ke cap tia chop-upload by subin
Tôi quyết định hỏi anh điều tôi thắc mắc nhất. Từ chiều đến giờ, tôi nôn nóng chỉ muốn tìm ngay lời giải:
- Lúc chiều, con thần Ares là Clarisse cười cợt chuyện người ta tưởng em là con của một trong “Bộ Tam Vĩ Đại”. Sau đó, hai lần Annabeth bảo có thể em là người cả trại đang mong đợi. Bạn ấy còn bảo em nên nghe Lời Sấm Truyền. Sao lại thế hả anh?
Luke gấp dao lại:
- Anh ghét vụ Sấm Truyền lắm.
- Anh nói sao, em không hiểu.
Da quanh vết sẹo Luke giật giật:
- Lời Sấm Truyền bảo anh toàn làm hỏng chuyện người khác. Suốt hai năm qua, sau hậu quả tệ hại từ chuyến thăm vườn táo vàng của thần Hera, bác Chiron không cho phép ai truy lùng quái vật nữa. Trong khi đó, Annabeth mong mỏi được rời trại hè, khám phá thế giới. Con bé nhằng nhẵng đeo bám bác Chiron xin được giao nhiệm vụ, đến nỗi bác phải bảo rằng định mệnh Annabeth đã an bài, rằng bác đã nghe Lời Sấm Truyền về nó. Tuy không được tiết lộ toàn bộ nhưng bác Chiron bảo Annabeth chưa thể thực hiện bất kỳ nhiệm vụ điều tra hay truy lùng gì được. Cô bé phải chờ… nhân vật đặc biệt đến trại đã.
- Ai đặc biệt thế ạ?
- Đừng lo. Cứ thấy ai nhập trại, Annabeth lại nghĩ đó chính là người cô bé trông đợi. Thôi, tạm gác chuyện ấy lại đã. Đến giờ ăn rồi.
Luke vừa dứt lời, có tiếng tù và rúc lên từng chặp. Tuy chưa nghe bao giờ nhưng không hiểu sao tôi biết ngay ai đó vừa thổi vỏ ốc.
Luke hô:
- Nhà Số Mười Một, xếp hàng ngay!
Tôi và các bạn ở chung nhà khoảng hai mươi người lục tục kéo nhau ra sân chung. Ai ở trại lâu nhất đứng hàng đầu thế nên tôi đứng cuối. Mọi người từ các nhà khác cũng đổ ra sân, ngoại trừ ba nhà bỏ trống đầu tiên và Nhà Số Tám. Ban ngày, Nhà Số Tám bình thường như những nhà khác nhưng khi mặt trời lặn, ánh sáng bàng bạc bắt đầu tỏa ra từ đó.
Chúng tôi theo nhau lên đồi, đến nhà lều rạp rộng lớn. Các thần rừng từ đồng cỏ lên đồi theo chúng tôi. Các Nữ Thủy thần Naiad cũng từ dưới hồ nổi lên. Mấy cô gái từ trong rừng đi ra. Tôi thấy tận mắt họ từ trong thân cây bước ra ngoài! Tôi thấy một cô gái khoảng chín hay mười tuổi, bước ra từ thân cây thích và nhảy chân sáo lên đồi.
Tính tổng cộng cả trại hè có chừng trăm người, vài chục thần rừng và hơn chục Nữ Thủy Thần và Nữ Thần Cây.
Trong nhà rạp, đuốc cháy rừng rực gắn quanh cột nhà bằng đá. Giữa nhà có lò than bằng đồng to bằng bồn tắm. Mỗi nhà có bàn riêng phủ khăn trắng viền tím. Bốn bàn để trống trong lúc bàn của Nhà Số Mười Một đông chen chúc. Tôi phải ngồi ghé một bên mông cuối ghế băng, bên kia nhô ra ngoài.
Grover ngồi ở bàn Mười Hai với bác Chiron cùng mấy thần rừng. Bàn họ còn có hai cậu bé tóc vàng béo phục phịch trông giống Ngài D. Bác Chiron phải đứng ăn vì thân hình kềng càng của nhân mã không vừa bàn ăn cỡ nhỏ.
Annabeth ngồi bàn Sáu với nhóm thiếu niên dáng thể thao, nét mặt nghiêm nghị. Cả nhóm đều mắt xám, tóc vàng như mật ong giống hệt Annabeth.
Clarisse ngồi bàn của thần Ares ngay sau tôi. Rõ ràng là nó đã tạm quên vụ vòi rồng lúc trưa. Bằng chứng là Clarisse và đám bạn đang cười hô hố, ợ triền miên, cố tình tạo âm thanh khó chịu.
Lát sau, bác Chiron gõ móng cồm cộp xuống nền nhà lát đá. Mọi người im phăng phắc. Bác nâng ly:
- Uống mừng các vị thần!
Mọi người làm theo. Đoàn Nữ Thần Cây nối nhau mang thức ăn đến: nào nho, táo, dâu tây, pho mát, bánh mì nóng giòn và tất nhiên cả thịt nướng! Ly tôi trống trơn nhưng anh Luke bảo:
- Muốn uống gì, cứ nhìn ly mà ra lệnh. Tất nhiên chỉ thức uống không cồn.
Tôi dõng dạc:
- Nước ngọt Coke hương đào.
Loáng cái, ly đầy nước màu caramen sóng sánh.
Tôi chợt nảy ra một ý:
- Nước ngọt Coke hương đào màu xanh biển.
Nước trong ly chuyển sang màu xanh côban.
Tôi nhấp thử. Ngon tuyệt!
Tôi vừa uống vừa nhớ đến mẹ, bụng bảo dạ: “Mẹ chưa chết… hẳn. Giờ mẹ đang dưới cõi âm. Nếu đó là nơi chốn cụ thể, sẽ có ngày…”
- Percy, của chú đây.
Luke chuyền cho tôi khay ức gà hun khói. Lấy đầy đĩa mình xong, vừa định đưa một miếng to tướng lên miệng thì tôi thấy ai cũng mang đĩa của mình đến đống lửa to giữa sảnh. Lúc đầu tôi tưởng họ ra đó lấy món tráng miệng.
Luke giục:
- Đi đi chứ.
Tới nơi, tôi thấy mỗi người lấy chút đồ ăn ngon nhất trong đĩa mình thả giữa lò lửa: nào dâu chín đỏ, nào thịt bò mềm, nào bánh mì tròn phết bơ béo ngậy.
Luke rỉ tai tôi:
- Ta đốt lễ vật cúng thần vì các thần thích mùi khói.
- Anh cứ giỡn em hoài.
Luke lừ mắt như bảo tôi chớ có đùa. Tuy nhiên, tôi không khỏi thắc mắc tại sao các vị thần bất tử hùng mạnh vô song lại thích mùi thức ăn cháy.
Luke đến gần, cúi đầu ném chùm nho chín đỏ to tròn xuống lò lửa.
- Kính dâng thần Hermes.
Tôi đứng ngay sau anh. Đến lượt mình, tôi ước mình biết tên cha để xướng lên giống anh Luke.
Cuối cùng, tôi thầm khấn: “Cha là ai, xin cho con biết. Con cầu xin Người.”
Tôi xắn miếng ức gà to tướng thả xuống đống lửa.
Khi khói bốc lên xộc vào mũi, tôi không hề khó chịu.
Mùi bay lên không giống thức ăn cháy. Nó giống hỗn hợp mùi thơm của sôcôla, bánh bông lan mới ra lò, chả nướng vừa chín trộn hương hoa đồng nội và hàng trăm mùi hương khác tưởng không thể kết hợp với nhau. Tôi tin thần thánh sống khỏe chỉ nhờ vào việc tận hưởng hỗn hợp mùi hương dễ chịu ấy.
Khi mọi người về chỗ ăn xong bữa, bác Chiron lại giậm chân yêu cầu im lặng.
Ngài D. đứng lên cùng tiếng thở dài sườn sượt:
- Chào lũ trẻ hư các người một câu chắc chẳng mất gì. Vậy thì, Chào mọi người. Ông Chiron đây, người điều khiển các hoạt động của trại nói thứ Sáu tới có cuộc thi giành Cờ Danh Dự. Nhà Số Sáu hiện là đương kim vô địch.
Bàn nhà thần Ares ồ lên chế giễu. Ngài D. nói tiếp:
- Về mặt cá nhân mà nói, tôi không quan tâm. Nhưng dẫu sao cũng chúc mừng Nhà Số Sáu. Còn nữa, hôm nay trại hè ta có thành viên mới: Peter Jackson.
Bác Chiron ghé tai Ngài D. nói nhỏ câu gì đó. Ông ta vội chữa lại:
- À quên, Percy Jackson chứ. Trại ta hân hoan đón chào, vân vân và vân vân. Thôi, mấy người bắt đầu trò lửa trại nhố nhăng được rồi đấy. Đi hết đi nào.
Mọi người reo hò ầm ĩ chạy ra hí trường. Nhóm hát xướng ca ở đó đều là các con của thần Apollo. Chúng tôi, người cùng hòa theo mấy bài ca của trại hè về các thần, cũng cười đùa vui vẻ. Thú vị nhất là tôi không còn cái cảm giác người ta nhìn mình chòng chọc nữa. Tôi thấy mình dễ chịu như đang ở nhà.
Trời tối muộn. Những đốm lửa nhỏ theo gió bốc lên bầu trời đầy sao. Tiếng tù và vỏ ốc lại ngân dài. Chúng tôi lại xếp thành hàng, đi đều bước về nhà mình. Chỉ khi nằm dài trong túi ngủ đi mượn, tôi mới thấy mệt rã rời.
Tay tôi nắm chặt chiếc sừng kỷ niệm. Trong một thoáng, mọi ký ức đẹp đẽ về mẹ ùa tới: nụ cười dịu dàng, cuốn truyện mẹ đọc cho tôi đi ngủ hồi tôi còn bé… Tôi nhớ cả cách mẹ dạy làm thế nào để khỏi bị rệp cắn khi đi ngủ.
Hai mắt vừa nhắm, tôi ngủ ngay lập tức.
Ngày đầu tiên ở Trại Hè Con Lai của tôi là như vậy đấy.
Đêm ấy, tôi không biết thời gian tận hưởng niềm vui ở nhà mới thật quá ngắn ngủi.
8. GIÀNH CỜ DANH DỰ
Mấy ngày sau đó, sinh hoạt của tôi dần đi vào nề nếp, giớng hồi ở trường thường. Chỉ có điều, người hướng dẫn tôi bây giờ là thần rừng, Nữ Thần Cây và nhân mã.
Sáng sáng, Annabeth chỉ tôi học tiếng Hy Lạp cổ. Thật lạ đời vì khi trao đổi với nhau về các thần, chúng tôi chia động từ ở thời hiện tại. Về chứng khó đọc của tôi, Annabeth nói đúng. Tôi học tiếng Hy Lạp cổ dễ dàng. Chí ít cũng dễ hơn tiếng Anh. Mới học mấy buổi mà tôi đã đọc được vài câu thơ của đại thi hào Homer và không bị nhức đầu.
Thời gian còn lại trong ngày, tôi luân phiên tập nhiều môn thể thao ngoài trời để tìm môn sở trường.
Bác Chiron dạy tôi bắn cung, nhưng hai chúng tôi nhanh chóng biết tôi hoàn toàn lóng ngóng với cung nỏ. bác không phàn nàn một câu dù phải nhổ một mũi tên lạc cắm trúng đuôi mình.
Chạy bộ thì sao? Cũng chẳng hơn gì. Các cô giáo là Nữ Thần Cây cho tôi “hít khói”. Họ an ủi, bảo tôi chớ buồn rồi kể lý do khiến họ chạy giỏi: đó là nhờ mấy nghìn năm chạy trốn các nam thần phát cuồng vì yêu! Tuy nhiên, tôi vẫn thấy bẽ bàng vì chạy không nhanh bằng cái cây.
Đến môn vật thì … “quên đi”. Mỗi lần tôi lò dò ra chiếu, Clarisse lại dần tôi nhừ tử.
Nó rít vào tai tôi:
- Tưởng con ông nọ bà kia là “ngầu” lắm sao?
Tôi chỉ thạo mỗi trò lái xuồng máy. Đó chẳng phải kỹ năng của người hùng. Người ta kỳ vọng ở anh chàng giết quỷ đầu bò nhiều hơn thế.
Trại viên và các huynh trưởng theo dõi từng nhất cử nhất động của tôi hầu mong đoán ra danh tánh cha tôi. Nhưng chẳng dễ dàng gì.
Tôi không khỏe mạnh như con thần Ares, không giỏi bắn cung như con thần Apollo. Tôi không khéo tay trong nghề rèn như thần Hephaestus, không biết điều khiển cây nho như thần Dionysus.
Luke bảo hình như tôi là con thần Hermes: nghề gì cũng biết nhưng chẳng giỏi nghề nào. Nhưng tôi biết anh chỉ an ủi tôi mà thôi. Chính anh cũng không biết tôi là con ai.
Dù thế, tôi vẫn thích trại hè, tôi dần quyến luyến với sương sớm phủ trắng bãi biển, hương dâu thơm lừng mỗi chiều, và tiếng động lạ lẫm từ trong rừng vọng tới hàng đêm.
Lúc dùng bữa ở bàn ăn của Nhà Số Mười Một, gạt một phần thức ăn trong đĩa vào lửa, tôi cố tìm mối liên hệ với người cha ruột của mình. Chẳng có gì ngoại trừ cảm giác ấm áp, giống ký ức về nụ cười của cha.
Tôi dần thông cảm thái độ chua chát của Luke. Hình như anh hờn giận cha mình. Thôi đành vậy. Thần thánh bận rộn làm nhiều việc vĩ đại. Nhưng chẳng lẽ họ không đủ thời gian gửi một dấu hiệu, chẳng hạn như gọi điện thoại hay tạo tiếng sấm, để nhận con mình? Thần Dionysus tạo lon nước ngọt từ không khí. Chẳng lẽ cha tôi không có khả năng hóa phép biến cho mình cái điện thoại?
-O-
Chiều thứ Năm, ba ngày sau khi tham gia trại hè, lần đầu tiên tôi học đấu kiếm. Cả Nhà Số Mười Một tập trung tại hí trường rộng lớn, khán đài hình vòng tròn. Luke sẽ hướng dẫn môn kiếm thuật cho anh em.
Bài học bắt đầu bằng vài động tác đâm và vung kiếm cơ bản. Chúng tôi dùng bù nhìn nhồi rơm mặc giáp trụ giống chiến binh Hy Lạp cổ để tập. Tôi học không tồi. Tập hồi lâu, tôi biết mình phải làm gì. Sự hồi tưởng về những trận đánh xa xưa cũng khá rõ ràng.
Khổ nỗi tôi không tìm được cây kiếm vừa tay mình. Kiếm ở đây hoặc quá nặng, hoặc quá nhẹ, hoặc quá dài. Dù cố hết sức giúp nhưng Luke phải công nhận kiếm trong phòng tập không có cái nào hợp với tôi.
Sang phần tập đấu đối kháng, Luke bảo vì đây là lần đầu tiên của tôi nên anh sẽ đấu với tôi.
Một bạn cùng phòng bảo:
- Chúc may mắn. Luke là tay kiếm cừ nhất. Ba trăm năm qua, chưa ai thắng được anh ấy.
- Hy vọng anh ấy nhường tớ.
Cậu ta khịt mũi coi thường.
Luke chỉ tôi cách che chắn, tránh né và xông tới tấn công. Mỗi lần liều lĩnh xông lên, tôi bầm tím thêm một ít, áo quần rách thêm một mảnh. Luke vụt sống kiếm vào mạng sườn tôi:
- Percy, cẩn thận chứ. Đừng tiến xa vội. Vụt xuống! Lao vào! Xỉa đi! Giờ lùi lại! Chém!
Đến lúc anh thông báo tạm nghỉ, mồ hôi tôi ướt đầm đìa. Mọi người kéo nhau đến bình làm mát nước uống. Thấy Luke đổ nước lạnh buốt lên đầu, tôi cũng bắt chước.
Tôi lập tức thấy khỏe hơn gấp mấy lần. Hai tay tôi mạnh mẽ hơn hẳn. Tay cầm kiếm không thấy ngượng nghịu nữa.
Luke hô lớn:
- Mọi người tập trung đi. Nếu Percy không phiền, ta đấu thử nhé?
Tôi nghĩ thầm: “Tuyệt! Hãy xem Percy bị xử ‘te tua’ trước mặt cả Nhà Số Mười Một nào.”
Con cái thần Hermes xúm lại xem. Ai nấy cố nín cười, như thể họ biết thừa sức tôi đến đâu và háo hức chờ Luke “xử lý” cái bao cát tập đấm là tôi ra sao.
Luke nói sẽ trình diễn kỹ thuật tước kiếm đối phương. Đấu sĩ sẽ dùng kiếm đè kiếm đối phương xuống khiến đối thủ không còn cách nào khác ngoài thả tay mặc vũ khí rơi xuống đất.
Anh nhấn mạnh:
- Động tác này khó. Anh em chớ cười Percy vì hầu như ai cũng phải luyện tập vài năm mới thành thạo được.
Anh trình diễn chiêu thức ấy thật chậm. Tất nhiên, kiếm rời tay tôi, rơi loảng xoảng xuống đất.
Chờ tôi nhặt kiếm xong, anh bảo:
- Giờ ta làm như thật. Ta sẽ đấu tập để phân thắng bại. Percy sẵn sàng chưa?
Tôi gật đầu. Luke nhường tôi tấn công trước.
Không biết bằng cách nào, tôi có khả năng tránh không để Luke tước kiếm. Sau màn dạo đầu, tôi dần quen tay, động tác thuần thục hơn. Mỗi lần anh tấn công, tôi đều biết và chống đỡ hiệu quả. Sau đó, tôi bước lên, xỉa thẳng kiếm ra trước.
Luke tránh dễ dàng, nhưng mặt anh biến sắc. Anh nheo mắt và bắt đầu mạnh tay với tôi hơn.
Thanh gươm trong tay tôi nặng dần. Tôi giữ thăng bằng không được tốt. Biết mình sẽ thua sau vài giây ngắn ngủi nữa, tôi quyết định liều.
Tôi thử động tác tước kiếm đối phương.
Lưỡi kiếm của tôi chạm phần gốc kiếm của Luke. Tôi xoay vặn cổ tay, dùng hết sức bình sinh ấn xuống.
Keng!
Kiếm của Luke chạm mặt sàn lát đá. Mũi kiếm tôi chỉ cách khuôn ngực trống trải của anh chỉ có vài xăng-ti-mét.
Khán giả chết lặng.
Tôi hạ kiếm xuống:
- Ối, em xin lỗi.
Trong một thoáng, Luke sững sờ không thốt nên lời.
Luke bật cười:
- Xin lỗi ư? Trời đất, có gì phải xin lỗi chứ. Chú làm lại cho anh xem nào.
Tôi không muốn chút nào. Luồng sinh lực vừa trào lên bất ngờ đã tắt ngấm. Nhưng Luke năn nỉ mãi.
Lần này không thể gọi là giao tranh. Hai kiếm vừa chạm nhau, Luke đã đè chuôi kiếm của tôi, hất nó trượt dài trên nền nhà.
Im lặng thật lâu. Có tiếng hỏi trong đám người xem:
- Lúc nãy Percy gặp may phải không?
Luke quệt mồ hôi trán. Anh chăm chú nhìn tôi như thầm đánh giá:
- Có thể. Nhưng nếu Percy có thanh kiếm vừa tay, chưa biết sẽ ra sao…
-O-
Chiều thứ Sáu, tôi ngồi nghỉ với Grover bên hồ sau khi suýt chết vì tập leo tường. Grover leo vút lên đầu tường nhanh như dê núi, còn tôi suýt bị nham thạch thiêu sống. Áo tôi cháy nham nhở còn bốc khói. Lông trên cánh tay cháy xém cả.
Ngồi trên móng cầu ngắm các Nữ Thủy Thần đan rổ dưới nước rất lâu, tôi mới dồn đủ can đảm hỏi Grover về cuộc gặp với Ngài D. hôm nọ.
Mặt nó xám ngoét:
- Vui lắm. Nói chung tốt cả.
- Vậy cậu vẫn tiếp tục công việc lúc trước?
Nó ngượng ngập liếc tôi:
- Bác Chiron ch… cho cậu hay chuyện tớ muốn có giấy phép Truy Tìm à?
- Đâu… có.
Tôi định hỏi chứng chỉ quái quỷ gì nghe lạ thế, nhưng nghĩ giờ chưa phải lúc nên lại thôi.
- Bác ấy chỉ bảo cậu có nhiều dự định lớn… Bác còn bảo cậu muốn thuyết phục quản lý trại cho phép hoàn tất nhiệm vụ của Người Trông Nom. Thế ông ấy cho phép chưa?
Grover quay sang nhìn nhóm Nữ Thủy Thần:
- Thần Dionysus chưa đánh giá gì cả. Vì ông chưa quyết định tớ thành công hay thất bại trong vụ của cậu nên số phận hai ta vẫn gắn với nhau không rời. Nếu cậu được giao nhiệm vụ điều tra, tớ sẽ theo bảo vệ cậu. Nếu cả hai toàn mạng trở về, Ngài D. mới kết luận tớ hoàn thành nhiệm vụ.
Tôi vui hẳn lên:
- Thế cũng được mà.
- Be…e…e! Khả năng khác là ông ta sẽ chuyển tớ sang đội lau dọn chuồng ngựa. Khả năng cậu được điều tra xa vời lắm… Với lại nếu được đi, cậu cần gì tớ đi cùng!
- Đương nhiên tớ cần chứ.
Grover rầu rĩ ngó mặt hồ đăm đăm:
- Đan rổ… có nghề hữu dụng thích quá cậu nhỉ?
Tôi định an ủi, khen nó nhiều tài nhưng làm thế chỉ khiến nó buồn thêm mà thôi.
Tán gẫu về xuồng máy, kiếm thuật xong, chúng tôi quay sang tranh luận về ưu khuyết điểm của các thần.
Cuối cùng, tôi hỏi nó về bốn căn nhà bỏ trống.
- Nhà Số Tám, màu sáng bạc của thần Artemis. Vì thề giữ trinh tiết suốt đời nên đương nhiên thần Artemis không có con. Nhưng nếu trại không làm nhà cho bà thì không xong đâu. Có Nhà Số Tám, Trại Con Lai sẽ không phải hứng cơn giận dữ của thần Artemis.
- Phải phải. Nhưng còn ba lều kia… có phải của Bộ Tam Vĩ Đại không?
Grover căng thẳng như thể chúng tôi sắp đụng đến vấn đề nhạy cảm.
- Nhà Số Hai của Nữ thần Hera. Giống nhà thần Artemis, Nhà Số Hai chỉ làm cho có. Hera là thần của hôn nhân, vì thế bà sẽ không đi hoang, lăng nhăng với cả đám người phàm. Chuyện ấy đã có chồng bà “phụ trách”. Khi nói tới Bộ Tam Vĩ Đại, người ta ám chỉ ba anh em có thế lực nhất, con người khổng lồ Kronos.
- Là Thần Dớt, thần Poseidon và thần Hades.
- Chính xác. Chắc cậu cũng biết, đánh bại các người khổng lồ Titan xong, họ chiếm ngai vàng của cha và rút thăm chia quyền cát cứ.
Tôi nhớ lại bài đã học:
- Thần Dớt được bầu trời, thần Poseidon thống lĩnh biển cả và thần Hades xuống địa ngục.
- Ừ.
- Thần Hades không có nhà ở đây.
- Không. Trên đỉnh Olympia cũng không có ghế của ông ta. Ông ta chỉ loanh quanh dưới địa ngục thôi. Nếu Trại Con Lai có nhà của ông ấy thì… ớn lắm. Cứ thế này lại hơn.
- Nhưng theo truyền thuyết, con hai thần Dớt và Poseidon là hằng hà sa số. Sao nhà họ ở đây không có ai?
Grover sợ sệt đổi chân:
- Khoảng sáu mươi năm trước, sau Thế Chiến Thứ Hai, Bộ Tam Vĩ Đại cùng đồng thuận sẽ không sinh thêm anh hùng nữa. Con cái họ quá hùng mạnh, ảnh hưởng ghê gớm đến tiến trình phát triển của nhân loại, gây nên bao cảnh đầu rơi máu chảy. Cậu biết không, thực chất Thế Chiến Thứ Hai là sự giao tranh của một phe là các con thần Dớt và thần Poseidon đấu với phe bên kia là con của thần Hades. Phe thắng trận là Dớt và Poseidon bắt Hades phải cùng thế sẽ không lăng nhăng với phụ nữ trần gian nữa. Cả ba đều nhìn nước sông Mê Styx mà thề.
Sấm nổ từng tràng vang dội.
Tôi bảo:
- Giống thề độc, cậu nhỉ?
Grover gật đầu.
- Thế ba anh em họ có giữ lời không?
Mặt Grover tối sầm:
- Mười bảy năm trước, thần Dớt trót sa đà. Ngôi sao phim truyền hình với mái tóc bồng bềnh làm thần mất ăn mất ngủ. Khi cô bé Thalia, con họ chào đời… Sông Mê Styx vốn nghiêm túc với chuyện thề bồi mà. Do bất tử nên thần Dớt không việc gì, nhưng vì ông ta, cô con gái phải chịu số phận khủng khiếp.
- Bất công quá! Đứa con gái đó có tội tình gì đâu.
Grover ngần ngừ:
- Percy này, con của Bộ Tam Vĩ Đại có quyền năng lớn hơn những con lai khác. Mùi hương từ cơ thể họ cực kỳ mạnh, lôi kéo bọn quái vật đến. Khi biết tin thần Dớt có con gái, Hades chẳng vui vẻ gì khi biết anh mình không giữ lời hứa. Ông ta thả bọn quái vật kinh khiếp nhất nơi tận cùng địa ngục là Tartarus để chúng tìm Thalia hành hạ. Khi cô bé tròn mười hai tuổi, một thần rừng được phái đến trông nom cô bé, nhưng người này chẳng làm được gì. Thần rừng ấy cố đưa Thalia và hai người bạn con lai của cô đến trại. Họ đến rất gần trại, leo lên tận đỉnh đồi.
Grover chỉ tay về phía bên kia thung lũng, nơi có cây thông lớn, đúng chỗ tôi quần nhau với quỷ đầu bò:
- Ba tên “Người Tử Tế” cùng đàn chó canh địa ngục đuổi theo họ. Bị đuổi sát, Thalia bảo thần rừng đem hai người bạn đến nơi an toàn, để mình cô cầm chân quái vật. Cô bé bị thương, kiệt sức và không muốn sống chui nhủi cả đời như thú hoang trốn thợ săn. Dù không muốn bỏ Thalia nhưng thần rừng nọ không thuyết phục được cô đổi ý nên đành bảo vệ hai người kia. Thế là một mình Thalia quyết chiến đến cùng trên đỉnh đồi. Khi cô chết, thần Dớt thương con vô hạn. Ông biến xác cô thành cây thông. Linh hồn cô tiếp tục bảo vệ ranh giới của trại quanh thung lũng. Chính vì thế mới có tên Ðồi Con Lai.
Tôi nhìn không chớp mắt vào cây thông trên đỉnh đồi xa xa.
Nghe Grover kể xong, tôi hụt hẫng và mang cảm giác có tội. Một bạn gái trạc tuổi tôi đã hi sinh thân mình để cứu bạn. Trước khi chết, cô đã chiến đấu với cả bầy quái thú. So với cô, chiến tích thắng quỷ đầu bò của tôi chẳng là gì. Tôi tự hỏi... nếu hôm đó tôi hành sự khác đi, liệu tôi có cứu được mẹ mình?
- Grover này, trong số anh hùng con thần thánh có ai xuống địa ngục chưa?
- Vài người, như Orpheus, Hercules, Houdini chẳng hạn.
- Thế có ai làm người chết sống lại chưa?
- Chưa. Làm gì có chuyện ấy. Orpheus suýt thành công nhưng... Percy, có thật cậu định…
Tôi nói dối:
- Ðâu có, tớ chỉ hỏi cho biết thôi. Vậy... luôn có thần rừng đi theo canh chừng cho á thần à?
Grover nhìn tôi cảnh giác như thể nó không tin tôi bỏ qua ý tưởng vế Địa ngục:
- Không hẳn. Tụi tớ đội lốt người đến nhiều trường học, cố phát hiện Con Lai nào có khả năng trở thành anh hùng sức mạnh hơn người. Nếu tìm được ai đậm mùi con lai, chẳng hạn con cái của Bộ Tam Vĩ Đại, thần rừng chúng tớ sẽ báo cáo bác Chiron. Bác ấy sẽ để mắt đến người đó bởi họ có thể gây rắc rối nghiêm trọng.
- Chính cậu phát hiện ra tớ. Bác Chiron bảo cậu thấy tớ đặc biệt.
Grover nhìn tôi như thể tôi vừa đưa nó vào bẫy:
- Tớ đâu có… Nghe này, đừng theo đuổi suy nghĩ đó nữa. Nếu là con của một trong Bộ Tam Vĩ Đại, cậu sẽ không bao giờ được giao nhiệm vụ. Như thế, tớ sẽ không bao giờ được công nhận là Người Trông Nom. Có thể cậu là con thần Hermes, hoặc vị thần nào ít quyền lực hơn như thần Ganymede chẳng hạn. Vậy nên đừng quá lo, nhé?
Tôi cảm giác Grover đang tự an ủi mình.
-O-
Ăn tối xong, ai nấy háo hức khác thường.
Chờ mãi cũng đến cuộc tranh Cờ Danh Dự.
Sau khi bát đĩa được dọn sạch, tù và vỏ ốc vang lên. Chúng tôi đứng ngay bên bàn ăn.
Mọi người hò reo khi thấy Annabeth và hai người nữa cầm lá cờ bằng lụa chạy vào lều rạp. cờ dài khoảng ba mét bằng lụa bóng màu xám in hình chim lợn đậu trên cây ôliu. Từ cửa đối diện, Clarisse cùng hai bạn nó cũng cầm lá cờ to bằng cờ của Annabeth chạy vào. Chỉ có điều cờ của chúng màu đỏ chói, vẽ hình cây thương nhỏ máu và đầu lợn lòi.
Giữa đám đông ồn ào, tôi quay sang Luke nói như hét:
- Đó là Cờ Danh Dự à?
- Ừ.
- Lúc nào đội Athena và đội Ares cũng dẫn đầu ư?
- Không hẳn, nhưng thường thì họ thắng.
- Thế nếu cờ rơi vào tay Nhà khác thì phải in lại à?
Luke cười toe toét:
- Rồi cậu sẽ thấy. Trước tiên ta phải giành được một trong hai cờ đã.
- Anh theo phe nào?
Luke liếc trộm tôi, như thể anh giấu điều gì tôi chưa biết. Trong ánh đuốc bập bùng, vết sẹo làm mặt anh thành hung ác.
- Tạm thời Nhà Số Mười Một ta về phe Athena. Tối nay ta sẽ cướp cờ đội Ares. Cậu sẽ phải giúp một tay đấy.
Các đội đứng lên nhận đồng minh. Đội Athena liên kết với hai đội đông nhất là Apollo và Hermes. Rõ ràng họ đem quyền lợi đổi sự hỗ trợ, chẳng hạn thời gian sử dụng nhà tắm, làm hộ việc vặt và nhường vị trí tốt trên sân tập…
Đội Ares liên kết với các đội còn lại là các Nhà Dionysus, Demeter, Aphrodite và Hephaestus
Con thần Dionysus là vận động viên thực thụ, chỉ có điều họ chỉ có hai người. Con thần Demeter giỏi kỹ năng tự nhiên và hoạt động ngoài trời, nhưng không dũng mãnh cho lắm. Hầu như họ không tham gia hoạt động gì, chỉ ngồi soi mình xuống mặt hồ, chải tóc và tán gẫu. Không phải tôi trọng nam khinh nữ gì đâu vì nhà ấy cả trai lẫn gái đều thế. Con thần Hephaestus không đông, cũng không xinh xắn nhưng cả bốn người họ đều to cao lực lưỡng vì cả ngày làm trong lò rèn. Đối thủ đáng gờm đây! Ðó là chưa kể đến hơn chục đứa con thần Ares vừa to cao nhất, xấu xí nhất và xấu tính nhất vùng Long Island, hay nói đúng hơn là cả hành tinh.
Báo Chiron giậm chân xuống nền đá.
- Hỡi các anh hùng! Các bạn biết luật rồi đấy. Suối nước là ranh giới. Phạm vi thi đấu là cả khu rừng. Các bạn được dùng mọi vật dụng có phép thuật. Ai cầm cờ phải giơ cao cho mọi người cùng thấy và chỉ tối đa hai người được đi theo bản vệ cờ thôi. Tù binh có thể bị tước vũ khí nhưng không cần trói và nhét giẻ vào miệng. Không được giết hoặc gây thương tích cho đối phương. Tôi sẽ vừa là trọng tài, vừa là cứu thương. Hãy chọn binh khí đi nào!
Ông giơ hai tay lên. Lập tức, mặt bàn xuất hiện đủ thứ: mũ giáp kiểu Hy Lạp cổ, kiếm đồng, giáo mác, khiên bằng da bò thuộc bọc kim loại. Tôi trầm trồ:
- Chà Chà. Ta sẽ dùng thứ này sao?
Luke nhìn tôi như nhìn tên ngớ ngẩn:
- Nếu cậu muốn Nhà Số Năm băm cậu làm chả nướng thì đừng dùng. Này, cầm lấy. Bác Chiron bảo cái này vừa với cậu. Cậu sẽ bảo vệ vùng giáp ranh nhé.
Khiên của tôi to tướng có in y hiệu phía trước và nặng không thể tả. Dùng nó làm ván trượt tuyết thì tốt, nhưng đừng ai bắt tôi vác khiên này chạy thật nhanh. Tôi đội mũ của đồng minh đội Athena có chùm lông ngựa nhuộm xanh biển trên chóp. Đội Ares và đồng bọn đội mũ có chùm lông vũ màu đỏ.
Annabeth hô lớn:
- Ðội xanh xung phong!
Cả đội hò reo, vung kiếm theo Annabeth theo đường mòn xuống phía nam khu rừng. Ðội đỏ vừa tiến về phương Bắc vừa mắng nhiếc xỉ vả chúng tôi.
Tôi vừa cố tránh vấp mũi cây kiếm dài thậm thượt trong tay, vừa ráng đuổi kịp Annabeth:
- Này.
Bạn ấy chỉ cắm cúi đi.
- Cậu định thế nào? Có đồ dùng phép thuật cho tớ mượn không?
Annabeth sờ túi như thể sợ tôi ăn trộm:
- Coi chừng cây giáo của Clarisse đấy. Ðừng để nó chạm vào cậu. Còn lại thì đừng lo. Ta sẽ lấy được cờ của nhà Ares. Anh Luke giao việc cho cậu chưa?
- Canh vùng biên giới. Tớ chẳng hiểu gì cả.
- Dễ thôi. Cứ đứng bên suối, xua quân đỏ đi. Phần còn lại để tớ. Ðội Athena luôn có kế hoạch đàng hoàng.
Dứt lời, bạn ấy chạy rõ nhanh, bỏ tôi lại với đám bụi mù mịt.
Tôi làu bàu:
- Ðược lắm. Hân hạnh được cùng đội với cậu.
Hephaestus là con trai của thần Dớt và Hera. Thần cai quản lửa và nghề thủ công.
Ðêm ấy oi ả lạ thường. Rừng tối om, thỉnh thoảng có bầy đom đóm bay lập lòe. Annabeth bảo tôi đứng bên bờ suối có nước róc rách chảy qua mấy tảng đá lớn. Sau đó, bạn ấy và cả đội tản ra trước khi vào rừng.
Ðầu đội mũ sắt cắm lông ngựa, tay cầm tấm khiên to bằng cái mẹt đứng chơ vơ bên suối, tôi thấy mình nực cười hết chỗ nói. Thanh kiếm đồng này, như bao thanh kiếm từng qua tay tôi, lệch lạc thế nào ấy. Chuôi kiếm bọc da thuộc trơn trượt như trái bóng bowling vậy.
Chắc đây chỉ là trò chơi đánh trận giả. Ai lại tấn công thật bao giờ. Ý tôi là cư dân Olympia phải ban hành luật lệ đàng hoàng chứ.
Từ xa vọng lại tiếng tù và vỏ ốc. Tôi nghe tiếng thúc ngựa, tiếng hò hét trong rừng và cả tiếng kim khí chạm nhau loảng xoảng. Một đồng minh nhà Apollo chạy vụt qua tôi nhanh như hoẵng rồi nhảy qua suối, tiến sâu vào lãnh địa đối phương.
Tôi chua chát nghĩ thầm: “Thế đấy. Cũng như trước thôi, có trò vui thì chẳng đến lượt mình!”
Chợt có tiếng động làm tôi lạnh sống lưng. Ngay gần chỗ tôi đứng vọng đến tiếng ch́ó dữ gầm gừ.
Theo bản năng tự vệ, tôi giơ khiên lên. Một linh cảm lạ mách bảo có con gì đang theo dõi từng nhất cử nhất động của tôi.
Thốt nhiên, tiếng gầm gừ im bặt. Tôi cảm giác nó vội lủi đi chỗ khác.
Từ bụi cây bên kia suối, năm chiến binh nhà Ares xông ra. Tiếng la lối, gào thét của chúng xé toạc màn đêm yên tĩnh.
Clarisse hét:
- Dần nhừ tử thằng cặn bã đó cho tao!
Cặp mắt lồi như mắt lợn luộc của nó trợn lên sau hai khe hở của nón sắt. Nó vung cây giáo dài thước rưỡi, lưỡi giáo nhọn sắc sáng loáng. Mấy chị em nó cầm kiếm đồng. Dù đó chỉ là kiếm thường nhưng cũng đủ làm tôi phát hoảng.
Năm đứa theo nhau lao qua suối.
Xung quanh không có ai để cầu cứu. Tôi chỉ có thể hoặc chạy trốn, hoặc tự vệ, một mình chống trả nửa số “nhân khẩu” của Nhà số Năm.
Thấy đứa đầu tiên nhào tới, tôi nhảy sang bên để tránh. Nhưng năm đứa này khôn hơn quỷ đầu bò. Chúng bao vây tôi. Clarisse xỉa mạnh ngọn giáo. Khiên của tôi làm mũi giáo quay xuống đất, nhưng cảm giác đau nhói, râm ran lan khắp người tôi. Tóc tôi dựng hết cả. Cánh tay đeo khiên tê dại, tia lửa bắn tung tóe.
Điện giật. Cây giáo lợi hại của Clarisse có điện.
Tôi ngã ngửa ra sau.
Thêm một đứa nhà Ares cầm chuôi kiếm thúc mạnh ngực tôi khiến tôi lăn lộn dưới đất.
Nếu chúng không phí thời gian cười ngặt nghẽo mà xông vào đấm đá tôi thì chắc người tôi đã mềm như thạch.
Clarisse xúi:
- Cắt tóc nó đi. Túm tóc chặt vào.
Tôi cố gượng đứng dậy. Thấy tôi giơ kiếm lên, Clarisse dùng giáo gạt mạnh. Tia lửa điện lóe lên. Giờ cả hai tay tôi đều tê dại.
Clarisse khoái trá:
- Úi chà, thằng này làm tao sợ chết khiếp. Anh Percy ơi, tha cho em!
- Cờ đằng kia. Sao không ra đó mà lấy?
Tôi cố giả vờ hằm hè, dọa dẫm nhưng chết nỗi giọng tôi chằng có chút khí thế nào.
Đứa khác bảo:
- Biết rồi. Nhưng mày không thấy tụi tao không thèm cờ quạt gì à? Tối nay, tao bắt mày phải đền cái tội dám làm cả nhà tao bẽ mặt hôm trước.
- Chúng mày tự bôi nhọ thanh danh mình đấy chứ.
Có lẽ cãi nhau tay đôi với chúng không phải việc làm khôn ngoan. Hai đứa bèn tiến đến chỗ tôi. Vừa lùi dần tới bờ suối, tôi vừa giơ khiên lên cao nhưng Clarisse nhanh như sóc. Mũi giáo đâm trúng mạn sườn tôi. Nếu không mặc áo giáp che kín ngực, chắc tôi thành món thịt nướng rồi. Tuy nhiên, tôi vẫn bị điện giật mạnh đến độ hai hàm răng suýt rụng khỏi hàm. Một đứa chung nhà với nó lướt lưỡi kiếm cắt ngọt ngang cánh tay tôi, để lại vết thương khá sâu và dài.
Nhìn máu mình chảy ròng ròng, tôi chóng mặt, toàn thân thoắt nóng lại lạnh buốt. Tôi cố lý sự:
- Luật cấm gây thương tích mà.
Một thằng trong bọn Nhà Số Năm lên tiếng:
- Xin lỗi đấy. Cùng lắm thì bị phạt, mất bữa tráng miệng tối mai thôi.
Nó đẩy tôi ngã ngồi xuống suối. Nước bắn tung lên.
Cả bọn cười khả ố. Chắc chắn sau khi cười thỏa thuê, chúng sẽ lấy mạng tôi.
Bất ngờ, chuyện lạ xảy đến. Hình như nước làm tôi tỉnh táo, kích thích các giác quan của tôi, hệt như tôi vừa ăn h́ết gói thạch đậu hương cà-phê mẹ cho.
Clarisse cùng đồng bọn nhảy xuống nước định thộp cổ tôi nhưng tôi đã đứng vững chờ chúng đến. Tôi đã biết phải làm gì.
Tôi đập lưỡi kiếm nằm ngang vào đầu tên chạy trước làm mũ sắt của hắn văng xuống đất. Cú đập mạnh đến nỗi hai tròng mắt hắn rung lên trước khi ngã dúi xuống nước.
Thành viên thứ hai và thứ ba của đội quân Xấu Xí xông thẳng đến chỗ tôi. Một tay đập mạnh khiên vào mặt đứa này, tay cầm kiếm của tôi xén ngọt chùm lông trên mũ đứa kia. Cả hai vội lùi lại. Đứa thứ tư run sợ, không dám tiến lên nhưng Clarisse còn hung hăng lắm. Tia lửa điện trên lưỡi giáo của nó kêu lách tách. Ngay khi nó xỉa cây giáo tới, tôi nắm ngay cán giáo đoạn giữa khiên và kiếm của tôi và bẻ gãy dễ dàng như bẻ cành củi khô.
- Ối! Đồ ngu! Ðồ giòi bọ hôi thối!
Có lẽ nó sẽ còn nói nhiều câu khó nghe hơn nếu tôi không nhanh tay dùng chuôi kiếm thúc mạnh vào trán, ngay giữa hai mắt nó. Cú đẩy làm Clarisse văng giật lùi cách mép nước xa.
Vừa lúc đó tiếng hò reo vui mừng dội tới. Luke giương cao cờ của đội đỏ chạy tới vạch ranh giới. Sát cánh bên anh có hai bạn nhà Hermes chạy theo yểm hộ cùng vài đồng minh nhà Apollo chạy sau họ. Vừa chạy, họ vừa đánh đuổi mấy đứa con thần Hephaestus. Đám con thần Ares lồm cồm bò dậy, riêng Clarisse cay cú chết lặng như bị yểm bùa.
Nó gào lên:
- Lũ lừa đảo. Trò lừa gạt mạt hạng!
Chúng cuống cuồng chạy theo Luke nhưng đã quá trễ. Lúc anh cầm cờ chạy sang lãnh địa đội mình cũng là lúc mọi người đổ dồn về suối. Đội chúng tôi ở bờ bên này cùng lúc ồ lên tiếng reo mừng chiến thắng. Lá cờ đỏ mờ đi trước khi biến thành màu bạc. Đầu lợn rừng và cây giáo biến thành y hiệu, biểu tượng của Nhà Số Mười Một. Mọi người bên đội xanh đều đến chúc mừng Luke. Họ công kênh anh trên vai đi vòng quanh. Từ rừng già, bác Chiron vừa chạt nước kiệu tới vừa thổi vò ốc.
Cuộc thi kết thúc. Đội tôi chiến thắng.
Vừa định theo các bạn ăn mừng chiến thắng, tôi nghe tiếng Annabeth thoảng bên tai:
- Cũng không tệ nhỉ, anh hùng!
Tôi quay ngoắt sang nhưng không thấy bạn.
Tiếng cô hỏi tiếp:
- Cậu học ở đâu chiêu thức đấu tay đôi lúc nãy thế?
Không khí lay động, Annabeth cầm mũ lưỡi trai của đội bóng chày Yankee hiện ra.
Cảm giác giận dữ trong tôi mạnh đến nỗi át cả sự ngạc nhiên trước một Annabeth biết tàng hình.
- Cậu dắt mũi tớ. Sở dĩ cậu bảo tớ đứng đây vì biết thể nào Clarisse cũng đến chỗ tớ gây sự. Trong khi đó, cậu phái anh Luke đưa quân tấn công hai bên sườn đối phương. Cậu tính hết từ trước rồi phải không?
Annabeth nhún vai:
- Tớ đã bảo cậu rồi. Lúc trước tớ có nói nhà Athena luôn có kế sách mà.
- Mưu đồ của cậu biến tớ thành mồi ngon của Clarisse!
- Đừng nói thế. Tớ ráng hết sức chạy thật nhanh đến cứu cậu. Đúng lúc tớ định nhảy vào… - Cô nhín vai – Cậu đâu cần tớ giúp.
Lúc này, Annabeth mới thấy cánh tay tôi bị thương:
- Sao cậu làm được thế?
- Bị tụi nó rạch chứ còn sao nữa.
- Nó khỏi rồi. Cậu nhìn mà xem.
Vệt máu biến mất. Chỗ có vết thương há hoác giờ là vết sẹo dài màu trắng. Thậm chí, sẹo cũng đang mờ dần. Sẹo lớn nhỏ dần thành sẹo mảnh và biến mất ngay trước mắt tôi.
- Sao… sao lại thế được?
Annabeth suy nghĩ rất lung. Cô bạn hết nhìn chân tôi lại nhìn cây giáo gãy của Clarisse rồi ra lệnh:
- Percy, cậu lên bờ đi.
- Gì cơ…
- Làm ngay đi.
Vừa đặt chân lên bờ, tôi đã mệt rã rời. Hai cánh tay tôi tê dại. Cảm giác phấn khích tan biến hoàn toàn. Tôi suýt khuỵu xuống, may mà Annabeth đỡ kịp.
- Thôi chết, không hay rồi. Tớ không mong… Vậy mà mình cứ tưởng thần Dớt…
Tôi định bắt Annabeth giải thích rõ nhưng không kịp. Tiếng chó dữ gầm gừ khi nãy lại nổi lên, lần này nghe gần hơn lần trước. tiếp đến là tiếng tru rờn rợn vang dội khắp rừng già.
Tiếng reo phấn khởi im bặt. Bác Chiron thét lên bằng tiếng Hy Lạp cổ. Mãi giây lát sau tôi mới hiểu trọn nghĩa:
- Sẵn sàng chiến đấu! Mang cung cho ta!
Annabeth giơ cao thanh kiếm tuốt trần.
Ngay trên đống đá tảng sừng sững trước mặt chúng tôi có con chó săn đen trũi, to bằng con tê giác, mắt vằn đỏ như máu, bộ nanh sắc như dao.
Mắt nó phóng thẳng về phía tôi.
Không ai nhúc nhích ngoại trừ Annabeth. Bạn ấy la lên:
- Chạy đi Percy!
Annabeth định bước lên che cho tôi nhưng con quái thú nhanh như cắt. Nó nhảy qua đầu Annabeth. Cả khối đen thẫm chỉ có răng nhọn trắng nhởn lao thẳng vào tôi. Tôi ngã ngửa, chỉ kịp thấy hàm răng nhọn cắn ngập tấm áo giáp che ngực mình. Sau đó là một loạt âm thanh xoàn xoạt, nghe như ai xé lần lượt bốn mươi tờ giấy, hết tờ này đến tờ khác. Một vòng tên nhọn cắm phập quanh cổ quái thú. Nó lăn ra chết ngay dưới chân tôi.
Tôi còn sống như có phép màu. Tôi sợ không dám nhìn xuống tấm áo giáp tả tơi. Thấy ngực mình ươn ướt, âm ấm, tôi biết mình bị thương nặng. Chỉ chậm một giây thôi là quái thú sẽ biến tôi thành súc thịt vô tri nặng năm chục ký lô.
Lo sợ ra mặt, bác Chiron đến bên chúng tôi. Annabeth bảo:
- Thật kinh khủng. Đó là con chó ở mười hai tầng địa ngục, nơi trừng phạt những linh hồn tội lỗi. Chúng không thể… đáng lẽ chúng không…
Bác Chiron đăm chiêu:
- Có người gọi nó lên đây. Nhất định là người trong trại.
Luke đi tới. Lá cờ rũ rượi trong bàn tay buông thõng. Niềm vui chiến thắng trong mắt anh tiêu tan.
Clarisse gào lên:
- Percy làm đấy. Chính nó gọi con chó canh địa ngục.
Bác Chiron gắt:
- Im lặng nào!
Trước sự chứng kiến của mọi người, xác con chó lẩn vào bóng tối, rút xuống đất cho tới khi không còn dấu vết.
Annabeth giục tôi:
- Cậu bị thương kìa. Xuống nước ngay đi.
- Tớ khỏe mà.
- Không, xuống đi. Bác Chiron nhìn cậu ấy xem.
Tôi mệt muốn xỉu, không muốn lý sự dài dòng, chỉ lầm lũi bước xuống suối. Toàn trại vây quanh tôi.
Tức thì, tôi khỏe khoắn hẳn lên. Da thịt rách bươm trên ngực tôi lành lại.
Trong đám đông, vài người vụt đưa tay bưng miệng.
Tôi cố xin lỗi:
- Các cậu, tớ không biết sao lại thế. Xin lỗi…
Nhưng mọi người không xem vết thương. Mắt họ dồn về phía thứ gì lơ lửng trên đầu tôi.
Annabeth chỉ tay:
- Percy, nhìn kìa…
Lúc tôi ngửa mặt lên nhìn, dấu hiệu đã mờ dần. Tuy nhiên, tôi vẫn nhận ra dấu nguệch ngoạc màu xanh lục lấp lánh sáng và đang xoay tròn kia là cây đinh ba.
Annabeth lẩm bẩm:
- Cha cậu đấy. Thế này không hay rồi.
Bác Chiron tuyên bố:
- Thân thế Percy đã được khẳng định.
Mọi người vây quanh tôi đều quỳ xuống, ngay cả mấy đứa trẻ nhà Ares. Tất nhiên, nét mặt chúng chẳng vui vẻ gì.
Tôi hoang mang cực độ:
- Cha tớ là ai?
Bác Chiron quả quyết:
- Thần Poseidon, thần gây động đất, dông bão và là thần của loài ngựa. Chúng tôi kính cẩn chào đón Perseus Jackson, con trai của Thần Biển Cả.
9. Tôi được giao nhiệm vụ truy tìm vật báu
Sáng hôm sau, bác Chiron bảo tôi chuyển sang nhà Số Ba.
Tôi không phải ở chung với ai. Nhà rộng, thừa chỗ bày “của nả” của tôi gồm sừng quỷ đầu bò, một bộ quần áo (ngoài bộ mặc trên người) và đồ dùng vệ sinh cá nhân. Tôi có bàn ăn riêng, muốn làm gì tùy ý, không phải nghe lời ai và khi nào thích cứ việc hô: “Tắt đèn!”
Thế nhưng, chưa bao giờ tôi khổ sở hơn bây giờ.
Vừa kịp được mị người chấp nhận, quen với nhà Số Mười Một như nhà mình và sung sướng vì tưởng mình giống bao người khác trong Trại Con Lai, tôi đã bị gạt ra. Giờ ai cũng nhìn tôi như kẻ mang mầm bệnh nguy hiểm, hiếm gặp.
Dù không ai nhắc đến con chó canh địa ngục nhưng tôi biết sau lưng tôi họ không ngớt xầm xì về nó. Vụ tấn công làm mọi người sợ hãi. Nó mang thông điệp kép: thứ nhất, khẳng định tôi là con thần biển; thứ hai, cho thấy lũ quái vật sẽ không từ bất cứ thủ đoạn nào để giết hại tôi, thậm chí chúng có thể xuất hiện ở Trại Con Lai, nơi trước nay luôn được coi là an toàn.
Các trại viên tìm mọi cách tránh tôi. Sau những gì tôi làm với mấy đứa con nhà Ares trong rừng, nhà Số Mười Một quá khiếp hãi, không dám thực hành với tôi trong giờ kiếm thuật. Thế nên, chỉ còn tôi và Luke đấu tay đôi. Anh bắt tôi tập miệt mài và không ngại “tặng” tôi vài vết bầm tím trong khi thực hành. Lúc đấu tập với tôi bằng kiếm và đuốc cháy từng rực, Luke nói ngay:
- Chú phải thành thạo mọi chiêu thức. Giờ lặp lại động tác “chặt đầu rắn” năm mươi lần.
Sáng sáng, Annabeth vẫn kèm tôi môn tiếng Hy Lạp cổ nhưng bạn ấy cứ lơ đãng thế nào ấy. Tôi nói một câu, bạn ấy gắt một câu, làm như bị tôi cấu véo không bằng.
Hễ học xong, Annabeth lại vừa ra về vừa lẩm bẩm một mình:
- Truy lùng? … Poseidon ư? … Thối rữa… Phải lên kế hoạch thôi…
Ngay Clarisse cũng giữ khoảng cách an toàn, dù ánh mắt nó dọa sẽ lấy mạng tôi vì tội dám bẻ giáo thần của nó.
Giá bị nó chửi bới, đấm đá, tôi lại dễ chịu hơn.
Tôi thà ngày nào cũng bị đánh còn hơn bị “nghỉ chơi”.
Chắc chắn trong trại có kẻ căm ghét tôi vì một tối về đến nhà, tôi thấy ai đó nhét tờ báo của người phàm qua khe cửa. Đó là tờ New York Daily News, gấp đúng trang Metro. Suốt một tiếng đồng hồ, tôi đánh vật với bài báo. Tôi càng tức, câu chữ càng nhảy múa cuồng loạn hơn. Nội dung bài như sau:
Hai Mẹ Con Vẫn Mất Tích Sau Tai Nạn Ô Tô Kỳ Quái
“Tin từ Long Island: Một tuần sau khi Sally Jackson và con trai Percy biến mất một cách bí ẩn, vẫn chưa ai tìm được họ. Thứ Bảy vừa qua, người ta tìm thấy chiếc Camaro màu đỏ đời 78 của gia đình họ cháy rụi trên con lộ phía bắc Long Island. Mui xe rách toạc, trục trước bị gãy. Xe bị lật và trượt dài cả trăm mét trước khi bốc cháy.
Hai mẹ con nạn nhân đến Montauk nghỉ cuối tuần, nhưng vội vã rời đi vì lý do gì không ai biết. Người ta thấy có vết máu trong xe và tại chỗ xe nổ, ngoài ra không còn dấu vết gì của mẹ con nhà Jackson. Cư dân quanh vùng thôn quê yên tĩnh này cho biết trong khoảng thời gian ước tính xảy ra tai nạn, họ không thấy dấu hiệu gì bất thường.
Ông Gabe Ugliano, chồng bà Jackson khẳng định Percy Jackson, con riêng của vợ ông là trẻ hư từng bị tống cổ khỏi nhiều trường nội trú và nhiều lần bộc lộ khuynh hướng bạo lực.
Cảnh sát không khẳng định Percy là thủ phạm vụ mất tích của mẹ hắn nhưng do dấu vết máu tại hiện trường, họ không bỏ qua khả năng đây là một vụ trọng án. Dưới đây là ảnh bà Sally Jackson và con trai Percy. Cảnh sát kêu gọi ai biết gì về hai mẹ con Jackson, hãy gọi đến đường dây nóng sau. ”
Số điện thoại miễn phí được khoanh tròn bằng mực đen.
Vo viên tờ báo quẳng vào xó, tôi nằm vật xuống giường được kê giữa căn nhà trống trải và đau khổ rên lên:
- Tắt đèn.
-o-
Đêm đó, tôi bị ác mộng kinh khủng nhất dày vò.
Tôi mơ thấy mình chạy dọc bãi biển trong cơn bão táp kinh hoàng. Lần này, sau lưng tôi là thành phố lớn. Không phải New York. Vùng đô thị rộng lớn, hỗn độn này khác lắm: nào nhà cửa nhấp nhô nối nhau đến tận chân trời, nào hàng cọ cao vút và dãy đồi thấp phía xa xa.
Khoảng ba chục thước kể từ mép nước ra giữa biển có hai người đánh nhau. Trông họ giống hai đô vật trên ti vi: cơ bắp cuồn cuộn, râu quai nón dữ tợn và để tóc dài. Họ mặc áo choàng kiểu quý tộc Hy Lạp, vạt áo bay phấp phới. Một người mặc áo viền xanh biển, áo người kia viền xanh lá cây. Họ ôm ghì, vật, húc và đá nhau túi bụi. Mỗi lúc họ lao vào nhau, chớp lóe lên, trời tối hơn và cuồng phong mạnh lên gấp bội.
Không hiểu sao tôi thấy nhất định phải can ngăn họ. Nhưng tôi càng cố chạy, gió thổi trước mặt càng mạnh. Cuối cùng, tôi chỉ chạy tại chỗ, hai bàn chân vô vọng guồng trong hố cát.
Tôi nghe tiếng ông áo viền xanh biển gào át tiếng gió hú:
- Trả tao đây! Trả đây!
Chẳng khác nào hai đứa bé lên ba giành nhau đồ chơi.
Sóng cao dần lên như bức tường đá xô lên bờ, hất chơi.
Sóng cao dần lên như bức tường xô lên bờ, hất đầy cát lên mặt tôi.
Tôi gào lên:
- Hai người thôi đi! Đừng đánh nhau nữa.
Mặt đất rung chuyển. Đâu đó sâu dưới lòng đất vọng lên tiếng cười ghê rợn, quỷ quyệt khiến máu trong người tôi đông lại.
Rồi đến giọng nói trầm trầm, rền rĩ:
- Xuống đây đi, tiểu anh hùng! Xuống đây với ta.
Đất dưới chân nứt toác thành vực thẳm sâu tới lõi quả đất. Tôi trượt chân và bị vực sâu tối nuốt chửng.
Giật mình mở mắt rồi mà tôi vẫn cứ ngỡ mình đang rơi.
Tôi đang nằm trên giường trong nhà Số Ba. Đồng hồ sinh học mách bảo trời đã sáng, nhưng tôi thấy ngoài trời tối đen. Có tiếng sấm ầm ầm từ bên kia dãy đồi vọng tới.
Trời sắp có bão. Riêng chi tiết này không chỉ có trong mơ.
Bên ngoài có tiếng lộp cộp của móng guốc gõ lên cánh cửa.
- Mời vào.
Grover bước vào, nét mặt lo lắng:
- Ngài D. muốn gặp cậu.
- Có chuyện gì thế?
- Ông ấy muốn giết... mà thôi, để ông ấy đích thân thông báo cho cậu.
Tôi thay quần áo theo Grover ra ngoài, lòng ngổn ngang trăm mối. Tôi dám chắc lần này bị rầy rà to.
Mấy bữa nay, tôi đoán già đoán non thể nào cũng bị gọi lên Nhà Lớn. Sau khi họ khẳng định tôi là con thần Poseidon, riêng sự có mặt của tôi trên đời đã là tội trọng. Chắc các thần đang tranh cãi tìm cách ghê gớm nhất để trừng phạt tôi vì cái tôi còn sống đến ngày hôm nay! Giờ Ngài D. chỉ cần chờ tôi đến, đọc phán quyết của tập thể cư dân đỉnh Olympia nữa là xong.
Tôi hỏi Grover liệu có cần mang ô theo không.
- Không. Nếu ta không yêu cầu, ở đây không bao giờ mưa.
Tôi chỉ bức màn dông bão phía xa:
- Thế kia là gì?
Nó sợ sệt liếc trộm bầu trời:
- Bão chỉ lồng lộn quanh vòng ngoài của trại thôi. Lần nào thời tiết xấu cũng thế hết.
Nó nói đúng. Suốt tuần qua tôi ở đây, khoảng trời phía trên Trại Con Lai chưa bao giờ u ám. Có mấy lần tôi nhìn thấy mưa dông, nhưng chúng chỉ chạy vòng quanh thung lũng.
Nhưng cơn bão lần này... chắc đổ cửa đổ nhà mất.
Ngoài bãi bóng chuyền, bọn trẻ nhà Apollo đang tập thể dục buổi sáng bằng trận đấu tập với nhóm thần rừng. Hai đứa sinh đôi con thần Dionysus len lỏi trong ruộng dâu, làm phép cho cây lớn. Ai nấy vẫn làm công việc hàng ngay, chỉ có điều nét mặt họ cực kỳ căng thẳng. Thi thoảng, họ lo âu ngước lên nhìn mây đen.
Grover đưa tôi đến thêm trước Nhà Lớn.
Thần Dionysus ngồi trước bàn bày sẵn bộ bàn. Ông mặc áo hổ vằn vện, uống Coke không đường giống hệt ngày đầu tôi gặp ông. Bác Chiron ngồi xe lăn, đối diện ông quản lý trại hè. Họ cùng đánh bài với hai đối thủ tàng hình. Hai quạt bài lơ lửng trong không khí.
Không nhìn lên, Ngài D. bảo:
- Chà chà, ngôi sao nhí nhà ta đây rồi.
Tôi kiên nhẫn đợi.
Ngài D. ra lệnh:
- Ngồi xuống đi chứ. Đừng có mơ ta quỵ lụy cậu chỉ vì cậu là con lão Ngêu già để râu quai nón.
Một chùm tia chớp rạch ngang tầng mây đen. Sấm nổ làm rung chuyển cửa sổ Nhà Lớn.
Ông quản lý vờ hoảng hốt:
- Ôi, sợ quá đi mất.
Bác Chiron tảng lờ bằng cách chăm chú quá mức vào bộ bài. Đứng bên lan can, Grover co rúm người, nhấp nhổm như đứng trên tổ kiến lửa.
Hình như hai tay chơi tàng hình chiếm cứ hai ghế trống duy nhất, thế nên tôi đành đứng.
Ngài D. nói tiếp:
- Nếu được tự quyết định, ta sẽ biến mọi phân tử trong cơ thể cậu bùng cháy. Tụi này sẽ hốt tro đổ đi cho đỡ phiền toái. Tiếc thay, Chiron đây bảo làm thế đi ngược lại sứ mệnh của ta ở trại hè: bảo vệ lũ trẻ hư đốn các người khỏi bị xâm hại.
Bác Chiron chêm vào:
- Tự bốc cháy là bị tổn hại rồi.
- Vớ vẩn. Nó có cảm thấy đau đâu mà nói. Nhưng thôi, ta chấp nhận kiềm chế. Hay là ta biến cậu thành cá heo, thả xuống biển trả về cho cha cậu nhé?
Bác Chiron nhắc:
- Kìa, Ngài D...
Ông quản lý xịu mặt:
- Nghe rồi. Vẫn còn một cách. Nhưng nghe ngớ ngẩn lắm. – Ông ta đứng lên. Hay quạt bài của hai nhân vật tàng hình rơi xuống bàn. – Giờ ta lên đỉnh Olympia dự họp khẩn. Nếu lúc ta về mà thằng bé này còn ở đây, ta sẽ biến nó thành cá heo Đại Tây Dương. Mấy người rõ chưa? Này Perseus Jackson, nếu cậu có chút chất xám trong đầu, cậu sẽ thấy ta tình cảm hơn Chiron nhiều. Cứ chờ xem ông ta sắp bắt cậu làm gì.
Thần Dionysus búng tay.
Không khí quanh ông đặc lại, uốn lượn mờ ảo. Sau khi biến thành bức ảnh, Ngài D. theo gió biên đi, mùi nho chín còn vương lại.
Dù cười với tôi, trông bác Chiron khá mệt mỏi và căng thẳng:
- Percy, ngồi đi cháu. Cả Grover nữa.
Chúng tôi ngoan ngoãn vâng lời.
Bác Chiron ngửa bài lên bài. Đáng lẽ bác cầm chắc phần thắng. Nhưng giờ chẳng ai còn lòng dạ chơi bài nữa.
Bác hỏi:
- Percy này, nói bác nghe xem hôm nọ cháu đã làm gì con chó canh địa ngục?
Chỉ nghe nhắc đến, tôi đã rùng mình sợ hãi.
Chắc bác Chiron muốn nghe tôi bảo: “Cháu không dùng đến cái móng tay. Nhằm nhò gì con cún mới mở răng mắt ấy. Ngữ nó ăn sáng chẳng bõ dính răng!”. Nhưng tôi không thích nói dối.
- Cháu sợ nó lắm. Nếu bác không bắn nó, chắc cháu chết lâu rồi.
- Trước khi xong việc, cháu sẽ gặp quái vật ghê gớm hơn thế nhiều.
- Xong việc gì ạ ?
- Tất nhiên là nhiệm vụ truy tìm trại sắp giao cho cháu. Cháu có nhận không?
Tôi liếc trộm Grover, thấy nó ra dấu bảo đồng ý.
- Nhưng bác chưa nói đó là việc gì ?
Bác nhăn mặt:
- Mô tả chi tiết bao giờ cũng là phần khó nhất.
Sấm ì ầm vang dội khắp thung lũng. Mây dông tiến đến sát bờ cát. Mưa gió hoành hành cả trên trời lẫn ngoài biển.
- Hai thần Poseidon và Dớt đang đánh nhau vì một vật có giá trị... một thứ bị mất cắp, phải không bác?
Bác Chiron và Grover nhìn nhau.
Bác nhoài người trên xe lăn:
- Sao cháu biết?
Tôi đỏ bừng mặt. Giá tôi ngậm chặt cái mồm hay nói linh tinh:
- Từ Giáng sinh đến giờ, thời tiết thay đổi bất thường, cứ như trời và biển đang giao tranh vậy. Thế rồi trong lúc nói chuyện với Annabeth, cháu nghe bạn ấy nhắc đến kẻ trộm. Còn nữa, cháu nằm mơ mấy lần.
Grover bảo:
- Biết ngay mà.
Bác Chiron bảo:
- Yên nào, thần rừng.
Mắt nó sáng lên phấn khích:
- Nhưng đó là dấu hiệu cho thấy bác phải giao việc cho Percy. Không còn nghi ngờ gì nữa...
Bác Chiron vuốt chòm râu thưa:
- Chỉ Lời Sấm Truyền mới khẳng định được. Nhưng Percy nói đúng. Mấy trăm năm nay ta chưa thấy cha cháu và thần Dớt cãi nhau to như lần này. Nguyên do: Có báu vật bị đánh cắp. Đó là tia chớp.
Tôi cười gượng:
- Cái gì ạ ?
Bác cảnh báo:
- Đây không phải chuyện đùa. Vật này không phải đồ chơi trẻ con. Tia chớp là thanh đồng hình trụ dài hơn nửa mét có phép thuật ghê gớm và hai đầu có gắn thuốc nổ cực mạnh.
- Ra thế.
Bác Chiron tả chi tiết:
- Báu vật bị mất là quyền trượng của thần Dớt. Nó tượng trưng cho sức mạnh của chúa tể các vị thần và là vật chủ. Mọi tia chớp khác đều từ nó mà ra. Các thần Cyclopes chế tạo nó như vũ khí đầu tiên trong cuộc chiến chống lại quân đội khổng lồ Titan. Chính tia chớp này đã bạt đỉnh núi Etna, hất Kronos khỏi ngai vàng. Tia chớp có sức công phá lớn đến độ so với nó, bom nguyên tử của người phàm chỉ là phao tép.
- Nó bị mất hả bác?
- Bị đánh cắp.
- Ai lấy thế?
- Cháu.
Tôi há hốc miệng.
Bác Chiron vội giơ tay trấn tĩnh:
- Ít nhất thì thần Dớt cho là thế. Vào lễ Đông chí, trong buổi họp cuối năm của các thần, Dớt và Poseidon có cuộc tranh luận. Như mọi khi, nguyên nhân gây hấn rất vu vơ, đại loại như ai được yêu mến nhất, thảm họa trên không gây chú ý nhiều hơn thảm họa dưới biển... Mãi cãi cọ nên phải đến khi tan họp, thần Dớt mới biết tia chớp không cánh mà bay. Kẻ trộm lấy nó ngay trong phòng đặt ngai vàng, ngay trước mũi ông ta. Thần Dớt lập tức chụp mũi rằng Poseidon lấy nó. Đúng là Luật nhà trời cấm các thần chiếm quyền trượng của nhau nhưng Dớt cho rằng cha cháu thuyết phục một á thần, hay còn gọi là anh hùng của loài người, làm việc ấy.
- Nhưng cháu không...
- Kiên nhẫn nghe cho hết đã. Thần Dớt có lý do để nghi ngờ. Vì lò rèn của các thần Cyclopes dưới đáy biển, Poseidon có chút uy lực với nhóm thợ sản xuất tia chớp cho anh trai. Dớt cho rằng Poseidon lấy vật chủ, bí mật lập kho đạn dược bằng cách lén sản xuất hàng loạt tia sét để chờ dịp lập đổ ngai vàng của Dớt. Điều Dớt chưa dám khẳng định là Poseidon xui anh hùng nào đi trộm báu vật. Đúng lúc đó, Poseidon công khai nhận cháu là con. Suốt dịp nghỉ đông, cháu ở New York nên dễ dàng lén lút đến đỉnh Olympia. Thế nên Dớt tin chắc thần có thể chỉ mặt vạch tên thủ phạm.
- Nhưng cháu đã lên đỉnh Olympia bao giờ đâu! Dớt thật hàm hồ hết sức.
Cả bác Chiron lẫn Grover sợ sệt nhìn lên trời. Mây không tản ra vùng ngoại vi thung lũng như Grover nói. Tầng mây đen kịt như nắp quan tài tiến thẳng về thung lũng, đe dọa che phủ bầu trời ngay trên đầu chúng tôi.
Grover sợ chết khiếp:
- Cái cậu này, chưa ai dám nhận xét vua bầu trời là hàm hồ đâu đấy.
Bác Chiron gợi ý:
- Lần sau, cháu hãy dùng từ kết luận vô căn cứ nhé. Để bác nói tiếp. Ngày xưa, có lần Poseidon định lật đổ Dớt nhưng không thành. Chắc cháu còn nhớ câu hỏi số ba mười tám trong kỳ thi cuối kỳ môn Latinh...
Bác nhìn tôi chằm chằm, mong tôi nhớ câu hỏi số ba mươi tám nào đó, nhưng tôi không còn tâm trí đâu để nhớ.
Sao có người bảo tôi trộm vũ khí của thần thánh được nhỉ? Đến lấy trộm mẩu bánh pizza trên xới bạc của dượng Gabe, tôi còn bị bắt quả tang nữa là.
Tôi moi óc nhớ được một ít:
- Hình như chuyện lưới vàng phải không ạ? Thần Poseidon liên kết với nữ thần Hera và mấy thần khác... Họ nhốt thần Dớt, bắt thần hứa sẽ thay đổi thành bậc quân vương đức độ rồi mới thả, đúng không?
- Chính xác. Từ đó, Dớt không bao giờ tin Poseidon nữa. Tất nhiên, thần Poseidon không nhận tội trộm tia chớp. Cha cháu cực lực phản đối lời buộc tội ấy. Suốt mấy tháng trời họ cãi nhau không ngớt, ai cũng sợ sắp có binh biến. Sự hiện diện của cháu là giọt nước tràn ly.
- Nhưng mới từng này tuổi đầu, sao cháu dám?
Grover xen vào:
- Percy à, nếu ở địa vị thần Dớt, người có định kiến là em trai định lật đổ mình, sau đó lại nghe tin em phá vỡ lời nguyền các đây mấy mươi năm... biết em mình có con với người trần và nghi em dùng đứa con ấy làm công cụ chốn đối mình... cậu có cảnh giác không?
- Nhưng tớ có làm gì đâu. Chắc thần Poseidon, cha tớ... không sai người ăn cắp tia chớp đâu nhỉ?
Bác Chiron thở dài:
- Bất cứ ai biết suy xét đều đồng tình rằng Poseidon không có tính táy máy. Nhưng Vua Biển quá kiêu hãnh, không thèm thanh minh với Dớt. Vì thế, Dớt lệnh cho Poseidon phải trả báu vật trước ngày Hạ chí. Đó là ngày hai mươi mốt tháng Bảy. Từ nay đến đó chỉ còn mười ngày. Về phần mình, thần Poseidon cũng muốn đúng ngày Hạ chí, Dớt phải xin lỗi vì đã gán tội ăn cắp hèn hạ cho ông. Ta hy vọng tài ngoại giao sẽ cứu nguy thiên hạ: Hera, hay Demeter hay Hestia
sẽ thuyết phục anh em họ nhìn ra lẽ phải. Nhưng sự xuất hiện của cháu như đổ thêm dầu vào lửa, khiến Dớt nổi cơn thịnh nộ. Nếu ta không tìm tia chớp trả Dớt trước ngày Hạ chí, nhất định sẽ có chiến tranh. Chắc Percy cũng đoán được cuộc chiến này sẽ thế nào rồi chứ?
- Tàn khốc lắm ạ?
- Hãy tưởng tượng một thế giới hỗn loạn song hành chuỗi thảm họa thiên nhiên. Cư dân đỉnh Olympia bắt buộc, hoặc đứng về phía thần Dớt, hoặc ủng hộ Poseidon. Sẽ có hủy diệt, tắm máu, hàng triệu người chết... Thế giới văn minh phương Tây thành bãi chiến trường. So với nó, cuộc chiến thành Troy chỉ như trận đấu bóng nước.
Tôi lẩm bẩm:
- Ghê gớm quá!
- Và Percy Jackson sẽ là mục tiêu trút giận đầu tiên của Dớt.
Mưa rơi. Nhóm chơi bóng chuyền im bặt, kinh ngạc ngẩng mặt nhìn trời.
Chính tôi reo rắc mưa bão lên Đồi Con Lai. Vì không ưa một mình tôi, Dớt trừng phạt cả trại hè.
Nghĩ đến đây, tôi giân sôi lên. Tôi không thể chống mắt đứng nhìn.
Tôi bảo:
- Vậy cháu phải tìm tia chớp ngớ ngẩn đem trả cho Dớt ư?
- Còn đề nghị hòa giải nào hay hơn việc con trai Poseidon trả báu vật cho Dớt?
- Nếu bố cháu không lấy, giờ tia chớp đó ở đâu?
Bác Chiron đăm chiêu:
- Cái đó bác biết... đó là một đoạn trong lời sấm của ta cách đây mấy chục năm... Giờ ngẫm lại, bác thấy chí lý. Nhưng trước khi bác nói cháu hay, cháu phải chính thức nhận nhiệm vụ, sau đó nghe Nhà Tiên Tri phán bảo.
- Sao bác không nói chỗ giấu tia chớp trước?
- E rằng nghe xong, cháu sợ đến độ không dám đi nữa.
Tôi nuốt khan:
- Bác nói đúng.
- Vậy nhận lời nhé?
Thấy tôi quay sang nhìn, Grover gật lia lịa.
Nó thì lo nỗi gì, Chúa tể các thần muốn lấy mạng tôi chứ có lấy mạng nó đâu.
- Đồng ý. Thà nhận còn hơn bị biến thành cá heo.
- Vậy đến gặp Nhà Tiên Tri luôn đi. Percy Jackson, hãy lên cầu thang, đến gác xép ấy. Nếu khi trở xuống cháu chưa phát điên, ta sẽ bàn tiếp.
Hestia: vị thần của bếp lửa, sự quây quần của mọi thành viên trong gia đình, sức khỏe gia đình và nội trợ...
Cầu thang lên bốn tần lầu kết thúc trước cánh cửa sập từ trần nhà màu xanh lá.
Tôi kéo sợi dây. Cửa hạ xuống, thang dây bằng gỗ lách cách hạ xuống.
Không khí nực nội bên trong có mùi mốc, mùi gỗ mục và một mùi khó tả... mùi gợi nhớ môn sinh vật thực hành. Đó là mùi của loài bò sát, rắn rết.
Tôi nhịn thở bám thang dây leo lên.
Căn gác xép bừa bội đồ đạc hư hỏng của chiến binh Hy Lạp cổ: bộ giáp trụ vùi trong đống mạng nhện, vài cái khiên rỉ sét, mấy hòm xiểng lớn bằng da nhằng nhịt giấy dán những chữ như: Ithaka, Quần Đảo Vòng và Vùng Đất Của Các Nữ Vương. Một chiếc bàn dài xếp dầy hũ thủy tinh đựng đồ ngâm dấm: vài móng thú đầy lông, đống tròng mắt vàng khè, to như chén tống và nhiều bộ phận cơ thể của quái vật. Một chiếc cúp bám đầy bụi treo trên tường trông giống đầu rắn nhưng lại có sừng, miệng đầy răng cá mập. Tấm bảng đồng bên dưới đề: Đầu thứ nhất của Hydra, Woodstock, NY, 1969.
Cánh cửa sổ, chễm chệ trên ghế đẩu gỗ có ba chân là vật lưu niệm đáng sợ nhất: một xác ướp. Không phải loại quấn vải kín từ đầu đến chân, nó là xác của một phụ nữ đã khô quắt. Người này mặc váy sặc sỡ, loang lổ và đeo rất nhiều chuỗi hạt. Mái tóc dài có ruy băng cột ngang đầu. Người này, nếu không phải da đỏ, chắc chắn là dân hippy. Chỉ có điều bà ta chết từ rất lâu rồi. Da mặt nhăn nheo bám trực tiếp vào xương. Hai hốc mắt trắng dã như thể mắt thật được thay bằng hai viên bi đá trắng.
Nhìn bà ta, sống lưng tôi lạnh buốt.
Nhưng thế vẫn chưa sợ bằng lúc cái xác đứng lên há miệng ra.
Tôi luống cuống tìm cách chạy ra cửa, nhưng cửa khóa chặt.
Màn sương màu xanh lá cây tuôn ra từ miệng xác ướp, uốn lượn trên sàn nhà trông như những tua vải mỏng. Tiếng rít chói tai như có hàng ngàn con rắn bò quanh.
Có tiếng nói luồn thun thút vào tai, cuộn tròn quanh bộ não tôi:
- Ta là linh hồn của Delphi, người phát ngôn mọi tiên đoán của thần tiên tri Apollo, là người triệt hạ Python hùng mạnh. Kẻ tìm lời giải cho số phận kia, hãy lại đây và hỏi ngay đi.
Tôi chỉ muốn bảo: “Không, cảm ơn. Tôi đi vệ sinh nhưng vào lộn phòng” rồi chạy biến.
Nhưng tôi tự bắt mình bình tâm lại.
Xác ướp không sống lại. Có thứ gì đó đội lốt bà ta. Giờ sức mạnh của nó theo màn sương mỏng bao vây tôi. Dù thế, nó không độc ác. Sự hiện diện của nó không làm tôi có cảm giác như lúc ở bên cô Dodds quỷ quyệt hoặc khi đánh nhau với quỷ đầu bò. Cảm giác bây giờ giống lúc tôi thấy ba Nữ thần Báo Thù ngồi đan trước tiệm trái cây bên lề xa lộ: không phải người, cổ xưa và đầy quyền lực. Tuy nhiên, họ không có ý định lấy mạng tôi.
Tôi cố gom hết can đảm:
- Xin cho biết số phận của cháu?
Màn sương dày đặc hơn, thu lại trước mắt tôi rồi đi vòng quanh mặt bàn bày hũ thủy tinh ngâm các bộ phận quái thú. Thốt nhiên, bốn người hiện ra quanh bàn. Họ đang chơi bài. Mặt họ rõ dần. Đó là Gabe Cóc Chết và bạn ông ta.
Tôi nghiến răng, nắm chặt hai tay dù biết xơi bạc này không có thực, chỉ là ảo ảnh.
Gabe quay sang tôi nói bằng giọng khàn khàn của Nhà Tiên Tri:
- Ngươi sẽ đi theo hướng Tây, gặp vị thần tráo trở.
Người ngồi bên phải nhìn lên cũng nói bằng giọng đó:
- Ngươi sẽ tìm được vật bị đánh cắp và trả nguyên vẹn cho khổ chủ.
Người ngồi bên trái ném hai quân bài ra giữa bàn:
- Ngươi sẽ bị phản bội bởi người tự xưng là bạn.
Chú Eddie, quản lý chung cư phán câu cuối:
- Cuối cùng, ngươi sẽ không cứu nổi người quan trọng nhất của đời mình.
Bốn người vụt biến mất.
Lúc đầu tôi quá kinh ngạc nên không nói được gì mãi đến lúc màn sương thu nhỏ, tuồn trở lại miệng xác ướp, tôi mới kêu lên:
- Gượm đã! Người vừa nói gì? Ai tự xưng là bạn? Cháu không cứu được ai ?
Đuôi con rắn nước biến mất trong miệng xác ướp. Bà ta lại ngồi dựa tường như khi nãy.
Miệng xác ướp khép lại như thể cả trăm năm nay chưa động đậy.
Gác xép lại im lặng, hoang vắng, chẳng có gì ngoài đống kỷ vật bụi bặm.
Tôi biết dù có đứng lỳ đến khi mạng nhện chăng đầy người, tôi cũng chẳng biết gì hơn.
Giờ lắng nghe Lời Sấm Truyền của tôi đã kết thúc.
-o-
Bác Chiron hỏi:
- Thế nào cháu?
Tôi ngồi phịch xuống ghế trước bàn Ngài D. thường chơi bài:
- Bà ấy bảo cháu sẽ lấy lại được vật bị mất cắp.
Grover nhoài người, háo hức nghe, miệng rau ráu nhai vỏ lon nước ngọt:
- Tuyệt quá.
Bác Chiron gặng hỏi:
- Nhắc lại nguyên văn Lời Sấm Truyền xem nào. Quan trọng lắm đấy.
Tai tôi vẫn ù đặc:
- Bà ấy... bảo cháu đi về hướng Tây, gặp vị thần tráo trở. Cháu sẽ lấy lại vật bị đánh cắp và trả lại nguyên vẹn cho khổ chủ.
Grover bảo:
- Tớ biết thừa.
Bác Chiron vẫn chưa hài lòng:
- Còn gì nữa?
Tôi không muốn nói nốt.
Bạn nào phản bội tôi? Bạn tôi đếm trên đầu ngón tay. Vậy mà ai nỡ...
Câu cuối mới ghê: tôi không cứu được người quan trọng nhất của đời mình. Nhà Tiên Tri này thật lạ đời: giao nhiệm vụ, bắt tôi làm rồi bảo: “Tao nói trước. Thế nào mày cũng thất bại.”
Tôi không thể thú nhận sẽ thất bại trước khi lên đường.
Tôi bèn nói:
- Hết rồi ạ.
Bác nhìn tôi chăm chú:
- Thế thì tốt. Nên nhớ Lời Sấm Truyền chỉ nước đôi. Đừng quá tin tưởng. Sự thật chỉ phơi bày sau khi mọi sự kết thúc.
Tôi đoán bác Chiron biết tôi giấu tin xấu nên cố an ủi thế thôi.
Tôi chỉ muốn nói sang chuyện khác:
- Giờ cháu đi đâu? Thần nào ở phương Tây vậy bác?
- Động não đi, Percy. Nếu hai thần Dớt và Poseidon tự suy kiệt vì chinh chiến, ai là kẻ đục nước béo cò?
- Kẻ muốn chiếm ngai vàng.
- Giỏi lắm. Người ấy ôm hận đã hàng tỷ năm, không bằng lòng với phần được chia sau lần rút thăm chia quyền cát cứ. Quyền lực của người ấy càng lúc càng mạnh bởi triệu triệu người chết đều gia nhập đội quân của ông ta. Một người căm ghét hai anh trai ép mình thề không được sinh thêm con cái trong lúc cả hai anh đều không giữ lời, đều lén sinh thêm con.
Tôi nhớ những giấc mơ và giọng nói vang lên từ trong lòng đất:
- Hades, thần cai quản địa ngục.
Bác Chiron gật đầu:
- Phải, Thần Chết đáng nghi nhất.
Mảnh nhôm rơi từ miệng Grover:
- Gượm đã! Bác mới nói gì?
Bác Chiron nhắc:
- Thế cháu không nhớ Nữ thần Báo Tử đuổi theo Percy à? Bà ta theo dõi Percy rất lâu. Sau khi biết số phận của nó, bà ta định giết luôn. Nữ thần Báo Thù chỉ thờ một chúa là Hades thôi.
Grover phản đối:
- Nhưng Hades vốn căm ghét tất cả các anh hùng. Nếu ông ta biết Percy là con thần Poseidon thì chết…
- Thế cháu còn nhớ con chó địa ngục không? Giống ấy chỉ có dưới địa ngục và nhất định có người xấu trong trại gọi nó đến. Từ đó suy ra Hades cài gián điệp vào đây. Ông ta lường trước khả năng Poseidon nhờ con trai minh oan và muốn giết chàng con lai trẻ tuổi này trước khi cậu ta lên đường làm nhiệm vụ.
Tôi lẩm bẩm:
- Hay thật. Cả hai vị thần hùng mạnh nhất đều nhăm nhe giết cháu.
Grover nuốt khan:
- Nhưng biết tìm đâu… Giá tia chớp đó đang ở Maine nhỉ? Mùa này, thời tiết ở Maine dễ chịu lắm.
Bác Chiron khẳng định:
- Nhất định Hades sai tay chân ăn trộm tai chớp. Ông ta giấu nó dưới âm ty và biết thể nào Dớt cũng nghi oan cho Poseidon. Dù không biết chính xác động cơ của vua cai quản địa ngục và lý do ông ta gây nên cuộc chiến phi nghĩa sắp tới, nhưng ta dám chắc một điều. Percy phải xuống âm ty, tìm cho ra tia chớp và phơi bày sự thật ra ánh sáng.
Bụng tôi thắt lại. Nhưng lạ nhất là tôi không sợ. Đó là cảm giác lo lắng pha lẫn sự nôn nóng trả thù. Tính đến nay, Hades đã ba lần định giết tôi bằng cách mượn tay Nữ thần Báo Thù, quỷ đầu bò và chó địa ngục. Chính ông ta làm mẹ tôi biến thành tia sáng vàng, giờ còn định gắp lửa bỏ tay người, đổ vấy trọng tội lên đầu cha con tôi.
Nhất định tôi phải dạy cho ông ta biết phải quấy.
Với lại, mẹ tôi đang ở dưới đó...
Phần trí não sáng suốt của tôi lên tiếng: “Này này, cậu mới tí tuổi đầu. Nên nhớ Hades là thần đấy nhé.”
Grover run như dẽ. Nó bắt đầu ăn bộ bài như ăn khoai tây bào mỏng chiên giòn.
Cậu bạn tội nghiệp phải theo tôi hoàn thành nhiệm vụ lần này nếu muốn được công nhận là Người Trông Nom. Nhưng sao tôi có thể nhờ nó giúp làm nhiệm vụ nguy hiểm này, nhất là khi Lời Sấm Truyền bảo rốt cuộc tôi sẽ thất bại? Đi với tôi có khác nào tự sát.
- Nếu biết rõ thủ phạm là Hades, sao ta không báo cho các thần khác? Thần Dớt hoặc thần Poseidon dư sức xuống địa ngục trừng trị vài kẻ xấu cơ mà.
- Ta chỉ “nghi”, chưa “biết rõ”. Ngoài ra, nếu các thần nghi ngờ Hades, họ cũng không tự đi lấy tia chớp về được. Nếu không được mời, thần này không vào được lãnh thổ của thần kia. Đó là luật có từ thời khai thiên lập địa. Ngược lại, con lai có đặc quyền riêng. Họ được đi lại tự do, thách đấu với bất cứ ai, miễn là có can đảm và đầy đủ sức mạnh. Không thần nào dám đứng ra chịu trách nhiệm về hành vi của anh hùng, tức con lại. Theo cháu, sao các thần đều hành động thông qua người phàm?
- Vì họ thích lợi dụng.
- Bác không có ý đó. Bác chỉ muốn nói không phải ngẫu nhiên Poseidon chọn thời điểm này để nhận con, dù biết làm thế rất mạo hiểm. Nhưng ông quá tuyệt vọng, không còn cách nào khác. Ông đang cần cháu đấy.
Cha cần ta.
Cảm xúc trong tôi tựa kính vạn hoa xoay thật nhanh. Hờn dỗi, biết ơn, hạnh phúc và tức giận đan xen. Suốt mười hai năm qua, thần Poseidon coi như không có tôi trên đời. Bây giờ ông lại cần tôi giúp ngay lập tức.
Tôi nhìn thẳng mắt bác Chiron:
- Ngay từ đầu bác đã biết cháu là con thần Poseidon, đúng không?
- Bác có lý do để đoán già đoán non. Lúc nãy bác đã nói... bác cũng từng nghe Lời Sấm Truyền.
Biết bác Chiron giấu nhiều chi tiết của lời tiên đoán tương lai đã nghe lúc trước, nhưng tôi quyết định tạm gác chuyện đó lại. Nói cho cùng, chính tôi cũng không nói hết cơ mà.
- Tóm lại, cháu sẽ phải xuống địa ngục gặp trực tiếp thần chết.
- Cháu hiểu đúng rồi đấy.
- Tìm vũ khí mạnh nhất khắp vũ trụ không đâu có.
- Phải.
- Phải xong việc trong mười ngày rồi trở lại đỉnh Olympia đúng hôm Hạ chí.
- Đúng thế.
Tôi quay sang Grover. Nó đang trợn mắt nuốt lá bài Át Rô. Xong xuôi, bạn tôi thều thào:
- Tớ có nói với cậu thời tiết mùa này ở Maine dễ chịu chưa?
- Cậu không muốn đi cũng không sao. Việc nguy hiểm thế, tớ không đòi cậu phải làm đâu.
Nó sợ sệt đổi tư thế ngồi:
- À, tớ không sợ nguy hiểm... chẳng qua thần rừng không hợp ở chốn âm ty... Nhưng...
Nó lấy hết can đảm đứng dậy, phủi vụn bìa cứng và mảnh lon nhôm rơi trên áo thun:
- Percy à, cậu đã cứu mạng tớ. Nếu cậu thực sự muốn tớ đi cùng, tớ sẽ không để cậu thất vọng.
Tôi sung sướng đến độ nước mắt rưng rưng dù trong lòng biết con trai mà khóc không anh hùng gì cho lắm.
Grover là người bạn duy nhất ở bên tôi lâu hơn vài ba tháng. Tôi không biết thần rừng có “bí kíp” gì khiến các thế lực cõi âm phải chùn tay hay không, nhưng biết có nó đi cùng, tôi vững dạ đôi chút.
- Chúng mình sẽ luôn có nhau, Grover ạ. – Tôi quay sang bác Chiron. – Lời Sấm Truyền chỉ bảo nên đi hướng Tây. Cụ thể là đi đâu ạ?
- Lối vào cõi âm luôn ở hướng Tây. Giống đỉnh Olympia, nó cũng chuyển địa điểm theo thời gian. Tất nhiên lúc này nó ở Mỹ.
- Chính xác là chỗ nào?
Bác Chiron có vẻ ngạc nhiên:
- Ta tưởng ai cũng biết, đâu cần phải hỏi. Cửa ngõ địa ngục ở Los Angeles.
- Ra vậy. Thế mà cháu không biết. Vậy tụi cháu sẽ ra sân bay...
Grover thét lên:
- Đừng! Cậu bị sao vậy? Từ bé đến giờ, cậu đã đi máy bay chưa mà nói?
Tôi ngượng ngập lắc đầu. Mẹ chưa bao giờ cho tôi đi máy bay. Lý do luôn là nhà mình nghèo khó, không có tiền mua vé. Với lại, ông bà ngoại tôi mất vì tai nạn hàng không nên mẹ sợ.
Bác Chiron giải thích:
- Nghĩ một chút đi nào. Cháu là con Thần Biển, đối thủ đáng gờm nhất của Dớt, Thần Bầu trời. Người thận trọng như mẹ cháu không bao giờ phó mặc mạng con mình cho ngành hàng không đâu. Lên máy bay tức cháu đến lãnh địa thần Dớt và không bao giờ còn sống đến lúc hạ cánh.
Trên trời chớp rạch snags lòe. Xa xa có tiếng sấm ì ầm vọng tới.
Tôi quyết không nhìn lên đám mây dông:
- Thì đi đường bộ vậy.
- Nên thế. Hai người khác sẽ đi cùng cháu. Grover là một. Người kia xung phong từ trước, chỉ chờ cháu chấp nhận.
Tôi giả vờ như không hay biết gì:
- Ngạc nhiên chưa. Ai khờ đến độ xung phong làm chuyện này chứ?
Không khí sau lưng bác Chiron lay động.
Annabeth hiện ra. Lần này mũ lưỡi trai của đội bóng chày NY nhét trong túi quần sau.
- Đồ óc đầy tảo biển kia, tớ chờ được giao việc từ lâu lắm rồi. Nữ thần Athena không sùng bái thần Poseidon nhưng nếu cậu quyết đi vì việc nghĩa, người giúp cậu không làm hỏng chuyện chính là tớ.
- Quân sư quạt mo đã nói thế, chắc phải có diệu kế?
Annabeth đỏ mặt:
- Này, có muốn tớ giúp hay không vậy?
Sự thật là: Tất nhiên tôi muốn. Phải tranh thủ mọi sự giúp đỡ chứ.
- Vững như kiềng ba chân, đúng chưa nào? Số ba là số đẹp đấy.
Bác Chiron bảo:
- Tốt quá rồi. Chiều này, ta đưa các cháu đến bến xe buýt ở Manhattan. Sau đó, ba đứa tự lo cho nhau nhé.
Chớp lại lóe sáng. Lát sau, mưa như thác đổ xuống cánh đồng cỏ chưa bao giờ biết thời tiết xấu là gì.
Bác Chiron nói nhanh:
- Đừng chần chừ phí thời gian. Các cháu về chuẩn bị hành lý đi thôi.
10. Tôi phá hỏng chiếc xe buýt cực tốt
Việc thu xếp hành trang của tôi chẳng lâu la gì.
Grover tìm ba lô cho tôi. Quyết định để sừng quỷ đầu bò ở nhà, tôi chỉ việc nhét thêm một bộ quần áo để thay đổi và bàn chải đánh răng vào đó là xong.
Cửa hàng của trại hè cho tôi vay một trăm đô la tiền thường và hai mươi đồng tiền vàng drachma. Tiền này to bằng bánh bích qui, một mặt dập nổi hình các vị thần, mặt kia là tòa nhà Empire State. Bác Chiron bảo để tiện thanh toán trong những giao dịch không thuộc thế giới phàm trần. Tôi chẳng hiểu kiểu giao dịch gì lạ vậy.
Bác đưa tôi và Annabeth mỗi người một bình rượu thần và một bịch lớn bánh hình vuông và dặn chỉ dùng trong trường hợp cấp cứu, tức là có ai trong chúng tôi bị thương nặng. Bác dặn đi dặn lại phải dùng cẩn thận vì là thức ăn của thần thánh. Hễ con lai bị thương, ăn uống hai thứ đó sẽ khỏi. Nhưng người trần ăn sẽ chết ngay. Con lai nếu ăn quá nhiều cũng ốm sốt. Dùng quá liều lượng, chúng tôi sẽ cháy ruột cháy gan, hiểu theo nghĩa đen.
Annabeth mang theo nón lưỡi trai thần mẹ bạn ấy tặng con gái nhân sinh nhật lần thứ mười hai. Ngoài ra, bạn ấy còn mang cuốn sách kiến trúc bằng tiếng Hy Lạp cổ để đọc khi buồn chán và giấu trong ống tay áo con dao dài bằng đồng. Tôi chỉ ngại máy dò kim loại ngoài bến xe phát hiện và đuổi cổ cả ba.
Grover đeo bàn chân giả, mặc quần dài cho giống người trần và đội nón tròn không vành nhỏ xíu che chỏm đầu. Sở dĩ như vậy vì mỗi khi đi mưa, tóc bết xuống sẽ để lộ cặp sừng bé. Ba lô màu cam của Grover đựng đầy mẩu kim loại và táo để ăn vặt cho đỡ buồn miệng. Grover dắt túi áo bộ sáo bằng ống sậy do cha nó tự tay đẽo. Tuy nhiên, nó chỉ biết chơi hai bài: bản Concerto thứ mười hai của Mozart và “Dã Từ Dĩ Vãng” của Hilary Duff. Cả hai đều không hợp với nhạc cụ sáo.
Vẫy tay chào tạm biệt mọi người, ngắm bãi dâu, biển cả và Nhà Lớn lần cuối, chúng tôi nhắm cây thông vốn là Thalia, con gái thần Dớt, trên đỉnh đồi Con Lai thẳng tiến.
Bác Chiron ngồi xe lăn đợi sẵn.
Cạnh bác là anh chàng dáng thể thao tôi từng gặp khi nằm ở phòng bệnh. Grover bảo anh ta là trưởng ban an ninh của trại hè. Anh ta cần có mắt khắp cơ thể để không có gì làm anh ta bất ngờ. Tuy nhiên, hôm nay anh ta mặc quần áo của tài xế nên tôi chỉ thấy mắt trên mu bàn tay, mặt và cổ anh ta.
Bác Chiron giới thiệu với tôi:
- Argus đây sẽ lái xe đưa các cháu vào thành phố, đồng thời để mắt đến mọi thứ.
Chợt có tiếng chân tiến đến gần.
Luke cầm đôi giày thể thao chạy lên đồi.
Anh thở dốc:
- May anh đuổi kịp mấy đứa.
Mỗi khi đứng gần Luke, Annabeth lại đỏ mặt. Lần này cũng thế.
Luke quay sang tôi:
- Anh chỉ muốn chúc các em may mắn. Anh định… em cầm cái này xài đỡ.
Anh trao cho tôi đôi giày trông không có gì khác thường. Thậm chí nó cũng bốc mùi như mọi đôi giày cũ khác.
Luke kêu lên:
- Maia!
Cặp cánh chim trắng mọc ra từ gót giày. Tôi giật bắn mình buông tay. Đôi giày bay là là mặt đất một vòng, sau đó cánh cụp lại, biến mất.
Grover reo:
- Thích quá.
Luke tủm tỉm:
- Cái này đã giúp anh rất nhiều hồi anh truy tì quái vật. Quà của cha anh. Chắc em cũng biết hồi này anh có dùng đến nó mấy đâu...
Anh chợt buồn hiu.
Tôi xúc động không nói lên lời. Luke tình cảm thật, còn đến dã biệt chúng tôi. Mấy ngày gần đây, tôi chỉ ngại anh chạnh lòng vì dù tôi không cố ý, mọi người vẫn để ý đến tôi thay vì tập trung vào anh như trước. Nhưng nhìn xem, anh còn tặng tôi quà quý... Nghĩ đến đây, mặt tôi đỏ không kém mặt Annabeth.
- Percy này, bao hy vọng dồn cả vào chú đấy. Vậy nên... chú ráng hạ đo ván vài tên quái vật cho anh, nhớ chưa?
Anh bắt tay tôi, xoa mảnh đầu giữa hai sừng của Grover và ôm hôm tạm biệt Annabeth làm cô bé suýt ngất vì sung sướng.
Luke đi rồi, tôi bảo Annabeth:
- Trông cậu thở ghê chưa kìa.
- Tớ đâu có.
- Hôm thứ Sáu, cậu nhường cho anh ấy đi giành cờ phải không?
- Này Percy, tớ hết chịu nổi cậu rồi đấy.
Annabeth vùng vằng xuống chân đồi, chỗ có chiếc SUV trắng đậu bên lề đường. Anh Argus vung vẩy chùm chìa khóa theo sau tôi.
Tôi cúi xuống nhặt đôi giày bay, đột nhiên tôi cảm nhận có một điều gì đó thật xấu sắp xảy đến.
Tôi nhìn và hỏi bác Chiron:
- Cháu không thể sử dụng nó đúng không ạ?
Bác ấy lắc đầu bảo:
- Luke có ý tốt. Nhưng nói về bầu trời... Đối với cháu mà nói sử dụng nó chẳng khôn ngoan chút nào.
Tôi thất vọng nhưng phải công nhận rằng bác ấy nói đung. Chơt tôi nảy ra một ý:
- Grover này, cậu thích giày có phép màu không?
Mắt nó sáng rỡ:
- Cho tớ à?
Chúng tôi bèn xỏ ngày giày vào chân nó. Chuyến bay đầu tiên của anh chàng người dê sắp bắt đầu.
Grover hô:
- Maia!
Lúc cất cánh không hề hấn gì, nhưng chỉ lát sau nó lật nghiêng, ba lô trên vai trượt dài trên cỏ. Hai cặp cánh bé xíu cứ chồm lên nhào xuống như con ngựa bất kham.
Bác Chiron nói với theo:
- Phải luyện tập. Cháu cần tập ít bữa mới thành thao được.
- Ahhhhhh!...
Grover bay nghiêng xuống đồi tiến về chiếc xe trông như máy cắt cỏ bị ma nhập. Tôi định chạy theo nhưng bác Chiron đã kéo tay lôi lại.
- Nếu có thời gian, bác sẽ huấn luyện kỹ cho cháu, Hercules và Jason đều tập tành rất lâu.
- Không sao đâu ạ. Cháu chỉ ước…
Tôi im bặt, biết mình vừa suy nghĩ như đứa con hay vòi vĩnh. Tôi ước cha cho tôi một vật màu nhiệm có thể giúp tôi thực hiện nhiệm vụ này: một món đồ hữu dụng như giày biết bay của Luke hay mũ tàng hình của Annabeth.
Bác Chiron kêu lên:
- Bác đang nghĩ vớ vẩn gì vậy nhỉ? Bác không thể để cháu đi mà thiếu vật này được.
Ông lấy cây viết bi trong túi áo đưa cho tôi. Nó bình thường giống cây viết dùng một lần rồi bỏ: mực đen, có nắp đậy giá khoảng ba mươi xu.
- À… ừm. Cảm ơn ạ.
- Đó là quà của cha cháu, bác giữ lâu lắm rồi. Lúc đó bác không biết người bác chờ đợi là cháu. Nhưng giờ bác đã hiểu trọn vẹn Lời Sấm Truyền. Cháu chính là nhân vật đặc biệt Nhà Tiên Tri nói tới.
Nhớ trong chuyến thăm quan Viện Bảo tàng Metropolitan, trước khi cô giáo bốc hơi trước mặt tôi, bác Chiron có ném cho tôi cây viết, sau đó nó biến thành thanh kiếm. Liệu có phải…
Tôi mở nắp. Cây bút dài ra, nặng trĩu. Chưa đầy nửa giây sau, trong tay tôi là thanh kiếm đồng sáng loáng hai lưỡi đều sắc ngọt. Chuôi kiếm bằng da có cẩn vàng ròng trang trí.
Lần đầu tiên có thanh kiếm vừa tay tôi như vậy.
Bác Chiron bảo:
- Có một lịch sử dài bi tráng gắn liền với cây kiếm này. Nhưng thôi, cháu không cần biết làm gì. Tên nó là Anaklusmos.
Tôi dịch ngay:
- Nghĩa là Thủy Triều.
Chính tôi cũng ngạc nhiên vì vốn tiếng Hy Lạp cổ của mình.
- Khi nào cần lắm hẵng dùng. Kiếm chỉ tác dụng với quái vật. Tất nhiên anh hùng không nên hại người phàm nếu không thật cần thiết. Nhưng kiếm này đặc biết, nó không hại người trần trong mọi trường hợp.
Tôi nhìn lưỡi kiếm sắc chắc chắn chém sắt như chém bùn:
- Kiếm sắc thế này sao nó không làm người phàm bị thương được?
- Đây là kiếm thần. Sản phẩm từ chính tay người Cyclopes, được tôi trong lòng núi Etna rồi nhúng xuống sông Lethe. Với nó, cháu có thể giết được quái vật hay bất kỳ cơ thể sống nào dưới địa ngục, miễn là chúng chưa kịp ra tay trước. Nhưng lưỡi kiếm chỉ lướt qua cơ thể người phàm như ảo ảnh. Lý do đơn giản là người phàm quá chất phác nên thanh kiếm không giết. Ta nhắc cháu nhớ một điều: Vì là á thần nên cả vũ khí nhà trời lẫn phàm trần đều lấy mạng cháu được. Cho nên cháu phải cẩn thận gấp đôi.
- Cảm ơn bác nhắc nhở.
- Thôi đậy nắp bút lại đi.
Vừa chạm nắp bút, thanh kiếm rút lại thành bút như cũ. Tôi ngại ngần cất bút vào túi áo. Chả là hồi đi học, tôi chúa hay đánh mất bút.
- Không có chuyện đó đâu.
- Chuyện gì cơ?
- Bút này không mất được. Nó có bùa chú nên sẽ trở về túi cháu. Cháu thử đi.
Bụng chỉ sợ mất bút quý nhưng tôi cũng thử ném xuống chân đồi. Bút lẩn ngay vào đám cỏ.
- Đợi chút đi. Giờ lục túi xem có chưa.
Đúng là cây bút có trong túi tôi thật.
Tôi thú nhận:
- Công nhận bút cực kỳ lợi hại. Như nhỡ người phàm nhìn thấy thì sao ạ?
Bác mỉm cười:
- Đã có Màn Sương, đừng lo.
- Bác nói sao, cháu chưa hiểu.
- Trong sử thi Iliad nói rất nhiều về nó. Mỗi khi vật hay thần thánh trà trộn trong thế giới người phàm, họ tạo ra Màn Sương để người phàm không nhận ra. Dù cùng nhìn một sự vật hiện tượng, người phàm nhận thức khác hẳn á thần như cháu. Người phàm chỉ loanh quanh trong cái thực tại bị hạn chế bởi nhận thức của họ.
Tôi cất Thủy Triều vào túi.
Đến lúc này, tôi mới hiểu hết việc mình sắp làm. Tôi sắp rời Trại Con Lai thật rồi. Cắm cúi nhằm phương Tây thẳng tiến, tôi không thể dựa dẫm vào ai vì không có người lớn giám sát, không kế hoạch cứu viện, thậm chí điện thoại di động cũng không (bác Chiron bảo quái vật sẽ lần theo sóng điện thoại di động để tìm ra tôi. Dùng điện thoại di động chẳng khác nào “lạy ông tôi ở bụi này”). Để xua đuổi quái vật nhằm đến được Địa ngục, tôi chẳng có thứ gì khác ngoài thanh kiếm dắt trong người.
- Bác Chiron này... nếu nói các thần bất tử, có nghĩa lịch sử hình thành trước khi có học, phải không ạ?
- Thực ra trước họ có bốn kỷ nguyên. Thời của người khổng lồ Titan là kỷ nguyên thứ tư. Có người nhầm gọi đó là Thời kỳ Hoàng kim. Thời ta đang sống trong nền Văn minh phương Tây dưới sự trị vì của thần Dớt là kỷ nguyên thứ năm.
- Vậy trước khi có các thần... thế nào ạ?
Bác Chiron mím môi:
- Dù hồi đó chưa ra đời, bác cũng biết người phàm sống trong u tối và man rợ. Kronos, chúa tể các Titan gọi thời ông trị vì là Thời kỳ Hoàng kim bởi con người vô tư, không cần tri thức. Nhưng đó chỉ là luận điệu tuyên truyền. Vua của người khổng lồ không hề quan tâm đến loài người trừ khi ông ta cần họ làm món khai vị hoặc cần giải trí. Chỉ khi Dớt lên nắm quyền và người khổng lồ nhân hậu là Prometheus mang lửa cho loài người, giống loài của cháu mới tiến bộ. Tuy nhiên sau đó Prometheus bị thần Dớt trừng phạt nặng. Theo thời gian, các thần mới thương yêu loài người. Nhờ đó mới có nền Văn minh phương Tây.
- Nhưng các thần không chết. Khi nào nền Văn minh phương Tây còn, các thần cũng còn tồn tại. Thế nên... nếu chẳng may cháu thất bại cũng không phương hại gì lắm, đúng không ạ?
Bác Chiron nhìn tôi cười buồn:
- Không ai biết Kỷ nguyên của phương Tây kết thúc khi nào. Thần bất tử, khổng lồ Titan cũng sống mãi. Hiện chúng vẫn tồn tại dù phải chui nhủi trong tù ngục, mãi chịu đau đớn và trừng phạt. Chúng suy yếu nhưng chưa chết hằn. Lạy trời đừng để các thần chịu số phận tàn khốc như bọn Titan bây giờ. Nếu không chúng ta sẽ lại sống cảnh tối tăm và hỗn mang như trong quá khứ. Cháu ạ, ta chỉ có thể tuân theo số phận thôi.
- Số phận ư... giá biết số phận đưa ta đến đâu thì hay biết mấy.
- Bình tĩnh nào. Giữ cho đầu óc sáng suốt, tỉnh táo. Hãy nhớ cháu sắp ngăn chặn cuộc chiến tranh lớn chưa từng thấy của nhân loại đấy.
- Bác nói thế, cháu bình tĩnh sao nổi.
Đến chân đồi, tôi quay đầu nhìn lại. Dưới gốc cây thông từng là Thalia, con gái thần Dớt, bác Chiron hiện nguyên hình nhân mã, tay giơ cao cây cung chào tạm biệt. Đúng là nghi lễ tiễn đưa kiểu mẫu của thầy giáo nhân mã.
Argus lái xe đưa chúng tôi qua vùng quê thanh bình tiến vào khu vực phía tây Long Island.
Dù bên cạnh có Annabeth và Grover trông bình thường như bạn đi chung xe khác, tôi vẫn thấy lạ lẫm khi ra đến đường cái. Sau hai tuần ở Trại Con Lai, tôi đi giữa thế giới thực mà tưởng mình nằm mơ. Tôi trố mắt ngắm nghía từ cửa hàng thức ăn nhanh McDonald’s, từ em bé ngồi sau xe cha mẹ, đến mọi biển quảng cáo từ khu mua sắm.
Tôi bảo Annabeth:
- Chưa thấy gì, cậu nhỉ? Đi hơn mười dặm vẫn chưa gặp quái vật nào.
Nó khó chịu nhìn tôi:
- Đúng là óc tảo biển. Nói thế xui xẻo lắm đấy.
- Làm ơn nhắc lại giùm. Sao cậu ghét tớ thế?
- Đâu ai ghét bỏ gì cậu đâu.
- Lại chối rồi.
Annabeth cuộn mũ lưỡi trai trong tay:
- Nghe này… Đúng ra ta không nên đi với nhau. Cha cậu với mẹ tớ là địch thủ mà.
- Nhưng vì sao mới được?
Cô bạn chán nản:
- Cậu muốn bao nhiêu lý do, tớ có đủ bấy nhiêu. Một là, mẹ tớ từng bắt gặp thần Poseidon đưa người tình vào đền Athena. Hành động như thế cực kỳ thiếu tôn trọng. Hai là, mẹ tớ và cha cậu từng tỉ thí, ai thắng sẽ là thần bảo trợ cho thành Athen. Cha cậu tặng dân chúng suối nước biển ngu ngốc, mẹ tớ tặng cây ôliu. Người ta thích quà của mẹ tớ hơn nên họ lấy tên bà đặt cho thành phố.
- Chẳng qua họ thích cây ôliu thôi.
- Thôi, bỏ đi.
- Nếu mẹ cậu hóa phép ra bánh pizza, tớ ủng hộ liền.
- Đã bảo không nói nữa cơ mà.
Ngồi sau vô lăng, anh Argus cười toe toét. Anh không nói gì, nhưng một con mắt xanh lơ mọc sau gáy anh nhìn tôi nhấp nháy.
Đến khu Queens, đường đông khiến xe chạy chậm. Mãi đến hoàng hôn, xe mới vào địa phận Manhattan. Trời bắt đâu mưa.
Anh Argus dừng xe trước bến xe buýt Greyhound ở khu thượng Manhattan, gần căn hộ của mẹ tôi và dượng Gabe.
Tờ bướm ẩm ướt dán trên thùng thư có in hình tôi và dòng chữ: BẠN CÓ THẤY CẬU BÉ NÀY ĐÂU KHÔNG?
Tôi nhanh tay xé nó đi trước khi Annabeth và Grover để ý đến.
Xách hành lý xuống, đứng xem chúng tôi mua vé xong, anh Argus đánh xe về. Lúc đưa xe khỏi bãi đậu, con mắt trên mu bàn tay anh còn mở to nhìn chúng tôi.
Nhà tôi ngay gần đây. Nếu như mọi khi, mẹ tôi đi làm về rồi. Ngay lúc này đây, có lẽ Gabe Cóc Chết đang chơi bài và chưa chắc đã nhớ đến bà.
Grover đeo ba lô lên vai. Nó nhìn theo hướng tôi đang nhìn:
- Thắc mắc lý do mẹ cậu lấy ông Gabe chứ gì?
Tôi ngạc nhiên nhìn nó:
- Cậu biết đọc suy nghĩ người khác à?
Nó nhún vai:
- Tớ chỉ biết đọc cảm xúc thôi. Chắc tớ quên chưa thông báo với cậu rằng thần rừng có tài đó. Cậu đang nghĩ về mẹ và cha dượng, đúng không?
Tôi gật đầu tự hỏi Grover còn quên kể với tôi những gì nữa.
- Vì cậu, bà mới lấy ông Gabe. Cậu vô tình gán tên Gabe Cóc Chết cho ông ta nhưng không hiểu cái gì cũng có nguyên do của nó. Ông ấy hôi thật... rùng cả mình. Đứng đây tớ còn ngửi thấy nữa là. Dù cậu không ở bên ông ta cả tuần, tớ vẫn ngửi thấy mùi của ông ta ám trên người cậu.
- Cám ơn lời nhắc nhở. Cảm phiền chỉ giùm nhà tắm công cộng gần nhất.
- Cậu nên biết ơn vì điều đó. Cha dượng cậu hôi đến lợm giọng, đủ ngụy trang cho mọi á thần. Chỉ cần ngửi mùi hôi của ông ta trong chiếc Camaro, tớ biết nhờ ông ấy nên cậu không bị phát hiện. Nếu mỗi mùa hè, cậu không ở cạnh ông ta, chắc chắn quái vật lần ra cậu lâu rồi. Mẹ cậu ở với ông ấy để bảo vệ con trai. Bà ấy cực kỳ khôn ngoan đấy. Huy vọng cậu vui khi biết mẹ hẳn yêu mình lắm nên mới ngậm bò hòn làm ngọt sống chung nhà với ông ấy.
Tôi không vui, nhưng cố ngăn cảm xúc lộ ngoài mặt.
Tôi nghĩ thầm: “Mẹ chưa chết. Mẹ và con sẽ còn gặp nhau.”
Cảm xúc tôi lẫn lộn thế, không biết Grover còn đoán được không.
Tuy vui vì có hai bạn đi cùng, nhưng tôi biết mình có tội vì không thẳng thắn với họ. Tôi đã không nói thật lý do chính khi nhận nhiệm vụ khó khăn này.
Sự thật là tôi không quan tâm đến tia chớp của thần Dớt hay cứu thế giới hoặc thậm chí giúp cha trong lúc khó khăn. Càng nghĩ tôi càng giận cha vì ông chưa bao giờ nhìn mặt con, hay giúp mẹ tôi, hay thực hiện trách nhiệm tài chính bằng cách gửi tiền đóng góp nuôi con. Ông chỉ nhận tôi là con khi cần người giúp việc cho mình.
Tôi chỉ quan tâm đến mẹ mà thôi.
Nếu Hades không biết phải trái, cố tình bắt mẹ tôi, ông ta phải trả mẹ cho tôi.
Lời Sấm Truyền văng vẳng bên tai: Ngươi sẽ bị phản bội bởi người tự xưng là bạn. Cuối cùng, ngươi sẽ không cứu nổi người quan trọng nhất của đời mình.
Tôi thầm ra lệnh: “Câm đi.”
Mưa vẫn rơi như trút.
Sốt ruột chờ xe chạy, chúng tôi lấy mấy quả táo của Grover chơi tung hứng. Annabeth khéo không thể tả. Bạn ấy có thể dùng đầu gối, khuỷu tay, vai,... hất táo lên cao. Tôi chơi cũng không tồi.
Trò chơi kết thúc khi tôi ném trái táo về phía Grover. Nó bay đến miệng cậu ta. Chỉ một cái há miệng thật to của Grover, trái táo biến mất, cả cuống lẫn lõi đều không còn.
Grover đỏ mặt tính xin lỗi nhưng tôi và Annabeth mải cãi nhau nên không để ý.
Cuối cùng, xe buýt trờ tới.
Lúc xếp hàng lên xe, Grover nhìn quanh hít hà. Tôi hỏi:
- Sao thế?
Nó căng thẳng:
- Tớ không biết. Chắc chẳng có gì đâu.
Nhưng tôi thấy bất an nên cũng ngoái cổ nhìn.
Cuối cùng, lên được xe, tìm được chỗ ngồi phía dưới, tôi thở phào nhẹ nhõm. Chúng tôi lúi húi cất đồ đạc lên giá hành lý. Annabeth bồn chồn vỗ vỗ lưỡi trai của mũ lên đùi.
Khi mấy hành khách cuối cùng lên xe, cô bạn bấu chặt đầu gối tôi:
- Percy, trông kìa.
Bà già vừa lên xe mặc váy nhung nhàu nhĩ, đeo găng tay viền đăng ten, xách túi in hoa, đội sùm sụp mũ len màu cam đan lạ kiểu che gần hết khuôn mặt. Lúc bà ta ngẩng mặt lên, cặp mắt đen lóe sáng khiến tôi hoảng sợ.
Chính là cô Dodds, tuy già hơn, nhăn nheo hơn nhưng khuôn mặt độc ác đó tôi không sao nhầm được.
Tôi ngây mặt như bị thôi miên trên ghế.
Lên sau bà ta còn hai bà nữa, người đội mũ xanh lá cây, người kia mũ tím. Họ giống hệt cô Dodds: tay xương xẩu, đeo túi hoa, mặc váy nhung nhàu nát. Chính là bộ ba Nữ thần Báo Thù độc ác.
Ba bà ngồi hàng đầu, ngay sau bác tài. Hai người ngồi hai bên lối đi duỗi thẳng chân ra giữa đường làm thành chữ X. Thoạt trông giống họ duỗi chân cho đỡ mỏi, nhưng tôi hiểu họ muốn nói: “Đừng hòng ra khỏi đây.”
Xe rời bến, lăn bánh trên những con phố mưa trơn của Manhattan.
Tôi cố giữ để giọng không bị run:
- Cô Dodds hồi phục nhanh quá. Sao cậu bảo nằm liệt cả đời?
Annabeth cãi:
- Tớ có nói nếu cậu gặp may. Nhìn họ đủ biết cậu không gặp may rồi.
Grover rên rỉ:
- Gặp ba bà một lúc thì mình chết chắc.
Annabeth suy nghĩ rất lung:
- Đừng lo. Nữ thần Báo Thù, ba quái vật kinh khiếp nhất địa ngục. Không sao. Không sao. Ta cứ chui ra cửa sổ là xong.
Grover nhăn nhó:
- Cửa không mở.
- Hay cửa hậu vậy?
Xe không có cửa hậu. Thậm chí nếu có, chúng tôi cũng không thoát được. Đúng lúc đó, xe chạy qua đại lộ số Chín, sắp vào đường hầm Lincoln.
- Họ sẽ không tấn công trước mặt mọi hành khách trên xe.
Annabeth nhắc:
- Mắt người phàm không tinh. Não họ chỉ xử lý thông tin căn cứ những gì thấy qua Màn Sương mà thôi.
- Nhưng nếu ba người kia giết chúng mình, họ cũng phải thấy chứ.
Annabeth trầm ngâm:
- Khó ní lắm. Nhưng ta không nên trông cậy người phàm giúp đỡ. Biết đâu có lối thoát hiểm trên trần xe.
Đến đường hầm Lincoln, trong xe tối sầm, chỉ còn đèn phía trên lối đi. Tự nhiên, tiếng mưa rơi im bặt.
Cô Dodds đứng dậy. Bằng giọng đều đều như tập từ trước, cô nói với mọi người trong xe:
- Tôi phải đi vệ sinh.
Bà thứ hai lên tiếng:
- Tôi cũng vậy.
Bà thứ ba nói theo:
- Tôi cũng vậy.
Họ theo nhau lần theo lối đi.
Annabeth bảo:
- Để đó cho tớ. Percy, đội nón của tớ vào.
- Cài gì?
- Chỉ mình cậu là mục tiêu của họ. Tàng hình rồi theo lối đi lên đầu xe. Cứ mặc họ đi xuyên qua cậu. Biết đâu cậu lên được cửa trên và đi thoát.
- Nhưng con hai cậu thì sao?
- Rất có thể họ không nhận ra bọn tớ. Nhưng cậu là con của một người trong Bộ Tam Vĩ Đại. Mùi của cậu át hết mùi bọn tớ.
- Tớ không bỏ bạn như thế được.
Grover bảo:
- Đừng lo cho tụi tớ. Đi ngay đi!
Tay tôi run bần bật, thấy mình hèn nhát quá. Nhưng tôi vẫn cầm mũ đội lên đầu.
Khi nhìn xuống, tôi không thấy người mình đâu nữa.
Tôi lò dò đi lên. Sau khi qua được mười hàng ghế, tôi ghé ngồi ghế trống đúng lúc ba Nữ thần Báo Thù đi qua.
Cô Dodds dừng lại, hít hít và nhìn thẳng vào tôi. Tim tôi đập loạn xạ.
Rõ ràng bà ta không thấy gì.
Bà ta và hai người em của mình tiếp tục đi.
Không bị phát hiện, tôi đi tiếp lên đầu xe.
Xe sắp ra khỏi đường hầm Lincoln. Tôi sắp nhấn núi “Dừng xe khẩn cấp” thì nghe tiếng hét rợn người sau lưng.
Ba người kia không còn là ba bà lão già nua nữa.
Mặt họ giữ nguyên (chắc không thể xấu hơn được) nhưng toàn thân họ đổi thành màu nâu, da dày lên và mọc cánh dơi. Bàn tay bàn chân họ mọc vuốt như thú dữ. Ba túi xách biến thành ba roi da bốc lửa.
Ba Nữ thần Báo Thù vây quanh Grover và Annabeth, vừa quật roi vun vút vừa rít lên:
- Nó đâu rồi? Vật đó đâu?
Hành khách trên xe thét lên, co rúm trên ghế. Đúng là họ có nhìn thấy chuyện bất thường.
Annabeth hét lên:
- Cậu ấy không có ở đây. Đi mất rồi.
Ba nữ yêu quái mình người cánh dơi giơ roi lên.
Annabeth rút dao bằng đồng, còn Grover vơ can nhôm trong túi chuẩn bị ném.
Điều tôi làm tiếp theo thật khá bốc đồng và nguy hiểm đến độ đáng được có mặt trên áp phích vinh danh trẻ em hiếu động của năm.
Bác tài mất tập trung. Ông nhìn gương chiếu hậu trong xe cố xem chuyện gì.
Vẫn tàng hình, tôi nắm vô lăng trong tay ông giật mạnh sang trái. Mọi người kêu la, nghiêng hết sang phải. Tôi hy vọng tiếng vừa nghe thấy chứng tỏ ba Nữ thần Báo Thù vừa va mạnh vào cửa sổ.
Bác tài hét lên:
- Ấy chớ! Đừng. Trời ơi.
Chúng tôi giành nhau vô lăng. Sườn xe va mạnh vào tường trong đường hầm, tia lửa bắn tung tóe cả dặm sau xe.
Xe lao nhanh khỏi đường hầm, trở lại màn mưa tầm tã. Người và yêu quái bị quăng quật trong xe. Xe hơi chạy dạt sang hai bên lề đường.
Không hiểu bằng cách nào, bác tài tìm được đường thoát cho xe. Xe buýt lao vút trên xa lộ, vượt qua năm sáu ngã tư, cuối cùng lăn bánh trên đường đất vùng nông thôn New Jersey. Không ai tin ngay cạnh New York có loại đường vừa bé vừa lổn nhổn như vậy.
Bên trái đường là rừng, bên phải là sông Hudson. Lúc này, hình như bác tài đang mất tay lái khiến xe gần lao xuống sông.
Tôi có thêm sáng kiến mới: Kéo thắng dành riêng cho trường hợp khẩn cấp.
Xe buýt rít lên, xoay tròn giữa mặt đường nhựa ướt rượt và tông vào gốc cây. Đèn cấp cứu chớp nháy liên tục. Cửa xe bật mở. Bác tài chạy khỏi xe đầu tiên, hành khách cũng chen lấn nhau ra cửa. Tôi nép sau lưng ghế tài xế cho họ ra hết.
Ba Nữ thần Báo Thù hoàn hồn. Họ quật roi về phía Annabeth lúc bạn tôi rút dao hét lên bằng tiếng Hy Lạp cổ, ra lệnh cho họ lùi lại. Grover ném lon rỗng lia lịa.
Có lối ra trống trải cho tôi dư sức chạy thoát. Nhưng tôi không bỏ bạn bè.
Tôi cởi mũ tàng hình:
- Này!
Ba Nữ thần Báo Thù quay lại, nhe nanh đe dọa. Lúc này, chạy ra cửa xe là thượng sách. Cô Dodds lom khom đi giữa lối đi, giống hệt lúc đến bên trao bài kiểm tra điểm F cho tôi. Mỗi khi bà ta vụt roi, lửa lại phụt từ dải dây da có gai lởm chởm.
Hai người em xấu xí của bà ta nhảy cóc trên hai dãy ghế hai bên, bò về phía tôi như hai con thằn lằn khổng lồ gớm guốc.
Cô Dodds nói giọng lè nhè của người miền nam, vùng nào đó phía dưới bang Georgia:
- Perseus Jackson. Ngươi đắc tội với các thần. Ngươi phải chết.
- Trông bà ghê quá. Sao, hồi này hết dạy toán rồi à?
Bà ta gầm lên.
Annabeth và Grover rón rén theo sau ba Nữ thần Báo Thù tìm lối ra. Annabeth cầm dao đi trước nhưng tôi không để bạn ấy làm cái việc đáng lý tôi phải làm.
Tôi rút bút bi trong túi áo và mở nắp. Thủy Triều vươn dài thành thanh kiếm hai lưỡi sáng loáng.
Bà yêu quái khựng lại.
Cô Dodds từng nếm trải mùi lợi hại của Thủy Triều nên không thích lần “tái ngộ” này.
Mụ rít lên:
- Nộp ngay ra đây. Nếu không, ngươi sẽ bị hành hạ đến muôn đời.
Tôi khích bác:
- Ta không sợ đâu.
Annabeth thét:
- Percy, coi chừng!
Cô Dodds vung roi quấn quanh kiếm Thủy Triều, còn hai bà em hai bên cùng lúc nhào vào tôi.
Tay nóng rẫy như bị nhúng vào chì nấu lỏng nhưng tôi quyết không buông kiếm quý. Tôi thúc chuôi kiếm sang trái khiến yêu quái ngã chổng kềnh trên ghế, sau đó chém sang phải. Ngay khi kiếm chạm vào cổ, yêu quái nổ tung, biến thành bụi. Annabeth vật ngửa cô Dodds còn Grover thừa cơ xông vào tước roi da.
Nó kêu oai oái:
- Ối! Nóng... Nóng quá.
Yêu quái bị tôi đánh bằng cán kiếm lại xông đến nhưng tôi đã vung kiếm chém xuống xẻ đôi người mụ.
Cô Dodds ráng vung khỏi vòng tay Annabeth siết từ phía sau. Bà ta vừa đấm đá, vừa cào cấu và rít lên kinh khiếp. Nhưng Annabeth không chịu buông tay, còn Grover dùng ngay roi trói chân bà ta. Xong xuôi, cả hai xô bà ta ngã sõng soài giữa lối đi. Bà ta cố gượng dậy nhưng lối đi hẹp không giang cánh được nên đành nằm vật xuống.
Bà ta rủa xả:
- Thần Dớt sẽ hủy diệt ngươi. Hades sẽ bắt linh hồn ngươi cho xem.
Tôi hét lên bằng tiếng Latinh dù không biết mình học những từ ấy khi nào:
- Họ đừng hòng làm gì tôi.
Sấm vang rền làm rung chuyển xe buýt. Tôi nổi da gà, tóc dựng ngược.
Annabeth gào to:
- Ra ngoài! Mau!
Không cần nhắc, tôi cũng hết muốn ở trong này.
Ba chúng tôi vội nhao ra cửa và thấy hành khách, người thì sợ hãi đi tới đi lui, người thì cãi cọ với bác tài. Có người bấn loạn chạy quanh, miệng gào lên:
- Thế này thì chết thôi, sống làm sao được.
Trước khi tôi kịp đậy nắp bút, một hành khách mặc áo sơ mi hoa sặc sỡ giơ máy chụp hình về phía tôi bắn lia lịa.
Grover nhắc:
- Hành lý! Tụi mình quên trên…
ĐÙNG!
Xe buýt phát nổ, lửa phụt từ cửa sổ vỡ hết kính. Hành khách chạy tứ tán tìm nơi ẩn nấp. Sét đánh trúng nóc xe, nhưng tiếng rên căm tức từ trong xe phát ra cho thấy cô Dodds chưa chết.
Annabeth bảo:
- Chạy thôi. Bà ta gọi cứu viện. Mình đi ngay mới kịp.
Ba đứa lao thẳng vào rừng dưới trời mưa tầm tã. Sau lưng xe buýt cháy rừng rực nhưng phía trước trời tối như bưng lấy mắt.
11. Cửa hàng bán tượng
Đôi khi, biết trên đỉnh Olympia có mười hai vị thần cũng tốt vì khi gặp chuyện xui xẻo, cứ việc đổ lỗi cho họ và sẽ thấy dễ chịu hơn nhiều.
Ví dụ, lúc bỏ xa chiếc xe buýt bị phù thủy tấn công và bị sét đánh bốc lửa dưới màn mưa dày đặc mịt mù, ai cũng bảo họ gặp vận rủi. Tuy nhiên, nếu là con lai, ta biết chắc có thế lực siêu nhiên bám theo ta quậy phá.
Với suy nghĩ đó, Annabeth, Grover và tôi lủi thủi xuyên cánh rừng rậm thuộc miền duyên hải Jersey, bỏ lại sau lưng đo thị New York sáng đèn và nhịn thở để không phải ngửi mùi hôi thối bốc lên từ dòng Hudson ô nhiễm nặng.
Grover run bần bật, miệng rên be be. Nỗi kinh hoàng làm đồng tử trong đôi mắt dê của nó co lại thành đường kẻ nhỏ:
- Ba Nữ thần Báo Thù. Cả ba đến cùng lúc.
Chính tôi cũng hoảng sợ không kém, tai chưa hết lùng bùng do tiếng nổ xe buýt vừa rồi. Nhưng Annabeth kéo tay chúng tôi, giục giã:
- Nhanh lên! Càng đi xa càng tốt.
Tôi nhắc bạn:
- Có bao nhiêu tiền ta để cả trên xe. Cả quần áo, thức ăn nữa. Ta mất hết rồi.
- Thế sao? Nếu cậu không nhào tới đánh nhau thì đâu đến nỗi…
- Thế muốn tớ làm gì đây? Đứng nhìn chúng giết các cậu chắc?
- Percy, cậu không cần bảo vệ tớ. Tớ có sao đâu.
Grover chen ngang:
- Nếu không có cậu, chắc chắn yêu tinh xắt mỏng tụi tớ làm bánh kẹp. Dù thế, tụi tớ vẫn ổn.
Annabeth quát:
- Dê con, im đi!
Grover be lên tiếc rẻ:
- Vỏ lon nhôm… Đầy túi lon rỗng giờ mất hết.
Ba đứa lội bì bõm trong bùn đặc quánh, xuyên qua rặng cây vặn vẹo bẩn nhơ nhớp có mùi chua như quần áo đẫm mồ hôi chờ giặt.
Mấy phút sau, Annabeth đi sát bên tôi, ngập ngừng:
- Này, tớ… cảm kích vụ cậu quay lại vì chúng tớ. Cậu dũng cảm thật đấy.
- Chúng ta cùng hội cùng thuyền mà.
Annabeth đi thêm mấy bước trong im lặng:
- Có điều, nếu cậu thiệt mạng… không những mình cậu hẩm hiu mà nhiệm vụ cũng không hoàn thành. Cậu nên nhớ rất có thể đây là cơ hội ra đời cuối cùng của tớ.
Cuối cùng, sấm cũng thôi ì ầm. Ánh đèn thành phố lùi xa, mờ dần chỉ còn lại chúng tôi với đêm tối. Nhìn Annabeth, tôi chỉ thấy mái tóc vàng óng. Ngoài ra, không thấy gì khác.
- Từ hồi lên bảy đến giờ, cậu chưa rời Trại Con Lai ư?
- Chưa… trừ vài lần tham quan ngắn ngủi. Cha tớ…
- À, giáo sư môn lịch sử.
- Phải. Tớ không ở nhà với cha được. Trại Con Lai mới là nhà tớ. – Annabeth nói nhanh như sợ ai cướp lời. – Trại cho học quanh năm suốt tháng. Thế cũng vui, nói chung gì cũng thích. Nhưng ngoài đời thực mới có quái vật. Chỉ đến lúc ra đời, ta mới được thử sức. Chỉ có lúc ấy, ta mới biết khả năng của mình đên đâu.
Nếu không biết Annabeth từ trước, tôi sẽ tưởng cô bé chỉ nói miệng, trong bụng cũng sợ chết đi được.
- Cậu múa dao điêu luyện ghê.
- Thật không?
- Tớ phục lăn mấy người dám cưỡi lên lưng Nữ thần Báo Thù.
Tôi đoán Annabeth mỉm cười trong bóng tối.
- Để tớ kể cho nghe... lúc trên xe buýt buồn cười lắm cơ...
Chẳng biết chuyện bạn ấy định kể buồn cười cỡ nào, nhưng Annabeth buộc phải im lặng vì có tiếng kêu ‘tút tút’ vang lên nghe như tiếng chim cú bị đánh đau.
Grover kêu lên:
- Các cậu ơi, bộ sáo của tớ còn dùng được. Chỉ cần nhớ bài “Tìm đường đi”, ta sẽ thoát khỏi khu rừng này.
Nó thổi vài nốt, nhưng giai điệu kỳ khôi lắm.
Đã không tìm được đường ra, tôi thình lình va đầu vào gốc cây, trán nổi cục u to tướng.
Vậy nên thêm một dòng vào danh sách những khả năng siêu nhiên tôi không hề có: tài nhìn xuyên qua bóng tối.
Sau bao lần ngã vùi ngã dập, tôi vừa chửi rủa vừa đi thêm khoảng hai cây số trong tâm trạng buồn khổ chán ngán trước khi thấy ánh đèn phía trước. Đèn màu từ biển quảng cáo hẳn hoi. Mùi thơm bay đến. Đâu đó có đồ ăn chiên béo ngậy, thơm lừng. Từ khi đến Trại Con Lai, tôi chưa được ăn mấy món bác sĩ khuyên không nên dùng. Hai tuần ở đó, tôi sống lay lắt bằng nho, bánh mỳ, phô mai và thịt nướng khô xác vì mỡ béo đã bị các đầu bếp Nữ Thần Cây lọc hết. Tôi đang thèm bánh hamburger phô mai nhiều thịt gấp đôi bánh thường.
Chúng tôi đi tiếp thì gặp con đường nhỏ hai làn xe trống trải chạy giữa rừng. Bên kia đường có trạm xăng đóng cửa, biển quảng cáo cỡ lớn rách bươm quảng bá cho một bộ phim chiếu từ thập niên 90 của thế kỷ trước và một cửa hiệu còn sáng đèn. Chính nó phát ra mùi thơm và ánh đèn màu mời gọi.
Đó không phải quán thức ăn nhanh như tôi hình dung. Nó giống mấy cửa hàng ven đường chuyên bán tượng lạ mắt dùng bài trí trong vườn hay bãi cỏ trước nhà, chẳng hạn cây xén tỉa thành hình hồng hạc, tượng người da đỏ bằng gỗ, hay tượng gấu xám bằng xi măng v.v... Nhà chính dài, thấp giống nhà kho nằm giữa vài sào đất bày tượng mẫu. Tôi không đọc nổi chữ uốn bằng đèn neon trên biển hiệu. Vì tôi bị bệnh khó đọc nên chữ thường đã làm tôi khốn đốn, huống hồ dòng chữ bằng đèn màu nhấp nháy này lại viết hoa rất cầu kỳ.
Với tôi, trông nó như sau: ATYU MES GDERAN GOMEN MEPROUM.
Tôi bối rối:
- Chữ quái gì kia?
Annabeth lắc đầu:
- Tớ không biết.
Thấy Annabeth cực kỳ chăm đọc sách, tôi quên bạn ấy cũng mắc chứng khó đọc với chữ thường.
Grover dịch:
- CÔ E.M CHUYÊN BÁN TƯỢNG TRANG TRÍ VƯỜN
Như minh chứng cho biển quảng cáo, cạnh cửa ra vào bày hai tượng chú lùn giữ cửa bằng xi măng. Họ xấu xí, lùn tịt, râu xồm xoàm, vừa cười vừa vẫy tay như sắp chụp hình.
Bị mùi bánh hamburger dẫn dụ, tôi nhanh nhẩu sang đường.
Grover cảnh giác:
- Hượm đã...
Annabeth quan sát:
- Bên trong có đèn, chắc còn mở cửa.
Tôi thèm thuồng:
- Có đồ ăn.
Annabeth đồng tình:
- Ừ, ăn chút cho đỡ đói.
Grover cực lực phản đối:
- Hai cậu điên à? Nhìn chỗ này xem, ớn chết đi được.
Chúng tôi bỏ ngoài tai.
Tượng xi măng chen chúc trên khoảnh sân phía trước: nào chim thú, nào trẻ con... thậm chí có cả tượng thần rừng thổi sáo. Grover mới nhìn đã sởn da gà.
Nó kêu be be:
- Be… be… be… Giống cậu Ferdinand nhà tớ quá!
Đến cửa nhà chính, chúng tôi dừng lại. Grover van vỉ:
- Đừng vào! Tớ ngửi thấy mùi yêu quái.
Annabeth gắt:
- Cậu nghẹt mũi từ lúc ngửi mùi Nữ thần Báo Thù rồi. Tớ chỉ thấy mùi bánh thôi. Thế cậu không đói à?
Grover khinh thị:
- Toàn mùi thịt. Tớ ăn chay mà.
Tôi nhắc:
- Chay gì đâu. Tớ toàn thấy cậu ăn phô mai enchiladas và lon rỗng.
- Không sát sinh là chay rồi. Thôi nào các cậu, ta biến khỏi đây đi. Mắt mấy bức tượng này... cứ nhìn tớ chằm chằm.
Rồi cánh cửa được mở ra. Trước mặt chúng tôi là một phụ nữ cao ráo người Trung Đông. Tôi đoán thế vì bà ta mặc váy đen dài từ đầu đến chân chỉ chừa hai bàn tay, tấm mạng lớn trùm kín cả đầu lẫn mặt. Mắt bà lấp lánh sau làn vải mỏng. Hai bàn tay da bánh mật của bà trông già nua nhưng được làm móng rất kỹ và sơn màu trang nhã. Từ đó tôi đoán chắc bà là hoa khôi một thời.
Giọng nói bà chủ mang chút âm hưởng của người Trung Đông.
- Trời khuya thế này, sao các cháu còn tự ý ra ngoài ? Cha mẹ các cháu đâu?
Annabeth mở lời:
- À... Cha mẹ chúng cháu...
Tôi đỡ lời:
- Chúng cháu mồ côi ạ.
Bà ta lấy làm ngạc nhiên lắm:
- Mồ côi ư? Trời ơi, không thể nào!
- Tụi cháu tách ra khỏi đoàn. Chúng cháu làm cho gánh xiếc mà. Ông chú dặn nếu đi lạc, cứ đến cây xăng này, ông sẽ đợi. Nhưng chắc ông ấy quên, hoặc dặn trạm xăng khác nhưng cháu hiều lầm. Dù ông ấy có nói gì thì giờ chúng cháu bị lạc rồi. Có phải mùi thức ăn không ạ?
- Ôi, cháu tôi! Tội nghiệp quá, nhất định các cháu phải đi vào nhà ta nghỉ chân đã. Cứ gọi ta là cô Em. Giờ đi thẳng ra sau nhà nhé. Phòng ăn ở đó đấy.
Chúng tôi cảm ơn rồi vào cửa.
Annabeth thì thào:
- Cậu làm cho gánh xiếc khi nào vậy?
- Thì cũng phải nghĩ ra thứ gì chứ.
- Đầu cậu nhồi tảo bẹ hay sao thế?
Trong nhà chất thêm nhiều tượng nữa. Tượng người ở đây có nhiều tư thế và trang phục, còn nét mặc bộc lộ đủ loại cảm xúc. Tượng chỉ hợp với vườn cực rộng vì chúng toàn to bằng người thật.
Nhưng đầu óc tôi chỉ chăm chăm nghĩ đến ăn.
Đúng là ngớ ngẩn mới vào nhà lạ chỉ vì đói, nhưng quả thực tính tôi hay nhanh nhẩu đoảng. Với lại, mùi bánh nhà cô Em thơm quá thể. Mùi ấy giống hơi thuốc mê ở phòng nha: nó khiến bệnh nhân quên hết sự đời. Tôi mê mụ đến nỗi không nghe Grover rên rỉ, không để ý mắt tượng như dõi theo mình và không biết khách vừa vào, cô Em đã vội khóa chặt cửa.
Tôi chỉ rốt ráo tìm phòng ăn. Đúng như chủ nhà giới thiệu, nó nằm sau nhà kho dài. Ở đó có quầy thức ăn nhanh cùng lò nướng thịt, máy pha sô đa, dụng cụ nướng bánh quy xoắn và máy chế biến khoai tây chiên pho mát... nói chung đầy đủ như tiệm bán thức ăn nhanh bình thường. Còn nữa, phía trước có kê vài bàn gấp bằng kim loại.
Chủ nhà mời mọc:
- Các cháu ngồi tự nhiên đi.
Tôi trầm trồ:
- Thích quá.
Grover ngại ngần:
- Nhưng... tụi cháu không có tiền.
Vừa định thúc khuỷu tay vào sườn, bắt nó im lặng, tôi đã nghe cô Em ngọt ngào:
- Không, các cháu đừng ngại. Cô không lấy tiền. Đây là trường hợp đặc biết, đúng không? Cô mời. Các cháu mồ côi mà ngoan ngoãn quá đi thôi.
Annabeth cảm động:
- Cháu cảm ơn cô ạ.
Cô Em bất ngờ đứng im phắc như thể bạn tôi vừa làm gì sai. Nhưng ngay sau đó, bà ta cười xòa như không có chuyện gì xảy ra khiến tôi tưởng mình lầm.
- Annabeth ngoan lắm. Mắt cháu tôi màu xám đẹp quá nhỉ?
Mãi sau này tôi mới tự hỏi sao bà ta biết tên Annabeth, vì từ lúc vào chúng tôi chưa tự giới thiệu lần nào.
Chủ nhà biến ra sau quầy nấu nướng. Nháy mắt sau, bà ta bưng ra ba khay nhựa tú hụ bánh hamburger, sữa hương vani và ly đựng khoai tây chiên cỡ lớn nhất.
Tôi ngấu nghiến ăn bánh đến độ không kịp thở.
Annabeth mê mải uống sữa.
Grover tay bốc khoai tây chiên, mắt liếc tờ giấy nền lót khay như muốn ăn tươi nuốt sống nó. Chỉ tội nét mặt cậu ấy sợ sệt thế nào.
Grover hỏi:
- Cái gì kêu xì xì vậy?
Tôi lắng nghe nhưng không thấy gì. Annabeth lắc đầu. Cô Em vội nói:
- Chắc tiếng mỡ sôi xèo xèo đấy mà. Tai cháu thính quá.
- Cháu uống nhiều loại vitamin trợ giúp thính lực mà.
Chủ nhà khen:
- Chịu khó chưa? Mới bé đã biết tự chăm sóc sức khỏe rồi. Yên tâm đi cháu, không có gì đâu.
Cô Em không ăn cũng không bỏ khăn trùm đầu và mặt ngay cả khi nấu nướng. Cô ngồi bên bàn, lồng các ngón tay vào nhau nhìn chúng tôi ăn. Nhai nhồm nhoàm khi có người ngó mình lom lom thật ngại quá, nhất là khi chúng tôi không nhìn rõ mặt cô. Tuy nhiên, ăn xong cái bánh to tướng, tôi thấy mãn nguyện, hơi buồn ngủ và nghĩ đến chuyện hỏi thăm chủ nhà vài câu cho phải phép.
Tôi tỏ vẻ quan tâm:
- Hình như cô bán... tượng thì phải?
- Phải, phải. Tượng người, tượng thú vật... nói chung cô có đủ loại tượng trang trí vườn. Tượng theo đơn đặt hàng cũng có. Hồi này tượng bán chạy lắm.
- Dọc đường nhỏ này có nhiều hàng quán không ạ?
- Không nhiều lắm. Từ hồi họ làm đường cao tốc ngoài kia... hầu như xe cộ không đi ngả này nữa. Cô phải chiều khách lắm mới trụ lại được đấy.
Gáy tôi ngứa ngáy, hình như có người đang nhìn từ phía sau. Ngoái đầu trông, tôi thấy tượng một bạn gái xách giỏ trứng Phục sinh. Chi tiết của tượng hoàn hảo, không giống tượng trang trí vườn thông thường. Nhưng nghệ nhân tạc khuôn mặt bị lỗi thì phải. Trông bạn ấy như đang giật mình, hoặc kinh hoàng.
Cô Em buồn xo:
- Chắc cháu cũng thấy vài tác phẩm của cô không đẹp. Khá nhiều tượng lỗi. Hàng phế phẩm cô không bán. Khuôn mặt là phần khó nhất cháu ạ.
- Tự tay cô tạc tượng ư?
- Ừ. Ngày xưa cô có hai em gái giúp kinh doanh, nhưng họ vắn số nên cô đành sống cô quạnh. Giờ cô chỉ biết lây tượng làm vui. Chính vì vậy cô làm tượng. Có tượng như có bạn trong nhà.
Giọng nói nghe thế lương sầu thảm đến nỗi tôi thấy thương cô ta. Tôi không hình dung nổi cảnh sống một mình giữa những bức tượng kỳ quái này.
Annabeth ngừng ăn, chăm chú hỏi:
- Cô có hai em gái?
- Chuyện khủng khiếp lắm, trẻ con không nên nghe. Annabeth biết không, cách đây lâu lắm rồi, ngày cô còn trẻ, có người đàn bà xấu bụng ghen tức cô. Cô có... người yêu, còn con mụ xấu bụng kia định chia duyên rẽ thúy. Mụ bày ra vụ tai nạn khủng khiếp. Hai em gái quyết ở bên cô lúc hoạn nạn nhưng cuối cùng họ phải chết. Nói đúng hơn là biến mất. Mình cô sống sót, nhưng phải trả giá quá đắt cho sự sống còn của mình.
Dù không hiểu cặn lẽ câu chuyện của chủ nhà, tôi vẫn thương bà ta. Ăn uống no nê xong, mi mắt tôi nặng dần, đúng là “căng da bụng, chùng da mặt”. Tội nghiệp hai cô em. Ai nỡ hại những người tốt như vậy chứ?
Annabeth giật tay gọi tôi tỉnh lại:
- Percy, chắc mình đi thôi. Tớ e ông chủ gánh xiếc đang đợi.
Giọng bạn ấy căng thẳng. Tôi không hiểu tại sao.
Grover nhai giấy lót khay ngon lành. Không hiểu cô Em có thấy lạ không, chỉ biết cô im lặng coi như không biết.
Chủ nhà lại khen:
- Mắt xám đẹp mê hồn. Lâu lắm rồi cô mới gặp người mắt xám đẹp giống cháu.
Bà ta vươn tay định vuốt má Annabeth nhưng bạn ấy đứng vụt dậy:
- Chúng mình không nên ở đây.
Grover nuốt chửng miếng giấy nến, đứng lên:
- Ông chủ đang đợi. Đúng rồi.
Tôi không muốn đi. Tôi no nê, dễ chịu. Cô Em rất dịu dàng, tử tế. Tôi muốn ở lại chơi thêm chút nữa.
Cô Em van nài:
- Đừng mà, các cháu. Hiếm khi cô có khách trẻ con đến chơi nhà. Trước khi đi, các cháu ngồi yên cho cô chụp tấm hình nhé?
Annabeth cảnh giác:
- Hình gì ạ?
- Chỉ một tấm thôi. Ta dùng ảnh các cháu để nặn bộ tượng mới. Tượng trẻ con bán đắt như tôm tươi. Ai cũng thích con nít mà.
Annabeth thấy bất an:
- Chắc không được đâu ạ. Percy, đi thôi...
Tôi khó chịu vì Annabeth giục hoài và không chiều lòng bà chủ tiệm vừa đãi chúng tôi một bữa không lấy tiền.
- Được cô ạ. Annabeth này, chỉ đứng cho cô chụp hình, có hại gì đâu?
Bà chủ hùa theo:
- Bạn cháu nói phải. Có hại gì đâu nào.
Tôi biết trong bụng Annabeth thầm phản đối, nhưng bạn ấy vẫn để cô Em dẫn cả ba ra sân bày tượng trước nhà.
Cô bảo chúng tôi ngồi xuống ghế đá cạnh tượng thần rừng bằng đá.
- Để cô sắp đặt vị trí sao cho đẹp. Cháu gái đứng giữa đi, hai thanh niên đứng hai bên.
Tôi nhân xét:
- Trời tối thế sao chụp được ạ?
- Đủ sáng đấy chứ. Cô vẫn nhìn rõ mặt các cháu đấy thôi.
Grover hỏi:
- Máy chụp hình đâu ạ?
Cô Em lùi lại, ngắm nghía:
- Khuôn mặt bao giờ cũng khó nhất. Các cháu cười lên nhé! Cười tươi nào.
Liếc bức tượng thần rừng bên cạnh, Grover lẩm bẩm:
- Giống cậu Ferdinand quá đi mất.
Cô Em nạt nộ:
- Grover, quay ra đây!
Cô vẫn chưa cầm máy chụp hình.
Annabeth thì thầm:
- Percy...
Linh tính bảo tôi nên nghe lời Annabeth. Nhưng tôi còn mải gắng sức xua cảm giác buồn ngủ. Mắt tôi díp lại vì ăn no và vì giọng nói êm dịu, du dương của chủ nhà. Cô Em bảo:
- Xong ngay đây. Bực mình mạng che mặt này ghê, làm ta nhìn không rõ...
Annabeth khăng khăng:
- Percy, không ổn rồi.
Cô Em sắp lật tấm mạng mỏng trùm kín cả đầu lẫn mặt:
- Không sao đâu cháu. Tối nay rồng đến nhà tôm, thật tuyệt cú mèo. Có gì đâu mà không ổn?
Grover thở hổn hển:
- Đúng là cậu Ferdinand rồi.
- Ngoảnh mặt đi, đừng nhìn bà ta!
Annabeth hét lên, đội ngay mũ lưỡi trai của đội bóng chày New York lên đầu. Hai cánh tay tàng hình của bạn ấy cùng lúc xô tôi và Grover ngã nhào.
Tôi dán mặt xuống đất nhìn đôi chân đi xăng đan của cô Em.
Tai có tiếng Grover và Annabeth mỗi người bò sang một hướng, nhưng tôi quá mê mụ, đờ đẫn đến độ không thể nhúc nhích.
Có âm thanh xì xì, sột soạt lạ tai ngay phía trên chỗ tôi nằm. Tôi lần lần nhìn lên hai bàn tay cô Em tự nhiên biến thành xương xẩu, sần sùi. Móng tay thay bằng vuốt bằng đồng sắc nhọn tự lúc nào.
Ánh mắt tôi sắp tiến lên, cao hơn nữa thì Annabeth thét lên:
- Đừng! Chớ có nhìn!
Tôi lại nghe tiếng sột soạt... tiếng của cả bầy rắn bé xíu ngay phái trên đầu tôi... nó phát ra từ chỗ đáng lẽ phải là đầu cô Em.
- Chạy đi!
Grover kêu lên. Tôi nghe tiếng nó vừa chạy ngang bãi cỏ vừa niệm bùa chú: “Maia!” để khởi động đôi giày.
Tôi bất động. Nhìn trừng trừng bàn tay xương xẩu của cô Em, tôi cố thoát khỏi trạng thái thôi miên mà cô ta đã lôi tôi vào.
Mụ nói êm như ru:
- Phải hủy hoại khuôn mặt đẹp như tượng này thật uổng phí. Hãy ở lại với ta, Percy. Chỉ cần ngươi ngước nhìn lên là xong.
Tôi cưỡng lại ý muốn vâng lời. Thay vì nhìn mụ, tôi dán mắt vào quả cầu pha lê, loại người ta hay bày trong vườn để bói cầu. Bóng đen của “cô Em” hiện trên mặt thủy tinh màu cam. Đầu mụ biến mất, mặt mờ đi thành hình cầu nhợt nhạt. Tóc mụ là bùi nhùi rắn uốn éo, lắc lư.
Cô Em.
Có nghĩa là cô “M”.
Sao tôi đần độn thế không biết.
Tôi thầm nhủ: “Nhớ lại đi. Trong cổ tích, Medusa chết như thế nào?”
Dù đầu óc mê mụ, ký ức mách bảo tôi rằng: Trong cổ tích, Medusa bị Perseus tấn công lúc ngủ say. Nhưng giờ mụ tỉnh như sáo. Nếu muốn, mụ ta đủ sức dùng móng vuốt cào rách mặt tôi.
Giọng Medusa cất lên nghe không giống phù thủy. Giọng mụ mời mọc tôi hãy ngẩng lên nhìn, hãy thương hại một bà già tội nghiệp:
- Percy ơi, tại ả Mắt Xám cả đấy. Mẹ Annabeth, mụ Athena chết giẫm biến ta từ cô gái xinh đẹp thành thứ gớm guốc này.
Annabeth núp trong rừng tượng, nói với ra:
- Đừng nghe lời mụ. Chạy đi, Percy!
Medusa gầm gừ:
- Câm miệng! – Giọng mụ lập tức mượt như nhung. - Percy, ngươi cũng hiểu tại sao ta phải hủy hoại con nhóc ấy. Nó là con kẻ thù của ta. Ta sẽ nghiền nát tượng nó thành cát bụi. Nhưng Percy yêu quý, riêng ngươi không tội tình gì phải làm thế.
Tôi thều thào, cố động đậy đôi chân:
- Đừng.
- Nói thực đi, ngươi có muốn giúp các thần không? Ngươi có biết làm nhiệm vụ ngu xuẩn này, cái gì đang chờ ngươi phía trước không? Có biết ngươi sẽ ra sao khi đến được địa ngục không? Đừng làm con tốt đen trên bàn cờ của đỉnh Olympia, ngốc ạ. Làm tượng sướng hơn nhiều. Ít đau đớn hơn nhiều. Thật đấy.
- Percy, tớ đây!
Tôi nghe tiếng vè vè quái đản trên đầu. Hình như có con chim ruồi to đùng, nặng cả trăm ký sắp lao chúi xuống.
- Cúi xuống!
Tôi ngoái đầu nhìn. Grover bay giữa trời đêm, cánh trắng mọc từ gót giày chấp chới. Tay nó lăm lăm cành cây dài bằng gậy vụt bóng chày. Mắt nhắm tịt, Grover hết nghiêng đầu sang trái lại sang phải như thể nó đoán đường bay chỉ bằng mũi và tai.
Nó lại hét inh ỏi:
- Cúi xuống! Tớ sẽ hạ mụ ta!
Nghe vậy, tôi quyết định phải hành động ngay. Tôi biết Grover lắm mà: Thể nào nó cũng vụt trượt Medusa và phang gậy trúng đầu tôi. Hoảng hồn, tôi lăn người tránh.
RẮC!
Nếu không nghe Medusa gầm lên tức tối, tôi đã tưởng Grover đập trúng gốc cây.
Mụ gầm gừ:
- Đồ thần rừng hèn mọn, tao sẽ thêm mày vào bộ sưu tập của tao.
Grover hét lên đáp trả:
- Ta đánh mụ để trả thù cho cậu Ferndinand.
Tôi lồm cồm bò ra xa, nấp sau bức tượng. Vừa lúc Grover xà xuống phang tiếp.
- Ái!
Medusa la lối, bộ tóc rắn xì xì, nhổ tứ tung.
Tiếng Annabeth vang lên ngay bên tôi:
- Percy!
Giật bắn mình, tôi nhảy dựng lên suýt đá đổ tượng thần lùn giữ của.
- Trời đất! Đừng thế chứ.
Annabeth cởi mũ, hiện ra trước mặt tôi:
- Cậu phải chặt đứt đầu mụ.
- Cái gì? Cậu điên à? Ta đi ngay thôi.
- Medusa rất độc ác, tàn bạo. Tớ muốn tự tay lấy mạng mụ... nhưng... – Cô bé nuốt khan như thể sắp thú nhận một chuyện khó khăn - ... nhưng vũ khí của cậu lợi hại hơn. Với lại, nếu tớ đến gần sẽ bị mụ băm vằm vì thù mẹ tớ. Cậu... dễ tiếp cận hơn. Giờ là cơ hội của cậu đấy.
- Sao cơ? Tớ không thể...
- Này, thế cậu muốn mụ biến người vô tội thành tượng ư?
Annabeth chỉ tượng đôi tình nhân đang ôm nhau, nạn nhân bị yêu quái biến thành đá.
Annabeth nói đúng. Thậm chí nếu Medusa không chết hẳn, tôi vẫn có khả năng làm mụ dừng bàn tay tội ác ít lâu, cứu mạng vài người vô tội, bắt mụ rời xứ New Jersey, nơi người dân đã quá khổ vì tệ nạn.
Annabeth lấy quả cầu thủy tinh màu xanh lá cây bày trên bệ gần đó. Cô bé nhìn kỹ trái cầu:
- Dùng vật che chắn bề mặt bóng là tốt nhất. Tuy nhiên, mặt cong sẽ làm hình méo mó. Độ chênh lệch sẽ không còn nếu có yếu tố...
- Này, cậu có biết nói tiếng người không thế?
Annabeth ném cho tôi trái cầu:
- Đừng đùa nữa. Cứ nhìn bóng mụ hiện trên mặt thủy tinh. Đừng bao giờ nhìn trực diện.
Grover hét toáng lúc bay lơ lửng trên đầu chúng tôi:
- Các cậu ơi! Mụ ấy bị ngất.
Medusa gầm lên:
- Chúng mày chết chắc rồi!
Grover nói chữa:
- À, chưa ngất.
Nói xong, nó bay đi thực hiện thêm cú vụt nữa.
Annabeth giục:
- Cậu đi ngay đi. Mũi Grover thính thật, nhưng thế nào cũng có lúc lao nhầm chỗ.
Tôi lấy bút mở nắp. Lưỡi kiếm đồng dài ra trên tay tôi.
Tôi nhằm hướng có tiếng sột soạt và tiếng rắn nhổ phì phì trên đầu phù thủy Medusa lao tới.
Tôi căng mắt nhìn trái cầu thủy tinh vì bóng Medusa rất mờ, khó hơn nhìn thẳng mụ.
Kia rồi, tôi đã thấy hình phù thủy phản chiến trên mặt thủy tinh màu xanh lục.
Grover quay lại chiến đấu tiếp, nhưng lần này nó bay hơi thấp. Thừa cơ, Medusa lôi đầu gập của Grover, khiến nó lao đảo. Nó lộn nhào trên không, va chạm mạnh và ngã lăn vào vòng tay gấu bị hóa đá. Đau quá, nó kêu la:
- Úi da!
Thấy Medusa định nhào tới chỗ nó, tôi kêu lên:
- Này!
Mụ quay lại nhìn thẳng vào tôi.
Tôi khó nhọc tiến đến, vì một tay xách thanh kiếm dài, tay kia cầm trái cầu dễ vỡ. Nếu mụ tấn công, tôi không dễ gì chống đỡ.
Nhưng mụ phù thủy mặc tôi rút ngắn khoảng cách: hai mươi bước rồi mười bước.
Đến đây, tôi nhìn rõ mặt mụ in trên quả cầu xanh. Nói đúng ra, mụ không xấu lắm. Chỉ tại mặt cong của quả cầu làm mặt mụ dị dạng, xấu xí hơn.
Mụ ngọt ngào:
- Percy ơi, người tốt ai nỡ hại bà già. Ta biết cháu tốt bụng, không bao giờ làm thế.
Tôi chần chừ, ngây thộn nhìn khuôn mặt quái di trên mặt thủy tinh. Hai con mắt như có lửa rực cháy khiến hai tay tôi mềm nhũn.
Vẫn nằm trong tay tượng gấu, Grover rên rỉ:
- Percy, chớ nghe lời mụ.
Medusa đắc thắng:
- Quá muộn rồi.
Mụ giơ móng vuốt lao thẳng vào tôi.
Vung kiếm phạt ngang, tôi nghe tiếng XOẠT! rợn người, kèm theo âm thanh nghe như tiếng gió hút vào lòng hang đá sâu thẳm: tiếng thân xác yêu quái tan dần.
Trên mặt đất có cái gì đó lăn lông lốc chạm vào chân tôi. Tôi phải gồng mình, gắng sức kiềm chế để không nhìn xuống. Tôi đứng yên, mặc thứ chất lỏng ấm ộc ra vào vớ dưới chân, mặc mấy đầu rắn tí xíu rỉa dây giày.
Grover rùng mình:
- Ôi ghê quá! Ớn không chịu được.
Mắt nó vẫn nhắm tịt nhưng tôi đoán nó nghe tiếng ồng ộc, xèo xèo.
Annabeth vừa ngửa cổ nhìn trời, vừa lần từng bước đến chỗ tôi. Nó sờ soạng, nắm tấm màn che mặt của Medusa:
- Đứng yên.
Cực kỳ cẩn trọng, mắt vẫn không nhìn xuống, nó gói đầu yêu quái bằng miếng vải đen rồi nhặt lên. Thứ chất nhờn xanh lè vẫn nhỏ giọt từ thủ cấp.
Bạn ấy hỏi tôi mà giọng run run:
- Cậu không sao chứ?
Tôi sắp nôn hết bánh hamburger đại tướng nằm trong bụng:
- Ừ. Sao cái đầu… không “bốc hơi” như mụ?
- Giờ nó là chiến lợi phẩm cho ai chặt rời nó lìa khỏi xác. Cũng giống sừng quỷ đầu bò thôi. Nhưng chớ mở lớp vải bọc. Nó vẫn làm người ta hóa đá được đấy.
Grover vừa rên rỉ, vừa leo xuống tượng gấu. Trán nó sưng vều ra. Cái mũ nhỏ màu xanh lá xộc xệnh trên đầu, phô ra một bên sừng bé tí. Hai bàn chân giả tuột khỏi móng guốc. Đôi giày thần bay lơ lửng trên đầu nó.
- Lần này cậu là người hùng. Tớ phục cậu sát đất.
Grover cười bẽn lẽn:
- Trò này không vui lắm. Lúc thẳng tay phang yêu quái thì thích. Nhưng va vào tượng gấu thì… bầm dập lắm.
Grover với tay giật đôi giày bay xuống. Tôi đậy nắp, cất kiếm đi. Cả ba chúng tôi bước thấp bước cao quay vào nhà kho.
Tìm được mấy bịch nhựa, loại hay đựng thực phẩm, đã cũ tôi bọc kín đầu Medusa. Quẳng bọc giấy xuống bàn lúc nãy cả ba còn ngồi mê mải ăn, chúng tôi kéo ghế ngồi, mệt đến độ nói không ra hơi.
Mãi sau tôi bảo:
- Thế ra tại thần Athena, bọn ta sém bị phù thủy này hại chết?
Annabeth khó chịu lườm tôi:
- Tai cha cậu thì có. Cậu không nhớ à? Medusa từng là tình nhân của thần biển Poseidon. Họ hẹn hò nhau ở đền thờ mẹ tớ. Chính vì thế, thần Athena mới biến mụ thành yêu quái. Cả ba chị em, Medusa và hai mụ em định giúp chị thoát khỏi đền thờ, đều bị hóa thành nữ thần tóc rắn. Đó là lý do Medusa muốn băm vằm tớ, nhưng giữ cậu làm tượng. Mụ vẫn còn tơ tưởng đến cha cậu. Có khi nhìn cậu, mụ càng nhớ thần biển hơn.
Tôi tức đỏ mặt:
- Cãi qua cãi lại hóa ra vì tớ nên ta gặp Medusa sao?
Annabeth ngồi thẳng dậy, giả giọng tôi:
- “Annabeth này, chỉ chụp hình thôi, có hại gì đâu.”
- Thôi không nói nữa. Tớ hết chịu nổi cậu rồi.
- Còn cậu thì hiền lắm đấy! Quá quắt vừa thôi.
- Cậu...
Grover cắt ngang:
- Này, thần rừng không bao giờ bị nhức đầu. Vậy mà nghe hai cậu cãi nhau, đầu tớ đang nhức như búa bổ đây. Bây giờ nói xem: Các cậu định xử lý đầu yêu quái thế nào?
Tôi nhìn chiến lợi phẩm kinh khiếp trên bàn. Một con rắn nhỏ chui qua lỗi thủng của vỏ bọc bò ngoe nguẩy. Trên túi giấy có dòng chữ: “Chúng tôi đánh giá cao kết quả công việc của bà.”
Máu trong huyết quản tôi sôi sục: không chỉ bực Athena, Annabeth mà còn giận tất cả các thần. Vì họ, tôi phải thực hiện cuộc truy tìm này, xe bị nổ tung trên đường đi và vừa đến trại đã đánh nhau hai trận kinh hoàng. Nếu ngày nào cũng thế này, chúng tôi chưa chắc toàn mạng đến được Los Angeles, huống hồ đến đó trước ngày Hạ chí.
Lúc nãy, Medusa nói gì với tôi nhỉ?
“Đừng làm con tốt đen trên bàn cờ của đỉnh Olympia, ngốc ạ. Làm tượng sướng hơn nhiều.”
Tôi đứng bật dậy:
- Tớ ra đây một lát?
Annabeth gọi với theo:
- Percy, cậu định...
Tôi lùng sục tìm phòng làm việc của Medusa.
Sổ sách kế toán của mụ cho thấy sáu lần chuyển hàng gần nhất đều xuống Âm phủ, trang trí cho vườn của Hades và Persephone. Trong một hóa đơn vận chuyển có ghi địa chỉ thanh toán của địa ngục là DOA Recording Studios, West Hollywood, California. Tôi gấp mẩu giấy cất vào túi áo.
Ở máy tính tiền có hai mươi đô la, vài đồng vàng drachma và mấy hóa đơn vận chuyển gửi cho Công Ty Chuyển Phát Nhanh Hermes, mỗi tờ kèm một túi da đựng tiền xu. Tôi lục tung văn phòng, tìm chiếc hộp vừa ý.
Trở lại bàn ăn, tôi đóng hộp đầu Medusa, điền hóa đơn vận chuyển như sau:
Gửi các thần
Đỉnh Olympia
Tầng thứ 600, Tòa nhà Empire States
New York, NY
Cùng những lời chúc tốt đẹp nhất
PERCY JACKSON.
Grover nhắc:
- Họ sẽ cáu tiết và bảo cậu láo xược cho xem.
Tôi rót vài đồng drachma vào túi nhỏ. Vừa thắt miệng túi, tôi nghe tiếng lạch xạch như máy tính tiền hoạt động. Kiện hàng bay lên không và biến mất kèm theo tiếng ‘BỤP’.
- Tớ cố tình khiến họ nghĩ thế mà.
Tôi nhìn Annabeth như muốn thách bạn ấy lên tiếng chỉ trích này nọ.
Nhưng Annabeth chỉ làm thinh. Có lẽ bạn ấy ngán biệt tài chọc giận các thần của tôi.
Annabeth làu bàu:
- Đi thôi. Ta cần lên kế hoạch khác.
12. Lời khuyên của chó xù
Đêm ấy thật khốn khổ.
Chúng tôi ngủ trong rừng, cách đường chính chừng ba mươi mét, tại một bãi đất trống lầy lội. Thoạt nhìn, ta biết ngay bọn trẻ quanh vùng hay đàn đúm ở đây: mặt đất đầy vỏ lon nước ngọt bẹp dúm và giấy gói đồ ăn nhanh.
Chúng tôi mang theo đồ ăn và mấy tấm mền lấy từ nhà “cô Em” nhưng không dám đốt lửa trại hong quần áo ướt. Một ngày đối phó với cả Nữ thần Báo Thù và Medusa khiến chúng tôi mệt lử nên không muốn mời gọi thêm rắc rối.
Ba đứa dự định thay nhau ngủ. Tôi tình nguyện thức ca đầu.
Vừa đặt mình xuống, Annabeth đã cuộn tròn trong chăn ngáy pho pho. Grover đi giày có cánh bay lên chạc ba thấp nhất của cái cây gần đó, ngồi dựa lưng ngắm bầu trời đêm.
Tôi giục nó:
- Cứ yên tâm ngủ đi. Có chuyện gì tớ sẽ gọi.
Nó gật đầu nhưng không nhắm mắt.
- Tôi buồn quá đi mất.
- Sao… hối hận vì đi chuyến này rồi ư?
Nó chỉ xuống vào đống rác ở dưới đất:
- Không phải. Dưới kia kìa. Cả trên trời nữa.Đâu còn ngắm sao được nữa. Cả bầu trời cũng bị ô nhiễm. Thời này làm thần rừng khổ nhất.
- Ra thế. Bạn tôi là người bảo vệ môi trường cơ đấy.
Nó lườm tôi:
- Trên đời chỉ mỗi con người không bảo vệ môi trường. Chẳng mấy lúc giống loài nhà cậu làm thế giới chết ngạt… Thôi, tớ chẳng buồn nói nữa đâu. Nói phải nói quấy với loài người phỏng ích gì chứ. Cứ đà này, tớ hết tìm nổi thần Pan.
- Pan là gì? Có phải kem xịt bánh không?
Grover hét toáng lên:
- Pan cũng không biết à? Là thần đồng quê đó. Thế theo cậu, tớ cần giấy phép truy tìm làm gì?
Một cơn gió lạnh xào xạc thổi qua bãi trống, làm át mùi hôi thôi của rác rến và bùn lấy. Gió mang theo hương dâu chín trộn lẫn hương hoa đồng nội và mùi nước mưa ngọt mát... những thứ trước đây từng có trong rừng. Thốt nhiên, cảm giác tiếc nuối man mác dâng ngập lòng tôi, nhưng nếu có ai hỏi tôi tôi không biết trả lời sao.
- Kể tớ nghe vụ truy tìm đi.
Grover nhìn tôi cảnh giác như thể sợ tôi chế giễu:
- Hai ngàn năm trước, Thần Cả Chốn Hoang Sơ biến mất. Một thủy thủ dong buồm ngoài khơi Ephesos nghe tiếng kêu bí ẩn từ bờ biển vọng tới: “Hãy loan tin thần Pan vĩ đại đã qua đời !”. Hung tin lan nhanh trong loài người và họ tin ngay. Kể từ đó, họ tàn phá xứ sở của thần Pan. Đối với thần rừng, thần Pan là vua, là chúa tể. Thần bảo vệ chúng tớ và thế giới hoang dã còn sót lại trên trái đất. Thế hệ nào cũng có thần rừng thề tìm cho được thần Pan, dù chết cũng cam lòng. Họ tìm kiếm khắp nơi, lùng sục những miền hoang sơ, hy vọng tìm nơi thần ở ẩn và đánh thức thần từ giấc ngủ dài.
- Có phải cậu cũng muốn đi tìm?
- Suốt đời tớ chỉ ấp ủ giấc mơ ấy. Trước đây, cha tớ cũng đi tìm. Cậu Ferdinand noi gương cha… giờ thành bức tượng cậu thấy đằng kia…
- Tớ nhớ rồi. Xin chia buồn với cậu.
Grover lắc đầu:
- Cậu Ferdinand biết trước việc mình làm rất mạo hiểm. Cha tớ cũng thế. Nhưng tớ sẽ thành công. Tớ sẽ là thần rừng đầu tiên còn sống trở về.
- Gượm đã… cậu nói đầu tiên còn sống là sao?
Nó rút cây sáo sậy trong túi:
- Người đi tìm thần Pan chưa ai trở về. Hễ đi là mất luôn. Không ai còn nhìn thấy họ sống sót ở bất cứ đâu.
- Từ hai ngàn năm trước đên giờ ư?
- Ừ.
- Nói riêng về cha cậu, cậu không biết ông ấy gặp chuyện gì ư?
- Không.
Tôi kinh ngạc:
- Sao cậu vẫn muốn đi? Chẳng lẽ cậu tin chắc sẽ tìm được thần Pan?
- Tớ bắt buộc phải tin. Ai đi tìm thần cũng vậy. Chỉ có cách đó thần rừng mới không tuyệt vọng khi hàng ngày chứng kiến con người hủy hoại trái đất này. Tớ phải tin thần Pan còn thức tỉnh.
Tôi đăm đăm nhìn không trung phủ lớp sương màu da cam.
Không thể hiểu tại sao Grover lại theo đuổi giấc mơ khó thành hiện thực đến vậy.
Ngẫm lại mình, tôi có khác gì nó đâu.
Tôi hỏi:
- Ta vào cửa địa ngục bằng cách nào đây? Tớ muốn hỏi khi đấu tranh với thần thánh, liệu ta có cơ hội thắng không?
Grover thú nhận:
- Tớ không biết. Nhưng khi nãy ở nhà Medusa, lúc cậu đi tìm văn phòng của Medusa, Annabeth bảo…
- À phải, mình quên. Annabeth nhìn xa trông rộng mà.
- Đừng khắt khe với bạn ấy quá. Dù từ nhỏ đến lớn phải vật lộn với nghịch cảnh, nhưng Annabeth là người tốt. Với lại bạn ấy tha thứ cho tớ chuyện...
Giọng Grover nghẹn lại:
- Sao cơ? Annabeth tha thứ chuyện gì?
Grover thốt nhiên quá chăm chú đến cây sáo.
Tôi nhớ lại:
- Khoan nhé. Cách đây năm năm, cậu nhận nhiệm vụ trông nom lần đầu. Annabeth ở trại hè vừa đúng năm năm. Bạn ấy không… tớ nhớ là nhiệm vụ lần đầu của cậu không thành…
Môi Grover run run. Nếu tôi gặng hỏi, chắn chắn nó sẽ òa lên khóc:
- Tớ không nói chuyện ấy được đâu. Quay lại vụ ở nhà Medusa khi nãy, Annabeth và tớ đều cho rằng vụ điều tra này rất lạ. Nhất định có uẩn khúc gì đây.
- Còn gì lạ hơn việc tớ bị chụp mũ tội ăn cắp tia chớp trong khi thủ phạm là Hades.
- Tớ không nói chuyện đó. Thực tế là ba Nữ thần Báo Thù… ba “Người Tử Tế” không thẳng tay với cậu. Nhớ cô Doods hôm ở bảo tàng không? Sao cô ta phải chờ đến lúc ấy mới giết cậu? Lúc trên xe buýt cũng thế. Ba người họ không hung hăng như mọi khi.
- Vậy thế nào mới gọi là “hung hăng”? Tớ còn ớn đến tận xương tủy đây này.
Grover lắc đầu:
- Họ cứ gào mãi: “Thứ đó đâu? Ở chỗ nào?
- Họ hỏi tớ mà.
- Có thể cậu đúng… nhưng Annabeth và tớ đều cho rằng họ không tìm cá nhân nào. “Thứ đó đâu?” có nghĩa họ đòi một món đồ gì mà mình không biết.
- Vô lý.
- Ừ. Nhưng nếu quả thực ta hiểu sai mục đích nhiệm vụ trong khi chỉ có chín ngày tìm tia chớp thì…
Nó nhìn tôi hy vọng có lời giải nhưng tôi mù tịt.
Tôi nhớ Medusa bảo: Tôi bị các thần lợi dụng. Tôi đang dấn thân vào chốn kinh hoàng đến độ so với nó, bị hóa đá là hồng phúc.
Tôi thành thật:
- Tớ chưa nói hết với cậu. Tia chớp ra sao, tớ cũng mặc. Tớ xuống địa ngục cốt để cứu mẹ mà thôi.
Grover vi vu thổi sáo:
- Tớ biết chứ. Nhưng cậu có chắc đó là lý do duy nhất.
- Dù gì cũng không phải giúp cha tớ. Ông không đếm xỉa gì đến tớ. Vậy việc gì tớ phải nghĩ đến cha.
Từ cành cây cao, Grover nhìn xuống tôi:
- Percy này, tớ không thông minh, sắc sảo bằng Annabeth, cũng không can đảm bằng cậu. Nhưng về mặt nhận diện cảm xúc, tớ có biết đôi chút. Cậu mừng vì cha mình còn sống. Cậu sung sướng vì ông công khai nhận con. Có phần nào cậu muốn làm ông tự hào vì mình. Chính vì thế cậu gửi thủ cấp Medusa lên đỉnh Olympia. Cậu muốn trình làng bằng chứng cho thấy con trai ông cũng giỏi như ai.
- Không có đâu. Rõ là cảm xúc của thần rừng khác người phàm nên cậu đoán sai bét. Ông ấy nghĩ gì tớ cũng mặc.
Grover gác chân lên:
- Thôi được rồi, Percy. Sao cũng được mà.
- Với lại, tớ có nên công nên trạng gì đâu mà khoe. Nhìn xem, mới đi khỏi New York ta đã kẹt ở đây. Không một xu dính túi, không biết đến hướng tây bằng đường nào.
Grover đăm đăm nhìn trời đêm như thể suy nghĩ rất lung về vấn đề tôi vừa nêu:
- Thôi để tớ gác lượt đầu cho. Cậu ngủ cho lại sức.
Tôi vừa định cãi, nó đã thổi sáo nhạc Mozart dìu dặt và ngọt ngào. Tôi trở mình, mắt cay xè. Mới nghe đoạn ngắn từ bản Concert số 12, tôi đã ngủ thiếp đi.
-o-
Tôi mơ thấy mình đứng trong hang tối, trước mặt là hố sâu thăm thẳm. Những sinh vật nhỏ xíu màu xám bay thành bức màn dày kín quanh tôi. Không hiểu sao tôi biết những mảng khói phát ra âm thanh rì rầm ấy là linh hồn của người chết.
Họ níu quần áo, cố lôi tôi lại nhưng tôi chỉ nóng lòng tiến lên sát mép vực sâu.
Tôi chóng mặt khi nhìn xuống dưới.
Miệng vực rông hoác, tối đen, rõ là không đáy. Thế nhưng tôi cảm giác có con gì cố trèo lên miệng vực. Nó to lớn và rất độc ác. Một giọng nói vang lên từ bóng đêm sâu thẳm bên dưới.
- Anh hùng bé nhỏ, cậu quá yếu ớt, quá trẻ, nhưng có thể cậu sẽ làm được.
Giọng nói nghe xa xôi, lạnh lùng và chở nặng hận thù. Tiếng nói ấy vây lấy tôi như bức tượng dày bằng chì, xám xịt và nặng trĩu.
- Thằng nhóc kia, bọn chúng làm ngươi mê mụ rồi. Hãy bỏ chúng, theo ta. Ta sẽ cho ngươi thứ ngươi muốn.
Một hình bóng mờ ảo bay lơ lửng giữa lòng vực trống trải: mẹ tôi đứng sững trong tư thế lúc bị biến thành cơn mưa vàng. Mặt mẹ nhăn nhó vì đau như thể quỷ đầu bò vẫn còn siết cổ mẹ. Mắt mẹ nhìn tôi như van lơn: “Chạy đi con!”.
Tôi cố kêu nhưng không thành tiếng.
Tiếng cười lạnh lẽo từ dưới lòng vực.
Có một lực vô hình đẩy tôi lên trước. Nếu tôi không bấu chặt chân xuống đất, nó đã lôi tôi xuống dưới.
Giọng nói càng thống thiết hơn:
- Đưa tia chớp cho ta. Tấn công bọn thần bất trung bất nghĩa.
Linh hồn người chết vây quanh thì thào:
- Đừng! Tỉnh lại đi!
Hình ảnh mẹ tôi mờ dần. Quái vật dưới vực siết chặt lực vô hình quanh người tôi.
Đến lúc này tôi mới biết nó không định lôi tôi xuống. Nó muốn tôi níu lấy tôi mà leo lên.
Nó lào khào:
- Tốt! Tốt lắm!
Linh hồn khe khẽ giục:
- Dậy đi! Thức tỉnh đi.
-o-
Có người lay tôi dậy.
Tôi choàng tỉnh. Trời sáng bảnh mắt từ lúc nào.
Annabeth trêu chọc:
- Rồi, thây ma sống lại kìa.
Giấc mơ làm tôi run khắp người. Tôi như thấy quái thú dưới vực còn siết chặt ngực mình:
- Tớ ngủ bao lâu rồi?
Annabeth ném sang bịch bánh khoai chiên giòn lấy từ nhà “cô Em” đêm qua:
- Lâu. Tớ chuẩn bị xong bữa sáng rồi đây. Còn Grover thăm thú xung quanh xong. Nhìn này, cậu ấy tìm được bạn.
Mắt tôi cay xè, chưa tập trung được.
Grover ngồi xếp bằng trên tấm mền. Có con gì lông xù nằm gọn trong lòng nó: Một con thú nhồi bông màu hồng kỳ dị bẩn lem nhem.
Không, không phải thú nhồi bông. Nó là chó xù màu hồng.
Thấy tôi, nó cảnh giác sủa ăng ẳng. Grover thản nhiên:
- Không, cậu ấy không thế.
Tôi chớp mắt lia lịa:
- Cậu... nói chuyện với chó à?
Chú khuyển gầm gừ.
Grover đe:
- Cậu nói nghe có vẻ coi thường. Nói cho biết nhé: Chú cún này là tấm vé giúp chúng ta đi về hướng tây đấy. Lịch sự với người ta một tí.
- Cậu biết nói tiếng thú à?
Grover giả điếc:
- Giới thiệu với Percy, đây là Gladiola. Gladiola này, đây là Percy.
Tôi trợn mắt nhìn Annabeth, hy vọng bạn ấy quát Grover thôi đùa dai với tôi. Nhưng Annabeth cực kỳ nghiêm túc. Tôi nguây nguẩy:
- Ai lại chào chó! Quên đi, tớ không chào.
Annabeth khăng khăng:
- Percy này. Tớ vừa chào Glodiola xong. Giờ đến lượt cậu.
Gladiola lại gầm gừ.
Tôi đành miễn cưỡng chào nó.
Grover kể nó gặp Glodiola trong rừng, bèn bắt chuyện làm quen. Chú cún lông xù này chạy trốn gia đình chủ giàu có. Họ treo giải thưởng hai trăm đô la cho ai bắt được nó. Dù không muốn quay lại nhà đó, nhưng muốn giúp Grover, nó xin sẵn lòng.
Tôi hỏi:
- Sao Glodiola biết có giải thưởng?
- Thì đọc tờ rơi. Có thế cũng hỏi.
- Ờ nhỉ! Tớ ngốc thật. Ra chó cũng biết đọc cơ đấy.
Annabeth ôn tồn trình bày kế hoạnh:
- Vậy ta sẽ trả Gladiola về nhà, lấy tiền mua vé đi Los Angeles. Thế là xong.
Tôi nhớ giấc mơ hồi tối: Những linh hồn thì thầm, quái thú dưới vực, khuôn mặt mẹ đúng lúc bị biến thành cơn mưa vàng. Có thể tất cả đều đang ở hướng Tây chờ tôi.
Tôi nói trước:
- Không đi xe buýt đâu đấy.
Annabeth đồng tình:
- Ừ, quên vụ xe buýt đi.
Bạn ấy chỉ tay xuống chân đồi, nơi có đường ray xe lửa chạy qua. Đêm qua tôi không nhìn thấy trời tối.
- Ga xe lửa Amtrak cách đây một cây số. Gladiola bảo trưa nay tàu đi hướng tây sẽ khởi hành.
13.
Tôi lao đầu vào chỗ chết.
Hai ngày liền,chúng tôi trên tàu Amtrack chạy thẳng về hướng tây,băng qua bao núi đồi,sông suối và những cánh đồng lúa mì gợn sóng màu hổ phách.
Dù không bị tấn công lần nào,tôi vẫn không thoải mái.Tôi cảm giác cả ba chạy vòng quanh hộp đồ chơi.Nhiều cặp mắt theo dõi chúng tôi từ bên trên và bên dưới,như thể có người đang chờ lúc thuận lợi là ra tay.
Tôi cố gắng ẩn mình,càng ít người thấy càng tốt vì ảnh tôi theo nhiều tờ báo đi khắp miền duyên hải phía đông. Tờ Trenton Register News đăng tấm hình khách du lịch chụp tôi vừa chạy từ xe buýt Greyhound.Tôi không tin ở mắt mình :bóng thay kiếm Thủy triều mờ mờ, trông như tôi đang cầm gậy vụt bóng chày.
Ghi chú dưới bức hình có nội dung sau:
"Percy Jackson,mười hai tuổi,đang bị cảnh sát truy lùng nhằm làm rõ nguyên nhân mất tích của mẹ cậu bé* cách đây hai tuần,lộ diện khi chạy trốn khỏi xe buýt,nơi cậu bé bắt chuyện với mấy cụ già là hành khách trên xe. Jackson vừa xuống,chiếc xe nổ tung trên hương look vắng vẻ miền New Jersey.Dựa theo lời kể của nhiều nhân chứng,Jackson có hai kẻ tòng phạm luôn theo sát cậu bé.Ông Gabe Ugliano,bố dượng cậu bé,treo giải thưởng bằng tiền mặt cho ai bắt được cậu bé."
Annabeth trấn an:
"Đừng lo.Cảnh sát người phàm không bắt được chúng ta đâu."**
Nhưng nghe giọng nói,tôi biết chính Annabeth cũng không dám chắc.
Suốt ngày hôm đó,tôi như ngồi trên chảo lửa.Nếu không đi tới đi lui hết chiều dài con tàu,tôi lại đứng nhìn cửa kính.
Một lần,tôi thấy cả gia đình nhân mã đeo cung tên săn bữa trưa đang phi nước kiệu qua đồng lúa mì.Thấy tôi nhìn,cậu con trai trạc tuổi họp trò lớp hai dính trên mình ngựa con giơ tay vẫy.
Tôi nhìn hành khách trong khoang nhưng hình như không ai thấy.Người lớn đi tàu,thường vùi mặt vào tạp chí hoặc chăm chú ngó màn hình máy tính xách tay.
Lần khác,lúc sẩm tối,có con gì to lớn chạy xuyên cánh rừng ven đường.Tôi tin chắc mình nhìn thấy sư tử,chỉ có điều ở Mỹ không có sư tử.Hơn nữa con này cực kỳ to lớn.Lông nó vàng óng trong ánh hoàng hôn.Lát sau,nó chạy sâu vào rừng cây rậm rạp và biến mất.
--0--
Tiền thưởng tìm Gladiola trả cho bọn tôi*** chỉ đủ mua vé đến Denver.Không thể chơi sang mua vé nằm,bọn tôi đành gà gật trên khoang tàu ngồi. Cổ và gáy tôi tê cứng. Vì Annabeth ngồi ngay bên cạnh ,nên tôi cố không nhểu dãi.
Grover vừa ngủ,vừa ngáy,vừa nói mơ khiến tôi thức suốt. Có lần nó đạp mạnh khiến hai bàn chân giả rụng ra.Tôi và Annabeth cuống cuồng hắn lại vì sợ lộ tẩy.
Annabeth xỏ giày vào chân Grover:
-Nói nghe xem,ai nhờ cậy giúp thế?
-Sao cậu hỏi vậy?
-Lúc cậu ngủ,cậu nói mơ :"Ta không giúp ngươi đâu." . Cậu mơ thấy ai thế?
Tôi không định kể nhưng đã hai lần tôi mơ thấy giọng nói của quỷ dưới vực. Nhưng vì lo quá nên cuối cùng tôi tâm sự hết.
Annabeth im lặng rất lâu.
-Nghe ra thì không phải Hades.Bao giờ ông ta cũng xuất hiện trên ngai vàng màu đen và không bao giờ cười thành tiếng.
-Vật ấy đem mẹ tớ ra trao đổi.Không Hades thì ai vào đây?
-Theo tớ thì....có thể ông ta bảo:"Giúp ta rời Địa ngục",nếu ông ta muốn cư dân đỉnh Olympia tiêu diệt nhau. Nhưng nếu đã có Tia Chớp trong tay,tại sao ông ta đòi cậu giao nó?
Tôi lắc đầu. Giá tôi biết câu trả lời thì hay quá.Tôi nhớ Grover từng bảo hình như ba Nữ Thần Báo Thù đang tìm kiếm thứ gì đó trên xe buýt.
Nó ở đâu? Ở đâu?
Hình như cảm xúc của tôi ảnh hưởng đến Grover.Nó khụt khịt,lẩm bẩm câu gì đó về rau cỏ rồi lật đầu sang bên kia ngủ tiếp.
Annabeth chỉnh mũ,che sừng cho Grover:
-Percy này,chớ đổi chắc với Hades.Chắc cậu thừa biết ông ta xảo trá,nhẫn tâm và tham lam vô độ.Lần này,dù ba "Người Tử Tê" ông ta cử lên trần gian không hung hăng,tớ cũng không mắc lừa...
-Nói thế có nghĩa trước đây cậu gặp họ rồi ư ?
Annabeth chạm tay vào vòng đeo cổ,chỉ năm viên sứ lưu niệm,viên màu trắng có vẽ hình cây thông.
-Cứ cho là tớ không ưa gì thần cai quản địa ngục.Cậu đừng như cá cắn câu,mắc mưu ông ta vì muốn cứu mẹ.
-Giả sử ở địa vị tớ và Hades lấy cha cậu làm mồi nhử,cậu sẽ làm gì?
-Dễ ợt.Tớ mặc ông ấy cho quạ rỉa.
-Nói thật hay đùa đấy ?
Cặp mắt xám nhìn tôi không chớp. Mặt lạnh lùng y như lúc ở trại hè Annabeth rút kiếm định chém con chó địa ngục.
-Cậu không biết chứ cha tớ ghét tớ từ lúc tớ mới lọt lòng mẹ.Ông chưa hề muốn có con bao giờ.Nghe tin có tớ,ông bảo thần Athena mang tớ lên đỉnh Olympia mà nuôi.Ông ấy bận,không chăm sóc được.Nghe vậy mẹ buồn lắm.Mẹ bảo các anh hùng phải do cha hoặc mẹ người phàm nuôi dạy dưới trần.
-Nhưng....mẹ cậu không thể đến nhà bảo sanh,đúng không?
-Thần Gió Tây Zephyr mang nôi vàng trong đó có tớ thả trước cửa nhà cha.Chắc chắn cha tớ phải biết đó là phép màu.Cũng như người phàm chụp ảnh kỹ thuật số vậy.Nhưng lúc nào ông cũng ca thán rằng tớ là mối phiền toái lớn nhất đời ông.Tớ mới lên năm,ông đã cưới vợ khác,quên hẳn mẹ tớ.Có vợ người phàm và hai đứa con hoàn toàn bình thường,ông ta cố giả vờ như không hề có tớ trên đời.
Tôi ngó mông lung ngoài cửa kính.Ánh đèn vàng vọt của thị trấn đang say ngủ trôi dần qua.Tôi muốn an ủi bạn,nhưng không biết ăn nói thế nào.
-Mẹ tớ lấy một gã vô cùng đê tiện.Grover bảo mẹ bảo vệ tớ....bằng cách dùng khung cảnh gia đình phàm trần làm bình phong che chắn cho con.Chắc cha cậu cũng theo cách ấy.
Annabeth mân mê vòng cổ không rời.Cô bé nắm chặt nhẫn vàng đeo cùng năm hạt sứ,loại nhẫn sinh viên tốt nghiệp trường quân sự West Point hay đeo.Tôi đoán chắc nhẫn của cha Annabeth.Nếu giận cha,sao Annabeth còn đeo nó?
-Cha bỏ bê,còn dì ghẻ chê tớ quái đản. Bà ly gián ,không cho tớ chơi với em cùng cha khác mẹ.Mỗi khi có tình huống nguy hiểm,chẳng hạn yêu quái tấn công,cả hai đều tức tối dồn mắt vào tớ như muốn nói :"Sao ngươi dám bắt người thân cùng chịu nguy hiểm?" . Sau này ,tớ hiểu cha và mẹ kế không muốn chứa chấp đứa con bất bình thường.Thế nên,tớ bỏ nhà đi luôn.
-Năm ấy cậu mấy tuổi ?
-Bảy tuổi.Cùng năm tớ đến Trại Con Lai.
-Nhưng...cậu không thể đi một mình đến trại hè được.
-Đúng vậy.Chẳng ai làm thế một mình cả.Vì luôn dõi theo con nên mẹ hướng dẫn tớ tìm người giúp.Tớ bất ngờ quen hai người bạn sau này giúp tớ rất nhiều....nhưng mọi chuyện kết thúc quá chóng váng.
Tôi muốn hỏi sau đó xảy ra chuyện gì.Nhưng hình như Annabeth đắm mình với chuỗi kỷ niệm buồn,quên hết xung quanh.Tôi biết gặng hỏi chỉ làm bạn ấy buồn thêm.
Trong lúc tàu lao nhanh đến Ohio,tôi đành vừa chịu trận tiếng ngáy như kéo gỗ của Grover,vừa ngắm những cánh đồng trải dài tít tắp trong đêm khuya thanh vắng.
--0--
Đi tàu hết gần hai ngày,tức cuối ngày mười ba tháng Sáu,tám ngày trước Hạ chí,chúng tôi theo tàu đi qua dãy đồi rợp nắng vàng,qua cầu bắt ngang sông Mississippi,tiến vào địa phậm St.Louis.Annabeth say mê ngắm Gateway Arch,cửa ô xây hình vòm ngay lối vào thành.Tôi thấy nó giống quai túi giấy móc bên hông đô thị sầm uất.
Cô bạn trầm trồ:
-Tớ thích giống họ.
-Cái gì?
-Xây một cái giống thế.Cậu thấy đền Parthenon chưa,Percy?
-Chỉ có trong ảnh thôi.
Annabeth nhìn xa xăm:
-Sẽ có ngày chính mắt tớ thấy công trình vĩ đại như thế.Tớ sẽ xây dựng tượng đài lớn nhất lịch sử cho các thần.Một kỳ quan sau hàng chục thế kỷ vẫn sừng sững giữa trời.
Tôi bật cười:
-Cậu á ?Định làm kiến trúc sư à ?
Không hiểu sao tôi thấy tức cười.Thật khó hình dung Annabeth ngồi yên cả ngày kẻ kẻ ,vẽ vẽ.
Hai má bạn tôi đỏ như quả bồ quân.
-Ừ,kiến trúc sư thì sao nào? Mẹ Annabeth kỳ vọng con mình kiến tạo,không đập phá như cái ông thần chuyên gây động đất kia.
Tôi im lặng nhìn con sông Mississippi chở nặng phù sa,cuồn cuộn nổi sóng.
Annabeth vội nói:
-Xin lỗi.Tớ quá lời.
Tôi năn nỉ :
-Chúng ta hợp tác một chút có được không vậy ?Chẳng lẽ cha Poseidon và mẹ Athena chưa từng bắt tay làm chung dự án nào ư?
Annabeth phải bình tâm ngẫm nghĩ mới nhớ ra:
-Chắc có chứ....cỗ xe cho thần mặt trời chẳng hạn.Sáng kiến của mẹ tớ,nhưng thần Poseidon biến sóng biển thành đàn bạch mã kéo xe.Sau đó,họ cùng chung tay hoàn tất nó.
-Vậy nếu muốn,ta làm chung được mà.
Đoàn tàu lao nhanh đến trung tâm thành phố.Annabeth ngắm mãi cho đến khi cửa ô mái vòm khuất sau tòa nhà khách sạn cao ngất.
Mãi sau,bạn ấy mới bảo:
-Ừ.
Tàu dừng trong nhà ga Amtrack tọa lạc giữa lòng thành phố.Loa trên toa thông báo tàu nghỉ hai tiếng trước khi khởi hành đến Denver.
Grover vươn vai.Chưa mở mắt,nó đã kêu:
-Ăn!
Annabeth giục :
-Dậy đi,dê con.Ta đi ngắm cảnh thôi.
-Ngắm gì?
-Gateway Arch.Chắc đây là cơ hội duy nhất leo lên mái cổng vòm của tới.Cậu có đi không thì nói?
Grover và tôi đưa mắt nhìn nhau.
Tôi định từ chối :"Không đi đâu",nhưng tốt hơn hết chớ nên để Annabeth đi đâu một mình.
Grover nhún vai:
-Miễn là quán ăn ở đó không có yêu quái.
--0--
Gateway Arch (1) cách nhà ga vài dãy nhà. Giờ đã là cuối ngày. Dòng người xếp hành lên đỉnh tham quan đã vãn.Chúng tôi băng qua viện bảo tàng dưới lòng đất,xem xe đẩy và thuyền mành của người da đỏ có từ đầu thế kỷ mười bảy.Tuy không thú vị lắm nhưng nghe Annabeth nhiệt tình thuyết minh về tiến trình xây cổng vòm,được Grover liên tục giúi kẹo vào tay nên tôi cũng thấy hay hay.
Tuy nhiên,tôi luôn cảnh giác quan sát đoàn người xếp hàng xem có gì khác thường chăng.
Tôi ghé tai Grover hỏi nhỏ:
-Cậu ngửi thấy gì không?
Nó nhăn mặt bảo:
-Không khí dưới lòng đất luôn có mùi yêu quái.Chắc không có gì đáng ngại đâu.
Nhưng tôi thấy bất an,bụng bảo dạ đáng lẽ cả ba không nên đến đây.
-Này, các cậu biết biểu tượng sức mạnh thần thánh là gì không?
Đang đọc về thiết bị xây dựng dùng xây cổng vòm,Annabeth ngẩng lên hỏi:
-Là gì?
-À,là Hades...
Grover đằng hắng:
-Ta đang ở giữa chốn đông người....cậu vừa nhắc đến ông bạn "dưới lầu" phải không?
-Ừ,tít tận dưới đó.Có phải ông ta cũng có mũ giống mũ Annabeth?
Annabeth đáp:
-À,mũ sắt của thần bóng tối. phải,biểu tượng quyền uy đấy. Hôm các thần họp cuối năm,tức ngày Đông chí,tớ thấy mũ đặt cạnh ghế của Hades.
-Ông ta cũng đến à?
Annabeth gật đầu:
-Ngày tối trời nhất trong năm,ngày duy nhất Hades lên đỉnh Olympia.Nhưng theo tớ biết,mũ của Hades công năng kỳ diệu hơn mũ tàng hình này nhiều....
Grover công nhận:
-Nhờ nó,Hades tan vào bóng tối,đi xuyên tường.Không ai chạm tới,nhìn hoặc nghe tiếng ông ta.Đồng thời,Hades biết cách gây nên cơn hoảng loạn ghê gớm đến mức làm người ta phát điên hoặc đứng tim.Thử nghĩ xem,sao có người cực kỳ duy lý vẫn sợ bóng tối?
-Nhưng....giả sử lúc này ông ta đội mũ tàng hình có mặt ngay đây,sao ta biết được?
Annabeth và Grover lo lắng nhìn nhau:
-Không ai biết cả.
-Chà, đa tạ.Giờ tới ăn không ngon ngủ không yên rồi đây.Còn kẹo dẻo không?
Vừa thấy thang máy bé xíu chạy lên đỉnh mái vòm,tôi giật thót mình.Linh tính mách bảo tôi sắp gay go to. Tôi ghét không gian hẹp lắm.Nếu bị ép vào đó,đầu óc tôi sẽ bấn loạn mất.
Chúng tôi bị nhồi vào thang máy có sẵn bà béo ục ịch dắt con chó dữ giống Chihuahua,đeo cổ dề gắn kim cương giả.Tôi tưởng ở đây cấm chó nhưng khổ nỗi thấy nó,không nhân viên nào kêu ca một tiếng.
Chúng tôi bắt đầu đi lên.Chưa bao giờ đi thang máy theo đường vòng cung thế này nên tôi hơi buồn nôn.
Bà béo hỏi trống không:
-Bố mẹ không đi cùng à?
Mắt bà ta tròn xoe,răng nhọn và đen như nghiện cà phê,Bà này đội mũ vải jeans,mặc váy may cùng chất liệu chật cứng,ngấn thịt nổi từng cuộn khiến bà ta trông giống quả kinh khí cầu bọc vải.
Annabeth đáp:
-Họ ở dưới.Sợ độ cao mà.
-Ôi,tội nghiệp chưa.
Chú khuyển Chihuahua gầm gừ.Bà chủ nhắc:
-Thôi nào Sonny,ngoan nào.
Mắt chó tròn xoe như mắt chủ:vừa hằn học vừa như nhìn thấu mọi vật.
Tôi hỏi:
-Tên nó là Sonny ư?
-Không.
Đáp xong,bà ta cười như thể tôi có nghĩa vụ hiểu cho tường tận.Lên đỉnh mái vòm,gian nhà dành cho khách tham quan đứng ngắm cảnh gọi cho tôi hình ảnh trại giam bé xíu trải thảm đỏ.Bên tường này là dãy cửa sổ tí tẹo nhìn xuống thành phố.Cửa sổ tường bên kia nhìn xuống sông.
Tuy phong cảnh đẹp nhưng với tôi,thứ đáng ghét hơn không gian hẹp là một không gian đã hẹp còn lơ lửn giữa trời,cách mặt đất gần ba trăm thước.Tôi chỉ muốn về ngay.
Kéo Annabeth và Grover ra cửa,đẩy hai đứa vào xe điện,tôi định chui vào cùng nhưng phát hiện trong xe có sẵn hai người khác.Không còn chỗ cho tôi nữa rồi.
Bảo vệ nhắc:
-Cậu này đi xe sau.
Annabeth kêu lên:
-Vậy tụi tôi cũng ra.Chúng tớ cùng đợi với cậu.
Biết làm thế phiền mọi người và tốn thời gian ,tôi bảo:
-Không cần đâu.Đợi tớ ở dưới được rồi.
Cả Grover và Annabeth đều lo lắng,nhưng họ đành buông tay để cánh cửa xe xập lại.
Xe điện mất hút dưới bờ dốc.
Giờ trên khu ngắm cảnh chỉ còn tôi,một cậu bé đi chung với bố mẹ,nhân viên an ninh và bà béo dắt chú khuyển Chihuahua.
Tôi ngượng ngập cười xã giao với bà béo.Lúc bà ta cười đáp lễ,đầu lưỡi chẻ đôi lấp ló sau hai hàm răng.
Gượm đã.
Lưỡi bà ta chẻ đôi.
Trước khi tôi kịp kiểm tra lại xem mình có nhìn lầm chăng,con chó dữ đã nhảy xổ về phía tôi sủa ông ổng.
Bà béo vỗ về nó:
-Chưa đâu ,cưng.Giờ chưa phải lúc.Người vô can còn đứng ở đây mà.
Cậu bé kêu lên:
-Chó!Chó kìa.
Bố mẹ cậu bèn kéo con lùi lại.
Con Chihuahua nhe nanh dọa tôi,bọt mép trào ra,dính đầy đôi môi thâm xì.
Bà béo thở dài:
-Thôi được rồi,con trai.Mày thích thì tao chiều.
Tôi lạnh cả người:
-Bà vừa gọi con Chihuahua này là con trai ư?
Bà ta sửa gáy:
-Chimera(2) ,không phải Chihuahua.Dễ nhầm quá phải không?
Mụ ta xắn tay áo,để lộ cẳng tay đóng vảy xanh lè.Lúc mụ cười,răng biến thành nanh hết.Hai tròng mắt mụ chạy sang hai bên thái dương,giống mắt bò sát.
Con chó sủa to hơn.Sau mỗi tiếng sủa,nó phình to ra.Lúc đầu to bằng người,sau to bằng sư tử.Tiếng sủa lớn như hổ rống.
Cậu bé hét lên.Bố mẹ cậu lôi tuột con ra cửa,thẳng tới chỗ nhân viên an ninh đang đứng chết sững,kinh hoàng nhìn quái thú.
Con Chimera cao đến độ lưng nó chạm nóc nhà.
Quái thú đầu sư tử có bờm bết máu khô,mình và bốn chân móng guốc như dê,đuôi là con rắn độc ngoe nguẩy.Con rắn to như con trăn dài ba thước vươn dài từ sau cặp mông lông lá.Vòng cổ đính kim cương giả vẫn trên cổ nó,bảng tên ghi rõ:"CHIMERA,HUNG DỮ,KHẠC RA LỬA,RĂNG CÓ NỌC ĐỘC.NẾU AI TÌM THẤY XIN GỌI ĐÊN TARTARUS,số nội bộ 954."
Tôi nhận ra tôi chưa mở nắp cây kiếm.Hai bàn tay tê dại.Chỉ cách bụng dính máu khô của Chimera mười bước chân,tôi biết nếu thấy động nó sẽ lao ngay đến.
Bà rắn cười phì phì như tiếng hổ mang bành.
-Percy Jackson,hẳn ngươi tự hào lắm.Hiếm khi Dớt cho phép ta mang con trai ta đi tỉ thí với anh hùng .Nhớ lấy.Ta là phù thuỷ Echidna,mẹ của bầy quái thú.
Tôi trố mắt nhìn mụ,buột miệng:
-Tưởng Echidna là thú ăn kiến chứ?
Mụ rống lên,mặt tím bầm giận dữ;
-Hễ nghe nói vậy,ta bừng bừng lửa hận.Ta ghét dân châu Úc,đem tên ta đặt cho loài cầm thú quái dị đó.Ngươi dám xúc phạm ta,con trai ta sẽ xé xác ngươi.
Chimera xông tới,nhe hàm răng sư tử nhọn hoắt .Tôi nhanh nhẹn nhảy sang bên tránh cú đớp khủng khiếp.
Cú nhảy đưa tôi đến cạnh gia đình cậu bé và nhân viên an ninh.Bốn người họ đều kêu cứu inh ỏi,cố mở cửa lối thoát hiểm.
Tôi không thể khoanh tay nhìn họ bị hại.
Mở nắp bút,tôi chạy sang mé bên kia phòng ,miệng hét tướng;
-Này,Chihuahua!
Quái thú Chimera quay ngoắt,nhanh hơn tôi tưởng.
Trước khi tôi kịp vung kiếm,nó há hoác miệng.Sau hơi thở khét lẹt mùi thịt cháy như khói từ lò nướng thịt khổng lồ,một luồng lửa đỏ phụt thẳng vào tôi.
Tôi nằm bẹp xuống tránh.Kế đến là khói mù mịt,thảm bốc cháy và hơi nóng thiêu rụi lông mày tôi.
Ngay chỗ tôi đứng khi nãy là lỗ hổng toang toác bên sườn cổng vòm.Khói từ kim loại nóng chảy bốc quanh miệng hố.
Tôi nhủ thầm:"Chết thật.Mình vừa góp tay phóng hỏa công trình tầm cỡ quốc gia."
Kiếm Thủy triều hiện nguyên hình trên tay tôi.Chờ Chimera quay lại,tôi nhắm cổ nó đâm lên.
Thật là sai lầm chết người.
Lưỡi kiếm đâm trúng vòng cổ,toé lửa.Con vật không hề hấn gì.Tôi loạng choạng cố đứng vững.Nhưng mải tránh miệng sư tử hung hăng,tôi mất cảnh giác với đuôi rắn.Con rắn độc vút đến,cắn phập nanh vào bắp chân tôi.
Toàn thân tôi như có lửa thiêu.Tôi cố đâm mũi kiếm vào miệng Chimera nhưng bị đuôi rắn quấn quanh cổ chân,lôi tôi ngã nhào.Kiếm tuột khỏi tay văng đến lỗ thủng khi nãy và rơi xuống dòng Mississippi.
Cố đứng dậy được như tôi biết mình thua.Tôi không có vũ khí trong lúc nọc rắn theo máu chạy lên tận ngực.
Tôi nhớ bác Chiron bảo kiếm luôn quay về với chủ nhưng túi tôi hiện giờ không có bút.Có lẽ nó rơi quá xa. Có lẽ nó chỉ trở về dưới dạng bút thường. Tôi không biết về nó,chỉ biết tôi không còn sống đến lúc đoán ra.
Tôi lùi trở lại lỗ thủng.Chimera gầm gừ tiến đến,miệng thở khói cuồn cuộn.
Phủ thủy rắn Echidna đắc thắng:
-Thời nay anh hùng sao bì được thời xưa,phải không con trai?
Quái thú tru lên.Thấy tôi tơi tả,nó nóng lòng muốn kết liễu tôi cho xong.
Liếc nhìn nhân viên an ninh và gia đình cậu bé ,tôi thấy cậu ta núp sau chân bố.
Tôi phải bảo vệ họ,chết bây giờ....không phải lúc!
Tôi cố nghĩ cách nhưng toàn thân nóng rực.Đầu óc quay cuồng.
Tôi không có gươm.Trước mặt tôi là quái thú khạc ra lửa và phù thuỷ mẹ nó.Còn tôi đang run sợ.
Không còn chỗ để lùi thêm nữa,tôi đã tiến sát miệng hố.Tít phía dưới kia là dòng sông lóng lánh ánh bạc.
Nếu tôi chết,mẹ con quái thú có bỏ đi không? Chúng có tha những người vô tội kia không?
Echidna rít lên:
-Nếu đúng con thần Poseidon,ngươi đâu sợ nước.Ta thách ngươi nhảy xuống sông đấy.Nếu không chứng minh được nước không làm hại ngươi,ngươi chẳng là cái thá gì cả.Nhảy xuống vớt gươm lên xem nào.Thế mà cứ huênh hoang ta đây con dòng cháu giống.
Tôi nghĩ thầm:"Đúng rồi."
Tôi nhớ có sách dạy rằng nhảy từ trên cao,khoảng cách bằng toà nhà hai tầng xuống nước,giống như lao thẳng xuống nền nhựa đường.Còn từ độ cao này,da thịt tôi sẽ nát nhừ.
Miệng con Chimera đỏ rực,chuẩn bị khạc lửa.
Mụ Echidna bảo tôi:
-Ngươi không có lòng tin.Không tin tưởng các thần trên trời.Ta không trách nhóc con hèn nhát.Ngươi có sống cũng chẳng làm nên trò trống gì.Thần thánh không giúp gì được ngươi.Nọc độc sắp chạy vào tim rồi.
Mụ nói không sai.Tôi sắp chết rồi,hơi thở yếu dần.
Không ai cứu nổi tôi,kể cả các thần trên đỉnh Olympia.
Tôi lùi tiếp và quan sát dòng sông bên dưới.
Tôi nhớ vầng hào quang ấm áp từ nụ cười của cha.Chắc chắn ông đã nhìn mặt tôi.Lúc tôi còn nằm nôi,cha đã ghé thăm tôi rồi.
Tôi nhớ cây đinh ba quay tròn trên đầu đêm hội cướp cờ,dấu hiện cho thấy thần Poseidon đã nhận con.
Nhưng dưới kia không phải biển,chỉ là sông Mississippi nằm giữa địa phận Hoa Kỳ.Thần biển không có ở đó.
-Kẻ mất lòng tin như ngươi đáng chết.
Echidna lải nhải,Chimera khạc cột lửa thẳng tới mặt tôi.
Tôi cầu xin:
-Cha ơi,cứu con.
Tôi quay người lao xuống sông trong lúc quần áo bắt lửa và độc tố theo máu đi khắp cơ thể.
---------------
*Trong sách sử dụng từ "hắn" dành cho Percy ,mình thấy không thích hợp.Percy chỉ mới mười hai tuổi,sử dụng từ "cậu bé" sẽ thích hợp hơn.
**Trong sách chỉ sử dụng một chữ "ta" cho cả ba người,mĩnh cũng thấy không thích hợp nên mạo muội đổi thành chữ "chúng ta.
***Tương tự,mình thay chữ "bọn tôi" cho chữ "chủ" thì thấy thích hợp hơn.
(1)Gateway Arch:hay còn gọi là Gateway to the West,tọa lạc tại thành phố St.Louis Missouri,là một phần thêm ra của đài tưởng niệm Jefferson National Expansion Memorial ,có hình mái vòm,và được xem là biểu tượng của thành phố này.Với chiều cao 192 mét,đây là đài tưởng niệm cao nhất tại Hoa Kỳ.
(2) Chimera:có xuất xứ từ vùng Châu Á,là con của quái vật Typhon và Echidna,có họ hàng với chó ba đầu Cerberus và quái vật Hydra.Chimera có khả năng thở ra lửa.
14
Kẻ bị truy nã
Tôi thích tự nhận rằng khi cắm đầu lao xuống, tôi ngộ ra chân lý cuộc đời,rằng cái chết không còn đáng sợ v.v..và v.v...
Bạn muốn biết sự thật? Tôi kêu không thành tiếng:
-AAAAAAAGGGGGGGHHHHHHHH!!!
Tôi lao xuống mặt nước với vận tốc xe tải.Gió thổi bạt hơi khiến tôi tưởng hai lá phổi đều nổ tung.Trong mẳt tôi,nhà cửa,đồi núi,tàu bè đều lộn phộc,xiên xéo.
TÙM!
Bọt nước trắng xóa. Khi chúi xuống vùng nước tối,tôi tưởng đâu mình sắp lao đầu qua ba chục mét nước pha bùn và mãi mãi bị chôn vùi dưới đáy sông.
Nhưng lúc va chạm với mặt nước tôi không đau.Giờ tốc độ chìm đang chậm lại,bọt nước luồn qua kẽ tay tôi nhồn nhột.
Tôi không gây tiếng động lúc chạm xuống đáy. Một con cá da trơn nhầy nhụa to bằng bố dượng tôi ngue ngoẩy bơi về phía ánh sáng mờ mờ. Phù sa sông Mississippi trộn lẫn cả dống rác rến kinh tởm:nào chai bia rỗng,giày cũ và bịch ni lông.
Lúc ấy,tôi nhận ra vài điều.
Thứ nhất: Người tôi không dẹp lép như bánh xếp. May mà trước khi nhảy,tôi chưa thành thịt nướng.Nọc độc của Chimera không còn sục sôi trong mạch máu nữa.
Tôi còn sống,thế là tốt rồi.
Thứ hai: Tôi không ướt.Tuy chân thấy mát lạnh,lửa cháy trên quần áo bị dập tắt nhưng lúc tôi sờ vạt áo,nó vẫn khô.
Trông số rác trôi lơ lửng,tôi lấy hộp quẹt ga và nhủ thầm:"Để xem nào."
Tôi bật lửa.Tia lửa bắn ra.Một ngọn lửa tí xíu xuất hiện ngay dưới lòng sông Mississippi.
Tôi quờ tay vơ mảnh giấy gói hamburger thấm đẫm nước trôi giữa dòng.Lập tức giấy khô cong.Khi gí nó vào lửa,giấy cháy dễ dàng.Tôi vừa buông tay,lửa tắt lịm. Mảnh giấy lại thành mẩu rác nhầy nhụa.
Quái đản thật.
Nhưng đến lúc đó,tôi để ý thấy điều gì lạ nhất.
Tôi vẫn thở.
Đang ở đáy sông,tôi vẫn thở bình thường như trên mặt đất.
Tôi đứng dậy thấy bùn ngập ngang đầu gối.Đầu gối mềm nhũn,hay tay run rẩy.
Đáng lẽ giờ tôi chỉ là một thây ma.Nhưng tôi vẫn sống như thể có....phép lạ.
Hình như tôi nghe tiếng phụ nữ.Giọng người này hơi giống mẹ tôi.
-Percy,cậu nói gì vậy?
Sâu dưới nước,giọng tôi vang vang như trong phòng thu âm và ồm ồm như giọng người lớn:
-À...cảm ơn.Con cảm ơn....cha.
Không lời đáp.Xung quanh chỉ có rác nối nhay trôi theo dòng,một con cá da trơn to khổng tượng lướt qua và ánh nắng lúc hoàng hôn tít trên cao xuyên qua làn nước chở nặng phù sa biến tất cả thành màu kẹo bơ caremen.
Sao cha Poseido cứu tôi?
Càng nghĩ sâu sa,tôi càng hổ thẹn.
Tất nhiên,từ nhỏ đến lớn tôi gặp may vài lần.
Nhưng đối mặt với Chimera...không thể có cơ hội sống.Chắc giờ bốn người dân lành trên cổng vòm đã bị nướng thành than.Không bảo vệ được họ,sao đáng mặt anh hùng chứ?
Nhục nhã quá.Người như tôi chắc nên ở dưới này làm bạn với cá ,gia nhập cư dân kiếp ăn ở tầng nước đáy.
Rạt,rạt!
Một chiếc xuồng máy đi qua phía trên đầu tôi,chân vịt khuấy nước phù sa đục ngầu.
Cách tôi chưa đầy hai mét là thanh Thuỷ triều ,cán cắm sâu xuống bùn.
Tiếng phụ nữ êm ái lại cất lên:
-Percy,cầm kiếm đi.Cha cậu đặt lòng tin vào cậu đấy.
Lần này, tôi biết rõ tiếng nói không vang trong đầu tôi.Tôi không tự tưởng tượng ra nó. Giọng nói âm vang khắp nơi,truyền vào nước như sóng siêu âm của cá heo.
-Ai vậy?
Đúng lúc ấy,qua ánh sáng mờ mờ, tôi thấy một người phụ nữ và trang phục mang màu của nước trông như bóng ma bập bềnh trôi qua phía trên thanh kiếm. Tóc cô ấy bồng bềnh.Nhìn kỹ tôi thấy mắt cô ấy có màu xanh lục,giống mắt tôi.
Tôi nghẹn ngào:
-Mẹ đấy ư?
-Tuy ta không phải mẹ cháu nhưng số phận mẹ cháu chưa tuyệt vọng như cháu nghĩ đâu.Ta chỉ là sứ giả truyền tin mà thôi.Hãy đến bãi biển Santa Monica.
-Sao cơ ạ?
-Cha cháu nhắn thế.Trước khi xuống địa ngục,hãy tới bãi biển Santa Monica.Hãy nhớ kỹ,Percy.Ta không thể ở đây lâu.Vì nước quá bẩn nên ta phải đi ngay.
Tôi tin chắc đó là mẹ tôi,hay ít nhất là cái bóng của bà.
-Nhưng...cô là ai.....Sao cô lại.....
Dù muốn hỏi dồn nhưng lời lẽ tắc nghẹn trong cổ họng tôi.
Cô ấy với tay về phía tôi.Lập tức làn nước lướt qua mặt tôi như cái vuốt má trìu mến.
-Hỡi cậu bé dũng cảm,giờ ta phải đi.Cháu nhất định phải đến Santa Monica.Còn nữa,quà tặng không đáng tin.
Giọng cô nhỏ dần:
-Quà nào ạ? Khoan đã.....
Cô định nói thêm nhưng không thành tiếng.Bóng cô tan vào nước.
Nếu đó là mẹ,tôi vừa mất bà lần nữa.
Tôi chỉ muốn trầm mình,bỏ xác dưới sông. Nhưng khổ nỗi:tôi không có khả năng chết đuối!Cô ấy bảo:"Cha cậu đặt lòng tin vào cậu đấy." Cô còn khen tôi dũng cảm....trừ phi cô định dành câu ấy cho con cá đang bơi gần tôi.
Tôi lội đến bên nắm lấy cán kiếm.
Có thể Chimera và phù thuỷ rắn còn ở trên kia,chờ kết liễu đời tôi.Chắc chắn giờ cảnh sát tràn ngập nơi đó.Họ cố đoán xem ai làm thủng đỉnh mái vòm.Nếu thấy tôi,họ sẽ tạm giữ để thẩm vấn.
Tôi đậy nắp,cất bút bi vào túi áo.
Tôi thì thầm với dòng sông đen ngòm lần cuối:
-Cảm ơn cha.
Dứt lời,tôi đạp bùn ngoi lên mặt nước.
--0--
Tôi ngoi đầu khỏi mặt nước,ngay cạnh vỏ hộp bánh McDonald bập bềnh trôi gần bờ.
Cách đó một dãy nhà,tất cả xe cứu thương của thành phố St.Louis nhỏ bé tập trung quanh Gateway Arch. Trực thăng cảnh sát đảo trên đầu.Đám đông hiếu kỳ gợi tôi nhớ Quảng trướng Thời đại trước thời khắc đón chào năm mới.
Một cô bé gọi mẹ:
-Mẹ ơi!Anh kia từ sông đi lên.
Người mẹ nghểnh cổ xem xe cứu thương,lơ đãng trả lời:
-Ừ,hay nhỉ.
-Nhưng quần áo anh ấy khô.
-Ừ ừ,mẹ biết rồi.
Có nữ phóng viên nói trước ống kính:
-Theo chúng tôi được biết,đây có lẽ không phải là một vụ khủng bố. Tuy nhiên,các nhà chức trách mới trong giai đoạn đầu của cuộc điều tra.Như quý vị thấy,tổn hại là rất nghiêm trọng.Chúng tôi đang cố gắng tiếp cận nhóm người sống sót.Họ chwusng kiến tận mắt có người ngã từ đỉnh Gateway Arch.
Người sống sót! Tôi nhẹ cả người.Chắc nhân viên an ninh và gia đình cậu bé thoát nạn.Hi vọng Annabeth và Grover không sao.
Tôi len đám đông để xem sau dãy cảnh sát xếp hành có gì.
Một phóng viên khác tường thuật:
-....Một nam thiếu niên. Kênh Năm được biết máy quay an ninh ghi được cảnh cậu bé phát điên ngay trên khu vực dành cho khách tham quan và gây ra vụ nổ lạ lùng.Thật khó tin nhưng theo nguồn tin đáng tin cậy,sự thật đúng như thế.Xin nhắc lại,không có con số thương vong...
Tôi lùi lại,đầu cúi gằm.
Tôi đi vòng quanh hành rào cảnh sát rất lâu.Đâu đâu cũng thấy cảnh sát mặc thường phục và phóng viên.
Sắp tuyệt vọng vì không thấy Annabeth và Gorver,tôi bỗng nghe giọng thân quen:
-Perrr-cy!
Tôi quay lưng lại và nghẹt thở trong vòng tay Grover:
-Tụi tớ tưởng cậu tìm đường khác để đến chỗ Hades rồi.
Đứng sau Grover,Annabeth làm mặt giận nhưng chắc chắn thấy tôi,bạn ấy cũng bớt lo.
-Vừa rời tụi này năm phút là có chuyện!Có chuyện gì trên ấy thế?
-Đại khái là tớ ngã.
-Từ độ cao gần hai trăm mét ư?
Có ông cảnh sát đứng sau lưng:
-Tránh đường!
Đám đông rẽ ra.Hai nhân viên y tế đẩy băng ca khẩn trương chạy ra.Tôi nhận ra ngay mẹ cậu bé nọ.
Bà ta kể:
-Sau đó, một con chó khổng lồ,con Chihuahua rất to khạc ra lửa....
Nhân viên y tế bảo:
-Tôi nghe rồi.Bà cứ bình tĩnh.Chồng con bà bình yên vô sự rồi nhé.Thuốc thần kinh bắt đầu có tác dụng đấy.
-Tôi không điên! Cậu ra nhảy xuống hố và con quái thú biến mất.-Bà ta nhìn thấy tôi.-Kìa,người kia đúng là cậu ấy!
Tôi quay ngoắt đi,đoạn kéo hai bạn theo cùng.Chúng tôi lẩn vào đám đông.
Annabeth hỏi dồn:
-Chuyện thế nào? Có phải bà ta nhắc đến con Chihuahua trong thang máy không?
Tôi kể hết từ đầu chí cuối:nào con Chimera,nào phù thủy Echidna,nào màn trình diễn nhảy từ trên cao của tôi và thông điệp của người phụ nữ dưới đáy sông.
-Chà chà,ta sẽ đi Santa Monica! Cha cậu gọi,cậu không thể né được đâu nhá!
Annabeth chưa kịp phản ứng thì đúng lúc chúng tôi đi ngang qua một phóng viên truyền hình trực tiếp .Tôi chết sững khi nghe ông ta bảo:
-Percy Jackson.Đúng vậy.Kênh Mười Hai được biết nhận dạng thiếu niên gây ra vụ nổ vừa qua trùng khớp mo tả một người trẻ tuổi đang bị giới chức New Jersey truy nã sau vụ tai nạn xe buýt nghiêm trọng ở New Jersey cách đây ba ngày. Người ta tin rằng cậu ta đi về miền Tây.Xin giới thiệu với khán giả hiện ngồi trước màn hình tấm ảnh Percy Jackson.
Ba chúng tôi cúi lom khom vòng ra sau xe của đài truyền hình và chạy vào hẻm.
Grover bảo:
-Việc cần làm ngay.Đi khỏi thành phố.
May thay,chúng tôi tới được ga Amtrak mà không bị phát hiện.Cả ba lên tàu trước khi xe lửa chuyển bánh đi Denver.
Màn đêm buông xuống,bao phủ con tàu chạy về hướng miền Tây.Chúng tôi bỏ lại phía sau rừng đèn xe cảnh sát sáng rực bầu trời.
15
Thần tốt bụng đãi bánh.
Chiều hôm sau,ngày mười bốn tháng Sáu ,bảy ngày trước Hạ chí,tàu vào ga Denver.
Từ đêm qua,lúc tàu còn ở Kansas tới giờ,ba đứa chưa ăn.Từ lúc rời Trại Con Lai tới giờ:chưa tắm. Chắc chắn trông chúng tôi giống bụi đời.
Annabeth gợi ý :
-Tìm cách liên lạc với bác Chiron đi.Tớ muốn báo vụ cậu nói chuyện với thần sông.
-Ta đâu dùng điện thoại được.
-Có ai bảo dùng điện thoại đâu.
Suốt nửa tiếng đồng hồ,ba đứa lang thang ở trung tâm thành phố dù tôi không biết Annabeth tìm gì.Ở đây khô và nóng,còn St.Louis thì ẩm ướt.Rặng Rocky vây quanh Denver,sừng sững như ngọn sóng thần sắp ập xuống thành phố.
Cuối cùng,chúng tôi tìm được trạm rửa xe tự động vắng khách.Vừa vòng ra sau tránh xa đường lộ* ,chúng tôi vừa quan sát xem có xe cảnh sát đi tuần không.Nếu thấy ba thiếu niên tay không lảng vảng gần trạm rửa xe hơi,cảnh sát hạng bét cũng sẽ đoán chúng tôi có ý đồ bất lương.
Thấy Grover cầm vòi xịt,tôi hỏi:
-Chính xác thì chùng ta đang làm gì đây?
Nó làu bàu:
-Những bảy mươi lăm xu.Tớ chỉ còn hai đồng hai mươi lăm xu.Annabeth có không?
Annabeth đáp:
-Đừng nhìn tớ.Nhà ăn đêm qua vét sạch túi tới rồi.
Tôi khoắng túi lấy hai mươi lăm xu,đồng tiền lẻ cuối cùng. Như vậy trong túi tôi còn lại hai đô la và một đồng vàng drachma lấy ở chỗ Medusa.
-Tuyệt vời.Theo cách này,tớ không phải bơm nước mỏi rã cả tay.
-Tớ không hiểu.
Nó bỏ xu vào máy,vặn núm "phun sương". Tôi hỏi Annabeth:
-Grover đang làm gì vậy?
-Gửi thông điệp Iris.Nữ thần cầu vòng Iris sẽ mang thông điệp tới các thần.Nếu biết nói khéo nhờ thần giúp và nếu thần không bận,nữ thần Iris sẽ giúp cả con lai.
-Gọi thần bằng vòi xịt nước ư?
Grover chỉ vòi lên trời.Màn sương trắng dày đặc phụt ra:
-Trừ khi cậu biết cách tạo cầu vồng nhanh hơn.
Đúng như Grover nói,nắng xuyên qua sương nhanh chóng biến thành cầu vòng bảy sắc.
Annabeth chìa tay:
-Đưa tới đồng drachma.
Tôi ngoan ngoãn nghe lời.
Bạn tôi giơ đồng tiền vàng cao quá đầu:
-Xin thần nhận chút lòng thành.
Cô bé tung đồng tiền vào cầu vồng.Sau khi tan vào ánh sáng vàng,nó biến mất.
Annabeth kêu lên:
-Đồi Con Lai.
Chả thấy gì.
Giây lát sau,sau màn sương hiện lên ruộng dâu,eo biển Long Island phía xa như thể chúng tôi đang đứng trên thềm Nhà Lơn vậy.Cạnh lan can quanh thềm,quay lưng lại phía tôi là một thanh niên tóc vàng mặc quần soóc và áo thun da cam.Tay cầm kiếm đồng,anh ra chăm chú quan sát cánh đồng cỏ.
Tôi gọi:
-Luke!
Anh ngạc nhiên quay lại.Luke chỉ cách tôi ba thước chân và màn sương mỏng.Chỉ có điều tôi chỉ nhìn thấy phần cơ thể hiện trên cầu vồng.
Nụ cười tươi tắn hiện trên khuôn mặt sẹo:
-Percy! Kia có phải là Annabeth không? Ơn trời....các em không sao chứ?
Annabeth lắp bắp:
-À,ừm...không sao.
Cô bé vuốt vuốt vạt áo dính bẩn,hất lọn tóc xõa xuống trán :
-Em tưởng bác Chiron...
Nụ cười của Luke tắt ngấm :
-Bác ấy xuống dãy nhà có việc. Mấy em dưới đó gặp chuyện.Nhưng mà này,các em bình an không? Grover vẫn khoẻ chứ?
Grover giơ vòi nước lên cao nghiêng người để Luke nhìn thấy:
-Em đây.Ở trại xảy ra chuyện gì thế?
Đúng lúc ấy,một chiếc xe hơi Lincoln Continental chạt vào trạm.Tiếng nhạc hip-hop mở hết cỡ phát ra từ đầu máy stereo.Xe chạy vào ngăn bên cạnh,âm bass từ loa trầm rung chuyển mặt đường.
Luke hét lên:
-Bác Chiron phải...sao ồn thế?
Annabeth mừng vì có cớ tránh mặt:
-Để em lo.Grover ,đi thôi.
-Cái gì? Nhưng....
-Đưa vòi cho Percy rồi ra đây.
Grover lẩm bẩm câu gì đó đại loại là con gái khó hiểu hơn cả gấu trúc Tasmanian.Nó đưa vòi cho tôi và đi theo Annabeth.
Tôi chỉnh vòi nước sao cho vừa giữ được cầu vòng,vừa nhìn thấy Luke.
Luke hét to át tiếng nhạc:
-Bác Chiron vừa can một vụ đánh nhau. Tình hình trại khá căng thẳng.Tin mật Dớt và Poseido bất hòa bị tiết lộ. Ban quản lý trại chưa dám chắc ai loan tin gây hoang mang,nhưng anh đoán cũng tên cặn bã gọi chó địa ngục bữa trước.Giờ anh em trong trại chia bè phái. Hệt như cuộc chiến thành Troy xưa: các thần Aphrodite và Apollo ủng hộ Poseidon. Athena ủng hộ thần Dớt.
Tôi rùng mình khi nghĩ đến khả năng nhà Clarisse ủng hộ cha tôi,dù chỉ là việc nhỏ.
Tiếng nhạc ở ngăn bên nhỏ hẳn. Tôi nghe Annabeth và gã trai nào đó cãi nhau bằng ngôn ngữ lạ. Chắc là tiếng Tây Ban Nha.
Luke hỏi:
-Tình hình em thế nào? Bác Chiron nhớ em lắm đấy.
Tôi kể anh nghe gần như mọi chuyện,kể cả giấc mơ của tôi. Gặp anh tôi mừng quá nói luyên thuyên,cảm giác như được về trại hè ít phút.Không biết tôi thao thao cất tuyệt bao lâu nhưng mãi khi máy phun sương kêu "bíp bíp".tôi mới nhớ máy sẽ nhừng trong hơn phút nữa.
Luke bảo:
-Giá anh được đi với chú nhỉ? Ở đây,tụi anh không giúp gì được nhiều. Nhưng nghe này,chắc chắn Hades lấy tia chớp .Đông chí vừa rồi ông ta có lên đỉnh Olympia. Anh giám sát một chuyến tham quan và tụi anh thấy ông ấy.
-Nhưng bác Chiron bảo các thần không có khả năng tự tay lấy dụng cụ có phép thần của nhau.
Luke bối rối ra mặt:
-Đúng,đúng.Nhưng ....Hades có mũ sắt tàng hình.Ai dám vào phòng đặt ngai vàng của Dớt lấy trộm tia chớp chứ? Phải tàng hình mới vào được.
Cả hai im lặng.Luke như sực nhớ nói chữa:
-Này,anh không ám chỉ Annabeth đâu nhé. Anh quen cô bé lâu nên hiểu tính. Annabeth không bao giờ....Nói thực là anh coi Annabeth như em gái.
Tôi e Annabeth không thích thế.
Tiếng nhạc ở ngăn bên tắt hẳn. Có tiếng đàn ông hoảng hốt la to,tiếng cửa đóng sập và chiếc Lincoln lủi ra khỏi trạm rửa xe.
-Chú thử ra xem chuyện gì.À này,còn mang giày anh đưa chú không? Nếu nó giúp được chú,anh cũng mừng.
Tôi thấy mình có tội khi phải nói dối:
-À...có. Tiện lắm anh ạ.
Nước tắt ngấm.Sương bắt đầu tan.
Luke nói vội,giọng anh nhỏ dần:
-Ở Denver nhớ cẩn thận đấy.Nhắn Grover đùng lo,lần này sẽ suôn sẻ hơn lần trước.Sẽ không ai bị biến thành cây thông đâu. Chỉ cần nó.....
Màn sương tan hết.Hình ảnh Luke biến mất.Chỉ mình tôi trơ trọi giữa ngăn rửa xe ướt át.
Annabeth và Grover về tới.Họ cười nói hỉ hả.Grover đi lộp cộp bằng móng guốc,tay cầm đôi giày mọc cánh.
Nó nhại:
-El Diablo ! El Diablo! Annabeth này,lúc nãy cậu nói gì với họ thế?
-Lát nữa tớ nói cho nghe.
Thấy tôi,bạn ấy đứng sững. Nụ cười tắt ngấm:
-Percy,cậu sao thế? Anh Luke nói gì vậy?
Tôi nói dối mà trong lòng buồn và trống trải lạ thường:
-Chẳng có gì.Thôi mình đi tìm cái gì ăn trước đã.
--0--
Mấy phút sau,ba chúng tôi vào quán ăn có ánh đèn vàng vọt chọn một ngăn.Quanh chúng tôi có mấy gia đình vừa ăn hamburger,uống sô-đa và tráng miệng với đồ ngọt.
Mãi lâu sau người phục vụ bàn mới đi tới.Chị ấy nghi ngờ nhướn mày hỏi:
-Các em là....?
Tôi ấp úng:
-Chúng em...định gọi món.
-Các em có đủ tiền không đã?
Môi Grover run run.Tôi chỉ sợ nó kêu be be ,hoặc tệ hơn...ăn vải sơn lót nhà. Còn Annabeth trông như sắp ngất xỉu vì đói.
Tôi cố nghĩ câu chuyện mủi lòng đem kể với chị phục vụ bàn.Thình lình cả toàn nhà rung chuyển.Tôi tưởng mình đói quá nên chóng mặt.Bên ngoài,có chiếc mô tô to bằng voi con thắng gấp bên lề đường.
Quán ăn im phăng phắc.
Đèn pha xe đỏ rực.Bình xăng xe sơn ngọn lửa cháy,hai bên đeo hai bao súng,nòng súng lấp ló miệng bao.Yên xe bọc da,nhưng da này giống da người đem thuộc.
Người ngồi trên xe có thể khiến cả chục đô vật vừa chạy vừa gọi mẹ.Ông ta mặc áo thun bó sát,quần jean đen,áo khoác da đen,cạnh đùi dắt con dao găm dài.Sau cặp kính mát màu đỏ to tướng là khuôn mặt hung ác,dữ tơn nhất tôi từng thấy:đẹp trai nhưng quỷ quyệt.Mái tóc đen vuốt sáp bóng mượt và hai má chằng chịt sẹo từ vô số lần đánh nhau.Có điều lạ là tôi thấy ông ta trông quen quen.
Ông ta vừa bước vào,một cơn gió khô nóng xộc vào mọi ngõ ngách trong quán.Thực khách như bị thôi miên đứng cả dậy.Nhưng sau cái phẩy tay của ông ta,họ lại ngồi xuống.
Mọi người trong quán trò chuyện xôn xao. Chị phục vụ bàn chớp mắt,như thể có người nhấn nút tua lại trong não chị:
-Các em có đủ tiền không đã?
Tay đua xe lên tiếng:
-Tôi đãi.
Ông ta vào ngăn chúng tôi.Không gian quá hẹp so với thân hình kềnh càng của ông nên Annabeth phải ngồi nép bên cửa sổ.
Ông nhìn chị phục vụ ngạc nhiên nhìn mình:
-Cô vẫn còn ở đây sao?
Ông chỉ tay,chị ta cứng đờ như khúc gỗ rồi xoay lưng,đi xuống bếp.
Ông ta quay sang tôi.Dù không nhìn thấy mắt ông sau cặp kình màu đỏ,nhưng trong tôi sôi sục những cảm giác khó chịu.Giận dữ,tức tối,cay đắng. Tôi muốn đấm vào tường,muốn ra ngoài gây sự đánh nhau. Gã này tưởng mình là ai chứ?
Ông ta cười nhếch mép:
-Ra đây là con lão già Tảo biển?
Đáng lẽ tôi phải ngạc nhiên hoặc sợ hãi. Đằng này,cảm giác của tôi giống lúc đối mặt Gabe Cóc Chết. Tôi chỉ muốn vặt đầu gã cho hả giận.
-Ông là cái thá gì chứ?
Annabeth lườm tôi:
-Percy,ăn nói cẩn thận.Ông đây là...
Ông ta giơ tay can ngăn:
-Không sao đâu.Ta thích người có cá tính.Miễn là phải biết trên biết dưới.Này em họ,biết ta là ai không?
Giờ tôi biết vì sao ông ta trông quen quen.Gã có kiểu bĩu môi giống hệt mấy đứa ở nhà số Năm,Trại Con Lai.
-Ông là cha của Clarisse.Thần chiến tranh Ares.
Thần Ares cười nham nhở,đoạn tháo kính mát.Chỗ của cặp mắt chỉ toàn lửa.Hai hốc mắt bốc cháy như có những vụ nổ hạt nhân bé xíu liên tiếp nối nhau.
-Thằng ranh,mày đoán đúng rồi đó.Tao nghe nói mày bẻ giáo của Clarisse.
-Nó muốn thế mà.
-Chắc vậy.Mày cũng được đấy.Chuyện trẻ con đánh nhau,tao không dính vào.Tao đến đây vì...vì nghe nói mày ghé Denver chơi.Tao định gợi ý mày một chuyện.
Chị nhân viên quay lại,bưng theo ba khay đầy bánh hamburger phô mai,khoai tây chiên ,hành tây,và sữa sô cô la.
Ares đưa chị mấy đồng vàng drachma.
Chị sợ hãi nhìn:
-Nhưng tiền này không....
Ares rút con dao to tướng tẩn mẩn cạo móng tay:
-Sao thế,cô em?
Hêt hồn,chị cầm tiền vàng đi ra.
Tôi bảo:
-Ông không được đem dao dọa người.
Ares cười hô hố:
-Mày giỡn chắc? Tao thích xứ này.Kể từ thời Sparta,Mỹ là nơi tuyệt vời nhất.Ranh con,mày cũng mang vũ khí đấy thôi.Thế giới ngoài kia đầy hiểm hoạ.Nói đến đây ta mới nhớ vụ gợi ý.Mày phải giúp tao một việc.
-Tôi tài hèn sức mọn ,sao giúp được thần thánh?
-Có chứ,giúp ta đỡ phí thời gian vì đôi ba thứ nhỏ nhặt.Tao quên mất tấm khiên ở công viên nước bỏ hoang dưới trung tâm.Chẳng là tao đang vui vẻ với....nhân tình thì bị phá ngang.Ta bỏ lại khiên ở đó.Giờ mày lấy nó về cho tao.
-Sao ông không tự đi mà lấy?
Lửa trong mắt ông ta bốc cao hơn:
-Cũng cùng lý do tao không biến mày thành chó rồi cán chết bằng chiếc Harley kia.Bởi vì tao không thích.Này Percy Jackson,thần thánh đang cho mày cơ hội khoe mẽ.Hay mày biến thành thằng hèn rồi? -Ông ra ghé sát lại.-Hay mày chỉ hung hăng khi có dòng sông đỡ bên dưới,để cha mày còn ra tay cứu mày?
Tôi muốn đấm vào mặt gã nhưng không hiểu sao tôi biết gã chỉ chờ có thế.Thần Ares rất biết chọc giận tôi.Nếu tôi nổi khùng xông vào,gã sẽ đắc ý.Tôi quyết không cho gã hả hê.
-Tụi tôi không quan tama vì còn có việc phải làm.
Cặp mắt dữ dội của Ares bắt tôi nhìn những thứ tôi không muốn nhìn:nào máy chảy,khói lửa,xác người la liệt khắp chiến trường...
-Tao biết việc gì rồi.Lúc mới mất bảo bối, Dớt cử toàn người giỏi nhất đi tìm: Apollo,Athena,Artemis và tao,tất nhiên. Nếu tao không tìm ra món đồ lợi hại đó...-Ares liếm môi như thể ông ta khao khát khi nghĩ tới tia chớp.-Nếu tao không tìm được,mày đừng có mong.Tuy nhiên,tao cho mày cớ để nghi ngờ đây.Nói cho biết,chính tao rỉ tai Poseido,khiến cha mày nghĩ ngờ lão Mồm Thối suốt ngày loanh quanh với xác chết.
-Ông vảo cha tôi rằng Hades lấy tia chớp ư?
-Còn ai vào đây nữa.Chỉ thoáng nhìn tao biết ngay Hades ném đá giấu tay,khiến Dớt tuyên chiến với Poseido.Xét theo một khía cạnh nào đó,mày phải cảm ơn tao.Nhờ tao,mày mới được giao việc này.
Tôi làu bàu:
-Cảm ơn.
-Này,tao hào phóng lắm.Chạy giúp tao việc vặt kia,tao sẽ giúp lộ phí cho mày.Tao sẽ dàn xếp,tìm xe cho chúng mày đi về miền Tây.
-Chúng tôi tự lo được.
-Phải,chúng mày giỏi. Không tiền,không xe,không biết đối thủ của mình là ai mà đòi tự lo.Thôi giúp tao đi,biết đâu tao sẽ có thông tin mày cần.Về mẹ mày ấy.
-Mẹ tôi sao?
Gã cười nhăn nhở:
-Giờ chịu nghe rồi phải không? Công viên nước cách Delancy chừng hai cây số về phía Tây.Dễ tìm lắm.Nhớ đến Đường Hầm Tình Yêu nhé.
Tôi hỏi kháy:
-Cái gì khiến ông bỏ cuộc vui giữa chừng.Nó làm ông sợ mất mật phải không?
Thần Ares nhe nanh với tôi,nhưng tôi biết trò dọa nạt qua Clarisse rồi. Toàn làm bộ làm tịch,như thể họ che giấu nỗi lo sợ nào đó.
-Nhãi con,may mà gặp tao đấy Vào tay thần khác thì đừng hòng.Không ai khoan dung thói hỗn xược bằng tao đâu.Xong việc nhớ quay lại đây gặp tao.Đừng làm tao thất vọng,nghe chưa?
Sau đó,chắc tôi ngất hay bị thôi miên vì khi mở mắt,trong ngăn không còn ai ngoài ba chúng tôi.Tôi tưởng cuộc nói chuyện vừa rồi chỉ có trong mơ nhưng nét mặt Annabeth và Grover cho thấy điều ngược lại.
Grover bảo:
-Không hay rồi Percy.Thần Ares tìm cậu không phải điềm lành đâu.
Tôi ngó cửa sổ.Chiếc xe biến mất.
Có thật thần Ares biết thông tin về mẹ hay chỉ đùa cợt trên sự đau khổ của tôi? Giwof ông ta ra đi,cơn giận trong tôi tan biến.Chắc chắn ông này thích làm cảm xúc con người ta rối như mớ bòng bong.Biệt tài của thần Ares là thế:Làm cảm xúc đối phương rối rắm,quay cuồng khiến họ không còn suy nghĩ sáng suốt.
-Chắc chỉ là trò chơi khăm.Kệ ông ta.Mình đi thôi.
Annabeth cãi:
-Không được.Tớ chẳng ưa gì thần Ares ,nhưng ta không thể phớt lờ thần thành trừ phi muốn rước đại họa vào thân . Ông ta dư sức biến cậu thành loại gặm nhắm.
Tôi nhìn bánh hamberger trên bàn.Thốt nhiên,nó không thơm ngậy như tôi tưởng:
-Sao ông ta cần chúng mình nhỉ?
-Chắc vì năng lực suy tưởng thôi.Thần Ares có sức mạnh.Nhưng chỉ có thế không hơn.Đôi khi sức mạnh cũng phải cúi đầu trước sự thông thái.
-Nhưng công viên nước này....điệu bộ ông ta có vẻ sợ sệt.Cái gì khiến thần chiến tranh phải bỏ chạy như thế?
Annabeth và Grover hồi hộp nhìn nhau.Annabeth bảo:
-E rằng ta phải tự tìm hiểm lấy.
--0--
Percy dùng tiền hối lộ Charon đưa xuống địa ngục. Grower bị giầy Luke đưa cho Percy suýt nữa kéo xuống tận cùng Tartarus. Gặp Hades phát hiện ra Hades ko lấy tia chớp, mà còn bị mất mũ tàng hình, và ko muốn có chiến tranh do ng' chết quá nhiều, địa ngục quá chật chội. Tia chớp nằm trong ba lô thần Ares đưa cho. Percy dùng ba viên ngọc đưa cả bọn thoát khỏi địa ngục(ko cứu dc mẹ khác vs phim). Thoát ra thì gặp Ares, biết dc Ares đã bắt dc kẻ cắp tia chớp nhưng ko giao nộp, muốn dùng Percy đưa tia chớp cho Hades để gây ra chiến tranh. Percy đanh thắng Ares, lấy dc tia chớp và mũ tàng hình và bị Ares nguyền "Khi cần nhất thì sẽ bị vũ khí của chính mình phản lại".Nữ thần báo tử nghe cuộc đối thoại biết Percy ko lấy mũ tàng hình, lấy lại mũ đem trả cho Hades thì mẹ Percy dc thả. Percy lên đỉnh Olympus giải thich như phim)(Grower ko ở địa ngục nhé, cũng đi theo. Percy trở lại Trại Con Lai, dc chúc mừng, tán dương vân vân và vân vân. Sau đó Luke rủ Percy ra nói chuyện. Luke thú nhận là kẻ đánh cắp tia chớp và mũ tàng hình, sau đó bị Ares bắt nhưng thuyết phục Ares gây chiến tranh(thấn chiến trang mà). Luke chịu sự chỉ đạo của thần Titan Kronos. Sau đó Luke rời TCL, trc khi Percy bị bọ cạp địa nguc của Luke cắn gần chết. (Percy ko bị truy nã nữa do cảnh sát tưởng Ares là tên bắt cóc, Percy gây ra những việc kia là để trốn chạy, sau đó cướp dc súng gây ra vụ đấu súng với Ares, cảnh sát tưởng thế do Mán Sương Mù biến đấu kiếm thành đấu súng) Percy kể cho Chiron, sau đó trở lại nhà dùng đầu Medusa(dc các vị thần gửi trả lại) làm Cóc Chết biến mất. Tập 1 kết thúc.
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top