TRUYỆN NGẮN LÃNG MẠN 1930 - 1945
TRUYỆN NGẮN LÃNG MẠN 1930 - 1945
I. Các nhân vật, tình huống, hình ảnh được nhà văn sáng tạo ra nhằm thỏa mãn nhu cầu biểu hiện lí tưởng và tình cảm mãnh liệt của chính mình.
- Các nhà văn lãng mạn thường tìm kiếm những giá trị cao đẹp trong những cảnh đời tầm thường, tăm tối ; khám phá cái cao cả trong những số phận bị ruồng bỏ, chà đạp.
Vd :
- Thạch Lam trong "Hai đứa trẻ" : xúc động và trân trọng nhựng khát vọng được đổi đời, được sống hạnh phúc hơn của những con người bé nhỏ bị lãng quên ở phố huyện nghèo xưa
- Nguyễn Tuân trong "Chữ người tử tù" : tìm thấy sự tỏa sáng của nhân cách người tử tù nơi ngục thất tăm tối; sự vuơn lên cái đẹp, cái thiên lương của một ngục quan trong nhà tù của xã hội phong kiến xấu xa, suy tàn .
- Nhân vật của văn học lãng mạn hành động theo sự tưởng tượng của cá nhân nhà văn thể hiện lí tưởng của tác giả.
Vd :
+ Liên và An : tuy còn nhỏ đã phải thay mẹ trông coi quán tạp hóa nhỏ để kiếm sống , hằng đêm bán hang xong lại cố thức đón chuyến tàu đêm đi qua phố huyện. Con tàu với những toa sang trọng, đèn sáng trưng chiếu sáng xuống mặt đường và tiếng còi rít lên rầm rộ như mang theo cả một thế giới khác đối với cái phố huyện tăm tồi, tĩnh lặng, như thắp lên trong tâm hồn ngây thơ của em một khát vọng dẫu mơ hồ nhưng cũng đáng trân trọng. Nhà văn qua đó thể hiện khát vọng của những con người bé nhỏ bị lãng quên trong xã hội cũ .
- Văn học lãng mạn tự do biểu hiện tình cảm của cái tôi cá nhân. Các nhà văn lãng mạn thường tuyệt đối hóa vai trò của cái tôi cá nhân đặt chúng cao hơn thực tế khách quan đời sống để thể hiện khát vọng, lí tưởng của mình.
Vd :
+ Chữ người tử tù : thể hiện quan niệm thẩm mỹ của Nguyễn Tuân ( cái đẹp gắn với văn hóa dân tộc, gắn với cái thiện, có sức cảm hóa cái xấu , cái ác và cái đẹp bất tử với đời )
2. Văn học lãng mạn thường được viết ra bởi cảm hứng lãng mạn
- Nhà văn thường hướng đến cái phi thường, có tính biệt lệ
- Xây dựng những hình tượng con ngưởi vượt lên thực tại của đời sống , của hoàn cảnh ,hướng tới một cái gì đó tốt đẹp và thánh thiện hơn hiện thực . Có khi đó chỉ là những khát vọng còn mơ hồ nhưng cũng đủ để niềm tin của con người có điểm tựa.
+ Khát vọng chờ chuyến tàu đêm qua phố huyện nghèo của Liên và An chính là được viết dưới cảm hứng lãng mạn, bay bổng ấy. Hai chị em Liên đợi tùa không xuất phát từ nhu cầu vật chất ( thức chờ tày bán them hang ) mà chúng đợi tàu vì trong đêm dài chán chường của phố huyện thì chuyến tàu đêm đi qua là một niềm vui lớn. Chúng chờ tàu bởi nhu cầu tinh thần. Con tàu mang đến cho phố huyện một luồng ánh sáng rực rỡ và âm thanh sôi động, nó xua đi một thế giới tĩnh lặng của phố huyện nghèo. Con tàu không chỉ đem lại một thế giới khác hẳn với cuộc sống tăm tối đói nghèo của phố huyện mà cùng với con tàu, hai chị em Liên và An như trở về với quá khứ tươi đẹp. Con tàu chạy tới từ Hà Nội, chạy tới từ tuổi thơ đã mất, như ánh hồi quang để hai đứa trẻ thấy lại quá khứ, đánh thức dậy một miền kí ức tuổi thơ trong hai đứa trẻ đáng thương này. Con tàu mang trong nó bao kí ức tuổi thơ thiêng liêng, con tàu đẹp như một giấc mơ, cân bằng lại phầ nđời không mấy niềm vui, hạnh phúc của phố huyện nghèo. Vì thế khi tàu đến, Liên và An đứng cả dậy, khi con tàu đi rồi, cả hai cũng lặng theo mơ tưởng.
- Lãng mạn nhưng vẫn kết hợp nhuần nhuyễn với chất hiện thực tạo nên vẻ đẹp riêng của văn xuôi lãng mạn.
+ Cảnh cho chữ hiện ra cụ thể, chi tiết
Thời gian: nửa đêmKhông gian: trại giam Tịnh SơnSự việc: diễn ra cụ thể giữa ba nhân vật giữa ba nhân vật: Huấn Cao, viên quản ngục, thầy thơ lại.
+ Cảnh hiện thực mà lại lãng mạn, gợi lien tưởng đến sự bất tử của cái đẹp:
Ngọn đuốc : rừng rực trong bong đêm à ánh sáng, tài năng, khí phách, thiên lương.Mùi thơm của chậu vẽ và màu trắng tinh của tấm lụa bạch à vẻ đẹp của những tấm lòng và tài năng đang thăng hoa vào cõi vĩnh hằng.
- Trong những đặc điểm chung thuộc về thi pháp, 2 tác giả vẫn có phong cách riêng. Sự kết hợp hiện thực và lãng mạn rất riêng của Thạch Lam thể hiện rất rõ nét trong Hai đứa trẻ. Đó là kiểu truyện ngắn trữ tình, dường như không có cốt truyện mà vẫn tràn đầy không khí và tâm trạng. Thạch Lam là thành viên của Tự lực văn đoàn nhưng có một gương mặt rất riêng so với các nhà văn khác trong Tự lực văn đoàn. Nếu các tác giả của Tự lực văn đoàn thường hướng ngòi bút của mình về những con người thuộc tầng lớp trung lưu ( nôm na là cành vàng lá ngọc ) thì Thạch Lam lại dành sự quan tâm đối với những con người nhỏ bé, chịu nhiều thiệt thòi trong xã hội. Văn của Tự lực văn đoàn thường hướng về cái buồn lãng mạn, còn văn của Thạch Lam lại chất chứa nỗi đau hiện thực. Có thể gọi văn Thạch Lam "như một thứ hương hoàng lan được chưng cất từ những nỗi đau đời." Đặt ông cạnh Tự lực văn đoàn, chất hiện thực nổi lên rõ nét từ những trang viết. Đặc ông cạnh Văn học phê phán lại thấy xúc động trước những mảnh đời nghèo khổ được nhà văn khắc họa với những ấn tượng, cảm giấc rất sâu khiến truyện ngắn Thạch Lam chứa một nỗi buồn man mác. Còn với bút pháp và cảm xúc lãng mạn, thì cảnh thiên nhiên phố huyện mang một vẻ đẹp trữ tình thơ mộng. Giong văn của Thạch Lam cũng giàu cảm xúc "Chiều, chiều rồi. Một chiều êm ả như ru báo hiệu một đêm mùa hạ êm như nhung. Đom đóm trên những cánh đồng bay lập lòe và trên trời, hang ngàn ngôi sao đang tranh nhau lấp lánh. Hoa bang rụng khe khẽ, mùi đất cát bốc lên âm ẩm cũng chứa đựng một cái nhìn rất riêng của nó. Tất cả đều được nhìn qua con mắt Thạch Lam . Với cảm xúc và bút pháp hiện thực thì cuộc sống nơi phố huyện lại nghèo khổ, xơ xác, tiêu điều, tăm tối bởi ngày tàn, chợ tàn và những kiếp người tàn, đến cả đổ vật được nói đến cũng nát tàn. Một cái quán ọp ẹp, một cái chõng sắp gãy, một manh chiếu rách, một cái đàn run lên bần bật .... Tất cả làm đậm lên một cuộc sống cứ lụi đi, tàn đi. Giong văn của TL cũng buồn thấm thía. Chất lãng mạn kết hợp với chất hiện thực khiến truyện của Thạch Lam đẹp như một bài thơ trữ tình đượm buồn.
3. Văn học lãng mạn thường dung thủ pháp tương phản, đối lập, thích khoa trương, phóng đại, dung ngôn ngữ giàu sức gợi .
- Cảnh cho chữ là đoạn văn giàu kịch tính, dung thành công nghệ thuật đối lập, tương phản.
+ Đối lập, tương phản ở cảnh.
Về không gian : chơi chữ là thú chơi tao nhã, thường chơi ở các thư phòng, những nơi đài các, sang trọng >< cảnh phòng giam "tối, chật hẹp, ẩm ướt, tường đầy mạng nhện, đất bừa bãi phân chuột phân gián."Về thời gian: cảnh cho chữ không được diễn ra công khai mà lại lén lút vào ban đêm khi lính canh đã ngủ, đêm cuối cùng của tử tù Huấn Cao.
- Không gian và thời gian đều tăm tối >< ánh sáng.
Ánh sáng đỏ rực của bó đuốc tẩm dầuMùi trắng tinh của tấm lụa bạch còn nguyên vẹn lần hồMùi thơm của chậu mực bốc lênSự sáng tạo ra cái đẹp : cái đẹp của nghệ thuật, của tài năng, của dũng khí và nhân cách
- Đối lập về nhân vật : có sự thay bậc đổi ngôi
+ Huấn Cao : "một người tù, cổ đeo gong, chân vướng xiềng đang dậm tô nét chữ trên tấm lụa bạch trắng tinh": phong thái ung dung, đĩnh đạc, đầy uy quyền à tượng trưng cho cái đẹp và phẩm giá con người. Huấn Cao đang viết những con chữ cuối cùng cho đời, không đi vào cõi chết mà lại vào cõi bất tử bởi cái tài, khí phách của ông được người đời tôn kính, giữ gìn bằng tất cả thiên lương.
+ Viên quản ngục : uy quyền nhất giờ "khúm núm" nhặt những đồng tiền cho Huấn Cao viết chữ. Đây không phải lả sự sợ sệt, luồn cúi mà là sự ngưỡng mộ, tôn vinh những con chữ cuối cùng của Huấn Cao. Những nét chữ tươi tắn nói lên hoài bão tung hoành một đời của con người. Những nét chữ đó kết tinh tài năng, tâm huyết, vẻ đẹp của con người mà ông hằng ngưỡng mộ. Người nghệ sĩ tài hoa có thể bị hãm hại nhưng cái đep phi thường vẫn bất tử khi ở đời vẫn có thiên lương. Ánh sáng bó đuốc phải chăng là ánh sáng thiên lương tử tù đang chiếu lên để lay tỉnh ngục quan? Chi tiết ngục quan khúm núm, vái tử tù trong nước mắt nghẹn ngào, là những chi tiết tương phản thú vị. Lúc sở thích nghệ thuật mãn nguyện cũng là lúc ánh sáng thiên lương soi tỏ tâm hồn. Cái vái lạy một nhân cách hiếm có, cùng voi71v lời thề danh dự. Có thể sau khi Huấn Cao thụ án chém thì cũng là lúc viên cai ngục rũ áo từ quan về quê nhà giữ thiên lương cho lành vững bởi "con người chỉ xứng đáng được thưởng thức cái đẹp khi giữ được thiên lương."
+ Thầy thơ lại : là người tự do giờ "run run" bưng chậu mực giúp Huấn Cao viết chữ. Ông run run vì xúc động, trân trọng giờ phút thiêng liêng xưa nay chưa từng có này. Những từ Hán Việt cổ kính được dung nhuần nhuyện phù hợp với không khí cảnh tượng cho chữ, vừa góp phần tạo nên sự thiêng hóa nhân vật theo bút pháp lãng mạn.
- Sự tương phản giữa bong tối và ánh sáng trong Hai đứa trẻ :
Khi chiều muộn, ánh sáng còn nhưng yếu ớt. Khi màn đên buông xuống bong tối cứ lan dần, lấn dần từng con đường nhỏ, từng ngõ xóm để rồi nhấn chìm phố huyện trong bong đêm. "Tối hết cả, con đường thăm thẳm ra sông, con đường qua chợ về nhà lại càng sẫm đen hơn nữa.". Ám ảnh nhất là khi bóng tối xuất hiện như bức tường dày, cản âm thanh khiến "trống cầm canh ở huyện đánh lên một tiếng ngắn khô khan, không vang động ra xa rồi chìm ngay vào bóng tối." Ánh sáng của phố huyện lúc này chỉ còn là khe sáng từ nhà ai hắt ra, hột sáng của những ngọn đèn tù mù vặn nhỏ, chấm sáng từ những chiến đèn ghi cuối toa tàu. Tất cả đều quá nhỏ nhoi, yếu ớt trước vũ trụ thăm thẳm trong bong tối.
Nếu ví tác phẩm của Thạch Lam như một bài thơ, lại là bài thơ hay thì hẳng phải có "thi nhãn" , tức con mắt thơ tỏa sáng cả thế giới nghệ thuật. Đâu là con mắt thơ trong tác phẩmHai đứa trẻ ?
Ø Đó là ngọn đèn dầu nơi hàng nước của chị Tí được nhắc đi, nhắc lại nhiều lần, là chi tiết nghệ thuật giầu ý nghĩa. Ngọn đèn lay động trên chõng hàng của chị Tí, ngọn đèn con của chị Tí, vầng sáng ngọn đèn của chị Tí và ngọn đèn con tù mù leo lét ấy chỉ chiếu sáng một vùng đất nhỏ đó vừa là hình ảnh thực nhưng đồng thời gợi sự liên tưởng tới những kiếp người nhỏ bé bị lãng quên đang sống lay lắt trong đêm trường xã hội cũ. Những cư dân phố huyện kiếm sống trong đêm, mỗi người cần đem theo một ngọn đèn và chính họ cũng như những ngọn đèn leo lét.Ø Đó là Hình ảnh những ngôi sao lấp lánh, cũng được miêu tả nhiều lần. Trời bắt đầu vào đêm "vòm trời hàng ngàn ngôi sao ganh nhau lấp lánh". Càng về khuya, "qua kẽ lá của cây bang, ngàn sao vẫn lấp lánh". Và khi con tầu đi qua, tiếng vang động nhỏ dần, mất dần trong bóng tối thì "sao trên trời vẫn lấp lánh". Sự tương phản giữa ánh sap lấp lánh trên trời với ánh đèn tù mù dưới mặt đất đã làm vút lên một niềm tin và một chất thơ lãng mạn. Điều đó cần thiết biết bao trong hoàn cảnh con người đang phải sống lay lắt trong bóng tối, trong nghèo khổ, lam lũ, tẻ nhạt và bế tắc.
- Tương phản quá khứ, hiện tại ( của Liên ), nhờ đó bộc lộ được chủ đề tác phẩm :
+ Hiện tại nghèo khổ: " Mấy đứa trẻ con nhà nghèo ở ven chợ cúi lom khom trên mặt đất đi lại tìm tòi. Chúng nhặt nhạnh thanh nứa, thanh tre, hay bất cứ cái gì có thể dùng được của các người bán hàng để lại, Liên trông thấy động lòng thương nhưng chính chị cũng không có tiền để mà cho chúng nó."
+ Quá khứ vui vẻ : "Liên nhớ lại khi ở Hà Nội,chịđược hưởng những thức quà ngon, lạ - bấy giờ mẹ Liên nhiều tiền - được đi chơi bờ hồ uống những cốc nước lạnh xanh đỏ. Ngoài ra, kỷ niệm nhớ lại không rõ rệt, chỉ là một vùng sáng rực và lấp lánh. Hà Nội nhiều đèn quá! Từ khi nhà Liên dọn về đây, từ khi có cái cửa hàng này, đêm nào Liên và em cũng phải ngồi trên chiếc chõng tre dưới gốc bàng với cái tối của quang cảnh phố chung quanh"
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top