Nghệ thuật của tình yêu

"Không bao giờ quên."

London, 7 tháng 5 , 1894

Gửi quý ngài Joseph,

Thứ lỗi cho tôi vì đã gửi cho ngài một lá thư không báo trước, nhưng mong ngài hiểu cho tôi, đôi khi truyền tải những điều cần nói thành những con chữ rập khuôn sẽ dễ dàng hơn. Dẫu cho chúng ta chẳng còn thân thiết với nhau như lúc trước, tôi cầu mong sự cảm thông của ngài.

Trước hết, xin cho tôi chúc mừng hôn lễ của ngài vào đầu năm nay! Thật xin ngài thứ lỗi vì đã không thể tham dự, tôi thật sự không thể thấy ngài miễn cưỡng tươi cười trước hàng vạn những người khác, tay trong tay với một cô gái xinh đẹp nào đó mà ánh mắt ẩn dấu một sự mất mát sâu lắng. Tôi không thể, thưa ngài. Nhưng tôi hy vọng rằng ngài sẽ hạnh phúc, tôi vẫn luôn luôn cầu chúc những điều tốt nhất dành cho ngài.

Bản thân tôi chỉ là một hoạ sĩ hèn mọn sống nhờ vào những nét hoạ trên khuôn mặt kẻ khác, từ những con người quý tộc với mái tóc được chải chuốt ngay ngắn, đến cả những người lữ khách kiếm tìm những món quà lưu niệm ý nghĩa của vùng thành thị London trù phú này. Tôi đã vẽ không biết bao nhiêu là khuôn mặt, là vóc dáng, cử chỉ hay là thái độ; mỗi người đối với tôi đều là một kiệt tác độc đáo.

Nhưng ngài Joseph à, tôi sẽ không bao giờ quên được yêu cầu kì lạ mà ngài đã đưa ra vào một ngày hè xưa cũ. Tiệm vẽ của tôi còn là một toà nhà tồi tàn ở cuối con hẻm lợp bóng. Tôi còn trẻ và ngài cũng thế, con người với mái tóc bạc hiên ngang bước vào tiệm của tôi với thần thái của tầng lớp thượng lưu rõ rệt khiến tôi cảm thấy sợ hãi và run rẩy trước sự xuất hiện của ngài, như là một lẽ hiển nhiên thường tình.

"Vẽ cho ta "Tình yêu"."

Tôi nhớ bản thân đã từng cố gắng rất nhiều vì lời yêu cầu nực cười đó ( thứ lỗi cho tôi). Tôi đã vẽ rất nhiều, từ vẻ uyển chuyển của một công nương xinh đẹp, đôi tình nhân dưới ánh trăng nhạt màu, người goá phụ cô đơn mãi thuỷ chung với chồng; vậy mà tất cả đều không vừa ý của ngài. Những đêm không ngủ và thức trắng vì ý tưởng cạn kiệt như một dòng sông khô hằn, tôi vẫn không hiểu được "tình yêu" là gì trong mắt của ngài.

Có thể là cho đến tận bây giờ, tôi vẫn chưa từng hiểu.

Cho đến một ngày, tôi đi mua vài chiếc bánh ngọt của cửa hàng nhà bên, gặp được một cậu con trai với mái tóc xám tro tàn. Cậu ta đang cho lũ mèo hàng xóm ăn với một chiếc bát nhỏ, trên môi nở nụ cười hiếm thấy. Ngài hiển nhiên biết rằng, Aesop Carl có một nụ cười rất đẹp. Làm hàng xóm của cậu ấy trong một khoảng thời gian đằng đẵng như vậy, tôi chưa từng thấy cậu ấy cười.

Trong khoảnh khắc bất chợt lúc ấy, tôi nảy ra một ý tưởng điên khùng hết sức: Tôi sẽ vẽ cậu ấy như là sự tượng trưng của tình yêu qua đôi mắt của ngài! Cậu con trai dưới ánh nắng cuối hạ trông quá đỗi bình yên mà giản dị, nụ cười của cậu ấy như một câu thơ ngâm thuộc lòng nào đó, gần gũi mà an nhiên đến lạ.

Chỉ vài ngày sau, tôi đưa cho ngài tác phẩm hoàn tất miệt mài suốt ba ngày ba đêm. Và nếu như tôi không lầm, ngài Joseph, ánh mắt đục ngầu của ngài đã sáng lên như một đợt sao băng mùa hạ lúc ngài nhìn thấy bức tranh. Ngài chỉ khẽ khàng gật đầu, hỏi ngắn gọn danh tính của người trong tranh sau đó lặng lẽ cho người tiễn tôi về nhà với một khoản tiền rộng rãi và vài lời chúc phúc tốt đẹp. Tôi nghĩ rằng bức tranh đấy đã rất vừa ý ngài (Tôi vẫn hy vọng rằng tôi đúng.).

Và tôi quyết định sẽ mang một vài món quà sang cho Aesop, vì ngài biết đấy, nhờ có cậu ấy mà tôi mới nhận được sự thoả mãn của ngài. Nhưng chẳng có ai ở tiệm bánh thường ngày như mọi khi. Các cánh cửa sổ bị đóng sập lại hết và lủng lẳng trên cửa chính là tấm bảng với dòng chữ "Đóng cửa", lũ mèo kêu réo bên kia hàng rào, chậu cây với lá hoá vàng úa, mọi thứ như đang phủ nhận sự tồn tại của một Aesop Carl mà tôi biết.

Nhờ những lời bàn tán xôn xao của người qua kẻ lại, tôi mới biết được rằng ngài chính là người đã đem cậu ấy đi. Quý tộc với mái tóc bạc và thanh gươm luôn hiện hữu nơi thắt lưng đã gỏ cửa tiệm bánh nhỏ bé vào một tối tháng Tám nào đó, mang đi cả chủ nhân của nó cùng. Có thể ngài đã mang cậu ấy về nơi thành quách xa hoa với những con người bề trên của xã hội, tôi mừng thay cho cậu ấy,  không nghĩ về nó nhiều cho lắm, tất cả những gì trong đầu óc của tôi là sự vui vẻ cho ngài và Aesop, cùng với một chút băn khoăn không tên.

Cho đến đầu năm sau, khi mùa xuân ngỏ lời thì thầm qua từng con phố nhộn nhịp, tôi mới gặp lại được Aesop Carl. Và tôi không hề muốn thất lễ, ngài Joseph à, nhưng ngài đã làm gì với cậu ấy vậy?

Mái tóc của cậu ấy vẫn ánh màu tro tàn quen thuộc nhưng làn da cậu nhợt nhạt hơn trước rất nhiều. Đôi mắt của cậu ta mỏi mệt mà trống rỗng đến kì lạ, chúng mất đi cái ánh sáng lấp ló mỗi khi cậu kể về lũ mèo hay mỉm cười. Và Chúa ơi! Cậu ấy gầy đi đáng kể, bàn tay thấy rõ từng sợi gân xanh xao, chiếc áo len còn vừa khít năm ngoái đang phủ lên người cậu như một tấm chăn quá cỡ. Cậu ấy như bị vắt kiệt sức sống, như là một cái vỏ vô hồn bị điều khiển bởi mệnh lệnh.

Tôi ngỏ lời chào và cậu ấy lễ phép chào lại. Tôi hỏi han cậu ấy, gợi nhắc lại tên ngài trong cuộc trò chuyện và gần như ngay lập tức, cậu ấy giật mình khi nghe thấy nó. Aesop tảng lờ đi những câu hỏi liên quan đến ngài, vớ đại lý do rằng bản thân mệt mỏi mà tránh mặt tôi.

Một đêm mưa vài ngày sau, một lần thức khuya để hoàn thành nốt một tác phẩm dở dang, tôi được ngài ghé thăm một cách vội vã. Ngài cưỡi một con kỵ mã, cả hai đều ướt đẫm trong làn mưa đêm lạnh lẽo. Vẻ mặt ngài rất khó coi và đáng sợ, và khi an vị trước lò sưởi của tôi ngài chỉ nở một nụ cười nhạt, đau thương ẩn dấu dưới vẻ mặt miễn cưỡng.

"Aesop không muốn về với ta."

Khi tôi rụt rè hỏi tại sao, ngài đã không trả lời, ánh mắt vô thức nhìn ra cửa sổ qua tiệm bánh nhỏ nhà bên. Tất cả tối om như màn đêm đậm đặc ngoài cửa, và đôi mắt đau thương của ngài khiến cho tôi sợ hãi, chỉ có thể ngồi yên và nhìn vào từng ngọn lửa tí tách nhảy múa. Ngài rời đi trước khi mưa tạnh.

Nắng kéo theo bình minh rải đều lên vùng đất phồn hoa này. Khí trời se lạnh khi tôi bước ra khỏi nhà. Không khí vẫn còn cái vẻ sớm của một đêm khuya vấn vương, và tôi giật mình khi nhìn thấy mái tóc xám tro ngồi trên chiếc ghế bành trước hiên nhà bên.

Tôi đã hỏi cậu ấy vì sao lại ngồi đây, Aesop chỉ mỉm cười nhàn nhạt, sau đó cảm ơn tôi vì đã chăm sóc cho lũ mèo sau ngần ấy thời gian. Đôi mắt của cậu ấy như một mảng màu tối om, chúng thiếu đi cảm xúc, gợi tôi nhớ đến làn mưa rét run hôm qua.

Tôi tò mò. Vì vậy tôi hỏi Aesop về ngài. Về cái mối quan hệ khó hiểu giữa hai người và cả sự biến mất của cậu ấy hơn nửa năm. Tất cả những câu trả lời đều đã mờ nhạt đi trong tâm trí tôi, chỉ có duy nhất một đoạn ngắn gọn in hằn vào trí nhớ từng câu từng chữ.

"Ngài ấy chưa từng yêu tôi. Chẳng phải là yêu, chỉ là một thói vui nhất thời mà thôi. So với những gì mà gia đình ép buộc, địa vị xã hội ban tặng, vẻ đẹp của vị hôn thê, tình yêu của tôi dành cho ngài ấy đơn giản là không đủ. Nhưng mà chẳng sao cả, bởi vì danh vọng quan trọng hơn tôi, địa vị quan trọng hơn tôi, tất cả mọi thứ đều quan trọng hơn tôi."

"Vậy tại sao cậu lại yêu ngài ấy?"

"Bởi vì ngài ấy chính là một vết thương vĩnh hằng mà tôi không bao giờ muốn quên. Và tôi nghĩ đó chính là ý nghĩa của tình yêu, khi hình ảnh của duy nhất một con người khắc sâu vào trong tim. Không bao giờ quên."

Cho đến tận những năm sau này, khi viết lá thư này cho ngài, tôi mới hiểu rằng Aesop đã sai rồi. Ngài yêu cậu ấy, yêu nhiều hơn tất cả những gì ngài có. Chính ánh mắt khi ngài nhìn thấy bức tranh đã nói rõ lên điều đó, chính nụ cười đau lòng trong đêm mưa rì rào ấy đã nói rõ lên điều đó, chính những dòng lệ lặng lẽ trước mộ phần hiu quạnh của cậu ấy đã nói rõ lên điều đó.

Ngài mất đằng đẵng thời gian để hiểu được thật sự, thế nào là nghệ thuật của tình yêu. Mà bây giờ khi đã hiểu được, thì có lẽ đã quá muộn.

Khắc ghi vào trong tâm trí. Không bao giờ quên.

Nói cho tôi nghe, ngài Joseph, ngài đã từng bao giờ quên đi cậu ấy chưa?

Thân gửi,

Bề tôi trung thành của ngài,

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top