huy1234

Câu 20: Phân tích chủ trương của Đảng trong việc giải quyết các vấn đề xã hội hiện nay?

Tại Đại hội VI, lần đầu tiên Đảng nâng các vấn đề xã hội lên tầm chính sách

xã hội, đặt rõ tầm quan trọng của chính sách xã hội đối với chính sách kinh tế  và

chính sách ở các lĩnh vực khác. Đại hội cho rằng trình độ phát triển kinh tế  là điều

kiện vật chất để thực hiện chính sách xã hội nhưng những mục tiêu xã hội lại là mục

đích của các hoạt động kinh tế. Ngay trong khuôn khổ của hoạt động kinh tế, chính

sách xã hội có ảnh hưởng trực tiếp đến năng suất lao động, chất lượng sản phẩm…

Do đó, cần có chính sách xã hội cơ bản, lâu dài phù hợp với khả năng trong chặng

đường đầu tiên của thời kỳ quá độ.

Đại hội VIII của Đảng chủ trương hệ thống chính sách xã hội phải được hoạch

định theo những quan điểm sau đây:

-  Tăng trưởng kinh tế  phải gắn liền với tiến bộ  và công bằng xã hội ngay

trong từng bước và trong suốt quá trình phát triển. Công bằng xã hội phải   108

thể hiện ở cả khâu phân phối hợp lý tư liệu sản xuất lẫn khâu phân phối kết

quả sản xuất, ở việc tạo điều kiện cho mọi người đều có cơ hội phát triển

và sử dụng tốt năng lực của mình.

-  Thực hiện nhiều hình thức phân phối

-  Khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với tích cực xóa đói giảm nghèo.

-  Các vấn đề chính sách xã hội đều giải quyết theo tinh thần xã hội hóa.

Đại hội IX của Đảng chủ  trương các chính sách xã hội phải hướng vào phát

triển và làm lành mạnh hóa xã hội, thực hiện công bằng trong phân phối, tạo động

lực mạnh mẽ phát triển sản xuất, tăng năng suất lao động xã hội, thực hiện bình đẳng

trong các quan hệ xã hội, khuyến khích nhân dân làm giàu hợp pháp.

Đại hội X của Đảng chủ trương phải kết hợp các mục tiêu kinh tế với các mục

tiêu xã hội trong phạm vi cả nước, ở từng lĩnh vực, địa phương.

Trong điều kiện Việt Nam gia nhập WTO, hội nhập sâu rộng hơn vào hệ

thống kinh tế quốc tế, hội nghị Trung ương 4 khóa X (1/2007) nhấn mạnh phải giải

quyết tốt các vấn đề xã hội nảy sinh trong quá trình thực thi các cam kết với WTO.

Xây dựng cơ chế đánh giá và cảnh báo định kỳ về tác động của việc gia nhập WTO

đối với lĩnh vực xã hội để có biện pháp xử lý chủ động, đúng đắn, kịp thời.

  Chủ trương giải quyết các vấn đề xã hội:

Một là, khuyến khích mọi người dân làm giàu theo pháp luật, thực hiện có

hiệu quả mục tiêu xóa đói giảm nghèo.

-  Tạo cơ hội, điều kiện cho mọi người tiếp cận bình đẳng các nguồn lực phát

triển.

-  Tạo động lực làm giàu trong đông đảo dân cư bằng tài năng, sáng tạo của

bản thân trong khuôn khổ pháp luật và đạo đức cho phép.

-  Xây dựng và thực hiện có kết quả cao chương trình xóa đói giảm nghèo; đề

phòng tái  đói, tái nghèo; nâng cao dần chuẩn đói nghèo khi mức sống

chung tăng lên.

Hai là, bảo đảm cung úng dịch vụ công thiết yếu, bình đẳng cho mọi người

dân, tạo việc làm và thu nhập, chăm sóc sức khỏe cộng đồng.

-  Xây dựng hệ  thống an sinh xã hội đa dạng; phát triển mạnh hệ  thống bảo

hiểm.

-  Đa dạng hóa các loại hình cứu trợ xã hội, tạo nhiều việc làm ở trong nước

và đẩy mạnh xuất khẩu lao động.

-  Thực hiện chính sách ưu đãi xã hội.

-  Đổi mới chính sách tiền lương; phân phối thu nhập xã hội công bằng, hợp

lý.

Ba là, phát triển hệ thống y tế công bằng và hiệu quả.

Hoàn thiện mạng lưới y tế cơ sở; quan tâm chăm sóc y tế tốt hơn đối với các

đối tượng chính sách; phát triển các dịch vụ  y tế  công nghệ  cao, các dịch vụ  y tế

ngoài công lập.

Bốn là, xây dựng chiến lược quốc gia về nâng cao sức khỏe và cải thiện giống

nòi

-  Quan tâm chăm sóc sức khỏe sinh sản. Giảm nhanh tỷ  lệ  trẻ em suy dinh

dưỡng.

-  Đẩy mạnh công tác bảo vệ giống nòi, kiên trì phòng chống HIV/AIDS và

các tệ nạn xã hội.

Năm là, thực hiện tốt các chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình.   110

-  Giảm tốc độ tăng dân số, bảo đảm quy mô và cơ cấu dân số hợp lý.

-  Xây dựng gia đình no  ấm, bình  đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, bảo đảm bình

đẳng giới, chống nạn bạo hành trong quan hệ gia đình.

Sáu là, chú trọng các chính sách ưu đãi xã hội

  Bảy là, đổi mới cơ chế quản lý và phương thức cung ứng các dịch vụ  công

cộng.

Câu 17.  Phân tích mục tiêu, quan điểm của Đảng trong đường lối xây dựng hệ  thống chính trị  thời

kỳ đổi mới?

Mục tiêu:

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong  thời kỳ quá độ  lên chủ nghĩa xã hội do

Đại hội VII thông qua xác định: “Toàn bộ tổ chức và hoạt động của hệ thống chính

trị ở nước ta trong giai đoạn mới là nhằm xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã

hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân”. Văn kiện Đại hội VII của

Đảng cũng khẳng định: Thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa là thực chất của việc đổi

mới và kiện toàn hệ thống chính trị.

Quan điểm:

Một là,  dùng khái niệm “hệ  thống chính trị” thay cho khái niệm hệ  thống

chuyên chính vô sản và khái niệm chế độ  làm chủ  tập thể được sử dụng trong các

giai đoạn trước đây.

Hai là, kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy

đổi mới kinh tế làm trọng tâm đồng thời từng bước đổi mới chính trị.

Ba là, đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị không

phải là hạ  thấp hoặc thay đổi bản chất của nó mà là nhằm tăng cường vai trò lãnh

đạo của Đảng, hiệu lực quản lý của Nhà nước, phát huy quyền làm chủ của nhân dân,

làm cho hệ thống chính trị hoạt động năng động hơn, có hiệu quả hơn, phù hợp với

đường lối đổi mới toàn diện, đồng bộ đất nước; đặc biệt là phù hợp với yêu cầu của

nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và yêu cầu hội nhập kinh tế quốc

tế.

Bốn là, đổi mới hệ thống chính trị một cách toàn diện, đồng bộ, có kế hoạch,

có bước đi, hình thức và cách làm phù hợp.

Năm là, đổi mới mối quan hệ giữa các bộ phận cấu thành của hệ thống chính

trị với nhau và với xã hội, tạo ra sự vận động cùng chiều theo hướng tác động, thúc

đẩy xã hội phát triển; phát huy quyền làm chủ của nhân dân.

Câu 5: Chủ trương phát động tổng khởi nghĩa giành chính quyền của Đảng cộng sản Việt Nam từ 1939-1945

chiến tranh thế giới thứ II bước vào giai đoạn kết thúc. Ngày 2/5/1945, Hồng

quân Liên Xô chiếm Berlin, tiêu diệt phát xít Đức tận hang  ổ  của chúng. Ngày

9/5/1945, phát xít Đức đầu hàng không điều kiện. Ở châu Á, phát xít Nhật đang đi

gần đến chỗ thất bại hoàn toàn.

Trước sự phát triển hết sức nhanh chóng của tình hình, Trung ương quyết định

họp hội nghị  toàn quốc của Đảng tạo Tân Trào (Tuyên Quang) từ  ngày 13  –

15/8/1945. Hội nghị  nhận định: Cơ hội rất tốt cho ta giành chính quyền đã tới và

quyết định phát động toàn dân tổng khởi nghĩa, giành chính quyền từ  tay phát xít

Nhật và tay sai, trước khi quân Đồng Minh vào Đông Dương.

Hội nghị chỉ  rõ khẩu hiệu đấu tranh lúc này là: “Phản đối xâm lược”; “hoàn

toàn độc lập”; “chính quyền nhân dân”. Những nguyên tắc để chỉ đạo khởi nghĩa là

tập trung, thống nhất và kịp thời, phải đánh chiếm ngay những nơi chắc thắng,

không kể thành phố hay nông thôn; quân sự và chính trị phải phối hợp; phải làm mất

tinh thần quân địch.v.v… 

Hội nghị còn quyết định những vấn đề quan trọng về chính sách đối nội và đối

ngoại trong tình hình mới. Về đối nội, sẽ  lấy 10 chính sách lớn của Việt Minh làm

chính sách cơ bản của chính quyền cách mạng. Về đối ngoại, thực hiện nguyên tắc

bình đẳng, hợp tác, thêm bạn bớt thù, triệt để  lợi dụng mâu thuẫn giữa Pháp – Anh

và Mỹ  - Tưởng, hết sức tránh trường hợp một mình phải đối phó với nhiều kẻ  thù

trong cùng một lúc; phải tranh thủ sự ủng hộ của Liên Xô, của nhân dân các nước

trên thế giới, nhất là nhân dân Pháp và nhân dân Trung Quốc. Hội nghị quyết định

cử Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc do Trường Chinh phụ trách và kiện toàn Ban chấp

hành Trung ương.

Ngay đêm 13/8/1945, Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc ra lệnh tổng khởi nghĩa.

Ngày 16/8/1945, cũng tại Tân Trào, Đại hội quốc dân họp. Đại hội nhiệt liệt

tán thành chủ  trương tổng khởi nghĩa  của Đảng và 10 chính sách của Việt Minh,

quyết định thành lập Ủy ban giải phóng dân tộc Việt Nam.

Ngay sau Đại hội, Chủ  tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư kêu gọi đồng bào và

chiến sĩ cả nước: “Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng

bào hãy đứng dậy, đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, hơn 20 triệu nhân dân ta đã nhất tề vùng dậy khởi

nghĩa giành chính quyền. Từ ngày 14/8/1945, các đơn vị giải phóng quân đã liên tiếp

hạ nhiều đồn Nhật thuộc các tỉnh Cao Bằng, Bắc Cạn, Thái Nguyên, Tuyên Quang,

Yên Bái và hỗ trợ quần chúng tiến lên giành chính quyền. Ngày 18/8/195, nhân dân

các tỉnh Bắc Giang, Hải Dương, Phúc Yên, Thái Bình, Thanh Hóa, Hà Tĩnh, Quảng

Nam và Khánh Hòa giành chính quyền ở tỉnh lỵ.

Ngày 19/8/1945, dưới sự lãnh đạo của Thành ủy Hà Nội, hàng chục vạn quần

chúng sau khi dự mittinh đã rầm rộ xuống đường biểu tình, tuần hành và mau chóng

tỏa đi các hướng chiếm Phủ Khâm sai, Tòa Thị chính, Trại lính bảo an, Sở Cảnh sát

và các công sở của chính quyền bù nhìn. Trước khí thế áp đảo của quần chúng khởi

nghĩa, hơn 1 vạn quân Nhật ở Hà Nội tê liệt, không dám chống cự. Chính quyền về

tay nhân dân.

Thắng lợi của cuộc khởi nghĩa  ở Hà Nội ngày 19/8/1945 có ý nghĩa quyết

định đối với cả nước, làm cho chính quyền tay sai của Nhật ở các nơi bị tê liệt, cổ vũ

mạnh mẽ nhân dân các tỉnh, thành phố khác nổi dậy khởi nghĩa giành chính quyền.

Ngày 23/8/1945, khởi nghĩa giành thắng lợi  ở  Huế. Ngày 25/8/1945, khởi

nghĩa giành thắng lợi ở Sài Gòn. Chỉ  trong vòng 15 ngày (từ ngày 14 – 28/8/1945)

cuộc tổng khởi nghĩa đã thành công trên cả  nước, chính quyền về  tay nhân dân.

Ngày 30/8/1945, vua Bảo Đại thoái vị  làm sụp đổ hoàn toàn chế độ phong kiến ở

nước ta.

Ngày 2/9/1945, tại cuộc mittinh lớn ở Quảng trường Ba Đình, Hà Nội, thay

mặt Chính phủ lâm thời, chủ tịch Hồ Chí Minh trịnh trọng đọc Tuyên ngôn độc lập,

tuyên bố với quốc dân đồng bào, với toàn thể thế giới: nước Việt Nam dân chủ cộng

hòa ra đời. 

Câu 4: Tại sao đảng cộng sản việt nam lại chuyển hướng chỉ đạo chiến lược sau năm 1939? Nội dung chuyển hướng chiến lược của đảng?

-Tình hình thế giới.

 + Ngày 1/9/1939. Chiến tranh thế giới thứ 2 bùng nổ, trong đó Pháp là nước tham chiến. Chính phủ pháp thi hành một loạt các biện pháp đàn áp lực lượng dân chủ ở trong nước và phong trào cách mạng thuộc địa.

+ Tháng 6/1940, Đức tấn công Pháp và Chính phủ Pháp đã đầu hang. Ngày 22/6/1941, quân phát xít Đức tấn công Liên xô. Từ khi phát xít Đức tấn công Liên xô, tính chất chiến tranh đế quốc chuyển thành cuộc chiến tranh giữa các lực lượng dân chủ do Liên xô làm trụ cột với các lực lược lượng phát xít do Đức cầm đầu.

-Tình hình ở đông dương và việt nam:

+ Thực dân phát thi hành chính sách thời chiến rất phản động: thẳng tay đàn áp phong trào cách mạng của nhân dân ta, tập trung lực lượng đánh vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Thực hiện chính sách “kinh tế chỉ huy” tăng cường vơ vét sức người, sức của phục vụ chiến tranh, bắt lính sang Pháp làm bia đỡ đạn.

+ Lợi dụng sự thất thủ của Pháp ở Đông Dương, Tháng 9/1940 Nhật Bản cho quân xâm lược Đông Dương, Pháp nhanh chóng đầu hang và đảng Đông Dương cho Nhật. Chịu cảnh “một cổ hai tròng” đời sống của nhân dân Việt Nam lâm vào cảnh ngột ngạt về chính trị, bần cùng về kinh tế. Mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với Pháp, Nhật và tay sai phản động ngày càng trở nên gay gắt hơn bao giờ hết

-Nội dung chuyển hướng chỉ đạo:

Trên cơ sở nhận định khả năng diễn biến của Chiến tranh thế giới thứ 2 và căn cứ vào tình hình cụ thể ở trong nước, Ban chấp hành Trung ương đã quyết định chuyển hướng chỉ đạo chiến lược:

+ Một là, đưa nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu. Ban chấp hành Trung ương nêu rõ mâu thuẫn chủ yế ở nước ta đòi hỏi phải được giải quyết cấp bách là mâu thuẫn giữa dân tộc ta với bọn đế quốc, phát xít Pháp-Nhật. Bởi trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp trâu ngựa, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được. Để tập trung cho nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng lúc này, Ban Chấp hành Trung ương quyết định tạm gác lại khẩu hiệu “ Đánh đổ địa chủ, chia ruộng đất cho dân cày”

+ Hai là, quyết định thành lập Mặt trận Việt Minh để đoàn kết, tập hợp lực lượng cách mạng nhằm mục tiêu giải phóng dân tộc. Để tập hợp lực lượng cách mạng đông đảo trong cả nước, Ban chấp hành Trung ương quyết định thành lập Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh, gọi tắt là Việt Minh thay cho Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương; đổi tên các Hội phản đế thành Hội cứu quốc để vận động, thu hút mọi người dân yêu nước không phân biệt thành phần, lứa tuổi, đoàn kết bên nhau cứu tổ quốc.

+ Ba là, quyết định xúc tiến chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang là nhiệm vụ trung tâm của Đảng và nhân dân ta trong giai đoạn hiện tại. Để đưa cuộc khởi nghĩa vũ trang đến thắng lợi, cần phải ra sức phát triển lực lượng cách mạng, bao gồm lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang, xúc tiến xây dựng căn cứ địa cách mạng. Chỉ rõ việc chuẩn bị khởi nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của Đảng ta và dân ta trong giai đoạn này. Xác định phương châm và hình thái khởi nghĩa ở nước ta, đặc biệt chú trọng công tác xây dựng Đảng nhằm nâng cao năng lực tổ chức và lãnh đạo của Đảng, đồng thời chủ trương gấp rút đào tạo cán bộ, cán bộ lãnh đạo, cán bộ công vận, nông vận, binh vận, quân sự và đẩy mạnh công tác vận động quần chúng.

Câu 2: Phân tích nội dung cương lĩnh chính trị đầu tiên (3/2/1930) của ĐCSVN

-          Phương hướng chiến lược của cách mạng việt nam là: tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản

-          Nhiệm vụ của cách mạng tư sản dân quyền và thổ địa cách mạng:

+ Về chính trị: đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến, làm cho nước việt nam được hoàn toàn độc lập, lập chính phủ công nông binh, tổ chức quân đội công nông.

+ Về kinh tế: thủ tiêu hết các thứ quốc trái; tịch thu toàn bố sản nghiệp lớn của tư bản đế quốc chủ nghĩa Pháp để giao cho chính phủ công nông binh quản lý; tịch thu toàn bộ ruộng đất của bọn đế quốc chủ nghĩa làm của công chia cho dân cày nghèo; bỏ sưu thuế cho dân cày nghèo; mở mang công nghiệp và nông nghiệp; thi hành pháp luật ngày làm 8 giờ

+ Về văn hóa-xã hội: dân chúng được tự do tổ chức; nam nữ bình quyền; phổ thông giáo dục theo công nông hóa

+Về lực lược cách mạng: đảng phải thu phục cho được đại bộ phận dan cày và phải dựa vào hạng dân cày nghèo làm thổ địa cách mạng, đánh đổ bọn đại địa chủ và phong kiến; phải làm cho các đoàn thể thợ thuyền và dân cày khỏi ở dưới quyền lực và ảnh hưởng của bọn tư bản quốc gia; phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông, thanh niên … để kéo họ đi vào phe vô sản giai cấp. Đối với phú nông, trung, tiểu địa chủ và tư bản An Nam mà chưa rõ mặt phản cách  mạng thì phải lợi dụng, ít lâu mới làm cho họ đứng trung lập. Bộ phận nào đã ra mặt phản cách mạng thì phải đánh đổ.

+ Về lãnh đạo cách mạng: Giai cấp vô sản là lực lượng lãnh đạo cách mạng việt anm. Đảng là đội tiên phong của giai cấp vô sản, phải thu phục cho được đại bộ phận giai cấp mình, phải làm cho giai cấp mình lãnh đạo được dân chúng; trong khi liên lạc với các giai cấp, phải rất cẩn thận, không khi nòa nhượng bộ một chút lợi ích gì của công nông mà đi vào con đường thỏa hiệp.

+ Về quan hệ của cách mạng việt nam với phong trào cách mạng thế giới: Cách mạng việt nam là một bộ phận của cách mạng thế giới, phải thực hành liên lạc với các dân tộc bị áp bức và giai cấp vô sản thế giớ, nhất là giai cấp vô sản pháp.

Câu 16: Đánh giá quá trình thực hiện đường lối chính trị của Đảng trước đổi mới? Hệ thống chính trị Việt Nam hiện nay gồm những yếu tố nào?

Trong giai đoạn trước thời kỳ đổi mới, việc xây dựng hệ thống chính trị được quan niệm  là xây

dựng chế độ  làm chủ  tập thể xã hội chủ nghĩa. Tức là xây dựng một hệ  thống hoàn

chỉnh các quan hệ  xã hội thể  hiện ngày càng đầy đủ  sự  làm chủ  của nhân dân lao

động trên tất cả các mặt: chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, làm chủ xã hội, làm chủ

thiên nhiên, làm chủ bản thân. Do đó, chủ  trương xây dựng hệ  thống chính trị gồm

những nội dung sau đây:

-  Xây dựng quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo

của Đảng dựa trên nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp, được thực

hiện chủ  yếu bằng kế  hoạch Nhà nước đồng thời thực hiện bằng hoạt

động của các đoàn thể quần chúng.

-  Xác định Nhà nước trong chế  độ  làm chủ  tập thể  là Nhà nước chuyên

chính vô sản, một tổ chức thực hiện quyền làm chủ  tập thể của giai cấp

công nhân và nhân dân lao động. Một tổ chức thông qua đó Đảng thực

hiện sự  lãnh đạo của mình đối với tiến trình phát triển của xã hội. Muốn

thế nhà nước phải đủ năng lực tiến hành 3 cuộc cách mạng: cách mạng

xây dựng chế  độ mới, nền kinh tế mới, nền văn hóa mới và con người

mới.

-  Xác định Đảng là người lãnh  đạo toàn bộ  hoạt động xã hội trong điều

kiện chuyên chính vô sản. Sự lãnh đạo của Đảng là bảo đảm cao nhất cho

chế  độ  làm chủ  tập thể  của nhân dân lao động, cho sự  tồn tại và hoạt

động của Nhà nước xã hội chủ nghĩa.

-  Xác định nhiệm vụ chung của các đoàn thể  là bảo đảm cho quần chúng

tham gia và kiểm tra công việc của Nhà nước, đồng thời là trường học về

chủ  nghĩa xã hội. Vai trò và sức mạnh của các đoàn thể  chính là ở khả

năng tập hợp quần chúng, hiểu rõ tâm tư và nguyện vọng của quần chúng,

nâng cao giác ngộ xã hội chủ nghĩa cho quần chúng. Muốn vậy, các đoàn

thể phải đổi mới. Hoạt động của các đoàn thể phải năng động, nhạy bén   87

với những vấn đề mới nảy sinh trong cuộc sống, khắc phục bệnh quan

liêu, giản đơn và khô cứng trong tổ chức và trong sinh hoạt. Mở rộng các

hình thức tổ chức theo nghề nghiệp, theo nhu cầu đời sống và sinh hoạt

văn hóa để thu hút đông đảo quần chúng vào các hoạt động xã hội, chính

trị.

-  Xây dựng và phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động theo

cơ chế Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, nhà nước quản lý.

Hệ thống chính trị ở Việt Nam  hiện nay bao gồm: Đảng cộng sản Việt Nam, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam và các tổ chức chính trị xã hội hợp pháp khác của nhân dân được thành lập, hoạt động trên cơ sở liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức làm nền tảng, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, thực hiện và đảm bảo đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân.

Câu 9: Đánh giá đường lối chống Mỹ, thống nhất tổ quốc của Đảng cộng sản giai đoạn (1965-1975)?

Khi đế quốc Mỹ tiến hành chiến lược “chiến tranh đặc biệt” ở miền Nam, các

hội nghị  của Bộ Chính trị đầu năm 1961 và đầu năm 1962 đã nêu chủ  trương giữ

vững và phát triển thế  tiến công mà ta đã giành  được sau cuộc “đồng khởi” năm

1960, đưa cách mạng miền Nam từ  khởi nghĩa từng phần phát triển thành chiến

tranh cách mạng trên quy mô toàn miền. Bộ Chính trị chủ trương kết hợp khởi nghĩa

vũ trang của quần chúng với chiến tranh cách mạng, giữ  vững và đẩy mạnh đấu

tranh chính trị  đồng thời phát triển đấu tranh vũ trang nhanh lên một bước mới,

ngang tầm với đấu tranh chính trị. Thực hiện kết hợp đấu tranh quân sự  với đấu

tranh chính trị song song, đẩy mạnh đánh địch bằng 3 mũi giáp công (quân sự, chính

trị, binh vận). Vận dụng phương châm đấu tranh phù hợp với đặc điểm từng vùng

chiến lược (rừng núi, đồng bằng, thành thị).

Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 9 (11/1963) ngoài việc xác định đúng đắn

quan điểm quốc tế, hướng hoạt động đối ngoại vào việc kết hợp sức mạnh dân tộc

với sức mạnh thời đại để đánh Mỹ và thắng Mỹ, hội nghị còn quyết định nhiều vấn

đề  quan trọng về  cách mạng miền Nam. Hội nghị  tiếp tục khẳng định đấu tranh

chính trị, đấu tranh vũ trang đi đôi, cả hai đều có vai trò quyết định cơ bản đồng thời

nhấn mạnh yêu cầu mới của đấu tranh vũ trang. Đối với miền Bắc, hội nghị tiếp tục

xác định trách nhiệm là căn cứ địa, hậu phương đối với cách mạng miền Nam, đồng

thời nâng cao cảnh giác, triển khai mọi mặt sẵn sàng đối phó với âm mưu đánh phá

của địch.

  Trước hành động gây “chiến tranh cục bộ” ở miền Nam, tiến hành chiến tranh

phá hoại ra miền Bắc của đế quốc Mỹ, hội nghị Trung ương lần thứ 11 (3/1965) và

lần thứ 12 (12/1965) đã tập trung đánh gái tình hình và đề ra đường lối kháng chiến

chống Mỹ cứu nước trên cả nước.

-  Về nhận định tình hình và chủ  trương chiến lược: Trung ương Đảng cho

rằng cuộc “chiến tranh cục bộ” mà Mỹ đang tiến hành ở miền Nam vẫn là

cuộc chiến tranh xâm lược thực dân mới, buộc phải thực thi trong thế thua,

thế thất bại và bị động cho nên nó chứa đựng đầy mâu thuẫn về chiến lược.

Từ sự phân tích và nhận định đó, Trung ương Đảng quyết định phát động

cuộc kháng chiến chống Mỹ  cứu nước trong cả nước, coi chống Mỹ  cứu

nước là nhiệm vụ thiêng liêng của cả dân tộc từ Nam chí Bắc.

-  Quyết tâm và mục tiêu chiến lược: Nêu cao khẩu hiệu “Quyết tâm đánh

thắng giặc Mỹ xâm lược”, “kiên quyết đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược

của đế  quốc Mỹ  trong bất kỳ  tình huống nào, để  bảo vệ miền Bắc, giải

phóng miền Nam, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong

cả nước, tiến tới thực hiện hòa bình thống nhất nước nhà”.   51

-  Phương châm chỉ đạo chiến lược:  tiếp tục và đẩy mạnh cuộc chiến tranh

nhân dân chống chiến tranh cục bộ  của Mỹ ở miền Nam, đồng thời phát

động chiến tranh nhân dân chống chiến tranh phá hoại ở miền Bắc. Thực

hiện kháng chiến lâu dài, dựa vào sức mình là chính, càng đánh càng mạnh,

cố gắng đến mức độ cao, tập trung lực lượng của cả 2 miền để mở những

cuộc tiến công lớn, tranh thủ thời cơ giành thắng lợi quyết định trong thời

gian tương đối ngắn trên chiến trường miền Nam.

-  Tư tưởng chỉ  đạo và phương châm đấu tranh ở miền Nam:  giữ  vững và

phát triển thế  tiến công, kiên quyết tiến công và liên tục tiến công. “Tiếp

tục kiên trì phương châm đấu tranh quân sự kết hợp với đấu tranh chính

trị, triệt để  vận dụng 3 mũi giáp công”, đánh địch trên cả  3 vùng chiến

lược. Trong giai đoạn hiện nay, đấu tranh quân sự có tác dụng quyết định

trực tiếp và giữ một vị trí ngày càng quan trọng.

-  Tư tưởng chiến lược đối với miền Bắc:  chuyển hướng xây dựng kinh tế,

bảo đảm tiếp tục xây dựng miền Bắc vững mạnh về kinh tế và quốc phòng

trong điều kiện có chiến tranh, tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân chống

chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ để bảo vệ vững chắc miền Bắc xã hội

chủ  nghĩa, động viên sức người sức của ở mức cao nhất để  chi viện cho

cuộc chiến tranh giải phóng miền Nam, đồng thời tích cực chuẩn bị  đề

phòng để đánh thắng địch trong trường hợp chúng liều lĩnh mở rộng “chiến

tranh cục bộ” ra cả nước.

-  Nhiệm vụ  và  mối quan hệ  giữa cuộc chiến đấu  ở  hai miền:  trong cuộc

chiến tranh chống Mỹ của nhân dân cả nước, miền Nam là tiền tuyến lớn,

miền Bắc là hậu phương lớn. Bảo vệ miền Bắc là nhiệm vụ của cả nước vì

miền Bắc xã hội chủ  nghĩa là hậu phương vững chắc trong cuộc chiến

tranh chống Mỹ. Phải đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ

ở miền Bắc và ra sức tăng cường lực lượng miền Bắc về mọi mặt nhằm

đảm bảo chi viện đắc lực cho miền Nam càng đánh càng mạnh. Hai nhiệm

vụ  trên đây không tách rời nhau mà mật thiết gắn bó với nhau. Khẩu hiệu

chung của nhân dân cả  nước lúc này là: “Tất cả  để  đánh thắng giặc Mỹ

xâm lược”.

Caau7:  Đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược và xây dựng chế độ dân chủ nhân dân (1945 – 1954):

b.  Quá trình hình thành và nội dung đường lối kháng chiến:

Nội dung đường lối:

-  Mục đích kháng chiến: Kế  tục và phát triển sự  nghiệp Cách mạng tháng

Tám, “đánh phản động thực dân Pháp xâm lược; giành thống nhất và độc

lập”.

-  Tính chất kháng chiến:  “Cuộc kháng chiến của dân tộc ta là một cuộc

chiến tranh cách mạng của nhân dân, chiến tranh chính nghĩa. Nó có tính

chất toàn dân, toàn diện, lâu dài”. “Là cuộc chiến tranh tiến bộ vì tự do,

độc lập, dân chủ và hòa bình”. Đó là cuộc kháng chiến có tính chất dân tộc

giải phóng và dân chủ mới.

-  Chính sách kháng chiến:  “Liên hiệp với dân tộc Pháp, chống phản động

thực dân Pháp. Đoàn kết với Miên, Lào và các dân tộc yêu chuộng tự do,

hòa bình. Đoàn kết chặt chẽ  toàn dân. Thực hiện toàn dân kháng chiến…

Phải tự cấp, tự túc về mọi mặt”.

-  Chương trình và nhiệm vụ  kháng chiến:  “Đoàn kết toàn dân, thực hiện

quân, chính, dân nhất trí… Động viên nhân lực, vật lực, tài lực, thực hiện

toàn dân kháng chiến, toàn diện kháng chiến,  trường kỳ  kháng chiến.

Giành quyền độc lập, bảo tòan lãnh thổ, thống nhất Trung, Nam, Bắc.

Củng cố chế độ cộng hòa dân chủ… Tăng gia sản xuất, thực hiện kinh tế tự

túc…”.

-  Phương châm tiến hành kháng chiến: Tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân,

thực hiện kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là

chính.

-  Kháng chiến toàn dân: “Bất kỳ đàn ông, đàn bà không chia tôn giáo, đảng

phái, dân tộc, bất kỳ người già, người trẻ. Hễ  là người V.n phải đứng lên

đánh thực dân Pháp”, thực hiện mỗi người dân là một chiến sĩ, mỗi làng

xóm là một pháo đài.  

-  Kháng chiến toàn diện: Đánh địch về mọi mặt: chính trị, quân sự, kinh tế,

văn hóa, ngoại giao. Trong đó:

o  Về  chính trị:  thực hiện đoàn kết toàn dân, tăng cường xây dựng

Đảng, chính quyền, các đoàn thể nhân dân; đoàn kết với Miên, Lào

và các dân tộc yêu chuộng tự do, hòa bình.

o  Về  quân sự: Thực hiện vũ trang toàn dân, xây dựng lực lượng vũ

trang nhân dân, tiêu diệt địch giải phóng nhân dân và đất đai, thực

hiện du kích chiến tiến lên vận động chiến. Bảo toàn thực lực, kháng

chiến lâu dài… Vừa đánh vừa võ trang thêm; vừa đánh vừa đào tạo

thêm cán bộ.

o  Về kinh tế: Tiêu thổ kháng chiến, xây dựng kinh tế  tự cung tự  túc,

tập trung phát triển nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp và

công  nghiệp quốc phòng.

o  Về  văn  hóa: Xóa bỏ  văn hóa thực dân, phong kiến, xây dựng nền

văn hóa dân chủ mới theo 3 nguyên tắc: dân tộc, khoa học và đại

chúng.

o  Về  ngoại giao: Thực hiện thêm bạn bớt thù, biểu dương thực lực.

“Liên hiệp với dân tộc Pháp, chống phản động thực dân Pháp”, sẵn

sàng đàm phán nếu Pháp công nhận Việt Nam độc lập.

o  Kháng chiến lâu dài: là để chống âm mưu đánh nhanh, thắng nhanh

của Pháp, để có thời gian phát huy yếu tố “thiên thời, địa lợi, nhân

hòa” của ta, chuyển hóa tương quan lực lượng từ  chỗ  ta yếu hơn

địch đến chỗ ta mạnh hơn địch, đánh thắng địch.

o  Dựa vào sức mình là chính: “Phải tự cấp, tự túc về mọi mặt” vì ta bị

bao vây 4 phía, chưa được nước nào giúp đỡ nên phải tự  lực cánh

sinh. Khi nào có điều kiện ta sẽ  tranh thủ  sự giúp đỡ của các nước

song lúc đó cũng không được ỷ lại.

o  Triển vọng kháng chiến: Mặc dù lâu dài, gian khổ, khó khăn song

nhất định thắng lợi.

Đường lối kháng chiến của Đảng với những nội dung cơ bản như trên là đúng

đắn và sáng tạo, vừa kế thừa được kinh nghiệm của tổ tiên, đúng với các nguyên  lý

về chiến tranh cách mạng của chủ nghĩa Mác – Lênin, vừa phù hợp với thực tế đất

nước lúc bấy giờ. Đường lối kháng chiến của Đảng được công bố sớm có tác dụng

đưa cuộc kháng chiến nhanh chóng đi vào ổn định và phát triển đúng hướng, từng

bước đi tới thắng lợi vẻ vang.

Câu 21: Phân tích nội dung đường lối đối ngoại của Đảng thời kỳ 1975-1986

Đại hội lần thứ VI của Đảng (12-1976) xác định nhiệm vụ đối ngoại là  “Ra

sức tranh thủ những điều kiện quốc tế thuận lợi để nhanh chóng hàn gắn những vết

thương chiến tranh, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội ở nước ta”.

Trong quan hệ  với các nước, Đại hội VI  chủ  trương củng cố  và tăng cường

tình đoàn kết chiến đấu và quan hệ hợp tác với tất cả các nước xã hội chủ nghĩa; bảo

vệ và phát triển mối quan hệ đặc biệt Việt Nam – Lào – Campuchia; sẵn sàng thiết

lập, phát triển quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trong khu vực; thiết lập và

mở rộng quan hệ bình thường giữa Việt Nam với tất cả các nước trên cơ sở tôn trọng

độc lập chủ quyền, bình đẳng và cùng có lợi.

Từ  giữa năm 1978, Đảng đã  điều chỉnh một số  chủ  trương, chính sách đối

ngoại như: chú trọng củng cố, tăng cường hợp tác  về mọi mặt với Liên Xô  –  coi

quan hệ với Liên Xô là hòn đá tảng trong chính sách đối ngoại của Việt Nam; nhấn

mạnh yêu cầu ra sức bảo vệ mối quan hệ đặc biệt Việt – Lào trong bối cảnh vấn đề

Campuchia đang diễn biến phức tạp; chủ  trương góp phần xây dựng khu vực Đông

Nam Á hoà bình, tự do, trung lập và ổn định; đề ra yêu cầu mở rộng quan hệ kinh tế

đối ngoại.

 Đại hội lần thứ V của Đảng xác định: công tác đối ngoại phải trở  thành một

mặ trận chủ động, tích cực trong đấu tranh nhằm làm thất bại chính sách của các thế

lực hiếu chiến mưu toan chống phá cách mạng nước ta.   114

Về  quan hệ  với các nước, Đảng ta tiếp tục nhấn mạnh đoàn kết và hợp tác

toàn diện với Liên Xô là nguyên tắc, là chiến lược và luôn luôn là hòn đá tảng trong

chính sách đối ngoại của Việt Nam; xác định quan hệ đặc biệt Việt Nam  – Lào  –

Campuchia có ý nghĩa sống còn đối với vận mệnh của ba dân tộc; kêu gọi các nước

ASEAN hãy cùng các nước Đông Dương đối thoại và thương lượng để giải quyết

các trở ngại, nhằm xây dựng Đông Nam Á thành khu vực hoà bình và ổn định; chủ

trương khôi phục quan hệ bình thường với Trung Quốc trên cơ sở  các nguyên tắc

cùng tồn tại hoà bình; chủ trương thiết lập và mở rộng quan hệ bình thường về mặt

nhà nước, về kinh tế, văn hoá, khoa học, kỹ  thuật với tất cả  các nước không phân

biệt chế độ chính trị.

Thực tế cho thấy, ưu tiên trong chính sách đối ngoại của Việt Nam giai đoạn

(1975-1986) là xây dựng quan hệ hợp tác toàn diện với Liên Xô và các nước xã hội

chủ nghĩa; củng cố và tăng cường đoàn kết hợp tác với Lào và Campuchia; mở rộng

quan hệ hữu nghị với các nước không liên kết và các nước đang phát triển; đấu tranh

với sự bao vây, cám vận của các thế lực thù địch. 

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top

Tags: #huy