inferno chương 21-32
Chương 21
"Xin lỗi!", Robert Langdon đuổi theo sau nhóm sinh viên. "Xin thứ lỗi!"
Tất cả bọn họ quay lại, và Langdon giả bộ nhìn xung quanh một lượt như một du khách lạc đường.
"Học viện Nghệ thuật Quốc gia ở đâu nhỉ?", Langdon hỏi bằng thứ tiếng Ý nhát gừng.
Một cậu chàng xăm trổ thản nhiên rít một điếu thuốc lá và đáp lại vẻ không mấy thân thiện, "Chúng tôi không nói tiếng Ý".Giọng cậu ta mang ngữ điệu Pháp.
Một cô gái trách móc cậu bạn xăm trổ và lịch sự chỉ tay dọc theo bức tường dài về phía Porta Romana. "Qua về phía kia, cứ đi thẳng về phía trước."
Cứ đi thẳng về phía trước, Langdon dịch lại."Rất cảm ơn!"
Đúng lúc đó, Sienna xuất hiện mà không để ai nhìn thấy từ phía sau buồng vệ sinh và tiến lại. Cô gái ba mươi hai tuổi yểu điệu bước đến gần nhóm sinh viên, Langdon đặt một bàn tay lên vai cô. "Đây là em gái tôi, Sienna. Cô ấy là giáo viên nghệ thuật."
Cậu trai xăm trổ lấm bẩm."T-I-L-F13'', và đám bạn trai của cậu ta cười phá lên.
Langdon mặc kệ bọn họ. "Chúng tôi đến Florence để nghiên cứu những địa điểm khả dĩ, chuẩn bị cho một năm giảng dạy ở nước ngoài. Chúng tôi đi cùng các bạn được không?"
"Được thôi ạ", cô gái người Ý mỉm cười nói.
Khi cả nhóm tiến về phía cảnh sát ở Porta Romana, Sienna đã say sưa trò chuyện cùng đám sinh viên còn Langdon lẩn vào giữa nhóm, cúi thấp xuống, cố gắng không để lọt vào tầm nhìn.
“Hãy tìm kiếm và anh sẽ thấy”, Langdon nghĩ thầm, mạch đập của anh rộn lên cảm giác phấn khích khi hình mười rãnh ở Malebolge.
“Catrovacer”. Mười chữ cái này, Langdon nhận ra, đặt ở lối một trong những bí mật khó hiểu nhất trong thế giới nghệ thuật, một câu đố trải qua hàng thế kỷ nhưng vẫn chưa có lời giải. Năm 1563, mười chữ cái này được dùng để đánh vần một thông điệp cao tít trên bức tường bên trong Cung điện Vecchio nổi danh của Florence, được viết cách mặt đất khoảng mười hai mét, khó lòng nhìn thấy được nếu không có ống nhòm. Nó vẫn giấu mình ở đó nếu nhìn bằng mắt thường trong suốt nhiều thế kỷ cho tới những năm 1970, khi một thầy thuốc chấn bệnh giờ đây đã nổi danh phát hiện ra, và ông đã mất nhiều thập kỷ cố gắng khám phá ý nghĩa của nó. Mặc dù có nhiều giả thuyết khác nhau, nhưng cho tới ngày nay ý nghĩa của thông điệp vẫn là một bí ẩn.
Với Langdon, bức mật mã giống như một sân chơi quen thuộc - một bến cảng an toàn để tránh khỏi vùng biển xa lạ đang nổi song này. Rốt cuộc, lịch sử nghệ thuật và những bí ẩn cổ xứa mới là lãnh địa thật sự của Langdon chứ không phải các ống nghiệm chất độc sinh học và súng ống.
Phía trước, lại có thêm xe cảnh sát bắt đầu đổ về Porta Romana.
"Chúa ơi", cậu trai xăm trổ nói."Người họ đang săn tìm chắc phải làm việc gì đó rất kinh khủng."
Cả nhóm đi tới cổng chính của Học viện Nghệ thuật bên tay phải, nơi một đám đông sinh viên đã tụ tập để xem sự việc diễn ra ở Porta Romana. Nhân viên bảo vệ hưởng mức lương tối thiểu của nhà trường liếc nhìn thẻ sinh viên một cách qua loa chiếu lệ lúc đám sinh viên ồ ạt tràn vào trong,
nhưng rõ ràng anh ta chú
ý đến những gì đang diễn ra cùng với đám cảnh sát hơn.
Có tiếng phanh xe rít lên, vang khắp quảng trường khi một xe thùng màu đen đã quá quen thuộc đỗ xịch tại Porta Romana.
Langdon không cần nhìn lần thứ hai.
Không nói một lời, anh và Sienna chớp lấy cơ hội, lẻn qua cổng cùng với những người bạn mới của họ.
Con đường đi vào Học viện Nghệ thuật Quốc gia đẹp đến ngỡ ngàng, gần như Vương giả. Những cây cối sum suê cành lá, tạo thành một vòm lá khuôn lấy tòa nhà phía xa - một cấu trúc đồ sộ sơn vàng, đã ngả màu, với một vòm cổng ba lối vào và một bãi cỏ hình bầu dục trải rộng.
Langdon biết rõ tòa nhà này được đặt mua, giống như rất nhiều tòa nhà khác trong thành phố, bởi một triều đại nổi tiếng không kém từng thống trị chính giới Florence trong ba thế kỷ IV, XVI và XVII.
Gia tộc Medici. Chỉ riêng tên gọi đó đã trở thành một biểu tượng của Florence. Suốt giai đoạn trị vì kéo dài ba thế kỷ, gia tộc Medici đã tích lũy được số tài sản và có tầm ảnh hưởng không sao hình dung nổi, đồng thời sản sinh ra bốn giáo hoàng, hai hoàng hậu của nước Pháp, và cơ sở tài chính lớn nhất châu Âu. Cho tới ngày nay, những ngân hàng hiện đại vẫn sử dụng phương pháp kế toán do gia tộc nghĩ ta - hệ thống bút toán kép gồm cả bên có và bên nợ.
Tuy nhiên, di sản vĩ đại nhất của nhà Medici lại không phải về tài chính hay chính trị, mà về nghệ thuật. Có lẽ là những nhà bảo trợ hào phóng nhất mà thế giới nghệ thuật từng biết, gia tộc Medici chi các khoản tiền thưởng hào phóng giúp tiếp sức cho trào lưu Phục Hưng. Danh sách các danh nhân nhận được bảo trợ của nhà Medici gồm Da Vinci, Galileo và Botticelli - người có bức vẽ nổi tiếng nhất, bức Thần Vệ nữ chào đời, chính là kết quả của một khoản tiền thưởng từ Lorenzo de' Medici. Người này đã yêu cầu một bức vẽ gợi dục để treo phía trên giường ngủ của vợ chồng người em họ như một món quà cưới.
Lorenzo de' Medici - sinh thời được biết đến với biệt danh Lorenzo Cao thượng bởi tính cách hào phóng - cũng chính là một nghệ sĩ kiêm thi sĩ kỳ tài được mệnh danh có một con mắt siêu việt. Năm 1489, Lorenzo say mê tác phẩm của một nhà điêu khắc Florence trẻ tuổi và đã mời anh ta chuyển tới sống tại lâu đài của gia đình Medici, nơi anh có thể hành nghề trong môi trường mỹ thuật, thi ca và văn hóa đỉnh cao. Dưới sự giám hộ của nhà Medici, chàng thiếu niên trưởng thành và cuối cùng đã tạc lên hai tác phẩm điêu khắc lừng danh nhất trong lịch sử - Pietà và David. Ngày nay, chúng ta biết đến người đó với tên gọi Michelangelo - một tài năng sáng tạo, đôi khí được xem như món quà lớn nhất mà gia tộc Medici tặng cho nhân loại.
Nghĩ đến niềm đam mê nghệ thuật của nhà Medici, Langdon tưởng tượng rằng gia tộc này sẽ rất hài lòng khi biết rằng tòa nhà trước mặt anh - ban đầu được xây làm chuồng ngựa chính của gia tộc Medici - đã được cải tạo thành Học viện Nghệ thuật. Địa điểm thanh bình truyền cảm hứng cho các nghệ sĩ trẻ này lại từng được chọn làm chuồng ngựa riêng của nhà Medici chỉ vì nó ở gần một trong những khu vực cưỡi ngựa đẹp nhất Florence, vườn Boboli.
Langdon liếc nhìn sang trái, nơi có thể nhìn rõ cả rừng toàn những ngọn cây phía bên kia bức tường cao ngất. Không gian rộng lớn của vườn Boboli giờ đây là một địa điếm du lich quen thuộc, Langdon tin chắc rằng nếu có thế vào được vườn này, anh và Sienna sẽ lần qua đó và đi vòng tránh khỏi Porta Romana mà không bị phát giác. Xét cho cùng, khu vườn đất rộng và không thiếu chỗ ẩn náu - những khu rừng, mê cung, hang động. Quan trọng hơn, băng ngang qua vườn Boboli sẽ dẫn họ tới Cung điện Pitti, tòa thành bằng đá từng là nơi ở chính của đại công tước nhà Medici, và nơi có một trăm bốn mươi gian phòng này vẫn là một trong những điểm du lịch thường xuyên nhất ở Florence.
Nếu chúng ta có thể tới được Cung điện Pitti, Langdon nghĩ thầm, thì cây cầu dẫn tới thành cổ chỉ cách đó một tầm ném đá.
Langdon hết sức bình thản chỉ về phía bức tường cao bao quanh khu vườn. "Làm thế nào vào được trong vườn?", anh hỏi. "Tôi rất muốn cho em gái mình thăm vườn trước khi chúng tôi đi dạo quanh học viện."
Cậu trai xăm trổ lắc đầu."Anh chị không thể vào được vườn từ đây đâu. Lối vào chỗ Cung Pitti cơ. Anh chị phải lái xe qua Porta Romana và đi vòng."
"Vớ vấn", Sienna buột miệng.
Tất cả mọi người ngoảnh lại và đăm đăm nhìn cô, kể cả Langdon.
"Thôi đi", cô nói, cười bẽn lẽn với đám sinh viên trong lúc vẫn lại túm tóc đuôi ngựa vàng óng của mình."Có phải các cậu đang bảo tôi rằng các cậu không hề lẻn vào vườn để hút cần sa và giết thời gian phải không?"
Đám trẻ đưa mắt nhìn nhau rồi phá lên cười.
Anh chàng xăm trổ tỏ ra vô cùng hối lỗi."Chị ơi, chị nên về đây dạy học thôi." Cậu ta dẫn Sienna tới bên hông tòa nhà và đi vòng qua góc tới một bãi đỗ xe phía sau. "Chị nhìn thấy nhà xưởng bên trái không? Có một cái bục cũ phía sau đó.Cứ trèo lên nóc là chị có thể nhảy xuống bên kia tường."
Sienna đã thực hành ngay.Cô liếc nhìn lại Langdon kèm một nụ cười kẻ cả. "Đi nào, anh trai Bob. Trừ khi anh già quá nên không trèo rào được nữa?"
13 Tiếng lóng: Teacher I'd like to F*** (Tôi muốn ngủ cùng cô giáo)
Chương 22
Người phụ nữ tóc bạc trên xe thùng dựa đầu vào ô cửa số chống đạn và nhắm mắt lại. Bà cảm thấy thế giới quay cuồng dưới chân. Những vỉên thuốc người ta cho bà uống khiến bà cảm thấy mệt rũ.
Mình cần chăm sóc y tế, bà nghĩ.
Mặc dù vậy, gã vệ sĩ có vũ trang bên cạnh bà đã nhận được mệnh lệnh nghiêm ngặt: “Không quan tâm đến các nhu cầu của bà cho đến khi nhiệm vụ của họ kết thúc thành công.” Căn cứ vào những âm thanh hỗn loạn xung quanh thì rõ ràng sắp đến lúc đó rồi.
Gỉờ thì cảm giác chóng mặt càng tăng lên, và bà cảm thấy rất khó thở. Trong lúc cố nén một cơn buồn nôn mới đang cồn lên, bà tự hỏi sao cuộc đời lại xô đẩy mình đến giao lộ kỳ quái này. Câu trả lời quá phức tạp nên không thể giải đáp được khỉ bà ở trong trạng thái mê man như lúc này, nhưng bà biết rõ nó bắt đầu từ đâu.
New York.
Hai năm trước.
Bà bay tới Manhattan từ Geneva, nơi bà giữ cương vị giám đốc Tổ chức Y tế Thế Giới, một vị trí uy tín và được nhiều người thèm khát. Bà đã đảm nhận công việc này suốt gần một thập kỷ. Là một chuyên gia về bệnh lây truyền và dịch tễ học bệnh dịch, bà được mời tới Liên Hiệp Quốc để trình bày về hiểm họa của bệnh dịch tại các nước thuộc thế giới thứ ba. Bà nói chuyện rất lạc quan và khiến người khác vững dạ, phác họa ra một vài hệ thống phát hiện sớm bệnh tật rất mới mẻ cùng các kế hoạch điều trị mà WHO và những tổ chức khác vạch ra. Bà đã nhận được sự ủng hộ mạnh mẽ.
Ngay sau bài diễn thuyết, trong khi bà đang trò chuyện cùng một số học giả còn nán lại trong sảnh thì một nhân viên Liên Hiệp Quốc đeo phù hiệu ngoại giao cấp cao bước lại, xen vào giữa cuộc trò chuyện.
"Thưa tiến sĩ Sinskey, Hội đồng Quan hệ Đối ngoại vừa liên hệ với chúng tôi. Có người ở đó muốn nói chuyện với bà. Đã có xe đợi sẵn bên ngoài."
Bối rối và có phần lo lắng, tiến sĩ Elizabeth Sinskey cáo lui và chuẩn bị hành lý đi công tác qua đêm. Khi chiếc limousine lao vào Đại lộ 1, bà bắt đầu có cảm giác lo lắng kỳ lạ.
Hội đồng Quan hệ Đối ngoại ư?
Elizabeth Sinskey, như hầu hết mọi người, đã nghe nhiều lời đồn đại.
Thành lập vào những năm 1920 với tư cách nhóm chuyên gia cố vấn bí mật, trong số thành viên của Hội đồng có mặt gần như tất cả các ngoại trưởng, gần chục vị Tổng thống đa số các đời giám đốc CIA, các thượng nghị sĩ, thẩm phán cùng những tên tuổi huyền thoại như Morgan, Rothschild, và Rockefeller. Tập hợp trí tuệ, ảnh hưởng chính trị và tài sản ít ai bì kịp của các thành viên giúp cho Hội đồng Quan hệ Đối ngoại nổi tiếng là "Câu lạc bộ bí mật quyền lực nhất trên trái đất".
Là giám đốc Tổ chức Y tế Thế Giới, Elizabeth không xa lạ gì việc tiếp xúc gần gũi các nhân vật tai to mặt lớn. Thời gian công tác rất lâu ở WHO, kết hợp với bản tính thẳng thắn, đã giúp bà được một tờ tạp chí tin tức lớn gần đây xếp vào tốp hai mươi nhân vật có ảnh hưởng nhất thế giới. Gương mặt đại diện cho sức khỏe của thế giới, họ đã viết như vậy bên dưới ảnh của bà, chi tiết mà Elizabeth cảm thấy rất hài hước bởi bà từng là một đứa trẻ ốm yếu.
Bà mắc bệnh hen suyễn nặng năm lên sáu tuổi và được điều trị bằng một loại tân dược liều cao đầy hứa hẹn - loại glucocorticoid hay steroid hormone đầu tiên trên thế gỉớỉ - giúp chữa khỏi các triệu chứng suyễn một cách thần kỳ. Nhưng thật không may, tác dụng phụ khôn lường của thuốc không xuất hiện ngay, mà mãi nhiều năm sau này khi Sinskey đến tuổi dậy thì nhưng không thấy xuất hiện chu kỳ kinh nguyệt. Bà không bao giờ quên được thời khắc đen tối tại phòng mạch của bác sĩ, năm bà mười chín tuối, khi biết rằng hệ sinh sản của mình đã bị tổn thương vĩnh viễn.
Elizabeth Sinskey sẽ chẳng bao giờ có con.
Thời gian sẽ chữa lành nỗỉ đau, bác sĩ của bà an ủi, nhưng nỗi buồn và cơn giận dữ vẫn trào dâng trong lòng bà. Thật ác nghiệt, loại thuốc đã cướp đi của bà khả năng thụ thai lại không thể lấy luôn của bà những bản năng rất xác thịt muốn được làm việc ấy. Suốt nhiều thập kỷ, bà đã phải vật lộn với khao khát thỏa mãn cái ước vọng không thành hiện thực này. Thậm chí cho đến bây giờ, ở tuối sáu mươi mốt, bà vẫn cảm thấy nhói đau vớỉ nỗi trống rỗng mỗi lần nhìn thấy một người mẹ và đứa con thơ.
"Ngay phía trước rồi, tiến sĩ Sinskey", người lái limousine nói.
Elizabeth nhanh tay vuốt những lọn tóc màu bạc dài và nhìn lại gương mặt mình trong gương. Bà chưa kịp định hình thì xe đã dừng lại, và người lái xe giúp bà bước lên vỉa hè một khu dân cư giàu có của Manhattan,
"Tôi sẽ đợi bà ở đây", người lái xe nói. "Chúng ta có thể đi luôn ra sân bay khi bà sẵn sàng."
Tổng hành dinh của Hội đồng Quan hệ Đối ngoại tại New York là một tòa nhà kiểu tân cổ điển không mấy gây chú ý nằm ở góc phố Park và Đại lộ Sáu tám, vốn từng là trụ sở của tập đoàn Standard 011. Bề ngoài của tòa nhà hòa hợp với cảnh quan trang nhã xung quanh, nên không hề gợi ra dấu hiệu gì về mục đích đặc biệt của nó.
"Tiến sĩ Sinskey", cô nhân viên lễ tân có vóc người đẫy đà chào bà. "Xin đi theo lối này! Ông ấy đang đợi bà."
Được rồi, nhưng ông ấy là ai nhỉ? Bà theo chân nhân viên lễ tân đi dọc hành lang sang trọng tới một cánh cửa đóng kín. Cô gái gõ nhanh rồi mở cửa và ra hiệu cho Elizabeth bước vào.
Bà đi vào, khép cánh cửa lại phía sau lưng.
Phòng họp nhỏ hẹp và tối chỉ được chiếu sáng nhờ quầng sáng của một màn hình video. Ngay phía trước màn hình, một bóng người mảnh khảnh và cao lêu nghêu đối diện với bà. Mặc dù không sao nhìn rõ gương mặt ấy, nhưng bà cảm nhận được quyền lực ở đây.
"Tiến sĩ Sinskey", giọng nói sắc lạnh của người đàn ông vang lên. "Cảm ơn bà đã tới gặp tôi." Chất giọng không lẫn vào đâu được của người đàn ông cho thấy ông ta là người cùng quê hương Thụy Sĩ với Elizabeth, hoặc có lẽ là Đức.
"Mời bà ngồi!", ông ta nói, ra hiệu về phía chiếc ghế đặt gần mé trước căn phòng.
Không giới thiệu gì sao? Elizabeth ngồi xuống. Hình ảnh kỳ quái đang được trình chiếu trên màn hình video làm bà thấy bất an. Có lẽ nào?
"Sáng nay tôi có mặt tại buổi trình bày của bà", bóng người kia nói. “Tôi đã đi cả quãng đường dài để nghe bà nói chuyện. Một buổi diễn thuyết rất ấn tượng."
"Cảm ơn ông", bà đáp.
"Cũng cho phép Tôi được nói rằng bà đẹp hơn tôi tưởng tượng rất nhiều, bất kể tuổi tác và quan điểm thiển cận của bà về y tế thế giới."
Elizabeth sửng sốt. Lời nhận xét hết sức khó chịu. "Sao cơ?", bà gặng hỏi, mắt nhìn đăm đăm vào khoảng tối. "Ông là ai? Và tại sao lại mời tôi đến đây?"
"Xin thứ lỗi cho câu nói đùa vô duyên của tôi", bóng đen cao kều đáp lại. "Hình ảnh trên màn hình sẽ giải thích lý do tại sao bà lại ở đây."
Sinskey nhìn hình ảnh hãi hùng - một bức vẽ mô tả cả một biển người, những toán người bệnh tật, tất cả đang giẫm đạp lên nhau trong đống lúc nhúc các xác người trần truồng.
"Nghệ sĩ vĩ đại Doré", người đàn ông nói. "Cách diễn đạt đặc biệt dữ dội của ông về hình ảnh địa ngục của Dante Alighieri. Tôi hy vọng bà vẫn thấy nó dễ chịu... bởi vì đó là nơí chúng ta sẽ đến." ông ta ngừng lại, từ từ lướt về phía bà. "Và cho phép tôi nói với bà lý do tại sao."
Ông ta vẫn tiếp tục tiến về phía bà, dường như càng lúc càng cao hơn sau mỗi bước chân. "Nếu tôi cầm mảnh giấy này và xé làm đôi..." ông ta dừng lại bên bàn, nhặt một tờ giấy lên và xé toạc làm đôi. "Và sau đó nếu tôi đặt hai nửa chồng lên nhau..." ông ta lại xé giấy, xếp chồng lên nhau. "Tôi tạo ra một tập giấy lúc này dày gấp bốn lần tờ giấy ban đầu, phải không?" Dường như đôi mắt ông ta lóe lên vẻ căm hờn trong bóng tốỉ của căn phòng.
Elỉzabeth không sao đánh giá được ông ta qua ngữ điệu và tư thế đầy vẻ hung hăng. Bà không nói gì cả.
"Nói một cách gỉả thuyết", ông ta tiếp tục, nhích lại gần hơn, "nếu tờ giấy ban đầu chỉ dày một phần mười milimet và tôi cứ lặp lại thao tác này... giả sử năm mươi lần... liệu bà có biết tập giấy sẽ cao chừng nào không?".
Elỉzabeth nổi cáu. "Tôi biết", bà đáp vớỉ thái độ hằn học hơn cả dự tính. "Nó sẽ là một phần mười milimet nhân hai lũy thừa năm mươi. Như thế gọi là cấp số nhân. Cho phép tôi hỏi tôi sẽ làm gì ở đây?"
Người đàn ông cười khẩy và gật đầu cảm kích: "Đúng, và bà có đoán được giá trị thực tế sẽ như thế nào không? Một phần mười milimet nhân hai lũy thừa năm mươi chăng? Bà có biết tập giấy của chúng ta sẽ cao chừng nào không?" ông ta chỉ dừng lại một lát. "Tập giấy của chúng ta, chỉ sau năm mươi lần nhân đôỉ, giờ đã gần như đủ kín đường tới mặt trời."
Elizabeth không lấy làm ngạc nhiên. Sức mạnh đáng kinh ngạc của tăng trưởng theo cấp số nhân là điều bà liên tục gặp phải trong công việc của mình. Những vòng tuần hoàn của quá trình nhiễm bệnh, quá trình tái tạo của các tế bào nhiễm bệnh... con số ước tính tỉ lệ tử vong. "Tôi xin lỗi nếu tôi có phần ngây ngô", bà nói, chẳng buồn che giấu thái độ bực dọc của mình. "Nhưng tôi không hiểu ý ông."
"Ý tôi ư?" Ông ta cười khàn. "Ý tôi là lịch sử tăng trưởng dân số nhân loại của chúng ta thậm chí còn ấn tượng hơn nữa. Dân số trái đất, giống như tập giấy của chúng ta, lúc mới đầu có là bao... nhưng tiềm năng thì ghê gớm."
Ông ta lại bước tớỉ. "Hãy nghĩ tới chuyện này. Dân số trái đất mất hàng nghìn năm - từ buổi bình mỉnh sơ khai của loài người tới đầu những năm 1800 - để đạt một tỉ người. Thế rồi, thật kỉnh ngạc, chỉ mất khoảng một trăm năm để dân số tăng gấp đôi lên hai ti vào những năm 1920. Sau đó, mới chỉ năm mươi năm, dân số lại tăng gấp đôi thành bốn tỉ vào những năm 1970. Như bà có thể hình dung, chúng ta đang trên đường đạt tới tám tỉ rất nhanh. Ngay hôm nay, loài người đã bổ sung thêm một phần tư triệu người cho hành tinh. Một phần tư triệu. Và điều này diễn ra hằng ngày - dù nắng hay mưa. Hiện tại, mỗi năm, chúng ta bổ sung thêm con số tương đương toàn bộ nước Đức."
Người đàn ông cao lêu nghêu dừng phắt lại, bóng ông ta đè lên Elizabeth. "Bà bao nhiêu tuổi rồi?"
Lại một câu hỏi khiếm nhã nữa, mặc dù là người đứng đầu WHO, bà đã quen gặp phải thái độ đối nghịch với phép ngoại giao. "Sáu mươi mốt."
"Bà có biết rằng nếu bà sống thêm mười chín năm, lúc đến tuổi tám mươi, bà sẽ chứng kiến dân số tăng gấp ba lần trong đời bà không. Một đời - gấp ba lần.
Hãy nghĩ đến mọi hàm ẩn. Bà biết đấy, Tổ chức Y tế Thế giới của bà bị nâng mức dự đoán, tiêu liệu rằng sẽ có khoảng chín tỉ người trên trái đất trước nửa đầu thế kỷ này. Các loài động vật đang bị tuyệt chủng với tốc độ tăng chóng mặt. Nhu cầu đối với các nguồn tài nguyên thiên nhiên ngày càng eo hẹp tăng vọt. Nước sạch ngày càng khan hiếm. Theo bất kỳ tiêu chuẩn đánh giá sinh học nào thì các giống loài của chúng ta đều đã vượt quá con số bền vững. Và khi đối mặt với thảm họa này, Tổ chức Y tế Thế giới - người gác cổng cho vấn đề sức khỏe của hành tinh - lại đang đầu tư cho những thứ như cứu chữa bệnh tiểu đường, làm đầy các ngân hàng máu, chống lại bệnh ung thư." ông ta ngừng lại, nhìn xoáy thẳng vào bà. "Và vì thế tôi mời bà tới đây để hỏi thẳng bà tại sao Tổ chức Y tế Thế giới lại không quyết tâm giải quyết vấn đề này trước nhất?"
Giờ thì Elizabeth giận sôi lên. "Cho dù ông là ai thì ông cũng biết rất rõ là WHO nhìn nhận tình trạng quá tải dân số rất nghiêm túc. Gần đây, chúng Tôi đã chi hàng triệu đô la để cử các bác sĩ tới châu Phi nhằm phát bao cao su miễn phí và giáo dục người dân về kiểm soát sinh đẻ."
"Và, đúng!", người đàn ông lêu nghêu chế giễu. "Và cả một đội quân giáo sĩ Công giáo còn đông hơn nữa đã theo chân bà tiến vào và bảo với người dân châu Phi rằng nếu họ sử dụng bao cao su, tất cả bọn họ đều sẽ xuống địa ngục. Châu Phi hiện có một vấn đề môi trường rất mới - những bãi rác ngập tràn bao cao su chưa sử dụng."
Elizabeth phải rất cố kiềm chế mới không nói gì. Về điểm này thì ông ta đúng, và các tín đồ Công giáo hiện đại đang đấu tranh lại cách can thiệp của Vatican về vấn đề sinh sản. Đáng chú ý nhất, bản thân Melinda Gates, một tín đồ Công giáo sùng đạo, cũng can đảm đối diện với thái độ giận dữ của nhà thờ khi cam kết giành năm trăm sáu mươi triệu đô la giúp cải thiện quyền tiếp cận phương pháp hạn chế sinh để trên toàn thế giới. Elizabeth Sinskey đã nhiều lần công khai nói rằng Bill và Melinda Gates xứng đáng được phong thánh vì những gì họ đã làm bằng quỹ cá nhân nhằm cải thiện tình hình sức khỏe thế giới. Buồn thay, tổ chức duy nhất có thể phong thánh lại không hề nhận ra bản chất rất Thiên Chúa giáo trong những nổ lực của họ.
"Tiến sĩ Sinskey", bóng người tiếp tục nói. "Tổ chức Y tế Thế giới không nhận ra rằng chỉ có một vấn đề y tế mang tính toàn cầu duy nhất." Ông ta lại chi vào hình ảnh kinh khủng trên màn hình - cái biển người lúc nhúc. "Và nó đây!", ông ta ngừng lại. "Tôi biết bà là một nhà khoa học, và vì thế có lẽ không phải là một sinh viên nghiên cứu mỹ thuật hay nghệ thuật cổ điển, nên cho phép tôi cung cấp một hình ảnh nữa có thể nói với bà bằng ngôn ngữ bà hiểu rõ hơn."
Căn phòng sầm tối một lúc, rồi màn hình sáng trở lại.
Hlnh ảnh mới là hình ảnh mà Elizabeth đã nhìn thấy nhiều lần, và nó luôn đem lại một cảm giác rất khó tả về sự tất yếu.
Căn phòng chìm trong im ắng nặng nề.
"Phải", cuối cùng người đàn ông cao lêu nghêu nói. "Tâm lý sợ hãi ngấm ngầm là phản ứng hoàn toàn thích đáng khi xem biểu đồ này. Nhìn nó có phần giống như trợn trừng mắt nhìn thẳng vào đèn pha một đầu tàu đang lao tới." Ngưồi đàn ông chậm rãi quay lại phía Elizabeth và nở một nụ cười nhún nhường, khó khăn. "Bà có hỏi gì không, tiến sĩ Sinskey?"
"Chi có một câu thôi", bà đáp trả. "Ông đưa tôi tới đây để rao giảng hay sỉ nhục tôi?"
"Không hề!" Giọng ông ta trở nên lạ lùng. "Tôi mời bà tới đây để hợp tác. Tôi tin chắc bà hiểu tình trạng quá tải dân số là một vấn đề y tế. Nhưng điều tôi sợ là nó sẽ ảnh hưởng đến linh hồn con người. Dưới sức ép của quá tải dân số, những người chưa từng nghĩ đến việc trộm cắp sẽ trở thành trộm cắp để nuôi sống gia đình mình. Những người chưa từng nghĩ đến việc giết người và sẽ giết người để nuôi con cái. Tất cả những tội lỗi đáng chết mà Dante đề cập - tham lam, tham ăn, dối trá, giết người và những tội khác - sẽ bắt đầu lan tràn trở nên thịnh hành trong xã hội loài người, và càng tăng mạnh do những thứ tiện nghi phù phiếm của chúng ta. Chúng ta đang đối mặt với một trận chiến để bảo vệ linh hồn con người."
"Tôi là một chuyên gia sinh học. Tôi cứu những mạng sống, không phải linh hồn."
"Vâng, Tôi có thể cam đoan với bà rằng việc cứu những mạng sống sẽ ngày càng khó khăn trong những năm tới. Tình trạng quá tải dân số phát triển nhanh hơn sự bất mãn về tinh thần rất nhiều. Có một thông điệp trong Machiavelli."
"Đúng", bà ngắt lời, nhắc lại nguyên văn câu trích dẫn nổi tiếng mà bà nhớ nằm lòng. "Khi mọi nơi trên thế giới kín đặc dân cư đến mức họ không thể sống nổi ở quê hương cũng không biết chuyển đi đâu nữa, thế giới sẽ tự thanh lọc." Bà đăm đăm nhìn ông ta. "Tất cả chúng tôi ở WHO đều rất quen với câu trích đó."
"Tốt lắm, vậy chắc bà biết rằng Machiavelli còn nói về các dịch bệnh như là cách tự thanh lọc rất tự nhiên của thế giới?"
"Đúng, và như tôi đã đề cập trong bài thuyết trình của mình, chúng tôi đều nhận thức rất rõ mối quan hệ tương liên trực tiếp giữa mật độ dân cư và khả năng xảy ra các đại dịch quy mô lớn, nhưng chúng tôi liên tục nghĩ ra các phương pháp phát hiện và điều trị mới. WHO vẫn tự tin rằng chúng tôi có thể ngăn chặn được các dịch bệnh trong tương lai."
"Thật đáng tiếc!"
Elỉzabeth trơ mắt nhìn vẻ không tin nổi, "Xin lỗi tôi không hiểu!"
"Tiến sĩ Sinskey", người đàn ông nói kèm theo một tiếng cười lạ lùng, "Bà nói về việc kiểm soát dịch bệnh cứ như thể đó là một vỉệc hay ho vậy!".
Bà há hốc miệng nhìn người đàn ông, sửng sốt không nói nên lời.
"Bà hiểu ra rồi đấy!", người đàn ông lêu nghêu nói, giọng như một luật sư đang kết luận vụ án của mình. "Tôi đứng đây cùng với gỉám đốc Tổ chức Y tế Thế giới - nhân vật cừ nhất mà WHO có. Một suy nghĩ kinh khủng, nếu bà nghĩ kỹ. Tôi cho bà xem hình ảnh về nỗi khốn khố sắp xảy ra này!"
Ông ta thay đổỉ màn hình, trở lại hình ảnh những xác người. "Tôi đã nhắc bà nhớ về sức mạnh đáng sợ của tình trạng gỉa tăng dân số không được kiểm soát." ông ta chỉ tập giấy nhỏ của mình. "Tôi đã khai sáng cho bà về thực tế rằng chúng ta đang đứng trên bờ vực của sự suy sụp về mặt tinh thần” - ông ta ngừng lại và hướng thẳng về phía bà. "Và phản ứng của bà? Bao cao su miễn phí ở châu Phi."
Người đàn ông nhếch mép cười giễu cợt. "Việc này có khác gì vung vỉ ruồi để chặn một tiểu hành tinh đang lao vào. Trái bom hẹn giờ không còn nhích từng giây nữa. Nó đã nổ tung rồi, và nếu không có những giải pháp quyết liệt, con số theo cấp số mũ sẽ thành Chúa trời mới của bà và “Ngài” sẽ là một vị Chúa báo thù rửa hận. Ngài sẽ mang tới cho bà hình ảnh địa ngục của Dante ngay ngoài kia, trên Đại lộ Park... những đám người lúc nhúc ngoi ngóp trong đống phân của chính mình. Một sự sàng lọc toàn cầu do chính tự nhiên sắp đặt."
"Vậy ư?", Elizabeth gắt lên. "Vậy hãy cho tôi biết, trong hình ảnh của ông về một tương lai bền vững, thế nào là dân số lý tưởng của trái đất? Con số kỳ diệu mà nhân loại có thể hy vọng duy trì chính mình một cách ổn định và tương đối thoải mái là gì?"
Người đàn ông cao ngồng mỉm cười, rõ ràng đáng giá cao câu hỏi. "Bất kỳ nhà sinh học môi trường hay chuyên gia thống kê nào cũng sẽ cho bà biết rằng cơ hội tốt nhất để nhân loại tồn tại lâu dài đều đi kèm với mức dân số toàn cầu khoảng bốn tỉ."
"Bốn tỉ ư?", Elizabeth vặc lại. "Dân số bây giờ đã là bảy tỉ, cho nên muộn mất rồi!"
Đôi mắt xanh lục của người đàn ông cao ngồng lóe lên ánh lửa. "Vậy ư?"
Chương 23
Robert Langdon đáp huỵch xuống nền đất xốp cây cối um tùm phía bên trong bức tường bao quanh khu vực phía nam của vườn Boboli. Sienna đáp xuống bên cạnh anh và đứng lên, phủi bụi rồi quan sát xung quanh một lượt.
Họ đang đứng trên một trảng rêu và dương xỉ ở rìa một vạt rừng nhỏ. Từ đây, Cung điện Pitti hoàn toàn bị chắn tầm nhìn, và Langdon cảm thấy họ ở xa cung điện cũng ngang với khoảng cách người ta có thể đi vào vườn. Ít nhất, không có nhân viên hay du khách tìm tới chỗ xa xôi này vào thời điểm sáng tinh mơ như bây giờ.
Langdon chăm chú nhìn một lối đi rải sỏi duyên dáng uốn lượn chạy sâu vào rừng trước mắt họ.Ở vị trí con đường khuất hẳn sau những rặng cây là một bức tượng cẩm thạch được đặt ở vị trí đắc địa để thu hút mọi ánh mắt. Langdon không lấy làm ngạc nhiên, vườn Boboli được ưu ái đón nhận tài năng thiết kế xuất sắc của Niccolò Tribolo, Giorgio Vasari, và Bernardo Buontalenti - một nhóm những nhân tài về thẩm mỹ đã sáng tạo nên một kiệt tác có thể đi bách bộ được trên tấm toan rộng hơn bốn mươi héc ta này.
"Nếu đi về phía đông bắc, chúng ta sẽ đến được cung điện", Langdon nói, chỉ tay theo lối đi. "Chúng ta có thể lấn vào du khách ở đó và thoát ra ngoài mà không bị phát hiện. Tôi đoán nó mở cửa lúc 9 giờ."
Langdon liếc mắt kiểm tra lại thời gian nhưng chỉ nhìn thấy cổ tay mình, nơi có chiếc đồng hồ chuột Mickey, hoàn toàn trống trơn. Anh thẫn thờ tự hỏi liệu nó có còn nằm ở bệnh viện cùng với số quần áo còn lại của anh và anh có thể lấy được nó không.
Sienna bước đi đầy cương quyết. "Robert, trước khi đi tiếp, Tôi muốn biết chúng ta định đi đâu. Lúc này anh đã nghĩ ra điều gì? Rãnh quỷ Maleboldge à? Anh nói nó không đúng trật tự?"
Langdon ra hiệu đi về phía một khu vực có cây cối ngay trước mặt. "Chúng ta hãy tránh khỏi tầm nhìn trước đã." Anh dẫn cô men theo lối đi lượn vòng vào một hốc kín - một "gian phòng", theo cách nói của giới kiến trúc cảnh quan - nơi có mấy băng ghế giả gỗ và một đài phun nước nhỏ. Không khí phía dưới những tán cây lạnh hơn hẵn.
Langdon lấy máy chiếu ra khỏi túi và bắt đầu lắc mạnh. "Sienna, người tạo ra hình ảnh số này không chỉ cho thêm các chữ cái vào những kẻ tội đồ ở Malebolge mà còn thay đổi trật tự các dạng tội lỗi." Anh nhảy lên đứng trên ghế, cao hơn hẳn Sienna, và chĩa máy chiếu xuống chân mình. Bức vựa Địa ngục của Bollicelli hiện lên mờ mờ trên mặt ghế bằng phẳng bên cạnh Sienna.
Langdon chi vào khu vực phân tầng ở dưới đáy vực hình phễu. "Cô có nhìn thấy những chữ cái ở mười rãnh Malebolge không?"
Sienna tìm mấy chữ đó trên hình chiếu và đọc từ trên xuống dưới. "Catrovacer." "Đúng rồi, chẳng có nghĩa gì cả!"
"Nhưng khi đó anh nhận ra mười cái rãnh đã bị xáo trộn phải không?"
"Thực tế còn dễ hơn thế. Nếu những tầng rãnh này là một cỗ mười lá bài thì cỗ bài đó chẳng xáo trộn gì nhiều nếu xén bớt đi một lớp. Sau khi xén đi, các lá bài vẫn giữ nguyên trật tự, nhưng lại bắt đầu bằng một lá bài khác." Langdon chỉ tay xuống mười rãnh Malebolge. "Theo văn bản của Dante, tầng trên cùng của chúng ta lẽ ra là những người lừa gạt bị quỷ sứ đánh đập. Thế nhưng, trong bản này, những kẻ lừa gạt xuất hiện ở tận phía dưới rãnh thứ bảy."
Sienna nhìn kỹ hình ảnh lúc này đang mờ dần bên cạnh mình và gật đầu. "Đúng,
Tôi thấy rồi. Rãnh đầu tiên giờ lại là thứ bảy."
Langdon bỏ máy chiếu vào túi rồi nhảy xuống đường. Anh nhặt lấy một que nhỏ và vạch các chữ cái ra một khoảng đất ngay bên đường. "Đây là các chữ cái theo thứ tự xuất hiện trong bản địa ngục đã bị chỉnh sửa của chúng ta."
C
A
T
R
O
V
A
C
E
R
"Catrovacer", Sienna đọc.
"Đúng. Và đây là chỗ "cỗ bài bị xén mất!" Langdon vẽ một vạch bên dưới chữ cái thứ bảy và đợi Sienna nghiên cứu bản vẽ đó.
C
A
T
R
O
V
A
C
E
A
C
E
R
"À", cô nói nhanh. "Catrova. Cer."
"Đúng, và sắp xếp lại các lá bài theo đúng trật tự, đơn giản là chúng ta không xén cỗ bài và đặt phần dưới lên trên. Hai nữa hoán đổi vị trí cho nhau."
Sienna nhìn các chữ cái. "Cer. Catrova." Cô nhún vai, trông không có biểu cảm gì. "Vẫn chẳng có nghĩa gì..."
"Cer catrova", Langdon lặp lại. Một lát sau, anh nói lại mấy từ này lần nữa, đọc liền mạch với nhau. "Cercatrova." Cuối cùng, anh đọc lên cùng với một quãng ngừng xen giữa. "Cerca... trova."
Sienna thở rõ mạnh và ngước mắt lên nhìn Langdon.
"Đúng vậy", Langdon mỉm cười nói. "Cerca trova."
Hai từ tiếng Ý cerca và trova có nghĩa đen là "tìm kiếm" và "tìm thấy". Khi kết hợp thành một cụm từ cerca trova, chúng đồng nghĩa với câu cách ngôn trong Kinh Thánh "Hãy tìm và ngươi sẽ thấy".
"Những ảo giác của anh!". Sienna thốt lên, gần như không thở nổi. "Người phụ nữ che mạng! Bà ấy liên tục bảo anh tìm kiếm và sẽ thấy!" Cô nhảy cẫng lên. "Robert, anh có nhận ra điều này có nghĩa là gì không? Nó có nghĩa là mấy từ cerca trova đã nằm sẵn trong tiềm thức của anh! Anh không thấy vậy ư? Chắc chắn anh đã giải mã cụm từ này trước khi anh đến bệnh viện! Có lẽ anh đã nhìn thấy hình ảnh trong máy chiếu này nhưng quên rồi!"
Cô ấy nói đúng, anh nhận ra như vậy, bởi vì anh đã quá quen với mật mã này đến mức không nhận ra mình đã từng trải qua toàn bộ việc này rồi.
"Robert, anh từng nói rằng bức vực Địa ngục chỉ đến một địa điểm cụ thể trong thành cổ. Nhưng tôi vẫn không hiểu đó là nơi nào."
"Mấy từ cerca trova không gợi lên điều gì cho cô sao?"
Cô nhún vai.
Langdon cười thầm. Rốt cuộc cũng có thứ Sienna không biết. "Hóa ra cụm từ này chỉ cụ thể tới một bức tranh tường nổi tiếng trứng tại Cung điện Vecchio - Trận Marciano của Giorgio Vasari trong Sảnh Năm trăm. Gần trên đỉnh bức tranh, rất khó nhìn thấy, Vasari có viết cụm từ cerca trova bằng cỡ chữ rất bé. Người ta đưa ra nhiều giải thiết để lý giải tại sao ông lại làm như vậy, nhưng chưa tìm được bằng chúng kết luận nào."
Bỗng nhiên có tiếng rít chói tai của một chiếc máy bay nhỏ vang lên phía trên đầu, nó xuất hiện hoàn toàn bất ngờ và lướt qua tán rừng. Âm thanh nghe rất gần, Langdon và Sienna như hóa đá khi nó vụt qua.
Khi chiếc máy bay đi khỏi, Langdon dõi mắt nhìn theo qua những tán cây. "Một cái trực thăng đồ chơi", anh nói, thở phào trong lúc nhìn theo chiếc trực thăng dài hơn một mét, điều khiển bằng sóng vô tuyến đang chao nghiêng ở phía xa. Tiếng của nó nghe như của một con muỗi khổng lồ đang nổi khùng.
Tuy nhiên, Sienna trong vẫn hết sức cảnh giác. "Cúi thấp xuống!"
Chắc chắn như vậy, chiếc trực thăng nhỏ xíu đảo một vòng và lúc này đang quay trở lại chỗ họ, lướt sát những ngọn cây, vọt qua họ lần nữa, nhưng lần này chếch sang trái họ, ở phía trên một trảng rừng khác.
"Nó không phải đồ chơi đâu!", cô thì thào. "Nó là một máy bay trinh thám không người lái. Có lẽ mang theo cả máy quay video đế gửi hình ảnh trực tiếp về cho ai đó."
Quai hàm Langdon cứng đờ khi anh nhìn thấy chiếc trực thăng bay nhanh theo hướng nó xuất hiện lúc nãy - Porta Romana và Học viện Nghệ thuật.
"Tôi không biết anh đã làm gì", Sienna nói, "nhưng rõ ràng một vài người rất có thế lực đang sốt sắng tìm anh".
Chiếc trực thăng lại chao nghiêng lần nữa vả bắt đầu bay chầm chầm dọc theo bức tường bao mà họ vừa nhảy qua.
"Chắc ai đó ở Học viện Nghệ thuật đã nhìn thấy chúng ta và nói gì đó", Sienna nói, chân bước theo con đường. "Chúng ta phải ra khỏi đây. Ngay bây giờ!"
Khi chiếc máy bay không người lái vè vè bay về phía đầu kia của khu vườn, Langdon dùng chân xóa những chữ cái mà anh đã vạch trên lối đi và vội bước theo Sienna. Đầu óc anh quay cuồng với những ý nghĩ về cerca trova, bức bích họa của Giorgio Vasari, cũng như phát hiện của Sienna rằng anh chắc chắn đã từng giải mã thông điệp trong máy chiếu. Hãy tìm và sẽ thấy.
Đột nhiên, ngay khi họ bước và trảng rừng thứ hai, Langdon có một ý nghĩ khá bất ngờ. Anh dừng sững lại trên lối đi đầy cây cối, vẻ mặt đầy sửng sốt.
Sienna cũng dừng lại. "Robert? Có chuyện gì thế?!"
"Tôi vô tội", anh tuyên bố.
"Anh đang nói chuyện gì thế?"
"Những người đang săn lùng tôi... Tôi từng nghĩ đó là vì tôi đã làm điều gì đó kinh khủng."
"Đúng, ở bệnh viện anh cứ nhắc đi nhắc lại rất ‘xin lỗi'."
"Tôi biết. Nhưng khi ấy tôi nghĩ là tôi đã nói tiếng Anh."
Sienna ngạc nhiên nhìn anh. "Anh đã nói tiếng Anh!"
Lúc này cặp mắt xanh biếc của Langdon đầy phấn khích. "Sienna, lúc Tôi cứ nhắc đi nhắc lại 'rất xin lỗi' không phải là tôi xin lỗi đâu. Là tôi đang lẩm nhẩm về thông điệp bí mật trong bức bích họa ở Cung điện Vecchio!" Anh vẫn như nghe rõ giọng nói mê sảng của chính mình. Rất xin lỗi! Rất xin lỗi!
Sienna như mê đi.
"Cô không hiểu sao?", Langdon cười toe toét. "Tôi không hề nói 'rất xin lỗi, rất xin lỗi!'. Tôi đang đọc tên của họa sĩ - Va...sari, Vasari!"
Chương 24
Vayentha đạp mạnh phanh.
Đuôi chiếc xe phân khối lớn của ả lảo đảo, rít to và để lại một vệt dài trên Đại lộ Viale del Poggio Imperiale, sau đó đột ngột dừng phía sau cả dòng xe cộ. Vile del Poggio đang giờ tắt nghẽn.
"Ta không có thời gian cho việc này."
Vayentha nghểnh cổ nhìn qua những chiếc xe hơi, cố gắng xem chuyện gì gây ra tình trạng tắt nghẽn này. Ả đã buộc phải phóng xe theo một vòng tròn rất rộng để tránh đội SRS và toàn bộ tình trạng hỗn độn ở tòa chung cư, và lúc này ả cần lọt vào thành phố cổ để dọn ra khỏi phòng khách sạn nơi ả đã trú ngụ mấy ngày qua vì nhiệm vụ này.
"Ta đã bị từ chối - ta cần biến ngay khỏi thành phố!"
Thế nhưng, chuỗi đen đủi của ả dường như vẫn tiếp tục. Tuyến đường ả chọn để vào thành phố cổ có vẻ như đã bị chặn. Không lòng dạ nào chờ đợi, Vayentha lách xe sang một bên và chạy dọc theo làn hẹp dành riêng cho xe gặp sự cố cho tới khi nhìn thấy một giao lộ xe cộ ùn lại. Phía trước là một vòng xuyến tắc nghẽn, nơi có sáu trục đường lớn gặp nhau. Đây chính là Porta Romana - một trong những giao lộ đông đúc nhất của Florence - cánh cổng đi vào thành cổ.
"Có chuyện quái gì ở đây không biết?!"
Giờ thì Vayentha nhìn thấy toàn bộ khu vực này dày đặc cảnh sát - chặn đường hay đặt chốt kiêm tra gì đó. Một lát sau, ả nhận ra một thứ ở trung tâm hiện trường, thứ khiên cho ả chịu thất bại – chiếc xe thùng đen quen thuộc với vài đặc vụ mặc đồ đen đang lớn tiếng ra lệnh cho nhân viên công lực địa phương hướng. Rõ ràng, những người này là thành viên nhón SRS, nhưng Vayentha không đoán nổi họ đang làm gì ở đây.
Trừ phi...
Vayentha nuốt khan, không dám hình dung ra tình huống đó. Langdon đã thoát khỏi Brũder chăng? Điều đó thật khó tưởng tượng khi mọi cơ hội trốn thoát gần như bằng không. Lại nữa Langdon không hành động một mình, và Vayentha đã tận măt chứng kiên tài nghệ xoay sở của người phụ nữ tóc vàng đi cùng anh.
Gần đó, một sĩ quan cảnh sát xuất hiện, đang đi từ xe này sang xe khác, chìa ra tấm hình một người đàn ông điển trai với mái tóc nâu dày dặn. Vayentha ngay lập tức nhận ra ảnh chụp trên báo của Robert Langdon. Tim ả như muốn nhảy ra khỏi lông ngực.
Brũder cũng để anh ta thoát...
Langdon vẫn đang trong cuộc chơi!
Là một chiến lược gia lão luyện, Vayentha lập tức bắt tay vào việc đánh giá xem thực tế này có thể làm thay đổi tình thế của ả như thế nào.
Lựa chọn một - Rút lui như yêu cầu.
Vayentha đã khiến thị trưởng rơi vào một tình thế rất tồi tệ và vì việc này mà ả bị từ chối. Nếu may mắn, ả sẽ phải đối mặt với một buổi thẩm vấn chính thức và có lẽ sẽ chấm dứt sự nghiệp. Tuy nhiên, nếu ả không may đánh giá nhầm mức độ nghiêm trọng của tình thế đó thì có lẽ cả quãng đời còn lại, ả sẽ luôn phải đề phòng và tự hỏi không biết Consortium đang lẫn mặt ở đâu.
Còn một lựa chọn thứ hai - Hoàn thành nhiệm vụ của mày.
Tiếp tục nhiệm vụ là chuyện hoàn toàn đối nghịch với quy trình từ chối vừa áp dụng với ả, nhưng vì Langdon vẫn đang lẩn trốn, nên lúc này Vayentha lại có cơ hội tiếp tục thực hiện chỉ thị ban đầu của mình.
Nếu như Brũder cũng không tóm được Langdon, ả nghĩ bụng, mạch đập rộn lên, và nếu ta thành công...
Vayentha biết đây là chuyện một mất một còn, nhưng nếu Langdon tìm cách thoát khỏi vòng vây của Brũder, còn Vayentha vẫn có thể nhập cuộc và kêt thúc công việc thì ả sẽ đơn thương độc mã cứu vãn tình hình cho Consortium, khi đó thị trưởng sẽ không còn lực chọn nào khác ngoài việc tha bổng cho ả. Ta sẽ tiêp tục công việc của mình, ả nghĩ. Có khi còn được thăng tiên.
Trong nháy mắt, Vayentha nhận ra giờ đây toàn bộ tương lai của ả đều phụ thuộc vào một công việc then chôt duy nhất. Ta phải tìm ra Langdon trước Brũder.
Việc đó thật không dễ, Brũder có trong tay nhân lực hùng hậu tùy ý sử dụng, cũng như vô sô công nghệ giám sát tiên tiến. Còn Vayentha chỉ làm việc một mình. Tuy nhiên, ả đã nắm được một thông tin mà Brũder, Thị trưởng và cảnh sát đều không có.
Ta nghĩ ra Langdon sẽ mò tới chỗ nào.
Ả rồ ga chiêc BMW, xoay một trăm tám mươi độ và quay ngược lại lối vừa nãy. Ponte alle Grazie, ả nghĩ, trong đầu hình dung ra cây cầu dẫn lên phía Bắc. Đâu phải chỉ có một lối đi vào thành cổ.
Chương 25
Không phải là lời xin lỗi, Langdon trầm ngâm. Tên của một họa sĩ.
"Vasari", Sienna lắp bắp, mọi suy nghĩ như lùi lại hẳn một bước dài. "Họa sĩ đã giấu cụm từ cerca trova trong bức bích họa của mình."
Langdon chỉ biết mỉm cười. Vasari. Vasari. Không chỉ thắp lên một tia sáng trong tình thế khó khăn kỳ lạ mà phát hiện này cũng giúp Langdon không còn phải băn khoăn xem mình đã làm việc gì kinh khủng khiến anh cứ luôn miệng nói xin lỗi.
"Robert, rõ ràng anh đã nhìn thấy bức tranh Botticelli này trên máy chiếu trước khi bị thương, và biết nó chứa đựng một mật mã chỉ dẫn tới bức bích họa của Vasari. Đó là lý do vì sao anh tỉnh lại và cứ liên tục gọi tên Vasari!"
Langdon cố suy đoán xem tất cả việc này có ý nghĩa gì. Giorgio Vasari - một họa sĩ, kiến trúc sư kiêm nhà văn ở thế kỷ XVI - là người Langdon thường nhắc đến như "sứ giả nghệ thuật đầu tiên của thế giới." Mặc dù Vasari đã sáng tạo hàng trăm bức vẽ, và thiết kế hàng chục công trình, nhưng di sản lâu dài nhất của ông chính là cuốn sách có ảnh hưởng mạnh mẽ, Cuộc đời của các họa sĩ, điêu khắc gia và kiến trúc sư xuất sắc nhất, một tập hợp tiểu sử của các nghệ sĩ Ý, đến giờ vẫn là tài liệu bắt buộc cho những sinh viên học lịch sử nghệ thuật.
Cụm từ cerca trova đưa Vasari trở lại mối quan tâm chính thống khoảng ba mươi năm trước, khi "thông điệp bí mật" của ông phát hiện trên bức bích họa đồ sộ tại sảnh Năm trăm trong Cung điện. Những con chữ bé xíu xuất hiện trên lá cờ trận màu xanh lục, gần như không thể nhìn thấy trong cảnh chiến tranh hỗn loạn. Mặc dù vẫn chưa có sự thống nhất về lý do tại sao Vasari lại cho thêm thông điệp kỳ lạ này và bích họa của mình, nhưng giả thuyết hàng đầu cho rằng đó là manh mối thế hệ tương lai biết tới sự tồn tại của bức bích họa đã thất lạc của Leonardo da Vinci, được giấu trong khoảng trống ba phân phía sau bức tường đó.
Sienna lo lắng ngước nhìn qua các tán cây. "vẫn có một điều tôi không hiểu. Nếu anh không nói "rất xin lỗi, rất xin lỗi"...thì tại sao người ta lại tìm cách giết anh?"
Langdon cũng đang thắc mắc điều này.
Tiếng động cơ xa xa của chiếc máy bay trinh sát không người lái lại to dần, và Langdon biết đã đến lúc phải quyết định. Dù không hiểu được bức Trận Marciano của Vasari có liên hệ như thế nào tới Hỏa ngục của Dante, hoặc nguyên nhân của vết thương do đạn bắn vào đêm trước, nhưng cuối cùng anh đã nhìn thấy một con đường hữu hình trước mắt.
Cerca trova.
Hãy tìm và sẽ thấy.
Langdon lại nhìn thấy người phụ nữ tóc bạc gọi anh từ phía bên kia sông. Thời gian đang cạn dần! Nếu có câu trả lời, Langdon có cảm giác chúng phải nẳm ở Cung điện Vecchio.
Lúc này anh chợt nhớ đến câu ngạn ngữ cổ của những người thợ lặn tự do Grecia ngày xưa, những người chuyên săn tôm hùm trong các hang san hô ở quần đảo Aegea. Khi bơi vào một đường hầm tối tăm, sẽ có lúc anh không thể trở về nếu không còn đủ dưỡng khí. Lựa chọn duy nhất của anh là đi thẳng vào chỗ chưa biết...và cầu mong có một lối thoát.
Langdon tự hỏi liệu họ đã tới lúc đó chưa.
Anh dõi mắt nhìn vườn mê cung lối đi ngay trước mặt. Nếu anh và Sienna có thể tới Cung điện Pitti và ra khỏi vườn thì thành cổ chỉ còn cách một quãng ngắn. Họ chỉ phải đi bộ qua phía bên kia cây cầu nổi tiếng nhất thế giới - Ponte Vecchio. Nơi đó luôn đông đúc và sẽ là một chỗ ẩn nấu rất tốt. Từ đó, Cung điện Vecchio chỉ có cách vài dãy phố.
Tiếng chiếc máy bay không người lái gần hơn, Langdon chợt cảm thấy kiệt sức. Việc anh nhận ra rằng mình không hề nói "rất xin lỗi" khiến anh cảm thấy mâu thuẫn với chuyện phải chạy trốn cảnh sát.
"Rốt cuộc họ cũng sẽ bắt được tôi, Sienna ạ!", Langdon nói. "Có lẽ tốt hơn là tôi đừng chạy nữa."
Sienna nhìn anh hoảng hốt. "Robert, mỗi lần anh dừng lại là có người nhắm bắn anh! Anh cần tìm hiểu kỹ xem anh đã dính vào chuyện gì. Anh cần xem xét bức bích họa đó đó của Vasari và hy vọng nó thức tỉnh trí nhớ của anh. Có lẽ nó sẽ giúp anh biết được cái máy chiếu từ đâu ra và tại sao anh lại mang theo nó."
Langdon nhớ lại người phụ nữ đầu đinh lạnh lùng hạ sát bác sĩ MarconL, những người lính nã đạn vào họ... quân cảnh Ý vây lấy Porta Romana...Và giờ đây một máy bay thám sát không người lái đang lùng tìm họ khắp vườn Boboli. Anh im lặng, dịu đôi mắt mỏi mệt trong lúc cân nhắc mọi lựa chọn của mình.
"Robert!", giọng Sienna vang lên. "Còn một chuyện nữa...một chuyện có vẻ không mấy quan trọng, nhưng giờ đây dường như lại rất quan trọng."
Langdon ngước mắt lên, đáp lại giọng nghiêm nghị của cô.
"Tôi đã định nói với anh ở căn hộ", cô nói, "nhưng..."
"Chuyện gì nào?"
Sienna mím môi, trông không được thoải mái. "Lúc anh đến bệnh viện, anh bị hôn mê và cố gắng tìm cách giao tiếp."
"Đúng", Langdon nói, "cứ lầm bầm "Vasari, Vasari".
"Vâng, nhưng trước đó...trước khi chúng tôi kịp lấy máy ghi âm, vào những khắc đầu tiên sau khi anh đến, tôi vẫn nhớ anh nói một điều khác. Anh chỉ nói đúng một lần, nhưng tôi tin là mình hiểu."
"Tôi đã nói gì?"
Sienna ngước nhìn về phía chiếc máy bay và sau đó quay lại Langdon. Anh nói "Tôi nắm giữ chìa khóa tìm ra nó...nếu tôi thất bại, khi đó tất cả sẽ chết."
Langdon chỉ biết tròn mắt nhìn.
Sienna nói tiếp, "Tôi nghĩ anh nhắc đến vật trong túi áo khoác của mình, nhưng giờ thì tôi không dám chắc."
Nếu tôi thất bại, khi đó tất cả sẽ chết ư? Mấy từ này tác động đến Langdon rất mạnh. Những hình ảnh chết chóc đầy hăm dọa lóe lên trước mắt anh... Hỏa ngục của Dante, biểu tượng hiểm họa sinh học, vị bác sĩ dịch hạch. Lại một lần nữa, gương mặt của người phụ nữ tóc bạc xinh đẹp hiện ra, cầu xin anh từ phía bên kia dòng sông máu. Hãy tìm và sẽ thấy! Thời gian đang cạn dần!
Giọng Sienna kéo anh trở lại. "Rốt cuộc, dù cái máy chiếu này dẫn tới đâu... hay anh đang phải tìm thứ gì, đó nhất định phải là thứ cực kỳ nguy hiểm, sự thực là có người đang tìm cách giết chúng ta../'. Giọng cô hơi run run, và phải mất một lúc để định thần. "Hãy nghĩ về điều đó. Họ vừa bắn anh ngay giữa thanh thiên bạch nhật...bắt cả tôi - một người ngoài cuộc vô tội. Dường như không ai tìm cách thương thuyết. Chính phủ của anh thù địch với anh...Anh gọi cho họ cầu cứu nhưng họ lại cử người tới giết anh."
Langdon nhìn mông lung xuống đất. Việc tòa Lãnh sự Hoa Kỳ tiết lộ vị trí của Langdon cho kẻ sát nhân hay chính tòa Lãnh sự cử sát thủ tới cũng không đáng quan tâm. Bởi kết quả cuối cùng vẫn như nhau. Chính phủ của mình không đứng về phía mình.
Langdon nhìn sâu vào đôi mắt màu nâu của Sienna và thấy sự can trường. Mình khiến cô ấy dính vào vì cái gì? "ước gì tôi biết được thứ chúng ta đang cần tìm. Điều đó sẽ giúp tất cả việc này trở lại đâu vào đấy."
Sienna gật đầu. "Cho dù là gì, tôi nghĩ chúng ta cần phải tìm ra nó. ít nhất nó sẽ cho chúng ta động lực."
Lập luận của cô ấy thật khó phản bác. Nhưng Langdon vẫn cảm thấy điều gì đó khúc mắc. Nếu tôi thất bại, khi đó tất cả sẽ chết. Suốt buổi sáng anh đã phải đánh vật với những biểu tượng kinh khủng của hiểm họa sinh học, dịch bệnh và địa ngục của Dante. Phải thừa nhận, anh không có bằng chứng rõ ràng xem mình đang tìm kiếm thứ gì, nhưng anh không ngốc đến mức không cân nhắc tới khả năng tình huống này có liên quan đến một thứ dịch bệnh chết người hoặc một hiểm họa sinh học quy mô lớn. Nhưng nếu đúng như vậy thì tại sao chính phủ lại tìm cách loại trừ anh?
Phải chăng họ nghĩ bằng cách nào đó mình có liên can tới một vụ tấn công tiềm năng?
Điều đó cũng hết sức phi lý. Vẫn còn gì đó khác đang diễn ra ở đây.
Langdon lại nghĩ tới người phụ nữ tóc bạc. "Trong ảo giác của tôi còn có người phụ nữ. Tôi cảm thấy mình cần tìm bà ấy."
"Vậy thì hãy tin vào cảm giác của anh", Sienna nói. "Trong điều kiện của anh, kim chỉ nam tốt nhất anh có chính là tiềm thức. Đây là tâm lý thông thường - nếu lòng anh bảo hãy tin tưởng người phụ nữ đó, tôi nghĩ anh nên làm đúng những gì bà ấy muốn."
"Hãy tìm và sẽ thấy", họ đồng thanh nói.
Langdon thở phào, biết rằng con đường của mình đã sáng tỏ.
Tất cả những gì mình có thể làm là tiếp tục bơi xuống đường hầm này.
Khi đã quyết tâm trở lại, anh xoay người và bắt đầu để ý xung quanh, cố gắng nắm bắt tình thế. Đường nào ra khỏi khu rừng này nhỉ?
Họ đang đứng dưới những tán cây ở rìa một quảng trường rộng nơi có vài lối đi cắt nhau. Cách một quãng bên trái, Langdon chú ý tới một đầm nước hình bầu dục và hòn đảo nhỏ được tô điểm bằng cây chanh và một bức tượng. Isolloto, anh thầm nghĩ, nhận ra ngay tác phẩm điêu khắc nổi tiếng mô tả anh hùng Perseus cưỡi một con ngựa chim nửa người đang vọt lên khỏi mặt nước.
"Cung điện Pitti ở lối này", Langdon nói, chỉ về phía đông, rời xa khỏi tượng Isolloto, tới lối đi chính của khu vườn - Viottolone, chạy theo hướng đông tây dọc toàn bộ chiều dài của khu vườn. Viottolone rộng bằng một con đường hai làn xe với hai hàng cây bách mảnh mai bốn trăm năm tuổi.
"Không có chỗ trú ẩn", Sienna nói, đưa mắt nhìn con đường không được ngụy trang và ra hiệu về phía máy bay đang lượn vòng tròn.
"Cô nói đúng", Langdon nói kèm theo một nụ cười méo xệch. "Đó là lý do chúng ta phải chọn đường hầm bên cạnh."
Lần này anh lại chỉ tay về phía một hàng rào cây rậm rạp kề bên lối vào Viottolone. Bức tường cây cối dày đặc có một cổng vòm nhỏ trổ vào trong. Qua cổng vào, có một lối đi hẹp chạy tít ra xa - một đường hầm nằm song song với Viottolone. Nó được khép kín một đầu bằng một khoảnh những cây cối xanh được xén tỉa và chăm chút cẩn thận từ những năm 1600, hướng cành vào mé trong, trùm lên lối đi, đan lấy nhau phía trên đầu tạo thành một mái che bằng tán lá. Tên gọi của lối đi, La Cerchiata - theo nghĩa đen là "hình tròn" hoặc "đánh đai" - xuất phát từ vòm lá của những hàng cây được uốn cong trông giống như những đai thùng, hay cerchi, tức là "vòng tròn".
Sienna nhanh chóng bước tới lối vào và chăm chú quan sát bên trong đường hầm râm mát. Sau đó cô quay trở lại chỗ anh và mỉm cười. "Tốt hơn hẳn!"
Không bỏ phí thời gian, cô luồn qua lối vào và khuất trong những hàng cây.
Langdon luôn coi La Cerchiata là một trong những địa điểm thanh bình nhất Florence. Tuy nhiên, hôm nay, khi anh nhìn Sienna biến mất trong lối đi tăm tối, anh lại nghĩ đến những người thợ lặn tự do Grecia đang bơi vào đường hầm san hô và cầu mong tới được lối ra.
Langdon nhanh chóng cầu nguyện rồi vội vã theo cô.
Cách họ nửa dặm phía sau, bên ngoài Học viện Nghệ thuật, đặc vụ Bruxder sải bước qua đám đông cảnh sát và sinh viên, ánh mắt lạnh băng của anh ta rẽ đám đông trước mặt. Anh ta đi thẳng tới sở chỉ huy dã chiến, vừa được chuyên gia theo dõi của anh ta thiết lập trên mui xe thùng màu đen.
"Từ máy bay trinh sát không người lái", tay chuyên gia nói, trao cho Bruxder một màn hình máy tính bảng. "Chụp được vài phút trước."
Bruxder kiểm tra các ảnh tĩnh video, dừng lại trước bản phóng to hơi nhòe hai gương mặt - một người đàn ông tóc sẫm màu và một cô gái tóc vàng để đuôi ngựa - cả hai nép trong bóng râm và đang nhìn lên bầu trời qua các tán cây.
Robert Langdon.
Sienna Brooks.
Không nghi ngờ gì nữa!
Bruxder quay sang tờ bản đồ vườn Boboli trải rộng trên mui xe. Lựa chọn của họ rất tệ, anh ta nghĩ, mắt nhìn sơ đồ khu vườn. Mặc dù lộn xộn, rối rắm và có rất nhiều chỗ ẩn nấp. nhưng khu vườn cũng bị những bức tường cao vây kín ở mọi phía, vườn Boboli là thứ gần gũi với một tuyệt lộ tự nhiên nhất mà Bruxder từng nhìn thấy trên thực địa.
Họ sẽ không bao giờ thoát ra được.
"Giới chức địa phương đã phong tỏa mọi lối ra", tay chuyên gia nói. "Và đang bắt đầu rà quét."
"Giữ liên lạc với tôi", Bruxder nói.
Anh ta chậm rãi nhướng mắt về phía ô cửa sổ polycarbonate dày cộp của xe, và nhìn thấy người phụ nữ tóc bạc ngồi ở ghế sau.
Thứ thuốc họ đưa rõ ràng đã làm tê liệt mọi giác quan của bà ấy - mạnh hơn Bruxder hình dung. Tuy nhiên, anh ta có thể khẳng định rằng bà vẫn biết rõ những gì đang xảy ra, căn cứ bằng vẻ hãi hùng trong mắt bà ấy.
Trông bà ấy không vui, Bruxder nghĩ. Mà tại sao bà ấy lại như vậy?
CHƯƠNG 26
Một tia nước bắn vọt lên không trung chừng sáu mét.
Langdon nhìn tia nước nhẹ nhàng rơi trở lại mặt đất và biết rằng họ đang đến gần. Họ đã tới phía cuối đường hầm tạo thành từ vòm lá La Cerchiata và chạy băng qua một bãi cỏ trống để luồn vào khoảng rừng toàn cây bẩn. Lúc này họ đang nhìn ra đài phun nước nổi tiếng nhất của Boboli - bức tượng của Stoldo Lorenzi mô tả thần biển Neptune tay cầm cây đinh ba. Được người địa phương gọi nôm na là "Đài phun nước cái dĩa", công trình này được gọi là điểm trung tâm của khu vườn.
Sienna dừng lại ở rìa lùm cây và ngước mắt nhìn qua các tán lá. "Tôi không thấy cái máy bay đâu!"
Langdon cũng không còn nghe thấy tiếng nó nữa, vì tiếng của đài phun nước khá ồn ã.
"Chắc nó đang được tiếp nhiên liệu", Sienna nói.
"Đây là cơ hội của chúng ta. Đường nào đây?"
Langdon dẫn cô đi về bên trái, và họ bắt đầu lần xuống một đoạn dốc cao. Khi ra khỏi lùm cây, họ đã nhìn thấy ngay Cung điện Pitti.
"Tòa nhà nhỏ nhắn xinh xắn", Sienna thì thào.
"Cách nói khiêm tốn đặc trưng nhà Medici", anh đáp lại vẻ bông đùa.
vẫn còn cách xa họ một phần tư dặm, song mặt chính bằng đá của Cung điện Pitti như thống trị toàn bộ khung cảnh, trải rộng sang hai bên. Ngoại thất bằng đá trát vữa nhám phồng lên đem lại cho công trình một thần thái uy quyền cương nghị, thần thái ấy càng mạnh mẽ hơn với thiết kế lặp đi lặp lại của những ô cửa chớp cùng
các ô hở lấy
sáng hình vòm. Theo truyền thống, các cung điện trang trọng đều xây trên những khu đất cao để bất kỳ ai trong khu vườn cũng phải ngước. Tuy nhiên, Cung điện Pitti lại nằm ở thung lũng thấp gần sông Arno, nghĩa là những người ở trong vườn Boboli đều phải nhìn xuống mới thấy
Tác dụng này càng gây ấn tượng hơn. Một kiến trúc sư đã mô tả rằng cung điện dường như do chính tự nhiên tạo ra, như thể những khối đá đồ sộ trong một vụ sạt lở đất đã trôi xuống cả đoạn dốc dài và dồn lại thành một đống gọn gàng, dưới chân dốc. Mặc dù có vị thế phòng thủ kém vì ở trên khu đất thấp, kết cấu đá vững vàng của Cung điện Pitti vẫn ấn tượng đến mức Napoleon từng sử dụng nó như một căn cứ quyền lực trong thời gian ông lưu trú tại Florence.
"Nhìn kìa", Sienna nói, tay chỉ về những cánh cửa gần nhất ở cung điện. "Có tin tốt lành rồi."
Langdon cũng nhìn theo. Vào cái buổi sáng lạ lùng này thì hình ảnh được mong chờ nhất không phải là tòa cung điện, mà là từng đoàn du khách ùn ùn kéo ra khỏi tòa nhà, tràn vào những khu vườn mé dưới. Cung điện đã mở ra, nghĩa là Langdon và Sienna có thể lẻn vào trong rồi băng qua tòa nhà để thoát ra ngoài dễ dàng hơn. Một khi đã ra khỏi cung điện, Langdon biết họ sẽ thấy sông Arno bên phải, và sau khi vượt qua đó, họ sẽ tới được những ngọn tháp của thành cổ.
Anh và Sienna vẫn di chuyển dần xuống đường dốc. Trên đường xuống, họ đi ngang qua đài vòng Boboli - địa điểm tổ chức những màn trình diễn opera đầu tiên trong lịch sử - nằm nép mình như cái móng ngựa bên sườn đồi. Hết quãng đường dốc, họ băng qua cột tháp Ramses II và tác phẩm "nghệ thuật" kém may mắn được đặt ở đế thấp. Các sách hướng dẫn du lịch nhắc đến tác phẩm này như là "phần đế bằng đá đồ sộ từ Nhà tắm Caracalla ở Rome", nhưng Langdon luôn nhìn nhận nó theo đúng ý nghĩa thật - cái bồn tắm lớn nhất thế giới. Người ta thật sự cần đặt thứ này ở nơi khác.
Cuối cùng, họ cũng tới được khu phía sau của cung điện và đi bộ từ tốn, kín đáo lẫn vào đoàn du khách đầu tiên trong ngày. Họ di chuyển ngược chiều dòng người, đi xuống một đường hầm hẹp để vào giếng trời, một khoảng sân trong nhà nơi có những vị khách đang ngồi thưởng thức ly cà phê buổi sáng trong quán cà phê tiện lợi của cung điện. Không khí ngập tràn mùi cà phê mới, Langdon bỗng nhiên thấy thèm được ngồi xuống và tận hưởng một buổi sáng lịch sự. Hôm nay không phải lúc rồi, anh nghĩ khi hai người băng qua đó, lọt vào một hành lang rộng dẫn về phía cửa chính của cung điện.
Lúc tới gần cửa, Langdon và Sienna vấp phải đám du khách dồn ứ lại ngày càng đông ở cổng để quan sát gì đó bên ngoài, Langdon cố nhìn qua đám đông ra khu vực phía trước cung điện.
Theo như anh còn nhớ thì lối vào rộng rãi của Cung Pitti nhìn không mấy dễ chịu. Thay vì bãi cỏ và cảnh quan được cắt tỉa chăm chút, sân phía trước là một khoảng trống lát đá trải rộng toàn bộ sườn đồi, lan cả xuống Đại lộ Via dei Guicciardini như một dốc trượt băng lát đá hoành tráng.
Phía dưới Quảng trường Pitti, có đến nửa tá xe cảnh sát đang đổ dồn đến từ mọi hướng. Một nhóm phó sĩ quan đang tiến lên đồi, tay mang vũ khí và tỏa ra để chặn toàn bộ phía trước cung điện.
CHƯƠNG 27
Khi cảnh sát tiến vào Cung Pitti thì Sienna và Langdon đã đi rồi. Họ men theo đúng lối cũ bên trong cung điện và tránh xa lực lượng cảnh sát đang tiến vào.
Họ lẩn nhanh qua giếng trời và quán cà phê, nới những tiếng xì xầm đang loang ra, đám du khách nháo nhác nhìn ngó, cố tìm xem đâu là nguyên nhân của tình trạng hỗn loạn lúc này.
Sienna ngạc nhiên khi giới chức tìm thấy họ nhanh như vậy. Cái máy bay không người lái biến mất vì nó đã phát hiện ra bọn mình.
Cô và Langdon tìm lại được đường hầm hẹp lúc họ từ vườn đi xuống và không do dự lẩn ngay vào đó để leo ngược lên những bậc thang. Đầu cầu thang chếch sang trái về phía một bức tường chắn khá cao. Khi chạy men theo tường, họ thấy bức tường bên cạnh mình càng lúc càng thấp xuống, cho tới khi họ có thể nhìn vượt qua tường sang phía vườn Boboli.
Langdon lập tức nắm lấy tay Sienna và kéo cô lùi lại, khuất khỏi tầm nhìn phía sau bức tường chắn. Sienna cũng đã nhìn thấy.
Cách đó ba trăm thước, trên đầu dốc phía trên khán đài vòng, một toán cảnh
sát đang đi xuống, lùng sục trong các lùm cây, hỏi han du khách và liên lạc với nhau bằng bộ đàm.
Chúng ta mắc kẹt rồi!
Lần đầu tiên gặp Robert Langdon, Sienna không thể tưởng tượng nổi mọi việc lại trở nên phức tạp như bây giờ. Như thế này còn hơn cả mình dự tính. Lúc rời khỏi bệnh viện cùng với Langdon, cô cứ nghĩ họ đang chạy trốn một ả đầu đinh có súng. Giờ thì họ đang chạy trốn cả một đội quân và giới chức Ý. Cô nhận thấy khả năng trốn thoát của họ lúc này gần như bằng không.
"Còn lối nào thoát ra khỏi không?", Sienna thở hổn hển hỏi.
"Tôi không nghĩ là có" Langdon nói. "Khu vườn này là một thành phố có tường bao, giống … " Anh đột ngột dừng lại, ngoảnh nhìn về phía đông. "Giống như... Vatican vậy." Một tia hy vọng kỳ lạ chợt hiện lên trên gương mặt anh.
Sienna không rõ Vatican có liên quan gì đến tình thế mắc kẹt của họ lúc này, nhưng Langdon bỗng gật đầu, mắt đăm đăm nhìn về phía đông tới khu vực phía sau cung điện.
"Chỉ một quãng ngắn", anh nói, hối hả kéo cô theo anh. "Nhưng có thể có một lối khác ra khỏi đây."
Hai bóng người đột nhiên hiện ra trước mặt họ, vừa ngoặt gấp chỗ góc bức tường chắn, gần như đâm sầm vào Sienna và Langdon. Cả hai nhân vật này đều mặc đồ đen, và trong lúc hoảng hốt, Sienna nghĩ rằng đó là những người lính cô đã chạm trán ở tòa chung cư. Nhưng khi họ đi qua, cô nhận ra họ chỉ là những du khách - người Ý, cô đoán vậy, căn cứ vào trang phục đồ da đen thời trang của họ.
Sienna chợt nảy ra một ý, cô níu lấy cánh tay một du khách và cố gắng mỉm cười với ông ấy hòa nhã hết mức. "Làm ơn chỉ cho chúng tôi lối tham quan Galleria de costume?", cô hỏi bằng tiếng Ý trôi chảy lối tới phòng trưng bày trang phục nổi tiếng của cung điện. "Tôi và anh trai bị muộn giờ một tour riêng."
"Rất sẵn lòng!" Vị khách cười tươi với cả hai, vẻ sẵn lòng giúp họ. "Cô đi thẳng theo lối này!" ông ấy quay đi và chỉ về phía tây, men theo bức tường chắn, ngược hẳn hướng Langdon đang quan sát.
"Cám ơn rất nhiều!", Sienna lại mỉm cười khi hai người đàn ông bỏ đi.
Langdon gật đầu vẻ ấn tượng với Sienna, rõ ràng hiểu hết ý định của cô. Nếu cảnh sát tiến hành hỏi han du khách, có thể họ sẽ tưởng Langdon và Sienna đã đi tới phòng trưng bày trang phục mà theo tấm bản đồ ở trên bức tường trước mặt họ, nơi này nằm ở đầu phía tây của cung điện...xa hết mức so với hướng của họ lúc này.
"Chúng ta cần phải tới được lối đi đằng kia", Langdon nói, ra hiệu qua khoảng sân trống trải về phía lối đi chạy xuống một quả đồi khác cách xa cung điện. Lối đi rải sỏi vụn nằm nép trên sườn đồi, bên những hàng rào cây sum suê, dù chỗ ẩn mình trước những nhân viên công quyền lúc này đang tiến xuống đồi, chỉ còn cách khoảng một trăm thước.
Sienna cho rằng cơ hội họ băng được qua khu vực trống trải để tới lối đi kín đáo kia là rất nhỏ. Mọi du khách đều tập trung ở đây, nhìn đám cảnh sát với ánh mắt tò mò. Tiếng kêu loáng thoáng của chiếc máy bay không người lái nghe rõ dần, đang tiến lại từ phía xa.
"Làm ngay hoặc hết cơ hội", Langdon nói, nắm lấy tay Sienna và kéo cô lao ra khoảng sân trống, luồn qua đám đông du khách đang dồn lại. Sienna phải cố kìm không chạy, nhưng Langdon giữ chặt tay cô, đi nhanh nhưng hết sức bình tĩnh qua đám người.
Cuối cùng, khi đến được đầu đường, Sienna liếc nhìn lại phía sau để xem liệu họ có bị phát giác không. Những sĩ quan cảnh sát duy nhất lọt vào tầm nhìn đều đang ngoảnh sang hướng khác, ánh mắt họ đều dõi lên bâu trời về phía tiếng động cơ của chiếc máy bay đang bay lại gần.
Cô cúi mặt xuống và bước vội theo Langdon.
Trước mặt họ lúc này, đường chân trời của thành Florence cổ kính hiện lên phía trên những tán cây, nhìn rõ mồn một phía trước. Cô thấy phần mái vòm ngói đỏ của vương cung Thánh đường Duomo cùng ngọn tháp chuông Giotto xanh, đỏ, trắng. Phía xa, cô nhận ra những lỗ châu mai của Cung điện Vecchio - cái đích dường như không thể đặt chân tới của họ, nhưng khi họ đi xuống, những tường bao rất cao che kín tầm nhìn đã giúp họ trốn thoát.
Khi xuống đến chân đồi, Sienna thở không ra hơi và thắc mắc liệu Langdon có ý tưởng gì về nơi họ đang đến không. Con đường dẫn thẳng vào một khu vườn như mê cung, nhưng Langdon rất tự tin rẽ trái, đi vào một khoảnh sân rộng rãi rải sỏi, men theo mép sân, lần sau hàng rào bên dưới những bóng cây vươn cao. Khoảnh sân vắng tanh, giống bãi để xe của nhân viên hơn là khu du lịch.
"Chúng ta đang đi đâu đây?", rốt cuộc Sienna cũng phải lên tiếng, thở hổn hển.
"Gần đến rồi."
Gần đến đâu? Toàn bộ khoảnh sân được bao kín trong những bức tường cao tới ba tầng nhà. Lối ra duy nhất Sienna nhìn thấy là một cánh cổng cho xe qua ở bên trái, lúc này đóng kín trong khung cửa bằng sắt rèn đồ sộ trông như xuất hiện nguyên vẹn cùng với tòa cung điện từ thời của những đội quân cướp bóc. Phía ngoài chướng ngại này, cô thấy rõ nhiều cảnh sát tụ tập tại Quảng trường Pitti.
Langdon vẫn bám sát hàng rào cây cối bao quanh, tiến về phía trước, đên chỗ bức tường trước mặt họ. Sienna đưa mắt nhìn mặt tiền để xem có ô cửa nào không, nhưng tất cả những gì cô nhìn thấy chỉ là một hốc tường, đặt bức tượng gớm ghiếc nhất cô từng biết.
Lạy Chúa lòng lành, nhà Medici có đủ tiền để chi bất kỳ tác phẩm nghệ thuật nào trên Trái đất, nhưng họ lại chọn thứ này sao?
Bức tượng trước mặt họ mô tả một gã lùn trần truồng, béo ị cưỡi trên con rùa khổng lồ. Đùi của gã lùn ép chặt vào mai rùa, còn miệng con rùa nhể nước
ròng ròng, như thể đang bị ốm.
"Tôi biết", Langdon nói, vẫn không ngừng sải bước. "Đó là tượng Braccio di Bartolo - một gã lùn phục vụ cung điện nổi tiếng. Nếu cô muốn biết nhận xét của tôi thì tôi cho rằng lẽ ra người ta nên tống gã vào cái bồn tăm thật lớn."
Langdon quay ngoắt sang phải, đi xuống một dãy bậc mãi đên lúc này Sienna mới nhìn thấy.
Một lối thoát ư?!
Tia hy vọng sớm tàn.
Khi rẽ vào và bước xuống bậc thang theo sau Langdon, cô nhận ra họ đang lao vào một ngõ cụt - một đường đi không lối thoát với những bức tường cao gấp đôi lúc trước.
Hơn nữa, giờ đây Sienna cảm thấy chuyến đi đằng đẵng của họ sắp kết thúc ở một cái miệng hang há hốc khoét sâu vào bức tường hậu. Đây không thể là nơi anh ấy đưa cả hai tới được!
Phía trong lôi vào hang toang hoác, toàn những nhũ đá sắc như dao găm đầy
hăm dọa. Trong lòng hang, những yếu tố địa chất vẫn đang hình thành, quyện với nhau và chảy dọc theo vách hang như thể lớp đá đang tan chảy...biến thành những hình dạng kỳ dị. Với tâm trạng hoảng hốt của Sienna thì trông chúng chẳng khác gì những hình người bị chôn một nửa và tròi ra khỏi vách hang như thể đang bị đá ăn thịt. Toàn bộ cảnh tượng này gợi cho Sienna nhớ điều gì đó trong bức tranh vực địa ngục của Botticelli.
Còn Langdon, chẳng hiểu sao không hề bối rối mà cứ tiếp tục chạy thẳng vào miệng hang. Trước đó anh đã nhắc đến thành phố Vatican, nhưng Sienna nghĩ chắc không hề có lòng hang quái đản nào bên trong những bức tường của Tòa thánh.
Khi họ đến gần hơn, Sienna đưa mắt nhìn phía trên lối vào - một cấu trúc ma quái gồm những nhũ đá và khôi đá u ám trồi ra giống như đang nhấn chìm hai người phụ nữ ngồi dựa vào đó, bên sườn có một tấm khiên mang sáu quả đạn, hay palle, chính là hình gia huy nổi tiếng của gia tộc Medici.
Langdon chạy nhanh tới cánh cửa, rõ ràng hy vọng có thể mở được, nhưng nó không hề có tay nắm - chỉ có 15 khóa bằng đồng - và đương nhiên là chỉ có thể mở từ bên trong.
"Khốn kiếp!" Giờ đây mặt Langdon đầy vẻ lo lắng, mọi hy vọng lúc trước của anh tan biến. "Tôi hy vọng..."
Bât ngờ, tiếng động cơ rì rì của chiêc máy bay không người lái vang lên rắt to phía ngoài những bức tường cao bao quanh họ. Sienna ngoảnh lại, nhìn thấy chiếc máy bay đang lượn lên phía trên cung điện và bay về phía họ.
Rõ ràng Langdon cũng đã nhìn thấy nó, anh nắm lấy tay Sienna và chạy vội về phía hang. Họ vừa kịp biến mất bên dưới những nhũ đá của hang chỉ trong tích tắc.
Một kết cục hợp lý, cô nghĩ thầm. Đâm đầu lao qua những cánh cổng địa ngục
Chương 28
Khoảng bốn trăm mét về phía đông, Vayentha đỗ xe máy lại. Ả đã băng ngang thành cổ qua lối Ponte alle Grazie và sau đó đi vòng tới Ponte Vecchio - cây cầu bộ hành nổi tiếng nối Cung điện Pitti với thành cổ. Sau khi gài mũ bảo hiểm vào xe, ả sải bước lên cầu thang và hòa vào dòng du khách buổi sớm.
Một làn gió nhé tháng Ba mát mẻ thổi ngược lên từ sông, làm mái tóc kiểu đầu đinh cũn cỡn của Vayentha càng dựng lên, nhắc ả nhớ rằng Langdon biết ả trông như thế nào. Ả dừng lại một trong nhiều quầy hàng rong trên cầu và mau chiếc mũ bóng chày hiệu AMO FIRENZE, kéo mũ sụp xuống che bớt mặt.
Ả chỉnh lại bộ đồ da để không lộ chỗ phồng lên do khẩu súng và chiếm một vị trí gần giữa cầu, hững hờ dựa vào một cây cộc và ngoảnh mặt về phía Cung điện Pitti. Từ đây, ả có thể quan sát tất cả khách bộ hành đang vượt sông Arno để đi vào trung tâm Florence.
Langdon đi bộ, ả tự nhủ. Nếu anh ta tìm cách vòng qua Porta Romana thì cây cầu này là lối hợp lý nhất để vào thành cổ.
Phía tây, theo hương Cung điện Pitti, ả nghe rõ những tiếng còi và tự hỏi không biết thế này là tin vui hay tin buồn. Họ vẫn đang tìm anh ta chăng? Hay họ đã tóm được anh ta rồi. Trong lúc Vayentha dỏng tai tìm kiếm manh mối về những câu chuyện đang xảy ra thì một âm thanh đột ngột vang lên - tiếng rồ rồ rất to ở đâu đó trên đầu. Ả nhìn lên trời và nhận ra thứ đó ngay lập tức - một chiếc trực thăng nhỏ điều khiển từ xa đang vọt lên rất nhanh và phía trên cung điện rồi sà xuống trên những ngọn cây về góc đông bắc của vườn Boboli.
Một máy bay trinh thám không người lái, Vayentha nghĩ, thoáng thấy chút hy vọng. Nếu nó bay trên trời thế kia thì Brũder vẫn chưa tìm thấy Langdon rồi.
Chiếc máy bay bay rất nhanh. Rõ ràng nó đang sục sạo góc đông bắc của khu vườn, nơi gần Ponte Vecchio và vị trí của Vayentha nhất, điều đó càng khiến ả nhen nhóm thêm hy vọng.
Nếu Langdon thoát khỏi Brũder, chắc chắn anh ta sẽ di chuyển theo hướng này.
Tuy nhiên, Vayentha đang quan sát thì chiếc máy bay đột nhiên bổ nhào mất hút phía sau bức tường đá cao. Ả vẫn nghe thấy tiếng nó lượn lờ ở đâu đó phía dưới hàng cây…. Rõ ràng đã tìm ra thứ gì đó đáng để quan tâm.
Chương 29
Hãy tìm kiếm và anh sẽ thấy, Langdon nghĩ trong lúc cùng Sienna nép người trong hang tối lờ mờ. Chúng ta đã tìm kiếm một lối thoát… và tìm thấy một ngõ cụt.
Đài phun nước có hình dạng phức tạp ở chính giữa hang là một vật chắn tốt, nhưng khi Langdon nhìn ra ngoài từ phía sau nó, anh cảm thấy mọi việc đã quá muộn.
Chiếc máy bay không người lái vừa bổ nhào xuống lối cụt có tường cao, đột ngột dừng ngay phía ngoài hang rồi bay đứng lơ lửng một chỗ, chỉ cách mặt đất khoảng ba mét, hướng về phía hang, phát ra tiếng kêu ro ro giống hệt một giống côn trùng bị chọc tức đang đợi con mồi.
Langdon lùi lại và thì thào cho Sienna biết tin không hay. “Tôi nghĩ nó biết chúng ta ở đây.”
Tiếng rền rĩ rất to của chiếc máy bay dội lại từ các vách đá, gần như khiến người trong hang điếc tai. Langdon thấy thật khó tin là họ lại bị giữ làm con tin bởi một máy bay trực thăng thu nhỏ, nhưng anh biết rằng việc cố chạy thoát sẽ chẳng có kết quả. Giờ chúng ta làm gì đây? Chỉ đợi thôi ư? Kế hoạch loạt vào phía sau cánh cửa xám ban đầu vốn hợp lý, trừ việc anh không nhận ra cánh cửa đó chỉ có thể mở được từ bên trong.
Khi mắt đã quen với lòng hang tối tăm, Langdon bắt đầu quan sát xung quanh họ, tự hỏi liệu còn lối thoát nào không. Anh chẳng nhìn thấy gì khả dĩ. Trong lòng hang toàn những hình khắc người và động vật, tất cả đều đang dần bị ăn mòn trên những bức tường thấm nước. Chán nản, Langdon nhướng mắt nhìn lên trần hang, toàn những nhũ đá chĩa xuống đầy hăm dọa.
Một nơi rất tốt để chết.
Động Buotalenti - được đặt theo tên người kiến tạo ra nói là Bernardo Buotalenti - được nhiều người cho là nơi kỳ dị nhất ở Florence. Ban đầu được dự kiến là một dạng nhà cười cho du các du khách trẻ tới thăm quan Cung điện Pitti, hệ thống hang ba lòng này được bài trí pha trộn giữa phong cách tưởng tượng theo chủ nghĩa tự nhiên và kiên trúc Gothic. Kiểu bài trí này gồm những chi tiết giống như các khối kết thành giọt và đá bọt nhễu chảy, nhìn như đang nuốt lấy hoặc thổ ra vô số những hình thù được tạo tác. Dưới thời gia tộc Medici, hang này có nước chảy xuống những bức tường bên trong, vừa có tác dụng làm mát trong những ngày hè nóng nực đồng thời tạo hiệu ứng của một cái hang thực sự.
Langdon và Sienna ẩn mình trong lòng hang đầu tiên và cũng là lớn nhất phía sau đài phun nước không rõ hình dạng ở trung tâm. Xung quanh họ là những hình thù sặc sỡ gồm người chăn cừu, nông dân, nhạc công, động vật, và thậm chí cả bản sao bốn tù nhân của Michelangelo, tất cả đều như đang cố gắng thoát ra khỏi lớp đá đang ngoạn lấy họ. Tít phía trên cao, ánh sáng buổi sớm rọi xuống qua ô sáng trên trần, nơi từng có quả cầu thủy tinh rất lớn chứa đầy nước đựng những con cá chép đỏ rực bơi lội trong ánh nắng.
Langdon tự hỏi các vị khách thời Phục Hưng sẽ phản ứng như thế nào trước sự săm soi của một chiếc trực thăng thật - một giấc mơ huyễn tưởng của chính nghệ sĩ người Ý Leonardo da Vinci - bay lơ lửng bên ngoài hang.
Đúng lúc đó, tiếng động cơ đinh ta nhức óc của chiếc máy bay tắt ngấm. Nó không hề nhỏ dần mà chỉ là…. đột ngột tắt phụt.
Ngơ ngác, Langdon nhìn ra từ phía sau đài phun nước và thấy rõ chiếc máy bay đã đáp xuống. Lúc này, nó đậu yên ở khoảng sân rải sỏi, trông không còn đáng ngại, đặc biệt là khi ống kính máy quay như cái vòi châm nọc độc phía trước chếch khỏi họ, lệch sang một bên, hướng về phía cánh cửa nhỏ màu xám.
Cảm giác nhẹ nhõm của Langdon chỉ vụt qua. Phía sau chiếc máy bay một trăm thước, gần bức tượng gã lùn và con rùa, ba người lính mang vũ khí đang sải bước xuống thang, tiến thẳng về phía hang.
Nhóm lính mặc đồng phục màu đen quen thuộc với phù hiệu xanh lá cây trên vai. Người đàn ông vạm vỡ đi đầucó cặp mắt vô hồn gợi cho Langdon nhớ tới chiếc mặt nạ dịch hạch trong ảo giác của mình.
Ta là cái chết.
Langdon không hề nhìn thấy chiếc xe thùng của họ cũng như người phụ nữ tóc bạc bí ẩn ở đâu cả.
Ta là sự sống.
Khi những người lính tiến vào, một trong số họ dừng lại ở chân cầu thang và xoay người về phía sau, rõ ràng muốn ngăn những người khác xuống khu vực này. Hai người còn lại tiếp tục tiến về phía hàng.
Langdon và Sienna lại di chuyển mặc dù chỉ là để trì hoãn điều tất yếu sẽ xảy ra. Họ bò lùi dần về phía sau để luồn vào lòng hang thứ hai nhỏ hơn, sâu và tối hơn. Nơi này cũng có một tác phẩm nghệ thuật ở chính giữa - bức tượng cặp tình nhân quấn lấy nhau - giờ là chỗ trú ẩn mới cho Langdon và Sienna.
Langdon nấp kín trong bóng tối, thận trọng nhìn qua đế bức tượng và quan sát những kẻ đột kích đang tiến vào. Khi hai người lính tới chỗ chiếc máy bay, một người dừng lại và cúi xuống nhấc nó lên để kiểm tra máy quay.
Không biết cái máy bay đã phát hiện ra bọn mình chưa? Langdon tự hỏi, cảm thấy e ngại vì mình đã biết câu trả lời.
Người lính thứ ba và cũng là người cuối cùng, nhân vật vạm vỡ có đôi mắt lạnh lẽo, vẫn lạnh lùng tiến thẳng về phía Langdon. Anh ta tiến tới gần cửa hàng. Hắn sẽ vào. Đúng lúc Langdon chuẩn bị lùi lại sau bức tượng và nói với Sienna thế là hết rồi, thì anh chứng kiến một chuyện bất ngờ.
Người lính kia, thay vì bước vào hang, bỗng nhiên ngoặt sang trái và biến mất.
Hắn đi đâu nhỉ? Hắn không biết bọn mình ở đây à?
Một lát sau, Langdon nghe thấy tiếng đập - tiếng nắm tay nện trên gỗ.
Cánh cửa nhỏ màu xám, Langdon nghĩ thầm. Chắc chắn hắn biết nó dẫn đi đâu.
***
Nhân viên an ninh Cung điện Pitti tên Ernesto Russo lúc nào cũng muốn chơi bóng đá kiểu châu Âu, nhưng ở cái tuổi hai mươi chín và quá béo, cuối cùng anh đành phải chấp nhận rằng giấc mơ thời niên thiếu sẽ chẳng bao giờ trở thành hiện thực. Suốt ba năm qua, Ernesto làm chân bảo vệ tại Cung điện Pitti, luôn ngồi trong cái buồng bé bằng bao diêm, và đảm nhận công việc tẻ nhạt này.
Ernesto không lại gì những du khách tò mò cứ gõ vào cánh cửa nhỏ màu xám bên ngoài văn phòng nơi anh vẫn ngồi, và anh thường mặc kệ cho tới khi họ chán. Nhưng hôm nay tiếng gõ rất mạnh và liên tục.
Bực bội, anh cố tập trung vào cái ti vi của mình, lúc này đang phát lại trận bóng ồn ã - đội Fiorentina gặp Juventus. Tiếng gõ càng to hơn. Cuối cùng, vừa nguyền rủa đám du khách, Ernesto vừa chui ra khỏi buồng trực rồi theo hành lang hẹp đi về phía tiếng gõ. Được nửa đường, anh dừng lại trước cánh cửa chấn song thép đồ sộ vẫn luôn chặn kín lối đi này, ngoại trừ vào một vài giờ đặc biệt.
Anh nhập chuỗi số bên ổ khóa và mở cửa, kéo nó sang bên. Sau khi bước qua cửa, anh làm theo đúng thủ tục và đóng cánh cửa thép phía sau mình. Rồi anh bước lại cánh cửa gỗ màu xám.
“Cửa đóng!”, anh quát to qua cửa, hy vọng người bên ngoài sẽ nghe thấy. “Các vị không được vào đây!”
Tiếng đập cửa vẫn tiếp tục.
Ernesto nghiến răng. Lại dân New York đây mà, anh phán đoán. Lúc nào cũng muốn cho bằng được. Lý do duy nhất đọi bóng Red Bulls của họ có được thành công trên vũ đài thế giới là vì họ “chôm chỉa” được một trong những huấn luyện viên giỏi nhất châu Âu.
Tiếng đập cửa vẫn tiếp tục, Ernesto miễn cưỡng mở cửa và đẩy hé ra vài phân. “Cửa đóng mà!”
“Có chuyện gì vậy?”, Ernesto hỏi, vẻ cảnh giác.
Phía sau gã lính kia, một gã thứ hai đang cúi xuống, chỉnh sửa thứ gì đó có vẻ như là một chiếc trực thăng đồ chơi. Cách xa hơn một chút, một gã nữa đứng canh cầu thang, Ernesto nghe rõ tiếng còi cảnh sát gần đó.
“Anh nói được tiếng Anh không?” Giọng gã lính rõ ràng không phải dân New York. Vùng nào của châu Âu nhỉ?
Ernesto gật đầu. “Một chút thôi!”
“Có ai đi qua cánh cửa này sáng nay không?”
“Không, thưa ngài! Không có ai cả.”
“Tốt lắm. Khóa chặt cửa nhé. Không cho phép air a vào.
Rõ chưa?”
Ernesto nhún vai. Dù sao đó cũng là công việc của anh. “Rõ, tôi hiểu mà. Nội bất xuất, ngoại bất nhập.”
“Cho tôi biết, cánh cửa này là lối vào duy nhất phải không?”
Ernesto ngẫm nghĩ. Về mặt kỹ thuật, cánh cửa này hiện được xem là một lối ra, đó là lý do nó không có tay nắm ở bên ngoài, nhưng anh hiểu những gì người kia hỏi. “Phải, tiếp cận vào đây chỉ có duy nhất cánh cửa này. Không còn lối nào khác.” Lối vào cũ bên trong cung điện đã bị bịt kín nhiều năm rồi.
“Thế còn lối thoát bí mật nào khác từ vườn Boboli không? Ngoài những cổng thông thường?”
“Không, thưa ngài. Chỗ nào cũng có tường cao. Đây là lối thoát bí mật duy nhất.”
Gã lính gật đầu. “Cảm ơn anh đã giúp đỡ!” Gã ra hiệu cho Ernesto đóng và khóa cửa lại.
Ernesto làm theo vẻ khó hiểu. Rồi anh quay trở lại hành lang, mở khóa cánh cửa chấn song thép, đi qua đó, khóa lại như cũ rồi quay lại với trận đấu bóng của mình.
Chương 30
Langdon và Sienna đã chớp được một cơ hội.
Trong khi gã lính vạm vỡ đang đập cửa, họ đã bò sâu hơn vào trong hang và lúc này đang ẩn trong lòng hang cuối cùng. Không gian chật cội này được trang trí bằng những hình gốm khảm và tượng thần rừng đẽo gọt xù xì. Ở chính giữa là bức điêu khắc to bằng kích thước người thật mô tả Thần Vệ nữ tắm. Trùng hợp là trong tình cảnh này, bức tượng như đang lo lắng ngoảnh nhìn qua vai.
Langdon và Sienna thu mình ở phần khuất của bệ tượng hẹp, chờ đợi, chăm chú nhìn cây măng đá hình cầu nhô lên phía vách hang sâu nhất.
“Mọi lối ra đều kín mít!”, một gã lính nói lớn đâu đó bên ngoài. Gã nói thứ tiếng Anh không rõ giọng nên Langdon không thể nhận diện được. “Cho máy bay hoạt động trở lại đi. Tao sẽ kiểm tra cái hang ở đây.”
Langdon cảm thấy Sienna cứng người ngay bên cạnh anh.
Mấy giây sau, những tiếng giày ủng nặng nề tiến vào trong hang. Tiếng bước chân nhanh qua long hang thứ nhất, nghe to dần khi gã lính tiến vào lòng hang thứ hai, thẳng về phía họ.
Langdon và Sienna nép vào nhau sát hơn.
“Này!”, một giọng nói khác vang lên phía xa, “Tóm được chúng rồi!”
Tiếng bước chân dừng lại.
Giờ thì Langdon có thể nghe ro ai đó chạy vội trên lối đi trải sỏi về phía hang. “Có người nhận diện!”, giọng nói thể hổn hển xác nhận. “Chúng tôi vừa nói chuyện với mấy khách du lịch. Vài phút trước, người đàn ông và người phụ nữ đó hỏi họ hướng đi tới phong trưng bày trang phục…. nằm ở phía chai tây của cung điện.”
Langdon liếc nhìn Sienna. Dường như cô thoáng mỉm cười.
Gã lính lấy lại nhịp thở, tiếp tục nói. “Các lối ra phái tây là những lối đầu tiên bị chặn…. và khả năng cao là chúng ta dồn họ mắc kẹt trong vườn rồi.”
“Thực thi nhiệm vụ của mày đi!”, gã lính gần hơn đáp. “Và gọi cho tao ngay khi mày xong việc.”
Có tiếng bước chân hối hả chạy đi lạo xạo trên sỏi, tiếng chiếc máy bay không người lái cất cánh trở lại, và sau đó, thật may…. Tất cả chìm vào im lặng hoàn toàn.
Langdon định xoay sang bên để ngó qua bệ tượng nhưng Sienna nắm lấy tay anh chặn lại. Cô đưa một ngón tay lên môi và hất đầu về phía bóng người mờ mờ in trên vách hang phía sau. Gã lính chỉ huy vẫn đứng im lặng ở cửa hang.
Hắn đợi cái gì nhỉ?
“Brũder đây”, gã đột ngột lên tiếng. “Chúng tôi dồn được họ rồi. Tôi sẽ xác nhận lại ngay!”
Gã đang gọi điện thoại, và giọng gã nghe rất gần, như thể đang đứng ngay bên cạnh họ. Cái hang lúc này như một chiếc micro hình parabol, thu hết âm thanh về phía sau.
“Còn nữa”, Brũder nói. “Tôi vừa nhận được tin cập nhật từ bên tòa án. Căn hộ của cô gái kia có vẻ là cho thuê lại. Đồ đạc không có nhiều. Rõ ràng là chỉ ở ngắn hạn. Chúng tôi đã tìm thấy ống nghiệm, nhưng không thấy nhiều máy chiếu. Tôi nhắc lại, không thấy máy chiếu. Chúng tôi cho rằng nó vẫn đang nằm trong tay Langdon.”
Langdon cảm thấy lạnh toát khi nghe gã lính nói ra tên mình.
Tiếng bước chân to hơn, và Langdon nhận ra rằng gã lính đang tiến sâu vào hang. Dáng gã trông không còn vẻ hùng dũng mấy phút trước và lúc này nghe như thể đi dạo, khám phá trong hang trong khi nói chuyện điện thoại.
“Đúng”, gã lính nói. “Bên tòa án cũng xác nhận một cuộc gọi ra ngoài duy nhất ngay trước khi chúng tôi ập vào căn hộ.”
Lãnh sự quán Hoa Kỳ, Langdon nghĩ thầm, nhớ lại chuyện điện thoại của anh và việc ả sát thủ đầu đinh đến rất nhanh. Dường như ả đó đã biến mất, và bị thay thế bằng cả đội lính chuyên nghiệp này.
Bọn mình không thể chạy trốn chúng được mãi.
Tiếng giầy của gã lính trên nền đá giờ chỉ còn khoảng sáu mét và đang tiến lại gần. Gã đã bước vào lòng hang thứ hai và nếu tiếp tục đi đến cuối chắc chắn gã sẽ phát hiện bọn họ nép sau phần đế hẹp của bức Thần Vệ nữ.
“Sienna Brooks”, gã lính đột ngột xác nhận, mấy từ đó nghe rất rành rọt.
Sienna giật thót người bên cạnh Langdon, cô ngước mắt lên, cứ nghĩ gã lính sẽ chòng chọc nhìn xuống cô. Nhưng chẳng có ai ở đó cỏa.
“Giờ sẽ kiểm tra máy tính xách tay của cô ta”, giọng nói tiếp tục, cách khoảng ba mét. “Tôi chưa có báo cáo, nhưng chắc chắn là cùng cái máy tính chúng tôi dò tìm khi Langdon truy cập vào tài khoản email Harvard của anh ta.”
Nghe được tin này, Sienna ngoảnh sang Langdon vẻ không tin nổi, miệng há hộc nhìn anh với nét mặt sửng sốt… và tiếp đến là cảm giác bị phản bội.
Langdon cũng đờ đẫn không kém. Ra chúng lần được bọn mình bằng cách đó ư?! Thận chí đến lúc đó anh cũng không nghĩ ra được. Mình chỉ cần thông tin thôi mà! Langdon chưa kịp nói lời xin lỗi thì Sienna đã ngoảnh đi, nét mặt cô không biểu lộ gì.
“Đúng vây”, gã lính nói tiếp, tiến đến lối vào lòng hang thứ ba, chỉ cách Langdon và Sienna gần hai mét. Thêm hai bước chân nữa, chắc chắn gã sẽ nhìn thấy họ.
“Chính xác”, gã nói, bước thêm một bước nữa. Đột nhiên, gã dừng lại. “Chờ chút!”
Langdon cứng đờ, sẵn sàng với tình huống bị phát hiện.
“Chờ chút, tôi mất tín hiệu”, gã lính nói, và sau đó lùi lại vài bước về phía lòng hang thứ hai. “Tín hiệu kém. Được rồi….” Gã lắng nghe một lúc, sau đó đáp. “Được, tôi đồng ý, nhưng ít nhất chúng tôi biết đang đối đầu với ai.”
Nói xong, bước chân gã rút nhẹ dần ra khỏi hang, di chuyển trên bề mặt trải sỏi rồi sau đó biến mất.
Vai Langdon chùng xuống, anh quay sang Sienna, lúc này vẫn còn nguyên vẻ sợ hãi và giận dữ trong ánh mắt.
“Anh đã dùng máy tính của tôi?”, cô hỏi.
“Để kiểm tra email của anh à?”
“Tôi xin lỗi… tôi nghĩ cô hiểu. Tôi cần tìm ra….”
“Vì thế bọn chúng tìm ra chúng ta! Và giờ chúng biết tên tôi!”
“Tôi xin lỗi, Sienna. Tôi không nhận ra….”. Langdon ấp úng vẻ hối lỗi.
Sienna quay đi, đăm đăm nhìn vô hồn về phía măng đá hình củ hành trên vách hang phía sau. Họ không nói gì suốt gần một phút. Langdon tự hỏi liệu Sienna có nhớ đến những đồ vật riêng tư đặt trên bàn của cô - Chương trình biểu diễn vở Giấc mộng đêm hè và bài báo nói về cuộc đời cô khi còn là một cô bé phi thường. Cô ấy có nghi ngờ mình đã thấy chúng không nhỉ? Dẫu có thì cô cũng không hỏi, và Langdon thấy mình đã gây cho cô đủ phiền toái rồi nên anh không định nhắc đến nữa.
“Họ biết tôi là ai”, Sienna nhắc lại, giọng cô nhẹ đến mức Langdon gần như không nghe thấy. Mười giây tiếp theo, Sienna hít thở chậm rãi vài lần, như thể đang cố chấp nhận thực tế mới mẻ này. Trong lúc cô làm như vậy, Langdon cảm thấy vẻ cương nghị của cô đang từ từ trở lại.
Rất đột ngột, Sienna đứng thẳng lên. “Chúng ta phải đi”, cô nói. “Bọn chúng sẽ không mất nhiều thời gian để nhận ra chúng ta không hề ở trong khu trưng bày trang phục.”
Langdon đứng lên theo cô. “Đúng, nhưng đi…. Đâu đây?”
“Tòa thánh?”
“Sao cơ?”
“Cuối cùng tôi cũng hiểu ra ý anh nói lúc trước… điểm chung giữa Tòa thánh và vườn Boboli.” Cô ra hiệu về phía cánh cửa nhỏ màu xám. “Đó là lối vào, phải không?”
Langdon miễn cưỡng gật đầu. “Thực tế, đó là lối ra, nhưng tôi đoán nó là một lối tắt. Tiếc là chúng ta không thể đi qua.” Langdon đã nghe cuộc trò chuyện giữa anh chàng bảo vệ và gã lính nên biết rõ cánh cửa này không phải là một lựa chọn.
“Nhưng nếu chúng ta có thể đi qua”, Sienna nói, vẻ ranh mãnh thoáng trở lại trong giọng nói của cô, “anh có biết thế nghĩa là sao không?”. Một nụ cười nụ cười thoáng hiện trên môi cô. “Thế nghĩa là trong ngày hôm nay, anh và tôi đã hai lần được nghệ sĩ Phục Hưng này giúp đỡ đấy!”
Langdon bật cười vì mấy phút trước anh đã có ý nghĩ đúng như vậy. “Vasari. Vasari.”
Sienna cười thoải mái hơn, và Langdon cảm thấy cô đã tha thứ cho anh, ít nhất là lúc này. “Tôi nghĩ đó là ý trời”, cô nói, nghe có phần nghiêm trọng. “Chúng ta nên đi qua cánh cửa đó.”
“Được… và chúng ta sẽ qua mặt anh chàng bảo vệ à?”
Sienna bẻ đốt ngón tay và bước ra khỏi hang. “Không, tôi sẽ nói chuyện với anh ta.” Cô liếc về phía Langdon, vẻ quyết tâm trở lại trong mắt cô. “Tin tôi đi, ngài giáo sư, tôi có thể thuyết phục được người khác khi tôi phải làm vậy.”
***
Lại có tiếng đập vào cánh cửa màu xám.
Chắc nịch và kiên quyêt.
Nhân viên bảo vệ Ernesto Russo càu nhàu đầy bực dọc. Gã lính lạ mặt có cặp mắt lạnh lẽo rõ ràng đã quay lại, nhưng thời điểm xuất hiện thì không thể tệ hơn được nữa. Trận bóng đá trên truyền hình đang vào phút bù giờ trong khi đội Fiorentina thiếu một cầu thủ và số phận như chỉ mành treo chuông.
Tiếng đập vẫn tiếp tục.
Ernesto không phải thằng ngộc. Anh biết sáng nay ngoài kia đang có chuyện gì đó rắc rối - toàn nghe tiếng còi và binh lính - nhưng anh không phải hạng người tự dây dưa vào những chuyện không ảnh hưởng trực tiếp đến mình.
Chỉ có điên mới chõ mũi vào việc của người khác.
Thêm nưa, gã lính kia rõ ràng là nhân vật rất quan trọng, cho nên phớt lờ gã có thể không khôn ngoan chút nào. Công ăn việc làm ở Ý giai đoạn này không dễ kiếm, kể cả những việc nhàm chán. Ernesto liếc nhìn trận đấu lần cuối rồi đi về phía tiếng đập cửa.
Anh vẫn không thể tin được rằng mình được trả công để ngồi trong buồng bé tí suốt ngày và xem ti vi. Có lẽ hai lần mỗi ngày, lại có một tour VIP ở bên ngoài, sau khi đã đi hết quãng đường từ bảo tang Uffizi. Ernesto sẽ đón họ, mở khóa cánh cửa chấn song thép, để cả nhóm đi qua cánh cửa xám, để tour của họ kết thúc trong vườn Boboli.
Lúc này, tiếng đập cửa nghe càng gấp gáp hơn, Ernesto mở cánh cửa chấn song thép, đi qua đó, và khóa lại phía sau mình.
“Ai đấy?”, anh quát át cả tiếng đập cửa trong lúc tiến vội đến cánh cửa xám.
Không có tiếng trả lời. Tiếng đập vẫn tiếp tục.
Khùng thật! Cuối cùng anh mở cửa và kéo sang bên, cứ ngỡ sẽ nhìn thấy ánh mắt vô hồn lúc trước.
Nhưng khuôn mặt này hấp dẫn hơn rất nhiều.
“Chào anh”, một phụ nữ xinh xắn tóc vàng óng cất tiếng và mỉm cười trìu mên với anh. Cô chìa một tờ giấy gấp gọn, khiên anh thò ngay tay ra nhận lấy một cách đầy bản năng. Ngay khi anh vừa cầm lấy tờ giấy và nhận ra nó chỉ là thứ vứt đi nhặt từ dưới đất, người phụ nữ đã dùng hai bàn tay nhỏ nhắn nắm chặt cổ tay anh và bấm ngón tay cái vào vùng xương ngay bên dưới lòng bàn tay anh.
Ernesto cảm thấy như một lưỡi dao vừa chọc qua cổ tay. Tiếp theo cú chọc nhói buốt là trạng thái tê rần như điện giật. Người phụ nữ bước về phía anh, và ấn ngày càng mạnh thêm, khiến cơn đau cứ thế lặp lại. Anh lảo đảo lùi lại, cố gắng giật tay ra, nhưng hai chân cũng đờ ra và nhũn xuống, khiến anh khuỵu gối.
Những việc tiếp theo xảy ra trong chớp mắt.
Một người đàn ông cao ráo trong bộ cánh sẫm màu xuất hiện ở ngưỡng cửa, lách vào trong và nhanh chóng đóng cánh cửa màu xám lại. Ernesto với tay lấy bộ đàm, nhưng bị một bàn tay mềm mại từ phía sau gáy Siennaết chặt lại, và các cơ cứng đờ, khiến anh phải há miệng để thở. Người phụ nữ lấy bộ đàm trong khi người đàn ông tiến lại, trông có vẻ hoảng hốt trước những hành động của cô không kém gì Ernesto.
“Choáng nhẹ thôi”, người phụ nữ tóc vàng nói nhanh với người đàn ông. “Điểm huyệt kiểu Trung Hoa thôi mà. Không phải vô cớ thuật này có mặt khắp nơi suốt ba nghìn năm qua.”
Người đàn ông trố mắt đầy ngạc nhiên.
“Chúng tôi không muốn làm anh đau đâu”, người phụ nữ thì thào với Ernesto bằng tiếng Ý, nới lỏng áp lực ở cổ.
Ngay khi lực bấm giảm bớt, Ernesto cố gắng vùng vẫy thoát ra, nhưng lực bấm lập tức trở lại, và các cơ của anh lại cứng đờ. Anh há hốc miệng vì đau, khó khăn lắm mới thở được.
“Chúng tôi cần đi qua đây”, cô nói bằng tiếng Ý. Cô ra hiệu về cánh cửa chấn song thép, thật may là Ernesto đã khóa lại phía sau mình. “Chìa khóa đâu?”
“Tôi không có chìa khóa”, anh cố nói.
Người đàn ông cao ráo vượt qua họ tới cửa thép và kiểm tra kết cấu. “Là loại khóa mã số”, anh ta nói vọng lại chỗ người phụ nữ, giọng rõ là người Mỹ.
Người phụ nữ khom xuống bên cạnh Ernesto, đôi mắt màu hạt dẻ của cô lạnh như băng. “Mã số là gì?”, cô hỏi.
“Tôi không thể!”, anh ta trả lời. “Tôi không được phép….”
Có gì đó ở đầu cột sống anh, và Ernesto cảm thấy cả cơ thể cứng đờ. Một khắc sau, anh ngất đi.
***
Khi tỉnh lại, Ernesto cảm thấy như đang nửa tỉnh nửa mê mất vài phút. Anh nhớ lại một phần cuộc trò chuyện…. cảm giác đau buốt…. có lec bị đâm chăng? Tất cả rất nhạt nhòa.
Khi mớ bùng nhừng đã tan đi, anh nhìn thấy một cảnh tượng lạ lùng – đôi giày của anh nằm trên nền đất gần đó nhưng dây giày đã bị gỡ mất. Đến khi đó anh mới nhận ra mình không sao cựa quậy được. Anh đang nằm nghiêng với hai tay và chân bị bẻ quặt ra phía sau, rõ ràng đã bị chặt bằng dây giày. Anh cố gắng hét to, nhưng không nghe thấy tiếng gì vọng lại. Miệng anh bị nhét tất. Cảm giác sợ hãi thật sự ập đến chỉ trong nháy mắt, khi anh ngước nhìn lên và thấy ti vi vẫn đang chiếu trận đấu bóng. Mình đang ở trong buồng của mình…. BÊN TRONG cánh cửa chấn song thép.
Cách đó một quãng, Ernesto nghe thấy tiếng bước chân đang chạy xa dần dọc theo hành lang…. rồi im lặng. Không thể như vậy được! Bằng cách nào đó, người phụ nữ tóc vàng đã thuyết phục được Ernesto làm một việc anh được thuê để đừng bào giờ làm – tiết lộ mật mà mở khóa lối vào Hành lang Vasari nổi tiếng.
Chương 31
Tiến sĩ Elizabeth Sinskey cảm thấy lúc này những cơn buồn nôn và chóng mặt đang đến nhanh hơn. Bà ngồi rũ người trên băng ghế sau chiếc xe thùng đỗ trước Cung điện Pitti. Người lính ngồi bên cạnh bà đang quan sát bà với vẻ càng lúc càng lo lắng.
Trước đó một lúc, bộ đàm của người lính này kêu sột soạt - chuyện gì đó liên quan đến một phòng trưng bày trang phục - khiến cho Elizabeth bừng tỉnh khỏi trạng thái đầu óc tối tăm. Bà mơ thấy con quái vật có cặp mắt xanh lè.
Bà như quay trở lại căn phòng tối om tại Hội đồng Quan hệ Đối ngoại ở New York, lắng nghe những lời say sưa điên rồ của kẻ lạ mặt bí ẩn mời bà tới đó. Người đàn ông nhìn không rõ ấy đi đi lại lại phía trước căn phòng - một cái bóng cao lêu nghêu in bóng lên hình chiếu rùng rợn lúc nhúc những con người trần truồng đang hấp hối, lấy cảm từ Hỏa ngục của Dante.
“Cần ai đó đảm nhận cuộc chiến này”, nhân vật ấy kết luận, “hoặc đây chính là tương lai của chúng ta. Toán học khẳng định điều này. Loài người giờ đang trôi nổi trong cõi luyện ngục của thái độ lần khần, thiếu quyết đoán và lòng tham cá nhân… nhưng những tầng địa ngục đang chờ đợi, ngay dưới chân chúng ta, đợi để nuốt lấy tất cả chúng ta”.
Elizabeth vẫn quay cuồng trước những ý tưởng kinh khủng mà người đàn ông này vừa nói ra trước mặt bà. Bà không thể chịu đựng được thêm và đứng bật dậy. “Những gì ông gợi ý là….”
“Lựa chọn còn lại duy nhất của chúng ta”, người đàn ông ngắt lời.
“Thực tế”, bà đáp, “tôi sẽ phải nói rằng, đó là ‘phạm tội’!”
Người đàn ông nhún vai. “Đường tới thiên đàng phải đi qua địa ngục. Dante đã dạy chúng ta như vậy.”
“Ông điên rồi!”
“Điên ư?”, người đàn ông lặp lại, nghe như bị tổn thương. “Tôi ư? Tôi không nghĩ vậy. Điên rồ là KẺ[1] đăm đăm nhìn xuống vực thẳm và không chịu tin rằng nó đang tồn tại ở đó. Điên rồ là một con đà điểu ruvs đầu vào trong bao cát trong khi cả bầy linh cẩu đang tiến gần xung quanh.”
[1]: Ở đây có sự chơi chữ. Trong bản gốc tiếng Anh, nhân vật dùng từ “WHO” vừa mang nghĩ “người nào, kẻ nào” đồng thời là tên viết tắt của Tổ chức Y tế Thế giới.
Trước khi Elizabeth kịp bênh vực tổ chức của mình thì người đàn ông đã đổi hình ảnh trên màn hình.
“Và nói đến linh cẩu”, ông ta nói, chỉ vào hình ảnh mới. “Đây chính là bầy linh cẩu hiện đang bao vây loài người…. và chúng đang tiến lại gần rất nhanh.”
Elizabeth kinh ngạc nhìn hình ảnh quen thuộc trước mắt bà. Đó là một biểu đồ do WHO công bố trong năm trước, mô tả vấn đề môi trường chính yếu mà WHO cho rằng có tác động lớn nhất đên ý tế toàn cầu.
Danh sách này gồm:
Nhu cầu về nước sạch, nhiệt độ bề mặt toàn cầu, suy thoái tầng ozone, tiêu thụ các nguồn tài nguyên đại dương, tuyệt chủng giống loài, nồng độ CO2, nạn phá rừng, và mực nước biển toàn cầu.
Tất cả những chỉ số tiêu cực này đều tăng trong thế kỷ qua. Nhưng giờ đây, tất cả đều đang tăng vọt với tốc độ đáng kinh ngạc.
Elizabeth luôn có những phản ứng tương tự mỗi lần bà nhìn thấy biểu đồ này – một cảm giác bất lực. Bà là nhà khoa học, tin vào sự hữu ích của các số liệu thống kê, và biểu đồ này đã vẽ lên bức tranh đáng sợ không phải về tương lai xa vời…. mà là một tương lai rất gần.
Đã nhiều lần trong cuộc đời mình, Elizabeth Sinskey bị ám ảnh vì không còn khả năng có con. Nhưng, khi nhìn thấy biểu đồ, bà gần như cảm thấy nhẹ nhõm vì đã không sinh ra một đứa trẻ trên cõi đời này.
Đây là tương lai cho con của ta ư?
“Trong năm mươi năm qua”, người đàn ông cao kều nói, “tội lỗi của chúng ta chống lại Mẹ Thiên nhiên tăng lên kinh khủng”. Ông ta ngừng lại. “Tôi lo sợ cho linh hồn loài người. Khi WHO công bố biểu đồ này, các chính trị gia, những kẻ quyền lực, và các nhà hoạt động môi trường của thế giới vội triệu tập những hội nghị khẩn, tất cả đều cố gắng đánh giá xem vấn đề trong số này nghiêm trọng nhất và thực tế chúng ta có thể hy vọng giải quyết được những gì. Kết quả? Ở phương diện kín đáo, họ vò đầu bứt tai và khóc lóc. Ở phương diện công khai, họ trấn an chúng ta rằng họ đang tìm kiếm các giải pháp nhưng đây vốn là những vấn đề phức tạp.”
“Những vấn đề này vốn phức tạp!”
“Với vẩn!”, người đàn ông ngắt lời. “Bà thừa biết rằng biểu đồ này mô tả mối quan hệ đơn giản nhất - một hàm số dựa trên một biến số duy nhất! Mọi đường trên biểu đồ này đều tăng lên trong mối tương quan trực tiếp chỉ với một giá trị - cái giá trị tất cả mọi người đều sợ phải thảo luận. Dân số toàn cầu!”
“Trên thực tế, tôi nghĩ điều đó hơi….”
“Hơi phức tạp hơn phải không? Thực tế, không hề! Chẳng có gì đơn giản. Nếu bà muốn có thêm nước sạch bình quân đầu người, bà cần có số người ít hơn trên trái đất. Nếu bà muốn giảm lượng khí thải xe cộ, bà cần lái ít xe hơn. Nếu bà muốn các đại dương lại đầy ắp cá, bà cần ít người ăn cá hơn!”
Ông ta nhìn bà chòng chọc, giọng điệu trở nên sôi nổi hơn.
“Hãy mở to mắt ra đi! Chúng ta đang trên bờ vực diệt vong của nhân loại, và các nhà lãnh đạo thế giới đang ngồi trong phòng họp để mất thời gian với những nghiên cứu về điện mặt trời, tái chế, và xe hơi hybrid đúng không? Lẽ nào bà - một phụ nữ có trình độ khoa học - lại không nhìn ra điều đó? Suy thoái tầng ozone, thiếu nước, và ô nhiễm không phải là dịch bệnh - chúng chỉ là những triệu chứng. Căn bệnh là tình trạng quá tải dân số thế giới, chúng ta sẽ chẳng làm được gì hơn là dán một miếng băng gạc lên khối u ác tính đang phát triển trên rất nhanh.”
“Ông xem loài người như một căn bệnh ung thư ư?”, Elizabeth vặn hỏi.
“Ung thư đơn giản là một tế bào mạnh khỏe tái tạo vượt ngoài tầm kiểm soát. Tôi cho rằng bà thấy ý tưởng của tôi là khó chịu, nhưng tôi có thể cam đoan bà sẽ thấy những phương án khác còn kém mỹ miều hơn rất nhiều khi điều đó xảy ra. Nếu chúng ta không hành động dũng cảm thì….”
“Dũng cảm ư?”, bà lắp bắp. “Dũng cảm không phải là từ ông đang tìm kiếm. Phải là điên rồ!”
“Tiến sĩ Sinskey”, người đàn ông nói, giọng bình tĩnh đến kỳ lạ. “Tôi mời riêng bà đến đây bởi vì tôi hy vọng rằng bà - một tiếng nói khôn ngoan của Tổ chức Y tế Thế giới - có thể sẵn lòng hợp tác với tôi và triển khai một giải pháp khả thi.”
Elizabeth trợn mắt nhìn không sao tin nổi. “Ông nghĩ Tổ chức Y tế Thế giới sẽ hợp tác với ông… triển khai một ý tưởng như thế này sao?”
“Nói thật là đúng thế?”, ông ta nói. “Tổ chức của bà gồm những bác sĩ, và khi các bác sĩ có bệnh nhân bị hoại tử, họ không do dự cắt bỏ chân của người đó để cứu mạng anh ta. Đôi khi, quy trình hành động duy nhất là giải pháp ít tàn nhẫn hơn.”
“Chuyện này hoàn toàn khác!”
“Không. Chuyện này cũng giống hệt. Sự khác biệt duy nhất là quy mô.”
Elizabeth cảm thấy nghe đến đây đã quá đủ. Bà đứng phắt dậy. “Tôi phải đi để kịp máy bay.”
Người đàn ông cao kều tiến một bước đầy hăm dọa về phía bà, chặn lối ra. “Xin nói thẳng. Dù có sự hợp tác của bà hay không, tôi cũng có thể tự mình triển khai ý tưởng này rất dễ dàng.”
“Xin nói thẳng”, bà đáp trả. “Tôi coi như việc này là một lời đe dọa khủng bố và sẽ giải quyết nó theo cách như thế.” Bà rút điện thoại ra.
Người đàn ông cười phá lên. “Bà sẽ báo rằng tôi nói những điều chỉ mang tính giả thuyết thôi ư? Thật tiếc, bà sẽ phải đợi mới thực hiện được cuộc goi. Căn phòng này được che chắn bằng điển tử. Điện thoại của bà sẽ không có tín hiệu đâu.”
Ta không cần tín hiệu, kẻ điên rồ ạ. Elizabeth giơ điện thoại lên, và khi người đàn ông chưa kịp nhận ra chuyện gì xảy ra thì bà đã chụp ảnh gương mặt ông ta. Ánh đèn flash phản chiếu đôi mắt xanh lè của ông ta, trong khoảnh khắc, bà nghĩ ông ta trông rất quen.
“Dù ông là ai”, bà nói, “ông cũng đã phạm một sai lầm khi gọi tôi tới đây. Ngay khi tôi tới sân bay, tôi sẽ biết ông là ai, và ông sẽ có tên trong danh sách theo dõi tại WHO, CDC và ECDC với tư cách một cách một kẻ khủng bố sinh học tiềm năng. Chúng tôi sẽ cho người theo sát ông ngày đêm. Nếu ông tìm cách mua chất liệu, chúng tôi sẽ biết. Nếu ông xây dựng một phòng thí nghiệm, chúng tôi sẽ biết. Không có chỗ nào cho ông ẩn nấp cả”.
Người đàn ông đứng im phăng phắc một lúc, như thể ông ta định nhào tới tới chiếc điện thoại của bà. Cuối cùng, ông ta chùng xuống và bước sang bên cùng với nụ cười nham hiểm kỳ quái. “Vậy có vẻ như màn khiêu vũ của chúng ta đã bắt đầu.”
Chương 32
Il Corridoio Vasariano - hành lang Vasari - được Giorgio Vasari thiết kế năm 1564 theo lệnh của người đứng đầu gia tộc Medici, Đại Công tước Cosimo I, để tạo thành một lối đi an toàn từ tư dĩnh của ngài tại Cung điện Pitti tới trụ sở hành chính nằm ở Cung điện Vecchio bên kia sông Arno.
Tương tự như đường hầm Passetto nổi tiếng của tòa thánh Vantican, Hành lang Vasari là một lối đi bí mật hoàn hảo. Nó kéo dài gần một ki-lô-mét từ góc phía đông của vườn Boboli tới trung tâm của cung điện cũ, chạy ngang qua cầu Ponte Vecchio và uốn lượn qua Bảo tàng Uffizi.
Ngày nay Hành lang Vasari vẫn là một nơi trú ẩn an toàn, mặc dù không phải cho các quý tộc nhà Medici mà là cho các tác phẩm nghệ thuật. Với dãy tường bảo vệ dường như vô tận, hành lang chính là chỗ cất giữ vô vàn bức tranh hiếm hoi đổ về từ Bảo tàng Uffizi nổi tiếng thế giới, nơi hành lang này chạy ngang qua.
Langdon đã đi vào đó vài năm trước trong một chuyến du lịch riêng. Chiều hôm ấy, anh đã dừng lại để chiêm ngưỡng kho tranh đẹp lạ thường trong hành lang, bao gồm cả bộ sưu tập chân dung tự họa đồ sộ nhất thế giới. Anh cũng dừng lại vài lần để ngó qua những ô cửa quan sát của hành lang, nơi mọi khách bộ hành có thể phán đoán được lộ trình của mình dọc theo lối đi nằm ở trên cao này.
Tuy nhiên, sáng hôm nay, Langdon và Sienna di chuyển qua hành lang bằng cách chạy, mong chóng thoát khỏi những kẻ đang truy đuổi họ ở đầu bên kia càng xa càng tốt. Langdon tự hỏi sẽ mất bao lâu để người ta phát hiện ra anh chàng bảo vệ bị trói. Đường hầm trải dài hun hút trước mắt, Langdon cảm thấy mỗi bước đi lại dẫn họ tới gần thứ họ đang tìm kiếm.
Cerca trova… cặp mắt chết chóc… và một câu trả lời xem kẻ nào đang truy đuổi mình.
Tiếng động cơ của chiếc trực thăng không người lái lúc này nghe xa tít phía sau họ. Càng đi sâu vào đường hầm, Langdon càng nhớ ra lối đi này quả thật là một công trình kiến trúc đầy tham vọng. Nằm cao hơn thành phố gần hết chiều dài của nói, Hành lang Vasari giống như một con rắn lớn, uốn mình qua những tòa nhà, suốt từ Cung điện Pitti, vượt qua sông Arno, chạy vào trung tâm thành cổ Florence. Lối đi hẹp, quét vôi trắng dường như trải dài vô tận, thỉnh thoảng mới hơi rẽ sang trái hoặc phải để tránh vật cản, nhưng luôn luôn tiến về phía đông… qua sông Arno.
Bất ngờ có những tiếng âm vang phía trước họ, ngay trong hành lang, và Sienna dừng phắt lại. Langdon cũng đứng lại, bình thản đặt một bàn tay lên vai cô, ra hiệu về phía ô cửa quan sát gần đó.
Khách du lịch ngay bên dưới.
Langdon và Sienna tiến lại phía ô cửa và nhìn ra, lúc này họ đang ở phía trên Ponte Vecchio - cây cầu đá thời Trung cổ có chức năng như lối đi cho khách bộ hành tiến vào thành cổ. Bên dưới họ, những vị khách du lịch đầu tiên trong ngày đang thích thú tận hưởng phiên chợ họp ngay trên cầu, mở ra kể từ những năm 1400. Ngày hôm nay, những người bán hàng chủ yêu là thợ kim hoàn và người làm đồ trang sức, nhưng không phải lúc nào cũng như vậy. Ban đầu, cây cầu là nơi họp chợ bán thịt ngoài trời rất lớn của Florence, nhưng năm 1593 những người bán thịt bị xua đuổi vì mùi thịt ôi lọt và Hành lang Vasari khiến khứu giác tinh tế của Đại Công tước vô cùng khó chịu.
Đâu đó trên cây cầu phía dưới, Langdon nhớ lại, chính là nơi một trong những tội ác khét tiếng nhất của Florence từng xảy ra. Năm 1216, một quý tộc trẻ tuổi tên Buondelmonte đã vì tình yêu đích thực mà từ chối cuộc hôn nhân do gia đình sắp đặt, và vì quyết định đó, chàng đã bị giết một cách tàn bạo ngay trên cây cầu này.
Cái chết của chàng, từ lâu vẫn được coi là “vụ án mạng đẫm máu nhất Florence”, vì nói tạo ra mối bất hòa giữa hai phe chính trị đầy quyền thế - gia tộc Guelph và gia tộc Ghibelline. Ngay sau đó, họ đã phát động chiến tranh huynh đệ tương tàn suốt nhiều thế kỷ. Vì mối cừu thù chính trị này mà Dante phải rời khỏi Florence. Nhà thi hào đã đau đớn đưa vào sự kiện đó vào Thần khúc: Ôi Buondelmonte, theo lời khuyên của kẻ khác, chàng thoái thác lời hứa hôn của mình, và dẫn tới tội ác như vậy!
Ngày đó, có thể tìm thấy ba tấm bảng riêng biệt gần vị trí vụ án mạng - mỗi tấm trích một dòng khác nhau từ Khổ XVI trong Thiên đường của Dante. Một trong số đó nằm ở đầu cầu Ponte Vecchio và đầy tính chất điềm báo thế này:
NHƯNG TRONG THỜI KỲ THÁI BÌNH
CUỐI CÙNG, ĐỊNH MỆNH ĐÃ MANG TỚI CHO VỊ THẦN
GIÁM HỘ BẰNG ĐÁ BỊ THƯƠNG[1] TRÊN CÂY CẦU
CỦA THÀNH PHỐ FLORENCE… MỘT NẠN NHÂN.
[1]: Theo truyền thuyết, người La Mã thành lập thành phố Florence vào thế kỷ I trước Công nguyên. Họ xây hẳn một đèn thờ lớn thờ thần Chiến tranh (Mars) như là vị thần bảo vệ thành phố, cùng với một bức tượng thần cưỡi ngựa. Sau này, khi người Thiên Chúa giáo đến Florence, một nhà thờ được xây dựng và ngoại giáo bị bài trừ. Người dân Florence di chuyển tượng thần Chiến tranh lên một cái bệ nằm bên sông Arno. Khi người Goth chiếm Florence, họ xô đổ bức tượng xuống sông. Đến thế kỷ VIII sau Công nguyên, khi Charlemagne xây lại thành phố, bức tượng được khôi phục và mặc dù đã hư hại, nó vẫn được đặt trên một cây cột gần đầu phía bắc cầu Ponte Vecchio. Bức tượng “bị thương” nhưng với người dân Florence, nó vẫn là biểu tượng cho sự bảo hộ của thần thánh. Bức tượng tồn tại qua cả thời kỳ của Dante và bị nhấn chìm trở lại sông Arno trong một trận lụt vào năm 1333.
Langdon rời mắt khỏi cây cầu, nhìn xuống nước sông xám xịt. Ở phía đông, ngọn tháp lẻ loi của Cung điện Vecchio nổi bật hẳn lên.
Mặc dù Langdon và Sienna mới chỉ qua được nửa sông Arno, nhưng anh thấy rõ rằng họ đã vượt qua giới hạn quay lại từ lâu.
***
Cách gần mười mét phía dưới, trên nền đá cuội của cầu Ponte Vecchio, Vayentha sốt ruột quan sát đám đông qua lại mà không thể ngờ được rằng cơ hội lập công chuộc tội duy nhất của ả, chỉ vài phút trước đã đi qua ngay trên đầu.
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top