KDCK chuong 1
Chương 1
TỔNG QUAN VỀ KINH DOANH CHỨNG KHOÁN
1.1. KHÁI NIỆM VÀ ĐIỀU KIỆN KINH DOANH CHỨNG KHOÁN
1.1.1. Khái niệm
Theo Luật Chứng khoán của Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam số 70/2006/QH11 ngày 29 tháng 6 năm 2006 của Việt Nam, có giá trị hiệu lực từ ngày 1/1/2007: "KDCK là việc thực hiện nghiệp vụ môi giới chứng khoán, tự doanh chứng khoán, bảo lãnh phát hành chứng khoán, tư vấn đầu tư chứng khoán, lưu ký chứng khoán, quản lý quỹ đầu tư chứng khoán, quản lý danh mục đầu tư chứng khoán".
Với khái niệm trên, hầu hết các nghiệp vụ KDCK (trừ nghiệp vụ tự doanh) đều là những loại hình kinh doanh dịch vụ. Tùy thuộc vào khả năng tài chính cũng như các điều kiện đảm bảo khác theo quy định của luật pháp về KDCK, các tổ chức và cá nhân KDCK có quyền thực hiện một, một vài hoặc đồng thời tất cả các nghiệp vụ KDCK.
Vì vậy, khi triển khai cung ứng các nghiệp vụ này, các tổ chức hoặc cá nhân KDCK đều phải thực hiện những nhiệm vụ chung như: tìm kiếm khách hàng mục tiêu, tư vấn hướng dẫn và chăm sóc khách hàng, thực hiện và báo cáo kết quả các nghiệp vụ theo yêu cầu của khách hàng, xác định kết quả kinh doanh nghiệp vụ.
1.1.2. Điều kiện KDCK
1.1.2.1. Đối với tổ chức
Tổ chức muốn được cấp phép KDCK phải đăng kí với các cơ quan quản lí nhà nước về CK&TTCK và phải đảm bảo một số điều kiện nhất định theo quy định của pháp luật.
● Điều kiện về cơ sở vật chất kĩ thuật và năng lực tài chính
- Có cơ sở vật chất kĩ thuật bảo đảm thực hiện các nghiệp vụ KDCK: trụ sở, trang thiết bị phục vụ hoạt động KDCK...
- Có có đủ vốn chủ sở hữu (vốn tự có) theo quy định của pháp luật và cam kết quản lí tài chính công ty theo chế độ hiện hành.
● Điều kiện về nhân lực
- Có đủ nhân lực có trình độ chuyên môn và đáp ứng được tiêu chuẩn đạo đức nghệ nghiệp.
- Hoạt động theo đúng pháp luật, chấp hành nghiêm chỉnh các quy chế, tiêu chuẩn hành nghề, các quy định về quản lý KDCK.
Ở Việt Nam hiện nay, theo Quyết định số 27/2007/QĐ-BTC ngày 24/4/2007 của Bộ trưởng Bộ Tài chính Về việc ban hành Quy chế tổ chức và hoạt động công ty chứng khoán, để được cấp giấy phép thành lập và hoạt động KDCK, công ty chứng khoán, công ty quản lí quỹ đầu tư chứng khoán phải có các điều kiện sau:
(1) Có trụ sở đảm bảo các yêu cầu:
- Quyền sử dụng trụ sở làm việc tối thiểu 1 năm, trong đó có diện tích sàn giao dịch phục vụ nhà đầu tư tối thiểu 150m2.
- Có đủ cơ sở vật chất kĩ thuật phục vụ hoạt động kinh doanh bao gồm: sàn giao dịch phục vụ khách hàng, thiết bị văn phòng, hệ thống máy tính cùng các phần mềm thực hiện hoạt động giao dịch chứng khoán, trang thông tin điện tử, bảng tin để công bố thông tin cho khách hàng, hệ thống kho két bảo quản chứng khoán, tiền mặt, tài sản có giá trị khác và lưu giữ tài liệu, chứng từ giao dịch đối với công ty chứng khoán có nghiệp vụ môi giới và tự doanh chứng khoán.
- Có hệ thống phòng cháy chữa cháy theo quy định của pháp luật.
- Có hệ thống an ninh bảo vệ an toàn trụ sở làm việc.
(2) Có vốn điều lệ thực góp tối thiểu bằng mức vốn pháp định theo quy định.
Điều 18 Nghị định 14/2007/NĐ-CP ngày 19/1/2007, quy định vấn đề này như sau:
- Vốn pháp định cho các nghiệp vụ kinh doanh của công ty chứng khoán, công ty chứng khoán có vốn đầu tư nước ngoài, chi nhánh công ty chứng khoán nước ngoài tại Việt Nam là:
a) Môi giới chứng khoán: 25 tỷ đồng Việt Nam;
b) Tự doanh chứng khoán: 100 tỷ đồng Việt Nam;
c) Bảo lãnh phát hành chứng khoán: 165 tỷ đồng Việt Nam;
d) Tư vấn đầu tư chứng khoán: 10 tỷ đồng Việt Nam.
- Trường hợp tổ chức đề nghị cấp giấy phép cho nhiều nghiệp vụ kinh doanh, vốn pháp định là tổng số vốn pháp định tương ứng với từng nghiệp vụ xin cấp phép.
- Vốn góp để thành lập công ty chứng khoán, chi nhánh công ty chứng khoán nước ngoài tại Việt Nam phải bằng đồng Việt Nam hoặc ngoại tệ tự do chuyển đổi.
Các tổ chức, cá nhân tham gia góp vốn phải chứng minh nguồn vốn hợp pháp và được tổ chức kiểm toán độc lập xác nhận.
- Tỷ lệ sở hữu của bên nước ngoài trong công ty chứng khoán có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam thực hiện theo quy định của pháp luật.
- Tổ chức, cá nhân sở hữu từ 10% vốn cổ phần hoặc phần vốn góp có quyền biểu quyết của một công ty chứng khoán và người có liên quan của tổ chức, cá nhân đó không được sở hữu trên 5% số cổ phần hoặc phần vốn góp có quyền biểu quyết của một công ty chứng khoán khác.
- Tổ chức, cá nhân sở hữu từ 10% vốn cổ phần hoặc phần vốn góp có quyền biểu quyết của một công ty quản lý quỹ và người có liên quan của tổ chức, cá nhân đó không được sở hữu trên 5% số cổ phần hoặc phần vốn góp có quyền biểu quyết của một công ty quản lý quỹ khác.
(3) Giám đốc (tổng giám đốc) phải đáp ứng đủ các điều kiện:
- Không phải là người đã từng hoặc đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự, bị phạt tù hoặc bị tòa án tước quyền hành nghề theo quy định của pháp luật.
- Chưa từng là người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp bị phá sản, trừ trường hợp phá sản vì lí do bất khả kháng.
- Trình độ học vấn và kinh nghiệm làm việc: có bằng đại học hoặc trên đại học, có kinh nghiệm chuyên môn trong lĩnh vực tài chính ngân hàng chứng khoán ít nhất 3 năm và có kinh nghiệm quản lí điều hành tối thiểu 3 năm.
- Tuân thủ quy tắc đạo đức nghề nghiệp trong hoạt động kinh doanh chứng khoán.
- Có chứng chỉ hành nghề chứng khoán.
- Chưa từng bị UBCKNN xử phạt theo pháp luật CK&TTCK trong vòng 2 năm gần nhất.
Phó giám đốc (phó tổng giám đốc) phải đảm bảo các điều kiện trên trừ điều kiện về thời gian hoạt động nghề KDCK và kinh nghiệm quản lí có tiêu chuẩn tối thiểu 2 năm.
(4) Có tối thiểu 3 người hành nghề chứng khoán cho mỗi nghiệp vụ kinh doanh
1.1.2.2. Đối với cá nhân
+ Có kiến thức kinh tế, tài chính, pháp luật và phải trải qua một khoá đào tạo về chứng khoán và TTCK. Có chứng chỉ hành nghề chứng khoán, được SGDCK chấp thuận và cấp phép hoạt động.
+ Có tư cách đạo đức, sức khoẻ tốt.
+ Có đủ năng lực tài chính theo quy định của pháp luật, thể hiện bằng một trong các hình thức sau: ký quỹ; hoặc có tài sản thế chấp tại một tổ chức tín dụng được chỉ định; hoặc được một ngân hàng hay công ty tài chính đứng ra bảo lãnh.
Ở Việt Nam hiện nay theo QĐ 27/2007/QĐ-BTC ngày 24/4/2007, người hành nghề chứng khoán phải tham gia các khóa tập huấn về văn bản pháp luật, hệ thống giao dịch, loại chứng khoán mới do UBCK nhà nước, SGDCK, TTGDCK tổ chức. Có chứng chỉ hành nghề chứng khoán.
Chứng chỉ hành nghề chứng khoán được cấp cho cá nhân đáp ứng đủ các điều kiện sau đây:
a) Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ; không thuộc trường hợp đang phải chấp hành hình phạt tù hoặc đang bị Toà án cấm hành nghề kinh doanh;
b) Có trình độ đại học; có trình độ chuyên môn về CK & TTCK;
c) Đạt yêu cầu trong kỳ thi sát hạch do Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước tổ chức; đối với người nước ngoài có chứng chỉ chuyên môn về TTCK hoặc những người đã hành nghề chứng khoán hợp pháp ở nước ngoài thì chỉ cần thi sát hạch pháp luật về chứng khoán của Việt Nam.
Người hành nghề chứng khoán không được:
- Đồng thời làm việc cho các tổ chức khác có quan hệ về mặt sở hữu với CTCK nơi mình đang làm việc.
- Đồng thời làm việc cho CTCK, công ty quản lí quỹ khác.
- Đồng thời là giám đốc (tổng giám đốc) của 1 tổ chức chào bán chứng khoán ra công chúng, hoặc tổ chức niêm yết, trừ trường hợp tổ chức này là CTCK.
- Người hành nghề chứng khoán đang làm việc cho CTCK chỉ được mở tài khoản giao dịch chứng khoán cho mình (nếu có) tại CTCK nơi mình đang làm việc.
- Người hành nghề chứng khoán không được sử dụng tiền, chứng khoán trên tài khoản của khách hàng khi không được khách hàng ủy thác bằng văn bản.
1.2. CÁC CHỦ THỂ KINH DOANH CHỨNG KHOÁN
Kinh doanh chứng khoán bao gồm nhiều tổ chức như: công ty chứng khoán, công ty đầu tư chứng khoán, công ty quản lý quỹ, công ty quản lí tài sản, công ty lưu kí và thanh toán bù trừ chứng khoán, ngân hàng đầu tư và các cá nhân hành nghề chứng khoán.
1.2.1. Công ty chứng khoán
CTCK là tổ chức có tư cách pháp nhân kinh doanh trong lĩnh vực chứng khoán, thực hiện một hoặc toàn bộ các hoạt động: môi giới, tự doanh, bảo lãnh phát hành, tư vấn đầu tư chứng khoán với mục đích tìm kiếm lợi nhuận.
Tùy theo điều kiện về năng lực tài chính, cơ sở vật chất kĩ thuật và nguồn nhân lực mà một CTCK có thể đảm nhận tất cả các nghiệp vụ kinh doanh hoặc chỉ đảm nhận một số nghiệp vụ nhất định theo giấy phép kinh doanh.
● Các mô hình hoạt động của CTCK
(1) Mô hình công ty đa năng: theo mô hình này, CTCK là một bộ phận cấu thành của các tổ chức kinh doanh, thường là các công ty lớn hoặc các tập đoàn kinh tế như: các NHTM, tập đoàn tài chính, tập đoàn bảo hiểm... Các tổ chức này hoạt động trên nhiều lĩnh vực như kinh doanh tiền tệ, chứng khoán, bảo hiểm và các hoạt động kinh doanh khác. Mô hình kinh doanh đa năng được chia thành 2 loại:
- Loại đa năng một phần: các tổ chức kinh doanh muốn kinh doanh chứng khoán phải thành lập công ty chứng khoán độc lập trực thuộc công ty hoặc tập đoàn.
- Loại đa năng hoàn toàn: các tổ chức kinh doanh triển khai hoạt động kinh doanh chứng khoán bên cạnh các hoạt động kinh doanh khác mà không cần phải thành lập công ty chứng khoán độc lập trực thuộc công ty hoặc tập đoàn.
Ưu điểm:
- Do kinh doanh ở nhiều lĩnh vực nên có thể giảm bớt được rủi ro hoạt động kinh doanh chung, có khả năng chịu được những biến động lớn trên TTCK.
- Tận dụng được thế mạnh về nguồn lực tài chính, về trình độ chuyên môn, về mạng lưới hoạt động..., tạo động lực cho sự phát triển của TTCK.
Hạn chế:
- Do có thế mạnh về tài chính, chuyên môn nên việc các công ty lớn, các tập đoàn tham gia kinh doanh chứng khoán có thể gây nên tình trạng lũng đoạn thị trường nếu vai trò quản lí điều hành thị trường của nhà nước hạn chế.
- Do tham gia nhiều lĩnh vực kinh doanh nên làm giảm tính chuyên môn hóa, khả năng thích ứng và linh hoạt kém.
- Trong trường hợp TTCK có nhiều rủi ro, các tập đoàn có xu hướng bảo thủ rút khỏi TTCK để tập trung kinh doanh ở lĩnh vực khác gây nên tình trạng suy thoái, tháo chạy khỏi TTCK hoặc đóng băng thị trường.
(2) Mô hình công ty chuyên doanh: theo mô hình này, KDCK do các CTCK độc lập, chuyên môn hóa trong lĩnh vực chứng khoán đảm nhận.
Mô hình này khắc phục được những hạn chế của mô hình đa năng, tạo điều kiện cho các CTCK chuyên môn hóa, thúc đẩy sự phát triển TTCK.
Ngày nay với sự phát triển của TTCK, để tận dụng thế mạnh của ngân hàng, của các tập đoàn kinh tế, tài chính..., các quốc gia thường có xu hướng cho phép các tổ chức này tham gia hoạt động KDCK, bằng cách thành lập công ty con trực thuộc.
Ở Việt Nam hiện nay, CTCK được tổ chức theo các nguyên tắc sau:
- Cơ cấu tổ chức của CTCK phải đảm bảo tách biệt về văn phòng làm việc, nhân sự, hệ thống dữ liệu, báo cáo giữa các bộ phận nghiệp vụ có xung đột lợi ích của CTCK và của khách hàng, hoặc giữa lợi ích của các khách hàng với nhau.
- CTCK phải tuân thủ các nguyên tắc về quản trị công ty và các quy định pháp luật về quản trị công ty áp dụng đối với công ty đại chúng.
- Thành viên hội đồng quản trị, thành viên hội đồng thành viên của một CTCK không được đồng thời là thành viên hội đồng quản trị, thành viên hội đồng thành viên của CTCK khác.
- Giám đốc (tổng giám đốc), phó giám đốc (phó tổng giám đốc), giám đốc chi nhánh CTCK không được đồng thời làm việc cho CTCK, công ty quản lí quỹ hoặc doanh nghiệp khác. Giám đốc (tổng giám đốc) CTCK không được là thành viên hội đồng quản trị, thành viên hội đồng thành viên của CTCK khác.
● Cơ cấu tổ chức của CTCK
Cơ cấu tổ chức của CTCK phụ thuộc vào các nghiệp vụ chứng khoán mà công ty thực hiện, cũng như quy mô hoạt động KDCK của nó. Tuy nhiên, chúng đều có đặc điểm chung là hệ thống các phòng ban chức năng được chia ra làm hai khối tương ứng với hai khối công việc mà CTCK đảm nhận:
Phó giám đốc điều hành khối 1: Phòng môi giới+Phòng tự doanh+Phòng bảo lãnh PH+Phòng tư vấn đ.tư+Phòng q.lí quỹ đ.tư+Phòng tư vấn TC cti+Phòng tt & l.kí ck+Phòng q.lí thu nhập ck+Phòng q.lí thu nhập ck+Phòng ủy quyền+Phòng cho vay ck
Khối 1 (front office): thực hiện các hoạt động nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán. Bộ phận này có quan hệ giao dịch với khách hàng và đem lại thu nhập cho công ty bằng cách đáp ứng nhu cầu của khách hàng và tạo ra các sản phẩm dịch vụ phù hợp với các nhu cầu đó. Trong khối này ứng với mỗi nghiệp vụ chứng khoán cụ thể sẽ có một phòng riêng. Vì vậy công ty thực hiện bao nhiêu nghiệp vụ sẽ có bấy nhiêu phòng. Riêng phòng thanh toán và lưu kí chứng khoán thì mọi CTCK đều phải có vì đây là tổ chức phụ trợ phục vụ cho hoạt động môi giới chứng khoán và nó cũng thường được xếp vào khối 1 do có quan hệ trực tiếp với khách hàng.
Khối 2 (back office): thực hiện các công việc có tính tác nghiệp hỗ trợ cho khối 1, bao gồm: phòng nghiên cứu phát triển, phòng thông tin và phân tích chứng khoán, phòng máy tính và tin học, phòng kế toán, phòng tổ chức hành chính...
Đối với những công ty chứng khoán lớn, còn có thêm chi nhánh, văn phòng ở các địa phương trong nước, hoặc/ và nước ngoài. Cũng có thể CTCK ủy thác cho một NHTM ở địa phương hướng dẫn và nhận lệnh đặt mua bán chứng khoán của khách hàng.
Phó giám đốc điều hành khối 2: Phòng R&D+Phòng HC & TC+Phòng t.tin & ptck+Phòng kế toán+Phòng kí quỹ +Phòng ngân quỹ+Phòng kế hoạch+Phòng phát triển sp+Phòng pháp chế+Phòng máy tính
1.2.2. Công ty đầu tư chứng khoán và công ty quản lí quỹ đầu tư chứng khoán
1.2.2.1. Quỹ đầu tư chứng khoán
Hoạt động đầu tư chứng khoán có thể được thực hiện bởi các nhà đầu tư chứng khoán cá nhân, hoặc các nhà đầu tư chứng khoán có tổ chức - quỹ đầu tư chứng khoán, công ty bảo hiểm, công ty tài chính...
Quỹ đầu tư là quỹ hình thành từ vốn góp của nhà đầu tư với mục đích tìm kiếm lợi nhuận từ việc đầu tư vào chứng khoán và các loại tài sản đầu tư khác, kể cả bất động sản, trong đó nhà đầu tư không có quyền kiểm soát hàng ngày đối với việc ra quyết định đầu tư của quỹ.
1.2.2.2. Công ty đầu tư chứng khoán
● Khái niệm
Công ty đầu tư chứng khoán là một doanh nghiệp được tổ chức dưới hình thức công ty cổ phần để đầu tư chứng khoán.
● Đặc điểm
- Công ty đầu tư chứng khoán huy động vốn để hình thành quỹ đầu tư chứng khoán bằng cách phát hành cổ phiếu và bán chúng cho người đầu tư - với tư cách là cổ đông thường. Cổ phiếu của công ty đầu tư chứng khoán có thể được niêm yết trên sở giao dịch, hoặc thị trường phi tập trung.
- Công ty được tổ chức theo mô hình công ty cổ phần kinh doanh trong lĩnh vực đầu tư chứng khoán. Như vậy, khác với CTCK, công ty đầu tư chứng khoán chỉ thực hiện một nghiệp vụ KDCK, đó là đầu tư chứng khoán. Vì vậy, khi đề cập đến các tổ chức KDCK, người ta ít nhắc đến loại hình công ty này.
Công ty chịu sự chi phối của Luật doanh nghiệp, Luật chứng khoán. Hội đồng quản trị là cơ quan có thẩm quyền cao nhất. Công ty có thể tự quản lí tài sản và vốn quỹ của mình, hoặc thuê một công ty quản lí quỹ và ngân hàng bảo quản tài sản của quỹ.
+ Công ty quản lí quỹ được hội đồng quản trị thuê và thực hiện chức năng quản lí thuần túy. Công ty quản lí quỹ có trách nhiệm cử một, hoặc một số chuyên gia để giúp quỹ điều hành và sử dụng vốn của quỹ đầu tư vào chứng khoán và các tài sản khác sao cho có hiệu quả nhất.
+ Ngân hàng giám sát chỉ đóng vai trò bảo quản, mà không tham gia vào công tác quản lí, giám sát quỹ. Ngoài ra, ngân hàng có thể đảm nhận vai trò người giữ danh sách cổ đông để gửi báo cáo, giấy ủy quyền, hoặc thực hiện phân phối cổ tức cho các cổ đông. Khi thực hiện các nghiệp vụ này, ngân hàng nhận được thu nhập dưới dạng phí.
- Thu nhập của công ty được hình thành từ kết quả đầu tư mua bán chứng khoán (chênh lệch giá mua bán chứng khoán, cổ tức, trái tức và thu nhập từ các hoạt động đầu tư kinh doanh các chứng khoán phái sinh khác).
- Do quỹ đầu tư dạng công ty có tư cách pháp nhân đầy đủ nên nhà đầu tư góp vốn trở thành cổ đông (giữ vai trò vị trí là chủ sở hữu một phần vốn của công ty) và có các quyền của một cổ đông: ứng cử, bầu cử, biểu quyết các vấn đề quan trọng của công ty, nhận cổ tức...
**Mô hình tổ chức quản lí công ty đầu tư chứng khoán
(Công ty quản lí quỹ) Hội đồng quản trị của CTĐTCK (Ngân hàng giám sát)
Công ty quản lí quỹ) Quỹ đầu tư chứng khoán (Ngân hàng giám sát)
x3 Nhà đầu tư
● Ưu nhược điểm của mô hình CTĐTCK
Ưu điểm:
- Có cơ cấu tổ chức hoàn chỉnh, có pháp nhân đầy đủ nên có cơ sở pháp lí cao trong tổ chức quản lí điều hành hoạt động.
- Do có pháp nhân đầy đủ nên việc huy động vốn từ các thành phần kinh tế thuận lợi hơn so với mô hình quỹ tín thác, tạo khả năng huy động được khối lượng vốn lớn để hoạt động kinh doanh chứng khoán.
- Do hội đủ các thành phần đại diện cho từng quyền lợi tham gia công tác quản lí nên họ có thể đánh giá, cân nhắc giữa giá trị đầu tư với mức độ rủi ro đưa ra các quyết định mang tính năng động và thường mang lại lợi nhuận khả quan.
Nhược điểm:
- Chi phí quản lí quỹ thường cao hơn so với mô hình quản lí quỹ tín thác nên có tác động đến hiệu quả các hoạt động kinh doanh.
- Hiện tượng tranh giành quyền lực, quyền kiểm soát thường gặp ở các công ty cổ phần là mối đe dọa thường trực gây nên những biến động trong tổ chức, làm cho hoạt động kinh doanh kém hiệu quả.
Ở Việt Nam hiện nay, theo Nghị định NĐ14/2007 của Chính phủ, Công ty đầu tư chứng khoán được tổ chức theo một trong hai hình thức sau:
- Công ty đầu tư chứng khoán đại chúng là công ty đầu tư chứng khoán chào bán cổ phiếu ra công chúng;
- Công ty đầu tư chứng khoán phát hành riêng lẻ.
Cổ phiếu của công ty đầu tư chứng khoán đại chúng được niêm yết và giao dịch tại Sở Giao dịch chứng khoán, Công ty đầu tư chứng khoán không có nghĩa vụ mua lại cổ phiếu đã phát hành. Công ty đầu tư chứng khoán phát hành riêng lẻ chỉ được chào bán cổ phiếu cho tối đa 99 nhà đầu tư, trong đó nhà đầu tư có tổ chức phải đầu tư tối thiểu 3 tỷ đồng và cá nhân đầu tư tối thiểu 1 tỷ đồng. Công ty đầu tư chứng khoán phát hành riêng lẻ không phải tuân thủ các quy định về hạn chế đầu tư như công ty đầu tư chứng khoán đại chúng quy định tại Điều 92 Luật Chứng khoán. Công ty đầu tư chứng khoán tự quản lý vốn đầu tư hoặc ủy thác cho một công ty quản lý quỹ quản lý hoặc thuê công ty quản lý quỹ tư vấn đầu tư và tự mình thực hiện giao dịch. Trường hợp công ty đầu tư chứng khoán thuê công ty quản lý quỹ quản lý vốn đầu tư thì Giám đốc hoặc Tổng giám đốc, Phó Giám đốc hoặc Phó Tổng giám đốc (nếu có), Chủ tịch Hội đồng quản trị và tối thiểu 2/3 thành viên Hội đồng quản trị của công ty đầu tư chứng khoán phải độc lập với công ty quản lý quỹ.
1.2.2.3. Công ty quản lý quỹ
Các quỹ tín thác (quỹ không có pháp nhân đầy đủ được thành lập trên cơ sở hợp đồng ủy thác giữa công ty quản lí quỹ, người nhận ủy thác và người thụ hưởng) không tự quản lí vốn đầu tư, phải tìm kiếm và kí kết hợp đồng quản lí quỹ với một công ty quản lí quỹ (QLQ).
● Khái niệm
Công ty quản lý quỹ là tổ chức có tư cách pháp nhân, hoạt động cung cấp dịch vụ quản lý quỹ đầu tư chứng khoán, quản lý danh mục đầu tư chứng khoán.
● Đặc điểm
- Công ty QLQ được thực hiện hai nghiệp vụ chính là quản lý quỹ đầu tư chứng khoán (hoặc công ty đầu tư chứng khoán) và quản lý danh mục đầu tư chứng khoán.
- Thu nhập của công ty QLQ được hình thành từ phí quản lý quỹ đầu tư và quản lý danh mục đầu tư chứng khoán.
- Công ty QLQ không phải là người chủ sở hữu quỹ mà chỉ là người thành lập và quản lí quỹ tín thác bằng cách: (1) đứng ra xin phép thành lập quỹ, phát hành chứng chỉ quỹ đầu tư ra công chúng để tạo vốn cho quỹ; (2) lựa chọn và thực hiện đầu tư vốn của quỹ vào chứng khoán hoặc tài sản khác phù hợp với điều lệ của quỹ; (3) xác định lợi nhuận của quỹ và tư vấn cho người lưu giữ tài sản của quỹ để phân phối lợi nhuận. Việc thành lập và hoạt động của quỹ và công ty QLQ được thực hiện theo luật tín thác đầu tư. Theo luật này một hợp đồng tín thác được kí kết bởi tất cả các bên tham gia vào quỹ: công ty quản lí quỹ, tổ chức giám sát bảo quản (thường là ngân hàng giám sát hoặc ngân hàng tín thác), và những người đầu tư.
- Công ty QLQ có thể tổ chức theo hình thức công ty cổ phần hoặc công ty trách nhiệm hữu hạn, tổ chức và hoạt động theo quy định của pháp luật. Để thành lập quỹ đầu tư tín thác trước hết phải thành lập công ty quản lí quỹ. Mỗi công ty quản lí quỹ, có thể có nhiều quỹ đầu tư trực thuộc, tùy thuộc vào mục tiêu đầu tư. Công ty QLQ đứng ra phát hành chứng chỉ quỹ đầu tư, huy động vốn để thành lập quỹ đầu tư chứng khoán. Công ty quản lý quỹ có chức năng thực hiện đầu tư theo sự ủy thác của khách hàng (quỹ đầu tư chứng khoán), quản lí quỹ đầu tư sao cho phù hợp với mục tiêu đầu tư của quỹ, quản lí danh mục đầu tư chứng khoán theo các quy định pháp luật, điều lệ quỹ đầu tư chứng khoán, hợp đồng ký với khách hàng ủy thác đầu tư và hợp đồng kí với ngân hàng giám sát. Công ty QLQ được hưởng các khoản phí và thưởng theo quy định của điều lệ quỹ.
- Trong mô hình quỹ tín thác được quản lí bởi công ty QLQ, ngân hàng giám sát vừa đóng vai trò là người bảo quản, thanh toán bù trừ và lưu giữ tài sản của người đầu tư, vừa thực hiện chức năng giám sát hoạt động của công ty quản lí quỹ nhằm bảo đảm công ty quản lí quỹ hoạt động theo đúng điều lệ của quỹ, phù hợp với lợi ích của người đầu tư.
- Quỹ đầu tư tín thác không có tư cách pháp nhân đầy đủ nên khối lượng vốn huy động được thường hạn chế hơn so với mô hình quỹ công ty. Quỹ chỉ được phép phát hành các chứng chỉ tham gia chia phần, các chứng chỉ này được định nghĩa trong luật tín thác không phải là cổ phiếu. Nhà đầu tư mua chứng chỉ quỹ nhằm mục đích đầu tư theo kiểu chuyên nghiệp. Điểm khác biệt cơ bản giữa cổ phiếu của công ty đầu tư chứng khoán với chứng chỉ quỹ đầu tư là các nhà đầu tư nắm giữ chứng chỉ quỹ (người thụ hưởng) không có quyền biểu quyết, không có quyền thay đổi chính sách đầu tư của quỹ.
**Mô hình tổ chức quản lí quỹ đầu tư tín thác
(Công ty quản lí quỹ) (Ngân hàng giám sát)
(Công ty quản lí quỹ) Quỹ đầu tư chứng khoán (Ngân hàng giám sát)
x3 Nhà đầu tư
● Ưu nhược điểm của mô hình quỹ tín thác qua CTĐTCK
Ưu điểm:
- Các thành phần tham gia quản lí quỹ chỉ bao gồm các nhà chuyên môn như: công ty quản lí quỹ, ngân hàng giám sát nên việc bàn bạc để đi đến quyết định kinh doanh thường nhanh chóng.
- Cơ cấu tổ chức gọn nhẹ, làm giảm chi phí quản lí.
- Trong mô hình quỹ tín thác, nhà đầu tư không thể can thiệp trực tiếp vào hoạt động kinh doanh của công ty quản lí quỹ, nên công ty có thể chủ động đầu tư vào các dự án dài hạn mà công ty đánh giá có lợi nhuận kì vọng cao.
- Ngân hàng giám sát có liên hệ chặt chẽ với công ty quản lí quỹ nên nắm vững kế hoạch và thực tế kinh doanh của quỹ, tạo điều kiện thuận lợi nâng cao chất lượng quản lí giám sát, đảm bảo việc đầu tư bám sát điều lệ của quỹ và tuân thủ luật pháp.
Hạn chế:
- Tính pháp lí của mô hình quỹ tín thác không cao làm giảm tính hấp dẫn và khả năng thanh khoản của chứng chỉ quỹ.
- Do lượng vốn của quỹ hạn chế nên khả năng đa dạng hóa danh mục đầu tư trở nên khó khăn, chỉ thích hợp với đầu tư dự án.
=> Những điểm giống và khác nhau giữa CTCK, Công ty QLQ và CTDTCK
● Điểm giống nhau giữa CTCK và Công ty QLQ
- CTCK và CTQLQ đều là pháp nhân được cấp giấy phép KDCK.
- Có thể tổ chức dưới hình thức pháp lí là Công ty cổ phần, hoặc Công ty TNHH.
- Đáp ứng các yêu cầu về vốn, cơ sở vật chất và nhân sự có trình độ chuyên môn theo quy định của pháp luật.
● Điểm khác nhau giữa CTCK và Công ty QLQ:
*Công ty chứng khoán
- Được triển khai các nghiệp vụ môi giới, tự doanh, bảo lãnh phát hành, tư vấn đầu tư và các tư vấn khác trong lĩnh vực chứng khoán
- Vốn pháp định: thường cao hơn (quy định hiện hành ở Việt Nam tối thiểu là 300 tỷ đồng)
- Là thành viên của SGDCK/ TTGDCK, TTLK&TTBT
- Được nhận, truyền lệnh trực tiếp đến hệ thống giao dịch
- Quy định về chuyên môn: tối thiểu phải có 3 nhân viên hành nghề/1 nghiệp vụ, Tổng giám đốc có ít nhất kinh nghiệm 3 năm quản lý và 3 năm hành nghề trong lĩnh vực Tài chính - Ngân hàng
*Công ty quản lí quỹ
- Được triển khai các nghiệp vụ quản lí quỹ và quản lí danh mục đầu tư
- Vốn pháp định: thường thấp hơn (quy định hiện hành ở Việt Nam tối thiểu là 25 tỷ đồng)
- Không là thành viên của SGDCK/ TTGDCK, TTLK&TTBT
- Không được nhận và truyền lệnh trực tiếp đến hệ thống giao dịch. Giao dịch mua/ bán chứng khoán niêm yết phải qua CTCK
- Quy định về chuyên môn: tối thiểu phải có 5 nhân viên hành nghề/1 nghiệp vụ, Tổng giám đốc có ít nhất kinh nghiệm 5 năm hành nghề trong lĩnh vực Tài chính - Ngân hàng
● Điểm giống nhau giữa CTCK /Công ty QLQ với CTDTCK
- Đều là pháp nhân (tổ chức dưới hình thức Công ty cổ phần hoặc công ty TNHH)
- Đáp ứng các yêu cầu về vốn kinh doanh, có HĐQT, HĐTV
● Điểm khác nhau giữa CTCK /Công ty QLQ với CTDTCK
* Cty CK/QLQ
- KDCK theo nghiệp vụ được cấp giấy phép
- Luôn yêu cầu nhân sự quản lý
- Yêu cầu về CSVC: trụ sở, trang thiết bị...
* Cty đầu tư CK
- Chỉ quản lí quỹ (đầu tư chứng khoán để tìm kiếm lợi nhuận)
- Có / Không yêu cầu nhân sự quản lý
- Có / Không yêu cầu CSVC trụ sở, trang thiết bị...
● Điểm khác nhau giữa Công ty QLQ với CTDTCK
- Công ty QLQ được quản lý nhiều Quỹ / Công ty đầu tư CK và hưởng thu nhập từ phí quản lí.
- Công ty đầu tư CK chỉ được quản lý tài sản của chính Công ty đầu tư CK đó và hưởng thu nhập từ kết quả đầu tư chứng khoán của công ty.
● Điểm giống nhau giữa Quỹ đầu tư CK (không phải là pháp nhân) với CTDTCK
- Đều được thành lập bằng vốn góp của các tổ chức, cá nhân.
- Mục đích: dùng vốn đầu tư vào CK và các tài sản khác để kiếm lợi nhuận, trong đó nhà đầu tư không có quyền kiểm soát hàng ngày đối với quyết định đầu tư.
- Vốn tối thiểu theo quy định hiện hành ở Việt Nam 50 tỷ đồng.
● Điểm khác nhau giữa Quỹ đầu tư CK (không phải là pháp nhân) với CTDTCK
* Quỹ đầu tư CK
- Không là pháp nhân
- Có Quỹ ĐTCK mở và đóng
- Có Quỹ ĐTCK đại chúng và Quỹ thành viên
- Không tự quản lý vốn
* Công ty đầu tư CK
- Là pháp nhân
- Chỉ có quỹ ĐTCK đóng
- Có Công ty ĐTCK đại chúng và Công ty ĐTCK phát hành riêng lẻ
- Công ty tự quản lý vốn
1.2.3. Các chủ thể khác
Ngoài các chủ thể nêu trên, tham gia kinh doanh chứng khoán còn có các chủ thể sau:
- Ngân hàng thương mại (NHTM): theo cơ chế quản lí của hấu hết các quốc gia, NHTM tham gia KDCK ở một số nghiệp vụ: đầu tư, lưu kí và thanh toán các giao dịch trên TTCK. Trường hợp NHTM muốn triển khai các dịch vụ khác như môi giới, tư vấn... phải thành lập các tổ chức kinh doanh chứng khoán độc lập trực thuộc công ty mẹ. Các ngân hàng đầu tư tham gia cung cấp dịch vụ bảo lãnh hoặc đại lí phát hành...
- Công ty lưu kí và thanh toán bù trừ: thực hiện cung cấp dịch vụ lưu kí và thanh toán bù trừ các giao dịch chứng khoán.
- Các tổ chức tài chính khác: công ty bảo hiểm, các quỹ hưu trí... tham gia thị trường với tư cách nhà đầu tư tổ chức. Trường hợp công ty bảo hiểm muốn triển khai nhiều dịch vụ KDCK cũng phải thành lập công ty con trực thuộc.
- Các cá nhân hành nghề KDCK, đầu tư chứng khoán...
1.3. CÁC NGHIỆP VỤ KINH DOANH CHỨNG KHOÁN
1.3.1. Các nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán
Tùy theo giấy phép hoạt động, mỗi tổ chức kinh doanh chứng khoán có thể thực hiện một hoặc một số nghiệp vụ kinh doanh sau:
● Môi giới chứng khoán
Môi giới chứng khoán là hoạt động KDCK trong đó tổ chức KDCK - CTCK đứng ra làm đại diện cho khách hàng tiến hành giao dịch thông qua cơ chế giao dịch trên sở giao dịch chứng khoán, hoặc thị trường OTC mà chính khách hàng sẽ phải chịu trách nhiệm đối với kết quả giao dịch đó. Người môi giới chỉ thực hiện giao dịch theo lệnh của khách hàng để hưởng phí dịch vụ, họ không phải chịu rủi ro từ hoạt động giao dịch đó.
Khi thực hiện nghiệp vụ môi giới, CTCK chỉ đóng vai trò làm trung gian kết nối giữa những người mua và người bán chứng khoán để hưởng phí dịch vụ. Phí dịch vụ CTCK thu được cao hay thấp phụ thuộc vào loại chứng khoán, khối lượng và giá trị chứng khoán được giao dịch mua bán qua công ty nhiều hay ít, tỉ lệ phí giao dịch cao hay thấp... Trong hoạt động này người ra quyết định đầu tư mua bán chứng khoán thuộc về khách hàng, nên CTCK không phải chịu rủi ro do sự biến động giá chứng khoán trên thị trường. Tuy nhiên, bất cứ một sự không cẩn trọng nào trong việc thực hiện nghiệp vụ môi giới đều có thể mang đến những nguy cơ rủi ro cho công ty. Ví dụ: nhân viên môi giới nhập sai lệnh, sai giá... dẫn đến thiệt hại cho khách hàng và do đó CTCK không thể phủ nhận trách nhiệm đền bù thiệt hại cho khách hàng. Cao hơn nữa là sự mất tín nhiệm của khách hàng đối với công ty, và kết quả là khách hàng rời bỏ công ty bằng việc yêu cầu đóng tài khoản giao dịch.
Với tư cách người môi giới, ngoài việc tiến hành giao dịch theo chỉ thị của khách hàng, CTCK thường cung ứng các dịch vụ khác kèm theo như: quản lí tài khoản tiền gửi, tài khoản chứng khoán cho khách hàng, quản lí các lệnh giao dịch cho khách hàng, thực hiện quyền liên quan đến sở hữu chứng khoán thay cho khách hàng...
● Tự doanh
Tự doanh là hoạt động tự mua bán chứng khoán cho mình để hưởng lợi nhuận từ chênh lệch giá chứng khoán và các khoản thu nhập khác do đầu tư chứng khoán mang lại. Ngoài ra, tự doanh còn bao gồm các nghiệp vụ acbit, đầu cơ và phòng vệ gắn với việc sử dụng các chứng khoán phái sinh.
Ngoài mua bán chứng khoán để hưởng chênh lệch giá, các CTCK còn thực hiện nghiệp vụ tự doanh thông qua hoạt động mua bán với vai trò định hướng và điều tiết hoạt động của thị trường, góp phần bình ổn giá cả, thực hiện các nghiệp vụ đầu cơ và kinh doanh chứng khoán phái sinh. Trên thực tế, CTCK còn có thể phải mua bán chứng khoán (mang tính bắt buộc) do những sai sót từ nghiệp vụ môi giới chứng khoán.
Khác với hoạt động môi giới, khi làm trung gian mua bán chứng khoán cho khách hàng, chứng khoán sẽ chuyển từ người bán sang người mua và người mua phải thanh toán tiền cho người bán, CTCK sẽ thu phí dịch vụ từ cả hai đối tượng khách hàng này. Khi thực hiện hoạt động tự doanh CTCK giữ vị trí là nhà đầu tư nhằm mục đích hưởng thu nhập do chứng khoán mang lại và lãi vốn. Do đó, nếu CTCK mua bán chứng khoán qua các sàn giao dịch tập trung thì cũng phải đặt lệnh qua nhân viên môi giới và về nguyên tắc cũng phải trả phí cho hoạt động mua bán này. Công ty phải tự chịu trách nhiệm về quyết định của mình, tự gánh chịu rủi ro từ quyết định mua, bán chứng khoán nếu giá chứng khoán trên thị trường biến động ngược chiều với dự báo, dự đoán của công ty.
Hoạt động tự doanh thường song hành với hoạt động môi giới. Vì vậy, khi thực hiện hai hoạt động này có thể dẫn tới xung đột về lợi ích giữa một bên là lợi ích của CTCK, một bên là lợi ích của khách hàng. Để tránh xung đột về lợi ích, các thị trường thường có chính sách ưu tiên thực hiện lệnh của khách hàng trước khi thực hiện lệnh của CTCK.
● Tư vấn
Tư vấn trong lĩnh vực chứng khoán là hoạt động phân tích, dự báo các dữ liệu liên quan đến chứng khoán, từ đó đưa ra các khuyến nghị cho khách hàng. Thông thường các CTCK cung cấp 1 số dịch vụ tư vấn như: tư vấn đầu tư chứng khoán, tư vấn phát hành chứng khoán, tư vấn niêm yết chứng khoán và các tư vấn khác về tài chính. Trong các hoạt động tư vấn trên, tư vấn đầu tư chứng khoán là một mảng hoạt động quan trọng.
Tư vấn đầu tư chứng khoán là việc CTCK cung cấp cho nhà đầu tư kết quả phân tích, công bố báo cáo phân tích và khuyến nghị liên quan đến chứng khoán. Hoạt động tư vấn có thể thực hiện trực tiếp thông qua các hình thức: gọi điện thoại, trao đổi trực tiếp mặt đối mặt; hoặc gián tiếp thông qua việc phát hành các ấn phẩm: sách báo, bản tin... Về nguyên tắc, nhà tư vấn không được đưa ra những đánh giá mang tính lôi kéo, dụ dỗ, kích động khách hàng mua bán chứng khoán, mà chỉ được nêu những sự kiện thực tế diễn ra một cách trung thực, khách quan. Cần lưu ý rằng, các dự báo của nhà tư vấn chỉ có tác dụng tham khảo cho khách hàng, để từ đó khách hàng đưa ra các quyết định của chính mình. Do đó, nhà tư vấn không chịu trách nhiệm về hậu quả các quyết định của nhà đầu tư.
Tư vấn phát hành (hoặc niêm yết) chứng khoán là loại hình dịch vụ do các tổ chức kinh doanh dịch vụ chứng khoán cung cấp nhằm trợ giúp cho các tổ chức phát hành (niêm yết) hoàn tất các thủ tục theo đúng quy định của pháp luật và triển khai các bước công việc một cách thuận lợi, hiệu quả để bảo đảm việc phát hành (hoặc niêm yết) thành công.
● Bảo lãnh phát hành chứng khoán
Bảo lãnh phát hành chứng khoán là hoạt động hỗ trợ của các tổ chức bảo lãnh cho các tổ chức phát hành khi huy động vốn bằng cách bán chứng khoán trên thị trường sơ cấp theo sự ủy thác của tổ chức phát hành. Tổ chức bảo lãnh phát hành cam kết với tổ chức phát hành thực hiện các thủ tục trước khi chào bán chứng khoán, nhận mua một phần hay toàn bộ chứng khoán của tổ chức phát hành để bán lại, hoặc mua số chứng khoán còn lại chưa được phân phối hết của tổ chức phát hành, hoặc hỗ trợ tổ chức phát hành trong việc phân phối chứng khoán ra công chúng.
Khi cung cấp dịch vụ bảo lãnh, tùy theo điều khoản của mỗi hợp đồng mà tổ chức bảo lãnh có thể phải đảm nhiệm nhiều nhiệm vụ khác nhau, trong đó hai chức năng chính của hoạt động bảo lãnh là: hỗ trợ thực hiện thủ tục trước khi phát hành và tổ chức phân phối chứng khoán.
Có nhiều hình thức bảo lãnh như: bảo lãnh theo phương thức cam kết chắc chắn, bảo lãnh theo phương thức cố gắng tối đa, bảo lãnh theo phương thức tất cả hoặc không, bảo lãnh theo phương thức tối thiểu - tối đa, bảo lãnh theo phương thức dự phòng. Mỗi hình thức bảo lãnh có những đặc điểm, ưu nhược điểm riêng. Vì vậy, tùy theo điều kiện và khả năng của mình và khách hàng mà tổ chức bảo lãnh nên tư vấn cho khách hàng lựa chọn hình thức bảo lãnh thích hợp.
Khi cung ứng dịch vụ này, tổ chức bảo lãnh thu được tiền hoa hồng bảo lãnh theo sự thỏa thuận giữa tổ chức phát hành và tổ chức bảo lãnh. Tuy nhiên nếu hoạt động bảo lãnh không thực hiện được đúng theo các điều khoản của hợp đồng thì rủi ro bảo lãnh cũng có thể xảy ra. Kết quả là tổ chức bảo lãnh chỉ nhận được một phần hoặc không nhận được phí bảo lãnh, trong khi vẫn phải chi trả các khoản chi phí để tổ chức và triển khai dịch vụ này.
● Quản lí danh mục đầu tư
Quản lí danh mục đầu tư là hoạt động trong đó, công ty quản lí quỹ nhận sự ủy thác của khách hàng quản lí vốn, tài sản (chứng khoán) và tiến hành đầu tư cho khách hàng nhằm mục tiêu bảo toàn vốn và tăng lợi nhuận cho khách hàng.
Danh mục đầu tư là danh sách các loại chứng khoán được các công ty QLQ lựa chọn để tiến hành tư vấn đầu tư cho khách hàng. Bản chất của quản lí danh mục đầu tư chứng khoán là định lượng mối quan hệ giữa rủi ro và lợi tức kì vọng thu được từ danh mục đó. Bởi vì, mức độ rủi ro là yếu tố quan trọng đầu tiên mà các nhà đầu tư thường quan tâm. Đây chính là cơ sở để xây dựng và quản lí danh mục đầu tư sao cho lợi tức thu được là tối ưu và rủi ro không vượt quá mức chấp nhận đã được nhà đầu tư xác định trước.
Khách hàng sử dụng dịch vụ quản lí danh mục đầu tư thường là những nhà đầu tư có một số vốn đủ lớn và muốn có quyền quyết định trong đầu tư. Khi cung cấp dịch vụ này, công ty quản lí quỹ sẽ được hưởng phí quản lí và được nhà đầu tư trả các chi phí phát sinh khi thực hiện đầu tư. Họ cũng có thể nhận được những khoản tiền thưởng khi hoàn thành tốt nhiệm vụ.
Thực tế cho thấy, nếu việc quản lí dịch vụ quản lí danh mục đầu tư không được thực hiện một cách chặt chẽ và nghiêm minh, sẽ có thể xảy ra một số mâu thuẫn giữa các nhà quản lí danh mục với khách hàng, giữa nghiệp vụ quản lí danh mục với nghiệp vụ môi giới và tự doanh. Ví dụ: nhà quản lí danh mục có thể tiến hành nhiều giao dịch cho khách hàng trên mức cần thiết để thu phí hoa hồng. Nếu khách hàng chứng minh được rằng nhà quản lí danh mục đã thực hiện một số giao dịch nhiều hơn mức cần thiết thì công ty sẽ phải bồi thường thiệt hại cho khách hàng. Hoặc, nhân viên môi giới và tự doanh có thể lợi dụng tài sản của khách hàng để kiếm lợi cho riêng mình.
● Các nghiệp vụ khác: ngoài những nghiệp vụ trên, các tổ chức KDCK còn thực hiện các nghiệp vụ khác như: đăng kí, lưu kí và thanh toán bù trừ chứng khoán.
- Đăng kí chứng khoán: là việc ghi nhận quyền sở hữu và các quyền khác của người sở hữu chứng khoán.
- Lưu kí chứng khoán: là hoạt động lưu giữ, bảo quản, chuyển giao chứng khoán cho khách hàng và giúp khách hàng thực hiện các quyền liên quan đến sở hữu chứng khoán: quyền nhận cổ tức, ghi chép theo dõi những thay đổi về tình hình đăng kí, lưu kí chứng khoán, quyền tham gia đại hội cổ đông...
- Thanh toán bù trừ: là hoạt động thanh toán cho các giao dịch mua bán chứng khoán. Căn cứ vào kết quả giao dịch, các công ty chứng khoán tiến hành hạch toán bù trừ các giao dịch và xác định nghĩa vụ thanh toán cho các bên tham gia giao dịch chứng khoán.
1.3.2. Các nhân tố tác động đến hoạt động kinh doanh chứng khoán
● Môi trường kinh tế
Hoạt động kinh doanh chứng khoán luôn diễn ra trong một bối cảnh kinh tế cụ thể như tốc độ tăng trưởng hay suy thoái của nền kinh tế, mức độ ổn định của đồng tiền, của tỉ giá hối đoái, lãi suất, tỉ lệ tiết kiệm và đầu tư, chỉ số giá chứng khoán... Mỗi sự thay đổi của các yếu tố trên, đều tác động tích cực hay tiêu cực đến hoạt động kinh doanh chứng khoán.
Nền kinh tế tăng trưởng ổn định với tốc độ cao, nhu cầu đầu tư được mở rộng... là những điều kiện tốt cho các tổ chức KDCK phát triển. Ngược lại sự suy thoái của nền kinh tế, lạm phát gia tăng với tốc độ phi mã... sẽ làm cho hoạt động KDCK cũng như các hoạt động sản xuất kinh doanh khác bị đình trệ.
● Môi trường chính trị, pháp luật
TTCK rất nhạy cảm với các yếu tố chính trị, pháp luật, và do đó chúng có tác động trực tiếp đến các diễn biến trên TTCK nói chung, hoạt động kinh doanh chứng khoán nói riêng. Ngược lại, sự hoạt động của TTCK cũng có những ảnh hưởng lớn đến mọi mặt của nền kinh tế xã hội.
Hoạt động KDCK chịu nhiều ảnh hưởng của nhân tố chính trị. Các yếu tố của môi trường chính trị như thể chế chính trị, vấn đề an ninh, trật tự an toàn xã hội, quan điểm trong quan hệ ngoại giao và hợp tác kinh tế của Chính phủ với các quốc gia khác trong tiến trình toàn cầu hóa, trong xu thế chính trị mới... có sự gắn bó chặt chẽ và tác động trực tiếp đến hoạt động KDCK. Khi các nhân tố này không được bảo đảm sẽ tác động trực tiếp đến nhu cầu đầu tư chứng khoán và sự phát triển của các hoạt động KDCK.
So với các hoạt động kinh doanh khác, KDCK chịu sự điều chỉnh của các quy định pháp luật khá chặt chẽ và buộc các chủ thể kinh doanh phải tuân thủ. Các quy định này được ban hành nhằm mục đích:
- Bảo vệ quyền lợi chính đáng của các nhà đầu tư, đặc biệt là các nhà đầu tư cá nhân.
- Đảm bảo thị trường hoạt động trôi chảy và hiệu quả.
- Ngăn chặn các hoạt động tiêu cực trên TTCK.
- Giảm thiểu sự tác động tiêu cực của TTCK đến các hoạt động của nền kinh tế.
Các quy định pháp luật điều chỉnh trực tiếp hoạt động kinh doanh trên TTCK, nên có ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh chứng khoán. Một môi trường pháp luật hoàn chỉnh, sẽ xác định một cách rõ ràng trách nhiệm, nghĩa vụ, quyền lợi của các chủ thể tham gia thị trường, tạo điều kiện cho thị trường hoạt động hiệu quả, ổn định và phát triển bền vững. Ngược lại, hệ thống pháp luật không đầy đủ, đồng bộ; không phù hợp với môi trường kinh tế; thiếu thống nhất, nhiều kẽ hở sẽ tạo điều kiện cho các hoạt động kinh doanh không hợp pháp phát sinh, ảnh hưởng không tốt đến các tổ chức kinh doanh làm ăn chính đáng.
Bên cạnh sự điều chỉnh của hệ thống pháp luật trong lĩnh vực CK & TTCK, KDCK còn chịu sự chi phối của hàng loạt cơ chế, chính sách khác, đặc biệt là các chính sách tài chính có liên quan như: thuế, phí, lệ phí... Các chính sách này sẽ tác động trực tiếp đến kết quả, hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp qua đó có tác động kích thích, hoặc kìm hãm các hoạt động KDCK phát triển. Nếu hệ thống chính sách ổn định, hợp lí sẽ giúp các chủ thể kinh doanh ổn định các khoản chi tiêu, qua đó góp phần ổn định chi phí kinh doanh. Trong điều kiện TTCK chưa phát triển, hoạt động KDCK còn manh mún thì sự hỗ trợ bằng cơ chế chính sách tài chính của nhà nước là điều kiện cần thiết để củng cổ và khuyến khích các hoạt động KDCK phát triển.
● Sự phát triển của TTCK
TTCK phát triển là điều kiện quan trọng đảm bảo cho sự phát triển của các hoạt động KDCK, và ngược lại sự phát triển và hoàn thiện của các nghiệp vụ KDCK là yếu tố tác động tích cực đến sự phát triển chung của thị trường. Trình độ phát triển của TTCK (cao hay thấp) được thể hiện chủ yếu ở một số khía cạnh sau:
- Cung - cầu chứng khoán trên thị trường: TTCK phát triển khi các nguồn hàng hóa phong phú, đa dạng và có đông đảo các chủ thể tham gia mua bán.
- Cơ sở hạ tầng của thị trường: bao gồm hệ thống thông tin thị trường, hệ thống giao dịch, hệ thống lưu kí, thanh toán bù trừ... Thị trường phát triển khi cơ sở hạ tầng tiên tiến và đồng bộ. Các giao dịch chứng khoán sẽ được thực hiện một cách thuận lợi và giảm thiểu được rủi ro hệ thống.
- Sự hiểu biết của công chúng về TTCK: TTCK là thị trường bậc cao, các chủ thể tham gia thị trường nếu không am hiểu những kiến thức về TTCK thì nguy cơ rủi ro là rất lớn. Thị trường sẽ thực sự năng động, hấp dẫn khi nhà đầu tư có sự hiểu biết về CK & TTCK. Vì vậy, sự hiểu biết của công chúng về TTCK là một trong những nhân tố quan trọng tác động đến quy mô và hiệu quả KDCK.
- Quản lí nhà nước về TTCK: TTCK vốn chứa đựng trong bản thân nó những nguy cơ tiềm ẩn như hiện tượng thao túng thị trường, lừa đảo của những kẻ đầu cơ bất hợp pháp, mua bán nội gián. Đây là một trong những nguyên nhân làm cho TTCK có nguy cơ bị sụp đổ. Vì vậy, quản lí giám sát chặt chẽ mọi hoạt động của TTCK là điều kiện tiên quyết để có một TTCK hoạt động công bằng, công khai, minh bạch, hiệu quả. Một TTCK được quản lí chặt chẽ góp phần làm tăng tính hấp dẫn đối với các nhà đầu tư trong và ngoài nước...
● Năng lực của chủ thể kinh doanh
- Tiềm lực về tài chính
Dể tiến hành KDCK các tổ chức này phải có quy mô vốn nhất định để thuê được đội ngũ nhân viên có trình độ cao, để đầu tư máy móc, thiết bị thông tin hiện đại, để thực hiện các biện pháp hỗ trợ như quảng cáo, khuyến mại... Do đó vốn là tiền đề để nâng cao khả năng cạnh tranh của công ty. Tiềm lực tài chính của công ty không chỉ là số vốn hiện có mà còn thể hiện ở khả năng khai thác, sử dụng các nguồn lực tài chính trong và ngoài công ty để phục vụ cho chiến lược phát triển của công ty. Tiềm lực tài chính đủ mạnh cho phép công ty mở rộng quy mô và đa dạng hóa hoạt động, tối thiểu hóa chi phí, tối đa hóa lợi nhuận và giảm thiểu rủi ro trong hoạt động của công ty.
- Chất lượng nguồn nhân lực
Trong nền kinh tế tri thức, hàm lượng chất xám trong sản phẩm tạo nên sự khác biệt trong giá trị sản phẩm. Do đó yếu tố có tác động quyết định đến tăng giá trị sản phẩm chính là chất lượng nguồn nhân lực bao gồm cả trình độ của ban lãnh đạo, cũng như đội ngũ nhân viên và tinh thần thái độ làm việc của họ. Một công ty có đội ngũ các nhà quản lí điều hành giỏi, các nhân viên lành nghề có tâm huyết, tận tâm tận lực với công việc là điều kiện tốt đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển bền vững của công ty đó.
- Uy tín hoạt động
Uy tín hoạt động của một CTCK trên thị trường thể hiện ở sự ổn định khách hàng, sự gia tăng nhanh chóng thị phần và doanh thu từ các hoạt động. Uy tín hoạt động là sự đánh giá của khách hàng về sản phẩm dịch vụ của công ty, nhưng nó lại được hình thành bởi nhiều yếu tố khác nhau từ bên trong công ty như năng lực và uy tín của ban lãnh đạo, kinh nghiệm hoạt động, khả năng tài chính, chất lượng sản phẩm dịch vụ, trình độ chuyên môn của nhân viên, văn hóa phục vụ khách hàng... Uy tín của một công ty là tài sản vô hình mang lại lợi thế hoạt động kinh doanh cho CTCK. Cùng một sản phẩm dịch vụ trên thị trường, công ty nào có uy tín hơn sẽ có nhiều cơ hội mở rộng hoạt động và phát triển dịch vụ, chiếm lĩnh được thị trường hơn các công ty khác.
● Các nhân tố khác
Ngoài các nhân tố kể trên, sự phát triển của các hoạt động KDCK còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác như: phong tục tập quán tiêu dùng, thói quen đầu tư, thu nhập dân cư, hiểu biết của công chúng về CK & TTCK...
1.4. ĐẠO ĐỨC NGHỀ NGHIỆP TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CHỨNG KHOÁN
1.4.1. Tầm quan trọng của đạo đức nghề nghiệp trong hoạt động KDCK
1.4.1.1. Khái niệm đạo đức nghề nghiệp trong hoạt động KDCK
Đạo đức nghề nghiệp trong hoạt động KDCK là tập hợp các chuẩn mực hành vi, cách cư xử và ứng xử được quy định cho nghề nghiệp KDCK nhằm bảo vệ và tăng cường vai trò, tính tin cậy, niềm tự hào của nghề nghiệp KDCK trong xã hội.
Đạo đức nghề nghiệp trong hoạt động KDCK được thể hiện thông qua một số tiêu chí đánh giá như: mức độ chấp hành luật pháp, trình độ năng lực chuyên môn, tiêu chuẩn và quy trình hoạt động, đạo đức và niềm tự hào nghề nghiệp...
1.4.1.2. Tầm quan trọng của đạo đức nghề nghiệp trong hoạt động KDCK
- Đạo đức nghề nghiệp trong hoạt động KDCK là yếu tố quan trọng quyết định đến sự tin tưởng của khách hàng đối với những người làm nghề KDCK.
Các tổ chức thực hiện nghiệp vụ KDCK là các tổ chức cung ứng dịch vụ cho khách hàng. Để thu hút, lôi kéo được khách hàng đến với mình thì điều kiện tiên quyết là CTCK phải tạo được niềm tin, hay sự tin tưởng của họ. Bởi vì, một trong những tiêu chuẩn quan trọng để đo lường chất lượng các sản phẩm dịch vụ là uy tín của đơn vị cung ứng dịch vụ. Trên phương diện này đạo đức nghề nghiệp còn quyết định đến sự tồn vong của ngành KDCK.
- Thông qua các tiêu chuẩn đạo đức nghề nghiệp, các cơ quan quản lí nhà nước sẽ có cơ sở pháp lí để quản lí hoạt động của các tổ chức cung ứng dịch vụ KDCK, các tổ chức cung ứng dịch vụ KDCK sẽ quản lí được tình hình chấp hành tiêu chuẩn đạo đức nghề nghiệp của các nhân viên.
Một trong những tiêu chuẩn của đạo đức nghề nghiệp KDCK là phải làm việc theo đúng chuyên môn nghiệp vụ, đúng các quy trình công việc để tạo cho khách hàng niềm tin đã sử dụng dịch vụ từ những tổ chức chuyên nghiệp. Thông qua việc xây dựng và ban hành các tiêu chuẩn đạo đức KDCK buộc người hành nghề phải thực hiện nghiệp vụ theo đúng quy trình, đảm bảo chất lượng, mang lại hiệu quả cho mình và cho xã hội. Điều này cũng đồng nghĩa với các hành động trái với các chuẩn mực công việc, trái với tiêu chuẩn đạo đức nghề nghiệp sẽ bị xã hội lên án.
- Đạo đức nghề nghiệp góp phần xây dựng hình ảnh tốt đẹp của nhà KDCK. Sự tuân thủ đạo đức nghề nghiệp của người KDCK là yếu tố quan trọng góp phần tạo ra sự tin tưởng của khách hàng. Thông qua đó tạo được uy tín và hình ảnh tốt đẹp cho khách hàng. Chính điều này sẽ góp phần tạo nên mối quan hệ tốt đẹp giữa người KDCK và khách hàng, giữa những người KDCK với nhau. Từ đó tạo động lực cho sự phát triển của ngành KDCK.
1.4.2. Các chuẩn mực về đạo đức nghề nghiệp
1.4.2.1. Chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp đối với công ty thành viên
● Chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật nhà nước, các chế tài trong hoạt động kinh doanh
Việc các công ty chứng khoán, công ty quản lí quỹ, công ty lưu kí và thanh toàn bù trừ chứng khoán... có chấp hành pháp luật, các quy chế, chế tài liên quan đến hoạt động KDCK một cách đầy đủ và nghiêm minh hay không là một thước đo, đo lường chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp của công ty đó.
Mức độ chấp hành luật pháp KDCK của các tổ chức KDCK như thế nào phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: hệ thống pháp luật có đầy đủ và hoàn chỉnh không, hiệu lực pháp lí như thế nào, cơ chế kiểm soát của ngành và nội bộ công ty ra sao, ý thức chấp hành luật pháp của công dân nước đó có nghiêm minh không...
● Phải chú tâm đến công việc và cẩn trọng trong khi hành nghề
KDCK là một loại hình dịch vụ đặc trưng của các nền kinh tế có sự vận hành của TTCK. Loại hình dịch vụ này tốt hay không tốt có ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của nhà đầu tư và qua đó có ảnh hưởng lớn tới sự ổn định và phát triển của nền kinh tế - xã hội. Vì vậy, các yêu cầu về chữ tâm, chữ đức và tính cẩn trọng khi hành nghề được coi là một trong những thước đo đánh giá chuẩn mực đạo đức hành nghề KDCK.
Để đáp ứng được chuẩn mực này, các công ty thành viên phải tuyển dụng và xây dựng được đội ngũ cán bộ có trình độ, tận tụy và có tinh thần trách nhiệm với công việc, phải xây dựng quy trình hoạt động theo tiêu chuẩn thống nhất.
+ Hiểu khách hàng:
- Phải có sự nỗ lực mẫn cán và chuyên nghiệp nhằm tìm hiểu các thông tin tài chính, thông tin cá nhân cơ bản và các mục tiêu đầu tư của mỗi khách hàng.
- Các thông tin phải được cập nhật thường xuyên để phản ánh bất kì sự thay đổi quan trọng nào đối với hiện trạng của mỗi khách hàng.
+ Phù hợp với khách hàng:
- Mọi ý kiến tư vấn đều phải xem xét đến tình hình và mục tiêu đầu tư của khách hàng.
- Các ý kiến tư vấn phải dựa trên cơ sở sự hiểu biết về nhân thân và tài chính của khách hàng, sự phân tích các thông tin liên quan tới giao dịch cụ thể.
- Trong việc hướng dẫn hoặc tư vấn đầu tư phải chú tâm đến mức độ phù hợp của từng khách hàng đối với tính chất, quy mô và mức độ chấp nhận rủi ro của việc đầu tư chứng khoán.
+ Cẩn trọng khi hành nghề:
- Hướng dẫn và cung cấp đầy đủ cho khách hàng những kiến thức cơ bản và thông tin cần thiết trong quyết định đầu tư chứng khoán.
- Phải hướng dẫn và giải thích để khách hàng hiểu rõ những rủi ro khi quyết định đầu tư chứng khoán.
- Phân tích thông tin phải cụ thể, tỉ mỉ có số liệu hỗ trợ, phải nêu bật được những thông tin quan trọng và các thông tin có liên quan.
- Việc cung cấp thông tin và tư vấn đầu tư vào bất kì loại chứng khoán nào cũng phải được thực hiện trên cơ sở sự hiểu biết, kinh nghiệm đồng thời phải chỉ rõ đâu là thông tin sự kiện (thông tin thật), đâu là thông tin nhận định để tránh gây ra sự hiểu lầm.
- Cẩn trọng khi thực hiện các lệnh nếu phát hiện có dấu hiệu sử dụng thông tin nội bộ, hoặc cho rằng đó là những lệnh thao túng giá, hoặc lệnh mua bán không bình thường.
● Trung thực, công bằng và công khai trong hành nghề
Trung thực, công bằng, công khai trong hành nghề là một tiêu chí quan trọng đánh giá chuẩn mực đạo đức hành nghề kinh doanh. Đối với lĩnh vực KDCK - một loại hình kinh doanh dịch vụ đặc biệt, tiêu chuẩn này lại càng cần thiết và quan trọng, đảm bảo cho mọi nhà đầu tư đều có cơ hội đầu tư như nhau và được đối xử bình đẳng khi tham gia đầu tư chứng khoán.
Để thực hiện tốt chuẩn mực đạo đức này, các công ty thành viên phải hoạt động trung thực, trong sạch dựa trên nguyên tắc bình đẳng trong việc cung cấp dịch vụ. Cụ thể là:
+ Ưu tiên lợi ích của khách hàng:
- Phải đặt lợi ích của khách hàng lên hàng đầu. Xử lí lệnh của khách hàng theo thứ tự ưu tiên một cách công bằng và bình đẳng, ai đến trước phục vụ trước, ai đến sau phục vụ sau. Ưu tiên thực hiện lệnh mua bán của khách hàng trước lệnh của công ty, hoặc lệnh của nhân viên môi giới và dịch vụ chứng khoán.
- Không được sử dụng thông tin để mua bán chứng khoán cho riêng mình khi các thông tin chưa được cung cấp, hoặc có ý định dấu không cung cấp thông tin cho khách hàng.
+ Tôn trọng tài sản của khách hàng:
- Tài sản của khách hàng phải được quản lí tách riêng tài sản của công ty.
- Bảo vệ quyền lợi của khách hàng trong phạm vi nhiệm vụ, giữ bí mật các thông tin, số liệu của khách hàng.
- Lưu giữ bảo quản, đảm bảo an toàn các tài liệu chứng nhận quyền sở hữu chứng khoán của khách hàng.
+ Thông tin cung cấp cho khách hàng phải đầy đủ, chính xác, kịp thời, công bằng.
+ Không được đưa ra những lời hứa cả bằng văn bản lẫn lời nói mang tính chất đảm bảo về lợi ích sẽ thu được từ việc đầu tư vào chứng khoán của khách hàng.
+ Không có những hành vi, biểu hiện có thể gây ra sự hiểu lầm, hoặc ấn tượng không đúng về tính trung thực, độ tin cậy và văn minh giao dịch từ phía khách hàng.
+ Công ty thành viên không được:
- Nhận thu nhập trái phép thông qua việc thực hiện nhiệm vụ.
- Gợi ý thực hiện nhiệm vụ có lợi ích trực tiếp hoặc xung đột lợi ích với khách hàng.
- Làm những công việc có cam kết nhận, hay trả những khoản lợi ngoài thu nhập thông thường.
● Tính chuyên nghiệp
Tính chuyên nghiệp là một thước đo quan trọng đánh giá chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp của một tổ chức KDCK. Một công ty KDCK được đánh giá là một tổ chức chuyên nghiệp nếu nó đảm bảo được một số yêu cầu cơ bản sau:
+ Có quy trình hoạt động cụ thể cho từng nghiệp vụ kinh doanh, đảm bảo tính khoa học, thực tiễn, hiệu quả, phù hợp với các chế tài về quản lí KDCK và đáp ứng được yêu cầu của khách hàng một cách tốt nhất.
+ Nhân viên môi giới và dịch vụ chứng khoán phải thực hiện hoạt động nghiệp vụ một cách chuyên nghiệp.
Các tổ chức KDCK sử dụng người có chuyên môn phù hợp là thể hiện sự tôn trọng khách hàng và tôn trọng đạo đức nghề nghiệp.
- Phải nỗ lực liên tục và được đào tạo thường xuyên để duy trì chuẩn mực cao về kiến thức chuyên môn và các kĩ năng nghiệp vụ.
- Các lệnh và yêu cầu giao dịch khác của khách hàng phải được thực hiện theo yêu cầu và đúng quy định, đảm bảo được sự tôn trọng và tin tưởng của khách hàng.
- Các giao dịch được thực hiện bởi các nhân viên môi giới và dịch vụ chứng khoán đã được cấp phép hành nghề và được công ty cho phép giao dịch.
- Chỉ những chứng khoán niêm yết hoặc đăng kí giao dịch, hoặc những chứng khoán được công ty cho phép giao dịch mới được phép giao dịch và thể hiện trên sổ sách chứng từ của công ty.
● Bảo mật
Bảo mật tài sản của khách hàng có quan hệ giao dịch với công ty là một chuẩn mực đạo đức quan trọng của các tổ chức kinh doanh trong lĩnh vực tài chính ngân hàng nói chung và KDCK nói riêng.
Để thực hiện tốt chuẩn mực đạo đức này, nhân viên môi giới và dịch vụ của các công ty thành viên phải đảm bảo việc bảo mật chặt chẽ nhất đối với thông tin của khách hàng. Cụ thể là:
- Tất cả các thông tin liên quan đến giao dịch và hồ sơ của khách hàng phải được coi là bí mật và không được phép tiết lộ trừ khi được khách hàng cho phép hoặc theo quy định của pháp luật.
- Không được thảo luận bất kì thông tin nào của khách hàng với người không có liên quan, phải đảm bảo rằng hồ sơ, hoặc các giấy tờ khác về khách hàng không bị lấy đi hoặc không bị quan sát.
- Thông tin về khách hàng không được sử dụng dưới bất kì hình thức nào nhằm tác động tới các giao dịch vì lợi ích cá nhân nhân viên KDCK, công ty khác hoặc khách hàng khác.
1.4.2.2. Đạo đức nghề nghiệp đối với cá nhân hành nghề chứng khoán
Tùy theo từng ngành nghề kinh doanh mà các tiêu chuẩn về đạo đức nghề nghiệp có những đòi hỏi khác nhau. Nhìn chung yêu cầu đạo đức nghề nghiệp đối với cá nhân hành nghề chứng khoán bao gồm:
- Có trình độ chuyên môn và kĩ năng nghề nghiệp trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng, chứng khoán.
- Tuân thủ các quy định của pháp luật, các quy chế, quy định trên TTCK. Cá nhân hành nghề chứng khoán không được thực hiện các hoạt động bị cấm, không tạo điều kiện giúp người khác vi phạm pháp luật, không trục lợi từ thông tin nội bộ, hành động vì mục tiêu trục lợi cá nhân, gây nên những tác động xấu cho thị trường.
- Có trách nhiệm phối hợp với các cơ quan quản lí nhà nước, cơ quan quản lí thị trường để phát hiện và loại bỏ các hiện tượng tiêu cực, đảm bảo thị trường hoạt động minh bạch, công bằng, công khai và hiệu quả.
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top