúp mẹ nuôi các em. Có một người bạn đã tìm cho Pha-ra-đây chân quản gia cho người chú ruột với mức lương 80 stec-ling một tháng. Số tiền này sẽ đủ phụ giúp gia đình nhưng phải sống xa Luân-đôn, xa môi trường khoa học, phải hy sinh những ước mơ cháy bỏng ấp ủ bao lâu nay. Sau khi cân nhắc kỹ càng, Pha-ra-đây chấp nhận đến giúp việc cho giáo sư Đê-vi với mức lương 25 stec-ling. Với khoản thu nhập này, anh đã phải sống kham khổ, chi tiêu dè xẻn để có thể gửi về cho mẹ 10 stec-ling một tháng giúp gia đình. 

Từ đấy, Pha-ra-đây trở thành người giúp việc cho giáo sư Đê-vi, được ông cho phép dến nghe những buổi giảng dạy tại trường đại học và dự thính một số cuộc hội thảo của Hội Khoa học Hoàng gia Anh. 

Lần đầu tiên trong lịch sử nước Anh, cánh cửa tôn nghiêm của Hội Khoa học hé mở cho con một người thợ rèn vào ngồi với các nhà quý tộc. Đê-vi là một con người của “ánh sáng.” Trí thông minh của ông nhậy bén và linh hoạt khác thường. Anh nhân viên kỹ thuật điềm đạm ít nói tiếp thu như muốn nuốt hết kinh nghiệm của nhà hoá học xuất sắc Đê-vi. Tất cả những gì anh thấy tại Pa-ri và Flo-răng-xơ, những cuộc gặp gỡ với Am-pe và Gây Luýt-xắc, những chuyến dừng chân trên đường đèo qua núi An-pơ và miền núi lửa Vơ-du-vơ. Đối với Pha-ra-đây, tất cả những cái đó đều là phòng thí nghiệm lớn. Tâm trí anh không ngừng đắm chìm trong những đối chiếu, so sánh, phán đoán, kết luận. Ngay cả khi ngắm nhìn nhà hát ngoài trời Cô-ti-dê anh đã dùng chân để đo chu vi và đã xác định độ cao của nó. Từ một thanh niên rụt rè, nhút nhát, anh chuyển dần thành người ham mê quan sát, thí nghiệm.

Do có những đố kỵ với Nam tước phu nhân Đê-vi, Pha-ra-đây đã xin thôi việc tại phòng thí nghiệm và chuyển hướng nghiên cứu của mình sang môn vật lý. Ý định chuyển sang nghiên cứu vật lý đã có trong Pha-ra-đây từ năm 1820, bốn năm trước khi ông được bầu là hội viên Hội Khoa học Hoàng gia. 

Năm đó, các tạp chí khoa học đã công bố nhà vật lý Oersted đã phát hiện ra từ tính của dòng điện. Trước đó không lâu, nhà vật lý người Đức Rit-te dựa trên công việc của người học trò yêu quý Oersted đã tiên đoán tới năm 1820 sẽ có một phát minh xuất sắc. Vài tháng sau, A-ra-gô nhận xét thấy các vụn sắt bám vào dây dẫn. Sau đó, A-ra-gô và Am-pe đã chế tạo ra cuộn xê-lê-nô-it đầu tiên. Có thể biến từ thành điện đựoc không? Bài toán còn bỏ ngỏ này đã kích thích mạnh mẽ Pha-ra-đây suy nghĩ, tìm tòi. Sau 10 năm nghiên cứu, bắt tay làm hàng trăm thí nghiệm về điện, ngày 29-8-1831, khi đưa thanh nam châm vào cuộn xê-lê-nô-it, Pha-ra-đây khẳng định trong cuộn dây đã xuất hiện dòng điện. Nhờ tài năng tuyệt vời và lòng kiên nhẫn của Pha-ra-đây, chúng ta mới hiểu được mối liên hệ giữa điện và từ. Loạt công trình của ông lấy tên là “Các nghiên cứu thực nghiệm về điện” chỉ kết thúc vào năm 1851, hai mươi năm sau ngày công bố phát hiện quan trọng này. 

Pha-ra-đây là nhà bác học tự học, mọi phát minh của ông đều mang dấu vết đặc trưng của cuộc đời tìm tòi, sáng tạo. Giáo sư Đê-vi, người thầy đầu tiên đã sớm phát hiện thiên tài của Pha-ra-đây đã không dấu niềm tự hào tuyên bố: “Pha-ra-đây là phát minh lớn nhất của tôi”.
Suốt 50 năm hăng say tìm tòi và sáng tạo, Pha-ra-đây đã cống hiến cho khoa học rất nhiều phát minh có giá trị như hoá lóng clo, chứng minh bằng định luật bảo toàn điện tích đến phát hiện cảm ứng điện từ. Trên cơ sở phát minh của Pha-ra-đây, kỹ thuật vô tuyến điện đã ra đời và phát triển nhanh chóng. Pha-ra-đây đã tìm ra hai định luật về điện phân mở ra bộ môn kỹ thuật cho công nghệ mạ điện, đúc điện và luyện kim. 

Pha-ra-đây đã khám phá ra hiện tượng quay từ điện. Những động cơ điện được dùng rộng rãi trên trái đất là kết quả phát minh thiên tài của Pha-ra-đây. 

Cống hiến của Pha-ra-đây cho khoa học và lợi ích chung của nhân loại là vô giá. 

Pha-ra-đây là nhà bác học bình dân nhưng cũng là nhà bác học chân chính, không màng đến danh vọng, tước vị. Ông hầu như không tham dự các bữa tiệc sang trọng mà Hoàng gia dành cho giới quý tộc và các nhà khoa học danh tiếng. ông từ chối những chức vụ trong trường đại học, trong Hội Khoa học và từ năm 1987 ông không tham gia giảng dạy tại trường đại học vì nghĩ rằng những nghiên cứu khoa học có lẽ có ích hơn những bài giảng của ông. 

Cuối đời, Pha-ra-đây được Hội Khoa học Hoàng gia đề cử giữ chức Chủ tịch Hội. Nữ hoàng Anh ban cho tước hiệu nam tước, một lâu đài nhỏ và một món tiền lớn. ông nhận đến sống tại lâu đài cổ Ham-pton Court ở ngoại ô Luân-đôn vì suốt một đời cống hiến cho khoa học ông vẫn chưa có được một ngôi nhà. Số tiền thì ông dùng vào nghiên cứu khoa học và giúp đỡ sinh viên nghèo. Riêng tước vị quý tộc và chức Chủ tịch Hội Khoa học Hoàng gia thì ông từ chối. 
Ông đang tiếp tục nghiên cứu về năng lượng thì mắc phải căn bệnh bất ngờ là bị mất trí nhớ phải đi nghỉ tĩnh dưỡng. Sau một thời gian khá dài đi du lịch, ông vẫn không hồi phục được trí nhớ. Ngày 13 tháng 2 năm 1862, ông đã ghi chép lại thí nghiệm của đời mình, thí nghiệm số 16.041. 

Mùa hè năm 1867, có một người bạn tới thăm ông, lúc đó ông đã 76 tuổi. Người bạn hỏi:
- Bác cảm thấy trong người thế nào?

- Tôi đang đợi đấy – Pha-ra-đây mỉm cười trả lời.

Ông qua đời trên chiếc ghế mềm kê cạnh bàn làm việc. Sau khi ông mất, nhiều người còn nhắc lại rằng một thời gian dài ông thường xuyên mang trong túi một chiếc lò-xo bằng đồng nhỏ. Trong lúc quên bẵng cả những người đang nói chuyện với mình và chưa ăn sáng, tay ông vẫn vân vê chiếc lò-xo. Ông vẫn đắm chìm trong những suy nghĩ, những điều người khác không thể nào hiểu được. 

Nhờ có Pha-ra-đây, khi màn đêm buông xuống không còn ánh mặt trời, địa cầu vẫn lung linh sáng. 



NHÀ BÁC HỌC GOERGE STEPHENSON (1781-1848)

Thế kỷ XXI đã trải qua được khoảng thời gian tám năm, khoa học kỹ thuật vẫn tiếp tục phát triển như vũ bão. Có ai ngờ một thành quả khoa học từ thế kỷ XIX vẫn tiếp tục được coi trọng và phát huy sức mạnh của mình. Tên tuổi của Stephenson, người áp dụng kỳ tích máy hơi nước của nhà bác học James Watt vào giao thông vận tải đường sắt vẫn còn được nhớ mãi.
Thế kỷ XXI đã trải qua được khoảng thời gian tám năm, khoa học kỹ thuật vẫn tiếp tục phát triển như vũ bão. Có ai ngờ một thành quả khoa học từ thế kỷ XIX vẫn tiếp tục được coi trọng và phát huy sức mạnh của mình. Tên tuổi của Stephenson, người áp dụng kỳ tích máy hơi nước của nhà bác học James Watt vào giao thông vận tải đường sắt vẫn còn được nhớ mãi. Ngày nay, tuy các phương tiện giao thông đã phát triển nhưng đường sắt vẫn là huyết mạch giao thông chính của mỗi quốc gia. Ngay sau khi thống nhất đất nước 1975, Đảng và Chính phủ đã chú trọng khôi phục tuyến đường sắt Bắc-Nam. Trên nhiều tấm bản đồ, đường sắt được kẻ bằng nét màu đỏ như dòng huyết quản đảm bảo cho một đất nước phồn vinh và phát triển. 

Nhà bác học Anh Stephenson có ý tưởng chế tạo đầu máy xe lửa từ năm 14 tuổi khi đang làm phu trong hầm mỏ ở Newcastle. Hàng ngày phải gò lưng đẩy xe goòng chở than đến máng rửa, cậu bé Stephenson cứ ước ao là nếu có được một chiếc đầu máy kéo nó đi thì sung sướng biết bao. Vậy mà chỉ hơn 20 năm sau, Stephenson đã vượt qua các ước mơ thời niên thiếu, chẳng những chế tạo ra đầu máy xe lửa đầu tiên của loài người mà còn thực hiện xây dựng tuyến đường sắt nối liền hai thành phố công nghiệp quan trọng của nước Anh. 

Stephenson là con của một thợ máy bơm cần cù ở vùng mỏ Newcastle. Ngay từ khi mới mười tuổi, cậu đã tỏ ra có năng khiếu về máy móc thiết bị. Cha cậu thường kể: “Ngay từ khi còn bé, không có thứ đồ chơi nào làm cháu ham mê bằng “sáng tạo” ra những máy móc cho bọn trẻ cùng chơi. Nó có thể ngồi cả ngày không chán để xem tôi bảo dưỡng một cái máy bơm hoặc sửa chữa những hư hỏng vặt đến mức nó có thuộc tất cả các chi tiết máy, nhớ từng vị trí được lắp ghép.” 

Một hôm, đang làm việc ở dưới mỏ, Stephenson thấy cả cai lẫn thợ cứ nhao nhác nhắc nhau làm việc. Hoá ra sáng nay có ông chủ xuống kiểm tra công nhân làm việc. đó là một người to béo, vẻ đường bệ, tay cầm chiếc ba-toong bằng mây. Hoảng sợ, Stephenson đứng nép vào toa goòng nhưng vẫn bị ông ta nhận ra. Ông chủ quát:

- Thằng nhãi kia, mày làm gì ở đây? Muốn sống cút xéo ngay! (Lúc ấy, Stephenson mới mười bốn tuổi nhưng bé quắt như trẻ lên mười). Lúc này, viên cai vội thưa:

- Thưa ông, nó là Stephenson đẩy goòng thay cho một thợ bị ốm, công có sáu xu một ngày nhưng làm không kém người lớn! 

Nghe nói công có sáu xu tức là chỉ bằng nửa người lớn nên ông chủ không đuổi mà chỉ giơ ba-toong ra nẹt:

- Phải làm việc cho tốt không thì tao quất vào đít nghe chưa, nhóc con!

Ông ta không ngờ, bốn tháng sau lại gặp “nhóc con” trong một hoàn cảnh khác. 

Lần ấy, chiếc máy bơm lớn nhất của mỏ bị hỏng đã mấy tháng, không có máy để hút nước từ độ sâu dưới 20m lên khiến cho dưới hầm lò ngập úng rất nguy hiểm. ông chủ đã cho mời các tay thợ lành nghề, thậm chí cả kỹ sư về chữa nhưng chiếc máy bơm vẫn trơ ra không hề chuyển động. 

Những lần có thợ đến sửa máy, Stephenson đều lân la đứng xem, theo dõi họ làm một cách tỉ mỉ. Lúc này cậu bé đang bị thất nghiệp vì người thợ đẩy goòng bị ốm đã khỏi. 

Một lần, viên đốc công để ý thấy Stephenson suốt ngày lượn đi lượn lại quanh cái máy bơm. Thấy lạ, ông ta hỏi đùa:

- Thế nào, cháu có chữa được cái máy bơm này không?

Không ngờ, Stephenson gật đầu:

- Cháu chỉ cần một ngày là máy hoạt động được. Cháu biết vì sao nước không lên rồi.

Thấy Stephenson nói rất tự tin, viên đốc công hỏi lại:

- Cháu cam đoan chữa được máy chứ?

- Chắc chắn, nhưng phải để cháu làm một mình, cháu không muốn có bất kỳ ai xen vào.

- Thế thì được. Cháu bắt tay làm ngay đi.

Viên đốc công ra về, thầm nhủ là dầu sao máy cũng mãi không chữa được. Biết đâu thằng bé làm được thì ta lại có công lớn với ông chủ. 

Chẳng cần đến một ngày, đến chiều đã nghe thấy tiếng máy nổ, nước tuôn ào ào xuống chân núi. Viên đốc công chạy ra, há hốc mồm kinh ngạc. Ông ta vội đến báo ngay với chủ. Lúc họ đến thì Stephenson đang ngồi lau đôi bàn tay đầy dầu mỡ bằng chiếc giẻ bẩn thỉu. Cậu thấy cồn cào ruột gan vì từ sáng tới giờ chưa ăn uống gì. 
Ông chủ hỏi viên đốc công:

- Chính cậu bé này là người chữa được máy bơm đấy à?

- Thưa vâng, nó tên là Stephenson.

Ông chủ đến xoa đầu Stephenson, khen:

- Cháu giỏi lắm, ta thưởng cho cháu mười bảng!

Nhìn Stephenson, ông ta ngờ ngợ: “Hình như ta đã gặp cậu bé này ở đâu rồi thì phải?”

Viên đốc công vội thưa:

- Stephenson đã được thuê xuống đẩy goòng thay một công nhân bị ốm, hôm ấy ông chủ có xuống kiểm tra. 

Ông chủ tấm tắc khen: “Ta nhớ tồi, Stephenson, sau này cháu sẽ nên người đấy!” 
Đối với Stephenson, mười bảng tiền thưởng là quá lớn đối với cậu trong khi đẩy goòng toát mồ hôi suốt ngày chỉ được trả có sáu xu! Cậu đâu có biết ông chủ mỏ đã bỏ hơn một trăm bảng thuê thợ sửa mà chiếc máy bơm vẫn nằm chết dí suýt nữa thì đã bị vứt vào đống phế thải. 

Có tiền, Stephenson mua nhiều sách công nghệ chế tạo máy rồi vừa đi làm vừa tự học. Suốt mấy năm ròng, anh đã thi đỗ vào Trường Đại học kỹ nghệ, bốn năm sau, tốt nghiệp kỹ sư chế tạo máy. Lúc này, Stephenson đã gần 30 tuổi. 
Đây là lúc Stephenson có điều kiện để thực hiện được ứoc mơ từ nhỏ còn đẩy xe goòng. Lúc này, nhà bác học James Watt đã sáng chế thành công máy hơi nước hiện đại. Người ta đã áp dụng thành quả khoa học của ông, sử dụng máy hơi nước làm chuyển vận tàu thuỷ. Trên những dòng sông đã xuất hiện những con tàu nổi sóng, lướt đi trên sông mà không cần đến một cánh buồm như bao đời truyền lại. Stephenson ưu tư, tại sao không sử dụng máy hơi nước này truyền lực cho một đầu máy. Đấy chính là tiền đề cho sự ra đời của chiếc đầu máy xe lửa chuyển vận bằng thiết bị hơi nước đầu tiên. 

Suốt mấy năm ròng, ông lao vào nghiên cứu chế tạo. Nhà ông chất đầy những bao tải bản vẽ thiết kế bao gồm từ kiểu dáng đầu máy đến các chi tiết kỹ thuật của thiết bị. Biết bao gian nan đã trôi qua, cuối cùng, bản thiết kế kỹ thuật của đầu máy xe lửa đầu tiên trên thế giới đã hoàn thành. Từ thiết kế đến chế tạo còn là một chặng đường đòi hỏi nhiều vấn đề như trí tuệ, sức lực...Nhưng chủ yếu là tiền, là kinh phí dành cho việc chế tạo. Nhờ một chủ xưởng dệt tại Manchester có đầu óc nhìn xa thấy được tiềm năng to lớn của phát minh này đã đồng ý cho Stephenson vay tiền để thực hiện. Suốt mấy tháng trời lăn lộn tại xưởng chế tạo. Cuối cùng, Stephenson đã xuất xưởng thành công đầu máy xe lửa và cho chạy thử. Kết quả hoàn toàn mỹ mãn khiến cho ông mơ tưởng đến một ngày gần đây, nhiều tuyến đường xe lửa sẽ xuất hiện ngang dọc khắp đất nước Anh. 
Sau khi sáng chế ra đầu máy xe lửa, nhà bác học Anh Stephenson đã phải chạy vạy để thuyết phục nhà cầm quyền hai thành phố và Nghị viện nước Anh chấp nhận đề án xây dựng một tuyến đường sắt dài 50 km nối thành phố dệt Manchester với thành phố cảng Liverpool. Người Anh vốn nổi tiếng là bảo thủ, giới quý tộc càng bảo thủ hơn nữa. Mọi sự cách tân đối với họ đều bị coi là phá vỡ truyền thống cổ điển. Thời bấy giờ, người ta còn chưa biết đến phương tiện nào nhanh hơn ngựa, tiện hơn ngựa. Để minh chứng cho thành tựu mới của mình, Stephenson đưa ra một ý tưởng là tổ chức cuộc thi giữa đầu máy xe lửa với một tốp ngựa đua giỏi nhất! Ông khẳng định, đầu máy xe lửa sẽ thắng bất kỳ con chiến mã nào hay nhất. 

Lời thách thức này đã gây ra chấn động dư luận và tạo ra một vụ cá cược lớn vào ngựa đua hay chiếc đầu máy xe lửa của Stephenson. Cuối cùng thì ngày ấy cũng đã đến, cuộc đua đã diễn ra vô cùng hào hứng. Người ta để chiếc đầu máy xe lửa chạy từ từ đến vạch xuất phát rồi mới bắt đầu nổ súng khai mạc cuộc đua. Ban đầu, khi đầu máy chưa chạy hết tốc độ thì các con ngựa đã vượt lên trên con đường chạy song song với đường sắt, sau đó, đầu máy băng băng đuổi kịp bầy tuấn mã rồi vượt lên trước. Không gì bằng thực tế chứng minh. Rất nhanh chóng người ta đã chấp nhận đề án xây dựng tuyến dường sắt Manchester – Liverpool do kỹ sư Goerger Stephenson làm Tổng chỉ huy. 

Một công ty đường sắt được thành lập nhằm huy động vốn của các ông chủ nhà máy, chủ đồn điền. Những trở ngại cuối cùng về lãnh địa của một số bá tước cố hữu, bảo thủ mà tuyến đường sắt đầu tiên trên thế giới Manchester – Liverpool chạy qua cũng đã được giải quyết xong. Người ta nóng lòng chờ ngày khai trương tuyến đường sắt dài 50 cây số này. 

Và ngày ấy cũng đã đến. Một đoàn tàu gồm mười toa chở đầy bông, sợi đã sẵn sàng xuất phát từ Liverpool, đích thân nhà khoa học Stephenson, người tài-xế xe lửa đầu tiên trên thế giới lái chiếc đầu máy xe lửa mang tên “Hoả tiễn”. Sau lời chào mừng, Thị trưởng Liverpool cắt băng khánh thành tuyến đường sắt đầu tiên trên của loài ngươi. Đoàn tàu ầm ầm chuyển động về hướng Manchester trong tiếng reo hò cổ vũ của hàng vạn người tập trung hai bên đường chào đón sự kiện lịch sử này. Sau ba tiếng đồng hồ, đoàn tàu đã đến Manchester trong tiếng reo hò vang dội. Con tàu như báo hiệu bình minh, chẳng bao lâu, các tuyến đường sắt đã nối nhau chạy ngang dọc khắp đất nước Anh và lan toả khắp nơi trên thế giới. 

Vinh quang của Georger Stephenson đã lên đến tột đỉnh không kém gì vinh quang của James Watt, người đã sáng chế ra máy hơi nước lịch sử. 

Sự nghiệp của Stephenson không chỉ phát minh ra đầu máy xe lửa. Stephenson đã mở ra cuộc cách mạng trong nền kinh tế châu Âu, tạo điều kiện cho sự phát triển vũ bão của công nghiệp và khoa học kỹ thuật trong thế kỷ XIX. Để ghi nhận cống hiến vĩ đại của Stephenson, người ta đề nghị dành cho ông một ghế trong nghị viện, đề nghị Nữ hoàng tặng Huân chương Hiệp sĩ, đề nghị phong Nam tước nhưngg tất thảy ông đều từ chối và trả lời họ rằng:
Tôi thấy chẳng cần gì những điều đó. Bản thân tôi chỉ là Goerger Stephenson, thế là đủ.

Đúng như vậy, tên tuổi nhiều nghị viên, hiệp sĩ, bá tước... rồi đều bị lu mờ. Riêng tên tuổi nhà phát minh vĩ đại Goerger Stephenson vẫn còn lưu lại sử xanh mãi mãi. 


Thomas Edison - Nhà phát minh vĩ đại của nhân loại 


Thomas Edison 


Thomas Edison sinh năm 1847 tại tỉnh Milan, bang Ô-hi-ô (Hoa Kỳ). Khi lên 5 tuổi, gia đình ông chuyển sang sống ở Po Hu-rôn thuộc bang Michigân. Thuở bé, Tôm (tên thân mật của Edison) là một chú bé luôn tìm hiểu mọi vật quanh mình và muốn hiểu thấu đáo các vật đó. Cái gì cũng làm cậu ngạc nhiên. Nếu không hỏi ai được thì tự mình tìm cách trả lời. Ngay từ bé cậu đã say mê với các cuốn sách và tập làm thí nghiệm. Nhưng chính sự tò mò này đã làm cậu sớm phải rời khỏi trường học. Chuyện là thế này: Vào năm Edison học lớp bốn tiểu học, một hôm cậu xin được hai lọ nhỏ: một lọ đựng Axit, một lọ đựng Amôniac. Tôm muốn làm thí nghiệm xem hai chất đó có hoà tan được với nhau không. Nhưng vì phải ba tiếng sau buổi học mới kết thúc mà cậu nóng lòng muốn thí nghiệm ngay, thế là Tôm quyết định làm ngay ở trường. Khi hai chất này được đổ lẫn vào nhau, lập tức có một tiếng nổ bụp và một làn khói trắng đặc sệt bốc lên mù mịt cùng một mùi khó ngửi. Làn khói lan đi khắp trường, các bạn học sinh chạy ùa đi và hô cháy. Thực ra không hề có ngọn lửa vì Axit phản ứng với Amoniac chỉ sinh khói. Lính cứu hoả đến phun nước khắp trường. Khi “đám cháy” được dập tắt người ta truy tìm thủ phạm và thế là Tôm bị đuổi học. Nhà bác học vĩ đại của nhân loại này chỉ được học đúng đến lớp bốn tiểu học. Về nhà Tôm bị cha đánh cho một trận ra trò. Dưới con mắt của cha và mọi người, Tôm là một thằng bé loạn trí, chỉ có mẹ là luôn thông cảm và yêu quý Tôm, bà tin rằng Tôm sẽ trở thành người có ích. 

Bị đuổi học, Tôm phải sống một cuộc sống rất nặng nề, cha thường xuyên đánh, bạn bè thì chế giễu. Tuy thế lòng ham học của Tôm không hề giảm sút, trong căn hầm nhỏ của ngôi nhà - nơi mà Tôm biến thành phòng thí nghiệm, em vẫn miệt mài đọc các sách lý hoá và dần dần em đã đi sâu vào môn khoa học đó. Một sự việc bất ngờ xảy ra đã đưa cuộc đời Tôm sang một bước ngoặt. Hôm đó Tôm và chị gái Tania ra ga chơi. Lúc đó một điện báo viên nhà ga có vợ và con đến thăm, ông ta chạy ra đón con rồi vào làm việc tiếp, để cậu con 3 tuổi chơi quả bóng. Bất ngờ quả bóng tuột khỏi tay cậu bé, lăn vào giữa hai thanh ray đường tàu và mắc ở đấy. Cậu bé ngồi gỡ, vừa lúc ấy một đoàn tàu lao vào ga với tốc độ nhanh. Muộn mất rồi, không thể chạy đến kéo bé ra. Đúng lúc ấy Tôm quyết định lao ra nằm úp sấp lên em bé, ép chặt em xuống đất. Đoàn tàu chạy ầm ầm trên đầu hai em. Mọi người há mồm, đứng sững kinh hãi. Khi tàu chạy qua, Tôm và em bé đứng lên bình yên vô sự. Người cha em bé đang nhủn người đi vì đau đớn bỗng sướng như điên, ông ôm Tôm vào lòng và định biếu Tôm ít tiền để ăn quà. Tôm từ chối số tiền đó, cậu ngỏ ý muốn học nghề điện báo. Dĩ nhiên người điện báo viên đó đồng ý. Chỉ một thời gian ngắn cậu bé học nghề đó đã vượt thầy. Không những thế Tôm còn làm được cả một máy điện báo xinh xinh dùng được, bằng toàn ống bơ và hộp sắt. Đây là sáng chế đầu tiên của cậu bé thiên tài Edison. 

Nhưng cha cậu - ông Samuen Edison, không hài lòng chút nào. Với ông, những trò của cậu con thật vô bổ, nó coi thường những lời dạy bảo của ông. Một buổi chiều ông Samuen bắt Tôm phải vứt tất cả mọi đồ thí nghiệm của em đi. Tôm quá bực dọc nên quyết định bỏ nhà ra đi. Khi cậu vừa ra khỏi nhà thì mẹ cậu đột nhiên nổi cơn đau bụng dữ dội, lúc ấy cha cậu đi xa chưa về. Chị gái cậu là Tania chạy ra ga kịp gọi Tôm về. Tôm lập tức đi gọi bác sĩ còn Tania lên tàu đi Đi-tơ-roi để tìm anh trai cả là Bin. Bác sĩ đến chẩn đoán mẹ Tôm bị đau ruột thừa phải mổ gấp nhưng lúc ấy trời đã tối, mổ trong ánh sáng tù mù rất nguy hiểm, bác sĩ loay hoay không biết phải làm sao. Tôm chợt nghĩ ra một cách: Cậu đến hiệu tạp hoá định mượn một cái gương to nhưng cửa hiệu đã đóng. Không chút do dự, cậu đập vỡ cửa kính bê cái gương ra. Cậu để gương lên bàn, đốt tất cả các đèn nến để trước gương, ánh sáng phản chiếu từ gương hắt lên hố định dùng làm bàn mổ sáng như ban ngày. Bác sĩ rất mừng, ông lập tức bắt tay vào việc, và mẹ cậu đã được cứu thoát khỏi cơn hiểm nghèo. 

Trưa hôm sau, Tôm ra ga đón chị Tania và anh Bin. Cả nhà ga cũng lo sợ vì vừa nhận được điện báo chiếc cầu trên đường Pathurôn - Đi-tơ-roi bị gãy mà tàu số 7 đang lao vùn vụt trên theo hướng đó. Trên tàu ấy có cả anh Bin và chị Tania. Mọi người ở nhà ga kêu khóc và chạy lung tung, bối rối không biết phải làm sao. Lúc đó, một đầu tàu đi qua chợt kéo một hồi còi dài, một hồi còi ngắn để dẹp đường. Tiếng còi đã làm Tôm nảy ra một kế: cậu chạy đến chiếc tàu, đến bên chiếc tay quay để kéo còi, em kéo từng hồi còi theo tín hiệu moóc-xơ cho Tania: “Tania, hãm tàu lại, cầu gãy”. (Tania đã được Tôm dạy cho biết tín hiệu moóc-xơ). Trong lúc ấy, Tania đang trên tàu số 7, và thiu thiu ngủ, chợt cô nghe mơ màng như tiếng còi gọi đúng tên cô. Đúng rồi, Tôm đang đánh điện nhắc cho cô. Tania chạy vụt ra cửa toa bảo bác lái tàu hãm lại. Bác lái lúc đầu không chịu, tưởng em ngủ mơ nhưng Tania hét toáng lên khiến hành khách hoảng hồn. Bác lái đành hãm tàu lại cách chỗ cầu gãy gần 1 km và cho chạy từ từ. Hú vía, quả là cầu bị nước cuốn trôi, chỉ chút xíu nữa là cả đoàn tàu lao xuống sông, may mà Tôm báo kịp. 
16 tuổi, Edison lên tỉnh lị Đi-tơ-roi làm điện báo viên, ít lâu sau cậu chuyển sang làm điện báo ở Xitơratpho. Nhưng không lâu sau Tôm nhận thấy rằng công việc đó không thú lắm, vất vả mà lương chỉ vỏn vẹn 25 đô la một tháng, chủ công ty lại là người khắc nghiệt. Edison bỏ đi Mi-chi-gân, đang lang thang không một xu dính túi thì vừa hay đường dây điện báo từ công ty Mi-chi-gân tới ga Ađơrian bị đứt, không tìm được người nối dây vì lúc ấy giữa trưa. Tôm liền xin chữa. Xong công việc giám đốc công ty nhận Tôm vào làm với mức lương 80 đô la một tháng. Nhưng chỉ một thời gian ngắn Tôm mất việc vì một sự bất ngờ: giám đốc sai cậu điện tới ga một tin khẩn, đường dây lúc đó đang bận, Tôm xin cắt đường dây để điện đi, Giám đốc đồng ý, nhưng ông Tổng Giám đốc biết chuyện bèn gọi Tôm lên quát nạt và sa thải (vì chỉ có Tổng giám đốc mới có quyền cho cắt đường dây), ông giám đốc hèn nhát không dám bênh Tôm. Thế là Tôm lại ra đi, anh đã trải qua nhiều chỗ làm nhưng ở đâu anh cũng bị bóc lột tàn tệ, chế độ làm việc khắc nghiệt. Tôm chẳng có thời gian suy nghĩ làm các thí nghiệm. Vả lại ước mơ của Tôm đâu phải suốt đời làm một điện báo viên, trong đầu anh có biết bao dự định. Anh đã đi NewYork - thành phố lớn nhất nước Mỹ, anh hy vọng thành phố lớn ấy có thể tạo cho anh con đường thoát khỏi mọi khó khăn bế tắc. Edison may mắn xin được vào làm ở công ty Gôn Ri-pôt-tinh, một công ty chuyên theo dõi giá vàng trên thị trường. Để làm được điều này công ty có những tổng đài điện báo khổng lồ, khó vận chuyển và bảo quản, hay hỏng hóc. Anh nhận được chân kiểm tra máy móc với mức lương khá hậu hĩnh. Công việc rất bận, làm 20h mỗi ngày, khiến anh bị kiệt sức rất nhanh. Vậy là sau một thời gian, tích luỹ được chút vốn, Edison đã cùng một người bạn là Flanklin Pop mở chung một văn phòng chuyên hướng dẫn về điện, xây lắp, bảo quản và sửa chữa đường dây điện báo, đường dây cáp, nguồn điện… Công việc của họ khá chạy. Điều quan trọng là Tôm được chủ động trong công việc của mình và không bị ai bóc lột. Năm ấy Edison 22 tuổi, cũng từ đây được giải phóng sức lao động của mình, Edison cho ra đời hàng ngàn phát minh. 

Công trình đầu tiên mà Edison làm là hoàn chỉnh hệ thống điện báo nhận các tin tức hối đoái ngân hàng. Đó là chiếc máy Tic-cơ do Lao-xơ phát minh năm 1867. Flanklin Pop cải tiến vài bộ phận nhỏ, sau đó năm 1869, Edison cải tiến thêm cho thật hoàn chỉnh. Đó là loại máy điện báo duy nhất hồi đó nhận nhanh các tin tức hối đoái ngân hàng. Tin đồn hoàn chỉnh máy Tic-cơ lan đi rất nhanh trong các giới liên quan đến ngân hàng. Lep-phe, một chủ tư bản hồi ấy đã quyết định mua lại của Edison chiếc máy ấy cùng với tất cả hồ sơ lý lịch của máy. Lep-phe hỏi giá máy định tính là bao nhiêu. Edison nghĩ mãi: ba ngàn hay năm ngàn đô. Ba ngàn thì ít mà năm ngàn thì hơi cao. Lưỡng lự mãi, anh trả lời rằng tuỳ Lep-phe định giá. Lep-phe đã trả Edison số tiền mà anh hết sức kinh ngạc: 40 ngàn đô la. Từ đó Edison rút ra kinh nghiệm không nên nói giá phát minh mà để người mua trả trước. Nhờ số tiền này mà Edison đã mở được một xưởng nhỏ chuyên làm theo hợp đồng, công việc rất phát triển, anh phải thuê thêm tới 50 công nhân. Anh em công nhân trong xưởng của Edison được hưởng mức lương cao, tinh thần lao động thoải mái. Từ một xưởng, dần dà Edison phải mở tới ba xưởng mới làm hết việc. Có những công ty điện báo ký hợp đồng vĩnh viễn với Edison về việc trông coi, sửa chữa máy cho họ. 

Edison hăng say làm việc đến nỗi xảy ra một giai thoại hy hữu: Ông quên cả ngày cưới của mình. Trong ngày cưới, ông bỏ mặc quan khách chờ đợi, bỏ xuống phòng thí nghiệm nghiên cứu tiếp chiếc máy. May mà cô dâu biết, cô bảo anh trai cô xuống phòng thí nghiệm tìm. Sau khi lập gia đình, Edison càng hăng say làm việc, tên tuổi ông nhanh chóng vượt ra khỏi khuôn khổ nước Mỹ. Năm 1873, nhận lời mời của Tổng công ty bưu điện Anh, Edison đáp tàu sang Anh. Trong chuyến đi này ông đã thí nghiệm thành công việc đặt máy liên lạc giữa Luân-đôn và Li-vơ-pun. Về nước, Edison lại lao vào những tìm tòi, phát minh mới. Kết quả là chỉ từ năm 1873 đến 1876 ông đã đệ trình tới 45 phát minh lên cơ quan “Tổng quản lý các phát minh và sáng kiến” Mỹ để cấp bằng. Mùa hè năm 1875, Edison viết thư mời cha về ở cùng. Ông Samuen khi ấy đã ngoài bảy mươi, nhận được thư con, ông đi ngay. Tuy già nhưng ông còn rất khoẻ, ông đã giúp con trai trông coi xưởng máy. Ông già còn tìm giúp con trai một khu đất rộng, đẹp, thuận tiện, cách New York 25 dặm, có tên là Menlô Pac- một làng nhỏ và khá đẹp để Edison xây dựng, mở rộng xưởng của mình. Từ đây, Edison cho ra đời rất nhiều phát minh. Edison ký hợp đồng với một liên đoàn sản xuất máy điện thoại nhằm cải tiến loại máy này. Hồi đó điện thoại chỉ nói chuyện và nghe rõ trong một khoảng cách gần. Edison dùng than nguyên chất làm màng rung ở ống nói và thêm một cuộn cảm ứng vào trong máy. Nhờ màng than có độ nhạy cao và tiếp xúc tốt nên dòng điện ở ống nói biến đổi rất đúng với tiếng nói gốc. Nhờ cuộn cảm ứng mà dòng điện một chiều của ống nói được biến đổi thành dòng điện xoay chiều rồi đưa lên đường dây và truyền đi rất xa. ít lâu sau Edison sáng chế ra một số kiểu máy điện thọai khác như điện thoại dùng điện xoay chiều, điện thoại từ thạch, điện thoại cộng điện, điện thoại chạy bằng pin nước, điện thoại chạy bằng pin khô… 

Một phát minh nữa lại ra đời: ống nói. Một nghiệp đoàn ở Anh vội đánh điện cho Edison: Mua phát minh ống nói, trả ba vạn. Edison đồng ý bán, nhưng khi nhận tiền ông ngạc nhiên thấy ngân phiếu là 75 vạn đô la. Thì ra ba vạn trong ngân phiếu là ba vạn Lia Xiteclinh, quy ra đô la là 75 vạn. Phát minh nối tiếp phát minh và tiền cứ đổ về với ông như nước chảy. Ông phải đặt một văn phòng kế toán ở Menlô Pac gồm 10 người để họ tính toán tài sản thay ông. 
Chế tạo được máy ghi âm - thành công chấn động nhân loại 
Từ năm 1877 khi nghiên cứu cải tiến chiếc máy điện thoại tự động, Edison cứ suy nghĩ mãi làm sao giữ được tiếng nói. Ông nhận xét thấy mỗi lần để mũi kim trượt trên một băng bằng kim loại có những rãnh, những lỗ khác nhau thì lại thấy những âm thanh khác nhau phát ra. Đến khi thực hiện cải tiến máy điện thoại, ông lại hiểu thêm rằng những rung động nhẹ của âm thanh có thể truyền đi được bằng dòng điện, như vậy tất phải ghi nó lại được. Thế là ông quyết định làm bằng được “chiếc máy biết nói”. Biết được quyết định này của ông, người thì bảo ông nuôi ảo tưởng, người thì bảo ông suy nghĩ quá hoá rồ, kẻ thì bảo ông ngông cuồng muốn chiếm cả quyền tạo hoá. Mặc, Edison chỉ bảo họ rằng: “Nếu như vậy bao giờ ta mới chế ngự được thiên nhiên”. Sau hai tuần lễ miệt mài trong phòng thí nghiệm, một hôm Edison mời tất cả mọi người vào phòng thí nghiệm. Một chiếc máy kỳ dị đặt trên bàn, Edison mở đầu: “Ai yếu tim thì xin ra ngoài kẻo tôi không chịu trách nhiệm về tính mạng người đó đâu nhé”. Mọi người nhìn nhau, ai cũng rờn rợn, lo sợ, tim đập gấp trong lồng ngực. Edison mở máy và đột nhiên một bài hát quen thuộc của thời đó vang lên rõ ràng “Cô Ma-ri-a có một con cừu bé”. Ai nấy kinh hãi sững người, hết nhìn máy lại nhìn Edison, một người nào đó bảo: “Đức Chúa đã giáng thế”. Khi Edison thông báo cho thế giới biết phát minh của mình thì không ai tin cả, ngay đến ông chủ nhật báo Khoa học Mỹ cũng khăng khăng đó không phải là sự thật. Edison liền mang máy đó đến tận phòng ông ta và mở máy cho hát vang lên những bài ca do chính Edison hát và máy ghi lại. Ông này vội vàng kêu lên: “Ngừng máy lại, trời sụp bây giờ đây này”. Hôm sau trên trang nhất các tờ báo ở Hoa Kỳ đều đăng trang trọng những tít lớn về “Chiếc hộp biết hát”, người ta tranh cướp nhau những tờ báo để đọc, càng đọc càng ngạc nhiên không hiểu nổi. Phát minh này truyền sang châu Âu khiến cả châu lục này ngạc nhiên, nhiều giai thoại thú vị phát sinh quanh chiếc máy này, chẳng hạn ở Nga người ta sợ hãi gọi đây là “chiếc hộp ma quỷ”. Tiếng đồn cũng vang đến tai đức giáo chủ Vanh Xanh ở New York. Giáo chủ không sao tin được nên đến tận nơi đề nghị Edison ghi và phát lại chính tiếng nói của giáo chủ. Sau khi giáo chủ xem xét kỹ … gầm bàn, gầm ghế xem có ai nấp ở đó không, cuối cùng giáo chủ e hèm dọn giọng rồi tuôn ra hàng tràng tiếng La tinh nhanh như gió. Xong việc, giáo chủ xoa tay: “Nào, bây giờ ông cho máy nói thử xem”. Edison mở máy, cái máy đầu tiên cũng e hèm dọn giọng rồi nhắc lại tràng tiếng la tinh đó nhanh y như thế. Giáo chủ sững sờ không đứng lên nổi, người bảo: “Cho đến nay cả nước Mỹ này chưa có ai nhắc lại những lời vừa rồi của cha đâu nhé”. “Nhưng có máy của tôi làm được” - Edison mỉm cười đáp. 

Thoả mãn trong việc giữ lại tiếng nói, Edison tập trung vào nghiên cứu bóng đèn điện bởi vì ông rất khó chịu khi buổi tối cứ phải làm việc trong ánh đèn dầu tù mù. Ông nhiều đêm mất ngủ vì cái dây tóc bóng điện, nhiều nhà vậy lý đã loay hoay thí nghiệm tìm cái dây tóc bóng điện nhưng đều thất bại. Sau rất nhiều thí nghiệm, Edison nhận thấy chỉ có sợi bông là có vẻ bền hơn cả. Và ngày 21/10/1879, đèn điện ra đời. Cả phòng thí nghiệm hồi hộp theo dõi đôi bàn tay quý giá của Edison. Hai đầu dây điện vừa chập lại với nhau thì một luồng ánh sáng trắng, chói loà như chớp bừng lên. Đèn điện sáng đúng 47 tiếng mới tắt. Tin thành công trong việc chế tạo đèn điện lan truyền khắp chốn. Người ta kéo về Menlô Pác xem bóng đèn điện đông như hội. Đèn điện ra đời đã đem ban ngày thay thế cho ban đêm. Chỉ một thời gian ngắn sau, khắp New York đã được dùng đèn điện. Sau thành công đèn điện, nhờ một sự tình cờ, Edison phát minh ra xe điện. Số là có nhiều người đến xem đèn điện, trong đó có một cụ già đi bộ tới 12 dặm, cụ ngồi nghỉ bên đường và vừa bóp chân vừa đấm lưng. Đúng lúc ấy Edison đi qua, thấy bà cụ thế ông bèn dừng lại hỏi thăm. Bà cụ bảo giá mà Edison nghĩ được cái xe không cần ngựa kéo mà vẫn đi được thì tốt. Thế là trong óc Edison loé lên ý nghĩ làm xe điện. Chỉ cần ba tuần sau xe điện đã ra đời. 

Giải quyết xong việc chế tạo đèn điện, Edison lại nghiên cứu tiếp việc giữ lại hình ảnh. Sau nhiều thí nghiệm, cuối cùng Edison đã thành công trong việc chụp nhiều hình ảnh liên tiếp trên cùng một băng nhựa. Cũng như lần trước, những người cộng tác với ông và công nhân trong xưởng là những người đầu tiên được xem thành tựu của ông. Hôm ấy Edison mời mọi người vào phòng kín “xem chiếu bóng” : những hình ảnh quen thuộc hàng ngày như những hàng cây trong vườn, đặc biệt là chúng lay động khi gió thổi. Và kìa, một con chó vẫy đuôi. Cuối cùng mọi người ngạc nhiên đến kinh sợ khi thấy Edison xuất hiện trên truyền hình, ông đi đi lại lại, ngã mũ chào. Rồi thì vợ con ông chơi bóng… Đèn bật sáng, mọi người hoan hô và xô lại chúc mừng thành công mới của ông. Tiếp đó Edison phát minh ra đèn ống. Với phát minh này, Edison đã đi bước đầu tiên khám phá ra điện tử. Sau ba năm, Edison đã nhận thêm một bằng phát minh về vô tuyến điện báo. Rồi nền công nghiệp nặng của Hoa Kỳ bắt đầu phát triển mạnh. Các nhà máy, xí nghiệp đòi hỏi số lượng sắt ngày một nhiều. Edison đã góp phần thúc đẩy sự phát triển đó khi nghiên cứu thành công phương pháp lấy sắt khỏi quặng bằng từ trường. 

Năm tháng trôi qua, phát minh nối tiếp phát minh, Edison chẳng bao giờ chịu nghỉ. Hầu như lúc nào Edison cũng bận rộn với các thí nghiệm, với các ý nghĩ nối tiếp nhau không dứt. Những năm cuối đời, bệnh tình Edison ngày càng nặng nhưng ông vẫn cố gắng làm việc nhiều hơn, có khi suốt đêm trong phòng thí nghiệm. Thầy thuốc và gia đình cố bắt ông nghỉ nhưng cứ xểnh ra lúc nào là ông lại xuống phòng thí nghiệm. Sáng hôm ấy như thường lệ, vợ ông chờ ông ở phòng ăn sáng nhưng mãi không thấy. Bà xuống phòng thí nghiệm gọi ông thì ông đã chết từ khi nào. Đó là ngày 18 tháng 10 năm 1931. Cả bang Vét Orangiơ để tang, cả nước Mỹ đau thương, báo chí mang dải băng tang. Những chiếc máy điện báo - phát minh của ông đã loan báo tin buồn ra khắp thế giới “Edison đã từ trần”. Từng đoàn người nghẹn ngào diễu qua linh cữu ông. Nhà phát minh vĩ đại của nhân loại đã buộc phải nghỉ ngơi vĩnh viễn nhưng tên tuổi ông chói sáng mãi mãi như một vì sao trên bầu trời nhân loại. 

Enrico Fermi


Enrico Fermi sinh tại Rome, Italia ngày 29 tháng 9 năm 1901. Ông là người thiết kế ra lò phản ứng hạt nhân đầu tiên. Vừa là nhà bác học vật lý tài giỏi cả về lý thuyết lẫn thực nghiệm, vừa có đầu óc sáng tạo xuất sắc và cá tính giản dị. Do có cả tài và đức nên ông được nhiều người yêu mến và kính phục. Ông là con út trong một gia đình có ba anh em.

1. Tuổi thơ đầy đam mê

Cha ông là Alberto Fermi, chánh thanh tra đường sắt, mẹ là bà Ida de Gattis, giáo viên phổ thông. Ngay từ nhỏ, Enrico cùng với người anh lớn hơn một tuổi tên là Giulio cùng nổi tiếng là thần đồng. Hai anh em Fermi đã tự vẽ kiểu chế tạo các động cơ điện cũng như các kiểu mẫu động cơ máy bay. 

Nhưng bỗng nhiên Giulio chết do bị áp xe họng vào năm 15 tuổi khiến Enrico cảm thấy quá cô đơn, buồn nản. Enrico đã tìm quên bằng cách đọc sách. Cậu đã tự học toán và vật lý với tầm hiểu biết cao hơn chương trình học của nhà trường. Sách vở thiếu thốn, gia cảnh thanh bần, cậu đã tìm mua tại các quầy sách cũ để tìm được các loại tài liệu cần thiết. Nhờ tài năng của mình, cậu đã được một người bạn của cha chú ý tới. Ông này tên là A.Amidei đã nhận ra Fermi có tính thông minh bẩm sinh nên rất quý cậu. Ông đã ra rất nhiều bài tập khó về các môn toán và vật lý và rất kinh ngạc khi thấy Fermi luôn giải đúng. Tại trường học, Fermi là một học sinh xuất sắc. Vào năm cuối của bốn năm học tại trường đại học, Fermi đã nổi tiếng giỏi về môn vật lý khiến cho một vị giáo sư đã phải nhờ chàng chỉ dẫn về lý thuyết mới. Năm 21 tuổi ông đã giành được bằng thạc sĩ vật lý học tại Trường Đại học Pisa. Năm 1924, sau khi đã tu nghiệp thêm tại Đức và Hà Lan, ông được bổ nhiệm làm giáo sư tại Trường Đại học Florence, năm 26 tuổi làm giáo sư tại Trường Đại học Rome. Trong thời gian trở lại Italia, Fermi đã gặp cô Laura Capon, ái nữ của một vị sĩ quan hải quân. Cô Laura gốc người Do Thái, lúc đó đang theo học năm thứ hai đại học và cũng rất say mê nghiên cứu khoa học. Chính trong thời kỳ trăng mật trên núi Alpes, Fermi đã dạy vật lý cho cô Laura và nhờ thế mà sau này bà Fermi đã giúp chồng rất đắc lực trong việc soạn thảo sách giáo khoa. Bản luận án khoa học đầu tiên được công bố của ông đề cập đến một phân ngành trong vật lý học là vật lý lượng tử. Trong bài đó, Fermi đã phát triển lý luận thống kê và vận dụng nó để diễn giải cái mà hiện nay gọi là tách hạt Fermi. Về mặt khoa học, lý luận của ông hết sức quan trọng giúp cho chúng ta hiểu sâu hơn về hạt nhân nguyên tử. 

2. Những khám phá lớn

Từ năm 1926, Enrico Fermi dạy vật lý tại Trường Đại học Rome. Ba năm sau ông trở thành nhân vật trẻ nhất của Viện Hàn lâm Hoàng gia Italia. Trong năm này ông cho phổ biến một khám phá quan trọng đầu tiên có tên là “thống kê quantum”. Ngày nay ngành học này được gọi là ngành thống kê Fermi-Dirac và các hạt tuân theo các định luật. Khám phá này của ông đã dẫn tới sự hiểu biết một số đặc tính quan trọng của lý thuyết về chất khí, về tại sao các điện tử trong kim loại lại có tính dẫn điện. Tại sao các điện tử không đóng góp vào các nhiệt đặc biệt của vật chất... Fermi cũng giải đáp nhiều bài toán về nguyên tử, phân tử và các phép đo quang phổ hạt nhân. Một công trình của Enrico Fermi trong thời kỳ này được giới khoa học ca ngợi nhất là lý thuyết phân rã hạt nhân beta, đây là phần bổ túc cho lý thuyết phân rã hạt nhân alpha của George Gamow, R.W.Gurney và EdWard U.Condon. Khác với Fréderic và Irène Curie tại Pháp đã sử dụng các tia alpha để bắn vào các nguyên tử aluminium, Enrico Fermi lại dùng đạn bắn là các neutrons để xem xét các tính chất phóng xạ xuất hiện tại những chất bị bắn vỡ. Neutrons là thứ không mang điện

PYTHAGORE (580-500 Tr. CN)

Pythagore (Patigo) sinh vào khoảng 580-500 Tr. C.N. người Hy Lạp, quê ở đảo Sa.rnos, một trung tâm thương mại và văn hóa thời bấy giờ. Tương truyền rằng thời trai trẻ ông đi du lịch nhiêu nơi ờ ấn Độ, Ai Cập, Babylone để học tập nền ván hóa cổ ờ các nước.


Tuổi ngoài 50, ông mới trở về châu Au định cư ở một hệ cảng và là trung tâm văn hóa ở tận cùng miên Nam bán đảo ngựa. Tại đây, ông mở trường dạy Triết học, Thần học, Đạo đức học, toán học trong vòng 30 năm. Vào cuối đời, trong một đêm biếnđộng chính trị và xã hội của phong trào

quần chúng, trường bị .đốt cháy, cụ già Pythagore ngợm 80 tuổi bị chết trong đám lửa. Sau đó, các học trò của ông tản mạn sang Hy Lạp mở các trường dạy chủ yếu vê số học, hình học tạo nên trường phái Pythagore.




Sự liên hệ giữa các cạnh của một tam giác vuông (a + b = c ) đã được nêu ra trước Pythagore khoảng 1000 năm, vào thời cổ Bnhylone, nhưng Pythagore đá có công chứng minh định lý đó và mở rộng phạm vi áp dụng nó đế giải nhiều bài toán về lý thuyết và thực tiễn. Nó là chìa khóa để xây dựng nhiêu định lý khác trong hình học nhờ vận dụng định lý Pythagore ta tìm được nhiêu hệ thức lượng trong các hình. Việc tinh cạnh của tam giác thường, chiêu cao, trung tuyến, của tam giác, đường chéo của hình bình hành đều đưa vào định lý Pythagore. Ngoài ra, trên cơ sở của định lý Pythagore các nhà toán học về sau đã xây dựng được một số các bài toán mới có ý nghĩa lịch sử rất lớn. Đó là việc tìm các số Pythagore và giải bài toán Fermat mà ta đã biết. Pythagure là người đâu tiên chỉ ra rằng:
Tổn các góc trong của tam giác bằng 180°
Mặt phẳng có thể phủ kín bằng những tam giác đều ghép kề với những hình vuông và hình lục giác đều có cạnh bằng nhau.
Ông cũng đã đùng phương pháp hình học để chứng minh rằng:
Tổng cục số lé liên tiếp thì bàng một số chính phương
(1 + 3 = 4; 1 + 3 + 5 = 9; 1 + 3 + 5 + 7 = 16,...).
- Hiệu bình phương của hệ số nguyên liên tiếp thì bằng một số lẻ
(22 - 12 = 3; 32 - 22 = 5; 42 - 32 = 7...).
Ngoài ra, ông còn nghiên cứu về các đa diện đều trong không gian ba chiêu như tử diện đều, lục diện đều, khối lập phương, bát diện đều v.v...
Trong một thời gian dài, loài người mới chỉ biết dùng số nguyên, số hữu tỷchứ chưa có khái niệm về số vô tỷ. Từ các số tự nhiên 1, 2, 3,... ông đi đến các số hữu tỷ và khẳng định rằng với các số hữu tỷ ta có thể biểu diễn mọi số. Thế nhưng khi phải tinh căn bậc hai của 2 ông đã không thể ' biểu diễn nó bằng một số hữu tỷ nào. Pythagore cũng nghiên cứu cả kiến trúc và thiên văn. ông cho rằng Trái đất là hình cầu ở tâm của Vũ trụ Mặt trời, Mặt trăng và các hành tinh đều quay quanh Trái đất và cô chuyển động riêng biệt, khác với chuyển động của các định tinh.
Pythagore viết nhiêu văn thơ. ông đã đê ra những phương châm hành .động và xử thế như sau:
- Hãy chỉ làm những việc mà sau đó mình không hối hận và bọn mình không bươn lòng.
- Hãy sống giản dị, không xa hơn.
- Đừng nhắm mắt ngủ nếu chưa son lại tất cả cứ việc đã làm trong ngày qua.
- Chớ coi thường sức khỏe, hãy cung cấp cho cơ thể thật đúng lúc. đồ ăn, thức uống và những sự luyện tập cần thiết.
Trường phái Pythagore cũng nghiêncứu âm nhạc. Họ giải thích rằng độ cao âm thanh của một sợi dây phụ thuộc vào chiêu đài của dây ấy. Theo truyền thuyết, Pythagore đi qua xưởng rèn, nghe các âm thanh có độ cao khác nhau đó tiếng đập khác nhau của búa gây ra. Từ đó ông nghĩ rằng với dây đàn thi độ cao âm thanh tỉ lệ nghịch với chiêu dài của dây ấy Với ba sợi dây đàn ta có thể nghe được một hợp âm cân đối và dễ nghe nếu chiều dài của dây tỉ lệ với 6, 4, 3. Từ đó Pythagore kết luận rằng mọi sự cân đối đều phụ thuộc vào các số, và số bao giờ các hiện tượng. Trước khi qua đời, 
Pythagore còn dặn lại học trò của mình hãy nghiên cứu âm nhạc và số học.

DÉMOCRITE (460-370 Tr. C.N

NHÀ TRIẾT HỌC, NHÀ BÁC HỌC ĐỀ XƯỚNG THUYẾT NGUYÊN TƯ THÔ SƠ THỜI HY LẠP CỔ ĐẠI.


Cách đây hàng nghìn năm, các nhà hiên triết, các nhà Bác học từ Đông sang Tây đã hằng cố gắng đi tìm lời giải đáp cho câu hỏi: vật chất cấu tạo như thế nào, vạn vật xung quanh ta thiên hình vạn trạng nhưng phải chăng đều do một số yếu tố nào đấy cấu tạo nên.


Các triết gia thời trung Quốc Cể đại đê xướng thuyết âm, Dương Ngũ hành (Kim, Mộc, Thuỷ, Hỏa, Thôi Thời ân Độ Cổ đại có thuyết lôcaita cho rằng vạn vật đều do bọn nguyên tố ban đầu là lửa, nước, không khí và đất cấu tạo nên. Các triết gia thời Hy tạp Cổ đại mà người chủ trương một thuyết. Héraclite (thế kỷ VI Tr. CN) cho rằng bản chất của thế giới là lửa. Anaximène, người đông thời với Héraclite, cho rằng bản chất của thế giới là không khí. Thalès (640 - 546 Tr. CN) được mệnh danh là một trong bấy "người hiền" thời ấy Lạp Cổ đại chủ trương rằng bản chất của thế giới là nước. ông lập luận nước đông lại thì thành chất rắn, nước bốc hơi thì thành chất khí, tóm lại tất cả đều có căn nguyên từ nước. ông còn nói: "Vũ trụ được nâng đỡ bới nước, quả đất được mong bới nước, ngọn lửa của mặt trời và các sao được nuôi dưỡng bới thời bốc lên của nước ". 
Trong số các nhà triết học và khoa học thời xưa bàn vê cấu tạo của vật chất, người phát biểu đúng đắn hơn cả là nhà Bác học thời Hy Lạp cổ đại Démocrite (Đêmôcnt). ông cho rằng vạn vật muôn màu muôn vẻ, nhưng cuối cùng đều cấu tạo bởi nhưng phân tư nhỏ nhất là nguyên tử (chữ Hy Lạp đơm là nguyên tử, có nghĩa là không thể chia cắt được nữa). Thuyết của Démocrite được gọi là thuyết nguyên tử thô sơ. Tuy thuyết này có dựa trên nhàn xét khoa học, nhưng chỉ mới có tính chất cảm tinh.
Trước chúng ta gàn 2500 năm Démocrite đã viết: "Chúng ta nói nóng, chúng ta nói
lạnh, chúng ta nói ngọt, .chúng ta nối đắng, chúng ta nói màu số nhưng thực ra chỉ có nguyên tử và chân không".
Démocrite sinh năm 460 Tr. C.N) tại Abdère thuộc xứ Thrace, là miền đất thuộc một 'phần của nước Hy Lạp và nước Thồ Nhĩ Kỳ ngày nay, phía Nam nước Bu/garia. ông vừa là nhà triết học, vừa là nhà khoa họe uyên thân vê nhiêu khoa học tự nhiên. Aristotle* da viết vê ông như sau: "Ngoài Démocrite ra hầu như chưa có ai nghiên cứu một cách cặn kẽ về một uẩn để gỉ. Démocrite hộ như đã suy nghĩ đến tất cả mọi cái". Thuôn dễ Phlionte viết: "Cái ông Démocrite thật là một người hiền". Triết gia Đức Friedrich Nietzche (1844-1900) viết:
"Trong tất cả có hệ thống cổ đại, hệ thống của Démocrite là logic hơn cả".
Truyền thuyết thời xưa đã đề lại cho ta hình ảnh một Démoerite như là Bác học uyên thâm về nhiêu mặt và một con người luôn tranh đấu, đây lạc quan. Tác phàm nổi tiếng Vũ trụ luận của ông vừa có toán học, thiên văn học, khoa học - kỹ thuật, vừa có triết học, văn học Các tác phẩm Bàn về thi ca , Sự cân bằng về tâm hồn vừa là văn học, triết học, vừa là luân lý Tư tưởng Démocrite đã có ảnh hưởng lớn đối với nhiêu triết gia đương thời cũng như của các thế kỷ tiếp theo.

HIPPOCRATE VÀ PHONG TRÀO PHỤC HƯNG Y HỌC HIPPOCRATE (460 Tr. CN)

Hippocrate là một đại danh y thời cổ, sinh ở đảo Cos vùng biển Kgée, Hy Lạp vào năm 460 Tr C.N. ở phương Tây, ông được suy tôn là tổ sư của y học Truyền thuyết cho rằng Hippocrate là con mệt người làm thuốc được cha truyền cho những kiến thức Y y tôi tiếp tục học ở Athènes và tiếp đó đi du học nhiều nơi: đến Thrace, Thessalie, Macédoine... Sau được phụ trách đền thờ Esculape ở đảo Cos

Hippocrate đã sống và hành nghề nhiêu nằm trên đảo Cos và nổi tiếng từ đấy, Trường phái y học do ông sáng lập được gọi là "trường phái Cos". Tục truyền rằng Hippocrate thường ngồi dưới cây phong lớn để giảng bài lâm sàng cho các môn đô.

Ngày từ thời ấy, Hippocrate đã đưa lại nhiêu quan điểm mới và tiến bộ; ông đã tách rời tôn giáo với y học, xây đựng y học trên cơ sở vật chất, dựa vào quan sát lâm sàng cụ thể tỷ mỹ và căn cứ vào các dấu hiệu triệu chứng của bệnh đê chữa trị. Ông luôn nhấn mạnh rằng bệnh tật là một hiện tượng tự nhiên của cơ thể, không phải do ma lực huyên bi gì gây nên như các thầy phù thủy, lang băm huyên truyền. Hippocrate đã mở ra một kỷ nguyên mới cho y học, kỷ nguyên các thầy thuốc lâm sàng, quan sát theo dõi bệnh tật như một hiện tượng thiên nhiên.
Hippocrate đã riêu lèn một số nguyên tác chữa bệnh cơ bản: chủ yếu là nâng cao sức đè kháng tự nhiên của (xi thể, tránh tài cả những gì cản trở khả năng tự điều chỉnh, tự chữa đem lại sức khỏe tự nhiên của cơ thể. ông hết sức chú ý đến các biện pháp để làm cho toàn trạng cơ thể mạnh khỏe lên hơn là chỉ chăm chú dung nhiều vị thuốc đơn thuốc, ví như chú ý cách sinh hoạt ăn uống, ngủ - thức, tắm ngâm mình ở các suối khoáng... chỉ dung phép tẩy, lợi tiểu.~ khi nào thật cần thiết. Lúc bệnh nhân ở thời kỳ hòi phục sắp khỏi, ông khuyên nên thay đổi không khí mòi trường và tinh toán số lượng chất lượng thức an uống thật cần thiết đúng mức, bơi thế người ta gọi đó là một nền y học tự nhiên.
Hệ thống y học nổi tiếng của ông dựa trên sự thay đổi các khí chất với quan niệm cơ thể con người gồm có 4 thể dịch cơ bản quyết định sức khỏe và bệnh tật là mật vàng, mắt đen, máu và đờm (niêm địch) và bởi sự nung nấu nhờ nhiệt tự nhiên mà làm biến đổi khí chất loại này sang loại khác . . . 
Hippocrate nêu cao nguyên tắc là "không chỉ điều trị cái bệnh mà phải điều trị người bệnh".
Trường phái Cos của Hippocrate đã khá thành công trong điêu trị một số lĩnh vực ngoại khoa như điêu trị gãy xương, sai khớp...
Hippocrate đã chỉ trích trường phái Cnide, xuất hiện trước đó, thiên vê chủ nghĩa duy lý - rằng trường phái Cnide là đã quá phàn cắt nhỏ các bệnh..., coi thường kinh nghiệm và quan sát.
Hạn chế của y học Hippocrate là chưa nắm được hệ tuần hoàn máu, tưởng các
động mạch chứa đầy khi, coi não là một tuyến . . . và chưa biết chức năn g của các
dãy thần kinh mà họ nhầm là các gang Nói đến Hippocrate là phải nói đến đạo đức y học, đến lời thề Hippocrate nổi danh mà các thầy thuốc trước đây tuyên đọc khi
ra trường. Đại ý lời thề đó như sau đây:
"Tôi xin thề trước Apollơn - Thần chữa bệnh, trước Esculape - Thần y học, trước Thơn Hygie và Panaceé và trước sự chứng giám của tất cả có nam, nữ Thiên thần là tôi sẽ đem hết sức lực và khả năng để làm trọn lời thề và lời cam kết sau đây:
1 - Tôi sẽ coi thầy học của tôi ngang hàng với cha, mẹ, sẽ chia xẻ với các vị đó của cải cua tôi, coi con thầy như em một mình, hết sức truyền nghề cho họ không dấu nghề, không lấy tiền công như cho con tôi và các môn đệ . . .
2 - Tôi sẽ chỉ dẫn mọi chế độ có lợi cho người bệnh... sẽ tránh mọi điều xấu và bất công . .
3 – Sẽ không trao thuốc độc cho bất cứ ai, dù họ yêu cầu cũng không gợi ý cho họ. Sẽ không trao cho bất cứ phụ nữ nào những thuộc gây sẩy thai . . .
4 - Sẽ suốt đời hành nghề trong vô tư và thân thiết...
5 - Sẽ không làm phẫu thuật có thể gây biến chứng vô sinh, mà để những công việc đó cho người chuyên khoa.
6 - Dử uẩn bất kỳ nhà nào, tôi cũng chỉ vì lợi ích nghìn bệnh, tránh mọi hành vi xấu xa, cố ý, trà đồi bại, nhất là tránh cám đỗ phụ nữ, thiếu niên tự do hay nô lệ.
7 - Dử có nhìn hoặc nghe thấy gì trong và cả ngoài lúc hành nghề, tôi sẽ giữ im lặng trước những điều không cần để lộ ra, coi sự giữ kín đó như một nghĩa vụ v v
Hippocrate có đạo đức, nhân cách cao quý, ông từ chối những quà tặng lớn lao và không muốn cầu đến kẻ thù của Tổ quốc ông. Có một câu ngạn ngữ nổi tiếng:
"Hippocrate nói phải" còn Galien thì nói: "không" để nói lên sự đối lập giữa 2
trường phái của 2 nhà danh y. Đó là câu châm biếm nói chung về chủ đê đối lập
nhau của các ý kiến trong y học. 
Bác sĩ Phạm Bá Cư, nghiên cứu về lịch ở y học đã cho rằng Y học Hippocrate là nên y học cổ truyền có tinh tổng hợp và đi vào biện chứng của tự nhiên như Đông y. Y học Hippocratelà trên thần của y học hiện âm (Tây y) bị chi phối bởi chủ nghĩa duy vật tự phát của các nhà biện chứng cò Hy Lạp, nó phát triền với tính chất là mệt nên y học tổng hợp mà bản chất là nhất nguyên, cũng như Đòng y, nó quan niệm: "Con người như một Vũ trụ nhỏ nồm trong Vu trụ lớn, một thể 'thống nhất giữa tinh thần và thể chất, có mệt sức chống bệnh tự nhiên và có khả năng thích ứng với hoàn cảnh bên ngoài.
Y học Hippocrate còn có những quan điểm, với giá trị chân lý còn ảnh hưởng lớn lao đến ngày nay. Phút Cartnn, trong cuốn Những nguyên lý cơ bản của y học Hippocrate đã nhận định:
Y học hiện đại tưởng có thể chẩn đoán và điều trị tất cả nới những phát minh và
trị liệu mới nhất của mình, nó không hình 'dung rằng nhiều trường hợp người
xưa chữa khỏi cớ lẽ chậm hơn nhưng bền trừng hơn với những phương tiện đơn
giản, tự nhiên hơn, và ông đi đến kết luận: "chữa bệnh theo phương pháp tự nhiên, bằng cách sản chữa những sai lầm trong sinh hoá vật chất, và đời sống tinh thần là biện pháp tốt nhất, căn bản nhất để tạo nên một thiên đích tụ nhiên trong chữa bệnh và phòng bệnh..."
Hiện nay, trong y học thế giới có một xu hướng lớn từ một số nước chịu ảnh hưởng của nền văn minh La tinh như Pháp, ngựa, châu Mỹ La tinh... có phong trào Phục hưng y học Hippocrate (Mouvement Néo – Hippocratique) đang phát triển. Tại hội nghị quốc tế lần thứ 8 về Nội khoa ở Buenos Aires (1964) Giáo sư Mariano de Castex đã nhận định:
Những năm gần đây, trước sự xâm lấn của kỹ thuật học - khoa học và nội khoa... đã làm mất nhân tính của người bệnh và mất tư cách cửa người thầy thuốc... Trước tình hình đó, truyền thống lâm sàng cổ điển - đại diện là Y học Hippocrate đã đứng lên bênh vực đặc quyền của quan sát lâm sàng sáng ngời bởi uy tín chủ 25 thế kỷ vô cùng phong phú!" Nhà ngoại khoa nồi tiếng Leriches cũng đã viết: "Say sưa với phân tích là mới lạ, y học (hiện đại) khao khát được một phút tổng hợp; để được hồi súc nó muốn trở về với Hippơcrate!".
Như thế là y học ngày nay muốn trở về với quan niệm toàn diện, tổng hợp về cái bệnh và người bệnh, đó là xu hướng của học thuyết y học " Tân Hippocrate" (Néo Hippocratisme).

BIỂN THƯỚC

Nói đến danh y thời xưa ở Trung Quốc nhân dân thường ca tụng tài nâng chữa bệnh của Biển Thước, Hơn Đà. Biển Thước họ Tân, tên là Việt Nhân, người ờ Bột Hải nước Trịnh nay là huyện Nhâm Khâu, tỉnh Hà Bác, Trung Quốc. Ông sinh vào khoảng thế kỷ thứ V Tr C.N. 

Biển Thước theo học nghề y của Trường Tang Quân, ông thường giao du rộng, đi khắp nơi để chữa bệnh cho dân. Ông từng đến Cam Ngác kinh đô nước Việt, nơi đây ngàn xưa phong tục rất tôn trọng phụ nữ để chữa bệnh sản phụ khoa; đến Lạc Dương, kinh đô nhà Chu, nơi đày có phong tục quý trọng người già để chứa cái bệnh vè Tai vê Mai; rồi đến Hàm Dương, kinh đô nhà Tân, nơi đây cũng có phong tục rất quý con trẻ để chữa các bệnh vê Nhi khoa... Qua đó ta thấy ông có kiến thức rất rộng vè Y học và thường căn cứ vào nhu cầu của nhân dân mà phục vụ, bởi thế ông đã để lại nhiều ấn tượng sâu sắc trong nhân dân. 

Biển Thước nghiên cứu sâu vè Mạch học. Sách Sử ký viết: Đến nay nói về Mạch là từ Biển Thước mà ra, đủ biết là Biển Thước rất giỏi về Mạch pháp. 


Khi Biển Thước ờ nước Tê, chỉ nhìn qua mà biết Tê Hoàn Công có bệnh, ông khuyên Hoàn Công nên điều trị sớm. Tề Hoàn Công không những không nghe mà còn có vẻ không bằng lòng cho rằng Biển Thước có y xu phụ, cầu cạnh gì đây, ta vẫn khỏe mạnh, sinh hoạt như thường mà! Chỉ ít lâu sau, quả nhiên Tê Hoàn Công phát bệnh, cho người tìm Biển Thước thì ông đã đi xa rồi, ngay sau đó bệnh của Tê Hoàn Công nặng quá không chữa được nữa. 

Biển Thước là vị danh y nắm vững nhiều phương pháp chữa trị như chăm chích, xon bóp, thang dịch: Có lần đi qua nước Quắc, ông và các học trò vận dụng nhiều phương pháp điêu trị để chữ cho Quắc Thái tử bị chấn thương khỏi bệnh. Người ta đồn Biển Thước có tài cải tử hoàn sinh, song ông khiêm tổn nói rằng: "Việt Nhân này không có tài làm sống lại người đã chết được đâu, mà chỉ có khả năng làm cho người đương sống khỏi bệnh thôi". Qua đây đủ biết ràng Y thuật và Y đức của ông ta cao như thế nào. 


Tư Mã Thiên viết chuyện về Biển Thước, tổng kết sáu bệnh không chữa được trong đó có một bệnh là: chỉ tin thầy bói mà không tàn 'thầy thuốc thì không chưa trị được! Đủ biết ông phản đối mê tín, dị đoan, bói toán thế nào. 

Cuối cùng Biển Thước đến nước Tân để chữa bệnh cho người. Thái y nhà Tân tự biết y thuật không bằng Biển Thước, đem lòng ganh ghét, sai người ám hại ông. Người nước Tân rất quý trọng biết ơn và thương nhớ Biển Thước, đến nay nhiều nơi còn lập bia, miếu thờ ông. 


Hiện nay, còn cuốn sách Hoàng đế 81 nạn kinh gọi tắt là Nạn kinh, tương truyền là do Biển Thước soạn. Nội dung cuốn sách bao quát ba vấn đề: 


1. Chẩn pháp nói về cách xem mạch thốn khẩu 


2. Liên quan giữa Tạng phủ và học thuyết Kinh lạc 


3. Phương pháp dửng châm cứu. 


Các y gia đời sau rất coi trọng sách này và đã có nhiều học giả chú giải thêm vào. 


Người làm Đông y thường nhắc đến bốn bộ sách kinh điển xưa của Đông y là: Nội, Nạn, Thuổng, Kim chữ Nạn đây chính là chỉ cuốn Nạn kinh vậy. 

EUCLIDE (330-275 Tr.C.N)

Đời tư của ông ít được biết đến . Có thể ông sinh ra và được dạy dỗ ờ Athènes. Theo Procius thì sau đó ông đến thành Alexandne ở Ai Cập, lúc bấy giờ là trung tâm học thức, dưới triều đại của Hoàng đế Ptolémée Đệ I, tức là giữa 323 và 285 Tr . C.N.



Và Archimedes, người sống sau Hoàng đế Ptolémée Đệ I cũng đã nói về Euclide trong tác phẩm của mình. Tại đây ông thành lập một trường học và đã giảng dạy các nguyên tắc cơ bản của môn hình học. Những nguyên tắc này đã được truyền đạt từ thời đại ông đến ngày nay. Một trong những học trò của ông là Conon, thầy giáo của Archimedes. Những nhà văn cổ đại khi viết về Euclide đều miêu tả ông là một ông già tốt bụng và nhỏ nhẹ. Học trò kính trọng ông vì lòng kiên nhẫn và tốt bụng của ông. Tuy nhiên ông cũng hết sức quả quyết ngay cả đối với đức Vua Hoàng đế Ptolémée Đệ I của Ai Cập. Một rân, Nhà Vua gặp khó khăn về việc học môn hình học trong một quyển sách của Euclide mang tên: Cơ sở của các yếu tố, Nhà Vua đã hỏi Euc/1de có cách nào dễ hơn để cho một đức Vua học môn này; Euelide dã trả lời: "Thưa bệ hạ, không có một con đường đi đến hình học nón Chỉ dành riêng cho Vua chúa". 





Người Ai Cập dùng hình học để đo đạc đất đai của nhà nông sau những cơn lũ hàng năm do sông Nil gây ra vì lũ đã xóa đi các điểm mốc đánh dấu phần đất đai của mỗi người. Các nước gọi môn hình học là Géométrie tiếng Hy Lạp có nghĩa là sự do đại đất đai. Trái lại người Hy Lạp không mấy quan tâm đến việc áp dụng hình học vào đời sống thực tế mà họ thích các định lý và chứng minh của hình học và coi đó là các bài tập về logic và phương pháp suy diễn. Một dịp nọ, khi một học trò của Euclide phàn nàn rằng anh tà chẳng thấy lợi ích thiết thực của môn học này. Euclide quay sang một người hầu và bảo: "Hãy cho anh học trò này một đồng tiền vì anh ta phải có lợi nhuận từ những gì anh ta đã học được". Đóng góp vĩ đại của Euclide cho toán học là việc sắp xếp và tổ chức lại hình học thành một môn học quy củ. Ông đã đơn giản hóa và sắp xếp lại các tác phẩm riêng lẻ của các bậc trên bối, hệ thống các định lý và chứng minh nó thành một chuỗi có lôgic. Ông đã sửa lại cách chứng minh cũ và nghĩ ra cách chứng minh mới để bổ sung những điều còn thiếu sót. 

Các nhà hình học đầu tiên mà Euclide đã bổ sung cho tác phẩm của họ là Thalès và Pythagore. Ai ai cũng còn nhớ định lý Pythagore: Trong tam giác vuông binh phương cạnh huyền bằng tổng binh phường 2 cạnh góc vuông. 

Tác phẩm của Euclide : Cơ sở của các yếu tố được dịch ra nhiều thứ tiếng và vẫn được dùng như một quyển sách giáo khoa cơ bản về hình học từ 2.000 năm nay. 

Bản dịch tiếng Anh đầu tiên của HarryBiilingsley viết vào năm 1570. Tác phẩm này gồm 13 tập sách trong đó chỉ có sáu quyển thường được in thành sách học cho các trường trung học. Một vài phần trong tác phẩm này do học trò của ông soạn nhưng những phần chính và hướng dẫn đều là của ông. Chúng ta vẫn còn nhớ tiên đê mà mọi người có lý tri chấp nhận không cần phải chứng minh: Qua một điểm nằm trên một mít phẳng ta có thể vẽ một đường thẳng song song với một đường thong thứ hai và chỉ một mà thôi. Vào thế kỷ XIX, nhà toán học người Nga Lobachevsky cho rằng qua điểm P trong không gian có thể có vô số những đường thẳng song song. Ông đã can đảm thành lập môn hình học Phi Euclide. Một người Đức Riemann Bầu này dã đóng góp nhiều trong việc phát triển hình học Phi Euclide. 

Ngoài quyển Cơ sở của các yếu tố Euclide còn viết nhiều sách khác. Nhiều quyển bị thất lạc, nhưng trong số những sách còn lại là quyển Quang học. Vào cuối thế kỷ XIX, những sai sót nhỏ trong bộ: Cơ sớ của các yếu tư Euclide những định nghĩa sai hay thiếu sự hoàn chỉnh trong các tiên đê của ông được chi ra và bỏ đi trong các bản dịch lại. Tuy nhiên về cơ ban bộ Cơ sở của các yếu tư 

ARISTOTLE (384-322 Tr. CN)
Aristotle là nhà triết học và tự nhiên học tiêu biểu nhất và lẫy lừng nhất của nền văn minh Hy-lạp Cổ. Ông sinh tại vùng Stagyvre ở Hy Lạp, trên bờ Tây Bắc biển Egée. Bố Aristotle là ngự y ở Hoàng cung. 

Trong gần 20 năm, Aristotle là học trò của nhà triết học lớn thời cổ Platon (427-347 Tr. C.N). 

Aristotle cũng là người thầy và người bạn vong niên của Alexandros Đại đế, nhà quân sự và chính in lẫy lừng nhất thời ấy. Aristotle đã đi chu du nhiêu nơi trong suốt 12 năm, và đã cùng nhà hiên triết Mitylen thành lập một trường học và thư viện nổi tiếng ở Thủ đô Hy Lạp, Athènes vào năm 335 Tr. C.N. 

Aristotle cũng là người thầy và người bạn vong niên của Alexandros Đại đế, nhà quân sự và chính in lẫy lừng nhất thời ấy. Aristotle đã đi chu du nhiêu nơi trong suốt 12 năm, và đã cùng nhà hiên triết Mitylen thành lập một trường học và thư viện nổi tiếng ở Thủ đô Hy Lạp, Athènes vào năm 335 Tr. C.N. 
Aristotle cũng là người thầy và người bạn vong niên của Alexandros Đại đế, nhà quân sự và chính in lẫy lừng nhất thời ấy. Aristotle đã đi chu du nhiêu nơi trong suốt 12 năm, và đã cùng nhà hiên triết Mitylen thành lập một trường học và thư viện nổi tiếng ở Thủ đô Hy Lạp, Athènes vào năm 335 Tr. C.N. 

Tác phẩm viết còn lại là ghi chép để chuẩn bị nói chuyện hay giảng bài của ông. Đó là một hệ thống kiến thức đặc biệt uyên thâm và phong phú - đa dạng bao gồm rất nhiều ngành kiến thức tiêu biểu về sinh học, lý, tâm lý, lý luận triết học siêu hình, thẩm mỹ học, chính trị, thơ ca và văn biện luận. Marx đã đánh giá Aristotle là "nhà tư tưởng vĩ đại nhất của phương Tây Cổ đại". Hầu như toàn bộ tác phẩm của Aristotle đã được phương Tây thời đó chấp nhận, xem như cơ sở đáng tin cậy ưu tiên trong mọi lĩnh vực của nền học vấn kinh điển. Đặc biệt, trong suốt 10 thế kỷ thời Trung cổ (từ thế kỷ thứ V đến thế kỷ XV một trong những chuẩn mực đạo đức và kiến thức của sinh viên đại học là "không cho phép bất cứ ai phê phán, chỉ trích, bác bỏ, phản đối lời đây của các bậc thầy . . . " trong đó đứng đâu là bộ ba Aristotle, Hyppocrate, Galien . . . ) Từ thế kỷ thứ IX, tư tưởng Aristotle cũng ảnh hưởng rất mạnh đến nền triết học, thần học, và khoa học của văn minh Islam.
-Sự nghiệp:(Chủ yếu trong lĩnh vực sinh học) quan điểm khoa học của Aristotle là mục đích luận: "Thiên nhiên không bao giờ làm gì thừa và luôn thực hiện một việc theo một mục đích xác đinh". Ông tin rằng mọi việc đều do Thượng đế hay Đấng Tối Cao an bài, điêu khiển. Về con người, trong bản thảo bàn vè linh hồn, 


Aristotle cho rằng "Mọi hiểu biết đều bắt nguồn từ cảm giác". 


Theo Aristotle, linh hồn gồm 3 phần: 

Linh hồn thực vật tính: phụ trách các chức năng không gây cảm giác và không điều khiển được (như tuần hoàn, hô hấp, tiêu hóa v.v.) 

Linh hồn động vật tính: phụ trách các chức nàng có gây cảm giác vờ điều khiển được bằng ý chí (như hệ vận động). 

Linh hồn duy lý hay trí tuệ, chỉ có ở con người. ông giải thích: Hơi nóng của màu vốn là nơi cư trú trong tim, trụ sở của trí tuệ, thỉnh thoảng có thể tràn lên nào để được làm mát và tồn bớt nhiệt thừa, chính là nhân tố bí mật điều khiển cơ thể. Về động vật, ông đã quan sát và xét đoán miêu tả tới 500 loại. 




Tác phẩm còn lại là Động vật dữ, bàn về cấu tạo của động vật; Dông vật học. Aristotle đã trình bày cấu tạo giải phẫu tương đối chi tiết và chính xác của 50 loài động vật. Giới động vật được Aristotle chia thành hai nhóm không có lông và có tổng, hoặc "không có máu và có máu”. 


Aristotle cũng đã bước đầu xây dựng các khoa phân loại động vật tương đối hợp lý. Ông đã căn cứ vào hình thái ngoài, cấu tạo trong, nơi cư trú, tập tính sinh hoạt để phân loại. Theo Aristotle, 


sinh vật thấp nhất là thực vật, sinh vật lớn nhất là thú và đặc biệt là người. Ông cũng đã mô tả 3 kiểu sinh sản, trong đó hai là đúng (sinh sản vô tính và sinh sản hữu tính) còn một là sai (sinh sản tự phát, còn gọi là "ngẫu sinh") Aristotle cũng để lại 5 tập: Tái tạo, trong đó ông trình bày nhiều điểm tiến 'bộ và đúng về 


quá trình sinh sản và phát tiên của phôi về thực vật, Aristotle cũng nghiên cứu nhiều, nhưng tiếc là chỉ còn lưu lại hai tập, nhan đề là Về cây cỏ. 


Đáng mừng là học trò của ông Theophrastus (372-287 Tr.CN) đã để lại hai tác phẩm Thực vật chí và Bàn và nguồn gốc thực vật, trong đó ông đã miêu tả 500 bài cây trồng và cây 

hoang dại, cũng như xác định đây đủ các điểm khác biệt chủ yếu giữa động vật và thực vật.

ARCHIMEDES (287-212 Tr.C.N)

Ông sinh tại đảo Sicile (nay thuộc Italia). Cha Archimedes là một nhà thiên văn và một nhà toán học nồi tiếng thời bấy giờ. Vào thời kỳ ấy, các gia đình giàu sang thường chăm lo cho con cái có một nền học vấn toàn diện mà trọng tâm là triết học và văn học.

Thường họ chì học toán vì càn toán để học triết học Nhưng Archimedes lại được giáo dục một cách đặc biệt, cha ông đã đưa ông đĩ sâu vào toán và thiên văn, là những lĩnh vực mà sau này ông đã có những sáng tạo vĩ đại nhất.Archimedes đã đến Alexandria, một thành phố nổi tiếng nhất thời bấy giờ của Hy Lạp, một trung tâm kinh tề, chính trị và văn hoại nơi tập trung các nhà Bác học nổi tiếng nhất. Ở đây, Archimedes tiếp tục được bồi dưỡng về toán học và thiên văn, đông thời ông cũng chú ý nhiêu đến cơ học. Sau một thời gian, khi tài năng đang đệ phát triển, ông quay về Syracuse, thành phố quê hương và ở đây cho đến khi qua đời. Archimedes đã có nhiều sáng tạo lớn trong toán học. Ông đã để lại nhiều công trình như: Về hình cầu và hình trụ; về độ do các cung, Về việc cấu trương đường parabôn; Về các đường xoắn. . .

Archimedes là một trong những người đâu tiên đã chứng minh rằng đây số tự nhiên (1, 2, 3...) là vô hạn và tìm ra cách viết, cách đọc bất cứ số dù lớn đến bao nhiêu. Archimedes đã tính được diện tích nhiều hình, thể tích của nhiều vật thể bằng một phương pháp đặc biệt. Điều này chứng tỏ rằng Archimedes đ4ã có khái niệm khá rõ về phép tính vi phân mà mãi đến thế kỷ XVII mới thực sự hình thành và phát triển với Leibnizt (Lepnit) và Newton (Niutơn) chính vì vậy mà một nhà toán học nổi tiếng đã nói: Nếu ai bảo tôi kể tên một nhà toán học vĩ đại của tất cả thời đại thì tôi khong do dự mà trả lời rằng người đó là Archiniedes. 

Archimedes còn là một nhà cơ học vĩ đại tác giả của rất nhiều sáng chế và phát minh cơ học nổi tiếng. Các công trình sáng tạo của Archimedes đều gắn liền với yêu cầu của công cuộc xây dựng bảo vệ Tổ quốc, với yêu cầu của thực tiễn. Ông đã giải quyết được nhiều vấn đề khó nhất của thời đó về khoa học và kỹ thuật. 


Hãy cho tôi một điểm tựa, tôi sẽ nâng cả quá đất này lên. Câu nói đượm hương vị truyền thuyết đó mà người ta kể lại là của Archimedes khi ông phát minh ra lực đòn bẩy. Người ta thường kế lại câu chuyện về việc Archimedes tìm ra định luật vật nổi : Có một quốc Vương nọ yêu cầu Archimedes tìm cách kiểm tra lại một đồ vàng mà nhà Vua thuê đúc có thật là nguyên chất hay không. Ông suy nghĩ đã nhiều mà chưa tìm dược cách kiểm tra. Một lền đang tắm, ông phát hiện ra sức đẩy của nước lên người mình. Thế là quên cả mặc quần áo ông vùng chạy lên và kêu "Euréca ! " (có nghĩa là tìm thấy rồi! ). Từ đó, ông đã tìm ra đinh luật về súc đẩy cưa nước mang tên ông. 

Cái chết bất tử của Archimedes 



Archimedes là người yêu nước thiết tha. Trong giai đoạn cuối đời mình, ông đã tham gia bảo vệ quê hương Chống bọn xâm lược Ra Mã. Ông đã lãnh đạo việc xây dựng cái công trình kỹ thuật phức tạp và sáng chế vũ khí kháng chiến. Nhà văn Cổ Hy Lạp Plutaro đã tả lại việcquân đội La Mã bị đánh trả ờ thành phố 


Syracuse như sau : "Khi quân La Mã bất đầu những cuộc tiến công từ trên đất tiền cũng như trên biển, nhiều người dân Syracuse cho rằng khó cớ thể chống lại một đội quân hùng mạnh như vậy, Archimedes liền cho mở các máy móc và vũ khí đủ các loại đơ ông sáng tạo ra. Thế là nhưng tảng đá lớn bay đi với tốc độ nhanh phi thường phát ra những tiếng động khủng khiếp, tới tấp giống xuống đầu các đội quân đi bằng đường bộ. Cùng lúc đó, có những thanh xà nặng uốn cong giống hình chiếc sừng được phóng từ pháo đài ra, liên tiếp rơi xuống tàu địch... TướngLa Mã phải ra lệnh rút lui. Nhưng bọn xâm lược vẫn không thoát khỏi tai họa. Khi các đườn tàu địch chạy gần đến khoảng cách một mũi tên bay, thì ông già Archimedes ra lệnh mang đến tấm giương sáu mặt, cách tấm gương này một khoảng, ông đạt các tấm gương khóc nhỏ hơn, quay trên các bản lề. Ông đặt tấm giương giữa các tia sáng của Mặt trời mùa hè. Các tia sáng từ gương chiếu ra đã gây nên một đám cháy khủng khiếp trên các con tàu. Đoàn tàu biến thành đám trơ tàn..." 


Câu chuyện này trước đây vẫn bị coi là hoang đường, cho mãi đến năm 1777 nhà toán học nét tiếng Buffon mời chứng minh được rằng điêu đó rất có thể xảy ra. Bằng 168 chiếc gương, trong ngày nắng Tháng Tư, ông đã đốt cháy một cây to và làm nóng chảy chì ờ cách xa 45 mét. 


Archemedes còn là mệt công trình sư, một người đóng tàu thủy đây sáng tạo. Nhà văn Cổ Hy Lạp Aphinê đã tả quang cảnh công trường đóng tàu thủy của Archimedes như sau : "Nhà hình học Archimedes được giao đóng một chiếc tàu to bàng 64 chiếc tàu thường. Tất cả mọi thứ cần thiết, các loại gỗ quý thiếc chở từ 


khắp nơi đến. Nhiều thợ đóng tàu cũng được triệu đến đây. Mọi việc tiến hành rất nhanh chóng, có quy củ, nên chỉ sau sáu tháng đã làm xong một nửa tàu... Riêng và hạ thủy phơn tàu này cũng làm cho mọi người - bàn cãi rớt nhiều: "Làm sao có thể đưa một con tàu lớn như vậy xuống nước ?" Nhưng Archimedes đã dùng trục quay để kéo con tàu. Với rất ít người giúp việc... Chiếc tàu khổng lồ này có đầy đủ tiện nghi, như nhà bép, nhà ăn, chỗ dạo chơi, kho lương thực, thư viện... " 


Archimedes vẫn tiếp tục xây dựng sáng tạo và tham gia bảo vệ thành phố quê hương. Quân xâm lược hung hãn cố đánh phá, nhưng không thể tiến lên được. Chúng bèn dùng cách vây thành để triệt hết mọi đường tiếp tế. Đến mùa thu năm 212 Tr. C.N, thành Syracuse bị hạ sau hai năm bị vây hãm. Quân La Mã xông vào tàn sát nhân dân rất dã man. Một tên linh La Mã dã cầm giáo dâm chết Archimedee trong lúc ông đang ngồi trên bãi cát mải mê tinh và vẽ hình . Và trong lúc sắp bị sát hại, ông còn hô lớn, quát quân lính La Mã. "Không được đụng đến các hình vẽ của ta.” 


Hơn hai nghìn năm đã trôi qua từ khi Archimedes bị quân La Mã giết hại, người đời sau vàn còn ghi nhớ mãi hình ảnh một nhà Bác học thiết tha yêu nước, đầy sáng hiến, phát minh về lý thuyết cũng như về thực hành, hình ảnh một con người đã hiến dâng cả đời mình cho khoa học, cho Tố quốc, đến tàn giờ phút cuối cùng. 

10 hiện tượng khoa học không thể giải thích

Bóng ma hay cảm giác cận kề cái chết là những hiện tượng bí ẩn mà khoa học chưa thể giải thích thỏa đáng. 

Ngoài ra còn nhiều hiện tượng khác nữa vẫn tồn tại trong đời sống của con người, mà không ai biết rõ nguyên nhân. Livescience liệt kê 10 hiện tượng tiêu biểu nhất. 

Mối liên hệ giữa não và cơ thể 

Y khoa mới chỉ bắt đầu hiểu những cách mà não tác động tới cơ thể. Chẳng hạn, giả dược chứng tỏ rằng con người có thể làm giảm những triệu chứng của bệnh tật hoặc nỗi đau đớn bằng cách tin rằng các liệu pháp điều trị phát huy hiệu quả, mặc dù thực tế không phải vậy. Khả năng tự làm lành vết thương của cơ thể còn đáng ngạc nhiên hơn mọi thứ mà nền y học hiện đại có thể tạo nên. 

Cảm giác cận kề cái chết và cuộc sống sau khi chết 

Những người từng cận kề cái chết kể rằng họ trải qua nhiều cảm giác bí ẩn - chẳng hạn như đi qua một đường hầm để tới một chỗ có ánh sáng, gặp những người thân yêu, cảm thấy bình yên. Mặc dù những trải nghiệm đó khá rõ nét, song chẳng có ai đưa ra được bằng chứng hay thông tin có thể kiểm chứng về việc linh hồn tạm thoát khỏi cơ thể. Những người hoài nghi cho rằng những trải nghiệm cận kề cái chết chỉ là ảo giác được sinh ra bởi những bộ não bị tổn thương. Cho đến nay giới khoa học chưa giải thích được nguyên nhân gây nên cảm giác cận kề cái chết, hay xác định liệu chúng có phải là hình ảnh của một thế giới khác hay không. 

Năng lực tâm linh và ngoại cảm 

Năng lực tâm linh và khả năng ngoại cảm là hai trong số 10 hiện tượng không thể giải thích. Nhiều người tin rằng giác quan thứ sáu là một dạng của năng lực tâm linh. Các nhà khoa học đã kiểm tra những người khẳng định họ có những năng lực tâm linh và kết quả cho thấy chúng không hề tồn tại hoặc tồn tại khá mơ hồ trong những người này. Một số chuyên gia cho rằng năng lực tâm linh là thứ không thể kiểm tra được, hoặc vì những lý do nào đó mà nó suy yếu khi có sự hiện diện của các nhà khoa học hoặc những người hoài nghi. Nếu điều đó đúng, khoa học sẽ không bao giờ có thể chứng minh sự tồn tại hoặc không tồn tại của chúng. 

Vật thể bay không xác định (UFO) 

Sự tồn tại của UFO không phải hiện tượng quá lạ lẫm, bởi nhiều người nhìn thấy những thứ mà họ không thể xác định trên bầu trời. Chúng có thể là nhiều vật thể, từ máy bay tới sao chổi. Nhưng vấn đề là liệu có bất kỳ vật thể nào trong số các UFO là phi thuyền của sinh vật lạ ngoài vũ trụ hay không? Do khoảng cách từ trái đất tới các hành tinh khác quá lớn, nhiều nhà khoa học cho rằng khả năng sinh vật ngoài vũ trụ viếng thăm nền văn minh của chúng ta không thể xảy ra. Mặc dù vậy, người ta vẫn không thể giải thích được sự hiện diện của một số UFO, dù trong phần lớn trường hợp nguyên nhân của chúng được tìm ra. 

Ký ức ảo giác 

Trong tiếng Pháp, "déjà vu" có nghĩa là “đã nhìn thấy từ trước”. Cụm từ này được sử dụng khi con người có cảm giác họ đã thấy những tình huống, cảnh tượng, sự việc nào đó trong quá khứ và bây giờ chúng đang xảy ra trước mắt họ. Chẳng hạn, một phụ nữ bước vào một toà nhà tại một đất nước mà cô trước đây cô chưa từng tới, nhưng lại cảm thấy khung cảnh bên trong tòa nhà rất quen thuộc, cứ như thể cô từng sống trong đó vậy. Một số người cho rằng déjà vu là những trải nghiệm tâm linh hoặc ký ức về kiếp trước. Giống như trực giác, trong tương lai các nhà khoa học có thể tìm ra những lời giải thích hợp lý về déjà vu bằng cách nghiên cứu tâm lý con người. Tuy nhiên, cho tới nay nguyên nhân và bản chất của déjà vu vẫn là một bí ẩn. 

Bóng ma 

Linh hồn của những người chết xuất hiện trong văn hóa và các giai thoại của loài người từ lâu. Nhiều người nói rằng họ nhìn thấy bóng ma của những người thân hoặc cả người lạ. Mặc dù chưa có bất kỳ bằng chứng nào về mà được tìm thấy, nhiều người vẫn tiếp tục nói rằng họ nhìn thấy ma, chụp ảnh ma và thậm chí giao tiếp với linh hồn người chết. Những người chuyên nghiên cứu ma hy vọng rằng một ngày nào đó họ có thể chứng minh người chết có thể liên lạc với người sống. Đó sẽ là câu trả lời cuối cùng để giải đáp câu hỏi: Ma tồn tại hay không? 

Những người mất tích bí ẩn 

Con người biến mất bởi vô số lý do. Một số người cố tình trốn, vài người bị bắt cóc hay sát hại. Đa số người mất tích được tìm thấy, song một số người không để lại bất kỳ manh mối nào và biến mất vĩnh viễn. Một số nhân vật mất tích đã trở nên nổi tiếng như Jimmy Hoffa (chủ tịch Nghiệp đoàn Lái xe tải quốc tế), Amelia Earhart (người phụ nữ đầu tiên lái máy bay xuyên qua nước Mỹ).

Giác quan thứ sáu 

Tất cả chúng ta đều từng có giác quan thứ sáu vào một hoặc nhiều thời điểm trong đời. Tất nhiên, linh tính của chúng ta có thể không đúng trong nhiều trường hợp. Các nhà tâm lý khẳng định con người luôn thu thập thông tin về thế giới xung quanh một cách vô thức. Điều đó khiến chúng ta cảm thấy dường như chúng ta biết rõ thông tin hoặc hiểu tình huống từ trước. Nhưng các trường hợp về giác quan thứ sáu rất khó nghiên cứu hoặc chứng minh, và tâm lý người có thể chỉ là một phần của câu trả lời. 

Bàn chân lớn 

Trong vài thập kỷ, nhiều người khẳng định họ nhìn thấy những dấu chân động vật có hình dạng giống bàn chân người mà người ta gọi là “Bigfoot” (bàn chân lớn). Mặc dù vậy, chưa có bất kỳ người khổng lồ nào được tìm thấy. Chẳng có người khổng lồ nào mất mạng bởi súng của thợ săn, tai nạn xe hơi hay bệnh tật. Do không có những bằng chứng cụ thể như răng hay xương, người ta dùng lời kể của nhân chứng, những bức ảnh hoặc đoạn phim mơ hồ để chứng minh sự tồn tại của người khổng lồ. Về mặt lý thuyết, các nhà khoa học không thể chứng minh rằng người khổng lồ hay quái vật hồ Loch Ness tồn tại, song chứng minh điều ngược lại cũng là việc bất khả thi. Theo Livescience, có thể những sinh vật to lớn đó tồn tại, song chúng luôn né tránh con người. 

Những tiếng vo ve tại Mexico 

Một số người dân và khách du lịch tại thành phố Taos, bang New Mexico, Mỹ cảm thấy khó chịu và hoang mang bởi những tiếng vo ve có tần số thấp từ sa mạc. Kỳ lạ thay, chỉ có khoảng 2% dân số trong thành phố nói họ nghe thấy riếng vo ve. Một số người nghĩ các hiện tượng âm học bất thường gây nên tiếng vo ve. Nhiều người khác cho rằng đó chỉ là hiện tượng hoang tưởng tập thể. Đến nay người ta vẫn chưa xác định được nguồn gốc của những âm thanh kỳ lạ đó.

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top

Tags: #thơ-ca