till we meet again
"Tôi tự hỏi khi chết đi, người ta để lại gì cho thế giới."
Goodbye
Tin tức cầu thủ Michael Kaiser giải nghệ tràn ngập khắp các trang tin tức, chỉ một tuần sau khi đội tuyển Đức đăng quang tại Giải vô địch bóng đá thế giới 2034. Nguyên nhân xuất phát từ một bài phỏng vấn độc quyền, trong đó chính chủ để lộ lời ngỏ "Chưa có kế hoạch cụ thể cho tương lai". Ở tuổi ba mươi lăm, từng giành vô số giải thưởng danh giá, cũng đã đặt chân đến ngôi đền dành cho các huyền thoại, không có gì lạ nếu hiện tại Michael Kaiser có ý định dừng chân. Người hâm mộ có lẽ sẽ tiếc nuối, nhưng là niềm tiếc nuối khoảnh khắc trọn vẹn. Người nào người nấy tin rằng sự nghiệp của tiền đạo mang áo số 10 đã trở thành giấc mộng mà vô số cầu thủ về sau khi bước lên con đường trải thảm cỏ xanh đều sẽ phải ngưỡng vọng theo đuổi.
Nếu có thứ gì đáng để người ta bàn luận, có lẽ chỉ còn có cuộc sống cá nhân của Michael Kaiser.
Có một khoảng thời gian, áng chừng trước khi tiền đạo này chạm mốc hai mươi tuổi, những tin đồn liên quan đến chuyện tình ái của hắn thường xuyên có mặt trên các trang báo và mạng xã hội. Người ta thậm chí kháo nhau rằng tìm được một minh tinh không có dính dáng đến Kaiser khéo còn khó hơn kiếm sao trên trời. Nếu hắn chỉ là một người bình thường, không nghi ngờ gì sẽ bị gán cho cái danh "cờ đỏ di động" kèm theo thái độ dè bỉu khinh ghét. Nhưng tiếc thay, hắn lại là cầu thủ bóng đá, là ngôi sao thiên tài mà bất cứ ai cũng không thể phủ nhận tài năng, cộng với ngoại hình trời ban, như một lẽ hiển nhiên, người ta chỉ đành nhún vai xí xóa, tách biệt chuyện trên sân với ngoài đời.
Đây là điều mà rất nhiều người đã lãng quên, bởi trong suốt – phải đến hơn một thập kỷ – Kaiser dường như trở thành một người khác, và không biết từ bao giờ những câu chuyện xoay quanh hắn chỉ còn lại trong phạm vi trái bóng và cầu môn. Bất kể cánh phóng viên cố gắng săm soi ra sao, cũng chẳng tìm được bông hồng nào trong tay hoàng đế. Có một thời người ta coi Kaiser là mẫu hình đàn ông lý tưởng chỉ bởi đời sống cá nhân của hắn xa rời những cuộc hội họp trăng hoa.
Nhưng ở tuổi ba mươi lăm thì tính chất của sự việc đã thay đổi. Tình trường của hắn, kể từ sau mốc hai mươi, sạch sẽ đến mức đáng ngờ. Thậm chí có chuyển hướng sang phạm vi giới tính khác cũng chẳng khoanh vùng được ai. Bây giờ tin đồn dấy lên, có thể nói trong thời gian ngắn đã trở thành đề tài được bàn tán sôi nổi.
Hết thảy việc đó, Kaiser đều không để tâm.
Hắn tự hỏi sự thay đổi ấy bắt đầu từ khi nào. Trước kia hắn lờ đi mọi chuyện chỉ bởi cho rằng những kẻ đó quá mức nhàm chán, chẳng xứng để hắn phải trích ra một phần quỹ thời gian quý giá của mình. Còn bây giờ, một cách đúng nghĩa, hắn không quan tâm, cảm thấy những việc đó không mảy may dính dáng tới bản thân, như thể người mà họ đang nhắc tới là một ai không phải Michael Kaiser vậy.
"Cậu nhạt nhẽo quá đấy". Không phải một câu nhận xét dành cho Kaiser, mà là lời hắn đã từng nói với một ai đó. Gần như ngay lập tức trong tâm trí hắn thoáng hiện lên một bóng hình. Một cái tên. Đã bao lâu hắn không còn gọi thành tiếng những âm tiết ấy? Có cảm tưởng ký ức đã rời đi thật xa, đôi khi muốn nhớ nhung lại không biết phải bắt đầu từ đâu, hay thậm chí điều mình tưởng là sự thật liệu có thật sự tồn tại.
Vậy nên tất cả những gì Kaiser có thể làm là hy vọng trí nhớ của mình mạnh mẽ hơn cả thời gian.
Niềm tin ấy dẫn hắn đến một nơi rất xa, nơi trong quá khứ mà hắn nghĩ đã từng diễn ra một cuộc hội thoại. Trước mốc hai mươi, hắn chỉ có thể chắc chắn điều ấy. Có lẽ khi đó mối quan hệ giữa cả hai đã bắt đầu dịu đi, chí ít vừa đủ để họ không lườm nguýt hay chửi mắng nhau mỗi lần gặp mặt, hay thậm chí khoảng cách đã được rút ngắn đến độ hắn có thể thoải mái thốt ra một điều đánh giá cuộc sống thường nhật của đối phương: "Cậu nhạt nhẽo quá đấy". Hoặc cũng có khi "Không hiểu sao cậu có thể sống một cách nhàm chán như vậy".
Và mặc dù không còn nhớ, nhưng Kaiser tự tin hắn có thể đoán được phản ứng của người kia. Thái độ chưa bao giờ thay đổi mỗi lúc họ ở cùng nhau. Bằng cách nào đấy thay vì phát chán, hắn lại cảm thấy mỗi ngày trôi qua đều tràn ngập sự thú vị.
Nó làm Kaiser nhớ đến con thỏ mình từng nuôi. Đó là một con thỏ nhà, nếu không nhầm thì thuộc giống Alaska, lông đen, mắt đen, Kaiser vẫn còn nhớ lần đầu tiên nhìn thấy nó, hắn đã thẳng thừng chê bai "Cái gì mà đen thui thế này", để rồi nhận về cái cốc đầu của mẹ kèm theo lời dạy dỗ: "Người ta gọi đây là đen tuyền hoặc đen nhánh, không ai tả thứ gì đẹp mà dùng từ đen thui. Học hành chưa đến đâu mà cứ suốt ngày đi đá bóng!". Kaiser thuở nhỏ đúng là hay ham chơi bỏ học, nhưng vốn từ vựng của hắn chẳng tệ như mẹ nói, hắn dùng từ "đen thui" chỉ bởi thật sự cảm thấy con thỏ đó xấu xí vô cùng. Đối với thằng nhóc Kaiser với cái đầu bị nhồi cả đống thông tin cũ rích từ ti vi mà nói, thỏ đẹp phải là thỏ trắng, một bộ lông trắng mượt mà với cặp mắt đỏ rực như đá quý, còn cái thể loại đen sì từ trên xuống dưới như con vật mà mẹ hắn mang về kia, Kaiser vừa nhìn đã thấy chán ghét.
Hắn không biết mình đã ghét nó trong bao lâu, nhưng cảm xúc ấy cho đến cuối cùng lại biến thành yêu thích. Đây là điều mà phải sau rất nhiều năm, Kaiser mới chịu thẳng thắn thừa nhận. Vì sự thật là dù ở chung một quãng thời gian không ngắn, hắn và con vật nuôi cũng khó mà được tính là thân thiết cho nổi. Chí ít thì theo cách nhìn thông thường, hắn không phải một người chủ tốt. Hắn hoàn toàn chỉ coi nó là một món đồ chơi, vui thì cưng chiều, bực thì quát mắng. Cuộc sống của Kaiser xưa nay không tồn tại khái niệm chúng sinh bình đẳng, vậy nên hắn chẳng bao giờ có thể đối xử với con thỏ đó như một thành viên trong gia đình. (Và do đó, Kaiser cũng không hiểu được tại sao có nhiều người yêu thương thú cưng chẳng khác gì đứa con tự mình rứt ruột đẻ ra; ôi thôi nào, con người và động vật đứng cạnh nhau ra sao khi mà năm xưa chính Thượng đế đã lựa chọn chỉ thổi hồn cho thụ tạo duy nhất là nhân loại?).
Điều đó, hiển nhiên, khiến người khác nghĩ rằng hắn đã nắm chắc con thỏ trong lòng bàn tay, với Kaiser thì niềm tin ấy còn càng thêm chắc chắn, cho đến khi hết lần này đến lần khác hắn bị nó chống đối kịch liệt. Ai bảo nó là thỏ nhà, Kaiser cảm thấy nó chẳng khác bao một con thú hoang chưa được thuần hóa, sờ một tí thôi mà đã nhe răng gầm gừ, làm như hắn chuẩn bị vặt lông đem nướng nó chẳng bằng. (Dù quả thực không dưới mười lần Kaiser từng đe dọa như thế; hắn đồ rằng con thỏ này nghe hiểu tiếng người).
Đỉnh điểm phải kể đến cái lần hắn bị thỏ cắn. Không phải chó dữ, mà chỉ là một con thỏ với bề ngoài vô hại. Vì chuyện đó mà hắn bị cả nhà cười cợt suốt mấy tuần, bởi lẽ con vật nuôi thân thiết với tất cả thành viên trong gia đình, ngay đến người hàng xóm cả tháng họa chăng gặp được một lần cũng được nó nhào vào lòng làm nũng, chỉ riêng Kaiser là nhận được sự "đối xử đặc biệt". Kaiser tự hỏi hắn đã làm gì, nhưng rốt cuộc chẳng thể nhớ ra. Ấn tượng duy nhất còn đọng lại trong trí nhớ, là hắn đã rất hưởng thụ cảm giác bị căm ghét này. Khoái cảm sinh ra từ ý nghĩ dù có ghét bỏ đến đâu nó cũng chẳng cách nào thoát khỏi bàn tay mình. Hắn nắm giữ cuộc sống của nó, có quyền định đoạt sinh mệnh nó. Ý nghĩ thuộc về kẻ thống trị đem đến cho Kaiser một sự yên tâm tuyệt đối.
Đó là lần đầu tiên trong đời niềm tin của Michael bị Thượng đế phản bội.
Con thỏ chết vì bị xe tông. Ở trước cửa phòng khám thú y, nó đột nhiên nhảy khỏi lồng và bị một chiếc ô tô phóng vụt qua cán phải. Kaiser nghe kể lại như thế. Khi đó hắn đang trên đường trở về nhà sau một bữa tiệc liên hoan.
Đó là chuyện của rất nhiều năm về trước. Kaiser chẳng thể kể được hắn đã có phản ứng thế nào, dù vậy, vào cái lần chợt nổi hứng kể chuyện xưa, hắn đã nhận được câu hỏi thế này:
"Anh có khóc không?"
Hẳn là không. Không ai khóc chỉ vì đánh mất một món đồ chơi. Cùng lắm là chút tiếc nuối nếu có vô tình nhớ về. Thế nhưng bằng cách nào đấy trong đầu hắn có đọng lại một đoạn ký ức mơ hồ. Một ngày nào đó, lúc ban mai, bầu trời bên ngoài hãy còn mang màu xám xịt, Kaiser giật mình tỉnh giấc với ý nghĩ con thỏ đang nằm bên cạnh mình. Hắn mơ thấy nó trở về. Niềm tin ấy ở lại cùng hắn hai giây trước khi bay ra khỏi cửa sổ theo tiếng thúc giục của cơn gió đầu đông. Còn Kaiser, bỗng cảm thấy chiếc giường trống trải một cách lạ lùng.
"Anh thì có bao giờ lưu luyến thứ gì."
Hắn không kể với ai điều đó, vậy nên ai cũng tưởng hắn lạnh lùng thờ ơ. Kaiser chưa bao giờ thanh minh, có điều không biết vì sao chỉ duy trước câu nhận xét ấy, hắn lại cảm thấy uất ức vô cùng. Nhưng sự kiêu ngạo đã trở thành bản tính khiến hắn chỉ đáp lại bằng một nụ cười trông như thể thừa nhận.
Liệu cậu ấy có thất vọng hay không? Từ khi nào hắn lại lo lắng những chuyện dư thừa như thế. Hắn chưa bao giờ để ý đến cảm xúc của bất kỳ ai ngoài bản thân, bởi vì chẳng có ai quan trọng hơn cái tôi của chính hắn. Nhưng câu hỏi ấy lại xuất hiện trong đầu khi hắn nhìn thấy cái nhíu mày của người ở đối diện. Hẳn là cậu ấy đã nói thêm gì đó, một lời mỉa mai hoặc chê cười. Kaiser không thể nhớ ra, và hắn biết sẽ chẳng có cách nào kiểm chứng nếu có ngày trong tương lai hắn chợt tỉnh khỏi giấc chiêm bao và một ký ức nào đấy thoáng lướt qua cơn mơ màng.
Lúc này, bằng một cái hứng không thể gọi ngay thành tên, Kaiser chợt muốn truy tìm ngọn nguồn câu chuyện, về lý do hắn đã bắt đầu cuộc hội thoại trong một lần nào đấy cả hai ở riêng với nhau:
"Cậu trông giống con thỏ mà tôi từng nuôi hồi bé."
Đó sẽ là một lời khen nếu đối phương thuộc phái nữ, còn trong trường hợp này, thật khó để người khác nghĩ rằng Kaiser không có ý đồ xấu xa khi lựa chọn cách so sánh như vậy. Không ngạc nhiên nếu cậu ấy phản ứng lại một cách gay gắt, hẳn cậu cho rằng hắn đang có ý chê cười dáng vẻ nhỏ bé hoặc sức lực yếu ớt của người Á Đông. Quả thực Kaiser vẫn luôn giữ quan điểm (hoặc định kiến) như thế, nhưng trong trường hợp này, mặc dù khó tin, đó thật sự là một suy nghĩ hết mực đơn thuần. Ý nghĩ ấy đã xuất hiện trong đầu hắn ngay từ khoảnh khắc đầu tiên tiếp xúc với mái tóc cậu, rằng mặc kệ bản thân có bao nhiêu ý cười chê giễu cợt khi làm ra hành động như thế, sự thật là Kaiser đã không cầm được lòng mình mỗi khi nhớ đến cảm giác mềm mại dưới lòng bàn tay. Một cảm giác thân quen, một màu sắc thân quen. Bằng cách nào đó ký ức thuở ấu thơ lại được khơi lên bởi một người con trai xa lạ ở bên kia bán cầu.
"Nếu ở trong thế giới động vật, cậu chắc chắn là con thỏ."
"Còn anh là gì, vẹt à?"
"Tôi đương nhiên là chúa tể rừng xanh."
"Ừ, cũng giống anh." Hiếm có khi cậu tỏ ra đồng tình với ý kiến của hắn, thậm chí còn nhoẻn miệng tươi cười. "Một con sư tử lúc nào cũng khoe mẽ cái bờm của mình."
Kaiser tưởng tượng lúc ấy cậu đang cầm điện thoại di động trong tay, trên màn hình hiển thị bức ảnh hiếm hoi của hắn khi còn chưa gia nhập Bastard München; hoặc là một dịp nào cách đấy không lâu, quá khứ của hắn bỗng bị đào lên và bại lộ trước mắt cậu. Đó chẳng phải điều gì đáng xấu hổ cần giấu giếm, thậm chí hắn có thể nhân đó mà tỏ ra tự cao rồi khoe khoang (như "Trong lúc tôi đã đặt chân lên nấc thang dẫn đến vị trí số một thế giới thì cậu vẫn còn đang loay hoay với cái triết lý nhàm chán kia" chẳng hạn); nhưng rốt cuộc tất cả những gì xuất hiện trong mắt hắn vào thời điểm ấy, chỉ là một tên tiền đạo non nớt với đầy rẫy khuyết điểm. Hắn không để bản thân trong quá khứ vào mắt, và tự ý cho rằng người kia cũng tương tự.
Nhưng sự thật là cậu ấy đã không thốt ra bất cứ lời nào về chuyên môn của cả hai. Có lẽ việc thẳng thắn khen ngợi trước mặt đối phương vẫn là một điều quá sức đối với bọn họ. Thay vào đó, cậu chỉ đưa ra lời nhận xét kèm theo vẻ mặt ghét bỏ. "Sao anh có thể sống với quả đầu như thế nhỉ."
Mái tóc vàng hoe, dài và dày, không được chăm sóc cẩn thận. Đến Kaiser cũng không hiểu được tại sao ngày xưa hắn có thể để được kiểu tóc chẳng khác gì bờm sư tử; hắn coi đấy là quá khứ không hoàn thiện của bản thân, và với ai cũng được, nhưng riêng trước đối thủ trời sinh của mình, hắn không muốn để lộ bất kỳ khuyết điểm dù là nhỏ nhất. Kaiser tự cho đấy là lý do khiến hắn muốn giấu đi quãng thời gian còn mặc chiếc áo in sau lưng con số 11.
Dù nghĩ thế, rốt cuộc hắn vẫn không ngăn được một thoáng ký ức tìm về khi hồi tưởng những chuyện đã qua.
"Tôi nghe Ness kể kiểu tóc của anh bây giờ là do anh ta làm cho."
Kaiser tự hỏi mối quan hệ giữa cậu ấy và tên hầu của mình đã tốt lên từ lúc nào, khi mà cả hai có thể cùng trò chuyện với nhau một vấn đề bình thường đến thế. Nhưng rồi hắn nghĩ, ngay cả với mình cậu ta còn có thể chấp nhận làm lành, huống hồ chỉ là mấy kẻ râu ria. Từ trong thâm tâm, Kaiser tự cho mình chiếm giữ một vị trí quan trọng trong lòng người đó.
"Anh nhuộm tóc xanh là để tương thích với hình xăm trên cổ à?"
Kaiser không trả lời ngay. Luôn là như thế, bất kể vấn đề có đơn giản đến đâu, hắn cũng phải chọn cách quanh co vòng vèo mới chịu. Vậy nên hắn nói, cậu đoán xem. Kỳ thực Kaiser chẳng còn nhớ rõ. Có lẽ là nhiều lý do cộng lại: Ness gợi ý màu xanh, và hắn cảm thấy màu này không tệ, vừa trùng màu mắt, vừa tiệp với màu của hình xăm. Kaiser không đặc biệt yêu thích màu sắc nào, chỉ là vừa hay sắc xanh trong cuộc đời hắn chiếm khá nhiều ý nghĩa. Bầu trời xanh nơi trú ngụ của thiên thần. Hoa hồng xanh biểu trưng cho những điều bất khả thi. Vừa là trời cao, vừa là biển thẳm. Vừa bao dung, cũng vừa ích kỷ. Kaiser biết một người mang hai mặt đối lập như thế.
Nghiêm túc mà nói, vòng quan hệ của Kaiser xưa nay rất rộng, và mặc dù không kể được rõ, nhưng hắn dám chắc đó không phải người đầu tiên mình gặp trong đời mang kiểu tính cách đặc biệt như vậy. Luôn có những người đặc biệt hơn, và điều đó khiến chẳng còn ai là đặc biệt.
Nhưng hắn đã gặp cậu ấy. Trong hàng tỷ người trên thế gian, đó là người duy nhất hắn đã đặt sự chú tâm vào. Mọi giả định đều là vô nghĩa trước định mệnh. Kaiser không thật sự tin vào Thượng đế, nhưng hắn tin có một thế lực vô hình vẫn luôn dẫn dắt bước chân người đi. Điều đó, bằng cách nào, trái ngược hoàn toàn với câu cửa miệng của Kaiser, rằng hắn là người phá vỡ mọi giới hạn, là kẻ phản nghịch Chúa Trời. Có lẽ đôi khi thỏa hiệp cũng không phải một lựa chọn quá tồi tệ.
"Không nói thì thôi."
Câu ấy tự nhiên bật khỏi trí nhớ của Kaiser, trong một thoáng ngẩn ngơ hắn để nó bay vụt mất. Ký ức khuyết mảnh khiến hắn chẳng thể nhớ ra ngữ cảnh của lời nói, do thế tự ý đặt nó vào khoảng trống mà bản thân chưa thể viết tiếp được.
"Anh nhuộm tóc xanh là để tương thích với hình xăm trên cổ à" – "Cậu đoán xem" – "Không nói thì thôi".
Có lẽ là như thế. Sự hợp lý khiến hắn ảo tưởng đó là sự thật. Hắn lại tự hỏi mình đã nói gì. Hắn biết phải là một lời nào khiến cậu không thể đơn phương chấm dứt cuộc trò chuyện. Sẽ không phải một câu khiêu khích như mọi khi. Một câu hỏi, hắn đoán. Cậu có từng nghĩ đến việc nhuộm tóc không? Như màu của tôi chẳng hạn. Và cậu ấy đáp, giọng điệu có đôi phần bỡn cợt. Anh đổi sang màu tóc của tôi xem, biết đâu tôi sẽ suy xét đấy.
Kaiser không cho rằng màu đen hợp với mình, và hắn cũng nghĩ tóc sáng màu không dành cho đối phương. Thế nhưng hắn vẫn cố tình nói, vậy thì ngày mai tôi đi nhuộm, cậu cũng nhớ phải giữ lời.
Cậu cười cợt đáp lại, đã ai hứa gì với anh đâu. Thế nhưng cuối cùng màu sắc của chính mình vẫn xuất hiện trên mái tóc của người kia. Cậu không thay đổi toàn bộ, chỉ là gảy light. Một dạng tạo kiểu nhút nhát, Kaiser cho là thế. Xen vào màn trời đêm là những tia nắng nhàn nhạt. Người ngoài dễ dàng nhận ra, họ suy đoán, đơm đặt, tự hỏi đã có chuyện gì xảy đến giữa hai tài năng trẻ. Hình như Ness đã tức giận, chắc vì hình ảnh hoàng đế cậu ta tôn sùng bỗng dưng biến mất chỉ sau một đêm. Vài người đồng đội khác lại huýt sáo trêu chọc: hoàng đế của chúng ta vẫn chưa nhận ra bông hồng của mình đã bị trộm mất. Hội Blue Lock thì vẫn như mọi khi, đám đó hẳn nghĩ hắn đang ủ tính âm mưu gì. Thậm chí còn nghe kể lại mẹ của cậu sau khi biết chuyện đã gọi điện mắng yêu: "Con mới sang Đức có một tháng mà đã bị hòa tan rồi". À, một dạng quan niệm mà Kaiser vẫn gọi là kiểu Á Đông. Hắn không ghét nó, trên thực tế, Kaiser cảm thấy đây là điểm thu hút nhất của những con người vùng đất này.
Nhưng bỏ qua tất cả, điều duy nhất mà Kaiser quan tâm vào thời điểm ấy, rốt cuộc chỉ có: "Màu đen chẳng hợp với anh chút nào."
Không cần thử cũng đã biết trước kết quả, thế nhưng Kaiser vẫn cố chấp thực hiện. Chẳng vì một lý do nào đặc biệt, chỉ là cái hứng bỗng nảy lên trong một cuộc trò chuyện không có chủ đích. Cũng chẳng thèm suy xét kỹ càng. Hắn tự hỏi cậu ấy liệu có giống mình hay không.
Hắn nói, cậu cũng chỉ hợp với màu đen thôi.
Không phải là để kiểu tóc này không đẹp, thậm chí ngược lại, Kaiser không kể nổi đã có bao nhiêu người hâm mộ phát cuồng bởi vẻ ngoài mới mẻ của cậu ta. Giống như con thỏ nhà bỗng ra vẻ dữ dằn của thỏ hoang, và con người thì luôn bị hấp dẫn bởi những sự đối lập giữa tính cách và ngoại hình. Kaiser cũng cảm thấy đó là một điều thú vị đáng để thưởng thức.
Thế nhưng trong trường hợp này, hắn không mảy may do dự khi đi đến kết luận rằng mình thích màu đen. Hắn có phần hối hận khi khích bác cậu thay đổi. Không cần phải thay đổi gì hết. Bấy giờ Kaiser lại bắt đầu nhớ nhung mái tóc tuyền một màu của cậu, rồi hắn nhớ đến lời của mẹ: Nếu thích thì phải dùng từ "đen nhánh".
Hắn thấy thấp thoáng trước mắt mình một buổi đêm, họ ngồi cạnh nhau, rượu và trà đặt trên bàn đã vơi đi quá nửa; bàn tay hắn vươn ra luồn vào thớ tóc non mềm của cậu, không gặp bất kỳ sự phản kháng nào.
Khóe môi hắn nhếch lên, nói trong ý cười.
"Mới thế mà đã say rồi sao."
God be with you
Máy bay từ từ hạ cánh xuống đường băng.
Kaiser giật mình tỉnh giấc. Từng luồng âm thanh vừa xa lạ vừa quen thuộc lọt vào tai. Hắn có cảm tưởng mình vừa trải qua một chuyến đi thật dài, thực tế chỉ là một chớp mắt mơ màng trên máy bay. Kaiser tự bấu mình một cái, nhận ra đây là hiện thực. Không biết vì sao hắn chợt thấy nản lòng, trong một thoáng thật sự đã muốn mở điện thoại lên để tra cứu chuyến bay trở về Đức. Nhưng ngay khoảnh khắc ngoảnh ra ngoài cửa kính và bắt gặp cột mây màu trắng tinh khôi, hắn nghĩ – tự tìm cho mình một lý do nghe có vẻ chính đáng:
Đằng nào cũng tới rồi.
"Đằng nào cũng tới rồi, sao anh không ở lại một hôm."
Ra khỏi sân bay, lại đi thêm khoảng ba mươi phút nữa. Lúc xuống xe đã là hơn chín giờ. Tháng Bảy, tiết trời oi ả. Cái nóng hầm hập như muốn xua đuổi con người. Đứng dưới nắng một lúc mà trán đã bắt đầu rịn mồ hôi. Có nhóm du khách đi ngang qua, hắn nghe loáng thoáng có tiếng than phiền thời tiết khó chịu: Đáng lẽ không nên tới Nhật vào thời điểm này.
Đúng là không nên. Kaiser lẩm bẩm đồng tình. Ấy vậy mà đây đã là lần thứ hai hắn đặt chân đến đây, vào mùa này, sau mười lăm năm chôn giấu kỷ niệm trong ký ức.
Asakusa.
Sau chừng ấy thời gian, tất cả những gì hắn còn nhớ về nơi này là một ngôi chùa có cùng tên gọi. Đó là nơi hắn từng được dẫn đến. Bây giờ, vũ trụ xoay vòng, nhưng để quên một người đã từng cùng hắn kề bên.
Một chuyến du lịch không nằm trong lịch trình. Mới chỉ nửa tháng trôi qua kể từ trận chung kết Cúp Thế Giới, và một tuần từ khi người ta bắt đầu đồn đoán Michael Kaiser sắp giải nghệ. Hắn tự hỏi họ sẽ lại suy diễn câu chuyện gì nếu phát hiện hắn có mặt ở đây, sau khi gạt hết sang một bên những lời mời phỏng vấn và quảng cáo.
Nhưng hắn biết dù thế nào họ cũng sẽ không tìm ra câu trả lời, bởi ngay chính hắn cũng chẳng biết được lý do. Chỉ là một chuyến đi nằm ngoài mọi kế hoạch. Chỉ là trong một phút ngấm men say hắn nhìn thấy ngôi chùa có tên Asakusa Kannon xuất hiện trên chương trình ti vi buổi tối.
Asakusa Kannon, hoặc Sensoji. "Nếu đến vào mùa xuân thì sẽ còn đông nữa."
Đó là một ngày mùa hạ khi họ đặt chân đến Asakusa. Bắt tàu điện, là cậu ấy dẫn hắn đi. Trong ký ức của Kaiser vẫn còn thấp thoáng một chuyến tàu. Có lẽ là ban trưa, cả khoang tàu như chìm trong ánh sáng, sáng đến nỗi ngay cả trong giấc mơ cũng khiến hắn nheo mắt nhíu mày. Nhưng lại không có cảm giác khó chịu. Ánh nắng rất mực dịu dàng, lả lướt trên làn da như đùa giỡn. Họ ngồi trên ghế, đối diện nhau, cùng ngoảnh ra ngoài cửa sổ. Hắn chẳng còn nhớ ngoài ấy có gì. Hắn cũng chẳng thể xác định đó có thật sự là chuyến tàu mà họ đã đi để đến Asakusa hay không. Nếu không, Kaiser nghĩ, thì ra họ đã cùng nhau trải qua nhiều chuyến đi đến vậy.
Tháng Bảy, người đổ về đây không đông. Kaiser rảo bước trên đường. Quần jean, áo phông trắng, áo khoác, khẩu trang màu xám và chiếc mũ rộng vành vừa mua ở một gian hàng ven đường.
Hắn kéo ống tay áo, nhìn thời gian hiển thị trên mặt đồng hồ. Mười một giờ hai phút đêm. Chiếc đồng hồ hắn mới mua cách đây không lâu, ở một khu chợ bán đồ cũ. Hắn có một chiếc giống y hệt ở nhà, là món quà nhận được trong đêm sinh nhật của cậu.
Kaiser thả chậm tốc độ, vừa đi vừa nhìn gian hàng dọc hai bên đường. Những bộ kimono đầy màu sắc, túi vải, búp bê, guốc gỗ, chuông gió, lồng đèn, vài món phụ kiện kỳ lạ mà hắn không gọi được tên. Mùi thơm ngậy của bột mì và đường lan tỏa trong không khí. Hắn dừng bước, dùng thứ tiếng Nhật học vội để mua một xiên kẹo. Hai viên màu trắng, mềm mềm dẻo dẻo, chẳng biết là kẹo gì. Hắn cắn một miếng. Ngọt quá, hắn nghĩ. Nhưng không tìm thấy thùng rác để bỏ đi, chỉ đành cố nuốt xuống toàn bộ. Có cảm giác viên kẹo tan chảy và dính khắp khung xương lồng ngực; không thấy ngọt ngào, trái lại căng ứ như thể bị nghẹn. Hắn tự hỏi đây có phải hương vị mà mình đã từng buông lời chê bai vào mười lăm năm trước hay không. "Anh không thích đồ ngọt à?". Đúng là không thích, nhưng hắn nhớ vị kẹo khi ấy không ngọt khé cổ họng như thế này, chí ít hắn đã không phải cau mày khi nuốt xuống, cũng cảm nhận được hương vị ngọt ngào dễ chịu.
Kaiser ngẩng lên, trông thấy một gian hàng ở đằng xa. Tựa như hình ảnh đè chồng, trong tầm mắt hắn bỗng nhiên xuất hiện một khung cảnh chẳng khác. Bầu trời trong xanh, cao như thể dẫn thẳng tới thiên đường. Đèn lồng đỏ thắm đung đưa trước mỗi cửa tiệm. Dòng người đông đúc chậm trôi. Thanh âm ồn ã càng làm không khí thêm nực nội. Rất nhiều, rất nhiều điều khác nữa. Hết thảy tạo nên một khung cảnh ngày hè tươi vui. Hết thảy đều như mờ nhòa vào giờ khắc ấy. Trong mắt Kaiser, chỉ còn duy nhất một dáng hình hiện lên rõ ràng sống động. Bóng lưng mảnh khảnh, lọn tóc đen nhánh lộ ra từ chiếc mũ lưỡi trai, âm thanh truyền qua lớp khẩu trang rằng: Nhanh chân lên! Hình như cậu đã cất tiếng thúc giục như thế. Cậu không dám gọi tên hắn giữa đám đông, sợ rằng cả hai sẽ bị phát hiện. Nhưng cậu không biết khi ấy đã có vài người len lén liếc qua, Kaiser đoán họ nhận ra nhờ vào giọng nói. Cậu ấy có một chất giọng đặc trưng. Hắn nhớ đến việc bản thân luôn cố tình khiêu khích chọc ghẹo để rồi nhận về tiếng gằn Kaiser từ cậu. Mặc dù chưa bao giờ thừa nhận, nhưng Kaiser nghĩ mình hơi thích thanh âm ấy. Nhưng chỉ vậy mà thôi. Hắn chẳng thể kể thêm những gì thuộc về nó nữa. Mùi hương và thanh âm là hai thứ mà Kaiser cho rằng thực dễ tan biến trên trần đời. Không tồn tại chiếc lọ thần kỳ lưu giữ mùi hương; thanh âm thì còn có khả năng được vài thiết bị điện tử thâu tóm, nhưng hắn biết cũng chẳng thể tin tưởng hoàn toàn, bởi hắn nhớ trong ký ức đã từng có lần mình nói với cậu ấy rằng: "Giọng của cậu truyền qua điện thoại nghe mềm mại hơn biết bao nhiêu"...
Kaiser đứng lại, cách gian hàng khoảng bốn bước chân. Hắn thấy chiếc kệ bày bốn hàng thú bông, kích cỡ nhỏ dần từ trên xuống dưới. Bên cạnh là máy quay xổ số. Những mẩu giấy màu đỏ trắng bị thổi tung trong quả cầu trong suốt. Hắn tưởng mình đã quên từ lâu, nhưng khi khung cảnh hiện lên trước mắt, hắn sực nhận ra mình vẫn có thể kể về; hắn tự biện minh rằng dù sao trò này cũng quá đơn giản – cái trò mà hắn từng chê bai là cũ rích ấy, sau mười lăm năm vẫn chẳng hề thay đổi, có chăng là giá tiền cho một lượt chơi tăng lên, và những con thú bông trên kệ cũng được thay mới.
Khi ấy – hắn cố gắng nghĩ về – chỉ có một loại thú bông. Là chó bông. Những con chó Shiba được bày kín cả kệ, kích thước to nhỏ tùy vào kết quả bốc thăm. Hắn nhớ cậu ấy đã từng giải thích rằng, có bốn mốc quà, trong đó số 1 là hiếm nhất, đa phần chỉ lấy được số 4 mà thôi. Kaiser không biết cách chơi bây giờ có khác đi hay không, còn khi đó chỉ cần bỏ tiền là chắc chắn sẽ được giải – cậu nói rằng không có mẩu giấy nào để trống. Giờ phút ấy hắn nghĩ nó chẳng khác bao một trò an ủi kẻ thất bại, đã làm thì làm cho trót, tạo ra một trò chơi khoác bề ngoài là trò may rủi, vậy mà thực tế chỉ có "may" – hoặc đối với họ thì "rủi" chính là việc chỉ nhận được con thú bông nhỏ nhất.
"Thôi nào, chúng ta đang ở trên đất Phật đấy. Đương nhiên phải tích đức một chút rồi."
Hắn hỏi cậu đã bao giờ chơi trò này hay chưa. Cậu đáp rồi, còn bao nhiêu lần thì hắn đã quên, hoặc chăng hắn vốn chưa bao giờ hỏi thêm kỹ lưỡng.
Kaiser đã không chơi. Hắn chỉ đứng đấy nhìn cậu trai như hóa thành trẻ con thò tay vào khối cầu với sự háo hức không thể che giấu. Rồi hắn đảo mắt qua chiếc kệ, thầm nghĩ cậu sẽ bốc được mảnh giấy nào. Hắn nhận ra mình không quá hồi hộp, bởi đã biết trước dù thế nào cũng sẽ được giải. Hắn nhìn đôi mắt cậu tỏa sáng lấp lánh dưới ánh dương, một ý nghĩ chợt lóe lên trong đầu, rằng có lẽ việc "an ủi kẻ thất bại" như vậy cũng không đến nỗi tệ lắm.
Hẳn vận may của cậu vô cùng lớn, hoặc đó vốn là định mệnh dành cho cậu: cậu rút được mẩu giấy số 1.
Và Kaiser tưởng tượng được ngay tiếp theo một tiếng reo lên vui mừng. Hắn nhìn con chó bông được cậu ôm bằng cả hai tay, cái đầu của con thú che lấp cả khuôn mặt cậu, thay vì nói lời nào đấy tốt đẹp, hắn cười: Cậu định ôm cả con này vào chùa vái Phật đấy à.
"Đến lúc đó anh phải cầm hộ tôi chứ."
"Tôi thì sao? Tôi không được thắp hương à?"
"Nói cứ như anh theo đạo ấy."
Tất nhiên không phải. Không phải theo kiểu một con chiên ngoan đạo phủ nhận niềm tin thuộc về thế giới khác, trên thực tế hắn chẳng phải tín đồ của bất cứ cộng đồng nào. Với hắn, Phật hay Chúa cũng chỉ khác nhau về cái tên.
"Anh tin Chúa sao?"
Không, không mặc dù hắn được sinh ra trong một gia đình Cơ Đốc. Có lẽ hắn là một đứa con hoang đàng, một kẻ đã hết đường cứu chuộc.
"Còn cậu có tin vào Thượng đế không?"
"Anh đang ở chùa đấy, nói cái gì có ý nghĩa hơn đi."
"Chẳng phải cậu cũng vừa hỏi tôi như thế à."
Hắn không nhớ ra cậu đã đáp lại thế nào, hoặc vốn từ đầu chẳng hề tồn tại cuộc nói chuyện kia. Hắn hồ nghi phải chăng đó chỉ là những gì mình đã muốn nói nhưng rốt cuộc không thể cất nên thành lời, và nỗi tiếc nuối tích tụ theo thời gian lớn đến mức một ngày nào đấy chợt đổ xuống và lấp kín những khoảng trống trong trí nhớ của Kaiser bằng những hình ảnh tưởng tượng.
Hắn bỗng cảm thấy những gì mình làm lúc này thật vô nghĩa. Chẳng có nghĩa lý gì khi cố gắng tái hiện một quá khứ đã trôi đi mười lăm năm. Mười lăm, hắn lẩm bẩm. Với con người mà nói, một năm là đã đủ khiến rất nhiều thứ thay đổi, biến mất, luân hồi. Kaiser vẫn không ngừng lại. Hắn đi xuyên qua đám đông ồn ã, tưởng như mỗi bước chân là mỗi lần rũ bỏ ký ức, rũ bỏ thời gian, cho dù tỉnh táo quay đầu, cũng chỉ để nhận ra tất cả đang dần trôi khỏi kẽ bàn tay. Đây là kết cục đã được định mệnh an bài.
Điện thoại trong túi áo rung lên. Hắn đứng ngẩn ngơ giây lát, sau đó mới lấy máy ra. Rất nhiều tin nhắn được gửi đến. Hắn bỏ qua những tin không quan trọng, chỉ chọn trả lời câu hỏi của mẹ mình.
"Vâng. Con đang ở Nhật."
"Chụp cho mẹ bức hình xem nào."
Kaiser giơ máy lên, bắt nhanh một khoảnh khắc bầu trời thiên thanh giãn căng trong sức nóng ngày hè. Hắn nhìn chằm chằm bức ảnh mấy giây, đầu bỗng nhói lên bởi một ký ức mỏng manh không hẹn mà tìm đến. Ngón tay hắn lướt nhanh trên màn hình điện thoại, lướt xuống đến tận cùng danh sách trong thư viện. Bức ảnh cũ nhất được chụp vào năm 2030. Cũng là một bức hình bầu trời, màu xanh thăm thẳm dường như chưa từng đổi khác. Nhưng hắn biết đó không phải bầu trời mà cả hai đã cùng nhau ngắm nhìn.
Rồi hắn lại nhận ra, họ còn chẳng có nổi một bức hình riêng lẻ đường hoàng. Ít nhất thì bây giờ, sau mười lăm năm, hắn không tìm ra được bất kỳ chứng cứ nào xác minh cho sự tồn tại của quãng thời gian ấy. Và ký ức thì không phải hữu hình. Nó sẽ phai đi, trôi đi, cuối cùng biến mất.
Kaiser là người duy nhất bảo vệ quá khứ này.
Rốt cuộc hắn đã không vào lễ chùa.
Kaiser đến và đi trong cùng một ngày. Lúc trở về Đức, trời đã về khuya. Hắn cởi chiếc mũ mua được ở khu phố Asakusa, nhìn nó chằm chằm một lúc. Hắn đi cả chặng đường dài chỉ để mang về một món đồ rẻ tiền không có gì độc đáo.
Trong nhà tối om, hắn cũng không mở đèn. Hắn để mắt mình làm quen với bóng tối, sau đó lần theo trí nhớ, chậm chạp bước lên sân thượng. Hắn có cả một quầy bar ở đây mặc dù chẳng mấy khi sử dụng.
Nền trời đen thẫm, trăng bạc bị che phủ bởi một làn mây nhờ nhờ. Hắn tựa người vào sô pha, gần như nằm nhoài, cứ ngửa cổ như vậy một lúc lâu, cho đến khi cảm nhận làn sương lạnh đang lan ra bên khóe mắt, mới bắt đầu dịch chuyển tầm nhìn.
Hắn thấy trên bàn ly rượu mới vơi đi một ít, ấm trà thì vẫn còn nguyên. Hắn vươn tay cố chạm vào thành ấm thủy tinh, cố tìm kiếm chút nhiệt độ vẫn chưa tan hết.
Lạnh quá. Kaiser vội thu tay trước cơn rùng mình tìm đến đột ngột. Hắn nghĩ nếu lúc này cậu ấy có mặt ở đây, hẳn ngay giây tiếp theo sẽ nghe một tiếng bật cười lanh lảnh. "Đã sợ lạnh thì chớ, lại còn bày đặt lên sân thượng uống rượu."
Hắn nhớ, rất lâu trước kia, đã từng có một buổi tối như thế: trên sân thượng, bên quầy bar, rượu và trà đặt cạnh nhau thoạt trông không phù hợp; họ ngồi sóng đôi tựa như một đôi bạn thân thiết, nói những chuyện chẳng hợp với quan hệ ngày thường. Có lẽ khi đó hắn đã đáp lại: "Còn cậu thì sao, vào bar chỉ để gọi trà."
"Ai cấm à? Nếu thế thì người ta đã chẳng cho trà vào thực đơn."
"Ừ ừ, chẳng ai biết lý lẽ hơn cậu..."
Kaiser cố nhớ lại xem cậu ấy đã gọi trà gì, nhưng vô ích. Hắn không am hiểu thức uống này, và một cái tên xa lạ vô tình sượt qua trí não trong giây phút đủ đầy dĩ nhiên chẳng đủ sức mạnh để khiến hắn phải ghi nhớ. Vậy nên mặc kệ cậu trai có đưa ra một lời giải thích vô cùng hợp lý rằng nó là đồ uống được quán bar thừa nhận, Kaiser vẫn đẩy ly rượu của mình về phía người cạnh bên và đưa ra một lời mời đầy sức hút. Hắn lại nghĩ về việc lúc ấy mình đã gọi rượu gì, một loại rượu mà thoạt tiên nghe xong cậu cậu từ chối ngay lập tức – "Cảm ơn tôi không uống rượu", cậu đảo mắt qua, giọng nói mang theo chút khinh khỉnh, có lẽ cậu cũng nói thêm – như một sự dạy bảo – rằng nếu muốn vươn lên vị trí số một thế giới thì bước đầu tiên là phải đoạn tuyệt với những chất có cồn này. "Anh đừng có tự ngã xuống trước khi tôi hạ gục được anh". Thế nhưng Kaiser không để tâm, đúng hơn là, hắn biết đâu là giới hạn của mình. Hắn tỏ ra thản nhiên và nói: "Cậu nhạt nhẽo quá đấy". Hoặc cũng có khi "Không hiểu sao cậu có thể sống một cách nhàm chán như vậy".
Không biết có phải do bản tính hiếu thắng bị kích thích hay không, kết quả là trong một giây lơ đễnh, ly rượu của hắn đã rơi vào tay cậu, chất lỏng ngọt nồng đổ xuống cổ họng chỉ trong một hơi. Hắn thấy đôi mày cậu nhíu lại, nhưng rồi nhanh chóng giãn ra bởi không muốn để lộ dáng vẻ lúng túng trước kẻ mà mình coi là đối thủ. Hắn lại thấy cậu bĩu môi và cất lời chê bai "chẳng có gì ngon lành".
Nhưng cậu vẫn ngồi đây với tôi. Hắn nghĩ, hoặc là hắn đã nói. Ký ức của Kaiser cho hắn biết mối quan hệ của cả hai – cho đến cuối cùng – chưa thân thiết đến độ có thể ngồi cùng nhau và thưởng thức đồ uống giữa một khung cảnh có đôi phần thơ mộng như vậy. Thế nhưng nó có tồn tại. Dù cho trí nhớ có là một điều bất khả tín, thì tại thời điểm này, sau mười lăm năm, hắn có thể khẳng định chắc chắn rằng nó có tồn tại. Đó là khoảnh khắc sáng rõ nhất hiện lên trong trí não Kaiser mỗi khi vô tình hoặc hữu ý hắn ngoảnh đầu tìm kiếm dấu vết của cuộc hành trình.
Hôm đó là sinh nhật của cậu. Đúng hơn, họ đã ở cùng nhau trong giây phút kim đồng hồ dịch chuyển đón chào ngày mới. Ai cũng biết đó nên là một dịp dành cho người thân hoặc những mối quan hệ hữu tình; với người có nhân duyên tốt như cậu ấy thì lại càng có nhiều sự lựa chọn hơn. Đó có thể là bất cứ ai ngoại trừ Kaiser. Có lẽ bởi sự thật lạ lùng đó mà hắn nhớ như in chuyện này.
"Chỉ là trùng hợp" – đấy là một điều quan trọng mà Kaiser phải rào trước, trước khi hắn lấy từ trong túi ra một chiếc hộp nhỏ và đẩy về phía cậu trai ngồi kế bên – một lời giải thích cho hành động tặng quà khác thường: Chỉ là trùng hợp tôi biết đến sinh nhật của cậu, và cũng tình cờ món đồ này lọt vào mắt tôi.
Cậu có vẻ ngạc nhiên nhiều hơn hắn tưởng tượng. Và chỉ mất khoảng chục giây trước khi hắn biết được lý do của phản ứng ấy: cậu cũng lấy từ trong túi áo khoác ra một chiếc hộp với kích cỡ y chang, và Kaiser đoán được ngay thứ bên trong khi cậu cất tiếng với một cái mỉm cười mang chút ngượng ngùng: "Xem ra tôi và anh có cùng gu đấy."
Hai chiếc đồng hồ giống hệt nhau cùng được đưa cho đối phương, có ít nhất hai điểm kỳ lạ mà Kaiser có thể kể ra ngay tại thời điểm ấy: cậu tặng quà hắn trong khi hôm nay là sinh nhật của bản thân, và món đồ được chọn lại giống hệt của Kaiser như thể trong giây phút suy nghĩ đắn đo họ đã vô tình gặp nhau tại một điểm giao cắt. Dù thế nào thì điều đó cũng làm cả hai phải cảm thán một phen. Hắn chắc chắn phải hỏi đến lý do cậu tặng quà, và hình như cậu ấy đáp lại câu nào đó đại loại như "tặng bù vì giờ tôi mới biết sinh nhật của anh".
Hắn nhận lấy hộp quà và giơ lên trước mắt, nhìn ngang ngó dọc chăm chú đến nỗi cậu phải cất tiếng hỏi có chuyện gì. Và hắn nở nụ cười đầy ẩn ý, nói cậu cứ mở ra xem. Thoạt đầu cậu không hiểu – đúng hơn là nghi ngờ, cậu đã quá quen những trò đùa của Kaiser – nhưng rồi trước sự thúc giục không ngừng, cuối cùng cậu cũng cầm món quà bất ngờ lên, nheo mắt nhìn thật kỹ.
Thế rồi, cậu phát hiện ra cái tên được khắc ở mặt sau chiếc đồng hồ.
"Anh nghĩ gì mà làm vậy". Trông cậu có vẻ bất đắc dĩ khi thốt ra câu ấy. Có lẽ cậu cho rằng đó lại là một trò đùa khác của Kaiser – hắn không phủ nhận, bởi đúng là hắn đã tưởng tượng đến phản ứng của cậu trai khi nhìn thấy tên mình xuất hiện trên món quà sinh nhật được tặng. Hắn nghĩ rằng đó là lý do duy nhất. Hẳn thế, bởi đó là nguyên nhân cuối cùng còn sót lại trong đầu Kaiser sau khi loại bỏ mấy điều kiểu như "tín vật định tình" hay "lời tỏ tình gửi người yêu dấu". Kaiser tin rằng cậu ấy cũng sẽ không suy nghĩ theo hướng như vậy. Cho nên đây là một trò đùa dai mà cậu buộc phải vui lòng nhận lấy – đâu ai có thể tỏ ra bực bội trước một món quà sinh nhật bất ngờ?
"Phải dùng đấy nhé", hắn nói, tự cảm thấy chiêu của mình quá tuyệt vời, "trên đó có khắc tên cậu rồi, cậu chẳng đem cho ai được đâu". Sau đó, lại xuôi theo niềm hứng khởi nhất thời, hắn bày ra vẻ không ưng lòng, nói: "Tôi dụng tâm như vậy mà cậu thì có vẻ chỉ mua cho xong nhỉ".
Hai chiếc đồng hồ tuy có bề ngoài giống hệt nhau, song đối với Kaiser thì việc hắn chọn khắc tên cậu lên món quà thể hiện rõ rằng hắn có tâm hơn đối phương nhiều. Đó là một hành động nằm ngoài mọi dự đoán, có lẽ vì thế mà cậu không phủ nhận, nhưng vẫn cố chấp nói "Tôi mà cũng làm thế thì người ta sẽ đồn đoán linh tinh mất". Và hắn cố tình hỏi lại, đồn đoán cái gì cơ? Rõ ràng là hắn biết. So với Nhật Bản, ở Đức những chuyện như vậy phổ biến và thái độ của mọi người cũng cởi mở hơn nhiều. Cậu nhanh chóng tiếp thu dù mới chỉ sang đây một thời gian ngắn. Do đó mới có câu nói kia. Cũng do đó mà Kaiser cảm thấy buồn cười. "Bình thường không ai liên tưởng tới chuyện đó đâu, trừ phi bản thân có suy nghĩ không đường hoàng. Đừng nói cậu có ý gì với tôi đấy nhé?".
Và hắn thấy gò má cậu thoáng ửng lên, nhưng rồi hắn lại tự hỏi có thật là hắn đã thấy hay không. Cậu vẫn luôn là người dễ xấu hổ như thế ư? Kaiser cố gắng nghĩ về, chỉ để nhận ra màn sương giăng xuống đã dày đến nỗi tất cả những gì hắn tả được là một dáng dấp mỏng manh – hay thậm chí đó cũng chỉ là tưởng tượng của riêng hắn; có bao nhiêu điều hắn có thể chứng minh là sự thật?
Kaiser muốn cất câu hỏi nhằm xác nhận. Nhưng cậu ấy đã không còn tỉnh táo. Hắn thấy cậu nằm gục xuống bàn, mái đầu nghiêng nghiêng kê trên cánh tay, mắt nhắm nghiền, môi hơi hé – hắn tưởng tượng từng làn hơi mỏng manh len qua kẽ răng nhuốm chút hương vị thơm nồng. Một làn gió mạnh thổi qua, ly rượu trên bàn khẽ lắc lư. Bình trà đã thấy đáy. Một trong hai người cũng đã lên đường đi tìm giấc mộng. Kaiser biết, đây là dấu hiệu của hồi kết.
Hắn ngồi yên, lắng nghe những âm thanh xung quanh mình. Sau đó, không biết nghĩ gì, hắn bỗng vươn tay luồn vào thớ tóc non mềm của cậu, không gặp bất kỳ sự phản kháng nào.
Lúc cậu ấy ngủ quả thực giống như con thỏ con.
Ý nghĩ ấy khiến khóe môi Kaiser nhếch lên, hắn nói trong ý cười.
"Mới thế mà đã say rồi sao."
Till we meet again
Kaiser trông rõ sự bất ngờ trên khuôn mặt mẹ mình khi bà thấy hắn xuất hiện ở trước cửa nhà.
"Michael? Mẹ tưởng hôm nay con có buổi phỏng vấn?"
"Vâng... Nhưng bên kia có việc đột xuất nên buổi phỏng vấn bị hủy bỏ." Hắn đáp, cùng lúc bước vào trong, từ đầu đến cuối không nhìn vào mắt mẹ mình. "... Cũng không có việc gì làm nên con ghé qua thăm nhà."
Đó là một lời nói dối dở tệ. Chỉ còn vài ngày trước khi trận chung kết Cúp Thế Giới diễn ra, thân là tiền đạo ngôi sao gánh trên lưng kỳ vọng to lớn của người hâm mộ, Kaiser chẳng thể rảnh rỗi như hắn nói. Hắn biết điều đó không thể qua mắt mẹ mình, song bà lựa chọn làm ngơ. Bà chỉ kéo hắn vào trong, nói với giọng đầy hồ hởi: "Ừ, cũng tốt, lâu rồi con không về nhà. Mẹ sắp quên mất mặt con trai mình rồi đây." Rồi dường như nhớ đến điều gì, bà lại tỏ ra chần chừ: "Nhưng bây giờ bố mẹ chuẩn bị đi lễ..."
Kaiser nghe ra ý tứ đằng sau, bèn nói: "Con đi cùng bố mẹ."
Cách nhà hắn khoảng mười phút đi bộ có một nhà thờ nhỏ, từ năm bảy tuổi hắn đã được dẫn tới đây vào mỗi cuối tuần để tham dự thánh lễ. Hắn đứng trong ngôi nhà tuổi thơ và lần theo những hình ảnh ngẫu nhiên tìm về. Thuở ban đầu, Kaiser nhớ, hắn chưa phải một kẻ nổi loạn bất kham, hoặc một "thằng con hoang đàng" như từng có lần cha hắn giận dữ nạt mắng khi hắn tuyên bố rằng từ nay về sau sẽ không đến nhà thờ nữa. Kaiser của ngày bé từng hết mực tin tưởng vị Chúa tối cao, hoặc chí ít hắn đã nghĩ niềm tin của mình là chân lý tuyệt đối. Tiếng chuông làm hắn rung động, thánh ca làm hắn hân hoan, bánh mì và rượu nho trở thành một loại biểu tượng xuyên suốt thời thơ ấu. Hắn đã từng là một đứa con ngoan đạo được cha mẹ yêu mến ngợi khen. Dẫu vậy, đó là quyết định của Kaiser khi lần đầu tiên bộ não hắn thật sự tỉnh giấc và bắt đầu đưa ra những ý niệm về thế giới quanh mình. Và hắn chọn cho bản thân một lối đi riêng – có thể không khác biệt, nhưng là con đường của riêng hắn: con đường chống đối Chúa Trời.
Vậy là trong suốt thời gian dài Kaiser sống một cuộc đời mà hắn tự cho là đúng đắn. Sau đó – bỏ qua tất cả nguyên nhân và diễn biến – hiện tại, hắn ở đây, trong một buổi thánh lễ trang nghiêm tại nhà thờ.
Từng hồi chuông ngân vang giữa không gian tĩnh lặng linh thiêng. Hắn đứng cạnh cha và mẹ, hòa mình trong cộng đồng tín hữu, thấy đôi mắt ai nấy đều sáng rỡ như vì sao. Đó là điều mà trước kia hắn đã từng rất khinh thường, hắn tin vào con đường của bản thân cũng như những người này tin vào Đấng Cứu Thế của họ. Thế giới quan là thứ được xây dựng từng bước, là nền tảng tinh thần của con người; thuở mới chập chững bước ra ngoài vỏ trứng, hắn đã chọn cho mình một lối đi riêng, hắn nghĩ nó vững chắc như núi, hóa ra lại dễ dàng bị lay chuyển đến vậy.
Vị tư tế đứng trên bục cao, dưới chân Chúa, cất giọng chậm rãi và đầy thành kính.
"Xin Chúa cũng nhớ đến các anh chị em của chúng con đang an nghỉ chờ ngày sống lại. Xin đón những người đã ly trần trong tình thương của Chúa. Xin cho hết thảy được vào hưởng ánh sáng Tôn Nhan. Xin Chúa thương xót tất cả chúng con, để chúng con được đồng hưởng sự sống đời đời..."
Kaiser nhớ rằng, đây là lời cầu nguyện dành cho những người đã khuất.
Buổi lễ kết thúc nhanh hơn hắn tưởng. Lúc bước ra khỏi nhà thờ, mẹ chợt quay sang và hỏi: "Bố mẹ định ghé qua chợ một lúc, con có muốn đi cùng không?"
Đã rất nhiều năm trôi qua kể từ lần cuối họ ra ngoài, dù thế, Kaiser nghe hiểu ra ngay "chợ" trong lời mẹ nói ám chỉ địa điểm nào. Trong đầu hắn không hiện lên hình ảnh những quầy thức ăn tươi ngon, thay vào đó là từng dãy gian hàng với vô số món đồ cũ kỹ. Những phiên chợ cũ thường được tổ chức vào cuối tuần. Đó là một trong những nơi quen thuộc với Kaiser thuở bé. Cha hắn có niềm đam mê đồ cổ, mẹ hắn lại yêu thích những thứ bị bỏ đi. Nghe thì có vẻ không khác gì nhau, nhưng Kaiser biết rằng không thể đánh đồng. Trong khi cha thường chỉ chăm chăm tìm kiếm những cổ vật có giá trị cao, thì mẹ luôn bị thu hút bởi những món đồ mà hắn từng nhận xét là "vô giá trị": một tấm thiệp sinh nhật cũ nát, một sợi dây chuyền gỉ sét, một tập bản thảo của tác giả vô danh, cuốn truyện tranh với trang bìa cháy sém, dăm lá thư chỉ còn nhìn được mờ mờ hay chiếc đồng hồ từ lâu không còn chạy nữa.
"Quả thực chúng không có giá trị gì", ngạc nhiên thay chính mẹ hắn cũng thừa nhận điều ấy, "nhưng đối với chủ nhân cũ của chúng mà nói, đây đều là những món đồ vô giá. Trong số này còn có những thứ thuộc về người đã khuất. Gia đình của họ không đem đốt hay chôn theo, thay vào đó rao bán cho những người xa lạ."
Kaiser của khi ấy chỉ cảm thấy điều đó vô cùng kỳ cục, như thể họ không muốn để người chết được yên thân. Ai đời lại muốn sở hữu những thứ lạ lùng như thế? Hắn chẳng thà đi săn đồ cổ cùng với cha mình. Nhưng những ấn tượng dội về cho hắn hay, cậu nhóc Kaiser rốt cuộc đã chọn lẽo đẽo theo sau mẹ mình hết từ gian hàng này đến gian hàng khác, quan sát và tiếp xúc với đủ những món đồ bám bụi thời gian. Hắn cho rằng đó là quãng đời được phép lãng quên, lại không hay biết kể từ giây phút ấy định mệnh đã bắt đầu để mắt và bám theo mỗi bước chân mình. Nó ẩn nấp trong bóng tối, vậy nên hắn tưởng nó không tồn tại. Hậu quả là hắn từ bỏ thế giới tràn đầy ánh sáng và tình thương, trở nên ngang tàng và ngỗ ngược, trở thành một "đứa con hoang đàng".
"Mẹ đã rất bất ngờ đấy. Mẹ cứ nghĩ cả nhà chúng ta sẽ không còn dịp nào cùng nhau tham dự thánh lễ nữa."
Bà nói bằng giọng có phần hứng khởi, và Kaiser bỗng cảm thấy tội lỗi lạ lùng. Hắn nhớ đến bản thân của thuở thiếu thời đã từng quyết liệt khước từ tình thương mẹ cha, đã dứt khoát rời bỏ tổ ấm để đi theo con đường mà hắn gọi là chân thật hơn cả Chúa Trời. Và bây giờ hắn trở lại đây, với một tâm hồn lạc lối, khẩn cầu sự tha thứ và xoa dịu từ cha mẹ mình. Hắn là một đứa con hoang đàng, nay người con ấy đã tỉnh ngộ và tìm về với cội nguồn sinh mệnh, phủ phục dưới chân Thiên Chúa, tắm mình trong lòng khoan dung và hát khúc ca nguyện ngày tương phùng.
Bỗng nhiên, Kaiser nhớ đến một khoảnh khắc đã rất xa xôi. Trong ánh sáng rực rỡ và dịu dàng, người phụ nữ dắt tay hắn xuyên qua vùng biển hồi ức, hắn ngước lên hỏi mẹ mình, vì sao mẹ luôn mua về những món đồ vô dụng như thế, và vì sao người ta lại bán đi những món đồ như vậy.
Mẹ đã nói:
"Chỉ là một phép thử."
Chỉ là một phép thử thời gian.
Kaiser lại nghĩ đến một khung cảnh khác, một khung cảnh mà hắn có thể chắc chắn chưa bao giờ xảy ra: ở một phiên chợ bán đồ cũ, họ sóng bước bên nhau, đi như tản bộ. Hắn ngửi thấy mùi ẩm mốc và bụi bặm, uể oải và rữa nát, giống như cánh hoa rơi rụng sau khi đã bung nở hết sức và tỏa hương hết mình. Hoa tàn nằm dưới đế giày, lại có những người muốn nhặt lên ngắm nghía. Có gì đáng để thưởng thức? Kaiser không biết. Nhưng người ta vẫn rao bán, người ta vẫn mua hàng. Hắn biết đó sẽ là một lời mời rủ từ cậu ấy: "Tôi nghe nói ở Đức có những phiên chợ bán đồ cũ" – "Cầu xin tôi đi rồi tôi dẫn cậu đi xem". Kaiser nghĩ nếu khoảnh khắc ấy có tồn tại, hẳn mở đầu câu chuyện sẽ là như thế. Hắn sẽ đồng ý với vẻ mặt miễn cưỡng, mà thực lòng đúng là không có mấy ấn tượng với những phiên chợ mà cậu tỏ ra hào hứng kia. Nhưng rốt cuộc hắn vẫn chiều theo ý cậu, đi theo và lựa đồ, thi thoảng bình phẩm đôi câu vu vơ và cười phá lên bởi cuộc hội thoại ngắn ngủn có phần ngớ ngẩn. Hắn sẽ nghĩ, sao xung quanh mình toàn những người có sở thích kỳ cục thế nhỉ, dù sự thực trong số "toàn" của hắn trước nay chỉ có cha và mẹ, bây giờ mới xuất hiện thêm một người nữa. Hắn không kìm được mà hỏi cậu vì sao lại có hứng thú với những thứ này, cậu có biết trong số những món đồ đang cầm trên tay có cả đồ của người chết hay không.
Không phải cậu là kẻ cứng cựa khinh thường tâm linh, nhưng khung cảnh lúc ấy tỏa sáng đến mức chỉ cho phép những ý niệm thuần khiết tồn tại; ánh mặt trời chiếu rọi lấp lánh món đồ nằm trong lòng bàn tay cậu – viên bi ve, cốc thủy tinh, nhẫn ngọc hoặc mặt đồng hồ cũ. Nhưng rồi hắn lại cảm thấy thứ hấp dẫn ánh nhìn nhất lúc ấy chẳng phải là những món đồ kia.
Hắn thấy cậu nhìn chúng với một vẻ trầm ngâm, sau đó nhẹ nhàng cất tiếng.
... "Tôi tự hỏi khi chết đi, người ta để lại gì cho thế giới."
... Dòng chảy gián đoạn tại đây. Kaiser không thể kể được tiếp theo hắn sẽ nói gì. Hắn không tưởng tượng đến, hoặc chính xác hắn sẽ giữ sự lặng im và để câu hỏi trôi đi như thể nó không tồn tại.
Nhưng sâu thẳm trong thâm tâm hắn biết rõ, điều đó là không thể. Giống như rất nhiều năm về trước, cũng tại nơi đây, hắn hỏi mẹ tại sao lại thích thú những món đồ này đến thế. Mẹ nói, đó là một phép thử thời gian. Hắn đã không để tâm và nghĩ rằng mình có thể quên được, nhưng sự thực nó đã trở thành một câu thần chú – hoặc một lời nguyền – âm thầm đeo bám và khuấy động cuộc sống của Kaiser kể từ khoảnh khắc hắn cất lời thắc mắc.
"Con có muốn mua gì không?"
Hắn nghe mẹ hỏi, trong thoáng chốc tưởng rằng rơi vào vòng lặp thời gian, không thể biết mình đang đứng ở khoảnh khắc nào.
"Con chưa biết." Hắn trả lời và nhìn gian hàng họ đang ghé chân, đẩy lại vấn đề cho mẹ mình. "Mẹ muốn mua gì?"
"Không cần quan tâm đến mẹ, quan trọng là con cơ. Con phải biết mình muốn gì, thì mới có thể tìm thấy nó được."
Kaiser buông rèm mi, không nhìn vào một điểm cụ thể nào.
"Vậy thì," hắn nói sau một phút trầm tư, "có lẽ là một chiếc đồng hồ."
Thế rồi, ba giây tiếp theo, như một điều ứng nghiệm, ánh mắt Kaiser bất chợt va phải một món đồ nằm nép mình dưới vài món đồ cũ kỹ khác. Hắn chạm vào và kéo nó ra ngoài ánh sáng. Chiếc đồng hồ nằm im lìm trong lòng bàn tay, là một kiểu thiết kế đã từng rất thịnh hành. Kaiser biết rõ vì hắn cũng sở hữu một cái giống y hệt, đó là món quà hắn nhận được trong dịp sinh nhật của một người khác. Món quà ấy được hắn cất giữ cẩn thận trong ngăn tủ ở nhà, trong khi, một chiếc đồng hồ khác với cùng kiểu dáng – chiếc mà hắn cũng mua tặng làm quà cho người ta – thì đã mười lăm năm kể từ lần cuối hắn nhìn nó được đeo trên cổ tay của cậu ấy.
Có vết bẩn bám trên mặt đồng hồ, sẫm màu như vệt máu khô. Kaiser nhìn xuyên qua nó, thấy được thời điểm thời gian dừng lại. Mười một giờ hai phút. Mười một giờ hai phút đêm. Bàn tay hắn thoáng run lên, lật mặt sau của chiếc đồng hồ. Một cái tên chạm vào mắt hắn. Nét khắc nghiêng nghiêng mềm mại đã mờ nhòe theo dòng chảy tháng năm.
Viết là,
Isagi Yoichi.
Kaiser dường như nghe thấy một thanh âm nứt vỡ. Hắn thấy tim mình nhói lên, đột nhiên không thể hô hấp. Hắn lại thấy trước mắt mình định mệnh rẽ lối không thể khinh nhờn. Món đồ mà hắn từng mua nay trở về với hắn. "Trên đó có khắc tên của cậu rồi, cậu chẳng đem cho ai được đâu". Nhưng rồi hắn lại nhận được món đồ theo cách như thế này. Cậu quả nhiên là một đứa trẻ bướng bỉnh nhỉ, Yoichi.
Ngón tay hắn nhẹ xoa mặt đồng hồ trầy xước, rồi lặng lẽ đeo lên cổ tay mình.
"Mẹ nhớ ở nhà con có chiếc giống hệt. Đó có phải cùng một loại không?" Mẹ hỏi sau khi hắn trả tiền và cất bước rời đi.
Hắn đáp: "Vâng."
"Không phiền nếu mẹ hỏi thêm chứ?"
"Không được đâu... Đây là bí mật của con, con không được tự ý tiết lộ."
"Nếu không thể tự ý tiết lộ thì nó đâu phải bí mật của mình con nhỉ?"
Kaiser im lặng mấy giây, sau đó bật cười.
"Mẹ nói đúng. Dù sao thì mình con sẽ chẳng làm được gì. Cho nên đó vĩnh viễn là bí mật của riêng con."
Mẹ không hỏi thêm. Họ tiếp tục đi thêm khoảng một giờ nữa cho đến khi nhận được cuộc gọi giục về. Lúc trở ra, hắn thấy cha mình đứng cạnh xe với vẻ mặt chán nản, có vẻ ông không thu hoạch được món gì ưng ý.
"Bây giờ về luôn hay ở lại ăn tối?"
"Đêm nay con ở lại." Hắn đáp lời cha, rồi lại quay sang hỏi mẹ. "Mẹ có còn giữ cuốn album ảnh gia đình không?"
"Còn. Sao thế, tự dưng con có hứng xem lại ảnh cũ à?"
Hắn ậm ừ. "Con muốn tìm thử xem."
Tiếng động cơ vang lên. Hắn ngồi ở ghế sau, nhìn khung cảnh bên ngoài bắt đầu chuyển động. "Bố mở cửa kính được không?", hắn hỏi và nhận về cái lườm qua gương chiếu hậu. "Có biết bây giờ ngoài trời bao nhiêu độ không?".
Kaiser cười, không đòi hỏi nữa. Hắn vô tình quên mất hai bậc song thân của mình chỉ là người bình thường, không như hắn, đối với một cầu thủ bóng đá mà nói ánh nắng mặt trời chẳng bao giờ có thể gây nên hề hấn gì. Thậm chí đối với họ, ánh nắng, cơn nóng và mồ hôi còn trở thành những thứ quen thuộc và đầy thân thương. Mới chỉ vài giờ trôi qua mà Kaiser đã thấy nhớ nhung thảm cỏ xanh rì và nắng trời rực rỡ. Hắn không nên rời sân tập vào thời điểm này, Kaiser biết rõ, đợi đến khi nâng cao chiếc cúp vàng danh giá trên tay rồi muốn đi đâu cũng chưa muộn. Nhưng trái tim hắn thúc giục cần phải đi. Hắn nghĩ có lẽ lòng mình đã đầu hàng từ lâu, chỉ là đến lúc này mới chịu thừa nhận và quay trở về. Hắn nói người khác bướng bỉnh, trên thực tế bản thân chẳng dễ bảo hơn là bao.
Vừa trở về nhà, Kaiser đã hỏi ngay cuốn album từ mẹ mình, điệu bộ có phần gấp gáp. Hắn cũng không biết vì sao mình phải vội vàng như vậy. Hơn bao giờ hết, hắn có rất nhiều thời gian.
Sau khi nhận lấy cuốn album dày cộp, Kaiser ngồi xuống sô pha, bắt đầu lật mở từng trang với hy vọng sẽ tìm được thứ gì đó. "Thứ gì đó", hắn tự bật cười với suy nghĩ của mình. Rõ ràng hắn biết bản đang tìm kiếm thứ gì. Tập album cất chứa ký ức của hơn ba thập kỷ. Kaiser xem rất nhanh, đến gần cuối tốc độ mới chậm đi một chút, giống như sợ hãi đi đến kết thúc, sợ rằng nó sẽ không như mình mong mỏi.
Phần nào trong Kaiser hiểu rõ, đây là kết quả hắn đã đoán được ngay từ ban đầu.
"Xem đến đâu rồi?"
Mẹ chợt bước tới và ngồi xuống bên cạnh, ghé vào trang album đang hé mở. Khoảng trống đầu trang có đề dòng chữ: Năm 2019. Nét chữ nguệch ngoạc không biết là của ai. Kaiser lẩm nhẩm con số, ngỡ tưởng đang nói về một kiếp rất xa xôi.
"Ồ, ảnh này là cái lần cả nhà mình đi ăn cùng nhau này, bây giờ nhà hàng đó đóng cửa rồi. Tiếc ghê, chỗ đó đồ ăn ngon mà phục vụ cũng chuyên nghiệp..." Mẹ nói bằng giọng hoài niệm. "Mẹ vẫn còn nhớ đợt này con mải mê bóng đá lắm – dĩ nhiên bây giờ vẫn vậy, nhưng hồi đó phải nói mãi con mới chịu về nhà lấy một lần. Đúng là thằng nhóc ương bướng."
"Nếu không thì đã chẳng là con."
Hắn đáp và nghe một tiếng cười khẽ khàng vọng vào trong tâm trí, "Nếu không thì đã chẳng là anh".
Hắn rũ mi, nhìn bức hình một nhà ba người ngồi bên cửa sổ lớn. Bên ngoài nền trời đen thẫm, nguồn sáng duy nhất phát ra là từ chiếc đèn trần. Ánh vàng phủ xuống như màn giăng, không biết có phải do bám bụi thời gian hay không, hắn thấy nó toát ra một vẻ buồn bã và ủ dột.
Ra thế, một tia sáng lóe lên trong đầu Kaiser, hắn như thể vừa tìm ra một sự thật khủng khiếp khiến bất kỳ ai nghe thấy cũng phải ngỡ ngàng. Ra là thế, ra là cho dù có dùng máy ảnh chụp lại, cũng chẳng thể nào giữ gìn khoảnh khắc vẹn nguyên. Hắn đáng lẽ không nên hy vọng gì vào việc này mới phải.
Bàn tay mẹ hắn khẽ miết bức ảnh, hắn nghe bà nói với giọng tiếc nuối: "Khung nền đẹp thế này, nếu ngoài trời có sao thì sẽ còn đẹp hơn."
"Tại sao lại không có ạ?"
"Ô nhiễm ánh sáng chứ còn gì." Bà nói rồi bắt đầu cằn nhằn mấy lời kiểu như con người đúng là đại dịch của trái đất.
"Con nhớ hồi đó trời vẫn nhiều sao lắm mà."
"Chắc con nhớ nhầm, chứ từ hồi con học cấp hai sao trên trời đã thưa thớt lắm rồi. Con còn từng viết trong bài tập làm văn rằng ước gì được ngắm bầu trời đầy sao."
"Thế sao, sao con không nhớ nhỉ."
"Đầu con ngoài bóng đá ra thì còn chứa được cái gì."
"Nào có."
Kaiser vẫn tiếp chuyện mẹ mình, thế nhưng tâm trí thì đã hoàn toàn rơi vào một vùng trời khác.
Lạ quá. Hắn nhìn thật cẩn thận con số được ghi trên giấy, chắc chắn rằng ký ức của mình không bị xáo trộn. Năm 2019, cho dù là chênh lệch một hoặc hai năm thì tình trạng của bầu trời cũng không thể tệ đi một cách rõ rệt như vậy. Mẹ nói hồi ấy trời đã không còn sao, trong khi hắn vẫn còn ấn tượng về một khung nền bao la lấp lánh.
Trong trí nhớ của hắn, nền trời hôm ấy tràn ngập những vì sao. Họ ngồi cạnh nhau bên quầy bar, ngước lên là có thể nhìn thấy một thế giới huyền diệu khác.
Song, có bức ảnh làm bằng chứng, lại thêm lời kể chắc chắn của mẹ, hắn không nghĩ rằng mẹ sai. Nên chỉ có thể là hắn nhớ nhầm. Hắn nhầm lẫn một điều đáng ấn tượng như thế ư?
Có lẽ nhằm đáp lại nỗ lực của Kaiser, một tia sáng bất chợt xuyên qua màn sương dày đặc và đánh thức một khoảng thời gian trong tâm hồn hắn.
... Hắn quả thực không có ký ức về một bầu trời đầy sao. Hắn chỉ nhớ rằng trong tầm mắt mình là một dải sáng tuyệt đẹp lấp lánh, và như thể lẽ tự nhiên hắn quy nó về những ngôi sao trên vòm trời.
Nhưng giây phút này hắn rốt cuộc đã biết, đó không phải tinh tú trời cao.
Đó là vì sao trong mắt cậu.
"Nếu biết trước sau này không còn được nhìn thấy bầu trời sao nữa, thì ngày xưa đã cố gắng ngắm nhiều hơn."
Kaiser nghe tiếng than thở của mẹ như thế. Hắn bất giác gật đầu, đáp vâng, biết trước vậy thì khi xưa đã ngắm cho thỏa thích.
Nhưng Kaiser biết cho dù có ngắm nhìn bao nhiêu và bao lâu chăng nữa, niềm hứng thú của hắn chắc chắn sẽ không bao giờ vơi cạn.
Bởi vì không ai có thể cưỡng lại niềm khát khao ánh sáng, và với Michael, ánh sáng còn là nơi hắn thuộc về.
Cuối cùng hắn gấp cuốn album lại, không lấy ra tấm ảnh nào. Mẹ hỏi hắn rốt cuộc muốn tìm gì, phải nói ra thì mẹ mới có thể giúp đỡ. Nhưng hắn không cần ai giúp, hắn cũng không cảm thấy việc này còn gì quan trọng. Có đôi khi Kaiser cảm thấy tất cả cảm xúc mãnh liệt của mình đều đã dồn hết vào bóng đá, vậy nên cuộc sống đời thường mới tẻ nhạt đến vậy. Dường như hắn chưa từng yêu ai say đắm, cũng chẳng bao giờ biết đến nỗi đau đánh mất một thứ gì.
Không biết vì sao, Kaiser chợt nhớ đến con thỏ mà mình từng nuôi hồi bé. Khi cậu ấy hỏi hắn có khóc bởi nó qua đời hay không, hắn đã trả lời rằng, không, không ai khóc chỉ vì đánh mất một món đồ chơi, cùng lắm là chút tiếc nuối nếu có vô tình nhớ về.
Dù là vật hay người thì cũng không có gì khác.
Kaiser đã không khóc khi biết tin cậu ấy qua đời. Hắn cũng không rơi nước mắt trong tang lễ của cậu. Hắn lại tự hỏi suốt mười lăm năm qua đã bao giờ mình rỏ một giọt lệ nào cho cậu ấy hay chưa.
Hắn không có ký ức gì, vậy nên hắn đưa ra kết luận là "không".
Thế nhưng, bằng cách nào đấy trong đầu hắn có đọng lại một đoạn ký ức mơ hồ. Một ngày nào đó, lúc ban mai, bầu trời bên ngoài hãy còn mang màu xám xịt, Kaiser giật mình tỉnh giấc với ý nghĩ người ấy đang nằm bên cạnh mình. Hắn mơ thấy cậu ấy trở về. Niềm tin đó ở lại cùng hắn hai giây trước khi bay ra khỏi cửa sổ theo tiếng thúc giục của cơn gió đầu đông. Còn Kaiser, bỗng cảm thấy chiếc giường trống trải một cách lạ lùng.
Đó không phải niềm lưu luyến, Kaiser phủ nhận cảm xúc ấy. Chỉ là một chút hoài niệm, rằng hắn đã từng quen biết một người như thế trong đời. Một thiếu niên với đôi mắt trong sáng như thể chứa đựng những vì sao. Hắn đã gặp cậu ấy, đã nảy sinh mâu thuẫn, đã tranh đấu kịch liệt, đã nói chuyện và làm hòa, cuối cùng là rời khỏi nhau.
Chỉ là như vậy mà thôi.
Chỉ là đôi lúc hắn tỉnh giấc giữa đêm khuya và trong đầu là những ký ức mơ hồ chưa tan hết. Chỉ là thi thoảng hắn bay sang Nhật và đặt chân lại những vùng đất đã từng đi qua. Chỉ là có những khi hắn cảm thấy bóng đá bớt phần thú vị bởi đối thủ chẳng thể khơi lên khát khao chiến thắng. Chỉ là đôi lần hắn đeo chiếc đồng hồ với kiểu dáng cũ kỹ đến dự các sự kiện trọng đại. Chỉ là hắn sẽ ngước lên trời cao, và thầm ước có thể trông thấy một vì sao nào tỏa sáng.
Chỉ là Michael trở về với Chúa.
Bỗng nhiên Kaiser cảm thấy hôm nay thật là một ngày dài.
Và hắn biết sẽ còn rất nhiều ngày dài đang chờ đợi trong tương lai.
Song, lúc này, hắn không còn cảm thấy nặng nề nữa. Dường như bao nỗi muộn phiền thật sự đã tan biến sau buổi cầu nguyện ban ngày.
Kaiser đứng lên, bước đến bên cạnh cửa sổ. Nắng hè chiếu rọi lấp lánh, hắn lại tưởng mình có thể nhìn thấy bầu trời ban đêm. Hắn nhìn thấy những ngôi sao lung linh trải dài đến tận cùng tầm mắt, thấy trong số đó một ngôi sao nhấp nháy yếu ớt, rồi cứ thế mờ dần.
Ánh sáng của ngôi sao tắt đi, chứ không hề biến mất.
Kaiser chợt nhớ đến khúc ca của tuổi ấu thơ mà mình đã từng góp giọng. Hắn lẩm nhẩm giai điệu, nhận ra lời hát vẫn còn hằn nguyên trong tâm trí. Giống như đi một đường vòng, giờ đây, hắn trở lại điểm xuất phát.
Hắn vẫn chưa biết rằng khi chết đi, người ta để lại gì cho thế giới.
Nhưng hắn rõ một điều.
Cho đến khi đôi ta gặp lại nhau dưới chân Christ,
Bình an của Chúa hằng ở bên em.
Hết.
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top