1#

"Sinh con" - Từ lựa chọn cá nhân cho đến "trách nhiệm" vì cộng đồng của định kiến xã hội và "việc cá nhân" của thị trường lao động tư sản.

Giải thiêng về vai trò phụ nữ khi bị ép phải đồng thuận trong xã hội nam trị và bị ngầm bóc lột trong thị trường lao động tư bản.

I. Mở đầu:


"Tại sao công ty phải trả lương cho việc cá nhân của phụ nữ là sinh đẻ và những công việc 'không lương' khác?"

Tưởng chừng là một câu hỏi hợp lý nhưng chính nó làm mờ đi ranh giới giữa chọn cá nhân và cấu trúc hệ thống - nơi vai trò của phụ nữ trong nền kinh tế bị bóc tách, trừu tượng hóa và bóc lột một cách hợp pháp từ thời phong kiến đến chủ nghĩa tư bản hiện đại.

Sinh và nuôi dạy con cái, chăm sóc người thân và gia đình chồng - tất thảy những công việc này tiêu tốn một lượng lớn thời gian, sức lực và cả tinh thần lại bị gán cho một cái nhãn "bản năng", "thiên chức" hay đôi khi là "lựa chọn cá nhân" một cách cưỡng bức ngầm - thay vì được công nhận là một công việc lao động thực thụ. Điều này dần trở nên nguy hiểm hơn khi nó trở thành một "lý lẽ" biện minh của các công ty, tổ chức và doanh nghiệp từ chối trách nhiệm xã hội: "Đó không phải là việc của chúng tôi".

Theo Silvia Federici - một nhà nữ quyền Marxist từng đề cập trong tác phẩm Caliban and the Witch (2004) chỉ ra rằng chủ nghĩa tư bản đã phát triển bằng cách bóc lột triệt để lao động của phụ nữ, không phải trong nhà máy mà trong chính căn bếp, giường ngủ và nhà trẻ - nơi không có tiền lương, không có hợp đồng, nhưng lại tạo ra cả một thế hệ công nhân mới cho hệ thống.

Các nhà nữ quyền Marxist khác cũng đều gọi đây là lao động tái sản xuất - nền tảng duy trì xã hội.


Rõ hơn thì ở trang 75 có ghi: "Reproductive work continued to be paid - though at the lowest rates - when performed for the master class or outside the home. But the economic importance of the reproduction of labor-power carried out in the home, and its function in the accumulation of capital became invisible, being mystified as a natural vocation and labelled 'women's labor.' In addition, women were excluded from many waged occupations and, when they worked for a wage, they earned a pittance compared to the average male wage."

Trang 92: "By this time women were losing ground even with respect to jobs that had been their prerogatives, such as ale-brewing and midwifery, where their employment was subjected to new restrictions. Proletarian women in particular found it difficult to obtain any job other than those carrying the lowest status: as domestic servants (the occupation of a third of the female work-force), farm-hands, spinners, knitters, embroiderers, hawkers, wet nurses. As Merry Wiesner (among others) tells us, the assumption was gaining ground (in the law, in the tax records, in the ordinances of the guilds) that women should not work outside the home, and should engage in 'production' only in order to help their husbands. It was even argued that any work that women did at home was 'non-work' and was worthless even when done for the market (Wiesner 1993: 83ff). Thus, if a woman sewed some clothes it was 'domestic work' or 'housekeeping,' even if the clothes were not for the family, whereas when a man did the same task it was considered 'productive.' Such was the devaluation of women's labor that city governments told the guilds to overlook the production that women (especially widows) did in their homes, because it was not real work, and because the women needed it to survive on account of their being poor and having no alternative means of support."

 Sự mất giá trị của lao động phụ nữ (devaluation of women's labor), đặc biệt là các công việc trong gia đình hoặc mang tính truyền thống của phụ nữ (như may vá, dệt, làm việc nhà). Federici chỉ ra rằng ngay cả khi phụ nữ làm các công việc này để bán ra thị trường, chúng vẫn bị coi là "non-work" (không phải công việc) hoặc "domestic work" (công việc gia đình), trong khi công việc tương tự của đàn ông lại được coi là "productive" (sản xuất).

Và trang 115: "On its basis a new sexual division of labor could be enforced that differentiated not only the tasks that women and men should perform, but their experiences, their lives, their relation to capital and to other sectors of the working class. Thus, no less than the international division of labor, the sexual division of labor was above all a power-relation, a division within the work-force, while being an immense boost to capital accumulation.

This point must be emphasized, given the tendency to attribute the leap capitalism brought about in the productivity of labor only to the specialization of work-tasks. In reality, the advantages which the capitalist class derived from the differentiation between agricultural and industrial labor and within industrial labor itself - celebrated in Adam Smith's ode to pin-making - pale when compared to those it derived from the degradation of women's work and social position.

As I have argued, the power-difference between women and men and the concealment of women's unpaid-labor under the cover of natural inferiority, have enabled capitalism to immensely expand the 'unpaid part of the working day,' and use the (male) wage to accumulate women's labor; in many cases, they have also served to deflect class antagonism into an antagonism between men and women. Thus, primitive accumulation has been above all an accumulation of differences, inequalities, hierarchies, divisions, which have alienated workers from each other and even from themselves."

 Sự phân chia lao động theo giới (sexual division of labor) trong chủ nghĩa tư bản, nhấn mạnh rằng sự phân chia này không chỉ là về công việc mà còn tạo ra sự bất bình đẳng về quyền lực giữa đàn ông và phụ nữ. Federici lập luận rằng lao động không lương của phụ nữ (bao gồm lao động tái sản xuất) bị che giấu dưới cái mác "natural inferiority" (tính kém cỏi tự nhiên), và điều này cho phép chủ nghĩa tư bản gia tăng khai thác lao động của phụ nữ thông qua tiền lương của đàn ông.

Tương tự như thế, nhà xã hội học Arlie Hochschild trong The Managed Heart (1983) khái niệm hoá lao động cảm xúc - việc phụ nữ phải điều chỉnh cảm xúc cá nhân để làm phục vụ cho nhu cầu của người khác từ khách đến chồng con và người thân là một loại lao động "vô hình" nhưng vô cùng thiết yếu trong sự vận động của một hệ thống xã hội mà ở đây là công sở và gia đình. Bà nhấn mạnh: "Cảm xúc của phụ nữ bị quản lý như một phần của công việc - nhưng lại không được trả công xứng đáng".

Ở trang 89-90: "When rules about how to feel and how to express feeling are set by management... what happens to the way a person relates to her feelings?"

- "Corporate logic... creates a series of links... company demands for acting... Private use gives way to corporate use."

 Đoạn văn này giới thiệu khái niệm lao động cảm xúc (emotional labor), trong đó quản lý đặt ra các quy tắc về cách cảm nhận và thể hiện cảm xúc. Hochschild thảo luận về việc cảm xúc (như sự đồng cảm và ấm áp) bị thương mại hóa và trở thành một phần của công việc, đặc biệt trong các ngành dịch vụ như hàng không, nơi tiếp viên (chủ yếu là phụ nữ) phải quản lý cảm xúc của mình. - Tập trung vào ví dụ cụ thể về tiếp viên hàng không, nơi lao động cảm xúc được tổ chức theo logic doanh nghiệp (corporate logic), bao gồm cạnh tranh, mở rộng thị trường, và kỳ vọng của hành khách. Hochschild mô tả cách cảm xúc cá nhân (như sự ấm áp) bị biến thành công cụ phục vụ công ty, dẫn đến sự thay đổi trong cách tiếp viên cảm nhận bản thân.

Đến trang 163-164: "Women... make a resource out of feeling and offer it to men... but... only 6 percent of women but 50 percent of men earned over $15,000 a year."

 Hochschild chỉ ra phụ nữ dùng cảm xúc như tài nguyên để trao đổi, nhưng lao động cảm xúc này không được công nhận, minh chứng bằng chênh lệch thu nhập lớn giữa hai giới vào năm 1980.

Theo báo cáo của Tổ chức lao động quốc tế (ILO), mỗi ngày phụ nữ trên toàn thế giới phải thực hiện số lao động không lương nhiều gấp 2.5 lần nam giới và nếu quy đổi ra tiền, giá trị của công việc có thể chiếm đến 9% GDP toàn cầu (dựa trên năm 2018 và không chênh lệch quá nhiều so với năm 2024).

Trong khi đó, các doanh nghiệp lại hưởng lợi trực tiếp từ việc xã hội hóa trách nhiệm tái sản xuất. Họ không phải trả chi phí đào tạo thế hệ lao động mới, không phải chi trả cho giờ nghỉ sinh, nuôi con, chăm sóc tâm lý hậu sản - nhưng vẫn thu được lợi nhuận từ một lực lượng lao động "tái tạo" đều đặn và miễn phí nhờ công sức của phụ nữ.

Nói cách khác, cái gọi là "việc riêng" của phụ nữ lại chính là nền móng để hệ thống kinh tế vận hành. Và việc từ chối trả công cho những công việc này không chỉ là bất công - mà là chiến lược chính trị - kinh tế có hệ thống.

II. Khái niệm cơ bản:


1. Lao động tái sản xuất (Reproductive labor)

Là những công việc cần thiết để duy trì và tái tạo cuộc sống hằng ngày của con người - từ sinh đẻ, chăm sóc con cái, người già, nấu ăn, dọn dẹp cho đến hỗ trợ cảm xúc trong gia đình. Đây là dạng lao động không tạo ra giá trị trao đổi trực tiếp trên thị trường, nhưng lại duy trì lực lượng lao động cho nền kinh tế.

Theo Silvia Federici: "Không có lao động tái sản xuất, sẽ không có công nhân để sản xuất." ("the development of a new sexual division of labor subjugating women's labor and women's reproductive function to the reproduction of the work-force... the mechanization of the proletarian body and its transformation, in the case of women, into a machine for the production of new workers and soldiers.") p.13

2. Lao động cảm xúc (Emotional labor)

Khái niệm được Arlie Hochschild phát triển trong The Managed Heart (1983), dùng để mô tả công việc quản lý và thể hiện cảm xúc để phục vụ người khác - thường thấy trong ngành dịch vụ và trong mối quan hệ gia đình.

Ví dụ: một bà mẹ phải che giấu sự mệt mỏi để tạo môi trường tích cực cho con; một nữ nhân viên lễ tân phải luôn tươi cười dù bị xúc phạm.

3. Chủ nghĩa phụ quyền (Patriarchy)

Hệ thống xã hội trong đó đàn ông nắm giữ vị trí thống trị về quyền lực, tài sản và chuẩn mực đạo đức. Dưới chế độ phụ quyền, vai trò của phụ nữ bị ràng buộc vào thiên chức sinh sản, chăm sóc và phục tùng.

Kết hợp với chủ nghĩa tư bản, phụ quyền làm "tàng hình" giá trị lao động của phụ nữ, biến họ thành công cụ tái tạo lao động mà không cần trả công.

4. Cá nhân hóa trách nhiệm xã hội

Chỉ hiện tượng những trách nhiệm vốn thuộc về xã hội hoặc hệ thống - như sinh con, chăm sóc, sức khỏe tinh thần - bị quy về trách nhiệm cá nhân. Đây là chiến thuật phổ biến trong chủ nghĩa tân tự do (neoliberalism), nhằm rút lui khỏi các chính sách phúc lợi và tránh chi phí cho doanh nghiệp, nhà nước.

III. Lịch sử xã hội - Từ phong kiến đến tư bản: Cấu trúc hóa sự bóc lột đối với phụ nữ

1. Thời phong kiến: Lao động bị khước từ định nghĩa

Trước đây, khi xã hội còn là nông nghiệp truyền thống và phong kiến, phụ nữ luôn phải giữ vai trò nội trợ gắn liền với huyết thống, tông ti và nghĩa vụ gia đình. Tất cả những hoạt động như sinh đẻ, nuôi dạy con cái, chăm sóc cho gia đình và người thân hay thậm chí là sản xuất những nông phẩm tại gia đều bị gói gọn trong một không gian hẹp, riêng tư, kín đáo, thế nhưng nó lại không được tính là một loại lao động vì lao động khi đó được định nghĩa theo chuẩn mực của nam giới: có sản phẩm, có giá trị trao đổi, và diễn ra nơi công cộng.

Tư tưởng Khổng giáo ở Đông Á hay Giáo lý Thiên Chúa ở châu Âu đều duy trì một hệ thống đạo đức mà ở đó phụ nữ được đánh giá cao nếu biết "an phận", phục tùng và đảm đương thiên chức sinh sản. Điều này củng cố quan điểm rằng những công việc họ làm là "thiên chức" chứ không phải lao động - một lập luận vẫn được dùng đến tận ngày nay để biện minh cho việc không trả công cho họ.

Như Merle Hoffman từng ghi: "Choice' is sometimes not a choice at all. It is an outcome determined by the economic, physical, sociological, and political factors that surround women and move them toward the only action that allows them to survive at that point in their lives. Survival can sometimes be a woman's act of staying alive, but it can also be her act of refusing to put what will become an impossible burden on her shoulders." - Intimate Wars: The Life and Times of the Woman Who Brought Abortion from the Back Alley to the Boardroom" (2012), p.108

2. Chủ nghĩa tư bản sơ kỳ: Hợp pháp hoá sự bóc lột vô hình

Sau khi các quan hệ sản xuất phong kiếm dần bị thay thế bởi chủ nghĩa, các hệ thống hay cấu trúc xã hội cũ vốn đã bất bình đẳng giới lại càng được củng cố và mở rộng sâu sắc theo một chiều hướng mới, tiêu cực hơn. Dù phụ nữ được cho phép làm việc ở ngoài - nhà máy nhưng hệ thống tư bản chưa bao giờ công nhận đầy đủ các giá trị kinh tế của lao động chăm sóc và sinh sản, hay các giá trị "nội trợ" khác mà đã "cơ cấu hoá" những việc này là trách nhiệm tự nhiên của phụ nữ đối với gia đình, không lương, không chế độ dẫn đến việc phụ nữ vẫn tiếp tục thực hiện vai trò tái sản xuất sau khi kết hôn. Từ lúc này, nó không còn là nghĩa vụ đạo đức tôn giáo mà là nền tảng cho sự tích lũy tư bản sơ khai.

Federici cũng nhấn mạnh rằng lao động tái sản xuất của phụ nữ, mặc dù không được trả công, là nền tảng cho sự vận hành của chủ nghĩa tư bản: "Reproductive work is valueless in capitalist societies, where women's invisible labor goes unpaid, although capitalism depends on this labor because it provides a ready supply of workers, without which capitalism could not function."

Silvia Federici đã chỉ ra trong nghiên cứu của mình rằng phụ nữ, đặc biệt là những người bị kết tội là "phù thủy", chính là nạn nhân đầu tiên của sự cưỡng bức tái cấu trúc hệ thống lao động phục vụ lợi ích tư bản: phụ nữ độc thân, không có con, sống ngoài hệ thống hôn nhân bị triệt hạ vì không góp phần vào công cuộc sản sinh thế hệ lao động tương lai.

"...because the female body has been for women in capitalist society what the factory has been for the male waged worker: the primary ground of their exploitation and resistance, because the female body was appropriated by the state and by men and forced to function as a means for the reproduction and accumulation of labor. " - Phần Capitalism and Primitive Accumulation.

Hay "...the forcing of women to reproduce against their will or (as a feminist song from the 1970s put it) forcing them to "produce children for the state," only partially defines women's function in the new sexual division of labor." - Phần The Devaluation of Women's work.

Chế độ lương, vốn được xem là dấu hiệu tiến bộ, thực ra lại là công cụ giúp tư bản cắt giảm chi phí tái sản xuất: đàn ông nhận lương để về nuôi gia đình - trong khi công việc của người vợ, người mẹ được ngầm tính vào mức lương đó như một phần thưởng trừu tượng, không bao giờ được định lượng cụ thể.

 Do đó, cơ thể phụ nữ trở thành một công cụ sản xuất không lương, phục vụ cho nhu cầu tích lũy của tư bản.

3. Thế kỷ 20-21: Gánh nặng kép và sự vô hình của lao động nữ

Hiện tại, phụ nữ càng ngày càng tham gia thị trường lao động nhiều hơn trước nhưng họ vẫn phải gánh công việc gấp đôi: vừa làm có lương và vừa làm không lương. Hiện tượng này được gọi là "gánh nặng kép" (double burden) và xét trên các dữ liệu từ Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) và Liên Hợp Quốc đã ghi nhận:

Theo báo cáo của ILO năm 2018, phụ nữ trên toàn cầu thực hiện lượng công việc không lương gấp 2.5 lần nam giới, dẫn đến việc hơn 700 triệu phụ nữ không thể tham gia đầy đủ vào thị trường lao động.

Báo cáo cũng ghi cụ thể: "In 2018, 16.4 billion hours are spent in unpaid care work every day. This is equivalent to 2.0 billion people working eight hours per day with no remuneration."

Ngay cả trong các quốc gia phát triển, báo cáo của OECD (2019) cho thấy trung bình phụ nữ dành 3-5 tiếng mỗi ngày cho lao động không lương, trong khi nam giới chỉ dành 1-2 tiếng. Công việc này bao gồm chăm sóc con cái, dọn dẹp nhà cửa, nấu ăn - toàn bộ đều cần thiết để tái tạo năng lượng cho người lao động... nhưng bị mặc định là "nhiệm vụ gia đình" thay vì trách nhiệm xã hội.

Nhà kinh tế học Nancy Folbre cũng từng nhận định: "Women's labor is considered a natural resource, freely available like air and water." - The Invisible Heart: Economics and Family Values, 2001.

4. Tư bản và phụ quyền: Cá nhân hóa trách nhiệm để hợp pháp hóa bất bình đẳng

Một trong những chiến lược phổ biến của chủ nghĩa tư bản hiện đại là tư nhân hóa và cá nhân hóa các vấn đề xã hội - trong đó, sinh đẻ, chăm sóc và sức khỏe tinh thần đều bị tách ra khỏi bối cảnh cấu trúc và đẩy về thành "lựa chọn cá nhân".

Khi một người phụ nữ kết hôn và mang thai, sinh con; hầu hết mọi người không quan tâm công ty đó có đảm bảo chế độ, chính sách hỗ trợ mà lại quan tâm hơn về vấn đề "Tại sao lại sinh con nếu cô không muốn mắc các gánh nặng về tài chính và gia đình?" hoặc những câu tương tự thế. Đó là một kiểu ngụy biện phổ biến khiến việc sinh sản - một hoạt động tái sản xuất thiết yếu cho toàn xã hội - trở thành gánh nặng cá nhân, do cá nhân tự chịu trách nhiệm tài chính, tinh thần và thể chất.

Điều này vừa che giấu sự bất bình đẳng về cơ cấu, vừa "giải cứu" các tổ chức và nhà nước khỏi nghĩa vụ phúc lợi.

Trong phần Social Contradiction of Capitalism của cuốn Social Reproduction Theory (2017), có đoạn:

"Capitalism relies on social-reproductive activities that it doesn't value monetarily, such as caregiving and community building."

 Ngụ ý rằng hoạt động này bị bỏ qua về mặt giá trị tiền tệ, tương tự như "không cần đền đáp".

Cũng trong sách ở phần Angela Davis and Social Reproduction), có ý rằng:

"Gender oppression is inextricably entwined with the capitalist structure of the economy-so much so that, to overturn one, the other must be transformed." => Cho thấy chủ nghĩa tư bản dựa vào sự áp bức giới tính để tồn tại.

Nancy Folbre lập luận về hậu quả của nó trong cuốn The Invisible Heart:

"If we don't establish a new set of rules defining our mutual responsibilities for caregiving, the penalties suffered by the needy-our very families-will increase."

Điều này nhấn mạnh rằng việc không công nhận và hỗ trợ lao động chăm sóc sẽ dẫn đến hậu quả nghiêm trọng cho cả gia đình và xã hội.

IV. Pháp luật và trách nhiệm công ty: Ranh giới giả tạo giữa "việc công" và "việc tư"

1. Cá nhân hóa thiên chức - một cấu trúc xã hội mang tính pháp lý nhưng cũng đầy phi lý

Trên danh nghĩa, nhiều quốc gia hiện đại đã thừa nhận quyền sinh con là quyền cá nhân và đảm bảo quyền này trong các đạo luật về nhân quyền hoặc luật hôn nhân - gia đình. Tuy nhiên, trên thực tế, chính hệ thống pháp luật lại thường xuyên cá nhân hóa nghĩa vụ tái sản xuất xã hội, đẩy nó vào khu vực "việc riêng" của phụ nữ. Điều này tạo ra một ranh giới giả tạo giữa những gì được xem là trách nhiệm tập thể (việc công) và những gì bị coi là trách nhiệm cá nhân (việc tư).

Chẳng hạn, trong các chính sách lao động của nhiều quốc gia, việc nghỉ thai sản, nghỉ chăm sóc con nhỏ hay hỗ trợ tài chính cho bà mẹ đơn thân được định nghĩa như một "ưu đãi" thay vì là bồi hoàn công lao động tái sản xuất (reproductive labor) mà người phụ nữ đảm nhận. Nói cách khác, chính sách chỉ công nhận tạm thời - không phải như một quyền cấu trúc lâu dài.

Theo Nancy Fraser, một trong những sai lầm lớn nhất của chủ nghĩa nữ quyền tự do là chấp nhận "một phạm trù phân tách việc riêng với việc công một cách không phê phán", từ đó tái củng cố vai trò truyền thống của phụ nữ trong gia đình nhưng khoác áo tự do lựa chọn (Fraser, 1997, Justice Interruptus). Đây chính là điều mà các công ty tư bản đã lợi dụng - khi "việc chăm sóc con cái" không được xem là thuộc phạm vi của lao động mà họ cần trả lương, thì họ cũng không phải chịu bất kỳ chi phí nào cho nó.

2. Trách nhiệm công ty: Không thể phủi tay với tái sản xuất xã hội

Trong hệ thống kinh tế hiện đại, doanh nghiệp không chỉ là nơi sản xuất sản phẩm - mà là tác nhân điều phối đời sống xã hội. Việc tách bạch rạch ròi giữa "lao động sinh sản" và "lao động sản xuất" chính là một thủ pháp ý thức hệ để trốn tránh trách nhiệm. Công ty hưởng lợi từ việc xã hội không sụp đổ, từ việc có nhân công đủ điều kiện làm việc - nhưng lại không trả bất kỳ chi phí nào cho việc nuôi dạy thế hệ lao động đó.

Nhiều học giả đã lên tiếng về điều này, trong đó có Silvia Federici khi chỉ rõ rằng trong giai đoạn tích lũy nguyên thủy, nhà nước và nhà thờ đã kiểm soát cơ thể phụ nữ nhằm phục vụ cho sản xuất dân số phục vụ lao động mà không trả công (Federici, 2004). Tư bản hiện đại tiếp nối cấu trúc này bằng cách hợp pháp hóa "vai trò sinh học" của phụ nữ mà không tạo ra bất kỳ cơ chế trả lương hoặc bồi hoàn thích đáng.

Đây là lý do vì sao nhiều công ty dù tự nhận là "thân thiện với gia đình" nhưng vẫn giữ nguyên hệ thống phân cấp nơi phụ nữ - đặc biệt là phụ nữ có con - bị đánh giá thấp hơn về năng suất, bị xem là "rủi ro" trong tuyển dụng, hoặc bị loại trừ khỏi cơ hội thăng tiến.

3. Pháp luật hiện hành và các khoảng trống

Trong nhiều bộ luật lao động, đặc biệt tại các nước phát triển, quyền nghỉ thai sản, hỗ trợ chăm sóc con cái và cấm phân biệt đối xử giới tính đã được pháp điển hóa. Tuy nhiên, chúng vẫn tồn tại các lỗ hổng lớn:

Không thừa nhận lao động tái sản xuất là một dạng lao động thực thụ. Từ đó, không có cơ chế trả công ngoài các khoản trợ cấp.

Không buộc công ty phải đồng tài trợ việc chăm sóc nhân viên có con ngoài trách nhiệm bảo hiểm.

Không định nghĩa lại việc sinh con là một phần của nền kinh tế vĩ mô, từ đó chỉ nhìn việc này qua lăng kính "nhân đạo" thay vì "công lý".

Một số đề xuất cải cách gần đây, như chính sách "universal basic income" hoặc "wages for housework" (tiền lương cho công việc nội trợ), được xem như nỗ lực đầu tiên trong việc đánh thẳng vào sự trốn tránh trách nhiệm này của nhà nước và doanh nghiệp. Tuy nhiên, cho đến nay, hầu hết các quốc gia vẫn chưa có khung pháp lý đủ mạnh để công nhận giá trị kinh tế của sinh sản và chăm sóc.

4. Một khung pháp luật công bằng giới - cần nhìn nhận lại từ gốc

Nếu muốn xây dựng một xã hội công bằng giới thực chất, pháp luật cần thay đổi: Nhìn nhận lao động tái sản xuất như một phần cấu trúc của nền kinh tế.

Xác lập cơ chế chia sẻ trách nhiệm tái sản xuất giữa nhà nước, doanh nghiệp và cá nhân.

Loại bỏ định kiến rằng việc sinh con và chăm sóc là "nghĩa vụ tự nhiên" của phụ nữ, thay vào đó là công việc xã hội có giá trị.

Điều này đòi hỏi không chỉ thay đổi chính sách, mà cả cách chúng ta suy nghĩ về bản chất của "lao động" và "trách nhiệm" xã hội.

Tại Việt Nam, hệ thống pháp luật có những điểm thể hiện tinh thần bảo vệ phụ nữ mang thai, sinh con - như chế độ thai sản 6 tháng theo Luật Bảo hiểm xã hội, cấm sa thải phụ nữ đang mang thai hoặc nuôi con dưới 12 tháng theo Bộ luật Lao động 2019. Tuy nhiên, những cơ chế này chủ yếu mang tính trợ cấp nhân đạo, hơn là công nhận rằng sinh con và chăm sóc con nhỏ là một hình thức lao động tái sản xuất xã hội có giá trị kinh tế cụ thể.

1. Trách nhiệm xã hội chưa được phân bổ công bằng

Hiện nay, phụ nữ là người gánh phần lớn nghĩa vụ tái sản xuất trong gia đình. Theo báo cáo của UN Women (2021), tại Việt Nam, phụ nữ dành trung bình 20,2 giờ mỗi tuần cho công việc nhà và chăm sóc không lương - cao gấp 3 lần nam giới. Trong khi đó, hệ thống phúc lợi xã hội và doanh nghiệp hầu như không có cơ chế chia sẻ trách nhiệm chăm sóc - ví dụ, nhà trẻ công lập khan hiếm, giờ giấc không linh hoạt, công ty hầu như không tài trợ dịch vụ chăm sóc trẻ.

2. Lao động cảm xúc và định kiến ngầm nơi công sở

Nhiều nghiên cứu trong nước cũng chỉ ra rằng phụ nữ sau sinh bị xem là "rủi ro nghề nghiệp". Một khảo sát của ActionAid Việt Nam (2016) cho biết, hơn 50% phụ nữ cảm thấy bị đối xử bất công khi quay lại làm việc sau thai sản. Một số người bị ép tự nghỉ việc, hoặc bị gạt ra khỏi danh sách thăng chức. Điều này thể hiện rõ quan điểm ngầm cho rằng: sinh con là lựa chọn cá nhân, công ty không có nghĩa vụ hỗ trợ dài hạn.

Ngoài ra, lao động cảm xúc mà phụ nữ thực hiện - từ việc giữ hòa khí trong nhóm làm việc, chăm sóc đồng nghiệp đến "đồng hành tinh thần" với khách hàng - vẫn không được đánh giá như năng lực chuyên môn, mà xem như "đức tính tự nhiên". Đó là biểu hiện điển hình của việc vô hình hóa đóng góp của phụ nữ trong thị trường lao động.

3. Chính sách phúc lợi chưa gỡ bỏ cấu trúc gia trưởng

Chế độ thai sản hiện nay (6 tháng nghỉ, hưởng 100% lương đóng BHXH) có vẻ "tiến bộ", nhưng lại tái củng cố vai trò độc quyền của phụ nữ trong việc sinh và chăm con. Nam giới chỉ được nghỉ 5-14 ngày khi vợ sinh (khoản 2, Điều 34, Luật Bảo hiểm xã hội), tạo ra khoảng cách cực lớn trong trách nhiệm tái sản xuất. Điều này không chỉ bất công với phụ nữ, mà còn bóp nghẹt khả năng xây dựng mô hình chăm sóc chung trong gia đình hướng đến bình đẳng giới, nam giới nên được phép nghỉ tương đương để hỗ trợ vợ chăm sóc con cái trong kỳ nghỉ thai sản mà vẫn được trả lương với cả hai giới.

4. Không có chế tài cho doanh nghiệp trốn tránh trách nhiệm

Hiện tại, các công ty Việt Nam không bị bắt buộc cung cấp dịch vụ chăm sóc trẻ, nhà trẻ tại nơi làm việc, hoặc hỗ trợ tài chính ngoài mức bảo hiểm do nhà nước quy định. Việc duy trì hoặc sa thải lao động nữ sau khi sinh con hoàn toàn phụ thuộc vào sự "tự giác" của doanh nghiệp. Trong khi đó, việc đánh giá hiệu suất làm việc không được điều chỉnh để phản ánh gánh nặng chăm sóc của phụ nữ - khiến họ dễ bị loại bỏ vì không theo kịp tiêu chuẩn nam giới thiết lập.

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top

Tags: #tuviet