Honglaumong (hoi66_hoi100)

Hồi thứ sáu mươi sáu

Cô bé đa tình, hổ vì tình về nơi địa phủ;

Chàng Hai lạnh nhạt, khi quá lạnh vào chốn không môn.

Vợ Bào Nhị đánh thằng Hưng một cái, cười nói:

- Thực thì thực đấy, nhưng đến mồm mày lại thêu dệt to chuyện ra. Nghe câu nói đủ biết mày không giống người nhà cậu Hai, mà giống người nhà cậu Bảo ấy!

Chị Hai còn muốn hỏi nữa, thì chị Ba đã cười hỏi:

- Cậu Bảo bên nhà mày ngoài việc học ra, còn làm gì nữa không?

Thằng Hưng cười nói:

- Dì Ba đừng hỏi cậu ấy nữa. Cháu nói chưa chắc dì đã tin. Cậu ấy lớn như thế mà chưa thực là đi học. Bên nhà cháu từ các cụ cho đến cậu Hai, ai chẳng trải mười năm đèn sách. Chỉ có cậu ấy không thích học, vì là bảo bối của cụ. Trước kia ông cháu còn dạy bảo, nay cũng không dám kiềm thúc nữa. Suốt ngày cậu ấy như người điên rồ, nói gì người ta cũng không hiểu, làm gì người ta cũng không hay. Nhìn bề ngoài có vẻ khôi ngô thanh tú, chắc trong bụng phải là thông minh, không ngờ lại rất hồ đồ. Trông thấy ai cũng chẳng nói một câu gì. Có điều tốt là tuy không đi học, nhưng cũng biết được một ít chữ. Ngày nào cũng chẳng văn ôn võ luyện gì cả, lại sợ tiếp người lạ, chỉ thích chơi đùa với bọn a hoàn thôi. Hơn nữa cậu ta cũng không chí khí gì. Có khi gặp chúng cháu vui ra thì chẳng kể trên dưới, mọi người nô đùa một chập; nếu không thích, mỗi người một nơi, cậu ấy cũng mặc kệ. Chúng cháu đương nằm hay ngồi, trông thấy cậu ấy đến cũng mặc. Cậu ấy cũng chẳng trách mắng gì. Vì thế chả ai sợ cả, cứ tùy tiện thế cũng xong.

Chị Ba cười nói:

- Chủ mà dễ tính thì chúng bay như thế đấy, nếu khó tính thì lại oán trách. Thế mới biết chúng mày thực là khó xử.

Chị Hai nói:

- Chúng ta xem cậu ấy như thế cũng tốt đấy. Đáng tiếc cậu ấy hãy còn là một chàng trai non nớt.

Chị Ba nói:

- Chị tin nó nói nhảm à? Chúng ta đã gặp cậu ấy mấy lần rồi. Xem cách ăn nói, cách xử sự của cậu ấy có vẻ hơi giống con gái. Đó là vì ngày nào cậu ấy cũng ở chung trong đám chị em, thành ra thói quen, chứ hồ đồ ở chỗ nào? Chị còn nhớ hôm làm lễ mặc áo tang, chúng ta đều ở đó cả. Hôm ấy bọn hòa thượng làm lễ đi quanh quan tài, chúng ta cũng đứng cả đấy. Cậu ta cứ đứng ngáng ở đằng trước. Ai cũng bảo cậu ta không biết lễ, trông đần độn. Nhưng sau cậu ấy bảo thầm chúng ta: “Các chị không biết, không phải tôi đần độn đâu. Bọn hòa thượng hôi hám như thế, sợ xông bẩn đến các chị”. Sau đó cậu ta uống nước, chị cũng muốn uống, bà già lấy ngay cái chén của cậu ta đi rót, cậu ấy vội bảo: “Chén bẩn đấy, phải rửa đi rồi hãy rót”. Tôi để ý xem hai việc này, thấy cậu ấy đối với con gái không cứ cái gì, đều tử tế cả, nhưng không hợp với lề lối của người ngoài, vì thế bọn họ không biết.

Chị Hai cười nói:

- Theo lời dì nói thì dì và cậu ấy tình ý đã hợp nhau rồi. Cứ gả dì cho cậu ấy chẳng tốt ư?

Chị Ba thấy thằng Hưng đứng đấy, không tiện nói lại, cúi gầm đầu xuống. Thằng Hưng cười nói:

- Xem dáng người và cử chỉ thì đẹp đôi đấy, nhưng cậu ấy đã có chỗ rồi, chỉ chưa nói rõ ra thôi. Sau này chắc là cô Lâm đấy. Vì cô ấy hay ốm, hai người lại còn bé, nên chưa bàn đến. Vài ba năm nữa, cụ nói ra một câu thì việc gì mà không xong.

Mọi người đương nói chuyện, thấy thằng Long lại đến nói:

- Ông nhà có việc rất quan trọng định sai cậu Hai đến châu Bình An. Độ dăm ba hôm nữa thì đi, cả đi cả về phải mất độ mười lăm, mười sáu ngày. Hôm nay cậu ấy không đến, xin bà hãy bàn định việc ấy với dì Hai. Ngày mai cậu ấy đến sẽ định liệu.

Nói xong cùng thằng Hưng quay về.

Chị Hai sai đóng cửa đi ngủ, gạn hỏi em gái cả đêm.

Trưa hôm sau, Giả Liễn mới đến. Chị Hai nói:

- Đã có việc cần, sao cậu còn trở lại làm gì? Xin cậu đừng vì em mà lỡ việc.

- Có việc gì đâu, chỉ sắp đi xa một chuyến. Sang đầu tháng sau anh đi, phải chừng nửa tháng mới về được.

- Đã thế cậu cứ yên tâm mà đi, ở nhà không phải lo nghĩ gì. Dì Ba vẫn là người không hay thay đổi ý định. Dì ấy đã chọn được rồi, cậu cứ nghe theo dì ấy là được.

- Ai đấy?

- Người ấy bây giờ không ở đây, không biết bao giờ mới đến. Khen cho dì ấy tinh mắt thật. Dì ấy đã nói: người ấy một năm không đến, thì chờ một năm; mười năm không đến thì chờ mười năm. Nếu người ấy chết đi, thì dì ấy đành cắt tóc đi tu, ăn chay niệm phật, chứ quyết không lấy ai nữa.

- Rút cục là ai, làm dì ấy cảm đến thế?

- Nói ra thì dài. Năm năm về trước, ngày sinh nhật bà em, mẹ và chúng em chúc thọ, nhà bà em có mời một bọn con hát, đều là con nhà tử tế cả. Trong đó có một người đóng vai học trò tên là Liễu Tương Liên. Nay dì ấy nhất định chờ lấy anh ta. Nhưng năm ngoái nghe đâu anh ta gây vạ rồi trốn đi, không biết đã về hay chưa?

- Thảo nào! Anh cứ tưởng là ai, té ra là hắn! Dì ấy cũng tinh mắt thật! Em không biết, chàng trai Liễu này là người rất phong nhã, nhưng bụng rất lạnh nhạt, đối với nhiều người không có tình nghĩa gì cả. Hắn rất hợp tính với Bảo Ngọc. Năm ngoái vì hắn đánh chàng ngốc họ Tiết, ngượng với chúng ta, nên bỏ đi đâu mất, vẫn chưa thấy về. Có người nói hắn đã về rồi, không biết là thật hay dối, cứ hỏi bọn hầu chú Bảo sẽ biết. Nếu hắn không về, chả hóa ra bèo trôi nước chảy, chờ đợi biết đến bao giờ? Như thế chẳng lỡ mất việc lớn của mình hay sao?

- Dì Ba nhà em nói thế nào làm như thế. Ta cũng đành phải tùy dì ấy thôi.

Hai người đương nói chuyện, thì chị Ba chạy đến nói:

- Anh ơi, anh cứ yên tâm, chúng tôi không phải là người nói một đằng làm một nẻo, đã nói thế nào thì làm thế ấy. Từ nay trở đi, tôi ăn chay niệm phật, hầu hạ mẹ già, chờ anh Liễu về đây tôi sẽ lấy; một trăm năm nữa anh ấy không về, thì tôi đành chịu đi tu.

Nói xong, chị ta rút cái trâm ngọc ở trên đầu xuống bẻ làm đôi, nói:

- Nếu tôi nói sai lời thì cũng như cái trâm này.

Rồi chị ta đi về buồng, từ đó một lời nói, một cử chỉ, chị ta đều giữ đúng mức.

Giả Liễn không biết làm thế nào, đành bàn việc với chị Hai một lúc, rồi về nhà bàn với Phượng Thư việc mình sắp đi. Một mặt sai người đi hỏi Dính Yên về việc Liễu Tương Liên. Dính Yên nói:

- Không biết. Có lẽ cậu ấy không về, nếu về tất tôi phải biết.

Giả Liễn lại hỏi những người xung quanh, ai cũng nói là Liễu Tương Liên chưa về. Giả Liễn đành trả lời cho chị Hai biết.

Gần đến ngày phải đi, Giả Liễn nói là lên đường rồi lẻn đến ở nhà chị Hai hai đêm, sau đó mới đi. Thấy chị Ba như thay đổi hẳn con người, mà chị Hai lại trông nom việc nhà cẩn thận, nên Giả Liễn không phải lo nghĩ gì đến.

Sáng hôm ấy, Giả Liễn ra khỏi thành, ngày đi đêm nghỉ, đói ăn khát uống theo đường lên châu Bình An. Mới đi được ba ngày, hôm đó đang đi, gặp một đoàn ngựa thồ, trong đó cả thầy và tớ cưỡi độ mười con ngựa. Lúc đến gần, nhìn ra thì không phải ai lạ, chính là bọn Tiết Bàn và Liễu Tương Liên. Giả Liễn lấy làm lạ, dong ngựa đến đón. Mọi người chào nhau, hỏi han một lúc, rồi vào nghỉ ở quán rượu, cùng nhau nói chuyện.

Giả Liễn cười nói:

- Sau khi hai chú sinh chuyện với nhau, chúng tôi định mời cả đến hòa giải, ngờ đâu chú Liễu đi biệt, chẳng thấy tung tích đâu. Sao hai chú hôm nay lại cùng đi với nhau?

Tiết Bàn cười nói:

- Trên đời lại có việc lạ thế đấy. Tôi và bọn người nhà đi mua hàng, bắt đầu từ mùa xuân. Trên đường về, vẫn bình yên. Ngờ đâu hôm nọ đi đến châu Bình An, gặp một bọn cướp. Chúng cướp mất hết hàng. Bỗng thấy chú Liễu ở đâu đến, đánh tan bọn cướp, lấy lại hàng, cứu được tính mệnh chúng tôi. Tôi biếu gì chú ấy cũng không lấy, nên mới kết làm anh em, sống chết có nhau; bây giờ cùng về Kinh đô. Từ nay trở đi chúng tôi coi nhau như anh em ruột. Đi đến ngã ba đường trước mặt thì chia tay nhau. Chú ấy đi về phía Nam độ hai trăm dặm, đến thăm nhà bà cô ở đó. Tôi về Kinh thu xếp công việc, sẽ tìm một ngôi nhà, và hỏi cho chú ấy một người vợ; rồi chúng tôi ở chung với nhau.

Giả Liễn nghe xong nói:

- Nguyên do như vậy. Thế mà làm tội chúng tôi mong đợi bấy lâu nay.

Rồi lại nói:

- Vừa rồi bàn việc hỏi vợ cho chú Liễu, tôi hiện có một nơi tốt, xứng đáng với chú Liễu.

Nói xong Giả Liễn kể việc mình đã lấy con gái họ Vưu và muốn gả chồng cho em vợ, nhưng không nói đến việc chị Ba tự ý chọn lấy Liễu Tương Liên. Lại dặn Tiết Bàn:

- Đừng nói chuyện ấy cho nhà biết nhé. Khi nào có con thì tự khắc họ biết.

Tiết Bàn mừng rỡ nói:

- Nên làm như thế từ lâu mới phải. Đó đều là lỗi của cô em ngoại(1) tôi cả.

Liễu Tương Liên cười nói:

- Anh lại quên rồi. Sao không im đi.

Tiết Bàn vội thôi không nói nữa. Nhưng lại hỏi:

- Đã thế thì việc hôn nhân ấy nhất định phải làm mới được.

Tương Liên nói.

- Tôi có ý định phải là một người con gái tuyệt đẹp tôi mới lấy. Giờ anh em anh đã có bụng tốt, tôi cũng không thể nghĩ nhiều nữa, tùy các anh định liệu, thế nào tôi cũng xin vâng.

Giả Liễn cười nói:

- Bây giờ miệng nói không có bằng cứ, chờ khi chú Liễu trông thấy thì mới biết phẩm hạnh, dung mạo của em vợ tôi, thật là xưa nay có một không hai.

Tương Liên mừng rỡ, nói:

- Đã thế, để tôi về thăm cô tôi trong vòng một tháng rồi vào Kinh, lúc đó sẽ định có được không?

Giả Liễn cười nói:

- Tôi với chú nói một câu là xong, nhưng tôi không tin được chú, vì chú nay đây mai đó, như nước chảy bèo trôi. Nếu chú không trở lại thì chẳng lỡ việc lớn của cả đời người ta hay sao? Chú nên để lại một vật gì làm tin.

Tương Liên nói:

- Đã là bậc trượng phu có lẽ nào lại sai lời? Em vốn là người nghèo ở nơi đất khách, còn có vật gì làm tin được?

Tiết Bàn nói:

- Tôi có sẵn đây, xin đưa một ít nhờ anh Hai đem về cho.

Giả Liễn nói:

- Không cứ vàng bạc châu báu, chỉ cần vật gì chú Hai đem theo trong mình, bất kể tốt xấu, để tôi mang về làm tin thôi.

Tương Liên nói:

- Đã thế, em không có vật gì ngoài thanh kiếm “Uyên Ương” là của báu của tổ tiên để lại, em không dám dùng đến, chỉ đeo ở trong người, xin anh nhận lấy vật này để làm tin. Dù em có nay đây mai đó, cũng quyết không bao giờ bỏ thanh kiếm này.

Nói xong, mọi người lại uống mấy chén rượu, rồi lên ngựa từ biệt nhau, mỗi người đi một ngả.

Giả Liễn đến châu Bình An, vào yết kiến quan Tiết Độ, làm xong việc rồi, quan Tiết Độ lại dặn dò trước sau tháng mười phải trở lại một lần nữa.

Giả Liễn vâng lời, hôm sau đi gấp về nhà, đến ngay chỗ chị Hai. Chị Hai ở nhà trông nom công việc rất là cẩn thận, ngày nào cũng cửa khóa then cài, không để ý đến việc bên ngoài. Chị Ba là người dút khoát, như đanh đóng cột, ngoài việc hầu hạ mẹ ra, chỉ yên phận làm ăn. Tuy có những đêm chăn đơn, gối chiếc, chưa quen với cảnh lạnh lùng, nhưng chị vẫn một lòng gạt bỏ hết thảy, chỉ mong sao Liễu Tương Liên sơm sớm trở về, để làm xong việc lớn suốt đời của chị.

Hôm ấy Giả Liễn về đến nhà, thấy quang cảnh vậy, khôn xiết vui mừng, rất khâm phục đức hạnh chị Hai. Hàn huyên xong, Giả Liễn nói việc đi đường gặp Liễu Tương Liên, lại đem kiếm “Uyên Ương” ra đưa cho chị Ba. Chị Ba trông thấy, mặt trên chạm rồng nuốt quỳ chầu(2), châu ngọc lóng lánh, khi cầm lên xem thì phía trong lại là hai lưỡi kiếm úp làm một, một bên khắc chữ “Uyên” một bên khắc chữ “Ương”, lạnh toát, sáng loáng như hai làn sóng mùa thu. Chị Ba mừng quá, treo ngay ở buồng thêu của mình. Mỗi ngày nhìn thấy thanh kiếm, chị lại mừng là suốt đời sẽ có chỗ nương thân.

Giả Liễn ở đó hai hôm, rồi về trả lời cho cha biết và đi chào hỏi mọi người trong nhà. Bấy giờ Phượng Thư đã khỏi hẳn, đã đi lại làm việc. Giả Liễn lại đem việc ấy nói cho Giả Trân biết. Nhưng vì gần đây Giả Trân đã tìm được người mới, lại bực mình về hai chị em họ Vưu vô tình, nên bỏ qua việc ấy không nghĩ đến, mặc cho Giả Liễn định đoạt. Sợ một mình Giả Liễn không đương nổi, Giả Trân đành phải cho hắn mấy chục lạng bạc. Giả Liễn cầm về đưa cho chị Hai để sắm sửa nữ trang cho dì Ba.

Ngờ đâu mãi tháng tám Tương Liên mới vào Kinh. Trước hết Tương Liên đến chào Tiết phu nhân và thăm Tiết Khoa. Tiết Bàn vì không quen sương gió, không chịu thủy thổ, vừa về tới Kinh đã bị ốm nằm ở nhà, mời thầy chạy chữa. Thấy Tương Liên đến, Tiết Bàn mời vào buồng nằm của mình. Tiết phu nhân không nghĩ đến việc trước, cả mẹ con luôn miệng cảm ơn Tương Liên đã cứu sống Tiết Bàn. Việc Liễu Tương Liên cưới vợ cũng đã được sắm sửa đầy đủ, chỉ chờ chọn ngày tốt thôi. Tương Liên vô cùng cảm động.

Hôm sau Tương Liên đến thăm Bảo Ngọc. Hai người gặp nhau như cá gặp nước. Tương Liên hỏi đến việc Giả Liễn lấy vụng vợ hai, Bảo Ngọc cười nói:

- Tôi nghe Dính Yên nói, chứ chưa được trông thấy, cũng không dám dính dáng nhiều đến việc ấy. Tôi lại thấy Dính Yên nói anh Liễn cứ hỏi đến anh luôn, không biết có chuyện gì?

Tương Liên đem việc đi đường gặp nhau nói hết cho Bảo Ngọc nghe. Bảo Ngọc cười nói:

- Mừng cho anh nhé! Mừng cho anh nhé! Khó mà được người đẹp như thế! Thực là bậc tuyệt sắc xưa nay có thể sánh với anh được.

- Nếu thế thì thiếu gì người hỏi? Sao lại chỉ để ý đến tôi? Vả chăng ngày thường tôi với cô ấy không quen biết nhau lắm, làm gì cô ấy lại tha thiết đến như thế? Khi đi đường anh Liễn cứ xoắn xuýt hai ba lần, bảo tôi phải nhận lời ngay. Có lẽ nào nhà gái lại đi theo nhà trai hay sao? Tự tôi đâm ra nghi ngờ rất băn khoăn là không nên đem thanh kiếm làm của tin. Vì thế sau tôi nghĩ đến anh, có thể đến hỏi kỹ đầu đuôi việc này mới được.

- Anh là người cẩn thận kỹ càng, sao đã gửi đồ làm tin lại còn ngờ vực? Anh vẫn nói là cần một người tuyệt sắc, nay có được người rồi, anh còn nghi ngờ gì nữa?

- Anh đã không biết lai lịch người ấy, sao lại biết người ấy là tuyệt sắc?

- Các cô ấy là con riêng bà kế mẫu chị Trân đưa đến. Tôi đã gặp họ ở bên ấy một tháng, sao lại không biết? Thật là một đôi “Vưu vật”(3) mà khéo cô ấy lại là họ Vưu.

Tương Liên nghe xong giậm chân nói:

- Việc này không xong rồi! Nhất định không thể lấy được! Trong phủ Đông nhà anh, ngoài hai con sư tử đá ra, dù con mèo, con chó cũng chẳng còn trong sạch nữa. Tôi không thèm làm anh chàng rùa đen đâu!

Bảo Ngọc nghe nói, đỏ bừng mặt.

Tương Liên biết mình lỡ lời, vội vái một cái nói:

- Tôi nói bậy đáng chết! Nhưng hay dở thế nào cũng xin anh nói thực cho tôi biết tính nết cô ấy.

- Anh đã biết rõ lại còn hỏi tôi làm gì nữa? Chính tôi cũng chưa chắc đã trong sạch đâu!

- Vì tôi một lúc vô tình lỡ miệng, xin anh đừng để bụng!

- Cần gì phải nhắc lại? Thế thì anh lại để bụng rồi.

Tương Liên vái chào Bảo Ngọc đi ra, định đến tìm Tiết Bàn, nhưng nghĩ một là hắn đương ốm, hai là hắn tính nết nông nổi, chi bằng ta đi đòi lại vật làm tin. Bụng đã định thế, anh ta liền chạy đi tìm Giả Liễn. Giả Liễn đương ở buồng chị Hai, nghe Tương Liên đến, mừng lắm, chạy ra đón và mời vào nhà trong để gặp bà già họ Vưu. Tương Liên chỉ vái và gọi bà già Vưu là “bác” và tự xưng là cháu. Giả Liễn rất lấy làm lạ. Lúc uống nước, Tương Liên nói:

- Hôm nọ ở chỗ đất khách vội vàng, tôi có nhận lời, không ngờ trong tháng tư vừa qua, cô tôi ở nhà đã hỏi vợ cho tôi rồi, tôi không biết nói thế nào. Theo lời anh thì trái ý cô tôi, sợ không hợp lý. Nếu vật đính hôn là vàng hay lụa, thì tôi không dám đòi lại đâu, nhưng thanh kiếm này là của ông cha tôi để lại xin anh trả cho tôi.

Giả Liễn nghe nói, trong bụng khó chịu:

- Chú Liễu, câu ấy chú nói nhầm rồi. “Định” nghĩa là nhất định, vì sợ trái lời hứa, nên phải gửi vật làm tin. Đâu lại có việc hôn nhân thay đổi dễ dàng như thế? Chú hãy nghĩ kỹ xem.

Tương Liên cười nói:

- Thế thì tôi xin nhận những điều trách phạt, còn việc này quyết không thể tuân lệnh được.

Giả Liễn còn muốn nói nữa, nhưng Tương Liên đứng dậy nói:

- Mời anh ra ngoài nói chuyện, kẻo ở đây không tiện.

Chị Ba ở trong buồng nghe rõ câu chuyện, nghĩ bụng:  “Chờ mãi hắn mới đến, bỗng lại trái lời hứa, chắc là hắn đã nghe được câu gì ở trong phủ Giả, cho mình là bọn dâm đãng vô sỉ, nên không thèm lấy làm vợ nữa. Bây giờ để cho hắn ra ngoài nói chuyện từ hôn với Giả Liễn, chắc Giả Liễn không những không có cách gì đối xử, lại đâm ra cãi nhau, mình cũng chẳng ra gì”. Vừa nghe thấy Giả Liễn sắp đi ra với Tương Liên, chị ta lấy kiếm xuống, giấu lưỡi kiếm có chữ “Ương” vào trong nách, rồi chạy ra nói:

- Các anh không cần phải ra ngoài bàn nữa. Tôi trả lại vật làm tin của anh đây.

Nói xong, nước mắt chảy đầm đìa, tay trái đưa kiếm và bao cho Tương Liên, tay phải quay lại đưa ngang lưỡi kiếm vào cổ. Đáng thương là:

Hoa đào vò nát rơi màu đỏ;

Núi ngọc nhào nghiêng khó đỡ lên!

Lúc đó mọi người sợ hãi, vội vàng lại cứu. Bà già Vưu vừa khóc vừa mắng Tương Liên ầm lên. Giả Liễn nắm lấy Tương Liên, sai người trói lại đem trình quan. Chị Hai gạt nước mắt khuyên:

- Người ta có ép buộc dì ấy đâu, tự dì ấy tìm lấy cái chết; nếu cậu đưa người ta đến cửa quan cũng chẳng có ích gì, chỉ tổ bày việc bên xấu thôi. Chi bằng thả cho người ta đi.

Giả Liễn không biết nghĩ thế nào, liền buông tay, bảo Tương Liên đi ngay. Nhưng Tương Liên không đi, lấy khăn tay lau nước mắt, nói:

- Tôi không ngờ người ấy có khí tiết như thế! Thực đángkính.

Rồi khóc ầm lên. Một lúc áo quan mua về, khâm liệm cho nàng xong, Tương Liên vỗ vào áo quan khóc một lúc rồi mới từ biệt ra đi. Ra khỏi cửa, anh ta không biết mình nên đi đâu, âm thầm rũ rượi, nghĩ đến việc xảy ra vừa rồi, thật là người con gái đẹp đẽ có khí tiết, hối cũng không kịp!

Tương Liên đương lững thững đi, gặp người hầu của Tiết Bàn đưa hắn về nhà. Hắn vẫn thẫn thờ, mê man. Người hầu dẫn hắn vào buồng mới, thấy bày biện các cái hết sức gọn gàng, đẹp mắt. Bỗng văng vẳng nghe tiếng ngọc rung rinh, chị Ba từ đằng kia đi lại, một tay cầm thanh kiếm Uyên Ương, một tay cầm quyển sổ, khóc nói với Tương Liên:

- Thiếp vì si tình, chờ chàng đã năm năm rồi, không ngờ chàng lại lạnh nhạt như thế. Thiếp đành lấy cái chết để báo lại mối si tình ấy. Nay thiếp vâng mệnh cô tiên Cảnh Ảo đến nơi Thái Hư ảo cảnh để ghi tên một bọn ma tình đã có ở trong án. Thiếp không nỡ chia tay ngay, nên đến đây để được gặp chàng lần cuối. Từ nay trở đi, chúng ta không bao giờ gặp nhau nữa!

Nói xong, lại ngoảnh vào Tương Liên nhỏ mấy giọt nước mắt, rồi cáo từ ra đi.

Tương Liên luyến tiếc, định chạy đến kéo lại hỏi. Chị Ba nói:

- Thiếp lại từ trời tình, đi từ đất tình. Kiếp trước đã lầm vì tình, kiếp này lại xấu hổ vì tình, nên mới được giác ngộ. Thiếp với chàng từ đây không còn dính dáng gì nữa!

Nói xong, trận gió thoảng qua, phưng phức hương đưa, không thấy tông tích đâu nữa. Tương Liên tỉnh dậy, bàng hoàng như mơ lại không phải là mơ. Mở mắt nhìn kỹ, đâu là người nhà họ Tiết? Đâu là gian buồng mới? Chỉ thấy một ngôi miếu đổ, bên cạnh có một đạo sĩ đương ngồi xếp bằng bắt rận.

Tương Liên đứng dậy cúi đầu hỏi:

- Thưa đây là nơi nào? Tiên ông hiệu là gì?

Đạo sĩ cười nói:

- Chính ta cũng không biết đây là nơi nào, mà ta là người nào. Chẳng qua đến tạm nghỉ chân ở đây thôi.

Tương Liên nghe nói lạnh toát đến tận xương. Rút cái lưỡi kiếm chữ “Uyên” ra, cắt hết những sợi phiền não, rồi đi theo vị đạo sĩ, không biết đi đâu.

--------------------------

(1). Tức Phượng Thư.

(2). Quỳ là giống thú, giống trâu mà không có sừng.

(3). Người đẹp tuyệt vời.

Hồi thứ sáu mươi bảy

Thấy đồ thổ nghi, Đại Ngọc nhớ quê cũ;

Nghe việc bí mật, Phượng Thư hỏi người hầu

Sau khi chị Ba tự sát, bà già Vưu cùng chị Hai, Giả Trân, Giả Liễn đều hết sức thương khóc, liền sai người khâm liệm đưa ra ngoài thành chôn cất. Liễu Tương Liên thấy chị Ba đã mất rồi, ngẩn ngơ thương tiếc, lại bị đạo nhân nói mát mấy câu, phá tan cõi mê, bèn cắt tóc theo vị đạo nhân điên rồ vùn vụt đi mất, không biết về đâu.

Tiết phu nhân thấy Tương Liên định lấy chị Ba, trong bụng rất mừng. Đương lúc cao hứng, định mua cho hắn một cái nhà, sắm sửa đồ đạc, chọn ngày đón dâu, để báo đền công ơn đã cứu con mình. Bỗng bọn người hầu trong nhà xôn xao nói: “Chị Ba đã tự sát rồi”. Bọn hầu gái nghe thấy, về nói cho Tiết phu nhân biết. Tiết phu nhân không hiểu tại sao, trong bụng rất buồn. Đương lúc ngờ vực, thấy Bảo Thoa ở trong vườn về, Tiết phu nhân liền hỏi:

- Con ơi, con có nghe thấy gì không? Cô em gái thứ ba của chị Trân không phải đã gả cho em nuôi của anh con là Liễu Tương Liên rồi hay sao? Thế mà không biết vì sao nó lại tự vẫn! Còn Liễu Tương Liên thì đi đằng nào mất rồi. Thực là kỳ quặc không ai ngờ đến!

Bảo Thoa nghe nói, không hề để ý đến, nói:

- Câu tục ngữ nói rất đúng: “Trên trời có mây gió bất ngờ, người đời có họa phúc trong phút chốc”. Đó là định mệnh kiếp trước của họ. Hôm nọ vì Tương Liên cứu anh con, mẹ định thu xếp công việc hộ anh ấy, nhưng nay người chết đã chết rồi, người đi đã đi rồi. Theo ý con thì cứ mặc họ. Mẹ cũng không cần phải vì họ mà thương cảm nữa. Từ khi anh con ở Giang Nam về, đã vài mươi ngày rồi, hàng hóa buôn về chắc cũng đã bán gần hết. Những người làm công cùng đi với anh con, đi lại vất vả mấy tháng nay, mẹ nên bàn với anh con mời một bữa để tạ ơn người ta mới phải. Đừng để họ bảo mình là vô tình.

Mẹ con đương bàn với nhau thì Tiết Bàn ở ngoài đi vào, còn ngấn nước mắt, vừa đến cửa đã vỗ tay nói với mẹ:

- Mẹ có biết việc em Liễu và chị Ba không?

- Ta vừa mới nghe thấy, đương nói chuyện với em con.

- Mẹ có nghe nói Tương Liên theo một người đạo sĩ đi tu không?

- Việc này lại càng lạ! Có nhẽ nào Tương Liên là một người trẻ tuổi thông minh như thế, lại đâm ra hồ đồ theo đạo sĩ đi tu? Ta nghĩ anh em con thân với nhau như thế, hắn lại không có cha mẹ, anh em, một mình ở đây, con nên đi các nơi tìm hắn mới phải. Theo đạo sĩ thì chưa thể đi xa được, chỉ quanh quẩn ở trong chùa miếu nào gần đây thôi.

- Con cũng nghĩ thế, vừa nghe tin ấy, con mang theo mấy người hầu đi khắp nơi tìm hắn. Nhưng chẳng thấy bóng vía đâu cả. Hỏi khắp mọi người, cũng không ai trông thấy.

- Con đi tìm không thấy, thế là đã hết lòng với bè bạn rồi. Biết đâu hắn đi tu như thế không phải là điều tốt. Còn con cũng nên sắp đặt việc buôn bán, lo liệu sớm việc cưới vợ của con. Nhà ta vẫn hiếm người, tục ngữ đã nói: “Thấp chân chạy trước”, để tránh khỏi khi đến việc phải hấp tấp, được cái nọ hỏng cái kia, làm cho người ta chê cười. Hơn nữa, em con vừa nói, con về nhà đã hơn nửa tháng, chắc hàng hóa cũng bán hết rồi, nên bày bữa tiệc thết mấy người cùng đi, để yên ủi họ mớiphải. Người ta đi với con hàng hai, ba ngàn dặm, vất vả bốn, năm tháng ròng, trên đường lại chịu thay cho con biết bao sự sợ hãi nặng nề.

- Mẹ nói phải đấy! Em con nghĩ thế thật chu đáo quá. Con cũng đã nghĩ như vậy. Chỉ vì mấy hôm nay phải giao hàng đi các nơi, đầu óc cứ rối cả lên. Lại bận về việc Tương Liên, rút cuộc tốn công mất sức chẳng đi đến đâu, thành ra quên mất cả việc chính. Không thì ngày mai hoặc ngày kia con sẽ viết thiếp mời họ.

- Tùy con định liệu đấy.

Nói chưa dứt lời, đứa hầu nhỏ ở ngoài vào trình:

- Ông tổng quản họ Trương sai người đưa hai hòm đồ đến nói là đồ của cậu mua riêng, không ghi vào sổ hàng. Đáng lẽ đưa lại sớm, nhưng vì các hòm hàng đè lên trên, chưa lấy được. Ngày hôm qua hàng chuyển đi hết, nên hôm nay mới đưa lại.

Nói xong thấy hai người hầu khênh vào hai cái hòm gỗ to. Tiết Bàn vừa trông thấy nói:

- Úi chà! Ta sao lại lẩn thẩn đến thế. Ngay những thứ đặc biệt mua để biếu mẹ và em, ta cũng quên phải để cho người làm công mang đến.

Bảo Thoa nói:

- Anh khéo nói nhỉ! Đó là thứ đặc biệt, mới bỏ quên đến hai mươi ngày. Nếu không phải là thứ đặc biệt, có lẽ anh bỏ đến cuối năm mới mang về đấy. Em thấy anh chẳng để ý đến việc gì cả.

Tiết Bàn cười nói:

- Có lẽ khi đi đường bị sợ bạt vía, nên bây giờ anh vẫn chưa hoàn hồn.

Cả nhà nghe vậy cười một lúc, rồi bảo a hoàn nhỏ:

- Ra nói với bọn người hầu, đồ vật để lại đấy, bảo họ cứ về đi thôi.

Tiết phu nhân và Bảo Thoa hỏi:

- Trong có những gì mà buộc chặt thế?

Tiết Bàn gọi hai người hầu vào, cởi dây, bỏ những ván ghép, mở khóa ra, một hòm đựng đầy lụa là gấm vóc và các đồ dùng hàng ngoại quốc. Tiết Bàn nói:

- Còn cái hòm kia là mua cho em đấy.

Nói rồi tự ra mở lấy.

Tiết phu nhân và Bảo Thoa đến xem, thấy những thứ như bút, mực, giấy, nghiên, giấy hoa tiên đủ các màu, túi thơm, quạt, hạt châu đeo quạt, phấn sáp, ngoài ra còn có cả người múa rối, cái để chơi tửu lệnh, mua từ núi Hổ Khẩu về, những người tí hon nhào lộn, đèn cát, những con hát bằng đất đựng vào trong cái hộp lụa xanh; lại có cái tượng của Tiết Bàn bằng đất nặn ở trên núi Hổ Khâu, trông không khác hắn một tí nào. Bảo Thoa không để ý đến những thứ khác, cứ nhìn cái tượng của Tiết Bàn, lại nhìn đến anh, không sao nhịn cười được. Rồi bảo Oanh Nhi dẫn mấy bà già đến khiêng hòm đồ vật vào trong vườn, lại nói chuyện với mẹ và anh một lúc rồi mới đi. Tiết phu nhân lấy những đồ ở trong hòm ra, chia từng phần một rồi bảo Đồng Hỷ đem biếu bên Giả mẫu và Vương phu nhân.

Bảo Thoa về đến phòng, đem đồ chơi ra xem một lượt, trừ thứ nào để dùng, còn thì sai Oanh Nhi cùng bà già chia biếu các nơi; có chỗ biếu bút, mực, giấy, nghiên; có chỗ biếu túi thơm, quạt, ngọc đeo quạt; có chỗ biếu phấn sáp, dầu bôi đầu, có chỗ biếu đồ chơi. Chỉ riêng Đại Ngọc là đưa đồ biếu hơn người khác, lại nhiều gấp đôi.

Các chị em nhận đồ biếu, thưởng tiền cho người đem đến và nói: “Sẽ đến cảm ơn”. Chỉ có Đại Ngọc trông thấy những đồ vật ở quê mình, đâm ra cảm động xót xa, nghĩ đến cha mẹ mất cả, không có anh em phải ở nhờ nhà họ hàng, thì làm gì còn có người đem những đồ thổ sản đến cho mình? Càng nghĩ, Đại Ngọc càng thương tâm.

Tử Quyên biết rõ tâm sự Đại Ngọc, nhưng cũng không dám nói thẳng ra, chỉ đứng bên cạnh khuyên:

- Cô vốn là người nhiều bệnh, mấy lâu uống thuốc; vài ngày nay xem ra đã đỡ hơn trước. Người hơi khá đấy nhưng chưa được khỏe hẳn. Hôm nay cô Bảo đem cho cô những thứ này, đủ biết ngày thường cô ấy rất quý trọng cô, cô nên vui vẻ là phải, sao lại đâm ra buồn rầu? Như thế chả hóa ra cô Bảo đem đồ vật biếu cô lại làm cho cô phiền não hay sao? Lỡ đến tai cô Bảo, lại đâm ra khó coi. Hơn nữa thấy cô ốm luôn, cụ đã tìm hết cách, mời thầy chạy thuốc, chỉ cốt cho cô khỏi bệnh. Nay mới hơi đỡ, cô lại cứ khóc lóc thế này, chả hóa ra tự mình hủy hoại thân mình, làm cụ cứ buồn thêm hay sao? Bệnh cô là do ngày thường lo nghĩ quá nhiều, tổn thương đến khí huyết. Cô là tấm thân ngàn vàng, không nên tự mình coi nhẹ thân mình!

Tử Quyên đương khuyên giải thì đứa hầu nhỏ đứng ở ngoài sân nói: “Cậu Bảo đến đấy”. Tử Quyên vội nói:

- Mời cậu vào.

Bảo Ngọc đi vào buồng, Đại Ngọc mời ngồi. Bảo Ngọc thấy trên mặt Đại Ngọc có ngấn nước mắt, liền hỏi:

- Em ơi, lại có ai trêu tức em đấy?

Đại Ngọc gượng cười nói: “Ai tức gì đâu?”

Tử Quyên đứng bên cạnh ngoảnh vào cái bàn sau giường dẩu môi. Bảo Ngọc biết ý, nhìn vào đó, thấy chất nhiều thứ, biết ngay là những thứ của Bảo Thoa đưa đến, liền cười nói:

- Những thứ này ở đâu đưa đến? Em định mở hàng tạp hóa chắc.

Đại Ngọc không trả lời. Tử Quyên cười nói:

- Cậu còn nhắc đến làm gì nữa! Vì cô Bảo đem cho các thứ ấy, cô tôi trông thấy, đâm ra thương tâm. Tôi đương khuyên can, may cậu lại đến, nhờ cậu khuyên giúp.

Bảo Ngọc đã biết rõ Đại Ngọc vì duyên cớ ấy, nhưng không dám gợi ra, chỉ cười nói:

- Tôi biết cô của các chị chẳng phải thế đâu. Chắc là lại cô Bảo đem cho quà ít quá, nên mới tức giận buồn rầu. Em ơi em cứ yên tâm, sang năm anh sẽ cho người đi Giang Nam chở về cho em hàng thuyền để em khỏi phải nước mắt ngắn nước mắt dài.

Đại Ngọc nghe những câu ấy, biết là Bảo Ngọc có ý làm khuây cho mình, nên cũng không chối mà cũng không nhận, chỉ nói:

- Em dù thơ dại đến đâu cũng không đến nỗi vì một ít đồ vật đưa đến, đâm ra tức giận. Em có phải là đứa trẻ con lên ba đâu, anh đừng coi người nhỏ nhen quá. Em có duyên cớ riêng của em, anh biết sao được?

Nói xong, nước mắt lại chảy xuống ròng ròng.

Bảo Ngọc đến trước giường, ngồi cạnh Đại Ngọc, cầm từng thứ đồ chơi, mân mê kỹ, cố ý hỏi: “Cái này là cái gì? Tên là gì? Cái kia làm bằng gì mà đẹp thế? Cái này là cái gì, dùng để làm gì? Cái này có thể bày ở trước mặt được. Cái kia có thể bày ở trên bàn đẹp như đồ cổ đấy”. Bảo Ngọc cứ nói những câu vu vơ để xí xóa cho xong chuyện.

Đại Ngọc thấy Bảo Ngọc như thế, trong bụng không đành, liền nói:

- Anh đừng ở đây quấy rầy nữa, chúng ta cùng đi sang nhà chị Bảo thôi.

Bảo Ngọc cũng muốn để Đại Ngọc đi chơi cho đỡ buồn, liền nói:

- Chị Bảo cho chúng ta những thứ này, chúng ta cũng nên đến cảm ơn.

- Chỗ chị em nhà, không cần phải cảm ơn. Có anh Tiết Bàn mới về, tất nhiên cũng kể lại chuyện cổ tích ở Giang Nam cho chị Bảo nghe. Em sang đó nghe cũng như là về thăm quê vậy.

Nói xong, Đại Ngọc mắt lại đỏ hoe.

Bảo Ngọc đã đứng chờ. Đại Ngọc đành phải cùng đi sang bên Bảo Thoa.

Tiết Bàn nghe lời mẹ, viết thiếp và bày tiệc rượu mời bốn người làm công đến, chẳng qua chỉ những câu chuyện sổ sách buôn bán. Một lúc vào tiệc, Tiết Bàn mời rượu từng người. Tiết phu nhân lại sai người ra chào mời. Mọi người uống rượu nói chuyện. Trong họ có người nói:

- Tiệc rượu hôm nay thiếu mất hai người bạn tốt.

Mọi người đều hỏi: “Là ai thế?” Người kia nói:

- Còn có ai nữa! Tức là cậu hai Liễn bên phủ Giả và em kết nghĩa của cậu nhà là cậu hai Liễu.

Quả nhiên mọi người đều nhớ đến, mới hỏi Tiết Bàn:

- Sao không mời cậu hai Liễn và cậu hai Liễu đến?

Tiết Bàn cau mày thở dài nói:

- Cậu hai Liễn trước đây hai hôm lại đi châu Bình An rồi. Còn cậu hai Liễu thì không nên nhắc đến nữa, quả thực là một việc lạ trên đời. Bây giờ không còn là “cậu hai Liễu” nữa mà đã đi làm thầy tu Liễu ở đâu rồi.

Mọi người đều lấy làm lạ, hỏi:

- Nói thế là thế nào?

Tiết Bàn kể lại đầu đuôi việc Liễu Tương Liên. Mọi người nghe xong càng lấy làm lạ, nói:

- Thảo nào hôm nọ chúng tôi ở trong phố, hình như cũng nghe thấy người ta xôn xao đồn: “Có một vị đạo sĩ chỉ nói qua loa mấy câu đã đem được một người đi tu rồi”. Họ còn nói: “Có một cơn gió thổi cuốn đi, nhưng không biết là ai”. Chúng tôi đương bận bán hàng, có thì giờ đâu mà đi hỏi việc ấy! Đến nay cũng còn nửa tin nửa ngờ. Biết đâu lại là cậu Liễu! Nếu biết là cậu ấy thì chúng tôi phải ra khuyên can mới phải. Mặc dù như thế nào cũng không cho cậu ấy đi.

Trong đó lại có người nói:

- Chắc không phải đâu.

Mọi người lại hỏi:

- Thế là thế nào?

Người kia nói:

- Xem cậu Liễu là người linh lợi, chưa chắc đã thật đi theo đạo sĩ. Cậu ấy biết võ lại có sức khỏe, hoặc thấy rõ đạo sĩ kia có yêu thuật mà cố ý đi theo, để ngấm ngầm trừ diệt hắn cũng chưa biết chừng.

Tiết Bàn nói:

- Như thế cũng được, ở trên đời này những kẻ giở lối yêu quái đi lừa phỉnh người, thế nào mà chẳng có người trị cho chúng một mẻ.

Mọi người nói:

- Có lẽ nào cậu biết chuyện lại không đi tìm cậu ấy?

Tiết Bàn nói:

- Trong thành ngoài thành, chỗ nào tôi chẳng đến tìm. Nói ra các anh đừng cười, vì không tìm thấy nó, tôi đã phải khóc một trận đấy!

Nói xong thở vắn than dài, nét mặt ủ rũ, không vui vẻ như mọi ngày.

Bọn làm công thấy quang cảnh thế, không tiện ngồi lâu, ăn uống qua loa rồi ra về.

Bảo Ngọc cùng Đại Ngọc đến nhà Bảo Thoa. Bảo Ngọc nói:

- Anh Cả vất vả mới mang được ít đồ về, chị nên để mà dùng, lại còn đem cho chúng tôi.

Bảo Thoa cười nói:

- Không phải đồ gì quý hóa, chẳng qua là những thứ thổ nghi từ xa đem về, để mọi người được trông thấy chút của lạ thôi.

Đại Ngọc nói:

- Những thứ này, khi em còn bé không để ý đến, bây giờ trông thấy, thực là những đồ vật mới lạ.

Bảo Thoa cười nói:

- Chắc em cũng biết tục ngữ có câu: “Vật ra khỏi quê hương trở thành quý giá”, chứ thực ra cũng chúng đáng gì?

Bảo Ngọc nghe vậy đúng vào tâm sự vừa rồi của Đại Ngọc, liền nói lảng ra chuyện khác:

- Sang năm anh Cả có đi nữa, nhờ mua thêm cho chúng tôi một ít.

Đại Ngọc lườm Bảo Ngọc một cái, nói:

- Anh cần thì cứ nói, đừng có kéo cả người khác vào. Chị ơi chị xem đấy, anh Bảo đến đây không phải là để cảm ơn chị, mà lại cốt để đặt trước đồ vật sang năm đấy.

Bảo Thoa và Bảo Ngọc đều cười.

Ba người nói chuyện phiếm một lúc, lại nhắc đến bệnh của Đại Ngọc, Bảo Thoa khuyên:

- Nếu em thấy người không được khoan khoái, nên cố gắng ra ngoài đi đi lại lại cho khuây khỏa, đừng có ngồi ru rú ở nhà. Mấy hôm trước tôi thấy người uể oải, khắp mình nóng ran, cũng muốn nằm. Nhưng vì khí trời không tốt, sợ sinh bệnh, nên mới tìm việc ra làm cho khuây. Hai hôm nay mới thấy dễ chịu đấy.

Đại Ngọc nói:

- Chị nói rất đúng. Em cũng nghĩ thế.

Ngồi nói chuyện một lúc. Bảo Ngọc lại đưa Đại Ngọc về quán Tiêu Tương.

Dì Triệu thấy Bảo Thoa đem cho Giả Hoàn một ít đồ vật, rất mừng, nghĩ bụng: “Không trách người ta đều nói con Bảo tốt, biết ăn ở, cư xử rộng rãi. Giờ xem ra thì quả là đúng! Anh nó mang về có được bao nhiêu đồ đạc, thế mà nó đem cho từng nhà, không sót nơi nào. Nó cũng không tỏ ra khinh ai trọng ai. Ngay đến mình, thời vận hẩm hiu, nó cũng nghĩ đến. Nếu là con Lâm thì bao giờ thèm nhìn đến và cho gì mẹ con mình nữa?” Vừa nghĩ dì Triệu vừa cầm đồ vật xem đi xem lại một lúc. Chợt nghĩ đến Bảo Thoa là cháu Vương phu nhân, sao mình không đến kiếm cách chiều chuộng lấy lòng bà ấy? Rồi dì Triệu rón rén mang những đồ vật ấy đến phòng Vương phu nhân, đứng bên cạnh cười nói:

- Đây là đồ chơi của cô Bảo đem cho thằng Hoàn. Khen cho cô ấy còn trẻ tuổi đã nghĩ được chu đáo như thế, thực là cô gái con nhà đại gia, bụng dạ đứng đắn, rộng rãi. Như thế ai là không quý mến! Chẳng trách cụ và bà lúc nào cũng khen, cũng thương yêu cô ấy. Tôi không dám tự tiện nhận, nên mang cả đến đây để bà xem, chắc bà cũng vui lòng.

Vương phu nhân nghe nói, đã biết ngay ý định của dì Triệu. Lại thấy dì ấy nói những câu không đâu, nên chỉ trả lời qua loa:

- Thôi dì cứ mang về cho thằng Hoàn nó chơi.

Dì Triệu lúc đầu hí hửng lắm. Khi nghe xong bẽ mặt, tức lộn cả ruột, nhưng không dám nói, đành chịu ngượng nghịu đi ra. Về đến buồng, cất những đồ chơi vào một chỗ, làu nhàu nói một mình: “Những thứ này thì đáng gì!” Rồi ngồi thừ ra một lúc.

Oanh Nhi dẫn bà già đi biếu đồ vật xong trở về trình Bảo Thoa, kể lại những câu người ta cảm ơn và được số tiền thưởng. Sau đó bà già đi ra. Oanh Nhi đến gần Bảo Thoa khẽ nói:

- Vừa rồi cháu sang nhà mợ Liễn, thấy mợ ấy có vẻ giận dữ. Khi biếu đồ vật xong, cháu khẽ hỏi con Hồng. Nó nói: “Mợ Hai vừa ở nhà cụ về không vui như mọi hôm, rồi gọi Bình Nhi đến, không biết hai người thì thào với nhau những chuyện gì. Xem quang cảnh ấy, chắc là có việc gì quan trọng đây.” Cô có biết bên cụ có việc gì không?

Bảo Thoa nghe nói, cũng thấy bực, không biết Phượng Thư có việc gì mà giận dỗi thế, liền nói:

- Đèn nhà ai nhà ấy rạng, chúng ta biết làm sao được. Cô đi pha trà mà uống.

Oanh Nhi đi ra.

Bảo Ngọc đưa Đại Ngọc về rồi, trong bụng nghĩ tình cảnh Đại Ngọc mồ côi khổ sở, cũng sinh ra thương cảm, định về kể lại cho Tập Nhân nghe.

Khi tới nhà, chỉ thấy có Xạ Nguyệt và Thu Văn. Bảo Ngọc hỏi:

- Chị Tập Nhân đi đâu rồi?

Xạ Nguyệt nói:

- Cũng chỉ ở quanh mấy nhà này thôi, mới vắng mặt một tý mà cậu đã nháo lên!

- Không phải là tôi sợ mất chị ấy. Vì tôi vừa mới sang bên cô Lâm, thấy cô ấy buồn rầu, hỏi ra là vì cô Bảo cho mấy thứ đồ chơi. Trông thấy những thứ ở quê hương mình, cô ấy đâm ra buồn tủi. Tôi muốn bảo chị Tập Nhân sang khuyên giải cô ấy một tý.

Đương nói thì Tình Văn vào hỏi Bảo Ngọc:

- Cậu về rồi à? Cậu bảo đi khuyên giải ai?

Bảo Ngọc kể lại một lượt những câu vừa rồi.

Tình Văn nói:

- Chị Tập Nhân vừa mới đi ra. Thấy chị ấy nói muốn đến nhà mợ Liễn, có thể rồi cũng sang nhà cô Lâm đấy.

Bảo Ngọc im lặng không nói gì. Thu Văn mang nước đến, Bảo Ngọc súc miệng rồi đưa cho a hoàn nhỏ, trong bụng băn khoăn, luôn tiện nằm ngả xuống giường.

Tập Nhân thấy Bảo Ngọc đi vắng, tự mình thu xếp công việc chợt nghĩ đến Phượng Thư còn ốm, mấy hôm nay chưa sang thăm. Giả Liễn lại đi vắng, chính là lúc được nói chuyện thoải mái. Tập Nhân liền bảo Tình Văn:

- Chị phải trông nhà cẩn thận, đừng bỏ đi đâu, nhỡ cậu Hai về lại không gọi được ai.

- Úi chà! Trong nhà này chỉ một mình chị nghĩ đến cậu ấy còn chúng tôi thì chỉ chơi dài, ăn hại thôi.

Tập Nhân cười không trả lời rồi đi ngay. Vừa đến bên cầu Thấm Phương, bấy giờ là cuối hạ sang thu, hoa sen trong ao bông tàn bông nở, xanh đỏ chen nhau. Tập Nhân theo bờ ao đi ngắm cảnh một lượt, ngẩng đầu lên thấy dưới giàn nho bên kia có người cầm chổi đang vụt cái gì ở đấy. Đến nơi hóa ra già Chúc.

Già Chúc trông thấy Tập Nhân, liền cười hì hì đến đón hỏi:

- Sao hôm nay cô lại được rỗi đi chơi thế?

- Tôi định đến thăm mợ Liễn. Bà ở đây làm gì thế?

- Tôi đương đuổi ong đây. Năm nay những ngày tiết “Tam phục”(1) ít mưa, hoa quả bị sâu ăn lỗ chỗ, đã rụng mất nhiều. Cô chưa biết, giống ong ngựa này đáng ghét lấm. Nó chỉ châm độ vài ba quả, nước trong quả chảy ra lây sang quả khác, thế là cả chùm thối hết. Cô ơi, cô thử xem, chúng ta chỉ nói vài câu chuyện mà không đuổi là rụng mất khối quả rồi.

- Dù là đuổi luôn tay cũng không đuổi được hết đâu. Bà cứ bảo anh mãi biện làm nhiều túi vải thưa, mỗi chùm bọc một cái vừa thông gió, vừa không bị hư hỏng.

Già Chúc nói:

- Cô nói phải đấy. Năm nay tôi mới coi vườn, khôn ngoan đâu mà biết dùng cách ấy.

Rồi lại cười nói:

- Các quả năm nay tuy bị hư hỏng một ít, nhưng rất ngon. Cô không tin, tôi ngắt một quả cô nếm thử xem.

Tập Nhân nghiêm nghị nói:

- Làm thế sao được, không những quả chưa chín ăn không ngon, dù có chín chăng nữa, chưa dâng quả mới lên bề trên, chúng tôi lại ăn trước à. Bà hầu hạ ở trong phủ này đã lâu, chẳng lẽ lại không hiểu cái khuôn phép ấy hay sao?

- Cô nói rất phải. Thấy cô vui vẻ nên tôi mới dám nói thế, thành ra phạm vào khuôn phép. Tôi thực già rồi lẩm cẩm quá!

- Cũng chẳng can gì, chỉ có điều các bà là người có tuổi, đừng làm đầu têu là được rồi.

Tập Nhân nói xong, đi thẳng ra cửa vườn, sang bên Phượng Thư. Vừa vào đến sân, đã nghe Phượng Thư nói:

- Trời ơi! Lương tâm ơi? Ta dãi dầu ở nhà này mãi đến thành giặc mất!

Tập Nhân nghe nói, đoán chắc là có chuyện gì, quay ra cũng dở, đi vào cũng không đang, liền bước nặng chân, đứng ngoài cửa sổ hỏi:

- Chị Bình có ở nhà không?

Bình Nhi vội chạy ra đón. Tập Nhân hỏi:

- Mợ Hai cũng ở nhà đấy chứ? Mợ đã khá chưa?

Nói xong đi vào.

Phượng Thư giả cách nằm ngả ở trên giường. Thấy Tập Nhân vào, liền cười đứng dậy nói:

- Tôi đã hơi đỡ rồi, cảm ơn chị nhớ đến. Sao mấy ngày hôm nay không thấy chị sang chơi?

- Mợ không được khỏe, nhẽ ra ngày nào tôi cũng đến thăm mới phải. Nhưng chỉ e mợ trong người không khoan khoái, cần phải yên tĩnh nghỉ ngơi, tôi đến sợ lại làm phiền mợ.

- Làm gì mà phiền. Có điều trong nhà chú Bảo nhiều người đấy, nhưng cũng chỉ nhờ một mình chị trông nom thôi. Chú ấy không thể nào rời chị ra được. Tôi thường nghe Bình Nhi nói, khi vắng mặt, chị vẫn nhớ đến, thường vẫn hỏi thăm tôi luôn. Thế là chị hết lòng với tôi rồi.

Nói xong, bảo Bình Nhi đem cái ghế để bên cạnh giường, mời Tập Nhân ngồi. Phong Nhi đem nước đến. Tập Nhân khép nép nói:

- Em cứ để mặc chị.

Đương nói chuyện phiếm thì một a hoàn nhỏ ở gian nhà phía ngoài đến, nói khẽ với Bình Nhi:

- Vượng Nhi đến đấy, đương chờ ở ngoài cửa thứ hai.

Lại nghe Bình Nhi khẽ nói:

- Biết rồi. Bảo nó đi ra, chốc nữa hãy đến, đừng đứng chờ ở cửa nữa.

Tập Nhân biết họ có việc, nói mấy câu rồi đứng dậy định về, Phượng Thư nói:

- Khi rỗi đến đây nói chuyện, để tôi được khuây khỏa. - Rồi bảo: - Bình Nhi tiễn chị ấy về.

Bình Nhi vâng lời tiễn ra. Lúc ấy có hai ba a hoàn nhỏ ở đó đều khép nép im lặng chực hầu. Tập Nhân không biết có việc gì, đi về ngay.

Bình Nhi tiễn Tập Nhân đi rồi, vào trình:

- Vượng Nhi vừa mới đến, vì Tập Nhân ở đây, nên tôi bảo nó chờ ở ngoài kia. Bây giờ có gọi ngay nó vào không, hay còn phải chờ? Xin mợ cho biết.

Phượng Thư nói:

- Gọi nó vào!

Bình Nhi bảo a hoàn nhỏ truyền gọi Lai Vượng vào.

Phượng Thư hỏi Bình Nhi:

- Làm thế nào mà chị nghe được?

- Việc này trước hết là do một con hầu nhỏ nói. Nó bảo khi nó đi ra cửa thứ hai, nghe thấy hai đứa hầu trai ở ngoài nói: “Mợ Hai mới đẹp hơn mợ Hai cũ, tính nết lại tốt”. Không biết Vượng Nhi hay là ai quát mắng hai đứa ấy: “Mợ mới mợ cũ cái gì? Không câm ngay đi à? Để cho trong nhà biết, thì người ta cắt lưỡi mày đi đấy!”

Bình Nhi đương nói thì một đứa hầu nhỏ vào trình:

- Vượng Nhi đương đứng chờ ở ngoài.

Phượng Thư cười nhạt:

- Bảo nó vào đây!

Đứa hầu nhỏ đi ra nói:

- Mợ gọi đấy.

Lai Vượng vội vâng lời đi vào, chào xong, chắp tay đứng chực ở cửa ngoài.

Phượng Thư nói:

- Mày vào đây. Ta hỏi mày một câu chuyện.

Lai Vượng mới đi vào đứng hầu bên cạnh cửa phía trong.

Phượng Thư hỏi:

- Cậu mày bao gái ở ngoài, mày có biết không.

- Cháu hằng ngày vẫn chầu chực ở cửa thứ hai, làm sao biết được việc của cậu cháu ở bên ngoài.

Phượng Thư cười nhạt:

- Cố nhiên là mày không biết. Nếu mày biết thì làm sao mà ngăn lời người ta?

Lai Vượng nghe nói thế, biết là câu chuyện vừa rồi đã bị lộ, có giấu cũng không nổi, liền quỳ xuống nói:

- Đó là thằng Hưng và thằng Hỷ ở ngoài kia nói bậy, cháu có mắng chúng nó mấy câu, còn thực tình ra sao, cháu không biết gì cả, nên không dám trình bày. Xin mợ cứ hỏi thằng Hưng, vì nó thường theo cậu cháu đi ra ngoài.

Phượng Thư nghe xong, quát to một tiếng:

- Chúng bây là một bầy khốn nạn, không có lương tâm, cùng một phường với nhau cả, tưởng ta không biết gì đấy! Hãy đi gọi ngay thằng Hưng khốn nạn đến đây! Mày cũng không được đi đâu. Ta hỏi nó rõ ràng đã, rồi sẽ hỏi đến mày. Giỏi thật! Giỏi thật! Thế mới là tên tay sai đắc lực của ta!

Lai Vượng đành luôn mồm vâng dạ, gục đầu mấy cái rồi lui ra đi gọi thằng Hưng.

Thằng Hưng đương chơi với đám trẻ con ở buồng quản lý, nghe nói mợ Hai gọi, sợ giật nẩy người, không ngờ việc ấy đã lộ. Liền theo Lai Vượng đi vào.

Lai Vượng vào thưa:

- Thằng Hưng đã đến.

Phượng Thư quát to:

- Bảo nó vào.

Thằng Hưng nghe thấy tiếng quát đã cuống, đành đánh bạo đi vào.

Phượng Thư trông thấy hỏi:

- Thằng ranh này giỏi nhỉ! Việc mày với cậu mày làm những việc hay đấy! Thế nào mày cứ nói thực ra.

Thằng Hưng nghe giọng nói, lại nhìn nét mặt Phượng Thư và bộ dạng những đứa hầu hai bên, sợ rủn người ra, bất giác quỳ xuống lạy lia lịa.

Phượng Thư nói:

- Ta biết việc này không dính dáng gì đến mày, chỉ vì mày không trình ta trước là có lỗi ở chỗ đó thôi. Mày cứ nói thực, ta sẽ tha cho; nếu sai một câu thì hãy sờ lên gáy xem mày có mấy cái đầu?

Thằng Hưng run lẩy bẩy dập đầu nói:

- Mợ hỏi việc gì mà bảo cháu và cậu cháu làm bậy?

Phượng Thư nghe nói, tức lộn tuột lên, quát:

- Tát vào mồm nó.

Lai Vượng định chạy lại tát. Phượng Thư mắng:

- Thằng khốn nạn này! Ta bảo nó phải tát nó, chứ cần mày tát nó à? Lát nữa thằng nào tự tát lấy thằng ấy cũng chưa muộn đâu!

Tháng Hưng giơ cả hai tay lên tự tát vào mặt mình mười mấy cái.

Phượng Thư quát bảo:

- Cho dậy!

Rồi hỏi:

- Việc cậu Hai mày ở bên ngoài lấy mợ mới mợ cũ thế nào, mày không biết à?

Thằng Hưng nghe nói đến chuyện ấy, lại càng hoảng, liền bỏ mũ xuống, dập đầu chan chát ở dưới thềm gạch, nói:

- Xin mợ sinh phúc cho cháu! Cháu không dám nói dối một câu nào nữa.

Phượng Thư bảo:

- Nói mau!

Thằng Hưng lom khom bò dậy nói:

- Việc này lúc đầu cháu cũng không biết. Có một hôm, khi đưa đám cụ bên phủ Đông, vì Du Lộc đến miếu xin lĩnh tiền, cậu Trân bảo cậu Hai cùng anh Dung về phủ thu xếp. Trên đường đi, hai chú cháu nhắc đến chuyện hai cô em gái mợ Trân. Cậu Hai nhà khen đẹp, anh Dung liền dỗ dành và nói sẽ làm mối dì Hai cho cậu Hai con.

Phượng Thư nghe vậy quát to:

- Hừ! Thằng khốn kiếp này! Nó là dì nào nhà mày đấy?

- Cháu đáng chết! - Thằng Hưng ngẩng lên nhìn, không dám nói gì nữa.

- Thế là hết rồi à? Sao không nói nữa đi?

- Mợ có tha tội cho cháu mới dám nói nữa!

- Con mẹ mày! Lại còn tha với chả tha cái gì! Biết điều mày nói ngay ra.

- Cậu Hai nghe vậy mừng lắm. Về sau cháu cũng không biết sao lại thành sự thực.

Phượng Thư khẽ cười nhạt:

- Đó là lẽ tất nhiên! Mày biết thế nào được? Nếu mày biết câu chuyện sẽ còn rắc rối nữa đấy. Được rồi nói nốt đi.

- Sau rồi anh Dung mua nhà cho cậu Hai.

- Nhà ở đâu?

- Ở ngay sau phủ.

- Ồ! - Phượng Thư ngoảnh lại nhìn Bình Nhi nói: - Thế ra chúng mình như người chết cả ấy! Chị nghe đấy!

Bình Nhi cũng không dám nói câu gì. Thằng Hưng lại thưa:

- Không biết cậu Trân đưa cho nhà họ Trương bao nhiêu tiền, mà họ không đòi hỏi gì.

Phượng Thư nói:

- Việc này tại sao lại kéo cả họ Trương, họ Lý vào đây nữa?

- Mợ không biết, mợ Hai này... - Vừa nói đến đấy, thằng Hưng lại tự tát vào mồm, làm Phượng Thư phì cười, a hoàn hai bên cũng mím môi cười.

Thằng Hưng nghĩ một lúc nói:

- Người em gái kia của mợ Trân.

Phượng Thư nói tiếp:

- Thế nào? Nói nhanh lên.

- Khi còn bé, người em gái của mợ Trân đã hứa gả cho người họ Trương, tên là Trương Hoa gì đó. Bây giờ hắn nghèo đói không có cơm ăn, nên cậu Trân cho hắn ít tiền, bắt phải thoái hôn.

Phượng Thư nghe đến đấy, gật đầu, quay lại nhìn vào bọn a hoàn nói:

- Các cô đã nghe thấy chưa? Thế mà thằng khốn nạn này lúc đầu lại nói không biết gì cả.

- Sau cậu Hai sai người sửa sang lại nhà rồi cưới về.

- Cưới ở đâu về?

- Cưới ở nhà bà mẹ chị ta về.

- Giỏi đấy! Thế không có ai đưa dâu à?

- Có anh Dung, còn mấy a hoàn và bà già, ngoài ra không có ai nữa!

- Mợ Cả mày không đến à?

- Hai hôm sau mợ Cả mới mang đồ mừng đến.

Phượng Thư cười gằn, quay lại bảo Bình Nhi:

- Chẳng trách mấy hôm đó cậu Hai khen mợ Cả luôn mồm!

Rồi quay lại hỏi thằng Hưng:

- Đưa nào hầu ở đấy? Chắc là mày rồi.

Thằng Hưng vội vàng gục đầu không nói gì.

- Mấy bận trước cậu mày nói sang giúp việc bên phủ Đông, chắc là giúp việc ấy phải không?

- Cũng có lúc cậu sang giúp việc, cũng có lúc đến nhà mới.

- Ai ở với nó?

- Có người mẹ và người em gái. Nhưng hôm trước người em gái đã đâm cổ chết.

- Tại làm sao?

Thằng Hưng liền đem việc Liễu Tương Liên kể hết một lượt, Phượng Thư nói:

- Cái chị chàng ấy còn có phúc đấy, khỏi phải mang  cái tiếng là con người khốn nạn! Vậy còn việc gì nữa không?

- Còn việc khác thì cháu không biết. Những câu cháu vừa nói đều thực cả. Nếu sai câu nào, mợ tra ra, xin cứ đánh chết, cháu cũng không dám oán.

Phượng Thư cúi đầu một lúc, lại trỏ thằng Hưng nói:

- Thằng ranh con này! Tội mày đáng chết! Việc này mày giấu thế nào được tao. Mày định giấu tao để lấy lòng ông cậu mày và cũng để cho mợ mới thương mày! Nếu tao không nghĩ đến mày vừa rồi có ý sợ hãi, không dám nói dối, thì tao đã đánh gãy chân mày rồi.

Nói xong, quát: “Cút đi!”

Thằng Hưng cúi đầu lom khom đứng dậy, ra đến ngoài cửa, chưa dám đi ngay. Phượng Thư bảo:

- Lại đây, ta còn dặn câu này.

Thằng Hưng vội chắp tay đứng nghe. Phượng Thư nói:

- Mày vội cái gì? Có lẽ mợ của mày đương đợi cho mày cái gì đấy.

Thằng Hưng cũng không dám ngẩng đầu lên. Phượng Thư nói:

- Từ nay ta không cho mày sang bên ấy! Ta gọi lúc nào mày phải đến hầu lúc ấy. Nếu chậm một bước, mày coi chừng đấy.

Thằng Hưng vâng dạ đi ra cửa. Phượng Thư lại gọi, thằng Hưng vội quay lại. Phượng Thư nói:

- Mày định ra mau để mách cậu mày phải không?

- Cháu không dám!

- Nếu mày ra ngoài hở ra một tiếng gì thì liệu xác đấy.

Thằng Hưng vội vàng vâng lời rồi mới đi ra. Phượng Thư lại gọi:

- Lai Vượng đâu?

Lại Vượng chạy đến ngay. Phương Thư trừng mắt nhìn một lúc rồi mới nói:

- Giỏi! Lai Vượng!… Giỏi thật! Cút đi! Ở ngoài có ai hé ra một tiếng là tội ở mày cả.

Lai Vượng vâng lời, thong thả đi ra. Phượng Thư liền gọi pha nước. Bọn a hoàn nhỏ biết ý, đều đi ra cả.

Bấy giờ Phượng Thư mới bảo Bình Nhi:

- Chị đã nghe thấy rồi chứ? Thế mới thật giỏi.

Bình Nhi không dám nói câu gì, đành cứ phải cười. Phượng Thư càng nghĩ càng tức, nằm đờ ở trên giường, chợt cau mày một cái, bụng nghĩ ra một kế,liền gọi Bình Nhi. Bình Nhi chạy đến, Phượng Thư nói:

- Ta nghĩ việc ấy nên làm thế này mới phải, chứ không cần chờ cậu Hai về.

------------------------------

(1). Theo âm lịch, sau tiết hạ chí mười ngày là “sơ phục”, mười ngày nữa là “trung phục”, đến mười ngày cuối là “mạt phục”.

Hồi thứ sáu mươi tám

Dì Vưu khổ sở, bi lừa vào vườn Đại Quan;

Chị Phượng ghen tuông, làm nhộn ở phủ Ninh Quốc.

Giả Liễn đến châu Bình An gặp lúc quan Tiết Độ ở đấy đi tuần ngoài biên, chừng một tháng mới về. Chưa nhận được tin đích xác, hắn đành phải chờ lại ở nhà trọ. Đến khi gặp quan Tiết Độ mới thu xếp xong công việc, về đến nhà thì đã mất gần hai tháng.

Phượng Thư tính thầm trong bụng: chờ cho Giả Liễn đi rồi, liền truyền các hiệp thợ, thu dọn ba gian phòng bên đông, bày biện sửa sang như nhà của mình ở. Đến ngày mười bốn, Phượng Thư trình Giả mẫu và Vương phu nhân, nói sáng ngày rằm phải đến dâng hương ở miếu cô, chỉ đem bốn người là Bình Nhi, Phong Nhi, vợ Chu Thụy và vợ Lai Vượng đi thôi. Lúc lên xe, Phượng Thư nói hết duyên cớ cho mọi người biết; lại dặn bọn con trai, mặc áo trắng che dù trắng, cùng đi đến đó. Thằng Hưng dẫn đường, đến nhà gõ cửa. Vợ Bào Nhị mở cửa, thằng Hưng cười nói:

- Đi trình mợ Hai, mợ Cả đến đấy.

Vợ Bào Nhị nghe vậy sợ hết vía, vội chạy về báo chị Hai. Chị Hai tuy sợ thực, nhưng đã đến nước này, đành phải theo lễ ra chào, vội sửa sang áo xiêm ra đón. Đến trước cửa, Phượng Thư mới xuống xe. Chị Hai nhìn thấy: trên đầu cài đồ bạc trắng xóa, mình mặc áo đoạn nguyệt bạch, áo khoác bằng lụa xanh viền chỉ bạc và chiếc quần lụa trong. Thật là mày liễu cong vắt đôi nhành, mắt phượng rõ rành ba ngấn; thướt tha như đào mùa xuân, trong trắng như cúc mùa thu. Vợ Chu Thụy và vợ Lai Vượng đỡ Phượng Thư lên trên nhà. Chị Hai một điều gọi là “chị” rồi nói:

- Hôm nay thực không biết chị sang chơi, không kịp ra đón, xin chị tha lỗi cho em!

Nói xong sụp xuống lạy. Phượng Thư cười đáp lễ, rồi dắt tay chị Hai cùng vào trong buồng. Phượng Thư ngồi trên. Chị Hai sai trải nệm, rồi nói:

- Em còn trẻ tuổi, từ khi về đây, mọi việc đều do mẹ và chị em lo liệu. Nay may được gặp chị, nếu chị có lòng thương kẻ hèn mọn này, mọi việc nhờ chị dạy bảo cho, em xin hết lòng hết dạ hầu hạ chị!

Nói xong sụp xuống lạy.

Phượng Thư vội đáp lễ và nói:

- Cũng vì chị đây hãy còn ít tuổi, lại là kiến thức đàn bà. Chị thường khuyên cậu Hai phải giữ gìn thân thể, không nên đắm đuối trăng hoa, để cho ông bà phải bận lòng. Đó đều là lòng ngây thơ của chị em chúng ta. Ai ngờ cậu hai hiểu lầm ý chị. Nếu đi lấy người ngoài thì giấu chị cũng được, nhưng nay lại lấy em làm vợ hai, việc chính đáng như thế cũng là lễ giáo trong nhà, thế mà cậu ấy không hề nói gì cho chị biết. Chị vẫn thường khuyên cậu ấy nên lấy thêm người nữa, may ra sớm sinh được chút con trai hay con gái, chị cũng có phận nhờ. Không ngờ cậu Hai lại cứ cho chị là người ghen tuông quá mức, lén lút lo liệu một mình, thật làm chị bị oan không có chỗ kêu. Bụng chị chỉ có trời đất thấu cho thôi. Mười hôm trước đây, chị đã thoáng nghe thấy chuyện này, nhưng sợ cậu Hai hiểu lầm, nên không dám nói ra. Gặp lúc cậu Hai đi vắng, nên chị đến đây thăm em. Mong em thể lượng nỗi lòng đau khổ của chị, lên xe về bên nhà, chị em chúng ta cùng ở với nhau, một lòng một dạ khuyên bảo cậu Hai, phải cẩn thận chăm lo công việc, giữ gìn thân thể. Thế mới đúng lễ giáo nhà ta. Nếu em ở bên ngoài, chị lại ở bên trong, em nghĩ mà xem, chị yên lòng sao được? Người ngoài họ biết, không những chị mang tiếng, mà em cũng chẳng tốt đẹp gì. Vả chăng thanh danh cậu Hai là lớn, chứ chị em chúng ta chỉ là việc nhỏ thôi. Những bọn tôi tớ tiểu nhân, thấy chị ngày thường trông nom việc nhà nghiêm ngặt, mới đặt điều nói vụng sau lưng. Đó cũng là chuyện thường. Em thử nghĩ xem, ngày xưa có câu nói: “Người đứng lo việc nhà là thùng nước bẩn”. Nếu chị thực là người hẹp hòi thì trên có mấy bực cha mẹ chồng, giữa có các cô, các chị em dâu, khi nào lại dung cho chị đến bây giờ? Ngay như việc cậu Hai lấy em để ở bên ngoài, đáng lẽ chị không muốn gặp em, nhưng sao chị lại phải đến. Chính như Bình Nhi đây, chị cũng khuyên cậu Hai lấy chị ấy về đấy. Việc của em đây cũng là nhờ trời đất, thần phật không nỡ để cho bọn tiểu nhân làm hại chị, nên mới cho chị biết. Nay chị đến đây mời em về cùng ở với chị một nơi. Nhà ở, đồ dùng, áo quần, kẻ hầu người hạ, hai chúng ta đều như nhau. Em là người tinh lanh sắc sảo như thế, nếu chịu thực lòng giúp chị, thì chị cũng nhờ được một tay. Như vậy chẳng những lấp được miệng bọn tiểu nhân, mà chính cậu Hai khi về trông thấy, chắc cũng hối lại, biết chị không phải là hạng người ghen tuông tráo trở. Rồi ba chúng ta càng thêm hòa thuận với nhau, thì em lại là đại ân nhân của chị đấy. Nếu em không chịu về, chị xin tình nguyện dọn ra đây cùng ở với em, chỉ mong trước mặt cậu Hai, em nói khéo hộ chị, để chị có chỗ yên thân. Dù được gội đầu hầu hạ em, chị cũng xin vui lòng.

Nói xong Phượng Thư nghẹn nào nức nở. Chị Hai thấy cũng nhỏ nước mắt.

Hai người vái chào nhau, theo thứ tự ngồi xuống. Bình Nhi vội đến vái chào. Chị Hai thấy chị ta ăn mặc lịch sự, cử chỉ nhã nhặn, đoán đúng là Bình Nhi, liền đứng lên giữ lại, và nói:

- Em đừng xử thế, chúng ta cùng như nhau cả.

Phượng Thư vội đứng dậy cười nói:

- Đừng làm thế. Em cứ nhận lễ đi. Chị ấy là người hầu của chúng ta đấy.

Nói xong lại sai vợ Chu Thụy lấy trong bao bốn tấm đoạn màu tốt, bốn đôi vòng, trâm bằng vàng ngọc để làm lễ gặp mặt. Chị Hai vội lạy rồi nhận lấy. Hai người uống  nước, cùng nhau kể lại chuyện cũ. Phượng Thư luôn miệng oán trách mình: “Chị không dám trách ai. Chỉ mong em thường chị thôi.”

Chị Hai là người thực thà, cho Phượng Thư tốt dạ. “Tôi tớ không được vừa lòng thì oán trách chủ, đó là lẽ thường”. Nghĩ vậy, chị ta cởi lòng cởi dạ nói hết cả chuyện ra, lại cho Phượng Thư là người tri kỷ. Bọn vợ Chu Thụy đứng ở bên cạnh tán dương Phượng Thư xưa nay là người rất tốt, chỉ vì nhẹ dạ làm cho người ta oán trách. Lại nói: “Đã sửa soạn nhà cửa rồi, mợ về bên ấy sẽ biết”.

Chị Hai trước cũng muốn về, bây giờ thấy thế, làm gì mà không bằng lòng. Liền nói:

- Đáng lẽ em đi theo chị về là phải, nhưng còn bên này thì làm thế nào?

- Việc ấy có khó gì? Những rương hòm và đồ đạc của em cứ sai bọn người hầu dọn sang. Còn thứ lềnh kềnh không dùng đến sẽ cho người đến trông nom. Em thấy đứa nào cẩn thận thì bảo nó đến đây giữ.

- Hôm nay được gặp chị, em dời về bên ấy, mọi việc nhờ chị lo liệu hộ cho. Em đến đây mới được ít ngày, chưa từng trông nom việc nhà, không hiểu gì cả, còn lo liệu sao được. Mấy cái hòm này xin mang cả sang. Em cũng chẳng có gì. Đây toàn là của cậu Hai cả.

Phượng Thư sai vợ Chu Thụy ghi lấy, trông nom cẩn thận, cho khiêng sang bên nhà phía đông. Lại giục chị Hai mặc áo rồi hai người dắt tay nhau lên xe cùng về.

Phượng Thư khẽ bảo:

- Khuôn phép nhà ta nghiêm lắm. Việc này cụ và bà Hai chưa biết gì cả; nếu biết, cậu Hai đương lúc có tang lấy vợ, sẽ bị đánh chết. Nay chưa nên đến chào cụ và bà Hai vội. Nhà chúng ta có một cái vườn hoa rất to, các chị em đều ở đấy, không mấy người vào được. Bây giờ em sang ở tạm trong vườn mấy hôm, để chị nghĩ cách trình rõ ràng trước, lúc đó em sẽ đến chào mới ổn.

- Xin tùy ý chị định liệu.

Phượng Thư đã dặn bọn người hầu rồi, nên bây giờ không vào cửa trước mà cứ đẩy xe đi thẳng vào cửa sau. Tới nơi, Phượng Thư cho mọi người về, tự mình dẫn chị Hai đi vào cửa sau vườn Đại Quan, đến chào Lý Hoàn.

Lúc đó, trong vườn Đại Quan, mười người đã có chín người biết chuyện. Nay thấy Phượng Thư dẫn chị Hai về, họ đều xúm lại xem. Chị Hai chào hỏi khắp lượt. Thấy chị Hai là người phong nhã dịu dàng, ai cũng khen ngợi. Phượng Thư dặn mọi người:

- Không được hở tiếng ra ngoài. Nếu cụ và bà biết thì ta đánh chết!

Bọn bà già và a hoàn trong vườn, xưa nay vẫn sợ Phượng Thư, lại biết Giả Liễn đương có tang nước, tang nhà mà làm chuyện này, quả là việc rất quan hệ, nên không ai dám vướng đến.

Phượng Thư khẽ nhờ Lý Hoàn nuôi chị Hai ít hôm và bảo:

- Chờ khi trình xong, chúng tôi sẽ về nhà.

Lý Hoàn thấy Phượng Thư đã sửa soạn nhà cửa bên ấy rồi, lại đang lúc có tang, không nên để lộ ra ngoài, như thế cũng đúng, nên đành để cho ở tạm nhà mình. Phượng Thư lại đuổi hết a hoàn của chị Hai đi, đưa một người hầu của mình đến cho chị Hai sai khiến và ngầm bảo bọn đàn bà hầu trong vườn: “Phải trông coi nó cẩn thận, nếu để nó trốn đi thì ta sẽ kể tội cho!” Rồi ngấm ngầm đi bố trí công việc.

Mọi người trong nhà đều lấy làm lạ và nói vụng với nhau:

- Không biết vì sao mợ ấy lại trở nên hiền hậu như thế?

Chị Hai được chỗ ở tốt, lại thấy chị em trong vườn đối đãi tử tế, tưởng là được chốn yên thân, nên không lo lắng gì. Ngờ đâu ba ngày sau a hoàn là Thiện Thư đã không chịu hầu hạ nữa. Chị Hai nói:

- Hết dầu bôi đầu rồi. Cô sang nói với mợ Cả(1) cho một ít mang về.

Thiện Thư liền nói:

- Mợ Hai ơi, mợ sao lại không biết điều. Người không có mắt hay sao? Mợ Cả chúng tôi ngày nào cũng phải hầu hạ cụ, hầu hạ bà Hai bên này, hầu hạ bà Cả bên kia; rồi các mợ, các cậu, các cô trên dưới hàng mấy trăm người, chỗ nào cũng cần đến mợ ấy. Một ngày ít ra cũng có một vài chục việc quan trọng, dăm ba chục việc bình thường. Bên ngoài thì kể từ trên quí phi đến các vị vương công hầu bá, bao nhiêu việc đi lại thăm nom; trong nhà lại phải thù ứng những bạn bè thân thích; hàng ngày chi tiêu tiền nghìn bạc vạn, đều phải qua ý mợ ấy và qua miệng mợ ấy truyền ra, chứ đâu có những việc nhỏ mọn cũng phải phiền đến  mợ ấy? Tôi khuyên mợ hãy thôi đi. Mình chẳng phải hạng vợ cái con cột gì. Mợ ấy là người hiền lành xưa nay chưa từng có, thì mới đối đãi với mợ như thế đấy. Nếu là người khác, hơi một tý là chửi mắng ầm lên, tống cổ ra ngoài, sống chết bỏ mặc, thì mợ đã dám làm gì?

Nó nói một hồi, làm cho chị Hai gục mặt xuống, thôi đành bỏ mặc cho xong. Thiện Thư dần dần đến cơm cũng chẳng buồn mang đến cho chị Hai ăn; được bữa sáng mất bữa chiều, những thứ mang đến đều là đồ ăn thừa cả. Chị Hai có nói, nó lại trừng mắt kêu ầm lên. Chị Hai sợ người ta cười mình không biết thân biết phận, đành phải nhịn đi cho xong chuyện.

Cách dăm bảy ngày chị Hai mới gặp Phượng Thư một lần. Phượng Thư vẫn vui vẻ hòa nhã, một điều “em” hai điều “em”.

Lại nói:

- Nếu người hầu có chỗ sơ suất, em không bảo được nó thì cứ mách chị, chị sẽ đánh cho.

Rồi mắng đám bà già con hầu:

- Ta biết chúng bay mềm thì nắn, rắn thì buông, vắng mặt ta thì chúng bay còn sợ ai! Nếu dì Hai có điều không được như ý, nói đến tai ta, ta sẽ tuốt xác chúng bay ra!

Chị Hai thấy Phượng Thư tốt như vậy, nghĩ bụng: “Chị ấy đã vậy, ta còn bới việc ra làm gì nữa? Kẻ dưới không biết điều hay lẽ dở cũng là thường tình. Nếu ta mách, chúng nó bị chửi mắng, sẽ bảo ta là ác”. Vì vậy chị Hai lại che chở cho chúng.

Phượng Thư sai Lai Vượng ở ngoài dò xét, biết rõ chị Hai trước đã có nhà chồng rồi. Anh chàng này tên là Trương Hoa, mười chín tuổi, suốt ngày cờ bạc, không chịu làm ăn, phá hết cơ nghiệp, bố mẹ đuổi đi, hiện giờ hắn la cà ở sòng bạc. Bà già Vưu cho bố hắn hai mươi lạng bạc để thoái hôn, hắn vẫn chưa biết. Phượng Thư liền đưa cho Lai Vượng hai mươi lạng bạc, bảo nó đến dỗ dành Trương Hoa, dẫn Trương Hoa về nhà, bảo hắn viết một cái đơn đưa đến quan sở tại kiện Giả Liễn lúc có tang nước, tang nhà, dám trái lệnh vua, dối bố mẹ, cậy của dựa thế, bắt ép người ta phải thoái hôn, đã có vợ rồi lại lấy vợ nữa.

Trương Hoa biết việc này rất quan hệ, nên không dám hấp tấp. Lai Vượng về trình Phượng Thư. Phượng Thư tức quá, mắng:

- Cái đồ chó ghẻ, đun đít cũng không dám nhảy qua tường! Mày nói rõ cho nó liết, dù nó kiện nhà ta làm loạn cũng chăng can gì. Chẳng qua mượn nó bày trò để cho họ bẽ mặt đấy thôi; nếu bới chuyện ra to thì ta đã có cách dẹp yên được.

Lai Vương vâng lời, lại đành phải đi nói với Trương Hoa. Phượng Thư dặn với:

- Nếu có kiện mày, thì mày cứ việc đi hầu kiện, cứ thế mà làm, rồi ta sẽ có cách.

Lai Vượng thấy vậy, liền bảo Trương Hoa viết thêm cả tên mình vào đơn kiện và nói:

- Anh cứ kiện tôi là người đứng giữa đã xui giục cậu Hai làm những việc ấy.

Trương Hoa vững tâm cùng Lai Vương bàn bạc, viết một lá đơn, ngày hôm sau đến viện đô sát khiếu oan. Quan đô sát ra công đường, trông thấy lá đơn kiện Giả Liễn, trong đó có cả tên người nhà là Lai Vượng, đành phải sai người đến phủ Giả đòi Lai Vượng tới đối chất. Người lính không dám thiện tiện vào, chỉ nhờ một người đưa tin. Lai Vương đang chờ việc ấy, thấy người lính đến, liền chào hỏi, bất chấp cả người đưa tin, cười nói:

- Làm phiền đến anh em, tất là việc tôi bị kiện. Anh chẳng cần phải nói nữa, cứ xích tay tôi lại.

Bọn lính không dám, chỉ nói:

- Thôi mời anh đi, đừng đùa nữa.

Lai Vượng đến trước sân quỳ xuống. Quan đô sát sai mang lá đơn cho hắn xem. Lai Vượng cố ý xem một lượt từ đầu đến cuối, rồi lại thưa:

- Việc này con biết hết, chính chủ con có làm. Nhưng  Trương Hoa xưa nay vẫn thù con, cố ý kéo con vào trong đơn, thực ra còn có người khác nữa, xin quan xét kỹ cho.

Trương Hoa lạy nói:

- Tuy có người khác, nhưng con không dám kiện nên chỉ kiện người hầu hạ thôi.

Lai Vượng giả vờ nói:

- Thằng hồ đồ này! Sao mày không nói ngay ra. Đây là nơi công đường của triều đình, dù là chủ nữa cũng phải nói ra.

Trương Hoa liền khai ra Giả Dung. Quan đô sát không biết làm thế nào, đành phải cho đòi Giả Dung đến.

Phượng Thư lại sai Khánh Nhi đi dò xét, thấy Trương Hoa đã kiện rồi, liền gọi Vương Tín đến bảo cho hắn biết việc này, rồi sai hắn đến nói với quan đô sát là chỉ nên dọa dẫm cho họ sợ thôi. Lại sai lấy ba trăm bạc đưa hắn đi lo liệu. Đêm hôm ấy Vương Tín đến nhà riêng quan đô sát, đút lót món tiền. Quan đô sát đã biết rõ nguyên ủy, nhận ngay. Hôm sau ra công đường, chỉ mắng Trương Hoa là đứa vô lại vì nợ tiền của phủ Giả, mới bầy việc vu vạ nói xấu người lành. Quan đô sát vẫn chơi thân với Vương Tử Đằng, nên Vương Tín chỉ phải đến nhà nói qua một lời thôi, vả chăng họ cũng đều là người phủ Giả cả, cũng muốn chóng êm chuyện, nên chỉ cho đòi Giả Dung đến đối chất.

Giả Dung đương bận việc, chợt có người đến báo tin:

- Có người kiện các cậu đấy! Phải lo liệu sớm đi.

Giả Dung lo sợ vội trình Giả Trân. Giả Trân nói:

- Ta đã đề phòng trước rồi. Khen cho nó cả gan thật.

Liền gói ngay hai trăm bạc sai người đến đút lót cho quan đô sát, lại sai người nhà đi đối chất. Đương bàn định thì có người vào trình:

- Mợ Hai bên phủ Tây sang đấy.

Giả Trân nghe nói giật mình, định cùng Giả Dung tránh đi, không ngờ Phượng Thư đã vào đến nơi, nói:

- Ông anh tốt quá, đưa các em đi làm những việc hay đấy!

Giả Dung ra chào, Phượng Thư kéo tay hắn đi vào.

Giả Trân lại cười nói:

- Phải hầu thím mày cẩn thận đấy. Bảo chúng nó giết gà vịt làm cơm.

Nói xong sai người đóng ngựa rồi lánh mặt đi chỗ khác.

Phượng Thư dắt Giả Dung lên nhà trên. Vưu thị ra đón, thấy Phượng Thư có vẻ giận, liền nói:

- Có việc gì mà thím vội vàng thế?

Phượng Thư nhổ toẹt một bãi nước bọt vào mặt Vưu thị rồi mắng:

- Con gái nhà họ Vưu không ai thiết, chị lén lút gán cho người họ Giả. Có lẽ chỉ có người nhà họ Giả mới đẹp, còn thiên hạ chết hết cả con trai hay sao? Chị muốn gả chồng cho em, cũng phải có mối manh chứng cớ hai năm rõ mười, mọi người đều biết cho có thể thống chứ. Chị mê rồi, lú ruột lú gan rồi. Đương lúc có cả tang nhà, tang nước, chị lại cho em về nhà chồng để cho người ta đi kiện chúng tôi. Chúng tôi nào khác con cua không càng. Tiếng ghen tuông đanh đá của tôi đến cả tai quan. Họ đích danh đòi tôi. Họ định bỏ tôi. Từ khi về nhà này, tôi làm những điều gì không phải, mà chị lại độc ác như thế? Hay là cụ và bà Hai đã dặn ngầm chị, bảo chị bày ra cách này để đuổi tôi đi? Bây giờ tôi với chị cùng ra cửa quan đối chứng rõ ràng; sau về mời họ hàng họp lại, hai mặt một lời, nói rõ đầu đuôi, rồi cho tôi giấy tờ, tôi sẽ về ngay!

Phượng Thư vừa nói vừa khóc ầm lên, nhất định kéo Vưu thị ra hầu quan.

Giả Dung hoảng sợ quỳ xuống lạy lục kêu van:

- Xin thím nguôi giận cho.

Phượng Thư lại mắng Giả Dung:

- Quân trời đánh thánh vật không có lương tâm này! Không biết trời cao đất dày thế nào, mà suốt ngày chỉ xui người này, bẩy người kia, làm những việc tan cửa nát nhà, không giữ thể diện, không trọng phép vua. Linh hồn mẹ mày có chết đi, chắc không tha mày, tổ tiên không dung túng mày! Thế mà mày còn dám đến can ta à!

Mắng xong, Phương Thư giơ tay đánh luôn. Giả Dung sợ quá lạy như tế sao, nói:

- Xin thím chớ nổi giận. Thím hãy khoan tay để cháu tự đánh lấy. Xin thím hãy nguôi giận.

Hắn giơ hai tay lên tát lấy tát để vào hai má, rồi tự hỏi mình:

- Từ sau làm việc gì còn không nghĩ trước nghĩ sau nữa thôi? Từ sau còn chỉ nghe lời chú không nghe lời thím nữa thôi?

Mọi người vừa can ngăn, vừa buồn cười, nhưng không dám cười.

Phượng Thư lăn vào lòng Vưu Thị, kêu trời kêu đất, khóc lóc thảm thiết:

- Việc chị lấy vợ cho em chị, tôi cũng không giận nhưng tại sao lại để cho em chị trái lệnh vua, dối cha mẹ, đổ tiếng xấu lên người tôi? Chúng ta đi lên phủ để lính tráng khỏi phải đến bắt. Chúng ta về gặp cụ, gặp bà Hai rồi họp họ lại để mọi người công luận. Nếu tôi không tốt, không cho chồng lấy vợ lẽ thì cứ viết một tờ giấy cho tôi ra. Tôi sẽ đi ngay. Còn cô em của chị, tôi đã đón về nhà rồi, vì sợ cụ và bà Hai nổi giận nên chưa dám trình, hiện giờ ở trong vườn, ngày nào cũng cơm bưng nước rót, kẻ hầu người hạ tử tế. Ở bên nhà, tôi đã thu xếp một cái buồng cũng như buồng của tôi, chỉ chờ khi cụ biết rõ việc này thôi. Tưởng rằng đón về để mọi người yên phận làm ăn, tôi cũng chả cần phải nhắc lại chuyện cũ nữa, ngờ đâu cô ta đã có chồng rồi! Không biết các người làm ăn như thế nào, tôi không hiểu ra sao cả. Nay họ lại đi kiện tôi. Hôm qua tôi hoảng quá, nếu mà tôi đến hầu quan ngay thì chỉ xấu mặt người họ Giả thôi, nên bắt buộc phải ăn cắp của bà Hai năm trăm lạng bạc để đi đút lót. Hiện người nhà tôi còn bị giam ở trên ấy.

Phượng Thư nói xong lại khóc, khóc rồi lại mắng. Sau khi kêu gào ông bà cha mẹ, và định đập đầu tự tử, làm Vưu thị nhũn như sợi bún, quần áo đầy những nước mắt nước mũi, không hề nói được câu gì, chỉ mắng Giả Dung:

- Quân khốn nạn! Mày và bố mày khéo bới việc. Tao đã bảo mà, làm thế không được đâu!

Phượng Thư nghe nói thế, liền khóc rồi trỏ vào mặt Vưu thị hỏi:

- Chị mê rồi à? Có lẽ miệng chị ngậm hạt thị hay sao? Hay là họ khóa hàm thiếc vào mồm chị. Tại sao chị không đến bảo tôi trước? Nếu chị bảo tôi biết, thì bây giờ chẳng đã yên rồi hay sao? Làm gì phải đi hầu quan nọ phủ kia, gây ra nông nỗi này? Bây giờ chị lại còn mắng nó! Người xưa đã nói: “Vợ hiền chồng ít tội; tốt dạ hơn tốt lời”. Nếu chị là người giỏi, khi nào họ dám làm những chuyện này? Chị đã không có tài cán, lại không biết ăn nói, cứ như cái bầu cưa miệng chỉ biết một mực kính cẩn để lấy tiếng hiền lành.

Nói xong lại nhổ toẹt mấy cái.

Vưu thị cũng khóc nói:

- Đâu có phải như thế? Thím không tin cứ hỏi người hầu ở đây, tôi không khuyên mãi hay sao? Nhưng họ không nghe thì tôi làm thế nào được? Chẳng trách thím giận là phải, tôi đành cứ chịu ngồi nghe thôi.

Bọn hầu, bà già, a hoàn quỳ xuống đất van xin:

- Mợ Hai là người rất sáng suốt. Mợ chúng tôi có điều không phải, từ nãy đến giờ mợ đã giày vò đủ rồi. Xưa nay các mợ ăn ở với nhau tốt như thế nào? Xin mợ hãy để lại chút thể diện cho mợ tôi.

Họ bưng nước đến mời, Phượng Thư hất đi. Một lúc thôi khóc, vén tóc lên, lại quát mắng Giả Dung:

- Ra mời bố mày vào đây để tao hỏi. Bác mới chết được ba mươi lăm ngày mà cháu đã lấy vợ, không biết lễ ở đâu thế, muốn hỏi rõ đề sau này còn dạy bảo con cháu!

Giả Dung quỳ lạy nói:

- Việc này không dính dáng gì đến cha mẹ cháu, chỉ vì cháu một lúc dại dột, xui giục chú nhà làm như thế. Cha cháu cũng không hề biết đến. Hiện giờ cha cháu đương cư tang. Nếu thím làm ồn lên, thì cháu đến chết mất. Mong thím cứ trách phạt cháu, cháu xin nhận cả. Việc ra cửa quan xin thím thu xếp hộ, cháu không chịu nổi được đâu, chắc thím cũng hiểu câu tục ngữ: “Tay gãy giấu vào ống áo”. Cháu ngu ngốc đáng chết, đã làm việc dại dột khác nào giống chó má vậy. Lời thím dạy, cháu mới sáng ra. Xin thím hết sức dẹp chuyện ấy lại, khỏi vỡ lở ra ngoài. Thím cứ coi cháu như đứa con bất hiếu gây ra tai họa, nhưng thím cũng phải nén lòng mà thương đến nó!

Nói xong lại lạy lia lịa.

Phượng Thư thấy mẹ con Giả Dung như thế, lòng đã nguôi nguôi, đành dịu giọng xin lỗi Vưu thị:

- Em còn ít tuổi chưa từng trải việc đời. Nay nghe thấy người ta kiện tụng đâm ra mê mẩn cuống cuồng, nói xúc phạm đến chị. Đúng như cháu Dung nói: “Tay gãy giấu vào ống áo”. Xin chị tha lỗi cho. Em lại nhờ chị nói với anh, làm sao cho yên việc kiện tụng ấy đi mới ổn.

Vưu thị và Giả Dung đều nói:

- Xin thím cứ yên tâm. Thế nào cũng không liên lụy đến chú nhà đâu. Thím vừa nói tiêu mất năm trăm lạng bạc, mẹ con cháu tất phải thu xếp đủ số để bù lại cho thím, chứ lẽ nào lại để cho thím chịu thiệt? Nếu để thím chịu thì mẹ con cháu lại càng đáng chết! Nhưng còn một việc nữa; trước mặt cụ và bà Hai, nhờ thím liệu mà che chở cho, đừng nhắc đến những chuyện này thì hơn!

Phượng Thư cười nhạt:

- Các người đè đầu tôi xuống để làm việc này, lại dỗ dành tôi phải che chở cho. Dù tôi là đứa ngu đần cũng không đến nỗi thế. Em chồng chị với tôi là người thế nào? Chị còn lo cho hắn không có con, chẳng lẽ tôi lại không lo hơn chị hay sao? Em gái chị cũng như em gái tôi. Khi nghe thấy chuyện này, suốt đêm tôi vui mừng không ngủ được, vội vàng sai người thu xếp nhà cửa để mời dì ấy về cùng ở chung, ngay những bọn hầu hạ cũng nói: mợ nóng nảy quá, cứ như ý chúng cháu thì nên trình với cụ và bà Hai đã, xem thế nào rồi hãy thu dọn nhà cửa đón về cũng không muộn. Tôi nghe những câu nói ấy phải đánh mắng át đi, họ mới chịu thôi. Nào ngờ lại không được như ý, bỗng dưng như có người vả vào mặt, thằng Trương Hoa ở đâu đưa đơn đi kiện. Tôi thấy thế, sợ quá, hai đêm không chợp mắt được, lại không dám lộ tiếng ra ngoài, đành chỉ nhờ người đi dò xem Trương Hoa là người thế nào mà to gan thế. Dò xét hai ngày, té ra nó là một thằng ăn mày liều lĩnh. Tôi còn ít tuổi, nghe vậy cười nói: “Kiện tụng gì nó”. Nhưng bọn người hầu nói “Đó là người chồng mà chị Hai đã hứa lấy khi trước. Nay hắn kiết quá, ăn đói ở rét, chỉ còn chờ chết thôi. Hiện hắn nắm được cái lý ấy, dù có chết cũng còn hơn là chịu chết đói, chết rét. Như thế trách sao được hắn chẳng đi kiện? Việc này do cậu nhà vội vàng quá; một tội là còn tang nước; hai tội là tang nhà; ba tội là giấu cha mẹ đi lấy vợ; bốn tội là có vợ lại đi lấy vợ nữa. Tục ngữ nói: “Quân liều lôi vua xuống ngựa”. Nó là hạng cùng cực điên rồ, việc gì chẳng bạo gan làm? Vả lại nó đã nắm phần chắc, không đi kiện lại đợi người ta đến mời hay sao?” Chị thử xem, dù tôi có là Hàn Tín, Trương Lương, khi nghe thấy chuyện này cũng sợ hết hồn vía, không còn nghĩ ra mưu kế gì nữa. Em chị lại đi vắng, không có người để bàn bạc, tôi đành phải lấy tiền ra đắp điếm. Ngờ đâu càng dùng tiền lại càng làm cho người ta nắm được đằng chuôi, càng bới thêm nhiều chuyện. Tôi khác nào chuồn chuồn mỏng cánh, được bao hơi sức, vì vậy vừa hoảng, vừa giận, tôi đành phải sang nói với chị.

Vưu thị và Giả Dung không chờ Phượng Thư nói hết, ngắt lời:

- Thím cứ yên tâm, tất nhiên tôi phải thu xếp cho xong.

Giả Dung lại nói:

- Trương Hoa chẳng qua chỉ vì nghèo kiết mới liều mạng đi kiện. Nay cháu nghĩ một cách, cho nó ít tiền, bắt nó nhận lấy cái tội kiện gian, rồi chúng ta đến cửa quan lo lót cho xong; mặt khác nó được tha về, ta sẽ cho ít tiền là yên chuyện.

Phượng Thư bĩu môi cười nói:

- Cháu nghĩ giỏi đấy! Chẳng trách được, cháu chỉ biết một mà không biết hai, nên mới gây ra cơ sự này. Té ra cháu thật là mê muội. Cứ như lời cháu nói, thì lúc này nó tạm bằng lòng đấy. Kể ra nó đi kiện vớ được món tiền, tất nhiên nó sẽ yên đi. Nhưng hạng vô lại ấy được tiền đến tay, ít lâu tiêu hết, nó lại tìm cách bới ra. Nó có giở mặt chúng ta cũng chẳng sợ, nhưng vẫn phải bận lòng, tránh sao khỏi nó không rêu rao “Không có lội cớ chi phải đưa tiền cho nó”. Rút cục vẫn không ổn.

Giả Dung là người tinh ý, thấy vậy cười nói:

- Cháu có ý định “Người đã gây chuyện tất phải dẹp chuyện”. Việc này phải tự cháu đi thu xếp mới được. Bây giờ cháu sẽ đến hỏi Trương Hoa, hoặc là nó đòi lại người; hoặc là nó muốn xong việc được món tiền đi lấy vợ khác. Nếu nó nhất định đòi người, thì đành phải khuyên dì Hai trở về với nó, nếu nó đòi tiền ta sẽ cho nó một món.

Phượng Thư nói:

- Cháu nói vậy nhưng ta không nỡ và cũng không chịu để dì Hai đi. Để dì ấy đi thì thể diện nhà ta còn ra làm sao? Cứ ý ta, thà cho nó thêm tiền là hơn.

Giả Dung biết rõ Phượng Thư ngoài miệng nói thế, nhưng trong bụng thì chỉ muốn tống dì Hai đi, mà mình vẫn được tiếng là người lử tế. Bây giờ Phượng Thư nói sao, Giả Dung đành phải nghe vậy.

Phượng Thư tươi hẳn lên, lại nói:

- Việc bên ngoài thu xếp xong xuôi, còn việc trong nhà thì làm thế nào? Chị nên cùng đi với em sang trình cụ và bà Hai mới phải.

Vưu thị lại cuống lên, níu lấy Phượng Thư và hỏi nên nói dối thế nào cho phải. Phượng Thư cười nhạt:

- Đã không có gan thì ai bảo chị gây ra việc này? Nhìn vẻ mặt, lại đáng thương. Tôi định không nói, nhưng mình là người hiền lành cả nể, dù ai lừa dối tôi vẫn giữ tấm lòng chân thực, thôi thì việc này để tôi nhận hết. Mẹ con chị đừng ra mặt vội, cứ để tôi đưa dì nó vào gặp cụ và bà Hai. Tôi chỉ nói dì ấy là em gái chị, trông cũng khá, vì tôi hiếm hoi, vẫn định mua thêm vài người về hầu trong nhà. Nay thấy dì nó người cũng xinh xắn, thân lại thêm thân, nên tôi muốn cưới làm vợ thứ hai. Nhưng vì bố mẹ chị em họ hàng người ta đều chết cả, đời sống chật vật, khó mà qua ngày, nếu chờ khi hết tang, dì ấy không có nơi nương tựa, nên tôi cứ đón dì ấy về. Nhà cửa đã sửa soạn xong rồi, dì ấy hãy tạm ở đây, chờ khi hết tang sẽ làm lễ thành hôn. Để cho cái mặt dày này sống chết cứ nói dối bừa đi, nếu có xảy ra điều gì không hay cũng chẳng dính dáng gì đến các người. Mẹ con chị thử nghĩ xem làm thế có được không?

Vưu thị và Giả Dung cũng cười nói:

- Rút cuộc lại phải chịu thím là người độ lượng rất rộng, mưu trí rất nhiều. Chờ khi xong việc, mẹ con tôi thế nào cũng đến tạ ơn.

Vưu thị lại sai a hoàn múc nước, lấy hộp gương lược ra hầu hạ Phượng Thư chải đầu, rửa mặt rồi vội sai dọn cơm rượu. Vưu thị tự tay nâng rượu gắp thức ăn mời Phượng Thư. PhượngThư nhất đinh đòi về.

Đến vườn, Phượng Thư đem việc này nói cho chị Hai biết và nói:

- Chị thật hết lòng lo lắng và thăm dò, lại nghĩ hết mọi cách. Em phải thế này, thế này thì mọi người mới khỏi mang tội. Thốt thì ta cứ phải giơ đầu chịu báng cho mọi người được yên ổn.

Không biết Phượng Thư lại nghĩ ra kế gì nữa.

-------------------------

(1). Tức Phượng Thư.

Hồi thứ sáu mươi chín

Giở lối khôn vặt, mượn gươm giết người;

Biết gặp hạn đen, nuốt vàng thoát kiếp .

Chị Hai nghe thấy nói thế, cảm tạ không ngớt, đành phải theo Phượng Thư đi. Vưu Thị tất nhiên cũng phải theo. Phượng Thư cười nói:

- Chị đừng nói gì, để tôi nói cho.

Vưu Thị đáp:

- Đúng thế. Nếu có điều gì không phải, tôi cứ đổ cả cho thím là xong.

Mọi người kéo nhau đến nhà Giả mẫu. Giả mẫu đương nói chuyện với bọn chị em cho đỡ buồn, chợt trông thấy Phượng Thư đưa đến một thiếu phụ tuyệt đẹp, liền chăm chú nhìn nói:

- Con cái nhà ai thế? Trông cũng đáng thương!

Phượng Thư đi lên cười nói:

- Bà nhìn kỹ xem có đẹp hay không?

Nói xong liền dắt chị Hai đến nói:

- Đây là bà đấy, lạy đi.

Chị Hai quỳ xuống lạy. Phượng Thư lại trỏ các chị em bảo:

- Đây là cô này, đây là chị này. Chờ chào mẹ đã, trở về em sẽ chào các cô.

Chị Hai nghe thấy nói thế, đành phải giả vờ, bắt đầu chào hỏi từng người, rồi cúi đầu đứng ở bên cạnh.

Giả mẫu ngắm đi ngắm lại, ngửa mặt lên nghĩ rồi cười hỏi:

- Hình như ta đã gặp cháu này ở đâu rồi, trông mặt quen quá!

Phượng Thư vội cười nói:

- Xin bà đừng nói đến chuyện ấy vội, hãy cứ xem có đẹp hơn cháu không?

Giả mẫu vội đeo kính vào rồi bảo Uyên Ương, Hổ Phách:

- Dắt nó lại đây để ta xem da dẻ thế nào.

Mọi người đều mím môi cười, dẫn chị Hai đến. Giả mẫu nhìn kỹ một lượt, lại bảo Hổ Phách:

- Cầm tay nó lên cho ta xem.

Giả mẫu xem xong, bỏ kính xuống, cười nói:

- Được cả mọi vẻ. Ta xem nó còn đẹp hơn cháu đấy.

Phượng Thư nghe xong cười, rồi quỳ xuống đem những lời đã đặt sẵn bên nhà Vưu Thị, kể hết đầu đuôi một lượt: “Dù sao cũng xin bà mở rộng từ bi, hãy cho dì ấy về, một năm nữa sẽ làm lễ thành hôn”.

Giả mẫu nói:

- Có gì mà không được! Cháu đã tử tế như thế, tốt lắm. Nhưng phải giữ đúng một năm.

Phượng Thư nghe nói, gục đầu tạ rồi đứng dậy, lại xin với Giả mẫu:

- Cho hai đứa hầu gái cùng dẫn dì ấy đi chào các mẹ và nói là ý định của bà đấy!

Giả mẫu nhận lời, cho hai người dẫn đi, đến chào Hình phu nhân. Còn Vương phu nhân thì mấy lần nghe tiếng tăm Phượng Thư không tốt, rất lấy làm lo lắng; nay thấy chị ta đối xử như thế, lẽ nào lại không bằng lòng. Từ đó chị Hai được mở mày mở mặt, dọn đến ở buồng riêng.

Một mặt Phượng Thư sai người đi xui ngầm Trương Hoa cứ bảo nó đòi vợ về: “Bên này ngoài các món đền bồi ra, lại còn cho thêm tiền để làm ăn sinh sống nữa.” Trương Hoa vốn không có gan đi kiện người nhà họ Giả. Giả Dung lại sai người đi đối chất. Người ấy nói:

- Trương Hoa trước đã thoái hôn rồi. Chúng tôi nguyên là chỗ bà con, có đón cô ấy về nhà cho ở thật, nhưng không hề lấy ép làm vợ. Chỉ vì Trương Hoa nợ tiền chúng tôi, đòi mãi không trả, nên mới vu khống cho chú chúng tôi.

Quan đô sát vốn có dây mơ rễ má với họ Vương, họ Giả, vả chăng đã ăn tiền rồi, nên bảo Trương Hoa là đứa vô lại, vì cùng túng mà vu vạ đi kiện, bèn không nhận đơn, đánh cho nó một trận rồi đuổi ra. Khánh Nhi ở ngoài chạy chọt cho Trương Hoa nên nó không bị đánh đau. Sau lại xui Trương Hoa:

- Việc hôn nhân này là do nhà anh định trước. Anh cứ đòi vợ cho được, thế nào quan cũng xử trả lại anh.

Trương Hoa lại đi kiện. Về phần Vương Tín, lại ngầm đưa tin cho quan đô sát. Quan đô sát liền phê:

- Việc Trương Hoa nợ tiền nhà họ Giả, đúng hạn phải đem trả đủ; còn việc hôn nhân khi nào có thể lo được thì cho cưới về.

Lại đòi bố Trương Hoa đến, phê chuẩn trước công đường, Khánh Nhi đã nói trước cho bố Trương Hoa biết, nên ông ta mừng quá, vừa được người, vừa được của, liền đến nhà họ Giả đòi lại chị Hai.

Phượng Thư hoảng hốt đến trình Giả mẫu: việc xảy thế này, đều do chị Trân xử sự không được phân minh. Người ta chưa dứt khoát thoái hôn, nên đã đi kiện. Nay quan lại xử như thế!

Giả mẫu nghe nói liền gọi Vưu Thị đến bảo:

- Chị làm việc không cẩn thận, em chị đã hứa gả cho người ta từ lúc còn ở trong bụng, chưa thoái hôn xong, để người ta đi kiện, thế là thế nào?

Vưu Thị nghe vậy nói:

- Nó đã nhận tiền rồi, sao lại bảo chưa dứt khoát thoái hôn?

Phượng Thư đứng cạnh nói:

- Trương Hoa cung rằng, nó không thấy tiền đâu và cũng không thấy người nào cả. Bố hắn lại nói: “Bà thông gia có đến nói việc thoái hôn một lần, nhưng nó chưa nhận lời; sau người thông gia chết rồi, các người đón ngay cô ấy về làm vợ hai”. Việc ấy không có ai đối chứng, thành ra nó muốn nói gì thì nói. May mà cậu Hai còn đi vắng, chưa làm lễ thành hôn, cũng không can hệ gì, chỉ có điều là đã đưa người ta đến đây, lại để cho về, coi sao tiện. Như thế chẳng mất thể diện hay sao?

Giả mẫu nói:

- Chưa làm lễ thành hôn, lại vô cớ lấy ép gái có chồng, tiếng tăm không được tốt, chi bằng cho nó về đi. Tìm đâu mà không được người đẹp.

Chị Hai nghe nói, lại trình Giả mẫu:

- Quả là ngày nọ, tháng nọ, năm nọ mẹ cháu đã cho nó hai mươi lạng bạc để thoái hôn cho xong. Nó vì kiết quá đi kiện, rồi lại chối phắt đi, chứ chị cháu không làm sai bao giờ.

Giả mẫu nói:

- Khó dây với hạng người điêu toa. Đã thế thì chị Phượng đi mà thu xếp lấy.

Phượng Thư nghe nói, không biết làm thế nào, đành phải ra về, sai người đi tìm Giả Dung. Giả Dung đã thừa biết ý Phượng Thư rồi. Nếu để Trương Hoa được đón vợ về thì còn ra thể thống gì nữa? Hắn liền trình Giả Trân, ngầm sai người đi bảo Trương Hoa:

- Nay anh đã được nhiều tiền, cần gì phải đòi người nữa? Nếu anh cứ một mực khăng khăng làm cho các ông ấy giận lên, bày ra chuyện gì thì anh sẽ chết không có chỗ chôn! Anh đã có tiền, về nhà làm gì mà không tìm được một người đẹp? Nếu anh về, sẽ thưởng thêm cho anh tiền ăn đường.

Trương Hoa nghe xong, trong bụng nghĩ: “Như vậy cũng tốt”. Hắn bàn với bố xong, tính tất cả được độ một trăm lạng, hôm sau hai bố con dậy từ trống canh năm, đi về nguyên quán.

Giả Dung hỏi ra, biết đã thăm dò đích xác rồi, liền sang trình Giả mẫu và Phượng Thư:

- Bố con Trương Hoa đi kiện gian, bây giờ sợ tội, đã trốn đi rồi. Quan phủ biết rõ như vậy, nên cũng không truy xét nữa, thế là xong việc.

Phượng Thư nghe nói nghĩ bụng: “Mình cứ bắt Trương Hoa đón dì Hai đi, khi Giả Liễn về, sẽ quẳng thêm ít tiền giữ dì Hai lại, thế nào Trương Hoa cũng bằng lòng, vậy thì hãy để dì Hai cùng bầu bạn với mình, lại được ổn thỏa hơn, sau này ta sẽ liệu cách. Nhưng không biết Trương Hoa đi đâu, nếu nó lại đem việc này nói với người khác, hoặc là sau này nó tìm được đầu mối, sẽ đi kiện lại, như thế chẳng hóa ra tự  mình hại mình hay sao? Lẽ ra ta không nên đưa dao cho người cầm đằng chuôi mới phải”. Phượng Thư hối hận mãi. Sau nghĩ ra một kế, ngầm bảo Lai Vượng sai người đi tìm Trương Hoa, hoặc vu cho nó làm giặc, đi trình quan để trị tội; hoặc sai người ám sát nó, như thế là nhổ cỏ nhổ tận rễ, mới bảo toàn được thanh danh của mình.

Lai Vượng vâng lời đi ra, về nhà nghĩ kỹ: “Người ta đã bỏ đi là xong rồi, việc gì phải làm to chuyện. Mệnh người rất quan hệ, không phải chuyện đa. Mình hãy nói dối mợ ấy, rồi sau sẽ liệu.” Lai Vượng lánh mặt đi mấy ngày rồi về trình Phượng Thư:

- Khi Trương Hoa trốn đi, có mang một số tiền trong mình, đến hôm thứ ba, tới địa giới Kinh Khẩu, vào trống canh năm, đã bị kẻ cướp đón đường đánh chết. Bố nó sợ quá cũng chết trong nhà trọ. Ở đấy người ta đã khám xác và cho chôn rồi.

Phượng Thư không tin, nói:

- Nếu mày nói dối, ta cho người dò xét ra sẽ vặn răng mày!

Sau đó các chuyện bỏ qua không ai để ý đến nữa. Phượng Thư và chị Hai ăn ở với nhau rất tử tế, hơn hẳn chị em ruột thịt.

Một hôm, Giả Liễn xong việc trở về, đến ngay buồng chị Hai, thấy trong nhà vắng ngắt, cửa đóng then cài, chỉ có một bà già ở đấy canh cửa.

Giả Liễn hỏi duyên cớ, bà già kể lại đầu đuôi. Giả Liễn cứ giậm chân ở trên bàn đạp ngựa, rồi đành phải về hầu Giả Xá và Hình phu nhân, trình rõ những việc đã làm. Giả Xá vô cùng sung sướng, khen con làm được việc, thưởng cho hắn một trăm lạng bạc, và cho một con a hoàn 17 tuổi tên là Thu Đồng làm nàng hầu. Giả Liễn  tạ ơn nhận lấy, vui mừng khôn xiết, rồi lại đi chào Giả mẫu và các người trong nhà. Về đến nhà, trông thấy Phượng Thư, Giả Liễn có vẻ thẹn. Ngờ đâu nét mặt Phượng Thư không như mọi ngày, cùng với chị Hai ra chào, kể lể hàn huyên. Giả Liễn lại nói đến việc Thu Đồng, trên mặt hiện ra vẻ khoe khoang tự đắc.

Phượng Thư sai hai người đàn bà ngồi xe sang bên Giả Xá đón Thu Đồng về. Một cái gai chưa nhổ được, bỗng dưng lại thêm cái gai nữa, Phượng Thư đành phải im hơi lặng tiếng, bề ngoài ra dáng vui vẻ để che giấu nỗi lòng. Một mặt sai người dọn rượu tẩy trần; một mặt dẫn Thu Đồng đến chào Giả mẫu và Vương phu nhân. Trong bụng Giả Liễn cũng lấy làm lạ.

Thường khi ở nhà, Phượng Thư đối đãi với chị Hai bề ngoài không còn điều gì đáng trách, nhưng trong bụng lại khác hẳn. Khi vắng người, Phượng Thư thường nói với chị Hai:

- Tiếng tăm em không lấy gì làm tốt, chính cụ và các bà cũng đều biết cả. Người ta bảo, khi em còn là con gái ở nhà cũng không được đứng đắn, thường đi lại thậm thụt với anh rể. Chẳng ai màng đến, mà cũng rước về. Sao không bỏ nó đi, tìm người khác có hơn không? Chị nghe thấy những câu ấy, không biết bực đến đâu. Muốn xem ai nói, nhưng không dò ra được. Cứ mãi thế này thì trước mặt bọn hầu hạ, mình biết ăn nói ra làm sao? Chị đây thực là chỉ mang lấy việc rắc rối vào mình.

Phượng Thư cứ nói đi nói lại mãi, rồi tức giận đâm ốm, cơm cũng chẳng buồn ăn. Trừ Bình Nhi ra, các a hoàn, bà già không ai là không tiếng ra tiếng vào, nói bóng nói gió, ngấm ngầm chê bai về việc này.

Thu Đồng tự cho mình là do Giả Xá cho Giả Liễn, không ai hơn cả. Nó không coi Phượng Thư và Bình Nhi ra gì, thì đâu lại chịu chị Hai, nên cứ mở miệng là nói: “Con người đĩ trước cưới sau; chẳng thằng nào vời đến mới lần vào đây”. Phượng Thư thấy thế, ngấm ngầm vui sướng. Chị Hai nghe thấy, vừa hổ thẹn vừa bực. Từ khi giả ốm, Phượng Thư không ăn cơm với chị Hai nữa, hàng ngày sai người đem cơm vào buồng cho chị Hai ăn riêng. Đồ ăn đều là thứ không thể nuốt được. Bình Nhi thấy thế không đành lòng, tự mình bỏ tiền ra mua thêm thức ăn cho chị Hai. Cũng có lúc Bình Nhi nói dối là rủ chị Hai vào trong vườn chơi, rồi vào bếp bảo làm canh, làm bánh cho chị ta ăn. Biết vậy nhưng không ai dám trình lại Phượng Thư, chỉ có Thu Đồng bắt gặp, về ton hót ngay với Phượng Thư:

- Tiếng tăm của mợ đều bị con Bình bôi nhọ cả rồi. Cơm và thức ăn ngon như thế, nó bỏ không thèm ăn, lại sang bên vườn ăn vụng.

Phượng Thư nghe nói, mắng Bình Nhi:

 - Người ta nuôi mèo để bắt chuột, mình thì nuôi mèo để bắt gà.

Bình Nhi không dám cãi lại, đành phải xa chị Hai, trong bụng rất căm giận Thu Đồng.

Chị em ở trong vườn như bọn Lý Hoàn, Thám Xuân, Tích Xuân đều cho Phượng Thư là có lòng tốt, chỉ có Bảo Ngọc, Đại Ngọc một số người lại lo thay cho chị Hai. Tuy họ không dám nói ra, nhưng trong lòng đều thương xót và thỉnh thoảng lại thăm nom chị ta. Khi vắng người, gợi đến chuyện ấy, chị Hai lại nước mắt giàn giụa, nhưng không dám oán trách Phượng Thư, vì ngoài mặt Phượng Thư không tỏ nỗi gì là độc ác cả.

Giả Liễn về nhà, thấy Phượng Thư tử tế, nên cũng không để ý đến. Vả chăng ngày thường thấy Giả Xá có rất nhiều nàng hầu vợ lẽ, hắn vẫn có bụng không tốt, nhưng chưa dám động chạm đến. Bọn Thu Đồng ngày thường rất căm ghét Giả Xá già yếu mê mẩn, tham nhiều nuốt không trôi, bỗng dưng giữ bọn họ lại để làm gì? Vì vậy ngoài mấy đứa biết lễ nghĩa, liêm sỉ ra, còn thì đều đùa bỡn với bọn nhỏ bên ngoài, thậm chí có người đưa mày liếc mắt với Giả Liễn, ngấm ngầm hò hẹn, chỉ vì sợ oai Giả Xá, chưa dám làm thôi. Thu Đồng đã có ý với Giả Liễn từ lâu, nhưng chưa gặp dịp nào. Nay duyên trời khéo xe, Giả Xá lại đem Thu Đồng thưởng cho hắn. Hai người thật là củi khô gặp lửa, như keo với sơn, vui cùng người mới luôn trong mấy ngày, rời nhau sao được? Giả Liễn dần dần lạnh nhạt chị Hai, chỉ còn biết có một mình Thu Đồng thôi.

Phượng Thư tuy giận Thu Đồng, nhưng lại mừng là sẽ mượn tay nó để trừ bỏ chị Hai đi, dùng cách “mượn dao giết người”, “ngồi trên núi xem hổ đánh nhau”, chờ Thu Đồng giết được chị Hai rồi, sau này mình sẽ giết Thu Đồng. Ý đã định thế, khi vắng người, Phượng Thư thường khuyên bảo riêng Thu Đồng:

- Em còn trẻ tuổi chưa biết gì. Dì ấy hiện là mợ Hai, là người yêu nhất của cậu Hai đấy. Ta còn phải nể dì ấy ít nhiều, thế mà em lại dám kình địch với dì ấy, chẳng hóa ra em tự tìm lấy cái chết à?

 Thu Đồng nghe vậy tức quá, ngày nào cũng chửi mắng ầm ĩ và nói:

- Mợ là người nhu nhược hiền lành quá! Em thì không thể thế được! Oai phong ngày thường của mợ đã mất hết rồi à? Mợ thì khoan hồng đại lượng chứ em không thể để cái gai trước mắt được. Em phải sửa cho con đĩ ấy một phen, nó mới biết tay!

Phượng Thư ở trong nhà chỉ giả vờ không dám ra tiếng. Chị Hai tức quá, cứ khóc lóc ở trong huống, cơm chẳng buồn ăn, cũng không dám mách Giả Liễn. Hôm sau Giả mẫu thấy mắt chị Hai sưng húp lên, có hỏi chị Hai cũng không dám nói.

Thu Đồng giở khôn giở khéo khẽ ton hót với Giả mẫu và Vương phu nhân:

- Chị ấy chỉ muốn giở chứng chết, tự dưng vô cớ lại cứ khóc lóc thở than, rủa ngầm mợ Hai và cháu chóng chết để một mình ăn ở với cậu Hai.

Giả mẫu thấy vậy nói:

- Người đẹp thì hay ghen tuông. Cháu Phượng đối đãi với nó cũng tốt, nó lại còn tranh giành ghen ngược, thật là quân hèn hạ!

Giả mẫu dần dần cũng không ưa chị Hai. Mọi người thấy thế lại càng khinh rẻ thêm, làm chị Hai sống dở chết dở. May nhờ có Bình Nhi, khi vắng Phượng Thư, thường tìm cách khuyên giải.

Chị Hai vốn người “vóc hoa da tuyết”, chịu sao nổi những sự giày vò! Nên chỉ trong vòng một tháng trời, đã ngấm ngầm thành bệnh, chân tay rời rạc, ăn uống kém dần, ngày một gầy mòn. Ban đêm hễ chợp mắt lại thấy em gái mình tay cầm thanh gươm “Uyên Ương” đứng trước mặt nói: “Chị ơi! Chị suốt đời ngây thơ yếu đuối, rút cục bị thiệt đến thân! Chị không nên tin lời đường mật của con mụ ghen tuông cay nghiệt ấy, ngoài mặt nó làm ra vẻ hiền lành, trong bụng thì chứa đầy gian ác. Nó nhất định làm cho chị chết mới chịu thôi. Em còn sống, không khi nào em cho chị đến đây. Dù chị có đến cũng không để cho nó làm như thế. Đó cũng là số trời đã định, vì kiếp trước chị là người dâm đãng, làm cho nhà người ta mất cả luân thường đạo lý, nên mới bị quả báo vậy. Chị nghe lời em, cầm cái gươm này giết chết con mụ ấy đi rồi cùng đến trước nơi Cảnh ảo, tùy lượng trên xét xử cho mình. Nếu không thế, chị sẽ uổng mạng, chẳng có ai thương đâu!”

Chị Hai khóc nói:

- Em ơi! Đời chị đã mất hết nhân phẩm rồi, bị quả báo thế này là lẽ tất nhiên, lại còn đi giết người để gây ra oan nghiệp nữa làm gì?

Chị Ba nghe thấy nói thế, thở dài rồi đi.

Chị Hai giật mình tỉnh dậy, hóa ra chiêm bao. Chờ khi Giả Liễn đến thăm, nhân lúc vắng người, chị Hai khóc lóc nói với Giả Liễn:

- Bệnh em không thể khỏi được! Em về đây nửa năm đã có mang trong bụng, không biết là trai hay gái. May mà trời thương, sinh đẻ ra được thì khá; nếu không, thân em còn không sống nổi, huống chi đứa bé.

Giả Liễn cũng khóc nói:

- Em cứ yên tâm, để anh mời thầy thuốc đến chữa.

Nói xong đi ra mời thầy thuốc ngay.

Ngờ đâu lúc đó Vương thái y đi theo quan quân để sau này con cái được tập ấm. Bọn hầu đi mời thái y Hồ Quân Vinh. Sau khi xem mạch, thái y bảo là kinh nguyệt không đều, phải uống đại bổ.

Giả Liễn nói:

- Đã tắt kinh ba tháng rồi, lại thường nôn ọe, sợ là có thai.

Hà Quân Vinh nghe nói, lại bảo bà già cầm tay chị Hai đưa ra xem lại một lúc, nói:

- Nếu có thai, cái mạch(1) phải chạy mạnh. Nhưng mộc thịnh thì sinh hỏa, kinh nguyệt không đều, cũng do can mộc gây ra. Tôi xin cả gan mời mợ nhà ngỏ mặt ra để xem khí sắc rồi mới dám cho thuốc.

Giả Liễn không làm sao được, phải mở màn bảo chị Hai ngó mặt ra. Hồ Quân Vinh vừa trông thấy, hồn phách đã bay lên trời, còn bụng dạ nào phân biệt được khí sắc nữa. Một lúc bỏ màn xuống, Giả Liễn mời hắn ra ngoài hỏi là bệnh gì. Hồ thái y nói:

- Không phải có mang mà là ứ huyết không thông. Bây giờ chỉ cần cho uống thuốc thông kinh hạ ứ.

Nói xong kê đơn rồi về.

Giả Liễn sai người đưa tiền xem mạch và bảo đi lấy thuốc về sắc cho chị Hai uống. Vào khoảng nửa đêm, chị Hai đau bụng dữ, sẩy mất một cái thai đã thành hình con trai. Máu ra nhiều quá, chị Hai mê man bất tỉnh. Giả Liễn nghe vậy mắng Hồ Quân vinh ầm ĩ. Một mặt sai người đi tìm thầy thuốc khác đến chữa, một mặt cho đi tìm Hồ Quân Vinh. Nhưng lão ta nghe thấy thế, đã cuốn gói trốn đi rồi.

Khi ấy thầy thuốc đến nói:

- Khí huyết vốn đã suy nhược, chắc là từ khi thụ thai đến giờ, người bị nhiều lo nghĩ, uất kết bên trong. Thầy thuốc trước dùng nhầm thuốc công phạt, bây giờ nguyên khí mười phần đã hư mất tám, chín rồi, khó mà chữa khỏi ngay được. Cần phải dùng cả hai thứ thuốc viên và thuốc chén, lại không nên nghe những điều nhảm nhí vớ vẩn, may ra mới khỏi được.

Nói xong đi ra, kê một đơn thuốc chén và một đơn thuốc viên điều nguyên tán uất, rồi về.

GIả Liễn vội hỏi người nào đã mời thầy thuốc họ Hồ. Tra ra, hắn đánh đứa kia một trận gần chết.

Phượng Thư còn sốt ruột hơn Giả Liễn nhiều, nói:

- Chúng ta hiếm hoi, vất vả mãi mới được một đứa, lại gặp phải hạng lang băm thế này!

Rồi đi thắp hương lễ trời đất, miệng khấn: “Tôi xin ốm thay để cho dì Hai mạnh khỏe, sau lại có mang sinh được đứa con trai, thì tôi nguyện suốt đời ăn chay niệm phật!”

Giả Liễn và mọi người thấy thế ai cũng khen ngợi.

Giả Liễn cùng Thu Đồng ở một nơi. Phượng Thư sai người nấu canh nấu cháo đưa đến cho chị Hai ăn. Phượng Thư lại mắng Bình Nhi hết phúc “Cũng như ta vậy. Ta vì ốm luôn, chứ chị thì béo trục, béo tròn, cũng chẳng thấy gì. Bây giờ dì Hai như vậy, đều tại chúng ta vô phúc, hay dì ấy có bị xung khắc gì chăng?” Rồi lại sai người đi xem bói. Người kia về trình:

- Số này bị người đàn bà cầm tinh con thỏ trêu.

Cả nhà tính ra chỉ có một Thu Đồng là cầm tinh con thỏ thôi, nên bảo nó là xung khắc với dì Hai.

Thấy Giả Liễn mời thầy chạy chữa, lại đánh người chửi chó, hết lòng trông nom chị Hai, Thu Đồng đã ghen tức đầy ruột, nay lại nghe nói nó xung khắc với dì Hai. Phượng Thư lại khuyên bảo nó:

- Em hãy tạm lánh đi nơi khác mấy tháng rồi sẽ về.

Thu Đồng tức quá khóc mắng ầm lên:

- Cái đồ rạc roài, thối mồm thối miệng ấy đáng kể gì. Em với nó như “nước giếng với nước sông”, không động gì đến nhau, sao lại bảo là xung khắc? Ở ngoài thì như con sáo ấy, ai gặp cũng được. Thế mà vào đây, lại xung khắc với ngươi này người nọ. Em còn muốn hỏi nó, đứa con ấy ở đâu mà ra? Chẳng qua nó chỉ lừa dối được cậu Hai là người cả nghe thôi! Dù quả có con chăng nữa, cũng chưa chắc là con họ Trương hay con họ Vương! Mợ cứ quý cái giống con hoang ấy, chứ em thì chẳng thèm. Ai mà không biết đẻ? Một năm, nửa năm đẻ một đứa, lại chẳng có một tí lang chạ nào nữa kia.

Mọi người đều muốn cười, lại không dám cười.

Vừa lúc Hình phu nhân đến hỏi thăm, Thu Đồng liền mách:

- Cậu Hai và mợ Hai định đuổi con đi, con không có chỗ nương thân, xin bà thương cho.

Hình phu nhân nghe thấy nói thế, liền trách móc Phượng Thư một trận, rồi mắng Giả Liễn:

- Quân không biết điều! Dù nó thế nào cũng là người của bố mày cho, nay vì một đứa ở ngoài đến mà đuổi nó đi, thì mày không còn coi bố ra gì nữa. Mày muốn đuổi nó đi, chi bằng đem nó trả lại bố mày.

Nói xong hầm hầm đi về.

Thu Đồng lại càng đắc ý, chạy đến dưới cửa sổ mắng ầm lên. Chị Hai nghe thấy càng buồn. Đến tối, Giả Liễn về nghỉ ở buồng Thu Đồng. Phượng Thư cũng đã ngủ rồi, Bình Nhi lẻn đến buồng chị Hai an ủi.

- Mợ cố mà điều dưỡng, đừng đếm xỉa gì đến giống súc sinh ấy!

Chị Hai kéo Bình Nhi khóc lóc:

- Chị ơi, từ ngày em về đây, nhờ có chị săn sóc giúp đỡ. Chị vì em mà chịu biết bao tai tiếng. Nếu em trốn thoát nơi này, em xin báo đền ơn chị, chỉ sợ em không thoát ra khỏi, thì xin hẹn đến kiếp sau.

Bình Nhi cũng không cầm nổi nước mất, nói:

- Nghĩ lại thực em đã giết chị. Em vốn một lòng chân thật, xưa nay không hề giấu giếm người ta điều gì. Khi nghe thấy tin chị ở bên ngoài, em liền đem chuyện mách người ta, ngờ đâu lại xảy ra cơ sự này.

- Chị nói lầm rồi. Dù chị không mách, người ta cũng dò ra. Có điều là chị nói trước đấy thôi. Vả lại em cũng muốn về đây mới ra thể thống, chứ có liên quan gì đến chị.

Hai người khóc lóc một lúc, Bình Nhi lại dặn dò mấy câu, đến đêm khuya mới về ngủ.

Chị Hai nghĩ bụng: “Bệnh nặng thế này, đã không có gì tẩm bồ, lại còn phải chịu đau thương, mình chắc không thể sống được. Vả chăng cái thai đã ra rồi, không còn gì đáng áy náy, thì việc gì phải chịu khổ mãi thế này, chi bằng chết đi còn rảnh rang hơn! Nghe người nói, nuốt vàng sống có thể chết được, còn nhẹ nhàng hơn là thắt cổ.” Nghĩ xong chị Hai cố gượng dậy, mở hòm ra, lấy một cục vàng, không biết nặng bao nhiêu. Khóc một lúc, nghe bên ngoài trời đã sắp đến trống canh năm, chị Hai nghiến răng lại, bỏ vàng vào miệng nuốt, bị nghẹn mấy lần mới nuốt được. Sau đó chị vội ăn mặc trang sức chỉnh tề rồi lên nằm thẳng trên giường, không ai hay biết gì cả.

Đến sớm hôm sau, không thấy chị Hai gọi, bọn a hoàn, bà già cứ đi rửa mặt chải đầu. Phượng Thư và Thu Đồng đều đi lên nhà trên. Bình Nhi không đành dạ, bảo bọn ạ hoàn:

- Các cô chỉ thích người nào đánh chửi cho mới chịu làm, còn người ốm nằm đó thì lờ đi không biết thương hại! Chị ấy tuy hiền lành nhưng các cô cũng nên giữ lề thói một chút, không được lộng quá. Thực là “giậu đổ bìm leo!”

A hoàn nghe vậy, vội đẩy cửa buồng vào xem, thấy chị Hai ăn mặc chỉnh tề, đã chết ở trên giường. Sợ quá, họ kêu ầm lên. Bình Nhi vào xem, không cầm lòng được, khóc òa lên. Ngày thường mọi người sợ Phượng Thư thật, nhưng nghĩ đến chị Hai là người hiền lành, biết thương kẻ dưới, bây giờ chết đi, ai mà chẳng đau lòng rơi lệ? Có điều tránh không để cho Phượng Thư trông thấy.

Lúc đó cả nhà đều biết. Giả Liễn đi vào, ôm xác chị Hai khóc mãi. Phượng Thư cũng giả vờ khóc:

- Tệ quá em ơi! Nỡ nào em bỏ chị mà đi thế này? Thực là phụ lòng tốt của chị!

Vưu Thị và Giả Dung cũng đến khóc một lúc rồi an ủi Giả Liễn. Giả Liễn trình Vương phu nhân xin quàn ở viện Lê Hương năm ngày rồi rước về chùa Thiết Hạm. Vương phu nhân bằng lòng, Giả Liễn sai người đến viện Lê Hương dọn dẹp nhà giữa để quàn linh. Giả Liễn sợ rước linh theo cửa sau không tiện, bèn cho đục tường giữa viện Lê Hương, mở một cửa lớn thông ra ngoài đường. Hai bên căng màn, lập đàn cúng lễ. Rồi lấy chăn gấm nệm đoạn giải lên giường đặt chị Hai vào đó, lấy chăn đơn phủ lên trên. Tám người hầu đàn ông, tám người đàn bà đi theo ven tường khênh đến viện Lê Hương. Khi ấy đã mời thầy cúng đến. Mở chăn ra, thấy nét mặt chị Hai vẫn tươi tỉnh như khi sống, Giả Liễn lại ôm lấy xác chị khóc rống lên:

- Em ơi! Em chết một cách mờ ám, đều là tự ta đã chôn em!

Giả Dung chạy lại khuyên:

- Chú hãy buông ra. Thật là dì cháu hết phúc!

Nói xong, hắn chỉ về phía tường vườn Đại Quan, Giả Liễn hiểu ý, khẽ giậm chân nói:

- Ta quên mất, sau này nhất định sẽ ra, ta sẽ báo thù cho cháu.

Thầy cúng vào trình:

- Mợ chết vào giờ mão hôm nay, ngày thứ năm không thể đưa được. Phải là ngày thứ ba hoặc ngày thứ bảy. Giờ dần ngày mai khâm liệm là tốt.

Giả Liễn nói:

- Ba ngày nhất định không được, cứ phải để bảy ngày, vì chú và anh tôi còn đi vắng, tang nhỏ không dám để lâu. Khi đưa ra ngoài, hãy để năm tuần thất, lập đàn tụng kinh. Sang năm mới đưa về nam chôn cất.

Thầy cúng vâng lời, viết xong cái bảng tang rồi đi ra.

Bảo Ngọc sang khóc một lúc. Người trong họ cũng đều đến. Giả Liễn vội đi tìm Phượng Thư để lấy tiền lo việc tang.

Phượng Thư thấy khênh chị Hai đi rồi, vờ nói ốm: “Cụ và bà Hai nói tôi đang ốm, phải kiêng không đi được”, vì thế cũng không đến chịu tang.

Chị ta chỉ đi ra vườn Đại Quan, vòng quanh các núi, đến dưới tường phía bắc, ra ngoài nghe ngóng một lúc rồi quay về trình lại Giả mẫu thế này thế nọ. Giả mẫu nói:

- Nghe nó nói nhảm làm gì! Con cái nhà ai chết về bệnh lao mà không thiêu đi? Lại còn bày ra đình đám chôn cất này nọ. Đã là vợ Hai thì cũng là tình nghĩa vợ chồng, để dăm bảy ngày rồi đưa đi, hoặc đốt hoặc chôn trên bãi tha ma cho xong việc.

Phượng Thư cười:

- Bà nói phải đấy, nhưng cháu không dám khuyên cậu ấy!

Lúc đó a hoàn đến mời Phượng Thư về, nói:

- Cậu Hai ở nhà đương chờ mợ lấy tiền đấy!

Phượng Thư đành phải về, hỏi Giả Liễn:

- Lấy tiền gì? Dạo này trong nhà túng thiếu, cậu không biết à? Số lương của chúng ta cứ tháng này tiêu lân sang tháng khác, hụt dần mãi đi. Hôm nọ tôi phải cầm cái vòng vàng được ba trăm lạng bạc đem tiêu. Cậu mê rồi ư? Đến nay chỉ còn có vài ba mươi lạng thôi, nếu cậu cần thì lấy đi.

Nói xong, sai Bình Nhi mang ra đưa cho Giả Liễn, rồi nói đổ là Giả mẫu còn muốn hỏi gì, lại ra đi ngay. Giả Liễn tức quá không nói được câu nào, đành phải mở rương hòm của chị Hai để lấy tiền riêng của mình. Nhưng khi mở ra thì không còn tý gì, chỉ trơ lại một ít trâm gãy, hoa nát, và mấy bộ quần áo lụa rung rúc, đều là đồ dùng hàng ngày của chị Hai. Giả Liễn lại thấy đau lòng khóc rống lên, đành lấy cái bọc, gói tất cả lại, không sai bọn người hầu, tự mình đem đi đốt lấy.

Bình Nhi vừa thương tâm vừa buồn cười, vội lấy trộm một bọc hai trăm lạng bạc vụn, khẽ đưa cho Giả Liễn, nói:

- Cậu không nên nói hở ra mới được. Nếu cậu muốn khóc, đi ra ngoài kia khóc mấy chẳng được, lại đến đây khóc trêu ngươi người ta à?

Giả Liễn nói:

- Em nói phải đấy.

Nhận tiền xong, rồi đưa cái khăn thắt lưng cho Bình Nhi, nói:

- Đây là của nó thường đeo trong người, em giữ lấy cho anh để làm kỷ niệm!

Bình Nhi cầm lấy cất đi.

Giả Liễn nhận tiền rồi bảo đi mua ván đóng áo quan suốt đêm rồi sai mấy người chia nhau ngồi coi linh cữu. Đến đêm, Giả Liễn cũng không đi đâu, chỉ nằm bên cạnh áo quan. Quàn đúng bảy ngày. Nghĩ đến tình chị Hai, hắn không dám bày biện linh đình, chỉ mời mấy vị sư và thầy cúng đến siêu độ vong linh.

Bỗng thấy Giả mẫu cho người gọi sang.

-----------------------

(1). Danh từ đông y.

Hồi thứ bảy mươi

Lâm Đại Ngọc mở thi xã Đào Hoa;

Sử Tương Vân điền tiểu từ Liễu Nhứ.

Giả Liễn thủ linh ở viện Lê Hương suối bảy ngày đêm, có sư và thầy cúng tụng niệm. Giả mẫu gọi hắn sang, bảo không cho đưa linh cữu vào trong gia miếu. Giả Liễn không làm sao được, đành phải nói với sư Thời Giác điểm một cái huyệt, đào đất để chôn ở phía trên mộ của chị Ba. Hôm đưa ma, chỉ có những người trong họ cùng vợ chồng Vương Tín, mẹ con họ Vưu mà thôi.

Phượng Thư không nhìn đến việc gì, mặc cho Giả Liễn lo liệu. Lại gần đến ngày cuối năm, ngoài những việc lặl vặt, còn có việc Lâm Chí Hiếu khai danh sách đến trình: cộng tất cả có tám người hầu đã hai mươi lăm tuổi chưa có vợ, chờ xem a hoàn nào ở trong nhà đáng cho ra lấy chồng, sẽ gán ghép cho họ.

Phượng Thư xem xong, đến hỏi Giả mẫu và Vương phu nhân. Mọi người cùng bàn bạc. Tuy có mấy chị đáng gả chồng, nhưng mỗi người lại có duyên cớ riêng. Một là Uyên Ương thề không chịu đi. Từ đó đến nay, nhất định chưa chịu nói chuyện với Bảo Ngọc, và cũng không chịu trang điểm gì. Mọi người thấy cô la kiên gan như thế, cũng không tiện ép. Hai là Hổ Phách hiện đương ốm, nên lần này chưa thể đi được. Ba là Thái Vân vì gần đây phải xa rời Giả Hoàn, cũng đâm ra ốm lơ ốm lửng. Chỉ có mấy a hoàn lớn tuổi làm việc nặng trong phòng Phượng Thư và Lý Hoàn là cho ra thôi. Còn nữa đều chưa đến tuổi, nên cho phép bọn người hầu ra ngoài mà hỏi lấy vợ.

Lâu nay Phượng Thư ốm, Lý Hoàn và Thám Xuân phải trông nom việc nhà, không được nhàn rỗi, lại gặp lúc năm hết tết đến, việc vặt nhiều quá, nên không ai nghĩ gì đến việc mở thi xã cả.

Sang tháng trọng xuân có dịp rảnh rang đây! Nhưng khốn nỗi Bảo Ngọc nhân việc Liễu Tương Liên bỏ đi tu, rồi đến việc chị Ba tự vẫn, chị Hai nuốt vàng sống tự tử, lại thêm con Năm Liễu sau đêm bị giam, bệnh càng thêm nặng, hết chuyện này đến chuyện nọ, việc nọ chưa xong đã dồn đến việc kia, đâm ra buồn giận vẩn vơ, làm cho vẻ mặt ngẩn ngơ, nói năng lảm nhảm, như là người mắc bệnh thần kinh vậy. Bọn Tập Nhân sợ quá nhưng không dám trình Giả mẫu, chỉ tìm hết cách vui đùa cho cậu ta khuây khỏa.

Một hôm trời vừa rạng sáng, nghe thấy ngoài nhà có tiếng cười đùa không ngớt. Tập Nhân cười bảo: “Cậu ra ngăn họ lại. Tình Văn và Xạ Nguyệt đương cù Phương Quan ở ngoài kia đấy”. Bảo Ngọc nghe nói, khoác cái áo dài đi ra xem, thấy ba người còn để chăn nệm bừa bãi, áo ngoài cũng chưa mặc. Tình Văn chỉ mặc áo lót lụa xanh Hàng Châu, quần lót lụa đỏ, đầu tóc rũ rượi, đương cưỡi lên người Phương Quan. Xạ Nguyệt thì mặc cái yếm lụa đỏ, ngoài khoác một cái áo cũ, đương chọc nách Phương Quan, Phương Quan thì nằm ngửa ở trên giường, mặc áo lót hoa quần đỏ, tất xanh, hai chân giẫy giụa đương cười sặc sụa thở không ra hơi. Bảo Ngọc cười nói:

- Hai chị lớn bắt nạt một cô bé! Để tôi cùng đến chọc các chị xem.

Nói xong trèo lên giường cù Tình Văn, Tình Văn buồn quá, cười rồi bỏ Phương Quan ra, đến cào nhau với Bảo Ngọc. Phương Quan được thể đè Tình Văn xuống cù.

Tập Nhân trông thấy bốn người vật lộn nhau, thật buồn cười liền nói: “Cẩn thận kẻo bị lạnh đấy”.

Chợt Bích Nguyệt đến hỏi:

- Chiều hôm qua mợ tôi bỏ quên cái khăn lụa ở đây, không biết bây giờ có còn không?

Xuân Yến vội đáp:

- Có. Tôi nhặt được ở dưới đất, không biết là của ai, vừa đem giặt và phơi chưa khô đâu.

Bích Nguyệt thấy bốn người đương quằn quại với nhau, cười nói:

- Ở bên các chị vui vẻ quá, vừa mới sáng ra, đã họp nhau cười đùa như thế.

Bảo Ngọc cười nói:

- Bên các cô cũng nhiều người, sao lại không đùa?

- Bên ấy mợ tôi không đùa, nên hai dì tôi và cô Cầm cũng phải chịu. Nay cô Cầm lại sang ở bên cụ, thành ra càng vắng. Đến mùa đông năm sau, hai dì tôi sẽ về nhà, thì lại càng buồn hơn! Cậu thử xem ở bên cô Bảo chỉ một mình chị Hương Lăng ra về, mà cứ như là thiếu đi mất mấy người, làm cô Tương Vân cũng trơ trọi một mình.

Lúc đó Tương Vân sai Thúy Lũ đến nói: “Mời cậu Hai sang ngay để xem thơ hay”. Bảo Ngọc vội rửa mặt, chải đầu rồi đi. Đến nơi, thấy Đại Ngọc, Bảo Thoa, Tương Vân, Bảo Cầm, Thám Xuân đều ở cả đấy, đương cầm một bài thơ xem. Thấy Bảo Ngọc đến, mọi người đều cười nói:

- Bây giờ cậu mới dậy à? Thi xã của chúng ta đã tan đi một năm nay, không có người đứng ra dựng lại. Nay đang vào tiết đầu xuân, muôn vật đổi mới, đáng nên hăng hái dựng lại mới phải.

Tương Vân cười nói:

- Trước thi xã của chúng ta mở vào mùa thu nên không phát đạt. Bây giờ muôn vật vui tươi dưới trời xuân, chúng ta sửa soạn mở lại thi xã, thế nào cũng sẽ thịnh vượng. Vả chàng bài thơ “Đào hoa” này lại hay, vậy nên đổi “Hải đường xã” làm “Đào hoa xã “ mới đúng.

Bảo Ngọc gật gù nói: “Được lắm”. Rồi đòi lấy bài thơ để xem. Mọi người đều nói:

- Bây giờ chúng ta hãy sang thăm vị Đạo Hương lão nông rồi cùng bàn cho xong việc mở lại thi xã.

Nói xong, họ đứng dậy đi sang Đạo Hương thôn. Bảo Ngọc vừa đi vừa xem, thì thấy thơ viết:

Hoa đào nọ ngoài rèm gió liệng,

Người trong rèm sớm biếng điểm trang.

Trong ngoài chừng độ tấc gang,

Người đây hoa đấy lại càng gần thêm.

Gió muốn thổi cho rèm lại mở,

Hoa muốn nhòm rèm cứ đứng ngay.

Ngoài rèm hoa vẫn nở đầy,

Mà trong rèm lại người gầy hơn hoa.

Hoa cũng biết xót xa ai đó,

Đứng ngoài rèm nhờ gió hỏi han.

Gió luồn hoa đã đầy sân,

Ngoài sân hoa những tần ngần nhớ ai?

Sân rêu bám phía ngoài khép cửa,

Bóng chiều về người tựa lan can.

Tựa lan nhìn gió lệ tràn,

Quần hồng rón rén dạo vườn hoa chơi.

Kìa hoa lá tơi bời trên dưới,

Hoa ửng hồng, lá rọi màu xanh.

Khói tuôn phủ kín muôn cành,

Bóng lờ mờ thắm, in quanh vách lầu.

Mặt trời chói nát nhàu chăn gấm,

Gối san hồ giấc ấm vừa tan.

Gái hầu dâng chậu kim bồn,

Chè hương ấm giọng phấn son lạnh mùi.

Này người đẹp hoa tươi là thế,

Sao hoa tươi mà lệ vẫn rơi?

Đem hoa ví với lệ người,

Lệ tuôn lã chã hoa cười lả tơi.

Xem hoa mai lệ vơi vơi cạn,

Lệ cạn rồi xuân chán hoa buồn,

Hoa buồn người cũng héo hon,

Hoa bay, người lả, chiều hôm còn gì?

Tiếng quyên bỗng gọi xuân đi,

Rèm này lặng lẽ trăng kia lờ mờ!

Bảo Ngọc xem xong, chẳng khen ngợi gì, ra vẻ ngẩn ngơ, rơm rớm nước mắt. Nhưng sợ người ta trông thấy, nên vội lau đi... Rồi lại hỏi:

- Bài này các chị lấy được ở đâu?

Bảo Cầm cười nói:

- Anh thử đoán xem ai làm nào?

- Chắc là bài của Tiêu Tương Tử(1) rồi.

- Bài này của em làm đấy!

- Tôi không tin! Giọng thơ này không giống của cô một tí nào.

- Thế là anh học hãy còn kém. Chẳng lẽ bài nào ông Đỗ Công Bộ cũng có những câu như: “Khóm cúc tuôn rơi dòng lệ cũ” hay sao? Nhiều bài cũng có những câu như “Mưa mai nở nụ hồng” “Cành lau lướt gió giải xanh dài”  chứ.

- Đã đành thế rồi. Nhưng tôi chắc là chị Bảo không khi nào cho cô làm những câu buồn rầu như thế? Cô vẫn có tài làm được, chỉ không chịu làm đó thôi. Chứ không phải như cô Lâm gặp nhiều nghịch cảnh, nên hay có những lời ai oán.

Mọi người nghe nói đều cười. Lúc đến Đạo Hương thôn, họ đưa thơ ra, Lý Hoàn xem xong, khen ngợi không ngớt. Mọi người bàn định việc mở thi xã: ngày mai là mồng hai tháng ba, sẽ mở thi xã, đổi tên “Hải đường xã” làm “Đào hoa xã”. Đại Ngọc làm chủ.

Hôm sau ăn cơm xong, mọi người đến họp cả ở quán Tiêu Tương để định ra đầu bài. Đại Ngọc nói:

- Chúng ta làm bài thơ hoa đào hạn một trăm vần.

Bảo Thoa nói:

- Không được. Xưa nay thơ hoa đào nhiều lắm rồi, làm nữa sẽ trùng và cũng không được bằng bài cổ phong của chị đâu. Phải ra đầu bài khác.

Đương nói thì có người vào trình:

- Bà mợ sang chơi, mời các cô đến chào.

Mọi người đều đến chào vợ Vương Tử Đằng, rồi ngồi hầu chuyện. Ăn cơm xong, họ lại theo bà ấy vào vườn, ngoạn cảnh một lượt, đến bữa cơm chiều xong, vào lúc lên đèn mới về.

Hôm sau là ngày sinh nhật Thám Xuân. Nguyên Xuân sai hai viên Thái giám đưa đến cho mấy thứ đồ chơi. Mọi người đều có đồ lễ mừng thọ, không phải nói kỹ. Ăn cơm xong, Thám Xuân mặc lễ phục đi chào các nơi.

Đại Ngọc cười bảo mọi người:

- Lần này thi xã của chúng ta mở không khéo chọn ngày, lại quên hẳn hai hôm nay là sinh nhật của cô ấy. Tuy không bày tiệc hát xướng gì, nhưng thế nào cũng phải cùng với cô ấy sang bên cụ và bà Hai vui chơi một ngày. Như thế thì còn được lúc nào rỗi nữa?

Vì thế lại hoãn đến ngày mồng năm.

Hôm đó, bọn chị em hầu xong cơm sáng ở trong phòng, thì có thư của Giả Chính gửi về. Bảo Ngọc hỏi thăm sức khỏe xong, mở bức thư ra đọc cho Giả mẫu nghe. Đoạn trên là những lời thăm hỏi và nói đến tháng sáu sẽ được phép về Kinh. Còn thư riêng gửi về nhà nói việc lặt vặt thì đã có Giả Liễn và Vương phu nhân mở xem. Mọi người nghe nói độ tháng sáu, tháng bảy Giả Chính sẽ về Kinh, đều vui mừng khôn xiết. Ngay hôm đó Vương Tử Đằng lại có việc gả cháu gái cho con trai Bảo Ninh hầu, chọn đến tháng năm cho cưới, Phượng Thư lại bận xếp đặt công việc, thường phải đi vắng dăm ba ngày. Hôm đó, vợ Vương Tử Đằng lại sang đón Phượng Thư và các cháu trai cháu gái sang vui chơi một hôm. Giả mẫu và Vương phu nhân cho Bảo Ngọc, Thám Xuân, Đại Ngọc, Bảo Thoa cùng đi với Phượng Thư. Mọi người không dám trái lời, đành phải về buồng sửa soạn ăn mặc để đi. Năm người đi chơi một ngày, đến lúc lên đèn mới về.

Bảo Ngọc về đến viện Di Hồng, nằm nghỉ một lát, Tập Nhân nhân dịp này khuyên Bảo Ngọc nên để ý nghĩ lại, lúc rỗi phải mang sách ra xem để chuẩn bị trước. Bảo Ngọc tính đốt tay nói:

- Còn sớm chán.

- Xem sách còn là việc thứ hai. Đến bấy giờ dù cậu có thuộc sách đi nữa, nhưng chữ viết của cậu thì ở đâu?

- Ngày thường tôi cũng viết được khá đấy, chẳng lẽ chị không cất đi à?

- Sao lại không cất? Hôm nọ cậu đi vắng, tôi lục cả ra, đếm cẩn thận tất cả mới có năm trăm sáu mươi mấy bài. Có lẽ nào ròng rã hai ba năm trời, mới được có mấy tờ ấy à? Cứ ý tôi thì, bắt đầu từ ngày mai, cậu hãy hồi tâm lại, mỗi ngày phải viết thêm mấy tờ, tuy không nhất định ngày nào cũng có, nhưng cậu phải làm sao cho dễ coi mới được.

Bảo Ngọc nghe nói, tự mình soát lại một lượt, thì thực không thể nào đắp điếm cho qua được, liền nói:

- Bắt đầu từ ngày mai, mỗi ngày tôi phải viết một trăm chữ mới được.

Nói xong đi ngủ. Hôm sau trở dậy, rửa mặt gội đầu xong, Bảo Ngọc liền ngồi viết chữ ở dưới cửa sổ. Giả mẫu không thấy Bảo Ngọc đến, tưởng là ốm, liền sai người sang hỏi. Bảo Ngọc đến chào Giả mẫu, nói:

- Vì cháu bận viết tập, nên đến hầu muộn.

Giả mẫu nghe nói xiết đỗi vui mừng, dặn dò:

- Từ nay cháu cứ chăm chỉ viết chữ đọc sách, không phải sang hầu ta cũng được. Cháu đến trình với mẹ cháu biết.

Bảo Ngọc nghe nói, sang trình Vương phu nhân biết.

Vương phu nhân nói:

- Lúc ra trận mới mài giáo thì còn ăn thua gì. Bây giờ cuống lên, ngày nào cũng đọc đọc viết viết, thì liệu được bao nhiêu? Khéo cứ dồn dập mãi lại sinh ốm đấy thôi.

Bảo Ngọc đáp:

- Không sao đâu.

Giả mẫu cũng sợ Bảo Ngọc sinh ốm. Bảo Thoa, Thám Xuân đều cười nói:

- Xin cụ đừng lo, sách thì các cháu không thể đọc hộ được anh ấy, nhưng chữ thì các cháu có thể viết hộ được. Mỗi ngày chúng cháu mỗi người viết hộ anh ấy một bài, để đắp điếm cho qua lúc này là xong. Một là để ông khỏi giận, hai là anh ấy cũng không đến nỗi dồn dập sinh ra ốm.

Giả mẫu nghe nói gật đầu cười.

Đại Ngọc nghe nói Giả Chính sắp về, thế nào cũng hỏi đến việc học hành của Bảo Ngọc, nhưng mấy lâu nay Bảo Ngọc vẫn lêu lổng, chắc khi hỏi đến sẽ bị quở phạt. Vì thế, Đại Ngọc ra vẻ uể oải không nhắc đến việc mở thi xã và cũng không rủ rê việc gì nữa. Thám Xuân và Bảo Thoa mỗi ngày viết một bài chữ chân phương đưa cho Bảo Ngọc. Chính Bảo Ngọc hàng ngày cũng cố gắng viết đến hai, ba trăm chữ. Đến cuối tháng ba, dồn cả số chữ lại đã được rất nhiều. Hôm đó tính ra nếu được thêm năm chục bài nữa, thì cũng đắp điếm được rồi. Ngờ đâu Tử Quyên đến, đưa cho một cuộn. Báo Ngọc mở ra xem, thấy cuộn giấy viết lối chữ nhỏ của họ Chung và họ Vương(2) bằng thứ giấy trơn giống hệt như lối chữ của mình. Bảo Ngọc mừng quá, vái Tử Quyên một cái, rồi đến tận nơi tạ ơn. Sau đó Tương Vân, Bảo Cầm cũng viết mấy bài đưa đến. Dồn lại, tuy không viết đủ số nhưng cũng có thể nhể nhóa được rồi. Bảo Ngọc đã yên tâm. Lại đem những sách cần phải đọc, ôn lại mấy lần.

Bảo Ngọc đang lúc gắng công học hành, thì một giải ven bể có nước dâng, nhân dân bị nạn ngập lụt, quan địa phương tâu lên, vua truyền chỉ xuống cho Giả Chính tiện đường đến đấy tra xét và phát chẩn. Như thế tính ra phải đến cuối mùa đông mới về Kinh được, Bảo Ngọc biết tin lại gác chuyện đọc sách viết chữ, rồi cứ chơi tràn như cũ.

Nhân gặp buổi cuối xuân, Tương Vân ngồi buồn, trông thấy hoa liễu phấp phới, liền làm một bài tiểu từ, theo điệu “Như mộnglệnh”.

Nào phải nhung thêu mới rắc;

Rèm cuốn nửa chừng thơm sặc.

Tay tiên nhặt đem về,

Quyên khóc yến hờn cũng mặc.

Giữ chặt! Giữ chặt!

Đừng để xuân đi nơi khác.

***

Phải chăng là bức nhung thêu(3)

Hương mù lơ lửng nhường treo nửa rèm.

Tay này thoăn thoắt nhặt xem,

Làm cho quyên khóc yến ghen suốt ngày.

Thôi thôi ta giữ chặt tay,

Chúa xuân khéo lại đi ngay đó mà!

Làm xong, Tương Vân rất là đắc ý, lấy tờ giấy viết ra, đưa cho Bảo Thoa xem, rồi lại đi tìm Đại Ngọc, Đại Ngọc xem xong, cười nói:

- Hay đấy! Vừa mới vừa lý thú.

- Mấy lần thi xã của chúng ta chưa làm từ. Ngày mai chị cho mở thi xã làm từ, chẳng mới hay sao?

Đại Ngọc cao hứng nói:

- Cô nói phải đấy. Hôm nay gặp lúc đẹp trời, sao chúng ta không làm ngay.

- Cũng được.

Nói xong Đại Ngọc bảo sắm sửa mấy món ăn, rồi sai người đi mời các nơi.

Đại Ngọc, Tương Vân đã nghĩ sẵn đầu bài là “liễu nhứ” (bông hoa liễu) và hạn phải theo mấy điệu từ, viết xong dán lên tường. Mọi người đến xem thì thấy: Đầu bài là “liễu nhứ” hạn phải theo mấy tiểu điệu đã định trước. Rồi họ đều xem bài từ của Tương Vân, cùng nhau khen ngợi một lúc.

Bảo Ngọc cười nói:

- Lối từ này tôi làm xoàng lắm, nhưng cũng phải nói nhảm vậy.

Rồi mọi người đến gắp thăm. Bảo Thoa gấp được điệu  “Lâm giang tiên”; Bảo Cầm gắp được điệu “Tây giang nguyệt”; Thám Xuân gắp được điệu “Nam kha từ”; Đại Ngọc gắp được điệu “Đường đa lệnh”; Bảo Ngọc gắp được điệu “Điệp luyến hoa”; Tử Quyên đốt một nén “Mộng điềm hương”. Mọi người bắt đầu suy nghĩ làm từ.

Một lúc Đại Ngọc làm xong và viết ra. Rồi đến Bảo Cầm cũng vội viết luôn. Bảo Thoa cười nói:

- Tôi cũng làm xong rồi, chờ xem của các chị đã, rồi đến của tôi.

Thám Xuân cười nói:

- Sao hương hôm nay cháy nhanh thế? Tôi mới làm được nửa bài.

Lại hỏi Bảo Ngọc:

- Anh đã làm xong chưa?

Bảo Ngọc tuy đã làm được một ít, vì tự xét là không hay, lại xóa cả đi để làm bài khác; nhưng quay lại nhìn thì hương đã cháy hết. Bọn Lý Hoàn cười nói:

- Chú Bảo lại thua rồi. Còn cô Tiêu Khách thế nào?

Thám Xuân nghe nói, liền viết ra. Mọi người đến xem trên giấy, chỉ mới được nửa bài theo điệu “Nam kha từ”:

Dây đâu treo lơ lửng,

Sợi khéo rủ lòng thòng.

Buộc buộc xe xe cũng khó lòng,

Thôi đành chia các ngả nam bắc tây đông!

Trơ đây những sợi lòng thòng,

Kéo về buộc lại khó lòng lắm thay!

Liều cho nam bắc đông tây

Chia lìa các ngả thì đây cũng đành.

Lý Hoàn cười nói:

- Cũng hay đấy. Sao không làm nốt đi?

Bảo Ngọc thấy hương cháy hết rồi, đành bỏ bút xuống, xin thua, chứ không chịu miễn cưỡng làm chiếu lệ, rồi đến xem nửa bài của Thám Xuân. Thấy chưa làm xong, Bảo Ngọc cao hứng, cầm bút viết tiếp:

Rơi xuống chàng đứng tiếc,

Bay về thiếp biết thôi.

Tiết muộn màng oanh bướm bùi ngùi,

Sang xuân dù gặp, đã cách một năm rồi.

Tiếc chi cái phận lênh đênh,

Bay về mình biết cho mình đấy thôi.

Oanh buồn bướm mệt lắm rồi,

Xuân sau dù gặp cũng ngoài một năm!

Mọi người cười nói:

- Chính bài của mình không làm nổi lại đi làm hộ người. Dù có hay cũng không đáng kể.

Sau đó xem đến bài của Đại Ngọc là một khúc “Đường đa lệnh”.

Bãi hoa phấn rơi tràn,

Lầu yến hương đã tàn.

Quả cầu bay nối tiếp từng đoàn,

Xiêu dạt khác chi người mệnh bạc.

Còn chi ân ái đoàn loan.

Cây cỏ cũng biết sầu,

Tuổi xuân đến bạc đầu,

Thương kiếp này ai biết ai đâu.

Theo hẳn gió đông xuân cũng mặc,

Thôi đi thẳng, ở chi lâu!

Phấn rơi nào bãi trăm hoa,

Nào lầu yến tử hương mà còn đâu?

Hàng đoàn hàng đội theo nhau,

Kìa ai thả những quả cầu này đây?

Mỏng manh trôi dạt thân này,

Uổng công gắn bó thiệt ngày phong lưu!

Cỏ cây âu cũng rầu rầu,

Tuổi xanh âu cũng bạc đầu đến nơi.

Kiếp này thôi thế thì thôi,

Ai người nâng lấy ai người bỏ rơi!

Gió đông đành gả cho rồi.

Đi thì đi hẳn đoái hoài làm chi!

Mọi người xem xong đều gật đầu thở dài:

- Bài này làm buồn quá, nhưng rất hay.

Lại xem bài “Tây giang nguyệt” của Bảo Cầm:

Vườn Hán lầu hồng lác đác,

Đê Tùy sắc lục mênh mông.

Sự nghiệp ba xuân gặp gió đông,

Hoa mai vừng nguyệt cũng là không.

Mấy chỗ hoa rơi đỏ ối,

Nhà ai rèm tuyết hương nồng.

Giang nam, giang bắc cảnh cùng chung,

Luống để người xa chạnh lòng!

Lơ thơ vườn Hán buồn thay,

Đê Tùy man mác hoa bay ngàn trùng.

Việc xuân giả mặc gió đông,

Trăng hoa là một giấc nồng đấy thôi.

Mấy nơi hoa rụng sân ngoài?

Nhà ai rèm tuyết đượm mùi hương thơm.

Cùng chung một cảnh bắc nam,

Mà người ly biệt buồn càng buồn thêm!

Mọi người đều cười nói:

- Bài này thanh điệu rất là bi tráng. Hai câu “mấy chỗ” và “nhà ai “ rất hay.

Bảo Thoa cười nói:

- Nhưng vẫn không khỏi buồn chán. Tôi nghĩ bông hoa liễu vẫn là một thứ mỏng manh không bám vào đâu, nhưng cứ ý tôi, phải nói cho nó tốt thì mới thoát được sáo cũ. Vì thế tôi tạm đặt một bài, chưa chắc đã hợp được ý chị em.

Mọi người cười:

- Đừng nói nhũn quá, chắc là hay hẳn, hãy để cho chúng tôi thưởng thức.

Đây là một bài theo hiệu “Lâm giang tiên”.

Bạch ngọc trước thềm xuân biết múa,

Gió đông khéo cuốn đều đều!

Trước thềm xuân biết múa may,

Gió đông cuốn rải hoa này khắp nơi.

Tương Vân cười nói ngay:

- Câu “Gió đông khéo cuốn đều đều” hay quá! Một câu này cũng đã hơn hẳn người ta rồi.

Ong bướm hàng đàn lượn dập dìu,

Nỡ để bụi thơm vùi dập.

Bao phen dòng nước trôi theo,

Muôn sợi tơ mành nào khác trước.

Hợp tan mặc bước gieo neo,

Xuân chớ cười ta giống treo leo.

Nhờ gió đưa lên mãi,

Trên mây ngất ngưởng trèo.

Bướm ong nhao nhác bay hoài,

Đâu theo dòng nước? Đâu vùi bụi thơm?

Muôn dây nghìn sợi vẹn toàn,

Cũng đành khi hợp khi tan tha hồ!

Đừng cười là giống chơ vơ,

Mây xanh lên vút ta nhờ gió đông.

Mọi người vỗ bàn khen hay, đều nói:

- Thực là nói trái đi rất khéo! Bài này chắc là hơn cả. Giọng điệu trìu mến buồn rầu, phải nhường cho Tiêu Tương tử; tình tứ vui vẻ thùy mỵ, lại là cô Chầm Hà; còn Tiểu Tiết (Bảo Cầm) và Tiêu Khách thì hôm nay thi hỏng, phải chịu phạt rồi.

Bảo Cầm cười nói:

- Cố nhiên chúng tôi xin chịu phạt. Nhưng không biết người nộp quyển trắng phải phạt thế nào?

Lý Hoàn nói:

- Chớ vội, nhất định phải phạt thật nặng để làm nề nếp cho lần sau.

Nói chưa dứt lời, thì trên ngọn trúc ngoài cửa sổ có một tiếng động, như là cánh cửa sổ rơi. Mọi người đều giật mình. A hoàn chạy ra nghe bọn hầu nhỏ ở ngoài rèm nói:

- Có một cái diều con bướm lớn, mắc ở trên ngọn trúc.

Các a hoàn cười nói:

- Cái diều đẹp quá, không biết của nhà ai thả đứt dây bay lại đây. Chúng ta lấy xuống đi.

Bảo Ngọc ra xem, cười nói:

- Tôi nhận ra cái diều này rồi. Đó là cô Kiều Yên ở dinh bác Cả bên kia thả đấy. Lấy xuống mang trả cho cô ấy.

Tử Quyên cười nói:

- Có lẽ nào thiên hạ không ai có, chỉ một cô ấy có cái diều như thế? Tôi không kể, hãy lấy xuống đã.

Thám Xuân cười nói:

- Chị Tử Quyên hẹp hòi quá. Chúng ta ai cũng có rồi, lại đi lấy của người ta, không sợ mang tiếng à?

Đại Ngọc cười nói:

- Phải đấy. Mang diều của chúng ta ra đây thả cho hết cái đen đủi đi.

Tử Quyên vội sai bọn a hoàn cầm cái diều ra cửa vườn giao cho bà già đi trực nhật, dặn có ai đến hỏi,sẽ trả người ta.

Bọn a hoàn chỉ chờ nghe nói thả diều, liền ba chân bốn cẳng chạy ngay đi lấy cái diều mỹ nhân đến. Rồi đứa bắc cái đồn cao; đứa buộc cái gạc ba vào cần; đứa thì thả. Bọn Bảo Thoa đứng ở trước cửa, sai a hoàn tìm chỗ đất rộng ở ngoài sân thả lên. Bảo Cầm cười nói:

- Cái diều ấy của chị không bằng cái diều Phượng Hoàn vẫy cánh của chị Ba đẹp hơn.

Bảo Thoa cười nói: “Đúng đấy”. Nhân quay lại cười bảo Thúy Mặc:

- Cô về lấy cái diều của nhà cô mang đến đây mà thả.

Bảo Ngọc cũng cao hứng, bảo đứa hầu nhỏ:

- Về nhà đem cái diều con cá của già Lại Đại cho hôm trước đến đây.

Đứa hầu nhỏ đi một lúc, về người không, cười nói:

- Hôm qua chị Tình Vãn đem thả đã mất rồi.

Bảo Ngọc nói:

- Tôi chưa được thả lần nào.

Thám Xuân cười nói:

- Nhưng mà chị ấy cũng đã thả cho anh hết vận đen là được rồi.

Bảo Ngọc nói:

- Thôi về lấy cái diều con cua ra đây vậy.

Hầu nhỏ đi một lúc rồi cùng mấy người khiêng một cái diều hình mỹ nhân và cả cuộn dây đến, nói:

- Chị Tập Nhân bảo: cái diều con cua hôm qua đã cho cậu Ba rồi. Cái diều này là của già Lâm mới đem cho đây, thả cái này vậy.

Bảo Ngọc xem kỹ một lúc, thấy cái diều mỹ nhân làm rất khéo, trong bụng rất thích, liền bảo thả lên.

Bấy giờ diều của Thám Xuân cũng đã mang đến. Thúy Mặc cùng mấy a hoàn đương thả ở trên sườn núi. Bảo Cầm sai a hoàn thả một cái diều con dơi. Bảo Thoa cũng cho thả một cái diều kết hình bảy con nhạn. Chỉ có cái diều mỹ nhân của Bảo Ngọc thả không lên được. Bảo Ngọc bảo bọn a hoàn không biết thả, tự mình ra thả một lúc lâu, diều chỉ lên cao bằng nóc nhà, rồi lại rơi xuống. Bảo Ngọc tức quá toát cả mồ hôi trán ra. Mọi người đều cười. Bảo Ngọc vứt ngay xuống đất trỏ vào cái diều, nói:

- Nếu mày không phải là diều mỹ nhân thì ta giậm một cái nát ra rồi.

Đại Ngọc cười nói:

- Đó là vì dây trên đầu buộc không đúng. Đưa cho người ta đổi đi, sẽ thả được ngay. Hãy lấy một cái khác đem ra mà thả.

Bảo Ngọc sai người thuộc lại dây, lại sai đi lấy cái diều khác đến. Mọi người đều ngửa mặt lên nhìn mấy cái diều đương bay ở trên không.

Bọn a hoàn lại đưa các món ăn đến. Tử Quyên cười bảo Đại Ngọc:

- Lúc này thích lắm, cô lại mà thả đi.

Đại Ngọc lấy khăn lót tay nắm dây để thả, quả nhiên gió rất to, vừa buông cuộn dây ra, liền nghe thấy soạt một tiếng, tức thì dây hết. Đại Ngọc mời mọi người đến thả. Ai nấy đều nói:

- Chúng tôi ai cũng có cả, cô cứ thả trước đi.

Đại Ngọc nói:

- Thả cũng thú đấy, nhưng tôi không nỡ lòng nào.

Lý Hoàn nói:

- Thả diều cốt để vui, cho nên mới nói là thả cái đen đủi. Cô cứ thả nhiều, cho nó mang hết cả bệnh của cô đi mới được.

Tử Quyên nói:

- Cô tôi hẹp hòi quá, cả năm chẳng thả được mấy cái, nay lại bảo là đau lòng. Thôi, cô không thả thì tôi thả vậy.

Nói xong, liền giật lấy cái kéo tây nhỏ trong tay Tuyết Nhạn, cắt soạt một cái, đứt dây, nói:

- Cho mày đi, rồi mang tất cả các bệnh đi theo.

Cái diều vù vù theo gió bay lên. Lúc đầu trông thấy diều chỉ bằng quả trứng gà, chớp mắt chỉ còn một điểm đen bằng ngôi sao, sau không trông thấy gì cả. Mọi người đều ngẩng lên nói:

- Thích quá, thích quá !

Bảo Ngọc nói:

- Đáng tiếc! Không biết nó rơi vào đâu? Rơi vào nơi đông người, trẻ con nhặt được còn khá; bằng như rơi xuống nơi đồng không hoang vắng, không một bóng người, thật tôi cũng lấy làm âm thầm cho nó. Sực nhớ ra, giá ta thả thế này, mà cho hai cái đi theo làm bầu làm bạn thì hay.

Rồi cũng lấy kéo cắt dây cho nó bay đi.

Thám Xuân đương định cắt dây cái diều phượng hoàng của mình, chợt nhìn thấy một cái diều phượng hoàng đang bay lên trời, liền nói:

- Không biết cái kia của ai?

Mọi người đều nói:

- Cô cứ cắt cái của cô đi, xem nó quấn lại với nhau thế nào?

Nói xong, thấy cái diều phượng hoàng này dần dần bay sát lại chập vào cái diều phượng hoàng kia. Mọi người đương định rút dây lại, thấy cái diều kia cũng rút dây. Hai cái đương quấn với nhau, lại thấy một cái diều thật to, có chữ “Hỷ” long lanh, có cả sáo vang lên như tiếng chuông trên lưng chừng trời, bay dần sát lại. Mọi người nói:

- Để cho cái này quấn vào, hãy hượm kéo về. Cả ba cái quấn vào nhau mới thích.

Quả nhiên cái diều chữ “Hỷ” quấn vào hai diều phượng hoàng. Ba cái cứ đảo tít mù, đều đứt cả dây rồi vù vù bay đi cả. Mọi người đứng xem vỗ tay cười:

- Thú thật! Không biết cái diều chữ “Hỷ” là của nhà ai, lại đâm ngay vào?

Đại Ngọc nói:

- Diều của tôi đã thả rồi. Tôi mệt lắm, phải về nghỉ thôi.

Bảo Thoa nói:

- Đợi chúng tôi thả xong, cùng về một thể.

Xem chị xem thả xong rồi ai nấy mới về. Đại Ngọc về phòng mệt lừ người.

-------------------------

(1). Tức Chung Do và Vương Hy Chi, người đời Tấn, có tiếng là chữ tốt.

(2). Dưới các bài từ, chúng tôi đặt thêm thể lục bát để các bạn đọc thưởng thức.

(3). Kinh để cầu bình an sống lâu.

Hồi thứ bảy mươi mốt

Người hiềm khích cố ý gây hiềm khích;

Gái Uyên Ương vô tình gặp Uyên Ương.

Giả Chính về Kinh, tâu lại mọi việc xong xuôi, được về nhà nghỉ một tháng. Vì tuổi già sức yếu, công việc nặng nề, lại mấy năm ở bên ngoài, xa cách gia đình. Nay được tụ họp trong nhà, tất nhiên ông ta vui mừng khôn xiết. Vì vậy bất cứ việc lớn nhỏ đều gác một bên, ngày ngày chỉ xem sách, khi buồn thì đánh cờ, uống rượu với bọn gia khách, hoặc ban ngày, mẹ con, vợ chồng cùng ngồi với nhau nói chuyện cho vui.

Nhân mồng 3 tháng 8 năm này là ngày bát tuần đại khánh của Giả mẫu, bạn bè sẽ đến mừng, sợ yến tiệc không làm xuể nên Giả Chính đã bàn với Giả Xá và Giả Liễn, định bắt đầu từ ngày 28 tháng 7 đến mồng 5 tháng 8, hai phủ Vinh, Ninh đều mở yến tiệc. Phủ Ninh thì mời khách đàn ông, phủ Vinh thì mời khách đàn bà. Trong vườn Đại Quan thì thu dọn mấy nơi rộng rãi như gác Xuyết Cẩm, viện Gia Ấm để làm chỗ nghỉ ngơi. Ngày 28 thì mời các hoàng thân, phò mã, vương công, các tước vương, quận chúa, vương phi, công chúa, quốc quân, thái quân, phu nhân; ngày 29 mời các vị phủ, đốc, trấn cùng các bậc mệnh phụ; ngày 30 mời các vị quan trưởng cùng phu nhân, bạn thân xa gần cùng các bà. Ngày mồng một thì Giả Xá bày gia yến, ngày mồng hai đến nhà Giả Chính, ngày mồng ba đến nhà Giả Trân và Giả Liễn; ngày mồng bốn thì trong phủ Giả góp nhau bày gia yến; ngày mồng năm thì bọn Lại Đại, Lâm Chi Hiếu cùng bọn quản sự góp chung bày yến mừng một ngày.

Từ đầu tháng bảy, người đưa lễ thọ đến mừng liên tiếp không dứt. Bộ Lễ vâng chỉ ban cho một cái gậy bằng vàng dát ngọc, bốn súc đoạn màu, chén vàng bốn cái, bạc năm trăm lạng. Nguyên phi lại sai Thái giám đưa đến một tấm thọ tinh bằng vàng, một cái gậy trầm hương, một chuỗi hạt dà nam, một hộp hương phúc thọ, hai nén vàng, tám nén bạc, mười hai tấm đoạn màu, bốn cái chén ngọc. Ngoài ra từ thân vương, phò mã đến các quan văn võ lớn, nhỏ đi lại xưa nay đều có lễ mừng, không thể kể xiết được. Trong nhà đặt một cái bàn lớn trải thảm đỏ bày hết những đồ quý giá bên trên rồi mời Giả mẫu đến xem. Mấy hôm đầu, Giả mẫu còn cao hứng đến nhìn qua, sau chán không xem nữa, chỉ nói: “Bảo cháu Phượng nhận cả, hôm nào rảnh ta sẽ lại xem”.

Đến ngày 28, trong hai phủ đều treo đèn kết hoa, đặt bình loan phượng, trải nệm phù dung, tiếng đàn sáo chiêng trống vang khắp ngoài đường trong ngõ. Hôm ấy trong phủ Ninh chỉ có Bắc Tĩnh vương, Nam An quận vương, Vĩnh Xương phò mã, Lạc Thiện quân vương, cùng mấy vị công hầu ấm tập bạn thân; trong phủ Vinh thì có Nam An vương thái phi, Bấc Tĩnh vương phi cùng các vị mệnh phụ công hầu bạn thân. Bọn Giả mẫu đều mời ngay vào viện Gia Ấm trong vườn Đại Quan uống trà, thay áo xong nghỉ ngơi, mới đến viện Vinh Khánh mừng thọ rồi vào tiệc. Họ nhường nhau một lúc mới ngồi vào chỗ. Nam vương phi và Bắc vương phi ngồi ở hai bàn trên, còn các bà công hầu thì theo thứ tự ngồi ở bàn dưới. Phía dưới, bên trái thì các bà Cẩm Hương hầu và Lâm Xương bá ngồi tiếp, phía dưới bên phải là chỗ ngồi của Giả mẫu. Hình phu nhân và Vương phu nhân dẫn Vưu thị, Phượng Thư cùng mấy bà trong họ dàn thành hàng cánh nhạn đứng hầu sau lưng Giả mẫu, vợ Lâm Chi Hiếu và vợ Lại Đại dẫn bọn đàn bà đứng ở ngoài rèm trúc dâng rượu và thức ăn, vợ Chu Thụy dẫn mấy a hoàn đứng sau bình phong để chờ sai bảo. Những người đi hầu các vị khách đều có người mời đi khoản đãi ở chỗ khác.

Một lúc ban hát ra chúc mừng, ở dưới sân khấu có 12 đứa gái nhỏ chưa để tóc, đều trang điểm một màu, chắp tay đứng hầu. Một lát, có một người dâng đơn kê tên vở hát đứng ở dưới thềm, đưa cho một bà đứng trình việc. Bà ấy nhận rồi mới đưa cho vợ Lâm Chi Hiếu. Vợ Lâm Chi Hiếu để đơn vào cái khay nhỏ rón rén mở rèm vào đưa cho nàng hầu của Vưu Thị là Bội Phượng nhận rồi mới đưa cho Vưu Thị. Vưu Thị nâng lên bàn trên, Nam An thái phi nhường một lúc, rồi chấm một vở hát “Cát Khánh”, sau lại đưa cho Bắc Tĩnh vương phi chấm một vở nữa. Mọi người khác lại nhường nhau một lúc rồi bảo chọn vở nào hay thì hát.

Một lát, mới dâng được bốn món ăn và một món canh, những người theo đến hầu phát phần thưởng cho con hát xong, mọi người thay áo đi vào vườn rồi dâng chè ngon.

Nam An thái phi nhân hỏi đến Bảo Ngọc. Giả mẫu cười nói:

- Hôm nay mấy nơi trong miếu tụng kinh “Bảo an duyên thọ”(4) cháu nó phải đi chầu kinh rồi.

Lại hỏi đến bọn chị em.

Giả mẫu cười nói:

- Các cháu đứa thì ốm, đứa thì yếu, hễ thấy người lạ là ngượng ngùng, nên tôi bảo chúng nó ở lại trông nhà. Đã truyền một ban hát có cả con hát nhỏ sang hát ở bên nhà, các cháu đương tiếp bà dì cháu xem hát đấy.

Nam An thái phi cười nói:

- Đã thế thì bảo người gọi họ sang đây.

Giả mẫu quay lại bảo Phượng Thư:

- Đi gọi các em Tương Vân, Bảo Thoa, Bảo Cầm, Đại Ngọc và bảo em Ba dẫn chúng nó đến.

Phượng Thư vâng lời, sang nhà Giả mẫu, thấy bọn chị em đương ăn quả xem hát. Bảo Ngọc cũng mới đi chầu kinh ở miếu về. Phượng Thư nói xong, chị em Bảo Thoa cùng Đại Ngọc, Tương Vân, Thám Xuân tất cả năm người đi vào trong vườn. Trông thấy, mọi người chào hỏi nhau. Trong đám khách có người đã gặp, đều đồng thanh khen ngợi các cô. Trong đó có Tương Vân là quen nhất. Nam An thái phi cười nói:

- Cô ở đây nghe thấy tôi đến mà không ra, để phải mời mới đến. Ngày mai tôi sẽ bảo cho ông chú cô!

Rồi một tay nắm Thám Xuân, một tay nắm Bảo Thoa, hỏi: “Mười mấy tuổi rồi?” - Thái Phi lại khen ngợi luôm mồm. Sau bỏ hai người này ra, lại nắm Đại Ngọc và Bảo Cầm, ngắm nghía rất kỹ, khen ngợi một lúc, cười nói:

- Đều đẹp cả! Không biết bảo tôi khen người nào cho phải!

Lúc đó đã có người đem quà đến chia ra mấy phần: năm chiếc nhẫn bằng vàng ngọc, năm chuỗi hạt châu Uyển hương, Nam An thái phi cười nói:

- Xin các cô đừng cười, cầm lấy để thưởng cho bọn hầu.

Năm người vội lạy tạ cám ơn. Bắc Tĩnh vương phi cũng có năm món quà thưởng. Còn những người khác không kể hết.

Uống nước xong, mọi người dạo chơi trong vườn một lúc, Giả mẫu lại mời vào tiệc. Nam An thái phi cáo từ nói:

- Người tôi không được khỏe, không đến không được. Vì thế xin thứ lỗi cho tôi về trước.

Giả mẫu nghe nói không tiện giữ lại, hai bên chào nhau tiễn ra đến vườn, Nam An thái phi lên kiệu về. Bắc Tĩnh vương phi ngồi lại một lúc rồi cũng về. Còn thì có người ngồi hết bữa tiệc có người nửa chừng ra về. Giả mẫu hôm ấy mệt nhọc nên hôm sau không ra ngoài, tất cả đều do Hình phu nhân tiếp đãi. Có những con em nhà gia thế đến chúc thọ, thì chỉ đến làm lễ ở nhà khách, bọn Giả Xá, Giả Chính, Giả Trân đáp lễ, rồi mời sang phủ Ninh dự tiệc.

Mấy hôm ấy, Vưu Thị buổi chiều không về phủ mình, ban ngày tiếp khách, đến tối thì hầu chuyện Giả mẫu, lại giúp Phượng Thư trông nom đồ đạc, lễ vật lấy vào đem ra. Ban đêm đến ngủ ở buồng Lý Hoàn. Hôm ấy chị ta hầu Giả mẫu ăn cơm chiều xong. Giả mẫu nói:

- Các cháu mệt lắm, ta cũng mệt. Các cháu tìm ngay cái gì mà ăn rồi đi nghỉ, mai còn phải dậy sớm.

Vưu Thị vâng lời lui ra, đến nhà Phượng Thư ăn cơm. Phượng Thư đương ở trên lầu, trông nom người ta thu nhận những bình phong mang đến biếu, chỉ có Bình Nhi ở nhà gấp quần áo cho Phượng Thư. Vưu Thị nhớ đến lúc dì Hai còn sống, nhờ được Bình Nhi săn sóc, liền gật đầu nói:

- Chị giỏi quá! Người tốt bụng như chị mà lại cứ phải chịu dãi dầu ở đây mãi à!

Bình Nhi rơm rớm nước mắt, nói lảng sang chuyện khác. Vưu Thị cười hỏi:

- Mợ chị đã ăn cơm chưa?

- Nếu ăn cơm thì thế nào mà chẳng mời mợ đến.

- Đã thế ta đi ăn chỗ khác vậy, đói không chịu được.

Nói xong Vưu Thị liền đi. Bình Nhi vội cười nói:

- Mời mợ hãy ở lại, ở đây có bánh ăn lót dạ một ít, rồi sẽ ăn cơm.

- Chị đương bận, tôi vào vườn quấy các cô ấy thôi.

Bình Nhi giữ lại không được, đành phải thôi.

Vưu Thị vào đến vườn, thấy cửa chính và các cửa bên vẫn chưa đóng, đèn lồng vẫn thắp, liền quay lại bảo a hoàn nhỏ đi gọi người đàn bà trực đêm đến. A hoàn vào đến phòng canh, không thấy bóng một người nào, quay lại trình Vưu Thị, Vưu Thị sai đi gọi người đàn bà quản gia. A hoàn vâng lời đi ra, đến mái hiên thứ hai, nơi bọn quản sự thường họp nhau bàn việc, chỉ thấy có hai bà già đương chia nhau các thức quả ăn. A hoàn hỏi:

- Có bà quản sự nào ở đây không? Mợ tôi ở phủ Đông đứng chờ ngoài kia để dặn bảo công việc.

Hai bà già chỉ lo chia nhau quả ăn, lại nghe nói là mợ ở phủ Đông nên không để ý lắm, nói:

- Các bà quản gia vừa mới đi cả rồi.

- Các bà đi tìm hộ về.

- Chúng tôi chỉ lo việc trông nhà, chứ không lo việc đi gọi người. Cô muốn gọi ai thì sai người khác đi mà gọi.

- Úi chà! Thế này thì loạn mất. Tại sao các bà lại không chịu đi? Các bà nói dối người mới đến, chứ nói dối thế nào được tôi. Ngày thường các bà không đi gọi thì ai đi? Bây giờ có việc gì của bản thân các bà hoặc thưởng cái gì cho các người quản gia thì các bà đã chạy cong đuôi lên rồi, không cần phải biết là ai nữa. Nếu mợ Hai cần sai đi, các bà có dám trả lời như thế không?

Bà già này một là say rượu, hai là bị a hoàn bới xấu, quá thẹn thành giận, liền cãi lại:

- Đừng có dơ! Gọi người hay không là việc chúng tao, can gì đến mày? Mày chưa chi đã dám bới xấu chúng tao à! Mày thử nghĩ xem mẹ mày hầu các ông quản gia bên ấy còn biết liếm gót giỏi hơn chúng tao nữa kia. Việc nhà ai mặc nhà ấy! Mày có giỏi thì về mà chèn ép người nhà mày ở bên ấy, chứ chúng tao ở bên này thì mày không có phận sự gì đâu!

A hoàn nghe nói, giận tái mặt nói: “Giỏi, giỏi, giỏi đấy!”

Rồi quay ngoắt về trình.

Vưu Thị đã đi vào trong vườn, gặp Tập Nhân, Bảo Cầm, Tương Vân cùng hai sư cô ở am Địa Tạng đương kể chuyện cũ vui đùa với nhau, Vưu Thị nói: “Đói làm rồi”. Rồi vào ngay viện Di Hồng. Tập Nhân sửa soạn mấy món ăn chay và mặn mời Vưu Thị ăn.

A hoàn nhỏ chạy ngay đến, hầm hầm kể lại chuyện vừa qua. Vưu Thị nghe xong, cười nhạt:

- Hai mụ ấy là người thế nào?

Hai sư cô và Bảo Cầm, Tương Vân sợ Vưu Thị bực lên, đều khuyên:

- Nhất định nó nghe sai, chứ làm gì có chuyện ấy.

Hai sư cô lại cười đẩy con a hoàn nói:

- Cô này còn trẻ nóng nảy quá! Các bà già ấy ăn nói lẩm cẩm, có cũng không nên kể lại mới phải. Mợ nhà ta tấm thân ngàn vàng, khó nhọc mấy hôm, chưa có một giọt rượu vào miệng, chúng ta nên làm cho mợ vui vẻ, chứ kể những chuyện ấy ra làm gì?

Tập Nhân vội cười, kéo con a hoàn ra bảo:

- Em ơi! Hãy ra ngoài nghỉ đã, để chị sai người đi gọi họ đến đây.

Vưu Thị nói:

- Không phải sai ai cả, chị cứ đi gọi hai mụ ấy và gọi cả thím Phượng đến nữa!

- Tôi xin đi ạ.

- Thôi cũng không cần chị nữa.

Hai sư cô vội đứng dậy cười nói:

- Xưa nay mợ là người độ lượng, rộng rãi, hôm nay là ngày mừng thọ của cụ nhà, nếu mợ tức giận, chẳng để cho người ngoài bàn tán hay sao?

Bảo Cầm, Tương Vân cũng đều cười và ngăn lại, Vưu Thị nói:

- Nếu không phải là ngày sinh nhật cụ, thì ta nhất định không nghe! Thôi hãy tạm tha cho họ.

Đương lúc nói chuyện, Tập Nhân lại sai một a hoàn ra ngoài cửa vườn tìm người. Vừa gặp ngay vợ Chu Thụy, a hoàn này kể lại chuyện cho chị ta nghe. Vợ Chu Thụy tuy không phải là người quản sự, nhưng ngày thường chị ta cậy là người theo hầu của Vương phu nhân, vẫn có chút thể diện, tính lại ranh mãnh, hay đi ton hót các nơi, vì thế các chủ nhà đều ưa thích chị ta. Nay nghe thấy chuyện này chị ta liền đi ngay vào viện Di Hồng, vừa chạy vừa nói: “Chết nỗi, làm mợ tôi bực chết đi mất. Nhà này quen quá sinh nhờn rồi. Tiếc là lúc bấy giờ mình không ở đấy! Cứ đánh cho chúng nó mấy cái tát rồi sau sẽ liệu”.

Vưu Thị trông thấy vợ Chu Thụy, cười nói:

- Chị Chu ơi, lại đây bàn câu chuyện này. Đến bây giờ cửa vườn vẫn còn mở toang, đèn đuốc sáng trưng, người ra kẻ vào rầm rập, nếu xảy ra chuyện gì bất ngờ thì làm thế nào? Tôi định bảo người trực đêm phải tắt đèn đóng cửa, không ngờ không thấy một mống nào!

Vợ Chu Thụy nói:

- Thế mới chết chứ! Hôm nọ mợ Hai đã dặn bảo họ là mấy ngày nay công việc bề bộn, người đi lại đông, tối đến cần phải tắt đèn, đóng cửa, không phải người trong vườn nhất thiết không cho vào. Thế mà bây giờ lại không có một người nào. Để mấy hôm nữa, thế nào cũng phải đánh cho họ một trận mới được.

Vưu Thị kể lại lời của a hoàn nhỏ. Vợ Chu Thụy nói:

- Mợ không cần phải tức giận. Để xong việc, tôi sẽ bảo người coi việc, đánh cho chết quân ấy, hãy hỏi xem đứa nào nói câu “Việc nhà ai mặc nhà nấy”. Tôi đã bảo chúng phải tắt đèn đóng cửa rồi. Xin mợ đừng bực nữa.

Đang lúc ồn ào thì Phượng Thư sai người đến mời sang ăn cơm. Vưu Thị nói:

- Tôi không đói, vừa mới ăn mấy cái bánh rồi, mời mợ chị cứ xơi đi.

Một lúc vợ Chu Thụy ra về, kể lại chuyện vừa rồi cho Phượng Thư nghe.

Phượng Thư bảo:

- Ghi lấy tên hai con mụ ấy, chờ mấy hôm nữa, sẽ trói chúng đưa sang phủ Đông để mợ Cả xét xử. Hoặc đánh hoặc tha, tùy lòng mợ ấy. Chứ có quan trọng gì việc này!

Vợ Chu Thụy nghe nói, chỉ chờ một câu như thế, vì ngày thường chị ta vẫn có xích mích với mấy bà già ấy, liền sai một đứa hầu nhỏ đến nhà Lâm Chi Hiếu truyền lại lời của Phượng Thư, rồi bảo vợ Lâm Chi Hiếu đến hầu mợ Cả ngay. Lại sai người tức khắc đến trói hai bà già ấy, giam vào chuồng ngựa, sai người canh giữ.

Vợ Lâm Chi Hiếu không biết là việc gì, vội lên xe vào hầu Phượng Thư trước. Mới đến cửa ngoài, đưa tin vào, bọn a hoàn ra nói:

- Mợ Hai vừa mới đi nghỉ. Mợ Cả ở trong vườn ấy, bảo bà đến hầu mợ Cả là được rồi.

Vợ Lâm Chi Hiếu đành phải vào trong vườn, đến Đạo Hương thôn. Bọn a hoàn vào trình. Vưu Thị nghe nói, thấy không đành lòng, liền gọi vợ Lâm Chi Hiếu vào, cười nói:

- Tôi chẳng qua vì không tìm được người, nên mới hỏi đến bà, nhưng bà đã về rồi. Việc ấy cũng chẳng quan trọng gì. Ai lại còn gọi bà đến đấy, làm cho bà phải mất công đi. Việc này cũng thường thôi, tôi đã bỏ qua đi rồi.

Vợ Lâm Chi Hiếu cười nói:

- Mợ Hai sai người đòi tôi, nói rằng mợ có việc gì sai bảo.

Vưu Thị nói:

- Chừng bà Chu đặt chuyện ra đấy. Thôi bà đi về nghỉ, không có chuyện gì to tát đâu.

Lý Hoàn lại muốn kể rõ đầu đuôi câu chuyện, nhưng Vưu Thị gạt đi.

Vợ Lâm Chi Hiếu thấy thế đành phải quay ra. Lại gặp dì Triệu đi đến, cười nói:

- Úi chà chà! Bà chị ơi! Bây giờ chưa về nhà ngủ, còn đi đâu đấy?

Vợ Lâm Chi Hiếu cười trả lời:

- Sao lại không về nhà?

Rồi thuật lại việc xảy ra như thế, nên mới phải đi. Dì Triệu xưa nay vẫn thích nghe lóng, hơn nữa ngày thường vẫn đi lại thân mật với lũ con gái của bọn quản sự, để kéo bè kéo cánh với nhau. Vừa rồi bà ta đã biết tám chín phần, nay nghe vợ Lâm Chi Hiếu nói, liền xui nên làm thế này thế nọ. Vợ Lâm Chi Hiếu nghe đoạn, đáp:

- Té ra việc đó có đáng cái quái gì. Nếu tha cho nó thì chẳng nói làm gì, nếu bụng hẹp hòi thì chỉ đánh mấy roi là xong việc.

Dì Trệu nói:

- Bà chị ơi, việc có to tát gì cho cam, đủ biết họ càn rỡ quá. Có thế thôi cũng lại gọi bà chị vào. Thật là họ coi khinh bà chị, lấy bà chị ra làm trò đùa. Thôi bà chị về đi, kẻo mai lại có việc. Tôi cũng chẳng giữ bà chị ở lại uống nước nữa.

Vợ Lâm Chi Hiếu đi ra, đến trước cửa bên cạnh thì gặp con gái của hai bà già lúc nãy đến khóc lóc nhờ xin hộ. Vợ Lâm Chi Hiếu cười nói:

- Con bé này thật vớ vẩn! Ai bảo các bà uống rượu nói nhảm để gây ra chuyện? Ngay ta cũng không biết gì cả. Mợ Hai sai người trói các bà ấy, ta đây cũng có lỗi này, thì còn xin hộ cho ai được nữa?

Hai đứa bé này mới độ bảy tám tuổi, vẫn không hiểu gì, cứ khóc lóc van xin mãi. Vợ Lâm Chí Hiếu không biết làm thế nào, nói:

- Quân vớ vẩn này! Chỗ đáng đi kêu thì không đi, cứ đến quấy rầy ta! Chị mày hiện gả cho con bà già Phi là người theo hầu của bà Cả bên kia. Mày về nói với chị mày, nhờ bà thông gia nói với bà Cả, thì việc gì mà chẳng xong.

Một đứa nghe vậy, nhớ ngay ra, còn đứa nữa vẫn cứ kêu van. Vợ Lâm Chi Hiếu quát mắng:

- Quân vớ vẩn này! Con kia đi nói xong, tự khắc được tha cả. Không có nhẽ mẹ nó được tha mà riêng mẹ mày lại bị phạt!

Nói xong lên xe đi về.

Quả nhiên đứa bé kia đến bảo chị nó nói với già Phi. Già Phi vốn là người theo hầu của Hình phu nhân, trước kia có lúc đã từng nổi tiếng. Gần đây vì Giả mẫu không ưa Hình phu nhân nên tất cả những người bên đó đều bị nhụt oai thế. Mỗi khi gặp bọn có thể diện bên nhà Giả Chính, họ đều nhìn với con mắt hằn học. Già Phi cậy già, cậy có Hình phu nhân nên thường uống rượu, mượn chén chửi bới vu vơ cho hả. Gặp ngày mừng thọ của Giả mẫu, một việc to tát như vậy, bà ta nhìn thấy mọi người khoe khôn khoe khéo, hò hét sai phái, múa chân múa tay, trong lòng khó chịu, liền chửi mèo quèo chó, nói nọ nói kia. Người bên này thấy vậy, chẳng ai đếm xỉa đến. Nay lại thấy vợ Chu Thụy sai trói bà thông gia của mình, như lửa đổ thêm dầu, sẵn đang hăng rượu, bà ta đứng bên phía tường mắng ầm lên một lúc, rồi đến xin với Hình phu nhân, nói bà thông gia của bà ấy chẳng có lỗi gì, chỉ vì cãi nhau mấy câu với a hoàn của mợ Cả, vợ Chu Thụy về ton hót với mợ Hai, trói bà ấy và đem vứt vào chuồng ngựa, để mấy hôm nữa sẽ mang ra đánh. Thật đáng thương hại cho một bà già đã bảy tám mươi tuổi. Xin bà nói với mợ Hai tha cho bà ấy một lần này!

Từ ngày đến hỏi Uyên Ương, Hình phu nhân có vẻ bẽ mặt. Lại thấy Phượng Thư lên nước hơn mình, Giả mẫu đối đãi ra chiều lạnh nhạt, nên bà ta vẫn ôm sẵn mối oán thù, ghen ghét, nhưng chưa có dịp nói ra. Bây giờ họ ngấm ngầm đặt chuyện, ton hót bà chủ. Trước hết họ vạch vòi bọn hầu, sau đến Phượng Thư “chỉ cố chiều chuộng cho cụ vui rồi tha hồ làm mưa làm gió. Đã trị được cậu Liễn, lại ton hót bà Hai để bà Hai không để ý gì đến công việc bên ấy”. Sao họ lại nói cả đến Vương phu nhân: “Cụ không thích bà, đều tự bà Hai và mợ Liễn xui cả”. Hình phu nhân dù là gan đồng dạ sắt, nhưng tính chất đàn bà, không tránh khỏi sinh lòng nghi kỵ. Vốn đã ghét sẵn Phượng Thư, nay thấy vậy, bà ta không nói câu nào.

Đến sáng hôm sau, Hình phu nhân sang hầu Giả mẫu. Người trong họ đều đến xem hát đông đủ. Hôm ấy lại đều là con cháu trong họ, không ai là khách cả. Giả mẫu rất cao hứng nên chỉ mặc quần áo thường ra nhà ngoài nhận lễ. Ở giữa đặt một cái giường, nào gối xếp, nệm tựa lưng, nệm gác chân, cái gì cũng đủ cả. Giả mẫu một mình nằm nghiêng ở trên giường. Chung quanh đặt một loạt ghế thấp. Bảo Thoa, Bảo Cầm, Đại Ngọc, Tương Vân, Nghênh Xuân, Thám Xuân, Tích Xuân ngồi quây cả đó. Mẹ Giả Biển dẫn đứa con gái là Hỷ Loan, mẹ Giả Quỳnh dẫn đứa con gái là cô Tư và cả lũ cháu gái các nhà khác, lớn nhỏ độ hai mươi người. Giả mẫu thấy Hỷ Loan và cô Tư xinh đẹp, đi đứng nói năng khác hẳn mọi người, trong bụng vui thích, liền gọi họ đến ngồi ở trước giường. Bảo Ngọc ngồi ở trên giường đấm chân cho Giả mẫu. Tiết phu nhân ngồi ở hàng trên, còn hai hàng phía dưới là con cháu các nhà cứ ngồi theo bậc họ. Hai dãy hành lang ngoài rèm, thì khách đàn ông cũng ngồi theo thứ tự trong họ. Bọn đàn bà từng tốp một làm lễ trước, bọn đàn ông làm lễ sau. Giả mẫu nằm nghiêng ở trên giường, chỉ sai người bảo “miễn lễ”.

Bọn Lại Đại dẫn người nhà quỳ lạy từ cửa nghi môn vào đến phòng khách. Sau đến các người đàn bà trong nhà, rồi đến a hoàn ở các phòng. Nhộn nhịp chừng ăn hai ba bữa cơm mới xong. Họ lại xách đến rất nhiều lồng chim sẻ “phóng sinh” ở giữa sân. Bọn Giả Xá đốt xong những giấy thọ tinh lễ trời đất rồi mới bắt đầu xem hát uống rượu. Hát đến nửa chừng, Giả mẫu đi nghỉ, bảo mọi người cứ tùy thích, rồi dặn Phượng Thư giữ Hỷ Loan và cô Tư ở lại chơi mấy hôm. Phượng Thư đi ra nói với mẹ chúng. Hai bà này xưa nay nhờ Phượng Thư giúp đỡ, liền vui lòng ở lại chơi trong vườn.

Đến chiều, lúc sắp tan tiệc, trước mặt mọi người. Hình phu nhân đến xin với Phượng Thư, cười nói:

- Chiều hôm qua, tôi nghe nói mợ Hai tức giận, sai bà Chu quản gia trói hai bà già, không biết là họ phạm tội gì? Đáng lẽ ra tôi không nên xin hộ là phải. Nhưng tôi nghĩ là ngày sinh nhật cụ còn cố gắng bỏ tiền bỏ gạo giúp đỡ kẻ nghèo yếu, thế mà chúng ta lại hành hạ người già hay sao? Dù không nể mặt tôi, chị cũng nên nể mặt cụ, tạm tha cho họ!

Nói xong lên xe về. Phượng Thư vừa xấu hổ, vừa tức, không biết đầu đuôi ra sao, đỏ mặt tía tai, quay lại cười nhạt, bảo bọn vợ Lại Đại:

- Chuyện này ở đâu ra thế! Hôm qua vì người ở phủ này có lỗi với mợ Cả bên kia, tôi sợ mợ ấy ngờ vực, nên giao sang để tùy mợ ấy xét định, chứ họ có lỗi gì với tôi. Thế mà tin ở đâu lại truyền đi nhanh thế?

Vương phu nhân hỏi:

- Việc gì?

Phượng Thư cười, kể lại chuyện hôm qua, Vưu Thị cũng cười nói:

- Ngay tôi cũng không biết gì, thím cũng lắm chuyện quá.

Phượng Thư nói:

- Vì tôi sợ chị ngượng mặt, nên để tùy ý chị xử trí, chẳng qua cũng là giữ lễ đó thôi. Cũng như ở bên chị, có người nào láo lếu với tôi tất nhiên chị phải giao sang cho tôi xử. Dù là hạng đầy tớ thế nào chăng nữa, cũng không thể bỏ qua cái lệ ấy được. Không biết ai đã sang bên ấy hết chuyện ton hót, lại giở ngay việc này ra.

Vương phu nhân nói:

- Mẹ chồng cháu nói phải đấy. Chị Trân không phải là người ngoài, thì cần gì phải giữ cái lễ hão ấy. Ngày sinh nhật cụ là cần nhất, tha họ ra mới phải.

Nói xong liền sai người đi tha hai bà già ấy.

Phượng Thư càng nghĩ càng tức, càng xấu hổ, đâm ra chán nản, nước mắt giàn giụa, rồi hậm hực về buồng khóc lóc, nhưng không muốn cho ai biết. Giả mẫu lại sai Hổ Phách đến gọi Phượng Thư hỏi việc. Hổ Phách thấy vậy, lấy làm lạ, nói:

- Tự dưng vô cớ, mợ làm sao thế? Bên kia đương chờ mợ đấy.

Phượng Thư nghe nói, lau nước mắt. rửa mặt đánh phấn, rồi cùng đi với Hổ Phách. Giả mẫu hỏi:

- Hôm nọ người ta đến mừng, tất cả có mấy nhà đưa vi bình?

- Tất cả có mười sáu nhà. Có mười hai cái lớn, và bốn cái nhỏ che giường. Trong số đó có một cái lớn của nhà họ Chân, mười hai cánh bằng lụa màu đại hồng, thêu kiểu “hốt để đầy giường”, một mặt thì vẽ tranh bách thọ thiếp vàng là đẹp nhất. Lại còn có một cái bình bằng pha lê của nhà Ô tướng quân ở Việt Hải nữa.

- Thế thì không được động đến hai cái ấy, phải cất đi cẩn thận, ta cần đem đi biếu người khác.

Phượng Thư vâng lời.

Uyên Ương đến nhìn kỹ mặt Phượng Thư, làm Giả mẫu phải hỏi:

- Mày không nhận ra mợ ấy à? Sao cứ nhìn mãi thế?

Uyên Ương cười nói:

- Cháu thấy mắt mợ ấy sưng húp lên, nên lấy làm lạ.

Giả mẫu bảo Phượng Thư đến gần, để ý nhìn kỹ. Phượng Thư cười nói:

- Cháu bị ngứa mắt, dụi mãi thành sưng lên.

Uyên Ương cười nói:

- Chắc lại bị ai trêu tức rồi?

Phượng Thư cười nói:

- Ai dám trêu tức ta? Dù có bị tức, nhưng trong ngày sinh nhật cụ, ta cũng chẳng dám khóc.

Giả mẫu nói:

- Phải đấy, ta muốn ăn cơm, cháu ở đây dọn cho ta ăn, còn thừa thì để cháu và chị Trân ăn. Hai chị em ở đây giúp các vị sư niệm phật nhặt đậu cho ta, các cháu cũng được thêm tuổi thọ đấy. Hôm nọ các em và Bảo Ngọc đều nhặt cả rồi, giờ cũng cho các cháu nhặt, không thì lại bảo ta thiên tư.

Trong khi nói chuyện đã đặt sẵn một bàn cơm chay cho hai sư cô ăn. Rồi lại bày một bàn cỗ mặn. Giả mẫu ăn xong, bưng ra nhà ngoài. Vưu thị và Phượng Thương ăn thì Giả mẫu lại gọi Hỷ Loan, cô Tư đến cùng ăn với hai người. Ăn xong, rửa tay, thắp hương, bưng một thưng đậu đến. Hai sư cô đọc bài kệ rồi người nào người ấy nhặt từng hạt đậu bỏ vào cái giỏ, cứ nhặt một hạt đậu lại niệm phật một câu. Ngày mai nấu chín, sai người mang ra ngã tư đường làm lễ bố thí. Giả mẫu nằm nghiêng ra nghe hai sư cô nói ít chuyện nhân quả.

Uyên Ương đã nghe thấy Hổ Phách nói về việc Phượng Thư khóc, lại hỏi dò Bình Nhi nên biết hết ngành ngọn câu chuyện. Buổi chiều vắng người, liền trình Giả mẫu:

- Mợ Hai khóc là vì bà Cả bên kia làm cho mợ ấy bẽ mặt trước mọi người.

- Việc gì?

Uyên Ương kể lại đầu đuôi việc này. Giả mẫu nói:

- Thế là cháu Phượng biết giữ lễ đấy. Có lẽ nào vì ngày sinh nhật của ta, lại để cho bọn đầy tớ hỗn với các người chủ trong họ, mà không để ý đến hay sao? Đó là vì ngày thường bà Cả vẫn không ưa cháu Phượng, nhưng chưa dám làm to ra, nên hôm nay mới mượn cớ để ra oai. Rõ ràng là bà ấy cố ý làm bẽ mặt cháu Phượng trước mọi người.

Lúc đó, thấy Bảo Cầm đến, nên không ai nói nữa.

Giả mẫu chợt nghĩ đến Hỷ Loan và cô Tư, liền sai người đến dặn bọn bà già trong vườn.

- Hai cô ấy tuy nhà nghèo nhưng phải hầu hạ như các cô ở trong nhà này. Ta biết bọn chúng bây, cả trai lẫn gái, đều một lòng ham chuộng giàu sang. Có hai cách nhìn người, chưa chắc chúng bay đã chịu để hai cô ấy lọt vào trong con mắt. Nếu đứa nào dám coi thường các cô ấy, ta nghe thấy sẽ không tha đâu!

Bà già vâng lời toan đi. Uyên Ương nói:

- Để cháu đi cho. Họ có chịu nghe lời bà già đâu.

Nói xong đi vào trong vườn. Trước hết Uyên Ương đến Đạo Hương thôn tìm Lý Hoàn và Vưu thị, không gặp. Bọn a hoàn đều nói:

- Các mợ ở cả bên cô Ba.

Uyên Ương quay ra đến Hiểu Thúy đường, thấy những người ở trong vườn đương cười nói ở đấy. Thấy Uyên Ương đến, họ cười nói:

- Bây giờ chị còn đến đây làm gì? - rồi mời ngồi.

Uyên Ương cười nói:

- Không cho tôi đi dạo chơi à?

Rồi kể lại lời của Giả mẫu. Lý Hoàn vội đứng dậy. Nghe xong lập tức sai người đi gọi những người đứng đầu các phòng đến, bảo phải truyền lại cho mọi người biết.

Vưu Thị cười nói:

- Cụ nghĩ chu đáo quá. Ngay những đứa trẻ tuổi lực lưỡng như chúng mình có sức trói nổi mười người, cũng không theo kịp được cụ.

Lý Hoàn nói:

- Con Phượng vẫn cậy là thông minh ranh mãnh cũng chẳng cắn gót được người, nữa là chúng mình theo làm sao được.

Uyên Ương nói:

- Thôi đi. Lại còn nhắc đến con Phượng, con hùm ra đây làm gì? Mợ ấy kể cũng đáng thương! Tuy mấy năm nay hầu cụ và bà Hai không có điều gì sơ suất, nhưng ngấm ngầm thì không biết đã mắc lỗi với bao nhiêu người rồi. Nói tóm lại, ở đời rất khó: thực thà quá không biết tháo vát, thì bố mẹ chồng lại chê là đần độn, người nhà chả ai sợ cả; nếu là người biết tháo vát, không khỏi được đằng nọ hỏng đằng kia. Như nhà ta đây lại càng buồn cười, có những “mợ” ở hàng đầy tớ mới nổi lên, ả nào ả nấy đều ra bộ, chẳng biết thế nào là vừa lòng họ, hễ hơi phật ý một chút là họ chẳng đi nói xấu vắng mặt, cũng hay “đâm bị thóc chọc bị gạo”. Tôi sợ cụ bực lên, nên không muốn nói, nếu không tôi kể hết ra thì cả nhà chẳng được yên đâu. Đây không phải là tôi dám nói hỗn trước mặt cô Ba, như cụ yêu cậu Bảo, lúc vắng mặt, có người oán trách cho là thiên tư, như thế cũng chẳng đáng kể gì. Nhưng bây giờ cụ chỉ yêu cô, tôi thấy họ cũng tức lên. Như thế có đáng buồn cười không?

Thám Xuân cười nói:

- Người vớ vẩn thì nhiều, so sánh thế nào cho hết được. Tôi nghĩ những nhà hèn hạ, tuy nghèo đói đấy, nhưng mẹ con ngày nào cũng vui vẻ cười đùa, lại hóa ra sung sướng. Còn nhà ta đây, bề ngoài ai cũng cho chúng mình tiểu thư nghìn vàng, vạn vàng, sung sướng biết bao, nhưng biết đâu lại có những chuyện rắc rối, không thể kể ra hết được!

Bảo Ngọc nói:

- Có phải ai cũng nghĩ luẩn quẩn như cô Ba ấy à? Anh thường khuyên em không nên nghe những câu tục, nghĩ những việc tục, chỉ nên yên hưởng phú quý mới phải, chỉ những kẻ không được phúc phận như chúng ta mới nghĩ nhảm thôi.

Vưu Thị nói:

- Có ai lại như chú, trong bụng không vướng víu gì, chỉ biết chơi đùa với bọn chị em. Đói thì ăn, mệt thì ngủ, đến mấy năm nữa cũng thế thôi, không nghĩ gì đến việc về sau cả.

Bảo Ngọc cười nói:

- Tôi được vui đùa với các chị em ngày nào hay ngày ấy, rồi chết là xong, chứ có gì là việc sau với việc trước nữa!

Bọn Lý Hoàn đều cười nói:

- Lại nói nhảm rồi! Dù cho chú chẳng làm gì, chết già trong nhà này, không nhẽ bọn chị em lại không đi lấy chồng à?

Vưu Thị cười nói:

- Chẳng trách người ta bảo chú chỉ được cái lớn xác thôi, quả thật là vừa ngây vừa ngốc.

Bảo Ngọc cười nói:

- Việc đời khó định trước, đã biết ai chết ai sống? Ví dụ ngày nay hay ngày mai, năm nay hay năm sau mà tôi chết đi, thì cũng là được thỏa một đời!

Mọi người không đợi Bảo Ngọc nói hết, ngắt lời ngay:

- Lại càng nhảm. Thôi đừng đấu chuyện với chú ấy thì hơn. Nói ra không chuyện ngây cũng chuyện rồ.

Hỷ Loan cười nói:

- Anh Hai, anh đừng nói thế. Khi các chị nhà này đi lấy chồng cả rồi, thế nào cụ và bà Hai cũng buồn, lúc đó em sẽ đến đây cùng ở với anh.

Lý Hoàn và Vưu Thị đều cười nói:

- Thôi cô cũng đừng nói chuyện ngớ ngẩn nữa. Chẳng lẽ cô lại không đi lấy chồng hay sao?

Câu nói ấy làm Hỷ Loan thẹn, cúi đầu xuống. Bấy giờ đã sang canh, mọi người đều về buồng nghỉ.

Uyên Ương vừa về đến trước cửa vườn, thấy cửa ngách khép hờ chưa cài. Lúc này trong vườn vắng lặng không ai đi lại, chỉ có ánh đèn le lói từ trong buồng cạnh hắt ra. Trên không, bóng trăng lờ mờ. Uyên Ương đi một mình, không xách đèn, chân bước nhè nhẹ, vì thế những người canh đêm không ai để ý đến. Uyên Ương muốn đi tiểu, liền xuống dưới đường, rẽ cỏ đi đến dưới gốc cây quế ở sau núi đá. Vừa quanh đến bên hòn đá, bỗng có tiếng quần áo sột soạt. Sợ quá, Uyên Ương nhìn xung quanh, bắt gặp hai người ở đấy. Thấy Uyên Ương đến, họ định nép vào sau hòn đá chỗ bụi cây. Uyên Ương nhanh mắt, nhân có ánh trăng lờ mờ, trông thấy một người mặc áo màu hồng, đầu tết bím, vóc người vạm vỡ cao lớn, đúng là Tư Kỳ hầu ở buồng Nghênh Xuân. Uyên Ương cứ tưởng là nó cùng đứa con gái nào nữa ra chơi ở đấy, thấy mình đến nó cố ý ẩn nấp để dọa chơi, liền cười gọi:

- Tư Kỳ! Mày không ra ngay đây, chực dọa tao à. Tao sẽ kêu ầm lên là có trộm. Con chương xác này, không kể ngày đêm cứ chơi đùa không biết chán!

Uyên Ương nói đùa để gọi nó ra thôi. Ngờ đâu đứa gian hay chột dạ, nó nghĩ là Uyên Ương đã biết rõ đầu đuôi việc mình, lỡ kêu ồn lên, người ta biết thì càng nguy, vả chăng ngày thường Uyên Ương vẫn thân mật với mình, không như người khác. Nó liền từ sau cây chạy ra nắm lấy Uyên Ương, quỳ xuống nói:

- Chị ơi! Xin chị đừng kêu ầm lên!

 Uyên Ương vẫn không biết vì việc gì, liền kéo nó dậy, hỏi:

- Nói thế là thế nào?

Tư Kỳ không nói câu gì, người cứ run rẩy. Uyên Ương càng không hiểu. Nhìn một lần nữa, thấy một bóng người như một đứa hầu nhỏ, Uyên Ương đã đoán ra được tám, chín phần, trong lòng hổ thẹn, rạo rực đỏ mặt tía tai, lại đâm ra sợ, liền đứng yên một lúc, khẽ hỏi Tư Kỳ:

- Người kia là ai thế?

- Người anh con cô con cậu với em.

Uyên Ương suỵt lên một tiếng, thẹn quá, không nói ra được câu gì. Tư Kỳ quay lại khẽ gọi:

- Thôi đừng tránh nữa, chị đã trông thấy rồi, ra mà lạy đi.

Đứa hầu nhỏ nghe nói, mới từ sau cây đi ra, lạy như tế sao. Uyên Ương quay người đi, Tư Kỳ nắm lại van xin, khóc nói:

- Tính mệnh chúng em đều ở trong tay chị cả, mong chị tha chết cho!

Uyên Ương nói:

- Đừng nói nhiều nữa, bảo nó bước đi. Ta không mách ai cả là được. Sao mày lại nói như vậy?

Nói chưa dứt lời, thấy bên cửa ngách có người gọi:

- Cô Kim đã ra rồi, khóa cửa lại.

Uyên Ương cứ bị Tư Kỳ níu giữ mãi, không dứt ra được, nghe vậy liền lên tiếng:

- Tôi còn ở đây có việc hãy chờ một tý, tôi sẽ ra đấy.

Tư Kỳ đành phải buông ra, để cho Uyên Ương về.

Hồi thứ bảy mươi hai

Cậy mình khỏe, Vượng Phượng Thư kiêng nói ốm;

Ỷ thần thế, vợ Lai Vượng cố ép duyên.

Uyên Ương khi ra khỏi cửa ngách, mặt còn nóng, tim đập mạnh, cho đó là việc không ngờ, nghĩ bụng: “Việc này quan trọng, nếu nói ra sẽ liên can đến việc gian dâm trộm cắp, quan hệ đến mệnh người, không khỏi làm lụy tới kẻ khác. Vả chăng cũng chẳng dính dáng gì đến mình thì hãy để bụng, không nên nói cho ai biết vội”. Uyên Ương về trình Giả mẫu xong rồi đi nghỉ.

Từ đó, thường ban đêm Uyên Ương không hay vào vườn mấy, nghĩ bụng: “Trong vườn còn xảy chuyện kỳ quặc, huống chi các nơi”. Vì vậy chị ta cũng ít khi đi đâu.

Tư Kỳ từ thuở nhỏ vẫn ở chung với người anh con nhà cô. Lúc đầu hai đứa nói đùa với nhau, hẹn hò sau này không lấy được nhau thì đành ở vậy chứ không lấy ai nữa. Gần đây chúng đã lớn, đến tuổi dậy thì, trai xinh gái đẹp, thỉnh thoảng Tư Kỳ về nhà, hai bên đầu mày cuối mắt, tình cũ khôn khuây, nhưng không cách gì gần nhau được. Lại sợ cha mẹ không bằng lòng, chúng liền nghĩ cách đút lót bọn bà già trong vườn, ngỏ cửa gác đường, nhân lúc lộn xộn định lẻn vào giở cuộc. Lần đầu gặp gỡ tuy chửa thành đôi, nhưng cũng đã chỉ non thề bể, tặng vật trao lời, chan chứa biết bao tình tứ. Vụt gặp Uyên Ương đến, làm chúng sợ hãi phải rời nhau ra. Thằng nhỏ liền rẽ hoa chen liễu theo phía cửa ngách lẻn mất.

Suốt đêm đó Tư Kỳ không sao ngủ được, hối hận không kịp. Hôm sau đến gặp Uyên Ương, nét mặt khi đỏ khi tái, ngượng ngùng khôn xiết, trong lòng thắc thỏm, chẳng thiết gì ăn uống, đứng ngồi bâng khuâng. Qua hai hôm, không thấy động tĩnh, nó mới hơi yên lòng. Buổi chiều hôm ấy, có một bà già đến khẽ bảo:

- Anh mày trốn đi ba, bốn hôm nay không về nhà, hiện đương nhờ người đi tìm các nơi đấy.

Tư Kỳ nghe nói, vừa sốt ruột, vừa tức vừa buồn, nghĩ bụng: “Nếu xảy việc gì thì liều cùng chết một chỗ mới phải. Bọn con trai thật là bạc tình, đã chạy ngay trước rồi!” Cô ta càng nghĩ càng tức. Hôm sau thấy trong mình khó chịu, không gượng được nữa, đành nằm vật xuống, rồi lìm lịm đâm ra ốm.

Uyên Ương nghe thấy một hầu nhỏ vô cớ bỏ trốn, Tư Kỳ ở trong vườn lại ốm nặng, sắp dời ra ngoài, đã đoán ngay chúng nó sợ mình nói ra sẽ bị tội. Uyên Ương không đành lòng, liền sang thăm Tư Kỳ, đuổi mọi người ra, rồi thề với Tư Kỳ:

- Tôi mà mách ai, xin chết ngay lập tức. Em cứ yên tâm tĩnh dưỡng, đừng có hủy hoại thân mình!

Tư Kỳ níu lấy Uyên Ương khóc:

- Chị ơi! Từ lúc bé, chúng ta đã gần gũi nhau, chị không hề coi em như người ngoài, em cũng không dám khinh nhờn chị. Bây giờ em trót nhầm nhỡ, chị không mách ai, thì em coi chị như mẹ đẻ! Từ nay trở đi, em sống ngày nào tức là nhờ chị ngày nấy. Em khỏi bệnh, sẽ viết bài vị trường sinh của chị, ngày nào em cũng thắp hương cúng vái cầu trời khấn phật phù hộ cho chị suốt đời được phúc thọ song toàn. Dù em có chết đi, sẽ hóa kiếp lừa kiếp chó để đền ơn chị! Tục ngữ có câu: “Dựng rạp ngàn dặm, nhưng không có tiệc nào không tan”. Vài ba năm sau, chúng ta cũng phải xa nhau, mỗi người mỗi ngả. Câu tục ngữ lại nói: “Cánh bèo mặt nước lênh đênh, cũng khi gặp gỡ nữa mình với ta”. Sau này được gặp nhau, em xin tìm cách đền ơn chị.

Tư Kỳ vừa nói vừa khóc.

Câu nói ấy làm Uyên Ương xót xa cũng phải khóc lên, liền gật đầu nói:

- Chính là em tự tìm lấy cái chết! Tôi hơi đâu để ý đến những chuyện ấy, đi ton hót hão làm hại tiếng tăm của em. Vả chăng việc này tôi cũng không tiện mở miệng nói với người ngoài. Em cứ yên tâm, nên cố gắng chữa chạy cho khỏi rồi giữ thân giữ phận đừng có làm bậy nữa.

Tư Kỳ cứ nằm, gật đầu luôn. Uyên Ương an ủi Tư Kỳ một lần nữa mới về.

Biết Giả Liễn đi vắng, Phượng Thư mấy hôm nay có vẻ mệt nhọc, không được như trước, Uyên Ương tiện đường đến hỏi thăm. Vừa vào tới sân, người gác cửa thứ hai trông thấy đứng dậy mời vào, Uyên Ương vào nhà ngoài, gặp Bình Nhi từ trong đi ra. Trông thấy, Bình Nhi khẽ cười nói:

- Mợ ấy vừa mới ăn một tí cơm, đi nghỉ trưa rồi. Chị hãy vào đây chơi đã.

Uyên Ương nghe nói, theo Bình Nhi sang buồng bên đông. A hoàn nhỏ pha trà. Uyên Ương khẽ hỏi:

- Mấy hôm nay mợ chị thế nào? Dạo này tôi xem mợ ấy có vẻ uể oải lắm.

Bình Nhi nhân lúc vắng người than thở:

- Không phải hôm nay mợ ấy mới uể oải đâu! Trước đây một tháng đã như thế rồi, nhưng cứ giấu. Mấy hôm nay bận việc, lại bị tức khí về những chuyện không đâu, nên bệnh trở lại. Hai hôm nay ốm hơn trước, không gượng được nữa mới chịu “lòi đuôi” ra.

- Đã thế sao không mời thầy thuốc chữa ngay đi?

- Chị ơi! Chị còn không biết tính mợ ấy à? Nhiều khi nhìn thấy không đành lòng, tôi phải hỏi một câu “mợ thấy trong người thế nào?” Mợ ấy gắt lên, bảo là tôi rủa mợ ấy, còn nói gì đến việc mời thầy bốc thuốc nữa. Mặc dầu vậy, ngày nào mợ ấy cũng xét nét từng ly từng tý, không tự biết mình phải giữ gìn sức khỏe!

- Nhưng cũng phải mời thầy thuốc đến xem là bệnh gì cho mọi người được yên tâm.

- Cứ nói về bệnh, theo tôi, không phải ốm đau xoàng đâu!

- Thế là bệnh gì?

Bình Nhi xích lại gần, ghé vào tai Uyên Ương nói:

- Thấy kinh từ tháng trước đến mãi tháng này vẫn rong, đầm đìa không sạch. Thế không phải là bệnh nặng à?

- Úi chào! Theo chị nói thì chả phải chứng “băng huyết” là gì?

Bình Nhi nhổ toẹt một cái, lại khẽ cười nói:

- Con gái mà nói cái gì thế? Chị cũng biết rủa người ta à?

Uyên Ương đỏ mặt lên, lại khẽ cười nói:

- Thực ra tôi cũng không biết thế nào là băng với không băng. Cô quên rồi ư? Chị tôi trước kia không phải mắc bệnh ấy mà chết đấy à?  Lúc đó tôi cũng không biết là bệnh gì, ngẫu nhiên nghe thấy mẹ tôi nói chuyện với bà thông gia, tôi vẫn buồn, sau nghe rõ ngành ngọn tôi mới hiểu được một vài phần.

- Chị nhớ chứ tôi quên bẵng đi rồi.

Hai người đương nói chuyện, thấy a hoàn nhỏ vào nói với Bình Nhi:

- Già Chu lại đến. Tôi thưa với già ấy là mợ vừa mới đi nghỉ trưa. Già ấy lại sang bên bà Hai rồi.

Bình Nhi gật đầu, Uyên Ương hỏi:

- Già Chu nào?

- Là người vẫn đi làm mối cho nhà quan ấy. Vì có ông họ Tôn nào đến xin cầu hôn với nhà ta, nên mấy hôm nay ngày nào già ấy cũng mang thiếp đến, làm cho người ta sinh phiền ra.

Nói chưa dứt lời, a hoàn nhỏ chạy đến nói:

- Cậu Hai đã về đấy.

Giả Liễn vào đến cửa nhà ngoài, Bình Nhi vội ra đón. Giả Liễn vào ngay buồng. Khi đến cửa, thấy Uyên Ương ngồi ở trên giường. Giả Liễn đứng dừng lại, cười nói:

- Chị Uyên Ương, hôm nay thực là rồng đến nhà tôm!

Uyên Ương cứ ngồi yên cười nói:

- Đến thăm cậu mợ đấy, nhưng người thì đi vắng, người thì ngủ.

Giả Liễn cười nói:

- Chị vất vả quanh năm, hầu hạ cụ. Tôi chưa đến thăm chị được, đâu dám phiền chị đến thăm chúng tôi! May quá, tôi định đi tìm chị, nhưng vì mặc cái áo dài nóng lắm, nên về thay áo lót rồi sẽ đi. Không ngờ ông trời run rủi tôi lại đỡ phải đi. Thế ra chị đã ngồi đợi tôi ở đây rồi.

Hắn vừa nói vừa ngồi vào ghế.

- Lại có việc gì đấy?

- Nhân có một việc tôi quên mất, chắc chị còn nhớ thì phải. Năm ngoái trong ngày sinh nhật cụ, có một hòa thượng ở ngoài dâng một quả phật thủ màu sáp ong. Vì cụ thích, nên bắt bày ngay ra. Hôm nọ lại đến ngày sinh nhật cụ, tôi đem sổ ghi đồ cổ vẫn thấy có biên cái ấy, nhưng bây giờ không biết bỏ ở đâu. Người coi phòng đồ cổ có nói với tôi hai lần, chờ tôi hỏi đích xác để biên vào sổ. Vì thế tôi hỏi chị: giờ cụ còn bày cái ấy nữa không? Hay là đã giao cho ai rồi?

- Cụ bày được mấy hôm thì chán, đã giao cho mợ nhà rồi. Bây giờ cậu lại đi hỏi tôi. Tôi hãy còn nhớ cả ngày tháng, chính tôi đã sai vợ bác Vương đưa sang kia. Nếu cậu quên, cứ hỏi mợ nhà hay chị Bình sẽ rõ.

Bình Nhi đương lấy quần áo, nghe vậy trả lời:

- Cái ấy đã giao sang đây rồi, hiện để ở trên lầu. Mợ nhà đã sai người đến bảo, nhưng họ cứ lú lấp không biên vào sổ. Việc không quan hệ gì mà cứ làm nhộn lên.

Giả Liễn cười nói:

- Nếu đã đưa cho mợ chị, sao tôi không biết, chắc các người lại định lấp liếm đi chứ gì?

Bình Nhi nói:

- Mợ đã nói với cậu, nhưng cậu còn định đem biếu người khác. Mợ không bằng lòng mới giữ lại được. Nay chính cậu quên, còn bảo chúng tôi lấp liếm. Cái ấy có quí hóa gì. Những cái quí bằng mười cũng chẳng cần lấp liếm nữa là cái không đáng một đồng.

Giả Liễn cúi đầu mỉm cười, cố nhớ lại rồi vỗ tay nói:

- Bây giờ tôi cũng lẫn rồi! Nói trước quên sau, làm người ta oán trách, thật kém trước nhiều quá.

Uyên Ương cười nói:

- Cũng không trách được cậu, công việc bận rộn, lắm người nhiều điều, lại thêm mấy chén rượu vào thì còn nhớ được cái gì nữa.

Uyên Ương đứng dậy định đi. Giả Liễn nói:

- Chị hãy ngồi chơi, tôi còn có một việc muốn nhờ chị.

Nói xong liền mắng a hoàn nhỏ: “Sao không pha trà ngon lên đây? Phải lấy chén nắp sạch ra, pha thứ trà người ta mới biếu hôm qua ấy”. Rồi nói với Uyên Ương:

- Mấy hôm nay lễ sinh nhật cụ, có mấy nghìn lạng tiêu hết cả. Tiền tô ruộng, tô nhà các nơi đều đến tháng chín mới thu được. Bây giờ tôi không còn món tiền nào nữa. Ngày mai lại phải dâng lễ sang phủ Nam An, lại phải chuẩn bị lễ trùng dương(1) cho nguyên phi, ngoài ra còn phải sửa lễ mừng, lễ viếng mấy nơi, ít ra cũng phải tiêu đến hai, ba nghìn lạng, không thể chạy ngay một lúc được. Tục ngữ nói rất đúng: “Nhờ người chẳng bằng nhờ mình”. Bất đắc dĩ tôi phải phiền đến chị, mong chị xem có hòm đồ vàng bạc xưa nay cụ không để ý đến, thầm đưa cho tôi mang đi cầm lấy độ vài nghìn lạng bạc để tiêu. Chừng trong nửa tháng thu được số tiền, tôi sẽ chuộc giả, nhất định không để cho chị phải mang tiếng đâu.

- Cậu cũng biết xoay xở đấy! Sao cậu lại nghĩ khá như vậy?

- Không phải là tôi nói láo đâu. Ngoài chị ra, người khác cũng có thể đảm đang được hàng nghìn lạng, nhưng họ không phải là người gan góc hiểu đời như chị, nếu tôi nói với họ lại làm họ phát sợ lên. Cho nên thà tôi “đánh một tiếng chuông vàng, còn hơn đánh ba nghìn tiếng chũm chọe”.

Bỗng a hoàn nhỏ bên Giả mẫu chạy đến tìm Uyên Ương, nói:

- Cụ gọi chị đấy, tìm mãi không thấy chị đâu. Té ra lại ở đây.

Uyên Ương đi rồi, Giả Liễn quay vào thăm Phượng Thư. Lúc này Phượng Thư đã dậy, nghe thấy chồng nhờ Uyên Ương mượn đồ đi cầm, nên không tiện lên tiếng, cứ nằm yên ở trên giường. Thấy Giả Liễn vào, Phượng Thư hỏi: “Nó đã nhận lời chưa?”

- Tuy chưa nhận lời, nhưng cũng chắc được vài phần. Tối đến, mợ nói thêm vào một câu thì mười phần sẽ chắc cả mười.

- Tôi mặc kệ, không biết đến việc ấy. Bây giờ nghe cậu nói, bùi tai đấy, nhưng khi tiền đã vào tay rồi, cậu lại đánh trống lảng, liệu ai đi cãi vã với cậu được. Cụ biết ra thì thể diện tôi mấy năm nay mất hết!

- Mợ nói được tôi sẽ tạ ơn.

- Cậu tạ tôi cái gì nào?

- Mợ muốn cái gì, tôi tạ cái ấy.

Bình Nhi đứng bên cười nói:

- Mợ không cần đòi hỏi gì cả. Vừa rồi mợ nói phải làm một việc thiếu mất mấy trăm lạng, chi bằng khi mượn được về, mợ lấy ngay số tiền đó, như thế chẳng được việc cả hai bên hay sao?

Phượng Thư cười nói:

- May có chị nhắc tôi đấy. Thôi thế cũng được.

Giả Liễn cười nói:

- Các người tệ lắm! Các người chỉ nghĩ lúc này có món tiền đi cầm được chừng một nghìn lạng, biết đâu dù năm ba nghìn tiền mặt đối với các người cũng chẳng khó gì. Tôi không vay mượn các người thì thôi, chứ nhờ nói hộ một câu mà đã đòi tiền tạ. Sao mà ghê quá thế ?

Phượng Thư nghe xong vùng dậy bảo:

- Tôi có năm nghìn hay năm vạn cũng chẳng phải là món tiền kiếm chác được của cậu đâu! Hiện giờ hễ vắng mặt tôi là trong ngoài, trên dưới họ đều nói xấu rất nhiều, chỉ còn thiếu cậu nữa thôi! Thế mới biết “ma trong nhà chưa tỏ thì ma ngoài ngõ đã hay sao được”. Chính tiền nhà họ Vương chúng tôi, đều bị họ Giả các cậu kiếm chác mất. Cậu đừng cho tôi là kẻ xấu bụng xấu dạ. Tôi xem nhà cậu liệu đã giàu bằng Thạch Sùng, Đặng Thông(2) chưa? Cứ quét cái kẽ đất nhà họ Vương chúng tôi cùng đủ nuôi các cậu suốt đời. Nói sao không biết xấu! Hiện có chứng cớ đây: cứ mang đồ cưới của bà Hai và của tôi ra so xem, có thứ nào kém nhà các người không?

Giả Liễn cười nói:

- Tôi mới nói đùa một câu, mợ đã phát khùng rồi. Việc này có ra cái gì? Mợ muốn tiêu nhiều thì không có, chứ một vài trăm lạng có đáng là bao? Mợ cứ lấy mà tiêu, sau sẽ liệu.

Phượng Thư nói:

- Tôi có cần tiền để ngậm hàm, lót lưng(3) đâu mà vội thế?

Giả Liễn nói:

- Tại sao bỗng dưng lại lồng lộn lên như vậy?

Phượng Thư lại cười nói:

- Không phải tôi nóng nảy đâu, những lời cậu nói như đâm vào ruột ấy. Đến ngày kia là ngày giỗ đầu dì Hai. Trước kia chúng tôi ăn ở tử tế với nhau, giờ không làm gì cũng phải đến viếng mộ, đốt vàng, để tỏ tình chị em. Dì ấy dù không có con, cũng không nên quên cả tình xưa nghĩa cũ mới phải.

Giả Liễn nghe đoạn, cúi đầu suy nghĩ một lúc, mới nói:

- Mợ nghĩ thật là chu tất quá. Chính tôi cũng quên đi mất. Còn số tiền ngày kia tôi mới tiêu đến, nếu mai mợ hỏi được, tùy mợ muốn tiêu bao nhiêu cứ lấy mà tiêu.

Nói chưa dứt lời thì vợ Lai Vượng đi vào. Phượng Thư hỏi:

- Việc ấy đã xong chưa?

- Không ăn thua gì cả. Tôi đã nói, tất phải mợ đứng chủ cho thì mới xong.

Giả Liễn hỏi:

- Lại có việc gì đấy.

- Có việc gì quan hệ đâu. Chị Vượng có đứa con trai năm nay mười bảy tuổi, vẫn chưa có vợ. Chị ấy muốn xin Thái Hà hầu bên phòng bà Hai, không biết bà Hai có ưng hay không. Hôm nọ bà Hai thấy Thái Hà đã lớn, lại hay ốm đau luôn, nên đã rộng lượng cho nó về nhà, đề tùy bố mẹ nó chọn ai xứng đáng thì gả. Vì thế chị Vượng đến nhờ tôi nói giúp. Tôi nghĩ hai nhà ấy cũng môn đăng hộ đối, nói một câu là tự khắc xong ngay; ngờ đâu chị ấy đến nói lại không xong!

Giả Liễn nói:

- Việc ấy có quan hệ gì? Thiếu gì người giỏi hơn Thái Hà.

Vợ Lai Vượng cười nói:

- Cậu cứ nói vậy. Ngay nhà ấy cũng khinh chúng tôi, thì người khác còn coi chúng tôi ra gì nữa. Tôi tìm kiếm mãi mới được đám này, mong cậu mợ ra ơn xây dựng cho. Mợ cứ bảo thế nào họ cũng bằng lòng, nên tôi mới nhờ người đến hỏi ướm, ngờ đâu mất công mua lấy cái bẽ. Kể ra con bé ấy cũng tốt đấy, ngày thường tôi đã ướm nó, chẳng thấy nói gì; chỉ có hai vợ chồng lão già nhà nó là làm bộ đấy thôi.

Câu nói ấy có ý chọc cả Phượng Thư và Giả Liễn, nhưng Phượng Thư cứ ngồi im, xem vẻ mặt Giả Liễn ra làm sao. Giả Liễn đương bận việc, đâu còn để bụng đến việc ấy. Hắn định bỏ mặc, nhưng ngại vì vợ Lai Vượng là người theo hầu của Phượng Thư, vả lại ngày thường chị ta cũng chịu khó hầu hạ, nên không tiện bỏ qua, liền nói:

- Việc ấy có quan trọng gì mà phải nói lôi thôi mãi? Chị cứ yên tâm về đi. Ngày mai tôi sẽ đứng lên làm mối, sai hai người có thể diện đến nói và mang lễ đến luôn, bảo là ý định của tôi đấy! Nếu họ nhất định không nghe thì bảo họ đến đây gặp tôi.

Thấy Phượng Thư bĩu môi, vợ Lai Vượng hiểu ý ngay, gục đầu tạ ơn Giả Liễn. Giả Liễn nói:

- Chị cứ tạ ơn mợ chị thôi. Tôi tuy nói thế, nhưng cũng phải nhờ mợ chị sai người đi, gọi bà ta đến, nói khéo với bà ta thì hơn, nếu không thì ra cậy thế bắt ép người ta quá, sau này hai bên thông gia cũng khó đi lại với nhau.

Phượng Thư nói:

- Ngay cậu cũng còn để bụng làm ơn như thế, chẳng lẽ tôi lại khoanh tay đứng nhìn hay sao? - Chị Vượng nghe đây: Tôi nói hộ chị việc này, chị cũng phải làm ngay cho xong công việc của tôi. Chị về bảo anh ấy: bao nhiêu món nợ bên ngoài, đến cuối năm nay phải thu cho đủ, thiếu một đồng cũng không được. Tôi đã mang tiếng xấu rồi, nếu lại cho vay năm nữa, có lẽ họ ăn thịt tôi đấy!

Vợ Lai Vượng cười nói:

- Mợ nhát gan quá. Ai dám bàn tán. Nếu thu về, cứ công bằng mà nói, chúng tôi lại nhẹ việc, khỏi phải mang trách mang oán với người.

Phượng Thư nói:

- Tôi thật là một tấm lòng ngây thơ hão! Tôi thu tiền về để làm gì? Chẳng qua vì việc tiêu dùng hàng ngày, chi ra nhiều thu vào ít. Trong nhà việc này việc khác, tiền lương tháng của tôi, của cậu ấy và của bốn người a hoàn cộng cả lại được một vài chục lạng bạc, vẫn không đủ tiêu trong năm ba ngày. Nếu tôi không xoay cách này cách khác, biết đâu chẳng phải ra đầu đình xó chợ từ bao giờ rồi! Thế mà vẫn mang tiếng là người cho vay lãi. Đã thế, tôi thu cả về. Tôi chả biết tiêu tiền như người khác ư? Từ nay trở đi, chúng ta cứ ngồi mà tiêu bừa đi, được đến đâu hay đến đấy. Cứ xem trước kia, gặp ngày sinh nhật cụ, bà Hai lo cuống lên trong hai tháng trời, chẳng nghĩ ra được cách gì, cũng lại đến tôi phải nhắc một câu là trên lầu hiện có bốn, năm hòm đồ đồng, đồ thiếc, không cần dùng đến, đem bán lấy ba trăm lạng bạc, lúc ấy mới có tiền sắm lễ, nhuế nhóa cho qua, để khỏi bẽ mặt. Các chị cũng biết đấy, tôi bán một cái đồng hồ vàng được năm trăm sáu mươi lạng bạc, chưa đầy nửa tháng, gặp ngay gần mười việc lớn nhỏ, thành ra bù cả vào đấy hết cả. Bây giờ ở bên ngoài cũng thiếu tiền. Không biết ai đã nghĩ ra kế này, về lục lọi của cụ. Sau này độ một năm nữa, có lẽ sẽ lục lọi đến cả đồ nữ trang và quần áo nữa, như thế thì thật là đẹp!

Vợ Lai Vượng cười nói:

- Đem cầm bán đồ nữ trang và quần áo của bà hay của mợ nào mà không đủ tiêu suốt đời. Có cái là không muốn làm thế thôi.

Phượng Thư nói:

- Không phải là tôi không làm được đâu, nhưng làm cách như thế thì tôi đành chịu thôi. Tối hôm qua nằm mê, nói ra đáng buồn cười. Tôi mê gặp một người quen quen, nhưng không biết tên. Hắn đến nói với tôi là quí phi sai hắn đến đòi một trăm tấm gấm. Tôi hỏi là quí phi nào, cứ như hắn nói, thì không phải là quí phi nhà chúng ta. Tôi không cho hắn, nhưng hắn cứ cướp lấy. Trong khi hắn đang cướp thì tôi tỉnh dậy.

Vợ Lai Vượng cười nói:

- Đó là vì ban ngày mợ lo nghĩ, rồi nhớ đến việc hầu hạ ở trong cung đấy.

Chợt có người vào trình:

- Quan Thái giám họ Hạ sai người nhà đến trình có việc.

Giả Liễn cau mày nói:

- Lại còn việc gì nữa? Cả năm họ đến quấy quả kể cũng đã chán rồi!

Phượng Thư nói:

- Cậu hãy lánh mặt đi, để tôi ra tiếp họ. Việc xoàng thì thôi, nếu là việc quan trọng tôi sẽ có cách trả lời họ.

Giả Liễn liền lánh vào nhà trong.

Phượng Thư sai người dẫn tên tiểu thái giám vào, mời hắn ngồi chơi uống nước, rồi hỏi có việc gì.

Tiểu thái giám nói:

- Quan Hạ thái giám muốn mua một ngôi nhà, nhưng thiếu mất hai trăm lạng bạc, sai tôi đến hỏi, nếu bên nhà mợ có sẵn cho quan tôi vay, độ vài hôm sẽ mang trả lại.

Phượng Thư cười nói:

- Việc gì phải trả. Có sẵn tiền đây hãy cứ lấy về. Khi nào chúng tôi thiếu sẽ đến mượn lại, cũng thế.

Tiểu Thái giám nói:

- Quan Hạ tôi còn nói hai lần trước có vay một nghìn hai trăm lạng bạc, vẫn chưa trả. Để đến cuối năm nay quan tôi sẽ mang lại trả cả một thể.

Phượng Thư cười nói:

- Quan nhà anh nhỏ nhen quá. Việc ấy có gì đáng để bụng? Tôi nói câu này ông ấy giận cũng mặc: nếu món nào cũng nhớ trả cho chúng tôi thì không biết phải trả bao nhiêu cho đủ? Chỉ sợ chúng tôi không có tiền, nếu có, quan anh cứ việc lấy mà tiêu.

Phượng Thư gọi vợ Lai Vượng đến bảo:

- Bất cứ món nào, chị hãy chi hai trăm lạng mang vào đây.

Vợ Lai Vượng hiểu ý, cười nói:

- Vì không lấy vào món nào được, nên tôi mới phải đến xin mợ chỉ cho.

- Các người chỉ biết lấy tiền ở trong này thôi; còn bảo ra ngoài mà lấy thì không bao giờ có.

Nói xong liền gọi Bình Nhi:

- Mang hai cái vòng vàng của tôi ra đây, đi cầm tạm lấy bốn trăm lạng bạc.

Bình Nhi vâng lời, mang một cái hộp gấm ra, trong có hai gói bọc gấm. Mở ra, một chiếc vòng vàng dát hạt châu, mỗi hạt to độ bằng hạt sen, còn một chiếc nữa thì dát ngọc đá xanh. Hai chiếc vòng này chẳng kém gì đồ trang sức ở trong cung. Rồi mang đi cầm được bốn trăm lạng bạc đem về. Phượng Thư sai đếm cho tiểu thái giám một nửa, còn một nửa thì giao cho vợ Lai Vượng, bảo chị ta cầm lấy để sửa lễ tết Trung Thu. Tiểu thái giám cáo từ ra về. Phượng Thư sai người mang tiền theo và tiễn ra đến cửa ngoài.

Bấy giờ Giả Liễn ở trong đi ra, cười nói với Phượng Thư:

- Cái bọn ma ở ngoài ấy quấy mãi đến bao giờ mới thôi?

- Vừa mới nói xong, đã lại có một bọn đến ngay.

- Hôm nọ Chu Thái giám đến, hỏi vay một nghìn lạng, tôi chậm trả lời, hắn đã tỏ ra không bằng lòng. Sau này sẽ còn nhiều việc để cho người ta oán trách. Bây giờ có món nào phát tài được năm ba vạn nữa mới được!

Giả Liễn nói xong thì Bình Nhi sắp sửa cho Phượng Thư rửa mặt, thay áo sang hầu cơm bên Giả mẫu.

Giả Liễn ra đến thư phòng bên ngoài, thấy Lâm Chi Hiếu đến. Giả Liễn hỏi có việc gì. Lâm Chi Hiếu nói:

- Nghe đâu ông Vũ Thôn bị giáng chức, không biết là việc gì, nhưng chưa chắc có thực không?

- Thực hay hư thì chức quan của ông ấy cũng chưa chắc đã giữ được lâu. Chỉ sợ sau này xảy ra chuyện gì, chi bằng chúng ta xa hắn ra là hơn.

- Phải đấy! Nhưng xa ngay sợ cũng khó đấy. Hiện giờ ông bên phủ Đông chơi thân với hắn. Ông nhà ta cũng thích hắn, thường hay đi lại chơi bời, ai mà chẳng biết?

- Nhưng không bàn bạc với hắn, thì cũng không can hệ gì. Anh đi nghe ngóng xem có đích thực không và bị việc gì?

Lâm Chi Hiếu vâng lời, nhưng vẫn không đi, cứ ngồi ở ghế nói chuyện phiếm. Khi bàn đến việc nhà khó khăn, hắn nhân dịp nói:

- Hiện giờ người ăn nhiều quá. Hôm nào rỗi, cậu trình với cụ và ông lớn rộng ơn cho những người hầu già đã khó nhọc từ trước cho họ về nhà không dùng nữa. Như thế, một là họ sẽ kiếm được việc làm ăn; hai là nhà ta mỗi năm bớt được ít nhiều lương ăn và tiền tháng. Hơn nữa, các a hoàn bây giờ cũng đông quá. Tục ngữ nói: “Mỗi lúc một khác”. Giờ không thể noi theo lệ trước được nữa, đáng tám người chỉ dùng sáu thôi, đáng bốn người chỉ dùng hai thôi, tất nhiên mỗi người đều thấy khó chịu đấy. Nhưng tính ra, đổ đồng các phòng, mỗi năm có thể bớt được khá nhiều lương tiền. Vả chăng bọn hầu gái trong nhà có một nửa đã lớn, đứa nào đáng gả chồng thì gả; đã lấy chồng tất lại sinh thêm người.

- Tôi cũng nghĩ thế, nhưng vì ông mới về, còn nhiều việc quan trọng, chưa trình hết, đã nghĩ đâu đến việc này? Hôm nọ có người mối mang danh thiếp đến cầu hôn, bà còn bảo là ông mới về, ngày nào cũng vui vẻ “gia đình đoàn tụ”, nếu nhắc ngay việc ấy sợ ông buồn, nên chưa cho nói vội.

- Như thế rất đúng. Bà nghĩ thực là chu đáo.

- Phải đấy. Nói đến việc cầu hôn, tôi lại nhớ ra một chuyện. Con trai của Lai Vượng muốn hỏi Thái Hà là đứa hầu của bà Hai. Hôm qua hắn đến nhờ tôi, tôi nghĩ việc ấy có to tát gì? Anh rỗi đến nói một tiếng, cứ bảo là tôi định như thế đấy.

Lâm Chi Hiếu vâng lời, một lúc lại cười nói:

- Cứ ý tôi thì cậu không nên để ý đến việc này. Con trai Lai Vượng còn trẻ tuổi, đã ra ngoài rượu chè, cờ bạc, chẳng từ cái gì. Dù là đầy tớ đấy, nhưng việc này quan hệ đến cả một đời người. Con bé Thái Hà lâu nay tôi không gặp, nhưng thấy người ta nói, nó bây giờ xinh lắm. Vậy thì tội gì lại làm khổ đời một đứa con gái?

- Ơ! Thằng bé ấy lại đâm ra rượu chè, làm những việc bậy bạ ở ngoài à? Đã thế, còn hỏi vợ cho nó làm gì? Hãy đánh cho nó một trận, giam lại đấy, rồi hỏi bố mẹ nó xem sao.

- Cần gì phải làm ngay bây giờ? Khi nào nó gây chuyện, tôi sẽ trình cậu trị tội. Bây giờ hãy tha cho nó.

Giả Liễn không nói gì. Một lúc Lâm Chi Hiếu lui ra.

Buổi chiều, Phượng Thư sai người đi gọi mẹ Thái Hà đến nói chuyện, mẹ Thái Hà vốn không bằng lòng nhưng thấy Phượng Thư chịu nói với mình, rất lấy làm hãnh diện, nhận lời ngay.

Phượng Thư lại hỏi Giả Liễn:

- Đã nói hộ việc ấy chưa?

- Tôi vẫn định nói hộ, nhưng nghe đâu thằng bé ấy không ra hồn người, nên tôi hãy để nán lại. Nếu quả nó không ra gì, hãy nên dạy bảo ít lâu, rồi sẽ lấy vợ cho nó cũng không muộn.

- Những người họ Vương nhà tôi, ngay tôi cũng chẳng được vừa ý cậu nữa là bọn đầy tớ! Tôi đã nói với mẹ Thái Hà rồi, bà ấy vui lòng lắm, có nhẽ nào bây giờ lại gọi bà ấy đến dãn hay sao?

- Mợ đã nói rồi, thì cần gì phải dãn. Mai đây tôi sẽ bảo cha nó phải lo dạy con cho tử tế mới được.

Trước đây Thái Hà được về nhà tùy bố mẹ chọn người gả bán, mặc dù trong bụng có quyến luyến với Giả Hoàn, nhưng cũng chưa có gì chắc chắn. Bây giờ thấy Lai Vượng đến cầu hôn, lại nghe con trai hắn ta hay rượu chè cờ bạc, người lại xấu, nên không vừa ý. Thái Hà sinh ra buồn bực, chỉ sợ Lai Vượng cậy thế Phượng Thư, một khi công việc xong xuôi, sẽ là mối lo cho suốt cả một đời, nên lòng càng run sợ. Đến tối nó khẽ bảo em là Tiểu Hà vào cửa thứ hai tìm dì Triệu, hỏi rõ đầu đuôi. Ngày thường dì Trệu rất mến Thái Hà, chỉ mong lấy được nó cho Giả Hoàn, để có người giúp đỡ, không ngờ Vương phu nhân lại cho Thái Hà ra ngoài. Dì Triệu thường xui Giả Hoàn đến van xin, nhưng một là Giả Hoàn xấu hổ không dám nói, hai là chính hắn cũng không để ý đến Thái Hà, cho Thái Hà là một đứa hầu, nó đi sau này tất có đứa khác đẹp hơn, vì thế hắn cứ vùng vằng không chịu nói, ý muốn lờ đi cho rảnh. Khốn nỗi dì Triệu lại không chịu rời, thấy em Thái Hà đến hỏi, nhân buổi chiều rỗi, liền đến xin với Giả Chính.

Giả Chính nói:

- Việc gì mà vội! Chờ nó học một vài năm nữa đã rồi sẽ tìm người cũng chưa muộn. Ta đã để ý hai đứa a hoàn, một đứa cho Bảo Ngọc; một đứa cho thằng Hoàn. Chỉ vì chúng hãy còn bé, sợ làm lỡ việc học, hãy chờ vài năm nữa sẽ hay.

Dì Triệu nói:

- Bảo Ngọc đã có từ hai năm nay rồi, ông còn chưa biết sao?

- Ai vậy?

Dì Triệu còn muốn nói nữa, bỗng nghe phía ngoài ầm một tiếng. Mọi người giật mình, không biết vỡ cái gì.

--------------------------

(1). Tức mồng 9 tháng 9 âm lịch.

(2). Thạch Sùng người đời Tấn, giầu địch với vua. Đặng Thông người đời Hán, được vua yêu cho quả núi đồng để đúc tiền. Vì thế Đặng Thông rất giàu.

(3). Theo tục đời xưa, người chết, thì bỏ một ít tiền hoặc gạo vào trong miệng và rải một ít tiền dưới kê sau lưng để đặt người chết xuống.

Hồi thứ bảy mươi ba

A hoàn ngơ ngẩn, nhặt nhầm túi xuân tình;

Tiểu thư ươn hèn, bỏ lơ dây kim phượng.

Dì Triệu đương nói chuyện với Giả Chính, chợt nghe thấy ầm một tiếng ở bên ngoài, không biết vật gì rơi, liền hỏi, hóa ra cái cửa sổ nhà ngoài không cài chặt then rơi xuống. Dì Triệu mắng bọn a hoàn mấy câu, dẫn họ đi đóng lại tử tế rồi vào sửa soạn cho Giả Chính đi nghỉ.

Trong viện Di Hồng. Bảo Ngọc vừa mới đi ngủ, bọn a hoàn cũng định đi ngủ, chợt nghe có người đến gõ cửa, bà già ra mở, thấy a hoàn của dì Triệu là Tiểu Thước đến. Họ hỏi, nó không trả lời, cứ đi thẳng vào trong nhà tìm Bảo Ngọc. Bảo Ngọc mới đi ngủ; bọn Tình Văn đương ngồi cười đùa ở cạnh giường, thấy nó đến, đều hỏi:

- Việc gì mà bây giờ còn chạy đến?

Tiểu Thước vội khẽ nói với Bảo Ngọc:

- Cháu đến mách cậu cái tin này, vừa rồi dì Triệu cháu thì thào với ông lớn, không biết nói chuyện gì về cậu. Cháu chỉ nghe thấy hai tiếng “Bảo Ngọc” thôi. Cháu lại mách cậu, cẩn thận không ngày mai ông sẽ hỏi đến cậu đấy!

Tập Nhân sai người giữ nó lại uống nước, nhưng sợ cửa đóng, nó chạy đi ngay.

Bảo Ngọc nghe nói, biết là dì Triệu xấu bụng, coi mình như quân thù, nhưng không biết dì ấy đã nói những gì, nên cứ như Tôn Ngộ Không sợ “vành kim cô” ấy, chân tay bủn rủn, gan ruột bồn chồn. Nghĩ mãi không biết làm thế nào, đành phải học ôn sách, phòng ngày mai cha có hỏi đến chăng. Cốt sao sách vở không sai nhầm, thì việc gì cũng có thể che lấp được. Nghĩ vậy, Bảo Ngọc khoác áo đứng dậy, trong bụng băn khoăn: “Mấy lâu nay mình cho là không ai hỏi đến, cứ bỏ khuấy đi. Nếu biết thì ngày nào mình cũng đem ra ôn lại ít nhiều mới được. Nay tính nhẩm lại, những sách có thể đọc thuộc lòng được, chẳng qua chỉ mấy quyển “Đại học”, “Trung dung” và “Luận ngữ”, “Mạnh Tử thượng” nhớ mang máng độ một nửa, bất chợt cha hỏi một câu, chắc không thể đọc được. “Mạnh Tử hạ” thì quên gần hết. “Ngũ kinh” thì vì gần đây làm thơ thường hay lượm lặt ít nhiều trong đó, nên thuộc lõm bõm, có thể nói qua được. Những sách khác tuy không nhớ hết, nhưng may ngày thường cha chưa bắt học, dù không biết cũng không sao. Về cổ văn như “Tả truyện”, “Quốc sách”, “Công dương”, “Cốc lương”, Hán văn, Đường văn, thì mấy năm trước cũng đã đọc qua, nhưng vài năm nay bỏ nhãng đi, khi cao hứng thì đọc, đọc rồi lại quên, - mình chưa chịu khó nghiền ngẫm thì nhớ sao được? Việc này cũng khó che đậy đấy. Lại còn văn bát cổ nữa, vì mình ngày thường rất ghét, cho đó không phải văn của thánh hiền đặt ra, nên không thể khơi sâu được ý nghĩa, chẳng qua chỉ là cái bậc thang để câu mồi danh lợi của bọn người sau đó thôi. Vì khi Giả Chính sắp ra đi, có chọn hơn một trăm bài cho Bảo Ngọc đọc, nhưng đều là thời văn của người sau, thỉnh thoảng một vài vế trong câu “thừa” hay câu “khởi” cũng có ý sâu sắc hoặc trôi chảy, hoặc đùa bỡn, hoặc thương cảm làm xúc động lòng người, tình cờ đọc lên, thấy có hứng thú trong chốc lát, nhưng rút cục chẳng để tâm nghiền ngẫm được trọn một bài nào. Bây giờ mình ôn tập bài nọ, sợ ngày mai cha hỏi bài kia; ôn tập bài kia lại lo cha tra bài nọ, dù ôn tập cả đêm cũng không thể hết được. Bảo Ngọc càng thấy sốt ruột. Việc đọc sách của Bảo Ngọc chẳng quan trọng gì, nhưng phiền nhất là các a hoàn không ai ngủ được. Tập Nhân thì đứng bên cạnh cắt ngọn đèn và pha nước, bọn hầu nhỏ thì mệt lử, ngủ gà ngủ gật.

Tình Văn liền mắng:

- Bọn ranh con này! Ngủ trương xác suốt ngày suốt đêm không đủ à, giờ mới thức khuya một tí mà đã thế. Nếu còn thế nữa ta sẽ lấy kim đâm mấy cái cho mà coi!

Bỗng bên ngoài có tiếng “cộc” một cái, té ra một a hoàn ngồi ngủ gật, đầu va vào vách. Nó bàng hoàng tỉnh dậy, nghe đúng câu mắng của Tình văn. Nó hoảng hốt tưởng Tình Văn đánh mình, liền khóc van:

- Thưa chị! Em không dám ngủ nữa!

Mọi người đều cười ầm lên.

Bảo Ngọc vội khuyên:

- Thôi tha cho nó. Đáng lẽ nên bảo chúng nó đi ngủ. Các chị cũng nên thay nhau đi ngủ đi.

Tập Nhân nói:

- Ông trẻ ơi! ông cứ lo việc của ông đã! Chỉ còn một đêm nay nữa, ông hãy cứ để bụng vào mấy quyển sách đi. Nếu qua được bước này, thì ông tha hồ, muốn nghĩ gì cũng chẳng sợ lầm lỡ nữa.

Bảo Ngọc thấy Tập Nhân nói thiết tha thế, đành lại phải đọc. Đọc được mấy câu, thấy Xạ Nguyệt pha một chén nước đưa cho nhấp giọng. Bảo Ngọc thấy Xạ Nguyệt chỉ mặc một áo lót, liền bảo:

- Đêm khuya rồi, trời lạnh, chị phải mặc áo ngoài vào mới được.

Xạ Nguyệt trỏ vào sách, cười:

- Cậu thử tạm quên chúng tôi đi, hãy để bụng vào đây đã.

Nói chưa dứt lời thì Xuân Yến, Thu Văn từ cửa buồng sau chạy vào, kêu ầm lên:

- Nguy rồi! Có một người ở trên tường nhảy xuống!

Mọi người hỏi: “Ở đâu?” Rồi lập tức gọi người đi tìm khắp nơi.

Tình Văn thấy Bảo Ngọc suốt đêm nghiền ngẫm sách vở vất vả tinh thần, chưa chắc ngày mai đã được yên thân, nên trong bụng nghĩ ra một kế cho Bảo Ngọc thoát nạn. Chợt gặp việc kinh khiếp này, liền nói với Bảo Ngọc:

- Gặp dịp này, cậu hãy giả cách ốm, cứ bảo là vì sợ quá.

Câu nói trúng vào tim đen, Bảo Ngọc gọi ngay người canh đêm đến bắt họ thắp đèn đi lục lọi các nơi, nhưng không thấy dấu vết gì cả. Họ đều nói:

- Chắc là các cô bé buồn ngủ quá, hoa mắt lên, thấy gió đập cành cây lại nhận nhầm là người đấy thôi.

Tình Văn nói:

- Đừng nói bậy! Các người tra xét không nghiêm ngặt, sợ mang lỗi, nên giở cách để chống đỡ! Vừa rồi không phải chỉ một người trông thấy, cậu Bảo cùng chúng tôi đi ra xem, đều thấy rõ cả. Hiện giờ cậu Bảo sợ quá tái hẳn mặt đi, khắp người nóng ran, tôi phải lên buồng lấy thuốc an thần cho cậu ấy uống đây; nếu bà hỏi, tôi phải trình rõ, chẳng nhẽ theo lời các người rồi bỏ qua đi hay sao?

Mọi người nghe xong, sợ quá, không dám nói gì, đành phải đi tìm các ngả. Tình Văn và Thu Văn cùng đi ra xin thuốc, cố ý làm ầm lên cho mọi người biết là Bảo Ngọc sợ quá đâm ốm. Vương phu nhân sai người đến thăm và cho thuốc, dặn dò các người canh đêm phải tra xét cấn thận; lại cho tra hỏi bọn canh đêm ở cửa thứ hai vườn bên cạnh. Vì thế đèn đuốc khắp vườn, nhộn lên cả đêm. Đến trống canh năm, lại truyền cho bọn quản gia xét hỏi lại kỹ càng.

Giả mẫu nghe nói Bảo Ngọc bị kinh khiếp, hỏi kỹ ngọn ngành, mọi người không dám giấu, đành phải trình rõ, Giả mẫu nói:

- Ta không ngờ có việc này. Lâu nay bọn canh đêm không được cẩn thận, nhưng đó còn là việc nhỏ, chỉ sợ chính chúng nó lại là trộm cướp cũng chưa biết chừng!

Hình phu nhân và Vưu thị đều đến hỏi thăm. Lý Hoàn, Phượng Thư cũng đứng hầu đấy, nghe Giả mẫu nói thế, đều lặng thinh cả. Chỉ có Thám Xuân đứng ra cười nói:

- Gần đây chị Phượng cháu không được khỏe, nên những người trong vườn ngông cuồng hơn trước nhiều. Lúc đầu chẳng qua họ lén lút, một chốc một lát hoặc khi canh đêm, ba bốn người họp nhau gieo xúc xắc, đánh bài chơi đùa, chỉ cốt đỡ buồn ngủ thôi. Nhưng bây giờ càng ngày họ càng bừa bãi, mở hẳn sòng bạc, thậm chí có người chứa gá, người làm cái, được thua hàng dăm, ba chục quan. Trước đây nửa tháng đã xảy ra việc tranh giành đánh nhau.

Giả mẫu nghe thế, liền nói:

- Cháu đã biết rõ, sao không đến trình ngay.

- Cháu thấy mẹ cháu bận việc, lại mấy hôm nay không được khỏe, nên cháu chưa dám trình, chỉ mách chị Cả và những người coi việc, đã dặn bảo họ mấy lần, bây giờ cũng đã đỡ rồi.

Giả mẫu nói:

- Các cô biết đâu được những chuyện tai hại trong đó. Cháu tưởng đánh bạc là việc thường, chỉ có thể xảy ra tranh cãi nhau là cùng; chứ biết đâu ban đêm đã đánh bạc thì tất phải uống rượu, đã uống rượu thì tha hồ mở cửa hoặc đi mua thức ăn, tìm người này người nọ, trong lúc đêm khuya vắng người, thôi thì đủ cả giấu trộm, dắt cướp, chẳng từ việc gì. Vả chăng những người ở cùng với các cháu trong vườn đều là bọn bàn bà con gái, kẻ hay người dở lẫn lộn, trộm cướp còn là việc nhổ, chứ nếu xảy ra chuyện gì không hay, lỡ có dính líu đến, thì không phải chuyện chơi! Việc này bỏ qua sao được?

Thám Xuân nghe nói lẳng lặng về chỗ ngồi. Phượng Thư tuy chưa khỏi hẳn, nhưng tinh thần vẫn còn tỉnh táo, thấy vậy liền nói:

- Khốn nỗi cháu lại đương ốm!

Rồi quay ra sai người đi gọi ngay bốn người đàn bà tổng lý trong nhà là bọn vợ Lâm Chi Hiếu đến, quở trách họ ngay trước mặt Giả mẫu. Giả mẫu truyền đi tra xét ngay những nhà chứa bạc. Người nào ra thú trước thì được thưởng, kẻ nào cố giấu thì phải phạt. Vợ Lâm Chi Hiếu thấy Giả mẫu nổi giận, không dám thiên vị một ai, liền vào trong vườn tra hỏi hết lượt. Mọi người đều chối quanh nhưng “cháy nhà ra mặt chuột”, lúc lâu rồi cũng tra ra được ba sòng to, tám sòng nhỏ, tất cả có hơn hai mươi con bạc. Bà ta dẫn đến trình Giả mẫu. Họ đều quỳ cả ở ngoài sân, lạy lục xin tha.

Trước hết Giả mẫu hỏi tên họ ba chủ sòng bạc lớn và số bạc có bao nhiêu? Trong số ba chủ sòng lớn có một người là đôi con dì với vợ Lâm Chi Hiếu; một người là em gái nàng dâu thím Liễu hiện làm bếp ở trong vườn; một người nữa là vú nuôi của Nghênh Xuân. Ba người này đứng đầu, còn nữa không thể kể hết được. Giả mẫu sai đốt hết xúc xắc và cỗ bài, tịch thu hết tiền đánh bạc đem chia cho mọi người; đánh mỗi người đứng đầu bốn mươi gậy rồi đuổi cổ đi, nhất thiết không cho vào làm nữa; những người theo hùa thì đánh hai mươi gậy, phạt ba tháng lương, bắt vào quét dọn nhà xí. Lại quở trách vợ Lâm Chi Hiếu một trận.

Vợ Lâm Chi Hiếu thấy người bà con làm mình  mặt, đâm ra cụt hứng. Nghênh Xuân ngồi đấy cũng thấy ngượng ngùng. Bọn Đại Ngọc, Bảo Thoa, Thám Xuân thấy vú nuôi Nghênh Xuân như thế, cũng có ý thương tình, đều đứng dậy cười xin Giả mẫu:

- Bà vú này, xưa nay không đánh bạc, không biết sao bây giờ lại tự nhiên thích vui thế. Xin bà nể mặt cô Hai mà tha cho bà ấy một lần.

Giả mẫu nói:

- Các cháu không biết! Những bọn vú này, người nào cũng cậy mình nuôi các cô các cậu, có chút thể diện hơn người khác nên cứ hay so bì, càng đáng ghét hơn. Họ chỉ biết ton hót chủ nhà che lỗi, thiên vị cho họ. Ta đã biết cả rồi. Ta vẫn muốn trị một đứa để làm gương, thì vừa hay gặp ngay con mụ này. Các cháu đừng dây vào, ta đã có cách.

Bọn Bảo Thoa nghe nói thế, đành phải thôi.

Một lúc, Giả mẫu đi nghỉ trưa. Mọi người lui ra. Thấy Giả mẫu nổi giận, chưa ai đám về nhà, cứ phải ở lại đấy chực chầu. Vưu thị đến nhà Phượng Thư nói chuyện phiếm một lúc nhưng vì thấy chị ta cũng khó ở đành vào trong vườn nói chuyện phiếm với các chị em.

Hình phu nhân ngồi ở nhà Vương phu nhân một lúc, rồi cũng vào chơi trong vườn. Vừa tới nơi, thấy a hoàn nhỏ của Giả mẫu, tên là con Ngốc, đương tươi cười hí hớn đi lại, trong tay cầm một vật gì xanh đỏ, cúi đầu vừa ngắm vừa chạy, không ngờ đụng phải Hình phu nhân, nó ngẩng lên, thấy vậy, mới đứng lại.

Hình phu nhân nói:

- Con Ngốc kia, mày bắt được cái gì mà thích thế? Đưa lại đây ta xem nào.

Con Ngốc mười bốn tuổi, mới được tuyển vào làm những việc gánh nước, quét nhà ở trong nhà Giả mẫu. Giả mẫu thấy người nó vạm vỡ, hai chân lại to, làm việc rất nhanh nhẹn gọn gàng, tính lại ngu đần không biết gì cả, hễ nói ra là ai cũng bật cười. Giả mẫu thích nó lắm, liền đặt tên cho nó là con Ngốc. Nó có lầm lỗi điều gì, được Giả mẫu vui, nên cũng không bị trách mắng. Lúc rỗi việc, nó hay vào trong vườn chơi đùa. Bấy giờ nó đương tìm bắt dế mèn ở sau núi đá, chợt trông thấy một cái túi thơm(1) thêu chỉ ngũ sắc, không phải con chim cành hoa gì cả, mà là hai người trần truồng đương ôm nhau, với mấy chữ đề. Con bé Ngốc này không biết đó là lối khêu gợi xuân tình, trong bụng đắn đo: “Chắc là hai con yêu tinh đánh nhau chăng? Nếu không, hẳn là hai người đánh nhau gì đây?” Nó đoán mãi không ra, định mang về đưa Giả mẫu xem. Vì thế nó hí hửng chạy về. Thấy Hình phu nhân hỏi, nó cười nói:

- Bà nói rất đúng, thực là một vật đáng yêu! Bà thử xem đây.

Nói xong nó đưa ra.

Hình phu nhân cầm xem, sợ quá, vội nắm chặt lấy nó, hỏi ngay:

- Mày nhặt được cái này ở đâu?

- Cháu đi bắt dế, nhặt được ở sau núi đá.

- Mày không được nói cho ai biết. Cái này không đẹp đâu. Cả mày cũng đáng đánh chết nữa. Nhưng vì mày vốn là con ngốc, từ nay không được nhắc đến nữa.

Nghe xong nó sợ tái mặt đi, thưa: “vâng” rồi gục đầu tạ, ngơ ngẩn chạy đi.

Hình phu nhân quay lại nhìn, theo sau đều là bọn hầu gái cả, không tiện đưa cho chúng, liền tự mình bỏ vào ống tay áo, trong bụng rất lấy làm lạ, đoán mãi không biết cái này ở đâu đến đây, nhưng không lộ ra nét mặt, đi thẳng vào buồng Nghênh Xuân. Vì vú nuôi bị tội, Nghênh Xuân trong bụng khó chịu, thấy mẹ đến, liền ra mời vào. Uống nước xong, Hình phu nhân nói:

- Con đã lớn rồi, vú nuôi của con làm bậy như thế, sao con không răn bảo. Hiện giờ người ta đều tử tế cả, riêng người nhà mình là xấu thôi. Thế là nghĩa thế nào?

Nghênh Xuân cúi đầu mân mê tà áo, một lúc mới thưa:

- Con đã bảo bà ấy hai lần, nhưng bà ấy không nghe, con cũng chẳng biết làm thế nào cả. Vả chăng bà ấy là vú nuôi, chỉ có bà ấy bảo được con thôi, chứ con không thể bảo được bà ấy.

Hình phu nhân nói:

- Nói nhảm! Con có điều không phải thì vú ấy bảo con; nhưng vú ấy phạm pháp, thì con phải lấy tư cách là cô mà răn bảo. Nếu vú ấy không nghe, con trình mẹ biết mới phải. Bây giờ vỡ lở ra, người ngoài biết, còn ra làm sao nữa! Hơn nữa vú ấy là nhà gá bạc, cũng đã nói khôn nói khéo, mượn trâm vòng quần áo của con đi cầm để làm tiền vốn. Con là người nhẹ dạ cả nể, chắc đâu không giúp đỡ ít nhiều. Nếu bị vú ấy lừa mất, thì ta một đồng không có, rồi đây ngày tết, con ấy gì mà ăn mặc?

Nghênh Xuân cúi đầu mân mê tà áo không nói gì cả. Hình phu nhân thấy vậy cười nhạt:

- Rút cuộc, chỉ có anh con, chị dâu con là tiếng tăm lừng lẫy thôi! Cậu hai Liễn! Mợ Phượng! Cả hai làm trời làm đất, việc gì cũng thu xếp đâu vào đấy, nhưng có một cô em thì lại chả để ý gì đến. Nếu như con ta đẻ ra, thôi thì mặc kệ chúng. Nhưng con lại không phải con đẻ của ta. Con với anh con, dù khác mẹ, vẫn là cùng cha, phải nên chăm sóc lẫn nhau một chút, đừng để người ngoài chê cười. Ta nghĩ, việc đời khó mà liệu định được. Con là con nàng hầu của ông Cả, con Thám Xuân là con nàng hầu của ông Hai. Hai đứa đều như nhau cả. Mẹ con đã chết rồi. Nhưng kể ra, mẹ con còn giỏi gấp mười dì Triệu, đáng lẽ con cũng phải hơn con Thám Xuân mới phải.

Một người đứng hầu bên cạnh thừa dịp nói:

- Cô tôi hiền lành phúc hậu, có đâu như cô Ba là người mồm mép láu lỉnh, làm em lại cứ đành hanh. Biết chị như vậy, cô ấy chẳng vị nể chút nào.

Hình phu nhân nói:

- Anh chị ruột còn như vậy, trách gì người ngoài.

Lúc đó có người vào trình:

- Mợ Liễn sang hầu.

Hình phu nhân nghe nói, cười nhạt mấy tiếng, rồi sai người ra bảo: “Mời mợ ấy về nhà nghỉ ngơi cho khoe, ta không cần mợ ấy vào hầu.”

Sau lại có a hoàn coi việc dò tin đến báo: “Cụ đã dậy rồi”. Hình phu nhân mới đứng dậy sang bên nhà Giả mẫu.

Nghênh Xuân tiễn ra đến ngoài sân mới vào, Tú Quất hỏi ngay:

- Thế nào? Hôm nọ cháu đã trình cô cái dây vàng dát hạt châu buộc mũ không thấy đâu, cô cũng không nói gì cả. Cháu đoán là bà vú đem cầm lấy tiền gá bạc, cô không tin cứ bảo là Tư Kỳ cất, sai cháu đi hỏi Tư Kỳ, Tư Kỳ tuy ốm, vẫn nhớ rõ ràng. Nó nói là không cất, vẫn để ở trong cái tráp trên giá sách, định để đến rằm tháng tám cho cô đội, cô nên cho hỏi bà vú một tiếng xem.

- Hỏi làm gì? Chắc bà ấy mang đi trang trải công nợ rồi. Tôi nghĩ bà ấy có vụng trộm lấy, cũng chỉ ít lâu sẽ lại vụng trộm đem trả, ai ngờ bà ấy lại quên. Hôm nay xảy ra chuyện, có hỏi bà ấy cũng vô ích.

- Khi nào lại quên? Bà ấy biết tính nết của cô mới dám làm như thế. Cháu nghĩ, nên đến nhà mợ Hai trình rõ việc này, rồi cho người đi hỏi bà ấy; hay là bỏ ít tiền ra chuộc cho bà ấy để bớt việc đi, cô nghĩ thế nào?

- Thôi thôi! Bớt việc đi là phải. Thà không có cái ấy thì thôi, còn sinh sự làm gì?

- Sao cô nhút nhát thế? Cái gì cũng muốn bớt việc, thì sau này họ lừa cả cô nữa đấy! Cháu đi đây.

Tú Quất đi ngay. Nghênh Xuân cũng không nói gì, mặc cho nó đi.

Ngờ đâu nàng dâu vú nuôi Nghênh Xuân là vợ Ngọc Trụ, vì mẹ chồng có tội, đến nhờ Nghênh Xuân xin hộ. Thấy họ đương nói chuyện mất dây vàng, nên chưa vào vội. Biết Nghênh Xuân ngày thường là người nhu nhược, nên chúng không coi vào đâu. Giờ thấy Tú Quất nhất định đi trình Phượng Thư, xem việc này khó lòng thoát tội, vợ Ngọc Trụ có ý kêu van Nghênh Xuân, nên phải đi vào, trước hết cười nói với Tú Quất:

- Chị ơi, chị đừng sinh sự nữa. Và thưa cô, dây vàng của cô là do mẹ chồng tôi già lẫn, đánh bạc thua, không có tiền gỡ, đã mượn đem đi cầm, cũng định ngày một ngày hai sẽ chuộc lại, nhưng chưa gỡ được, nên phải để chậm, ngờ đâu lại xảy ra chuyện này. Dù sao cũng là đồ của chủ, chúng tôi không dám để lâu, thế nào cũng phải chuộc về trả. Mong cô nghĩ đến tình bú mớm từ nhỏ, đến xin với cụ, cứu vớt mẹ chồng tôi.

Nghênh Xuân nói:

- Chị ơi, chị đừng có nghĩ mơ hồ như thế! Nếu đợi tôi đi xin hộ, thì chờ đến sang năm cũng chẳng ăn thua gì. Vừa rồi chính chị Bảo và cô Lâm đến xin hộ, cụ còn chẳng nghe nữa là nữa tôi. Tự tôi đã thấy ngượng rồi, lại đi mua thêm lấy cái ngượng nữa sao?

Tú Quất nói:

- Chuộc dây vàng là một việc, đi xin hộ là một việc, không thể kéo cái nọ vào cái kia được. Chẳng lẽ cô tôi không đi nói hộ, thì chị không chịu đền hay sao? Chị hãy đi lấy dây vàng về đây đã rồi sẽ liệu.

Vợ Ngọc Trụ thấy Nghênh Xuân dứt khoát từ chối, Tú Quất nói lại đanh thép, không biết trả lời ra sao, bị bẽ mặt quá, nhưng biết rõ Nghênh Xuân xưa nay là người dễ dãi, liền quay lại bảo Tú Quất:

- Chị ơi, chị đừng làm ồn lên nữa, chị xem khắp phủ này, người vú nuôi nào chẳng nhờ thế các cô các cậu kiếm ít nhiều lợi lộc? Chỉ có chúng tôi đây một là một hai là hai thôi, còn các chị thì tha hồ mà lừa gạt người ta. Từ ngày cô Hình đến đây, bà Cả bắt phải bớt tiền lương của cô ấy mỗi tháng một lạng để gửi cho bà mợ, như thế nhà này vẫn phải sắm sửa những món cần dùng cho cô Hình, lại hụt đi một lạng. Thường khi thiếu cái này, thiếu cái nọ, chẳng phải chúng tôi bỏ tiền ra bù, thì còn đi hỏi ai nữa? Chẳng qua chúng tôi cũng xuề xòa cho xong đấy thôi. Tính đến bây giờ, ít ra cũng phải bù mất ba mươi lạng rồi! Thế thì món tiền ấy của chúng tôi mất toi à?

Tú Quất không chờ nói hết, nhổ toẹt một cái nói:

- Chị làm gì mà phải mất toi ba mươi lạng? Tôi hãy tính sổ cho chị xem. Cô đòi những món gì?

Nghênh Xuân nghe thấy vợ Ngọc Trụ nói lộ việc riêng của Hình phu nhân, liền gạt đi, nói:

- Thôi, thôi! Không đòi được dây vàng về thì thôi, chị đừng có vơ quàng vơ xiên làm ầm lên nữa. Tôi cũng chẳng cần đến dây vàng. Nếu các bà có hỏi, tôi chỉ nói là đánh mất, cũng chẳng can hệ gì đến chị. Chị về nghỉ thôi.

Rồi cô ta sai Tú Quất đi pha nước. Tú Quất tức giận,  nói:

- Cô tuy không sợ, nhưng còn cháu đây để làm gì? Họ đã làm mất đồ vật của cô, lại còn nói bậy là cô tiêu tiền của họ, bây giờ phải khấu trừ đi. Nếu bà Hai hỏi cô tại sao tiêu hết bấy nhiêu tiền và cho là chúng cháu nhờ bão bẻ măng, ăn bớt xén gì chăng? Như vậy sao được.

Tú Quất vừa nói vừa khóc. Tư Kỳ nghe thấy không chịu được cố gượng dậy, bênh vực Tú Quất, hỏi vặn lại vợ Ngọc Trụ. Nghênh Xuân không can nổi, đi lấy quyển “Thái thượng cảm ứng thiên”(2) ra xem.

Bảo Thoa, Bảo Cầm, Đại Ngọc, Thám Xuân, nghe Nghênh Xuân hôm nay khó chịu, bèn hẹn nhau đến an ủi. Họ vừa vào sân, thấy mấy người đương đấu khẩu nhau. Thám Xuân nhìn qua cửa sổ, thấy Nghênh Xuân ngồi tựa trên giường xem sách, như không nghe thấy gì. Thám Xuân cũng buồn cười. Bọn a hoàn nhỏ vội vén rèm vào trình: “Các cô đến chơi đấy”. Nghênh Xuân bỏ sách đứng dậy. Vợ Ngọc Trụ thấy người đến, có cả Thám Xuân nữa, nên không ai ngăn cũng phải thôi, lẻn đi mất.

Thám Xuân ngồi xuống, hỏi:

- Vừa rồi ai nói gì ở trong này như là cãi nhau ấy?

Nghênh Xuân nói:

- Có gì đâu, chẳng qua việc bé xé ra to, hỏi họ làm gì?

- Tôi vừa nghe thấy nói nào là “dây vàng” nào là “không có tiền phải tiêu của bọn đầy tớ”. Vậy ai là người tiêu tiền của đầy tớ? Có nhẽ nào chị lại phải tiêu tiền của họ à?

Tư Kỳ, Tú Quất đều nói:

- Cô nói phải đấy! Khi nào cô tôi lại tiêu tiền của bọn họ?

Thám Xuân cười nói:

- Chị đã không tiêu tiền của họ, thì chắc là chúng tôi tiêu của họ chứ gì? Gọi chị ta vào đây, tôi cần hỏi một việc!

Nghênh Xuân cười nói:

- Thế mới buồn cười chứ! Việc này có dính dáng gì đến các cô, lôi thôi với họ làm gì.

Thám Xuân nói:

- Như thế không đúng. Em cũng như chị. Việc của chị cũng như việc của em. Người ta nói chị tức là nói em. Nếu ở bên nhà em có ai oán trách em, chị nghe thấy cũng coi như là người ta oán trách chị vậy. Chúng ta là chủ, tất nhiên không nghĩ gì đến việc tiền tài lặt vặt, chỉ biết cần món nào lấy món ấy, đó là việc thường. Nhưng không biết tại sao lại nói kèm cả việc dây vàng vào đấy?

Vợ Ngọc Trụ sợ bọn Tú Quất tố giác việc mình ra, vội chạy vào tìm lời che giấu. Thám Xuân biết ý, cười nói:

- Các chị thế mới lẩn thẩn chứ! Mẹ chồng chị đã mắc lỗi, nhân lúc này, chị đến xin với mợ Hai, trích một ít trong số tiền chưa kịp chia cho người ta đem đi chuộc về là xong. Như vậymọi người đều giữ được thể diện, việc gì cứ phải làm ầm lên. Giờ đã trót làm mất thể diện, thì dù có mười tội, cũng chỉ một người chịu thôi, lẽ nào lại để lây đến người khác. Chị cứ nghe lời tôi đi nói với mợ Hai. Chứ cãi vã nhau ở đây thì xong việc thếnào được!

Vợ Ngọc Trụ bị Thám Xuân vạch trần chân tướng, không chối vào đâu được, nhưng vẫn không dám đến thú tội với Phượng Thư.

Thám Xuân cười nói:

- Tôi không nghe thấy thì thôi, đã nghe thấy, thế nào cũng phải phân giải giúp các chị.

Thám Xuân đưa mắt cho Thị Thư, Thị Thư đi ra ngay. Họ đương nói chuyện, thấy Bình Nhi đến. Bảo Cầm vỗ tay cười nói:

- Chắc là chị Ba có phép “hô thần triệu tướng” gì đây?

Đại Ngọc cười nói:

- Đó không phải là phép thuật của nhà tu hành, mà là cách tinh vi của nhà binh, đúng như diệu kế đánh địch bất ngờ: “Lúc thế thủ như cô gái cấm cung, khi lọt vòng nhanh như thỏ chạy” vậy.

Hai người cùng cười. Bảo Thoa đưa mắt cho họ rồi nói lảng ra chuyện khác.

Thám Xuân thấy Bình Nhi đến, liền hỏi:

- Mợ chị đã đỡ chưa? Thực là ốm mê ốm mẩn, chẳng thèm để ý đến việc gì, làm chúng tôi phải bực tức thế này.

Bình Nhi nói:

- Cô làm sao mà bực? Ai dám làm cô bực? Xin cô cứ dạy rõ.

Vợ Ngọc Trụ cuống lên, chạy ngay đến van xin với Bình Nhi: “Mời cô ngồi xuống đây để tôi nói đầu đuôi cho cô nghe”.

Bình Nhi nghiêm nét mặt nói:

- Các cô đương nói chuyện ở đây, chị lại dám đến nói leo à? Chị là người biết lễ phép, phải ra ngoài kia đứng hầu. Không ai gọi chị không được vào. Đâu có đàn bà hầu bên ngoài, không có việc gì lại dám vào thẳng trong nhà các cô bao giờ?

Tú Quất nói:

- Chị chưa biết trong nhà chúng tôi đây không có lễ phép gì cả, ai muốn vào thì vào.

Bình Nhi nói:

- Đó là lỗi ở các chị em cả. Cô dù dễ tính, các chị em cũng phải đuổi họ ra, rồi sau đi trình bà Hai mới phải.

Vợ Ngọc Trụ thấy Bình Nhi lên tiếng, đỏ mặt lên, đi ra. Thám Xuân nói:

- Tôi nói cho các chị nghe: người khác có lỗi với tôi thì thôi, nhưng nay vợ Ngọc Trụ cùng mẹ chồng nó cậy thế là u nuôi, lại thấy chị Hai dễ tính, lấy cắp đồ trang sức của chị ấy đi đánh bạc, lại bịa ra chuyện công nợ và bắt phải đi xin hộ, rồi cãi nhau ầm ĩ với hai a hoàn ở trong buồng chị Hai. Chị Hai cũng không thể ngăn cản được. Tôi khó chịu quá, phải mời chị đến đây hỏi xem có phải chị ta là người ở lỗ nẻ chui lên đâu mà không biết lẽ phải? Hay là có ai cầm nọc cho chị ta làm như thế? Trước hết định áp lép chị Hai rồi tìm cách trị tôi và cô Tư chứ gì?

Bình Nhi vội cười nói:

- Sao hôm nay cô lại nói những câu như thế? Mợ tôi chịu làm sao nổi?

Thám Xuân cười nhạt:

- Tục ngữ có câu: “Máu chảy ruột mềm, môi hở răng lạnh”, nên tự nhiên tôi đâm ra lo sợ.

Bình Nhi hỏi Nghênh Xuân:

- Việc này có to tát gì, cũng dễ xử thôi, nhưng vì bà ấy là u nuôi của cô, thì cô nghĩ thế nào cho phải?

Nghênh Xuân vẫn ngồi xem “Thiên cảm ứng” với Bảo Thoa, không để ý đến những câu nói của Thám Xuân. Thấy Bình Nhi nói thế, liền cười:

- Chị hỏi tôi à, tôi cũng chẳng có cách gì cả. Họ làm bậy thì họ phải chịu lấy tội, tôi không thể xin hộ được. Tôi chẳng đi xin ai và cũng chẳng trách họ là được rồi. Những vật ăn cắp, đưa trả thì tôi nhận, nếu không trả tôi cũng chẳng cần. Các bà có hỏi, tôi che chở được thì phúc cho họ, nếu không giấu nổi, tôi cũng không biết làm sao được. Không có nhẽ vì họ mà tôi lại dối trá các bà, tất là phải nói thẳng ra. Các chị cho tôi là dễ tính, không biết quyết đoán, có cách gì chu toàn được mọi mặt, không để các bà giận thì tùy các chị định liệu, tôi cũng thây kệ.

Mọi người nghe nói đều bật cười. Đại Ngọc cười nói:

- Thật là “hùm sói đã ngồi trên thềm nhà vẫn còn nói chuyện nhân quả”. Nếu chị Hai là đàn ông thì những người trong nhà này cai quản thế nào được họ?

Nghênh Xuân cười:

- Đúng đấy! Biết bao nhiêu là đàn ông cũng còn như thế, huống chi là tôi.

----------------------------

(1). Túi có ướp chất thơm.

(2). Sách dạy người làm điều lành, răn điều ác.

Hồi thứ bảy mươi tư

Quá nghe gièm hót, khám xét vườn Đại Quan;

Thề giữ đoan nghiêm, rào lấp phủ Ninh Quốc.

Bình Nhi nghe Nghênh Xuân nói, đương buồn cười, thấy Bảo Ngọc đến. Em gái thím Liễu cũng vì gá bạc bị tội. Trong vườn xưa nay vẫn có người không ưa thím Liễu, liền báo rằng thím Liễu gá chung với em gái để chia lời. Vì thế Phượng Thư muốn trị tội thím Liễu. Nghe thấy thế, thím cuống lên, nghĩ xưa nay mình vẫn chơi thân với các người ở trong viện Di Hồng, nên thím đến rỉ tai với bọn Phương Quan, Tình Vãn nhờ nói hộ với Bảo Ngọc. Bảo Ngọc nghĩ trong bọn ấy cũng có u nuôi của Nghênh Xuân bị can tội này, chi bằng đến hẹn với Nghênh Xuân cùng đi, hơn là một mình đi xin hộ cho thím Liễu. Vì thế mới đến nhà Nghênh Xuân. Thấy Bảo Ngọc đến, mọi người ngồi đấy đều hỏi: “Cậu đã khỏi hẳn chưa? Đến đây có việc gì?” Bảo Ngọc không tiện nói rõ việc đi xin hộ, chỉ nói “đến thăm cô Hai”. Mọi người đều không để ý đến, cứ nói chuyện phiếm.

Bình Nhi ra về để xét việc mất dây vàng. Vợ Ngọc Trụ cứ theo sát đằng sau, luôn miệng van xin:

- Cô hết lòng làm phúc nói giúp cho, thế nào tôi cũng xin chuộc về.

Bình Nhi cười nói:

- Sớm muộn chị cũng vẫn phải chuộc về. Biết thế này thì trước kia gây chuyện ra làm gì? Xem ý chị thì được lúc nào hay lúc ấy thôi. Đã thế tôi cũng không nói cho ai biết, nhưng phải chuộc ngay về đầy giao cho tôi, tôi sẽ không nói gì hết.

Vợ Ngọc Trụ nghe vậy mới yên tâm, lạy tạ rồi nói:

- Xin cô cứ đi làm việc, chiều hôm nay tôi chuộc về trình cô rồi mang đi trả, có được không?

- Chiều hôm nay mà không mang đến thì đừng trách tôi đấy.

Nói xong, mỗi người đi một ngả.

Bình Nhi về nhà, Phượng Thư hỏi:

- Cô Ba gọi chị có việc gì đấy?

- Cô Ba sợ mợ bực, bảo tôi về khuyên mợ, hỏi mợ mấy hôm nay có ăn được gì không?

- Cô ấy vẫn còn nhớ đến tôi. Vừa rồi lại xảy ra một việc, có người trình họ Liễu thông đồng với em gái gá bạc, những việc em nó làm đều do nó cầm nọc cả. Tôi nghĩ, chị thường khuyên tôi, thêm một việc không bằng bớt một việc, nên giữ gìn sức khoẻ là hơn. Tôi không nghe lời chị, quả nhiên mắc vạ ngay, đã có lỗi với bà Hai, lại làm cho mình ốm thêm. Bây giờ tôi đã hiểu rõ rồi, thây kệ họ muốn làm gì thì làm, dẫu sao cũng còn nhiều người nữa. Tôi đã uổng công lo nghĩ mấy lâu, chỉ tổ cho người ta chửi rủa thôi, chi bằng mình cứ lo tĩnh dưỡng là hơn. Dẫu khi bệnh khỏi rồi, tôi vẫn là người ngoài cuộc, được vui cứ vui, được cười cứ cười, bao nhiêu việc phải trái đều mặc kệ họ cả. Vì thế khi họ đến trình, tôi chỉ trả lời một tiếng “biết rồi”, chẳng phải lo lắng gì cả.

Bình Nhi cười nói:

- Nếu mợ được như thế thì thật là phúc đức cho chúng tôi!

Chợt Giả Liễn đi vào, đập tay thở dài:

- Tự dưng vô cớ lại xảy ra một việc! Hôm nọ tôi mượn đồ đạc của Uyên Ương đi cầm, sao bên mẹ cũng biết? Vừa rồi mẹ gọi tôi sang, bảo phải mượn cho hai trăm bạc, lấy ở món nào cũng được, để sắm sửa lễ rằm tháng tám. Tôi nói không vay vào đâu được, mẹ nói ngay: “Anh không có tiền đã có chỗ xoay xở. Tôi mới bàn với anh, mà anh đã kiếm lời rào đón! Anh không có chỗ xoay xở thì cái món đồ cầm một nghìn bạc hôm trước đó lấy ở đâu ra? Ngay đến những đồ đạc của cụ, anh cũng hoá phép lấy ra được, bây giờ chỉ có hai trăm lạng bạc, anh lại làm ra vẻ khó khăn! May mà tôi chưa nói với ai đấy!” Tôi nghĩ, thật ra mẹ chẳng thiếu gì, sao lại cứ bới việc làm rầy rà người ta thế!

Phượng Thư nói:

- Hôm ấy không hề có người ngoài, thế thì ai để lộ chuyện này ra?

Bình Nhi nghe nói, cũng nghĩ xem hôm đó có ai ở đấy không. Nghĩ một lúc, cười nói:

- Phải rồi! Hôm đó lúc nói chuyện thì không có người ngoài, chỉ đến buổi chiều, lúc lấy đồ về thì vừa khi mẹ chị Ngốc ở bên cụ đưa quần áo giặt đến. Bà ấy ngồi một lúc ở nhà dưới, trông thấy hòm đồ to sù, tất nhiên bà ta phải hỏi. Bọn a hoàn không hiểu đã nói toạc ra ngay cũng chưa biết chừng.

Phượng Thư cho gọi mấy đứa a hoàn nhỏ đến hỏi:

- Hôm đó đứa nào nói cho mẹ chị Ngốc biết?

Chúng sợ quá, đều quỳ xuống thề:

- Từ xưa đến nay, ai hỏi gì chúng cháu đều trả lời là không biết, không dám bịa đặt một câu. Khi nào chúng cháu lại nói chuyện ấy.

Phượng Thư ngẫm nghĩ: “Chắc chúng nó không dám nói chuyện ấy, chớ nên đổ oan cho chúng. Giờ hãy gác việc này lại, phải xoay xở cho xong món tiền của mẹ đi. Thà chúng ta nhịn tiêu một ít, chứ đừng để xảy chuyện không hay”. Liền gọi Bình Nhi “lấy đồ vàng của ta đem cầm thêm hai trăm lạng bạc về đưa sang cho xong việc”.

Giả Liễn nói:

- Cầm thêm hai trăm lạng nữa, chúng ta còn phải tiêu kia.

Phượng Thư nói:

- Không cần. Tôi không tiêu gì cả. Còn chẳng biết sau này lấy món nào để chuộc đây!

Bình Nhi lấy vàng ra, đưa cho vợ Lai Vượng mang đi cầm. Một lát đem tiền về. Giả Liễn thân hành mang sang.

Phượng Thư và Bình Nhi đương đoán xem đứa nào nói lộ chuyện này nhưng vẫn chưa đoán được là ai.

Phượng Thư nói:

- Kẻ nói chuyện này hãy còn là việc nhỏ, sợ đứa tiểu nhân nào bày đặt chuyện gây ra những điều rắc rối. Hay bên ấy có ai thù hằn con Uyên Ương, nghe nó cho cậu Liễn mượn đồ đi cầm, bụng dạ nhỏ nhen, dù chẳng có chuyện gì, chúng cũng còn đâm dầm vào, nữa là lại có sự việc rõ ràng, lẽ nào chúng không đặt điều xằng bậy, chẳng còn trời đất nào. Chưa biết chừng cậu Liễn có việc, hay lại chỉ một con Uyên Ương chịu oan thôi. Như vậy chả phải là lỗi ở chúng ta hay sao.

Bình Nhi cười nói:

- Cái đó cũng không ngại. Uyên Ương cho mượn đồ là vì có mợ chứ không vì cậu. Việc này tuy Uyên Ương nói là dấm dúi nhưng thực ra nó đã trình cụ rồi. Cụ sợ con cháu nhiều, đứa này mượn, đứa kia mượn, đến nói khôn nói khéo với cụ, rồi sau này biết đòi ai? Vì vậy người cứ lờ đi như không biết. Dù có vỡ chuyện cũng chẳng ngại gì.

- Lý thế đấy. Bây giờ chỉ có tôi với chị biết thôi, biết đâu lại chẳng ngờ.

Đương nghĩ vẩn vơ, thì có người vào báo:

- Bà Hai đến.

Phượng Thư lấy làm lạ, không biết việc gì, liền cùng Bình Nhi ra đón, thấy nét mặt Vương phu nhân khác hẳn, chỉ đem theo một a hoàn hầu cận, không nói năng gì, đi thẳng vào phòng ngồi xuống. Phượng Thư vội pha trà cười hỏi:

- Hôm nay mẹ lại cao hứng đến đây chơi à?

Vương phu nhân quát bảo:

- Bình Nhi đi ra ngoài kia.

Bình Nhi thấy thế, không biết là việc gì, “dạ” một tiếng, dẫn bọn a hoàn nhỏ ra, đứng cả ở ngoài cửa. Bình Nhi đóng cửa lại, rồi ngồi xuống thềm, không cho một ai vào cả.

Phượng Thư sợ quá, không biết có việc gì. Thấy Vương phu nhân ứa nước mất, vất cái túi thơm ở trong tay áo ra, nói:

- Chị xem đây!

Phượng Thư vội nhặt lên xem, cái túi thơm thập cẩm, ngoài thêu cái hình khiêu dâm, giật mình vội hỏi:

- Mẹ nhặt được cái này ở đâu?

Vương phu nhân nước mắt giàn giụa, giọng run run nói:

- Ta nhặt được ở đâu à? Ngày nào ta cũng ru rú ở xó nhà! Tưởng chị là người cẩn thận, nên mới được rỗi rãi đôi chút. Ngờ đâu chị lại như ta! Ban ngày ban mặt họ dám bày những thứ này ra trước hòn đá trong vườn, để cho con a hoàn bên cụ nhặt được. Nếu không nhờ được mẹ chồng chị trông thấy, thì cái này đã đến trước mặt cụ rồi! Tôi hãy hỏi chị: tại sao cái này lại vất ở đấy?

Phượng Thư nghe nói cũng đổi nét mặt, vội hỏi:

- Sao mẹ lại biết cái này là của con?

Vương phu nhân vừa khóc vừa thở dài nói:

- Chị lại hỏi vặn ta à? Chị thử nghĩ xem: nhà này trừ vợ chồng trẻ như anh chị ra, còn bọn bà già thì dùng cái này làm gì? Bọn chị em chúng nó thì làm gì có? Chắc là thằng Liễn đốn mạt đem ở đâu về đây! Vợ chồng các người, một duộc với nhau, lại cho đó là món đồ chơi, hạng trẻ tuổi thì chuyện tình riêng trai gái trong buồng the khi nào chả có, chị lại còn chối à! May mà người trên kẻ dưới trong vườn chưa ai biết việc này, nếu họ nhặt được, chị em chúng nó trông thấy thì còn ra sao nữa! Thảng hoặc có đứa a hoàn nào nhặt được mang ra ngoài, người ta trông thấy, liệu thể diện nhà mình có còn nữa không?

Phượng Thư nghe nói, vừa tức vừa thẹn, mặt tím bầm lại, liền vịn vào cạnh giường quỳ xuống, cũng ứa nước mắt kêu van:

- Mẹ nói có lý thực, con không dám cãi. Nhưng con không hề có thứ này, xin mẹ nghĩ kỹ cho. Cái túi thơm này là ở bên ngoài họ bắt chước kiểu trong nhà rồi thêu ra. Chính cái tua cũng là thứ mua ở chợ. Con tuy còn trẻ, không biết giữ gìn, nhưng không khi nào cần những thứ này. Hơn nữa, cái này cũng không phải là thứ thường đeo, dù có chăng nữa con cũng chỉ để giấu ở chỗ kín, chứ khi nào lại đeo luôn ở trong người rồi đi chơi khắp nơi? Vả lại khi ra chơi ngoài vườn, chị em người nào cũng thường hay lôi kéo nhau, nếu để lộ ra, không những các chị em mà cả bọn người hầu cũng trông thấy nữa, như thế thì còn ra làm sao? Kể ra những người trong này, con còn trẻ thật, nhưng nhiều đứa hầu còn trẻ hơn con nữa. Họ thường đi lại ở trong vườn, biết đâu không phải là của họ đánh rơi. Hơn nữa, trừ con thường ở trong vườn ra, còn có các cô cháu của mẹ con bên kia, thường dẫn sang, như bọn Yên Hồng, Thúy Vân, đều là hạng tuổi trẻ, họ cũng có thể có thứ này được. Lại còn chị Trân bên phủ Đông, chị ấy cũng chưa lấy gì làm già, và cũng thường dẫn bọn Bội Phượng sang, biết đâu không phải là của họ? Trong vườn cũng nhiều a hoàn, không chắc đã đứng đắn cả. Hoặc có đứa lớn, đã biết mùi đời, đôi khi không trông nom xuể, chúng lẻn ra ngoài được; hoặc chúng kiếm cớ tán dính với bọn trẻ canh cửa ngoài, rồi từ ngoài đưa vào cũng chưa biết chừng, không những con không hề làm việc này, mà cả Bình Nhi cũng có thể bảo đảm được. Xin mẹ xét kỹ cho.

Vương phu nhân nghe cũng có lý, liền thở dài nói:

- Chị hãy đứng đậy. Ta biết chị là con nhà đại gia, chắc không đến nỗi trai lơ như thế, chẳng qua ta bực lên nói vậy để trêu tức chị đấy thôi. Nhưng bây giờ nên xử trí ra sao? Mẹ chồng chị gói cái này lại, sai người mang cho ta xem, làm ta tức chết đi được.

Phượng Thư nói:

- Xin mẹ đừng nổi giận nữa. Nếu để người ngoài biết, thế nào cũng đến tai cụ. Hãy nên bình tĩnh, ngầm dò xét mới rõ ra được sự thực; dù xét không ra, người ngoài cũng không thể biết được, như vậy mới đúng câu “tay gãy giấu vào ống áo”. Nay nhân việc họ đánh bạc, bị đuổi một số ra, ta cho mấy người hầu cận không hay bép xép như vợ Chu Thụy, vợ Vương Nhi vào ở luôn trong vườn, lấy cớ là để xét việc đánh bạc. Hiện nay a hoàn các nơi nhiều quá, lớn tuổi sinh to gan, lâu ngày thành tinh, nếu xảy chuyện ra, có ăn năn cũng không kịp nữa. Bây giờ không có cớ gì mà bớt người đi, không những bọn các cô thì thấy khó chịu, ngay mẹ và con cũng không đành lòng. Chi bằng nhân dịp này, thấy a hoàn nào lớn tuổi hoặc cứng đầu cứng cổ thì tìm cách cho nó đi lấy chồng, như thế một là khỏi xảy ra rắc rối; hai là số tiền chi tiêu cũng đỡ tốn. Những lời con nói, mẹ nghĩ thế nào?

Vương phu nhân thở dài:

- Chị nói phải đấy. Nhưng cứ xét cho công bằng thì mấy chị em nó thật cũng đáng thương. Không nói gì xa, như mẹ cháu Lâm trước kia, khi chưa lấy chồng, được chiều chuộng dường nào, thật là cành vàng lá ngọc, một cô tiểu thư ngàn vàng. Bây giờ mấy chị em nó chẳng qua chỉ hơn nhà khác tý chút thôi. Mỗi người chỉ có ba, bốn đứa a hoàn là ra hồn người, còn thì đều như bọn ranh con cả; giờ lại cho chúng về, không những bụng ta không nỡ, chưa chắc cụ đã bằng lòng. Tuy rằng nhà có túng thiếu đấy, nhưng cũng chưa đến nỗi nào. Ta dù chưa được sung sướng lắm, cũng còn hơn các cháu nhiều, nay thà bớt người của ta đi, chứ đừng làm cho nó bực bội. Chị hãy cho gọi vợ Chu Thụy đến đây, truyền cho họ phải dò xét ngay việc này!

Phượng Thư lập tức gọi Bình Nhi ra gọi vợ Chu Thụy đến.

Một lúc vợ Chu Thụy, vợ Ngô Hưng, vợ Trịnh Hoa, vợ Lai Vượng, vợ Lai Hỷ, tất cả năm người hầu cận đi vào, còn một số người nữa đang bận việc ở Nam chưa tới. Vương phu nhân đang phàn nàn ít người, khám xét không xuể, chợt thấy vợ Vương Thiện Bảo là người hầu cận của Hình phu nhân, vừa đưa cái túi thơm cho Vương phu nhân, đi đến. Xưa nay Vương phu nhân vẫn xem người hầu thân của Hình phu nhân như người của mình, không có lòng ngờ vực gì, nay thấy chị ta đến nghe ngóng, liền bảo:

- Chị về trình với bà Cả, rồi sang bên vườn trông nom, chẳng hơn người ngoài hay sao?

Ngày thường vợ Vương Thiện Bảo sang bên vườn không được bọn a hoàn thù phụng tử tế. Chị ta lấy làm bực tức, định bới chuyện của họ ra, nhưng không lần vào đâu được; may sao xảy ra việc này, chị ta nghĩ đã nắm chắc được đằng chuôi rồi; giờ lại thấy Vương phu nhân giao phó công việc, hợp với ý định của mình, liền thưa:

- Điều đó cũng dễ thôi. Không phải là cháu bày chuyện đâu, nhẽ ra, thì việc này cũng nên tra xét sớm sớm một chút. Bà không hay sang bên vườn, bọn gái hầu bên ấy, đứa nào cũng ra vẻ bà lớn, sắp trở thành tiểu thư nghìn vàng cả. Chúng định chọc đổ cả trời, chẳng ai dám hé răng nói một tiếng. Huống hồ chúng lại ton hót các cô, nói người này khinh rẻ, người kia lừa dối, ai mà chịu được.

Vương phu nhân gật đầu nói:

- Bọn hầu các cô hay làm bộ, cũng là việc thường. Các chị nên khuyên răn chúng. Nếu không dạy bảo, dù các cô cũng còn làm điều không đúng, nữa là họ.

Vợ Vương Thiện Bảo thưa:

- Đứa khác còn khá. Bà không biết, chứ nhất là con Tình Văn, a hoàn ở nhà cậu Bảo. Nó cậy sắc đẹp hơn người, miệng lại khéo léo, ngày nào cũng trang điểm như nàng Tây Thi, hễ nói chuyện với ai là nó lém lỉnh tranh khôn; có điều gì không hợp ý, là nó trợn mắt ngay lên mắng người ta. Õng ẹo ngoa ngoắt, không ra thể thống gì cả!

Vương phu nhân nghe vậy, nhớ ngay đến việc trước, hỏi Phượng Thư:

- Lần trước chúng ta theo cụ vào chơi trong vườn, có một đứa lưng hơi cong, vai hơi thon, lông mày và mắt lại hơi giống em Lâm của chị, đương quát mắng bọn a hoàn nhỏ. Trông cái dáng ngông cuồng ấy ta khó chịu lắm. Nhưng vì cùng đi với cụ, ta không tiện nói. Sau định hỏi xem là đứa nào, thì lại quên mất. Hôm nay nhớ ra, chắc là nó chứ gì?

Phượng Thư nói:

- So sánh ra chẳng có đứa a hoàn nào đẹp bằng con Tình Văn cả. Về cách ăn nói đi đứng, thì nó hơi trai lơ. Như mẹ nói vừa rồi, có nhẽ là nó đấy, nhưng con cũng quên mất việc hôm nọ, không dám nói bừa.

Vợ Vương Thiện Bảo nói:

- Không cần phải đoán nữa. Bây giờ cứ gọi ngay nó đến đây để bà xem cũng chẳng khó gì.

Vương phu nhân nói:

- Ở bên nhà Bảo Ngọc, chỉ có Tập Nhân và Xạ Nguyệt thường đến hầu ta. Hai đứa này tuy mộc mạc nhưng cũng ngoan. Nếu có con ấy thì chắc nó không dám đến. Ta cả đời rất ghét những hạng người ấy, huống hồ lại xảy ra việc này. Thằng Bảo Ngọc như thế mà để cho con ranh ấy quyến rũ làm hư thân đi, thì để sao được.

Bà ta gọi a hoàn hầu cận đến dặn:

- Mày đi nhanh, gọi con Tình Văn đến đây hầu ta ngay. Ta có việc cần. Tập Nhân và Xạ Nguyệt ở nhà hầu Bảo Ngọc, không phải đến nữa. Mày không được nói câu gì với nó cả!

A hoàn nhỏ vâng lời, chạy sang viện Di Hồng, gặp lúc Tình Văn không được khỏe, vừa ngủ trưa dậy, đương ngồi thừ ra. Thấy gọi, đành phải sang.

Ngày thường, bọn a hoàn đều biết Vương phu nhân rất ghét kiểu trang sức lòe loẹt, ăn nói trai lơ, vì vậy cả Tình Văn cũng không dám ló mặt tới. Mấy hôm nay khó ở, nên không trang điểm, cho là như thế cũng không ngại gì. Khi vào đến buồng Phượng Thư, Vương phu nhân trông thấy nó đầu tóc bơ phờ, áo quần lõng thõng, có vẻ lẳng lơ như Tây Thi đêm xuân nằm ôm bụng; nhìn vẻ mặt đúng là người đã gặp tháng trước, tự nhiên nổi cơn giận lên. Bà ta vốn người thực thà, chợp mắt bỏ qua, vụt mừng vụt giận, chứ có được như người kín đáo, lựa lời giữ ý đâu. Vốn đã bực sẵn, lại ngoặc đến việc trước, bà ta liền cười nhạt:

- Đẹp thật! Thật là giống hệt “Tây Thi đương ốm!” Ngày nào mày cũng giở cái lối trai lơ ấy ra để cho ai xem đấy? Mày cứ tưởng là ta không biết việc mày làm à? Ta hãy tha cho mày. Ngày mai ta sẽ lột xác mày ra! Hôm nay Bảo Ngọc đã đỡ chưa?

Tình Văn nghe thấy nói thế, trong bụng rất kinh ngạc, biết là có đứa định hại mình, tuy tức giận, nhưng không dám hé răng. Vốn người thông minh tột bực, thấy hỏi Bảo Ngọc đã đỡ chưa, cô ta không nói thực, quỳ xuống thưa:

- Cháu không hay đến buồng cậu Bảo và cũng không hay ở chung với cậu ấy, nên cháu không được biết rõ. Đó là việc của chị Tập Nhân và chị Xạ Nguyệt, xin bà cứ hỏi hai chị ấy.

Vương phu nhân nói:

- Đáng tát vào mồm! Mày là người chết à? Nuôi chúng bay để làm gì?

Tình Văn lại thưa:

- Cháu nguyên là người hầu của cụ, vì người bảo vườn rộng, người ít, cậu Bảo hay sợ, nên cắt cháu sang đấy canh đêm ở ngoài, chẳng qua để trông nhà thôi. Cháu có thưa rằng cháu đần độn không thể sang hầu được, cụ mắng cháu, bảo “tao có sai mày sang hầu cậu ấy đâu? Mày sắc sảo để làm gì?” Cháu nghe vậy đành phải sang. Chẳng qua độ mười bữa nửa tháng, gặp lúc cậu Bảo buồn, cháu chơi đùa một lúc rồi đi ngay. Việc cậu Bảo ăn uống nằm ngồi, trên có các bà già, dưới có các chị Tập Nhân, Xạ Nguyệt, Thu Văn. Khi cháu rỗi, còn phải may vá cho bên nhà cụ, vì thế cháu không để ý đến việc của cậu Bảo. Nay bà đã quở mắng, từ sau cháu xin chăm chú.

Vương phu nhân tin là thực, nói:

- A di đà phật! Mày không gần gũi Bảo Ngọc, thì thực là phúc cho ta. Thôi không cần mày phải bận lòng. Mày đã là người của cụ cho sang hầu Bảo Ngọc thì ngày mai ta sẽ sang trình cụ cho mày về.

Rồi ngoảnh lại vợ Vương Thiện Bảo:

- Các chị vào đấy, phải đề phòng nó mấy ngày, không cho nó ngủ ở trong nhà Bảo Ngọc. Đợi ta trình cụ rồi sẽ liệu cho nó.

Lại quát:

- Cút đi! Đứng đấy làm gì? Trông thấy cái dáng lẳng lơ ấy ta ngứa cả mắt! Ai cho phép mày ăn mặc lòe loẹt như thế?

Tình Văn đành lui ra, tức quá, ra khỏi cửa, lấy khăn tay che mắt, vừa đi vừa khóc, mãi đến khi về trong vườn.

Vương phu nhân phàn nàn với Phượng Thư:

- Mấy năm nay tinh thần ta ngày càng sút kém, trông nom không xiết. Những hạng yêu tinh như thế mà ta cũng không hề thấy! Cái hạng ấy chắc còn có nữa, ngày mai phải tra xét mới được.

Phượng Thư thấy Vương phu nhân đương lúc nổi giận, lại có vợ Vương Thiện Bảo là tai mắt của Hình phu nhân, ngày thường hay ton hót Hình phu nhân để sinh chuyện, nên dù có nhiều câu đáng nói, cũng không dám nói ra, đành cứ cúi đầu vâng thôi.

Vợ Vương Thiện Bảo thưa:

- Xin bà hãy nguôi giận. Đó là việc nhỏ mọn, xin cứ giao cho cháu. Muốn tra xét việc này cũng dễ thôi. Chờ đến buổi tối, các cửa trong vườn đóng rồi, trong ngoài không ai đi lại với nhau, nhân lúc họ không để ý, chúng cháu dẫn người đi khám các buồng a hoàn ở các nơi. Cháu nghĩ: ai đã có cái này không phải một cái mà thôi, chắc còn cái khác nữa. Khi đã khám được cái khác rồi, thì cái này chắc là của người ấy.

Vương phu nhân bảo:

- Nói thế cũng phải. Nếu không làm như thế thì không  thể làm ra việc được.

Rồi hỏi Phượng Thư:

- Chị nghĩ thế nào?

Phượng Thư đành vâng lời, nói:

- Mẹ cho là phải thì xin đi làm ngay thôi.

Vương phu nhân nói:

- Cách làm như thế rất đúng. Nếu không thì tra một năm cũng chẳng ra.

Mọi người bàn định xong, sau bữa cơm chiều, đợi Giả mẫu ngủ yên, bọn Bảo Thoa đã về trong vườn rồi, vợ Vương Thiện Bảo liền mời Phượng Thư vào trong vườn, sai khóa cả cửa ngách lại, rồi bắt đầu khám xét từ các chỗ bà già canh đêm, chỉ thấy mấy thứ đèn nến dùng còn thừa.

Vợ Vương Thiện Bảo nói:

- Những cái này cũng là tang vật cả đây, không được động đến, để sáng mai trình bà, rồi sẽ hay.

Rồi vào ngay viện Di Hồng, bắt đóng cửa lại.

Bảo Ngọc vì việc Tình Văn, đương khó chịu, chợt thấy một bọn người đến, không biết duyên cớ gì, lại cứ kéo thẳng vào buồng của bọn a hoàn. Bảo Ngọc ra đón Phượng Thư, hỏi là việc gì. Phượng Thư nói:

- Mất một vật quan trọng, hỏi ai cũng chối cả, chắc là bọn a hoàn ăn cắp, nên họ đến khám xét, để khỏi phải ngờ oan.

Vừa nói Phượng Thư vừa ngồi uống nước. Vợ Vương Thiện Bảo lục soát một lúc rồi khẽ hỏi:

- Mấy cái hòm ấy là của ai, bảo họ đến mở ra.

Tập Nhân thấy Tình Văn như thế, chắc là có việc lạ, lại thấy khám xét, đành phải mở hòm và hộp của mình trước để cho họ khám, thì chỉ thấy những đồ thường dùng thôi. Khám xong lại khám đến hòm của người khác, cứ theo thứ tự, khám hết một lượt, khi khám đến hòm của Tình Văn, liền hỏi:

- Hòm của ai đây, sao không mở ra để khám.

Tập Nhân đương định mở hộ hòm cho Tình Văn, thấy Tình Vãn quấn tóc chạy đến, đánh “xình” một cái, mở toang hòm ra, hai tay bưng đáy hòm lên, dốc ngược xuống đất, bao nhiêu đồ đạc ở trong hòm đều tung ra cả.

Vợ Vương Thiện Bảo có ý ngượng, khám kỹ một lượt cũng không thấy vật gì bậy bạ cả, liền trình với Phượng Thư để đi khám chỗ khác.

Phượng Thư nói:

- Bà phải khám kỹ đi, lần này không khám ra được cái gì thì biết về trình thế nào?

Mọi người đều nói:

- Lục soát hết cả rồi, nhưng chẳng thấy có cái gì là phạm lỗi cả; tuy có mấy thứ đồ dùng của con trai, nhưng đều là của trẻ con, chắc đồ cũ của cậu Bảo, không lấy gì làm quan hệ.

Phượng Thư cười nói:

- Đã thế thì chúng ta đi khám chỗ khác.

Liền đi thẳng ra. Nhân nói với vợ Vương Thiện Bảo:

- Tôi có điều này muốn nói, không biết có đúng hay không. Ta khám thì chỉ nên khám những người nhà của chúng ta thôi, chứ nhà cô Tiết thì quyết không thể khám được.

Vợ Vương Thiện Bảo cười nói:

- Cố nhiên rồi, lẽ nào lại đi khám nhà của bà con!

Phượng Thư gật đầu nói:

- Tôi cũng nói thế thôi.

Rồi đi đến quán Tiêu Tương.

Đại Ngọc đã đi ngủ, nghe bảo có mấy người đến, không biết việc gì, định trở dậy, thì Phượng Thư đã đi vào, giữ lại không cho Đại Ngọc dậy và nói:

- Cô cứ ngủ đi, chúng tôi đi bây giờ đây.

Rồi ở đấy nói mấy câu chuyện phiếm.

Vợ Vương Thiện Bảo dẫn mọi người đến buồng của a hoàn, lục lọi hết các hòm, thấy trong buồng Tử Quyên có hai cái bùa bán khoán của Bảo Ngọc thường thay đổi, một cái dây đeo thắt lưng, hai cái túi, một cái hộp trong có đựng cái quạt, mở ra xem, đều là những thứ của Bảo Ngọc lúc trước thường dùng. Vợ Vương Thiện Bảo lấy làm đắc ý, mời Phượng Thư đến xem, rồi nói:

- Những thứ này ở đâu đến đây?

Phượng Thư cười nói:

- Bảo Ngọc lúc còn bé, có ở chung với chị em mấy năm. Những thứ này chắc là đồ dùng cũ của chú ấy đây. Những cái ấy cũng chẳng lạ lùng gì, hãy bỏ lại để đi khám chỗ khác là phải.

Tử Quyên cười nói:

- Đến bây giờ những đồ dùng của chúng tôi trao đổi cho nhau cũng không tính hết được. Nếu hỏi đến cái này, thì chính tôi cũng quên mất là có từ ngày, tháng, năm nào.

Phượng Thư lại cùng vợ Vương Thiện Bảo đến nhà Thám Xuân. Ngờ đâu đã có người đến báo cho Thám Xuân biết trước. Thám Xuân đoán chắc là có duyên cớ gì, nên mới gây ra những chuyện xấu xa như thế. Liền sai bọn a hoàn cầm đèn mở cửa đứng đợi. Một lúc mọi người đến. Thám Xuân cố ý hỏi:

- Việc gì đấy?

Phượng Thư cười nói:

- Vì mất một cái đồ dùng, mấy ngày tra xét chưa ra, sợ người ngoài lại đổ cho bọn chị em a hoàn, nên mới đi khám một lượt để cho người ta khỏi ngờ, đó cũng là một cách hay để rửa sạch tiếng tăm cho họ.

Thám Xuân cười nói:

- Bọn a hoàn nhà tôi tất nhiên là phường trộm cắp cả, mà tôi chính là người chủ chứa. Đã thế thì hãy khám rương hòm của tôi trước đi vì họ ăn trộm được cái gì đều đưa cho tôi cất giấu.

Nói xong, Thám Xuân sai bọn a hoàn mở cả hòm ra, bao nhiêu đồ lớn, đồ nhỏ, như hộp gương, hộp phấn, bọc chăn bọc áo đều mở tung ra cả, rồi mời Phượng Thư đến khám.

Phượng Thư cười nói:

- Chẳng qua tôi vâng lệnh mẹ đến đây, xin cô đừng hiểu lầm tôi.

Rồi sai bọn a hoàn:

- Mau mau đóng rương hòm lại cho cô.

Bình Nhi, Phong Nhi đến giúp bọn Thị Thư xếp đồ đạc và đóng hòm lại.

Thám Xuân nói:

- Chỉ cho các chị khám xét đồ đạc của tôi, chứ muốn khám xét đồ đạc của a hoàn nhà tôi thì không được đâu! Tôi vốn cay nghiệt hơn người khác, bao nhiều những đồ đạc của a hoàn, tôi đều biết và đều giữ ở đây cả. Ngay một cái kim, một sợi chỉ, họ cũng không được giữ riêng. Muốn khám thì cứ khám một mình tôi. Các chị không bằng lòng, cứ về trình bà, bảo tôi trái lệnh bà đấy, muốn bắt thế nào tôi cũng nhận cả. Các chị đừng vội, thế nào sau này các chị cũng có ngày bị khám đấy! Sáng hôm nay các chị chả bàn tán việc nhà họ Chân đấy à, chỉ mong được khám nhà, quả nhiên bây giờ được khám thực đấy. Dần dần rồi cũng đến lượt chúng ta thôi! Thế mới biết những nhà đại gia thế này, chỉ người ngoài đến thì một lúc không thể giết chết được. Chính đúng như người xưa đã nói: “Con sâu trăm chân, chết cũng không ngã!” Tất phải do người trong nhà giết lẫn nhau trước, mới tan nát, sạch sanh!

Nói xong, cô ta chảy nước mắt ra.

Phượng Thư chỉ đứng nhìn bọn đàn bà. Vợ Chu Thụy liền nói:

- Đồ vật của bọn hầu gái đã ở cả đấy rồi, xin mợ đi khám chỗ khác, để cô đi nghỉ.

Phượng Thư đứng dậy cáo từ. Thám Xuân nói:

- Hãy khám kỹ nữa đi! Ngày mai đến, tôi không nghe đâu.

Phượng Thư cười nói:

- Đồ vật của bọn hầu gái ở cả đây thì không cần phải khám nữa.

Thám Xuân cười nhạt:

- Chị thực là khôn khéo quá! Ngay gói bọc của tôi cũng còn mở cả ra xem, mà lại bảo là không khám? Ngày mai có dám nói là tôi bênh bọn hầu, không cho các chị khám không? Chị cứ nói thẳng ngay ra, còn cần phải khám, cứ khám nữa cũng không sao.

Phượng Thư vẫn biết tính nết Thám Xuân ngày thường khác hẳn mọi người, đành phải cười nói:

- Ngay cả đồ vật của cô, cũng đã khám xét kỹ càng rồi.

Thám Xuân lại hỏi mọi người:

- Các chị đã khám kỹ chưa?

Bọn vợ Chu Thụy đều cười nói:

- Đã khám kỹ cả rồi ạ.

Vợ Vương Thiện Bảo vốn là người không biết suy nghĩ, ngày thường tuy nghe thấy tiếng Thám Xuân, nhưng cho là mọi người không tinh mắt, hoặc là non gan, chứ đâu có một cô gái mà lại ghê gớm đến như thế? Hơn nữa cô ta lại là con vợ lẽ, thì làm gì được ai. Mụ lại cậy mình là người hầu thân của Hình phu nhân, ngay đến Vương phu nhân cũng còn phải nể, huống chi người khác. Mụ cho Thám Xuân chỉ giận một mình Phượng Thư thôi, không can gì đến mụ, nên muốn nhân đó làm bộ, liền đi lên trước mọi người, kéo vạt áo Thám Xuân, cố ý giơ lên một cái cười hì hì nói:

- Ngay trong mình cô tôi cũng khám cả rồi, chẳng thấy gì cả.

Phượng Thư thấy mụ làm thế vội nói:

- Già đi thôi, đừng giở trò rồ dại nữa.

Chưa dứt lời thì nghe “bốp” một tiếng, vợ Vương Thiện Bảo bị Thám Xuân tát một cái vào mặt. Thám Xuân nổi giận, trỏ vào vợ Vương Thiện Bảo hỏi:

- Mày là hạng gì dám nắm lấy áo tao. Chẳng qua tao nể mặt bà, thấy mày cũng đã có tuổi, nên mới gọi mày là già, mày lại chó cậy chủ nhà, càng ngày càng bậy, dám lên mặt với tao à! Mày cứ tưởng tao cũng dễ tính như cô mày, mặc cho chúng bay khinh rẻ, mày nghĩ thế là nhầm rồi! Mày đến khám đồ đạc, tao không tức giận, nhưng mày không được mang tao ra làm trò cười!

Thám Xuân liền tự cởi khuy áo, kéo Phượng Thư lại, bắt phải khám kỹ và nói:

- Để cho bọn đầy tớ các người khỏi đến khám tôi!

Phượng Thư, Bình Nhi vội sửa lại quần áo cho Thám Xuân, mắng vợ Vương Thiện Bảo:

- Già này uống mấy chén rượu đâm ra rồ dại. Hôm nọ cũng đã làm bà Hai bực mình rồi. Thôi đi ra, đừng đứng đấy mua lấy bẽ nữa.

Họ lại khuyên Thám Xuân đừng nổi giận nữa. Thám Xuân cười nhạt:

- Tôi mà bực thì tôi đã đập đầu tự tử rồi! Thế thì sao tôi lại chịu để quân đầy tớ đến lục soát tang vật trộm cắp trong người tôi? Sáng sớm mai tôi sẽ đến trình cụ, bà Hai và sang xin lỗi bác gái. Đáng tội thế nào, tôi cũng xin nhận!

Vợ Vương Thiện Bảo bẽ mặt quá, ra đứng nép ở ngoài cửa sổ nói:

- Thôi! Thôi! Đây là lần đầu tiên tôi bị đánh đấy! Ngày mai tôi sẽ trình bà Hai, xin về quách nhà thôi. Thiết cái thân già này làm gì nữa!

Thám Xuân quát bảo bọn a hoàn:

- Nghe nó nói đấy! Các chị định để tôi phải cãi nhau với nó hay sao?

Thị Thư đi ra bảo:

- Già ơi, già mà biết điều một tí, thì bớt nói đi thôi. Nếu già về nhà lại là phúc cho chúng tôi. Chỉ sợ già không dứt ra được thôi. Nếu già về, lấy ai ton hót chủ, xúi bẩy chủ cho người đi khám xét các cô và hành hạ chúng tôi?

Phượng Thư cười nói:

- Con bé này giỏi thật! Thực là chủ nào thì tớ ấy!

Thám Xuân cười nhạt:

- Chúng tôi là bọn ăn trộm, bao giờ cũng mồm năm miệng mười, chỉ có điều là không biết xúi bẩy chủ thôi.

Bình Nhi vội khuyên giải và kéo Thị Thư vào. Bọn vợ Chu Thụy cũng khuyên một lúc, Phượng Thư chờ sắp sửa cho Thám Xuân đi ngủ, rồi mới dẫn người sang Noãn Hương ổ.

Lúc này Lý Hoàn đương ốm, nằm ở trên giường. Chị ta ở sát nhà Tích Xuân, và gần nhà Thám Xuân, nên bọn Phượng Thư tiện đường đến hai nơi ấy trước. Lý Hoàn vừa uống thuốc xong đi nằm, không tiện đánh thức, nên họ chỉ đến buồng các a hoàn, khám xét một lượt, cũng không tìm thấy vật gì, liền đi sang phòng Tích Xuân. Tích Xuân còn trẻ tuổi, chưa hiểu mấy, sợ quá không biết xảy ra việc gì. Phượng Thư đành phải yên ủi Tích Xuân. Ngờ đâu, khám đến hòm của Nhập Họa, thấy một cái bọc lớn, đựng toàn khóa bạc, độ ba bốn mươi cái. Lại một cái đai ngọc, cùng một bọc dây bí tất của đàn ông.

Nhập Họa tái mặt lại, phải quỳ xuống khóc, nói thực:

- Đó là của ông Trân thưởng cho anh cháu đấy. Vì bố mẹ cháu đều ở miền Nam, chúng cháu theo ông chú lên đây kiếm ăn. Nhưng chú thím cháu chỉ ham uống rượu đánh bạc. Anh cháu sợ giao cho chú thím, lỡ lại tiêu mất, nên mỗi khi được cái gì, thường khẽ nhờ bà già đưa đến, bảo cháu cất đi.

Tích Xuân là người nhát gan, thấy thế sợ hãi, nói:

- Tôi chả biết gì cả. Như thế sao được! Chị Hai muốn đánh nó, cứ việc lôi nó ra mà đánh. Những câu nó nói, tôi nghe chối cả tai.

Phượng Thư cười nói:

- Nếu quả thực thế, cũng nên tha, nhưng không được lén lút đưa cho nhau. Thứ này đưa được thì thứ gì mà không đưa. Đó là lỗi ở người đưa đấy. Nếu không nói thực, mà là của ăn trộm, thì mày đừng có hòng sống.

Nhập Họa quỳ xuống khóc nói:

- Cháu không dám nói dối. Ngày mai mợ cứ hỏi cậu Cả, mợ Cả bên cháu mà xem, nếu không phải là đồ được thưởng, thì mang cháu và anh cháu ra đánh chết cũng không dám oán hận gì!

Phượng Thư nói:

- Thế nào cũng phải hỏi. Nhưng nếu thực là đồ thưởng thì mày cũng có lỗi. Ai cho phép mày lén lút mang những đồ này vào đây? Mày hãy nói rõ ai giao cho mày, ta sẽ tha chết cho. Ta cấm từ nay không được thế nữa.

Tích Xuân nói:

- Chị đừng tha nó, ở đây nhiều người, nếu không trừng trị, những đứa lớn trông thấy, không biết còn xảy ra thế nào nữa kia. Chị tha nó, tôi cũng không tha!

Phượng Thư nói :

- Tôi xem nó ngày thường cũng khá đấy. Ai không có lỗi, mới một lần này thôi, lần sau lại phạm nữa, sẽ phạt cả hai tội. Nhưng không biết ai là người lén lút đưa cho nó.

Tích Xuân nói:

- Không có ai đưa cho nó đâu, chắc là già Trương canh ở cửa sau đấy. Già ấy thường thậm thụt với bọn a hoàn này, bọn họ cũng thường giúp đỡ già ấy.

Phượng Thư nghe nói sai người ghi lấy tên, giao cho vợ Chu Thụy tạm giữ những đồ vật khám được, để ngày mai đối chiếu sẽ hay. Rồi từ biệt Tích Xuân đi vào buồng Nghênh Xuân.

Nghênh Xuân đã đi ngủ rồi, bọn a hoàn cũng sắp đi ngủ. Mọi người gõ cửa, một lúc mới mở. Phượng Thư dặn trước:

- Không được đánh thức cô dậy.

Rồi vào ngay buồng bọn a hoàn. Tư Kỳ là cháu ngoại vợ Vương Thiện Bảo, nên Phượng Thư để ý xem mụ ta có thiên vị với cháu hay không. Bắt đầu khám hòm của các người, không thấy gì. Khi khám đến hòm của Tư Kỳ, mụ ta xáo qua loa một lượt rồi nói:

- Cũng chẳng có gì cả.

Lúc sắp đóng hòm, vợ Chu Thụy nói:

- Hãy hượm! Cái gì đây?

Liền thò tay vào lấy ngay ra được một đôi bí tất gấm và một đôi giày đoạn của đàn ông, lại còn một cái bọc nhỏ nữa. Khi mở xem một cái đồ chơi kiểu “đồng tâm như ý” và một lá thư, tất cả đều đưa cho Phượng Thư, Phượng Thư trông nom việc nhà đã lâu, thường xem thư, xem sổ, cũng bập bẹ biết được mấy chữ. Thư này là giấy hoa tiên song hỷ đỏ sẫm, trong thư viết:

“Tháng trước, sau khi em về nhà, cha mẹ đã biết cả rồi. Nhưng vì cô chưa đi lấy chồng, nên chưa thỏa được nỗi lòng ao ước của chúng ta. Nếu có thể gặp nhau trong vườn, thì em nên nhờ già Trương đưa tin ra cho anh. Gặp nhau trong vườn, thì dễ nói chuyện hơn là về nhà. Mong lắm! Mong lắm! Em có gửi tặng hai cái túi thơm, anh đã nhận được rồi. Nay gửi vào cho em một chuỗi hạt châu để tỏ chút lòng anh đối với em. Mong em nhận cho! Anh bên ngoại là Phan Hữu An thân gửi.”

Phượng Thư xem xong, không tỏ ý bực lại mừng. Mọi người đều không biết chữ cả. Vợ Vương Thiện Bảo không biết xưa nay anh em nó vẫn có chuyện tư tình với nhau, vừa rồi trông thấy giày và bí tất, đã hơi chột dạ, bây giờ lại thấy một cái thiếp đỏ. Phượng Thư xem rồi cười. Mụ ta liền hỏi:

- Chắc là chúng nó biên sổ không thành chữ, nên mợ mới cười?

Phượng Thư nói:

- Phải đấy. Cái sổ này tính không ra được. Nhưng già là bà ngoại Tư Kỳ thì anh ngoại nó là họ Vương mới phải, sao lại là họ Phan?

Vợ Vương Thiện Bảo thấy câu hỏi lạ lùng, miễn cưỡng nói:

- Vì bà cô của Tư Kỳ lấy người họ Phan, nên anh con cô nó là họ Phan. Lần trước có tên Phan Hữu An trốn đi, chính là hắn đấy.

Phượng Thư cười nói:

- Phải rồi. Tôi đọc cho già nghe nhé!

Liền đọc cái thư một lượt từ đầu đến đuôi. Mọi người nghe xong đều giật nẩy mình lên.

Vợ Vương Thiện Bảo chỉ muốn bới lỗi người khác, không ngờ lại bới phái cháu ngoại mình, vừa tức giận, vừa xấu hổ. Bọn vợ Chu Thụy bốn người nghe xong, hỏi:

- Già nghe thấy rồi đấy. Thực là rõ ràng, hết đường nói nữa! Bây giờ việc này làm thế nào?

Vợ Vương Thiện Bảo bực không sao chui ngay xuống lỗ nẻ cho khỏi thẹn mặt. Phượng Thư cứ nhìn chòng chọc vào mặt mụ ta, bĩu môi cười hì hì, bảo vợ Chu Thụy:

- Như thế cũng hay đấy. Bà ngoại nó chả cần phải lo nghĩ nữa. Cứ im lặng như tờ, tự nhiên vớ ngay được một anh chồng. Chẳng ai phải lo lắng nữa.

Vợ Chu Thụy cũng cười rồi nói đùa theo. Vợ Vương Thiện Bảo không biết trút giận vào đâu được đành cứ tát vào mặt mình mà mắng:

- Con đĩ già này không chết đi! Làm sao lại gây nên tội nợ như vậy?

Mồm nói mồm lại tát, thực là quả báo trước mắt. Mọi người thấy thế, cười không ngớt, vừa khuyên vừa chế giễu thêm.

Phượng Thư thấy Tư Kỳ cúi đầu không nói gì và cũng không có ý sợ hãi hổ thẹn, cũng lấy làm lạ. Xem chừng đêm đã khuya, chưa cần tra hỏi, nhưng sợ nó nghĩ quanh tìm cách tự tử chăng, liền sai hai bà già canh giữ, rồi dẫn người mang đồ tang chứng về nhà nghỉ, sáng mai sẽ liệu. Không ngờ đêm hôm ấy, Phượng Thư lại bị rong huyết, hôm sau thấy người rất mệt, phát nóng, không gượng được, phải mời thầy thuốc đến. Xem xong thầy thuốc kê đơn, chẳng qua lại Nhân sâm, Đương quy, Hoàng kỳ, v.v... Bọn bà già mang đơn đi trình Vương phu nhân. Bà ta đâm buồn, nên việc Tư Kỳ hãy tạm gác lại.

Hôm ấy Vưu Thị đến thăm Phượng Thư, ngồi một lúc, rồi sang thăm Lý Hoàn. Chợt thấy Tích Xuân sai người đến mời. Vưu Thị vừa vào đến nhà, thì Tích Xuân đem ngay việc đêm qua ra nói, lại sai người đem tất cả những đồ vật của Nhập Họa ra cho Vưu Thị xem.

Vưu Thị nói:

- Cái này thực là cha anh cô thưởng cho anh nó đấy. Nhưng không nên lén lút đưa cho nhau, làm thế, công lại hóa ra tư mất.

Rồi quay sang Nhập Họa:

- Đồ ngu, ăn lắm đâm lú lấp!

Tích Xuân nói:

- Các chị trông nom không cẩn thận, lại cứ đi mắng a hoàn. Trong đám chị em, chỉ có a hoàn của tôi là không ra gì, tôi còn mặt mũi nào trông thấy người ngoài nữa! Hôm qua tôi bảo chị Phượng mang nó đi, chị ấy không nghe, kể cũng có lý, may sao chị sang đây, chị mang ngay nó về, đánh nó, giết nó, hay bán nó đi, tôi cũng mặc kệ.

Nhập Họa nghe thấy nói thế, quỳ xuống kêu van:

- Từ nay cháu không dám thế nữa. Mong cô nghĩ lại chút tình từ thuở bé đến giờ. Dù sống chết cháu cũng xin ở lại với cô.

Vưu Thị và bọn vú già cũng hết sức nói giúp:

- Chẳng qua nó chỉ bị nhầm lẫn nhất thời, lần sau không dám thế nữa đâu. Nó hầu hạ cô từ thuở bé. Cô nên tha cho nó.

Tích Xuân trẻ tuổi, khó tính, mặc ai nói gì thì nói, cứ cho là mất thể diện, nghiến răng lại, nhất định không nghe.

- Tôi lớn rồi, không cần Nhập Họa. Từ nay bên nhà các chị, tôi cũng không sang nữa. Gần đây có nhiều chuyện bàn tán, tôi sang bên ấy, họ sẽ quàng cả cho tôi nữa.

Vưu Thị nói:

- Ai dám bàn tán? Có chuyện gì đáng bàn tán? Cô là ai? Chúng tôi là ai? Cô thấy người ta bàn tán chúng tôi, cũng nên hỏi họ mới phải.

Tích Xuân cười nhạt:

- Chị hỏi tôi những câu ấy hay đấy nhỉ! Tôi là một cô gái cần phải tránh chuyện lôi thôi, cớ chi lại đi chuốc lấy chuyện, thì còn ra người sao được? Người xưa có nói: “Lành dữ sống chết, cha con cũng không thể giúp nhau được”, huống chi giữa hai người chúng ta. Tôi chỉ có thể giữ thân tôi thôi. Từ nay các chị có việc gì, đừng làm phiền đến tôi nữa.

Vưu Thị nghe nói, vừa tức, vừa buồn cười, nói với mọi người đứng ở đấy:

- Thảo nào ai cũng bảo cô Tư trẻ tuổi hồ đồ, tôi vẫn không tin. Các chị nghe lời cô ấy nói đấy, chẳng ra đầu đuôi, chẳng biết cân nhắc gì cả, thật giọng trẻ con, nhưng lại làm người ta phải kinh khủng.

Mọi người đều khuyên:

- Cô còn trẻ tuổi, tất nhiên là mợ phải chịu nhịn.

Tích Xuân cười nhạt:

- Tuổi tôi tuy còn thơ ngây, nhưng lời nói thì không thơ ngây đâu. Các người không học, không biết chữ, đều là hạng ngốc cả, thế lại bảo tôi hồ đồ!

Vưu Thị nói:

- Cô là trạng nguyên, thám hoa, là tài tử hạng nhất! Chúng tôi chỉ là hạng người lẩn thẩn, không được sáng suốt như cô!

- Trạng nguyên, thám hoa mà không có người lẩn thẩn à? Thế mới biết các chị đều là người tục cả.

- Giỏi lắm, giỏi lắm! Vừa mới là tài tử, giờ lại thành ra hòa thượng bàn đến giác ngộ rồi.(1)

- Tôi chẳng giác ngộ gì cả. Tôi xem người bây giờ đều như hạng Nhập Họa hết.

- Thế mới biết cô thực là người vô tình lạnh nhạt!

- Người xưa có câu: “Không làm kẻ dữ, khó gọi là trai”. Tôi là một người trong trắng, sao lại chịu để liên lụy làm hỏng tôi đi.

Vưu Thị có tật giật mình, rất sợ người ta nói đến những câu ấy. Nghe ai bàn tán đến chuyện mình là trong bụng đã xấu hổ bồn chồn, nhưng hôm nay đối với Tích Xuân, chị ta đành cố nhịn, không tiện to tiếng, nay thấy Tích Xuân lại giở những câu ấy ra, không chịu được nữa, liền hỏi:

- Sao lại liên lụy đến cô? A hoàn của cô có lỗi, tự nhiên vô cớ cô lại chằng cả tôi. Tôi đã cố nhịn, cô lại càng lên nước, cứ nói bừa đi. Cô là cô gái ngàn vàng, vạn vàng, từ nay chúng tôi không dám gần cô nữa, sợ làm bẩn lây cái tên đẹp của vị tiểu thư! Thôi bảo ngay người mang con Nhập Họa về.

Vưu Thị hầm hầm đi ra.

Tích Xuân nói:

- Chị về nhà lần này, nếu quả không sang nữa, thì cũng bớt được điều nọ tiếng kia. Mọi người càng được yên tĩnh.

Vưu Thị không trả lời, đi thẳng ra ngoài.

---------------------

(1). Danh từ nhà Phật, tức là ngộ đạo.

Hồi thứ bảy mươi lăm

Mở tiệc đêm khuya, điềm lạ vẳng nghe tiếng thảm;

Thưởng trăng tháng tám, lời nói thành câu sấm hay.

Vưu Thị tức giận đi ra, định đến thăm Vương phu nhân, nhưng các bà già theo hầu khẽ nói:

- Thưa mợ, không nên đến đó vội. Vừa rồi có mấy người nhà họ Chân đến, có mang theo ít đồ đạc, không biết là việc gì giấu kín. Mợ vào sợ không tiện chăng?

- Hôm nọ thấy ông nhà nói: xem trong giấy báo, thấy nói nhà họ Chân phạm tội, hiện đương bị tịch biên gia sản và triệu về Kinh trị tội. Sao lại còn có người đến nữa?

- Đúng đấy. Mấy người đàn bà mới đến, mặt cắt không còn máu, hớt hơ hớt hải, chắc là có việc gì phải giấu chăng.

Vưu Thị nghe nói, không đến nữa, quay vào nhà Lý Hoàn, gặp lúc thầy thuốc đến xem mạch xong. Mấy hôm nay Lý Hoàn đã tỉnh táo, ôm chăn tựa gối ngồi trở trên giường, đương muốn có người đến chơi để nói chuyện phiếm. Thấy Vưu Thị đi vào, không được tươi tỉnh như lúc nãy, cứ ngồi thừ ra, Lý Hoàn hỏi:

- Chị đến đấy à, đã ăn gì chưa? Chắc đói rồi thì phải.

Liền gọi Tố Vân:

- Xem có thứ điểm tâm gì mới đem đến đây.

Vưu Thị ngăn lại nói:

- Không cần, không cần. Thím đau ốm luôn, làm gì có thức ăn mới? Tôi cũng không đói.

- Hôm trước có người biếu ít chè rất ngon. Tôi bảo nó pha một bát chị uống nhé.

Nói xong sai đi pha.

Vưu Thị ngồi ngẩn ra không nói gì. Bọn a hoàn và đàn bà theo hầu hỏi:

- Hôm nay trưa rồi, mợ chưa rửa mặt. Giờ nhân tiện mợ rửa nhé!

Vưu Thị gật đầu. Lý Hoàn sai Tố Vân đi lấy hộp trang điểm của mình ra. Tố Vân lại mang phấn của nó ra cười, nói:

- Mợ cháu không có cái này, nếu mợ không chê bẩn xin dùng tạm một chút.

Lý Hoàn nói:

- Ta không có, mày cũng nên đến chỗ các cô mà lấy, sao lại tự tiện lấy của mày ra. May là chị ấy đấy, phải người khác, lại không giận à?

Vưu Thị cười nói:

- Có can gì việc ấy? Ta đến đây luôn, của ai mà chả dùng. Bây giờ còn sợ gì bẩn nữa.

Nói rồi ngồi xếp bằng trên bục, con Ngân Điệp chạy  lại tháo vòng tay và nhẫn, lấy cái khăn lớn che nửa người cho nước khỏi bắn vào quần áo. A hoàn nhỏ là Sao Đậu bưng nước nóng lên. Đến trước mặt Vưu Thị, nó chỉ khom lưng xuống bưng chậu nước.

Ngân Điệp cười nói:

- Mày chẳng tinh ý tý nào. Nói gà ra cáo. Mợ đối xử rộng rãi với chúng ta, muốn sao được thế, mày đâm nhờn quen. Ra ngoài, trước mặt mọi người, mày cũng làm qua loa cho xong chuyện à?

Vưu Thị nói:

- Mày mặc nó. Ta rửa xong thì thôi. Tất cả lớn bé trong nhà chúng ta, chỉ biết bề ngoài, giả cách lễ phép đấy thôi, rút cuộc việc gì cũng muốn làm cho xong chuyện.

Lý Hoàn nghe thấy thế, biết ngay chị ta đã biết chuyện đêm qua, liền cười nói:

- Câu nói của chị có ý nhị đấy. Thế thì ai làm việc cho xong chuyện.

Vưu Thị nói:

- Thím lại còn hỏi tôi, có họa thím ốm chết rồi hay sao mà không biết.

Chợt có người vào báo:

- Cô Bảo đến chơi.

Hai người đều nói:

- Mời vào!

Bảo Thoa đi vào. Vưu Thị vội lau mặt, đứng dậy mời ngồi, hỏi:

- Sao tự nhiên lại một mình cô đến. Các chị em khác đâu cả?

- Đúng đấy, tôi cũng không gặp họ. Hôm nay mẹ tôi yếu, trong nhà có hai người hầu gái đều ốm chưa khỏi, những người khác thì không tin cậy được. Đêm hôm nay tôi phải sang bên ấy trông nom mẹ lôi. Tôi định đến trình cụ và dì tôi, nhưng nghĩ việc này cũng chẳng quan hệ gì, nên thôi không nói, đợi mẹ tôi khỏi thế nào tôi sẽ lại sang. Vì thế tôi sang nói để chị biết.

Lý Hoàn nghe nói, nhìn Vưu Thị. Hai người cùng cười.

Một lúc, Vưu Thị rửa mặt gội đầu xong, mọi người uống trà. Lý Hoàn cười nói với Bảo Thoa:

- Tôi sẽ sai người sang hỏi thăm bà dì, xem người yếu ra làm sao. Tôi cũng đương ốm, không thể sang tận nơi hỏi thăm được. Cô cứ việc đi, tôi sẽ sai người sang trông nhà hộ. Một vài hôm, thế nào cô cũng về, đừng để tôi phải mang lỗi đấy.

Bảo Thoa cười nói:

- Việc gì mà chị mang lỗi? Đó là thường tình của người ta, chị có phải thả bọn trộm cướp ra đâu. Cứ ý tôi, chị cũng không phải cất thêm người sang nữa, cứ mời cô Vân về đây ở với chị vài ngày, lại chẳng đỡ việc hay sao?

Vưu thị nói:

- Cô Vân bây giờ đi đâu?

Bảo Thoa nói:

- Tôi vừa bảo bọn họ đi mời cô Thám Xuân cùng đến đây luôn. Tôi cũng sẽ nói rõ với cô ấy.

Đương nói thì có người báo:

- Cô Vân và cô Ba đã đến.

Mọi người mời nhau ngồi xong, Bảo Thoa nói đến việc mình phải ra ngoài ở. Thám Xuân nói:

- Hay lắm. Dì khỏi sẽ trở lại, hoặc không trở lại cũng chẳng sao.

Vưu Thị cười nói;

- Nói mới lạ chứ? Sao lại đuổi cả bà con đi?

Thám Xuân cười nhạt:

- Đúng đấy. Rồi thế nào cũng có người đuổi, chị để tôi đuổi trước đi! Chỗ bà con với nhau, không cần phải ở rịt với nhau một chỗ mới là tử tế. Chúng ta là chỗ bà con thân thiết đấy, nhưng ai mà chẳng như giống gà đen mắt, chỉ chực nuốt sống nhau thôi.

Vưu Thị cười nói:

- Hôm nay sao tôi đen đủi thế? Đi đến chỗ nào cũng đụng phải chị em các cô cáu gắt.

Thám Xuân nói:

- Ai bảo chị đâm đầu vào bếp lửa làm gì? - Lại hỏi luôn: - Ai đã mắc lỗi với chị thế. Cô Tư chắc không khi nào gây chuyện với chị. Thế là ai chứ?

Vưu Thị cứ ậm ừ trả lời cho qua.

Thám Xuân biết là Vưu thị sợ sinh chuyện, không dám nói nhiều, liền cười nói:

- Chị đừng làm bộ thực thà nữa. Trừ khi triều đình trị tội, ngoài ra không ai chém được đầu mình. Chị không cần phải sợ rụt đầu rụt cổ như thế. Tôi nói cho chị nghe này: hôm qua tôi vừa mới đánh con vợ thằng Vương Thiện Bảo, vẫn còn mắc tội đấy. Nhưng dù sao họ cũng chỉ nói vụng khi vắng mặt tôi thôi, chẳng lẽ lại lôi tôi ra đánh à?

Bảo Thoa hỏi:

- Tại sao lại đánh mụ ta?

 Thám Xuân kể lại đầu đuôi sự việc đêm qua. Vưu Thị thấy Thám Xuân nói ra hết, cũng đem việc lúc nãy của Tích Xuân ra nói. Thám Xuân nói:

- Tính khí cô ta xưa nay vẫn kiêu kỳ quá, chúng tôi không thể địch với nó được. - Rồi lại nói với mọi người: - Hôm nay chẳng thấy động tĩnh gì, hỏi ra thì chị Phượng lại ốm. Tôi sai người đi các nơi dò xét xem tình hình vợ Vương Thiện Bảo. Trở về họ trình rằng: mụ ta bị một trận đòn rồi bị mắng là hay sinh chuyện.

Vưu Thị, Lý Hoàn đều nói:

- Có thế mới được.

Thám Xuân cười nhạt:

- Cách che mắt người ta như thế, ai chẳng biết làm? Hãy chờ xem sao.

Vưu Thị và Lý Hoàn ngồi im không nói gì. Một lúc, bọn a hoàn vào mời đi ăn cơm. Tương Vân và Bảo Thoa về nhà sắp xếp quần áo.

Vưu Thị cáo từ Lý Hoàn sang bên Giả mẫu. Giả mẫu còn nằm trên giường. Vương phu nhân đương kể lại việc nhà họ Chân vì sao bị tội, hiện giờ đã bị tịch biên gia sản, và giải về kinh trị tội. Giả mẫu nghe nói, trong bụng rất là khó chịu. Thấy Vưu Thị đến, liền hỏi:

- Chị ở đâu đến đây? Không biết chị em con Phượng ốm, giờ đã khỏi chưa?

Vưu Thị vội trình:

- Hôm nay đều đã đỡ rồi.

Giả mẫu gật đầu thở dài:

- Chúng ta đừng bàn tán việc nhà người ta nữa, hãy bàn việc thưởng trăng rằm tháng tám đi.

Vương phu nhân cười nói:

- Đã sắp sẵn cả rồi, nhưng không biết cụ định chọn chỗ nào cho đẹp? Chỉ sợ ở trong vườn đêm khuya gió lạnh thôi.

Giả mẫu cười nói:

- Mặc nhiều áo vào thì sợ gì? Ở đó mới là chỗ thưởng trăng, sao lại không ra đó chơi?

Trong lúc nói chuyện, bọn đàn bà khênh bàn ăn đến. Vương phu nhân và Vưu Thị vội đến so đũa xới cơm. Giả mẫu thấy mấy món ăn của mình đã bầy đủ rồi, lại còn có hai hộp lớn, đựng mấy món ăn nữa, đó là lệ cũ, các phòng dâng thêm thức ăn. Giả mẫu nói:

- Ta đã bảo nhiều lần, bỏ lệ này đi, có chị vẫn không nghe. Giờ có được như trước nữa đâu.

Uyên Ương cười nói:

- Cháu cũng đã nói nhiều lần. Chẳng ai nghe cả, nên đành phải chịu.

Vương phu nhân cười nói:

- Chỉ là những đồ ăn thường thôi. Hôm nay con ăn chay, không có món gì đem dâng cụ, miến và đậu phụ thì cụ lại không thích dùng, nên chỉ mang đến một món rau dút, dưa chua ngâm dấm và tương ớt.

Giả mẫu cười nói:

- Ta lại thích ăn món ấy.

Uyên Ương nghe nói đưa đĩa rau ra bày ở trước mặt Bảo Cầm, mời đủ mọi người, rồi mới ngồi xuống. Giả mẫu bảo Thám Xuân cùng ngồi xuống ăn.

Thám Xuân cũng mời khắp lượt, rồi mới ngồi đối diện với Bảo Cầm. Thị Thư vội đi lấy bát đũa. Uyên Ương lại trỏ mấy món ăn nói:

- Hai món này không hiểu là món gì, bên ông Cả mang biếu đấy. Bát này là măng nấu với tủy gà, đó là của ông ở nhà ngoài đem đến biếu.

Giả mẫu nếm qua mấy miếng rồi bảo người mang những món ấy về, nói rằng “ta đã ăn rồi, từ nay không cần phải ngày nào cũng mang đến biếu. Ta muốn ăn thứ gì, tự khắc cho người đến lấy”. Bọn đàn bà vâng lời mang ra.

Giả mẫu lại bảo:

- Mang cháo lên đây ăn một ít vậy.

Vưu Thị bưng một bát đến, nói là cháo gạo cẩm.

Giả mẫu cầm lấy ăn nửa bát, rồi bảo:

- Đem bát cháo cho cháu Phượng ăn.

Lại sai đem bát măng và quả chua cho Đại Ngọc và Bảo Ngọc ăn. Bát thịt này thì cho chắt Lan. Rồi nói với Vưu Thị:

- Ta đã ăn rồi, chị cũng ăn đi thôi.

Vưu Thị vâng lời, chờ Giả mẫu súc miệng rửa tay xong, xuống đất đi dạo, nói chuyện với Vương phu nhân, mới xin phép ngồi ăn. Thám Xuân, Bảo Cầm đứng dậy cười nói:

- Chúng em xin thất lễ chị.

Vưu Thị cười nói:

- Chỉ còn một mình tôi ngồi ăn cỗ to không quen.

Giả mẫu bảo Uyên Ương, Hổ Phách đến tiếp, Vưu Thị nói:

- Đúng! Đúng! Cháu cũng đang định nói.

Giả mẫu cười nói:

- Nhiều người ăn càng vui. - Nhân trỏ Ngân Điệp: -  Con bé này khá, lại đây ngồi ăn với chủ mày một thể. Bao giờ chúng bay xa ta, lúc ấy lại sẽ có khuôn phép.

Vưu Thị nói:

- Em lại đây mau, đừng giả vờ nữa.

Giả mẫu chống tay đứng xem, thấy người mang cơm đến cho Vưu Thị vẫn cơm gạo thường, liền hỏi:

- Mày mê à? Sao lại lấy thứ cơm ấy cho mợ mày?

Người kia thưa:

- Cơm của cụ hết rồi. Hôm nay thêm một cô, nên thiếu.

Uyên Ương nói:

- Từ nay đều phải “đo đầu mà làm mũ”, không thể để thừa một tí gì.

Vương phu nhân nói:

- Mấy năm nay hạn lụt thất thường, gạo ở trại không nộp đủ số. Mấy thứ gạo ngon lại càng khó khăn lắm, nên đều nấu đủ ăn thôi, sợ một mai thiếu không mua đâu ra.

Giả mẫu cười nói:

Phải đấy. Đàn bà khôn khéo không có gạo cũng không nấu được thành cháo.

Mọi người đều cười. Uyên Ương quay lại bảo bọn đàn bà hầu ở cửa ngoài:

- Đã thế, các chị đi lấy thêm phần cơm của cô Ba lại đây cũng vậy.

Vưu Thị cười nói:

- Tôi ăn từng này đủ rồi, không cần phải đi lấy nữa.

Uyên ương nói:

- Mợ ăn đủ rồi, còn tôi không biết ăn à?

Bọn đàn bà nghe nói, vội đi lấy ngay. Một lúc Vương phu nhân cũng đi ăn cơm. Vưu Thị thì ngồi hầu chuyện Giả mẫu sang đầu canh một. Giả mẫu nói:

- Trời tối rồi, chị cũng về đi thôi.

Vưu Thị cáo từ ra về. Đến ngoài cửa thứ hai, lên xe. Ngân Điệp ngồi bên cạnh. Bọn đàn bà bỏ rèm xuống, rồi dẫn lũ hầu nhỏ kéo ra trước, đứng chực ở cửa chính bên kia.

Vì cổng hai phủ chỉ cách nhau một quãng đường, hàng ngày đi lại luôn, không cần phải sắp sẵn gì cả. Vả lại, giữa lúc đêm tối, người qua lại tấp nập, nên các bà già chỉ dẫn lũ a hoàn nhỏ, đi mấy bước là sang ngay. Những người đứng ở hai cổng, ngăn không cho ai qua lại. Xe Vưu Thị không cần phải đóng ngựa, chỉ sai bảy tám đứa đẩy là nhẹ nhàng đến ngay bậc hè.

Tới nơi, những người đẩy xe lùi ra ngoài con sư tử đá, các bà già vén rèm lên. Ngân Điệp xuống trước dắt Vưu Thị. Bảy tám đứa lớn nhỏ cầm đèn lồng soi sáng rõ như ban ngày.

Vưu Thị thấy bốn, năm cái xe lớn đỗ dưới hai con sư tử, biết ngay là những người đến đánh bạc, liền bảo Ngân Điệp:

- Mày xem đấy, có ngần ấy người ngồi xe thôi, không biết bao nhiêu người cười ngựa nữa. Vì họ buộc ngựa vào chuồng cả, nên ta không trông thấy. Không biết các bà vợ đã bỏ ra bao nhiêu tiền cho họ chơi cái món ma mãnh này.

Nói xong đến nhà khách. Vợ Giả Dung dẫn bọn đàn bà và a hoàn cầm đuốc ra đón. Vưu Thị cười nói:

- Ngày thường ta muốn rình xem họ đánh bạc thế nào, nhưng chưa có dịp. Hôm nay nhân tiện ta đến gần cửa sổ xem sao.

Bọn đàn bà vâng lời, cầm đèn dẫn đường. Lại sai một người đến trước, khẽ bảo những tên hầu nhỏ ở đấy không được nhớn nhác sợ sệt. Rồi cả bọn Vưu Thị khe khẽ đến dưới cửa sổ nghe những tiếng “tam”, “tứ” reo ầm ĩ, xen lẫn “ngũ”, lục” cáu gắt om sòm.

Giả Trân lâu nay có tang, không được đi chơi, cũng không cả nghe đàn nghe hát, lòng rất trống trải, nên tìm cách để giải buồn. Ban ngày thì hắn mượn cớ tập bắn, mời mấy vị con nhà thế gia cùng các bạn bè giàu có đến bắn thi. Rồi nói đổ là nếu bắn bừa cũng vô ích, không những không giỏi, lại đâm hỏng kiểu; phải lập lệ thưởng phạt, đặt cược đánh đố, mọi người mới chịu cố gắng. Hắn bèn dựng một cái bia ở giữa đường thẳng dưới lầu Thiên Hương, hẹn nhau mỗi ngày sau bữa cơm sáng đến đó bắn bia. Giả Trân không tiện ra mặt, cho Giả Dung đứng làm chủ chứa. Đám này đều là hạng trẻ tuổi, lại con nhà giàu quen lối sống phóng túng, chỉ lo những việc chó săn gà chọi, hỏi liễu tìm hoa. Vì thế họ bàn nhau, mỗi ngày thay phiên thết nhau một bữa cơm chiều. Ngày nào cũng giết lợn giết dê, mổ gà mổ vịt chẳng khác gì thi của báu ở đất “Lâm Đồng”(1) ai cũng khoe khoang nhà mình có đầu bếp giỏi và nấu nướng khéo.

Chưa đầy nửa tháng, Giả Xá, Giả Chính nghe thấy, nhưng không biết rõ ẩn tình bên trong, lại nói:

- Như thế mới phải, văn đã kém tất phải tập võ, huống chi mình lại là dòng dõi con nhà quan võ nữa.

Rồi bảo Bảo Ngọc, Giả Hoàn, Giả Tôn, Giả Lan, cứ sau bữa cơm, phải đến tập bắn với Giả Trân một lúc mới được về.

Giả Trân không phải chú ý vào việc này, tập bắn được vài ngày, dần dần mượn cớ nghỉ bắn để dưỡng sức, rồi cứ đến buổi tối lại giở trò bài bạc, ai thua phải thết rượu; sau dần đánh bằng tiền. Ròng rã ba bốn tháng trời, hắn công nhiên đánh bài lá, gieo xúc xắc, tung tiền đầu. Người nhà cũng nhờ đó kiếm được tý chút. Vì họ chỉ mong được như thế, nên trở thành sòng bạc. Người ngoài đều không ai biết cả.

Gần đây, em ruột Hình phu nhân là Hình Đức Toàn rất mê đánh bạc. Hắn cũng ở trong cuộc. Lại có Tiết Bàn là người thích cúng tiền cho người nhất, lẽ nào không hăng say. Hình Đức Toàn tuy là em ruột Hình phu nhân, nhưng ý nghĩ và việc làm lại khác hẳn. Hắn chỉ biết rượu chè cờ bạc, đắm liễu say hoa, tiêu tiền bừa bãi, đối với mọi người, coi ai cũng như ai. Thấy thế, những kẻ nghiện rượu thì thích, nhưng người không nghiện thì không hay gần gụi. Hấn bất chấp trên dưới hay thầy trò, đều như nhau cả, không phân biệt là sang hay hèn, vì thế ai cũng gọi hắn là “cậu Cả ngốc”. Tiết Bàn cũng là “anh chàng ngốc” có tiếng. Nay hai người cùng ở một chỗ, đều thích sát phạt nhau, nên họ họp riêng, đánh ở trên giường phía ngoài. Ngay đấy lại có mấy người đánh cá ngựa ở trên cái bàn lớn. Trong nhà thì có một bọn chơi hơi nhã hơn, cùng nhau đánh mạt chược và bài cẩu.(2) Bọn hầu nhỏ phục dịch ở đây, đều là trẻ con dưới 15 tuổi. Người lớn không được vào.

Vưu Thị lẻn đến cửa sổ nhìn trộm, thấy trong đó có hai đứa trẻ con hầu rượu, chừng mười sáu mười bảy cũng đều son phấn trang điểm lòe loẹt như hoa như gấm vậy. Tiết Bàn đánh thua, trong bụng đương khó chịu, sau gỡ lại được, trừ bỏ hồ rồi, còn được một ít, hắn lấy làm vui sướng lắm. Giả Trân nói:

- Hãy nghỉ tay, đi ăn đã rồi sẽ đánh. Còn hai bàn kia thì sao?

Bàn đánh bài cẩu cũng đi ăn, chỉ còn bàn đánh cá ngựa là đương giở cuộc chưa ăn được, nên bày một bàn sẵn. Hắn sai Giả Dung đợi tiếp bàn sau. Ngay đấy Giả Trân ngồi tiếp. Tiết Bàn hứng lên ôm một đứa hầu bé ngồi uống rượu, rồi sai nó mang rượu mời cậu “cậu Cả ngốc”.

Cả Ngốc đương thua, không còn bụng dạ nào nữa, mới uống hai chén đã thấy say, liền cáu mắng đứa hầu rượu:

- Chỉ biết xoắn xuýt với người được, không để ý đến người thua. Hạng nhãi con chúng bay chuyên việc hầu hạ, ngày nào cũng ở đây, thì ai mà chúng bay không được nhờ ơn? Bây giờ ta mới thua có mấy lạng bạc, chúng bay đã ra vẻ nhìn người ba bảy đứng rồi. Chẳng lẽ từ nay trở đi, chúng bay không có việc gì nhờ đến tao nữa hay sao?

Mọi người thấy hắn đã chếnh choáng say, đều nói:

- Đúng! Đúng! Quả thật chúng nó vẫn quen cái thói ấy.

Rồi mắng hai đứa kia:

- Còn không đi rót rượu xin lỗi à?

Hai đứa hầu nhỏ giở ngay trò ra. Chúng quỳ xuống dâng rượu nói:

- Chúng cháu là người hàng họ. Thầy chúng cháu thường dạy: Không kể xa gần thân sơ, cứ xem người có tiền thì xoắn xuýt lấy như ông tiên trên trời. Khi tiền hết, thì bỏ đấy không cần nhìn đến. Vả lại chúng cháu còn ít tuổi chưa quen làm cái nghề này. Xin ông rộng lượng tha cho chúng cháu.

Cậu Hình nghe vậy, lòng dịu hẳn đi, nhưng vẫn làm ra vẻ thịnh nộ, không nhìn đến. Mọi người thấy vậy lại khuyên:

- Chúng nó trẻ con nói thực đấy. Cậu vẫn quen thương hương tiếc ngọc, sao hôm nay lại như vậy? Cậu không uống, khi nào chúng dám đứng lên.

Cậu Hình nói:

- Nếu các vị không khuyên giải, tôi sẽ không nhìn đến chúng nữa.

Rồi cậu ta uống một hơi cạn chén. Sau lại rót một bát nữa. Rượu vào, nhớ đến chuyện cũ, cậu Hình mới thổ lộ chân tình, đập bàn nói với Giả Trân:

- Chẳng trách chúng coi tiền hơn hết. Bao nhiêu con nhà đại gia sang trọng, đụng đến tiền, dù anh em ruột thịt cũng xa nhau. Cháu ơi! Hôm qua tôi cãi nhau với bà thím nhà cháu, cháu có biết không?

- Cháu không nghe thấy!

Hắn ta thở dài:

- Cũng chỉ vì tiền thôi! Ghê lắm!

Giả Trân biết hắn giận nhau với Hình phu nhân, nên mỗi khi bị Hình phu nhân ruồng bỏ, là hắn lại điều nọ tiếng kia, nhân khuyên:

- Thưa cậu, cậu cũng hay phung phí quá, nếu cứ để mặc cậu thì bao nhiêu tiền cậu tiêu cũng hết.

- Cháu ơi, cháu chưa biết tình cảnh nhà họ Hình chúng ta. Khi bà cụ mất, ta còn bé, chưa biết gì. Có ba chị em gái, thì bà thím anh là cả, khi bà ấy đi lấy chồng, mang hết cả của cải trong nhà đi. Giờ dì hai cũng đi lấy chồng rồi, nhưng cũng túng thiếu. Dì ba còn ở nhà. Tất cả những tiền bạc chi tiêu, đều do người hầu thân là vợ Vương Thiện Bảo nắm giữ. Ta có đến lấy ít tiền tiêu cũng không phải là lấy của nhà họ Giả. Tiền của nhà họ Hình cũng đủ cho ta tiêu, nhưng không ngờ lại chẳng được đồng nào! Thật không biết giãi tỏ với ai cho hết nỗi bực được!

Giả Trân thấy hắn say rượu nói lôi thôi, sợ người ngoài nghe thấy không tiện, liền tìm lời khuyên ngăn.

Vưu Thị đứng ngoài nghe thấy mồn một, khẽ cười bảo Ngân Điệp:

- Mày nghe đấy. Đó là cậu em của bà cả bên phủ bắc đang bực bội với bà ta đấy. Chị em ruột mà còn thế, trách sao được những người ngoài.

Vưu Thị muốn nghe nữa, gặp lúc những người đánh “cá ngựa” nghỉ để uống rượu. Có người hỏi: “Vừa rồi người nào có lỗi với ông cậu thế? Chúng tôi không nghe rõ. Hãy nói lại xem ai phải ai trái?” Hình Đức Toàn kể lại việc hai đứa bé không chịu nhìn ngó đến mình, mà cứ xoắn xuýt với người được bạc. Người kia liền tiếp:

- Tức thật! Không trách ông cậu nổi giận là phải. Tao hỏi chúng mày: ông cậu chẳng qua mới chỉ thua mất mấy đồng tiền, chứ có thua mất cả cái “con c...” của ông ấy đâu. Tại sao chúng bay lại lờ ông ấy đi?

Cả bọn nghe vậy đều cười ầm lên. Hình Đức Toàn cũng cười sặc cả cơm ra.

Vưu Thị đứng ngoài nghe vậy hậm hực khẽ mắng:

- Mày nghe xem, cái bọn chết đâm vô liêm sỉ ấy! Vừa bỏ xương đầu, đã ngậm ngay lông đít. Còn nốc rượu vào, chưa biết họ còn thở ra bao nhiêu câu đểu nữa cơ!

Liền về nhà cởi đồ trang sức đi ngủ.

Đến canh tư, đám bạc mới tan. Giả Trân vào buồng Bội Phượng. Hôm sau trở dậy, có người vào trình: Dưa và bánh dẻo đã sắp đủ cả, chúng con chờ lệnh ông cho biếu các nơi.

Giả Trân dặn Bội Phượng: “Em nói với mợ sai người đi biếu. Ta còn bận việc khác”.

Bội Phượng vâng lời đi trình Vưu Thị, rồi sai người đi biếu.

Sau đó Bội Phượng lại đến nói:

- Cậu hỏi mợ hôm nay có đi chơi đâu không? Cậu nói nhà ta đương có tang, không nên ăn tết ngày rằm, nhưng tối hôm nay thì được. Chúng ta có thể ăn dưa, uống rượu vui chơi qua loa.

Vưu Thị nói:

- Ta cũng không muốn đi đâu! Nhưng bên kia mợ Cả lại ốm, mợ Hai cũng chưa dậy được, nếu ta không đi thì không có ai. Hơn nữa, chẳng ai rỗi cả thì vui cái gì.

- Cậu bảo hôm nay đã từ chối mọi người rồi, đến mười sáu họ mới đến, và mời mợ đến uống rượu.

- Mời ta, ta chẳng có cỗ đâu mà mời lại.

Bội Phượng cười rồi đi, một lúc lại đến nói:

- Mời mợ đến ăn cả bữa cơm chiều nay. Thế nào mợ cũng phải về sớm. Cậu lại bảo tôi đi hầu mợ nữa.

- Đã thế thì ăn cơm sớm rồi đi.

- Cậu bảo là cơm sáng cậu ăn ở ngoài kia, xin mời mợ cứ ăn đi.

- Hôm nay ngoài kia có ai?

- Nghe nói có hai người ở Nam Kinh mới đến, không biết là ai.

Đang nói chuyện thì vợ Giả Dung chải đầu, thay quần áo xong, cũng đến đó. Một lát, cơm bưng lên, Vưu Thị ngồi trên, vợ Giả Dung ngồi dưới, hai mẹ con cùng ăn; ăn xong, Vưu Thị thay quần áo đi sang bên phủ Vinh, đến chiều mới về.

Quả nhiên Giả Trân giết một con lợn, thui một con dê, sắp một bàn các thứ rau quả, bày ở Tùng Lục đường trong vườn Hội Phương, dẫn vợ con nàng hầu đến đấy, bày ra tiệc rượu, tìm thú thưởng trăng. Vào khoảng canh một, gió mát trăng trong, cả khoảng trời lấp lánh như bạc. Giả Trân muốn đố rượu. Vưu Thị cho bọn Bội Phượng bốn người cùng vào dự tiệc, ngồi một dãy ở phía dưới chơi hột, đánh toan. Uống rượu một lúc, Giả Trân đã ngà ngà say, cao hứng lên, sai lấy một cái tiêu trúc, bảo Bội Phượng thổi, Văn Hoa hát, âm điệu du dương, rung động tâm hồn mọi người. Hát xong lại làm tửu lệnh cho mãi tới khoảng canh ba. Giả Trân đã say mềm, mọi người đương mặc thêm áo, thay chén uống rượu nữa. Chợt nghe thấy từ chân tường bên kia có tiếng thở dài, ai nấy nghe rõ mồn một, đều rợn tóc gáy. Giả Trân quát to: “Ai ở bên kia?” Hỏi dồn mấy tiếng, không có ai trả lời. Vưu Thị nói:

- Chắc là tiếng người ở bên kia tường cũng chưa biết chừng.

Giả Trân nói:

- Nói nhảm! Không có nhà người hầu nào ở gần tường cả. Bên ấy lại liền ngay với từ đường thì làm gì có người?

Nói chưa dứt lời, một cơn gió thổi tạt qua. Thấp thoáng như ở trong từ đường có tiếng cánh cửa mở đóng, rồi thấy hơi gió rùng rợn, có vẻ lạnh lùng, ánh trăng lúc đó cũng tờ mờ, không sáng tỏ như trước nữa. Thấy vậy ai nấy đều rởn tóc gáy. Giả Trân hết hẳn say, tuy ngoài mặt trấn tĩnh hơn mọi người, nhưng trong bụng rất khiếp sợ, không còn hứng thú gì nữa. Hắn gắng gượng ngồi lại một lúc, rồi cũng về buồng nằm nghỉ.

Hôm sau là ngày rằm, Giả Trân dẫn con cháu đến từ đường làm lễ. Xem xét khắp nhà thờ, vẫn thấy y nguyên như trước, không có dấu tích lạ lùng gì. Giả Trân cho là sau khi rượu vào, thần hồn nát thần tính, nên không nhắc việc ấy nữa. Làm lễ xong, đóng cửa khóa kín cẩn thận.

Sau bữa cơm chiều, vợ chồng Giả Trân mới sang phủ Vinh, thấy Giả Xá, Giả Chính đương ngồi nói chuyện ở trong phòng cho Giả mẫu vui. Giả Liễn, Bảo Ngọc, Giả Hoàn, Giả Lan đều đứng hầu ở dưới. Giả Trân đến nơi, đi chào một lượt, nói mấy câu chuyện, rồi mới xin phép ngồi né xuống cái ghế nhỏ ở cạnh cửa. Giả mẫu cười hỏi:

- Mấy hôm nay em Bảo anh bắn có khá không?

Giả Trân vội đứng dậy cười thưa:

- Khá lắm rồi, không những cách bắn trông đẹp mà giương cung cũng khỏe thêm.

- Thế cũng đủ rồi, cẩn thận kẻo quá sức có hại đấy.

Giả Trân vội “dạ” luôn mấy tiếng. Giả mẫu lại nói:

- Bánh dẻo anh cho mang sang biếu hôm qua ngon đấy, dưa thì trông ngoài cũng đẹp, nhưng bổ ra lại chẳng ra sao cả.

Giả Trân vui cười thưa:

- Bánh dẻo là do người đầu bếp mới đến làm ra, cháu đã nếm thử, thấy ngon, mới dám mang sang biếu cụ. Dưa thì năm ngoái còn khá, không biết năm nay sao lại dở thế?

Giả Chính nói:

- Có lẽ vì năm nay mưa nhiều quá.

Giả mẫu cười nói:

- Bây giờ trăng đã sáng rồi, chúng ta hãy đi lễ đã.

Nói xong, đứng dậy vịn vào vai Bảo Ngọc, dẫn mọi người cùng vào trong vườn.

Lúc này cửa chính ở trong vườn đã mở rộng, treo đèn sừng dê. Trên đài thưởng trăng ở Gia Ấm đường đã thắp hương đốt nến, bày các thứ hoa quả, dưa bánh. Hình phu nhân và một lũ khách đàn bà đã chực lâu ở đấy. Thật là đèn rọi trăng trong, hơi thơm hương ngát, mịt mù lộng lẫy, không thể tả ra hết được. Dưới đất rải thảm gấm để lạy. Giả mẫu rửa tay dâng hương, lễ xong, mọi người cùng vào lễ. Giả mẫu nói:

- Thưởng trăng ở trên núi tốt hơn.

Rồi bảo lên nhà hoa lớn ở trên núi. Mọi người nghe nói, bày các thứ ở đấy. Giả mẫu vào ngồi nghỉ tạm ở Gia Ấm đường uống nước, nói chuyện.

Một lúc có người vào trình: “Đã sắp sửa xong cả”. Giả mẫu vịn vào một người đi lên núi. Vương phu nhân nói:

- Sợ đá có rêu trơn, xin cụ ngồi lên ghế trúc, để kiệu đi.

Giả mẫu nói:

- Đường rộng và bằng phẳng, lại ngày nào cũng quét dọn, đi dạo một lúc cho dãn gân cốt chẳng hơn ư?

Giả Xá, Giả Chính đi trước dọn đường, hai bà già cầm hai cái đèn lồng sừng dê. Uyên ương, Hổ Phách, Vưu Thị đi gần lại đỡ Giả mẫu. Bọn Hình phu nhân đi theo sau. Quanh co không đầy một trăm bước, đã đến sườn núi chính, ở đấy có một tòa nhà rộng thoáng. Vì làm ở trên sườn núi cao, nên gọi là “Đột bích sơn trang”(3) Trên đài, trước nhà bày bàn ghế, ở giữa lại đặt một cái bình phong lớn, ngăn làm hai gian. Bàn ghế đều dùng kiểu tròn cả, lấy nghĩa là đoàn viên. Giả mẫu ngồi giữa, bên trái có Giả Xá, Giả Trân, Giả Liễn, Giả Dung, bên phải có Giả Chính, Bảo Ngọc, Giả Hoàn, Giả Lan, ngồi quây quần; còn phía dưới vẫn để không.

Giả mẫu cười nói:

- Trước kia còn chưa biết là ít người, bây giờ xem ra nhà ta thật ít người quá. Nghĩ lại mấy năm về trước, ăn tết trông trăng đêm rằm, trai gái có hàng ba, bốn mươi người, vui nhộn biết bao! Hôm nay sao lại ít quá, bảo bọn cháu gái ra ngồi ở bên kia vậy.

Rồi sai người đến bàn của Hình phu nhân ở sau bình phong mời Nghênh Xuân, Thám Xuân và Tích Xuân ra. Giả Liễn, Bảo Ngọc đứng dậy, nhường các chị em ngồi trước, rồi mới theo thứ tự ngồi xuống.

Giả mẫu sai bẻ một cành hoa quế mang đến, bảo một người đàn bà ở sau bình phong đánh trống, truyền hoa đến tay ai, người ấy phải uống một chén rượu và phải nói một câu chuyện vui. Bắt đầu từ Giả mẫu, rồi đến Giả Xá, cứ thế lần lượt truyền đi. Trống đánh hai hồi vừa hay đến tay Giả Chính, ông ta phải uống một chén rượu. Các anh chị em đều khe khẽ người nọ kéo người kia, người kia bấm người nọ, ai cũng mỉm cười xem câu chuyện vui như thế nào.

Giả Chính thấy Giả mẫu đương vui, cũng phải làm cho vui thêm, ông ta sắp nói, Giả mẫu lại cười bảo:

- Nếu câu chuyện không được người ta cười thì anh phải phạt đấy.

Giả Chính cười, thưa:

- Con chỉ biết có một câu chuyện, nói ra không ai buồn cười thì cũng đành xin chịu phạt vậy.

- Anh cứ nói đi.

- Một anh chàng con nhà nọ rất sợ vợ.

Mới nói câu ấy, mọi người đã cười ầm lên. Vì họ chưa nghe Giả Chính nói chuyện vui bao giờ. Giả mẫu cười nói:

- Chắc chuyện này hay đấy.

Giả Chính cười thưa:

- Nếu hay, thì mời cụ xơi trước một chén.

Giả Chính lại nói tiếp:

- Anh chàng sợ vợ này, xưa nay không dám đi ra ngoài một bước. Hôm ấy là ngày rằm tháng tám, chàng ta ra phố mua các thứ, gặp ngay mấy người bạn cố sống cố chết kéo hắn về nhà uống rượu. Không ngờ chàng ta uống say quá, lăn ra ngủ ngay. Hôm sau tỉnh dậy, hối không kịp, đành phải về nhà nhận tội. Lúc ấy người vợ đương rửa chân, bảo chàng ta: “Đã thế thì anh phải liếm chân tôi, tôi sẽ tha cho”. Chàng ta đành phải liếm chân vợ, rồi bụng thấy tởm tởm, muốn nôn. Chị vợ nổi giận định đánh, và nói: “Anh lại hỗn xược thế à!” Chàng ta khiếp quá vội quỳ xuống kêu nài: “Không phải là chân mợ bẩn đâu, vì hôm qua tôi trót uống nhiều rượu, ăn nhiều nhân bánh dẻo quá nên hôm nay thấy lợm giọng”.

Câu chuyện làm cho Giả mẫu và mọi người cười ầm lên. Giả Chính lại rót một chén rượu nữa mời Giả mẫu. Giả mẫu cười nói:

- Đã thế thì bảo người mang rượu nóng lại đây, đừng làm khổ các anh nữa.

Mọi người đều cười ầm lên.

Lúc đó lại đánh trống, bắt đầu từ Giả Chính truyền đi, vừa đến Bảo Ngọc thì tắt trống. Vì có Giả Chính ngồi đấy, Bảo Ngọc đã khép nép không yên, nay cành hoa lại đến tay, liền nghĩ: “Mình nói chuyện không vui thì bảo là không lém lỉnh, câu chuyện cười cũng không biết nói, còn biết cái gì, nói hay ra lại bảo những chuyện đúng đắn chẳng thấy đâu, chỉ quen lối bẻm mép thôi, cũng có lỗi, chi bằng ta không nói là hơn.”

Rồi đứng dậy từ chối nói:

- Con không biết nói, xin cho cái khác.

Giả Chính nói:

- Đã thế thì hạn cho chữ “thu” con phải làm một bài thơ tức cảnh. Làm hay ta thưởng; không hay thì mai liệu hồn đấy!

Giả mẫu bảo:

- Làm tửu lệnh đương vui, sao lại bày ra làm thơ?

Giả Chính cười thưa:

- Nó làm được thơ đấy.

Giả mẫu nói:

- Đã thế thì làm đi.

Rồi sai người mang bút giấy đến.

Giả Chính nói:

- Nhưng không được dùng những chữ đệm lót như “thủy”, “tinh”, “băng”, “ngọc”, “ngân”, “thái”, “quang”, “minh”, “tố” v.v... Phải theo ý của mình để ta xem mấy năm nay mày học hành ra sao?

Bảo Ngọc nghe nói, chọc đúng vào tim mình, liền nghĩ ngay bốn câu, viết ra giấy đưa lên. Giả Chính xem xong gật đầu không nói gì. Giả mẫu biết là không đến nỗi dở lắm, liền hỏi:

- Thế nào?

Giả Chính muốn cho Giả mẫu vui lòng, nói:

- Nó cũng khá đấy. Chỉ có cái là không chịu học và đặt câu chưa được nhã.

- Thôi được, nó đã lớn gì cho lắm. Định bắt nó làm tài tử chăng? Cũng cần khen nó để sau này nó cố lên.

- Phải đấy.

Liền quay lại bảo bà già:

- Đi ra gọi bọn hầu nhỏ, bảo lấy hai cái quạt của ta mang ở Hải Nam về, thưởng cho Bảo Ngọc.

Bảo Ngọc cúi đầu tạ, lại ra chỗ ngồi làm tửu lệnh.

Giả Lan thấy Bảo Ngọc được thưởng, cũng đứng dậy làm một bài đưa trình Giả Chính. Giả Chính xem xong lấy làm vui mừng, liền giảng nghĩa luôn cho Giả mẫu nghe. Giả mẫu rất là sung sướng, vội bảo Giả Chính cũng phải thưởng cho nó.

Mọi người trở về chỗ ngồi, lại bắt đầu làm tửu lệnh. Lần này hoa đến tay Giả Xá, ông ta đành phải uống rượu và nói chuyện vui:

- Một nhà có một đứa con rất là hiếu thuận. Không may bà mẹ bị bệnh, tìm thầy chạy thuốc các nơi không được. Người con mời ngay một bà biết châm cứu đến. Bà này không biết xem mạch, chỉ bảo là bệnh tâm hỏa, châm một mũi là khỏi thôi. Người con sợ quá, hỏi: “Tim mà gặp phải sắt thì chết, châm thế nào được?” Bà lang nói: “Không cần phải châm vào tim, chỉ châm vào bên hông là được rồi”. Người con nói: “Hông cách tim xa, châm vào đó khỏi thế nào được?” Bà lang nói: “Không việc gì đâu. Anh không biết thiên hạ làm bố mẹ, nhiều tim rất là thiên lệch.”

Mọi người nghe nói đều cười lên. Giả mẫu cũng phải uống nửa chén rượu, ngồi một lúc rồi cười bảo:

- Nếu ta được bà lang ấy châm cho một cái thì cũng tốt đấy.

Giả Xá nghe vậy, biết là mình nói sỗ sàng để Giả mẫu nghi ngờ, liền đứng dậy cười, dâng chén mời Giả mẫu rồi nói lảng sang chuyện khác. Giả mẫu cũng không tiện nhắc, lại làm luôn tửu lệnh. Không ngờ cành hoa truyền đến tay Giả Hoàn. Gần đây Giả Hoàn học đã hơi tiến, nhưng cũng giống Bảo Ngọc, không thiết gì việc chính, mỗi khi làm thơ, chỉ thích những ma quỷ hão huyền. Thấy Bảo Ngọc làm thơ được thưởng, hắn đã ngứa ngáy, nhưng trước mặt Giả Chính, không dám lỗ mãng. May sao cành hoa lại đến tay mình, hắn lấy giấy bút viết một bài tứ tuyệt trình lên. Giả Chính xem xong, cũng lấy làm lạ. Nhưng xét trong bài thơ, vẫn có ý không thích đọc sách, Giả Chính tỏ ý không vui, nói:

- Thế mới biết là anh nào em ấy, mở mồm ra là rặt những câu bất chính. Sau này chỉ là những kẻ hạ lưu, không chịu đi vào khuôn khổ. Người xưa có chữ “nhị nan”(4), hai đứa chúng bay cũng có thể gọi là “nhị nan” được đấy, nhưng không phải như nghĩa chữ “nan” của người xưa nói, mà phải giảng chữ “nan” là “nan dĩ giáo huấn(5) mới đúng. Thằng anh thì nghiễm nhiên coi mình như Ôn Phi Khanh,(6) Tào Đường sống lại.

Mọi người nghe vậy đều cười.

Giả Xá nói:

- Đem thơ lại cho ta xem. - Rồi khen luôn mồn: - Cứ ý tôi, thì bài thơ này thực có chí cốt. Tôi nghĩ nhà chúng ta đây không giống như những nhà bần hàn, phải ngồi trước cửa sổ khi tuyết xuống hoặc lấy đom đóm thay đèn để học, hòng một mai bẻ quế trên cung trăng, mới được mở mày mở mặt. Con cháu ta không cần phải dùi mài cho lắm, chỉ cần đọc ít sách, hiểu biết hơn người, khi có thể làm quan được thì ra làm quan, còn chệch đi đằng nào. Việc gì mà phải hao công tốn sức, lại thành ra anh chàng ngốc chữ. Tôi thích bài thơ của nó, vì không mất cái khí khái nhà công hầu chúng ta!

Liền quay lại, sai người về lấy những đồ chơi của mình đem thưởng cho Giả Hoàn, rồi gõ vào đầu hắn, cười nói:

- Từ nay cháu cứ làm thơ như thế này, bước đường “thế tập”(7) chắc không chệch khỏi tay cháu.

Giả Chính vội ngăn:

- Chẳng qua nó làm liều mấy câu đấy thôi, sao anh lại nói đến việc mai sau.

Ông ta rót rượu, lại bắt đầu làm tửu lệnh. Giả mẫu nói:

- Các anh về đi thôi. Ngoài ấy chắc còn có bọn gia khách chực hầu, cũng không nên sơ suất với họ. Hơn nữa đã quá trống canh hai rồi, các anh nên về để chị em chúng nó vui chơi một lúc.

Giả Xá, Giả Chính nghe nói, mới thôi tửu lệnh, rồi đứng dậy. Họ cùng dâng chung một chén rượu, rồi dẫn bọn con cháu đi ra.

--------------------------

1. Chuyện Mục công nước Tần định xâm chiếm các nước chư hầu, hẹn gặp nhau ở đất Lâm Đồng, đem mỗi nước hai thứ của báu đến thi để định được thua.

2. Trong nguyên bản nói cách đánh bạc như Thương Tân Khoái, công phiên… xét không cần thiết lắm, nên chúng tôi đổi ra là mạt chược và bài cẩu.

3. Nhà làm nhô lên sườn núi.

4. Đời Đông Hán có hai anh em họ Trần: anh là Nguyên Phương, em là Quý Phương đều có tài học bằng nhau, khó phân được anh hơn  hay em hơn, do đó có chữ “nan huynh nan đệ”.

5. Khó mà dạy bảo.

6. Nhà thơ lớn đời Đường.

7. Đời này nối đời khác làm quan.

Hồi thứ bảy mươi sáu

Nhà Đột Bích nghe sáo, cảm nỗi ưu sầu;

Quán Ao Tinh nối thơ, buồn đêm vắng lặng.

Giả Xá và Giả Chính dẫn bọn Giả Trân ra về. Giả mẫu sai cất cái bình phong đi, dồn hai bàn làm một. Bọn đàn bà lại lau bàn sửa các thứ quả, thay chén rửa đũa, bày biện một lượt nữa. Giả mẫu mặc thêm áo, rửa mặt, súc miệng uống trà, rồi mời ngồi quây quần lại. Giả mẫu nhìn không thấy hai chị em Bảo Thoa ngồi ở đấy, biết là họ về nhà thưởng trăng. Lý Hoàn, Phượng thư lại ốm. Thiếu mất bốn người, thành ra buồn tẻ quá. Giả mẫu cười nói:

- Năm ngoái cha cháu đi vắng, chúng ta mời cả dì Tiết đến thưởng trăng, rất là vui nhộn; bấy giờ nhớ tới cha cháu không được ở nhà, lại không khỏi nghĩ đến việc vợ chồng con cái không được cùng nhau đoàn tụ, thành ra ít vui. Năm nay cha cháu đã về, cả nhà sum họp vui vẻ, lại không tiện mời mẹ con bà ấy sang chơi. Năm nay nhà bà ấy lại thêm hai người nữa, không có nhẽ bỏ bọn ấy ở nhà mà đi sang đây, ngặt vì cháu Phượng ốm, nếu không, một mình nó cười đùa đủ chấp mười đứa. Thế mới biết việc đời không bao giờ mười phần vẹn cả mười.

Nói xong Giả mẫu thở dài một tiếng:

- Cầm chén lớn đến đây rót rượu nóng.

Vương phu nhân cười thưa:

- Hôm nay mẹ con được sum họp vui hơn năm ngoái nhiều. Năm ngoái tuy có nhiều các bà các cô, nhưng không vui bằng năm nay, gia đình sum họp đủ mặt.

Giả mẫu cười nói:

- Chính vì thế nên ta mới cao hứng gọi mang chén lớn đến. Các người cũng phải đổi lấy chén lớn mới được.

Bọn Hình phu nhân đành phải đổi lấy chén lớn. Đêm khuya, người mệt, không uống được nhiều rượu, nên ai nấy đều có vẻ uể oải. Thấy Giả mẫu vẫn còn cao hứng, họ đành phải ngồi lại hầu rượu.

Giả mẫu lại sai rải nệm ở trên thềm, bày bánh dẻo, dưa và các thứ quả ra đấy, cho bọn a hoàn, đàn bà ngồi quây lại thưởng trăng.

Giả mẫu thấy trăng đã lên đến đỉnh đầu, càng sáng đẹp đáng yêu, liền nói:

- Trăng đẹp thế này, phải có tiếng sáo mới vui.

Rồi cho gọi bọn nữ nhạc đến. Giả mẫu nói:

- Nhiều thứ nhạc đâm mất vui, chỉ cần bảo người thổi sáo từ xa vẳng lại là đủ.

Người thổi sáo vừa đi, thì có người đàn bà theo hầu đến bên Hình phu nhân nói mấy câu. Giả mẫu hỏi:

- Việc gì đấy?

Người đàn bà thưa:

- Vừa giờ ông Cả đi về, bị vấp phải mấy hòn đá ngã trẹo chân.

Giả mẫu nghe nói, sai hai bà già ra xem, lại bảo Hình phu nhân phải về ngay. Hình phu nhân cáo từ ra về. Giả mẫu lại nói:

- Nhân tiện chị Trân cũng về nhà luôn. Ta cũng đi nghỉ đây.

- Hôm nay cháu không về, nhất định ở đây suốt đêm hầu rượu cụ.

- Không được. Hai vợ chồng trẻ các cháu đêm nay phải về sum họp với nhau, sao lại vì ta mà bỏ lỡ dịp!

Vưu Thị đỏ bừng mặt lên, cười nói:

- Cụ nói thế thì ra chúng cháu chẳng ra gì nữa. Tuy còn trẻ thực, nhưng làm bạn với nhau mười năm nay rồi, cũng đã xấp xỉ bốn mươi tuổi đầu, lại đương có tang, ở đây hầu cụ suốt đêm.

- Nói thế phải đấy. À ra cháu chưa hết tang, ta quên khuấy mất rồi. Khốn nạn, bố chồng cháu mất đã hơn hai năm rồi! Thế ra ta quên mất đấy, đáng phạt ta một chén lớn! Đã thế cháu đừng có đưa họ về nữa, cứ ở đây hầu ta. Bảo vợ cháu Dung tiễn về, rồi nó tiện đường về nhà luôn.

Vưu Thị bảo vợ Giả Dung đưa Hình phu nhân về. Ra đến cửa lớn, ai nấy đều lên xe về nhà.

Mọi người thưởng hoa quế một lúc, rồi lại vào tiệc thay rượu nóng.

Đường nói chuyện phiếm, chợt nghe dưới cây quế bên cạnh tường có tiếng sáo đưa lại réo rắt véo von. Gặp lúc gió mát trăng trong, trời quang mây tạnh, khiến người trút sạch nỗi lo buồn, lặng lặng ngồi yên, cùng nhau thưởng thức. Chừng uống hết hai chén trà, tiếng sáo mới dứt tiếng. Mọi người khen ngợi mãi. Rượu nóng lại rót lên.

Giá mẫu cười hỏi:

- Nghe có hay không?

Mọi người cười thưa:

- Hay quá! Chúng cháu không ngờ lại hay được đến thế. Nhờ cụ nêu ra, khiến chúng cháu được khoan khoái trong lòng.

- Thế cũng chưa hay lắm. Phải chọn một khúc nhạc nào thổi càng thong thả nghe càng hay.

Liền sai rót một chén rượu lớn, đưa cho người thổi sáo uống từ từ, rồi khẽ thổi một bài. Bọn đàn bà vâng lời mang rượu đi, gặp hai bà già đi thăm Giả Xá về thưa:

- Chúng cháu đã xem rồi. Mu bàn chân bên phải sưng một tí. Giờ uống thuốc đã đỡ đau, không quan hệ lắm.

Giả mẫu thở dài:

- Ta cũng hay lo nghĩ quẩn. Đã nói ta ăn ở thiên vị, mà ta lại như thế.

Nhân đem câu chuyện vui của Giả Xá vừa nói lúc nãy kể lại cho Vương phu nhân và Vưu Thị nghe. Vương phu nhân khuyên:

- Bác ấy rượu vào, nói chuyện vui, không để ý đến, khi nào dám nói kháy cụ. Xin cụ đừng nên nghĩ đến.

Uyên Ương mang mũ và áo choàng đến nói:

- Đêm khuya rồi, sợ sương gió lạnh, cụ ngồi một lúc rồi đi nghỉ thôi.

Giả mẫu nói:

- Hôm nay vui thế này, mày lại đến giục ta, không lẽ ta đã say rồi à? Nhất định ngồi đến sáng!

Lại sai rót rượu đến, rồi đội mũ khoác áo vào. Mọi người lại tiếp rượu nói chuyện vui cười. Lúc đó lại vẳng nghe tiếng sáo thổi ở dưới bóng hoa quế, buồn rầu hơn trước, mọi người đều ngồi im lặng. Đêm khuya trăng sáng, tiếng sáo càng réo rắt nỉ non. Giả mẫu tuổi già lại chếnh choáng hơi rượu, lẽ nào nghe thấy lại chẳng xúc động trong lòng, bất giác lệ rơi lã chã. Mọi người đều buồn rầu thê thảm. Một lúc lâu, biết Giả mẫu cũng thương cảm, ai nấy đều quay lại vui cười, tìm lời khuyên giải, lại sai thay rượu và ngừng thổi sáo.

Vưu Thị cười nói:

- Cháu cũng học kể một câu chuyện vui để bà đỡ buồn.

Giả mẫu gượng cười:

- Thế thì hay lắm, cháu hãy kể ngay cho ta nghe.

- Một nhà có bốn đứa con: đứa lớn chỉ có một mắt, đứa thứ hai chỉ có một tai, đứa thứ ba chỉ có một lỗ mũi, đứa thứ tư thì đầy đủ cả, nhưng lại câm.

Thấy Giả mẫu lim dim con mắt, như có vẻ buồn ngủ, Vưu Thị thôi không kể nữa, rồi cùng Vương phu nhân khẽ gọi. Giả mẫu mở mắt cười nói:

- Ta không buồn ngủ đâu, chỉ nhắm mắt để tỉnh táo tinh thần đấy thôi. Các người cứ nói chuyện, ta đương nghe đây.

Vương phu nhân nói:

- Đêm khuya rồi, sương gió xuống, xin cụ về nghỉ thôi. Ngày mai mười sáu lại thưởng nữa, mới không phụ cảnh trăng tươi.

- Chừng bao giờ rồi? Đã đến canh tư chưa?

- Đã sang canh tư. Chị em chúng nó không thức được nữa, đều đi ngủ cả rồi.

Giả mẫu nghe nói, nhìn kỹ một lượt, quả nhiên thấy họ đã về cả chỉ còn một mình Thám Xuân ở đó thôi. Giả mẫu cười nói:

- Thế thì thôi vậy. Các cháu không thức quen. Hơn nữa đứa thì ốm, đứa thì yếu, về cả cũng đỡ bận lòng. Chỉ có cháu Thám là đáng thương, vẫn chờ ở đây. Thôi cháu về đi, chúng ta cũng đều về cả.

Giả mẫu đứng dậy uống một chén trà rồi ngồi lên kiệu trúc nhỏ, hai bà già kiệu về. Mọi người đi theo sau.

Bọn đàn bà ở lại thu dọn mâm bát, thấy thiếu một cái chén trà, đi tìm các nơi không thấy, liền hỏi mọi người:

- Có ai đánh vỡ, vất ở đâu, bảo cho tôi biết, đem giả những mảnh để có chứng cớ, nếu không lại bảo là chúng tôi ăn cắp.

Mọi người đều nói:

- Không ai đánh vỡ cả. Có lẽ người hầu các cô đánh vỡ cũng chưa biết chừng? Bà hỏi họ xem.

Người đàn bà nhớ ngay ra, cười nói:

- Phải đấy, tôi nhớ là lúc nãy cô Thúy Lũ cầm, để tôi đi hỏi cô ấy xem.

Bà ta mới đến đường ngách thì gặp Tử Quyên và Thúy Lũ. Thúy Lũ hỏi:

- Cụ đã về chưa? Có biết cô chúng tôi đi đâu không?

- Tôi đến hỏi chị có để cái chén trà ở đâu, chị lại hỏi đến cô của chị.

- Tôi đi pha trà cho cô tôi uống, lúc quay lại chẳng thấy cô tôi đâu.

- Bà Hai vừa nói là họ đi ngủ cả rồi. Chị đi chơi đâu lại không biết à?

Thúy Lũ và Tử Quyên nói:

- Không có lẽ cô tôi lại lẳng lặng đi ngủ ngay, chắc còn chơi đâu đó. Giờ cụ về rồi, có lẽ các cô theo tiễn cũng chưa biết chừng. Chúng ta hãy đi tìm xem, nếu thấy cô tôi thế nào cũng thấy cái chén. Sáng mai bà hãy đi tìm, việc gì mà vội thế.

- Đã biết đích xác rồi thì chẳng cần phải tìm nữa. Ngày mai tôi sẽ sang xin.

Nói xong người ấy bỏ đi về thu dọn đồ đạc. Tử Quyên và Thúy Lũ thì sang bên Giả mẫu.

Đại Ngọc và Tương Vân vẫn chưa đi ngủ. Thấy trong phủ Giả thưởng trăng, người đông như vậy mà Giả mẫu vẫn phàn nàn là ít, lại nghĩ đến chị em Bảo Thoa về nhà, mẹ con anh em sẽ vui vầy thưởng trăng.

Đại Ngọc bất giác ngắm cảnh chạnh buồn, tự mình đứng tựa lan can rơi lệ. Gần đây thấy Tình Văn bệnh nặng, Bảo Ngọc chẳng để ý đến việc gì, vừa rồi Vương phu nhân mấy lần giục, Bảo Ngọc đã đi ngủ, Thám Xuân gần đây bực vì việc nhà, cũng không thiết gì chơi bời, tuy có Ngênh Xuân, Tích Xuân, nhưng không hợp ý cho lắm. Vì thế Đại Ngọc chỉ còn trơ có một mình Tương Vân là thường hay đến an ủi:

- Chị là người hiểu đời, tại sao chị cứ hay chuốc lấy những điều khổ não vào người? Cảnh ngộ của em cũng như chị, nhưng em không có bụng dạ hẹp hòi. Chị hay ốm luôn sao không biết giữ gìn thân thể. Đáng giận thay chị em cô Bảo hàng ngày chầm bập thân thiết, đã bảo là tiết Trung thu năm nay thế nào cũng phải họp nhau lại thưởng trăng, mở thi xã, nối vần làm thơ. Thế mà cô ta bỏ rơi chúng ta, thưởng trăng một mình, thi xã không mở, thơ cũng chẳng làm, tha hồ cho cha con, chú cháu thỏa thích tung hoành. Chị cũng biết đấy, vua Tống Thái Tổ nói rất hay: “Nhẽ nào lại để người khác ngủ say bên cạnh giường nằm của mình”. Bọn họ không đến, hai chúng ta cứ làm thơ nối vần với nhau, để sau này cho họ xấu hổ một bữa!

Đại Ngọc không nỡ phụ lòng hào hứng của Tương Vân, liền cười nói:

- Cô xem họ làm ồn ào như thế, còn có thi hứng gì nữa!

- Thưởng trăng ở trên núi tuy thích thật, nhưng không bằng thưởng trăng ở gần nước. Chị nên biết trăng dưới sườn núi này đều là ao cả. Trong khe núi có một ngôi nhà gần nước gọi là Ao Tinh quán(1). Thế mới biết khi trước mở cái vườn này có nhiều ý nghĩa. Nơi cao nhất trên núi gọi là Đột Bích, chỗ thấp gần nước gọi là Ao Tinh. Hai chữ “đột” “ao” (lồi lõm) người ta dùng rất ít, bây giờ đặt tên cho ngôi nhà, thực là mới lạ, không chịu rập theo lối cũ. Trong hai chỗ này, trên dưới, sáng tối, cao thấp, non nước, cốt đặt ra để làm chỗ thưởng trăng. Ai thích núi cao trăng nhỏ thì đến chỗ này, ai thích trăng sáng nước trong thì đến chỗ kia. Người ta thường đọc hai chữ này là “oa” “cũng” (cao trũng), kể cũng hơi tục, nên ít dùng. Chỉ có Lục Phóng Ông là dùng chữ “ao” thôi. Tức là câu “Cổ nghiễn vi ao tụ mặc đa”.(2) Thế mà có người chê ông ta là tục, có đáng buồn cười không?

Đại Ngọc nói:

- Chẳng cứ một mình Lục Phóng Ông, người xưa dùng chữ ấy rất nhiều. Như bài “Phú thanh đài” của Giang Yêm; “Kinh thần dị” của Đông Phương Sóc(3) cho đến bài “họa ký” nói về việc ông Trương Tăng Do(4) vẽ chùa Nhất Thặng không kể xiết được. Người đời không biết, nhận lầm là dùng chữ tục đấy thôi. Tôi nói thực với cô: hai chữ này là tôi đặt ra đấy. Năm nọ thử tài Bảo Ngọc, bắt anh ấy phải nghĩ mấy chỗ: có chỗ nghĩ ra, có chỗ phải bỏ, có chỗ chưa nghĩ được. Sau này chỗ nào chưa có tên, chúng tôi đều nghĩ và ghi rõ xuất xứ, đưa cho chị Cả xem. Chị Cả bảo đưa cho cậu tôi. Cậu tôi xem xong rất mừng nói: “Biết thế này bảo chị em chúng nó nghĩ cho cả, chẳng thú hay sao?” Những chữ tôi nghĩ đều lấy cả, không bỏ một chữ nào. Bây giờ chúng ta đến Ao Tinh quán đi.

Hai người cùng xuống dốc núi, đi quanh một vòng thì đến nơi. Trên bờ ao có một hàng rào trúc liền nhau thông ra con đường đi sang Ngẫu Hương tạ, ở đó nhà cửa có ít, vừa thấp vừa hẹp, chỉ có hai bà già canh đêm. Biết mọi người đương thưởng trăng ở Đột Bích, không can gì đến họ, nên họ đưa bánh trái và rượu thưởng ra uống say túy lúy rồi tắt đèn đi ngủ. Đại Ngọc, Tương Vân thấy tắt đèn, đều cười nói:

- Họ đi ngủ cả, thế càng tốt, chúng ta ở ngay dưới mái cỏ này thưởng trăng dưới nước có được không?

Hai người ngồi xuống hai cái ghế tre. Một vầng trăng tỏ trên trời, một bóng trăng long lanh dưới nước, trên dưới đua sáng như đặt mình trong cung thủy tinh nhà Giao Thất vậy. Gió nhẹ lướt qua, sóng biếc lăn tăng gợn trên mặt nước, khiến người ta khoan khoái nhẹ nhàng.

Tương Vân cười nói:

- Giờ được ngồi thuyền uống rượu thì hay quá! Nếu ở nhà tôi, tôi sẽ chơi thuyền ngay.

Đại Ngọc nói:

- Đúng như người xưa thường nói: “Việc mong đủ cả có vui gì!” Cứ ý tôi, thế này cũng được, cần gì phải có thuyền?

- Được đất Lũng, lại mong đất Thục(5) là thường tình của người ta. Các cụ già chả vẫn nói: con nhà nghèo nhìn cái gì của nhà giàu cũng đều lấy làm vừa lòng. Dù có ai nói thế nào, họ cũng chẳng tin. Đến khi bản thân trải qua, họ mới vỡ lẽ. Cũng như hai chúng ta đây, cha mẹ mất cả, dù ở nơi giàu sang sung sướng đến đâu, cũng có nhiều điều không được thỏa lòng.

- Không những chúng ta, cả từ cụ trở xuống đến Bảo Ngọc, Thám Xuân, bất cứ việc lớn nhỏ, có lý hay vô lý, nhưng đã không được vừa lòng, thì cũng cùng một lẽ cả, huống chi tôi với cô lại là người ăn gửi ở nhờ!

Sợ Đại Ngọc lại gợi thêm nỗi thương cảm, Tương Vân vội gạt đi:

- Nhắc đến làm gì nữa. Chúng ta hãy làm thơ liên cú đi.

Đương lúc nói chuyện thì vẳng nghe tiếng sáo réo rắt ở đằng xa. Đại Ngọc cười nói:

- Hôm nay cụ và bà Hai cao hứng quá. Sáo thổi hay lắm, càng giúp thêm thi hứng cho chúng ta! Chúng ta đều thích thơ ngũ ngôn, giờ làm ngũ ngôn đi.

- Lấy vần gì?

- Chúng ta đếm xem hàng lan can từ đầu này đến đầu kia có bao nhiêu song thẳng, đến song thứ mấy sẽ lấy đó đặt vần.

- Thế lại càng thú.

Hai người đứng dậy, đếm từ đầu nọ đến đầu kia, được ba mươi chiếc.

Tương Vân nói:

- Thế là vần “Thập tam nguyên” rồi! Vần này dùng được ít chữ lắm, làm theo Đường luật sợ không gieo được, lại phải gán ghép. Chị phải làm trước một câu đi.

- Cũng để thử xem chúng ta ai hơn ai kém. Nhưng không có bút giấy ở đây.

- Ngày mai sẽ chép lại, có lẽ chúng mình còn đủ trí thông minh để nhớ được.

- Tôi đọc một câu tục ngữ có sẵn:

Đêm rằm giữa tiết thu này(6)

Tương Vân nghĩ một lúc rồi đọc:

Cuộc vui thanh nhã như ngày thượng nguyên.

Đẩu, cơ(7) lập lóe từng trên,

Đại Ngọc cười đọc:

Dưới này khoan nhặt tiếng chen sáo đàn.

Mấy nơi dốc chén rót tràn,

Tương Vân cười nói:

Câu “Mấy nơi dốc chén róc tràn” có ý đấy! Phải đối cho hay mới được. Nghĩ một lúc rồi cười đọc:

Nhà nào chẳng mở cửa vườn nhìn ra.

Nhẹ nhàng từng trận gió đưa,

Đại Ngọc nói:

- Đối hay đấy. Hay hơn câu của tôi. Nhưng câu này lời lẽ thường thôi, phải nói mạnh hơn nữa mới được.

Tương Vân cười nói:

- Thơ nhiều vần hiểm hóc, nên ngay từ đần cũng phải cần phô diễn một chút. Từ hay sẽ để lại ở cuối bài.

Đại Ngọc cười nói:

- Cuối bài không có câu hay, liệu cô có xấu hổ không?

Rồi đọc luôn:

Đêm vừa thanh vắng, cảnh vừa xinh tươi.

Già còn tranh bánh mới vui,

Tương Vân cười nói:

- Câu này không hay, bịa đặt lấy việc tục để làm khó tôi thôi.

Đại Ngọc cười nói:

- Tôi cho là cô chưa từng đọc sách, chữ “ăn bánh” cũng có điển cũ. Cô về đọc “Đường thư”, “Đường chí” đi rồi hãy nói chuyện.

Tương Vân cười nói:

- Cái đó cũng không lấy gì làm khó. Tôi đã có điển đây.

Liền đọc:

Chia dưa có ả nực cười làm sao?

Mùi hoa ngọc quế ngọt ngào.

Đại Ngọc nói:

- Câu của cô mới thực là bịa đặt.

Tương Vân nói:

- Ngày mai chúng ta đem sách ra đối chiếu xem sẽ rõ, bây giờ không nên làm mất thì giờ.

Đại Ngọc cười nói:

- Dù thế, câu dưới cũng không hay. Không nên dùng chữ “ngọc quế” “kim lan “ để cho xong chuyện. Rồi đọc:

Huyên vàng đầy vẻ hồng hào nở nang.

Tiệc bày đuốc rọi sáng choang,

Tương Vân cười nói:

- Hai chữ “Huyên vàng” tiện cho chị quá, không phải dùng sức mấy. Cái vần có sẵn ấy bị chị vớ mất. Nhưng không nên tán tụng hộ nhiều quá, sợ câu dưới chị cũng làm qua chuyện thôi.

Đại Ngọc cười nói:

- Cô không nói chữ “quế ngọc” khi nào tôi lại đối gượng chữ “Huyên vàng”. Hơn nữa phải phô hay cho khéo thì mới đúng là tức cảnh chứ.

Tương Vân đành lại đọc tiếp:

Thẻ gieo chén chạm nhộn nhàng vườn hoa.

Chia ban một lệnh truyền ra,

Đại Ngọc cười nói:

- Câu dưới hay, nhưng hơi khó đối. Nghĩ một lúc rồi đọc:

Đố rồi lại giảng nghe ba lệnh truyền.

Quân bài đỏ ối từng khuyên,

Tương Vân cười nói:

- Chữ “ba lệnh truyền” thú lắm, tục mà thành ra nhã. Nhưng sao câu dưới lại nói đến quân bài? - Rồi đọc:

Thuyền hoa lần lượt trống liên hồi rền.

Bóng trăng lay chuyển sân thềm,

Đại Ngọc cười nói:

- Đối được đấy nhưng câu dưới lại chệch đi mất rồi. Chỉ dùng những chữ gió trăng để cho xong việc thôi à?

Tương Vân nói:

- Vẫn chưa nói đến trăng bao giờ cả. Phải nên điểm xuyết một tí mới không lạc đề.

Đại Ngọc nói:

- Thôi hãy để đấy, ngày mai sẽ châm chước. Liền đọc:

Đất trời trắng xóa, ngút lên một màu.

Thưởng phạt kể chủ khách đâu,

Tương Vân nói:

- Lại còn nói đến họ làm gì nữa? Hãy nói chúng ta đây này.

Liền đọc:

Ngâm thơ chị trước em sau theo hàng.

Nghĩ thơ đứng cạnh lan can,

Đại Ngọc nói:

- Bây giờ có thể nói được về chúng ta đấy.

Liền đọc:

Khi ra tựa cưa ta dàn vần hay.

Rượu vơi tình vẫn còn đầy,

Tương Vân nói:

- Đúng lúc này đây. Liền đọc:

Cuộc vui gần sáng nhạt ngay đó mà.

Tiếng cười chừng đã gần thưa,

Đại Ngọc nói:

- Lúc này lại thấy càng khó thêm!

Liền đọc:

Mà màu sương tuyết còn trơ đây này.

Sương mai phủ đám nấm dày,

Tương Vân nói:

- Câu này ghép vần thế nào được đây? Để cho tôi nghĩ đã.

Liền đứng dậy chắp tay đằng sau nghĩ một lúc, cười nói:

- Được rồi. May mà nghĩ ra được một chữ, nếu không thì thua mất!

Liền đọc:

Chiều hoa dạ hợp cuốn đầy khói sân.

Dòng thu dọi đá nổi gân,

Đại Ngọc nghe xong, đứng dậy khen hay và nói:

- Con ranh con này, quả nhiên để những từ hay về sau. Bây giờ mới nói đến chữ hoa “dạ hợp”. Khen cho mày nghĩ được ra đấy.

Tương Vân nói:

- May sao hôm nọ tôi xem quyển “Lịch triều văn tuyển” thấy có chữ ấy, tôi không biết là cây gì, định để tra xem, chị Bảo Thoa nói: Không cần phải tra cây ấy, bây giờ người ta vẫn gọi là cây “triêu khai dạ hợp” (sớm nở tối cụp lại). Tôi không tin cứ đi tra, quả nhiên là đúng. Xem thế thì chị Bảo Thoa biết rộng lắm.

Đại Ngọc cười nói:

- Chữ “dạ hợp” dùng vào lúc này càng đúng, thế cũng được rồi. Nhưng chữ “Dòng thu” nghĩ hay đấy! Chỉ một câu ấy đủ xóa hết những câu khác. Thế nào tôi cũng phải dốc hết tinh thần để nghĩ một câu đối lại, nhưng chắc không thể nào bằng.

Nghĩ mãi mới đọc được:

Gió thu cuộn lá lên gần chân mây.

Thanh cao sao Vụ đẹp thay,

Tương Vân nói:

- Đối cũng khá đấy, nhưng câu này tứ lại tuột đi mất. May mà là tình ở trong cảnh, chứ không phải chỉ dùng chữ “sao Vụ” để xong chuyện.

Liền đọc:

Thiền thừ thở hút hơi bay khoảng trời.

Thỏ thiêng thuốc đã luyện rồi,

Đại Ngọc không nói gì, gật đầu một lúc rồi lại đọc:

Người nơi hạ giới lên chơi Quảng Hàn.

Bên trời Ngưu nữ chờn vờn,

Tương Vân nhìn trăng rồi đọc:

Bè tiên lên hỏi thăm nàng đế tôn.

Bánh xe khi khuyết khi tròn,

Đại Ngọc nói:

- Câu này đối không sát. Câu dưới mở rộng ra một tí, tức là mạch chạy nhanh thì châm cứu chậm.

Rồi lại đọc:

Đổi thay hối sóc(8) hãy còn trơ trơ.

Đồng hồ giọt đã gần khô,

Tương Vân sắp đọc, thì Đại Ngọc trỏ cho xem cái bóng đen ở giữa ao và nói:

- Cô nhìn xem ở giữa ao, hình như có người đi đến chỗ bóng đen? Hay là ma đấy?

Tương Vân cười nói:

- Khéo ma thật? Tôi không sợ ma đâu, để tôi ném cho nó một cái.

Liền cúi nhặt một hòn đá nhỏ, ném xuống ao. Nghe tõm một tiếng, có một cái vành tròn lớn làm gợn cả bóng trăng, cứ tan tan hợp hợp đến mấy lần. Rồi trong bóng đen soạt một cái, một con hạc trắng bay lên, thẳng tới Ngẫu Hương tạ.

Đại Ngọc cười nói:

- À ra con ma hạc? Mình không nghĩ đến, đâm ra nhát gan.

Tương Vân cười nói:

- Con hạc này hay đấy, nó giúp được thi hứng cho tôi!

Liền đọc:

Bên song phút đã lờ mờ đèn xanh.

Cò rò bóng hạc bên ghềnh,

Đại Ngọc vừa khen vừa giậm chân nói:

- Hỏng rồi! Con hạc giúp thi hứng cho cô thật nhưng câu này không giống như câu “Dòng thu”, tôi đối thế nào cho hay được đây? Chỉ có chữ “hồn” mới đối được chữ “bóng”. Mấy chữ bóng hạc bên ao rất là tự nhiên, như đã đặt sẵn, vừa có cảnh, lại mới đẹp. Thôi tôi đành gác bút vậy.

Tương Vân cũng nói:

- Chúng ta cứ cố nghĩ đi, thế nào cũng ra. Nếu không để đến ngày mai lại làm nối cũng được.

Đại Ngọc chỉ nhìn lên trời, mặc kệ đấy. Một lúc bỗng cười và nói:

- Cô đừng lém mép nữa, tôi đã nghĩ ra được rồi! Nghe đây.

Liền đọc:

Hồn hoa chôn chặt dưới vành trăng trong.

Tương Vân vỗ tay khen:

- Quả nhiên hay thật, không thế thì lại không thể đối được. Chữ “hồn chôn chặt” hay quá! - Rồi lại thở dài nói: - Câu thơ mới lạ thực, nhưng rất suy đồi! Giờ chị đương có bệnh, không nên dùng những lời buồn rầu quái gở như thế.

Đại Ngọc cười nói:

- Không thế thì áp đảo thế nào được cô? Chỉ dụng công ở một câu này thôi.

Chưa dứt lời, thì có một người từ sau núi đá phía ngoài lan can đi ra, cười nói:

- Thơ hay lắm, hay lắm! Nhưng buồn thảm quá, không nên làm tiếp nữa. Nếu cuối bài cứ thế thì không nổi bật được hai câu này, lại thành ra gò ép.

Hai người đang không để ý, giật nẩy mình, nhìn kỹ ra không phải ai lạ, chính là Diệu Ngọc. Hai người lấy làm lạ hỏi:

- Sao cô lại đến đây?

Diệu Ngọc cười nói:

- Thấy các người thưởng trăng, lại nghe tiếng sáo thổi, tiện đường tôi cũng đến đây ngắm cảnh nước trong trăng sáng một chút. Chợt nghe hai cô ngâm thơ thực là thanh nhã khác thường. Vừa rồi trong bài thơ có mấy câu hay thực, nhưng giọng thơ suy đồi, buồn thảm quá. Cái đó cũng quan hệ đến khí số con người, nên tôi đến đây ngăn các cô. Giờ cụ đã về, những người ở trong vườn chắc đã ngủ say rồi, có lẽ a hoàn cũng đang đi tìm các cô đấy. Các cô không sợ lạnh à? Đi về chỗ tôi uống chén trà đã. Trời sắp sáng rồi.

Đại Ngọc cười nói:

- Ai ngờ thì giờ lại nhanh thế!

Ba người cùng đi đến am Lũng Thúy. Ở đó đèn còn lờ mờ, lò hương chưa tắt. Mấy bà già đã ngủ cả, chỉ còn đứa a hoàn nhỏ ngồi rũ đầu ngủ gật ở trên chiếu. Diệu Ngọc gọi nó dậy pha nước, chợt có tiếng gõ cửa, a hoàn nhỏ chạy ra xem, thấy Tử Quyên, Thúy Lũ cùng mấy vú già đến tìm hai chị em Đại Ngọc. Đi vào thấy họ đương uống trà, bọn này cười nói:

- Làm chúng tôi đi tìm khắp cả trong vườn, đến cả nhà dì Tiết. Lúc đi qua đình nhỏ, gặp người canh đêm ở đó đã dậy. Chúng tôi hỏi, họ nói: “Vừa giờ ở dưới giàn ngoài đình có hai người nói chuyện với nhau, sau thêm một người nữa, nghe đâu họ vào trong am”. Vì thế chúng tôi mới biết các cô ở đây.

 Diệu Ngọc sai a hoàn dẫn bọn họ sang bên kia ngồi nghỉ uống nước, tự mình đi lấy bút nghiên giấy mực, bảo hai người đọc bài thơ vừa mới làm lúc nãy, rồi viết cả ra. Đại Ngọc thấy Diệu Ngọc hôm nay cao hứng, liền cười nói:

- Xưa nay không thấy cô cao hứng như thế bao giờ, nên tôi không dám đường đột. Bài thơ này thế nào, mong người chỉ bảo giùm, nếu thấy không hay thì xin đốt ngay, bằng có thể chữa được, xin người chữa cho.

Diệu Ngọc cười nói:

- Tôi không dám bàn nhảm. Nhưng bài này mới có 22 vần. Cứ ý tôi thì những câu hay, hai cô đã làm cả rồi, nếu làm tiếp, sợ cuối bài đuối sức. Tôi muốn làm nối lại sợ hỏng lây cả bài thơ của các cô.

Đại Ngọc không thấy Diệu Ngọc làm thơ bao giờ, nay thấy cô ta cao hứng, liền nói:

- Đúng thế, thơ của chúng tôi dầu không hay, cũng nhờ đó được thơm lây.

Diệu Ngọc nói:

- Giờ kết thúc thế nào cũng phải quay trở lại thần của thơ. Nếu vất bỏ sự thực, chỉ tìm tòi những điều quái lạ, thì một là mất hẳn bản sắc khuê các của chúng ta, hai là không dính dáng gì đến đầu bài.

Đại Ngọc và Tương Vân đều nói: “Phải lắm.”

Diệu Ngọc cầm bút khẽ ngâm, viết một lúc xong, đưa cho hai người và nói:

- Xin các cô đừng cười. Cứ ý tôi thì phải thế này mới xoay lại được tứ thơ. Tuy ở trên có những câu buồn thảm, cũng không quản ngại gì.

Hai người cầm lấy xem, thấy Diệu Ngọc làm tiếp:

Đỉnh vàng nghi ngút huơng nồng,

Long lanh châu ngọc như lồng màu son.

Nghe tiêu gái góa nỉ non,

Ôm chăn nhờ có a hoàn ủ cho.

Màn không, phượng những thẫn thờ,

Bình phong quạnh quẽ, uyên vơ vẩn hồn.

Rêu kia móc đọng, thêm nhờn,

Trúc kia sương nặng càng trơn khó cầm.

Quanh co đi dạo bên đầm,

Lại lên trên bãi âm thầm mà chơi.

Đá như ma quỷ chọc người,

Cây như sói đứng hùm ngồi lạ chưa?

Mặt trời sớm rọi lưng rùa(9)

Rèm thưa kia cũng lờ mờ sương đêm.

Trên rừng ríu rít đàn chim,

Xa xa tiếng vườn hót rền trong hang.

Lối quen nào có bên đường,

Suối quen sao phải hỏi han đến nguồn.

Này chùa Lũng Thúy hồi chuông,

Đạo Hương gà đã gáy dồn xóm kia.

Vui lên buồn mãi làm chi?

Không sầu còn phải nghĩ gì vẩn vơ?

Tình riêng ta chỉ biết ta,

Thú vui sao phải nhỏ to cùng người!

Canh tàn chớ bảo mệt rồi,

Pha trà ta hãy rốn ngồi bàn thơ.

Cuối bài thơ có viết: “Trên đây là bài thơ tức cảnh nối nhau ba mươi lăm vần đêm Trung Thu ở vườn Đại Quan”.

Đại Ngọc, Tương Vân không ngớt khen ngợi:

- Thế mới biết ngày nào chúng ta cũng bỏ chỗ gần đi tìm chỗ xa. Hiện có bậc thi nhân ở đây, mình lại cứ “bàn việc binh trên giấy”.(10)

Diệu Ngọc cười nói:

- Ngày mai hãy sửa lại. Bây giờ trời đã sáng rồi, phải đi nghỉ mới được.

Đại Ngọc, Tương Vân đứng  dậy cáo từ, dẫn bọn a hoàn đi ra. Diệu Ngọc tiễn đến cửa ngoài, chờ họ đi xa rồi, mới trở vào.

Thúy Lũ nói với Tương Vân:

- Bên mợ Cả có người chờ chúng ta sang. Giờ đến đấy ngủ thì hơn.

Tương Vân cười nói:

- Em tiện đường đến bảo họ cứ ngủ đi, tôi sang đấy lại làm phiền người ốm, chi bằng đến quấy rầy cô Lâm vậy.

Nói xong cùng đi về quán Tiêu Tương. Một số người đã ngủ rồi. Đại Ngọc, Tương Vân đi vào, tháo đồ trang sức, cởi áo ngoài ra, rửa mặt xong, lên giường đi ngủ. Tử Quyên buông màn the xuống, đóng cửa cất đèn đi ra.

Tương Vân vì lạ nhà, tuy đã đi nằm, nhưng không ngủ được. Đại Ngọc thì tâm huyết suy nhược, thường mất ngủ, hôm nay lại thức quá giấc, tất nhiên cũng không ngủ được. Hai người cứ trằn trọc ở trên giường mãi.

Đại Ngọc hỏi:

- Sao cô vẫn chưa ngủ?

Tương Vân khẽ cười nói:

- Tôi có bệnh lạ nhà, lại mệt quá, chỉ nằm nghỉ một chút. Chị sao cũng không ngủ được?

Đại Ngọc thở dài:

- Tôi không ngủ được, có phải một hai hôm nay đâu. Chừng một năm nay chỉ ngủ được độ mười đêm thật đẫy giấc thôi.

Tương Vân nói:

- Chả trách được chị ốm là phải!

----------------------

1. Nhà ở giữa hẻm núi có nước trong như thủy tinh.

2. Nghiên cổ hơi sâu chứa mực nhiều.

3. Người đời Vũ Đế nhà Hán, thích nói chuyện khôi hài.

4. Người đời Nam Triều, vẽ khéo, nhất là vẽ truyền thần.

5. Ý vòi được cái nọ lại đòi cái kia.

6. Nguyên văn là ngũ ngôn, vần “Thập tam nguyên”, giữa câu nọ với câu kia đều đối nhau, chúng tôi dịch thoát.

7. Tên hai vì sao.

8. Theo âm lịch: “Hối” là ngày ba mươi hết tháng. “Sóc” là ngày mùng một đầu tháng.

9. Tức cái bia.

10. Nghĩa là chỉ nói suông, không có thực tế.

Hồi thứ bảy mươi bảy

A hoàn đẹp, sớm chết oan vì tội phong lưu;

Con hát xinh, cắt tình duyên vào am Thủy Nguyệt.

Tết Trung thu đã qua, bệnh Phượng Thư đã đỡ hơn trước, có thể ra vào đi lại được, nhưng hàng ngày vẫn phải mời thầy đến xem mạch bốc thuốc, lại cho thuốc viên với thuốc điều kinh dưỡng vinh. Vì vậy phải dùng đến hai lạng nhân sâm tốt nhất, thấy vậy Vương phu nhân cho người đi tìm, mãi mới thấy ở trong cái hộp có mấy chi nhỏ bằng cái trâm cài đầu. Bà ta chê không tốt, sai đi tìm lại, chỉ thấy một gói râu sâm vụn, liền sốt ruột nói:

- Khi không cần thì lại có, đến lúc dùng đến lại không tìm ra. Ngày thường ta vẫn bảo chúng bay sắp cả lại để một chỗ, chúng bay không nghe, bạ đâu bỏ đấy. Chúng bay có biết cái hay của nó đâu. Phải kén bao nhiêu mới mua được, lại bỏ đi hay sao?

Thái Vân nói:

- Chắc hết cả rồi, chỉ còn có thứ này thôi. Lần trước bà Cả bên kia sang lấy, bà cho cả rồi.

- Làm gì có chuyện ấy! Mày tìm kỹ xem.

Thái Vân đành phải đi tìm rồi mang mấy bao đựng các vị thuốc đến, nói:

- Cháu không nhận ra được những thứ này, xin đưa bà xem. Ngoài ra không còn thứ nào nữa.

Vương phu nhân mở ra xem, cũng quên cả vị thuốc không biết là thứ gì, nhưng không có một chi nhân sâm nào, liền sai người đi hỏi Phượng Thư. Phượng Thư đến nói:

- Cũng chỉ có một ít cao sâm, còn sâm lô tư tuy có mấy chi, nhưng cũng không được tốt lắm, mà ngày nào cũng phải sắc với thuốc.

Vương phu nhân nghe nói, đành phải bảo sang bên Hình phu nhân, Hình phu nhân nói:

- Lần trước hết sâm phải sang lấy ở bên này, nhưng cũng dùng hết cả rồi.

Vương phu nhân không biết làm thế nào, đành phải sang hỏi xin Giả mẫu. Giả mẫu sai Uyên Ương lấy ra một bọc sâm lớn trước kia dùng thừa đều xấp xỉ bằng đầu ngón tay, liền cân hai lạng cho Vương phu nhân, Vương phu nhân mang ra, giao cho vợ Chu Thụy gọi đứa hầu nhỏ đưa cho thầy thuốc cả mấy gói lẫn lộn để thầy thuốc xem lại, gói riêng và đánh dấu từng thứ một.

Một lúc vợ Chu Thụy mang vào, nói:

- Mấy thứ này đều gói riêng đánh dấu cả rồi. Gói nhân sâm này tuy tốt thật, nhưng vì để lâu quá. Thứ này không như những thứ khác, dù tốt đấy, để quá một trăm năm cũng thành ra gio mất. Hiện giờ tuy chưa thành gio, nhưng đã mục nát, không còn hiệu nghiệm nữa. Xin bà cất đi, bất cứ lớn nhỏ, nhiều ít, đem đổi lấy thứ mới thì hơn.

Vương phu nhân cúi đầu lặng yên, một lúc mới nói:

- Chả có cách gì, đành đi mua hai lạng về đây vậy!

Rồi không nhìn đến nữa, chỉ sai đem cất đi. Bà ta lại bảo vợ Chu Thụy:

- Chị ra bảo những người ngoài kia chọn thứ tốt đổi lấy hai lạng về đây. Cụ có hỏi, cứ nói là sâm của cụ cho, không được nói nhiều.

Bảo Thoa ngồi đấy cười nói:

- Dì hãy thong thả. Bây giờ ở ngoài không có thứ nào tốt cả. Dù có nguyên cả chi, họ cũng cắt ra làm hai ba đoạn, chắp nối sâm tu khác vào, trộn lẫn để dễ bán, nên không ai nhận ra được tốt hay xấu. Ở hiệu nhà cháu thường giao dịch với bọn lái buôn. Cháu về nói với mẹ cháu bảo anh cháu sai người làm công đi nói với họ để lại cho hai lạng sâm nguyên chi, dù có phải trả đắt mấy lạng bạc nhưng lại được thứ tốt.

Vương phu nhân cười nói:

- Cháu cũng thạo đấy, nhưng phải nhờ cháu đi lấy mới biết rõ được.

Bảo Thoa đi một lúc về trình:

- Cháu sai người đi rồi, đến chiều sẽ biết tin. Sáng mai đem trộn với thuốc cũng chưa muộn.

Vương phu nhân lấy làm vui lòng, thở dài:

- “Cô ả bán dầu lại bôi đầu bằng nước lã”. Xưa nay ở nhà vẫn có, đem cho người ta biết bao nhiêu, bây giờ mình cần đến, lại phải đi chuốc nơi khác.

Bảo Thoa cười thưa:

- Cái ấy tuy đắt tiền thực, nhưng cũng là một  thứ thuốc, nên giúp đỡ người ta mới phải. Chúng ta không như những nhà ti tiện, hễ có cái gì cứ bo bo cất kỹ.

Vương phu nhân gật đầu nói:

- Cháu nói phải đấy.

Bảo Thoa đi rồi. Vương phu nhân thấy nhà không có ai, liền gọi vợ Chu Thụy, hỏi việc tra xét trong vườn hôm nọ có ra manh mối gì không?

Vợ Chu Thụy đã bàn trước với Phượng Thư, nên không giấu giếm gì, có thế nào nói thế. Bà ta giật mình, nhưng lại khó xử, nghĩ bụng: “Tư Kỳ là a hoàn của Nghênh Xuân, là người ở phủ bên kia, chỉ còn cách sai người sang trình Hình phu nhân xem xử trí ra sao”. Vợ Chu Thụy nói:

- Hôm nọ bà Cả bên đã mắng vợ Vương Thiện Bảo hay bới việc và tát mụ ta mấy cái, giờ mụ ấy giả ốm nằm ở nhà không chịu ra ngoài. Hơn nữa đứa có tội lại là cháu, nên phải vờ ốm ít ngày để xí xóa, rồi ra sao sẽ ra. Nếu bây giờ chúng ta sang nói, họ lại đâm ngờ, cho là chúng ta bới chuyện. Chi bằng dẫn Tư Kỳ cùng tang vật sang cho bà Cả bên ấy xem, chẳng qua đánh nó một trận, gả nó đi, rồi tìm một a hoàn khác đến thay, như thế chả đỡ việc hay sao? Bây giờ cứ sang mách không, chắc bà Cả bên ấy từ chối, bảo rằng đã thế thì bà Hai cứ định liệu lấy, việc gì phải sang nói nữa. Như thế lại sinh nhỡ việc. Nếu Tư Kỳ đâm liều tìm cách tự tử, lại chẳng ra sao cả. Mà có cho người coi nó vài ba hôm, lỡ lười ra một tí là sẽ xảy chuyện.

Vương phu nhân nghĩ một lúc, nói:

- Phải đấy. Làm xong việc này đã, rồi hãy liệu cho bọn yêu tinh nhà này. 

Vợ Chu Thụy nghe nói, liền họp mấy người đàn bà lại, trước hết đến buồng Nghênh Xuân trình rõ, Nghênh Xuân nghe nói, rơm rớm nước mắt như có ý không muốn rời Tư Kỳ. Vì việc đêm hôm trước, bọn a hoàn đã kể rõ đầu đuôi, tuy tình thầy trò đã mấy năm không nỡ dứt, nhưng việc quan hệ đến nề nếp gia phong, Nghênh Xuân cũng không làm thế nào được.

Tư Kỳ cũng đến nói với Nghênh Xuân nhờ cứu giúp cho, nhưng vì Nghênh Xuân chậm mồm chậm miệng, tính lại nhu nhược, không thể tự mình quyết định đước. Tư Kỳ thấy thế, biết không tránh khỏi tội, liền quỳ xuống khóc:

- Cô nhẫn tâm quá! Dỗ dành cháu mấy hôm nay, sao bây giờ cô không nói giúp cháu một câu nào?

Vợ Chu Thụy nói:

- Lại định để cô giữ chị ở lại à? Dù cô có giữ lại, chị cũng chẳng còn mặt mũi nào trông thấy người ở trong vườn này nữa. Thôi cứ nghe lời chúng tôi, xếp cái lối ấy lại, lẳng lặng mà đi, đừng cho ai biết, như thế mọi người còn giữ được chút thể diện.

Nghênh Xuân khóc nói:

- Tôi biết chị làm điều không đúng, nếu xin cho chị, tất nhiên tôi cũng bị mang tiếng lây. Chị xem Nhập Họa ở đây đã mấy năm rồi, khi nói đi là đi ngay. Không riêng gì chị, những người đã lớn ở trong vườn này đều phải đi cả. Cứ ý tôi, sau này cũng có lúc chúng ta phải xa cách nhau, chi bằng ngay bây giờ mỗi người mỗi nơi còn hơn.

Vợ Chu Thụy nói:

- Như thế là cô rất hiểu việc. Nay mai còn cho nhiều người về nữa, chị cứ yên tâm.

Tư Kỳ không biết làm thế nào, cứ rơm rớm nước mắt  cúi đầu chào Nghênh Xuân, chào tất cả mọi người. Sau đó lại ghé tai nói với Nghênh Xuân:

- Hễ biết tin cháu bị tội, thế nào cô cũng nghĩ đến tình thầy trò bấy lâu, xin hộ cho cháu.

Nghênh Xuân cũng rơm rớm nước mắt trả lời:

- Chị cứ yên tâm.

Vợ Chu Thụy đưa Tư Kỳ ra, và sai hai bà già mang tất cả đồ đạc của nó đi theo. Đi được mấy bước thấy Tú Quất ở đằng sau chạy đến, vừa gạt nước mắt, vừa đưa cho Tư Kỳ một cái bọc bằng lụa, nói:

- Đây là cô cho chị đây. Tình thầy trò bấy nay, giờ xa cách nhau, cô cho chị bọc này để làm vật kỷ niệm.

Tư Kỳ nhận rồi òa lên khóc. Tú Quất cũng khóc. Vợ Chu Thụy sốt ruột, cứ thúc giục mãi, hai người đành phải chia tay.

Tư Kỳ khóc nói:

- Xin các bà thể tất chút tình, thư lại một lúc để tôi đi chào các chị em, gọi tỏ tình mấy năm nay chúng tôi chơi thân với nhau.

Bọn vợ Chu Thụy đều mỗi người mỗi việc, giờ phải đi làm việc này cũng là sự bất đắc dĩ. Hơn nữa họ vẫn ghét Tư Kỳ hay làm bộ, thì bây giờ hơi đâu lại chịu nghe lời, liền cười nhạt:

- Chị nên đi đi, đừng lôi thôi nữa! Chúng tôi còn có việc cần, ở đây có ai là chị em ruột thịt với chị đâu mà phải đi chào họ. Gặp chị, họ chả cười cho ư? Chị cứ nấn ná mãi, chẳng lẽ lại thôi hay sao. Cứ nghe tôi, chị đi ngay đi!

Chị ta dẫn thẳng Tư Kỳ ra cổng sau, Tư Kỳ không làm sao được và cũng không dám kêu nài nữa, đành phải đi theo.

Bảo Ngọc ở ngoài về, trông thấy một bọn dẫn Tư Kỳ đi, có người mang theo nhiều đồ vật. Bảo Ngọc đoán Tư Kỳ đi chuyến này là không trở về được nữa. Nhân nghe chuyện đêm vừa rồi, và cũng từ đêm đó Tình Văn ốm nặng, hỏi Tình Văn cũng không nói. Giờ thấy Tư Kỳ ra đi, Bảo Ngọc như người mất hồn, liền ngăn lại hỏi:

- Đi đâu thế?

Biết tính Bảo Ngọc xưa nay, lại sợ làm lèo nhèo nhỡ việc, vợ Chu Thụy cười nói:

- Không việc gì đến cậu, cậu về mà đọc sách đi.

Bảo Ngọc cười nói:

- Các chị hãy đứng lại một tí, tôi còn có điều này.

Vợ Chu Thụy nói:

- Bà đã dặn không được chậm một giờ. Cậu lại còn có điều gì? Chúng tôi chỉ biết vâng lời bà thôi, ngoài ra không biết gì cả.

Tư Kỳ thấy Bảo Ngọc, liền níu lại, khóc nói:

- Các bà ấy không tự quyết được. Cậu xin với bà Hai cho!

Bảo Ngọc không cầm lòng được, rơm rớm nước mắt nói:

- Tôi không biết chị đã phạm tội gì to tát thế? Chị Tình Văn cũng vì tức mà phát ốm, giờ chị lại phải đi, thế này thì tôi biết làm sao cho được!

Vợ Chu Thụy cáu, mắng Tư Kỳ:

- Chị không còn là tiểu thư thứ hai nữa đâu, nếu không nghe lời, tôi đánh ngay bây giờ. Đừng tưởng như ngày trước có các cô bênh vực, muốn làm trời cũng được. Càng nói càng cứ ỳ ra không chịu đi. Trông thấy ông trẻ lại cố lôi lôi kéo kéo, như thế thì còn ra nghĩa lý gì nữa!

Mấy người đàn bà kia không cho Tư Kỳ phân trần nữa, lôi ngay đi.

Bảo Ngọc sợ bọn họ về đơm chuyện, giận quá chỉ trợn mắt nhìn. Thấy họ đi xa rồi, mới hậm hực chỉ trỏ nói:

- Lạ thực, lạ thực! Sao mấy người đàn bà này, hễ đi lấy chồng, dính phải hơi đàn ông là đâm ra phũ phàng ngay, so với đàn ông càng đáng chém.

Bà già gác cửa vườn nghe thấy, cũng tức cười, hỏi:

- Cứ như cậu thì lúc con gái ai cũng đều tốt, khi lấy chồng rồi lại hóa ra hỏng cả hay sao?

Bảo Ngọc phát cáu nói:

- Đúng đấy, đúng đấy!

Đương nói chuyện thì có mấy bà già đến bảo:

- Các bà phải cẩn thận, hễ gọi đến túc trực lúc nào là phải có đủ mặt. Chốc nữa bà Hai sẽ thân hành vào vườn tra xét đấy. Đi gọi ngay anh và chị dâu cô Tình Văn ở viện Di Hồng đến chực ở đấy để nhận em gái về.

Rồi họ lại cười nói:

- A di đà phật! Hôm nay trời có mắt, tống cổ con yêu tinh tai ác này đi thì mọi người mới được yên thân.

Bảo Ngọc nghe nói Vương phu nhân đến tra xét, đoán ngay là Tình Văn khó lòng ở yên được, liền chạy như bay, nên không nghe rõ những câu hí hửng của bọn bà già này nữa.

Bảo Ngọc về đến viện Di Hồng, đã thấy một bọn người ở đấy rồi. Vương phu nhân ngồi ở trong nhà, mặt đầy vẻ giận, trông thấy Bảo Ngọc cũng chẳng thèm để ý. Tình Văn đã bốn, năm ngày không đụng một tí nước cháo, giờ bị kéo từ trên giường xuống, đầu bù tóc rối, hai người đàn bà xốc đi. Vương phu nhân dặn:

- Vứt giả nó những quần áo lót, còn thì để lại cho bọn a hoàn ngoan ngoãn mặc. Và gọi tất cả a hoàn ở nhà này ra để ta xem qua một lượt.

Sau ngày Vương phu nhân bực bội về cái chuyện túi, vợ Vương Thiện Bảo nhân dịp ton hót về Tình Văn, rồi đến những người không ưa bọn a hoàn trong vườn, liền nhờ bão bẻ măng, nói chọc thêm vào. Hết thảy bà ta đều ghi lại trong lòng, chỉ vì mấy ngày Tết, hãy tạm dẹp lại, đến nay mới thân chinh vào tra xét ở trong vườn. Chuyện Tình Văn mới chỉ là một, điều cần thiết hơn là có người nói Bảo Ngọc đã lớn, đã biết mùi đời, sợ bị bọn a hoàn xấu ở trong nhà làm hư hỏng chăng. Vì vậy bắt đầu từ Tập Nhân cho đến bọn a hoàn nhỏ sao vặt, bà ta đều xem xét từng người một, rồi hỏi:

- Đứa nào cùng đẻ một ngày với Bảo Ngọc?

Không ai dám trả lời. Bà già trỏ tay thưa:

- Đấy là con Huệ Hương, cũng gọi là con Tư cùng đẻ một ngày với cậu Bảo đấy.

Nhìn kỹ Huệ Hương còn kém Tình Văn xa, nhưng cũng có đôi phần quyến rũ, xem cách đi đứng, vẻ thông minh đều lộ cả ra ngoài, cả từ trang sức cũng lộng lẫy hơn đứa khác, Vương phu nhân cười nhạt, nói:

- Của này cũng là hạng vô liêm sỉ! Mày thường nói vụng, đẻ cùng ngày sẽ là vợ chồng phải không? Mày tưởng ta ở xa, không biết đấy à? Mày phải biết ta không năng đến đây, nhưng tai mắt, lòng dạ ta vẫn ở đây luôn. Có nhẽ nào ta chỉ có một thằng Bảo Ngọc mà lại để mặc cho chúng bay tha hồ cám dỗ làm hư nó?

Huệ Hương thấy Vương phu nhân nhắc đến ngày thường nó tỉ tê chuyện trò với Bảo Ngọc, liền đỏ mặt lên, cúi đầu chảy nước mắt. Vương phu nhân bảo:

- Gọi ngày người nhà nó đến đây, đem về mà gả chồng cho nó. Còn con Phương Quan đâu?

Phương Quan đành phải đến. Vương phu nhân nói:

- Con nhà xướng ca này, tất nhiên càng là con tinh khôn đây! Lần trước cho ra, chúng bay không chịu ra, đã thế thì nên biết thân biết phận mới phải, nhưng mày lại đâm ra tinh ma quấy rối, ton hót Bảo Ngọc, việc gì cũng làm!

Phương Quan cười nói phân trần:

- Cháu có dám dỗ dành cậu ấy đâu.

Vương phu nhân cười nói:

- Mày lại còn già mồm à? Ta hỏi mày: năm trước ta đi đưa đám Thái phi, đứa nào xui Bảo Ngọc cho con Năm nhà mụ Liễu vào hầu. May mà nó chết sớm, nếu không chúng bay sẽ kéo cánh nhau làm hỏng cả người trong vườn này. Ngay mẹ nuôi mày còn lấn áp, huống chi người khác!

Liền quát:

- Gọi mẹ nuôi nó đến nhận về! Để bà ấy đem ra ngoài gả chồng cho nó. Đồ đạc của nó, cho nó hết.

Lại dặn:

- Tất cả những con hát chia cho các cô năm trước, không cho một đứa nào ở trong vườn nữa. Bảo mẹ nuôi chúng nó đến nhận về gả chồng cho chúng.

Một lời truyền ra, các mẹ nuôi đều hí hửng cám ơn, cùng rủ nhau đến cúi đầu trước Vương phu nhân xin nhận về.

Vương phu nhân lại lục soát tất cả những đồ vật của Bảo Ngọc. Hễ thấy cái gì ngờ ngợ, cũng đều sai mang về để ở buồng mình. Rồi nói:

- Thế này mới yên chuyện để cho người ta khỏi đồn đại.

Lại dặn bọn Tập Nhân, Xạ Nguyệt:

- Chúng bay phải cẩn thận! Nếu còn xảy ra việc gì, ta nhất định không tha đâu! Ta cho người đi xem hạn thì chưa nên rời đi, hãy để ở tạm hết năm nay; sang năm dọn về chỗ cũ, ta mới yên tâm.

Nói xong bà ta cũng chẳng uống nước, dẫn mọi người đi nơi khác khám xét.

Bảo Ngọc tưởng Vương phu nhân chỉ sang khám xét qua loa, không có việc gì quan trọng, ngờ đâu lại nổi cơn sấm sét đến thế. Những việc Vương phu nhân kể ra, đều là chuyện ngày thường họ nói riêng với nhau không sai một chữ nào, chắc không thể gỡ lại được. Báo Ngọc bực không sao chết được, nhưng đương lúc Vương phu nhân thịnh nộ nên không dám nói nhiều, đành đi theo đến đình Thấm Phương. Vương phu nhân bảo:

- Thôi đi về đọc sách đi! Giờ hồn đấy, ngày mai ta sẽ hỏi mày.

Bảo Ngọc quay về, vừa đi vừa tính: “Không biết đứa nào lại mách lẻo thế? Việc này không ai biết cả, sao mẹ mình lại nói đúng thế?”

Về đến nhà, thấy Tập Nhân đương ngồi sụt sùi nhỏ lệ. Thấy người hầu hạng nhất bị đuổi đi, lẽ nào chẳng đau lòng. Bảo Ngọc cũng nằm vật xuống giường, khóc òa lên. Biết người khác còn có thể bỏ qua, chứ Tình Văn bị đuổi là một việc to tát, Tập Nhân liền khuyên bảo:

- Cậu khóc cũng chẳng ăn thua gì đâu. Hãy ngồi dậy, tôi nói cho mà nghe: Tình Văn giờ đã khỏi bệnh rồi, nếu chị ấy về nhà thì lại được tĩnh dưỡng mấy hôm. Cậu không rời được chị ấy, thì chờ khi bà nguôi giận, cậu lại sang xin với cụ cho gọi nó về, cũng chẳng lấy gì làm khó. Chẳng qua bà ngẫu nhiên nghe thấy người ngoài nói nhảm, nổi giận thế thôi.

- Tôi vẫn không biết chị Tình Văn đã phạm cái tội tày trời gì?

- Bà chỉ nghĩ chị ấy đẹp quá, thế nào cũng có tính lẳng lơ. Bà biết rõ những cô đẹp như người trong tranh, chắc không bao giờ đứng đắn, nên có ý ghét. Chứ cục mịch như chúng tôi lại hóa hay.

- Thôi, không nói chuyện ấy nữa. Những câu chúng ta nói đùa riêng với nhau, không có người ngoài nào lộ chuyện, tại sao bà cũng biết. Thế mới lạ chứ!

- Cậu thì có kiêng nể cái gì, lúc cao hứng lên, cậu cứ nói bừa, không kể gì có người hay không có người. Có lúc tôi đưa mắt, ra hiệu, bị người ta trông thấy, mà cậu vẫn chẳng biết gì cả.

- Tại sao mọi người có lỗi, bà đều biết cả, chỉ không nói đến chị, chị Xạ Nguyệt và chị Thu Văn?

Tập Nhân nghe vậy, chột dạ, cúi đầu một lúc, không biết trả lời ra sao, rồi cười nói:

- Đúng đấy, về phần chúng tôi cũng có lúc nô đùa, không biết giữ ý tứ, sao bà lại quên? Chắc còn có việc khác, để làm xong rồi sẽ xử đến chúng tôi cũng chưa biết chừng.

- Chị có tiếng là người hiền lành nhất, hai chị kia lại được chị rèn cặp, dạy dỗ thì còn có chỗ nào đáng phạt nữa? Chỉ có cô Phương Quan còn bé mà lại sắc sảo quá, chắc cũng có lúc cậy thế chèn người ta, làm cho họ ghét. Con Tư thì cũng tại tôi làm hại nó. Bắt đầu từ cái ngày tôi cãi nhau với chị, rồi gọi nó đến sai vặt. Người ta thấy tôi đối với nó tử tế, lại cho nó là chực tranh giành địa vị, cũng vì thế nên mới xảy ra việc hôm nay. Chị Tình Văn cũng như các chị đều là người của cụ cho sang đây ở từ khi còn bé, tuy chị ta đẹp hơn người thực, nhưng cũng chẳng cản trở gì. Chỉ có cái là chị ấy tính tình sắc sảo, ăn nói hoạt bát, nhưng cũng không thấy chị ấy có lỗi với một người nào! Đúng như chị nói, chắc là chị ấy đẹp quá, vì cái đẹp mà mang lụy đấy thôi!

Nói xong lại khóc.

Tập Nhân ngẫm nghĩ câu ấy, cho là Bảo Ngọc có ý ngờ mình, nên không tiện khuyên nữa, liền thở dài:

- Chỉ có trời biết thôi! Bây giờ cậu chưa tra ra người nào mách lẻo, cứ khóc mãi cũng vô ích.

Bảo Ngọc cười nhạt:

- Vì tôi nghĩ, chị ấy quen được chiều chuộng từ thuở bé, chưa từng bị hắt hủi bao giờ. Bây giờ khác gì một chậu hoa lan mới nẩy mầm non đã bị quẳng ra chuồng lợn. Người thì đương ốm nặng, trong bụng lại chồng thêm bực tức. Chị ấy không còn bố mẹ thân yêu, chỉ có người anh con cô con cậu là một tên nát rượu, liệu chuyến này có chịu đựng được năm bữa nửa tháng hay không? Liệu mình còn được trông thấy mặt chị ấy nữa không?

Nói xong, Bảo Ngọc càng thấy đau xót, Tập Nhân cười nói:

- Cậu thật đúng như câu: “Quan châu có quyền đốt đuốc, trăm họ không được thắp đèn”. Chúng tôi tình cờ nói nhỏ một câu, cậu đã cho là nói gở, giờ cậu nguyền rủa chị ấy thì được à?

- Không phải tôi phũ miệng rủa người đâu, mùa xuân năm nay đã có triệu chứng rồi đấy.

- Triệu chứng gì?

- Cây hải đường ở dưới thềm đương tươi tốt thế, tự nhiên chết mất một nửa, tôi biết ngay là có điềm gở, quả nhiên ứng ngay vào chị ấy.

- Tôi không muốn nói, nhưng lại không nhịn được. Cậu thực lẩm cẩm như bà già. Câu ấy có đúng là lời nói của người biết chữ như cậu không?

Bảo Ngọc thở dài nói:

- Các chị thì biết gì? Không những là cỏ cây. Tất cả những vật gì có tình có lý ở trên đời cũng như người vậy, gặp được tri kỷ, sẽ rất linh nghiệm. Nếu lấy việc lớn ra làm ví dụ, thì giống như cây cối trước miếu và cỏ thi trước mộ Khổng Tử, cây bách trước đền ông Gia Cát, cây tùng trước mộ ông Nhạc Vũ Mục. Đó là cái khí đường đường chính chính, nghìn năm không mòn. Đời loạn thì nó héo đi, đời thịnh thì nó tươi lên. Trong một nghìn năm cũng có mấy lần héo đi sống lại. Thế không phải là triệu chứng ư? Nếu lấy việc nhỏ ra làm ví dụ thì giống như cây mộc Thược dược ở đình Trầm Hương; cây tương tư ở lầu Đoan Chính của Dương Quý Phi; cỏ trường thanh ở trên mộ Vương Chiêu Quân, không lẽ cũng không có linh nghiệm hay sao? Vì thế cây hải đường này cũng ứng vào người đấy.

Nghe một tràng những câu ngớ ngẩn đáng cười lại đáng buồn, Tập Nhân cười nói:

- Cậu càng nói làm cho tôi bực mình! Chị Tình Văn là hạng người gì mà phải tốn công suy nghĩ, dám đem so sánh với những danh nhân thuở xưa! Còn một lẽ nữa, chị ấy có đẹp cũng không thể vượt lên trên tôi được. Tức như cây hải đường cũng phải ứng vào tôi trước, chưa đến lượt chị ấy. Chắc là tôi sắp chết đây.

Bảo Ngọc nghe xong, vội bịt mồm Tập Nhân lại, nói:

- Một người chưa xong, chị lại đã thế. Thôi, đừng nhắc đến việc ấy nữa. Ba người đã phải đi rồi, lại định đi thêm một người nữa sao?

Tập Nhân nghe nói, trong bụng mừng thầm: “Nếu không nói thế thì không bao giờ xong việc”.

Bảo Ngọc lại nói:

- Tôi còn có một việc muốn bàn với chị, không biết chị có bằng lòng không? Hiện giờ chị ấy còn một ít đồ vật, chỉ giấu người trên chứ không giấu người dưới. Ta nên lẻn mang trả cho chị ấy. Ngày thường chúng ta có dành dụm được ít tiền, chị đưa cho chị ấy mấy quan để dưỡng bệnh. Đó cũng là tình chị em của các chị xưa nay ăn ở tử tế với nhau.

Tập Nhân cười nói:

- Cậu cho tôi là hạng người bủn xỉn không có lương tâm hay sao? Việc này còn phải nhờ cậu nhắc à? Tôi vừa mới nhặt quần áo và đồ dùng của chị ấy, để ở kia kìa. Giờ đương ban ngày ban mặt, nhiều người nhòm ngó, sợ lại sinh chuyện. Chờ đến tối, tôi khẽ bảo già Tống mang đi. Tôi dành dụm được mấy quan tiền, cũng đưa cả cho chị ấy.

Bảo Ngọc nghe nói, gật đầu. Tập Nhân cười nói:

- Lâu nay tôi vẫn nổi tiếng là người hiền lành nhất, lẽ nào lúc này tôi lại không biết chuốc lấy một tý ti tiếng tốt ấy.

Bảo Ngọc nghe xong, vội cười nói vỗ về cô ta. Đến tối quả nhiên Tập Nhân sai già Tống mang quần áo và tiền đi. Bảo Ngọc sắp đặt mọi người đâu vào đấy rồi, một mình lẻn ra cửa ngách sau vườn, nhờ một bà già đưa đến nhà Tình Văn. Bà già nhất định không nghe, cứ nói:

- Sợ có người biết, trình với bà, tôi liệu còn sống được chăng?

Bảo Ngọc cố sống cố chết nằn nì, lại cho ít tiền, bà già mới chịu dẫn đi.

Tình Văn trước đây là người của Lại Đại mua về. Cô ta có người anh con ông cậu tên là Ngô Quý, người ta vẫn gọi là Quý nhi. Lúc ấy Tình Văn mới có mười tuổi chưa để tóc, già Lại thường đem đi theo. Giả mẫu thấy Tình Văn vừa đẹp vừa sắc sảo rất mến. Vì thế già Lại dâng cho Giả mẫu. Sau đưa về hầu Bảo Ngọc, Tình Văn còn bé, không nhớ quê quán cha mẹ ở đâu, chỉ có người anh con ông cậu, chuyên việc nấu nướng và cũng bị lưu lạc nơi đất khách quê người. Tình Văn nói với già Lại, cho người anh vào làm việc nấu bếp. Thấy Tình Văn được đến hầu Giả mẫu, người lại sắc sảo, mồm mép khéo léo, vẫn không quên tình nghĩa trước đây. Già Lại liền cho người anh cô ta vào làm, lại gả một cô hầu cho hắn. Ngờ đâu sau khi lấy nhau, anh chàng chỉ biết hưởng thú vui, quên cả những ngày lưu lạc. Anh ta cứ rượu chè, chẳng nhìn đến vợ con. Cô vợ là người sắc đẹp đa tình, thấy chồng không nhìn đến, không biết gió trăng là gì, chỉ suốt ngày say khướt, nên chị ta thường có những câu than vãn mặt ngọc phôi pha, má hồng quạnh quẽ. Thấy chồng bụng dạ rộng rãi, không chút nghi ky, ghen tưông, chị ta liền giở lối trăng hoa, đĩ thoa, thu phục hầu hết những tay “anh hùng hảo hán” trong phủ Giả. Từ trên chí dưới, có tới quá nửa số người được chị ta thử qua. Vợ chồng này là ai? Tên họ là gì? Đúng là cô “Đa”, vợ chàng “Đa hồ đồ” mà hồi trên Giả Liễn đã từng vời đến. Có họ hàng với hắn, nên Tình Văn về ở chung đấy. Lúc này chàng “Đa hồ đồ” đi vắng, cô “Đa” ăn cơm chiều xong, õng ẹo đi sang hàng xóm tán chuyện, chỉ còn một mình Tình Văn nằm ngủ ở trên chiếc chiếu cói, may hãy còn chăn đệm cũ trải đắp. Bảo Ngọc không biết nên làm thế nào cho phải, chạy đến gần, rơm rớm nước mắt, giơ tay nhè nhẹ kéo Tình Văn, khẽ gọi hai tiếng.

Tình Văn vừa bị cảm gió, lại bị anh chị hắt hủi, đã ốm lại ốm thêm, ho suốt một ngày, mới mơ mơ màng màng chợp mắt. Chợt có người gọi, cô ta cố mở mắt ra, thấy Bảo Ngọc đứng đó. Mừng mừng, sợ sợ, tủi tủi, thương thương, Tình Văn nắm chặt lấy tay Bảo Ngọc, nức nở mãi mới nói:

- Tôi tưởng không được gặp cậu nữa.

Rồi lại ho dồn. Bảo Ngọc cũng nức nở khóc. Tình Văn nói:

- A di đà phật! Cậu đến may quá, rót hộ chén nước chè cho tôi uống. Tôi khát khô cả cổ, không gọi được một mống nào.

Bảo Ngọc nghe nói, gạt nước mắt hỏi:

- Nước chè để ở đâu?

- Ở trên lò kia kìa.

Bảo Ngọc đến xem, có cái ấm đen xì, nhưng không phải để pha chè, Bảo Ngọc đành phải lấy một cái bát ở trên bàn, chưa cầm đến tay đã ngửi thấy tanh tanh mùi mỡ. Bảo Ngọc lấy nước rửa hai lần, rồi rút khăn lụa của mình ra lau, nhưng vẫn còn mùi tanh. Không biết làm thế nào, Bảo Ngọc phải cầm ấm lên rót ra nửa bát, nhìn chỉ thấy sắc hoe hoe đỏ, chẳng giống nước chè tí nào.

Tình Văn ôm gối nói:

- Cậu cho tôi uống ngay một ngụm đã! Chính là nước chè đấy. Ví đâu được với nước chè bên nhà!

Bảo Ngọc uống một ngụm trước, chẳng có mùi mẽ gì, chỉ thấy mặn chát, không chịu được, đành phải đưa cho Tình Văn. Tình Văn như được nước móc ngọt vậy, uống hết một hơi.

Bảo Ngọc nghĩ thầm: Trước đây những trà ngon thế nào, chị ấy vẫn còn chê bai. Bây giờ nhìn quang cảnh này, đúng như người xưa nói:

Khi no cá thịt dửng dưng,

Đói lòng ăn cả cơm sung cháo dền.

Nghĩ vậy nước mắt lại tràn ra, liền hỏi:

- Chị có muốn nói gì không? Nhân lúc vắng người, nói cho tôi biết.

Tình Văn nức nở nói:

- Còn có câu gì đáng nói nữa? Chẳng qua sống được giờ nào hay giờ ấy, được ngày nào hay ngày ấy! Chỉ độ dăm ba ngày nữa là tôi chết thôi. Có một điều chưa được thỏa lòng, tôi tuy đẹp hơn người nhưng không bao giờ ngỏ tình thầm kín, tỏ ý riêng tây để cám dỗ cậu, sao người ta cứ đổ chết cho tôi là con yêu tinh! Tôi không chịu nổi. Giờ tôi đã bị mang tiếng hão, vả chăng cũng không được bao lâu nữa, tôi không phải nói câu này để hả giận cuối cùng, nếu biết trước, tôi đã liệu cách từ lâu. Không ngờ lòng ngay dạ thẳng, cứ cho là mọi người ở chung với nhau không phải giữ gìn gì, nào hay bỗng dưng xẩy ra chuyện, mắc oan không được bày tỏ với ai!

Tình Văn nói xong lại khóc. Bảo Ngọc nắm lấy tay Tình Văn, thấy gầy như que củi, cổ tay vẫn còn đeo mấy cái xuyến bạc, liền khóc:

- Chị hãy tháo ra, khi nào khỏi lại đeo.

Bảo Ngọc tháo mấy chiếc xuyến ra, đặt xuống dưới gối cho Tình Văn, lại hỏi:

- Đáng tiếc cho hai móng tay dài tới hai tấc. Dù có khỏi bệnh cũng kém vẻ đẹp.

Tình Văn gạt nước mắt, với lấy con dao cắt đứt hai móng tay tháp bút, sau lại cho tay vào trong chăn, cởi chiếc áo lót bằng lụa hồng cũ cùng với móng tay đưa cho Bảo Ngọc và nói:

- Cậu hãy cầm lấy. Sau này trông thấy vật này cũng như thấy tôi vậy. Cậu cởi ngay áo của cậu ra cho tôi mặc. Tôi dù có nằm trong quan tài thì cũng như ở viện Di Hồng. Lẽ ra không nên như thế, nhưng trót mang tiếng hão, tôi không còn cách nào.

Bảo Ngọc nghe nói vội cởi chiếc áo ngoài ra đổi và giấu những móng tay của Tình Văn vào trong người, Tình Văn lại khóc:

- Khi về, có ai hỏi, cậu đừng nói dối, cứ bảo là của tôi đấy. Tôi đã trót mang tiếng hão, nên phải làm như vậy.

Chợt chị dâu Tình Văn cười hì hì vén màn đi vào nói:

- Giỏi nhỉ! Hai người trò chuyện với nhau, tôi nghe thấy cả rồi! - Chị ta quay lại nói với Bảo Ngọc: - Cậu là chủ nhà, vào buồng đầy tớ làm gì? Thấy tôi xinh đẹp, cậu định đến đây ghẹo tôi hay sao?

Bảo Ngọc nghe nói, sợ quá, vội cười van xin:

- Chị ơi, xin đừng nói to. Chị ấy lâu nay hầu hạ tôi, giờ tôi lẻn đến đây thăm chị ấy.

Cô “Đa” liền kéo Bảo Ngọc vào nhà trong, cười nói:

- Cậu không muốn tôi kêu thì cũng dễ thôi, cậu chỉ nghe tôi một điều này.

Nói xong, chị ta ngồi ngay lên trên giường, kéo Bảo Ngọc vào trong lòng, hai đùi cặp chặt lấy. Bảo Ngọc xưa nay chưa thấy thế bao giờ, tim đập thình thịch, người thấy rạo rực, cuống quá, mặt đỏ bừng, vừa thẹn vừa nói:

- Chị ơi, đừng đùa thế.

Cô “Đa” lẳng lơ con mắt, cười nói:

- Hừ! Ngày thường, nghe nói cậu vẫn quen sống trong trường trăng gió, sao hôm nay lại nhút nhát thế?

Bảo Ngọc càng đỏ mặt, cười nói:

- Chị buông tay ra, có chuyện gì chúng ta sẽ tử tế nói với nhau, để cho bà già bên ngoài nghe thấy thì còn ra làm sao nữa?

Cô “Đa” cười nói:

- Tôi về đây từ lâu, đã bảo bà già ấy đứng chờ ở ngoài vườn rồi. Tôi hàng ngày ao ước biết nhường nào, bây giờ mới được gặp, nhưng đúng như câu: “Nghe tiếng không bằng gặp mặt”. Tôi trông dáng người cậu đẹp thế này, mà lại là cái xác pháo rỗng ruột, chỉ có cái vẻ thôi, coi chừng nhút nhát e lệ hơn người ta nhiều. Đủ biết miệng người ta nói có khi không đáng tin. Như lúc nãy, tôi cứ tưởng chắc chắn hai người ngày thường thế nào cũng thầm vụng với nhau. Khi tôi đứng ở dưới cửa sổ nghe ngóng một lúc lâu trong nhà chỉ có cậu với cô ấy, tôi chắc rằng sẽ nói đến nhiều chuyện thậm thụt với nhau. Nhưng xem ra, thì hai người thật chưa có gì dan díu cả. Thật là ở đời có nhiều sự oan uổng. Bây giờ tôi rất ăn năn đã ngờ cho cậu. Đã vậy cậu cứ yên tâm, cứ việc đến, tôi không dám to tiếng.

Bảo Ngọc nghe xong mới yên trong dạ, đứng dậy xốc lại áo và van xin:

- Chị ơi. Bây giờ tôi phải về, mong chị chăm sóc chị Tình Văn mấy ngày.

Bảo Ngọc trở ra nói với Tình Văn. Hai người quyến luyến không nỡ rời tay. Tình Văn biết Bảo Ngọc khó dứt ra đi được, liền kéo chăn đắp kín đầu. Bảo Ngọc mới ra đi. Định lần đến cửa nhà Phương Quan, ngại vì trời tối quá. Đi được một lúc, sợ có người tìm, lại xảy ra chuyện, Bảo Ngọc đành phải quay về trong vườn. Đến cửa sau, gặp bọn hầu đương ôm chăn đến. Các bà già đương kiểm soát người, chậm tí nữa là họ sẽ đóng cửa.

Bảo Ngọc đi vào trong vườn, may không ai biết, liền về buồng mình, gặp Tập Nhân, nói đổ sang chơi bên Tiết phu nhân, thế là xong chuyện.

Một lúc dọn giường, Tập Nhân đành phải hỏi: “Hôm nay ngủ thế nào đây?” Bảo Ngọc nói:

- Ngủ thế nào cũng được.

Mấy năm nay Tập Nhân thấy Vương phu nhân đối đãi tử tế với mình, lại càng làm ra bộ đứng đắn. Những khi vắng người, hoặc lúc đêm khuya, chị ta không hay đùa cợt với Bảo Ngọc, so với lúc còn hé, có phần thưa nhạt hơn. Tuy không phải làm việc gì to tát, nhưng những việc vá may, việc lặt vặt như thu phát tiền nong, sắp xếp áo dài, đồ vật cho Bảo Ngọc cùng bọn a hoàn nhỏ, cũng rất bận rộn. Vả lại vốn có chứng thổ huyết, nên lâu nay chị ta không ngủ cùng buồng với Bảo Ngọc. Bảo Ngọc ban đêm hay sợ, khi tỉnh dậy là phải gọi người ngay. Vì Tình Văn tỉnh ngủ, nên mỗi khi Bảo Ngọc uống nước hay sai bảo việc gì là gọi đến cô ta. Vì thế Tình Văn ngủ ngay bên giường ngoài của Bảo Ngọc. Giờ Tình Văn đi rồi, Tập Nhân đành phải mang chăn chiếu của mình ra đó ngủ.

Đêm ấy Bảo Ngọc cứ ngồi ngẩn ngơ, Tập Nhân giục mãi mới chịu đi ngủ. Trong khi ngủ, Tập Nhân vẫn thấy Bảo Ngọc trằn trọc trên gối, thở ngắn, than dài, đến canh ba mới thiu thiu yên gấc. Tập Nhân lơ mơ cũng yên dạ ngủ đi. Độ chừng chưa uống hết một chén nước, thấy Bảo Ngọc gọi “Tình Văn”. Tập Nhân hỏi: “Cậu gọi gì?” Bảo Ngọc muốn uống nước. Tập Nhân pha trà mang đến. Bảo Ngọc thở dài: “Lâu nay tôi quen gọi chị ấy, thành ra quên đi. Nay lại là chị.”

Tập Nhân cười nói:

- Khi chị ấy mới đến, cậu cũng thường nằm mê gọi tôi, về sau cậu mới gọi chị ấy. Dù sao chị Tình Văn đi rồi, nhưng hai chữ “Tình Văn” vẫn còn nhớ mãi.

Nói xong hai người lại đi ngủ, Bảo Ngọc vẫn trằn trọc mãi, đến canh năm mới ngủ được. Bỗng thấy Tình Văn ở ngoài đi vào, hình dáng vẫn như ngày thường, đến gần Bảo Ngọc nói: “Cậu và chị em ở lại cho vui vẻ. Từ nay tôi xin từ biệt!” Nói xong quay người đi ngay. Bảo Ngọc gọi ầm lên, làm Tập Nhân tỉnh dậy. Tập Nhân cứ tưởng là Bảo Ngọc quen tiếng gọi bừa, nhưng thấy Bảo Ngọc khóc và nói: “Tình Văn chết mất rồi”. Tập Nhân cười nói:

- Cậu nói gì thế? Người ta nghe thấy thì còn ra làm sao nữa?

Bảo Ngọc vẫn không nghe, muốn trời sáng ngay để sai người đi hỏi tin.

Khi trời sáng, có a hoàn nhỏ hầu bên Vương phu nhân đến gọi mở cửa ngách, truyền lời Vương phu nhân: “Gọi cậu Bảo Ngọc dậy ngay, rửa mặt thay quần áo. Vì hôm nay có người mời ông đi thưởng cúc. Hôm nọ ông thích thơ của cậu, nên muốn cho các cậu đi theo. Lời bà bảo thế, các người phải giục cậu ấy đi ngay, ông ở nhà trên đương chờ các cậu đến ăn miến đấy. Cậu Hoàn đã đến rồi. Đi ngay đi thôi, và cho người đi gọi ngay cậu Lan, cũng nói với cậu ấy như thế”.

Bà già ở trong nhà nghe câu nào vâng câu ấy, vừa cài khuy áo vừa ra mở cửa. Rồi ba, bốn người nữa cũng vừa cài khuy áo, vừa chia nhau đi các nơi.

Tập Nhân nghe tiếng gõ cửa, biết là có việc, liền sai người đi lấy nước, giục Bảo Ngọc dậy rửa mặt gội đầu và tự mình đi lấy quần áo. Tập Nhân nghĩ rằng Bảo Ngọc theo hầu Giả Chính đi chơi, nên không tiện cho mặc quần áo mới lắm, chỉ chọn quần áo hạng vừa thôi.

Bảo Ngọc không biết làm thế nào, đành phải vội vàng đi đến. Quả nhiên Giả Chính đang ngồi ở đó uống nước, rất đỗi vui vẻ. Bảo Ngọc vào hỏi thăm sức khỏe Giả Chính. Giả Hoàn, Giả Lan cùng chạy lại chào Bảo Ngọc. Giả Chính cho Bảo Ngọc ngồi uống nước, rồi bảo Giả Hoàn và Giả Lan:

- Bảo Ngọc học thì kém hai đứa chúng bay, nhưng có tài làm câu đối và làm thơ. Hôm nay đi chơi, chắc họ sẽ bảo chúng bay làm thơ, Bảo Ngọc liệu cách giúp đỡ hai đứa.

Xưa nay Vương phu nhân chưa từng nghe thấy Giả Chính nói những lời như thế, thực sự là vui mừng bất ngờ. Chờ cha con họ đi rồi, bà ta muốn sang bên Giả mẫu, thì có người mẹ nuôi của Phương Quan đến trình: “Phương Quan từ hôm nhờ ơn bà cho ra ngoài, nó hình như điên, không ăn uống gì cả. Nó lôi kéo cả Ngẫu Quan và Nhụy Quan,  nhất sống nhị chết, chỉ muốn cắt tóc đi tu. Chúng tôi cứ tưởng là bọn trẻ con lúc đầu sống chưa quen, ít ngày rồi sẽ đâu vào đấy. Ngờ đầu chúng nó càng ngày càng làm dữ, đánh mắng cũng không sợ. Chúng tôi không có cách gì, nên đến đây trình bà, hoặc cho chúng nó đi tu hoặc là dạy bảo chúng nó ít bữa rồi đem cho người ta làm con nuôi. Chúng tôi thực là kém phúc”.

Vương phu nhân nói:

- Sao các bà nói nhảm thế! Lẽ nào lại tùy ý chúng nó được. Cửa Phật có dễ dàng vào được đâu? Cứ đánh mỗi đứa một trận xem chúng nó có dám hỗn nữa hay không.

Bấy giờ đang chầu rằm tháng tám, các miếu đều làm lễ, nên các sư cô mang đồ cúng đến biếu. Sư Trí Thông ở Am Thủy Nguyệt và sư Viên Tâm ở am Địa Tạng còn ở lại chưa về. Nghe thấy tin này, họ muốn dỗ dành hai đứa con gái về để sai bảo, liền thưa với Vương phu nhân:

- Phủ ta vốn là nhà từ thiện. Bà lại rủ lòng nhân từ, nên các cô bé mới được như vậy. Tuy nói là “Cửa Phật khó tới” nhưng cũng nên biết là “Phật pháp bình đẳng”. Đức Phật chúng ta chỉ muốn siêu độ cho tất cả chúng sinh, cả từ con gà con chó. Khốn nỗi người ta thường hay u mê không tỉnh. Ai có thiện căn biết tỉnh ngộ, sẽ được thoát kiếp luân hồi, cho nên trong kinh Phật, giống hùm beo rắn rết đắc đạo cũng không phải là ít. Giờ ba cô này không có bố mẹ, lại xa quê hương, đã trải qua nơi phú quý, nhưng vì chịu khổ sở từ lúc bé, không may rơi vào nơi phong trần, chưa biết cuộc đời sau này sẽ ra sao? Nên họ muốn “thoát nơi bể khổ” nhất định xuất gia đi tu, cũng là điều biết nghĩ xa đấy. Bà không nên ngăn cản lòng tốt của họ.

Vương phu nhân vốn là người từ thiện, lúc đầu nghe các bà già nói, cho là bọn Phương Quan hãy còn bé, có điều gì chưa hài lòng, nếu đi tu sợ không chịu nổi cảnh thiền tịch mịch, lại đâm mang tội. Giờ nghe thấy hai mẹ mìn này nói cũng hợp tình hợp lý, vả lại, gần đây trong nhà xảy ra nhiều chuyện, Hình phu nhân lại sai người đến nói, ngày mai đón Nghênh Xuân về ở nhà mấy ngày để cho người ta đến xem mặt. Lại còn có bà mối đến nói việc Thám Xuân. Mọi việc đều chồng chất trong lòng, thì còn để ý gì đến chuyện nhỏ mọn này nữa. Bà ta liền cười trả lời:

- Hai sư cô đã nói như vậy, thì cứ cho mang chúng về làm đồ đệ có được không?

Hai cô niệm phật rồi nói:

- Phúc đức quá! Phúc đức quá! Nếu được thế thì âm công của người rất lớn.

Nói xong họ cúi đầu tạ ơn.

Vương phu nhân nói:

- Đã thế thì các cô đến hỏi chúng xem. Nếu quả thực bụng đi tu, thì chúng phải đến trước mặt ta lạy các cô làm sư phụ.

Ba người mẹ nuôi nghe xong, ra dẫn ba đứa kia vào. Vương phu nhân hỏi đi hỏi lại, ba đứa này đều đã quyết tâm, liền cúi lạy sư cô, lại lạy tạ Vương phu nhân. Vương phu nhân thấy chúng quyết tâm như thế, biết là không thể ép được, đâm ra thương xót, liền sai người đi lấy một ít đồ vật thưởng cho chúng và đưa hai sư cô ít lễ vật. Từ đấy Phương Quan theo Trí Thông về am Thủy Nguyệt, Nhụy Quan và Ngẫu Quan theo Viên Tâm về am Địa Tạng.

Hồi thứ bảy mươi tám

Họa sĩ già ra bài từ Quỷ hoạch;

Công tử ngốc làm văn tế phù dung.

Hai sư cô dẫn bọn Phương Quan đi rồi, Vương phu nhân liền sang bên Giả mẫu. Thấy Giả mẫu đương vui, nhân dịp thưa:

- Bên nhà Bảo Ngọc có con a hoàn là Tình Văn, giờ đã lớn rồi, đã một năm nay nó cứ ốm luôn. Con xem nó bướng bỉnh, lại lười. Hôm nọ nó ốm nằm đến mười mấy ngày, mời thầy thuốc đến xem, họ bảo là bệnh lao, vì thế con đã cho nó về rồi. Sau này có khỏi cũng không nên cho vào, để nó ở nhà lấy chồng là hơn. Còn mấy đứa con gái học hát, con cũng cho nó về cả. Một là chúng nó đều biết diễn tuồng, quen miệng ăn nói bậy bạ, không biết cân nhắc, lỡ các cháu gái nghe thấy coi sao tiện? Hai là chúng nó đã biết hát xướng, nay cho về cũng là phải. Hơn nữa bọn a hoàn cũng nhiều, khi nào không đủ sai, sẽ chọn thêm mấy đứa khác, thì cũng thế thôi.

Giả mẫu gật đầu nói:

- Thế là phải. Ta cũng nghĩ như vậy. Nhưng xem ra con Tình Văn rất ngoan, khâu vá nói năng không ai bằng. Sau này vẫn có thể cho nó hầu Bảo Ngọc được. Ai ngờ lại thay đổi như thế.

Vương phu nhân cười nói:

- Cụ xưa nay chọn người không nhầm, nhưng vì nó vô phúc, nên mới mắc bệnh ấy. Tục ngữ có câu: “con gái lớn có nhiều sự biến đổi”. Vả chăng đã là người có tài, thì không khỏi có sự sai trái. Điều này chắc cụ đã hiểu nhiều rồi. Ba năm trước con đã lưu tâm đến việc ấy, trước hết chỉ chấm riêng một mình nó. Nhưng con để ý xem xét thì cái gì nó cũng hơn người, chỉ phải cái tính không được chín chắn thôi. Nói về cách hiểu biết đại thể thì không ai bằng Tập Nhân. Tuy nói vợ cả chuộng người hiền, vợ lẽ chọn người đẹp, nhưng cũng phải là người tính tình hòa thuận, cử chỉ đứng đắn mới tốt. Dáng dấp Tập Nhân tuy kém Tình Văn, nhưng lấy làm vợ lẽ thì nó cũng vào hạng nhất nhì đấy. Nó lại ăn ở đứng đắn, tính nết thực thà, mấy năm nay chưa có điều gì chiều lòng Bảo Ngọc làm điều sai trái. Khi Bảo Ngọc có làm điều gì bậy bạ, nó chỉ một niềm can ngăn. Vì thế đã hai năm nay con chọn nó, thấy rất đúng. Con đã ngấm ngầm rút tiền lương a hoàn của nó, lấy hai lạng bạc lương tháng của con phát cho nó, cốt để nó hiểu ngầm, càng hầu hạ Bảo Ngọc cẩn thận hơn. Sở dĩ con chưa nói ra là vì Bảo Ngọc còn nhỏ, nhà con biết ra lại bảo làm lỡ việc học hành của nó. Hơn nữa đã là người hầu rồi, tất nhiên không dám khuyên ngăn nữa. Bảo Ngọc sẽ lại tha hồ phóng túng. Vì thế đến bây giờ con mới trình với cụ.

Giả mẫu cười nói:

- Thế à! Như vậy càng tốt. Tập Nhân từ bé ít nói, ta cứ bảo nó là cái bầu không miệng. Chị đã biết rõ nó thì nhầm thế nào được. Chị không nhắc đến chuyện chọn nó cho Bảo Ngọc thì càng hay. Hơn nữa mọi người cũng không cần phải nhắc đến nữa, chỉ biết ở trong bụng là được. Ta biết Bảo Ngọc sau này nó không chịu nghe lời vợ khuyên đâu. Ta không hiểu sao và cũng chưa thấy đứa trẻ con nào như thế cả. Đối với người khác thì nó bướng bỉnh đấy, nhưng riêng đối với bọn a hoàn, lại rất tử tế. Khó thấy có ai được như nó. Vì vậy ta sinh nghi, thường để ý xem xét, thấy nó cứ đùa với bọn a hoàn, chắc là người lớn thì tính tình cũng lớn, đã biết chuyện trai gái, nên mới gần gũi bọn chúng. Nhưng dò xét kỹ, lại hóa không phải. Thế mới lạ chứ? Có lẽ nó là một con a hoàn đầu thai lầm cũng nên.

Mọi người nghe nói cười ầm lên.

Vương phu nhân lại trình việc sáng ngày Giả Chính nào là khen ngợi Bảo Ngọc, nào là dắt chúng đi chơi. Giả mẫu lại càng vui thêm.

Một lúc sau Nghênh Xuân ăn mặc chỉnh tề đến cáo từ xin về, Phượng Thư cũng đến thăm buổi sớm và chực hầu bữa cơm sáng. Mọi người lại cười nói với nhau một lúc. Đến trưa Giả mẫu đi nghỉ. Vương phu nhân hỏi Phượng Thư đã làm thuốc viên chưa. Phượng Thư nói:

- Chưa. Giờ con đương uống thuốc chén. Xin mẹ cứ yên tâm, con đã đỡ nhiều rồi.

Vương phu nhân thấy Phượng Thư đã khỏe, cũng tin là thực, rồi kể lại việc đuổi bọn Tình Văn và nói:

- Con Bảo sao tự nhiên lại về nhà? Các chị đều không biết à? Hôm trước tiện đường ta đi tra xét một lượt, xem ra vú nuôi mới của cháu Lan lẳng lơ quá, ta không thích. Ta đã bảo chị Cả, hay dở gì cũng bảo nó bước đi. Nhân tiện ta hỏi chị ấy: “Con Bảo về nhà sao các chị lại không biết?” Chị ấy nói là nó về xem dì Tiết đã khỏi bệnh chưa? Độ vài ba hôm nó sẽ lại sang. Nhưng dì ấy có bệnh gì đâu, chẳng qua chỉ ho và đau lưng thì bao giờ mà dì ấy chả thế. Tất là có duyên cớ gì, hay có người nào làm mếch lòng nó? Con bé ấy vốn hay giữ ý, chỗ bà con với nhau, lỡ có điều gì làm nó mếch lòng lại không hay.

- Ai lại tự dưng vô cớ làm cô ây mếch lòng.

- Hay là cái thằng ngốc Bảo Ngọc nói không biết nghĩ, không biết kiêng kỵ; lúc cao hứng lên thuận miệng nói bừa, cũng chưa biết chừng.

- Đó là mẹ quá lo đấy thôi. Nếu bảo chú ấy ra ngoài nói năng và xử sự cho thật đứng đắn thì không khác gì thằng ngốc, nhưng khi ở nhà gần các chị em đến cả bọn a hoàn lớn nhỏ thì chú ấy lại đều nhân nhượng, chỉ sợ mếch lòng người ta, như thế còn ai giận được chú ấy. Con ngờ cô Bảo về lần này là vì việc khám xét bọn a hoàn hôm nọ. Cô ấy cho là ta nghi ngờ những người trong vườn. Cô ấy là chỗ bà con, cũng có các bà già a hoàn ở trong nhà, nhưng ta lại không đến khám xét. Cô ấy sợ ta có nghi ngờ gì chăng, vì thế áy náy trong lòng, tự ý tránh đi. Tránh sự hiềm nghi như thế cũng là phải.

Vương phu nhân nghe nói cho là đúng, cúi đầu nghĩ một lúc rồi sai người gọi Bảo Thoa đến nói rõ việc hôm trước để giải mối nghi ngờ, lại bảo Bảo Thoa dọn vào ở chỗ cũ. Bảo Thoa cười nói:

- Cháu muốn về nhà đã lâu, nhưng vì bên nhà dì có nhiều việc lớn, nên không tiện nói. Hôm nọ mẹ cháu lại ốm, trong nhà có hai người đàn bà hầu đáng tin cậy cũng ốm nốt. Nhân dịp đó, cháu mới xin về nhà. Hôm nay dì đã biết, cháu xin trình rõ. Bây giờ cháu xin cáo từ dì để dọn đồ đạc về.

Vương phu nhân và Phượng Thư cười nói:

- Cô câu nệ quá, lẽ ra nên dọn về đây ở là phải, đừng vì cái việc tầm thường ấy làm bà con phải xa nhau.

Bảo Thoa cười nói:

- Dì và chị nói thế nặng lời quá, cháu có phải vì việc ấy mà dọn về đâu. Gần đây mẹ cháu tinh thần kém trước nhiều, đêm hôm không có ai là người đáng tin cậy, chỉ một mình cháu. Anh cháu lại sắp lấy vợ, nào việc may vá, nào đồ dùng trong nhà, chưa sắm sửa đủ, nên cháu phải về lo liệu giúp mẹ cháu. Dì và chị chắc cũng biết đấy. Cháu không dám nói dối đâu. Hơn nữa từ ngày cháu vào ở trong vườn, cửa ngách về phía đông nam phải mở để đi lại, thành ra những người ra vào, tiện đường cũng qua đấy. Thế mà không có người xét hỏi, nhỡ xảy ra việc gì, chả mang tiếng cả hai bên  Cháu nghĩ việc vào ngủ ở trong vườn không cần thiết lắm. Vì mấy năm trước cháu còn bé, trong nhà không có việc gì, nên vào ở trong đó, cùng chị em họp mặt vui đùa, khâu vá, hơn là một mình ngồi buồn rũ ở ngoài. Bây giờ chúng cháu đều lớn cả rồi. Mấy năm nay dì ở bên này gặp nhiều việc không được vừa lòng. Thế mà cứ ở mãi trong vườn, lỡ ra cháu trông nom không xuể, sợ lại sinh chuyện. Chỉ có bớt người đi sẽ đỡ phải bận tâm. Vì thế hôm nay không những cháu nhất định xin về nhà mà còn muốn khuyên dì: Từ nay việc gì đáng bớt thì nên bớt chứ đừng ngại là mất thể thống nhà đại gia. Cứ ý cháu, những khoản tiêu phí ở trong vườn này, cái gì bỏ được thì bỏ, không thể bì như mấy năm trước đây. Dì đã biết nhà cháu đấy. Chẳng nhẽ nhà cháu ngày trước cũng tồi tàn như thế này hay sao?

Phượng Thư nghe vậy thưa với Vương phu nhân:

- Đã vậy ta cũng không nên ép cô ấy.

Vương phu nhân gật đầu nói:

- Dì không biết nói thế nào nữa, cứ tùy ý cháu đấy thôi.

Đương nói chuyện thì Bảo Ngọc về nói:

- Cha chưa tan tiệc, sợ trời tối nên chúng con về trước.

Vương phu nhân vội hỏi:

- Hôm nay con có khỏi bị bẽ mặt không?

- Không những con không bẽ mặt, lại còn được thưởng nhiều thứ nữa.

Sau đó bọn bà già nhận được các thứ của lũ hầu nhỏ ở cửa thứ hai đem vào. Vương phu nhân giở ra xem, thấy có ba cái quạt, ba chuỗi hạt, ba cái vòng ngọc. Bảo Ngọc nói:

- Cái này của quan hàn lâm họ Mai cho, cái kia là của quan thị lang họ Dương cho, cái này là của quan viên ngoại họ Lý cho. Mỗi người cho một thứ.

Nói xong lại lấy ra một ông Phật nhỏ bằng gỗ bạch đàn đeo trong người để giữ mình và nói:

- Đây là của vị Khánh Quốc công cho riêng con.

Vương phu nhân lại hỏi tiệc có những ai, làm thơ từ gì? Rồi bà ta nhận phần của Bảo Ngọc, sai người mang đi. Lại dẫn Bảo Ngọc, Giả Hoàn và Giả Lan đến trình Giả mẫu. Giả mẫu xem xong, vui mừng khôn xiết, hỏi thêm mấy câu. Bảo Ngọc bụng vẫn nghĩ đến Tình Văn, trả lời xong liền thưa:

- Cháu cưỡi ngựa bị xóc, đau cả xương.

Giả mẫu nói:

- Thôi cháu về nhà thay quần rồi dạo chơi một lúc thì khỏi, nhưng không được ngủ.

Bảo Ngọc liền đi về trong vườn.

Xạ Nguyệt, Thu Văn đã đem hai a hoàn đến chờ sắn đấy. Thấy Bảo Ngọc xin phép Giả mẫu về, Thu Văn nhận ngay lấy bút mực và các thứ rồi theo Bảo Ngọc về trong vườn. Bảo Ngọc nói luôn miệng: “Nóng quá!” Vừa đi vừa tháo mũ và mở dây lưng, cởi bộ quần áo ngoài ra. Xạ Nguyệt đỡ lấy. Bảo Ngọc chỉ mặc cái áo lót bằng lụa màu hoa tùng, bên dưới hở ra cái quần màu đỏ sẫm. Thu Văn thấy cái quần đó là của Tình Văn khâu lúc trước, liền thở dài:

- Thực là của còn người mất.

Xạ Nguyệt kéo Thu Vãn một cái, cười nói:

- Cái quần màu này pha với áo màu hoa tùng và dây màu thạch thanh, lại càng nổi bật cái đầu xanh và bộ mặt trắng nõn.

Bảo Ngọc đi trước, vờ như không nghe thấy, lại đi mấy bước nữa rồi đứng lại nói:

- Tôi muôn đi đằng này một tí có được không?

Xạ Nguyệt nói:

- Ban ngày ban mặt thế này thì còn sợ gì? Chẳng nhẽ sợ cậu lạc lối hay sao?

Rồi sai a hoàn nhỏ đi theo và nói:

- Chúng tôi đi cất những cái này rồi sẽ đến.

Bảo Ngọc nói:

- Chị ơi, chờ tôi một tí hãy đi.

Xạ Nguyệt nói:

- Chúng tôi đi, rồi sẽ đến ngay. Tay cầm những thứ này, như là đám rước ấy, người thì bưng đồ văn phòng tứ bảo, người bưng mũ áo, giày, thắt lưng, trông chẳng ra làm sao nữa.

Bảo Ngọc nghe nói đúng với ý mình, liền để cho hai người đi về, Bảo Ngọc dẫn hai a hoàn nhỏ đi đến sau hòn đá chân núi, khẽ hỏi chúng:

- Từ lúc ta đi vắng, chị Tập Nhân có sai người đến thăm chị Tình Văn không?

Một đứa trả lời:

- Đã sai già Tống đi thăm rồi.

- Già Tống đi về nói thế nào?

- Già ấy nói: chị Tình Văn bạnh cổ ra, kêu suốt đêm, sáng sớm hôm nay mắt nhắm nghiền, miệng cắn chặt, không biết gì cả, chỉ còn thở thoi thóp thôi.

- Suốt đêm chị ấy kêu ai?

- Chị ấy cứ gọi mẹ.

- Còn gọi ai nữa không?

- Không gọi ai nữa.

- Mày u mê rồi, chắc là chưa nghe rõ đấy.

Một a hoàn khác đứng cạnh, có vẻ láu lỉnh, thấy Bảo Ngọc nói thế, liền chạy lại thưa:

- Nó u mê thật đấy. Cháu lên đến tận nơi, nhìn kỹ tận mặt, nghe rõ từng câu chị ấy nói.

- Mày đến tận nơi làm gì?

- Cháu nghĩ chị Tình Văn xưa nay đối đãi với chúng cháu rất tử tế, hơn hẳn mọi người. Giờ chị ấy bị đuổi oan, chúng cháu không có cách gì cứu giúp, nên đành đến tận nơi thăm nom, để khỏi phụ cái lòng ngày thường chị ấy thương yêu chúng cháu. Dù có ai biết về trình, bà đánh chúng cháu một trận, cũng xin cam tâm. Vì thế cháu làm liều, lẻn đến thăm chị ấy một tí. Chị ấy vốn là người thông minh, lúc sắp chết vẫn không có gì thay đổi. Thấy cháu đến, chị ấy mở bừng mắt ra, kéo tay cháu lại hỏi: “Cậu Bảo Ngọc đi đâu?” Cháu kể chuyện cho chị ấy nghe. Chị ấy thở dài một cái rồi nói: “Thôi không gặp nhau nữa rồi!” Cháu hỏi: “Sao chị không chờ cậu ấy đến để được gặp mặt một lần nữa?” Chị ấy cười nói: “Các em không biết rõ, chị không phải chết đâu. Nay trên trời đương thiếu một vị thần hoa, đức Ngọc Hoàng gọi chị lên trông nom các thứ hoa đấy. Đến giờ mùi hai khắc chị sẽ lên nhận chức. Cậu Bảo thì giờ mùi ba khắc mới về đến nhà. Thế là chỉ chậm có một khắc mà hai người không được gặp nhau. Người đời đến lúc tận số, Diêm Vương định bắt đi, trước hết cho quỷ sứ đến bắt lấy linh hồn. Nếu muốn chậm lại một giờ nửa khắc, thì cứ đốt giấy vàng hoặc cúng cháo. Bọn quỷ sứ mải đến cướp tiền, thì người chết có thể nấn ná ở lại được một chút. Nay chị được các vị tiên trên trời xuống đón, thì chậm thế nào được?” Cháu nghe nói thế, không tin mấy. Nhưng khi về nhà để ý nhìn đồng hồ, quả nhiên đúng giờ mùi hai khắc chị ấy tắt thở, và đúng ba khắc mới có người đến bảo chúng cháu là cậu đã về.

- Mày không biết chữ, nên không hiểu, chứ chuyện ấy có thực đấy. Không những mỗi thứ hoa có một vị thần, lại còn có một vị thần coi cả các thứ hoa nữa. Nhưng không biết chị Tình Văn làm vị thần coi cả các thứ hoa hay chỉ coi một thứ?

A hoàn nghe xong không bịa ra ngay được. Bấy giờ vào khoảng tháng tám, hoa phù dung giữa ao trong vườn đương nở rộ. Thấy cảnh nảy ngay ý nghĩ, nó liền trả lời:

- Cháu có hỏi: “Chị sẽ làm vị thần coi hoa gì? Nói cho chúng em biết, để sau này chúng em còn nhớ mà cúng”. Chị ấy nói: “Em chỉ nói cho một mình cậu Bảo Ngọc biết thôi, ngoài cậu ấy ra, không được tiết lộ thiên cơ!” Rồi chị ấy bảo cháu là vị thần chuyên coi hoa phù dung.

Bảo Ngọc thấy thế, không những không lấy làm lạ, lại còn đổi buồn làm vui, quay lại ngắm nghía hoa phù dung, cười nói:

- Hoa này phải có một người như thế trông nom mới đáng. Ta đã đoán trước, con người như thế, tất phải có phen làm nên sự nghiệp. Chị ấy đã vượt qua bể khổ, nhưng từ nay không được trông thấy nhau, lẽ nào ta không chạnh niềm thương cảm.

Bảo Ngọc nghĩ bụng: “Lúc chết không được gặp mặt, bây giờ ta phải đến vái trước linh cữu, để tỏ cái tình năm, sáu năm gần gũi nhau”.

Nghĩ xong, liền về nhà, thay quần áo và nói là đến thăm Đại Ngọc. Rồi một mình ra khỏi vườn, đến chỗ lần trước đã tới thăm, tưởng là linh cữu còn để ở đấy. Ngờ đâu hai vợ chồng người anh ngoại thấy Tình Văn tắt thở, liền đi vào trình, mong được mấy lạng bạc tiền lệ mai táng. Vương phu nhân nghe thấy thế thưởng cho mười lạng bạc, bảo:

- Phải mang ra ngoài hỏa táng ngay. Con gái mà bị bệnh lao, nhất thiết không thể để lâu được!

Nghe vậy vợ chồng nhà kia một mặt nhận tiền, một mặt giục người khâm liệm, khiêng ngay ra cái nhà hỏa táng ở ngoại thành. Những quần áo trâm vòng còn lại ước độ ba, bốn trăm lạng vàng, thì vợ chồng hắn vớ hết, để làm kế sinh nhai. Sau đó họ khóa cửa lại, cùng đi đưa ma.

Bảo Ngọc đến nơi; chẳng thấy một ai, dừng lại hồi lâu, không biết làm thế nào, đành phải quay về trong vườn. Buồn quá, tiện đường đến thăm Đại Ngọc, cũng không gặp, hỏi đi đâu, bọn a hoàn nói: “Cô ấy sang bên cô Bảo rồi”. Bảo Ngọc lại đến viện Hành Vu, thấy cảnh vắng người không, đồ đạc đã khuân đi cả, còn trơ chiếc nhà trống trải. Bảo Ngọc giật nẩy mình. Nhớ lại hôm trước, nghe đâu Bảo Thoa định dọn đi, vì hai hôm nay bận học, nên quên khuấy mất. Bây giờ mới biết, Bảo Ngọc đứng đờ người ra một lúc, lại nghĩ: “Chi bằng cứ gần gũi với Tập Nhân, chơi thân với Đại Ngọc, có lẽ trong mấy người ấy mới là sống chết có nhau”.Bảo Ngọc lại quanh đến quán Tiêu Tương, nhưng Đại Ngọc vẫn chưa về. Đương lúc không biết đi đâu, thì thấy a hoàn bên Vương phu nhân đến tìm và nói:

- Ông đã về rồi, đương tìm cậu đấy. Chắc lại có đầu bài hay. Cậu về ngay đi, về ngay đi!

Bảo Ngọc nghe nói, đành phải theo về. Đến buồng Vương phu nhân thì Gả Chính đã đi rồi. Vương phu nhân sai người đưa Bảo Ngọc đến thư phòng.

Giả Chính đương cùng bọn môn khách bàn chuyện thắng cảnh chơi thu. Ông ta lại nói:

- Lúc sắp tan, chợt kể lại một việc, thực là chuyện hay nghìn xưa, đủ cả tám chữ: “Phong lưu hào nhã, trung nghĩa cảm khái”. Chính là một đầu đề rất hay. Mọi người định làm một bài viếng.

Các môn khách nghe nói, liền hỏi:

- Xin cho biết việc gì hay thế?

- Ngày trước có một vị Vương được phong tước là Hằng vương, bổ ra làm tổng trấn châu Thanh; Hằng vương rất thích gái đẹp và khi rỗi việc quan, lại thích tập võ, nên tuyển nhiều con gái đẹp, ngày nào cũng bắt họ phải luyện tập đánh trận. Trong bọn này có một người, họ Lâm, đứng thứ tư, nhan sắc đã đẹp, lại tinh nghề võ, ai cũng gọi là cô Lâm. Hằng vương rất yêu, cử lên trông coi chị em, gọi là Quỷ Hoạch tướng quân.(1)

- Hay thực! Lạ thực! Thêm hai chữ “tướng quân” ở dưới chữ “Quỷ Hoạch” càng thêm vẻ phong lưu yểu điệu, thực là câu văn hay nhất đời! Chắc Hằng vương cũng là một nhân vật phong lưu nhất xưa nay.

- Đúng thế. Nhưng lại có một việc đáng lạ và đáng than tiếc nữa.

- Không biết sau cùng lại còn có việc gì lạ nữa?

- Ngờ đâu năm sau lại có tàn quân của “Hoàng cân”(2) và “Xích mi”(3) họp lại, đánh phá khắp vùng Sơn Tả. Hằng vương cho là bọn giặc cỏ, không cần phải huy động đại quân, chỉ mang ít kỵ binh đi đánh dẹp. Không ngờ bọn giặc quỷ quyệt, Hằng vương đánh hai lần không được, lại bị chúng giết mất. Bấy giờ các quan văn võ trong thành  Thanh Châu đều bảo nhau: “Nhà vua còn đánh không nổi, thì chúng ta làm gì được”. Họ định đem dâng thành. Cô tư Lâm nghe thấy tin dữ ấy, liền họp các nữ tướng lại, ra lệnh: “Chúng ta đều chịu ơn đức vua, đội trời đạp đất, chưa báo đền được muôn một. Nay vua vì nước bỏ mình, ý ta muốn chết theo. Chị em ai muốn theo thì đi với ta, ai không theo cứ việc về nhà”. Các nữ tướng nghe vậy liền nói: “Xin đi theo cả”. Rồi ngay đêm hôm đó cô Lâm dẫn quân ra ngoài thành, đến thẳng trại giặc. Bọn giặc không đề phòng, mấy tên tướng đều bị giết chết. Về sau, chúng thấy chỉ có mấy người con gái, biết là không làm nên việc gì, liền quay đao thúc quân trở lại, cố sức đánh một trận, giết bọn cô Lâm không sót một người nào, thành ra chính chúng đã làm trọn bề trung nghĩa của cô Lâm. Tin này báo về kinh đô, hoàng đế và trăm quan ai cũng than tiếc. Chắc trong triều thế nào cũng phái người ra dẹp giặc. Khi quân nhà vua kéo đến, thế nào giặc cũng bị tan tành. Việc này không cần phải bàn kỹ nữa. Chỉ nói riêng về cô Lâm. Các ông nghĩ xem có đáng khen hay không?

Bọn gia khách đều thở dài nói:

- Thực đáng khen, đáng lạ. Quả là một đầu bài rất hay. Mọi người nên làm một bài viếng mới phải.

Nói xong, đã có người lấy nghiên bút ra. Theo lời Giả Chính kể lại, thay đổi mấy chữ, thành một bài tựa ngắn đưa cho Giả Chính xem. Giả Chính nói:

- Chẳng qua cũng thế thôi. Họ cũng đã có bài tựa sẵn rồi. Hôm nọ có ân chỉ: truyền xét lại các hạng người từ trước đến giờ đáng được khen thưởng mà còn bỏ sót lại chưa tâu lên, không cứ là bọn tăng ni ăn mày, đàn bà con gái, hễ có việc gì đáng khen thì lập ngay lý lịch đưa lên bộ lễ, xin cho ân thưởng. Vì thế bài tựa của họ đã đưa đến bộ lễ rồi. Nghe thấy tin mới lạ này, ai cũng muốn làm một bài từ “Quỷ Hoạch”  để ghi lòng trung nghĩa của nàng

 Mọi người nghe xong đều cười nói:

- À ra thế đấy. Nhưng đáng khen nhất là cái ân điển của bản triều xưa nay chưa từng có, không còn bỏ sót một việc gì.

Giả Chính gật đầu nói: “Đúng đấy !”

Bảo Ngọc, Giả Hoàn, Giả Lan đều đứng dậy đến xem đầu bài, Giả Chính bảo ba người đều làm một bài viếng. Ai làm xong trước sẽ được thưởng, nếu hay lại được thưởng thêm. Gần đây trước chỗ đông người, Giả Hoàn, Giả Lan cũng làm được mấy bài, nên cũng mạnh bạo. Giờ thấy đầu bài, liền ngồi nghĩ ngay.

Một lúc, Giả Lan làm xong, Giả Hoàn sợ thua, cũng làm xong ngay. Hai người đều đã chép xong. Bảo Ngọc còn đương ngồi nghĩ. Giả Chính và mọi người xem hai bài của Giả Hoàn và Giả Lan. Một bài thất ngôn tuyệt cú của Giả Lan như sau:

Sắc đẹp tài cao tướng Tứ nương.

Xương da là ngọc dạ như vàng,

Sau khi liều thác đền ơn chúa,

Tấc đất châu Thanh lại ngát hương

Bọn gia khách xem xong, khen ầm cả lên:

- Cậu em mới có mười ba tuổi mà đã thế này! Thế mới biết dòng dõi học nghiệp uyên thâm, thực là không ngoa!

Giả Chính cười nói:

- Giọng còn trẻ con, nhưng cũng đáng khen cho nó đấy.

Lại xem đến bài của Giả Hoàn là một bài thơ ngũ ngôn, thấy viết:

Đã mấy ả biết sầu,

Tướng quân lòng vẫn đau,

Gạt sầu rời cẩm trướng,

Ôm hận tới Thanh Châu,

Ơn nặng đền đôi chút .

Thù sâu trả dễ đâu?

Mộ đề chữ trung nghĩa,

Truyện lạ rõ nghìn thâu.

Mọi người nói:

- Lại hay hơn! Cũng vì lớn hơn mấy tuổi, nên lập ý của cậu ấy có khác.

Giả Chính nói:

- Kể ra cũng không kém lắm, nhưng vẫn không sát.

Mọi người nói:

- Thế cũng được rồi. Cậu Ba cũng chưa mấy tuổi, vẫn chưa đến tuổi đội mũ(4), làm được như thế, độ mấy năm nữa, có lẽ cũng chẳng kém gì Đại Nguyễn, Tiểu Nguyễn ngày xưa.(5)

Giả Chính cười nói:

- Các vị quá khen. Chỉ phải cái tội là nó không chịu học thôi.

Rồi hỏi đến Bảo Ngọc. Mọi người nói:

- Câu Hai còn đương để ý điêu luyện, chắc thế nào tứ thơ cũng phong lưu thương cảm hơn những bài này.

Bảo Ngọc cười nói:

- Đầu bài này làm cận thể không đúng, phải là cổ thể, hoặc lối ca hay lối hành, làm một bài trường thiên thì mới sát được.

Mọi người nghe nói đều đứng dậy cả, gật đầu vỗ tay nói:

- Chúng tôi đã bảo là cậu ấy lập ý khác hẳn mà! Mỗi khi đầu bài đến tay, phải đắn đo trước xem nên làm thể cách nào cho đúng. Đó là phép thần diệu của tay lão thành. Đầu bài này gọi là “Quỷ Hoạch từ”, lại có tựa sẵn rồi, nên làm bài trường thiên theo lối ca hay hành, thì mới hợp thể cách. Như bài “Kích âu ca” của Ôn Bát Xoa, bài “Cối kê ca” của Lý Trường Cát, bài “Trường hận ca” của Bạch Lạc Thiên(6) hoặc làm bài vịnh cổ, vừa kể chuyện vừa vịnh cảnh, lời thơ chải chuốt nhẹ nhàng thì mới tả hết cái hay của nó.

Giả Chính nghe nói, hợp với ý mình, liền cầm bút định viết. Ông ta lại cười và nói với Bảo Ngọc:

- Như thế rất hay. Mày đọc tao viết. Nếu không hay thì tao lột xác mày cho mà coi. Ai bảo mày cứ nói khoác không biết xấu hổ!

Bảo Ngọc đành phải đọc một câu:

Khỏe và đẹp Hằng vương thích cả,

Giả Chính viết xong, lắc đầu nói:

- Thô quá!

Một môn khách nói:

- Như thế mới là cổ phong, không thô đâu. Hãy xem những câu dưới!

Giả Chính nói:

- Thôi hãy để đấy.

Bảo Ngọc lại đọc:

Dạy mỹ nhân kị xạ đua tài.

Hát hay múa dẻo chưa vui,

Giương cung bày trận được người thích hơn.

Giả Chính viết ra. Mọi người đều nói:

- Câu thứ ba thật là cổ kính, rất hay. Câu thứ tư kể xuôi, rất đắc thể.

Giả Chính nói:

- Thôi đừng khen nhảm nữa, hãy xem câu chuyện thế nào?

Bảo Ngọc đọc:

Mắt nào thấy nổi cơn gió bụi,

Trước bóng đèn đã rọi quân trang.

Mọi người nghe xong hai câu đều nói:

- Hay! Dưới câu “Mắt nào thấy nổi cơn gió bụi”, lại nói luôn câu “Trước bóng đèn đã rọi quân trang”, dùng chữ dùng câu đều thần diệu cả!

Bảo Ngọc lại đọc:

Miệng hò, sặc những mùi hương,

Mềm tay gươm, tuyết dao sương ngượng ngùng.

Mọi người nghe xong đều vỗ tay cười nói:

- Càng như vẽ ra ấy! Chắc cậu Bảo hồi ấy cũng ở đấy, được nhìn rõ vẻ yêu kiều và ngửi thấy cả mùi hương của họ chứ gì? Nếu không sao lại tả đúng được như thế?

Bảo Ngọc cười nói:

- Người khuê các tập võ, dù khỏe đến đâu cũng không bằng được con trai. Không nói thì cũng biết rõ cái dáng yếu ớt nhút nhát rồi.

Giả Chính nói:

- Mày không đọc tiếp ngay đi! Lại còn ngồi nói lẻm.

Bảo Ngọc đành phải nghĩ một lúc rồi đọc:

Hạt đinh hương, phù dung giây giắt.

Mọi người đều nói:

- Chọn vần rất hay, có thế lời thơ mới chải chuốc nhẹ nhàng. Và câu này lại còn văn hoa đẹp đẽ.

Giả Chính viết xong nói:

- Câu này không hay, trước đã có những chữ như “sặc những mùi hương” và “mềm tay ngượng ngùng” thì việc gì lại phải dùng câu này. Đó là vì đuối sức nên nó phải gán ghép những chữ ấy để lấp liếm cho qua đấy thôi.

Bảo Ngọc cười nói:

- Bài trường ca thì thế nào cũng phải điểm xuyết những câu văn hoa, không thế đâm buồn mất.

Giả Chính nói:

- Mày chỉ lo dùng những chữ ấy, còn dưới câu này làm thế nào để chuyển ý sang việc tập võ đây? Nếu nói thêm nữa thì chẳng hóa ra vẽ rắn thêm chân sao.

Bảo Ngọc nói:

- Như thế, thì câu dưới sẽ chuyển cũng được.

Giả Chính cười nhạt:

- Sức học mày được bao nhiêu! Câu trên mày mở rộng quá, bây giờ mày lại muốn chuyển ý ngay, chẳng hóa ý muốn thì nhiều mà sức không đủ hay sao?

Bảo Ngọc nghe nói, cúi đầu nghĩ một lúc rồi đọc:

Đeo dao này đành vất châu kia.

Rồi hỏi: “Câu này có thể dùng được không?”

Mọi người vỗ bàn khen hay tuyệt.

Giả Chính cười nói:

- Hãy khoan đã, mày đọc nữa đi.

Bảo Ngọc nói:

- Nếu được thì con đọc luôn một mạch, không được xin cứ xóa cả đi, con sẽ nghĩ ra tứ khác và đặt câu lại.

Giả Chính nghe nói, liền quát:

- Mày nói nhiều quá! Không được thì làm lại bài khác. Mày làm mười bài, một trăm bài lại sợ khó nhọc hay sao?

Bảo Ngọc đành nghĩ một lát rồi đọc:

Tập xong uể oải đêm khuya,

Ngấn song nhường đã đầm địa lụa dao

Giả Chính nói:

- Đó là xong một đoạn rồi. Câu dưới như thế nào?

Bảo Ngọc đọc:

Sơn Đông giặc năm sau nổi loạn,

Ong kéo đàn, chực ngốn hùm beo,

Mọi người nói:

- Chữ “nổi” hay đấy! Thế mới biết được là cao hay thấp. Vả suốt cả câu chuyển ý cũng không câu nệ gò ép.

Bảo Ngọc lại đọc:

Diệt thù vua dẫn quân theo,

Ngờ đâu thử một hai keo đã chùng.

Gió tanh ngắt thổi tung lúa nội,

Trướng hùm đâu nắng rọi bóng cờ.

Núi vắng lặng, nước lờ đờ,

Nơi Hằng vương chết bây giờ là đây.

Xương dầm nước, máu rây ngọn cỏ,

Bóng giăng tà, thây nọ ma canh.

Mọi người đều nói:

- Hay quá, hay qúa! Dàn bài kể chuyện và lời văn đều hay cả. Giờ hãy xem tiếp đến Tứ nương ra sao, tất phải có một câu chuyển mới lạ.

Bảo Ngọc lại đọc:

Quan quân chỉ biết giữ mình,

Ngồi nhìn khắp cõi châu Thanh mịt mùng.

Trong khuê các tỏ lòng trung phẫn,

Xui ái cơ nổi giận đùng đùng.

Mọi người đều nói:

- Dàn bài rất là khúc chiết.

Giả Chính nói:

- Dài quá rồi, chỉ sợ đoạn dưới lại rườm thôi.

Bảo Ngọc lại đọc:

Ái cơ thứ mấy trong cung?

Thứ Tư là gái anh hùng họ Lâm.

Nghiêm lệnh xuống ả Tần, gái Triệu,

Mặt trăm hoa đưa tiễn chiến trường.

Lệ xuân đè trĩu yên cương,

Áo bào lặng lẽ, đêm trường hắt hiu.

Cuộc thua được khó chiều định trước,

Đáp ơn người trọn ước tử sinh.

Giặc kia hung hãn thôi đành,

Hoa tan tác cánh, tuyệt xanh xám màu.

Quyện mùi phấn vó câu ngào ngạt,

Xa gia hương hồn giạt bên thành.

Tin sương sớm báo về kinh,

Chị em nào chẳng xót tình cho ai.

Nỗi mất đất con trời càng bực,

Nhìn trăm quan đầu gục ngồi trơ.

Trong triều văn vũ bấy giờ,

Đã người nào được như là Lâm nương?

Lâm nương nghĩ đến mà thương,

Ca rồi lòng những bàng hoàng khôn nguôi !

Đọc xong, mọi người đều khen ngợi không ngớt, lại xem một lượt nữa.

Giả Chính cười nói:

- Tuy nói được mấy câu, nhưng cũng không sát mấy.

Liền bảo:

- Thôi cho về.

Ba người như được tha tội, đều đi ra, rồi ai về nhà nấy. Bảo Ngọc trong bụng buồn rầu, lúc về đến vườn trông thấy hoa phù dung trên ao, nhớ ngay chuyện Tình Văn, lại thấy vui sướng, rồi nhìn hoa phù dung than vãn một lúc. Sau lại nghĩ: “Khi Tình Văn chết, ta chưa đến tế trước linh cữu, bây giờ tế ở trước hoa phù dung, lại không tận lễ hơn sao?” Nghĩ xong, muốn làm lễ ngay, nhưng lại tự nhủ: “Dù thế nhưng cũng không nên cẩu thả quá, phải có áo mũ chỉnh tề, đồ lễ đầy đủ thì mới thực là thành kính”. Rồi nghĩ bụng: “Cổ nhân nói: Rau cỏ thường dùng ở nơi bờ ao, vũng nước cũng có thể đem dâng vương công, tế quỷ thần được. Chỉ cốt có lòng thành kính, chứ không kể lễ vật sang hèn. Nhưng nếu không làm một bài văn tế, thì nỗi buồn rầu chua xót này không có chỗ nào phát tiết ra được”. Bảo Ngọc liền lấy một bức lụa giao trắng mà trước kia Tình Văn vẫn thích, viết một bài bằng chữ chân phương, gọi là “Bài văn tế cô phù dung”. Trước là bài tựa, sau là bài ca. Lại bày bốn thứ đồ ăn mà Tình Văn vẫn thích khi còn sống. Đến lúc chiều tà, người vắng Bảo Ngọc sai bọn a hoàn bưng đến bày ở trước hoa phù dung. Làm lễ xong, treo bài văn tế lên cành hoa, rồi khóc và đọc:

“Nay là năm thái bình bền vững, là tháng hoa dung, hoa quế đua tươi, là ngày không biết làm thế nào được. Ngọc thô trọc này ở viện Di Hồng, gọi là có nhị các hoa, lụa giao trắng, nước suối thơm và chè ướp móc, bốn thứ này tuy là vật rất tầm thường, nhưng cũng để tỏ lòng thành tín, đem đến tế ở trước nữ thần phù dung, giữ chức cai quản các hoa mùa thu ở cung Bạch Đế và có lời kính tế rằng:

Trộm nghĩ, từ khi cô xuống cõi trần, đến nay đã mười sáu năm. Họ tên quê quán thất lạc từ lâu, không sao tra cứu được. Nhớ những khi chung chăn gối, cùng tắm gội, những đêm ngồi nghỉ mát, đi chơi rong. Ngọc này cùng cô vui đùa thân mật mới được vẻn vẹn năm nam tám tháng; ngày vui sao lại ngắn ngủi thế này! Nhớ cô lúc bình sinh, chất thì cao quý, vàng ngọc cũng thua; thân lại trắng trong, tuyết băng khôn sánh. Tinh thần sáng suốt, át cả mặt trời, ngôi sao, nét mặt vui tươi, hơn hẳn giăng soi, hoa nở. Chị em mến người tài sắc, vú bõ trọng bực hiền hòa. Ngờ đâu, bay quá cao cho chim độc ghét ghen, giống cắt nọ sa vào bẫy lưới; mùi thơm lựng nên cỏ gai tức tối, khóm lau kia lại bị bừa cào! Hoa vốn nhát rồi, nào quen gió táp? Liễu xem buồn quá, khôn chống mưa rào! Bị loài sâu bọ dèm pha, mắc bệnh cao hoang nguy hiểm. Vì thế, môi anh đào nhợt lại, rền rĩ vần thơ, vẻ hồng hạnh se dần, võ vàng nét mặt. Những lời chì chiết, từ chỗ màn the; nhiều cảnh chông gai, lan ngoài cửa ngõ. Ngấm ngầm bụng đã chán rồi; bực tức oan còn buộc mãi. Vẻ cao quý tổ người ghen ghét, trong buồng the mà ngao ngán cảnh “Trường Sa”;(7) lòng kiên trinh gặp buổi gian truân, bạn khăn yếm những âm thầm nơi nhạn tái.(8) Đắng cay mình chịu; vùi dập ai thương? Tan tác mây tiên; mịt mù gót ngọc. Bãi mờ hang thuốc, hương khước tử đâu đây? Bể vắng bè thiên, thuốc hồi sinh nào thấy? Nét ngài biêng biếc, ta vẽ trước kia; tay ngọc lạnh lùng, ai người ủ ấm? Vạc nọ thuốc thừa bừa bãi; áo kia ngấn lệ đầm đìa. Hộp xạ nguyệt mở lại thêm buồn, gương đành loan vắng; gỗ đàn vân tung ra từng mảnh, lược hóa rồng bay. Hoa vàng vứt đám cỏ gianh; hộp biếc nhặt nơi gió bụi. Lầu Chi Thước buồn tênh thất tịch, còn cái kim treo; giải Uyên Ương đứt hẳn năm dây, hỏi ai người nối? Huống chi gặp tiết kim thu; quyền về Bạch Đế. Chăn đơn mơ mộng; nhà cửa đìu hiu. Thềm quế trăng mờ, bóng đẹp hồn thơm đâu tá; màn dung hương nhạt, lưng eo hơi yếu còn chi! Đầy trời cỏ héo, nào chỉ sậy lau? Khắp đất tiếng buồn, những là giun dế. Thềm long lanh móc, tiếng chày gieo gió lọt trong rèm; tường lác đác mưa, khúc sáo oán khôn nghe ngoài viện. Trước thềm anh vũ chưa quên, luôn miệng tên thơm vẫn gọi; ngoài cửa hải đường đã héo, báo tin người ngọc sắp đi. Trò chơi sau rèm, gót sen vắng ngắt; chọi gà trên cỏ, hoa lan chờ hoài. Chỉ thêu bỏ lại, áo hoa lụa bạc ai khâu? Tơ băng gấp rồi, hương ngự bàn là chưa đốt. Theo lệnh cha lúc trước, dong xe xa tới phương viên, trái oai mẹ lần này, chống gậy toan đưa linh cữu. Chợt nghe, ván thơm bị cháy, tình “cộng huyệt” đâu còn; quách đá vỡ tan, nghĩa đồng hôi(9) đáng thẹn. Đến nỗi gió tây lùa vào chùa cũ, lẩn quất ma trơi; bóng chiều rọi khắp gò hoang, rã rời xương trắng. Thu du xào xạc; lau sậy đìu hiu. Vượn kêu dưới đá sương mù; ma khóc quanh vùng khói tỏa. Nào phải trong màn lụa đỏ, chàng nọ tình sâu; mới hay dưới bãi đất vàng, gái kia mệnh bạc. Đất Nhữ Nam dòng dòng giọt lệ, nhỏ trước gió tây; nơi Tử Trạch ngầm ngấm tình riêng, giãi cùng trăng lạnh. Than ôi! Ma quỷ thực là độc ác; thần linh nào có ghét ghen. Lũ dèm pha đành phải rạch mồm, tha làm sao được? Con ác phụ dù đem mổ bụng, giận vẫn chưa nguôi! Tuy duyên trần cô chửa bén bao lâu; nhưng lòng quê, Ngọc này khôn xiết tả. Nỗi riêng quyên luyến, thăm hỏi ân cần. Mới biết cờ thượng đế cho vời; nơi cung hoa đợi chiếu. Sống thì bạn bè lan huệ, thác thì cai quản phù dung. Tuy nghe lời hầu nhỏ, chuyện khá hoang đường, nhưng cứ ý Ngọc này, lẽ đà xác thực. Tại sao thế? Ngày trước Diệp Pháp Thiện(10) bắt hồn Lý Ung viết hết bài bia; Lý Trường Cát(11) theo lệnh Ngọc Hoàng lên làm bài ký. Việc tuy khác nhau, nhưng lẽ thì một. Nên phải lựa tài mà giao việc, nếu dùng người không đúng thì chẳng hóa ra lạm lắm sao? Vậy mới biết đức thượng đế cân nhắc từng người, giao phó công việc, rất là đúng và rât là hợp, không uổng cái tính chất trời đã phú cho mọi người. Mong linh hồn cô không bao giờ mờ tối, thường hay phảng phất về đây, nên cứ liều lĩnh đọc mấy câu quê kệch này, chắc không phải nhàm tai người sáng suốt.

Liền hát bài chiêu hồn:

- Trời xanh xanh chừ, hay cô cưỡi rồng ngọc dạo chơi trên không đây?

Đất sao mông mênh chừ, hay cô ngồi xe giao tượng xuống chơi suối vàng đây?

 Nhìn tàn lụa lấp lánh chừ, hay sao Cơ, sao Vĩ sáng rực lên đây?

 Dẫn đường lại có hàng tàn chừ, hay sao Nguy hư đi hộ vệ đây?

Theo hầu lại có bọn thần mây chừ, hay cô cưỡi mặt trăng đi chơi đây?

 Tiếng bánh xe lộc cộc chừ, hay cô ngồi xe loan đi rong đây?

Mùi thơm thoang thoảng chừ, hay hoa hành đỗ tết làm dây đeo đây?

Màu quần áo chói lọi chừ, hay chạm mặt trăng làm đồ trang sức đây?

Mượn nơi um tùm để làm đàn tê chừ, hay cầm đuốc sen để thắp dầu hoa lan đây?

Chén rượu bằng quả bầu vẽ chừ, hay rượu ngon lẫn mùi hoa quế đây?

Ngửa mặt lên nhìn đám mây chừ, thấp thoáng như trông thấy ai đây?

Ghé tai nghe dưới làn sóng chừ, mơ màng như nghe tiếng ai đây?

Định rong chơi khắp khoảng bao la chừ, nỡ bỏ ta trơ trọi dạo cõi trần đây?

Nhờ thần gió đẩy xe cho ta chừ, để được cùng nắm dây cương trở về đây?

Nỗi thương cảm trong lòng chừ, kêu gào mãi có làm chi đây?

Sao cô cứ lặng lẽ ngồi yên chừ, hay lòng trời muốn thay đổi thế nào đây?

Đã ở yên nơi sâu thẳm chừ, lại còn muốn trở lại làm kiếp gì đây?

Đương bị gông cùm dưới hạ giới chừ, có thiêng hãy rủ ta cùng lên đây?

Ở lại hay về, thôi cô về đây?

Còn như lặng lẽ mênh mông, cô giờ nằm đấy.

Dù cô có về, ta nào trông thấy?

Màn che chằng những dây leo; xương bồ mọc thành hàng dãy.

Hẳn mắt liễu ngủ đã ham rồi, chắc lòng sen giờ không đắng mấy.

Hẹn trên non quế. Tố Nữ(12) miệng chào; đón dưới bến Lan, Bật phi(13) tay vẫy.

Sênh Lộng Ngọc(14) lách cách gần xa, trống hàn hoàng(15) thùng thùng vang dậy.

Lên vùng Tung Nhạc, hỏi Phi Tử đâu đây, dạo núi Ly Sơn, tìm lão tiên nào thấy?

Lượn sông Lạc Thủy, rùa hiện điềm lành; hát khúc Hàm Trì, thú đua điệu nhảy.

Rừng Châu Lâm(16) sáng rực, phượng đậu trên cao; sông Xích Thủy(17) đỏ ngầu, rồng gầm dưới đáy.

Lễ mọn gọi là, lòng thành nhận lấy.

Từ Hà Thành(18) xe quay bánh rầm rầm, về Huyền Phố(19) gió phất cờ hây hẩy.

Đã quấn quít sao bỗng e dè, đã hiển hiện sao còn trốn chạy?

Khi tan khi họp, như khói mây bay; lúc gần lúc xa, nhường mưa mù vậy.

Sao từng hàng rọi, mây vẫn sạch làu; trăng nửa đêm soi, núi sông lộng lẫy.

Trong khi thức ngủ, đâu thấy vui cười? Mà nỗi lòng riêng, vẫn còn áy náy?

Nay tôi ngậm ngùi than thở, giàn giụa lệ rơi.

Quãng không lặng lẽ chừ, đâu là tiếng người!

Trúc reo lách tách chừ, nghe như sáo trời!

Chim xào xạc chừ sợ bay khắp nơi!

Cá phập phồng chừ lặn xuống đáy khơi.

Để tỏ lòng thành chừ, dâng lễ kính người.

Hồn nay có thiêng, hiển hiện cho coi.

Than ôi! Thương thay! Mong cô về hưởng!

Bảo Ngọc đọc xong, liền đốt văn tế, dâng trà, quyến luyến không nỡ dứt. A hoàn giục mấy lần mới chịu quay về. Chợt nghe thấy phía sau núi đá có người cười nói: “Xin hãy đứng lại”. Hai người nghe thấy, hoảng sợ. A hoàn nhỏ quay lại nhìn thấy một bóng người trong khóm hoa phù dung đi ra. A hoàn kêu lên:

- Chết rồi, có ma! Chị Tình Văn hiện hồn về thực rồi!

Bảo Ngọc sợ hãi đứng nhìn, không biết là người hay ma.

-----------------------------

1. Chỉ người con gái vừa đẹp vừa biết võ nghệ.

2. Cuối đời Tây Hán, anh em Trương Giác khởi binh đánh triều đình, quân lính đều đội khăn vàng làm hiệu.

3. Cũng cuối đời Tây Hán, Phàn Sùng nổi quân chống lại triều đình, quân lính đều vẽ lông mày đỏ.

4. Đời xưa là con trai hai mươi tuổi mới đội mũ.

5. Đại Nguyễn tức Nguyễn Tịch, Tiểu Nguyễn tức Nguyễn Hàm, người đời Tấn, đều nổi tiếng về vần thơ.

6. Tức Ôn Đình Quân, Lý Hạ, Bạch Cư Dị, đều là những nhà thơ nổi tiếng đời Đường.

7. Giả Nghị đời Hán, bị dèm pha phải đày ra Trường Sa.

8. Nơi biên cương chỉ có chim nhạn mới qua được.

9. Cộng huyệt và đồng hôi có nghĩa là sống chết có nhau.

10. Diệp Pháp Thiện người đời Đường. Ông nhờ Lý Ung viết bài văn bia. Lý Ung không nhận. Một hôm, Lý Ung nằm ngủ, mơ thấy mình viết bài văn bia. Khi tỉnh dậy, vẫn chưa tin thì Diệp Pháp Thiện cầm bài văn đến.

11. Tức Lý Hạ đời Đường. Một hôm, có người con gái mặc áo đỏ đến mời Lý Hạ nói: “Ngọc Đế đã làm xong lầu, mời ông lên làm bài ký”.

12. Tức Hằng Nga.

13. Tức Lạc thần.

14. Đời Tần Mục công, nàng Lộng Ngọc học sáo Tiêu Sử, sau  hai người lấy nhau.

15. Ống sáo.

16. 17. 18. 19.  Đều là cõi tiên.

Hồng Lâu Mộng

Hồi thứ bảy mươi chín

Rước lấy sư tử Hà Đông, Tiết Bàn hối hận;

Vớ phải giống sói Trung Sơn, Nghênh Xuân nhầm to.

Tế Tình Văn xong, thấy trong bóng hoa có tiếng người, Bảo Ngọc giật nẩy mình. Nhìn kỹ chẳng phải ai lạ, chính là Đại Ngọc hớn hở cười nói:

- Bài văn tế rất mới lạ! Có thể cùng truyền với bài bia Tào Nga(1) được đấy.

Bảo Ngọc nghe xong đỏ mặt lên cười:

- Tôi nghĩ lối văn tế hiện giờ quen thuộc quá rồi nên đổi làm thể mới. Chẳng qua tôi làm đùa một lúc đấy thôi, ngờ đâu em lại nghe thấy. Có câu nào dở lắm, em sửa đổi lại cho.

Đại Ngọc nói:

- Bài nháp của anh để đâu em phải xem kỹ mới được. Bài dài như thế em chẳng biết anh nói những gì. Chỉ nghe ở giữa bài có hai câu “Trong màn lụa đỏ, chàng nọ tình sâu; dưới bãi đất vàng, gái kia bạc mệnh”. Hai câu đối nhau ý thì hay đấy, nhưng “trong màn lụa đỏ”, chữ tục và không xứng. Hiện có sự thực ngay trước mắt, sao anh không dùng?

- Sự thực gì ở trước mắt?

- Hiện nay cửa sổ của chúng ta đều che bằng thứ sa màu ráng trời, sao không nói “trước song sa đỏ, chàng nọ đa tình”.

Bảo Ngọc dậm chân cười nó:

- Hay lắm, hay lắm! Chỉ có em mới nghĩ ra được, nói ra được.Thế mới biết xưa nay trong thiên hạ cảnh đẹp việc hay sẵn có rất nhiều, chỉ vì chúng tôi là người ngu không nghĩ ra được đấy thôi. Nhưng có một việc, tuy câu ấy đối thế thì hay thực, nhưng em nói thế còn được, chứ tôi thì không dám đương nổi.

Nói xong lại luôn miệng “không dám”.

Đại Ngọc cười nói:

- Có hại gì? Cửa sổ của em tức là cửa sổ của anh, việc gì phải phân biệt như thế? Chỉ tổ làm cho thêm xa lạ mà thôi. Đời xưa người khác họ hoặc người giữa đường vẫn cùng nhau “cưỡi con ngựa béo, mặc áo cừu nhẹ, đến rách cũng không phàn nàn”(2) huống chi là chúng ta?

Bảo Ngọc cười nói:

- Nói về tình kết giao thì không những “ngựa béo, áo cừu” dẫu đến “vàng bạc châu báu” cũng không nên “suy bì tẩn mẩn”, nhưng quyết không thể nào sỗ sàng với các bạn khuê các được. Bây giờ tôi đổi chữ “chàng nọ” “gái kia” đi, coi như là bài của em tế thì lại càng hay. Xưa nay em đối với cô ấy rất tử tế nên thà bỏ cả bài văn tế này đi chứ quyết không thể bỏ cái câu “trước song sa đỏ” được. Chi bằng đổi lại là “trước song sa đỏ, tiểu thư đa tình; dưới bãi đất vàng, a hoàn bạc mệnh”. Nếu được như thế, tuy không dính dáng gì đến, tôi cũng thỏa lòng.

- Cô ấy không phải là a hoàn của em, sao dùng được câu ấy? Những chữ “tiểu thư” “a hoàn” nghe cũng không được nhã. Chờ đến khi Tử Quyên chết, em sẽ dùng câu ấy cũng chưa muộn.

- Sao em lại rủa cô ấy thế?

- Chính anh rủa, chứ em có rủa nó đâu.

- Tôi nghĩ ra rồi, đổi thế này thì ổn: “Trước song sa đỏ, tôi thực vô duyên; dưới bãi đất vàng, cô sao bạc mệnh!”

Đại Ngọc nghe xong, đổi ngay nét mặt, trong bụng rất hồ nghi, nhưng không để lộ ra ngoài nét mặt. Vội mỉm cười gật đầu khen hay và nói:

- Hay đấy. Thôi đừng đổi nhảm nữa, mau về mà làm việc đi. Vừa rồi mợ sai người tìm anh, bảo là sáng sớm mai phải sang bên nhà cậu Cả. Cô Nghênh Xuân đã có người đến hỏi, có lẽ ngày mai họ đến, vì thế mợ bảo các anh sang.

- Việc gì phải vội thế? Người tôi không được khỏe, chưa chắc ngày mai đã đi được.

- Lại giở trò rồi! Em khuyên anh phải sửa đổi cái tính nết ấy đi. Chả gì cũng đã lớn rồi.

Vừa nói, Đại Ngọc vừa ho sù sụ. Bảo Ngọc nói:

- Ở đây gió lạnh, chúng ta cứ đứng mãi, nhỡ bị cảm lạnh thì không phải chuyện chơi đâu. Thôi đi về đi.

- Em cũng về nghỉ đây, ngày mai lại gặp.

Nói xong liền theo đường khác quay đi. Bảo Ngọc đành phải lẩn thẩn trở về. Chợt nghĩ không có người theo Đại Ngọc, liền sai a hoàn nhỏ đưa đi. Rồi một mình về viện Di Hồng, quả có bọn vú của Vương phu nhân đến bảo sáng sớm mai phải sang nhà Giả Xá, đúng như lời Đại Ngọc vừa nói.

Giả Xá đã hứa gả Nghênh Xuân cho nhà họ Tôn. Họ Tôn người ở phủ Đại Đồng, ông cha xuất thân quan võ, là môn sinh của hai phủ Vinh, Ninh ngày trước, kể ra cũng là chỗ thân. Hiện giờ nhà họ Tôn chỉ có một người ở Kinh tập chức chỉ huy, người ấy tên là Tôn Thiệu Tổ, mặt mũi khôi ngô, thân thể hùng tráng, theo nghề cung mã, giao thiệp tinh khôn, chưa đầy 30 tuổi, nhà lại giàu có, hiện đương hậu bổ ở bộ binh để đợi thăng chức.

Giả Xá thấy anh ta chưa có vợ, lại là con cháu nhà thế gia, nhân phẩm và gia thế cũng đều xứng đáng, nên chọn làm giai tế. Việc này cũng đã trình Giả mẫu. Giả mẫu không bằng lòng, nhưng nghĩ việc vợ chồng là tự ý trời, cha nó đã đứng làm chủ thì việc gì phải dây vào cho lắm chuyện? Vì thế chỉ nói “biết rồi”, ngoài ra không tỏ ý gì nữa.

Giả Chính xưa nay vẫn ghét nhà họ Tôn, tuy là chỗ thế gia, chẳng qua ông nó ngày trước hâm mộ thế lực phủ Vinh, phủ Ninh, có những việc không thu xếp được, phải đến xin làm môn hạ, chứ không phải là dòng dõi thi thư. Ông ta đã khuyên ngăn mấy lần, nhưng Giả Xá không nghe, nên đành phải chịu.

Bảo Ngọc chưa hề gặp mặt Tôn Thiệu Tổ bao giờ, hôm sau đành phải đến cho qua chuyện. Nghe nói ngày cưới đã đến nơi, chỉ trong năm nay Nghênh Xuân sẽ về nhà chồng, lại thấy Hình phu nhân đến trình Giả mẫu xin đón Nghênh Xuân ra khỏi vườn Đại Quan, Bảo Ngọc càng mất vui, ngày nào cũng ngơ ngơ, ngẩn ngẩn, không biết làm gì cho khuây. Sau lại được tin cho bốn a hoàn đi theo hầu Nghênh Xuân, Bảo Ngọc giậm chân nói:

- Từ nay trở đi, trên đời này lại thiếu hẳn năm người trong sạch.

Rồi ngày nào cũng đến Tử Lăng Chảu, ngắm nhìn ngơ ngẩn, thấy hiên song lặng lẽ, bình trường vắng tanh, chỉ còn có vài bà già ở đấy trực dạ. Trên bờ thì hoa lau lá sậy, lảo đảo tả tơi, hình như có vẻ nhớ thương người cũ, chứ không khoe đẹp đua tươi như những ngày trước nữa. Bảo Ngọc không cầm lòng được, liền ứng khẩu đọc một bài hát:

Đêm thu bờ ao gió thổi lạnh,

Ấu đỏ sen tàn ngọc lấp lánh.

Hoa lau lá ấu buồn làm sao,

Móc nặng sương sa cây rã nhánh.

Suốt ngày vắng hẳn tiếng đánh cờ,

Lấm tấm bàn cờ đất én nhơ.

Người xưa xa bạn còn thương tiếc,

Tình nghĩa chân tay nỡ để ngơ!

Bảo Ngọc vừa ngâm xong, chợt nghe đằng sau có tiếng người cười nới:

- Sao cậu lại đâm ngây ra thế?

Bảo Ngọc vội quay lại nhìn, hóa ra Hương Lăng, Bảo Ngọc vội cười nói

- Chị ơi, bây giờ chị đến đây làm gì? Đã lâu không thấy chị đến chơi.

Hương Lăng vỗ tay cười hì hì nói:

- Sao tôi lại không muốn đến? Vì bây giờ anh cậu đã về, tôi đâu được tự do như trước! Vừa rồi bà sai người đi tìm mợ Phượng, nhưng không thấy, bảo là mợ ấy vào chơi trong vườn. Tôi nghe nói thế, liền nhận lấy việc này vào đây tìm, gặp a hoàn mợ ấy lại bảo là ở bên Đạo Hương thôn. Giờ tôi sang bên ấy, không ngờ lại gặp cậu. Tôi còn muốn bỏi cậu: Chị Tập Nhân mấy hôm nay có khỏe không? Tại sao chị Tình Văn lại chết đột ngột như vậy? Chị ấy mắc bệnh gì? Cô Hai dọn đi quá nhanh! Cậu xem nơi này chả mấy chốc đã vắng tanh vắng ngắt!

Bảo Ngọc cứ ậm ừ, lại mời Hương Lăng đến viện Di Hồng uống nước. Hương Lăng nói:

- Bây giờ không thể đến được, phải đi tìm mợ Hai, nói xong việc chính rồi tôi sẽ đến.

- Việc gì mà vội thế?

- Về việc anh cậu lấy vợ, nên rất cần.

- Thế thì định hỏi con cái nhà ai mới đáng? Đã rêu rao  đến nửa năm nay rồi, hôm nay thì bảo con nhà họ Trương khá, ngày mai lại muốn lấy con nhà họ Lý, ngày kia lại bàn tán đến con nhà họ Vương tốt hơn. Con gái những nhà ấy không biết có tội gì mà cứ để cho người tự dưng bàn ra tán vào mãi?

- Bây giờ thì nhất định rồi, không phải vướng vít đến nhà khác nữa.

- Định hỏi con nhà ai đấy?

- Hôm nọ anh cậu đi buôn, tiện đường đến thăm nhà bà con quen thuộc. Nhà này đã quen biết từ lâu, cùng nhà chúng tôi đều ghi tên mua hàng cho nhà vua ở bộ hộ, cũng là một nhà đại gia hạng nhất, hạng nhì. Nói về lai lịch thì hai phủ ta đều biết tiếng nhà ấy. Khắp trong kinh thành này, trên từ vương hầu, dưới đến người buôn bán, đều gọi nhà ấy là “nhà hoa quế họ Hạ”.

- Sao gọi là “Nhà hoa quế họ Hạ”?

- Nhà ấy vốn là họ Hạ, rất giàu. Không kể số ruộng đất, riêng chỗ trồng quế cũng có mấy chục khoảnh. Cả đất Trường An này, những hiệu bán hoa quế ở trong và ngoài thành, đều là của nhà ấy cả. Tất cả những chậu cảnh bày ở trong cung cũng đều là của nhà ấy đem dâng. Vì thế mới có cái tên riêng ấy. Hiện giờ ông cụ đã mất rồi, chỉ còn bà cụ già ở với cô con gái. Cô này không có anh em gì cả. Đáng tiếc nhà ấy thế mà tuyệt tự.

- Nhà ấy tuyệt tự hay không cũng mặc, chỉ hỏi xem cô ấy có đẹp không? Tại sao anh ấy lại bằng lòng?

- Một là duyên trời, hai là anh ấy ưng ý, “mắt tình nhìn thấy Tây Thi”. Năm trước hai nhà thường đi lại với nhau, từ bé họ vẫn chơi đùa một chỗ. Kể họ là anh em con cô con cậu, không phải giữ hiềm nghi gì. Mấy năm xa nhau, hôm trước anh cậu có đến nhà chơi. Bà cụ Hạ không có con trai, thấy anh cậu dáng dấp như vậy, vừa khóc vừa cười, coi quý hơn con đẻ. Rồi cho hai người gặp nhau. Ai ngờ cô ấy tươi đẹp như bông hoa, cũng đọc sách biết chữ, vì thế anh cậu bằng lòng ngay. Cả bọn làm công trong hiệu cũng ở đấy quấy nhiễu ba bốn ngày. Họ còn giữ lại mấy hôm nữa, anh cậu cáo từ mãi mới để cho về. Vừa về đến nhà, anh cậu đã thì thào với dì cậu đi hỏi. Dì cậu đã biết cô ấy, lại là nơi môn đăng hộ đối, nên cũng bằng lòng, liền bàn với dì Hai và mợ Phượng, rồi sai người đi hỏi, thì được ngay. Ngày cưới gấp quá, nên chúng tôi bận rộn túi bụi. Tôi chỉ mong cô ấy về bên này cho sớm, lại thêm được một người làm thơ nữa đấy.

- Chị nói thế, nhưng tôi vẫn để tâm lo xa hộ chị!

- Cậu nói gì thế? Tôi vẫn không hiểu.

- Có gì mà chị không hiểu? Sợ có người khác, anh ấy sẽ không thương chị nữa.

Hương Lăng nghe nói, đỏ bừng mặt lên, nghiêm nét mặt nói:

- Nói thế là thế nào? Xưa nay chúng mình vẫn kính nể nhau, bây giờ cậu lại nhắc đến những chuyện ấy. Không trách được ai cũng bảo cậu là người không thể gần gũi được!

Vừa nói vừa quay người đi về.

Bảo Ngọc thấy Hương Lăng như vậy, tưng hửng như mất một vật gì, đứng ngẩn người ra một lúc, sững sờ buồn rũ, rồi quay về viện Di Hồng, suốt đêm trằn trọc không ngủ. Hôm sau bỏ cả ăn uống, người phát sốt lên. Cũng vì những việc gần đây như khám xét vườn Đại Quan, đuổi Tư Kỳ, xa Nghênh Xuân, thương Tình Văn, Bảo Ngọc đâm ra xấu hổ sợ hãi và thương xót, lại thêm bị cảm phong hàn, nên sinh ra bệnh, nằm liệt giường không dậy được. Giả mẫu nghe thấy thế, ngày nào cũng đến thăm nom. Vương phu nhân trong lòng hối hận về việc Tình Văn đã quá trách Bảo Ngọc, nhưng vẫn không để lộ ra ngoài mặt, chỉ dặn dò bọn vú già hầu hạ trông nom cẩn thận. Một ngày hai lần mời thầy đến xem mạch bốc thuốc. Sau một tháng, Bảo Ngọc mới dần dần bình phục. Phải kiêng khem một trăm ngày mới được ăn đồ mặn, đồ mỡ và mới được đi chơi.

Trong một trăm ngày, Bảo Ngọc không được ra khỏi cửa, chỉ chơi đùa trong nhà thôi. Sau bốn năm mươi ngày, bị gò ép quá Bảo Ngọc nóng lòng nóng ruột, chịu làm sao được? Dù đã bày hết cách, nhưng Giả mẫu và Vương phu nhân nhất định không chịu nghe, nên đành phải chịu, chỉ chơi đùa bừa bãi với bọn a hoàn, không thiếu cách gì. Sau lại nghe thấy bên Tiết Bàn bày tiệc hát xướng, vui nhộn lạ thường, đã đón cô dâu về nhà, người rất xinh đẹp lại thông chữ nghĩa. Bảo Ngọc chỉ bực không được đến nhìn mặt cho thỏa. Ít lâu sau lại nghe Nghênh Xuân về nhà chồng, Bảo Ngọc nghĩ đến khi chị em cùng ở chung quấn quít với nhau, giờ phải xa nhau, dù có gặp lại nữa, chắc cũng không được thân mật như trước. Hiện giờ lại không được đến thăm, thực làm cho người ta buồn rầu khôn xiết.

Bảo Ngọc đành phải nén lòng cố nhịn, cùng bọn a hoàn nô đùa cho đỡ buồn, may khỏi bị cái nạn cha bắt đi học. Trong một trăm ngày ấy, Bảo Ngọc cùng a hoàn nghịch ngợm bừa bãi, không sợ hãi gì, giở hết những trò chơi đùa trên đời chưa từng thấy, chỉ trừ không kéo đổ viện Di Hồng thôi.

Hương Lăng từ lúc cãi lại Bảo Ngọc, cho là Bảo Ngọc có ý sỗ sàng: “Từ nay ta nên tránh xa cậu ấy là phải”. Vì thế ít khi lui tới vườn Đại Quan. Cô ta ngày nào cũng bận rộn về việc Tiết Bàn cưới vợ, vì cô ta cho là sẽ được cái bùa hộ thân, tự mình trút bớt một phần gánh nặng, như thế sẽ được yên lặng hơn. Lại biết người ấy có tài có sắc, chắc là nhã nhặn và dịu dàng, nên mong sao chóng đến ngày cưới, so với Tiết Bàn lại còn sốt ruột hơn nhiều. Mong mãi mới đến ngày cưới, Hương Lăng để ý hầu hạ rất là cẩn thận.

Cô gái họ Hạ năm nay mới mười bảy tuổi, có chút nhan sắc, cũng biết ít nhiều chữ nghĩa, nhưng bụng dạ thâm hiểm có thể nối gót được Phượng Thư. Chỉ hiềm một nỗi, từ bé cha chết sớm, không có anh em ruột thịt, một mình là gái, được mẹ nâng niu chiều chuộng như hòn ngọc báu, hễ con muốn gì là mẹ chịu theo ngay, vì thế không khỏi gây nên cái tính chú Chích(3), tôn mình như đức Phật, rẻ người như bùn; bề ngoài thì tươi đẹp như bông hoa, nhưng bên trong lại có tính nóng nảy như sấm sét. Khi ở nhà đối với đám a hoàn thì hay gắt gỏng chửi mắng đánh đập. Bây giờ đi lấy chồng, tự cho mình đã làm bà chủ, không còn bẽn lẽn dịu dàng như xưa, mà phải ra oai mới áp đảo được mọi người. Chị ta thấy Tiết Bàn là người tính nết ương ngạnh, kiêu ngạo xa xỉ, nếu không trị ngay từ đầu thì sau này tất không thể phất cờ chỉ huy được. Lại thấy Hương Lăng là người nàng hầu tài sắc trọn vẹn, càng nảy ra cái ý: “Há để người ngoài ngủ say bên màn” của vua Tống Thái Tổ diệt nước Nam Đường(4) trước kia. Vì nhà chị ta nhiều hoa quế, nên lúc bé đặt tên là Kim Quế. Khi chị ta còn nhà, không cho ai được nói đến hai chữ “kim” và quế”. Nếu ai không để ý, nhỡ mồm nói nhầm một chữ, là bị chị ta đánh đập và phạt thật nặng. Chị ta cho rằng hai chữ “hoa quế” không thể cấm được, tất phải đổi ra một tên khác. Lại nghĩ: “Hoa quế vẫn có điển Quảng Hàn Thường Nga”, liền đổi hoa quế làm hoa “thường nga” để thầm ví thân phận mình. Tiết Bàn vốn là người có mới nới cũ, lại sẵn tính mạnh rượu yếu cơm, bây giờ lấy được người vợ mới, khôn xiết vui mừng, nên việc gì hắn cũng chiều chuộng. Kim Quế thấy được đằng chân liền lân đằng đầu. Trong khoảng một tháng đầu hai người vẫn còn khí khái ngang nhau, chừng vài tháng sau, Tiết Bàn đã phải chịu nhụt dần.

Một hôm uống rượu xong, Tiết Bàn muốn làm việc gì, bàn với Kim Quế, Kim Quế nhất định không nghe. Tiết Bàn không nhịn được, nói mấy câu rồi hằm hằm bỏ đi. Kim Quế liền khóc lóc như người say rượu không ăn không uống, giả cách ốm, phải mời thầy đến xem bệnh. Thầy thuốc nói: “Khí huyết trái ngược nhau, phải uống khoan hung thuận khí”. Tiết phu nhân giận quá, mắng Tiết Bàn một trận: “Bây giờ lấy vợ sắp có con rồi, mày còn càn dở như vậy. Nhà người ta nâng niu nó như chim phượng hoàng, khó khăn lắm mới đẻ được một cô con gái, mơn mởn như đóa hoa. Thấy mày là người tử tế, họ mới gả cho. Mày không biết thân biết phận, một lòng một dạ ăn ở với nhau cho hòa thuận, lại còn càn dở như thế. Nốc rượu cho đẫy vào, rồi hành hạ con người ta! Bây giờ phải tốn tiền uống thuốc, tốn công chạy chữa”.

Tiết phu nhân nói một chặp, làm Tiết Bàn hối hận phải đến vỗ về Kim Quế. Kim Quế thấy mẹ chồng nói thế, lại càng lên nước, làm bộ làm tịch, không thèm nhìn đến Tiết Bàn. Tiết Bàn không biết làm thế nào, đành than thở một mình. Chừng nửa tháng sau, hắn mới dần dần dỗ được Kim Quế nguôi lòng. Từ đó Tiết Bàn lại càng phải giữ gìn cẩn thận, tính khí lại nhụt đi một nửa.

Kim Quế thấy chồng đã bị đánh đổ, mẹ chồng lại hiền lành, liền dần dần tìm cách lên ngựa múa gươm. Ban đầu chỉ mới kiềm chế Tiết Bàn, về sau ra vẻ nũng nịu định áp lép cả Tiết phu nhân và Bảo Thoa. Bảo Thoa đã biết rõ tính ngang ngược của chị ta, thường tùy cơ đối phó, dùng những lời kín đáo để đe nẹt Kim Quế, Kim Quế biết là không thể trêu được, muốn tìm chỗ sơ hở, nhưng tìm không ra, đành phải nén lòng chiều chuộng.

Một hôm, Kim Quế ngồi rỗi nói chuyện phiếm với Hương Lăng, hỏi đến cha mẹ quê quán, thì Hương Lăng đều nói đã quên mất cả. Kim Quế không bằng lòng, cho là có ý nói dối, rồi hỏi:

- Hai chữ “Hương Lăng” ai đặt cho đấy?

- Cô Bảo đặt cho đấy.

- Ai cũng nói cô Bảo thông, nhưng chị xem cái tên này thì thật là không thông.

- Mợ nói cô Bảo không thông, là vì mợ chưa bàn luận với cô ấy thôi. Cứ kể ra sức học của cô ấy thì ngay ông lớn bên phủ Giả cũng thường khen đấy.

---------------------

1. Độ Thượng đời Hậu Hán làm bài văn bia ghi sự tích người thiếu nữ tên là Tào Nga.

2. Chữ trong luận ngữ.

3. Một tên trộm đời Xuân Thu, tính rất tàn bạo.

4. Xem chú thích ở hồi 76. Ở đây ý nói Hạ Kim Quế ghen không muốn để cho Hương Lăng sống yên ổn bên cạnh.

Hồi thứ tám mươi

Gặp anh chồng phũ, Hương Lăng bi trận đòn oan;

Chữa đàn bà ghen, đạo sĩ kê bài thuốc nhảm.

Kim Quế nghe thấy nói thế, ngoảnh mặt đi, bĩu môi, khịt mũi, cười nhạt nói:

- Khi hoa ấu nở có mùi thơm đâu? Nếu bảo là hoa ấu thơm, thì các hoa thơm khác sẽ để nào chỗ nào? Thực là rất mực không thông.

Hương Lăng nói:

- Không những hoa ấu thơm, ngay đến lá sen, gương sen cũng đều có một mùi thơm mát. Nhưng mùi thơm ấy không thơm bằng mùi hoa, nếu khi thanh vắng, hoặc sáng sớm hay nửa đêm, ta chịu khó thưởng thức, thì cái mùi ấy cũng thơm mát như hoa. Ngay cả đến hoa ấu, hoa súng, lá lau, gốc sậy, nếu được hơi mưa móc vun tưới, thì cái mùi thơm mát ấy cũng làm cho người ta tỉnh táo nhẹ nhàng.

- Theo như cô nói, thì hoa quế, hoa lan thơm không ra gì à?

Hương Lăng đương lúc hăng, quên cả kiêng kỵ, thuận miệng nói luôn:

- Mùi thơm của hoa lan hoa quế thì hoa khác không thể bì được.

Nói chưa dứt câu thì a hoàn của Kim Quế tên là Bảo Thiềm trỏ ngay vào mặt Hương Lăng mắng:

- Cô đáng chết! Sao dám gọi tên mợ ra?

Hương Lăng chợt nghĩ ra, băn khoăn ngượng nghịu vội cười thưa:

- Tôi trót buột miệng, xin mợ đừng để ý.

Kim Quế cười nói:

- Có làm chuyện gì ấy. Cô thực cẩn thận quá. Nhưng tôi nghĩ chữ “Hương” vẫn không ổn, muốn đổi ra một chữ khác, không biết cô có bằng lòng hay không?

Hương Lăng cười nói:

- Sao mợ lại nói thế? Ngay thân tôi bây giờ cũng là thuộc về mợ rồi, đổi một chữ tên mà mợ lại hỏi tôi có bằng lòng hay không? Như thế tôi đâu dám nhận. Mợ xem chữ nào hay thì đặt tên cho tôi chữ ấy.

Kim Quế cười nhạt:

- Cô nói cũng đúng đấy, nhưng chỉ sợ chị Bảo để bụng thôi.

Hương Lăng cười thưa:

- Mợ chưa biết, lúc trước mua tôi về, cốt để hầu mẹ thôi, nên cô Bảo đặt cho tôi cái tên ấy. Về sau tôi sang hầu cậu và bây giờ có mợ về đây, lại càng không dính dáng gì đến cô ấy nữa. Vả chăng cô ấy là người hiểu đời thì việc ấy làm gì mà phải tức giận?

- Cô đã nói thế thì chữ “hương” không ổn bằng chữ “thu”. Vì mùa thu thì củ ấu, hoả ấu mọc nhiều, như thế chẳng có gốc tích hơn chữ “hương” hay sao?

- Thôi tôi xin nghe lời mợ.

Từ đấy Hương Lăng đổi tên là Thu Lăng. Bảo Thoa cũng chẳng để ý đến.

Tiết Bàn xưa nay vẫn có tính “được voi đòi tiên”. Hắn lấy được Kim Quế rồi, lại thấy a hoàn của Kim Quế là Bảo Thiềm có chút nhan sắc, đi đứng lẳng lơ đáng yêu, nên thường sai lấy nước pha trà, cố ý chọc ghẹo nó. Bảo Thiềm tuy đã biết mùi đời, nhưng lại sợ Kim Quế, nên không dám sỗ sàng, hãy để ý xem nét mặt Kim Qu thế nào đã. Kim Quế cùng dò biết ý ấy, nghĩ bụng: “Mình đương định bày binh bố trận làm hại Hương Lăng, chưa tìm được chỗ sơ hở, thì anh chàng đã lại lấm lét đến Bảo Thiềm. Mình hãy liều gán Bảo Thiềm cho hắn, thế nào hắn cũng thưa nhạt Hương Lăng. Thừa dịp ấy, ta sẽ gạt bỏ Hương Lăng, bấy giờ Bảo Thiềm là người của mình thì cũng dễ xử thôi”.

Chủ ý đã định, chị ta chỉ đợi thời cơ là ra tay.

Một hôm vào buổi tối, Tiết Bàn ngà ngà say, sai Bảo Thiềm cầm lấy chén, cố ý nắm tay Bảo Thiềm. Bảo Thiềm lại làm bộ lẩn tránh, rụt tay lại, hai bên cùng nhỡ tay. “Choang” một tiếng, chén nước rơi xuống đất, bắn ra cả người. Tiết Bàn có ý ngượng, nói đổ Bảo Thiềm cầm chén không cẩn thận.

Bảo Thiềm nói:

- Vì cậu đỡ chén không cẩn thận.

Kim Quế cười nhạt, nói:

- Giọng lưỡi của hai người đều khá cả đấy, chẳng ai dại đâu.

Tiết Bàn chỉ cúi đầu mỉm cười không nói. Bảo Thiềm thì đỏ mặt đi ra. Đến lúc đi ngủ, Kim Quế cố ý đuổi Tiết Bàn đi ngủ ở chỗ khác, càng đỡ bận thân. Tiết Bàn chỉ cười.

Kim Quế nói:

- Muốn làm gì thì cứ nói cho em biết, đừng có lén lút, chả ăn thua gì đâu!

Tiết Bàn nghe nói, mượn hơi men, quỳ ngay trên chăn, kéo Kim Quế cười nói:

- Em ơi, nếu em để Bảo Thiềm cho anh, thì em muốn gì, anh cũng xin vâng. Em muốn ăn óc người sống, anh cũng lấy được cho em.

Kim Quế cười nói:

- Cậu nói chẳng thông một tí nào. Cậu yêu ai cứ nói rõ ra, rồi lấy làm nàng hầu, đừng để ngoài trông thấy, đâm ra khó coi. Còn em thì có cần cái gì đâu?

Tiết Bàn nghe vợ nói thế, mừng quá, tạ ơn không ngớt. Đêm hôm ấy hắn cố làm trọn phận sự người chồng, hết sức chiều chuộng Kim Quế. Hôm sau hắn cũng không đi đâu, chỉ ở trong nhà đùa nghịch, lại càng bạo gan thêm. Đến buồi chiều, Kim Quế cố ý đi ra ngoài, để cho hai người ở nhà có dịp gần nhau. Tiết Bàn liền giở trò gạ gẫm. Bảo Thềm đã biết tám chín phần rồi, nên cũng giả cách nửa muốn nửa đừng, ngờ đâu Kim Quế để bụng rình, giữa lúc hai người đang giằng co, sắp vào cuộc, chị ta liền sai gọi a hoàn nhỏ là Tiểu Xả nhi đến.

A hoàn nhỏ này vẫn hầu Kim Quế từ lúc bé, vì bố mẹ nó mất sớm, không có người chăm nom, nên ai cũng gọi nó là Tiểu Xả nhi, chuyên làm việc vặt. Bấy giờ Kim Quế đã có ý định sẵn, gọi nó đến dặn:

- Mày đi bảo cô Thu Lăng vào buồng lấy khăn tay của tao ra đây, đừng nói là tao bảo mày.

Tiểu Xả nhi chạy một mạch đi tìm Thu Lăng nói:

- Cô Lăng, mợ bỏ quên cái khăn mặt ở trong buồng. Cô đi vào lấy ra đưa cho mợ có được không?

Hương Lăng gần đây hay bị Kim Quế hành hạ, không biết tại sao, nên tìm hết cách chiều chuộng để hòng lấy lòng Kim Quế. Vừa nghe nói thế, liền đi vào buồng lấy khăn mặt, không ngờ gặp lúc hai người đương co kéo nhau. Thu Lăng chạy đâm sầm vào, thấy thế xấu hổ quá, mặt mũi đỏ bừng lên, quay người tránh đi không kịp. Tiết Bàn cho là việc ấy đã công khai rồi, trừ Kim Quế ra, không sợ ai cả, vì thế cửa cũng không đóng. Khi Thu Lăng vào, hắn có xấu hổ đấy, nhưng cũng không để ý, Bảo Thiềm vốn là đứa đanh đá, giờ thấy Thu Lăng, giận không có chỗ nào trốn được, liền đẩy Tiết Bàn, chạy một mạch ra ngoài, miệng vẫn càu nhàu oán trách, nói là Tiết Bàn dùng sức cưỡng dâm. Tiết Bàn chật vật mới dỗ được Bảo Thiềm vào tay, lại bị Thu Lăng phá đám, cuộc vui biến thành cơn giận, đều trút cả lên người Thu Lăng. Hắn không cho ai phân trần, chạy ra ngoài quát mắng:

- Con đĩ chết đâm chết chém này! Tại sao lúc này mày lại dẫn thần xác đến đây làm gì?

Thu Lăng biết là việc không hay, ba chân bốn cẳng chạy mất. Tiết Bàn quay lại tìm Bảo Thiềm thì đã mất hút. Lúc đó hắn giận quá, chỉ làu nhàu mắng Thu Lăng. Sau khi ăn cơm chiều, Tiết Bàn rượu đã ngà ngà say, đến lúc tắm rửa, không ngờ nước hơi nóng, bị bỏng chân, liền cho là Thu Lăng có ý hại mình. Hắn trần truồng đuổi đá Thu Lăng mấy cái. Thu Lăng xưa nay chưa bị ức như thế bao giờ, nhưng đã đến nông nỗi này, không biết làm thế nào, đành chỉ than thân trách phận, rồi bỏ đi.

Kim Quế đã rỉ tai với Bảo Thiềm, đêm nay cho Tiết Bàn cùng Bảo Thiềm vào ngủ ở buồng Thu Lăng và bảo Thu Lăng sang ngủ hầu ở buồng mình. Lúc đầu Thu Lăng không chịu. Kim Quế bảo Thu Lăng cho mình là bẩn thỉu hoặc muốn rảnh thân, sợ đêm phải hầu hạ vất vả. Rồi chị ta mắng:

- Ông chủ đốn mạt của nhà mày hễ thấy người nào là yêu người ấy. Hắn đã chiếm mất a hoàn của ta, lại không cho mày sang đây thay, như vậy là ý định thế nào? Chắc là hắn muốn bắt ta chết đi thì mới thôi.

Tiết Bàn thấy thế, lại sợ làm ngáng trở đến việc mình với Bảo Thiềm, liền chạy lại mắng Thu Lăng:

- Con khốn nạn này! Mày không bước đi thì tao đánh cho tan xác bây giờ.

Thu Lăng không biết làm thế nào, đành phải mang chăn đệm đến. Kim Quế bảo Thu Lăng trải chiếu ngủ ở dưới đất. Thu Lăng đành phải nghe lời, vừa nằm xuống thì Kim Quế đã gọi pha nước, một lúc lại bắt bóp đùi, cứ thế mỗi đêm bảy, tám lần, không để cho Thu Lăng nằm ngủ yên được một lát.

Tiết Bàn với Bảo Thiềm như được ngọc báu, tất cả mọi việc đều bỏ mặc đấy. Kim Quế tức giận chỉ mắng thầm:

- Hãy cho mày sướng mấy hôm để dần dần trị được con kia rồi lúc đó đừng có trách tao!

Chị ta một mặt cố nhịn, một mặt tìm cách trị Thu Lăng. Độ được nửa tháng, chị ta giả cách ốm, nói là đau bụng quá đỗi, chân tay cứng đờ, chữa mãi không khỏi. Ai cũng cho là bị Thu Lăng chọc tức.

Chạy chữa mấy hôm, bỗng ở trong gối của Kim Quế rơi ra một hình nhân bằng giấy, mặt trên viết năm tháng ngày giờ sinh của Kim Quế, có năm cái kim cắm vào bụng, và các đầu khớp xương. Bấy giờ mọi người đều cho là việc lạ, đi báo Tiết phu nhân. Tiết phu nhân tay chân rụng rời, vội vàng chạy đến. Tiết Bàn lại càng rối rít, định tra khảo mọi người.

Kim Quế nói:

- Việc gì phải tra oan người ta? Có lẽ là cái bùa trừ tà của Bảo Thiềm đấy.

- Dạo này Bảo Thiềm có được mấy khi rỗi mà vào buồng mợ, sao lại đổ oan cho người ngay thẳng?

- Không phải Bảo Thiềm thì còn ai nữa. Chẳng lẽ tôi tự làm hại tôi à? Người khác thì ai dám vào buồng của tôi?

- Hiện giờ Thu Lăng ngày nào cũng ở gần mợ, chắc nó phải biết, cứ tra hỏi nó trước thì rõ.

- Tra hỏi ai? Ai chịu nhận? Theo ý tôi thì cứ giả vờ không biết, bỏ qua việc này đi là xong. Rút cuộc tôi chết thì cũng không quan hệ gì, người ta lại càng được lấy vợ khác đẹp hơn. Theo lương tâm mà nói, cũng chẳng qua vì ba người đều ghét tôi cả. - Chị ta vừa nói vừa khóc rống lên.

Tiết Bàn nghe vậy càng giận, tiện tay với lấy một cái dóng cửa, chạy thẳng đi tìm Thu Lăng, không cho nói câu nào đánh bừa vào đầu, vào mặt, vào khắp người Thu Lăng, cứ đổ riệt cho Thu Lăng làm việc ấy. Thu Lăng kêu oan. Tiết phu nhân chạy đến mắng át đi.

- Mày không hỏi rõ đầu đuôi mà đánh người ta. Ta xem con bé ấy hầu hạ mấy năm nay, có sơ suất bao giờ đâu. Khi nào nó dám làm việc mất lương tâm như thế? Mày hỏi cho ra trắng đen, rồi hãy giở lối đấm đá.

Kim Quế thấy mẹ chồng nói thế, sợ Tiết Bàn nể nang, đâm chùn, liền to tiếng khóc ầm lên, kể lể:

- Hơn nửa tháng nay anh cướp mất Bảo Thiềm của tôi đi, không cho nó vào buồng, chỉ có Thu Lăng ngủ với tôi thôi. Tôi muốn tra hỏi Bảo Thiềm thì anh bênh nó. Giờ anh lại đâm tức giận đánh Thu Lăng. Thôi cứ làm cho tôi chết đi, rồi anh kén người giàu sang xinh đẹp hơn mà lấy, việc gì anh phải bày ra cái trò đùa này?

Tiết Bàn nghe nói vậy lại càng tức thêm. Tiết phu nhân nghe Kim Quế nói câu nào cũng có vẻ độc ác, áp chế con mình, rất là bực. Ngờ đâu đứa con trơn hèn, bị nó áp chế cứ chịu nhũn đi như con chi chi ấy. Đã thế, lại còn tằng tịu với con a hoàn, để nó nói cho là cướp mất người của nó. Nó lại muốn được cái tiếng là người hòa nhã biết nhường chồng. Rút cục cái hình nhân ấy không biết ai làm ra. Câu tục ngữ nói rất đúng: “Quan thanh khó xử việc nhà”, bây giờ bố mẹ chồng cũng khó xử đoán được việc riêng của dâu con. Bà ta không biết làm thế nào, đành chỉ mắng Tiết Bàn:

- Cái của oan trái này, con chó còn có thể diện hơn mày! Ai ngờ mày cắm đầu đi mò cả con a hoàn hầu cận, để cho vợ mày nó bảo là cướp mất a hoàn của nó, liệu mày còn mặt mũi nào trông thấy người ta nữa? Mày không biết ai làm cái bùa ấy, cũng không hỏi cho ra nhẽ, đã đánh ngay người ta. Tao biết mày là đứa có mới nới cũ, mày phụ cả lòng tốt của người ta trước đây. Dù nó không ra gì, mày cũng không nên đánh nó. Tao sẽ bảo ngay người mối đến để bán nó đi, thế là mày được rảnh mặt.

Tiết phu nhân tức quá. lại bảo:

- Hương Lăng! Thu nhặt đồ đạc đi theo tao.

Rồi bà ta lại gọi người bảo:

- Lại tìm ngay người mối lại đây, bán nó đi lấy mấy lạng bạc, thế là nhổ được cái gai trong thịt, cái đinh trong mắt, để cho cả nhà được sống yên ổn!

Tiết Bàn thấy mẹ nổi giận, cứ cúi đầu xuống. Kim Quế nghe Tiết phu nhân nói mấy câu ấy, liền ngoảnh mặt ra ngoài cửa sổ khóc và nói:

- Bà muốn bán người thì cứ bán, không cần phải nói người nọ chọc người kia. Không lẽ chúng tôi lại là người hay ghen tuông không biết dung kẻ dưới tay sao? Tại sao nhổ gai trong thịt, nhổ đinh trong mắt? Ai là cái đinh, ai là cái gai? Nếu tôi mà ghen với con Thu Lăng thì đời nào tôi chịu cho con a hoàn của tôi làm nàng hầu.

Tiết phu nhân nghe nói tức quá, run người, nghẹn lên cổ họng nói:

- Thế là phép tác nhà nào đấy? Mẹ chồng nói ở trong nhà, thì nàng dâu cãi lại ở ngoài cửa sổ. Khen cho mày là con gái nhà đại gia đấy! Động tới là đối gia đối giảm. Mày nói cái gì thế?

Tiết Bàn tức quá giậm chân nói:

- Thôi đi, thôi đi! Người ngoài nghe thấy thì người ta cười cho đấy!

Kim Quế nghĩ bụng: “Không làm thì thôi, đã làm thì phải làm cho to chuyện” nên càng kêu ầm lên:

- Tôi không sợ ai cười cả. Con vợ lẽ nhà anh định triệt tôi, hại tôi, tôi lại còn sợ ai cười nữa? Chi bằng anh giữ nó lại, bán quách tôi đi! Ai chả biết nhà họ Tiết lắm tiền, việc gì cũng lấy của đè người, lại cậy có họ hàng thân thế, áp chế người ta! Sao anh không làm ngay đi, lại còn chờ gì nữa? Nếu chê tôi không ra gì, thì ai bảo các người mù mắt, năm lần bảy lượt đến nhà tôi?

Rồi chị ta vừa khóc vừa giãy giụa, vừa đánh tát mình. Tiết Bàn tức quá, nói cũng dở, khuyên cũng dở, đánh cũng dở, van xin cũng dở, đành cứ đi ra đi vào, thở vắn than dài, rồi tự trách mình vận hạn đen đủi!

Được Bảo Thoa khuyên ngăn, Tiết phu nhân đi về, cứ gọi người đến để bán Hương Lăng.

Bảo Thoa cười nói:

- Nhà ta đây chỉ biết mua người, chứ không bao giờ bán người. Mẹ giận quá đâm ra lẩn. Người ta nghe thấy chẳng chê cười hay sao? Nếu anh chị ghét bỏ nó, thì cứ giữ nó lại để hầu con. Con cũng đương thiếu người đây.

Tiết phu nhân nói:

- Giữ nó lại chỉ tổ bực mình thôi, chi bằng tống nó đi cho yên chuyện!

Bảo Thoa cười nói:

- Nó ở với con cũng thế thôi, không cho nó sang bên kia là được. Từ nay, cắt đứt nó với bên kia thì cũng như là bán vậy.

Hương Lăng chạy đến trước mặt Tiết phu nhân khóc lóc van xin ở lại hầu, không muốn đi đâu cả. Tiết phu nhân đành thôi.

Từ đó, Hương Lăng đến hầu Bảo Thoa, cắt đứt con đường tình duyên lúc trước. Tuy thế, cô ta cũng vẫn nhìn trăng buồn tủi, khêu đèn thở than. Hương Lăng đã ăn ở với Tiết Bàn mấy năm, nhưng vì chân huyết xấu, nên không có thai nghén gì, giờ lại bị uất ức nên đâm ra nghĩ ngợi, trong ngoài dày vò, không chịu nổi, sinh ra bệnh ráo huyết, ngày một gầy mòn, biếng ăn biếng uống, mời thầy chạy thuốc cũng không khỏi.

Sau đó Kim Quế vẫn to tiếng cãi lộn mấy lần. Tiết Bàn có khi mượn hơi men hung lên, cầm gậy định đánh, Kim Quế giơ người ra thách đánh, có lúc Tiết Bàn cầm dao muốn chém, Kim Quế liền chìa cổ ra, kỳ thực Tiết Bàn không dám to gan, chỉ làm ầm lên một lúc rồi thôi. Như vậy đã thành ra thói quen, làm cho Kim Quế càng lên nước, mắng chửi cả Bảo Thiềm.

Tính nết của Bảo Thiềm khác hẳn Hương Lăng, thực là củi khô gặp lửa. Nó đã ý hợp tâm đầu với Tiết Bàn, liền gạt Kim Quế ra một nơi. Gần đây Kim Quế lại hành hạ nó. Nó không chịu kém. Trước kia còn đối già đối non, sau Kim Quế tức quá chửi, đánh nó. Tuy nó không dám đánh lại nhưng nó hung lên, đập đầu định tự tử, ngày thì dao kéo, đêm thì dây thừng, giở hết mọi trò.

Tiết Bàn một mình không thể chiều chuộng được cả hai bên, đành cứ quanh co vớ vẩn; có khi trong nhà ầm ĩ quá, không biết làm thế nào, hắn đành lánh mặt ra ngoài cho rảnh.

Kim Quế lúc vui, không nổi nóng, lại tìm người đến đánh bài, gieo xúc sắc. Chị ta lại thích nhai xương đầu. Hàng ngày mổ gà vịt, bao nhiêu thịt cho cả người nhà, chỉ để xương đầu lại nhắm rượu, ăn chán rồi lại nổi nóng lại mắng chửi bâng quơ: “Đồ chó chết kia! Mày biết vui với con đĩ, thì tội gì ta lại không vui”. Mẹ con Tiết phu  nhân cứ lờ đi như khôngnghe thấy gì. Tiết Bàn cũng không biết làm thế nào nữa, chỉ hối hận mình chỉ vì một lúc không nghĩ kỹ, lấy phải con yêu tinh ấy. Từ đó cả hai phủ Vinh, Ninh, người trên kẻ dưới, đều biết rõ câu chuyện, không ai là không phàn nàn.

Bảo Ngọc đã hết hạn một trăm ngày, được đi ra ngoài, cũng thường sang chơi, trông thấy Kim Quế hình dáng đi đứng không ra vẻ dữ tợn, cũng là một đóa hoa tươi, một cành liễu rủ, không kém gì các chị em, sao lại có cái tính như thế? Thực là việc lạ. Bảo Ngọc đâm ra buồn bực. Hôm đó sang thăm Vương phu nhân, gặp bà vú của Nghênh Xuân vào chào, nói:

- Tôn Thiệu Tổ người không đứng đắn, cô nhà ta cứ khóc, chỉ muốn có người sang đón về nhà chơi mấy hôm cho khuây khỏa!

Vương phu nhân nói:

- Mấy hôm nay ta cũng định cho người đi đón nó, nhưng vì có mấy việc không được như ý nên quên khuấy đi mất. Hôm trước Bảo Ngọc về, đã nói qua rồi. Ngày mai tốt ngày, ta sẽ cho người đi đón.

Đương nói chuyện thì Giả mẫu sai người đến bảo Bảo Ngọc:

- Sáng sớm mai phải đến miếu Thiên Tề lễ tạ.

Bảo Ngọc đang mong được đi chơi các nơi, thấy nói thế, mừng quá, suốt đêm không ngủ. Sáng sớm hôm sau, rửa mặt gội đầu, mặc áo quần xong, theo mấy bà già lên xe ra ngoài cửa thành phía tây, đến miếu Thiên Tề thắp hương lễ tạ. Miếu này đã xếp đặt đầy đủ từ hôm trước. Bảo Ngọc vốn tính nhút nhát, không dám đến gần những pho tượng mặt mày dữ tợn, vì thế vội vàng đốt tiền giấy, ngựa giấy, rồi vào nhà khách nằm nghỉ.

Khi ăn cơm xong, bọn bà già và Lý Quý theo Bảo Ngọc đi chơi các nơi một lúc, Bảo Ngọc thấy mệt, lại trở về nhà khách nghỉ. Các bà già sợ Bảo Ngọc lại ngủ, liền bảo đạo sĩ họ Vương ở miếu ấy đến tiếp chuyện. Đạo sĩ này thường đi bán thuốc rong các nơi, có mấy phương thuốc “hải thượng” để trị bệnh kiếm lời. Ở ngoài cửa miếu có treo biển: “Bán đủ các thứ thuốc cao đơn hoàn tán” Hắn thường đi lại quen thuộc với hai phủ Vinh, Ninh, người ta đặt tên riêng cho hắn là “Vương Nhất Niêm”. Ý nói là thuốc cao của hắn hay lắm, chỉ dán một miếng là khỏi bệnh.

Bảo Ngọc đương nằm nghiêng trên giường, thấy Vương Nhất Niêm vào, liền cười nói: “Ông đến đây rất may. Tôi nghe nói ông kể chuyện vui lắm, xin ông nói một chuyện cho chúng tôi nghe”.

Vương Nhất Niêm cười nói:

- Phải đấy. Cậu đừng ngủ, cẩn thận không có thì miến ở trong bụng nó giở quẻ đấy.

Cả nhà nghe vậy đều cười, Bảo Ngọc cũng cười, đứng dậy mặc lại áo, Vương Nhất Niêm bảo bọn đồ đệ: “Pha trà ngon lên đây”. Bồi Dính nói:

- Cậu tôi không uống nước trà ở nhà ông đâu, ngồi ở trong nhà này còn sợ mùi thuốc cao sặc lên đấy.

Vương Nhất Niêm cười nói:

- Không có chuyện ấy. Thuốc cao của tôi không để trong nhà này bao giờ. Biết chắc hôm nay cậu Hai đến đây, nên tôi đã xông hương thơm từ mấy hôm trước rồi.

Bảo Ngọc nói:

- Phải đấy. Ngày thường tôi nghe nói thuốc cao của thầy hay, thế thì chữa bệnh gì đấy?

- Nếu hỏi đến thuốc cao của tôi, nói ra thì dài lắm. Trong ấy có nhiều điều uẩn khúc, không nói hết được, tất cả có một trăm hai mươi vị thuốc, quân thần đúng mức, ôn lương đều dùng. Trong thì điều nguyên bổ khí, dưỡng vinh vệ(1), khai vị khẩu(2), yên thần định phách, chữa rét, chữa nóng, tiêu cơm hóa đờm, ngoài thì điều huyết mạch, dãn gân cốt, tiêu thịt thối, mọc da non, trừ phong, tán độc, hiệu nghiệm như thần, dán vào sẽ biết.

- Tôi không tin chỉ có một lá cao mà lại chữa được từng ấy bệnh? Tôi hãy hỏi thầy, có một thứ bệnh, dán cao có khỏi được không?

- Trăm bệnh nghìn bệnh, dán vào là khỏi ngay, nếu không khỏi cậu cứ vặt râu tôi, tát vào mặt tôi, phá miếu tôi đi. Cậu hãy kể cái bệnh cái bệnh ấy ra xem sao?

- Thầy đoán xem. Nếu đoán đúng thì dán cao sẽ khỏi.

Vương Nhất Niêm nghĩ một lúc, cười nói:

- Cái ấy khó đoán lắm, sợ thuốc cao của tôi không hiệu nghiệm.

Bảo Ngọc sai bọn Lý Quý:

- Các anh đi ra ngoài chơi. Trong này đông người càng sực mùi hôi thối.

Bọn Lý Quý đi ra, chỉ để một Dính Yên ở lại. Dính Yên đốt nén mộng điềm hương. Bảo Ngọc bảo ông ta ngồi gần bên cạnh. Vương Nhất Niêm rạo rực trong lòng, cười hì hì chạy đến gần, nói nhỏ:

- Tôi đoán ra được rồi! Chắc là cậu Hai có chuyện riêng gì trong phòng, muốn dùng thuốc để trợ hứng có phải không?

Nói chưa dứt lời, Bồi Dính đã quát:

- Đáng chết! Tát vào mồm ấy!

Bảo Ngọc vẫn chưa hiểu, liền hỏi:

- Thầy ấy nói gì thế?

Bồi Dính nói:

- Lão ta nói nhảm, tin gì được!

Vương Nhất Niêm sợ quá không chờ Bảo Ngọc hỏi lại, liền nói:

- Xin cậu cứ kể rõ bệnh ra.

Bảo Ngọc nói:

- Tôi hỏi thấy có thứ cao nào dán khỏi được bệnh ghen của đàn bà không?

Vương Nhất Niêm vỗ tay cười nói:

- Việc ấy thì chịu thôi, không những không có bài thuốc, mà tôi cũng không nghe ai nói đến bao giờ.

- Như thế thì thuốc cao ấy cũng chả ra cái gì.

- Không có thuốc cao chữa bệnh ghen, chỉ có thứ thuốc uống may ra chữa được. Nhưng phải dần dần chứ không thể khỏi ngay được.

- Thuốc gì? Cách uống thế nào?

Thuốc ấy gọi là thuốc “chữa ghen”: lấy một quả lê mùa thu hạng tốt, hai đồng cân đường, một đồng cân trần bì, ba bát nước, sắc đến khi lê chín thì được. Sáng nào cũng ăn một quả và cứ ăn đi ăn lại mãi thì khỏi.

- Như thế chả đáng bao nhiêu, chỉ sợ không chắc đã có công hiệu.

- Một thang không khỏi thì uống mười thang, hôm nay không khỏi thì ngày mai uống tiếp, năm nay không khỏi thì sang năm. Vì ba vị thuốc này đều nhuận phế khai vị, không hại đến người. Vừa ngọt lừ, khỏi ho, lại dễ uống. Uống đến khi một trăm tuổi, thế nào người cũng phải chết, chết rồi thì còn ghen vào đâu nữa? Bấy giờ là kiến hiệu đấy.

Bảo Ngọc và Dính Yên đều cười và mắng:

- Thật là đồ đầu trâu bẻm mép.

Vương Nhất Niêm nói:

- Chẳng qua tôi nói đùa cho cậu chủ quên ngủ trưa đấy thôi, chứ có quan hệ gì? Nói cho các cậu buồn cười là đáng tiền rồi. Tôi nói thật cho cậu biết, thuốc cao của tôi cũng là thuốc giả. Nếu thuốc thật thì tôi đã uống để thành thần tiên, khi nào lại phải đến ở đây sống vất sống vưởng.

Đương nói thì đến giờ làm lễ. Họ mời Bảo Ngọc ra rót rượu đốt vàng, cúng chúng sinh. Lễ xong, Bảo Ngọc mới vào thành về nhà.

Nghênh Xuân đã về nhà được lúc lâu, đã dọn cơm chiều cho bọn bà già và người nhà họ Tôn ăn xong, và cho họ về cả. Nghênh Xuân mới khóc nức nở, ngồi ở trong buồng Vương phu nhân, kể lể những nỗi uất ức: “Tôn Thiệu Tổ một mực ham gái mê say cờ bạc rượu chè, bao nhiêu đàn bà con gái ở trong nhà, bị nó hiếp dâm gần khắp lượt. Cháu mới khuyên nó vài ba lần, nó mắng cháu là hạng “đàn bà ghen tuông”. Nó lại nói cha cháu mượn của nhà nó năm nghìn bạc định ăn không, nó đến hỏi hai ba lần không trả. Nó lại còn trỏ vào mặt cháu nói: “Mày đừng có lên mặt bà với tao! Bố mày đã lấy của tao năm nghìn bạc, đem mày gạt cho tao đấy. Coi chừng tao đánh một trận, tống cổ xuống nhà dưới mà nằm! Ngày trước, ông mày còn sống, thấy nhà tao phú quý, nên chiều chuộng làm thân. Nói đúng ra thì tao với bố mày ngang hàng nhau, giờ lại dúi đầu tao, bắt tao tụt xuống một bực. Không thể có thông gia như thế được, để người ta nhìn vào lại cho là nhà tao chạy theo thế lợi”.

Nghênh Xuân vừa nói vừa khóc nức nở. Vương phu nhân và các chị em không ai là không chảy nước mắt.

Vương phu nhân đành phải lấy lời khuyên giải:

- Đã trót gặp phải đứa ngang ngược như thế thì còn làm thế nào được nữa. Ngày trước chú cháu đã từng khuyên cha cháu không nên gả cháu cho con nhà ấy, nhưng cha cháu nhất định không nghe. Cháu ơi! Thôi cũng là số phận cả.

Nghênh Xuân khóc nói:

- Cháu không tin là số cháu lại khổ đến thế này. Từ bé cháu mồ côi mẹ, may sang ở bên thím, được mấy năm yên thân, ngờ đâu lại đến nỗi này.

Vương phu nhân vừa khuyên giải vừa hỏi Nghênh Xuân muốn nghỉ ở đâu, Nghênh Xuân thưa: “Phải xa lìa chị em, lúc nào cháu cũng mơ màng, tưởng nhớ. Cháu nhớ cả cái nhà cháu ở trước kia. Nếu lại được về ở trong vườn dăm ba ngày thì chết cháu cũng vui lòng. Không biết lần sau về còn được ở lại nữa không?

Vương phu nhân vội khuyên bảo:

- Thôi cháu đừng nói nhảm. Vợ chồng trẻ, lời qua tiếng lại, cũng là chuyện thường, hà tất cháu phải nói những câu quái gở ấy.

Rồi bà ta sai người thu dọn ngay gian nhà ở Tử Lăng châu, bảo bọn chị em đến làm bạn để khuyên giải. Bà ta lại dặn Bảo Ngọc:

- Không được nói hở một tí gì với cụ. Nếu cụ biết việc này, là tự mày nói cả.

Bảo Ngọc vâng dạ xin nghe lời.

Đêm ấy Nghênh Xuân lại đến nhà cũ. Các chị em và a hoàn đi lại rất là thân thiết, ở luôn đó ba ngày, rồi mới sang bên Hình phu nhân. Trước hết đến chào Giả mẫu và Vương phu nhân, rồi mới từ biệt chị em, ai cũng xót thương quyến luyến. Nhờ có Vương phu nhân và Tiết phu nhân khuyên giải mới yên. Nghênh Xuân sang bên nhà Hình phu nhân, ở được vài ngày thì có người nhà họ Tôn sang đón về. Nghênh Xuân tuy không muốn đi, nhưng khốn nỗi Tôn Thiệu Tổ hung ác quá, đành phải miễn cưỡng cáo từ đi về. Hình phu nhãn vốn không để ý đến, nên cũng không hỏi vợ chồng ăn ở có hòa thuận và việc nhà có bận rộn không, chỉ hời hợt mấy câu bề ngoài thôi.

---------------------

1. Danh từ đông y, vinh là huyết, vệ là khí, tức là bổ khí huyết.

2. Danh từ đông y, tức là mở khẩu vị để ăn cho ngon cơm.

Hồi thứ tám mươi mốt

Bốn chị câu cá chơi, xem ai tốt số;

Hai lần vào trường học, vâng theo lời cha.

Sau khi Nghênh Xuân về, Hình phu nhân vẫn hờ hững như không, trái lại, Vương phu nhân là người nuôi nấng nàng bấy lâu nên rất thương cảm, cứ ngồi trong phòng than thở một mình. Bảo Ngọc đến thăm sức khoẻ, thấy trên mặt Vương phu nhân còn hoen nước mắt, liền đứng sững đấy không dám ngồi, vương phu nhân bảo ngồi, Bảo Ngọc mới ghé ngồi lên giường, bên cạnh Vương phu nhân.

Vương phu nhân thấy Bảo Ngọc ngẩn người nhìn mình, dường như muốn nói điều gì, liền hỏi:

- Con nghĩ gì mà ngẩn người ra thế?

Bảo Ngọc nói:

- Có gì đâu, chỉ vì hôm qua thấy tình cảnh chị Hai, con thật không sao đành tâm, tuy chưa dám thưa với ba, nhưng hai đêm nay con trằn trọc không sao ngủ được, con nghĩ: con gái nhà mình thế này, làm sao chịu được những điều tủi nhục như vậy? Chị Hai lại là người nhút nhát nhất nhà, xưa nay chưa biết cãi cọ với ai bao giờ, làm sao gặp phải hạng người vô lương không hề biết gì đến nỗi khổ cực của người con gái.

Nói đến đó Bảo Ngọc rưng rưng nước mắt, vương phu nhân nói:

- Cũng chẳng còn cách gì nữa, tục ngữ nói: “Con gái lấy chồng cũng như bát nước đã bị đổ”, ta còn biết làm thế nào bây giờ.

- Đêm qua con nghĩ ra một kế. Bọn con cứ nói thật với bà đón chị Hai về, để chị ấy ở Tử Lăng Châu như trước, chị em chúng con lại cứ ăn chung chơi chung với nhau, chị ấy khỏi phải  chịu khổ với họ Tôn, quân bậy bạ ấy, nếu nó đến đón chúng ta nhất định không cho về, nó có đến đón một trăm lần, chúng con cứ giữ lại một trăm lần, nói rằng ý bà đã định, như thế lại không hơn ư?

Vương phu nhân nghe nói, vừa buồn cười, vừa tức, bảo:

- Mày điên à! Nói nhảm cái gì thế? Đã là con gái ai chẳng phải đi lấy chồng; đã về nhà người ta thì bên nhà gái còn nhìn ngó gì được, cái đó chẳng qua là do số phận nó thế, được người chồng tốt thì hay, nhưng gặp phải đứa xấu cũng đành chịu vậy, người ta hay nói: “Lấy gà phải theo gà, lấy chó phải theo chó”, mày lại không nghe hay sao? Có phải ai cũng làm lệnh bà như chị cả mày đâu? Vả lại chị Hai mày mới về nhà chồng, thằng Tôn cũng còn trẻ tuổi, mỗi người một tính, mới ăn ở với nhau, thế nào mà chả có ít nhiều va chạm. Ít năm nữa, đôi bên biết tính nhau, sinh con đẻ cái thì sẽ đâu vào đấy thôi, mày nhất thiết không được nói nửa lời với bà, tao mà nghe thì liệu hồn đấy, thôi đi lo công việc của mày đi, đừng ở đây nói nhảm nữa.

Bảo Ngọc không dám lên tiếng, ngồi một lúc, rồi buồn rầu lủi thủi đi ra, trong bụng ấm ức, không biết hay tỏ với ai, khi vào vườn, Bảo Ngọc đi một mạch đến quán Tiêu Tương, vừa vào đến cửa đã òa lên khóc.

Đại Ngọc vừa chải đầu rửa mặt xong, thấy quang cảnh ấy, giật mình hỏi:

- Làm sao thế? Anh giận nhau với ai thế?

Đại Ngọc hỏi đi hỏi lại, nhưng Bảo Ngọc chỉ gục đầu xuống bàn, khóc nức nở không nói ra lời, đại Ngọc ngồi trên ghế ngơ ngác nhìn Bảo Ngọc một lúc rồi hỏi:

- Anh lại bực nhau với ai rồi chứ gì? Hay là em có lỗi với anh?

Bảo Ngọc xua tay:

- Không phải, không phải!

- Tại sao anh lại buồn bã như vậy?

- Tôi nghĩ bọn chúng mình chết sớm càng hay, sống chẳng thú vị gì hết!

Đại Ngọc nghe vậy kinh ngạc hỏi:

- Anh nói gì thế? Anh điên rồi sao?

- Không phải tôi điên đâu, điều tôi nói ra thế nào cũng làm cô phải đau lòng, hôm trước chị Hai về đây, bộ dạng và nói năng như thế nào thì cô cũng đã thấy rồi đấy, tôi nghĩ tại sao con gái cứ lớn lên là phải đi lấy chồng để chịu khổ chịu sở làm gì? Tôi còn nhớ trước đây lúc lập thi xã Hải Đường, tất cả chúng mình ngâm thơ, gánh trọ, vui vẻ biết chừng nào! Bây giờ chị Bảo về nhà; Hương Lăng cũng không thấy sang; chị Hai lại đi lấy chồng, mấy người tâm đầu ý hợp đều mỗi người mỗi ngả, cho nên mới vắng ngắt thế này. Tôi định thưa với cụ, đón chị Hai về, ai ngờ mẹ tôi không nghe lại bảo tôi là ngu ngốc, nói nhảm, tôi đành câm miệng không dám hé lời, cô xem chẳng mấy chốc, mà quang cảnh cái vườn này thay đổi dữ thật! Cứ thế này thì vài năm nữa, chưa biết đến thế nào, càng nghĩ tôi càng cảm thấy buồn bực trong lòng.

Đại Ngọc nghe xong từ từ cúi đầu, người chậm rãi ngã xuống giường, thở dài một tiếng, không nói năng gì, nằm quay mặt vào phía trong.

Tử Quyên vừa bưng trà lên, thấy hai người như thế cũng buồn theo; bỗng Tập Nhân đến, thấy Bảo Ngọc nói:

- Cậu ở đây à? Bên nhà cụ đang gọi đấy, tôi đoán là cậu ở đây.

Đại Ngọc đứng dậy, cặp mắt vẫn đỏ hoe, mời Tập Nhân ngồi. Bảo Ngọc thấy thế nói:

- Em ạ, những lời tôi vừa nói, chẳng qua là chuyện vớ vẩn rồ dại, em đừng buồn bã làm gì. Em nên nhớ lời tôi dặn, cần phải giữ gìn sức khỏe mới được. Em đi nghỉ thôi. Bên cụ gọi, tôi đến đó một lát, rồi sẽ trở lại ngay.

Nói đoạn, Bảo Ngọc đi ra.

Tập Nhân hỏi nhỏ Đại Ngọc:

- Hai người lại có việc gì thế?

-  Anh ấy buồn vì việc chị Hai, còn tôi thì bị ngứa mắt, nên dụi đấy thôi, chứ có việc gì đâu.

Tập Nhân cũng không nói gì, vội vàng theo Bảo Ngọc đi ra.

Khi Bảo Ngọc đến bên nhà Giả mẫu thì Giả mẫu đã nghỉ trưa, nên lại quay về Viện Di Hồng.

Quá trưa Bảo Ngọc ngủ dậy, cảm thấy buồn bã vô cùng, tiện tay cầm quyền sách lên xem.

Tập Nhân thấy Bảo Ngọc xem sách, vội đi pha trà hầu sẵn, không ngờ quyển sách ấy lại là quyển “Cổ Nhạc Phủ”. Bảo Ngọc tiện tay mở ra xem thì đúng là một bài thơ của Tào Mạnh Đức(1) trong có câu:

Rượu bày hãy cất lời ca,

Đời người thấm thoắt có là bao năm!

Cảm thấy lời thơ chạm đúng vào tim. Bảo Ngọc đặt quyển sách xuống, vớ một quyển khác xem, thì đó là tập văn đời Tấn, đọc được mấy trang, Bảo Ngọc liền gấp sách, đoạn chống tay lên mà cứ ngồi thừ ra đó, Tập Nhân bưng trả lại, thấy vậy liền hỏi:

- Tại sao cậu lại không xem nữa?

Bảo Ngọc không đáp, đỡ lấy chén trà, uống một hớp, rồi đặt chén xuống, Tập Nhân chẳng hiểu đầu đuôi ra sao, cứ đứng, bên cạnh, ngẩn người nhìn. Bỗng Bảo Ngọc đứng dậy, miệng nói lẩm bẩm “tinh thần phiêu diêu ra ngoài hình hài...”

Tập Nhân nghe nói, muốn cười, nhưng không dám hỏi, đành phải khuyên:

- Nếu cậu không thích xem sách thì hãy ra ngoài vườn chơi một lát cho đỡ buồn, kẻo rồi sinh bệnh.

Bảo Ngọc trong miệng ậm ừ nhưng đầu óc vẫn để đâu đâu. Đi đến đình Thấm Phương, thấy cảnh tượng tiêu điều, buồng không người vắng; quay sang Hành Vu uyển, thấy cỏ thơm còn đó, song cửa đóng then cài; lần đến Ngẫu Hương tạ, xa xa thấy có mấy người đang đứng tựa lan can trên bến Lục Tự, mấy đứa đầy tớ gái nhỏ lom khom tìm kiếm vật gì dưới đất. Bảo Ngọc rón rén tới sau hòn núi giả lặng nghe. Bỗng một người nói:

- Để xem nó có nổi lên không. - Dường như giọng của Lý Văn.

Một người khác cười nói:

- Thôi nó lặn mất rồi, tôi biết nó không nổi lên mà. – Đúng là giọng của Thám Xuân.

Lại một người nói:

- Phải rồi, chị ơi, chị đừng đi đầu, thế nào nó cũng nổi lên cho mà xem.

Một người khác lại nói:

- Nó nổi lên đây rồi. - Đúng là tiếng nói của Lý Ỷ và Hình Tụ Yên.

Bảo Ngọc không nhịn được, nhặt một viên gạch nhỏ, ném xuống nước, nghe bõm một tiếng, bốn cô đều giật mình nói:

- Người nào chơi ác thế? Làm chúng tôi giật mình.

Bảo Ngọc từ sau núi nhảy ra cười nói:

- Các cô chơi vui thật! Sao không gọi tôi một tiếng?

Thám Xuân nói:

- Tôi đã biết mà! Chỉ có anh Hai mới nghịch thế mà thôi. Không nói gì cả, anh phải đền con cá cho chúng tôi đi, vừa rồi một con cá nổi lên, tôi định câu thì anh làm nó sợ, nó lặn đi mất.

Bảo Ngọc cười, nói:

- Các cô chơi ở đây mà không tìm tôi, tôi còn muốn phạt các cô nữa là.

Mọi người cười một lúc. Bảo Ngọc nói:

- Bây giờ chúng ta hãy lần lượt câu cá để bói xem may rủi nhé, ai câu được thì năm nay gặp may, ai không câu được thì năm nay gặp rủi, ai câu trước nào?

Thám Xuân liền nhường Lý Văn câu trước, lý Văn không nhận. Thám Xuân cười, nói:

- Đã thế thì tôi xin câu trước.

Đoạn ngoảnh lại nói với Bảo Ngọc:

- Anh Hai này, anh mà còn đuổi con cá đi nữa thì tôi không nghe đâu.

Bảo Ngọc nói:

- Khi nãy là tôi muốn dọa các cô đấy chứ, bây giờ cô cứ tha hồ mà câu.

Thám Xuân bỏ dây câu xuống, chừng chưa nói xong câu chuyện thì đã có một con cá con cắn câu làm cho cái phao chìm xuống, Thám Xuân giật một cái, cần câu vút lên, con cá dãy đành đạch trên đất, Thị Thư chộp lấy chộp để, hai tay nắm chặt, bỏ vào lọ sứ nhỏ, đổ nước trong vào nuôi, Thám Xuân đưa cần câu cho Lý Văn, lý Văn thả câu xuống, thấy dây câu rung rinh, vội giật lên, nhưng không có gì, cô ta lại thả xuống, một chốc dây câu lại rung rinh, giật lên nhưng vẫn không có gì, lý Văn cầm câu lên xem, thì ra cái lưỡi câu cong vào phía trong, lý Văn cười:

- Chả trách câu không được.

Cô ta vội vàng bảo Tố Vân sửa lại lưỡi câu tử tế, thay mồi mới, lắp cái phao bằng mảnh sậy, rồi thả xuống, một chốc mảnh sậy chìm lỉm; Lý Văn vội giật câu lên, được một con cá diếc dài hai tấc, lý Văn cười nói:

- Anh Bảo câu đi!

Bảo Ngọc nói:

- Để cô Ba và cô Hình câu trước đi rồi tôi sẽ câu.

Tụ Yên ngồi lặng im, lý Ỷ nói:

- Anh Bảo câu trước đã.

Đang nói thì mặt nước bỗng sủi tăm, Thám Xuân nói:

- Đừng có nhường nhau mãi, các chị xem, mấy con cá đều ở phía cô Ba cả, cô Ba câu nhanh đi thôi.

Lý Ỷ cười, đỡ lấy cần câu, thả xuống được ngay một con, Sau đó Tụ Yên cũng câu được một con, liền trả cần câu cho Thám Xuân để đưa cho Bảo Ngọc. Bảo Ngọc nói:

- Tôi thì phải làm ông Khương Thái công(2) mới được.

Nói đoạn liền ra ngồi trên hòn đá bên bờ ao mà câu. Không ngờ cá ở dưới nước, trông thấy bóng người, đều chạy hết. Bảo Ngọc cầm cần câu đợi mãi vẫn không thấy sợi dây động đậy. Vừa mới thấy một con cá phun bọt lên mặt nước, Bảo Ngọc đã cầm cần câu rung rung mấy cái, cá ta sợ biến mất.

Bảo Ngọc nóng tiết nói:

- Tính tôi rất nôn nóng, mà cá lại chậm chạp, biết làm sao bây giờ? Cá ơi, lại đây mau lên! Mày cũng phải giúp ta chứ.

Bốn người nghe nói đều cười. Bỗng thấy dây câu rung rinh, Bảo Ngọc mừng quá, ra sức giật mạnh một cái, cần câu đập vào hòn đá, gãy làm hai đoạn, dây câu đứt, lưỡi câu văng đi đâu mất, mọi người càng cười ầm lên.

Thám Xuân nói:

- Chẳng có ai vụng về như anh!

Đang nói bỗng thấy Xạ Nguyệt hớt hơ hớt hải chạy đến nói:

- Cậu Hai ạ, cụ dậy rồi, gọi cậu về ngay, cậu về mau lên.

Cả năm người đều giật mình, Thám Xuân hỏi Xạ Nguyệt:

- Cụ gọi cậu Hai về có việc gì thế?

- Tôi cũng không biết. Nghe đâu chuyện gì kín, nên cụ sai tôi gọi cậu Bảo về hỏi, lại còn cho đi gọi cả mợ Hai Liễn về để hỏi nữa đấy.

Bảo Ngọc sợ ngẩn người ra một lúc rồi nói:

- Không biết lại có con a hoàn nào gặp việc rủi ro gì đây.

Thám Xuân nói:

- Chẳng biết là việc gì, anh Hai về nhanh lên, có tin gì thì bảo ngay Xạ Nguyệt tới nói cho chúng em biết nhé!

Nói đoạn, Thám Xuân cùng Lý Văn, Lý Ỷ và Tụ Yên đi về. Bảo Ngọc về đến phòng Giả mẫu, thấy Vương phu nhân đang cùng Giả mẫu đánh bài, Bảo Ngọc thấy không có việc gì mới hơi yên tâm. Giả mẫu thấy Bảo Ngọc đến, liền hỏi:

- Năm trước cháu ốm, nhờ một vị hòa thượng điên và một vị đạo sĩ khiễng chân chửa khỏi, lúc đó cháu thấy trong người như thế nào?

Bảo Ngọc nghĩ một lúc rồi nói:

- Cháu nhớ lúc mắc bệnh, hình như đang đứng thì có người lẻn đến nện một gậy vào đầu. Đau quá, cháu tối sầm mắt lại, rồi thấy khắp nhà đầy những quỉ sứ, mặt xanh nanh vàng, cầm dao, cầm gậy đánh cháu, khi lên giường nằm thì hình như có mấy cái đai thần chét lên đầu. Sau đó đau quá, không biết gì nữa, đến lúc đỡ rồi, cháu nhớ có một luồng ánh sáng màu vàng từ nhà ngoài chiếu tướng vào giường, lũ quỉ đều chạy trốn đâu mất không thấy nữa, thế là đầu cháu không đau mà trong người cũng tỉnh táo ngay.

Giả mẫu nói với Vương phu nhân:

- Xem ra không khác tình hình này là bao.

Đang nói thì Phượng Thư đi vào, chào Giả mẫu, lại ngoảnh lại chào Vương phu nhân, rồi nói:

- Bà định hỏi cháu gì thế?

- Năm nọ bị ma ám, cháu có nhớ được gì không?

- Cháu cũng không nhớ được rõ lắm, nhưng chỉ thấy mình không sao tự chủ được, hình như có người nào lôi lôi kéo kéo, bắt phải giết người mới được, thấy cái gì là vơ lấy cái ấy, thấy người nào là chỉ muốn giết người ấy, người cháu mệt nhoài, nhưng không sao dừng tay được.

- Lúc khỏi thì sao?

- Lúc khỏi thì hình như trên lưng chừng trời có người nói những câu gì, cháu không nhớ rõ.

- Thế thì đúng là nó rồi, cứ xem quang cảnh khi hai chị em chúng nó ốm, thì giống hệt như câu chuyện vừa xảy ra, con mụ già ấy độc ác thực: Bảo Ngọc nhận nó làm mẹ nuôi thật là uổng! A Di Đà Phật! May nhờ có vị hòa thượng và đạo sĩ mới cứu sống được Bảo Ngọc, nhưng ta vẫn chưa đền ơn gì cả.

Phượng Thư nói:

- Tại sao bà lại nhắc đến bệnh chúng cháu?

- Cháu cứ hỏi bà Hai, ta lười chẳng muốn nói.

Vương phu nhân nói:

- Vừa rồi ông nhà có nói đến mẹ nuôi của Bảo Ngọc là đứa bậy bạ, tà ma ngoại đạo. Bây giờ vỡ chuyện ra, bị phủ Cẩm Y bắt bỏ giam đưa sang bộ Hình. Bộ Hình định xử tội chết, mấy hôm trước có người phát giác việc con mụ ấy. Người này tên là Phan Tam Bảo gì đó, có một ngôi nhà bán cho tiệm cầm đồ ở trước mặt nhà hắn, hiệu này đã trả tiền gấp mấy lần giá tiền nhà rồi, mà Phan Tam Bảo vẫn cứ đòi, họ không chịu trả nữa. Phan Tam Bảo dấm dúi với con mụ ấy, vì mụ ta thường qua lại hiệu cầm đồ, chơi thân với bọn đàn bà trong đó, mụ ta liền phù phép bắt người vợ chủ hiệu mê sảng, làm cả nhà rối tung lên, mụ ta liền đến nói với họ rằng mình chữa được bệnh ấy. Rồi mụ ta đốt ít vàng mã ngựa giấy cúng lễ. Quả nhiên kiến hiệu, thế là mụ đòi bọn đàn bà nhà ấy phải đưa tạ mười mấy lạng bạc, ai ngờ đức Phật có mắt, việc vỡ lở ra, ngay hôm ấy mụ ta vội vã về nhà, bỏ rơi một cái bọc lụa, người trong hiệu nhặt lên xem, thấy trong có nhiều hình nhân bằng giấy và bốn viên hương gì rất thơm, mọi người đang lấy, làm lạ thì con mụ già ấy quay lại tìm bọc lụa. Người ở đó liền bắt giữ và xét trong người thì thấy một cái hộp, trong có hai ma vương khắc bằng ngà voi; một trai một gái mình trần không mặc quần áo, và bảy cái kim thêu bôi son đỏ. Lập tức, họ bắt mụ giải đến phủ Cẩm Y. Ở đấy người ta xét hỏi thì biết được nhiều chuyện bí ẩn về các bà các cô nhà quan sang, vì thế họ báo tin cho trong doanh biết, và đến khám nhà mụ, tìm được nhiều tượng nặn bằng đất, và mấy hộp muộn hương(3). Trong gian nhà trống sau giường nằm, mụ ta treo một địa đèn có bảy ông sao, dưới đèn có mấy quân môi bằng rơm. Đứa thì đầu chét đai thần, đứa thì bụng đóng đinh, đứa thì cổ mang xiềng, trong tủ có vô số là hình nhân bằng giấy. Phía dưới có mấy cuốn sổ nhỏ, trong đó ghi đã làm phép cho nhà nào được linh nghiệm, cần đòi bao nhiêu tiền. Số tiền hương đèn người ta gởi đến không biết bao nhiêu mà kể.

Phượng Thư nói:

- Bệnh của chúng cháu nhất định là nó làm, cháu nhớ khi chúng cháu khỏi, con yêu già ấy qua bên nhà dì Triệu đòi tiền mấy lần; hễ gặp cháu là mặt nó sa sầm lại, hai mắt nó cứ như con mắt gà chọi ấy, mấy lần cháu cứ nghi hoặc, nhưng không tìm ra duyên cớ tại sao? Giờ nghe nói mới vỡ lẽ. Có điều cháu đứng ra trông coi việc nhà, cố nhiên có thể làm người ta oán ghét, người ta muốn tìm cách hại cháu, chứ chú Bảo thì có thù hằn gì với ai, mà họ cũng nỡ lòng độc ác như thế?

Giả mẫu nói:

- Biết đâu lại không phải vì ta yêu cháu Bảo, không yêu thằng Hoàn, mà để vạ cho các cháu như vậy.

Vương phu nhân nói:

- Con mụ khốn nạn ấy đã bị kết án nên không thể nào gọi nó đến đây đối chứng. Không đối chứng thì dì Triệu đời nào chịu nhận. Việc này là việc lớn, nếu để vỡ lở ra, tiếng tăm không hay lắm, chi bằng để nó làm nó chịu, thế nào rồi cũng có ngày phải ra.

- Chị nói cũng phải, đã không có đối chứng thì không thể nào làm ra lẽ, chỉ có đức Phật là nhìn thấy rõ thôi, chị em chúng nó giờ đây nào có kém ai? Thôi việc đã qua rồi, cháu Phượng cũng đừng nhắc đến nữa, hôm nay mẹ con cháu ăn cơm chiều ở đây rồi hãy về.

Giả mẫu bảo Uyên Ương và Hổ Phách đi gọi dọn cơm.

Phượng Thư vội vàng cười nói:

- Tại sao bà phải bận lòng thế?

Vương phu nhân cũng cười.

Thấy mấy người đàn bà đứng chực bên ngoài, Phượng Thư vội bảo bọn a hoàn nhỏ đi gọi cơm, và nói:

- Ta và bà Hai đều ăn cơm với cụ ở đây.

Đang nói thì thấy Ngọc Xuyến chạy đến thưa với Vương phu nhân:

- Ông lớn muốn tìm thứ gì, mời bà hầu cơm cụ xong rồi về tìm hộ.

Giả mẫu nói:

- Chị đi về thôi, chắc anh ấy có việc gì cần đấy.

Vương phu nhân vâng lời, để Phượng Thư ở lại hầu, còn mình lui về. Đến phòng, Vương phu nhân gặp Giả Chính, nói chuyện suông mấy câu và tìm ra đồ vật. Giả Chính liền hỏi:

- Cháu Nghênh Xuân về rồi à? Nó ở nhà họ Tôn ra sao?

- Cháu Nghênh Xuân cứ khóc khóc mếu mếu, nói là chồng ngang ngược quá.

Rồi bà ta kể lại những điều Nghênh Xuân đã nói cho Giả Chính nghe. Giả Chính thở dài nới:

- Ta đã biết không phải là nơi xứng đáng, khốn nỗi ông Cả cứ nhận lời, ta cũng không biết làm thế nào, thế là con Nghênh Xuân đành chịu khổ mà thôi.

Nó mới về làm dâu, chỉ mong sau này vợ chồng nó ăn ở với nhau khá hơn là được.

Nói đoạn, Vương phu nhân lại phì cười. Giả Chính nói:

- Cười gì?

- Tôi cười thằng Bảo sáng nay đến đây, nói toàn là chuyện trẻ con.

- Nó nói gì?

Vương phu nhân vừa cười vừa kể lại những lời của Bảo Ngọc. Giả Chính cũng không nhịn được cười liền nói:

- Nhắc đến thằng Bảo Ngọc, tôi lại nhớ ra một việc. Thằng này cứ để mãi trong vườn, thực không nên, con gái hư thân, còn là người của nhà khác, chứ con trai hư thân thì quan hệ không phải nhỏ, hôm trước có người đến nói với tôi về một ông thầy học. Ông này học vấn và phẩm chất đều tốt, cũng là người phương Nam, nhưng tôi nghĩ, thầy học người phương Nam tính tình lại quá ư hiền lành, trẻ con nhà ta đang sống nơi đô thị, đứa nào đứa nấy, đều nghịch ngỗ phá trời, mồm mép lém lỉnh, cái gì lấp liếm được là thế nào cũng lấp liếm cho kỳ được, lại cứng đầu cứng cổ làm cho thầy học ngày ngày phải chiều như chiều vong, không dám nói nặng lời, rút cục chẳng ăn thua gì, uổng công vô ích. Vì thế các cụ trước không chịu mời thầy ở ngoài, chỉ chọn người trong họ vừa có tuổi vừa có học vấn để dạy. Giờ đây cụ Nho học vấn tuy chỉ bình thường nhưng còn trị nổi bọn chúng, không đến nỗi nuông chiều chúng quá. Tôi nghĩ cứ để thằng Bảo lêu lổng mãi không nên, chi bằng lại bắt nó vào trường nhà học tập như cũ.

- Ông nói rất phải, từ khi ông nhậm chức ở ngoài, nó cứ ốm luôn, thành ra bỏ bê trễ mất mấy năm; bây giờ lại vào trường nhà ôn tập thì rất tốt.

Giả Chính gật đầu, lại nói thêm mấy câu chuyện phiếm nữa. Hôm sau Bảo Ngọc thức dậy, chải đầu rửa mặt xong, bỗng có người hầu nhỏ vào nói:

- Ông lớn gọi cậu Hai đến nói chuyện.

Bảo Ngọc vội vàng sửa lại áo quần, đi đến thư phòng Giả Chính, hỏi thăm sức khỏe của cha rồi đứng chờ.

Giả Chính nói:

- Dạo này mày học hành thế nào? Tuy mày viết tập được ít chữ, nhưng cũng chẳng ăn thua vào đâu. Ta xem dạo này mày lại càng lười biếng hơn nhiều so với mấy năm trước. Tao lại nghe nói mày luôn luôn viện cớ đau ốm không chịu học hành, bây giờ thì đã khỏe thật rồi chứ? Ta còn nghe mày cả ngày cứ ở trong vườn chơi đùa với bọn chị em, thậm chí với cả bọn a hoàn; còn công việc chính của mình thì vứt hết. Dù mày có làm được mấy câu thơ, dăm ba bài từ, thì cũng chẳng ăn thua vào đâu, quí hóa gì cái thứ ấy? Khi thi cử, người ta vẫn lấy việc làm văn, làm bài là quan trọng hơn cả, thế mà mày lại không học gì về cách làm văn làm bài hết. Mày nhớ lấy lời ta dặn: Bắt đầu từ hôm nay, mày không được làm thơ câu đối gì hết, chỉ học làm văn bát cổ thôi. Ta hạn cho mày một năm, nếu không tiến được tý gì, thì mày đừng học hành cho tốn công, mà ta cũng không muốn có đứa con như thế nữa.

Giả Chính bèn gọi Lý Quí lại bảo:

- Ngày mai, sáng dậy, gọi thằng Bồi Dính đi theo cậu Bảo đem tất cả sách vở nó học đưa lại đây ta xem, rồi ta sẽ thân hành đưa nó vào trường nhà.

Nói đoạn ông ta quát Bảo Ngọc:

- Về đi thôi! Ngày mai đến sớm gặp ta.

Bảo Ngọc nghe nói, giờ lâu chẳng biết trả lời thế nào, lững thững đi về viện Di Hồng. Tập Nhân đang nóng lòng chờ tin tức, nghe nói bảo đi học, trong bụng cũng có ý mừng. Bảo Ngọc sai người đến kể đầu đuôi với Giả mẫu, ý muốn nhờ Giả mẫu ngăn cản giúp. Giả mẫu nghe tin, sai người gọi Bảo Ngọc đến, nói:

- Cháu cứ yên lòng đi học, đừng để cha cháu giận, có việc gì cháu thấy bực bội thì cháu nói với bà.

Bảo Ngọc không còn cách gì, đành phải trở về, dặn bọn a hoàn:

- Ngày mai gọi ta dậy sớm, ông sẽ đưa ta đi học đấy.

Tập Nhân vâng lời, cùng với Xạ Nguyệt thay phiên nhau thức suốt đêm.

Hôm sau tảng sáng, Tập Nhân gọi Bảo Ngọc dậy, chải đầu rửa mặt, thay quần áo rồi sai a hoàn nhỏ truyền gọi Bồi Dính chực ở cửa ngoài để mang sách vở và các đồ vật. Tập Nhân giục luôn mấy lần, Bảo Ngọc đành phải đi ra. Đến thư phòng, trước hết Bảo Ngọc hỏi dò xem cha mình đã đến đó chưa, người hầu nhỏ trả lời:

- Vừa rồi có một vị khách định vào gặp ông lớn để thưa chuyện gì đó, trong nhà nói ông lớn đang rửa mặt chải đầu, bảo vị khách ấy hãy đợi ở ngoài.

Bảo Ngọc nghe nói, trong bụng hơi yên, vội vàng đến chỗ Giả Chính, vừa gặp lúc Giả Chính sai người đến gọi, Bảo Ngọc liền theo vào. Giả Chính dặn dò mấy câu, rồi dẫn Bảo Ngọc lên xe. Bồi Dính mang theo sách vở đi thẳng đến trường học, người nhà đến trước trình với Đại Nho:

- Ông lớn đã đến.

Đại Nho đứng dậy, thì Giả Chính bước tới và hỏi thăm sức khỏe. Đại Nho cầm tay chào hỏi:

- Dạo này cụ có khỏe không?

Bảo Ngọc cũng tới hỏi thăm sức khỏe Đại Nho. Giả Chính mời Đại Nho ngồi, rồi mới ngồi xuống. Giả Chính nói:

- Tôi hôm nay thân hành đưa cháu đến đây, nhờ cụ dạy bảo giúp. Cháu cũng không còn bé hỏng gì nữa, cần phải học để thi cử mới mong trọn đời lập thân, thành danh được. Hiện nay, nó ở nhà chỉ chơi đùa với bọn trẻ con, tuy có hiểu được mấy câu thơ, dăm câu từ, cũng chỉ là nói nhảm viết nhảm. Dù có hay chăng nữa cũng chẳng qua là những lời gió trăng mây móc, chẳng ích gì cho đời nó cả.

Đại Nho nói:

- Tôi xem cháu mặt mũi cũng xinh đẹp, tư chất thông minh, nhưng lại cứ ham chơi, không chịu học? Việc thơ từ không phải là không nên học, nhưng sau khi đỗ đạc rồi sẽ học cũng chưa muộn.

- Đúng như thế. Giờ đây chỉ xin cụ bắt nó đọc sách, giảng sách, làm văn làm bài, nếu nó không nghe lời dạy bảo thì xin cụ hết sức kèm cặp nó, có thế mới không đến nỗi hữu danh vô thực, lỡ cả một đời.

Nói xong, Giả Chính đứng dậy vái một vái, nói vài câu chuyện phiếm rồi cáo từ rút lui ra. Đại Nho tiễn đến ngoài cửa và nói:

- Xin gởi lời thăm sức khỏe của cụ.

Giả Chính vâng lời, lên xe ra về.

Đại Nho quay vào, thấy Bảo Ngọc ngồi bên cái bàn hoa lê nhỏ, bày ở góc Tây nam, dựa vào cửa sổ, bên phải chồng hai bộ sách cũ và một tập văn bát cổ mong mỏng, gọi Bồi Dính đem giấy mực bút nghiên cất vào trong ngăn kéo. Đại Nho hỏi:

- Bảo Ngọc, ta nghe nói cháu hôm trước ốm, nay đã khỏe thật chưa?

Bảo Ngọc đứng dậy thưa:

- Khỏe thật rồi ạ.

- Bây giờ cháu nên chăm chỉ học hành, cha cháu thật hết sức tha thiết trông mong cháu nên người. Bây giờ cháu hãy đem những sách đã đọc trước bắt đầu ôn lại một lần. Hằng ngày, sáng dậy ôn lại sách, cơm xong viết chữ, trưa đến giảng sách và đọc mấy thiên bát cổ.

Bảo Ngọc “dạ” một tiếng rồi ngồi xuống, liếc nhìn xung quanh thấy thiếu mất mấy đứa trong bọn Kim Vinh ngày xưa và thêm mấy đứa học trò nhỏ, đều là bọn thô tục chẳng ra gì. Chợt nhớ đến Tần Chung, Bảo Ngọc thấy không có ai làm bầu làm bạn, để giải tỏ câu chuyện tâm tình, trong lòng buồn rầu, nhưng không dám nói ra, đành vùi đầu xem sách.

Đại Nho nói:

- Hôm nay là hôm đầu, cho cháu về sớm một chút, đến mai thì phải giảng sách đấy, cháu không phải là người dốt nát, ngày mai sẽ cho cháu giảng trước một vài chương sách cho ta nghe, xem gần đây cháu học hành ra sao, để biết được sức học của cháu đã đến thế nào rồi.

Nghe vậy trong bụng Bảo Ngọc cứ rối cả lên.

-----------------------

(1). Tức Tào Tháo người đời Tam quốc.

(2). Khương Thái Công tức Lã Vọng, tên chữ là Tử Nha. Lúc hàn vi thường ngồi câu cá ở sông Vị. Sau giúp vua Văn Vương nhà Chu, đánh được nhà Ân, phong là thái sư.

(3). Thứ hương làm cho người ta ngửi thấy thì mê man bất tỉnh.

Hồi thứ tám mươi hai

Lấy nghĩa sách giảng bày, cụ đồ già dạy răn chàng bướng;

Thấy ác mộng kinh khủng, gái Tiêu Tương hoảng sợ ngây hồn.

Bảo Ngọc ở trường học về, tới gặp Giả mẫu. Giả mẫu cười nói:

- Khá lắm, bây giờ ngựa rừng lên đã chịu lên cương rồi. Về gặp cha cháu một tý, rồi đi dạo chơi cho khuây.

Bảo Ngọc vâng lời đến gặp Giả Chính. Giả Chính hỏi:

- Sao về sớm thế? Thầy có đề ra cách học tập cho mày không?

- Dạ, thời giờ quy định như sau: sáng dậy ôn lại sách; ăn cơm xong tập viết; trưa đến giảng sách và đọc văn bát cổ.

Giả Chính gật đầu bảo:

- Con về hầu chuyện bà một lát, con trước hết phải lo học làm sao cho thành đạt nên người, chứ không nên chỉ nghĩ đến việc chơi bời, tối đến phải đi ngủ ngay để sáng mai dậy sớm đi học, con đã nghe chưa?

Bảo Ngọc vâng dạ tíu tít và lui ra ngoài, tới gặp Vương phu nhân rồi lại đến chào qua Giả mẫu, sau đó vội vàng chạy ra, mong sao mau tới quán Tiêu Tương. Vừa vào đến cửa, Bảo Ngọc vỗ tay reo nói:

- Tôi lại về đây rồi.

Đại Ngọc nghe tiếng giật mình, Tử Quyên vén màn lên, Bảo Ngọc đi vào phòng ngồi xuống ghế, Đại Ngọc nói:

- Nghe nói anh đi học kia mà, sao về sớm thế?

- Ái chà! Nguy quá! Hôm nay cha tôi thân hành đưa tôi đi học, trong bụng tôi tưởng chuyến này không gặp mặt cô nữa. Chật vật suốt một ngày. Bây giờ nhìn thấy các cô, tôi giống như chết đi sống lại, người xưa nói: “Một ngày dài ba thu”, câu ấy thật không ngoa.

- Anh đã về chào cậu mợ chưa?

- Chào rồi.

- Còn các chỗ khác nữa?

- Không.

- Anh cũng nên chịu khó đến thăm họ một tý.

- Giờ tôi không muốn đi đâu cả, chỉ ngồi đây nói chuyện với cô thôi. Cha tôi bảo tôi ngủ sớm  sáng mai dậy sớm, đến mai hãy gặp họ cũng được.

- Anh ngồi một chút rồi cũng nên về đi nghỉ thôi.

- Tôi có mệt đâu, chỉ buồn thôi, có ngồi nói chuyện với mấy cô thì mới khuây khỏa, thế mà cô lại đuổi tôi rồi đấy.

Đại Ngọc mỉm cười rồi gọi Tử Quyên:

- Đem thứ trà Long Tỉnh của ta pha cho cậu Hai một chén. Cậu Hai giờ đi học, không phải như trước nữa đâu.

Tử Quyên mỉm cười, vâng lời đi lấy trà rồi bảo a hoàn nhỏ pha.

Bảo Ngọc nói tiếp:

- Cô còn nhắc đến việc học làm gì? Tôi ngán cái trò đạo học ấy rồi. Buồn cười nhất là thứ văn bát cổ, người ta mượn nó để lừa bịp, bòn chút công danh, kiếm bát cơm ăn, nói thế còn được. Bây giờ lại còn bảo là nói thay lời thánh hiền cơ! Nhiều lắm thì chẳng qua là đem kinh truyện ra nhồi nhét vào đầu đấy thôi. Lại còn một điều buồn cười hơn nữa là những kẻ trong bụng rỗng tuếch chỉ vơ chỗ nọ bỏ chỗ kia, làm lếu làm láo mà lại cho mình là học sâu rộng. Làm thế đâu có phải là phát triển đạo lý của thánh hiền! Bây giờ cha tôi nhất thiết bảo tôi học cái ấy, tôi không dám cãi lại, thế mà cô lại còn nhắc đến chuyện đi học nữa à?

- Bọn con gái chúng em, tuy không cần thứ văn chương ấy, nhưng lúc nhỏ khi học ông Giả Vũ Thôn, em có đọc qua. Trong đó cũng có những chỗ sâu sắc, cao xa, sát với tình cảm và hợp lý. Lúc đó tuy em không hiểu lắm, nhưng cũng thấy hay hay, không thể mạt sát hết thảy. Vả chăng anh cần lập công danh thì học thứ văn ấy cũng có phần thanh nhã, cao quí chứ!

Bảo Ngọc nghe đến đó, thấy không tài nào lọt tai được, nghĩ bụng: “Xưa nay, Đại Ngọc không phải hạng người mê thế lợi, giờ sao lại thế”, nhưng cũng không dám cãi lại, đành chỉ khịt mũi cười thầm.

Hai người đang nói chuyện, chợt nghe tiếng Thu Văn và Tử Quyên nói ở bên ngoài.

Thu Văn nói:

- Chị Tập Nhân bảo tôi sang đón cậu ở nhà cụ, ai ngờ cậu lại ở đây!

Tử Quyên nói:

- Ở đây chúng tôi vừa pha trà, để cậu ấy uống xong hãy về.

Hai người cùng đi vào. Bảo Ngọc cười nói với Thu Văn:

- Tôi cũng sắp về, lại phiền chị phải đi tìm.

Thu Văn chưa kịp trả lời, thì Tử Quyên nói:

- Cậu uống mau mau mà về đi, người ta đã nhớ suốt ngày rồi.

Thu Văn nhổ toẹt một cái rồi nói:

- Khéo cái con ranh này!

Mọi người nghe nói đều cười, Bảo Ngọc đứng dậy, cáo từ ra về, Đại Ngọc tiễn ra cửa, Tử Quyên đứng trên thềm chờ Bảo Ngọc ra về rồi mới trở vào phòng.

Bảo Ngọc về đến Viện Di Hồng, thấy Tập Nhân từ trong nhà ra đón, và hỏi:

- Cậu về đấy à?

Thu Văn nói:

- Cậu về từ sớm, nhưng ở bên nhà cô Lâm.

Bảo Ngọc nói:

- Hôm nay có việc gì không?

Tập Nhân nói:

- Chẳng có việc gì, vừa rồi bà Hai bảo chị Uyên Ương tới dặn chúng tôi: “Ông nhà nổi nóng bảo cậu đi học, nếu có đứa a hoàn nào còn dám chơi đùa với cậu, thì sẽ trị tội như trị Tình Văn và Tư Kỳ trước đây”. Tôi nghĩ hầu hạ cậu lâu nay, mà được thưởng cho những lời ấy cũng thật đáng buồn!

Nói xong, chị ta sụt sùi khóc. Bảo Ngọc nói:

- Chị ạ! Chị cứ yên tâm, tôi chăm chỉ học tập thì bà sẽ không nói gì các chị nữa đâu. Đêm nay tôi còn phải xem sách, ngày mai thầy học bảo tôi giảng sách đấy. Nếu tôi có cần sai khiến gì thì đã có Xạ Nguyệt và Thu Văn. Chị đi nghỉ thôi.

Tập Nhân nói:

- Nếu cậu quả thực chịu học, thì chúng tôi rất vui mừng được hầu hạ cậu.

Bảo Ngọc ăn cơm chiều xong, bảo thắp đèn đem sách tứ thư mà mình học từ trước, giở ra xem. Nhưng biết xem từ chỗ nào đây? Đọc xong một quyển thấy hình như trong chương nào mình cũng rõ rành, nhưng xét cho kỹ thì lại không thật rõ lắm. Xem hết lời chú thích, lại đến lời giảng, lục đục mãi đến canh khuya. Bảo Ngọc nghĩ bụng: “Mình về mặt thơ từ thì thấy hiểu rất dễ dàng, mà về mặt này thì đầu óc chẳng ra sao cả”. Rồi ngẩn người ngồi nghĩ.

Tập Nhân nói:

- Cậu đi nghỉ thôi, học không phải chỉ cố gắng trong một hôm đâu mà phải làm thế?

Bảo Ngọc chỉ trả lời bâng quơ. Tập Nhân và Xạ Nguyệt hầu hạ cho Bảo Ngọc nằm xuống, rồi hai người cùng nằm ngủ. Đến khi thức giấc, thấy Bảo Ngọc vẫn trằn trọc trên giường. Tập Nhân nói:

- Cậu còn thức à? Đừng có nghĩ vơ nghĩ vẩn, phải giữ gìn sức khỏe ngày mai mà học.

- Tôi cũng nghĩ như thế, nhưng vẫn không sao ngủ được. Chị lại cất bớt cho tôi một cái chăn.

- Trời lạnh cậu đừng cất bớt chăn đi.

- Trong bụng tôi bực bội quá.

Rồi Bảo Ngọc hất chăn xuống. Tập Nhân vội vàng bò lại giữ lấy, đặt tay lên đầu thấy hơi nóng liền nói:

- Cậu nằm cho yên, người hơi nóng rồi.

- Ừ đúng đấy!

- Thế là thế nào?

- Không sợ, đó là vì bụng tôi bực bội đấy thôi, chị đừng làm ầm lên. Ông biết thế nào cũng nói tôi giả ốm để trốn học, nếu không, sao bệnh lại khéo đến đúng lúc như vậy? Ngày mai khỏe tôi vẫn đi học, thế là xong chuyện.

Tập Nhân nghe cũng thương, liền nói:

- Để tôi ngủ gần cậu.

Liền đến đấm xương sống cho Bảo Ngọc một lát, rồi hai người ngủ quên lúc nào không biết, đến khi mặt trời lên cao mới dậy. Bảo Ngọc nói:

- Chết rồi! Chậm mất rồi.

Anh ta vội vàng chải đầu rửa mặt xong, đi hỏi thăm sức khỏe mọi người rồi qua trường học ngay. Đại Nho đổi sắc mặt nói:

- Chẳng trách gì cha cháu nổi giận nói cháu hư thân, mới hôm thứ hai cháu đã lười biếng như thế. Giờ là mấy giờ rồi mới đến hả?

Bảo Ngọc kể lại việc tối hôm qua phát nóng như thế nào rồi lại đọc sách như cũ.

Chiều đến, Đại Nho nói:

- Bảo Ngọc, có một chương sách cháu lại giảng xem.

Bảo Ngọc đến xem thì thấy là chương “Hậu sinh khả úy”(1) nghĩ bụng: “Chương này còn khá! May không phải là Đại học và Trung dung”. Bảo Ngọc liền hỏi:

- Giảng như thế nào?

- Cháu cứ theo từng ý từng câu giảng lại cho kỹ lưỡng.

Bảo Ngọc trước tiên đọc to lên một lần, rồi nói:

- Chương sách này là thánh nhân khuyên lớp trẻ, họ bảo phải kịp thời cố gắng đừng để đến...

Nói đến đó Bảo Ngọc ngước đầu nhìn Đại Nho một cái, Đại Nho  biết ý, cười nói:

- Cháu cứ việc nói, giảng thì không cần phải kiêng nể gì cả. Sách Lễ ký nói “Lâm văn bất húy”(2) cháu cứ nói tiếp, đừng để đến cái gì.

Bảo Ngọc nói tiếp:

- Đừng để đến già mà không nên làm gì. Trước hết thánh nhân đem hai chữ “khả úy” để khích lệ chí khí của lớp trẻ, sau đem ba chữ “bất túc úy” (không đáng sợ) để cảnh tỉnh tương lai của lớp trẻ.

Nói xong, đứng nhìn Đại Nho, Đại Nho nói:

- Cũng được đấy, cứ giảng suốt đi nào!

Bảo Ngọc nói tiếp:

- Thánh nhân nói: Người ta sinh ra, lúc còn nhỏ, tâm tư và tài lực thông minh tài giỏi và có thể làm, thật là đáng sợ. Ai dám nói ngày sau họ không được như ta ngày nay? Nhưng nếu họ cứ nay lần mai lữa không biết chăm chỉ, đến khoảng bốn năm mươi tuổi mà không làm nên việc gì, thì hạng người đó, tuy rằng lúc trẻ hình như hữu dụng, đến lúc ấy thì trọn đời chẳng làm ai sợ nữa.

Đại Nho cười nói:

- Vừa rồi về phần ý, cháu giảng cũng rõ ràng đấy, nhưng lời lẽ có phần trẻ con, hai chữ “vô văn” không có nghĩa là không làm nên việc gì, không ra làm quan. Chữ “văn” ở đây nghĩa là mình thông suốt đạo lý, dầu không làm quan cũng là thành đạt; nếu không thế thì thánh hiền đời xưa cũng có người trốn đời không ra làm quan. Không nhẽ cũng là người không thành đạt à? Ba chữ “bất túc uý” cốt là để người ta xem xét cho cẩn thận, để đối chọi với chữ “tri “ của “yên tri” chứ không phải có nghĩa là sợ. Phải nhận rõ điểm đó mới hiểu được tinh vi, cháu có hiểu không?

- Hiểu rồi ạ.

- Còn một chương nữa cháu giảng xem.

Rồi ông ta giở qua một thiên khác, chỉ cho Bảo Ngọc. Bảo Ngọc xem thì thấy là chương “Ngô vị kiến hiếu đức như hiếu sắc giả giã”.(3) Bảo Ngọc cảm thấy chương ấy châm chọc mình, liền cười lấy lòng thầy và thưa:

- Câu này không có nghĩa gì mà giảng cả.

- Nói nhảm! Thế gặp lúc ra đề mục này, cháu cũng nói không có gì mà làm hay sao?

Bảo Ngọc bất đắc dĩ phải giảng:

- Đấy là thánh nhân thấy người ta không chịu ham đạo đức, mà thấy sắc đẹp thì rất là ham, không nghĩ rằng đạo đức là cái sẵn có ở trong bản tính con người, thế mà người lại không chịu ham nó; trái lại sắc đẹp tuy cũng đã có từ khi con người mới bẩm sinh ra, không ai là không ham, nhưng đức là thiên lý, sắc là nhân dục, thế mà người ta không chịu xem thiên lý hơn nhân dục. Đây tuy là lời than thở của Khổng Tử, mà lại có ý trông mong cho người ta trở lại đường ngay và cũng để thấy rõ rằng người ta dù có ham đức vẫn là ham một cách nông cạn, phải ham đức như ham sắc thì mới là thật ham.

- Cháu giảng thế cũng được, nhưng ta có điều này muốn hỏi: cháu đã hiểu lời nói của Thánh nhân, vậy làm sao chính mình lại phạm lấy hai cái lỗi ấy? Tuy rằng ta không ở trong nhà cháu, mà cha cháu cũng không nói với ta, nhưng thật ra những tật xấu của cháu, ta điều biết hết. Làm một con người sao lại không trông mong thành đạt? Giờ đây cháu đang ở cái thời “Hậu sinh khả uý”, “Hữu văn” hay “bất túc úy”, hoàn toàn do mình làm lấy. Nay ta hẹn cho cháu một tháng, đem những sách đã đọc, ôn lại một lượt. Rồi đọc thêm văn bát cổ trong một tháng nữa, sau đó ta sẽ ra đầu bài cho mà làm. Nếu còn nhác nhớn, nhất định ta không nghe đâu. Người xưa nói: “Muốn nên người không thể lười biếng, lười biếng thì không thể nên người”. Cháu nên nhớ những lời ta dặn.

Bảo Ngọc vâng lời. Từ hôm ấy trở đi, ngày ngày đành phải học tập theo lời thầy dạy.

Từ khi Bảo Ngọc đi học, trong viện Di Hồng rất là vắng vẻ nhàn rỗi. Tập Nhân có thể làm ít nhiều công việc, chị ta cầm kim định thêu cái bao đựng hạt cau, nghĩ bụng: “Bây giờ Bảo Ngọc đã đi học, bọn a hoàn không còn lo phiền gì nữa, nếu việc này xảy ra sớm thì Tình Văn nào đến nỗi mà phải chết?” “Máu chảy ruột mềm”, bất giác Tập Nhân chảy nước mắt, chợt nghĩ đến việc mai sau, mình vốn không phải là vợ cả của Bảo Ngọc mà chỉ là vợ lẽ. Tính tình của Bảo Ngọc mình còn nắm vững được, chỉ sợ anh ta lấy phải một người vợ cả ghê gớm thì thân mình sẽ theo gót dì Vưu và Hương Lăng mà thôi. Cứ xem ý Giả mẫu và Vương phu nhân cũng như nghe những lời Phượng Thư lộ ra, thì chắc chắn người ấy là Đại Ngọc rồi. Đại Ngọc lại là một người hay ngờ vực”. Nghĩ đến đó chị ta nóng lòng đỏ mặt, tay cầm kim không biết rơi vào chỗ nào mất. Tập Nhân liền bỏ việc chạy sang nhà Đại Ngọc để dò la tình ý.

Đại Ngọc đang xem sách, thấy Tập Nhân đến liền vui vẻ mời ngồi. Tập Nhân cũng vội vàng chạy lại hỏi:

- Mấy hôm nay người cô đã khá được nhiều rồi chứ?

- Làm gì có! Chẳng qua hơi đỡ một tý thôi, chị ở nhà làm gì thế?

- Bây giờ cậu Hai đi học, trong nhà rỗi rãi, tôi tới thăm cô, nói chuyện cho vui.

Nói xong, Tử Quyên bưng trà lại. Tập Nhân vội vàng đứng dậy nói:

- Em ngồi chơi. Hôm trước nghe Thu Văn mách em nói trộm gì chúng tôi phải không?

Tử Quyên cũng cười nói:

- Chị khéo tin lời nó à? Tôi chỉ nói cậu Hai thì đi học, cô Bảo lại về nhà, đến cả Hương Lăng cũng không sang chơi, dĩ nhiên là phải buồn.

Tập Nhân nói:

- Em còn nhắc đến Hương Lăng nữa ư? Tội nghiệp chị ta gặp phải cái mụ “hung thần” ấy, không biết chị ta chịu làm sao được. - Rồi Tập Nhân giơ hai ngón tay lên và nói: Kể ra mụ ấy còn ghê gớm hơn “mợ” này nhiều, mụ ta chẳng còn đếm xỉa gì đến thể diện nữa.

Đại Ngọc tiếp lời:

- Chị ấy chịu đựng kể cũng ghê đấy! Cô Hai Vưu tại sao mà chết?

Tập Nhân nói:

- Còn phải nói! Nghĩ lại cũng đều là người, danh phận có khác nhau đôi chút, nhưng tội gì mà độc ác như thế? Đến nỗi mất cả tiếng tăm thể diện.

Đại Ngọc xưa nay không nghe Tập Nhân nói trộm như thế, nay nghe câu ấy, chắc có dụng ý gì, liền động lòng, nói:

- Kể cũng khó nói, việc trong nhà nó như thế đấy, nếu không phải gió đông thổi bạt gió lây, thì là gió tây thổi bạt gió đông.

Tập Nhân nói:

- Đã phải làm cái hạng vợ lẽ con hầu thì trong lòng đã sợ trước rồi, còn dám khinh ai nữa.

Đang nói chuyện thì thấy một bà già từ ngoài sân hỏi vào:

- Đây có phải nhà cô Lâm không? Cô nào ở trong ấy thế?

Tuyết Nhạn ra xem, nhớ mang máng là người bên nhà Tiết phu nhân, liền hỏi:

- Có việc gì thế?

- Cô chúng lôi sai đưa đồ vật biếu cô Lâm.

- Bà hãy chờ một chút.

Tuyết Nhạn vào trong thưa lại với Đại Ngọc. Đại Ngọc bảo dẫn bà ta vào.

Bà già vào, hỏi thăm sức khỏe, chưa nói là đưa biếu cái gì, mắt cứ nhìn chòng chọc vào Đại Ngọc. Đại Ngọc thấy bực mình liền hỏi:

- Cô Bảo sai bà đưa gì thế?

- Cô chúng tôi bảo đưa biếu cô một bình quả vải ướp mật ong.

Bà ta ngoảnh đầu lại thấy Tập Nhân, liền hỏi:

- Cô này có phải là cô Hoa bên nhà cậu Bảo không?

Tập Nhân cười nói:

- Tại sao bà biết tôi?

- Chúng tôi chỉ coi nhà cho bà tôi, không hay theo bà và cô tôi ra ngoài, cho nên không biết rõ các cô. Nhưng thỉnh thoảng các cô qua bên nhà chơi nên chúng tôi cũng còn hơi biết.

Nói xong, bà ta đưa cái bình cho Tuyết Nhạn, rồi ngoảnh nhìn Đại Ngọc, cười nói với Tập Nhân:

- Chả trách bà nhà chúng lôi thường nói: “Cô Lâm với cậu Bảo thật là một đôi xinh đẹp chẳng khác tiên trên trời”.

Tập Nhân thấy bà ta ăn nói xốc nổi, vội vàng nói lảng:

- Bà mệt, ngồi uống nước trà đi.

Bà già cười hì hì nói:

- Bên chúng lôi bận lắm, còn phải sắp đặt việc cô Cầm. Cô tôi còn có hai bình vải nữa, bảo đưa biếu cậu Bảo.

Nói xong, bà ta vội vã cáo từ rồi bước ra.

Đại Ngọc tuy giận bà ta vừa rồi ăn nói thô lỗ, nhưng vì là người nhà Bảo Thoa, nên không tiện nói. Chờ cho bà ta ra khỏi cửa mới nói:

- Gởi lời cảm ơn cô Bảo nhé.

Bà già miệng vẫn lẩm bẩm: “Con người đẹp đẽ như thế, trừ cậu Bảo Ngọc ra ai mà sánh nổi”.

Đại Ngọc cứ vờ như không nghe thấy. Tập Nhân cười nói:

- Tại sao người ta hễ già là hay nói lẩn thẩn, làm cho người nghe vừa giận vừa buồn cười.

Một lúc sau, Tuyết Nhạn đưa bình vải cho Đại Ngọc xem. Đại Ngọc nói:

- Tôi chẳng buồn ăn, chị đem cất đi.

Chuyện trò một lúc. Tập Nhân ra về.

Chiều đến, sắp sửa cởi đồ trang sức, Đại Ngọc vào phòng trong ngước đầu trông thấy bình vải, không khỏi nhớ đến lời nói nhảm của bà già lúc ban ngày, cảm thấy trong lòng lòng bức rứt. Giữa quãng hoàng hôn, người vắng, Đại Ngọc nghìn sầu muôn mối, chứa chất bên lòng, nghĩ bụng: “Người mình thì yếu, tuổi cũng đã lớn, xem ý Bảo Ngọc tuy một lòng nghĩ đến mình nhưng bà và mợ lại không tỏ ý gì, rất giận là lúc cha mẹ còn sống, tại sao không sớm định việc hôn nhân cho mình”. Rồi cô la lại nghĩ: “Nếu lúc cha mẹ còn sống, mà định việc hôn nhân ở chỗ khác thì làm gì được con người tài giỏi và tốt như Bảo Ngọc? Chính lúc này còn có thể liệu được”. Nghĩ đi nghĩ lại trằn trọc miên man, Đại Ngọc thổn thức không yên, than thở một hồi, nhỏ vài giọt lệ, tình tứ thẫn thờ, để cả áo đi ngủ. Đang khi mơ mơ màng màng, bỗng thấy một a hoàn nhỏ chạy đến nói:

- Ông Giả Vũ Thôn ở ngoài muốn gặp cô.

Đại Ngọc nghĩ bụng, ta tuy học ông ta, nhưng không thể so với học trò con trai, ông ta muốn gặp ta làm gì? Vả lại ông ta đi lại với cậu ta, chẳng hề nhắc nhở tới ta một lời, ta cũng bất tất gặp phải ông ta làm gì? Rồi quay lại bảo a hoàn nhỏ:

- Trong người ta đang ốm, không thể ra tiếp ông ta được. Nhờ em hỏi thăm sức khỏe và cám ơn hộ.

- Nghe đâu ông ta đến báo tin mừng cho cô, và ở Nam Kinh có người đến đón cô nữa đấy.

Đang nói thì Phượng Thư, Hình phu nhân, Vương phu nhân, Bảo Thoa đều đến, cười nói:

- Chúng tôi trước là đến mừng, sau là tiễn cô.

Đại Ngọc hoảng lên, nói:

- Các mợ và các chị nói gì vậy?

Phượng Thư nói:

- Cô còn giả vờ ngớ ngẩn nữa thôi? Chả lẽ cô lại không biết chú Lâm thăng chức lương đạo tỉnh Hồ Bắc, lấy một bà kế mẫu rất tâm đầu ý hợp. Bây giờ cha cô nghĩ bỏ cô ở đây không ra sao cả, cho nên nhờ ông Giả Vũ Thôn làm mối, đưa cô gả cho người bà con nào đó của bà kế mẫu, nghe nói là làm vợ kế, vì thế sai người đến đón cô về. Có lẽ cô về đến nhà là về nhà chồng ngay. Việc này đều là do bà mẹ kế của cô làm chủ. Bà ta sợ dọc đường không ai trông nom cô, nên lại bảo anh Hai Liễn đưa đi.

Đại Ngọc nghe nói lạnh toát cả người. Rồi cô ta lại mơ màng nhớ, hình như cha mình quả thực đang làm quan ở đấy, trong lòng cuống lên, liền hỏi liều:

- Làm gì có việc ấy. Chị Phượng nói bậy!

Bỗng thấy Hình phu nhân liếc mắt nhìn Vương phu nhân và nói:

- Nó còn chưa tin, chúng ta về thôi.

Đại Ngọc ứa nước mắt nói:

- Hai mợ ngồi một tý đã.

Mọi người không nói gì, đều cười nhạt rồi ra về. Đại Ngọc hoảng quá nghẹn ngào khóc lóc không nói nên lời. Rồi  lại mơ màng hình như mình ở một chỗ với Giả mẫu, nghĩ bụng: “Việc này chỉ có xin với bà, hoặc giả còn có thể cứu vãn được chăng?”

Đại Ngọc vội vàng qùy xuống, ôm lấy chân Giả mẫu mà nói:

- Bà cứu cháu với! Về Nam thì chết cháu cũng không về. Vả lại đó là kế mẫu không phải mẹ đẻ cháu. Cháu xin ở đây với bà thôi.

Nhưng thấy Giả mẫu mặt mày lạnh lùng cười nói:

- Cái đó không can gì đến ta.

Đại Ngọc khóc nói:

- Bà ơi, sao lại thế?

- Làm vợ kế cũng tốt, lại được thêm một bộ đồ nữ trang.

- Cháu ở đây với bà, quyết không tiêu pha quá đáng đâu, chỉ xin bà cứu cháu.

- Không ăn thua đâu! Làm con gái nhất định là phải đi lấy chồng, cháu còn bé không biết đấy thôi, không thể ở đây mãi được đâu cháu ạ.

- Cháu ở đây tình nguyện làm người con hầu làm lấy mà ăn, cũng cứ vui lòng, xin bà làm chủ cho.

Thấy Giả mẫu không nói gì cả. Đại Ngọc lại ôm lấy Giả mẫu mà khóc:

- Bà ơi xưa nay bà rất từ bi, lại rất yêu cháu, sao đến khi nguy cấp bà lại bỏ cháu đi như thế? Cháu tuy là cháu ngoại bà, đã cách một tầng, nhưng mẹ cháu là con đẻ của bà, bà nghĩ đến mẹ cháu xin bà bênh vực cho cháu với.

Đại Ngọc vừa nói vừa đâm đầu vào lòng Giả mẫu, khóc lóc thảm thiết. Nghe Giả mẫu gọi: “Uyên Ương, mày đưa cô đi nghỉ, nó quấy tao mệt quá”. Đại Ngọc biết là không xong, kêu nài cũng vô ích, chi bằng tìm cách tự tử, liền đứng dậy chạy ra ngoài, giận mình không còn mẹ đẻ, tuy bà ngoại, các mợ và chị em ngày thường đối đãi với mình hết sức tử tế, nhưng chẳng qua cũng là giả dối cả. Thế rồi nghĩ: “Tại sao hôm nay không thấy Bảo Ngọc, nếu được gặp anh ấy, hoặc giả còn có cách gì chăng?” Liền thấy Bảo Ngọc đứng trước mặt, cười hì hì và nói: “Mừng cho cô nhé!” Đại Ngọc nghe câu ấy, lại càng cuống lên, không kể gì nữa, nắm chặt lấy Bảo Ngọc và nói:

- Gớm anh Bảo Ngọc! Hôm nay em mới biết anh là người vô tình vô nghĩa!

- Anh làm sao mà vô tình vô nghĩa? Em đã có chồng, thì bọn mình ai lo việc cho người nấy thôi.

Đại Ngọc càng nghe càng tức, càng bối rời, đành phải nắm lấy Bảo Ngọc, khóc, nói:

- Anh ơi! Anh bảo em theo ai?

- Nếu không muốn đi thì ở lại đây. Em vốn đã hứa hôn với anh, nên mới đến ở đây. Anh đối đãi với em như thế nào? Em nghĩ lại xem.

Đại Ngọc lại mơ màng nghĩ hình như mình đã gả cho Bảo Ngọc rồi, trong lòng lại đổi buồn làm vui và hỏi Bảo Ngọc:

- Em đã nhất quyết sống chết cũng theo anh, anh bảo em đi hay ở?

- Anh bảo em ở lại, nếu em không tin lời anh thì thử xem tim anh đây.

Nói xong, Bảo Ngọc cầm một cây dao nhỏ, rạch bụng một cái, máu tươi phọt ra. Đại Ngọc sợ quá, hồn xiêu phách lạc, vội vàng đưa tay nắm lấy bụng Bảo Ngọc, khóc, nói:

- Sao anh lại làm như thế này, thì anh giết em đi đã!

- Không sợ đâu! Anh bày tim gan cho em xem.

Rồi Bảo Ngọc thò tay vào chỗ rạch, cào lấy cào để. Đại Ngọc vừa run vừa khóc, lại sợ người trông thấy vỡ chuyện, cứ ôm lấy Bảo Ngọc khóc lóc thảm thiết. Bảo Ngọc nói:

- Nguy to! Quả tim anh không còn nữa, chết mất!

Nói xong trợn ngược mắt lên ngã lăn đùng ra.

Đại Ngọc khóc òa lên. Bỗng nghe Tử Quyên gọi:

- Cô! Cô! Nằm mơ gì thế? Mau mau tỉnh dậy, cởi áo ra mà ngủ.

Đại Ngọc trở mình một cái, thì ra một cơn ác mộng. Trong cổ vẫn còn nghẹn ngào, tim đập thình thịch, gối đầu đã ướt đầm, toàn thân lạnh ngắt: “Cha mẹ mình chết đã lâu, mình với Bảo Ngọc, hôn nhân chưa định, việc này do đâu mà ra?” Đại Ngọc nghĩ đến cảnh ngộ của mình trong giấc mộng, không nơi nương tựa, nếu thật Bảo Ngọc mà chết đi, thì biết làm thế nào? Qua nỗi đau khổ, cô ta suy nghĩ đau xót, tâm thần rối loạn, lại khóc một hồi, gối đầy nước mất, cả người ướt đẫm mồ hôi, gắng gượng ngồi dậy, cởi áo khoác ngoài ra, bảo Tử Quyên đắp chăn tử tế, rồi nằm xuống, cứ trằn trọc mãi không sao ngủ được. Nghe bên ngoài rả rích, vi vu giống như tiếng gió, cũng giống như tiếng mưa, một chốc lại nghe xa xa có tiếng khò khè, đó là tiếng ngáy của Tử Quyên. Đại Ngọc gắng gượng bò dậy, khoác chăn ngồi một chốc, cảm thấy một luồng gió rét từ ngách cửa sổ thổi vào, nổi gai sởn ốc, vội vàng nằm xuống. Đang mơ màng muốn ngủ thì nghe trên cành trúc không biết bao nhiêu là chim sẻ, kêu ríu rít, mảnh giấy trên khung cửa sổ sáng dần. Đại Ngọc đã tỉnh hẳn, hai mắt long lanh, ho rũ rượi một hồi lâu, Tử Quyên cũng ho mấy tiếng rồi tỉnh dậy nói:

- Cô còn chưa ngủ à? Lại ho rồi, chắc là bị gió lạnh đấy. Bây giờ trời sắp sáng rồi, nhìn ngoài cửa sổ đã rõ giấy dán. Cô hãy nằm nghỉ một lát đi, phải giữ gìn tinh thần, đừng nghĩ ngợi miên man nữa.

- Tôi có phải không muốn ngủ đâu? Nhưng mà ngủ không được nữa, chị cứ ngủ đi.

Nói đoạn Đại Ngọc ho. Tử Quyên thấy vậy, trong bụng cũng thương cảm, ngủ không được nữa. Thấy Đại Ngọc ho, chị ta vội vàng đứng dậy, bưng ống nhổ lại, lúc đó trời đã sáng thật. Đại Ngọc nói:

- Chị không ngủ nữa à?

- Trời đã sáng bạch rồi, ngủ làm gì nữa?

- Vậy thì chị thay cái ống nhổ đi.

Tử Quyên vâng lời, vội vàng cầm ống nhổ để lên bàn, mở cửa phòng đi ra, rồi khép lại, buông màn hoa xuống, đi gọi Tuyết Nhạn dậy. Lúc đổ ống nhổ thấy trong đờm có dính máu, Tử Quyên giật mình bất giác thất thanh gọi:

- Trời ơi, nguy to rồi!

Đại Ngọc ở trong nhà hỏi ra:

- Cái gì thế?

Tử Quyên biết mình lỡ lời, vội vàng nói chữa:

- Tôi buột tay một cái, suýt nữa quãng cái ống nhổ.

- Có phải đờm trong ống nhổ có gì phải không?

- Có gì đâu.

Tử Quyên nỗi lòng đau xót, ứa nước mắt ra, giọng nói đổi hẳn.

Đại Ngọc thấy trong họng mình hơi tanh tanh ngọt ngọt, bụng đã hơi nghi, lại thấy Tử Quyên ở ngoài có vẻ nhớn nhác, giờ lại nghe tiếng nói của cô ta có vẻ buồn thảm, trong lòng Đại Ngọc đã biết tám chín phần, liền gọi:

- Chị Tử Quyên! Vào đi thôi. Ở ngoài ấy khéo bị lạnh đấy.

Tử Quyên “dạ” một tiếng, tiếng nói so với trước lại càng đau đớn hơn, rõ ràng là tiếng nức nở.

Đại Ngọc nghe vậy, lạnh buốt nửa người. Thấy Tử Quyên đẩy cửa vào, còn cầm khăn lau nước mắt. Đại Ngọc nói:

- Sớm mai mới dậy làm gì mà chị khóc thế?

Tử Quyên gượng cười nói:

- Tôi có khóc đâu? Sáng nay dậy thấy con mắt hơi khó chịu. Cô hình như đêm nay dậy sớm hơn mọi hôm, phải không? Tôi nghe cô ho đến nửa đêm.

- Phải đấy! Càng muốn ngủ nhưng không ngủ được.

- Người cô không được khỏe lắm, theo ý tôi cần nên tiêu khiển cho đỡ buồn, phải giữ mình là chính. Tục ngữ hay nói: “Non xanh còn đấy, còn có củi đun”. Cô ở đây, từ cụ và bà Hai trở xuống, ai lại không thương yêu cô?

Câu nói ấy nhớ gợi lại giấc mộng. Đại Ngọc cảm thấy trong lòng nhức nhối, trước mắt tối sầm, thần sắc thay đổi hẳn. Tử Quyên vội vàng bưng ống nhổ lại, Tuyết Nhạn vỗ xương sống, một chốc cô ta mới khạc ra một miếng đờm, trong có tia máu đỏ.

Tử Quyên và Tuyết Nhạn sợ tái mặt, hai người ngồi bên cạnh trông nom. Đại Ngọc mê mệt nằm xuống. Tử Quyên xem chừng nguy cấp vội vàng hất hàm ra hiệu bảo Tuyết Nhạn đi gọi người.

Tuyết Nhạn vừa ra khỏi cửa thì thấy Thúy Lũ và Thúy Mặc cười rúc rích chạy đến. Thúy Lũ hỏi:

- Tại sao cô Lâm bây giờ còn chưa đi ra? Cô chúng tôi và cô Ba đều ở bên nhà cô Tư nói chuyện về bức tranh cái vườn của cô Tư vừa vẽ.

Tuyết Nhạn vội xua tay. Thúy Lũ và Thúy Mặc giật mình hỏi:

- Có việc gì thế?

Tuyết Nhạn đem việc vừa rồi nói rõ với hai người, hai người đều lè lưỡi nói:

- Không phải chuyện chơi! Sao các chị không đến trình với cụ? Nguy lắm đấy! Các chị sao lại vớ vẩn thế?

Tuyết Nhạn nói:

- Tôi đang định đi, thì các chị đến.

Đang nói chuyện thì nghe tiếng Tử Quyên gọi:

- Ai nói chuyện ở ngoài kia? Cô đang hỏi đấy.

Ba người vội vàng đi vào, Thúy Lũ và Thúy Mặc thấy Đại Ngọc đắp chăn nằm trên giường. Đại Ngọc thấy hai người liền hỏi:

- Ai nói với các chị mà các chị nhớn nhác thế?

Thúy Mặc nói:

- Cô chúng tôi cùng cô Vân đều ở bên nhà cô Tư, bàn bạc về bức tranh cái vườn của cô ấy, bảo chúng tôi đến mời cô, không ngờ cô lại mệt.

- Cũng không phải bệnh gì nặng, chẳng qua trong người hơi mệt, nằm một lát sẽ dậy, các chị về thưa với cô Ba và cô Vân, ăn cơm xong nếu rỗi rãi mời các cô đến đây chơi một chốc. Cậu Bảo có đến bên nhà các chị không?

Hai người trả lời: “Không”.

Thúy Mặc lại nói:

- Hai hôm nay cậu Bảo đi học, hôm nào ông lớn cũng xem xét bài vở, đâu còn có thể đi chơi rông như lúc trước được nữa?

Đại Ngọc nghe nói im lặng, hai người đứng một lát rồi lén lén đi ra.

Thám Xuân và Tương Vân đang ở bên nhà Tích Xuân bàn bạc về bức tranh “Vườn Đại quan” của Tích Xuân:

- Chỗ này hơi thừa, chỗ kia hơi thiếu, chỗ này thưa quá, chỗ kia nhặt quá.

Mọi người lại bàn việc đề thơ và sai hai người đi mời Đại Ngọc đến bàn bạc.

Chợt thấy Thúy Lũ và Thúy Mặc trở về sắc mặt hoảng hốt.

Tương Vân hỏi trước:

- Sao cô Lâm không tới?

Thúy Lũ nói:

- Cô Lâm đêm hôm qua lại ốm, ho một đêm, chúng tôi nghe Tuyết Nhạn nói cô ta ho ra máu.

Thám Xuân nghe nói ngạc nhiên hỏi:

- Thật không?

Thúy Lũ nói:

- Sao lại không thật!

Thúy Mặc nói:

- Vừa rồi chúng tôi đến thăm, thấy cô Lâm mặt mày xanh xao, giọng nói rất là yếu ớt.

Tương Vân nói:

- Đã ốm như thế, sao lại còn nói được?

Thám Xuân nói:

- Sao cô lại vớ vẩn thế? Nếu không nói được thì tức là...

Cô ta đến đó bỗng nín bặt đi.

Tích Xuân nói:

- Cô Lâm thông minh như thế, nhưng tôi xem ra thì không hiểu gì hết, bạ cái gì cũng cho là thật, nhưng việc thiên hạ nào có thật cả đâu.

Thám Xuân nói:

- Đã thế thì chúng ta qua thăm cô ta một lát, nếu thật bệnh quá nặng thì chúng ta nói với chị Cả, thưa lại với cụ, mời thầy thuốc đến xem.

Tương Vân nói:

- Phải đấy!

Tích Xuân nói:

- Các chị đi trước, chốc nữa tôi sẽ sang.

Thám Xuân và Tương Vân vịn vào a hoàn nhỏ đi đến quán Tiêu Tương. Thấy hai người bước vào phòng, Đại Ngọc lại đâm ra chạnh lòng. Rồi cô ta lại nhớ câu chuyện trong mộng: “Ngay cả bà mình cũng còn như thế, huống nữa là họ, nếu mình không mời thì họ cũng chẳng đến nào”. Trong bụng nghĩ thế, nhưng ngoài mặt không thể bỏ qua, Đại Ngọc đành phải miễn cưỡng bảo Tử Quyên đỡ dậy, mời hai người ngồi.

Thám Xuân và Tương Vân đều ngồi bên mép giường, mỗi bên một người. Thấy quang cảnh Đại Ngọc như vậy họ đều thương cảm.

Thám Xuân hỏi:

- Cô lại ốm rồi sao?

- Không can gì đâu, chỉ thấy trong người mệt lắm.

Tử Quyên ở sau lưng Đại Ngọc, lấy tay chỉ trộm cái ống nhổ. Tương Vân tuổi trẻ, tính lại bộc trực, liền giơ tay cầm ống đờm lên xem, sợ hãi nói:

- Cô nhổ ra đấy à? Chết thật!

Đại Ngọc mê mệt, nhổ ra cũng không xem kỹ, giờ nghe Tương Vân nói, ngoảnh lại xem, bất giác lạnh toát nửa người. Thám xuân thấy Tương Vân xốc nổi, vội vàng nói chữa:

- Đó chẳng qua là phế hỏa bốc lên, vương ra một vài giọt chứ có gì đâu. Cái cô Vân này thấy bất kỳ cái gì cũng cứ làm nhặng lên.

Tương Vân biết mình lỡ lời, đỏ bừng mặt. Thám Xuân thấy Đại Ngọc tinh thần uể oải, có ý mỏi mệt, vội vàng đứng dậy nói:

- Cô hãy tĩnh dưỡng gìn giữ tinh thần, chốc nữa chúng tôi sẽ lại.

- Cảm ơn hai cô nhớ đến tôi.

Thám Xuân lại dặn Tử Quyên:

- Chị phải chăm chỉ hầu hạ cô đấy.

Tử Quyên vâng lời.

Thám Xuân vừa định đi ra, thì nghe bên ngoài có người kêu gào ầm lên.

-------------------

(1). Chữ trong Luận ngữ: cả đoạn này “Hậu sinh khả úy yên tri lai giả chi bất như kim dã. Tứ thập ngũ thập nhi vô văn yên, diệc bất túc úy yên nhi hĩ”, nghĩa là lớp trẻ là đáng sợ, biết đâu sau này không như ngày nay. Người bốn, năm mươi tuổi mà không có tiếng tăm gì, thì cũng không đáng sợ.

(2). Khi giảng tới câu này không phải kiêng kỵ.

(3). Cũng ở trong Luận ngữ: Ta chưa thấy ai ham đức như ham sắc đẹp.

Hồi thứ tám mươi ba

Vào cung Vị, thăm Nguyên phi bị ốm;

Nhộn nhà cửa, làm Bảo Thoa nghẹn lời.

Thám Xuân và Tương Vân đang định đi ra, chợt nghe bên ngoài có người kêu ầm lên:

- Con ranh con kia! Cái thứ mày là hạng gì mà dám đến phá phách vườn này?

Đại Ngọc nghe nói, kêu to lên một tiếng:

- Không thể ở đây được nữa!

Rồi giơ một tay chỉ ra ngoài cửa sổ, hai mắt cứ trợn ngược lên. Đại Ngọc ở trong vườn Đại Quan, tuy được Giả mẫu thương yêu nhưng đối với người khác, việc gì cũng để ý từng ly từng tí. Nghe bà già ở ngoài cửa sổ mắng như thế, nếu như người khác thì không để ý làm gì, nhưng Đại Ngọc lại cho người ta nói móc mình. Cô ta nghĩ bụng “Mình là một vị tiểu thư nghìn vàng, chỉ vì cha mẹ mất cả, không biết người nào xui xiểm bà già ấy đến nhiếc mắng mình như thế”. Trong lòng tức tối không sao chịu nổi, cô ta đau đớn quá ngất người đi.

Tử Quyên vừa khóc vừa gọi:

- Cô sao thế? Mau mau tỉnh lại.

Thám Xuân cũng gọi, một lát sau Đại Ngọc mới hồi tỉnh, nhưng vẫn nói không ra lời, một tay vẫn chỉ ra ngoài cửa sổ.

Thám Xuân hiểu ý, mở cửa đi ra, thấy một bà già tay cầm cái gậy, đuổi một con bé lem luốc và nói:

- Tao tới đây để trông nom hoa quả cây cối trong vườn, chứ mày làm gì mà cũng đến đây? Về nhà tao sẽ đánh cho mày một trận.

Con bé kia quay đầu lại, miệng đang mút ngón tay chùn chụt mắt nhìn bà già mà cười.

Thám Xuân mắng:

- Các bà dạo này càng không có phép tắc gì nữa! Ở đây là chỗ các bà mắng người ta đấy à?

Bà già kia thấy Thám Xuân, vội vàng cười tươi nói:

- Con cháu ngoại tôi thấy tôi vào đây, nó cũng đi theo, tôi sợ nó phá, nên quát nó về, đời nào tôi lại dám mắng người ta ở đây.

- Không cần nói nhiều, ở đây cô Lâm không được khỏe, bà ra mau mau đi cho tôi.

Bà già “dạ” một tiếng, quay ra ngay, con bé cũng chạy mất.

Thám Xuân trở vào, thấy Tương Vân cứ nắm tay Đại Ngọc mà khóc. Tử Quyên một tay ôm lấy người Đại Ngọc, một tay vuốt bụng cho cô ta. Bấy giờ con mắt Đại Ngọc mới dần dần trở lại như cũ.

Thám Xuân cười nói:

- Chắc là cô nghe lời bà già kia nói mà ngờ vực phải không?

Đại Ngọc cứ lắc đầu. Thám Xuân nói:

- Bà già ấy mắng cháu ngoại, vừa rồi tôi cũng nghe thấy. Các bà ấy ăn nói thật chả biết gì cả, các bà ấy có biết kiêng nể gì đâu?

Đại Ngọc nghe nói, thở dài nắm lấy tay Thám Xuân và nói:

- Em... - Rồi lại im bặt.

Thám Xuân lại nói:

- Cô đừng có phiền lòng, tôi đến thăm cô, đó là tình nghĩa chị em. Cô lại ít người hầu hạ, chỉ cần cô yên tâm và chịu khó uống thuốc, trong bụng nên nghĩ đến những việc vui mừng. Cô sớm mạnh khỏe được ngày nào thì ngày ấy chúng ta lại lập thi xã làm thơ như cũ, thế chẳng vui sao?

Tương Vân nói:

- Như chị Ba nói đó vui biết chừng nào.

Đại Ngọc nghẹn ngào:

- Các cô cứ muốn cho tôi vui, nhưng tiếc thay tôi làm gì được có ngày ấy, chỉ sợ không khỏi thôi!

Thám Xuân nói:

- Cô nói bậy thôi, người nào không có bệnh tật kia chứ? Đã có gì đâu mà nghĩ vơ vẩn thế? Cô hãy nghỉ thôi, chúng tôi đến bên cụ, rồi chốc nữa sẽ quay trở lại. Cô cần gì cứ bảo Tử Quyên nói với tôi.

Đại Ngọc ứa nước mắt, nói:

- Em ạ! Em đến bên nhà cụ, nhờ chuyển lời tôi hỏi thăm sức khỏe, trong người tôi hơi mệt, không có bệnh gì nặng, xin cụ chớ phiền lòng.

Thám Xuân vâng lời, nói:

- Tôi biết rồi, cô cứ nằm yên thôi.

Nói xong cùng Tương Vân đi ra.

Trong lúc đó Tử Quyên đỡ Đại Ngọc nằm xuống giường, mọi việc đã có Tuyết Nhạn lo liệu, còn mình thì săn sóc cho Đại Ngọc. Nhìn Đại Ngọc, Tử Quyên đau xót trong lòng, nhưng không dám khóc. Đại Ngọc nhắm mắt một lát, nhưng không sao ngủ được. Trong vườn ngày thường tịnh mịch, nay nằm trên giường, cô ta nghe tiếng gió thổi, tiếng sâu bọ kêu, tiếng chim hót, tiếng chân người đi lại, hình như xa xa có tiếng trẻ con khóc. Tất cả những tiếng ấy, cứ xào xạc bên tai, làm cho cô ta đâm ra bực bội, liền gọi Tử Quyên buông màn xuống.

Tuyết Nhạn bưng một bát yến sào đưa cho Tử Quyên. Tử Quyên đứng ngoài màn hỏi khẽ:

- Cô húp một miếng nhé?

Đại Ngọc khẽ ừ một tiếng. Tử Quyên quay lại đưa bát yến sào cho Tuyết Nhạn, rồi lên giường đỡ Đại Ngọc ngồi dậy. Tử Quyên cầm bát yến sào, nếm thử một tý, rồi một tay ôm lấy vai Đại Ngọc; một tay bưng bát đưa lên môi Đại Ngọc. Đại Ngọc hé mắt húp hai, ba miếng, rồi lắc đầu không ăn nữa. Tử Quyên lại đưa bát cho Tuyết Nhạn, đỡ Đại Ngọc nhè nhẹ nằm xuống.

Nằm yên lặng một lát, Đại Ngọc hơi đỡ, chợt nghe ngoài cửa sổ có tiếng hỏi nhỏ:

- Em Tử Quyên có ở nhà không?

Tuyết Nhạn vội vàng đi ra, thấy Tập Nhân, liền nói khẽ:

- Mời chị vào trong nhà ngồi.

Tập Nhân cũng hỏi khẽ:

- Cô làm sao thế?

Vừa đi, Tuyết Nhạn vừa kể lại mọi việc vừa xảy ra đêm qua. Tập Nhân nghe vậy cũng kinh sợ ngơ ngác, liền nói:

- Chả trách vừa rồi Thúy Lũ đến bên chúng tôi nói cô ốm, cậu Bảo sợ quá, vội sai tôi đến xem thế nào?

Đương nói thì thấy Tử Quyên vạch màng ló đầu ra nhìn.

Trông thấy Tập Nhân, Tử Quyên vẫy tay gọi. Tập Nhân nhẹ nhàng đi tới, hỏi:

- Cô ngủ rồi à?

Tử Quyên gật đầu, hỏi lại:

- Chị cũng biết tin à?

Tập Nhân cũng gật đầu, rồi cau mày nói:

- Cứ thế này mãi thì làm thế nào? Cậu Bảo đêm hôm qua cũng làm tôi sợ gần chết.

- Sao thế?

- Đêm hôm qua khi cậu ấy đi ngủ thì không có việc gì cả. Ai ngờ nửa đêm cậu ấy kêu rầm lên là đau bụng, miệng nói lảm nhảm hình như bị dao cắt ruột, mãi đến gần sáng mới hơi đỡ, chị bảo có dễ sợ không? Hôm nay cậu ấy không đi học được, lại còn phải mời thầy uống thuốc nữa đấy.

Đang nói thì nghe Đại Ngọc lại ho ở trong màn. Tử Quyên vội vàng lại gần, bưng ống nhổ để hứng đờm. Đại Ngọc hé mắt ra và hỏi:

- Chị nói chuyện với ai thế?

- Chị Tập Nhân đến thăm cô đấy.

Lúc này Tập Nhân đã đi tới bên giường. Đại Ngọc bảo Tử Quyên đỡ dậy, một tay chỉ bên giường, mời Tập Nhân ngồi.

Tập Nhân ghé mình ngồi xuống, vội vàng tươi cười an ủi:

- Cô cứ nằm thôi.

- Tôi không hề gì đâu, các chị đừng có làm xôn xao lên thế, vừa rồi, chị nói ai nửa đêm đau bụng?

- Cậu Bảo ngẫu nhiên bị mê nhưng không can gì.

Đại Ngọc hiểu ý, biết là Tập Nhân sợ mình lo lắng. Cô ta vừa cảm kích, vừa đau thương, nhân tiện hỏi:

- Cậu ấy mê sảng thế chị không nghe cậu ấy nói gì à?

- Cũng không nói gì.

Đại Ngọc gật đầu, một hồi lâu thở phào một tiếng rồi nói:

- Các chị đừng nói với cậu Bảo là tôi ốm, coi chừng cậu ấy lại nhỡ việc học, để ông lại giận.

Tập Nhân vâng lời và khuyên:

- Cô nên nằm nghỉ thôi.

Đại Ngọc giật đầu, bảo Tử Quyên đỡ mình nằm xuống.

Tập Nhân ngồi một bên, an ủi mấy câu rồi ra về. Đến viện Di Hồng, chị ta chỉ nói Đại Ngọc hơi mệt, không phải bệnh gì nặng. Bảo Ngọc mới yên lòng.

Thám Xuân và Tương Vân ra khỏi quán Tiêu Tương đi một mạch đến nhà Giả mẫu. Thám Xuân dặn Tương Vân:

- Chốc nữa gặp cụ, em đừng có xốc nổi như thế nữa.

Tương Vân gật đầu cười, nói:

- Biết rồi, lúc nãy em khiếp quá nên mới vô ý như thế.

Lúc này hai người đã đến nhà Giả mẫu. Thám Xuân nhắc đến bệnh Đại Ngọc. Giả mẫu nghe vậy, buồn bực nói:

- Chỉ có hai cháu Ngọc là lắm bệnh tật. Con Lâm giờ đã lớn rồi, phải gìn giữ thân thể, ta thấy nó hay để ý từng ly từng tý quá.

Mọi người đều không dám nói gì. Giả mẫu liền bảo Uyên Ương:

- Mày nói với chúng nó: Ngày mai thầy thuốc đến xem cho Bảo Ngọc thì bảo sang xem cho con Lâm luôn.

Uyên Ương vâng lời đi ra, nói với bọn bà già. Bọn bà già lại truyền ra ngoài. Thám Xuân và Tương Vân ăn cơm chiều với Giả mẫu, rồi về trong vườn.

Hôm sau, thầy thuốc đến xem bệnh cho Bảo Ngọc, chẳng qua cũng nói là ăn uống không có điều độ, hơi cảm phong hàn, không quan hệ lắm, sơ tán một chút là khỏi. Vương phu nhân và Phượng Thư một mặt sai người đem đơn thuốc đến trình Giả mẫu; một mặt sai người đến nói với người ở quán Tiêu Tương:

- Thầy thuốc sắp đến rồi đấy.

Tử Quyên vâng lời, vội vàng đắp chăn cho Đại Ngọc tử tế và buông màn xuống. Tuyết Nhạn thì vội vàng dọn dẹp trong phòng.

Một lát sau, Giả Liễn đưa thầy Lang vào và nói:

- Cụ lang thường đến đây luôn, các chị không cần phải tránh.

Bà già treo màn lên. Giả Liễn mời thầy Lang vào ngồi trong phòng, rồi nói:

- Chị Tử Quyên, chị hãy kể bệnh tình của cô Lâm cho cụ Vương rõ.

Thầy lang họ Vương bảo:

- Hãy khoan, để tôi bắt mạch, và nói xem có đúng hay không. Nếu có chỗ nào sai các cô sẽ bảo tôi.

Tử Quyên liền đưa tay của Đại Ngọc từ trong màn ra, đặt trên gối dựa, rồi nhẹ nhàng giơ cái ống áo và cái vòng lên để khỏi đè lấy mạch.

Thầy Lang họ Vương bắt mạch tay này một lúc, lại bắt sang tay kia, rồi cùng Giả Liễn đi ra nhà ngoài ngồi và nói:

- Sáu mạch đều huyền(1) là do ngày thường hay tư lự mà ra.

Đang nói thì Tử Quyên cũng ra đứng phía trong cửa. Thầy lang liền bảo Tử Quyên:

- Bệnh này thường chóng mặt kém ăn uống, hay chiêm bao; mỗi lúc đến canh năm, thế nào cũng tỉnh dậy mấy lần; ban ngày dù nghe những việc không liên quan đến mình cũng cứ tức giận và hay nghi hay sợ. Ai không biết thì cho là tính tình quá gở, thực ra chỉ vì can âm bị suy kém, tâm trí hao mòn, nguyên nhân cũng đều là do bệnh ấy gây nên cả. Có đúng thế không?

Tử Quyên gật đầu, nói với Giả Liễn:

- Thầy nói rất đúng.

Thầy Lang nói:

- Thế thì được.

Nói xong, ông ta cùng Giả Liễn đi ra thư phòng kê đơn.

Bọn hầu trai đã sắp sẵn một tờ thiếp mai hồng. Thầy lang uống trà xong cầm bút viết:

“Sáu mạch huyền và chậm, vì ngày thường uất tích. Mạch “thốn” bên phải vô lực; tâm khí đã suy. Riêng mạch “quan” lại mạnh là can tà vượng hơn. Mộc khí không tiết ra được, thế nào cũng lấn tỳ thổ, vì thế mà ăn không biết ngon, thậm chí thắng cái không thể thắng; phế kim nhất định bị thương. Khí không lưu thông, ngưng tụ lại thành ra đờm; huyết theo khí mà trào lên, tất sinh ho. Đúng thì phải “Sơ can bảo phế” nuôi dưỡng tâm tỳ. Tuy có thuốc bổ, cũng không nên dùng ngay. Bây giờ hãy xin dùng bài  “Hắc tiêu dao” để khai thông trước đã, rồi sau dùng bài  “Qui phế cố kim” để uống tiếp theo. Ý định của tôi như thế, xin chờ bật cao minh xét lại mà dùng.

Viết xong, thầy lang lại kê thêm bảy vị thuốc và mấy vị thuốc dẫn. Giả Liễn cầm lên xem, hỏi:

- Huyết đang xung mà dùng được sài hồ à?

- Cậu Hai chỉ huyết sài hồ là vị thuốc có tính chất bốc lên, bệnh thổ huyết nên kiêng, không biết dùng miếng huyết(2) mà sao đi, nếu không dùng sài hồ thì không thể khai thông được khí ở kinh thiếu dương. Dùng miết huyết mà hạn chế bớt đi, làm cho nó không đến nỗi bốc lên quá, thì sài hồ có thể bồi dưỡng được can âm và ức chế được tà hỏa. Vì thế sách nội kinh nói: “Nhân thông mà dùng cách thông, nhân tắc mà dùng cách tắc”. Dùng sài hồ sao với miết huyết, chính là cách “mượn Chu Bột để yên họ Lưu”(3) đấy

- Té ra như thế, rất là tốt.

- Xin uống trước hai thang, rồi hãy thêm bớt, hoặc là đổi phương khác. Tôi còn có chút việc, không thể ngồi lâu, ngày khác sẽ tới hỏi thăm sức khỏe.

Giả Liễn tiễn thầy lang ra, và hỏi:

- Thuốc chú em tôi thì như thế thôi à?

- Cậu Hai không có bệnh gì nặng, có lẽ chỉ uống thêm một thang nữa là khỏe.

Nói xong lên xe ra về.

Giả Liễn một mặt sai người bốc thuốc, một mặt về phòng nói lại bệnh tình của Đại Ngọc và việc dùng thuốc của thầy lang cho Phượng Thư nghe. Vừa lúc đó, thấy vợ Chu Thụy chạy đến trình lại mấy việc lặt vặt. Giả Liễn nghe qua mấy câu liền nói:

- Chị thưa lại với mợ Hai thôi, tôi còn chút việc.

Nói xong Giả Liễn đi ngay, vợ Chu Thụy quay vào nói với Phượng Thư:

- Vừa rồi tôi đến bên nhà cô Lâm, xem bệnh cô ta có phần nguy lắm. Mặt không còn một chút máu, sờ người chỉ thấy xương bọc lấy da! Hỏi thì cô ta cứ chảy nước mắt, không nói gì. Sau đó cô Tử Quyên nói với tôi: cô Lâm hiện đang ốm, muốn xin cái gì cũng không dám nói. Tôi định thưa với mợ Hai xin chi trước cho hai tháng tiền lương.Vì bây giờ tiền uống thuốc tuy có quỹ chung nhưng cũng phải có ít nhiều để tiêu vặt. Tôi nhận lời cô ta và xin thưa lại với mợ.

Phượng Thư cúi đầu nghĩ một lát, rồi nói:

- Thế này nhé, tôi đưa cho cô Tử Quyên mấy lạng bạc để tiêu, cũng không cần nói với cô Lâm nữa. Còn tiền tháng thì không thể chi trước, vì một người bày trò, rồi ai cũng đòi chi trước thì làm sao được? Chị lại không nhớ việc Dì Triệu và cô Ba cãi nhau hay sao? Chẳng qua cũng chỉ vì tiền tháng đấy thôi. Gần đây chị cũng biết đấy, tiền tiêu ra thì nhiều, mà tiền thu vào thì ít, thành ra cứ phải giật gấu vá vai, người không biết cứ bảo tôi tính toán không khéo, có những kẻ đặt điều nói là tôi chuyền của về bên ngoại. Chị cũng là người đã từng lo việc chi tiêu trong nhà, tất nhiên chị biết tôi làm như thế nào?

- Thật là oan uổng chết đi được! Đối với gia đình đồ sộ như thế này, chỉ có người biết lo lắng tính toán như mợ mới làm được thôi. Đừng nói là đàn bà làm không được, dầu cho hạng đàn ông ba đầu sáu tay cũng chưa chắc đã chống đỡ nổi. Thế mà còn dám nói nhảm.

Nói đến đó chị ta lại phì cười và tiếp:

- Mợ không biết, chứ người bên ngoài lại còn nói nhảm hơn nữa kia! Trước đây nhà tôi về nhà bảo, người ngoài tưởng rằng trong phủ mình không biết bao nhiêu tiền mà kể. Có người nói: “Trong phủ Giả có cái kho mấy gian bạc, mấy gian vàng, đồ đạc trong nhà đều bịt vàng, nạm bạc hết”. Có người nói: “Con gái làm Vương phi, thế nào chả đem của cải trong cung chia một nửa cho bên ngoại. Trước đây quý phi về thăm nhà, chính mắt chúng tôi trông thấy chở về mấy xe vàng bạc, cho nên trong nhà trần thiết không khác gì cung Long Vương. Hôm nọ làm lễ tạ thần ở miếu, tiêu hết mấy vạn lạng bạc, chẳng qua là nhổ một cái lông ở trên mình con trâu mà thôi”. Có người lại còn nói: “Con sư tử ở trước cửa nhà họ, có lẽ cũng là ngọc thạch đấy! Trong vườn thì có kỳ lân bằng vàng, bị mất trộm một con rồi, chỉ còn một con thôi. Các mợ các cô trong nhà thì không cần phải nói, ngay đến các cô gái hầu cũng không phải mó đến một việc gì, cứ mực uống rượu, đánh cờ, gẩy đàn vẽ tranh, vì họ đã có người hầu hạ, chỉ việc mang là mặc lượt, đồ ăn uống trang sức đều là những vật người thường không biết đến. Còn các cô các cậu thì lại càng không phải nói, muốn đòi mặt trăng trên trời cũng có người lấy xuống cho mà chơi.

Lại còn có một bài hát:

Phủ Vinh quốc, phủ Ninh quốc

Bạc vàng của báu như bùn đất

Ăn không cùng, mặc không cùng

Rồi ra...

Nguyên câu cuối là:

  Rồi ra rút cục cũng là không.

Chị ta buột miệng nói đến đó, chợt nghĩ câu ấy không hay, nên nín bặt đi.

Phượng Thư nghe xong, biết câu này chẳng tốt lành gì, nên cũng không tiện hỏi vặn, chỉ nói:

- Những cái đó chẳng quan hệ gì, nhưng câu chuyện “kỳ lân vàng” thì ở đâu mà ra?

- Tức là con kỳ lân vàng nhỏ mà đạo sĩ già trong miếu biếu cậu Bảo đấy. Sau mất đi mấy hôm, may cô Sử nhặt được, trả lại cho cậu ấy. Thế mà bên ngoài bịa ra như thế, mợ nói những người ấy có đáng buồn cười hay không?

- Những câu chuyện ấy không đáng buồn cười, mà là đáng sợ đấy! Nhà mình càng ngày càng khó khăn, mà bên ngoài họ còn bàn tán như thế. Tục ngữ nói: “Người sợ nổi danh, lợn lành sợ béo”, huống nữa đây lại là cái tiếng hão. Sau này chẳng biết ra sao?

- Mợ lo cũng phải, nhưng trong kinh thành này, từ quán trà hàng rượu đến các ngõ đường, đâu đâu cũng nói như thế, mà cũng không phải chỉ quãng một năm nay, thì làm sao mà bịt miệng người ta được?

Phượng Thư gật đầu, bảo Bình Nhi cân mấy lạng bạc đưa cho vợ Chu Thụy và nói:

- Chị cầm lấy đưa trước cho Tử Quyên, nói rằng tôi đưa cho chị ta để mua thêm các thứ. Nếu muốn xin tiền công thì cứ việc xin chứ đừng nhắc đến câu chuyện chi tiền tháng. Chị ta là người sáng dạ, thế nào cũng hiểu lời nói của tôi. Có dịp rảnh tôi sẽ tới thăm cô Lâm.

Vợ Chu Thụy cầm lấy bạc, vâng lời đi ra.

Giả Liễn đi ra ngoài, thấy một tên hầu nhỏ đón lại thưa:

- Ông Cả gọi cậu đến hỏi chuyện.

Giả Liễn vội vàng đi sang gặp Giả Xá. Giả Xá nói:

- Vừa rồi nghe tin trong cung gọi một vị ngự y ở Thái y viện và hai người lại mục vào xem bệnh, chắc không phải là bọn cung nữ ốm đâu. Mấy hôm nay trong cung có tin tức gì về quý phi không?

- Không ạ.

- Con đi hỏi chú Hai và anh Trân xem; nếu không biết thì phải sai người đến Thái y viện dò xem mới được.

Giả Liễn vâng lời, một mặt sai người tới Thái y viện, một mặt vội vàng đi gặp Giả Chính và Giả Trân.

Giả Chính nghe nói, liền hỏi:

- Nghe tin ở đâu thế?

- Thưa vừa rồi nghe cha cháu nói.

- Cháu cùng anh Trân đi vào trong ấy dò xem.

- Cháu đã cho người đi hỏi ở Thái y viện rồi.

Giả Liễn nói xong, đi ra tìm Giả Trân, thấy Giả Trân đã từ đằng kia đi tới. Giả Liễn vội vàng kể lại câu chuyện. Giả Trân nói:

- Tôi cũng nghe tin ấy, nên tới thưa lại cùng ông Cả và ông Hai đây.

Hai người liền vào gặp Giả Chính.

Giả Chính nói:

- Nếu quả là Nguyên phi ốm thì thế nào cũng sẽ có tin.

Đang nói thì Giả Xá cũng vừa tới.

Đến trưa, người đi dò tin chưa về, người canh cửa đã vào thưa:

- Có hai vị nội giám, muốn vào gặp hai cụ.

Giả Xá nói:

- Mời vào đây.

Người canh cửa dẫn hai vị nội giám vào.

Giả Xá và Giả Chính ra đón ở cửa thứ hai, trước hết hỏi thăm sức khoẻ của quý phi, rồi cùng đi vào nhà khách mời ngồi.

Viên nội giám già nói:

- Hôm trước quý phi hơi mệt, hôm qua vâng chỉ vua cho triệu bốn người bà con vào cung thăm hỏi, cho phép mỗi người đem một a hoàn đi theo, ngoài ra không cần gì cả. Còn bà con đàn ông thì chỉ ở ngoài cửa cung đệ tên họ và quan chức vào thôi, chứ không được tự tiện vào cung. Đúng giờ thìn, giờ tỵ ngày mai thì vào, giờ thân, giờ dậu thì ra.

Giả Xá, Giả Chính đứng nghe chỉ của nhà vua, rồi lại ngồi xuống, mời viên nội giám uống trà xong, họ cáo từ ra về.

Giả Xá và Giả Chính tiễn họ ra khỏi cửa ngoài, rồi trở vào thưa với Giả mẫu. Giả mẫu nói:

Bốn người bà con, cố nhiên là ta và hai bà rồi, còn một người nữa là ai?

Không ai dám trả lời. Giả mẫu nghĩ một lát rồi nói:

- Thế nào cũng phải cháu Phượng đi mới được, vì nó biết trông nom mọi việc, cha con các anh thử ra bàn xem ai sẽ đi.

Giả Xá và Giả Chính vâng lời đi ra bàn để Giả Liễn và Giả Dung ở lại coi nhà, còn thì tất cả những người có tên hàng chữ “văn”cho đến hàng chữ “thảo” đều đi cả. Lại dặn người nhà sắp sẵn bốn cỗ kiệu lục, hơn mười cỗ xe mui cánh trả, sáng sớm mai chờ sẵn ở cửa. Bọn người nhà vâng lời.

Giả Xá và Giả Chính lại vào trong thưa lại với Giả mẫu:

- Gờ thìn, giờ tỵ vào cung, giờ thân, giờ dậu ra về, vì thế hôm nay nghỉ sớm, để mai dậy sớm, sắm sửa vào cung.

Giả mẫu nói:

- Ta biết rồi, các anh cứ về đi.

Bọn Giả Xá lui ra. Bọn Hình phu nhân, Vương phu nhân và Phượng Thư đều bàn tán về cái ốm của Nguyên phi, lại nói chuyện một lúc rồi về.

Hôm sau tảng sáng, bọn a hoàn ở các nhà thắp đèn. Các bà chải đầu rửa mặt xong, các ông cũng sắm sửa đâu vào đấy. Đến đầu giờ mão, Lâm Chi Hiếu và Lại Đại đi vào, đến cửa thứ hai thưa:

- Xe và kiệu đã sửa soạn sẵn sàng, đang chờ ở ngoài cửa.

Một lát, Giả Xá và Hình phu nhân cùng đến. Mọi người cùng ăn cơm sáng. Trước hết, Phượng Thư dìu Giả mẫu đi ra, bọn Vương phu nhân đi theo chung quanh, mỗi người mang theo một người hầu gái. Lại sai bọn Lý Quý cưỡi ngựa đi trước, chờ săn ở cửa cung để tiếp đón. Những người từ hàng chữ “văn” đến hàng chữ “thảo” đều lên xe hoặc cưỡi ngựa. Bọn người nhà lũ lượt theo sau.

Giả Liễn và Giả Dung ở lại coi nhà.

Xe và ngựa của họ Giả đều đỗ ở phía Tây, ngoài cửa cung. Một lát có hai người nội giám ra nói:

- Các bà các mợ ở phủ Giả tới thăm, xin mời vào cung, còn các ông thì đều làm lễ vấn an ở ngoài cửa Nội cung chứ không được vào.

Rồi có người ở cửa cung gọi: “mời vào mau”. Bốn cỗ kiệu của phủ Giả theo một nội giám nhỏ đi vào. Bọn đàn ông thì đi theo sau kiệu, còn người nhà thì đứng chờ ở ngoài. Khi tới gần cửa cung, có mấy người nội giám già ngồi ở đó. Thấy họ vào, bọn nội giám đứng dậy nói:

- Các ông ở phủ Giả chờ ở đây.

Bọn Giả Xá, Giả Chính liền theo thứ tự mà đứng. Mấy cỗ kiệu khiêng đến cửa cung, những người ngồi trong kiệu điều bước ra, đã có sẵn sàng mấy người nội giám nhỏ dẫn đường. Bọn Giả mẫu đều có a hoàn dìu và đi chân. Đến nhà ngủ của Nguyên phi, thấy châu ngọc huy hoàng, lưu ly chói lọi. Có hai cung nữ nhỏ truyền bảo:

- Chỉ hỏi thăm sức khỏe, còn các lễ nghi khác đều miễn.

Bọn Giả mẫu tạ ơn, đi đến trước giường hỏi thăm sức khỏe xong. Nguyên phi cho ngồi. Bọn Giả mẫu xin phép ngồi xuống.

Nguyên phi hỏi Giả mẫu:

- Gần đây bà có khỏe không?

Giả mẫu vịn vào a hoàn nhỏ, lập cập đứng dậy trả lời:

- Nhờ phúc đức lớn của Quý phi, tôi vẫn mạnh.

Nguyên phi lại hỏi thăm Hình phu nhân và Vương phu nhân, hai người đều đứng dậy trả lời. Nguyên Phi lại hỏi Phượng Thư:

- Việc ăn tiêu trong nhà ra sao?

Phượng Thư đứng dậy tâu:

- Còn có thể tùng tiệm được.

- Mấy năm nay, khen cho chị cũng chịu khó lo lắng đấy!

Phượng Thư đang định đứng dậy tâu bày, thì thấy một người cung nữ chuyển vào một danh sách có nhiều chức tước tên tuổi, xin Quý phi xem qua. Nguyên Phi cầm xem, thấy tên họ của bọn Giả Xá, Giả Chính, trong lòng chua xót, nước mắt lưng tròng. Cung nữ đưa khăn lại, Nguyên Phi một mặt lau nước mắt, một mặt truyền bảo:

- Hôm nay hơi đỡ, cho mọi người tạm nghỉ ở ngoài.

Bọn Giả mẫu lại đứng dậy tạ ơn.

Nguyên phi ứa nước mắt nói:

- Tôi không được gần gũi cha mẹ anh em, thật không bằng con nhà thường dân.

Bọn Giả mẫu đều nín khóc và nói:

- Quý phi không nên thương cảm, trong nhà đã nhờ phúc trạch của Quý phi nhiều lắm.

Quý phi lại hỏi:

- Bảo Ngọc gần đây ra sao?

Giả mẫu nói:

- Gần đây nó đã hơi chăm học, vì cha nó bắt buộc nghiêm ngặt nên hiện nay nó đã làm được văn bài.

- Như thế mới được.

Rồi sai ban yến cho bọn Giả mẫu ở cung bên ngoài. Hai người cung nữ và bọn thái giám nhỏ dẫn họ đến một cung khác. Cỗ bàn đã bày đặt chỉnh tề, ai nấy theo thứ tự ngồi xuống.

Ăn cơm xong, Giả mẫu lại dẫn ba người vào cung tạ ơn. Bịn rịn một lát, xem chừng đã đến đầu giờ dậu, không dám nán lại, họ cùng nhau cáo từ lui ra. Nguyên phi truyền cung nữ đưa đường, tiễn đến cửa cung, ngoài cửa lại có bốn thái giám nhỏ đưa ra. Giả mẫu vẫn ngồi kiệu đi ra như trước, bọn Giả Xá đón chờ, tất cả đều đi về. Đến nhà lại phải sửa soạn để ngày sau vào cung, dặn bảo mọi người đều phải đến đầy đủ.

Sau khi đuổi Tiết Bàn đi, Kim Quế ngày thường chẳng biết đấu khẩu với ai, Thu Lăng lại ở bên nhà Bảo Thoa, chỉ còn trơ có một mình Bảo Thiềm ở chung. Từ ngày làm vợ lẽ Tiết Bàn, điệu bộ của Bảo Thiềm không như trước nữa. Kim Quế thấy nó đã trở thành một tay kình địch với mình nên cũng có ý hối hận. Một hôm Kim Quế bực tức, uống mấy chén rượu, nằm ở trên giường muốn đem Bảo Thiềm ra làm món canh “dã rượu”, liền hỏi:

- Cậu Cả hôm nọ đi đâu? Chắc mày biết chứ?

- Tôi biết sao được. Với mợ, cậu ấy còn chả nói, ai mà biết được cậu ấy làm gì?

- Bây giờ còn mợ với bà gì nữa? Giang sơn này là của chúng mày rồi. Đứa khác đã có người bênh vực chẳng ai dám đụng đến. Tao dại gì mà lại đi “vuốt râu cọp” kia chứ? Nhưng mày là con hầu, tao vừa hỏi một câu, mày đã vênh cái mặt lên, chặn lời tao. Mày đã có thân, có thế, sao không bóp cổ tao chết đi, rồi cùng con Thu Lăng, đứa nào đó lên làm mợ, thế là yên chuyện. Tại sao tao lại cứ sống ở đây, để ngăn trở công việc của chúng mày?

Bảo Thiềm nghe câu ấy, đời nào chịu nhịn, nó trừng mắt lên, nhìn Kim Quế và nói:

- Chuyện vớ vẩn ấy, mợ chỉ nên nói cho người khác nghe! Tôi có nói gì mợ đâu, mợ đã không dám trêu đến người ta, thì tại sao lại hành hạ chúng tôi cho hả cơn giận? Mợ cứ giả vờ làm bộ không nghe những điều xảy ra, cứ như là người “vô sự” ấy.

Nói đến đó, Bảo Thiềm khóc lóc kêu trời, kêu đất ầm ĩ. Kim Quế càng nổi tam bành, liền bò xuống giường, định đánh Bảo Thiềm. Bảo Thiềm cũng có tính khí như Kim Quế, mảy may không chịu nhịn. Kim Quế đạp đổ hết bàn ghế chén bát. Bảo Thiềm cứ một mực kêu gào người ta ức hiếp mình, không thèm để ý đến.

Tiết phu nhân ở trong phòng Bảo Thoa thấy vậy liền bảo:

- Hương Lăng, mày sang xem và khuyên họ một chút.

Bảo Thoa nói:

- Không được đâu, mẹ đừng bảo chị ấy sang, không thể khuyên được, chỉ thêm tưới dầu vào lửa đấy thôi.

- Đã thế thì để tao sang.

- Theo ý con thì mẹ cũng không nên sang, để mặc cho họ phá, chẳng còn có cách gì nữa.

- Để như thế sao được.

Nói xong Tiết phu nhân vịn vào vai con hầu đi sang nhà Kim Quế. Bảo Thoa đành phải theo sang và dặn Hương Lăng:

- Chị ở nhà đây nhé.

Mẹ con Tiết phu nhân đến cửa phòng Kim Quế, nghe ở trong còn đang la khóc om sòm. Tiết phu nhân nói:

- Chúng mày làm cái gì kêu la ầm ĩ, đổ cửa đổ nhà, như thế còn ra thể thống gì nữa. Lại không sợ bà con liền đố chạm vách người ta chê cười sao?

Kim Quế trong nhà trả lời ngay:

- Tôi còn sợ ai chê cười nữa. Ở đây thật là ngược đời, chủ nhà không ra chủ nhà; con ở không ra con ở; vợ cả không ra vợ cả; vợ lẽ không ra vợ lẽ; thật là lộn xộn đảo điên. Ở nhà họ Hạ chúng tôi, không bao giờ có cái nề nếp ấy. Tôi không thể chịu nổi cái cảnh oan ức ở nhà các người được nữa!

Bảo Thoa nói:

- Chị Cả, mẹ thấy ở đây cãi cọ om sòm nên mới sang, nếu mẹ hỏi vội vàng không phân biệt “chị” và “Bảo Thiềm” thì chị cũng đừng lấy làm điều. Bây giờ hãy nói rõ sự ra, để rồi mọi người ăn ở hòa thuận, đỡ cho mẹ phải ngày nào cũng bận lòng vì chúng ta.

Tiết phu nhân nói:

- Phải đấy. Trước hết hãy kể lại đầu đuôi, rồi sau hãy xét đến điều sai của ta cũng chưa chậm kia mà.

Kim Quế nói:

- Cô ơi! Cô là người hiền lành độ lượng, ngày sau nhất định được nhà chồng tốt, ông chồng giỏi, quyết không như tôi, có chồng mà chịu kiếp góa bụa, không kẻ đoái hoài, để người ta đè đầu cưỡi cổ. Tôi là con người ngu dại, xin cô đừng có bắt bẻ những lời tôi nói. Tôi từ nhỏ đến giờ không có cha mẹ nào dạy bảo. Vả lại những việc vợ chồng, vợ cả vợ lẽ trong nhà chúng tôi đây, không liên quan gì đến cô cả.

Bảo Thoa nghe vậy vừa thẹn vừa tức, thấy tình cảnh mẹ như thế thì lại càng thương, đành phải nuốt giận mà nói:

- Chị Cả, tôi khuyên chị nói ít chứ! Có ai bắt bẻ chị, có ai khinh rẻ chị đâu? Không những đối với chị, ngay đối với Thu Lăng, tôi cũng chưa bao giờ nặng lời nữa là

Kim Quế nghe vậy, lại đập tay xuống giường, khóc rống lên và nói:

- Tôi bì sao được với Thu Lăng? Ngay đến vết bùn ở dưới chân nó, tôi cũng không theo kịp nữa là! Nó đến đây đã lâu, biết tính nết cô, khéo ton hót cô. Tôi mới đến, lại không quen ton hót, sao cô đem tôi ra ví với nó? Rõ thật khổ! Thiên hạ được mấy người có số làm Quý phi? Tôi khuyên cô tu lấy chút phúc đức, đừng giống như tôi, lấy phải đứa bậy bạ, chồng sống sờ sờ mà chịu cảnh góa bụa, thế mới thực báo ứng ngay trước mắt đấy.

Tiết phu nhân nghe đến đó, giận quá, không chịu nổi liền đứng dậy nói:

- Không phải là tao bênh con gái, nhưng nó thì một mực khuyên mày, mà mày cứ trêu chọc nó. Mày có cái gì không chịu được thì đừng nên gây ra với nó làm gì, cứ việc bóp cổ tao chết đi, thế còn nhẹ nhàng hơn nhiều.

Bảo Thoa vội khuyên:

- Mẹ đừng giận làm gì, chúng ta đã khuyên chị ấy, mà mình lại nổi giận, chẳng hóa cứ giận chồng giận chất mãi sao? Mẹ hãy về để chị ấy nghĩ một chút rồi sẽ nói sau.

Đoạn cô ta dặn Bảo Thiềm:

- Chị cũng đừng sinh chuyện nữa.

Nói xong Bảo Thoa theo Tiết phu nhân đi ra. Vừa qua sân, thấy a hoàn bên nhà Giả mẫu và Thu Lăng từ đằng kia lại. Tiết phu nhân hỏi:

- Chị từ đâu tới đây? Cụ có khỏe không?

A hoàn nói:

- Cụ cháu vẫn khỏe, bảo cháu đến thăm sức khỏe bà dì, cảm ơn bà dì cho món quả vải hôm trước và mừng cho cô Cầm.

Bảo Thoa hỏi a hoàn:

- Chị đến từ bao giờ?

- Cháu đến đã lâu rồi.

Tiết phu nhân biết chị ta đã nghe được câu chuyện vừa rồi, liền đỏ mặt lên, nói:

- Bây giờ nhà chúng tôi cũng không ra cái thể thống gì nữa. Bên các chị mà nghe thấy thì lại chê cười.

- Bà dì nói gì thế, nhà nào lại không có việc “va đĩa chạm bát”. Chẳng qua bà dì hay nghĩ đó thôi.

Nói xong, a hoàn theo Tiết phu nhân về phòng, ngồi một lát rồi về.

Bảo Thoa đang dặn dò Hương Lăng mấy câu, bỗng nghe Tiết phu nhân kêu:

- Bên trái sườn đau lắm!

Liền lên giường nằm, Bảo Thoa và Hương Lăng lo sợ cuống quít.

-------------------

(1). Một danh từ xem mạch của Đông y.

(2). Máu của thứ Ba Ba để sao với một số vị thuốc.

(3). Chu Bột là tướng nhà Tây Hán. Khi Lã hậu sắp cướp ngôi nhà Hán, Trần Bình lập mưu để Chu Bột vào trong quân, kêu gọi quân lính giết Lã. Ở đây ý nói dùng sài hồ chữa chứng thổ huyết là một mưu kế như là dùng Chu Bột để yên ngôi nhà Hán.

Hồi thứ tám mươi tư

Thử tài học, Bảo Ngọc được nhắc đến việc hôn nhân;

Thăm cháu ốm, Giả Hoàn càng gây thêm mối thù oán.

Tiết phu nhân bị Kim Quế trêu tức, can khí bốc lên, đâm ra đau sườn bên trái. Bảo Thoa biết rõ nguyên do, nên không chờ thầy thuốc đến xem, sai ngay người mua mấy đồng câu đằng, sắc một bát đặc, cho mẹ uống, rồi cùng Hương Lăng đấm chân vuốt bụng cho mẹ. Một lúc lâu thì đỡ. Tiết phu nhân vừa thương vừa bực: bực vì Kim Quế đểu giả mà thương Bảo Thoa biết bao dung người.

Bảo Thoa lại khuyên giải một hồi, rồi bà ta ngủ đi lúc nào không biết. Chứng can khí cũng dần dần bình phục.

Bảo Thoa khuyên:

- Mẹ đừng nên để ý bực tức những chuyện vẩn vơ ấy. Vài hôm nữa đi lại được, mẹ nên sang bên cụ và dì nói chuyện cho khuây, trong nhà đã có con và Hương Lăng trông nom; chắc chị ấy cũng chẳng dám làm gì.

Tiết phu nhân gật đầu, nói:

- Để vài hôm nữa xem đã.

Sau khi Nguyên phi khỏi bệnh, trong nhà đều vui mừng. Qua mấy hôm có mấy người nội giám già mang bạc và các thứ đồ vật đến. Họ truyền lệnh của Quí phi, vì người nhà chịu khó thăm hỏi, nên đều có ban thưởng. Bọn Giả Xá và Giá Chính thưa lại Giả mẫu. Mọi người tạ ơn xong, bọn thái giám uống trà rồi ra về. Mọi người vào nhà Giả mẫu, cười nói một hồi, bỗng thấy một bà già ở ngoài vào trình:

- Có người hầu nhỏ bên nhà ông Cả sang mời ông Cả về có việc cần.

Giả mẫu liền gọi Giả Xá:

- Anh về đi thôi.

Giả Xá vâng lời ra về.

Giả mẫu chợt nhớ đến, rồi cười nói với Giả Chính:

- Trong lòng Quý phi rất nhớ đến Bảo Ngọc, hôm trước còn hỏi riêng về nó đấy.

- Nhưng mà Bảo Ngọc không chịu chăm học, làm phụ lòng tốt của Quý phi.

- Thế mà ta lại nói tốt cho nó, bảo là gần đây nó đã làm được văn bài.

- Làm gì mà được như lời bà nói.

- Các anh thường hay gọi nó đi làm thơ, làm văn, chẳng nhẽ nó không làm được à? Bọn trẻ con phải dạy bảo từ từ chứ. Người ta hay nói “Người béo đâu phải tự một miếng ăn”.

Giả Chính nghe vậy, liền cười lấy lòng Giả mẫu nói:

- Bà nói rất phải.

- Nhắc đến Bảo Ngọc, ta còn có việc này bàn với anh: Bây giờ nó đã lớn rồi, các anh cũng cần phải để ý xem con bé nào tốt hỏi sẵn cho nó. Đó cũng là việc lớn trọn đời của nó. Đừng kể bà con xa gần, hay là giàu nghèo gì cả, chỉ cần biết rõ người con gái ấy tính nết hiền lành, mặt mũi xinh đẹp là được.

- Bà dặn bảo rất phải, nhưng có một điều: Nó muốn có vợ cho tốt, thì trước hết phải học hỏi cho nên người mới được; nếu không, cứ dở trăng dở đèn, lại làm nhầm nhỡ con gái nhà người ta, chẳng đáng tiếc sao?

Giả mẫu nghe vậy, trong lòng không vui, liền nói:

- Kể ra thì cứ mặc các người là cha mẹ lo liệu cho nó, cần gì đến ta phải bận lòng? Nhưng ta nghĩ, thằng Bảo từ nhỏ ở với ta, ta không khỏi quá nuông chiều, làm nhỡ việc lập thân của nó, cái đó cũng có đấy; có điều ta xem nó mặt mày cũng xinh đẹp, tính tình lại thật thà, vị tất đã phải là hạng người vô dụng, đến nỗi làm hại con gái nhà người ta. Không rõ có phải là ta thiên vị hay không, chứ xem ra thì nó có khá hơn thằng Hoàn. Chẳng biết các người xem thì như thế nào?

Mấy câu nói ấy làm Giả Chính áy náy, vội vàng cười, nói:

- Bà xem người nhiều, đã nói nó khá, có phúc phận, chắc là không sai. Nhưng vì con hơi nóng vội cho nó nên người, có thể trái câu nói của người xưa hóa ra “không ai biết cái tốt của con mình”(1) chăng?

Giả mẫu nghe vậy phì cười, mọi người cùng cười theo.

Giả mẫu lại nói:

- Bây giờ anh cũng đã có tuổi, lại làm quan, cố nhiên là trải đời nhiều, càng chín chắn hơn.

Nói đến đó, Giả mẫu nhìn Hình phu nhân và Vương phu nhân rồi cười:

- Khi con trẻ tuổi, tính tình anh ấy thật là kỳ quặc gấp mấy Bảo Ngọc kia đấy. Mãi đến khi lấy vợ, mới hơi hiểu việc đời. Thế mà hây giờ cứ trách cháu Bảo, ta xem cháu Bảo so với anh ấy thì còn biết người biết của hơn đấy.

Hình phu nhân, vương phu nhân đều cười, nói:

- Bà lại nhắc chuyện buồn cười đấy?

Chợt có a hoàn nhỏ đi vào bảo Uyên Ương:

- Cơm chiều đã sửa soạn xong rồi, xin cụ bà cho dọn ở đâu?

Giả mẫu nói:

- Thế thì tất cả về ăn cơm đi, chỉ để cháu Phượng và chị Trân ở đây ăn với ta thôi.

Giả Chính, Hình phu nhân, Vương phu nhân đều vâng lời. Chờ dọn cơm xong, Giả mẫu lại giục một lần nữa, họ mới ra về.

Hình phu nhân về nhà, Giả Chính và Vương phu nhân thì về phòng mình. Nhắc lại lời nói vừa rồi của Giả mẫu, Giả Chính nói:

- Bà thương yêu Bảo Ngọc như thế, chúng ta phải làm cho nó thành một người có thực học, mai sau có thể thành đạt nên người, mới không uổng công bà thương yêu nó, và cũng không đến nỗi làm hại con gái nhà người ta.

- Ông nói rất phải.

Giả Chính liền sai a hoàn trong nhà chuyển lời ra bảo Lý Quý:

- Bảo Ngọc đi học về, để nó ăn cơm xong rồi qua đây, ta có việc muốn hỏi.

Lý Quý vâng lời.

Bảo Ngọc đi học về, định qua hỏi thăm sức khoẻ, thấy Lý Quý nói:

- Ông lớn dặn cậu Hai chưa cần sang bên nhà vội, hãy cứ ăn cơm đã rồi hãy sang. Nghe nói còn có chuyện gì muốn hỏi cậu đấy.

Bảo Ngọc nghe vậy, trong bụng lại lo thầm, đành phải đến gặp Giả mẫu, rồi về vườn ăn cơm ngay. Ăn uống qua quít cho xong, Bảo Ngọc vội vàng súc miệng rồi sang ngay bên nhà Giả Chính.

Lúc này Giả Chính đang ngồi ở thư phòng. Bảo Ngọc vào hỏi thăm sức khỏe, rồi đứng hầu một bên.

Giả Chính hỏi:

- Mấy hôm nay ta bận việc nên quên bẵng, không hỏi mày. Hôm nọ mày nói thầy học bảo mày giảng sách một tháng rồi sau đó sẽ cho mày bắt đầu làm bài; nay tính ra đã gần hai tháng. Thế thì mày đã làm bài hay chưa?

- Đã làm được ba bài. Thầy nói: Hãy khoan trình với cha, làm cho khá rồi sẽ thưa lại. Vì thế, hai hôm nay, con không dám thưa.

- Đầu bài như thế nào?

- Một đầu bài là: “Ngô thập hữu ngũ nhi chí vu học”; một đầu bài là: “Nhân bất tri nhi bất uẩn”; một đầu bài nữa là: “Tắc qui Mặc”(2)

- Mày có bản nháp không?

- Bài nào cũng viết sạch, thầy lại chữa lại.

- Mày đem về nhà hay để ở trường?

- Để cả ở trường ạ.

- Cho người lấy về đây ta xem.

Bảo Ngọc vội vàng sai người bảo Bồi Dính đến trường:

- Trong ngăn bàn của ta có một tập giấy mỏng, ngoài đề hai chữ “bài làm” là đúng. Mày cầm về đây mau.

Đi một lát, Bồi Dính cầm tập giấy đưa cho Bảo Ngọc. Bảo Ngọc trình với Giả Chính. Giở ra xem, thì bài thứ nhất là: “Ngô thập hữu ngũ nhi chí vu học”. Xem mở đầu: “Thánh nhân hữu chí vu học, ấu nhi dĩ nhiên hỹ”(3). Giả Đại Nho gạch chữ “ấu” đi mà sửa chữ “thập ngũ” vào. Giả Chính nói:

- Bài của mày làm mà dùng chữ “ấu” là không nêu rõ được đầu bài, vì từ lúc nhỏ cho đến trước khi mười sáu tuổi, đều gọi là “ấu” cả. Chương sách này là thánh nhân nói công phu học vấn của người, cứ theo tuổi mà tiến dần, cho nên mười lăm, ba mươi, bốn mươi, năm mươi, sáu mươi, bảy mươi, đều phải kể rõ ra, thì mới thấy được lúc này như thế nào, đến lúc khác lại thế khác. Thầy học đổi chữ “ấu” của mày ra chữ “thập ngũ” thì rõ hơn nhiều.

Giả Chính xem đến đoạn thừa đề thấy câu văn Bảo Ngọc làm nhưng đã bị gạch đi: “Phù bất chí vu học, nhân chi thường giã”(4). Liền lắc đầu nói:

- Câu này chẳng những chứng tỏ tính khí trẻ con, mà nêu rõ bản tính của mày không phải là chí khí của người đi học.

Lại xem câu sau: “Thánh nhân thập ngũ nhi chí chi, bất diệc nan hồ”(5). Giả Chính nói:

- Câu này thì lại không ra văn nữa!

Sau đó Giả Chính mới xem đến bài chữa của Đại Nho như thế này: “Phù nhân thục bất học nhi chí vu học giả tốt tiền. Thử thánh nhân sở vi tự tín ư thập ngũ thời dư?”(6)

- Mày có hiểu tại sao lại chữa như thế không?

- Có ạ.

Giả Chính lại xem đến bài thứ hai: “Nhân bất trí nhi bất uẩn”. Trước hết ông ta xem câu chữa của Đại Nho: “Bất dĩ bất tri nhi uẩn giả, chung vô cải kỳ duyệt lạc hỹ”(7), xong rồi mới xem bài làm của Bảo Ngọc đã bị gạch đi: “Nắng vô uẩn nhân chi tâm, thuần hồ học giả dã”(8).

Giả Chính nói:

- Mày viết cái gì đây? Như vậy là câu trên chỉ làm cái đầu bài cho chữ: “Nhi bất uẩn”, còn câu dưới thì lại phạm đến ranh giới chữ “quân tử” ở đoạn dưới, nhất định phải như câu chữa mới hợp với đầu bài. Vả chăng câu dưới phải làm rõ nghĩa câu trên, mới hợp với phép tắc làm văn. Mày phải để ý cẩn thận mà nhớ cho sâu.

Bảo Ngọc vâng lời.

Giả Chính lại xem tiếp đoạn dưới thấy viết: “Phù bất tri, vị hữu bất uẩn giả dã; nhi cánh bất nhiên, thị phi do duyệt nhi lạc giả, hạt khắc trăn thử”(9). Câu cuối cùng trong bài là: “Thi thuần học giả hồ”(10). Liền nói:

- Câu này cũng sai lầm như câu mở đầu. Câu của thầy chữa cũng được, tuy không lưu loát nhưng còn xuôi hơn.

Xem đến bài “Tắc qui Mặc” xong, Giả Chính ngẩng đầu lên, nghĩ ngợi một lúc, rồi hỏi Bảo Ngọc:

- Mày đọc đến sách này rồi à?

- Thầy học nói sách Mạnh Tử dể hiểu hơn, nên giảng Mạnh Tử trước. Hôm trước vừa giảng xong, bây giờ giảng sang Luận ngữ.

Giả Chính xem vế mở đầu và vế thừa đề đều không chữa mấy. Vế mở đầu như thế này: “Ngôn ư xả Dương chi ngoại, nhược biệt vô sở qui giả yên”(11). Liền nói:

- Câu thứ hai làm được như thế này là khó lắm đấy.

Rồi xem tiếp thấy viết: “Phù Mặc phi dục qui giả dã, nhi Mặc chi ngôn dĩ bán thiên hạ hỹ, tắc xả Dương chi ngoại, dục bất qui vu Mặc đắc hồ”(12). Ông ta hỏi:

- Đây là mày làm à?

Bảo Ngọc trả lời:

- Vâng ạ.

Giả Chính gật gật đầu và nói:

- Chưa có chỗ nào xuất sắc, nhưng mới tập làm mà được thế này, cũng là khá đấy. Năm trước ta làm quan ngoài, có ra đầu bài: “Duy sĩ vi năng”(13). Bọn học trò đã học qua bài ấy của người trước, nhưng không thêm được gì, mà cứ bắt chước viết theo, đoạn ấy mày đã đọc chưa?

- Con đọc rồi ạ.

- Ta bắt mày phải có ý của mình, không được cứ lắp lại người trước. Mày chỉ làm một câu phá đề thôi cũng được.

Bảo Ngọc đành phải vâng lời, cúi đầu vắt óc ra nghĩ. Giả Chính thì chắp tay sau lưng, đứng dựa cửa ngẫm nghĩ. Bỗng thấy một tên hầu nhỏ chạy như bay ra ngoài. Nó trông thấy Giả Chính, vội vàng khép nép buông tay đứng im.

Giả Chính liền hỏi:

- Cái gì thế?

- Dì Tiết đến nhà cụ, mợ Hai truyền bảo làm cơm.

Giả Chính nghe nói, im lặng, người hầu nhỏ đi ra.

Từ khi Bảo Thoa dọn về nhà, Bảo Ngọc luôn luôn mong nhớ, nay nghe nói dì Tiết đến, tưởng là Bảo Thoa cũng đến, trong bụng cuống quít liền đánh bạo nói:

- Đã làm được câu phá đề, không biết có được không?

- Mày đọc ta nghe nào?

- “Thiên hạ bất giai sĩ giã, năng vô sản giả, diệc cận hỹ”(14)

Giả Chính nghe xong gật đầu nói:

- Cũng được đấy. Sau này làm bài, mày cần phải phân rõ giới hạn, phải nắm cho vững ý nghĩa sâu sắc của nó, rồi hãy hạ bút làm. Khi mày đến đây, bà có biết không?

- Có biết ạ.

- Thế thì mày trở về bên nhà đi.

Bảo Ngọc vâng lời, làm ra bộ chậm rãi, thong thả đi ra. Vừa đi khỏi bức bình phong ngoài cửa hành lang, đã một mạch chạy vụt đến cửa nhà Giả mẫu. Bồi Dính ở sau cuống lên, vừa chạy theo vừa gọi:

- Cậu coi chừng kẻo ngã, ông lớn đã đến đấy.

Bảo Ngọc hình như không nghe gì cả. Vừa vào đến cửa đã nghe tiếng cười, tiếng nói của Vương phu nhân, Phượng Thư và Thám Xuân. Bọn a hoàn trông thấy Bảo Ngọc vội vàng vén màn lên nói khẽ:

- Dì ở trong ấy.

Bảo Ngọc đi vào, hỏi thăm sức khỏe dì Tiết rồi tới hỏi thăm sức khỏe Giả mẫu. Giả mẫu hỏi:

- Sao hôm nay đến bây giờ cháu mới đi học về?

Bảo Ngọc kể lại đầu đuôi câu chuyện Giả Chính xem bài và bảo làm câu phá đề. Giả mẫu tỏ vẻ rất vui mừng.

Bảo Ngọc liền hỏi mọi người:

- Chị Bảo ngồi ở đâu?

Dì Tiết cười nói:

- Chị cháu không đến, đang bận ở nhà làm việc với con Hương Lăng.

Bảo Ngọc nghe nói, trong lòng buồn bực, nhưng không tiện bỏ đi ngay. Đang nói thì cơm đã dọn ra. Giả mẫu và dì Tiết ngồi trên, bọn Thám Xuân ngồi tiếp.

Dì Tiết nói:

- Còn cháu Bảo nữa?

Giả mẫu cười và nói:

- Cháu Bảo ngồi bên này với ta.

Bảo Ngọc thưa:

- Lúc đi học về, Lý Quý chuyển lời của cha cháu bảo ăn cơm rồi hãy qua, nên cháu vội vàng bảo đưa đến một đĩa đồ ăn, cháu chan nước chè vào ăn hết một bát cơm rồi mới đi. Bây giờ mới bà, dì và các chị cứ ăn đi thôi.

Giả mẫu nói:

- Đã thế thì con Phượng ngồi bên này với ta. Mẹ cháu hôm nay ăn chay, bảo mọi người cứ ăn đi thôi.

Vương phu nhân cũng nói:

- Chị cứ ăn với bà và dì thôi, đừng có chờ tôi, tôi ăn chay kia.

Phượng Thư xin phép ngồi xuống, bọn a hoàn bày chén đĩa ra. Phượng Thư cầm bình rượu rót một lượt, rồi mới về chỗ ngồi.

Mọi người uống rượu. Giả mẫu hỏi:

- Có phải vừa rồi dì nhắc đến Hương Lăng không? Trước đây tôi nghe bọn a hoàn nói “Thu Lăng”, tôi không biết là ai, sau hỏi ra mới biết là nó. Tại sao con bé ấy lại tự dưng đổi tên như thế?

Dì Tiết mặt mày đỏ bừng, thở dài một tiếng rồi nói:

- Cụ đừng nhắc đến chuyện đó làm gì! Từ khi thằng Bàn lấy phải con vợ dở hơi ấy, cả ngày cứ to tiếng với nhau. Bây giờ trong nhà lục đục không ra thể thống gì nữa. Tôi cũng bảo qua vài lần nhưng nó bướng bỉnh không chịu nghe lời, nên chẳng còn hơi sức nào mà gào với chúng nó mãi, đành để mặc nó. Chính nó chê tên con a hoàn ấy không hay mà đổi đi đấy.

- Tên thì có quan hệ gì?

- Nói ra tôi lại xấu hổ. Chẳng giấu gì cụ, có phải nó cho cái tên không hay đâu? Nghe nói là tên ấy do con Bảo đặt, nên nó cố ý đổi đi.

- Vì sao thế?

Dì Tiết luôn luôn cầm khăn tay chùi nước mắt, chưa kể đã thở dài, nói:

- Cụ còn chưa biết sao! Bây giờ con dâu nhà tôi cứ cố ý trêu tức con Bảo. Hôm trước cụ sai người đến thăm hỏi, giữa lúc trong nhà tôi đang cãi nhau ầm lên đấy.

Giả mẫu vội vàng hỏi:

- Hôm trước nghe nói dì đau tức, định sai người sang hỏi thăm. Sau nghe nói dì khỏi rồi, nên thôi. Theo ý tôi thì dì đừng phiền lòng vì chuyện của bọn chúng làm gì. Bọn chúng cũng là vợ chồng trẻ mới về với nhau, ít lâu rồi sẽ tử tế thôi. Tôi xem con Bảo tính cách dịu dàng, hòa nhã, tuy tuổi còn trẻ nhưng so với người lớn thì hơn nhiều. Hôm trước con a hoàn nhỏ về nói chuyện, chúng tôi ở đây đều khen. Thật là trăm người không có một người bụng dạ tính khí như nó! Không phải tôi nói quá khen chứ nó mà về làm dâu nhà người ta thì bố mẹ chồng nào chẳng thương yêu, người trong nhà ai chẳng kính phục.

Bảo Ngọc ban đầu nghe đã chối tai, định tìm cách chuồn, nhưng khi nghe đến câu chuyện ấy, lại ngồi xuống ngẩn người ra nghe mãi.

Dì Tiết nói:

- Không ăn thua. Cháu Bảo tuy khá, nhưng rút cục vẫn là con gái. Sinh ra cái thằng Bàn ngu ngốc ấy, tôi thật không yên lòng, chỉ sợ nó ra ngoài uống rượu, gây chuyện không hay. May được cậu Cả cậu Hai ở nhà cụ đây thường thường chơi với nó, tôi cũng đỡ lo.

Bảo Ngọc nghe nói đến đó, đỡ lời ngay:

- Dì cũng đừng lo, những người anh Tiết quen biết, đều là hạng buôn bán đứng đắn có thể diện, làm gì mà sợ sinh chuyện?

Dì Tiết cười nói:

- Nếu như cháu nói, có lẽ cũng không cần phải bận lòng nữa.

Mọi người ăn cơm xong. Bảo Ngọc cáo từ trước, nói là đêm còn phải đọc sách, rồi ra về.

Trong này bọn a hoàn vừa bưng trà lên, thì thấy Hổ Phách ghé vào tai Giả mẫu nói mấy câu. Giả mẫu liền nói với Phượng Thư:

- Cháu về mau xem con Xảo ra sao?

Phượng Thư nghe nói, còn chưa biết việc gì. Mọi người cũng đều sửng sốt, Hổ Phách nói với Phượng Thư:

- Vừa rồi chị Bình sai a hoàn nhỏ đến thưa với mợ Hai: em Xảo trong người không được khỏe, mời mợ về mau một chút mới được.

Giả mẫu nói:

- Cháu cứ về mau, dì cũng là người nhà thôi.

Phượng Thư vội vàng vâng lời, cáo từ dì Tiết ra về.

Vương phu nhân nói:

- Chị  về trước đi, ta sẽ sang ngay. Con bé còn yếu bóng vía, bảo bọn a hoàn đừng làm ầm ĩ lên. Phải giữ mèo chó trong nhà nữa, trẻ con thường hay quặt quẹo thế đấy.

Phượng Thư vâng lời, cùng a hoàn nhỏ về phòng.

Dì Tiết lại hỏi đến bệnh tình của Đại Ngọc, Giả mẫu nói:

- Con Lâm vẫn thế thôi. Vì nó hay lo nghĩ, thành ra người nó cứ yếu luôn. Về mặt thông minh thì nó cũng không thua kém gì con Bảo là mấy, nhưng về mặt biết rộng rãi, bao dung đối với người khác thì không được như con Bảo.

Dì Tiết lại kể vài câu chuyện suông, rồi nói:

- Mời cụ đi nghỉ, tôi cũng phải về, kẻo ở nhà chỉ còn con Bảo và con Hương Lăng thôi. Nhân tiện tôi qua bên dì cháu cùng đến thăm cháu Xảo một chút.

- Phải đấy, dì đã có tuổi đến thăm cháu một chút xem ốm đau ra sao, nói cho chúng nó biết để khỏi lo.

Dì Tiết cáo từ, cùng Vương phu nhân đi sang nhà Phượng Thư.

Giả Chính thử tài Bảo Ngọc một lúc, trong lòng khoan khoái, đi ra ngoài. Nhân câu chuyện phiếm với bọn môn khách, ông ta nhắc lại chuyện vừa rồi. Trong đó có một người khách mới đến, rất cao cờ, tên là Vương Nhĩ Điều, tự là Tác Mai, thưa:

- Cứ như chúng tôi xem thì học vấn của cậu Hai đã tiến lắm.

Giả Chính nói:

- Tiến gì đâu? Chẳng qua nó mới hiểu tý chút thôi. Nhắc đến hai chữ “học vấn” e còn sớm quá!

Thiềm Quang nói:

- Đó là ông lớn nói khiêm tốn đó thôi. Chẳng những anh Vương nói, mà theo ý chúng tôi thì cậu Bảo nhất định sau này sẽ đỗ cao.

Giả Chính cười, nói:

- Các vị quá yêu nó đấy thôi.

Vương Nhĩ Điều lại nói:

- Vãn sinh có một câu, không ngại nông nổi, muốn nói với ông lớn.

- Việc gì thế?

- Nhà cụ Trương đã từng làm quan đạo Nam thiều, cũng là nơi quen biết với tôi, có một cô gái đức hạnh, nhan sắc, nữ công đều khá và chưa nhận lễ hỏi của ai. Ông ta không có con trai, gia tư có hàng mấy vạn, nhưng đòi hỏi phải được con nhà phú quí song toàn, lại trội hơn người ta thì mới chịu gả. Tôi đến đây đã hai tháng, xem phẩm cách và sức học của cậu Bảo thế nào cũng thành đạt lớn. Còn gia thế của ông lớn đây thì chẳng phải nói gì nữa! Nếu tôi đến bên ấy, chắc chắn nói một lời là xong việc ngay.

- Cháu Bảo cũng đến tuổi hỏi vợ rồi, và mẹ tôi cũng thường nhắc đến, nhưng đối với cụ Trương thì xưa nay chúng tôi chưa biết rõ.

Thiềm Quang nói:

- Nhà họ Trương mà anh Vương nói đấy tôi cũng biết. Nhà này là bà con với bên ông Cả. Ông lớn cứ hỏi là biết ngay.

Giả Chính nghĩ một lúc rồi nói:

- Tôi chưa hề nghe ông Cả nói là có bà con với nhà ấy.

- Ông lớn không biết, chứ nhà họ Trương là bà con với ông cậu Cả Hình đấy.

Giả Chính nghe nói, mới biết. Mọi người nói chuyện một lúc nữa, rồi Giả Chính vào nhà trong, định nói với Vương phu nhân để hỏi lại Hình phu nhân, không ngờ Vương phu nhân đã cùng dì Tiết đi sang nhà Phượng Thư để thăm Xảo Thư rồi.

Đến lúc lên đèn, Tiết phu nhân ra về, Vương phu nhân mới về phòng. Giả Chính kể lại câu chuyện của Vương Nhĩ Điều và Thiềm Quang cho Vương phu nhân nghe, rồi hỏi:

- Cháu Xảo ra sao?

- Xem như nó bị chứng kinh phong ấy.

- Không đến nỗi nguy lắm chứ?

- Xem chừng có vẻ phát sài, nhưng chưa lên cơn.

Giả Chính nghe xong “hừ” một tiếng, không nói gì cả, rồi ai nấy đi ngủ.

Hôm sau Hình phu nhân sang nhà Giả mẫu, hỏi thăm sức khỏe, Vương phu nhân liền nhắc đến việc nhà họ Trương, một mặt thưa lại với Giả mẫu, một mặt hỏi Hình phu nhân.

Hình phu nhân nói:

- Nhà họ Trương tuy là bà con, nhưng mấy năm nay, tôi không đi lại, không biết con gái nhà họ ra sao. Hôm trước bà thông gia họ Tôn sai một bà già đến hỏi thăm, có nhắc đến việc nhà họ Trương. Bà ta bảo, nhà họ có cô con gái, nhờ bà thông gia họ Tôn xem bên này có đám nào xứng đáng thì mách giùm. Nghe nói nhà họ chỉ có một mình cô ấy, nên rất nâng niu chiều chuộng. Cô ta cũng có biết ít nhiều chữ nghĩa, tính tình nhút nhát, thường ở trong nhà, không dám đi đâu. Cụ Trương lại nói: Cụ chỉ có một mình cô ấy, không muốn gả về nhà người ta, sợ bố mẹ chồng nghiêm ngặt, cô ta không chịu nổi. Vì thế đòi hỏi ai lấy cô ta phải đến đấy ở rể, trông nom việc nhà cho họ.

Giả mẫu nói ngay:

- Thế thì nhất định không được. Bảo Ngọc nhà mình nhờ người khác hầu hạ còn chưa xong, lại đi trông nom việc nhà cho người ta được à?

Hình phu nhân nói:

- Đúng như lời cụ nói đấy.

Giả mẫu nói với Vương phu nhân:

- Chốc nữa chị nói với anh ấy rằng, việc kết hôn với nhà họ Trương không được đâu.

Vương phu nhân vâng lời. Giả mẫu lại hỏi:

- Hôm qua các chị xem bệnh chắt Xảo ra sao? Ban đầu con Bình đến nói với ta, bảo là nó mệt lắm, ta cũng muốn qua thăm một tý.

Hình phu nhân và Vương phu nhân đều nói:

- Cụ thương yêu nó quá, nó đáng đâu được thế.

- Không riêng việc gì nó, ta cũng muốn đi lại một chút cho dãn xương dãn cốt. Các người cứ về ăn cơm đi, chốc nữa cùng ta qua bên ấy.

Hình phu nhân và Vương phu nhân vâng lời, ai về nhà nấy. Một lúc sau, ăn cơm xong, hai người đều trở lại cùng Giả mẫu đi sang nhà Phượng Thư. Phượng Thư vội vàng chạy ra chào đón.

Giả mẫu hỏi:

- Chắt Xảo thế nào?

- Xem có vẻ muốn lên cơn sài.

- Thế mà không mau mau mời thầy xem gấp đi?

- Đã đi mời thầy rồi ạ.

Giả mẫu cùng Hình phu nhân và Vương phu nhân vào phòng thì thấy bà vú đang bồng Xảo Thư trong một cái chăn bông lụa màu hồng điều, sắc mặt con bé nhợt nhạt, đầu mày và mũi hơi giật giật. Xem qua một tý rồi bọn Giả mẫu ra ngoài ngồi nói chuyện. Bỗng một a hoàn nhỏ thưa với Phượng Thư:

- Ông lớn sai người đến hỏi em sao rồi?

Phượng Thư nói:

- Đang đi mời thầy, chốc nữa xem bệnh, kê đơn cho cháu xong sẽ sang thưa lại với ông lớn.

Chợt nhớ đến việc nhà họ Trương, Giả mẫu nói với Vương phu nhân:

- Chị nên nói với anh ấy, đừng để nói rồi lại bỏ.

Giả mẫu lại hỏi Hình phu nhân:

- Tại sao bây giờ nhà chị không đi lại với nhà họ Trương nữa?

- Kể ra thì họ Trương cũng không thể làm thông gia với nhà ta được. Họ ăn ở khe khắt quá, không xứng đáng với Bảo Ngọc.

Phượng Thư nghe nói, biết tám chín phần, liền hỏi:

- Mẹ nói chuyện hôn nhân của chú Bảo phải không?

Hình phu nhân nói:

- Phải đấy!

Giả mẫu liền đem câu chuyện vừa rồi nói với Phượng Thư.

Phượng Thư cười, nói:

- Không phải trước mặt bà và hai mẹ mà cháu dám nói leo chứ hiện có mối nhân duyên trời định đó, cần gì lại đi tìm nơi khác?

Giả mẫu cười, hỏi:

- Ở đâu?

Phượng Thư nói:

- Một bên “ngọc báu”, một bên “khóa vàng” mà sao bà lại quên mất?

- Hôm qua, cô cháu ở đây, sao cháu không nhắc?

- Bà và hai mẹ ở đây, cháu là trẻ con làm gì dám nói. Vả lại dì sang thăm bà, mà ta nhắc đến chuyện đó sao tiện? Hai mẹ phải qua hỏi bên đó mới phải.

Giả mẫu cùng Hình phu nhân và Vương phu nhân đều cười.

Giả mẫu lại nói:

- Ta thật là lú lẫn hết.

Đang nói chuyện thì có người vào thưa:

- Thầy thuốc đã đến.

Giả mẫu cứ ngồi ở nhà ngoài. Hình phu nhân và Vương phu nhân thì tránh sang một bên.

Thầy thuốc cùng Giả Liễn đi vào, hỏi thăm sức khỏe của Giả mẫu, vào phòng thăm bệnh, đoạn ra đứng khom lưng thưa với Giả mẫu:

- Cháu nhỏ một phần là nóng ở trong, một phần là kinh phong. Trước hết cần uống một thang phát tán phong đàm, rồi uống đến “tứ thần” mới được, vì bệnh tình hơi nặng. Hiện nay ngưu hoàng đều giả cả, phải tìm cho ra ngưu hoàng thật mới dùng được.

Giả mẫu ngỏ lời cảm ơn. Thầy thuốc theo Giả Liễn ra ngoài kê đơn rồi về.

Phượng Thư nói:

- Nhân sâm thì trong nhà ta có sẵn, chứ ngưu hoàng sợ chưa chắc đã có, phải ra mua ở ngoài, nhưng cần thứ thật mới được.

Vương phu nhân nói:

- Để ta sai người qua bên nhà dì tìm xem. Thằng Bàn lâu nay hay buôn bán với bọn khách phương Tây, có thứ thật cũng chưa biết chừng. Ta sẽ bảo người đi hỏi xem.

Đang nói chuyện thì bọn chị em đều đến thăm. Họ ngồi một chốc, rồi cùng Giả mẫu về.

Thuốc sắc được, đổ cho Xảo Thư uống. Nghe nó khạc một tiếng, nhổ ra cả đờm lẫn thuốc. Phượng Thư mới hơi yên lòng. Vừa lúc đó một a hoàn nhỏ ở bên nhà Vương phu nhân cầm một gói giấy đỏ nhỏ đến, nói:

- Mợ Hai ạ, ngưu hoàng đây rồi. Bà hai dặn là mợ phải cân cho đúng đồng cân đồng lạng.

Phượng Thư nghe lời, cầm lấy ngưu hoàng, bảo Bình Nhi pha chế trân châu, băng phiến, châu sa, rồi sắc lên. Phượng Thư cân ngưu hoàng theo như trong đơn, hòa vào thuốc, chờ Xảo thư ngủ dậy sẽ cho uống. Chợt thấy Giả Hoàn vạch màn bước vào nói:

- Chị Hai, cháu Xảo nhà chị ra sao rồi? Đẻ tôi bảo tôi đến thăm cháu một tý.

Phượng Thư hễ thấy mẹ con nhà nó là ghét, liền nói:

- Cháu đã đỡ rồi, em về nói là chị cảm ơn dì nhé.

Giả Hoàn miệng thì vâng dạ, nhưng mắt cứ nhìn khắp nơi. Hắn nhìn một lát rồi hỏi Phượng Thư:

- Ở đây nghe nói có ngưu hoàng, không biết ngưu hoàng ra sao, chị cho tôi xem một tý.

- Cháu mới hơi đỡ, em đừng quấy nữa. Ngưu hoàng đã sắc hết rồi.

Giả Hoàn nghe nói, cầm cái ấm lên xem, không ngờ lỡ tay, nghe sầm một tiếng, cái ấm thuốc đổ nhào, thuốc chảy xuống, lửa tắt phụt. Giả Hoàn thấy vậy, nghĩ khó coi, vội vàng chạy mất.

Phượng Thư nóng lên, con mắt nảy lửa, mắng:

- Thật là oan gia từ đời nào để lại! Tội tình gì mà mày đến quấy rầy như thế. Trước đây mẹ mày đã định làm hại tao, giờ mày lại đến làm hại tao. Tao với nhà mày là thù hằn từ mấy đời thế?

Rồi chị ta lại mắng Bình Nhi không lo trông nom.

Bỗng một a hoàn đến tìm Giả Hoàn. Phượng Thư nói:

- Mày về nói với dì Triệu, bảo dì ấy lo lắng đến nó quá chừng. Con Xảo nhất định chết đấy, không cần dì ấy phải nghĩ đến nữa.

Bình Nhi vội vàng cân thuốc sắc lần khác. A hoàn kia chẳng rõ đầu đuôi ra sao, liền hỏi nhỏ Bình Nhi:

- Tại sao mợ Hai nổi giận thế?

Bình Nhi đem chuyện Giả Hoàn làm đổ ấm thuốc nói cho nó nghe. Nó nói:

- Chẳng trách hắn ta tránh đi nơi khác không dám về. Chẳng biết sau này hắn sẽ ra thế nào. Chị Bình ạ, chị để tôi làm giúp cho.

- Không cần. May còn một chút ngưu hoàng, đã hòa vào thuốc tử tế rồi. Em đi về thôi.

- Tôi nhất định về nói với dì Triệu, để dì ấy biết, hắn chỉ hay nói láo.

Quả nhiên a hoàn kia về nói với dì Triệu. Dì Triệu giận quá, bảo đi tìm thằng Hoàn về đây mau. Giả Hoàn trốn ở nhà ngoài, bị a hoàn tìm thấy. Dì Triệu mắng:

- Cái đồ đốn mạt kia! Tại sao mày lại làm đổ thuốc người ta đi, để cho họ chửi tao? Tao chỉ bảo mày đi hỏi thăm một tiếng, không cần phải vào nhà, mà mày lại cứ vào, rồi không quay về ngay, còn định vuốt râu hùm à? Để tao trình với cha mày, xem có đánh mày hay không?

Trong khi Dì Triệu đang mắng, thì Giả Hoàn ở nhà ngoài, thốt ra những lời rùng rợn.

---------------

(1). Người xưa có câu “mạc tri kỳ tử chì ác” nghĩa là cha không biết cái xấu của con mình. Ở đây Giả Chính nói ngược lại nên Giả mẫu cười.

(2). Hai câu trên là Luận ngữ: “Ta mười lăm tuổi đã chăm chỉ việc học” và “Người ta không biết mình cũng không giận”, câu thứ ba là ở Mạnh tử: “Thì về họ Mặc”.

(3). Thánh nhân có chí về việc học ngay từ lúc còn bé.

(4). Không chăm lo việc học là thường tình của con người.

(5). Thánh nhân mười lăm tuổi mà đã có chí về việc ấy, chẳng cũng rất khó hay sao?

(6). Ai là không học, nhưng rất ít người có chí với việc học. Vì thế thánh nhân tự tin vào lúc mười lăm tuổi.

(7). Không giận vì điều người ta không biết mình, sẽ không bao giờ thay đổi điều vui thích của mình.

(8). Kẻ nào không có lòng giận người thì mới chuyên tâm về việc học.

(9). Không ai không giận khi mình không được người ta biết đến; vậy mà nay lại chẳng như thế. Nếu không phải do ưa thích mà vui, thì làm sao được như thế.

(10). Chẳng phải là người chuyên tâm về việc học đó ư?

(11). Ngoài việc bỏ họ Dương ra hình như không về với ai nữa.

(12). Không phải là người ta muốn về với họ Mặc đâu, nhưng học thuyết của họ Mặc đã lan nửa thiên hạ. Vậy thì một khi đã bỏ họ Dương, dù muốn không theo họ Mặc có được đâu.

(13). Chỉ có kẻ sĩ mới làm được.

(14). Đại ý: trong thiên hạ không phải ai cũng là kẻ sĩ, chỉ có người không có của mới có thể có được. (Theo chữ trong Mạnh tử: “Vô hằng sản nhi hữu hằng tâm giả, duy sĩ vi năng”, nghĩa là: chỉ có kẻ sĩ thường không có của nhưng vẫn luôn luôn hảo tâm.)

Hồi thứ tám mươi lăm

Giả Chính được thăng chức lang trung;

Tiết Bàn lại gây nên tù tội.

Dì Triệu đang ở trong nhà mắng Giả Hoàn thì nghe Giả Hoàn ở nhà ngoài phát cáu lên nói:

- Con chẳng qua làm đồ cái ấm mất một tý thuốc, con bé kia cũng chưa phải chết ngay, thế mà nó đã mắng con rồi đẻ cũng lại mắng, vu vạ cho con là có ác ý, định giày vò cho con chết đi hay sao? Rồi đây con còn lấy mạng con bé ấy đi nữa kia! Xem các người làm cái gì! Cứ bảo bọn họ coi chừng đấy.

Dì Triệu vội vàng ở trong nhà chạy ra, bịt lấy miệng nó và nói:

- Mày cứ quen miệng nói nhảm, người ta mà nghe thì sẽ lấy mạng mày trước.

Hai mẹ con cãi cọ một hồi. Dì Triệu nghe những câu nói của Phượng Thư, càng nghĩ càng tức, cũng không cho người đến an ủi gì cả. Qua vài hôm bệnh của Xảo Thư cũng khỏi. Từ đó hai nhà càng thêm giận nhau.

Một hôm Lâm Chi Hiếu vào thưa:

- Hôm nay là sinh nhật của Bắc Tĩnh vương, xin ông lớn chỉ bảo.

Giả Chính dặn:

- Cứ theo lệ năm trước mà sắm, rồi trình với ông Cả biết, và đưa lễ sang là được.

Lâm Chi Hiếu vâng lời, đi ra lo liệu.

Một chốc, Giả Xá sang bàn với Giả Chính dẫn bọn Giả Trân, Giả Liễn, Bảo Ngọc đi mừng thọ Bắc Tĩnh vương. Người khác thì không cần bàn, duy có Bảo Ngọc ngày thường rất mến dung mạo uy nguy của Bắc Tĩnh vương, chỉ mong sao được gặp mặt luôn, bèn vội vàng thay quần áo theo sang phủ Bắc Tĩnh. Bọn Giả Xá, Giả Chính gửi trình cái thiếp ghi chức tước, tên họ đưa vào phủ rồi đứng chờ ở ngoài. Một lát sau, một người thái giám ở trong ra tay bấm mấy hạt châu. Thấy bọn Giả Xá, Giả Chính, anh ta cười hì hì và nói:

- Hai vị lâu nay có khỏe mạnh không?

Giả Xá, Giả Chính và ba anh em Giả Trân cũng vội vàng chạy lại chào hỏi.

Viên thái giám nói:

- Vương gia bảo mời vào.

Năm người theo viên thái giám vào trong phủ. Qua hai lần cửa, vòng quanh một dãy điện, mới đến cửa nội cung. Đến trước cửa, mọi người dừng lại, viên thái giám vào trước trình với vương gia. Bọn thái giám nhỏ ở cửa đều đến đón chào.

Một chốc, viên thái giám kia ra nói:

- Xin mời vào.

Năm người kính cẩn theo vào. Bắc Tĩnh vương mặc đồ lễ phục, đã đứng đón ở hành lang ngoài cửa điện. Trước tiên là Giả Xá, Giả Chính đến chào rồi lần lượt đến Giả Trân, Giả Liễn, Bảo Ngọc đều lại chào và hỏi thăm sức khoẻ.

Bắc Tĩnh vương chỉ nắm lấy tay Bảo Ngọc và nói:

- Ta lâu nay không thấy anh, rất là nhớ. - Rồi ông ta lại cười và hỏi: - Viên ngọc của anh vẫn tốt đấy chứ?

Bảo Ngọc khom lưng thi lễ và thưa:

- Nhờ phúc vương gia, viên ngọc vẫn còn tốt.

- Hôm nay anh tới, chẳng có gì quý mời anh xơi. Chúng ta nói chuyện thôi.

 Nói đến đó, mấy người thái giám già vén màn lên. Bắc Tĩnh vương nói: “Xin mời” rồi tự mình đi trước. Bọn Giả Xá đều khép nép theo vào. Trước hết Giả Xá xin Bắc Tĩnh vương nhận lễ. Bắc Tĩnh vương nói vài câu khiêm tốn. Giả Xá quỳ xuống rồi bọn Gia Chính cũng lần lượt làm lễ.

Bọn Giả Xá lại kính cẩn lui ra. Bắc Tĩnh vương dặn bọn thái giám mời bọn họ ngồi chung với các bà con, thết đãi tử tế, chỉ giữ Bảo Ngọc ở lại nói chuyện và cho phép ngồi. Bảo Ngọc đập đầu tạ ơn, rồi ghé mình ngồi trên cái đôn phủ nệm thêu đặt bên cửa, nói chuyện về việc đọc sách và làm văn bài. Bắc Tĩnh vương rất mến, lại cho uống trà và nói:

- Hôm qua quan tuần phủ họ Ngô vào yết kiến hoàng thượng, có nói về việc lúc ông nhà ta nhận chức học chính, làm việc chí công, bọn học trò thuộc hạ rất là kính phục. Lúc Ngô tuần phủ yết kiến hoàng thượng, hoàng thượng cũng có hỏi, ông ta hết sức đề cử, đủ biết đó là tin mừng của ông nhà ta.

Bảo Ngọc vội vàng đứng dậy, chờ nghe xong câu chuyện, rồi mới thưa:

- Đó là ơn điển của Vương gia và thịnh tình của cụ lớn Ngô.

Đang nói thì thấy viên thái giám nhỏ vào thưa:

- Các vị quan lớn ở ngoài đều ở điện trước, xin chuyển lời tạ ơn Vương gia đã ban yến.

Nói xong dâng một tờ thiếp ghi những lời tạ yến và thỉnh an. Bắc Tĩnh vương nhìn qua một tý, lại trao cho viên thái giám nhỏ và nói:

- Biết rồi, nói với họ là ta xin lỗi đã làm phiền họ.

Viên thái giám nhỏ kia lại thưa:

- Cơm Vương gia thưởng riêng cho anh Giả Bảo Ngọc cũng đã dọn rồi.

Bắc Tĩnh vương liền sai viên thái giám kia dẫn Bảo Ngọc đến một ngôi nhà nhỏ nhắn xinh đẹp, sai người tiếp đãi. Bảo Ngọc ăn cơm xong, lại qua tạ ơn. Bắc Tĩnh vương lại nói mấy câu chuyện, rồi bỗng cười và bảo:

- Lần trước thấy viên ngọc của anh, ta thích lắm, về nói hình dạng với người nhà, rồi cũng làm một viên khác. Hôm nay vừa gặp lúc anh đến đây, ta cho anh đưa về mà chơi.

Nói xong, sai viên thái giám nhỏ lấy ra, tự tay Vương gia đưa cho Bảo Ngọc. Bảo Ngọc cầm lấy tạ ơn, rồi lui ra. Bắc Tĩnh vương lại sai hai thái giám nhỏ dẫn Bảo Ngọc đến với bọn Giả Xá rồi cùng ra về.

Giả Xá về chào Giả mẫu, rồi về nhà mình. Giả Chính thì dẫn ba người đến hỏi thăm sức khỏe của Giả mẫu xong rồi kể lại việc ở phủ Bắc gặp những người nào. Bảo Ngọc thuật lại câu chuyện quan lớn Ngô đề cử lên hoàng thượng cho Giả Chính nghe.

Giả Chính nói:

- Quan lớn Ngô ấy là chỗ quen biết cũ với ta, cũng là người trong bọn chúng ta, và cũng có khí khái.

Giả Chính lại nói thêm mấy câu chuyện phiếm nữa. Giả mẫu bảo:

- Anh về đi nghỉ thôi.

Giả Chính lui ra. Bọn Giả Trân, Giả Liễn, Bảo Ngọc đều theo đến cửa. Giả Chính nói:

- Các anh trở lại ngồi tiếp chuyện bà.

Nói đoạn, Giả Chính về phòng. Vừa ngồi được một tý thì thấy một a hoàn nhỏ thưa:

- Ông Lâm Chi Hiếu ở ngoài có việc xin thưa với ông lớn.

Nói xong nó đưa lên một bức thiếp màu hồng, trên viết tên họ của Ngô tuần phủ. Giả Chính biết là ông ta đến chào, liền bảo con hầu nhỏ gọi Lâm Chi Hiếu vào. Giả Chính ra đứng ngoài thềm.Lâm Chi Hiếu vào thưa:

- Hôm nay Ngô tuần phủ đến thăm, tôi đã thưa với ông ta rằng ông còn đi vắng nên ông ta đã về rồi, nghe nói hiện nay Bộ Công khuyết chức lang trung, người ngoài và người trong bộ đều đồn đại là ông lớn sẽ được thực thụ chức ấy.

- Chờ xem đã.

Lâm Chi Hiếu nói vài câu nữa rồi lui ra.

Giả Trân, Giả Liễn và Bảo Ngọc đi ra. Bảo Ngọc lại quay vào nhà Giả mẫu thuật lại việc Bắc Tĩnh vương đối đãi với mình ra sao, và đưa viên ngọc cho mọi người xem.

Giả mẫu bảo:

- Cất đi, đừng có làm mất. Viên ngọc của cháu đeo cho tử tế, đừng có làm lẫn lộn đi.

Bảo Ngọc liền lấy viên ngọc đeo trên cổ xuống và nói:

- Viên ngọc của cháu đây này. Hai viên ngọc khác nhau xa, lẫn sao được. Cháu đang định thưa với bà, đêm hôm trước, lúc cháu ngủ, lấy ngọc xuống, treo trong màn ánh sáng lóe ra, cả màn đều đỏ rực.

Giả mẫu nói:

- Lại nói nhảm rồi. Đó là vì cái diềm màn màu hồng, ánh đèn chiếu vào, tự nhiên nó đỏ đấy thôi.

- Không phải, lúc đó đèn đã tắt rồi, cả nhà đều lối đen, mà cháu vẫn trông thấy viên ngọc.

Hình phu nhân và Vương phu nhân đều phì cười.

Phượng Thư nói:

- Đó là tin mừng đấy.

Bảo Ngọc nói:

- Tin mừng gì?

Giả mẫu nói:

- Cháu không hiểu đâu, hôm nay mệt cả ngày, cháu về nghỉ thôi, đừng ở đây mà nói nhảm nữa.

Bảo Ngọc lại đứng một lát, rồi về trong vườn.

Giả mẫu lại hỏi tiếp

- Phải đấy. Các người sang thăm dì Tiết, có nói đến việc ấy không?

Vương phu nhân nói:

- Định sang thăm ngay, nhưng vì cháu Xảo nhà chị Phượng lại ốm, nên con để chậm mất hai ngày. Hôm nay mới sang. Chúng con đã nói việc ấy, dì Tiết cũng bằng lòng, nhưng nói hiện giờ thằng Bàn đi vắng, cha cháu mất rồi, phải bàn với cháu Bàn rồi hãy lo liệu.

Giả mẫu nói:

- Như vậy cũng phải, nhưng đã như thế thì hãy khoan nhắc đến, chờ cho bên dì Tiết bàn bạc chắc chắn rồi sẽ nói chuyện.

Bảo Ngọc về phòng mình, bảo Tập Nhân:

- Vừa rồi cụ và chị Phượng có vẻ úp mở, tôi chẳng hiểu gì cả.

Tập Nhân nghĩ một lúc rồi cười, nói:

- Cái đó tôi cũng không đoán ra, nhưng vừa rồi khi nói chuyện, cô Lâm có ở đấy không?

- Cô Lâm vừa ốm dậy, mấy lâu nay có đến bên nhà cụ đâu?

Đang nói chuyện thì nghe ở nhà ngoài Xạ Nguyệt và Thu Văn cãi nhau. Tập Nhân hỏi:

- Hai chị lại làm cái gì thế?

Xạ Nguyệt nói:

- Hai đứa chúng tôi đánh bài, nó được tiền của tôi, nó lấy. Đến khi nó thua lại không chịu trả. Cái đó còn được, nhưng nó lại còn ăn cướp hết tiền của tôi nữa.

Bảo Ngọc cười nói:

- Mấy đồng tiền, quan hệ gì? Đố ngốc không được làm ồn lên nữa!

Nghe nói, hai người chỉ ngồi lẩm bẩm trong miệng.

Trong nhà Tập Nhân dọn dẹp cho Bảo Ngọc đi ngủ.

Nghe câu nói vừa rồi, Tập Nhận biết ngay là họ bàn việc hỏi vợ cho Bảo Ngọc. Nhưng sợ Bảo Ngọc hay có những ý trẻ con, nếu nhắc đến, không khéo lại gợi ra cho anh ta bao nhiêu câu nói ngớ ngẩn. Tập Nhân cố ý làm như không biết, nhưng đối với chị ta đó là việc quan trọng nhất. Đêm nằm, Tập Nhân có ý định: Chi bằng sang gặp Tử Quyên, xem có tăm hơi gì không thì tự khắc biết. Hôm sau, Tập Nhân dậy sớm, sắm sửa cho Bảo Ngọc đi học rồi, chị ta chải đầu rửa mặt, thong thả đến quán Tiêu Tương, gặp Tử Quyên đang hái hoa. Thấy Tập Nhân đến, Tử Quyên cười hì hì nói:

- Mời chị vào trong nhà ngồi.

Tập Nhân nói:

- Ngồi rồi đây, em hái hoa à? Cô đâu?

- Cô tôi vừa chải đầu rửa mặt xong, đang chờ hâm thuốc đấy.

Tử Quyên vừa nói vừa cùng Tập Nhân đi vào. Thấy Đại Ngọc đang ngồi xem sách.

Tập Nhân cười lấy lòng và nói:

- Không trách cô hay mệt, mới ngủ dậy đã xem sách. Cậu Bảo nhà chúng tôi đi học mà được như cô thì hay biết mấy?

Đại Ngọc cười, đặt sách xuống. Tuyết Nhạn bưng đến một khay trà trong để một chén thuốc, một chén nước. Một a hoàn nhỏ bưng ống đờm và chậu súc theo sau.

Tập Nhân đến định dò tin, nhưng ngồi một lúc, không biết khơi mào như thế nào, lại nghĩ Đại Ngọc là người hay nghi ngờ, mình dò chẳng được tin gì mà lại chạm lòng cô ta thì thật không hay. Vì vậy Tập Nhân chỉ ngồi một lát hỏi vơ vẩn rồi cáo từ. Vừa đến cửa viện Di Hồng bỗng thấy có hai người đang đứng ở đấy, Tập Nhân không tiện đi thẳng lại. Một người trông thấy vội vàng chạy đến. Tập Nhân nhìn lại thì ra Sừ Dược, liền hỏi:

- Anh làm gì đấy?

- Vừa rồi cậu hai Vân đến, cầm một mảnh thiếp đưa vào cho cậu Bảo xem. Hiện cậu ta đứng đây chờ tin.

- Cậu Bảo hôm nào cũng đi học, anh không biết hay sao? Còn chờ tin với tức gì?

- Tôi đã nói với cậu ấy, cậu ấy bảo nói với chị và chờ tin chị đấy.

Tập Nhân đang định nói, thì thấy Giả Vân thong thả bước lại gần. Tập Nhân vội vàng nói với Sừ Dược:

- Anh nói với cậu ấy, tôi biết rồi, chốc nữa sẽ đưa cho cậu Bảo xem.

Giả Vân muốn tới nói chuyện với Tập Nhân, chỉ cốt gần gũi làm quen nhưng lại không dám hấp tấp, cứ thong thả đi vào. Vừa tới gần đã nghe Tập Nhân nói câu ấy, nên hắn đành phải đứng lại. Đằng này Tập Nhân đã quay người đi vào phía trong rồi. Giả Vân đành buồn rầu, cùng Sừ Dược ra về.

Đến chiều, Bảo Ngọc về phòng, Tập Nhân thưa lại:

- Hôm nay cậu hai Vân ở bên kia có đến.

- Đến làm gì?

- Cậu ta có mang theo một bức thiếp nữa.

- Ở đâu? Đưa đây tôi xem.

Xạ Nguyệt liền vào nhà lấy ở trên giá sách đưa lại. Bảo Ngọc đỡ lấy xem thấy trên phong bì đề: “Thúc phụ đại ân nhân an bẩm” (Kính trình lên chú), liền nói:

- Thằng bé này sao không nhận ta là cha nữa?

- Sao thế?

- Năm trước, lúc nó biếu cây hải đường trắng cho tôi, nó gọi tôi là cha. Bức thiếp hôm nay trên phong bì nó lại đề là chú, không phải nó không nhận tôi là cha nữa là gì?

- Cậu không biết thẹn mà hắn cũng không biết thẹn! Hắn to xác như thế lại nhận cậu là cha, không phải không biết thẹn là gì. Nói cho đúng ra thì cậu ngay cả ...

Nói đến đó, chị ta đỏ mặt và mỉm cười.

Bảo Ngọc cũng hiểu ý và nói:

- Cái ấy cũng khó nói, tục ngữ có câu: “Ông sư không con mà con hiếu lại nhiều”. Tôi thấy nó sắc sảo, vừa ý nên mới nhận như thế, nếu nó không bằng lòng, tôi cũng chẳng thiết.

Vừa nói Bảo Ngọc vừa bóc bức thiếp. Tập Nhân cũng cười nói:

- Cái cậu hai Vân kia cũng có vẻ tinh quái, khi thì định dòm người ta, khi lại lén lén lút lút, đủ biết con người bụng dạ không ngay thẳng.

Bảo Ngọc chỉ chú ý mở bức thiếp ra xem, không để ý gì đến lời nói của Tập Nhân. Tập Nhân thấy Bảo Ngọc xem bức thiếp, lúc đầu nhăn mày, sau lại cười, lại lắc đầu, cuối cùng có vẻ rất là bực. Chờ xem xong rồi, Tập Nhân mới hỏi:

- Trong thiếp nói gì thế?

Bảo Ngọc không trả lời, xé tan bức thiếp làm mấy mảnh. Tập Nhân thấy tình hình như thế, cũng không tiện hỏi, liền nói:

- Cậu ăn cơm rồi có xem sách không?

- Buồn cười cho thằng Vân, dám bậy bạ như thế?

Tập Nhân thấy hỏi một đường trả lời một nẻo, liền mỉm cười hỏi:

- Vậy là việc gì thế?

- Hỏi làm gì! Chúng mình ăn cơm rồi nghỉ thôi, trong bụng tôi bực bội lắm.

Bảo Ngọc nói xong bảo a hoàn nhỏ thắp đèn lên, đem bức thiếp đã xé, đốt đi.

Một lát, bọn a hoàn nhỏ dọn cơm lên, Bảo Ngọc cứ ngồi ngẩn người ra. Tập Nhân vừa dỗ vừa chọc, giục mãi Bảo Ngọc mới ăn được một miếng, liền đặt đũa xuống, rồi rầu rầu nằm nghiêng trên giường, một lúc bỗng ứa nước mắt. Tập Nhân và Xạ Nguyệt đều không hiểu đầu đuôi ra sao.

Xạ Nguyệt nói:

- Tự dưng vô cớ, làm sao cậu lại như thế? Chỉ tại anh Vân, anh “Vũ” nào đó, chẳng biết việc gì, đem cái thiếp quái quỷ đấy đến, làm cho cậu cười cười, khóc khóc như người điên. Nếu cứ trời đất này, hết bực nọ đến bực kia thì ai mà chịu được.

Nói đến đó, chị ta cũng chảy nước mắt.

Tập Nhân đứng một bên bật cười, khuyên:

- Em ạ, em cũng đừng làm phiền người ta nữa. Một mình cậu ấy cũng đủ rồi, em lại cũng như thế nữa. Chẳng nhẽ việc trong bức thiếp ấy liên can đến em hay sao?

Xạ Nguyệt nói:

- Đừng nới nhảm! Ai biết trên thiếp hắn viết lời bậy bạ gì, sao chị lại kéo bừa người ta vào đấy? Nếu như thế thì trên thiếp ấy có lẽ cũng liên can đến chị đấy!

Tập Nhân còn chưa trả lời thì nghe Bảo Ngọc ở trên giường cười phì lên một tiếng, lồm ngồm bò dậy, rũ áo, và nói:

- Chúng mình ngủ đi thôi, đừng làm ồn lên nữa. Ngày mai tôi còn phải dậy sớm để học đấy.

Nói xong lại nằm xuống ngủ.

Hôm sau, Bảo Ngọc dậy chải đầu rửa mặt rồi đi học. Vừa ra đến cửa, chợt nhớ điều gì, liền bảo Bồi Dính đứng chờ một chút rồi vội vàng quay lại gọi:

- Chị Xạ Nguyệt đâu rồi?

Xạ Nguyệt chạy ra hỏi:

- Sao cậu lại trở về?

- Hôm nay thằng Vân có đến thì chị nói với nó không được quấy rầy ở đây nữa. Nếu nó còn quấy thì tôi sẽ trình với cụ và ông lớn đấy.

Xạ Nguyệt vâng lời.

Bảo Ngọc vừa quay mình đi ra ngoài, thì thấy Giả Vân hoảng hốt chạy đến. Thấy Bảo Ngọc, hắn liền chào và nói:

- Thưa chú, xin có lời mừng chú!

Bảo Ngọc cứ tưởng là câu chuyện hôm qua, liền nói:

- Thằng này to gan thật! Không biết người ta có chuyện gì hay không, cứ tới quấy rầy.

Giả Vân cười, nới:

- Chú không tin cứ nhìn xem. Người ta đã đến cả rồi, đang ở cửa ngoài đấy.

Bảo Ngọc càng hoảng lên, bảo:

- Mày nói cái gì thế?

Đang nói thì nghe bên ngoài có tiếng người ồn ào.

Giả Vân nới:

- Chú nghe đấy, không phải là gì?

Bảo Ngọc càng ngờ vực, chợt nghe một người gào lên:

- Các người không có phép tắc gì cả! Ở đây là chỗ nào mà các người dám ồn lên như thế!

Người kia nói:

- Ông lớn thăng quan kia mà. Sao lại không cho chúng  tôi ăn mừng? Nhà khác mong cho người ta đến mừng mà không được đấy.

Bảo Ngọc nghe nói mới biết là Giả Chính được thăng chức lang trung, người ta đến báo tin mừng. Bảo Ngọc mừng quá đang định đi thì Giả Vân theo sau nói:

- Chú có vui không nào? Nếu việc hôn nhân của chú mà xong nữa thì thật là hai lần mừng đấy.

Bảo Ngọc đỏ mặt lên, nhổ toẹt một cái và nói:

- Hừ! Đồ đáng chết! Mày liệu mà xéo đi.

Giả Vân đỏ mặt lên nói:

- Sao chú lại thế? Tôi xem rồi chú có...

Bảo Ngọc sầm nét mặt lại, và nói:

- Có cái gì?

Giả Vân đứng im không dám nói nữa.

Bảo Ngọc vội vàng đến trường, thấy Giả Đại Nho cười, nói:

- Ta vừa nghe nói cha cháu được thăng chức, hôm nay cháu cũng đi học à?

Bảo Ngọc cười và nói:

- Cháu đến gặp cụ, rồi để qua bên nhà cha cháu.

- Hôm nay không cần đến, cho cháu nghỉ một ngày đấy. Nhưng không được về vườn chơi đâu nhé. Cháu đã lớn tuổi rồi, tuy chưa biết lo liệu gì, cũng nên học tập các anh mới được.

Bảo Ngọc vâng lời trở về. Vừa đến cửa thứ hai, thấy Lý Quý chạy lại đón, đứng một bên, cười nói:

- Cậu đã về à? Tôi vừa định đến trường mời cậu.

- Ai bảo thế?

- Cụ vừa sai người đến Viện Di Hồng tìm cậu. Các cô bên ấy nói cậu đi học rồi. Cụ sai người ra bảo tôi xin phép cho cậu mấy hôm. Nghe nói còn có hát xướng ăn mừng đấy, không ngờ cậu đã về đây rồi.

Bảo Ngọc đi vào cửa thứ hai, thấy bọn a hoàn và các bà già đều mặt mày hớn hở. Trông thấy Bảo Ngọc họ đều cười nói:

- Cậu Hai đến giờ mới về à? Mau mau vào mừng cụ đi.

Bảo Ngọc cười và đi vào trong nhà, thấy Đại Ngọc ngồi sát phía trái Giả mẫu; bên phải là Tương Vân rồi đến Hình phu nhân, Vương phu nhân và tất cả bọn chị em Thám Xuân, Tích Xuân, Lý Hoàn, Phượng Thư, Lý Văn, Lý Ỷ, Hình Tụ Yên đều ở đấy, chỉ không thấy Bảo Thoa, Bảo Cầm và Nghênh Xuân mà thôi.

Bảo Ngọc mừng quá, không biết nói gì, vội vàng chúc mừng Giả mẫu, Hình phu nhân, Vương phu nhân và đi chào hỏi tất cả chị em, rồi cười và nói với Đại Ngọc:

- Em đã khoẻ thật chưa?

Đại Ngọc cũng mỉm cười nói:

- Khoẻ lắm rồi, nghe nói anh cũng mệt, đã khoẻ chưa?

- Khoẻ rồi! Đêm hôm nọ, tôi tự nhiên đau bụng, mấy hôm nay hơi đỡ, liền đi học ngay, cũng không sang thăm em được.

Đại Ngọc không chờ Bảo Ngọc nói hết lời, đã ngoảnh đầu nói chuyện với Thám Xuân.

Phượng Thư đứng giữa nhà cười, nói:

- Hai anh chị này hình như không phải hàng ngày ở chung một chỗ, mà là một đôi khách lạ, cứ quen nói cái lối khách sáo như thế! Thật đúng như người ta nói: “Kính nhau như khách” đấy.(1)

Câu nói ấy khiến cho mọi người đều cười. Đại Ngọc đỏ mặt lên, nói cũng không tiện, không nói cũng không xong, im lặng một chốc rồi mới nói:

- Chị thì hiểu cái gì!

Mọi người lại càng cười ồ lên.

 Một chốc Phượng Thư nghĩ lại, mới biết là mình lỡ lời, đang định tìm cách nói lảng, chợt nghe Bảo Ngọc nói với Đại Ngọc:

- Em Lâm, cái thằng Vân đúng là đồ quỉ sứ!

Nói đến đó, Bảo Ngọc mới nghĩ lại, liền im bặt, làm cho mọi người lại cười ồ lên, hỏi:

- Nói cái gì thế?

Đại Ngọc cũng chẳng hiểu đầu đuôi ra sao, thấy người ta cười cũng cười theo.

Bảo Ngọc lúng túng không biết làm thế nào, liền nói tiếp:

- Vừa rồi tôi nghe nói có người định đưa ban hát đến, vậy là hôm nào đấy?

Mọi người đều nhìn Bảo Ngọc mà cười.

Phượng Thư nói:

- Chú ở ngoài nghe nói, thì chú tin cho chúng tôi biết, bây giờ chú còn hỏi ai đấy.

Bảo Ngọc nhân dịp liền nói:

- Để tôi ra ngoài hỏi xem.

Giả mẫu nói:

- Đừng có chạy ra ngoài ấy, một là sợ người đến báo tin mừng họ cười; hai là hôm nay cha mày vui mừng, mà đụng phải mày, không khéo lại đâm giận đấy.

Bảo Ngọc vâng lời rồi đi ra.

Giả mẫu hỏi Phượng Thư:

- Ai nói chuyện đưa ban hát đến?

- Nghe đâu bên nhà ông cậu Hai nói, hôm sau tốt ngày, sẽ đưa một ban hát mới đến mừng cụ và ông Hai, bà Hai.

Nói đến đó, chị ta lại cười và nói tiếp:

- Không những tốt ngày mà lại là ngày tốt nữa đấy! Ngày sau lại là...

Chị ta lại nhìn Đại Ngọc mà cười. Đại Ngọc cũng mỉm cười. Vương phu nhân nói:

- Phải đấy, hôm sau là ngày sinh nhật của cháu ngoại(2) đấy.

Giả mẫu nghĩ một lúc rồi cười nói:

- Ta già rồi, việc gì cũng lú lấp, may có con Phượng, thật là viên “cấp sự trung”(3) của ta. Đã thế thì rất tốt, nhà cậu của họ mừng cho họ, thì nhà cậu của cháu cũng mừng sinh nhật cho cháu, lại không tốt à?

Câu ấy làm cho mọi người cùng cười, và nói:

- Cụ nói câu nào cũng đều hay như văn chương trong sách, chẳng trách có phúc to như thế!

Đang nói thì Bảo Ngọc vào, nghe nói thế lại càng hoa tay múa chân mừng không kể xiết. Một lúc sau, mọi người đều ăn cơm ở nhà Giả mẫu, rất là vui vẻ.

Ăn xong, Giả Chính đi tạ ơn về, qua nhà thờ lạy tạ, về khấu đầu trước Giả mẫu, đứng nói vài câu, rồi đi ra chào khách. Ở đấy bà con liên tiếp xe ngựa rộn ràng, áo xiêm chen chúc, thật là:

Hoa nở đúng mùa ong bướm rộn;

Trăng vừa tròn bóng biển trời xa.

Qua hai ngày như vậy thì đến ngày ăn mừng. Ngày hôm ấy, sáng dậy, bà con nhà Vương Tử Đằng đưa một ban hát đến dựng ngay sân khấu ở trước nhà khách của Giả mẫu. Bên ngoài đàn ông đều mang lễ phục chầu chực. Bà con đến mừng, ngồi hơn mười bàn rượu. Vì là ban hát mới, lại thấy Giả mẫu cao hứng nên họ đem cái bình phong bằng pha lê ngăn nhà sau ra, trong đó cũng tiệc rượu. Trên hết là bàn dì Tiết, có Vương phu nhân và Bảo Cầm ngồi tiếp; phía bên kia là bàn Giả mẫu, có Hình  phu nhân và Tụ Yên ngồi tiếp; phía dưới còn hai bàn để không. Giả mẫu bảo gọi bọn con gái đến mau.

 Một chốc Phượng Thư dẫn bọn a hoàn xúm xít đưa Đại Ngọc đến. Đại Ngọc chỉ mặc chiếc áo mới, mà xinh đẹp như nàng tiên xuống cõi trần, bẽn lẽn mỉm cười, ra chào mọi người. Bọn Tương Vân, Lý Văn, Lý Ỷ đều nhường cô ta ngồi trên, Đại Ngọc nhất định không chịu.

Giả mẫu cười nói:

- Hôm nay cháu cứ ngồi thôi.

Dì Tiết đứng dậy hỏi:

- Hôm nay cô Lâm cũng có việc mừng à?

Giả mẫu cười:

- Ngày sinh nhật của cháu đấy.

Dì Tiết nói:

- Chao ôi! Thế mà tôi quên mất.

Rồi bà ta chạy lại, nói với Đại Ngọc:

-Tha lỗi cho tôi hay quên nhé, để chốc nữa bảo em Cầm đến mừng thọ cô.

Đại Ngọc cười nói:

- Không dám.

Rồi mọi người ngồi xuống. Đại Ngọc để ý xem, chỉ không thấy Bảo Thoa liền hỏi:

- Chị Bảo có khỏe không? Tại sao không sang?

Dì Tiết nói:

- Đáng lẽ nó phải sang, nhưng vì không có ai coi nhà, nên không sang được/

Đại Ngọc má ửng hồng, mỉm cười nói:

- Bên nhà dì bây giờ lại thêm chị Cả nữa, làm sao còn cần chị Bảo coi nhà? Chắc là chị ấy sợ nhiều người nhộn nhịp, nên không thích đến chăng. Cháu thì nhớ chị ấy lắm.

Dì Tiết cười nói:

- Cảm ơn cháu nhớ đến nó. Nó cũng thường nhớ chị em cháu, hôm sau sẽ bảo nó đến để chị em nói chuyện.

Nói đến đó thì bọn a hoàn tới rót rượu và dâng đồ ăn. Bên ngoài ban hát bắt đầu hát. Trước hết diễn vài vở tuồng chúc mừng. Đến vở thứ ba thì thấy Kim Đồng, Ngọc Nữ, cờ phướn, tàn quạt, dẫn một người đóng vai nữ, mặc áo vũ y, trên đầu đội cái khăn đen, ra hát mấy câu rồi vào. Mọi người không hiểu là tích gì. Nghe người bên ngoài nói: Đây là tích “Chết trên trời” trong vở “Nhị châu ký” mới soạn ra. Người đóng vai nữ là Hằng Nga bị đày xuống cõi trần, sắp đi lấy chồng, may nhờ Phật Quan Âm giác ngộ cho nên cô ta chưa đi lấy chồng thì đã chết. Lúc này chính là lúc lên cung trăng đấy, nghe trong hát:

Đời chỉ cho phong tình là hay,

Nào biết đâu trăng thu, hoa xuân dễ mờ héo ngay,

Hầu như quên hẳn cả cung quảng hàn này.

Vở thứ tư là “Ăn cám”. Vở thứ năm là: “Sư Đạt Ma đem đồ đệ qua sông”. Trên sân khấu đang diễn ra cảnh “Lâu đài mịt mù trên mặt biển”(4) rất là vui nhộn. Mọi người đang cao hứng, chợt thấy người nhà họ Tiết sồng sộc chạy vào, mồ hôi như tắm, nói với Tiết Khoa:

- Cậu Hai về mau đi. Mời cả bà về nữa. Ở nhà có việc rất kíp.

Tiết Khoa nói:

- Việc gì thế?

- Về nhà sẽ hay.

Tiết Khoa không kịp cáo từ, liền chạy về ngay.

Dì Tiết nghe đoạn, mặt tái như gà cắt tiết, cũng vội vàng đứng dậy, dẫn Bảo Cầm chào mọi người rồi lên xe về ngay. Thấy vậy ai nấy đều lấy làm kinh ngạc. Giả mẫu nói:

- Hãy cho người sang bên ấy xem có việc gì, chúng ta cần phải để ý đấy.

Mọingơời đều nói: “Vâng”.

Phủ Giả vẫn hát xướng như cũ. Dì Tiết về nhà thấy hai người nha dịch đang đứng ở cửa thứ hai, có mấy người làm công ở hiệu cầm đồ tiếp chuyện và nói:

- Chờ bà tôi về, thế nào cũng có cách xử trí.

Đang nói thì dì Tiết đi vào. Bọn nha dịch thấy một số đông đàn ông đàn bà xúm xít chung quanh một người đàn bà già, biết ngay là mẹ Tiết Bàn. Họ không dám làm gì, cứ buông tay đứng hầu, nhường cho dì Tiết vào. Dì Tiết vào đến sau nhà khách, đã nghe có tiếng khóc to, đó là tiếng Kim Quế. Dì Tiết vội vàng chạy vào, thấy Bảo Thoa ra đón, nước mắt ròng ròng.

Bảo Thoa thấy mẹ liền nói:

- Mẹ nghe rồi chứ? Đừng có hoảng lên, cần nhất là phải lo liệu đã.

Dì Tiết cùng Bảo Thoa vào tới nhà, vừa đến cửa, nghe người nhà nói, bà ta khiếp quá, người run cầm cập, vừa khóc vừa hỏi:

- Nó đánh ai thế?

Bọn đầy tớ trả lời:

- Bây giờ bà chưa cần hỏi căn vặn làm gì? Mặc dầu đánh chết ai cũng cứ phải đền mạng cả, giờ hãy bàn xem phải lo liệu như thế nào mới được.

Dì Tiết vừa khóc vừa nói:

- Còn bàn bạc gì nữa.

Bọn đầy tớ nói:

- Theo ý chúng tôi, đêm nay phải thu xếp tiền bạc, cùng cậu Hai gấp rút đi gặp cậu Cả, tìm một ông thầy kiện cho khá, cho họ một ít tiền, trước hết lo liệu cho khỏi tội chết đã, rồi sẽ nhờ phủ Giả xin với quan trên. Lại còn có bọn nha dịch ở ngoài kia, bà hãy đem mấy lạng bạc cho họ về đi đã, để chúng ta tiện việc lo liệu.

Dì Tiết nói:

- Chúng ta phải đi tìm nhà kia, cho họ tiền bạc để tống táng, lại giúp đỡ cho một số nữa. Nguyên cáo mà không kêu nài thì việc sẽ êm dần.

Bảo Thoa ở trong màn nói ra:

- Mẹ ạ! Không được đâu. Việc ấy mà cho họ tiền thì họ càng quấy dữ. Lời của chú nhỏ vừa nói là đúng.

Dì Tiết lại khóc và nói:

- Ta cũng không cần tính mạng gì nữa. Phải đến đó gặp nó rồi ta cùng chết với nó là xong.

Bảo Thoa hoảng lên, một mặt khuyên, một mặt ở trong màn bảo người nhà:

- Mau mau cùng cậu Hai đi lo liệu thôi.

Bọn a hoàn vực dì Tiết vào. Tiết Khoa vừa đi ra, thì Bảo Thoa dặn:

- Có tin tức gì thì sai người về ngay, còn các ngươi thì cứ ở đấy mà trông nom lo liệu.

Tiết Khoa vâng lời ra đi. Bảo Thoa đang khuyên dì Tiết thì Kim Quế thừa cơ nắm lấy Hương Lăng và gào lên:

- Ngày thường bọn mày cứ khoe nhà chúng mày đánh chết người, chẳng can gì, cứ việc đi vào kinh. Mày cứ đem những lời lẽ ấy xui giục cậu đánh chết người, ngày thường cứ khoe có tiền, có thế, có bà con giỏi. Giờ đây tao xem cũng khiếp sợ cuống quít chân tay lên đấy. Sau này cậu Cả có mệnh hệ nào, không về được, bọn mày ai làm việc nấy, chỉ bỏ một mình tao chịu tội thôi.

Nói đến đó, Kim Quế khóc ầm lên.

Dì Tiết nghe vậy càng tức giận ngất người. Bảo Thoa cũng cuống lên chẳng biết làm thế nào.

Đang lúc nhốn nháo thì Vương phu nhân sai một a hoàn lớn đến hỏi tin tức. Bảo Thoa tuy biết mình là người nhà phủ Giả rồi, nhưng một là việc ấy chưa nói rõ; hai là đang lúc cấp bách, đành phải nói với a hoàn:

- Bây giờ đầu đuôi câu chuyện chưa được rõ ràng, chỉ mới nghe nói anh tôi ở ngoài đánh chết người, bị huyện bắt đi, cũng không biết định tội như thế nào. Vừa rồi cậu Hai mới đi dò xem, hễ có tin tức gì sẽ báo cho dì bên ấy biết. Chị về cho tôi gửi lời cảm ơn dì đã nghĩ đến, sau này chúng tôi còn có biết bao nhiêu điều nhờ đến các ông các cậu bên ấy.

A hoàn vâng lời ra về.

Dì Tiết cùng Bảo Thoa ở nhà, chẳng biết xoay sở ra sao. Qua hai ngày, thì thấy người hầu về, cầm một phong thư giao cho a hoàn nhỏ đưa vào.

Bảo Thoa mở ra xem, thấy trong thư viết:

“Việc giết người của anh Cả là lỡ tay chứ không phải cố ý. Sáng nay cháu đã đứng tên làm một tờ giấy trình lên nhưng chưa thấy quan phê. Lời khẩu cung của anh Cả trước đây rất là bất lợi, hãy chờ khi nào tờ trình của cháu được chấp nhận, mở phiên tra hỏi khác, nếu khai lại cho khéo thì sẽ khỏi phải tội chết. Mau mau lấy ở hiệu cầm đồ năm trăm lạng nữa để tiêu dùng cho kịp, nhất thiết đừng chậm! Và xin bác yên lòng. Còn các việc khác thì hỏi thằng nhỏ”.

Bảo Thoa xem xong, đọc rõ đầu đuôi cho dì Tiết nghe.

Dì Tiết lau nước mắt, nói:

- Xem như thế thì sống hay chết cũng chưa có gì chắc chắn cả.

Bảo Thoa nói:

- Mẹ đừng đau buồn, chờ gọi thằng nhỏ vào hỏi rõ hãy bàn.

Rồi cho a hoàn nhỏ ra gọi thằng nhỏ vào.

Dì Tiết liền hỏi:

- Mày kể rõ việc cậu Cả cho ta nghe.

Thằng nhỏ nói:

- Chiều hôm nọ nghe cậu Cả nói chuyện với cậu Hai, làm con sợ ngẩn người.

--------------

(1). Ngày xưa vợ chồng Khước Khuyết kính nhau như khách. Ở đây Phượng Thư mượn câu này để đùa Bảo Ngọc và Đại Ngọc.

(2). Tức Đại Ngọc.

(3). Tên một chức quan, ở đây ý nói được người giúp việc giỏi.

(4). Một hiện tượng không khí thường xuất hiện ở sa mạc hoặc ở bể, những khói mù nổi lên như lâu đài.

Hồi thứ tám mươi sáu

Ăn của đút, quan già thay án kiện;

Gửi tình riêng, gái trẻ giảng cầm thư.

Tiết phu nhân nghe đọc thư của Tiết Khoa xong gọi thằng nhỏ vào hỏi:

- Mày có nghe cậu Cả nói vì sao mà đánh chết người không?

- Con cũng không nghe rõ lắm. Hôm nọ nghe cậu Cả nói với cậu Hai...

Nói đến đó, nó đưa mắt nhìn quanh, thấy không có ai, nó nói tiếp:

- Cậu Cả nói: Từ khi trong nhà lục đục ghê gớm, cậu con chả còn thiết gì nữa, nên định sang miền nam đặt mua hàng. Hôm đó cậu hẹn một người cùng đi, người này ở cách phía nam thành hơn hai trăm dặm. Đang đi tìm anh ta, thì gặp một người quen cũ tên là Tưởng Ngọc Hàm vừa dẫn một lũ con hát nhỏ vào thành. Cậu con liền cùng anh ta vào hàng ăn cơm uống rượu. Người bán rượu ở hàng ấy cứ nhìn Tưởng Ngọc Hàm chằm chặp nên cậu con đâm cáu. Sau đó Tưởng Ngọc Hàm đi. Hôm sau cậu con mời người kia đến uống rượu. Đang uống, sực nhớ đến việc hôm qua, cậu con bảo người bán rượu đổi rượu khác. Hắn đưa rượu đến chậm, cậu con mắng; nó không chịu, cậu con liền giơ bát rượu lên định đánh. Không ngờ hắn cũng là một thằng bướng bỉnh, liền chìa đầu ra thách. Cậu con cầm bát đập vào đầu nó một cái; máu phọt ra, nó ngã lăn ra đất. Ban đầu nó còn chửi mắng nhưng sau im bặt.

- Tại sao không có ai can?

- Không nghe cậu Cả nói đến điều đó, con không dám nói càn.

- Thôi mày hãy nghỉ đã.

Thằng nhỏ vâng lời lui ra.

Tiết phu nhân thân hành đến gặp Vương phu nhân, nhờ Vương phu nhân xin hộ với Giả Chính. Giả Chính hỏi rõ đầu đuôi, chỉ ậm ừ cho qua chuyện, bảo chờ Tiết Khoa nộp đơn trình xem quan huyện phê ra sao rồi sẽ liệu.

Tiết phu nhân lại lấy bạc ở hiệu cầm đồ, sai thằng nhỏ đem đi ngay. Sau ba ngày, có tin về. Tiết phu nhân được thư, sai a hoàn nhỏ gọi Bảo Thoa. Bảo Thoa vội vàng đến, thư viết:

“Số bạc đã tiêu vào việc đút lót cho những người trong cửa quan. Anh Cả ở trong ngục cũng không khổ lắm, xin bác yên lòng. Người ở đây họ điêu ngoa lắm, bà con người chết và người làm chứng đều không chịu nghe, ngay cả người bạn anh Cả cũng về hùa với họ. Cháu cùng Lý Tường ở nơi đất khách lạ lùng, may tìm được một ông thầy kiện, cho ông ta một ít bạc, ông ta mới bầy cho một kế: Việc này phải kéo cả người cùng uống rượu với anh Cả là Ngô Lương vào; phải tìm nó, cho nó một ít bạc, bảo nó giúp mình. Nếu nó không nghe thì khai nó đã đánh chết Trương Tam rồi đổ tội cho người khác. Nó có cứng họng thì việc này mới dễ thu xếp. Cháu theo kế, quả nhiên Ngô Lương phải nghe theo. Hiện giờ cháu đã đem tiền mua chuộc được bà con người chết và những người làm chứng và đã làm một cái đơn. Hôm qua cháu nộp đơn lên quan, hôm nay quan đã phê vào đơn và đưa ra, xin xem đơn trình sẽ rõ”.

Bảo Thoa lại đọc đơn trình như sau:

“Con là Mỗ, kêu oan về việc anh con bị tai bay vạ gió. Nguyên anh con là Tiết Bàn, quán ở Nam Kinh, trú ở Tây Kinh, ngày… tháng… năm… vừa rồi đem vốn liếng qua miền nam buôn bán. Đi chưa được vài ngày, nghe người nhà đưa tin về nói là anh con mang tội giết người. Con liền đến nơi xảy ra vụ án, biết rằng anh con vô tình làm chết người họ Trương. Đến khi vào nhà giam hỏi thăm, anh con khóc nói với con rằng: Quả thật anh con không quen biết gì người họ Trương và không hề có hiềm khích gì với anh ta cả. Bất thình lình nhân việc đổi rượu cãi nhau, anh con nổi giận hắt bát rượu xuống đất, lúc Trương Tam đang cúi đầu nhặt vật gì, nhỡ tay, cái bát đập vào thái dương, nên bị thiệt mạng. Quan lớn bắt hỏi, anh con sợ bị tra tấn, đành phải thú nhận đã đánh chết người. Nhờ ơn quan lớn nhân từ biết là oan ức, nên chưa kết án. Anh con trong nhà giam, không dám làm đơn khiếu oan, vì sợ can phạn đến lệ cấm. Con nghĩ tình anh em, liều mình kêu thay. Cúi xin quan lớn rộng ơn cho phép, đòi các nhân chứng hỏi lại, ơn ấy không gì bằng, cả nhà chúng con đều được đội ơn nhờ nhân đức không bao giờ hết!” Nay kính trình.

Lời quan huyện phê như sau:

“Hôm nọ khám nghiệm xác chết, chứng cứ rành rành, vả lại chưa hề tra khảo gì anh mày đã thú rằng mình đánh chết, lời thú nhận còn ở trong hồ sơ. Nay mày ở xa mới đến, mắt không trông thấy, sao dám kêu xin bậy bạ. Đáng lẽ phải trị tội, nhưng nghĩ tình thương anh, hãy tạm tha cho.

Không chấp đơn”.

Tiết phu nhân nghe đọc đến đó nói:

- Thế là không cứu được nữa à? Làm sao bây giờ?

Bảo Thoa nói:

- Thư cậu Hai đọc đã hết đâu, còn một đoạn nữa.

Bảo Thoa đọc tiếp:

“Có việc rất cần, hỏi người về đó sẽ biết”.

Tiết phu nhân liền hỏi người mang thư về. Anh ta nói:

- Ở huyện đã biết nhà ta giàu có, cần phải lo liệu việc này ở trong Kinh, lại mất cho họ một cái lễ lớn, thì còn có thể xét lại mà kết án nhẹ. Bây giờ bà phải lo liệu mau lên, không thì cậu Cả sẽ bị khổ.

Tiết phu nhân nghe nói, bảo thằng nhỏ đi ra, rồi đến ngay phủ Giả nói rõ đầu đuôi với Vương phu nhân, nhờ xin hộ với Giả Chính. Giả Chính chỉ sai người lấy tình mà nói với quan huyện, chứ không chịu nói đến chuyện tiền nong lễ vật. Tiết phu nhân sợ không ăn thua, lại nhờ Phượng Thư nói với Giả Liễn, tốn mất mấy ngàn lạng bạc mới mua chuộc được viên tri huyện. Tiết Khoa nhờ vậy thu xếp xong xuôi. Sau đó tri huyện yết thị ra công đường xét xử, sai gọi tất cả hàng xóm, nhân chứng, bà con người chết và Tiết Bàn ở nhà giam đến. Tên thơ lại gọi tên từng người xong, tri huyện liền gọi lý dịch địa phương đến đọc lại lời khẩu cung hôm trước, lại sai gọi mẹ người chết là bà Vương và chú người chết là Trương Nhị đến. Bà Vương vừa khóc vừa thưa:

- Chồng con là Trương Đại, người ở xóm Nam, chết đã mười tám năm nay. Con đầu và con thứ hai cũng đều chết cả, chỉ còn trơ trọi đứa con vừa chết, tên là Trương Tam, năm nay hai mươi ba tuổi, chưa có vợ. Vì nhà con nghèo, không có gì nuôi sống, mới cho nó đi làm hầu rượu ở trong quán rượu của ông Lý. Hôm nọ, vừa trưa, chủ quán rượu sai người đến báo: “Con bà bị người ta đánh chết rồi”. Quan lớn đèn trời soi xét cho! Con thực hồn vía lên mây, liền chạy đến nơi, thấy cháu nó vỡ đầu, máu chảy lênh láng, nằm thở thoi thóp; hỏi nó, nó không nói được nữa, một chốc thì chết. Con toan níu lấy thằng vô loại này liều mạng với nó!

Nói đến đó bọn nha dịch quát một tiếng, bà Vương liền lạy lục mà nói:

- Xin quan lớn đèn trời minh oan cho con. Con chỉ có một đứa con ấy thôi!

Viên tri huyện bảo: - Mụ hãy xuống đi. - Lại gọi chủ quán họ Lý hỏi:

- Tên Trương Tam làm thuê ở quán mày phải không?

Lý Nhị thưa:

- Bẩm không phải làm thuê, mà làm người hầu rượu.

- Hôm khám xác chết, mày nói Tiết Bàn cầm bát đánh chết Trương Tam, có phải chính mắt mày trông thấy không?

- Lúc đó con đang đứng bên quầy bán hàng, nghe nói ngoài phòng khách gọi rượu, một chốc nghe có tiếng kêu: “Nguy rồi! Đánh bị thương rồi!” Con chạy ra thì thấy Trương Tam nằm dưới đất, không nói năng được nữa. Con liền một mặt đi trình lý dịch địa phương; một mặt sai người đi báo với mẹ anh ta. Còn những việc họ đánh nhau thế nào, thực con không rõ, xin quan lớn hỏi những người uống rượu sẽ biết.

Viên tri huyện quát:

- Lúc sơ thẩm lấy khẩu cung, mày nói chính mắt trông thấy, sao bây giờ lại nói không?

- Hôm đó con khiếp sợ mất vía, nên trót nói nhảm. Bọn nha dịch lại quát không cho nói nữa.

Viên tri huyện gọi Ngô Lương hỏi:

- Mày cùng họ uống rượu ở một chỗ phải không? Tiết Bàn đánh người như thế nào? Cứ khai cho thực.

- Hôm đó con đang ở nhà, thì cậu Tiết này mời đi uống rượu. Cậu ấy chê rượu không ngon, đòi đổi rượu khác. Trương Tam không chịu. Cậu Tiết nổi giận, cầm bát rượu hắt lên mặt anh ta, không hiểu vì sao, cái bát lại va phải đầu, chính mắt con trông thấy như thế.

- Nói bậy! Hôm trước lúc khám xác, Tiết Bàn tự nhận là cầm bát đánh chết, mày cũng hảo chính mắt trông thấy, tại sao hôm nay lại nói khác! Lính đâu! Vả vào miệng nó!

Bọn nha dịch dạ vang, toan lại vả miệng. Ngô Lương kêu van:

- Quả thật Tiết Bàn không hề đánh nhau với Trương Tam, mà chỉ nhỡ tay để vỡ bát rượu va phải đầu anh ta. Xin quan lớn làm ơn hỏi lại Tiết Bàn thì rõ.

Viên tri huyện gọi Tiết Bàn lên, hỏi:

- Mày cùng Trương Tam có hiềm thù gì không? Tại sao nó chết? cứ khai thật đi!

- Xin quan lớn thương cho con nhờ! Con thật không hề đánh anh ta. Chỉ vì anh ta không chịu đổi rượu, con cầm bát rượu hắt xuống đất, không ngờ nhỡ tay, bát va vào đầu, con vội vàng bịt lấy chỗ chảy máu, ngờ đâu bịt mãi không được, máu ra nhiều quá, một chốc thì chết. Hôm trước lúc khám xác, con sợ quan lớn đánh, nên nói là cầm bát đánh anh ta, xin quan lớn rộng thương cho.

Viên tri huyện quát:

- Đồ ngốc! Hôm trước ta hỏi mày tại sao đánh nó, thì mày khai là tức nó không chịu đổi rượu mà đánh, thế mà nay lại nói nhỡ tay va phải nó à?

Viên tri huyện vờ làm bộ đòi đánh đập kìm kẹp. Tiết Bàn cứ một mực nói như vậy.

Viên tri huyện gọi người khám xác chết đến hỏi:

- Hôm trước ở chỗ khám xác chết, ghi chép thương tích thế nào, mày nói cho thật.

- Hôm trước khám thây Trương Tam, trong người không có thương tích gì cả, chỉ ở thóp có một vết thương do đồ sứ chạm phải, dài một tấc bảy phân, sâu năm phân, toạc da, xương ở chỗ thóp dập vỡ ba phân, quả thật là bị va chạm thành thương.

Tri huyện đem đối chiếu với giấy ghi thương tích hôm trước thì giống hệt nhau, biết rằng bọn thơ lại đã sửa cho nhẹ đi, nhưng cũng không bắt bẻ gì, liền gọi ký tên cho qua chuyện.

Bà Vương vừa van vừa khóc:

- Quan lớn đèn trời soi xét! Hôm trước nghe nói còn có nhiều thương tích nữa, sao hôm nay thương tích đều đi đâu mất cả?

- Mụ kia nói nhảm! Giấy ghi thương tích còn rành rành đó, mụ không biết à?

Rồi gọi chú người chết là Trương Nhị lên hỏi:

- Cháu anh chết, anh biết anh ta bị bao nhiêu vết thương không?

Trương Nhị vội vàng thưa:

- Chỉ có một vết thương trên đầu thôi ạ.

- Có thế chứ?

Liền gọi thơ lại đem giấy ghi thương tích xác chết cho mụ Vương xem; lại bảo lý dịch địa phương và chú người chết chỉ cho mụ ta rõ; hiện có bà con và các người chứng kiến ở chỗ khám xác chết xác nhận rõ ràng không có chuyện đánh nhau, cho nên không thể gọi là ẩu đả được. Quan huyện bảo mọi người ký tên vào, cho là nhầm nhỡ làm chết người, giam Tiết Bàn lại, chờ ngày trình lên quan trên. Còn các người khác thì giao lý dịch địa phương nhận về. Sau đó quan huyện cho tan hầu.

Mụ Vương khóc lóc kêu la ầm ĩ. Tri huyện bảo bọn nha dịch:

- Đuổi cổ nó ra.

Trương Nhị cũng khuyên mụ Vương:

- Cháu nó quả thực vì nhầm nhỡ mà chết, sao bà lại vu vạ cho người ta! Quan lớn đã phân xử sáng suốt, đừng có làm ầm ĩ lên!

Tiết Khoa ở ngoài, dò nghe rõ ràng, rất mừng rỡ, liền sai người đưa tin về nhà, chờ cho quan trên phê xuống y án thì sẽ tìm cách chuộc tội. Còn anh ta thì hãy ở lại chờ tin. Bỗng nghe người đi ngoài đường xôn xao nói với nhau:

- Có bà Quý phi nào chết, nhà vua không ra triều ba hôm.

Tiết Khoa nghĩ bụng: “Chỗ này cách nơi lăng tẩm nhà vua không xa, tri huyện phải lo công việc đắp đường xá, chắc rằng không thể rảnh rang mà lo việc mình. Mình có nán lại cũng vô ích.” Tiết Khoa bèn vào nhà giam bảo anh:

- Anh hãy yên lòng chờ đợi, em về nhà ít hôm sẽ đến.

Tiết Bàn cũng sợ mẹ buồn, liền dặn về nói lại: “Con không việc gì, cần phải lên hầu cửa quan ít lâu nữa, rồi sẽ được về nhà, nhưng đừng có tiếc tiền”.

Tiết Khoa để Lý Tường ở lại trông nom, còn mình thì về nhà gặp Tiết phu nhân kể chuyện quan huyện thương tình như thế nào, xét đoán như thế nào, cuối cùng kết án là vô ý làm chết người: “Sau này chỉ mất một ít tiền cho bà con người chết, chờ cấp trên cho phép chuộc tội, thế là ổn hết”.

Tiết phu nhân nghe nói, cũng tạm yên lòng, bảo:

- Bác đang mong cháu về trông nom việc nhà. Bác định sang tạ ơn bên phủ Giả, vả lại Chu quí phi vừa mất, bên ấy hôm nào cũng phải vào cung dự lễ tang, trong nhà chẳng còn mấy người. Bác định sang bên dì trông nom hộ, và làm bạn cho vui, nhưng nhà mình chẳng có ai, được cháu về thì hay lắm.

- Cháu ở ngoài nghe nói là Giả quí phi mất, nên mới vội về. Quí phi nhà ta đang khỏe mạnh thế, sao lại nói mất?

- Năm trước quí phi đã đau một lần, rồi lại khỏe. Lần này không nghe nói đau yếu gì, nhưng nghe nói mấy hôm gần đây cụ bên phủ không được khỏe, hễ nhắm mắt là mơ thấy Quí phi. Mọi người trong nhà đều lo lắng. Nhưng đến khi dò hỏi thì quí phi chẳng có việc gì. Đêm hôm kia, chính miệng cụ nói: “Tại sao Nguyên phi đến đây một mình?” Mọi người cho rằng đó là lời sảng trong lúc đau yếu, nên không ai tin. Cụ nói: “Chúng mày không tin, nhưng Nguyên phi còn nói với tao rằng: Vinh hoa dễ hết, cần phải quay mình lùi bước”. Mọi người đều nói: “Điều ấy ai mà chẳng hay tưởng đến? Đó chẳng qua những người già cả hay lo trước nghĩ sau mà thôi”. Vì thế chẳng ai cho là việc quan trọng. Thế rồi đến sáng hôm sau nghe trong cung xôn xao đồn rằng quí phi bệnh nặng, truyền các bà mệnh phụ vào cung thăm hỏi. Bọn họ lo sợ ngờ vực, vội vàng vào cung. Họ còn chưa về thì ở nhà đã nghe nói bà Chu quí phi mất. Lời đồn đại bên ngoài ăn khớp với sự ngờ vực trong nhà, như thế cháu xem có lạ không?

Bảo Thoa nói:

- Chẳng những lời đồn đại bên ngoài lầm lẫn đã đành, mà trong nhà hễ nghe hai chữ “quí phi” thì đã hoảng lên, sau đó mới rõ là không phải. Hai hôm nay, bọn a hoàn và những bà già ở bên phủ đều nói rằng họ đã biết là không phải Quí phi nhà ta mất. Con hỏi: “Sao các người nắm chắc được thế?” Họ nói: “Cách đây năm năm, vào tháng giêng có một ông thầy bói ở tỉnh ngoài đến, có tiếng là bói rất tài. Cụ bảo viết năm, tháng, ngày giờ sinh đẻ của Nguyên phi lẫn vào trong lá số của bọn a hoàn đưa cho thầy ấy đoán xem. Thầy ấy xem xong rồi nói: Cô con gái sinh vào mồng một tháng giêng này, chỉ sợ nói sai giờ, chứ nếu không sai, thì thật là một vị quí nhân, không thể ở trong phủ này. Nghe vậy dượng và mọi người đều nói: Thầy đừng kể gì sai hay đúng, cứ chiếu cố theo số đó mà đoán xem. Ông ta liền nói: năm Giáp Thân, tháng Giêng Bính Dần, trong bốn chữ này có “thương quan tổn tài”. Riêng chữ thân có “chính quan” và “lộc mã”(1), như thế là trong nhà không thể nuôi được, nhưng cũng không tốt lắm. Ngày sinh là Ất Mão, đầu mùa xuân, mộc Vượng, ví như cây gỗ có đẽo gọt lắm mới thành vật quí. Giờ sinh vào tân kim, rất quí; giữa chữ tỵ là chính quan lộc mã càng tốt. Như vậy gọi là “phi thiên lộc mã cách”. Ông ta lại nói: ngày đẻ gặp “chuyên lộc” hết sức quí trọng. Thiên đức nguyệt đức ở cung bản mệnh, giàu sang hưởng phúc tiêu phòng. Cô này, nếu nói đúng giờ, nhất định là một vị hoàng phi. Thế không phải là đoán rất đúng à? Sau ông ta nói thêm: Nhưng tiếc thay, vinh hoa không được lâu; chỉ sợ gặp phải tháng Mão năm Dần, sẽ là ngày mãn kiếp. Cũng như cây gỗ tốt, đem chạm trổ bóng bẩy thì bản chất sẽ không bền. Bọn họ quên hẳn những câu nói ấy rồi chỉ lo hão. Con sực nghĩ đến, mới nói với mợ Cả. Năm nay có phải là năm Dần tháng Mão đâu.

Bảo Thoa chưa nói xong, Tiết Khoa vội nói:

- Việc người ta mặc họ! Nếu có ông thầy bói như thần tiên, tôi muốn hỏi xem anh Cả nhà ta năm nay sao dữ nào chiếu mệnh mà gặp tai vạ như thế? Nên mau mau biên rõ ngày, giờ sinh của anh ấy để tôi nhờ ông ta đoán xem có can gì không?

- Ông ấy là người xa đến, không biết nay còn ở Kinh nữa hay không.

Bảo Thoa nói xong, vội sắm sửa cho Tiết phu nhân sang phủ Giả. Tiết phu nhân đến nơi thấy chỉ có bọn Lý Hoàn và Thám Xuân ở nhà. Họ liền hỏi:

- Việc cậu Cả ra sao rồi?

- Chờ bẩm lên quan trên rồi mới biết được, xem chừng thì cũng không bị tội chết.

Nghe nói, mọi người mới yên lòng. Thám Xuân liền nói:

- Hôm qua mẹ cháu còn nhắc: Lần trước trong nhà có việc nhờ dì trông nom cho; giờ đây nhà dì cũng có việc, nhờ vả không tiện, nên trong lòng rất là áy náy.

- Dì ở nhà cũng buồn. Anh Cả cháu mắc nạn, em Hai cháu thì phải đi lo liệu, ở nhà chỉ còn một mình chị cháu thì làm được gì? Vả lại con dâu nhà dì lại là đứa không biết lo liệu công việc cho nên dì không sao sang bên này được. Hiện nay quan huyện ở đấy cũng còn bận việc đám ma Chu quí phi. Việc làm án chưa thể xong được. Vì thế em Hai cháu về nhà, nên dì mới sang đây xem sao.

Lý Hoàn nói:

- Dì ở đây vài hôm thì hay quá.

Tiết phu nhân gật đầu nói:

- Dì cũng muốn ở đây làm bạn với chị em cháu, nhưng sợ em Bảo nó buồn.

Tích Xuân nói:

- Dì mà nhớ chị Bảo, thì sao không mời chị ấy sang đây luôn thể?

Tiết phu nhân cười nói:

- Làm thế sao được?

- Không được à? Sao trước kia chị ấy cũng sang ở bên này?

Lý Hoàn nói:

- Cô không hiểu đâu, giờ ở nhà người ta có việc, sang làm sao được?

Tích Xuân tưởng là thật, không hỏi thêm nữa.

Đang nói chuyện thì bọn Giả mẫu đã về. Tiết phu nhân chưa kịp chào, Giả mẫu đã hỏi ngay đến việc Tiết Bàn. Tiết phu nhân kể lại đầu đuôi câu chuyện. Bảo Ngọc ở bên cạnh nghe nhắc đến Tưởng Ngọc Hàm, trước mặt không dám hỏi, nhưng trong bụng đoán chắc là hắn rồi, lại nghĩ thầm: “Hắn đã về Kinh sao không đến gặp ta?” Lại thấy Bảo Thoa cũng không sang, không biết vì cớ gì, trong bụng cứ ngẩn ngơ suy nghĩ. Vừa lúc ấy thì Đại Ngọc cũng đến hỏi thăm sức khỏe. Bảo Ngọc thấy vui mừng nên không nhớ đến Bảo Thoa nữa. Liền cùng bọn chị em ăn cơm chiều tại nhà Giả mẫu. Ăn xong, mọi người ra về. Tiết phu nhân nghỉ ở phòng sau trong nhà Giả mẫu.

Bảo Ngọc về đến phòng, thay quần áo xong, bỗng nhớ đến cái thắt lưng Tưởng Ngọc Hàm biếu mình trước kia, liền hỏi Tập Nhân:

- Cái thắt lưng màu đỏ năm nọ chị không thắt, có còn nữa không?

- Tôi cất đi rồi, hỏi làm gì?

- Tôi hỏi qua thế thôi!

- Cậu lại không nghe nói cậu cả Tiết vì chơi với bọn người tầm bậy ấy nên đã gây ra vụ án mạng tày trời à? Cậu còn nhắc đến cái của ấy làm gì? Nghĩ ngợi viển vông như thế, chẳng bằng cứ yên lòng đọc sách, vứt hết những chuyện vô ích ấy càng hay.

- Tôi có nghĩ ngợi gì đâu, ngẫu nhiên nhớ đến hỏi chị một câu. Nó còn cũng được, mà mất cũng thôi. Thế mà chị đã nói một tràng như thế!

- Không phải tôi lắm điều đâu. Con người đọc sách, hiểu đạo lý thì phải lo cố gắng vươn lên; nếu như người thân yêu đến họ thấy thế, mới vui mừng tôn kính chứ!

Bảo Ngọc nghe Tập Nhân nhắc, liền nói:

- Chết rồi! Vừa rồi ở bên nhà cụ, thấy đông người, tôi không nói chuyện với cô Lâm. Cô ấy cũng không để ý gì đến tôi. Lúc ra về cô ta đi trước. Bây giờ chắc cô ấy đang ở nhà, tôi đến một tí đã rồi hãy về.

Nói xong Bảo Ngọc chạy đi.

Tập Nhân nói:

- Cậu về nhanh lên nhé! Thật là vì tôi nhắc mà cậu cao hứng như thế.

Bảo Ngọc không trả lời, cúi đầu đi một mạch đến quán Tiêu Tương, thấy Đại Ngọc ngồi bên kia bàn xem sách. Bảo Ngọc đi đến trước mặt, cười nói:

- Em về nhà sớm thế?

Đại Ngọc cũng cười nói:

- Anh chẳng để ý gì đến em, em còn ở đấy làm gì?

- Họ nói nhiều quá, anh không thể mở miệng vào đâu, nên không nói chuyện với em được.

Vừa nói, Bảo Ngọc vừa nhìn cuốn sách Đại Ngọc đương xem, nhưng chẳng biết một chữ nào cả. Có chữ thì giống chữ “Thược”, có chữ thì giống chữ “Mang”; cũng có chữ “Đại”, ở bên cạnh có chữ “Cửu”, thêm một cái ngoặc, ở giữa lại thêm một chữ “Ngũ”; cũng có chữ bên trên là chữ “Ngũ”, chữ “Lục” một bên thêm chữ “Mộc” bên dưới lại là chữ “Ngũ”. Bảo Ngọc nhìn thấy, vừa lấy làm lạ, vừa bực mình, liền nói:

- Em độ này học càng tiến, xem cả sách thiên thư nữa đấy à?

Đại Ngọc phì cười nói:

- Rõ học giỏi thực! Ngay cả bản đàn cũng chưa hề xem.

- Sao lại không xem? Nhưng tại sao tôi không biết một chữ nào cả? Em biết à?

- Không biết thì xem làm gì?

- Anh không tin. Xưa nay anh chưa nghe em gẩy đàn bao giờ. Bên thư phòng của chúng ta có treo mấy cây đàn, năm trước có một vị khách, gọi là Kê Hiếu Cố, đến chơi, cha anh nhờ ông ta gẩy một khúc. Ông ta lấy đàn xuống xem rồi nói: “Không cái nào dùng được. Nếu ông lớn cao hứng thì hôm khác xin đến hầu”. Chắc rằng cha anh không hiểu đàn, nên ông ta cũng chẳng đến. Tại sao em biết gẩy đàn mà giấu tài thế?

- Em đã hiểu gì đâu! Hôm trước trong người thấy hơi khoan khoái, nhân tiện lục sách trên giá, thấy có một tập bản đàn, rất có thú vị, trong ấy giảng về lý thuyết gẩy đàn rất thông, cách gẩy cũng rõ ràng. Chơi đàn thật là trò tiêu khiển tĩnh tâm, dưỡng tính của người xưa. Khi em còn ở Dương Châu, cũng đã nghe giảng qua và cũng đã học, nhưng vì không hay gẩy, nên rồi quên mất. Đúng như người ta hay nói: “Ba ngày không gẩy, tay sinh gai”. Hôm trước xem mấy thiên này, chỉ có tên bản hát mà không có lời, em lại đi chỗ khác tìm được một bản có lời về xem, mới thấy thú vị. Nhưng làm thế nào để gẩy cho hay, thì thật cũng khó. Trong sách có chép: Ông Sư Khoáng gẩy đàn có thể gọi gió sấm, rồng, phượng đến. Khổng Tử khi học đàn với ông sư Tương, nghe gẩy mà biết ngay khúc đàn là của Văn Vương. Non cao nước chảy, được gặp tri ân...

Nói đến đây, mí mắt Đại Ngọc rung rung rồi từ từ cúi đầu. Bảo Ngọc đang lúc cao hứng nói:

- Những lời em vừa nói rất là thú vị! Nhưng anh không biết chữ nào trong đó cả. Em hãy dạy cho anh ít chữ xem nào.

- Không cần phải dạy, nói ra thì anh sẽ hiểu ngay.

- Anh là người tối dạ, em hãy dạy cho anh cái chữ “Đại” thêm một ngoặc, và ở giữa lại có chữ “Ngũ” là chữ gì.

- Chữ “Đại” và chữ “Cứu” là dùng ngón tay cái bên trái đè phím thứ chín trên đàn; cái ngoặc ấy và chữ “Ngũ” là dùng ngón tay bên phải bật năm dây. Đây không phải là một chữ, mà là một tiếng, rất dễ hiểu thôi. Lại còn có những cách như kéo dài mềm mại, khoan thai, lỏng lẻo, mạnh, nhanh, vội vã, giục giã đều là phép nghiên cứu về cách gẩy đàn cả.

Bảo Ngọc mừng quá hoa chân múa tay nói:

- Em đã thông hiểu lý thuyết gẩy đàn như thế, sao chúng ta không học gẩy đi?

- Cầm có nghĩa là cấm. Người xưa làm ra đàn vốn là để sửa mình, nuôi dưỡng tính tình, dẹp lòng dâm đãng, bỏ sự xa xỉ. Nếu muốn gẩy đàn thì phải ở nơi nhà cao gác vắng; hoặc ở trên lầu, trong núi; hoặc bên mỏm đá, bờ sông. Họ chỉ chơi khi trời đất thuận hòa, trăng trong gió mát, đốt hương ngồi lặng, bụng không nghĩ bậy, khí huyết điều hòa, lúc đó mới cảm thông với thần thiêng, nhịp nhàng với đạo lớn. Cho nên người xưa nói: “Tri âm khó gặp”, nếu không có người tri âm, thì một mình đánh đàn trước trăng thanh gió mát, đá lạ thông xanh, hạc nội chim ngàn, để gởi gắm vào đấy hứng thú của mình mới không phụ với đàn. Lại còn một điều nữa, cần phải gẩy giỏi, biết lựa tiếng hay. Nếu muốn gẩy đàn, trước hết phải khăn áo chỉnh tề, hoặc áo lông, hoặc áo rộng; phải như bộ dạng của người xưa, mới có thể xứng đáng với cách điệu thánh nhân. Sau đó rửa tay, đốt hương, ngồi lên giường đặt đàn trên bàn, nhắm ngồi đúng phím thứ năm, đối với tầm bụng của mình, thong dong đưa hai tay lên, như vậy tâm hồn và thể xác đều ngay thẳng. Lại phải biết rõ nặng, nhẹ, nhặt, khoan, cuốn, mở tự nhiên, thần thái trang trọng mới được.

- Chúng ta học để mà chơi, chứ nghiên cứu tỷ mỷ như thế thì khó lắm.

Hai người đang chuyện trò, thì Tử Quyên ở ngoài vào. Trông thấy Bảo Ngọc, Tử Quyên cười:

- Cậu Hai hôm nay cao hứng thật.

Bảo Ngọc cũng cười:

- Nghe cô em giảng giải, làm cho tôi sáng mắt ra, càng nghe càng thích.

- Không phải cậu cao hứng về việc đó đâu. Tôi nói là cậu cao hứng đến đây kia.

- Trước đây cô em không được khỏe, tôi sợ đến làm phiền, vả lại tôi phải đi học, do đó có vẻ xa lạ.

Tử Quyên không chờ Bảo Ngọc nói xong, liền đỡ lời:

- Cô tôi cũng mới đỡ, cậu đã nói thế, thì cũng chỉ nên ngồi một lát, rồi để cô tôi đi nghỉ, kẻo giảng giải mãi, e mệt đấy.

Bảo Ngọc cười, nói:

- Thật ra tôi cứ thích nghe, quên rằng cô em mệt.

Đại Ngọc cười:

- Nói chuyện này là có giải trí, cũng không việc gì mà mệt. Nhưng chỉ sợ em thì cứ nói mà anh vẫn không hiểu.

- Dấn dần tự nhiên rồi cũng hiểu.

Bảo Ngọc vừa nói vừa đứng dậy, lại tiếp:

- Em phải nghỉ thôi. Ngày mai anh sẽ bảo cô Ba, cô Tư, đều học gẩy đàn cả, để anh nghe.

Đại Ngọc cười:

- Anh lại muốn ngồi không mà hưởng à? Nếu như mọi người đều học gẩy được mà anh không hiểu, thì cũng không xứng đáng.

Nói đến đây, Đại Ngọc sực nghĩ đến tâm sự của mình, liền im lặng không nói nữa.

Bảo Ngọc cười:

- Cốt làm sao cho các cô đàn hay thì tôi thích nghe. Đừng kể tôi có phải “tai trâu” hay không.

Đại Ngọc đỏ mặt lên rồi cười. Bọn Tử Quyên, Tuyết Nhạn cũng cười.

Mọi người đi ra cửa thì thấy Thu Văn dẫn mấy a hoàn nhỏ bưng một chậu hoa lan đến, nói:

- Bên nhà bà Hai vừa có người biếu bốn chậu hoa lan. Vì bận việc, không có thì giờ thưởng thức, bà Hai bảo đưa cho cậu Hai một chậu và cô Lâm một chậu.

Đại Ngọc xem thì thấy có mấy cành hoa sinh đôi, bỗng động lòng, cũng không rõ là vui hay buồn, cứ ngơ ngẩn đứng nhìn. Lúc bấy giờ Bảo Ngọc chỉ nghĩ đến đàn, liền nói:

- Em bây giờ có hoa lan thì có thể gẩy khúc “Ỷ Lan” đấy.(2)

Đại Ngọc nghe nói, trong lòng không vui. Cô ta về phòng, xem hoa lan, vơ vẩn nghĩ: “Cỏ cây đang lúc mùa xuân hoa tươi lá tốt, nghĩ mình tuổi trẻ mà đã giống như vóc bồ liễu ba thu, nếu được như nguyện hoặc giả dần dần tươi tốt, nếu không thì chẳng khác gì hoa liễu lúc xuân tàn, chịu sao nổi mưa dồn gió dập”. Nghĩ đến đây, Đại Ngọc bất giác chảy nước mắt. Tử Quyên đứng bên thấy quang cảnh ấy không hiểu vì duyên cớ gì, nghĩ bụng: “Vừa rồi Bảo Ngọc ở đây thì cô ta cao hứng như thế; giờ đang xem hoa, bỗng làm sao lại thương cảm?” Tử Quyên đang lo không biết khuyên giải ra sao, thì thấy bên nhà Bảo Thoa sai người đến.

-----------

1. Những danh từ trong bói số.

2. Một khúc đàn do Khổng tử khi ở nước Vệ về nước Lỗ thấy hoa lan ở trong hang núi mà làm ra.

Hồi thứ tám mươi bảy

Cảm thấy gió thu, gảy đàn buồn thương chuyện cũ;

Say ngồi nhập định, tà hỏa lẩn vào trong tim.

Đại Ngọc gọi người hầu gái nhà Bảo Thoa vào. Chị ta hỏi thăm sức khỏe Đại Ngọc, rồi đưa bức thư của Bảo Thoa. Đại Ngọc bảo chị ta ra ngoài phòng uống nước, rồi bóc thư Bảo Thoa ra xem. Trong thư viết:

“Chị sinh ra gặp lúc chẳng may, cửa nhà rắc rối. Chị em xa cách, mẹ chị già yếu; đã thế trong nhà lại chửi bới mắng nhiếc từ sớm đến chiều, không lúc nào hết. Nay lại mang tay bay vạ gió, mưa dập gió dồn. Canh chầy trằn trọc, buồn bã khôn khuây. Ai người đồng tâm hẳn phải rủ lòng thương xót! Nghĩ lại “Hải Đường thi xã”, thu nọ vừa qua, ngắm cúc ăn cua, chung tình vui vẻ. Nhớ lại câu thơ:

Ngất ngưởng cùng ai đi náu đó.

Hoa đều nở chậm, chậm vì đâu?

Chị không khỏi bùi ngùi than thở cánh hoa tàn tiết lạnh như hai đứa chúng mình. Lòng buồn man mác, tạm gửi bài phú bốn đoạn, phải đâu không bệnh mà, cũng là hát để thay khóc:

Buồn vì nỗi tiết trời thay đổi,

Thấm thoát đà thu lại tới đây!

Thương nhà gặp bước không may,

Một mình vò võ đêm ngày xót xa.

Trên nền bắc mẹ già mòn mỏi,

Biết quên sao được mối ưu sầu!

Ưu sầu biết tính làm sao?

Lòng ta luống những nao nao bấy chầy.

Gió hiu hắt mây bay lơ lửng,

Dạo trong sân, sương đọng lá rơi.

Vì đâu, vui cũng mất rồi,

Nỗi niềm nghĩ lại bời bời ruột gan!

Cá về bể, hạc ngàn bay vút,

Cá giương vây, hạc mượt màu lông;

Ngước trông trời đất mịt mùng,

Thảm thương ai biết nỗi lòng cho ta?

Trời lạnh ngắt, ngân hà vằng vặc,

Trăng chếch soi, giọt ngọc trầm trầm!

Hát lên lòng luống âm thầm,

Hát rồi lại hát tri âm nhắn cùng.(1)

Đại Ngọc xem xong, khôn xiết thương cảm, nghĩ bụng: “Chị Bảo không gửi cho ai mà chỉ gửi cho mình, cũng là nghĩ người cùng hội, cùng thuyền đây”. Chợt nghe ở ngoài có người nói: “Chị Lâm ở nhà không?” Đại Ngọc vừa xếp thư của Bảo Thoa lại, vừa trả lời: “Ai đấy?”

Đang hỏi thì thấy Thám Xuân, Tương Vân, Lý Văn và Lý Ỷ bước vào. Hai bên hỏi thăm nhau. Tuyết Nhạn pha trà bưng lên. Mọi người cùng uống và nói chuyện phiếm. Sực nhớ đến câu chuyện “Thơ hoa cúc” năm trước. Đại Ngọc nói:

- Chị Bảo từ khi dời ra ở ngoài, chỉ sang chơi hai lần; giờ có việc cũng không sang nữa, thật là lạ! Để rồi xem chị ấy có tới đây nữa không?

Thám Xuân mỉm cười:

- Việc gì mà không sang? Thế nào rồi chị ấy cũng sang chứ. Bây giờ người chị dâu của chị ấy tính khí chẳng ra gì, bà dì  thì đã có tuổi, lại thêm có việc anh Cả, chị Bảo phải ở nhà trông nom, có đâu được rảnh rỗi như trước.

Đang nói chuyện bỗng nghe tiếng gió vù vù thổi mạnh, lá cây rơi đập vào những giấy dán trên cửa sổ. Một chốc lại thấy thoang thoảng mùi hương. Mọi người đều nói:

- Mùi hương này ở đâu bay lại thế? Nó giống mùi hương gì nhỉ?

Đại Ngọc nói:

- Giống mùi hương hoa quế.

Thám Xuân cười:

- Chị Lâm vẫn còn nói như là ở phương Nam vậy. Ở đây về tháng chín, làm gì còn có hoa quế nữa?

Đại Ngọc nói:

- Chính thế đấy! Vì thế nên tôi không nói mùi hoa quế mà là giống mùi hoa quế.

Tương Vân nói:

- Chị Ba cũng đừng nói thế, chị có nhớ câu: “Hoa sen mười dặm, hoa quế ba thu” hay không? Ở phương Nam, lúc này tháng chín chính là lúc hoa quế muộn nở đấy. Chị chưa được thấy đó thôi. Sau này chị đến phương Nam sẽ biết.

Thám Xuân cười, nói:

- Tôi có việc gì mà đến phương Nam? Vả lại cái đó, tôi cũng thừa biết, không mượn các chị nói.

Lý Văn, Lý Ỷ chỉ nhoẻn miệng cười.

Đại Ngọc nói:

- Em ạ! Nói thế không chắc cả đâu. Tục ngữ có câu: “Người là tiên đi trên đất”, nay đây, mai không biết ở đâu; cũng như tôi đây là người phương Nam, tại sao mà đến ở đây!

Tương Vân vỗ tay cười nói:

- Hôm nay chị Ba bị chị Lâm hỏi vặn nên bí. Chẳng những chị Lâm là người phương Nam đến ở đây mà cả mấy đứa chúng mình cũng mỗi người mỗi nơi; cũng có người vốn là người phương Bắc; cũng có người quê ở phương Nam mà sinh trưởng ở phương này. Hôm nay mọi người đều gặp nhau ở một nơi, đủ biết con người ta đều có số mệnh. Người ta sống ở cõi đời, ai nấy đều có duyên phận cả.

Tất cả nghe nói, đều gật đầu. Thám Xuân chỉ ngồi cười. Mấy chị em lại nói chuyện phiếm một chút nữa, rồi ra về.

Đại Ngọc tiễn mọi người ra cửa. Ai cũng nói:

- Chị vừa mới đỡ, đừng đi ra nữa kẻo lại bị cảm đấy.

Đại Ngọc vừa nói vừa dừng chân ở ngõ, ân cần chuyện trò với bốn người, chờ họ ra khỏi mới trở vào. Lúc đó mặt trời đã lặn, chim bay về rừng. Đại Ngọc sực nhớ vừa rồi Tương Vân có nói đến miền Nam, liền nghĩ: “Nếu cha mẹ mình còn sống, thì mình đã được xem phong cảnh phương Nam, hoa xuân, trăng thu, non xanh nước biếc, hai mươi bốn cầu và di tích Lục triều... Mình thiếu gì kẻ hầu người hạ, thích gì làm nấy, không cần phải giữ ý giữ tứ. Mình sẽ đi xe hương, ngồi trên thuyền vẽ; rèm đỏ màn xanh, chẳng còn ai hơn mình nữa. Bây giờ ở nhờ nhà người ta, dù được săn sóc, nhưng bạ gì cũng phải để ý gìn giữ. Không biết kiếp trước ta phạm tội gì, mà kiếp này phải hiu quạnh và cô độc thế này! Đúng như Lý Hậu chủ nói: “Ở đây hàng ngày chỉ lấy nước mắt rửa mặt!”(2) Trong lòng nghĩ ngợi, tâm hồn dường như phiêu diêu đi nơi nào mất.

Tử Quyên lại gần, thấy thế, nghĩ bụng, có lẽ là vì vừa rồi nói đến chuyện phương Nam, phương Bắc, nên cô ta động lòng, liền hỏi:

- Các cô đến nói chuyện lâu, chắc cô mệt. Vừa rồi cháu sai Tuyết Nhạn bảo nhà bếp làm cho cô một bát canh thịt nấu rau, thêm ít bột tôm và măng. Cô thấy thế nào?

- Tốt đấy.

- Cháu còn làm thêm bát cháo gạo Giang Nam nữa.

Đại Ngọc gật đầu, rồi lại nói:

- Cháo thì hai em nấu lấy, đừng mượn nhà bếp nấu nữa.

- Cháu cũng sợ nhà bếp làm không được sạch, cho nên tự mình nấu lấy. Còn bát canh, cháu cũng sai Tuyết Nhạn bảo thím Liễu phải làm cho sạch sẽ. Thím Liễu nói: Chị đã sắm sửa đầy đủ rồi đem về nhà bảo con Năm(3) nấu.

- Ta không phải là sợ họ bẩn thỉu, mà là vì ốm đau lâu ngày, sắm sửa gì cũng nhờ người ta làm cả, bây giờ lại còn canh, còn cháo, sai khiến lung tung, thế nào người ta cũng đâm ngấy.

Nói đến đó, quầng mắt Đại Ngọc lại đỏ lên.

- Đấy là cô hay nghĩ thế thôi, chứ cô là cháu ngoại và là khúc ruột của cụ, họ mong muốn chiều chuộng cô còn chưa được, có đâu lại oán trách?

Đại Ngọc gật đầu rồi lại hỏi:

- Chị vừa nói con Năm, có phải là người con gái hôm nọ chơi với em Phương Quan bên nhà cậu Bảo đấy không?

- Chính nó đấy.

- Nghe nói nó sắp vào làm a hoàn ở đấy phải không?

- Phải đấy, nhưng vì nó bị ốm một dạo, sau khỏe rồi, vừa muốn vào ở thì lại gặp lúc bọn Tình Văn gây chuyện rắc rối, thành ra còn phải chậm lại.

- Ta xem con bé mặt mũi sáng sủa dễ thương đấy!

Đang nói thì bà già ở ngoài đưa canh đến. Tuyết Nhạn đỡ lấy. Bà già nói:

- Thím Liễu bảo thưa với cô, đây là em Năm nấu đấy. Nó không dám nấu ở bếp lớn, sợ cô ngại bẩn.

Tuyết Nhạn vâng lời, rồi bưng vào.

Đại Ngọc ở trong nhà đã nghe nói rồi, nên bảo Tuyết Nhạn:

- Em dặn bà ta về nói rằng ta cám ơn thím ấy.

Tuyết Nhạn ra nói rồi bà ta ra về.

Tuyết Nhạn đem thìa, bát của Đại Ngọc bày trên ghế nhỏ và hỏi:

- Còn có thứ rau thơm từ phương Nam đưa đến, trộn lẫn với dầu dấm, cô có muốn ăn không?

- Cũng được. Nhưng đừng có rềnh ràng quá.

Khi đem cháo lại, Đại Ngọc ăn hết nửa bát, và húp hai thìa canh rồi đặt xuống. Hai a hoàn dọn đi rồi lau sạch cái ghế cất đi, và cái ghế khác vào. Đại Ngọc súc miệng, rửa tay xong, nói:

- Chị Tử Quyên đã đốt thêm hương chưa?

- Để cháu đốt thêm.

- Các chị ăn canh và cháo đi, đang còn ngon và sạch sẽ, để tôi đốt thêm hương cho.

Hai người vâng lời, ra ngoài ngồi ăn.

Đại Ngọc ở trong, đốt thêm hương, rồi ngồi một mình.

Đang muốn lấy sách xem, bỗng nghe tiếng gió trong vườn, từ tây thổi sang đông, thổi qua cành cây, tiếng kêu vi vu. Một chốc mấy con thiết mã(4) treo ở thềm cũng kêu loảng xoảng.

Một lúc sau Tuyết Nhạn ăn xong, vào nhà hầu. Đại Ngọc nói:

- Giời lạnh rồi. Hôm trước ta bảo các em đem mấy cái áo lông mỏng phơi ra, đã phơi chưa?

- Phơi rồi ạ!

- Em đưa đây một chiếc, ta quàng.

Tuyết Nhạn chạy đi, rồi mang lại một bao đựng các thứ áo lông mỏng, mở ra để Đại Ngọc chọn. Đại Ngọc thấy trong ấy có để lẫn một cái bao bằng lụa, cầm lấy, mở ra xem, thì ra cái khăn lụa lúc Bảo Ngọc ốm đưa tặng và mình đã đề thơ vào, dấu nước mắt còn hoen ố. Trong bao ấy lại có một cái túi đựng hương, một cái túi đựng quạt cùng với cái dây đeo viên ngọc của Bảo Ngọc. Thì ra khi phơi áo, nhặt được vật này ở trong rương. Tử Quyên sợ rơi mất, nên cất lẫn vào trong gói áo này.

Đại Ngọc không thấy thì thôi, khi đã thấy thì quên cả mặc áo, chỉ cầm lấy hai mảnh khăn lụa ấy, ngơ ngẩn xem bài thơ cũ. Xem một chốc, bất giác nước mắt chảy ròng ròng.

Tử Quyên ở ngoài vào, thấy Tuyết Nhạn bưng gói áo đứng ngẩn ngơ một bên. Trên ghế con thì để cái túi hương và hai ba mảnh túi quạt và cái dây bị cắt rời ra. Đại Ngọc thì cầm hai mảnh lụa cũ trên có đề chữ, đang ngắm nghía và ứa nước mắt. Thật là:

Việc buôn đến quấy người buồn sẵn;

Lệ cũ hòa thêm lệ mới vào.

Tử Quyên thấy thế, biết những vật này làm cô ta nhớ đến chuyện cũ, có khuyên cũng chẳng ăn thua gì, đành phải cười, nói:

- Cô còn xem những cái ấy làm gì? Đó đều là những vật buồn cười mấy năm trước lúc cô và cậu Hai đang còn nhỏ, khi vui khi giận bất thường, mới xảy ra như thế. Nếu được như ngày nay, hai bên đều biết kính trọng nhau, thì làm gì mà đến nỗi làm hỏng mất những vật ấy.

Tử Quyên nói thế có ý để làm Đại Ngọc khuây khỏa, không ngờ lại làm cho Đại Ngọc nhớ lại những câu chuyện cũ giữa hai người khi Đại Ngọc vừa mới đến, thành ra nước mắt cô ta lại càng đầm đìa.

Tử Quyên lại khuyên:

- Em Tuyết nó chờ mãi. Cô khoác lấy một cái áo đi thôi.

Đại Ngọc bèn vứt khăn lụa xuống. Tử Quyên vội vàng nhặt lên, rồi đem cả mấy vật kia gói lại cất đi.

Đại Ngọc khoác một cái áo da, buồn bã đi ra nhà ngoài ngồi xuống. Ngoảnh lại thấy thư của Bảo Thoa còn để trên bàn chưa cất, Đại Ngọc đem ra xem lại hai lần, rồi than: “Cảnh ngộ không giống nhau, mà lòng cùng chung đau xót. Ta hãy làm một bài thơ bốn đoạn phổ nhạc, để có thể hát theo tiếng đàn, và ngày mai viết gởi cho chị ta, để thay bài họa”.

Nghĩ vậy Đại Ngọc gọi Tuyết Nhạn đưa bút nghiên ở nhà ngoài vào, chấm mực vẩy bút, làm thành bốn bài, lại giở sách nhạc ra, mượn hai khúc “Ỷ lan” “Tư hiền”(5) hợp thành âm vận hợp với bài của mình làm cho đều đặn rồi viết ra, để gởi cho Bảo Thoa. Đại Ngọc bảo Tuyết Nhạn mở rương lấy cái đàn ngắn trước kia mang đến đưa hòa bốn dây, rồi lại tập gẩy. Đại Ngọc vốn là người thông minh tuyệt vời, lại nhờ lúc ở phương Nam đã từng học qua nên tuy chưa gẩy mấy nhưng chỉ một lúc là thạo. Đêm khuya, Đại Ngọc gọi Tử Quyên sắp xếp đi ngủ.

Một hôm, Bảo Ngọc ngủ dậy, chải đầu rửa mặt xong, cùng đi với Bồi Dính qua phòng học, bỗng thấy Mặc Vũ cười hì hì chạy lại nói:

- Cậu ạ, hôm nay may mắn quá. Cụ đi vắng nên cho nghỉ cả.

- Thật à?

- Cậu không tin à! Kìa, chẳng phải cậu Ba và anh Lan đã về đấy là gì?

Bảo Ngọc nhìn thì thấy Giả Hoàn và Giả Lan có mấy đứa hầu trẻ theo từ đường kia đi lại. Hai người vui cưới hớn hở, trong miệng thì thầm, chả biết nói gì. Trông thấy Bảo Ngọc, họ buông tay đứng lại. Bảo Ngọc hỏi:

- Hai đứa mày tại sao lại về?

Giả Hoàn nói:

- Hôm nay cụ có việc nói cho nghỉ một hôm. Ngày mai hãy đến.

Bảo Ngọc nghe nói, quay lại chỗ Giả mẫu và Giả Chính thưa chuyện rồi về Viện Di Hồng.

Tập Nhân hỏi:

- Tại sao cậu lại về?

Bảo Ngọc nói cho chị ta rõ, rồi chỉ ngồi một tý đã đi ra ngoài.

Tập Nhân nói:

- Cậu đi đâu mà vội thế? Theo ý tôi, được nghỉ học thì cũng nên tĩnh dưỡng cho khoan khoái.

Bảo Ngọc dừng chân lại, cúi đầu ngẫm nghĩ một lúc rồi nói:

- Chị nói cũng phải, nhưng không mấy khi nghỉ học một ngày, lại không dạo chơi tiêu khiển hay sao? Chị cũng nên thương tôi một chút với!

Tập Nhân nghe nói thấy tội nghiệp, liền cười, hỏi:

- Thôi, cho cậu đi.

Đang nói thì người hầu đã đưa cơm đến. Bảo Ngọc không biết làm thế nào, đành phải ăn cơm. Bảo Ngọc ăn vài ba miếng, vội vàng súc miệng, rồi một mạch chạy sang phòng Đại Ngọc.

Đến đầu cửa thì thấy Tuyết Nhạn đang phơi lụa giữa sân. Bảo Ngọc hỏi:

- Cô ăn cơm chưa?

- Sáng dậy, cô tôi ăn nửa bát cháo, không muốn ăn cơm, giờ đang ngủ trưa đấy. Cậu hãy đi đâu một chốc rồi trở lại.

Bảo Ngọc đành phải trở ra. Bảo Ngọc không biết đi đâu, sực nghĩ mấy hôm nay không thấy Tích Xuân, liền rảo bước đi tới Lục Phong hiên. Vừa đến dưới cửa sổ, thấy im lặng, không có một tiếng người. Bảo Ngọc tưởng cô ta cũng ngủ trưa, mình vào không tiện. Đang định trở ra thì nghe có tiếng động nhè nhẹ, không biết tiếng gì, Bảo Ngọc đứng lại. chỉ nghe có tiếng cắc cắc trong nhà. Bảo Ngọc vẫn chưa biết là tiếng gì. Bỗng một người nói:

- Chị đi nước này thì nước kia chị bỏ đi à?

Bảo Ngọc mới biết là họ đang đánh cờ. Nhưng không thể nhận ngay được người mới nói đó là ai. Ngay lúc đó thì Tích Xuân nói:

- Sợ gì kia chứ, chị ăn như thế này nhé, tôi đi như thế này nhé, chị lại ăn như thế này nhé, tôi lại đi như thế này nhé. Còn chậm một nước đấy, nhưng cuối cùng cũng sẽ theo được.

Lại nghe người kia nói:

- Tôi ăn như thế này thì sao?

Nghe tiếng Tích Xuân nói:

- Ái chà, té ra còn cái nước đánh quay lại phía kia mà mình không đề phòng.

Bảo Ngọc lắng tai mãi. Tiếng nói của người kia rất quen, nhưng không phải là người trong bọn chị em. Chắc rằng trong phòng Tích Xuân không có người ngoài, nên Bảo Ngọc nhè nhẹ vén màn bước nào. Nhìn ra chẳng phải ai xa lạ mà là ni cô Diệu Ngọc ở chùa Lũng Thúy. Bảo Ngọc thấy là Diệu Ngọc nên không dám làm giật mình. Diệu Ngọc và Tích Xuân chính là đang lúc trầm ngâm nghĩ ngợi nên cũng không nhìn đến. Bảo Ngọc đứng một bên xem cách đánh của hai người như thế nào. Thấy Diệu Ngọc cúi đầu hỏi Tích Xuân:

- Chị không cần góc này nữa à?

- Sao lại không cần? Nhưng quân của chị ở đó đều là quân chết cả rồi, tôi sợ gì?

- Hãy khoan nói láo, thử xem đã.

- Để tôi đánh lên, xem chị làm thế nào.

Diệu Ngọc mỉm cười, cầm quân cờ bên góc trên, đánh quật trở lại, ăn sạch quân cả một góc của Tích Xuân, rồi cười nói:

- Đây gọi là thế cờ “Đảo thoát hoa” (Cởi ngược giày).

Tích Xuân chưa kịp trả lời. Bảo Ngọc đứng một bên, nhịn không được, cười ha hả làm cho hai người giật nẩy mình. Tích Xuân nói:

- Làm cái gì thế? Đến cũng không lên tiếng, chơi ác, làm người ta giật mình! Anh đến đây từ lúc nào thế?

- Tôi đến từ lúc nãy, xem hai cô giành nhau cái góc cờ.

Vừa nói, vừa chào Diệu Ngọc, lại cười hỏi:

- Cô Diệu không mấy khi ra khỏi cửa thiền, hôm nay có duyên nợ gì lại xuống trần chơi thế?

Diệu Ngọc nghe nói bỗng dưng đôi má ửng đỏ, cũng không trả lời, chỉ cúi đầu xuống nhìn bàn cờ.

Bảo Ngọc tự nghĩ mình láu táu quá, liền cười và nói lấy lòng:

- Con nhà tu hành thật không giống như bọn người trần tục chúng tôi. Trước hết là giữ lòng cho yên tĩnh; yên tĩnh thì thông minh; thông minh thì sáng suốt.

Bảo Ngọc nói chưa xong, thấy Diệu Ngọc nhè nhẹ ngước mắt lên, nhìn Bảo Ngọc một cái, rồi lại cúi đầu xuống, đôi má dần dần ửng đỏ. Bảo. Ngọc thấy cô ta không để ý gì đến mình, liền thẫn thờ ngồi xuống một bên.

Tích Xuân còn muốn đánh cờ nữa, Diệu Ngọc chậm chạp nói:

- Chốc nữa hãy đánh.

Cô ta liền đứng dậy sửa lại xiêm áo rồi lại ngồi xuống, vơ vẩn hỏi Bảo Ngọc:

- Cậu ở đâu lại đây?

Bảo Ngọc đang cố chờ Diệu Ngọc lên tiếng hỏi để chống chế câu nói của mình lúc trước, bỗng lại nghĩ: “Hay là câu hỏi của Diệu Ngọc có mưu mô gì chăng?” Liền đỏ mặt lên, nói không ra lời. Diệu Ngọc mỉm cười, đoạn nói chuyện với Tích Xuân. Tích Xuân cũng cười, nói:

- Anh Hai này, điều đó có gì khó trả lời? Anh lại không nghe người ta thường nói: “Ở chỗ mình mà đến” à? Thế mà cũng đỏ mặt lên, giống như thấy người lạ ấy?

Diệu Ngọc nghe câu ấy, nghĩ thầm đến bộ dạng mình lúc vừa rồi, động lòng nóng má, tất nhiên là má cũng đỏ, cô ta cảm thấy ngượng, liền đứng dậy nói:

- Tôi đến lâu rồi, phải về am đây.

Tích Xuân vốn biết tính của Diệu Ngọc, cũng không cố mời lại, liền tiễn chân ra ngõ. Diệu Ngọc cười nói:

- Lâu nay không đến, ở đây loanh quanh, đường về quanh co không khéo lạc mất.

Bảo Ngọc nói:

- Như vậy, tôi xin đưa cô về, có được không?

- Không dám! Mời cậu đi trước.

Hai người từ giã Tích Xuân, từ Lục Phong hiên đi ra, quanh co khuất khúc, đi gần đến quán Tiêu Tương, bỗng nghe có tiếng “tưng tưng”. Diệu Ngọc nói:

- Tiếng đàn ở đâu đấy?

- Chắc là cô Lâm gẩy đàn đấy.

- Thế cô ta cũng biết gầy đàn à? Sao ngày thường tôi không thấy cô ta nhắc đến?

Bảo Ngọc liền đem chuyện hôm nọ Đại Ngọc giảng giải về đàn, nói cho Diệu Ngọc nghe, rồi bảo:

- Chúng ta đi đến xem đi.

- Xưa nay chỉ có nghe đàn, ai lại xem đàn.

Bảo Ngọc cười:

- Tôi đã nói tôi là người tục mà.

Đang nói thì hai người đã đến ngoài quán Tiêu Tương, ngồi trên hòn đá bên núi lắng nghe, cảm thấy âm điệu trong trẻo, tha thiết. Nghe bên trong có tiếng hát nhè nhẹ.

Gió vi vút chừ, khí thu già,

Người đẹp ngàn dặm chừ, một mình ngâm nga.

Trông vời quê hương chừ, đâu tá?

Đứng tựa lan can chừ, lệ nhỏ sa!

Nghỉ một chốc, lại nghe hát:

Non thăm thẳm chừ, sông dài,

Bóng trăng sáng chừ, dọi song mai.

Bâng khuâng không ngủ chừ, nhìn sông Ngân xa xôi,

Áo the run rẩy chừ, sương lạnh toát người.

Hát đến đấy lại nghỉ một chốc. Diệu Ngọc nói:

- Vừa rồi là điệp thứ nhất, nay đến điệp thứ hai. Chúng ta rốn nghe xem.

Trong nhà lại có tiếng hát vọng ra:

Cảnh ngộ ngươi chừ, không được tự do,

Cảnh ngộ ta chừ, lắm mối buồn lo.

Ngươi cùng ta chừ, lòng những hẹn hò,

Nhớ người xưa chừ, đừng có đắn đo.

Diệu Ngọc nói:

- Đó lại là một khúc nữa, sao mà lo phiền lắm thế.

- Tôi tuy không hiểu, nhưng nghe âm điệu, cũng cảm thấy buồn rầu quá.

Lúc đó nghe trong nhà vặn lại dây đàn. Diệu Ngọc nói:

- Dây chính cao quá, sợ không ăn khớp với luật vô xạ.(6)

Lại nghe trong nhà hát:

Người ở trên đời chừ, như hạt bụi thôi,

Trên giời dưới trần chừ, duyên định sẵn rồi.

Duyên định sẵn chừ, hoài công lo lắng,

Sao bằng trăng giữa trời kia lòng trong trắng.

Nghe đến đấy, Diệu Ngọc bỗng thất sắc, nói:

- Tại sao lại tự dưng đổi ra âm chủy,(7) âm vận này buồn quá, có thể làm cho vàng đá phải nứt. Thế này thì quá lắm!

- Quá thì sao?

- Quá thì không thể giữ được lâu.

Hai người đang bàn bạc, bỗng nghe “phựt” một tiếng, dây chính đứt mất. Diệu Ngọc đứng dậy vội vàng chạy đi.

Bảo Ngọc nói:

- Sao thế?

- Ngày sau khắc biết, cậu cũng bất tất nói nhiều.

Nói xong Diệu Ngọc đi mất. Bảo Ngọc băn khoăn ngờ vực, ủ rũ đi về viện Di Hồng.

Diệu Ngọc về đến nơi, có đạo bà ra đón, bèn đóng cửa chùa lại, ngồi một lúc, đem kinh Phật hàng ngày đọc một lần. Ăn cơm chiều xong, thắp hương lên, Diệu Ngọc lạy các vị bồ tát rồi bảo với đạo bà đi nghỉ. Giường thiền và gối dựa đều sắp sửa sẵn. Diệu Ngọc buông màn, nín hơi, ngồi xếp tròn, bỏ hết mọi ý nghĩ lông bông, một lòng hướng về đạo chính. Ngồi như vậy đến sau trống canh ba bỗng nghe trên mái nhà có tiếng sột soạt, Diệu Ngọc sợ có kẻ trộm, vội xuống giường thiền, đi ra trước hiên, thì thấy bóng mây ngang giời, trăng trong như nước. Lúc bấy giờ tiết trời chưa lạnh lắm. Diệu Ngọc một mình đứng tựa lan can, bỗng lại nghe trên nhà hai con mèo vừa gù nhau vừa kêu.

Diệu Ngọc sực nhớ lời nói Bảo Ngọc lúc ban ngày, bỗng thấy động lòng nóng tai, vội vàng ổn định lại tâm thần, đi vào buồng thiền, lại lên giường ngồi. Nhưng khốn nỗi thần hồn bất định, hình như muôn ngựa ruổi rong, rồi cảm thấy như là cái giường cứ lắc lư, thân mình không còn ở trong am nữa. Cô thấy có rất nhiều vương tôn công tử đòi cưới mình làm vợ; lại thấy có nhiều bà mối lôi lôi kéo kéo, đẩy mình lên xe, mà mình thì không chịu đi. Một chốc lại thấy kẻ cướp, kẻ trộm cầm dao vác gậy đến bức bách mình. Diệu Ngọc đành phải khóc rầm lên và kêu cứu.

Bọn ni cô, đạo bà trong am nghe tiếng, đều thắp đèn đuốc tới xem, thì thấy Diệu Ngọc hai tay duỗi ra, miệng sè nước bọt. Họ vội vàng gọi tỉnh lại, thấy hai mắt Diệu Ngọc trừng lên, hai má đỏ thắm, miệng mắng:

- Tao có bồ tát phù hộ, bọn kẻ cướp chúng bay dám làm gì?

Mọi người hoảng sợ, chẳng biết làm thế nào, xúm xít gọi:

- Cô mau tỉnh lại, chúng tôi đây mà.

Diệu Ngọc nói:

- Ta muốn về nhà. Các ngươi có ai giỏi thì đưa ta về.

Đạo bà nói:

- Phòng cô ở đây, chứ còn đâu nữa.

Nói rồi bà ta sai người cầu khấn trước tượng Quan Âm, và xin một quẻ thẻ. Mở thẻ ra xem thì nói là người này xúc phạm phải một âm hồn ở phía tây nam.

Có một người nói:

- Phải rồi! Góc tây nam trong vườn Đại Quan này xưa nay không có người ở, thế nào cũng có ma quỉ.

Thế rồi người chạy cách này, người chạy cách khác rối rít cả lên.

Một ni cô do Diệu Ngọc đưa từ phương Nam đến để hầu hạ mình, cho nên tận tâm hơn mọi người, cứ ngồi trên giường ôm lấy Diệu Ngọc.

Diệu Ngọc ngoảnh lại hỏi:

- Mày là ai?

- Tôi đây.

- Té ra chị đấy à?

Diệu Ngọc nhìn kỹ rồi ôm lấy ni cô, nghẹn ngào khóc nức nở mà nói:

- Chị là mẹ tôi, chị không cứu tôi thì tôi chết mất!

Người ni cô một mặt gọi Diệu Ngọc tỉnh lại; một mặt xoa bóp cho cô ta. Đạo bà múc nước cho uống, mãi đến trời sáng mới ngủ được.

Ni cô liền cho người đi mời thầy xem mạch. Cũng có người nói là vì lo nghĩ tổn hại đến tỳ; cũng có người nói là nhiệt vào huyết thất; cũng có người nói xúc phạm ma quỷ; cũng có người nói là nội cảm ngoại thương, rút cục chẳng có gì là nhất định. Sau cùng mời được một ông thầy đến xem bệnh rồi hỏi:

- Đêm ấy cô có ngồi nhập định không?

Đạo bà nói:

- Xưa nay đêm nào sư cô tôi cũng ngồi nhập định.

- Có phải đêm qua bỗng dưng sinh bệnh không?

- Chính thế.

- Đó là vì tà hỏa nhập vào tim đấy.

Mọi người hỏi:

- Có cần gì không?

 - May mà ngồi nhập định chưa lâu lắm, tà hỏa chưa vào sâu, còn có thể chữa được.

Nói xong thầy lang cho đơn “Giáng phục tâm hỏa” sắc thang cho Diệu Ngọc uống. Diệu Ngọc dần dần bình phục.

Tin này đồn ra ngoài, bọn chơi bời lêu lổng nghe được, liền bịa đặt ra nhiều chuyện không đâu. Chúng nói:

- Người chừng ấy tuổi, chịu làm sao được? Vả lại hình dáng phong lưu, tính tình linh lợi, sau này chẳng biết lọt vào tay ai, thì người ấy tốt phúc.

Qua vài ngày, Diệu Ngọc đã hơi đỡ, nhưng tinh thần chưa thật bình phục, có lúc vẫn còn mơ màng, hoảng hốt.

Một hôm Tích Xuân đang ngồi, thì Thái Bình vào nói:

- Cô có biết chuyện cô Diệu Ngọc không?

- Cô ta có việc gì?

- Hôm qua tôi nghe cô Hình và mợ cả nói chuyện: Cô Diệu Ngọc từ hôm đánh cờ với cô về, đêm ấy bị trúng tà, miệng kêu rầm lên, nói kẻ cướp tới bắt, đến nay vẫn chưa khỏe. Cô thử nghĩ xem, có lạ không?

Tích Xuân nghe nói, im lặng không đáp, trong bụng nghĩ thầm: “Diệu Ngọc tuy là trong sạch, nhưng trần duyên chưa dứt. Tiếc thay mình lại sinh ở nhà này, tu hành không tiện; nếu mình được tu hành, làm gì có tà ma nhiễu hại! Chắc chắn sẽ lửa lòng lạnh tắt, duyên nghiệp sạch không”. Nghĩ đến đó, Tích Xuân bỗng dưng tinh thần cảm thông, trong lòng như có sở đắc, liền ứng khẩu đọc câu kệ như sau:

Giời đất không bến bờ,

Chỗ nào là nên ở?

Vốn tự chỗ không ra,

Nên về chỗ không đó.

Đọc xong, cô ta sai a hoàn thắp hương, một mình ngồi im lặng, rồi lục sách thế cờ ra xem mấy bài do ông Khổng Dung vào Vương Tích Tân làm ra.(8) Trong đó các thế “Hà diệp bao giải”(9), “Hoàng oanh bác thỏ”(10) đều không lạ lắm. Thế “Tam thập lục cuộc sát giác11), thì trong một lúc cũng khó lãnh hội và khó nhớ. Chỉ có thế “Thập long tẩu mã”(12) là rất có ý tứ. Tích Xuân đang nghĩ ngợi thì thấy ở ngoài có một người chạy vào trước sân, gọi:

- Chị Thái Bình ơi!

------------

1. Nguyên là thể phú, vì hạn chế vần, chúng tôi dịch theo thể này.

2. Tức Lý Dục, vua nước Nam Đường, bị Tống Thái Tông diệt mất nước.

3. Ở hồi 77, theo lời Vương phu nhân nói, thì con Năm đã chết rồi, có lẽ là lầm.

4. Một đồ dùng người xưa thường làm để treo ở ngoài mái nhà có gió thổi thì chạm nhau kêu leng keng.

5. “Ỷ Lan” đã chú thích ở hồi trên. “Tư hiền” là khúc đàn do Chu Văn Vương làm ra khi tìm được Lã Vọng.

6. Một trong mười hai luật đời xưa. Trong mười hai chi thì thuộc về tuất.

7. Chủy là một trong năm âm luật của đàn (cung thương giốc chủy vũ).

8. Khổng Dung người đời Tam quốc; Vương Tích Tân người đời nhà Đường đều là tay cao cờ.

9. Lá sen bọc cua.

10. Oanh vàng đâm thỏ.

11. Ba mươi sáu nước đánh góc.

12. Mười rồng ruỗi ngựa. Các chữ trên này là thế cờ tướng, do những tay cao cờ đặt ra.

Hồi thứ tám mươi tám

Muốn bà vui, Bảo Ngọc khen cháu bé mồ côi;

Nghiêm phép nhà, Giả Trân đánh người hầu cứng cổ.

Tích Xuân đang ngồi nghĩ các thế cờ, bỗng nghe ngoài sân có tiếng Uyên Ương gọi Thái Bình. Thái Bình ra, cùng Uyên Ương vào. Uyên ương đi với một a hoàn nhỏ, mang đến một cái túi nhỏ bằng lụa vàng. Tích Xuân cười hỏi:

- Việc gì thế?

- Vì sang năm cụ tám mươi mốt tuổi, đã hứa làm một đàn chay công đức chín đêm ngày và viết ba ngàn sáu trăm năm mươi mốt bộ kinh “Kim cương”. Đã phát ra ngoài cho mọi người viết rồi, nhưng tục ngữ thường nói: Kinh kim cương cũng như cái vỏ ngoài của nhà Đạo, “Tâm kinh” mới là phần cốt yếu(1). Cho nên khi viết kinh Kim cương phải viết “Tâm kinh” vào, càng thêm công đức. Cụ nghĩ rằng “Tâm kinh” đã quan trọng, đức Phật Quan Âm lại là một vị nữ bồ tát, vì thế cần có các cô, các mợ, bà con ruột thịt viết cho được ba trăm sáu mươi lăm bộ. Như vậy, vừa thành kính, vừa trong sạch. Trong nhà chúng ta, trừ mợ Hai bận việc nhà, không có thì giờ rảnh lại không biết viết. Ngoài ra, những người biết viết, bất luận là viết được nhiều hay ít, đến cả mợ Trân và các dì, đều chia phần viết cả. Người trong nhà này cố nhiên là không cần phải nói nữa.

Tích Xuân nghe xong gật đầu nói:

- Việc khác tôi làm không nổi, chứ viết kinh thì tôi rất thành tâm. Chị để đấy ngồi uống trà đã.

Uyên Ương để cái bao vàng lên trên yên rồi cùng Tích Xuân ngồi xuống.

Thái Bình bưng một chén trà lại. Tích Xuân cười, hỏi Uyên Ương:

- Chị có viết không?

- Cô lại nói đùa. Trước đây mấy năm tôi còn viết lách, chứ ba bốn năm nay, cô có thấy tôi cầm đến bút đâu?

- Làm việc này là có công đức đấy.

- Tôi cũng có một việc: Lâu nay, sau khi hầu cụ đi nghỉ, tôi đọc kinh đếm gạo, đọc đã được hơn ba năm rồi. Gạo ấy tôi cất sẵn, chờ khi nào cụ làm chay, tôi sẽ đem số gạo góp vào để cúng Phật và bố thí cho người nghèo. Thế cũng là một chút lòng thành của tôi.

- Như vậy nếu cụ thành đức Phật Quan Âm, chị sẽ là cô Long Nữ.

- Làm gì được thế? Có điều ngoài cụ ra, tôi không hề hầu hạ được ai, chẳng hiểu vì kiếp trước duyên phận ra sao?

Nói đến đấy chị ta muốn ra về, lại gọi a hoàn nhỏ mở bao lụa vàng, lấy đồ đựng ở trong ra và nói:

- Xếp giấy trắng này là để viết “Tâm kinh”!

Lại cầm lên một bó hương, nói:

- Hương này để thắp khi viết kinh.

Tích Xuân nhận lấy cả.

Uyên Ương từ giã Tích Xuân, cùng a hoàn nhỏ về trình Giả mẫu. Thấy Giả mẫu đang cùng Lý Hoàn chơi song lục(2) Uyên Ương đứng một bên xem. Con súc sắc của Lý Hoàn gieo xuống gặp may đánh mất mấy con cờ của Giả mẫu. Uyên Ương chỉ nhoẻn miệng cười.

Bỗng thấy Bảo Ngọc ở ngoài vào, trong tay xách hai cái lồng nhỏ, trong lồng có mấy con dế, nói:

- Cháu nghe nói đêm bà ngủ không được, cháu đưa cái này đến để bà giải trí.

Giả mẫu cười:

- Mày đừng nhân lúc bố mày không ở nhà mà đùa nghịch.

- Cháu có đùa nghịch gì đâu?

- Mày không đùa nghịch, thì sao không ở phòng học đọc sách, lại lôi cái vật ấy về làm gì?

  - Không phải cháu lôi về đâu. Hôm trước thầy học bảo em Hoàn, cháu Lan làm câu đối. Em Hoàn đối không được, cháu gà cho nó. Nó đối rồi thầy khen mấy câu. Nó cảm ơn cháu, mới mua cái này tạ ơn cháu, nay cháu đem biếu bà.

- Ngày nào nó cũng học kia mà? Sao mà đối không được? Đã đối không được thì cứ để cụ Nho đánh cho nó mấy cái tát tai, xem nó có xấu hổ không! Còn mày như thế vẫn chưa biết thân, không nhớ lúc bố mày ở nhà, có gọi mày làm thơ làm từ, thì run như cầy sấy đấy à? Sao giờ lại nói láo! Cái thằng Hoàn kia lại càng hư thân: đã nhờ người ta làm hộ, lại tìm cách đưa lễ đưa lạt. Mới mấy tuổi ranh mà đã làm cái lối thậm thậm thụt thụt ấy. Sao mà không biết xấu. Lớn lên rồi không biết còn ra thế nào nữa.

Câu nói ấy làm cho cả nhà đều bật cười. Giả mẫu lại hỏi:

- Còn thằng Lan nữa? Có làm được không? Hay là lại thằng Hoàn làm hộ cho nó, vì nó lại nhỏ hơn thằng Hoàn, có phải thế không?

Bảo Ngọc cười nói:

- Cháu Lan không nhờ ai làm, mà chính cháu tự đối lấy.

- Tao không tin; nếu không thì cũng là mày tinh ma làm thay cho nó. Giờ đây mày chẳng khác gì lạc đà lẩn trong bầy dê. Mày lớn hơn cả, mày lại biết làm văn làm bài nữa.

Bảo Ngọc cười:

- Thật tình là cháu Lan tự làm lấy. Thầy học còn khen nó sau này thế nào cũng làm nên. Nếu bà không tin thì gọi nó đến hỏi sẽ biết.

- Nếu quả như thế, thì tao mới mừng. Tao chỉ sợ mày nói dối thôi. Thế thì sau này nó có thể nên danh phận đấy.

Nói đến đó Giả mẫu nhìn Lý Hoàn rồi nhớ đến Giả Châu, nên lại nói tiếp:

- Thế thì anh mày chết đi, chị dâu mày nuôi nấng nó bấy lâu cũng không uổng công mà sau này cũng làm nổi cho anh mày được.

Nói vừa dứt lời Giả mẫu bất giác ứa nước mắt. Lý Hoàn nghe nói cũng động lòng, nhưng thấy Giả mẫu đang buồn, vội vàng nín khóc và khuyên:

- Đó là phúc thừa của bà. Chúng cháu nhờ lộc bà đấy thôi. Mong sao cháu nó được như lời bà nói, thì phúc cho chúng cháu lắm. Thế thì đáng lý bà phải vui chứ, sao bà lại buồn.

Rồi ngoảnh lại nói với Bảo Ngọc:

- Sau này chú đừng có khen cháu như thế nữa. Cháu mới mấy tuổi đầu chứ đã biết gì. Chẳng qua là chú thương cháu, chứ cháu đã hiểu gì đâu? Rồi nay thế này mai thế khác nhỡ đâm ra kiêu kỳ ngông ngược, thì làm gì tấn tới được.

Giả mẫu nói:

- Chị nói cũng phải, nhưng nó còn nhỏ, đừng ép nó quá, trẻ con nhút nhát mà kiềm thúc nó lắm thì nó sinh bệnh sinh tật, học hành không biết có được gì không, trở lại bao nhiêu công lao vứt hết.

Giả mẫu nói đến đó, Lý Hoàn nín không được nữa, nước mắt chảy ròng ròng, vội vàng chùi đi.

Lúc đó lại thấy Giả Hoàn và Giả Lan cũng đều đến hỏi thăm sức khỏe Giả mẫu. Giả Lan chào mẹ rồi trở lại đứng hầu bên mình Giả mẫu.

Giả mẫu nói:

- Ta nghe chú mày nói, mày đối được câu đối, được  không?

Giả Lan chỉ nhoẻn miệng cười, không nói gì cả.

Uyên Ương đi vào thưa:

- Cơm chiều đã dọn xong.

Giả mẫu nói:

- Đi mời dì Tiết lại đây.

Hổ Phách liền sai người sang nhà Vương phu nhân mời Tiết phu nhân.

Bảo Ngọc và Giả Hoàn lui ra, Tố Vân cùng bọn a hoàn nhỏ tới cất bàn song lục đi. Lý Hoàn vẫn ở lại để hầu Giả mẫu ăn cơm chiều. Giả Lan cũng theo mẹ đứng đấy. Giả mẫu nói:

- Mẹ con cháu ở đây ăn cơm với ta.

Lý Hoàn vâng lời. Một lát, dọn cơm ra, bỗng thấy a hoàn về trình:

- Bà Hai bảo cháu về trình với cụ, mấy hôm nay dì Tiết qua một chốc rồi về, không thể ở lại hầu chuyện cụ được. Hôm nay sau bữa ăn sớm đã về nhà rồi.

Giả mẫu bảo Giả Lan ngồi cạnh mình rồi mọi người ăn cơm. Giả mẫu ăn cơm xong, súc miệng rửa tay. Đang nằm nghiêng trên giường, nói chuyện phiếm, bỗng thấy có một a hoàn nhỏ nói gì với Hổ Phách. Hổ Phách liền tới thưa với Giả mẫu:

- Ông Cả bên phủ Đông sang hỏi thăm sức khỏe cụ.

- Mày ra nói với anh ấy rằng anh ấy lo liệu việc nhà cũng mệt rồi, về nghỉ thôi, ta biết rồi đấy.

A hoàn nhỏ vâng lời nói với bà già, bà già nói lại với Giả Trân, Giả Trân mới lại ra. Ngày hôm sau, Giả Trân qua thu xếp mọi việc. Bọn hầu trai ở ngoài lần lượt đến trình báo công việc.

Có một người nói:

- Ngoài trang trại đưa quả tươi đến.

Giả Trân hỏi:

- Giấy kê lễ vật đâu?

Tên hầu trai vội vàng đưa giấy tới. Giả Trân xem thì thấy trong giấy chỉ ghi một số quả tươi, một ít rau và ít nhiều thức ăn nhà quê. Giả Trân xem xong, hỏi:

- Lâu nay ai coi giữ việc này?

- Ông Chu Thụy.

Giả Trân liền bảo Chu Thụy:

- Anh chiếu số đếm lại rõ ràng, giao vào trong nhà. Để ta sao lại một bản, chờ sau đối chiếu. - Rồi gọi: - Bảo nhà bếp, dọn mâm cơm hạng bét thêm một ít món ăn, chiếu lệ thưởng cho người đưa quả ăn và cho lão ta một ít tiền.

Chu Thụy vâng lời, cho người đem các vật ấy đến nhà Phượng Thư, chiếu tờ kê của trang trại giao lại rõ ràng rồi lui ra.

Một chốc thấy Chu Thụy lại vào thưa với Giả Trân:.

- Ông có đếm qua số quả tươi vừa rồi không ạ?

- Ta hơi đâu mà đếm những thứ ấy. Đã giao giấy kê cho anh thì anh cứ theo đó mà đếm.

- Con đã đếm qua, không thừa không thiếu. Ông đã có giấy sao, thì nên gọi người đưa quả vào hỏi nó xem giấy kê ấy là giả hay thật.

- Anh nói cái gì thế? Chẳng qua mấy thứ quả tươi, có quan trọng gì? Ta có nghi ngờ gì anh đâu.

Đang nói thì Bào Nhị ở ngoài chạy vào, cúi lạy rồi thưa:

- Xin ông Cả cứ cho con hầu hạ bên ngoài như trước.

- Cái gì thế?

- Con ở đây cũng không nói năng gì được.

- Anh có chuyện gì phải nói?

- Tội gì để con ở đây làm cho người ta rác mắt?

Chu Thụy tiếp lời:

- Tôi ở đây quản lý việc tô tức, tiền bạc ở các trang trại ra vào mỗi năm có đến năm ba chục vạn. Các ông các bà, các mợ xưa nay chẳng hề quở trách một lời, huống gì đến những vật nhỏ mọn ấy. Cứ như Bào Nhị nói thì ruộng đất, nhà cửa, tài sản của nhà ông lớn đây, đều bị bọn tôi xoáy sạch.

Giả Trần nghĩ thầm: “Chắc là Bào Nhị ở đây gây ra việc cãi cọ, chi bằng bảo nó đi ra”. - Liền nói với Bào Nhị: - Cút mau!

Rồi lại bảo với Chu Thụy:

- Anh cũng chẳng cần phải nói nữa, cứ đi làm việc của anh thôi.

Hai người nghe nói đều đi ra. Giả Trân vừa vào thư phòng nghỉ, thì nghe ngoài cửa ồn ào liền sai người ra hỏi, một lát họ vào thưa lại:

- Bào Nhị và con nuôi Chu Thụy đánh nhau.

- Con nuôi Chu Thụy là ai?

- Tên nó là Hà Tam, xưa nay vốn là người không ra gì, ngày nào nó cũng ở nhà uống rượu gây chuyện, thường cứ đến ngồi lì ngoài cửa này. Vừa rồi nó thấy Bào Nhị và Chu Thụy cãi nhau, nó cũng dây vào.

- Thế là đáng ghét thật! Bắt Bào Nhị và thằng Hà Tam nào đó trói cả lại cho tao! Chu Thụy đâu rồi?

- Khi hai người đánh nhau thì anh ta chạy mất.

- Bắt lại đây cho tao. Như thế còn ra thể thống gì nữa.

Người nhà vâng lời. Trong khi ồn ào như thế, thì Giả Liễn về . Giả Trân đem câu chuyện vừa rồi nói lại cho Giả Liễn nghe.

Giả Liễn nói:

- Như thế còn ra cái gì nữa.

Liền sai thêm người đi bắt Chu Thụy. Chu Thụy biết tránh cũng không xong, đành để họ đến bắt. Giả Trân nói:

- Trói tất cả lại cho ta.

Giả Liễn quát bảo Chu Thụy:

- Câu chuyện của chúng mày vừa rồi chẳng ra cái quái gì. Ông Cả đã phân giải là được rồi, sao chúng mày lại còn ra ngoài đánh nhau? Chúng mày đánh nhau đã không phải. lại còn kéo cả cái thằng Hà Tam vô loài nào đó đến gây chuyện. Mày không đe nó lại bỏ đi là nghĩa lý gì?

Nói đoạn Giả Liễn đá cho Chu Thụy mấy cái. Giả Trân nói:

- Chỉ đánh một mình Chu Thụy không ăn thua đâu!

Liền sai người dẫn Hà Tam và Bào Nhị đến, đánh cho mỗi người năm chục roi, rồi đuổi ra. Xong đó, Giả Liễn và Giả Trân mới bàn đến những việc quan trọng.

Sau đó, bọn người hầu xôn xao bàn tán: Có người nói Giả Trân thiên vị; có người nói ông ta không biết cách dàn xếp; có người nói ông ta không phải là người tốt, trước đây với chị em họ Vưu đã gây ra bao nhiêu chuyện xấu, chẳng phải do ông ta xúi giục cậu Hai gọi Bào Nhị đến hầu là gì? Bây giờ ông ta chê mắng Bào Nhị, chắc là vì vợ Bào Nhị hầu hạ không chu đáo chứ gì! Nhiều người lắm miệng, bàn tán xôn xao.

Từ khi Giả Chính coi việc bộ công, trong nhà có nhiều người nhờ đó mà phát tài. Giả Vân nghe vậy cũng muốn kiếm chút việc làm. Liền tìm mấy người thợ ở ngoài, bàn định xong xuôi mua một ít hàng mới, định tìm cách chạy chọt với Phượng Thư.

Hôm đó Phượng Thư ở trong nhà nghe bọn a hoàn nói:

- Cậu Cả và cậu Hai đều nổi giận, đang đánh người ở ngoài kia.

Phượng Thư chẳng biết vì sao, đang định cho người ra hỏi, thì thấy Giả Liễn đã vào kể lại câu chuyện vừa rồi cho Phượng Thư nghe. Phượng Thư nói:

- Việc ấy tuy chẳng quan trọng gì, nhưng cái thói ấy nhất thiết không thể để kéo dài. Giờ đây là lúc nhà mình đang thịnh vượng mà chúng dám đánh nhau như thế, sau này đến lượt bọn con cháu coi việc nhà thì chúng lại càng khó trị. Năm trước tôi ở bên phủ Đông, chính mắt trông thấy Tiều Đại uống rượu say mềm, nằm giữa thềm nhà, chẳng kể người trên kẻ dưới, cứ chửi bừa. Nó dù có công đến đâu đi nữa, nhưng giữa chủ nhà với đầy tớ cũng phải có thể thống mới được. Không phải tôi hay nói, chứ chị cả Trân thật là người thực thà quá, dung túng cho bọn người nhà hoành hành, không sợ gì phép vua lẽ trời nữa. Giờ lại nẩy ra thằng Bào Nhị nào đấy. Tôi nghe nói hắn là người đắc lực của cậu và anh Trân, vì sao hôm nay lại đánh hắn?

Giả Liễn nghe nói chạnh lòng, cảm thấy thẹn, liền tìm lời nói lảng rồi mượn cớ có việc bỏ ra ngoài. Tiểu Hồng vào thưa:

- Cậu Hai Vân ở ngoài muốn vào gặp mợ.

Phượng Thư nghĩ bụng: “Hắn lại tới đây làm gì?” Liền nói:

- Gọi cậu ấy vào đây.

Tiểu Hồng đi ra, nhìn Giả Vân mỉm cười. Giả Vân vội vàng sấn lại gần, hỏi:

- Cô thưa hộ cho tôi rồi à?

Tiểu Hồng đỏ mặt, nói:

- Tôi thấy anh bận nhiều việc.

- Nào có việc gì đâu mà dám đến đây làm phiền cô? Năm trước khi cô còn ở bên nhà chú hai Bảo, tôi mới cùng cô...

Tiểu Hồng sợ người ta trông thấy, không đợi Giả Vân nói xong hỏi:

- Năm ấy tôi đổi cho anh cái khăn lụa, anh có thấy không?

Giả Vân nghe nói đến câu đó, mừng quá như mở cờ trong bụng, vừa muốn nói nữa thì thấy một a hoàn nhỏ ở trong đi ra.

Giả Vân vội vàng cùng Tiều Hồng đi vào. Hai người đi song song gần nhau. Giả Vân khẽ nói:

- Chốc nữa cô đưa tôi ra, tôi sẽ nói chuyện với cô một điều.

Tiểu Hồng nghe nói, má đỏ ửng lên, nhìn Giả Vân một cái im lặng không đáp. Hai người đến cửa phòng Phượng Thư.

Tiểu Hồng vào trình trước rồi trở ra vạch màn, lấy tay vẫy, và nói:

- Mợ bảo mời cậu Hai vào.

Giả Vân mỉm cười theo Tiểu Hồng vào. Thấy Phượng Thư, Giả Vân hỏi thăm sức khỏe, và nói:

- Mẹ cháu gửi lời hỏi thăm thím.

Phượng Thư cũng hỏi thăm mẹ hắn, rồi nói:

- Cháu tới có việc gì?

- Trước đây cháu được thím thương đến, trong lòng không bao giờ quên, thường cứ băn khoăn muốn kiếm cái gì giả ơn thím, nhưng lại sơ thím ngờ vực. Nay gặp Tiết trùng dương, gọi là có chút lễ mọn, ở đây vật gì cũng có, chẳng qua gọi tỏ chút lòng thành của cháu mà thôi. Không biết thím có nhận không?

- Có việc gì cháu cứ ngồi đã rồi hãy nói.

Giả Vân ngồi xuống, vội vàng đưa gói lễ vật để lên trên bàn. Phượng Thư nói:

- Cháu có dư dật gì đâu, bày vẽ làm gì cho tốn tiền? Thím cũng chẳng cần lễ vật của cháu. Hôm nay cháu đến đây muốn xin điều gì cứ nói thật đi.

- Cháu có dám xin gì đâu, chẳng qua nghĩ đến ơn của thím, trong bụng không đành đó thôi.

- Sao lại nói thế. Nhà cháu chật vật, thím còn lạ gì, lẽ nào lại vô cớ đi lấy của cháu? Nếu cháu muốn thím nhận những vật ấy, thì phải nói rõ ràng. Cứ giấu đầu giấu đuôi như thế thì thím không nhận đâu.

Giả Vân chẳng biết làm thế nào, đành đứng dậy, cười lấy lòng và nói:

- Không phải cháu dám mơ tưởng gì đâu, nhưng mấy hôm trước đây cháu nghe nói ông lớn trông coi tất cả mọi công trình xây dựng lăng tẩm nhà vua, cháu có mấy người bạn, trước đây đã từng làm nhiều công trình rất là chu tất. Ý cháu muốn nhờ thím thưa với ông nhà một lời, may ra chúng cháu được phép nhận làm một vài việc; nếu được thế thì không bao giờ cháu quên ơn thím. Hoặc giả trong nhà ta có việc gì dùng đến cháu, cháu cũng có thể hầu thím được.

- Việc khác thì thím cũng còn có thể nhận lời được, chứ công việc ở cửa quan trước là do các quan trên bàn định, sau là các thư lại nha dịch lo liệu. Người khác mó tay vào đấy sao được? Ngay cả người nhà ta đây cũng chẳng qua là theo hầu ông lớn đấy thôi. Chú Hai của cháu có đi cũng chỉ là làm riêng việc nhà mình, đâu dám nhúng tay vào việc công. Còn việc nhà đây thì bề bộn lung tung, ngay cả bác Trân cũng đe nẹt không nổi nữa là. Cháu tuổi còn trẻ, thứ bậc trong họ lại thấp, không phải là người làm được những việc ấy đâu. Vả lại công việc ở cửa quan cũng gần xong rồi, chỉ còn những việc lặt vặt. Cháu ở nhà làm việc gì chẳng được? Không lẽ không có cơm ăn à? Thím nói thật đấy, cháu về nghĩ lại mà xem. Thím biết bụng cháu. Những lễ vật này cháu đem về, lấy ở đâu thì trả lại cho người ta.

Đang nói chuyện thì thấy người vú bế Xảo Thư vào. Xảo Thư ăn mặc loè loẹt, tay cầm đồ chơi, cười nói bi bô chạy lại gần Phượng Thư. Giả Vân trông thấy, chạy lại cười, nói:

- Em đấy à? Em muốn lấy gì không?

Xảo Thư khóc oà lên. Giả Vân liền lùi lại. Phượng Thư vội vàng ẵm con vào lòng mà nói:

- Con đừng sợ! Đây là anh Vân của con đấy mà, sao lại lạ?

Giả Vân nói:

- Mặt mũi em xinh xắn như thế, sau này thế nào cũng có phúc to.

Xảo Thư ngoảnh mặt lại nhìn Giả Vân một cái, lại khóc lên luôn mấy lần. Giả Vân thấy tình cảnh này, ngồi lại không tiện, đứng dậy cáo từ. Phượng Thư nói:

- Cháu đem lễ vật về thôi.

- Một chút quà mọn này mà thím không nhận cho ư?

- Cháu không cầm về thì thím cũng cho người đưa đến nhà. Này cháu, cháu đừng làm như thế. Cháu có phải là người ngoài đâu. Ở đây có dịp tốt thì thím sẽ cho người gọi cháu, còn không có việc gì thì thím cũng chịu thôi, có phải là cần lễ vật mới được đâu.

Giả Vân thấy Phượng Thư nhất định không nhận, mặt đỏ bừng, đành phải nói miễn cưỡng:

- Thôi để lần sau cháu sẽ tìm thứ gì dùng được đem biếu thím vậy.

Phượng Thư gọi Tiểu Hồng:

- Em cầm gói lễ vật đưa anh Vân ra.

Giả Vân vừa đi vừa nghĩ thầm: “Người ta bảo mợ Hai ghê gớm mình không tin, nay quả thế thật. Lời nói như đinh đóng cột chẳng hớ một tý nào. Chả trách không có con trai là phải. Cái con Xảo Thư kia lại càng lạ, nó thấy mình như có tiền oan nghiệt chướng gì chẳng bằng. Ta thật đen đủi phí cả một ngày.”

Tiểu Hồng thấy Giả Vân không xin xỏ được gì, cũng hơi buồn, cầm gói lễ vật đi theo. Giả Vân đỡ lấy, mở gói ra, chọn hai cái đưa cho Tiểu Hồng. Tiểu Hồng không nhận, nói:

- Anh đừng làm thế, mợ tôi biết thì cả hai người đều chẳng ra sao.

- Cô cứ cầm lấy, sợ cái gì? Mợ ấy biết sao được. Nếu cô không nhận tức là không coi tôi ra gì.

Tiểu Hồng mới nhận lấy rồi mỉm cười nói:

- Ai cần những vật này của anh để làm gì?

Nói vậy, má cô ta lại đỏ ứng lên. Giả Vân cũng cười, nói:

- Tôi cũng không phải là vì mấy vật ấy. Vả chăng, mất vật ấy có đáng là bao.

Hai người vừa nói thì đã đi ra đến cửa trong. Giả Vân đem những vật còn lại đút vào trong học. Tiểu Hồng giục:

- Thôi, anh về, có việc gì cứ đến tìm tôi. Giờ tôi ở trong nhà đây. Kể ra cũng tiện lợi.

Giả Vân gật đầu nói:

- Mợ Hai ghê gớm lắm, tôi tiếc không đến được luôn. Những điều tôi vừa nói với cô, chắc cô cũng hiểu rõ. Có dịp rảnh, tôi sẽ nói chuyện với cô.

Tiểu Hồng thẹn đỏ mặt lên, nói:

- Thôi, anh về, lần sau cũng nên năng đi lại với mợ ấy. Ai bảo anh hay xa người ta?

- Biết rồi đấy.

Giả Vân vừa nói vừa đi ra khỏi ngõ. Tiếu Hồng đứng ngoài cửa ngẩn người ra nhìn, đến khi hắn đi xa mới quay vào. Phượng Thư ở trong nhà dặn làm cơm chiều, lại hỏi:

- Đã nấu cháo chưa?

Bọn a hoàn vội vàng đi hỏi rồi về trình:

- Nấu rồi ạ!

- Nhớ sắp lấy vài đĩa thức ăn ướp ở miền Nam đưa về.

Thu Đồng vâng lời, gọi bọn a hoàn sửa soạn sẵn sàng. Bình Nhi chạy lại, cười nói:

- Tôi quên mất. Lúc giữa trưa, khi mợ đang ở bên nhà cụ, bà sư ở am Thủy Nguyệt cho người đạo bà đến xin mợ hai bình dưa muối miền Nam và xin chi trước tiền lương vài tháng, nói là bà ta không được khỏe. Tôi có hỏi đạo bà: “Tại sao bà sư không được khỏe?” Bà ta nói: “Cách đây bốn năm hôm, ban đêm trong bọn ni cô và đạo sĩ nhỏ có mấy đứa bé gái nằm ngủ không chịu tắt đèn. Bà sư nói mấy lần không được. Một đêm đến khoảng canh ba, thấy bọn chúng còn để đèn, bà sư bảo tắt đi, đứa nào đứa nấy ngủ lỳ ra, không trả lời. Bà sư bất đắc dĩ, phải tự mình dậy thổi đèn hộ. Khi quay lại thấy có hai người, một trai một gái, ngồi trên giường mình. Bà ta hỏi là ai! Bỗng họ đưa một cái dây thắt vào cổ bà ta. Bà ta kêu la ầm ĩ. Mọi người nghe tiếng, thắp đèn chạy đến, thấy bà ta đã nằm lăn giữa đất, nước bọt trào ra đầy miệng. May mà cứu lại được. Bây giờ chưa ăn được gì, nên mới cho người đến xin dưa muối. Tôi thấy mợ không ở nhà, không tiện cho. Tôi nói: “Mợ bây giờ ở bên nhà, đang bận, để về tôi sẽ thưa lại”, rồi tôi bảo họ về. Vừa rồi nghe nói món ăn miền Nam, tôi sực nhớ đến, không thì cũng quên mất.

Phượng Thư nghe xong, ngẩn người ra một lúc rồi nói:

- Dưa miền Nam hình như còn thì phải, bảo người đưa cho bà ta một ít. Còn tiền thì đến hôm sau bảo anh Cần đến nhận.

Vừa lúc đó lại thấy Tiểu Hồng vào thưa:

- Vừa rồi cậu Hai cho người về nói, đêm hôm nay cậu ấy có việc ở ngoài thành, không thể về được, nói để ở nhà biết.

Phượng Thư nói:

- Nghe rồi.

Bỗng một a hoàn nhỏ từ phía sau chạy đến giữa sân, thở hồng hộc, miệng la ầm lên. Bình Nhi ở ngoài đón hỏi, rồi cùng bọn a hoàn nói gì lầm rầm với nhau. Phượng Thư hỏi:

- Chúng mày nói gì thế?

Bình Nhi nói:

- Con nhỏ này nhát gan, nói chuyện ma quỷ.

- Đứa nào thế?

A hoàn nhỏ đi vào. Phượng Thư hỏi:

- Có chuyện ma quỷ gì thế?

- Cháu vừa ra nhà sau bảo người làm việc vặt đưa thêm than. Bỗng nghe trong ba gian nhà không có tiếng sột soạt, cháu tưởng là mèo hay chuột gì phá; lại nghe “hà” một tiếng giống như người thở, cháu sợ quá, vội chạy về đây.

Phượng Thư quát mắng:

- Nói nhảm! Ở đây nhất thiết không được nói chuyện ma quỷ. Tao xưa nay không tin những chuyện ấy. Mày cút mau đi!

A hoàn nhỏ đi ra. Phượng Thư liền gọi Thái Minh xem lại sổ tiêu dùng lặt vặt trong ngày ấy. Lúc đó đã gần canh hai, Phượng Thư nghỉ một lát, nói vài câu chuyện phiếm, đoạn bảo mọi người đi nghỉ, còn mình cũng nằm xuống nghỉ. Chừng canh ba, Phượng Thư đang thiu thiu, giở ngủ giở thức, bỗng thấy rùng mình tỉnh dậy, càng nằm càng thấy trong mình rờn rợn. Liền gọi Bình Nhi và Thu Đồng lại cùng nằm. Hai người chẳng hiểu vì sao. Thu Đồng lâu nay vốn không ưa Phượng Thư, vì việc chị hai họ Vưu, nên Giả Liễn không yêu Thu Đồng. Phượng Thư cố tìm cách mơn trớn, nên Thu Đồng cũng khuây lòng. Nhưng chị ta chỉ có tình nghĩa ngoài mặt, khác xa Bình Nhi. Nay thấy Phượng Thư khó ở đành phải bưng tới một chén trà, Phượng Thư uống một hớp, rồi nói:

- Cám ơn em, ngủ đi thôi, chỉ để Bình Nhi ở đây là được rồi.

Thu Đổng muốn tỏ ra ân cần liền nói:

- Mợ ngủ không được thì để hai đứa chúng tôi chia nhau ngồi thức cũng được.

Phượng Thư vừa nói vừa nằm ngủ. Thu Đồng và Bình Nhi thấy Phượng Thư đã ngủ, xa xa tiếng gà đã gáy, liền để cả áo nằm nghỉ. Một lát thì trời sáng, vội vàng dậy hầu Phượng Thư chải tóc rửa mặt.

 Phượng Thư vì việc đêm qua, tâm thần hoảng hốt không yên, nhưng tính thích tỏ ra cứng rắn, nên vẫn gượng dậy. Đang ngồi bực mình thì thấy một a hoàn nhỏ ở ngoài sân hỏi:

- Cô Bình ở nhà đấy không?

Bình Nhi lên tiếng. A hoàn ấy vạch màn bước vào. Thì ra Vương phu nhân cho nó đến tìm Giả Liễn. Nó nói:

- Bên ngoài có người đến trình việc quan rất cần. Ông lớn vừa đi vắng, nên bà lớn gọi cậu Hai qua ngay.

Phượng Thư nghe nói, giật mình, chưa biết là việc gì.

------------

1. Thứ trò chơi tương tự đánh cờ. Có một cái bàn trên bàn, mỗi bên có 16 quân, người chơi gieo hai hạt xúc xắc, rồi cứ xem điểm số gieo được mà cho quân đi, ai đi đến đối phương trước là thắng.

2. Bức tranh đua chịu rét.

Hồi thứ tám mươi chín

Người đâu vật còn đây, công tử làm bài từ;

Bóng cung ngỡ là rắn, Tần Khanh đành tuyệt thực.

Phượng Thư vừa ngủ dậy đang bực mình. lại nghe a hoàn nói như vậy, giật mình vội vàng hỏi:

- Việc quan gì thế?

- Cháu cũng chẳng biết. Vừa rồi thấy người hầu trai ở cửa trong vào, thưa với ông lớn, có việc quan rất khẩn cấp, nên bà lớn bảo cháu đi tìm cậu Hai.

Phượng Thư nghe nói là việc trong bộ Công, mới hơi yên tâm liền nói:

- Em về thưa với bà, cậu Hai chiều hôm qua ra ngoài thành có việc cần, đến nay vẫn chưa về, nên cho người tìm cậu Cả Trân thôi.

A hoàn vâng lời đi ra.

Một chốc Giả Trân đến, gặp người trong bộ, hỏi rõ ràng, rồi vào nhà nói với Vương phu nhân:

- Người trong bộ đến trình: Hôm qua Ty coi sông có tâu: Ở miền Nam vỡ đê, ngập mất mấy phủ, châu, huyện, cần phải chi tiêu công quĩ, sửa sang đê điều. Các quan trong bộ Công lại phải đi trông nom lo liệu. Vì thế trong bộ cho người đến báo tin với ông lớn.

Nói xong Giả Trân lui ra. Giả Chính về, người nhà trình lại tất cả. Từ đó cho đến mùa đông, ngày nào Giả Chính cũng bận việc quan. Nhờ vậy việc học của Bảo Ngọc cũng hơi lỏng lẻo. Nhưng Bảo Ngọc cũng sợ Giả Chính biết, nên thường thường vẫn phải tới trường, ngay cả chỗ Đại Ngọc cũng không mấy khi đến.

 Một hôm, vào trong tuần tháng mười. Bảo Ngọc ngủ dậy, đi học. Trời bỗng trở lạnh, thấy Tập Nhân đã sắp sẵn một gói áo quần, nói với Bảo Ngọc:

- Hôm nay trời lạnh lắm, buổi sớm và buổi chiều phải mặc cho ấm.

Nói xong, chị ta đem gói áo ra, chọn một chiếc cho Bảo Ngọc mặc, lại gói một chiếc nữa, bảo a hoàn nhỏ đem giao cho Bồi Dính và dặn:

- Trời lạnh, coi chừng sắp sẵn, để khi cậu cần mà thay.

Bồi Dính vâng lời, ôm lấy gói áo, theo Bảo Ngọc đi.

Bảo Ngọc đến trường đang làm bài, bỗng nghe gió thổi sột soạt trên cửa sổ. Đại Nho nói:

- Tiết trời thay đổi rồi!

Ông ta mở cửa sổ ra xem thì thấy về phía tây bắc, trong đám mây đen, dần dần bay về phía đông nam.

Bồi Dính chạy vào nói với Bảo Ngọc:

- Cậu ạ, trời lạnh rồi, mặc thêm áo vào.

Bảo Ngọc gật đầu. Bồi Dính đem áo tới. Trông thấy áo, Bảo Ngọc bỗng ngẩn người. Bọn học trò nhỏ đều chăm chú nhìn, thì ra cái áo ấy chính là áo lông công năm trước Tình Văn đã mạng cho.

Bảo Ngọc nói:

- Tại sao lại mang cái áo ấy đến? Ai đưa cho mày thế?

- Các chị ở trong ấy gói đưa cho cháu đấy.

- Ta không lạnh lắm, chưa mặc đâu, hãy gói lại thôi.

Giả Đại Nho tưởng là Bảo Ngọc thấy áo quí không dám mặc, nên trong bụng cũng mừng là Bảo Ngọc biết tiết kiệm. Bồi Dính nói:

- Cậu mặc lấy kẻo bị lạnh cháu lại mắc lỗi. Cậu thương cháu với.

Bảo Ngọc bất đắc dĩ phải mặc áo vào, rồi ngồi ngơ ngẩn.

Đại Nho tưởng Bảo Ngọc xem sách, nên cũng không chú ý. Đến chiều tan học, Bảo Ngọc nói dối người mệt, xin phép nghỉ một ngày. Đại Nho nhiều tuổi, ngày thường chỉ làm bạn với mấy đứa trẻ cho đỡ buồn, lại đau yếu luôn nên bớt một cậu học trò cũng đỡ lo một tý. Vả lại ông ta cũng biết Giả Chính bận việc. Giả mẫu thì nuông chiều cháu, cho nên thấy Bảo Ngọc xin nghỉ, liền gật đầu cho ngay.

Bảo Ngọc chạy một mạch về nhà, vào chào Giả mẫu và Vương phu nhân, cũng nói như vậy. Mọi người tất nhiên đều tin. Bảo Ngọc ngồi một chốc rồi về trong vườn. Thấy bọn Tập Nhân. Bảo Ngọc không cười nói như mọi ngày, cứ mặc cả áo nằm xuống giường. Tập Nhân nói:

- Cơm chiều dọn rồi, cậu ăn ngay hay để lát nữa?

- Tôi trong bụng không được khoan khoái, không ăn đâu. Các chị ăn đi thôi.

- Thế thì cậu cũng nên thay cái áo kia ra. Áo ấy không chịu được giày vò như thế đâu.

- Không cần thay.

- Áo này là thứ mềm mỏng, mà cậu xem đấy, những đường kim mũi chỉ thật là công phu, không nên giày vò như thế.

Bảo Ngọc nghe nói hợp với ý nghĩ của mình liền thở dài một tiếng và nói:

- Thế thì chị gói lại mà cất đi, từ nay tôi không mặc nữa đâu.

Nói xong đứng đậy cởi áo ra. Tập Nhân định đến đỡ lấy thì Bảo Ngọc đã gấp lại rồi.

Tập Nhân nói:

- Tại sao hôm nay cậu lại siêng năng cẩn thận như thế?

Bảo Ngọc không đáp, xếp áo xong rồi hỏi:

- Cái gói áo này đâu rồi?

Xạ Nguyệt vội vàng đưa cái gói lại để Bảo Ngọc tự gói lấy tử tế rồi chị ta ngoảnh lại nháy mắt nhìn Tập Nhân mà cười.

Bảo Ngọc cũng không để ý, ngồi buồn rũ ra! Bỗng nghe tiếng chuông đồng hồ lớn “keng keng” đánh mấy tiếng. Bảo Ngọc cúi đầu nhìn cái đồng hồ nhỏ trong người thì đã chỉ đến khắc thứ hai đầu giờ Dậu rồi. Một lúc sau, bọn a hoàn nhỏ thắp đèn lên. Tập Nhân nói:

- Cậu không ăn cơm thì húp lấy nửa bát cháo nóng, đừng nhịn như thế, nhịn đói sinh ốm lại làm tội chúng tôi.

Bảo Ngọc lắc đầu nói:

- Tôi không đói, ăn gắng vào lại càng khó chịu.

- Đã thế thì cậu ngủ sớm đi.

Tập Nhân và Xạ Nguyệt buông màn giải nệm tử tế. Bảo Ngọc nằm xuống nhưng cứ trằn trọc mãi không sao ngủ được. Đến gần sáng mới mơ màng ngủ thiếp đi, chừng gần ăn xong bữa cơm thì lại tỉnh dậy. Lúc đó Tập Nhân và Xạ Nguyệt đều đã dậy. Tập Nhân nói:

- Đêm qua tôi nghe cậu cứ trằn trọc mãi đến tận canh năm, tôi không dám hỏi. Sau đó tôi ngủ quên mất, không biết cậu có ngủ được không?

- Tôi cũng ngủ được một lát, không biết tại sao lại thức dậy liền.

- Cậu xem có khó ở không?

- Có gì đâu, nhưng chỉ thấy trong lòng buồn bực.

- Thế thì hôm nay có học không?

- Hôm qua tôi đã xin nghỉ một ngày. Tôi định đi chơi trong vườn một hôm cho khuây khỏa, nhưng lại sợ lạnh. Chị bảo chúng nó dọn một gian nhà, bày một cái lư hương, để bút nghiên giấy mực ở đấy, rồi các chị cứ làm công việc của mình, tôi phải ngồi yên một buổi mới được, đừng bảo chúng nó tới quấy rầy tôi.

Xạ Nguyệt đỡ lời:

- Cậu cần yên tĩnh để làm bài, ai dám đến quấy rối nữa.

Tập Nhân nói:

- Như thế cũng tốt, đỡ phải lạnh, ngồi yên một lát tâm thần cũng thư thái đấy.

- Nhưng cậu đã không muốn ăn cơm thì hôm nay định ăn gì nói cho sơm sớm, để bảo nhà bếp làm.

- Cái đó tùy thôi, đừng làm ồn lên, nhưng phải có mấy thứ quả để vào trong nhà cho thơm.

- Ở phòng nào hơn? Các phòng đều không được sạch sẽ, chỉ có cái phòng trước kia chị Tình Văn ở, lâu nay bỏ không. Xem chừng còn sạch sẽ hơn, nhưng hơi lạnh.

- Không hề gì, đem chậu than vào đấy là được.

Tập Nhân vâng lời.

Đang nói chuyện thì thấy một a hoàn nhỏ mang đến một khay trà, trong có một cái bát và một đôi đũa ngà. Nó đưa cho Xạ Nguyệt và nói:

- Đây là chị Hoa bảo làm nên bà già ở nhà bếp đưa đến.

Xạ Nguyệt đỡ lấy, thấy một bát canh yến sào, liền hỏi Tập Nhân:

- Chị dặn họ làm đấy à?

- Chiều qua cậu Hai không ăn cơm, lại trằn trọc suốt đêm, sáng nay chắc là đói, cho nên tôi bảo bọn a hoàn nhỏ nói với nhà bếp làm đấy.

Tập Nhân vừa nói vừa gọi bọn a hoàn nhỏ dọn ra. Xạ Nguyệt hầu cho Bảo Ngọc ăn và súc miệng xong, thấy Thu Văn chạy vào nói:

- Phòng bên kia đã dọn xong, chờ một chốc than bén, cậu hãy sang.

Bảo Ngọc gật đầu, nhưng trong lòng vẫn băn khoăn, không buồn nói năng gì. Một lúc a hoàn nhỏ đến mời và nói:

- Bút nghiên đều sắp đặt tử tế rồi.

Bảo Ngọc gật đầu nói: “Biết rồi”.

Lại một a hoàn nhỏ vào nói:

- Cơm sáng có rồi, cậu định ăn ở phòng nào?

- Mang vào đây thôi, bày vẽ làm gì.

A hoàn nhỏ vâng lời đi ra. Một lúc cơm bưng lên. Bảo Ngọc nói với Tập Nhân và Xạ Nguyệt:

- Trong bụng tôi sao mà buồn bực thế? Ăn một mình sợ nuốt không trôi. Hai chị cùng ngồi ăn với tôi có thể ngon miệng, tôi ăn được nhiều cũng nên.

Xạ Nguyệt cười nói:

- Đó là cậu cao hứng nói như thế chứ chúng tôi đâu dám.

Tập Nhân nói:

- Thực ra thì cũng được, chúng ta đã nhiều lần ngồi chung uống rượu với nhau. Có điều một đôi khi làm cậu đỡ buồn thì được chứ cứ thế mãi thì còn ra thể thống gì nữa?

Nói đoạn ba người ngồi xuống. Bảo Ngọc ngồi giữa, Tập Nhân và Xạ Nguyệt ngồi hai bên, cùng ăn cơm. Ăn xong, a hoàn bưng trà súc miệng, rồi dọn mâm đi. Bảo Ngọc tay bưng chén trà, lặng lẽ như nghĩ ngợi gì, lại ngồi một lúc rồi hỏi:

- Nhà bên kia dọn xong chưa?

Xạ Nguyệt nói:

- Đã nói xong rồi, bây giờ cậu lại còn hỏi.

Bảo Ngọc ngồi một lát rồi qua phòng bên kia, tự mình thắp một nén hương, bày lên mấy thứ quả, bảo mọi người đi ra, đóng cửa lại. Bọn Tập Nhân ở ngoài im lặng, không một tiếng động. Bảo Ngọc đưa ra một tờ hoa tiên đỏ, miệng khấn mấy câu rồi cầm bút viết:

“Chủ nhân Viện Di Hồng kính đôi giấy này để linh hồn chị Tình biết. Chén chè nén hương, ngõ hầu tới hưởng!”

Từ rằng:

Cùng sát cánh, tình khăng khít đôi ta,

Ngờ đâu đất bằng nổi phong ba,

Cho thân kia bỗng hóa hồn ma!

Cùng ai chuyện đượm đà?

Nước chảy xuôi lại quay ngược được a?

Cỏ hoài mộng khó mong tìm được,

Áo thúy vân còn khoác đây mà!

Lệ chảy lòng xót xa!

Viết xong Bảo Ngọc châm vào đầu nén hương đốt ngay  và ngồi yên lặng chờ cho nén hương cháy hết mới mở cửa ra. Tập Nhân nói:

- Sao cậu lại ra? Chắc buồn quá chứ gì?

Bảo Ngọc cười, rồi vờ nói:

- Ban nãy trong lòng tôi  thấy buồn phiền, mới tìm chỗ yên lặng để ngồi một lúc. Nay đã đỡ rồi, nên ra ngoài dạo chơi đấy.

Nói xong đi một mạch đến quán Tiêu Tương, vừa đến sân đã hỏi:

- Cô Lâm có ở nhà không?

Tử Quyên ở trong hỏi: “Ai đấy?” Rồi vạch màn trông ra cười nói:

- Té ra cậu Hai. Cô tôi ở trong nhà. Mời cậu vào chơi.

Bảo Ngọc cùng Tử Quyên đi vào. Đại Ngọc ngồi ở phòng trong nói với ra:

- Chị Quyên mời cậu Hai vào trong này ngồi.

Bảo Ngọc vào đến cửa phòng trong, thấy một đôi câu đối viết trên giấy tím vẽ rồng mây bằng vàng:

Trăng trong vẫn đó ngoài song biếc

Người cũ còn đâu trên sử xanh.

Bảo Ngọc nhìn thấy, cười rồi đi vào, hỏi:

- Cô em làm gì thế?

Đại Ngọc đứng dậy, bước ra mấy bước, cười nói:

- Mời anh ngồi. Em đang viết kinh, còn hai hàng nữa thôi. Chờ em viết xong sẽ nói chuyện.

Đoạn gọi Tuyết Nhạn pha trà.

- Em cứ ngồi mà viết cho xong đi.

Bảo Ngọc vừa nói vừa ngắm nghía bức tranh treo giữa nhà vẽ Hằng Nga có một người hầu gái; và một nàng tiên cũng có một người hầu gái bưng một cái gì dài dài như cái bọc áo.

Ngoài hai vị tiên ra chỉ điểm xuyết đám mây, không có gì khác. Lối vẽ hoàn toàn sơ sài giống lối phác họa của Lý Long Miên ngày xưa, bên trên đề mấy chữ: “Đấu hàn đồ”(1) Liền hỏi:

- Bức tranh này có phải mới treo lên không?

Đại Ngọc nói:

- Vâng. Hôm qua chúng nó dọn dẹp nhà cửa, em chợt nhớ đến, mới lấy ra treo lên đấy.

- Tích ấy ở đâu ra?

- Anh biết thừa, còn hỏi người ta.

- Trong chốc lát, tôi chưa nghĩ ra. Cô nói cho tôi biết với.

- Anh lại không nghe câu thơ: “Thanh Nữ, Tố Nga không sợ rét; Dám đua vẻ đẹp trước trăng sướng” à?

- Ừ nhỉ! Cảnh này mới mẻ và nhã thật! Lúc này đem ra treo lại càng hợp.

Nói đoạn chạy lại nhìn ngang nhìn ngược các nơi. Tuyết Nhạn bưng trà đến. Bảo Ngọc uống trà. Chờ một chốc Đại Ngọc mới viết xong kinh, rồi đứng dậy nói:

- Xin lỗi.

Bảo Ngọc cười, nói:

- Cô vẫn giữ cái lối khách sáo ấy.

Bảo Ngọc nhìn kỹ thấy Đại Ngọc mặc cái áo lông thêu hoa, ngoài khoác cái khăn choàng bàng da cáo trắng, đầu búi tóc, cài chiếc trâm vàng, không cắm hoa, bên dưới mặc quần bông thêu thật chẳng khác gì:

Cây ngọc rỡ ràng phơi trước gió;

Sen vàng thơm ngát nở bên sương.

Bảo Ngọc hỏi:

- Hai ngày nay em có gảy đàn không?

- Không, vì em viết kinh đã giá cả tay rồi, còn gảy đàn sao được nữa.

- Không gảy cũng được. Tôi nghĩ, đàn tuy là vật thanh cao, nhưng không phải thứ hay ho gì. Xưa nay người ta gảy đàn sinh ra lo buồn oán giận, chưa hề thấy ai gảy đàn mà được giàu sang sống lâu cả. Vả lại, muốn gảy thì phải nhớ bản đàn, nên mất công. Theo tôi, em vốn đã yếu, đừng nên bận lòng về việc đó.

Đại Ngọc nghe nói, nhoẻn miệng cười. Bảo Ngọc chỉ tay lên vách, hỏi:

- Có phải cái đàn này không? Sao mà ngắn thế?

- Đàn này không phải ngắn đâu, vì khi em còn nhỏ, học gảy các đàn khác đều không vừa tầm, nên làm riêng cái này. Tuy không phải là thứ gỗ đồng khô sém đuôi(2), nhưng các bộ phận hạc tiên, phượng vĩ phối hợp rất chỉnh tề; long trì, nhạn túc(3) cao thấp đúng cách thức. Anh thử xem cái vằn gỗ(4) có phải như lông trâu không? Vì thế cho nên âm vận cũng trong trẻo.

- Mấy hôm nay em có làm thơ không?

- Từ khi lập thi xã tới nay em chẳng mấy khi làm.

- Thôi, em đừng giấu tôi nữa, tôi nghe em hát câu gì… “Hoài công lo lắng, sao bằng trăng giữa trời kia lòng trong trắng” phổ vào đàn nghe rất réo rắt. Có phải thế không?

- Anh ở đâu mà biết?

- Hôm nọ tôi ở Lục Phong hiên qua đây, nghe em gảy, tôi sợ làm gián đoạn, cho nên im lặng nghe một hồi rồi đi. Tôi đang muốn hỏi em: tại sao đoạn trước đều bằng cả, mà đoạn sau lại bỗng chuyển sang trắc, là có ý gì?

- Đấy là âm điệu tự nhiên trong đáy lòng người ta, làm thế nào thì nó ra thế, chứ có nhất định sao được.

- Thế à! Đáng tiếc tôi không phải là tri âm, nghe cũng uổng thôi! Xưa nay tri âm dễ có mấy người?

Bảo Ngọc nghe xong biết lời nói của mình nông nổi quá lại sợ chạnh lòng Đại Ngọc. Ngồi một chốc, Bảo Ngọc thấy trong lòng có nhiều câu muốn nói, nhưng không biết nói gì. Về phần Đại Ngọc thì câu vừa rồi chẳng qua buột miệng nói ra, nay nghĩ lại thấy có phần lãnh đạm quá, nên cũng ngồi im. Bảo Ngọc đoán chừng Đại Ngọc nghi ngờ gì mình liền thẫn thờ đứng dậy nói:

- Thôi, em hãy ngồi, tôi còn đến đằng cô Ba một tý.

- Anh gặp cô Ba, nhờ hỏi thăm hộ tôi một tiếng.

Bảo Ngọc nhận lời rồi đi ra.

Đại Ngọc đưa ra đến cửa phòng rồi đi vào, buồn bực ngồi một mình, nghĩ bụng: “Gần đây Bảo Ngọc nói chuyện nửa úp nửa mở, khi thân mật khi lạnh lùng, không biết là ý tứ gì?”

Đại Ngọc đang ngồi nghĩ ngợi, thì thấy Tử Quyên chạy lại nói:

- Cô không viết kinh nữa à? Tôi cất bút nghiên đi nhé?

- Tôi không viết nữa đâu. Chị cất đi thôi.

Nới xong cô ta chạy vào phòng, nằm trên giường, suy nghĩ. Tử Quyên vào hỏi:

- Cô uống trà nhé?

- Không uống đâu. Tôi nằm một tý. Chị ra ngoài thôi.

Tử Quyên vâng lời đi ra, thấy Tuyết Nhạn đang ngẩn người đứng một mình ở đây. Tử Quyên lại gần hỏi:

- Mày cũng đang có tâm sự gì phải không?

Tuyến Nhạn nghe nói, giật nảy mình nói:

- Đừng làm ồn lên, hôm nay tôi nghe một câu chuyện, tôi nói với chị, xem có lạ không? Nhưng chị đừng có nói với ai đấy!

Nói đến đó, Tuyết Nhạn hất hàm về phía trong nhà, ra hiệu, rồi đi trước gật đầu bảo Tử Quyên theo ra. Đến phía thềm bên ngoài, Tuyết Nhạn nói nhỏ:

- Chị có nghe nói cậu Bảo hỏi vợ không?

Tử Quyên nghe vậy cũng giật mình, và hỏi:

- Câu nói ấy ở đâu mà ra? Có lẽ không thật đâu.

- Sao lại không thật? Ai cũng biết cả, chỉ chúng mình là không nghe thấy thôi.

- Mày nghe ở đâu thế?

- Chị Thị Thư nói đấy. Nghe đâu là con quan phủ, gia tư cũng giàu, người lại đẹp.

Bỗng thấy Đại Ngọc ho một tiếng, hình như đã dậy. Tử Quyên sợ Đại Ngọc nghe thấy, liền nắm lấy Tuyết Nhạn xua tay ra hiệu rồi trông vào trong nhà. Thấy trong nhà vẫn im lặng. Tử Quyên lại khẽ hỏi nhỏ Tuyết Nhạn:

- Thị Thư nói như thế nào?

- Hôm trước cô bảo tôi đến cảm ơn cô Ba. Cô Ba đi đâu vắng, chỉ có Thị Thư ở nhà. Chúng tôi ngồi nói chuyện, tình cờ nhắc đến chuyện cậu Bảo hay nghịch ngợm. Chị ta nói: “Cậu Bảo chẳng biết rồi ra thế nào, chỉ biết chơi đùa, không ra dáng người lớn. Đã dạm vợ rồi mà còn ngốc nghếch như thế. Tôi hỏi chị ta: “Có chắc chắn không?” Chị ta nói: “Chắc chắn rồi, ông Vương nào đó làm mối. Ông Vương là bà con bên phủ Đông, cho nên không cần phải thăm dò, nói là xong ngay.”

Tử Quyên, cúi đầu nghĩ ngợi: “Chuyện này lạ thực!” Rồi lại hỏi:

- Tại sao trong nhà không thấy ai nói đến?

- Thị Thư cũng nói, ý cụ cho rằng: nói lộ ra sợ cậu Bảo Ngọc lại nghĩ vơ nghĩ vẩn cho nên không nhắc đến. Thị Thư nói với tôi rồi dặn đi dặn lại, nhất thiết đừng nói lộ ra, để họ lại cho là mình bép xép.

Nói đến đó, Tuyết Nhạn lấy tay chỉ vào trong nhà:

- Vì thế, trước mặt cô, tôi cũng không hề nhắc đến. Nay chị hỏi không lẽ tôi giấu chị.

Vừa nói đến đó thì nghe con vẹt bắt chước tiếng người, gọi: “Cô về rồi, pha nước mau lên”. Tử Quyên và Tuyết Nhạn giật nẩy mình, ngoảnh lại chẳng thấy có ai, liền mắng con vẹt mấy tiếng. Hai người vào nhà thì thấy Đại Ngọc vừa ngồi xuống ghế, đang thở hổn hển.

Tử Quyên ân cần hỏi han. Đại Ngọc hỏi:

- Hai chị đi đâu? Gọi không thấy người nào cả.

Nói đoạn, đi vào vật mình ngả lưng lên giường và bảo buông màn. Tuyết Nhạn và Tử Quyên vâng lời đi ra. Hai người nghi ngờ là câu chuyện vừa rồi, bị cô ta nghe được, chỉ còn cách là đừng nhắc nhở gì đến.

Ngờ đâu Đại Ngọc vốn đã sẵn một bầu tâm sự, lại nghe trộm được câu chuyện của Tử Quyên và Tuyết Nhạn. Tuy nghe không rõ lắm, nhưng cũng đã hiểu được bảy tám phần. Cô ta thấy hình như bị ai vứt xuống bể. Nghĩ trước, nghĩ sau, thật là đúng như trong giấc chiêm bao ngày trước, muôn sầu nghìn tủi, chất chứa trong lòng. Suy tính trước sau, chi bằng chết đi cho rảnh, để đừng trông thấy cái chuyện bất ngờ, lại càng khó chịu. Cô ta lại nghĩ đến cảnh khổ của mình không cha không mẹ và quyết định từ nay về sau hàng ngày mình cứ giày vò thân mình, như thế một năm, năm bảy tháng, thế nào cũng thoát khỏi nợ đời. Đại Ngọc định ý như thế, nên chăn cũng không đắp, áo cũng không mặc, cứ nhắm mắt lại giả ngủ.

Tử Quyên và Tuyết Nhạn tới hầu mấy lần, không thấy Đại Ngọc động đậy gì cả, lại không dám gọi. Bữa cơm chiều hôm ấy, Đại Ngọc cũng không ăn. Sau khi lên đèn, Tử Quyên vạch màn ra xem, thấy Đại Ngọc đã ngủ rồi; chăn, nệm đều tụt xuống dưới chân. Tử Quyên sợ cô ta lạnh, nhè nhẹ đắp chăn lên. Đại Ngọc cứ nằm im, chờ Tử Quyên ra rồi lại tụt chăn xuống.

Tử Quyên hỏi Tuyết Nhạn:

- Câu chuyện vừa rồi thật hay giả đấy?

- Sao lại không thật?

- Tại sao Thị Thư biết?

- Vì Tiểu Hồng nghe bên nhà nói rồi thuật lại.

- Lúc nãy chúng ta nói chuyện, không khéo cô nghe được thì phải. Mày xem vẻ mặt cô vừa rồi, chắc không phải là tự nhiên mà thế. Từ nay về sau, chúng ta đừng nhắc chuyện ấy nữa.

Nói xong, hai người cùng thu xếp định đi nghỉ. Tử Quyên vào xem, thấy chăn nệm của Đại Ngọc tụt xuống, lại nhè nhẹ kéo lên.

Hôm sau, vừa hửng sáng, Đại Ngọc đã thức dậy, cũng không gọi ai, chỉ một mình ngồi ngẩn người ra. Tử Quyên tỉnh dậy, thấy Đại Ngọc đã dậy rồi, sợ hãi hỏi:

- Sao cô dậy sớm thế?

- Ngủ sớm thì dậy sớm chứ sao đâu?

Tử Quyên vội vàng đứng dậy, đánh thức Tuyết Nhạn, hầu hạ Đại Ngọc chải đầu rửa mặt.

Đại Ngọc soi gương, ngơ ngẩn nhìn mình. Nhìn một lúc, nước mắt chảy ràn rụa, ướt đẫm khăn. Thật là:

Đem bóng gầy này soi mặt nước;

Mình thương tớ với, tớ thương mình.

Tử Quyên đứng một bên cũng không dám khuyên, sợ vô tình làm Đại Ngọc thêm nhớ lại chuyện cũ. Một lát sau, Đại Ngọc chải đầu rửa mặt qua loa, ngấn lệ trong mắt vẫn còn chưa ráo, lại ngồi một lát rồi gọi Tử Quyên:

- Chị đốt hương lên.

- Cô chẳng ngủ được mấy tý, đốt hương làm gì? Định viết kinh phải không?

Đại Ngọc gật đầu, Tử Quyên nói:

- Hôm nay cô dậy sớm quá, giờ lại viết kinh, e mệt đấy.

- Sợ gì! Viết xong sớm chừng nào hay chừng ấy. Vả lại tôi cũng không phải là thích viết kinh, chỉ là mượn công việc viết lách để giải buồn. Sau này các chị thấy nét chữ của tôi cũng như thấy mặt tôi vậy.

Nói đến đó, nước mắt lại chảy ròng ròng.

Tử Quyên nghe đoạn, chẳng những không khuyên, lại cũng chảy nước mắt, không nín được nữa. Đại Ngọc đã định sẵn chủ ý. Từ đó về sau, cố ý giày vò thân mình, chẳng nghĩ gì đến cơm nước, ngày một yếu dần. Mỗi khi Bảo Ngọc đi học về, cũng thường nhân lúc rảnh đến hỏi thăm. Nhưng Đại Ngọc biết mình đã lớn, tuy có nhiều điều muốn nói nhưng không thể dùng tình tứ khêu gợi như khi còn nhỏ, vì thế nỗi niềm tâm sự không thể nói ra. Bảo Ngọc muốn dùng lời nói thực để an ủi, thì lại sợ Đại Ngọc đâm giận, bệnh càng thêm nặng. Hai người gặp mặt nhau, chỉ dùng những lời khuôn sáo mà khuyên lơn an ủi, thật là: “thân quá hóa sơ”.

Giả mẫu và Vương phu nhân thương yêu Đại Ngọc nhưng chỉ biết mời thầy chữa bệnh và cho rằng đó là bệnh thường, biết sao được căn bệnh trong đáy lòng cô ta. Bọn Tử Quyên tuy hiểu ý, cũng không dám nói. Từ đó Đại Ngọc càng ngày càng yếu dần. Sau độ nửa tháng tỳ vị càng hư, cháo cũng không ăn được nữa.

Hằng ngày nghe ai nói gì Đại Ngọc cứ tưởng như họ nói chuyện Bảo Ngọc cưới vợ; thấy người trong Viện Di Hồng không kể trên dưới đều có vẻ lo liệu cho Bảo Ngọc cưới vợ. Tiết phu nhân đến thăm, Đại Ngọc không thấy Bảo Thoa, lòng lại càng ngờ vực. Do đó càng không muốn để ai đến thăm cũng không chịu uống thuốc, chỉ muốn mau chết. Trong khi mơ ngủ, Đại Ngọc thường nghe như có người gọi “mợ Hai Bảo”. Trong lòng ngờ vực nên thấy gì cũng đâm nghi ngờ. Hôm ấy, Đại Ngọc không ăn được nữa, cháo cũng không nuốt vào, chỉ còn hơi thở thoi thóp chờ chết.

----------

1. Ngày xưa Thái Ung thấy người ta đốt gỗ cây đồng khô, ông biết là gỗ tốt có thể dùng làm đàn, liền xin về làm một cây đàn; tiếng rất trong, nhưng đầu đuôi bị cháy sém, nên gọi là tiểu vĩ cầm (đàn sém đuôi).

2. Hạc tiên, phương vĩ, long trì, nhạn túc, đều là những danh từ riêng dùng để chỉ các bộ phận trên cây đàn.

3. Vằn gỗ trên đàn, cái nào như lông trâu là thứ đàn tốt.

Hồi thứ chín mươi

Mất áo bông, gái nghèo ngấm ngầm bực bội ;

Đưa hoa quả, chú em nghĩ ngợi vẩn vơ.

Từ khi Đại Ngọc quyết định tự hại thân mình, dần dần ốm liệt, cuối cùng không ăn uống được nữa. Trước đấy, trong khoảng mười ngày, bọn Giả mẫu thay phiên nhau đến trông nom, có đôi khi Đại Ngọc còn nói một vài câu, nhưng hôm ấy thì rất ít nói. Tâm thần có lúc mê man, cũng có lúc tỉnh táo. Bọn Giả mẫu thấy bệnh tình như không phải vô cớ mà sinh ra, nên đã tra hỏi bọn Tử Quyên, Tuyết Nhạn một vài lần, nhưng hai người không dám nói rõ. Tử Quyên cũng muốn hỏi lại Thị Thư đầu đuôi câu chuyện, nhưng cứ sợ càng rõ sự thật thì Đại Ngọc càng mau chết, nên khi gặp Thị Thư, chị ta không hề nhắc đến chuyện ấy. Về phần Tuyết Nhạn thì biết rõ chính vì mình buột miệng mà gây nên cơ sự dường này. Chị ta chỉ tiếc không có thể có ngàn miệng để thốt rằng “tôi không nói”, cho nên lại càng không dám nhắc đến chuyện ấy.

Đến hôm Đại Ngọc không ăn uống được nữa, Tử Quyên nghĩ không còn hy vọng, ngồi bên cạnh khóc lóc một hồi, rồi đi ra nói trộm với Tuyết Nhạn:

- Em vào trong nhà mà ngồi, trông nom cô cho cẩn thận, để chị đi trình với cụ, bà Hai và mợ Hai, chứ xem quang cảnh hôm nay thì không phải như mọi ngày nữa đâu.

Tuyết Nhạn vâng lời. Tử Quyên đi ra. Tuyết Nhạn ở trong phòng ngồi bên Đại Ngọc, thấy cô ta mê man im lìm. Tuyết Nhạn còn trẻ chưa bao giờ thấy quang cảnh ấy, nên cứ tưởng rằng như thế là đã chết rồi, trong lòng vừa thương vừa sợ, chỉ mong sao Tử Quyên về nhanh cho. Đang khi sợ hãi, thì nghe ngoài cửa sổ có tiếng chân đi, Tuyết Nhạn chắc là Tử Quyên đã về, trong lòng mới yên, vội vàng đứng dậy vạch màn ra chờ. Bỗng nghe ở ngoài có tiếng vạch màn sột soạt, một người đi vào, thì ra đó là Thị Thư.

Số là Thị Thư được Thám Xuân sai đến hỏi thăm Đại Ngọc. Thấy Tuyết Nhạn vạch màn. chị ta liền hỏi:

- Cô ra sao rồi?

Tuyết Nhạn gật đầu bảo Thị Thư vào. Thị Thư bước vào không thấy Tử Quyên. Nhìn Đại Ngọc thì chỉ còn chút hơi tàn thoi thóp, chị ta giật mình sợ hãi, liền hỏi:

- Chị Tử Quyên đâu rồi?

- Đi báo với trên nhà rồi.

Lúc bấy giờ Tuyết Nhạn tưởng rằng Đại Ngọc chẳng biết gì nữa, lại thấy Tử Quyên cũng không ở đấy, liền khẽ nắm tay Thị Thư mà hỏi:

- Trước đây chị nói với tôi, ông Vương nào đó làm mối cho cậu Hai Bảo có thật không?

- Sao lại không thật.

- Bao giờ thì đi dạm đấy?

- Làm gì mà đã nhất định được? Trước đây tôi nói với chị là tôi nghe chị Tiểu Hồng kể lại. Sau tôi đến bên nhà mợ Hai, thấy mợ ấy đang nói với chị Bình rằng: “Đó chẳng qua là bọn gia khách muốn mượn việc để xu nịnh với ông lớn để sau này dễ nhờ vả đó thôi. Chưa nói là bà Cả cũng cho rằng không tốt, chứ nếu bà Cả có bằng lòng cho rằng là tốt đi nữa, thì con mắt của bà ấy cũng làm gì mà biết được người tốt người xấu? Hơn nữa trong lòng cụ đã định sẵn người rồi, người ấy cũng ở trong vườn này, bà Cả biết sao được. Chẳng qua vì ông lớn nói, nên cụ bất đắc dĩ phải hỏi qua đấy thôi. Tôi lại nghe mợ Hai nói: Việc của cậu Bảo, cụ đã quyết định cho cậu ấy lấy người thân thích, dù cho ai đến mối lái, cũng chẳng ăn thua.

Tuyết Nhạn nghe nói đến đó, quên không nghĩ gì nữa, liền nói:

- Nói cái gì thế? Thế mà làm chết oan đời của cô tôi rồi!

- Tại sao thế?

- Chị còn không biết à! Cũng vì trước đây tôi với chị Tử Quyên nói đến câu chuyện ấy, cô tôi nghe, nên mới nông nỗi này.

- Chị nói khe khẽ chứ, coi chừng cô nghe thấy đấy.

- Cô tôi mê man chẳng còn biết gì nữa, coi chừng, chẳng qua cũng trong vài hôm thôi.

Hai người đang nói thì thấy Tử Quyên vén màn vào nói:

- Chết chưa? Các chị muốn nói chuyện sao không đi ra ngoài mà nói, lại nói ở đây! Cứ làm thế thì cô tôi chết đi còn gì.

Thị Thư nói:

- Tôi không ngờ có việc lạ như thế.

- Thôi đi chị, tôi nói chị đừng giận. Chứ chị thì biết cái quái gì? Biết thì đã không mách lẻo những chuyện ấy.

Ba người đang nói, bỗng nghe Đại Ngọc ho một tiếng. Tử Quyên vội vàng chạy lại đứng trước giường. Thị Thư và Tuyết Nhạn cũng đều đứng im. Tử Quyên khom lưng đứng sau Đại Ngọc hỏi khẽ:

- Cô uống một hớp nước nhé!

Đại Ngọc ừ một tiếng nho nhỏ, Tuyết Nhạn vội vàng rót nửa chén nước sôi, Tử Quyên đỡ lấy, Thị Thư cũng đi lại gần. Tử Quyên lắc đầu ra hiệu cho Thị Thư bảo đừng nói. Thị Thư đành đứng im. Một chốc Đại Ngọc lại ho. Tử Quyên nhân dịp hỏi:

- Cô uống nước nhé!

Đại Ngọc lại khẽ ừ, ý muốn cất đầu dậy, nhưng cất sao nổi. Tử Quyên bò lên giường, ghé lại bên mình, tay bưng nước, thử xem nóng hay lạnh, đưa lại bên môi, đoạn đỡ đầu Đại Ngọc lại bên chén uống một hớp. Tử Quyên định cất chén đi, nhưng Đại Ngọc còn muốn uống hớp nữa. Tử Quyên đỡ lấy chén. Đại Ngọc lại uống một hớp đoạn lắc đầu không uống nữa, thở một hơi mạnh rồi lại nằm xuống. Hồi lâu, Đại Ngọc hé mắt, nói:

- Vừa rồi có phải chị Thị Thư nói chuyện đấy không?

- Dạ phải.

Lúc đó Thị Thư chưa đi ra, vội vàng bước lại hỏi thăm. Đại Ngọc mở mắt ra nhìn, gật gật đầu, nghỉ một tý rồi nói:

- Chị về gửi lời hỏi thăm cô nhà nhé!

Thị Thư thấy thế, tưởng Đại Ngọc ghét mình, đành phải khe khẽ lui ra.

Thì ra, Đại Ngọc tuy bệnh nặng, nhưng vẫn còn tỉnh táo. Ban đầu Thị Thư và Tuyết Nhạn nói chuyện, cô ta cũng nghe lơ mơ được một đôi câu, tuy làm như không biết, nhưng thì ra thì cũng không có tinh thần để nghĩ đến nữa. Đến khi nghe câu chuyện của hai người cô ta mới hiểu rõ là việc Bảo Ngọc dạm vợ trước đây chỉ mới bàn thôi, chứ chưa quyết định. Lại nghe Thị Thư nói theo lời Phượng Thư thì ý định của cụ là định dạm người thân thích; người này lại ở trong vườn, vậy chẳng phải mình, còn ai nữa? Nghĩ vậy, Đại Ngọc bỗng thấy khoan khoái tỉnh táo ra nhiều, nên vừa uống xong hai hớp nước lại muốn hỏi chuyện Thị Thư. Vừa lúc ấy thì Giả mẫu, Vương phu nhân, Lý Hoàn, Phượng Thư, nghe Tử Quyên nói, đều vội vàng đến thăm. Trong bụng Đại Ngọc đã hết ngờ vực, tất nhiên không muốn chết nữa. Mặc dù thân thể yếu đuối, tinh thần bạc nhược, cô ta cũng gắng gượng trả lời một vài câu. Phượng Thư thấy thế, liền gọi Tử Quyên hỏi:

- Cô cũng chẳng đến nỗi nào. Tại sao chị lại làm chúng tôi thất kinh thế?

- Ban đầu thấy rất nguy kịch, chúng cháu mới đi trình. Khi về thấy cô cháu đỡ nhiều, thật là kỳ quặc.

Giả mẫu cười, nói:

- Cháu cũng đừng có trách nó. Nó biết cái gì? Thấy nguy thì nó đi trình, đó là nó biết việc đấy. Bọn trẻ con đừng có vụng miệng biếng chân là được.

Nói chuyện một lát, chắc Đại Ngọc không can gì, bọn Giả mẫu ra về cả. Thật là:

Bệnh tim lấy thuốc tim mà chữa,

Cởi nhạc là người buộc nhạc đây.

Bệnh Đại Ngọc dần dần khỏi. Tuyết Nhạn và Tử Quyên đều thầm cảm ơn đức Phật. Tuyết Nhạn nói với Tử Quyên:

- Cũng lạ! Thực là may cô đã khỏi. Nhưng khi ốm cũng lạ mà khỏi ốm cũng lạ!

- Ốm thì có gì mà lạ, chỉ khi khỏe mới thật là lạ. Chắc cậu Bảo với cô ấy là đôi nhân duyên trời định. Người ta hay nói: “Sự đời đa đoan”. Lại nói: “Cá đã cắn câu, khó lòng giữ nổi”. Cứ thế suy ra, lòng người ý trời, thật là duyên lành xe lại. Nhớ năm nọ, tôi nói cô Lâm sắp về Nam, cậu Bảo suýt chết, trong nhà cuống cả lên; nay chỉ vì một câu nói, lại làm cô Lâm chết đi sống lại. Thật đúng câu: “Duyên nợ ba sinh, trăm năm định sẵn”.

Hai người chuyện trò với nhau rồi cũng cười. Tuyết Nhạn lại nói:

- May sao cô khoẻ được, sau này chúng ta đừng nói nữa, dù mắt trông thấy cậu Bảo cưới con gái nhà ai, tôi cũng không dám hé răng nói nửa lời.

- Phải đấy.

Chẳng những Tuyết Nhạn; Tử Quyên bàn bạc thầm, mà đến cả mọi người cũng đều thấy Đại Ngọc bệnh lạ lùng, khỏi cũng lạ lùng, nên họ tụm năm tụm ba, lao xao bàn tán. Ít lâu, cả Phượng Thư cũng biết. Hình phu nhân và Vương phu nhân thì có phần ngờ vực, còn Giả mẫu cũng đã đoán được tám chín phần, một hôm bọn Hình phu nhân, Vương phu Nhân, cùng Phượng Thư đều ở trong phòng Giả mẫu nói chuyện phiếm, nhân nói đến bệnh tình của Đại Ngọc. Giả mẫu nói:

- Ta đang định nói với các người, thằng Bảo và con Lâm từ nhỏ ở chung một chỗ, ta tưởng rằng chúng nó còn trẻ con, không ngại gì. Sau này nghe nói con Lâm khi thì đau, khi thì khỏe, chính vì chúng nó đã hiểu biết ít nhiều sự đời. Cho nên ta nếu cứ để chúng ở chung một chỗ mãi, sợ không ra thể thống gì, các người nói sao?

Vương phu nhân nghe nói, ngẩn người ra một chốc rồi đáp:

- Cô Lâm là người biết cân nhắc. Còn thằng Bảo thì ngơ ngơ, ngẩn ngẩn, chẳng biết giữ ý giữ tứ gì cả. Cứ nhìn bề ngoài, chúng đều ra vẻ trẻ con. Bây giờ bỗng dưng tách một đứa ra khỏi vườn, chẳng phải là lộ hình tích hay sao? Người xưa nói: “Trai lớn lấy vợ, gái khôn lấy chồng”. Cụ lo liệu việc của chúng đi thôi.

Giả mẫu cau mày nói:

- Con Lâm tính tình tinh ranh, đó cũng là điều tốt của nó, nhưng ta không muốn dạm nó cho Bảo Ngọc, cũng chỉ vì điều đó. Vả lại nó yếu đuối như thế, sợ không thọ. Chỉ có con Bảo là tốt hơn hết.

Vương phu nhân nói:

- Chẳng những cụ nghĩ như thế, mà chúng con cũng đều nghĩ như thế cả. Nhưng đối với cô Lâm, cũng cần kén rể cho cô ta mới được. Con gái đã lớn, ai mà chẳng có tâm sự? Nếu nó có tình riêng với thằng Bảo, khi nghe nói thằng Bảo cưới con Bảo, tất sẽ xảy ra chuyện không hay.

Giả mẫu nói:

- Thế nào cũng cưới vợ cho thằng Bảo đã rồi mới kén chồng cho con Lâm được. Không đời nào lại lo việc người ngoài trước rồi mới đến người nhà. Vả lại, con Lâm còn kém thằng Bảo hai tuổi, theo như ý các người thì đừng cho nó biết việc dạm vợ cho thằng Bảo là được.

Phượng Thư liền dặn bọn a hoàn:

- Chúng mày nghe chưa? Việc cậu Bảo dạm vợ không được nói ồn lên. Đứa nào bép xép thì liệu hồn đấy.

Giả mẫu lại nói với Phượng Thư:

- Cháu Phượng này! Từ khi cháu không được khỏe, cháu không trông nom gì đến việc trong vườn, ta nói với cháu cần phải chú ý mới được. Không những việc này, chứ năm trước đây, bọn chúng uống rượu đánh bạc, đều không phải là việc vừa đâu. Cháu phải cẩn thận, chịu khó để ý cấm ngặt bọn chúng mới được. Ta xem chúng chỉ nghe theo cháu mà thôi.

Phượng Thư vâng lời. Mấy người lại nói chuyện một lúc rồi ai về nhà nấy.

Từ đó Phượng Thư thường đến vườn trông nom mọi việc. Một hôm vào vườn, vừa đến bãi Tử Lăng, bỗng nghe một bà già đang làm ầm lên. Phượng Thư đến nơi, bà kia mới biết, liền khép nép chào. Phượng Thư nói:

- Bà làm gì mà ầm lên thế?

- Nhờ ơn các mợ bảo tôi ở đây trông nom hoa quả. Tôi không hề có gì sai lầm, không ngờ con a hoàn của cô Hình bảo tôi là kẻ trộm.

- Tại sao vậy?

- Hôm qua cháu Hắc nhà chúng tôi theo tôi vào đây chơi một lúc. Nó không biết gì, lại vào bên nhà cô Hình xem. Tôi bảo nó về. Hôm nay sáng dậy nghe a hoàn cô Hình nói mất trộm đồ vật. Tôi hỏi nó mất gì, nó liền hỏi vặn tôi.

- Nó mới hỏi bà một tiếng, thì đã đến nỗi gì mà bà phải giận.

- Vườn này là vườn của các mợ, chứ không phải là vườn nhà họ. Chúng tôi đều là ngtời mợ sai khiến, khi nào lại nhận cái tiếng ăn trộm ấy.

Phượng Thư nhổ toẹt vào mặt bà ta, rồi quát:

- Bà đừng có quen thói la xa lát xát trước mặt tôi! Bà coi vườn ở đây, các cô lại mất trộm, đáng lẽ các bà phải hỏi cho ra mới được. Tại sao lại nói nhảm nhí như thế? Gọi bà Lâm đến đây, đuổi cổ nó ra!

 A hoàn vâng lời sắp đi thì thấy Hình Tụ Yên vội vàng chạy đến, đón Phượng Thư rồi cười, nói:

- Mợ không nên làm thế, không hề gì cả, việc đã qua rồi.

Phượng Thư nói:

- Cô ạ, có phải vì thế đâu. Chưa nói gì đến công việc, chỉ về phận sự bà ấy cũng không có lý được nói như thế!

Tụ Yên thấy bà già quỳ dưới đất xin tha, liền mời Phượng Thư vào trong nhà ngồi. Phượng Thư nói:

- Tôi biết cả rồi. Bọn ấy trừ tôi ra thì không kể gì trên dưới cả.

Tụ Yên cứ xin hộ cho bà già mãi, và nói tại con a hoàn mình dại, Phượng Thư nói:

- Ta nể mặt cô Hình tha cho bà một lần này.

Bà già đứng dậy lạy tạ Phượng Thư và Tụ Yên, rồi đi ra.

Phượng Thư cười, hỏi Tụ Yên:

- Cô mất cái gì?

- Có gì quan trọng đâu, tôi mất một cái áo lót màu hồng đã cũ. Tôi bảo nó tìm, không thấy thì thôi. Con bé không hiểu việc lại đi hỏi bà già ấy, tất nhiên bà ta không chịu nhịn. Chẳng qua vì con bé dại dột, tôi đã mắng nó mấy câu. Việc đã qua rồi mợ không nên nhắc lại nữa.

Phượng Thư nhìn Tụ Yên, thấy trong người có mặc áo bông, áo dạ, nhưng đều rung rúc, chưa chắc đủ ấm, chăn nệm thì phần nhiều mỏng manh! Những đồ bài trí trên bàn ở trong phòng, là những đồ của Giả mẫu đưa đến, nhưng đều thu cất sạch, chưa hề động đến một tý gì. Phượng Thư rất mực kính mến, liền nói:

- Một cái áo, tuy không quan trọng gì, nhưng trời lạnh, lại là áo mặc lót, tại sao cô không hỏi? Quân láo lếu kia ghê thật!

Phượng Thư đi đến các nơi, ngồi một lúc, rồi ra về. Tới phòng, gọi Bình Nhi lấy một chiếc áo lót lụa tây cải hoa đỏ, một chiếc áo da bọc lụa màu hoa tùng, một chiếc quần bông bọc gấm thêu hoa, màu lam, một chiếc áo khoác bằng da chuộc bạch, gói lại cẩn thận đưa cho Tụ Yên. Lúc đó, Tụ Yên vừa bị bà già kia đay nghiến một hồi, tuy có Phượng Thư đến đe nẹt, nhưng trong lòng vẫn khó chịu, nghĩ bụng: “Các chị em ở trong vườn này, bọn người hầu không ai dám động đến, duy có mình là chúng nói thế này thế khác, lại giữa lúc chị Phượng đi đến trông thấy”. Tụ Yên càng nghĩ càng thấy khó coi, lại càng không thể nói ra. Vừa đang nghẹn ngào muốn khóc, bỗng thấy Phong Nhi ở bên nhà Phượng Thư đưa gói áo đến. Tụ Yên trông thấy, nhất định không chịu nhận.

Phong Nhi nói:

- Mợ Hai dặn cháu thưa với cô; nếu cô chê áo cũ, thì sau xin đưa áo mới đến.

Tụ Yên cười nói:

- Cám ơn mợ có lòng tốt. Nhân khi tôi mất áo, mợ lại đưa áo đến, tôi quyết không dám nhận. Chị cứ đưa về. Tôi xin gửi lời đa tạ mối thịnh tình của mợ, thế là tôi nhận rồi đấy.

Nói đoạn lại biếu Phong Nhi một cái túi. Phong Nhi đành phải đem gói áo về. Chẳng mấy chốc lại thấy Bình Nhi và Phong Nhi đến. Tụ Yên vội vàng đón chào mời ngồi. Bình Nhi cười nói:

- Mợ tôi nói cô thật khách sáo quá.

- Không phải khách sáo, tôi thật không đành lòng.

- Mợ tôi nói: Nếu cô không nhận quần áo này thì hẳn là chê cũ, hay là xem mợ tôi không ra gì. Vừa rồi mợ tôi bảo, nếu tôi lại mang về, thì mợ tôi không bằng lòng đâu.

Tụ Yên đỏ mặt và cảm ơn:

- Nếu như thế, tôi không dám từ chối.

Tụ Yên mời họ uống trà một chốc rồi mới về.

Bình Nhi và Phong Nhi về gần đến nhà thì vừa gặp một bà già ở bên Tiết phu nhân sang, đón lại chào hỏi:

- Bà đi đâu thế? Bà tôi và cô tôi bảo sang hỏi thăm sức khỏe các bà, các mợ các cô. Vừa rồi tôi hỏi thăm, nghe nói cô vào trong vườn, chắc sang bên cô Hình phải không?

- Sao bà biết?

- Tôi vừa nghe nói, thật mợ Hai và các cô ăn ở khiến người ta phải cảm động!

- Mời bà về bên nhà chơi đã.

- Tôi còn bận, xin để hôm khác.

Nói đoạn, bà già ra về.

Binh Nhi về nhà trình lại với Phượng Thư.

Lúc này trong nhà Tiết phu nhân thường bị Kim Quế làm ầm lên như vỡ chợ, nên khi nghe bà già kể lại chuyện Hình Tụ Yên, mẹ con Bảo Thoa đều ứa nước mắt. Bảo Thoa nói:

- Chỉ vì anh Cả không ở nhà nên để cô Hình phải chịu khổ thêm ít ngày nữa. May được chị Phượng ăn ở đúng mực, nhưng dẫu sao cô ấy vẫn là người nhà mình, ta phải để ý mới được.

Hai mẹ con đang bàn tán thi thấy Tiết Khoa vào nói:

- Những người bấy lâu nay giao du với anh Cả đều là hạng không ra gì! Không có một người nào đứng đắn, toàn là lũ chó má cả. Xem chừng thì họ chẳng lo gì cho mình đâu, chẳng qua họ chỉ đến dò la tin tức đó thôi. Hai hôm nay đều bị tôi đuổi đi cả. Sau này dặn người canh cửa đừng cho bọn họ vào nữa.

Tiết phu nhân nói:

- Lại bọn Tưởng Ngọc Hàm chứ gì?

- Tưởng Ngọc Hàm không đến, mà là bọn khác kia.

Tiết phu nhân nghe Tiết Khoa nói, bất giác thương tâm, liền bảo:

- Bác tuy có con trai nhưng giờ cũng như không. Dù quan trên có y án cho nó thì cũng là người bỏ đi, Cháu tuy là bậc cháu, nhưng xem ra còn hiểu biết hơn anh cháu nhiều, sau này bác sẽ nhờ vào cháu. Từ nay cháu phải chịu khó học cho khá lên. Vả lại người mà bác định hỏi cho cháu bây giờ nhà cửa sa sút, không được như trước nữa. Con gái nhà người ta đi lấy chồng, không phải là chuyện dễ. Ai cũng thế, cho con gái lấy chồng, chẳng gì hơn ngoài việc mong có một con rể tài giỏi thì con gái sẽ được sung sướng một đời. Nếu con Hình mà cũng như cái đồ này...

Nói đến đó, bà ta giơ tay chỉ vào trong nhà, rồi lại tiếp:

- Bác cũng chẳng buồn nói nữa. Con Hình thật là người biết giữ kẽ, biết tính toán, yên phận nghèo nàn trước cảnh giàu sang, mong sao việc nhà chúng ta qua khỏi, để lo việc cho cháu, cũng là xong được một điều lo lắng của ta.

Tiết Khoa nói:

- Em Cầm chưa về nhà chồng, đó mới là việc bác phải lo. Còn việc cháu có kể gì?

Nói chuyện phiếm một lúc, rồi Tiết Khoa trở về phòng mình. Ăn cơm chiều xong, anh ta nghĩ Hình Tụ Yên ở trong vườn họ Giả, rút cục vẫn là ở nhờ nhà người ta; vả lại cô ta nghèo, ăn tiêu hàng ngày như thế nào, không nói cũng đủ biết. Cô ta là chỗ quen biết trước đây trên quãng đường vào Kinh, dung mạo và tính tình cô ta mình đều rõ cả. Thật là trời ở không công: như hạng Kim Quế thì lại sinh vào con nhà giàu, được nuông chiều sinh ra đanh đá; còn hạng người như Hình Tụ Yên lại chịu khổ chịu sở. Chẳng biết lúc Diêm Vương định số mệnh thì định như thế nào? Ngẫm nghĩ mãi, bực mình cũng muốn làm một bài thơ để tỏ cái nỗi uất ức trong lòng, chỉ bực mình không có thì giờ. Bất đắc dĩ, Tiết Khoa phải viết quấy phá mấy câu:

Rồng không nước tựa cá phơi khô,

Hiu quạnh đôi nơi những thẫn thờ.

Cùng ở bùn lầy nhiều nỗi khổ,

Biết bao giờ đến cõi thanh hư!

Viết xong, xem lại một lượt. Tiết Khoa định dán lên tường, nhưng lại lưỡng lự nghĩ thầm: “Lỡ người ta trông thấy, họ sẽ cười chết”. Tiết Khoa lại đọc một lần nữa, rồi nghĩ: “Kệ họ! Ta cứ dán lên, đọc cho đỡ buồn”. Rồi đọc một lần cuối cùng, thấy chẳng hay ho gì, bèn đem gấp vào trong sách. Tiết Khoa nghĩ bụng: “Mình nay đã lớn, trong nhà lại gặp tai bay vạ gió, không biết ngày nào thu xếp xong, khiến cho cô ta chiếc thân liễu yếu nơi buồng the, đành chịu phận cô đơn vắng vẻ!”

Tiết Khoa đang nghĩ ngợi, thấy Bảo Thiềm đẩy cửa vào, miệng cười ranh mãnh, tay bưng một cái hộp, đặt lên trên bàn. Tiết Khoa đứng dậy mời ngồi. Bảo Thiềm nhìn Tiết Khoa rồi cười nói:

- Đây là bốn đĩa quả và một hồ rượu, mợ Cả bảo đưa biếu cậu.

Tiết Khoa cười:

- Cảm ơn chị Cả! Bảo đứa nhỏ nào đưa đến cũng được, sao lại phiền đến chị?

- Cậu nói hay lắm! Người nhà cả, sao cậu lại nói giọng khách sáo thế? Vả lại, việc cậu Cả nhà ta làm cho cậu phải lo lắng, lâu nay mợ Cả muốn tìm món gì tạ ơn cậu. Nhưng lại sợ người ta ngờ vực. Cậu chẳng lạ gì người trong nhà chúng ta “miệng thơn thớt, bụng ớt cay”, biếu chút lễ vật chẳng có gì là quan trọng, nhưng rồi họ lại bĩu mồm bĩu miệng, bàn ra tán vào. Vì thế hôm nay mợ tôi chỉ đưa mấy thứ quà nhỏ mọn và một hồ rượu, bảo tôi đưa đến biếu cậu.

Chị ta nói đến đó lại cười, lườm Tiết Khoa một cái rồi tiếp:

- Sau này cậu đừng nói thế nữa, khó coi lắm. Chúng tôi chẳng qua là hạng người dưới, đã hầu hạ cậu Cả được thì hầu hạ cậu Hai cũng chẳng hề gì?

Tiết Khoa vốn người thực thà, lại còn trẻ tuổi, chưa từng thấy Kim Quế và Bảo Thiềm đối với mình như thế bao giờ, nghe Bảo Thiềm nói vì việc của Tiết Bàn mà đến thì cũng có tình, có lý liền nói:

- Chị để quả đó, còn rượu thì chị đem về thôi. Xưa nay tôi uống rượu rất ít, khi gặp việc ngẫu nhiên uống một chén chứ ngày thường rỗi rãi tôi có uống được đâu. Không lẽ chị Cả và chị lại không biết hay sao?

- Việc khác còn có thể được, chứ việc này thì tôi không dám vâng lời. Cậu còn lạ gì tính khí của mợ Cả, nếu tôi đem về, mợ ấy sẽ không nói là cậu không uống mà lại nói là tôi không chịu tận tâm.

Tiết Khoa chẳng biết làm thế nào, đành phải để lại.

Bảo Thiềm đang định ra, lại chạy ra cửa ngoài nhìn ngang nhìn ngược rồi ngoảnh lại nhìn Tiết Khoa cười, giơ tay chỉ vào phía trong mà nói:

- Không khéo mợ Cả còn thân hành đến cảm ơn cậu nữa kia.

Tiết Khoa chẳng biết Bảo Thiềm có ý gì mà có vẻ trơ tráo liền bảo:

- Nhờ chị nói hộ với chị Cả, trời rét lắm, coi chừng kẻo bị lạnh đấy. Chỗ chị em trong nhà, cần gì phải như thế.

Bảo Thiềm không đáp, cười rồi đi ra.

Tiết Khoa ban đầu cho rằng Kim Quế quả thực cảm ơn về việc của Tiết Bàn, nên đem quả và rượu biếu mình. Cái đó cũng có lý. Đến khi thấy Bảo Thiềm thậm thậm thụi thụi có vẻ không đứng đắn, trong bụng cũng đoán ra một vài phần, nhưng lại nghĩ: “Chị ta là bậc chị dâu, có lẽ nào lại có tình ý gì. Hoặc giả, Bảo Thiềm không đứng đắn, tự mình không tiện nói ra, mới mượn tiếng Kim Quế cũng chưa biết chừng. Dù sao, nó cũng là người hầu anh mình, như thế cũng không tốt”. Bỗng lại nghĩ: “Kim Quế ngày thường không có gì là khuôn phép của con nhà khuê các, khi thích lên thì ăn mặc lộng lẫy khác thường, cứ cho mình đẹp, biết đâu không nảy lòng bậy bạ. Nếu không thì chắc giữa chị ta với em Cầm có điều gì không bằng lòng với nhau, nên bày ra mưu kế thâm độc, định đầy mình xuống vũng nước bẩn, để mình mang tiếng oan, cũng chưa biết chừng!” Nghĩ đến đó, Tiết Khoa đâm ra sợ hãi. Đang khi lo nghĩ chưa biết làm thế nào, bỗng nghe ngoài cửa sổ có tiếng cười khanh khách làm anh ta giật nẩy mình.

Hồi thứ chín mươi mốt

Định thỏa lòng dâm, Bảo Thiềm bày mưu kế;

Bày ra nghi trận, Bảo Ngọc bàn đạo thiền.

Tiết Khoa đang ngờ vực, bỗng nghe ngoài cửa sổ có tiếng cười khanh khách, liền giật nẩy mình, nghĩ bụng: Không phải Bảo Thiềm chắc là Kim Quế. Mình cứ mặc họ, xem họ giở trò gì ? Giờ lâu lại thấy im lặng. Tiết Khoa cũng không dám uống rượu, ăn quả, bèn đóng cửa lại. Vừa định cởi áo đi nằm, bỗng nghe ở mảnh giấy dán cửa sổ có tiếng động khe khẽ. Tiết Khoa vừa bị Bảo Thiềm quấy rầy xong, trong bụng lo lắng không biết nên làm thế nào. Thấy tờ giấy dán cửa sổ rung động, nhìn kỹ lại im lặng, không có gì, Tiết Khoa đâm ra ngờ vực, ngồi trước đèn suy nghĩ miên man; lại cầm lên một quả, lật đi lật lại xem kỹ. Chợt ngoảnh đầu lại thấy mảnh giấy trên cửa sồ ướt một chỗ, hắn liền chạy lại ghé mắt nhìn, bất thình lình ở ngoài có người thổi phụt vào một cái, làm hắn giật mình. Nghe ngoài có tiếng cười khanh khách, Tiết Khoa vội vàng thổi tắt đèn, nín hơi nằm. Bỗng bên ngoài có tiếng người nói:

- Cậu Hai không ăn quả uống rượu mà đã đi ngủ ?

Đúng là giọng của Bảo Thiềm, Tiết Khoa giả vờ ngủ không đáp. Một lát lại nghe có tiếng nói tức tối:

- Thiên hạ lại có hạng người vô tình đến thế ?

Tiết Khoa nghe câu ấy giống như giọng nói của Bảo Thiềm, mà cũng giống như giọng nói của Kim Quế, lúc đó mới rõ ý tứ của bọn họ. Tiết Khoa trằn trọc mãi đến canh năm mới ngủ.

Giời vừa sáng thì thấy có người gõ cửa. Tiết Khoa vội hỏi: Ai thế ? Chẳng thấy ai trả lời, Tiết Khoa đành phải dậy mở cửa ra xem thì thấy Bảo Thiềm đầu vấn tóc, che bụng, mình mặc một cái áo chẽn viền gấm, thắt lưng màu hoa tùng đã hơi cũ, bên dưới chỉ mặc cái quần lót màu thạch lựu, chân đi đôi giày đỏ mới thêu. Thì ra nó sợ người ngoài trông thấy, nên chưa kịp chải đầu rửa mặt đã vội đến lấy đồ đựng quà hôm qua đưa đến. Tiết Khoa thấy nó ăn mặc như thế, lòng cũng nao nao, liền cười hỏi:

- Chị dậy sớm thế ?

Bảo Thiềm đỏ mặt không nói, chỉ đem các thứ quả trút chung vào cái đĩa lớn, rồi bưng lấy hộp đi ra.

Tiết Khoa thấy thế, biết là vì câu chuyện đêm qua, nghĩ bụng: Cũng được, nếu chị ta giận, bỏ hẳn cái thói ấy đi, không đến quấy rầy nữa, mình cũng rảnh. Nghĩ như thế hắn thấy yên tâm, sai người múc nước rửa mặt, định ngồi yên trong nhà vài hôm, một là để khoan khoái tinh thần, hai là sợ đi ra lại có người tìm hỏi lôi thôi.

Những kẻ trước kia đi lại với Tiết Bàn, thấy nhà họ Tiết thiếu người, chỉ còn có một mình Tiết Khoa coi việc, tuổi lại còn trẻ, nên họ sinh lòng dòm ngó. Có người muốn luồn lụy để chạy chọt; có người biết làm đơn hoặc quen một vài người thơ lại, muốn nhận việc lo lót trên dưới ; thậm chí có người định nhân dịp này bớt xén; có người lại bịa đặt những chuyện không đâu để dọa dẫm hắn, thật là mỗi người một cách. Tiết Khoa thấy bọn họ thì tránh xa, nhưng lại không dám từ chối thẳng, sợ gây ra tai vạ bất ngờ, cho nên cứ ngồi lì trong nhà để chờ giấy tờ trình lên quan trên xem sao.

Đêm qua Kim Quế sai Bảo Thiềm đưa rượu và quả cho Tiết Khoa để dò la ý tứ. Bảo Thiềm trở về kể lại bộ dạng của Tiết Khoa cho Kim Quế nghe. Kim Quế thấy việc này không ổn, sợ vỡ chuyện, bị Bảo Thiềm khinh, định kiếm chuyện lấp liếm cho qua; nhưng lại không nở bỏ người ấy đi, thành ra trong bụng lúng túng, chỉ ngồi thừ người ra. Còn Bảo Thiềm cũng nghĩ rằng Tiết Bàn khó lòng về nhà, đang định tìm con đường khác. nhưng lại sợ Kim Quế bắt tội, nên không dám để lộ ra. Nay thấy Kim

Quế lâm như thế, tức là đã mở đường trước rồi. Nó định nhân gió buông buồm, nắm Tiết Khoa vào tay mình trước, không sợ Kim Quế cản trở nữa, nên dùng lời khêu gợi. Xem Tiết Khoa không phải là người vô tình, nhưng cũng khó bắt mồi, nên nó không

dám sỗ sàng. Sau thấy Tiết Khoa tắt đèn đi ngủ, nó bực bội quay về nói lại với Kim Quế, xem Kim Quế có cách gì không, rồi sẽ liệu . Đến khi thấy Kim Quế ngồi thừ ra, hình như không có mưu kế gì cả. Bảo Thiềm đành phải dọn dẹp cùng Kim Quế đi ngủ. Nhưng cả đêm nó không sao ngủ được, nghĩ mãi mới ra một kế: “Chi bằng sáng dậy mình giả làm bộ đi lấy hộp đựng ăn mặc quần áo hoa hòe lộng lẫy, cũng không chải đầu rửa mặt cho thêm vẻ yêu kiều, để ý xem Tiết Khoa ra sao, còn mình thì giả làm bộ giận dỗi không thèm nhìn. Nếu Tiết Khoa có lòng ăn năn, thế nào

hắn cũng dời thuyền theo bến, thì lo gì mình chả vớ được trước .” Bảo Thiềm định sẵn mưu mô như thế. Khi vào phòng Tiết Khoa lấy hộp, thấy hắn vẫn giữ ý như đêm qua, không có tình tứ gì cả, đành phải lấy giả làm thật, bưng cái hộp về, nhưng lại cố ý để hồ rượu lại, lần sau lấy cớ đến ve vãn. Về đến phòng, bỗng thấy Kim Quế hỏi:

- Cô đem quà đi, có ai thấy không ?

- Không ạ.

- Cậu Hai cũng không hỏi gì à ?

- Không ạ .

Kim Quế suốt đêm không ngủ, cũng không tìm ra được kế gì trong bụng nghĩ thầm: “ Mình làm việc ấy giấu người khác chứ không thể giấu Bảo Thiềm được. Chi bằng ta chia cho nó một phần thì nó không nói gì nữa. Vả lại, mình không thể đi được thế nào cũng phải nhờ nó làm tay trong. Tốt hơn cả là cùng nó bàn định kế hoạch cho ổn thỏa.” Kim Quế nghĩ vậy rồi cười hối:

- Cô xem cậu Hai là người thế nào ?

- Xem ra là người hồ đồ lắm.

Kim Quế nghe nói. liền cười:

- Tại sao cô dám nói xấu các cậu như thế ?

- Cậu ta phụ lòng mợ thì tôi có quyền nói chứ !

- Cậu ta phụ lòng tôi như thế nào, cô nói xem nào ?

- Mợ đưa của ngon cho cậu ta ăn mà cậu ta không ăn, không phải phụ lòng mợ là gì.

Nói đến đó Bảo Thiềm lườm Kim Quế một cái rồi cười.

- Cô đừng nghĩ tầm bậy. Tôi đưa quà cho cậu ta là vì việc cậu Cả . Cậu ta không ngại khó nhọc cho nên tôi mới kính trọng, lại sợ người ngoài nói nhảm, nên mới hỏi cô. Cô nói những câu ấy với tôi tôi chẳng hiểu ra thế nào cả.

- Mợ đừng ngờ vực, tôi là người hầu mợ. không lẽ lại có hai lòng hay sao ? Nhưng việc ấy phải thật kín đáo mới được ; nếu lộ ra thì chẳng phải chuyện chơi đâu.

Kim Quế thấy má mình nóng bừng lên, liền nói:

- Con này tệ thật ! Chừng bụng mày cũng thích cậu ấy rồi nên đem tao ra làm bung xung phải không ?

- Mợ nghĩ thế thôi, chứ riêng tôi thì tôi bực thay cho mợ. Nếu mợ thích cậu Hai thì tôi sẽ có một cách. Mợ nghĩ mà xem, mèo nào lại chẳng ăn vụng mỡ ? Cậu ấy chẳng qua chỉ sợ việc không kín đáo xẩy ra chuyện không hay thì bẽ mặt đấy thôi. Theo ý

tôi mợ đừng có vội. Ngày thường cậu ta thiếu thốn cái gì, mợ cứ để ý trông nom giúp. Cậu ta là em chồng, lại chưa có vợ, nếu mợ tận tâm giúp đỡ ít nhiều, ăn ở cho thân mật, người khác cũng chẳng nói được gì. Ít lâu cậu ấy cảm ơn mợ, thế nào cũng đến tạ ơn. Lúc đó, mợ lại sấp sẵn ít món ăn trong nhà, tôi sẽ giúp mợ đổ rượu cho cậu ấy say mèm đi, thì cậu ấy có chạy đằng trời ? Nếu cậu ta không bằng lòng thl chúng ta sẽ dọa là cậu ấy đến đùa ghẹo mợ. Cậu ta sợ, thế nào cũng phải nghe theo chúng ta. Nếu không nghe thì cũng chẳng phải là con người nữa, mà chúng mình cũng không đến nỗi muối mặt một cách vô ích ! Mợ thấy thế nào ?

Kim Quế mới nghe mấy câu ấy, hai gò má đỏ ửng lên, cười và mắng :

- Con ranh này. Chắc mày đã thầm vụng với nhiều thằng con trai rồi thì phải ! Chả trách khi cậu Cả ở nhà, không rời được mày !

Bảo Thiềm bĩu môi một cái, cười nói:

- Thôi đi ! Người ta đang bày vẽ cho mợ. Mợ lại nói với chúng tôi những câu ấy !

Từ đó về sau, Kim Quế cứ một mực níu chặt lấy Tiết Khoa, không nghĩ gì đến việc làm ầm ĩ, nên trong nhà hơi được yên tĩnh. Ngày hôm đó, Bảo Thiềm vào phòng Tiết Khoa lấy hồ rượu, vẫn làm ra vẻ đứng đắn, mặt mày có vẻ nghiêm chỉnh lắm.

Tiết Khoa liếc mắt trong thấy, trong lòng ăn năn: “ Có lẽ mình nghi bậy cho họ cũng chưa biết chừng. Nếu quả như vậy thì mình đã phụ lòng tốt của họ, biết đâu vài hôm nữa họ chả quấy rầy , như thế chẳng phải là vì mình gây nên sao ?”

Vài ngày sau, trong nhà rất yên tĩnh, Tiết Khoa hễ gặp Bảo Thiềm thì chị ta cúi đầu mà đi, không hề ngước mắt nhìn ; gặp Kim Quế thì lại hết sức thân mật. Tiết Khoa thấy thế lại càng áy náy trong lòng.

Mẹ con Bảo Thoa thấy mấy hôm nay Kim Quế yên tĩnh, đối đãi với mọi người, lại có vẻ thân mật thì đều cho là việc hiếm có . Tiết phu nhân mừng rỡ nghĩ bụng: “Chắc là khi Tiết Bàn cưới vợ có xung khắc gì đó, cho nên mấy năm trời be bét như thế . Nay xảy tai vạ, may nhờ trong nhà mình có tiền lại được phủ Giả giúp sức, nên mới có hy vọng. Thế rồi bỗng nhiên con dâu yên tĩnh khác trước, hoặc giả thằng Bàn đến lúc gặp may cũng chưa biết chừng. Bà ta cho là đều lạ lùng hiếm có.

Ngày hôm đó, sau khi ăn cơm. Tiết phu nhân vịn vai a hoàn Đồng Quý định đến phòng Kim Quế chơi. Đến giữa sân, chợt nghe có tiếng đàn ông đang nói chuyện với Kim Quế. Đồng Quý nhanh ý:

- Bà đã đến mợ Cả ạ.

Vừa nói thì Tiết phu nhân đã đến cửa phòng, bỗng thấy có bóng người chạy trốn phía sau cửa. Tiết phu nhân giật mình bước lui ra.

Kim Quế nối:

- Mời mẹ vào trong nhà ngồi, không có ai lạ, đó là em nuôi của con. Nó ở thôn quê. không quen gặp người lạ. Hôm nay nó mới đến, nên chưa kịp đến chào mẹ.

- Có phải là cậu thì mời cậu ra nói chuyện chứ can gì.

Kim Quế liền gọi em ra chào Tiết phu nhân . Hắn vái chào và hỏi thăm sức khoẻ, Tiết phu nhân cũng chào hỏi lại rồi ngồi nói chuyện.

Tiết phu nhân nói:

- Cậu tới kinh bao lâu rồi ?

Hạ Tam nói:

- Tháng trước đây mẹ cháu không có người trông nom việc nhà, gọi cháu đến lập tự. Hôm trước cháu tới kinh ; hôm nay đến thăm chị cháu.

Tiết phu nhân thấy hắn có vẻ không đứng đắn, nên chỉ ngồi một lát rồi đứng dậy nói:

- Mời cậu ngồi chơi.

Lại ngoảnh lại bảo Kim Quế:

- Cậu mới đến lần đầu, mời ở đây ăn cơm đã rồi hãy về.

Kim Quế vâng lời, đoạn tiễn Tiết phu nhân ra về. Kim Quế thấy mẹ chồng đi về rồi. liền nói với Hạ Tam:

- Em hãy ngồi đã. Hôm nay thế là đã rõ ràng minh bạch rồi đấy. Khỏi để cậu Hai nhà đây phải xét hỏi. Bây giờ chị nhờ em mua cho một ít đồ vật, nhưng đừng cho ai biết. - Chị cứ giao mặc em. Chị muốn gì. Có tiền là sẽ mua được tất.

- Đừng có nói láo, mua mà bị họ lừa cho thì chị không nhận đâu .

Hai người lại cười cợt hồi lâu. Sau đó Kim Quế ngồi ăn cơm với Hạ Tam, lại bảo hắn mua mấy thức hàng, dặn dò một lúc Hạ Tam ra về.

Từ đó Hạ Tam đi lại luôn luôn. Tuy có một ông già canh cửa, nhưng biết hạ Tam là cậu nên cũng không mấy khi trình với Tiết phu nhân. Do đó, sau nầy xảy ra lắm chuyện rắc rối.

Một hôm Tiết Bàn gửi thư về, Tiết phu nhân mở ra bảo Bảo Thoa xem, thấy trong thư viết: “ Con ở trong huyện cũng không đến nỗi khổ. Xin mẹ cứ yên tâm. Hôm qua nghe ông thơ lại ở huyện nói, trên phủ đã y án, chắc là ta đã lo lót đến nơi. Không ngờ khi phủ tư lên trên đạo lại bác đi. May nhờ ông thơ lại coi việc văn thơ ớ huyện có lòng tốt, tức khắc làm một công văn trình lên, ở đạo lại có công văn gửi xuống quở trách quan huyện. Hiện giờ trên đạo định bắt lên xét hỏi lại. Nếu bị giải lên đạo thì con lại chịu khổ. Chắc nhà ta chưa lo lót ở đạo. Vậy tiếp thư này mẹ mau mau nhờ người lo với quan đạo, lại phải bảo em Khoa đến đây ngay, không thì sẽ bị giải

đi . Tiền lo thiếu không được đâu ! Hỏa tốc ! Hóa tốc ! “

Tiết phu nhân nghe đọc xong lại khóc một hồi. Bảo Thoa và Tiết Khoa vừa khuyên vừa nói:

- Việc này không nên để chậm !

Tiết phu nhân đành phải bảo Tiết Khoa đi lo liệu mọi việc rồi sai người sắm sửa hành lý, cân một số bạc cùng một người làm việc ở hiệu đi ngay đêm ấy. Tuy có người nhà lo liệu mọi việc. Nhưng Bảo Thoa lại sợ họ thu xếp không đến nơi đến chốn, nên tự tay giúp họ thu xếp, sắm sửa, đến canh tư mới đi nghỉ. Bảo Thoa con nhà giàu, được nuông chiù quen, qua một đêm lo lắng khó nhọc, đến hôm sau đâm phát nóng, không ăn uống được gì. Oanh Nhi liền trình với Tiết phu nhân. Tiết phu nhân liền tới xem thì thấy Bảo Thoa mặt đỏ bừng, người nóng như lửa. Không nói năng gì cả. Tiết phu nhân rụng rời tay chân khóc đến nỗi chết đi sống lại. Bảo Cầm chạy lại khuyên giải. Thu Lãng thấy thế cũng nước mắt ràn ruạ. Cứ đứng một bên khóc. Bảo Thoa nói

không được, chân tay cũng không cử động được. mắt khô mũi ngạt. Mọi người vội vàng mời thầy thuốc đến chữa. Bảo Thoa dần dần tỉnh lại. Tiết phu nhân và mọi người mới hơi yên tâm. Lúc đó cả hai phủ Vinh, Ninh đều đã biết.

Trước hết. Phượng Thư sai người đưa thuốc thập hương phản hổn đan . Sau đó

Vương phu nhân lại đưa “chí bảo đan” đến. Giả mẫu , Hình phu nhân, Vương phu nhân và bọn Vưu Thị đều sai a hoàn đến thăm hỏi, nhưng đều giấu không cho Bảo Ngọc biết. Chữa luôn bảy tám ngày vẫn không bớt. Cuối cùng, Bảo Thoa nghĩ đến Lãnh hương hoàn, ăn hai viên, bệnh mới khỏi. Khi Bảo Ngọc biết, thì Bảo Thoa cũng đã khỏi bệnh rồi nên cũng không đến thăm.

Tiết Khoa lại viết thư về. Tiết phu nhân xem qua. Nhưng sợ Bảo Thoa lo lắng, nên không cho biết. Rồi đến cầu cứu với Vương phu nhân, và kể bệnh tình Bảo Thoa.

Tiết phu nhân về rồi. Vương phu nhân lại xin với Giả Chính.

Giả Chính nói:

- Việc này bên trên có thể nhờ được, còn bên dưới thì khó, cần phải lo lót mới xong.

Vọng phu nhân lại nhắc đến việc Bảo Thoa và nói:

- Con cháu ấy, cũng khổ lắm. Đã là người nhà mình cũng nên cưới về sơm sớm, đừng để nó bị dày vò ...

- Tôi cũng nghĩ như thế. Nhưng bên nhà họ công việc rối bời, và lại gần hết nửa đông. Năm hết tết đến. Ai cũng phải lo liệu nhiều việc nhà. Vậy mùa đông này hãy dạm hỏi cho nhất định. Mùa xuân sang năm sẽ đưa lễ. Rồi sau ngày sinh nhật cụ, sẽ

định ngày cưới. Bà hãy đem những việc ấy nói cho dì Tiết biết đã .

Vọng phu nhân vâng lời. Hôm sau, Vương phu nhân đem lời của Giả Chính nói lại

cho Tiết phu nhân nghe. Tiết phu nhân cũng cho là phải.

Sau bữa ăn. Vương phu nhân cùng đi với Tiết phu nhân sang nhà Giả mẫu. Mọi người mời nhau ngồi. Giả mẫu hỏi:

- Bà dì mới sang à .

- Cháu sang từ chiều hôm qua. Vì trời tối chưa đến thăm sức khỏe cụ được.

Vương phu nhân đem câu chuyện Giả Chính nói chiều hôm qua, thuật lại cho Giả mẫu nghe. Giả mẫu rất mừng.

Đang nói chuyện thì Bảo Ngọc đến. Giả mẫu liền hỏi:

- Cháu ăn cơm chưa ?

- Cháu vừa về. Ăn cơm xong lại định đi học, nhưng đến đây để hầu bà đã. Nghe nói dì đến, nên cháu qua đây chào dì.

Nói đến đó. Bảo Ngọc lại hỏi Tiết phu nhân:

- Chị Bảo đã thật khỏe chưa ?

Tiết phu nhân cười nói:

- Khỏe rồi.

Lúc đó mọi người đang nói chuyện, thấy Bảo Ngọc đến nên đều im không nói nữa. Bảo Ngọc ngồi một lát. Thấy Tiết phu nhân không tỏ vẻ thân mật như trước, trong bụng ngờ vực . “ Dù rằng dì ấy đang lo lắng, nhưng không lẽ tất cả đều không nói năng gì ... “ Bảo Ngọc nghĩ vậy rồi đi học. Chiều về gặp mọi người rồi đi đến quán Tiêu Tương. Bảo Ngọc vén màn bước vào. Tử Quyên ra đón. Thấy trong nhà không có ai. Bảo Ngọc hỏi:

- Cô gì đâu ?

- Cô tôi lên trên nhà. Nghe nói dì Tiết đến. Cô tôi đi hỏi thăm sức khỏe rồi ! Cậu Hai không lên trên nhà à ?

- Tôi cũng có lên nhưng không thấy cô đâu cả.

- Cô tôi không ở đấy à ?

- Không. Vậy cô ấy đi đâu ?

- Thế thì tôi cũng không biết được.

Bảo Ngọc vừa muốn đi ra. Bỗng thấy Đại Ngọc cùng Tuyết Nhạn thướt tha đi vào. Bảo Ngọc nói:

- Cô em về đây rồi .

Liền đi theo Đại Ngọc trở lại.

Đại Ngọc đi vào nhà trong, mời Bảo Ngọc ngồi. Tử Quyên lấy một cái áo khoác ngoài cho Đại Ngọc thay rồi Đại Ngọc ngồi xuống, hỏi Bảo Ngọc:

- Anh lên trên ấy có gặp dì không?

- Gặp rồi.

- Dì có nói gì đến tôi không ?

- Dì chẳng những không nói gì đến cô, mà ngay đối với tôi cũng không thân mật như trước. Tôi hỏi bệnh chị Bảo. Dì chỉ cười không đáp. Không lẽ dì giận tôi mấy hôm nay không đến hỏi thăm chị ấy hay sao ?

- Anh có đến hỏi thăm chị Bảo không ?

-Mấy hôm đầu tôi không biết. Hai hôm nay tôi biết, nhưng không đi.

- Thế là thế nào ?

- Vì họ không bảo tôi đi. Mẹ tôi không bảo tôi đi. Cha tôi cũng không bảo tôi đi. Tôi đâu dám đi. Nếu cái cửa nhỏ kia còn qua lại được như trước thì một ngày đến hỏi thăm chị ấy mười lần cũng không khó gì. Bây giờ muốn qua bên ấy phải đi vòng ra

ngoài, cho nên không tiện.

- Chị Bảo làm sao biết được duyên cớ ấy ?

- Chị Bảo là người biết lượng thứ cho tôi.

- Anh đừng có nghĩ lầm. Chị Bảo càng không thể lượng thứ cho anh được. Không phải dì ốm mà là chị ấy ốm. Lâu nay chúng ta ở chung trong vườn, làm thơ, thưởng hoa, uống rượu, vui vẻ biết mấy ! Giờ ở cách biệt ra, anh cũng biết nhà chị ấy xảy ra

tai nạn, chị ấy lại ốm đến thế mà anh cứ như người dưng. Làm sao chị ấy không giận được ?

- Thế thì không lẽ chị Bảo lại không than với tôi nữa à: “Chị ta có thân với anh hay không, tôi không biết, tôi chỉ theo lý mà nói thôi.”

Bảo Ngọc nghe nói, trừng mắt nhìn, ngần ngơ một lúc. Đại Ngọc thấy thế cũng mặc kệ, gọi người đốt hương và mở sách ra xem. Bỗng thấy Bảo Ngọc cau mày dậm chân mà nói.

- Tôi nghĩ: sinh ra mình để làm gì. Trong trời đất này chẳng có tôi càng rảnh.

- Đã có mình thì sẽ có nhiều người, đã có nhiều người thì sinh ra vô số chuyện phiền não: Sợ hãi, lừa dối, tơ tưởng cỏn biết bao nhiêu điều rắc rối khác nữa. Điều tôi vừa

nói là câu chuyện đùa, chẳng qua anh thấy dì Tuyết thẩn thờ, buồn bả. Tại sao anh lại có thể ngờ cho chị Bảo được ? Dì qua đấy là vì việc anh Tiết Bân, nên bụng dạ như tơ vò, còn đầu óc đâu mà chuyện trò với anh, chỉ vì anh khéo nghĩ vơ nghĩ vấn, đâm ra ngớ ngẩn đấy thôi.

Bảo Ngọc nghe thấy sáng ra, liền cười nói: .

- Đúng lắm, đúng lắm. Cô thông minh hơn tôi nhiều. Chả trách năm trước, lúc tôi tức giận, cô hỏi tôi mấy câu đạo lý nhà Phật tôi đối đáp không được là phải. Dù tôi là ông Phật mình mình vàng trượng sáu (Theo sách Phật, phật tổ như lai tu hanh, mình vàng trượng sáu) cũng là một nhánh của cô mà hóa ra đấy.

Đại Ngọc nhân dịp liền nói:

- Giờ tôi hỏi anh, anh trả lời nhé.

Bảo Ngọc ngồi xếp tròn, chắp tay nhắm mắt, nhếch mép lên má nói:

- Cô nói đi . .

- Chị Bảo thân với anh thì anh sẽ như thế nào ? Nếu chị Bảo không thân với anh thì anh thế nào ? Chị Bảo trước kia thân với anh, nay không thân nữa thì anh sẽ như thế nào ? Chị Bảo nay thân với anh sau này không thân với anh nữa, thì anh sẽ như

thế nào ? Nếu anh muốn thân với chi mà chị ta lại không thân với anh thì anh sẽ như thế nào ? Nếu anh không muốn thân với chị ta. Chị ta lại muốn thân với anh thì anh sẽ như thế nào ?

Bảo Ngọc ngớ ngẩn một lúc. Bỗng phá lên cười, nói:

- Dù cho nước Nhược (nước Nhược ở cõi trên, không chứa nổi vật gì. Thuyền bè qua lại đều đắm cả) ba ngàn. Tôi chỉ lấy một bầu mà thôi.

- Nếu bầu trôi theo nước thì anh làm thế nào ?

- Không phải bầu trôi theo nước, mà nước tự chảy. Bầu cứ trôi đấy thôi .

- Nếu như nước đứng mà ngọc chìm thì anh làm thế nào ?

- Lòng thiền đã hóa tơ vương bụi, Vờn gió thu chi nữa giá cô - Điều răn thứ nhất của đạo thiền là không được nới dối.

- Trên có Tam Bảo.(Những câu Đại Ngọc nói có ý khêu gợi Bảo Ngọc, nếu gặp tại vạ gì không lấy được nhau thì sẽ liều thân.)

Đại Ngọc cúi đầu im lặng. Bỗng nghe ngoài thềm có tiếng quạ kêu quạc, quạc rồi bay về phía đông nam.

Bảo Ngọc nói:

- Tiếng kêu ấy chả biết lành hay dữ ?

- Lành dữ là ở người. Không phải ở tiếng chim.

Bỗng thấy Thu Văn chạy đến nói:

- Mời cậu đi về, ông lớn sai người vào vườn, hỏi cậu đi học đã về chưa. Chị Tập Nhân nói đã về rồi. Vậy cậu về nhanh .

Bảo Ngọc sợ hãi vội vàng đi ra. Đại Ngọc cũng không dám giữ lại.

Hết hồi 91

Trung Hoa

Hồng Lâu Mộng

Dịch giả : Vũ Bội Hoàng, Nguyễn Doãn Địch, Nguyễn Thọ

Hồi thứ chín mươi hai

Bàn chuyện gái hiền, Xảo Thư mến người trinh thục;

Xem hạt châu lớn, Giả Chính tính chuyện hợp tan.

Bảo Ngọc ở quán Tiêu Tương đi ra, vội vàng hỏi Thu Văn:

- Ông lớn gọi tôi làm gì ?

- Ông lớn có gọi gì đâu. Chị Tập Nhân bảo tôi mời cậu. Sợ cậu không chịu về, nên nói dối cậu đấy thôi.

Bảo Ngọc nghe nói mới yên lòng, liền nói:

- Các chị gọi tôi cũng được. Nhưng sao lại dọa tôi ?

Đang chuyện trò thì đã về đến Viện Di Hồng. Tập Nhân hỏi:

- Từ nãy cậu đi đâu ?

- Tôi ở bên cô Lâm. Nhân nói đến việc chị Bảo bên nhà anh Tiết nên ngồi lâu.

- Nói những việc gì nào ?

Bảo Ngọc đem việc hai người nói chuyện theo kiểu sách Phật kể lại cho Tập Nhân nghe. Tập Nhân nói:

- Cậu thật chẳng ra sao cả. Đáng lẽ nói chuyện nhà, chuyện thơ văn có được không. Sao lại nói đến chuyện nhà Phật.

- Hai người có phải đi tu đâu ?

- Chị không biết. Chúng tôi có chuyện riêng của chúng tôi người ngoài không thể nói xen vào được.

- Các người nói chuyện nhà Phật. Nói lung tung, rồi lại khiến chúng tôi không còn biết mối nào mà gỡ.

- Trước kia tôi còn ít tuổi. Cô Lâm cũng hãy trẻ con, có khi tôi không để ý, nói những câu không suy nghĩ: nên cô ta mới giận. Nay tôi ăn nói giữ gìn, cô ta cũng chẳng có gì mà giận nữa. Nhưng lâu nay cô ta ít qua đây. tôi lại bận học hành, tình cờ gặp nhau, có vẻ xa lạ thế nào ấy.

- Phải như thế mới được. Cả hai người đều đã lớn, cứ làm như trẻ con thì coi sao được.

Bảo Ngọc gật đầu nói:

- Tôi cũng biết thế. Thôi. Đừng nói việc ấy nữa. Tôi hỏi chị nhé. Bên cụ có sai người đến nói gì không ?

- Không thấy nói gì.

- Chắc là cụ quên rồi đấy. Ngày mai có phải là mùng một tháng mười một không ? Năm nào bên cụ cũng có sẵn tục lệ. cứ đến ngày đó là bày biện tiệc tiểu hàn. Bà con ngồi lại với nhau, uống rượu nói chuyện vui. Hôm nay tôi đã xin phép nhà trường rồi. Thế thì ngày mai có nên đi học hay không ? Nếu đi thì chẳng hóa mình bịa ra mà xin phép, nếu không đi, ông nhà mà biết thì lại bảo là lười học.

- Cứ ý tôi cậu đi học là phải. Mới được mấy bữa. Chưa chi đã muốn nghỉ. Tôi khuyên cậu cũng nên chăm chỉ hơn nữa mới được . Hôm qua nghe bà Hai nói anh Lan học rất chăm, ở trường học về, dọc đường vẫn đọc sách làm văn. Đêm nào cũng đọc đến canh tư mới đi ngủ. Cậu lớn hơn anh ấy nhiều, lại là bậc chú. Nếu không theo kịp, thì sẽ làm cho cụ bà giận, chi bằng ngày mai cậu cứ đi học thôi.

Xạ Nguyệt nói:

- Trời rét như thế này, đã xin phép rồi lại đi học, thì ở trường người ta sẽ nói: “đã thế thì đừng xin phép. Rõ ràng là xin phép quấy để lần lựa trốn học.” Theo ý tôi. được nghỉ một ngày thì cứ nghỉ đã. Dù sao cụ có quên đi, ở đây chúng ta lại không sửa được hội Tiêu hàn hay sao ? Chúng ta cũng cứ bày ra hội lại không hơn à ?

Tập Nhân nói:

- Chị cứ làm đầu têu thế thì cậu Hai còn chịu đi gì nữa.

- Tôi thì vui được ngày nào hay ngày ấy, bằng đâu được chị. Cố giữ tiếng tốt để một tháng kiếm thêm hai lạng bạc.

Tập Nhân nhổ toẹt nói:

- Đồ ranh con ! Người ta nói chuyện đứng đắn. Mày lại vơ quàng chuyện ở đâu vào !

- Tôi không vơ quàng đâu. Tôi nói đây là vì chị đấy.

- Vì tôi cái gì ?

- Khi cậu Hai đi học thì chị cứ lẩm bẩm nhắc nhở luôn, chỉ trông mong sao cho cậu Hai về sơm sớm để mà cười mà nói. Bây giờ chị lại làm ra bộ mình trong sạch lắm. -- - Tội gì thế ? Tôi biết thừa đi rồi !

Tập Nhân định mắng Xạ Nguyệt thì thấy Giả mẫu sai người đến nói:

- Cụ bảo ngày mai cậu Hai đừng đi học. Cụ sẽ mời dì Tiết sang để giải buồn. Có lẽ các cô đều về cả. Đã mời cô Sử, cô Hình, cô Lý rồi. Nghe nói là dự tiệc vui “Tiêu hàn” gì đấy.

Bảo Ngọc nghe chưa dứt lời, đã mừng rỡ bảo:

- Tôi đã nói mà ! Bà tôi rất là cao hứng ! Ngày mai không đi học, việc này rõ ràng lắm rồi.

Tập Nhân cũng không tiện nói gì nữa. Người a hoàn kia ra về .

Bảo Ngọc chăm học một ngày chỉ mong được nghỉ chơi một ngày, lại nghe nói Tiết phu nhân sang, nghĩ thế nào Bảo Thoa cũng đến, nên trong bụng vui mừng liền nói:

- Đi ngủ mau, mai còn dậy sớm.

Hôm sau Bảo Ngọc dậy sớm đi đến thăm Giả mẫu. Giả Chính và Vương phu nhân. Trước đó, Bảo Ngọc đến trình với Giả Chính về việc là bảo hôm nay nghĩ học. Giả Chính cũng không nói gì. Bảo Ngọc từ từ đi ra mấy bước liền chạy một mạch đến phòng Giả mẫu. Tới nơi Bảo Ngọc thấy chưa có ai đến, chỉ có vú nuôi và mấy a hoàn bên nhà Phượng Thư dắt Xảo Thư đến hỏi thăm sức khỏe Giả mẫu, và nói:

- Mẹ chắt bảo chắt đến hỏi thăm sức khỏe của cố. Nói chuyện với cố một lát rồi mẹ chắt sẽ đến.

Giả mẫu cười nói:

- Chắt ngoan lắm. Cố dậy đã sớm. Chờ mãi chả ai đến. Chỉ có chú Hai chắt đến thôi.

Vú nuôi nói với Xảo Thư:

- Em hỏi thăm sức khỏe chú đi.

Xảo Thư vâng lời. Bảo Ngọc cũng nói:

- Cháu cũng ngoan chứ ?

- Hôm qua nghe mẹ cháu nói, muốn mời chú tới nói chuyện.

- Nói chuyện gì ?

- Mẹ cháu nói. Cháu học mặt chữ với bà Lý mấy năm, không biết có nhớ chữ nào không. Cháu nói cháu nhớ cả, để cháu chỉ cho mẹ cháu xem. Mẹ cháu bảo cháu chỉ sai nên không tin, lại bảo cháu chơi cả ngày, làm gì mà nhớ được mặt chữ. Cháu

xem những chứ ấy cũng chẳng khó khăn gì. Ngay sách Nữ hiếu kinh cũng dễ đọc thôi. Mẹ cháu bảo cháu nói dối, định mời chú lúc nào rảnh, đến xem cháu học thế nào.

Giả mẫu nghe xong cười. nói:

- Chắt ạ, mẹ chắt không biết chữ, cho nên bảo chắt nói dối . Hôm sau nói với chú đến tra xem thì mẹ cháu sẽ phải tin thôi.

Bảo Ngọc hỏi:

- Cháu học được mấy chữ rồi ?

- Cháu học được hơn ba ngàn chữ rồi. Đã đọc một quyển Nữ hiếu kinh. Trước đây nửa tháng. Cháu lại đọc Liệt nữ truyện .

- Cháu đọc có hiểu không ? Nếu không hiểu thì để chú giảng cho mà nghe.

Giả mẫu nói:

- Làm chú cũng nên giảng cho cháu nó nghe.

Bảo Ngọc nói:

- Các bà hậu phi của vua Văn Vương chẳng cần phải kể làm gì. Bà Khương hậu (8) rút trâm chịu tội. Bà Vô Diệm (9) nước Tề, dù xấu xí, lại tài trị nước yên nhà. Đó là những người hiền tốt trong số các bà hậu phi đấy. Nếu nói đến tài thì phải kể đến Tào Đại Cô, Ban Tiệp Dư. Thái Vãn Cơ. Tạ Đạo Uẩn (10) Mạnh Quang quần vải thoa gai, vợ Bảo Tuyên (11) thang nồi gánh nước. Mẹ Đào Khản (12) cắt tóc bán lấy tiền thếch khách. Lại có những người lấy bút lau dạy con. (13) Những người ấy không chê nghèo đói đấy. Lại có những người chịu khổ như công chúa Nhạc Xương ( 14 ), gương vỡ lại lành ; Tô Huệ (15) thêu gấm thành thơ. Người có hiếu thì rất nhiều, như Mộc Lan (16) đi lính thay cha, Tào Nga (17) gieo mình xuống nước với thây cha, khó mà nói hết được . Lại như chuyện nước Ngụy nàng Tào Thị (18) cầm dao cắt mũi và còn nhiều người giữ trinh tiết nữa. Người đẹp thì Vương Tường, Tây Tử, Phàn Tố. Tiểu Man (19) Giáng Tiên. Hay ghen thì có người cạo trọc đầu nàng hầu (20) Hay là oán giận như Lạc Thẩn cũng không là ít . Còn như Văn Quân, Hồng Phật đều là những bậc hào kiệt trong đám con gái.

Giá mẫu nghe đến đây liền nói:

- Đủ rồi đấy, đừng nói nữa. Cháu nói nhiều quá, nó nhớ sao được !

Xảo Thư nói:

- Những điều chú Hai vừa nói, cũng có chuyện cháu đọc rồi, cũng có chuyện cháu chưa đọc. Chuyện nào cháu đọc rồi, chú Hai nói là cháu nhớ ngày.

Báo Ngọc nói:

- Còn mặt chữ thì nhắc là cháu nhớ rồi, không cần phải xem lại nữa. Ngày mai chú còn phải đi học.

Xảo Thư nói:

- Cháu còn nghe mẹ cháu nói. Chị Tiểu Hồng trước ở bên nhà chú được mẹ cháu gọi sang, vẫn chưa có người thế vào cho chú. Mẹ cháu nói định đưa chị Năm nhà bà Liễu nào đó đến, không biết chú có bằng lòng không ?

Bảo Ngọc nghe nói càng vui mừng, cười nói:

- Cháu nghe mẹ cháu nói à ? Muốn thế ai thì thế, cần gì hỏi. Cha có bằng lòng không.

Bảo Ngọc lại cười nói, với Giả mẫu:

- Cháu xem con bé này còn nhỏ mà đã thông minh như thế có lẽ sau này nó hơn cả chị Phượng nữa đấy; mà lại hơn ở chỗ biết chữ.

Giả mẫu nói:

- Con gái biết chữ cũng tốt, nhưng nữ công may vá là cần hơn nhất.

Xảo Thư nói:

- Cháu cũng học bà Lưu biết tết hoa này, thêu thùa này, tuy chưa khéo, nhưng đã làm được ít nhiều.

Giả mẫu nói:

- Trong gia đình ta, cố nhiên là không phải cái gì mình cũng làm lấy. Nhưng có biết thì sau mới khỏi bị người ta bắt nạt.

Xảo Thư vâng lời, còn muốn nhờ Bảo Ngọc giảng giải liệt nữ truyện. Nhưng thấy Bảo Ngọc ngồi ngẩn người nên không dám hỏi nữa.

Về phần Bảo Ngọc, nghe nói con Năm sắp vào Viện Di Hồng nên cứ ngồi nghĩ vơ nghĩ vẩn. Lần đầu tiên con Năm ốm không vào được, lần thứ hai, vì Vương phu nhân đuổi Tỉnh Văn nên ai là người có nhan sắc đều không dám chọn vào . Sau đó Bảo Ngọc đến nhà Ngô Quỳ thăm Tỉnh Văn gặp con Năm cũng theo mẹ đưa đồ vật cho Tình Văn. Thấy nó có vẻ thướt tha xinh đẹp, nay được Phượng Thư nhớ đến, định đem nó thế chân Tiểu Hồng, thật là điều mừng ngoài ý nghĩ của mình, nên Bảo Ngọc đâm ra ngớ ngẩn.

Giả mẫu đợi mãi không thấy ai đến, lại cho a hoàn đi mời. Ngay sau đó, chị em Lý Hoàn ,Thám xuân,Tích Xuân, Tương Văn, Đại Ngọc đều đến. Mọi người hỏi thăm Giả mẫu và chào hỏi nhau. Chỉ có Tiết phu nhân chưa đến. Giả mẫu lại sai người đi mời lần nữa, rồi Tiết phu nhân và Bảo Cầm đến. Bảo Ngọc hỏi thăm sức khỏe Tiết phu nhân và chào hỏi Bảo Cầm, chỉ không thấy Bảo Thoa và Hình Tụ Yên. Đại Ngọc hỏi:

- Tại sao chị Bảo không đến ?

Tiết phu nhàn nói dối Bảo Thoa trong người không được khỏe. Còn Hình Tụ Yên thì biết Tiết phu nhân ở đấy cho nên không đến.

Bảo Ngọc buồn bực vì Bảo Thoa không đến. Nhưng thấy Đại Ngọc ở đó, cũng tạm gác tấm lòng nhớ Bảo Thoa. Chẳng bao lâu Hình Phu Nhân và Vương phu nhân cũng đến. Phượng Thư thấy các bà đến rồi, mình đến sau sợ khó coi, đành phải sai Bình Nhi đến xin phép trước.

- Mợ cháu định đến thì trong người phát sốt. Một chốc nữa sẽ đến sau.

Giả mẫu nói :

- Nếu người nó không khoẻ thì không đến cũng được. Bây giờ chúng ta nên ăn cơm đi.

Bọn a hoàn vần các chậu than ra phía sau, rồi đặt hai bàn ăn lên trước giường của Giả mẫu. Mọi người theo thứ tự ngồi xuống ăn. Cơm xong, họ lại vây quanh lò than ngồi nói chuyện suông.

Phượng Thư sở dĩ không đến, trước hết là nghĩ mình đến sau Hình phu nhân, và Vương phu nhân thì sợ khó coi, sau nữa là vị vợ Lai Vượng đến nói :

- Bên nhà cô Nghênh Xuân sai người đến hỏi thăm mợ, lại nói là không đến bên nhà ông Cả, chỉ đến chỗ mợ thôi.

Phượng Thư nghe nói đâm bực mình, nghĩ không biết có việc gì đây, liền cho gọi ngừơi ấy vào hỏi :

- Cô ở bên nhà có khoẻ không ?

- Có việc gì đâu. Tôi không phải là người cô Nghênh Xuân sai đến, mà là mẹ Tư Kỳ nhờ đến xin với mợ một việc.

- Tư Kỳ từ hôm bị đuổi ra, cả ngày cứ khóc lóc. Bỗng một hôm người anh ngoại đến. Bà mẹ chị ta giận lắm, nói anh ấy làm hại Tư Kỳ, rồi nắm lại định đánh; anh ta không dám nói năng gì. Ai ngờ Tư Kỳ nghe thấy vội vàng chạy ra, chẳng quản gì xấu hổ, nói với mẹ : “ Con vì anh ấy mà phải về đây. Con cũng giận anh ta tệ bạc. Nay anh ấy đã đến, mẹ hỏi xem thế nào. Nếu anh ấy không thay lòng đổi dạ, con xin chắp tay lạy mẹ. Mẹ cứ xem như con đã chết rồi. Anh ấy đi đâu, con theo đến đấy, dầu có ăn mày ăn xin con cũng cam lòng. Bà mẹ nghe nói giận quá, vừa khóc vừa mắng: “Mày là con gái tao. tao nhất định không gả cho nó. Mày dám làm gì ? Không ngờ con Tư Kỳ lú lẫn ấy nghe nói thế, đâm đầu vào tường, vỡ óc, máu chảy chết tươi. Mẹ chị ta cứu không được khóc ầm lên, định bắt anh kia đền mạng. Anh kia cũng lạ, nói một cách điềm nhiên: “Bà đừng hoảng lên làm gì .Tôi ở ngoài làm ăn phát tài, vì nhớ chị ấy nên mới về đây. Lòng tôi thực thà như thế. Nếu bà không tin thì xem đây !” Nói xong, hấn lấy cái hộp trong bọc ra, toàn là đồ trang sức bông vàng và hạt châu. Bà mẹ Tư Kỳ mừng híp cả mắt nói: Mày đã có lòng. Sao không nói trước ? Anh kia nói: “Con gái thường trăng hoa yếu đuối, thay đổi tính tình. Nếu tôi nói có tiền thì cô ta có thể vì ham tiền mà theo tôi. Nay cô ấy như thế thật là hiếm có . Tôi xin để đồ trang sức lại cho bà. Tôi đi mua quan tài về liệm cô ấy.” Bà mẹ Tư Kỳ nắm được mớ đồ trang sức, cũng chẳng nghĩ gì đến con gái nữa, cứ mặc cho anh kia đi. Không ngờ anh ta lại mua về những hai cỗ quan tài. Mẹ Tư Kỳ thấy thế, lấy làm lạ hỏi: “Tại sao anh lại phải mua hai cỗ quan tài ?” Anh ta cười: “Một cỗ không đủ. Phải hai cỗ mới được . Mẹ Tư Kỳ thấy anh ta không khóc, cứ tưởng anh ta đau xót quá, đâm ra ngớ ngẩn. Không ngờ liệm Tư Kỳ xong. Anh ta chẳng khóc lóc gì cả, lừa lúc không có ai, liền cầm con dao nhỏ đâm ngay vào cổ họng chết tươi . Mẹ Tư Kỳ thấy vậy hối hận quá, khóc lóc không biết bao nhiêu mà kể. Bây giờ xóm giềng biết chuyện định báo quan. Bà ta hoảng sợ, nhờ tôi đến xin mợ nói giúp cho. Sau này bà ta xin lạy tạ .

Phượng Thư nghe nói lấy làm lạ, nói:

- Cái con ngốc lại khéo gặp thằng ngốc như thế, chả trách hôm lục soát các đồ tang vật. Nó vẫn bình tĩnh xem như chẳng có việc gì. Quả là một người tính tình cứng rắn ! Kể ra thì tôi cũng chẳng công đâu mà dây vào những việc ấy. Có điều như chị vừa nói đó việc này cũng đáng thương. Thôi thì chị về nói với bà ấy để tôi bàn với cậu Hai sẽ sai anh Lai Vượng đến thu xếp cho xong.

Phượng Thư cho người ấy về rồi, mới sang nhà Giả mẫu.

Một hôm Giả Chính đang ngồi đánh cờ với Thiềm Quang, được thua không xê xích nhau mấy. Chỉ còn một góc chưa rõ ra sao, đang còn giằng co nhau. Bỗng thấy người hầu trai vào trình:

- Ở ngoài, cậu cả Phùng muốn vào gặp ông lớn.

- Mời vào đây.

Người hầu trai ra mời. Phùng Tử Anh đi vào. Giả Chính vội vàng ra đón, mời vào thư phòng ngồi. Tử Anh thấy ông ta đang đánh cờ, liền nói:

- Xin bác cứ việc đánh. Cháu cũng tới xem chơi.

Thiềm Quang nói:

- Cờ của tôi thì kém lắm, chẳng có gì đáng xem cả.

Tử Anh nói:

- Ông nói khiêm tốn ! Xin cứ đánh thôi.

Giả Chính nói:

- Có việc gì cần không ?

Tử Anh nói:

- Không có việc gì cần. Bác cứ đánh, cháu ngồi xem, học ít nước.

Giả Chính nói với Thiềm Quang:

- Cậu Cả đây là bạn thân của chúng tôi, nếu không có gì cần. Thì chúng ta đánh cho xong ván này rồi sẽ nói , bây giờ cậu Cả ngồi đây xem cho vui.

Tử Anh hỏi:

- Có đánh cuộc không ?

Thiềm Quang nói:

- Có đấy .

Tử Anh nói:

- Nếu có đánh cuộc thì không nên nói nhiều.

Giả Chính nói:

- Nói nhiều cũng không can gì. Ông ta có thua mười lạng bạc đi nữa cũng chẳng chịu đưa ra đâu. Sau này chỉ có cách phạt ông ta phải sửa bữa chén thôi.

Thiềm quang cười nói:

- Cái ấy thì được lắm.

Tử Anh nói:

- Bác và ông Thiềm đánh ngang quân phải không ?

Giả Chính nói:

- Trước kia đánh ngang quân, ông ta thua; giờ chấp cho hai quân, ông ta cũng thua, thường lại xin hoãn đôi nước, không cho hoãn thì ông ta cứ cuống lên.

Thiềm Quang cũng cười nói:

- Làm gì có thế.

Giả Chính nói:

- Anh cứ nhìn mà xem.

Vừa nói vừa đánh xong ván cờ. Tính ra thì Thiềm Quang thua mất bảy quân.

Phùng Tử Anh nói:

- Ván cờ này mà thua là vì bí nước. Cờ bác ít bí nước, cho nên chồng.

Giả Chính nói với Tứ Anh:

- Xin lỗi. Bây giờ chúng ta nói chuyện thôi.

Tử Anh nói:

- Cháu mấy hôm nay không gặp hai bác. Vậy một là đến thăm. Hai là có ông quan quen biết ở tỉnh Quảng Tây vừa đến kinh bệ kiến Hoàng thượng. Ông ta có đưa đến bốn thứ hàng nước ngoài, có thể làm vật tiến cống được. Một cái bình phong có hai mươi bốn bức, đều bằng gỗ đàn chạm, ở giữa tuy không phải ngọc, nhưng là thứ đá rất quý. Trên mặt đá chạm trổ sông núi, người, lâu đài, hoa cỏ, chim chóc. Một bức có năm sáu mươi hình người, đều là con gái, mặt đồ trong cung gọi là Sáng mùa xuân trong cung Hán. Những hình người ấy, mặt mày mũi miệng, taychân, nếp áo đều chạm rất kỹ càng tinh xảo. Cách bố trí và điểm xuyết đều rất khéo léo công phu. Cháu nghĩ ở trong vườn Đại Quan nhà bác đặt bức bình phong nầy là rất hợp. Lại có một cái đồng hồ cao chừng hơn ba thước, có một đứa trẻ con cầm cái thẻ giờ, đến giờ nào nó báo giờ ấy. Trong đồng hồ lại có người máy đánh bài nữa. Hai cái ấy nặng nề nên không đưa đến. Hiện cháu đem đến đây hai cái lại còn hay hơn.

Nói đoạn, hắn lấy bên mình ra một cái hộp gấm, ngoài bọc mây tầng lụa, mở ra thì thấy tầng thứ nhất là một cái hộp pha lê ở trong lót bằng lụa đỏ, trên đặt một hạt châu lớn, chói lói rực rỡ. Từ Anh nói:

- Theo ông ta nói thì cái này là hạt châu mẹ.

Nói đến đấy hắn bảo đưa lại đây cái khay. Thiềm Quang vội vàng cầm cái khay trà sơn đen .

- Cái này có được không ?

Phùng Tử Anh nói:

- Được đấy.

Thế rồi hắn lại lấy trong bọc ra một cái gói bằng lụa trắng, đem những hạt châu nhỏ đựng trong gói đó tung ra giữa khay, đặt hạt châu mẹ vào giữa, rồi để khay lên trên bàn. Bỗng thấy những hạt châu nhỏ lăn lại bên hạt châu lớn, giơ cao hạt

châu lớn lên thì bao nhiêu hạt châu nhỏ đều gần liền với hạt châu lớn, chẳng sót một hạt nào.

Thiềm Quang nói:

- Lạ thật !

Giả Chính nói:

- Gọi là hạt châu mẹ cũng có lý. vì nó là mẹ của các hạt châu kia.

Phùng Tử Anh quay lại bảo đứa hầu trai đi theo:

- Cái tráp kia đâu rồi ?

Người hầu vội vàng đưa lại một cái tráp bằng gỗ hoa. Mở ra xem thì thấy trong tráp lót gấm, trên gấm chồng một xếp lụa màu lam.Thiềm Quang nói:

- Cái này là cái gì ?

Phùng Từ Anh nói:

- Cái này gọi là Trướng giao, ở trong tráp lấy ra thì xếp lại chiều dài không đầy năm tấc chiều dầy không đầy nửa tấc. Phùng Tử Anh đem giăng ra từng lớp, giăng đến lớp thứ mười thì trên bàn đã chật không có chỗ để trải ra nữa. Phùng Tử Anh nói:

- Các ngài xem đấy, trong này còn có hai xếp nữa, cần phải có một cái nhà thật cao mới giăng ra hết được. Trướng này dệt bầng thứ tơ giao. Khi trời nóng, treo ở trong nhà, không một con ruồi con muỗi nào vào được, vừa nhẹ lại vừa sáng.

Giả Chính nói:

- Đừng giăng ra làm gì. Sợ xếp lại tốn công.

Thiềm Quang và Phừng Tử Anh xếp lại cẩn thận và cất đi . Phùng Tử anh nói:

- Bốn vật này giá cũng không cao lắm, được hai vạn lạng bạc thì ông ta sẽ bán. Hạt châu mẹ giá một vạn lạng, trướng giao năm ngàn lạng, bức bình phong và cái đồng hồ giá năm ngàn lạng.

Giả Chính nói:

- Tiền đâu mà mua nổi !

- Nhà bác đây là chỗ quốc thích, không lẽ trong cung không dùng được à ?

- Cố nhiên là dùng được. Nhưng làm gì có số tiền to như thế. Để tôi bảo đem vào nhà trong cho cụ tôi xem.

- Phải đấy.

Giả Chính liền gọi Giả Liễn đem hai vật báu ấy vào trong nhà. Giả mẫu mời bọn Hình phu nhân, Vương phu nhân, Phượng Thư đến và đem hai vật ấy cho họ xem.

Giả Liễn nói:

- Còn hai vật nữa, một cái bình phong và một cái đồng hồ. Tất cả giá bán là hai vạn lạng bạc.

Phượng Thư vội đỡ lời:

- Các vật ấy cố nhiên là tốt. Nhưng ta làm gì có thừa tiền ấy. Chúng ta lại không phải là quan tổng đốc, tuần phủ ở ngoài quan hải sẵn đưa vật tiến cống.. Lâu nay cháu đã nghĩ nhiều, như nhà mình đây. Cần có những thứ gì làm căn cơ lâu dài mới được: hoặc là ruộng tế tự, hoặc là trang trại giúp người nghèo trong họ, hoặc là dựng một ít nhà cửa ở nơi nghĩa địa. Sau này con cháu nhỡ có gặp việc không may, cũng còn có chút căn cơ, không đến nỗi ngặt; ý cháu như thế không biết ý bà và các ông các mẹ nghĩ như thế nào. Nếu chú ở ngoài muốn mua thì cứ mua . Giả mẫu cùng mọi người đều bảo.

- Nói thế cũng đúng đấy .

Giả Liễn nói:

- Trả lại cho họ thôi. Chú bảo đưa cho bà xem, vì có thể dâng vào cung, chứ ai nói mua để ở nhà. Bà còn chưa nói, mà mợ đã thốt ra một tràng khó chịu.

Nói đoạn, hắn liền đưa hai đồ vật ấy ra và nói với Giả Chính:

- Bà không mua.

Rồi hắn lại nói với Phùng Tử Anh:

- Hai vạt này tốt thì tốt thật, Nhưng ở nhà tôi không có tiền mua. Tôi xem có ai mua sẽ tin cậu biết.

Phùng Từ Anh đành phải cất đi rồi ngồi lại nói chuyện suông, cảm thấy không có hứng thú gì nên định ra về.

Giả Chính nói: .

- Cậu ở đây ăn cơm đã rồi hãy về.

- Thôi ạ, khi nào đến cũng làm phiền bác.

- Sao lại nói thế ?

Đang nói thì có người vào thưa:

- Ông Cả đến.

Giả Xá vào đến nơi. Mọi người chào hỏi lẫn nhau. Một chốc bưng rượu lên, đồ nhắm bày ra la liệt. Mọi người cùng ngồi uống rượu. Sau bốn năm tuần rượu, lại nhắc đến chuyện món hàng nước ngoài. Phùng Tử Anh nói:

- Những đồ vật ấy vốn khó bán, trừ những nhà như nhà bác đây mới có thể mua được, ngoài ra thì cũng khó:

Giả Chính nói:

- Không nhất thiết như thế.

Giá Xá nói:

- Nhà chúng tôi đây không phải như trước nữa, chẳng qua chỉ có cái bộ mặt bề ngoài đó thôi.

Phùng Tử Anh lại hối:

- Ông Cả Trân ở phủ Đông có khỏe không ? Trước đây tôi gặp ông ta, nhân tiện nói đến việc nhà. Nghe nói cô dâu mới sau nầy kém mợ Tần trước nhiều. Thế thì người mới cưới sau này con cái nhà ai ? Tôi cũng quên không hỏi ?

Giả Chính nói:

- Nhà cháu dâu chúng tôi đây cũng là một đại gia ở vùng này. Con gái ông Hồ, trước đã làm quan ở đạo Kinh Kỳ.

Phùng Tử Anh nói:

- Tôi có biết ông ta, xem chừng gia giáo của nhà ông ấy cũng chẳng ra sao..Nhưng mà thôi, cốt sao cô con khá là được.

Giả Liễn nồi:

- Nghe người ở nội các nói ông Giả Vũ Thôn lại sắp được thăng chức đấy.

Giả Chính nói:

- Thế cũng tốt, nhưng chưa biết có chắc hay không ?

Giả Liễn nói:

- Có lẽ chắc đấy.

Phùng Tử Anh nói:

- Hôm nay tôi ở trong bộ lại cũng nghe nói như thế. Vậy là ông Vũ Thôn có phải là người họ bác không ?

Giả Chính nói:

- Phải.

Phùng Tử Anh nói:

- Là bà con có để trở hay không ?

Giả Chính nói:

- Chuyện này kể ra thì dài lắm. Ông ta vốn quê quán ở phủ Hồ Châu, tỉnh Chiết Giang. Sau dời sang ngụ ở Tô Châu, ban đầu lận đận mãi. Ở đấy có ông Chân Sĩ ẩn thân, với ông ta hay giúp đỡ. Sau ông ta đỗ tiến sĩ, được bổ làm tri huyện, cưới người a hoàn họ Chân làm vợ. Bà Cả lúc này không phải là vợ chính. Không ngờ ông Chân Sĩ ẩn lại gặp tai nạn, gia đình tan tác, ông ấy cũng lưu lạc chẳng biết ở đâu. Sau khi ông Giả Vũ Thôn bị cách chức, còn chưa quen biết gì với nhà chúng tôi. Nhân lúc người em rễ tôi là Lâm Như Hải giữ chức diêm chính ở Dương Châu, có mời ông ta đến dạy cháu ngoại của chúng tôi. Khi ông ta nghe tin được phục chức, định lên kinh, thì vừa gặp lúc cháu ngoại chúng tôi cũng định về kinh thăm bà con. Ông Lâm liền nhờ ông ta trông nom hộ và viết một bức thư nhờ tôi giúp ông ta. Lúc đó, tôi thấy ông ta người cũng đứng đắn, cho nên hay đi lại. Không ngờ ông ta cũng có cái lạ là các vị thế trong họ chúng tôi, kể từ dòng chữ Đại trở xuống, từ nhân khẩu nhà cửa cho đến mọi việc ăn ở, điều gì ông ta cũng thông thuộc rõ ràng. Vì thế, chúng tôi càng cảm thấy thân mật.

Nói đến đấy Giả Chính lại cười:

- Mấy năm nay, kể ra ông ta cũng chịu khó luồn lọt đấy. Từ chức tri phủ thăng chức ngự sử, chẳng mấy chốc leo đến lại bộ thị lang, rồi binh bộ thượng thư. Vì can chút việc bị giáng ba cấp nay lại sắp thăng đấy.

Phùng Tử Anh nói:

- Đời người ta sướng khổ, công danh lên xuống, rốt cuộc cũng là việc khó định trước.

- Việc trong thiên hạ đều theo một nguyên lý như nhau cả. Ví như hạt chậu vừa rồi, hạt châu lớn cũng giống như con người có phúc, những hạt châu nhỏ đều nhờ khí thiêng của nó hộ vệ cho. Nếu hạt châu lớn mà không còn thì các hạt châu nhỏ kia cũng chẳng bíu vào đâu. Cũng giống như nhà người ta, khi người chủ nhà gặp việc không may thì cốt nhục cũng chia ly, bà con cũng rời rạc, cho đến bầu bạn tốt cũng đều tan tác, sướng khổ xoay vần trong nháy mắt, chúng khác gì như mây mùa xuân hay lá mùa thu ! Các ông nghĩ xem, làm quan có gì là thú vị ? Được như Vũ Thôn là khá lắm rồi. Như nhà họ Chân kia, ví với nhà chúng ta, không khác gì mấy. Trước đây cũng công lao, cũng thế tập cũng ăn ở như nhau. chúng tôi cũng thường thường qua lại. Mấy năm gần đây, gia đình họ tới kinh, còn sai người đến nhà chúng tôi hỏi thăm. rất là thân mật. Thế rồi chả bao lâu, gia tài ở nguyên quán bị tịch thu, đến nay tin tức vắng bặt. Không biết hiện nay tình cảnh ra sao bụng tôi thật là băn khoăn tưởng nhớ. Như vậy có đáng sợ không ?

Giả Xá nói:

- Nhà chúng ta thì chừng như thế đâu.

Phùng Tử Anh nói:

- Thật thế. Quý phủ đây thì không sợ: thứ nhất là có quý phi ở trong cung ; thứ hai là bà con nhiều, bạn bè tốt ; thứ ba là ở trong phủ đây, từ cụ bà cho đến các cậu, không có người nào điêu ngoa khắc bạc.

Giả Chính nói:

- Dầu không có ai điêu ngoa khắc bạc đi nữa. Nhưng không có đức hạnh tài năng, cứ ngồi xuống mà sống bằng tô thuế, sao cho xứng đáng ?

Giả Xá nói:

- Chúng ta không cần nói những việc ấy. Uống rượu thôi !

Mọi người lại uống mấy chén rượu nữa rồi dọn cơm ăn. Ăn uống xong, tên hầu nhỏ nhà họ Phùng chạy lại nói thầm bên tai Phùng Tử Anh. Phùng Tử anh liền muốn cáo từ.

Giả Xá hỏi người hầu nhỏ:

- Mày nói gì thế ? . .

Người hầu nhỏ thưa:

- Bên ngoài trời đã đổ tuyết. Mõ khắc canh đã bắt đầu rồi.

Giả Chính sai người ra xem. thì tuyết đã đổ xuống dầy hơn một tấc.

Giả Chính hỏi:

- Hai vật kia đã thu xếp tử tế chưa ?

Phừng Tử Anh nói :

- Thu xếp tử tế rồi. Nếu quý phủ dùng, thì giá cả cố nhiên là có thể bớt ít nhiều.

Giả Chính nói:

- Vâng, để tôi xem đã.

Phùng Tử Anh :

- Tôi xin chờ tin. Trời rét lắm. tôi xin cáo, xin đừng đưa chân nữa.

Giả Xá và Giả Chính sai Giả Liễn tiễn chân Phùng Tử Anh ra về.

Ghi chú :

1. Khương Hậu là vợ vua Tuyên vương nhà Chu. Vua tuyên vương thường dậy muộn ra hầu chậm. Khương hậu cho là tội tự mình rút trâm, bỏ trang sức chịu tội.

2. Bà Chung Lý Xuẩn là vợ của vua Tuyên vương nước Tề, can ngăn vua Tề chăm nom công việc nước nhà . Bà được phong là Vô Diềm quân.

3. Tào Đại Cô tức Ban Chiêu, em Ban cố đời Hán, Ban Cố soạn bộ Hán thư chưa xong thì mất. Vua Hán cho Ban Chiêu làm tiếp. Ban Tiệp Dư là cung nữ đời Hán thánh đế giỏi về thi ca. Thái Văn Cơ tức là Thái Diễm đời Hán giỏi về âm nhạc. Tạ Đạo Ủân là con gái Tạ Dịch đời Tấn, có tài hùng biện.

4. Mạnh Quang người Đông hán, ba mươi tuổi mới lấy chồng. Nàng ăn mặc lộng lẫy. Chồng bảy ngày không nói chuyện với nàng. Sau hỏi ra ăn mặc đồ vải, hết sức kính trọng chồng.

5. Đời Hậu hán, Bảo tuyên lấy Hòang Thiếu Quân. Khi về nhà chồng, Thiếu Quân đưa về những quần áo đẹp, của rất nhiều. Bảo tuyên nói: “Nàng sống cảnh giàu sang đã quen. Nay ta nghèo hèn, không dám nhận những thứ ấy.” Thiếu Quân bèn thay quần áo vải, tự tay múc nước làm việc như mọi người.

6. Đời Tần, mẹ Đào Khăn thường mời những người có danh tiếng đến nhà đế con học tập và kết bạn. Một hôm Phạm Quỳ đến chơi, bà ta không có tiền, liền cắt tóc bán cho người hàng xóm đế lấy tiền làm cơm rượu tiếp khách.

7. Âu Dương Tu đời Tống, bố chết sớm, nhà nghèo, mẹ thường lấy vây lau vạch xuống đất thành chữ cho con học.

8. Nhạc Xương công chúa là con vua Trần. Nàng lấy Trần Đức Ngổn. biết nước Trần sắp mất. hai người không thể sống chung với nhau được. Liền bẻ mảnh gương làm đôi. Hẹn ngày nào đó sẽ gặp. Sau nàng bị Dương Tố bắt về làm nàng hầu, rất đỗi yêu mến. Đúng hẹn, Đức Ngổn đến kinh ; thấy người bán hai mảnh gương, đem kháp thấy đúng. Nhân đề thơ, công chúa đọc thơ xong, khóc lóc không ăn uống gì. Dựơng Tố biết chuyện ; liền gọi Đức ngôn vào cho hai vợ chồng lại đoàn viên như cũ.

9. Tô Huệ người đời Tấn, thương chổng đi xa, nàng dệt bức gấm thành thơ

gửi cho chồng.

10. Mộc lan không biết ở thời đại nào, thương cha già ; nàng ra lính thay cha, mười hai năm trời ở nơi biên giới.

11. Tào Nga, người Đông Hán. Cha Tào Nga chết đuối không tìm thấy xác. Nàng mới mười bốn tuổi, cứ theo bờ sông khóc. Sau nàng nhảy xuống sông chết . Ít ngày sau, người ta thấy xác Tào Na ôm xác cha nối trên mặt nước.

12. Tào Thị tên là Lệnh Nữ lấy em Tào Sáng. Chồng nàng chết sớm. Người chú định đem nàng về gả chồng. Nghe tin, nàng cắt hai tai. Sau Tào Sáng bị giết, người chú lại định gã chồng cho nàng. Nhân lúc không đề phòng, nàng vào nhà ngủ đắp chăn kín rồi cắt mất mũi .

13. Vương Tường tức Vương Chiêu Quân. Phàn Tố, Tiểu Man là gái hầu của Bạch Cư Dị.

14. Nhiệm Hoàn đời Đường ; được vua yêu và cho hai cung nữ. Vợ Nhiệm Hoàn là Liễu Thị có tính cả ghen. bắt cạo trọc đầu hai cung nữ. Vua Đường nghe thấy cho Liễu thị chai rượu và dặn: “Uống vào sẽ chết, nếu thôi ghen thì đừng uống.” Liễu thị lạy và nói: “Tôi cùng Nhiệm Hoàn trước đây đều sống cảnh nghèo hèn ; nay được vinh hiển, lại đâm có nhiều người yêu, chẳng thà chết đi cho xong”. Nàng uống hết chai rượu. Té ra không phải là thuốc độc.

Hết hồi 92

Hồng Lâu Mộng

Dịch giả : Vũ Bội Hoàng, Nguyễn Doãn Địch, Nguyễn Thọ

Hồi thứ chín mươi ba

Người họ Chân đến nương nhờ họ Giả

Am Thủy Nguyệt vỡ lở án gió trăng.

Sau khi Phùng Tử Anh về. Giả Chính gọi người canh cửa vào hỏi :

- Hôm nay bên phủ Lâm An Bá mời ta đến uống rượu. Anh có biết có việc gì không ?

Người canh cửa nói:

- Chúng con hỏi thì ra không có việc vui mừng gì cả. Chẳng qua có một ban hát trẻ vừa đến phủ Nam An Vương, ai cũng khen là hay, cụ Lâm An Ba cao hứng bày việc hát trò hai ngày, mời các vị quen biết đến xem cho vui. Có lẽ ta không cần đưa lễ đến.

Giả Xá hỏi Giả Chính:

- Mai chú có đi không ?

- Người ta có lòng tốt, mình không đi, coi sao tiện ?

Vừa nói thì ngoài cửa có người vào thưa:

- Có người thơ lại đến mời ông lớn ngày mai đến nha môn. Quan trên có việc sai phái, cần phải đến sớm một tí.

Giả Chính nói :

- Biết rồi.

Vừa nói đến đó thì hai người nhà coi việc địa tô ở trại đi vào cúi đầu hỏi thăm sức khỏe rồi đứng hầu một bên.

Giả Chính nói :

- Các anh là người ở trại Hách phải không ?

Hai người vâng dạ. Giả Chính cũng không hỏi nữa, rồi cùng Giả Xá nói chuyện. Một chốc người nhà thắp đèn, đưa Giả Xá về .

Lúc đó Giả Liễn mới gọi bọn coi địa tô, bảo :

- Có việc gì các anh nói đi.

Người kia nói :

- Địa tô tháng mười, con đã đòi đủ đưa về. Đáng lẽ ngày mai có thể tới đây. không ngờ những người bắt xe ở ngoài kinh đô không cho phân trần gì cả, đem các vật chở trên xe đổ xuống đất. Con bảo họ, đây là xe của phủ ta thu tô, không phải là xe buôn bán, nhưng họ không nghe. Con bảo bọn kia cứ đẩy xe đi, mấy người nha dịch đánh họ một trận túi bụi, rồi lấy đi hai cỗ. Vì thế con phải về trước trình. Xin sai người đến nha môn đòi lại xe mới. Vả lại, cũng nên trừng trị bọn sai dịch một phen. Chúng coi trời bằng vung, chẳng có phép tắc gì cả. Cậu chưa biết đấy. Tội nghiệp nhất là những xe buôn bán ! Chúng cứ vất bừa hàng hóa của người buôn xuống đất rồi kéo xe chạy. Nếu ai nói năng là chúng đánh cho vỡ đầu xẻ tai.

Giả Liễn nghe nói quát mắng :

- Như thế còn ra gì nữa !

Bèn viết ngay một tờ thiếp, gọi người nhà đến bảo :

- Mày cầm thiếp này đến nha môn đòi lấy xe và cả những đồ vật trên xe cho ta. Nếu thiếu một vật gì là ta không nghe đâu. Và mau mau gọi Chu Thụy vào đây.

Người nhà gọi Chu Thụy. Chu Thụy không có ở nhà. Lại gọi Lại Vượng. Lại Vượng cũng đi vắng đâu chưa về. Giả Liễn nói :

- Bọn vô loại này. chẳng đứa nào ở nhà. Hàng năm chúng nó ăn lương mà không chịu trông nom công việc gì cả.

Rồi bảo bọn hầu trai :

- Chúng bay mau mau tìm họ về cho ta.

Nói xong hắn về phòng ngủ.

Hôm sau, Lâm An Bá sai người đến mời. Giả Chính nói với Giả Xá :

- Tôi bận việc ở nha môn, cháu Liễn phải ở nhà chờ việc bắt xe, cũng không đi được. Vậy bác đem cháu Bảo Ngọc đi, gọi là thù tiếp cho qua chuyện.

Giả Xá gật đầu nói :

- Thế cũng được.

Giả Chính sai người bảo Bảo Ngọc :

- Hôm nay con theo bác sang bên phủ Lâm An Bá nghe hát. Bảo Ngọc mừng rỡ thay áo quần, dẫn bọn Bồi Dính, Tảo Hồng. Sử Dược ra chào và hỏi thăm Giả Xá rồi lên xe đến phủ Lâm An Bá..

Người canh cửa vào trình, một lúc đi ra nói :

- Ông lớn bảo mời vào.

Giả Xá dẫn Bảo Ngọc đi vào trong sân, thấy khách khứa ồn át. Giả Xá dẫn Bảo Ngọc đến chào Lâm An Bá và các vị tân khách, rồi cùng nói chuyện một lúc. Bỗng thấy một người coi ban hát cầm một bản kê tên các vở hát, và một cái hốt ngà (1), cúi mình chào các tân khách, và nói :

- Xin các vị chấm vở hát.

Trước hết, mời các vị khách qúy chấm. Đến lượt mình, Giả Xá cũng chấm một vở. Người coi hát thấy Bảo Ngọc, vội bước tới, cúi chào và nói :

- Xin cậu chấm cho vài vở.

Bảo Ngọc thấy người ấy mặt trắng như dồi phấn, môi đỏ tựa tô son, đẹp như hoa sen trên mặt hồ, thướt tha như cây ngọc rung rinh trước gió, thì ra chẳng phải ai xa lạ, mà chính là Tưởng Ngọc Hàm. Hôm trước Bảo Ngọc nghe nói anh ta dẫn một ban

hát nhỏ vào kinh, nhưng không đến chỗ nhà mình. Lúc đó, trông thấy Ngọc Hàm, Bảo Ngọc định đứng dậy, nhưng không tiện, đành chỉ cười, hỏi :

- Anh về đây đã bao lâu ?

Tưởng Ngọc Hàm nhìn hai bên một cái, rồi cười khẽ và nói:

- Cậu không biết sao ?

Bảo Ngọc thấy người đông, khó lòng nói chuyện, chỉ chấm quàng một vở.

Tưởng Ngọc Hàm đi rồi, liền có mấy người bàn tán :

- Người ấy là ai ?

Có người nói :

- Anh ta lâu nay đóng vai nữ, bây giờ tuổi đã lớn, không chịu đóng vai ấy nữa, chỉ ở trong phủ coi ban hát thôi. Và trước đây có đóng vai học trò. Tuy gom góp được một số tiền, trong nhà đã có hai ba cưả hàng, nhưng anh ta chưa chịu bỏ nghề, vẫn

cứ coi ban hát như trước.

Có người nói :

- Chừng anh ta cưới vợ rồi thì phải.

Có người nói :

- Anh ta chưa lấy vợ, vì cho rằng : việc lấy vợ quan hệ cả một đời người. Không cứ gì là tôn ti, sang hèn, cần phải xứng đáng mới được. Vì thế, đến nay anh ta vẫn chưa lấy vợ.

Bảo Ngọc nghĩ thầm: Không biết sau này con gái nhà ai lấy anh này ? Nếu lấy được con người xinh đẹp như thế, cũng không uổng một đời “.

Lúc đó, bắt đầu hát, gồm đủ các điệu Côn, điệu Dặc, điệu cao và điệu tuồng, rất là vui nhộn. Đến trưa, bày tiệc uống rượu.

Giả Xá lại xem một lúc nữa rồi định về. Lâm An Bá tới giữ lại và nói :

- Trời còn sớm, nghe Kỳ Quan nói có vở “Chiếm Hoa Khôi” (2) là vở hay nhất của họ đấy.

Bảo Ngọc nghe nói cứ mong sao Giả Xá khoan về. Giả Xá nghe vậy cũng ngồi ráng lại một lúc. Quả Nhiên thấy Tưởng Ngọc Hàm đóng vai anh chàng họ Tần bán dầu phô diiễn cái vẻ nâng niu hoa khôi sau khi say rượu, biểu lộ cái tình tứ tiếc ngọc thương hoa rất mực khéo léo. Sau đó, hai người cùng uống, cùng hát, hết sức thiết tha trìu mến.

Bảo Ngọc không nhìn hoa khôi mà cứ đăm đăm đôi mắt nhìn thẳng vào anh chàng họ Tần. Hơn nữa, tiếng hát của Tưởng Ngọc Hàm trong trẻo véo von theo đúng phách địêu là mcho đầu óc Bảo Ngọc ngây ngất say sưa. Sau vở hát ấy, Bảo Ngọc càng thấy Tưởng Ngọc Hàm là người rất chung tình, bọn con hát tầm thường không thể sánh được. Bảo Ngọc liền nghĩ : “Trong sách Nhạc Ký nói : ‘Tình động trong lòng nên biểu hiện ra ở tiếng nói, tiếng nói thành văn chương nên gọi là âm điệu. Vì thế, muốn biết tiếng, biết âm, biết nhạc, cần phải nghiền ngẫm rất nhiều.’ Ngùôn gốc của thanh âm không thể không xét kỹ. Thơ và từ chỉ có thể truyền đạt tình cảm, không thể làm cho nó ăn sâu vào xương vào tuỷ. Sau này có lẽ mình cần phải nghìên ngẫm về môn âm luật.”

Bảo Ngọc đang nghĩ ngợi mơ màng thì Giả Xá đứng dậy cáo từ. Chủ nhà không thể giữ lại. Bảo Ngọc chẳng biết làm sao, đành phải theo về.

Tới nàh, Giả xá về nhà mình, còn Bảo Ngọc thì tới gặp Giả Chính. Giả Chính vừa ở nha môn về, đang hỏi Giả Liễn về việc bắt xe. Giả Liễn nói :

- Hôm nay sai người cầm thiếp đi, quan huyện đi vắng. Bọn người nhà ông ta nói :”Việc nầy quan huyện tôi không biết, và cũng không cho bài ra bắt xe. Đó là bọn côn đồ ở ngoài tìm cách lừa dối để lấy tiền. Đã là của ở phủ ông lớn thì chúng tôi sẽ lập tức sai người tra xét. Ngày mai nhất định sẽ đưa cả xe và đồ vật đến, nếu chậm trễ một chút, sẽ bẩm với quan tôi nghiêm ngặt trừng trị. Lúc này quan tôi còn vắng, Xin quan lớn thấu tình cho. Nếu có thể, không cho quan chúng tôi biết thì lại càng hay”.

Giả Chính nói :

- Đã không có bài quan thì bọn nào lại dám gây chuyện như thế ?

Giả Liễn nói :

- Chú không biết, chứ ở ngoài kia đều như thế cả. Chắc rằng đến mai thế nào họ cũng đưa đến trả.

Giả Liễn nói xong đi ra. Bảo Ngọc tới chào. Giả Chính hỏi mấy câu rồi bảo sang nhà Giả mẫu.

Vì hôm qua, không gọi được ai, nên Giả Liễn bắt bọn người nhà hôm nay phải đến chực đầy đủ. Giả Liễn quát mắng một trận rồi gọi đại tổng quản là Lại Đại đến bảo :

- Anh đem danh sách người nhà soát lại một lượt rồi viết một tờ thông báo cho bọn họ biết. Nếu đứa nào chưa hề xin phép mà tự ý bỏ ra ngoài, gọi cũng không đến, để nhỡ việc công, thì sẽ đánh đòn và đuổi ngay.

Lại Đại vâng dạ, ra ngoài nhắc nhở mọi người, ai nấy đều răm rắp tuân theo.

Được ít hôm, thấy một người đầu đội mũ lông, mặc áo vải xanh, đi giày rách, đến ngoài cửa chào mọi người. Bọn đầy tớ ngắm kỹ bộ dạng anh ta một lúc rồi nói :

- Anh ở đâu đến thế ?

- Tôi ở bên phủ Chân miền Nam tới, có cả lá thư của ông tôi nữa, nhờ các anh trình với ông lớn giúp.

Mọi người thấy anh ta là người nhà họ Chân đến, mới đứng dậy mời ngồi, và nói :

- Anh đi mệt, hãy ngồi đây để chúng tôi vào trình.

Nói xong, một người vào thưa với Giả Chính và trình bức thư lên. Giả Chính mở thư ra xem. Thư viết :

- “ Tình xưa nghĩa cũ, thân thiết từ lâu, xa tưởng dung nghi, nhớ mong khôn xiết ! Em nay kém tài mắc tội, xét mình muốn chết khôn đền, ơn rộng được tha, chịu tội ớ ngoài bờ cõi. Hiện nay cửa ngõ điêu tàn, người nhà tan tác. Có tên đầy tớ Bao Dũng, vẫn từng sai khiến bấy lâu, tuy chẳng tài giỏi gì, nhưng tính nết hiền lành trung hậu. Nếu được anh thu dùng sai bảo, có chỗ nương thân, thương đến phận bọt bèo, thì em xin đội ơn khôn xiết ! Những điều

chi tiết, xin sẽ nói sau ! “

Chân Ứng Gia cúi đầu.

Giả Chính xem xong, cười :

- Ở đây đã thừa người, nhà họ Chân lại đưa người đến, nhưng ta từ chối cũng không tiện. - Liền bảo người canh cửa :

- Gọi anh ấy vào đây, ta sẽ tùy tài mà dùng.

Người canh cửa đi ra dẫn Bao Dũng vào yết kiến Giả Chính. Anh ta sụp lạy ba lạy rồi đứng dậy nói :

- Ông con gửi lời hỏi thăm sức khỏe ông lớn.

Rồi lại cúi mình chào nói :

- Con là Bao Dũng, xin kính thăm sức khỏe ông lớn.

Giả Chính cũng hỏi thăm sức khỏe ông Chân. Khi nhìn kỹ thì thấy Bao Dũng mình cao hơn năm thước, vai rộng, lưng bằng, mày rậm, mất lồi, trán cao, râu dài. Hình thù cục mịch, đen đủng, buông tay đứng hầu. Giả Chính hỏi :

- Anh lâu nay vẫn ở trong nhà ông Chân hay mới đến mấy năm ?

- Con lâu nay vẫn ở trong nhà ông Chân.

- Tại sao bây giờ lại xin ra ?

- Con không chịu ra. Nhưng ông con cứ bảo con ra, ông con nói rằng : “con không chịu đi đâu là phải, nhưng bên nhà ông lớn đây thì cũng như ở nhà”, nên con mới đến.

- Nhà ông chủ anh đáng lẽ không nên có việc ấy để đến nông nỗi nước này.

- Lẽ ra con không được nói. Thực ra ông con chỉ vì tốt quá. Với ai cũng thật thà, nên mới mang lấy vạ vào thân.

- Thật thà là tốt nhất còn gì ?

- Vì thật thà quá nên không ai ưa, mà lại làm cho người ta chán cũng có.

Giả Chính cười rồi nói :

- Đã thế thì trời cũng sẽ không phụ ông ta.

Bao Dũng còn muốn nói nữa thì Giả Chính lại hỏi :

- Nghe nói cậu con bên phủ nhà anh cũng gọi là Bảo Ngọc phải không ?

- Dạ. vâng ạ !

- Cậu ta có lo cố gắng để tiến thủ gì không ?

- Ông lớn mà hỏi đến cậu ấy thì thật là một câu chuyện lạ . Tính khí cậu ta cũng như ông nhà con, hết sức thực thà, lúc nhỏ chỉ thích chơi với các chị em, ông bà con đánh mấy bận cậu ấy cũng không sửa được. Năm nọ bà con vào kinh, cậu ta bị ốm nặng đã chết đi nửa ngày. Làm cho ông con không còn hồn vía. Các đồ khâm liệm đều đã sắm đủ, may sao lại khỏi. Cậu con kể lại rằng cậu ấy đến một cái lầu, gặp một cô gái. Cô ta dẫn đến một cái miếu, thấy có mấy cái tủ, trong tủ thấy có ấy quyển sổ.

Lại đến một cái nhà, thấy vô số con gái. Họ bỗng hóa ra ma quỷ, cũng có người thì hóa ra bộ xương người. Cậu ấy sợ quá khóc ầm lên. Ông con biết cậu tỉnh lại, vội vàng chạy chữa, dần dần khỏe hắn. Ông con lại bảo cậu ấy chơi bời với bọn chị em. Nhưng tính khí của cậu ấy lại đổi hẳn. Cậu ấy không thiết gì đến tất cả những trò chơi trước khi chưa ốm, chỉ chăm đọc sách. Dẫu có ai đến rủ rê. Cậu ấy cũng chẳng mảng lòng. Bây giờ dần dần cậu ấy đã giúp ông nhà con lo liệu được ít việc nhà.

Giả Chính nghĩ ngợi một lát rồi nói :

- Anh hãy đi nghỉ. Chờ có việc, ta sẽ giao cho làm.

Bao Dũng vâng lời theo người nhà đi ra. Một hôm Giả Chính dậy sớm, vừa định đi đến nha môn làm việc, bỗng thấy bọn coi cửa to nhỏ chuyện gì với nhau, hình như có ý muốn cho Giả Chính biết, nhưng lại không dám nói rõ, chỉ lầm rầm hàn tán với nhau. Giả Chính gọi lại hỏi :

- Bọn bay có việc gì mà thậm thậm thụt thụt như thế ?

- Chúng con không dám nói.

- Tại sao lại không dám nói ?

- Sáng nay chúng con dậy mở cửa, thấy ngoài cửa dán một tờ giấy trắng, trong đó viết nhiều chuyện bậy bạ.

- Sao lại có chuyện như thế ? Nó viết thế nào ?

- Nó nói chuyện bẩn thỉu ở am Thủy Nguyệt.

- Đưa đây ta xem.

- Chúng con định bóc xuống, nhưng nó dán chặt quá, không bóc được, đành phải sao chép lại rồi rửa sạch vết đi. Vừa rồi anh Lý Đức lại bóc được một tờ đưa cho chúng con xem, cũng in như tờ dán trên cửa này, chúng con không dám dấu ông lớn.

Nói xong, họ trình tờ giấy lên. Giả Chính cầm xem, thấy viết :

-“Tây bồi thảo cân “(3) đang tủôi xanh.

Trong am Thủy Nguyệt coi ni tăng.

Một người con trai, nhiều gái trẻ

Đĩ thỏa, cờ bạc, lắm trò ranh.

Con em hư hỏng cho coi việc.

Câu chuyện lạ đời trong phủ Vinh ! “

Giả Chính xem xong tức quá, đầu choáng, mắt hoa, liền bảo bọn họ không được rêu rao lên, khẽ sai người đi tìm ở các tường xung quanh hai phủ Vinh và Ninh xem còn có giấy như thế nữa không. Đoạn, ông tạ lại cho người gọi Giả Liễn. Giả Liễn vội vàng đến, Giả Chính hỏi :

- Lâu nay cháu có xem xét gì đến bọn ni cô và đạo cô ở am Thủy Nguyệt không ?

- Thưa không. Lâu nay cháu Cần ở đó trông nom.

- Cháu biết thằng Cần có trông nom được hay không ?

- Chú hỏi như thế, chắc hẳn cháu Cần có việc gì lôi thôi ở đấy.

Giả Chính thở dài :

- Cháu xem cái giấy nầy viết gì đây!

Giả Lĩên xem xong nói :

- Lại có những việc như thế nầy à ?

Đang nói, bỗng thấy Giả Dung chạy đến, cầm một phong thư, trên đề : “Gửi ông Hai – Mật”. Mở ra xem thì lại một bức nặc danh giống như lá thư dán trên cửa .

Giả Chính nói :

- Mau mau gọi Lại Đại đem ba bốn cổ xe đến am Thuỷ Nguyệt, kéo bọn ni cô, đạo cô về đây, không được nói lỡ chuyện, chỉ nói là trong phủ gọi.

Bọn ni cô và đạo cô nhỏ ở am Thuỷ Nguyệt, lúc đầu mới đến, đều do một ni cô già cai quản, hàng ngày dạy một ít kinh. Về sau Nguyên phi không dùng nữa, nên việc học tập của họ ngày một lười dần. Bọn con gái nhỏ ấy dần dần lớn lên, đều biết đôi chút tình đời . Giả Cần lại là người phong lưu, nghĩ rằng bọn Phương Quan đi tu chỉ là vì tính trẻ con, liền đến tìm cách đùa ghẹo. Không ngờ Phương Quan quả thật thành tâm tu hành. Giả Cần không dỗ dành được nó, liền đem mối tình ấy khêu gợi bọn ni cô, đạo cô. Trong bọn ni cô có con Thám Hương và trong bọn đạo cô có con Hạc Tiên là có vẻ yêu kiều xinh đẹp. Giả Cần liền dan díu với chúng, lúc nhàn rỗi cũng dạy họ đàn hát. Vào khoảng giữa tháng mười. Giả Cần lãnh lương tháng cho các ni cô ở am Thuỷ Nguyệt, liền nghĩ ra một kế, bảo bọn họ :

- Tôi đem tiền lương ra cho các cô, bây giờ trở vào thành không kịp, đành phải nghỉ lại đây. Trời rét quá, làm thế nào bây giờ? Hôm nay tôi có đưa theo ít rượu quả, chúng ta uống rượu một đêm có được không ?

Bọn con gái đều cao hứng, liền bày đặt bàn, mời bọn ni cô ở am lại. Chỉ có Phương Quan không đến. Giả Cần uống vài chén rượu, liền bảo chơi tửu lệnh. Bọn Thám Hướng nói :

- Chúng tôi đều không biết tửu lệnh ra sao cả. Chi bằng chơi đánh toan, ai thua phải phạt một chén rượu, như thế không khoái chí hơn sao ?

Người ni cô ở am ấy nói :

- Trời mới trưa, uống bậy, nói bậy như thế, khó coi lắm. Hãy uống tạm vài chén. ai muốn về thì về, ai muốn tiếp cậu Cần thì đến tối, tha hồ mà uống tôi cũng mặc.

Đang nói thì thấy đạo bà vội vàng chạy vào nói :

- Bỏ mau đi, ông Lại ở trong phủ đã đến !

Bọn ni cô vội vã thu dọn rồi bảo Giả Cần tránh đi. Giả

Cần nhân uống mấy chén rượu, hăng lên nói :

- Tôi đưa lương tháng đến, sợ cái gì ?

Nói chưa xong, đã thấy Lại Đại đi vào. Lại Đại thấy thế giận lắm. Nhưng vì Giả Chính dặn : “không được lộ chuyện”, nên đành giả vờ cười hỏi vớ vẩn :

- Cậu Cần cũng ở đây à ?

Giá Cần vội vàng đứng dậy nói :

- Ông Lại đến dây làm gì thế ?

- Được cậu ở đây càng hay, mau mau bảo bọn ni cô và đạo cô thu xếp lên xe vào thành. trong cung truyền gọi đấy.

Giả Cần không biết vì sao, còn muốn hỏi kỹ. Lại Đại nói :

- Trời chiều rồi. Mau lên để vào thành cho kịp.

Bọn con gái đành phải cùng nhau lên xe. Lại Đại cưỡi lừa vội vàng dẫn họ vào thành.

Từ lúc nghe thấy việc ấy, Giả Chính giận quá, không đến nha môn nữa. Một mình ngồi trong thư phòng than thở. Giả Liễn cũng không dám đi đâu. Bỗng thấy người coi cửa vào thưa:

- Trong nha môn đêm nay đáng lẽ ông Trương phải túc trực. Nhưng ông Trương ốm, có đưa tin đến nhờ ông lớn thay hộ mỗi đêm.

Giả Chính định chờ Lại Đại về để xử việc Giả Cần. Không ngờ lúc đó lại phải đến nha môn túc trực, trong bụng bực bội cũng chẳng nói năng gì.

Giả Liễn tới thưa :

- Lại Đại sau bữa cơm trưa mới đi ra, am Thủy Nguyệt lại cách thành những hai mươi dặm, dẫu đi nhanh, cũng đến canh hai mới về đến nhà. Hôm nay chú lại phải đến phủ túc trực giúp cho người ta. Vậy xin chú cứ đi. Lại Đại mà về thì cháu bảo anh ta giữ bọn chúng lại. Đừng nói gì cả. Đợi ngày mai chú về sẽ phân xử . Nếu thằng Cần có đến, cũng không cần nói rõ. Xem ngày mai khi gặp chú. Nó sẽ nói thế nào ?

Giả Chính nghe nói có lý, đành phải đi túc trực ở nha môn. Giả Liễn nhân lúc rỗi định về phòng, vừa đi vừa giận thầm. Vì việc dùng Giả Cần là do vợ mình, muốn trách vợ thì hiện vợ vẫn ốm đành phải tạm thời chịu nhịn.

Bọn người hầu cứ thế một truyền mười, truyền đến nhà trong. Bình Nhi biết trước, vội vàng nói với Phượng Thư. Phượng Thư hôm nọ bị khiếp sợ quá, ngủ không được, trong mình mỏi mệt sững sờ, đang nghĩ đến câu chuyện ở chùa Thiết Hạm. Nghe nói ở bên ngoài có người dán giấy nặc danh, chị ta giật nẩy mình hỏi :

- Giấy dán nói việc gì ?

Bình Nhi buột miệng trả lời, vì không để ý nên nói lầm :

- Có gì quan trọng đâu. Chỉ là câu chuyện ở am Mạn Đầu đấy thôi.

Phượng Thư vốn lo lắng sẵn, nghe nói là câu chuyện ở am Mạn Đầu. Có tật giật mình, sợ quá, nói không ra lời, hỏa bốc mạnh, mắt hoa, ho sù sụ, khạc ra một cục máu. Bình Nhi hoảng hốt lên nói :

- Ở am Thủy Nguyệt thì chẳng qua là việc bọn ni cô, đạo cô đấy thôi. Mợ làm gì mà hoảng lên thế ?

Phượng Thư thấy nói là am Thủy Nguyệt, tinh thần mới trấn tĩnh liền nói :

- Ái chà. Đồ ngu ngốc ở đâu ! Thế thì am Thủy Nguyệt hay là am Mạn Đầu ?

- Ban đầu tôi nghe lầm, nói là am Mạn Đầu. Sau mới vỡ lẽ không phải là am Mạn Đầu mà là am Thủy Nguyệt, nên vừa rồi tôi quen miệng nói lầm là am Mạn Đầu.

- Ta cũng biết là am Thủy Nguyệt. Chứ am Mạn Đầu thì can gì đến ta ! Việc ở am Thủy Nguyệt nguyên là ta bảo cháu Cần trông nom, chắc hẳn nó hớt xén lương tháng của họ chứ gì ?

- Tôi nghe hình như không phải là chuyện lương tháng mà là câu chuyện bẩn thỉu.

- Kệ xác nó ! Cậu Hai đâu rồi ?

- Nghe nói ông lớn nổi giận nên cậu Hai cũng phải ở luôn bên ấy. Tôi nghe câu chuyện rắc rối, có dặn bọn họ không được làm ầm lên. Không rõ các bà đã biết chưa. Lại nghe nói ông lớn sai ông Lại đi bất bọn con gái ấy rồi. Giờ để tôi ra ngoài nghe ngóng xem sao. Theo ý tôi mợ hiện ốm, đừng nên nghĩ đến việc

vớ vẩn của họ.

Đang nói thì Giả Liễn đi vào, Phượng Thư định hỏi nhưng thấy chồng sắc mặt hầm hầm, nên vờ làm như không biết.

Giả Liễn ăn cơm chưa xong thì Lai Vượng vào nói :

- Ngoài ấy mời cậu.

Lại Đại đã về rồi.

Giả Liễn nói :

- Thằng Cần có đến không?

- Có ạ .

- Anh đi ra nói với Lại Đại là ông lớn đi vắng, hãy đem bọn con gái ấy giữ tạm trong vườn đợi mai ông lớn về sẽ đưa vào cung. Chỉ bảo thằng Cần ở lại trong thư phòng chờ tôi.

Lai Vượng vâng lời đi ra.

Giả Cần vào thư phòng, thấy bọn người hầu thì thầm chỉ trỏ với nhau, chẳng biết họ nói gì. Xem tình hình này, Giả Cần thấy không phải trong cung gọi người, muốn hỏi thì lại không tiện, trong bụng nhờ vực, bỗng thấy Giả Liễn đi ra. Giả Cần hỏi thăm sức khỏe rồi buông tay đứng hầu, nói :

- Không biết quý phi truyền gọi bọn con gái vào cung tức khắc có việc gì, làm chúng cháu phải chạy bở hơi tai. May hôm nay cháu lại đưa tiền tháng cho họ, còn chưa về liền cùng ông Lại đi về đây. Chắc chú đã biết.

- Tao biết thế nào được. Chỉ mày mới biết chứ !

Giả Cần không biết đầu đuôi ra sao cũng không dám hỏi nữa. Giả Liễn nói :

- Việc mày làm giỏi thật ? Ông đang giận đầy ruột đấy !

- Nào cháu có làm gì đâu. Tiền tháng này cũng phát đầy đủ; bọn con gái thì kinh kệ cũng đều thuộc cả.

Giả Liễn thấy nói không ngờ đến việc xảy ra, lại hàng ngày hay chung chạ cười đùa với nhau, liền thở dài một tiếng nói:

- Tao muốn tát cho mày một cái ! Mày xem đây này ?

Nói xong . Hắn rút cái giấy nặc danh ở trong ống giày vứt ra cho nó xem.

Giả Cần cầm xem xong, tái mặt đi, nói :

- Ai làm thế này ? Cháu có làm gì bậy bạ đâu mà họ giết cháu ? Mỗi tháng cháu chỉ đưa tiền đi một lần. Đâu có những việc ấy ? Nếu ông về, đánh hỏi cháu, thì cháu đến chết mất ? Mẹ cháu mà biết lại càng đánh chết cháu.

Nói đến đó, hắn thấy không có ai, liền quỳ xuống, kêu xin :

- Chú ơi ? Chú cứu cháu với ?

Hắn gục đầu lạy lia lịa, nước mắt chảy tràn trề. Giả Liễn

nghĩ thầm :

- Chú mình rất ghét những chuyện này. Nếu hỏi ra mà có thật, thì chắc chú giận lắm. Việc này vở lở ra đã rất khó coi, lại làm cho đứa dán thư nặc danh càng đắc ý. Sau này việc nhà mình còn nhiều, chi bằng nhân khi chú đi vắng, mình cùng Lại Đại bàn bạc, cho qua quýt đi thì có thể yên ổn vô sự. Vả lại hiện nay chẳng có ai chứng kiến việc này cả.

Giả Liễn nghĩ vậy rồi nói :

- Mày đừng có giấu tao nữa ? Việc mày làm vụng trộm. Mày tưởng tao không biết à . Muốn vô sự thì khi ông có đánh hỏi. Mày phải nhất định cắn răng chối hết mới được. Đồ mặt dày kia ! Dậy đi ?

Nói xong, Giả Liễn sai người gọi Lại Đại. Một chốc, Lại

Đại đến. Giả Liễn đem chuyện ấy bàn với ông ta. Lại Đại nói :

- Cậu Cần làm thật khó coi quá. Hôm nay lúc tôi đến am, thì bọn họ đang uống rượu. Câu chuyện viết trên thư nặc đanh nhất định là có.

Giả Liễn nói :

- Thằng Cần đã nghe chưa ? Không lẽ ông Lại cũng vu cho mày à ?

Lúc đó.. Giả Cần mặt đỏ lên, không dám nói một lời. Giả Liễn lại phải nắm tay Lại Đại xin hộ :

- Ông giúp nó một tí. Ông sẽ nói là tìm nó ở nhà đến. Ông đưa nó đi và nói là không gặp tôi. Đến mai ông thưa với ông lớn cũng không cần hỏi đến bọn con gái nữa. Chỉ gọi bà mối đến đem bán họ đi là xong. Lúc nào quý phi cần đến, chúng ta lại đi mua.

Lại Đại nghĩ bụng nếu sinh chuyện ra cũng vô ích. Chỉ thêm mang tiếng xấu, nên đành vâng lời.

Giả Liễn bảo Giả Cần :

- Mày đi theo ông Lại, nghe ông ta bày vẽ cho. Rồi cứ thế mà làm.

- Giả Cần cúi đầu tạ ơn rồi theo Lại Đại đi ra, đến chỗ vắng người. Giả Cần lại sụp lạy Lại Đại. Lại Đại nói :

- Cậu ơi cậu làm khó coi quá . Không biết mang tội với ai mới sinh ra chuyện thế này. Cậu nghĩ xem có ai thù oán gì cậu không .

Giả Cần nghĩ một lúc. Thân không có ai thù oán cả, đành phải tiu nghỉu đi theo Lại Đại.

GHI CHÚ :

1. Ngày xưa những người diễn kịch viết các tên vở vào cái hốt ngà đưa cho

người xem chấm vở nào là họ hát vở ấy.

2. Lấy tích Tần Trọng, một anh bán dầu, lấy được nàng Dao Cầm là một hoa khôi trong đám làng chơi.

3. “Tây bồi” là chừ “ Giả “. “Thảo cân” là chử Cầm. Tức là nói về Giả Cần.

Hết hồi 93

Hồng Lâu Mộng

Dịch giả : Vũ Bội Hoàng, Nguyễn Doãn Địch, Nguyễn Thọ

Hồi thứ chín mươi bốn

Giả mẫu bày tiệc, thưởng Hải Đường nở hoa ;

Bảo Ngọc mất ngọc, biết tai ương sắp đến.

Lại Đại dắt Giả Cần ra, chờ Giả Chính về phân xử. Đêm ấy chẳng có việc gì. Bọn ni cô, đạo cô được vào vườn, hết sức vui mừng, muốn đi chơi khắp vườn và sửa soạn để mai vào cung.

Không ngờ Lại Đại dặn bọn bà già coi vườn và bọn hầu trai canh giữ, chỉ đem cho họ một ít cơm nước, chứ không cho đi đâu nửa bước. Bọn con gái kia chẳng hiểu đầu đuôi ra sao, đành phải ngồi đợi chí đến lúc trời sáng. Bọn a hoàn trong vườn tuy có biết việc đem bọn ni cô, đạo cô đến để trong cung sai khiến, nhưng cũng

không rõ đầu đuôi cho lắm.

Đến sáng hôm sau, Giả Chính hết phiên ra về, thì trên bộ đưa xuống sổ sách chi tiêu về công trình kiến trúc hai tỉnh, cần phải kiểm tra lập tức, nên không thể về nhà ngay. Giả Chính liền sai người về báo Giả Liển:

- Khi Lại Đại về thì phải tra hỏi rõ ràng, nên xử trí ra sao thì cứ xử trí, đừng có đợi ta.

Giả Liễn vâng lời, mừng thầm cho Giả Cần. Sau lại nghĩ:

- Nếu mình xử trí mà không có một tí dấu nào hết gì thì sợ chú ngờ vực; chi bằng cứ trình với thím, theo ý thím mà làm, dầu không hợp với ý của chú, mình cũng không đến nỗi chịu lỗi. Hắn bèn vào trình với Vương phu nhân:

- Hôm qua chú thấy giấy nặc danh, rồi nổi giận, đã bắt thằng Cần và bọn ni cô, đạo cô về phủ để tra xét. Hôm nay chú bận không có thì giờ tra hỏi, nên bảo cháu thưa với thím nên xử trí ra sao ?

Vuơng phu nhân nghe vậy, ngạc nhiên bảo:

- Cháu nói gì thế ? Nếu thằng Cần mà như thế, thì còn ra người nhà mình sao được ? Nhưng cái quân nào dán giấy nặc danh ấy cũng đáng ghét ! Những việc ấy có phải là việc nói càng được đâu. Cháu hỏi thằng Cần xem có thật như thế hay không ?

- Cháu cũng hỏi nó rồi, chưa nói là nó không làm, dầu có làm đi nữa thì một người đã làm bậy, khi nào nó lại chịu nhận ? Nhưng cháu nghĩ thằng Cần cũng không dám làm việc ấy. Nó cũng biết rằng có khi quý phi còn gọi đến bọn cô gái ấy, nếu sinh chuyện ra thì làm thế nào ? Theo ý cháu, muốn tra hỏi nó cũng chẳng khó khăn gì. Nhưng tra hỏi ra rồi thì xử trí ra sao ?

- Giờ bọn con gái ấy đâu rồi ?

- Cháu đều giữ chặt ở trong vườn ?

- Họ có biết không ?

- Họ cũng chí huyết là sắm sửa để vào cung thôi, chứ bên ngoài không ai nói gì cả.

- Phải đấy ! Bọn ấy một giờ cũng không nên giữ lại. Trước kia ta đã bảo cho chúng nó về, các anh không nghe. Giờ đây chẳng xảy ra chuyện là gì ? Cháu bảo Lại Đại đem bọn chúng ra hỏi xem nhà nó có còn bà con nào không, và đem giấy tờ cũ tra xét, rồi chịu tốn mấy chục lạng bạc, thuê chiếc thuyền, sai người đưa họ về quê, cẩn thận trả lại tất cả giấy tờ cho họ, cứ làm như thế là xong chuyện. Nếu vì một vài đứa

không tốt mà bắt cả bọn đều phải hoàn tục thì sẽ mắc tội đấy. Nếu giao họ cho bọn bà mối, ở đây luỵ mình, không đòi tiền nhưng bọn họ thế nào cũng đem đi bán, còn ai sống chết mặc kệ. Thằng Cần thì cháu mắng cho nó một trận, bảo nó biết: “Ngoài lúc tế tự hiếu hỷ, còn cấm không được đến đây. Coi chừng mà chạm phải cơn giận của chú thì liệu hồn, kẻo chạy không kịp đấy.” Cháu cũng nói với phòng kế toán bớt khoản chi tiêu ấy đi, rồi sai người truyền cho am Thủy Nguyệt biết rằng: “ông lớn bảo từ nay ngoài những khi đốt vàng thăm mộ, nếu các cậu có ai đến đấy thì không được tiếp đón, hễ còn một chút tiếng xấu tung ra, thì ngay cả ni cô già cũng phải đuổi đấy.

Giả Liễn vâng lời đi ra, thuật lời Vương phu nhân cho Lại Đại biết và nói:

- Ý của bà lớn bảo ông cứ làm như thế. Xử trí xong, ông nói lại với tôi, để tôi thưa lại với bà lớn. Ông xử trí nhanh lên. Khi ông lớn về, ông cứ theo như lời bà lớn mà trình.

Lại Đại nghe xong liền nói :

- Bà lớn thật là nhân từ như đức Phật ! Bọn người như thế mà còn sai người đưa về ! Bà lớn đã có lòng tốt thì ta cũng phải chọn người tốt mà giao việc. Anh Cần thì xin cậu bảo ban giúp. Còn cái thằng dán giấy thì để tôi tìm cách tra cho ra, trị nó một mẻ mới được.

Giả Liễn gật đầu nói:

- Phải đấy.

Liền gọi Giả Cần đến xử lý. Lại Đại cũng vội lĩnh ni cô ra theo ý Vương phu nhân mà làm.

Đến chiều, Giả Chính về. Giả Liễn và Lại Đại trình lại.

Giả Chính vốn là người không hay sinh chuyện, nghe nói xong cũng cho qua. Riêng có bọn vô lại nghe nói phủ Giả cho ra hai mươi bốn con gái trẻ, ai mà chẳng mơ tưởng. Rút cuộc, bọn con gái ấy có về được đến nhà hay không, không ai biết và cũng khó lòng mà đoán trước được.

Tử Quyên thấy Đại Ngọc bệnh đã khỏi, ở trong vườn cũng chẳng có việc gì. Nghe nói sắp sứa đưa bọn ni cô vào cung, chị ta không biết là việc gì, liền đến bên nhà Giả mẫu để dò xem. Vừa gặp khi Uyên Ương rảnh việc đi ra, hai người ngồi nói chuyện phiếm, khi nhắc đến việc ni cô. Uyên ương lấy làm lạ nói:

- Tôi chẳng nghe gì cả, để rồi hỏi mợ Hai thì biết.

Đang nói thì có hai người đàn bà bên nhà Phó Thí sai sang hỏi thăm sức khỏe của Giả mẫu. Uyên ương định mời lên nhà. Hai người thấy Giá mẫu đang ngủ trưa, liền nói chuyện với Uyên ương một lúc rồi ra về.

Tử Quyên hỏi:

- Người nhà ai sai đến thế

Uyên ương nói:

- Thật đến chán ! Nhà họ có cô con gái cũng khá xinh, họ rất nhát ra hàng của quý, ở trước mặt cụ, khi nào hỏi cũng khoe cô nhà họ xinh đẹp tử tế, lại biết giữ gìn lễ độ, ăn nói dễ nghe, tay chân khéo léo, biết viết chiết tính, thờ người trên rất hiếu kính, đôí đãi với người dưới rất hiền hòa. Khi nào đến là họ bịa ra một tràng những điều như thế để cho cụ nghe. Tôi nghe đến phát ngấy. Bọn bà già ấy thật làm cho người ta phái chán. Thế mà cụ lại hay nghe những chuyện ấy ! Cụ thì không kể gì, chỉ lạ cho cậu Bảo, thường ngày thấy bà già thì ghét, nhưng hễ thấy bọn ấy thì lại ưa. Chị bảo có lạ không . Vừa rồi, bọn họ còn đến nói: “Cô nhà họ hiện nay có rất nhiều nhà đến dạm, nhưng ông nhà hơi tiếc không bằng lòng gả cho ai cả, chỉ muốn thông gia với những nhà như nhà chúng ta. Bọn họ khoe khoang, nịnh hót làm cụ cũng phải xiêu lòng.

Tứ Quyên nghe nói, ngẩn người ra, vờ hỏi:

- Nếu cụ thích, sao không dạm cho cậu Bảo ?

Uyên ương vừa muốn nói rõ duyên cớ thì nghe trên nhà gọi: “Cụ đã dậy”. Uyên ương vội vàng lên nhà. Tử Quyên đành phải đứng dậy ra về. Chị ta vừa đi vừa nghĩ:”Cả thiên hạ phải chăng chỉ có một mình Bảo Ngọc ? Người này cũng muốn, người khác cũng muốn. Cô nhà mình lại càng đâm ra mê mẩn. Xem tâm tình cô ta, nhất định là cô ta nhắm vào Bảo Ngọc rồi. Lần này lượt khác, đâm ra bệnh tật, không phải là vì việc ấy thì còn là gì nữa . Câu chuyện “vàng hạc” trong nhà này còn rộn lên chưa ra sao giờ đây lại thêm một cô Phó nào đó nữa, thì thật đến nguy ! Mình xem chừng thì bụng cậu Bảỏ Ngọc cũng nhắm vào cô mình. Nhưng giờ đây nghe Uyên Ương nói thì lại ra thấy người này yêu người ấy ? Có phải là phụ lòng cô mình không!”

Tử Quyên lúc đầu chỉ nghĩ đến chuyện Đại Ngọc, nhưng khi nghĩ sâu chút nữa, thì ngay cả thân mình cũng chưa biết ra sao, thành ra cứ ngơ ngẩn. Chị ta nghĩ nên khuyên Đại Ngọc đừng có uổng công nghĩ ngợi, nhưng lai sợ cô ta buồn giận: mà

để vậy thì thật tội nghiệp. Nghĩ quanh nghi quẩn, bất giác thấy bực bội, rồi lại tự gắt thầm:” Mày lo hộ cho người ta làm gì . Nếu quả thật cô Lâm mà lấy cậu Bảo Ngọc thì tính tình cô ta cũng khó mà hầu hạ. Tính tình Bảo Ngọc tốt, nhưng lại tham nhiều nuốt không trôi “. Mình khuyên người ta đừng bận lòng vô ích, mà chính mình mới thật đang bận lòng vô ích đấy . Từ nay về sau, mình chỉ hết lòng hầu hạ cô, còn việc khác thì thây kệ”.

Tử Quyên nghĩ thế, trong lòng cảm thấy khoan khoái. Khi về đến quán Tiêu Tương thi thấy Đại Ngọc đang ngồi một mình trên giường xem lại những bản thơ văn làm từ lúc trước. Đại Ngọc ngước mắt thấy Tử Quyên, liền hỏi:

- Chị đi đâu về đấy ?

- Hôm nay tôi đi thăm bọn chị em một tí.

- Chị đi tìm chị Tập Nhân à ?

- Tôi tìm chị ta làm gì ?

Đại Ngọc nghĩ lại: “Chẳng biết tại sao, mình lại buột miệng nói câu ấy ?” Tự mình cảm thấy khó coi, liền gắt:

- Chị tìm chị ấy hay không thì có can gì đến tôi . Thôi đi rót cho tôi chén trà.

Đang cười thầm trong bụng rồi đi pha trà. Bỗng nghe trong vườn có tiếng xôn xao, chẳng biết vì sao. Tứ Quyên một mặt đi pha trà, một mặt sai người đi dò xem. Người ấy về nói:

- Cây hải đường ớ Viện Di Hồng có mấy chồi khô đã lâu, cũng chẳng có ai bón tưới. Hôm qua cậu Bảo đến xem có một chồi đâm cành hình như lại nẩy mầm. Chẳng người nào tin, cứ để mặc. Hôm nay nó bỗng nở ra một bông hoa rất đẹp. Mọi người đều lấy làm lạ đua nhau đến xem. Cả cụ và bà Hai nghe tin cũng đến. Vì thế mợ Cả sai người quét dọn lá trong vườn, nên họ đang gọi nhau đến.

Đại Ngọc nghe nói, biết là Giả mẫu đến, liền đi thay áo và bảo Tuyết Nhạn đi dò xem.

- Nếu cụ đến thì về ngay, tin cho ta biết.

Tuyết Nhạn đi một lát, chạy về nói:

- Cụ bà Hai và nhiều người khác đều đến cả. Mời cô đi thôi.

Đại Ngọc soi gương, vuốt lại mái tóc một tí, liền vịn vai Tử Quyên cùng đến Viện Di Hồng thì thấy Giả mẫu đã ngồi trên cái giường Bảo Ngọc thường nằm rồi Đại Ngọc liền nói:

- Xin chúc bà mạnh khỏe. Rồi cô ta lùi lại chào Hình phu nhân, Vương phu nhân. Đại Ngọc cùng mấy chị em Lý Hoàn, Thám Xuân, Hình Tụ Yên chào hỏi nhau. Chỉ có Phượng Thư không đến. Sứ Tương Vân thì vì ông chú được đổi về kinh nên sai người đón cô ta về ; Tiết Bảo Cầm thì theo chị là Bảo Thoa về ở bên nhà ; bọn chị em họ Lý vì thấy trong vườn dạo này xảy ra nhiều việc, nên thím Lý đem ra ngoài ở. Vì thế, hôm nay Đại Ngọc chỉ thấy có mấy người. .

Mọi người nói cười một lúc, bàn tán câu chuyện hoa nở kỳ quặc. Giả mẫu nói:

- Hoa này đáng lẽ nở vào vòng tháng ba. Bây giờ tuy vào tháng mười một. Nhưng vì tiết trời chậm, cũng còn như là tháng mười, chính tiết tiểu dương xuân, còn ấm áp, cho nên hoa nở cũng phải.

Vương phu nhân nói:

- Bà từng trải nhiều, nói rất đúng. Việc này cũng chẳng lấy gì làm lạ.

Hình phu nhân nói:

- Tôi nghe nói cây này đã chết khô một năm nay, tại sao lại nở ra hoa trái mùa ? Thế nào cũng có duyên cớ gì đây.

Lý Hoàn cười nói:

- Bà và mẹ nói đều đúng cả. Cứ ý nghĩ dại dột của con thì chắc là chú Bảo sắp có việc mừng, cho nên hoa đến báo tin trước.

Thám Xuân tuy không nói, nhưng trong bụng nghĩ thầm: “chắc là không phải điềm tốt. Vật gì cũng thế, thuận thì tốt, nghịch thì xấu. Cỏ cây biết vận trời, nẩy nở không đúng thời, chắc là yêu quái gì đây”. Nhưng cô ta không nói ra.

Riêng có Đại Ngọctrong lòng xúc động, liền cao hứng nói:

- Ngày xưa nhà họ Điền có cây Kinh. Khi ba anh em ra ở riêng cây ấy chết khô ; sau đó, anh em họ cảm động lại ở chung với nhau như trước, thì cây Kinh sống lại. Đủ biết cây cối cũng gắn bó với người. Nay anh Hai chăm chỉ học hành. Cậu mợ vui mừng, cho nên cây này cũng sống lại và nở hoa.

Giả mẫu và Vương phu nhân nghe vậy vui mừng liền nói:

- Cháu Lâm so sánh có lý lắm.

Đang nói thì bọn Giả Xá, Giả Chính, Giả Hoàn và Giả Lan đều đến xem hoa. Giả Xá nói:

- Chắc là hoa báo điềm xấu, theo ý tôi thì nên chặt đi.

Giả Chính nói:

- Người ta hay nói thấy vật quái không lấy làm quái thì vật quái ấy cũng mất”. Cần gì mà chặt. Cứ mặc nó thôi.

Giả mẫu nghe thế liền nói:

- Người nào nói nhảm đấy. Người ta có việc tốt đẹp, quái với quỷ gì . Việc tết thì các người đều hưởng. Việc không tốt thì một mình ta chịu cho, không được nói bậy.

Giả Chính nghe thế, không dám nói gì, liền cùng Giả Xá đi ra.

Giả mẫu cao hứng liền gọi bọn nhà bếp mau sắm sửa tiệc rượu để cùng thưởng hoa. Lại bảo:

- Đại Ngọc, cháu Hoàn, cháu Lan, mỗi đứa làm một bài thơ mừng. Cháu Lâm vừa ốm dậy không bắt lo lắng suy nghĩ, có cao hứng thì sửa chữa thơ cho họ.

Giả mẫu lại nói với bọn Lý Hoàn:

- Các cháu đều cùng uống rượu với ta.

Lý Hoàn vâng dạ rồi ngoảnh lại cười bảo Thám Xuân:

- Tại cô sinh chuyện ra cả.

- Đã không bảo chúng tôi làm thơ, sao lại bảo chúng tôi sinh chuyện ?

- Thi xã hải đường chẳng phải do cô lập ra à ? Nay cây

hải đường này cũng định vào thi xã đấy.

Mọi người nghe nói đều cười. Một lúc cỗ rượu bày ra, ai nấy đều muốn lấy lòng Giả mẫu, nên đều nói những câu vui mừng cả. Bảo Ngọc đứng dậy rót rượu, làm ngay bốn câu thơ, viết ra đọc cho Giả mẫu nghe:

Cây hải đường kia bỗng héo hoài

Giờ sao hoa nở, nở vì ai ?

Phải chăng thềm bắc dâng điềm thọ,

Ngày nhân dương (1) về nở trúc mai.

Lý Hoàn cũng làm một bài, viết ra và đọc:

Gíap xuân cây cỏ nẩy mầm ,

Trái tiết cây đường vẫn có hoa.

Mới biết trên đời bao việc lạ,

Tháng đông hoa nở có nhà ta.

Giả Lan viết lại tử tế, trình lên Giả mẫu, Giả mẫu bảo Lý Hoàn đọc:

Khói đọng trước sân màu đẹp úa,

Sương đầm sau tuyết vẻ hồng tươi,

Đừng cho hoa nọ loài vô giác,

Vui góp thêm vào chén họp vui.

Giả mẫu nghe xong, nói:

- Ta không hiểu thơ lắm, nhưng nghe ra thì thơ chắt Lan hay ; thơ cháu Hoàn không hay. Thôi các cháu lại đây ăn cơm.

Bảo Ngọc thấy Giả mẫu vui, càng thêm hào hứng, nhân nghĩ thầm năm Tĩnh Văn chết, cây hải đường khô. Nay cây hải đường tươi lại. Người trong viện chắc ít ai nấy cùng được mạnh khỏe cả, chỉ tiếc Tĩnh Văn không sống lại được như hoa mà

thôi “.

Bảo Ngọc lại đổi vui làm buồn. Bỗng lại nhớ đến hôm trước đây, Xảo Thư nhắc đến việc Phượng Thư định đem con Năm vào nhà mình, liền nghĩ: hoặc giả hoa này vì con Năm mà nở cũng chưa biết chừng ?” Rồi anh ta lại đổi buồn làm vui, cười nói như thường.

Giả mẫu ngồi một lúc rồi vịn vai Trân Châu đi về. Vương phu nhân cũng theo sang. Bỗng thấy Bình Nhi cười hớn hở chạy lại đón, và nói:

- Mợ cháu biết cụ thưởng hoa ở đây. Nhưng không sang được nên bảo cháu qua hầu hạ cụ và bà. Lại còn có hai tấm lụa hồng đưa biếu cậu Bảo, bọc bông hoa ấy gọi là lễ mừng.

Tập Nhân tới nhận và đưa trình Giả mẫu xem. Giả mẫu cười và nói:

- Thật là con Phượng làm việc gì cũng đường hoàng mới mẻ, rất có thú vị.

Tập Nhân cười nói với Bình Nhi:

- Nhờ chị về, thay lời cậu Bảo cám ơn mợ Hai dùm. Nếu có điều đáng mừng thì cũng là mừng chung.

Giả mẫu nghe xong cười nói:

- Ái chà ! Thế mà ta quên mất. Cháu Phượng tuy ốm mà vẫn nghĩ chu đáo. Món lễ nó đưa cũng khéo đấy.

Giả mẫu vừa nói vừa cùng mọi người đi ra.

Bình Nhi nói riêng với Tập Nhân: “Mợ Hai nói, hoa nở kỳ quá, nên bảo chị cắt một mảnh lụa đỏ treo lên trên, thì sẽ ứng vào siệc vui mừng, và sau này cũng đừng cho là việc lạ mà bàn tán mãi.”

Tập Nhân vâng lời, tiễn Bình Nhi đi ra.

Hôm đó Bảo Ngọc đang mặc một chiếc áo da lông, nghỉ ở nhà, nghe nói hoa nở, vội vàng ra xem. Anh ta xem hoa ngắm nghía ngây ngất rồi đâm ra nghĩ ngợi. Say sưa nhìn cánh hoa quên hết cả những chuyện mừng vui, tan họp. Bỗng nghe nói Giả mẫu sắp đến, liền mặc chiếc áo da cáo và khoác một chiếc áo ngồi bằng da cáo màu huyền, đi ra đón tiếp Giả mẫu . Nhân vì thay áo vội vàng, nên không kịp đeo viên ngọc thông linh. Đến khi Giả mẫu về rồi. Bảo Ngọc lại mặc áu như cũ. Tập Nhân thấy trên cổ Bả Ngọc không đeo ngọc, liền hỏi:

- Viên ngọc đâu rồi ?

Vừa rồi vội vàng thay áo, tôi gỡ ra để trên bàn chứ không đeo.

Tập Nhân ngoảnh nhìn trên bàn không thấy viên ngọc, tìm khắp nơi chẳng thấy đâu có. Tập Nhân sợ toát mồ hôi. Bảo Ngọc nói:

- Đừng có hoảng lên, nó chỉ trong nhà này thôi, hỏi những người hầu thì biết.

Tập Nhân tưởng là bọn Xạ Nguyệt giấu đi để để doạ mình, liền cười nói:

- Con ranh kia ! Mày định đùa à ? Mày giấu viên ngọc đâu rồi ? Khéo mà mất thì cả tụi đừng có hòng sống đấy !

Xạ Nguyệt nghiêm nét mặt nói:

- Chị nói cái gì thế ? Chơi đùa cũng tùy cái chứ. Việc này có phải là chuyện trẻ con đâu. Chị đừng có nói nhảm. Chị lú lẫn rồi đấy ! Thử nhở lại xem để ở đâu. Bây giờ lại vu vạ cho người ta à ?

Tập Nhân thấy họ nói như thế, biết không phải chúng đùa, liền hoảng lên nói:

- Trời Phật ơi ! Ông trẻ ơi ông để ở đâu rồi ?

Bảo Ngọc nói:

- Tôi nhớ rõ ràng là để trên bàn. Các chị tìm lại xem.

Tập Nhân và Xạ Nguyệt cũng không dám nói cho người ngoài biết, cứ đi tìm các nơi. Tìm mãi hơn nửa ngày vẫn không thấy tăm hơi. Họ tìm khắp rương, đổ cả tráp ra, không có chỗ nào là không lục đến. Sau nghi cho những người đến vừa rồi, không biết ai đà lấy đi chăng. Tập Nhân nói:

- Những người đến đây, ai lại không biết viên ngọc ấy là bản lệnh của con người. Còn dám lấy làm gì ? Các chị hãy khoan nói lộ ra. Mau mau đi hỏi các nơi nếu có cô nào đùa lấy đi thì lạy lục họ mà xin về đây. Nếu là bọn a hoàn nhỏ lấy trộm, hỏi ra được cũng đừng trình báo trên nhà biết. Bất luận chúng muốn cái gì cũng đổi, miễn sao tìm thấy viên ngọc là được. Đây không phải là việc nhỏ. Mất cái này còn nguy hiểm hơn mất cả cậu Hai nữa kia đấy .

Bọn Xạ Nguyệt và Thu Văn vừa đi ra. Tập Nhân lại theo ra dặn:

- Những người vừa ăn cơm ớ đây thì hãy khoan hỏi. Hỏi không ra lại sinh nhiều chuyện không hay.

Bọn Xạ Nguyệt nghe lời, chia nhau đi tìm hỏi. Người nào người nấy chẳng hiểu ra sao đều sợ hãi nghi ngờ. Hai người vội vàng trở về, ngơ ngác nhìn nhau. Bảo Ngọc cũng sợ ngẩn người ra.

Tập Nhân hoảng lên khóc không ra nước mắt. Không biết tìm ớ đâu, lại không dám đi trình. Những người ở Viện Di Hồng đều ngẩn ra như tượng gỗ.

Khi các người đang ngơ ngác thì các nơi nghe tin đều chạy đến. Thám Xuân bảo đóng cửa vườn, gọi hai bà già dẫn hai a hoàn đến các nơi tìm lại lần nữa. Một mặt họ báo tin cho các người: “Hễ ai tìm được. sẽ có trọng thưởng”. Một là muốn khỏi

mang vạ lây. Hai là nghe nói có thưởng to, nên ai nấy đều ra sức tìm kiếm khắp nơi, cả từ các hố xí. Ai ngờ viên ngọc ấy chẳng khác gì cái kim thêu, tìm một ngày trời chẳng thấy tăm tích. Lý Hoàn hoảng lên nói:

- Việc này không phải là việc chơi. Tôi xin nói một câu vô phép đây.

Mọi người nói:

- Câu gì ?

- Sự tình đã đến nước này, cũng không quản gì nữa. Hiện nay ở trong vườn, ngoài chú Bảo ra thì đều là đàn bà con gái cả. Xin các chị, các em, các cô bảo bọn a hoàn theo hầu đều cởi áo để khám xét. Nếu vẫn không ớm ra, thì bọn a hoàn đi xiết bọn bà già và bọn a hoàn làm việc nặng. Không biết như thế có được

không ?

Mọi người đều nói:

- Nói thế cũng có lý. Hiện nay đông người lắm chuyện, ngay gian lẫn lộn, làm như thế, họ cũng khỏi phải tai tiếng.

Riêng Thám Xuân không nói gì cả.

Bọn a hoàn đều bằng lòng.

Bình Nhi nói:

- Xin khám tôi trước.

Rồi đến mọi người đều lần lượt cởi áo. Lý Hoàn lục soát cẩn thận.

Thám Xuân gắt:

- Chị Cả. Chị làm cái trò chẳng có thể thống gì cả. Đời nào ăn trộm lại còn giấu ở trong người . Viên ngọc ấy ở trong nhà là bảo bối, nhưng đưa ra ngoài người ta không rõ thì chỉ là vật bỏ đi. Ai ăm trộm nó làm gì ? Tôi nghĩ thế nào cũng có người chơi ác đấy.

Mọi người nghe nói thế, lại không thấy Giả Hoàn ở đấy, mà hôm qua thì nó chạy lung tung khắp nhà, nên ai cũng nghi cho nó, có điều không dám nói rõ. Thám Xuân lại nói:

- Chơi ác chỉ có tiếng Hoàn thôi. Các chị cho người khẽ bảo nó tới đây, khuyên nó đưa ra, rồi dọa đừng để nó rêu rao lộ chuyện. Thế là xong việc. Mọi người đều gật đầu khen phải. Lý Hoàn nói với Bình Nhi:

- Việc này phải nhờ chị đi dùm mới xong.

Bình Nhi vâng lời, vội vàng ra đi. Một chốc cùng Giả Hoàn đến. Mọi người làm bộ như không có chuyện gì, gọi người pha trà để săn trong phòng, rồi đều kiếm cớ lánh đi một nơi, chỉ để Bình Nhi dỗ nó.

Binh Nhi cười nói với Giả Hoàn:

- Viên ngọc của anh Hai của cậu mất rồi, cậu có thấy không ?

Giả Hoàn nghe nói, mặt đỏ lên, trừng mắt nói:

- Người ta mất đồ vật, sao chị lại gọi đến, nghi ngờ tra hỏi tôi ? Tôi là kẻ trộm đã can án hay sao ?

Bình Nhi thấy thế, không dám hỏi nữa, liền cười lấy lòng nó, nói:

- Không phải thế đâu. Vì nghĩ cậu Ba cất đi để dọa chúng nó chơi, cho nên tôi hỏi xem có thấy không, để cho bọn chúng biết đường mà ớm.

- Ngọc của anh ta thì ở trong nhà anh ta, thấy hay không cứ hỏi anh ta. Sao lại hỏi tôi ? Các chị đều chiù chuộng nâng niu anh ta, được cái gì chẳng thấy hỏi tôi, mà hễ mất cái gì là cứ đến vặn vẹo tôi.

Nói xong, nó đứng dậy bỏ đi. Mọi người không tiện giữ lại .

Bảo Ngọc hoảng lên nói:

- Chỉ vì cái quái ấy mà sinh chuyện ! Tôi không cần mà các chị cũng đừng tìm nữa, thấy Hoàn đi ra, thế nào nó cũng làm ầm lên, thế chẳng phải là sinh chuyện không ? .

Bọn Tập Nhân hoảng sợ, khóc van:

- Ông trê ơi, ông cho viên ngọc mất đi, không quan hệ gì, chứ trên nhà mà biết thì bọn chúng tôi đều phải tan xương nát thịt đấy. Mọi người càng thêm hoảng sợ, biết rằng việc này không thể che giấu được nữa, đành phái bàn cách để trình với Giả mẫu.

Bảo Ngọc nói:

- Các chị cũng không phải bàn bạc gì, chỉ nói tôi đập vỡ đi là xong.

Bình Nhi nói:

- Cậu ơi ! Cậu nói chơi đấy chớ ! Bề trên sẽ hỏi tại sao mà đập vỡ, thì các chị ấy cũng chết thôi ! Giả sử cụ hỏi đập vỡ thì mảnh ở đâu, ta sẽ trả lời ra sao ?

Bảo Ngọc nói:

- Hay nói đổ là tôi ra ngoài làm rơi mất.

Mọi người nghĩ một lúc rồi nói:

- Câu nói ấy còn có thể lấp liếm cho qua đi được, nhưng hai hôm nay cậu không đi học, cũng không đi đâu kia mà.

- Sao lại không ? Hôm kia tôi có đi xem hát ở phủ Lâm An Bá. Cứ nói hôm ấy tôi làm rơi mất là xong.

Thám Xuân nói:

- Thế cũng không ổn. Mất từ hôm kia, sao không trình ngay.

Mọi người đang nghĩ ngợi miên man, định bịa đặt để nói dối. Bỗng nghe tiếng dì Triệu vừa la vừa khóc, chạy đến nói:

- Các chị mất đồ vật, tại sao không đi tìm, lại sai người tra khảo riêng thằng Hoàn ? Tôi dắt thằng Hoàn tới đây giao cho các chị , là người hay nịnh hót bề trên, muốn giết, muốn mổ nó, tùy ý các chị.

Nói đến đó, dì Triệu đẩy Giả Hoàn một cái và quát:

- Thằng giặc này, thú tội mau đi !

Giả Hoàn nổi cáu cũng khóc ầm lên. Lý Hoàn đang định khuyên giải thì nghe a hoàn nói:

- Bà Hai đã đến.

Bọn Tập Nhân không biết lẫn tránh vào đâu. Bảo Ngọc vội vàng ra đón. Dì Triệu cũng tạm im lặng và theo ra. Vương phu nhân thấy mọi người đều có vẽ lo sợ mới tin câu chuyện vừa rồi là có thật, liền hỏi:

- Viên ngọc ấy mất thật à ?

Mọi người đều không dám lên tiếng. Vương phu nhân vào ngồi trong nhà, gọi Tập Nhân ra hỏi. Tập Nhân hoảng sợ, vội vàng quỳ xuống, ứa nước mắt, định thưa lại.

Vương phu nhân nói:

- Mày đứng dậy, mau mau sai người đi tìm cho kỹ, cuống quít lên thì được cái gì ? Tập Nhân nghẹn ngào nói không ra lời . Bảo Ngọc sợ Tập Nhân nói thẳng ra, liền nói:

- Thưa mẹ, việc này không can gì đến Tập Nhân. Hôm trước đi nghe hát ở Phủ Lâm An Bá, con trót đánh rơi ở ngoài đường:

- Tại sao lúc đó không tìm ngay ?

- Con sợ chúng biết nên không nói, đã bảo bọn Bồi Dính tìm khắp nơi rồi.

- Nói nhảm ! Hiện nay không phải là phiên Tập Nhân hầu hạ thay quần áo cho con hay sao ? Lúc con về, các vật như khăn tay, túi thêu, thiếu cái gì nó phải hỏi rõ, huống chi viên ngọc, lẽ nào nó lại không hỏi ?

Bảo Ngọc không biết trả lời thế nào.

Dì Triệu nghe nói đắc ý, vội đỡ lời:

- Đồ vật đánh rơi ở ngoài cũng vu vạ cho thằng Hoàn ...

Nói chưa dứt lời. Vương phu nhân quát:

- Người ta đang rối chuyện này, dì lại nói những điều không liên quan gì đến công việc hết.

Dì Triệu im lặng không dám nói nữa. Lý Hoàn, Thám Xuân cứ sự thực thưa lại với Vương phu nhân. Vương phu nhân hoảng hốt cháy nước mắt, định trình rõ với Giả mẫu, rồi sai người sang hỏi những người hôm qua cùng đến với Hình phu nhân.

Phượng Thư đang ốm, nghe nói Bảo Ngọc mất ngọc, biết rằng Vương phu nhân đã qua bên ấy, nghĩ tránh cũng không được liền vịn vai Phong Nhi vào trong vườn. Lúc ấy Vương phu nhân đứng dậy định về. Phượng Thư miệng run run nói:

- Thím mạnh giỏi.

Bọn Bảo Ngọc đều chạy lại hỏi thăm sức khỏe của Phượng Thư. Vương phu nhân nói:

- Chị cũng nghe nói à ? Có phải là việc lạ không ? Vừa mới lo ra một tí đã mất ngay, tìm không thấy đâu nữa. Chị thử nghĩ xem, kể từ các a hoàn bên cụ, cho đến Bình Nhi nhà chị, ai là người không cẩn thận, ai là người có bụng dạ độc ác như thế.

- Ta định trình với cụ phải tra hỏi cho ra mới được, không thì làm mất bản mệnh của thằng Bảo Ngọc đấy !

Phượng Thư nói:

- Nhà ta nhiều người lắm chuyện. Người xưa hay nói: “Biết người biết mặt. Biết lòng làm sao ?” Chắc đâu ai cũng là người tốt ? Nhưng nếu làm rầm lên, người ta biết thì cái đứa trộm ngọc sợ bị cụ tra ra, nó sẽ chết không có chỗ chôn, đâm liều, đem tiêu hủy viên ngọc đi cho mất tích, thì còn biết tìm vào đâu nữa.

Theo ý tôi, cứ nói là chú Bảo vốn không thích gì viên ngọc ấy, mất đi cũng không quan hệ gì, cốt sao mọi người giữ kín đáo một tí, đừng để cụ và ông lớn biết là được. Mặt khác, ta ngấm ngầm sai người đi tìm hỏi các nơi, lừa cho họ đưa ra, sẽ vừa tìm thấy ngọc, vừa bắt được kẻ trộm. Chẳng hay thím nghĩ thế nào ?

Vương phu nhân nghĩ ngợi một lức rồi nói:

- Chị nói cũng có lý, nhưng giấu ông nhà sao được ?

Liền gọi Giả Hoàn lại bảo:

- Anh Hai mày mất viên ngọc, chỉ hỏi qua mày một câu, sao mày lại làm ầm lên ? Nếu người ta nghe thấy, hủy hoại viên ngọc đi thì mày có sống được không ?

Giả Hoàn khiếp sợ, vừa khóc vừa nói:

- Từ nay con không dám làm ầm lên nữa.

Dì Triệu nghe nói như thế cũng không còn dám hé răng.

Vương phu nhân liền dặn dò mọi người:

- Ta cho còn có nơi chưa tìm đến, chứ trong nhà này nó bay đi đâu được ? Nhưng không được rêu rao ra ngoài. Hạn cho Tập Nhân trong ha ngày phải tìm cho ra. Không tìm ra thì có lẽ cũng không giấu được nữa. Lúc bấy giờ cả nhà đừng có hòng sống yên ổn.Nói xong hà ta bảo Phượng Thư cùng đi sang nhà Hình

phu nhân để bàn chuyện đi tìm viên ngọc.

Ở bên này, bọn lý Hoàn bàn tán xôn xao, truyền gọi cả những người coi vườn đến, bảo khóa cửa vườn lại, rồi gọi vợ Lâm Chí Hiếu nói nhỏ đầu đuôi với bà ta và bảo:

- Dặn người ở cửa trước cửa sau, trong ba ngày, bất luận là trai gái, tất cả những người hầu hạ, ở trong thì đi lại được, còn ở ngoài thì nhất luật cấm. Cứ nói rằng trong này bị mất đồ vật, chờ khi nào ớm được mới cho người đi ra.

Vợ Lâm Chí Hiếu vâng lời nói:

- Trước đây ở nhà tôi cung mất một vật chẳng quan trọng gì nhưng ông Lâm nhà tôi cứ muốn cho rõ ràng, liền ra phố ớm một ông thầy đoán chữ tên gọi là lão Lưu “mồm sắt” gì đó, viết ra một chữ là ông ta đoán rất rõ ràng, cứ thế về tìm quả nhiên thấy ngay.

Tập Nhân nghe nói như thế, liền nằn nì với bà ta:

- Bà Lâm ạ. Phiền bà mau mau về nhờ ông hỏi hộ chúng tôi xem.

Vợ Lâm Chí Hiếu vâng lời ra đi. Hình Tụ Yên nói:

- Bọn đoán chữ xem quẻ ở ngoài không ăn thua đâu. Khi ở miền Nam tôi nghe nói. Diệu Ngọc chiếu cầu tiên, sao không nhờ cô ta cầu để hỏi xem. Vả lại nghe nói viên ngọc ấy vốn có phép tiên mầu nhiệm, chắc có thể hỏi ra được.

Mọi người đều lấy làm lạ, nói:

- Chúng ta thường gặp cô ấy luôn, sao không bao giờ nghe cô ta nói ?

Xạ Nguyệt vội vàng nói với Tụ Yên:

- Người khác mà nói thì cô ta không bằng lòng đâu. Tôi xin cúi đầu lạy cô, nhờ cô đi ngay cho ! Nếu hỏi ra được manh mối, thì trọn đời tôi không quên ơn cô.

Nói xong, vội vàng khấu đầu làm lễ. Tụ Yên vội vàng ngăn lại.

Bọn Giả mẫu đều giục Tụ Yên đi mau đến am Lũng Thúy nhờ Diệu Ngọc cầu tiên giúp cho.

Vừa lúc ấy thì vợ Lâm Chí Hiếu vào nói:

- May lắm các cô ạ ! Ông Lâm nhà tôi đi đoán chữ về nói viên ngọc ấy nhất định sẽ không mất, sau này thế nào cũng có người đưa trả.

Mọi người nghe nói đều nửa tin nửa ngờ, riêng Tập Nhân và Xạ Nguyệt thì mừng rú lên. Thám Xuân hỏi:

- Đoán chữ gì .

Vợ Lâm Chí Hiếu nói:

- Họ nói nhiều lắm tôi không nhớ hết chỉ nhớ là nói chữ “thưởng”, có nghĩa là thưởng cái gì cho người ta đấy. Ông Lưu “mồm sắt” chẳng hỏi han gì, nói ngay: “mất đồ vật phải không?”

Lý Hoàn nói:

- Thế đã giỏi rồi.

- Ông ta còn bảo chữ “thưởng” phía trên là chữ “tiểu” phía dưới là chữ “khẩu”. có nghĩa là vật ấy có thể ngậm ở trong mồm được, nhất định là loại hạt châu, hòn ngọc gì đấy.

Mọi người nghe đều khen:

- Thật là thần tiên ! Thế rồi ông ta nói gì nữa ?

- Ông ta nói chữ “bối “ liền bên dưới chữ thưởng nếu tách ra thì không thành chữ “kiến”, chẳng phải mất đi là gì. Vì bên trên chữ ấy có thể ngắt ra thành chữ “đương” cho nên ông ta bảo “mau mau đến hiệu cầm đồ mà tìm.” Ông ta lại nói chữ “thưởng” thêm chữ “nhân” vắt bên thành ra chữ “thường”, có nghĩa là trả lại cho nên tìm đến hiệu cầm đồ, sẽ có người. Có người thì sẽ chuộc được, chẳng phải được người ta trả lại là gì ?

Mọi người đều nói:

- Đã thế, thì hãy bắt đầu tìm ở các hiệu gần đây đã. Chẳng qua chỉ có mấy hiệu cầm đồ, tìm cho hết thế nào cũng có. Khi đã tìm được viên ngọc thì tìm người cũng dễ thôi.

Lý Hoàn nói:

- Quý hồ tìm được ngọc. Không cần tìm người cũng được. Bà Lâm này, nhờ bà đem câu chuyện đoán chữ mau mau đến thưa với mợ Hai rồi nhờ mợ ấy trình với bà Hai, để người yên lòng. Rồi bảo mợ Hai mau mau sai người đi tra xét ngay.

Vợ Lâm Chí Hiếu vâng lời đi ra.

Mọi người hơi yên tâm. Chỉ ngồi thờ thẫn chờ Hình Tụ Yên về. Đang ngơ ngẩn chờ đợi thì thấy Bồi Dính ở ngoài cửa vẫy tay gọi a hoàn nhỏ ra mau. A hoàn nhỏ vội vàng chạy ra. Bồi Dính liền nói:

- Cô mau mau vào thưa cậu Hai và các bà, các mợ, các cô trong này là có việc mừng to như trời ấy !

A hoàn nhỏ nói:

- Anh nói mau đi. Sao còn lằng nhằng thế ?

Bồi Dính vừa cười vừa vỗ tay nói:

- Tôi nói với cô. Cô vào trình lại. Cả hai đứa chúng ta đều được thưởng đấy ! Cô thử đoán xem việc gì ? Viên ngọc của cậu Bảo ấy, tôi nắm được tin đích xác rồi.

Ghi Chú:

1. Tức tháng mừơi một khi dưỡng sinh.

Hết hồi 94

Hồng Lâu Mộng

Dịch giả : Vũ Bội Hoàng, Nguyễn Doãn Địch, Nguyễn Thọ

Hồi thứ chín mươi lăm

Tin đồn không sai, Nguyên phi đã mất;

Giả thực lẫn lộn, Bảo Ngọc hoá ngây.

Bồi Dính ở ngoài cửa nói với a hoàn nhỏ rằng đã tìm thấy viên ngọc của cậu Bảo Ngọc rồi. A hoàn vội vàng về tin với Bảo Ngọc. Mọi người giục Bảo Ngọc ra hỏi, còn họ đều đứng chờ ở hành lang. Bảo Ngọc cũng thấy yên tâm, liền chạy ra cửa hỏi:

- Mày lấy được ở đâu thế ? Đưa đây nhanh lên.

- Lấy thì chưa lấy được, còn phải chờ người ta đứng nhận nữa kia.

- Mày nói nhanh lên, vì sao mà biết, để tao sai người đi lấy.

- Lúc nãy cháu ở ngoài này nghe nói ông Lâm đi nhờ thầy đoán chữ, cháu liền đi theo. Nghe nói phải tìm ở các hiệu cầm đồ, cháu không đợi thầy ấy nói xong liền chạy đến mấy hiệu cầm đồ, ra mẫu cho họ xem. Có một nhà nói “có”. Cháu bảo đưa cho xem. Họ đòi biên lai. Cháu hỏi: “Cầm bao nhiêu tiền?” Họ nói: “Có viên thì cầm ba trăm đồng ! Có viên thì cầm năm trăm đồng. Hôm trước có một người cũng đem một viên ngọc như thế cầm ba trăm đồng tiền hôm nay lại có một người cũng đem viên ngọc như thế cầm năm trăm đồng tiền”.

Bảo Ngọc không đợi nó nói hết lời liền bảo:

- Mày đem mau ba trăm hoặc năm trăm đồng tiền đi chuộc về đây, chúng ta xem có đúng hay không ?

Tập Nhân đứng trong gắt:

- Cậu đừng có nghe nó ! Lúc nhỏ, tôi nghe anh tôi nói, có người thường bán những viên ngọc nhỏ. Khi thiếu tiền tiêu, họ đem đi cầm, chắc rằng hiệu cầm đồ nào cũng có.

Lúc đầu, mọi người nghe vậy đang kinh ngạc, đến khi nghe Tập Nhân nói, nghĩ lại, ai cũng bật cười và nói: “Mời cậu Hai vào thôi, đừng có nghe cái thằng dại ấy nữa. Thứ ngọc nó nói đấy chắc không đúng đâu”. Bảo Ngọc cũng cười. Bỗng thấy Hình Tụ Yên về. Số là Tụ Yên đến am Lũng Thúy gặp Diệu Ngọc, không kịp nói chuyện phiếm, liền nhờ cô ta cầu tiên ngay. Diệu Ngọc cười nhạt rồi nói:

- Tôi đi lại với cô là vì biết cô không phải là hạng người ham danh lợi. Hôm nay sao lại nghe những lời đồn nhảm ở đâu, tới quấy rầy tôi thế. Vả lại tôi cũng không hiểu cầu tiên là thế nào.

Nói xong, toan bỏ đi. Tụ Yên trong lòng ân hận mình đã trót đến, nghĩ thầm: “mình biết tính khí cô ta như thế. Nhưng đã lỡ nói ra, không có lẽ về suông. Mình cứ nói cho ra lẽ là cô ta có biết cầu tiên, thì cũng không tiện”. Tụ Yên đành phải nói rõ cho cô ta nghe là việc này có quan hệ đến tính mệnh bọn Tập Nhân. Thấy Diệu Ngọc hơi cảm động, Tụ Yên hến đứng dậy lạy mấy lạy. Diệu Ngọc thở dài:

- Hà tất chị phải lo hộ cho người ta như thế! Từ khi tôi tới kinh đô đến nay, chưa hề ai rõ tôi biết cầu tiên. Nay cô tung chuyện ra, sợ sau này họ đến quấy rầy, tôi không được ở yên.

Tụ Yên nói:

- Tôi cũng chỉ vì không đành tâm trong phút chốc, lại biết thế nào cô cũng mở lòng từ bi. Nếu sau này có ai đến nhờ cô thì bằng lòng hay không là tùy cô, ai dám bắt buộc ?

Diệu Ngọc cười, rồi gọi đại bà thắp hương. Cô ta mở rương lấy bàn cát và sọt ra, viết mấy đạo bùa, bảo Tụ Yên làm lễ . Cầu khân xong, cô ta đứng dậy, cùng Tụ Yên cầm sọt, không bao lâu cái sọt viết mấy câu rất mau như sau:

Ôi ! Đến không dấu vết đi cũng không,

Dưới núi Thanh Ngạnh dựa cây thông.

Muốn theo tìm, núi muôn trùng.

Vào cửa ta đây góp nhau cùng.

Viết xong, cái sọt dừng lại. Tụ Yên hỏi:

- Cầu vị tiên gì ?

Diệu Ngọc nói:

- Cầu đức Quải tiên (1) đấy.

Tụ Yên chép lại câu thơ tiên cho, rồi nhờ Diệu Ngọc đoán hộ. Diệu Ngọc nói:

- Điều đó không thể được, ngay tôi cũng chẳng hiểu. Cô cứ cầm về, ở nhà họ, thiếu gì người thông minh.

Tụ Yên đành phải về. Vừa vào đến sân, mọi người đã hỏi ngay: “Thế nào?” Tụ Yên không kịp trả lời, đưa bản sao bài thơ cho Lý Hoàn. Bọn chị em và Bảo Ngọc dành nhau xem, đều đoán: “Muốn tìm ngay thì không thể được, nhưng mất thì không

mất, chưa biết đến lúc nào đó, không tìm mà lại thấy. Nhưng núi Thanh Ngạnh không biết ở đâu ?”

Lý Hoàn nói:

- Đó là lời nói bóng của tiên, ở nhà mình đây làm gì mà có núi Thanh Ngạnh ? Chắc là có ai sợ bị xét ra, đem vất vào dưới hòn đá núi, có cây thông nào đó cũng chưa biết chừng. Chỉ có câu: Vào cửa ta đây “ là nói vào cửa nhà ai ?”

Đại Ngọc nói:

- Cầu vị tiên nào ?

Tụ Yên nói:

- Cầu vị Quải tiên.

Thám Xuân nói:

- Nếu là cửa tiên thì khó vào lắm !

Tập Nhân trong lòng hoảng hốt, liền bắt bóng bắt gió tìm lung tung, không có một hòn đá nào là không lục tìm, nhưng chẳng hề thấy. Khi về nhà, Bảo Ngọc cũng không hỏi có tìm thấy hay không, chỉ cười khì . Xạ Nguyệt hoảng lên nói:

- Ông trẻ ơi ! Thật là ông bỏ mất ở đâu, hãy nói rõ ra. Chúng tôi dù có chịu tội, cũng trắng ra trắng, đen ra đen chứ !

Bảo Ngọc cười nói:

- Tôi nói bỏ mất ở ngoài, các chị không nghe ; bây giờ chị lại hỏi tôi, tôi biết sao được ?

Lý Hoàn và Thám Xuân nói:

- Hôm nay xoay mãi từ sáng đến giờ đã canh ba rồi. Cô Lâm mệt quá đã bỏ về rồi. Chúng ta cũng nghỉ một chút, ngày mai lại tìm thôi.

Nói xong, mọi người ra về. Bảo Ngọc cũng nằm ngủ. Tội nghiệp Tập Nhân suốt đêm khóc rồi lại nghĩ, không sao ngủ được .

Đại Ngọc về nhà, sực nhớ đến câu chuyện “vàng ngọc” trước đây lại đâm ra mừng rỡ, nghĩ bụng lời nói của hòa thượng và đạo sĩ thật không tin được. Nếu thật “vàng” và “ngọc” là có duyên, thì sao Bảo Ngọc lại làm mất ngọc đi được ? Hoặc vì mình mà duyên “vàng” “ngọc” của họ bị chia rẽ cũng chưa biết chừng !”. Nghĩ vậy Đại Ngọc thấy yên tâm, chẳng kể gì cả ngày khó nhọc, lại đem sách ra xem. Tử Quyên thì lại thấy mệt, luôn luôn giục Đại Ngọc đi ngủ.

Đại Ngọc nằm xuống lại nghĩ đến việc hoa hải đường, nghĩ thầm trong bụng viên ngọc ấy là tự trong thai mang ra, không phải là vật tầm thường, đến hay đi đều có quan hệ. Nếu hoa ấy là điềm tốt thì không mất ngọc. Xem thế thì hoa ấy nở là điềm không lành. “Có lẽ anh ấy gặp việc không lành chăng ?” Cô nghĩ như thế lại cảm thấy thương tâm. Nhưng khi nghĩ đến việc hôn nhân thì hình như hoa ấy lại nên nở, mà viên ngọc lại nên mất. Đại Ngọc cứ nghĩ vơ nghĩ vẩn, khi buồn khi vui, mãi đến canh năm mới ngủ.

Hôm sau Vương phu nhân sai người đến các hiệu cầm đồ tra hỏi. Phượng Thư thì ngấm ngầm kiếm cách dò tìm. Luôn mấy ngày xoay xở không có chút manh mối gì.

Cũng may là Giả mẫu và Giả Chính chưa biết. Bọn Tập Nhân ngày nào cũng sợ nơm nớp. Bảo Ngọc mấy ngày liền không đi học, cứ ngơ ngơ ngẩn ngẩn, chẳng nói chẳng rằng, bơ phờ ủ rũ. Vương phu nhân nghĩ anh ta vì mất ngọc mà như thế nên cũng không để ý.

Một hôm Vương phu nhân đang bực mình, thì thấy Giả Liễn tới hỏi thăm sức khỏe, rồi cười hớn hở nói:

- Hôm nay nghe nói ông Giả Vũ Thôn sai người đến báo tin với chú rằng: “Ông Cậu (2) nhà ta được thăng chức nội các đại học sĩ, vâng chỉ vào kinh, định đến ngày hai mươi tháng giêng năm sau làm lễ tuyên ma (3). Công văn đã do trạm gửi đi rồi. Trạm này mỗi ngày đi ba trăm dặm. Chắc rằng ông Cậu đêm ngày đi gấp. chỉ già nửa tháng là có thể đến nơi. Cháu đến trình để thím rõ.

Vương phu nhân nghe nói hết sức vui mừng. Bà ta đang lo nghĩ bên ngoại ít người, nhà họ Tiết lại suy sụp, em thì làm quan ở tỉnh ngoài, không chăm nom cho mình được. Nay nghe nói em được thăng chức về kinh, nhà họ Vương vinh hoa rực rỡ, sau này Bảo Ngọc sẽ có nơi nương tựa, nên tạm bỏ qua việc mất ngọc. Suốt ngày chỉ trông em trai mau mau tới kinh.

Một hôm Giả Chính đi về, nước mắt ràn ruạ, thở hổn hển mà nói:

- Mau mau đi thưa với cụ, sắm sửa vào cung ngay ! Đừng đem theo nhiều người, chỉ một mình bà theo hầu cụ vào cung.

Nghe nói quí phi bỗng mắc bệnh nặng. Hiện nay thái giám đang chờ ở ngoài. Ông ta nói là Viện thái y đã tâu rõ, đó là chứng đàm quyết (4) không thể nào chữa được.

Vương phu nhân nghe nói, khóc ầm lên. Giả Chính nói:

- Lúc này chưa phải là lúc khóc. Mau đi vào trình với cụ. Nói cho nhẹ nhàng, đừng làm cụ chết khiếp đấy !

Giả Chính nói rồi đi ra, dặn người nhà chờ sẵn. Vương phu nhân nín khóc, vào mời Giả mẫu, chỉ nói Nguyên phi có bệnh muốn vào cung hỏi thăm. Giả mẫu nghe nói, miệng niệm Phật và nói:

- Lại ốm nữa. Lần trước đã làm cho ta khiếp vía, sau mới biết là nghe lầm. Lần này mong rằng lại lầm nữa thì may mắn lắm.

Vương phu nhân vừa trả lời, vừa giục bọn Uyên Ương mở rương lấy quần áo mặc cho Giả mẫu. Bà ta cũng vội vàng về phòng, ăn mặc tề chỉnh, rồi trở sang chờ Giả mẫu. Sau đó, hai người ra nhà ngoài rồi lên kiệu vào cung.

Nguyên Xuân từ khi được chọn vào cung Phượng Tảo, được nhà vua rất yêu thương, dần dần thân thể béo ra, nên đi đứng cũng mệt. Mỗi ngày có lúc nhọc mệt thì thường sinh ra chứng đờm. Hôm trước hầu tiệc trở về, gặp phải lạnh, bệnh trở lại . Không ngờ lần này bệnh rất nặng, đờm tắc nghẹt, chân tay giá lạnh. Cung nhân tâu lên,vua cho gọi thái y chữa chạy, ngờ đâu thuốc uống không vào, dùng luôn mấy liều thuốc thông quan cũng không thấy có hiệu quả. Bọn nội quan lo sợ, tâu xin sắp sẵn hậu sự. Vì thế, truyền gọi bà con họ Giả vào thăm.

Giả mẫu và Vương phu nhân vào thấy Nguyên phi hỉ đờm tắc đầy miệng, không nói năng được. Trông thấy Giả mẫu, Nguyên Xuân muốn khóc, nhưng không có nước mắt. Giả mẫu lại gần hỏi thăm, nói vài câu an ủi. Một chốc ở ngoài đệ hàn danh sách của bọn Giả Chính vào. Cung tần tâu lên. Lúc đó mắt Nguyên phi không ngoảnh nhìn được nữa, dần dần sắc mặt thay đổi . Bọn nội quan và thái giám định tâu lên ngay cho vua biết, sợ rằng nhà vua bảo các cung phi khác đến trông nom, nếu để bà con họ ngoại ở lâu không tiện, nên mời ra ngồi chờ ở cung ngoài.

Giả mẫu và Vương phu nhân nỡ nào rời ngay nhưng vì lễ nghi của nhà vua như thế, đành phải đi ra, cũng không dám khóc lóc chỉ đau xót trong lòng mà thôi.

Ngoài cửa cung, có các quan đứng chờ tin tức. Chẳng bao lâu thấy có thái giám đi ra, lập tức truyền gọi khâm thiên giám. Giả mẫu biết là có chuyện chẳng lành, nhưng vẫn chưa dám nhúc nhích. Một lát, thái giám nhỏ truyền dụ ra:

- Giả nương nương qua đời !

Năm ấy là năm Giáp Dần Tiết lập xuân vào ngày mười tám tháng mười hai, mà ngày Nguyên phi mất là ngày mười chín tháng mười hai theo thời tiết thì đã qua năm Mão tháng dần thọ bốn mươi hai tuổi.

Giá mẫu đau xót, đành phải lên kiệu về nhà. Bọn Giả Chính được tin cũng thương khóc từ dọc đường về đến nhà. Hình phu nhân, Lý Hoàn, Phượng Thư, Bảo Ngọc ra ngoài nhà lớn chia đứng hai hên đón tiếp hỏi thăm sức khỏe Giả mẫu, Giả Chính và Vương phu nhân, rồi mọi người khóc lóc.

Hôm sau, sáng dậy, những người có phẩm cấp đều vào cung dự lễ tang. Giả Chính là quan bộ công, tuy rằng việc gì cũng làm theo quy chế sẵn có, nhưng các quan trên cũng chìu ý, chăm sóc ông ta ít nhiều. Bọn đồng sự cũng cứ hỏi ông ta rồi mới làm. Vì thế, ông ta bận cả hai nơi, không phải như đám tang Thái hậu và Chu phi trước.

Giả phi không có con cái, chỉ đặt thụy hiệu “Hiền thục quý phi” theo quy chế của nhà vua .

Nhưng người nhà họ Giả, đàn ông đến đàn bà, ngày nào cũng vào cung rất là bận rộn. May mà gần đây, Phượng Thư đã khá, trông nom việc nhà được. Chị ta lại còn phải sắp đặt việc đón tiếp và mừng Vương Tử Đằng sắp vào kinh. Anh ruột Phượng Thư là Vương Nhân biết chú được vào nội các cũng đem gia quyến vào kinh. Phượng Thư trong lòng vui mừng, dầu có ít nhiều lo lắng, nhưng thấy người nhà mình đông đúc như thế, cũng tạm khuây. Vì thế, trong người so với trước, có phần khá hơn.

Vương phu nhân thấy Phượng Thư lại lo liệu việc nhà như trước, san sẻ một nửa công việc của mình, lại thấy ông em sắp vào kinh. Mọi việc yên ổn, nên cảm thấy được yên tĩnh ít nhiều. Chỉ có Bảo Ngọc là người không có chức vị gì. Anh ta lại cũng không đi học. Đại Nho biết trong nhà anh ta có việc nên cũng để mặc. Giả Chính thì bận, cố nhiên là anh ta không có thì giờ tra hỏi đến.

Đáng lẽ ra thì nhân cơ hội này Bảo Ngọc có thể tha hồ vui chơi với bọn chị em. Không ngờ từ sau khi mất ngọc, Bảo Ngọc đâm ra uể oải, ăn nói cũng lẩn thẩn chứ không như trước. Ngay cả lúc bọn Giả mẫu khi đi khi về, nếu có ai bảo đến hỏi thăm thì anh ta cũng đến. Nhưng nếu không ai nói thì cũng thôi. Bọn tập Nhân trong bụng lo lắng, nhường lại không dám nói động đến, sợ anh ta giận. Hàng ngày cơm nước đưa lên trước mặt thì anh ta cũng ăn, không đưa đến cũng không đòi hỏi.

Tập Nhân thấy tình hình này, không giống con người tức giận, mà giống người có bệnh. Nhân lúc rảnh, Tập Nhân đến quán Tiêu Tương nói với Tử Quyên:

- Chẳng hiểu cậu Hai có vẻ như thế nào ấy, nhờ cô khuyên giải cho.

Tử Quyên nói ngay với Đại Ngọc. Nhưng Đại Ngọc nghĩ đến việc hôn nhân của Bảo Ngọc nhất định là mình rồi. Giờ đây gặp anh ta thấy khó coi. “Nếu anh ta đến đây, vốn ăn ở với nhau một chỗ từ khi nhỏ, tất nhiên không thể bỏ anh ấy được nhưng

bảo mình đi tìm anh ấy thì nhất định không được“. Vì thế Đại Ngọc không chịu đến.

Tập Nhân lại nói riêng với Thám Xuân. Không ngờ Thám Xuân trong bụng biết rõ rằng hoa hải đường nở quái gở, viên ngọc mất càng lạ lùng, tiếp đó là Nguyên Phi qua đời, nên đoán biết việc nhà không lành. Ngày ngày buồn bực, còn bụng dạ nào khuyên Bảo Ngọc. Vả lại, dù là anh em đấy, nhưng trai gái vẫn phải phân biệt, nên chị ta đến một vài lần, thấy Bảo Ngọc ra chiều uể oải. Do đó cũng không năng qua lại nữa.

Bảo Thoa cũng biết việc mất ngọc. Nhân vì hôm nọ, Tiết phu nhân sau khi bằng lòng về việc hôn nhân giữa chị ta với Bảo Ngọc, liền về nhà nói với con. Tiết phu nhân còn nói rõ:”Tuy dì có nói, nhưng mẹ cũng chưa nhất định nhận lời, còn nói đợi anh con về đã. Con có bằng lòng không ?”

Bảo Thoa nghiêm nét mặt nói:

- Mẹ nói thế không đúng. Việc của con gái là do cha mẹ làm chủ; giờ cha con mất rồi, mẹ nên làm chủ lấy ; không nữa thì hỏi anh con. Sao lại hỏi con ?

Tiết phu nhân thấy vậy càng thêm yêu mến con gái, nghĩ rằng chị ta được nuông chiù quen từ lúc nhỏ, nhưng vẫn trong trắng khiêm nhường. Vì thế, bà ta không nhắc đến Bảo Ngọc trước mặt Bảo Thoa. Cố nhiên Bảo Thoa cũng không khi nào nhắc đến hai tiếng “Bảo Ngọc” . Nay nghe nói mất ngọc, tuy chị ta rất là nghi ngờ sợ hãi, nhưng hỏi ra không tiện, đành chỉ nghe người khác bàn tán làm như không can gì đến mình cả.

Tiết phu nhân cũng có sai người qua hỏi thăm tin tức một vài lần. Nhân vì việc của con là Tiết Bàn ; nên bà ta bực bội, chỉ mong sao ông anh đến kinh đô để nhờ cứu vớt cho con khỏi tội.

Lại biết Nguyên Phi đã mất, nhà họ Giả công việc bận rộn, may được Phượng Thư đã khỏe trông nom việc nhà. Vì thế cũng không năng qua bên ấy.

Chỉ khổ cho Tập Nhân. Chị ta hết sức dịu dàng hầu hạ, khuyên lơn là an ủi. Nhưng Bảo Ngọc vẫn không hiểu gì. Chị ta đành chỉ nói thầm mà thôi.

Qua mâý ngày, linh cửu của Nguyên Phi đã đưa vào tẩm miếu. Bọn Giá mẫu phải đi đưa đám mất mấy hôm. Không ngờ Bảo Ngọc càng ngày càng ngớ ngẩn sốt nóng chẳng phải, đau ốm cũng không, nhưng ăn không ngon, ngủ không yên, thậm chí nói năng cũng không ra đầu ra đuôi gì nữa cả. Bọn Tập Nhân và Xạ Nguyệt càng hoảng sợ đã thưa với Phượng Thư mấy lần. Đôi khi Phượng Thư cũng qua thăm, ban đầu tưởng chỉ là anh ta không tìm được ngọc nên đâm tứt. Nhưng giờ đây xem ra thì giống như người mất hồn nên đành phải hàng ngày mời thầy thuốc chạy chữa. Uống luôn mấy thang thuốc, bệnh tình chẳng bớt chút nào, mà lại có phần tăng thêm. Hỏi đau chỗ nào thì Bảo Ngọc cũng không nói. Mãi đến khi việc tang Nguyên Phi xong. Giả mẫu nhớ Bảo Ngọc, thân hành vào vườn thăm hỏi. Vương phu nhân cũng theo sang. Bọn Tập Nhân bảo Bảo Ngọc ra đón và hỏi thăm sức khỏe. Bảo Ngọc tuy nói là có bệnh. Nhưng hằng ngày vẫn dậy đi lại . Bây giờ Tập Nhân bảo ra đón Giả mẫu thì anh ta cũng theo lời hỏi thăm sức khỏe như thường. Chỉ có điều là tất cả điều do Tập Nhân đứng bên bày vẽ cho. Giả mẫu thấy thế liền nói:

- Tưởng là cháu ốm như thế nào nên ta sang thăm. Nay thấy bộ dạng cháu vẫn thường, lòng ta cũng đỡ lo.

Vương phu nhân thấy thế cố nhiên vẫn yên lòng. Nhưng Bảo Ngọc chẳng trả lời gì cả, chỉ cười hì hì. Bọn Giả mẫu vào nhà trong ngồi nói chuyện với Bảo Ngọc. Hễ Tập Nhân bày cho câu gì thì anh ta nói câu ấy, khác hẳn ngày thường, giống hệt người ngây vậy .

Giả mẫu càng nhìn càng đâm nghi ngờ, liền nói:

- Khi ta mới đến, chẳng thấy nó có bệnh gì. Giờ nhìn kỹ thì bệnh này quả là nặng thật. Bộ dạng như là người mất hồn ấy. Vì sao mà sinh ra như thế ?

Vương phu nhân biết không thể giấu được, lại thấy bộ dạng Tập Nhân rất đáng thương hại, đành phải đem những lời Bảo Ngọc trước đây nói với Giả mẫu. “Bảo Ngọc xem trò ở Phủ Lâm An Bá, đánh rơi mất viên ngọc “. Bà ta cũng nơm lớp lo ngại, chỉ sợ Giả mẫu bực lên, lại nói thêm:

- Hiện đã sai người tìm khắp nơi, phụ tiên, đi bói, đâu đâu cũng nói là tìm ở hiệu cầm đồ. Thế nào rồi cũng thấy.

Giả mẫu nghe nói hoảng hốt vùng đứng dậy, nước mắt ràn ruạ nói:

- Ngọc ấy mất làm sao được ! Các người thật không hiểu gì cả ! Nhưng chẳng nhẽ cha nó cũng bỏ qua đi à?

Vương phu nhân biết Giả mẫu giận, liền bảo bọn Tập Nhân quỳ xuống, rồi dịu dàng cúi đầu xuống thưa:

- Con sợ cụ kinh hoảng, ông con giận, nên đều không dám trình báo.

Giả mẫu thở dài và nói:

- Viên ngọc là cái bản mệnh của thằng Bảo. Vì mất đi cho nên nó mời mất hồn mất vía như thế ! Để thế được à ? Viên ngọc này cả thành ai cũng biết. Đời nào nhặt được họ lại để cho các người tìm ra. Mau mau sai người mời cha nó đến để ta nói chuyện.

Vương phu nhân và Tập Nhân đều sợ khiếp vía, liền van :

- Bà mà giận, khi nhà con về thì càng sinh to chuyện. Hiện nay Bảo Ngọc đang ốm, xin cứ giao cho chúng con cố sức tìm kiếm.

- Các người sợ cha nó đâm giận thì đã có ta đây.

Liền bảo Xạ Nguyệt sai người đi mời. Một lúc người đi mời về thưa:

- Ông lớn đang đi tạ khách chưa về.

Giả mẫu nói:

- Không cần anh ấy cũng được. Chúng bây cứ nói là ta bảo tạm thời chưa cần trách phạt bọn người hầu. Ta bảo thằng Liễn tới, viết giấy treo giải thưởng, dán ở chỗ lúc trước nó qua lại nói rằng: “Ai nhặt được ngọc đưa đến sẽ thưởng một vạn lạng bạc, ai biết người ta nhặt được, đưa tin đến rồi tìm ra được thì thưởng năm ngàn lạng.” Nếu quả có người nhặt được đưa đến thì không nên tiếc bạc. Làm như thế chắc sẽ tìm được. Nếu cứ để mấy người nhà mình tìm thì suốt đời rồi cũng không ra.

Vương phu nhân cũng không dám nói rõ. Giả mẫu sai người nói với Giả Liễn, giục anh ta cứ thế mà làm.

Giả mẫu lại bảo:

- Dọn tất cả đồ dùng và dắt Bảo Ngọc đến chỗ ta ở, chỉ sai Tập Nhân và Thu Văn theo sang. Còn nửa đều ở lại trong vườn mà coi nhà.

Bảo Ngọc nghe nói cũng chẳng hỏi lại gì cả, chỉ một mực cười khì. Giả mẫu liền dắt Bảo Ngọc đứng dậy. Bọn Tập Nhân nâng đỡ và cùng đi ra ngoài vườn.

Về đến phòng mình Giả mẫu bảo Vương phu nhân ngồi, xem mọi người dọn dẹp cho Bảo Ngọc ở vào phòng bên trong, rồi hỏi Vương phu nhân:

- Chị biết ý ta không ? Ta nghĩ trong vườn ít người, cây hoa ở Viện Di Hồng bỗng dưng chết đi rồi lại nở, có vẻ quái gở . Trước kia, nhờ có viên ngọc, trị được tà ma, nhưng bây giờ ngọc đã mất rồi, sợ tà khí dễ dàng xâm phạm. Vì thế, ta đưa nó đến đây ở chung một chỗ. Mấy ngày sắp đến, không cần bảo nó đi ra ngoài. Thầy thuốc có đến thì bảo cứ ở đây mà xem.

Vương phu nhân nghe nói, liền đỡ lời:

- Cụ nghĩ rất phải. Bây giờ Bảo Ngọc ở chung với cụ, cụ là người có phúc lớn, có gì cũng trấn áp được.

- Phúc với phận gì ! Chẳng qua nhà ta ở có phần sạch sẽ yên tĩnh hơn, kinh kệ cũng nhiều, có thể tụng niệm để trấn lĩnh tâm thần . Chị thử hỏi Bảo Ngọc xem có thích ở đây không ?

Bảo Ngọc nghe nói cứ cười hoài. Tập Nhân bảo nói tốt, Bảo Ngọc cũng nói tốt.

Vương phu nhân thấy dạng bộ như thế ứa nước mắt, nhưng ở chỗ Giả mẫu không dám khóc ra tiếng. Giả mẫu biết Vương phu nhân hoảng sợ, liền nói:

- Chị cứ về thôi. Ở đây đã có ta lo liệu. Đến tối anh ấy về thì bảo không cần đến gặp ta. Các người cứ đừng nói gì là được.

Sau khi Vương phu nhân về. Giả mẫu bảo Uyên ương tìm chút thuốc an thần, theo lời chỉ dẫn của thầy thuốc cho Bảo Ngọc uống.

Chiều hôm ấy, Giả Chính về nhà, ngồi trong xe nghe người đi đường nói với nhau .

- Người ta ai muốn phát tài cũng rất dễ dàng.

Người kia hỏi:

- Dễ cái gì ?

- Hôm nay nghe nói cậu con ở trong phủ Vinh mất ngọc gì đó, dán giấy nói rõ hình dạng lớn nhỏ và màu sắc của viên ngọc, hứa rằng ai nhặt được đưa đến sẽ thưởng một vạn lạng bạc, ai đưa tin cũng thưởng năm ngàn lạng đấy.

Giả Chính tuy không rõ, nhưng trong bụng lấy làm lạ. Về đến nhà, liền gọi người coi cửa hỏi về việc đó. Người coi cửa nói :

- Chúng con trước đây cũng không biết. Giữa trưa hôm nay, cậu Hai Liễn truyền lời cụ, bảo người đi dán chúng con mới biết.

Giả Chính than thở:

- Thật là nhà đến lúc suy, đẻ ra cái của nợ ấy ! Lúc mới đẻ đã đồn đại khắp phố, được mười mấy năm trời thì tiếng đồn đã hơi đỡ, bây giờ lại viết giấy lung tung để tìm ngọc, còn ra cái lề lối gì nữa .

Nói xong, ông ta vội vàng vào trong nhà hỏi Vương phu nhân. Vương phu nhân nói rõ đầu đuôi cho Giả Chính nghe. Giả Chính biết là do ý định của Giả mẫu, không dám chống lại, chỉ trách Vương phu nhân mấy câu, rồi ra ngoài bảo người nhà ngấm ngầm bóc cái giấy ấy đi, đừng cho cụ biết. Không ngờ giấy ấy đã bị bọn vô lại bóc mất rồi.

Cách ít lâu, có người đến cửa phủ Vinh nói muốn đưa viên ngọc đến. Người nhà nghe vậy mừng lắm, liền bảo:

- Đưa đây tôi trình cho.

Người ấy rút trong bọc ra một tờ giấy treo giải thưởng, chỉ

cho người coi cửa xem và nói:

- Đây không phải là giấy treo giải thưởng của phủ nhà các ông à . Trong giấy nói rõ ai đưa ngọc đến thì thưởng một vạn lạng bạc. Hai ông ạ ! Giờ các ông thấy tôi nghèo. Nhưng chốc nữa tôi lĩnh được bạc, tức là ông nhà giàu đấy. Các ông đừng có coi khinh tôi.

Bọn người canh cửa thấy anh ta nói giọng cứng lắm, liền bảo:

- Thì anh hãy cho chúng tôi xem một tí, mới tiện vào trình chứ.

Người ấy ban đầu không chịu, sau nghe nói có lý liền đưa viên ngọc ra, đặt trong bàn tay giơ lên một cái mà nói:

- Có đúng không ?

Bọn người nhà này lâu nay hầu hạ ở ngoài, chỉ huyết có ngọc. Nhưng cũng không mấy khi được thấy ; bây giờ mới thấy hình dạng viên ngọc ấy, vội đàng chạy vào trong, có vẻ tâng công tranh nhau báo trước.

Hôm đó, Giả Chính và Giả Xá đều đi vắng, chỉ có Giả Liền ở nhà. Bọn người coi cửa vào thưa. Giả Liễn hỏi:

- Có thật thế không ?

Người coi cửa nói:

- Chúng con chính mắt trông thấy rồi, nhưng anh ta không chịu đưa, đòi gặp chủ nhà. Một tay giao bạc, một tay giao ngọc.

Giả Liễn cũng mừng, vội vàng vào thưa với Vương phu nhân và trình ngay với Giả mẫu, làm cho Tập Nhân mừng quá, chắp tay niệm Phật. Giả mẫu không hề đổi lời. vội vàng nói ngay:

- Mau mau bảo cháu Liễn mời người ấy vào thư phòng, đem ngọc xem, rồi giao bạc ngay cho người ta.

Giả Liễn theo lời, mời người ấy vào, lấy lễ khách mà tiếp ôn tồn cám ơn và nói:

- Xin mượn viên ngọc đem vào nhà trong cho người chủ viên ngọc xem. Còn bạc thì không kém một ly.

Người ấy đành phải đưa ra một cái bao lụa hồng. Giả Liễn mở ra xem, quả nhiên một viên ngọc, đẹp sáng chói lọi . Giả Liễn xưa nay vốn không đề ý, bây giờ thì cầm xem kỹ. Xem đi xem lại những chữ trên viên ngọc, cũng phảng phất nhận ra được, nào là “trừ tà chuỳ “ gì gì ấy. Giả Liễn xem xong mừng quá, liền gọi người nhà tiếp đãi rồi vội vàng đưa viên ngọc vào cho Giả mẫu và Vương phu nhân xem. Phượng Thư thấy Giả Liễn vào. liền giật ngay lấy ngọc, không dám xem trước, đưa ngay đến tay Giả mẫu . Giả Liễn cười nói:

- Chút việc như thế, mợ cũng không để tôi tâng công !

Giả mẫu mở ra xem thì thấy viên ngọc mờ tối hơn trước, liền lấy tay lau. Uyên Ương đem kính lại. Giả mẫu đeo kính lên xem một hồi rồi nói:

- Lạ thật ! Viên ngọc thì vẫn đúng. Nhưng tại sao sắc ngọc khác trước.

Vương phu nhân xem một hồi cũng nhận không ra, liền gọi Phượng Thư lại xem. Phượng Thư xem rồi nói:

- Giống thì giống, nhưng sắc không đúng lắm chi bằng nói chú Bảo tự xem lấy thì biết.

Tập Nhân đứng một bên nhìn, cảm thấy chưa chắc đã đúng, nhưng vì mong mỏi quá, nên cũng không dám nói là không giống. Phượng Thư cầm viên ngọc ở trong tay Giả mẫu, rồi cùng Tập Nhân đưa lại cho Bảo Ngọc xem. Lúc đó, Bảo Ngọc vừa ngủ dậy .

Phượng Thư nói với anh ta:

- Ngọc của chú tìm được đây rồi.

Bảo Ngọc mắt còn ngái ngũ lờ đờ, cầm lấy viên ngọc trong tay cũng không thèm nhìn, vứt ngay xuống đất và nói:

- Các người lại lừa tôi !

Nói rồi chỉ cười khẩy.

Phượng Thư vội vàng nhặt viên ngọc lên và nói :

- Lạ thật! Sao chú không nhìn mà biết ?

Bảo Ngọc cũng không trả lời chỉ nồgi cười .

Vương Phu Nhân lúc đó cũng vào trong phòng, thấy bộ dạng Bảo Ngọc như thế liền nói :

- Thôi, không cần nói nữa. Viên ngọc kia là một vật kỳ quái. Nó mang viên ngọc từ trong thai ra, thế nào nó cũng biết . Chắc là người ta thấy hình dáng nói trên giấy niêm yết của ta rồi theo mẫu mà làm ra đấy thôi.

Lúc đó mọi người đều vỡ lẽ . Giả Liễn ở phòng ngoài, nghe như thế liền nói :

- Đã không đúng thì đưa đây để tôi hỏi nó . Việc người ta như thế nầy mà nó còn dám đến đánh lừa à ?

Giả Mẫu vội gạt đi :

- Cháu Liễn đem trả cho nó, bảo nó đi về thôi. Nó là một người cùng cực quá, không có cách gì nữa, thấy nhà mình có việc ấy, mới tìm cách lừa gạt một ít tiền đó thôi. Bây giờ không may nó đã mất tiền toi lại không lừa được chúng ta. Theo ý ta cũng đừng nên làm tội nó, cứ đem trả cho nó, bảo là không phải của nhà ta, rồi cho nó vài lạng bạc. Làm như vậy, thì người ngoài nghe thấy có tin tức gì, họ mới dám đưa lại cho mình. Nếu mình làm tội nó thì sau dầu có được viên ngọc thật đi nữa, cũng không ai dám đưa đến .

Giả Liễn vâng lời đi ra. Ngừơi kia chở mãi chẳng thấy ai, trong lòng hồi hộp, bỗng thấy Giả Liễn hầm hầm đi ra .

Ghi chú :

1. Một nhân vật thần thoại trong số bát tiên mà người Trung Quốc nói đến và

vẽ thành tranh .

2. Tức Vương Từ Đằng .

3. Khi sắp phong chức tể tướng, thì viết tờ chiếu bằng giấy to đọc cho các quan nghe, cho nên gọi là “tuyên ma” .

4. Chứng bệnh bị đờm tắt các khiếu; đâm ra lạnh.

Hết hồi 95

Hồi thứ chín mươi sáu

Giấu hẳn tăm hơi Phượng Thư bày kế lạ;

Cơ mưu đã lộ, Đại Ngọc mất tính thường.

Giả Liễn cầm viên ngọc giả hầm hầm đi ra thư phòng.

Người kia thấy sắc mặt hắn, trong lòng đã lo sẵn, liền đứng ngay dậy. Y đang định nói thì Giả Liễn cười nhạt bảo:

- Đồ khốn nạn, to gan thật? Đây là nơi nào mà mày dám đến lừa dối như thế?

Rồi hắn ngoảnh lại gọi:

- Những người hầu đâu rồi?

Bên ngoài bọn hầu dạ ran như sấm. Giả Liễn nói:

- Lấy dây trói nó lại, đợi ông lớn về trình rõ, sẽ giải nó vào cửa quan.

Bọn hầu răm rắp trả lời:

- Thưa, sẵn sàng rồi ạ!

Miệng nói như thế, nhưng họ vẫn đứng im.

Người kia khiếp sợ, tay chân run lẩy bẩy, thấy tình cảnh này biết rằng khó lòng tránh được pháp luật, liền quỳ xuống sụp lạy kêu van

- Xin ông bớt giận, thật là con cùng cực quá, không biết làm thế nào, mới nghĩ ra việc làm vô liêm sỉ ấy. Viên ngọc này là con mượn tiền người ta làm ra, giờ đây con cũng không dám lấy lại nữa, xin biếu các cậu em trong phủ chơi thôi.

Nói xong, người kia sụp lạy lia lịa.

Giả Liễn quát:

- Mày liều thật! Nhà chúng tao đây thiếu gì cái đồ vứt đi không đắt ấy!

Đang lúc ầm ĩ thì Lại Đại đi vào, cười nói với Giả Liễn:

- Xin cậu bớt giận, quân này có đáng kể gì, tha cho nó, bảo nó cút đi thôi.

Giả Liễn nói:

- Thật đáng ghét quá.

Lại Đại và Giả Liễn vờ làm bộ vừa dọa vừa dỗ. Bọn người hầu ở ngoài đều gắt:

- Đồ chó, mày lại còn không lạy tạ cậu và ông Lại mà cút cho mau, còn chờ mấy cái đá nữa à?

Người kia vội vàng sụp lạy hai lạy, rồi ôm đầu chạy ra.

Từ đó, tiếng ấy đồn ra ngoài phố, ai cũng nói:

- Giả Bảo Ngọc thành Bảo Ngọc giả.

Hôm đó, Giả Chính đi chào khách trở về, mọi người thấy giữa tiết hoa đăng, sợ Giả Chính sinh giận chăng, nên cũng không trình lại những việc đã qua. Vì gần đây Nguyên Phi chết, bận rộn mất mấy hôm, rồi Bảo Ngọc lại ốm, cho nên tuy lệ thường có bày tiệc ăn uống, nhưng ai nấy đều không vui vẻ, nên không có việc gì đáng nói.

Đến ngày mười bảy tháng giêng, Vương phu nhân đang ngóng trông Vương Tử Đằng vào kinh, bỗng thấy Phượng Thư đến trình:

- Hôm nay cậu Hai ở ngoài nghe người ta đồn: ông cậu nhà ta đi gấp vào kinh, đến một chỗ cách kinh thành hơn hai trăm dặm thì bị bệnh mất giữa đường, thím có nghe nói không?

Vương phu nhân giật nẩy mình bảo:

-Ta không nghe nói. Chiều qua cũng không nghe ông nhà nói. Vậy thì chị nghe ở đâu thế?

- Con nghe người lạ nói, họ nghe tin ở nhà ông Trương trong Viện khu mật.

Vương phu nhân ngẩn người ra một lúc, nước mắt ròng ròng. Bà ta lau nước mắt nói:

- Chị về bảo anh Liễn hỏi cho rõ ràng rồi nói lại với tôi.

Phượng Thư vâng lời.

Vương phu nhân khóc thầm một mình, thương con gái, khóc em, lại lo cho Bảo Ngọc, việc này tiếp đến việc khác, đều là những chuyện đau lòng, làm sao chịu nổi. Vì thế đâm ra chứng đau bụng.

Giả Liễn đi hỏi rõ về trình lại:

- Ông cậu đi đường nhọc mệt, ngẫu nhiên cảm bệnh phong hàn, đến vùng đồn Thập Lý mời thầy thuốc điều trị. Khốn nỗi ở đó không có thầy thuốc giỏi, uống lầm thuốc, chỉ một thang là chết ngay. Nhưng không biết gia quyến đã đến đây chưa?

Vương phu nhân nghe nói, liền nổi cơn đau bụng, ngồi không được, bảo bọn Thái Vân đỡ lên giường nằm, gượng gạo gọi Giả Liễn đi trình với Giả Chính và dặn:

- Anh mau mau sắm sửa hành lý, đi đến đấy, lo liệu giúp việc chôn cất, xong rồi về ngay nói cho chúng ta biết, và cũng để cho chị ấy yên lòng.

Giả Liễn không dám trả lời, liền cáo từ Giả Chính rồi đi. Giả Chính cũng đã nghe tin, trong bụng rất là đau xót. Lại biết rằng Bảo Ngọc mất ngọc, mê mẩn tâm thần, thuốc thang không công hiệu, còn Vương phu nhân thì đau bụng.

Lúc bấy giờ vừa gặp dịp xét công lao các quan, Bộ công liệt Giả Chính vào hạng nhất. Tháng hai bộ Lại dẫn vào bệ kiến. Hoàng thượng nghĩ Giả Chính cần kiệm cẩn thận, liền bổ chức lương đạo tỉnh Giang Tây. Giả Chính tạ ơn rồi tâu rõ ngày lên đường nhậm chức. Tuy có bạn hữu và bà con đến mừng, nhưng vì trong nhà có người đang yếu, nên Giả Chính cũng chẳng bụng dạ nào tiếp, lại cũng không dám ở nhà lâu.

Giả Chính đang phân vân chưa biết làm thế nào thì thấy bên nhà Giả mẫu có người sang nói:

- Xin mời ông lớn sang.

Giả Chính vội vàng đi vào, thấy Vương phu nhân đang ốm cũng ngồi ở đấy.

Giả Chính hỏi thăm sức khỏe Giả mẫu. Giả mẫu bảo ông ta ngồi xuống rồi nói:

- Anh sắp đi nhậm chức, ta có nhiều điều muốn nói với anh, không biết anh có nghe hay không?

Giả mẫu nói đến đó thì nước mắt giàn giụa, Giả Chính vội vàng nói:

- Mẹ có việc gì cứ nói, con đâu dám trái lời.

Giả mẫu nghẹn ngào nói:

- Ta nay đã tám mươi mốt tuổi, anh lại đi làm quan ở ngoài. Vì có anh Cả, nên anh không thể viện cớ cớ mẹ già mà xin ở lại được. Nay anh ra đi, thằng Bảo là đứa ta yêu nhất, thế mà nó lại ốm mê mệt, chưa biết rồi ra sao. Hôm nay ta bảo mụ Lai Thăng ra gọi người xem bói cho nó, thầy bói đoán rất giỏi. Ông ta bảo: "Cần phải cưới người vợ thuộc mệnh kim về nâng giấc và cũng để "xung hỷ"(1) thì mới khỏe được, nếu không sợ khó mà qua khỏi". Ta biết anh không tin những chuyện ấy, nên gọi anh đến bàn. Vợ anh cũng ở đây. Hai vợ chồng cũng nên bàn xem: có muốn cho thằng Bảo khỏe hay không? Hay là để mặc nó?

Giả Chính vội vàng nói:

- Trước kia mẹ thương con như thế, không lẽ con lại không thương nó hay sao? Chỉ vì thằng Bảo không chịu chăm chỉ học hành, nên con hay giận nó, chẳng qua cũng là giận “sắt không thành thép" đấy thôi. Nay mẹ muốn cưới vợ cho nó, cũng là việc phải, lẽ nào con lại trái lời. Giờ đây nó ốm con cũng băn khoăn lo lắng, nhưng vì không cho nó gặp con, con cũng không dám nói. Con cũng muốn nhìn một chút xem nó ốm đau ra sao?

Vương phu nhân thấy Giả Chính nói đến đó, mắt cũng hơi đỏ lên, biết rằng ông ta trong lòng đau xót, liền cho người đưa Bảo Ngọc đến.

Bảo Ngọc tới gặp cha, Tập Nhân nhắc hỏi thăm sức khỏe thì hỏi. Giả Chính thấy Bảo Ngọc gầy gò, cặp mắt đờ đẫn, như người có bệnh điên, liền bảo người hầu vực vào trong nhà. Ông ta nghĩ bụng: “Mình năm nay gần sáu mươi tuổi, bổ quan ngoài không biết mấy năm nữa mới về được. Nếu quả thật nó có mệnh hệ nào thì tuổi già không ai nối dõi. Đành rằng mình có cháu, nhưng đã cách một tầng rồi. Mẹ mình lại rất yêu Bảo Ngọc, nếu có điều gì nhầm nhỡ, tội mình lại chẳng nặng hơn hay sao?" Nhìn lại Vương phu nhân thì nước mắt lưng tròng, lại càng lo lắng cho sức khỏe của vợ. Giả Chính liền đứng dậy nói:

- Mẹ đã già, nếu mẹ muốn lo cho nó, con đâu dám trái lời? Mẹ định làm thế nào thì cứ làm. Nhưng không biết đã nói với bên dì chưa?

Vương phu nhân nói:

- Dì đã nhận lời rồi, nhưng vì việc thằng Bàn chưa xong, nên lâu nay không nhắc đến.

- Đó là việc khó xử nhất. Anh đang còn ở trong nhà giam thì em xuất giá làm sao được. Vả lại mặc dầu việc Quý phi chết không cản trở gì việc cưới hỏi, nhưng theo lệ, Bảo Ngọc phải chịu tang chín tháng đối với người chị đã xuất giá, như vậy hiện giờ nó cũng chưa cưới vợ được. Về phần con thì ngày lên đường đã tâu rồi, không dám chậm trễ, trong mấy ngày nay thì lo liệu làm sao cho kịp?

Giả mẫu ngẫm nghĩ: “Nói như thế quả đúng đấy. Nhưng nếu chờ cho qua mấy việc kia, cha nó lại đi mất rồi, nhỡ ra bệnh nó càng ngày càng thêm nặng thì làm thế nào. Thôi đành phải chịu làm trái lễ phần nào mới được”. Rồi nói:

- Nếu anh bằng lòng lo vợ cho nó thì ta đã có cách, nhất định các việc kia thì không trở ngại gì. Bên dì thì ta với chị ấy sẽ qua nói chuyện. Chỗ thằng Bàn thì nhờ thằng Khoa nói hộ. Cứ nói rõ là cốt để cứu tính mệnh cho thằng Bảo nên mọi việc phải tòng quyền. Như thế chắc nó cũng bằng lòng. Còn việc cưới vợ trong lúc có tang chị thì thật là không được. Vả lại Bảo Ngọc đang ốm, cũng chưa thể làm lễ thành hôn, chẳng qua là để xung hỷ đó thôi. Hai nhà chúng mình đều bằng lòng, hai đứa nó lại sẵn có nhân duyên "vàng ngọc", chả cần làm lễ hợp hôn cũng được. Rồi chọn ngày tốt đưa lễ theo như lệ thường của nhà mình. Liền đó lại định ngày đưa dâu, theo như cách thức trong cung, bất tất phải dùng âm nhạc, chỉ dùng mười hai đôi đèn hoa, một cỗ kiệu tám người đón dâu về, rồi chiếu theo nề nếp miền Nam, cũng lễ gia đường, cũng ngồi giường buông màn(2) thế chẳng phải là cưới vợ rồi hay sao? Con Bảo rất thông minh, sáng suốt không cần phải lo. Trong đó lại có con Tập Nhân cũng là đứa biết việc, lại có người hiểu biết luôn luôn khuyên nó thì càng hay. Vả chăng thằng Bảo và con Bảo xưa nay vẫn thân với nhau. Hơn nữa bà dì thường nói: "Cái khóa vàng của con Bảo trước đây đã có một vị hòa thượng nói rằng chỉ chờ người có ngọc sẽ là vợ chồng.” Thì biết đâu con Bảo về đây lại không nhờ cái khóa vàng mà tìm được viên ngọc kia. Thế rồi mỗi ngày nó một khá dần, không phải phúc cho nhà mình sao? Giờ đây chỉ cần dọn dẹp nhà cửa, bày biện các phòng cho tử tế. Các phòng này thì phải do anh chị định mới được. Tất cả bạn bè thân thích không cần mời ai, cũng không cần bày biện tiệc tùng làm gì. Chờ lúc Bảo Ngọc thật khỏe, hết trở rồi, khi ấy hãy bày tiệc mời khách. Làm như thế thì việc gì cũng kíp. Anh cũng có thể nhìn thấy việc hôn nhân của hai con, để đi nhậm chức cho yên tâm.

Giả Chính nghe nói, tuy không bằng lòng, nhưng vì đó là ý định của Giả mẫu, nên không dám trái lời, đành phải nói miễn cưỡng:

- Mẹ nghĩ rất phải, lại rất chu đáo, nhưng phải dặn mọi người trong nhà không được rêu rao cho bên ngoài biết, nếu không thì sẽ có lỗi đấy. Chỉ sợ bên dì không bằng lòng thôi. Nếu dì bằng lòng, cũng chỉ có thể theo như ý mẹ mà lo liệu.

Giả mẫu nói:

- Thôi anh cứ ra, bên dì đã có ta.

Giả Chính vâng lời lui ra, trong bụng áy náy, nhưng vì bận việc đi nhậm chức, vào bộ lĩnh giấy tờ, bạn bè lại tiến cử người giúp việc, phải tiếp chuyện luôn, đành phải phó mặc việc cưới của Bảo Ngọc cho Giả mẫu, Vương phu nhân và Phượng Thư. Ông ta chỉ cho Bảo Ngọc một tòa nhà hai mươi gian sau nhà Vượng Hy, cạnh phòng ở của Vương phu nhân, còn các việc khác đều không nhìn đến. Tất cả đều do Giả mẫu quyết định, rồi sai người nói với ông ta, và ông ta cứ bảo là rất tốt.

Sau khi Bảo Ngọc gặp Giả Chính, Tập Nhân vực anh ta về nằm trên giường. Vì có Giả Chính ở ngoài, nên không ai dám nói chuyện với Bảo Ngọc. Anh ta nằm ngủ mê mệt. Những lời nói của Giả mẫu và Giả Chính, Bảo Ngọc chẳng hề nghe một câu nào. Tập Nhân thì lại lẳng lặng nghe rất rõ. Trước đây Tập Nhân cũng có nghe ít nhiều, nhưng còn không rõ, chỉ thấy Bảo Thoa không sang, nên cũng hơi tin. Nay nghe những câu nói ấy, trong bụng mới thật rõ ràng đích xác. Tập Nhân cũng rất mừng, nghĩ bụng: “Thật là con mắt bề trên rất tinh, dạm hỏi như thế mới đáng. Mình cũng có phúc, nếu cô ta về đây thì mình cũng đỡ được một phần gánh nặng. Có điều trong bụng cậu ấy chỉ có mê cô Lâm mà thôi, may mà cậu ấy chưa biết, nếu biết ra, chưa biết dằn vặt đến thế nào?" Tập Nhân nghĩ đến đó, lại đổi mừng thành lo, nghĩ bụng: "Việc này biết làm thế nào bây giờ? Cụ bà và bà Hai làm sao biết được những ý nghĩ của họ. Trong lúc cao hứng, họ tưởng nói cho cậu ấy biết thì bệnh sẽ khỏi. Nhưng nếu cậu ấy vẫn một lòng như trước thì làm thế nào. Mới lần đầu tiên thấy cô Lâm, cậu ấy đã đòi vứt ngọc, đập ngọc. Rồi như mùa hè năm trước ở trong vườn, cậu ấy nhận lầm mình là cô Lâm, thốt ra những lời ân ái. Sau đó, Tử Quyên chỉ nói đùa mấy câu, cậu ấy đã khóc lóc, chết đi sống lại. Nay nếu nói với cậu ta dạm cô Bảo, bỏ cô Lâm thì trừ phi là cậu ta mê man không biết gì, chứ nếu còn hơi tỉnh táo, thì không những không thể xung hỷ mà sợ lại chóng chết nữa kia! Mình mà không nói rõ thì chẳng phải làm hại một lúc cả ba người hay sao?"

Tập Nhân đã sẵn có ý định ấy, chờ cho Giả Chính đi ra liền gọi Thu Văn đến trông nom Bảo Ngọc, còn mình thì đi ra gặp Vương phu nhân, mời bà ta vào cái nhà sau phòng Giả mẫu để nói chuyện. Giả mẫu tưởng là Bảo Ngọc nói gì nên không để ý, còn ngồi tính toán việc đưa và rước dâu như thế nào.

Tập Nhân cùng Vương phu nhân vào nhà sau, chị ta liền qùy xuống mà khóc. Vương phu nhân chẳng hiểu vì sao, đưa tay kéo chị ta dậy nói:

- Tự dưng vô cớ, sao con lại như thế? Có việc gì oan ức đứng dậy mà nói.

- Việc này đáng lẽ con không nên nói, nhưng giờ đây không có cách nào khác nữa.

- Con cứ nói xem nào?

- Cụ và bà đã định việc hôn nhân của cậu Bảo, thật là  việc rất tốt. Nhưng con nghĩ, bà xem thử cậu Bảo thân với cô Bảo hay là thân với cô Lâm hơn?

 - Chúng nó từ lúc nhỏ ở với nhau một chỗ, nên ta xem thằng Bảo có phần thân với cô Lâm hơn.

- Không phải chỉ thân mà thôi đâu.

Tập Nhân liền đem tình hình giữa Bảo Ngọc và Đại Ngọc kể rõ đầu đuôi, và nói thêm:

- Những việc ấy chính mắt bà lớn đã thấy, chỉ có câu chuyện mùa hè trước đây, con chưa hề dám nói với ai.

Vương phu nhân nắm tay Tập Nhân nói:

- Ta nhìn bề ngoài cũng đã biết được một vài phần, nay con lại nói như thế thì thực là đúng rồi. Nhưng vừa rồi những lời nói của ông lớn, chắc Bảo Ngọc cùng đều nghe cả. Vậy con xem thần sắc nó ra sao?

- Cậu Bảo giờ đây có ai nói chuyện với thì chỉ cười, nếu không ai nói thì cứ ngủ hoài, cho nên những câu chuyện vừa rồi cậu ấy không hề nghe biết gì cả.

- Việc này biết làm thế nào bây giờ?

- Con nói thế thôi, bà lớn cần phải trình với cụ, nghĩ một kế gì cho vẹn toàn mới được.

- Đã thế thì con cứ đi làm việc của con. Lúc này trong nhà đông người hãy khoan nhắc đến việc ấy, chờ có dịp rảnh ta sẽ trình với cụ tùy cách lo liệu.

Nói xong, bà ta lại trở sang phòng Giả mẫu.

Giả mẫu đang bàn với Phượng Thư, thấy Vương phu nhân đi vào liền hỏi:

- Con Tập Nhân nói gì mà thầm thầm thụt thụt thế?

Vương phu nhân nhân dịp liền nói rõ tâm sự của Bảo Ngọc cho Giả mẫu rõ. Giả mẫu nghe nói im lặng một lúc lâu. Vương phu nhân và Phượng Thư cũng không nói nữa. Một chốc Giả mẫu than thở:

- Việc này đối với con Lâm cũng dễ thôi, chẳng sao cả. Nhưng nếu thằng Bảo Ngọc mà thật như thế thì cũng khó liệu đấy.

Phượng Thư nghĩ ngợi một lúc rồi nói:

- Khó thì cũng không khó. Tôi mới nghĩ được một cách, không biết cô(3) có bằng lòng không?

Vương phu nhân nói:

 - Chị có cách gì cứ nói cho cụ nghe, chúng ta bàn bạc cho kỹ rồi sẽ làm.

 - Theo ý cháu thì việc này chỉ có cách đánh tráo mà thôi. Bây giờ không kể là chú Bảo có hiểu hay không hiểu, mọi người chúng ta cứ rêu rao lên là ông lớn làm chủ, cưới cô Lâm cho chú ấy xem thần sắc chú ấy như thế nào. Nếu chú ấy không hề để ý gì cả thì bất tất phải dùng cách này, nếu mà chú ấy có ý vui mừng thì việc này phải mất công sắp đặt mới được.

Vương phu nhân nói:

- Nếu như nó vui mừng thì chị định tính cách nào?

Phượng Thư ghé lại bên tai Vương phu nhân nói phải làm như thế. Vương phu nhân gật đầu mấy cái rồi cười nói:

- Cũng được.

Giả mẫu liền hỏi:

- Mẹ con nhà mày làm cái trò quỷ gì thế. Nói ta nghe rõ xem nào!

Phượng Thư sợ Giả mẫu không hiểu, để lộ mưu mô, liền ghé bên tai Giả mẫu nói thầm mấy cầu. Quả nhiên Giả mẫu chưa hiểu được ngay. Phượng Thư lại cười nói mấy câu nữa. Giả mẫu cười nói:

- Như thế cũng được, nhưng thật tội cho con Bảo. Nếu mà rêu rao ra thì con Lâm sẽ ra sao?

Phượng Thư nói:

- Những câu nói ấy chỉ nói cho một mình chú Bảo nghe, nhất thiết không hở ra với một người nào, thì ai biết được!

Đang nói chuyện thì a hoàn vào trình:

- Cậu Hai Liễn đã về.

Vương phu nhân sợ Giả mẫu hỏi Giả Liễn, liền đưa mắt ra hiệu với Phượng Thư. Phượng Thư đi ra đến lấy Giả Liễn rồi vĩu môi ra hiệu. Hai vợ chồng hắn cùng đến chờ ở nhà Vương phu nhân. Một lúc Vương phu nhân về, thấy Phượng Thư đã khóc đỏ cả hai mắt. Giả Liễn hỏi thăm sức khỏe rồi kể lại chuyện đến đồn Thắp Lý lo liệu đám ma Vương Tử Đằng cho Vương phu nhân nghe. Giả Liễn lại nói thêm:

- Có chiếu chỉ nhà vua truy phong chức hàm nội các, cho thụy hiệu là Văn Cần Công, bảo người nhà đưa linh cữu về quê, truyền cho quan lại dọc đường trông nom lo liệu. Ngày hôm qua, linh cữu bắt đầu ra đi, gia quyến đã bắt đầu khởi hành về Nam rồi. Mợ(4) có gửi lời về hỏi thăm sức khỏe và nói không ngờ giờ đây lại không thể vào kinh, có bao nhiêu câu chuyện không thể nói được. Mợ lại nghe nói anh Cả nhà cháu(5) cũng định vào kinh, nếu dọc đường gặp nhau, thì sẽ bảo anh ấy đến chỗ nhà ta nói lại.

Vương phu nhân nghe xong, đau xót vô cùng.

Phượng Thư khuyên lơn một hồi và nói:

- Mời thím hãy nghỉ một chốc, đến đêm ta lại bàn chuyện chú Bảo.

Phượng Thư nói xong cùng Giả Liễn về phòng, đem câu chuyện vừa rồi kề cho hắn biết và bảo hắn sai người sắp xếp nhà mới cho Bảo Ngọc.

Một hôm Đại Ngọc ăn cơm sáng xong, cùng Tử Quyên sang nhà Giả mẫu hỏi thăm sức khỏe, đồng thời để đi dạo cho khuây. Vừa ra khỏi quán Tiêu Tương được mấy bước bỗng nhớ lại quên mất cái khăn tay. Đại Ngọc liền bảo Tử Quyên về nhà lấy còn mình thì thong thả vừa đi vừa chờ. Đến sau núi đá, bên cầu Thấm Phương, chỗ trước kia cùng chôn hoa với Bảo Ngọc, bỗng nghe ở đấy có tiếng người nức nở. Đại Ngọc dừng chân lại nghe, nhưng không nhận ra tiếng của ai, lại cũng không nghe rõ người ấy vừa khóc vừa kể lể những gì, trong lòng rất là ngờ vực. Đại Ngọc liền thong thả lại gần, thì thấy một a hoàn mày rậm, mắt to đang khóc ở đấy. Lúc chưa trông thấy người ấy, Đại Ngọc ngờ là a hoàn lớn nào đó có tâm sự không nói ra được nên đến đấy khóc. Đến khi trông thấy, Đại Ngọc lại buồn cười, nghĩ bụng: “Đồ ngu xuẩn này, làm gì có tình với tứ. Chắc là con này giận gì bọn a hoàn lớn đấy thôi”. Cô ta nhìn kỹ lại không biết là người nào. Người con gái ấy thấy Đại Ngọc đến, không dám khóc nữa, liền đứng dậy lau nước mắt.

Đại Ngọc hỏi:

- Sao vô cớ lại ra đây mà khóc?

Người con gái ấy nghe hỏi lại chảy nước mắt nói:

- Cô Lâm! Cô thử nghĩ mà xem: họ nói chuyện cháu không biết, dù có nói sai một câu, chị cháu cũng không nên đánh cháu kia mà?

Đại Ngọc nghe không hiểu nó nói gì, liền cười hỏi:

- Chị mày là ai?

- Chị cháu là Trân Châu.

Đại Ngọc nghe nói biết nó là người bên nhà Giả mẫu, lại hỏi:

- Mày tên gì?

- Tên cháu là con Ngốc.

Đại Ngọc cười rồi lại hỏi:

- Vì sao chị mày đánh mày? Mày nói sai câu gì thế?

- Vì việc gì à? Chỉ vì câu chuyện cậu Bảo nhà ta ăn cưới cô Bảo đấy thôi.

Đại Ngọc nghe câu ấy, tim đập thình thình, như sét đánh bên tai. Một lát sau, tinh thần hơi bình tĩnh, liền bảo người a hoàn ấy:

- Đi lại đây với ta.

Người a hoàn theo Đại Ngọc đến góc bên kia, chỗ chôn hoa đào năm trước, thấy vắng vẻ im lặng. Đại Ngọc hỏi:

- Cậu Bảo lấy cô Bảo, tại sao mà họ đánh mày?

- Cụ, bà Hai và mợ Phượng Thư bàn với nhau, nhân lúc ông lớn sắp lên đường, gấp rút bàn với dì Tiết để cưới cô Bảo. Thứ nhất là muốn xung hỷ gì đó cho cậu Bảo, thứ hai…

Nói đến đó, nó lại lườm Đại Ngọc mà cười rồi nói tiếp:

- Lo xong việc này, còn phải kén chồng cho cô Lâm nữa.

Đại Ngọc nghe nói vậy đã ngơ ngác cả người, nhưng nó vẫn cứ nói tiếp:

- Cháu cũng không biết họ bàn bạc như thế nào mà không cho nói đến chuyện ấy, chừng họ sợ cô Bảo hổ thẹn thì phải. Cháu chỉ nói chơi với chị Tập Nhân một câu: “Chúng ta rồi đây càng thêm nhộn nhịp, vừa là cô Bảo, vừa là mợ Hai Bảo, biết gọi thế nào cho tiện?” Cô thử nghĩ xem, nói như thế, động chạm gì đến chị Trân Châu kia chứ? Thế mà chị ta chạy lại tát cháu một cái bảo là cháu nói bậy, không nghe bề trên dặn bảo, định đuổi cháu đi. Cháu có biết bề trên tại sao không cho nói đâu. Các chị không bảo cho cháu biết, lại đi đánh cháu!

Nó nói đến đó lại khóc oà lên.

Lúc bấy giờ, trong lòng Đại Ngọc rối như mớ bòng bong, trăm mối tơ vò, ngọt, bùi, chua, cay lẫn lộn.

Nghỉ một chút rồi cô ta run run nói:

- Mày đừng nói bậy nữa. Nếu còn nói bậy, họ nghe được, họ lại đánh cho đấy. Về đi thôi!

Đại Ngọc định trở về quán Tiêu Tương, nhưng cảm thấy người mình nặng trĩu, hai chân mềm nhũn như mớ bông, đành phải gắng gượng đi từ từ từng bước một. Đi một lúc lâu vẫn chưa đến cầu Thấm Phương, thì ra chân yếu đi đã chậm lại mê man bước như cái máy, đi quanh về bên kia mới quay lại, nên đường đi lại xa ra nhiều. Vừa về đến cầu Thấm Phương, Đại Ngọc thuận đường, đi luôn vào trong.

Tử Quyên trở về lấy khăn tay ra, chẳng thấy Đại Ngọc  đâu cả, đang nhìn quanh quẩn, thấy Đại Ngọc sắc mặt tái đi, chân tay bủn rủn, hai mắt sững sờ, đang loay hoay ở đấy, lại thấy phía trước có một a hoàn chạy, nhưng xa quá, không nhận ra ai. Tử Quyên ngờ vực và lấy làm lạ, đành phải chạy lại hỏi khẽ:

-  Sao cô lại trở về? Hay định đi đâu thế?

Đại Ngọc hình như chỉ nghe loáng thoáng, liền buột miệng trả lời:

- Ta đi tìm Bảo Ngọc đây.

Tử Quyên nghe nói chẳng hiểu đầu đuôi ra sao, đành phải dìu cô ta qua nhà Giả mẫu. Đại Ngọc đi đến cửa Giả mẫu, trong lòng hơi tỉnh táo, ngoảnh lại thấy Tử Quyên đang dìu mình liền đứng lại hỏi:

- Chị làm cái gì thế?

Tử Quyên cười nói:

- Cháu về lấy khăn tay đưa đến, thấy cô đang ở bên cầu, cháu chạy lại hỏi, cô chẳng để ý gì cả.

Đại Ngọc cười:

- Tôi tưởng là chị đi thăm cậu Bảo, không thì sao lại tới đây?

Tử Quyên thấy cô ta trong lòng mê mẩn, biết ngay là đã nghe con a hoàn kia nói gì rồi, nên chỉ gật đầu mỉm cười mà thôi. Nhưng Tử Quyên lại sợ cô ta khi gặp Bảo Ngọc, một người đã ngây ngây dại dại, một người lại mơ mơ màng màng, nhỡ thốt ra những lời không nhã nhặn thì biết làm thế nào? Bụng tuy nghĩ thế, nhưng cũng không dám trái lời, đành phải dìu cô ta đi vào.

Lúc đó, lại rất lạ, Đại Ngọc không phải yếu đuối như trước nữa. Cũng không cần Tử Quyên vén màn, tự mình vén màn lên. Vào nhà thấy im lặng, Giả mẫu đang ngủ trưa, bọn a hoàn, người thì bỏ đi chơi, người thì ngủ, người thì ở lại chờ hầu Giả mẫu. Tập Nhân nghe tiếng mở màn, ngó ra ngoài xem, thấy Đại Ngọc liền nói:

- Mời cô vào trong này ngồi.

Đại Ngọc cười nói:

- Cậu Bảo ở nhà không?

Tập Nhân không hiểu đầu đuôi, đang định trả lời thì thấy Tử Quyên ở đằng sau vỉu môi ra hiệu, rồi chỉ vào Đại Ngọc và xua tay. Tập Nhân chẳng hiểu ra sao cũng không dám nói.

Đại Ngọc cũng chẳng để ý, cứ đi thẳng vào phòng. Bảo Ngọc đang ngồi đấy, cũng không đứng dậy mời, cứ nhìn Đại Ngọc mà cười hì. Cả hai người chẳng chào hỏi, chẳng nói năng mời mọc gì cả, chỉ có nhìn nhau mà cười một cách ngây ngô.

Tập Nhân thấy tình hình như thế, trong bụng bối rối, nhưng chẳng biết làm thế nào. Bỗng nghe Đại Ngọc hỏi:

- Anh Bảo, anh vì sao mà ốm thế.

Bảo Ngọc cười, nói:

- Tôi vì cô Lâm mà ốm đấy.

Tập Nhân và Tử Quyên đều khiếp sợ thất sắc, vội vàng lựa lời nói lảng. Thế rồi Đại Ngọc và Bảo Ngọc cũng chẳng nói gì cứ ngồi cười ngây ngô như trước. Tập Nhân thấy thế, biết rằng hiện giờ trong bụng Đại Ngọc cũng mê mẩn chẳng khác gì Bảo Ngọc, liền bảo nhỏ với Tử Quyên:

- Cô mới khỏe, để tôi bảo em Thu Văn cùng chị dìu cô về nghỉ thôi.

Rồi chị ta ngoảnh lại bảo Thu Văn:

- Em cùng chị Tử Quyên đưa cô Lâm về, đừng có nói nhảm đấy.

Thu Văn cười, không nói gì rồi cùng Tử Quyên đỡ Đại Ngọc dậy. Đại Ngọc cũng đứng dậy và cứ nhìn Bảo Ngọc vừa cười vừa gật đầu.

Tử Quyên giục:

- Cô về nhà nghỉ thôi.

Đại Ngọc nói:

- Phải đấy, giờ đến lúc ta về đây.

Đại Ngọc nói đến đó, liền quay gót đi ra, vẫn không cần bọn a hoàn dìu dắt, tự mình đi nhanh hơn ngày thường. Tử Quyên và Thu Văn vội vàng chạy theo. Đại Ngọc ra khỏi cửa nhà Giả mẫu, cứ một mực đi thẳng. Tử Quyên vội vàng dìu lại và nói:

- Cô ơi, đi đường này chứ?

Đại Ngọc chỉ cười rồi theo Tử Quyên đi về quán Tiêu  Tương.

Khi đã gần đến cửa, Tử Quyên nói:

- A di đà Phật! May đến nhà rồi!

Nói chưa xong thì thấy Đại Ngọc ngã sấp xuống, oẹ một cái, miệng nhổ ra một cục máu tươi.

Hồi thứ chín mươi bảy

Đốt cảo thơ, Đại Ngọc dứt tình si;

Về nhà chồng, Bảo Thoa thành lễ lớn.

Đại Ngọc về đến cửa quán Tiêu Tương, nghe Tử Quyên nói, xúc động trong lòng, miệng hộc máu ra, choáng váng muốn ngã, may có Tử Quyên và Thu Văn vực dậy, dìu vào trong nhà.

Sau khi Thu Văn về, Tử Quyên và Tuyết Nhạn ngồi bên cạnh trông nom, thấy cô ta tỉnh dần, hỏi Tử Quyên:

- Các chị ngồi khóc gì đấy?

Tử Quyên thấy cô ta nói được, người đã tỉnh táo, mới yên lòng, liền nói:

- Vừa rồi cô ở bên nhà cụ về, xem chừng mệt lắm, làm cho chúng tôi khiếp quá, chẳng biết thế nào, nên mới khóc.

Đại Ngọc cười nói:

- Tôi đã chết đâu được!

Nói chưa xong, lại thở hổn hển một hồi.

Số là hôm nay Đại Ngọc nghe được câu chuyện kết hôn giữa Bảo Ngọc và Bảo Thoa - điều này vốn là tâm bệnh mấy năm nay của cô ta, nên tức giận quá, đâm ra mê mẩn. Đến khi hộc máu ra rồi, trong lòng cô ta mới dần dần tỉnh lại, câu chuyện vừa rồi không hề nhớ một tý gì cả. Nay thấy Tử Quyên khóc, mới mơ màng nhớ tới lời nói của con Ngốc. Bây giờ Đại Ngọc không cảm thấy đau xót nữa, chỉ mong chết cho mau, để hết nợ tình.

Tử Quyên và Tuyết Nhạn đành phải ngồi đấy trông nom, muốn đi nói với Giả mẫu thì sợ lại bị Phượng Thư quở mắng như lần trước là vô cớ làm ầm ĩ lên.

Giả mẫu đang nghỉ trưa, thấy Thu Văn về, thần sắc hoảng hốt, liền hỏi:

- Làm sao thế?

Thu Văn vội vàng đem việc vừa rồi trình lại rõ ràng. Giả mẫu sợ quá, nói:

- Thế thì chết thật!

Và vội vàng cho gọi Vương phu nhân và Phượng Thư đến, nói rõ cho hai người biết. Phượng Thư nói:

- Cháu đã dặn dò cả rồi, ai lại làm lộ chuyện ra thế? Thật là khó xử!

Giả mẫu nói:

- Hãy khoan nghĩ gì việc ấy, thử qua xem thế nào đã.

Nói xong, Giả mẫu cùng Vương phu nhân và Phượng Thư qua quán Tiêu Tương. Tới nơi, thấy Đại Ngọc sắc mặt tái xanh không có hột máu, nằm mê man, thở thoi thóp, cứ chốc chốc lại ho. A hoàn đưa ống nhổ ra thì thấy toàn là đờm lẫn máu. Mọi người thấy vậy đều hoảng hốt. Bỗng Đại Ngọc hé mắt ra, trông thấy Giả mẫu ở một bên, liền thở hổn hển nói:

- Bà ơi, bà thực hoài công thương cháu!

Giả mẫu nghe vậy rất là khó chịu liền nói:

- Cháu ơi, cháu cứ nằm yên, không sợ gì đâu?

Đại Ngọc mỉm cười, nhắm mắt lại.

A hoàn ở ngoài vào trình với Phượng Thư:

- Thầy thuốc đã đến.

Mọi người tránh ra một bên. Thầy thuốc cùng Giả Liễn đi vào xem mạch rồi nói:

- Cũng chưa can gì lắm. Đây là khí uất làm thương tổn đến can, can không giữ được máu cho nên thần kinh rối loạn. Bây giờ phải dùng thứ thuốc giữ âm cầm máu mới mong khỏi được.

Thầy thuốc họ Vương nói xong, cùng Giả Liễn đi ra kê đơn bốc thuốc.

Giả mẫu thấy thần sắc của Đại Ngọc nguy lắm, liền đi ra bảo bọn Phượng Thư:

- Không phải là ta rủa nó, chứ bệnh tình con bé này nặng lắm, sợ khó khỏi. Các người cũng nên lo đồ hậu sự cho nó, mượn cách xung xem sao, may ra mà khỏe thì chúng mình cũng được rảnh rang, lỡ có xảy ra việc gì cũng không đến nỗi nước đến chân mới nhảy. Vả lại hai hôm nay, nhà mình còn lắm việc nữa kia đấy.

Phượng Thư vâng lời, Giả mẫu lại hỏi Tử Quyên một hồi, nhưng cuối cùng cũng chẳng biết ai để lộ chuyện.

Giả mẫu buồn bực nói:

- Trẻ con từ khi nhỏ ở với nhau một chỗ, thân thiết nhau là lẽ thường, nhưng bây giờ khôn lớn đã hiểu việc đời, cũng nên phân biệt mới đúng là thân phận người con gái; xứng đáng với lòng yêu thương của ta. Nếu bụng nó có ý nghĩ gì khác thì còn ra người thế nào nữa? Có phải là ta hoài công thương nó không. Xem như điều các người nói đó thì ta có phần không an tâm.

Về đến nhà, Giả mẫu lại gọi Tập Nhân đến hỏi. Tập Nhân nói lại đầu đuôi những điều đã nói với Vương phu nhân hôm trước và tình hình của Đại Ngọc vừa rồi. Giả mẫu nói:

- Vừa rồi, ta thấy nó vẫn còn tỉnh táo. Chuyện ấy ta thật không thể nào hiểu được. Nhà chúng ta đây, việc khác cố nhiên không có, còn cái thứ tâm bệnh ấy lại càng không thể có. Con Lâm nếu mắc bệnh khác thì mất bao nhiêu tiền ta cũng bằng lòng, nhưng nếu là bệnh ấy thì chẳng những không chữa được mà ta cũng chẳng thương.

Phượng Thư nói:

- Việc em Lâm bà cũng không cần lo liệu, đã có anh Hai nó ngày nào cũng đi với thầy thuốc đến trông nom. Việc quan trọng là bên nhà cô cháu. Sáng nay nghe nói nhà cửa đã gần xong xuôi cả rồi. Giờ đây có lẽ bà và thím qua bên ấy, cháu cũng theo sang để cùng bàn bạc. Có điều bên nhà cô cháu, có em Bảo ở đấy, nói chuyện không tiện, chi bằng mời cô cháu đêm nay sang đây cùng bàn bạc cho xong, thế là có thể lo liệu được.

Giả mẫu và Vương phu nhân đều nói:

- Cháu nói phải đấy! Hôm nay muộn quá, đến mai ăn cơm xong, tất cả mẹ, con, bà cháu ta sẽ sang bên ấy.

Nói xong, Giả mẫu ăn cơm chiều, Vương phu nhân và Phượng Thư về nhà.

Hôm sau Phượng Thư ăn cơm sớm rồi qua nhà Giả mẫu, muốn thử Bảo Ngọc xem thế nào, liền đi vào phòng anh ta và nói:

- Có điều rất mừng chú Bảo ạ! Ông nhà đã chọn ngày tốt cưới vợ cho chú, chú có thích không?

Bảo Ngọc nghe nói cứ nhìn Phượng Thư mà cười và khẽ gật đầu.

Phượng Thư cười nói:

- Cưới cô Lâm cho chú có được không?

Bảo Ngọc càng cười to lên. Phượng Thư thấy thế cũng không dám đoán ra anh ta tỉnh hay mê, liền nói tiếp:

- Ông nhà nói chú mà lành mạnh thì mới cưới cô Lâm cho, nếu cứ ngớ ngẩn như thế thì không cưới đâu.

Bảo Ngọc bỗng nghiêm nét mặt:

- Tôi không ngớ ngẩn đâu, chị mới là ngớ ngẩn.

Rồi đứng dậy nói:

- Tôi đi thăm em Lâm, bảo cho cô ta yên lòng.

Phượng Thư vội cản lại nói:

- Em Lâm đã biết rồi. Bây giờ sắp làm cô dâu mới, cô ta thẹn không chịu gặp chú đâu.

- Cưới về đây thì rồi cô ta có phải gặp tôi hay không?

Phượng Thư nghe nói vừa lo lắng, nghĩ bụng: “Lời nói của Tập Nhân quả nhiên không sai. Nghe nhắc đến em Lâm, tuy chú ấy vẫn còn nói nhảm, nhưng xem bộ tỉnh hơn nhiều. Nếu thật tỉnh rồi, sau này cưới về không phải là cô Lâm, vỡ lở câu chuyện ra thì điều rắc rối này mới thật khó xử.”

Phượng Thư nín cười và nói:

- Chú có tử tế thì cô ta mới chịu gặp, nếu cứ ngây ngây dại dại thì cô ta không chịu gặp đâu.

- Tôi chỉ có một quả tim, trước đây đã giao cho em Lâm rồi. Nếu cô ta đến thì thế nào cũng mang tim sang và đặt nó vào lòng tôi.

Phượng Thư nghe nói câu ấy biết là nói điên, liền sang bên Giả mẫu vừa cười vừa kể lại. Giả mẫu nghe vậy vừa cười vừa thương, nói:

- Ta cũng đã nghe rồi. Bây giờ hãy để mặc nó, bảo con Tập Nhân yên ủi nó. Chúng ta đi thôi.

Nói đến đây thì Vương phu nhân vừa đến, rồi cùng nhau sang nhà dì Tiết. Tới nơi, họ chỉ nói “lo cho việc bên này nên đến thăm”. Tiết phu nhân rất cảm kích, nói chuyện Tiết Bàn một chốc rồi uống trà. Tiết phu nhân định cho người tin với Bảo Thoa. Phượng Thư vội vàng ngăn lại:

- Thôi, cô không cần phải nói với em Bảo làm gì.

Rồi chị ta lại cười, nói với Tiết phu nhân:

- Lần này cụ tôi đến đây, một là thăm cô, hai là cũng có câu chuyện cần, định mời cô sang bên nhà bàn bạc.

Tiết phu nhân nghe nói gật đầu: “Phải đấy”

Mọi người lại nói chuyện suông một lúc rồi về.

Chiều hôm ấy quả nhiên Tiết phu nhân sang gặp Giả mẫu rồi đến nhà Vương phu nhân. Chị em nhắc đến chuyện Vương Tử Đằng, lại khóc lóc một hồi. Rồi Tiết phu nhân nói:

- Vừa rồi tôi sang nhà cụ, cháu Bảo ra chào, thấy vẫn khỏe khoắn như thường, chỉ hơi gầy thôi, sao các người nói dễ sợ thế?

Phượng Thư nói:

- Thực ra thì cũng không sao, có điều bà cháu cứ lo lắng. Hiện giờ ông lớn cháu lại phải lên đường đi nhậm chức ở ngoài, chẳng biết bao giờ mới về. Theo ý cụ bà cháu, thứ nhất là để ông lớn cháu nhìn thấy chú Bảo nên cửa nên nhà, thì đi cũng yên lòng, thứ hai là nhân tiện cũng làm cách xung cho chú Bảo, mượn cái khóa vàng của cô Bảo trấn áp tà khí, có lẽ chú ấy sẽ khỏe hẳn.

Tiết phu nhân cũng bằng lòng, chỉ sợ Bảo Thoa còn có điều gì ấm ức trong lòng, liền nói:

- Thế cũng được, có điều chúng ta phải tính toán cho kỹ.

Vương phu nhân theo lời Phượng Thư, bàn với Tiết phu nhân, lại nói:

- Giờ bên nhà dì ít người, chi bằng tất cả đồ nữ trang hãy khoan sắm. Ngày mai bảo cháu Khoa đi nói với cháu Bàn. Một mặt ở đây làm lễ đưa dâu, một mặt tìm cách lo liệu việc quan cho nó.

Vương phu nhân không hề nói gì đến tâm sự của Bảo Ngọc, lại nói thêm:

- Dì đã bằng lòng gả thì cho rước dâu đi, công việc xong nhanh được ngày nào, chúng ta sớm yên tâm ngày ấy.

Đang nói thì Giả mẫu sai Uyên Ương qua hỏi tin. Tiết phu nhân tuy sợ Bảo Thoa có điều gì thắc mắc trong lòng, nhưng cũng chẳng có cách nào, lại thấy tình hình như thế, đành phải vâng lời.

 Uyên Ương về trình với Giả mẫu. Giả mẫu rất mừng, lại sai Uyên Ương sang nhờ Tiết phu nhân nói rõ với Bảo Thoa khỏi để Bảo Thoa thắc mắc. Tiết phu nhân cũng vâng lời. Hai bên đều bàn định cho vợ chồng Phượng Thư đứng ra làm mối. Bàn xong, mọi người ra về, chị em Vương phu nhân lại nói chuyện đến nửa đêm mới ngủ.

Hôm sau, Tiết phu nhân về nhà, đem chuyện bàn ở bên này nói kỹ cho Bảo Thoa nghe, và nói thêm:

- Mẹ đã nhận lời rồi.

Bảo Thoa ban đầu cúi đầu không nói gì, sau lại chảy nước mắt ra. Tiết phu nhân lựa lời khuyên giải. Rồi Bảo Thoa trở về phòng mình. Bảo Cầm cũng theo đi để khuyên giải.

Tiết phu nhân lại nói cho Tiết Khoa biết, và bảo anh ta:

- Ngày mai cháu đi, một là xem quan xử ra sao, hai là tin cho anh cháu biết chuyện này rồi về mau.

Tiết Khoa đi bốn ngày rồi về trình với Tiết phu nhân:

- Việc anh Cả quan trên đã chuẩn y là bị lỡ tay đánh chết người, chờ xét qua một lần nữa sẽ bẩm lên trên. Anh Cả bảo chúng ta phải sắp sẵn tiền bạc chuộc tội, còn việc cô em thì anh ấy nói: “Mẹ làm chủ là tốt, gấp rút lo liệu như thế cũng đỡ được một ít bạc. Đừng có chờ đợi, nên lo liệu như thế nào thì cứ làm đi thôi”.

Tiết phu nhân nghe nói mừng rỡ vì Tiết Bàn có thể về nhà, nếu lo xong việc Bảo Thoa thì cũng yên tâm được nhiều. Cho nên xem bộ Bảo Thoa hình như bằng lòng, nhưng bà ta vẫn nghĩ: “Mặc dù thế, nó là con gái, xưa nay lại hiếu thuận và biết giữ lễ, biết mình nhận lời rồi thì nó cũng chẳng có thể nói gì”. Tiết phu nhân nghĩ thế rồi bảo Tiết Khoa:

- Cháu sắm một bức canh thiếp, viết tám chữ lên trên(6) rồi sai người đưa sang bên nhà cậu Hai Liễn hỏi rõ ngày đưa lễ để chúng ta có thể sắp đặt sẵn sàng. Chúng ta vẫn định không mời mọc bà con, bạn bè. Bạn bè của anh cháu như cháu đã nói, đều là hạng người tầm bậy. Còn bà con thì chỉ có hai nhà họ Giả và họ Vương. Nay họ Giả là họ giai, họ Vương thì ở kinh chẳng có ai. Việc gả cô Sử nhà họ chẳng mời nhà mình, nay nhà mình cũng không cần cho họ biết làm gì. Chỉ cần mời ông Trương Đức Huy đến, nhờ ông ta trông nom xếp đặt ít nhiều. Ông ta là người có tuổi, thế nào cũng hiểu việc hơn.

Tiết Khoa vâng lời, sai người đưa canh thiếp đi.

Hôm sau Giả Liễn đến gặp Tiết phu nhân, hỏi thăm sức khỏe rồi nói:

- Ngày mai là ngày tốt. Hôm nay đến trình với dì, xin đến ngày mai làm lễ nạp tài, mong dì thể tất cho.

Nói xong, bưng quyển thông thư(7) lại. Tiết phu nhân cũng nói ít câu khiêm tốn, rồi gật đầu nhận lời. Giả Liễn vội vàng về trình rõ với Giả Chính. Giả Chính nói:

- Cháu vào trình với cụ, đã không cho bà con bạn bè biết thì nên đơn giản là hơn. Còn về lễ vật thì mời cụ xem qua là được, không cần phải nói với ta.

Giả Liễn vâng lời, vào trong trình rõ với Giả mẫu. Trong này Vương phu nhân gọi Phượng Thư sai người đưa các lễ vật nạp tài cho Giả mẫu xem, và bảo Tập Nhân nói với Bảo Ngọc.

Bảo Ngọc cười nói:

- Ở đây đưa vào trong vườn, rồi chốc nữa ở trong vườn lại đưa đến đây; người nhà mình đưa đi, người nhà mình lại nhận; tội gì mà làm như thế?

Giả mẫu và Vương phu nhân nghe xong, đều vui mừng và nói:

- Người ta bảo nó ngớ ngẩn, nhưng hôm nay sao lại sáng suốt như thế?

Bọn Uyên Ương nhịn cười không được, đành phải xướng rõ từng thứ cho Giả mẫu xem:

- Đây là vòng vàng đeo cổ. Đây là đồ đeo tay bằng vàng ngọc cộng tám mươi cái. Đây là vóc bốn mươi tấm. Đây là các thứ trừu và đoạn cộng một trăm hai mươi tấm. Đây là quần áo bốn mùa cộng một trăm hai mươi cái. Đây là bạc thay tiền dê, rượu vì không sắm các thứ đó.

Giả mẫu xem qua đều khen là tốt, rồi nói nhỏ với Phượng Thư:

- Cháu đi nói với dì rằng: không phải chỉ lễ suông như thế này đâu. Xin dì chờ lúc nào cháu Bàn được ra, sẽ thong thả sai người sắm sửa cho em nó. Còn chăn đệm đêm hợp hôn cũng để bên nhà chúng ta sắm thôi.

Phượng Thư vâng lời đi ra, bảo Giả Liễn qua bên kia trước, rồi chị ta dặn bọn Chu Thụy và Lai Vượng:

- Bất tất phải đi cửa chính, chỉ theo cửa nhỏ trong vườn trước kia thường mở mà đưa đi thôi. Ta cũng sẽ qua đấy. Cửa ấy xa quán Tiêu Tương, nếu người khác trông thấy thì dặn dò họ đừng có nói cho người ở quán Tiêu Tương biết.

Mọi người đều vâng lời, rồi đưa lễ đi.

Bảo Ngọc tưởng là thật, mừng quá, tinh thần có phần tỉnh táo hơn trước, nhưng ăn nói vẫn còn ngớ ngẩn. Những người đi đưa lễ về, đều không nói đến tên họ. Tuy trên dưới ai cũng biết, nhưng vì Phượng Thư đã dặn trước nên không ai dám tiết lộ.

Đại Ngọc tuy có uống thuốc, nhưng bệnh càng ngày càng nặng. Bọn Tử Quyên ở gần bên, tìm hết lời an ủi và nói:

- Sự tình đã đến nông nỗi này, không thể không nói nữa. Tâm sự của cô, chúng cháu đều biết. Còn như việc bất ngờ kia thật là không có. Cô không tin thử nhìn thân thể của cậu Bảo cũng đủ rõ. Bệnh nặng như thế, kết hôn làm sao được. Cô đừng nghe những lời nói nhảm, tự mình phải giữ lấy sức khỏe mới được.

Đại Ngọc mỉm cười, cũng không nói gì, rồi ho vài tiếng, khạc ra một ít máu.

Bọn Tử Quyên xem chừng cô ta chỉ còn thoi thóp, biết chắc không thể khuyên giải, đành nhìn nhau mà ứa nước mắt. Ngày nào bọn Tử Quyên cũng đi trình với Giả mẫu ba bốn lần. Uyên Ương đoán biết gần đây Giả mẫu thương yêu Đại Ngọc đã khác trước ít nhiều, nên cũng không mấy khi trình lại cho Giả mẫu biết. Vả lại, mấy hôm ấy Giả mẫu chỉ nghĩ đến Bảo Ngọc và Bảo Thoa nên không nghe nói đến Đại Ngọc, cũng không nhắc nhở lắm, chỉ bảo mời thầy đến chạy chữa mà thôi.

Trước đây, mỗi khi Đại Ngọc ốm, từ Giả mẫu đến những người hầu của các chị em vẫn thường đến hỏi thăm. Nay thấy tất cả mọi người trên dưới ở trong phủ Giả chẳng có ai qua lại, chẳng có lấy một người đến thăm nom, Đại Ngọc mở mắt ra chỉ có một mình Tử Quyên, tự nghĩ mình không thể sống được, bèn gắng gượng nói với Tử Quyên:

- Em ơi, em là người thân nhất của ta, tuy rằng mấy năm nay bà sai em hầu hạ ta, ta vẫn coi em như là em ruột...

Nói đến đó, Đại Ngọc hết hơi, nói không được nữa.

Tử Quyên nghe nói, trong lòng chua xót, nghẹn ngào nói chẳng nên lời. Một hồi lâu. Đại Ngọc vừa thở vừa nói:

- Em Tử Quyên ơi! Ta nằm khó chịu quá! Em đỡ ta dậy. Ta muốn ngồi nghỉ một chút.

Tử Quyên nói:

- Người cô mệt lắm, nếu ngồi dậy lại sợ mệt thêm.

Đại Ngọc nghe nói, nhắm mắt nằm im, một lúc sau lại đòi ngồi dậy. Tử Quyên không biết làm thế nào, đành phải cùng với Tuyết Nhạn vực cô ta dậy, lấy gối mềm đỡ hai bên. Tử Quyên đứng dậy một bên đỡ Đại Ngọc.

Đại Ngọc cảm thấy nửa người phía dưới ê ẩm, ngồi không vững, nhưng cũng cắn răng chịu rồi gọi Tuyết Nhạn lại bảo:

- Tập thơ của ta... - Vừa nói vừa thở.

Tuyết Nhạn đoán là cô ta đòi tập thơ vừa sửa chữa hôm nước liền lấy đưa đến trước mặt Đại Ngọc. Đại Ngọc gật đầu rồi đưa mắt nhìn cái rương.

Tuyết Nhạn không hiểu Đại Ngọc cần gì, cứ đứng ngẩn người ra. Đại Ngọc tức quá, hai mắt trợn ngược, lại nổi ho lên và khạc ra máu. Tuyết Nhạn vội chạy đi lấy nước. Đại Ngọc súc miệng, rồi nhổ vào ống nhổ. Tử Quyên lấy khăn lau miệng cho cô ta, Đại Ngọc liền nắm khăn mà chỉ cái rương rồi thở dốc, nhắm mắt lại, nói không được. Tử Quyên nói:

- Cô nằm thôi.

Đại Ngọc lại lắc đầu.

Tử Quyên nghĩ cô ta muốn cái khăn lụa, liền bảo Tuyết Nhạn mở rương, lấy ra một cái khăn lụa trắng. Đại Ngọc nhìn qua, vứt ra một bên, cố hết sức nói:

- Có chữ kia.

Lúc bấy giờ Tử Quyên mới hiểu rõ cô ta đòi cái khăn lụa cũ có đề thơ, đành phải bảo Tuyết Nhạn lấy ra đưa cho Đại Ngọc.

Tử Quyên khuyên:

- Cô nghỉ đi, tội gì làm mệt thân như thế Khi nào khỏe hãy xem.

Đại Ngọc cầm lấy cái khăn, cũng không xem, rồi giơ tay ra cố sức xé, nhưng tay chỉ run lẩy bẩy, không sao xé được. Tử Quyên biết là cô ta giận Bảo Ngọc, nhưng cũng không dám nói rõ, chỉ khuyên:

- Cô ơi, tội gì mà giận?

Đại Ngọc gật đầu nhè nhẹ, nhét cái khăn vào ống tay áo rồi bảo:

- Thắp đèn.

Tuyết Nhạn vội vàng vâng lời, thắp đèn lên.

Đại Ngọc nhìn một tý, nhắm mắt lại thở một hơi rồi nói:

- Đốt nồi than.

Tử Quyên tưởng là cô ta lạnh, liền nói:

- Cô nằm xuống rồi đắp thêm cái chăn thôi, không chịu nổi hơi than đâu.

Đại Ngọc lại lắc đầu. Tuyết Nhạn đành phải đốt nồi than, rồi đặt nó vào cái giá đặt dưới đất.

Đại Ngọc gật gật đầu như muốn bảo đưa nồi than lên trên giường. Tuyết Nhạn đành phải đưa nó lại và đi ra ngoài tìm cái bàn.

Đại Ngọc lại nhổm dậy. Tử Quyên đành phải đưa hai tay đỡ lấy. Đại Ngọc cầm cái khăn tay vừa rồi, nhìn ngọn lửa gật đầu, vứt cái khăn lên trên lửa.

Tử Quyên giật nẩy mình, muốn cướp lấy, nhưng hai tay không dám động đậy. Còn Tuyết Nhạn thì đã ra ngoài lấy cái bàn để nồi than. Cái khăn lụa đã bị cháy mất. Tử Quyên khuyên:

- Cô ơi! Làm sao thế?

Đại Ngọc cứ làm như không nghe gì, lại trở tay cầm tập thơ lên, nhìn một cái rồi lại vứt xuống.

Tử Quyên sợ cô ta lại đốt, vội vàng dùng người dựa lấy Đại Ngọc, giơ tay ra định nắm lấy tập thơ. Nhưng Đại Ngọc đã nhặt lên và vứt vào nồi than.

Tử Quyên cướp lại không được, đang hoảng lên thì Tuyết Nhạn đưa cái bàn vào, thấy Đại Ngọc vứt một cái, không biết là cái gì, vội vàng chạy lại cướp, nhưng giấy rơi vào lửa, chỉ nháy mắt là cháy bùng lên. Tuyết Nhạn cũng không nghĩ đến lửa bỏng, liền thò tay vào trong lò than kéo ra, rồi vất xuống dưới đất, hai chân giẫm lấy giẫm để, nhưng giấy cháy gần hết, chẳng còn bao nhiêu.

Sau đó, Đại Ngọc nhắm mắt lại, ngả người về đằng sau, suýt nữa thì đè cả Tử Quyên xuống. Tử Quyên gọi Tuyết Nhạn lại, hai người đỡ Đại Ngọc nằm xuống, tim Tử Quyên cứ hồi hộp đập mạnh. Chị ta muốn gọi người thì trời đã tối, không gọi người thì chỉ có mình với Tuyết Nhạn cùng mấy đứa a hoàn nhỏ, sợ đêm có chuyện gì thì nguy. Cả một đêm ấy thật là vất vả, đến sáng hôm sau thấy Đại Ngọc lại hơi đỡ. Sau bữa cơm lại ho, lại thổ huyết, có vẻ nguy cấp lắm.

Tử Quyên thấy vậy, liền gọi Tuyết Nhạn vào trong phòng trông nom, còn mình đi trình Giả mẫu. Không ngờ đến phòng Giả mẫu, thấy rất im lặng, chỉ có vài ba bà già và mấy người a hoàn làm việc nặng ở đấy coi nhà. Tử Quyên hỏi:

- Cụ đi đâu rồi?

Bọn họ đều trả lời:

- Không biết!

Tử Quyên đã đoán biết tám chín phần, nghĩ bụng: “Bọn họ sao lại lạnh nhạt, độc ác như thế?” Lại nghĩ đến Đại Ngọc mấy hôm nay không có lấy một người đến thăm, càng nghĩ càng thương, tức đầy cả ruột, quay người đi ra. Rồi chị ta lại nghĩ thầm: “Hôm nay để xem bộ tịch anh chàng Bảo Ngọc ra sao? Để xem anh ta thấy mình rồi làm ra sao? Năm nọ mình chỉ nói đùa một câu anh ta đã sinh ốm, thế mà bây giờ lại công nhiên làm việc này! Thật bụng dạ con trai lạnh lùng, chẳng khác gì mảnh băng, làm cho người ta phải nghiến răng tức giận!” Tử Quyên vừa nghĩ vừa đi, đã đến Viện Di Hồng. Thấy cửa viện đóng hờ, bên trong rất lặng lẽ. Cô ta chợt nghĩ ra: “Anh ta định cưới vợ, thế nào cũng có nhà mới, nhưng không biết nhà mới ấy ở vào chỗ nào?”

Tử Quyên đang nhìn quanh quẩn, thì thấy Mặc Vũ chạy như bay. Tử Quyên gọi nó dừng lại.

Mặc Vũ chạy lại cười hì hì:

- Chị đến đây làm gì?

Tử Quyên nói:

- Tôi nghe cậu Bảo cưới vợ, định đến xem đám cưới, không ngờ lại không ở đây, và cũng không biết bao giờ cưới.

Mặc Vũ nói nhỏ:

- Điều này chỉ nói với chị, đừng có mách với Tuyết Nhạn nhé. Bề trên dặn dò, ngay cả bọn các chị cũng không cho biết. Chính đêm hôm nay sẽ rước đâu. Đâu có phải ở đây, ông lớn đã sai cậu Hại Liễn thu xếp nhà cửa rồi.

Nói xong Mặc Vũ lại hỏi:

- Chị có việc gì không?

- Có việc gì đâu, em đi thôi.

Mặc Vũ lại chạy như trước.

Tử Quyên đứng ngơ ngẩn một lúc, chợt nghĩ đến Đại  Ngọc không biết bây giờ chết hay sống, chị ta lại hai hàng nước mắt ròng ròng, nghiến răng tức giận nói: “Bảo Ngọc! Giờ đây cô ấy chết, anh tưởng đã tránh được rồi, không gặp mặt nữa đấy hẳn! Để ta xem, sau khi xong việc vui mừng của anh rồi, anh còn mặt mũi nào nhìn thấy ta nữa!”

Tử Quyên khóc lóc nghẹn ngào rồi chạy một mạch về nhà.

Chị ta chưa về đến quán Tiêu Tương đã thấy hai a hoàn nhỏ ở trong cửa ló đầu ra nhìn. Thấy Tử Quyên, một đứa kêu lên:

- Chị Tử Quyên đã về đấy à?

Tử Quyên biết là việc không lành, vội vàng xua tay bảo chúng đừng làm ầm lên. Đoạn vội chạy vào nhà xem, thấy Đại Ngọc can hỏa bốc lên, hai gò má đỏ ửng.

Tử Quyên biết tình thế nguy rồi, liền gọi bà vú của Đại Ngọc là Già Vương đến. Già Vương vừa nhìn thấy đã khóc ầm lên. Tử Quyên vốn nghĩ Già Vương là người có tuổi, có can đảm giúp đỡ được mình, không ngờ bà ta chẳng nghĩ được kế gì, lại làm Tử Quyên càng thêm hồi hộp. Bỗng chị ta nghĩ ra một người, vội vàng sai a hoàn đi mời. Người ấy là ai? Thì ra Tử Quyên nhớ đến Lý Hoàn là người ở góa. Bây giờ Bảo Ngọc cưới vợ, thế nào chị ta cũng tránh mặt. Vả lại, mọi việc trong vườn, trước đây đều do Lý Hoàn lo liệu. Vì thế Tử Quyên mới cho người đi mời.

Lý Hoàn đang ở nhà sửa thơ cho Giả Lan, bỗng thấy một a hoàn hớt hơ hớt hải chạy đến nói:

- Mợ Cả ạ! Có lẽ cô Lâm nguy lắm rồi! Ở bên ấy họ đã khóc cả rồi!

Lý Hoàn nghe nói giật nẩy mình, cũng không kịp hỏi lại, vội vàng đứng dậy đi ngay. Tố Vân và Bích Nguyệt đi theo. Chị ta vừa đi vừa chảy nước mắt, nghĩ bụng: “Chị em xưa nay cùng sống với nhau. Vả lại cô ta dung mạo tài tình, thật là trên đời ít có, họa chăng chỉ có Thanh Nữ và Tố Nga(8) giống được ít nhiều mà thôi. Ngờ đâu mới chừng ấy tuổi đầu, đã vội làm ma đất khách! Khốn nỗi, Phượng Thư lại bày ra cái mưu “thay rường đổi cột” nên mình cũng không tiện đến quán Tiêu Tương, thành ra tình nghĩa chị em, chưa thỏa chút nào, thật là tội nghiệp cho cô ta”.

Lý Hoàn đang nghĩ thì đã tới cửa quán Tiêu Tương.

Trong nhà lặng lẽ chẳng nghe tiếng gì. Lý Hoàn lo cuống lên. “Chắc là cô ta đã chết, họ đã khóc rồi, không biết áo quần và đồ khâm liệm đã sắp sẵn đầy đủ chưa?" Lý Hoàn vội vàng ba chân bốn cẳng bước vào nhà. Một a hoàn nhỏ đứng trong cửa trông thấy liền nói:

- Mợ Cả đã đến!

Tử Quyên vội vàng ở trong chạy ra. Vừa gặp mặt, Lý Hoàn vội hỏi:

- Cô ra sao rồi?

Tử Quyên chỉ nghẹn ngào trong họng, nói không ra lời, nước mắt giàn giụa, lã chã, một tay chỉ về phía Đại Ngọc.

Lý Hoàn thấy vậy, càng thêm đau lòng, cũng không hỏi. Vội vàng chạy lại, thấy Đại Ngọc không nói được nữa. Lý Hoàn sẽ gọi vài tiếng. Đại Ngọc hơi hé mắt ra, hình như còn biết, nhưng chỉ có mi mắt và môi hơi rung động, trong miệng còn thoi thóp thở, chứ không nói được, cũng không còn một giọt nước mắt nữa.

Lý Hoàn ngoảnh lại không thấy Tử Quyên, liền hỏi Tuyết Nhạn. Tuyết Nhạn nói:

- Chị ấy đang ở nhà ngoài.

Lý Hoàn vội vàng đi ra thì thấy Tử Quyên, đang nằm trên cái giường bỏ không ở nhà ngoài, mặt tái nhợt, mắt nhắm lại, nước mắt như mưa, làm cho cái nệm hoa viền gấm ướt mất một vạt lớn bằng cái bát. Nghe Lý Hoàn gọi, Tử Quyên mới từ từ mở mắt và nhổm dậy.

Lý Hoàn nói:

- Con ngốc này! Lúc này là lúc nào mà mày chỉ lo khóc? Áo xống của cô Lâm ở đâu rồi, không đưa ra thay cho cô ta, còn đợi lúc nào nữa. Không lẽ cô ta là một người con gái, lại để trần truồng như thế mà lìa bỏ cuộc đời à?

Tử Quyên nghe câu ấy càng khóc rống lên.

Lý Hoàn cũng vừa khóc vừa cuống quít, lau nước mắt, vừa vỗ vào tai Tử Quyên vừa nói:

- Em ơi! Em khóc làm rối cả ruột ta. Mau mau sửa soạn để khâm liệm cho cô ta đi thôi, để chậm lát nữa không kịp đâu!

Đang lúc rối rít thì thấy ở ngoài có một người lật đật chạy vào. Lý Hoàn giật mình, nhìn lại, thì ra Bình Nhi. Bình Nhi chạy vào thấy tình hình như thế, ngơ ngác sửng sốt. Lý Hoàn nói:

- Chị lúc này không ở bên ấy, đến đây làm gì?

Vừa nói đến đây thì vợ Lâm Chi Hiếu cũng chạy vào.

Bình Nhi nói:

- Mợ tôi không đành lòng, bảo tôi đến xem sao? Đã có mợ Cả ở đây thì mợ tôi chỉ lo việc bên kia thôi.

Lý Hoàn giật đầu. Bình Nhi nói:

- Tôi cũng vào xem cô Lâm một chút.

Nói đến đấy, chị ta vừa đi vào vừa chảy nước mắt.

Lý Hoàn ở ngoài nói với vợ Lâm Chi Hiếu:

- Bà đến vừa đúng lúc, mau mau đi ra ngoài xem sao, rồi nói với người coi việc sắp sửa hậu sự cho cô Lâm. Khi đã xong xuôi rồi, bà bảo họ tới nói lại với tôi, không cần đến bên kia làm gì.

Vợ Lâm Chi Hiếu vâng lời, nhưng vẫn đứng đấy. Lý Hoàn nói:

- Còn việc gì nữa?

- Vừa rồi mợ Hai và cụ bàn định bên kia có việc cần gọi cô Tử Quyên sang để sai bảo.

Lý Hoàn chưa kịp trả lời. Tử Quyên đã nói:

- Bà Lâm ơi, mời bà cứ đi trước. Chờ khi người chết rồi chúng tôi tự nhiên về cả, cần gì phải như thế?

Tử Quyên nói đến đó, nghĩ không tiện, liền đổi giọng:

- Vả lại chúng tôi ở đây phục dịch người ốm, trong người cũng không được sạch sẽ. Cô Lâm còn thở, có khi sẽ gọi đến tôi.

Lý Hoàn đứng một bên sẽ nói dàn hòa:

- Thật thế, cô Lâm và cô này là duyên nợ từ trước để lại. Tuyết Nhạn là người từ phương Nam đưa đến mà cô Lâm lại không để ý lắm, chỉ có Tử Quyên với cô ấy thì một phút cũng không rời nhau.

Vợ Lâm Chi Hiếu ban đầu nghe Tử Quyên nói, trong bụng cũng khó chịu, nhưng khi nghe Lý Hoàn nói rõ như thế, bà ta cũng chẳng biết nói gì nữa. Lại thấy Tử Quyên nước mắt giàn giụa nên bà ta chỉ mỉm cười đứng nhìn rồi lại nói:

- Những lời cô Tử Quyên nói không quan hệ, nhưng cô thì như thế được, chứ còn tôi thì làm sao mà trình lại với cụ và mợ Hai được.

Đang nói thì Bình Nhi ở trong lau nước mắt đi ra, liền hỏi:

- Bà nói trình với mợ Hai việc gì thế?

Vợ Lâm Chi Hiếu đem câu chuyện vừa rồi kể lại đầu đuôi. Bình Nhi cúi đầu nghĩ ngợi một lúc rồi nói:

- Thế này thôi, gọi cô Tuyết Nhạn đi cũng được.

Lý Hoàn nói:

- Cô ấy cũng được à?

Bình Nhi ghé vào tai Lý Hoàn nói nhỏ mấy câu. Lý Hoàn gật đầu nói:

- Đã thế thì bảo Tuyết Nhạn qua bên ấy cũng được.

Vợ Lâm Chi Hiếu hỏi lại Bình Nhi:

- Cô Tuyết Nhạn có được không?

- Được đấy, cũng như nhau thôi.

- Đã thế thì cô bảo cô Tuyết Nhạn mau mau đi theo tôi. Tôi sẽ trình với cụ và mợ Hai. Đây là ý định của mợ Cả và cô, rồi chốc nữa cô lại trình với mợ Hai.

Lý Hoàn nói:

- Thôi được, bà chừng ấy tuổi đầu mà chút việc như thế cĩmg còn không làm nổi à?

Vợ Lâm Chi Hiếu cười nói:

- Không phải là tôi không làm nổi, nhưng vì một là việc này cụ và mợ Hai lo liệu như thế nào, tôi không được rõ lắm, hai là đã có mợ Cả và cô Bình rồi.

Đang nói thì Bình Nhi đã gọi Tuyết Nhạn ra. Số là mấy hôm nay, Đại Ngọc cho Tuyết Nhạn còn trẻ con, không biết gì, lên nó cũng đâm ra hờ hững. Nó lại sợ cụ và mợ Hai gọi, không đi không được, nên vội vàng sửa lại đầu tóc. Bình Nhi bảo nó thay quần áo mới rồi theo vợ Lâm Chi Hiếu đi.

Sau đó, Bình Nhi lại nói với Lý Hoàn mấy câu. Lý Hoàn lại dặn dò Bình Nhi qua bên ấy giục vợ Lâm Chi Hiếu mau mau nhắn ông ta sắm sửa hậu sự cho Đại Ngọc.

 Bình Nhi vâng lời đi ra, vừa qua quãng đường, thấy vợ Lâm Chi Hiếu dẫn Tuyết Nhạn đi phía trước. Chị ta liền gọi bà ấy đứng lại và nói:

- Để tôi đưa em Tuyết đi cho. Bà về nói với ông Lâm lo liệu hậu sự cho cô Lâm. Còn ở chỗ mợ Hai, tôi sẽ trình hộ.

Bà Lâm vâng lời ra đi. Bình Nhi dẫn Tuyết Nhạn đến nhà mới, nói lại rõ ràng rồi đi làm việc.

Tuyết Nhạn thấy quang cảnh phòng mới của Bảo Ngọc, nghĩ đến cô mình, không khỏi đau lòng, nhưng vì đứng trước mặt Giả mẫu và Phượng Thư nên không dám để lộ nỗi buồn của mình. Tuyết Nhạn nghĩ bụng: “Chả biết họ dùng mình vào việc gì, để ta xem thử. Ngày thường Bảo Ngọc với cô mình gắn bó như keo với sơn, mà giờ đây không gặp mặt nhau nữa. Cũng không biết anh ta bệnh giả hay bệnh thật. Có lẽ anh ta sợ cô mình đâm giận, nên bịa chuyện mất ngọc, giả cách si ngốc làm cho cô mình nguôi lòng để rồi cưới cô Bảo cho tiện cũng nên. Để ta thử gặp anh ta, xem anh ta thấy mình rồi còn si ngốc nữa hay không? Chả nhẽ giờ đây còn vờ làm bộ si ngốc nữa hay sao?”

Tuyết Nhạn nghĩ như thế rồi lén vào cửa nhà trong xem trộm.

Lúc bấy giờ, Bảo Ngọc vì mất ngọc đâm ra mê mẩn, nhưng nghe nói mình được lấy Đại Ngọc làm vợ, thật là việc vui lòng thỏa dạ thứ nhất từ trước tới nay, từ trên trời đến cõi tục, nên người khỏe hẳn lên, duy chỉ không được lanh lợi như trước mà thôi. Vì thế, diệu kế của Phượng Thư thật là “bách phát bách trúng”. Bảo Ngọc chỉ mong được gặp Đại Ngọc ngay. Nghe người ta nói hôm nay làm lễ cưới, anh ta hoa chân múa tay, vui không kể xiết, dầu còn đôi câu nói dại dại ngây ngây, nhưng đã khác hẳn khi còn bệnh nặng. Trông thấy thế, Tuyết Nhạn vừa tức giận vừa đau lòng, nhưng hiểu sao được nổi lòng của Bảo Ngọc. Tuyết Nhạn liền bỏ đi ra.

Trong này Bảo Ngọc gọi Tập Nhân mau mau thay quần áo mới cho mình, rồi ngồi chờ trong nhà Vương phu nhân. Trông thấy Phượng Thư và Vưu Thị vội vàng lật đật, anh ta chờ mãi chẳng thấy đến giờ tốt, cứ hỏi Tập Nhân:

- Cô Lâm ở trong vườn, sao vẫn dằng dai mãi chưa đến?

Tập Nhân mỉm cười nói:

- Còn chờ giờ tốt chứ!

Lúc đó, lại nghe Phượng Thư nói với Vương phu nhân:

- Mặc dầu có tang, nếu gọi ban nhạc ở ngoài thì không nên, nhưng nề nếp nhà chúng ta, có lệ con dâu vào làm lễ nhà thờ, nếu lặng lẽ quá sợ không nên. Để cháu gọi bọn đàn bà con gái trong nhà đã học âm nhạc và học hát trò đến đánh đàn thổi sáo cho vui.

Vương phu nhân gật đầu nói:

- Cũng được.

Một lúc sau, một cỗ kiệu lớn đi từ cửa chính vào, ban âm nhạc trong nhà ra đón, mười hai đôi đèn hoa kiểu trong cung bày hàng đi vào, xem cũng có vẻ trang nhã mới mẻ. Người giúp lễ mời cô dâu xuống kiệu. Bảo Ngọc thấy cô phù dâu mặc áo đỏ, đỡ lấy cô dâu. Cô dâu đội khăn che đầu.

Người đỡ cô dâu đó là ai? Thì chính là Tuyết Nhạn.

Bảo Ngọc thấy Tuyết Nhạn, nghĩ bụng: “Sao Tử Quyên không đi mà lại là cô này?” Rồi lại nghĩ: “Phải rồi, Tuyết Nhạn nguyên là cô ta đưa từ phương Nam đến, Tử Quyên là người nhà mình, dĩ nhiên không cần cô ta đưa đến”. Vì thế, khi thấy Tuyết Nhạn, Bảo Ngọc vui mừng y như thấy Đại Ngọc.

Người giúp lễ xướng lễ, trước lạy trời đất rồi mời Giả mẫu ra lạy bốn lạy, lại mời vợ chồng Giả Chính lên nhà để vợ chồng mới làm lễ. Lễ xong, đưa vào động phòng. Ngoài ra, còn có những lễ như ngồi giường buông màn đều là theo lệ cũ đất Kim Lăng, không cần nói kỹ.

Giả Chính vốn không tin chuyện "xung hỷ", chẳng qua vì Giả mẫu làm chủ, không dám trái lại mà thôi. Ai ngờ hôm nay thấy Bảo Ngọc như có vẻ khỏe thật, Giả Chính thấy thế cũng rất vui mừng.

Lúc cô dâu ngồi màn là phải cất cái khăn che đầu, Phượng Thư đã đề phòng sẵn, nên mời Giả mẫu và Vương phu nhân cùng vào để trông nom lúc đó, Bảo Ngọc vẫn còn phần nào ngây dại, liền chạy đến trước mặt cô dâu nói:

- Cô em có khỏe không? Đã mấy ngày không gặp nhau đội cái quái này làm gì?

Bảo Ngọc định cất cái khàn che đầu của cô dâu, làm cho Giả mẫu sợ toát mồ hôi. Báo Ngọc lại nghĩ: "Cô Lâm hay giận, không nên hấp tấp". Lại nghỉ một chút. Anh ta nhịn không được, đành phải tới nơi cất cái khăn che đầu của cô dâu đi. Người phù dâu đỡ lấy khăn, Tuyết Nhạn chạy ra, bọn Oanh Nhi tới hầu.

Bảo Ngọc trừng mắt nhìn, thấy giống như Bảo Thoa, trong bụng không tin, một tay cầm đèn, một tay dụi mắt, trông kỹ lần nữa, thì chẳng phải Bảo Thoa là gì! Thấy cô ta ăn mặc lộng lẫy, thân thể đẫy đà, mái tóc rủ nghiêng, mặt mày e lệ. Rõ ràng:

Vẻ thanh nhã bông sen sương rủ,

Dáng yêu kiều hoa hạnh khói lồng.

Bảo Ngọc đứng ngẩn người ra một lúc, thấy Oanh Nhi đứng một bên mà không thấy Tuyết Nhạn. Lúc đó, trong lòng Bảo Ngọc rối loạn, cho là mình ở trong giấc chiêm bao, cứ đứng ngơ ngác. Mọi người đỡ lấy đèn, dìu Bảo Ngọc ngồi xuống, Bảo Ngọc hai mắt trợn ngược, chẳng nói nửa lời. Giả mẫu sợ Bảo Ngọc lại phát ốm, liền thân hành đến vỗ về. Phượng Thư và Vưu Thị mời Bảo Thoa vào nhà trong ngồi. Lúc đó, Bảo Thoa cố nhiên là ngồi cúi đầu không nói gì cả.

Một lát, Bảo Ngọc hơi tỉnh lại, thấy Giả mẫu và Vương phu nhân ngồi bên kia, liền khẽ hỏi Tập Nhân:

- Tôi ở chỗ nào đây, không phải là chiêm bao à?

Tập Nhân nói:

- Hôm nay là ngày vui của cậu. Sao lại nói nhảm, chiêm bao với chẳng chiêm bao! Ông lớn đang ngồi ngoài kia kìa!

Bảo Ngọc lại lấy tay chỉ vào nhà trong, hỏi khẽ:

- Cô gái đẹp ngồi trong ấy là ai?

Tập Nhân bưng lấy miệng nhịn cười, nói không ra lời, hồi lâu mới nói:

- Mợ Hai mới cưới đấy.

Mọi người ngoảnh đầu đi, không nhịn cười được.

Bảo Ngọc lại nói:

- Khéo lẩn thẩn thật! Chị nói mợ Hai là ai đấy?

- Cô Bảo đấy!

- Cô Lâm đâu rồi?

- Ông lớn làm chủ, cưới cô Bảo, sao lại nói bậy là cô Lâm?

- Ta vừa thấy cô Lâm, có cả Tuyết Nhạn nữa; sao lại nói không có? Các người đùa cái gì thế?

Phượng Thư liền chạy lại nói khẽ:

- Cô Bảo đang ngồi ở trong nhà đấy, đừng nói nhảm, làm cô ta mếch lòng thì cụ không nghe đâu.

Bảo Ngọc nghe nói, càng thêm mê mẩn. Vốn đã sẵn bệnh hôn mê, lại thêm đêm nay tình hình kỳ quặc, càng làm cho anh ta tình hình rối loạn. Anh ta không quản gì nữa, miệng đòi đi tìm cho được cô Lâm.

Giả mẫu tới an ủi. Nhưng khốn nỗi Bảo Ngọc không hiểu nữa. Lại có cả Bảo Thoa ngồi trong nhà không tiện nói rõ. Giả mẫu biết rằng bệnh cũ của Bảo Ngọc lại phát nên cũng không nói, đành phải thắp hương an thần khắp nhà để giữ vững thần hồn rồi dìu anh ta nằm ngủ.

Mọi người ngồi im lặng. Sau một lát, Bảo Ngọc ngủ mê mệt, bọn Giả mẫu mới hơi yên lòng, đành phải ngồi chờ trời sáng. Giả mẫu lại bảo Phượng Thư vào mời Bảo Thoa nằm nghỉ.

Bảo Thoa làm như không nghe gì chỉ, rồi cũng mặc cả áo đi nằm.

Giả Chính ở ngoài không biết nguyên do trong ấy ra sao, nhưng cứ quang cảnh tai nghe mắt thấy vừa rồi, trong bụng cũng khoan khoái. Vừa đúng ngày mai là ngày tốt lên đường, ông ta nằm nghỉ một lát rồi mọi người làm lễ chúc mừng tiễn đưa.

Giả mẫu thấy Bảo Ngọc nghỉ rồi, cũng về phòng nghỉ.

Sáng hôm sau Giả Chính làm lễ cáo từ ở nhà thờ, rồi đến từ biệt Giả mẫu và thưa:

- Con bất hiếu đi xa, mong mẹ yên tâm tĩnh dưỡng. Con đến chỗ làm việc sẽ biên thư về ngay, xin mẹ đừng lo nghĩ. Việc của Bảo Ngọc đã theo lời mẹ lo liệu xong xuôi, chỉ mong mẹ để ý dạy dỗ cho.

Giả mẫu sợ Giả Chính dọc đường không yên tâm, nên không nhắc đến chuyện Bảo Ngọc ốm trở lại, chỉ nói:

- Ta có một câu: Hôm qua Bảo Ngọc cưới vợ nhưng chưa phải là chung phòng. Hôm nay anh lên đường, đáng lẽ bảo nó đi đưa xa mới phải. Nhưng vì nó ốm, phải làm cách “xung hỷ” mới đỡ ít nhiều. Hôm qua nó lại mệt suốt ngày, đi ra ngoài sợ gặp gió. Vì thế, ta hỏi anh: Nếu bảo nó đi tiễn thì tức khắc cho gọi nó, nếu anh thương nó thì gọi người đưa nó đến để anh gặp nó một tí và bảo nó dập đầu làm lễ cũng như là nó tiễn đưa anh rồi.

Giả Chính nói:

- Bảo nó tiễn đưa làm gì? Chỉ cần từ nay về sau nó chăm chỉ học hành, còn mừng hơn là nó tiễn đưa.

Giả mẫu nghe nói mới đỡ lo, liền bảo Giả Chính ngồi xuống rồi gọi Uyên Ương, như thế như thế, đưa Bảo Ngọc đến đây, và bảo cả Tập Nhân theo đến.

Uyên Ương đi chẳng bao lâu đã dẫn Bảo Ngọc đến. Nghe Giả mẫu bảo làm lễ chào thì Bảo Ngọc chào. May lúc đó, Bảo Ngọc gặp bố, tinh thần hơi tỉnh táo một chút, cho nên cũng chẳng có gì sai lầm lắm.

Giả Chính dặn dò mấy câu, Bảo Ngọc vâng lời. Giả Chính bảo người nhà dìu anh ta về phòng.

Giả Chính về phòng Vương phu nhân, lại dặn dò phải hết sức dạy bảo con “nhất thiết không được thả lỏng như trước, khoa thi hương sang năm, thế nào cũng bảo nó đi thi.”

Vương phu nhân nhất nhất vâng theo, cũng không nhắc đến việc gì khác, và vội vàng sai người dẫn Bảo Thoa đến, làm lễ dâu mới tiễn chân, nhưng cũng không ra khỏi nhà, còn các người khác thì tiễn ra cửa thứ hai rồi về.

Giả Chính lại dặn dò Giả Trân một hồi rồi mọi người rót rượu tiễn chân. Một số con em và bạn hữu lớp trẻ đưa chân mãi đến mười dặm mới từ biệt.

Bảo Ngọc từ khi trở về phòng, bệnh cũ trở lại, càng thêm mê mẩn không ăn uống gì.

Hồi thứ chín mươi tám

Giáng Châu đau buồn, hồn về nơi ly hận;

Thần Anh mang bệnh, lệ tràn cõi tương tư.

Bảo Ngọc gặp Giả Chính rồi về phòng, càng thấy đầu choáng mắt hoa, chân tay rời rạc, cơm cũng không ăn, liền nằm ngủ ly bì, mời thầy đến xem mạch, cho thuốc uống, cũng chẳng thấy công hiệu gì, ngay đối với người trong nhà cũng không nhận ra được ai nữa. Nhưng khi đỡ, anh ta ngồi dậy thì xem bộ như là người khỏe. Tình trạng ấy kéo dài luôn mấy hôm. Hôm ấy vừa đến ngày làm lễ “hồi môn”(9). Nếu không làm lễ hồi môn về thăm Tiết phu nhân thì thật khó coi. Nhưng nếu về lại không tiện. Thấy bộ dạng Bảo Ngọc như thế, ai cũng biết bệnh Bảo Ngọc vì nhớ Đại Ngọc mà sinh ra. Nhưng không muốn nói rõ, lại sợ anh ta tức uất, có thể xảy ra nguy hiểm. Về phần Bảo Thoa lại là cô dâu mới, cũng khó khuyên lơn an ủi, việc này cần có Tiết phu nhân sang mới được.

Giả mẫu sợ không về hồi môn thì Tiết phu nhân trách giận, liền bàn cùng Vương phu nhân và Phượng Thư:

- Ta xem Bảo Ngọc như người mất hồn, nhưng đi đứng thì không sợ đâu. Bây giờ nên dùng hai cỗ kiệu nhỏ, sai người dìu đi, rồi cho vợ chồng nó đi qua vườn mà sang để đúng với lễ về hồi môn. Sau đó, mời dì sang an ủi Bảo Thoa, còn chúng ta thì hết sức tìm cách chạy chữa cho Bảo Ngọc, như thế có phải cả hai đường đều trọn vẹn không?

Vương phu nhân vâng lời, lập tức sắm sửa. May được Bảo Thoa là cô dâu mới, Bảo Ngọc thì điên dại, bảo gì làm nấy. Bảo Thoa hiểu rõ như thế, trong bụng chỉ trách mẹ quá hấp tấp, nhưng đã đến nông nỗi này, cũng không nói nữa. Riêng Tiết phu nhân thấy bộ dạng Bảo Ngọc như thế, trong bụng phàn nàn, nhưng đành phải làm qua loa cho xong chuyện.

Trở về nhà, bệnh Bảo Ngọc càng thêm trầm trọng đến nỗi hôm sau không ngồi dậy được nữa. Bệnh cứ một ngày một nặng thêm, thậm chí cháo và nước cũng không nuốt được.

Bọn Tiết phu nhân đều cuống quít mời đủ danh y các nơi, nhưng không ai hiểu bệnh gì. Chỉ có một ông thầy thuốc nghèo túng ở một ngôi chùa đổ nát ngoài thành là họ Tất, biệt hiệu Tri Am, xem mạch và đoán là do mừng buồn đột ngột, ấm lạnh thất thường, ăn uống lỗi thời, lo giận uất tích, chính khí bế tắc. Nói tóm lại là bệnh nội thương kiêm ngoại cảm. Rồi ông ta cho phương thuốc. Chiều hôm ấy uống vào, đến sau canh hai, quả nhiên tỉnh táo hơn. Bảo Ngọc liền đòi uống nước. Giả mẫu và Vương phu nhân mới yên lòng, mời Tiết phu nhân dẫn Bảo Thoa đến bên nhà Giả mẫu tạm nghỉ.

Bảo Ngọc trong chốc lát tỉnh táo, tự nghĩ khó sống, khi thấy mọi người ra khỏi, chỉ có Tập Nhân ở đấy, liền gọi chị ta tới gần, cầm tay khóc và nói:

- Tôi hỏi chị, tại sao chị Bảo lại đến đây? Tôi nhớ cha tôi cưới cô Lâm cho tôi, tại sao chị Bảo đuổi cô ta đi mà ngồi ở đây? Tôi định nói, lại sợ mếch lòng chị ta. Các chị có biết cô Lâm khóc như thế nào không?

Tập Nhân không dám nói rõ, đành phải trả lời:

- Cô Lâm đang ốm.

- Để tôi đi thăm cô ta một tý.

Nói xong, Bảo Ngọc định đứng dậy, ngờ đâu mấy ngày không ăn uống, người không sao cử động được. Bảo Ngọc liền khóc và nói:

- Tôi chết mất! Có một câu nói tâm tình nhờ chị trình lại với cụ: Thế nào cô Lâm cũng phải chết! Tôi bây giờ cũng không thể sống được. Hai người ốm ở hai nơi đều phải chết! Chết như thế càng khó sắp đặt, chi bằng dọn một căn nhà bỏ không, khiêng tôi và cô Lâm đến đấy, khi sống cùng sống một nơi cho dễ thuốc thang hầu hạ, mà có chết cũng để quan tài một nơi cho tiện. Chị nghe lời này của tôi thì cũng không đến nỗi uổng mối tình đôi ta trong mấy năm nay.

Tập Nhân nghe vậy nghẹn ngào đau xót. Giữa lúc ấy, Bảo Thoa cùng Oanh Nhi đến. Nghe vậy, Bảo Thoa liền nói:

- Cậu ốm không lo tĩnh dưỡng, tại sao lại nói những lời không tốt lành ấy? Bà vừa hơi yên tâm một chút cậu lại sinh chuyện. Cả đời bà, chỉ có thương mình cậu, nay đã hơn tám mươi tuổi đầu không mong sắc tặng của cậu, nhưng rồi đây cậu được nên người, bà trông thấy cũng vui, không uổng công lao khó nhọc của người. Còn mẹ thì không cần phải nói. Mẹ dồn cả tâm huyết, tinh thần suốt một đời người, chỉ nuôi nấng được một mình cậu, nếu dở chừng cậu chết đi thì sau này mẹ sẽ ra thế nào? Tôi dầu bạc phận cũng không đến nỗi như thế. Cứ xem ba việc ấy thì dầu cậu có muốn chết, trời cũng chẳng cho chết, cho nên cậu nhất định không thể chết được đâu. Cậu cứ yên tâm tĩnh dưỡng ít ngày, phong tà tan đi, chính khí đầy đủ, thì những bệnh kia đều sẽ hết…

 Bảo Ngọc nghe nói, chẳng biết trả lời ra sao, một hồi lâu mới cười hì hì mà nói:

- Đã lâu nay chị không nói chuyện với tôi, bây giờ lại nói những câu đạo lý lớn lao như thế, định để cho ai nghe đấy?

Bảo Thoa nghe câu ấy liền nói:

- Nói thật với cậu, trước đây hai ngày, khi cậu còn ốm mê không biết gì, em Lâm đã chết rồi.

Bảo Ngọc bỗng ngồi phắt dậy, ngơ ngác hỏi to:

- Em Lâm chết thật rồi à?

- Chết thật rồi. Ai lại độc mồm độc miệng đi rủa người ta chết bao giờ? Bà và mẹ biết anh em cậu thân mật, khi nghe tin cô ấy chết, thế nào cậu cũng muốn chết, nên không nói với cậu đấy thôi.

Bảo Ngọc nghe nói, khóc ầm lên rồi ngã vật xuống giường, bỗng thấy trước mặt tối đen, không nhìn rõ phương hướng, bụng đang hoảng hốt thì thấy trước mặt như có người đi tới. Bảo Ngọc mơ màng hỏi:

- Xin hỏi: ở đây là chỗ nào?

Người kia nói:

- Đây là đường đi xuống âm ty. Tuổi thọ của anh chưa hết, sao lại tới đây?

- Tôi vừa nghe có người bạn chết, nên tìm hỏi đến đây, không ngờ bị lạc đường.

- Bạn anh là ai?

- Cô Lâm Đại Ngọc ở Cô Tô.

Người kia cười nhạt nói:

- Lâm Đại Ngọc, sống không giống người, chết không giống quỷ, không hồn không phách, tìm ở đâu thấy được. Đại phàm hồn phách người ta, tụ lại thì thành hình, tan ra thì thành hơi, khi sống thì tụ lại, khi chết thì tan ra. Người thường cũng khó lòng tìm thấy, huống nữa là Lâm Đại Ngọc. Anh về mau đi thôi.

Bảo Ngọc nghe nói ngẩn người ra một lúc, rồi hỏi:

- Đã nói chết thì tan ra, sao lại còn có “âm ty”?

- Âm ty bảo có thì có, bảo không thì không! Vì người đời say đắm về thuyết sống chết nên đặt chuyện ra để khuyên răn đời đấy thôi. Người ta nói trời rất giận những người ngu, hoặc không chịu biết thân biết phận; hoặc tuổi thọ chưa hết mà tự mình làm chết non, hoặc ham mê dâm dục, nóng nảy làm càn, vô cớ mà tự vẫn nên đặt ra địa ngục này, giam cầm những hồn phách ấy, phải chịu vô cùng khổ sở để đền cái tội khi còn ở trên dương gian. Nay anh đi tìm Đại Ngọc là vô cớ mà tự hãm mình đấy. Vả chăng Đại Ngọc đã về Thái Hư ảo cảnh, muốn tìm thì phải dốc lòng tu dưỡng rồi cũng có lúc gặp nhau. Nếu không yên phận thì sẽ chịu cái tội tự mình chết non, bị giam vào âm ty, chỉ có thể gặp cha mẹ mà thôi, không thể gặp Đại Ngọc được(10).

Người ấy nói xong, lấy ra một hòn đá trong ống áo, nhằm bụng Bảo Ngọc mà ném.

Bảo Ngọc vừa nghe câu chuyện xong, lại bị hòn đá ném trúng bụng, sợ quá muốn về nhà ngay, chỉ giận không biết đường. Đang lúc dùng dằng, bỗng nghe bên kia có người gọi anh ta, anh ta ngoảnh lại thì chẳng phải ai, mà là Giả mẫu, Vương phu nhân, Bảo Thoa, Tập Nhân đang vây bọc chung quanh, vừa khóc vừa gọi, còn mình thì vẫn nằm ở trên giường, nhìn lại thấy đèn sáng trên bàn, giăng soi ngoài cửa, vẫn là cõi đời gấm vóc, thế giới phồn hoa. Té ra là giấc chiêm bao. Cả người anh ta mồ hôi lạnh toát, cảm thấy trong lòng tỉnh táo. Nghĩ kỹ không còn biết làm thế nào, chỉ còn thở dài.

Bảo Thoa vốn biết Đại Ngọc đã chết rồi, nhưng bọn Giả mẫu không cho ai nói với Bảo Ngọc, sợ bệnh Bảo Ngọc nặng thêm khó chữa. Riêng Bảo Thoa biết rất rõ bệnh Bảo Ngọc là vì Đại Ngọc mà ra, còn chuyện mất ngọc chỉ là việc phụ, cho nên cô ta muốn nhân dịp nói rõ, dù Bảo Ngọc có đau đớn chốc lát, nhưng rồi trong lòng dứt khoát, thần hồn ổn định, mới dễ chữa được. Giả mẫu và Vương phu nhân không hiểu dụng ý của Bảo Thoa trách cô ta hấp tấp. Sau thấy Bảo Ngọc tỉnh lại, họ mới yên lòng, lập tức sai người ra thư phòng mời thầy thuốc họ Tất vào xem mạch.

Thầy thuốc xem mạch xong, nói:

- Lạ thật! Bây giờ xem ra mạch trầm và yên, tinh thần đã an, khí uất đã tan, ngày mai dùng thuốc điều trị, có thể khỏe được.

Nói xong, ông ta đi ra. Mọi người đều an tâm ra về. Ban đầu Tập Nhân cũng trách Bảo Thoa đáng lẽ không nên để lộ chuyện, nhưng không tiện nói ra. Lúc vắng người, Oanh Nhi cũng nói với Bảo Thoa:

- Cô nóng quá!

Bảo Thoa nói:

- Mày biết cái gì? Hay dở đã có ta.

Bảo Thoa mặc cho người ta chê bai, không hề để ý, chỉ dò xem tâm bệnh của Bảo Ngọc, dùng cách chữa ngầm.

Qua một hôm, tinh thần của Bảo Ngọc đã thấy dần dần tỉnh táo, mặc dầu có khi nghĩ đến Đại Ngọc, thần sắc vẫn còn ngơ ngẩn. Nhờ có Tập Nhân từ từ khuyên giải:

- Ông lớn chọn cô Bảo là người hiền hậu, không bằng lòng cô Lâm vì cô Lâm tính tình kỳ quặc, sợ dễ chết non. Cụ sợ cậu không rõ dở hay đang ốm lại đâm ra hoảng hốt, nên gọi Tuyết Nhạn đến lừa cậu...

Bảo Ngọc vẫn cứ đau lòng và chảy nước mắt. Muốn tìm cách chết, nhưng lại nghĩ đến câu chuyện trong chiêm bao vừa rồi, sợ bà và mẹ giận, không thể đi cho đành. Lại nghĩ Đại Ngọc đã chết, Bảo Thoa là người hạng nhất, mới tin rằng “nhân duyên vàng đá” quả nhiên định sẵn, do đó cũng khuây khỏa ít nhiều.

Bảo Thoa xem chừng không ngại gì lắm, trong lòng cũng yên. Trước hết, cô ta chăm chú làm tròn bổn phận gia đình đối với Giả mẫu và Vương phu nhân rồi sau tìm cách làm cho Bảo Ngọc khuây khỏa. Bảo Ngọc tuy chưa thể ngồi dậy luôn, nhưng thường thấy Bảo Thoa ngồi trước giường nên tật cũ lại nổi lên.

Bảo Thoa thường đem những lời khuyên giải: “Cần nhất là phải giữ gìn thân thể. Cậu với tôi đã là vợ chồng, có phải chỉ trong một lúc đâu”. Bảo Ngọc tuy không bằng lòng, lắm nỗi ban ngày thì Giả mẫu, Vương phu nhân, Tiết phu nhân thay phiên nhau ở đó, ban đêm Bảo Thoa đi ngủ riêng một mình. Giả mẫu lại sai người hầu hạ nên phải an tâm tĩnh đường. Bảo Ngọc lại thấy Bảo Thoa tính nết dịu dàng, dần dần cũng đem lòng yêu mến Đại Ngọc chuyển sang Bảo Thoa một phần nào.

Chính đêm Bảo Ngọc làm lễ thành hôn ban ngày Đại Ngọc đã mê sảng đi rồi, chỉ còn thở thoi thóp. Lý Hoàn và Tử Quyên khóc lóc, chết đi sống lại. Đến chiều bệnh tình lại có vẻ dịu đi. Đại Ngọc hơi hé mắt, hình như muốn uống nước. Lúc đó, Tuyết Nhạn đã đi, bên mình chỉ có Lý Hoàn và Tử Quyên. Tử Quyên liền lấy thìa bạc nhỏ múc chè quế viên hòa với nước quả lê đổ cho cô ta hai ba thìa. Đại Ngọc nhắm mắt nghỉ một lát, trong lòng như mê như tỉnh. Lúc ấy Lý Hoàn thấy Đại Ngọc hơi tỉnh lại biết đó là lúc hồi dương(11) trước khi tắt thở, nhưng còn có thể nửa ngày nữa mới chết, nên trở về thôn Đạo Hương lo liệu công việc một lát. Đại Ngọc mở mắt ra nhìn chỉ thấy Tử Quyên và bà vú cùng mấy a hoàn nhỏ, liền một tay nằm lấy tay Tử Quyên, cố hết sức nói:

- Ta là người bỏ đi rồi! Em hầu ta mấy năm nay, ta cũng định rồi chúng ta ở chung một chỗ, không ngờ ta...

Nói đến đó lại thở dốc lên, nhắm mắt nằm nghỉ. Tử Quyên thấy Đại Ngọc nắm chặt tay mình không chịu buông cũng không dám động đậy, xem bộ dạng cô ta có phần khá hơn buổi sớm, tưởng rằng có thể khỏe trở lại. Tử Quyên nghe nói câu ấy lại cảm thấy lạnh buốt cả người. Hồi lâu Đại Ngọc lại nói:

- Em ơi, ta ở đây không có ai là bà con, thân ta vốn trong sạch, thế nào em cũng bảo họ phải đưa ta về!

Nói đến đó lại nhắm mắt không nói nữa, tay dần dần nắm chặt lại, hơi thở hổn hển nhưng thở ra thì mạnh thở vào thì nhẹ, rồi thở dốc lên rất dữ.

Tử Quyên hoảng sợ, vội vàng sai người đi mời Lý Hoàn.

Vừa khi đó Thám Xuân cũng đến. Tử Quyên thấy Thám Xuân vội vàng nói khẽ:

- Cô Ba ơi! Nhìn cô Lâm chút này!

Nói đến đó, nước mắt chảy như mưa. Thám Xuân bước tới, sờ tay Đại Ngọc thì đã lạnh rồi, con mắt cũng không có thần.

Thám Xuân và Tử Quyên đang khóc và gọi người múc nước lau rửa cho Đại Ngọc, thì Lý Hoàn đã vội vàng chạy đến. Ba người gặp nhau, không kịp nói chuyện.

Đang lau rửa, chợt thấy Đại Ngọc buột miệng kêu:

- Bảo Ngọc! Bảo Ngọc! Anh thật...(12)

Nói đến tiếng “thật”, cả người toát mồ hôi lạnh ra, không nói gì nữa. Bọn Tử Quyên vội vàng đỡ lấy, mồ hôi càng toát ra, người lạnh dần.

Thám Xuân và Lý Hoàn cuống quít, gọi người vén tóc, mặc áo, chỉ thấy hai con mắt của Đại Ngọc trợn ngược một cái. Thương ôi!

Hương hồn một mối tan theo gió,

Sầu nặng ba canh giấc mộng xa.

Lúc Đại Ngọc tắt thở, chính là giờ ăn cưới của Bảo Thoa. Bọn Tử Quyên đều khóc ầm lên. Lý Hoàn, Thám Xuân nghĩ Đại Ngọc hàng ngày thật đáng thương yêu, mà giờ đây lại càng tội nghiệp, nên đều đau lòng khóc mãi. Vì quán Tiêu Tương cách phòng cưới của Bảo Ngọc rất xa, nên không ai nghe thấy. Mọi người đang khóc lóc thảm thiết thì xa xa thoảng nghe có tiếng âm nhạc vọng đến, lắng tai nghe lại thoảng như không. Thám Xuân và Lý Hoàn chạy ra ngoài, chỉ thấy gió lay cành trúc, giăng xế đầu tường, cảnh tượng rất là thê lương ảm đạm! Họ gọi vợ Lâm Chi Hiếu đến, đặt cho Đại Ngọc nằm ngay ngắn rồi cắt người coi sóc chờ đến sáng mới đưa tin cho Phượng Thư biết.

Phượng Thư thấy Giả mẫu và Vương phu nhân đang rối rít. Giả Chính thì sắp lên đường. Bảo Ngọc càng mê mẩn, chính là lúc bối rối vô cùng, nếu nói việc Đại Ngọc chết, sợ Giả mẫu và Vương phu nhân càng thêm đau xót, không khéo đâm ốm. Phượng Thư đành phải một mình vào vườn. Đến quán Tiêu Tương, Phượng Thư cũng khóc một hồi, gặp Lý Hoàn, Thám Xuân, Phượng Thư biết là mọi việc đều đã đầy đủ liền nói:

- Tốt lắm! Nhưng tại sao vừa rồi các người không nói, làm cho tôi hoảng lên?

Thám Xuân nói:

- Vừa rồi trong lúc tiễn cha tôi lên đường, nói làm sao được?

- Thôi chị và cô thương lấy cô ta với. Tôi còn phải về bên ấy chạy chữa cho của oan gia kia. Nhưng việc này thật rắc rối. Hôm nay mà không trình rõ thì không được, nếu trình rõ thì lại sợ cụ không sao chịu nổi.

Lý Hoàn nói:

- Thím về đó, liệu chừng mà làm, có tiện thì trình mới được.

Phượng Thư gật đầu, vội vàng ra về. Đến chỗ Bảo Ngọc, nghe thầy thuốc nói không can gì. Giả mẫu và Vương phu nhân đã hơi yên tâm. Phượng Thư tránh mặt Bảo Ngọc, thong thả đem chuyện Đại Ngọc nói rõ. Giả mẫu và Vương phu nhân nghe nói đều giật mình. Giả mẫu nước mắt giàn giụa, nói:

- Thật là ta làm nó chết đấy! Nhưng con bé ấy cũng ngốc quá!

Giả mẫu muốn vào vườn khóc Đại Ngọc, nhưng lại lo cho Bảo Ngọc, nên nghĩ khó xử. Bọn Vương phu nhân nín khóc cùng nhau khuyên Giả mẫu:

- Thân thể của cụ là quan hệ hơn cả, còn việc sang bên kia thì cũng không cần.

Giả mẫu không biết làm thế nào, đành phải để một mình Vương phu nhân đi, và nói:

- Chị sang bên ấy, khấn với linh hồn cháu Lâm, không phải ta nỡ lòng không đến đưa cháu, chỉ vì thân sơ có khác. Cháu là cháu ngoại ta, cũng là chỗ thân thiết, nhưng so với Bảo Ngọc thì nó còn thân hơn. Nếu Bảo Ngọc có mệnh hệ nào thì ta mặt mũi nào mà thấy cha nó?

Nói đến đó Giả mẫu lại khóc. Vương phu nhân khuyên:

 - Cụ rất yêu cô Lâm, nhưng sống chết là do ông trời định sẵn. Giờ đây cô ta đã chết rồi, mình có hết lòng cũng không làm thế nào được, chi bằng dùng lễ hạng nhất để tống táng cô ta, một là gọi tỏ tấm lòng của chúng ta; hai là âm hồn của bà cô và cháu ngoại cũng được yên nơi chín suối.

Giả mẫu nghe đến đó, càng khóc rống lên. Phượng Thư sợ Giả mẫu thương cảm quá, lại biết Bảo Ngọc cũng không tỉnh táo lắm, liền âm thầm sai người đến nói dối: “Bảo Ngọc đang tìm bà đấy.”

Giả mẫu nghe nói, mới nín khóc mà hỏi:

- Lại có việc gì thế?

- Có việc gì đâu, chắc là chú ấy nhớ bà đấy thôi.

Giả mẫu vội vàng vịn vào vai Trân Châu đi sang. Phượng Thư cũng theo sau. Đi được nửa đường, gặp Vương phu nhân ở bên kia đi về nói lại đầu đuôi cho Giả mẫu nghe, cố nhiên Giả mẫu lại thương xót, nhưng vì định sang nhà Bảo Ngọc, đành phải ngậm buồn nuốt lệ mà nói:

- Đã thế thì ta cũng không qua nữa, mặc các người lo liệu lấy thôi. Ta mà nhìn thấy nó thì lòng càng đau xót. Vậy các người lo liệu sao cho chu tất là được.

 Vương phu nhân và Phượng Thư nhất nhất vâng lời, Giả mẫu mới sang Bảo Ngọc. Thấy Bảo Ngọc, Giả mẫu hỏi:

- Cháu làm gì mà tìm ta?

Bảo Ngọc cười nói:

- Đêm hôm qua cháu thấy em Lâm đến nói định về Nam. Cháu nghĩ không ai giữ được, nên nhờ bà giữ cô ấy lại hộ cháu.

Giả mẫu nghe nói, trả lời:

- Được! Cháu cứ yên lòng.

Tập Nhân đỡ Bảo Ngọc nằm xuống.

 Giả mẫu đi ra, đến phòng Bảo Thoa. Lúc đó Bảo Thoa chưa về lễ hồi môn, cho nên thấy ai cũng có vẻ bẽn lẽn. Thấy Giả mẫu mặt đầy ngấn lệ, cô ta bưng trà lại. Giả mẫu bảo ngồi xuống, Bảo Thoa nghiêng mình ngồi hầu. rồi hỏi:

- Nghe nói em Lâm ốm, không biết đã đỡ chưa?

Giả mẫu nghe câu ấy, nén không được, nước mắt ròng ròng liền nói:

- Cháu ơi, ta nói với cháu, cháu đừng nói lại với thằng Bảo Ngọc, chính vì em Lâm cháu nên mới làm cho cháu chịu bao sự thiệt thòi! Giờ cháu là cháu dâu rồi, nên ta mới nói với cháu: Hiện nay em Lâm cháu đã chết hai ba ngày rồi, chết đúng cái giờ cưới cháu đấy. Giờ đây bệnh của Bảo Ngọc cũng là vì con bé ấy. Cháu trước cũng ở trong vườn, chắc cũng rõ điều đó.

Bảo Thoa nghe nói, má đỏ ửng lên, nghĩ đến Đại Ngọc chết, lại rơi nước mắt.

Giả mẫu nói chuyện một lúc rồi về. Từ đó Bảo Thoa cứ nghĩ đi nghĩ lại, tìm một kế nào đó, nhưng không dám hấp tấp, chờ khi về hồi môn rồi, mới nghĩ ra một kế như vừa kể ở trên. Quả nhiên lúc này thấy Bảo Ngọc khá hơn trước ít nhiều và sau này nói chuyện, mọi người cũng không cần phải để ý như trước.

Riêng phần Bảo Ngọc, tuy bệnh tình đã ngày một đỡ dần, nhưng mối si tình không sao gỡ sạch, nhất định cứ đòi đi khóc Đại Ngọc một chuyến. Giả mẫu biết bệnh Bảo Ngọc chưa hết, không muốn cho nghĩ ngợi miên man. Khốn nỗi lòng anh ta uất ức khó chịu, bệnh cứ khi tăng khi giảm thất thường. Thầy thuốc cũng đoán ra tâm bệnh ấy, nên bảo cứ để cho anh ta được cởi mở nỗi uất ức rồi lại dùng thuốc điều trị thì mau khỏe hơn. Bảo Ngọc nghe nói, lập tức đòi qua quán Tiêu Tương.

Giả mẫu đành phải bảo người nhà đưa cái ghế trúc đến, đỡ Bảo Ngọc ngồi lên, Giả mẫu và Vương phu nhân liền đi trước.

Đến quán Tiêu Tương, thấy quan tài của Đại Ngọc, Giả mẫu nghẹn ngào khóc hết nước mắt. Bọn Phượng Thư khuyên lơn mãi mới nín. Vương phu nhân cũng khóc một hồi. Lý Hoàn mời Giả mẫu và Vương phu nhân vào nhà trong tạm nghỉ, nước mắt hãy còn lã chã không thôi.

Bảo Ngọc đến nơi, nghĩ lại khi mình chưa ốm, vẫn thường đến đây, ngày nay nhà còn kia, người đâu mất, trước đây thân mật dường nào, mà nay kẻ khuất người còn, tránh sao khỏi nỗi lòng thương cảm. Nhịn không được anh ta khóc òa lên. Sợ Bảo Ngọc mới ốm dậy mà đau thương quá độ, ai nấy đều tới khuyên can. Bảo Ngọc khóc lóc chết đi sống lại. Mọi người đỡ anh ta đi nghỉ. Những người đi theo như Bảo Thoa, đều khóc rất thảm thiết. Bảo Ngọc đòi gọi cho được Tử Quyên tới để hỏi rõ khi cô Lâm chết có nói những gì. Từ Quyên vẫn giận Bảo Ngọc, nay thấy thế, trong lòng cũng đã nguôi nguôi, lại có Giả mẫu và Vương phu nhân ở đây, nên không dám trách móc gì Bảo Ngọc, liền đem chuyện cô Lâm ốm trở lại, đốt khăn tay, đốt tập thơ như thế nào và những câu nói của cô ta trước khi tắt thở đều kể lại tường tận. Bảo Ngọc lại khóc lóc đến nỗi khản cả tiếng. Thám Xuân nhân tiện cũng nói đến chuyện khi Đại Ngọc sắp chết dặn đưa linh cữu về Nam. Giả mẫu và Vương phu nhân lại khóc lần nữa. May được Phương Thư khéo léo tìm lời khuyên giải, mới dần dần dẹp đi. Rồi họ mời bọn Giả mẫu ra về. Bảo Ngọc không thể nào bỏ cho dứt, nhưng vì Giả mẫu bắt buộc mãi, đành phải miễn cưỡng về phòng.

Giả mẫu là người nhiều tuổi, từ khi Bảo Ngọc bị ốm, đêm ngày không yên, hôm nay lại khóc lóc một trận, cảm thấy nóng đầu choáng váng, mặc dù vẫn lo cho Bảo Ngọc, không thể đành tâm, nhưng cũng không thể gắng gượng được nữa, đành phải về phòng nằm nghỉ. Vương phu nhân lại đau bụng khó chịu, cũng về phòng ngay, sai Thái Minh sang giúp Tập Nhân trông nom và dặn:

- Nếu Bảo Ngọc lại thương khóc, thì mau mau báo cho ta biết.

Bảo Thoa biết Bảo Ngọc trong lúc này thế nào cũng không quên Đại Ngọc được, nên chỉ dùng lời bóng gió khuyên răn. Bảo Ngọc lại sợ Bảo Thoa lo lắng, nên cũng đành yên tâm nuốt lệ. Nghĩ một đêm, người cũng tạm yên ổn. Sáng sớm hôm sau, mọi người đến thăm, thấy Bảo Ngọc thân hình hư nhược, nhưng về phần tâm bệnh thì bớt được mấy phần. Từ đó họ chăm lo tẩm bổ thêm, làm cho Bảo Ngọc dần dần trở lại khỏe hẳn. Giả mẫu may không sinh ốm, chỉ có Vương phu nhân bụng đau vẫn chưa khỏi. Hôm đó Tiết phu nhân sang thăm, thấy tinh thần Bảo Ngọc hơi khá, thì cũng yên lòng.

Một hôm, Giả mẫu mời riêng Tiết phu nhân qua bàn bạc, và nói:

- Tính mệnh của Bảo Ngọc thật là nhờ dì cứu cho. Giờ đây chắc không can gì nữa, chỉ thiệt thòi cho con cháu thôi. Nay Bảo Ngọc đã điều dưỡng hơn ba tháng, thân thể bình phục như thường, lại hết tang quí phi rồi, chính nên làm lễ hợp hoan, nhờ dì lo liệu và chọn ngày nào tốt thì làm.

Tiết phu nhân nói:

- Ý cụ rất hay, phải hỏi tôi làm gì? Con Bảo tuy vụng về nhưng trong lòng rất sáng suốt, tính tình của cháu, ngày thường cụ cũng đã biết rồi. Mong vợ chồng nó hòa thuận với nhau, từ nay cụ cũng đỡ lo; chị tôi cũng thỏa dạ, mà tôi cũng được yên lòng. Xin cụ cứ định ngày đi. Thế có mời bà con không?

- Việc này là một việc quan hệ thứ nhất trong đời của Bảo Ngọc và cháu, huống chi đã tốn bao nhiêu công phu xoay xở bây giờ mới được yên ổn, thể nào ta cũng phải vui nhộn mấy ngày. Bà con thì đều mời hết. Một là thỏa lòng mong ước, hai là chúng ta uống chén rượu mừng, cũng không uổng công tôi lo lắng bấy lâu.

Tiết phu nhân nghe xong, cố nhiên là vui mừng, liền nói ra ý của mình định sắm đồ nữ trang cho con. Giả mẫu nói:

- Chúng ta thân lại thêm thân. Tôi nghĩ cũng không cần như thế. Nếu nói là đồ dùng thì trong nhà chúng nó đã đầy ứ lên rồi; hoặc giả trong bụng con Bảo có thích cái gì thì dì cho nó mấy cái. Nhưng tôi xem con Bảo không phải là đứa hay nghĩ ngợi, chứ như tính khí con cháu ngoại nhà tôi thì khác hẳn, nên nó không thọ.

Nghe vậy, Tiết phu nhân cũng chảy nước mắt.

Vừa lúc ấy Phượng Thư đi vào, cười nói:

- Bà và cô lại nghĩ gì thế?

Tiết phu nhân nói:

- Ta với cụ nói đến em Lâm chị nên đau lòng.

Phượng Thư cười, nói:

- Bà và cô đừng đau lòng. Cháu vừa nghe được câu chuyện buồn cười, nói cho bà và cô nghe.

Giả mẫu lau nước mắt, nói:

- Không biết mày định chọc người nào đây? Mày cứ nói đi để ta và dì nghe. Nếu nói mà không cười được, ta không nghe đâu.

Trước khi nói, Phượng Thư dang hai tay ra, khom lưng lại mà cười, chưa biết là chị ta nói chuyện gì.

Hồi thứ chín mươi chín

Giữ phép công bọn hầu ác cùng nhau phá lệ;

Xem tin báo ông cậu già đâm ra lo phiền

Phượng Thư thấy Giả mẫu và Tiết phu nhân nghĩ đến Đại Ngọc mà đau lòng, liền nói:

- Cháu có câu chuyện buồn cười nói cho bà và cô nghe.

Chưa kể chuyện chị ta đã cười trước, rồi nói:

- Bà và cô thử nghĩ xem câu chuyện này ở đâu? Chính là chuyện của cô dâu chú rể mới nhà ta đấy.

Giả mẫu nói:

- Làm sao rồi?

Phượng Thư giơ tay ra:

- Một người ngồi như thế này, một người đứng như thế này, một người ngoảnh đi như thế này, một người xoay lại như thế này, một người lại...

Nói đến đó Giả mẫu đã cười ồ lên và bảo:

- Mày nói rõ đi thôi! Đó không phải chuyện hai vợ chồng nhà nó, mà chỉ là mày chọc cho người ta khó chịu đấy.

Tiết phu nhân cũng cười, nói:

- Cháu cứ nói thẳng đi thôi, đừng làm trò nữa.

Phượng Thư mới nói:

- Cháu vừa đến nhà chú Bảo, nghe có tiếng mấy người đang cười, cháu tưởng là ai, khi nhòm vào song cửa, thì ra em Bảo đang ngồi bên cạnh giường; chú Bảo đang đứng dưới đất. Chú Bảo cứ nắm ống áo em Bảo mà nói: “Chị Bảo! Sao chị không biết nói nữa? Chị chỉ nói một câu thì nhất định bệnh tôi khỏi hẳn.” Em Bảo cứ ngoảnh mặt tránh mãi. Chú Bảo lại vái rồi nắm lấy tay áo em Bảo. Em Bảo hoảng lên, giật một cái, chú Bảo vì mới ốm dậy, chân còn yếu, liền ngã đè lên mình em Bảo. Em Bảo cuống quít đỏ mặt lên, và nói: “Cậu bây giờ lại càng lẩn thẩn hơn trước…”

Nói đến đó Tiết phu nhân và Giả mẫu đều cười rũ rượi.

Phượng Thư lại nói:

- Chú Bảo đứng dậy, cười nói: “May ngã một cái mới làm cho tiếng nói của chị bật ra được?”

Tiết phu nhân cười, nói:

- Đó là con Bảo quái gở như thế thôi. Điều đó có can gì? Đã là vợ chồng thì cười cười nói nói có sợ gì. Nó lại không thấy anh Liễn và cháu à?

Phượng Thư mặt đỏ, nói:

- Cô nói gì thế? Cháu nói câu chuyện vui để cho cô đỡ buồn, mà cô lại đem cháu ra làm trò cười.

Giả mẫu cũng cười, nói:

- Phải như thế mới được. Vợ chồng tuy cần hòa thuận, nhưng cũng phải có chừng mực. Ta yêu con Bảo chỉ vì có cái đức tính tôn trọng ấy. Ta vẫn lo thằng Bảo còn điên điên, dại dại, nay cháu thấy thế, thì ra nó đã tỉnh táo hơn trước nhiều rồi. Cháu thử nói xem có chuyện gì buồn cười nữa không?

Phượng Thư nói:

- Mai đây chú Bảo làm lễ hợp hôn, rồi bà thông gia bế cháu ngoại, lúc bấy giờ không phải là chuyện buồn cười nữa hay sao.

Giả mẫu cười nói:

- Ta với dì còn đang tưởng nhớ em Lâm cháu, mày đến chọc chúng ta cười đã đành, sao lại còn văng tục ra nữa. Mày không để cho chúng ta tưởng nhớ em Lâm à? Mày đừng có hí hửng cho lắm, em Lâm giận mày đấy. Sau này mày đừng vào vườn một mình, coi chừng nó nắm lấy, nó không nghe cho đâu!

Phượng Thư cười nói:

- Khi gần chết, cô ta nghiến răng nghiến lợi chỉ giận chú Bảo, chứ có giận cháu đâu.

Giả mẫu và Tiết phu nhân nghe nói, vẫn cho là chuyện đùa, nên không để ý, rồi nói:

- Thôi cháu đừng có vơ quàng vơ xiên nữa, ra bảo các ông ngoài ấy chọn ngày tốt để làm lễ hợp hoan cho Bảo Ngọc thôi.

Phượng Thư vâng lời, nói chuyện một lúc nữa, rồi ra ngoài bảo người xem ngày tốt, để bày cỗ bàn, hát xướng và mời khách. Bệnh Bảo Ngọc tuy đã lành, có lúc Bảo Thoa cao hứng, dở sách ra bàn luận với chồng về việc sách vở. Cái gì Bảo Ngọc thường thấy thì nhớ được, còn nói về trí thông minh thì khác trước xa. Chính anh ta cũng không hiểu ra sao. Bảo Thoa biết vì mất ngọc thông linh nên mới như thế. Chỉ có Tập Nhân vẫn thường nói:

- Tại sao mà khiếu thông minh của cậu trước kia mất đâu cả? Đáng lẽ ra cậu quên cái tật xấu kia đi thì tốt hơn, đằng này, tính khí vẫn như cũ, mà sao riêng về đạo lý lại mù mờ như thế?

Bảo Ngọc nghe nói, cũng không giận, chỉ cười hì hì. Có lúc Bảo Ngọc cứ tùy ý chơi đùa, may nhờ Bảo Thoa khuyên lơn, cũng đỡ phóng túng ít nhiều. Tập Nhân đỡ phải nói năng, chỉ biết hết sức hầu hạ. Các a hoàn khác ngày thường vốn mến phục đức tính hiền hậu của Bảo Thoa, nên thảy đều vui vẻ yên lặng.

Nhưng Bảo Ngọc vốn không ưa động không ưa tĩnh, thường cứ muốn vào vườn chơi. Bọn Giả mẫu sợ anh ta cảm nắng cảm lạnh, lại sợ anh ta nhìn cảnh thương tình. Tuy linh cữu Đại Ngọc đã đem để vào cái am ngoài thành, nhưng quán Tiêu Tương vẫn còn đó; người mất nhà còn, tránh sao khỏi gây nên bệnh cũ? Vì thế mọi người không cho anh ta vào vườn. Đã thế trong số các chị em, Bảo Cầm đã về nhà Tiết phu nhân rồi, Tương Vân thì vì Sử hầu vào kinh, gọi về nhà, mà lại gần ngày về nhà chồng, nên chỉ có lần ăn cưới Bảo Ngọc, và lần bày tiệc rượu mừng là đến và cũng chỉ ở bên nhà Giả mẫu. Vì nghĩ rằng Bảo Ngọc đã lấy vợ, mà mình cũng sắp về nhà chồng, cho nên cô ta không cười đùa như trước. Có lúc cô ta đến chơi, thì cũng chỉ nói chuyện với Bảo Thoa; khi gặp Bảo Ngọc chẳng qua chỉ chào hỏi mà thôi. Hình Tụ Yên thì sau khi Nghênh Xuân về nhà chồng rồi, liền về ở với Hình phu nhân. Chị em họ Lý cũng đều ra ngoài, đôi khi đến chơi với thím Lý, cũng chẳng qua đến chỗ các bà và bọn chị em, chào hỏi xong, liền đến chỗ Lý Hoàn, ở một vài hôm rồi về ngay. Vì thế ở trong vườn bây giờ chỉ có Lý Hoàn, Thám Xuân và Tích Xuân.

Giả mẫu muốn đưa cả bọn Lý Hoàn ra, nhưng vì sau khi Nguyên phi qua đời, trong nhà việc này việc khác xảy ra luôn, không lúc nào rảnh mà lo việc ấy. Hiện nay khí trời ngày một nóng thêm, trong vườn còn ở được, nên chờ đến mùa thu sẽ dời.

Giả Chính đem theo mấy người giúp việc giấy tờ từ kinh đi. Ngày đi đêm nghỉ. Đến tỉnh Giang Tây, yết kiến quan trên xong, Giả Chính đến nơi làm việc làm lễ nhận ấn, lập tức điều tra các kho lương thực trong các châu, các huyện. Giả Chính xưa nay làm quan ở kinh, chức lang trung cũng là chức quan rảnh. Dù có lúc ra làm quan ở ngoài nhưng lại là giáo chức, không liên quan gì đến việc cai trị. Vì thế những điều xấu xa như khấu bớt lương gạo, bóp nặn dân đen, tuy có nghe người ta bàn tán, nhưng bản thân chưa hề trải qua, chỉ một lòng muốn làm ông quan tốt. Ông ta liền cùng bọn giúp việc bàn bạc, yết thị nghiêm cấm những điều xấu xa kia, và hiểu thị hễ tra ra thì sẽ trình quan trên trị tội. Ban đầu mới đến, quả nhiên bọn lại dịch đều sợ, liền dùng đủ cách để xoi bói, kiếm chác, nhưng lại gặp phải Giả Chính là người cố chấp. Bọn người nhà theo hầu Giả Chính lúc ở kinh không hề được chút lợi lộc gì cả, trông mong mãi mới được chủ nhà bổ nhậm quan ngoài, bèn mượn tiếng để vay nợ sắm sửa áo quần cho có thể diện. Họ cứ nghĩ hễ đến chỗ làm quan là sẽ kiếm chác dễ dàng. Không ngờ Giả Chính có cái thói ngây ngô, thật thà muốn trừng trị những thói tệ, các quan châu huyện đưa lễ vật đến ông ta nhất thiết không nhận. Bọn thư biện trong bụng tính thầm: “Mình chỉ gắng nửa tháng nữa là áo quần cầm hết, mà nợ họ cũng giục gấp, biết làm thế nào? Mình thấy rõ những đồng bạc trắng xóa trước mặt mà không sao nắm được.” Bọn lính lệ cũng nói:

- Các ông chẳng mất vốn mất lãi gì, chứ bọn chúng tôi mới thật là oan! Bỏ ra bao nhiêu tiền, lo một chức canh cửa, nay đã hơn một tháng, chằng hề vớ được một đồng xu, chắc chắn theo hầu vị chủ này không làm gì mà được vốn. Ngày mai chúng tôi kéo cả bè lên xin nghỉ hết.

Ngày hôm sau bọn lính hầu quả nhiên đến họp đủ mặt và xin nghỉ. Giả Chính chẳng biết ra sao, liền nói:

- Muốn đến cũng do các anh, muốn đi cũng do các anh, đã chê ở đây không tốt thì cứ tùy ý thôi.

Bọn lính hầu vùng vằng hờn giận đi ra, chỉ còn lại bọn người nhà. Họ liền bàn với nhau:

- Người đi được thì đi rồi, còn bọn mình không đi được, cũng phải nghĩ cách gì chứ!

Trong đó có một người coi cửa, tên gọi Lý Thập nói:

- Các anh chẳng biết nhẫn nại gì hết, có việc gì mà hoảng lên thế? Vì trước có người đầu xâu của họ ở đấy không lẽ tôi lại ra lo thay cho họ. Bây giờ họ đều đói chạy hết cả rồi. Các anh hãy xem cái bản lĩnh của tôi đây, thế nào ông chủ cũng phải theo tôi cho mà xem. Nhưng các anh phải đồng lòng, cùng giúp nhau kiếm ít tiền về nhà mà tiêu. Nếu các anh không theo tôi, tôi cũng mặc, tôi cũng chẳng cần gì các anh!

Mọi người đều nói:

- Ông Thập này! Ông chủ đang tin ông hơn, nếu ông để mặc thì chúng tôi chết mất.

Lý Thập nói:

- Đừng có cái lối thấy tôi giơ mặt ra, được tiền được bạc rồi lại bảo tôi ăn phần hơn. Cái trò rối từ trong nhà rối ra khó coi lắm đấy.

Mọi người đều nói:

- Ông cứ yên tâm, làm gì có việc ấy. Dầu cho chẳng được bao lăm, còn hơn là cứ phải moi tiền lưng ra.

Đang nói thì thấy người thư biện ở phòng lương thực chạy đến tìm ông Hai Chu. Lý Thập ngồi trên ghế, vắt chân chữ ngũ, ưỡn bụng ra, nói:

- Tìm ông ta làm gì?

Người thư biện buông tay xuống, cười lấy lòng mà nói:

- Ông lớn tới nhậm chức đã hơn một tháng, các quan châu huyện thấy giấy cáo thị của ông lớn nghiêm ngặt, biết rằng khó lòng nói chuyện, cho nên đến bây giờ còn chưa mở kho. Nếu quá hạn vận tải, thì các ông đến đây làm gì?

- Anh đừng có nói bậy! Ông lớn ta là người có căn cơ, đã nói thế nào là làm thế ấy. Hai hôm nay đáng lẽ ra đã gửi công văn đi thúc giục rồi, vì tôi nói hãy hoãn lại ít hôm, cho nên mới tạm dừng lại. Vậy thì anh tìm ông Hai Chu để làm gì?

- Cũng chỉ là dò xem việc gửi công văn thúc giục ra sao thôi, có việc gì khác đâu.

- Lại nói bậy! Vừa rồi tôi nói gửi công văn thúc giục, rồi anh cũng luôn miệng nói nhảm. Đừng có cái thói thầm thầm thụt thụt đến bàn việc gì đó. Tôi sẽ trình với quan đánh anh và đuổi anh đi đấy.

- Nhà tôi ở nha môn đây đã ba đời, cũng có ít nhiều thể diện với người ngoài; trong nhà cũng đủ ăn, có thể giữ gìn khuôn phép hầu hạ quan lớn cho đến khi ngài thăng quan tiến chức chứ không đến nỗi như những kẻ chờ có gạo mà bỏ vào nồi ấy.

Rồi anh ta chào:

- Chào ông Hai, tôi đi đây.

Lý Thập đứng dậy, cười vui vẻ nói:

- Ông này thật không biết đùa! Người ta vừa nói mấy câu đã nóng mặt.

- Không phải tôi nóng mặt, nếu tôi nói gì nữa, lại không liên lụy đến thanh danh của ông Hai à?

Lý Thập lại gần nắm tay người thư biện nói:

- Ông họ gì?

- Không dám, tôi họ Thiềm, tên là Hội, lúc nhỏ cũng có ở kinh mấy năm.

- Ông Thiềm này! Tôi nghe tiếng ông đã lâu, anh em chúng tôi đều như nhau cả. Có việc gì, chiều tới, chúng ta nói chuyện.

- Ai chẳng biết ông Lý là người biết việc, ông vừa dọa tôi một tiếng mà tôi đã khiếp run lên đấy.

Nói xong, hai người cùng cười rồi chia tay nhau.

Đêm ấy Lý Thập cùng người thư biện bàn bạc lầm rầm đến nửa đêm. Hôm thứ hai, Lý Thập tìm lời để dò Giả Chính, bị ông ta mắng cho một trận nên thân. Cách hôm sau Giả Chính có việc đi chào khách dặn dò người nhà chờ sẵn. Mọi người vâng lời. Chờ một lúc lâu, đồng hồ đã đánh ba tiếng, trên công đường không thấy trống đánh, gọi mãi mới có người tới. Giả Chính từ trong bước ra, chỉ có một người nha dịch đi dẹp đường. Giả Chính cũng không hỏi, từ dưới thềm, bước lên kiệu ngồi, chờ bọn phu kiệu một hồi lâu mới đủ người khênh kiệu ra trước cửa nha môn, pháo chỉ nổ một tiếng. Tất cả bọn nhạc công chỉ có một người đánh trống và một người thổi kèn.

Giả Chính nổi giận, nói:

- Mọi hôm còn khá, sao hôm nay không ai đến như thế?

Ngước mắt nhìn bọn coi việc thì kẻ trước người sau, rời rạc không ra hàng ngũ gì cả. Giả Chính đành phải miễn cưỡng đi chào khách, rồi về, truyền gọi bọn làm lo buổi hầu đến định đánh. Người nói vì không có mũ; người nói vì áo lính đem cầm mất; lại có người nói, ba hôm nay không có cơm ăn nên khênh không được. Giả Chính tức giận đánh mấy người, rồi cũng cho qua. Cách mấy hôm, người đầu bếp lên lấy tiền, Giả Chính đem số bạc ở nhà đến, giao cho anh ta. Sau đó cảm thấy mọi việc không vừa ý, so với lúc ở kinh thì khó khăn hơn nhiều, ông ta không biết làm thế nào, liền gọi Lý Thập đến hỏi:

- Bọn người theo ta đến đây, sao đều thay đổi tính cách như thế? Anh phải trông nom chứ. Hiện nay số bạc đưa đến, đã tiêu hết rồi. Bạc lương trong kho thì đang còn chậm, phải sai người về kinh lấy.

Lý Thập thưa:

- Hôm nào tôi chẳng nhắc nhở họ! Nhưng không biết tại sao bọn họ lại thờ ơ, làm tôi cũng không có cách nào, ông lớn bảo về nhà lấy bạc thì lấy bao nhiêu? Bây giờ nghe nói ở nhà quan tiết độ mấy hôm nay làm lễ sinh nhật, các quan phủ, quan đạo đều đưa lễ mừng hàng ngàn vạn lạng bạc. Đây ta định mừng bao nhiêu?

- Sao không nói sớm?

- Ông lớn là người rất sáng suốt. Chúng ta mới bắt đầu đến đây lại không năng đi lại với các quan khác, ai chịu tin cho mình biết? Họ chỉ trông cho ông lớn đừng đi mừng quan tiết độ, để mong giành chức quan của ông lớn.

- Nói nhảm! Chức quan của ta là do hoàng thượng trao cho, không lẽ vì việc ta không đi mừng sinh nhật quan tiết độ mà họ có thể cách chức ta à?

- Ông lớn nói cũng đúng. Nhưng kinh đô cách đây xa lắm, trăm việc đều do quan tiết độ tâu lên, ông ta nói tốt thì được tốt ông ta nói xấu thì phải chịu xấu. Đến khi rõ việc ra thì đã chậm rồi. Ngay cả cụ và bà lớn ai chẳng muốn cho ông lớn làm quan tỉnh ngoài vẻ vang hiển hách?

Giả Chính nghe mấy câu ấy, trong bụng cũng đã hiểu, liền nói:

- Ta định hỏi anh sao anh không nói trước?

- Tôi vốn không dám nói, nay ông lớn đã hỏi đến, không nói thì ra tôi không có lương tâm mà nói ra thì sợ ông lớn lại nổi giận.

- Cốt sao anh nói cho có lý.

- Bọn thơ lại và nha dịch, đều mất tiền để mua việc làm ở nha môn này, ai lại không nghĩ đến việc phát tài, ai lại không phải nuôi sống gia đình kia chứ? Từ khi ông lớn nhậm chức tới nay, chưa hề thấy làm việc gì cho nước nhà, mà đã nghe người ta bàn tán đầy đường.

- Dân gian nói những gì?

- Dân gian nói: "Đại phàm các quan mới nhậm chức, cáo thị càng nghiêm ngặt thì càng nghĩ đến cách xoay tiền. Vì các quan châu huyện sợ hãi sẽ phải đưa tiền bạc nhiều.” Lúc thu lương thực, bọn nha dịch cứ nói, theo lệnh cấm của quan đạo mới, không dám lấy tiền, nhưng họ lại dây dưa làm khó dễ. Nhân dân ở hương thôn chỉ muốn mất một ít tiền để mau xong việc. Vì thế họ không khen ông lớn là tốt mà lại cho là không am hiểu dân tình. Như quan lớn nọ người họ ta(13) là người ông lớn rất thân, chẳng mấy năm đã leo lên chức cao nhất. Đó cũng chỉ vì ông ta thông hiểu cách làm việc, biết làm cho trên hòa dưới thuận đó thôi.

Giả Chính nghe đến đấy, quát:

- Nói nhảm! Ta mà không thông hiểu cách làm việc à? Nếu nói trên hòa dưới thuận thì bảo ta cũng như họ, cũng phường mèo chuột chung giường hay sao?

- Tôi vì hết lòng trung thực không chút giấu giếm mới dám nói ra. Nếu ông lớn cứ thế mà làm, đến khi công chẳng thành, danh chẳng đạt, lại bảo là tôi không có lương tâm. Thực ra tôi có dám giấu ông lớn gì đâu?

- Theo anh nên thế nào?

- Cũng chẳng có gì khác, ông lớn nên nhân khi còn khỏe mạnh, trong nhà có người giúp đỡ, cụ bà còn sáng suốt, mà chăm lo lấy việc mình là hơn. Nếu không thì không đầy một năm nữa, tiền nhà cũng hết, mà từ trên đến dưới ai cũng oán giận, sẽ cho rằng ông lớn làm quan ngoài, tất nhiên là kiếm được tiền mà thu giấu đi để tiêu riêng. Nhỡ ra gặp một vài việc khó khăn thì ai còn chịu giúp ông lớn nữa. Lúc bấy giờ không những không làm được việc gì, có ăn năn cũng không kịp.

- Cứ như anh thì ta phải làm ông quan tham nhũng à? Việc mất mạng không quan hệ bằng bôi nhọ công nghiệp của ông cha mới được hay sao?

- Ông lớn là người rất sáng suốt, lại không thấy mấy vị quan phạm tội năm xưa hay sao? Mấy vị đó đều thân với ông lớn, ông lớn thường nói họ làm quan thanh liêm giờ đây thanh danh của họ ra sao rồi? Lại có mấy vị thân thích, xưa nay ông lớn cứ nói họ là không tốt. Thế mà tới nay người thì đổi đến nơi tốt người thì thăng chức. Cho nên cốt làm sao cho khéo là được. Ông lớn nên biết: Cũng phải lo cho dân mà cũng phải lo cho chức quan của mình. Nếu như ý ông lớn, không cho phép các quan châu huyện được một đồng tiền, thì những công việc bên ngoài ai lo cho? Chỉ cốt sao bề ngoài ông lớn vẫn giữ được tiếng thanh liêm, còn những việc quanh co ở bên trong cứ mặc chúng tôi lo liệu không can ngại gì đến ông lớn cả. Chúng tôi đã theo hầu chủ, thì thế nào cũng phải đem hết lương tâm ra mà làm việc.

Giả Chính bị Lý Thập nói cho một hồi, trong bụng bối rối, liền nói:

- Ta cần phải giữ gìn tính mệnh. Các anh mà gây chuyện ra thì ta không biết đến đâu.

Nói xong, ông ta vào phòng trong.

Từ đó, Lý Thập làm mưa làm gió, cấu kết trong ngoài kéo bè kéo cánh lừa phỉnh Giả Chính làm việc, quả nhiên việc gì cũng chu đáo, việc gì cũng vừa lòng. Vì thế Giả Chính chẳng những không nghi, mà lại tin cậy. Lúc đó cũng có mấy nơi phát giác, nhưng quan trên thấy Giả Chính chất phác trung hậu, nên cũng không tra xét. Riêng có bọn môn khách giúp việc giấy tờ là nhìn xa thấy rộng, gặp dịp cũng có đem lời khuyên can. Nhưng Giả Chính không tin, nên cũng có người từ việc mà đi; cũng có người thân thiết với Giả Chính thì ở trong giúp đỡ. Nhờ vậy việc chuyên chở xong xuôi, không bị thiệt hại và quá thời hạn.

Một hôm, Giả Chính rảnh việc, ngồi trong phòng xem sách. Bỗng phòng công văn trình lên một bức thư, ngoài bì đề là: “Công văn của quan Tổng chế trấn thủ các xứ ở Hải Môn đệ gởi nha môn quan lương đạo tỉnh Giang Tây”. Giả Chính mở ra xem thấy viết:

“Kim Lăng bạn cũ, lân lý tình sâu. Năm trước khi về làm  việc ở kinh, mừng được gần gũi bên cạnh, lòng yêu rủ tới, hứa kết Châu Trần, đến nay cảm kích không quên. Chỉ vì được điều ra làm quan miền ven biển, chưa dám vội vã nài xin, trong dạ băn khoăn, than thở vì nỗi không có duyên gặp gỡ. Nay nghe ngựa xe xa tới, thực là thỏa dạ bình sinh. Đương định sang mừng, thì thơ tiên đến trước. Chốn biên đình thêm phần rạng rỡ, kẻ vũ phu này xiết đỗi đội ơn. Tuy cách bể khơi, cũng nhờ phúc âm. Mong không bỏ nơi thấp hèn, dây leo nương tựa. Cháu bé đã dược đoái thương, thục nữ vẫn nghe nết tốt. Nếu dược nhận lời, xin nhờ người mối. Đường sá dầu xa, nước sông cũng tiện; dám đâu trăm cỗ rước dâu, xin dọn thuyền tiên để đợi. Thư tiên một bức, kính chúc thăng quan và cầu xin y ước. Đang khi cầm bút, khôn xiết mong chờ.

Em là Chu Quỳnh cúi đầu.”

Giả Chính xem xong, nghĩ bụng: “Nhân duyên con cái, quả nhiên là có tiền định. Năm trước vì thấy ông ta làm quan ở kinh, lại là người làng, xưa nay thân thiết với nhau, lại thấy thằng con xinh xắn nên ở trong tiệc rượu đã nói đến chuyện này. Nhưng vì chưa nhất định, nên cũng không nói với người nhà. Sau đó ông ta được điều đi làm quan ở miền ven biển, hai bên cũng không nói đến nữa. Không ngờ nay mình thăng nhậm đến đây, ông ta lại viết thư đến hỏi. Ta xem đôi bên cũng môn đăng hộ đối mà con ông ta cùng với Thám Xuân thì cũng vừa đôi. Nhưng vì ta chưa đưa gia quyến đến đây, đành phải viết thư bàn với người nhà đã.”

Giả Chính đang lưỡng lự thì thấy ngoài cửa lại đưa vào một công văn, mời lên tỉnh họp bàn công việc. Giả Chính đành phải sắp xếp lên tỉnh, chờ quan tiết độ sai phái. Một hôm ở tỉnh rảnh việc ngồi trong công quán, thấy trên bàn chồng nhiều giấy báo tin tức việc quan, Giả Chính lấy xem hết. Xem đến một tờ thuộc bộ hình, thấy viết như thế này: "Xin báo về việc tên hành thương là Tiết bàn quê ở Kim Lăng... " Giả Chính giật nẩy mình: “Nguy to? Đã đệ án lên rồi!" Liền chú ý xem tiếp thì ra việc Tiết Bàn đánh chết Trương Tam, đút lót cho bọn nhân chứng, bịa đặt ngộ sát. Giả Chính vỗ bàn nói:

- Thôi, thế là hết!

Lại xem xuống phần dưới, thấy viết:

- Theo tờ tư của viên kinh doanh tiết độ sứ: “Nguyên Tiết Bàn vốn người Kim Lăng, đi qua huyện Thái Bình, nghỉ ở hàng nhà họ Lý mà không quen biết gì với người bán rượu ở hàng ấy là Trương Tam cả. Ngày tháng năm nọ, Tiết Bàn bảo chủ hàng dọn rượu để cùng uống với Ngô Lương, người ở huyện Thái Bình. Tiết Bà bảo Trương Tam lấy rượu, nhưng chê không ngon, bắt đổi thứ tốt, Trương Tam nói: “Rượu đã mua rồi… không thể đổi được” Tiết Bàn thấy anh ta ương ngạnh, cầm bát rượu hắt vào giữa mặt, không ngờ hắt mạnh quá, lại vừa gặp khi Trương Tam đang cuối xuống nhặt đũa, thành ra nhỡ tay, đập đúng thóp Trương Tam. Y đầu chảy máu, một chốc thì chết. Chủ hàng là họ Lý tới chữa không kịp, liền tin cho mẹ Trương Tam biết. Mẹ anh ta đến xem, thấy con đã chết, liền trình lý dịch địa phương, lên huyện trình báo. Viên tri huyện trước tới khám nghiệm. Người khám thương tích nói bị thương một chỗ, xương vỡ một tấc ba phân, và một chỗ bện sườn, rồi tư lên phủ xét lại. Quan phủ cho rằng Tiết Bàn thực vì hắt rượu nhỡ tay, ném bát đánh lầm, làm chết Trương Tam, chiếu theo tội ngộ sát, cho phép nộp tiền chuộc tội, theo luật đấu sát. Chúng tôi xét kỹ những lời khai của các người làm chứng và bà con người chết, trước sau không ăn khớp nhau. Lại tra luật đấu sát có ghi chú: “Tranh nhau gọi là đấu, đánh nhau gọi là ẩu”. Phải thật không có tranh nhau, đánh nhau gì mà bất thình linh bị chết thì mới khép vào án ngộ sát được, Vậy nên giao cho quan tiết độ ở đấy xét rõ sự tình định án cho đúng mà trình lên. Nay cứ tờ sớ của quan tiết độ, thì Tiết Bàn vì Trương Tam không chịu đổi rượu, liền nắm lấy tay Trương Tam và đánh một đấm vào bên sườn. Trương Tam mắng lại, bị Tiết Bàn ném bát rượu, làm bị thương nặng ở thóp, xương nát óc chết tươi tức khắc. Như thế thì cái chết của Trương Tam là do Tiết Bàn dùng bát rượu đánh bị thương nặng mà gây nên. Cần phải bắt Tiết Bàn đền mạng, chiếu luật đấu sát, khép Tiết Bàn vào tội  giảo giám hậu Ngô lương khép tội trượng đồ. Các quan phủ huyện xét hỏi không thật, xin nên... " Dưới bài báo này chua: “Bài này chưa hết".

Giả Chính vì Tiết phu nhân nhờ mình nên đã xin với tên tri huyện. Nếu họ xin chiếu chỉ nhà vua xét hỏi việc này sẽ liên lụy đến mình, ông ta lo lắng, liền tìm tờ báo tiếp sau đó mở xem, thì lại không đúng, đành cứ lục đi lục lại, xem hết chồng báo rút cục chẳng có tờ nào tiếp theo tờ báo đã đọc, trong bụng bối rối ngờ vực càng thêm lo sợ, ông ta đang bực mình thì thấy Lý Thập đi vào nói:

- Mời ông lớn vào hầu, trong nha môn đã đánh hai hồi trống.

Giả Chính vẫn cứ ngơ ngác như không nghe gì cả. Lý Thập lại mời lần nữa. Giả Chính nói:

- Việc này biết xử trí ra sao?

Lý Thập nói:

- Ông lớn có điều gì lo nghĩ thế?

Giả Chính đem việc xem báo nói cho anh ta nghe.

Lý Thập nói:

- Ông lớn cứ yên tâm, nếu trong bộ định thế là còn nhẹ cho cậu Tiết đấy! Khi ở kinh, tôi nghe nói cậu Tiết ở trong hàng rượu gọi một số đàn bà con gái đến, uống rượu say rồi gây chuyện, đánh anh hầu rượu chết tươi. Tôi lại nghe nói chẳng những đã nhờ quan huyện, mà còn nhờ cậu Hai Liễn, tung ra một số tiền, thông đồng với các nha môn. Không biết tại sao mà ở bộ không làm cho xong. Nay việc dù vỡ lở, quan bênh vực cho nhau, nhiều lắm chỉ phạm cái tội xét không đúng, bị cách chức là cùng, đời nào họ chịu nhận câu chuyện ăn tiền ấy? Ông lớn không cần lo lắng làm gì, để chúng tôi dò xem, đừng làm nhỡ việc quan trên.

Giả Chính nói:

- Các anh làm gì mà biết? Tiếc thay cho quan tri huyện chỉ vì một chút tình mà làm mất cả chức quan còn không biết có mang tội hay không?

- Bây giờ lo nghĩ cũng vô ích, ngoài kia người ta chờ chực đã lâu rồi, mời ông lớn đi ngay thôi.

Hồi thứ một trăm

Làm hỏng mất dịp tốt, Hướng Lăng gây mối oán thù;

Thương em lấy chồng xa, Bảo Ngọc cảm tình ly biệt.

Giả chính tới hầu quan tiết độ, đến nửa ngày vẫn không thấy ra, bên ngoài bàn tán xôn xao. Lý Thập cũng không dò ra việc gì, liền nghĩ đến câu chuyện trên tờ quan báo cũng đâm hoảng. Chờ mãi mới thấy Giả Chính đi ra, Lý Thập chạy lại đón. Không kịp chờ về nhà, đến chỗ vắng người, Lý Thập hỏi ngay:

- Ông lớn vào lâu thế, có việc gì quan trọng không?

Giả Chính cười nói:

- Không có việc gì, chỉ vì quan Tổng chế Trấn Hải là bà con với quan tiết độ, nên viết thư nhờ người nâng đỡ cho ta, vì thế nói chuyện lâu và người còn bảo: “Chúng ta bây giờ cũng là bà con rồi".

Lý Thập nghe nói, trong lòng mừng rỡ, càng bạo gan, liền hết sức xúi giục Giả Chính nên bằng lòng việc hôn nhân ấy.

Giả Chính nghĩ bụng: “Không biết Tiết Bàn can ngại như thế nào, ở tỉnh ngoài tin tức không thông, khó bề lo liệu. Khi về đến nha môn của mình, Giả Chính sai người nhà về kinh thăm dò, nhân tiện trình Giả mẫu biết, nếu như Giả mẫu bằng lòng, thì đón cô Ba về đây. Người nhà vâng lời, về kinh trình lại với Vương phu nhân, rồi vào bộ lại hỏi dò, thì nghe nói phần Giả Chính chẳng bị liên quan gì, chỉ có quan tri huyện Thái Bình bị cách chức. Người ấy lập tức biên tờ thiếp cho Giả Chính yên lòng, còn mình ở lại chờ tin.

Tiết phu nhân vì vụ án mạng của Tiết Bàn, mất không biết bao nhiêu tiền bạc cho các quan, mới được định tội ngộ sát tư lên. Bà ta định gán hiệu cầm đồ cho người ta, để dành bạc chuộc tội. Không ngờ bộ hình bác lời xét ấy đi. Bà ta lại phải nhờ người vung ra một số tiền nữa mà vẫn không ăn thua gì, vẫn bị khép vào tội chết, giam lại để chờ mùa thu sẽ xét.

Tiết phu nhân vừa giận vừa thương, ngày đêm khóc lóc. Bảo Thoa thường thường qua lại khuyên giải:

- Anh Cả thật là vô phúc! Thừa kế cơ nghiệp của ông cha to lớn như thế, đáng lẽ phải yên phận làm ăn mới phải. Trước kia ở phương Nam đã làm bậy bạ, câu chuyện chị Hương Lăng đã là quá lắm. May nhờ có thế lực bà con, tốn mất một số tiền bạc, thế đã là vô cớ đánh chết người. Đáng lẽ anh ấy phải sửa lỗi, ăn ở đứng đắn, và lo phụng dưỡng mẹ già. Ai ngờ tới kinh lại vẫn như thế. Vì anh mà mẹ phải bao phen tức giận, khóc hết bao nhiêu nước mắt. Cưới vợ cho anh chỉ cốt sao cho cả nhà được yên ổn qua ngày. Không ngờ số mệnh như thế, lấy phải người vợ lại là người lắm chuyện, cho nên anh mới bỏ nhà ra đi. Thật đúng như tục ngữ nói: “Oan oan tương báo" chẳng được bao lâu đã lại xảy ra việc này! Mẹ và anh Hai không phải là không hết lòng. Mất tiền không nói lại còn phải lạy lục xin xỏ người ta. Khốn nỗi số mệnh của anh như thế, cũng chỉ là mình làm mình chịu. Nuôi con cốt để nhờ vả khi tuổi già sức yếu, dầu là con nhà nghèo hèn cũng biết kiếm bát cơm về nuôi mẹ, có ai lại phá sạch tư gia, bắt mẹ già phải khóc lóc chết đi sống lại như thế? Con nói không phải, chứ anh làm như thế, thật không phải là con, mà chẳng khác gì kẻ oan gia thù địch. Mẹ còn không hiểu điều đó, chứ khóc đêm khóc ngày. Đã thế lại còn bị chị ấy trêu tức nữa. Con lại không ở luôn nên này để khuyên giải. Thấy mẹ như thế thì con yên lòng sao được? Nhà con tuy nói là ngơ ngẩn, cũng không chịu chơ về. Hôm trước, cha con sai người về nói, xem tờ quan báo sợ quá, nên cho người về lo liệu. Con nghĩ anh con gây ra chuyện, khiến bao người để tâm lo lắng. May con ở gần đây, vẫn còn như đang ở với mẹ, chứ nếu phải đi xa quê cách biệt, nghe được tin này, có lẽ con nhớ mẹ mà chết mất! Con xin mẹ hãy di dưỡng tinh thần, nhân khi anh con còn sống đây, hỏi lại sổ sách các nơi, có ai nợ mình, hoặc mình nợ ai, cũng nên mời người đồng sự cũ đến tính toán xem còn có đồng nào nữa không.

Tiết phu nhân khóc lóc nói:

- Mấy hôm nay vì việc anh con, nên mỗi khi con về không ngoài việc con khuyên mẹ hoặc mẹ nói việc quan cho con nghe. Con không biết, chứ cái tên “mua hàng cho nhà vua" ở kinh đã bị xóa rồi; hai hiệu cầm đồ đã bán cho người ta và tiêu hết tiền rồi. Còn một hiệu nữa thì người coi việc trốn mất, hao hụt đến mấy ngàn bạc và đang xảy ra kiện cáo. Anh Hai con ngày nào cũng ở ngoài lục lọi sổ sách, số tiền ở kinh đã mất đến mấy vạn lạng bạc, đành phải rút số bạc chung vốn ở Nam lên và bán nhà ở đi mới đủ. Hai hôm trước đây còn nghe tin đồn nhảm, nói hiệu cầm đồ chung vốn ở miền Nam cũng vì lỗ vốn phải đương cửa. Nếu quả thế, mẹ còn sống làm sao được nữa!

Nói đến đó, bà ta lại khóc ầm lên. Bảo Thoa cũng khóc, và khuyên:

- Việc tiền bạc mẹ lo lắng cũng không ăn thua, đã có anh Hai lo liệu. Chỉ đáng giận bọn làm công thấy tình cảnh nhà mình suy sụp họ bỏ cả đi, mỗi người mỗi nẻo. Con nghe nói họ về hùa với người khác đến dọa dẫm chúng ta. Thế mới biết anh lớn chừng ấy tuổi đầu mà giao du toàn những bọn tham ăn tục uống, khi nguy cấp hoạn nạn thì chẳng có một người nào nhìn. Nếu mẹ thương con, xin mẹ nghe lời con, mẹ đã có tuổi cần phải giữ gìn đôi chút. Đời mẹ chắc không đến nỗi phải chịu đói, chịu rét đâu. Có ít quần áo đồ đạc trong nhà này, mẹ cứ để mặc chị ấy. Kể ra cũng chẳng còn cách nào hơn. Bọn bà già và người nhà xem chừng họ cũng không muốn ở đây nữa, ai đáng về thì cho họ về. Chỉ đáng thương chị Hương Lăng khổ một đời người, đành cứ để theo mẹ. Nếu thiếu thốn gì, bên con có, cũng có thể đưa sang ít nhiều, chắc nhà con cũng không nói gì đâu. Chị Tập Nhân cũng là người thực thà đứng đắn. Mỗi lần chị ta nghe việc của anh con, hễ nhắc đến mẹ là chị ấy khóc. Nhà con cứ tưởng là vô sự, nên không lo lắm; nếu mà biết rõ thì cũng khiếp đến chết đi được.

Tiết phu nhân không chờ con gái nói xong, vội bảo:

- Con ơi, con đừng nói với chồng con! Vì cô Lâm, chồng con định liều cả cuộc đời, mãi bây giờ mới đỡ ít nhiều. Nếu lại để nó sợ lỡ xảy ra việc gì, chẳng những con đeo phiền não, mà mẹ cũng hết nơi nương tựa.

- Con cũng nghĩ thế, nên không hề nói với nhà con.

Đang nói chuyện thì thấy Kim Quế chạy đến gian phòng bên ngoài, vừa khóc vừa kêu:

- Tao không cần sống nữa đâu! Chồng thì nắm chắc phần chết rồi! Nay chúng ta phá một trận, rồi kéo cả lên pháp trường liều mạng một phen!

Vừa nói, chị ta vừa đập đầu vào bức ván ngăn nhà, đầu tóc rũ rượi. Tiết phu nhân tức quá, trợn ngược mắt lên, không nói gì. May có Bả Thoa một điều gọi chị, hai điều gọi chị, đem lại hơn lẽ thiệt ra khuyên. Kim Quế nói:

- Cô ơi, giờ đây cô không phải như trước nữa. Hai vợ chồng cô sống vui vẻ, còn tôi là con người cô đơn trơ trọi, thì giữ thể diện làm gì?

Chị ta nói xong, định chạy ra đường về nhà mẹ. Nhờ có đông người giữ lại, khuyên lơn một hồi lâu chị ta mới im. Bảo Cầm sợ quá, từ đó không dám gặp chị ta nữa. Những khi Tiết Khoa ở nhà thì chị ta lại bôi son đánh phấn, rẽ tóc rẽ mày, ăn mặc rất là lả lơi kỳ quái, rồi lượn qua ngoài phòng Tiết Khoa thường cố ý ho một tiếng. Có khi biết rõ Tiết Khoa ở trong phòng, chị ta cũng cứ vờ hỏi ai ở trong ấy? Lúc gặp Tiết Khoa thì chị ta thướt tha nũng nịu, hỏi han vờ vẩn, vui giận thất thường.

Bọn a hoàn trông thấy, vội vàng tránh ra. Chính chị ta cũng không biết gì cả, chỉ một lòng một dạ định làm cho Tiết Khoa mê mẩn để giở mưu kế của Bảo Thiềm. Tiết Khoa chỉ có cách tránh, lỡ gặp chị ta, sợ chị ta bướng bỉnh, liều lĩnh nên cũng phải chiều chuộng ít nhiều. Kim Quế mê mệt sắc đẹp của Tiết Khoa, càng nhìn càng yêu, càng nghĩ càng mê, còn phân biệt sao được việc Tiết Khoa thật hay giả. Có điều là bất cứ cái gì Tiết Khoa đều nhờ Hương Lăng cất; áo quần giặt giũ, may vá, cũng nhờ Hương Lăng; khi hai người ngẫu nhiên nói chuyện, thấy Kim Quế đến, lại vội vàng lảng ra. Thấy vậy Kim Quế càng nổi cơn ghen, muốn lên tiếng quở trách Tiết Khoa, nhưng lại không nỡ, đành phải đem lòng tức giận ngấm ngầm, trút hết lên người Hương Lăng. Nhưng sợ đụng chạm đến Hương Lăng, lại mang lỗi với Tiết Khoa, thành ra Kim Quế cứ phái cắn răng mà nhịn.

Một hôm, Bảo Thiềm chạy đến, cười hì hì nói với Kim Quế:

- Mợ có thấy cậu Hai không?

- Không.

- Tôi đã bảo cái lối đứng đắn giả vờ của cậu Hai nhà ta là không tin được. Trước đây chúng ta đưa rượu đến cậu ấy bảo không hay uống, nhưng vừa rồi tôi thấy cậu ta sang bên nhà bà, mặt đỏ gay, người bốc lên mùi rượu. Mợ không tin, chốc nữa đứng trong cửa nhà ta đây mà chờ. Cậu ấy ở bên kia qua đây, mợ thử gọi lại hỏi. Xem cậu ấy nói thế nào?

Kim Quế nghe nói, trong bụng tức giận, liền nói:

- Cậu ta làm gì mà đã ra ngay. Họ đã không có tình nghĩa, mình còn hỏi làm gì?

Bảo Thiềm nói:

- Nếu khốn tử mình sẽ liệu (á(hậu ấy tử tế thì mình cũng tử tế,

Kim Quế nghe nói có lý, liền bảo Bảo Thiềm:

- Mày xem cậu ấy đã ra chưa?

Bảo Thiềm vâng lời đi ra. Kim Quế giở hộp gương ra soi, xoa một ít phấn lên môi, rồi cầm lấy một cái khăn lụa, vừa định đi ra lại quên mất cái gì trong bụng chẳng biết làm thế nào. Bỗng nghe Bảo Thiềm ở ngoài nói:

- Cậu Hai hôm nay cao hứng thật! Uống rượu ở đâu về đấy?

Kim Quế nghe nói, biết là Bảo Thiềm cốt gọi mình ra, liền vội vàng vén màn đi ra, thì thấy Tiết Khoa đang nói với Bảo Thiềm:

- Hôm nay là sinh nhật của ông Trương. Tôi bị họ ép không chối được, phải uống nửa chén, đến bây giờ má đang nóng bừng lên đấy.

Nói chưa xong, Kim Quế đã đỡ lời:

- Cố nhiên là uống rượu nhà người ta thú vị hơn là uống rượu ở nhà mình.

Tiết Khoa bị chị ta nói chọc, má càng đỏ lên, vội vàng chạy lại cười lấy lòng mà nói:

- Chị nói gì thế?

Bảo Thiềm thấy hai người nói chuyện với nhau, liền lẩn tránh vào trong nhà. Ban đầu Kim Quế định vờ làm bộ trách Tiết Khoa mấy câu, khốn nỗi khi thấy gò má anh ta đỏ lên, hai mát lờ đờ lại có vẻ thùy mị rất đáng yêu thì tính khí kiêu căng của mình đã hay đi đường nào hết. Chị ta liền cười nói:

- Nói như thế thì phải có người bắt ép chú mới chịu uống à?

Tiết Khoa nói:

- Tôi làm gì mà uống được?

- Không uống cũng tốt, còn hơn anh chú cũng vì uống th ra chuyện không hay, rồi sau này lấy mợ ấy về, lại như tôi đây phải chịu cô đơn góa bụa trong khi chồng vẫn sống.

Nói đến đó, đôi con mắt của chị ta lim dim và hai gò má cũng ửng đỏ lên. Tiết Khoa nghe câu nói càng có vẻ bậy bạ, định bỏ chuồn. Kim Quế biết ý, nhưng đời nào lại chịu, liền chạy nắm lấy tay. Tiết Khoa hoảng lên, nói:

- Chị ơi! Phải đứng đắn chứ!

Nói đến đó, cả người run lẩy bẩy.

Kim Quế cứ trơ trẽn nói:

- Chú cứ vào đây, tôi nói với chú một câu chuyện rất quan hệ.

Đang khi giằng nhau, bỗng sau lưng có người gọi:

- Mợ ơi! Hương Lăng đến đấy.

 Kim Quế giật nẩy mình, ngoảnh cổ nhìn thì đó là Bảo Thiềm. Bảo Thiềm đang vạch rèm ra xem hai người. Khi ngước đầu lên thấy Hương Lăng từ bên kia lại, nên vội vàng báo cho Kim Quế biết. Kim Quế sợ quá, buông tay ra. Tiết Khoa nhân đấy chạy thoát. Hương Lăng đang đi không để ý, bỗng nghe Bảo Thiềm kêu lên, mới thấy Kim Quế đang nắm lấy Tiết Khoa, cố sống cố chết kéo vào trong nhà. Hương Lăng sợ quá, tim đập thình thình, vội vàng quay trở về.

Kim Quế vừa sợ vừa tức, ngơ ngác nhìn Tiết Khoa chạy đi, đứng sững ra một lúc lâu, “hừ” lên một tiếng, rồi tiu nghỉu trở về phòng. Từ đó chị ta căm giận Hương Lăng đến xương tủy.

Hương Lăng định đến bên Bảo Cầm, nhưng vừa ra khỏi cửa nách nhìn thấy thế, sợ quá bỏ chạy về.

Hôm ấy, Bảo Thoa ở bên nhà Giả mẫu, nghe Vương phu nhân nói với Giả mẫu về việc định gả Thám Xuân. Giả mẫu nói:

- Đã là người làng thì hay lắm, nhưng nghe nói thằng bé ấy đã đến nhà ta, tại sao anh ấy không nhắc đến?

- Ngay chúng con cũng không biết.

- Tốt thì tốt đấy, nhưng đường xa quá. Hiện nay anh ấy làm quan ở đấy, nhưng sau này anh ấy đổi đi nơi khác thì con nhà mình chẳng lẻ loi sao?

- Hai nhà đều làm quan, thì cũng không thể nói trước được! Chưa chừng bên kia đổi về đây cũng nên. Nếu không thì “lá rụng rồi cũng xuống gốc cây”, biết đâu sau này chả có ngày lại gặp được nhau. Vả lại, nhà con làm quan ở đấy, quan trên đã nói, không lẽ không gả? Chắc là ý nhà con đã quyết, nhưng không dám làm chủ, nên mới sai người về trình với cụ.

- Các người bằng lòng càng hay, nhưng con Ba đi lần này, không biết vài ba năm có về nhà được hay không? Cứ thế chắc gì ta được gặp nó một lần nữa.

Nói đến đó, Giả mẫu chảy nước mắt.

- Con gái lớn, thế nào cũng phải lấy không. Dù gả cho người cùng quê cùng quán, nếu không làm quan thì thôi, chứ đã làm quan, thì ai dám chắc ở gần một chỗ? Cốt sao con nó có phúc là tốt. Ví như con Nghênh Xuân thì gả gần đấy, nhưng vợ chồng lại hay đánh nhau, thậm chí cơm nó cũng không cho ăn. Nhà ta đưa cái gì đưn, con Nghênh Xuân cũng không nhận được. Gần đây nghe nói lại càng tệ lắm, mà họ cũng chẳng cho con kia về. Hễ hai vợ chồng cãi nhau là thằng kia lại nói nhà mình tiêu mất tiền của nó. Thật đáng thương con bé không biết đến bao giờ mới mở mày mở mặt ra được! Hôm trước đấy, nhớ đến nó, con cho người sang thăm, con Nghênh Xuân trốn ở trong phòng bên cạnh, không chịu ra. Bọn bà già đòi vào cho được, thì thấy trời lạnh như thế mà nó chỉ mặc một cái áo cũ. Nó nước mắt lưng tròng, nói với bọn bà già: “Các bà về đừng nói chuyện khổ của tôi. Đây cũng là do số phận của tôi mà ra. Các bà về dặn bên nhà đừng đưa áo xống, đồ vật gì đến, chẳng những tôi không được nhận mà lại thêm trận đòn. Nó cho là tôi về mách!” Cụ thử nghĩ xem chính là gần mà mắt trông thấy đấy, nếu không tử tế càng thêm khó chịu. Thế mà bà Cả cũng không để ý, ông Cả cũng cứ điềm nhiên. Hiện giờ, con Nghênh Xuân so với bọn a hoàn hạng ba ở nhà chúng ta đây cũng còn kém xa. Con nghĩ con Thám Xuân tuy không phải con đẻ ra, nhưng nhà con đã biết anh rể rồi, chắc là có tốt mới gả. Vậy xin cụ cho chọn ngày tốt, sai mấy người đưa cháu đến nơi làm việc của nhà con, nên như thế nào, chắc nhà con cũng sẽ lo liệu chu đáo.

Giả mẫu nói:

- Đã có anh ấy làm chủ thì chị cứ thu xếp cho ổn thỏa, chọn ngày tốt đưa nó đi, thế là xong việc.

Vương phu nhân vâng lời. Bảo Thoa nghe nói, cũng không dám lên tiếng, nhưng trong bụng xót thầm: "Trong các cô ở nhà mình cô Ba là trội hơn cả, nay lại gả đi xa, thì người ở đây thật là càng ngày càng ít.”

Thấy Vương phu nhân đứng dậy cáo từ ra về, Bảo Thoa cũng đưa ra, rồi quay ngay về phòng mình, không nói cho Bảo Thoa biết. Thấy Tập Nhân đang làm việc một mình, Bảo Thoa liền đem câu chuyện vừa rồi nói với Tập Nhân, Tập Nhân cũng rất lấy làm áy náy.

Về phần dì Triệu, nghe tin Thám Xuân lấy chồng xa, lại càng vui mừng, nghĩ bụng: “Cái con này ở nhà chẳng coi mình ra gì. Nó có coi mình là mẹ nó đâu. Nó không coi mình bằng con hầu của nó. Nó lại cứ về hùa với trên bênh vực người ngoài. Có nó ở đây, ngay thằng Hoàn cũng không mở mặt ra được. Bây giờ cha nó đem đi, mình càng rảnh rang. Hòng gì sau này nó hiếu thảo với mình nữa. Mong sao nó cũng như con Nghênh Xuân mình mới hả dạ.”

Dì Triệu vừa nghĩ vừa chạy đến bên Thám Xuân mừng cho cô ta, và nói:

- Cô ơi! Cô là người sắp bay cao rồi. Về nhà chú rể tất nhiên là tốt hơn ở đây, chắc cô cũng bằng lòng. Tôi sinh ra cô bấy lâu, chưa hề nhờ được gì, dù cho tôi có bảy phần xấu, cũng còn ba phần tốt, đừng có đi rồi cô bỏ quên ngay tôi.

Thám Xuân nghe nói chẳng có nghĩa lý gì cả, nên chỉ cúi đầu làm việc, không nói nửa lời. Dì Triệu thấy cô ta không thèm để ý liền vùng vằng bỏ đi.

Thám Xuân vừa tức, vừa buồn cười, lại vừa đau xót, nên cũng ngồi chảy nước mắt. Ngồi một lúc rồi cô ta buồn rầu đi sang bên nhà Bảo Ngọc.

Bảo Ngọc hỏi:

- Em Ba, anh nghe khi em Lâm chết, em ở bên ấy, đâu như lúc em Lâm chết có tiếng âm nhạc xa xa. Có lẽ cô ta là người khác thường cũng chưa biết chừng?

Thám Xuân cười:

- Đó là bụng anh nghĩ thế thôi. Nhưng đêm ấy cũng lạ, tiếng nhạc gì, không giống như tiếng ta thường nghe. Lời anh nói có lẽ đúng.

Bảo Ngọc nghe nói, càng cho là thật. Anh ta lại nghĩ trước đây khi thần hồn của mình đang phiêu dạt, từng nghe một người nói: “Sinh không giống người, chết không giống quỉ", chắc cô ta là nàng tiên xuống trần cũng nên. Lại nhớ đến năm nọ trong khi hát trò, họ đóng vai Hằng Nga, thướt tha lộng lẫy, yêu kiều biết chừng nào!” Một lúc sau, Thám Xuân ra về. Bảo Ngọc muốn Tử Quyên đến ở, lập tức trình Giả mẫu cho người đi gọi. Khốn nỗi Tử Quyên không bằng lòng, dù cho Giả mẫu và Vương phu nhân sai đến ở. Không có cách gì từ chối, nhưng ở trước mặt Bảo Ngọc, chị ta cứ than vắn thở dài. Khi vắng người, Bảo Ngọc nắm lấy tay chị ta, ôn tồn hỏi nhỏ chuyện Đại Ngọc nhưng không bao giờ Tử Quyên trả lời tử tế. Bảo Thoa thầm khen chị ta có lòng thủy chung, không hề quở giận. Tuyết Nhạn tuy có giúp sức đêm Bảo Ngọc rước dâu nhưng Bảo Thoa thấy tâm địa của con này không được ngay thẳng lắm, nên trình với Giả mẫu và Vương phu nhân đem gả cho một người hầu trai, đi ở nơi khác. Mụ vú họ Vương thì vẫn nuôi để tiện việc sau này đưa linh cữu Đại Ngọc về Nam. Bọn a hoàn nhỏ như Anh Kha thì lại về hầu Giả mẫu như trước. Bảo Ngọc nhân nhớ Đại Ngọc, từ cái nọ ra cái kia lại nghĩ đến những người theo hầu Đại Ngọc cũng đều tan tác các nơi, do thêm buồn bực, không biết làm thế nào; nhưng nghĩ lại Đại Ngọc đến chết vẫn còn tỉnh táo, chắc là thoát khỏi cõi trần trở về cõi tiên, nên lại vui vẻ. Bỗng nghe Tập Nhân và Bảo Thoa đang bàn về chuyện Thám Xuân đi lấy chồng, Bảo Ngọc nghe rồi kêu “ái chà" một tiếng, ngã lăn ra giường mà khóc. Bảo Thoa, Tập Nhân sợ quá, vội vàng chạy lại đỡ dậy, và hỏi:

- Cậu sao thế?

Bảo Ngọc nghẹn ngào không ra tiếng, im lặng giờ lâu mới nói:

- Giờ đây không thể sống được nữa! Chị em mỗi người tan tác mỗi nơi. Em Lâm đã thành tiên, chị lớn đã chết, hàng ngày không được với nhau một chỗ, thế cũng đành. Chị Hai thì gặp phải cái thằng bậy bạ không ra người. Nay em Ba lại đi lấy chồng xa, không sao gặp mặt được nữa? Cô Sử thì không biết sẽ phải đi đâu? Em Tiết thì đã có nhà chồng. Bấy nhiêu chị em, chẳng nhẽ không để một ai ở nhà sao? Còn lại một mình tôi để làm gì?

Tập Nhân vội vàng đem lời khuyên giải.

Bảo Thoa xua tay nói:

- Chị không cần khuyên, để tôi hỏi cậu ấy.

Rồi quay lại hỏi Bảo Ngọc:

- Theo ý cậu đòi đám chị em phải ở nhà làm bạn với cậu cho đến già, đừng ai nghĩ gì về việc lấy chồng phải không? Nếu là người khác còn có thể nói cậu có ý nghĩ gì. Còn các chị em của cậu không cần nói là không gả chồng xa, dẫu có chăng nữa thì cha làm chủ, cậu còn có cách gì?  Cậu nghĩ trong thiên hạ này chỉ có một mình cậu yêu chị em hay sao? Nếu ai cũng như cậu cả, ngay tôi đây cũng không làm bạn với cậu được nữa. Người ta đi học là cốt cho sáng lẽ, tại sao cậu càng học lại càng lẩn thẩn thế?  như tôi với cô Tập Nhân mỗi người đi mỗi nơi, để cho cậu đem hết chị em đến nhà mà ở với nhau.

Bảo Ngọc nghe nói, hai tay nắm lấy Bảo Thoa, Tập Nhân và nói:

- Tôi cũng biết vậy, Nhưng tại sao mà tan tác sớm như thế? Chờ lúc tôi hóa thành tro rồi hãy tan, cũng chưa muộn mà!

Tập Nhân bưng miệng anh ta lại và nói:

- Lại nói nhảm rồi, mới hai ngày nay, người cậu hơi khá, mợ Hai đã ăn được ít nhiều cơm. Nếu bây giờ cậu lại làm hỏng chuyện thì tôi cũng mặc kệ đấy.

Bảo Ngọc thấy hai người nói đều có lý, nhưng trong lòng chẳng biết nên như thế nào, đành phải nói:

- Tôi cũng hiểu rõ như thế nhưng trong bụng cứ rối cả lên.

Bảo Thoa cũng để mặc, nhưng ngấm ngầm bảo Tập Nhân đem thuốc viên “định tâm" cho anh ta uống, và khuyên giải từ từ.

Tập Nhân muốn nói với Thám Xuân, lúc ra đi bất tất phải từ biệt Bảo Ngọc. Bảo Thoa nói:

- Sợ gì việc đó? Hãy thư thả mấy hôm để cậu ấy tỉnh táo đã rồi để cho anh em họ nói chuyện với nhau. Vả lại cô Ba rất sáng suốt, không phải hạng người giả vờ, làm bộ, thế nào cũng có những lời khuyên răn, sau này cậu ấy sẽ không như thế nữa đâu.

Đang nói thì bên Giả mẫu sai Uyên Ương tới nói:

- Nghe nói bệnh cũ của Bảo Ngọc lại phát. Bảo Tập Nhân khuyên dỗ an tôi, nói với cậu ấy đừng có lo nghĩ vớ vẩn.

Bọn Tập Nhân vâng lời, Uyên Ương ngồi một lúc rồi về. Giả mẫu lại nghĩ Thám Xuân sắp đi xa, đồ tư trang tuy chưa cần sắm đầy đủ, nhưng nhất thiết mọi vật cần dùng đều phải sắm sửa, liền gọi Phượng Thư đến, nói rõ ý định của Giả Chính, rồi bảo chị ta lo liệu, Phượng Thư vâng lời.

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top