06.KÝ ỨC CỦA NGƯỜI CHẾT
Galbatorix điên cuồng nên khó đoán, nhưng cách tư duy của lão ta có những lỗ hổng mà người bình thường không thể có. Nếu con tìm ra, Eragon, có thể con và Saphira sẽ đánh bại được lão.
Brom hạ cây tẩu, khuôn mặt trang nghiêm. “Ta mong là con có thể. Ước muốn lớn nhất đời ta là con và Saphira sẽ sống lâu và sống tốt, không bị Galbatorix và Đế chế đe dọa. Ta ước ta có thể bảo vệ con khỏi tất cả những nguy hiểm đe dọa con, nhưng than ôi, chuyện đó nằm ngoài khả năng của ta. Tất cả những gì ta có thể là cho con lời khuyên và dạy dỗ con cái ta có thể khi ta còn ở đây... Con trai của ta. Dù cho chuyện gì xảy ra, con phải biết ta yêu con và mẹ con cũng vậy. Những ngôi sao trên trời sẽ bảo vệ con, Eragon Bromsson ạ.”
Eragon mở mắt khi những ký ức phai nhòa. Phía bên trên nó, nóc lều lún vào trong như bị nước đổ đầy bên trên. NHững giọt nước mưa qua mái dột rơi xuống đùi nó, chảy dọc chân khiến nó có cảm giac lạnh buốt. Nó biết nó phải cố định lại lều nhưng lại không muốn rời khỏi võng.
Ông Brom không bao giờ nói cho em nghe về Murtagh? Không bao giờ nói anh và Murtage là anh em cùng mẹ khác cha à?
Saphira đang nằm cuộn tròn bên ngoài lều nói, Hỏi lại cũng không thay đổi câu trả lời của em được.
Nhưng sao ông ấy lại không nói chứ? Vì sao lại không nói? Ông ấy phải biết về Murtagh. Ông ấy không thể nào không biết.
Saphira lười nhác đáp. Brom có lý do của ông ấy, nhưng nếu phải đoán, em nghĩ ông ấy quan trọng hơn là phải nói cho anh biết ông ấy quan tâm tới anh và muốn cho anh những lời khuyên hơn là dành thì giờ tán dóc về Murtagh.
Nhưng ông ấy có thể cảnh báo cho anh biết! Chỉ vài từ cũng đủ rồi.
Em không thể biết chắc vì sao ông ấy không nói, Eragon ạ. Anh phải đồng ý rằng có vài câu hỏi anh sẽ không bao giờ có cơ hội nghe ông Brom trả lời. Hãy tin tình yêu ông ấy dành cho anh, và đừng để mấy chuyện linh tinh làm anh xao nhãng.
Eragon nhìn xuống bàn tay đang đặt trên ngực. Cậu buông tay xuống hai bên. Ngón tay cái bên trái của cậu có nhiều nếp nhăn ở đốt thứ hai hơn bên tay phải, trong khi tay phải lại có một vết sẹo dài, xấu xí mà nó không nhớ nổi vì sao có. Nhưng có thể là từ Agaetí Blödhren, Lễ hội Huyết thệ.
Cám ơn, nó nói với Saphira. Nó đã qua em rồng quan sát và nghe bức thư của ông Brom những ba lần kể từ sau Finster sụp đổ, và cứ mỗi lần nó lại thấy thêm một vài điểm trong lời nói và cử động của ông Brom mà trước đó nó không thấy. Điều đó khiến nó thấy được an ủi và hài lòng, vì nó đã xóa bỏ được điều canh cánh cả đời: biết tên cha đẻ của nó và biết cha nó quan tâm tới nó.
Saphira đáp lại lời cám ơn của nó bằng một luồng gió nóng.
Dù Eragon đã ăn uống ngủ nghỉ trong khoảng một tiếng nhưng nó vẫn còn cảm thấy yếu ớt. Không phải nó không biết cơ thể sẽ phản ứng ra sao. Nó đã thừa hiểu sẽ phải mất hàng tuần để phục hồi sức khỏe hoàn toàn sau một trận đánh dài hơi và tốn nhiều sức lực như thế. Khi Varden tới Urȗ’baen, nó cũng như những người khác trong quân đội của Nasuada sẽ càng lúc càng có ít thời gian để hồi sức trước khi bước vào một trận chiến mới. Chiến tranh sẽ bòn rút hết sức lực cho tới khi họ bê bết máu, tơi tả, không còn khả năng chiến đấu và đến lúc đó họ vẫn phải đối đầu với Galbatorix, lão an nhàn thảnh thơi đợi họ.
Nó cố không nghĩ quá nhiều về chuyện đó.
Một giọt nước mưa nữa lại rơi vào chân nó, thật lạnh lẽo. Cáu tiết, nó vắt chân sang bên kia võng, ngồi thẳng dậy và đi bằng chân trần ra chỗ đất bẩn ở góc lều và quỳ xuống.
“Deloi sharjalvi!” nó nói kèm theo vài cụm từ ngôn ngữ cổ khác cần để giải kết giới cậu đặt.
Chỗ đất bẩn bắt đầu xùi bọt lên như nước sôi, sau đó chui ra khỏi “ngọn núi lửa” đó là đá, sâu bọ và sau cùng là một chiếc hộp viền sắt nỏ dài khoảng 50 phân. Eragon vươn tay nắm lấy chiếc hộp và ngừng niệm chú. Mắt đất lại bình lặng trở lại.
Nó đặt cái hộp xuống mặt đất lúc này đã rắn lại như cũ. “Ládrin,” nó thì thầm và vẫy tay qua chiếc khoa không có lỗ khóa. Chiếc hộp mở ra với một tiếng kịch.
Màu vàng nhàn nhạt tỏa sáng trong căn lều.
Nằm bên trong chiếc hộp là Eldunarí của Glaedr – trái tim của loài rồng. Một hòn đá lớn trong như đá quý lấp lánh như một viên than hồng sắp tàn. Eragon dùng hai tay nâng Eldunarí lên và nhìn chăm chú. Một dải ngân hàng những ngôi sao nhỏ xíu xoay lượn bên trong viên đá, dù di chuyển của chúng rất chậm và dwongf như xa xôi hơn khi lần đầu tiên Eragon cầm viên đá ở Ellesméra, khi Glaedr đưa nó ra khỏi cơ thể và tặng cho Eragon và Saphira.
Eragon luôn thích ngắm nhìn cảnh tượng đó; cậu có thể ngồi hàng ngày để ngắm nhìn những hình dạng luôn thay đổi bên trong đó.
Có lẽ chúng ta nên thử lại, Saphira nói và nó đồng ý.
Họ cùng nhau phóng tư tưởng tới những ánh sáng ở đằng xa, vào trong biển sao đại diện cho tâm tưởng Glaedr. Họ đi qua sự lạnh lẽo và bóng tối, qua sự ấm áp và tuyệt vọng mênh mông vĩ đại, khiến họ muốn dừng lại và than khóc.
Glaedr...Elda, họ gọi đi gọi lại, nhưng không có tiếng trả lời, không có một sự thay đổi nào hết.
Cuối cùng họ thu hồi tư tưởng vì không thể chịu nổi nỗi đau khổ của Glaedr lâu hơn nữa.
Khi bừng tỉnh, Eragon nhận thức thấy có ai đó gõ lên tấm bạt lều, và nó nghe thấy giọng Arya, “Eragon, tôi vào được không?”
Nó khịt mũi và chớp mắt. “Tất nhiên là được.”
Bầu trời đêm tỏa ra ánh sáng xám lên nó khi Arya đẩy bạt lều bước vào. Nó chợt thấy buốt nhói khi gặp ánh mắt nàng – xanh, thông thái và khó dò – và nó cảm nhận thấy nỗi đau của sự thèm khát dâng tràn.
“Có gì thay đổi không?” nàng hỏi và quỳ xuống bên cạnh nó. GIờ nàng không còn mặc áo giáp mà khoác trên mình một bộ đồ da đen và một đôi bốt bó sát như khi nó cứu sống cô ở Gil’ead. Máu tóc nàng ẩm ướt vì mới gội và chảy dài trên lưng nàng. Quanh nàng tỏa ra mùi gỗ thông khiến Eragon băn khoăn có phải nàng dùng phép thuật để tạo ra mùi hương hay đó là mùi hương tự nhiên của cơ thể. Nó muốn hỏi nhưng lại không dám.
Eragon lắc đầu trả lời câu hỏi của nàng.
“Để tôi thử được không?” nàng chỉ vào trái tim của Glaedr.
Nó lùi sang một bên. “Xin mời.”
Arya đặt hai tay lên Eldunarí và nhắm mắt. Trong khi nàng ngồi, nó nhân cơ hội ngắm nhìn nàng với vẻ cởi mở trái ngược hẳn với vẻ khép kín thường ngày. Đối với nó, nàng dường như là biểu tượng của sắc đẹp, dù có người nói mũi nàng quá dài, khuôn mặt quá góc cạnh hay tai quá nhọn hoặc tay quá cơ bắp.
Arya hít một hơi thật sâu và rút tay khỏi trái tim rồng, như thể nó thiêu cháy nàng. Sau đó nàng cúi đầu và Eragon thấy cằm nàng đang run lên. “Ông ấy là sinh vật bất hạnh nhất tôi từng gặp... tôi nghĩ chúng ta có thể giúp ông ấy. Tôi không nghĩ ông ấy có thể tự thoát khỏi bóng tối của chính mình.”
“Nàng có nghĩ...” Eragon chần chừ, không muốn giọng nói tố cáo sự nghi ngờ của bản thân và tiếp tục: “Nàng có nghĩ ông ấy bị điên không?”
“Có thể ông ấy đã điên rồi. Nếu không, ông ấy cũng đang lúc điên lúc tỉnh.”
Eragon thấy buồn khi chăm chú nhìn vào tảng đá vàng.
Tới khi nó có thể mở lời, nó hỏi, “thanh Dauthdaert đâu rồi?”
“Tôi giấu nó trong lều như chàng giấu Eldunarí của Glaedr vậy. Tôi có thể mang nó sang đây nếu chàng muốn, hoặc tiếp tục canh giữ nó cho tới khi chàng cần.”
“Giữ nó đi. Tôi không thể mang nó bên mình, nếu không Galbatorix sẽ biết tới sự tồn tại của nó. Ngoài ra giấu quá nhiều kho báu ở một chỗ là không khôn ngoan.”
Nàng gật đầu.
Nỗi đau bên trong Eragon càng lớn. “Arya, tôi...” Nó ngừng lại khi Saphira nhìn thấy anh thợ rèn con trai của Horst – Albriech, nó đoán thế vì thực sự khó phân biết anh ta với người anh Baldor, do tầm nhìn méo mó của Saphira – đang chạy về phía lều. Việc này khiến Eragon nhẹ nhõm, vì nó không biết nó định nói gì nữa.
“Có người tới,” nó tuyên bố và đóng chiếc hộp lại.
Tiếng bước chân lớn và lẹp nhẹp ở bên ngoài. Sau đó Albriech, đúng là Albriech hét lên, “Eragon! Eragon!”
“Cái gì!”
“Mẹ tôi sắp sinh em bé! Bố tôi nhờ tôi tới nói và nhờ anh tới đó, đề phòng có chuyện gì xảy ra và khả năng phép thuật của anh có thể giúp. Làm ơn, nếu anh đi được...”
Dù cậu ta nói cái gì thì Eragon cũng không nghe thấy vì nó đang vỗi vã khóa và chôn chiếm hộp. Sau đó nó khoác áo choàng lên vai và lần mò cài khuy thì Arya chạm vào tay nó và nói, “Tôi đi cùng được không. Tôi có kinh nghiệm trong chuyện này. Nếu người của chàng đồng ý, tôi sẽ giúp chuyện sinh nở dễ dàng hơn.”
Eragon không thèm cân nhắc. Cậu chỉ về phía cửa lều và nói. “Nàng đi trước đi.”
‹ 05.LẤY SỨC
lên 07.THẾ NÀO MỚI LÀ ĐÀN ÔNG?
Bùn đất dính lên đôi ủng của Roran mỗi lần anh nâng chân, khiến anh đi chậm lại và khiến đôi chân vốn đã rệu rã của anh càng thêm mệt mỏi. Anh cảm giác như đất đang cố kéo tuột giày của anh. Bùn vừa dầy vừa trơn. Bùn làm gót giày anh lún sâu xuống, khiến anh đi lại khó khăn. Lớp bùn còn khá sâu nữa. Dòng người, súc vật và động vật đi lại thường cuyên đã biến một lớp đất dày mười lăm phân thành một bãi lầy khó qua lại. Một vài cụm cỏ vẫn mọc được ven đoạn đường xấu – dẫn thẳng tới khu lều bạt của quân Varden – nhưng Roran nghĩ cỏ cũng sẽ chẳng còn vì họ luôn có tránh đi vào chính giữa đường mòn.
Roran không thèm tránh giẫm phân nữa, anh còn không thèm quan tâm xem liệu quần áo anh còn sạch không. Hơn nữa, anh đã quá kiệt sức, tốt nhất là cứ thẳng đường mà tiến hơn là vượt quá đống cỏ dại ở hai bên.
Khi Roran nghiêng ngả tiến về phía trước, anh nghĩ tới Belatona. Từ sau cuộc thỏa hiệp giữa Nasuada và ma mèo, anh đã nắm vị trí chỉ huy khu phía tây bắc thành phố và làm những điều tốt nhất để lập sự kiểm soát bằng cách phía quân lính đi dập lửa, lập rào chắn trên đường, tìm nhà ở cho binh sĩ và tịch thu vũ khí. Đó là một nhiệm vụ nặng nề và anh làm hết sức có thể vì anh sợ thành phố có thể sẽ sinh ra một trận chiến mới. Mình hy vọng những tên ngu kia sẽ không giết chóc gì trong hết đêm.
Cả nửa người trái của anh đau đớn, khiến anh phải mở miệng hít thở.
Tên hèn nhát trời đánh.
Một tên nào đó đã bắn tên vào anh từ một mái nhà. Đúng là anh đã gặp may; một trong những binh sĩ của anh, Mortenson, đã bước lên trước anh đúng giây phút tên kia bắn tên. Mũi tên xuyên từ lưng qua bụng Mortenson và vẫn còn đủ lực để gây cho Roran một vết bầm lớn. Mortenson chết tại chỗ và dù ai bắn tên thì hắn cũng đã trốn thoát.
Năm phút sau, phép thuật đã giết chết hai người lính nữa khi họ bước vào chuồng ngựa kiểm tra xem tiếng ồn phát ra từ đâu.
Theo như những gì Roran biết, những vụ tấn công như vậy xảy ra khắp thành phố. Không nghi ngờ gì nữa, những kẻ nằm vùng của Galbatorix đã theo dấu rất nhiều người trong số họ, nhưng dân cư của Belatona cũng phải chịu trách nhiệm – đàn ông và phụ nữ đã không chịu đứng im khi quân đội kiểm soát quê nhà và không thèm quan tâm tới sứ mạng cao cả của quân Varden. Roran đồng cảm với những người cảm thấy họ có trách nhiệm với gia đinh nhưng đồng thời anh cũng nguyền rủa họ vì quá cứng đầu không chịu nhân ra quân Varden đang giúp họ, chứ không phải làm tổn thương họ.
Anh gãi gãi cằm khi đợi một người lùn đẩy một con ngựa chất đầy hàng hóa đi ra và sau đó tiếp tục bước thấp bước cao đi .
Khi về tới gần lều, anh nhìn thấy Katrian đang đứng cạnh một chậu nước nóng, đầy xà phòng, giặt giũ những chiếc băng gạc dính đầy máu khô. Cô xắn tay áo tới tận khuỷu tay, tóc búi rối ra su và má đỏ hồng lên vì làm nặng, nhưng đối với anh chưa bao giờ cô đẹp như thế. Cô là niềm an ủi của anh – niềm an ủi và nơi trú ẩn của anh – và chỉ cần nhìn thấy cô là anh đã thấy tan đi bao nhiêu đớn đau mệt nhọc.
Cô để ý thấy anh và ngay lập tức bỏ việc giặt giũ lại và chạy về phía anh, lau đôi mắt hồng lên của cô vào váy. Roran vòng tay ôm cô, cô ôm trọn lồng ngực anh. Nửa người anh đau buốt, và anh kêu lên một tiếng.
Katrina nới lòng vòng tay và nghiêng người ra sau, nhíu mày. “ÔI! Em làm anh đau à?”
“Không... không. Anh hơi buốt thôi.”
Cô không hỏi gì và lại ôm anh, nhẹ nhàng hơn và nhìn anh với đôi mắt đẫm nước. Anh ôm eo cô, cúi xuống hôn cô, cám ơn chúa trời vì sự hiện diện của cô.
Katrina đặt tay trái của anh lên vai cô, và anh để cô giúp mình đi về lều. Roran thở dài, ngồi xuống gốc cây họ dùng làm ghế, bên cạnh đó Katrina đốt một đống lửa nhỏ để đun nước và nấu súp.
Katrina đưa cho anh một bát súp. Sau đó cô vào trong lều mang ra cho anh một vại bia và một nửa ổ bánh mỳ cùng một góc pho mát. “Anh còn cần thềm gì không?” cô hỏi, giọng khàn không bình thường.
Roran không trả lời mà ôm lấy má cô và xoa xoa. Cô cười và đặt tay lên tay anh, sau đó quay lại giặt đồ.
Roran nhìn đồ ăn một lúc lâu rồi mới ăn: anh vẫn còn quá căng thẳng và anh nghĩ ạnh chưa thể tiêu hóa nổi. Sau khi nhai đầy một mồm bánh mỳ, vị giác của anh cũng quay trở lạ, anh bắt đầu vui vẻ húp bát súp.
Sau khi anh xong, anh đặt đống bát đĩa xuống đất và ngồi sưởi tay trên ngọn lửa trong khi uống vài hớp bia.
“Bọn em nghe thấy tiếng đổ vỡ khi cánh cổng rời ra,” Katrina vừa vắt quần áo vừa nói. “Họ không trụ được lâu nhỉ.”
“Không.. Bên chúng ta có một con rồng giúp sức mà.”
Roran nhìn bụng cô khi cô ném đống băng gạc sang đống quần áo đã giặt xong . Mỗi lần anh nghĩ tới con, đứa bé hai người sẽ sinh ra, anh lại cảm thấy tự hào vô cùng nhưng xen lẫn chút lo lắng vì anh không biết có thể cho nó một mái ấm an toàn không. Hơn nữa, nếu trận chiến còn kéo dài, có lẽ cô sẽ phải rời xa anh và tới Surda để an toàn nuôi con.
Mình không thể mất cô ấy, không một lần nào nữa.
Katrina lại nhúng một tấm vải gạc khác vào thau nước. “Còn trận chiến trong thành phố thế nào?” cô hỏi. “Diễn ra thế nào?”
“Bọn anh phải tranh giành từng mét đất. Ngay cả Eragon cũng phải trầy trật lắm.”
“Những bệnh binh nói chúng có máy bắn đá.”
“Ừ. Roran nhấp một ngụm bia sau đó tả ngắn gọn về cách quân Varden tiến quân trong lòng thành phố và những trướng ngại họ gặp phải. “Hôm nay bọn anh mất nhiều người lắm, nhưng mọi chuyện đáng lẽ có thể tệ hơn. Tệ hơn rất nhiều. Jörmundur và tướng Martland đã vạch kế hoạch tác chiến rất tốt.”
“Kế hoạch của họ không thành công nếu như không có anh và Eragon. Hai người rất dũng cảm.”
Roran cười khan một tiếng. “Ha! Và em biết vì sao không? Anh sẽ nói cho em nghe. Không ai trong mười người đàn ông thực sự muốn tấn công quân thù. Eragon không thấy điều đó; thằng bé luôn luôn ở đầu chiến tuyến, kéo những binh sĩ theo cậu ta xông lên. Nhưng anh lại thấy. Hầu hết những binh sĩ đều đứng xa ra và không chiến đấu trừ khi kẻ thù động tới mình. Hoặc không họ chỉ vẫy tay và hò hét nhựng lại thực sự không làm gì.”
Katrina có vẻ xanh xao. “Sao lại thế? Họ hèn thế?”
“Anh không biết nữa. Anh nghĩ, anh nghĩ có thể họ không thể nhìn vào mặt một người rồi giết người đó, đối với họ, việc giết một tên lính quay lưng với họ dễ hơn rất nhiều. Vì thế họ đợi những người khác làm việc họ không thể làm nổi. Họ đợi những người như bọn anh.”
“Anh có nghĩ binh sĩ của Galbatorix cũng có cùng suy nghĩ không?”
Roran nhún vai. “Có thể có. Nhưng sau đó, họ không còn lựa chọn nào khác ngoài phục tùng Galbatorix. Nếu lão ra lệnh cho họ chiến đấu, họ sẽ chiến đấu.”
“Nasuada cũng có thể làm thế. Tiểu thư có thể dùng phép thuật để buộc họ không đào ngũ.”
“Vậy cô ta và Galbatorix khác gì nhau? Trong bất kỳ trường hợp nào, quân Varden cũng không chấp nhận chuyện đó.”
Katrina dừng giặt quần áo và hôn lên trán anh. “Em mừng vì anh có thể làm điều anh đã làm,” cô thì thầm. Cô quay lại giặt đồ. “Hồi chiều em có cảm giác gì đó, do chiếc nhẫn... em nghĩ có thể anh có chuyện.”
“Anh đang trong chiến trận. Anh không ngạc nhiên nếu như em cảm thấy bứt rứt từng phút.
Cô dừng lại vẫn đặt tay trong chậu nước. “Trước kia em chưa bao giờ có cảm giác đó.”
Anh uống cạn vại bia và tìm cách thoái thác. Anh đã từng mong kể cho cô từng chi tiết chuyến phiêu lưu của anh trong lâu đài, nhưng chẳng có ý nghĩa gì nếu như vì chuyện này mà cô không nghỉ ngơi nổi. Nhưng nếu anh thuyết phục cô rằng không có chuyện gì chỉ khiến cô nghĩ ngợi ra những chuyện kinh khủng hơn. Hơn nữa, anh cũng thừa biết sớm muộn những tin tức cũng lan truyền trong toàn quân Varden thôi.
Nghĩ đoan anh kể với cô. Anh kể ngắn gọn và cố biến vụ sụp tường thành một trở ngại nho nhỏ hơn là một vụ tai nạn suýt giết chết anh. Nhưng anh vẫn thấy khó mà miêu tả nên nói nhát gừng, để tìm từ diễn đạt cho đúng. Khi anh nói xong, anh im lặng vì chìm trong ký ức.
“Ít ra anh cũng không bị thương,” Katrina nói.
“Không.”
“Trước đây anh đã từng đối diện với nhiều chuyện hiểm nguy hơn nhiều.”
“Ừ, anh đoán thế.”
Giọng cô nhỏ nhẹ. “Vậy thì làm sao nào?” Khi thấy anh không trả lời, cô nói. “Không có chuyện gì là anh không thể nói với em, Roran. Anh biết mà.”
Anh cậy rìa móng tay ngón trỏ khi chạm vào cái cốc. “Anh nghĩ rằng anh sẽ chết khi bức tường sụp xuống.”
“Ai cũng sẽ nghĩ thế.”
“Đúng. Nhưng vấn đề là, anh không quan tâm tới.” Roran đau khổ nhìn cô. “Em không hiểu sao? Anh đã buông tay. Khi anh nhận ra mình không thể thoát, anh đã chấp nhận nó như thể con cừu chấp nhận rơi vào tay gã đồ tể, và anh...” Roran không thể nói tiếp, anh hạ cốc bia xuống và úp mặt vào tay. Cảm giác dâng lên cổ họng khiến anh không thở nổi. Sau đó anh cảm nhận những ngón tay Katrina đang đặt nhẹ trên vai anh. “Anh đã buông tay,” anh gầm lên, vừa tức giận vừa kinh tởm bản thân. “Anh đã ngừng chiến đấu... Vì em... Vì con chúng ta...” Anh gằn ra từng chữ.
“Suỵt,” cô lẩm bẩm.
“Trước đây anh chưa bao giờ từ bỏ. Chưa một lần... Kể cả khi tụi Ra’zac bắt em đi.”
“Em biết là anh không mà.”
“Cuộc chiến này phải kết thúc. Mọi chuyện không thể tiếp tục thế này... Anh không thể... Anh ...” Anh ngửng đầu lên và sợ hãi khi thấy mắt cô đong đầy nước mắt. Anh đứng dậy, ôm cô vào lòng. “Anh xin lỗi,” anh thì thầm. “Anh xin lỗi. Anh xin lỗi. Anh xin lỗi... Anh sẽ không bao giờ nghĩ như thế nữa. Không bao giờ. Anh hứa đó.”
“Em không quan tâm tới chuyện đó,” cô nói, giọng ủ trên vai anh.
Câu trả lời của cô khiến anh kinh ngạc. “Em biết em yếu đuối nhưng những gì em nói phải có chút ý nghĩa gì với anh chứ.”
“Em không có ý đó!” cô kêu lên và lùi lại nhìn anh vẻ buộc tội. “Đôi lúc anh rất ngốc, Roran ạ.”
Anh cười sáng lạng. “Anh biết.”
Cô vòng tay qua cổ anh. “Em không bao giờ nghĩ xấu về anh, dù cho anh đã cảm thấy thế nào khi bức tường sụp xuống. Chỉ cần anh còn sống... Anh không thể làm gì khi bức tường sụp, đúng không?”
Anh lắc đầu.
“Vậy thì anh không cần phải xấu hổ. Nếu anh có thể ngăn nó, hoặc nếu anh có thể chạy trốn nhưng anh không làm, như vậy mới khiến em không tôn trong anh. Nhưng anh đã làm mọi việc có thể, và khi anh không thể làm gì hơn, anh mới buông xuôi. Đó là khôn ngoan chứ không phải yếu đuối.”
Anh cúi xuống và hôn lên lông mày cô. “Cám ơn em.”
“Và theo như em biết, anh là người đàn ông tốt bụng nhất, dũng mãnh nhất và can đảm nhất Alagaësia.”
Lần nay anh hôn lên môi cô. Sau đó, cô cười lớn, và đứng đó xoay vòng, như thể đang khiêu vũ theo một điệu nhạc chỉ mình họ nghe thấy.
Sau cùng Katrina đùa đùa đẩy anh ra và tiếp tục giặt giũ, còn anh ngồi xuống gốc cây, cảm giác thư thái dù trên mình đầy những vết thâm đau.
Roran quan sát người, ngựa và một vài người lùn hoặc Urgal đi qua lều họ, để ý những vết thương và vũ khí họ mang trên người. Anh cố đánh giá mọi người theo cách của Varden; cuối cùng anh chỉ có thể kết luận rằng mọi người trừ Urgal đều cần ngủ ngon và ăn uống đầy đủ, và mọi người, kể cả Urgal – đặc biệt là Urgal – cần tắm rửa sạch sẽ từ đầu đến chân.
Anh ngắm nhìn Katrina và anh thấy được khi cô làm việc, sự vui sướng trên mặt cô nhạt dần đi và cô trở nên giận dữ hơn bao giờ hết. Cô cứ vò đi vò lại vài vết bẩn nhưng chẳng ăn thua gì. Cơn giận dữ khiến mặt cô đen lại, và cô bắt đầu cáu gắt quát nhỏ vài tiếng.
Cuối cùng, khi cô ném đống vải vào thùng giặt, làm bắn bọt xà phòng lên cao vài foot trong không khí, cúi người về phía thùng giặt, môi mím chặt, Roran đứng dậy là đến bên cô.
“Để anh hộ,” anh nói.
“Thế không hay đâu,” cô lẩm bẩm.
“Vớ vẩn. Em ngồi xuống đi để anh làm cho. Đi đi.”
Cô lắc đầu. “Không. Anh mới cần nghỉ chứ không phải em. Hơn nữa đây không phải việc của đàn ông.”
Anh khịt mũi đùa cợt. “Ai phân ra thế? Việc của đàn ông hay đàn bà đều phải làm. GIờ em ngồi xuống đi; em sẽ cảm thấy khả hơn sau khi nghỉ ngơi.”
“Roran, em vẫn ổn mà.”
“Đứng ngốc thế.” Anh nhẹ nhàng đẩy cô đi nhưng cô không chịu.
“Thế này không đúng,” cô cự nự. “Mọi người sẽ nghĩ sao đây?” Cô chỉ về phía những người đàn ông đang đi đi lại lại trên con đường bùn đất bên cạnh lều của họ.
“Họ nghĩ gì kệ họ. Anh cưới em chỉ có cưới họ đâu. Nếu họ nghĩ rằng giúp đỡ em khiến anh bớt nam tính, thì họ là đồ ngu.”
“Nhưng...”
“Không nhưng nhị gì hết. Đi đi. Xùy. Đi khỏi đây đi.”
“Nhưng...”
“Anh không thích nói nhiều. Nếu em không ngồi, anh sẽ bế em ra đằng kia và trói em vào gốc cây đó.”
Sự sửng sốt thay vào sự giận dữ trên gương mặt cô lúc trước. “Được chứ?”
“Được. Giờ em đi đi.” Khi cô lưỡng lự đi ra, anh khích cô. “Em cứng đầu quá nhỉ?”
“Anh ấy. Anh có thể dạy lừa biết làm một vài thứ đó.”
“Không, anh không cứng đầu.” Anh cởi áo giáp, treo lên nóc lều rồi cởi găng tay và sắn tay áo. Anh cảm thấy lành lạnh và đống vải băng gạc còn lạnh hơn – do đặt ngoài trời quá lâu – nhưng anh không quan tâm, vì nước còn ấm và vải cũng nhanh ấm thôi. Những bong bóng xà phòng dính trên cổ tay anh khi anh chà quần áo trên bàn giặt.
Anh liếc qua và vui lòng vì Katrina đã chịu ngồi nghỉ.
“Anh muốn uống trà hoa cúc không?” cô hỏi. “Gertrude cho em nhiều bông lắm. Em có thể pha cho chúng ta một ấm.”
“Được đó.”
Một sự im lặng dễ chịu giữa hai người họ diễn ra khi Roran tiếp tục giặt đống quàn áo còn lại. Công việc này khiến anh thấy thoải mái: anh thích làm việc bằng tay hơn bằng búa, và được ở gần Katrina khiến anh cảm thấy hài lòng vô cùng.
Anhh đang giặt những quần áo vải vóc cuối cùng, còn ấm trà mới pha đang nằm kia chờ anh thì ai đó hô to tên họ từ phía bên kia con đường tấp nập. Mất một lúc Roran mới nhận ra đó là Baldor đang chạy về phía họ, giữa dòng người và ngựa đi lại như mắc cửi. Cậu ta đẹo một chiếc tạp dề da thủng lỗ chỗ, một đôi găng tay da dài tới khuỷu tay dính đầy bồ hóng, dùng lâu tới mức phần da đầu ngón tay sáng bóng lên. Cậu ta dùng một sợi dây da rách túm gonj mái tóc đen, bóng dầu ra đằng sau và trên trán cậu ta hằn thêm nhiều nếp nhăn. Baldor nhỏ con hơn cha cậu, ông Horst, và anh trai cậu, Albriech, nhưng về mặt khác, cậu ta đô con hơn, đó là kết quả của thời niên thiếu làm việc trong xưởng rèn cùng ông Horst. Cả ba cha con họ đều không tham gia trận chiến ngày hôm nay – những thờ rèn có tay nghề không nên để hy sinh vô ích – dù Roran ước gì Nasuada cho phép họ, vì họ là những chiến binh có khả năng và Roran biết anh có thể tin tưởng vào họ trong những hoàn cảnh đáng sợ nhất.
Roran đặt đống quần áo đang giặt xuống và lau tay, phân vân không hiểu có chuyện gì. Katrina đứng dậy, tiến lại gần anh.
Khi Baldor tới nơi, họ phải đợi vào giây để cậu ta thở lại bình thường. Sau đó, cậu ta liến thoắng nói, “Đi nhanh nào. Mẹ em đang lâm bồn, và...”
“Dì ấy đâu?” Katrina sắc lạnh hỏi.
“Trong lều của nhà em.”
Cô gật đầu. “Vậy chúng ta đi nhanh thôi.”
Baldor biết ơn và quay người rảo bước đi.
Khi Katrina chui vào lều, Roran dội chậu nước vào đống lửa. Những thanh củi đang cháy kêu xèo xèo và vỡ vụn, một cuộn khói bay lên từ đống lửa, khiến không khí tỏa ra mùi dễ chịu.
Roran vừa thấy phấn khích vừa thấy sợ. Mình hy vọng cô ấy không sao, anh thầm nghĩ khi nhớ lại cuộc trò chuyện của mấy người phụ nữ với nhau về tuổi tác của dì và chuyện dì chửa hơn tháng. Elain luôn luôn đối tốt với anh và Eragon, và anh cũng rất thích dì.
“Anh sẵn sàng chưa?” Katrina hỏi khi cô bước ra khỏi lều, quấn thêm một chiếc khăn quàng màu xanh quanh đầu và cổ.
Anh với lấy thắt lưng và búa. “Rồi. CHúng ta đi thôi.”
‹ 06.KÝ ỨC CỦA NGƯỜI CHẾT
lên
08.CÁI GIÁ CỦA QUYỀN LỰC ›
“Thôi nào tiểu thư. Tiểu thư không cần những thứ này nữa đâu. Vứt nó đi thôi.”
Cô hầu gái của Nasuada, Farica nhẹ nhàng tháo lớp vải lanh băng quanh cánh tay cô. Nasuada đã phải băng bó như thế từ hồi cô và thủ lĩnh Fadawar so độ dũng cảm trong Thách đấu Trường Đao.
Nasuada đứng nhìn chằm chằm vào tấm thảm dài rách tả tơi trong khi Farica chăm sóc cô. Sau đó cô cố gắng nhìn xuống. Từ khối chiến thắng trong Thách đấu Trường đao tới giờ, cô vẫn không dám nhìn những vết thương, lúc mới đầu trông chúng đã rất xấu xí nên cô không thể nhìn lại cho tới khi chúng sắp lành.
Những vết sẹo nằm rải rác trên cánh tay cô: sáu vết nằm ở dọc bụng cánh tay trái và ba vết khác ở tay phải. Mỗi vết sẹo dài khoảng 7 tới 10cm trừ vết cuối cùng ở bên tay phải. Lúc đó đầu óc cô đã không còn kiểm soát nổi và con dao trượt đi tạo nên vết sẹo dài gấp đôi những cái khác. Lớp da quanh vết sẹo ửng hồng và dúm lại trong khi vết sẹo chỉ hơi trắng hơn phần da còn lại của cô một chút. Cô đã sợ rằng trông chúng trắng bệch đập vào mắt người khác. Vết sẹo lồi lên khoảng 0,5cm, trông như thể có ai đó ấn một cái roi sắt nhỏ dưới làn da cô.
Tư tưởng của Nasuada mâu thuẫn khi quan sát chúng. Khi cô lớn, cha cô đã dạy cho cô những tập tục của dân tộc cô, nhưng cả cuộc đời cô lại sống cùng Varden và những người lùn. Cô chỉ được đi xem những buổi lễ của dân du mục và hiếm lắm mới tham gia vào buổi cầu nguyện của họ. Cô chưa bao giờ Nhảy Trống giỏi và cũng chưa bao giờ tham gia buổi Cầu Hồn, hay – cái này là đặc biệt nhất – đánh bại ai trong Thách đấu trường Đao. Thế mà giờ đây khi cô vẫn còn trẻ đẹp lại mang trên mình chín vết sẹo lớn trên cánh tay. Cô có thể ra lệnh cho một trong những pháp sư của Varden xóa mờ chúng nhưng sau đó có thể cô sẽ mất đi chiến thắng của mình ở Thách Đấu Trường Đao, và những bộ lạc du mục sẽ lại bảo cô chỉ là kẻ nô bộc của họ.
Trong khi cô tiếc nuối nhìn cánh tay không còn mềm mượt của mình và không bao giờ còn thu hút ánh nhìn của cánh nam giới nữa, cô cũng tự hào về những vết sẹo. Chúng là vật chứng cho sự dũng cảm và là bằng chứng hữu hình cho những gì cô cống hiến cho Varden. Bất cứ ai đối diện với cô sẽ biết được con người cô và cô thấy điều đó còn quý giá hơn nhiều so với vẻ bề ngoài.
“Chàng nghĩ sao?” cô hỏi và giơ cánh tay về trước mặt Vua Orrin đang đứng bên cửa sổ thư phòng ngắm nhìn thành phố.
Orrin quay lại, nhíu mày, mắt tối lại bên dưới hàng lông mày rậm rạp. Lúc trước ông đã thay bộ giáp chiến đáu bằng bộ áo vải đỏ dày và áo choàng gắn lông chồn trắng.
“Trẫm thấy hài lòng khi nhìn thấy những vết sẹo,” ông nói và quay lại nhìn thành phố. “Băng lại đi. Để như thế không hợp với xã hội lịch sự.”
Nasuada quan sát cánh tay thêm một lúc. “Không, tôi không nghĩ thế.” Cô giật dải dây buộc ở cánh tay và đưa cho Farica. Cô bước qua tấm thảm của người lùn đặt ở giữa phòng tới gần Orrin ngắm nhìn thành phố tan tác sau chiến tranh.Cô thấy hài lòng khi hai trong số các đám cháy ở phóa thành tây đã bị dập tắt. Sau đó cô quay sang nhìn nhà vua.
Chỉ trong một khoảng thời gian ngắn từ khi Varden và Surdan bắt đầu chống lại đế chế, Orrin đã già đi rất nhiều, vẻ nhiệt tình và tính cách kỳ cục vốn cố có ông đã biến mất dưới vẻ ngoài sắt đá. Lúc đầu, cô thích những thay đổi đó vì cô cảm thấy ông người lớn hơn, nhưng khi chiến tranh kéo faif, cô bắt đầu nhớ cách ông hào hứng thảo luận như thể một nhà hùng biện cũng như nhớ tính cách thất thường của ông. Cô nhớ ông đã từng làm cô thấy nhẹ nhõm dù cho lắm lúc cuộc sống với cô quá là nặng nề. Hơn nữa những thay đổi đã biến ông nguy hiểm hơn; nếu xét như tâm trạng hiện tai của ông, cô nghĩ ông đang có ý định tiếm quyền thủ lĩnh Varden của cô.
Liệu mình có hạnh phúc khi lấy ngài? Cô phân vân. Orrin không đẹp mã. Mũi ông quá cao và nhỏ nhưng hàm lại bạnh mà môi lại quá mỏng. Sau hàng năm trời luyện tập đã cho ông một thân hình cơ bắp. Trí tuệ của ông không ai có thể nghi ngờ và tính cách của ông cũng dễ chịu. Nhưng nếu như ông không phải vua của Surda và nếu như ông không quá đe dọa tới vị trí của cô và tới quyền tự chủ của Varden, cô biết cô sẽ không bao giờ để mắt tới ông ta. Liệu ngài có thể làm một người cha tốt không?
Orrin tì tay lên bậu cửa đá. Ông nói và không thèm nhìn cô. “Nàng phải chấm dứt thỏa thuận liên minh với Urgal.”
Câu nói của ông khiến cô lùi lại mấy bước. “Vì sao?”
“Vì chúng làm tổn thương chúng ta. Những người muốn làm đồng minh với chúng ta giờ lại quay sang nguyền rủa chúng ta vì liên minh với quỷ dữ và không chịu hạ vũ khí khi chúng ta tới quê hương họ. Đối với họ sự tại vị của Galbatorix có vẻ công bằng và có lý vì chúng ta liên quân với Urgal. Những người bình thường sẽ không thể hiểu vì sao chúng ta chấp nhận chúng. Họ sẽ không biết rằng chính Galbatorix đã lợi dụng Urgal hay Galbatorix lừa Urgal tấn công Tronjheim dưới sự chỉ huy của Tà thần. Nàng sẽ không thể giải thích những chuyện tế nhị như vậy cho những người nông dân đang sợ hãi. Tất cả những gì họ hiểu là những sinh vật họ sợ và thù ghét cả đời đang tiến tới quê hương họ, cùng với một con rồng và một kỵ sĩ giống tiên hơn là người.”
“Chúng ta cần sự giúp đỡ của Urgal,” Nasuada nói. “Chúng ta còn quá ít binh sĩ.”
“Chúng ta không cần chúng tới vậy. Nàng biết những gì trẫm đang nói là sự thật; thế còn vì lý do gì mà nàng không để Urgal tham chiến ở Belatona? Vì sao nàng ra lệnh cho chúng không được đặt chân vào thành phố? Không cho chúng tham chiến là chưa đủ đâu Nasuada. Tiếng xấu về chúng đã đồn đải khắp nơi rồi. Điều duy nhất nàng có thể làm để cải thiện tình hình là chấm dứt sự phối hợp kinh tởm này trước khi nó gây cho chúng ta nhiều thiệt hại hơn.”
“Thiếp không thể.”
Orrin quay lại nhin cô với vẻ tức giận. “Những binh sĩ đang chết dần vì nàng chấp nhận sự trợ giúp của Garzhvog. Những binh sĩ của ta, của nàng, những người dân của đế chế... chết và bị chôn. Vụ liên minh này không đáng để họ phải bỏ mạng. Còn trẫm, trẫm không thể hiểu vì sao nàng lại bảo vệ chúng.”
Cô không thể chịu nổi cái nhìn của ông ta, nó khiến cô nhớ tới cái cảm giác tội lỗi mỗi khi cô cố gắng ngủ. Cô quay mặt nhìn chăm chăm vào đám khói bốc từ ngọn tháp ở góc khuất của thành phố. Cô từ từ nói. “Thiếp bảo vệ họ vì thiếp hy vọng bảo trì sự liên minh giữa chúng ta và Urgal sẽ cứu sống nhiều người hơn cái giá chúng ta phải trả... Nếu chúng ta có thể đánh bại Galbatorix...”
Orrin lẩm rẩm tỏ ra không tin.
“Thiếp biết chúng ta không nắm chắc phần thắng,” cô nói. “Nhưng chúng ta phải vạch ra tất cả các khả năng. Nếu chúng ta đánh bại được lão ta thì chúng ta sẽ bước vào quá trình phục hồi nền văn minh từ đống tro tàn của Đế chế. Chúng ta phải chắc chắn chúng ta có được hòa bình sau cả trăm năm đấu tranh. Thiếp không thể nào hạ bệ Galbatorix để rồi Urgal sẽ đánh bại chúng ta vào thời điểm chúng ta yếu nhất.”
“Lúc nào chúng cũng có thể làm thế. Chúng luôn là thế.”
“Vậy thì chúng ta có thể làm gì nữa?” cô giận giữ nói. “CHúng ta phải cố gắng thuần phục chúng. Chúng ta càng khiến chúng không biết được mục đích chúng ta liên minh với chúng là gì thì nguy cơ chúng quay lưng với chúng ta càng thấp.”
“Trẫm sẽ nói cho nàng biết phải làm gì,” ông ta hét lên. “Đuổi chúng đi. Chấm dứt hòa ước với Nar Garzhvog và đuổi chúng đi. Nếu chúng ta chiến thắng trong cuộc chiến này, chúng ta có thể đưa ra bản hiệp định mới với chúng trong một tư cách cao hơn. Hoặc tốt hơn, cho Eragon và Saphira và một tiểu đoàn tiến vào dãy Spine giết sạch lũ Urgal như các Kỵ sĩ Rồng đã từng làm.”
Nasuada nhìn ông ta với vẻ khó tin. “Nếu thiếp chấm dứt hiệp ước với Urgal, có thể họ sẽ tức giận, họ sẽ ngay lập tức tấn công chúng ta, và chúng ta không thể cùng lúc đương đầu với chúng và quân đội triều đình. Chỉ có đồ ngu mới làm thế. Nếu như thần tiên, rồng và các Kỵ sĩ có thể chấp nhận sự tồn tại của Urgal – kể cả khi họ thừa sức tiêu diệt chúng – thì vì sao chúng ta không thể. Họ biết giết tất cả Urgal là sai, vậy thì chàng cũng phải thấy được điều đó.”
“Cứ theo gương họ đi. Họ bị sao rồi đó! Tốt thôi, cứ để một vài Urgal sống sót nhưng hay giết một lượng đủ để chúng không dám trả thù chúng ta trong một trăm năm nữa!”
Sự đau đớn hiện lên rõ ràng trong giọng nói của cô và trên mặt ông hiện rõ những gân xanh đỏ. Nasuada thấy choáng váng. Cô quan sát ông kỹ hơn để hiểu vì sao ông lại kích động tới vậy. Sau một lúc, cô đã hiểu.
“Chàng đã mất ai?” cô hỏi.
Orrin nắm chặt bàn tay, rồi từ từ mở bàn tay tựa vào bậu cửa sổ như thể ông muốn dồn toàn bộ sức mạnh ra nhưng lại không dám. Ông đấm lên cửa sổ hai lần rồi nói. “Một người bạn thời niên thiếu cùng ta lớn lên ở lâu đài Borromeo. Ta không nghĩ nàng đã có dịp gặp cậu ta. Cậu ta là trung úy trong quân kỵ binh.”
“Sao anh ấy chết?”
“Đúng như nàng đoán đó. CHúng ta tới khu chuồng ngựa phía tây xem xét để sử dụng thì một người giữ ngựa chạy ra dùng cây xỉa đập vào anh ta. Khi chúng ta tóm được hắn, hắn cứ la hét về Urgal và rằng hắn không bao giờ đầu hàng... Nếu hắn không làm thì cũng có kẻ khác làm. Sau đó ta tự mình giết chết hắn.”
“Thiếp rất tiếc,” Nasuada nói.
Những viên đá gắn trên vương miện của Orrin lấp lánh khi ông gật đầu vẻ thấu hiểu.
“Dù chàng có đau thương thế nào cũng không thể để nó tác động tới quyết định của chàng... Em biết nó không hề dễ dàng – nhưng chàng phải mạnh mẽ hơn con người thật của mình, vì lợi ích của con dân của chàng.”
“Phải mạnh mẽ hơn à,” ông nói bằng giọng chua chát và chế nhạo.
“Đúng. Chúng ta phải mạnh mẽ hơn những người khác, chúng ta phải chứng tỏ chúng ta có thể đứng ra chịu trách nhiệm... Urgal giết cha thiếp, chàng có nhớ không, nhưng chuyện đó không ngăn thiếp quyết định liên quân cùng Urgal để giúp Varden. Thiếp sẽ không để bất cứ chuyện gì khiến thiếp từ bỏ cái gì thiếp cho là tốt cho quân đội của chúng ta và cho cục diện chung, dù chúng ta sẽ phải trải qua đau đớn thế nào.” Cô giơ tay cho ông ta xem những vết sẹo.
“Vậy đây là câu trả lời của nàng? Nàng sẽ không phá vỡ hiệp ước với Urgal?”
“Không.”
Orrin quá bình thản chấp nhận khiến Nasuada không yên tâm. Sau đó ông đặt cả hai tay lên bậu cửa sổ rồi quay người bỏ vào thư phòng. Trên tay ông đeo bốn chiếc nhẫn lớn; một trong số đó có khắc quốc huy Surda lên mặt đá thạch anh: hình một con hươu sừng tấm chân quấn tầm gửi đứng trên một chiếc đàn hạc, đối diện là một ngọn tháp cao sừng sững.
“Ít nhất,” Nasuada nói. “Chúng ta không phải đụng độ những binh sĩ không biết đau.”
“Những thây ma biết cười ấy hả,” Orrin lầm bẩm, sử dụng cụm từ mà cô biết đã phổ biến trong quân Varden. “Đúng, và may là không có Murtagh lẫn Thorn, nếu không thì phiền lắm.”
Cả hai người không nói gì trong một lúc. Sau cùng cô cất tiếng, “Thí nghiệm tối qua thế nào? Thành công không?”
“Ta mệt quá nên đi ngủ.”
“Ờ.”
Sau đó cả hai cùng ngầm đồng ý đi về bàn làm việc đặt ở cạnh một bức tường. Trên bàn là hàng núi công văn, giấy tờ, báo cáo. Thế mà chỉ cách đây nửa tiếng, trên bàn làm gì có gì đâu.
Cô tập trung vào bản báo cáo quan trọng nhất, ước tính số lượng tù nhân quân Varden bắt giữ sau trận chiến ở Belatona, những tên quan trong đã được đánh dấu bằng mực đỏ. Cô và Orrin đang bàn về những con số thì Ferica bước vào tháo gạc cho cô.
“Thiếp không nghĩ mình có thể thoát được khỏi đống rắc rối này,” cô thừa nhận.
“Chúng ta có thể tuyển quân hộ thành từ những người này. Như vậy chúng ta không phải bỏ lại quá nhiều chiến binh.”
Cô cầm bản báo cáo lên. “Có thể, nhưng những người chúng ta cần lại hiếm mà thầy phép của chúng ta đang làm việc quá tải rồi...”
Khi thấy cô trả lời tiêu cực, nhà vua hỏi lại. “Vậy Du Vrangr Gata đã tìm ra cách phá bỏ lời thề bằng ngôn ngữ cổ chưa? Đã có chút tiến triển nào chưa?”
“Chưa. Thiếp đã hỏi ý kiến thần tiên nhưng họ cũng không hơn chúng ta.”
“Nếu chúng ta không giải quyết được vấn đề này, chúng ta sẽ thua trận,” Orrin nói. “Đây chính là vấn đề mấu chốt.”
Cô day day thái dương. “Thiếp biết.” Trước khi để lại người lùn bảo vệ Farthen Dȗr và Tronjheim, cô đã thử tính tới những thách thức quân Varden phải đối mặt khi ở thế phòng thủ. Nhưng vấn đề họ đang vấp phải lúc này lại khiến cô quá ngạc nhiên.
Mọi người đã thấy được rắc rối đó lần đầu tiên sau Trận chiến trên Đồng bằng cháy. Rõ ràng là những binh sĩ của Galbatorix đã phải thề trung thành với lão và đế chế bằng ngôn ngữ cổ. Cô và Orrin không thể tin tưởng họ, ít nhất là tới khi tiêu diệt đế chế và Galbatorix hoặc có thể là không bao giờ. Vì vậy họ không thể để tàn quân gia nhập quân đội Varden vì sợ lời thề sẽ khiến họ hành động khác thường.
Nasuada không quan tâm nhiều tới vấn đề này cho tới thời điểm hiện tại. Có chiến tranh tất có tù nhân và cô đã thỏa hiệp với Vua Orrin rằng sẽ đưa tù binh về Surda, đưa họ tới công trường xây dựng đường xá, đập đá, kè mương và làm những công việc nặng nhọc khác.
Nhưng tới khi Varden tiếp quản Feinster cô mới thấy hết được mức nghiêm trọng của vấn đề. Galbatorix không chỉ buộc binh lính, mà cả quý tộc và tùy tùng, thậm chí vài người dân thề trung thành với lão – một con số quá lớn khiến Varden không thể xác định nổi. Nhưng những ai họ xác định được, họ giam vào ngục thất, ít nhất là tới khi tìm cách phá giải lời thề. Sau đó việc tìm những người họ có thể tin tưởng và những người họ muốn đầu quân cho Varden còn khó hơn rất nhiều.
Để canh chừng những người đó, Nasuada phải để lại Feinster gấp đôi số lượng quan sĩ cô dự liệu lúc đầu. Và, vì có nhiều tù nhân nên số lượng lương thực cung cấp tới các thành phố lại tăng lên. Họ không thể duy trì tình thế này lâu hơn, và giờ mọi chuyện đang chuyển biến xấu khi họ đã có Belatona.
“Tiếc là người lùn không tới,” Orrin nói. “Chúng ta có thể tranh thủ sự giúp đỡ của họ.”
Nasuada đồng tình. Tại thời điểm này trong quân Varden chỉ có vài trăm người lùn; phần còn lại đã về Farthen Dȗr chôn cất tiên hoàng Hrothgar và để đợi các tộc trưởng chọn ra người kế nhiệm Hrothgar. Cô đã nguyền rủa việc này không biết bao nhiêu lần. Cô đã thuyết phục người lùn hãy chon ra quan nhiếp chính cho thời gian này, nhưng họ cứng đầu như đá và cứ khăng khăng làm theo nghi lễ đã có từ ngàn đời của mình, dù việc đó đồng nghĩa với việc bỏ rơi Varden. May là, cuối cùng họ đã chọn ra nhà vua mới – cháu họ của Hrothgar, Orik và hiện giờ đang đi từ rặng núi Beor xa xôi tới tiếp viện cho Varden. Tại thời điểm này, họ đã qua vùng đồng bằng rộng lớn ở bắc Surda, ở khu vực giữa hồ Tudosten và sông Jiet.
Nasuada không biết họ có thể tham chiến ngay khi tới không. Những người lùn dai sức hơn con người nhưng gì thì gì họ cũng đã đi bộ hành quân suốt hai tháng ròng, thế cũng đủ làm rệu rã những con người khỏe nhất. Chắc họ chán lắm khi cứ phải nhìn đi nhìn lại những cảnh giống nhau, cô nghĩ bụng.
“Chúng ta đã có quá nhiều tù binh rồi. Và một khi chúng ta chiếm được Dras Leona...” cô lắc đầu.
Đột nhiên biểu hiện trên khuôn mặt Orrin sáng lạng hẳn: “Nếu chúng ta bỏ qua Dras – Leona thì sao?” Ông lật tung đống giấy tờ cho tới khi tìm thấy tấm bản đồ Alagaësia do người lùn vẽ, mà ông đã cho sao làm nhiều bản. Trên bản đồ những ụ đất nhấp nhô khiến địa thế của vùng đất không bình thường: những đỉnh núi nằm ở phía tây Du Weldenvarden. Đồng bàng trũng nơi có dãy núi Beor; những khe núi và hẻm núi chạy dọc Sa mạc Hadarac; và hệ thống núi Sphine xếp như dẻ quạt ở phần chính bắc. “Nhìn đi.” Ông dùng ngón giữa chỉ theo đường nối giữa Belatona tới thủ phủ của Đế chế, thành phố Urȗ’baen. “Nếu chúng ta hành quân thẳng tới đây, chúng ta sẽ không phải đi qua Dras – Leona. Đi xa như thế rất có khăn nhưng chúng ta có làm được.”
Nasuada không cần phải cân nhắc về gợi ý này; cô đã nghĩ tới khả năng này rồi. “Nguy hiểm rất lớn. Galbatorix có thể vừa tấn công chúng ta bằng cánh quân ở Dras – Leona – với một số lượng không nhỏ, nếu như tình báo của chúng ta đáng tin – và như vậy chúng ta sẽ bị tấn công từ hai hướng. Cách đó là cách thua trận nhanh nhất. Không, chúng ta phải chiếm được Dras – Leona.”
Orrin thừa nhận cùng một cái gật đầu khe khẽ. “Vậy thì chúng ta cần quân sĩ từ Aroughs quay lại. Chúng ta cần huy động tổng lực nếu chúng ta muốn tiếp tục cuộc chiến.”
“Thiếp biết. Thiếp định kết thúc cuộc chiến ở đó trong tuần này.”
“Ta hy vọng không phải bằng cách cho Eragon tới đó.”
“Không, thiếp có kế hoạch khác.”
“Tốt. Và nhanh lên nhé. Vậy chúng ta làm gì với tù nhân đây?”
“Như chúng ta đã làm trước đây: canh giữ, đề phòng, cùm xích. Có thể chúng ta cần dùng phép thuật để hạn chế cử động của họ, như vậy chúng ta có thể trông chừng chúng kỹ lưỡng hơn. Ngoài ra, thiếp không nghĩ ra giải pháp khác, trừ việc giết hết họ. Thiếp thà...” Cô cố tưởng tượng ra viễn cảnh cô không hạ bệ được Galbatorix. “Thiếp thà không dùng... biện pháp kinh khủng này.”
“Ừ.” Orrin nói và quan sát vết mực đã mờ đánh dấu tam giác Belatona, Dras- Leona và Urȗ’baen.
Ông vẫn cứ nhìn thế cho tới khi nasuada nói, “Chúng ta còn cần làm gì không? Jörmundur đang đợi lệnh còn Hội Đồng Trưởng lão muốn gặp thiếp.”
“Ta thấy lo.”
“Vì chuyện gì?”
Orrin đặt tay lên tấm bản đồ. “Kế hoach này từ đầu đã khó khăn rồi... Lực lương của chúng ta, quân đồng minh đang tản mát quá nhiều, và nếu Galbatorix nghĩ tới việc tham chiến, lão có thể tự mình giết chết chúng ta dễ như Saphira chén một bầy dê vậy. Toàn bộ kế hoạch của chúng ta phải phụ thuộc vào khi nào Galbatorix sẽ đối đầu với Eragon và Saphira cũng như chúng ta sẽ chiêu gọi được bao nhiêu thầy phép. Giờ số lượng thầy phép của chúng ta quá ít và chúng ta sẽ không thể triệu tập những người còn lại cho tới khi tới Urȗ’baen và hợp quân cùng Nữ hoàng Islandzandí và quân đội của bà ta. Tới lúc đó, quân chúng ta vẫn còn yếu. Chúng ta chỉ mong sao Galbatorix vẫn cứng đầu không chịu tham chiến cho tới khi chúng ta răng bẫy quanh hắn.”
Nasuada cũng nghĩ như vậy. Nhưng hiện giừ cô cần nâng cao sự tự tin của Orrin hơn là khiến ông suy nghĩ càng tiêu cực, vì nếu sự quyết tâm của ông yếu đi, nhiệm vụ và ảnh hưởng tới quyết tâm của nhà vua cũng như làm nản lòng binh lính. “Chúng ta không phải hoàn toàn không có sức phòng vệ,” cô nói. “Không còn như thế. Chúng ta đã có thanh Dauthdaert, và với nó thiếp nghĩ chúng ta có thể giết chết Galbatorix và Shruikan khi bọn họ xuất hiện ở Urȗ’baen.”
“Có lẽ.”
“Ngoài ra, lo lắng chẳng ích gì. Chúng ta không thể khiến người lùn đi nhanh hơn, hay khiến tốc độ hành quân tới Urȗ’baen của chúng ta nhanh hơn hay quay đuôi bỏ chạy. Vì thế tốt hơn chàng đừng lo lắng thái quá. Tất cả những gì chúng ta có thể làm là bình thản chấp nhận số phận cho dù chuyện gì sắp đến. Thiếp không để những suy nghĩ về hành động của Galbatorix làm ảnh hưởng tới chúng ta. Thiếp không cho mình vì hắn mà yếu đuối.”
‹ 07.THẾ NÀO MỚI LÀ ĐÀN ÔNG?
lên
09.VƯỢT CẠN ›
Tiếng hét vang lên: cao, the thé và chói tai hầu như không hề giống của con người.
Eragon căng thăng như ai đó dùng kim đâm vào nó. Nó đã giành cả ngày để chứng kiến mọi người chiến đấu và tử trận – chính nó cũng giết vô khối kẻ địch – nhưng nó không thể chịu nổi khi nghe thấy tiếng thét thống khổ của dì Elain. Những âm thanh đó quá kinh khủng khiến nó phân vân liệu dì vượt cạn nổi không.
Bên cạnh nó, Abriech và Baldor ngồi phệt xuống và dựt cỏ. Những ngón tay to bè của họ xé những lá cỏ tan tành trước khi bứt cây cỏ tiếp theo. Mồ hôi rịn ra trên trán họ và mắt họ mở to với vẻ tức giận và tuyệt vọng. Thi thoảng họ nhìn nhau hoặc nhìn vào trong lều, nhưng hầu hết thời gian họ cắm mặt xuống đất và không để ý tới mọi chuyện xung quanh.
Cách đó vài mét, Roran đang ngồi trên một cái thùng. Ở bên góc con đường lầy lội là một toán người dân Carvahall đang tụ tập, hầu hết là bạn của chú Horst và những cậu con trai cùng vợ của họ tới giúp bà Gertrude đỡ đẻ cho dì Elain. Saphira đứng sau họ. Cổ của cô nàng cong xuống như một chiếc cung, đuôi nó vẫy qua vẫy lại như thể đi săn, và nó cứ hết thò thụt cái lưới đỏ như đá ruby ra khỏi miệng, nếm lấy vị không khí có thể báo cho nó biết vài thông tin về Elain và đứa nhỏ sắp sinh.
Eragon xoa xoa bắp tay trái bị đau. Họ đã chờ đợi hàng giờ và cũng đã chạng vạng tối. Bóng tối phủ lên mọi cảnh vật, tiến về phía đông như thể muốn tiến tới đường chân trời. Trời trở lạnh và muỗi cùng những con chuồn chuồn kim từ sông Jiet bay vo ve xung quanh họ.
Một tiếng gào nữa phá tan sự im lặng.
Những người đàn ông thì thầm với vẻ lo lắng, rồi ra dấu không tốt và thì thầm nhỏ chỉ để người gần họ nhất có thể nghe thấy nhưng Eragon lại nghe rất rõ. Họ thì thầm về ca đẻ khó của dì Elain; một vài người còn nói nếu dì không sớm sinh em bé thì sẽ khó cứu được mẹ lẫn con. Một số người khác lại nói “Kể cả lúc sung sướng mất vợ đã khổ chứ đừng nói là trong hoàn cảnh này” hoặc “Tiếc thay, tiếc thay...” Vài người đổ chuyện của Elain cho lũ Ra’zac hoặc những chuyện dân làng đã gặp phải trong hành trình tới với quân Varden. Thậm chí có người còn bảo họ không tin Arya biết đỡ đẻ.” “Cô ta là tiên chứ đâu phải người,” bác thợ mộc Fisk nói. “Cô ấy nên sống cùng những người như cô ấy chứ không phải tới những nơi không chào mừng cô ta. Ai mà biết được co ta thực sự muốn gì?”
Eragon nghe thấy tất cả và còn nhiều điều khác nhưng nó vẫn giấu cảm xúc và vẫn giữ vẻ mặt bình thản, vì cậu biết dân làng sẽ không vui khi biết cậu nghe tốt thế nào.
Chiếc thùng gỗ dưới Roran kêu cọt kẹt khi anh ngoài người về phía trước. “Mọi người có nghĩ chúng ta nên...”
“Không,” Albriech nói.
Eragon cuốn chặt áo choàng vào người hơn. Cơn ớn lạnh đã lan vào tận xương. Nhưng cậu sẽ không đi cho tới khi nào dì Elain sinh xong.
“Nhìn kìa,” Roran đột nhiên hào hứng nói.
Albriech và Baldor ngay đầu lại nhìn.
Katrina xuất hiện trước lều cầm theo một đống giẻ bẩn. Trước khi tấm bạt lều khép lại, Eragon chợt nhìn thấy mờ mờ hình ảnh của chú Horst và một người phụ nữ Carvahall – nó không chắc là ai – đứng ở đầu võng dì Elain nằm.
Katrina không thèm liếc lấy một cái mà chạy thẳng tới chỗ vợ của chú Fisk, Isold và cô Nolla đang đun lại đống vải để dùng lại.
Cái thùng lại cọt kẹt kêu khi Roran đổi tư thế ngồi. Eragon nửa mong anh đi tới hỏi chuyện Katrina nửa không, nhưng anh vẫn đó như Albriech và Baldor. Họ và những dân làng khác nhìn theo chuyển động của cô không hề chớp mắt.
Eragon nhăn nhó khi nghe tiếng thét của dì Elain vang lên, không hề bớt đau khổ hơn những lần khác.
Tấm bạt lại được kéo ra lần thứ hai và lần này Arya chạy vụt ra, đầu tóc rối bù và tay áo sắn cao. Những sóng tóc dợn quanh mặt nàng khi nàng lướt qua ba trong số mười một hộ vệ của Eragon đang đứng trong bóng râm của cái lều gần đó. Nàng vội nói gì đó với một người trong số họ, một tiên nữ mặt xương xương tên Invidia, rồi khẩn trương quay lại lều.
Eragon đuổi kịp nàng sau khi nàng bước được mấy bước. “Chuyện sao rồi?” nó hỏi.
“Tệ lắm.”
“Sao lại lâu đến vậy? Nàng không giúp cho dì sinh nhanh được à?”
Nét mặt của Arya từ căng thẳng trở nên trầm trọng. “Có thể. Ngay từ nửa tiếng đầu tiên tôi có thể giúp đứa bé chui ra nhưng Gertrude và những người phụ nữ khác chỉ cho tôi làm một vài phép thuật đơn giản nhất.”
“Vô lý! Sao vậy?”
“Vì phép thuật làm họ sợ - và tôi làm họ sợ.”
“Vậy thì nói với họ là nàng không muốn làm họ sợ. Nói bằng ngôn ngữ cổ và họ sẽ phải tin nàng.”
Nàng lắc đầu. “Làm vậy chỉ khiến tình hình tệ hơn. Họ sẽ nghĩ tôi đang cố phù phép họ chống lại ý chí của họ, và họ sẽ đuổi tôi đi.”
“Chắc chắn Katrina...”
“Nhờ có chị ấy tôi mới làm phép được.”
Elain lại la lớn.
“Họ không cho nàng giảm đau cho dì à?”
“Họ không cho tôi làm gì thêm.”
Eragon quay người nhìn lều nhà chú Horsr. “Hóa ra vậy,” nó rít lên qua kẽ răng.
Nó phải giữ chặt cánh tay trái để đứng im. Nó choáng vàng nhìn Arya mong một lời giải thích. Cô lắc đầu. “Đừng,” nàng nói. “Có những tục lệ quá lâu đời. Nếu chàng can thiệp, chàng sẽ khiến bà Gertrude giận dữ và xấu hổ và khiến nhiều phụ nữ khác trong làng ác cảm với chàng.”
“Tôi không quan tâm!”
“Tôi biết, nhưng tin tôi đi: ngay lúc này tốt nhất là chàng nên ngồi đợi cùng những người khác.” Như để nhấn mạnh, nàng kéo tay nó xuống.
“Tôi không thể ngồi đó mà mặc cho dì đau đớn!”
“Nghe tôi đi. Tốt hơn là chàng nên ở lại. Tôi sẽ cố gắng hết sức để giúp Elain, tôi hứa đó, nhưng chàng đừng có bước vào. Chàng chỉ khiến mọi người giận dữ thôi... Làm ơn nha.”
Eragon đắn đó rồi tức giận hạ tay xuống khi Elain lại kêu váng lên. “Tốt thôi,” nó nói và nhoài lại gần Arya, “nhưng dù có chuyện gì cũng đừng để dì hay đứa bé ra đi. Tôi không cần biết nàng phải làm gì, nhưng đừng để họ chết.”
Arya nghiêm túc quan sát nó. “Tôi sẽ không bao giờ để đứa bé gặp tổn thương,” cô nói rồi tiếp tục bước đi.
Khi nàng vừa biến mất trong lều của chú Horst, Eragon quay lại chỗ Roran, Albriech và Baldor đang tập trung và ngồi xuống cái thùng của nó.
“Thế nào?”
Eragon nhún vai. “Họ làm tất cả những gì có thể. Chúng ta phải kiên nhẫn chờ đợi... Thế thôi.”
“Chẳng có gì mới,” Baldor nói. “Vẫn thế.”
Mặt trời chuyển sang vàng cam rồi đỏ thẫm khi lặn ở đường chân trời. Vài đám mây lang thang ở phía tây, còn sót lại sau cơn bão, không khí ẩm ướt. Nhặng và ruồi cùng một số loài côn trung khác bay vo ve.
Sau một lúc, tiếng thét của dì Elain yếu dần, nhỏ dần thành những tiếng rên rỉ đứt quãng khiến Eragon dựng tóc gáy. Nó muốn giải thoát dì khỏi đau đớn, nhưng nó không thể bỏ qua lời khuyên của Arya, thế là nói ngồi lại và cắn móng tay, miễn cưỡng nói chuyện với Saphira.
Khi mặt trời đi tới đường chân trời, nó lan rộng như một lòng trứng gà khi đập vỡ vỏ trứng. Dơi bắt đầu bay lẫn với bầy chim nhạn, tiếng vỗ cánh của chúng nghe sao mà mờ nhạt và hoảng loạn, tiếng kêu the thé của chúng khiến Eragon đau tai vô cùng.
Sau đó Elain hét một tiếng inh tai làm tất cả những âm thanh trong vùng câm lặng, Eragon không mong trong đời nghe thêm lần nữa.
Sau đó là một khoảng lăng ngắn ngủi nhưng kinh người.
Cuối cùng mọi người nghe thấy tiếng khóc lớn và đứt quãng của đứa nhỏ từ trong lều – tiếng kèn lệnh từ xa xưa tuyên bố một sinh linh mới tới với thế giới này. Albriech và Baldor cười lớn, Roran và Eragon cũng vậy, vài người khác ăn mừng.
Sự vui sướng của họ chẳn bao lâu. Ngay khi tiếng ăn mừng cuối cùng kết thúc, những người phụ nữ trong lều bắt đầu la hét không thôi khiến Eragon sợ lạnh người. Nó biết tiếng than vãn đó có ý nghĩa gì: tình thế tệ nhất đã tới.
“Không,” nó nói, không thể nào tin nổi và đứng bật dậy khỏi cái thùng gỗ. Dì ấy không thể chết... Không thể nào... Arya đã hứa rồi...
Như thể trả lời ý nghĩ của nó, Arya chạy về phía nó với những sải chân dài không tưởng.
“Chuyện gì?” Baldor hỏi khi nàng đi chậm lại rồi dừng hẳn.
Arya lờ cậu ta đi và nói. “Eragon, tới đây.”
“Chuyện gì thế?” Baldor tức tối hét lên và nắm lấy vai Arya. Cô nàng cử động nhanh như một ánh chớp, chộp lấy cổ tay cậu ta vặn ra sau lưng, buộc cậu ta phải cúi người về phía trước như một thằng què. Mặt cậu ta nhăn lại vì đau.
“Nếu cậu muốn em gái mình sống, vậy đứng sang một bên và đừng có can dự vào!” Nàng thả tay và đẩy cậu ta ra, khiến cậu ta nhào vào cánh tay Albriech rồi quay người rảo bước về lều nhà Horst.
“Chuyện gì đang diễn ra?” Eragon hỏi khi đi cùng nàng.
Arya quay qua nhìn nó, ánh mắt cháy bỏng. “Đứa nhỏ khỏe mạnh nhưng bị hở hàm ếch.”
Eragon hiểu vì sao những người phụ nữ lại la hét như vậy. Những đứa nhỏ bị hở hàm ếch thường không được phép sống; chúng rất khó nuốt thức ăn và nếu bố mẹ chúng cho chúng ăn được, chúng vẫn gặp rất nhiều trở ngại khác: bị xa lánh, nhạo báng và khó có ai chịu lấy chúng. Trong hầu hết các trường hợp, đứa trẻ chết non còn tốt hơn.
“Chàng có thể giúp nó, Eragon,” Arya nói.
“Tôi à? Nhưng tôi chưa bao giờ... sao lại không phải nàng? Nàng biết nhiều về chữa trị hơn tôi.”
“Nếu tôi sửa lại hình dạng đứa bé, mọi người sẽ nói tôi đã cướp đứa nhỏ đi và thay nó bằng đứa khác. Tôi biế mọi người nói gì về loài của tôi, Eron – biết rất rõ là đằng khác. Nếu phải làm tôi sẽ làm nhưng đứa trẻ sẽ phải chịu đựng nhiều đau khổ về sau. Chàng là ngwofi duy nhất có thể cứu nó khỏi số mệnh đó.”
Nó thấy hoảng sợ. Nó không muốn chịu trách nhiệm về cuộc đời một người khác; nó đã phải chịu trách nhiệm cho quá nhiều người rồi.
“Chàng phải cứu đứa bé,” Arya nói với giọng bắt buộc. Eragon tự nhắc mình nhớ xem tiên nhân luôn yêu thương con mình và trẻ con những giống loài khác như thế nào.
“Nàng sẽ trợ giúp tôi nếu cần chứ?”
“Tất nhiên.”
Em cũng thế, Saphira nói. Anh có phải hỏi không?
“Được rồi”, Eragon nói và nắm lấy chuôi gươm Brisingr quả quyết. “Tôi sẽ làm.”
Với Arya sóng bước đi cạnh, nó đi về phía lều và đẩy tấm bạt nặng nề bước vào. Khói nến làm cay mắt nó. Năm người phụ nữ làng Carvahall đứng túm tụm lại canh bạt lều. Tiếng than khói của họ như thụi cho nó một cú. Họ lắc lư như thể bị hôn mê, xé quần áo và dứt tóc than vãn. Chú Horst đứng cuối võng cãi vã với bà Gertrude, mặt đỏ lựng, sưng lên và hằn nếp nhăn vì kiệt sức. Dì đang giữ một bọc vai vào ngực, Eragon đoán đó là đứa nhỏ - dù cậu không nhìn thấy mặt nó – đang cựa quậy. Đôi má bánh đúc của bà Gertrude bóng nhờn và tóc bết vào mặt. Mồ hôi chạy dọc cánh tay trần của bà. Katrina đứng đầu võng, chị đang quỳ trên một tấm thảm tròn, dùng khăn ướt lau trán cho dì Elain.
Eragon không còn nhận ra dì Elain; mặt dì hốc hác, dưới đôi mắt lạc thần của dì là quầng đen. Nước mắt đang chảy ra từ hai hốc mắt, tràn ra thái dương rồi biến mất trong búi tóc rối tung. Dì mở miệng và ngậm lại, rên rỉ những từ không ai hiểu nổi. Một tấm chăn bết máu khô che phần người còn lại.
Cả Horst lẫn Gertrude đều không để ý tới Eragon cho tới khi nó tiến gần tới họ. Eragon đã lớn lên nhiều từ hồi rời làng Carvahall nhưng chú Horst vẫn cao hơn nó cả cái đầu. Khi họ nhìn nhau, chút ánh sáng hy vọng bừng lên trên khuôn mặt ảm đạm của người thợ rèn.
“Eragon!” chú vỗ vai Eragon và ôm lấy nó khiến nó khó lòng trụ vững. “Cháu nghe thấy rồi à?” Đấy không thực sự là một câu hỏi nhưng Eragon vẫn gật đầu. Chú Horst liếc nhìn bà Gertrude – nhanh như tên bắn – rồi ông liếm môi. “Cháu có thể... có thể làm gì cho con bé không?”
“Có thể,” Eragon nói. “Cháu sẽ thử.”
Nó giơ tay ra. Sau một hồi ngần ngừ, Gertrude đưa bọc vải ấm áp cho nó rồi lùi lại, thái độ không bình thường.
Bên trong đống vải là khuôn mặt nhăn nheo nhỏ bé của một bé gái. Da con bé đỏ sậm, mắt nhắm tịt nhưng nhăn nhó như thể nó giận vì bị ngược đãi – Eragon nghĩ nó phản ứng vậy cũng hợp lý thôi. Nhưng điểm khiến nó chú ý nhất chính là vết hở xẻ từ cánh mũi trái tới giữa môi trên. Chiếc lưỡi hồng hồng nho nhỏ của nó lộ rõ ra ngoài.
“Làm ơn,” chú Horst nói. “Cháu có thể làm gì...”
Eragon cau mày vì tiếng thổn thức của những người phụ nữ. “Cháu không thể làm gì ở đây,” nó nói.
Khi nó quay người định đi, Gertrude đứng sau lưng nó nói. “Bà sẽ đi với cháu. Một trong số những người biết chăm sóc trẻ con phải ở cạnh con bé.”
Eragon không cần Gertrude lượn lờ xung quanh khi nó cố sửa lại khuôn mặt cô bé con, và nó định nói thì nó nhớ ra Arya đã nói gì đó về những khổ sở sau này của cô bé. Một người dân làng Carvahall, một người được tín nhiệm, phải chứng kiến sự thay đổi của con bé, làm nhân chứng đảm bảo con bé chính là đứa nhỏ được sinh ra.
“Vâng,” nói nói, che giấu ý định của mình.
Đứa nhỏ cựa quậy trong cánh tay nó và khóc khe khẽ khi nó bước ra khỏi lều. Bên kia con đường, những người dân lang đứng chỉ trỏ còn Abriech và Baldor dợm bước về phía nó. Eragon lắc đầu bảo họ đứng lại đó và họ nhìn nó với vẻ vô vọng.
Arya và Gertrude đi hai bên Eragon khi nó bước về lều của mình, mặt đất rung lên sau mỗi bước đi của Saphira đằng sau. Những chiến minh nhanh chóng nhường đường cho họ.
Eragon cố gắng đi nhẹ nhàng để tránh làm đứa nhỏ bị động. Mùi ẩm mốc bay lên từ người đứa bé như mùi đất rừng trong những ngày hè ấm áp.
Họ gần bước tới lều thì Eragon nhìn thấy đứa bé phù thủy, Elva đang đứng ở gần hai cái lều cạnh đường đi. Con bé nhìn nó với vẻ mặt nghiêm trọng. Nó mặc một chiếc váy màu đen tím có mũ kéo ra sau, để lộ ra hình ngôi sao trên trán.
Con bé không nói một lời cũng không dừng Eragon lại. Nhưng Eragon vẫn hiểu con bé muốn cảnh báo nó, vì sự xuất hiện của nó luôn là sự quở trách đối với nó. Trước đây nó đã làm ảnh hưởng tới vận mệnh của một đứa trẻ sơ sinh. Nó không thể để mình mắc cùng một sai lầm không chỉ vì nó có thể dẫn tới hậu quả nghiêm trọng mà còn vì nếu nó làm như vậy, Elva sẽ trở thành kẻ thù không đội trời chung với nó. Dù Eragon có sức mạnh nhưng nó vẫn e ngại Elva. Khả năng của con bé là nhìn vào linh hồn một con người, tìm ra trong đó những điều khiến họ đau đớn hoặc phiền lòng – và nhìn thấy trước những gì có thể làm tổn thương họ - chính vì thế con bé là một trong những sinh vật nguy hiểm nhất Alagaësia.
Dù chuyện gì xảy ra, Eragon thầm nghĩ khi bước vào trong căn lều tối om, mình cũng không muốn làm tổn thương đứa nhỏ này. Và nó cảm thấy có một động lực mới giúp cho con bé có một cuộc đời mới.
‹ 08.CÁI GIÁ CỦA QUYỀN LỰC
lên
10. HÁT RU ›
Ánh sáng mờ mờ từ mặt trời sắp lặn len lỏi vào căn lều của Eragon. Mọi thứ chỉ mang màu nâu như thể được tạc từ đá hoa cương. Với tầm nhìn của thần tiên, Eragon có thể thấy các đồ vật một cách dễ dàng nhưng nó biết bà Gertrude sẽ gặp khó khăn vì thế nó nói. “Naina hvitr un böllr,” và tạo ra một quả cầu ánh sáng nhỏ trôi lập lờ trong không khí. Ánh sáng trắng dìu dịu không làm ấm phòng nhưng cũng tạo ra được thứ ánh sáng tương tự đèn dầu. Nó không dám dùng câu thần chú brisingr vì lo thanh kiếm bốc cháy rừng rực.
Nó nghe thấy tiếng bước chân Gertrude dừng lại sau lưng nó và nó quay lại thấy bà ta đang nhìn chằm chằm vào quần sáng và nắm chặt lấy cái túi bà mang theo. Khuôn mặt quen thuộc của bà khiến nó nhớ nhà và làng Carvahall.
Bà từ từ cúi xuống nhìn nó. “Cháu đã thay đổi nhiều rồi,” bà nói. “Ta nghĩ đứa bé trai ta từng ngồi cả đêm trông nó bị sốt đã không còn.”
“Bà biết là cháu vẫn ở đây mà,” nó trả lời.
“Không, ta không tin.”
Câu nói của bà ta khiến nó khó chịu nhưng nó không thể nghĩ mãi về chuyện đó, nên cố đẩy nó ra khỏi ý nghĩ và đi tới võng. Nó nhẹ nhàng đặt đứa nhỏ mới sinh lên cái chăn, như thể con bé được làm bằng thủy tinh. Đứa bé vẫy nắm tay trước mặt nó. Nó cười và dùng ngón trỏ chạm vào, con bé lẩm bẩm nho nhỏ
‘Cháu định làm gì?” bà Gertrude hỏi khi ngồi xuống chiếc ghế độc nhất trong lều. “Làm sao cháu chữa cho nó được?”
“Cháu không chắc.”
Đúng lúc đó, Eragon phát hiện ra Arya không đi cùng họ vào lều. Cậu gọi nàng và một lát sau nàng từ ngoài trả lời vọng vào, giọng bị lớp vải bố dày làm có biến dạng. “Tôi ở đây,” nàng nói. “Tôi sẽ đợi ngoài này. Nếu chàng cần tôi, cứ phóng tư tưởng về phía tôi và tôi sẽ vào.”
Eragon hơi nhíu mày. Cậu cứ nghĩ cô sẽ ở bên cậu trong suốt quá trình, giúp cậu ở những điểm cậu không biết và sửa sai nếu cậu phạm lỗi. Ừm, không sao. Mình vẫn có thể hỏi nàng nếu cần. Chỉ có cách này bà Gertrude mới không nghi ngờ Arya làm gì đứa nhỏ. Nó bị ám ảnh vì những điều Arya cảnh báo, và nó phân vân liệu cô đã từng bị buộc tội trộm đứa trẻ nào chưa.
Chiếc võng kêu kẽo kẹt khi nó từ từ hạ người xuống nhìn đứa nhỏ. Trán nó nhăn tợn. Nó cảm thấy Saphira đang qua nó quang sát đứa nhỏ lơ mở ngủ trong chăn.
Em nghĩ sao? Nó hỏi.
Từ từ, để anh không vô tình cắn phải đuôi anh.
Nó đồng ý với cô rồng, sau đó nó tinh quái hỏi lại, Thế em đã làm thế bao giờ chưa? Cắn đuôi ấy?
Cô nàng im lặng nhưng nó cũng thấy được một chút cảm giác: một mớ hỗn độn những hình ảnh – cây cối, cỏ hoa, ánh mặt trời, dãy nũi Spine – cũng như mùi hương ngọt ngào của lan đỏ và một cảm giác đau đớn bất chợt như thể cánh cửa đóng sầm một nhát vào đuôi cô nàng.
Eragon cười thầm, rồi tập trung tạo ra câu thần chú nó nghĩ là cần. Nó mất khoảng nửa tiếng. Nó và Saphira dành gần hết khoảng thời gian đó để soát lại câu thần chú, kiểm tra và tranh luận xem có nên dùng từ hay cụm từ đó không – và thậm chí là cả cách phát âm của Eragon – để chắc chắn câu thần chú đi đúng chủ đích.
Khi hai người đang thảo luận trong im lặng, Gertrude động đậy và nói. “Con bé vẫn thế. Không phải chuyện chuyển biến xấu chứ? Đừng giấu bà, Eragon; hôm nay bà đã phải xử lý nhiều tình huống tệ hơn.”
Eragon nhướn mày và nhẹ nhàng nói. “Công việc chưa bắt đầu.”
Thế là bà Gertrude ngồi lại. Bà lôi trong túi ra một cuộn len vàng, một cái áo len đan được một nửa và một đôi que đan bằng gỗ bạch dương sáng bóng. Những ngón tay bà đan nhanh vì đã quen tay. Tiếng lách cách đều đặn khiến Eragon yên lòng; nó giống âm thanh từ thời niên thiếu khi nó ngồi cạnh bếp lửa trong những tối mùa thu hiu hiu lạnh, nghe người lớn kể chuyện, hút thuốc hoặc uống bia nâu sau bữa tối tập thể.
Cuối cùng, khi nó và Saphira hài lòng vì câu thần chú đã an toàn, Eragon tự tin vì nó không ngọng nghịu phát âm ngôn ngữ cổ. Eragon rút lấy sức mạnh từ cả hai cơ thẻ và chuẩn bị niệm thần chú.
RỒi nó chần chừ.
Khi các tiên dùng phép thuật thuyết phục cây và hoa sinh trưởng theo hình dáng họ muốn, hoặc để thay hình đổi dạng thành sinh vật khác, theo như cậu biết, họ luôn luôn biến câu thần chú thành một bài hát. Nó cũng nên làm thế. Nhưng nó chỉ biết vài bài hát của thần tiên và không bài nào trong số đó chính xác – hoặc có thể - tái tạo vẻ đẹp.
Vì vậy, nó chọn một bài hát từ sâu thẳm trong ký ức của nó, một bài hát dì Marian đã hát cho nó nghe từ khi còn bé tí, trước khi dì bị bạo bệnh, một bài hát mà những người phụ nữ Carvahall ru con đi vào giấc ngủ say: lullaby – bài hát ru. Giai điệu của nó rất đơn giản, dễ nhớ và nhẹ nhàng để đứa nhỏ an an tĩnh tĩnh mà ngủ.
Nó bắt đầu hát, nhẹ nhàng và trầm ấm lan tỏa trong lều như hơi ấm của lửa. Trước khi sử dụng phép thuật, nó nói với cô bé bằng ngôn ngữ cổ rằng nó là bạn cô, nó muốn cô có những điều tốt đẹp nhất và rằng cô bé cần tin tưởng nó.
Con bé hơi nhúc nhích trong giấc ngủ, như thể trả lời nó, và nét mặt rất bình thản.
Sau đó Eragon niệm đoạn thần chú đầu tiên: một câu thần chú đơn giản gồm hai câu ngắn mà nó niệm đi niệm lại như thể cầu nguyện. Khe chia đôi môi cô bé rung lên và sáng mờ mờ như một sinh vật ngủ đông cựa quậy bên dưới.
Điều nó muốn làm không hề dễ. Xương của đứa nhỏ, giống như những đứa bé sơ sinh khác, rất mềm và còn là sụn, không giống xương người lớn và vì thế rất khác với việc cậu chỉnh xương cho những binh sĩ Varden. Nó phải cẩn thận để lấp khe trên môi cô bằng xương thịt và xa của người lớn và phần đó sẽ không hợp với phần cơ thể còn lại. Ngoài ra, trong khi chữa lành vết hở ở phần lợi và hàm trên, nó phải làm cho chân răng cửa di chuyển, thẳng ra và đối xứng. Cậu chưa bao giờ làm điều này. Hơn nữa, nó không biết nếu không có khuyết tật này trông cô bé sẽ ra sao nên không chắc môi và miệng cô bé nên thế nào cho đúng. Trông cô nhóc y như những đứa nhỏ khác nó từng thấy: tròn, bầu bĩnh. Nó lo lắng rằng nó sẽ tạo ra một khuôn mặt có thể bây giờ thì ưa nhìn nhưng sau này khi con bé lớn lại trở nên kỳ dị và thiếu sức hút.
Thế nên nó tiến hành công việc vô cùng cẩn trọng, chỉ tạo ra một vài thay đổi nhỏ một lúc, sau đó dừng lại chiêm ngưỡng kết quả. Nó bắt đầu với lớp tế bào sâu nhất trên gương mặt, với xương và sụn rồi từ từ sửa chữa lớp ngoài trong khi hát.
Ở trong những thời điểm nhất định, Saphira từ ngoài lều ngâm nga theo, giọng trầm của cô nàng khiến không khí rung động. Ánh đèn ma sáng lên và mờ đi theo âm điệu của cô nàng khiến Eragon vô cùng hiếu kỳ. Nó sẽ hỏi Saphira về chuyện này sau.
Đêm xuống, hàng giờ trôi qua, từng từ tuôn ra, từng câu thần chú được niệm nhưng Eragon không chú ý tới thời gian. Khi cô nhóc khóc vì đói nó cho con bé một lượng năng lượng nhỏ. Nó và Saphira cố gắng không chạm tới đầu óc nó – vì không biết sự giao cảm giữa họ sẽ ảnh hưởng tới đầu óc còn non nớt của nó ra sao – nhưng thi thoảng vẫn có những va chạm. Đối với Eragon, nhận thức của nó còn quá mơ hồi, chỉ là một biển những cảm xúc không rõ ràng, không nhận biết về thế giới bên ngoài.
Bên cạnh nó, bà Gertrude vẫn lách cách đan lát. Âm thanh duy nhất pha tạp vào giai điệu là khi bà ấy đánh rơi que đan hoặc tháo vài mũi đan để sửa lỗi.
Từ từ, rất chậm, vết hở trên hàm và lợi cô bé liều lại, hai bên hàm ếch đẩy lại gần nhau – da cô chảy như một dòng chất lỏng – và môi trên từ từ liền lại không còn lấy một khe nứt.
Eragon mất một thời gian dài ngắm nghĩa và lo lắng về hình dạng đôi môi cho cô bé cho tới khi Saphira nói. Xong rồi, và nó đành thừa nhận rằng nó không thể làm gì hơn.
Sau đó nó nhỏ giọng dần và im lặng. Nó cảm thấy lưỡi dày và khô, cổ họng rát. Nó chống tay vào võng, hơi cúi người vì mỏi nên không thể đứng thẳng hoàn toàn.
Ngoài ánh sáng chiếu ra từ ngọn đèn ma còn có một thứ ánh sáng khác len lỏi vào trong phòng giống như khi nó bắt đầu công việc. – chắc chắn là mặt trời đã lặn rồi! – nhưng rồi nó nhận ra ánh sáng từ đằng đông, không phải đằng tây. Thế là nó hiểu. Chẳng trách anh thấy đau thế. Anh đã ngồi cả đêm!
Còn em thì sao? Saphira nói. Xương cốt em cũng đau nhừ tử như anh vậy. Thừa nhận của cô nàng khiến nó ngạc nhiên, hiếm khi cô em nó thấy mình không thoải mái, dù cho cô bé đau thế nào. Trận chiến đã bòn rút của cô em nó nhiều hơn vẻ bề ngoài. Khi nó hiểu ra và Saphira cũng đã ý thức được điều đó, cô bé nói, Mệt hay không thì Galbatorix cho bao nhiêu quân em cũng đập được bây nhiêu.
Anh biết.
Bà Gertrude bỏ que đan vào túi, đứng dậy và tiến tới võng. “Bà không bao giờ nghĩ mình được chứng kiến chuyện gì tương tự,” bà nói. “Ít nhất là từ cháu, Eragon Bromsson.” Bà nheo mắt nhìn nó. “Brom làcha cháu, đúng không?”
Eragon gật đầu rồi càu nhàu. “Đúng ạ.”
“Thể nào hai người giống nhau vậy.”
Eragon không muốn thảo luận xa hơn về chủ đề đó nên nó lầm bầm dập tắt ánh đèn ma bằng một cái liếc mắt và suy tưởng. Đột nhiên, lều tôi om, trừ phần được ánh bình minh chiếu rọi. Mắt nó thích nghi với sự thay đổi nhanh hơn bà Gertrude; bà chớp mắt và nhíu mày rồi lắc đầu, như thể không biết nó đứng đâu.
Nó bế con bé lên. Cậu không chắc liệu cậu yếu đi vì phép thuật đã tiêu hao năng lượng hay vì nó phải ngồi bên con bé lâu quá.
Nó cúi xuống nhìn con bé và đột ngột cảm thấy cần bảo vệ sinh linh bé bỏng này. Nó lẩm nhẩm, “Sé ono waíse ilia.” Chúc con hạnh phúc. Đó không phải một câu thần chú mà chỉ là nó hy vọng con bé sẽ tránh được những nỗi đau khổ mà những người khác đang phải chịu đựng. Nó mong con bé sẽ mãi mỉm cười.
Quả thực vậy. Con bé nở một nụ cười rất tươi và nhiệt tình hét, “Gahh!”
Eragon cũng cười rồi quay người bước ra ngoài.
Nó nhìn thấy một nhóm nhỏ tụ tập thành một vòng bán nguyệt quanh lều, vài người đứng, vài người ngồi. Nó nhận ra hầu hết đây là dân làng Carvahall nhưng Arya và các tiên nhân khác cũng ở đó – tách xa những người còn lại – cũng như vài chiến binh Varden mà nó không biết tên. Nó nhìn thấy Elva lấp ló ở căn lều bên cạnh, mũ trùm hạ thấp xuống, che đi khuôn mặt.
Eragon nhận ra nhóm người này đã chờ đợi hàng giờ và nó lại không hề cảm nhận được sự hiện hữu của họ. Có tiên nhân và Saphira bảo vệ nó sẽ được an toàn, nhưng không được phép coi thường.
Mình phải giỏi hơn, nó tự nhủ.
Đứng trước đám đông là Horst và những người con trai, trông đầy lo lắng. Lông mày chú Horst nhíu chặt lại khi nhìn đống vải Eragon đang ôm trong tay. Chú mở miệng định nói nhưng không một âm thanh nào phát ra.
Không hề phô trương hay ăn mừng, Eragon bế đứa nhỏ tới chỗ người thợ rèn và cho chú nhìn mặt con. Trong một lúc, chú Horst không hề cử động; sau đó mắt ông ầng ậng nước và niềm vui và nhẹ nhõm hiển hiện quá thâm thúy, khiến người khác nhìn vào có thể tương ông đang buồn.
Khi nó đưa đứa nhỏ cho chú Horst, nó nói, “Bàn tay cháu đã nhuốm quá nhiều máu, nhưng cháu mừng vì cháu có thể giúp.”
Chú Horst chạm vào môi trên của cô bé bằng ngón giữa rồi lắc đầu. “Chú không tin nổi.. Chú không thể nào tin.” Chú nhìn Eragon. “Elain và chú nợ cháu. Nếu...”
“Không có nợ nần gì hết,” Eragon nhẹ nhàng nói. “Cháu chỉ làm điều ai cũng sẽ làm nếu họ có khả năng.”
“Nhưng cháu là người chữa trị cho con chú, chú biết ơn cháu.”
Eragon ngần ngừ rồi chúi đầu chấp nhận lời cảm ơn của chú Horst. “Em bé tên gì hả chú?”
Người thợ rèn nhìn chăm chăm vào con gái. “Nếu Elain đồng ý, chú sẽ đặt tên cho con bé là Hope.”
“Hope... một cái tên hay.” Và chẳng phải chúng ta luôn cần có hy vọng để sống sao? “Còn dì Elain sao rồi ạ?”
“Mệt, nhưng không sao.”
Sau đó Albriech và Baldor chạy tới cạnh cha họ, nhìn vào cô em gái cùng với bà Gertrude – bà ra khỏi lều ngay sau Eragon – và sau đó dân làng cũng tiến tới. Kể cả những chiến binh tò mò cũng tới gần hơn, ngó đầu nhìn đứa bé một chú.
Sau một lúc, các tiên nhân cũng tiến tới. Khi thấy họ, mọi người tránh đường, để họ tiến tới chỗ chú Horst. Quai hàm chú Horst cứng lại và đưa về phía trước như hàm chó bun. Từng tiên nhân cúi xuống xem xét, thi thoảng thì thầm một hai từ bằng ngôn ngữ cổ với cô bé. Họ không để ý hay phiền lòng vì những ánh nhìn nghi ngờ của dân làng.
Khi chỉ còn lại ba tiên nhân cuối cùng, Elva chạy ra đã đứng vào sau họ. Cô bé không phải chờ lâu để tới lượt đứng trước chú Horst. Dù chú có chút miễn cưỡng, nhưng chú vẫn hạ thấp tay xuống và khuỵu gối, nhưng vì chú cao hơn Elva quá nhiều nên con bé phải nhón chân để nhìn đứa nhỏ sơ sinh. Eragon nín thở khi con bé nhìn đứa trẻ sơ sinh từng bị dị tật, không thể đoán nổi phản ứng của con bé sẽ thế nào.
Sau vài giây, Elva hạ chân xuống. Nó từ từ đi về phía Eragon.
Nó nghiêng đầu và nhướn mày,
Con bé gật đầu, dừng lại một chút rồi tiếp tục đi.
Khi Eragon quan sát con bé bước đi, Arya bước tới gần nó. “Chàng nên tự hào vì những gì đã làm,” nàng nói nhỏ. “Đứa trẻ ngủ ngon và rất xinh. Những thầy phép giỏi nhất trong loài tiên cũng không thể làm được hơn. Chàng đã cho cô bé một món quà rất lớn – một khuôn mặt và một tương lai – và cô bé sẽ không quên, tôi chắc chắn đó... Và chúng tôi cũng sẽ không quên.”
Eragon thấy nàng và những tiên nhân khác nhìn nó với vẻ kính trọng theo một cách khác – nhưng sự ngưỡng mộ của Arya mới là thứ có ý nghĩa với nó nhất. “Danh sư xuất cao đồ,” nó nhỏ giọng trả lời. Arya không bàn cãi. Họ cùng nhau quan sát dân làng bao quanh Horst và cô con gái nói chuyện hào hứng. Eragon không rời mắt khỏi họ và nghiêng người về phía Arya mà nói. “Cám ơn nàng đã giúp Elain.”
“Không có gì. Không làm tôi thấy cắn rứt lương tâm.”
Chú Horst quay lại và bế đứa bé vào lều cho Elain ngắm nhìn cô con gái, nhưng dân làng vẫn không hề có dấu hiệu sẽ tản đi. Sau khi nó chán bắt tay rồi trả lời câu hỏi, nó tạm biệt Arya rồi đi vào trong lều và buộc bạt cửa lều lại.
Trừ khi chúng ta bị đánh úp, anh sẽ không muốn gặp ai trong mười tiếng tới, kể cả Nasuada, nó nói với Saphira khi nằm xuống võng.Em chuyển lời tới Blödhgarm giùm anh nhé?
Tất nhiên là được, cô nàng đáp. Nghỉ ngơi đi, em cũng thế.
Eragon thở dài và lấy tay che mắt. Hơi thở của nó chậm lại, đầu óc lang thang rồi những âm thanh và hình ảnh kỳ lạ trong mơ chiếm lĩnh lấy nó – những tưởng tượng nhưng chân thật; chói lóa nhưng không màu như thể cậu nhìn thấy toàn cỏ xanh – và trong một lúc, cậu có thể quên hết những trách nhiệm gánh vác trên vai và những sự kiện kinh hoàng trong ngày. Kể cả trong mơ, cậu cũng nghe thấy tiếng hát ru như lời thì thầm của gió, nửa nghe, nửa quên, đưa cậu về với những ký ức thời thơ ấu nơi quê nhà.
‹ 09.VƯỢT CẠN
lên
11. KHÔNG NGƠI NGHỈ ›
Hai người lùn, hai người đàn ông và hai Urgal – thành viên đội cận vệ của Nasuada, Chim Ưng Đêm, - đứng canh ngoài phòng trong lâu đài được Nasuada trưng dụng làm trụ sở họp mặt.
Họ nhìn Roran không biểu cảm. Anh cũng giữ khuôn mặt tương tự khi nhìn lại họ.
Họ đã từng chơi trò này rồi.
Dù đội Chim Ưng Đêm ít khi biểu lộ cảm xúc nhưng Roran biết họ đang tính xem cách nào giết chết anh nhanh nhất và hiệu quả nhất. Anh biết vì anh cũng làm điều tương tự.
Mình sẽ luồn ra sau lưng họ nhanh nhất có thể...làm họ tản ra một chút, anh quyết định. Con người sẽ phản ứng đầu tiên; họ nhanh hơn người lùn, và họ sẽ cản bước Urgal đằng sau...Phải tước được cây kích từ tay họ. Có thể khó nhưng mình nghĩ mình có thể làm được – ít nhất là tước vũ khí của một người. Có thể sẽ phải ném cây búa của mình đi. Một khi nắm kích trong tay, mình sẽ khiến họ cách xa mình một khoảng. Người lùn sẽ không dám liều nhưng Urgal khó chơi hơn. Lũ súc vật xấu xí đó... Nếu ẩn sau cái cột này, mình có thể...”
Cánh cửa viền sắt cọt kẹt mở. Một tiểu đồng mặc bộ đồ sáng mà khoảng mười hoặc mười hai tuổi bước ra tuyên bố, “Tiểu thư Nasuada cho triệu kiến ngài!”
Vài người cận vệ giật mình xao lãng và ánh mắt hơi xao động trong một giây. Roran cười lướt qua họ bước vào căn phòng đằng sau. Anh biết sơ hở đó của họ sẽ tạo cơ hội cho anh giết chết ít nhất hai người trước khi họ kịp trở tay. Cho tới lần sau, anh nghĩ bụng.
Căn phòng rộng, hình chữ nhật và được trang trí khá đơn sơ: một chiếc thảm quá nhỏ nhắn so với căn phòng, một bức tranh thêu hẹp bị mối ăn treo trên bức tường bên trái; trên tường bên phái chỉ có duy nhất một cửa sổ vòm. Ngoài ra, trong phòng không có thêm một vật trang trí nào. Ở một góc phòng có đặt một chiếc bàn gỗ dài chất đầy sách, cuộn giấy da và giấy tờ. Một vài chiếc ghế để lộn xộn quanh bàn, nhưng Nasuada và những người quanh cô không ai sử dụng chúng. Jörmundur không ở đây nhưng Roran lại nhận ra vài người khác: những người là chỉ huy của anh, vài người là chiến hữu trong trận chiến và cũng có vài người anh đã được nghe danh.
“...và tôi không quan tâm xem chuyện đó có khiến hắn bị ‘bướu cổ’ không!” Cô hét hên, và đập tay xuống bàn đánh rầm. “Nếu chúng ta không có móng ngựa, và hơn nữa, nếu chúng ta phải ăn thịt cả ngựa chiến thì chúng cũng sẵn sàng làm thế với chúng ta. Các người hiểu chưa?”
Họ đồng thanh quả quyết trả lời cô. Họ như thể bị dọa dẫm nhưng trong đó còn có cả sự bối rối. Roran vừa lạ vừa ấn tượng vì Nasuada chỉ là một người phụ nữ lại có thể được các chiến binh của mình và kể cả anh, tôn trọng tới vậy. Cô là một trong những người thông minh và kiên định nhất anh từng biết. Lắm khi anh cứ nghĩ dù cô sống trong thời đại nào cô cũng sẽ thành công.
“Giờ đi đi,” Nasuada nói và tám người đàn ông đi khuất, cô ra hiệu cho Roran tiến ra chỗ bàn làm việc. Anh kiên nhẫn đợi cô viết vài dòng lên cuộn giấy da nhỏ rồi đưa nó cho một tiểu rồng và nói. “Đưa cho người lùn Narheim. Và lần này, em đợi cho ông ấy trả lời luôn, nếu không chị sẽ cho em tới chỗ Urgal phục vụ thức ăn và lau dọn đấy.”
“Vâng, thưa Tiểu thư!” cậu bé nói và chạy biến đi, có chút sợ hãi.
Nasuada bắt đầu đọc lướt qua đống giấy tờ trước mặt. Cô nói với Roran mà không ngửng đầu lên, “Anh lấy lại sức rồi chứ Roran?”
Anh phân vân không hiểu cô nói chuyện không có tý hứng thú nào. “Cũng chưa hẳn.”
“Thế thì không may rồi. Anh thức trắng đêm qua à?”
“Gần hết đêm thôi. Cô Elain, vợ của chú thợ rèn làng tôi, tối qua sinh em bé, nhưng...”
“Ừm, tôi được thông báo rồi. Tôi đoán là anh không thể thức nổi cả đêm đợi Eragon chữa lành cho đứa nhỏ?”
“Không, tôi quá mệt rồi.”
“Ít nhất anh còn cảm thấy mệt.” Cô vươn tay qua bàn với lấy một tệp giấy nữa và nhìn chăm chú trước khi đặt lên đống công văn trước mặt. Cô vẫn dùng giọng như cũ nói với Roran, “Tôi có một việc cần tới anh, Cây búa Dũng Mãnh. Quân đội ở Aroughs gặp sự chống trả quyết liệt – hơn chúng ta dự tính Tướng Brigman không thể giải quyết nổi tình hình và chúng ta cần họ quay về. Vì thế, tôi gửi anh tới Aroughs thay cho Brigman. Tôi đã chuẩn bị sẵn cho anh một con ngựa ở cổng nam. Anh phải phi hết tốc lực tới Feinster, rồi từ Feinster tới Aroughs. Cứ mười dặm từ đây về Feinster anh sẽ thay ngựa một lần. Sau đó anh phải tự mình xoay xở. Tôi mong là anh sẽ tới Aroughs trong vòng bốn ngày tới. Một khi đã tới nơi, anh sẽ có... ba ngày để kết thúc trận chiến.” Cô ngước lên nhìn anh. “Sau một tuần nữa, tôi muốn nhìn thấy cờ hiệu của quân ta bay trên bầu trời Aroughs. Nếu anh không thể, tôi sẽ không còn lựa chọn nào khác ngoài đưa Eragon và Saphira tới Aroughs. Làm như vậy chúng ta sẽ không thể nào chống lại Murtagh và Galbatorix.”
Và như thế Katrina sẽ gặp nguy hiểm, Roran nghĩ. Bụng dạ Roran cảm thấy không yên. Đi tới Aroughs trong bốn ngày đã là không tưởng rồi, đặc biệt khi cơ thể anh đang đau đớn và bầm dập. Chiếm thành phố trong một khoảng thời gian quá ngắn lại càng điên rồ. Nhiệm vụ này như kiểu bắt anh thi vật với gấu trong khi trói hai tay ra sau.
Anh gãi gãi má xồm xoàm rôi ria. “Tôi không có kinh nghiệm vây thành,” anh nói. “Ít nhất là không phải theo cách đó. Phải có ai đó trong Varden phù hợp với nhiệm vụ này hơn tôi chứ. Ông Martland Râu Đỏ thì sao?”
Nasuada hiện một nét khinh thường trên mặt. “Ông ấy không thể dùng một tay mà phi nước đại được. Anh phải tự tin hơn với bản thân chứ Cây Búa Dũng Mãnh. Nhiều người trong Varden biết về binh pháp, tôi công nhận – đó là những người có thời gian chiến đấu lâu hơn anh, những người được chỉ dạy từ những chiến binh giỏi nhất thời cha tôi – nhưng khi nhập trận, không phải kinh nghiệm hay kiến thức binh pháp là cái quan trọng nhất, mà là anh biết cách nào để chiến thắng đối phương, kể cả anh dùng bất cứ thủ đoạn gì. Và quan trọng hơn, đó là anh may mắn.”
Cô đặt công văn xuống và chống tay lên bàn. “Anh đã chứng minh cho chúng tôi thấy khả năng chiến đấu của anh. Anh đã chứng minh anh là người biết tuân theo quân luật... khi cần thiết.” Anh bỗng nhớ lại cảm giác đau, bỏng giẫy khi roi quất vào lưng anh hồi anh chống lại lệnh của Tướng Edric. “Anh đã chứng tỏ anh có thể dẫn dắt mọi người. Vì thế, Roran Cây Búa Dũng Mãnh, anh hãy thể hiện cho chúng tôi xem anh còn những khả năng gì, được không?”
Anh nuốt nước bọt. “Được, thưa Tiểu Thư.”
“Tốt. Tôi sẽ đề xuất anh làm tướng tạm thời. Nếu anh thành công ở Aroughs, anh sẽ có thể giữ danh hiệu này, ít nhất tới khi anh thể hiện rằng anh đáng được vinh danh nhiều hơn hay ít hơn.” Cô lại nhìn xuống bàn và đọc qua những cuộn giấy da, rõ ràng là đang tìm kiếm một thông tin gì đó.
“Cám ơn.”
Nasuada đáp lại bằng một âm thanh nhỏ, không biểu lộ cảm xúc.
“Tôi sẽ chỉ huy bao nhiêu người ở Aroughs?” anh hỏi.
“Tôi đã gửi cho tướng Brigman một nghìn lính để chiếm thành phố. Nhưng giờ chỉ còn lại không đến tám trăm người vẫn có khả năng chiến đấu.”
Roran suýt nữa bật ra tiếng chửi thề. Quá ít.
Như thể nghe được, Nasuada khô khốc nói, “Chúng ta đã tưởng rằng hàng phòng thủ của Aroughs yếu hơn.”
“Tôi hiểu. Tôi có thể mang theo hai ba người từ Carvahall đi cùng không. Tiểu thư từng nói rằng cô cho phép chúng tôi đồng hành nếu chúng tôi...”
“Được, được,” cô vẫy tay – “tôi biết tôi nói gì.” Cô cắn môi, cân nhắc. “Được, anh cứ mang theo bất kỳ ai anh muốn, miễn là anh đi trong vòng một tiếng nữa. Anh hãy cho tôi biết anh muốn bao nhiêu người đi cùng để tôi sắp xếp ngựa trên đường.”
“Tôi đưa Carn đi được không?” anh hỏi, nói ra tên pháp sư anh từng có dịp chiến đấu cùng.
Cô ngừng lại và nhìn lên tường một lúc, ánh mắt lung lạc. Sau đó, cô gật đầu và lại tiếp tục đào bới đống công văn. “À, đây rồi.” Cô lôi ra một ống tròn được buộc lại bằng một sợi dây da. “BẢn đồ Aroughs cũng như là bản đồ chi tiết của tỉnh Fenmark. Tôi nghĩ anh nên nghiên cứu kỹ cả hai bản đồ này.”
Cô đưa cho anh ống giấy và anh đặt nó vào trong áo. “Và đây,” cô nói và đưa cho anh một lá thư niêm phong dấu đỏ. “là nhiệm vụ của anh, và” – một lá thư thứ hai, dày hơn lá đầu tiên – “đây là thư cho Brigman. Đưa cho ông ấy đọc thôi, nhưng đừng đưa cho ông ta giữ. Nếu tôi nhớ không nhầm, anh không biết đọc, đúng không?”
Anh nhún vai. “Đọc làm gì chứ? Tôi có thể tính toán cộng trừ như nhiều người khác. Cha tôi nói dạy chúng tôi học chẳng hơn gì dạy cho đi trên chân sau: thú vị, nhưng không đáng.”
“Tôi sẽ đồng ý với cha anh, nếu như anh chỉ là một người nông dân. Nhưng trong địa vị hiện giờ của anh, tôi không thể đồng ý.” Cô chỉ về mấy lá thư anh đang cầm. “Anh chỉ biết một trong hai bức thư này có thông báo bổ nhiệm của anh. Vì anh không biết đọc nên tôi khó trọng dụng anh. Tôi không thể gửi thư cho anh mà không có người khác đọc thư cho anh, anh không còn lựa chọn nào khác ngoài tin rằng người kia thực sự đọc đúng cho anh nghe. Anh sẽ dễ bị thao túng. Tôi không thể tín nhiệm anh. Nếu anh hy vọng thăng tiến hơn ở Varden, anh cần tìm một người dạy anh học. Giờ đi đi, tôi còn nhiều việc khác phải làm.”
Cô bật ngón tay và một tiểu đồng chạy tới cạnh. Cô đặt tay lên vai thằng bé, cúi xuống và nói, “Tôi muốn em đưa Jörmundur tới đây. Em sẽ tìm thấy ông ấy ở chợ, chỗ ba cái nhà...” Đang nói dở, cô dừng lại nhướn mày khi thấy Roran chưa đi. “Còn gì nữa không, Cây Búa Dũng Mãnh?” cô hỏi.
“Có, trước khi tôi đi, tôi muốn gặp Eragon.”
“Vì sao?”
“Kết giới cậu ấy phủ lên người tôi trước trận chiến đã không còn.”
Nasuada nhíu mày rồi nói với tiểu đồng, “Trong chợ, chỗ ba cái nhà cháy. Em biết chỗ đó chứ. Rồi, giờ đi đi.” Cô vỗ lưng thằng nhỏ và đứng thẳng dậy khi thằng bé chạy ra khỏi phòng. “Tốt hơn là anh đừng gặp.”
Roran thấy khó hiểu nhưng anh vẫn im lặng, chờ đợi lời giải thích từ cô. Cô nói vòng vo, “Anh có thấy Eragon đã mệt thế nào trong buổi gặp mặt của tôi với mèo ma chưa?”
“Gần như không đứng vững.”
“Chính xác. Càng ngày cậu ấy càng gầy, Roran. Cậu ấy không thể bảo vệ anh, tôi, Saphira, Arya và ai mà biết cậu ấy còn muốn bảo vệ ai mà vẫn phải làm những gì cậu ta phải làm. Cậu ta phải tích trữ năng lượng cho lần đụng độ sắp tới với Murtagh và Galbatorix. Và chúng ta càng tới gần Urȗ’baen, chuyện cậu ấy sẵn sàng đụng độ với chúng càng quan trọng. Chúng ta không thể để những lo lắng và phiền phức khiến cậu ta suy yếu. Việc cậu ây chữa hở hàm ếch cho đứa nhỏ mang tới cho cậu ấy sự tín nhiệm, nhưng việc làm đó có thể khiến chúng ta thua trận!
“Anh đã chiến đấu chống lại Za’rac trên rặng Spine mà không cần tới kết giới bảo vệ. Nếu ha quan tâm tới em họ anh, nếu anh muốn đánh bại Galbatorix, anh phải học cách chiến đấu không cần tới chúng.”
Khi cô nói xong, Roran cúi đầu. Cô nói đúng. “Tôi sẽ đi ngay.”
“Tôi đánh giá cao điều này.”
“Tạm biệt...”
Rora quay lại, sải bước đi về phía cửa. Khi anh vừa bước qua bậc thềm, Nasuada gọi lớn, “Và, Cây Búa Dũng Mãnh này?”
Anh tò mò nhìn lại.
“Cố đừng thiêu rụi Aroughs nha? Phục hồi vất vả lắm.”
‹ 10. HÁT RU
lên
12. KHIÊU VŨ CÙNG GƯƠM KIẾM
Eragon gõ gót giày lên hai bên tảng đá nó đang ngồi lên vì thấy chán và mất kiên nhẫn.
Nó, Saphira và Arya – cùng Blödhgarm và những thần tiên khác – đang thơ thẩn bên vệ đường chạy dọc khu bờ đông thành phố Belatona: chạy qua những cánh đồng xanh mượt; qua cây cầu đá lớn cong cong bắc qua sông Jiet; vòng quanh bờ nam hồ Leona. Tới đây con đường phân nhánh, một tới Cánh Đồng Cháy và Surda, một đi về phía bắc, tới Dras – Leona và Urȗ’baen.
Hàng ngàn binh lính, người lùn và Urgal đi lang thang trước cửa thành phía Đông Belatona cũng như trong thành phố, cãi cọ và la hét trong khi quân Varden đang sắp xếp họ vào từng đội. Ngoài ra còn có đoàn kỵ binh của vua Orrin – không thể kể hết số ngựa đang hí, đang nhảy dựng lên. Đằng sau quân tiền tuyến là quân đội hậucần: một đoàn dài xe do thú có sừng của Varden mang tới từ Surda và của nông dân trong vùng kéo. Từ đó phát lên tiếng lừa la kêu be be, tiếng bò rồng, tiếng ngỗng kêu, tiếng ngựa và tiếng ngựa hí.
Thế là quá đủ để Eragon muốn bít lỗ tai lại.
Em sẽ nghĩ là chúng ta sẽ chịu đựng giỏi hơn sau bao nhiêu lần chứ nhỉ, nó nói với Saphira khi nó nhảy xuống khỏi tảng đá.
Cô nàng khịt mũi. Đáng ra họ nên để em lo việc này; em có thể dọa cho bọn chúng về đúng vị trí chỉ trong một tiếng đồng hồ và sau đó chúng ta sẽ không phải mất thì giờ chờ đợi.
Ý nghĩ đó khiến cậu hứng thú. Đúng, anh chắc chắn là em có thể...Nhưng cẩn thận với những gì em nói, hoặc không Nasuada sẽ bắt em làm thật đấy.
Sau đó Eragon nghĩ tới Roran, nó đã không gặp anh từ sau đêm nó trị bệnh cho đứa nhỏ nhà Horst và Elain, và nó phân vân không biết anh nó đang làm gì và lo lắng vì anh ở quá xa nó.
“Ngốc thế không biết,” Eragon lầm bầm khi nhớ lại chuyện Roran đã đi mà không để cậu tạo kết giới mới.
Anh ấy là một thợ săn có kinh nghiệm, Saphira nói. Anh ấy sẽ không ngu ngốc tới nỗi để con mồi làm mình bị thương đâu.
Anh biết, nhưng đôi khi nghĩ thế cũng không thể giúp anh an tâm... Anh ấy cần phải cực kỳ cẩn trọng. Anh không muốn anh ấy bị què, hay tệ hơn, bị phủ khăn trắng.
Một cảm giác buồn bã dâng lên trong Eragon, sau đó nó cố quên đi và nhún nhảy trên chân, muốn thư giãn gân cốt trước khi dành vài giờ tiếp theo ngồi trên lưng Saphira. Nó thích được bay cùng cô em nhưng nó không thích phải ngồi cứng đờ trong mười hai dặm hoặc hơn trong cả ngày, là là liệng như chim kền kền. Nếu chỉ có nó và Saphira, tụi nó chỉ chiều muộn là tới Dras – Leona.
Nó bước từ đường cái sang trảng cỏ. Đứng đó, không quan tâm tới cái nhìn của Arya và những tiên nhân khác, nó rút thanh Brisingr ra và luyện lại vài đường kiếm ông Brom đã dạy nó rất lâu trước đây. Nó đi kiếm từ từ và cảm nhận mặt đất mịn dưới chân.
Nó đưa thanh kiếm lên cao quá đầu, chém xuống với một nhát chém có thể chẻ một người làm đôi, dù đó là người, tiên hay Urgal, dù họ mặc áo giáp gì. Nó dừng kiếm khi cách mặt đất chừng vài centimet. Lưỡi kiếm truyền rung động lên cổ tay nó. Trên màn xanh của cỏ, màu xanh lơ của kim loại trở nên chói mắt, hầu như không thật.
Eragon hít một hơi nữa và nhảy về phía trước, đâm vào không khí như thể trước mặt nó là một kẻ thù không đội trời chung. Nó luyện tập từng đường kiếm cơ bản, không chú trọng vào tốc độ hay sức lực mà vào độ chính xác.
Khi nó đã ấm người, nó nhìn quanh những người hộ vệ đang đứng thành một vòng bán nguyệt cách nó một đoạn. “Có ai luyện tập với tôi một vài phút không?” nó lớn tiếng hỏi.
Những tiên nhân nhìn nhau, không biểu lộ cảm xúc. Sau đó, tiên nhân Wydren tiến lên phía trước, “Để tôi, thưa KHắc tinh của Tà Thần, nếu ngài đồng ý. Tuy nhiên, tôi đề nghị ngài nên đội mũ trụ lên.”
“Đồng ý.”
Eragon tra thanh Brisingr vào bao rồi chạy tới chỗ Saphira và trèo lên một bên mình cô nàng, thò tay vào phía trong vảy. Nó mặc áo giáp, quấn xà cạp, bao tay nhưng lại cất mũ trụ trong túi yên để nó không rơi khỏi Saphira hay lẫn trong cỏ.
Khi đã lấy được mũ, nó nhìn thấy cái tráp đựng trái tim của Glaedr được bọc trong một mảnh vải và đặt ở đáy túi. Nó với tay xuống và chạm vào cái tráp thầm cầu nguyện cho con rồng vàng, rồi đóng túi lại và nhảy khỏi lưng Saphira.
Eragon vừa đội mũ vừa bước lại trảng cỏ. Nó cắn chảy máu đầu ngón tay cái, sau đó đeo găng tay và hy vọng máu không chảy ra nhiều quá. Wydren và nó sử dụng vài câu thần chú tương tự đặt ra một kết giới mỏng – không thể nhìn thấy, trừ việc họ làm cho không gian xung quanh vặn vẹo – xung quanh thanh kiếm để họ không bị làm người kia bị thương. Họ cũng hạ vòng bảo vệ xuống.
Sau đó nó và Wydren đứng đối diện nhau, cúi đầu và nâng cao thanh kiếm. Eragon nhìn vào đôi mắt đen, không chớp của tiên nhân và Wydren cũng vậy. Eragon nhìn đối thủ và tính tấn công bên trái tiên nhân vì nếu tấn công phía bên kia chính nó cũng khó tự vệ.
Vị tiên nhân chậm rãi quay người, cỏ dưới gót giày anh ta bị nghiền nát khi anh tiến về phía Eragon. Sau khi bước vài bước,Eragon dừng lại. Wydren là một chiến binh cảnh giác và lão luyện khiến Eragon phải dè chừng; có thể nó không bao giờ có thể ngang cơ với tiên nhân kia. Tất nhiên, trừ khi mình lừa được anh ta.
Nhưng trước khi nó quyết định bước tiếp theo nên làm gì, Wydren giả vờ tấn công chân phải Eragon như thể định chém vào mắt cá chân nó, rồi đổi hướng, vặn cổ tay và chém ngang ngực và cổ Eragon.
Dù Wydren rất nhanh nhưng Eragon còn nhanh hơn. Khi nhận ra Wydren chuyển hướng tấn công, Eragon lùi lại nửa bước, gập khuỷu tay và đưa kiếm lên trước mặt.
“Ha!” Eragon hét vang khi nó dùng thanh Brisingr chặn lưỡi kiếm của Wydren. Hai thanh va vào nhau kêu “keng”.
Eragon dùng lực đẩy Wydren lạ rồi chuồn ra sau anh ta, chém liên tiếp.
Họ đấu kiếm trên bãi cỏ trong vài phút. Eragon là người ra đòn đầu tiên – một đường rạch nông trên hông Wydren – và chém cú thứ hai, nhưng sau đó, họ trở nên cân sức hơn, vì vị tiên nhân đã hiểu được cách đánh của nó và bắt đầu lựa theo đó mà tấn công và phản công. Eragon ít có cơ hội được chiến đấu với một người giỏi và mạnh như Wydren để tự lượng sức mình. Vì vậy, nó thích thú đấu kiếm với vị thần tiên này.
Tuy nhiên, bao nhiêu hứng thú của nó đều tiêu tan khi Wydren chém liên tiếp bốn nhát vào nó: một nhát vào vai phải, hai nhát trên lồng ngực, và một đường kiếm hiểm trên bụng. Những cú đánh khiến nó đâu nhưng lòng tự trọng của nó còn bị tổn thương nhiều hơn. Nó lo rằng rằng tiên nhân dễ dàng vượt qua được thế phòng thủ của nó. Nếu họ đối đầu ngoài chiến trường kia, Eragon biết nó có thể đánh bại anh ta sau vài cú giao đấu nhưng ý nghĩ đó không khiến nó dễ chịu hơn là mấy.
Anh không nên để anh ta có nhiều cơ hội thế chứ, Saphira nhận xét.
Ừ, anh biết, nó gào lên.
Anh có muốn em giúp hạ gục anh ta không?
Không... không phải hôm nay.
Nó tức tối hạ kiếm và cám ơn Wydren. Tiên nhân cúi đầu và nói, “Không có gì, thưa Khắc tinh của Tà thần,” rồi trở về chỗ các tiên nhân khác.
Eragon cắm thanh Brisingr xuống khoảng đất giữa hai chân – điều nó không thể nào làm với những thanh kiếm làm từ thép bình thường – và đặt tay lên chuôi kiếm khi quan sát những người đàn ông và lũ gia súc chen lấn trong con đường đẫn tới thành phố rộng lớn. Sự hỗn loạn đã giảm bớt và nó đoán chẳng bao lâu nữa tiếng kèn sẽ vang lên báo hiệu cho quân Varden lên đường.
Trong lúc đó, nó cũng chẳng nghi ngơi gì.
Nó nhìn Arya đang đứng cạnh Saphira và nụ cười từ từ giãn ra trên mặt nó. Nó vác thanh Brisingr lên vai và thong thả tiến tới chỉ về phía thanh kiếm của nàng. “Arya, nàng thì sao? Chúng ta chỉ mới giao đấu có một lần hồi ở Farthen Dȗr.” Nó cười ngoác miệng và vuốt lưỡi kiếm Brisingr. “Từ hồi đó tới giờ tôi cũng khá hơn chút chút rồi.”
“Ừ.”
“Vậy nàng tính sao đây?”
Cô nhìn về phía quân Varden và nhún vai. “sao lại không nhỉ?”
Thế là họ bước tới bãi cỏ. Nó nói. “Lần này nàng không thể hạ ta dễ dang như lần trước đâu.”
“Chắc là thế.”
Arya xem xét thanh kiếm sau đó họ đối diện nhau, cách nhau khoảng ba mươi foot. Eragon cảm thấy tự tin và nhanh chóng tấn công trước vì nó biết nó nên tấn công vào đâu: vai trái của nàng.
Arya đứng nguyên vị trí và không hề có ý tránh né. Khi nó còn cách nàng độ bốn mét, cô nở một nụ cười ấm áp, rạng rỡ với nó khiến nó hết cả ý chí chiến đấu.
Một ánh thép lóe về phía nó.
Nó đưa thanh Brisingr lên chậm một nhịp. Tay nó tê rần vì mũi kiếm sượt qua một thứ gì đó cứng – nó không chắc là chuôi kiếm, lưỡi kiếm hoặc da thịt, nhưng dù là gì đi nữa nó cũng biết nó đã tính toán sai khoảng cách và phản ứng của nó đã khiến nó lĩnh đòn.
Trước khi nó có thể hãm đà lao tới, một lực tác động khiến lưỡi kiếm của nó nghiêng sang một bên; sau đó là một cú đau nhói giữa người khi Arya áp sát, đánh ngã nó.
Eragon rên lên khi lưng hạ cánh xuống đất. Nó cố hít một ngụm không khí nhưng bụng nó căng cứng như đá và nó không thể nào hít khí vào lồng ngực. Sao nhảy múa trước mắt nó, sau vài giây không dễ chịu đầu tiên nó nghĩ nó sẽ ngất. Nhưng rồi các bắp thịt của nó dãn ra và cuối cùng nó cũng hít thở được.
Khi đầu óc đã trở lại bình thường, nó từ từ chống thanh Brisingr để đứng dậy. Nó dựa vào thanh kiếm như thể một ông già đợi cơn đau bụng qua đi.
“Nàng chơi xấu,” nó nghiến răng nói.
“Không, tôi chỉ khai thác điểm yếu của đối phương thôi. Đấy là điểm khác biệt.”
“Nàng nghĩ... đó là...điểm yếu?”
“Khi chúng ta chiến đấu thì đúng. Chàng muốn tiếp tục không?”
Nó trả lời bằng cách rút thanh Brisingr ra khỏi mặt đất và bước về chỗ nó vừa đứng và giơ kiếm lên.
“Tốt,” Arya nói. Cô đứng cùng tư thế với nó.
Lần này Eragon đã thận trọng hơn khi nó áp sát nàng và Arya cũng không đứng nguyên tại chỗ. Nàng cẩn trọng tiến lên và đôi mắt xanh trong của nàng không bao giờ rời nó.
Nàng co tay khiên Eragon giật mình.
Nó nhận ra nó đang nín thở và buộc mình phải thư giãn.
Nó tiến thêm bước nữa và lao về phía trước hết tốc lực.
Cô chặn đường kiếm của nó nhắm vào lồng ngực và trả lại bằng một đâm vào phần nách. Mặt kiếm của nàng chạy dọc mặt trong cánh tay kia của nó, chém lên áo giáp khi nó gạt kiếm đi. Trong lúc đó, thân nàng lộ sơ hở nhưng vì họ quá gần nhau nên Eragon không thể ra đòn hiệu quả.
Thay vào đó nó nhào về phía trước, dùng chuôi kiếm đập vào xương quai xanh của nàng hòng đánh gục nàng như nàng đã làm với nó.
Nàng vặn mình và chuôi kiếm đánh vào khoảng không.
Eragon chưa kịp hiểu chuyện gì xảy ra và đứng như trời trồng khi một cách tay của Arya vòng qua cổ nó và lưỡi kiếm được bọc phép bảo vệ gí sát quai hàm nó.
Từ đằng sau, Arya thì thầm vào tai nó, “Tôi có thể cắt đầu chàng dễ như hái táo trên cây vậy.”
Sau đó nàng thả tay và đẩy nó đi. Nó tức giận, quay người lại và thấy nàng đã đợi sẵn nó, kiếm đã sẵn sàng và biểu hiện quyết liệt.
Nó quên đi nỗi tức giận và lao về phía trước.
Hó đánh qua đánh lại bốn đường kiếm, đòn sau mạnh hơn đòn trước. Arya chém được đối phương đầu tiên bằng một nhát trên chân Eragon. Nó cũng rạch một đường dài trên eo nàng nhưng nàng đã kịp lùi ra khỏi vùng nguy hiểm của thanh Brisingr. Nó không cho nàng một cơ hội trân tĩnh, nó tiến lên định chém xuống tay nàng nhưng nàng dễ dàng chặn đứng. Sau đó nàng tiến lên và với một cú chạm nhẹ nhưng cánh chim ruồi, để lại một đường kiếm ngang bụng nó.
Arya giữ nguyên tư thể sau cú đánh, mặt chỉ cách nó vài cm. Trán cô lấp lánh mồ hôi và má ửng đỏ.
Eragon kéo thẳng áo trấn thủ rồi bước tới gần Arya. Sự tức giận trong trận đánh đã biến đâu mất và khiến nó tập trung trở lại.
“Tôi không hiểu,” nó bình tĩnh nói.
“Chàng đã quen dần với việc chiến đấu với binh lính của Galbatorix. Họ không thể nào ngang cơ với chàng, vì vậy chàng có thể chiến thắng họ. Những đòn tấn công của chàng quá lộ liễu – chàng không nên chỉ dựa vào lợi thế về sức mạnh – và chàng phòng thủ không chặt.”
“Nàng giúp tôi chứ?” nó hỏi. “Nếu có thời gian nàng đấu kiếm với tôi nhé?”
Nàng gật đầu. “Tất nhiên. Nhưng nếu tôi không thể chàng nên tìm Blödhgarm; anh ấy cũng có kinh nghiệm chiến đấu như tôi vậy. Chàng phải thực chiến nhiều, đó là bạn đồng hành tốt nhất của chàng.”
Eragon định cảm ơn nàng thì nó cảm thấy xúc cảm của một ai đó không phải Saphira đang đè lên đầu óc nó, sợ hãi và buồn rầu: nỗi buồn rất lớn, cổ họng Eragon cứng lại và thế giới dường như không còn màu sắc. Và một giọng nói trầm trầm của rồng vàng Glaedr vang lên:
Trò phải học...phải thấy được cái mình đang nhìn.
Sau đó sự hiện diện đó biến mất, chỉ để lại sự trống rỗng mênh mang.
Eragon nhìn Arya. Nàng cũng đang đứng như trời trồng; nàng đã nghe thấy tiếng nói của Glaedr. Đằng sau nàng, Blödhgarm và các tiên nhân khác đang xì xào bàn tán trong khi ở phía kia con đường, Saphira ngoái đầu lại cố nhìn vào túi yên cương trên lưng.
Eragon nhận ra rằng tất cả bọn họ đều nghe thấy.
Nó và Arya cùng nhau đứng dậy và tiến tới chỗ Saphira đang nói,Ông ấy không trả lời em; dù ông ấy ở đâu, ông ấy cũng đã trở lại, nhưng ông ấy không nghe thấy cái gì ngoài chính nỗi buồn của mình. Đây, nhìn đi...
Eragon liên kết tư tưởng với cô rồng và với Arya. Cả ba người phóng tư tưởng tới trái tim Glaedr đang nằm trong túi yên cương. Phần còn lại của con rồng đã có sức sống hơn nhưng tư tưởng của ông rồng vẫn đóng kín, những suy nghĩ hỗn loạn như từ hồi Galbatorix giết chết Kỵ sĩ của ông, Oromis.
Eragon, Saphira và Arya cố gắng đánh thức con rồng vàng. Nhưng Glaedr vẫn phớt lờ họ, ông rồng như một con gấu ngủ đông chẳng để ý gì tới lũ ruồi nhặng vo ve quanh đầu.
Eragon không thể nào không nghĩ Glaedr không hề tỉnh.
Cuối cùng ba người phải đành chấp nhận thất bại và để tư tưởng trở về cơ thể. Khi Eragon khôi phục được ý thức, Arya nói, “Có lẽ nếu chúng ta chạm vào Eldunari của ông ấy thì...”
Eragon cho thanh Brisingr vào bao, trèo lên chân phải trước của Saphira và nhảy lên yên. Nó cúi xuống và bắt đầu lục lọi túi yên.
Đúng lúc đó tiếng kèn đồng của quân Varden vang lên báo hiệu xuất phát. Hàng dài người và gia súc chen lấn về phía trước, lúc đầu hơi chậm chạp, nhưng dần uyển chuyển và tự tin hơn.
Eragon liếc nhìn xuống Arya không biết nên làm gì. Cô vẫy tay và nói, “Tối nay chúng ta sẽ nói chuyện với ông ấy. Đi đi! Bay theo những cơn gió đi!”
Nó nhanh chóng đóng túi lại, rồi chỉnh lại yên cương vì nó không muốn ngã khỏi lưng Saphira khi đang bay.
Sau đó Saphira cúi mình và cùng một tiếng gầm vui sướng, nó bay lên khỏi mặt đất. Những người đàn ông đứng dưới cô nàng lùi lại vì hoảng sợ, lũ ngựa lồng lên khi cô nàng mở rộng đôi cánh to lớn, tung mình lên khỏi mặt đất cứng, không phải môi trường yêu thích của cô nàng lên trên khoảng không rộng lớn êm ái.
Eragon nhắm mắt ngửa mặt lên trời, vui mừng vì cuối cùng cũng rời khỏi Belatona. Sau cả một tuần ru rú trong thành phổ chỉ ăn rồi ngủ - vì Nasuada bắt buộc – nó hạnh phúc được tới Urȗ’baen.
Khi Saphira bay cách những ngọn tháp hàng trăm foot, nó nói, Em nghĩ ông Glaedr có phục hồi được không?
Ông ấy sẽ không bao giờ như trước nữa.
Không, nhưng anh hy vọng ông ấy sẽ có thể vượt qua nỗi đau. Anh cần sự giúp đỡ của ông ấy mà, Saphira. Có rất nhiều điều anh không biết. Không có ông ấy, anh không biết hỏi ai.
Cô nàng im lặng trong chốc lát. Trong không gian chỉ vang lên tiếng đập cánh đều đều. Chúng ta không thể vội, cô nàng nói. Ông ấy bị tổn thương nặng nề nhất theo cách mà một Rồng hay một Kỵ sĩ phải chịu. Trước khi ông ấy có thể giúp anh, em, hay bất cứ ai khác, ông ấy phải quyết định ông ấy có muốn sống nữa không. Cho tới lúc đó, chúng ta không thể nói gì với ông ấy đâu.
‹ 11. KHÔNG NGƠI NGHỈ
lên
13. KHÔNG VINH QUANG, KHÔNG DANH DỰ, CHỈ CÓ NHỮNG TIẾNG QUÁT THÁO TẠI VÙNG ĐẤT XUI XẺO ›
Tiếng chuông đeo cổ của lũ chó săn sau họ vang lên càng lúc càng lớn, và chúng đang tru lên vì khát máu.
Roran nắm chặt dây cương và cúi rạp người trên con ngựa đang phi nước đại khiến bụng xóc lên từng hồi.
Anh và năm người đàn ông khác – Carn, Mandel, Baldor, Delwin và Hamund – đã trộm những con ngựa tốt từ chuồng ngựa một trang viên cách đây nửa dặm. Những người giữ ngựa nào có thể tử tế với trộm. Họ có thể dùng vài nhát kiếm để cướp ngựa nhưng những người giữ ngựa đã báo với những người gác cửa ngay khi Roran và những người bạn đồng hành trốn khỏi. Thế là mười tên gác cửa đuổi theo họ cùng với bầy chó săn.
“Đây rồi!” anh hét lên và chỉ vào một rặng cây phong chạy chạy dọc hai ngọn đồi gần đó, dẫn tới con suối.
Những người đàn ông thúc ngựa ra khỏi con đường đẹp và hướng về phía những rặng cây. Con đường dù có gồ ghề nhưng chỉ khiến họ châm lại chút đỉnh. Họ không thèm quan tâm tới nguy cơ lũ ngựa có thể bước vào các hố và gẫy chân hoặc họ bị ngã ngựa. Nguy hiểm chính là lũ chó săn đang đuổi sát sườn họ.
Roran thúc chân vào hai bên sườn ngựa và hét “Ya!”. Con ngựa lồng lên phía trước và từng bước đuổi kịp Carn.
Roran biết rằng sức lực của con ngựa sắp tới giới hạn, sau đó dù anh quất roi hay thúc ngựa thế nào nó cũng không đi nổi nữa. Anh ghét phải là người ngược đãi súc vật, anh không muốn bắt con vật chạy tới chết nhưng nếu không anh sẽ không hoàn thành nổi nhiệm vụ.
Khi đi song song với Carn, Roran hét lên, “Anh dùng phép thuật che giấu vết được không?”
“Tôi không biết cách!” Carn đáp, giọng nói bị tiếng gió rít và tiếng ngựa phi át mất. “Câu thần chú đó quá phức tạp!”
Roran chửi thề và liếc nhìn ra sau. Những con chó săn đã quặt ở khúc cua cuối cùng. Chúng chạy như bay với tốc độ quỷ khốc thần sầu. Thậm chí từ khoảng cách này, Roran có thể nhìn thấy màu lưỡi đỏ và những chiếc răng nanh trắng ởn của chúng.
Khi họ tới được rặng cây, Roran quay lại và đi ngược lên đồi, đi gần những cây phong nhất có thể. Những người còn lại làm tương tự, họ ngựa lại khi chúng chạy lên dốc.
Bên phải Roran, Mandel đang phi tới, trên mặt biểu hiện nét cau có. Chàng thanh niên này gây ấn tượng với Roran bởi sức chịu đựng và sự kiên cường trong ba ngày qua. Kể từ khi cha Katrina, lão Sloan phản bội dân làng, giết chết cha Mandel, ông Byrd, Mandel đã cực kỳ nỗ lực chưng minh cho mọi người thấy cậu ngang hàng với bất cứ thanh niên nào trong làng: cậu đã chứng minh được sự dũng cảm của mình trong hai trận giao tranh giữa quân Varden và quân Triều đình.
Một cành cây to vụt qua đầu Roran. Anh lùi lại, nghe ngón và cảm thấy những cành cây con va quệt trên mũ trụ. Một chiếc lá khô rơi xuống che mắt phải anh trong giây lát; sau đó cơn gió thổi nó đi mất.
Tiếng thở của con ngựa càng lúc càng nặng nề khi họ đi sâu hơn vào ngọn đồi. Roran che mắt nhìn thấy đàn chó săn chỉ còn cách bọn họ chưa đầy một phần tư dặm. Chắc chắn chỉ vài phút nữa chúng sẽ đuổi kịp bọn họ.
Quỷ tha ma bắt, anh nghĩ thầm. Anh đảo mắt nhìn những rặng cây rậm rạp bên trái và ngọn đồi mọc đầy cỏ dại bên phải như tìm kiếm một cái gì – bất kỳ thứ gì – có thể giúp họ cắt đuôi những kẻ đang bám đuôi.
Đầu óc anh ong ong vì kiệt sức khiến anh suýt bỏ qua nó.
Trước anh hai mươi mét và một con đường nai đi thành lối chạy xuống một bên sườn đồi, cắt ngang con đường họ đang đi sau đó biến mất trong rừng cây.
“Họ!...Họ!...” Roran hét, thúc ngựa và kéo dây cương. Con ngựa dừng lại đi nước kiệu, dù nó có phì phò phản đối và hơi lắc đầu, cố gắng cắn sợi dây cương trong miệng. “Ôi, đừng làm thế,” Roran gầm lên và giật mạnh dây cương hơn.
“Nhanh lên!” anh nói với những người còn lại và quay ngựa tiến vào khu rừng rậm. Không khí bên dưới những rặng cây mát mẻ, có khi lành lạnh khiến bọn họ nhẹ nhõm, bớt đi cơn nóng vì mệt nhọc. Nhưng khoảnh khắc tận hưởng cảm giác khoan khoái chỉ kéo dài trong chốc lát trước khi con ngựa lồng lên và trượt xuống con suối bên dưới. Những chiếc lá khô kêu xào xác dưới móng ngựa. Để không ngã ngựa, Roran gần như cúi rạp trên lưng nó, chân duỗi thẳng về phía trước.
Khi anh trượt xuống hẻm núi, con ngựa gõ móng lên lạch sông sỏi đá, làm nước bắn lên đầu gối Roran. Roran dừng ngựa quan sát xem có ai còn theo anh không. Có, và họ đang nối đuôi nhau trượt xuống khỏi rặng cây.
Phía trêm họ, đầu khu rừng rậm, anh có thể nghe thấy tiếng chó sủa ăng ẳng.
Chúng ta sẽ phải quay lại và đánh nhau thôi, anh nhận ra.
Anh chửi thề và thúc ngựa leo lên khỏi con suối, lên bờ suối mềm, đầy rêu, đi theo con đường anh mòn mờ mờ dấu chân người ngựa.
Không xa dòng suối mấy là bức tường dương xỉ và xa xa là một thung lũng lòng chảo. Roran để ý tới một thân cây đổ có thể làm một vật cản đường nếu anh kéo nó vào đúng vị trí.
Hy vọng họ không có cung, anh nghĩ.
Anh vẫy mấy người bạn, “Ở đây!”
Anh giật cương, buộc con ngựa vượt qua bãi dương xỉ và phi vào thung lũng. Anh trượt khỏi yên ngựa nhưng vẫn bám chắc tay vào đó. Khi chân chạm mặt đất, anh nhăn mặt và ấn trán lên vai ngựa, thở hổn hển đợi cho chân hết run.
NHững người còn lại cho ngựa chạy quanh anh. Không khí ngập tràn mùi mồ hôi và tiếng yên cương kêu lọc cọc. Những con ngựa run rẩy, ngực phập phồng và sùi bọt mép.
“Giúp tôi với,” anh nói với Baldor và chỉ về phía thân cây đổ. Họ đặt tay dưới hai đầu thân gỗ dày và lăn nó xuống đất. Roran nghiến răng vì đau hông và lưng. Phi ngựa hết tốc lực trong ba ngày – cùng với việc ngủ chưa tới ba tiếng sau mười hai tiếng ngồi trên lưng ngựa – đã khiến anh suy kiệt.
Đằng nào thì vào trận chiến mình cũng ốm đau rồi bị đánh thừa sống thiếu chết thôi mà, Roran nghĩ vậy khi thả thân gỗ xuống. Ý nghĩ đó dù sao cũng làm anh bớt căng thẳng.
Sáu người đứng trước bầy ngựa, đối diện với bức tường phủ bức tường dương xỉ và rút vũ khí. Bên ngoài thung lũng, những con chó săn tru lên càng lúc càng lớn, những chiếc sủa giận dữ kích động của chúng vang lên hỗn loạn.
Roran căng người và giơ cây búa cao hơn. Sau đó trong tiếng chó sủa anh nghe thấy một giai điệu kỳ lạ, du dương bằng ngôn ngữ cổ xưa từ Carn và khiến anh dựng tóc gáy. Thầy pháp lẩm nhẩm vài từ ngắn, nhanh khiến từ ngữ quện vào nhau. Ngay khi anh ta đọcx ong, anh ra hiệu với Roran và những người khác, căng thẳng nói nhỏ, “Nằm xuống!”
Không hỏi thêm, Roran nằm sạp xuống. Đây không phải lần đầu tiên anh nguyền rủa bản thân không biết dùng phép thuật. Giờ đây tất cả những kỹ năng của một chiến binh đều vô dụng; không có nó buộc anh phải trông cậy vào những người có thể định hình lại thế giới bằng ý trí và vài từ.
Bức tường dương xỉ trước mặt họ rung lên; rồi một con chó thọc cái mõm đen của nó qua tán lá đánh hơi. Delwin rít lên và giơ cao thanh kiếm như thể chặt đầu con chó nhưng Carn húng hắng cảnh cáo và xua tay cho tới khi anh hạ thanh kiếm xuống.
Con chó nhăn trán bối rối. Nó đánh hơi thêm lần nữa rồi dùng cái lưỡi tím, dày bự liếm mép và đi mất.
Khi tán lá về đúng vị trí cũ, Roran từ từ thở hắt ra. Anh nhìn Carn nhướn mày hy vọng một lời giải thích nhưng Carn chỉ lắc đầu và đặt ngón tay lên môi.
Vài giây sau, thêm hai con chó nữa chúi mõm xuống đánh hơi thung lũng, rồi, cũng như con đầu tiên, chúng quay đi. Một lúc sau, đàn chó bắt đầu sủa ăng ẳng, chạy vào rặng cây tìm kiếm con mồi.
Khi ngồi chờ, Roran để ý thấy trên chân có vài vết tím chạy dọc lên hông. Anh chạm vào vùng bầm tím đó và ngón tay anh dính máu. Ở mỗi vết thâm đều có một chỗ rộp da. Anh không chỉ bị thâm ở đó, còn ở tay – nơi anh siết chặt cương đặt biệt là giữa ngón cái và ngón trỏ - và ở gót chân và một số chỗ không thoải mái hơn.
Anh chán ghét chùi những ngón tay xuống đất. Anh nhìn những người bạn đồng hành, nhìn cách họ đang ngồi và quỳ, nhìn thấy vẻ khó chịu trên nét mặt mỗi khi di chuyển và thấy họ đang nắm chắc vũ khí. Sức khỏe của họ đâu có hơn gì anh.
Roran quyết đinh lần tới khi dừng lại nghỉ ngơi anh sẽ nhờ Carn trị thương hộ. Nếu nhưng pháp sư đã quá mệt, Roran sẽ ráng nhịn đau; anh thà chịu đau còn hơn để Carn cạn kiệt sức lực trước khi tới Aroughs, vì Roran đoán khả năng của Carn sẽ rất hữu dụng trong lần vây thành này.
Nghĩ tới Aroughs, trận chiến và làm cách nào để chiến thắng khiến Roran đặt tay lên ngực kiểm tra xem những phong thư mà anh không thể đọc có còn không. Chúng vẫn ở đó.
Sau vài phút dài đằng đẵng căng thẳng, một trong những con chó săn bắt đầu sủa nhặng xị ở trong rặng cây phía trên bờ suối. Những con chó khác phóng nhanh về hướng đó và tiếng tru rú ầm ý đã có nghĩa là chúng đã đuổi rất sát con mồi.
Khi bầy chó đã bỏ đi hết, Roran từ từ đứng dậy và nhìn qua kẽ lá, “Chúng đi hết ròi,” anh nói bằng giọng khe khẽ.
Khi những người khác đứng lên, Hamund – một người đàn ông cao, tóc bóng dầu và có vết nhăn hằn sâu trên khóe miệng dù anh chỉ hơn Roran có một tuổi – quay lại phía Carn, rủa xả, “Sao anh không làm thế từ trước, thay vì để cho chúng tôi chạy như điên như dại qua khu nông thông và suýt gẫy chổ khi trượt xuống đồi hả?” Anh chỉ về phía rạch sông.
Carn đáp lại bằng giọng cáu giận tương tự, “Vì lúc trước tôi không nghĩ ra. Đáng ra anh nên biết ơn vì tôi đã cứu anh không bị đục lỗ đó.”
“Thế sao? Vậy tôi nghĩ anh nên dành nhiều thời gian nghiên cứu phép phiếc trước khi chúng ta bị đuổi chạy tới nơi khỉ ho cò gáy nào đó và...”
Sợ cuộc cãi vã của họ sẽ nghiêm trọng hơn, Roran đứng vào giữa hai người, “Đủ rồi,” anh nói, sau đó hỏi Carn, “Anh dựng lá chắn che giấu chúng ta được không?”
Carn lắc đầu. “Lũ người thông minh hơn lũ chó kia.” Anh nhìn Hamund vẻ xem thường. “Ít nhất là hầu hết. Tôi có thể giấu chúng ta nhưng không dấu được vết tích trên đường.” Và anh chỉ về phía trảng dương xỉ bị dẫm nát cũng như vết móng ngựa để lại trên mặt đất ẩm ướt. “Họ sẽ biết chúng ta ở đây. Nếu chúng ta đi trước khi họ tìm ra dấu vết, lũ chó sẽ chạy về phía họ và chúng ta sẽ...”
“Lên ngựa!” Roran ra lệnh.
Thêm vài tiếng chửi thề và rên rẩm nữa rồi những người đàn ông lên lên lưng ngựa. Roran nhìn về thung lũng lần cuối để đảm bảo họ không bỏ quên cái gì rồi dẫn đoàn người đi.
Họ cùng nhau phi nước đại dưới bóng cây và đi khỏi khe núi tiếp tục cuộc hành trình tưởng như không có điểm dừng tới Aroughs. Nhưng một khi đặt chân tới thành phố, Roran chưa biết họ sẽ phải làm gì.
‹ 12. KHIÊU VŨ CÙNG GƯƠM KIẾM
lên
14. THỰC NGUYỆT NHÂN ›
Share on facebook
Share on zingme
Share on tagvn
Eragon xoay vai khi đi trong trại của quân Varden, cố gắng chữa chứng ngoẹo cổ vì đấu kiếm với Arya và Blödhgarm đầu chiều.
Khi nó bước lên đỉnh một ngọn đồi nhỏ trông như một hòn đảo cô đơn giữa một rừng lều bạt, nó chống tay lên hông và quan sát cảnh vật. Trước mắt nó là mặt nước hồ Leona đen lấp loáng trong ánh chạng vạng và ánh đuốc vàng chiếu ra từ khu lều. Varden đã hành quân trên con đường giữa khu lều và bờ sông: theo như Jeod bảo nó, con đường đá cuội đó có trước khi Galbatorix giết chết các Kỵ sĩ. Cách đây một phần tư dặm về phía bắc là một ngôi làng chài nhỏ ngay sát bờ sông. Eragon thừa biết dân làng chẳng vui vẻ gì khi quân đội tới đóng quân ngay trên cửa ngõ ra vào của họ.
Trò phải học... nhìn những gì trò thấy.
Từ khi rời khỏi Belatona, Eragon dành hàng giờ nghiền ngẫm lời khuyên của Glaedr. Nó không biết ông rồng định nói gì, vì Glaedr không chịu nói thêm gì sau đó. Và thế là Eragon đành tự mình suy diễn câu nói đó theo nghĩa đen. Nó đang thực sự nhìn những gì trước mắt nó, dù cho thứ đó nhỏ và không đáng chú ý tới đâu, và cố gắng hiểu xem câu nói của ông rồng có ngụ ý gì.
Dù nó cố gắng lắm nhưng chỉ chuốc lấy thất bại. Dù nhìn thấy gì, thấy bao nhiêu nó vẫn không nhìn ra thứ nó cần thấy. Tệ hơn, giờ nó còn chẳng hiểu gì, ví dụ như vì sao khói lại bốc lên từ ba ống khói trong khu làng chài.
Dù nó cảm thấy chưa hiểu gì nhưng những nỗ lực của nó ít nhất cũng thu về một thành quả: Arya không còn có thể đánh bại nó trong mỗi lần giao chiến. Nó quan sát nàng cẩn trọng gấp đôi, quan sát nàng như thể nàng là một con nai còn nó là kẻ săn mồi – về cuối cùng, nó cũng thắng được vài hiệp. Nhưng, nó vẫn chưa ngang cơ với nàng, vẫn kém nàng quá nhiều. Nó chưa biết nó cần học gì – hay ai có thể dạy nó – để trở thành tay kiếm lão luyện như nàng.
Có lẽ Arya nói đúng, kinh nghiệm là thầy dạy tốt nhất cho mình lúc này, Eragon nghĩ. Cần có thời gian để đúc rút kinh nghiệm, nhưng mình lại đâu có nhiều thời gian. Mình sắp tới Dras-Leona và rồi tớ Urȗ’baen. Nhiều nhất là vài tháng nữa mình và mọi người sẽ phải đối mặt với Galbatorix và Shruikan.
Nó thở dài và xoa mặt, cố nghĩ tới chuyện gì nhẹ nhàng hơn. Nhưng cuối cùng bao giờ nó cũng quay lại nghĩ tới những chuyện nó khúc mắc trong lòng, lo lắng về những chuyện đó nhưu một con chó nghĩ tới khúc xương, càng lúc càng căng thẳng.
Không nghĩ thêm được gì, nó đi xuống đồi. Nó lang thang trong những căn lều dưới ánh chiều chạng vạng, đi về phía lều của nó nhưng chẳng để ý gì tới đường đi. Đi bộ lúc nào cũng giúp nó bình tĩnh. Những người đàn ông luôn luôn tránh đường cho nó đi và đặt nắm tay lên ngực cùng một tiếng chào nho nhỏ, “Chào Khắc tinh của tà thần,” còn Eragon lịch sự gật đầu đáp lễ.
Nó đi bộ khoảng mười lăm phút, dừng lại và bắt đầu nghĩ ngợi thì nghe thấy một tiếng phụ nữ la chói lói đầy hứng khởi. Nó tò mò đi về phía âm thanh phát ra cho tới khi thấy một căn lều năm xa cách khu trại, gần gốc liễu khẳng khiu, cái cây duy nhất gần hồ mà quân đội không đốn hạ làm củi đun.
Ở đó, dưới những tán cây là một cảnh tượng kỳ lạ nhất nó từng thấy.
Mười hai Urgal bao gồm cả thủ lĩnh của bọn họ, Nar Garzhvog, ngồi thành hình bán nguyệt quanh đám lửa đang bập bùng cháy. Vẻ sợ hãi nhảy nhót trên gương mặt họ, khắc họa rõ nét hàng lông mày rậm, xương gò má rộng và quai hàm lớn cũng như những chóp sừng trên trán và cong xuống hai bên đầu. Urgal để trần tay và ngực, trừ một bao da quanh cổ tay và một dải vải da đeo chéo vai xuống eo. Trừ Garzhvog còn có ba Kull nữa hiện diện. Kích thước khổng lồ của họ khiến cho những Urgal còn lại – không ai dưới mét tám – trở nên nhỏ như một đứa bé.
Lẫn trong đám Urgal, là vài tá mèo ma ở lốt thú. Rất nhiều con mèo ngồi thẳng trước đống lửa, im lìm, không quật đuôi, tai dựng đứng. Những con khác nằm bò trên mặt đất, trong lòng Urgal hoặc nằm trên tay họ. Eragon kinh ngạc khi thấy một con mèo ma – một con mèo trắng cái gầy nhẳng – nằm cuộn tròn trên đầu một Kull, chân trước của nó đặt lên một bên sương xọ hắn và móng bấu chặt vào lông mày. Dù mèo ma nhỏ bé hơn Urgal nhưng chúng cũng dữ đằn tương tự và Eragon biết nó cần dè chừng tộc nào hơn; nó hiểu Urgal nhưng mèo ma thì... thật khó đoán.
Đối diện với chúng, ở bên kia đống lửa, phía trước khu lều là bà lang Angela. Bà ngồi khoanh chân trên một chiếc chăn và quay sợi. Cả mèo ma và Urgal đều chăm chú nhìn bà, không dời mắt nghe bà nói: “...nhưng hắn quá chậm và con thỏ mắt đỏ giận dữ đã xé toạc cổ họng Hord, giết chết hắn ngay lập tức. Sau đó con thỏ chạy tọt vào rừng, không ai còn biết tới nó nữa. Nhưng” – nói tới đây Angela hạ thấp giọng – “nếu các người đi qua khu rừng đó, như tôi từng có dịp... thi thoảng, thậm chí trong ngày hôm nay, các người sẽ thấy một con nai vừa mới bị giết hoặc một Feldȗnost trông như thể bị nhấm nháp ăn dần, như một cây củ cải. Và quanh nó, các người sẽ thấy những dấu chân thỏ lớn khác thường. Thi thoảng một chiến binh của Kvôth sẽ mất tích, khi người ta tìm thấy thì hắn ta đã chết với cổ họng bị xé toạc... luôn luôn trong tình trạng cổ họng bị xé toạc.
Bà chỉnh lại tư thế ban đầu. “Terrin rất buồn vì mất bạn và cậu ta muốn bắt được con thỏ nhưng những người lùn vẫn cần sự giúp đỡ từ cậu. Vì thế cậu ta trở lại thành lũy và vì thành đã bị vây hãm trong ba ngày ba đêm, nguồn lương thực cạn kiệt và binh lính đều bị thương.
“Cuối cùng, vào buổi sáng ngày thứ tư, khi tưởng như đã hết hy vọng, những đám mây tản ra và từ xa, Terrin ngạc nhiên nhìn thấy Mimring bay tới thành dẫn đầu một trận sấm rồng. Cảnh tượng về những con rồng khiến những kẻ công thành vô cùng hoảng sợ và họ ném vũ khí bỏ chạy vào rừng sâu.” Bà Angela cong môi. “Đó, như các người có thể tưởng tượng ra những người lùn của Kvôth vui mừng như thế nào.
“Khi Mimring đậu xuống, Terrin ngạc nhiên nhìn thấy những vẩy trên người nó sáng như kim cương vì Mimring bay quá gần mặt trời – để dẫn đường cho những con rồng khác, nó phải lượn qua lượn lại trên đỉnh núi Beor, cao hơn bất cứ con rồng nào trước và sau đó. Từ đó trở đi, Terrin trở thành anh hùng trong Trận chiến Kvôth, và con rồng của cậu mang tên Mimring Rực rỡ vì lớp vảy trên người và họ sống hạnh phúc mãi mãi. Nhưng, đúng ra mà nói, Terrin luôn luôn bị ám ảnh bởi lũ thỏ cho tới lúc già. Và đó là chuyện thực sự xảy ra với Kvôth.”
Sau đó bà im lặng, bầy mèo ma rên rừ rừ và Urgal gầm gừ vài tiếng tán thưởng.
“Bà kể rất hay, thưa Uluthrek,” Garzhvog nói, giọng nói của ông ta như thể đá lăn từ núi xuống.
“Cám ơn.”
“Nhưng đó không phải câu chuyện tôi từng được nghe,” Eragon nhận xét khi bước về phía đống lửa.
Biểu hiện trên khuôn mặt Angela sáng lên. “Ừ, cậu đừng mong những người lùn thừa nhận họ được con thỏ tha mạng chứ. Cậu trốn trong bóng tôi nghe lỏm toàn bộ à?”
“Không, chỉ vài phút thôi,” nó thú nhận.
“Vậy thì cậu đã bỏ qua phần hay nhất rồi, và tối nay tôi sẽ không kể lại đâu. Cổ họng tôi khô rát rồi.”
Eragon cảm thấy mặt đất rung lên khi Kull và các Urgal khác đứng dậy khiến lũ mèo ma nằm trong lòng họ không vui, vài con còn gào lên phản kháng khi rơi xuống đất.
Khi nó nhìn những khuôn mặt có sừng xấu xí tập trung quanh đống lửa, nó phải kìm lắm mới không rút kiếm. Kể cả sau một thời gian chiến đấu, hành quân và đi săn cùng Urgal thậm chí trao đổi tư tưởng cùng vài kẻ trong số họ, sự hiện diện của họ vẫn khiến nó ngỡ ngàng. Nó hiểu họ là quân đồng minh, nhưng xương cốt và cơ bắp vẫn không thể nào quên đi sự kinh hoàng thấm sâu trong người nó khi chiến đâu với đồng bọn của họ trong những trận chiến.
Garzhvog bỏ cái gì đó ra từ cái túi da nhỏ đeo trên thắt lưng. Ông ta đưa bàn tay dày cui qua đổng lửa, đưa vật đó cho Angela lúc đó đang hạ con suốt xuống và nhận lấy vật đó. Đó là một pha len màu xanh nước biển thô ráp trông rống như bông tuyết bị đông cứng sáng lấp lánh. Bà bỏ nó vào ống tay áo rồi cầm con suốt lên.
Garzhvog nói, “Thi thoảng bà phải tới lều của chúng tôi đó Uluthrek và chúng tôi sẽ kể cho bà nghe rất nhiều câu chuyện của chúng tôi. Chúng tôi có người kể chuyện. Anh ta rất khá; khi bà nghe anh ta ngâm câu chuyện về chiến thắng của Nar Tulkhqua tại Stavarosk, máu bà sẽ sôi lên và bà sẽ thấy như mình đang tru lên dưới ánh trăng và đấu sừng với những kẻ thù mạnh nhất.”
“Điều này còn tùy thuộc anh có sừng để đấu không chứ,” Angela nói. “Tôi rất vinh hạnh được ngồi nghe chuyện với anh. Có lẽ tối mai đi?”
Kull khổng lồ đồng ý; sau đó Eragon hỏi. “Stavarosk ở đâu? Tôi chưa bao giờ nghe.”
Urgal rì rầm không vui và Garzhvog hạ đầu khụt khịt như một con bò đực. “Anh đùa gì thế, Hỏa kiếm?” ông ta hỏi. “Anh muốn thách thức chúng tôi sao?” Ông ta đóng mở nắm tay thể hiện rõ ý đe dọa.
Eragon đề phòng nói, “Tôi không có ý xúc phạm, thưa Nar Garzhvog. Tôi thành thực có ý hỏi vậy; tôi chưa bao giờ nghe tới cái tên Stavarosk.”
Những tiếng rầm rì ngạc nhiên vang lên giữa các Urgal. “Sao lại có thể?” Garzhvog nói “Không phải con người nào cũng biết về Stavarosk sao? Không phải những con người ở phía bắc rặng Beor luôn nói về chiến thắng lớn nhất của chúng tôi sao? Nếu các nơi khác không biết thì quân Varden chắc chắn biết.”
Angela thở dài và không thèm nhìn lên nói. “Tốt nhất anh phải bảo bọn họ kể thôi.”
Eragon cảm thấy Saphira đang quan sát và nó biết cô sắp sửa bay tới nếu cuộc ẩu đả là không thể tránh.
Nó cẩn trọng lựa chọn từ ngữ và nói, “Không ai kể cho tôi nghe, nhưng vì tôi không ở cùng Varden lâu nên...”
“Drajl!” Garzhvog chửi thề. “Kẻ phản bội không có sừng thậm chí không có đủ dũng khí thừa nhận thất bại. Hắn là kẻ hèn nhát và dối trá!”
“Ai? Galbatorix à?” Eragon cẩn trọng hỏi.
Những con mèo rít lên khi nghe nhắc tới tên bạo chúa.
Garzhvog gật đầu. “Đúng. Khi hắn lên nắm quyền, hắn đã đuổi cùng giết tận loài chúng tôi. Hắn đã gửi một đội quân lớn tới núi Spine. Binh lính của hắn đã xông vào làng của chúng tôi, đốt xương chúng tôi và để lại mắt đất đen sì và nỗi cay đắng ở lại sau. Chúng tôi đã đánh trả - lúc đầu vì vui, sau là trong tuyệt vọng, nhưng vẫn chống trả. Đó là điều duy nhất chúng tôi có thể làm. Chúng tôi không có chốn dung thân, không có chỗ trốn. Ai sẽ bảo vệ Urgalgra khi các Kỵ sĩ đã ngã xuống?
“Chúng tôi may mắn. Chúng tôi có một thủ lĩnh tài ba, Nar Tulkha. Ông ấy từng bị loài người bắt giữ, từng dành nhiều năm chiến đấu với họ nên hiểu cách nghĩ của họ. Vì thế, ông có thể tập hợp rất nhiều bộ tộc lại. Sau đó ông lừa quân đội của Galbatorix vào trong một khe núi hẹp và chúng tôi từ trên ném gỗ xuống. Đó là một trận chiến đẫm máu đó Hỏa kiếm. Máu chảy lênh láng, người chất thành đống cao hơn đầu tôi. Cho tới ngày hôm nay, nếu anh tới Stavarosk, anh vẫn cảm thấy xương kêu răng rắc dưới chân và có thể tìm thấy những đồng tiền, kiếm và những mảnh áo giáp dưới lớp rong rêu.
“Hóa ra là các người!” Eragon reo lên. “Cả đời tôi từng nghe nói Galbatorix đã từng mất một nửa số quân lính trong rặng Spine nhưng không ai nói cho tôi biết vì sao hay thế nào.”
“Hơn một nửa số lính đấy Hỏa kiếm.” Garzhavog xoay vai và gầm gừ trong họng. “Và giờ tôi thấy chúng ta cần lan truyền câu chuyện đó để mọi người đều biết về chiến thắng của chúng tôi. Chúng tôi sẽ tìm những người kể chuyện, những thi sĩ loài người, dạy họ bài hát về Nar Tulkhqua và đảm bảo họ nhớ rằng phải hát thường xuyên và hát lớn.” Ông gật đầu như thể đã quyết ý rồi nói, “Tạm biệt, Hỏa kiếm. Tạm biệt, Uluthrek.” Sau đó ông ta và những chiến binh biến mất trong bóng tối.
Angela tặc lưỡi khiến Eragon giật mình.
“Gì thế?” nó hỏi và quay lại nhìn bà.
Bà mỉm cười. “Tôi đang tưởng tượng ra cảnh mấy tay thổi sáo tội nghiệp sẽ thế nào trong vài phút nữa khi về lều, thấy mười hai Urgal, bốn Kull đứng ngoài, vui vẻ dạy anh ta về văn hóa của Urgal. Tôi sẽ ấn tượng nếu chúng ta không nghe tiếng hét đó.” Bà lại tặc lưỡi.
Eragon cũng hứng thú tượng tự. Nó ngồi xuống dùng một cành cây gẩy đống than củi. Nó cảm nhận một vật nặng nề ấm áp trong lòng, khi nhìn xuống nó thấy con mèo ma trắng cuộn tròn trên chân. Nó đưa tay vuốt lông nó rồi nghĩ ngợi gì đó lên tiếng hỏi. “Có được không?”
Con mèo trắng vẫy đuôi phớt lờ nó.
Hy vọng mình không làm gì sai, Eragon cẩn trong gãi gãi cổ sinh vật. Một lát sau, một tiếng rừ rừ to vang lên.
“Cô ấy thích cậu,” Angela nhận xét.
Không hiểu vì sao Eragon lại thấy cực kỳ phấn chấn. “Cô ấy là ai thế ạ? Ý tôi là, cô tên gì? Tên cô là gì?” Nó liếc nhìn con mèo ma lo lắng mình khiến cô mèo phật ý.
Angela cười. “Tên cô ấy là Thợ săn đêm. Hay đúng hơn, đó là nghĩa tên cô ấy dịch ra từ ngôn ngữ mèo ma. Đúng hơn, cô ấy là.” Nói tới đây, bà lang húng hắng ho, âm thanh đó khiến Eragon dựng tóc gáy. “Thợ săn đêm là vợ Grimrr Nửa vuốt, có người nói cô ấy từng là nữ hoàng của loài mèo ma.”
Tiếng rừ rừ cáng lúc càng lớn.
“Tôi hiểu.” Eragon nhìn quanh những con mèo ma khác. “Solembum đâu?”
“Đang bận đuổi theo một con mèo vằn bằng nửa số tuổi của cu cậu. Cậu ta hành động như thể mèo con ấy... nhưng dù sao trong đời ai chẳng có một lần ngốc nghếch.” Bà lang giữ quay xa bằng tay trái, dừng nó lại và đưa một sợi bông mới vào đĩa sợi. Sau đó và tiếp tục xe sợi. “Có vẻ cậu có nhiều câu hỏi đó, Khắc tinh của tà thần.”
“Mỗi khi tôi gặp bà, tôi luôn luôn cảm thấy càng lúc càng mông lung.”
“Luôn luôn? Cậu chuyên chế nhỉ. Được rồi, tôi sẽ cố trả lời xem. Hỏi đi.”
Thấy bà ta cởi mở, Eragon cân nhắc nên hỏi gì trước. Cuối cùng nó hỏi, “Một cơn sấm rồng? Ý bà là…”
“Đấy là cụm từ đúng để chỉ một đàn rồng. Nếu cậu có cơ hội nghe tiếng chúng vỗ cánh, cậu sẽ hiểu. Khi mười, mười hai hoặc nhiều hơn bay trên đầu cậu, cậu sẽ thấy không khí rền rĩ xung quanh cậu như thể cậu đang ngồi trong một cái trống cỡ cực đại. Không thì cậu gọi một đàn rồng là gì? Cậu goi là một bầy quả, một đội đại bàng, một đàn ngỗng trời, một lũ vịt, một đàn chim giẻ cùi, một bầy cú, v.v... nhưng còn rồng thì sao? Một sự đói khát chắc? Không được. Không thể gọi chúng là mộtngọn lửa hay nỗi sợ, dù ta thích từ nỗi sợ, Nhưng không, một đàn rồng gọi là một cơn sấm. Cậu sẽ biết nếu như cậu có thời gian đầu tư vào sách vở hơn là mua kiếm và vài từ bằng ngôn ngữ cổ.”
“Chắc chắn là bà đúng,” nó nói. Qua mối liên kết luôn hiện hữu giữa nó và Saphira, nó biết cô nàng đồng ý với cụm “một cơn sấm rồng.” Nó cũng nghĩ như vậy vì so sánh như thế rất hợp lý.
Nó cân nhắc một lúc lâu hơn rồi hỏi, “Sao Garzhvog lại gọi bà là Uluthrek?”
“Đó là danh xưng Urgal đã đặt cho ta từ rất lâu, từ hồi ta sống cùng họ.”
“Nghĩa là gì?”
“Thực nguyệt nhân.”
“Thực nguyệt nhân? Tên lạ nhỉ? Sao bà lại có tên đó?”
“Ta ăn mặt trăng chứ còn làm sao nữa?”
Eragon nhíu mày và quan tâm vào việc vuốt ve con mèo ma trong chốc lát. “Sao Garzhvog lại đưa bà viên đá?”
“Vì ta kể chuyện cho hắn. Rõ ràng thế còn gì.”
“Nhưng viên đá đó là gì?”
“Một mẩu đá. Cậu không thấy sao?” Bà kêu khục khục vẻ không tán đồng. “Cậu thật sự nên để ý tới những gì xung quanh hơn. Nếu không sẽ có ngày có người cầm dao đâm cậu khi cậu không để ý. Nếu cậu chết tôi sẽ nói những điều bí ẩn của tôi cho ai?” Bà hất tóc. “Tiếp đi. Tôi rất thích chơi trò này.”
Cậu nhướn lông mày và dù biết câu hỏi vô nghĩa, nhưng vẫn hỏi, “Chiếp chiếp?”
Bà lang cười váng lên và vài con mèo ma mở miệng nở một nụ cười đầy răng. Nhưng Thợ săn đêm có vẻ không hài lòng vì cô ta cắm móng lên chân Eragon khiến nó nhăn mặt.
“Ờm,” Angela vừa cười vừa nói, “nếu cậu phải có câu trả lời thì tôi sẽ kể cho cậu nghe một câu chuyện hay ho. Xem nào... Vài năm trước khi ta đi lang thang dọc biên giới phía tây Du Weldenvarden, cách xa các thành phố, làng mạc, thị trấn. Ta tình cờ gặp Grimrr. Lúc đó cậu ta chỉ là một thủ lĩnh một bộ tộc nhỏ và còn đủ móng vuốt. Lúc đó tôi gặp cậu ta đang đua với một con sáo non rơi từ tổ xuống. Tôi sẽ không để ý nếu cậu ta giết và ăn nó – mèo nào chẳng làm thế - nhưng cậu ta hành hạ con vật tội nghiệp: giang cánh nó ra, cắn đuôi nó, làm què chân nó rồi đè ngửa nó ra. Angela nhăn mũi khó chịu. “Tôi nói rằng cậu ta phải ngừng lại nhưng cậu ta gào trả và lờ tôi đi.” Bà nhìn Eragon bằng ánh mắt lạnh lùng. “Tôi không thích mọi người lờ tôi. Vì thế tôi lấy con chim và chỉ tay niệm thần chú. Thế là trong một tuần, cứ hễ cậu ta mở mồm ra là lại kêu như chim.”
“Ông ấy kêu chiếp chiếp á?”
Angela gật đầu. “Tôi chưa bao giờ cười đau ruột tới vậy. Không một con mèo ma nào dám lại gần cậu ta trong một tuần.”
“THể nào ông ấy ghét bà.”
“Thế đã sao? Nếu cậu không có kẻ thù, cậu là kẻ hèn nhát – có khi còn tệ hơn. Nhưng nhìn thấy phản ứng của cậu ta cũng đáng. Ôi, cậu ta đã rất tức giận!’
Thợ săn đêm gừ nhẹ cảnh cáo và co vuốt lại lần nữa.
Đau, Eragon nói. “Có lẽ tốt hơn chúng ta nên chuyển đề tài.”
“Ừm.”
Trước khi nó nghĩ ra một câu hỏi mới, một tiếng thét lớn vang lên từ trong khu trại. Tiếng thét vang lên ba lần trước khi tất cả rơi vào im lặng.
Eragon nhìn Angela và bà nhìn nó rồi cả hai bật cười.
‹ 13. KHÔNG VINH QUANG, KHÔNG DANH DỰ, CHỈ CÓ NHỮNG TIẾNG QUÁT THÁO TẠI VÙNG ĐẤT XUI XẺO
lên
15. NGHE NGÓNG VÀ VIẾT LÁCH
Eragon đang trên đường về lều thì nghe giọng Saphira, Muộn rồi đấy.Cô nàng đang nằm cuộn tròn trước lều nó, dưới ánh đuối mờ mờ trông nó như một núi than xanh. Cô nàng nhìn nó bằng một mắt lờ đà lờ đờ.
Nó xoa đầu và cụng đầu cô rồng trông một lát. Ừ, cuối cùng nó nói.Và em cũng nghỉ ngơi sau chuyến bay cả ngày nay. Ngủ đi, mai gặp lại em.
Cô rồng chớp mắt ra vẻ hiểu.
Eragon vào trong lều, thắp một ngọn nến duy nhất. Sau đó nó cởi giày và ngồi lên võng chân khoanh lại. Nó từ từ hít thở và để đầu óc mở rộng, vươn ra chạm vào tất cả những sự sống xung quanh, từ sâu bọ bên dưới chỗ Saphira nằm tới những chiến binh Varden và thậm chí cả vài cây còn lại xung quanh khu vực. Năng lượng phát ra từ cây cối mờ nhạt và khó nhìn nếu so sánh với nguồn sáng rực rỡ phát ra từ những sinh vật nhỏ bé nhất.
Nó ngồi đó một lúc lâu, để cho đầu óc trống rỗng. Nó biết tới hàng ngàn những cảm xúc khác nhau, dù rõ nét hay mờ nhạt. Nó không tập trung vào thứ gì ngoại trừ hít thở đều đặn.
Từ đằng xa, nó nghe tiếng những người đàn ông nói chuyện phiếm quanh đống lửa. Không khí ban đêm mang tiếng nói của họ đi xa hơn ý định, đủ xa để khiến những đôi tai thính nghe rõ từng từ. Nó có thể cảm nhận trí óc họ, đọc được ý nghĩ nếu nó muốn, nhưng nó chọn tôn trọng quyền riêng tư và chỉ nghe họ nói chuyện.
Người đàn ông giọng trầm nói, “...cái cách họ nhìn mày ấy, như thể mày là đáy của đáy xã hội rồi. Họ hầu như có thèm nói chuyện với mày khi mày hỏi họ đâu. Họ chỉ quay người bước đi mất thôi.”
“Ừ,” người kia nói. “Và phụ nữ của họ - xinh đẹp như tượng và quyến rũ.”
“Đó là lý do vì sao mày là một thằng khốn xấu xí đúng nghĩa đó, Svern. Đấy là lý do đấy.”
“Chuyện bố tao đi tới đâu là tán gái tới đó không phải lỗi của tao. Hơn nữa, mày làm gì có quyền đứng đó mà nhận xét này nọ; mặt mũi mày đủ khiến lũ trẻ gặp ác mộng rồi.”
Chiến binh giọng trầm càu nhàu; sau đó một ai đó ho húng hắng và Eragon nghe tiếng xì xì như khi củi cháy gặp chỗ ẩm.
Người thứ ba bước vào cuộc nói chuyện: “Tao không thích tụi tiên hơn gì bọn mày, nhưng chúng ta cần có họ mới thắng được.”
“Nhưng nếu sau đó họ quay lưng với chúng ta thì sao?” người giọng trầm hỏi.
“Nghe đi,” Svern nói thêm. “Nhìn chuyện gì đã xảy ra ở Ceunon và Gil’ead. Với toàn bộ quân đội và quyền năng mà Galbatorix cũng không thể chặn nổi họ vượt qua thành lũy.”
“Có thể vì lão ta không thử,” người thứ ba đưa ra giả thiết.
Một hồi im lặng kéo dài.
Sau đó người giọng trầm cất tiếng, “Giờ tôi chỉ có duy một suy nghĩ không vui... Dù lão có hay không thử, tôi không nghĩ chúng ta có thể làm gì họ nếu họ muốn đòi quyền sở hữu vũng đất củ của mình. Họ nhanh hơn và mạnh hơn chúng ta, và không giống như chúng ta, tất cả đều biết dùng phép.”
“Nhưng chúng ta có Eragon,” Svern phản đối. “Ngài ấy có thể đẩy họ về rừng nếu muốn.”
“Ngài ấy á? Ngài ấy giống tiên hơn loài người. Tao không tin vào lòng trung thành của ngài ấy hơn lũ Urgal.”
Người thứ ba lại nói: “Bọn mày có để ý không, ngài ấy lúc nào cũng mày râu nhẵn nhụi dù chúng ta nhổ trại sớm thế nào.”
“Chắc ngài ấy dùng phép thuật để cạo râu.”
“Đi ngược lại quy luật của tự nhiên. Giờ phép thuật cứ xẹt qua xẹt lại suốt ngày. Các pháp sư đâu cần chúng ta mà vẫn giết được kẻ thù cơ mà.”
“Nhưng mày đâu có kêu ca gì khi thầy thuốc dùng phép thuật trị thương thay vì dùng kẹp nhổ mũi tên ra khỏi vai mày nhỉ.”
“Có thể, nhưng nếu không có Galbatorix tao đâu có dính tên vào vai. Chính lão và phép thuật của lão là căn nguyên cho tất cả mớ hổ lốn sau này.”
Ai đó khịt mũi. “Đúng, nhưng tao thề, dù có Galbatorix hay không, đời mày kiểu gì chẳng lãnh tên một lần. Mày không làm được gì ngoài đánh nhau đâu.”
“Mày biết là Eragon đã cứu mạng tao hồi ở Feinster,” Svern nói.
“Đúng, và nếu mày còn lải nhải chuyện đó lần nữa, tao sẽ cho mày cọ nồi cả tuần.”
“Ờ, ngài ấy đã....”
Lại một hồi im lặng nữa. Nó chỉ bị phá vỡ sau tiếng thở dài của người chiến binh giọng trầm. “Chúng ta cần tìm cách tự bảo vệ mình. Đây là vấn đề. Chúng ta được thần tiên, pháp sư – của ta và của họ - che chở và sống nhờ các sinh vật khác trên mảnh đất này thương tình mới sống nổi. Những người như Eragon luôn sống ổn nhưng chúng ta không máy mắn như ngài ấy. Cái chúng ta cần là ...”
“Cái chúng ta cần,” Svern nói, “là các Kỵ sĩ rồng. Họ đưa thế giới về đúng trật tự.”
“Xì. Với con rồng nào? Mày không thể trở thành kỵ sĩ mà không có rồng. Hơn nữa, chúng ta vẫn không thể tự bảo vệ mình và điều đó khiến tao lo. Tao không còn là đứa bé trốn dưới váy mẹ, nhưng nếu Tà thần xuất hiện trong đêm, chúng ta chẳng thể làm gì ngoài đưa đầu cho hắn chém.”
“Nói mới nhớ, mày có nghe gì về Lãnh chúa Barst không?” người thứ ba hỏi.
Svern lẩm bẩm đồng ý. “Tao nghe nói về sau ông ấy ăn tim mình.”
“Cái gì nữa đây?” chiến binh giọng trầm nói.
“Barst...”
“Barst?”
“Mày biết đó, bá tước vùng Gil’ead.”
“Không phải là người phi ngựa tới Rảm chỉ để chọc giận...”
“Đúng người đó đó. Lão ta đã vào ngôi làng này và yêu cầu trai tráng nhập ngũ cho Galbatorix. Chỉ có điều, họ không đồng ý và tấn công lại Barst và binh sĩ của lão.”
“Dũng cảm,” người giọng trầm nói. “Ngu nhưng dũng cảm.”
“Ờm, Barst lại quá thông minh so với họ; lão cho cung thủ bao quanh làng trước khi tiến vào. Những binh sĩ đã giết một nửa trai tráng và những người còn lại cũng hấp hối. Không có gì bất ngờ. Sau đó Barst bắt sống trưởng làng, người khởi nguồn cuộc đấu tranh rồi dùng tay bẻ cổ ông ấy và vặt đầu ông ấy.”
“Không.”
“Như vặt đầu gà. Tệ hơn, lão ra lệnh thiêu sống người thân của ông ấy.”
“Barst phải khỏe ngang Urgal,” Svern nói.
“Có thể lão có mánh khóe gì đó.”
“Hay là dùng pháp thuật?” người giọng trầm nói.
“Nhưng theo những gì chúng ta biết, lão có sức mạnh – và cáo già nữa. Người ta kể, khi còn trẻ hắn chỉ một đòn đấm giết chết bò rồi.”
“Tao nghe vẫn thấy có hơi hướm phép thuật quanh đây.”
“Đó là vì lúc nào mày cũng thấy pháp sư xấu ẩn nấp trong bóng tối thôi.”
Người giọng trầm làu nhàu nhưng không nói gì.
Sau đó, những người chiến binh tản ra để vào ca gác nên Eragon không nghe được thêm gì. Trong lúc khác, cuộc nói chuyện của họ sẽ khiến nó không vui, nhưng vì đang suy tưởng nên nó vẫn bình tĩnh. Nhưng mặt khác nó cố nhớ những gì họ nói để sau này có dịp suy ngẫm.
Sau khi suy nghĩ đã đi đúng trật tự, nó cảm thây bình tĩnh và thư thái. Eragon đóng đầu óc lại, mở mắt và duỗi chân cho khỏi tê.
Nó nhìn chằm chằm ánh lửa chập chờn trong một phút, bị mê hoặc bởi ánh lửa nhảy nhót.
Sau đó nó tới chỗ đặt túi yên cương và lấy bút lông ngỗng, lọ mực, giấy da dê nó xin Jeod vài ngày trước, cùng bản sao cuốn Domia abr Wyrda mà một học giả già đưa cho nó.
Eragon trở lại võng, đẩy cuốn sách nặng sang bên để không vẩy mực lên đó. Nó đặt khiên dưới đầu gốc như đặt một cái khay và trải tờ giấy da dê trên bề mặt cong võng. Nó ngửi thấy mùi ta nanh thơm sắc khi mở nắp lọ mực và nhúng bút lông ngỗng vào.
Nó gạt đầu bút lông vào miệng lo để tránh mực tràn rồi cẩn thận đặt nét bút đầu tiên. Tiếng bút lạo xạo trên giấy khi nó viết những con chứ bằng ngôn ngữ loài người. Khi nó viết xong, nó so sánh bản này và bản hôm qua để xem liệu chữ viết của nó có tiến bộ - chỉ một chút – và so sánh với chữ trong cuốn Domia abr Wyrda nó dùng làm sách mẫu.
Nó nhìn bảng chữ cái thêm ba lần nữa, đặc biệt để ý tới những con chứ khó viết nhất. Sau đó nó bắt đầu viết những suy nghĩ và những quan sát trong ngày. Bài tập này không chỉ hữu ích vì giúp nó luyện chữ mà còn hiểu những thứ nó nhìn và làm trong ngày tường tận hơn.
Nó cần cù viết vì nó thấy được sự hứng thú từ thử thách tính kiên nhẫn này. Luyện chữ khiến nó nhớ tới ông Brom, về cách người kể chuyện già dạy nó ý nghĩa từng con chữ, giúp nó cảm nhận sự gần gũi của người cha đã xa cách nó.
Sau khi viết mọi thứ nó muốn, nó rửa sạch bút lông ngỗng và chuyển sang bút lông và chọn một tờ giấy một nửa đã chi chít những con chữ tượng hình của ngôn ngữ cổ xưa.
Bắt khó bắt chước kiểu chữ Liduen Kvaedhí của thần tiên khó hơn là viết chữ của loài người do chữ tượng hình tượng trưng cho các hình dạng trong đời sống. Nhưng nó vẫn học viết vì hai lý do: nó cần biết mặt chữ. Và nếu như nó viết cái gì bằng ngôn ngữ cổ, nó nghĩ mình nên viết lại bằng kiểu chữ hầu hết loài người không đọc được.
TRí nhớ của Eragon rất tốt, nhưng dù thế đi chăng nữa, nó đã bắt đâu quên những câu thần chú ông Brom và thầy Oromis đã từng dạy nó. Vì thế nó quyết định tạo ra một cuốn từ điển tất cả những từ nó biết bằng ngôn ngữ cổ. Lúc đầu nó cũng không thấy được tầm quan trọng của bản tóm tắt này cho tới gần đây.
Nó viết từ điển trong vài tiếng nữa sau đó bỏ bút mực vào túi yên cương và lấy ra hộp đựng trái tim ông rồng Glaedr. Nó cố gắng đánh thức ông rồng già như đã làm nhiều lần trước đó nhưng kết quả vẫn như cũ. Eragon không chịu từ bỏ. Nó ngồi cạnh chiếc hộp đã mở, đọc to cho Glaedr nghe về những nghi thức, lễ hội của người lùn viết trong cuốnDomia abr Wyrda – Eragon biết một vài – cho tới lúc đêm đã lạnh nhất và tối nhất.
Sau đó, Eragon đặt cuốn sách sang một bên, thổi tắt nến và nằm xuống võng ngủ. Nó lơ mở ngủ một lúc. Ngay khi ánh sáng đầu tiên xuất hiện ở đằng đông, nó ngồi thẳng dậy bắt đầu một ngày mới.
‹ 14. THỰC NGUYỆT NHÂN
lên
16. AROUGHS ›
Gần trưa đội của Roran tới khu lều cạnh đường. Những căn lều trông xám xịt và khó phân biệt vì lúc này sự mệt mỏi của Roran đã giăng mây che tầm nhìn cuae anh. Cách đó 1 dặm về phía nam là thành phố Aroughs nhưng anh chỉ nhận ra những đặc trưng cơ bản nhất của một thành phố: tường trắng như bang, cổng thành rộng lớn đóng im ỉm và những tòa tháp xây bằng đá vuông.
Anh nhảy khỏi ngựa khi đoàn người tới trại. Những con ngựa gần như ngã quỵ. Một thanh niên gầy nhẳng chạy tới chỗ anh và nắm lấy cương kéo cho tới khi con vật dừng hẳn.
Roran cúi xuống nhìn cậu nhóc và chưa hiểu chuyện gì xảy ra. Một lúc lâu sau anh mới nói được một câu gọn lỏn, “Đưa tôi tới gặp Brigman.”
Thằng nhóc không nói tới một lời thằng nhỏ xoay người bước đi, để lại lớp bụi bay mù dưới gót chân trần.
Roran cảm thấy như anh phải ngồi đợi hơn một tiếng đồng hồ. Con ngựa thở hổn hển đứt đoạn còn anh chảy máu tai. Khi anh nhìn xuống đất, dường như máu vẫn tiếp tục chảy thành dòng. Từ đâu đó vang lên tiếng thúc ngựa.Tầm mười hai chiến binh tụ tập gần đó, chống lên giáo và khiên, vẻ mặt thể hiện nét tò mò.
Từ đằng xa một người đàn ông vai rộng mặc áo trấn thủ xanh lơ đi khập khiễng về phía Roran, sử dụng một cây giáo gẫy thay cho gậy chống. Ông để râu xồm xoàm dù ria cạo sạch và lấm tấm mồ hôi – Roran không biết vì ông đang thấy đau hay do nóng.
“Anh là Cây Búa Dũng Mãnh?” ông hỏi.
Roran ừm nhẹ một tiếng xác nhận. Anh thả tay đang cầm cương, cho vào trong áo và đưa cho Brigman một phong thư da dê có lệnh của Nasuada.
Brigman bóc niêm phong. Ông đọc một hồi rồi hạ lá thư xuống và nhìn Roran không biểu cảm.
“Chúng tôi đang đợi anh,” ông nói. “Một trong những thầy bùa thân cận của Nasuada đã liên lạc với tôi từ bốn ngày trước và nói anh đã đi, nhưng tôi không nghĩ anh sẽ tới sớm thế này.”
“Không dễ dàng gì,” Roran nói.
Môi trên của Brigman cong lên. “Tôi chắc chắn vậy thưa...ngài.” Ông đưa tấm da dê lại cho Roran. “Binh sĩ ở đây sẽ nghe lệnh ngài thưa Cây Búa Dũng Mãnh. Chúng tôi chuẩn bị tấn công cổng tây. Có thể ngài muốn chỉ huy chăng?” Câu hỏi sắc nhọn như một mũi dao.
Thế giới xung quanh Roran dường như nghiêng nghả và anh cầm chắc cương hơn. Anh quá mệt không thể tán dóc với ai nữa rồi.
“Ra lệnh cho họ nghỉ một ngày,” anh nói.
“Ngài có còn minh mẫn không? Ngài làm thế nào để chiếm thành vậy? Chúng tôi phải mất cả buổi sáng để chuẩn bị tấn công và tôi sẽ không ăn không ngồi rồi chờ ngài ngủ đâu. Nasuada mong chúng tôi chiếm thành trong vài ngày và, vì Angvard, tôi sẽ làm được điều đó!”
Roran gầm nhẹ chỉ mình Brigman nghe thấy, “Ra lệnh cho binh sĩ rút lui, không tôi sẽ đánh ông què cẳng vì bất tuân quân lệnh. Tôi sẽ không cho phép bất kỳ cuộc tấn công nào diễn ra cho tới khi tôi nghỉ ngơi và quan sát tình hình.”
“Ngài thật là ngu ngốc. Điều này có thể...”
“Nếu ông không câm miệng và làm nhiệm vụ của mình đi, tôi sẽ tự tay đập ông một trận – ngay đây và ngay lúc này.”
Cánh mũi Brigman phập phồng. “Trong tình trạng này sao? Ngài không có cơ hội đâu.”
“Sai rồi,” Roran nói. Và anh nói thật. Anh không chắc mình sẽ đánh bại Brigman bằng cách nào nhưng anh biết anh có thể.
Brigman có vẻ đang đấu tranh tư tưởng ghê gớm. “Vâng,” ông quát lên. “Tốt hơn hết là không nên để cho quân sĩ thấy nội bộ tướng lĩnh lục đục. Chúng tôi sẽ ở nguyên vị trí nếu đó là điều ngài muốn, nhưng tôi không chịu trách nhiệm vì bỏ lỡ thời cơ. Đó là trách nhiệm của ngài.”
“Tất nhiên rồi,” Roran nói, cổ họng bỏng rát vì đau. “Cũng như ông phải chịu trách nhiệm vì những tổn thất ông đã gây cho cuộc vây thành lần này.”
Mắt Brigman tối lại và Roran có thể thấy ông tướng đã chuyển từ không thích anh sang thù ghét. Anh ước gì anh đã phản ứng nhã nhặn hơn.
“Lều của ngài ở đằng này.”
Sáng hôm sau Roran tỉnh giấc.
Ánh sáng mờ mờ chiếu vào lều khiến anh lên tinh thần. Trong một lúc, anh nghĩ anh chỉ ngủ có vài phút. Nhưng rồi anh nhận ra đầu óc anh đã sáng suốt và tỉnh táo hơn nhiều.
Anh tự rủa thầm, tức giận vì để lỡ cả ngày.
Anh đắp một tấm chăn mỏng, thực sự không cần thiết cho thời tiết phương nam dễ chịu, đặc biệt là khi anh vẫn đeo giầy và mặc quần áo. Anh bỏ chăn sang bên rồi ngồi thẳng dậy.
Anh rên lên một tiếng vì toàn bộ cơ thể anh như căng cứng và gẫy vụn. Anh nằm xuống thở hổn hển. Cú choáng ban đầu nhanh chóng tan đi chỉ để lại những cơn đau ê ẩm.
Anh mất vài phút mới tập trung toàn bộ sức lực lăn sang một bên và bỏ chân xuống võng. Anh dừng lại thở trước khi cố sức đứng lên.
Khi đã đứng được lên anh cười chua sót. Hôm nay sẽ là một ngày thú vị đây.
Khi anh ra khỏi lều những người khác đã dậy và đang đứng đợi anh. Trông họ tơi tả và thảm hại: họ cử động cà nhắc như anh. Sau khi chào hỏi, Roran chỉ về tấm vải băng cánh tay Delwin, băng vết thương một người chủ quán rượu chém vào. “Đỡ đau chưa?”
Delwin nhún vai. “Không tệ lắm. Nếu cần tôi vẫn đấm đá được.”
“Tốt.”
“Anh định làm gì tiếp theo đây?” Carn hỏi.
Roran nhìn mặt trời đang mọc, tính toán còn bao lâu sẽ tới trưa. “Đi bộ chút đã,” anh nói.
Roran dẫn những người bạn đồng hành đi từ trung tâm khu trại dọc ngang các dãy lều, xem xét tình hình quân binh cũng như quân dụng. Thi thoảng, anh dừng lại hỏi han một binh sĩ trước khi đi tiếp. Hầu như các chiến binh đều mệt mỏi và nản lòng, dù anh để ý thấy tinh thần có có phấn chấn đôi chút khi nhìn thấy anh.
Cuộc đi dạo của Roran kết thúc ở góc phía nam trại như anh đã dự định từ đầu. Anh và những người khác dừng lại nhìn về thành phố Aroughs.
Thành phố được chia thành hai khu. Khu thứ nhất thấp và trải dài gồm những tòa nhà quan trọng trong khi khu thứ hai, nhỏ hơn chủ yếu là những khu nhà cao, thiết kế trang nhã. Bức tường thành bao quanh cả hai khu. Từ ngoài nhìn vào có thể thấy rõ năm cổng thành: hai cổng lớn dẫn đường vào thành phố: một phía bắc và một phía đông – ba cổng còn lại nằm cạnh con kênh chảy từ phía nam vào thành phố. Ở bên kia Aroughs là con sống sóng vỗ rầm rì, nơi con kênh chảy ra.
Ít nhất họ không có tường hào, anh nghĩ.
Những vết thủng lỗ chỗ trên cổng bắc là vết tích của chiến tranh. Trên mặt đất cũng hằn những dấu vết của trận chiến. Anh nhận ra ba vết đạn từ máy bắn ta và bốn vết từ cẩu đá nhờ hồi thuộc đội Cánh Rồng, hai tòa tháp xiêu vẹo ở đằng sau tường thành. Vài binh sĩ đang ngồi chổm hỗm bên cạnh các cỗ máy chiến tranh hút thuốc hoặc chơi xúc xắc trên vài tấm da. Những cỗ máy có vẻ trông nhỏ bé tới tội nghiệp so với thành phố rộng lớn này.
Thành phố Aroughs thấp, bằng phẳng đổ thoai thoải ra biển. Hàng trăm trang trại điểm xuyết trên đồng bằng xanh rì, được đánh dấu bằng những hàng rào gỗ và ít nhất một túp lều lợp rạ. Những dinh thự xa hoa nằm đây đó: những trang viên xây bằng đá được bảo vệ bởi những bức tường cao và những người bảo vệ. Chắc chắn chúng là tài sản của giới quý tộc Aroughs và có thể là của những thương nhân làm ăn phát đạt.
“Anh nghĩ gì?” anh hỏi Carn.
Pháp sư lắc đầu, đôi mắt cụp của anh trông buồn hơn bình thường. “Chúng ta sẽ mất rất nhiều binh lính mới chiếm nổi thôi.”
“Chắc rồi,” Brigman nhận xét khi tiến tới chỗ họ.
Roran không nói ra những nhận xét của minhfl anh không muốn những người khác biết anh đang nản lòng vô cùng. Nasuada bị điên nếu tin rằng chúng ta có thể chiếm Aroughs chỉ với tám trăm binh lính. Nếu mình có tám ngàn quân cùng sự hỗ trợ của Eragon và Saphira thì còn có nhẽ. Nhưng đằng này...”
Nhưng anh biết anh phải tìm ra cách, vì tương lai của Katrina.
Roran không nhìn Brigman và nói. “Nói cho tôi nghe về Aroghs.”
Brigman xoay ngọn giáo vài lần, thân giáo xoay vài lỗ trên mặt đất, rồi nói. “Galbatorix đã tính toán từ trước; hắn đã cho dữ trữ lương thực đầy đủ trong thành phố trước khi chúng ta cắt đường chi viện từ đây với Triều đình. Ngài có thể thấy rằng họ không thiếu nguồn nước. Nếu chúng ta ngăn sông, họ còn có vài con suối và giếng trong thành phố. Họ có thể giữ thành cho tới mùa, thậm chí còn lâu hơn, dù tôi nghi họ không thể nào không ốm lên vì ăn củ cải suốt. Ngoài ra, Galbatorix còn điều số lượng lớn binh sĩ tới đây – gấp đôi số lượng quân của chúng ta – bổ sung cho binh sĩ trong thành.”
“Sao ông biết?”
“Nội gián. Nhưng cậu ta không biết về binh pháp nên đã cung cấp quá nhiều đánh giá chủ quan về những điểm yếu của Aroughs.”
“Ờ.”
“Cậu ta cũng đã khẳng định rằng cậu ta sẽ giúp đưa một lượng nhỏ quân chúng ta vào trong thành nhân lúc đêm tối.”
“Rồi?”
“Chúng tôi đã đợi nhưng cậu ta không xuất hiện và chúng tôi thấy cậu ta bị bêu đầu vào sáng hôm sau. Giờ vẫn còn treo ở cổng đông đó.”
“Thì ra là vậy. Ngoài năm cổng này ra còn cổng nào không?”
“Có ba cổng nữa. Ở gần bến cảng có một cổng dẫn nước lớn đủ cho ba dòng chảy đi vào cùng lúc và gần đó là một cổng trên đất liền cho người và ngựa. Ngoài ra còn một cổng trên đất liền ở đầu kia” – ông ta chỉ về phía tây thành phố - “giống những cổng khác.”
“Có thể bắn phá được cổng nào không.”
“Không nhanh được. Bờ biển quá hẹp khiến chúng tôi không thể bày bố quân hoặc tránh tên và đá của quân đội trong thành. Vì thế chúng tôi không thể tấn công các cổng gần biển cũng như là cổng tây. Vùng đất xung quanh thành bị chia cắt vì sông suối quá nhiều cho nên cũng khá nhỏ hẹp, vì vậy tôi đã quyết định tập trung mũi tấn công vào cổng gần nhất.”
“Cổng làm bằng gì?”
“Sắt và gỗ sồi. Chúng còn trụ vững hàng trăm năm nữa nếu không bị phá dỡ.”
“Chúng có được bảo vệ bởi phép thuật không?”
“Tôi không rõ vì tiểu thư Nasuada không gửi pháp sư cho chúng tôi. Halstead có...”
“Halstead?”
“Lãnh chúa Halstead của thành Aroughs. Chắc ngài từng nghe thấy rồi chứ.”
“Chưa.”
Một quãng im lặng ngắn khiến Roran có thể cảm nhận sự khinh miệt của Brigman dành cho anh đang lớn dần. Sau đó người đàn ông đó nói tiếp, “Halstead có riêng một pháp sư phục tùng: một kẻ xấu tính, da vàng vọt chúng tôi đã có dịp nhìn thấy trên tường thành cố hất ngã chúng tôi xuống bằng phép thuật. Hắn có vẻ không giỏi gì cho cam, trừ chuyện hắn đã thiêu cháy hai người tôi bố trí dùng gỗ phá cổng thành.”
Roran liếc mắt nhìn Carn – pháp sư tỏ ra lo lắng hơn trước – nhưng anh quyết định sẽ thảo luận vấn đề này với nhau sau.
“Công thành qua đường kênh có dễ hơn không?” anh hỏi.
“THế chúng ta sẽ đứng ở đâu? Thành phố kề sát kênh cơ mà. Hơn nữa đi qua lối đó khác nào đưa đầu có chúng giết, chúng có thể đổ dầu nóng, ném đá, hoặc bắn hỏa tiễn vào bất cứ tên ngu nào đi qua lối đó.”
“Cánh cổng không thể nào bịt kín được, phải có lối cho nước lưu thông chứ.”
“Đúng. Bên đưới có hàng lưới mắt cáo bằng gỗ và sắt để dòng chảy không quá mạnh.”
“Hiểu. Vậy là hầu hết thời gian, kể cả khi không bị tấn công, Aroughs đều hạ thấp cổng đúng không?”
“Đêm thì chắc, nhưng tôi tin ban ngày cổng đó sẽ mở.
“Ừm. Các bức tường xây từ gì?”
“Đá hoa cương, bề mặt cực kỳ trơn nhẵn và khít không thể lách nổi một lưỡi dao. Tôi đoán đây là tác phẩm của người lùn trước thời kỳ thoái trào của Kỵ sĩ Rồng. Tôi đoán lớp bên trong tường được trộn đá cuôi. Nhưng tôi không dám khẳng định vì chúng ta chưa làm xây sất nổi lớp vỏ ngoài. Chân tường sâu tới hơn 12 mét nên chúng ta sẽ không thể đào hầm để làm yếu móng tường hoặc đánh sập tường.”
Brigman bước thêm một bước và chỉ về những thái ấp ở phía nam và phía tây. “Hầu hết giới quý tộc đều lui vào Aroughs để lại tùy tùng bảo vệ tài sản. Họ gây rắc rối cho chúng ta, tấn công quân trinh sát, trộm ngựa...Chúng ta đã chiếm được hai thái ấp...” – ông ta chỉ hai kho thóc lớn đang cháy cách đó vài dăm – “nhưng giữ lại chúng còn phiền hơn vì thế chúng tôi đã đốt bỏ. Không may, chúng tôi không có đủ người để bảo vệ phần còn lại.”
Baldor nói. “Vì sao các kênh lại chạy vào Aroughs nhỉ? Hình như họ không dùng nó làm hệ thống mương tưới tiêu thì phải.”
“Ở vùng này không cần tưới nước như người miền bắc không cần xe trượt tuyết trong mùa đông vậy.”
“Thế mục đích là gì?” Roran thắc mắc. “Nguồn nước bắt đầu từ đâu? Ông đừng mong tôi tin nhưng con kênh này rẽ nhánh từ sông Jiet nhé, quá xa.”
“Không,” Brigman chế giễu. “Có một số hồ nước ở mạn bắc. Nước lợ và bẩn nhưng dân ở đây quen rồi. Một con sông bắt nguồn từ đó, chia làm ba nhánh sông nhỏ chảy tới đây vào các đập tạo năng lượng giúp xay bột cung ứng cho thành phố. Nông dân chở lúa mỳ tới các khu xay sát vào vụ mùa rồi chất các thúng bột lên sà lan chở vào thành phố. Dân cư ở đây cùng lợi dụng đường sông để chuyên chở hàng hóa như gỗ xẻ và rượu từ các trang ấp vào thành phố.”
Roran gãi gãi cổ khi tiếp tục quan sát Aroughs. Những gì Brigman vừa nói đã khiến anh nảy ra một ý nhưng chưa rõ nó có khả thi không. “Còn điểm gì đặc biệt ở khu ngoại vi không?”
“Đi dọc bờ biển về phương nam có một mỏ đá phiến.”
Anh gầm gừ trong khi suy ngẫm. “Tôi muốn tới xem khu xay sát,” anh nói. “Nhưng trước hết tôi muốn nghe toàn bộ tình hình từ ông.”
“Mời đi theo tôi thưa Cây búa Dũng mãnh.”
Trong cả một tiếng đồng hồ sau đó Roran thảo luận với Roran và hai phó tướng, nghe và hỏi về những lần công thành hay biết mỗi binh lính còn bao nhiêu lương thực.
Ít ra chúng ta không thiếu vũ khí, Roran nghĩ khi biết số tử sĩ. Kể cả nếu Nasuada không giới hạn thời gian nhiệm vụ cho anh thì người và ngựa cũng không có đủ lương thực mà sống trong hơn một tuần nữa.
Rất nhiều sự kiện và con số Brigman và các phó tướng đề cập tới được viết trên giấy. Roran không nói ra chuyện mình không thể đọc nổi những con chữ đen đen loằng ngoằng nên buộc những người kia đọc lên cho nghe. Dù vậy anh cũng tức vì phụ thuộc vào người khác. Nasuada nói đúng, mình phải học đọc vì nếu không mình không thể biết người kia có nói dối mình không khi đọc gì đó cho mình... Có lẽ khi về Varden Carn có thể dạy mình.
Roran càng biết nhiều về Aroughs, anh càng thấy thông cảm cho những khó khăn của Brigman; vô phương chiếm thành. Dù anh không thích người đàn ông này nhưng anh nghĩ vị tướng đã làm hết sức có thể. Roran tin ông ấy thất bại không phải vì không đủ năng lực mà vì ông ấy thiếu hai yếu tố hết lần này tới lần khác mang lại thắng lợi cho Roran: sự liều lĩnh và óc tưởng tượng.
Sau khi xem xét tình hình xong, Roran và năm người đồng hành cùng Brigman đi quan sát tường thành Aroughs ở khoảng cách gần hơn nhưng đủ xa để giữ an toàn. Lên lưng ngựa lần nữa lại khiến Roran đau nhưng anh không hề kêu lấy một tiếng.
Khi móng ngựa nện lên con đường rải đá đi tới thành phố ở gần khu trại, Roran để ý thi thoảng móng ngựa tạo ra những âm thanh khác thường. Anh nhớ đã nghe thấy âm thanh quen thuộc này trong ngày cuối chuyến đi.
Anh nhìn xuống và thấy những phiến đá phẳng hình như có màu bạc mờ, những mạch đá hình thành nên họa tiết hình mạng nhện khác thường.
Roran gọi lớn hỏi Brigman nhưng Brigman chỉ bảo “Vữa chất lượng kém nên họ dùng chì để trát đá.”
Lúc đầu Roran không tin nhưng Brigman rất nghiêm túc. Anh thấy ngạc nhiên vì người ở đây lại coi kim loại bình thường tới mức dùng để làm đường.
Họ cẩn trọng quan sát hàng phòng thủ của Aroughs nhưng chẳng phát hiện ra điều gì mới và càng khiến Roran tin vào chuyện không thể chiếm nổi thành phố.
Anh đi ngựa tới gần Carn. Pháp sư đang nhìn Aroughs vẻ thẫn thờ, môi chuyển động không thành tiếng như thể nói chuyện một mình. Roran đợi tới khi anh dừng lại mới hỏi, “Cổng thành có phủ phép thuật không?”
“Tôi nghĩ là có,” Carn trả lời. “nhưng tôi không chắc có bao nhiêu câu thần chú trên đó và dụng ý của từng cái là gì. Tôi cần thêm thời gian mới biết được.”
“Sao lại khó thế?”
“Không hẳn. Hầu hết các câu thần chú đều dễ phát hiện, trừ khi có ai cố giấu chúng. Nhưng kể cả thế, pháp thuật thường để lại những dấu vết nếu anh biết cách nhìn. Tôi chỉ sợ họ dùng thần chú này để khởi động thần chú khác, và nếu tôi tiếp cận chúng thì ai biết chuyện gì sẽ xảy ra? Tôi có thể biến thành một vũng nước ngay trước mắt anh. Nếu có thể tôi sẽ tránh cái đinh mệnh đó.”
“Anh có muốn ở lại khi chúng tôi đi tiếp không?”
Carn lắc đầu. “Tôi không nghĩ nên để các anh đi mà không có sự bảo vệ. Tôi sẽ trở lạ sau khi mặt trời lặn và xem tôi có thể làm gì. Ngoài ra ở gần cổng thành sẽ giúp tôi hiểu mấy câu thần chú đó, nhưng giờ tôi không dám tới gần cổng thành khi mấy tay lính canh nhìn thấy tôi rõ rành rành thế này.”
“Được thôi.”
Khi Roran hài lòng rằng họ đã biết mọi thứ về thành phố, anh để Brigman dẫn tới khu xay sát gần nhất.
Khá giống những gì Brigman miêu tả. Nước từ kênh được dẫn tới những đập cao 20m. Ở chân đập có một guồng nước có gắn mấy cái thùng. Nước chảy vào thùng làm guồng quay tròn. Các guồng nước được nối vào ba tòa nhà giống y hệt nhau. Trong các tòa nhà là các cối đá cỡ lớn dùng để xay bột cung cấp đủ cho dân cư Aroughs.
Anh xuống ngựa ngay khi tới khu xay sát ở vị trí thấp nhất và đi men theo con đường giữa các tòa nhà, mắt nhìn kênh dẫn nước làm nhiệm vụ kiểm soát lượng nước lưu thông vào các con đập. Cửa kênh mở nhưng mực nước trong đập vẫn thấp hơn ba guồng nước đã từ từ chuyển động.
Anh dừng ở giữa đoạn đường thoai thoải, chôn chân trên bờ kênh ẩm ướt đầy cỏ, khoanh hai tay lại và cúi đầu chạm ngực khi suy tính cách chiếm thành. Anh tin mình sẽ có cách hoặc chiến thuật gì đó để lẻn vào thành, nhưng cách nào thì anh chưa rõ.
Nghĩ mãi tới mệt, anh dừng lại lắng nghe tiếng trục xoay cọt kẹt và tiếng thác nước đổ ầm ầm.
Những âm thanh đó êm ả nhưng lại gợi lên cho anh vết thương lòng. Anh nhớ tới xưởng xay bột của chú Dempton ở Therinsford nơi anh đã tới làm vào ngày tụi Ra’zac đốt nhà và tra tấn cha anh tới chết.
Roran cố quên ký ức không vui đó đi nhưng nó vẫn ở đó, vẫn làm anh đau quặn từng cơn.
Giá mình đi muộn vài giờ, mình đã có thể cứu cha rồi. Ngay lúc đó, phần thực tế trong con người Roran trả lời, Đúng, và Ra’zac có thể giết mình trước khi mình kịp giơ tay. Không có Eragon bảo vệ, mình chỉ như một đứa nhỏ sơ sinh, không hơn.
Baldor lặng lẽ bước tới gần anh. “Những người còn lại đang muốn biết anh đã có kế gì chưa?” anh ta hỏi.
“Tôi có vài ý tưởng nhưng chưa có kế hoạch. Anh sao?”
Baldor cũng khoanh tay lại. “Chúng ta có thể đợi Nasuada cho Eragon và Saphira tới giúp.”
“Xì.”
Trong một lúc lâu họ lẳng lặng nhìn dòng nước chảy lững lờ bên dươi. Sau đó Baldor nói, “Nếu anh yêu cầu chúng đầu hàng thì sao? Có thể chúng sẽ sợ hãi khi nghe tên anh, chúng sẽ tử mình mở cổng, quỳ dưới chân anh và xin anh tha chết.”
Roran tặc tặc lưỡi. “Tôi không nghĩ tên tuổi tôi có thể lan tới tận Aroughs này. Nhưng,” Anh gãi gãi râu. “Có lẽ cũng nên thử, để cho chúng hoang mang chút thôi.”
“Kể cả khi chúng ta mở được cổng thành thì sao chiến thắng được với số quân ít ỏi thế này?”
“Có thể thắng có thể thua.”
Họ lặng yên rồi Baldor lên tiếng, “Chúng ta đã đi một quãng đường rất dài.”
“Đúng.”
Lại một lần nữa không gian chỉ vang lên tiếng nước chảy và tiếng guồng quay. Cuối cùng vẫn là Baldor mở lời, “Chắc hẳn ở đây tuyết rơi không nhiều. Vì thế lượng nước do băng tan không lớn như ở quê hương chúng ta. Nếu không, vào lúc lập xuân, guồng sẽ ngập một nửa mất.”
Roran lắc đầu. “Chuyện lượng mưa hay lượng tuyết rơi nhiều hay ít không quan trọng. Cửa đập sẽ khống chế lượng nước chảy vào các guồng quay để đảm bảo tốc độ cho chúng.”
“Nhưng nếu nước dâng lên ngang cửa thì sao?”
“Hy vọng là không có ngày đó. Nếu không, anh buộc phải kéo xích mở cửa đập và thế là....” Roran nghĩ tới một loạt những hình ảnh, người anh thấy nóng lên như thể anh vừa nốc một hơi hết cả vại rượu mật ong.
Được không? Anh nghĩ. Liệu có thành công không... hay... Không sao, chúng ta phải thử. Chúng ta còn làm được gì nữa?”
Anh bước đi trên con đường hẹp trước cái đập ở giữa, kéo những thanh gỗ nhỏ chèn lên trục điều khiển cửa đập. Thanh điều khiển khá khó di chuyển dù anh chèn vai đẩy bằng hết sức.
“Giúp tôi đi,” Anh nói với Baldor đang đứng trên bờ kênh quan sát với vẻ hứng thú pha chút bối rối.
Baldor cẩn thận đi tới chỗ Roran đứng. Họ cùng nhau đóng cửa đập lại. Sau đó, Roran không chịu trả lời câu hỏi nào mà tiếp tục đóng nốt hai cửa đập còn lại.
Sau khi đã đóng chặt cả ba, Roran đi lại chỗ Carn, Brigman và những người khác rồi ra hiệu cho họ xuống ngựa ra chỗ anh. Anh vỗ lên đầu búa trong khi chờ đợi, đột nhiên cảm thấy mất kiên nhẫn.
“Sao?” Brigman hỏi sau khi họ đã tới nơi.
Roran nhìn từng người một để đảm bảo họ hoàn toàn chú ý tới anh rồi nói. “Phải rồi, đây là điều chúng ta sẽ làm...” – sau đó anh bắt đầu nói, nhanh và căng thẳng trong suốt nửa tiếng đồng hồ, giải thích từng điều anh nghĩ tới trong khoảng khắc thoáng qua đó. Khi anh nói, mọi người nghiêm túc hơn, nhưng Mandel đã bắt đầu nhoẻn cười, Baldor, Delwin và Hamund cũng có vẻ hứng thú với kế hoach táo bạo của anh.
Phản ứng của họ khiến Roran hài lòng. Anh đã làm nhiều chuyện để có được sự tín nhiệm từ họ và anh vui vì anh vẫn có thể tin tưởng họ. Trong đời, anh sợ nhất là mất Katrina, sau là làm những người chiến hữu thất vọng.
Nhưng có vẻ Carn còn hoài nghi. Điều này thì Roran đã đoán được nhưng anh chỉ không ngờ nỗi nghi ngờ này có khi ngang bằng với Brigman.
“Anh điên rồi,” ông ta hét lên khi Roran vừa nói xong. “Không thể nào thành công được.”
“Ông rút lại lời nói đó đi!” Mandel nói và nhảy lên phía trước, tay nắm thành quyền. “Vì sao à, Roran đã thắng nhiều trận chiến hơn ông, và anh ấy đâu cần nhiều quân lính như ông!”
Brigman rít lên, môi trên cong lên như một con rắn. “Đồ mất dạy! Tao sẽ dạy cho mày một bài học không thể nào quên!”
Roran đẩy Mandel lùi lại trước khi cậu trai trẻ tấn công Brigman. “Thôi nào!” Roran gầm lên. “Hai người xem lại cách hành xử đi!” Mandel cáu kỉnh ngừng lại nhưng vẫn nhìn Brigman trừng trừng. Brigman cũng hành động tương tự.
“Chắc chắn đây là một kế hoạch lạ lùng,” Delwin nói. “Nhưng những kế hoach kỳ lạ của anh đã giúp chúng ta chiến thắng trong quá khứ.” Những người làng Carvahall khác lên tiếng đồng tình.
Carn gật đầu nói. “Kế hoach có thể thành công có thể không. Tôi không chắc. Nhưng chắc chắn nó sẽ khiến kẻ thù của chúng ta ngạc nhiên và tôi phải thừa nhận rằng tôi tò mò muốn thấy chuyện gì sẽ xảy ra. Đây là việc vô tiền khoáng hậu.”
Roran cười rạng rỡ. Anh nhìn Brigman và nói, “Giờ chúng ta cần phải điện. Chúng ta chỉ có hai ngày rưỡi để chiếm Aroughs. Những biện pháp thông thường không có hiệu quả vậy chúng ta phải mạo hiểm bằng những kế hoạch bất bình thường.”
“Có thể thế,” Brigman nói nhỏ. “Nhưng đây là một kế hoạch liều lĩnh khiến chúng ta tổn thất binh sĩ và tôi không thể nào đồng tình.”
Nụ cười của Roran rộng hơn khi anh tiến tới chỉ cách Brigman vài centimet. “Ông không cần phải đồng ý với tôi; ông chỉ cần làm theo lệnh thôi. Giờ ông có nghe theo lệnh của tôi hay không?”
Không khí giữa họ nóng lên do hơi thở và nhiệt độ từ da thịt họ. Brigman nghiến răng và xoắn cây giáo mạnh hơn trước, nhưng ánh mắt dao động và ông ta lùi lại. “Quỷ tha ma bắt anh đi,” ông ta nói. “Tôi sẽ làm chó cho anh trong lúc này, Cây búa dũng mãnh ạ, nhưng anh cứ xem đi,anh sẽ phải trả giá cho quyết định của anh sớm thôi.”
Miễn là chúng ta chiếm được Aroughs, Rora nghĩ, tôi chẳng cần quan tâm. “Lên ngựa!” anh ra lệnh. “Chúng ta có việc cần làm và còn quá ít thời gian! Nhanh lên! Nhanh lên! Nhanh lên!”
‹ 15. NGHE NGÓNG VÀ VIẾT LÁCH
lên
17. DRAS- LEONA
Khi Eragon từ trên lưng Saphira nhìn thấy núi Helgrind ở chân trời phía bắc thì mặt trời đã lặn. Nó cảm thấy ghê tởm khi chiêm ngưỡng ngọn núi đã phóng vút lên từ mặt đất như một chiếc răng nhọn. Hầu hết các ký ức không vui của nó đều gắn liên với núi Helgrind. Nó ước có thể san bằng ngọn núi. Saphira có vẻ bàng quan với ngọn núi đen thẫm này hơn nhưng nó biết cô em nó cũng chẳng thích thú lởn vởn gần tý nào.
Khi đêm xuống, Helgrind đã khuất sau lưng chúng, trong khi Dras – Leona đã xuất hiện trước mặt, bên cạnh hồ Leona với hàng tá tàu thuyền cập bến. Thành phố rộng lớn vẫn san sát nhà cửa và không hiếu khách như trong trí nhớ của Eragon. Những con đường vẫn nhỏ hẹp, những căn nhà dơ dáy vẫn nằm sát những bức tường đắp bằng đất sét vàng bao quanh thành phố và đằng sau bức tường, nhà thờ lớn của Dras- Leona vươn lên den kịt. Đó là nơi những tu sĩ Helgrind tiến hành những nghi lễ man rợ.
Một dòng người tị nạn kéo nhau đi trên con đường phía bắc – họ chạy trốn khỏi thành phố sắp bị chiếm đóng tới Teirm hoặc Urû’baen, nơi ít nhất họ tạm thời tránh được sự xâm lăng của quân Varden.
Ngay từ lần đầu đặt chân tới Dras – Leona, Eragon đã cảm thấy sự xấu xa hiện diện trong thành phố, không như ở Feinster hay Belatona. Nó muốn dùng lửa và kiếm thiêu trụi phá hủy tất cả những nguồn năng lượng đen tối, bất thường nơi đây, muốn hưởng thú chuyện chém giết về để lại sau lưng không gì ngoài khỏi bụi và máu. Nó có chút đồng cảm với những người nghèo khổ, tàn tật và nô lệ bị giam hãm trong Dras – Leona. Nhưng nó hoàn toàn tin rằng thành phố cần hủy diệt và xây dựng lại nó không dính dáng gì tới giáo phái Helgrind mới là điều tốt nhất cho dân cư nơi đây.
Khi tưởng tượng ra cảnh nó cùng Saphira phá sập nhà thờ, nó bỗng phân vân không hiểu tôn giáo với những thầy tu tự hành xác này có một cái tên không. Tìm hiểu ngôn ngữ cổ đã dạy cho nó phải tôn trọng tầm quan trọng của những cái tên – tên ẩn chứa sức mạnh, tri thức – nếu nó không thực sự biết tên của tôn giáo Helgrind, nó sẽ không hoàn toàn hủy diệt nổi nó.
Trong ánh sáng vàng vọt, quân Varden cắm trại trên những cánh đồng đã canh tác ở bình nguyên phía đông nam Dras – Leona. Với vị thế này họ sẽ dễ dàng biết khi quân địch tấn công. NHững binh lính đã mệt mỏi sau cuộc hành trình dài nhưng Nasuada buộc họ phải tiếp tục cắm trại cũng như lắp ráp những công cụ phục vụ chiến tranh mà họ đang mang theo trong suốt hành trình từ Surda.
Eragon vui vẻ làm việc. Lúc đầu nó cùng một nhóm người đi san phẳng cánh đồng lúa mỳ và lúa mạch bằng những tấm ván ghép với nhau nhờ những dây thòng lọng dài. Cắt lúa bằng liềm hay pháp thuật có thể nhanh hơn nhưng những gốc rạ để lại sẽ gây nguy hiểm và khó chịu cho việc đi lại và đặc biệt là chuyện nghỉ ngơi. Vì vậy, những tấm ván ghép sẽ tạo nên một mặt phẳng mềm, đàn hồi như nệm và dù dù sao thà nằm trên ván ghép còn sướng hơn vạn lần nằm trên đất.
Eragon cùng làm việc với những binh sĩ khác trong khoảng một tiếng thì dọn đủ không gian cắm trại cho quân Varden.
Sau đó nó đi giúp mọi người dựng chòi canh. Sức mạnh phi thường của nó giúp nó di chuyển những xà rầm mà thường phải vài người mới làm nổi; như vậy tiến độ được đẩy nhanh hơn. Vài người lùn trong Varden đứng giám sát vì họ chính là tác giả thiết kế tháp canh.
Saphira cũng giúp. Cô nàng dùng răng và móng vuốt đào hào trong lòng đất và chất đất thành từng đống quanh khu trại chỉ trong vài phút trong khi cả trăm người phải lao động cả ngày. Và nhờ lửa và đuôi cô nàng đốn cây, dọn gọn các hàng rào, tường bao, nhà cửa và mọi thứ chung quanh khu trại Varden có thể bị kẻ thù lợi dụng. Làm bất cứ việc gì cô nàng cũng thể hiện bản thân là một tạo vật có sức hủy diệt ghê gớm đủ làm những con người dũng cảm nhất phải khiếp sợ.
Đến tôi muộn khi quân Varden mới dọn dẹp xong, Nasuada ra lệnh cho binh sĩ, người lùn và Urgal đi nghỉ.
Eragon chui vào lều ngồi thiền cho tới khi đầu óc thảnh thơi. Đó đã trở thành một thói quen với nó. Sau đó thay vì luyện thư pháp, nó dùng vài tiếng ôn lại những câu thần chú có thể cần trong những ngày tiếp theo cũng như tạo ra những câu chú mới khiến Dras – Leona thất điên bát đảo.
Khi nó cảm thấy đã sẵn sàng của trận chiến, nó lên giường đi ngủ, mơ những giấc mơ kỳ lạ và hưng phấn hơn thường lệ, vì dù đã thiền nhưng trận chiến sắp tới khiến máu nó sôi oleen và không cho phép nó nghỉ ngơi. Như tường lệ, đối với nó chuyện chờ đợi trong mòn mỏi luôn là phần khó khăn nhất. Nó ước gì mình đang ở giữa tiền tuyến nơi nó không có thời gian lo xem chuyện gì sẽ xảy ra.
Saphira cũng không nghỉ nổi. Eragon đọc được những giấc mơ toàn là cắn xé của cô nàng. Thế là nó hiểu cô em nó mong tới trận chiến thế nào. Cảm xúc của cô rồng có ảnh hưởng nhất định tới nó, nhưng nó không thể nào hoàn toàn quên được nỗi sợ trong lòng.
Bình minh ngày mới tới rất nhanh và quân Varden đã dàn quân trước Dras – Leona. Cảnh tưởng vô cùng hùng vĩ nhưng sự ngưỡng mộ của Eragon bị giảm đi khi nó nhìn thấy những lưỡi kiếm cùn, mũ trụ móp và khiên mẻ của binh lính cũng như những áo trấn thủ và áo giáp chỉ sửa lại sơ sài. Nếu họ thành công chiếm Dras – Leona, họ sẽ có thể thay một số đồ đạc – như từng làm ở Belatona và Feinster – làm sao bổ sung thêm lực lượng được.
TRận chiến ở đây càng kéo dài, nó nói với Saphira, Galbatorix càng dễ đánh bại chúng ta khi chúng ta tới được Urû’baen.
Vậy chúng ta không được phép chậm trễ, cô nàng trả lời.
Eragon ngồi trên lưng Saphira, cạnh Nasuada lúc này đã mặc áo giáp và yên vị trên con ngựa đen – Thần sấm. Bảo vệ cho Eragon là mười hai tiên nhân còn theo sát Nasuada là mười hai người trong đội cận vệ Chim Ưng Đen – con số này đã tăng thêm sáu trong thời gian tham chiến. Những tiên nhân đứng – vì họ không đồng ý cưỡi lên những con ngựa không phải tự tay họ huấn luyện – trong khi tất cả các Chim Ưng Đen đều ngồi trên ngựa, kể cả Urgal. Cách đó mười mét về bên phải là vua Orrin và những binh lính do ông đích thân lựa chọn. Narheim, chỉ huy người lùn và Garzhvog đều đứng đúng vị trí cánh quân mình chỉ huy.
Sau khi gật đầu với nhau, Nasuada và Vua Orrin thúc ngựa tiến lên phía trước, vượt khỏi toàn binh Varden. Eragon dùng tay trái nắm chặt lấy ngọn giáo trước mặt khi Saphira đi theo hai người.
Nasuada và vua Orrin dừng lại trước khi vượt qua những tòa nhà xiêu vẹo. Họ thấy hai người đưa tin – một mặc đồ của Varden, một của Surda – đang trên con đường hẹp qua mê cung những căn nhà ổ chuột dẫn tới cổng nam Dras – Leona.
Eragon nhíu mày khi quan sát hai người. Thành phố dường như trống trải và im lặng một cách bất thường. Trong Dras – Leona không có lấy một bóng người, kể cả trên tường thành nơi đáng ra hàng trăm lính của Galbatorix phải đứng gác.
Không khí có mùi không hay, Saphira nói và gầm nho nhỏ thu hút sự chú ý của Nasuada.
Ở chân tường, người đưa tin của quân Varden nói lớn đến mức Eragon và Saphira từ đằng xa còn nghe rõ, “Này! Nhân danh tiểu thư Nasuada của Varden và Vua Orrin của Surda cũng như tất cả những con người tự do của Alagaësia, chúng tôi yêu cầu các người mở cửa để đưa tin tới cho các lãnh chúa và chủ nhân của các người, ngài Marcus Tábor. Như vậy, ông ấy sẽ cứu sống rất nhiều, rất nhiều đàn ông, phụ nữ và trẻ nhỏ trong Dras – Leona.
Từ đằng sau tường thành, một người không lộ mặt đáp lại: “Chúng tôi không mở. Đứng đó chuyển lời đi.”
“Anh đại diện cho lãnh chúa Tábor?”
“Đúng.”
“Vậy chúng tôi nên nhắc anh nhớ rằng những cuộc thảo luận của các chính khách nên diễn ra trong một căn phòng riêng tư hơn là nói ở nơi ai cũng có thể nghe được.”
“Tôi không phải nghe lệnh ngươi, đồ đầy tớ! Truyền thông điệp – nhanh! Không tôi mà mất kiên nhẫn thì ngươi sẽ thành nhím đó.”
Eragon bị ấn tượng: người đưa tin không hề hoang mang hay sợ hãi vì lời đe dọa. Anh ta vẫn tiếp tục không hề chần chừ: “Được thôi. Chỉ huy của chúng tôi mong nói chuyện với Lãnh chúa Tábor và tất cả dân thành Dras - Leona trong hòa bình và thân ái. Chúng tôi không có thù oán gì với các người, chỉ có Galbatorix và nếu được lựa chọn chúng tôi sẽ không đụng binh đao với các người. Không phải chúng ta đều là đồng bào ư? Rất người trong chúng tôi từng sống trong Đế chế, và chúng tôi rời đi chỉ vì ách thống trị hà khắc của Galbatorix. Chúng ta là đồng bào với nhau. Hãy gia nhập cùng chúng tôi và chúng ta sẽ cùng nhau giải phóng bản thân khỏi tên bạo chúa đang tại vị tại Urû’baen.
Nếu các người đồng ý, chúng tôi sẽ đảm bảo sự an toàn cho Lãnh chúa Tábor và gia đình ông ta cũng như những ai còn đang phục vụ Đế chế, mặc dù những ai đã thề lời hứa không thể phá vỡ với Galbatorix không thể giữ vị trí như cũ. Và nếu như vì lời thề mà các người không thể giúp chúng ta, ít nhất đừng cản trở chúng tôi. Mở cổng, hạ vũ khí và chúng tôi thề các người sẽ không bị tổn hại. Nhưng nếu cố ngăn chặn chúng tôi, chúng tôi giết các người chẳng khác gì cỏ dại, vì không ai có thể chịu nổi sự tấn công của quân đội chúng tôi, hay Khắc tinh tà thần Eragon và rồng Saphira.”
Khi nghe thấy tên mình, Saphira ngửng đầu gầm lớn.
Từ trên cổng thành, Eragon thấy một người cao lớn, mặc áo choàng bước lên thành, đứng giữa hai đoạn thành lũy chìa ra, ánh mắt liếc qua những người đưa tin và nhắm thẳng tới Saphira. Eragon nhíu mắt nhưng không thể nhìn ra khuôn mặt người kia. Bốn người mặc áo choàng đen khác bước tới và Eragon nhận ra họ là thầy tu Helgrind vì hình dáng dị dạng của chúng: một tên mất một cánh tay, hai tên mất một chân và tên cuối cùng mất cả một tay một chân và phải nhờ đồng đạo trợ giúp.
Người mặc áo choàng ngửa mặt len và cười man dại. Bên dưới hắn, người đưa tin cố lắm mới kiểm soát nổi ngựa khi chúng cứ cố lùi lại.
Bụng Eragon chùng xuống và nó nắm lấy cán thanh Brisingr chuẩn bị rút kiếm khi có biến.
“Không ai có thể sống khi vó ngựa các ngươi đi qua?” gã nói giọng vang đập vào các tòa nhà. “Tôi nghĩ các người đang đánh giá bản thân quá cao rồi đó.” Từ đằng sau, con rồng đỏ Thorn bay lên từ dưới một mái nhà, làm vỡ toang mái nhà gỗ bằng móng vuốt của nó. Con rồng xòe rộng đôi cánh khổng lồ, có móng vuốt ở đầu cánh, há mồm đỏ thẫm và khè ra lửa.
Murtagh – Eragon nhận ra hắn chín là Murtagh – nói bằng giọng chế giễu, “Cứ thử trèo lên thành xem; các người sẽ không bao giờ chiếm được Dras – Leona miễn là Thorn và ta còn ở đây. Hãy gửi tới những chiến binh và pháp sư giỏi nhất, và họ sẽ chết, từng người, từng người một. Ta thề đó. Không ai trong số các người giỏi hơn ta. Kể cả ngươi...Em trai. Hãy trốn đi trước khi quá muộn và cầu nguyện rằng Galbatorix sẽ không tự ra tay với ngươi. Nếu không, phần thưởng của ngươi chỉ có thể là cái chết và sự đau đớn mà thôi.
‹ 16. AROUGHS
lên
18. TUNG XƯƠNG ›
“Thưa ngài! Cổng mở rồi ạ!”
Roran ngẩng đầu lên từ tấm bản đồ anh đang nghiên cứu, nhìn người người lính gác chạy vào lều, mặt đỏ ửng và đồ mồ hôi.
“Cổng nào?” Roran hỏi với sự bình tĩnh chết người. “Nói rõ đi.” Anh đặt thước dây sang bên cạnh.
“Cổng gần nhất, thưa ngài... trên đường, không phải trên kênh.”
Roran rút búa ra khỏi thắt lưng, rời khỏi trại và chạy về phía nam khu trại. Anh đứng đó quan sát Aroughs. Anh nản lòng nhìn hàng trăm kỵ binh ùa ra từ trong thành phố, cờ hiệu tung bay trong gió trước khi cánh cổng đen xì khép lại.
Họ sẽ chém chúng ta thành từng mảnh mất, Roran tuyệt vọng nghĩ. Chỉ có một trăm năm mươi người còn trong trại, trong đó rất nhiều người bị thương không có khả năng chiến đấu. Phần còn lại vẫn còn ở khu xay sát anh tới thăm ngày hôm trước hoặc ở mỏ khai thác đá dọc bờ biển, hoặc trên bờ sông chính tây tìm những xà lan mà họ cần nếu muốn kế hoạch thành công. Giờ anh không kịp gọi viện binh về chống trả những kỵ binh này.
Khi ra lệnh cho binh lính làm nhiệm vụ, Roran đã hiểu anh đang khiến khu trại yếu ớt trước sức tấn công trực diện của kẻ thù. Nhưng, anh đã hy vọng dân cư trong thành vẫn còn hoang mang vì những cuộc tập kích gần đây nên không dám làm gì mạo hiểm – và những những chiến binh anh giữ lại có thể khiến những kẻ quan sát từ xa nghĩ lực lượng chính vẫn còn trong trại.
Giả thuyết đầu tiên dường như đã sai. Dù những binh lính trong Aroughs có nghe tới tên anh không, nhưng anh nghĩ cho một số lượng kị binh ít ỏi dàn quân trước thành phố chỉ là một đòn thăm dò. Nếu quân đội hoặc tướng sĩ của họ đã từng nếm mùi lợi hại của đội quân Roran chỉ huy, anh nghĩ họ sẽ cho một đội quân động gấp đôi ra. Nhưng giờ, anh phải nghĩ ra cách chống trả đòn tấn công và cứu binh lính khỏi cuộc tàn sát.
Baldor, Carn và Brigman chạy tới với vũ khí trong tay. Carn vội vàng mặc áo giáp thì Baldor nói, “Chúng ta sẽ làm gì?”
“Chúng ta không thể làm gì,” Brigman nói. “Chúng ta xong đời chỉ vì sự ngu ngốc của anh đó, Cây Búa Dũng Mãnh. Chúng ta phải tẩu tán – ngay bây giờ - trước khi những tên kị binh đáng nguyền rủa kia dày xéo lên chúng ta.”
Roran vỗ mặt đất. “Rút lui ư? CHúng ta sẽ không rút lui. Binh lính của chúng ta không thể chạy trốn nổi, và cứ cho là có thể đi, tôi cũng không bỏ lại những người bị thương.”
“Anh không hiểu sao? Chúng ta thua rồi. Nếu chúng ta ở lại, chúng ta sẽ bị giết – hoặc tệ hơn, bắt làm tù binh!”
“Thôi nào, Brigman! Tôi không định quay đuôi bỏ chạy đâu!”
“Sao lại không? Vậy là anh không chịu thừa nhận thất bại? VÌ anh mong sẽ vớt vat danh dự từ trận chiến vô vọng cuối cùng hả? Có phải không? Anh không thể anh đang gây cho Varden tổn thất nghiêm trọng hơn à?”
Những kỵ binh giơ cao thanh kiếm và giáo lên quá đầu và – với một tràng gào rú, la thét có thể nghe rõ từ khoảng cách rất xa – họ thúc ngựa và bắt đầu lao tới như sấm rung chớp giật về phía khu đóng trại của Varden.
Brigman tiếp tục bài đả kích, “Tôi không để anh lãng phí mạng sống của chúng tôi để giành lấy lòng tự trọng cho anh. THích thì anh cứ việc ở lại, nhưng ...”
“Im!” Roran gầm lên. “Im mồm nếu không tôi khâu mồm ông lại đó! Baldor, trông chừng ông ta. Nếu ông ta làm bất cứ việc gì anh không thích, anh tự do chém giết.” Brigman căng người vì tức giận nhưng ông ta không dám nói gì vì Baldor đang giơ thanh kiếm nhắm vào ngực ông ta.
Roran đoán anh có chừng năm phút để quyết định hành động ra sao. Năm phút quá ngắn ngủi.
Anh cố tưởng tượng cảnh họ sẽ biết hoặc cầm chân kỵ binh thế nào, nhưng anh nghĩ thấy chuyện đó không có khả năng. Anh không tìm ra chỗ nào để đặt bẫy đoàn quân này. Mảnh đất quá bằng phẳng, trống trải cho bất cứ kế hoạch nào tương tự.
Chúng ta không thể thắng nếu chiến đấu, vậy – Vậy nếu chúng ta dọa được chúng thì sao? Nhưng bằng cách nào? Hỏa công? Hỏa công có thể là con dao hai lưỡi. Hơn nữa, cỏ còn ẩm ướt chỉ khiến lửa cháy âm ỉ. Khói? Không ăn thua.
Anh liếc nhìn Carn. “Anh có thể tạo ra hình Saphira gầm thét ra lửa như thể cô bé ở đây không?”
Đôi má gầy gò của pháp sư không còn màu sắc. Anh ta lắc đầu, biểu tình hỗn loạn. “Có thể, tôi không chắc, tôi chưa từng thử. Tôi sẽ tạo ra một hình ảnh của cô rồng từ trí nhớ của tôi. Nhưng có thể trông sẽ không giống một sinh vật sống.” Anh hất hàm về người kỵ sĩ đang phi nước đại tới. “Họ sẽ nhận ra có gì không đúng.”
Roran ấn móng tay vào lòng bàn tay. Chỉ còn bốn phút.
“Nhưng cũng đáng để thử,” anh ta nói khẽ. “Chúng ta chỉ cần làm cho họ sao nhãng, bối rối...” Anh liếc nhìn bầu trời, hy vọng thấy những đám mây mang mưa tới, nhưng lạy chúa, trên trời chỉ có hai đám mây đang bay bay. Bối rối, không chắc chắn, nghi ngờ....Con người sợ cái gì? Họ sợ những thứ họ không biết, không hiểu.
Ngay lập tức, Roran nghĩ tới hàng tá kế hoạch có thể làm nản lòng quân thù, kế hoạc sau càng kỳ lạ hơn kế hoạch trước, cuối cùng anh nghĩ ra một ý tưởng rất đơn giản và liều lĩnh tới mức hoàn hảo. Hơn nữa, không giống những ý tưởng khác, cái này đúng với con người anh hơn, nhưng cần có sự hợp tác của một người khác: Carn.
“Ra lệnh cho mọi người trốn trong lều!” anh hét và chuẩn bị bước đi. “Nói họ im lặng; tôi không muốn nghe một tiếng động dù là khẽ nhất trừ khi chúng ta bị tấn công!”
Anh bước tới cái lều trống gần nhất, nhét búa vào thắt lưng và cầm một tấm chăn len cáu bẩn từ đất lên. Sau đó anh chạy tới khu nấu ăn và cầm lấy một đoạn gỗ to bản mà các chiến binh thường dùng làm ghế ngồi.
Một tay cầm khúc gỗ, một tay cầm chăn, Roran quay trở lại lều tiến tới một ụ đất cao khoảng trăm mét ngay phía trước khu trại. “ai đó lấy cho tôi mấy khúc xương và một chai bia mật ong lại đây!” anh hét. “Và mang tới bàn có tấm bản đồ nữa. Ngay lập tức, quỷ tha ma bắt, nhanh lên!”
Đằng sau, anh nghe có tiếng bước chân hỗn loạn và tiếng binh khí va vào nhau loảng xoảng khi những binh sĩ rút vào lều. Một sự im lặng kỳ quái bao trùm khu trại trong vài giây sau, trừ có âm thanh do những người anh sai đi mang đồ gây ra.
Roran không thèm nhìn lại. Ở chân dốc ụ đất, anh dựng đứng khúc gỗ và kiểm tra vài lần cho chắc nó không đung đưa sau lưng anh. Khi đã hài lòng, anh ngồi xuống nhìn cánh đồng dốc trước mắt những tên kị binh.
Chúng sẽ tới đây trong ba phút nữa. Anh cảm nhận được mặt đất rung lên qua thanh gỗ bên dưới – càng lúc cảm giác đó càng mạnh.
“Xương với rượu mật ong đâu rồi?!: anh hét lên, mắt vẫn dán chặt vào đội quân đang lao tới.
Anh xoa râu và cho tay vào trong áo trấn thủ. Nỗi sợ làm anh ước gì mình mặc áo giáp nhưng phần lạnh lẽo, tàn nhẫn hơn trong con người anh nói anh sẽ khiến kẻ thù khiếp sợ hơn khi ngồi đó không áo giáp như thể anh đang sống thư thái nhàn tản. Phần đó cũng bảo anh để nguyên cây búa trên thắt lưng để khiến anh thấy an toàn.
“Xin lỗi,” Carn nói không ra hơi khi chạy tới chỗ Roran cùng với người đang mang chiếc bàn nhỏ từ trong lều của Roran. Họ đặt bàn trước mặt anh và đặt chăn lên đó, Carn đặt lên trên rượu cũng như một cái cốc da đựng năm khúc xương.
“Thôi, đi đi,” anh nói. Carn quay người định đi nhưng Roran giữ tay anh lại. “Anh có thể làm không khí xung quanh tôi mờ ảo như ở lửa cháy trong những ngày đông không?
Carn nheo mắt. “Có thể, nhưng để...”
“Cứ làm đi. Giờ đi trốn đi.”
Khi người pháp sư cao lêu nghêu chạy về phía lều trại, Roran lắc những chiếc xương trong cốc rồi đổ nó lên bàn và bắt đầu chơi một mình, ném xương lên không khí – đầu tiên là một cái, rồi hai, ba và bốn – rồi bắt lấy chúng. Cha anh, ông Garrow thường khiến anh thích thú khi chơi trò này trong lúc hút thuốc và ngồi trên chiếc ghế đã lung lay trong nhà suốt những tối mùa hefcuar Thung lũng Palancar. Thi thoảng Roran chơi cùng ông, nhưng thường anh là người thua thường ông Garrow thích chơi một mình.
Dù tim anh đập nhanh mạnh, còn bàn tay ướt đẫm mồ hôi,anh vẫn tỏ ra bình tĩnh. Nếu anh muốn có cơ hội thắng dù là nhỏ nhất, anh phải tỏ ra bình tĩnh dù thực tâm anh cảm thấy ra sao.
Anh cứ nhìn đống xương và không chịu nhìn lên khi những kỵ binh đang tới càng lúc càng gần. Tiếng những con ngựa phi nước đại càng lúc càng lớn cho tới khi anh nghĩ chúng sắp nhảy bổ lên người anh.
Cách chết kỳ lạ, anh nghĩ và cười dứt khoát. Sau đó anh nghĩ tới Katrina và đứa con chưa chào đời của họ và anh thấy được an ủi vì nếu anh chết, huyết mạch nhà anh vẫn còn. Không phải theo kiểu bất tử như Eragon nhưng cũng là một dạng bất tử.
Vào giây phút cuối, khi dội quân chỉ còn cách bàn vài mét, có ai đó hét lên, “Dừng! Dừng lại! Kìm cương lại! Tôi nói, kìm cương lại!” Và, với tiếng xiết dây, những con vật bất đắc dĩ chạy chậm lại rồi dừng hẳn.
Roran vẫn nhìn xuống.
Anh nhấp một hớp rượu và ném mấy cục xương lên lần nữa và dùng mui bàn tay đỡ hai khúc xương.
Roran ngửi thấy mùi đất ẩm bốc lên thoang thoảng, ấm áp và dễ chịu, cùng với đó là cái mùi đặc trưng không dễ chịu bằng của mồ hôi ngựa.
“Chào đằng đó!” người vừa hô dừng ngựa nói. “Chào đằng đó! Anh là ai mà lại ngồi ở đây trong buổi sáng trong lành, uống rượu và chơi trò mả rủi thế? Chúng tôi không xứng được so kiếm cùng anh sao? Anh là ai vậy?”
Từ từ như thể không để ý tới sự hiện diện chủa những binh lính và cho rằng việc này không quan trọng, Roran nhìn lên người đàn ông để râu quai nón nhỏ thó đội một chiếc mũ trụ khoa trương ngồi trước mặt anh trên con hắc mã to lớn đang thở khò khè.
“Tôi không phải đằng đó của ai, và tất nhiên không phải của anh,”Roran nói, không cần cố che giấu vẻ không thích thú người kia. “Tôi có thể hỏi anh là ai mà đi can thiệp vào trò chơi của tôi?”
Chiếc lông chim dài gắn trên mũ trụ của người đàn ông lắc lư khi hắn nhìn Roran, như thể anh là một sinh vật lạ lùng hắn săn được. “Tôi là Tharos Tốc độ, Đội trưởng đội cảnh vệ. Tôi nói cho biết, với sự khinh thường người khác như thế, tôi có thể chém bay đầu anh mà không cần biết anh là ai.” Như để nhấn mạnh lời nói của mình, Tharos hạ thấp ngọn giáo chỉ thẳng vào Roran.
Ba hàng kị binh tụ họp sau lưng Tharos. Trong đám người đó, Roran để ý có một người đàn ông gầy, mũi khoằm mặt và tay xương xâu – vai trần – mà Roran và các pháp sư của Varden có từng nói qua. Đột nhiên, anh thấy hy vọng Carn đã thành công tạo ra không khí lung linh mờ ảo quanh anh. Nhưng anh không dám quay đầu lại nhìn.
“Tên tôi là Cây Búa Dũng Mãnh,” anh nói. Anh khéo léo thu mấy khúc xương lại, ném lên trời và đón lấy ba khúc. “Roran Cây Búa Dũng Mãnh, và Eragon Khắc tinh của Tà Thần là em họ tôi. Nếu chưa nghe tới tôi thì chắc cũng phải nghe tới cậu ấy chứ nhỉ.”
Những tiếng thì thầm lo lắng vang lên trong hàng kị binh, Roran nghĩ mình đã thấy đồng tử Tharos mở rộng trong thoáng chốc. “Một tuyên bố ấn tượng nhưng làm sao tôi biết anh có nói thật không? Tất cả mọi người đều có thể nói mình là người khác vì mục đích của bản thân.”
Roran rút cây búa và đặt lên mặt bàn đánh cái rầm. Rồi, không để ý tới những người lính, anh chơi tiếp. Anh lẩm bẩm ra vẻ tức tối khi hai khúc xương rơi xuống khỏi mu bàn tay mình.
“À,” Tharos húng hắng nói. “Anh rất nổi tiếng đó Cây Búa Dũng Mãnh, dù nhiều người nói rằng những lời đồn chỉ toàn phóng đại sự thật. Ví dụ, có đúng là tại làng Deldarad của Surda anh một mình hạ gục ba trăm binh sĩ?”
“Tôi không biết chỗ đó tên gì, nhưng nếu tên nó là Deldarad thì đúng, tôi đã hạ gục rất nhiều binh sĩ ở đó. Nhưng thực ra chỉ có một trăm chín ba tên tôi và tôi được yểm trở bởi vài người bạn đồng hành nữa.”
“Chỉ có một trăm chín mươi ba?” Tharos nói bằng giọng không tin. “Anh khiêm tốn quá, Cây Búa Dũng Mãnh. Một chiến thắng như vậy cũng đủ mang lại sự truyền tụng tới muôn đời rồi.”
Roran nhún vai và đưa vại rượu lên uống một ngụm cho xong vì anh không chịu nổi việc đầu óc lâng lâng vì rượu của người lùn. “Tôi chiến đấu để chiến thắng chứ không phải để thất bại. Để tôi mời anh một chén, như một người lính với một người lính,” anh nói và đưa vại rượu cho Tharos.
Người chiến binh thấp lùn ngần ngừ, mặt đảo nhìn pháp sư đằng sau lưng trong một giây. Sau đó hắn ta liếm môi và nói. “Có lẽ tôi sẽ uống.” Hắn ta xuống ngựa, đưa giáo cho một người lính khác, cởi găng tay và đi tới chỗ cái bàn, cẩn trọng nhận rượu từ tay Roran.
Tharos ngửi mùi rượu sau đó uống một ngụm lớn. Lông vũ trên vũ trụ phất phơ.
“Anh không thích rượu này à?” Roran tò mò hỏi.
“Tôi thừa nhận, loại rượu nấu trên núi này cay quá,” Tharos nói và đưa vại rượu về cho Roran. “Tôi thích uống rượu nấu trên quê mình hơn, ấm, ngọt và khó say.”
“Đối với tôi loại rượu này ngọt như sữa mẹ ấy,” Roran nói dối. “Tôi uống nó mỗi sáng, trưa và tối.”
Tharos đeo găng tay lại và quay lại leo lên lưng ngựa, cầm lại giáo. Hắn một lần nữa đưa mắt nhìn tên pháp sư mũi khoằm đằng sau, người mà Roran để ý nước da đã tái đi như da người chết trong khoảnh khắc ngắn ngủi Tharos đặt chân xuống ngựa. Có lẽ Tharos cũng nhận ra sự thay đổi đó nên biểu tình trở nên căng thẳng.
“Cám ơn sự hiếu khách của anh, Cây Búa Dũng Mãnh,” hắn nói to hơn để tất cả cùng nghe rõ. “Có lẽ tôi sẽ sớm có cơ hội được hàn huyên trò chuyện với anh trong thành Aroughs. Nếu có dịp, tôi hứa sẽ phục vụ anh loại rượu ngon nhất trong trang viên nhà tôi, và có lẽ tôi sẽ giúp anh cai loại sữa kinh khủng này. Tôi nghĩ anh sẽ thấy rượu ở đây rất đáng để thưởng thức. Chúng tôi ủ nó bên trong những thùng gỗ sồi hàng tháng thậm chí là hàng năm. Thật đáng tiếc nếu tất cả những công trình đó bị phí phạm và những thùng rượu mở ra chảy lênh láng trên đường, nhuộm đường phố đỏ màu nho.”
“Thế thì quả là đáng tiếc,” Roran trả lời. “nhưng thi thoảng anh không thể tránh chuyện đổ rượu khi dọn bàn đâu.” Anh cầm vại và đổ rượu xuống lớp cỏ dưới chân.
Tharos không nói gì trong một lúc – kể cả lông vũ trên mũ trụ hắn cũng không động đậy – rồi, gầm lên một tiếng giận dữ, hắn hét với những người lính xung quanh. “Dàn trận lại! Dàn trận lại, Ta nói... Yah!” Và với tiếng hét cuối cùng hắn thúc ngựa chạy mất, những người lính còn lại theo sau chạy về Aroughs.
Roran vẫn tỏ vẻ bàng quan không lo lắng tới khi những tên lính đã đi hết. Sau đó anh từ từ thở hắt ra và chống khuỷu tay lên đầu gối. Tay anh hơi run run.
Thành công, anh vui mừng nghĩ thầm.
Anh nghe thấy tiếng chân người chạy tới từ phía khu trại và liếc mắt thấy Baldor, Carn đang tiến tới, cùng với ít nhất năm mươi chiến binh vừa trốn trong lều.
“Thành công rồi!” Baldor hét lớn khi họ tới gần. “Anh làm được rồi! Tôi không thể nào tin nổi!” Anh ta cười và vỗ vai Roran mạnh tới nỗi khiến Roran đập tay xuống bàn.
Những người còn lại bao quanh anh, cười lớn cũng như ca tụng anh, nói rằng dưới sự chỉ huy của anh, họ sẽ chiếm được Aroughs không mất một binh một tố và họ hạ thấp lòng dũng cảm và tính cách con người thành phố này. Ai đó ấn túi da đựng rượu còn ấm, đầy một nửa vào tay anh khiến anh nhìn nó với vẻ chán ghét. Sau đó anh nhìn người đàn ông đứng bên trai anh.
“Anh có phù phép không?” anh hỏi Carn, lời anh nói hầu như không nghe rõ dưới sự ồn ào của đám đông.
“Cái gì?” Carn nhoài lại gần hơn. Roran nhắc lại câu hỏi và lần này pháp sư cười và gật đầu. “Có. Tôi đã khiến không khí mờ ảo đúng như anh mong muốn.”
“Anh có tấn công pháp sư bên kia không? Khi chúng bỏ đi, tôi thấy hắn như sắp ngất ấy.”
Nụ cười của Carn rộng hơn. “Đấy là do hắn tự chuốc lấy. Hắn cố phá ảo ảnh hắn nghĩ là do tôi tạo ra – cố chọc thủng lớp không khí mờ ảo để thấy cái gì đằng sau – nhưng làm gì có cái gì để phá, để chọc thủng vì thế hắn đã tốn sức không đâu.”
Sau đó Roran cười thầm, sau đó tiếng cười nho nhỏ biến thành trận cười rung người vang tới tận Aroughs.
Trong vài phút anh để mình tận hưởng những lời tán dương tới khi anh nghe tiếng thét cảnh báo lớn vang lên từ trạm gác ở một góc trại.
“TRánh ra! Để tôi xem!” Roran nói và đứng bật dậy. NHững chiến binh tuân lệnh và anh nhìn người đàn ông duy nhất đứng ở phía tây – là một trong những người anh gửi đi xem xét bờ kênh – đang khó nhọc phi ngựa trên cánh đồng, nhắm hướng trại mà phi tới. “Đưa anh ta tới đây,” Roran ra lệnh và một người kiếm sĩ tóc đỏ gầy nhẳng chạy tới đón người kị sĩ.
TROng khi đợi người kia tới, Roran cầm mấy khúc xương lên rồi đặt xuống, từng cái một, vào cốc. NHững khúc xương kêu lanh canh khi rơi xuống.
Ngay khi nhìn thấy người lính kia, Roran gọi lớn, “Này anh! Thế nào? Mọi người bị tấn công à?”
Người đàn ông kia vẫn giữ im lặng mãi tới khi chỉ còn cách vài mét. Anh ta xuống ngựa và đứng trước Roran, cử động cứng nhắc như một cây thông thiếu năng, và lớn giọng báo cáo, “Có mặt, thưa ngài!” Khi quan sát gần hơn, Roran nhận thấy cậu ta chỉ là một thiếu niên – đúng hơn, cậu ta chính là cậu thiếu niên đã nắm dây cương cho anh hồi anh mới tới trại. Nhưng điều này không khiến Roran tò mò.
“THế nào? Tôi không có thì giờ mà dông dài.”
“Báo cáo! Hamund gửi tôi tới nói rằng chúng tôi đã tìm thấy tất cả những xà lan chúng ta cần và rằng ngài ấy đang cho dựng xe trượt mang nó tới một con kênh khác.”
Roran gật đầu. “Tốt. Anh ấy có cần thêm trợ giúp không”
“Báo cáo! Không ạ!”
“Có thế thôi à?”
“Vâng, thưa ngài!”
“Đừng luôn miệng thưa ngài thế. Một lần là đủ rồi. Hiểu không?”
“Vâng, thưa ngài – à, vâng th...à, ý tôi là vâng, tất nhiên rồi.”
Roran mỉm cười. “Cậu làm tốt lắm. Kiếm gì ăn đi rồi đi tới khu mỏ rồi báo cáo lại cho tôi. Tôi muốn biết họ làm tới đâu rồi.”
“Vâng, thưa...Xin lỗi ngài – Tôi không... Tôi sẽ làm ngay lập tức, thưa Chỉ huy.” Má cậu thanh niên hồng lên vì nói lắp. Cậu ta cúi đầu chào nhanh rồi nhanh chóng lên ngựa và đi về lều.
Roran càng nghiêm túc hơn vì anh biết, họ đang may mắn khi tránh được lần đụng độ này. Họ còn nhiều việc cần làm và nếu không làm tốt cuộc chiến của họ cũng thua chắc.
Anh nói với tất cả những người lính. “Về trại! Tôi muốn có hai hào quân sự xung quanh lều vào tối này; mấy gã lính da vàng bụng bự đó có thể sẽ đổi ý và quay lại tấn công và tôi muốn có sự chuẩn bị.” Vài người càm ràm vì phải đào hào nhưng phần đông có vẻ vui vẻ đồng ý.
Carn hạ giọng nói, “Anh không muốn họ kiệt sức vào sáng mai chứ?”
“Tôi biết,” Roran trả lời bằng giọng nhẹ nhàng tương tự. “Nhưng chúng ta cần củng cổ khu đóng quan và chúng ta cần làm điều này để tránh bị đánh úp. Hơn nữa, dù sáng mai họ mệt thế nào thì trận chiến cũng sẽ tiếp thêm sức lực cho họ. Luôn luôn như thế.”
Đối với Roran một ngày trôi qua rất nhanh khi anh tập trung vào những vấn đề thiết yếu và cố gắng tăng cường thể lực. Những binh lính làm việc hăng say – khi cứu họ, anh đã có được lòng trung thành và tận tụy từ họ - nhưng anh đã thấy rõ ràng hơn rằng, dù họ cố gắng thế nào cũng không thể hoàn thành chuẩn bị trong thời gian quá ngắn.
Suốt sáng, chiều và đầu buổi tối, Roran càng lúc càng cảm thấy hết hy vọng và anh tự nguyền rủa mình vì đã đưa ra một kế hoạch tham vọng và phức tạp tới vậy.
Từ đầu mình phải hiểu rằng chúng ta không có thời gian chứ, anh nghĩ. Nhưng giờ đã quá muộn để thử một kế hoạch mới. Lựa chọn duy nhất là cố gắng hết sức và hy vọng, những nỗ lực đó sẽ đủ để giành lấy chiến thắng.
Trời nhá nhem tối, những tia sáng lạc quan đã tới với anh, vì đột nhiên tất cả những sự chuẩn bị đều hoàn thành với tốc độ nhanh không ngờ. Chỉ vài giờ sau, khi trời tối đen và sao chiếu lấp lánh trên đầu, anh thấy mình đứng ở khu xay sát cùng với gần bảy trăm người, mọi sự chuẩn bị đã hoàn thành cho việc chiếm Aroughs vào cuối ngày hôm sau.
Roran cười vì nhẹ nhõm, tự hào và có chút ngờ vực vì công trình của họ.
Anh chúc mừng những người lính xung quanh và cùng họ về lều. “NGhỉ ngơi đi nếu có thể. Chúng ta sẽ tấn công vào lúc bình mình!”
Những người lính reo vui, dù họ mệt mỏi thấy rõ.
‹ 17. DRAS- LEONA
lên
19. BẠN VÀ THÙ ›
Tối hôm đó, Roran ngủ không được sâu giấc. Anh không thể nào nghỉ ngơi hoàn toàn dù biết tầm quan trọng của trận chiến săp tới và rằng anh có thể bị thương đầy mình trong trận chiến như trước kia. Hai ý nghĩ đó khiến anh căng thẳng, tỉnh dậy khỏi giấc mộng đen tối, kỳ lạ.
Thế là, anh tỉnh giấc dễ dàng khi một âm thanh uỵch nho nhỏ vang lên ngoài lều
Anh mở mắt và nhìn lên nóc lều. Trong lều tối om chỉ trừ tia sáng yếu ớt hắt vào từ ngọn đuốc qua cửa vào. Không khí lạnh lẽo và chết chóc như thể anh đang bị chôn trong lòng đất. Anh không biết đã mấy giờ nhưng anh biết đã rất, rất khuya. Kể cả những sinh vật của ban đêm cũng đã trở lại ổ và đi ngủ. Không ai nên thức, trừ những lính canh mà quanh lều anh đâu có người lính nào.
Roran cố thở từ từ và hít thật sâu khi nghe ngóng. Âm thanh lớn nhất anh nghe được là tiếng đập của con tim, càng lúc càng lớn hơn, nhanh hơn vì anh cảm thấy căng cứng như dây đàn.
Một phút trôi qua.
Lại một phút nữa
Rồi ngay khi anh nghĩ không có gì phải lo lắng và nhịp tim dần ổn định thì một bóng đen vút qua cửa lều, che đi ánh sáng bên ngoài.
Nhịp tim của Roran đập nhanh gấp ba lần như khi anh chạy lên đỉnh núi vậy. Nhưng mục đích của người kia không thể là gọi anh dậy chuẩn bị chiếm Aroughs hay hiến kế cho anh vì nếu có, họ sẽ không ngần ngại mà gọi tên anh.
Một bàn tay đeo găng đen – đen hơn cả màn đêm – thò vào qua cửa lều.
Roran định mở miệng tri hô nhưng lại thôi. Không nên ngu ngốc đánh mất lợi thế ngạc nhiên. Hơn nữa, nếu kẻ đột nhập biết hắn đã bị phát hiện, hắn sẽ hoảng loạn và hoảng loạn sẽ khiến hắn nguy hiểm hơn.
Roran cẩn thận dùng tay phải nắm lấy con dao đặt dưới áo choàng anh đang gấp gọn thành gối và giấu vũ khí dưới chăn. Cùng lúc đó, anh dùng tay trái nắm chặt cạnh chăn.
Ánh sáng vàng khắc họa đường nét tên đột nhập. Roran thấy hắn mặt một áo da chần bông nhưng không mang áo giáp. Sau đó, cửa lều đóng lại và bóng tôi một lần nữa bao chùm lấy họ.
Người lạ mắt rón rén tới nơi Roran nằm.
Roran cảm thấy như anh sắp ngất vì thiếu không khí nếu cứ cố nín thở để tên kia không biết anh đã thức.
Khi kẻ đột nhập bước được nửa đường tới võng, Roran kéo chăn ra ném lên người gã và, với một tiếng hét kinh hoàng, anh lao lên người hắn, nắm lấy con dao định moi ruột hắn.
“Đừng!” người đàn ông hét lên. Roran ngạc nhiên ngừng tay và cả hai ngã nhào xuống đất. “BẠn mà! Tôi là bạn!”
Nửa giây sau, Roran thở hắt ra vì hai cú đấm vào bụng. Cơn đáu gần như hạ gục anh nhưng anh cố lăn ra tránh hắn và cố đẩy xa khoảng cách giữa hai người.
Roran gượng đứng dậy, rồi một lần nữa lao tới tên đột nhập đang lăn lộn trong đống chăn.
“Đợi đã, tôi là bạn anh!” người đàn ông hét lên nhưng Roran không định tin hắn thêm lần nữa. May mà anh không tin hắn, vì khi anh chém hắn, hắn qua lớp chăn tóm lấy tay phải và con dao của Roran sau đó dùng một con dao hắn lấy ra từ áo da chém vào Roran. Roran cảm thấy đau nhói nhưng cơn đau quá nhẹ nên Roran không để ý nhiều.
Roran rống lên và kéo mạnh chăn, kéo gã đàn ông đứng dậy và dộng hắn vào lều khiến lều đổ sập, nhốt họ bên trong. Roran vứt chăn sang một bên rồi lần mò tìm gã kia.
Tay trái Roran sờ thấy một đế giày cứng và đầu ngón tay anh lạnh cứng.
Anh lao lên, nắm lấy cổ chân hắn khi hắn cố quay lại. Gã quẫy đạp như một con thỏ khiến Roran tuột tay, nhưng anh nào bỏ cuộc. Roran nắm chặt cổ chân hắn và bóp vào gân chân hắn cho tới khi hắn kêu oai oái.
Trước khi hắn kịp trấn tĩnh, Roran leo lên người hắn và ấn bàn tay cầm dao của hắn xuống đất. Roran cố đâm hắn nhưng anh quá chậm; kẻ thù của anh nắm được cổ tay anh và dùng bàn tay như gọng kìm bóp chặt tay anh.
“Ngươi là ai?” Roran lồng lên.
“Bạn anh,” người đàn ông nói phả hơi thở vô mặt anh. Nó có mùi rượu táo hỏng. Sau đó hắn lên gối Roran ba phát liên tục.
Roran đập trán vào mũi hắn, khiến nó kêu đánh rắc. Gã rên rỉ và quẫy đạp bên dươi nhưng Roran không chịu thả hắn ra.
“Ngươi... không phải bạn ta,” Roran gầm trong họng khi cúi xuống và từ từ hạ con dao xuống người hắn. Khi cả hai đang căng người lên thì Roran nghe thấy có tiếng người la hét bên ngoài cái lều sập.
Cuối cùng anh khóa được tay hắn và đâm xuyên qua lớp áo và da thịt. Hắn co giật. Anh đâm nhanh thêm mấy nhát sau đó cắm nguyên con dao trên ngực hắn.
Qua cán dao, Roran cảm nhận được trái tim rung lên lần cuối khi bị cắt thành từng mảnh. Gã co giật hai lần nữa sau đó nắm đó, thở hắt ra.
Roran tiếp tục giữ hắn cho tới khi sự sống rời bỏ hắn. Họ ôm nhau thân mật như một cặp tình nhân. Dù gã kia định giết anh nhưng Roran không biết gì về hắn và anh không thể nào không thấy sợ hãi. Đây là một con người – một mạng sống, một sinh vật biết suy nghĩ – đã ra đi vì hành động của anh.
“Ngươi là ai?” anh nói thầm. “Ai gửi ngươi tới?”
“Ta đã... suýt giết được ngươi,” gã cất tiếng nói, nghe có vẻ hài lòng. Sau đó hắn thở hắt ra, cơ thể mềm oặt. Hắn chết.
Roran gục đầu lên ngực hắn và hít thở, người anh run lên vì bị tấn công.
Mọi người bắt đầu lôi lớp vải bố phủ lên người anh ra. “Kéo nó ra!” Roran hét, không thể chịu nổi sức nặng kinh khủng đang đè lên cũng như không gian đen thẳm, tù túng và không khí ngột ngạt.
Một kẽ hở xuất hiện vì ai đó đã cắt thủng lớp vải. Ánh đuốc ấm áp nhảy múa lan tỏa qua lỗ hổng.
Anh điên cuồng muốn thoát khỏi phòng giam. Anh đứng lên, nắm lấy lỗ hổng mà chui ra. Anh loạng choạng đi về phía có ánh sáng, trên người không mặc gì ngoài khố và nhìn xung quanh với vẻ bối rối.
Balodr đang đứng đó cùng Carn, Delwin, Mandel và mười người lính khác. Tất cả cầm vũ khí sẵn sàng chiến đấu. Không ai mặc quân trang đầy đủ, trừ hai người mà Roran nhận ra là lính gác đêm nay.
“Chúa ơi,” ai đó hét lên và Roran quay lại nhìn người lính đang hé mắt nhìn qua căn lều thấy xác kẻ đột nhập.
Gã nhỏ thó, tóc dài bóng dầu buộc thành đuôi ngựa và đeo bịt mắt trái. Mũi hắn gẫy và tím đỏ - hậu qua từ những cú đấm của Roran – và máu be bét trên nửa dưới khuôn mặt hắn. Máu tràn ra trên ngực hắn và trên mặt đất xung quanh. Quá nhiều máu đối với một con người.
“Roran,” Baldor lên tiếng. Roran tiếp tục nhìn kẻ ám sát không thể rời mắt. “Roran,” Baldor lại nói nhưng lớn hơn. “Roran, nghe tôi nói này? Anh có bị thương không? Chuyện gì xảy ra?... Roran?”
Cuối cùng Roran cũng nghe thấy. “Cái gì?” anh hỏi.
“Roran, anh có bị thương không?”
Sao anh ấy lại nghĩ thế nhỉ? Roran bối rối nhìn xuống. Lông ngực anh bê bết máu khô, những vệt máu dính trên tay anh và trên khố.
“Ổn,” anh nói dù khó lòng mở miệng. “Có ai bị tấn công nữa không?”
Đáp lại, Delwin và Hamund bước sang một bên để lộ một thân hình không còn sự sống. Đó chính là cậu thiếu niên đã chạy truyền tin cho anh.
“Ôi!” Roran rên rỉ, nỗi buồn dâng lên trong anh. “Sao lại thế này?”
Một trong những chiến binh bước lên phía trước. “Tôi ở cùng lều với cậu ấy, thưa Chỉ huy. Cậu ấy luôn ra ngoài đi dạo mỗi tối, vì cậu ấy đã uống nhiều nước chè. Mẹ cậu ấy bảo làm thế để phòng ốm đau... Cậu ấy tốt tính lăm thưa Chỉ huy. Cậu ấy không nên bị vài tên hèn hạ chỉ biết đánh len chém thành nhiều mảnh thế này.”
“Không,” Roran thì thầm. Nếu cậu ta không ở ngoài đó thì người chết phải là mình. Anh chỉ tên thích khách. “Trong trại còn tìm thấy tên sát thủ nào không?”
Những người đàn ông thì thào nói chuyện; sau đó, Baldor cất giọng, “Tôi không nghĩ có.”
“Kiểm tra chưa?”
“Chưa.”
“Vậy thì đi kiểm tra đi! Nhưng đừng đánh thức những người khác. Họ cần ngủ. Từ lúc này hãy cho lính gác ở lều của các tướng lĩnh. Đáng nhẽ mình phải nghĩ tới chuyện này.
Roran đứng nguyên tại chỗ, cảm thấy mình thật ngu ngốc và đần độn khi Baldor ra lệnh. Mọi người, trừ Carn, Delwin và Hamund đều tản đi. Bốn người lính cáng xác cậu nhỏ đi chôn, trong khi những người còn lại đi kiểm tra khu đóng quân.
Hamund tiến tới nhìn tên thích khách, và dùng mũi giày đẩy con dao của hắn. “Chắc sáng nay anh đã khiến mấy tên lính sợ hơn chúng ta tưởng.”
“Chắc rồi.”
Roran run lên. Anh thấy lạnh toàn thân đặc biệt ở tay và chân như dính đá. Carn nhận ra và mang cho anh cái chăn. “Đây,” Carn nói và choàng lên vai Roran. “Ra ngồi cạnh đống lửa kìa. Tôi sẽ mang cho anh ít nước nóng mà tắm rửa. Thế nhé?”
Roran gật đầu vì không nghĩ mình còn nói được.
Carn định đi, nhưng được vài mét, anh dừng lại khiến Roran cũng phải ngừng bước. “Delwin, Halmund, lấy cho tôi cái võng, cái gì để ngồi cũng được, một vại rươu mật ong và ít vải băng bó tới đây. Nhanh nhé.”
Hai người kia giật mình bỏ đi.
“Sao?” Roran bối rối hỏi. “Sao thế?”
Nét mặt anh nghiêm trọng và chỉ lên ngực Roran. “Nếu anh không bị thương thì gì đây?”
Roran nhìn xuống và thấy bên dưới lớp lông ngực và lớp máu khô là một vết cắt dài và sâu chạy ngang xương ức và kết thúc ở đầu ngực. Chỗ hở rộng nhất khoảng 0,6cm và trông giống một nụ cười quỷ quái không có môi. Vết cắt không hề chảy máu. Roran có thể thấy lớp mỡ vàng dưới da và dưới đó và dưới đó là mô cơ ngực đỏ sậm sống màu thịt nai sống.
Anh đã quá quen với những vết thương do giáo mác, gươm kiếm và những vũ khí khác đem đến nên không lấy gì làm lo lắng. Anh đã bị thương không biết bao nhiêu lần trong cuộc đấu tranh chống lại Triều đình – vết thương khiến anh tự hào nhất là vết cắn của Ra’zac trên vai phải khi chúng bắt Katrina tại Carvahall – nhưng chưa bao giờ anh lãnh một vết thương lớn hoặc không bình thường thế này.
“Đau không?” Carn hỏi.
Roran lắc đầu. “Không.” Cổ họng anh cứng lại và tim anh – vẫn đang đập thình thịch vì trận đánh lộn – đập nhanh gấp đôi. Dao có độc chăng? Anh phân vân.
“Rora, anh phải thả lỏng người,” Carn nói. “Tôi nghĩ tôi có thể chữa trị cho anh, nhưng anh sẽ làm cho mọi chuyện khó khăn hơn nếu ngất đi.” Anh ta đỡ lấy vai Roran, dẫn anh tới cái võng Hamund mang ra từ lều và Roran ngoan ngoãn ngồi xuống,
“Nghỉ ngơi thế nào?” anh hỏi kèm một tiếng cười giòn ngắn ngủi.
“Hít sâu và tưởng tượng anh đang chìm sâu trong lòng đất khi thở ra. Tin tôi đi, anh sẽ thấy thoải mái.”
Roran nghe theo nhưng khi anh thở ra lần thứ ba, vết thương mở rộng, máy chảy ra từ vết thương, bắn lên mặt Carn. Pháp sư lùi lại và nguyền rủa. Máu nóng chảy xuống bụng Roran.
“Giờ thì đau rồi,” Roran nghiến răng nói.
“Này!” Carn hét và vẫy Delwin đang chạy lại chỗ họ, tay cầm đầy băng gạc và những vật dụng khác. Khi anh ta đặt chúng xuống một đầu võng, Carn cầm một ít vải lên ấn vào vết thương của Roran để cầm máu. “Nằm xuống,” anh ra lệnh.
Roran nghe theo và Hamund đưa cho Carn một cái ghế đẩu. Carn ngồi xuống trong khi vẫn bịt chặt miệng vết thương. Anh mở tay phải và nói, “Mở chai rượu ra và đưa cho tôi.”
Delwin đưa chai rượu cho Carn. Anh nhìn thẳng vào Roran và nói. “Tôi sẽ phải sát trùng vết thương trước khi dùng phép thuật làm khép miệng nó. Hiểu không?”
Roran gật. “Đưa cho tôi thứ gì để cắn nào.”
Anh nghe có tiếng cởi thắt lưng và một trong hai người, Delwin hoặc Hamund đưa thắt lưng vô miệng anh, anh anh dùng hết sức cắn. “Làm đi!” anh nói rõ ràng nhất có thể.
Trước khi Roran có thời gian phản ứng lại, Carn bỏ vải ra và rưới rượu lên vết thương, lên lớp lông ngực và máu khô cùng những vết bẩn khác dính trên đó. Roran rên rỉ và cong người lên, cào lên võng.
“Rồi, xong rồi,” Carn nói và đặt chai rượu sang một bên.
Roran nhìn những vì sao, những cơ bắp trên người anh run rẩy. Anh cố quên đi cơn đau khi Carn đặt tay lên vết thương và bắt đầu lầm rầm nói bằng ngôn ngữ cổ.
Sau vài giây, dù đối với Roran nó phải kéo dài tới vài phút, anh thấy không thể chịu nổi cơn ngứa bên trong lồng ngực khi Carn chữa trị vết thương do con dao của tên thích khách gây ra. Cơn ngứa lên cao dần, tới lớp da và cơn đau biến mất. Nhưng, anh vẫn thấy khó chịu muốn gãi rách da rách thịt.
Khi làm xong, Carn thở dài và cúi xuống, dùng tay đỡ đầu.
Roran buộc những cơ bắp cứng đầu làm việc theo ý mình, quăng chân sang một bên và ngồi thẳng dậy. Anh đưa tay lên sờ ngực. Ngoại trừ lớp lông, da anh mềm mại tới hoàn hảo. Bình thường. Không một vết sẹo. Y như cũ.
Pháp thuật.
Delwin và Hamund vẫn đứng nhìn. Họ mở to mắt hơn một chút dù anh nghĩ ai trong hoàn cảnh đó cũng sẽ thế thôi.
“Đi nghỉ đi,” anh nói và vẫy tay. “Chúng ta chỉ còn vài giờ, và tôi muốn hai người tỉnh táo.”
“Anh chắc chắn mình ổn rồi chứ?” Delwin hỏi.
“Ừ, ừ,” anh nói dối. “Cám ơn sự giúp đỡ của các anh, nhưng giờ đi đi. Làm sao tôi ngủ nôi khi hai anh cứ cục ta cục tác như gà mẹ được chứ?”
Sau khi họ rời đi, Roran xoa mặt và ngồi nhìn bàn tay run rẩy, dính đầy máu của mình. Anh thấy khó chịu. Trống rỗng. Như thể anh đã làm việc công việc cả tuần trong vòng vài phút.
“Anh còn chiến đấu nổi không?” Anh hỏi Carn.
Pháp sư nhún vai. “Không tốt bằng trước...đó là cái giá phải trả. Nhưng chúng ta không thể vào trận mà không có anh.”
Roran không muốn cãi. “Anh cũng nên đi nghỉ thôi. Sắp bình minh rồi.”
“Anh thì sao?”
“Tôi sẽ đi tắm, tìm áo mặc và cùng Baldor xem xét xem có phát hiện sát thủ nào của Galbatorix không?”
“Anh không định nghỉ ngơi à?”
“Không.” Anh vô thức gãi ngực. Anh dừng lại khi nhận ra mình vừa làm gì. “Lúc trước tôi cũng không ngủ được, và giờ...”
“Tôi hiểu.” Carn từ từ đứng dậy. “Tôi sẽ ở trong lều nếu anh cần tôi.”
Roran nhìn anh ta nặng nề bước vào bóng tối. Khi không còn thấy anh ta nữa, Roran nhắm mắt và nghĩ tới Katrina để bình tĩnh lại. Anh dùng hết sức mạnh ít ỏi còn lại, đi vào căn lều sập, tìm quần áo, vũ khí, giáp và khăn. Trong một lúc lâu anh tránh nhìn xác tên thích khách dù đôi khi thoáng thấy trong lúc bới tìm đô dùng.
Cuối cùng, Roran quỳ xuống, ngoảnh đầu, rút con dao khỏi xác chết. Anh vẩy con dao và nghe tiếng máu nhỏ giọt xuống sàn.
Trong cái im lặng lạnh lẽo của ban đêm, Roran từ từ chuẩn bị tinh thần cho trận chiến. Sau đó, anh đi tìm Baldor – người đã khẳng định với anh rằng không có thêm tên thích khách nào lọt qua tầm mắt của lính gác – và đi quanh trại, nghĩ ngợi về kế hoạch tấn công Aroughs. Sau đó, anh thấy nửa con gà nướng đã nguội ngắt từ bữa tối. Anh ngồi xuống ăn và ngắm nhìn các vì sao.
Nhưng, cho dù anh làm gì, anh vẫn nghĩ tới cậu nhỏ nằm chết ngoài lều anh. Ai là người có quyền quyết định ai được sống và ai phải chết? Mạng sống của mình đâu có đáng giá hơn cậu ấy nhưng cậu ấy là người nằm sâu dưới ba tấc đất trong khi mình còn ít nhất vài giờ tận hưởng cuộc sống dương thế. Đó là cơ hội, là định mệnh hay tội ác, hay đây là do một thế lực trên kia sắp xếp?
‹ 18. TUNG XƯƠNG
lên
20. BỘT LỬA
“Cảm giác có em thích chứ?” Roran hỏi Baldor khi họ sánh bước đi tới khu xay sát gần nhất trong ánh hừng đông.
“Không phải thích hay không thích. Ý tôi là, em tôi đâu có lớn gì. Trông như con mèo con ấy.” Baldor kìm cương khi con ngựa của cậu ta định xông ra đám cỏ ven đường. “Tôi thấy chuyện có em – dù là trai hay gái – sau một thời gian quá dài cứ nhột nhạt thế nào ấy.”
Roran gật đầu. Anh dịch mông trên lưng ngựa, nhìn lại sau đảm bảo sáu trăm năm mươi lính đang giữ đúng khoảng cách với anh. Khi tới khu xay sat, Roran xuống ngựa và buộc ngựa trước điểm thấp nhất của ba căn nhà. Một người lính đứng sau dắt lũ ngựa về trại.
Roran đi tới lạch sông và bước xuống cầu kênh. Sau đó anh đặt chân lên xà lan gần bờ nhất trong bốn cái đang nổi dập dềnh.
Những xà lan trong giống mấy mảng bè đơn sơ hơn là một con thuyền độc mộc được những dân làng dùng làm phương tiện chuyên chở từ Narda tới Teirm. Roran rất thích điểm này vì bè đồng nghĩa với không có mũi tàu nhọn. Nhờ vậy, họ buộc, đóng cọc chúng được vào với nhau thành một mảng bè duy nhất dài tới 45m.
Roran đã chỉ đạo đem toàn bộ số đá phiến họ có từ mỏ khai thác chất lên xe bò chở tới đây, chất lên đầu chiếc xà lan thứ nhất và dọc xà lan thứ hai và ba. Trên đống đá phiến, họ chất những bao bột – tìm thấy trong nhà máy xay – tới khi tạo thành một bức tường cao ngang hông.Ở tảng đá cuối cùng trên xà lan thứ hai, bức tường tiếp tục chỉ với các bao bột.
Sức nặng của các phiến đá cùng đống bột kèm theo sức nặng của bản thân xà lan đã biến những chiếc thuyền nổi thành khúc gỗ công thành theo đường thủy khổng lồ. Roran mong sao nó có thể chọc thủng cánh cổng ở cuối con lạch. Kể cả khi cánh cổng được yểm bùa – mặc dù Carn không cho là thế - Roran cũng không nghĩ có bất cứ pháp sư nào, trừ Galbatorix có thể vô hiệu hóa lực tấn công của những chiếc xà lan này một khi chúng trôi xuống từ thượng nguồn.
Ngoài ra, đống đá và bột kia là một lá chắn phòng thủ chống giáo, tên và những vũ khí sát thương khác bay tới.
Roran cẩn trọng đi lại giữa những mảng thuyền dập dềnh tới đầu xà lan. Anh chèn giáo khiên của mình vào một chồng đá phiến rồi quay người quan sát các chiến binh tập hợp giữa các bức tường.
Mỗi lúc xà lan càng lún xuống sâu hơn xuống nước do sức nặng của các chiến binh. Cuối cùng nó chỉ còn nổi trên mặt nước có vài centimet.
Carn, Baldor, Hamund, Delwin và Mandel đứng cạnh Roran. Họ tự mình chọn vị trí nguy hiểm nhất. Nếu muốn có Aroughs, họ cần có sự đồng hành của kinh nghiệm cũng như sự may mắn. Họ không thể trao trách nhiệm nặng nề cho ai.
Ở rìa xà lan, Roran thấy Brigman đứng cùng với những người lính ông từng chỉ huy. Sau hành động bất tuân quân lệnh gần đây của Brigman, Roran đã giáng chức và giam ông ta trong lều. Nhưng, Brigman xin được tham gia trận chiến cuối cùng ở Aroughs, và Roran miễn cưỡng đồng ý; Brigman giỏi dùng đao kiếm và chỉ cần một thanh kiếm cũng tạo nên sự khác biệt trong trận chiến sắp tới.
Roran vẫn băn khoăn liệu anh có quyết định đúng không. Anh khá tự tin giờ các binh lính trung thành với anh chứ không phải với Brigman, nhưng Brigman đã là chỉ huy của họ trong nhiều tháng. Mối liên kết đó không thể quên trong một sớm một chiều. Kể cả trong trận chiến này Brigman không gây chuyện nhưng ai mà biết ông ta có chịu nghe lời hay lờ quân lệnh đi, ít nhất là khi Roran là người ra lệnh.
Nếu ông ta khiến mình không tin, mình sẽ chém chết ngay tại chỗ,Roran nghĩ. Nhưng giải pháp này rất phù phiếm. Nếu Brigman thật sự phản bội thì Roran sẽ không nhận ra cho tới khi quá muộn.
Khi chỉ còn lại sáu người lính đứng trên bờ, Roran cúp tay trước miệng hô lớn. “Mở cửa đập!”
Hai người đang đứng trên con đê ở đỉnh đồi – con đê có nhiệm vụ làm chậm dòng chảy của sông từ thượng nguồn về phía bắc. Dưới đó 6m có guồng nước đầu tiên và một hồ nước bên dưới. Phía trước cái hồ là con đê thứ hai, tại đó có thêm hai người lính. Dưới đó thêm 6m là một guồng nước nữa và một hồ nước sâu yên ả. Cuối hồ là con đê thứ ba và là con đê cuối cùng cùng hai người lính nữa. Ở chân dê cuối cùng là guồng nước cuối cùng. Từ đó, dòng chảy uốn lượn êm đềm chảy tới Aroughs.
Trên các con đê là ba cổng đập Roran bắt đóng lại trong lần đầu tới thăm khu xay sát. Qua hai ngày, đội binh lính đã lặn dưới dòng nước đang ngày một dâng cao nạo vét lòng hồ. Sau đó họ cắm những xà gỗ dài, chắc khỏe xuống hai bên cửa đập.
Những người đứng ở giữa và trên đầu đang nắm lấy những xà gỗ - chúng thò ra khỏi đê vài mét – và bắt đầu kéo đẩy chúng theo một nhịp điệu nhất định. Theo như kế hoạch, hai người đứng cuối sẽ đợi một lúc trước khi họ cũng làm theo.
Roran nắm chặt một bao bột trong lúc quan sát. Nếu họ chỉ tính lệch thời gian vài giây, chắc chắn một thảm họa sẽ xảy đến.
Gần một phút trôi qua, không có gì xảy ra.
Rồi, với một tiếng ầm lớn, cửa đập đầu tiên mở ra. Đê phình lên, đất nứt toác và nước phù sa chảy ầm ầm xuống guồng nước bên dưới khiến nó quay nhanh hơn bao giờ hết.
Đập sập, những người đứng trên đó nhảy lên bờ cách đó vài centimet.
Dòng nước từ độ cao hơn 9m đổ ầm xuống hồ nước đen êm ả bên dưới guồng nước. Một cơn sóng cao vài mét lao xuống đập bên dưới.
Thấy chuyện sắp xảy tới, hai chiên binh ở giữa rời vị trí, lao xuống khu đất an toàn.
May mà họ đã kịp. Khi cơn sóng đập tới đã phá vỡ cửa đập thứ hai như thể một con rồng đá tan nó và cuốn trôi đi những tàn tích của con đập.
Dòng lũ điên cuồng đâm vào guồng nước thứ hai với lực mạnh hơn trước. Gỗ kêu cọt kẹt và lần đầu tiên, Roran nghĩ tới khả năng một hoặc nhiều hơn một guồng nước sẽ bị cuốn trôi. Nếu chuyện đó thực sự xảy ra, những chiến binh và kể cả các xà lan sẽ bị nguy khốn; có thể cuộc tấn công Aroughs sẽ kết thúc từ trong trứng nước.
“Cắt dây neo!” anh hô.
Một trong những người lính cắt dây neo trong khi những người khác cúi xuống kéo một sợi dây dài độ 3 mét giữ xà lan đứng yên bằng tốc độ nhanh nhất.
Chiếc xà lan nặng nề lao lên phía trước, tốc độ chậm hơn mong muốn của Roran quá nhiều.
Mặc kệ cho dòng thác đang đổ ào ào về phía hai người lính, họ vẫn tiếp tục đứng ở đê thấp nhất để đẩy xà gỗ. Chỉ chưa đến một giây trước khi cơn lũ ào lên họ, những người lính mới rời bỏ vị trí.
Dòng nước đục một lỗ lớn trên đập đất dễ như thể nó là bánh mũ và cuồn cuộn lao tới guồng nước cuối cùng. Gỗ kêu kẹt ket – âm thanh lớn và sắc như đập đá – guồng nước nghiêng đi vài độ nhưng vẫn đứng vững. Sau đó, với một tiếng gầm to như tiếng sấm, dòng nước lao xuống chân đồi, nước bắn lên như sương mù.
Từng cơn gió lạnh vuốt lên mặt Roran đứng cách đó hai trăm mét.
“Nhanh nữa lên!” anh tri hộ với những người đang cắt dây neo khi cơn lũ giận dữ tràn xuống con kênh.
Lũ tiến tới với một tốc độ khó tin. Khi nó đập vào đuôi bốn chiếc thuyền, cả đoàn thuyền nhào về phía trước khiến Roran và các chiến binh nhào khỏi đuôi tàu và làm một số người ngã dúi dụi. Vài bao bột rơi xuống sông hoặc rơi ngược về phía những người lính.
Dòng nước tràn dâng nâng xà lan gần rìa nhất cao lên vài mét, đoàn thuyền dài gần 50 mét bắt đầu xoay tròn. Roran biết, nếu quá trình này tiếp tục, đoàn thuyền sẽ bị xé tan.
“Giữ thẳng thuyền!” anh rống lên, nhảy bật dậy khỏi bao bột anh vừa ngã đè lên. “Đừng cho thuyền xoay!”
Nghe thấy tiếng anh, các chiến binh lục tục chống thuyền trôi khỏi dòng nước xoáy và đi về giữa sông. Roran đứng trên đống đá phiến chỉ huy và cùng nhau điều khiển những chiếc xà lan trôi xuống.
“Chúng ta làm được rồi!” Baldor hét lên, trên mặt hiện một nụ cười ngu ngốc.
“Đừng mừng vội,” Roran cảnh cáo. “Chúng ta còn cả một đoạn đường dài.”
Bầu trời phía đông chuyển màu vàng chanh khi họ chỉ cách Aroughs một dặm. Với tốc độ di chuyển hiện tại, họ sẽ tới thành phố trước khi mặt trời ló rạng và màu trời xám xịt sẽ giúp họ tránh được những tên lính canh trên tường thành và chòi gác phát hiện.
Mặc cho những ghềnh đá trên đường đi, chiếc thuyền vẫn gia tốc băng băng tiến tới thành phố bên dưới khu xay sát và không còn một ghềnh thác nào cản bước họ.
“Nghe này,” Roran chụm tay trước miệng và nói lớn để mọi người cùng nghe. “Chúng ta có thể rơi xuống nước khi đâm vào cổng ngoài, vì thế chuẩn bị tinh thần bơi đi. Tới khi chúng ta vào đất liền, chúng ta sẽ là những mục tiêu dễ tấn công. Một khi lên bờ, chúng ta chỉ có một mục đích duy nhất: leo lên bức tường trong trước khi họ nghĩ tới chuyện đóng cổng, vì nếu họ làm vậy, chúng ta sẽ không bao giờ có được Aroughs. Nếu chúng ta có thể vượt qua bức tường thứ hai, chúng ta sẽ dễ dàng tìm thấy Lãnh chúa Halstead và buộc ông ta đầu hàng. Nếu ông ta không chịu, chúng ta sẽ chiếm trung tâm thành phố, sau đó tản vào các con đường cho tới khi toàn bộ Aroughs thuộc về chúng ta.
“Nhớ, chúng ta có thể sẽ phải một chọi hai hoặc ba, vì vậy hãy ở gần nhau bảo vệ và che chắn cho nhau. Đừng một mình đơn độc, đừng tách mình ra khỏi nhóm. BỌn lính trong thành hiểu rõ địa bàn hownc húng ta, và họ có thể tấn công chúng ta vào lúc chúng ta không ngờ nhất. Nếu anh một mình, hãy chạy tới trung tâm thành phố, vì chúng tôi sẽ ở đó.
“Hôm nay chúng ta sẽ cống hiến hết mình vì Varden. Hôm nay chúng ta sẽ giành lấy vinh quang và danh dự tất cả đàn ông đều mơ ước. Hôm nay... hôm nay chúng ta sẽ đánh dấu tên tuổi chúng ta lên lịch sử. Những gì chúng ta làm trong vài giờ nữa sẽ truyền tụng cả trăm năm sau. Hãy nghĩ tới bạn bè, gia đinh, bố mẹ, vợ con các anh. Hãy chiến đấu hết mình vì chúng ta chiến đấu vì họ. Chúng ta chiến đấu vì tự do!”
Những người lính hô to hưởng ứng.
Roran để họ say men chiến đấu; sau đó anh giơ tay và nó. “Giơ khiên!” Và, mọi người như một giơ khiên lên, che chở cho họ và cho chiến hữu khiến cho khu giữa gỗ công thành như một con vật khổng lồ có vảy.
Roran hài lòng nhảy xuống nhìn Carn, Baldor và bốn người bạn đồng hành với anh trên quãng đường từ Belatona. Người trẻ nhất, mandel có vẻ sợ hãi nhưng Roran biết cậu ta biết cách kiềm chế nó.
“sẵn sàng chưa?” anh hỏi và họ gật đầu đồng lòng.
Sau đó Roran cười, khi Baldor hỏi lý do, anh nói, “Giá mà cha tôi nhìn thấy tôi lúc này!”
Sau đó cả Baldor cũng cười.
Roran nhìn chằm chằm dòng nước. Một khi tiến vào thành phố, các chiến binh sẽ nhận ra có gì không bình thường và sẽ ra hiệu báo nguy. Anh muốn họ báo nguy hiểm, nhưng không phải vì lý do này. Vì thế, khi dòng lũ chỉ cách Aroughs 5 phút, anh bảo Carn, “Gửi tín hiệu.”
Pháp sư gật đầu và môi di chuyển kiểu kỳ lạ nói ngôn ngữ cổ xưa. Sau vài phút, anh đứng thẳng và nói. “Xong rồi.”
Roran nhìn đằng tây. Ở đó, trên cánh đồng phía trước Aroughs là máy bắn đá, máy phóng tên và tháp chiến đấu của Varden. Tháp chiến đấu vẫn không có động tĩnh nhưng những máy móc khác đã chuẩn bị để hành động, bắn tên và đá theo đường vòng cung lên những bức tường trắng của thành phố. Anh biết rằng năm mươi người lính ở đầu kia thành phố đã thổi kèn, la hét, bắn hỏa tiễn, làm mọi thứ để thu hút sự chú ý của những tên lính trong thành và giả bộ như một đội quân lớn hơn sắp sửa tấn công thành phố từ đằng đó.
Roran cảm thấy bình tĩnh lạ thường.
Anh sắp tham chiến.
NHững binh lính của anh sắp chết.
Anh có thể là một trong số đó.
Anh hiểu và anh thấy thông suốt, anh không còn thấy kiệt sức hay run rẩy nữa. Không gì có thể tiếp sức lực cho con người nhiều như chiến tranh – không phải thức ăn, tiếng cười hay lao động chân tay, cả cả tình yêu cũng không phải – và dù ghét chiến tranh nhưng anh không thể chống lại sức quyến rũ của nó. Anh chưa bao giờ muốn làm một chiến binh nhưng anh đã trở thành một chiến binh và anh sẽ làm điều tốt nhất,
Roran che mắt nhìn qua đống đá phiến về cánh cổng đang nhanh chóng tiến tới. Trên mặt nước, cổng làm bằng sồi cứng, đen lại vì dùng lâu và ăn mòn. Bên dưới mặt nước, anh biết là lưới đan bằng sắt thép và gỗ cho dòng nước dễ dàng lưu thông. Phần bên trên là phần khó bẻ gẫy nhất, nhưng anh đoán thời gian sử dụng lâu đã khiến phần dưới yếu đi. Khi phần bên dưới bị đâm thủng, phần bên trên cũng dễ dàng đi tong thôi. Vì thế, anh đã ra lệnh cho đặ hai khúc gỗ gắn chặt bên dưới chiếc xà lan đầu tiên. Chúng sẽ tổng thẳng vào nửa dưới của cổng khi phần gỗ sẽ tổng vào phần trên.
Đây là một kế hoạch thông minh nhưng anh không biết có thành công không.
“Đững vững nha,” anh nói với mình anh hơn là nói với mọi người khi cánh cổng ngày càng gần.
Vài chiến binh bên rìa xa f lan tiếp tục điều khiển dùng gậy điều khiển xà lan, nhưng phần còn lại vẫn trốn bên dưới lớp khiên.
Cánh cổng gần hơn bao giờ hết, đường vòng cung dẫn tới cổng lớn lên trước mắt họ, trông nó như lối vào động. Khi đầu xà lan trôi vào trong đường vòm tối om, Roran nhìn thấy khuôn mặt một người lính, tròn và trắng như trăng rằm xuất hiện trên bức tường, cao hơn họ độ chín mét nhìn xuống cảnh cổng với sự kinh ngạc tới kinh hoàng.
Những chiếc xà lan di chuyển quá nhanh, Roran chỉ có thể thời lẩm bẩm một câu chửi duy nhất trước khi dòng nước đẩy họ đi vào con đường tôi om, anh không còn nhìn thấy tên lính kia nữa.
Xà lan đâm vào cổng.
Lực tác động khiến Roran nhào vào bức tường đá phiến đằng sau. Đầu anh đập vào đá và dù anh đội mũ trụ và mũ bảo vệ bên trong, tai anh vẫn ong lên. Xà lan rung lên và dù anh đang ù tai anh vẫn nghe thấy tiếng gỗ gẫy và tiếng kim loại bị cong vênh.
Một trong những tảng đá phiến trượt ra phía sau rơi trúng anh khiến anh thâm tím tay và vai. Anh dùng hết sức đẩy nó ra khỏi thuyền.
Trong ánh sáng nhờ nhờ, anh không thể nhìn thấy rõ chuyện gì xảy ra; tất cả chỉ có những cử động không rõ ràng và những âm thanh vọng lại. Nước tràn lên chân anh, anh nhận ra xà lan bị dò nhưng liệu có bị chìm không thì anh không chắc.
“Đưa rìu cho tôi!” anh hét và giơ tay ra sa, “Rìu, đưa tôi rìu!”
Anh loạng choạng vì chiếc xà lan vọt lên trước độ nửa mét. Cánh cổng bị lung lay nhưng không nhiều. Lực nước vẫn đẩy thuyền vô cổng nhưng anh không thể chờ đợi nổi nữa.
Ai đó đặt rìu vô lòng bàn tay anh. Anh nhìn thấy sáu ô trên trần hầm phát sáng vì những cung thủ đã tháo gạch giơ cung nhắm bắn.
Có người kêu thét lên.
“Carn!” Roran hét. “LÀm gì đi!”
Kệ cho pháp sư với nhiệm vụ của mình, Roran bắt đầu trèo lên đầu thuyền. Xà lan hơi lún về phía trước một chút. Một tiếng gào chói tai khác vang lên từ giữa cánh cổng và ánh sáng rọi qua những vết nứt trên cảnh cổng gỗ sồi.
Một mũi tên nữa bắn trúng đống đá phiến bên tay phải anh, để lại một vệt kim loại khắc lên tảng đá.
Anh cần nhanh gấp đôi.
Khi tới mũi thuyền, một âm thanh chói lói vang lên khiến anh bịt tai lùi lại.
Một cơn sóng lớn chùm lên người anh, che khuất tầm nhìn của anhh trong giây lát. Anh chớp mắt nhìn cho rõ và thấy một phần canahs cổng đã sập; giờ đoàn xà lan có thể tiến vào thành phố rồi. Nhưng, bên trên đoàn thuyền, những mảnh gỗ vụn đâm tua tủa từ phần còn lại của cánh cổng cao ngang với ngực, cổ và đầu người.
Roran không chần chừ lăn lùi lại và nằm xuống. “Cúi đầu xuống!” anh hét và dùng khiên che người.
Xà lan lao về phía trước, vượt qua những tên cung thủ đang nhắm bắn và lao vào căn phòng đá lớn với đuốc thắp sáng trên tường.
Ở đầu kiam nước từ con sông chảy vào một canh cổng thấp khác, từ đầu đến cuối đều là khung lưới. Qua những ô vuông, Roran có thể nhìn rõ những tòa nhà bên trong.
Hai bên căn phòng là những bậc thang đá cho người ta chất và dỡ hàng. Ròng rọc, dây kép và những cái lưới không treo trên tường và những cần trục đặt trên một mặt đá phẳng. Phía đầu căn phòng và đằng cuối, những cầu thang và lối đi dẫn người ta đi qua con sông mà không dính nước. Những lối đi gần rìa tiến được tới phòng bảo vệ bên trên đường hầm họ đã đi qua và Roran đoán và dẫn tới những khu phòng thủ lớn hơn khác của thành phố, như tới bức tường phòng thủ mà anh đã nhìn thấy tên lính.
Anh thất vọng khi nhìn cánh cổng thấp kia. Anh hy vọng sẽ tiến thẳng vào trong thành phố và tránh khỏi bị những tên lính tấn công khi họ đang trên thuyền.
Được, vậy là giờ không dùng cách này được nữa rồi, anh nghĩ.
Đằng sau anh, những tên lính mặt đỏ tía tai chạy ra từ phòng bảo vệ, quỳ xuống và bắt đầu giương cung nhắm bắn.
“Đằng đó!” Roran hét và chỉ về phía cầu cảng phía tay trái. Những chiến binh nắm lấy xào một lần nữa và đẩy xà lan về cuối con kênh. Hàng tá hàng ta mũi tên cắm vào khiên khiến chiếc thuyền có hình con nhím
Khi xà lan gần các bến cảng, hai mươi tên lính rút kiếm và chạy xuống cầu thang đón đầu quân Varden trước khi họ bước xuống.
“Nhanh!” anh hét.
Một mũi tên căm lên khiến của anh và đầu mũi tên hình kim cương chỉ còn cách tay anhh có 0.5cm. Anh suýt ngã và anh biết anh chỉ có vài giây nữa trước khi có nhiều tên khác muốn bắn vào anh.
Roran nhảy lên cầu cảng, giang rộng tay giữ thăng bằng. Anh hạ cánh nặng nề , một bên đầu gối đập xuống sàn nhà và chỉ có đủ thời gian lôi cây búa trước khi những tên lính tới gần.
Anh cảm thấy nhẹ nhóm và vui thú khi nhìn thấy họ. Anh ốm về hoạch định vẽ vời kế hoạch. Giờ anh được đối mặt với kẻ thù thực sự. Không phải những tên thích khác kinh tởm – mà an có thể đánh giết.
Vụ đụng dộ diễn ra ngắn ngủi nhưng dữ dội và đẫm máu. Roran giết hoặc làm bị thương ba tên linh ngay từ những giây đầu tiên. Sau đó, Baldor, Delwin, Halmund, Mandel và những người khác cùng anh khiến những tên lính tránh xa dòng sông.
Roran không phải một kiếm sĩ, vì thế anh không cố đấu kiếm với kẻ thù. Thay vào đó, anh để chúng đánh trúng khiên nếu muốn trong khi dùng búa đập gẫy xương chúng. Đôi lúc, anh phải đỡ kiếm nhưng anh cố không giao đấu nhiều hơn vài đường với một người vì anh biết sự thiếu kinh nghiệm của anh sẽ để anh lộ ra những sơ hở chết người. Anh đã phát hiện ra ngón nghề hay nhất trong đánh nhau không phải là những pha xoay kiếm tuyệt vời hay những động tác giả phức tạp do nhiều năm rèn luyện mà là chiếm thế chủ động và làm những gì kẻ thù ít ngờ tới nhất.
Thoát khỏi cuộc vây đánh, Roran lao lên cầu thang dẫn tới lối đi bộ có các cung thủ đang nắm bắn binh lính trên thuyền.
Roran nhảy lên ba bậc thang một và vung búa đập thẳng vào mặt tên cung thủ thứ nhất. Tên thứ hai đã bắn tên vì thế hắn đành hạ cùng xuống, vươn tay tìm đoản kiếm.
Nhưng hắn chỉ rút được nửa con dao khỏi vỏ thì Roran đã đánh mạnh vào ngực hắn,, khiến hắn gẫy xương sườn.
Một trong những điều Roran thích khi dùng búa là anh không phải quan tâm nhiều tới loại giáp đối thủ dùng. Một cây búa, giống như bất cứ loại vũ khí tù đầu khác, gây ra vết thương bởi lực tác động chứ không phải vì những vết chém cắt lên da thịt. Anh thích sự đơn giản đó.
Tên lính thứ ba trên đường định bắn anh trước khi anh bước thêm một bước. Lần này, mũi tên chọc qua khiên tới nửa và suýt xuyên vào ngực anh. Anh giữ mũi nhọn chết người đó tránh xa, anh tấn công vào vai hắn. Hắn sử dụng cung để đỡ vì thế Roran dùng mặt khiên đánh ngã hắn, hiến hắn la thét khi ngã dập người vào lan can đường đi bộ.
Kế hoach của Roran biến anh thành một mục tiêu dễ công kích. Khi anh chú ý tới năm tên còn lại thì ba tên đã nhắm thẳng vào ngực anh.
Những tên lính bắn cung.
Trước khi những mũi tên xuyên qua anh, chúng vặn vẹo và lệch sang phải, bay chéo qua những bức tường tối đen như những con ong vò vẽ khổng lồ đang giận dữ.
Roran biết Carn đã cứu anh, và anh sẽ tìm cách cám ơn pháp sư ngay khi họ không còn trong cơn nguy hiểm chết người này nữa.
Anh lao về phía những tên lính còn lại và hạ gục chúng bằng những cú đánh mạnh mẽ như thể chúng chỉ là những cái đinh cong anh cần đóng xuống. Sau đó anh bẻ gẫy mũi tên cắm trên khiên vf quay lại quan sát trận chiến.
Lúc đó tên lính cuối cùng đã đổ gục trên mặt đất bê bết máu, đầu hắn đứt lìa, rơi xuống sông.
Hai phần ba số quân Varden đã lên bờ, xếp hàng bên bờ sông.
Roran mở miệng định ra lệnh cho họ tản khỏi dòng sông – để những người còn trên thuyền có chỗ mà lên – thì cánh cửa bên trái mở toang và một đội lính xông vào.
Chết tiệt! Chúng tới từ đâu vậy! Có bao nhiêu tên đây?
Ngay khi Roran định bước lên cầu thang giúp đồng đội chống đỡ những kẻ mới, Carn – từ này giờ vẫn đứng đầu thuyền – giơ tay chỉ vào những tên lính và niệm chú bằng ngôn ngữ cổ.
Như anh ta muốn, hai túi bột và một tảng đá phiến bay lên khỏi thuyền và bay về phía những tên lính, hạ gục 12 tên. Sau ba bốn lần va chạm, túi bột bung ra, thứ bột trắng ngà phủ lên người chúng, khiến chùng mù mắt và khó thở.
Một giây sau, một ngọn lửa xuất hiện đằng sau chúng – một quả cầu lửa lớn màu vàng cam chạy qua đám mây bột, tham tàn nuốt chúng và tạo ra âm thanh như hàng trăm lá cờ bay phấp phới trong gió.
Roran che khiến và cảm nhận được sức nóng trên chân và lớp da trần ở ngực khi quả cầu thiêu cháy chỉ cách đó vài mét biến những hạt bột thành bụi rơi xuống: một cơn mưa đen, chết chóc chỉ hợp cho một đám tang.
Khi thứ ánh sáng chết chóc đó yếu đi, Roran cẩn trong ngẩng đầu. Khói có mùi hôi thối, nóng nực xộc vào mũi anh, làm cay mắt anh và anh nhận ra râu bị cháy. Anh nguyền rủa và hạ búa xuống dập lửa.
“Này!” anh hét gọi Carn. “Anh đốt râu tôi rồi! Cẩn thận hơn đi, không tôi phi giáo vào đầu anh đấy!”
Hầu hết những tên lính đang nằm lăn lộn dưới đất tay che khuôn mặt bị bỏng. Những tên khác dập lửa cháy quần áo, trên giáp trong khi cố chống những đòn tấn công khác của Varden. Những binh sĩ của Roran có vẻ chỉ bị vài vết bỏng nhỏ - hầu hết đều tránh xa tầm ảnh hưởng của quả cầu lửa – dù trận hỏa hoạn bất ngờ đó khiến họ bối rối đôi chút.
“Đừng đừng nhìn như mấy gã ngốc nữa mà hãy tóm lấy mấy thằng nhãi mù dở trước khi chúng phục hồi đi!” anh ra lệnh và gõ búa lên lan can để họ chú ý.
Varden đông hơn số lính và khi Roran xuống thang, họ đã giết chết ba phần tư số linh gác.
Roran đi về phía cánh cửa đôi lớn dẫn ra khỏi con kênh – cánh cửa lớn đủ cho hai xe ngựa đi song song qua. Anh đi qua Carn, đang ngồi trên đường, ăn đồ ăn từ túi da anh luôn mang theo. Roran biết trong túi đó là hỗn hợp của mỡ lợn, mật ong, gan bò giã nhỏ, tim cừu và quả việt quất. Có một lần Carn cho anh một miếng, anh nhổ ra – nhưng chỉ một miếng thôi đã đủ giúp một người duy trì thể lực sau cả ngày làm việc cực nhọc.
Pháp sư trông kiệt sức. “Anh tiếp tục nổi không?” Roran hỏi.
Carn gật đầu. “Tôi chỉ cần nghỉ một lát... Mấy mũi tên trong đường hầm rồi túi bột và đá...” Anh cắn thêm một miếng nữa. “Hơi quá sức chút.”
Roran thấy yên tâm định bỏ đi thì carn nắm lấy tay anh. “Tôi không làm,” anh nói và mắt hấp hay vui vẻ. “Đốt râu anh ấy. Đấy là do mấy ngọn duốc.”
Roran càu nahuf và tiếp tục đi về cửa. “Tập hớp!’ anh hét và dùng búa đập lên khiên. “Baldor, Delwin cùng tôi đứng hàng tiên phong. Những người còn lại đi sau. Chuẩn bị sẵn sàng. Có thể Halstead chưa biết chúng ta đã vào thành phố nhưng đừng để ai trốn thoát báo tin... Sẵn sàng chưa? Vậy thì đi với tôi!”
Anh cùng Baldor – má và mũi đỏ lựng vì vụ cháy – mở toang cửa bước vào Aroughs.
‹ 19. BẠN VÀ THÙ
lên
21. KHÓI BỤI ›
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top