Honglaumong (hoi26_hoi65)
Hồi thứ hai mươi sáu
Cầu Phong Yêu, nói lóng đưa tình kín,
Quán Tiêu Tương xuân buồn tỏ nỗi riêng.
Sau ba mươi ngày tĩnh dưỡng, Bảo Ngọc không những người đã khỏe, mà vết thương trên mặt cũng khỏi hẳn, lại về ở vườn Đại Quan.
Gần đây, khi Bảo Ngọc ốm, Giả Vân đem người nhà đến trông nom, ngày đêm ở luôn đấy. Hồng Ngọc cùng bọn a hoàn cũng đến ở đấy trông nom Bảo Ngọc. Hai bên ngày ngày trông thấy nhau, lâu dần thành quen. Hồng Ngọc thấy Giả Vân tay cầm cái khăn lụa giống hệt khăn của mình đánh mất ngày trước, muốn hỏi nhưng sợ không tiện. Từ ngày hòa thượng và đạo sĩ đến, không cần nhiều đàn ông hầu nữ, Giả Vân lại đi trồng cây. Việc này Hồng Ngọc muốn bỏ khuây đi, nhưng không sao bỏ nổi, muốn hỏi lại sợ người ngờ vực. Đương lúc dùng dằng suy nghĩ, tâm trí bàng hoàng, bỗng nghe ngoài cửa sổ có người hỏi: "Chị Hồng có ở nhà không?"
Hồng Ngọc nghe hỏi, đứng trong cửa sổ trông ra, té ra Giai Huệ, một a hoàn nhỏ cùng ở trong nhà này, liền trả lời: "Có nhà, em vào đây".
Giai Huệ chạy vào, ngồi ngay lên giường, cười nói:
- Thực may quá! Em đang ở trong nhà rửa đồ đạc, thì cậu Bảo sai đưa chè sang cho cô Lâm, chị Hoa giao cho em mang đi. May gặp lúc cụ cũng sai người đưa tiền sang cho cô Lâm, và đang chia cho các chị bên ấy. Thấy em đến, cô Lâm bốc hai nắm cho em, không biết bao nhiêu, chị giữ hộ em.
Nó giở khăn lụa, đổ tiền ra. Hồng Ngọc đếm rành rọt số tiền, rồi cất đi.
Giai Huệ hỏi:
- Mấy hôm nay trong bụng chị thế nào? Cứ như ý em, chị nên về nhà ở vài ngày, mời thầy lang đến xem, uống vài thang thuốc thì khỏi đấy.
Hồng Ngọc nói:
- Em nói gì thế? Chị vẫn khỏe, về nhà làm gì?
- Em nghĩ ra rồi, cô Lâm thường ốm yếu, hay uống thuốc, chị nên xin thuốc của cô ấy mà uống cũng được.
- Em nói nhảm! Thuốc có phải là của uống bừa được đâu?
- Chị nghĩ như vậy không phải là cách lâu dài, cứ lười uống thuốc sau này sẽ nguy đấy!
- Sợ gì? Thà chết sớm đi cho rảnh.
- Đang yên lành sao lại nói những câu ấy?
- Em biết đâu tâm sự của chị!
Giai Huệ gật đầu nghĩ một lúc rồi nói:
- Chẳng trách được, chỗ này khó ở lắm. Hôm nọ cụ bảo, mấy ngày cậu Bảo ốm, người hầu đều vất vả cả. Bây giờ cậu ấy đã khỏi, đi lễ tạ các nơi rồi, nên thưởng tiền cho các người phục dịch. Như em còn bé, không được thưởng, cũng chẳng oán trách gì. Còn chị sao lại không được liệt vào hạng thưởng? Em chẳng phục tí nào. Như chị Tập Nhân dù được thưởng cả mười phần cũng đáng, chẳng nên tức bực làm gì. Nói thẳng ra, ai bì được với chị ấy? Chưa nói ngày thường chị ấy hết lòng phục dịch cậu Bảo, mà nếu chẳng phục dịch, cũng không bỏ được chị ấy. Đáng tức là bọn Tình Văn, Ỷ Hà lại được liệt vào hạng thưởng phần thứ nhất, chỉ vì chúng nó có vai có vế, nên mọi người đều tâng bốc chúng nó lên. Chị tính thế có đáng tức không?
- Việc gì mà phải tức. Tục ngữ nói "Rạp dù làm dài đến nghìn dặm, cũng không có tiệc nào là tiệc không tàn". Có ai ăn đời ở đời với nhau mãi đâu? Chẳng qua độ dăm ba năm, mỗi người đi mỗi ngả, còn ai nhìn ngó đến ai nữa?
Mấy câu này làm cho Giai Huệ lòng rất cảm động, mắt đỏ ngầu lên, nhưng vô cớ mà khóc cũng không tiện, nó đành phải gượng cười nói:
- Chị nói rất phải. Thế mả hôm nọ cậu Bảo còn bảo: nào là thu xếp buồng ở, nào là may quần áo mới, như là câu chuyện còn đầm ấm lâu dài hàng mấy trăm năm nữa!
Hồng Ngọc nghe xong cười nhạt, đương muốn nói nữa, thì một a hoàn chưa để tóc(1) chạy lại, tay cầm các mẩu hoa và hai tờ giấy, nói:
- Chị vẽ kiểu hoa này vào giấy giúp em.
Nói xong nó vứt cho Hồng Ngọc, rồi quay người chạy đi ngay. Hồng Ngọc gọi với, hỏi:
- Ai bảo mày mang đến đây? Chưa nói đã chạy! Ai nướng bánh chờ mày, mà mày vội vàng thế! Mày sợ bánh nguội đi chăng?
A hoàn nhỏ ở ngoài cửa sổ nói với một câu:
- Chị Ỷ Hà bảo mang đến cho chị đấy.
Nó lúng búng nói những gì rồi rảo cẳng chạy đi ngay.
Hồng Ngọc bực mình, ném mẩu hoa vào một chỗ, rồi mở ngăn kéo tìm bút. Tìm mãi, chỉ thấy toàn những bút cùn, liền nói:
- Có cái bút mới hôm trước vứt đâu mất rồi? Sao nghĩ mãi không ra? - Vừa nói, Hồng Ngọc vừa để ý ngẫm nghĩ, rồi cười nói: - Phải rồi, chiều hôm nọ Oanh Nhi mang về.
Rồi bảo Giai Huệ:
- Em đi lấy hộ chị nhé.
- Chị Hoa còn đương chờ em đi lấy cái hòm cho chị ấy, thôi chị đi mà lấy vậy.
- Chị ấy chờ em mà từ lúc nãy đến giờ em vẫn còn ngồi nói chuyện lau láu đấy à? Nếu chị không bảo em đi, làm gì có chuyện chị Hoa chờ em? Con ranh này hư lắm!
Nói xong, Hồng Ngọc đi ngay ra viện Di Hồng, đến thẳng phòng Bảo Thoa. Vừa đến cạnh đình Thấm Phương, thấy vú Lý của Bảo Ngọc đi đến. Hồng Ngọc đứng lại cười nói:
- Vú Lý! Vú ở đâu đến đây? Sao lại đến chỗ này?
Vú Lý đứng lại vỗ tay nói:
- Này xem, bỗng dưng vô cớ lại vẩn vơ nghĩ đến cậu Vân, cậu "Vũ" nào đó, bắt tao phải đi tìm ngay. Ngày mai mà trên nhà biết, thì còn ra gì nữa?
Hồng Ngọc cười nói:
- Vậy vú cũng theo lời cậu ấy mà đi gọi người ta sao?
- Không theo lời thì làm thế nào?
- Nếu người ấy biết điều đừng đến là phải.
- Nó không phải là đứa ngốc, việc gì nó chẳng đến?
- Nếu người ấy đến thật, thì vú đừng nên cùng đi với người ta; để mặc một mình hắn ta lại đây xem sao!
- Tao đến bảo hắn thôi, chứ hơi đâu cùng đi với hắn! Tao về sai một đứa a hoàn nhỏ hay một bà già nào đưa hắn đến là đủ rồi.
Nói xong, chống gậy đi ngay.
Hồng Ngọc nghe nói đứng ngẩn ra một lúc, chạy vội đi lấy bút.
Một chốc, một a hoàn nhỏ chạy đến, trông thấy Hồng Ngọc đứng đấy, liền hỏi:
- Chị Lâm đứng đây làm gì thế?
Hồng Ngọc ngẩng lên, thấy a hoàn nhỏ tên là Trụy Nhi, liền hỏi:
- Mày đi đâu đấy?
- Tôi đưa cậu Vân đến đây.
Nói xong, nó chạy đi ngay.
Hồng Ngọc vừa mới đi đến trước cầu Phong Yêu, thấy Trụy Nhi dẫn Giả Vân đến. Giả Vân vừa đi vừa đưa mắt nhìn Hồng Ngọc. Hồng Ngọc giả làm bộ nói chuyện với Trụy Nhi, nhưng mắt vẫn liếc nhìn Giả Vân. Bốn mắt thình lình gặp nhau, Hồng Ngọc đỏ mặt lên, né mình vào một chỗ, rồi đi đến Hành Vu uyển.
Bấy giờ Giả Vân theo Trụy Nhi đi quanh co đến viện Di Hồng. Trụy Nhi vào trình trước, rồi mới dẫn Giả Vân vào. Giả Vân nhìn lên, thấy trong sân lơ thơ có mấy ngọn núi đá, trên trồng chuối, có hai con hạc đứng rỉa cánh ở dưới gốc cây thông. Trên thềm treo mấy cái lồng đẹp, trong có nhiều thứ chim lạ, xung quanh có năm gian nhà nhỏ, cánh cửa chạm các thứ hoa mới đẹp, trên treo một cái biển có bốn chữ lớn: "Di hồng khoái lục". Hắn nghĩ bụng: "Vì có bốn chữ này, thảo nào mới gọi là "viện Di Hồng". Đương nghĩ thì phía trong bức lụa che cửa sổ có tiếng cười nói: "Mời vào. Hai ba tháng nay ta quên bẵng cháu!" Giả Vân nghe đúng là tiếng Bảo Ngọc, vội vàng chạy vào, ngẩng đầu nhìn thấy vàng ngọc, tranh ảnh chói lọi rực rỡ, nhưng không thấy Bảo Ngọc ở đâu. Ngoảnh lại thấy bên trái có một cái giá gương, một đôi a hoàn độ mười lăm, mười sáu tuổi ở đằng sau gương đi ra nói: "Mời cậu Hai vào ngồi chơi nhà trong".
Giả Vân vội vã đáp lời, mắt không dám nhìn thẳng, đến gần một cái tủ che bằng lụa biếc, có cái giường nhỏ vẽ sơn, trên giăng cái màn màu đỏ thêu hoa vàng. Bảo Ngọc mặc quần áo thường, chân đi giày, ngồi tựa trên giường xem sách. Thấy Giả Vân vào, Bảo Ngọc bỏ sách xuống cười đứng dậy. Giả Vân vội chạy lại hỏi thăm sức khỏe. Bảo Ngọc mời ngồi trên ghế, cười hỏi:
- Tháng trước gặp cháu, ta hẹn đến thư phòng chơi, nhưng bận việc luôn, thành ra quên mất.
Giả Vân cười nói:
- Thật là không may cho cháu, lại gặp lúc chú khó ở, bây giờ chú đã khỏe hẳn chưa?
- Khỏe lắm rồi. Chú nghe nói mấy hôm đó cháu cũng vất vả lắm!
- Phận sự cháu đáng phải vất vả, nay chú được khỏe, thực phúc cho cả nhà ta.
Một a hoàn bưng nước trà lại mời uống. Giả Vân mồm nói chuyện với Bảo Ngọc, mắt cứ lấm lét nhìn trộm a hoàn. Người này dáng dong dỏng cao, mặt trái xoan, mặc cái áo màu hồng nhạt, vai khoác khăn lụa xanh, quần nhiễu trắng. Chẳng phải ai xa lạ, mà chính là Tập Nhân. Khi Bảo Ngọc ốm, Giả Vân đến ở đây phục dịch luôn mấy ngày, nên đã nhớ được một nửa tên những người ở trong nhà. Hắn cũng biết Tập Nhân được coi thân hơn so với tất cả những người hầu trong buồng Bảo Ngọc. Nay thấy chị ta pha trà đưa lên mời, lại có Bảo Ngọc ngồi bên cạnh, hắn liền đứng dậy cười nói:
- Sao chị lại pha nước cho tôi uống? Tôi đến nhà chú không phải là khách, để tôi rót lấy cũng được.
Bảo Ngọc nói:
- Cháu cứ ngồi yên đấy. Bọn a hoàn ở đây chỉ cốt có việc ấy thôi.
Giả Vân cười nói:
- Tuy chú nói thế, nhưng đối với các chị ở trong nhà chú đây, khi nào cháu dám vô lễ?
Nói xong hắn ngồi xuống uống nước.
Bảo Ngọc cùng Giả Vân nói mấy câu chuyện phiếm, nào con hát nhà ai hát hay, vườn hoa nhà ai đẹp, a hoàn nhà ai lịch sự, tiệc tùng nhà ai linh đình, nhà ai có của báu, nhà ai có vật lạ. Giả Vân chỉ lựa lời nói xuôi chiều mà thôi. Nói chuyện một lúc, thấy Bảo Ngọc có vẻ uể oải, hắn liền xin về. Bảo Ngọc giữ lại qua loa một tí rồi nói:
- Hôm nào rỗi cháu cứ đến chơi.
Rồi lại sai a hoàn là Trụy Nhì đưa ra.
Giả Vân đi ra khỏi viện Di Hồng, thấy xung quanh không có ai, liền đi thong thả, tiếng nhỏ tiếng to, hỏi chuyện Trụy Nhi:
- Em bao nhiêu tuổi? Tên họ là gì? Cha mẹ em làm gì? Em ở nhà chú Bảo được mấy năm rồi? Một tháng được bao nhiêu tiền lương? Trong nhà chú Bảo có tất cả bao nhiêu a hoàn?
Trụy Nhi cứ theo từng câu hỏi một trả lời. Giả Vân lại hỏi:
- Người vừa nói chuyện với em có phải là Tiểu Hồng không?
- Đúng tên chị ấy là Tiểu Hồng đấy. Cậu hỏi làm gì?
- Vừa rồi nghe chị ấy hỏi em chiếc khăn lụa nào đó. Ta có nhặt được một chiếc.
- Mấy lần chị ấy hỏi em có trông thấy chiếc khăn lụa không. Em không có hơi đâu mà nghĩ đến chuyện ấy. Hôm nay chị ấy lại hỏi, lại bảo em cố tìm được, chị ấy sẽ tạ ơn. Vừa rồi, chị ấy nói ở trước cửa Hành Vu Uyển, cậu cũng nghe thấy đấy. Không phải em nói dối cậu đâu. Cậu ơi, cậu đã nhặt được thì cho lại em, để xem chị ấy tạ ơn em thế nào.
Nguyên tháng trước Giả Vân đến đây trồng cây, có nhặt được chiếc khăn lụa, biết là người trong vườn này đánh rơi, nhưng không rõ của ai. Nay nghe Hồng Ngọc hỏi Trụy Nhi, Giả Vân biết là khăn của cô ta, trong lòng xiết bao mừng rỡ. Bây giờ lại thấy Trụy Nhi hỏi xin, Giả Vân nghĩ ngay một kế, liền rút cái khăn ở trong tay áo ra đưa cho Trụy Nhi và bảo:
- Tôi cho em, nếu em được tạ ơn thì không nên giấu tôi.
Trụy Nhi vâng lời, cầm lấy khăn, đưa Giả Vân ra, rối về tìm Hồng Ngọc.
Sau khi tiễn Giả Vân về, Bảo Ngọc có vẻ mỏi mệt, lơ mơ nằm nghiêng trên giường. Tập Nhân chạy lại, ngồi bên cạnh giường, lay Bảo Ngọc nói:
- Lại chực ngủ đấy à? Nếu buồn, cậu đi ra ngoài chơi có hơn không?
Bảo Ngọc cầm lấy tay Tập Nhân cười nói:
- Tôi muốn đi chơi, nhưng không thể xa em được.
- Dậy đi thôi.
Tập Nhân vừa nói vừa kéo tay Bảo Ngọc. Bảo Ngọc nói:
- Đi chơi chỗ nào bây giờ? Buồn lắm!
- Cậu cứ đi ra ngoài chơi tự khắc vui, chứ cứ nghĩ những chuyện vụn vặt càng thêm buồn thôi.
Bảo Ngọc buồn rầu, đành phải nghe lời Tập Nhân, ra khỏi cửa phòng, đứng trên hành lang ngắm chim một lúc, rồi ra ngoài sân. Đến khe Thấm Phương, xem đàn cá vàng. Lại thấy sườn núi bên kia có hai con hươu nhỏ chạy rất nhanh, Bảo Ngọc không thể hiểu ra sao. Đương lúc thơ thẩn, thấy Giả Lan ở đằng sau, tay cầm cái cung nhỏ chạy đến. Trông thấy Bảo Ngọc, Giả Lan đứng lại, cười nói:
- Thế ra chú ở nhà, cháu cứ tưởng chú đi chơi rồi.
- Mày lại nghịch dại rồi. Tự nhiên vô cớ bắn nó làm gì?
- Hôm nay cháu không học, ngồi rỗi biết làm gì? Vì thế cháu tập bắn cung.
- Coi chừng đấy, có ngã gãy răng, đến lúc ấy mới kinh.
Bảo Ngọc nói xong, luôn chân đi đến trước cửa một ngôi nhà, thấy đuôi phượng ve vẩy, sáo rồng vi vu(2). Ngước mắt nhìn lên, đó là quán Tiêu Tương. Tiện bước chạy vào, trông thấy rèm tương rủ xuống, tiếng người vắng tanh. Đến trước cửa sổ, thấy ở trong màn the thoảng ra một mùi hương êm dịu. Bảo Ngọc ghé mắt sát vào cửa sổ nhìn, nghe tiếng thở dài khe khẽ và hát câu: Suốt ngày mê mẩn bồi hồi, tình riêng chán ngắt...(3). Bảo Ngọc nghe xong, tự nhiên trong lòng rạo rực, nhìn kỹ thì Đại Ngọc đương nằm ngả lưng trên giường. Bảo Ngọc ở ngoài cửa sổ cười nói:
- Sao lại hát câu ấy?
Rồi vén rèm đi vào.
Đại Ngọc biết mình vô ý, tự nhiên mặt đỏ bừng lên, liền lấy tay áo che, rồi quay vào phía trong giả cách ngủ. Bảo Ngọc đến định lay gọi Đại Ngọc, thấy bà vú và hai bà già chạy đến nói:
- Cô tôi đương ngủ, chốc nữa tỉnh dậy cậu hãy đến.
Vừa nói xong thì Đại Ngọc quay mình lại ngồi dậy cười nói:
- Nào ai ngủ?
Bọn bà già thấy Đại Ngọc dậy, cười nói:
- Thế mà chúng tôi tưởng cô đã ngủ rồi.
Và gọi Tử Quyên:
- Cô dậy rồi, đi lên hầu.
Đại Ngọc ngồi trên giường, giơ tay sửa lại tóc, rồi cười hỏi Bảo Ngọc:
- Người ta đương ngủ, anh đến đây làm gì?
Bảo Ngọc thấy Đại Ngọc mắt hơi lim dim, mặt hơi đỏ, tâm thần tự nhiên xiêu xiêu, ngồi ngả trên cái ghế tựa cười nói:
- Vừa rồi cô nói gì thế?
- Tôi có nói gì đâu?
- Tôi lại cho cô một cái "búng"(4) bây giờ! Tôi nghe hết cả rồi.
Hai người đương nói chuyện thì Tử Quyên đến, Bảo Ngọc cười nói:
- Mang thứ trà ngon của nhà chị ra đây pha cho tôi uống.
Tử Quyên nói:
- Nhà chúng tôi đây làm gì có trà ngon, muốn uống trà ngon thì chờ chị Tập Nhân đến.
Đại Ngọc nói:
- Mặc kệ anh ấy, em hãy đi múc nước cho tôi đã.
Tử Quyên nói:
- Cậu ấy là khách, nên pha nước cho cậu ấy uống trước đã rồi hãy đi múc nước.
Nói xong đi pha nước, Bảo Ngọc cười nói:
- Chị a hoàn này tốt đây! "Nếu tôi được cùng tiểu thư đa tình sum vầy phượng loan, quyết chẳng để chị trải nện quạt màn"(5).
Đại Ngọc nổi ngay cơn giận lên, cúi gằm mặt xuống hỏi:
- Anh Hai, anh nói gì thế?
- Tôi có nói gì đâu!
Đại Ngọc liền khóc nói:
- Bây giờ anh lại giở trò, đi ra ngoài học những câu đầu đường xó chợ, rồi đem về lặp lại cho tôi nghe. Anh xem những tiểu thuyết nhảm nhí, rồi đem tôi ra làm trò cười. Tôi là một cái đồ chơi giải buồn cho các người à!
Vừa khóc vừa nhảy xuống giường, chực chạy ra ngoài.
Bảo Ngọc sợ quá, vội cản lại nói:
- Em ơi, anh lỡ lời đáng chết, xin em đừng mách ai. Nếu anh còn dám nói câu ấy nữa, mồm sẽ lên đinh râu và sẽ thối lưỡi.
Giữa lúc ấy, Tập Nhân chạy đến nói:
- Ông gọi cậu đấy, về mặc quần áo ngay đi.
Bảo Ngọc nghe nói, như sét đánh bên tai, không nghĩ gì đến việc khác nữa, cắm đầu cắm cổ chạy về thay quần áo.
Ra khỏi vườn, thấy Bồi Dính chực ở cửa ngoài, Bảo Ngọc hỏi:
- Ông gọi tao có việc gì, mày có biết không?
Bồi Dính nói:
- Cậu đi mau lên, đến đó sẽ biết.
Vừa nói vừa giục Bảo Ngọc.
Đi qua buồng khách, trong bụng Bảo Ngọc vẫn nghi ngờ, bỗng nghe thấy bên góc tường có tiếng cười khanh khách, ngoảnh lại thấy Tiết Bàn vỗ tay nhảy xổ lại cười nói:
- Nếu không nói là dượng gọi thì khi nào anh lại chịu ra ngay.
Bồi Dính cũng cười, rồi quì xuống. Bảo Ngọc đứng ngẩn người một lúc, mới biết là Tiết Bàn đánh lừa mình. Tiết Bàn vội vái chào nhận lỗi và nói:
- Xin đừng quở phạt thằng bé này. Việc này là do tôi nhờ nó đi đấy.
Bảo Ngọc đành chịu, không biết làm thế nào, chỉ cười hỏi:
- Anh đánh lừa tôi cũng được, nhưng việc gì phải mượn tiếng cha tôi? Tôi sẽ đến mách dì, để người xử cho việc này, liệu có nên không?
Tiết Bàn vội nói:
- Vì tôi muốn anh đến mau, nên quên hẳn những câu kiêng kỵ, sau này anh muốn đánh lừa tôi, cũng lại mượn tiếng cha tôi, thế là xong chuyện.
- Ối chà, nói câu ấy lại càng đáng chết nữa!
Rồi Bảo Ngọc quay sang Bồi Dính bảo:
- Giống phản chủ này còn quì mãi làm gì đây?
Bồi Dính vội đứng dậy lạy tạ.
Tiết Bàn nói;
- Nếu không phải việc cần, tôi không dám làm phiền anh như thế. Chỉ vì ngày mai, mồng ba tháng năm, là ngày sinh của tôi, không biết lão Trình Nhật Hưng ở hàng bán đồ cổ tìm đâu được những ngó sen tươi vừa to vừa dài, lại trắng muốt; những quả dưa hấu rất to; một con cá tươi rất dài và con lợn Xiêm đã được xông hương cây bách là của nước Xiêm La đem đến cống(6). Anh xem, bốn thứ này đã dễ tìm đâu cho ra? Cá và lợn tuy là món quí, chỉ khó tìm thôi, còn ngó sen và dưa hấu, không biết họ làm thế nào mà có được! Trước hết tôi đem dâng mẹ tôi, rồi cho đem biếu bà và dì, bác. Còn để lại một ít, nếu tôi ăn một mình sợ tổn phúc. Nghĩ đi nghĩ lại, ngoài tôi ra chỉ có anh là đáng ăn thôi. Vì thế, tôi đặc biệt đến mời anh. May sao lại có một phường hát mới đến, chúng ta cùng chơi vui một hôm, anh nghĩ thế nào?
Hai người vừa nói vừa đi vào thư phòng, thấy bọn Thiềm Quang, Trình Nhật Hưng, Hồ Tư Lai, Đan Sính Nhân và phường hát đều đã ở đấy rồi. Thấy Bảo Ngọc vào, mọi người đứng dậy chào hỏi một lượt. Uống nước trà xong, Tiết Bàn sai bày tiệc rượu. Bọn hầu trai vội vàng đi bày tiệc rồi mọi người vào ngồi.
Bảo Ngọc trông thấy dưa hấu và ngó sen đều là của lạ, cười nói với Tiết Bàn:
- Tôi chưa có gì mừng anh mà lại đến quấy thế à?
- Thế ngày mai anh định mang thứ gì đến mừng?
- Tôi chẳng mang cái gì cả. Nói đến tiền bạc hay đồ ăn đồ mặc, thì toàn không phải là của tôi. Chỉ có một tờ giấy viết chữ hay là một bức vẽ mới đúng là của tôi đáng đem đến mừng.
- Anh nói đến bức vẽ, tôi lại nhớ tới hôm nọ ở một nhà kia, có bức vẽ xuân cung rất đẹp, trên có viết nhiều chữ, nhưng tôi không xem kỹ, chỉ thấy chỗ lạc khoản hình như chữ canh hoàng gì ấy, trông đẹp quá chừng.
Bảo Ngọc nghe xong, trong bụng ngờ ngợ, liền nói:
- Những bức vẽ xưa nay tôi đều đã được xem qua, chẳng có nhà danh họa nào tên là Canh Hoàng cả.
Nghĩ một lúc, phì cười lên, sai người lấy bút viết hai chữ vào lòng bàn tay rồi hỏi Tiết Bàn:
- Anh chắc hai chữ ấy là canh hoàng đấy chứ?
- Sao lại không chắc?
Bảo Ngọc xòe bàn tay ra cho hắn xem và nói:
- Có phải hai chữ này không? Thực ra hai chữ này không khác chữ canh hoàng là mấy.
Mọi người xem thì ra hai chữ Đường Dần(7), đều cười nói:
- Chắc là hai chữ này rồi, lúc đó cậu Tiết có lẽ mắt hoa nên không thấy rõ, cũng chưa biết chừng.
Tiết Bàn nghĩ thấy cụt hứng, cười nói:
- Nào ai biết nó là "đường" hay là "kẹo".
Đương nói chuyện thì đứa hầu nhỏ vào trình: "Cậu Phùng lại chơi". Bảo Ngọc biết ngay là Phùng Tử Anh, con quan Thần Vũ tướng quân Phùng Đường. Bọn Tiết Bàn bảo mời vào. Nói chưa dứt lời, đã thấy Phùng Tử Anh tươi cười bước vào. Mọi người vội đứng dậy mời ngồi. Phùng Tử Anh nói:
- Tốt lắm! Chả cần phải đi đâu nữa, cứ ở nhà vui thú với nhau là được.
Bảo Ngọc, Tiết Bàn đều cười, nói:
- Lâu lắm không gặp được anh. Bác nhà có được mạnh khỏe không?
Tử Anh đáp:
- Cha tôi vẫn khỏe mạnh, chỉ có mẹ tôi gần đây bị phong hàn, có nhọc vài hôm.
Tiết Bàn thấy trên mặt Tử Anh có vết thương hơi tím, cười hỏi:
- Lại đánh nhau với ai mà có vết thương trên mặt?
Phùng Tử Anh cười nói:
- Từ khi đánh con ông đô úy họ Cừu bị thương, tôi đã hối hận và nhớ mãi việc ấy, không dám nóng nẩy, thì còn đánh nhau với ai? Vết thương ở trên mặt là tại hôm nọ tôi đi săn ở núi Thiết Võng, bị con chim ưng đập cánh trúng đấy.
Bảo Ngọc hỏi:
- Bao giờ thế?
- Đi từ hôm hai mươi tám tháng ba đến hôm qua mới về.
- Thảo nào hôm mồng ba mồng tư vừa rồi tôi đến dự tiệc nhà anh Thẩm không thấy anh. Tôi định hỏi, nhưng lại quên mất. Anh đi một mình hay cả bác cũng đi?
- Vì cha tôi đi, tôi không thể từ chối được, nên phải cùng đi Chứ tôi có phải hóa rồ đâu. ở nhà mấy anh em cùng nhau uống rượu nghe hát, chẳng vui hơn sao, tội gì mà lại chuốc lấy sự bực tức vất vả vào người. Chuyến đi này trong sự không may lại gặp sự rất may.
Bọn Tiết Bàn thấy hắn uống nước rồi, đều nói: "Xin mời vào tiệc, có chuyện gì sẽ nói sau". Tử Anh nghe xong đứng dậy nói:
- Cứ lẽ ra, tôi phải ở lại hầu rượu các anh là đúng, nhưng hiện giờ có việc rất cần, tôi phải đi, xong đó quay về trình cha tôi ngay, thực không thể ở lại được.
Tiết Bàn, Bảo Ngọc khi nào chịu nghe, cố sống cố chết giữ lại không cho đi. Tử Anh cười nói:
- Lạ quá, chúng ta sống với nhau trong bấy nhiêu năm, khi nào lại có cái đối xử với nhau như thế? Thực tôi không thể theo lời được. Nếu nhất định giữ tôi, xin mang cốc lớn ra đây tôi uống hết hai cốc là được.
Mọi người nghe nói, đành thôi không nài nữa. Tiết Bàn cầm chai, Bảo Ngọc cầm cốc, rót đầy hai cốc to. Tử Anh đứng dậy uống một hơi hết. Bảo Ngọc nói:
- Anh hãy nói hết cái chuyện "không may lại gặp may" cho chúng tôi nghe đã, rồi mới được đi.
Tử Anh cười nói:
- Bây giờ không thể nào nói hết được. Cũng vì việc ấy, tôi muốn sửa một bữa tiệc, mời các anh đến chơi nói chuyện và còn có việc nhờ đến các anh nữa.
Nói xong, chắp tay chào rồi đi.
Tiết Bàn nói:
- Càng nói càng làm cho người ta sốt ruột lên, không thể nhịn được! Bao giờ anh mới nói rõ cho người ta đỡ mong.
Tử Anh nói:
- Lâu thì mười ngày, chóng thì tám ngày nữa.
Vừa nói vừa chạy ra ngoài cửa, cưỡi ngựa đi.
Mọi người trở về, theo thứ tự ngồi lại uống rượn, một lúc mới tan tiệc.
Bảo Ngọc về trong vườn, Tập Nhân ở nhà đương băn khoăn không biết Bảo Ngọc sang hầu Giả Chính, lành dữ ra sao. Bỗng thấy Bảo Ngọc về, say lướt khướt, hỏi duyên cớ, Bảo Ngọc kể hết đầu đuôi. Tập Nhân nói:
- Người ta đương sốt lòng sốt ruột chờ đợi. Cậu cứ mải vui, chẳng nghĩ gì cả. Cậu cũng nên sai người về báo tin mới phải!
Bảo Ngọc nói:
- Tôi vẫn định cho người về báo tin, nhưng gặp anh Phùng Tử Anh đến, nên trót quên mất.
Nói xong thấy Bảo Thoa chạy đến cười nói:
- Anh ăn trước những thứ gì ngon lạ ở bên nhà tôi đấy?
Bảo Ngọc cười nới:
- Nhà chị có thứ gì ngon lạ, tất nhiên là để dành cho chúng tôi trước.
Bảo Thoa lắc đầu cười nói:
- Hôm qua anh tôi mời riêng tôi, tôi không ăn, bảo để dành lại biếu người khác. Tôi tự nghĩ mình kém phúc, không đáng ăn những thứ ấy.
Nói xong a hoàn pha nước uống, rồi nói chuyện phiếm.
Đại Ngọc nghe nói Giả Chính gọi Bảo Ngọc, suốt ngày không thấy về, trong bụng cũng áy náy lo thay cho cậu ta. Sau bữa cơm chiều, nghe nói Bảo Ngọc đã về, Đại Ngọc định đến hỏi xem có xảy việc gì không? Đang lững thững đi, thấy Bảo Thoa cũng đi vào vườn. Đại Ngọc liền chạy theo sau. Vừa đến cầu Thấm Phương, thấy các giống thủy cầm(8) đương tắm trong ao, không nhận ra được giống gì, toàn những màu sắc lóng lánh, trông đẹp lạ thường. Đại Ngọc đứng dừng lại xem một lúc rồi đi đến viện Di Hồng, thì cửa đã đóng, Đại Ngọc liền gõ cửa.
Không ngờ Tình Văn và Bích Ngân đương cãi nhau. Thấy Bảo Thoa đến, Tình Văn liền giận lây cả cô ta, lủng bủng nói ở trong nhà: "Lúc bận cũng như lúc rỗi, cứ đến ngồi lì ra đấy, làm cho người ta mãi nửa đêm gà gáy cũng chưa được đi ngủ". Chợt lại nghe có tiếng người gõ cửa, Tình Văn lại càng cáu lên, chẳng hỏi là ai, nói ngay:
- Ngủ cả rồi, ngày mai hãy đến.
Đại Ngọc xưa nay vẫn biết thói quen của đám a hoàn hay mải chơi, có lẽ chúng nó không nhận được tiếng của mình, cho là đứa a hoàn nào gọi, nên không mở cửa. Vì thế lại gọi to:
- Tôi đây! Sao không mở cửa ngay?
Tình Văn vẫn không nghe rõ, lại gắt lên:
- Chị là ai cũng mặc kệ, cậu Bảo đã dặn tôi nhất thiết không để người nào vào!
Đại Ngọc nghe nói, đứng ở ngoài cửa tức lắm, định quát to nhưng lại nén giận, tự nghĩ: "Tuy nhà cậu cũng như nhà mình, nhưng mình vẫn là khách. Bây giờ bố mẹ chết rồi, không có chỗ nương tựa, mình phải đến ở nhờ đây, có giận cũng vô ích". Đại Ngọc nghĩ vậy, nước mắt chảy xuống ròng ròng, về không tiện, đứng cũng không tiện. Đương lúc phân vân, nghe ở trong nhà có tiếng cười nói, lắng tai mãi thì ra tiếng Bảo Ngọc và Bảo Thoa. Đại Ngọc càng giận, nghĩ quanh nghĩ quẩn, sực nhớ tới việc sáng hôm nay: "Có lẽ vì anh ấy giận ta, cho là ta đi mách anh ấy. Nhưng khi nào ta lại mách! Anh ấy không chịu nghe ngóng kỹ, lại giận ta đến nỗi này à! Hôm nay không cho ta vào, liệu ngày mai không gặp mặt được sao?" Càng nghĩ càng đau xót, thôi thì mặc kệ rêu xanh sương lạnh, đường hoa gió lùa, một mình thơ thẩn, đứng dưới bóng cây bên góc tường, rầu rầu thổn thức, nức nở nghẹn ngào!
Đại Ngọc vẫn sẵn dáng điệu tuyệt vời, nhan sắc hiếm có. Ngờ đâu trận khóc này làm chim chóc đương đậu trên cành liễu, khóm hoa gần đấy, cũng xào xạc bay xa, không nỡ nghe những tiếng khóc than ai oán. Thực là:
Hoa choáng hồn lên buồn tẻ bấy;
Chim bừng mắt dậy ngẩn ngơ đâu!
Vậy có bài ca rằng:
Cô Tần tài sắc tuyệt vời,
Một mình hiu quạnh ra ngoài buồng thêu.
Giọng than chưa ngớt nghẹn ngào,
Hoa tơi bời rụng, chim xào xạc bay.
Đại Ngọc đương lúc than khóc, chợt nghe thấy kẹt một tiếng, cánh cửa mở, có một người đi ra.
---------------------------------
(1). Đời Thanh con gái còn nhỏ thì cạo quanh đầu, chỉ để chỏm giữa. Đến khi lớn mới để tóc.
(2). Đuôi phượng là hình dung lá trúc, sáo rồng là hình dung tiếng gió thổi qua lá trúc.
(3). Câu ớ Tây Sương Ký.
(4). Ngày xưa người Trung Quốc trai gái đùa nhau, thường lấy ngón tay cái và ngón tay giữa nhíp lại, xát nhau cho bựt ra thành tiếng.
(5). Mượn lời trong truyện Tây Sương, Trương Sinh nói với Tiểu Hồng là đầy tớ của Thôi Oanh Oanh.
(6). Sự thực chỗ này chưa rõ, xin dịch đúng nguyên văn, đợi nghiên cứu sau.
(7). Tên một nhà danh họa đời Minh, cũng hơi gíống như chữ "canh hoàng". Tiết Bàn vì dốt nên đọc sai.
(8). Thủy cầm: như các giống vịt, ngỗng, le, cốc v.v... thích ở dưới nước.
Hồi thứ hai mươi bảy
Đình Trích Thúy, Dương Phi đùa bướm trắng;
Mộ Mai Hương, Phi Yến khóc hoa tàn.
Đại Ngọc đương lúc than khóc, chợt cửa mở, Bảo Thoa ở trong bước ra, bọn Bảo Ngọc, Tập Nhân đều tiễn ra cửa. Đại Ngọc muốn chạy đến hỏi Bảo Ngọc, nhưng lại sợ người ta biết, làm cho Bảo Ngọc xấu hổ, vì thế Đại Ngọc đứng né ra một bên để cho Bảo Thoa đi. Đợi Bảo Ngọc đóng cửa rồi, Đại Ngọc mới trở lại nhìn vào cửa gạt nước mắt, cảm thấy không còn thú vị gì, liền lủi thủi quay về cởi đồ trang sức ra.
Ngày thường, bọn Tử Quyên, Tuyết Nhạn vẫn biết tính nết Đại Ngọc; lúc rỗi ngồi buồn, không cau mày cũng thở dài, nhiều khi bỗng đang yên lành, không biết vì sao cũng rơm rớm nước mắt. Trước còn có người khuyên ngăn, hoặc cho là cô ta nhớ bố mẹ, nhớ quê hương hay bị oan ức điều gì, nên họ tìm lời an ủi. Nhưng sau hàng năm hàng tháng lúc nào cũng thế, mọi người lâu dần cũng quen đi, chẳng ai để ý đến nữa, vì thế họ mặc kệ cho cô ta ngồi buồn một mình, cứ lẻn ra ngoài chơi.
Đại Ngọc tựa vào bao lan giường, hai tay ôm lấy đầu gối, nước mắt giàn giụa, ngồi ngây như một pho tượng, mãi đến canh hai mới đi nằm.
Hôm sau là ngày hai mươi sáu tháng tư, đến giờ mùi, là sang tiết Mang chủng. Theo tục cổ, đến ngày này, các nơi bày lễ vật cúng tiễn hoa thần. Vì rằng sau đó sang mùa hạ, các thứ hoa đều tàn, thần hoa lui về, nên phải làm lễ tiễn, nhất là trong khuê các lại càng náo nức hơn. Vì thế các người ở trong vườn Đại Quan ai nấy đều dậy sớm. Bọn con gái nhỏ hoặc lấy bông hoa cành liễu bện thành kiệu, ngựa, hoặc dùng gấm vóc, the lụa xếp thành cờ quạt tàn lọng, cái nào cũng buộc bằng chỉ ngũ sắc, treo trên từng ngọn cây, từng cành hoa. Trong vườn giải thêu phất phới, cành hoa chờn vờn. Các chị em đều tô son điểm phấn, làm cho đào thẹn hạnh nhường, yến ghen oanh tủi, vẻ tươi đẹp không thể tả hết được. Bấy giờ chị em bọn Bảo Thoa, Nghênh Xuân, Thám Xuân, Tích Xuân, Lý Hoàn, Phượng Thư và cháu Đại Thư, Hương Lăng cùng bọn a hoàn đều đến chơi đùa cả ở trong vườn, riêng Đại Ngọc không thấy đâu cả. Nghênh Xuân hỏi:
- Sao không thấy em Lâm? Cô bé này lười quá! Bây giờ hãy còn ngủ à?
Bảo Thoa nói:
- Chị em hãy ngời chờ đây, để tôi đi bắt cô ấy đến.
Nói xong rẽ mọi người ra, đi thẳng đến quán Tiêu Tương.
Trong khi đi, gặp bọn Văn Quan tất cả mười hai cô bé cùng đi đến, bèn đứng lại chào hỏi, nói mấy câu chuyện rồi đi. Bảo Thoa quay lại bảo:
- Họ đang ở trong kia kìa, đến đấy mà tìm. Ta đi tìm cô Lâm rồi về ngay.
Nói xong đi quanh đến quán Tiêu Tương. Ngẩng đầu nhìn, thấy Bảo Ngọc đi tới. Bảo Thoa đứng lại cúi đầu ngẫm nghĩ: "Bảo Ngọc và Đại Ngọc từ bé cùng ở một nơi, anh em họ nhiều lúc không biết tránh sự hiềm nghi, cười đùa không giữ ý, vui giận bất thường; vả chăng Đại Ngọc tính nết nhỏ nhen, lại hay ghen ghét, bây giờ mình đến đấy, một là không tiện cho Bảo Ngọc, hai là Đại Ngọc sinh ngờ, chi bằng ta trở về là hơn". Nghĩ xong, Bảo Thoa định quay đi tìm chị em khác, thì trước mặt có một đôi bướm trắng to bằng cái quạt, con xuống con lên, theo gió bay lượn, rất là đẹp mắt. Bảo Thoa muốn bắt để chơi, liền lấy cái quạt ở trong tay áo ra, định đập xuống đất. Không ngờ đôi bướm cứ lên lên xuống xuống, lượn lượn bay bay, rồi chúng luồn qua khe hoa, khóm liễu, chờn vờn định bay qua sông, làm cho Bảo Thoa cứ rón rén đuổi theo mãi đến đình Trích Thúy ở bên ao. Bấy giờ mồ hôi đầm đìa, hơi thở hổn hển, Bảo Thoa đành thôi không đuổi nữa. Quay về, nghe trong đình có tiếng người nói rì rầm. Nguyên cái đình này xây ở trong hồ, bốn mặt đều có lan can chạm trổ, chung quanh dán giấy kín. Bảo Thoa đứng lại, lắng tai nghe, thấy nói:
- Chị xem cái khăn lụa này nếu quả là của chị đánh rơi, thì chị giữ lấy; nếu không phải, tôi sẽ đem trả lại cậu Vân.
- Sao lại không phải của tôi! Đưa đây cho tôi xin.
- Thế thì chị thưởng cho tôi cái gì nào? Lẽ nào tôi lại đưa không cho chị?
- Tôi đã hứa với em, không khi nào tôi lại đánh lừa em.
- Tôi đưa giả chị, chị tạ ơn tôi đã đành rồi, còn người bắt được, chị không tạ người ta à?
- Em đừng nói nhảm, người ta là chủ nhà, bắt được cái gì của chúng ta thì phải trả lại, còn đòi tạ ơn à?
- Nếu chị không tạ, thì tôi trả lời người ta thế nào? Vả chăng, cậu ấy dặn tôi ba bốn lần, nếu chị không tạ ơn thì không được lấy khăn lại.
- Thôi được, cầm cái này về cho người ta, tức là tôi tạ ơn đấy. Nhưng phải thề đi, em có nói chuyện này với ai không?
- Tôi mà nói với ai thì mồm sẽ lên đinh, ngày sau sẽ chết điêu chết đứng.
Lại nghe có người nói:
- Chúng ta cứ mải nói chuyện, khéo không ở ngoài có người nghe trộm đấy. Chi bằng mở toang cửa sổ ra, có ai trông thấy chúng ta ở trong này, họ sẽ cho là chúng ta nói chuyện tếu với nhau thôi. Khi họ đến gần đây, chúng ta trông thấy sẽ thôi không nói nữa.
Bảo Thoa đứng ngoài nghe vậy, giật mình nghĩ bụng: "Xưa nay những đứa gian dâm trộm cướp, bụng dạ đều ra trò cả! Nếu mở cửa, thấy ta ở đây, lẽ nào chúng nó không hổ thẹn? Vả lại nghe tiếng hệt như tiếng con Hồng ở phòng Bảo Ngọc, nó xưa nay vẫn to gan, không coi ai ra gì. Nó là đứa a hoàn điêu ngoa, quỉ quái bực nhất. "Người cùng làm phản, chó cùng nhảy qua tường". Nay ta biết được sự xấu xa của nó, nếu không cẩn thận, không những thêm chuyện, mà ta cũng chẳng hay ho gì. Bây giờ lánh đi một nơi thì không kịp, chi bằng dùng lối "kim thiền thoát xác"(1) mới được". Bỗng nghe kẹt một tiếng, Bảo Thoa liền cố ý đi nặng bước, cười hỏi:
- Chị Tần, tôi xem chị trốn đi đâu nào?
Vừa nói vừa cố ý đi rảo bước.
Hồng Ngọc và Trụy Nhi ở trong đình, vừa mở cửa sổ ra, đã thấy Bảo Thoa nói thế, rồi rảo bước đi lên, hai người đều sợ hãi. Bảo Thoa ngoảnh lại cười hỏi:
- Các chị giấu cô Lâm ở đâu?
Trụy Nhi nói:
- Tôi có thấy cô Lâm đâu.
Bảo Thoa nói:
- Tôi vừa mới ở bên kia hồ, trông thấy cô Lâm ngồi đấy quấy nước chơi, tôi muốn lẳng lặng đến để cô ấy giật mình, nhưng chưa tới nới, cô ấy đã trông thấy, liền đi rẽ sang phía đông rồi mất hút. Có lẽ cô ấy nấp ở trong này?
Bảo Thoa cố ý vào tìm, lại quay ra, miệng lẩm bẩm:
- Nhất định cô ta nấp ở trong hang núi này. Nếu gặp phải rắn nó cắn cho một cái thì xong đời.
Vừa nói vừa đi, trong bụng cười thầm: "Thế là ta nói quanh che giấu đã trôi, chẳng biết chúng nó nghĩ thế nào".
Hồng Ngọc nghe vậy, tin là thực, đợi Bảo Thoa đi xa, liền kéo tay Trụy Nhi lại bảo:
- Thôi hỏng rồi ! Cô Lâm núp ở trong này, nhất định nghe thấy những câu chuyện của chúng ta.
Trụy Nhi nghe nói ngồi thừ ra một lúc, Hồng Ngọc lại hỏi:
- Thế thì bây giờ làm thế nảo?
- Nghe thấy thì nghe, chứ có động chạm gì đến ai! Người nào lo việc người ấy là xong.
- Cô Bảo nghe thấy chẳng sao, chứ cô Lâm miệng hay xoi bói, bụng hay khe khắt, nghe thấy mà đi nói tung ra thì làm thế nào?
Đương nói chuyện, thấy bọn Văn Quan, Hương Lăng, Tư Kỳ, Thị Thư đi đến. Hai người nói lảng ra chuyện khác rồi cười đùa với bọn này.
Phượng Thư ở bên kia sườn núi vẫy tay gọi. Hồng Ngọc vội vàng bỏ mọi người chạy đến, cười hỏi:
- Mợ gọi cháu có việc gì?
Phượng Thư ngắm nghía một lúc, thấy Hồng Ngọc sạch sẽ nhanh nhẹn, ăn nói có duyên, liền cười hỏi:
- Hôm nay bọn a hoàn của ta không đi theo hầu. Ta nhớ ra một việc, muốn sai mày đi, không biết mày có làm nổi không? Nói năng có được rành mạch không?
- Mợ có việc gì xin cứ bảo, nếu cháu nói không rành mạch, làm hỏng việc, mợ cứ trách phạt.
- Mày ở nhà cô nào? Để khi ta sai đi, có ai đến tìm, ta sẽ nói hộ.
- Cháu ở nhà cậu Bảo.
- Thế ra mày ở nhà cậu Bảo đấy à? Thảo nào! Thôi được, nếu cậu ấy đến hỏi thì ta nói hộ. Mày về nhà ta bảo chị Bình: dưới cái giá mâm sứ Nhữ Châu để trên cái bàn ở nhà ngoài, có một gói bạc một trăm hai mươi lạng, là để trả tiền công thợ thêu. Khi nào vợ Trương Tài đến thì cân ngay trước mặt, đưa cho chị ta mang đi. Lại còn việc nữa: lấy cái túi nhỏ ở đầu giường mang đến đây cho ta.
Hồng Ngọc nghe xong, vâng lời đi ngay. Một lúc trở lại, không gặp Phượng Thư ở trên sườn núi nữa. Thấy Tư Kỳ ở trong hang núi ra, đương đứng thắt lưng, Hồng Ngọc chạy lại hỏi:
- Chị có biết mợ Hai ở đâu không?
- Tao không biết.
Hồng Ngọc quanh đi tìm các nơi, gặp Thám Xuân, Bảo Thoa đang ngồi xem cá ở bên hồ. Hồng Ngọc lại gần cười nói:
- Thưa hai cô, có biết mợ Hai đi đâu không?
Thám Xuân nói:
- Đến nhà mợ Cả mà tìm.
Hồng Ngọc đến thôn Đạo Hương, thấy bọn Tình Văn, Ỷ Hà, Bích Ngân, Tử Tiêu, Xạ Nguyệt, Thị Thư, Nhập Họa, Oanh Nhi cùng đi lại. Tình Văn trông thấy Hồng Ngọc nói ngay:
- Con này động điên sao? Không tưới hoa ngoài sân, không cho chim ăn, không pha trà, chỉ chạy nhông thôi.
Hồng Ngọc nói:
- Hôm qua cậu Hai bảo: sáng nay không cần tưới hoa nữa, cứ cách một ngày tưới một lần. Chim thì tôi cho ăn lúc chị còn đương ngủ kia.
Bích Ngân nói:
- Còn nước trà thì sao?
Hồng Ngọc nói:
- Hôm nay không phải phiên của tôi, có trà hay không, đừng hỏi đến tôi.
Ỷ Hà nói:
- Chị nghe miệng nó nói đấy! Thôi các chị đừng hỏi nữa, mặc kệ cho nó đi chơi.
Hồng Ngọc nói:
- Các chị thử hỏi xem, tôi có đi chơi không? Mợ Hai vừa bảo tôi đi lấy cái này đây.
Nói xong, nó đưa cái túi cho mọi người xem, ai nấy nín lặng, không nói gì nữa, rồi bỏ đi cả.
Tình Văn cười nhạt:
- Thảo nào! Thế ra nó đã trèo lên được cành cao, nên mới coi thường chúng ta. Không biết nó đã ăn đã nói được những câu gì? Đã ai biết tên biết tuổi nó là gì, mà nó vênh mặt lên như thế? Lần này không hề gì, chứ lần sau thì liệu đấy! Thôi từ nay trở đi nó có giỏi thì ra khỏi cái vườn này, cứ ngồi được mãi ở trên cành cao ấy,mới cho là tài.
Tình Văn vừa nói vừa đi.
Hồng Ngọc nghe nói, không tiện cãi lại, chỉ cố nén giận đi tìm Phượng Thư. Đến buồng họ Lý, quả gặp Phượng Thư đương ngồi nói chuyện ở đấy. Hồng Ngọc vào trình:
- Chị Bình nói: khi mợ đi, chị ấy đã cất gói bạc rồi. Vợ Trương Tài đến lấy, chị ấy đã cân trước mặt và giao cho mang đi rồi.
Hồng Ngọc lại đưa cái túi ra, thưa:
- Chị Bình bảo tôi đến trình mợ: Vừa rồi Lai Vượng đến hỏi xem mợ có truyền bảo gì, để nó còn phải sang bên kia; chị Bình đã theo ý mợ bảo nó đi rồi.
Phượng Thư cười nói:
- Nó theo ý ta như thế nào mà bảo Lai Vượng đi?
- Chị Bình bảo: mợ tôi nhắn lời hỏi thăm mợ bên ấy. Cậu Hai không có ở nhà. Dù có chậm vài hôm, xin mợ cứ yên lòng. Khi nào mợ Năm khỏe, mợ tôi sẽ cùng mợ Năm sang thăm. Hôm trước mợ Năm sai người đến nói: bà mợ có nhắn tin hỏi thăm sức khỏe của mợ, lại muốn nhờ cô bên ấy tìm hộ mấy viên thuốc "duyên niên thần nghiệm vạn toàn đan". Nếu có thì mợ sai người mang đến đưa cho mợ tôi. Sau có người đi, sẽ tiện đường đem sang cho bà mợ.
Hồng Ngọc nói chưa dứt lời, Lý Hoàn cười nói:
- Ô chà! Tao không hiểu mày nói gì, cứ "mợ, mợ, "cậu, cậu" lôi ra một tràng.
Phượng Thư cười nói:
- Chả trách chị không hiểu là phải. Đó là câu chuyện bốn năm gia đình khác nhau.
Rồi quay lại Hồng Ngọc cười nói:
- Con bé này khá đấy, mày nói cũng rành mạch, chứ không như những đứa khác cứ ấp a ấp úng, nói lý nhí như muỗi kêu ấy. Chị không biết, bây giờ trừ mấy a hoàn và bà già hầu tôi ra, tôi không muốn nói với ai cả: Một câu nói của mình, họ kéo dài ra làm hai ba đoạn, đứt quãng từng chữ từng câu, lai nhai ấp úng, chỉ tổ làm cho mình nóng tiết lên, chứ họ có biết gì đâu. Bình Nhi nhà tôi trước cũng thế đấy. Tôi thường bảo nó có phải nói như tiếng muỗi mới gọi là mỹ nhân đâu? Tôi dạy nó nhiều lần, nên bây giờ nó mới khá đấy.
Lý Hoàn cười nói:
- Có phải ai cũng láu lỉnh như thím đâu!
Phượng Thư nói:
- Con bé này cũng khá đấy. Vừa rồi hai lần nói chuyện, tuy không nhiều mấy, nhưng lời nói cũng gãy gọn.
Nói xong quay lại Hồng Ngọc cười bảo:
- Ngày mai mày sang hầu tao, tao sẽ nhận làm con nuôi, tao trông nom cho, sau này mày sẽ nên người.
Hồng Ngọc nghe nói bật cười. Phượng Thư nói:
- Mày cười gì? Mày cho tao còn trẻ, hơn mày mấy tuổi, lại chực làm mẹ mày à? Mày mơ ngủ hay sao! Mày xem có những người lớn hơn mày nhiều, cứ chực gọi tao là mẹ, tao cũng chẳng thèm nhìn. Thế này là tao cất nhắc mày đấy!
Hồng Ngọc cười nói:
- Không phải cháu cười thế đâu. Cháu cười là cười mợ nhận nhầm thứ bậc đấy thôi. Mẹ cháu đã là con nuôi mợ rồi, bây giờ mợ lại nhận cháu làm con nuôi.
Phượng Thư nói:
- Mẹ mày là ai?
Lý Hoàn cười nói:
- Thím không nhận được nó à? Nó là con gái Lâm Chi Hiếu đấy.
Phượng Thư nghe xong rất lấy làm lạ, nói:
- Thế ra con gái nó đấy à? - Lại cười nói: - Hai vợ chồng Lâm Chi Hiếu đần độn thế, suốt ngày không ai cạy mồm nó nói một câu. Ngày thường tôi vẫn bảo: hai người này lấy nhau thực là tốt đôi, một người điếc, một người câm. Ai ngờ lại đẻ ra được đứa con sắc sảo nhanh nhẹn thế này! Mày mười mấy tuổi?
- Cháu mười bảy tuổi.
- Tên là gì?
- Nguyên trước là Hồng Ngọc, vì trùng tên với cậu Bảo, nên đổi là Tiểu Hồng.
Phượng Thư nghe nói, cau mày lại, ngoảy đầu một cái rồi bảo:
- Rõ chán thật! Được ngọc có lẽ sướng lắm hay sao, người này cũng "ngọc", người kia cũng "ngọc".
Rồi quay sang nói với Lý Hoàn:
- Chị không biết, tôi đã bảo mẹ nó: vợ Lại Đại bây giờ lắm việc, chẳng còn biết ai với ai trong phủ này nữa. Tôi nhờ mụ ấy tìm hộ hai a hoàn, mụ ấy chỉ nhận lời cho xong, rồi không những không đi tìm, lại còn đưa con đi hầu chỗ khác. Hay là con nó đến hầu tôi không được tử tế chăng?
Lý Hoàn cười nói:
- Thím đa nghi lắm. Con người ta đi hầu đã lâu rồi, đến giờ thím mới bảo, thì còn trách gì mẹ nó?
Phượng Thư cười nói:
- Đã thế thì ngày mai tôi sẽ nói với chú Bảo tìm người khác thay cho con bé này đến ở với tôi. Nhưng liệu mày có bằng lòng không?
Hồng Ngọc cười nói:
- Bằng lòng hay không, cháu không dám nói. Nhưng nếu được hầu mợ thì cháu học được cách ăn ở lui tới, học được việc lớn việc nhỏ, sẽ khôn biết ra nhiều.
Bỗng có a hoàn của Vương phu nhân lại mời, Phượng Thư cáo từ Lý Hoàn ra về. Hồng Ngọc cũng về viện Di Hồng.
Đêm qua về, Đại Ngọc ngủ không được, sáng nay dậy muộn, nghe nói chị em ở trong vườn đương mở hội tiễn hoa. Sợ người ta cười là lười, Đại Ngọc rửa mặt chải đầu xong, vội vàng đi ngay. Mới ra ngoài sân, thấy Bảo Ngọc đi vào cười nói:
- Hôm qua em có mách gì việc anh không? Anh áy náy cả đêm.
Đại Ngọc liền quay đầu lại bảo Tử Quyên:
- Dọn nhà đi, buông cửa sổ xuống, xem con chim yến đã về chưa, bỏ rèm xuống, chận cái đôn đá sư tử lại, đốt lò hương rồi đậy nắp lại.
Nói xong đi ra.
Bảo Ngọc thấy quang cảnh ấy, chỉ cho là vì việc trưa hôm qua, có biết đâu lại còn cả cái tội buổi tối nữa? Bảo Ngọc cứ đứng chắp tay vái chào. Đại Ngọc vẫn không thèm nhìn, bỏ đi ra, tìm các chị em.
Bảo Ngọc buồn bực, nghĩ bụng:
- Cứ xem bộ dạng này, thì không phải là vì việc buổi trưa hôm qua. Nhưng buổi chiều ta về nhà đã muộn, không gặp cô ta, còn va chạm với cô ấy vào lúc nào?
Vừa nghĩ vừa đi theo sau.
Thấy Bảo Thoa và Thám Xuân ngồi xem hạc múa, Đại Ngọc cũng đến đó. Ba người cùng đứng nói chuyện. Sau thấy Bảo Ngọc đến, Thám Xuân cười nói:
- Anh Bảo có khỏe không? Suốt ba hôm nay em không được gặp.
Bảo Ngọc cười hỏi:
- Em có được mạnh không? Hôm nọ anh gặp chị Cả, có hỏi thăm em.
Thám Xuân nói:
- Anh lại đây, em hỏi chuyện.
Bảo Ngọc nghe nói, từ giã Bảo Thoa và Đại Ngọc đến ngồi ở dưới cây thạch lựu. Thám Xuân hỏi:
- Mấy hôm nay cha có gọi anh không?
- Không gọi.
- Hôm nọ em thoáng nghe như cha gọi anh.
- Chắc người ta nghe nhầm đấy, cha có gọi anh đâu.
- Mấy tháng nay em có dành dụm được mười quan tiền, anh cầm lấy, khi nào ra chơi phố, thấy có bức chữ hay vẽ đẹp, hoặc đồ chơi xinh xắn, anh mua hộ mang về cho em.
- Thỉnh thoảng anh cũng có đi qua các nhà, các miếu ở trong thành, ngoài thành, chẳng thấy cái gì mới lạ, xinh xắn cả, chỉ có những đồ vàng, ngọc, đồng, sứ, và những thứ đồ cổ không có chỗ vất; rồi đến các thứ vóc, nhiễu và các đồ ăn thức mặc thôi.
- Ai cần gì đến những thứ ấy! Như lần trước anh mua cái lẵng hoa bằng cành liễu, hộp phấn bằng rễ trúc, cái lồng ấp bằng đất thó, trông rất đẹp, em thích lắm. Mà chị em ai cũng thích cả. Họ coi những thứ này như của báu, có cái nào là cướp mất cái ấy.
- Nếu em thích những cái ấy, thì chẳng đáng mấy đồng tiền, cứ cho người nhà mang mấy quan tiền đi, sẽ mua được hàng xe.
- Bọn người nhà biết gì? Anh đi chọn lấy cái gì mộc mạc mà không tục, thì mua nhiều về cho em. Em sẽ thêu cho anh một đôi giày như lần trước mà còn tỉ mỉ kỹ càng hơn, anh nghĩ có được không?
Bảo Ngọc cười nôi:
- Em nói đến đôi giày, anh lại nhớ câu chuyện trước. Có lần anh đi đôi giày ấy, gặp cha, người lấy làm khó chịu, hỏi giày này ai thêu cho. Anh không dám nói là em thêu, chỉ nói mợ cho trong dịp sinh nhật anh. Cha thấy thế, không nói gì, một lúc mới phàn nàn: "Tội gì mả hao tốn sức người, phí phạm nhiễu lụa, để thêu cái thứ ấy!" Sau về anh nói chuyện với Tập Nhân, Tập Nhân nói: "Như thế đã đành, dì Triệu lại còn oán là khác. Dì ấy bảo, anh em ruột giày rách đằng giày, tất rách đằng tất, chẳng ai thèm nhìn đến, lại đi thêu những thứ ấy!"
Thám Xuân nghe nói, sa sầm nét mặt xuống, nói:
- Anh xem, câu nói hồ đồ biết chừng nào! Em có phải lả hạng người chỉ để thêu giày đâu. Em Hoàn không có phần riêng của nó sao? Áo quần có phần áo quần, giày tất có phần giày tất, gái hầu, bà già cũng đầy cả nhà, sao lại thở ra những câu oán trách ấy? Định nói cho ai nghe đấy! Chẳng qua lúc rỗi em muốn thêu một đôi chơi, trong đám anh em, thích ai thì cho; đó là tùy bụng em, chứ ai bắt buộc? Thực là dì ấy ghen quàng!
Bảo Ngọc gật đầu cười nói:
- Em không biết, bụng người ta lại nghĩ khác kia.
Thám Xuân nghe nói, càng cáu lên, ngoảy đầu nói:
- Anh cũng hồ đồ nốt. Dì ấy nghĩ thế đấy, nhưng chẳng qua là ý nghĩ của hạng người hèn mọn mà thôi. Mặc dì ấy, muốn nghĩ thế nào thì nghĩ, chứ em chỉ biết bà và cha thôi, ngoài ra em không cần ai hết. Ngay trong đám anh chị em, ai tốt với em, thì em tốt giả, bất cứ là con nàng hầu, vợ lẽ. Đáng ra em không nên nói dì ấy, nhưng vì dì ấy u mê quá chừng! Lại có một chuyện đáng buồn cười nữa: lần trước em đưa tiền nhờ anh mua đồ chơi hộ em, vài hôm sau gặp em, dì ấy kêu túng kêu thiếu. Em mặc kệ, chẳng để ý đến. Sau khi bọn a hoàn ra rồi, dì ấy quay lại trách móc em, bảo em để dành tiền chỉ đưa cho anh thôi, không đưa cho thằng Hoàn. Nghe dì ấy nói thế, vừa buồn cười vừa bực mình, em chạy ngay đến chỗ mẹ.
Đương nói thì Bảo Thoa ở đằng kia cười nói:
- Chuyện xong chưa, lại đây. Thế mới rõ ra là anh em với nhau bỏ hết cả mọi người, đem nhau đi nói chuyện riêng, chúng tôi nghe không được hay sao?
Thám Xuân, Bảo Ngọc đều cười chạy lại.
Không thấy Đại Ngọc ở đấy, Bảo Ngọc biết ngay là cô ta tránh đi chỗ khác. Rồi nghĩ: "Hãy để chậm vài hôm, chờ cô ta bớt giận, mình sẽ đến". Nhân cúi đầu nhìn thấy nhiều thứ hoa phượng tiên, thạch lựu, như nền gấm giải rụng từng chùm xuống đất, Bảo Ngọc than thở:
- Hẳn là cô ta trong bụng còn tức giận, nên không nhặt những hoa rụng này. Để ta nhặt đi, ngày mai sẽ lại hỏi cô ấy.
Bảo Thoa rủ cả bọn đi về phía sau chơi. Bảo Ngọc nói:
- Tôi sẽ đến sau.
Chờ cho hai người đi xa, Bảo Ngọc mới nhặt những hoa rụng, rồi trèo non lội nước, qua cây luồn hoa, đi đến chỗ cùng Đại Ngọc chôn hoa đào hôm trước. Gần đến nơi, còn ở bên kia dốc núi, đã nghe tiếng nghẹn ngào, khóc than kể lể, ai nghe cũng phải đau lòng. Bảo Ngọc nghĩ bụng: "Không biết a hoàn nhà ai có điều gì oan ức, lại chạy đến đây mà khóc thế?" Vừa nghĩ vừa dừng bước lại, nghe thấy những lời than khóc như sau:
Hoa bay hoa rụng ngập trời,
Hồng phai hương lạt ai người thương hoa?
Đài xuân tơ rủ la đà,
Rèm thêu bông khẽ đập qua bên ngoài.
Kìa trong khuê các có người,
Tiếc xuân lòng những ngậm ngùi vẩn vơ.
Vác mai rảo bước bước ra,
Lòng nào nỡ giẫm lên hoa thế này?
Vỏ du tơ liễu đẹp thay,
Mặc cho đào rụng, lý bay đó mà.
Sang năm đào lý trổ hoa,
Sang năm buồng gấm biết là còn ai?
Tháng ba tổ đã xây rồi,
Trên xà hỏi én quen người hay không?
Sang năm hoa lại đâm bông,
Biết đâu người vắng, lầu hồng còn trơ?
Ba năm sáu chục thoi đưa,
Gươm sương dao gió những chờ đâu đây.
Tốt tươi xuân được mấy ngày,
Chốc đà phiêu dạt, bèo mây thêm sầu.
Nở rồi lại rụng đi đâu,
Người chôn hoa nhĩmg rầu rầu đòi cơn.
Cầm mai lệ lại ngầm tuôn,
Dây trên cành trụi hãy còn máu rơi.
Chiều hôm quyên lặng tiếng rồi,
Vác mai về đóng cửa ngoài buồn tênh!
Ngả người trước ngọn đèn xanh,
Ngoài song mưa tạt, bên mình chăn đơn.
Mình sao vơ vẩn từng cơn?
Thương xuân chi nữa lại hờn xuân chi?
Thương khi đến, hờn khi đi,
Đến lừ đừ đến, đi lỳ lỳ đi.
Ngoài sân tiếng khóc rầm rì,
Chẳng hồn hoa đấy, cũng thì hồn chim.
Hồn kia lảng vảng khôn tìm,
Chim càng lặng lẽ, hoa thêm sượng sùng.
Thân này muốn vẫy vùng đôi cánh,
Nơi chân trời liệng cảnh hoa chơi!
Nào đâu là chỗ chân trời,
Nào đâu là chỗ có đồi chôn hoa?
Sẵn túi gấm đành ta nhặt lấy,
Chọn nơi cao che đậy hương tàn.
Thân kia trong sạch muôn vàn,
Đừng cho rơi xuống ngập tràn bùn nhơ.
Giờ hoa rụng có ta chôn cất,
Chôn thân ta chưa biết bao giờ.
Chôn hoa người bảo ngẩn ngơ,
Sau này ta chết, ai là người chôn?
Ngẫm khi xuân muộn hoa tàn,
Cũng là khi khách hồng nhan về già.
Hồng nhan thấm thoắt xuân qua,
Hoa tàn người vắng ai mà biết ai!
Bảo Ngọc nghe xong, bất giác đứng ngẩn người ra, ngã vật xuống đất.
----------------------------------
(1). Con ve lột xác, nghĩa là biến đổi thân hình mình để người khác không trông thấy.
Hồi thứ hai mươi tám
Ngọc Hàm tặng thắt lưng, gợi được mối tình;
Bảo Thoa cởi chuỗi thơm, lộ ra vẻ thẹn.
Chỉ vì việc tối hôm trước, Tình Văn không chịu mở cửa, Đại Ngọc ngờ rằng chủ ý của Bảo Ngọc. Hôm sau lại gặp ngay kỳ "tiễn hoa", đương lúc tâm hồn u uất, chưa thoát ra được, lại thêm gợi lòng thương xuân, mối buồn rười rượi, vì thế cô ta nhặt lấy tất cả những cánh hoa rơi rụng, đem đi chôn cất để cám cảnh cho hoa và thương xót cho mình. Đại Ngọc khóc lên mấy tiếng, rồi ngâm luôn mấy câu thơ. Không ngờ Bảo Ngọc đứng bên kia nghe thấy, lúc đầu chỉ gật đầu than thở, sau nghe rõ bốn câu:
Chôn hoa người bảo ngẩn ngơ,
Sau này ta chết ai là người chôn?
...Hồng nhan thấm thoắt xuân qua,
Hoa tàn nguời vắng ai mà biết ai!
Bảo Ngọc thương cảm quá, thình lình ngã vật trên sườn núi, bao nhiêu hoa rụng nhặt được ở trong tay rơi vãi cả ra đất. Bảo Ngọc nghĩ ngay đến Đại Ngọc sắc đẹp như hoa, mặt trong như trăng, sau này ắt cũng có lúc không thể tìm thấy nữa, lẽ nào chả đứt ruột nát gan! Đại Ngọc đã có lúc không thể tìm thấy, cứ thế suy ra, những người như Bảo Thoa, Hương Lăng, Tập Nhân, cũng đều thế cả. Bọn Bảo Thoa đã vậy thì thân mình sẽ ở đâu? Thân mình còn chả biết ở đâu, đi đâu, thì nơi này, vườn này, hoa này, liễu này, biết thuộc về ai? Bảo Ngọc suy nghĩ miên man hết chuyện này sang chuyện khác, không biết đến giờ phút ấy, muốn làm vật xuẩn ngốc, không hiểu một tí gì, trốn vòng tạo hóa, thoát khỏi lưới trần, liệu có thể gỡ nổi mối đau thương ấy không. Thực là:
Bóng hoa đâu vẫn bên mình,
Tiếng chim đâu vẫn rành rành bên tai.
Đại Ngọc đương lúc thương cảm, chợt nghe sườn núi bên có tiếng than khóc, trong bụng nghĩ: "Ai cũng cười ta có bệnh si, chăng lẽ lại có người si nữa hay sao?" Ngẩng đầu nhìn thì ra Bảo Ngọc. Đại Ngọc liền phỉ thui nói:
- Hừ? Ngỡ ai, hóa ra lại là anh chàng thâm độc chết non!
Vừa nói đến hai tiếng "chết non", Đại Ngọc bưng miệng thở dài, rồi chạy biến đi mất.
Bảo Ngọc đương khi đau xót, thấy Đại Ngọc chạy, biết cô ta trông thấy mình rồi trốn đì. Nghĩ nông nỗi thật buồn tênh, Bảo Ngọc lom khom trở dậy, xuống núi theo đường cũ trở về viện Di Hồng. May sao trông thấy Đại Ngọc chạy đằng trước, Bảo Ngọc vội vàng đuổi theo, nói:
- Cô hãy đứng lại, tôi biết rằng bây giờ cô không thèm nhìn đến tôi nữa. Nhưng tôi xin nói một câu rồi chúng ta sẽ chia tay.
Đại Ngọc ngoảnh lại, thấy Bảo Ngọc, định kệ thây, nhưng lại nghe: "Chỉ xin nói một câu rồi sẽ chia tay", Đại Ngọc đành phải đứng lại:
- Câu gì xin anh cứ nói.
- Xin cho vài câu, cô có thèm nghe hay không?
Đại Ngọc liền quay đầu chạy, Bảo Ngọc theo sau than:
- Biết nông nỗi ngày nay, thì thà đừng gặp nhau từ trước.
Đại Ngọc nghe vậy, đành phải đứng lại, hỏi:
- Trước là thế nào? Mà nay là thế nào?
Bảo Ngọc nói:
- Ái chà! Khi cô mới đến đây, có phải ngày ngày chúng ta cùng chơi đùa với nhau không? Thứ gì tôi thích, cô cũng thích, thì cô cứ việc lấy đi; thứ gì tôi thích ăn, thấy cô cũng thích ăn, tôi cất cẩn thận để phần cô. Hai đứa ăn một bàn, ngủ một giường. Cái gì bọn a hoàn chưa nghĩ chu đáo, tôi sợ cô giận, nên đều tính trước hộ bọn họ. Tôi cho rằng: anh em ta từ nhỏ đến lớn, gần gụi nhau, thân thiết nhau, thì cũng nên hòa thuận với nhau hơn hẳn các người mới phải. Ngờ đâu cô lớn lên lòng khác hẳn, không coi tôi vào đâu, ba ngày chẳng thèm nhìn, bốn ngày chẳng thèm gặp, chỉ để ý những người xa lắc xa lơ, như chị Bảo, chị Phượng gì đó. Tôi chẳng có anh chị em ruột thịt nào cả. Tuy có đấy, nhưng cô đã chẳng biết là con khác mẹ hay sao? Tôi với cô đều là con một, chắc chúng ta cũng cùng một ý nghĩ, ngờ đâu phí cả tấm lòng, thật là có oan khôn đường bày tỏ?
Nói xong, nước mắt ròng ròng nhỏ xuống.
Đại Ngọc tai nghe mắt thấy trước câu nói và quang cảnh ấy, bất giác lòng dịu hẳn đi, nước mắt tự nhiên nhỏ xuống ròng ròng, cúi đầu không nói gì. Bảo Ngọc thấy tình thế như vậy, nói luôn:
- Tôi biết rồi, giờ tôi cũng chẳng tốt gì! Nhưng dù sao, tôi cũng không dám có điều gì lầm lỗi với cô. Nếu có, cô cũng nên bảo tôi, răn tôi, hoặc mắng tôi mấy câu, đánh tôi mấy cái, tôi không dám mủi lòng. Ngờ đâu cô không thèm nhìn đến tôi, để tôi nghĩ mãi, chẳng biết đầu đuôi ra sao, lắm phen phải kinh hồn mất vía! Nếu tôi chết đi, cũng là con quỉ chết oan, dù nhờ các vị cao tăng, cao đạo đọc kinh sám hối, cũng chẳng có thể siêu sinh được; chỉ có cô, nói rõ ngành ngọn cho, may ra tôi mới được hóa kiếp!
Đại Ngọc nghe xong, câu chuyện tối qua tự nhiên bay đâu hết sạch, liền nói:
- Anh đã nói thế, thì tại sao tối hôm qua tôi đến, anh lại không cho a hoàn mở cửa?
Bảo Ngọc kinh ngạc nói:
- Chuyện ấy ở đâu mà ra? Nếu tôi có làm thế thì tôi chết ngay!
Đại Ngọc phỉ thui:
- Vừa mới sáng sớm đã nói chết với sống, không kiêng à! Có nói là nói, không nói là không, việc gì mà anh phải thề.
Bảo Ngọc nói:
- Tối hôm qua, thực không thấy em đến, chỉ có chị Bảo Thoa đến một lúc rồi về thôi.
Đại Ngọc nghĩ một lúc, cười nói:
- Phải rồi. Chắc là bọn a hoàn lười không muốn dậy, đâm ra nói bừa, gắt bậy. Chuyện ấy cũng có thể có được.
- Chắc thế, để anh về hỏi xem đứa nào, phải răn bảo chúng mới được.
- Anh cũng nên răn bảo các cô ấy, cứ lẽ ra tôi không đáng nói. Nhưng lần này có lỗi với tôi là chuyện nhỏ, chứ lần sau không may có lỗi với cô Bảo, cô "Bối" nào đấy, tất xảy chuyện to.
Nói xong, nhoẻn miệng cười. Bảo Ngọc nghe xong, nghiến răng bực bội, sau lại cười phá lên.
Hai người đương nói chuyện, thấy a hoàn đến mời đi ăn cơm, họ liền đi ngay. Vương phu nhân thấy Đại Ngọc, hỏi:
- Cô Lâm uống thuốc của ông lang họ Bảo có khá không?
Đại Ngọc thưa:
- Cũng vẫn thế thôi. Bà còn bảo cháu uống thuốc của thầy lang họ Vương nữa.
Bảo Ngọc thưa:
- Mẹ không biết bệnh cô Lâm là chứng nội thương, tiên thiên kém lắm, không chịu nổi sương gió! Chỉ nên uống vài thang sơ tán phong hàn, rồi uống thuốc viên mới tốt.
Vương phu nhân nói:
- Hôm nọ thầy thuốc có nói tên một thứ thuốc viên, nhưng ta quên mất.
Bảo Ngọc thưa:
- Con biết rồi. Thuốc ấy gọi là nhân sâm dưỡng vinh hoàn.
- Không phải.
- Hay là bát trân ích mẫu hoàn, tả qui, hữu qui, nếu không phải thì lại là bát vị địa hoàng hoàn.
- Đều không phải cả. Ta nhớ có hai chữ "kim cương" gì ấy.
Bảo Ngọc vỗ tay cười nói:
- Xưa nay chưa nghe thấy có tên "kim cương hoàn" bao giờ. Nếu có kim cương hoàn tất nhiên phải có bồ tát hoàn.
Câu ấy làm cả nhà cười ầm lên. Bảo Thoa mỉm cười:
Có lẽ là thiên vương bổ tâm đan thì đúng hơn.
Vương phu nhân cười nói:
- Chính là tên ấy đấy, bây giờ ta đâm ra hồ đồ! Bảo Ngọc nói:
- Mẹ không hồ đồ đâu, chỉ tại người gọi là kim cương hay là bồ tát làm cho mẹ hồ đồ đấy thôi.
- Mày định chọc cả mẹ mày à? Coi chừng cha mày lại cho mày ăn đòn đấy.
- Chắc cha con cũng không vì việc ấy mà đánh con đâu!
Vương phu nhân lại nói:
- Đã có thứ thuốc ấy, ngày mai bảo đi mua một ít về mà uống.
Bảo Ngọc nói:
- Thuốc ấy chẳng ăn thua gì đâu. Mẹ cứ cho con ba trăm sáu mươi lạng bạc, con sẽ làm cho cô ấy một tễ thuốc viên, chắc nhắn chưa uống hết tễ thuốc bệnh sẽ khỏi.
- Mày chỉ nói bậy. Thuốc gì mà đắt đến thế?
- Thật thế, thuốc ấy khác hẳn các thuốc khác. Tên thuốc này rất lạ, nói một lúc không thể hết được. Chỉ nói nhau đàn bà đẻ con so, nhân sâm có lá ba trăm sáu mươi lạng cũng chưa đủ. Lại còn hà thủ ô lớn như con rùa, phục linh đởm ở rễ cây tùng nghìn năm; những thứ thuốc như thế cũng chưa lấy gì làm lạ, còn phải chọn thứ thuốc đầu vị nữa. Nói ra làm người ta phải rùng mình. Trước kia anh Tiết Bàn có xin con đơn thuốc ấy, hai ba năm sau con mới cho, anh ấy mang đi tìm đến hai ba năm nữa, tốn hết hơn một nghìn lạng bạc mới chế xong. Mẹ không tin, cứ hỏi chị Bảo sẽ biết.
Bảo Thoa cười, xua tay nói:
- Tôi không biết, tôi cũng chẳng nghe thấy ai nói chuyện ấy bao giờ. Anh đừng bảo dì hỏi tôi.
Vương phu nhân cười nói:
- Con bé Bảo tốt đấy, nó không hay nói dối.
Bảo Ngọc nghe vậy quay ngay lại, vỗ tay nói:
- Con nói thực đấy, thế mà mẹ lại bảo con nói dối. Nói xong, Bảo Ngọc ngoảnh lại nhìn, thấy Đại Ngọc đương ngồi ở sau lưng Bảo Thoa mỉm cười, rồi lấy ngón tay vẽ vào mặt ra hiệu chế diễu Bảo Ngọc.
Phượng Thư đương ở nhà trong, trông nom người bày bàn, nghe vậy, liền chạy lại cười nói:
- Việc này có thật đấy. Chú Bảo không nói dối đâu. Hôm nọ, anh Tiết có đến nhờ con tìm hộ hạt trân châu, con hỏi, anh ấy nói là để chế thuốc. Anh ấy còn phàn nàn: "Thà chẳng chế cho xong, biết đâu lại có nhiều chuyện rắc rối!" Con hỏi thuốc gì, anh ấy nói là đơn thuốc của chú Bảo cho. Anh ấy còn nói nhiều thứ nữa kia, con không nhớ hết, anh ấy lại nói: "Nếu không thì tôi mua ở đâu chả được mấy hạt trân châu, chỉ vì cần những hạt đã giắt ở trên đầu, nên phải đến đây tìm thím, không có thì lấy những hạt đính ở cành hoa cũng được. Sau này tôi sẽ đem những hạt khác tốt hơn giả lại thím". Con đành phải lấy hai hạt đương cài trên đầu đưa cho anh ấy. Lại còn phải dùng một đoạn lụa hồng dài ba thước, rồi lấy bát sữa nghiền nhỏ, đem trộn với bột mới được.
Phượng Thư nói một câu, Bảo Ngọc niệm Phật một câu. Sau đó nói: "Có mặt trời chứng giám". Phượng Thư nói xong, Bảo Ngọc lại nói:
- Bây giờ mẹ nghĩ xem, chẳng qua là làm gượng đấy thôi, cứ theo đúng cách thức trong đơn, thì phải lấy những châu ngọc ở trong ngôi mộ của những người giàu sang cài đầu ngày xưa khi chết đem chôn theo mới hay. Nhưng bây giờ không lẽ vì đơn thuốc lại đi đào bới người ta lên sao tiện. Vì thế chỉ dùng những thứ của người sống đeo cũng được.
Vương phu nhân nghe rồi nói:
- A di đà Phật! Ai nỡ làm thế! Người ta chết mấy trăm năm rồi, lại còn đào thây bới xương lên để làm thuốc, thì còn linh nghiệm gì.
Bảo Ngọc quay lại nói với Đại Ngọc:
- Em có nghe không? Lẽ nào chị Phượng cũng theo anh mà nói dối em à?
Bảo Ngọc ngoảnh mặt lại hỏi Đại Ngọc, nhưng mắt lại liếc sang bên Bảo Thoa.
Đại Ngọc liền kéo Vương phu nhân nói:
- Mợ xem, chị Bảo không chịu vào hùa với anh ấy, thành ra anh ấy lại đi hỏi cháu.
Vương phu nhân nói:
- Bảo Ngọc cứ hay bắt nạt em mày.
Bảo Ngọc cười nói:
- Mẹ không biết nguyên do việc này. Chị Bảo khi trước ở nhà, anh Tiết làm việc gì chị ấy cũng không biết. Bây giờ lại sang ở bên này, tất nhiên càng không biết nữa. Cô Lâm ngồi ở đằng sau, cho là con bịa chuyện ra nói dối, nên cười giễu con.
Đương nói chuyện thì a hoàn ở buồng Giả mẫu đến mời Bảo Ngọc và Đại Ngọc về ăn cơm. Đại Ngọc không đợi Bảo Ngọc, liền đứng dậy kéo a hoàn đi. A hoàn nói:
- Hãy chờ cậu Bảo cùng đi một thể.
- Anh ấy không ăn đâu. Chúng ta đi thôi. Tôi đi trước đây.
Nói xong, Đại Ngọc đi ra ngay.
Bảo Ngọc nói:
- Hôm nay con ăn cơm với mẹ.
Vương phu nhân nói:
- Thôi, thôi, hôm nay ta ăn chay, con về bên ấy mà ăn.
- Con cũng ăn chay.
Nói xong Bảo Ngọc bảo a hoàn đi về rồi chạy đến ngồi vào bàn ăn. Vương phu nhân cười bảo bọn Bảo Thoa:
- Các cháu cứ đi ăn, mặc kệ nó.
Bảo Thoa cười nói:
- Ăn hay không, anh cũng nên đi với cô Lâm mới phải; bụng cô ta đang khó chịu đấy.
Bảo Ngọc nói:
- Mặc kệ cô ta, chốc nữa là xong hết.
Ăn xong, Bảo Ngọc phần thì sợ Giả mẫu mong, phần cũng nhớ Đại Ngọc, vội vàng bảo lấy nước súc miệng. Thám Xuân, Tích Xuân đều cười:
- Anh Hai sao lúc nào cũng vội vã thế? Ăn uống mà cũng lật đật như vậy.
Bảo Thoa cười nói:
- Anh ấy ăn xong rồi còn phải đi thăm cô Lâm, chứ ở đây làm gì?
Bảo Ngọc uống nước xong, sang ngay nhà phía tây. Đi đến phòng Phượng Thư, thấy Phượng Thư đang đứng ghếch chân trên ngưỡng cửa cầm cái ngoáy tai gợi răng và trông mười đứa hầu nhỏ vần mấy chậu hoa. Thấy Bảo Ngọc đến, Phượng Thư cười nói:
- May quá, chú lại viết hộ chị mấy chữ.
Bảo Ngọc đành phải theo vào buồng. Phượng Thư sai người đem bút giấy ra nói:
- Chú viết: Bốn mươi tấm đoạn trơn màu đỏ, bốn mươi tấm đoạn thêu rồng, một trăm tấm the hạng tốt đủ các màu, vòng cổ bằng vàng bốn chiếc.
- Thế nào? Không phải sổ mua bán, cũng không phải là giấy kê đồ lễ, viết thế này để làm gì?
- Chú cứ viết, miễn sao chị hiểu là được.
Bảo Ngọc nghe nói, đành phải viết vậy.
Phượng Thư vừa cầm tờ giấy, vừa cười nói:
- Còn điều này nữa, không biết chú có bằng lòng không? Bên nhà chú có con a hoàn tên là Hồng Ngọc, tôi muốn lấy nó sang đây, ngày mai tôi sẽ cho đứa khác sang thay nó, liệu có được không?
- Bên nhà tôi nhiều người lắm, chị thích đứa nào, cứ việc lấy, cần gì phải hỏi tôi.
- Nếu thế thì tôi gọi nó về nhé.
- Được, chị cứ việc gọi.
Nói xong, Bảo Ngọc chực đi ngay. Phượng Thư nói:
- Chú hãy đứng lại, tôi còn nói câu này nữa.
- Bà đang gọi tôi, có việc gì khi về sẽ hay.
Bảo Ngọc sang bên phòng Giả mẫu, đã thấy ăn xong cả rồi. Giả mẫu hỏi:
- Ăn cơm bên mẹ cháu có gì ngon không?
- Chả có gì ngon cả, nhưng cháu lại ăn thêm được một bát.
Rồi hỏi:
- Cô Lâm ở đâu?
Giả mẫu nói:
- Ở trong nhà kia kìa.
Bảo Ngọc đi vào, thấy một a hoàn đương ngồi dưới đất quạt bàn là, hai a hoàn ngồi trên giường xe chỉ, Đại Ngọc đang cúi xuống cầm kéo cắt cái gì. Bảo Ngọc chạy đến cười nói:
- Ái chà! Em làm gì đấy, vừa ăn xong đã cúi gằm đầu xuống, khéo lại nhức đầu thôi.
Đại Ngọc không trả lời, cứ ngồi may. Bỗng có một a hoàn nói:
- Góc miếng lụa này còn nhăn, phải là lại mới được.
Đại Ngọc vứt kéo xuống nói:
- Mặc kệ nó, một chốc nữa là xong.
Bảo Ngọc nghe nói, sinh ra buồn rầu. Bỗng bọn Bảo thoa, Thám Xuân đến, nói chuyện với Giả mẫu. Một lúc, Bảo Thoa vào nhà trong, hỏi: "Em làm gì đấy?". Thấy Đại Ngọc đương cắt may, Bảo Thoa cười nói:
- Giỏi quá nhỉ. Em biết cả việc may cắt rồi đấy.
Đại Ngọc cười nói:
- Đó chẳng qua là câu chuyện lừa dối người thôi.
Bảo Thoa cười nói:
- Tôi kể cho cô nghe câu chuyện buồn cười: Vừa rồi chỉ vì tôi bảo không biết gì đến việc thuốc, nên anh Bảo cũng lấy làm khó chịu đấy.
Đại Ngọc nói:
- Mặc kệ anh ấy, một chốc là xong hết.
Bảo Ngọc gọi Bảo Thoa:
- Bà muốn đánh xúc xắc, không có ai, chị ra mà đánh vậy.
- Thế ra tôi chỉ vì đánh xúc xắc mà đến đây à?
Nói xong Bảo Thoa đi ngay.
Đại Ngọc nói:
- Thôi anh cũng đi đi, ở đây có con hùm, khéo nó cắn cho đấy.
Bảo Ngọc thấy Đại Ngọc vẫn cúi xuống cắt, không để ý đến mình, đành phải cười nói:
- Em nên ra đi dạo chơi, rồi về khâu cũng chưa muộn.
Đại Ngọc vẫn không trả lời. Bảo Ngọc liền hỏi đám a hoàn:
- Ai bảo cô ấy khâu thế?
Đại Ngọc thấy Bảo Ngọc hỏi bọn a hoàn, liền nói:
- Ai bảo tôi khâu thì mặc tôi, việc gì đến cậu Hai!
Bảo Ngọc muốn nói nữa, thấy có người đến báo: "Bên ngoài có người mời cậu", liền đứng dậy ra ngay.
Đại Ngọc ngoảnh ra ngoài nói:
A di đà Phật! Khi anh trở về, tôi có chết cũng xong.
Bảo Ngọc ra ngoài, thấy Bồi Dính chạy lại nói:
- Người nhà cậu Phùng đến mời.
Bảo Ngọc biết ngay là câu chuyện hôm nọ, liền bảo: "Mang quần áo ra đây". Rồi quay vào thư phòng.
Bồi Dính vào ngay cửa thứ hai đứng đợi người hầu. Thấy một bà già đi ra. Bồi Dính nói:
- Cậu Bảo đương ở thư phòng, chờ lấy quần áo đi chơi, bà về đưa tin ngay cho họ biết.
- Con mẹ mày! Cậu Bảo đứng ở ngoài vườn, những người hầu đều theo ra đó cả, mày lại vào đây đưa tin à?
- Bà mắng là phải, tôi thực là hồ đồ.
Bồi Dính chạy vào cửa thứ hai phía đông, gặp bọn hầu nhỏ đương đá cầu ở con đường trước cửa. Bồi Dính báo cho chúng biết. Một đứa chạy ngay đi, một chốc mang bọc quần áo đến, đưa cho Bồi Dính đem về thư phòng.
Bảo Ngọc thay quần áo xong, sai người thắng ngựa và cho bốn đứa tiểu đồng là Bồi Dính, Sừ Dược, Song Thụy, Song Thọ theo hầu. Họ đi thẳng đến nhà Phùng Tử Anh. Có người vào báo, Tử Anh ra cửa mời vào. Tiết Bàn cũng đã đến đấy từ lâu Lại có cả bọn con hát nhỏ và người hay đóng vai nữ là Tưởng Ngọc Hàm cùng kỹ nữ ở viện Cẩm Hương là Vân Nhi nữa. Chào nhau xong, mọi người ngồi uống nước.
Bảo Ngọc cầm chén nước trà cười nói:
- Hôm nọ anh nói việc "may trong không may" làm cho tôi ngày đêm nghĩ ngợi, không biết là việc gì? Hôm nay cho gọi, tôi phải đến ngay.
Phùng Tử Anh cười nói:
- Các anh thực thà quá. Chẳng qua tôi đặt lời ra đấy thôi. Nguyên tôi thành tâm sửa một tiệc rượu mời các anh, nhưng sợ các anh từ chối, nên tôi bịa ra như thế, ngờ đâu các anh lại tin là thực.
Mọi người nghe xong cười ầm lên. Tiệc bày ra theo thứ tự mời ngồi. Phùng Tử Anh trước hết bảo bọn con hát trẻ đến rót rượu, rồi bảo Vân Nhi mời ba chén.
Tiết Bàn mới uống mấy chén, bụng đã xiêu xiêu, cầm tay Vân Nhi nói:
- Cô có khúc nào mới lạ, hát cho tôi nghe, tôi sẽ uống hết một vò rượu, thế có được không?
Vân Nhi nghe nói, gẩy đàn tì bà rồi hát:
Oan nghiệt đôi nhà, khó mà gỡ ra, nhớ khi đi khỏi, vẫn áy náy đến người xa. Trai lơ sắc sảo, ai mà vẽ hệt được dáng điệu đôi ta. Nhớ đêm trước thì thào ở dưới rặng hoa trà, chị thì lấm lét, anh cố lân la, trước tam tào đem ra tra, thôi chối sao được mà!
Hát xong cười nói:
- Tôi hát xong rồi, cậu uống cả vò đi.
Tiết Bàn cười nói:
- Chưa đáng uống. Hát bài nào hay hơn kia!
Bảo Ngọc cười nói:
- Hãy nghe tôi nói đã: cứ uống bừa đi như thế, dễ say mà chẳng có thú gì. Tôi uống trước một chén lớn, rồi ra một cái lệnh mới, hễ ai không theo, phải phạt mười chén lớn, đuổi ra ngoài tiệc, bắt rót rượu mời mọi người.
Phùng Tử Anh và Tưởng Ngọc Hàm đều nói:
- Phải đấy, phải đấy!
Bảo Ngọc cầm ngay chén lớn uống một hơi hết, rồi nói:
- Bây giờ phải nói bốn chữ: "bi", "sầu", "hỉ", "lạc"(1), nhưng phải tả ra thân phận người con gái, và nói rõ cớ gì mà có bốn chữ ấy. Xong rồi uống một chén rượu. Khi uống, phải hát một bài mới, đến cuối, phải tức khắc đọc một câu gì, hoặc là câu sẵn có ở trong tứ thư, ngũ kinh, hoặc là câu thơ câu đối cũ.
Tiết Bàn không chờ nói hết, đứng ngay dậy, gạt đi:
- Tôi không dự cuộc ấy đâu, đừng có tính vào đấy. Các anh định đùa tôi chứ gì!
Vân Nhi đứng dậy đẩy hắn ngồi xuống, cười nói:
- Sợ cái gì? Ngày ngày cậu chỉ biết rượu chè thôi, chẳng lẽ lại thua cả tôi nữa à? Tôi cứ việc nói. Nói phải thì thôi, không phải, chịu phạt mấy chén là cùng, có say đã chết ai? Bây giờ cậu trái lệnh, phải uống mười chén lớn rồi đành chịu đi rót rượu mời người ta à?
Mọi người đều vỗ tay khen hay quá! Tiết Bàn không làm thế nào được, đành phải ngồi xuống, nghe Bảo Ngọc nói:
Gái này thương, buổi đương xuân, trơ trọi trong buồng;
Gái này buồn, tham hầu, chàng phải xa vắng luôn!
Gái này mừng, buổi sớm soi gương đẹp quá chừng;
Gái này vui, áo xuân mỏng mảnh đánh đu chơi.
Mọi người nghe đều khen "hay"! Chỉ có Tiết Bàn vênh mặt lắc đầu:
- Không hay, đáng phạt!
Mọi người hỏi:
- Sao lại đáng phạt?
Tiết Bàn nói:
- Anh ấy nói tôi chẳng hiểu gì cả, sao lại không đáng phạt?
Vân Nhi liền dúi Tiết Bàn một cái, cười nói:
- Cứ ngồi yên, nghĩ sẵn câu của mình đi. Đến lượt mà không nói được thì phải phạt đấy.
Rồi Vân Nhi gẩy đàn theo, Bảo Ngọc hát:
Bao giờ hết, giọt lệ tương tư rơi đỏ ngòm,
Bao giờ nở, xuân về hoa liễu trước lầu son,
Nằm trằn trọc, song the, mưa gió buổi hoàng hôn.
Nghĩ vẩn vơ, mối sầu mới cũ cùng đổ dồn!
Nuốt không trôi, rượu vàng gạo ngọc nào biết ngon,
Soi không rõ, đứng trước gương lăng mặt héo hon!
Nét ngài cau cau lại, giọt đồng hồ dồn dập hơn.
Chao ôi! Nào khác gì: trôi đi, nước biếc dòng man mác,
Dừng lại, non xanh bóng chập chờn.
Hát xong, mọi người khen hay, chỉ có Tiết Bàn nói:
- Chẳng hay gì cả.
Bảo Ngọc uống chén rượu đầu, rồi cầm miếng lê và đọc một câu: Hoa lẽ mưa đẫm cửa cài then. Thế là xong một lệnh.
Đến lượt Phùng Tử Anh nói:
Gái này thương, chàng mắc bệnh nặng nằm trên giường,
Gái này sầu, gió thổi lầu tranh sập đổ nhào.
Gái này mừng, đầu lòng sinh đôi sướng quá chừng,
Gái này vui, lẻn bước ra vườn đào để chơi.
Nói xong cầm chén rượn hát:
Mình là hạng thông minh,
Mình là kẻ đa tình,
Mình là giống ma quỉ kỳ quái yêu tinh.
Mình là bậc thần tiên, nhưng phép không linh.
Đây bảo mình, mình cứ làm thinh,
Thấy nói đến nơi nào vắng vẻ, dò xét cho rành.
Mới biết là đây thương hay không thương mình!
Hát xong, uống chén rượn, rồi đọc câu: "Trăng tỏ lều tranh nhộn tiếng gà". Thế là xong lệnh.
Rồi đến lượt Vân Nhi nói:
Gái này thương, sau này nào biết chốn tựa nương?
Tiết Bàn cười nói:
- Con ơi! Đã có bố Tiết mày đây, sợ gì?
Mọi người đều nói:
- Đừng phá đám! Đừng phá đám!
Vân Nhi lại nói:
Gái này buồn, cái mụ dầu kia đánh mắng luôn!
Tiết Bàn nói:
- Hôm nọ tao gặp mẹ mày, tao đã bảo mụ ấy không được đánh mắng mày kia mà.
Mọi người đều nói:
- Còn nói nữa, sẽ phạt mười chén rượu.
Tiết Bàn vội tự vả vào mồm, nói:
- Không có tai à! Cấm không được nói nữa!
Vân Nhi lại nói:
Gái này mừng, trong nhà ở với bạn tình chung,
Gái này vui, buông tay tiêu sáo gảy đàn chơi.
Nói xong liền hát:
Tháng ba đậu mới trồi hoa,
Sâu kia đâu đã lân la đục rồi.
Đục vào cũng uổng công thôi,
Trên hoa tấp tểnh lên ngồi đánh đu.
Khen cho mi cũng gan to,
Ta không nở nữa, đục rau được nào?
Hát xong uống chén rượu, rồi đọc câu: "Hoa đào mơn mởn". Thế là xong lệnh.
Đến lượt Tiết Bàn. Hắn nói:
- Giờ tôi nói này: Gái này thương...
Rồi ngừng lại, không nói được. Phùng Tử Anh cười nói:
- Thương cái gì? Nói nhanh lên.
Tiết Bàn mắt trợn tròn nói:
- Gái này thương...
Rồi cứ ho gằn mãi mới nói được một câu:
- Gái này thương, thân này lấy phải anh chàng "rùa đen"(2).
Mọi người nghe xong, cười ầm lên. Tiết Bàn nói:
- Cười cái gì? Tôi nói thế không phải à? Người con gái lấy phải thằng chồng mất dạy, thì chả đau ruột hay sao?
Mọi người cười rũ rượi:
- Anh nói phải đấy, thôi đọc câu dưới đi.
Tiết Bàn lại trợn mắt nói:
- Gái này buồn... - rồi tắc tị, không nói được.
Mọi người hỏi:
- Buồn cái gì?
Tiết Bàn đọc tiếp:
- Gái này buồn, phòng thêu gấu ngựa nó luồn chạy ra.
Mọi người cười ầm lên:
- Đáng phạt, đáng phạt! Câu trước còn có thể tha được, câu này không thông một tí nào.
Nói xong toan rót rượu phạt.
Bảo Ngọc nói:
- Nhưng mà ghép vần cũng khá đấy.
Tiết Bàn nói:
- Quan giữ lệnh đã cho được rồi, các anh còn nhắng lên gì!
Mọi người nghe thấy mới thôi.
Vân Nhi cười nói:
- Đến hai câu dưới càng khó đấy, tôi nói hộ cậu nhé.
Tiết Bàn đáp:
- Bậy nào! Thế ra ta không mở miệng được à? Nghe này: Gái này mừng, đuốc hoa trời đã sáng trưng còn nằm.
Mọi người nghe đọc, đều lấy làm lạ hỏi nhau:
- Sao câu này lại nhã thế?
Tiết Bàn lại nói:
- Gái này vui, con cu nghí ngoáy định chui ngay vào.
Mọi người nghe xong, đều quay đầu nói:
- Đáng chết, đáng chết! Thôi hát đi!
Tiết Bàn liền hát:
- Một con muỗi kêu vo vo vo.
Mọi người đều ngơ ngác nói:
- Khúc hát gì đấy?
Tiết Bàn lại hát:
- Hai con nhặng kêu vù vù vù.
Mọi người đều nói:
- Thôi, thôi đi!
Tiết Bàn nói:
- Các anh thích nghe không, đó là khúc mới đấy, gọi là khúc hát vo vo. Nếu các anh không buồn nghe thì cả lượt cuối cũng xin miễn.
Mọi người đều nói:
- Thôi tha cho, đừng làm nhỡ cả người khác.
Rồi đến Tưởng Ngọc Hàm đọc:
Gái này thương, xa nhau biền biệt mong chàng về ngay,
Gái này buồn, muốn mua dầu quế, nhưng còn tiền đâu.
Gái này mừng, nhụy hoa đèn đã nối chằng vào nhau,
Gáí này vui, xướng tùy giờ đã sánh đôi thuận hòa.
Nói xong hát:
Khen thay vẻ đẹp trời sinh,
Khác nào tiên ở bồng doanh xuống trần.
Tuổi này vừa độ thanh xuân.
Phượng loan tìm bạn, trăm phần khéo khôn.
Ối chà! Sông Ngân dọi, trống canh dồn,
Khêu đèn ta khẽ màn loan cùng vào.
Hát xong uống chén rượu, cười nói:
- Thơ từ tôi không biết mấy, may hóm nọ thấy đôi câu đối, tôi chỉ nhớ được một vế, nay gặp trên bàn tiệc này cũng có vật ấy.
Nói xong, uống cạn chén rượn, cầm cái hoa quế lên đọc: Mùi hoa buổi sớm ấm ran cả người(3).
Mọi người đều cho là được. Thế là xong lệnh.
Tiết Bàn nhảy lên la hét ầm ĩ:
- Không được, không được! Phải phạt! Phải phạt! Trong tiệc này làm gì có bảo bối, sao lại nói đến bảo bối?
Tưởng Ngọc Hàm ngơ ngác nói:
- Có bảo bối nào đâu?
Tiết Bàn nói:
- Anh còn chối à! Thử nói lại xem.
Tưởng Ngọc Hàm đọc lại một lần nữa. Tiết Bàn nói:
- Hai chữ "tập nhân" không phải "bảo bối" là gì? Các anh không tin, thử hỏi anh ấy xem.
Nói xong giơ tay trỏ vào Bảo Ngọc. Bảo Ngọc rất khó chịu, đứng dậy nói:
- Anh Tiết đáng phạt bao nhiêu?
Tiết Bàn nói "đáng phạt, đáng phạt!". Sau đó cầm chén rượu uống một hơi hết.
Phùng Tử Anh và Tưởng Ngọc Hàm hỏi duyên cớ vì sao. Vân Nhi liền nói cho họ biết. Tưởng Ngọc Hàm vội đứng dậy nhận lỗi. Mọi người đều nói:
- Người không biết thì không bắt lỗi.
Một chốc, Bảo Ngọc ra ngoài đi giải, Tưởng Ngọc Hàm theo ra. Hai người đứng ở dưới thềm, Tưởng Ngọc Hàm lại xin lỗi một lần nữa. Bảo Ngọc thấy hắn mềm mại nhu mì, liền nắm chặt lấy tay nói:
- Lúc nào rỗi sang chơi tôi nhé. Tôi muốn hỏi một điều, trong ban hát ta có một người tên là Kỳ Quan, nổi tiếng nhất thiên hạ, tiếc tôi vô duyên, không được gặp.
Ngọc Hàm cười đáp:
- Đó là tên tục của tôi đấy.
Bảo Ngọc mừng lắm, giậm chân cười nói:
- Thực là may, thực là may! Quả nhiên tiếng đồn không sai. Giờ mới gặp lần đầu, biết làm thế nào đây.
Nghĩ một lúc rồi lấy cái quạt ở trong tay áo ra, cởi viên ngọc ở dây quạt đưa cho Kỳ Quan và nói:
- Vật nhỏ này không đáng bao nhiêu, gọi là tỏ mối tình ngày hôm nay.
Kỳ Quan cầm lấy, cười nói:
- Tôi không có công gì, đâu đáng nhận đồ tặng. Nhưng thôi, tôi cũng có một vật lạ, sáng hôm nay mới thắt vào người, hãy còn mới nguyên, xin tặng lại cậu, để tỏ lòng quý mến của tôi.
Nói xong hắn vén áo lên, cởi cái thắt lưng lụa màu hồng, thắt trong áo lót, đưa tặng Bảo Ngọc và nói:
- Cái thắt lưng này là đồ cống của nữ quốc vương nước Phiến Hương, mùa hè thắt vào, da thịt thơm nức, không có mồ hôi. Hôm nọ Bắc Tĩnh vương cho, tôi vừa mới thắt vào người. Tôi không bao giờ định tặng ai. Xin cậu cởi cái thắt lưng của cậu ra cho tôi.
Bảo Ngọc nghe nói mừng quá, vội nhận ngay, và cởi thắt lưng màu hoa tùng của mình đưa cho Kỳ Quan. Hai người vừa thắt xong, nghe thấy tiếng kêu to: "Ta bắt được rồi".
Tiết Bàn ở đâu nhảy ra kéo hai người lại nói:
- Hai người này bỏ rượu không uống, trốn tiệc ra ngoài, định làm trò gì đây? Đưa ngay ra đây cho ta xem!.
Hai người đều chối không có cái gì cả. Tiết Bàn không nghe. Phùng Tử Anh thấy vậy ra can mới thôi. Mọi người về chỗ, uống rượu đến chiều mới tan.
Bảo Ngọc về đến trong vườn, cởi áo, uống nước. Tập Nhân thấy mất viên ngọc đeo ở quạt, liền hỏi:
- Vứt đâu mất rồi?
- Đi ngựa đánh rơi mất.
Tập Nhân cũng không hỏi lại nữa. Đến lúc đi ngủ, thấy Bảo Ngọc thắt cái thắt lưng đỏ như máu, Tập Nhân đã đoán ra được tám chín phần, bèn nói:
- Cậu có cái thắt lưng đẹp nhỉ. Thôi, giả cái thắt lưng của tôi đây.
Bảo Ngọc nghe nói mới nhớ ngay cái thắt lưng trước là của Tập Nhân, đáng ra không nên đem cho người khác mới phải, bụng rất hối hận, nhưng không tiện nói ra, đành phải tươi cười:
- Thôi tôi xin đền chị cái khác vậy.
Tập Nhân nghe nói, cúi đầu than thở:
- Tôi biết cậu vẫn hay giở trò ấy. Từ nay, cậu không nên lấy cái của tôi đem cho bọn đốn mạt nào. Cậu thật chẳng suy nghĩ gì cả.
Tập Nhân muốn nói mấy câu nữa, nhưng lại sợ Bảo Ngọc đương say phát cáu, nên đành phải đi ngủ.
Hôm sau dậy, Bảo Ngọc cười nói:
- Đêm qua chị mất trộm mà không biết, thử nhìn xuống quần xem.
Tập Nhân cúi đầu, thấy cái thắt lưng của Bảo Ngọc tự nhiên lại thắt vào mình. Tập Nhân biết rằng ban đêm Bảo Ngọc đánh tráo, vội vàng cởi ngay ra và nói:
- Tôi không thèm cái này, vứt ngay nó đi.
Bảo Ngọc thấy thế, liền dịu dàng khuyên giải. Tập Nhân không biết làm thế nào, đành phải thắt vậy. Sau đó Bảo Ngọc đi ra ngoài, Tập Nhân mới cởi ra, vứt vào cái hòm không, rồi lại thắt cái thắt lưng của mình.
Bảo Ngọc cũng không để ý đến việc ấy nữa. Nhân hỏi:
- Hôm qua ở nhà có việc gì không?
Tập Nhân nói:
- Mợ Hai sai người đến gọi Hồng Ngọc sang bên ấy. Nó muốn chờ cậu về, nhưng tôi nghĩ việc này cũng không quan trọng, nên đã cho nó sang rồi.
- Thôi cũng được. Việc ấy tôi đã biết rồi, không cần phải chờ tôi nữa.
- Hôm qua Quý phi cho Hạ thái giám đem một trăm hai mươi lạng bạc về, bảo phải đến quán Thanh Hư làm lễ cầu an trong ba ngày, từ mồng một đến mồng ba và bảo ông Trân dẫn cả nhà ra đấy dâng hương lễ Phật. Lại còn đồ thưởng về tết Đoan ngọ nữa.
Nói xong, sai đứa hầu bé đem các đồ vật ra; một đôi quạt hạng nhất trong cung, hai chuỗi hạt châu xạ hương, hai tấm là, một bức mành phù dung.
Bảo Ngọc thấy những vật ấy thích lắm, hỏi Tập Nhân:
- Những người khác cũng được thế này chứ?
- Cụ được thêm một cây như ý thơm, một cái gối mã não. Bà và dì Tiết mỗi người được thêm một cây như ý. Cậu với cô Bảo bằng nhau. Cô Lâm và cô Hai, cô Ba, cô Tư mỗi cô được một cái quạt và vài hạt châu, không có gì nữa. Mợ Cả, mợ Hai mỗi người hai tấm the, hai tấm lụa, hai cái túi thơm, hai thoi thuốc.
- Thế là nghĩa làm sao? Sao lại không cho cô Lâm mà cho cô Bảo bằng tôi? Hay là nghe nhầm đấy?
- Hôm qua mang ra xem, phần nào phần nấy có biên thẻ cả, sao lại nhầm được? Phần cậu gởi ở phòng cụ, để tôi đến lấy. Cụ dặn đến sớm mai, trống canh năm, cậu phải vào tạ ơn.
- Phải vào mới được chứ.
Nói xong Bảo Ngọc bảo Tử Quyên:
- Chị mang những cái này đưa cho cô lâm, bảo là phần của tôi đấy, cô ấy thích cái gì, cứ để lại mà dùng.
Tử Quyên đem đi, một chốc về nói:
- Cô Lâm bảo hôm qua cô ấy cũng đã có phần rồi, cậu cứ để lại mà dùng.
Bảo Ngọc nghe nói, sai người cất những thứ ấy đi. Rửa mặt xong, Bảo Ngọc sang chào Giả mẫu, thấy Đại Ngọc từ đầu kia đi lại. Bảo Ngọc chạy ngay lại cười nói:
- Anh bảo em chọn lấy những thứ của anh mà dùng, sao em không lấy?
Đại Ngọc quên hết những chuyện hờn giận Bảo Ngọc hôm nọ, chỉ nghĩ đến việc lúc này thôi, liền nói:
- Nhà em ít phúc, không đáng dùng những thứ ấy. Chúng em chẳng qua chỉ là hạng cỏ rác thôi, so đâu được với cô Bảo là người "vàng" người "ngọc".
Nghe thấy Đại Ngọc nhắc đến hai chữ "vàng", "ngọc", Bảo Ngọc đâm ra ngờ, liền nói:
- Người ngoài nói "vàng, "ngọc" thế nào mặc họ, chứ bụng anh mà nghĩ đến điều ấy, thì trời tru đất diệt, muôn kiếp không được làm người!
Đại Ngọc nghe vậy, biết ngay là Bảo Ngọc có ý nghi ngờ, vội cười nói:
- Thật chán chưa! Cứ thề với bồi? Ai để ý đến "vàng", "ngọc" làm gì?
- Khó nói cho em biết tâm sự của anh, sau này em sẽ hiểu. Anh xin thề rằng, trừ bà và cha mẹ anh ra, thì em là người thứ tư của anh đấy. Không còn có người thứ năm nảo nữa.
- Anh không cần phải thề, em biết bụng anh vẫn nghĩ đến "cô em", nhưng khi nào gặp "cô chị" lại quên khuấy "cô em" đi.
- Em hay đa nghi, anh không phải hạng người thế đâu.
- Hôm nọ cô Bảo không hùa theo những câu nói dối của anh, vì cớ gì anh lại quay sang hỏi em? Nếu phải là em, thì không biết anh đối xử như thế nào?
Đương nói chuyện thì Bảo Thoa từ phía trước đi đến, hai người mới rời nhau ra, Bảo Thoa trông thấy rõ ràng, nhưng giả lờ như không, cứ cúi đầu đi qua. Bảo Thoa sang bên Vương phu nhân ngồi một lúc, rồi sang bên Giả mẫu, đã thấy Bảo Ngọc ngồi đấy rồi.
Bảo Thoa nhớ lại trước kia mẹ mình nói chuyện với Vương phu nhân về việc vị sư cho cái khóa vàng, bảo chờ ngày sau ai có ngọc mới kết hôn, vì thế chỉ muốn tìm cách tránh xa Bảo Ngọc. Hôm nọ Nguyên Xuân lại cho các thứ cũng như Bảo Ngọc, trong lòng càng thêm áy náy khó nghĩ. May sao Bảo Ngọc lại hay quấn quít với Đại Ngọc, lúc nảo cũng tâm tâm niệm niệm đến Đại Ngọc, nên Bảo Thoa cũng không để ý đến việc ấy Chợt đâu Bảo Ngọc cười nói: "Chị Bảo cho tôi xem cái chuỗi hột thơm của chị nào?" Lúc này Bảo Thoa đang đeo chuỗi hột thơm ở cánh tay bên trái, thấy Bảo Ngọc hỏi, đành phải tháo ra.
Nhưng vì Bảo Thoa da thịt nõn nà, mập mạp, tháo mãi không được. Bảo Ngọc đứng bên cạnh thấy bắp thịt trắng muốt, đâm ra thèm muốn, nghĩ thầm: "Nếu cái bắp tay này mà ở vào người cô Lâm, may ra có lúc được mó một cái; nhưng lại ở vào tay cô Bảo thì ta thực là kém phúc". Chợt nghĩ đến chuyện vàng và ngọc, Bảo Ngọc ngắm nghía đến dáng điệu Bảo Thoa, thấy da mặt nõn nà, khóe mắt long lanh, không đánh sáp mà làn môi vẫn đỏ, không kẻ mày mà nét ngài vẫn xanh, so với Đại Ngọc lại có vẻ phong lưu thùy mị riêng, Bảo Ngọc bất giác đứng ngẩn người ra. Đến khi Bảo Thoa đưa chuỗi hạt, Bảo Ngọc quên đi không buồn cầm lấy.
Bảo Thoa thấy thế, cảm thấy ngượng ngùng, liền vứt chuỗi hạt xuống, toan quay người đi, thấy Đại Ngọc đứng ở bực cửa, ngậm cái khăn lụa cười. Bảo Thoa nói:
- Chị không chịu được gió, sao lại ra đứng trước ngọn gió làm gì?
Đại Ngọc cười nói:
- Tôi mới ở trong buồng ra đấy, chỉ vì nghe thấy trên trời có tiếng chim kêu, chạy ra nhìn, thì ra là "con nhạn ngớ ngẩn"(4).
Bảo Thoa nói:
- "Con nhạn ngớ ngẩn" ở đâu? Cho tôi xem với.
Đại Ngọc nới:
- Tôi vừa đến nơi, nó vụt bay mất.
Nói xong cầm cái khăn ném thẳng vào mặt Bảo Ngọc. Bảo Ngọc không biết, tự nhiên thấy khăn tay tạt vào mặt, liền kêu "ái chà" một tiếng.
----------------------------
(1). Thương, buồn, mừng, vui.
(2). Dùng để chế anh chồng cho vợ đi ngoại tình.
(3). Nguyên văn là "hoa khí tập nhân tri trú noãn". Hai chữ "tập nhân" trùng với tên Tập Nhân, a hoàn của Bảo Ngọc, nên Tiết Bàn mới lấy đó để chế nhạo Bảo Ngọc.
(4). Dùng để chế giễu người ngốc.
Hồi thứ hai mươi chín
Người hưởng phúc, phúc nhiều, còn cầu xin thêm phúc,
Gái si tình, tình nặng, càng luẩn quẩn vì tình.
Bảo Ngọc đương ngơ ngẩn đứng nhìn, chợt Đại Ngọc ném khăn vào mặt, giật mình hỏi "Ai thế?", Đại Ngọc lắc đầu cười nói:
- Xin lỗi! Vì chị Bảo muốn xem "con nhạn ngớ ngẩn", tôi ra hiệu cho chị ấy, không ngờ lỡ tay ném phải anh.
Bảo Ngọc dụi mắt, định nói nữa, nhưng không tiện.
Một lúc Phượng Thư đến nói: "Mồng một này sê làm chay ở quán Thanh Hư". Và hẹn bọn Bảo Thoa, Bảo Ngọc, Đại Ngọc đến xem hát. Bảo Thoa cười nói:
- Thôi, thôi! Trời nóng thế này, vở hát gì cũng xem cả rồi, tôi không đi đâu.
Phượng Thư nói:
- Chỗ ấy cũng mát, hai bên lại có lầu. Chúng ta định đi xem, thì trước đó vài hôm, tôi sai người đến bảo bọn đạo sĩ dời đi chỗ khác, rồi quét lầu sạch sẽ, che thêm rèm, không cho người ngoài vào miếu, như thế cũng tốt đấy! Việc này tôi đã trình mẹ rồi, nếu các cô không đi, một mình tôi cũng đi. Mấy hôm nay buồn chết đi được. Ở nhà có hát tôi cũng chẳng được thư thái ngồi xem.
Giả mẫu cười nói:
- Đã thế thì ta cũng đi xem với cháu.
Phượng Thư cười nói:
- Bà đi càng hay. Nhưng cháu lại không được thoải mái.
- Hôm ấy ta sẽ ngồi ở lầu giữa, cháu ngồi ở lầu bên. Cháu không cần phải giữ phép tắc đứng bên cạnh ta, như thế có được không?
- Nếu thế thì thật là bà thương cháu quá.
Giả mẫu lại dặn Bảo Thoa:
- Hôm ấy cháu cũng nên đi, bảo cả mẹ cháu đi nữa. Ngày dài nhàn rỗi thế này ở nhà cũng chỉ ngủ thôi.
Bảo Thoa đành phải vâng lời.
Giả mẫu lại sai gọi người đi mời Tiết phu nhân, tiện đường đến thưa với Vương phu nhân cho cả bọn chị em cùng đi một thể. Vương phu nhân một là người không được khỏe, hai là sửa soạn tiếp đãi người của Nguyên Xuân sai ra, nên đã cáo trước không đi. Nay nghe Giả mẫu bảo thế, cười nói:
- Bà đã cao hứng, thì cứ sai người vào trong vườn bảo ai muốn đi chơi thì đi.
Tin đó truyền ra, người khác không nói, chứ bọn a hoàn hàng tháng không được ra khỏi cửa, nghe vậy ai mà chẳng muốn đi, dù chủ có lười, họ cũng tìm hết cách giục đi cho được. Vì thế bọn Lý Hoàn đều nhận lời cả. Giả mẫu lại càng vui, liền sai người đi quét dọn sắp xếp công việc.
Đến mồng một, trước cửa phủ Vinh, xe kiệu nhộn nhịp, người ngựa tấp nập, những người giữ việc trong phủ biết là Quí phi làm lễ cầu phúc, Giả mẫu thân hành đến lễ Phật, vả lại mồng một đầu tháng, lại sắp đến tết Đoan dương, nên các đồ đạc cần dùng đều được sắp đặt gọn gàng đâu đấy, khác hẳn ngày thường.
Một lúc, bọn Giả mẫu đi ra. Giả mẫu ngồi một cái kiệu tám người khiêng; Lý Hoàn, Phượng Thư, Tiết phu nhân, mỗi người ngồi một kiệu bốn người khiêng; Bảo Thoa, Đại Ngọc ngồi chung một cái xe bát bảo, cho che tàn xanh, chung quanh đính chân chỉ hạt bột; Nghênh Xuân, Thám Xuân, Tích Xuân ngồi chung cái xe bánh sơn đỏ, có che tàn hoa. Rồi đến bọn a hoàn của Giả mẫu: Uyên Ương, Anh Vũ, Hổ Phách, Trân Châu; a hoàn của Đại Ngọc là Tử Uyên, Tuyết Nhạn, Anh Kha; a hoàn của Bảo Thoa là Oanh Nhi, Văn Hạnh; a hoàn của Nghênh Xuân là Tư Kỳ, Tư Quất; a hoàn của Thám Xuân là Thị Thư, Thúy Mặc; a hoàn của Tích Xuân là Nhập Họa, Thái Bình; a hoàn của Tiết phu nhân là Đồng Hỷ, Đồng Quý; lại mang theo cả Hương Lăng và a hoàn là Trân Nhi; a hoàn của Lý Hoàn là Tô Văn, Bích Nguyệt; a hoàn của Phượng Thư là Bình Nhi, Phong Nhi, Tiểu Hồng. Hai a hoàn của Vương phu nhân là Kim Xuyến, Thái Vân cũng theo đến đó. Người vú ẵm Đại Thư ngồi riêng một xe. Lại còn bọn a hoàn làm việc nặng và đám vú già cùng bọn đàn bà theo hầu. Xe đỗ đặc nghịt cả quãng đường.
Kiệu Giả mẫu đã đi quãng xa, đằng sau vẫn chưa ngồi xong. Người nọ nói: "Tao không đi chung với mày". Người kia nói: "Mày ngồi bẹp cả túi của mẹ tao". Xe này người nói: "Cái hoa của tôi rơi đâu mất". Xe kia người kêu: "Cái quạt của tôi gẫy rồi". Cười cười nói nói ầm ĩ cả lên.
Vợ Chu Thụy thấy vậy, chạy đi chạy lại nói:
- Các cô! Ở ngoài đường phải coi chừng, người ta cười cho đấy.
Nói hai ba lần họ mới chịu im.
Phía trước, các đồ chấp sự bày đến quán Thanh Hư. Bảo Ngọc cưỡi ngựa đi trước kiệu Giả mẫu để dẫn đường. Người trên phố đều đứng hai bên xem. Gần đến quán, tiếng chiêng tiếng trống nổi lên, đạo sĩ họ Trương mặc lễ phục, cầm hương dẫn các đạo sĩ đứng bên đường đón tiếp. Vừa đến cửa, nhìn thấy la liệt những tượng bản thổ, thành hoàng, Giả mẫu liền xuống kiệu. Giả Trân dẫn con cháu đến đón. Phượng Thư đến từ trước cũng mang bọn Uyên Ương ra đón. Thấy Giả mẫu xuống kiệu, Phượng Thư vội chạy lại đỡ. Chợt có một đạo sĩ nhỏ độ mười hai, mười ba tuổi, cầm cái kéo cắt nến, muốn nhân dịp lẩn đi chỗ khác, không ngờ đâm vào người Phượng Thư. Phượng Thư giơ tay tát nó một cái, làm thằng bé ngã lộn nhào, Phượng Thư mắng:
- Giống khốn nạn này, mày chạy đi đâu?
Đạo sĩ nhỏ không kịp nhặt kéo, định tháo chạy, lại gặp ngay bọn Bảo Thoa xuống xe, những vú già và người nhà vây kín xung quanh. Khi đạo sĩ nhỏ chạy ra, mọi người đều hét ầm lên "Bắt! Bắt! Đánh Đánh!". Giả mẫu nghe vậy hỏi việc gì. Giả Trân vội vàng lại hỏi. Phượng Thư đi lên đỡ Giả mẫu và nói:
- Có một đạo sĩ nhỏ đi cắt tàn nến, không chịu tránh ra chỗ khác, cứ đâm bừa vào người.
Giả mẫu nghe nói liền bảo:
- Dẫn nó lại đây, đừng làm thằng bé sợ. Nó là con nhà thường dân, xưa nay được nuông chiều quen, đã bao giờ trông thấy những cảnh rầm rộ như thế này? Nếu làm nó sợ thì thật đáng thương! Cha mẹ nó thấy thế, lẽ nào không đau xót.
Nói xong, bảo Giả Trân dắt đứa bé ấy lại. Thấy nó tay cầm cải kéo cắt tàn nến quì xuống đất run lẩy bẩy, Giả mẫu sai Giả Trân đỡ nó dậy, bảo đừng sợ, rồi hỏi nó bao nhiêu tuổi. Đứa bé không nói ra lời. Giả mẫu nói: "Thằng bé thực đáng thương!" Lại bảo Giả Trân: "Cháu dẫn nó ra cho nó ít tiền ăn quà và đừng ai nạt nộ nó!" Giả Trân vâng lời dẫn nó ra.
Giả mẫu dẫn mọi người đi lễ, lần lượt xem phong cảnh các nơi. Đám hầu nhỏ đứng ngoài, thấy bọn Giả mẫu đi vào cửa thứ hai, lại thấy Giả Trân gọi người dẫn đạo sĩ nhỏ ra, cho nó mấy trăm đồng tiền, dặn không được dọa nạt nó. Người nhà nghe vậy liền dắt nó đi.
Giả Trân đứng ở bên thềm hỏi: "Quản gia đâu?" Bọn hầu nhỏ gọi ra ngoài: "Gọi quản gia!" Lâm Chi Hiếu lập tức sửa lại mũ, chạy lên, đứng trước mặt Giả Trân. Giả Trân bảo:
- Nơi này rộng rãi, hôm nay lại có nhiều người. Những anh cần sai đến thì cho họ vào cả trong nhà. Người nào không cần thì cho sang ở nhà bên kia. Anh cho mấy đứa bé đứng chực sẵn ở cửa thứ hai và cửa nách hai bên, để chờ xem có cần truyền bảo gì, đã nghe ra chưa? Hôm nay các cô các mợ đều chơi ở đây, không được cho một người ngoài nào vào cả.
Lâm Chi Hiếu vâng vâng dạ dạ luôn mồm.
Giả Trân nói:
- Thôi cho lui.
Lại hỏi:
- Thằng Dung đâu sao không thấy?
Nói chưa dứt lời, đã thấy Giả Dung tay cài khuy áo, ở trong gác chuông chạy ra. Giả Trân nói:
- Mày xem tao ở đây không thấy nóng, mà mày lại đi hóng mát à.
Rồi truyền cho người nhà mắng Giả Dung.
Biết Giả Trân là người khó tính, không thể trái ý được, một đứa hầu nhỏ chạy ngay lên xì vào mặt Giả Dung. Nhưng thấy Giả Trân trừng mắt nhìn, nên lại phải mắng Giả Dung lần nữa:
- Ông còn chả sợ nóng, nữa là cậu, lại dám đi hóng mát à?
Giả Dung đành cứ buông thõng tay đứng yên, không dám nói một câu nào. Trông thấy thế, không những bọn Giả Vân, Giả Bình, Giả Cần run lên; ngay đến bọn Giả Liễn, Giả Biền, Giả Huỳnh cũng đều sợ hãi. Người nào cũng lẻn vào mé tường, lần lượt chuồn đi hết.
Giả Trân quay lại bảo Giả Dung:
- Mày còn đứng làm gì đấy? Sao không lấy ngựa về nhà bảo mẹ con nhà mày rằng: cụ và các cô, các mợ đã đến cả rồi, phải đến hầu ngay.
Giả Dung nghe nói, chạy ra gọi luôn mấy tiếng: "Đem ngựa lại đây". Rồi lẩm bẩm: "Sáng sớm ra chẳng chịu làm gì, bây giờ lại cứ hạch sách mình!" Lại quay mắng đứa hầu: "Tay mày bị trói đấy à? Sao không dắt ngựa lại?" Hắn muốn sai đứa hầu nhỏ đi, nhưng lại sợ có ai mách chăng, nên đành phải tự mình đi lấy.
Giả Trân sắp đi, thấy Trương đạo sĩ đứng ở bên cạnh cười nói:
- Cứ lẽ ra, tôi không như người khác, phải ở trong nhà hầu hạ là phải; nhưng vì trời nóng, các vị tiểu thư đều đến đấy cả, tôi không dám thiện tiện vào, xin ông cho phép. Nếu cụ hỏi đến, hoặc người muốn đi xem chỗ nào, đã có tôi đứng chờ sẵn ở đây.
Giả Trân biết Trương đạo sĩ là người thế mạng(1) của Vinh Quốc công ngày trước, lại được đức tiên hoàng gọi là "Đại Ảo tiên nhân", giờ đang giữ ấn ty Đạo lục, được phong là "Chung liễu chân nhân". Các vị vương công, các quan phiên trấn đều tôn là thần tiên, không ai dám khinh nhờn. Vả chăng ông ta thường đi lại trong hai phủ, các bà các cô đều biết cả. Thấy ông ta nói thế, Giả Trân cười bảo:
- Chúng ta là chỗ người nhà với nhau, sao ông lại như vậy. Nếu ông còn nói nữa, tôi sẽ vặt râu đấy. Thôi, hãy đi theo tôi.
Trương đạo sĩ cười ha hả, theo Giả Trân đi lên.
Đến trước Giả mẫu, Giả Trân nghiêng mình cười nói:
- Cụ Trương vào hầu bà.
Giả mẫu nghe nói vội bảo "mời vào". Giả Trân dắt Trương đạo sĩ vào. Trương đào sĩ cười ha hả nói:
- Đức Phật sống lâu! Người vẫn mạnh khỏe bình yên đấy chứ? Xin chúc các mợ, các cô vui mạnh luôn. Đã lâu không được vào phủ thăm, nay xem khí sắc cụ hơn trước nhiều.
Giả mẫu cười nói:
- Lão thần tiên, người có được mạnh khỏe không?
- Nhờ phúc lộc của cụ, tiểu đạo vẫn được mạnh khỏe. Người khác không kể, riêng chỉ nhớ cậu Hai thôi. Không biết lâu nay cậu ấy có được khỏe luôn không? Hôm hai mươi sáu tháng tư, ở đây có làm lễ thánh đản Già thiên đại vương. Người đến lễ không đông lắm, nên các thứ đều giữ được sạch sẽ, tôi có cho người mời cậu ấy đến ngoạn cảnh, sao lại bảo cậu ấy không có ở nhà?
- Cháu nó không có ở nhà thực.
Rồi Giả mẫu quay lại gọi Bảo Ngọc.
Bảo Ngọc vừa đi giải vào, vội chạy đến chào Trương đạo sĩ. Trương đạo sĩ ôm lấy, hỏi han, rồi quay lại Giả mẫu cười nói:
- Cậu Hai xem ra càng ngày càng phát phúc.
Giả mẫu nói:
- Bề ngoài thì khỏe, nhưng trong người nó vẫn phiền vì nỗi cha nó cứ bắt nó học nhiều, làm thằng bé càng ốm thêm.
Trương đạo sĩ nói:
- Hôm nọ tôi qua thăm mấy nơi, thấy chữ cậu ấy viết rất tốt, thơ làm rất hay, sao ông nhà lại còn phàn nàn là cậu ấy lười học? Cứ ý tiểu đạo này thì đừng nên bắt cậu ấy học quá sức
Trương đạo sĩ lại than thở:
- Tôi xem cậu ấy bóng dáng, nói năng, đi đứng, giống hệt đức Quốc công nhà ta ngày trước vậy.
Nói xong hai mắt rưng rưng. Giả mẫu cũng nước mắt ròng ròng, nói:
- Thật thế, bao nhiêu con cháu nhà này chẳng được đứa nào giống ông cháu cả, chỉ có cháu Ngọc là giống thôi.
Trương đạo sĩ lại quay sang Giả Trân nói:
- Bóng dáng đức Quốc công nhà ta ngày trước, các cậu không biết đã đành đi rồi, có lẽ ngay ông Cả, ông Hai cũng không nhớ rõ thì phải.
Ông ta lại cười ha hả:
- Hôm nọ tôi đến chơi một nhà, thấy một vị tiểu thư năm nay độ mười lăm tuổi, dáng điệu rất đẹp. Tôi nghĩ cậu em cũng nên dạm vợ đi thôi. Nói đến cô ta, người đẹp, tư chất thông minh, lại con nhà gia thế, thực là xứng đôi. Không biết ý cụ nghĩ thế nào? Tiểu đạo này không dám đường đột. Mong người cho biết mới dám nói đến.
Giả mẫu nói:
- Trước kia có một nhà sư bảo số thằng bé này không nên lấy vợ sớm, chờ lớn lên hãy hay. Người cứ thăm dò hộ xem, không cần nhà giàu sang, cốt tìm đứa có dung mạo là được. Có thế nào người đến nói cho tôi biết. Dù nhà họ có nghèo, thì giúp cho ít bạc là xong. Chỉ có dáng dấp và tính nết con người là khó tìm thôi.
Phượng Thư cười nói:
- Cụ Trương, cụ chưa đổi bùa cho con cháu tôi à? Thế mà hôm nọ cụ còn trâng tráo cho người đến xin tấm đoạn vàng? Tôi không đưa lại sợ mất thể diện.
Trương đạo sĩ cười vang lên nói:
- Xem kìa, mắt tôi mờ rồi, không trông thấy mợ ở đây, nên không cám ơn. Bùa ký danh đã có sẵn rồi. Hôm nọ định mang đến, không ngờ có các lệnh bà đến đây làm lễ cầu phúc, nên tôi quên mất. Đạo bùa vẫn đặt ở trước bàn thờ Phật kia, để tôi lại lấy.
Nói xong Trương đạo sĩ chạy lên điện chính, một lúc bưng cái khay xuống, trên có đặt một cái túi vóc đỏ. Trương đạo sĩ rút bùa ra đưa cho vú nuôi của Đại Thư. Trương đạo sĩ chực bế Đại Thư, Phượng Thư cười nói:
- Người cầm bùa đưa cũng được, việc gì phải đặt lên khay?
Trương đạo sĩ nói:
- Tay không được sạch, cầm sao được? Đặt vào khay thì thanh tịnh hơn.
Phượng Thư cười nói:
- Người bưng cái khay ra, làm tôi giật mình. Tôi không biết là người đưa bùa, cứ tưởng người đến xin bố thí!
Mọi người nghe nói cười ầm lên. Giả Liễn cũng không nhịn được cười. Giả mẫu quay lại bảo:
- Con khỉ kia, mày không sợ sa xuống địa ngục phải cắt lưỡi à?
Phượng Thư cười nói:
- Chỗ ông cháu với nhau không hề gì. Vì sao ông ấy cứ thường bảo cháu lo gom góp âm công, nếu chậm thì sẽ chết non?
Trương đạo sĩ cũng cười nói:
- Tôi mang cái khay ra là có ý dùng cả hai việc, không phải để nhận bố thí, mà muốn mượn viên ngọc của cậu Hai đặt vào đó đem ra cho chúng bạn và con cháu học trò ở xa đến xem.
Giả mẫu nói:
- Việc gì người phải lật đật chạy đi chạy lại, cứ dắt cháu Bảo ra ngoài ấy cho người ta xem, rồi bảo nó vào cũng được.
Trương đạo sĩ nói:
- Cụ không biết: tiểu đạo đã hơn tám mươi tuổi, nhờ phúc dư của cụ, vẫn còn khỏe mạnh; ở ngoài ấy nhiều người hôi hám khó chịu, vả lại trời nóng nực, cậu ấy không chịu quen, lỡ ra bị cảm thì phiền lắm.
Giả mẫu nghe nói, liền bảo Bảo Ngọc tháo viên ngọc "thông linh" ra, đặt vào khay. Trương đạo sĩ cẩn thận bỏ trong túi vóc bưng ra.
Giả mẫu đưa mọi người đi ngoạn cảnh các nơi rồi lên lầu. Giả Trân trình:
- Trương đạo sĩ đã mang ngọc về.
Trương đạo sĩ bưng cái khay bước lên lầu cười nói:
- Nhờ có tiểu đạo này, mọi người mới được xem ngọc của cậu Hai, thực là hiếm có. Họ không có gì kính biếu, gọi có mấy đồ pháp giới của họ đem đến làm lễ mừng. Tuy nó không quí hóa gì, nhưng cậu cũng có thể giữ lấy mà chơi, hoặc thưởng cho người khác cũng được.
Giả mẫu nghe nói, nhìn vào khay, thấy có bốn năm mươi thứ, cái là ngọc hoàng, cái là ngọc quyết, cái thì khắc sự sự như ý, cái thì khắc tuế tuế bình an, đều nạm giát bằng châu báu vàng ngọc cả, liền nói:
- Người khéo bày vẽ, họ là những người xuất gia, ở đâu có cái này. Sao lại làm như thế? Tôi không thể nhận được.
Trương đạo sĩ cười nói:
- Đó là lòng thành của họ, tiểu đạo này không thể ngăn được Nếu cụ không nhận, thì họ cho tiểu đạo này là hạng hèn hạ, không phải môn hạ của quí phủ.
Giả mẫu đành bảo người nhận. Bảo Ngọc cười nói:
- Thưa bà, cụ Trương đã nói thế, không tiện từ chối, nhưng cháu cũng không dùng những thứ này, chi bằng đưa cho người hầu của cháu, phân phát cho những người nghèo túng.
Giả mẫu cười nói:
- Phải đấy.
Trương đạo sĩ vội ngăn lại:
- Cậu Hai muốn làm phúc đấy, nhưng thứ này dầu chẳng đáng quí báu gì, chỉ là đồ dùng thôi. Nếu phân phát cho người nghèo, họ không biết dùng, cũng vô ích, sẽ làm hư phí đi. Cậu muốn giúp đỡ người nghèo, sao không phát tiền cho họ?
Bảo Ngọc nghe nói liền sai cất đi, và dặn mang tiền đến phát cho người nghèo.
Nói chuyện xong, Trương đạo sĩ đi ra.
Giả mẫu cùng mọi người lên lầu, ngồi ở gian giữa. Bọn Phượng Thư ngồi ở gian phía đông. Bọn a hoàn đứng hầu ở gian phía tây. Một lúc Giả Trân lên trình: "Đã gắp thăm trước bàn thờ thần, vở thứ nhất là Bạch xà ký".
Giả mẫu hỏi:
- Là tích gì?
- Tích vua Cao Tổ nhà Hán chém rắn trắng nước khi khởi binh(2). Vở thứ hai là "Hốt đầy giường"(3).
Giả mẫu gật đầu nói:
- Hát vở thứ hai cũng được. Ý Phật đã thế, chúng ta đành phải theo.
Lại hỏi đến vở thứ ba. Giả Trân nói:
- Vở "Nam kha mộng"(4).
Giả mẫu yên lặng không nói gì. Giả Trân lui xuống, đi ra ngoài đốt sớ, đốt vàng mã, rồi bắt đầu hát.
Bảo Ngọc ngồi cạnh Giả mẫu, sai đứa bé bưng cái khay lúc nãy lại, đeo viên ngọc vào người rồi lục tìm các thứ, đưa từng cái cho Giả mẫu xem. Giả mẫu thấy một con kỳ lân bằng vàng, trên đầu có đính lông chìm trả, liền cầm lấy cười nói:
- Hình như ta đã trông thấy con cái nhà ai đeo con này rồi.
Bảo Thoa cười nói:
- Cô Sử có một con, nhưng bé hơn.
Giả mẫu nói:
- Thế ra cháu Vân cũng có à?
Bảo Ngọc nói:
- Khi cô ấy đến, sao cháu không trông thấy.
Thám Xuân cười nói:
- Chị Bảo thực hay để ý, cái gì cũng nhớ được.
Đại Ngọc cười nhạt:
- Việc khác thì chị ấy để ý ít thôi, chỉ có vật người ta đeo trên người là chị ấy để ý đến nhiều.
Bảo Thoa nghe nói ngoảnh đi, vờ như không nghe thấy.
Nghe nói Sử Tương Vân cũng có vật này, Bảo Ngọc liền cầm con kỳ lân giấu vào trong người. Sau lại nghĩ: "người ta sẽ cho mình biết cô Sử có, nên mới giữ lại vật này". Bảo Ngọc tay cầm con kỳ lân, mắt vẫn lấm lét nhìn xung quanh. Mọi người không để ý đến, chỉ có Đại Ngọc liếc mắt nhìn rồi gật đầu, như có ý khen ngợi. Thấy vậy, Bảo Ngọc bối rối khó chịu, liền bỏ con kỳ lân ra, nhìn Đại Ngọc cười nói:
- Con này đẹp đấy, tôi lấy hộ em. Khi về em sẽ lấy dây đeo nó có được không?
Đại Ngọc lắc đầu:
- Tôi không thích.
- Em không thích thì tôi lấy vậy.
Nói xong Bảo Ngọc lại cầm lấy. Ngay lúc đó Vưu thị là vợ Giả Trân, Hồ thị là vợ kế Giả Dung, hai mẹ chồng, nàng dâu cũng đến chào Giả mẫu. Giả mẫu nói:
- Các cháu đến đây làm gì? Ta rỗi việc nên đi chơi một lúc thôi.
Bỗng thấy một người vào báo: "Người nhà Phùng tướng quân đến".
Nghe tin phủ Giả ra miếu làm chay, Phùng Tử Anh sai người sắm sửa các thứ dê, lợn, chè, hương đến lễ. Phượng Thư vội vàng sang lầu giữa vỗ tay cười nói:
- Ái chà! Cháu không dè chừng việc nây. Chỉ nghĩ là bà cháu ta rỗi việc đến đây chơi thôi. Thế mà người ta lại cho là làm chay, đưa đồ lễ đến. Việc này là tại bà cả. Cháu có mang sẵn tiền thưởng gì đâu?
Nói xong thấy hai người đàn bà nhà họ Phùng trèo lên lầu. Hai người này chưa đi, lại có người nhà quan thị lang họ Triệu mang lễ đến. Thế rồi hết nhà nọ đến nhà kia, nghe nói đàn bà con gái phủ Giả ra miếu làm chay, họ xa, bạn gần đi lại xưa nay, đều đưa lễ đến cả.
Giả mẫu bấy giờ mới thấy băn khoăn, nói:
- Chẳng qua rỗi, ta đi chơi, chứ có phải trai tiếu gì đâu, lại làm phiền cho mọi người.
Giả mẫu xem hát đến chiều thì về. Hôm sau không muốn đi nữa.
Phượng Thư nói:
- "Đã trót thì phải trét"(5), đã làm kinh động người ta, thì ngày mai lại cứ đi chơi cho vui.
Bảo Ngọc từ lúc nghe Trương đạo sĩ nói với Giả mẫu về chuyện mách mối vợ, trong lòng rất khó chịu. Về nhà đâm ra cáu kỉnh, bực bội, nói luôn miệng: "Từ giờ trở đi, không thèm nhìn mặt lão Trương nữa". Mọi người không biết duyên cớ vì sao. Đại Ngọc lại bị cảm nắng. Vì hai lẽ đó nên hôm sau Giả mẫu không đi. Phượng Thư dẫn mọi người cùng đi.
Bảo Ngọc thấy Đại Ngọc ốm, trong bụng không yên, cơm cũng biếng ăn. Thỉnh thoảng lại đến hỏi thăm, chỉ lo Đại Ngọc không biết lành dữ thế nào. Đại Ngọc nói:
- Anh đi mà xem hát, ở nhà làm gì?
Bảo Ngọc nhân việc hôm qua Trương đạo sĩ mách mối, bụng đã khó chịu. Giờ thấy Đại Ngọc nói thế, lại nghĩ: "Người khác không biết bụng ta còn có thể tha thứ được. Không ngờ cả Đại Ngọc cũng hắt hủi mình!" Vì thế càng bực tức bội phần. Nếu như ngày thường, ai nói câu ấy cũng không đến nỗi nào, nhưng nay chính Đại Ngọc nói, lại có một ý nghĩa khác. Thế là Bảo Ngọc sa sầm nét mặt, nói:
- Tôi thật đã nhận nhầm cô! Thôi, thôi!
Đại Ngọc cười nhạt nói:
- Anh nhận nhầm gì tôi? Tôi có gì đáng sánh với người ta.
Bảo Ngọc chạy ngay đến tận mặt Đại Ngọc nói:
- Cô nói gì? Thế là cô đành lòng rủa tôi bị trời tru đất diệt rồi.
Đại Ngọc chưa hiểu ra sao, Bảo Ngọc lại nói:
- Hôm nọ chỉ vì việc ấy mà tôi phải thề. Hôm nay cô lại cho tôi một câu nữa. Nếu tôi bị trời tru đất diệt thì liệu có ích gì cho cô không?
Đại Ngọc nghe đến đây, mới nhớ hôm trước, mình đã lỡ lời, vừa tức vừa thẹn, liền nức nở khóc và nói:
- Nếu tôi nỡ lòng rủa anh thì tôi cũng bị trời tru đất diệt!... Vì đâu có câu chuyện này? Tôi biết hôm qua Trương đạo sĩ nói đến chuyện dạm vợ, anh sợ tôi làm ngăn trở mối duyên lành của anh, trong bụng anh bực tức, nên mang tôi ra giày vò.
Nguyên Bảo Ngọc từ bé vẫn có chứng si tình hẹp hòi, lại luôn luôn ở bên cạnh Đại Ngọc, hai bên gần nhau, kẽ tóc chân tơ, tâm tình tương đắc. Bây giờ Bảo Ngọc đã hơi biết mùi đời, được xem nhiều sách nhảm nhí, được gặp nhiều cô gái phong lưu trong các nhà bạn thân và họ hàng xa, đều không ai bằng Đại Ngọc cả. Vì thế Bảo Ngọc đã ôm sẵn nỗi niềm tâm sự, nhưng chưa tiện nói ra, nên mỗi khi Đại Ngọc hoặc mừng, hoặc giận, Bảo Ngọc đều tìm hết cách thăm dò kín đáo. Đại Ngọc cũng có bệnh si tình ấy, lại cũng dùng lối vờ vẫn để thăm dò: "Vì nếu anh đã tìm cách che giấu nỗi lòng chân thật của anh thì tôi cũng tìm cách che giấu nỗi lòng chân thực của tôi". Hai bên cứ vờ vẫn thăm dò nhau. Như vậy hai cái giả gặp nhau, nhất định sẽ lòi cái thực. Ngoài ra, còn những việc lặt vặt xảy ra không tránh khỏi lời qua tiếng lại.
Lúc này Bảo Ngọc nghĩ bụng: "Người khác không biết bụng mình còn có thể tha thứ được, lẽ nào Đại Ngọc lại không biết trong lòng ta, trong mắt ta lại chỉ có có ấy thôi à? Cô ấy không gỡ nỗi buồn cho ta thì chớ, lại còn đưa ra những câu lấp họng ta, lòng ta giờ nào, phút nào cũng nghĩ đến cô ấy, nhưng có bao giờ cô ấy nghĩ đến ta đâu". Bảo Ngọc nghĩ vậy, nhưng không nói được ra lời. Đại Ngọc thì nghĩ: "Vẫn biết bụng anh bao giờ cũng để ý đến tôi, tuy có câu "vàng ngọc sánh đôi", nhưng khi nào anh lại tin lời nhảm nhí ấy mà không yêu quí tôi? Tôi dù có nhắc đến chuyện "vàng và ngọc", anh cũng nên lờ đi như không nghe thấy, thế mới thực là anh yêu quí tôi, không có mảy may gì giả dối cả. Nhưng mỗi khi tôi gợi đến chuyện "vàng và ngọc", anh lại cứ cuống cuồng lên, đủ biết bụng anh lúc nào cũng nghĩ đến chuyện "vàng và ngọc". Anh sợ tôi ngờ vực, cố ý làm ra vẻ sửng sốt để đánh lừa tôi".
Xem ra, hai người vốn một ý nghĩ, nhưng có những khía cạnh khác nhau.
Trong bụng Bảo Ngọc lại nghĩ: "Tôi thì thế nào cũng được, chỉ cần cô vui thôi, dầu vì cô mà phải chết ngay tôi cũng bằng lòng. Điều này cô biết hay không cũng mặc, chỉ cốt ở lòng tôi thôi. Như thế mới là cô gần tôi, không phải xa tôi".
Đại Ngọc lại nghĩ: "Anh chỉ nên lo phần anh là hơn. Anh tốt tự nhiên tôi cũng tốt. Cớ gì anh lại vì tôi mà mang lỗi. Có biết đâu lỗi ở anh chính là lỗi ở tôi. Thế là anh không muốn cho tôi gần anh, mà lại có ý làm cho tôi phải xa anh đấy".
Như vậy họ muốn gần nhau lại hóa ra xa nhau. Những ý nghĩ riêng tây ấy ấp ủ trong người họ từ lâu khó mà nói hết, chẳng qua chỉ hình dung bên ngoài mà thôi.
Bảo Ngọc lại nghe thấy Đại Ngọc nói đến ba chữ "mối duyên lành", trái hẳn ý nghĩ của mình, lại càng héo hon trong dạ, nói chẳng ra lời, liền cáu tiết, dứt viên "ngọc thiêng" ở cổ ra, nghiến răng vứt phăng xuống đất, nói:
- Cái đồ chết tiệt này! Tao đập tan mày đi là xong chuyện.
Nhưng viên ngọc này rắn chắc lạ thường, vứt thế nào nó cũng vẫn y nguyên không hề gì. Bảo Ngọc thấy không vỡ, định quay lại tìm cái đập. Đại Ngọc thấy thế, liền khóc:
- Làm gì lại đem đập cái của câm ấy? Anh đập nó, chẳng thà đập tôi còn hơn!
Thấy hai người cãi nhau, bọn Tử Quyên, Tuyết Nhạn vội lại khuyên ngăn. Sau thấy Bảo Ngọc cố sống cố chết đập viên ngọc, liền chạy lại cướp lấy, nhưng không cướp được.
Thấy trận cãi nhau này kịch liệt hơn mọi lần trước nhiều, chúng đành phải đi gọi Tập Nhân. Tập Nhân vội vàng chạy đến, cướp lấy viên ngọc. Bảo Ngọc cười nhạt:
- Tôi đập cái của tôi, việc gì đến các chị?
Tập Nhân thấy Bảo Ngọc mặt xám lại, mắt đỏ ngầu lên, chưa bao giờ giận đến như thế, liền kéo tay lại cười nói:
- Cậu cãi nhau với cô ấy, việc gì mà lại đập viên ngọc ra. Nếu nó vỡ thì cô ấy đành lòng thế nào được.
Đại Ngọc đương khóc, nghe thấy câu nói đúng đáy lòng mình, liền cho rằng Bảo Ngọc còn kém cả Tập Nhân, lại càng đau lòng khóc to lên. Vì buồn bực quá đỗi, nên nước thuốc hương nhu giải thử vừa mới uống vào, đã không cầm được, ọe một cái, nôn ra hết. Tử Quyên vội chạy đến, lấy cái khăn lụa đỡ lấy, Đại Ngọc ọe luôn mấy lần, thuốc thấm hết cả cái khăn. Tuyết Nhạn vội đến vuốt ngực. Tử Quyên nói:
- Dù tức giận đến thế nào nữa, cô cũng nên giữ gìn sức khỏe. Vừa mới uống được một nước thuốc, giờ vì cãi nhau với cậu Bảo, nôn ra hết cả, nếu sinh ốm, liệu cậu Bảo có đành tâm được không?
Bảo Ngọc nghe câu nói trúng tim đen mình, lại cho Đại Ngọc không bằng Tử Quyên. Đại Ngọc khi ấy mặt đỏ nhừ, đầu nặng trĩu, vừa khóc vừa thở, nước mắt, mồ hôi chảy xuống đầm đìa, người càng ẻo lả. Bảo Ngọc thấy thế hối hận: "Mình không nên bắt bẻ cô ấy. Bây giờ xảy ra nông nỗi này, mình lại không thể chịu thay cho cô ấy được." Trong bụng nghĩ thế, nước mắt cũng tự nhiên nhỏ xuống.
Tập Nhân đương trông nom Bảo Ngọc, thấy hai người đều khóc, trong bụng cũng đâm ra chua xót, liền nắm lấy tay Bảo Ngọc, thấy lạnh như tiền, muốn khuyên Bảo Ngọc đừng khóc, nhưng một là sợ Bảo Ngọc có điều gì uất ức trong lòng, hai là sợ phật lòng Đại Ngọc, không bằng cùng khóc cả là họ sẽ buông tha nhau. Vì vậy, Tập Nhân cũng chảy nước mắt khóc theo. Tử Quyên vừa thu dọn những nước thuốc, vừa khe khẽ quạt cho Đại Ngọc. Thấy cả ba người đều khóc, chẳng nói chẳng rằng, Tử Quyên đâm ra thương cảm, cũng lấy khăn lụa chùi nước mắt.
Bốn người ngồi nhìn nhau khóc, chẳng nói năng gì. Sau Tập Nhân gượng cười bảo Bảo Ngọc:
- Cậu không cần nhìn cái gì khác, cứ nhìn cái dây đeo ngọc, thì cũng không nên cãi nhau với cô Lâm nữa.
Đại Ngọc nghe nói, không nghĩ gì đến mình đương ốm, chạy ngay lại cướp lấy cái dây, tiện tay cầm kéo cắt nát ra. Tập Nhân và Tử Quyên muốn giật lại, nhưng đã đứt làm mấy đoạn rồi.
Đại Ngọc khóc:
- Ta thực uổng công, anh ấy không cần đâu, đã có người khác đeo cho cái dây đẹp hơn kia.
Tập Nhân vội cầm lấy viên ngọc nói:
- Làm gì như thế? Đây cũng là lỗi tự tôi hay bép xép.
Bảo Ngọc bảo Đại Ngọc:
- Cô cứ việc cắt đi, tôi không đeo ngọc cũng chẳng sao.
Mấy người chỉ lo cãi nhau ở trong nhà, ngờ đâu bọn bà già thấy Đại Ngọc nôn mửa, khóc ầm lên. Bảo Ngọc lại đập viên ngọc, không biết sinh chuyện đến thế nào. Họ vội vàng sang trình Giả mẫu và Vương phu nhân. Giả mẫu và Vương phu nhân đều không biết vì duyên cớ gì, liền cùng nhau sang vườn xem. Thấy thế, Tập Nhân thì oán Tử Quyên tại sao lại cho cụ và bà lo sợ. Tử Quyên thì oán Tập Nhân cho là tự Tập Nhân sai người đi trình.
Giả mẫu và Vương phu nhân đến nơi, thấy Bảo Ngọc và Đại Ngọc đều chẳng nói năng gì, hỏi ra cũng chẳng có chuyện gì cả, liền buộc tội cho Tập Nhân và Tử Quyên:
- Tại sao chúng mày không hầu hạ cẩn thận, bây giờ xảy ra chuyện cãi nhau ầm ĩ như thế, chúng mày lại bỏ mặc đấy à?
Rồi răn mắng một trận. Hai người chỉ đành đứng im không dám nói lại một câu. Giả mẫu dắt Bảo Ngọc đi ra, mới êm chuyện.
Đến hôm sau, mồng ba là ngày sinh nhật của Tiết Bàn. Trong nhà bày rượu chè hát xướng. Mọi người trong phủ Giả đều đến cả. Bảo Ngọc từ ngày xẩy chuyện với Đại Ngọc, chưa lúc nào giáp mặt nhau, đâm ra hối hận, buồn rầu, còn bụng dạ nào đi xem hát nữa. Nên cáo ốm không đi.
Hôm trước Đại Ngọc bị trúng nắng qua loa thôi, không đến nỗi nặng, nay nghe thấy Bảo Ngọc không đi, nghĩ bụng "Anh ấy xưa nay là người thích uống rượu nghe hát, thế mà hôm nay lại không đi, chắc vì hôm trước giận ta. Nếu không phải thế thì chắc là anh ấy thấy ta không đi, nên cũng không có bụng dạ nào đi một mình. Hôm nọ ta cắt cái dây đeo ngọc, thật không nên tí nào. Chắc là anh ấy không đeo ngọc nữa, ta phải xâu lại, anh ấy mới chịu đeo". Nghĩ thế trong bụng Đại Ngọc lại hối hận trăm phần.
Giả mẫu thấy hai người giận nhau, cho là hôm nay đi xem hát, chúng gặp nhau, thế là xong chuyện. Không ngờ cả hai người đều không đi cả. Giả mẫu liền than thở: "Già này chẳng hiểu vì oan nghiệt từ đời nào để lại, sinh ra hai đứa oan gia ngớ ngẩn kia, không ngày nào là chúng không làm cho ta phải bận lòng. Tục ngữ nói rất đúng: "Không phải oan gia không họp mặt". Bao giờ ta nhắm mắt tắt hơi, tha hồ cho hai đứa chúng mày cãi nhau, khi đó mắt ta không trông thấy, lòng ta không biết buồn rầu, thế là xong chuyện. Nhưng nào nó đã tắt hơi cho đâu!"
Giả mẫu tự trách mình rồi khóc.
Chuyện này không ngờ đến tai Bảo Ngọc và Đại Ngọc. Xưa nay hai người chưa từng nghe câu tục ngữ "không phải oan gia không họp mặt" bao giờ. Nay nghe thấy, họ đều như người được ngộ đạo, đều cúi đầu nghiền ngẫm ý nghĩa câu ấy, rồi nước mắt lã chã lưng tròng. Hai người tuy không gặp mặt, nhưng một ở quán Tiêu Tương, đứng trước gió gạt lệ, một ở viện Di Hồng, ngắm mặt trăng thở dài! Thực là "người ở hai nơi, tình chung một mối".
Tập Nhân khuyên Bảo Ngọc:
- Bao nhiêu chuyện không phải, đều tự cậu cả. Ngày thường ở trong nhà, bọn hầu trai có cãi cọ với các chị em, hoặc là hai bên tranh giành điều gì, hễ nghe thấy, cậu mắng ngay bọn họ là ngu xuẩn, không biết thể tất bụng dạ người con gái. Thế mà bây giờ cậu lại tự mình gây chuyện như thế? Ngày mai là tết mồng năm, nếu cậu và cô Lâm đối với nhau còn như kẻ thù, thì cụ càng thêm buồn, nhất định cả nhà không được yên. Theo ý tôi, cậu nên nuốt giận đi, đến xin lỗi cô ấy, rồi lại đối xử với nhau như trước, như vậy chẳng tốt hay sao?
----------------------------------
(1). Ngày xưa. những người quan quí không tự mình đi tu được, kiếm người khác tu thay, để được phúc hoặc chuộc tội. Người ấy gọi là thế mạng.
(2). Lưu Bang trước khi khởi nghĩa, chém chết con rắn trắng. Đêm ấy có người đàn bà đến khóc: "Con rắn trắng này là con Bạch Đế, bị con Xích Đế (tức Lưu Bang) chém chết". Sau quả nhiên Lưu Bang giết được Hạng Vũ, lên làm vua tức vua Cao Đế nhà Hán.
(3). Hốt bầy đầy giường; chép chuyện Quách Tử Nghi đời Đuờng, có bảy con trai và tám chàng rể đều làm quan cao và sống lâu.
(4). Tên vở kịch do Thang Hiển Tổ đời Minh soạn, tả việc Thuần Vu Phần, đời nhà Đường. Thuần nhân ngày sinh nhật, uống rượu say nằm ngủ ở dưới cây hòe, về bên phía Nam cạnh nhà, mộng thấy đến nước Đại Hòe An lấy công chúa, làm quan thái thú quận Nam Kha hai mươi năm. đẻ được năm trai hai gái, đều hiển quí cả, sau đánh nhau với giặc bị thua, phải cách chức, công chúa đã chết. Lúc tỉnh dậy, mặt trời chưa lặn. chén rượu hãy còn nguyên ở bàn. Khi ra gốc cây hòe, thấy có tổ kiến, ông ta cảm thấy cuộc đời phút chốc, công danh cũng như giấc mộng vậy, liền bỏ nhà lên núi học đạo, chẳng thiết gì việc đời nữa.
(5). Nguyên văn: "Đắp tường phải lễ thổ thần" nghĩa cũng như trên.
Hồi thứ ba mươi
Bảo Thoa mượn cái quạt, nói cạnh cả hai bên;
Linh Quan vạch chữ "tường", làm ngây người ngoài cuộc.
Đại Ngọc từ hôm cãi nhau với Bảo Ngọc, trong bụng hối hận, nhưng không lẽ tự mình đến làm lành trước, vì thế ngày đêm buồn rầu, bâng khuâng như mất cái gì, Tử Quyên đoán biết tâm lý ấy, liền khuyên nhủ:
- Việc hôm nọ là tự cô nóng nảy quá. Người khác không biết rõ tính nết cậu Bảo, chứ chúng ta lẽ nào lại cũng không biết hay sao? Chỉ vì viên ngọc, đến nỗi cãi nhau mấy lần rồi.
Đại Ngọc gắt:
- Thôi! Mày lại đến đây bới móc tội của ta hộ người à? Thế nào là ta nóng nảy?
Tử Quyên cười nói:
- Tự nhiên vô cớ, sao cô lại cắt cái dây đeo ngọc đi? Thế chả phải lỗi cậu Bảo chỉ có ba phần, mà lỗi cô những bảy phần hay sao? Tôi xem ngày thường cậu ấy đối với cô rất tốt, chỉ vì cô khó tính thường vặn vẹo cậu ấy, nên đến nỗi vậy.
Đại Ngọc muốn nói lại, chợt ngoài sân có tiếng gọi cửa, Tử Quyên lắng tai nghe, cười nói:
- Thôi tiếng cậu Bảo rồi, chắc lại đến xin lỗi đấy.
Đại Ngọc bảo không được mở cửa. Tử Quyên nói:
- Cô lại không phải rồi. Trời nóng nực thế này, không mở cửa, để cậu ấy đứng bêu mãi ngoài nắng thì chịu thế nào được?
Nói xong liền ra mở cửa, thì quả là Bảo Ngọc. Tử Quyên vừa mời vào vừa cười nói:
- Tôi cứ tưởng là cậu không thèm đến nhà này nữa, ai ngờ bây giờ lại đến.
Bảo Ngọc cười nói:
- Việc bé mà các chị lại cứ xé ra to, ngại gì mà ta chẳng đến? Ta có chết chăng nữa, hồn ta một ngày ít ra cũng đến đây trăm lần! Thế nào? Cô em đã khỏe hẳn chưa?
- Người khỏe đấy, nhưng bụng vẫn bực tức khó chịu.
- Ta biết rồi, việc gì mà phải bực tức!
Bảo Ngọc cười đi vào, thấy Đại Ngọc đương ngồi trên giường khóc.
Đại Ngọc trước vẫn không khóc. Từ lúc thấy Bảo Ngọc đến, trong bụng đâm ra thương cảm, không thể cầm được nước mắt. Bảo Ngọc đến gần giường cười nói:
- Em ơi! Người đã khá chưa?
Đại Ngọc chỉ gạt nước mắt, không trả lời.
Bảo Ngọc liền ngồi ghé vào cạnh giường cười nói:
- Anh vẫn biết rằng em không giận anh, nhưng nếu anh không đến, người ta thấy thế, sẽ cho anh em ta lại cãi nhau. Nếu phải chờ họ đến khuyên giải thì chẳng hóa ra anh em ta không có tình thân mật hay sao? Chi bằng, ngay bây giờ em muốn đánh, muốn mắng anh thế nào tùy em, nhưng chỉ thiết tha xin em đừng lờ anh đi thôi.
Nói xong lại gọi "em ơi" mấy tiếng.
Trong bụng Đại Ngọc vẫn định bỏ lờ Bảo Ngọc đi, nhưng bấy giờ nghe thấy câu: "Nếu để người ngoài biết là chúng ta cãi nhau thì chẳng hóa ra anh em ta không có tình thân mật" mới thấy rõ mình với Bảo Ngọc thân hơn người khác. Vì thế Đại Ngọc không nhịn được, liền khóc:
- Anh không cần phải lừa tôi! Từ giờ trở đi, tôi không dám thân cận với cậu Hai nữa. Xin cứ coi như tôi đã ra khỏi nhà này rồi.
- Thế em định đi đâu?.
- Tôi về nhà tôi.
- Anh cũng đi theo.
- Thế ngộ tôi chết thì sao?
- Em mà chết thì anh đi tu.
Đại Ngọc vừa nghe thấy câu ấy, mặt sầm ngay lại hỏi:
- Anh muốn chết à? Sao nói dại thế? Nhà anh có bao nhiêu chị em, một ngày kia họ đều chết cả, liệu thân anh xẻ ra làm mấy mảnh để đi tu? Mai đây tôi sẽ mang câu này kể lại cho người ta biết, để xem họ nói ra làm sao!
Bảo Ngọc tự biết mình nói câu ấy hấp tấp quá, hối không kịp, mặt đỏ bừng lên, cúi đầu không dám nói gì.
Khi đó trong nhà không có ai. Đại Ngọc hai mắt trừng trừng nhìn Bảo Ngọc một lúc, tức quá, hừ một tiếng, rồi không nói được câu gì. Thấy mặt Bảo Ngọc tím bầm lại, Đại Ngọc liền nghiến răng, lấy ngón tay dí vào trán Bảo Ngọc một cái, nói:
- Anh thật là...
Chỉ nói lên được hai tiếng, liền thở dài một cái, lại lấy khăn lụa, lau nước mắt.
Bảo Ngọc lúc bấy giờ nỗi lòng chan chứa, vì trót lỡ lời, nên trong bụng rất là hối hận. Sau thấy Đại Ngọc dí một cái, không nói ra lời, đành chỉ ngậm ngùi than khóc. Trong bụng thương cảm, Bảo Ngọc lại nước mắt ròng ròng chảy xuống, muốn lấy khăn lau nước mắt, nhưng lại quên không mang đi, liền lấy ống tay áo lau.
Đại Ngọc đương khóc, thấy Bảo Ngọc lấy vạt áo the cải hoa sen mới toanh ra lau nước mắt, liền vừa lau nước mắt, vừa quay đi lấy khăn lụa ở trên gối vứt vào lòng Bảo Ngọc, không nói một câu, rồi lại che mặt khóc. Bảo Ngọc thấy Đại Ngọc vứt cho cái khăn, liền cầm lấy chùi nước mắt rồi xích lại gần, giơ tay kéo một tay Đại Ngọc cười nói:
- Ruột gan anh nát nhừ ra cả rồi, em còn cứ khóc làm gì mãi? Thôi đi đi, chúng ta cùng đến thăm bà.
Đại Ngọc hất tay ra nói:
- Ai kéo co với anh! Bây giờ lớn rồi, anh cứ giở cái thói cợt nhả ấy ra, không biết điều gì cả.
Nói chưa dứt lời, đã thấy có tiếng the thé ở ngoài: "Khá nhỉ!" Trong lúc bất ngờ, hai người đều giật nẩy mình, quay lại nhìn, thấy Phượng Thư đã đến, cười nói:
- Bà đương kêu trời kêu đất kia kìa, bảo chị lại xem các em đã làm lành với nhau chưa? Chị bảo không cần, chỉ độ vài hôm là họ lại tử tế với nhau đấy thôi. Bà mắng chị, bảo chị lười. Bây giờ chị đến, quả nhiên đúng như lời chị nói. Chị chẳng thấy các em có điều gì đáng cãi nhau cả, thế mà cứ ba ngày yêu quí nhau, lại hai ngày giận dỗi nhau, càng lớn càng quá trẻ con. Bây giờ cầm tay nhau mà khóc, thế thì hôm nọ tại sao lại như hai con gà chọi ấy? Thôi các em hãy theo chị sang thăm bà để cụ già được yên tâm.
Phượng Thư liền kéo Đại Ngọc đi.
Đại Ngọc quay lại gọi bọn a hoàn, nhưng chẳng thấy người nào.
Phượng Thư nói:
- Lại gọi chúng nó làm gì? Đã có tôi hầu cô đây.
Liền kéo Đại Ngọc đi. Bảo Ngọc chạy theo sau.
Họ ra khỏi vườn, đến thẳng nhà Giả mẫu, Phượng Thư cười nói:
- Cháu đã bảo không cần phải lo nghĩ hộ họ, tự họ sẽ tử tế với nhau. Bà không tin, nhất định bắt cháu phải đi dàn hòa, khi cháu đến nơi, đã thấy hai người ngồi xúm lại một chỗ, xin lỗi lẫn nhau, họ giữ chặt lấy nhau như móng chân diều hâu quắp gà con vậy. Thế thì còn cần ai đến dàn hòa nữa?
Câu nói ấy làm cho cả nhà cười ầm lên.
Bấy giờ Bảo Thoa đương ngồi đấy. Đại Ngọc không nói một câu gì, ngồi nhích lại gần Giả mẫu. Bảo Ngọc cũng không biết nói gì, liền quay lại nói với Bảo Thoa:
- Hôm sinh nhật anh Cả, tôi không được khỏe, lại không có gì đem đến mừng, cả đến cúi đầu chào cũng không có. Anh Tiết không biết tôi ốm, lại tưởng tôi tìm cớ thoái thác. Chị có gặp anh ấy, nhờ nói hộ cho tôi.
Bảo Thoa cười nói:
- Khéo hay vẽ chuyện. Dù anh có đến được cũng không dám làm phiền, huống chi người anh lại không được khỏe? Chỗ anh em cùng ở với nhau mà lại cứ để bụng những việc vặt ấy, thành ra xa nhau mất.
- Chị thể tất cho tôi được như thế là tốt rồi. Sao chị không ở lại nghe hát?
- Tôi sợ nóng, nghe được hai khúc, muốn đi ra, nhưng khách vẫn còn ngồi đông, nên tôi phải kiếu ốm, rồi đi ngay.
Bảo Ngọc nghe nói, tự nhiên thấy hơi ngượng, vội buột miệng cười nói:
- Chị người đẫy đả, thảo nào họ cứ ví chị với Dương quí phi.
Bảo Thoa nghe nói, bực lắm, định nói lại, nhưng không tiện; nghĩ một chốc, mặt đỏ bừng lên, liền cười nhạt:
- Tôi giống Dương quí phi, nhưng không có người anh em nào giỏi, có thể làm được Dương Quốc Trung.
Đương nói thì đứa hầu nhỏ là Tĩnh Nhi tìm không thấy cái quạt, cười hỏi Bảo Thoa:
- Chắc là cô giấu cái quạt của cháu, xin cô cho lại cháu.
Bảo Thoa trỏ vào mặt đứa hầu, quát mắng:
- Mày liệu hồn đấy! Mày đã thấy tao đùa với ai chưa? Mày hãy đi mà hỏi những cô nào ngày thường cứ hay tí toét cười đùa với mày ấy!
Tĩnh Nhi nghe xong, chạy mất.
Bảo Ngọc biết mình lại nói lỡ lời, bấy giờ đứng trước mặt nhiều người, càng thấy trơ trẽn, khó coi hơn là lúc va chạm với Đại Ngọc, liền lảng ra bắt chuyện với người khác.
Đại Ngọc thấy Bảo Ngọc chế giễu Bảo Thoa, trong bụng lấy làm đắc ý, muốn nhân đó nói châm vào cho buồn cười, không ngờ Tĩnh Nhi tìm quạt, bị Bảo Thoa mắng cho mấy câu, Đại Ngọc liền đổi giọng hỏi:
- Chị Bảo, chị nghe hai khúc hát gì thế?
Bảo Thoa trông thấy Đại Ngọc ra vẻ đắc ý, đoán ngay là vừa rồi Đại Ngọc thích chí thấy Bảo Ngọc chế giễu mình, liền cười đáp:
- Tôi xem vở Lý Quì mắng Tống Giang, sau lại đến xin lỗi.
Bảo Ngọc cười nói:
- Chị học rộng, chuyện cũ, chuyện mới hiểu nhiều, sao vở này chị lại không biết, nói ra một tràng như thế? Vở này gọi là vở Phụ kinh thỉnh tội(1) đấy.
Bảo Thoa cười nói:
- Thế ra vở này là Phụ kinh thỉnh tội à? Các người học rộng mới biết Phụ kinh thỉnh tội, chứ tôi thì biết sao được?
Bảo Ngọc và Đại Ngọc có tật giật mình, nghe chưa hết câu, mặt đã đỏ bừng lên.
Phượng Thư tuy không hiểu tại sao, thấy nét mặt ba người, cũng đã đoán được một phần, liền cười nói:
- Trời nóng thế này, ai lại ăn gừng sống thế?
Mọi người không hiểu, nói:
- Có ai ăn gừng sống đâu.
Phượng Thư cố ý lấy tay sờ lên má, tỏ vẻ ngơ ngác:
- Không ai ăn gừng sống, làm sao lại nóng ran thế này?
Bảo Ngọc, Đại Ngọc nghe thấy lại càng khó chịu. Bảo Thoa còn muốn nói nữa, nhưng thấy Bảo Ngọc đổi hẳn nét mặt, xem ra quá hổ thẹn, nên không tiện nói thêm, đành chỉ cười xòa một cái cho xong chuyện. Những người khác không hiểu ý bốn người này nói chuyện gì, cũng đều cười theo.
Một lúc, Bảo Thoa và Phượng Thư đi rồi, Đại Ngọc nói với Bảo Ngọc:
- Anh lại đụng phải con người ghê gớm hơn tôi rồi. Có ai dốt nát vụng về như tôi, cứ tha hồ cho người ta nói?
Bảo Ngọc thấy Bảo Thoa hay để ý, bụng đã khó chịu rồi, giờ lại thấy Đại Ngọc cũng hay chấp nhặt, nên đành nín nhịn, buồn rầu đi ra.
Lúc này trời nóng, lại vừa ăn cơm sáng xong, các nơi cả thầy lẫn tớ đều thấy mỏi mệt trong quãng ngày dài. Riêng có Bảo Ngọc cứ chắp tay sau lưng đi loanh quanh, đến nơi nào cũng thấy lặng lẽ không một tiếng động. Từ nhà Giả mẫu ra, Bảo Ngọc rẽ sang phía tây, đi qua xuyên đường, đến sân nhà Phượng Thư. Thấy cửa ngoài đóng, biết là thói quen của Phượng Thư, hễ đến mùa nực, buổi trưa là phải nghỉ một lúc, nên không tiện đi vào, Bảo Ngọc rẽ sang cửa bên, vào buồng Vương phu nhân, thấy mấy đứa a hoàn đương cầm kim chỉ ngủ gật. Vương phu nhân thì đang nằm ngủ ở giường mát trong nhà; Kim Xuyến ngồi bên cạnh bóp đùi cho bà ta, mắt cũng đang lim dim. Bảo Ngọc rón rén đi đến trước mặt nó, nắm cái hạt châu đeo tai và giật nhẹ một cái. Kim Xuyến mở bừng mắt nhìn. Bảo Ngọc khẽ cười hỏi:
- Buồn ngủ quá thế kia à?
Kim Xuyến mím môi cười, hất tay Bảo Ngọc ra, lại nhắm mắt lại. Bảo Ngọc trông thấy Kim Xuyến, có ý quyến luyến không muốn rời, liền ngoái đầu nhìn Vương phu nhân, thấy vẫn nhắm mắt. Bảo Ngọc mở cái túi ở trong mình, lấy một viên thuốc hương huyết nhuận tân(2) ra, đút vào mồm Kim Xuyến. Kim Xuyến cũng không mở mắt, ngậm mồm lại.
Bảo Ngọc lại gần nắm lấy tay Kim Xuyến khẽ cười nói:
- Ta sẽ nói với bà xin chị về để chúng ta cùng ở chung với nhau.
Kim Xuyến không trả lời. Bảo Ngọc lại nói:
- Chờ bà dậy, ta sẽ nói.
Kim Xuyến mở mắt đẩy Bảo Ngọc một cái, cười nói:
- Việc gì mà phải vội thế. Tục ngữ có câu: "Cái trâm vàng rơi xuống giếng, đã về ai thì chỉ là của người ấy thôi". Chả lẽ cậu còn chưa hiểu sao? Tôi bảo cậu việc này hay hơn: cậu đi sang nhà bên đông mà bắt cậu Hoàn và chị Thái Vân.
Bảo Ngọc cười nói:
- Họ làm gì mặc họ. Chúng ta chỉ nói việc chúng ta thôi.
Bỗng Vương phu nhân trở mình dậy, tát vào mặt Kim Xuyến một cái và mắng:
- Con đĩ hèn hạ này! Các cậu nhà này đều bị chúng mày làm hư hỏng cả!
Bảo Ngọc thấy Vương phu nhân dậy, chạy biến mất.
Kim Xuyến một bên má đỏ ửng lên, không dám nói câu gì. Bọn a hoàn thấy Vương phu nhân dậy, đều chạy đến.
Vương phu nhân liền gọi Ngọc Xuyến đến bảo:
- Gọi mẹ mày đến mang chị mày về.
Kim Xuyến nghe thấy nói thế, vội quì xuống khóc:
- Từ rày con không dám thế nữa, xin bà cứ việc đánh, cứ việc chửi, nhưng đừng đuổi con như thế, thì con đội ơn bà như trời như bể. Con theo hầu bà đã mười năm nay, bây giờ bà đuổi con về, con còn mặt mũi nào trông thấy người ta nữa?
Vương phu nhân vốn người hiền lành, chưa từng đánh a hoàn bao giờ, nay thấy Kim Xuyến làm việc vô sỉ, giận quá, không nén được, liền tát nó một cái, mắng nó mấy câu. Kim Xuyến van xin cũng không cho ở lại, cuối cùng bắt mẹ nó là bà già họ Bạch mang nó về. Kim Xuyến đành phải ngậm hờn nuốt tủi đi ra.
Bảo Ngọc thấy Vương phu nhân dậy, cụt hứng, chạy về vườn Đại Quan, thấy ánh nắng chói trời, bóng cây rợp đất, chung quanh im lặng, chỉ nghe tiếng ve kêu mà thôi. Đi đến dưới giàn tường vi, có tiếng người thổn thức, Bảo Ngọc nghi hoặc, đứng lại lắng nghe, quả nhiên thấy một người ngồi đó. Bấy giờ khoảng giữa tháng năm, cây tường vi đang hoa lá tốt tươi. Bảo Ngọc khe khẽ đứng ngoài nhìn vào, thấy ở dưới giàn hoa một cô gái bé đương ngồi xổm, tay cầm cái trâm cài đầu vạch xuống đất, lặng lẽ chảy nước mắt. Bảo Ngọc nghĩ bụng: "Không có lẽ con bé thơ dại này cũng học cô Tần chôn hoa chăng?" Rồi lại than thở: "Nếu quả thật nó cũng chôn hoa, thì khác nào nàng Đông Thi bắt chước nhăn mặt(3) không những chẳng có gì lạ, lại đáng chán là khác!" Nghĩ xong liền gọi cô con gái kia bảo:
- Cô đừng nên bắt chước cô Lâm nhé!
Nói chưa dứt lời, ngoảnh lại nhìn kỹ, thấy người này lạ mặt, không phải a hoàn, mà là người trong đám mười hai cô học hát. nhưng không rõ đóng vai "nam" hay "nữ", "lão" hay "hề".
Bảo Ngọc lè lưỡi, bịt mồm lại, nghĩ bụng: "May mà mình không hấp tấp. Hai lần trước cũng vì hấp tấp làm cho cô Tần tức giận, Bảo Thoa nghi ngờ. Bây giờ mình còn mắc lỗi với bọn họ, lại càng thêm khó xử". Vừa nghĩ vừa bực mình, không nhận ra được người đó là ai. Lại để ý ngắm kỹ, thấy người này mày xanh như núi mùa xuân, mắt sáng như sóng mùa thu, mặt nõn nà, lưng thon thon, vẻ người óng ả thướt tha, không khác gì Đại Ngọc. Bảo Ngọc không nỡ rời bước, đứng ngây người ra, thấy nó đương cầm cái trâm vàng, không phải là đào đất chôn hoa, mà là vạch chữ.
Bảo Ngọc nhìn kỹ cái trâm đưa đẩy từng vạch, từng chấm từng móc, tính tất cả là mười tám nét; liền lấy ngón tay theo thế viết vào trong lòng bàn tay mình để đoán ra chữ gì? Nghĩ mãi mới biết nó viết chữ "tường" của hoa tường vi. Bảo Ngọc lại nghĩ: "Nhất định nó đang làm thơ làm từ gì đây. Bây giờ nó trông thấy hoa, lòng cảm xúc, trong khi cao hứng, nẩy ra mấy vần, lại sợ quên, nên vạch xuống đất để đắn đo cân nhắc, cũng chưa biết chừng! Ta hãy chờ xem nó còn viết thêm những chữ gì". Vừa nghĩ vừa nhìn, thấy cô này vạch đi vạch lại, quanh quẩn vẫn là chữ "tường".
Một người thì ngồi ngây ra vạch chữ "tường", vạch đi vạch lại đến mấy mươi lần; một người đứng ngoài cũng ngây ra, hai mắt chòng chọc nhìn cái trâm đưa đẩy. Bảo Ngọc nghĩ bụng: "Con bé này nhất định có tâm tư thầm kín gì đây. Nhìn bộ dạng này, chắc nó có bao điều buồn bực nấu nung! Người nó mỏng mảnh yếu ớt như thế, thì chịu sao được những sự dằn vặt ấy? Tiếc rằng ta không thể chịu đỡ được cho nó một phần".
Về mùa này, mưa nắng thất thường, hễ một đám mây nhỏ kéo đến là có thể mưa ngay. Bỗng đâu cơn gió nổi lên, trận mưa ầm ầm như trút nước. Bảo Ngọc trông thấy cô bé bị những giọt mưa từ trên nhỏ xuống, quần áo ướt đẫm, liền nghĩ: "Thân hình nó thế kia, chịu sao nổi trận mưa rào bắn xói vào người?" Không thể nín được, Bảo Ngọc gọi ngay:
- Thôi đừng viết nữa, người ướt hết cả rồi.
Cô bé nghe nói giật mình, ngẩng đầu nhìn, thấy người bảo đừng viết ấy đương đứng ngoài giàn hoa. Một là vì Bảo Ngọc nét mặt xinh đẹp; hai là vì hoa lá um tùm, chỉ hở có một nửa mặt, nên người con gái cho là một chị a hoàn nào, chứ không biết là Bảo Ngọc. Nó liền cười nói:
- Cảm ơn chị nhắc bảo cho. Nhưng không lẽ ngoài ấy lại có cái gì che mưa chăng?
Bảo Ngọc tỉnh người, kêu một tiếng, mới thấy lạnh buốt toàn thân. Cúi đầu nhìn mình, cũng ướt hết, liền kêu: "Hỏng rồi!" Rồi chạy một mạch về viện Di Hồng, trong lòng vẫn áy náy về con bé ấy không có chỗ tránh mưa.
Hôm sau là tiết Đoan dương, mười hai cô hát trong bọn Văn Quan đều được nghỉ học, ra vườn chơi. Bảo Quan đóng vai nam, Ngọc Quan vai nữ, đều đến chơi đùa với Tập Nhân ở viện Di Hồng. Gặp mưa, mọi người đóng cửa lại, lấp các cống cho nước đọng đầy sân, rồi đuổi bắt le vịt, khâu cánh, thả ở sân chơi. Tập Nhân thì ngồi ở ngoài hiên cười đùa.
Bảo Ngọc thấy cửa đóng, liền lấy tay đấm. Người trong nhà đang mải cười đùa, không ai để ý đến. Một lúc lâu, trong nhà nghe thấy tiếng đập cửa thình thình, ai nấy đều cho là không khi nào Bảo Ngọc lại về lúc này. Tập Nhân cười nói:
- Ai lại gọi cửa bây giờ? Không mở được.
Bảo Ngọc nói:
- Tôi đây.
Xạ Nguyệt nói:
- Hình như tiếng cô Bảo.
Tình Văn nói:
- Nói bậy! Cô Bảo đến làm gì?
Tập Nhân nói:
- Để tôi ra khe cửa nhìn xem, đáng mở thì mở, không nên để cho họ phải dầm mưa.
Nói xong liền theo đường hành lang nhìn ra ngoài, thấy Bảo Ngọc ướt như chuột lột, Tập Nhân vừa hoảng sợ, vừa buồn cười, vội ra mở cửa, cúi lưng, vỗ tay nói:
- Ai biết đâu bây giờ cậu về? Sao mưa to thế mà cũng đi?
Bảo Ngọc trong bụng đang bực tức, chỉ định có người ra mở cửa là đá cho mấy cái. Cửa vừa mở, Bảo Ngọc không cần nhìn xem ai, cứ tưởng là một a hoàn nào, liền đá một cái vào cạnh sườn. Tập Nhân kêu "Ối chà!" một tiếng. Bảo Ngọc còn mắng thêm:
- Đồ hèn mạt! Ngày thường tao đối đãi tử tế, chúng mày nhờn quen, càng ngày càng mang tao ra làm trò cười!
Nói xong, nhìn xuống, thấy Tập Nhân khóc, mới biết mình đá nhầm, vội cười nói:
- Ối chà! Chị đấy à? Tôi đá phải chỗ nào đấy?
Xưa nay Tập Nhân chưa bị đánh mắng lần nào; nay thấy Bảo Ngọc phát cáu trước mặt mọi người, đá mình một cái, thì vừa xấu hổ vừa tức giận, lại vừa đau. Muốn sinh chuyện, nhưng lại nghĩ: chưa chắc Bảo Ngọc đã định tâm đá mình, nên đành nén bụng nói: "Cậu có đá trúng tôi đâu, sao cậu không về thay áo quần đi?"
Bảo Ngọc vào buồng, cười nói:
- Tôi từ bé đến giờ, lần này mới là lần đầu phát cáu đánh người, không ngờ lại đánh nhầm phải chị!
Tập Nhân cố chịu đau, đi thay quần áo cho Bảo Ngọc, cười nói:
- Tôi là người đầu, thì bất cứ việc lớn nhỏ, hay dở, đều tự tôi mà ra. Nhưng cậu cũng đừng nghĩ đánh được tôi rồi sau này quen tay đi cứ đánh bừa.
- Vừa rồi quả tôi không chủ ý nào.
- Ai bảo cậu chủ ý? Xưa nay việc đóng cửa, mở cửa vẫn giao cho bọn hầu nhỏ. Chúng nó hỗn láo quen, nhiều lần làm cho người ta phải tức lên, thế mà chúng nó chẳng biết sợ hãi là cái gì. Nếu chính chúng nó ra mở cửa, cậu đá cũng lả phải. Nhưng vừa rồi vì tôi dở hơi, không để cho chúng nó ra mở.
Trời tạnh mưa, bọn Bảo Quan, Ngọc Quan đều về cả, Tập Nhân thấy đau ở cạnh sườn, trong lòng rộn rực, liền bỏ bữa cơm chiều không ăn. Đến tối, cởi quần áo ra, thấy bên cạnh sườn có một chỗ tím to bằng cái bát, Tập Nhân giật mình sợ hãi, nhưng không tiện nói ra, đến lúc đi ngủ vẫn thấy đau. Trong khi mơ màng, thỉnh thoảng lại thốt ra một tiếng kêu "ối chà!"
Bảo Ngọc thấy Tập Nhân ra dáng mệt mỏi, trong bụng không đành. Đến nửa đêm, lại nghe tiếng kêu, biết Tập Nhân bị đá mạnh quá, Bảo Ngọc trở dậy, khẽ cầm đèn lại soi. Đến cạnh giường, thấy Tập Nhân ho lên hai tiếng, nhổ ra một cục đờm, rồi lại kêu "ối chà". Tập Nhân mở mắt nhìn, thấy Bảo Ngọc, giật mình hỏi:
- Cậu làm gì thế?
- Trong khi ngủ, chị cứ kêu luôn, tất là bị đá đau lắm,để tôi xem thế nào.
- Tôi nhức đầu lắm, cổ họng lại lờm lợm có mùi tanh, cậu thử soi xuống đất xem.
Bảo Ngọc nghe nói, cầm đèn soi, thấy một cục máu tươi, sợ hãi nói:
- Thôi thế này thì nguy mất.
Tập Nhân thấy thế, lạnh đi một nửa người.
-----------------------------------
(1). Mang roi đến chịu tội. Đời Chiến quốc, Liêm Pha mang roi từ nhà đến xin lỗi Lạn Tương Như.
(2). Một viên thuốc trắng và thơm để thấm nhuần nước bọt.
(3). Đời Chiến quốc có nàng Tây Thi, nhan sắc tuyệt vời, khi nhăn mặt lại càng đẹp. Ở phía đông trong làng có một người con gái rất xấu, thấy thế cũng bắt chước. Nhưng khi cô ta nhăn mặt, người giàu trông thấy phải đóng cửa, không dám nhìn, người nghèo trông thấy phải đem cả vợ con trốn đi nơi khác.
Hồi thứ ba mươi mốt
Xé tan cái quạt, nghìn vàng mua lấy một trận cười
Điềm ứng kỳ lân, hai sao(1) gặp nhau khi đầu bạc
Tập Nhân thấy mình khạc máu tươi ra đất thì lạnh hẳn một nửa người. Cô ta thường ngày nghe người ta nói: “Lúc trẻ mà thổ huyết, thì sẽ chết non, có sống chăng nữa, cũng là người bỏ đi”. Nghĩ vậy, những chuyện mong ước vẻ vang sung sướng mai sau, bất giác lạnh hẳn như đống tro tàn, nước mắt cô ta ở đâu lại ròng ròng chảy xuống. Bảo Ngọc thấy Tập Nhân khóc, bụng cũng chua xót, liền hỏi:
- Chị thấy trong người thế nào?
Tập Nhân cười gượng:
- Người tôi vẫn khỏe, có việc gì đâu?
Bảo Ngọc định lập tức sai người hâm rượu, lấy huyết sơn dương và thuốc viên lê động đến. Tập Nhân kéo tay lại, cười nói:
- Việc không cần mà cậu cứ làm nhộn lên, phiền đến mọi người, rồi họ lại oán tôi là nông nổi. Bây giờ không ai hay cả, cậu cứ làm ồn lên, người ta biết thì cậu và tôi đều không hay ho gì. Ngày mai cậu nên cho một đứa bé đi mời ông lang họ Vương cho tôi uống một thang thuốc là khỏi. Như thế thì không ai biết, chẳng hơn hay sao?
Bảo Ngọc nghe nói có lý, liền thôi không gọi ai, tự mình đến bàn, rót chén nước đưa cho Tập Nhân súc miệng.
Tập Nhân biết Bảo Ngọc không đành dạ, nếu không để cậu ta chăm sóc mình, chắc sẽ không nghe, lại làm bận rộn đến người khác, chi bằng cứ để mặc kệ đấy. Vì thế Tập Nhân ngồi tựa trên giường, mặc cho Bảo Ngọc phục dịch.
Trời vừa sáng, Bảo Ngọc không kịp rửa mặt chải đầu, vội mặc áo đi mời Vương Tế Nhân. Vương đến, hỏi cặn kẽ đầu đuôi, biết nguyên do bệnh này chẳng qua bị thương tổn chút ít thôi. Vương liền cho ít thuốc viên, chỉ bảo cách dùng, cách uống và xoa. Bảo Ngọc nhớ lấy, về trong vườn cứ theo thế điều trị.
Hôm ấy chính là tiết Đoan dương, người ta dùng cành ngải treo cửa và bùa dấu đeo tay. Đúng giờ Ngọ, Vương phu nhân sửa tiệc rượu mời mẹ con họ Tiết đến ăn tết. Bảo Ngọc thấy Bảo Thoa lãnh đạm, không trò chuyện với mình, biết là vì việc hôm nọ. Vương phu nhân thấy Bảo Ngọc buồn chán, cho là vì việc Kim Xuyến hôm trước, có ý bẽn lẽn, nên không muốn hỏi. Đại Ngọc thấy Bảo Ngọc ngồi thừ ra đấy, cho là vì hôm nọ có lỗi với Bảo Thoa, trong bụng khó chịu, cho nên dáng người uể oải. Phượng Thư thì vì chiều hôm trước Vương phu nhân kể lại cho nghe chuyện Bảo Ngọc với Kim Xuyến, biết là Vương phu nhân không vui, khi nào mình còn dám cười nói, nên lẳng lặng theo Vương phu nhân, bảo gì làm nấy. Chị em Nghênh Xuân thấy ai nấy buồn tẻ, thì cũng không vui. Vì thế họ ngồi một lúc rồi tản đi mỗi người mỗi ngả.
Đại Ngọc xưa nay chỉ thích tan chứ không thích tụ, điều đó cũng có lý, Đại Ngọc nói: “Người ta có họp thì phải có tan, lúc họp thì vui, đến khi tan, thì tránh sao khỏi buồn? Đã buồn thì đâm ra thương nhớ, chi bằng không họp nữa là hơn. Cũng như đóa hoa, khi nở thì người ta yêu mến, đến khi tàn càng khiến người ta thương tiếc, chẳng thà đừng nở là hơn”. Vì thế khi người ta cho là vui, thì cô ta lại đâm ra buồn. Tính tình Bảo Ngọc lại chỉ muốn cho người thường họp mà đừng tan, hoa thường nở mà đừng tàn; đến khi tiệc tan hoa tàn, dù có thương tiếc muôn phần, cũng không thể kéo lại. Vì thế bữa tiệc hôm nay mọi người đều cụt hứng ra về, Đại Ngọc thì không sao, nhưng Bảo Ngọc lại rất buồn rầu, về buồng than dài thở vắn.
Vừa khi Tình Văn đem quần áo lại cho Bảo Ngọc thay, đánh rơi cái quạt xuống đất, làm gãy một nan xương.
Bảo Ngọc liền mắng:
- Đồ ngu! Đồ ngu! Không biết sau này làm ăn ra thế nào? Mai kia chị một mình đương lấy cơ nghiệp, không lẽ việc gì cũng không suy trước tính sau hay sao?
Tình Văn cười nhạt:
- Cậu Hai độ này đâm ra nóng nẩy quá, cũng nên nể mặt nhau một tí. Hôm nọ cậu đã đánh chị Tập Nhân, hôm nay lại xoi mói cả tôi. Muốn đấm đá ai là tùy ở cậu. Tôi chỉ đánh rơi một cái quạt thôi, có phải việc lớn lao gì cho cam. Khi trước biết bao nhiêu người đánh rơi đánh vỡ: nào bình pha lê, nào bát mã não, chẳng thấy cậu gắt bao giờ; nay có cái quạt mà cậu làm ra như vậy? Nếu không bằng lòng thì cậu đuổi ngay chúng tôi đi, tìm người khác giỏi thạo hơn đến hầu rồi cho chúng tôi ra, mỗi người mỗi ngả, chẳng hay hơn sao?
Bảo Ngọc nghe nói, tức run người lên, nói:
- Chị không phải lo, rồi cũng có ngày mỗi người mỗi ngả.
Tập Nhân ở bên kia nghe thấy, vội chạy ra nói với Bảo Ngọc:
- Tự dưng vô cớ, sao lại như thế? Tôi đã bảo mà, hễ vắng tôi lúc nào là y như có chuyện.
Tình Văn cười nhạt:
- Chị đã biết thế sao không đến mau, để cậu ấy khỏi phải sinh bực. Từ trước đến nay chỉ có một mình chị là biết hầu hạ cậu ấy thôi, còn chúng tôi có biết cái gì đâu. Chỉ vì chị hầu hạ khéo nên hôm nọ mới bị đá vào bụng! Chúng tôi vụng dại thế này, không biết rồi ra sẽ còn phạm những tội lỗi gì!
Tập Nhân nghe mấy câu ấy, vừa bực tức, vừa xấu hổ, muốn nói lại, nhưng thấy Bảo Ngọc giận quá tái mặt lại, nên đành phải dịu lời, nói:
- Em ơi! Hãy ra ngoài kia, đó là chúng tôi không phải với em đấy.
Tình Văn nghe thấy hai tiếng “Chúng tôi”, cho ngay là Tập Nhân muốn nói cô ta với Bảo Ngọc, trong bụng đâm ra ghen, liền cười nhạt mấy tiếng:
- Tôi chả biết ai là “Chúng tôi” cả, đừng để tôi phải hổ thẹn thay cho ai! Các người làm những việc thầm kín với nhau, giấu thế nào được tôi! Tôi cứ nói thẳng: ngay các cô nhà này cũng còn chưa với lên được, huống chi chị cũng như tôi, thế mà lại dám gọi “Chúng tôi” à?
Tập Nhân xấu hổ quá, tím bầm mặt lại, biết mình nói nhầm. Bảo Ngọc nói:
- Các chị đứng tức khí nhau nữa, ngày mai tôi sẽ cất nhắc chị lên.
Tập Nhân vội kéo tay Bảo Ngọc nói:
- Chị ta là người hồ đồ, phân trần phải trái làm gì. Vả chăng cậu xưa nay là người có lòng, những việc to hơn nữa cũng còn bỏ qua, sao hôm nay lại thế?
Tình văn cười nhạt:
- Tôi vốn là người hồ đồ, ai thèm nói chuyện với tôi.
Tập Nhân nói:
- Chị cãi nhau với tôi hay là cãi nhau với cậu Hai? Nếu là giận tôi thì chị chỉ nên nói tôi thôi, đừng đả động đến cậu ấy, nếu giận cậu ấy thì không nên nói ầm lên cho mọi người biết. Vừa rồi tôi muốn đến dàn xếp, khuyên giải cho êm cửa êm nhà, thế mà chị lại kiếm chuyện vặc nhau cả với tôi! Chị chẳng ra giận tôi, cũng chẳng ra giận cậu Hai, cứ bắt quàng bắt xiên, hết chuyện này sang chuyện nọ. Ý chị định thế nào? Thôi tôi không nói nữa, để phần chị nói.
Tập Nhân liền chạy ra ngoài.
Bảo Ngọc bảo Tình Văn:
- Chị không cần phải cáu kỉnh nữa, tôi đoán được bụng chị rồi. Tôi sẽ trình với bà: giờ chị đã lớn, nên cho chị về, chị có bằng lòng không?
Tình Văn nghe vậy, trong lòng đau xót, liền rơm rớm nước mắt, nói:
- Việc gì tôi phải về? Cậu ghét tôi, tìm cách đuổi tôi đấy thôi, như vậy sao đành?
Bảo Ngọc nói:
- Tôi chưa hề thấy có chuyện cãi cọ nhau như thế này bao giờ. Nhất định là chị muốn về. Tôi sẽ trình với bà cho chị về là yên chuyện.
Nói xong đứng dậy chực đi ngay.
Tập Nhân vội kéo Bảo Ngọc lại nói:
- Cậu định đi đâu đấy?
Bảo Ngọc nói:
- Tôi đi trình bà đây.
Tập Nhân cười nói:
- Cậu thật chẳng có ý tứ gì cả! Cậu đi trình sẽ làm chị ấy xấu hổ. Nếu quả chị ấy muốn về, thì hãy chờ khi hết hẳn cơn giận đã, lúc nào sẽ trình với bà cũng chưa muộn. Bây giờ cậu cho là việc chính, hấp tấp đi trình ngay, chẳng làm bà sinh nghi hay sao?
Bảo Ngọc nói:
- Bà không ngờ đâu, tôi sẽ nói rõ là chị ấy sinh chuyện để đòi về đấy thôi.
Tình Văn khóc lóc:
- Tôi sinh chuyện để đòi về bao giờ? Cậu giận tôi, kiếm chuyện để dọa nạt tôi. Cậu cứ đi mà trình: tôi thà đập đầu chết ngay ở đây, chứ không chịu ra khỏi nhà này.
Bảo Ngọc nói:
- Thế mới lạ chứ! Chị không về, lại cứ sinh chuyện lôi thôi mãi. Thế này tôi không chịu nổi, chị về đi cho yên chuyện!
Nói xong nhất định đi trình.
Tập Nhân thấy ngăn không nổi, đành phải quỳ xuống. Bọn Bích Ngân, Thu Vân, Xạ Nguyệt thấy mấy người cãi nhau dữ quá, đều cứ lẳng lặng đứng ở ngoài nghe. Sau thấy Tập Nhân quỳ xuống van xin, họ liền rủ nhau quỳ cả xuống. Bảo Ngọc vội đỡ lấy Tập Nhân dậy, thở dài một cái, ngồi phịch xuống giường, bảo mọi người đứng cả dậy; rồi nói với Tập Nhân:
- Bây giờ bảo tôi làm thế nào cho phải đây? Lòng tôi vỡ rạn cả rồi, có ai biết cho đâu?
Nói xong nước mắt tràn ra. Thấy Bảo Ngọc chảy nước mắt, Tập Nhân cũng khóc. Tình Văn đứng bên cạnh cũng khóc. Bỗng thấy Đại Ngọc đến, Tình Văn liền đi ra.
Đại Ngọc cười nói:
- Khéo chưa, ngày tết có việc gì mà khóc thế? Hay là tranh nhau ăn bánh chưng, rồi giận nhau đấy?
Bảo Ngọc và Tập Nhân đều cười. Đại Ngọc nói:
- Anh Hai ơi, chả đợi anh nói em cũng đã biết cả rồi.
Đại Ngọc lại vỗ vào vai Tập Nhân cười nói:
- Thưa bà chị dâu, cho em biết với, tất là hai anh chị đương cãi nhau, nếu chị nói với em, em sẽ dàn hòa giùm cho.
Tập Nhân đẩy Đại Ngọc ra nói:
- Thưa cô, cô nói nhảm gì thế? Tôi đây chỉ là một đứa con hầu thôi.
Đại Ngọc cười nói:
- Chị bảo chị là con hầu, nhưng em coi chị như là chị dâu.
Bảo Ngọc nói:
- Vạ gì mà em cứ hay khoác chuyện dở cho chị ấy. Thôi đừng như thế. Nếu ai nói câu ấy, em nên ngăn đi mới phải, thế mà bây giờ lại chính tự miệng em nói ra.
Tập Nhân cười nói:
- Cô ơi! Cô không biết bụng tôi, chỉ khi nào tắt thở, chết đi là xong chuyện!
Đại Ngọc cười nói:
- Chị mà chết thì không biết người khác thế nào, chứ tôi thì tôi cũng phải khóc đến chết thôi.
Bảo Ngọc nói:
- Chị mà chết thì tôi đi tu.
Tập Nhân nói:
- Cậu nên đứng đắn một chút. Sao lại nói nhảm thế.
Đại Ngọc giơ hai ngón tay lên, bĩu môi cười nói:
- Hai lần đi tu rồi đấy nhé! Từ giờ trở đi, tôi sẽ xem, liệu anh ấy làm hòa thượng mấy lần.
Bảo Ngọc biết Đại Ngọc lại nói móc mình câu chuyện hôm trước, nên chỉ cười thôi.
o0o
Một lúc Đại Ngọc đi rồi, có người đến nói: “Cậu Tiết mời”. Bảo Ngọc đi ngay, vì biết Tiết Bàn mời uống rượu, không thể từ chối được. Mãi chiều tan tiệc mới về. Bảo Ngọc đang ngà ngà say, lảo đảo về đến sân, thấy đã đặt sẵn cái giường tựa để hóng mát, lại có người nằm ngủ ngay đó. Bảo Ngọc tưởng là Tập Nhân, liền ngồi cạnh giường lay dậy hỏi: “Đỡ đau chưa?” Người kia vùng dậy nói: “Sao, lại còn gọi tôi làm gì?”.
Bảo Ngọc nhìn lại, không phải Tập Nhân, mà chính là Tình Văn. Bảo Ngọc kéo Tình Văn ngồi bên cạnh, cười nói:
- Chị càng ngày càng làm nũng quen thân. Sớm hôm nay chị đánh rơi cái quạt, tôi nói vài câu, thế mà chị dám cãi lại những lời như vậy. Chị nói tôi đã đành, chị Tập Nhân có bụng tốt đến can, chị lại vặc nhau cả với chị ấy. Chị nghĩ xem thế có đúng không?
Tình Văn nói:
- Nóng nực thế này, cứ lôi lôi kéo kéo làm gì thế! Lỡ ra người ta trông thấy thì còn ra làm sao nữa! Thân tôi vốn không đáng ngồi ở đây!
Bảo Ngọc cười nói:
- Đã biết là không đáng thì sao lại nằm xuống đây?
Tình Văn chẳng biết trả lời thế nào, cười khì một cái rồi nói:
- Cậu không đến đây thì được, chứ đã đến thì tôi không xứng đáng. Thôi tôi dậy để đi tắm rửa đây. Chị Tập Nhân và chị Xạ Nguyệt đã tắm rửa cả rồi, tôi sẽ gọi lại cho cậu.
Bảo Ngọc cười nói:
- Tôi vừa mới uống rượu xong, cũng muốn rửa. Nếu chị chưa rửa, thì xách nước lại đây, hai chúng ta cùng rửa.
Tình Văn xua tay cười nói:
- Thôi! Thôi! Tôi chả dám đụng tới ông trẻ. Còn nhớ hôm nào chị Bích Ngân hầu cậu tắm rửa, chẳng biết làm những trò gì, cho đến hai ba giờ, chúng tôi không tiện vào đấy. Khi tắm xong, vào xem, thấy nước ở dưới đất, ngấm ướt cả đến chân giường, ngay trên chiếu cũng dầm dề cả nước, chẳng biết tắm rửa ra thế nào. Chúng tôi đã cười với nhau trong mấy hôm liền. Tôi chẳng hơi đâu đi lấy nước, mà cậu cũng không cần tắm chung với tôi. Hôm nay mát trời, tôi cũng không tắm đâu, để tôi đi múc một chậu nước đến cậu rửa mặt, chải đầu thôi. Vừa rồi Uyên Ương đem cho mấy thứ quả tươi ướp trong lọ thủy tinh kia, cậu bảo họ mang đến cho cậu ăn không hơn à?
Bảo Ngọc cười nói:
- Đã như thế, chị không tắm, thì đi rửa tay, mang thứ quả ấy đến cho tôi ăn.
Tình Văn nói:
- Đã bảo tôi là hạng ngu xuẩn, cầm cái quạt cũng đánh rơi gãy, đáng đâu lấy quả cho cậu ăn, lỡ ra đánh vỡ cả khay, thì lại càng to chuyện.
Bảo Ngọc cười nói:
- Các đồ vật cốt để cho người ta dùng thôi, chị thích đập cái gì cứ việc mà đập. Chị thích cái này, tôi thích cái kia, mỗi người đều có một ý thích. Ví như cái quạt cốt là để quạt, chị thích xé nó ra mà chơi thì cứ việc xé, nhưng đừng nhân lúc giận mà đem xé nó ra cho hả. Cũng như cái chén, cái khay, cốt để đựng các đồ vật, nếu chị thích nghe tiếng vỡ, thì cứ đập đi cũng được, đừng nên nhân khi tức giận mà đập. Thế cũng là biết yêu đồ vật đấy.
Tình Văn cười nói:
- Đã thế cậu đưa cái quạt đây cho tôi xé, tôi thích nghe tiếng xé lắm.
Bảo Ngọc đưa cái quạt cho Tình Văn. Quả nhiên “Xoạt” một tiếng, cái quạt bị xé ra làm đôi, rồi cứ “Xoạt xoạt” luôn mấy tiếng nữa.
Bảo Ngọc đứng cạnh cười nói:
- Tiếng xé hay đấy! Xé nữa mà nghe.
Xạ Nguyệt ở đâu chạy đến, trừng mắt nhìn, gắt lên:
- Ác nghiệt vừa vừa chứ!
Bảo Ngọc giật ngay lấy cái quạt ở tay Xạ Nguyệt, đưa cho Tình Văn. Tình Văn cầm lấy xé ra làm mấy mảnh, rồi hai người cười ầm lên.
Xạ Nguyệt nói:
- Thế là thế nào? Lại đem cái quạt của tôi ra làm trò đùa đấy à?
Bảo Ngọc cười nói:
- Chị mở cái hộp quạt của tôi ra chọn lấy một cái mà dùng. Quí hoá gì cái này?
- Đã thế thì mang hết cả quạt ra đây để tha hồ cho chị xé có được không?
- Chị vào mang cả ra đây.
- Không khi nào tôi làm trò tai ác như thế. Tay chị ta chưa què thì tự đi mà lấy.
Tình Văn cười rồi tựa vào giường nói:
- Giờ tôi mệt rồi, ngày mai lại xé.
Bảo Ngọc cười nói:
- Người xưa có câu “Nghìn vàng khó mua được một tiếng cười” mấy cái quạt có đáng là bao?
Bảo Ngọc vừa nói vừa gọi Tập Nhân. Tập Nhân thay quần áo chạy ra. Giai Huệ, một a hoàn nhỏ đến nhặt các mảnh quạt rách mang đi, rồi mọi người ngồi hóng mát ở đấy.
O0o
Trưa hôm sau, Vương phu nhân và chị em Bảo Thoa, Đại Ngọc đương ngồi ở trong buồng Giả mẫu, có người vào trình “Cô Sử đến”. Một lúc, Sử Tương Vân và nhiều a hoàn, vú bõ đi vào sân. Bọn Bảo Thoa, Đại Ngọc vội xuống thềm đón. Chị em bạn trẻ hàng tháng vắng mặt, bây giờ gặp nhau, tất nhiên là vui vẻ thân mật. Một lúc vào trong buồng, đi chào hỏi mọi người.
Giả mẫu liền bảo:
- Trời nóng nực thế này, cháu cởi bớt quần áo ngoài ra.
Tương Vân vội đứng dậy cởi áo.
Vương phu nhân cười nói:
- Chả thấy ai mặc như thế cả. Mặc vào để làm gì?
Tương Vân cười nói:
- Đó là thím Hai bảo cháu mặc đấy, chứ cháu có muốn mặc những thứ này đâu!
Bảo Thoa đứng cạnh cười nói:
- Dì không biết cô Sử thích mặc cả quần áo của người khác nữa kia đấy. Còn nhớ kỳ tháng ba, tháng tư năm ngoái, khi cô ấy ở đây, đã mặc áo, đi cả giày, đeo cả thắt lưng của cậu Bảo. Thoạt nhìn, giống hệt cậu Bảo, chỉ khác hai bên tai đeo hoa thôi. Cô ấy đứng tựa ở sau ghế, làm cụ tưởng lầm cứ gọi: “Bảo Ngọc, cháu lại đây. Cẩn thận không thì cái đèn treo trên kia rơi tàn vào mắt đấy”. Cô ấy cứ đứng cười, không đi. Sau mọi người không nhịn được, cười phá lên, cụ cũng cười nói: “Nó ăn mặc giả trai càng dễ coi hơn”.
Đại Ngọc nói:
- Việc ấy đã thấm vào đâu? Hồi tháng giêng năm trước cô ta sang đây ở được vài ngày, trời xuống tuyết. Hôm ấy bà và mợ đi lễ tổ về, bà cởi cái áo khoác lông vườn màu đỏ ra. Lừa lúc bà không trông thấy, cô ấy mặc ngay vào người, vừa rộng vừa dài, lại lấy cái khăn thắt ngang lưng, rồi ra sân sau cùng bọn a hoàn đập tuyết chơi, không ngờ trượt chân ngã, bùn lấm khắp người.
Nói xong mọi người nhớ lại chuyện ấy, đều cười ầm lên.
Bảo Thoa cười hỏi vú Chu:
- Cô bé nhà vú độ này còn hay quấy nữa không?
Vú Chu chỉ cười. Nghênh Xuân cười nói:
- Hay quấy đã đành rồi, nhưng tôi lại ghét cô ta hay nói nhiều quá. Có khi đi ngủ vẫn còn lảm nhảm, hết nói lại cười, không biết những chuyện nhảm ấy từ đâu đem đến.
Vương phu nhân nói:
- Có lẽ bây giờ cháu đã khá rồi. Độ trước nghe nói có người đến xem mặt, thế là cháu đã sắp sửa về nhà chồng rồi, lẽ nào lại còn như trước.
Giả mẫu hỏi:
- Thế lần này sang chơi, cháu định ở lại hay về ngay?
Vú Chu cười nói:
- Cụ không thấy cô ấy đã mang cả quần áo sang đây, khi nào lại không ở chơi mấy ngày?
Tương Vân hỏi:
- Anh Bảo có ở nhà không?
Bảo Thoa cười nói:
- Cô ấy chẳng nhớ ai, chỉ nhớ cậu Bảo thôi. Vì hai người thích chơi đùa với nhau, thế thì vẫn chưa đổi được tính hay quấy.
Giả mẫu nói:
- Bây giờ các cháu đã lớn rối đừng gọi tên tục nhau ra nữa.
Vừa nói xong, thì Bảo Ngọc chạy đến cười nói:
- Em Vân đã sang đấy à? Hôm nọ anh cho người đi đón, sao em không sang?
Vương phu nhân nói:
- Bà vừa nói xong, chúng nó lại gọi tên tục nhau cả rồi.
Đại Ngọc nói:
- Anh cô có cái gì đẹp để dành cho cô đấy.
Tương Vân hỏi:
- Cái gì đấy?
Bảo Ngọc cười nói:
- Em tin lời cô ấy à! Mấy hôm không gặp, đã thấy lớn lên rồi.
Tương Vân cười hỏi:
- Chị Tập Nhân có khỏe không?
Bảo Ngọc nói:
- Vẫn khỏe, cảm ơn em nhớ đến.
Tương Vân nói:
- Tôi mang cái vật đẹp này sang cho chị ấy đây.
Nói xong, Tương Vân giở cái khăn lụa, lấy ra một gói con. Bảo Ngọc nói:
- Lại cho cái gì đẹp đấy? Chi bằng em cho chị ta mấy cái nhẫn ngọc thạch thanh màu đỏ, như hôm nọ đã đưa sang đây ấy.
Tương Vân cười hỏi:
- Đây là cái gì?
Mở gói ra, mọi người xem, quả nhiên một gói bốn chiếc nhẫn màu đỏ là thứ nhẫn đã cho mang sang lần trước.
Đại Ngọc cười nói:
- Các chị em xem cô ta như thế đấy. Hôm nọ cho người đưa sang các thứ nhẫn cho chúng tôi, tại sao cô không đưa cả sang một thể, có tiện hơn không? Hôm nay cô lại tự mình mang sang. Tôi cứ tưởng là cái gì mới lạ kia, hoá ra vẫn là thứ nhẫn này. Cô thực là người hồ đồ.
Tương Vân cười nói:
- Chính chị mới hồ đồ, để tôi kể rõ đầu đuôi cho mọi người nghe, xem ai hồ đồ? Tôi đưa thứ gì cho các cô, thì sai người mang sang, không phải dặn dò, chỉ cần xem qua một lượt cũng đã biết ngay rồi. Nhưng nếu sai người ta đưa cái gì cho các chị a hoàn, là tôi phải dặn dò cẩn thận, thứ này đưa cho chị này, thứ kia đưa cho chị kia. Người sai đi mà biết được rành mạch còn khá, nếu gặp phải người vớ vẩn, không nhớ được rõ, cứ đưa bừa đi, tên nọ đánh ra tên kia, sẽ bị nhầm lẫn hết. Nếu bà già đi còn khá, nhưng hôm nọ tôi lại sai đứa bé con mang sang, làm thế nào mà dặn dò cho nó nhớ hết những tên họ của a hoàn bên này? Bây giờ chính tay tôi mang sang đưa cho họ, chẳng rành rọt hơn hay sao?
Tương Vân nói rồi bỏ gói nhẫn ra, bảo:
- Chị Tập Nhân một chiếc, chị Uyên Ương một chiếc, chị Kim Xuyến một chiếc, chị Bình Nhi một chiếc. Tất cả là bốn người. Thế thì bọn trẻ con nhớ rành mạch làm sao được?
Mọi người đều cười nói:
- Quả là rõ ràng.
Bảo Ngọc cười nói:
- Vẫn mồm mép liến thoắng, chẳng chịu thua ai.
Đại Ngọc cười nhạt:
- Nếu cô ấy nói không rành mạch thì đáng đeo con “Kỳ lân vàng” thế nào được?
Nói xong liền chạy đi chỗ khác. May sao mọi người không ai nghe thấy, chỉ có Bảo Thoa bĩu môi cười. Bảo Ngọc thấy thế, hối hận mình đã lỡ lời; thấy Bảo Thoa cười, cũng cười theo. Bảo Thoa thấy Bảo Ngọc cười, vội đứng dậy, lần đến nói chuyện với đại Ngọc.
Giả mẫu bảo Tương Vân:
- Uống nước trà xong, cháu đi nghỉ một lúc, rồi đến thăm các chị cháu. Ngoài vườn mát đấy, cháu sẽ đi chơi với các chị ấy.
Tương Vân vâng lời, gói bốn cái nhẫn lại, nghỉ một lúc, rồi đi thăm Phượng Thư. Bọn vú bõ, người hầu cùng đi theo. đến đó, mọi người cười một lúc, rồi sang vườn Đại Quan, vào thăm Lý Hoàn; ngồi một lát, lại sang viện Di Hồng tìm Tập Nhân. Tương Vân quay lại bảo bọn người hầu: “Các cô không phải theo tôi. Ai muốn đi thăm bà con cứ đi, để một mình Thúy Lũ theo hầu tôi là đủ”.
Mọi người vâng lời, để Tương Vân, Thúy Lũ ở lại đấy, rồi đi thăm bà con.
Thúy Lũ nói:
- Hoa sen này làm sao không nở?
Tương Vân nói:
- Chưa đến mùa.
- Cái hoa này cũng như hoa trong ao nhà ta, đó là hoa kép.
- Hoa ở đây không bằng hoa của nhà ta.
- Bên này có hoa thạch lựu bốn năm cành xúm xít lại, chùm nọ nằm chồng lên chùm kia, sao mà đẹp thế!
- Hoa cỏ cũng như người ta vậy. Khí mạch mà đầy đủ, thì càng lớn càng đẹp.
Thúy Lũ lắc đầu nói:
- Cô nói thế cháu không tin, nếu bảo rằng cây cối cũng như người ta, thì sao cháu không thấy người nào trên đầu lại mọc thêm một cái đầu nữa?
Tương Vân bật cười:
- Ta đã bảo em không nên nói nhiều, thế mà em cứ thích nói. Hỏi thế thì người ta trả lời làm sao được? Trong trời đất, vật gì cũng đều nhờ âm dương mà sinh ra, chính hay tà, kỳ hay quái, biến hoá đủ đường, cũng đều do âm dương thuận hay nghịch mà ra. Ngay những giống từ khi mới sinh, ít người trông thấy, rút cuộc đều cùng một lẽ cả.
- Nếu nói như thế thì từ khi có trời đất đều là âm dương cả à?
- Con bé này ngớ ngẩn quá! Càng nói càng bậy, thế nào lại “Đều là âm dương cả”. Vả lại, hai chữ âm dương chỉ là một, nghĩa là hết dương đến âm, hết âm đến dương, chứ không phải hết âm mới sinh ra dương, hay là hết dương mới sinh ra âm đâu.
- Thực là mơ hồ chán chết đi được! Thế nào là âm với dương? Chẳng có hình có bóng à? Cháu chỉ hỏi cô, cái hình dạng âm dương nó ra thế nào?
- Âm với dương chẳng qua là khí thôi. Nhờ có khí ấy, các vật mới thành hình chất. Ví như trời là dương, thì đất là âm; nước là âm, thì lửa là dương; mặt trời là dương, thì mặt trăng là âm.
- Phải đấy, bây giờ cháu hiểu rồi. Chẳng trách người ta gọi mặt trời là “Thái dương”, người xem số gọi mặt trăng là sao “Thái âm”, đó là lẽ thế đấy.
- A di đà phật! Bây giờ em mới hiểu ra.
- Những cái ấy có âm dương đã đành rồi, còn đến ruồi, muỗi, sâu, bọ, hoa cỏ, mảnh ngói, viên gạch cũng có âm dương cả sao?
- Cái gì mà chẳng có, ví như một lá cây cũng có âm dương khác nhau, mặt ngửa lên trời là dương, mặt úp xuống đất là âm.
Thúy Lũ gật đầu cười nói:
- Thế à! Bây giờ cháu mới hiểu. Cái quạt chúng ta cầm ở tay đây, thế nào là âm, thế nào là dương?
- Mặt phải là dương, mặt trái là âm.
Thúy Lũ gật đầu cườì, còn muốn tìm mấy thứ nữa để hỏi, nhưng chưa nghĩ ra. Chợt cúi đầu nhìn thấy Tương Vân đeo cái dây có con kỳ lân vàng, liền cầm lấy cười hỏi:
- Cái này có âm dương không hở cô?
- Muông chạy, chim bay, thì giống đực là dương, giống cái là âm, cái gì mà chẳng có.
- Thế thì con kỳ lân của cô đeo đó là đực hay cái?
- Tôi cũng không biết.
- Thế thì thôi vậy. Tại sao cái gì cũng có âm dương mà chúng ta lại không có?
Tương Vân sa sầm nét mặt nói:
- Đồ ngu! Thôi cút đi, càng hỏi càng nói tầm bậy.
- Cái đó có gì mà cô không bảo cho cháu biết. Cháu cũng hiểu rồi, cô đừng vặn vẹo cháu nữa.
- Em hiểu thế nào?
- Cô là dương, cháu là âm.
Tương Vân lấy khăn lụa bịt mồm cười. Thúy Lũ nói:
- Nói đúng mà cô lại cười à.
- Đúng lắm, đúng lắm!
- Người ta thường nói chủ nhà là dương, đầy tớ là âm, ngay những lẽ thường như thế, mà em cũng không hiểu hay sao?
- Em hiểu lắm rồi.
Hai người đi đến dưới giàn hoa tường vi, Tương Vân trỏ tay bảo:
- Em xem kìa, cái gì vàng lóng lánh như đồ trang sức của ai đánh rơi.
Thúy Lũ vội chạy đến nhặt lên tay, cười nói:
- Cái này sẽ phân biệt ra được âm dương!
Nói rồi cầm con kỳ lân của Tương Vân xem. Tương Vân muốn xem cái mới nhặt được, nhưng Thúy Lũ không chịu đưa, cười nói:
- Cái này là cái bảo bối, cô không xem được đâu! Lạ chưa? ở đâu mà đến đây? Xưa nay cháu không trông thấy ở ai có cái này cả.
- Đưa tôi xem nào.
Thúy Lũ xòe tay ra cười nói:
- Đây mời cô xem.
Tương Vân nhìn xem, thì ra một con kỳ lân vàng, so với con của mình đeo vừa to vừa có văn vẻ hơn. Tương Vân nâng lấy để vào lòng bàn tay, đứng ngẩn người ra, lặng lẽ không nói một lời. Chợt thấy Bảo Ngọc ở đầu kia đi tới, cười nói:
- Em đứng dưới ánh mặt trời này làm gì? Tại sao không đi tìm Tập Nhân?
Tương Vân vội giấu con kỳ lân đi và nói:
- Em định đến đây, chúng ta cùng đi một thể.
Nói xong, hai người cùng đi đến viện Di Hồng.
Tập Nhân đương ở dưới thềm, đứng tựa bao lan hóng mát, thấy Tương Vân đến, vội vàng ra đón, dắt tay nhau cười nói hàn huyên, rồi vào nhà mời ngồi. Bảo Ngọc liền nói:
- Em nên sang sớm là phải, anh có một cái đẹp lắm, chỉ để chờ em thôi!
Nói xong sờ vào người một lúc rồi kêu “Ái chà” một tiếng, hỏi Tập Nhân:
- Cái ấy của tôi, chị cất có phải không?
- Cái gì kia chứ?
- Con kỳ lân lấy được hôm trước ấy mà.
- Ngày nào cậu cũng đeo luôn trong mình, lại còn hỏi tôi?
Bảo Ngọc vỗ tay một cái nói:
- Thôi, tôi đánh rơi mất rồi, tìm ở đâu được bây giờ?
Rồi đứng dậy chực đi tìm.
Tương Vân nghe thấy thế, biết là của Bảo Ngọc đánh rơi, cười nói:
- Anh có con kỳ lân ấy từ bao giờ?
- Hôm nọ tình cờ người ta cho tôi, nhưng không biết đánh rơi ở đâu và từ lúc nào? Tôi thực là hồ đồ quá.
Tương Vân cười nói:
- Nó là đồ chơi, mà anh cũng hoảng lên như thế.
Liền đưa con kỳ lân ra cười hỏi:
- Anh xem, có phải con này không?
Bảo Ngọc trông thấy vui mừng khôn xiết.
-----------------------------
(1). Sao Ngưu Lang và sao Chức Nữ.
Hồi thứ ba mươi hai
Giải bày hết tâm can, Bảo Ngọc đâm ra mê mẩn
Không chịu được sỉ nhục, Kim Xuyến đành phải liều thân
Bảo Ngọc trông thấy con kỳ lân, trong bụng rất vui sướng, giơ tay cầm lấy, cười nói:
- May em nhặt được! Nhưng tại sao em lại nhặt được?
Tương Vân cười nói:
- May mà là cái này, chứ mai sau đánh rơi cái ấn, chả lẽ anh cũng chịu hay sao?
Bảo Ngọc cười nói:
- Mất cái ấn, chỉ là việc thường, chứ mất cái này thì anh thật đáng chết.
Tập Nhân pha nước đem lại mời Tương Vân uống, rồi cười nói:
- Cô ơi, hôm nọ tôi nghe cô có tin mừng lớn.
Tương Vân đỏ mặt, ngoảnh đầu đi phía khác uống nước, không trả lời. Tập Nhân cười nói:
- Bây giờ cô lại đâm ra xấu hổ. Còn nhớ một buổi chiều năm nào, chúng ta ngồi ở gác bên tây nói chuyện với nhau không? Khi ấy cô không thẹn thò gì cả, sao bây giờ cô lại thẹn?
Tương Vân lại đỏ bừng mặt lên gượng cười nói:
- Chị còn nhắc lại việc ấy làm gì! Lúc bấy giờ chúng ta đằm thắm với nhau lắm, sau mẹ tôi chết, nhà tôi dọn đi ở xa, vì thế người ta mới gán chị cho anh Bảo, bây giờ tôi đến đây, chị đối đãi với tôi không còn như trước nữa.
Tập Nhân cũng đỏ mặt lên, cười nói:
- Thôi đi, lúc trước thì một điều chị, hai điều chị, nhờ tôi chải đầu, rửa mặt, lấy cái nọ, chơi cái kia; bây giờ lại làm ra bộ tiểu thư. Cô đã thế, thì tôi còn dám gần gũi sao được?
Tương Vân nói:
- A di đà phật! Oan uổng quá! Tôi mà như thế thì chết ngay lập tức. Chị xem, trời nóng thế này, vừa đến đây, tôi lại thăm chị trước tiên. Chị không tin, thử hỏi con Lũ xem. Khi tôi ở nhà, từng giờ từng phút, không lúc nào không nhắc nhở đến chị?
Tập Nhân và Bảo Ngọc nghe nói, đều cười:
- Nói đùa mà lại cho là thực, cô vẫn còn giữ tính nóng nẩy ấy.
- Chị có biết đâu, cứ nói nhưng câu chọc tức người ta, rồi lại trách người ta nóng tính.
Vừa nói vừa mở cái khăn lụa ra, lấy nhẫn đưa cho Tập Nhân. Tập Nhân cảm ơn mãi, cười nói:
- Hôm nọ cô gửi quà cho các cô bên này, tôi cũng đã được một phần rồi. Hôm nay cô lại thân hành mang nhẫn đến cho tôi, thế mới biết không bao giờ cô quên tôi. Tôi nói thế để thử bụng cô đấy thôi. Cái nhẫn có đáng là bao? Thế đủ biết lòng thực của cô.
Tương Vân hỏi:
- Ai đưa cho chị?
- Cô Bảo đưa cho tôi.
Tương Vân thở dài:
- Thế ra cô Bảo cho chị à? Tôi cứ tưởng là cô Lâm. Khi tôi ở nhà, luôn luôn nghĩ đến các chị em bên này, Không ai tốt bằng Cô Bảo. Tiếc rằng chúng tôi không phải là chị em ruột. Nếu tôi được một người chị ruột như thế, thì có mồ côi cha mẹ cũng không lo.
Nói xong, mắt đỏ hoe. Bảo Ngọc nói:
- Thôi, thôi, đừng nhắc đến chuyện ấy nữa.
Tương Vân nói:
- Nhắc đến chuyện ấy thì sao? Tôi biết bụng anh rồi. Anh chỉ sợ cô Lâm nhà anh nghe thấy, lại tức tối vì tôi chỉ biết khen cô Bảo thôi. Có phải thế không?
Tập Nhân đứng cười khì một tiếng, nói:
- Cô Vân bây giờ lớn lên, bụng dạ thẳng thắn, có gì nói tuột ngay ra.
Bảo Ngọc cười nói:
- Tôi thường bảo mấy chị em các cô thực khó nói chuyện quá, quả là không sai.
Tương Vân nói:
- Thôi xin anh đừng nói nữa, lại làm cho tôi bực mình. Bây giờ trước mặt tôi thì anh nói thế, nhưng khi gặp cô Lâm nhà anh, chẳng biết anh lại tán tụng đến thế nào.
Tập Nhân nói:
- Thôi đừng nói chuyện đùa nữa, tôi có một việc cần nhờ cô
- Việc gì đấy?
- Có một đôi giày, tôi đã cắt vải rồi, nhưng mấy hôm nay người không được khỏe, nên không làm được. Cô có rỗi làm giúp hộ tôi.
- Lạ thật! Nhà chị bao nhiêu là người khéo, biết thêu thùa, biết cắt may, tại sao lại nhờ tôi làm? Công việc của chị nhờ ai mà chả được?
Tập Nhân cười nói:
- Cô lại hồ đồ rồi! Cô vẫn chưa biết à? Những đồ thêu thùa trong nhà này, có phải người biết thêu thùa là làm được đâu!
Tương Vân nghe nói, biết ngay là giày của Bảo Ngọc, cười nói:
- Đã thế thì tôi làm hộ chị. Nhưng có một điều là, có thực của chị thì tôi mới làm, chứ của người khác thì tôi không làm đâu.
- Cô lại khéo giở trò! Tôi là người thế nào mà dám nhờ cô thêu hộ giày. Nói thực với cô, đây không phải là giày của tôi. Nhưng bất cứ của ai, nếu cô làm hộ thì tôi biết ơn cô là đủ rồi.
- Cứ lẽ ra tôi đã làm hộ chị nhiều thứ rồi, bây giờ chắc chị cũng hiểu vì sao tôi không làm hộ.
- Tôi vẫn chưa hiểu gì cả.
- Tôi nghe nói đã có lần mang cái quạt của tôi ra sánh với cái quạt của người ta, rồi tức bực cắt tan ra. Tôi biết, chị lại còn giấu tôi à? Bây giờ chị lại bảo tôi làm, thế ra tôi là đầy tớ các người đấy nhỉ?
Bảo Ngọc cười nói:
- Hôm trước, thực không biết cái đó là của em làm!
Tập Nhân cười:
Cậu ấy thực không biết là của cô làm, đó là tôi nói dối cậu ấy rằng gần đây ở ngoài phố có em bé làm quạt rất khéo, cắt được những kiểu hoa lạ lắm. Tôi lấy một cái đem về xem có đẹp hay không. Cậu ấy tin là thật, đưa cho người này người nọ xem, không ngờ lại làm cô Lâm tức giận, đem cắt ra làm đôi. Sau cậu ấy lại bảo tôi thuê làm một cái khác, tôi mới nói thực là của cô làm. Cậu ấy thấy vậy hối hận không biết chừng nào!
Tương Vân nói:
- Như thế lại càng lạ lắm. Việc gì đến cô Lâm mà cô ấy phải tức. Cô ấy đã biết cắt, chắc cô ấy phải biết làm.
Tập Nhân nói:
Cô ấy không làm đâu. Như thế mà cụ còn sợ cô ấy khó nhọc đấy! Thầy thuốc lại bảo nên tĩnh dưỡng nhiều cho khỏe. Như vậy thì ai còn dám phiền cô ấy làm nữa? Năm ngoái, suốt cả năm cô ấy chỉ làm được có một cái túi hương, giờ đã nửa năm rồi, vẫn chưa thấy đụng đến kim chỉ.
Đương nói thì có người vào trình “Có khách ở phố Hưng Long đến chơi, ông gọi cậu Hai ra tiếp”. Bảo Ngọc nghe nói, biết ngay là Giả Vũ Thôn, trong bụng rất khó chịu. Tập Nhân vội đi lấy quần áo. Bảo Ngọc vừa xỏ giày vừa lẩm bẩm: “Đã có ông ngồi tiếp ông ta là đủ rồi, việc gì lần nâo cũng đòi gặp tôi”.
Tương Vân phe phẩy cái quạt cười nói:
- Vì anh khéo chiều khách, nên ông mới bảo anh ra tiếp.
- Nào phải ông bảo đâu, chỉ tại cái lão ấy muốn gặp tôi đấy thôi.
- Chủ mà nhã thì khách năng đến chơi, chắc là anh có nhiều điều tốt làm ông ta lưu ý đến, mới muốn gặp anh.
- Thôi, thôi, tôi không dám hứng lấy những cái nhã ấy, chẳng qua tôi là một người tục, tục nhất trong đám tục, không muốn đi lại với hạng người ấy!
- Cái tính ấy vẫn chưa chịu bỏ. Bây giờ anh lớn rồi, dù anh không muốn thi đỗ cử nhân tiến sĩ, thì cũng nên năng gặp gỡ những bậc quan sang, bàn đến bước đường tiến cử để ra gánh vác việc đời, giúp nước giúp dân, nên cần phải có bạn bè qua lại. Chứ quanh năm anh cứ luẩn quẩn với bọn chị em chúng tôi, thì còn làm được trò trống gì nữa?
Bảo Ngọc nghe thấy những câu ấy, trái tai lắm, liền nói:
- Xin mời cô sang ngồi chơi bên nhà khác. Chứ nhà tôi đây thực làm nhơ bẩn đến những người hiểu việc trị nước giúp dân ấy.
Tập Nhân vội nói đỡ
- Thôi, cô đừng nói chuyện với cậu ấy nữa. Kỳ trước cô Bảo cũng có một lần nói đến việc này, cậu ấy không nể mặt, đằng hắng một tiếng rồi xỏ giày đi luôn. Cô Bảo đang nói, thấy cậu ấy bỏ đi, thẹn đỏ mặt lên, không biết nên nói hay đừng. May là cô Bảo, chứ cô Lâm thì chưa biết sinh chuyện đến thế nào, khóc lóc đến thế nào. Nhắc đến chuyện này, người ta phải kính phục cô Bảo, cô ấy ngồi một lúc rồi về. Tôi không đành lòng, cho là cô ấy thế nào cũng giận, không ngờ sau đã lại tử tế như thường, thực là người có độ lượng, bụng dạ rất là rộng rãi. Ai ngờ cậu ấy lại không chơi thân với cô ta! Còn cô Lâm, hễ thây cậu ấy giận là cô ta không cần nhìn đến, dần dần cậu ấy lại phải đến xin lỗi, cứ thế không biết bao nhiêu lần.
Bảo Ngọc nói:
- Cô Lâm có bao giờ nói những câu nhảm ấy đâu? Nếu nói đến thì tôi đã xa cô ấy từ lâu rồi.
Tập Nhân và Tương Vân lắc đầu cười nói:
Những câu ấy mà nhảm à?
Đại Ngọc biết trước là Tương Vân sang chơi thế nào Bảo Ngọc cũng nhắc đến chuyện con kỳ lân, nghĩ bụng: “Gần đây Bảo Ngọc hay xem những chuyện tiểu thuyết, phần nhiều giai nhân, tài tử được gặp nhau là do những đồ chơi lặt vặt, khéo léo xe nên, hoặc là do uyên ương, hoặc là do phượng hoàng, hoặc là vòng ngọc, dây vàng, hoặc là khăn giao(1) dây loan đều nhờ những vật nhỏ ấy mà thỏa được ý nguyện suốt đời”. Nay thấy Bảo Ngọc có con kỳ lân, tất sẽ mượn cái ấy mà sinh chuyện, hòng khêu gợi tình tứ với Tương Vân chăng? Vì thế Đại Ngọc lẳng lặng đi đến, tùy cơ để dò xét ý tứ hai người, không ngờ vừa tới nơi, nghe thấy Tương Vân đương nói việc trị nước giúp dân, và nghe Bảo Ngọc trả lời: “Không khi nào cô Lâm lại nói nhưng câu nhảm ấy, nếu nói đến, tôi đã xa cô ấy lâu rồi”.
Đại Ngọc nghe vậy, mừng mừng, sợ sợ, tủi tủi, thương thương. Mừng là: mắt mình không nhầm, ngày thường vẫn cho anh ấy là ngưòì tri kỷ, giờ quả thực như vậy. Sợ là: trước mặt người khác, anh ấy vẫn nghĩ đến mình, vẫn khen ngợi mình, đủ biết mối tình nồng nàn không hề e ngại tý gì; tủi là: anh đã là tri kỷ của tôi, thì tất nhiên tôi cũng là tri kỷ của anh. Anh và tôi đã là một đôi tri kỷ, thì tại sao lại còn có chuyện “vàng” với “ngọc”. Mà dù có chuyện “vàng ngọc” thì vàng ngọc ấy đáng lẽ là của anh và của tôi, chứ tại sao lại còn có cô Bảo Thoa nữa? Thương là: cha mẹ mất sớm, dù có những lời ghi lòng tạc dạ, nhưng không có ai tác thành cho ta. Vả chăng, gần đây đã chớm có bệnh, tinh thần hoảng hốt. Thầy thuốc bảo: “Khí suy huyết kém, sợ rồi sinh ra chứng lao”. Tôi dù là tri kỷ của anh, nhưng sợ không thể chờ lâu được. Anh dù là tri kỷ của tôi, nhưng tôi bạc mệnh thì làm thế nào? Nghĩ đến nông nỗi ấy, Đại Ngọc không cầm nổi nước mắt; muốn đi vào để gặp nhau, nhưng lại nghĩ hơi trẽn, đành gạt nước mắt quay về.
Bảo Ngọc vội vàng mặc quần áo rồi đi ra, thấy Đại Ngọc lững thững đi trước, hình như đương gạt nước mắt, liền chạy ngay đến, cười hỏi:
- Em ơi, đi đâu đấy? Làm sao lại khóc? Lại ai có lỗi với em thế?
Đại Ngọc quay lại thấy Bảo Ngọc, liền gượng cười nói:
- Em có khóc đâu.
- Em xem, nước mắt chưa ráo, lại còn nói dối à!
Vừa nói, Bảo Ngọc vừa giơ tay lên lau nước mắt hộ, Đại Ngọc vội lùi lại mấy bước nói:
- Anh lại muốn chết đấy! Làm trò gì mà ngứa ngáy chân tay như thế?
- Mải nói chuyện quá anh quên hẳn đi, tay tự nhiên ngứa ngáy, không nghĩ gì đến sống hay chết cả.
- Chết thì đáng kể gì, chỉ có điều là phải bỏ lại vàng, và con kỳ lân nào đó, thì làm thế nào!
Câu ấy làm cho Bảo Ngọc phát cáu, vội chạy đến hỏi:
- Em nói không câu này, là rủa tôi hay là chọc tức tôi?
Đại Ngọc nghĩ ngay đến việc hôm trước, hối hận mình đã trót nông nổi, liền cười nói:
- Anh đừng cáu vội, em nói lỡ lời đấy. Câu ấy có can hệ gì đâu? Thế mà mắt đã nổi gân lên, mồ hôi đã toát ra.
Vừa nói vừa đến gần giơ tay lau mồ hôi cho Bảo Ngọc.
Bảo Ngọc nhìn một lúc rồi nói:
- Em hãy cứ yên tâm.
Đại Ngọc ngẩn người ra một lúc rồi nói:
- Có việc gì mà em không yên tâm? Em không hiểu câu nói của anh. Anh nói lại xem thế nào là yên tâm với không yên tâm?
Bảo Ngọc thở dài một cái hỏi:
- Quả thực em không hiểu câu ấy à? Không lẽ lòng anh gắn bó với em từ bấy lâu nay đều là nhầm cả hay sao? Ngay đến tính nết của em, anh cũng không biết chiều chuộng, chả trách ngày nào em cũng vì anh đâm ra bực tức.
Đại Ngọc nói:
- Quả thực em không hiểu câu nói yên tâm hay không yên tâm.
Bảo Ngọc lắc đầu thở dài:
- Thôi em đừng giấu anh nữa. Nếu quả thực em không hiểu câu ấy, thì không những uống cả tấm lòng của anh bấy lâu nay, mà phụ cả tâm lòng của em đối với anh nữa. Chỉ vì em không yên tâm, thành ra đau ốm luôn. Nếu em được khoan khoái một chút, thì bệnh đến nỗi nào ngày càng nặng như thế.
Đại Ngọc nghe nói, người choáng lên như sấm ran sét đánh, ngẫm nghĩ từng ly từng tí, mới biết câu nói ấy rất thấm thía, hơn là moi tự trong gan trong ruột mình ra, có hàng vạn câu muốn nói, nhưng không nói ra được nửa lời, chỉ cứ trừng trừng nhìn Bảo Ngọc. Bấy giờ trong bụng Bảo Ngọc cũng có hàng vạn câu muốn nói, nhưng không biết bắt đầu từ câu gì, nên cũng trừng trừng nhìn Đại Ngọc. Hai người đứng đờ người ra một lúc, rồi Đại Ngọc ho một tiếng, nước mắt ròng ròng, quay đầu chực chạy. Bảo Ngọc vội kéo lại nói:
- Em ơi, đứng lại một tí, để anh nói một câu đã rồi hãy đi.
Đại Ngọc gạt nước mắt, đẩy tay Bảo Ngọc ra nói:
- Còn có câu gì đáng nói nữa? Những câu anh muốn nói em biết cả rồi.
Nói xong cắm đầu chạy ngay.
Bảo Ngọc vẫn cứ đứng ngẩn người ra nhìn. Lúc ra đi, Bảo Ngọc vội quá, nên không mang quạt. Tập Nhân sợ trời nóng, cầm quạt đuổi theo, thấy Đại Ngọc đứng đấy một lúc; Đại Ngọc đi, còn trơ Bảo Ngọc ở đấy, Tập Nhân vội chạy lại nói:
- Cậu quên không mang quạt, may tôi trông thấy, mang lại cho cậu.
Bảo Ngọc đương thờ thẫn vẩn vơ, nghe tiếng Tập Nhân, cũng không nhận ra được là ai, chỉ đờ mặt ra nói: “Em ơi! Nỗi lòng của anh lâu nay không dám nói ra, bây giờ anh cả gan nói ra, dù chết anh cũng cam lòng! Vì em mà anh đeo bệnh, nhưng đành cứ chịu, không dám nói với ai. Chỉ khi nào em khỏi bệnh, thì may ra bệnh anh mới khỏi được. Cả trong giấc ngủ mơ màng, anh cũng không bao giờ quên được em!”
Tập Nhân nghe nói, sợ hoảng hồn kêu to “Trời giết tôi!” Vội đẩy Bảo Ngọc ra nói:
- Cậu nói gì thế? Bị ma làm hay sao? Còn không đi à?
Bảo Ngọc tỉnh lại, mới biết là Tập Nhân, thẹn đỏ mặt lên, nhưng người vẫn ngớ ngẩn, liền cầm lấy cái quạt đi luôn, không nói câu gì.
Bảo Ngọc đi rồi, Tập Nhân ngẫm nghĩ lời nói vừa qua, tất là vì Đại Ngọc mà thốt ra, xem thế thì sau này e xảy việc không hay, làm cho người ta đáng ghê, đáng sợ. Biết tính thế nào để tránh khỏi cái tai vạ xấu xa này?
Tập Nhân đang đứng ngẩn người ra suy nghĩ, chợt Bảo Thoa ở đường kia đi đến cười nói:
- Trời nắng chang chang thế này mà chị đứng bêu ra đấy làm gì?
Tập Nhân vội cười nói:
- Có hai con chim sẻ đánh nhau, trông thấy cũng hay hay, nên tôi đứng xem.
Bảo Thoa nói:
- Cậu Bảo vừa mặc quần áo đi đâu thế? Tôi muốn gọi lại hỏi, nhưng thấy cậu ấy cứ cuống cuồng lên, nói chẳng ra đầu ra cuối, nên tôi cũng không hỏi, để mặc cậu ấy đi.
- Ông tôi gọi cậu ấy đấy.
- Ái chà! Trời nắng thế này, gọi cậu ấy đến làm gì? Lại quở phạt điều gì chăng?
- Không phải thế, nghe đâu có khách nào muốn gặp cậu ấy đấy.
- Cái ông khách nào chả có ý tứ gì cả, trời nắng thế này không ở nhà cho mát, lại đâm đầu đến đây làm gì?
- Cô cũng nói thế ư?
- Con bé Vân ở trong nhà các chị làm gì đấy?
- Cô ấy với chúng tôi vừa ngồi nói chuyện phiếm với nhau. Cô xem, đôi giày của tôi dán hôm trước, ngày mai sẽ nhờ cô ấy làm hộ.
Bảo Thoa nghe vậy, nhìn chung quanh không có ai, mới cười nói:
- Chị là người sáng suốt, thế mà sao có lúc không thể tất cho người ta? Gần đây tôi xem thần sắc, cử chỉ và lời ăn tiếng nói nửa kín nửa hở của cô ấy, biết rằng ở nhà cô ấy không được tự chủ tý nào! Nhà cô ấy sợ tiêu pha tốn kém, nên không thuê người may vá, hầu hết mọi cái đều tự tay người dì cô ta làm lấy cả. Mấy lần sang đây, hễ vắng người là cô ta lại kể với tôi về việc cửa việc nhà, làm lụng mệt chết đi được. Tôi hỏi đến chuyện chi tiêu trong nhà thế nào, thì mắt cô ấy đỏ hoe lên, miệng ấp úng, nói không ra lời. Xem tình cảnh cô ấy mồ côi mẹ từ bé, tất nhiên là chịu khổ. Trông thấy cô ấy, tự nhiên bụng tôi lại thấy đau xót!
Tập Nhân nghe vậy, vỗ tay nói:
- Phải rồi! Phải rồi! Thảo nào tháng trước tôi nhờ cô ấy đánh hộ mười cái dây con bướm. Mấy hôm sau, cô ấy mới cho người mang sang, và nói: “Hãy dùng tạm những thứ dây thô này, chờ khi nào thong thả, tôi sang ở luôn bên ấy, sẽ làm thứ khác đẹp hơn”. Giờ nghe cô nói, tôi mới nghĩ ra những việc chúng tôi nhờ trước đây, cô ấy đều không tiện từ chối. Nhưng có biết đâu cô ấy ở nhà cũng phải làm lụng vất vả, thâu canh suốt sáng như thế! Thực là tôi hồ đồ thực, chứ biết thế này thì tôi không dám nhờ cô ấy mới phải.
- Lần trước cô ấy có nói với tôi, ở nhà phải làm việc khuya đến tận canh ba; nếu làm hộ ai một tí gì thì bọn các bà các mợ bên ấy lại có vẻ không bằng lòng.
- Khốn nỗi cái cậu bướng bỉnh nhà ta, bất cứ việc lớn hay nhỏ, nhất thiết không để cho người trong nhà làm, mà tôi thì lại không làm xuể.
- Mặc cậu ấy! Cứ bảo người khác rồi nói dối mình làm là được.
- Giấu thế nào được. Cậu ấy nhận ra ngay. Thôi để tôi làm dần vậy.
- Thôi, chị đừng ngại, để đấy tôi làm hộ cho một ít cũng được.
- Thật thế chứ? Nếu vậy thì phúc cho tôi quá! Chiều hôm nay tôi sẽ mang đến nhờ cô.
Nói chưa dứt lời, chợt có một bà già chạy đến báo:
- Tin đâu đưa đến bất ngờ! Kim Xuyến tự dưng đâm đầu xuống giếng chết rồi!
Tập Nhân giật mình vội hỏi:
- Kim Xuyến nào đấy?
- Lại còn Kim Xuyến nào nữa? Kim Xuyến ở hầu bà Hai ấy. Hôm trước không biết vì việc gì nó bị đuổi; về nhà kêu trời kêu đất, khóc hết nước mắt, cũng không ai để ý đến. Rồi cũng chẳng ai để ý nó đi đâu, sau có người gánh nước nói: “Ở cái giếng đằng đông nam, có xác người chết”. Tôi chạy đi nhờ người vớt lên, không ngờ lại là nó! Họ nháo lên chữa chạy, nhưng có ăn thua gì!
Bảo Thoa nói:
- Lạ nhỉ.
Tập Nhân lắc đầu thở dài, nghĩ đến ngày thường cùng chung cảnh ngộ, tự nhiên nước mắt trào ra. Bảo Thoa tất tưởi chạy sang bên Vương phu nhân. Tập Nhân thì quay về nhà.
Bảo Thoa đến buồng Vương phu nhân, thấy im lặng như tờ, Vương phu nhân đương ngồi một mình, sụt sùi khóc ở trong buồng. Bảo Thoa không tiện gợi ra nữa, đành ngồi ghé một bên. Vương phu nhân hỏi:
- Cháu ở đâu đến đây?
- Cháu ở bên vườn sang.
- Nếu ở vườn sang, có gặp em Bảo không?
- Cháu mới trông thấy cậu ấy mặc quần áo đi ra, không biết đi đâu!
Vương phu nhân lắc đầu thở dài:
- Cháu có biết mới xảy ra một việc lạ không? Con Kim Xuyến tự nhiên đâm đầu xuống giếng chết rồi.
- Tự nhiên vô cớ, sao chị ấy lại đâm đầu xuống giếng? Lạ nhỉ?
- Hôm nọ nó đánh vỡ của ta một cái đồ dùng, ta nóng tiết đánh nó vài cái, rồi đuổi nó đi. Ta chỉ định làm ra thế mấy hôm rồi lại gọi nó về, không ngờ nó phẫn chí đâm đầu xuống giếng chết. Thế không phải tội lỗi ta hay sao?
Bảo Thoa cười nói:
- Dì là người nhân từ, nên nghĩ như thế. Chứ cháu đoán thì không phải nó tức bực mà đâm đầu xuống giếng đâu, có lẽ nó đứng gần, hay đùa nghịch gì ở bên giếng, sểnh chân bị ngã chăng? Nó ở nhà này bị bó buộc quen rồi, bây giờ được ra ngoài, tất là đi chơi đùa các nơi cho thích, chứ đến nỗi nào tức khí như thế. Nếu vì tức khí mà liều lĩnh, thì chẳng qua là hạng hồ đồ, không đáng tiếc làm gì?
Vương phu nhân lắc đầu thở dài:
- Dù sao trong bụng ta vẫn không yên được!
Bảo Thoa cười nói:
- Xin dì đừng nghĩ ngợi quá đến việc này; nếu không đành dạ, thì cho họ mấy lạng bạc để tống táng nó, thế là trọn tình chủ nhà đối với người ở rồi.
Vương phu nhân nói:
- Vừa rồi ta đã đưa cho mẹ nó năm mươi lạng bạc. Ta còn muốn cho thêm hai cái quần áo mới của chị em cháu, để khâm liệm cho nó, nhưng chị Phượng nói không có bộ nào mới may, chỉ có cháu Lâm có hai bộ để mặc ngày lễ sinh nhật. Ta xem ra, cháu Lâm ngày thường vốn hay tự lự; vả chăng bản mệnh nó lại có nhiều tai nạn, đã cho nó làm lễ sinh nhật, giờ đem làm đồ khâm liệm cho người khác, lại chẳng đáng kiêng hay sao? Vì thế ta đã cho gọi thợ may đến may một bộ áo mới cho nó. Nếu là đứa hầu khác, thì chỉ cho nó vài lạng bạc là đủ. Con Kim Xuyến tuy là đứa hầu, nhưng ngày thường nó vẫn ở gần gụi ta, so với con đẻ, cùng chả kém gì mấy.
Nói đến đây, nước mắt bà ta lại trào ra. Bảo Thoa vội nói:
- Dì cũng chẳng cần gì phải gọi thợ đến may nữa. Trước cháu có may hai bộ, mang ra cho nó, chả đỡ hay sao? Vả lại khi nó còn sống vẫn thường mặc quần áo cũ của cháu, kích thước cũng vừa vặn.
- Dù thế mặc lòng, nhưng cháu không kiêng hay sao?
- Xin dì cứ yên lòng, cháu không bao giờ để ý đến chuyện ấy.
Vừa nói vừa đứng dậy đi. Vương phu nhân liền sai người đi theo.
Một lúc, Bảo Thoa mang quần áo đến, thấy Bảo Ngọc ngồi cạnh Vương phu nhân, nước mắt giàn giụa, đương nghe Vương phu nhân giảng giải điều gì. Thấy Bảo Thoa đến, liền thôi không nói nữa. Trước tình cảnh ấy, Bảo Thoa xét lời nói, xem nét mặt, đã hiểu được phần nào rồi. Vương phu nhân gọi mẹ Kim Xuyến đến, đưa cho bọc quần áo mang về.
----------------------------------
(1). Theo sách thuật dị: có một giống người ở dưới biển như cá (giao nhân), dệt ra được thứ lụa đẹp, gọi là lụa giao.
Hồi thứ ba mươi ba
Coi anh như thù, giọng lưỡi ton hót
Đẻ con bất hiếu, roi vọt dập vùi
Vương phu nhân gọi mẹ Kim Xuyến đến, cho mấy cái trâm vòng và bảo mời sư đến đọc kinh siêu độ cho nó. Mẹ Kim Xuyến cúi đầu tạ ơn đi ra.
Khi Bảo Ngọc tiếp Vũ Thôn xong trở về, nghe tin Kim Xuyến xấu hổ tự vẫn, lòng rất đau xót, vừa bước vào cửa, lại bị Vương phu nhân quở trách một trận, không trả lời được câu nào. Chợt thấy Bảo Thoa đi vào, Bảo Ngọc nhân dịp lẻn ra ngoài, thờ thẫn không biết đi đâu, cứ tay chắp sau lưng, đầu cúi gầm, miệng than thở, lững thững đi ra phòng khách. Vừa qua tấm bình phong, Bảo Ngọc đâm phải một người từ ngoài bước vào. Người kia quát to “Đứng lại”, Bảo Ngọc giật nảy mình, ngẩng đầu lên nhìn, té ra là Giả Chính. Bảo Ngọc lạnh hẳn người đi, đành chắp tay đứng bên cạnh.
Giả Chính nói:
- Mày làm sao mà cúi đầu ủ rũ như vậy? Vừa rồi ông Vũ Thôn đến chơi, muốn gặp mày, gọi mãi mày mới chịu đến. Khi đến thì ăn nói toàn là những chuyện vụn vặt, nhỏ nhặt,không có một chút khoát đạt lưu loát nào. Tao xem mày vẻ mặt lúc nào cũng đầy rẫy những lo phiền, tình dục. Bây giờ làm gì mày lại than dài thở ngắn? Như thế này vẫn chưa được đủ, chưa được hả dạ hay sao?
Bảo Ngọc vốn tay lém lỉnh. Nhưng vì lúc này thương nhớ Kim Xuyến quá, đang băn khoăn không thể chết theo nó được nên cha quở mắng thế nào cũng mặc, cứ đứng đờ người ra.
Giả Chính đáng ra cũng không bực. Nhưng thấy Bảo Ngọc sợ quá, ăn nói khác hẳn ngày thường, nên đã nổi giận đôi phần. Giữa lúc ấy có người gác cửa vào trình:
- Có người bên phủ Trung Thuận Thân Vương xin vào hầu cụ lớn.
Giả Chính nghe nói, trong bụng nghi hoặc: “Xưa nay ta không hề chơi bời với phủ Trung Thuận, tại sao hôm nay lại có người đến đây?” Vừa nghĩ vừa bảo mời vào ngồi trong nhà khách. Ông ta vội vào nhà trong thay áo, rồi ra tiếp, té ra là quan trưởng phủ ở phủ Trung Thuận. Hai bên chào nhau xong, ngồi uống nước trà. Chưa kịp chuyện trò gì, thì quan trưởng phủ đã nói ngay:
- Không phải hạ quan này dám đường đột đến qúi phủ. Hôm nay tới đây là theo lệnh trên, xin phiền ngài vì Vương gia chúng tôi mà giúp cho, không những Vương gia chúng tôi được nhờ ơn, ngay cả bọn hạ quan chúng tôi cũng cảm tạ khôn xiết.
Giả Chính nghe nói, nghĩ mãi không biết chuyện gì, vội đứng dậy cười hỏi:
- Ngài đã thừa lệnh đức Vương đến đây, nếu có việc gì, cứ truyền rõ cho, chúng tôi xin tuân lệnh.
Quan trướng phủ cười nhạt:
- Không phải làm gì cả, chỉ xin ngài nói cho một câu là xong. Trong phủ chúng tôi có một con hát đóng vai nữ tên là Kỳ quan, mấy hôm nay không thấy về, cho đi tìm cũng không thây nó ở đâu. Chúng tôi phải cho người đi dò các nơi. Ở trong thành mười người thì tám người nói: Gần đây nó chơi thân với cậu em ngậm ngọc ở đây. Vì tôn phủ không phải như các nhà thường, nên không dám thiện tiện đến bắt. Bởi vậy hạ quan phải vào trình đức Vương. Ngài nói: “Con hát khác mất trăm đứa cũng không cần, nhưng tên Kỳ quan này là người cẩn thận, chắc chắn, biết lựa dịp ứng đáp, rất hợp ý già này, không thể nào bỏ nó được”. Vì thế, chúng tôi đến nhờ ngài bảo cậu Hai cho tên Kỳ quan về, để thỏa lòng Vương gia chúng tôi thiết tha mong đợi, và chúng tôi cũng đỡ phải đi tìm vất vả.
Nói xong, hắn liền vái một cái.
Giả Chính nghe nói, vừa sợ vừa giận, liền cho gọi Bảo Ngọc, Bảo Ngọc không biết là việc gì, vội chạy ra ngay.
Giả Chính hỏi:
- Thằng đáng chết kia! Mày ở nhà đã không chịu học hành thì thôi, lại còn dám càn bậy, làm những việc trái phép à? Tên Kỳ quan là người hầu thân của đức vua Trung Thuận. Mày là hạng người hèn hạ, dám quyến rũ nó, làm vạ lây đến ta!
Bảo Ngọc nghe nói giật mình, vội thưa:
- Thực con không biết việc này! Ngay hai chữ “kỳ quan” con cũng chẳng hiểu là cái gì, huống chi lại buộc cho con tiếng quyến rũ nữa.
Nói xong rồi khóc.
Giả Chính chưa kịp nói câu gì, quan trưởng phủ cười nhạt:
- Thôi, cậu đừng chối quanh nữa, cậu giấu nó ở nhà, hay biết nó ở đâu, xin cứ nói ra, để chúng tôi đỡ phải vất vả lại không cảm ơn cậu lắm hay sao?
Bảo Ngọc nói:
- Thực tôi không biết gì cả. Hay là người ta đồn bậy, cũng chưa biết chừng.
Quan trưởng phủ cười nhạt:
- Hiện có chứng cớ, sao cậu cứ cãi quanh. Trước mặt cụ lớn, tôi nói ra, tất cậu bị quở phạt. Bảo rằng không biết người ấy thì cái dây lưng đỏ của nó sao lại ở người cậu?
Bảo Ngọc nghe nói câu ấy, hồn vía lên mây, mắt trợn lên, mồm đờ ra, trong bụng nghĩ: “Sao hắn lại biết cả những việc rất kín của mình. Thế thì việc khác cũng không tài nào giấu được. Chi bằng ta nói quanh cho hắn về, để khỏi tiết lộ những chuyện khác”. Liền nói:
- Ngài đã biết đầu đuôi việc Kỳ quan, nhưng có việc lớn là nó mua nhà, sao ngài lại không biết? Tôi nghe nói hình như nó về Tử Đàn bảo, ở phía đông giao, cách thành độ hai mươi dặm gì ấy. Nó có mua mấy mẫu ruộng và làm mấy gian nhà ở đấy. Có lẽ nó về đấy cũng nên.
Quang trưởng phủ cười nói:
- Thế thì nhất định nó về đấy rồi, để tôi đi tìm xem. Nếu thấy thì thôi, bằng không, tôi lại đến phiền cậu.
Nói xong hắn vội vàng đi.
Giả Chính nghe xong, tức quá, mắt trợn lên, mồm xệch ra, vừa tiễn viên quan trưởng phủ ra, vừa ngoái lại quát Bảo Ngọc: “Không được đi đâu! Trở về tao sẽ bảo mày!” Đưa viên quan kia ra rồi, Giả Chính quay về, thấy Giả Hoàn dẫn mấy tên hầu nhỏ rối rít chạy đến. Giả Chính quát:
- Đánh chết những đứa kia đi cho tao!
Giả Hoàn trông thấy cha, sợ quá, run lên cầm cập, vội chạy lại, đứng cúi đầu. Giả Chính hỏi:
- Mày chạy đi đâu? Những người theo hầu đâu cả, sao không ai trông nom nó, để nó chạy nhông như ngựa thế này?
Rồi ông ta thét lên:
- Những đứa dẫn mày đi học chạy đâu cả?
Giả Hoàn thấy cha giận quá, nhân dịp nói:
- Con có chạy đâu, chỉ vì khi đi qua bên giếng, thấy một a hoàn chết đuối, con xem người ấy đầu sao mà to thế, người sao mà lớn thế!
Giả hình nghe vậy, giật mình, nghĩ bụng “Vô cớ mà ai lại đâm đầu xuống giếng thế? Nhà ta từ đời ông đời cha đều cư xử rộng rãi, nhân từ với kẻ dưới, có bao giờ xảy ra việc thế này? Có lẽ gần đây vì ta lười nhác, không trông nom việc nhà, để bọn người nhà lộng quyền giở lối cay nghiệt, đến nỗi xảy ra tai vạ, liều mình tự vẫn. Nếu người ngoài biết thì tiếng tăm ông cha mình còn ra làm sao nữa”. Rồi ông ta quát: “Gọi Giả Liễn và Lại Đại đến đây!”
Bọn hầu bé vâng lời định đi, thì Giả Hoàn vội đến nắm lấy áo Giả Chính rồi qùi xuống nói:
- Xin cha hãy bớt giận. Việc này trừ những người ở trong nhà mẹ con ra, thì không ai biết một tí gì. Con nghe đẻ con nói...
Nói đến đấy, nó liền trông ra xung quanh. Giả Chính biết ý, lừ mắt nhìn đám hầu bé. Đám hầu đều vội lui ra bên ngoài.
Giả Hoàn nói khẽ:
- Đẻ con nói: “Hôm nọ anh Bảo ở nhà mẹ con, kéo chị a hoàn là Kim Xuyến định cưỡng gian nhưng không được, rồi đánh chị ấy một trận, chị ấy tức quá đâm đầu xuống giếng chết!”
Chưa nghe dứt lời, Giả Chính giận quá, mặt xám lại, quát to: “Lôi thằng Bảo Ngọc đến đây!” Ông ta vừa nói vừa chạy vào thư phòng, quát lên:
- Hôm nay ai còn đến ngăn, thì ta sẽ mang hết cả mũ áo, cân đai và gia tài giao cho người ấy với thằng Bảo Ngọc. Ta đành chịu là người có tội, cạo trọc mớ tóc phiền não này đi, tìm đến nơi thanh vắng để khỏi nhục đến tiền nhân, vì đã đẻ đứa con ngỗ nghịch này!
Những môn khách và người hầu thấy Giả Chính như thế, biết ngay là vì ông ta giận Bảo Ngọc, nên ai nấy đều trợn mắt lè lưỡi, chạy đi ra ngoài cả. Giả Chính thở hồng hộc, ngồi ưỡn người trên cái ghế tựa, nước mắt giàn giụa, quát lên mấy tiếng: “Lôi thằng Bảo ra đây! Mang thừng gậy ra đây! Đóng hết cả các cửa lại! Hễ đứa nào mà báo tin cho nhà trong biết, thì ta đánh chết ngay lập tức!”
Bọn người hầu thấy vậy, đành phải vâng lời đứng yên. Có mấy người chạy đi bắt Bảo Ngọc.
Bảo Ngọc thấy Giả Chính truyền phải đứng yên không được chạy, lại thêm Giả Hoàn nói chêm vào mấy câu, biết ngay là có chuyện dữ. Bảo Ngọc đi loanh quanh ở ngoài hiên, muốn nhờ người vào báo tin cho nhà trong, nhưng không gặp ai cả. Ngay Bồi Dính cũng không biết đi biệt đâu mất. Đương lúc ngóng chờ, thì có một bà già đến, Bảo Ngọc mừng như bắt được của báu, liền chạy lại kéo bà già nói:
- Bà chạy ngay về nói: ông sắp đánh tôi đấy! Việc rất cần, bà về báo ngay cho tôi một tiếng!
Một đằng thì Bảo Ngọc vội quá, nói không được rõ ràng; một đằng thì bà già lại điếc đặc, không nghe rõ là nói gì, nên câu: “Nói ngay một tiếng” bà ta lại nghe ra “Nhảy ngay xuống giếng”, liền cười nói:
- Nó nhảy xuống giếng thì thây kệ nó, chứ việc gì đến cậu mà phải sợ?
Bảo Ngọc thấy bà ấy điếc, liền cáu lên:
- Bà ra gọi một đứa hầu nhỏ của tôi đến đây mau lên!
Bà già nói:
- Việc gì mà chẳng yên? Đã thu xếp xong cả rồi. Bà Hai lại cho nó quần áo, cho nó tiền bạc, còn gì mà chẳng yên?
Bảo Ngọc đương lúc cấp bách không biết làm thế nào, thì bọn người hầu của Giả Chính vào giục đi ra ngay. Giả Chính trông thấy Bảo Ngọc, mắt đỏ ngầu lên, không kịp hỏi đến những tội, như đi ra ngoài thì đùa bỡn bọn chèo hát, trao tặng của riêng, ở trong nhà thì bỏ học hành, cưỡng gian đầy tớ gái của mẹ, chỉ thét: “Khóa miệng nó lại, đánh cho chết đi!”
Bọn người hầu không dám trái lệnh, đành phải dằn Bảo Ngọc xuống cái ghế dài, cầm gậy to, đánh độ mười cái. Bảo Ngọc biết rằng mình có van cũng chẳng tha nào, đành khóc rống lên. Giả Chính cho là đánh khẽ quá, đá thằng cầm gậy, rồi giật lấy gậy, đánh thật mạnh mấy cái.
Bảo Ngọc xưa nay chưa từng chịu đau đớn như thế bao giờ, lúc đầu còn biết đau, khóc ầm lên; đến sau hơi thở dần dần yếu đi, kêu không ra tiếng. Những môn khách thấy thế, sợ xảy ra chuyện không hay, liền chạy cả đến khuyên ngăn. Nhưng Giả Chính khi nào chịu nghe? Ông ta nói:
- Các người hỏi xem những việc nó làm có đáng tha hay không? Tội ở các người ngày thường cứ hay nuông nó để nó hư hỏng thế này, lại còn đến khuyên ngăn à. Mai đây nó phạm tội giết cha giết vua, thì các người còn can vào lối nào?
Mọi người thấy câu nói dữ ấy, biết là Giả Chính bực lắm rồi, liền nhao lên đi tìm người vào báo nhà trong.
Vương phu nhân nghe nói, không kịp đến trình Giả mẫu, liền mặc áo, bất chấp có người hay không, vịn vào một a hoàn xăm xăm chạy thẳng vào thư phòng. Bọn môn khách và người hầu đều tránh không kịp.
Giả Chính đương muốn đánh nữa, thấy Vương phu nhân đến, cơn giận lại càng như lửa cháy đổ dầu thêm. Cái gậy cứ lia lịa vụt xuống càng nhanh càng mạnh. Hai đứa đè Bảo Ngọc vội buông tay ra. Bảo Ngọc đã nằm sóng sượt, không cựa quậy được nữa.
Giả Chính còn muốn đánh nữa, nhưng bị Vương phu nhân giữ gậy lại. Giả Chính nói:
- Thôi! Thôi! Hôm nay lại làm cho ta tức đến chết mới thôi đây!
Vương phu nhân khóc nói:
Thằng Bảo đáng đánh thực, nhưng ông cũng nên giữ lấy sức khỏe. Trời nóng nực, cụ lại đương khó ở; đánh chết thằng Bảo Ngọc là việc nhỏ, nếu cụ lo nghĩ sinh ốm, thì chẳng hóa ra việc to hay sao?
Giả Chính cười nhạt:
- Thôi đừng nói những câu ấy nữa. Đẻ ra cái giống ác nghiệt này, thì tôi cũng mang tội bất hiếu rồi! Ngày thường hễ tôi quở phạt nó lần nào, là y như có người đến bênh nó. Chi bằng nhân ngày hôm nay kết liễu cái đời thằng chó chết này đi để khỏi tai vạ về sau.
Nói xong ông ta định lấy thừng thắt cổ Bảo Ngọc cho chết đi.
Vương phu nhân liền ôm lấy Bảo Ngọc khóc:
- Đã đành ông lo dạy con, nhưng cũng nên nghĩ đến tình vợ chồng một chút. Nay tôi đã năm mươi tuổi đầu, chỉ có một mụn tội nợ này thôi, nếu đánh nó để răn dạy, thì tôi không dám can ngăn. Nhưng ông định đánh chết nó, thì chẳng hóa ra ông cố tình đoạn tuyệt đời tôi hay sao? Ông định thắt cổ cho nó chết, thì hãy thắt cổ tôi trước, mẹ con tôi không dám oán trách nửa lời, để khi chết xuống âm ty, mẹ con tôi sẽ nương tựa nhau.
Nói xong, bà ta ôm lấy Bảo Ngọc khóc ầm lên.
Giả Chính thở dài, vào ghế ngồi, nước mắt nhỏ xuống như mưa. Vương phu nhân thấy Bảo Ngọc mặt nhợt hẳn, hơi đã yếu đi. Cái quần đùi xanh mặc trong người đẫm cả máu, khi cởi thắt lưng ra, thấy từ mông xuống đùi, chỗ thâm chỗ tím, chỗ thì nổi cục, chỗ thì toạc thịt ra, chẳng còn tý nào nguyên vẹn cả. Bà ta bất giác òa khóc to và kêu lên:
- Đứa con xấu số này.
Nhân câu “Đứa con xấu số” bà ta lại nhớ ngay đến Giả Châu, liền gọi ngay tên Giả Châu lên khóc và nói:
- Nếu con còn sống, thì dù chết một trăm đứa con khác ta cũng không cần!
Thấy Vương phu nhân đi ra, Lý Hoàn, Phượng Thư và chị em Nghênh Xuân, Thám Xuân đều chạy đến; nghe thấy Vương phu nhân khóc và gọi tên Giả Châu, người khác không sao, chứ Lý Hoàn thì nhịn làm sao được, chị ta cũng sụt sùi thổn thức khóc theo. Giả Chính thấy thế, lại nước mắt ròng ròng chảy xuống. đương lúc nhốn nhao, thì a hoàn vào trình: “Cụ đã đến”. Nói chưa dứt lời, đã nghe ở ngoài cửa sổ có tiếng nói run run:
- Đánh chết ta trước đã, rồi hãy đánh chết nó, thế là yên chuyện!
Giả Chính thấy mẹ sang, vừa hoảng sợ vừa thương xót, vội chạy ra đón. Giả mẫu vịn vào một a hoàn đi đến, đầu lắc lư, hơi thở hổn hển. Giả Chính đến gần, cúi đầu cười nói:
- Trời đương nóng nực thế này, mẹ có việc gì, cứ gọi con đến truyền bảo, cần gì phải thân hành đến đây?
Giả mẫu nghe nói, liền đứng lại thở một lúc rồi quát ầm lên:
- Thế ra anh cũng thèm nới chuyện với tôi à! Tôi có câu chuyện muốn nói, nhưng đời tôi không đẻ được người con nào khác, còn bảo tôi nói với ai bây giờ?
Giả Chính nghe câu nới khác hẳn ngày thường, liền rưng rưng nước mắt quì xuống:
- Con sở dĩ phải dạy dỗ nó, là vì muốn làm rạng vẻ ông cha; giờ mẹ nói thế thì con chịu sao nổi?
Giả mẫu nghe nói nhổ toẹt một cái nói:
- Ta mới nói có một câu, anh đã không chịu được, thế thì anh vác gậy đánh vùi đánh dập thằng Bảo như thế kia, liệu nó có chịu được không? Anh nói rằng anh dạy dỗ con cái để làm rạng vẻ ông cha thế thì ngày trước cha anh đã dạy anh như thế nào?
Nói xong, tự nhiên nước mắt ròng ròng, Giả Chính gượng cười nói:
- Xin mẹ đừng thương cảm làm gì, chỉ vì lúc nãy con nóng tính quá. Từ giờ trở đi con không dám đánh nó nữa.
Giả mẫu cười nhạt:
- Anh không cần giận lây với tôi. Nó là con anh, muốn đánh thế nào anh cứ đánh. Chắc rằng mẹ con bà cháu chúng tôi ở đây chỉ làm phiền anh thôi, chi bằng xa anh ra là hết chuyện.
Nói xong liền sai người: “Sắp sẵn kiệu, ta cùng bà mày và thằng Bảo đi về Nam Kinh ngay”... Người nhà đành phải vâng lời.
Giả mẫu bảo Vương phu nhân:
- Chị không nên khóc lắm. Bây giờ thằng Bảo nó còn bé, thì chị thương nó. Sau nó lớn lên, ra làm ông nọ ông kia, chưa chắc nó đã nhớ đến công lao chị đứt ruột đẻ ra nó đâu. Bây giờ chị không thương nó, sau sẽ bớt được sự bực tức cũng chưa biết chừng.
Giả Chính nghe vậy, vội cúi đầu nói:
- Mẹ nói câu ấy thì con không còn có chỗ nào mà đứng ở trên đời này nữa.
- Rõ ràng anh làm cho ta không còn có chỗ nào đứng, mà lại còn đổ lỗi cho ta? Chỉ có cách là chúng ta đi hẳn, thì anh sẽ được rảnh rang, chả còn ai dám ngăn cấm anh đánh nó nữa!
Giả mẫu bảo người hầu: “Sắm sửa ngay hành lý và xe kiệu để ta đi”. Giả Chính liền quỳ rạp xuống, cúi đầu lạy.
Giả mẫu đến xem Bảo Ngọc, thấy lần này Bảo Ngọc bị đòn đau quá, không như những lần trước. Vừa thương cháu, vừa giận con, Giả mẫu khóc mãi không thôi. Vương phu nhân cùng Phượng Thư khuyên giải hồi lâu, mới nguôi dần, không khóc nữa.
Bọn a hoàn, vú bõ chạy đến chực kéo Bảo Ngọc dậy. Phượng Thư mắng:
- Bọn mày khéo hồ đồ! Sao không mở mắt ra mà nhìn. Người như thế, dìu đi sao được. Hãy về mang cái ghế mây dài đến đây!
Mọi người nghe nói, vội chạy đi mang cái ghế dài đến, đặt Bảo Ngọc nằm xuống, theo Giả mẫu và Vương phu nhân đưa về nhà Giả mẫu.
Giả Chính thấy Giả mẫu chưa nguôi cơn giận, không dám tự tiện bỏ về, cũng đi theo luôn. Thấy Bảo Ngọc bị đánh đau quá. Vương phu nhân cứ kêu con luôn miệng và nói: “Nếu mày chết đi cho anh Châu mày sống, thì bố mày không đến nỗi tức giận thế này, và cũng không uổng tấm lòng tao suốt nửa đời người. Bây giờ mày có mệnh hệ nào, bỏ tao ở lại một mình, thì tao biết trông cậy vào đâu. Thằng ngu đần này!”
Bà ta cứ kêu rồi lại khóc, khóc rồi lại kêu. Giả Chính nghe vậy, lòng càng chán ngán, hối hận rằng lẽ ra mình không nên đánh quá tay như thế. Trước hết đến khuyên Giả mẫu. Giả mẫu rưng rưng nước mắt nói:
- Con hư thì phải dạy, nhưng anh không nên đánh nó đến thế! Anh không đi đi, còn đứng ở đây làm gì? Hay là anh chưa vừa lòng, còn muốn cho nó chết hẳn thì mới hả lòng hả dạ hay sao?
Giả Chính nghe nói, vâng lời đi ra.
Tiết phu nhân, Bảo Thoa, Hương Lăng, Tập Nhân và Tương Vân cũng đều chạy lại. Tập Nhân trong lòng đau xót, nhưng không tiện nói ra, thấy mọi người quây lấy Bảo Ngọc, người thì đổ nước, người thì quạt hầu, còn mình chẳng biết chen tay vào đâu, liền ra ngoài, sai đưa hầu nhỏ đi tìm Bồi Dính đến hỏi:
- Đang yên đang lành, chẳng có chuyện gì, tại sao lại bị đánh đau như thế, mà mày không về báo tin ngay?
- Tôi cũng không ở đấy. Khi đánh đến nửa chừng, tôi mới biết tin, vội đến hỏi nguyên do, thì ra vì việc con hát Kỳ quan và việc chị Kim Xuyến.
- Tại sao ông lại biết những việc ấy?
- Việc con hát Kỳ quan có thể là cậu Tiết ngày thường hay ghen tuông, không làm cách nào hả giận được, nên đã xúi giục người nào đến ton hót ông. Còn việc chị Kim Xuyến thì cậu Ba nói ra. Tôi nghe người hầu ông nói thế.
Tập Nhân nghe hai việc này gần khớp như nhau, trong lòng đã tin đến tám chín phần, liền quay trở về, thấy mọi người đang xúm lại chữa cho Bảo Ngọc. Công việc xong xuôi, Giả mẫu sai người khiêng Bảo Ngọc cẩn thận về nhà. Ai nấy vâng lời, ba chân bốn cẳng, khiêng Bảo Ngọc về viện Di Hồng, đặt nằm yên ở trên giường. Rối rít một lúc lâu, rồi kéo nhau vế. Bấy giờ Tập Nhân mới đến hầu và căn vặn hỏi han cặn kẽ câu chuyện.
Hồi thứ ba mươi bốn
Mối tình ngồn ngang, thấy tình cô em càng thêm thấm thía
Lỗi lầm chồng chất, lấy lầm khuyên anh xiết nỗi buồn rầu
Giả mẫu và Vương phu nhân đi rồi, Tập Nhân chạy đến bên cạnh Bảo Ngọc, nhỏ nước mắt hỏi:
- Tại làm sao mà cậu bị đánh đau đến thế?
Bảo Ngọc thở dài:
- Hỏi làm gì nữa? Chẳng qua cũng vì những việc ấy thôi! Nửa mình tôi đau lắm, chị thử xem đánh vào những chỗ nào.
Tập Nhân khẽ luồn tay cởi cái quần lót ra, mới chạm vào người một tý, Bảo Ngọc đã nghiến răng kêu “Đau”. Tập Nhân vội dừng tay lại, mãi ba bốn lần mới cởi ra được. Nhìn thấy nửa mông trên có những vết lằn nổi lên rộng bằng bốn ngón tay, vừa thâm vừa tím, Tập Nhân nghiến răng nói:
- Mẹ ơi! Làm sao mà lại đánh ác quá thế? Ngày thường cậu nghe lời tôi, thì đâu đến nỗi này. May không chạm đến gân cốt, chứ thành tật thì còn làm ăn gì.
Tập Nhân đương nói thì a hoàn vào báo “Cô Bảo đến”, Tập Nhân biết là không kịp mặc quần lót, liền lấy ngay cái chăn giải giường đắp lên cho Bảo Ngọc. Bảo Thoa tay cầm viên thuốc đi vào, đưa cho Tập Nhân:
- Chiều hôm nay chị lấy rượu mài viên thuốc này bôi cho cậu ấy, để tan những máu ứ đi, sẽ chóng khỏi đấy.
Bảo Thoa lại quay sang hỏi Bảo Ngọc:
- Bây giờ cậu đã khá chưa?
Bảo Ngọc cảm ơn nói:
- Đã hơi khá, mời chị ngồi.
Bảo Thoa thấy Bảo Ngọc mở mắt ra nói chuyện, đã khá hơn lúc nãy, trong bụng cũng đỡ lo, chỉ lắc đầu thở dài:
- Nếu cậu sớm chịu nghe lời mọi người thì đâu đến nỗi như ngày hôm nay? Chả cứ cụ và dì mà ngay chúng tôi trông thấy cũng phải đau lòng.
Bảo Thoa nói được nửa chừng thì nín hẳn lại, hối hận không nghĩ kỹ, tự nhiên má đỏ lên, đầu cúi xuống, không nói nữa. Nghe những lời thân mật, có ngụ ý sâu xa, lại thấy Bảo Thoa nín bặt không nói, má đỏ, đầu cúi xuống, tay mân mê dải áo, có dáng e lệ thẹn thò, không thể nào hình dung hết được, Bảo Ngọc trong lòng càng thêm cảm động, bao nhiêu đau đớn hình như đã trút sạch ra ngoài chín tầng mây. Bụng nghĩ: “Ta chẳng qua bị đánh có vài cái, thế mà chị em ai cung tỏ vẻ thương xót, thật là đáng thân, đáng kính! Nếu một ngày kia ta có mệnh hệ nào, thì không biết họ thương cảm đến đâu! Họ đối với ta thật tử tế như thế, dù ta có chết ngay, được họ thương tiếc nhường này, thì sự nghiệp cả đời ta có trôi ra bể đông, cũng không đáng tiếc. Trong chốn u minh, nếu không thư thái tâm tình thì thật là con quỷ hồ đồ!” Lại thấy Bảo Thoa hỏi Tập Nhân:
- Tại sao ông tự dưng đâm giận mà đánh cậu ấy như thế?
Tập Nhân liền kể cho Bảo Thoa nghe những câu Bồi Dính nói lúc nãy. Bảo Ngọc vẫn chưa biết Giả Hoàn nói xấu mình, thấy Tập Nhân nói, lại vương cả đến Tiết Bàn. Sợ Bảo Thoa chạm lòng, Bảo Ngọc gạt lời Tập Nhân, và nói:
- Anh Tiết không khi nào lại thế, các chị đừng nên đoán bậy.
Bảo Thoa biết ngay là Bảo Ngọc sợ mình không đành dạ, nên dùng lời ngăn Tập Nhân đi. Trong bụng nghĩ thầm: “Anh ấy bị đánh như thế, lại không nghĩ gì đến đau đớn, vẫn còn quá cẩn thận, sợ mang lỗi với người ta. Thật là anh đã hết sức giữ gìn đối với chúng tôi. Nhưng sao anh không lo đến những việc lớn ở ngoài, để ông được vui lòng, thì đến nỗi nào bị đòn như thế. Anh sợ tôi chạnh lòng nên ngắt lời chị Tập Nhân, nhưng tôi còn lạ gì tính nết anh tôi xưa nay là người ngông cuồng, phóng đãng, không một chút dè chừng hay sao? Ngày trước vì việc Tần Chung đã xảy ra những chuyện long trời lở đất. Bây giờ câu chuyện này càng ghê gớm hơn nhiều”. Bảo Thoa nghĩ vậy, cười nói:
- Chúng ta cũng không nên oán trách người này người khác, cứ ý tôi thì vì anh Bảo xưa nay thường hay chơi bời với những người ấy, nên ông mới nổi giận. Dầu anh Tiết tôi là người ăn nói không biết giữ gìn, buột miệng nói ra việc của anh Bảo, cũng không phải là có ý bới móc đâu: một là vì câu chuyện có thực, hai là vì anh tôi không hay nghĩ đến những chuyện dè chứng nhỏ nhặt. Chị Tập Nhân từ bé đến giờ chỉ biết có anh Bảo là người giữ gìn cẩn thận thôi, chứ anh tôi thì coi trời bằng vung, hễ bụng nghĩ gì, là nói tuột ra.
Tập Nhân thấy Bảo Ngọc gạt câu chuyện Tiết Bàn đi, biết ngay là mình nói hớ, sợ Bảo Thoa buồn rầu; sau thấy Bảo Thoa nói thế, lại đâm ra xấu hổ, không biết nói gì. Bảo Ngọc nghe Bảo Thoa nói vừa đường hoàng, thẳng thắn, lại gỡ được lòng hoài nghi của mình, trong người càng rạo rực. Đương muốn nói nữa, bỗng thấy Bảo Thoa đứng dậy nói:
- Ngày mai tôi sẽ lại thăm, anh cố tĩnh dưỡng đi. Vừa rồi tôi đưa viên thuốc cho chị Tập Nhân, đến chiều bôi đi thì sẽ bớt đấy.
Nói xong đi ra. Tập Nhân theo đến ngoài sân nói:
- Phiền cô quá. Hôm nào cậu Bảo khỏi, sẽ sang tận nơi cám ơn.
Bảo Thoa quay lại cười nói:
- Có gì đâu? Chị cứ khuyên anh ấy tĩnh dưỡng, đừng nghĩ ngợi lan man, sẽ chóng khỏi ngay. Anh ấy muốn ăn cái gì chơi cái gì thì cứ khẽ sai người sang bên tôi mà lấy, chả cần để cho cụ và dì tôi cùng mọi người biết nữa. Nếu đến tai dượng tôi thì dù việc chẳng can gì, nhưng sau lỡ xảy chuyện e không hay đấy.
Nói xong rồi đi.
Tập Nhân quay về, trong bụng rất cảm ơn Bảo Thoa.
Khi vào nhà, trông thấy Bảo Ngọc có dáng im lặng, trầm ngâm, giở thức giở ngủ, Tập Nhân bèn ra ngoài buồng rửa mặt chải đầu. Bảo Ngọc nằm thiếp trên giường, mông đau như kim châm, dao cắt, người nóng như lửa đốt, hễ cựa quậy một tý, là phải kêu lên mới chịu được. Bấy giờ trời sắp chiều, Tập Nhân đi ra, trong nhà chỉ có vài ba a hoàn đứng hầu, không có việc gì đáng sai, Bảo Ngọc liền bảo:
- Các cô hãy đi ra ngoài rửa ráy, khi nào tôi gọi sẽ đến.
Mọi người đều đi ra.
Bảo Ngọc đương nằm mê man, thấy Tưởng Ngọc Hàm tiến vào, kể việc phủ Trung Thuận tìm bắt hắn. Một chốc lại thấy Kim Xuyến đến khóc lóc, kể lể vì tại cậu mà tôi phải đâm đầu xuống giếng. Bảo Ngọc nửa tỉnh nửa mê, không để ý đến. Đương lúc bàng hoàng hoảng hốt, chợt có người lay dậy, nghe những tiếng khóc lóc thảm thương, Bảo Ngọc giật mình thức tỉnh giương mắt nhìn, thì không phải người nào xa lạ mà chính là Đại Ngọc. Ngỡ là mình nằm mê, Bảo Ngọc vội vươn người lên nhìn chòng chọc vào tận mặt người kia, thì thấy hai mắt sưng bằng hai quả nhót, nước mắt giàn giụa trên mặt, không phải Đại Ngọc thì còn là ai? Bảo Ngọc muốn nhìn nữa, nhưng vì nửa người phía dưới đau quá không thể chịu nổi, liền kêu “Ối chào” một tiếng, rồi lại nằm vật xuống, thở dài và nói:
- Em lại đến đây làm gì? Mặt trời mới lặn, đất hãy còn nóng, nếu bị cảm nắng, thì làm thế nào? Anh bị đòn, không đau lắm đâu. Anh giả cách làm ra thế này để đánh lừa họ đồn đại đến tai ông đấy thôi, em đừng tin là thực.
Bấy giờ Đại Ngọc khóc không ra tiếng, cứ nức nở sụt sùi càng thêm não ruột. Bảo Ngọc nói xong, Đại Ngọc lòng càng ngổn ngang trăm mối, nghẹn ngào không nói ra lời, lúc lâu mới ngập ngừng:
- Từ rày anh nên chừa đi nhé!
Bảo Ngọc thở dài một tiếng:
- Em cứ yên tâm, đừng nói nữa. Anh có vì những người ấy mà chết đi, thì cũng cam lòng.
Chợt người ngoài vào báo: “Mợ Hai đến đấy”. Đại Ngọc biết ngay là Phượng Thư đến, vội đứng dậy nói:
- Tôi ra sân sau đây, chốc nữa sẽ đến.
Bảo Ngọc kéo Đại Ngọc lại nói:
- Ấy mới lạ chứ, việc gì mà sợ chị ấy?
Đại Ngọc giậm chân khẽ nói:
- Anh trông mắt tôi đây này! Rồi họ mang chúng ta ra làm trò cười đấy.
Bảo Ngọc vội buông tay ra. Đại Ngọc liền rảo cẳng đi quanh sau giường, vừa ra đến sân sau, thì Phượng Thư đã ở ngoài bước vào, hỏi Bảo Ngọc “Đã khá chưa? Muốn ăn gì thì bảo người sang bên chị mà lấy”. Tiếp đó là Tiết phu nhân đến. Một chốc Giả mẫu lại sai người đến.
Mãi lúc lên đèn, Bảo Ngọc chỉ húp hai ngụm cháo rồi mê mẩn nằm thiếp đi. Sau đó bọn vợ Chu Thụy, vợ Ngô Tân Đăng và vợ Trịnh Hảo Thời, mấy người già này xưa nay vẫn năng lui tới, nghe tin Bảo Ngọc bị đòn, họ đều đến thăm. Tập Nhân vội ra đón và khẽ cười nói:
- Các thím đến hơi chậm, cậu ấy đã ngủ rồi.
Liền dắt bọn họ sang nhà bên ngồi, pha nước mời uống. Mấy bà này lẳng lặng ngồi một lúc, rồi nói với Tập Nhân:
- Lúc nào cậu dậy, chị nói hộ, chúng tôi sang thăm.
Tập Nhân nhận lời đưa họ đi ra, vừa quay vào thì Vương phu nhân sai một bà già sang nói:
- Gọi một người nào hầu cậu Hai sang cho bà hỏi.
Tập Nhân nghĩ một lúc, rồi quay lại khẽ bảo bọn Tình Văn, Xạ Nguyệt, Đàn Vân và Thu Văn:
- Bà gọi đấy, các em ở nhà hầu hạ cẩn thận nhé, chị đi một tí rồi về.
Nói xong, Tập Nhân cùng bà già ra khỏi vườn, đi lên nhà trên.
Vương phu nhân đương ngồi trên giường phe phẩy cái quạt ba tiêu, trông thấy Tập Nhân đến, liền bảo:
- Con bảo ai sang chả được, lại bỏ nó mà đi, thì ai hầu hạ nó.Tập Nhân cười nói:
- Cậu ấy vừa mới ngủ, mấy a hoàn bên nhà bây giờ đã biết hầu rồi, xin bà cứ yên lòng. Con nghĩ bà có việc gì cần dặn bảo, nếu sai bọn họ sang, sợ nghe không hiểu lại lỡ mất việc.
- Cũng không có việc gì, chỉ hỏi giờ nó đau ra làm sao thôi.
- Cô Bảo đưa thuốc sang, con xoa cho cậu ấy, thấy đã khá hơn. Trước đau lắm, nằm không yên, giờ đã ngủ được.
- Nó đã ăn gì chưa?
- Cụ vừa cho một bát cháo, cậu ấy húp được hai ngụm, thì kêu khát lắm, đòi uống nước mơ. Con sợ nước mơ là thứ hay thu vào, mà cậu ấy vừa bị đánh, lại không cho kêu, e rằng máu nhiệt đọng ở trong tim, nếu uống, trong bụng cồn cào, bệnh sẽ nặng thêm thì làm thế nào? Vì thế con ngăn mãi cậu ấy mới chịu thôi, chỉ hòa một ít nước quả mai khôi canh đặc với nước đường, uống được nửa chén nhỏ, lại bảo chán, không thơm không ngọt gì cả.
- Ối chà! Sao con chẳng nói sớm cho ta biết? Hôm nọ có người biếu mấy chai nước thơm, ta định cho nó một ít, nhưng sợ nó làm phí của, nên không cho. Giờ nó đã chán không muốn uống nước mai khôi thì con mang hai chai này về, cứ lấy độ một thìa con pha vào một bát nước thì thơm lừng lên.
Nói xong, liền gọi Thái Vân đem mấy chai nước móc thơm hôm nọ ra, Tập Nhân nói:
- Chỉ xin hai chai thôi, nhiều sợ bỏ đi phí của. Khi nào dùng hết, sẽ lại sang xin.
Thái Vân đi một chốc, mang hai chai đến đưa cho Tập Nhân. Tập Nhân nhìn thấy hai chai pha lê chừng ba tấc, trêncó nút bạc xoáy trôn ốc, dán giấy vàng, một chai đề chữ: “Mộc tê thanh lộ”(1), một chai đề chữ “Mai khôi thanh lộ”(2). Tập Nhân cười nói:
- Thứ này chắc quý lắm! Chai nhỏ thế thì chứa được bao nhiêu?
- Thứ đem tiến vua đấy. Con không thấy dán giấy vàng ở trên nút à? Phải cất đi cẩn thận cho nó, không được bỏ phí của.
Tập Nhân vâng lời, sắp đi ra, Vương phu nhân lại gọi:
- Hãy đứng lại, ta sực nhớ điều này muốn hỏi con!
Tập Nhân vội quay lại. Vương phu nhân thấy trong buồng không có ai, liền hỏi:
- Ta nghe đâu thằng Hoàn ton hót gì với ông, nên thằng Bảo bị đòn, có phải thế không? Có gì con cho ta biết, ta không nói lộ với ai đâu.
- Con không nghe thấy điều ấy bao giờ, hình như cậu Hai giấu một người con hát của tước Vương nào ấy, người ta đến trình với ông, nên cậu ấy mới phải đòn.
Vương phu nhân lắc đầu nói:
- Việc ấy đã đành rồi, lại còn việc khác nữa kia.
- Việc khác thì con không biết. Bây giờ trước mặt bà, con xin cả gan nói thẳng, cứ lẽ ra thì...
Tập Nhân nói nửa chừng rồi lại nín bặt, Vương phu nhân nói:
- Có gì con cứ nói ra.
- Xin bà đừng giận con mới dám nói.
- Con cứ nói, ta giận cái gì.
- Đúng ra thì cậu Bảo cần phải có ông dạy bảo luôn mới được; nếu người không trông nom đến, thì không biết chừng sau này cậu ấy sẽ còn gây ra nhiều chuyện.
Vương phu nhân nghe vậy, liền chắp tay niệm Phật, chợt gọi Tập Nhân:
- Con ơi! Con nói đúng đấy, ta cũng nghĩ thế; thực ra, có phải ta không biết dạy con đâu! Khi trước anh Châu mày còn sống, ta dạy bảo nó như thế nào, lẽ nào bây giờ ta lại không biết dạy bảo thằng Bảo. Nhưng có một điều này: bây giờ ta đã năm mươi tuổi đầu rồi, chỉ có một mình nó, từ bé đến giờ, nó lại ốm yếu luôn. Cụ lại quý nó như vàng như ngọc, nếu dạy bảo nhiều quá, lỡ xảy ra điều gì, cụ sẽ buồn rầu, trong nhà đâm ra lủng củng, thì lại càng không hay nữa. Vì thế ta nuông chiều nó. Không ngờ đâm ra hư hỏng. Ta thường lựa lời dạy bảo khuyên can, có khi đến khóc, nhưng nó cũng chỉ nghe được một lúc thôi, rồi đâu lại hoàn đây, nên mới xảy ra nông nỗi này. Nếu nó bị đánh chết, thì mai sau ta còn trông cậy vào ai nữa!
Nói xong nước mắt lại ròng ròng nhỏ xuống.
Tập Nhân thấy Vương phu nhân đau khổ như thế, trong bụng buồn rầu, nước mắt cũng rơi lã chã:
- Cậu Hai là con đẻ của bà, khi nào bà lại không thương? Chúng con là kẻ dưới hầu hạ lâu nay, nếu được mọi sự yên ổn, thật là phúc lớn. Chứ cứ như thế này, thì làm sao cho yên bề hầu hạ được. Ngày nào giờ nào con chẳng khuyên ngăn cậu ấy! Nhưng khuyên ngăn mãi cậu ấy vẫn không tỉnh ngộ. Lại có những hạng người cứ hay thậm thụt với cậu ấy, chẳng trách được cậu ấy đến nỗi thế này. Chúng con khuyên ngăn mãi cũng không tiện, bây giờ bà nhắc đến, con lại nhớ ra một việc, muốn trình bà xem người định đoạt ra sao; nếu bà có bụng ngờ, thì không những lời con nói không ăn thua gì, mà ngay con chết cũng không có chỗ chôn.
Vương phu nhân nghe câu nói có ý tứ, liền hỏi:
- Con ơi, có điều gì con cứ nói thẳng ra. Lâu nay ta thấy mọi người xung quanh ai cũng khen con. Ta vẫn cho là con chẳng qua chăm lo hầu hạ Bảo Ngọc, hòa nhã với mọi người, thế thôi. Ngờ đâu những câu con nói vừa đây, đều là việc lớn, rất hợp ý ta. Vậy con có điều gì, cứ nói thẳng ra, miễn là đừng để cho người ngoài biết là được.
- Con chẳng nói điều gì khác cả, con chỉ muốn bà tìm cách nào cho cậu ấy dọn ngay ra ở ngoài, không ở trong vườn nữa là xong chuyện.
Vương phu nhân nghe nói, giật nẩy mình, vội kéo tay Tập Nhân hỏi:
- Không lẽ thằng Bảo Ngọc đã giở trò bậy gì với ai chăng?
- Làm gì có chuyện ấy! Xin bà đừng quá nghĩ, đó chẳng qua là ý riêng của con đấy thôi. Bây giờ cậu Hai đã lớn rồi, các cô ở trong ấy cũng đã lớn cả, vả chăng cô Lâm và cô Bảo lại chỗ chị em con cô, con dì. Kể ra là chỗ chị em đấy, nhưng đằng la con gái, đằng là con trai, ngày đêm cùng ở một chỗ, đi đứng không tiện, lẽ nào chẳng làm cho người ta phải lo lắng, lỡ ra có ai nhìn thấy, thì họ có cho là việc trong nhà đâu. Tục ngữ có câu: “Phải nghĩ trước khi có việc”. Trên đời biết bao việc bất trắc xảy ra, phần nhiều là do mình vô tình, nhưng người ngoài họ để ý, lại cho là mình định tâm làm như vậy, rồi đem đi nói xấu. Vì vậy không đề phòng nhất định không được. Vả lại ngày thường tính nết cậu Hai thế nào, bà cũng đã biết cả rồi: cậu ấy cứ thích chơi đùa với bọn chúng con. Nếu không phòng ngừa trước đi, lỡ xảy ra sai lầm gì, không cứ việc thực hay hư, hễ nhiều người thì tất nhiên lắm chuyện. Những kẻ xấu bụng xấu dạ, họ có kiêng nể ai. Hễ bằng lòng ra thì khen tốt hơn đức Phật, không bằng lòng thì họ chê bai không bằng giống súc vật. Sau này có ai nói tốt cậu Hai thì mọi người cũng chỉ chợp mắt bỏ qua thôi, nếu như có người nới xấu cậu ấy một câu, thì chúng con dù có tan xương nát thịt, tội nặng muôn vàn, cũng chỉ là việc nhỏ, nhưng tiếng tăm, phẩm cách suốt đời của cậu ấy, chẳng hóa ra mất hết hay sao? Lúc bấy giờ, trước mặt ông nhà, bà cũng khó nói. Tục ngữ có câu: “Quân tử phòng thân”, chi bằng phòng ngừa ngay từ giờ là hơn. Bà bận việc, cố nhiên không có thì giờ nghĩ đến những chuyện ấy. Chúng con không nghĩ đến thì thôi, chứ đã nghĩ ra mà không trình bà biết thì tội càng nặng. Con lâu nay vì việc này mà ngày đêm áy náy, không dám nói với ai. Chỉ có ngọn thần đăng chứng tỏ nỗi lòng mà thôi.
Vương phu nhân nghe nói như sét đánh bên tai, chạnh nhớ đến việc Kim Xuyến, trong bụng càng yêu quý Tập Nhân, liền cười nói:
- Con ơi, con có lòng chăm lo chu tất thế, ta há lại chẳng nghĩ đến hay sao? Nhưng vì bấy lâu bận việc, ta quên mất. Những câu nói hôm nay làm ta tỉnh ngộ. Con nghĩ thật chu đáo giữ trọn thanh danh cho mẹ con ta, ta không ngờ con lại tốt như vậy. Thôi con hãy về đi, ta sẽ liệu cách. Nhưng có một điều này, con đã nói như thế, thì ta sẽ giao thằng Bảo cho con, lúc nào con cũng phải để ý trông nom giữ gìn nó, tức là con giữ gìn ta đấy. Chắc chắn là ta không phụ công con đâu.
Tập Nhân luôn luôn vâng lời. Về đến nhà, thấy Bảo Ngọc dậy, Tập Nhân bèn kể lại chuyện bà cho hai chai nước thơm. Bảo Ngọc mừng lắm, lập tức sai pha ra uống, thấy thơm tho lạ thường. Trong bụng nhớ ngay Đại Ngọc, Bảo Ngọc muốn sai người đi mời, nhưng lại sợ Tập Nhân ngăn lại, liền tìm cách sai Tập Nhân sang nhà Bảo Thoa mượn sách.
Tập Nhân đi rồi, Bảo Ngọc liền gọi Tình Văn đến bảo:
- Chị sang bên cô Lâm xem cô ấy làm gì? Nếu cô ấy hỏi thì bảo tôi đã khá rồi.
- Chẳng có việc gì, tự nhiên trơ tráo sang đấy sao tiện? Phải có một chuyện gì cho có việc chứ?
- Chẳng có việc gì đáng nói cả.
- Hoặc bày cách sang cho cái gì, hay sang mượn cái gì, nếu không thì tôi đến đấy biết nói thế nào?
Bảo Ngọc nghĩ một lúc, rồi giơ tay lấy hai cái khăn lụa cũ đưa cho Tình Văn, cười nói:
- Được rồi, chị cứ bảo rằng tôi sai chị đưa cái này cho cô ấy.
- Thế mới lạ chứ. Cô ấy cần hai mảnh khăn lụa dung dúc này làm gì? Chỉ tổ làm cho cô ấy giận, lại bảo cậu đùa cô ấy thôi.
Bảo Ngọc cười nói:
- Chị cứ yên tâm, thế nào cô ấy cũng hiểu.
Tình Văn đành phải cầm lấy khăn lụa, đến quán Tiêu Tương, gặp Xuân Tiêm đương đứng phơi khăn mặt ở ngoài hiên. Thấy Tình Văn đến, Xuân Tiêm vội xua tay nói: “Cô ấy ngủ rồi”. Tình Văn đi vào nhà, tối như mực, vẫn chưa thắp đèn, Đại Ngọc nằm ở trên giường, hỏi “Ai đấy?” Tình Văn vội trả lời: “Tình Văn đây”. Đại Ngọc hỏi: “Sang làm gì đấy?”. Tình Văn nói: “Cậu Hai bảo mang khăn lụa sang cho cô đây”.
Đại Ngọc nghe nói, trong bụng đâm ra buồn bực, nghĩ một mình: “đưa khăn lụa sang cho ta để làm gì đây?” Rồi hỏi:
- Khăn lụa này ai cho cậu ấy? Chắc đẹp lắm thì phải. Bảo cậu ấy để dành đưa cho người khác, chứ tôi không cần thứ ấy.
Tình Văn cười nói:
- Đó là khăn lụa cũ thường ngày dùng đấy thôi, không phải khăn mới đâu.
Đại Ngọc nghe nói, càng bực mình, đắn đo một lúc, rồi mới nghĩ ra, liền nói:
- Thôi chị cứ để đấy mà về.
Tình Văn đành để xuống đấy, quay ra về, đi đường ngẫm nghĩ, không hiểu ý tứ ra sao cả.
Đại Ngọc đã hiểu ý Bảo Ngọc cho đưa khăn lụa sang, đâm ra ngơ ngẩn say sưa, nghĩ bụng: bây giờ Bảo Ngọc đã biết thể tất nỗi đau khổ của ta, đã là điều làm cho ta đáng mừng; ta có ý nghĩ vậy, không biết sau này ra sao, đã là điều làm cho ta đáng thương; tự nhiên vô cớ, mang hai mảnh lụa cũ đến, nếu chỉ nhìn hai mảnh lụa mà không hiểu ý sâu xa của ta, đó là điều làm ta đáng cười; còn chuyện sai người lén lút tặng cho ta, đó là điều khiến cho ta đáng sợ; ta cứ hay khóc, nghĩ cũng vô ích, đó là điều làm cho ta đáng xấu hổ”. Đại Ngọc nghĩ quanh nghĩ quẩn, tự nhiên đâm ra nóng lòng sốt ruột, trong bụng vẩn vơ, liền bảo thắp đến, rồi không nghĩ đến việc kiêng tránh hiềm nghi, vội vùng dậy mài mực nhúng bút, lấy ngay hai mảnh lụa cũ ra viết:
I
Lệ chan chứa hão, lệ rơi hoài,
Ngấm ngầm vì đâu giọt ngắn dài?
Mảnh lụa giao này ơn biết mấy,
Vì ai khôn xiết nỗi thương ai,
II
Giọt ngọc dòng châu lặng lẽ rơi,
Suốt ngày vơ vẩn suốt ngày rồi?
Gối kia áo nọ lau nào sạch,
Vết ố mầu hoen cũng mặc thôi.
III
Khăn nào lau sạch hết dòng châu,
Dấu cũ sông Tương biết ở đâu.
Sẵn đó trước song, ngàn ngọn trúc,
Ngấn thơm biết có nhuộm thêm mầu?
Đại Ngọc toan viết nữa, nhưng người rạo rực lên, mặt nóng bừng bừng, liền đến chỗ đài gương, mở cái phủ bằng gấm ra soi, thấy mặt đỏ hơn cánh hoa đào, đoán chừng bệnh đã bắt đầu từ đấy. Một lúc lên giường nằm, vẫn còn cầm mảnh lụa đăm đắm suy nghĩ.
Tập Nhân sang đến bên Bảo Thoa thì Bảo Thoa lại sang bên nhà Tiết phu nhân vắng. Tập Nhân về không, đến đầu canh hai, Bảo Thoa mới về.
Bảo Thoa vẫn biết tính nết Tiết Bàn, trong bụng ngờ là hắn xui người đến mách tội Bảo Ngọc; sau khi nghe Tập Nhân nói, lại càng tin lắm. Thực ra, Tập Nhân chỉ nghe Bồi Dính nói, mà Bồi Dính cũng đoán phỏng thôi, chưa có gì là chứng cớ đích xác, nhưng cứ đổ riệt cho hắn.
Tiết Bàn xưa nay vẫn có tiếng ấy, nhưng lần này không phải tự hắn gây nên, trái lại, người ta cứ dựng đứng đổ riệt cho hắn, không sao cãi lại được. Hôm ấy hắn uống rượu ở ngoài phố về, vào chỗ Tiết phu nhân, thấy Bảo Thoa ngồi ở đấy. Hắn nói ba hoa mấy câu, chợt như nhớ đến, liền hỏi:
- Nghe nói Bảo Ngọc bị đòn, là tại làm sao thế?
Tiết phu nhân đang khó chịu về việc này, thấy hắn hỏi, liền nghiến răng nói:
- Giống oan nghiệt, chả biết phải trái gì cả, cứ sinh chuyện ra, lại còn vác mặt đến đây hỏi ta à?
Tiết Bàn thấy thế, tức quá, đứng ngẩn người ra hỏi:
- Tôi sinh chuyện cái gì?
- Mày lại còn giả vờ à? Ai cũng bảo việc ấy do mày xúi bẩy cả.
- Thế thì người ta bảo tôi giết người, mẹ cũng tin à?
- Ngay em mày cũng biết là mày xúi bẩy đấy, chẳng lẽ nó lại đổ oan cho mày sao?
Bảo Thoa vội ngăn lại:
- Mẹ và anh đừng làm ầm lên thế; đen trắng sau này dần dần sẽ rõ.
Rồi quay lại nói với Tiết Bàn:
- Anh có xúi bẩy hay không, việc cũng đã rồi, đừng cãi cọ nữa, kẻo lại bé xé ra to. Em khuyên anh từ nay trở đi đừng làm càn ở ngoài và cũng đừng chọc vào công việc của người ta. Anh xưa nay là người không biết giữ gìn, ngày ngày chơi bời đùa đẫy với bọn họ, không xảy ra việc gì thì thôi, lỡ xảy ra, dù anh không làm, người ta vẫn quàng vào cổ. Chả cứ ai, ngay em cũng phải ngờ!
Tiết Bàn vốn là người bụng thẳng như ruột ngựa, thấy gì thì nói tuột ngay ra. Hắn không nhịn được những chuyện giấu đầu hở đuôi thế nây, lại thấy Bảo Thoa ngăn không nên đi ra ngoài chơi bời, mẹ cho là mình nói bậy, làm Bảo Ngọc bị đòn. Tức quá, hắn hung hăng thề bồi, cố cãi cho ra. Hắn lại mắng sang mọi người: “Đứa nào dám đổ tội cho tôi, tôi sẽ bẻ gãy răng chúng nó! Rõ ràng là nhân câu chuyện Bảo Ngọc bị đòn, chúng nó không biết lấy gì tâng công, mới mang tôi ra làm bung xung! Bảo Ngọc có phải là vua nhà trời chăng? Cha nó mới đánh nó một trận, thế mà cả nhà làm ồn lên đến mấy ngày. Hình như lần này nó có lỗi gì, nên dượng ấy mới đánh mấy roi, không hiểu sao cụ lại biết được, cho là anh Trân mách, rồi gọi anh ấy đến mắng cho một trận. Bây giờ lại quàng vào cho tôi. Tôi không sợ nữa đâu, nhất định tôi đánh chết Bảo Ngọc rồi sẽ đền mạng”.
Hắn vừa thét ầm ĩ vừa vác cái chèn cửa chạy đi. Tiết phu nhân sợ quá, lôi Tiết Bàn lại mắng:
- Thằng khốn nạn này muốn chết đấy! Mày định đi đánh ai? Hãy đánh tao trước đã!
Tiết Bàn mắt quắc lên thét nói:
- Vì sao mẹ lại không cho tôi đi? Không dưng sao mẹ lại vu tội cho tôi? Sau này hễ Bảo Ngọc còn sống ngày nào, thì tôi còn phải mang vạ miệng ngày ấy, chi bằng hai đứa đều chết cả, thế là yên chuyện.
Bảo Thoa vội đến can ngăn:
- Anh hãy cố nhịn đi nào! Mẹ giận nói thế, anh chẳng có một lời khuyên ngăn. Không cứ gì mẹ, dù người ngoài đến khuyên anh, cũng là vì có bụng tốt cốt để anh chứa bớt đi thôi!
- Bây giờ mày lại nói thế, chắc là mấy đã mách đấy!
- Anh chỉ biết trách tôi, chứ anh không tự trách anh không biết suy đi xét lại gì cả.
- Mày chỉ trách tao không suy đi xét lại, sao mày không biết trách Bảo Ngọc cứ hay đi ra ngoài giở nhưng trò trêu cợt gió trăng? Chưa kể chuyện khác, hãy nói chuyện Kỳ quan hôm nọ cho mà nghe. Tao đã gặp Kỳ quan hàng mười lần rồi, nó chưa hề nói một câu thân mật với tao; thế mà Bảo Ngọc mới gặp nó có một lần, chưa biết tên nó là gì, đã cho ngay cái thắt lưng rồi. Vậy thì cái việc ấy, có phải tao mách không?
Tiết phu nhân và Bảo Thoa vội nói:
- Lại còn nhắc đến chuyện ấy! Chính vì chuyện ấy mà nó bị đòn đấy! Thế thì chắc là mày mách rồi.
Tiết Bàn nói:
- Thực là tức chết đi được! Buộc tội thế nào tôi cũng chẳng cần, chỉ tức một nỗi vì Bảo Ngọc mà làm nhộn lên, như là trời nghiêng đất lệch ấy?
Bảo Thoa nói:
- Ai làm nhộn lên! Tự anh vác gậy cầm dao lại còn bảo ai!
Tiết Bàn thấy Bảo Thoa nói câu nào cũng có lý hơn là những câu mẹ hắn nói, khó lòng mà cãi lại được; vì thế hắn muốn tìm cách chặn lời Bảo Thoa để không còn ai cãi lại được mình nữa. đương lúc tức giận không kịp đắn đo, hắn nói ngay:
- Em ơi! Thôi đừng cãi nhau với anh nữa. Anh đã biết rõ bụng em rồi. Trước mẹ đã nói với anh: em có cái khóa vàng, muốn chọn người nào có ngọc mới lấy. Em để ý thấy Bảo Ngọc có cái ấy, chẳng trách được bây giờ động một tí là em bênh nó.
Bảo Thoa nghe vậy tức điên người, kéo Tiết phu nhân khóc nói:
- Mẹ ơi! Me có nghe thấy anh ấy nói gì đấy không?
Tiết Bàn thấy em khóc, biết rằng mình nói quá lời, cũng đâm ra giận dỗi về buồng nằm.
Tiết phu nhân cũng rất bực, song lại khuyên Bảo Thoa:
- Ngày thường con vẫn biết thằng súc sinh ấy ăn nói sỗ sàng rồi. Thôi ngày mai mẹ sẽ bảo nó đến xin lỗi con.
Bảo Thoa tức quá, muốn làm thế nào cho hả giận nhưng lại sợ mẹ không yên lòng, nên đành gạt nước mắt trở về nhà, khóc lóc một đêm. Sáng hôm sau, Bảo Thoa trở dậy, không thiết gì rửa mặt chải đầu, vội mặc quần áo sang thăm mẹ. Vừa gặp lúc Đại Ngọc đứng một mình dưới bóng hoa, hỏi đi đâu. Bảo Thoa nói: “Đi về nhà”. Nói rồi cắm cổ đi ngay. Đại Ngọc thấy Bảo Thoa có vẻ buồn rầu, mắt như đang khóc, không giống mọi ngày, liền đứng đằng sau cười nói:
- Chị cũng nên giữ mình cẩn thận. Dù có khóc ra hai vò nước mắt, cũng không thể chữa lành được vết đòn đâu!
Bảo Thoa trả lời thế nào, hồi sau sẽ rõ.
-----------------------------
(1). Nước móc pha với quế.
(2). Nước móc pha với nước hoa mai khôi có mùi thơm.
Hồi thứ ba mươi lăm
Ngọc Xuyến được nếm canh lá sen
Oanh Nhi khéo tết dây hoa mai
Bảo Thoa biết rõ là Đại Ngọc đay nghiến mình, nhưng nghĩ đến mẹ và anh, nên cứ đi một mạch không hề quay đầu lại.
Đại Ngọc vẫn đứng ở dưới bóng hoa, xa xa nhìn sang viện Di Hồng, thấy Lý Hoàn, Nghênh Xuân, Thám Xuân, Tích Xuân và các a hoàn đi hết lớp này đến lớp khác, chỉ vắng có Phượng Thư thôi. Đại Ngọc trong lòng ngờ vực: “Tại sao Phượng Thư không sang thăm Bảo Ngọc? Nếu bận việc gì, cũng nên chạy sang một tý, an ủi mấy câu để lấy lòng bà và mợ mới phải. Không sang, tất có duyên cớ gì đây”. Đại Ngọc vừa ngẩng đầu lên nhìn, thấy một đám người ăn mặc lòe loẹt đến: Giả mẫu vịn vào vai Phượng Thư, theo sau là Hình phu nhân, Vương phu nhân, sau nữa là dì Chu, bọn a hoàn và các bà già đang đi vào viện Di Hồng.
Đại Ngọc tự nhiên gật đầu nghĩ ngay đến chỗ còn bố mẹ thì sung sướng gì bằng, thế là nước mắt lại tràn trên mặt. Một lúc, Tiết phu nhân và Bảo Thoa cũng đến. Bỗng Tử Quyên ở đằng sau chạy đến nói:
- Cô ơi! về uống thuốc đi kẻo nguội rồi!
- Mày làm cái trò gì thế, chỉ cứ giục thôi. Tao uống hay không, có việc gì đến mày?
- Cô vừa mới bớt ho đã lại không chịu uống thuốc. Giờ tháng năm, dù trời nắng, nhưng cũng phải cẩn thận mới được. Vừa sáng dậy, không nên đứng lâu chỗ ẩm thấp. Thôi cô nên về nghỉ đi.
Nghe câu nhắc ấy, Đại Ngọc mới thấy chân hơi buôn buốt, đứng ngẩn người ra một lúc, rồi thong thả vịn vào Tử Quyên về quán Tiêu Tương. Đại Ngọc vào đến sân, thấy chỗ nào cũng bóng trúc rườm rà, dấu rêu mờ tỏ, chợt nghĩ câu trong Tây Sương ký:
Rêu xanh lấp lánh sương rơi,
Lối đi vắng vẻ, nào ai ra vào ?
Liền thầm thở dài: “Song Văn tuy mệnh bạc, nhưng còn có mẹ già, em bé, chứ Đại Ngọc này, cả mẹ già, em bé cũng không.
Người xưa có câu: “Hồng nhan bạc phận”. Ta chẳng phải là hồng nhan, sao mà bạc phận thế? Đại Ngọc vừa nghĩ vừa đi, không ngờ con anh vũ đậu ở ngoài hiên, trông thấy Đại Ngọc về, liền vỗ cánh kêu lên một tiếng. Đại Ngọc giật mình, nói:
- Mày muốn chết đấy! Vẩy cả bụi lên đầu tao.
Con anh vũ bay ngay lên trên cầu, gọi: “Tuyết Nhạn! Cô về đấy, vén rèm lên”.
Đại Ngọc đứng lại, lấy tay gõ vào cái cầu hỏi:
- Đã lấy thêm nước và đồ ăn cho nó chưa?
Con anh vũ thở dài một cái hệt như giọng Đại Ngọc ngày thường than thở, rồi nó đọc ngay câu: “Chôn hoa người bảo ngẩn ngơ, biết sau ta chết ai là người chôn?” Đại Ngọc và Tử Quyên nghe vậy, cười ầm lên.
Tử Quyên nói:
- Ngày thường cô hay ngâm câu này, thảo nào nó chả nhớ được.
Đại Ngọc liền sai mang cầu xuống, treo vào cái móc ở ngoài cửa sổ hình mặt nguyệt, rồi đi vào trong nhà, ngồi tựa cửa sổ. Uống thuốc xong, thấy bóng trúc bên ngoài chiếu vào màn the, suốt nhà lờ mờ êm dịu, ghế đệm mát lạnh. Không cách giải buồn, Đại Ngọc liền đứng trong cửa sổ, đùa với con anh vũ, rồi đem những thơ từ ngày thường của mình thích, dạy cho nó đọc.
Bảo Thoa về đến nhà, thấy mẹ đương chải đầu. Trông con về, Tiết phu nhân cười hỏi:
- Mới sáng dậy, sao con đến ngay đây làm gì?
- Con sang thăm mẹ xem có được khoẻ không? Hôm qua khi con về rồi, anh con có còn giở trò gì nữa không?
Bảo Thoa vừa nói vừa ngồi ghế bên cạnh mẹ, nức nở khóc, Tiết phu nhân thấy con khóc, cũng khóc theo, rồi khuyên:
- Con ơi, con đừng bực bội nữa, để rồi ta có cách trị nó. Nếu con có thế nào, thì ta còn trông cậy vào ai?
Tiết Bàn ở ngoài nghe thấy, liền chạy vào, đứng trước Bảo Thoa vái luôn mấy cái, rồi nói:
- Em ơi, em tha lỗi cho anh lần này. Hôm qua anh đi uống rượu về muộn, giữa đường gặp lại bạn, về nhà vẫn chưa tỉnh. Ngay anh cũng không biết đã nói nhảm những câu gì, chả trách em giận là phải.
Bảo Thoa đương che mặt khóc, nghe anh nói, bật cười, nhổ xuống đất một cái và nói:
- Thôi anh đừng giở lối phường chèo ấy ra nữa! Tôi biết anh không ưa gì mẹ con tôi, tìm cách làm cho mẹ con tôi xa nhau, thì anh mới thỏa lòng.
Tiết Bàn cười nói:
- Em ơi! Tại sao em lại nói nhưng câu ấy, thì ta sống làm sao được? Xưa nay em không lắm điều, hay nói những câu nhảm nhí kia mà.
Tiết phu nhân nói luôn:
- Mày bảo em mày nói nhảm nhí, thế những câu chiều hôm qua mày nói với nó liệu có nghe được không? Mày đâm mê rồi!
Tiết Bàn nói:
- Thôi, mẹ đừng giận, mà em cũng đừng nên buồn rầu. Từ giờ trở đi, con không đi uống rượu với chúng nó nữa, thế có được không?
Bảo Thoa cười nói:
- Em phân bua câu nói ấy nhé.
Tiết phu nhân nói:
- Mày mà quyết chí như thế thì rồng sẽ đẻ trứng!
Tiết Bàn nói với Bảo Thoa:
- Nếu em còn thấy anh đi uống rượu với chúng nó, thì cứ nhổ vào mặt và gọi anh là giống súc vật, chứ không phải là người, như thế có được không? Có đâu chỉ vì anh mà hai mẹ con ngày nào cũng lo ngay ngáy như vậy! Vì anh mà mẹ phải tức giận thì còn khá; chứ vì anh mà em phải lo nghĩ luôn, thì anh thật không phải là người nữa. Bây giờ cha mất rồi, anh đã không biết hiếu thuận với mẹ, trông nom đến em, lại để mẹ phải tức bực, phải buồn rầu, thì anh thực không bằng giống súc vật!
Nói xong, hắn không cầm được nước mắt.
Tiết phu nhân đã thôi không khóc, giờ nghe thấy hắn nói thế, lại đâm ra đau xót. Bảo Thoa gượng cười nói:
- Anh quấy rối đã chán rồi, bây giờ lại còn làm cho mẹ khóc nữa à!
Tiết Bàn lau nước mắt cười nói:
- Tôi có làm cho mẹ phải khóc bao giờ đâu? Thôi! Thôi! Vứt chuyện ấy đi, không nói nữa, bảo Hương Lăng pha nước cho em uống.
Bảo Thoa nói:
- Tôi không uống nước, chờ mẹ rửa mặt xong, mẹ con tôi sẽ đi đây.
Tiết Bàn nói:
- Cái vòng cổ của em, nên chá lại đi.
- Vàng choáng lên thế kia, còn phải chá lại làm gì nữa?
- Giờ em nên may thêm quần áo, thích màu gì, hoa gì, thì cứ bảo anh.
- Các bộ quần áo này tôi cũng chưa mặc phỉ, lại còn may nữa làm gì?
Một lúc Tiết phu nhân và Bảo Thoa đến vườn thăm Bảo Ngọc. Vào đến viện Di Hồng, thấy ngoài hiên nhà bên có nhiều a hoàn bà già đứng, Tiết phu nhân biết ngay là Giả mẫu đang ở đấy. Hai mẹ con vào chào hỏi mọi ngưòì. Thấy Bảo Ngọc nằm ở trên giường, Tiết phu nhân hỏi: “Đã khá chưa”. Bảo Ngọc vội gượng dậy, miệng thưa “đã khá rồi. Cứ để cho dì và chị bận lòng mãi, cháu không đành lòng”.
Tiết phu nhân vội đỡ Bảo Ngọc nằm xuống và hỏi:
- Muốn dùng cái gì, thì cứ bảo dì.
Bảo Ngọc cười nói:
- Vâng, hễ cháu cần cái gì, sẽ sang thưa với dì.
Vương phu nhân lại hỏi:
- Con muốn ăn gì, mẹ cho người mang sang.
Bảo Ngọc cười nói:
- Con chẳng muốn ăn gì, chi thích ăn thứ canh lá sen và ngó sen lần trước đã làm, xem chừng ngon hơn cả.
Phượng Thư đứng ngoài cười nói:
- Cả nhà nghe đấy! Những thức chú ấy thích ăn không lấy gì làm quí trọng lắm, chỉ phải tốn công sai bảo nấu nướng thôi. Thế mà chú ấy lại cứ thích ăn những thứ ấy.
Giả mẫu liền giục đi làm ngay! Phượng Thư cười nói:
- Xin bà đừng vội, để cháu nghĩ xem, không biết những cái khuôn ấy ai giữ...
Rồi quay lại bảo bà già đi hỏi nhà bếp. Bà già đi một lúc về trình:
- Nhà bếp nói: “Đã mang nộp cả lên nhà trên rồi”.
Phượng Thư nghĩ một lúc rồi nói:
- Tôi cũng nhớ họ đã nộp cả lên rồi, không biết lại giao cho ai giữ? Có thể là đã giao cho phòng trà.
Khi hỏi thì phòng trà cũng không giữ. Cuối cùng lại là người giữ đồ vàng bạc đưa đến.
Tiết phu nhân cầm lấy xem, thì ra cái hộp nhỏ, trong đựng bốn cái khuôn bằng bạc, dài độ hơn một thước, rộng độ một tấc, trên mặt đục những lỗ xấp xỉ như hạt đậu, giống hình hoa cúc, hoa mai, hoặc như tua sen, củ ấu. Tất cả có tới ba bốn mươi thứ rất là tinh xảo. Tiết phu nhân ngoảnh lại phía Giả mẫu và Vương phu nhân cười nói:
- Bên phủ nhà cái gì cũng đẹp tột bậc, ăn một bát canh mà cũng dùng đến không thứ này. Nếu không nói ra, có lẽ tôi trông cũng không hiểu thứ này dùng để làm gì.
Phượng Thư cướp lời nói ngay:
- Cô không biết, đó là đồ sắm sửa để dâng thức ăn lên Quý phi năm trước đấy. Họ nghĩ ra lối này, nhưng không biết in trên mặt thế nào, đành phải mượn mùi thơm mát của lá sen, kỳ thực toàn nhờ chất canh ngon cả. Tôi ăn chẳng thấy thú vị gì. Nhưng đã ai được ăn luôn món này? Chỉ làm có lần ấy thôi, không biết tại sao hôm nay chú Bảo lại nhớ đến.
Nói xong, Phượng Thư cầm lấy hộp ấy đưa cho một bà già dặn bảo nhà bếp lập tức bắt mấy con gà, lại thêm đồ gia vị, nấu mười bát canh mang lên.
Vượng phu nhân nói:
- Sao làm nhiều thế ?
Phượng Thư cười nói:
- Vì thứ này ngày thường không hay làm, bây giờ chú Bảo đã nhắc đến, mà chỉ làm cho một mình chú ấy ăn, không mời cụ, bà dì và mẹ, thì không tiện. Chi bằng nhân tiện làm cho cả nhà ăn, cháu cũng nhờ đấy được nếm món ăn mới lạ.
Giả mẫu cười nói:
- Con khỉ này, mày khéo lắm! Mang tiền công ra để lấy lòng người ta.
Câu ấy làm cho cả nhà cười ầm lên.
Phượng Thư vội cười nói:
- Không can gì, bữa tiệc nhỏ này cháu xin thết.
Rồi quay lại bảo bà già xuống dặn nhà bếp:
- Phải làm cho thật ngon, rồi lĩnh tiền ở sổ chi của ta.
Bà già vâng lời đi ngay.
Bảo Thoa đứng một bên cười nói:
- Tôi đến đây đã mấy năm nay, để ý xem xét, thì chị Hai dù khéo đến đâu, cũng còn kém cụ nhiều.
Giả mẫu liền nói:
- Giờ ta đây già rồi, còn khéo vào đâu nữa? Khi bằng tuổi cháu Phượng, ta hơn nó nhiều. Bây giờ nó tuy không bằng ta lúc thời trẻ, nhưng cũng đã khá hơn dì cháu nhiều. Trông thấy dì cháu thật đáng thương, không biết ăn nói, cứ trơ như khúc gỗ, trước mặt bố mẹ chồng, chả biết ân cần vồn vã gì cả. Còn cháu Phượng thì mồm mép bẻo lẻo, trách nào người ta chả thương?
Bảo Ngọc cười:
- Bà nói thế, thì nhưng người nói năng không khéo, đều không đáng thương à?
Giả mẫu nói:
- Người nói không khéo cũng có chỗ đáng thương; người giọng lưỡi khéo léo mà có chỗ đáng ghét, thì không bằng người không nói khéo còn hơn.
Bảo Ngọc cười nói:
- Thế thì chị cả không hay nói, bà cũng thương như chị Phượng. Nếu chỉ bảo những người khéo nói mới đáng thương, thì đám chị em đây chỉ đáng thương chị Phượng và cô Lâm mà thôi.
Giả mẫu nói:
- Nói đến đám chị em, thì không phải trước mặt dì đây ta nói lấy lòng đâu; cứ thực mà nói, trong bốn đứa cháu gái nhà này, không ai bằng cháu Bảo cả. Tiết phu nhân vội cười nói:
- Cụ lại có chỗ thiên vị rồi.
Vương phu nhân cười nói:
- Không phải cụ nói dối đâu, người thường nói riêng với tôi là cháu Bảo khéo lắm.
Bảo Ngọc định gợi câu chuyện ra, cốt để Giả mẫu khen Đại Ngọc, không ngờ cả nhà lại khen Bảo Thoa, thật là một việc ngoài ý nghĩ. Bảo Ngọc nhìn Bảo Thoa cười. Nhưng Bảo Thoa đã ngoảnh đi nói chuyện với Tập Nhân rồi.
Chợt có người sang mời về ăn cơm. Giả mẫu đứng dậy, dặn Bảo Ngọc “phải tĩnh dưỡng cẩn thận!”. Lại dặn dò đám a hoàn một lần nữa, rồi vịn vào Phượng Thư, mời Tiết phu nhân đi. Mọi người ra khỏi buồng, Giả mẫu còn hỏi canh đã được chưa? Lại bảo Tiết phu nhân: “Muốn ăn thứ gì cứ nói với tôi. Tôi sẽ bảo cháu Phượng làm cho chúng ta ăn”. Tiết phu nhân cười nói:
- Cụ cứ hay bắt vằn bắt vẻ chị Phượng, chứ thường khi làm thức ăn đem dâng người, thì người có ăn được mấy đâu.
Phượng Thư cười nói:
- Thôi, xin dì đừng nói thế, bà tôi chỉ hiềm thịt người chua thôi, nếu không chua, bà tôi đã ăn luôn cả tôi rồi!
Giả mẫu và mọi người cười ầm lên. Bảo Ngọc ở trong nhà cũng không nhịn được cười. Tập Nhân cười nói:
- Mồm mép mợ Hai làm người ta sợ chết đi được!
Bảo Ngọc cười nói với Tập Nhân:
- Chị đứng lâu thế chắc mệt lắm.
Liền kéo Tập Nhân đến ngồi bên cạnh. Tập Nhân cười nói:
- Thôi quên mất rồi, nhân tiện cô Bảo ở đây, cậu bảo cô ấy cho Oanh Nhi sang xe hộ mấy sợi dây.
- May mà chị nhắc tôi đấy.
Bảo Ngọc liền ngẩng đầu ra cửa sổ nói:
- Chị Bảo, ăn cơm xong, chị cho Oanh Nhi sang đây xe hộ mấy sợi dây, liệu nó có rảnh không?
Bảo Thoa quay lại nói:
- Được rồi, chốc nữa tôi sẽ cho nó sang.
Bọn Giả mẫu chưa nghe rõ đều đứng lại hỏi việc gì. Bảo Thoa nói lại. Giả mẫu liền bảo:
- Cháu ạ! Cháu cho nó sang xe hộ em nó mấy sợi dây. A hoàn ở bên này rỗi cả đấy, cháu cần sai bảo gì, thích ai, cứ gọi nó sang.
Tiết phu nhân và Bảo Thoa đều cười nói:
- Cứ cho nó sang thôi, bên nhà có việc gì sai bảo đâu, cả ngày chỉ ngồi rồi gây chuyện với nhau thôi.
Mọi người đang đi, chợt bọn Tương Vân, Bình Nhi, Hương Lăng hái hoa phượng tiên ở bên núi trông thấy, liền chạy lại chào.
Một lúc ra khỏi vườn. Vương phu nhân sợ Giả mẫu mệt, muốn mời vào ngồi nghỉ ở buồng trên. Giả mẫu thấy mỏi chân, liền gật đầu, bằng lòng. Vương phu nhân vội sai a hoàn về trước xếp đặt chỗ ngồi. Bấy giờ dì Triệu cáo bệnh, chỉ có dì Chu và bọn bà già a hoàn chạy ra vén rèm, giải nệm, đặt cái tựa lưng. Giả mẫu vịn Phượng Thư đi vào, cùng Tiết phu nhân đều ngồi. Bảo Thoa, Tương Vân thì ngồi ở dưới. Vương phu nhân tự tay dâng nước mời Giả mẫu. Lý Hoàn thì mời Tiết phu nhân. Giả mẫu bảo Vương phu nhân:
- Chị cứ ngồi xuống đây nói chuyện, mặc cho chị em nó hầu.
Vương phu nhân mới ngồi xuống một cái ghế nhỏ, rồi bảo Thượng Thư:
- Dọn cơm của bà ra đây, thêm mấy món ăn nữa.
Phượng Thư vâng lời đi ra, sai người sang bên nhà Giả mẫu, bọn bà già vội truyền ra. Bọn a hoàn đều chạy đến cả.
Vương phu nhân sai người mời các cô đến. Một lúc, chỉ có Thám Xuân, Tích Xuân đến thôi. Nghênh Xuân trong người khó ở, nên không đến. Đại Ngọc thì không cần phải nói, mười bữa chỉ ăn độ năm, nên chẳng ai để ý đến.
Một chốc đến bữa ăn, mọi người sắp đặt bàn ghế. Phượng Thư để một nắm đũa ngà vào trong khăn tay, đứng bên dưới cười nói:
- Bà và dì không cần phải mời nhau, để mình cháu nói là đủ.
Giả mẫu cười bảo Tiết phu nhân:
- Ừ thì chúng ta cứ như thế.
Tiết phu nhân cười gật đầu. Thượng Thư đặt bốn đôi đũa, hai đôi ở trên là của Giả mẫu và Tiết phu nhân, hai đôi ở một bên là của Bảo Thoa và Tương Vân. Vương phu nhân và Lý Hoàn đều đứng ở dưới trông nom người đưa đồ ăn. Phượng Thư vội lấy bát đũa sạch, chọn đồ ăn để đưa cho Bảo Ngọc.
Một chốc người hầu bưng canh lá sen đến. Giả mẫu xem xong, Vương phu nhân ngảnh lại thấy Ngọc Xuyến đứng ở đấy, liền sai đem canh cho Bảo Ngọc. Phượng Thư nói:
- Một mình nó không mang nổi đâu.
May có Oanh Nhi và Hỷ Nhi đến, Bảo Thoa biết chúng nó đã ăn cơm cả rồi, liền bảo Oanh Nhi:
- Cậu Hai bảo em sang xe hộ ít dây đấy, em cùng đi sang với Ngọc Xuyến.
Hai người vâng lời cùng đi.
Oanh Nhi nói:
- Đường thì xa, canh thì nóng, mang đi thế nào được?
Ngọc Xuyến cười nói:
- Chị cứ yên tâm, tôi sẽ có cách.
Nói xong, nó sai một bà già để các thức ăn vào khay, bảo mang đi theo, còn hai cô đi không. Đến trước cửa viện Di Hồng, Ngọc Xuyến mới bưng lấy, cùng Oanh Nhi đi vào buồng. Bọn Tập Nhân, Xạ Nguyệt, Thu Văn đương cười đùa với Bảo Ngọc, thấy họ đến, vội cười nói:
- Sao khéo thế? Hai cô cùng đến một lúc.
Họ bưng lấy khay. Ngọc Xuyến ngồi ngay xuống ghế, Oanh Nhi không dám ngồi. Tập Nhân mang cái ghế chân đến, Oanh Nhi cũng không dám ngồi.
Bảo Ngọc thấy Oanh Nhi đến, rất là vui mừng. Khi thấy Ngọc Xuyến, lại nghĩ ngay đến chị nó là Kim Xuyến, trong bụng vừa thương xót vừa xấu hổ, liền bỏ Oanh Nhi, chỉ nói chuyện với Ngọc Xuyến. Tập Nhân thấy Bảo Ngọc không đả động gì đến Oanh Nhi, sợ Oanh Nhi mủi lòng, lại thấy nó không chịu ngồi, liền kéo sang buồng mình uống nước nói chuyện.
Trong nhà thì bọn Xạ Nguyệt sắp đặt bát đũa mời Bảo Ngọc ăn cơm, nhưng Bảo Ngọc không ăn, cứ hỏi chuyện Ngọc Xuyến:
- Đẻ chị có được khỏe không
Ngọc Xuyến tỏ vẻ hờn dỗi, mắt không nhìn đến Bảo Ngọc, lúc lâu mới trả lời một câu “khỏe”. Bảo Ngọc có vẻ không vui một chốc lại cười hỏi:
- Ai bảo chị mang đồ đến đây cho tôi đấy.
- Bà và mợ Hai, chứ còn ai nữa.
Bảo Ngọc thấy mặt Ngọc Xuyến buồn rầu, biết ngay là vì việc Kim Xuyến, định dịu giọng hòa nhã để dử chuyện cô ta, nhưng vì nhiều người không tiện, liền tìm cách bảo họ đi ra, rồi mới cười hỏi tẩn mẩn. Trước thì Ngọc Xuyến không bằng lòng, sau thấy Bảo Ngọc không có tí gì là bực tức cả, dù mình ăn nói sỗ sàng thế nào, Bảo Ngọc vẫn ôn tồn hòa nhã, thì lại đâm ra khó coi, nên nét mặt đã tỏ ra vài phần tươi tỉnh.
Bảo Ngọc liền cười bảo Ngọc Xuyến:
- Chị ơi, chị mang hộ canh lại đây cho tôi ăn.
- Tôi không quen bón cơm cho ai cả, để chờ họ đến sẽ cho cậu ăn.
- Tôi không đòi chị bón cho tôi ăn đâu, tôi đau không đi được, mới nhờ chị mang giúp cho tôi ăn. Sau đó chị về mà ăn cơm, kẻo chậm lại bị đói. Nếu chị không lấy giúp, tôi đành phải chịu đau đi lấy vậy.
Bảo Ngọc cố gượng mãi, nhưng không xuống giường được mồm luôn luôn kêu “Ái chà”. Ngọc Xuyến thấy thế, nhịn không được, liền đứng dậy nói:
- Thôi nằm xuống, thật là oan nghiệt đời nào để lại, bây giờ báo ứng trước mắt, trông thấy rành rành!
Nói xong cười khì một tiếng, rồi đi bưng canh đến.
Bảo Ngọc cười nói:
- Chị ơi, chị có giận, chỉ nên cáu gắt ở đây thôi, khi đến chỗ cụ và bà, thì nét mặt nên vui vẻ một chút. Nếu cứ thế này, chị sẽ bị mắng đấy.
- Thôi, ăn đi! Tôi biết cả rồi, cậu đừng giở giọng đường mật ra đây nữa.
Bảo Ngọc ăn mấy thìa, giả vờ kêu không ngon.
Ngọc Xuyến bĩu môi nói:
- A di đà phật, thứ này mà bảo là không ngon, thì chả còn cái gì ngon nữa!
- Chả có mùi mẽ gì cả, chị không tin thì nếm một tí mà xem.
Ngọc Xuyến tức quá, nếm một thìa. Bảo Ngọc cười nói:
- Ngon đấy nhỉ!
Bấy giờ Ngọc Xuyến mới hiểu ý Bảo Ngọc đánh lừa mình, liền nói:
- Trước cậu bảo không ngon, bây giờ lại bảo ngon, thì tôi không cho cậu ăn nữa.
Bảo Ngọc cứ cười tràn đòi ăn, Ngọc Xuyến không cho ăn, gọi mang cơm lên.
Khi a hoàn mang cơm đến, thì có người vào trình:
- Có hai vú nhà cụ Phó đến hỏi thăm cậu.
Bảo Ngọc biết ngay là vú nhà quan thông phán Phó Thí.
Nguyên Phó Thí là môn sinh của Giả Chính, xưa nay nhờ thế lực họ Giả mà làm nên. Giả Chính đối đãi hắn cũng tử tế hơn, không như nhưng người khác. Hắn thường sai người qua lại thăm hỏi.
Bảo Ngọc vốn ghét bọn đàn ông thô tục và đàn bà ngu xuẩn, nhưng tại sao lần này lại sai mời hai bà già ấy vào? Tất nhiên có duyên cớ. Vì Bảo Ngọc nghe nói nhà Phó Thí có người em gái tên gọi Phó Thu Phương, sắc tài vẹn hai, cũng là viên ngọc quý trong khuê các. Mắt tuy chưa trông thấy, nhưng tấm lòng trộm nhớ thầm yêu rất là chân thành, kính cẩn. Nếu không để cho hai bà này vào, sợ coi nhẹ Phó Thu Phương chăng, vì vậy Bảo Ngọc vội sai người ra mời.
Phó Thí là nhà mới phất lên. Thu Phương lại có nhan sắc thông minh hơn người, Phó Thí cậy có em gái như thế, nên chỉ muốn kết thân với nhà hào quý, chứ không chịu gả cho người thường, mà đám hào quý thì khinh hắn là con nhà nghèo hèn, thấp kém, không thèm hỏi đến, vì thế cô ta lỡ thời, đã hai mươi ba tuổi, vẫn chưa lấy ai. Sở dĩ Phó Thí đi lại thân mật với họ Giả, cũng là có một ý nghĩ đấy.
Hai bà già đến đây lại là hạng ngu xuẩn không biết gì. Được Bảo Ngọc mời vào, ngoài câu hỏi thăm ra, họ không nói được lời nào. Ngọc Xuyến thấy người lạ đến, không cãi nhau với Bảo Ngọc nữa, tay cầm bát canh đứng ngẩn ra nghe. Bảo Ngọc thì cứ ngoảnh lại nói chuyện với hai bà già, vữa ăn cơm vữa giơ tay đòi bát canh. Cả Bảo Ngọc và Ngọc Xuyến cứ nhìn chòng chọc vào hai bà già kia, không ngờ tay giơ mạnh quá, đụng đổ bát canh, nước canh sánh cả vào tay Bảo Ngọc. Ngọc Xuyến không bị bỏng, giật mình một cái, vội cười nói: “Làm sao thế này?”.
Đám a hoàn vội chạy đến đỡ lấy bát. Bảo Ngọc không biết chính tay mình bị bỏng, lại hỏi Ngọc Xuyến:
- Chị bỏng ở đâu? Có đau không?
Ngọc Xuyến cùng mọi người cười ầm lên. Ngọc Xuyến nói:
- Chính cậu bị bỏng, lại còn hỏi tôi. Bảo Ngọc nghe nói, mới biết mình đã bị bỏng. Mọi người vội đến thu dọn. Bảo Ngọc không ăn cơm nữa, rửa tay uống nước, lại nói chuyện với hai bà già. Sau đó họ cáo từ ra về. Bọn Tình Văn đi tiễn đến bên cầu mới trở lại.
Hai bà già vừa đi vừa bàn tán, một bà già cười nói:
- Chả trách được, người ta thường nói cậu Bảo này bề ngoài thì xinh đẹp, mà bên trong thì hồ đồ, chỉ là của để nhìn chứ không phải để ăn, quả nhiên là ngây ngô! Chính mình bị bỏng tay, lại đi hỏi người khác có đau không.
Bà kia cười nói:
- Lần trước tôi sang, thấy nhiều người nhà bên ấy nói chuyện, thì cậu ấy ngây ngô thực, bị mưa to ướt như con gà luộc ấy, thế mà lại bảo người khác “mưa to đấy, tránh đi mau”. Bà xem, có đáng buồn cười hay không? Thường lúc vắng người, cậu ấy ngồi cười khóc một mình; trông thấy con chim yến, thì nói chuyện với con chim yến; trông thấy con cá ở dưới sông, thì nói chuyện với con cá; nhìn thấy sao tỏ trăng sáng, không thở ngắn than dài, cũng rên thầm rỉ kín. Vả chăng tính nết cậu ta rất là nhu nhược, nhịn nhục cả với bọn a hoàn hầu bé. Yêu quý mọi thứ, ngay từ sợi chỉ cũng cho là đẹp, nhưng đến lúc phung phí thì dù hàng nghìn hàng vạn cậu ta cũng không cần.
Hai người bàn tán và đi ra khỏi vườn.
Tập Nhân thấy mọi người đi rồi, liền dắt Oanh Nhi đến hỏi:
- Tết những dây gì?
Bảo Ngọc cười bảo Oanh Nhi:
- Từ nãy đến giờ, chỉ mải nói chuyện, tôi quên hẳn chị đi, phiền chị sang đây, không có việc gì khác đâu, chỉ nhờ chị tết hộ mấy cái dây thôi. Oanh Nhi hỏi:
- Tết dây để buộc cái gì?
- Chả buộc vào cái gì, chị cứ theo mỗi kiểu tết hộ tôi mấy cái.
Oanh Nhi vỗ tay cười nói:
- Thế thì làm thế nào được! Nếu làm thế thì mười năm cũng chưa xong.
Bảo Ngọc cười nói:
- Chị ơi, chị rỗi chẳng có việc gì, thì cứ làm hộ tôi.
Tập Nhân cười nói:
- Làm một lúc thì xong thế nào được. Giờ hãy chọn mấy cái cần thì làm trước.
Oanh Nhi nói:
- Còn cái gì cần nữa? Chẳng qua là dây đeo quạt, dây đeo túi thơm, dây đeo quần chứ gì?
Bảo Ngọc nói:
- Dây đeo quần cũng được.
Oanh Nhi hỏi:
- Quần của cậu màu gì?
- Màu đỏ thắm.
- Màu đỏ thắm phải có dây đen, thì nhìn mới đẹp, hay là màu thạch thanh mới nổi.
- Màu hoa thông hợp với màu gì?
- Màu hoa thông hợp với màu hồng điều.
- Thế mới tươi đẹp. Trong các màu nhã nhặn, phải thêm cái màu tươi đẹp nữa.
- Tôi rất thích màu thông xanh pha với màu liễu vàng.
- Thôi được, chị tết hộ tôi một dây màu hồng điều, một dây màu thông xanh.
- Tết những kiểu gì?
- Có mấy kiểu?
- Kiểu bó hương, kiểu ghế rút rế, kiểu mắt voi, kiểu xếp chéo, kiểu liên hoàn, kiểu hoa mai, kiểu lá liễu...
- Hôm nọ chị tết hộ cô Ba kiểu gì đấy?
- Kiểu hoa mai chồng lên nhau.
- Kiểu ấy đẹp đấy.
Rồi gọi Tập Nhân mang chỉ đến. Thấy một bà già đứng ở ngoài cửa sổ nói: “Cơm các cô được rồi đấy!”. Bảo Ngọc nói:
- Thôi các chị đi ăn cơm đi, ăn xong trở lại đây.
Tập Nhân cười nói:
- Đương có khách, chúng tôi đi sao tiện?
Oanh Nhi vừa gỡ chỉ vừa cười:
- Sao chị lại nói thế, cứ đi ăn cơm đi.
Tập Nhân bấy giờ mới đi, để hai đứa hầu nhỏ ở lại.
Bảo Ngọc vừa xem Oanh Nhi tết, vừa hỏi chuyện phiếm:
- Chị mười mấy tuổi rồi?
- Mười sáu tuổi.
- Chị họ gì?
- Tôi họ Hoàng.
- Họ với tên xứng nhau quá, thực là con chim hoàng oanh.
- Chính tên tôi là Kim Oanh. Nhưng cô tôi cho là khó gọi, nên chỉ gọi là Oanh Nhi, bây giờ gọi đã quen rồi.
- Thế là cô Bảo thương chị lắm đấy. Sau này cô ấy đi lấy chồng, thế nào chị cũng đi theo.
Oanh Nhi bĩu môi cười một cái.
Bảo Ngọc cười nói:
- Tôi thường bảo chị Tập Nhân: không biết sau này anh nào có phúc vớ được cả hai cô cháu nhà chị!
Oanh Nhi cười nói:
- Cậu chưa biết, dáng điệu chỉ là phụ thôi, cô tôi còn có nhiều cái tốt mà ở đời này không mấy người có.
Bảo Ngọc thấy Oanh Nhi có dáng xinh xắn, dịu dàng, cười nói như ngây, trong bụng đã xiêu xiêu, nay lại nghe nhắc đến Bảo Thoa thì nhịn sao được. Liền hỏi:
- Chị ấy có nhưng cái gì tốt, chị thử kể rành mạch cho tôi nghe nào?
- Tôi kể cho cậu nghe, nhưng cậu không nên nói lại cho cô tôi biết đấy nhé.
- Cố nhiên!
Đương nói chuyện thì bên ngoài có tiếng nói: “Làm sao mà lại lặng lẽ như tờ thế này?” Hai người nhìn ra, thì chính là Bảo Thoa. Bảo Ngọc mời ngồi. Bảo Thoa ngồi xuống hỏi Oanh Nhi:
- Tết cái gì đấy?
Bảo Thoa vừa hỏi vừa nhìn vào tay Oanh Nhi, thấy Oanh Nhi mới tết được một nửa cái dây, Bảo Thoa cười nói:
- Tết cái này để làm trò gì? Hãy tết cái dây đeo viên ngọc đã
Câu nói ấy làm Bảo Ngọc nhớ ra, vỗ tay cười nói:
- Chị Bảo nói phải đấy, tôi quên đi mất. Nhưng tết màu gì cho đẹp được?
Bảo Thoa nói:
- Các màu thường nhất định không thể dùng được. Màu đỏ lại lẫn màu. Màu vàng thì không nổi, màu đen thì tối quá. Cứ ý tôi, nên lấy chỉ kim tuyến xe lẫn với chỉ đen bóng, sợi nọ xe lẫn sợi kia, tết như thế mới đẹp.
Bảo Ngọc nghe nói mừng lắm, gọi dồn Tập Nhân mang ngay chỉ kim tuyến ra. Bấy giờ Tập Nhân đương mang hai bát đồ ăn đến, nói với Bảo Ngọc:
- Lạ thật! Vừa rồi bà cho người mang sang cho tôi hai bát đồ ăn.
Bảo Ngọc cười nói:
- Chắc hôm nay nhiều đồ ăn, nên mới đưa sang cho cả các chị.
Tập Nhân nói:
- Không phải thế đâu, đưa sang đích danh cho tôi, nhưng lại không bắt sang lạy tạ, thế mới lạ chứ?
Bảo Thoa cười nói:
- Cho chị thì chị cứ ăn, việc gì còn phải ngần ngại?
Tập Nhân nói:
- Xưa nay chưa có như thế bao giờ, làm tôi khó nghĩ quá.
Bảo Thoa bĩu môi cười nói:
- Có thế mà cũng khó nghĩ? Sau này còn có nhiều việc làm chị khó nghĩ hơn thế nữa kia!
Tập Nhân nghe câu nói có ngụ ý gì đây, nhưng biết Bảo Thoa xưa nay không phải là hạng giọng lưỡi chua chát hay chế giễu người. Vả lại nghĩ đến hôm trước, Vương phu nhâncó ý biệt đãi mình, nên không nhắc đến câu nói ấy nữa, rồi đem đồ ăn đến cho Bảo Ngọc xem, và nói:
- Tôi đi rửa tay đã, rồi sẽ mang chỉ ra.
Tập Nhân ăn xong, rửa tay, lấy chỉ kim tuyến ra đưa cho Oanh Nhi. Bấy giờ Tiết Bàn đã sai người sang gọi Bảo Thoa về.
Bảo Ngọc đương ngồi xem xe dây, thấy hai a hoàn của Hình phu nhân đem đến cho hai thứ quả, và hỏi:
- Cậu đã đi lại được chưa? Nếu đi được thì sáng mai sang chơi, bà tôi lúc nào cũng nhớ đến cậu đấy.
Bảo Ngọc vội nói:
- Thế nào tôi cũng phải sang thăm sức khỏe bác. Tôi đã đỡ đau rồi, xin bác cứ yên tâm.
Rồi mời họ ngồi xuống, và bảo Thu Văn mang một nửa thứ quả ấy sang cho Đại Ngọc. Thu Văn sắp đi, đã thấy tiếng Đại Ngọc nói ở ngoài sân. Bảo Ngọc vội bảo mời vào.
Hồi thứ ba mươi sáu
Thêu bức uyên ương, hiên Giáng Vân mộng lành báo trước
Ngẫm đường tình phận, viện Lê Hương duyên đẹp định rồi
Giả mẫu từ khi ở buồng Vương phu nhân về, thấy Bảo Ngọc mỗi ngày một khá, trong bụng rất vui mừng. Nhưng sợ Giả Chính lại gọi chăng, liền sai người đi gọi đứa hầu cận Giả Chính đến bảo:
- Từ giờ trở đi, có khách nào ông mày muốn gọi Bảo Ngọc đến tiếp, thì không được gọi, hãy trình với ông mày rằng: tao bảo một là Bảo Ngọc bị đánh đau, phải chăm nuôi mấy tháng mới đi lại được; hai là năm nay nó có sao hạn chiếu mệnh, phải cúng sao, kiêng không tiếp người lạ. Đến hết tháng tám mới được ra ngoài.
Tên hầu cận vâng lời đi ra. Giả mẫu lại gọi vú Lý và Tập Nhân về kể lại nhưng câu ấy cho Bảo Ngọc nghe, để Bảo Ngọc yên lòng.
Bảo Ngọc xưa nay vẫn không thích tiếp chuyện với bọn quan lại đàn ông, lại rất ghét nhưng lúc phải mũ áo xúng xính đi mừng đi thăm các nơi. Bây giờ được bà bảo thế, càng đắc ý, không những từ khước tất cả họ hàng bè bạn, mà ngay trong gia đình, muốn đến thăm cha mẹ hay không là tùy ý. Ngày chỉ nằm ngồi chơi đùa trong vườn, mỗi buổi sáng sang thăm bà và mẹ một lần, rồi về nhà, suốt ngày thích để cho đám a hoàn sai vặt, lại cho là thú tiêu khiển của mình. Bọn Bảo Thoa có lựa lời khuyên ngăn, thì cáu kỉnh nói: “Các cô là hạng con gái trong sạch, mà cũng học lối mua chuộng hư danh, theo hùa với bọn giặc nước và bọn quỷ ăn lộc. Đó chẳng qua là tại người xưa ngồi rỗi bày trò, cố ý bịa đặt, để cám dỗ bọn râu mày ô trọc đời sau. Ta không ngờ sinh gặp lúc không may, đến cả chị em trong lầu son gác tía cũng lây phải thói xấu ấy, thực là phụ cái ơn chung đúc khí thiêng liêng của trời đất!”
Mọi người thấy thế, cũng không khuyên can nữa. Chỉ có Đại Ngọc từ bé đến giờ không hề hé miệng khuyên chuyện lập công danh để hiển dương cha mẹ gì cả, vì thế Bảo Ngọc rất kính phục Đại Ngọc.
Sau khi Kim Xuyến chết, có mấy người đầy tớ thường đến hỏi thăm, hầu hạ Phượng Thư và biếu xén các thứ, trong bụng Phượng Thư đâm ngờ, không biết ý họ thế nào. Hôm ấy lại có người đem đồ lễ đến biếu. Nhân buổi chiều không có ai, Phượng Thư cười hỏi Bình Nhi. Bình Nhi cười nhạt:
- Thế mà mợ cũng không nghĩ ra à? Tôi đoán những người thường đi lại biếu xén mợ, đều có con làm a hoàn cho bà Hai cả. Hiện giờ trong nhà bà Hai có bốn đứa con lớn, mỗi đứa mỗi tháng được lĩnh một lạng bạc, ngoài ra những đứa khác chỉ được có mấy trăm đồng thôi. Nay Kim Xuyến chết rồi, chắc họ muốn dòm ngó cái số một lạng bạc chứ gì?
Phượng Thư cười nói:
- Phải đấy, em nhắc chị mới nhớ ra. Nhưng mà họ không biết điều tí nào. Tiền muốn nhiều, việc khó nhọc lại không muốn gánh. Giá họ biết thân biết phận, được đưa con vào hầu hạ ở đây, đã là quá lắm rồi, lại còn nghĩ đến chuyện ấy nữa à? Thôi được, tiền của họ có phải dễ dàng đưa đến ta tiêu đâu. Đó là tự họ mang đến, vậy thì họ biếu cái gì ta cứ nhận, còn ta đã có chủ ý.
Phượng Thư định bụng như thế, nên cứ để dằng dai mãi, chờ khi nào mọi người biếu đủ cả, mới lựa dịp trình với Vương phu nhân.
Buổi trưa hôm ấy, Tiết phu nhân, Bảo Thoa, Đại Ngọc đương ngồi cả ở buồng Vương phu nhân ăn dưa. Phượng Thư nhân dịp liền trình:
- Từ khi Kim Xuyến chết, mẹ thiếu một người hầu, giờ người định cho a hoàn nào thay, xin cho biết để cuối tháng sẽ phát lương cho nó.
Vương phu nhân nghĩ một lúc rồi nói:
- Cứ ý ta thì có lệ đâu lại nhất thiết cứ phải bốn hay năm người? Cốt đủ người sai là được, thừa thì nên bớt đi.
Phượng Thư cười nói:
- Cứ lẽ ra thì mẹ nói rất phải, nhưng đó là theo lệ cũ. Nhà người khác còn có hai người hầu nữa là nhà mẹ mà lại không theo đúng lệ ư! Vả chăng bớt đi một lạng bạc cũng chả là mấy.
Vương phu nhân nghĩ một lúc rồi nói:
- Thôi được, cái số tiền ấy cứ chi lại đây, không cần phải lấy thêm người nữa, ta sẽ cho em nó là Ngọc Xuyến. Con chị nó đã hầu ta bao lâu, mà chẳng được cái gì, bây giờ con em theo hầu ta, cho nó ăn hai phần tiền cũng chẳng lấy gì làm quá đáng.
Phượng Thư vâng lời, quay lại nhìn Ngọc Xuyến cười nói: “Mừng em nhé!”
Ngọc Xuyến đến cúi đầu tạ ơn.
Vương phu nhân lại hỏi Phượng Thư:
- Tôi muốn hỏi chị: hiện giờ lương dì Triệu và dì Chu mỗi tháng bao nhiêu?
- Đã có lệ rồi, mỗi người hai lạng, dì Triệu lại còn có hai lạng tiền lương của em Hoàn, cộng là bốn lạng, ngoài ra còn có bốn quan tiền nữa.
- Tháng nào chị cũng phát đủ số đấy chứ?
Phượng Thư thấy câu hỏi hơi lạ, liền nói:
- Sao lại không đủ?
- Hôm nọ nghe đâu có người ta thán rằng dì ấy bị bớt một quan tiền lương, thế là vì cớ gì?
- Nguyên trước tiền lương bọn a hoàn hầu các dì ấy, mỗi người được một quan, không biết năm ngoái ở bên ngoài họ bàn bạc thế nào lại bớt mất một nửa, thành ra tiền lương của bọn a hoàn hầu các dì ấy chỉ còn mỗi người có năm trăm đồng thôi. Mỗi dì có hai a hoàn, phải bớt đi một quan. Thực ra việc này không phải tự con. Con vẫn muốn phát đủ, nhưng từ bên ngoài người ta khấu đi mất rồi, chả lẽ con xuất tiền lương ra bù sao! Con chẳng qua là người đứng nhận mà thôi. Thu bao nhiêu phát bấy nhiêu, con có được làm chủ đâu. Con đã nói hai ba lần, nên để số lương như cũ là phải; nhưng họ bảo chỉ có chừng ấy thôi, vì vậy con không thể nói lại được nữa. Hiện giờ chính tay con phát lương cho họ, phát đúng ngày đúng tháng. Trước kia họ lĩnh ở bên ngoài, tháng nào cũng rắc rối, có bao giờ được trôi chảy như thế này đâu.
Vương phu nhân nghe nói, nín một lúc rồi hỏi:
- Thế thì trong nhà cụ có mấy người được ăn lương một lạng?
- Tám người, nhưng bây giờ còn có bảy thôi, vì trừ Tập Nhân.
- Thế thì phải đấy. Trong nhà em Bảo không có a hoàn nào được ăn lương một lạng cả. Tập Nhân vẫn chỉ coi như người hầu của cụ thôi.
- Tập Nhân vẫn là người hầu của cụ cho sang ở tạm bên nhà chú Bảo, tiền lương của cô ta vẫn phải lĩnh với bọn a hoàn của cụ. Bây giờ bảo Tập Nhân là người hầu của Bảo Ngọc mà bớt một lạng tiền lương bên cụ đi thì không thể được. Phải thêm một người hầu nữa cho cụ mới có thể bớt được. Nếu không bớt, thì lại phải thêm một người hầu nữa cho em Hoàn, như thế mới công bằng. Trừ bảy a hoàn lớn là bọn Tình Văn, Xạ Nguyệt mỗi người mỗi tháng một quan tiền ra, còn tám a hoàn nhỏ là bọn Giai Huệ, cũng chỉ mỗi người mỗi tháng năm trăm đồng tiền thôi, đó là lệnh của cụ, còn ai dám kêu ca tị nạnh nữa.
Tiết phu nhân cười nói:
- Các chị hãy nghe mồm mép chị Phượng kìa, cứ liến láu như đổ xe hột đào ấy! Chị ấy tính toán rành mạch, xử sự lại rất công bằng.
Phượng Thư cười nói:
- Thưa cô, chả lẽ cháu lại dám nói sai hay sao?
Tiết phu nhân cười nói:
- Chị nói có bao giờ sai? Nhưng nên nói thong thả, có đỡ nhọc không?
Phượng Thư muốn cười nhưng lại nín lặng để nghe vương phu nhân chỉ bảo. Vương phu nhân nghĩ một lúc rồi nôi:
- Ngày mai cắt một a hoàn sang hầu cụ để th cho Tập Nhân, và bớt tiền lương của nó đi. Rồi mỗi tháng trích ra hai lạng bạc và một quan tiền ở trong số lương hai mươi lạng của ta, để chi cho nó. Từ giờ trở đi, hễ dì Triệu và dì Chu được hưởng cái gì, thì Tập Nhân cũng được hưởng hai ấy, nhưng về phần Tập Nhân, thì cứ lấy ở trong sổ lương của ta ra mả chi, không nên đả động đến tiền công.
Phượng Thư nhất nhất vâng lời, rời đẩy Tiết phu nhân một cái cười nói:
- Dì nghe thấy chưa, trước cháu nói thế nào, quả nhiên bây giờ đúng thế.
Tiết phu nhân nói:
- Xử thế mới phải. Không nói gì dáng dấp con bé, chỉ xem cách nó xử sự đúng đắn, nói năng hòa nhã, nhưng vẫn có vẻ cứng rắn cương quyết, thật khó có được người như thế.
Vương phu nhân rơm rớm nước mắt nói:
- Các người có biết hết chỗ tốt của Tập Nhân đâu? nó so với Bảo Ngọc còn hơn gấp mười lần! Nếu được nó hầu hạ luôn bên cạnh Bảo Ngọc, thật lả có phúc đấy!
Phượng Thư nói:
- Đã thế thì sao không lấy nó làm nàng hầu ở ngay trong nhà có hơn không?
Vương phu nhân nói: .
- Không được. Một là nó còn ít tuổi, hai là ông không bằng lòng, ba là Bảo Ngọc thấy nó còn là a hoàn, thì dủ có phóng túng chăng nưa, cũng phải nghe lời nó khuyên răn; nếubây giờ cho nó làm nàng hầu ngay, không khi nào nó dám khuyên ngăn đến nơi đến chốn. Thôi hãy cứ để thế, hai ba năm nữa sẽ liệu.
Phượng Thư thấy không có việc gì, liền quay ra, vừa đi đến thềm, đã có mấy người đàn bà đứng chờ ở đấy, thấy Phượng Thư ra, họ đều cười nói:
- Hôm nay mợ vào trình việc gì mà lâu thế Không biết nực à?
Phượng Thư vén tay áo lên, chân đứng kiễng trên bực cửa,(1) cười nói:
- Chỗ này gió lùa mát quá, đứng hóng một lúc rỗi sẽ đi.
Phượng Thư lại nói với mọi người:
- Các chị bảo tôi nói chuyện lâu quá, nhưng bà cứ hỏi tôi những việc gì hàng trăm năm về trước không có lẽ tôi lại không nói? - Lại cười nói - Từ giờ trở đi, tôi làm việc phải cay nghiệt một chút mới được. Họ có oán trách tôi, đến tại bà, tôi cũng chẳng sợ. Những bọn con đĩ thối mồm thối mép, chết đâm chết chém ấy, đừng có mơ tưởng! Nay mai sẽ có ngày ta phải bớt lương khắp lượt cho mà coi. Bây giờ mới bớt của a hoàn, mà đã oán trách ầm lên. Sao không biết nghĩ, mình nó có đáng sai khiến ba đứa không
Phượng Thư vừa rủa, vừa đi, rồi chọn một a hoàn đưa sang bên Giả mẫu. Vương phu nhân ăn dưa xong, nói chuyện một lúc rồi đi về Đến vườn, Bảo Thoa rủ Đại Ngọc vào Ngẫu Hương tạ chơi. Đại Ngọc nói: “phải về tắm rửa”, rồi đi ngay. Bảo Thoa đi một mình, tiện đường tạt vào viện Di Hồng, muốn gặp Bảo Ngọc nói chuyện để khuây khỏa buổi trưa. Khi vào đến sân, thấy lặng lẽ không một tiếng động. Đôi hạc đậu ở khóm chuối cũng đều thiu thiu giấc ngủ. Bảo Thoa rẽ sang bên cạnh, vào ngay trong buồng, thấy ở gian ngoài, bọn a hoàn đương ngủ ngổn ngang cả trên giường. Bảo Thoa đi qua cửa sổ có treo màn gấm các màu, vào tận buồng Bảo Ngọc, thấy Bảo Ngọc cũng ngủ, chỉ có Tập Nhân ngồi thêu bên cạnh, để một cái phất trần cán bằng sừng trắng.
Bảo Thoa đến gần khê cười nói:
Chị cẩn thận quá, trong nhà này còn có ruồi muỗi à? Để cái này làm gì đấy?
Tập Nhân bất thình lình ngẩng đầu lên, trông thấy Bảo Thoa, vội bỏ kim chỉ đứng dậy, khẽ cười nói:
Cô đến đấy à? Tồi sợ giật nẩy mình lên. Cô chưa biết, ở đây tuy không ruồi muỗi, nhưng có một thứ sâu nhỏ ở ngoài màn chui vào, chẳng ai trông thấy. Trong khi ngủ, lỡ nó cắn vào người, thì đau như kiến đốt.
Bảo Thoa nói:
- Chả trách được, đằng sau thì gần nước, lại trồng các thứ hoa, làm thơm lừng cả nhà lên, giống sâu này quen ăn nhị hoa, hễ ngửi thấy mùi thơm là thế nào nó cũng chui vào.
Bảo Thoa nhìn cái bức thêu ở tay Tập Nhân. Đó là cáiyếm bằng lụa trắng, giữa có màu đỏ, trên mặt thêu kiểu “Uyên ương vờn hoa sen” có hoa đỏ lá xanh, có chim uyên ương năm màu.
Bảo Thoa nói:
- Ái chà? Tươi đẹp quá! Cái này của ai mà làm phí bao nhiêu là công?
Tập Nhân ngoảnh vào giường bĩu môi. Bảo Thoa cười nói:
- Người đã lớn thế mà còn đeo cái này à? .
Tập Nhân cười nói:
- Xưa nay cậu ấy vẫn không chịu đeo, nên phải làm thật đẹp, để cậu ấy trông thấy tự khắc phải đeo! Bây giờ trời nóng, nhân lúc cậu ấy ngủ không để ý, tôi lựa cách đeo vào cho, lỡ đêm không đắp chăn cẩn thận cũng không sao. Cô nói làm cái này tốn công, có lẽ cô chưa thấy cái cậu ấy đang đeo trong người sao!
- Chị chịu khó quá!
- Hôm nay làm việc nhiều, cổ cúi xuống đau nhừ cả người.
Lại cười nói:
- Cô hãy ngồi chơi, tôi ra ngoài một tý rồi vào ngay.
Nói xong đi ra.
Bảo Thoa chỉ chăm chú nhìn cái bức thêu nên không để ý, ngồi luôn xuống đó. Vì cũng thích bức thêu, Bảo Thoa liền lấy ngay kim thêu tiếp.
Không ngờ Đại Ngọc hẹn Tương Vân đến mừng Tập Nhân. Hai người vào sân, thấy vắng ngắt cả. Tương Vân quay ra ngoài hiên đi tìm Tập Nhân, Đại Ngọc tìm đến chỗ cửa sổ, đứng ngoài màn the nhìn vào, thấy Bảo Ngọc mặc cái áo sa màu hồng, nằm ngủ ở trên giường, Bảo Thoa ngồi thêu bên cạnh, có cái đập ruồi để gần đấy.
Đại Ngọc thấy thế, đứng né ra một bên, lấy tay bịt mồm, không dám cười ra tiếng, liền vẫy Tương Vân lại. Tương Vân tưởng có gì lạ, vội chạy lại, thấy thế, muốn cười, nhưng nghĩ Bảo Thoa xưa nay đối với mình tử tế, liền nín ngay, biết Đại Ngọc vốn tính đành hanh, hay nói bóng nói gió để chế nhạo người, Tương Vân kéo Đại Ngọc và nói:
- Đi đi thôi. Tôi nhớ Tập Nhân có nói là đến trưa sẽ ra ao giặt quần áo, chắc chị ta đã ở đấy rồi, chúng ta đi tìm chị ấy thôi.
Đại Ngọc hiểu ý, cười nhạt một tiếng rồi theo đi.
Bảo Thoa ở trong nhà mới tết được vài ba cái hoa, thấy Bảo Ngọc nằm mê thét lên: “Lời nói hòa thượng và đạo sĩ tin thế nào được? Cái gì là nhân duyên vàng ngọc! Tôi chỉ biết duyên cây và đá thôi!”
Bảo Thoa nghe câu ấy, bất giác sửng sốt, chợt thấy Tập Nhân vào cười hỏi:
- Cậu ấy chưa dậy à?
Bảo Thoa lắc đầu. Tập Nhân lại cười nói:
- Tôi ta gặp cô Lâm và cô Sử, họ có đến đây không?
- Không thấy.
Rồi Bảo Thoa lại cười hỏi:
- Họ có bảo gì chị không?
Tập Nhân đỏ mặt lên, cười nói:
- Thì chẳng qua họ cũng nói đùa đấy thôi, có thực thế đâu?
Bảo Thoa cười nói:
- Hôm nay không phải họ nói đùa đâu, tôi cũng muốn mách chị việc ấy, nhưng vì chị vội đi ra.
Nói chưa dứt lời, Phượng Thư lại cho người đến gọi Tập Nhân. Bảo Thoa cười nói:
- Chắc cũng lại việc ấy thôi.
Tập Nhân gọi hai a hoàn đến thay mình, rồi cùng Bảo Thoa ra khỏi viện Di Hồng, đến nhà Phượng Thư. Quả nhiên Phượng Thư nói chuyện ấy, và bảo phải đến tạ ơn Vương phu nhân, chứ không cần phải đến Giả mẫu nữa, vì sợ chị ta ngượng. Khi Tập Nhân ở nhà Vương phu nhân về, thì Bảo Ngọc đã dậy và hỏi đi đâu, Tập Nhân cầm trả lời hàm hồ, đến đêm vắng người mới nói thực.
Bảo Ngọc mừng lắm, cười nói:
- Tôi xem chị còn đòi về nhà nữa hay không? Lần trước chị về thăm nhà, khi trở lại nói là anh chị muốn chuộc về, ở đây chẳng bấu víu vào đâu, sau này biết làm thế nào. Chị dùng những câu nói không có tình nghĩa để dọa tôi. Từ giờ trở đi, tôi xem còn ai dám đến đây đòi chị về nữa không
Tập Nhân cười nhạt:
- Cậu đừng nói những câu ấy nữa. Từ giờ trở đi, tôi là người của bà nhà. Muốn đi đâu tôi chỉ phải trình bà thôi, không cần nói với cậu nữa.
Bảo Ngọc cười nói:
- Nếu tôi là người không ra gì, thì chị cứ trình với bà mà về để người ngoài biết tôi không tốt, nên chị mới phải đi, như thế thì chị còn ra gì nữa?
Tập Nhân cười nói:
- Sao lại không ra gì? Không lẽ kẻ cướp tôi cũng theo à? Nếu thế thì chỉ có chết thôi. Người ta dù có sống đến trăm năm, rồi cũng phải chết. Khi tắt hơi rồi, chẳng còn nghe gì, thấy gì, thế là xong chuyện.
Bảo Ngọc nghe nói, liền bịt mồm Tập Nhân lại, bảo:
- Thôi! Thôi! Đừng nói những câu ấy nữa.
Tập Nhân vẫn biết Bảo Ngọc có tính tình kỳ quặc, hễ nghe thấy người ta nói những câu nịnh hót tán tỉnh, thì cho là không thực, chán không buồn nghe; nhưng thấy người ta nói những câu thực thà thân thiết, thì lại đâm ra thương cảm.
Tập Nhân hối hận trót nói quá lời, liền cười xòa nói lảng ra chuyện khác. Rồi chuyển những câu lâu nay Bảo Ngọc thích nghe, như gió xuân trăng thu, son hồng phấn lạt; rồi đến việc người con gái thế nào là tốt. Không ngờ Tập Nhân buột miệng nói đến cái chết của người con gái, liền vội bưng mồm không nói nữa.
Bảo Ngọc đương thích nghe, bỗng thấy Tập Nhân không nói, liền cười:
- Ai mà chẳng chết? Nhưng có đáng chết thì mới chết chứ! Những đám râu mày hên hạ, khi nghe người ta nói “Quan văn chết vì can vua, quan võ chết vì đánh giặc”. Hai cái chết ấy mới là danh tiết của bậc đại trượng phu. Nhưng, dù sao không chết vẫn hơn. Vì có vua hôn ngu mới can ngăn, chỉ biết liều chết để mua lấy tiếng khen, thì sau nây sẽ bỏ vua lại cho ai? Khi có giặc giã mới phải đi đánh, nhưng chi biết liều chết để tỏ ra mình có công đánh giặc, thì sau này bỏ nước lại cho ai? Vì vậy đều không phải là cái chết chính đáng. .
Tập Nhân nói:
- Xưa nay tướng giỏi tôi hiền, đều là bất đắc dĩ mới phải chết đấy thôi.
Bảo Ngọc nói: .
- Hạng quan võ ấy chẳng qua chỉ cậy sức hung hăng, chứ mưu trí kém cỏi, chẳng có tài năng, đến nỗi bị chết uổng, chả lẽ cũng là bất đắc dĩ à? Còn hạng quan văn thì lại khác hẳn, họ cứ chôn vào ruột mấy câu đọc thuộc lòng trong sách, hễ nhà vua có lỗi nhỏ gì, thì cứ nói càn ngăn bậy, để được tiếng là người trung trực; máu nóng nổi lên, dù chết cũng liều, như thế có thể gọi là bất đắc dĩ được không? Phải biết rằng trời có cho thì mới được làm vua, nếu không phải là bực thần thánh nhân từ, không khi nào trời lại giao cho muôn việc nặng nề như thế. Vậy thì những cái chết ấy, chẳng qua chỉ để mua chuộc tiếng khen, chứ chẳng hiểu nghĩa lớn vua tôi gì cả. Còn như tôi bây giờ, nếu có phúc ra, gặp được lúc các chị em đủ mặt ở đây, mà chết ngay đi, lại được nước mắt các chị em chảy ra thành một con sông lớn, buông xác tôi xuống đó lềnh bềnh, trôi đến một chỗ rất xa xăm, không có chim ho cò gáy, rồi theo gió mà tan đi, không bao giờ hóa kiếp làm người nữa, như thế là tôi chết đúng lúc đấy!
Tập Nhân nghe những câu rồ dại ấy, liền kêu mệt, không trả lời, Bảo Ngọc mới nhắm mắt ngủ. Hôm sau quên hẳn chuyện ấy.
Đi chơi các nơi mãi đâm chán, một hôm Bảo Ngọc nghĩ ngay đến khúc hát “Mẫu đơn đình”. Vì đã được nghe hai lần, nhưng vẫn chưa thỏa. Nhân nghe nói trong đám mười hai đứa con hát ở viện Lê Hương có một Linh Quan, đóng vai nữ, hát rất hay. Bảo Ngọc đi ra cửa nách để tìm, gặp Bảo Quan và Ngọc Quan đang chơi ở sân. Thấy Bảo Ngọc đến, họ cười đón mời ngồi.
Bảo Ngọc hỏi:
- Linh Quan ở đâu?
- Chị ấy đương ở trong nhà.
Bảo Ngọc vội chạy vào, thấy Linh Quan một mình nằm dựa ở trên gối. Thấy Bảo Ngọc đến, Linh Quan vẫn cứ nằm yên không nhúc nhích. Bảo Ngọc ngồi ngay bên cạnh, vì xưa nay vẫn hay chơi đùa với những bọn con gái quen, nên cho Linh Quan cũng như các người khác, liễn ghê lại gần, cười nói, nằn nì Linh Quan hát cho nghe một bài Niêu tình ty(2). Linh Quan thấy Bảo Ngọc ngồi xuống, vội đứng dậy tránh đi chỗ khác, nghiêm nét mặt nói:
- Tôi khản cổ lắm. Hôm nọ bà đòi chúng tôi vào hát, tôi cũng không hát được.
Bảo Ngọc thấy nó ngồi lên, để ý ngắm một lúc, thì chính là người con gái ngồi viết chữ “Tường” ở dưới hoa tường vi hôm nọ. Nghĩ bụng, xưa nay mình chưa bị người ta chán ghét bao giờ nên rất khó chịu, mặt đỏ lên rồi đi ra. Bọn Bảo Quan không biết vì cớ gì, liền hỏi, Bảo Ngọc nói cho họ biết. Bảo Quan cười nói:
- Cậu hãy chờ một lát. Cậu Tường về bảo nó hát, nhất định nó sẽ hát ngay.
Bảo Ngọc nghe nói, có ý buồn, liền hỏi:
- Anh Tường đi đâu? .
- Cậu ấy vừa mới đi. Chắc là Linh Quan cần cái gì, cậu ấy đi tìm cho nó đấy.
Bảo Ngọc lấy làm lạ, đứng chờ một lúc, thấy Giả Tường ở ngoài chạy về, tay cầm cái lồng chim, trong lồng có con chim sẻ và một cái cầu nhỏ để làm trò. Hắn hăm hở đến tìm Linh Quan, chợt trông thấy Bảo Ngọc, đành phải đứng lại.
Bảo Ngọc hỏi:
- Giống chim sẻ gì thế mà biết ngậm cờ múa trên cầu làm trò?
- Đây là giống chim sẻ cổ trắng.
- Mua hết bao nhiêu tiền?
- Một lạng tám đồng bạc.
Hắn vừa nói vừa mời Bảo Ngọc ngồi, rồi chạy vào nhà Linh Quan. Bảo Ngọc không nghĩ đến chuyện hát nữa, chỉ muốn xem Giả Tường với Linh Quan ra thế nào. Giả Tường chạy đến phòng Linh Quan cười bảo:
- Em lại mà xem, cái này thích lắm. .
Linh Quan đứng dậy hỏi:
- Cái gì?
- Anh mua con chim sẻ để em chơi đỡ buồn. Anh bắt nó làm trò cho em xem nhé!
Nói xong, hắn lấy nắm thóc nhử con chim sẻ, quả nhiên nó nhảy ngay lên cái cầu làm trò. Nó ngậm ngay cái mặt nạ và cái cờ múa tít. Bọn con hát đều cười “Thú quá”, chỉ có Linh Quan cười nhạt một tiếng, tỏ vẻ bực mình, nằm xuống ngủ.
Giả Tường cười hỏi:
- Có hay không?
- Nhà các anh đã bắt bao nhiêu con nhà tử tế, đem nhốt ở trong chuồng này vẫn còn chưa đủ hay sao, lại bắt cả chim sẻ vào đây để làm trò nữa. Rõ ràng anh đem con chim sẻ ra hình dung chúng tôi để làm trò cười, lại còn hỏi có hay không!
Giả Tường nghe nói, đứng ngay dậy, vội vàng thề và nói:
- Hôm nay sao mà tôi u mê thế? Bỏ ra vài lạng bạc mua con chim sẻ về, tưởng để em chơi cho đỡ buồn, ngờ đâu lại đến nông nỗi này. Thế thì anh đem thả nó ra cũng là một cách để em tai qua nạn khỏi đấy
Nói xong, hắn thả con chim ra và bẻ gãy cả lồng.
Linh Quan lại nói:
- Con chim không như người, nhưng nó cũng có mẹ ở trong tổ, thế mà anh bắt nó về làm trò chơi, liệu có nó bằng lòng hay không? Hôm nay tôi bị thổ huyết, bà cho người gọi anh đi mời thầy thuốc đến xem bệnh cho tôi, thế mà anh lại đem cái của ấy về để làm trò cười. Hạng người như tôi hay đau yếu luôn, lại chả được ai nhìn ngó, đoái hoài đến!
Giả Tường vội nói:
- Chiều hôm qua tôi đi mời thầy thuốc, nhưng ông ấy bảo không việc gì, cứ cho uống hai thang, hôm sau sẽ đến xem lại. Ngờ đâu hôm nay em lại thổ huyết nữa. Tôi phải đi mời thầy thuốc đến ngay.
Hắn nói xong định ra đi. Linh Quan lại nói:
- Hãy hượm đã, trời nắng chang chang thế này mà anh tức khí đi ngay thì tôi cũng không xem đâu!
Giả Tường nghe nói, đành phải dừng lại.
Bảo Ngọc thấy quang cảnh vậy, đứng ngẩn người ra, mới hiểu cái thâm tâm của Linh Quan viết chữ “Tường” hôm trước.
Không thể đứng yên được, Bảo Ngọc quay đi ngay. Giả Tường bấy giờ bụng chỉ để vào Linh Quan, nên không nghĩ gì đến ai.
Khi Bảo Ngọc về, cũng chỉ có bọn con hát ra tiễn thôi.
Bảo Ngọc trong bụng vẩn vơ nghĩ ngợi, ngơ ngẩn ra về; đến viện Di Hồng, thấy Đại Ngọc và Tập Nhân đương ngồi nói chuyện. Bảo Ngọc bước vào thở dài nói với Tập Nhân:
- Câu chuyện tôi nói với chị chiều hôm qua, thực là không đúng tý nào. Chẳng trách ông thường bảo tôi “Lấy ống nhòm trời, lấy bầu đong biển”. Hôm qua tôi bảo bao nhiêu nước mắt của các chị chỉ để chôn cho một mình tôi, thật là nhầm to, nay suy ra, thì nước mắt của các chị có phải để dành cho một mình tôi cả đâu. Từ giờ về sau, mỗi một người chỉ được hưởng một số nước mắt về phần mình thôi.
Tập Nhân cho là đêm qua chẳng qua câu chuyện nói đùa, đã quên đi rồi, không ngờ Bảo Ngọc lại gọi ra, liền cười nói:
- Cậu thực là điên!
Bảo Ngọc lẳng lặng không trả lời. Từ đó mới nhận rõ là tình duyên của người ta, trời đã định trước, nên chỉ ngấm ngầm đau xót: “Không biết sau này ta chết, ai là người rỏ nước mắt?”
Đại Ngọc thấy bộ dạng Bảo Ngọc như thế, biết ngay là lại bị ám ảnh gì rồi, không tiện hỏi nhiều, liền nói:
- Tôi vừa mới ở bên mợ, nghe thấy nói ngày mai là ngày sinh nhật dì Tiết, bảo tôi tiện đường đến hỏi anh có đi hay không, thì cho người đến đằng nhà nói một tiếng.
Bảo Ngọc nói:
- Ngày sinh nhật ông Cả, tôi cũng không đến nữa là. Bây giờ đến đó, lỡ ra người ta trông thấy, còn ra làm sao nữa? Tôi chẳng đi đâu cả. Trời nóng thế này, mà phải đóng bộ quần áo vào thì phiền quá, tôi không đi chắc dì cũng chả giận đâu.
Tập Nhân vội nói:
- Sao cậu lại nói thế? Không thể ví bà dì với ông Cả được, vì nhà ở gần hơn, lại trong thân thích với nhau. Nếu cậu không đi thì chẳng làm cho bà ấy lại sinh nghĩ ngợi hay sao? Cậu sợ nóng, thì sáng sớm đến mừng tuổi ngay, uống chén nước trà rồi về, thế chả tốt hơn ư?
Bảo Ngọc chưa kịp nói thì Đại Ngọc cười nói ngay:
- Nghĩ lúc người ta ngồi đuổi muỗi cho mình, thì anh cũng nên đến là phải.
Bảo Ngọc không hiểu thế nào, vội hỏi:
- Ngồi đuổi muỗi là thế nào?
Tập Nhân kể lại cho Bảo Ngọc nghe câu chuyện hôm qua, khi Bảo Ngọc ngủ, không có ai ngồi cùng, cô Bảo phải ngồi lại một lúc. Bảo Ngọc vội nói:
- Quá đáng! Tôi ngủ không biết, sao lại dám khinh thường cô ấy như thế? Thế nào ngày mai tôi cũng phải đi.
Đang nói chuyện thì Tương Vân ăn mặc chỉnh tề đến cáo từ và nói ở nhà cho người sang đón về. Bảo Ngọc, Đại Ngọc đứng dậy mời ngồi, nhưng Tương Vân không chịu ngồi, hai người đành phải đứng dậy đi tiễn. Bây giờ Tương Vân nước mắt ràn rụa, vì có người nhà đứng đấy, nên không dám tỏ vẻ buồn rầu. Một lúc Bảo Thoa chạy đến, lại càng thêm quyến luyến, không nỡ rời tay. Bảo Thoa nghĩ bụng: “Nếu cứ quyến luyến mãi để người nhà cô ta về mách với bà dì, thì khi cô ta về, sẽ bị dằn vặt khó chịu”. Vì thế phải giục Tương Vân đi. Mọi người tiễn ra đến cửa ngoài. Bảo Ngọc còn muốn tiễn xa nữa, nhưng Tương Vân ngăn lại. Một chốc quay lại gọi Bảo Ngọc đến gần, khẽ dặn:
- Nếu cụ không nhớ đến tôi, thì anh nên nhắc nhở, để cho người đi đón tôi sang.
Bảo Ngọc vội nhận lời. Tương Vân lên xe đi rồi, mọi người mới về.
-----------------------
(1). Thời phong kiến, phụ nữ đứng như vậy là một cứ chỉ khinh bạc.
(2). Sợi tơ bay dưới ánh sáng.
Hồi thứ ba mươi bảy
Thu Sảng trai, định mở Xã hải đường
Hành Vu uyển, đêm nghĩ bài hoa cúc
Giả Chính được bổ chức học quan, liền chọn ngày hai mươi tháng tám lên đường. Hôm ấy, ông ta vào làm lễ cáo từ miếu tổ, cáo từ Giả mẫu, ra đi. Bọn Bảo Ngọc và mọi người gạt nước mắt tiễn theo.
Giả Chính đi rồi, Bảo Ngọc ở trong vườn tha hồ lêu lổng chơi bời. Ngày đi tháng lại, thì giờ trôi qua. Một hôm buồn quá Bảo Ngọc đi lượn quanh chỗ Giả mẫu, Vương phu nhân một lúc rồi lại về vườn. Vừa thay quần áo, thấy Thúy Mặc cầm mảnh giấy hoa tiên đưa đến. Bảo Ngọc nói:
- Ta định đến thăm cô Ba, lại quên mất, giờ chị đến may quá cô ấy đã đỡ chưa?
- Cô tôi đỡ rồi, chẳng qua cảm lạnh một tí thôi. Hôm nay không uống thuốc nữa.
Bảo Ngọc mở hoa tiên ra xem, thấy viết:
Em Thám kính thưa anh Hai,
Đêm trước, vừa tạnh mưa, mặt trăng trong suốt, tiếc cảnh dẹp không mấy khi được gặp, nên em chưa đi ngủ ngay. Đêm đã canh ba, em vẫn còn quanh quẩn ở dưới giàn ngô đồng, gặp phải gió sương trêu cợt, hơi bị cảm nhẹ. Trước anh đã thân hành đến yên ủi dặn dò. lại sai thị nhi sang thăm, và đưa biếu quả vải tươi với bút thiếp của Nhan Chân Khanh(1). Sao anh yêu mến chân thiết em quá thế? Giờ đương lúc nằm trên giường yên tĩnh, chợt nghĩ đến người xa dù ở trong trường danh lợi, cũng còn tìm nơi sông núi, mời mọc xa gần để qua lại vui chơi, tìm hỏi bầu bạn, kết thân với vài ba người cùng chung chí hướng; hoặc dựng văn đàn, hoặc mở thi xã tuy hứng thú nhất thời, nhưng cũng nghìn năm để tiếng. Em không có tài, nhưng được gần nơi suối khe vòm đá, lại thêm mến cô Tiết, cô Lâm là những người phong nhã. Thềm trăng sân gió, tiếc chưa được sum họp thi nhân; rèm hạnh khe đào, may có thể say sưa ngâm vịnh. Ai bảo đua tài nơi Liên xã(2), chỉ dành cho đám râu mày; mà họp mặt núi Đông Sơn(3), lại không nhường cho bọn son phấn? Nếu được anh đội tuyết đến chơi, em xin quét hoa để đợi.
Kính thư.
Bảo Ngọc xem xong, mừng quá, vỗ tay cười nói:
- Ai ngờ em Ba lại phong nhã đến thế! Phải sang bàn việc này mới được.
Nói xong đi ngay. Thúy Mặc chạy theo. Khi đến đình Thấm Phương, thấy một bà già đứng chực ở cửa sau vườn, tay cầm cái thiếp đón trình:
- Anh Vân đến hầu cậu, đương chờ ở cửa sau, nhờ tôi đem thiếp lại đây.
Bảo Ngọc giở xem, thấy viết:
Con là Vân, xin kính thăm thân phụ khoẻ mạnh luôn. Từ khi nhờ ơn trời, cho phép được gần dưới gối, ngày đêm mong mỏi một bề hiếu thuận, nhưng không có dịp để tỏ lòng hiếu thảo. Nhân được giữ việc mua hoa, trên nhờ hồng phúc phụ thân, con quen nhiều thợ trồng hoa và thấy nhiều vườn hoa đẹp. Vừa rồi thấy cây hải đường trắng là giống hiếm có, con đi tìm mãi mới mua được hai chậu. Nếu phụ thân coi con như con đẻ, xin nhận lấy để thưởng chơi. Vì trời đương nóng nực, con vào thẳng trong vườn, sẽ làm trở ngại cho các cô, nên không dám đến hầu tận nơi. Con viết thư này kính dâng và chúc phụ thân mạnh khỏe.
Con là Vân bái thư.
Bảo Ngọc xem rồi cười nói:
- Nó đến một mình hay có người nào nữa?
Bà già nói:
- Có một mình đem theo hai chậu hoa.
- Bà ra bảo nó, tôi biết rồi. Cảm ơn nó nghĩ đến tôi, rồi bà bưng hai chậu hoa vào trong nhà cho tôi.
Bảo Ngọc cùng Thúy Mặc đến Thu Sảng trai, đã thấy Bảo Thoa, Đại Ngọc, Nghênh Xuân, Tích Xuân đều ở đấy cả.
Mọi người thấy Bảo Ngọc đến, cười ầm lên nói:
- Lại thêm một người nữa!
Thám Xuân cười nói :
- Tôi cũng không nỗi tục lắm, ngẫu nhiên nghĩ đến việc này, viết mấy cái thiếp mời, không ngờ lại được các vị đến đủ cả.
Bảo Ngọc cười nói:
- Tiếc là hơi muộn, đáng lẽ nên mở thi xã sớm hơn nữa mới phải.
Đại Ngọc nói:
- Anh chị em việc mở thi xã, đừng tính tôi vào, tôi không dám dự đâu.
Nghênh Xuân cười nói:
- Cô mà không dám, còn ai dám nữa?
Bảo Ngọc nói:
- Đây là việc rất đứng đắn và lớn lao. Chúng ta nên hăng hái lên, đừng người nọ nhường cho người kia. Ý định của mỗi người thế nào, cứ việc nói ra, để chúng ta bàn bạc. Chị Bảo và cô Lâm hãy nói ý định của mình ra.
Bảo Thoa nói:
- Vội làm gì thế? Người đã đến đủ đâu.
Bỗng Lý Hoàn đến, cười nói:
- Nhã quá nhỉ! Định mở thi xã à! Tôi xin nhận chức Chưởng đàn. Mùa xuân vừa rồi, tôi vẫn có ý ấy, nhưng nghĩ mình không biết làm thơ, thì bày trò làm gì. Vì thế tôi quên đi, không nhắc đến nữa. Bây giờ cô Ba đã cao hứng, thì tôi cũng xin giúp để góp phần vui chung.
Đại Ngọc nói:
- Đã định mở thi xã thì chúng ta sẽ là thi nhân cả, trước hết nên bỏ những tiếng xưng hô “chị, em, chú, mợ” đi, mới không tục.
Lý Hoàn nói:
- Phải lắm. Đặt những biệt hiệu để gọi nhau mới nhã hơn. Tôi xin tự đặt cho tôi là “Đạo Hương lão nông”(4), không ai được giành cái tên ấy.
Thám Xuân cười nói:
- Tôi là Thu Sảng cư sĩ.(5)
Bảo Ngọc nói:
- Những chữ cư sĩ và chủ nhân không lấy gì làm nhã, mà lại lôi thôi. Ở đây có cây ngô đồng và ba tiêu, lấy nó đặt tên thì hay hơn.
Thám Xuân cười nói:
- Có đây, tôi thích nhất là cây ba tiêu, gọi ngay tôi là Tiêu hạ khách(6) cũng được.
Mọi người đều nói:
- Có phong cách đặc biệt! Rất thú vị!
Đại Ngọc cười nói:
- Chúng ta kéo nó ra nướng làm nem uống rượn đi!
Câu nói ấy không ai hiểu cả. Đại Ngọc lại cười nói:
- Trang Tử có nói: “Lá chuối che con hươu”, chị ấy tự xưng là Tiêu hạ khách, thì chẳng phải con hươu là gì? mang ngay hươu làm nem đi!
Mọi người nghe nói cười ầm lên. Thám Xuân cũng cười nói:
- Cô lại mắng khéo người ta đấy à? Chờ đấy, tôi đã nghĩ hộ cho cô một mỹ hiệu rất xứng đáng.
Rồi lại nói với mọi người:
- Ngày trước Nga Hoàng và Nữ Anh khóc nhiều, nước mắt nhỏ vào cây trúc, thành ra vằn khúc, nên người đời sau đặt tên là: “Tương Phi trúc”; bây giờ cô ấy ở quán Tiêu Tương, tính lại hay khóc, chắc sau này những cây trúc ở đó sẽ biến thành cây trúc có vằn cả. Từ giờ chúng ta gọi cô ấy là Tiêu tương phi tử mới đúng.
Mọi người nghe nói, đều vỗ tay khen hay. Đại Ngọc ngồi cúi đầu, không nói câu gì. Lý Hoàn cười nói:
- Tôi đã đặt hộ cô Tiết một biệt hiệu rất hay, chỉ có ba chữ thôi.
Mọi người vội vã hỏi:
- Chữ gì?
Lý Hoàn nói:
- Tôi phong cho cô ấy là Hành Vu Quân, các người nghĩ thế nào?
Thám Xuân nói:
- Tên phong ấy cũng rất hay.
Bảo Ngọc nói:
- Còn tôi, nhờ chị em đặt hộ cho một biệt hiệu.
Bảo Thoa cười nói:
- Anh đã có hiệu sẵn rồi, ba chữ Vô sự mang(6) đúng lắm.
Lý Hoàn nói:
- Thôi cứ gọi hiệu cũ của chú là Giang động hoa chu(7) là được rồi.
Bảo Ngọc cười nói:
- Đó là chuyện lúc còn bé, gợi ra làm gì nữa.
Thám Xuân nói:
- Anh có nhiều tên hiệu, còn phải đặt làm gì. Từ nay chúng tôi gọi gì, anh cứ thế mà thưa, thế là được rồi.
Bảo Thoa nói:
- Để tôi đặt cho anh một tên hiệu, kể ra thì rất tục nhưng lại rất đúng với anh. Ở đời khó nhất là phú quý, mà cũng khó nhất là nhàn rỗi, hai cái ấy không thể có cả được, vậy mà anh lại có cả hai. Thôi cứ gọi anh là Phú quý nhàn nhân.
Bảo Ngọc cười nói:
- Tôi đâu dám thế! Thôi tuỳ chị em muốn gọi là gì thì gọi.
Đại Ngọc nói:
- Gọi bừa như thế sao được? Anh ở viện Di Hồng, thì cứ gọi anh là Di Hồng công tử có hay không?
Mọi người đều nói:
- Cũng đúng đấy!
Lý Hoàn nói:
- Còn cô Hai, cô Tư đặt tên hiệu là gì?
Nghênh Xuân nói:
- Chúng em không biết làm thơ, thì đặt tên hiệu làm gì?
Thám Xuân nói:
- Dù sao cũng nên đặt hiệu mới phải.
Bảo Thoa nói:
- Cô Hai ở Tử Lăng châu, thì lấy hiệu Lăng Châu, cô Tư ở Ngẫu Hương tạ, thì lấy hiệu Ngẫu Tạ là xong.
Lý Hoàn nói:
- Như thế là hay rồi. Nhưng kể tuổi thì tôi lớn hơn, các người phải theo tôi. Tôi nói gì các người phải nghe theo. Trong bảy người chúng ta, tôi và cô Hai, cô Tư không biết làm thơ, thì nên chừa ba chúng tôi ra. Chúng tôi xin nhận mỗi người một việc.
Thám Xuân cười nói:
- Đã có biệt hiệu mà cứ gọi tên cũ, thà chẳng đặt cho xong. Từ giờ ai gọi sai sẽ phải phạt mới được.
Lý Hoàn nói:
- Đã đặt thi xã thì nên đặt lệ phạt. Bên nhà tôi rộng hơn, nên họp ở đấy. Tôi không biết làm thơ, nhưng các vị thi nhân cũng không hẳn là ghét tục, mà để cho tôi làm chủ, tất nhiên tôi cũng trở nên thanh nhã. Xin cứ cử tôi làm xã trưởng. Nhưng một mình tôi làm xã trưởng không đủ, cần phải cử thêm hai vị phó xã trưởng nữa. Tôi xin mời hai vị túc nho Lăng Châu và Ngẫu Tạ: một vị ra đầu bài và hạ vần, một vị viết tinh tả và giám sát. Nhưng cũng không câu nệ ba chúng tôi nhất thiết không làm thơ, nếu gặp đầu bài nào, vần nào hơi dễ, chúng tôi sẽ tùy tiện làm thôi. Còn bốn vị thì phải theo hạn định. Ý tôi như thế đấy, nếu các vị không bằng lòng, thì tôi không dám vào hội nữa.
Xưa nay Nghênh Xuân, Tích Xuân vẫn không thích làm thơ, nhất là lại ở trước mặt Bảo Thoa và Đại Ngọc. Giờ nghe nói thế, rất hợp ý mình, hai người đều nói “Phải lắm”.
Thám Xuân cũng hiểu ý ấy, thấy hai người bằng lòng, cũng hùa theo ngay, không nài ép nữa, liền cười nói:
- Thôi được rồi, nhưng nghĩ cũng buồn cười, chính tôi nêu ra việc này, lại để ba vị đến cai quản tôi.
Bảo Ngọc nói:
- Đã thế thì chúng ta đến ngay thôn Đạo Hương đi.
Lý Hoàn nói:
- Sao vội thế. Hôm nay mới chỉ bàn thôi, để tôi mời họp lại sẽ hay.
Bảo Thoa nói:
- Phải định mấy ngày một lần họp mới được.
Thám Xuân nói:
- Nếu họp luôn thì mất thú. Trong một tháng chỉ nên họp độ hai ba lần thôi.
Bảo Thoa nói:
- Một tháng họp hai lần là đủ rồi. Đã định hẳn ngày thì dù mưa gió cũng phải họp. Ngoài hai ngày ấy ra, ai có cao hứng, tình nguyện họp thêm, hoặc mời đi chỗ khác, hoặc cứ ở luôn đấy cũng được, như thế chẳng vui vẻ thích thú lắm sao?
Mọi người đều nói:
- Ý ấy rất hay.
Thám Xuân nói:
- Việc này tự tôi khởi xướng ra, phải để cho tôi làm chủ trước mới khỏi phụ cao hứng của tôi.
Lý Hoàn nói:
- Đã thế thì ngày mai cô mở đầu đi có được không?
Thám Xuân nói:
- Ngày mai không bằng hôm nay, cứ bắt đầu ngay bây giờ. Chị ra đầu bài, “ông” Lăng Châu hạ vần, “ông” Ngẫu Tạ giám trường.
Nghênh Xuân nói:
- Theo ý tôi, cũng nên giao cho một người nào ra đầu bài và hạ vần, cứ nên bỏ thăm mới công bằng.
Lý Hoàn nói:
- Khi tôi mới đến đây, trông thấy người ta mang đến hai chậu hải đường trắng đẹp lắm. Sao không vịnh ngay hoa ấy.
Nghênh Xuân nói:
- Hoa chưa được thưởng, đã làm thơ à?
Bảo Thoa nói:
- Chẳng qua là hoa hải đường trắng, cần gì phải trông thấy mới làm được thơ? Người đời xưa làm thơ phú, chỉ cốt mượn vật để ngụ ý mình thôi. Cứ chờ trông thấy mới làm, thì bây giờ chả còn bài thơ nào nữa.
Nghênh Xuân nói:
- Đã thế thì tôi hạ vần đây.
Nói xong, chạy đến tủ sách, lấy một quyển thơ, mở một tờ ra, là một bài thơ “Thất ngôn Đường luật”, liền đưa cho mọi người xem, thế là ai cũng phải làm thơ thất ngôn. Nghênh Xuân gập sách lại, bảo một a hoàn nhỏ:
- Mày tùy ý nói ra một chữ.
A hoàn đương đứng tựa cửa, nên nói ngay chữ môn (cửa).
Nghênh Xuân cười nói:
- Chữ môn theo vần thập tam nguyên. Như vậy là câu thơ đầu phải lấy chữ “môn”.
Nói rồi bảo đưa cái hộp tập vận, và kéo cái ngăn có vần thập tam nguyên ra, rồi bảo a hoàn trỏ vào bốn chữ. A hoàn chỉ đúng bốn chữ bồn, hồn, ngôn, hôn(8).
Bảo Ngọc nói:
- Chữ bồn và chữ môn khó gieo cho hay được.
Thị Thư xếp sẵn bốn phần bút giấy, rồi ai nấy đều ngồi lặng lẽ nghĩ thơ. Chỉ có Đại Ngọc khi vịn cây ngô đồng, khi nhìn trời thu, khi đùa với bọn a hoàn. Nghênh Xuân lại sai a hoàn thắp một cây mộng điềm hương(9). Nén hương chỉ dài ba tấc, xấp xỉ bằng cái bấc đèn, vì là mau tàn, cho nên lấy hương định hạn. Nếu hương cháy hết, ai chưa làm đong, sẽ bị phạt.
Thám Xuân làm xong trước, lấy bút viết ra, lại xóa xóa chữa chữa một lúc, rồi đưa cho Nghênh Xuân. Thám Xuân quay lại hỏi Bảo Thoa:
- Hành Vu quân đã làm xong chưa?
- Làm xong rồi, nhưng không hay.
Bảo Ngọc chắp tay sau lưng, đi đi lại lại trên thềm và bảo Đại Ngọc:
- Em xem kìa, người ta đã làm xong cả rồi.
- Anh cứ để mặc tôi.
Bảo Ngọc thấy Bảo Thoa đã viết xong, liền hỏi:
- Nguy rồi! Hương chỉ còn một tấc, mà tôi mới nghĩ được bốn câu!
Lại quay bảo Đại Ngọc:
- Hương gần cháy hết rồi, em cứ ngồi ở chỗ đất ẩm làm gì?
Đại Ngọc cũng không trả lời. Bảo Ngọc nói:
- Thôi! Đành mặc kệ cô, dù hay dù dở, tôi cứ viết ra cho xong.
Nói xong, chạy đến bàn viết.
Lý Hoàn nói:
- Chúng ta bắt đầu xem thơ đây. Xem xong những bài này, ai còn chưa nộp, sẽ phải phạt.
Bảo Ngọc nói:
- Đạo Hương lão nông tuy làm thơ không hay, nhưng xem thơ rất tinh, rất công bằng, lời phê của “ông” ai cũng phải phục.
Mọi người đều gật đầu:
Bấy giờ bắt đầu xem thơ của Thám Xuân, thấy viết:
VỊNH HOA HẢI ĐUỜNG TRẮNG
Cỏ lướt bên ngoài lúc xế chiều,(10)
Tạnh mưa xanh ngắt chậu đầy rêu.
Ngọc pha vẻ quí người khôn đọ,
Tuyết trắng màu da bụng đã xiêu.
Nhị ngát hoa khoe chiều ẽo ợt,
Canh khuya trăng gợn bóng treo leo.
Cảo tiên(11) này bảo đừng bay vội,
Vịnh cảnh hoàng hôn dãi tấm yêu.
Rồi xem đến bài của Bảo Thoa:
Cửa khép vì hoa khép suốt ngày,
Tưới hoa bình nước sẵn cầm tay.
Phấn son rửa sạch thềm thu nọ,
Băng tuyết vời về bực móc đây.
Lạt thếch hoa càng thêm được vẻ,
Buồn tênh ngọc cũng phải chau mày.
Muốn dâng Bạch Đế mầu trong trắng,
Lẳng lặng chờ đây lúc xế tây.
Lý Hoàn cười nói:
- Rút lại thì bài của Hành Vu quân là hay!
Nói xong lại xem bài của Bảo Ngọc:
Lặng lẽ trời thu dọi cửa lầu,
Bảy cành chụm lại tuyết pha mầu.
Thái Chân(12) ra tắm làn băng nuột,
Tây tử ngồi nhăn nét ngọc sầu
Gió sớm khôn tan ngàn mối hận,
Mưa đêm lại đọng mấy dòng châu.
Lan can đứng tựa lòng man mác,
Sáo thổi chầy deo khéo cợt nhau.
Mọi người xem rồi, Bảo Ngọc nói:
- Bài của Thám Xuân hay.
Lý Hoàn lại khen bài của Bảo Thoa hay hơn và nói:
- Lời thơ có thần.
Rồi lại giục Đại Ngọc, Đại Ngọc liền hỏi:
- Các người xong cả rồi à?
Nói xong cầm bút ngoáy một lúc, rồi vứt cho mọi người.
Bọn Lý Hoàn cầm lấy xem, thấy:
Lơ lửng rèm Tương cửa khép hờ,
Đất băng chậu ngọc, khéo xinh chưa.
Mới đọc hai câu, Bảo Ngọc đã reo ầm lên: “Ở đâu mà nghĩ ra được tứ ấy?”
Lại xem câu dưới:
Lê đầy nhị trắng đành vay ngọt,
Mai sẵn hồn thơm cứ mượn bừa.
Mọi người đều khen hay, nói: “Quả nhiên có một ý nghĩ khác người”. Lại xem đến mấy câu dưới:
Cõi nguyệt tiên may tay áo trắng,
Buồng thu khách gạt hạt châu sa.
Ngượng ngùng biết ngỏ cùng ai nhỉ?
Gió lạnh đêm mờ đứng ngẩn ngơ.
Mọi người xem xong đều nói:
- Bài này hơn cả.
Lý Hoàn nói:
- Về tình tứ phong lưu thì bài này hay hơn, nhưng về hàm súc hồn hậu thì vẫn phải nhường cho Hành Vu Quân.
Thám Xuân nói:
- Lời phê rất đúng. Tiêu Tương phi tử phải đứng thứ hai.
Lý Hoàn nói:
- Di Hồng công tử phải đội bảng, có chịu hay không?
Bảo Ngọc nói:
- Bài của tôi thực không hay, lời bình ấy rất công bằng - Lại cười nói - Nhưng cần phải châm chước lại hai bài của Hành Vu Quân và Tiêu Tương.
Lý Hoàn nói:
- Đây là theo bình luận của tôi, không can đến các vị, nếu ai nói nữa sẽ bị phạt.
Bảo Ngọc nghe nói, đành phải thôi. Lý Hoàn nói:
- Từ giờ về sau, tôi định mỗi tháng họp hai lần, vào ngày mồng hai và mười sáu. Tôi nhận việc ra đầu bài và hạn vần. Ai còn cao hứng, cứ việc chọn vào ngày khác, dù có họp luôn cả tháng tôi cũng mặc. Trừ ngày mồng hai và ngày mười sáu là phải đến họp ở nhà tôi.
Bảo Ngọc nói:
- Bây giờ nên đặt tên hội đi.
Thám Xuân nói:
- Đặt tên tục quá thì không hay, mới quá lại hoá ra kỳ quặc cũng không đẹp. Vừa rồi mới làm bài thơ hải đường, thì đặt ngay là “Hải Đường xã” cũng được. Tuy hơi tục đấy, nhưng là việc có thực, không quan hệ gì.
Mọi người lại bàn một lúc, uống rượu, ăn hoa quả qua loa rồi đi, có người về nhà, có người đến chỗ Giả mẫu và Vương phu nhân.
Tập Nhân thấy Bảo Ngọc xem xong tờ thiếp của Giả Vân rồi cùng Thuý Mặc ra đi, không biết là việc gì. Sau lại thấy bà già ở cửa sau đem hai chậu hoa hải đường vào, Tập Nhân hỏi ở đâu đem đến, bà già kể lại đầu đuôi cho nghe. Tập Nhân bảo họ mang ra bày tử tế, rồi mời họ xuống buồng dưới ngồi. Sau đó Tập Nhân vào trong nhà cân và gói cẩn thận sáu đồng bạc, lại lấy ba trăm đồng tiền mang ra đưa cho bà già nói:
- Số bạc này thưởng cho bọn trẻ con mang chậu hoa đến. Số tiền này thì cho các bà uống rượu.
Bọn bà già đứng dậy, mặt mũi hớn hở, tạ ơn, luôn mồn từ chối. Tập Nhân nhất định không nghe, mãi họ mới chịu nhận. Tập Nhân lại hỏi:
- Bên ngoài cửa sau có bọn trẻ con trực nhật không?
Bà già vội nói:
- Ngày nào cũng có bốn đứa trẻ con chực sẵn ở đấy để xem có sai bảo gì không. Nếu cô cần sai việc gì, tôi sẽ bảo chúng đi.
Tập Nhân cười nói:
- Tôi có việc gì mà sai? Hôm nay cậu Bảo muốn sai người sang đưa cho cô Sử ít quà, may có các bà đến đây, nhân tiện lúc về, bảo hộ bọn trẻ chực ở cửa sau thuê cho cái xe. Đến khi về, các bà đến đây mà lấy tiền và đừng cho chúng nó chạy bậy sang bên nhà.
Bọn bà già vâng lời đi.
Tập Nhân vào trong buồng lấy cái đĩa đựng quà để đưa sang cho Tương Vân. Khi tìm trong ngăn tủ, không còn cái đĩa nào, Tập Nhân ngoảnh lại thấy bọn Tình Văn, Thu Văn, Xạ Nguyệt đương ngồi thêu, liền hỏi:
- Cái đĩa mã não trắng đâu rồi?
Thấy hỏi, người nọ nhìn người kia, nghĩ mãi không biết để ở đâu. Một lúc, Tình Văn cười nói:
- Đựng quả vải đưa sang biếu cô Ba, chưa lấy về.
Tập Nhân nói:
- Nhà còn nhiều thứ kia mà, sao lại lấy cái ấy?
Tình Văn nói:
- Tôi cũng bảo thế, nhưng chỉ có cái đĩa ấy mà để những quả vải thì mới dễ coi. Tôi mang sang, cô Ba cũng khen đẹp, rồi để luôn bên đó. Chị xem lại còn một đôi lọ liên châu để ở ngăn tủ trên cũng chưa mang về.
Thu Văn cười nói:
- Nói đến cái lọ ấy, tôi lại nhớ đến một việc đáng buồn cười! Cậu Bảo nhà ta khi mà động lòng hiếu thảo, thật là hiếu thảo bội phần. Một hôm, trong vườn có hoa quế, cậu ấy bẻ hai cành, định cắm vào lọ để chơi, chợt nghĩ đó là hoa tươi mới nở, không dám chơi trước, liền lấy ngay đôi lọ xuống, đổ nước, cắm hoa vào, sai người mang đi và thân hành xuống biếu bên cụ một lọ, bên bà Hai một lọ. Ngờ đâu bụng hiếu của cậu ấy làm cả người theo cũng được phúc lây. Hôm ấy chính tôi mang đi, cụ trông thấy mừng cuống quít lên, gặp ai cũng nói: “Thực là cháu Bảo có hiếu quá, ngay một cành hoa nó cũng nghĩ đến ta, thế mà có người cứ oán ta hay thương nó”. Các chị phải biết xưa nay cụ chẳng nói câu gì với tôi cả, hình như tôi có cái gì không lọt vào con mắt của người; thế mà hôm ấy cụ lại sai người lấy mấy trăm đồng tiền cho tôi, bảo tôi là đáng thương, từ bé hay ốm yếu luôn, thật là một điều may mắn bất ngờ cho tôi. Mấy trăm đồng tiền chả là bao, nhưng được thể diện như thế là rất khó. Rồi đi đến chỗ bà Hai, gặp người và mợ Hai cùng dì Triệu, dì Chu đương lục hòm tìm những quần áo của người khi còn trẻ tuổi, không biết người định lấy để cho ai. Lúc trông thấy tôi, người không tìm quần áo nữa, liền đến xem hoa. Mợ Hai lại đứng cạnh tán tỉnh, khen lấy khen để cậu Bảo, nào là biết hiếu thuận, biết điều phải chăng, cái có cũng như cái không, kể ra một tràng, vừa lấp được họng mọi người, lại làm bà càng hãnh diện, vui mừng thêm, thưởng ngay cho tôi hai cái quần áo may sẵn. Quần áo cũng chẳng đáng là bao, năm nào mà chả có, nhưng không khi nào tôi được hãnh diện như lúc này.
Tình Văn cười nói:
- Con ranh con này, chả biết gì cả! Những cái tốt thì cho người khác, còn những cái thừa thãi bà mới gọi đến mày, thế mà mày lại cho là hãnh diện!
Thu Văn nói:
- Dù cho ai thừa đi nữa, cũng là ơn của bà.
Tình Văn nói:
- Phải như tao thì tao không cần lấy. Thừa người ta rồi mới đến mình! Cũng đều là người trong nhà cả, chả lẽ lại ai quý hơn ai? Áo quần đẹp thì đem cho người, thừa ra mới đến mình, chẳng thà không nhận, dù có phật ý người cũng đành, chứ tao thì không thể chịu nổi thế được.
Thu Văn vội hỏi:
- Cho ai thế hở chị? Hôm nọ em ốm mấy ngày, về nhà, không biết gì cả. Chị bảo cho em biết với.
Tình Văn nói:
- Tao bảo cho mày biết, không lẽ mày đem trả lại bà hay sao!
Thu Văn nói:
- Sao lại như vậy! Tôi biết để mừng đấy thôi. Dù có cho con chó nhà này đi nữa, tôi cũng vẫn phải nhận ơn của bà, ngoài ra không có ý gì khác.
Mọi người nghe vậy cười nói:
- Nó chửi khá đấy! Chả phải bà đã cho con chó hoa rồi ư?
Tập Nhân cười nói:
- Đồ thối họng! Hễ há mồm ra là y như đem tao ra làm trò cười! Rồi đây chưa biết đứa nào sẽ chết ra làm sao.
Thu Văn nói:
- Thế ra chị được áo quần đấy à? Em không biết, xin lỗi chị nhé!
Tập Nhân cười nói:
- Thôi bông đùa vừa vừa chứ? Việc chính là ai đi lấy cái đĩa về bây giờ.
Xạ Nguyệt nói:
- Còn cái lọ thì khi nào rồi cũng nên lấy về. Bên nhà cụ còn có thể để đấy được, chứ bên nhà bà Hai thì đông người lộn xộn, người khác còn khá, chứ cái bọn dì Triệu hễ trông thấy cái gì của nhà này là sinh lòng đen tối, muốn làm thế nào cho hư hỏng mới thôi. Bà Hai thì chẳng trông nom gì đến những thứ ấy, chi bằng lấy ngay về là hơn.
Tình Văn bỏ ngay kim chỉ xuống nói:
- Thế thì tôi đi lấy về nhé.
Thu Văn nói:
- Để tôi đi lấy, chị đi lấy cái đĩa của chị.
Tình Văn nói:
- Để tao đi cho. Có dịp tốt, chúng bay tranh mất cả, không để cho tao đi một chuyến à?
Xạ Nguyệt cười nói:
- Chỉ có lần ấy con Thu Văn mới vớ được món may thôi, chứ có phải ai cũng gặp lúc bà Hai lục quần áo ra cho đâu.
Tình Văn cười nhạt:
- Dù không gặp lúc lục quần áo, nhưng biết đâu thấy tao là người cẩn thận, bà Hai lại chẳng lấy hai lạng bạc trong số tiền chi dùng hàng tháng của người ra cho tao.
Rồi lại cười bảo:
- Chúng mày đừng làm trò ma quỷ lẻn lút với tao nữa, việc gì mà tao chả biết.
Nói xong chạy đi, Thu Văn cũng đi đến nhà Thám Xuân để lấy cái đĩa.
Tập Nhân sắm sửa các thứ xong, gọi vú Tống đến bảo:
- Bà về rửa mặt chải đầu, thay quần áo, rồi đến đây lấy các thứ quà, mang sang biếu cô Sử.
Vú Tống nói:
- Cô cứ việc giao cho tôi, có điều gì cứ dặn, tôi thu xếp xong sẽ đi ngay.
Tập Nhân liền bưng ra hai hộp sơn nhỏ bằng tre đan, mở hộp ra thấy trong đựng hai thứ quả tươi, lại mở hộp kia thấy một đĩa bánh đường quả quế. Tập Nhân nói:
- Đây đều là thứ quả tươi trong vườn năm nay, cậu Bảo sai mang sang để cô nếm. Khi trước cô khen cái đĩa mã não này đẹp, thì cô cứ để lại mà dùng. Hôm nọ cô có bảo tôi thêu cái bao lụa này, nếu cô không cho là xấu, xin hãy dùng tạm. Cậu Bảo và chúng tôi gửi lời hỏi thăm cô.
Vú Tống hỏi:
- Không biết cậu Bảo có còn dặn câu gì nữa không. Cô đi hỏi rồi về bảo tôi, không có lại quên.
Tập Nhân hỏi Thu Văn:
- Cậu ấy đương ở nhà cô Ba phải không?
- Họ đương ở đấy bàn việc mở thi xã gì đó, chẳng dặn gì cả bà cứ việc đi thôi.
Vú Tống nhận các thứ và đi mặc áo quần.
Tập Nhân dặn:
- Bà đi ra đằng cửa sau, có đứa bé và xe đương chờ ở đấy.
Vú Tống đi rồi, Bảo Ngọc mới về, đứng xem hoa hải đường một lúc, rồi vào trong nhà nói với Tập Nhân việc mở hội làm thơ. Tập Nhân kể cho Bảo Ngọc biết việc sai vú Tống đưa quà sang biếu Tương Vân. Bảo Ngọc vỗ tay nói:
- Thôi, tôi quên mất cô ta rồi! Trong bụng cứ băn khoăn, không nhớ ra việc gì, may được chị nhắc đến. Tôi muốn mời cô Sử sang chơi. Hội thơ mà thiếu cô ta thì còn có thú gì nữa.
Tập Nhân nới:
- Cần thiết gì việc ấy? Chẳng qua là trò chơi thôi. Cô ấy có được rộng rãi như các cô, các cậu bên này đâu. Hơn nữa ở trong nhà cô ấy lại không được làm chủ. Khi báo tin, cô ấy muốn sang, nhưng không tự tiện sang được, trong bụng chắc lại áy náy khó chịu.
Bảo Ngọc nói:
- Không sao, tôi sẽ trình cụ cho người sang đón cô ấy.
Đương nói thì vú Tống về, kể lại việc Tương Vân chuyển lời cảm ơn Tập Nhân và nói:
- Cô Sử hỏi cậu Bảo ở nhà làm gì? Tôi nói cậu ấy và các cô đương mở hội thơ. Cô ấy bực lắm nói, họ làm thơ mà chẳng cho mình biết.
Bảo Ngọc nghe nói, liền quay sang giục Giả mẫu cho người đi đón Tương Vân sang. Giả mẫu nói:
- Hôm nay muộn rồi, ngày mai sẽ cho đi sớm.
Bảo Ngọc đành phải thôi, trở về có vẻ buồn rầu. Sáng sớm hôm sau lại sang giục Giả mẫu. Đến chiều, Tương Vân sang, Bảo Ngọc mới yên lòng. Khi gặp nhau, Bảo Ngọc kể hết đầu đuôi cho Tương Vân nghe và muốn cho Tương Vân xem những bài thơ đã làm. Bọn Lý Hoàn nói:
- Không cho xem thơ trước, hãy để cho cô ta viết mấy chữ đã, cô ta đến sau, bắt phạt phải họa thơ. Hay thì mời vào hội, không hay bắt phải làm một bữa rượu rồi mới nói chuyện.
Tương Vân cười nói:
- Các người quên không mời tôi thì đáng bắt phạt mới phải chứ! Xin cho biết hạn vần, tôi tuy chẳng hay ho gì, cũng cố gắng hiến một trò cười. Nếu cho tôi vào hội, dù phải quét nhà, thắp hương tôi cũng vui lòng. Mọi người thấy Tương Vân hứng thú như thế, lại càng vui, đều ân hận: “Sao hôm nọ lại quên bẵng cô ta đi”. Liền đưa vần cho Tương Vân họa.
Tương Vân cao hứng quá, chẳng cần cân nhắc sửa đổi gì, vừa nói chuyện vừa nghĩ thơ. Nhân có bút giấy sẵn đấy, liền viết luôn và cười nói:
- Tôi không biết hay dở thế nào, cũng xin tuân lệnh, theo vần họa ra đây hai bài.
Mọi người nói:
- Chúng tôi bốn người làm được bốn bài, đã cho là hết ý rồi, muốn làm thêm một bài nữa cũng không nổi. Thế mà một mình cô Vân lại làm được hai bài. Không biết trong thơ nói những gì? Chắc cô có câu trùng với thơ của chúng tôi.
Họ vừa nói vừa xem, thấy hai bài thơ viết:
Họa bài thơ hải đường trắng.
I
Hôm nọ thần tiên xuống cửa thành,
Lam điền trồng ngọc chậu xinh xinh.
Suơng Nga(13) tính vẫn hay ưa lạnh,
Thiếu nữ(14) lòng đâu nỡ dứt tình.
Tuyết ở nơi nào thu kéo lại,
Mưa từ đêm trước ngấn in rành,
Nhà thơ vui nhỏ, ngâm tràn mãi,
Nỡ để chiều hôm cảnh vắng tanh.
II
Thềm cỏ thông sang cửa tiết la.(15)
Này tường này chậu đẹp bao là.
Hoa vì thích sạch thành trơ trọi,
Người những thương thu dễ ngẩn ngơ.
Giọt lệ khô theo cây đuốc ngọc,
Rèm tinh soi suốt bóng gương nga.
Nỗi riêng muốn ngỏ cùng dì Nguyệt,
Thềm vắng đêm mờ đã chán chưa!
Đọc đến đâu, mọi người đều lấy làm kinh lạ, khen ngợi đến đó.
- Thơ này mới đáng là thơ vịnh hải đường chứ! Thực đúng với tên hội là “Hải đường xã”.
Tương Vân nói:
- Ngày mai xin phạt tôi làm chủ. Để mời tôi họp trước một lần có được không?
Mọi người nói:
- Thế thì càng hay.
Rồi họ đem những bài thơ trước ra cho Tương Vân bình một lượt.
Đến chiều, Bảo Thoa mời Tương Vân sang Hành Vu uyển nghỉ. Tương Vân ngồi trước đèn, nghĩ việc thiết tiệc và ra đầu bài. Bảo Thoa nghe Tương Vân tính toán lúc lâu, xem chừng chưa ổn, liền nói:
- Đã mở hội, tất nhiên phải biện tiệc rượn. Tuy là việc chơi, nhưng cũng phải suy tính cho kỹ. Làm thế nào được biện cho mình mà không mang lỗi với người khác, thì mới có thú. Chị ở nhà, có được làm chủ đâu, mỗi tháng chỉ có mấy quan tiền, còn chưa đủ dùng, bây giờ lại làm cái việc không đâu, nếu dì chị biết, lại oán trách chị. Vả chăng, chị có mang tất cả số tiền của chị ra mà tiêu cũng không đủ, không lẽ vì việc này chị về xin tiền bên nhà, hay định xin tiền bên này?
Tương Vân nghe xong, tỉnh ngộ, đâm ra khó nghĩ. Bảo Thoa nói:
- Việc này tôi đã có ý định. Trong hàng cầm đồ nhà tôi có một người buôn chung, ở vùng ông ta có nhiều cua ngon, trước kia ông ta đã mang đến biếu nhà tôi mấy con. Ở bên này từ cụ trở xuống đến người trong vườn, phần nhiều thích ăn cua cả. Hôm nọ mẹ tôi đã nói muốn mời cụ đến vườn thưởng hoa quế và ăn cua, nhưng bận việc chưa mời được. Giờ chị chưa nên gợi chuyện mở hội thơ vội, hãy cứ mời mọi người đến thưởng hoa quế và ăn cua. Khi họ ăn xong, trở về thì bao nhiêu thơ mà chúng ta chẳng làm được? Để tôi nói với anh tôi tìm mấy giỏ cua thật béo, thật to, rồi về cửa hàng nhà tôi lấy mấy vò rượu ngon, lại sắm bốn năm khay hoa quả, như thế chẳng gọn việc, mà mọi người cùng vui cả hay sao?
Tương Vân Nghe nôi, rất cảm phục, khen Bảo Thoa nghĩ việc chu đáo. Bảo Thoa lại cười nói:
- Do lòng thành thực đối với chị mà tôi nói ra câu ấy, chị đừng nên băn khoăn lại cho tôi là khinh rẻ chị, thì phí cả cái tình thân thiết của hai chúng ta. Chị đừng nên nghĩ ngợi gì, tôi sẽ bảo người đi sắm sửa ngay.
Tương Vân vội cười nói:
- Chị nói thế thì vẫn còn ngờ vực tôi. Dù tôi có u mê đến đâu, cũng biết phân biệt lời hay lẽ phải; nếu không thì còn ra người sao được. Tôi không coi chị như là chị ruột thì trước đây những việc rắc rối trong nhà tôi, khi nào tôi lại kể hết cho chị biết.
Bảo Thoa gọi một bà già đến bảo:
- Bà ra nói với cậu Cả, mua cho tôi mấy giỏ cua to, như cua hôm trước ấy. Ngày mai cơm sáng xong, tôi sẽ mời cụ cùng các bà, các cô sang vườn thưởng hoa quế. Bà dặn cậu ấy đừng có quên nhé. Hôm nay tôi đã mời khách rồi đấy.
Bảo Thoa lại nói với Tương Vân:
- Đầu bài thơ không nên lắt léo quá, cứ xem thơ của người trước, có đề mục kỳ quặc và vần hiểm hóc lắm đâu. Nếu ra đầu bài lắt léo quá, hạn vần hiểm hóc quá, thơ không thể nào hay được, có khi đâm ra gò bó, hẹp hòi. Thơ cố nhiên nên tránh những chữ sáo, nhưng cũng không nên quá cầu kỳ, cốt lập ý cho mời, thì lời thơ sẽ không tục. Nhưng rút cục thì việc này, đối với chúng ta, cũng không đáng kể. Phận sự của chúng ta là may dệt thêu thùa. Khi nào rỗi, đem sách bổ ích cho mình ra đọc ít chương, như thế mới là việc chính đáng.
Tương Vân chỉ vầng tràn, rồi cười nói:
- Tôi nghĩ hôm nọ đã làm thơ hải đường rồi, bây giờ nên làm thơ hoa cúc, chị nghĩ thế nào?
Bảo Thoa nói:
- Thơ hoa cúc cũng hợp cảnh đấy, nhưng người trước đã làm nhiều rồi.
- Tôi cũng nghĩ thế, sợ lại rơi vào sáo cũ.
Bảo Thoa nghĩ một lúc, cười nói:
- Được rồi. Bây giờ lấy hoa cúc làm khách, lấy người làm chủ. Mình nghĩ ra mấy đầu bài, mỗi đầu bài có hai cliữ: một chữ “hư” , một chữ “thực”. Chữ “thực là “cúc”, còn “hư” muốn dùng chữ gì thì dùng. Như thế là vừa vịnh cúc lại vừa kể việc. Người xưa chưa làm thế, cũng không đến nỗi rơi vào sáo cũ. Tả cảnh và vịnh vật, hai cái ấy đi đôi với nhau, như thế mới rộng rãi và mới mẻ.
Tương Vân cười nói:
- Hay lắm! Nhưng không biết dùng chữ “hư” gì cho hay? Chị nghĩ dùm một chữ xem nào?
Bảo Thoa nghĩ một lúc rồi cười nói:
- Cúc mộng cũng được.
- Hay thực! Tôi cũng nghĩ một chữ Cúc ảnh có được không?
- Cũng được, nhưng đã có người làm rồi. Nếu có nhiều đầu bài, thì chữ ấy cũng ghép vào được. Tôi lại có một chữ khác.
- Chữ gì?
- Vấn cúc được không
Tương Vân đập bàn khen hay, liền nói tiếp:
- Tôi cũng có rồi, Phỏng cúc có được không?
Bảo Thoa cũng khen thú lắm, liền nói:
- Chúng ta cố nghĩ mười đầu đề, rồi sẽ hay.
Nói xong, hai người mài mực, nhúng bút. Tương Vân viết. Bảo Thoa đọc, một lúc nghĩ được tất cả mười đầu đề. Tương Vân xem một lượt, cười nói:
- Mười đầu đề chưa đủ thành một bức, phải cố tìm lấy mười hai đầu đề, cũng giống như những trang chữ viết và bức vẽ của người ta vậy.
Bảo Thoa lại nghĩ thêm hai đầu đề nữa, rồi nói:
- Đã thế phải theo thứ tự mà biên ra.
- Hay lắm, thế là làm thành một Cúc phả đấy.
- Bài đầu là ức cúc, nhớ không thấy thì phải đi tìm, nên bài thứ hai là Phỏng cúc. Tìm được rồi, đem đi trồng, nên bài thứ ba là Chủng cúc. Trồng đã có hoa rồi thì ngắm mà thưởng, nên bài thứ tư là Đối cúc. Ngắm rồi thấy hứng thú dồi dào, phải bẻ cành cắm vào lọ, nên bài thứ năm là Cung cúc. Đã cung mà không ngâm vịnh thì sao biết là cúc đẹp, nên bài thứ sáu là Vịnh cúc. Đã vịnh rồi, còn cần phải lấy bút mực vẽ ra nữa, nên bài thứ bảy là Họa cúc. Đã vẽ rồi, mà cứ lẳng lặng không nói gì, thì biết cúc đẹp ở chỗ nào, cần phải hỏi mới biết được nên bài thứ tám là Vấn cúc. Nếu cúc mà biết nói, sẽ làm cho người ta sung sướng quá, nên bài thứ chín là Trâm cúc. Như thế là việc người tuy đã làm xong, nhưng cúc còn nhiều cái đáng vịnh nữa, nên bài Cúc ảnh và Cúc mộng để vào thứ mười và thứ mười một: cuối cùng là bài Tàn cúc, để kết thúc tất cả các bài trước. Như vậy là cảnh đẹp, thú vui trong ba tháng thu đều có đầy đủ.
Tương Vân theo thứ tự chép ra, lại xem một lượt rồi hỏi:
- Nên hạn vần gì?
- Xưa nay tôi không thích hạn vần, cốt thơ cho hay, tội gì cứ phải trói vần. Chúng ta chớ nên học những nhà thơ gò bó, hẹp hòi, cứ ra đầu bài, không cần hạn vần. Cốt sao mọi người nghĩ ra câu thơ hay cho vui, chứ không phải lấy vần ra để làm khó dễ.
- Chị nói rất phải, nếu được thế thì thơ của chúng ta lại càng hay thêm. Nhưng chúng ta chỉ có năm người đều phải làm đủ cả mười hai bài hay sao?
- Nếu thế thì làm khó cho người ta quá. Giờ hãy viết đầu bài cho cẩn thận, bắt buộc theo luật thơ thất ngôn, ngày mai dán lên tường cho mọi người xem, ai làm được bài nào thì cứ làm, nếu đủ sức sẽ làm cả mười hai bài, không thì làm được một bài cũng được. Cứ ai tài giỏi làm nhanh là hơn. Ai đã làm xong mười hai bài của mình rồi, không được làm nữa, trái lệnh sẽ phải phạt.
- Thôi thế là được rồi.
Hai người bàn nhau đâu vào đấy, mới tắt đèn đi ngủ.
---------------------------
(1). Tên chữ là Thanh thần, đỗ tiến sĩ đời Đường, học rộng văn hay, viết các lối chữ rất đẹp. Khi làm thái thủ quận Bình Nguyên, đem quân đi đánh An Lộc Sơn, được phong Lỗ quận công. Sau Lý Hy Liệt làm phản, Chân Khanh bị nó giết.
(2). Tức Bạch Liên Xã, pháp sư Tuệ Tiễn đời nhà Tần, ở chùa Đông Lâm, họp 123 người, vừa nho vừa thích, kết làm bạn nghiên cứu triết lý và phật học. Vì chùa này trồng nhiều sen trắng, nên lấy nó đặt tên.
(3). Ở tỉnh Chiết Giang, Tạ An đời nhà Tấn thường ra chơi ở đây.
(4). Ông già làm ruộng ở Đạo hương thôn.
(5). Người ẩn dật ở Thu sảng trai.
(6). Người đứng dưới cây chuối.
(7). Không có việc nhưng vẫn bận.
(8). Chủ hoa ở động Giang Tiên.
(9). Theo luật thơ Đường, mỗi bài thơ tám câu phải có năm câu gieo đúng vần, tức câu 1, 2, 4, 6, 8. Những vần đều quy từng nhóm, như vần đồng, vần giang, vần chi… Thập tam nguyên tức là vần “nguyên” ở hàng thứ mười ba. Bồn, hồn, ngôn, hôn đi theo mới môn, đều thuộc vần “nguyên”.
(10). Thứ hương ngửi vào đâm say sưa.
(11). Những bài thơ dưới đây, hạn vần đều gieo đúng chữ [môn, bồn, hồn, ngôn, hôn] cả, nhưng vì hạn chế của dịch thuật, chúng tôi phải dịch theo vần khác.
(12). Tiên mặc đồ trắng.
(13). Tức Dương quý phi.
(14). Mặt trăng.
(15). Con gái Trương Dật nhà Đường, có sắc đẹp. Lúc đó Trương Dật hẹn gả cho cháu ngoại là Vương Trụ, vì thế hai người vẫn quyến luyến nhau. Đến lúc lớn, Trương Dật đem gả cho người khác. Thiến Nương và Vương Trụ uất ức lắm. Sau Vương Trụ đi thuyền vào kinh, nửa đêm Thiến Nương chợt nhảy qua thuyền rồi rủ nhau trốn vào đất Thục, ở đấy năm năm đẻ được hai con. Khi về thăm nhà, Trương Dật trông thấy sợ lắm, vì con gái mình bị ốm đã mấy năm nay ở trong buồng. Khi Vương Trụ và Thiến Nương đến nhà, người con gái ấy đương nắm ở trong buồng chạy ra đón, thì hợp ngay với Thiến Nương thành một; sau người ta thường dùng chữ “Thiến Nương ly hồn” để tả người con gái vì tình mà chết.
Hồi thứ ba mươi tám
Lâm Tiêu Tương đứng đầu những thơ ngâm cúc
Tiết Hành Vu mỉa đời trong bài vịnh cua
Bảo Thoa và Tương Vân bàn nhau xong. Hôm sau Tương Vân đến mời Giả mẫu sang thưởng hoa quế. Bọn Giả mẫu đều nói: “Nó đã thích như vậy, chúng ta cũng nên sang quấy cho vui”. Đến trưa, Giả mẫu dẫn Vương phu nhân, Phượng Thư và mời cả Tiết phu nhân sang bên vườn.
Giả mẫu hỏi:
- Ngồi chỗ nào đây?
Vương phu nhân nói:
- Người thích chỗ nào thì ngồi chỗ ấy.
Phượng Thư nói:
- Đã bày sẵn ở Ngẫu Hương tạ rồi. Ở đấy có hai cây quế, hoa nở rất đẹp, nước sông lại trong biếc, ngồi trên nhà thủy tạ chẳng sáng sủa hay sao? Nhìn mặt nước, mắt càng sáng ra.
Giả mẫu nói: “Tốt đấy”. Liền dẫn mọi người đến Ngẫu Hương tạ. Ngẫu Hương tạ làm ở giữa hồ, bốn mặt có cửa sổ, hai bên có hành lang từ ngoài vào bờ, có cầu quanh co. Khi mọi người đi qua cầu tre, Phượng Thư vội đỡ Giả mẫu và nói:
- Xin bà cứ bước bạo lên, không việc gì đâu, cầu tre thì cứ kẽo kẹt như thế đấy.
Một lúc vào đến trong nhà, trông thấy hai cái án bằng tre, đặt ở ngoài hiên: một cái bày bát đũa, đồ đùng uống rượu, một cái bày khay trà, đồ trà và các thứ đĩa chén. Bên này có mấy a hoàn đương quạt lò hâm rượư. Giả mẫu cười nói:
- Ở đây cái gì cũng sạch sẽ cả, trà uống chắc ngon.
Tương Vân cười nói:
- Đó là chị Bảo cháu xếp đặt hộ cả đấy.
- Con bé ấy rất chu tất, việc gì cũng nghĩ đâu vào đấy cả.
Vừa nói Giả mẫu vừa nhìn lên trên cột, thấy đôi câu đối khảm xà cừ sơn đen, liền bảo Tương Vân đọc:
Sen ấu hương thơm xông nhịp trúc;
Phù dung bóng ngả dọi chèo lan.
Giả mẫu nghe xong, ngẩng lên nhìn cái biển, rồi quay lại bảo Tiết phu nhân:
- Ta lúc bé ở nhà cũng có một cái thủy tạ như thế này, gọi là Chẩm Hà các. Khi ấy ta cũng bằng trạc tuổi các chị em nó bây giờ, ngày nào ta cũng dắt mấy người đến đây chơi. Một hôm trượt chân ngã xuống hồ, suýt chết đuối, may vớt lên được, nhưng bị một cái đanh đâm thủng đầu: bây giờ hãy còn một lỗ thủng to bằng đầu ngón tay ở trên mái tóc. Lúc ấy ai cũng bảo đã bị ngâm nước và gió lạnh thì nguy to, nhưng rồi cũng chẳng việc gì.
Phượng Thư cười nói:
- Nếu lúc bấy giờ bà không sống được, thì bây giờ ai hưởng cái phúc tầy đình này cho? Thế mới biết ngay từ bé phúc bà cũng đã to rồi. Quỷ thần xui khiến, cho bà một cái lỗ thủng để chứa phúc thọ đấy! Trên đầu đức lão thọ tinh cũng có cái lỗ thủng, là vì chứa nhiều phúc thọ quá, nên mới lồi ra thế!
Giả mẫu và mọi người đều cười rũ rượi. Giả mẫu nói:
- Con khỉ nảy nói nhảm quen mồm, mày cứ đem ta ra làm trò cười! Tức quá, ta phải tát cho mày vỡ mồm ra mới được!
Phượng Thư nói:
- Chốc nữa ăn cua, sợ lạnh chăng, nên làm trò cho bà cười nhiều, để người nóng lên, có ăn thêm mấy con nữa cũng chả việc gì.
Giả mẫu cười nói:
- Từ giờ trở đi, bắt mày ngày đêm theo ta, không được về nhà để mày làm cho người ta cười luôn mới được.
Vương phu nhân cười nói:
- Vì bà nuông nó quá, nên nó hỗn quen đi. Bây giờ bà lại nói thế, sau này nó còn coi ai ra gì nữa.
Giả mẫu cười nói:
- Ta lại thích nó như thế. Vả chăng, nó không phải là đứa không biết tôn ti trật tự, thì những lúc ở trong nhà, không có người lạ, bà cháu mẹ con cũng nên cười nói cho vui, miễn là biết giữ lễ phép, việc gì phải bắt chúng nó cứ len lét như sợ quỷ thần ấy?
Mọi người vào cả trong hiên uống nước, Phượng Thư vội đi bày đũa bát. Bàn trên có Giả mẫu, Tiết phu nhân, Bảo Thoa, Đại Ngọc, Bảo Ngọc. Bàn bên đông: Tương Vân, Vương phu nhân, Nghênh Xuân, Thám Xuân, Tích Xuân. Cái bàn nhỏ để ở cạnh phía tây là chỗ ngồi của Lý Hoàn và Phượng Thư nhưng cả hai đều không dám ngồi, chỉ đứng bên cạnh bàn Giả mẫu và bàn Vương phu nhân. Phượng Thư nói:
- Cua không được mang nhiều lên, cứ để nguyên cả trong cái nồi nước nóng, chỉ mang lên mười con, ăn hết lại lấy.
Rồi đi rửa tay, đứng trước mặt Giả mẫu gỡ cua. Lượt đầu mời Tiết phu nhân. Tiết phu nhân bảo:
- Để tôi gỡ lấy ăn thì ngon hơn, không cần ai mời.
Phượng Thư lại đưa cho Giả mẫu, rồi đưa đến Bảo Ngọc, lại bảo hâm rượn mang lên. Sau sai bọn hầu nhỏ sắp sẵn nước đậu xanh đun với hoa cúc và nhị quế để rửa tay.
Tương Vân ngồi tiếp khách, chỉ ăn một miếng rồi đứng dậy đi mời mọi người; lại ra ngoài sai người mang hai khay cua đưa cho dì Triệu và dì Chu. Lại thấy Phượng chạy đến bảo:
- Cô tiếp không quen, cứ đi ăn đi, để tôi hộ cho, xong rồi tôi sẽ ăn.
Tương Vân không nghe, sai người bày hai mâm rượu ở bên hành lang, mời Uyên Ương, Hổ Phách, Thái Hà, Thái Vân, Bình Nhi ngồi ăn. Uyên Ương nói:
- Mợ Hai phải đứng hầu đấy, chúng tôi ăn trước sao được?
Phượng Thư nói:
- Các em cứ ăn đi, việc gì đã có ta cáng đáng hết.
Sau đó Tương Vân lại vào chỗ ngồi.
Phượng Thư và Lý Hoàn đều ăn vài miếng qua loa. Phượng Thư lại ra thù tiếp như trước. Một lát, ra ngoài hiên. Bọn Uyên Ương đang ăn uống vui vẻ, thấy Phượng Thư đến, đều đứng dậy nói:
- Mợ lại đến đây làm gì? Để cho chúng tôi được ăn thỏa thích một lúc nào.
Phượng Thư cười nói:
- Con Uyên Ương tệ thật. Tao hầu thay mày, mày chẳng biết cảm ơn, lại còn oán tao à! Hãy rót một chén rượu cho tao uống đã.
Uyên Ương rót một chén rượu đưa lên mồm Phượng Thư. Phượng Thư ngẩng cổ uống một hớp hết ngay. Hổ Phách và Thái Hà lại mỗi người rót một chén nữa đưa đến, Phượng Thư cũng uống hết. Bình Nhi gỡ sẵn một con cua đưa đến. Phượng Thư nói:
- Đổ thêm tý giấm gừng.
Ăn xong, Phượng Thư cười nói:
- Thôi chúng bay cứ việc ăn đi nhé, tao đi đây.
Uyên Ương cười nói:
- Không biết xấu! Ăn cả phần của chúng tôi.
Phượng Thư cười nói:
- Mày đừng có gây chuyện với tao nữa! Mày biết cậu Liễn đã yêu mày, sắp sửa xin nói với cụ cho mày làm vợ hai đấy!
Uyên Ương đỏ mặt lên, bĩu môi lắc đầu nói:
- Ái chà! Làm mợ mà cũng nói nhưng câu ấy à! Tôi không lấy cái tay tanh này bôi lên mặt mợ thì không chịu.
Nói xong, Uyên ương chạy đến chực bôi. Phượng Thư nói:
- Chị ơi, tha cho tôi lần này.
Hổ Phách cười nói: Dù con Uyên Ương có muốn chăng nữa, nhưng khi nào con Bình lại chịu buông tha. Các chị xem đấy, chưa ăn hết hai con cua, nó đã húp hết một bát giấm rồi!
Bình Nhi tay đang gỡ cua, thấy Hổ Phách chế giễu mình, liền cầm con cua định trát vào mặt Hổ Phách, vừa cười vừa chửi:
- Tao sẽ lôi lưỡi con ranh này ra…
Hổ Phách cũng cười, rồi tránh ra một bên. Bình Nhi vồ không trúng, đâm nhào về phía trước, trát ngay lên mặt Phượng Thư. Phượng Thư đương đùa với Uyên Ương, bất thình lình giật nẩy mình kêu lên một tiếng “Ái chà”. Mọi người không nhịn được, đều cười rộ lên. Phượng Thư vừa cười, vừa mắng:
- Con đĩ chết đâm này. Ăn lắm mờ mắt. Mày trát vào con mẹ mày à?
Bình Nhi vội chạy đến lau cho Phượng Thư, rồi đi bưng nước đến rửa. Uyên Ương nói:
- A di đà phật! Thực là quả báo trước mắt.
Giả mẫu ở bên trong nghe thấy, hỏi dồn:
- Cái gì đấy? Sao mà vui thế? Nói lên để chúng ta cười với.
Bọn Uyên Ương lại nói to:
- Mợ Hai đến ăn cướp cua, Bình Nhi tức quá, trát đầy gạch cua vào mặt chủ nó, thành ra chủ nhà và đầy tớ đánh nhau.
Giả mẫu và bọn Vương phu nhân đều cười ầm lên. Giả mẫu cười nói:
- Chúng bay xem nó cũng đáng thương. Chân cua, yếm cua đâu, đem cho nó ăn một ít.
Bọn Uyên Ương cười nói to :
- Chân cua đầy một bàn đấy. Mợ Hai cứ việc ăn cho chán đi.
Phượng Thư cười, đi rửa mặt xong lại đến hầu Giả mẫu.
Đại Ngọc không dám ăn nhiều, chỉ ăn một tý thịt cua đứng dậy đi ra chỗ khác. Giả mẫu cũng không ăn nữa.
Mọi người đều đi rửa tay, rồi người đi xem hoa, người đi xem cá, chơi đùa một lúc, Vương phu nhân nói với Giả mẫu:
- Chỗ này gió to, lại mới ăn cua xong, mời cụ về nhà nghỉ, nếu còn cao hứng, ngày mai lại đến.
Giả mẫu cười nói:
- Phải ấy. Các người đương cao hứng, một mình ta về, sợ mất vui. Đã thế chúng ta cùng về cả.
Giả mẫu quay lại dặn bọn Tương Vân không nên mời Bảo Ngọc, Đại Ngọc ăn nhiều quá. Tương Vân vâng lời. Giả mẫu lai dặn Tương Vân và Bảo Thoa:
- Hai cháu cũng đừng nên ăn nhiều. Cái này ngon thực, nlưng ăn nhiều không tốt đâu, sẽ đau bụng đấy.
Hai người xin vâng, tiễn chân Giả mẫu ra ngoài vườn rồi lại trở vào, bảo bày lại bàn ăn. Bảo Ngọc nói:
- Không cần bày nữa, chúng ta hãy đi làm thơ, cứ để một cái bàn to ở giữa, đem bày tất cả rượu và món ăn ra đấy, không phải xếp đặt chỗ ngồi, ai thích ăn gì đến đấy mà ăn, rồi lại đi ra ngồi chỗ khác, như thế chẳng tiện hay sao?
Bảo Thoa nói:
- Phải đấy.
Tương Vân nói:
- Còn có những người khác nữa kia mà. Liền sai bày một bàn, chọn những cua nóng, mời bọn Tập Nhân, Thị Thư, Nhập Họa, Oanh Nhi và Thúy Mặc đến ăn. Lại giải hai chiếc chiếu hoa ở dưới cây quế cạnh sườn núi, mời bọn bà già và a hoàn nhỏ đến ngồi, tùy ý ăn uống, khi nào gọi sẽ đến.
Tương Vân mang đầu bài thơ ra, lấy kim gài lên tường, mọi người xem đều khen:
- Mới lạ đấy, chỉ sự khó, không chắc đã làm nổi!
Tương Vân lại nói:
- Không việc hạn vần.
Bảo Ngọc nói:
- Thế mới đúng. Tôi cũng không thích hạn vần.
Đại Ngọc vì không uống được nhiều rượu, lại không ăn cua, sai người mang cái đèn có đệm gấm đến ngồi tựa ở bao lan, buông cần câu cá.
Bảo Thoa tay cầm cành hoa quế, ngắm nghía một lúc, rồi nghiêng người ra ngoài cửa sổ, bứt những nhị quế thả xuống mặt nước để cho cá đến đớp.
Tương Vân thì ngẩn người ra một lúc rồi đi mời bọn Tập Nhân, và bảo bọn người ngồi ở sườn núi cứ việc ăn uống cho thỏa thích.
Thám Xuân, Lý Hoàn và Tích Xuân ngồi dưới cây liễu xem le cò.
Nghênh Xuân ngồi một mình ở dưới bóng hoa, lấy kim châm hoa mạt ly.
Bảo Ngọc lúc xem Đại Ngọc câu cá, lúc ngoảnh sang cạnh Bảo Thoa cười nói mấy câu; sau lại đến xem bọn Tập Nhân ăn cua, rồi cũng ngồi tiếp và uống vài ngụm rượu. Tập Nhân lại bóc thịt cua cho Bảo Ngọc ăn.
Đại Ngọc bỏ cần câu xuống, đi đến bàn ăn, cầm lấy cái nậm nhỏ bằng bạc chạm hoa mai, chọn một cái chén nhỏ bằng đá hồng, vẽ hình tàu chuối. A hoàn thấy thế, biết là cô ta muốn uống rượu, vội chạy lại rót. Đại Ngọc nói:
- Các chị cứ việc ăn đi, để tôi tự rót lấy uống mới thú.
Đại Ngọc rót nửa chén, nhưng thấy rượu vàng, liền nói:
- Tôi mới ăn một tý thịt cua, bụng đã thấy hơi đau, nếu được uống thứ rượu hâm nóng uống ngay thì tốt.
Bảo Ngọc liền nói:
- Có rượu nóng đây.
Rồi sai người mang ngay cái nậm rượu nóng ngâm bằng hoa hợp hoan đến.
Đại Ngọc uống một ngụm rồi bỏ xuống, Bảo Thoa cũng chạy đến, cầm chén rượu, uống một tợp, rồi nhúng bút đến cạnh tường ngoặc một cái dưới đầu bài thứ nhất là ức cúc, ở dưới viết thêm chữ: Hành.
Bảo Ngọc vội nói:
- Chị ơi! Bài thứ hai tôi đã nghĩ được bốn câu rồi, để phần tôi làm nhé!
Bảo Thoa cười nói:
- Tôi chưa chắc đã làm nổi một bài anh làm gì mà cuống lên thế.
Đại Ngọc cứ lẳng lặng mang bút đến ngoặc vào bài thứ tám là Vấn cúc, và bài thứ mười một là Cúc mộng, dưới viết thêm chữ Tiêu.
Bảo Ngọc cũng cầm bút ngoặc đầu bài thứ hai là Phỏng cúc, dưới viết thêm chữ Giáng.
Thám Xuân chạy lại xem rồi nói:
- Không ai làm bài Trâm cúc, để tôi làm vậy.
Lại trỏ vào Bảo Ngọc cười nói:
- Vừa nói là không được động đến những chữ trong khuê các, anh nên cẩn thận đấy.
Tương Vân chạy lại ngoặc luôn hai bài thứ tư và thứ năm là Đối cúc và Cung cúc, dưới viết thêm chữ Tương.
Thám Xuân nói:
- Chị phải đặt biệt hiệu mới được.
Tương Vân cười nói:
- Bên nhà tôi bây giờ tuy còn vài nơi hiên quán, nhưng tôi không ở đấy. Nếu mượn mà đặt hiệu chẳng có thú gì.
Bảo Thoa cười nói:
- Vừa rồi cụ có nói bên nhà chị cũng có một cái thủy đình gọi là Chẩm Hà các, thế không phải của chị là gì? Giờ tuy không còn nữa, nhưng chị vẫn là chủ cũ chứ.
Mọi người đều nói: “Đúng đấy”.
Bảo Ngọc không chờ Tương Vân chữa lại, liền đi xóa ngay chữ Tương đổi là chữ Hà.
Ước chừng chưa ăn xong bữa cơm, mười hai bài thơ đều đã làm xong, ai nấy đều viết ra giấy cẩn thận, đưa cho Nghênh Xuân. Nghênh Xuân lấy ngay một tờ hoa tiên vờn tuyết viết tinh tả ra, thơ của người nào, dưới đề biệt hiệu người ấy.
Bọn Lý Hoàn xem từ bài đầu trở xuống:
ỨC CÚC
Ngóng gió tây về luống ngẩn ngơ,
Nhìn lau liễu tốt ruột vò tơ.
Vườn hoang, giậu vắng thu đâu nhỉ,
Trăng lạnh, sương trong mộng thấy chưa?
Lòng vướng vít theo đàn nhạn khuất,
Tai văng vẳng lọt tiếng chày thưa.
Thương mình gầy cũng vì hoa đấy,
Này tiết trùng duơng(1) hãy đợi chờ.
Hành Vu quân
PHỎNG CÚC
Gặp buổi sương tan hãy dạo chơi,
Thôi đừng rượu thuốc đắm say hoài
Dưới trăng hoa nở chừng bao giống,
Bên giậu thu về đã mấy nơi?
Dép nhẹ nhàng đi tình lại đượm,
Thơ run rẩy mãi hứng chưa vơi.
Hoa vàng ví biết thương thi khách,
Hứng rượu hôm nay chớ phụ người.
Di Hồng công tử
CHỦNG CÚC
Vườn thu cào sẵn khách dời chân,
Giồng khắp bên rào khắp dưới sân.
Nhờ được mưa đêm tươi vẻ lại,
Dính đầy sương sớm nở hoa dần.
Thu nhìn mát rượi thơ nghìn vận,
Hương rót say sưa rượt một tuần.
Thương tiếc thì nên chăm tưới bón,
Hãy cùng ngõ giếng lánh hồng trần.
Di Hồng công tử
ĐỐI CÚC
Trồng ở vườn riêng quí tựa vàng,
Khóm vàng khóm trắng đủ đôi hàng.
Bù đầu lẩn thẩn ngồi gần giậu,
Ôm gối nghêu ngao hát những hương.
Đời được mấy người xa thói tục,
Đây là một bạn biết lòng chăng.
Bóng thu loang loáng đừng nên phụ,
Ngơ ngẩn nhìn nhau tiếc tấc gang.
Chẩm Hà cựu hữu
CUNG CÚC
Rượu ngọt đàn hay đón bạn hiền,
Lả lơi trên án bóng thuyền quyên.
Hương pha mùi móc người xa mấy,
Mắt ngắm cành thu sách quẳng liền.
Sương đẫm màu kia mơ chửa tỉnh,
Vườn chơi chiều nọ nhớ hay quên.
Ngông đời ta lại như ai đấy,
Đào lý xuân kia cũng biếng nhìn.
Chẩm Hà cựu hữu
VỊNH CÚC
Sớm tối ma thơ lẩn quất hoài,
Quanh rào tựa đá khẽ ngâm chơi.
Sương kề ngọn bút thơ giàu tứ,
Trăng rọi trên môi giọng ngát mùi.
Mối hận ngấm ngầm đề chật giấy,
Lòng thu giãi tỏ biết chăng ai?
Phẩm bình từ lúc nhờ Đào lệnh(2)
Cao tiết nghìn thu rộn khắp nơi.
Tiêu tương phi tử
HỌA CÚC
Thơ rồi lại vẽ thực ngông cuồng,
Xanh đỏ lòng sao khéo vẩn vương?
Chụm lá vẩy ra nghìn giọt mực,
Trổ hoa nhuộm hẳn mấy hằn sương.
Nhạt nồng vẻ trội hoa vờn gió,
Gân guốc tay đưa thu đượm hương.
Đừng tưởng vườn đông mà hái bậy,
Dáng bình ta thưởng tiết trùng dương!
Hành Vu quân
VẤN CÚC
Chẳng biết thu đâu để hỏi chào,
Vườn đông lẩm nhẩm chắp tay vào.
Xa đời ngất ngưởng cùng ai đấy?
Biếng nở lừ đừ khéo chậm sao?
Vườn móc sân sương buồn kể mấy?
Nhạn về sâu ốm nhớ chăng nào?
Đừng cho không đáng cùng đời truyện,
Biết nói thì đây truyện chút nao.
Tiêu Tương phi tử
TRÂM CÚC
Nay cắm mai trồng bận suốt ngày,
Lầu gương nào phải ngắt về bầy,
Yêu hoa công tử thành đeo bệnh,
Ngông chén Đào công lại quá say.
Tóc ngắn móc giây đường hẻm lạnh,
Khăn đầu hương nhuộm hạt sương bay.
Mắt đời ưa thích gì cao khiết.
Họ vỗ tay cuời cũng mặc thây.
Tiêu Hạ khách
CÚC ẢNH
Gương thu từng lớp ngất lưng trời,
Lẩn lút trong vườn dạo bước chơi.
Đèn vướng hàng song rời rạc chiếu,
Trăng luồn khe giậu lập loè soi.
Bóng còn thoảng đó hồn dừng lại,
Sương vẩn in đây mộng tỉnh rồi.
Giữ lấy mùi thơm đừng xéo nát,
Mắt say nhập nhoạng mặc thây người.
Chẩm Hà cựu hữu
CÚC MỘNG
Bên rào say giấc tiết thu trong,
Trăng đấy hay mây hãy đợi cùng.
Hoa bướm tiên nào màng Tất lại(3)
Nặng thề bạn những nhớ Đào công.
Mơ màng theo nhạn đàn xao xác,
Sửng sốt thương sâu tiếng não nùng,
Tỉnh giấc, nỗi niềm ai đã tỏ?
Cỏ khô khói lạnh ngổn ngang lòng!
Tiêu Tương phi tử
TÀN CÚC
Móc đọng sương rơi luống phũ phàng,
Chén mừng tiểu tuyết tiết vừa sang.
Cuống vàng nhàn nhạt hương thoang thoảng,
Lá héo lơ thơ nhánh ngổn ngang.
Trăng xế nửa giường sâu rít giọng,
Mây đùn nghìn dặm nhạn thưa hàng.
Thu sau lại hẹn ta cùng gặp,
Tạm biệt xin lòng chớ vấn vương!
Tiêu Hạ khách
Mọi người xem bài nào khen bài nấy, mãi không dứt lời. Lý Hoàn cười nói:
- Tôi cứ công bằng mà bình ra đây. Tất cả các bài, bài nào cứng có câu hay, nhưng bài Vịnh cúc thứ nhất, bài Vấn cúc thứ hai, bài Cúc mộng thứ ba. Đầu bài mới, thơ làm mới, từ lại càng mới, nên phải để Tiêu Tương phi tử đứng đầu. Rồi lần lượt đến các bài Trâm cúc, Đối cúc, Cung cúc, Họa cúc, ức cúc.
Bảo Ngọc mừng lắm, vỗ tay nói:
- Rất là công bằng.
Đại Ngọc nói:
- Thơ của tôi cũng không hay lắm, vì lắt léo quá.
Lý Hoàn nói:
- Hay ở chỗ lắt léo mà không ra vẻ rườm rà và trúc trắc.
Đại Ngọc nói:
- Cứ tôi xem thì hay nhất là câu Vườn chơi chiều nọ nhớ hay quên, câu ấy ngụ ý “đánh phấn ở mặt sau”. Nguyên câu “mắt ngắm cảnh thu sách quẳng liền” đã hay lắm. Vì Cung cúc tả hết rồi, không còn nói vào đâu nữa, nên phải quay lại nhớ đến nhũng khi chưa bẻ cắm, ý tứ thực là sâu xa.
Lý Hoàn cười nói:
- Vẫn biết thế, nhưng cái câu... trên môi giọng ngát mùi của cô cũng địch được câu ấy rồi.
Thám Xuân lại nói:
- Dù sao cũng phải chịu thơ Hành Vu quân là sâu sắc. Những chữ thu đâu nhỉ, mộng thấy chưa thực như đã vẽ ra được chữ ức.
Bảo Thoa nói:
- Những chữ tóc ngắn móc giây... khăn đầu hương nhuộm... của cô hình dung tứ Trâm cúc rất mầu nhiệm, không còn hở một chút nào.
Tương Vân cười nói:
- Những chữ cùng ai đấy, khéo chậm sao làm cho hoa cúc khó mà trả lời được.
Lý Hoàn cười nói:
- Nếu vậy thì những chữ bù đầu lẩn thẩn... ôm gối nghêu ngao... cũng có ý không lúc nào rời hoa cúc ra được. Hoa cúc có hay, chắc cũng lấy làm chán chường lắm.
Mọi người nghe vậy đều cười.
Bảo Ngọc cười nói:
- Chuyến này tôi lại hỏng thi rồi. Có lẽ những chữ chừng bao giống, đã mấy nơi, dép nhẹ nhàng đi, thơ run rẩy đọc đều không phải là thăm cúc và câu nhớ mưa đêm dính sương sớm đều không phải là trồng cúc hay sao? Nhưng chỉ bực một nỗi là không bằng được những câu trăng rọi trên môi giọng ngát mùi, ôm gối nghêu ngao ngát những hương, và tóc ngắn, khăn đầu, cuống vàng nhàn nhạt, lá héo lơ thơ, thu đâu nhỉ, mộng thấy chưa đấy thôi.
Lại nói:
- Ngày mai rỗi, tôi sẽ làm đủ mười hai bài.
Lý Hoàn nói:
- Thơ của chú cũng hay đấy, nhưng không bằng nhưng bài kia mới và nhã hơn.
Mọi người bàn tán một lúc, rồi ra ngồi quanh vào cái bàn lớn, lại ăn một chập thịt cua nữa.
Bảo Ngọc cười nói:
- Hôm nay cầm càng cua, thưởng hoa quế, cũng phải có thơ. Tôi đã làm rồi, có ai dám làm nữa không?
Nói xong, liền rửa tay rồi cầm bút viết.
Mọi người xem thấy:
Dưới bóng quế, càng cầm tay,
Ngông lên gừng dấm chua cay thưởng tràn.
Vương tôn sẵn rượu càng ham,
Anh chàng không ruột, bò ngang đi đời!
Quên của lạnh, mải ăn hoài,
Mùi tanh tay dính rửa rồi vẫn tanh.
Người đời chỉ thích ăn sành,
Kìa Pha tiên(4) cũng lo quanh suốt đời.
Đại Ngọc cười nói:
- Hạng thơ này một lúc tôi làm trăm bài cũng được.
Bảo Ngọc cười nói:
- Cô bây giờ đã hết tài kiệt sức, không làm được nữa rồi, lại vẫn còn chê bai người ta.
Đại Ngọc nghe nói, không thèm trả lời, hơi ngẩng cổ lên, khe khẽ ngâm, rồi viết ngay ra một bài.
Mọi người xem thấy:
Giáo trường giáp sắt còn đây,
Nếm mùi trên chỗ mâm bày sáng choang.
Ngọc non đầy ắp đôi càng,
Mai trồi đỏ chói, mùi hương ngát lừng.
Đẫy đà tám vế còn chăng,
Giúp vui nghìn chén, ai nâng đến mời?
Gặp khi ngon miệng đẹp trời,
Quế vờn vã gió, cúc cười cợt sương.
Bảo Ngọc xem xong, khen lấy khen để. Đại Ngọc liền xé và sai người đem đốt đi, rồi cười nói:
- Bài của tôi không bằng của anh, để tôi đốt đi; bài của anh hay đấy, hơn cả bài thơ cúc họa vừa rồi, anh nên giữ lại để cho mọi người xem.
Bảo Thoa cười nói:
- Tôi cũng cố gắng làm một bài, nhưng chưa chắc đã hay, hãy viết ra đây làm trò cười thôi.
Nói xong, viết ra cho mọi người xem.
Chén mời dưới bóng quế đồng,
Trùng dương khao hát, khắp vùng Trường An,
Trên đường nào thấy dọc ngang,
Khen chê chỉ thấy đen vàng trông ra.
Mới xem bốn câu trên này, mọi người khen tuyệt. Bảo Ngọc nói:
- Mắng một cách đau đớn thật. Thơ tôi đáng đốt đi thôi.
Rồi đến bốn câu dưới:
Rửa tanh rượu với cúc xoa,
Muốn phòng chứng lạnh thì ta thêm gừng,
Vò dốc cạn mùi còn chăng?
Bến trăng kia những lúa lừng mùi thơm.
Mọi người xem xong, đều nói:
Đây mới là một bài thơ ăn cua tuyệt diệu! Đề mục nhỏ mà ngụ ý lớn, thực là bực đại tài. Nhưng có điều gì mỉa mai người đời ác quá.
Lúc đó thấy Bình Nhi lại chạy vào vườn, không biết có việc gì.
-------------------------
(1). Ngày mồng 9 tháng Chín.
(2). Tức Đào Tiềm, người đời Tấn. Vì ông làm quan lệnh ở Bành Trạch, nên cũng gọi là Đào Bành Trạch.
(3). Tức Trang Chu, người đời chiến quốc, làm lại ở Tất viên, nên người ta gọi là Tất lại.
(4). Người đời Tống, tu luyệt thành tiên. Đời sau cũng có người gọi Tô Đông Pha là Pha Tiên.
Hồi thứ ba mươi chín
Già nhà quê hay nói huênh hoang
Cậu có tình cứ tìm ngành ngọn
Mọi người thấy Bình Nhi đến, đều hỏi:
- Mợ chị ở nhà làm gì mà không thấy đến?
- Mợ ấy có được rỗi đâu? Vì ở nhà không có món gì ăn ngon, lại không thể sang đây được, nên mợ ấy bảo tôi đến hỏi xem có còn cua hay không, xin mấy con mang về nhà ăn.
Tương Vân nói:
- Có nhiều lắm!
Liền sai người mang cái làn đựng mười con cua lớn.
Bình Nhi nói:
- Cho thêm mấy con cua cái nữa.
Mọi người lại kéo Bình Nhi ngồi xuống. Bình Nhi không chịu ngồi. Lý Hoàn cười nói:
- Thì cứ ngồi xuống đã nào.
Rồi kéo Bình Nhi ngồi xuống, rót một chén rượu, đưa lên miệng cô ta. Bình Nhi vội hớp một ngụm, định đi ngay. Lý Hoàn bảo:
- Chưa cho cô đi vội. Cô mới chỉ biết có mợ Phượng nhà cô thôi còn tôi thì cô không thèm nghe lời gì cả.
Liền quay bảo bọn bà già:
- Hãy mang làn cua này sang biếu mợ Phượng, và nói rằng ta còn giữ cô Bình ở lại chơi.
Một lúc, bà già mang cái làn về nói:
- Mợ Hai nói: các mợ và các cô đừng cười, hãy nếm món này đã. Trong làn này đựng bánh xốp và bánh cuốn mỡ gà của của bà mợ đưa sang cho các mợ và các cô ăn.
Bà ta lại ngoảnh vào nói với Bình Nhi:
- Mợ bảo rằng: Sai chị đi mà chị cứ tham ăn, không chịu về ngay. Mợ lại dặn chị uống ít rượu chứ.
Bình Nhi cười nói:
- Tôi uống nhiều thì làm gì tôi!
Vừa nói vừa uống rượu vừa ăn cua. Lý Hoàn ôm lấy Bình Nhi, cười nói:
- Đáng tiếc dáng điệu mặt mũi thế này mà số phận lại kém cỏi, chỉ là người hầu hạ trong nhà thôi! Người ngoài ai trông thấy, chẳng bảo cô là hạng các mợ, các bà.
Bình Nhi vừa uống rượn với bọn Bảo Thoa, Tương Vân, vừa quay lại cười nói:
- Xin mợ đừng sờ vào người tôi đâm ngứa ngáy khó chịu.
Lý Hoàn hỏi:
- Ái chà! Đeo cái gì mà rắn thế này?
- Chùm chìa khóa đấy.
- Có cái gì quan hệ sợ người ta ăn trộm mà phải đeo luôn trong người thế? Ngày thường tôi vẫn nói với mọi người, có Đường Tăng(1) đi lấy kinh, thì phải có con ngựa trắng chở kinh; có Lưu Trí Viễn ra đánh dẹp thiên hạ, thì phải có con hồ tinh cho mũ giáp. Có mợ Phượng thì phải có cô Bình! Cô là chìa khoá của mợ cô rồi, lại còn dùng chìa khóa này làm gì nữa?
Bình Nhi cười nói:
- Mợ uống rượu lại mang tôi ra làm trò cười.
Bảo Thoa cười nói:
- Mợ ấy nói thực đấy. Khi chúng tôi ngồi rỗi, thường hay bàn tán mấy người trong bọn các chị, thấy là mỗi người một vẻ trăm người chưa chọn được một.
Lý Hoàn nói:
- Việc lớn, việc nhỏ đều do ông trời định sẵn cả. Ví như bên nhà cụ, không có chị Uyên Ương thì làm thế nào nổi việc? Từ bà Hai trở xuống, có ai dám trái lời cụ đâu? Thế mà cô ta lại dám cãi lại, cụ vẫn chỉ nghe cô ta thôi. Những quần áo của cụ không ai nhớ được, cô ta vẫn nhớ rành rọt. Nếu không có cô ta trông nom, thì không biết người ta đã lừa gạt mất bao nhiêu rồi! Vả chăng bụng cô ta lại thẳng thắn, thường hay nói tốt cho người, chứ không bao giờ cậy thế khinh rẻ một ai.
Tích Xuân cười nói:
- Hôm nọ cụ vừa nói, cô ta còn hơn chúng tôi nữa đấy.
Bình Nhi nói:
- Chị ấy là người tốt, chúng tôi bì thế nào được.
Bảo Ngọc nói:
- Chị Thái Hà ở nhà mẹ tôi cũng là người thực thà.
Thám Xuân nói:
- Bề ngoài thì thực thà, thế mà trong bụng lại biết suy tính lắm đấy. Mẹ hiền như bụt, chả để ý đến việc gì, mà cô ta thì việc gì cũng biết, cái gì cũng phải nhắc. Cha ở nhà cũng như đi vắng, bất cứ việc lớn việc nhỏ, cô ta đều biết hết, nếu mẹ quên thì sau đó cô ta nhắc ngay.
Lý Hoàn nói:
- Còn nói gì nữa.
Rồi trỏ Bảo Ngọc nói:
- Chúng ta hãy xem, trong nhà chú Hai đây, nếu không có chị Tập Nhân thì sẽ ra sao? Dù thím Phượng có tài như Bá Vương nước Sở(2) cũng cần phải có hai cánh tay để cất cái vạc nghìn cân. Không có cô Bình, thì việc nhà thím ấy làm thế nào mà trông nom xuể được?
Bình Nhi nói:
- Lúc trước bên nhà đưa sang bốn a hoàn, nhưng người chết, người thì đi, chỉ còn một mình tôi bồ côi bồ cút ở lại đây thôi.
Lý Hoàn nói:
- Đó là phúc cho nhà cô, nhưng cũng là phúc cho nhà thím Phượng. Trước kia cậu Cả nhà còn sống, thì có thiếu gì người hầu? Các cô thử xem, tôi có phải là người hẹp lượng không biết dung kẻ dưới đâu? Thế mà ngày nào họ cũng cứ tỏ ra không vừa ý. Vì thế, khi cậu ấy mất rồi, nhân thấy họ còn trẻ tuổi, tôi đều cho về cả. Nếu được người nào biết nghĩ thủy chung ở lại, thì bây giờ tôi cũng còn có kẻ đỡ chân đỡ tay.
Nói xong, mắt Lý Hoàn đỏ ngầu lên.
Mọi người đều can:
- Còn kể ra làm gì cho đau lòng! Thôi chúng ta đi về là hơn.
Nói xong, đều đi rửa tay, rồi cùng nhau sang thăm Giả mẫu và Vương phu nhân. Bọn bà già và a hoàn quét dọn nhà cửa, thu xếp bát đĩa. Tập Nhân và Bình Nhi cùng đi ra.
Tập Nhân mời Bình Nhi vào nhà mình uống trà. Bình Nhi nói: “Không uống đâu, sau sẽ đến chơi”. Nói xong muốn đi ngay. Tập Nhân liền gọi lại hỏi:
- Tại sao tiền lương tháng này, ngay người trong nhà cụ và bà Hai vẫn chưa giả?
Bình Nhi quay lại gần Tập Nhân, thấy không có ai, khẽ nói:
- Thôi, chị đừng hỏi nữa, chậm lắm là hai hôm sẽ phát thôi. Tiền lương tháng này mợ tôi đã chi ra rồi, nhưng lại đem cho người khác vay. Phải chờ đi thu lãi ở các nơi về đủ số rồi mới phát. Chị đừng nên nói cho một ai biết nhé!
- Không lẽ mợ ấy còn thiếu tiền tiêu. Sao nỡ đang tâm làm như vậy?
- Mấy năm nay mợ ấy chỉ lấy món tiền ấy ra cho vay, mà đã thu được hàng nghìn bạc lãi rồi đấy.
- Mợ chị lấy tiền lương của chúng tôi đem ra cho vay lấy lãi, làm chúng tôi phải ăn chực nằm chờ!
- Sao chị lại nói câu tệ bạc thế? Chị mà còn thiếu tiền à?
- Tôi hiện giờ chưa cần, nhưng muốn sắp sẵn cho một người.
- Chị có việc gì cần tiêu, thì tôi có mấy lạng, hãy lấy mà tiêu, sau này trừ tiền lương cũng được.
- Bây giờ tôi chưa cần, sau này tiêu gì, tôi sẽ cho người sang vay chị.
Bình Nhi nhận lời, chạy về nhà không thấy Phượng Thư đâu, chợt thấy già Lưu và thằng Bản lần trước đến xin tiền đã ngồi ở nhà bên kia rồi, lại có vợ Trương Tài và vợ Chu Thụy ngồi tiếp; có mấy a hoàn đứng dưới đất đương dốc táo, dưa và rau ở túi ra. Mọi người thấy Bình Nhi vào, đều đứng dậy cả. Già Lưu vì lần trước đến, đã biết Bình Nhi là người thế nào rồi, nên vội bước xuống hỏi:
- Cô vẫn được mạnh luôn? Cả nhà tôi đều gửi lời hỏi thăm cô. Từ lâu muốn đến thăm sức khỏe mợ nhà và cô, nhưng vì bận mùa. Năm nay mới gặt được mấy hộc thóc, hoa quả, rau dưa đều tốt cả. Nhưng thứ này là của mới, tôi không dám mang đi bán, chọn thứ ngon đem đến biếu mợ và cô. Các cô ngày nào cũng ăn chán những đồ cao lương mỹ vị, giờ nếm món rau nhà quê xem sao. Đó là tấm lòng thành của người nghèo chúng tôi.
Bình Nhi vội nói:
- Đa tạ lòng bà!
Rồi mời già Lưu ngồi. Bình Nhi cũng ngồi xuống, lại mời thím Trương và thím Chu cùng ngồi, và sai a hoàn nhỏ đi pha nước. Vợ Trương Tài và vợ Chu Thụy đều cười nói:
- Hôm nay trông cô có vẻ hồng hào tươi tỉnh, khóe mắt cũng đỏ lên.
Bình Nhi cười nói:
- Phải đấy! Xưa nay tôi không biết uống rượu, mợ Cả và các cô cứ kéo lại vật nài cho được, bất đắc dĩ tôi phải uống hai chén, thành ra đỏ cả mặt.
Vợ Trương Tài cười nói:
- Tôi muốn uống quá, lại chẳng có ai mời. Ngày mai có ai mời cô, cho tôi đi theo với.
Mọi người đều cười ầm lên.
Vợ Chu Thụy nói:
- Sáng hôm nay tôi trông thấy thứ cua to quá, chỉ hai con là đủ một cân. Thế mà những hai ba giỏ lớn, có nhẽ đến bảy tám mươi cân.
Vợ Trương Tài nói:
- Từ trên chí dưới, ai cũng ăn cả, thì chừng ấy chưa chắc đã đủ.
Bình Nhi nói:
- Ở đâu mà ai cũng ăn. Chẳng qua chỉ nhưng người có tên có tuổi mới được ăn vài con, còn thì có người vớ được, có người không vớ được con nào.
Già Lưu nói:
- Giá cua năm nay mỗi cân là năm phân, mười cân thì phải năm đồng, năm năm hai mươi lăm, ba năm mười lăm, lại thêm rượu và đồ ăn khác nữa, cộng tất cả ít ra cũng phải hơn hai mươi lạng bạc đấy.(3)
A di đà phật! Món tiền này, người nhà quê chúng tôi có thể ăn được một năm!
Bình Nhi hỏi:
- Bà đã được gặp mợ ấy chưa?
- Đã gặp rồi, mợ ấy bảo tôi hãy chờ ở đây.
Nói xong, già Lưu ra ngoài cửa trông trời, nói:
- Trời đã chiều rồi, chúng tôi xin về đây. Nếu không ra được ngoài thành, lại khốn khó đấy!
Vợ Chu Thụy nói:
- Để tôi đi xem hộ bà.
Nói xong chạy đi, một chốc mới về, cười nói:
- Phúc nhà bà đấy, sao mà hai người lại hợp duyên với nhau thế.
Bọn Bình Nhi hỏi: “Thế nào”. Vợ Chu Thụy cười nói:
- Mợ Hai đang hầu cụ, tôi khẽ đến trình: “Già Lưu muốn về, vì sợ tối không ra được cửa thành”. Mợ Hai bảo: “Khen cho bà ấy, đường xa thế mà mang được nhiều thứ đến biếu. Bây giờ muộn rồi, bảo bà ấy ngủ lại một đêm, ngày mai sẽ về”. Thế không phải là hợp duyên với mợ Hai à? Việc ấy đã đành, không ngờ cụ nghe thấy, liền hỏi già Lưu là ai? Mợ Hai kể rõ gốc tích. Cụ bảo: “Ta muốn nói chuyện với những người già cả, bảo bà ấy đến đây”. Thế không phải là duyên số trên trời, không hẹn mà gặp sao?
Vợ Chu Thụy liền giục già Lưu đi ngay.
Già Lưu nói:
- Người ngợm tôi thế này, đến đó sao tiện? Thôi chị nói hộ là tôi đã về rồi!
Bình Nhi nói:
- Không việc gì đâu, bà cứ đến, cụ tôi vốn mến người già, thương người nghèo, chứ không như những hạng người điêu trá đâu. Bà sợ, tôi và dì Chu sẽ đưa bà đến.
Nói xong, liền cùng vợ Chu Thụy đưa già Lưu sang bên nhà Giả mẫu.
Bọn đầy tớ bé ngồi gác ở cửa ngoài, thấy Bình Nhi đến, đều đứng dậy cả. Có hai đứa chạy theo Bình Nhi gọi: “Cô ơi!”
Bình Nhi hỏi:
- Muốn nói việc gì.
- Bây giờ chiều rồi, mẹ tôi ốm, tôi phải đi mời thầy thuốc, xin cô cho tôi nghỉ nửa ngày, có được không?
- Chúng bay giỏi thật, đã bàn soạn với nhau rồi hay sao? Cứ mỗi ngày là một đứa xin nghỉ, không xin phép mợ, lại cứ quấy rầy tao. Hôm trước thằng Trụ xin đi, cậu Hai gọi nó không thấy, tao phải nói đỡ, cậu ấy mắng tao che chở cho nó. Bây giờ mày cũng lại thế à?
Vợ Chu Thụy nói:
- Mẹ nó ốm thật đấy, xin cô nói đỡ, để cho nó về.
Bình Nhi nói:
- Ngày mai phải đến sớm nhé, nghe chưa? Ta còn cần đến mày. Hay lại ngủ cho đến khi mặt trời dọi vào đít rồi mới dẫn xác đến? Nhân tiện mày về bảo cho thằng Vượng biết là mợ truyền số tiền lãi còn lại, ngày mai không mang trả, thì mợ không thèm lấy nữa đâu! Để nó tiêu cả.
Thằng nhỏ mừng nhảy lên, vâng dạ rồi đi.
Bình Nhi đến buồng Giả mẫu, bấy giờ các chị em ở trong vườn Đại Quan đều đứng hầu cả đấy. Già Lưu đi vào, thấy trong nhà người nào cũng đeo châu ngọc, mặc gấm vóc, lộng lẫy như hoa, không phân biệt ai ra ai nữa. Chỉ thấy một vị lão bà ngồi tựa trên giường, đằng sau có một a hoàn lộng lẫy như một mỹ nhân, mình đầy the lụa, đang ngồi hầu bóp chân. Phượng Thư đang đứng bên cạnh cười cười nói nói. Già Lưu biết ngay là Giả mẫu, vội lại gần lạy mấy lạy, rồi nói:
- Chúc lão thọ tinh mạnh khỏe luôn.
Giả mẫu gật đầu hỏi thăm, và sai vợ Chu Thụy lấy ghế cho ngồi. Thằng Bản rụt rè, không biết chào hỏi gì cả.
Giả mẫu hỏi:
- Bà này, năm nay bà bao nhiêu tuổi rồi?
Già Lưu vội đứng dậy thưa:
- Tôi năm nay bảy mươi lăm tuổi.
Giả mẫu ngoảnh vào nói với mọi người:
- Nhiều tuổi hơn ta thế mà trông người vẫn còn sắc sảo? Ta đến tuổi ấy không biết còn làm được gì không?
Già Lưu cười nói:
- Kiếp chúng tôi là kiếp người chịu khổ, chịu sở; còn cụ sinh ra là để hưởng phúc. Chúng tôi mà cũng như cụ, thì công việc đồng áng ai làm cho.
- Mắt và răng bà còn khá không?
- Còn khá, nhưng năm nay cái răng bên hàm trái đã thấy lung lay.
- Tôi già rồi, không làm gì nữa; mắt mờ, tai điếc, tính lại hay quên. Ngay các bà là chỗ họ hàng, tôi cũng không nhớ hết. Mỗi khi bà con đến chơi, nói ra sợ người ta cười, tôi cũng chả biết ai vào ai, chẳng qua có cái gì ăn được thì ăn vài miếng, rồi ngủ một giấc; lúc nào buồn thì chơi đùa với con, với cháu cho qua.
Già Lưu cười nói:
- Thế là cụ có phúc đấy. Chúng tôi mong thế cũng chẳng được
- Phúc gì? chẳng qua là hạng già bỏ đi đấy thôi!
Câu nói ấy làm cho mọi người cười ầm lên.
Giả mẫu lại cười nói:
- Tôi vừa thấy cháu Phượng nói, bà có mang cho nhiều thứ rau dưa, tôi đã bảo nó cất đi rồi. Tôi đang muốn ăn rau dưa chính trong vườn nhổ ra, chứ mua ở ngoài thì không được ngon.
Già Lưu nói:
- Đó là vật nhỏ mọn quê mùa, chẳng qua ăn lấy thứ tươi thôi. Chúng tôi chỉ muốn ăn thịt cá, nhưng chẳng có mà ăn.
Giả mẫu lại nói:
- Bây giờ đã nhận bà con, thì không nên về không, đừng ngại gì cả, hãy ở lại chơi vài hôm. Ở đây cũng có vườn, có hoa quả, ngày mai bà đến nếm thử xem, rồi mang về một ít, thế mới là có đi có lại chứ.
Phượng Thư thấy Giả mẫu vui vẻ, liền mời già Lưu ở lại, và nói:
- Nhà chúng tôi tuy không rộng bằng vườn trại của bà, nhưng cũng có vài gian buồng để không, bà ở lại vài hôm, kể chuyện mới chuyện cũ ở quê ta cho bà tôi nghe.
Giả mẫu cười nói:
- Cháu Phượng đừng mang bà ấy ra làm trò cười. Bà ấy là người nhà quê thực thà, không quen lối đùa cợt của nhà mày đâu!
Liền sai người lấy hoa quả cho thằng Bản. Thằng Bản thấy đông người, sợ không dám ăn. Giả mẫu lại sai người cho nó tiền, bảo bọn hầu bé đưa nó ra ngoài chơi. Già Lưu uống nước xong, kể những chuyện tai nghe mắt thấy ở thôn quê cho Giả mẫu nghe. Giả mẫu càng lấy làm thích.
Đến chiều, Phượng Thư sai người mời già Lưu đi ăn cơm. Giả mẫu lại chọn vài món ăn của mình, sai người đưa cho già Lưu. Phượng Thư biết già Lưu hợp tính Giả mẫu, nên ăn cơm xong lại bảo già đến ngay. Uyên Ương sai bà già đưa già Lưu đi tắm rửa, lấy hai bộ quần áo của mình thường mặc đưa cho già thay. Già Lưu xưa nay có được thấy thế này bao giờ, vội thay quần áo, đến ngồi trước giường Giả mẫu, rồi lại moi chuyện ra nói. Bấy giờ chị em Bảo Ngọc đương ngồi cả đấy. Họ xưa nay chưa hề được nghe, nên cảm thấy thay hơn cả người mù kể chuyện.
Già Lưu tuy là người nhà quê, nhưng cũng am hiểu ít nhiều. Vả tuổi đã già, trò đời đã từng trải, lại thấy Giả mẫu và đám chị em đều thích nghe, nên dù hết chuyện, cũng vẫn cứ bịa ra để nói:
- Chúng tôi ở nhà quê, cày cấy trồng trọt, hàng năm, hàng ngày, suốt cả bốn mùa, dầm mưa dãi nắng, có lúc nào được ngồi rỗi đâu? Quanh năm lấy đầu bờ làm quán mát nghỉ ngơi, thì còn thiếu gì chuyện kỳ quặc trên đời! Cũng như mùa đông năm ngoái, tuyết rơi ròng rã mấy ngày, mặt đất ngập đến ba bốn thước. Hôm ấy tôi dậy sớm, chưa ra cửa, đã nghe thấy bên ngoài có tiếng rút củi sột soạt. Tôi đoán có người ăn cắp củi, nhìn qua cửa sổ, lại không phải là người trong trại.
Giả mẫu nói:
- Chắc là người qua đường lạnh quá, thấy củi chất đấy, rút ra để đốt chứ gì?
- Không phải là người qua đường, chuyện thế mới lạ chứ. Cụ thử đoán xem là ai? Nguyên là một cô gái rất đẹp, độ mười bảy, mười tám tuổi, đầu chải bóng nhoáng, mặc áo đỏ và quần hoa trắng...
Già Lưu vừa nói đến đấy, bỗng bên ngoài có tiếng ồn ào lại có người nói:
- Không việc gì đâu, đừng làm cụ sợ.
Giả mẫu nghe thấy liền hỏi:
- Cái gì thế?
A hoàn nói:
- Chuồng ngựa phía nam bị cháy, nhưng không việc gì, đã dập tắt được rồi.
Giả mẫu xưa nay vẫn hay nhát, liền đứng dậy vịn vào người hầu đi ra ngoài hè xem, thấy góc đông nam hãy còn ngọn lửa. Giả mẫu sợ quá, vừa niệm phật, vừa sai người đi thắp hương khấn thần hỏa. Bọn Vương phu nhân vội lại an ủi: “Đã dập tắt được rồi, xin cụ cứ vào”.
Giả mẫu chờ cho lửa tắt hẳn rồi, mới dẫn mọi người vào.
Bảo Ngọc lại hỏi già Lưu:
- Tại sao cô gái ấy lại rút củi trong đám tuyết, lỡ bị lạnh sinh ốm thì sao?
Giả mẫu nói:
- Vừa rồi vì câu chuyện rút củi, nên xảy ra việc cháy, mày lại còn hỏi làm gì? Thôi! Thôi! Đừng nhắc đến nữa, hãy nói chuyện khác đi.
Bảo Ngọc nghe nói không vui, nhưng cũng phải thôi.
Già Lưu nghĩ một lúc, rồi nói:
- Cái trại ở bên đông trại chúng tôi có một bà cụ già đã ngoài chín mươi tuổi. Ngày nào cũng ăn chay niệm Phật. Không ngờ cảm động đến đức Phật Quan Âm, đêm về báo mộng rằng: “Số ngươi đáng phải tuyệt tự, nhưng vì ngươi có lòng thành nên ta đã tâu với đức Ngọc Hoàng cho ngươi đứa cháu giai”. Cụ già ấy chỉ có một người con, người con ấy chỉ đẻ có một đứa cháu gái thôi. Ngờ đâu đứa cháu ấy đến năm mười bảy, mười tám tuổi thì chết mất. Bà ấy khóc lóc không biết bao nhiêu mà kể. Về sau quả nhiên lại đẻ được một đứa cháu nữa. Bây giờ nó đã mười ba, mười bốn tuổi, người kháu khỉnh, thông minh, lanh lẹ. Như thế thì thần phật có nhẽ cũng có đấy nhỉ!
Câu chuyện ấy hợp ý Giả mẫu và Vương phu nhân đều thích nghe cả. Bảo Ngọc lại chỉ thích chuyện rút củi thôi, nên trong lòng nghĩ vơ nghĩ vẩn. Thám Xuân liền hỏi:
- Hôm nọ cô Sử đã mời chúng ta, bây giờ chúng ta nên bàn nhau mở một cuộc thi thơ, để trả lại bữa tiệc, và cũng mời cụ đến thưởng hoa cúc một thể, có nên không?
Bảo Ngọc cười nói:
- Cụ đã bảo phải làm bữa tiệc để mời lại cô Sử và cho chúng ta đến tiếp. Chúng ta hãy ăn tiệc của cụ đã, rồi sẽ mời sau cũng không muộn.
Thám Xuân nói:
- Càng ngày trời càng rét thêm, chưa chắc cụ đã thích.
Bảo Ngọc nói:
- Cụ lại thích mưa, thích tuyết. Chúng ta chờ lúc bắt đầu có tuyết, mời cụ thưởng tuyết chả hơn ư? Khi đó chúng ta ngâm thơ dưới tuyết, lại càng thú lắm.
Đại Ngọc cười nói:
- Chúng ta ngâm thơ dưới tuyết ư? Cứ ý tôi, chi bằng kiếm một bó củi rồi chúng ta rút củi dưới tuyết, lại còn thú hơn.
Nghe nói câu ấy, bọn Bảo Thoa đều cười. Bảo Ngọc lườm Đại Ngọc một cái, không nói gì. Một lúc họ về cả, Bảo Ngọc dắt già Lưu ra chỗ vắng người, hỏi kỹ:
- Cô gái ấy là ai?
Già Lưu đành phải đặt chuyện ra nói:
- Ở đồi phía bắc bên trại tôi, có một ngôi miếu nhỏ, không phải là thờ thần phật nào cả. Khi trước có một ông già nào ấy...
Già Lưu nói đến đấy, lại nghĩ tên tuổi ông già.
Bảo Ngọc nói:
- Không cần phải nhớ tên tuổi, chỉ kể chuyện là đủ.
Già Lưu nói:
- Ông già ấy không có con trai, chi sinh được một cô gái, nghe đâu như tên là cô Dính Ngọc, văn hay chữ tốt; hai vợ chồng ông già yêu quý như ngọc báu. Thật là đáng tiếc! Cô gái ấy đến năm mười bảy tuổi thì bị bệnh chết.
Bảo Ngọc nghe đến đấy, giậm chân thở dài, lại hỏi:
- Thế rồi sau này việc ra làm sao?
- Vì hai vợ chồng ông già quá thương con, mới làm một ngôi miếu đắp tượng rồi cho người đèn hương thờ phụng. Bây giờ lâu ngày, người đã chết, miếu đã đổ, và tượng cũng đã hóa thành yêu tinh rồi.
Bảo Ngọc liền nói:
- Không phải hóa thành yêu tinh, những người như thế không bao giờ chết đâu.
- A di đà phật! Thật thế à? Nếu cậu không nói, thì tôi cho là cô gái ấy đã hóa thành yêu tinh rồi. Cô ta thường hiện ra người, vào các thôn các trại chơi. Tôi nói cái người rút củi, chính là cô gái đấy. Người trong trại chúng tôi đang bàn nhau đập tượng, san phẳng miếu đi.
- Không nên. San phẳng miếu là tội to lắm đấy.
- Cậu nói tôi mới hay. Ngày mai về, tôi sẽ ngăn họ đừng phá nữa.
- Bà tôi và mẹ tôi đều là người từ thiện, tất cả lớn, bé trong nhà, ai cũng thích làm việc thiện, nhất là việc xây đền đúc tượng. Ngày mai tôi sẽ làm một tờ phả khuyến, đi quyên hộ bà. Bà sẽ làm bà từ, tu sửa lại miếu, đắp lại tượng. Hàng tháng, tôi cho bà một món tiền đèn nhang, như thế có được không?
- Nếu được thế, tôi nhờ phúc cô ấy, cũng có ít tiền tiêu.
Bảo Ngọc lại hỏi tên đất, tên trại, đi lại xa gần, ở vào địa phận nào. Già Lưu thuận miệng nói bừa ra. Bảo Ngọc tin là thực, về buồng suy nghĩ suốt đêm. Sáng hôm sau, Bảo Ngọc cho Dính Yên mấy trăm đồng tiền, theo lời già Lưu kể, bảo nó đi xem trước thế nào rồi sẽ về trình.
Dính Yên đi rồi, Bảo Ngọc băn khoăn chờ mãi không thấy về, nóng ruột quá, đi quanh đi quẩn, cứ như kiến bò trên miệng nồi nóng, mãi đến lúc mặt trời xế bóng, mới thấy Dính Yên hớn hở trở về. Bảo Ngọc liền hỏi:
- Có tìm thấy không?
- Cậu nghe không rõ, để cháu phải đi tìm mãi! Cái miếu ở chỗ nào ấy, chứ không phải như lời cậu đã dặn. Cháu tìm hết cả ngày, khi đến cái đồi ở góc đông bắc, mới thấy có một ngôi miếu đổ.
Bảo Ngọc nghe nói mừng rỡ, liền nói:
- Có nhẽ già Lưu đã nhiều tuổi, nên nhớ nhầm đấy. Mày thấy thế nào?
- Cửa miếu này cũng hướng về phía nam, cũng đổ nát cả ròi, cháu tìm hết hơi mới thấy, cháu reo lên: “Đúng rồi”, vội vàng đi vào, trông thấy pho tượng, cháu sợ quá, chạy ra ngay. Pho tượng ấy trông hệt như người sống vậy!
Bảo Ngọc mừng quá, cười nói:
- Tượng ấy hóa thành người, tất nhiên là có ít nhiều sinh khí!
Dính Yên vỗ tay nói:
- Có phải cô gái đâu! Là một vị ôn thần mặt xanh tóc đỏ!
Bảo Ngọc nghe nói, quát lên một tiếng:
- Đồ ăn hại! Có việc ấy mà cũng không làm nổi!
Dính Yên bực lên, nói:
- Không biết cậu xem sách nào, hay là nghe ai nói bậy, rồi tin là thực, sai cháu đi làm cái việc không đâu, rồi bảo cháu là đồ ăn hại?
Bảo Ngọc liền vỗ về:
- Đừng nóng thế, hôm khác rỗi, mày lại đi tìm một lượt nữa. Nếu tìm không thấy, tất nhiên là họ nói dối ta; nếu có thực thì chả phải mày làm được một việc âm đức hay sao? Thế nào ta cũng sẽ trọng thưởng cho.
Chợt đứa hầu bé canh cửa ngoài vào trình:
- Các cô bên nhà cụ đang chờ cậu ở ngoài cửa đấy. Chưa biết là việc gì.
-----------------------
(1). Tức Thích Huyền Trang, người đời Đường, sang Aán Độ lấy kinh. Vua không cho đi, ông ta trốn ra cửa Ngọc Quan, rồi đến Thiên Trúc, vào chào Thượng tọa giới hiền. Người cho vào nước Chi La. Vua nước ấy cấp cho Đường Tăng con tuấn mã chở kinh về, tất cả hơn 600 bộ.
(2). Hạng Võ nước Sở, rất khỏe, một tay nhấc được vạc nặng nghìn cân.
(3). Đây là lối nói của một bà già nhà quê, không biết cách tính toán thế nào.
Hồi thứ bốn mươi
Vườn Đại Quan, Sử thái quân hai lần mở tiệc
Gieo súc sắc, Kim Uyên Ương ra lệnh đố thơ
Bảo Ngọc nghe nói liền ra xem, thấy Hổ Phách đứng ở ngoài bình phong nói:
- Có việc chờ cậu đấy. Cậu ra ngay.
Bảo Ngọc đi lên nhà trên, thấy Giả mẫu và Vương phu nhân cùng các chị em đương bàn chuyện bày việc mời lại Sử Tương Vân. Bảo Ngọc nói:
- Theo ý cháu, đã không có khách ngoài, thì đồ ăn không cần định số trước, ngày thường ai thích ăn gì, cứ làm món ấy thôi, không cần phải bày tiệc. Trước mặt mỗi người, để một cái kỷ cao, đặt một cái hộp có nhiều ngăn, để món ăn vào đó và một cái bình, để ai nấy tự rót rượu lấy mà uống, như thế chẳng nhã hay sao?
Giả mẫu nói:
- Phải đấy.
Liền sai người truyền nhà bếp: “Ngày mai cứ theo số người, chọn nhưng món gì chúng ta thích ăn thì đặt cả vào khay. Bữa cơm sáng cũng bày ở trong vườn luôn”.
Khi bàn bạc xong thì trời đã tối.
Sáng hôm sau, khí trời trong sáng. Lý Hoàn dậy sớm đang trông nom cho bọn bà già và người hầu quét trước nhà cửa, lau chùi bàn ghế, sắp sẵn rượu chè, mâm bát, thì thấy Phong Nhi dắt già Lưu và thằng Bản đến nói:
- Mợ Cả bận lắm nhỉ?
Lý Hoàn cười nói:
- Hôm qua tôi đã bảo mà! Bà đừng vội, không về ngay được đâu!
- Cụ cứ giữ tôi lại, cho tôi cùng vui nhộn một hôm.
Phong Nhi mang mấy cái chìa khóa lớn nhỏ lại, nói:
- Mợ tôi bảo, những kỷ cao ở ngoài sợ không đủ, nên mở cửa lầu lấy mấy cái xuống để dùng một bữa. Nhẽ ra mợ tôi đến lấy thì phải, nhưng đương hầu chuyện bà Hai, vậy nhờ mợ mở cửa hộ, và cho người lên mang xuống.
Lý Hoàn sai Tố Vân cầm lấy chìa khóa lại sai bà già ra gọi mấy đứa hầu nhỏ ở cửa ngoài vào. Lý Hoàn đứng ở dưới lầu Đại Quan, sai người lên mở gác Xuyết Cẩm, rồi bọn hầu nhỏ, bà già, a hoàn, chạy lên, cứ từng cái một, mang hơn hai mươi cái xuống.
Lý Hoàn nói:
- Phải cẩn thận đấy, đừng có chạy vội như ma đuổi, làm sứt những miếng gỗ chạm trổ xung quanh thì khốn đấy.
Rồi quay lại già Lưu, cười nói:
- Bà thử trèo lên mà xem.
Già Lưu không nói gì, dắt ngay thằng Bản trèo lên thang, đi vào trong gác, thấy đen ngòm những bình phong, bàn ghế và các thứ đèn hoa, màu sắc chói lọi, cái gì cũng lạ mắt. Già Lưu không sao nhận ra được, luôn miệng mô phật mấy tiếng. Sau đó, đóng cửa gác lại, mọi người đều xuống. Lý Hoàn nói:
- Phòng khi cụ cao hứng, nên mang cả thuyền nhỏ, sào, chèo, màn xuống để sẵn đó.
Mọi người vâng lời, lại mở cửa gác mang các thứ xuống, rồi sai đám hầu nhỏ gọi các lái thuyền ra bến, chống hai cái thuyền về.
Đương lúc nhộn nhạo, thi Giả mẫu dẫn mọi người đến. Lý Hoàn vội ra đón, cười nói:
- Bà cao hứng thật, bây giờ đã đến rồi. Cháu tưởng bà chưa chải đầu, vừa ngắt mấy bông hoa cúc định đưa sang.
Bích Nguyệt bưng cái khay xanh biếc kiểu lá sen đến, trong đựng mấy cành hoa cúc. Giả mẫu chọn một cành cúc đỏ cài lên mái tóc, quay lại trông thấy già Lưu, liền cười nói:
- Lại đây mà cài hoa lên đầu.
Nói chưa dứt lời, thì Phượng Thư đã kéo già Lưu đến, cười bảo “Để tôi trang điểm cho bà”. Liền cầm cả khay hoa cắm ngang cắm dọc, loạn xạ lên đầu già Lưu. Giả mẫu và mọi người không nhịn cười được. Già Lưu cũng cười:
- Không biết cái đầu tôi đã tu hành được phúc đức thế nào mà giờ đẹp đẽ như vậy.
Mọi người cười nói:
- Sao bà không rút hoa ném vào mặt nó, để nó cắm loạn xạ lên đầu bà như con ma già ấy.
Già Lưu cười nói:
- Tôi tuy già, nhưng thời trẻ cũng có vẻ phong lưu, cũng thích hoa thích phấn, nay hãy để cho bà già này làm đỏm một tý!
Họ vừa nói chuyện vừa đi, đã đến đình Thấm Phương. Bọn a hoàn mang cái nệm gấm rải lên ghế ở cạnh lan can. Giả mẫn ngồi dựa vào lan can, bảo già Lưu ngồi bên cạnh, hỏi:
- Cái vườn này có đẹp không?
Già Lưu niệm Phật:
- Chúng tôi người nhà quê, cứ đến cuối năm thì ra tỉnh mua tranh về dán. Lúc rồi, cả nhà xem tranh đều nói: làm thế nào mà được đi chơi ở trong bức vẽ này, cứ nghĩ là bức vẽ chẳng qua bày đặt ra thôi, chứ có chỗ nào thật đẹp như thế. Ngờ đâu, hôm nay vào đây xem, lại đẹp gấp mười bức vẽ! Làm thế nào có người vẽ cho một bức hệt như cái vườn này, để tôi mang về nhà cho mọi người xem, thì chết cũng đáng đời!
Giả mẫu nghe nói, chỉ vào Tích Xuân, cười nói:
- Bà xem đứa cháu gái tôi biết vẽ đấy, để ngày mai nó vẽ cho bà một bức, có được không?
Già Lưu nghe nói, mừng quá, vội chạy lại ôm lấy Tích Xuân nói:
- Cô ơi! Cô mới chừng ấy tuổi, mà vừa xinh đẹp lại có tài vẽ chẳng phải là thần tiên giáng thế hay sao?
Giả mẫu và mọi người đều cười. Họ nghỉ một lúc rồi dẫn già Lưu đi xem các nơi, trước hết là quán Tiêu Tương. Vừa vào đến cửa, thấy hai bên đường trúc rủ rườm rà, rêu xanh phủ kín, ở giữa có một con đường đá nhỏ quanh co. Già Lưu mời Giả mẫu và mọi người đi lên đường đá, còn mình thì đi sang bên mé đường đất. Hổ Phách kéo già Lưu lại bảo:
- Bà già, bà cứ đi lên trên này, đi vào rêu trơn trượt ngã đấy.
Già Lưu nói:
- Không việc gì, tôi đi quen rồi, các cô cứ đi lên trên, không thì giày của các cô sẽ dính bùn.
Già Lưu cứ cắm đầu nói chuyện, không ngờ trượt chân ngã “oách” một cái. Mọi người đều vỗ tay cười. Giả mẫu cũng cười và mắng bọn chúng:
- Lũ ranh này! Không đỡ bà ấy lên lại đứng mà cười!
Già Lưu đã bò dậy, cũng cười theo:
- Vừa mới nói xong, chính mình lại vả vào miệng mình.
Giả mẫu hỏi:
- Có sái lưng không? Bảo a hoàn nó bóp cho!
- Thế chả hóa ra tôi yếu lắm hay sao? Một ngày ít ra cũng ngã đến vài lần. Lúc nào cũng phải đấm bóp thì làm thế nào được!
Tử Quyên vén rèm lên, bọn Giả mẫu vào ngồi. Đại Ngọc tự đi pha một chén trà, để vào cái khay mời Giả mẫu uống.
Vương phu nhân nói:
- Chúng tôi không khát, cô đừng pha nữa.
Đại Ngọc nghe nói, liền sai a hoàn mang cái ghế dựa của mình thường ngồi ở trước cửa sổ xuống, mời Vương phu nhân ngồi. Già Lưu trông thấy cái bàn ở dưới cửa sổ có để nghiên bút, trên tủ lại có nhiều sách, liền nói:
- Chắc là buồng đọc sách của cậu nào đây?
Giả mẫu cười, trỏ vào Đại Ngọc, nói:
- Chính là nhà của con cháu ngoại tôi đấy.
Già Lưu để ý nhìn Đại Ngọc một lúc, rồi nói:
- Có gì là giống buồng thêu của một vị tiểu thư đâu? So với buồng sách lịch sự nhất lại còn đẹp hơn!
Giả mẫu hỏi:
- Sao không thấy Bảo Ngọc?
Bọn a hoàn thưa:
- Cậu ấy đang chèo thuyền ở hồ.
Giả mẫu nói:
- Ai sắp sẵn thuyền thế?
Lý Hoàn thưa:
- Khi mở lầu lấy đồ xuống, cháu đoán là bà thích đi thuyền, nên cũng sắp sẵn trước.
Giả mẫu muốn nói nữa, nhưng có người vào trình:
- Có Tiết phu nhân đến.
Mọi người đứng cả lên, Tiết phu nhân đã vào đến nơi, ngồi xuống, cười nói:
- Hôm nay cụ cao hứng quá, đã đến đây rồi.
Giả mẫu nói:
- Tôi vừa nói ai đến chậm phải phạt, thế mà bà dì lại đến chậm.
Mọi người cười nói một lúc. Giả mẫu nhân trông thấy bức màn the treo trên cửa sổ đã cũ, liền bảo Vương phu nhân:
- Bức màn này khi mới treo, trông đẹp đấy, nhưng để lâu phai màu. Ngoài sân không có cây đào cây hạnh nào, mà trúc đã có lá xanh rồi. Cứ treo màn xanh không ăn màu. Ta nhớ nhà ta có những bức màn treo cửa sổ bốn năm màu kia mà. Ngày mai, bảo lấy thay bức màn này đi.
Phượng Thư nói:
- Hôm nọ cháu mở buồng kho, thấy trong hòm lớn có mấy tấm the “thuyền dực”(1): màu ngân hồng, tấm thì dệt lối hoa chiết chi, tấm thì Lưu vân biển bức(2), tấm thì bách điệp xuyên hoa(3), màu vừa tươi, lại nhã, nhũn nhẹ. Nhưng không thấy thứ the như bà nói. Nếu có thứ ấy, đem ra làm nệm gấm thì chắc đẹp lắm.
Giả mẫu cười nói:
- Hừ! Người ta bảo mày cái gì cũng biết, cái gì cũng từng trải cả. Thế mà ngay thứ the ấy mày cũng không nhận ra được, rồi lại còn nói láo!
Mọi người đều cười, nhân nói:
- Chị đã từng trải đến mấy cũng còn kém cụ? Sao cụ không dạy bảo chị ta để cho chúng tôi cũng được nghe nhờ?
Phượng Thư cười nói:
- Bà ơi. Bà dạy cháu với!
Giả mẫu cười nói với Tiết phu nhân và mọi người:
- Loại the này có từ khi các người chưa đẻ kia. Chẳng trách được nó cho là thứ the “thuyền dực”, vì hai thứ gần giống nhau. Ai không biết thì bảo là the “thuyền dực”, nhưng tên nó là “nhuyễn yên la”(4) kia.
Phượng Thư nói:
- Cái tên ấy cũng dễ nghe. Cháu đã lớn bằng này rồi, kể ra cũng đã được xem hàng mấy trăm thứ the, nhưng chưa được nghe tên ấy bao giờ.
Giả mẫu cười nói:
- Mày đã bao nhiêu tuổi? Biết được bao nhiêu thứ the? Lại dám nói láo! Loại nhuyễn yên la này chỉ có bốn màu: một là vũ quá thiên thanh(5), hai là thu hương sắc(6), ba là tùng lục, bốn là ngân hồng. Nếu đem ra làm màn hay che cửa sổ, trông xa như khói mù ấy, cho nên gọi là nhuyễn yên la. Màu ngân hồng lại có tên là hà ảnh sa(7) nữa. Bây giờ ngay the trong nội phủ nhà vua thường dùng, cũng không có thứ nào như thế.
Tiết phu nhân cười nói:
- Không cứ chị Phượng, chính tôi cũng chưa nghe thấy bao giờ.
Phượng Thư bảo người đi lấy một tấm mang đến. Giả mẫu nói:
- Chính thứ này đây! Lúc trước chỉ để che cửa sổ thôi, sau chúng ta đem ra làm chăn, làm màn, cũng thấy đẹp. Ngày mai lấy mấy tấm ra, đưa một tấm màn ngân hồng cho nó che cửa sổ.
Phượng Thư vâng lời. Mọi người tấm tắc khen đẹp. Già Lưu cũng ghé mắt vào xem, niệm phật luôn mồm, nói:
- Chúng tôi muốn may quần áo cũng không có, nay lại đem ra che cửa sổ, có đáng tiếc không?
Giả mẫu nói:
- Thứ này may quần áo không đẹp.
Phượng Thư kéo cái nẹp áo bông bọc the màu đại hồng đang mặc trong mình ra, nói với Giả mẫu và Tiết phu nhân:
- Thử xem cái áo của cháu đây này.
Giả mẫu và Tiết phu nhân đều nói:
- Hạng này tốt nhất đấy, ngay những thứ nhà vua dùng trong nội phủ cũng không đẹp bằng.
Phượng Thư nói:
- Tấm the mỏng này có gì mà lại bảo là nhà vua dùng trong nội phủ cũng không đẹp bằng.
Giả mẫu nói:
- Cố tìm xem, may còn, sẽ mang cả ra đây, biếu già Lưu hai tấm. Có hạng vũ quá thiên thanh, thì làm cho ta một cái màn treo. Còn thừa ít nào tìm thêm cái lót mà may áo khoác vai cho bọn a hoàn, chứ để lâu mục ra mất.
Phượng Thư vâng lời, rồi sai người cất đi.
Giả mẫu cười nói:
- Ở đây chật lắm, ta ra chỗ khác chơi.
Già Lưu cười nói:
- Người ta thường nói “con quan thì ở nhà quan”. Hôm qua thấy trong phòng cụ bày những tủ to, hòm to, bàn to, giường to, trông thực oai vệ. Chỉ cái hòm còn to và cao hơn gian nhà của chúng tôi. Chẳng trách được, sau nhà phải để cái thang. Tôi nghĩ không ai lên buồng phơi phóng đồ lề, thì để thang ở đấy làm gì? Sau tôi mới nghĩ ra, chắc là để trèo lên mở hòm lấy đồ đạc. Không có thang thì lên thế nào được? Giờ trông thấy cái nhà nhỏ này, lại còn gọn gàng hơn. Đồ đạc đầy nhà, cái gì cũng đẹp cả, không biết những thứ ấy tên là gì? Tôi càng nhìn, càng không muốn dời chân khỏi chỗ này!
Phượng Thư nói:
- Còn chỗ đẹp hơn kia, tôi sẽ đưa bà đi xem một lượt.
Mọi người ra khỏi quán Tiêu Tương, trông xa thấy một đám người chèo thuyền ở giữa hồ, Giả mẫu nói:
- Họ sắp sẵn thuyền cả rồi, chúng ta xuống chơi một lát.
Nói xong đi thẳng đến bến Lục Tư ở Tử Lăng châu. Gần đến nơi, đã thấy mấy bà già bưng đến những khay sơn năm màu thếp vàng. Phượng Thư vội hỏi Vương phu nhân:
- Sáng nay dọn cơm ở đâu?
- Hỏi cụ xem người bảo ngồi ở đâu thì dọn.
Giả mẫu nghe nói, quay lại bảo:
- Chỗ cô Ba tiện hơn, cứ dọn cơm ở đấy. Chúng ta sẽ đi thuyền đến.
Phượng Thư nghe nói, quay lại cùng Lý Hoàn, Thám Xuân, Uyên Ương và Hổ Phách dẫn những người bưng cơm đi theo đường tắt đến Thu Sảng trai, bầy bàn ăn ở Hiểu Thúy đường. Uyên Ương cười nói:
- Ngày thường chúng ta nói các ông ở ngoài, khi uống rượu ăn cơm đều có người giúp vui. Hôm nay chúng ta cũng có vị gia khách đàn bà đấy.
Lý Hoàn là người trung hậu, không để ý đến câu nói ấy. Phượng Thư hiểu ngay là ám chỉ già Lưu, liền cười nói:
- Hôm nay chúng ta sẽ mang bà ấy ra làm trò cười.
Hai người bàn bạc với nhau. Lý Hoàn cười bảo:
- Các cô chẳng tử tế tý nào cả. Có phải trẻ con đâu mà vẫn hay đùa thế. Coi chừng cụ mắng cho đấy!
Uyên Ương cười nói:
- Không việc gì đến mợ, đã có tôi.
Bọn Giả mẫu đến, ai nấy tiện đâu ngồi đấy. A hoàn rót nước trà đưa mời. Mọi người uống xong, Phượng Thư tay cầm cái khăn có bọc mấy đôi đũa mun bịt bạc, bày lên các bàn. Giả mẫu bảo:
- Mang một cái bàn nhỏ gỗ nam lại đây, mời già Lưu ngồi cạnh ta.
Mọi người liền mang lại. Phượng Thư đưa mắt cho Uyên Ương. Uyên ương kéo già Lưu ra ngoài, khẽ dặn mấy câu, lại nói:
- Đó là khuôn phép nhà chúng tôi, nếu nhầm thì người ta cười cho đấy.
Dặn xong về chỗ ngồi.
Tiết phu nhân ăn cơm rồi, xin kiếu, ngồi ra một bên uống nước.
Giả mẫu dẫn Bảo Ngọc, Tương Vân, Đại Ngọc và Bảo Thoa cùng ngồi một bàn. Vương phu nhân dẫn ba chị em Nghênh Xuân ngồi một bàn. Bàn già Lưu kê sát bàn Giả mẫu. Ngày thường, Giả mẫu ăn cơm, đều có a hoàn nhỏ đứng sẵn bên cạnh, cầm ống nhổ, phất trần, khăn tay. Đúng ra Uyên Ương không phải làm những việc ấy, nhưng hôm nay cũng đến cầm cái phất trần phe phẩy. Bọn a hoàn biết cô ta muốn trêu chọc già Lưu, nên lánh mặt đi, Uyên Ương vừa đứng hầu, vừa đưa mắt nhìn già Lưu. Già Lưu nói: “Cô cứ yên tâm”.
Già Lưu vào chỗ ngồi, cầm đũa lên, nhưng nặng chình chịch, không vừa tay. Vì Phượng Thư và Uyên Ương đã bàn với nhau từ trước, lấy riêng cho già Lưu một đôi đũa ngà già bốn cạnh có bịt vàng. Già Lưu thấy đôi đũa, nói:
- Cái nạng này còn nặng hơn cả cái xẻng của nhà chúng tôi, thế này thì cầm sao được! Mọi người nghe vậy cười ầm lên.
Rồi một người đàn bà bưng một cái quả đứng ở đấy, một a hoàn đến mở nắp, trong có hai cái bát đồ ăn. Lý Hoàn bưng một bát đặt lên bàn Giả mẫu. Phượng Thư lại chọn một bát trứng bồ câu đặt ở bàn già Lưu.
Giả mẫu ở bên này nói sang: “Xin mời. Già Lưu đứng dậy nói to:
- Già Lưu, già Lưu, ăn khỏe như trâu; ăn phàm như lợn không hề ngẩng đầu.
Rồi bà phùng má trợn mắt, chẳng nói một câu. Mọi người trước còn ngẩn người ra nhìn, sau trên dưới đều cười ầm lên. Tương Vân không nhịn nổi, cười phì cả cơm ở mồm ra. Đại Ngọc cười sặc sụa, gục xuống bàn chỉ kêu “úi chà!”. Bảo Ngọc lăn vào lòng Giả mẫu, Giả mẫu cười ôm lấy Bảo Ngọc, gọi “Cháu của bà ơi!” Vương phu nhân cười trỏ tay vào Phượng Thư nhưng không nói được câu gì. Tiết phu nhân không nhịn được cười phun cả nước trà ra quần Thám Xuân. Tích Xuân đứng dậy vịn vào vú em, bảo xoa hộ bụng. Khắp xung quanh ai cũng lăn ra cười, có người lẻn ra ngoài cửa, có người nhịn cười đi thay quần áo cho các cô. Chỉ có Phượng Thư và Uyên Ương vẫn nhịn cười, luôn miệng mời già Lưu.
Già Lưu cầm đũa, nhưng khó gắp quá, lại nói:
- Giống gà nhà này đẹp quá, đẻ được nhưng quả trứng nhỏ xinh xắn thế này. Khéo thật, tôi hãy đâm một quả đã!
Mọi người vừa ngớt cười xong, nghe thấy câu nói ấy lại cười ầm lên. Giả mẫu cười chảy cả nước mắt, không thể nhịn được; Hổ Phách đứng đằng sau đấm lưng. Giả mẫu cười nói:
- Chắc lại con ranh Phượng bày trò ra đây? Từ nay nói gì thì cũng đừng tin nữa.
Già Lưu đang khen trứng gà nhỏ đẹp, muốn đâm một quả. Phượng Thư cười nói:
- Mỗi quả trứng gà một lạng bạc đấy! Bà ăn đi, để nguội không ngon đâu.
Già Lưu giơ đũa định gắp, nhưng gắp thế nào được? Khua ngầu cả bát lên, mãi mới gắp lên được một quả, vừa mới ngẩng cổ định ăn, thì quả trứng lại rơi tuột xuống đất mất.
Già Lưu vội đặt đũa xuống, định lấy tay nhặt, nhưng những người đứng đấy đã nhặt đi rồi. Già Lưu thở dài:
- Thế là mất toi một lạng bạc.
Mọi người không ai để ý đến ăn, chỉ nhìn già Lưu mà cười. Giả mẫu nói:
- Hôm nay ai mang đôi đũa đấy ra đây? Không phải mời khách ngoài, bày tiệc to mà! Thôi lại chỉ con Phượng bày trò ra đây! Không đem thay đôi khác đi à!
Những người hầu không ai sắp đôi đũa ngà này cả, chỉ có Phượng Thư và Uyên Ương đem ra, nay thấy thế, họ liền cất đi rồi lấy đôi đũa gỗ mun bịt bạc đến đổi.
Già Lưu nói:
- Bỏ đũa vàng lại mang đũa bạc đến, cũng vẫn không bằng đũa chúng tôi cầm vừa tay hơn.
Phượng Thư nói:
- Trong đồ ăn lỡ có chất độc, lấy đũa bạc thử thì biết ngay.
Già Lưu nói:
- Trong đồ ăn này mà có độc, thì những thứ đồ ăn của chúng tôi đều là nhân ngôn cả! Dù độc chết người tôi cũng cứ ăn.
Giả mẫu thấy già Lưu vui vẻ như thế, ăn có vẻ ngon lành, liền sai người mang những đồ ăn của mình sang, lại bảo vú già gắp đồ ăn vào bát cho thằng Bản.
Ăn xong, bọn Giả mẫu vào buồng Thám Xuân nói chuyện, ở ngoài xếp dọn bàn ăn rồi lại bày một bàn khác. Già Lưu trông thấy Lý Hoàn cùng Phượng Thư ngồi ăn, thở dài nói:
- Cái khác không nói làm gì, tôi chỉ thích cách làm việc trong nhà các mợ! Chẳng trách được, người ta thường nói: “Lễ ở nhà quan ra”.
Phượng Thư cười nói:
- Bà đừng nghĩ ngợi gì nhé, vừa rồi chẳng qua để mọi người cùng vui đấy thôi.
Nói chưa dứt lời, thì Uyên Ương chạy lại, cười nói:
- Bà đừng giận, tôi xin lỗi bà.
Già Lưu cười nói:
- Cô nói gì thế? Chúng ta đều làm cho cụ vui lòng cả, có điều gì đáng giận? Trước cô dặn tôi, tôi cũng hiểu rồi, chẳng qua làm cho mọi người cùng vui đấy thôi. Nếu giận thì tôi đã chẳng nói.
Uyên Ương liền mắng người hầu:
- Tại sao chưa pha trà cho già uống?
Già Lưu vội nói:
- Cô ấy đã pha trà cho tôi uống rồi. Cô cứ đi ăn cơm đi.
Phượng Thư kéo Uyên Ương ngồi xuống bảo:
- Cô ngồi đây ăn với chúng tôi, đỡ phải phiền nữa.
Uyên Ương ngồi xuống, bọn bà già lấy thêm bát đũa. Ba người ăn xong, già Lưu cười nói:
- Tôi thấy các cô chỉ ăn có một tý đã xong rồi, như thế không đói à! Chẳng trách được, gió thổi một cái cũng ngã!
Uyên Ương hỏi:
- Hôm nay đồ ăn còn thừa nhiều, họ đi đâu cả?
Bọn bà già nói:
- Họ đều chưa về, còn ngồi chờ cả ngoài kia, đem phân phát cho họ ăn.
Uyên Ương nói:
- Họ ăn không hết chừng ấy đâu, lấy vài món mang sang cho Bình Nhi bên nhà mợ Hai.
Phượng Thư nói:
- Bình Nhi ăn cơm sáng rồi, không cần phải mang cho nữa.
Uyên Ương nói:
- Nếu nó không ăn thì cho mèo nhà mợ ăn.
Bà già chọn hai món để vào quả mang sang. Uyên Ương hỏi:
- Chị Tố Vân đi đâu?
Lý Hoàn nói:
- Nó đã ngồi ăn cả đây rồi, còn hỏi làm gì?
Uyên Ương nói:
- Thế thì thôi.
Phượng Thư nói:
- Tập Nhân không ở đây, cô bảo người đưa hai món sang cho cô ấy ăn.
Uyên Ương liền sai người mang sang hai món.
Uyên Ương lại hỏi bọn bà già:
- Cái quả đựng đồ ăn để lát nữa trở về uống rượu, đã sắp sẵn chưa?
- Có nhẽ phải chờ một lúc nữa.
- Nhanh lên một tý.
Bà già vâng lời.
Bọn Phượng Thư vào buồng Thám Xuân, thấy các chị em đang cười đùa. Thám Xuân vốn thích rộng rãi, ba gian nhà ở đều để thông luôn. Giữa nhà kê một cái bàn to bằng đá Đại Lý, trên bàn có các loại bút thiếp của cái bậc danh nhân, cùng mấy chục cái nghiên báu, và các thứ ống bút; bút cắm ở ống như rừng cây. Một bên bày cái lọ sứ Như Châu to bằng cái đấu, cắm đầy hoa cúc trắng như thủy tinh. Phía tường bên Tây treo một bức họa “Yên vũ đồ” của Mễ Tương Dương(8).
Hai bên treo hai câu đối, bút tích của ông Nhan Lỗ công(9): Phong lưu cảnh đượm màu mây khói, chất phác người quen thú suối rừng. Trên án đặt một cái đỉnh lớn, trên cái giá gỗ đàn tía ở bên tả đặt một cái mâm sứ lớn, trên mâm bày mấy chục quả phật thủ vàng tươi; trên cái giá sơn ở bên hữu treo một cái khánh Tị Mục(10) bằng ngọc trắng, bên cạnh treo một cái dùi nhỏ.
Thằng Bản đã hơi quen rồi, nó định lấy dùi gõ khánh, bọn a hoàn vội ngăn lại. Nó lại muốn ăn phật thủ, Thám Xuân chọn cho một quả, nói:
- Để chơi thôi, không ăn được.
Trông thấy ở phía đông kê một cái giường cao chân, trên treo màn the màn xanh có thêu hoa cỏ, sâu bọ, thằng Bản chạy đến xem rồi nói:
- Đây là con cào cào, đây là con châu chấu.
Già Lưu tát nó một cái, mắng:
- Đồ con nhà hèn hạ! Làm ồn cả lên! Cho mày đến xem, mày lại dám hỗn thế à!
Thằng Bản khóc ầm lên, mọi người dỗ mãi nó mới nín.
Giả mẫu đứng trong màn cửa sổ nhìn ra sân sau, nói:
- Cây ngô đồng ở thềm đằng sau đẹp nhỉ, chỉ phải tội nhỏ thôi.
Chợt có một cơn gió thổi qua, vẳng nghe thấy tiếng đàn sáo. Giả mẫu hỏi:
- Nhà ai cưới vợ đấy? ở đây gần phố nhỉ?
Vương phu nhân nói:
- Ở ngoài phố thì nghe thế nào được? Đó là mười mấy cô gái bé của chúng ta đang tập đàn hát đấy.
Giả mẫu cười nói:
- Họ tập hát sao không bảo đến đây mà tập. Họ được chơi, chúng mình được vui, chả hơn ư?
Phượng Thư liền sai người đi gọi, rồi bảo người bày bàn, và trải thảm đỏ ra.
Giả mẫu nói:
- Bày ở nhà thủy tọa Ngẫu Hương tạ, nhờ có tiếng nước chảy lại càng vui tai. Chốc nữa chúng ta sẽ uống rượu ở tầng dưới Xuyết Cẩm các, vừa rộng rãi, vừa nghe được gần. Mọi người đều khen phải. Giả mẫu ngoảnh về phía Tiết phu nhân cười nói:
- Thôi chúng ta đi chơi, bọn chị em nó không thích đông người đến đâu, vì sợ bẩn nhà. Chúng ta biết thừa đi rồi, hãy ra ngồi thuyền uống rượu đi.
Mọi người đứng dậy định đi ngay. Thám Xuân cười nói:
- Sao bà lại nói thế? Mong bà, cùng dì và mẹ đến ngồi chơi còn chưa được nữa là.
Giả mẫu nói:
- Con cháu Ba còn khá, chỉ có hai cháu Ngọc là đáng ghét. Chốc nữa uống rượu say, chúng ta đến nhà chúng nó quấy chơi.
Mọi người đều cười ầm lên, rồi đi ra cả. Không mấy chốc đã đến bến Hành Diệp. Mấy cô lái thuyền được kén ở Cô Tô về đã chèo hai chiếc thuyền gỗ đương đến. Mọi người đỡ Giả mẫu, Vương phu nhân, già Lưu, Uyên Ương và Ngọc Xuyến lên một chiếc thuyền, Lý Hoàn cũng lên theo. Phượng Thư lên đứng ở đầu thuyền định chở đi. Giả mẫu ở trong khoang nói:
- Đừng đùa nhé! Đây không phải là sông, nhưng cũng có chỗ sâu đấy. Mày vào ngay trong này cho tao!
Phượng Thư cười nói:
- Sợ gì! Bà cứ yên tâm.
Nói xong, liến lấy sào đẩy ra đến giữa hồ. Thuyền nhỏ, người nhiều, Phượng Thư thấy choáng váng, vội đưa sào cho cô lái rồi ngồi xuống.
Chị em Nghênh Xuân cùng Bảo Ngọc lên một chiếc thuyền khác đi tới, còn bọn bà già, a hoàn cứ đi theo dọc bờ sông.
Bảo Ngọc nói:
- Những lá sen tàn này thật đáng ghét, sao không sai người nhặt hết đi.
Bảo Thoa cười nói:
- Mấy lâu nay những người coi vườn có được rỗi đâu, ngày nào chúng ta cũng đi chơi, họ còn thì giờ đâu mà đi nhặt được nữa?
Đại Ngọc nói:
- Xưa nay tôi không thích thơ Lý Nghĩa Sơn(11) chỉ thích có một câu của ông ta là: Sen tàn nghe rốn tiếng mưa thu. Bây giờ các người lại không để lại những lá sen tàn à!
Bảo Ngọc nói:
- Câu ấy hay thật! Từ giờ trở đi, chúng ta không sai người nhặt đi nữa.
Mọi người đi đến dưới kênh La Cảng ở bến Hoa Tự, thấy bóng mát lạnh toát người, hai bên bờ sông cỏ úa ấu tàn, càng gợi tình thu. Giả mẫu thấy trên bờ có những nhà mát rộng rãi, liền hỏi:
- Đây có phải là nhà cô Tiết đấy không?
Mọi người thưa: “Vâng”. Giả mẫu bảo đỗ thuyền vào bờ, theo bậc đá trèo lên, cùng đến Hành Vu uyển, thấy sực nức mùi thơm. Những cỏ lạ dây tiên càng lạnh bao nhiêu, lại càng xanh tốt bấy nhiêu, nó đã ra quả như hạt đậu san hô, trĩu xuống đáng yêu. Vào đến trong nhà, thấy trắng tinh, không có một thứ đồ chơi nào cả. Trên án chỉ bày một cái lọ sành Châu Định, cắm vài cành cúc, cùng mấy bộ sách, hộp trà và chén trà thôi; trên giường treo cái màn the xanh, chăn đệm thì mộc mạc xuềnh xoàng lắm.
Giả mẫu than thở:
- Con bé này thực thà quá! Không bày biện gì cả. Tao cũng không để ý đến. Tất nhiên đồ đạc của nhà cháu không mang đến đây được, nhưng sao không hỏi dì cháu đưa cho mấy thứ mà bày?
Giả mẫu sai Uyên Ương về mang mấy thứ đồ cổ đến; lại mắng Phượng Thư:
- Mày là đồ keo kiệt, không mang đến đây cho em được mấy thứ đồ chơi.
Vương phu nhân và Phượng Thư đều cười nói:
- Cô ấy không thích. Chúng tôi đã cho mang đến, nhưng cô ấy đều giả lại cả.
Tiết phu nhân cười nói:
- Khi nó ở nhà cũng không thích những đồ ấy.
Giả mẫu lắc đầu nói:
- Không thể thế được. Dù cháu không muốn bày vẽ, nhưng có bà con đến chơi thì coi sao được; vả lại nhà ở của các cô mà giản dị quá cũng nên kiêng. Các cô mà ở như vậy thì bọn già chúng ta chỉ đáng ở chuồng ngựa thôi. Các người thử xem những phòng thêu của các tiểu thư ngày trước ở trong sách và trên sân khấu, đẹp đẽ diêm dúa biết là nhường nào. Bọn chị em bây giờ tuy không dám ví với những bậc tiểu thư ngày trước, nhưng cũng không nên xuềnh xoàng quá. Đồ đạc có sẵn cả, tại sao không đem bày? Nếu muốn giản dị thì bày ít đi mấy thứ cũng được. Xưa nay ta rất khéo trang trí nhà cửa, bây giờ già rồi, không hơi đâu nghĩ đến những việc ấy nữa. Chị em chúng nó cũng nên học cách trang trí cho đẹp. Mình mà tục, thì dù có bày đồ đẹp chăng nữa cũng bằng thừa. Nhưng ta xem chị em chúng nó không phải là bọn tục đâu. Bây giờ để ta trang trí cho, vừa đường hoàng lại thanh nhã. Ta có vài thứ của riêng, giờ vẫn cất đi không cho thằng Bảo trông thấy; nó thấy thì mất toi.
Nói xong, gọi Uyên Ương đến bảo:
- Mày về lấy cái chậu cây bằng đá, cái bình phong bằng lụa và cái đỉnh đá màu vân ám đến đây. Cứ bày ba cái ấy ở trên bàn là đủ. Rồi vất cái màn này đi, lấy cái màn lụa trắng vẽ thủy mạc treo vào đấy.
- Nhưng thứ ấy đều cất ở trên lầu phía đông, không biết ở hòm nào, để thư thả tìm xem, ngày mai sẽ mang đến.
- Hôm nào cũng được, nhưng đừng có quên.
Giả mẫu ngồi chơi một lúc rồi đi đến dưới gác Xuyết Cẩm. Bọn con hát lên chào và hỏi “Diễn vở gì?” Giả mẫu nói:
- Chọn nhưng vở nào các em đã đóng quen rồi thì diễn.
Bọn con hát diễn xong, mọi người mới trở về Ngẫu Hương tạ.
ở đây Phượng Thư đã cho người bày biện đầy đủ. Trên kê hai cái giường, trên giường trải nệm gấm, trước mỗi cái giường để hai cái kỷ sơn; cái chạm kiểu hoa hải đường, cái kiểu hoa mai, cái kiểu lá sen, cái kiểu hoa quỳ; cái vuông, cái tròn, không cái nào giống cái nào. Trên kỷ đầu để một lư hương và một cái quả. Hai cái giường bốn cái kỷ ở trên là chỗ Giả mẫu và Tiết phu nhân ngồi. Phía dưới một cái ghế, hai cái kỷ là chỗ Vương phu nhân ngồi. Còn thì mỗi người một ghế một kỷ. Bên đông là chỗ già Lưu ngồi, dưới đó là Vương phu nhân. Bên tây là Tương Vân, rồi Bảo Thoa, Đại Ngọc, Nghênh Xuân, Thám Xuân, Tích Xuân, cứ theo thứ tự mà ngồi, cuối cùng là Bảo Ngọc. Hai cái ghế của Lý Hoàn và Phượng Thư để ở bậc thứ ba, bên ngoài cái tủ the để bậc thứ hai. Kiểu kỷ thế nào, kiểu quả cũng thế. Mỗi người một bình rượu nhỏ bằng đồng đen chạm và một cái chén pha lê.
Mọi người ngồi xong, Giả mẫu cười nói:
- Trước hết, chúng ta mỗi người uống hai chén. Hôm nay cứ phải có “tửu lệnh” mới có ý nghĩa.
Tiết phu nhân cười nói:
- Cụ chắc có nhiều tửu lệnh hay, các cháu hiểu thế nào được? Người định để cho các cháu say, các cháu xin uống thêm mấy chén nữa.
Giả mẫu cười nói:
- Dì hôm nay nói nhún quá, chắc là chê tôi già rồi.
Tiết phu nhân cười nói:
- Không phải là nói nhún, sợ không theo nổi lệnh, lại làm trò cười thôi.
Vương phu nhân cười nói:
- Nếu không theo nổi, thì uống thêm một chén, say rồi đi ngủ, còn ai cười chúng mình vào đâu?
Tiết phu nhân gật đầu cười nói:
- Xin theo lệnh. Nhưng cụ phải uống trước một chén rượu lệnh mới được.
Giả mẫu cười nói:
- Đúng thế.
Liền uống một chén.
Phượng Thư vội đến cười nói:
- Đã ra tửu lệnh, nên cho Uyên Ương đứng hành lệnh mới phải.
Mọi người đều biết tửu lệnh của Giả mẫu là do Uyên Ưống nhắc trước, nên khi nghe xong, đều nói: “Phải lắm”.
Phượng Thư kéo Uyên ương đến. Vương phu nhân cười nói:
- Đã được cử ra hành lệnh, không có nhẽ cứ phải đứng mãi.
Liền quay lại bảo a hoàn nhỏ: “Lấy một cái ghế nhỏ để ở trước bàn hai mợ mày”.
Uyên Ương rụt rè, xin phép ngồi xuống, rồi uống một chén rượu, cười nói:
- Tửu lệnh phải nghiêm như quân lệnh, không cứ sang hèn, đều do tôi làm chủ cả. Trái lời tôi phải phạt.
Vương phu nhân cười nói:
- Đúng thế, hãy nói đi.
Uyên Ương chưa kịp nói, già Lưu đã đứng dậy xua tay nói:
- Đừng trêu chọc người ta! Tôi đi về đây.
Mọi người đều cười nói:
- Không thể thế được.
Uyên Ương quát sai bọn hầu nhỏ ra kéo già Lưu vào ghế. Già Lưu kêu lên:
- Thôi tha cho tôi!
Uyên Ương nói:
- Bà còn nói nữa sẽ phải uống một bình.
Già Lưu mới chịu thôi. Uyên Ương nói:
- Bây giờ tôi nói cách chơi bằng con bài. Từ cụ trở xuống đến già Lưu, đều phải theo lệnh. Ví dụ tôi gọi tên một phu bài, tôi sẽ tách riêng ba con ra, bắt đầu nói con thứ nhất, rồi đến con thứ hai. Nói đến lượt ai, người đó sẽ nói một câu, phải đúng vần. Nếu sai sẽ bị phạt một chén rượu.
Mọi người cười nói:
- Lệnh hay lắm, nói mau đi.
Uyên Ương nói:
- Đây có một phu bài. Bên trái là quân thiên.
Giả mẫu nói: Trời xanh đứng ở bên trên.
Mọi người nói: “Hay”.
Uyên Ương nói:
- Ngũ lục đứng ở trung gian.
Giả mẫu nói:
- Lục kiều mai nở hương tràn thấu xương.
- Một quân lục hợp yêu.
- Một vành đỏ chói đương treo giữa trời.
- Hợp thành con quỷ bù đầu.
- Quỷ này ôm chặt đùi sau Chung Quỳ.
Mọi người cười rộ, khen ngợi. Giả mẫu uống một chén.
Uyên Ương lại nói:
- Lại có một phu bài. Bên trái quân đại trường ngũ đây.
Tiết phu nhân nói:
- Hoa mai trước gió tung bay từng chùm.
- Bên phải là quân đại ngụ trường.
- Tháng mười hai nức mùi hương trên ngàn.
- Giữa có quân tạp thất đây.
- Chức Ngưu thất tịch đêm ngày gặp nhau.
- Hai chàng dạo Ngũ Nhạc chơi,
- Cuộc vui tiên cảnh, dưới đời kém xa.
Mọi người khen hay, rồi Tiết phu nhân cũng uống một chén.
Uyên Ương lại nói:
- Đây là một phu bài nữa. Trường yêu bên trái hai vần.
Tương Vân nói:
- Hai vầng nhật nguyệt sáng trưng trần hoan.
- Trường yêu bên phải lập lòe.
- Tiếng hoa rụng xuống nào nghe thấy gì.
- Giữa con yêu tứ nữa đây.
- Kìa cây hồng hạnh tựa mây bên giời.
- Hợp thành một quả anh đào.
- Vườn qua lại để chim vào tha ra.
Nói xong, Tương Vân uống một chén rượu.
Uyên Ương lại nói:
- Lại có một phu bài nữa. Bên trái là quân trường tam.
Bảo Thoa nói:
- Một đôi chim yến kêu ran trên xà.
- Bên phải là quân tam trường.
- Gió đua thủy hạnh thòng lòng dây xanh.
- Giữa là tam lục chín khuyên.
- Núi Tam Sơn ngả ngoài miền trời xanh.
- Thuyền neo dây sắt chơi vơi.
- Nơi nào sóng gió là nơi buồn rầu.
Nói xong, uống một chén.
Uyên Ương lại nói:
- Quân thiên bên trái đây rồi.
Đại Ngọc nói:
- Ngày vui cánh đẹp tự trời biết sao.
Bảo Thoa nghe thấy câu ấy, quay lại nhìn. Đại Ngọc chỉ sợ bị phạt, nên không để ý.
Uyên Ương nói:
- Giữa bình gấm đẹp lạ lùng.
- Song the nào thấy ả Hồng báo tin.
- Nhị lục tám điểm đều nhau.
- Trước sân ngọc điện sắp chầu hai bên.
- Họp thành lẵng hái hoa rừng.
- Gánh hoa thược dược thơm lừng gậy tiên.
Nói xong uống một chén.
Uyên Ương nói:
- Bên trái tứ ngũ chín hoa.
Nghênh Xuân nói:
- Hoa đào đẫm mưa màu càng thắm.
Mọi người cười nói: Đáng phạt! Sai vần rồi, lại không đúng nghĩa.
Nghênh Xuân cười, uống một chén rượu phạt.
Nguyên vì Phượng Thư và Uyên Ương đều muốn nghe già Lưu nói để cười, cố ý bảo Nghênh Xuân nói sai đi. Đến lượt Vương phu nhân, thì Uyên Ương đọc giúp, sau đến già Lưu. Già Lưu nói:
- Chúng tôi ở nhà quê, khi nào rỗi, cũng thường họp mấy người chơi lối này, nhưng nghe không hay. Thôi để tôi thử nói xem.
Mọi người cười nói:
- Dễ thôi, bà cứ nói đi, không việc gì.
Uyên Ương cười nói:
- Bên trái đại tứ là “người”.
Già Lưu nghe rồi, nghĩ mãi mới nói:
- Là người nhà quê chăng?
Mọi người cười vỡ nhà.
Già Lưu cười nói:
- Chúng tôi người nhà quê chẳng qua chỉ nói chuyện nhà quê, các cô các mợ đừng cười.
Uyên Ương nói:
- Giữa quân tam tứ đỏ xanh.
Già Lưu nói:
- Sâu trên đống lửa cháy thành ra tro.
Mọi người cười nói: “Phải đấy, hợp với cảnh bà đấy”.
Uyên Ương cười nói:
- Bên phải yêu tứ đẹp thay.
Già Lưu nói:
- Bó kia củ cải, bó này tỏi tươi.
Mọi người lại cười.
Uyên Ương cười nói:
- Hợp vào thành một cành hoa.
Già Lưu xoa tay ra vẻ muốn cười nhưng lại nhịn, rồi nói:
- Đến khi hoa rụng lại là quả dưa.
Mọi người nghe nói, không nhịn được, đều cười ầm lên. Bỗng nghe bên ngoài có tiếng ồn ào.
-----------------------
(1). The mỏng như cánh ve sầu.
(2). Dơi bay theo đám mây.
(3). Trăm con bướm hút nhị hoa.
(4). Thứ the mềm và mỏng như làn khói.
(5). Mưa tạnh trời xanh.
(6). Màu hoa mùa thu.
(7). Thứ the màu rán trời.
(8). Mễ Tương Dương tên là Mễ thị, tên chữ là Nguyên Chương, người đất Tương Dương, đời nhà Tống. Văn hay chữ tốt, lại có tài riêng về sơn thủy nhân vật, thích chơi đồ đá lạ vàng quý. Oâng đã làm những bộ sách như Bảo tấn anh quang tập, Như sử, Họa sử, Nghiên sử.
(9). Tức Nhan Chân Khanh (xem chú thích hồi 37).
(10). Hai khánh chồng lên nhau, như giống cá hai mặt ở bên phải.
(11). Tức Lý Thương Ân, người đời Đường, có lối thơ chải chuốt tình tứ.
Hồi thứ bốn mươi mốt
Am Lương Thúy, Bảo Ngọc thưởng trà ngon
Viện Di Hồng, già Lưu say rượu ngủ
Già Lưu xoa tay nói:
- Đến khi hoa rụng lại là quả dưa.
Mọi người cuời ầm lên. Già Lưu uống chén rượn rồi nói đùa:
- Hôm nay xin nói thực: Tôi chân tay thô kệch, lại uống nhiều rượu không cẩn thận lỡ đánh vỡ chén sứ thì không tiện. Xin cho tôi một cái chén gỗ, có đánh rơi xuống đất cũng không can gì.
Mọi người lại cười. Phượng Thư nói:
- Bà muốn dùng chén gỗ à? Tôi sẽ lấy cho. Nhưng có điều này phải nói trước: chén gỗ không như chén sứ đâu, nó có từng bộ một, phải uống hết mới được.
Già Lưu trong bụng ngần ngừ: “Vừa rồi chẳng qua ta nói đùa cho vui đấy thôi, biết đâu họ lại có thực. Ta thường đến ăn tiệc ở các nhà thân hào trong làng, trông thấy chén vàng chén bạc, chứ có chén gỗ bao giờ: A! Đúng rồi! chắc là thứ bát gỗ của trẻ con dùng. Họ làm thế, chẳng qua lừa ta uống thêm vài bát đó thôi. Nhưng không sao, rượu ngọt như nước đường, uống thêm một ít cũng chẳng hại gì.” Nghĩ vậy già liền nói:
- Cứ mang lại đây tôi sẽ liệu.
Phượng Thư liền bảo Phong Nhi:
- Lấy bộ chén gốc trúc mười cái để trên giá sách trước mặt lại đây.
Phong Nhi định đi, Uyên Ương cười nói:
- Tôi biết rồi. Nhưng mười cái chén ấy hãy còn bé. Vả chăng mợ vừa bảo lấy chén gỗ, bây giờ lại lấy chén gốc trúc, như thế thì khó coi. Chi bằng lấy bộ mười cái chạm bằng rễ cây hoàng dương, đem đến đây, dốc hết cả cho bà ấy.
Phượng Thư cười nói: “Càng tốt”.
Uyên Ương sai người mang đến. Già Lưu trông thấy vừa sợ vừa mừng: sợ là phải uống mười chén lớn nhỏ một lúc, cái lớn vừa bằng cái chậu, cái nhỏ nhất cũng to gấp đôi cái chén mình cầm trên tay; mừng là thấy những chén chạm trổ rất đẹp, một màu non nước, cỏ cây và người, lại có đề chữ đóng dấu, liền nói:
- Đem cái chén nhỏ đến đây thôi.
Phượng Thư cười nói:
- Ở đây sức rượu kém cả, nên không ai dám dùng bộ chén ấy. Vì bà thích, tôi phải đi tìm mãi mới thấy, nhất định là bà phải lần lượt uống hết mười chén mới được.
Già Lưu sợ hãi vội nói:
- Không dám đâu, xin mợ tha cho.
Giả mẫu, Tiết phu nhân và Vương phu nhân biết già Lưu đã có tuổi, không uống nổi, liền cười nói:
- Nói thế cho vui đấy thôi, bà không nên uống nhiều. Uống một chén đầu là đủ.
Già Lưu nói:
- A di đà phật! Tôi xin uống chén nhỏ, còn chén nhớn thì cất đi, để tôi mang về nhà uống dần.
Mọi người lại cười ầm lên.
Uyên Ương không làm thế nào được, đành phải sai người rót một chén lớn. Già Lưu bưng lấy định uống. Giả mẫu và Tiết phu nhân đều nói:
- Uống thong thả chứ, không thì sặc đấy.
Tiết phu nhân lại sai Phượng Thư đưa đồ ăn đến.
Phượng Thư cười nói:
- Bà muốn ăn món gì, cứ nói, tôi sẽ gắp cho.
Già Lưu nói:
- Tôi biết tên món gì mà gọi? Cái gì cũng ngon cả.
Giả mẫu cười nói:
- Gắp cà xào cho bà ấy ăn.
Phượng Thư vâng lời, gắp miếng cà xào đưa vào mồm già Lưu, cười nói:
- Ngày nào bà cũng ăn cà, giờ thử nếm xem món cà ở đây chúng tôi làm có ngon hay không?
Già Lưu cười nói:
- Đừng đánh lừa tôi, nếu cà mà ngon thế này, thì chúng tôi chỉ giồng cà thôi, không cần giồng các thứ ăn khác.
Mọi người cười nói:
- Cà thật đấy, chúng tôi không nói dối bà đâu.
Già Lưu lấy làm lạ nói:
- Cà thật đấy à? Tôi ăn từ nãy đến giờ, vẫn không biết mùi gì cả! Mợ gắp ít nữa cho tôi, đến miếng này tôi nhai kỹ xem.
Phượng Thư lại gắp một miếng đưa vào mồm già Lưu. Nhai một lúc lâu, già Lưu cười nói:
- Cũng hơi có mùi cà, nhưng không phải là cà. Mợ bảo cách cho tôi, khi về tôi cũng học nấu món ăn này.
Phượng Thư cười nói:
- Có khó gì đâu cứ đến tháng tư tháng năm, bà hái cà về gọt vỏ bỏ núm, chỉ lấy ruột thôi, đem thái nhỏ như sợi tóc, phơi thật khô. Sau đó bắt một con gà mẹ, ninh ra nước và hấp cà lên, xong đem ra phơi, chín lần phơi, chín lần hấp, lại đem phơi thật khô, rồi bỏ vào trong lọ sứ bịt thật kín. Khi ăn sẽ lấy một thìa trộn với thịt gà xào mà ăn.
Già Lưu lắc đầu lè lưỡi nói:
- Phật tổ ơi! Thế thì phải hết đến non chục con gà mới nấu được một bát. Chẳng trách ngon là phải!
Già Lưu vừa cười vừa thong thả uống hết một chén rượu, rồi cứ ngắm nghía mãi cái chén. Phượng Thư cười nói:
- Nếu chưa đủ hứng, thì bà uống thêm một chén nữa.
Già Lưu nói:
- Không uống được nữa, say chết mất! Tôi thích cái chén này quá, không biết họ làm bằng gỗ gì!
Uyên Ương cười nói:
- Bà uống hết rượu rồi, cũng không biết cái chén này người ta làm bằng gỗ gì à?
Già Lưu nói:
- Không trách được các cô không biết là phải. Các cô ở trong nhà vàng cửa gấm, biết sao được các thứ gỗ? Chúng tôi quanh năm làm quen với rừng. Khi buồn ngủ lấy gỗ mà gối, lúc mệt lấy gỗ mà nằm dựa lưng, năm mất mùa đói kém phải ăn đến cả nó. Mắt lúc nào cũng trông thấy gỗ, tai lúc nào cũng nghe thấy gỗ, miệng lúc nào cũng nói đến gỗ. Vì thế thứ gỗ nào tốt, xấu, thật, giả, tôi đều biết cả, để tôi thử nhận xem.
Già Lưu vừa nói vừa ngắm nghía cái chén một lúc nói:
- Nhà các người thế này, khi nào có chăng đồ xấu. Những thứ gỗ xoàng chắc các người chẳng chịu sắm đâu. Tôi cầm thấy nó nặng chình chịch ấy. Nếu không phải là gỗ dương, cũng là gỗ thông vàng.
Mọi người nghe nói lại cười ầm lên.
Một bà già chạy đến trình Giả mẫu:
- Các cô đã đến Ngẫu Hương tạ cả rồi, xin cụ truyền cho hát ngay hay phải chờ lúc nữa.
Giả mẫu cười nói:
- Ta quên khuấy đi mất, bảo chúng nó cứ hát đi.
Bà già vâng lời đi ra.
Một lúc tiếng sênh, tiếng sáo lộn ràng, đàn địch vang dậy. Lại gặp buổi trời trong gió mát, điệu nhạc văng vẳng luồn qua khe rừng bến nước vọng lại, làm cho mọi người tâm thần sảng khoái. Bảo Ngọc không nén nổi lòng, liền cầm cái hồ rót một chén rượu uống hết. Đang định uống thêm chén nữa, bỗng thấy Vương phu nhân cũng sai người đi lấy rượu ấm, Bảo Ngọc vội mang ngay chén rượu của mình đưa đến tận miệng Vương phu nhân. Vương phu nhân uống hai hớp.
Một lúc, rượu ấm mang đến, Bảo Ngọc lại về chỗ cũ. Vương phu nhân cầm lấy hồ rượu, nói: "Mời bà dì mày ngồi. Ai ở đâu về đấy.” Vương phu nhân mới đưa cái hồ cho Phượng Thư, rồi tự mình ngồi xuống. Giả mẫu cười nói:
- Hôm nay thú quá, mọi người đều uống hai chén.
Rồi cầm chén mời Tiết phu nhân, lại bảo Tương Vân và Bảo Thoa:
- Hai chị em mày mỗi người phải uống một chén. Em Lâm mày không uống được nhiều cũng bắt phải uống.
Giả mẫu tự mình uống cạn chén trước, Tương Vân, Bảo Thoa, Đại Ngọc cũng đều uống cả.
Già Lưu nghe nhạc vui tai, lại có rượu mừng quá, múa chân múa tay lên. Bảo Ngọc liền đến cười bảo Đại Ngọc:
- Em xem già Lưu kìa.
Đại Ngọc cười nói:
- Ngày trước nhạc nhà vua vừa nổi lên, thì trăm muông nhảy múa. Bây giờ mới chỉ có một con trâu thôi.
Chị em đều cười.
Một lúc nhạc im. Tiết phu nhân cười nói:
- Mọi người uống rượu cả rồi, xin ra ngoài chơi một lúc.
Giả mẫu cũng thích ra chơi. Thế là cả nhà đều theo ra ngoài ngắm cảnh. Giả mẫu muốn đưa già Lưu đi dạo chơi, liền kéo già đến trước núi, dưới cây, quanh quẩn một lúc, bảo cho già biết cây này tên là gì, đá này tên là gì, hoa này tên là gì. Già Lưu đều ghi nhớ cẩn thận, nói:
- Ngờ đâu ở trong thành này, không những người, đến cả giống chim sẻ cũng sang trọng. Giống chim sẻ được ở trong nhà cụ cũng sinh khôn ra, và cũng biết nói.
Mọi người không hiểu, hỏi:
- Chim sẻ nào sinh khôn và biết nói?
Con chim có lông xanh, mỏ đỏ đậu ở cái cầu vàng ngoài hiên kia là con vẹt tôi đã biết rồi. Còn con quạ đen đầu có mào đang ở trong lồng kia cũng biết nói đấy.
Mọi người lại cười ầm lên.
Bọn a hoàn đem món điểm tâm đến. Giả mẫu nói:
- Mới uống vài chén rượu, chưa đói. Thôi cứ mang đến đây, ai muốn ăn gì thì ăn.
A hoàn khiêng đến hai kỷ, bày hai cái hộp nhỏ. Mở ra, mỗi hộp đựng hai thứ. Một hộp đựng hai món hấp: bánh hấp ngọt bột ngó sen có mùi hoa quế, và bánh cuốn mỡ ngỗng. Còn hộp nữa đựng hai thứ bánh rán: một thứ là bánh miến hấp, lớn độ một tấc. Giả mẫu hỏi:
- Bánh nhân gì đấy?
Bà già thưa:
- Nhân cua đấy ạ.
Giả mẫu cau mày nói:
- Bây giờ ngấy mỡ lắm rỗi, ai ăn được món ấy nữa.
Lại trông thấy món mì xào với mỡ, Giả mẫu cũng không thích, liền mời Tiết phu nhân ăn. Tiết phu nhân cầm một miếng bánh hấp ngọt. Giả mẫu cầm một cái bánh cuốn, nếm một miếng, còn thừa một nửa gọi cho a hoàn.
Già Lưu thấy bánh mỳ hấp trong suốt, lóng lánh, đủ màu đủ vẻ, lại cầm một cái bánh kiểu hoa mẫu đơn, cười nói:
- Các cô gái khéo nhất ở làng tôi cũng không cắt được cái hoa đẹp như thế này! Tôi muốn ăn nhưng lại tiếc, gói đưa về nhà để cho họ bắt chước cắt hoa thì tốt hơn.
Mọi người đều cười, Giả mẫu cười nói:
- Khi về tôi sẽ cho bà một vò mang về. Bây giờ bánh còn nóng, bà hãy ăn đi.
Mọi người chỉ lấy một vài cái nào mình thích ăn thôi.
Già Lưu xưa nay chưa từng được ăn những thứ này bao giờ, vả bánh làm lại khéo léo, xinh xắn, nên cùng thằng Bản ăn mỗi thứ mấy cái, đã vơi mất nửa mâm. Còn thừa, Phượng Thư sai dồn lại hai mâm và một hộp cho bọn Văn Quan ăn.
Bỗng vú em ẵm cháu Đại Thư đến. Mọi người đùa với nó một lúc, Đại Thư đương ôm quả bưởi chơi, thấy thằng Bản ôm quả phật thủ, nó đòi ngay. A hoàn dỗ đi lấy quả khác, nó chờ không được, khóc ầm lên. Mọi người lấy quả bưởi đưa cho thằng Bản rồi lấy quả phật thủ của thằng Bản đưa cho nó. Thằng Bản chơi quả phật thủ đã lâu rồi, lúc ấy hai tay lại đương cầm bánh ăn, trông thấy quả bưởi vừa thơm, vừa tròn, lại càng thích, định làm quả cầu để đá, nên không lấy quả phật thủ nữa.
Giả mẫu uống nước xong, dẫn già Lưu đến am Lũng Thúy. Diệu Ngọc đón chào. Mọi người vào đến sân, thấy hoa tươi cây tốt, Giả mẫu cười nói:
- Bọn họ tu hành rỗi việc, hay sửa sang, trông đẹp hơn các nơi nhiều.
Vừa nói vừa đi lên thiền đường bên đông. Diệu Ngọc cười mời vào trong nhà, Giả mẫu nói:
- Chúng tôi vừa uống rượn, ăn thịt xong, trong nhà thờ Phật vào sợ mắc tội; ngồi ở đây thôi. Người cứ mang trà ngon ra, chúng tôi uống một chén rồi đi.
Bảo Ngọc để ý xem cách tiếp đãi của Diệu Ngọc như thế nào, thấy Diệu Ngọc mang cái khay nhỏ kiểu hoa hải đường, sơn bốn chữ vàng "vân long hiến thọ”, trong đặt một cái chén sứ Châu Thành năm màu dâng lên. Giả mẫu nói:
- Tôi không uống trà Lục An đâu.
- Tôi đã biết rồi. Đây là trà “Lão quân my”(1) đây.
- Pha bằng nước gì?
- Nước mưa năm ngoái đấy.
Giả mẫu uống nửa chén rồi đưa cho già Lưu, nói:
- Bà thử nếm trà này xem.
Già Lưu uống một hơi, cười nói:
- Ngon có ngon, nhưng hơi nhạt. Pha đặc một tí thì hơn.
Giả mẫu và mọi người cười ầm lên. Sau đều uống trà rót vào bát trắng có nắp.
Diệu Ngọc kéo áo Bảo Thoa và Đại Ngọc đi ra. Bảo Ngọc cũng khe khẽ đi theo. Diệu ngọc mời hai người vào buồng bên cạnh. Bảo Thoa ngồi ở trên giường, Đại Ngọc ngồi ở chiếu tụng kinh của Diệu Ngọc. Diệu Ngọc lấy bếp lò đun nước, pha một ấm trà khác. Bảo Ngọc khẽ chạy đến, cười nói:
- Các cô uống trà riêng đấy à?
Hai người đều cười nói:
- Anh lại đến uống gạ! Đây không có trà cho anh uống đâu.
Diệu Ngọc đang định ra lấy chén, thấy bà già đã thu dọn ấm chén ở ngoài sân. Diệu Ngọc vội nói:
- Đừng cất cái chén sứ Châu Thành vội, hãy để ở ngoài ấy.
Bảo Ngọc hiểu ý, biết là già Lưu uống chén ấy, sợ bẩn nên cô ta không dùng nữa. Sau Diệu Ngọc lại mang hai cái chén khác ra, một cái có quai, trên khắc ba chữ lệ “cô kiều trác”(2), bên cạnh có một hàng chữ nhỏ, viết chân phương “Vương Khải trân ngoạn”(3); lại có một hàng chữ nhỏ nữa viết "Tống Nguyên Phong ngũ niên tứ nguyệt My Sơn Tô Thức kiến ư bí phủ"(4). Diệu Ngọc rót một chén đưa cho Bảo Thoa. Còn một chén dáng như cái bát nhưng mà nhỏ, cũng có ba chữ "điểm tế kiều”(5) khắc lối triện. Diệu Ngọc pha trà vào chén và đưa mời Đại Ngọc, rồi lấy cái chén ngọc xanh của mình thường dùng pha cho Bảo Ngọc. Bảo Ngọc cười nói:
- Người ta thường nói “thế pháp bình đẳng”(6), sao hai cô được dùng đồ cổ quý, mà tôi lại phải dùng đồ tục này?
Diệu Ngọc nói:
- Thế là đồ tục à? Không phải tôi nói liều đâu, nhà cậu chưa chắc đã tìm ra được cái đồ tục này!
- Tục ngữ nói “Vào làng phải theo làng”, đến đây thì nhưng đồ vàng ngọc châu báu đều cho là tục cả.
Diệu Ngọc nghe nói thích lắm, lại lấy ra một cái chén lớn làm bằng gốc trúc chạm rồng cuộn ngoằn ngoèo nhiều khúc, cười nói:
- Chỉ còn có một cái chén nhớn này thôi, cậu có thể uống hết được không?
- Uống hết được.
- Dù uống hết, cũng chẳng phí trà đâu cho cậu uống. Cậu không nghe người ta nói: "Uống chén thứ nhất là để thưởng thức mùi vị trà, chén thứ hai là phường ngu xuẩn uống cho khỏi khát, đến chén thứ ba là con trâu con lừa uống rồi”. Bây giờ cậu uống cả một chén lớn này còn ra cái gì nữa.
Bảo Thoa, Đại Ngọc và Bảo Ngọc nghe xong đều cười ầm lên. Diệu Ngọc cầm bình nước chỉ rót độ một chén con vào chén lớn, Bảo Ngọc nhấm nháp từng tí, thấy hương vị mát nhẹ, khen ngợi không ngớt. Diệu Ngọc nghiêm nét mặt nói:
- Cậu nhờ phúc của hai cô mới được uống trà này, chứ một mình cậu thì tôi không mời đâu.
Bảo Ngọc cười nói:
- Tôi biết lắm, vì thế tôi không cám ơn người, chỉ cám ơn hai cô thôi.
Diệu Ngọc nói: “Đúng đấy”.
Đại Ngọc hỏi:
- Đây cũng là nước mưa năm ngoái phải không?
Diệu Ngọc cười nhạt:
- Cô mà lại là người rất tục, ngay nước uống không biết nếm. Đó là tuyết ở trên hoa mai mà năm năm về trước tôi lấy ở chùa Huyền Mộ Bàn Hương đấy, chỉ chứa được đầy một lọ hoa màu xanh thôi. Tôi chôn xuống đất để dành mãi, không uống, đến hè năm nay mới đào lên. Tôi chỉ uống một lần, nay là lần thứ hai cô nếm cũng không biết à? Nước mưa năm ngoái làm gì có hương vị mát dịu như thế? Uống thế nào được?
Bảo Thoa biết Diệu Ngọc có tính dở hơi, không thích nói nhiều, cũng không thích ngồi lâu; uống nước xong, rủ Đại Ngọc đi ra. Bảo Ngọc nói với Diệu Ngọc:
- Cái chén bà già uống lúc nãy, tuy bẩn, nhưng vất đi thật đáng tiếc! Cứ ý tôi, nên cho bà già nghèo ấy đem bán cũng có thể sống qua ngày. Người thấy có được không?
Diệu Ngọc nghĩ một lúc gật đầu nói:
- Thôi được. May tôi chưa uống đến cái chén ấy bao giờ. Đã uống rồi thì tôi đập đi, không khi nào đem cho bà ấy. Cậu muốn cho bà ấy, xin mang ngay đi.
- Như thế là phải. Khi nào người lại thèm nói chuyện với bà ấy? Nếu nói chuyện với bà ta thì người cũng bị bẩn lây. Cứ đưa cho tôi là được.
Diệu Ngọc sai người mang cái chén đưa cho Bảo Ngọc, Bảo ngọc cầm lấy rồi nói:
- Khi chúng tôi ra về, sẽ bảo mấy đứa hầu nhỏ ra sông gánh mấy thùng nước rửa nhà, có được không?
- Thế thì tốt. Nhưng cậu dặn họ, gánh nước về cứ để ở chân tường ngoài cửa thôi, đừng mang vào đây.
- Đúng thế.
Rồi Bảo Ngọc cầm lấy cái chén đưa cho người nhà Giả mẫu và bảo:
- Ngày mai già Lưu về, mày đưa cái này cho già ấy.
Ngay lúc đó, Giả mẫu đã ra, muốn về. Diệu Ngọc cũng không giữ lại, đưa Giả mẫu ra đến cửa ngoài, rồi quay lại đóng cửa.
Giả mẫu thấy người mệt, liền bảo Vương phu nhân và chị em Nghênh Xuân mời Tiết phu nhân uống rượu, còn mình vào nằm nghỉ ở Đạo Hương thôn. Phượng Thư sai người mang cái ghế trúc nhỏ đến, Giả mẫu ngồi vào đó, bảo hai bà già kiệu đi. Phượng Thư, Lý Hoàn và bọn a hoàn theo sau.
Tiết phu nhân cũng cáo từ ra về. Vương phu nhân cho bọn Văn Quan về, rồi phân phát những hộp bánh còn lại cho đám a hoàn ăn. Còn mình nhân tiện cũng nằm ngả xuống giường của Giả mẫu vừa ngồi, sai một đứa nhỏ hầu nhỏ bỏ rèm xuống, bóp chân và dặn:
- Cụ có gọi gì thì bảo ta ngay.
Nói xong lăn ra ngủ.
Bảo Ngọc, Tương Vân trông thấy bọn a hoàn để những hộp bánh ở trên hòn đá, có đứa ngồi trên hòn đá, có đứa ngồi dưới đất, có đứa dựa vào cây, có đứa ngồi trên bờ hồ, rất là thỏa thích. Một lúc, Uyên Ương đến dắt già Lưu, mọi người lại đều theo đi dạo chơi. Đi đến dưới bức hoành có bốn chữ “Tỉnh thân biệt thự "(7), già Lưu nói:
- Úi chà! Có ngôi đền lớn thế này kia à!
Già liền cúi đầu lạy. Mọi người cười ngặt nghẹo. Già Lưu hỏi:
- Cười cái gì thế? Những chữ ở trên bức hoành này tôi đọc được cả. Ở nhà quê chúng tôi có nhiều đền miếu, cũng có bức hoành như thế này. Chữ này là tên cái đền đây.
Mọi người cười hỏi:
- Bà biết đây là đền gì?
Già Lưu ngẩng đầu lên trỏ vào chữ nói:
- Đây không phải là “Ngọc Hoàng bảo điện” à!
Mọi người vỗ tay cười ầm lên. Họ đương định làm trò cười nữa. Nhưng già Lưu thấy bụng sôi sùng sục, vội kéo một a hoàn nhỏ, bảo lấy vài tờ giấy rồi cởi quần ra. Mọi người vừa cười vừa quát:
- Chỗ này không đi được đâu!
Liền sai một bà già đưa già Lưu đi về phía đông bắc. Bà già trỏ chỗ cho già Lưu, rồi lẩn đi một nơi.
Già Lưu uống nhiều rượu, không hợp với tỳ vị, lại ăn nhiều đồ mỡ, đâm khát, uống nhiều nước trà nên đi lỏng, phải ngồi mất lúc lâu. Khi ở nhà xí ra, lại bị gió. Hơn nữa, tuổi già, nên vừa đứng dậy, bà đã mắt hoa đầu váng, không nhận được lối đi. Nhìn chung quanh chỗ nào cũng cây cối um tùm, nhà cửa san sát, bà không tìm ra lối về, đành lững thững đi theo con đường đá. Khi đến trước một căn nhà, bà nghĩ bụng: “Ở đây cũng có giàn đậu à?” Liền theo hàng rào hoa đi vào một cái cửa tròn, thấy trước mặt có cái ao, bờ xây đá, rộng độ bảy tám thước, sông biếc nước trong, trên có cái cầu đá trắng bắc ngang.
Già Lưu trèo lên cầu, đi theo đường đá, quanh mấy vòng đến một ngôi nhà, liền đi vào, thấy một em gái bé đứng đó, hớn hở cười. Già Lưu vội cười nói:
- Các cô bỏ tôi để tôi lần mò mãi mới đến đây.
Em bé chẳng trả lời gì cả. Già Lưu chạy lại nắm lấy tay nó, “chát" một tiếng, bà vấp phải bức ván, bươu cả đầu. Nhìn kỹ hóa ra một bức vẽ. Già Lưu nghĩ bụng: “Bức vẽ sao lại nổi lên thế này?” Liền sờ tay thấy phẳng lì. Già Lưu gật đầu thở dài một tiếng rồi quay người đi đến một cái cửa nhỏ, trên treo rèm lụa màu xanh cải hoa. Già Lưu vén rèm đi vào, ngẩng đầu nhìn, bốn bên tường vách lộng lẫy, đàn, gươm, lư hương, bình hương, đều đặt vào lòng tường; lồng gấm, chao lụa, vàng ngọc sáng choang, cả gạch lát cũng đều chạm hoa xanh làm hoa cả mắt. Già Lưu lần cửa đi ra, nhưng nào có thấy? Bên trái đặt giá sách, bên phải đặt bình phong. Lần sau bình phong mới thấy một cái cửa, có một bà già ở trước mặt đi tới. Già Lưu lấy làm lạ, trong bụng hoảng lên đoán chừng: “Có lẽ là bà thông gia chăng?” Liền hỏi: "Bà cũng đến đấy à? Chắc thấy tôi đi mấy hôm nay không về, nên phiền bà phải đi tìm! Cô nào dẫn bà đến đây thế?"
Thấy bà già ấy chỉ cười mỉm, già Lưu cười nói: “Bà thật chả ra ngoài bao giờ, thấy vườn đây có hoa đẹp, là cố sống cố chết cắm đầy cả đầu."
Bà già vẫn không nói câu gì. Già Lưu nghĩ ngay: “Thường nghe nói các nhà giàu sang có tấm gương để mặc áo, có lẽ mình đứng ở trước gương hay sao đây?” Liền giơ tay ra sờ, và nhìn kỹ thì chính là bức vách chạm bóng bốn mặt và lắp gương giữa. Già Lưu bỗng cười lên rồi nói: “Thế này thì đi ra thế nào được?”
Cái gương này có nút bấm, có thể đóng mở được, không ngờ già Lưu sờ đúng vào chỗ bấm, cái gương gạt sang một bên, hé ra một cái cửa.
Già Lưu mừng mừng sợ sợ, chạy ra. Chợt thấy một cái giường rất lịch sự đặt đó. Lúc này già Lưu hãy còn say rượu,đi mãi đã mệt, liền ngồi thịch xuống giường, định nghỉ một lát, không ngờ mệt quá, hai mắt lim dim, hễ mở ra là nó díp lại, vừa ngả người xuống, bà đã ngủ thiếp ngay trên giường.
Mọi người chờ mãi không thấy già Lưu về, thằng Bản cứ khóc ầm lên. Ai nấy đều cười nói:
- Hay bà ấy rơi vào trong chuồng xí rồi? Phải sai người đi tìm xem.
Hai bà già đi tìm về nói: “Không thấy đâu cả”. Mọi người đều chia các ngả đi tìm. Tập Nhân nói:
- Chắc là bà ấy say rượu, đi lạc đường. Nếu theo con đường này bà ấy sẽ lạc vào nhà sau đến giàn hoa, lần theo cửa sau, thế nào đám hầu nhỏ cũng biết, không đi theo lối giàn hoa, lại đi về phía tây nam, bà ấy quanh ra thì chớ, bằng không sẽ vẫn lẩn quẩn ở đấy! Tôi phải đi tìm xem sao?
Tập Nhân trở về viện Di Hồng, gọi bọn hầu nhỏ, chúng đều lẻn đi chơi cả.
Tập Nhân đi vào cửa buồng, vòng qua bức ngăn bằng gấm, nghe tiếng gáy khò khò, vội chạy lại, ngửi thấy hơi rượu sặc sụa. Nhìn vào nhà, thấy già Lưu đương dang tay, ruỗi chân nằm ngủ trên giường. Tập Nhân sợ quá, chạy vào lay lấy lay để. Già Lưu giật mình tỉnh dậy, trố mắt nhìn, thấy Tập Nhân, liền loạng choạng bò dậy nói:
- Cô ơi! Tôi đáng chết! May chưa làm bẩn giường.
Rồi lấy tay phẩy giường.
Tập Nhân sợ Bảo Ngọc biết, xua tay bảo già Lưu không được nói, vội lấy ba bốn nắm hương bách hợp bỏ vào cái đỉnh gần đấy rồi đậy nắp lại. May mà già Lưu không nôn ra đấy. Tập Nhân khẽ cười bảo:
- Không việc gì đâu, có tôi đây. Già theo tôi ra ngoài này.
Ra đến buồng bọn hầu trẻ. Tập Nhân bảo già Lưu ngồi đấy rồi dặn:
- Bà cứ nói là say rượu, nằm ngủ gật trên hòn đá, thế là được.
Già Lưu vâng lời. Tập Nhân lại cho uống hai chén nước trà, già Lưu mới tỉnh rượu, liền hỏi:
- Chỗ ấy là buồng thêu của cô nào mà lịch sự thế? Khác nào được lên trời vậy!
Tập Nhân mỉm cười nói:
- Buồng ấy à? Là buồng ngủ của cậu Bảo đấy.
Già Lưu sợ quá không dám nói nữa. Tập Nhân đưa già Lưu đi ra đằng trước, gặp mọi người chỉ nói: “Bà ấy ngủ ở trên bãi cỏ, tôi đưa về đây”.
Mọi người đều không để ý đến.
---------------------
(1). Lông mày ông già, tức là ché búp trắng như tuyết.
(2). Chén hình quả bầu.
(3). Đồ chơi quý của Vương Khải ngày xưa.
(4). Tháng tư năm Nguyên phong thứ năm đời Tống, ông Tô Thức người ở My Sơn tìm thấy trong bí phủ.
(5). Có tâm linh thông cảm với nhau. Kiều: một thứ chén xưa hơi lớn hơn cái chén uống rượu.
(6). Chữ trong kinh phật, nghĩa là: tăng tục đều bình đẳng với nhau.
(7). Xem chú thích hồi 17.
Hồi thứ bốn mươi hai
Giải mối ngờ, Bảo Thoa ngỏ lời thân thiết
Thêm vui chuyện, Đại Ngọc nói ý xa xôi
Một lúc, Giả mẫu tỉnh dậy, cơm chiều đã dọn ra ở Đạo Hương thôn. Nhân người mệt, Giả mẫu không muốn ăn, liền ngồi vào ghế trúc nhỏ sai người kiệu về phòng nghỉ và cho Phượng Thư đi ăn cơm. Các chị em lại trở về trong vườn. Ăn cơm xong, ai về nhà nấy. Già Lưu dắt thằng Bản đến nói với Phượng Thư:
- Sáng sớm mai tôi phải về. Tôi ở chơi đây mới vài ba hôm, nhưng những cái xưa nay chưa từng nghe, chưa từng thấy, chưa từng ăn, giờ đã đều được qua cả. Từ cụ đến các mợ, các cô, ngay cả các chị a hoàn cũng thương tôi là người già nghèo khổ. Tôi về, không biết lấy gì tạ ơn, chỉ định ngày ngày thắp hương niệm phật, khấn người phù hộ cho cụ cùng các mợ, các cô sống lâu trăm tuổi, để tỏ lòng thành kính của tôi.
Phượng Thư cười nói:
- Bà đừng mừng vội, vì bà mà cụ tôi bị cảm, khó ở; cả cháu Đại Thư nhà tôi cũng bị cảm siết đấy.
Già Lưu thở dài:
- Cụ già rồi, không quen khó nhọc!
Phượng Thư nói:
- Xưa nay cụ tôi chưa từng cao hứng như thế bao giờ. Thỉnh thoảng người có đến chơi vườn, chẳng qua tới một vài chỗ, ngồi một lúc rồi về ngay. Hôm qua vì bà ở đây, muốn cho bà đi chơi khắp nơi, thành ra người đi quá nửa vườn. Lúc tôi đi tìm bà, ở nhà bà Hai cho cháu Đại Thư ăn miếng bánh, ngờ đâu nó đứng ở chỗ gió thành ra bị sốt.
Già Lưu nói:
- Chị bé nhà không quen ra vườn, chứ các cháu nhà tôi khi mới biết đi, bệ mả nào mà nó chẳng trèo lên? Có lẽ cảm gió đấy. Tôi sợ chị ấy người xinh xắn, con mắt sáng sủa, hoặc đi gặp phải ma chăng. Cứ ý tôi, nên giở quyển sách bói ra xem có phải gặp ma không.
Phượng Thư chợt nhớ ngay ra, sai ngay Bình Nhi mang quyển Ngọc Hạp và bảo Thái Minh đọc. Thái Minh giở một lúc rồi đọc: “Ngày 25 tháng 8, bệnh nhân mắc bệnh ở phía đông nam, gặp phải thần hoa. Lấy bốn mươi tờ giấy tiền ngũ sắc, tống tiễn ra khỏi nhà độ mươi bước về phía đông nam, bệnh sẽ khỏi."
Phượng Thư cười nói :
- Đúng lắm, trong vườn này làm gì mà chẳng có thần hoa? Chỉ sợ cụ cũng lại gặp ma thôi.
Rồi sai người đi lấy hai tập giấy tiền, gọi hai người đến tiễn ma cho Giả mẫu và cháu Đại Thư. Quả nhiên cháu ngủ yên.
Phượng Thư cười nói:
- Các bà đã có tuổi nên kinh nghiệm nhiều, con bé cháu nhà tôi bị bệnh luôn, không biết vì duyên cớ gì?
Già Lưu nói:
- Cái ấy cũng có lẽ. Trẻ con nhà giàu sang, khi mới đẻ ra đều yếu ớt cả, nên hay đau ốm luôn. Vả lại trẻ con mà nâng giấc quá không nên. Từ giờ trở đi, mợ cũng nên ít chiều chuộng chị ấy thì hơn.
Phượng Thư nói:
- Cũng có lẽ đấy. Giờ tôi sực nhớ đến, cháu chưa có tên, xin bà đặt tên cho cháu để cháu nhờ lộc của bà. Vả lại, tôi nói bà đừng giận, bà là người nhà quê bị nghèo khổ, được người nghèo khổ đặt tên cho nó thì mới đáng đầu đáng số.
Già Lưu nghĩ một lúc cười nói:
- Chị ấy đẻ bao giờ?
- Ngày sinh nó chả lấy gì làm tốt, nó đẻ “đúng vào"(1) ngày mồng 7 tháng 7.
- Như thế tốt lắm, cứ đặt tên cho chị ấy là Xảo Thư là được. Thế gọi là “lấy độc trị độc, lấy lửa trị lửa” đấy. Mợ cứ theo cái tên của tôi đặt cho, thì thế nào chị ấy cũng sống lâu trăm tuổi. Sau này lớn lên, sinh cơ lập nghiệp, hoặc có lúc gặp việc không may cũng tai qua nạn khỏi, gặp dữ hóa lành, đó đều nhờ chữ “Xảo” cả.
Phượng Thư mừng lắm, cảm tạ và nói:
- Chỉ cần cho nó được như lời bà nói là tốt rồi.
Liền gọi Bình Nhi đến dặn:
- Ngày mai chúng ta có việc bận. Bây giờ nhân lúc rỗi, chị sửa soạn sẵn những thứ biếu già Lưu để sáng mai bà ấy về lúc nào thì về.
Già Lưu nói:
- Tôi không dám nhận nhiều đâu. Đã đến quấy quả mấy hôm nay lại mang nhiều thứ về, trong bụng tôi không đành tí nào!
- Không có gì đâu, chẳng qua những đồ thường thôi. Xấu hay tốt bà cứ mang về để cho làng xóm nhìn vào, càng thêm vui vẻ thế mới bõ công ra tỉnh chứ!
Một lát, Bình Nhi lại nói:
- Bà lại đây mà xem.
Già Lưu theo Bình Nhi vào trong nhà, thấy các món chất đầy nửa giường. Bình Nhi trỏ từng thứ cho già Lưu xem, rồi nói:
- Đây là tấm lụa xanh mà bà thích hôm trước, mợ tôi còn cho riêng bà tấm lụa nguyệt bạch dày để may kép. Đây là hai tấm trừu bằng tơ, may quần áo đều đẹp cả. Còn gói này có hai tấm trừu để cuối năm may quần áo mặc tết. Cái này là hộp đựng các thứ bánh có thứ bà ăn rồi, có thứ bà chưa ăn, đem về bày ra đĩa mời mọi người, ngon hơn bánh mua nhiều. Hai cái túi này là của bà mang đến hôm nọ, bây giờ một túi tôi đựng hai đấu gạo tám ngự, đem nấu cháo thì quý lắm; còn túi này đựng các thứ quả tươi và khô hái ở vườn nhà. Cái bọc này có tám lạng bạc là của mợ tôi biếu riêng bà. Hai bọc này, mỗi bọc năm mươi lạng, cộng tất cả là một trăm lạng, là của bà Hai biếu bà mang về hoặc làm vốn buôn nhỏ, hoặc mua mấy mẫu ruộng để sau này khỏi phải vay mượn bà con bạn hữu.
Bình Nhi khẽ cười nói:
- Hai cáo áo và hai cái quần, cùng bốn cái khăn chít đầu, một bọc nhung, là của tôi biếu riêng bà. Những quần áo này đã cũ, nhưng tôi cũng không mặc mấy. Nếu bà chê xấu thì tôi không dám biếu nữa.
Bình Nhi nói một câu, già Lưu lại niệm Phật một câu, kể ra đã niệm đến mấy nghìn câu. Lại thấy Bình Nhi biếu riêng mấy thứ và tỏ ra khiêm tốn, già Lưu cười nói:
- Sao cô lại nói thế? Những thứ này cũng rất đẹp, tôi dám chê vào đâu? Tôi có tiền cũng chưa chắc đã mua được. Thật khó nghĩ quá: nhận thì ra người tham, không nhận thì phụ lòng cô.
- Bà đừng nói khách sáo nữa, chỗ người nhà với nhau, nên tôi mới dám xử thế. Bà cứ yên tâm nhận lấy, tôi còn có cái muốn xin bà nữa đấy. Đến cuối năm, bà mang ra cho chúng tôi ít rau, đậu, cá, bầu, vừa khô vừa tươi, ở đây chúng tôi ai cũng thích ăn những thứ ấy. Thế là đủ rồi. Các thứ khác không cần, bà đừng bận lòng nghĩ ngợi.
Già Lưu cám ơn luôn miệng và nhận lời, Bình Nhi nói:
- Thôi, bà đi ngủ đi, tôi sẽ thu xếp hộ, để sẵn cả đây. Sáng mai tôi bảo đứa hầu bé thuê xe chở đi, bà không phải bận lòng.
Già Lưu cảm động lắm, cám ơn không ngớt lời, rồi mới cáo từ Phượng Thư, sang nhà Giả mẫu. Sáng hôm sau dậy rửa mặt, chải đầu xong, định ra về.
Lúc này Giả mẫu khó ở, mọi người đều đến hỏi thăm, rồi ra bảo đi mời thày thuốc. Một lúc bà già trình: “Thày thuốc đã đến”. Bà già mời Giả mẫu vào ngồi trong màn, Giả mẫu nói:
- Ta già thế này, không đẻ được ra nó hay sao. Lại sợ nó à? Chẳng cần phải buông màn nữa, ta cứ ngồi ở đây cho nó xem.
Bọn bà già lấy một cái bàn nhỏ, đặt cái gối lên, rồi sai người mời thày thuốc vào.
Một lúc, Giả Trân, Giả Liễn, Giả Dung đưa thày thuốc họ Vương vào. Thày thuốc không dám đi đường giữa, chỉ đi bên cạnh, theo Giả Trân bước lên thềm, có hai bà già đứng hai bên vén rèm, hai bà già nữa dẫn vào. Bảo Ngọc ra đón. Giả mẫu mặc chiếc áo khoác bằng da dê trắng, trong lót nhiễu xanh, ngồi trên sập. Hai bên có bốn a hoàn bé chưa để tóc, cầm phất trần, ống nhổ đứng hầu; lại có năm, sáu bà già đứng xếp hàng hai bên; đằng sau cái tủ bích sa, thấp thoáng có nhiều người mặc đồ xanh đỏ và đeo vàng ngọc. Thày thuốc không dám ngẩng đầu lên, chạy lại cúi chào.
Giả mẫu thấy ông ta mặc áo lục phẩm, biết ngay là thày thuốc trong cung, mỉm cười hỏi:
- Quan cung phụng khỏe chứ?
Rồi hỏi Giả Trân:
- Quan cung phụng họ gì?
- Họ Vương.
- Ngày trước ở thái y viện có ông Vương Quân Hiệu xem mạch rất giỏi.
Vương thái y liền cúi đầu mỉm cười nói:
- Đó là ông chú của vãn sinh.
Giả mẫu cười nói:
- Nếu thế cũng là người quen từ lâu.
Giả mẫu từ từ để tay lên trên gối. Bà già cầm một ghế nhỏ để chếch trước cái bàn. Vương thái y ngồi ghé xuống một bên, nghiêng đầu xem mạch tay này một lúc, rồi đến tay kia. Xem xong đứng dậy cúi đầu đi ra. Giả mẫu cười nói:
- Phiền người quá. Anh Trân mời thái y ra ngồi chơi xơi nước.
Giả Trân, Giả Liễn vâng lời, mời Vương thái y ra ngoài thư phòng. Vương thái y nói:
- Cụ không có bệnh gì khác, chỉ cảm phong hàn qua loa thôi. Không cần phải uống thuốc, chỉ ăn uống thanh đạm một tí và giữ người cho ấm là được. Giờ tôi kê đơn, người thích uống thì uống một thang, không thích thì thôi.
Ông ta uống nước, rồi kê đơn, đương định cáo từ ra về, chợt vú em bế cháu Đại Thư đến, cười nói:
- Nhờ người xem cho cô bé nhà tôi.
Vương thái y đứng dậy đến gần vú em, tay trái cầm tay cháu Đại Thư, tay phải bắt mạch, lại sờ đầu, bảo cháu thè lưỡi ra xem, cười nói:
- Tôi nói thì cô bé sẽ mắng tôi: cứ cho nhịn ăn hai bữa là khỏi, không cần phái thuốc thang gì. Tôi đưa cho viên thuốc, trước khi ngủ mài với nước gừng cho cô bé uống là khỏi.
Nói xong cáo từ ra về. Bọn Giả Trân mang đơn thuốc vào trình Giả mẫu, để ở trên án rồi đi ra.
Vương phu nhân và chị em Lý Hoàn, Phượng Thư, Bảo Thoa thấy thầy thuốc đã về, mới ở sau tủ đi ra. Vương phu nhân ngồi một lúc rồi về buồng.
Già Lưu thấy rỗi, mới đứng dậy cáo từ Giả mẫu, xin về. Giả mẫu nói:
- Khi nào rỗi, bà lại ra chơi.
Lại bảo Uyên Ương đi tiễn chân già Lưu: “Ta không được khỏe không đi tiễn được”.
Già Lưu tạ ơn cáo từ, cùng Uyên Ương đi ra. Đến buồng dưới, Uyên ương trỏ một bọc để ở trên giường nói:
- Đây là mấy bộ quần áo của cụ, ngày sinh nhật năm ngoái, người ta dâng người đấy. Người xưa nay không mặc quần áo may ở ngoài bao giờ, bỏ đấy phí của. Người chưa mặc lần nào. Hôm qua bảo tôi mang hai bộ ra đưa cho bà đem về, bà mặc hay cho ai tùy ý. Trong hộp này đựng những bánh mà bà thích ăn. Hộp trong bao này là những thứ thuốc bà xin hôm nọ đây: mai hoa điểm thiệt đan, tứ kim đĩnh, hoạt lạc đan, thôi sinh bảo mệnh đan, thứ gì cũng có. Mỗi thứ có một cái đơn bọc ngoài, tôi gói chung vào một gói. Còn đây là hai túi đựng đồ chơi.
Uyên Ương lại cởi nút lấy hai thoi bút đĩnh như ý đưa cho già Lưu xem, rồi cười nói:
- Bà mang cái túi về, còn cái này để lại cho tôi nhé.
Già Lưu mừng quá không ngờ lại được như thế, cứ niệm Phật luôn mồm, vội nói: “Cô cứ để lại mà dùng".
Uyên Ương vừa cười vừa gói vào cho già Lưu và nói:
- Nói đùa bà thế thôi, chứ tôi có cái đẹp hơn kia. Thôi, bà mang về để đến cuối năm cho đám trẻ con.
Lúc đó lại thấy a hoàn nhỏ đem cái chén sứ Châu Thành đến đưa cho già Lưu và nói: “Cậu Bảo cho bà đây”.
Già Lưu cầm lấy, nói:
- Sao lại có chuyện như thế. Tôi tu từ kiếp nào mà được như thế này!
Uyên Ương nói:
- Hôm nọ tôi bảo bà đi tắm rửa, quần áo đưa cho bà thay là của tôi đấy. Nếu bà không chê xấu, tôi còn mấy cái nữa, cũng xin biếu bà.
Già Lưu cám ơn. Uyên Ương vào lấy ngay mấy cái quần áo ra, bọc cẩn thận. Già Lưu lại muốn vào trong vườn từ tạ Vương phu nhân, Bảo Ngọc và các cô, Uyên Ương nói:
- Không cần phải vào nữa. Hôm nay họ không tiếp ai đâu, để sau tôi nói hộ bà cũng được. Khi nào rỗi, bà lại chơi nhé.
Uyên Ương gọi một bà già dặn:
- Ra cửa ngoài gọi hai đứa hầu bé đến đây mang những cái này ra hộ bà ấy.
Bà già vâng lời. Uyên Ương lại cùng già Lưu đến nhà Phượng Thư lấy các đồ để ở góc cửa, sai bọn hầu nhỏ khuân ra, rồi đưa già Lưu lên xe.
Bọn Bảo Thoa ăn cơm sáng xong, đến hỏi thăm Giả mẫu. Khi về vườn đến chỗ rẽ, Bảo Thoa gọi Đại Ngọc: “Cô Tần, theo ta vào đây, có câu chuyện muốn hỏi”.
Đại Ngọc cười, theo Bảo Thoa đến Hành Vu Uyển. Vào phòng, Bảo Thoa ngồi xuống cười bảo: “Sao mày không quỳ xuống? Ta định tra xét một việc!”
Đại Ngọc không hiểu tại sao, cười nói:
- Xem kìa, con Bảo này điên rồi! Ta có việc gì mà mày tra xét?
- Gớm thật, cô tiểu thư nghìn vàng ơi! Cô gái cấm cung ơi! Miệng cô đã nói những câu gì? Thôi hãy nói thực ra đi.
Đại Ngọc không hiểu, chỉ cười, nhưng trong bụng cũng có ý ngờ ngợ và nói:
- Nào tôi có nói gì đâu? Chẳng qua chị bắt nọn tôi đấy thôi. Có điều gì sai chị hãy nói cho tôi nghe nào.
- Cô lại còn giả vờ à! Trong cuộc tửu lệnh hôm nọ, cô nói gì thế? Tôi không biết những câu ấy ở đâu ra à?
Đại Ngọc nghĩ mãi mới nhớ hôm nọ mình không giữ gìn, có đọc hai câu trong chuyện “Mẫu đơn đình" và "Tây sương ký"(2), tự nhiên mặt đỏ lên, liền chạy lại ôm lấy Bảo Thoa cười nói:
- Chị ơi! Vì em quên đi, buột miệng đọc ra, chị bảo mới rõ. Từ giờ trở đi em không dám đọc những câu ấy nữa!
- Tôi cũng không hiểu, nghe thấy cô đọc hay quá, nên bây giờ hỏi lại cô.
- Chị ơi! Xin chị đừng nói với người khác, từ nay em không đọc những câu ấy nữa!
Bảo Thoa thấy Đại Ngọc thẹn đỏ mặt lên, cứ van xin mãi, nên cũng không hỏi vặn nữa, liền kéo Đại Ngọc ngồi xuống uống nước trà, và ân cần khuyên bảo:
- Cô cho tôi là người thế nào? Xưa nay tôi vốn bướng bỉnh. Từ khi bảy, tám tuổi, tôi đã làm rầy rà người ta. Nhà tôi vốn là nhà nho, ông cha cũng rất thích chứa sách. Khi trước nhà đông người, anh chị em tôi cùng ở một nơi, không ai thích xem sách đứng đắn cả. Có người thích thơ, có người thích từ, như "Tây sương", "Tỳ bà", "Nguyên nhân bách chủng", bộ gì cũng có. Họ cứ xem giấu chúng tôi, chúng tôi cũng xem giấu họ. Sau thầy tôi biết, đứa bị đánh, đứa bị mắng, sách lại bị đốt bị xé mất hết. Vì thế bọn con gái chúng ta không biết chữ càng tốt. Đám con trai học không hiểu nghĩa lý thì thà không học còn hơn; huống chi là tôi với cô? Ngay đến việc làm thơ, viết chữ, đã không phải là phận sự chị em mình, mà cũng không phải là phận sự của bọn con trai nữa. Người con trai đọc sách phải hiểu nghĩa lý để ra giúp nước trị dân mới đúng. Bây giờ không thấy những người như thế nữa, càng đọc sách bao nhiêu họ càng hư hỏng bấy nhiêu. Đó không phải là sách làm hư hỏng họ, tiếc rằng chính họ đã bôi nhọ sách. Bởi thế không bằng đi cày, đi buôn còn hơn. Còn bọn chúng ta, chỉ nên biết việc thêu thùa may vá mới phải, thế mà còn học đòi mấy chữ. Đã trót biết chữ thì nên chọn sách đứng đắn mà xem, chứ xem loại sách nhảm, sẽ đổi hẳn tâm tính đi, không thể sửa lại được.
Đại Ngọc cứ ngồi im cúi đầu uống nước, trong bụng thầm phục Bảo Thoa, chỉ trả lời một câu “phải” mà thôi. Chợt thấy Tố Vân đến nói:
- Mợ tôi mời hai cô đến bàn việc cần. Cô Hai, cô Ba, cô Tư, cô Sử, cậu Bảo cũng đương chờ đấy.
Bảo Thoa hỏi:
- Lại có việc gì?
Đại Ngọc nói:
- Chúng ta đến đấy sẽ biết.
Đại Ngọc, Bảo Thoa sang Đạo Hương thôn. Mọi người đã ở cả đấy.
Lý Hoàn trông thấy hai người đến, cười bảo:
- Thi xã chưa mở đã có người chực trốn việc rồi. Cô Tư xin nghỉ một năm đấy!
Đại Ngọc cười nói:
- Chỉ vì hôm nọ cụ nói một câu, bảo cô ta phải vẽ một bức tranh trong vườn, thành ra cô ta vịn cớ xin nghỉ.
Thám Xuân cười nói:
- Đừng trách cụ, cũng chỉ vì một câu nói của già Lưu đấy thôi.
Đại Ngọc cười nói:
- Đúng đấy! Đúng là vì câu nói của bà ấy đấy. Không biết bà ta là bà già nhà nào? Cứ gọi bà ta là “con cào cào mẹ” mới phải!
Mọi người cười ầm lên. Bảo Thoa cười nói:
- Tất cả chuyện trên đời này, hễ đến miệng chị Phượng là xong hết. Nhưng may chị ấy không thông chữ lắm, nên những câu nói của chị ấy đều là tục, chỉ để cười đùa thôi. Con Tần này miệng lưỡi mới là quỷ quái. Nó dùng lối bút pháp kinh xuân thu, nhặt nhưng tiếng tục ở nơi đầu đường xó chợ rút ra những lời chủ chốt, bớt chỗ rườm rà, rồi tô điểm thêm lên, nên nói câu nào ra câu ấy. Ba chữ “cào cào mẹ” đủ vẽ ra được cái hình ảnh hôm nọ. Kể ra nó nghĩ cũng nhanh đấy!
Mọi người đều cười nói:
- Lời giảng giải của cô cũng chằng kém gì hai cô kia.
Lý Hoàn nói:
- Tôi mời chị em đến đây để bàn xem nên cho cô ấy nghỉ bao nhiêu ngày? Tôi cho cô ấy nghỉ một tháng, nhưng cô ấy kêu ít, thế thì các cô định thế nào?
Đại Ngọc nói:
- Cứ lẽ ra thì một năm cũng chẳng lấy gì làm nhiều, cái vườn này một năm mới xây dựng xong. Bây giờ muốn vẽ cũng phải mất hai năm, vì còn phải mài mực dầm bút, trải giấy, tô màu, lại còn phải...
Nói đến đây, Đại Ngọc không nhịn được, lại cười nói:
- Lại còn phải theo đúng kiểu, thong thả vẽ, thế mà không đến hai năm à.
Mọi người nghe nói đều vỗ tay cười ầm lên. Bảo Thoa cười nói:
- Câu cuối cùng “lại còn phải theo đúng kiểu, thong thả vẽ” hay lắm. Vì thế, những câu nói đùa hôm nọ tuy buồn cười thật, nhưng nghĩ lại chẳng có gì là thú. Chúng ta nghĩ kỹ xem, mấy câu nói của cô Tần tuy chẳng có gì cả, nhưng lại có nhiều ý vị làm cho tôi cười lăn ra được!
Tích Xuân nói:
- Vì chị Bảo khen nó, nên nó càng làm bộ, giờ lại mang tôi ra làm trò cười.
Đại Ngọc kéo Tích Xuân, cười nói:
- Tôi hãy hỏi cô, giờ chỉ vẽ cái vườn thôi, hay là vẽ cả mọi người chúng tôi ở trong vườn ấy?
- Trước chỉ định vẽ cái vườn không thôi, nhưng hôm nọ cụ lại bảo, vẽ cái vườn không, thành ra vẽ kiểu nhà mất. Người bảo tôi phải vẽ cả người nữa, như là bức tranh hành lạc mới đẹp. Tôi cũng không biết vẽ tỉ mỉ những lâu đài và nhân vật, nhưng không dám trái lời, vì thế khó nghĩ quá.
Đại Ngọc nói:
- Vẽ nhân vật thì còn dễ, chứ sâu bọ thì không vẽ nổi đâu .
Lý Hoàn nói:
- Cô nói câu ấy lại không thông rồi. Trong ấy làm gì phải vẽ đến sâu bọ? Hoặc chỉ tô điểm một vài con chim thôi.
Đại Ngọc cười nói:
- Sâu khác chẳng vẽ thì thôi, chứ con “cào cào mẹ” hôm nọ, không vẽ thì thiếu mất điển tích đấy.
Mọi người nghe nói đều cười ầm lên. Đại Ngọc vừa ôm bụng cười vừa nói:
- Thôi cô cứ vẽ đi, tôi đã có sẵn cả chữ đề rồi. Tôi sẽ đặt tên bức tranh là “Huề hoàng đại tước đồ”(3).
Mọi người nghe nói càng cười ngặt nghẹo. “Thình” một tiếng, không biết là cái gì đổ, mọi người vội nhìn thì ra Tương Vân ngồi ngả người về đằng sau cười sặc sụa, không dè chừng, ghế chệch chân nghiêng về một bên, cả người lẫn ghế đều lăn ra. May có ván vách giữ lại, nên không ngã xuống đất. Mọi người trông thấy càng cười rộ lên. Bảo Ngọc vội đến đỡ dậy, mới dần dần bớt cười.
Bảo Ngọc đưa mắt cho Đại Ngọc, Đại Ngọc hiểu ý, chạy vào nhà trong bỏ cái khăn che gương ra soi, thấy hai bên mái tóc hơi xõa, liền mở hộp trang sức của Lý Hoàn lấy cái lược ra, soi gương chải lại đầu, xong chạy ra chỉ vào Lý Hoàn nói:
- Tưởng chị bảo chúng tôi học thêu thùa, học điều hay lẽ phải, ai ngờ chị lại gọi chúng tôi đến để cười đùa ầm ĩ thế này à?
Lý Hoàn cười nói:
- Các cô xem cô ta nói điêu thế kia. Chính cô ta làm đầu têu cho người ta cười, lại đổ lỗi cho tôi! Giận quá! Tôi chỉ mong sau này cô vớ một bà mẹ chồng cay nghiệt và mấy cô chị em chồng đanh ác, xem cô còn điêu được như thế nữa hay không?
Đại Ngọc đỏ mặt lên, kéo Bảo Thoa nói:
- Thôi chúng ta cho cô ấy nghỉ một năm.
Bảo Thoa nói:
- Tôi cứ công bằng mà nói, các chị nghe xem sao: con bé Ngẫu Tạ tuy biết vẽ, nhưng cũng chỉ vẽ được mấy nết tả ý thôi. Bây giờ vẽ cái vườn, nếu trong bụng không có một hiểu biết rộng thì vẽ sao nổi. Cái vườn này cũng giống như bức tranh, nào là đá núi, cây cối, nào là lâu đài nhà cửa, gần xa, thưa nhặt, đừng ít quá cũng đừng nhiều quá mà phải đúng mức. Nếu cứ theo thế vẽ lên trên giấy thì đẹp làm sao được. Phải xem khuôn khổ tờ giấy, nên để xa gần, nhiều ít thế nào, nên chia phần chính phần phụ ra sao, chỗ nào đáng thêm thì thêm, chỗ nào đáng bỏ, đáng bớt thì bỏ đi, bớt đi, cái gì đáng để lộ mới để lộ. Bắt đầu phải vẽ phác rồi ngắm nghía tính toán cẩn thận, mới thành công được bức vẽ. Điều thứ hai là, lâu đài nhà cửa phải chia giới hạn, sơ ý một tí là bao lan cũng lệch, cột cũng nghiêng, cửa sổ sẽ dựng ngược lên, thềm cũng không đúng chỗ, thậm chí bàn ghế cũng chen lên tường, chậu hoa bày ở trên màn. Như thế chẳng phải là vẽ ra một bức tranh để cười ư? Điều thứ ba là, phải xếp đặt nhân vật thưa hay nhặt, cao hay thấp, đều cho đúng chỗ. Nếp quần, dây lưng, ngón tay, bước chân cũng rất quan trọng; nếu sai một nét, không sưng tay cũng hóa kiễng chân, đến như bộ mặt mái tóc chỉ là việc nhỏ. Cứ như ý tôi, vẽ bức tranh này khó lắm đấy. Cho phép một năm thì nhiều quá, một tháng thì ít quá, cứ cho nghỉ nửa năm, lại giao cậu Bảo phải đến giúp đỡ cô ấy. Không phải vì cậu Bảo biết vẽ mà đến dạy cô ấy đâu. Như vậy lại càng hỏng việc. Chỉ cần chỗ nào cô ấy không biết hay xếp đặt lúng túng, cậu Bảo sẽ mang ra hỏi các vị họa sư bên ngoài, cho dễ làm việc.
Bảo Ngọc mừng lắm nói:
- Câu đó rất đúng. Ông Thiềm Tử Lượng vẽ lâu đài rất đẹp, ông Trình Nhật Nhưng vẽ mỹ nhân càng tuyệt, tôi sẽ đi hỏi hai ông ấy.
Bảo Thoa nói:
- Tôi đã bảo anh là người không có việc mà lại bận rộn. Vừa mới nói thế anh đã chực đi hỏi người ta rồi. Để bàn tính đã rồi hãy đi. Trước hết nên vẽ bằng giấy gì?
Bảo Ngọc nói:
- Ở nhà có giấy tuyết lãng, vừa rộng khổ, vừa ăn mực.
Bảo Thoa cười nhạt:
- Anh thật là vô dụng! Giấy tuyết lãng để viết chữ, để vẽ bức họa tả ý, hoặc để người biết vẽ sơn thủy vẽ tranh sơn thủy nhà Nam Tống, giấy vừa ăn mực mà lại không nhăn nhòe. Nếu vẽ vườn này bằng giấy ấy thì không ăn màu, lại khó khô, vẽ cũng không đẹp, phí cả giấy. Tôi bảo anh cách này: trước khi xây dựng cái vườn đã có một bức bản đồ vẽ tỉ mỉ rồi. Tuy là thợ vẽ vẽ ra, nhưng khuôn khổ, phương hướng đều rất đúng cả. Anh vào xin bà Hai bức vẽ ấy, đem ra xem rộng hẹp thế nào, rồi bảo chị Phượng cho một mảnh lụa, mang ra bên ngoài cho các họa sư bảo họ cứ theo khuôn khổ bức vẽ ấy, thêm bớt thành một bức vẽ, sau thêm nhân vật vào là được. Ngay đến pha màu thanh lục, màu kim nhũ, ngân nhũ, cũng phải nhờ họ pha cho. Còn phải có một cái lò, chuẩn bị nấu keo, lấy keo ra rửa bút, rồi kê một cái bàn sơn dầu rải thảm lên trên. Ngay đĩa và bút của nhà cũng không đủ, phải sắm một ít mới được.
Tích Xuân nói:
- Tôi làm gì có đồ vẽ? Chẳng qua vẽ bằng bút thường thôi. Còn màu sắc thì chỉ có màu đỏ, màu xanh, màu vàng, màu son. Bút cũng chỉ có hai cái để tô màu.
Bảo Thoa nói:
- Sao cô không bảo trước? Những thứ ấy bên tôi có, chỉ sợ cô không dùng đến, cho cũng phí thôi. Tôi vẫn cất đi, khi nào cô dùng, tôi sẽ đưa cho. Những thứ ấy chỉ để vẽ quạt thôi, nếu vẽ bức to thì cũng đáng tiếc. Giờ tôi kê hộ cái đơn, cô theo đơn đó xin với cụ mua cho. Các chị em chưa chắc đã biết hết đâu, tôi đọc cho cậu Bảo viết.
Bảo Ngọc đã sắp sẵn bút mực để ghi, sợ không nhớ hết, giờ thấy Bảo Thoa nói thế, mừng lắm, liền cầm bút lắng tai nghe.
Bảo Thoa đọc:
- Bút quét loại nhất bốn chiếc, loại nhì bốn chiếc, loại ba bốn chiếc; bút chấm loại lớn bốn chiếc, loại vừa bốn chiếc, loại nhỏ bốn chiếc; bút vắt ngòi lớn mười chiếc, vắt ngòi nhỏ mười chiếc; bút kẻ mày mười chiếc, bút tô màu loại lớn hai mươi chiếc, loại nhỏ hai mươi chiếc; bút vẽ mặt mười chiếc, bút cành liễu hai mươi chiếc; son nhọn đầu, son nam, thạch hoàng, thạch thanh, thạch lục, quản hoàng, mỗi thứ bốn lạng; quảng hoa tám lạng, bột chì bốn hộp, phấn yên chi mười hai thếp; bột đỏ, bột lá mạ mỗi thứ hai trăm thếp; keo quảng quân, phèn lọc mỗi thứ bốn lạng. Keo phèn để quét lụa không kể, cứ đưa lụa cho họ để họ quét lấy. Những thuốc pha màu ấy, chúng ta phải nghiền nhỏ lọc sạch. Như thế vừa chơi vừa dùng, cô có thể dùng trọn đời cũng đủ. Lại phải lấy vợt lụa mau bốn cái, vợt lụa thưa hai cái; gác bút bốn cái, bát nghiền to nhỏ bốn cái, bát sành lớn hai mươi cái, đĩa to năm tấc mười cái đĩa sành trắng hai mươi cái, lò hai cái, nồi đất lớn nhỏ bốn cái, vại mới hai cái, thùng đựng nước mới hai cái, túi vải trắng dài một thước bốn cái, than xốp hai mươi cân, than gỗ liễu vài cân, hòm ba ngăn một cái, lụa dày một trượng, gừng sống hai lạng, tương nửa cân.
Đại Ngọc cười nói:
- Chảo một cái, bàn sản một cái.
Bảo Thoa nói:
- Để làm gì?
- Chị bảo cần có gừng sống và tương thì tôi bảo lấy chảo hộ chị để nấu những thứ màu ấy mà ăn.
Mọi người đấu cười ầm lên. Bảo Thoa cười nói:
- Cô thì biết cái gì? Những cái đĩa sành ấy không chịu được lửa, nếu không lấy nước gừng và tương xát dưới đáy trước mà đem đốt, gặp lửa một cái là nó nổ ngay.
Mọi người đều nói: “Phải đấy”.
Đại Ngọc xem đơn một lượt, kéo Thám Xuân khẽ nói:
- Cô xem vẽ một bức vẽ mà phải dùng đến vại và hòm, thực là lẩn thẩn. Chắc cái đơn này sắm cả đồ cưới của cô ấy đấy.
Thám Xuân không nhịn cười được, nói:
- Chị Bảo sao không véo mồm nó một cái? Nó đang đặt chuyện để chế giễu chị đấy.
Bảo Thoa cười nói:
- Không phải hỏi, mồm chó làm gì có ngà voi?
Vừa nói, vừa chạy đến vật Đại Ngọc xuống giường, định véo vào mặt. Đại Ngọc cười rồi van lạy:
- Chị ơi, tha cho em! Em trẻ người non dạ, nói không biết cân nhắc, làm chị thì phải dạy bảo em chứ? Chị không tha cho em thì em còn cầu cứu ai được nữa?
Mọi người không biết câu nói có ý, đều cười nói:
- Câu nói đáng thương thực! Ngay chúng tôi cũng động lòng, thôi tha cho nó.
Bảo Thoa nguyên chỉ định đùa Đại Ngọc thôi, nhưng sau nghe Đại Ngọc nhắc lại câu chuyện lần trước về việc xem sách nhảm, nên không tiện đùa nữa, liền buông ra. Đại Ngọc cười nói:
- Đấy là chị đấy, chứ phải em thì em không tha đâu!
Bảo Thoa cười, trỏ Đại Ngọc nói:
- Không trách cụ thương cô, mọi người yêu cô tinh lanh, ngay tôi cũng phải thương cô. Đến đây tôi sửa lại tóc cho.
Đại Ngọc quay người lại, Bảo Thoa lấy tay sửa hộ tóc. Bảo Ngọc ngồi ở bên cạnh nhìn, thấy càng đẹp, bất giác hối hận: “Không nên để Bảo Thoa vuốt tóc cho Đại Ngọc, cứ để thế rồi mình đến vuốt ve cho thì hơn”. Đương nghĩ vớ vẩn, thấy Bảo Thoa nói:
- Viết xong rồi, ngày mai vào trình cụ. Thứ gì trong nhà có rồi thì thôi, thứ gì chưa có, xin tiền đi mua, tôi sẽ pha hộ.
Bảo Ngọc vội cất đơn đi. Mọi người lại nói phiếm một lúc nữa, sau bữa cơm chiều lại đến buồng Giả mẫu hỏi thăm. Giả mẫu nguyên không có bệnh gì, chỉ vì mệt, lại hơi cảm một tí, nghỉ ngơi một ngày, uống một vài chén thuốc phát tán, đến chiều lại khỏe như thường.
--------------------------
(1). Nguyên văn là “Khả xảo”, già Lưu nghe vậy mới đặt tên là “Xảo Thư”.
(2). Khi Uyên Ương đọc “tửu lệnh”, Đại Ngọc theo lệnh hai câu thơ lấy trong “Mẫu đơn đình” và “Tây Sương ký”: “Ngày vui cảnh đẹp tự giời biết sao” và “song the nào thầy ả Hồng báo tin” (xem hồi 40).
(3). Bức tranh vẽ mang con cào cào đi cắn.
Hồi thứ bốn mươi ba
Ngồi rỗi bày trò, góp tiền ăn sinh nhật
Mối tình không dứt, vốc đất viếng oan hồn
Vương phu nhân thấy Giả mẫu hôm ấy ở vườn Đại Quan chỉ bị cảm xoàng, không đến nỗi nặng, mời thầy thuốc uống vài thang là khỏi, nên mới bảo Phượng Thư sắp sửa đồ vật gửi cho Giả Chính. Đương khi bàn bạc thì Giả mẫu cho người lại gọi, Vương phu nhân dẫn Phượng Thư đến, hỏi:
- Hôm nay cụ đã khoan khoái hẳn chưa?
- Khá lắm rồi. Vừa rồi chị đưa sang bát canh thịt gà rừng tôi nếm thấy ngon, lại ăn vài miếng thịt, trong bụng dễ chịu.
Vương phu nhân cười nói:
- Đó là canh chị Phượng nấu dâng cụ đấy. Chị ấy thành tâm hiếu thảo, không uổng công cụ ngày thường thương yêu chị ấy.
Giả mẫu gật đầu cười nói:
- Đáng khen nó có lòng nghĩ đến ta. Nếu còn thịt sống, mang rán vài miếng rồi ướp muối, ăn với cháo thì ngon hơn. Canh ấy ngon thực, nhưng không hợp vị với cháo.
Phượng Thư nghe nói, sai người đến bảo nhà bếp. Giả mẫu lại cười bảo Vương phu nhân:
- Ta sai người gọi chị đến, nói chuyện. Đến ngày mồng hai này là sinh nhật của cháu Phượng. Hai năm trước ta vẫn muốn làm sinh nhật cho nó, nhưng cứ gần đến ngày lại bận việc, rồi quên khuấy đi. Năm nay con cháu đầy đủ chắc cũng rỗi việc, chúng ta nên làm một bữa tiệc cho vui.
Vương phu nhân cười nói:
- Con cũng nghĩ thế. Giờ cụ đã cao hứng thì nên bàn sẵn việc ấy đi.
- Ta nhớ mấy năm trước không cứ sinh nhật của cháu nào, đều đem lễ vật đến mừng, như thế vừa tục, mà tình lại thêm sơ. Ta nghĩ một cách mới, vừa thân mật lại vui hơn.
- Cụ thấy nên làm thế nào thì làm.
- Nay chúng ta học lối nhà thường dân, mỗi người góp phần mình vào, được bao nhiêu tiền lấy cả ra sửa tiệc, như thế có được không?
- Tốt lắm. Nhưng không biết góp thế nào cho phải?
Giả mẫu nghe nói, rất vui, liền sai người mời Tiết phu nhân, Hình phu nhân, các cô, Bảo Ngọc, Vưu Thị, vợ Lại Đại và những người quản sự đến. Bọn a hoàn, bà già thấy Giả mẫu rất cao hứng, cũng đều vui mừng, vội chia nhau đi mời, đi báo tin các nơi.
Một lúc, già trẻ, trên dưới đến chật ních cả nhà. Tiết phu nhân ngồi đối diện với Giả mẫu; Hình phu nhân và Vương phu nhân ngồi hai cái ghế trước cửa buồng; chị em Bảo Thoa năm sáu người ngồi cả trên bục; Bảo Ngọc ngồi vào lòng Giả mẫu; còn những người khác đều đứng đầy cả nhà. Giả mẫu vội bảo mang mấy cái ghế nhỏ lại cho mẹ Lại Đại và mấy bà già có thể diện ngồi. Theo tục lệ phủ Giả, những người hầu bố mẹ mà đã có tuổi, thì có thể diện hơn những người chủ còn trẻ tuổi. Vì thế Vưu Thị, Phượng Thư phải đứng. Mẹ Lại Đại và ba bốn người già xin lỗi rồi ngồi xuống ghế. Giả mẫu cười kể lại câu chuyện lúc nãy cho mọi người biết. Nghe vậy, ai chẳng muốn góp vui? Những người thân với Phượng Thư thì bằng lòng, cũng có người lại muốn chiều chuộng Phượng Thư. Vả chăng họ đều là những người có thể bỏ tiền được, nên vừa nghe thấy, ai nấy đều vui vẻ vâng lời.
Giả mẫu nói trước:
- Ta bỏ ra hai mươi lạng.
Tiết phu nhân cười nói:
- Tôi cũng theo cụ, xin bỏ hai mươi lạng.
Hình phu nhân, Vương phu nhân cười nói:
- Chúng con không dám sánh với cụ, xin kém một bực, mỗi người góp mười sáu lạng thôi.
Vưu Thị và Lý Hoàn cũng cười nói:
- Chúng cháu thế nào cũng phải kém một bực, mỗi người xin góp mười hai lạng.
Giả mẫu liền bảo Lý Hoàn:
- Cháu là đàn bà góa không làm gì, lấy tiền đâu ra mà góp. Thôi ta góp hộ cho.
Phượng Thư vội cười nói:
- Xin cụ đừng cao hứng quá, nên tính kỹ đã rồi hãy chuốc lấy việc. Một mình cụ đã phải nhận hai phần, bây giờ lại góp cho chị Lý. Lúc cao hứng cụ nói thế, chốc nữa nghĩ xót ruột lại lẩm bẩm: chỉ vì con Phượng mà ta phải tốn kém. Rồi ngon ngọt dỗ dành cháu phải bù ngấm bù ngầm ba bốn lần tiền vào đó. Cháu có phải mơ ngủ đâu!
Mọi người nghe nói cười ầm lên.
Giả mẫu cười nói:
- Cứ như ý cháu thì làm thế nào?
Phượng Thư cười nói:
- Chưa đến ngày sinh nhật, cháu đã thấy khó chịu rồi. Tự mình chẳng bỏ ra lấy một đồng, mọi người phải lo lắng hộ, như thế cháu chẳng đành lòng tí nào. Chi bằng để cháu góp hộ phần cho chị Lý. Đến hôm ấy cháu ăn thêm mấy miếng nữa, thế là sung sướng lắm rồi.
Bọn Hình phu nhân đều cho là phải, Giả mẫu mới nghe lời.
Phượng Thư lại cười nói:
- Cháu còn muốn nói một câu này nữa; riêng phần cụ đã hai mươi lạng, lại còn phải góp phần cho cô Lâm và chú Bảo; phần dì Tiết đã hai mươi lạng, lại phải góp cho cô Bảo, như thế là công bằng. Còn hai mẹ, mỗi vị có mười sáu lạng, phần mình đã ít lại không hề góp cho ai, như thế chẳng công bằng tý nào. Cụ chịu thiệt nhiều quá!
Giả mẫu cười ầm lên, nói:
- Cháu Phượng lúc nào cũng về hùa với ta. Nó nói rất phải. Nếu không có cháu thì ta bị bọn họ lừa rồi!
Phượng Thư cười nói:
- Xin cụ cứ bắt hai mẹ phải nhận phần của hai người kia, mỗi vị góp thêm một phần là đúng.
Giả mẫu nói:
- Công bằng lắm, cứ nên làm như thế.
Mẹ Lại Đại đứng dậy cười nói:
- Như thế là không đúng! Tôi tức thay cho hai bà. Một bên là nàng dâu, một bên là cháu gái nội, mà không về hùa với mẹ chồng và bà cô(1), lại đi bênh người khác, như thế là nàng dâu cũng như người ngoài, cháu nội thành ra cháu gái ngoại mất!
Giả mẫu và mọi người nghe nói cười ầm lên.
Mẹ Lại Đại lại hỏi:
- Các mợ góp mười hai lạng thì chúng tôi phải kém đi một bực chứ?
Giả mẫu nói:
- Không được, các bà tuy đáng kém một bực, nhưng tôi biết các bà đều là tài chủ cả. Địa vị tuy kém, nhưng tiền thì lại nhiều hơn họ. Các bà nên đóng bằng họ mới phải.
Giả mẫu lại nói:
- Còn các cô, chằng qua góp tý thôi, mỗi người góp một tháng lương là đủ.
Lại quay lại bảo Uyên Ương:
- Bọn chúng bay họp nhau lại bàn việc góp tiền đi.
Uyên Ương vâng lời, đi một lúc rồi dắt Bình Nhi, Tập Nhân, Thái Hà đến, lại còn mấy a hoàn nữa, người hai lạng, kẻ một lạng, ai nấy đều góp cả.
Giả mẫu hỏi Bình Nhi:
- Không nhẽ mày không làm sinh nhật cho chủ mày à? Sao lại góp vào đám này?
- Cháu làm riêng không kể, đây là việc công, cháu cũng xin góp một phần.
- Con bé này thế mới ngoan chứ.
Phượng Thư lại cười nói:
- Trên dưới góp đủ rồi. Còn hai bà dì, có đóng hay không, cũng nên hỏi một lời cho phải lẽ, nếu không các bà lại cho là khinh.
Giả mẫu nói:
- Phải đấy! Quên họ thế nào được? Chỉ sợ họ không được rỗi, bảo một đứa a hoàn đến hỏi xem.
A hoàn đi một lúc về trình: “Mỗi vị xin góp hai lạng."
Giả mẫu vui cười nói:
- Mang bút giấy lại đây, tính xem được bao nhiêu.
Vưu thị khẽ mắng Phượng Thư:
- Con ranh con tham quá! Các bà các thím góp tiền lại làm sinh nhật cho mày, còn chưa đủ à? Sao mày kéo cả hai người nghèo xác này vào!
Phượng Thư khẽ cười nói:
- Đừng có nói bậy! Chốc nữa ra ngoài tôi sẽ kể tội cho chị! Họ làm gì mà khổ? Họ có tiền đem cho người khác cũng uổng, chi bằng giữ lại để chúng ta cùng vui.
Số tiền đã góp đầy đủ cộng lại được hơn một trăm năm mươi lạng.
Giả mẫu nói:
- Làm tiệc vui một ngày không hết đâu.
Vưu Thị nói:
- Không mời khách ngoài, tiệc rượu lại không tốn mấy, món tiền này tiêu làm ba ngày cũng đủ. Trước hết, hát không phải mất tiền, đỡ được món ấy.
Giả mẫu nói:
- Cháu Phượng xem bọn nào hát hay thì gọi!
Phượng Thư nói:
- Bọn hát ở nhà, chúng ta đã nghe chán rồi. Bây giờ chịu tốn ít tiền, gọi bọn khác đến hát.
Giả mẫu nói:
- Việc này ta giao cho vợ cháu Trân, đừng để cho cháu Phượng phải lo nghĩ đến, cho nó nghỉ một ngày mới phải.
Vưu thị vâng lời, nói chuyện một lúc, ai cũng biết Giả mẫu mệt, liền dần dần ra về.
Vưu Thị đưa Hình phu nhân, Vương phu nhân ra, rồi đến đằng Phượng Thư bàn việc làm sinh nhật, Phượng Thư nói:
- Chị không cần hỏi tôi, chỉ theo ý cụ mà làm là đủ.
- Cái con ranh này, mày tốt số quá! Tao tưởng có việc gì kia! Thành ra gọi chúng tao đến chỉ có việc ấy thôi. Góp tiền chưa đủ, lại còn phải lo liệu các cái nữa. Mày định tạ tao cái gì nào?
- Chị đừng giở trò nữa! Tôi có gọi chị đến đâu mà phải tạ! Nếu chị sợ phải lo thì vào trình với cụ sai người khác cũng được.
- Xem kìa, nó vênh cái mặt lên thế đấy! Tao bảo cho mày hay, hãy dẹp cái lối ấy đi. Nước đầy thì trào đấy!
Hai người lại nói chuyện một lúc nữa, Vưu Thị mới ra về.
Hôm sau, Vưu Thị vừa mới dậy rửa mặt, chải đầu, đã thấy có người mang tiền đến phủ Ninh, Vưu Thị hỏi:
- Ai mang tiền đến đấy?
- Già Lâm đấy.
- Gọi bà ấy vào.
Bọn a hoàn xuống buồng dưới gọi vợ Lâm Chi Hiếu lên.
Vưu Thị mời ngồi xuống ghế thấp, rồi vừa chải đầu vừa hỏi:
- Trong gói ấy có bao nhiêu tiền đấy?
- Tiền này là của bọn chúng tôi góp lại mang đến trước. Còn cụ và các bà chưa góp.
Đương nói thì bọn a hoàn đến trình:
- Bên bà Cả và Tiết phu nhân cho người mang phần tiền đến.
Vưu Thị cười mắng:
- Bọn ranh con này! Chỉ nhớ nhưng việc không đâu ấy thôi! Chẳng qua hôm qua cụ cao hứng, cố ý học cách nhà thường dân góp tiền, thế mà chúng mày cứ nhớ mãi, cho là việc to tát, sao không nhận lấy, mời họ uống nước trà rồi cho họ về.
Bọn a hoàn cười rồi mang tiền vào. Tất cả là hai gói, có cả phần tiền của Đại Ngọc và Bảo Thoa.
Vưu Thị hỏi:
- Còn thiếu ai nữa?
Vợ Lâm Chí Hiếu nói:
- Còn thiếu cụ, bà Hai, các cô và bọn chị em chúng tôi.
- Còn của mợ Cả các chị đâu?
- Mợ qua bên nhà, số tiền ấy mợ Hai đã cầm cả rồi.
Vưu Thị rửa mặt chải đầu xong, sai người kéo xe đến phủ Vinh. Trước hết đến buồng Phượng Thư. Thấy Phượng Thư đã gói tiền cẩn thận, đương định đưa sang. Vưu Thị hỏi:
- Đã đủ cả chưa?
- Đủ rồi! Cầm đi, mất thì tôi không chịu lỗi đâu!
- Tao không tin, phải đếm ngay ở đây.
Vưu Thị đếm lại, thấy không có phần Lý Hoàn, cười nói:
- Mày lại định giở trò ma đấy! Sao không thấy phần chị Cả mày?
- Như thế không đủ à? Thiếu một phần cũng được, nếu không đủ tôi sẽ đưa sau.
- Hôm qua mày làm bộ trước mặt mọi người, bây giờ lại chối với tao, tao không nghe đâu. Tao cứ đến hỏi cụ.
- Chị ghê gớm lắm! Hễ sau này có việc gì tôi cứ làm cho rõ môn rõ khoai, lúc ấy chị đừng có trách.
- Thôi phần ấy không đưa cũng được. Nếu ngày thường mày không tử tế với tao, khi nào tao chịu nghe?
Nói xong, lấy phần Bình Nhi ra, và bảo:
- Bình Nhi! Lại lấy phần của mày về, hễ không đủ tao sẽ bù cho.
Bình Nhi hiểu ý, cười nói:
- Xin mợ hãy cứ tiêu đi, nếu thừa sẽ đưa lại cháu cũng được.
- Thế ra chỉ để cho chủ mày làm bậy, chứ không cho tao được làm ơn hay sao?
Bình Nhi đành phải nhận lấy tiền.
Vưu Thị lại nói:
- Tao xem chủ mày thật là khôn khéo! Vớ món tiền này định tiêu vào việc gì? Tiêu không hết sau này bỏ vào quan tài mà mang chôn à!
Nói xong, đi đến buồng Giả mẫu, hỏi thăm và nói mấy câu chuyện phiếm rồi đến buồng Uyên Ương bàn công việc. Vưu Thị nhất thiết đều theo ý Uyên Ương, cốt làm thế nào cho Giả mẫu vui lòng là được. Hai người bàn định xong xuôi. Khi trở về Vưu Thị lấy hai lạng bạc giả lại cho Uyên Ương, và nói: “Tiêu không hết đâu."
Nói xong, đi đến buồng Vương phu nhân nói chuyện. Nhân lúc Vương phu nhân đi vào Phật đường, Vưu Thị giả lại phần tiền cho Thái Vân. Vì Phượng Thư không ở đấy, nên Vưu Thị giả cả hai phần tiền cho dì Chu và dì Triệu nữa. Họ không dám nhận. Vưu Thị nói:
- Đáng thương các dì quá, làm gì có tiền mà góp? Nếu thím Phượng biết thì tôi nhận cho.
Hai người cám ơn rối rít rồi nhận lấy món tiền.
Chả mấy lúc đã đến ngày mồng hai tháng chín. Người trong vườn đều nghe nói Vưu Thị bày biện linh đình lắm, không những có tuồng, còn có cả các trò chơi và cô gái mù kể chuyện nữa, nên ai đấy đều sắp sẵn đến xem để góp vui, Lý Hoàn lại bảo các chị em:
- Hôm nay là ngày họp thi xã, đừng ai quên đấy. Bảo Ngọc không thấy đến, chắc là không biết, hay lại ham chơi ở đâu mà quên hẳn việc này?
Nói xong, liền bảo a hoàn đi xem Bảo Ngọc làm gì, mời ngay lại đây. A hoàn đi một lúc về nói:
- Tập Nhân nói là cậu ấy đi từ sáng sớm rồi:
Mọi người đều lấy làm lạ, nói:
- Không lẽ cậu ấy lại đi vắng. Con a hoàn này lẩn thẩn lắm.
Rồi lại sai Thúy Mặc đi. Một lúc Thúy Mặc về, nói:
- Cậu ấy đi vắng thật. Nghe nói có người bạn nào chết, cậu ấy đi viếng tang đấy.
Thám Xuân nói:
- Nhất định không đúng. Dầu sao hôm nay anh ấy cũng không thể đi đâu được. Mày gọi Tập Nhân đến đây để tao hỏi.
Vừa nói xong, Tập Nhân đến, bọn Lý Hoàn đều nói:
- Dù hôm nay có việc gì, chú ấy cũng không nên ra khỏi nhà: một là ngày sinh nhật thím Hai, cụ rất cao hứng, mọi người trong hai phủ đều góp vui, thế mà chú ấy lại đi à? Hai là, hôm nay là ngày chính thi xã đầu tiên, chú ấy không xin phép lại dám tự tiện lẻn đi?
Tập Nhân thở dài nói:
- Chiều hôm qua cậu ấy nói sớm hôm nay có việc cần phải đến phủ Bắc Tĩnh vương, rồi về ngay. Tôi có khuyên cậu ấy đừng đi, cậu ấy nhất định không nghe. Sớm dậy, cậu ấy mặc quần áo trắng đi ra, chắc là trong phủ Bắc Tĩnh vương có người hầu nào mất, cũng chưa biết chừng.
Bọn Lý Hoàn nói:
- Nếu quả thực thế, chú ấy cũng nên đi, nhưng phải về ngay chứ.
Nói xong, mọi người lại bàn định: “Chúng ta cứ làm thơ trước đi, khi anh ấy về sẽ phạt." Vừa lúc ấy, Giả mẫu sai người lại mời. Mọi người rủ nhau đến, Tập Nhân trình việc Bảo Ngọc đi vắng. Giả mẫu không vui, sai người đi đón.
Nguyên là Bảo Ngọc có một tâm sự riêng, hôm trước đã dặn Dính Yên:
- Ngày mai ta phải đi sớm, mày sắp hai con ngựa ở cửa sau chờ đấy, không cần người đi theo nữa. Mày bảo cả Lý Quý biết là ta sang phủ Bắc Tĩnh vương. Nếu có ai đi tìm, bảo nó ngăn lại, không cần phải đi, cứ nói rằng phủ Bắc Tĩnh vương mời ta ở lại, thế nào ta cũng về ngay.
Dính Yên không hiểu đầu đuôi làm sao, đành phải vâng lời, sắp hai con ngựa từ sớm, chờ ở cửa sau vườn, Khi trời sáng, Bảo Ngọc mặc thuần đồ trắng từ cửa bên đi ra, không nói một lời, lên ngựa, cúi lưng phóng thẳng theo đường phố. Dính Yên đành cũng lên ngựa quất roi đi theo sau, rồi hỏi:
- Cậu đi đâu đấy?
- Đường này đi đâu?
- Đây là đường ra cửa bắc, đi đường này vắng lắm, chẳng có gì vui đâu.
- Chính ta muốn đến chỗ thanh vắng.
Nói xong, Bảo Ngọc cùng ra roi. Ngựa đã ngoặt qua hai quãng đường vòng, ra khỏi cửa thành.
Dính Yên càng ngơ ngác, đành cứ theo riết, đi một mạch đến bảy, tám dặm đường. Chỗ này người ở thưa thớt. Bảo Ngọc mới dừng ngựa, quay lại hỏi Dính Yên:
- Ở đây có bán hương không?
- Có, nhưng không biết cậu cần dùng thứ gì?
Bảo Ngọc nghĩ một lúc rồi nói:
- Thứ hương khác không tốt, phải có thứ đàn hương, vân hương, giáng hương mới được.
- Ba thứ hương này khó tìm lắm.
Bảo Ngọc có ý băn khoăn. Dính Yên thấy thế, liền hỏi:
- Cậu cần hương để làm gì? Cháu thấy cậu thường đeo hương tán sẵn ở trong túi, sao không lấy ra mà dùng?
Bảo Ngọc nhớ ra, đưa tay sờ vào cái túi đeo trong áo, thấy hai thỏi nằng nặng, mừng quá, nhưng lại sợ không được thành kính. Suy nghĩ: “Hương đeo trong mình còn tốt hơn là hương mua ở ngoài”. Rồi lại hỏi đến lư hương. Dính Yên nói:
- Thôi đi, ở nơi đồng không mông quạnh này làm gì có lư? Muốn dùng lư sao cậu không bảo trước để cháu mang sẵn ở nhà đi có được không?
- Đồ gà mờ! Nếu mang được ở nhà đi thì chả phải chạy mửa mật như thế này.
Dính Yên nghĩ một lúc cười nói:
- Cháu nghĩ ra rồi, không biết bụng cậu thế nào. Cháu tưởng không những cậu cần cái ấy, mà còn cần cái khác nữa. Ở đây chắc không sẵn. Bây giờ chúng ta chịu khó đi đến am Thủy Tiên, chừng hai dặm thôi.
- Am Thủy Tiên ở đây à? Tốt lắm! Chúng ta đi đi.
Bảo Ngọc ra roi chạy trước, ngoảnh lại bảo Dính Yên:
- Sư cô ở am Thủy Tiên thường lui tới nhà ta, giờ đến đấy mượn cái lư hương chắc người cũng bằng lòng.
- Không cứ là nhà ta thường đến lễ ở đó mà ngay những chùa chúng ta không quen biết, họ cũng chẳng dám từ chối. Chỉ có một điều: cậu xưa nay vẫn ghét am Thủy Tiên, thế mà tại sao bây giờ thấy nói đến đấy, cậu lại vui mừng thế?
- Ngày thường ta rất ghét người đời không hiểu gì cả, bạ thần nào cũng cúng, miếu nào cũng xây. Đó đều là các cụ hoặc các bà ngày trước có tiền mà ngu xuẩn, hễ thấy nói có thần là xây miếu thờ ngay. Trong dã sử hay tiểu thuyết nói gì thì họ cho là có thực, chứ chẳng biết thần ấy là người nào. Ví như trong am Thủy Tiên thờ Lạc Thần(2), nên gọi là am Thủy Tiên, chứ làm gì có vị Lạc Thần. Đó là lời của Tào Tử Kiến bịa đặt ra, ai ngờ bọn ngu xuẩn lại đắp tượng để thờ. Giờ nhân tiện hợp với ý muốn của ta, nên đến đấy mượn để dùng thôi.
Nói xong hai người đã đến cửa am. Sư già thấy Bảo Ngọc đến bất ngờ, mừng quá như thấy rồng trên trời rơi xuống, liền chạy lại chào, rồi sai bà vãi đến giữ ngựa. Bảo Ngọc vào am, không lạy tượng Lạc Thần, chỉ đứng ngắm nhìn thôi. Tuy là tượng đất, nhưng cũng có cái dáng bay vút như chim hồng kinh, sợ uốn lượn như con rồng lẩn khúc, hoa sen mọc trên sóng biếc, mặt trời chiếu ráng sớm mai. Bảo Ngọc tự nhiên nước mắt nhỏ xuống.
Sư già mời vào uống nước, Bảo Ngọc mượn cái lư để đốt hương. Sư già đi một lúc, sắp cả hương và ngựa giấy mang đến. Bảo Ngọc nói:
- Các thứ tôi không dùng, chỉ dùng lư hương thôi.
Liền sai Dính Yên mang lư hương ra vườn sau, tìm một chỗ sạch sẽ, nhưng không được. Dính Yên hỏi:
- Trên bờ giếng kia có được không?
Bảo Ngọc gật đầu, cùng đi đến đó, đặt lư hương xuống. Dính Yên đứng sang một bên, Bảo Ngọc lấy hương ra đất, rơm rớm nước mắt, vái một cái rồi quay lại bảo cất đi. Dính Yên vâng lời, nhưng chưa cất, liền cúi đầu lễ mấy lễ và khấn:
- Tôi là Dính Yên đã hầu cận cậu Hai mấy năm nay, chỉ có ngày hôm nay đi lễ, cậu ấy không bảo gì tôi, mà tôi cũng không dám hỏi. Tuy tôi không biết tên tuổi vị âm hồn được tế này là gì, nhưng chắc là một vị chị em, vào bậc thông minh thanh nhã, có một không hai ở trên đời này. Tâm sự cậu Hai không nói ra được, vậy tôi xin khấn thay: cậu Hai tôi tưởng nhớ người như thế này, nếu người có linh thiêng, nên thường thường đến thăm nom cậu Hai tôi. Người ở cõi âm, phù hộ cho cậu Hai tôi kiếp sau sinh làm con gái, để cùng chị em các người vui đùa một nơi, không còn là hạng mày râu nhơ bẩn nữa.
Khấn xong, Dính Yên lạy mấy lạy rồi bò dậy.
Bảo Ngọc chưa nghe nó khấn hết, đã không nhịn được cười liền đá nó một cái và nói:
- Đừng nói bậy, người ta biết lại cười cho đấy!
Dính Yên đứng dậy, mang lư hương, cùng đi với Bảo Ngọc rồi nói:
- Cháu đã nói với nhà sư là cậu chưa ăn sáng, bảo họ tiện thể dọn mấy thứ, cậu chịu khó ăn tạm một ít. Cháu biết hôm nay ở nhà bày tiệc to, vui nhộn lắm, vì thế cậu mới lánh đến đây. Ở đây yên tĩnh một ngày cũng đủ vui rồi. Nếu cậukhông ăn thì không thể chịu được đâu.
- Không uống rượu vui, nghe hát, ở đây tuỳ tiện ăn một ít cũng chẳng sao.
- Thế mới phải. Nhưng cháu xin nói điều này: chúng ta đi đến đây, ở nhà tất có người không yên tâm. Nếu không, đến chiều về cũng chẳng sao. Nhưng vì có người không yên tâm, thì cậu nên về nhà ngay mới phải. Một là để cụ và bà Hai yên lòng, hai là lễ ở đây đã xong rồi, chẳng qua chỉ có thế thôi. Về nhà nghe hát uống rượu, dù không phải là ý muốn của cậu, nhưng cũng để hầu cha mẹ cho trọn đạo hiếu. Nếu chỉ vì việc lễ này, cậu không nghĩ đến cụ và bà đương mong đợi, thì âm hồn nào nhận lễ của cậu cũng không an tâm. Cậu nghe xem cháu nói thế có phải không?
Bảo Ngọc cười nói:
- Ta đoán được ý mày rồi, chắc mày nghĩ rằng chỉ có một mình mày đi theo ta thôi. Khi về mày sợ bị lỗi, nên giở những điều to lớn ra khuyên ta. Ta đến đây chỉ cốt làm lễ xong sẽ về uống rượu nghe hát, chứ không phải bỏ đi suốt ngày. Giờ đã thoả được ý muốn rồi, nên về nhà mau để cho mọi người yên tâm.
- Thế phải lắm.
Hai người vào đến chùa, nhà sư đã dọn lên một mâm cơm chay.
Bảo Ngọc ăn qua loa một ít. Dính Yên cũng ăn. Xong rồi hai người lên ngựa theo đường cũ về nhà. Dính Yên ở đằng sau dặn:
- Cậu đi ngựa cẩn thận đấy. Con ngựa này không quen cưỡi mấy, phải cầm cương cho chặt.
Hai người về đến thành, vẫn theo cửa sau vội đi về viện Di Hồng. Bọn Tập Nhân đi vắng, chỉ có mấy bà già trông nhà, thấy Bảo Ngọc về, đều mừng rỡ, nói:
- A di đà phật! Cậu về rồi! Tý nữa thì chị Tập Nhân điên mất! Ở trên ấy đương uống rượu đấy, cậu lên ngay đi.
Bảo Ngọc nghe nói, vội cởi quần áo trắng ra, mặc quần áo đẹp, hỏi:
- Tiệc bày ở đâu?
- Ở nhà hoa lơn mới dựng.
Bảo Ngọc chạy vội đến nhà hoa, đã văng vẳng nghe thấy tiếng đàn sáo ca hát. Vừa đến bên nhà trống, thấy Ngọc Xuyến ngồi một mình ở dưới thềm sùi sụt khóc. Thấy Bảo Ngọc đến, Ngọc Xuyến thở dài một cái, chép miệng nói:
- Úi chà! Phượng hoàng đã đến rồi! Đi vào ngay đi! Chốc nữa không về có lẽ cả nhà nhao lên đấy.
Bảo Ngọc cười nói:
- Chị thử đoán xem tôi đi đâu nào?
Ngọc Xuyến quay đi, chỉ lau nước mắt thôi. Bảo Ngọc rầu rầu đi lên nhà hoa chảo Giả mẫu và Vương phu nhân. Mọi người mừng rỡ như được thấy chim phượng hoàng.
Bảo Ngọc vội đến chúc mừng Phượng Thư. Giả mẫu và Vương phu nhân đều nói:
- Em mày chả biết hay dở gì cả. Có việc cần, sao không nói trước mà lại lẻn đi? Thế còn ra làm sao nữa! Lần sau còn thế thì chờ bố mày về, ta sẽ mách nó đánh cho.
Giả mẫu lại mắng người hầu:
- Tại sao chúng mày cứ nghe lời nó? Nó bảo đi đâu cứ cúi đầu mà đi, không trình qua một tiếng?
Rồi lại hỏi Bảo Ngọc:
- Cháu đi đâu về đấy? Đã ăn uống gì chưa? Có bị sợ gì không?
- Người nàng hầu của Bắc Tĩnh vương Chết, hôm nay cháu đến chia buồn. Cháu thấy đức vương khóc nhiều quá, không tiện bỏ về ngay, vì thế phải ngồi lại một lúc.
- Từ nay cháu còn lẻn đi như thế, không trình ta trước, nhất định ta bảo bố mày đánh cho!
Bảo Ngọc vâng lời. Giả mẫu lại muốn đánh người đi hầu, nhưng mọi người khuyên:
- Xin cụ bớt giận, cậu ấy đã hứa xin chữa. Vả chăng cậu ấy đi về không xảy ra chuyện gì, cả nhà cũng nên yên lòng để vui một lúc.
Lúc đầu, Giả mẫu còn nóng ruột, giờ thấy Bảo Ngọc về vui quá, hết cả giận, nên việc công bỏ qua. Giả mẫu lại sợ Bảo Ngọc khó chịu, hoặc chưa ăn uống, hay đi đường bị sợ hãi, nên tìm hết cách dỗ dành. Tập Nhân cũng chạy đến phục dịch. Mọi người lại ra xem hát.
Hôm đó diễn vở Kinh thoa ký(3), Giả mẫu và Tiết phu nhân đều mủi lòng rơi lệ, có người cười, người giận, lại có người mắng nữa.
-----------------------------
(1). Tức Vương phu nhân.
(2). Lạc Thần tên là Bật Phi, tương truyền là con gái họ Nhân. Khi Tào Tháo đánh Viên Thiệu, bắt được NhânThị mang về. Tào Thực xin không cho, đem cho con trưởng là Tào Phi. Tào Phi lập Nhân Thị làm hoàng hậu, sau có tội bị chết. Tào Thực nhớ Nhân Thị quá khi đến bến Lạc Thủy thấy Nhân Thị hiện ra. Thào Thực vui mừng làm bài Lạc Thần Phú.
(3). Tích vợ Vương Thạch Bằng là Tiến Ngọc Liên nghe đồn chồng lấy vợ lẽ, đâm đầu xuống sông tự tử, nhưng lại có người cứu. Vương Thạch Bằng cũng nghe đồn vợ đã chết rồi liền đặt một bàn tế.
Hồi thứ bốn mươi bốn
Chuyện xảy bất ngờ, Phượng Thư đâm ghen
Mừng ngoài tưởng tượng, Bình Nhi trang điểm
Bảo Ngọc cùng chị em đang ngồi xem diễn vở Kinh thoa ký, Đại Ngọc xem đến hồi “Người chồng ra tế vợ", liền bảo Bảo Thoa:
- Vương Thập Bằng không thông một tí nào. Tế chỗ nào chẳng được, lại cứ phải ra tận bờ sông? Tục ngữ nói: “Trông thấy vật lại nhớ đến người”, nước ở khắp mặt đất đều do một nguồn mà ra, múc một bát nước ở nơi nào cũng được, rồi nhìn vào đấy mà khóc, thế cũng đã hết lòng với người khuất rồi.
Bảo Thoa không trả lời, Bảo Ngọc nghe xong lại ngẩn người ra.
Giả mẫu nghĩ bụng: “Hôm nay khác mọi ngày, phải làm thế nào cho cháu Phượng vui suốt ngày mới được”. Nhưng vì người mệt, Giả mẫu đành chỉ ngồi ngả ở trên giường cùng Tiết phu nhân xem hát, muốn ăn gì thì chọn mấy thứ bày ở trên kỷ, vừa ăn vừa nói chuyện. Còn hai bàn rượu của mình thì đem thưởng cho bọn a hoàn và nhưng người đàn bà đứng hầu không có cỗ ăn, bảo họ mang ra thềm trước cửa sổ mà ngồi, muốn gì tùy ý, không cần phải câu nệ lễ phép. Vương phu nhân và Hình phu nhân ngồi trước cái bàn cao kê ở dưới. Các chị em ngồi ở mấy bàn rượu bên ngoài. Giả mẫu thỉnh thoảng dặn bọn Vưu Thị:
- Mời cháu Phượng ngồi vào ghế trên, rồi các chị thay ta tiếp nó, để bõ công nó vất vả quanh năm.
Vưu Thị vâng lời, cười nói:
- Thím ấy nói không quen ngồi cỗ trên, gò bó ngượng nghịu lắm. Ngay rượu cũng chẳng chịu uống.
Giả mẫu cười nói:
- Cháu không biết mời, để bà ra mời nó vậy.
Phượng Thư vội chạy lại cười nói:
- Xin bà đừng nghe chị ấy, cháu đã uống những mấy chén rồi.
Giả mẫu cười, sai bọn Vưu Thị:
- Kéo nó ra, ấn nó xuống ghế, các người phải thay nhau mời rượu, nếu nó vẫn không chịu uống, ta sẽ thân hành đến mời mới được.
Bọn Vưu Thị cười, rồi kéo Phượng Thư ngồi xuống, sai người lấy chén rót rượn, nói:
- Đầu năm chí cuối, thím hết lòng chiều chuộng cụ, bà Hai và chúng tôi. Tôi chẳng có gì đáp lại. Hôm nay xin thân rót chén rượu này chúc mừng thím. Ngoan này! Thím uống ngay chén rượu ở tay tôi đi.
Phượng Thư cười nói:
- Nếu chị có lòng kính tôi, thì quỳ xuống đây tôi mới uống.
- Đừng làm bộ nữa! Bảo cho mà biết: chăng dễ mà gặp được dịp này đâu. Mai sau liệu có được ngày nay mãi không? Hãy cố mà uống mấy chén.
Phượng Thư thấy không từ chối được, đành phải uống hai chén. Rồi đến bọn chị em lại mời, Phượng Thư đành phải uống hai hớp. Già Lại thấy Giả mẫu cao hứng, cũng phải góp vui, dẫn các già khác đến mời rượu. Phượng Thư không thể từ chối được, đành phải uống hai hớp. Bọn Uyên Ương cũng đến mời, Phượng Thư không uống được nữa, vội van vỉ:
- Các chị ơi, tha cho tôi, ngày mai tôi sẽ uống.
Uyên Ương cười nói:
- Nếu thế thì chẳng hóa ra chúng tôi bẽ mặt lắm hay sao? Ngay đến bà Hai cũng còn có lòng vì nể giữ thể diện cho chúng tôi. Hôm nay đứng trước mọi người, mợ lại ra bộ bà chủ. Thế ra chúng tôi không đáng đến mời. Thôi, mợ không uống thì chúng tôi đi vậy.
Nói xong nguây nguẩy đi ra. Phượng Thư vội kéo lại cười nói:
- Chị ơi, thôi để tôi uống vậy.
Liền rót đầy chén rượu uống hết. Uyên Ương mới cười, rồi về chỗ ngồi.
Phượng Thư đã say, trong bụng cồn cào khó chịu, muốn về nhà nghỉ, nhân thấy bọn con hát lên, liền bảo Vưu Thị:
- Sắp sẵn tiền thưởng ra, tôi phải đi rửa mặt đây.
Vưu Thị gật đầu, Phượng Thư thấy không ai để ý, liền đi ra ngoài theo thềm nhà sau đi về. Bình Nhi biết ý, vội theo ra, Phượng Thư vịn vào Bình Nhi, đi đến dưới thềm, thấy một đứa hầu bé trong nhà đứng ở đấy. Trông thấy hai người về, đứa hầu vội quay người chạy. Phượng Thư ngờ, gọi nó lại. Trước nó còn giả vờ như không nghe. Sau thấy Bình Nhi cũng gọi, không làm thế nào được, nó đành phải quay lại.
Phượng Thư càng ngờ, liền cùng Bình Nhi lên thềm gọi đứa bé ấy vào, rồi mở cánh cửa ra. Phượng Thư ngồi ngay ở trên thềm, bắt đứa bé quỳ xuống, rồi hét bảo Bình Nhi:
- Bảo hai đứa hầu ở cửa ngoài mang thừng roi vào đây, đem con ranh con này đánh chết đi cho tao. Nó chẳng biết tao là ai à?
Đứa bé hồn vía lên mây, vừa khóc vừa van lạy xin tha. Phượng Thư hỏi:
- Tao có phải là ma đâu. Mày trông thấy, không biết đứng lại, sao cứ chạy đi?
- Cháu thực không trông thấy mợ, và nhớ trong nhà không còn ai, nên mới chạy về.
- Trong nhà đã không có ai, thì ai bảo mày đến đây? Dù mày không trông thấy, nhưng tao và chị Bình ở đằng sau rát cổ gọi mày đến mười mấy lần, càng gọi mày càng chạy. Có xa xôi gì đâu mày điếc à? Lại còn cãi?
Nói xong, giơ tay tát một cái, đứa bé chúi đầu xuống, rồi lại tát một cái nữa, hai má nó sưng vù lên. Bình Nhi vội can:
- Thôi mợ ạ, không lại đau tay!
Phượng Thư nói:
- Đánh nữa đi, hỏi nó vì sao mà chạy, nó không nói thì đánh vỡ mồm nó ra.
Đứa bé trước còn chối cãi, sau thấy Phượng Thư bảo nung đỏ thanh sắt dí vào mồm, nó mới khóc nói:
- Cậu Hai ở nhà bảo cháu đến đây gác, thấy mợ về thì báo tin cho cậu biết. Không ngờ bây giờ mợ đã về.
Phượng Thư thấy câu nói có ý, liền hỏi:
- Bảo mày gác tao để làm gì? Không nhẽ lại cấm tao về à? Tất có duyên cớ làm sao đây. Mày phải nói ngay, tao sẽ thương mày, nếu không tao lấy dao xẻo thịt!
Nói xong, lấy cái trâm ở trên đầu ra đâm vào mồm đứa bé. Nó sợ quá, vừa tránh vừa khóc:
- Cháu xin nói thực, nhưng mợ đừng bảo là cháu nói!
Bình Nhi vừa ngăn Phượng Thư, vừa giục nó nói ngay đi. Đứa bé nói:
- Cậu Hai về đến nhà, ngủ một lúc mới dậy, cho người đến xem mợ đã sắp về chưa. Nghe nói mợ vừa mới vào tiệc, cậu ấy liền mở ngay hòm lấy hai nén bạc, hai cái trâm, hai tấm lụa, bảo cháu lẻn đưa cho vợ Bão Nhị và gọi nó lại. Nó nhận các thứ ấy rồi đi đến nhà ta. Cậu Hai bảo cháu đứng đây gác. Còn việc về sau thế nào cháu không biết.
Phượng Thư nghe nói, tức run người, đứng dậy đi thẳng về nhà. Vừa đến sân, thấy một đứa hầu đứng ở trong cửa ló đầu ra. Trông thấy Phượng Thư, nó cắm đầu chạy. Phượng Thư gọi hẳn tên nó, bảo đứng lại. Đứa bé này vốn láu lỉnh, thấy không chạy thoát, nên quay lại cười nói:
- Cháu đang định đi mách mợ, may mợ đã về.
- Mách tao việc gì?
- Cậu Hai ở nhà...
Rồi nó kể lại một lượt như đứa trước vừa nói.
Phượng Thư quát:
- Từ nãy mày làm gì? Bây giờ tao trông thấy rồi, mày mới tìm cách đổ quanh.
Nói xong, giơ tay tát một cái, làm cho đứa hầu ngã lạng choạng, Phượng Thư rón rén đi đến trước cửa sổ, nghe thấy ở trong có tiếng người đàn bà cười nói:
- Bao giờ bà vợ Diêm Vương của cậu chết đi thì hay!
- Nếu nó chết, ta lấy một mụ khác, cũng giống như thế, thì làm thế nào?
- Nếu nó chết thì đem cô Bình làm vợ cả, có lẽ còn hơn đấy.
- Nó chẳng để cho ta đụng chạm đến con Bình một tý nào, chính con Bình cũng ấm ức không dám nói ra. Số kiếp ra sao mà lại gặp phải sao Dạ Soa thế này!
Phượng Thư nghe nói, tức run người lên. Lại nghe thấy họ đều khen Bình Nhi, liền ngờ cho Bình Nhi ngày thường vắng mình, chắc cũng ngỏ lời oán trách. Hơi rượu càng hăng lên, không nghĩ ngợi gì cả. Phương Thư quay ngay người lại tát Bình Nhi hai cái; đạp cửa vào, không nói năng gì, túm lấy vợ Bão Nhị đánh xé. Lại sợ Giả Liễn trốn đi, liền đứng chặn lấy cửa và mắng:
- Con đĩ này! Mày đã cướp chồng chủ mày, lại định giết cả vợ chủ mày nữa à! Bình Nhi lại đây! Bọn đĩ này cùng về hùa với nhau để hại ta! Ngoài mặt thì vẫn thơn thớt dỗ dành ta.
Nói xong lại đánh Bình Nhi mấy cái. Làm Bình Nhi không có chỗ kêu oan, tức quá phát khóc lên và mắng:
- Các người đã làm việc xấu xa này, không dưng lại kéo cả tôi vào làm gì!
Nói xong, túm lấy vợ Bảo Nhị đánh xé.
Giả Liễn vì uống nhiều rượu, đang khi hứng lên, không đề phòng cẩn thận, thì Phượng Thư về, nên lính quýnh không biết làm thế nào; lại thấy Bình Nhi cũng to tiếng, thành ra hơi men càng hăng lên. Thấy Phượng Thư đánh vợ Bão Nhị, hắn vừa tức vừa xấu hổ, nhưng không tiện nói ra; bây giờ thấy Bình Nhi cũng đánh vợ Bảo Nhị, hắn đứng dậy đá rồi mắng:
- Con đĩ kia! mày cũng đánh người à!
Bình Nhi sợ quá, ngừng tay, khóc nói:
- Các người chuyện trò thầm vụng với nhau, tại sao còn kéo tôi vào?
Phượng Thư thấy Bình Nhi sợ Giả Liễn, càng tức, chạy lại đánh Bình Nhi, và bắt phải đánh vợ Bảo Nhị. Bình Nhi tức quá chạy đi tìm dao định tự tử. Bọn bà già và người hầu bên ngoài vội ngăn lại khuyên răn.
Phượng Thư thấy Bình Nhi đi tự tử, liền đập đầu vào Giả Liễn, kêu ầm lên:
- Chúng nó vào hùa với nhau để hại ta, bị ta bắt được, lại còn dọa ta! Cậu bóp chết tôi đi!
Giả Liễn tức quá, rút kiếm ở trên tường xuống, nói:
- Không cần phải tự tử! Tao điên tiết lên rồi đây! Giết tất cả rồi tao đền mạng, thế là hết chuyện!
Đương lúc ầm ĩ, thì bọn Vưu Thị đến nói:
- Làm cái gì đấy? Tự dưng vô cớ sao lại to tiếng thế?
Giả Liễn thấy có người đến, liền mượn hơi men càng làm già cứ đòi giết Phượng Thư. Phượng Thư thấy người đến, không lồng lộn như trước nữa, liền bỏ mọi người, rồi khóc lóc ầm ĩ và chạy sang bên Giả mẫu.
Lúc đó tuồng đã tan, Phượng Thư chạy đến lăn vào lòng Giả mẫu nói:
- Bà cứu cháu với! Cậu Liễn định giết cháu đấy!
Giả mẫu, Hình phu nhân, Vương phu nhân vội hỏi “Sao thế?” Phương Thư khóc nói:
- Cháu về nhà thay quần áo, không ngờ cậu Liễn rước gái về trò chuyện. Cháu tưởng có khách đến chơi, sợ không dám vào; đứng ở ngoài nghe, thì ra cậu ấy đang bàn với vợ Bão Nhị, bảo là cháu ghê gớm lắm, định cho cháu uống thuốc chết đi, rồi lấy Bình Nhi làm vợ cả. Cháu tức quá, nhưng không dám cãi nhau với cậu ấy, chỉ đánh con Bình hai cái, hỏi nó vì sao định hại cháu. Cậu ấy xấu hổ nên chực giết cháu.
Giả mẫu nghe xong, tin là thực, nói:
- Như thế thì chịu sao được? Mau mau lôi cổ thằng khốn nạn ấy đến đây!
Nói chưa dứt lời, thấy Giả Liễn cầm kiếm chạy đến, có nhiều người theo sau. Giả Liễn xưa nay cậy Giả mẫu vẫn thương mình, ngay mẹ và thím cũng không nỡ ngăn cản, nên càng hung hăng chạy đến làm ầm lên. Hình phu nhân và Vương phu nhân trông thấy, giận quá vội ngăn lại mắng:
- Thằng khốn nạn này! Mày định làm loạn đấy à! Cụ ngồi kia kìa?
Giả Liễn lừ mắt nhìn, nói:
- Chỉ vì cụ nuông nó quá, nó mới dám thế. Nó mắng cả cháu nữa.
Hình phu nhân giận quá, giằng lấy kiếm quát:
- Mày bước ngay ra ngoài kia!
GIả Liễn giơ bộ mặt dày, lè nhè nói mãi.
Giả mẫu giận mắng:
- Tao biết mày không coi chúng tao ra gì! Gọi bố nó đến đây xem nó có bước hay không!
Giả Liễn thấy vậy, mới loạng choạng bước ra. Giận dỗi không về nhà, đi ra thư phòng phía ngoài.
Hình phu nhân và Vương phu nhân cũng trách Phượng Thư. Giả mẫu nói:
- Việc có quan hệ gì đâu. Bọn trai trẻ chúng nó, thấy gái khác nào mèo thấy mỡ, giữ làm sao được? Lúc còn trẻ ai mà chẳng thế? Việc này lỗi tại ta bảo mày uống thêm vài chén rượu mày lại uống phải giấm chua!(1)
Nói xong, mọi người cười ầm lên. Giả mẫu lại nói:
- Mày cứ yên tâm, mai ta sẽ bắt chồng mày đến xin lỗi, bây giờ đừng về mà nó bẽ mặt đấy.
Rồi lại mắng:
- Con Bình ranh con, ngày thường ta cứ tưởng nó khá, thế mà vắng mặt nó lại tệ thế!
Vưu Thị cười nói:
- Bình Nhi chẳng có lỗi gì, đó là thím Phượng giận cá chém thớt đấy thôi. Hai bên cãi nhau đều mang Bình Nhi ra hành hạ cho hả. Nó oan ức thế mà cụ lại còn mắng nó!
Giả mẫu nói:
- Phải đấy. Ta vẫn biết con bé ấy không phải là quân hay ton hót gì đâu. Đáng thương cho nó bị mắng oan.
Rồi gọi Hổ Phách đến bảo:
- Mày kể lại lời ta nói cho Bình Nhi nghe; ta biết nó bị oan, ngày mai ta sẽ bắt chủ nó đến xin lỗi. Hôm nay là ngày sinh nhật của chủ nó, đừng để cho nó làm ầm lên.
Lý Hoàn đã dắt Bình Nhi vào vườn Đại Quan rồi. Bình Nhi nghẹn ngào không biết nói làm sao. Bảo Thoa khuyên:
- Chị là người hiểu biết, xưa nay mợ chị đối đãi với chị thế nào. Hôm nay mợ chị say rượu, không đem dằn vặt để hả giận, thì biết đem ai? Chị đừng để người ta cười mợ là quá say. Chị chỉ nghĩ cái oan lúc này, chả hóa ra những cái tốt của mình trước đây đều là giả dối hay sao?
Ngay lúc ấy Hổ Phách đến, kể lại những lời của Giả mẫu cho Bình Nhi nghe. Bình Nhi cảm thấy mình còn chút thể diện, dần dần nguôi giận, cũng không về nhà nữa.
Bọn Bảo Thoa nghỉ một lúc rồi đến thăm Giả mẫu và Phượng Thư. Bảo Ngọc mời Bình Nhi đến viện Di Hồng. Tập Nhân ra đón, cười nói:
- Tôi định mời chị trước, nhưng vì mợ Cả và các cô đều mời, nên tôi đành phải để lại.
Bình Nhi cười nói:
- Xin cám ơn. Không biết chuyện này ở đâu mà ra! Bỗng dưng vô cớ tôi bị mắng oan một trận!
Tập Nhân cười nói:
- Mợ Hai xưa nay đối với chị vẫn tốt, chẳng qua nhất thời bực lên đó thôi.
- Mợ Hai có nói gì đâu, chỉ vì con đĩ nó làm tội tôi, nó mang tôi ra làm trò đùa. Lại còn cái cậu hồ đồ ấy quay ra đánh tôi nữa!
Bình Nhi ức quá, không cầm được nước mắt. Bảo Ngọc vội khuyên:
- Chị đừng buồn nữa, tôi xin lỗi thay cho hai người ấy.
Bình Nhi cười nói:
- Nào có việc gì đến cậu?
Bảo Ngọc cười nói:
- Anh em chị em chúng tôi cũng như là một, nếu họ có lỗi với ai, tôi cũng đáng xin lỗi thay cho họ.
Lại nói:
- Đáng tiếc bộ quần áo mới của chị bị lấm cả! Ở đây em Hoa của chị có quần áo, sao chị không lấy mà thay rồi đem phun rượu, là lại bộ quần áo và chị cũng nên chải lại đầu đi.
Vừa nói vừa sai bọn hầu nhỏ: “Múc nước rửa mặt và đốt bàn là đem đến đây!"
Bình Nhi xưa nay vẫn nghe nói Bảo Ngọc biết cách chiều chuộng bọn con gái. Bảo Ngọc ngày thường vì thấy Bình Nhi là nàng hầu yêu của Giả Liễn và lại là người tâm phúc của Phượng Thư nên không dám gần gũi. Bới vậy, thường ân hận không biết làm thế nào tỏ hết được lòng tốt của mình đối với chị ta. Bình Nhi thấy Bảo Ngọc ân cần như thế, nghĩ bụng: “Quả nhiên Bảo Ngọc đối xử chu tất quá, thật tiếng đồn không sai!”
Lại thấy Tập Nhân mở ngay hòm, lấy ra bộ quần áo ít hay mặc đến. Bình Nhi vội đi rửa mặt. Bảo Ngọc đứng bên cười nói:
- Chị cũng nên đánh tý phấn vào, kẻo người ta lại bảo giận nhau với chị Phượng đấy. Vả chăng hôm nay là ngày sinh nhật của chị ấy và cụ cũng đã sai người đến an ủi chị rồi.
Bình Nhi nghe nói có lý, liền đi tìm phấn, nhưng không thấy. Bảo Ngọc vội chạy đến đài trang, mở cái hộp sứ Châu Tuyên ra, trong hộp đựng một lượt mười thoi phấn hoa ngọc trâm, lấy ra một thoi đưa cho Bình Nhi, cười nói:
- Đây không phải là phấn thường đâu, là giống hoa dạ hương nghiền nát ra, chế với thứ bột thượng hảo hạng đấy.
Bình Nhi để lên trên tay xem, quả nhiên vừa nhẹ, vừa trắng, vừa đỏ, vừa thơm, xoa lên mặt thấy da mịn và mát, không bết như thứ phấn khác. Sau thấy một cái hộp ngọc trắng nhỏ, trong đựng một hộp sáp màu đỏ tươi như cao văn khôi, chứ không phải từng tờ một. Bảo Ngọc cười nói:
- Sáp bán ở hiệu không sạch, màu lại chóng bay. Đây là hạng sáp tốt nhất, vắt nước ra, lọc sạch rồi hòa lẫn với sương ở trong hoa, đem nấu lên. Chỉ lấy cái trâm nhỏ khêu một tí xát vào môi; lại lấy một giọt hòa lẫn nước với sáp vào lòng bàn tay rồi xoa lên mặt cũng đủ.
Bình Nhi cứ theo thế trang điểm, thấy tươi đẹp khác thường và mùi thơm ngào ngạt. Bảo Ngọc lại lấy một cành hoa huệ ở trong chậu dùng dao tre cắt đem cắm lên đầu cho Bình Nhi. Chợt thấy Lý Hoàn cho người sang gọi, Bình Nhi vội vàng đi sang.
Bình Nhi là cô gái thông minh, xinh đẹp vào bậc nhất, chứ không như những bọn tục tằn ngu xuẩn. Thế mà Bảo Ngọc xưa nay không được gần gũi săn sóc, nên rất lấy làm ân hận. Vả hôm nay là ngày sinh nhật của Kim Xuyến, nên suốt ngày Bảo Ngọc không vui. Không ngờ sau khi xảy ra việc này, Bảo Ngọc được tỏ hết nỗi lòng với Bình Nhi, thực là một niềm vui mà trong đời chưa hề nghĩ đến. Vì thế cậu ta nằm ngả xuống giường, trong bụng lấy làm khoan khoái. Chợt nghĩ đến Giả Liễn chỉ biết thỏa lòng dục vọng của mình, chứ không biết nâng niu các bạn son phấn. Rồi nghĩ đến Bình Nhi không có cha mẹ, không có anh chị em, trơ trọi một mình, phải hầu hạ hai vợ chồng Giả Liễn. Giả Liễn thì thô tục, Phượng Thư thì tàn nhẫn, thế mà Bình Nhi vẫn chiều chuộng được chu tất. Hôm nay lại gặp bàn tay ác nghiệt, thực là mệnh bạc hơn cả Đại Ngọc! Nghĩ đến đây, Bảo Ngọc lại càng thương cảm. Rồi đứng dậy, thấy quần áo phun rượu đã gần khô, Bảo Ngọc liền đem đi là và gấp lại cẩn thận. Thấy cái khăn mặt của Bình Nhi bỏ quên đấy, hãy còn vết nước mắt. Bảo Ngọc giặt đi rồi đem phơi. Vừa mừng vừa thương, ngồi thừ ra một lúc, rồi sang thôn Đạo Hương nói chuyện, đến khi lên đèn mới về.
Bình Nhi ngủ lại nhà Lý Hoàn một đêm. Phượng Thư ngủ ở bên nhà Giả mẫu. Giả Liễn tối về, thấy vắng tanh, không tiện đi gọi, đành phải nằm ngủ trần một đêm. Hôm sau trở dậy, nghĩ đến việc hôm qua, thấy bẽ mặt, hắn hối hận không kịp. Hình phu nhân nhớ lại câu chuyện hôm qua, liền đến gọi Giả Liễn sang nhả Giả mẫu. Giả Liễn đành phải nuốt nhục theo sang, quỳ trước Giả mẫu.
Giả mẫu hỏi:
- Tại sao vậy?
- Hôm qua cháu say rượu quá, làm phiền lòng bà, hôm nay sang xin nhận tội.
- Đồ khốn nạn! Uống cho bứ họng ra, rồi không biết yên phận dẫn xác đi cho rảnh, lại còn đánh vợ! Ngày thường con Phượng ăn nói như Hạng Võ, thế mà hôm qua trông nó run sợ thực đáng thương! Nếu không có tao, mày sẽ giết nó thì bây giờ còn ra làm sao nữa.
Giả Liễn trong bụng ấm ức nhưng không dám cãi lại, chỉ đành nhận lỗi. Giả mẫu lại nói:
- Con Phượng và con Bình không đẹp à? Mày còn chưa chán sao? Hàng ngày mày cứ thậm thậm thụt thụt, bất cứ hạng bẩn thỉu nào cũng lôi về nhà. Lại vì con đĩ ấy mà đánh vợ, đánh người hầu, thế cũng đòi là cậu ấm con nhà quan, tự mình trát trấu vào mặt! Nếu mày biết sợ tao thì phải đứng dậy xin lỗi vợ mày đi, rồi dắt nó về nhà, tao mới vui lòng và tha tội cho mày. Không thì mày bước ngay, tao không dám nhận lễ lạy của mày nữa!
Giả Liễn nghe vậy, lại thấy Phượng Thư đứng ở bên cạnh khóc sưng cả mắt lên, không trang điểm son phấn, mặt vàng khè, so với ngày thường lại càng đáng thương đáng yêu. Bụng nghĩ: “Thôi chi bằng xin lỗi đi thì đôi bên lại được thuận hòa mà cụ cũng vui lòng.” Liền cười nói:
- Bà dạy thế nào cháu cũng phải vâng lời, nhưng chỉ sợ lại đâm nuông nó thôi.
Giả mẫu cười nói:
- Nói bậy! Tao biết nó là đứa có lễ phép, không hay va chạm đến ai. Nếu sau này nó có lỗi với mày tao sẽ làm chủ cho mày trị nó.
Giả Liễn nghe nói, đứng dậy vái Phượng Thư một cái, cười nói:
- Đó là tôi không phải, xin mợ Hai đừng giận nữa.
Cả nhà đều cười ầm lên. Giả mẫu cười nói:
- Con Phượng không được giận nữa. Mày còn giận thì tao càng thêm bực.
Nói xong lại sai người đi gọi Bình Nhi đến, bảo Phượng Thư và Giả Liễn phải an ủi Bình Nhi mấy câu. Giả Liễn trôngthấy Bình Nhi, thực là “vợ cả không bằng nàng hầu, nàng hầu không bằng làm cách thầm vụng”. Thấy Giả mẫu bảo thế, Giả Liễn chạy ngay lại nói:
- Thực là tôi không phải, nên cô bị oan, cũng vì tôi mà mợ ấy có lỗi với cô, về phần tôi xin lỗi đã đành, tôi lại xin lỗi thay mợ ấy nữa.
Nói xong, vái một cái, làm cho Giả mẫu cười, Phượng Thư cũng cười.
Giả mẫu lại bắt Phượng Thư đến an ủi Bình Nhi mấy câu. Bình Nhi vội chạy lại vái Phượng Thư, nói:
- Ngày sinh nhật của mợ, tôi làm cho mợ bực tức, tội tôi đáng chết.
Phượng Thư xấu hổ vì hôm qua uống nhiều rượn, không nghĩ đến tình nghĩa xưa nay, đâm ra nóng nảy, nghe người ngoài nói, vô cớ làm cho Bình Nhi bẽ mặt. Nay thấy thế, vừa xấu hổ vừa đau xót, vội đỡ Bình Nhi dậy, nước mắt nhỏ xuống. Bính Nhi nói:
- Tôi hầu mợ bấy nhiêu năn, không bao giờ mợ động đến nửa móng tay. Hôm qua bị đòn, tôi cũng không dám oán mợ, chỉ vì con đĩ ấy làm hại, tránh nào mợ chả tức giận!
Nói xong nước mắt cũng tràn ra. Giả mẫu liền sai người đưa họ về nhà và nói:
- Đứa nào còn nhắc lại chuyện này phải đến trình ta ngay; bất kỳ là ai, ta cũng đánh cho một trận.
Ba người lại tạ Giả mẫu, Hình phu nhân và Vương phu nhân. Bà già vâng lời, đưa họ về nhà.
Về đến buồng, Phượng Thư thấy không có người liền nói:
- Tôi đâu phải giống vua Diêm Vương, giống quỷ Dạ Soa? Con đĩ ấy rủa tôi chết, cậu cũng theo nó rủa tôi. Nghìn ngày chả tử tế với nhau thì cũng phải có một ngày chứ. Tội nghiệp cho tôi không bằng cả con đĩ, thì còn mặt mũi nào sống ở trên đời nữa.
Nói xong lại khóc. Giả Liễn nói:
- Thế còn chưa đủ à? Mợ thử nghĩ xem hôm trước ai có lỗi nhiều? Hôm nay trước mặt mọi người, tôi phải quỳ, lại phải xin lỗi, như thế mợ đã hãnh diện rồi. Bây giờ lại còn cằn nhằn, chẳng lẽ lại bắt tôi quỳ nữa mới chịu thôi hay sao? Được đà lại cứ lên mặt mãi, như thế không tốt đâu!
Phượng Thư không nói lại được. Bình Nhi phì cười một tiếng. Giả Liễn cũng cười nói:
- Thế là xong. Tôi thật hết cách rồi!
Chợt một bà già đến trình:
- Vợ Bão Nhị thắt cổ chết rồi!
Giả Liễn, Phượng Thư đều giật nảy mình. Nhưng Phượng Thư vội làm ra vẻ cứng, liền quát:
- Nó chết thì thôi. Việc gì bà phải nhớn nha nhớn nhác.
Một lúc, vợ Lâm Chi Hiếu đến nói khẽ với Phượng Thư:
- Vợ Bảo Nhị thắt cổ chết rồi, họ hàng nhà nó định đi kiện mợ đấy!
- Càng hay, tôi cũng đang định đi kiện nó đây!
- Chúng tôi vừa khuyên họ một lúc, rồi lại dọa cho họ một trận, hứa sẽ cho họ ít tiền, nghe đã xuôi rồi.
- Tôi chẳng có đồng nào. Nếu có tiền cũng chẳng cho nó! Cứ bảo nó đi mà kiện! Đừng ai ngăn nó và cũng không cần phải dọa nó. Nó muốn đi kiện đâu thì đi. Nếu nó không kiện, tôi sẽ kiện lại nó là “mang xác người chết ra vu vạ!”
Vợ Lâm Chí Hiếu đương lúc khó nghĩ, thì Giả Liễn liếc mắt một cái, chị ta hiểu ngay, liền ra ngoài chờ.
Giả Liễn nói:
- Tôi đi ra xem sao?
Phượng Thư nói:
- Không được cho nó tiền!
Giả Liễn chạy ra bàn với Lâm Chí Hiếu, sai người đến vừa dỗ vừa dọa và cho hai trăm lạng bạc. Giả Liễn lại sợ sẽ còn xảy ra chuyện lôi thôi, liền sai người đến nói với bọn quan lại rồi gọi mấy người lính canh và người chôn cất đến giúp đỡ việc tang. Bọn kia thấy thế, muốn làm cho ra nhẽ, nhưng không dám, đành phải im hơi lặng tiếng vậy. Giả Liễn lại bảo Lâm Chí Hiếu biên hão hai trăm lạng bạc vào các khoản chi tiêu khác lấp liếm cho qua chuyện. Rồi lấy tiền riêng của mình cho Bão Nhị, an ủi nó, và nói: “Sau này ta sẽ hỏi cho mày một con vợ đẹp khác”. Bão Nhị vừa có thể diện, lại vừa được tiền, làm gì mà chẳng bằng lòng, nên vẫn chiều chuộng Giả Liễn như trước.
Ở nhà, Phượng Thư trong bụng vẫn lo, nhưng ngoài mặt lại làm ra bộ không thèm để ý đến. Nhân lúc vắng người, Phượng Thư cười bảo Bình Nhi:
- Hôm nọ ta uống nhiều rượu, em đừng giận nhé. Đánh vào đâu? Ta xem nào?
Bình Nhi nghe nói, mắt đỏ hoe lên, nhưng vội nhịn ngay:
- Đánh cũng chả đau lắm.
Rồi nghe ở ngoài có người nói:
- Các mợ các cô đến chơi đấy!
------------------------
(1). Ý nói hay ghen tuông.
Hồi thứ bốn mươi lăm
Bạn kim lan ngỏ chuyện kim lan
Đêm mưa gió ngâm bài mưa gió
Phượng Thư đang vỗ về Bình Nhi, thấy chị em đến chơi, liền mời ngồi. Bình Nhi đi pha trà. Phượng Thư cười nói:
- Sao hôm nay đến chơi đông, như là có thiếp mời ấy.
Thám Xuân cười nói:
- Chúng tôi đến đây có hai việc: một là việc của tôi; hai là việc của cô Tư, lại kèm theo cả lời của cụ nữa.
- Việc gì mà cần thế?
- Chúng tôi mở thi xã, lần đầu không được đủ, mọi người nể nhau nên sai cả lệ. Chị là người thành thật không thiên vị ai, nên tôi muốn mời chị làm “giám xã ngự sử". Hai là cô Tư đang vẽ bức tranh cái vườn, không đủ đồ dùng, đã trình cụ rồi, người bảo: “Có lẽ dưới lầu còn những thứ ấy. Thử tìm xem, còn thì đem mà dùng, hết thì bảo người đi mua”.
Phượng Thư cười nói:
- Tôi chỉ biết ăn thôi, ngoài ra chẳng hiểu nếp tẻ gì cả.
- Chị không hiểu cũng không cần chị phải làm, chỉ nhờ chị xem xét trong đám chúng tôi có ai lười biếng đáng phạt thì phạt, thế là được rồi.
- Các cô đừng lừa tôi. Tôi đã đoán ra rồi. Đâu có phải mời tôi làm “giám xã ngự sử”? Rõ ràng là bảo tôi làm người lái “buôn đồng” để nộp tiền thôi. Các cô mở thi xã, tất phải thay phiên nhau làm chủ thết rượu. Vì không đủ tiền, nên bày ra cách này lôi tôi vào để lấy tiền đó thôi. Có phải thế không?
Mọi người đều cười nói: “Chị đoán đúng đấy!”
Lý Hoàn cười nói:
- Mày thật là người pha lê mà ruột thủy tinh!
Phượng Thư cười nói:
- Khen cho chị là chị cả! Các cô ấy muốn nhờ chị dìu dắt học hành, học khuôn phép, học may vá. Bây giờ mở thi xã hết bao nhiêu tiền mà chị không dám nhận. Cụ, bà Hai thì không nói làm gì, vì là các vị “phong quân”(1) già. Còn chị mỗi tháng được mười lạng bạc lương, so với chúng tôi nhiều hơn gấp hai lần. Thế mà Cụ và bà Hai cứ thương chị là đàn bà góa, không làm gì, không đủ tiền tiêu, lại có đứa con bé được thêm mỗi tháng mười lạng nữa, như thế thì lương bằng Cụ và bà Hai rồi còn gì. Chị lại được miếng vườn cho thuê, số tiền thưởng cuối năm chị cũng được nhiều hơn. Mẹ con, thầy tớ nhà chị tất cả chưa đầy mười người, ăn mặc các cái vẫn là của trong kho chi ra. Tính ra ít nhất chị cũng có bốn, năm trăm lạng bạc. Bây giờ mỗi năm chị bỏ ra độ một hay hai trăm lạng bạc cho họ vui chơi, kể cũng được mấy năm. Sau này họ lấy chồng rồi, chẳng lẽ chị còn phải bù nữa chăng? Bây giờ chị sợ phải tiêu tiền, xui họ đến quấy rầy tôi, để ăn cho núi lở non mòn, tôi lại chả biết hay sao?
Lý Hoàn cười nói:
- Các cô nghe đấy, tôi nói có một, nó đã điên lên nói ra hàng tràng những câu mất dạy! Thực là hạng lái buôn, chuyên nghề so kè tính toán, bủn xỉn từng ly từng tý! Cái hạng này may là một vị tiểu thư đẻ ra ở nhà thi thư, sĩ hoạn, lại được lấy chồng thế này mà cũng còn quá quắt như thế, nếu là con nhà nghèo hèn, làm hạng con hầu đứa ở, thì không biết đê tiện đến thế nào. Khắp gầm trời ai cũng kêu mày xoay xở quá lắm. Hôm qua lại đánh cả con Bình, sao mày bạo tay thế? Thật là đem rượu ngọt đổ vào bụng chó! Tức quá, tao chỉ muốn báo thù hộ con Bình thôi. Nghĩ mãi, không mấy khi gặp “ngày vui của con chó dài đuôi”, lại sợ cụ khó chịu, vì thế tao không nói ra, nhưng trong bụng vẫn tức. Thế mà hôm nay mày lại giở chuyện trêu tao. Kể ra mày xách giày cho con Bình cũng chưa đáng! Mày và con Bình nên đổi địa vị cho nhau mới phải!
Mọi người nghe nói đều cười ầm lên.
Phượng Thư cười nói:
- Ô! Tôi biết rồi! Thế ra các chị tìm tôi không phải vì thơ vì vè, chỉ để báo thù cho con Bình đấy thôi. Tôi thật không ngờ con Bình đã có một người để tựa lưng như chị. Tôi biết thế này, dù có ma quỷ kéo tay tôi đánh nó, tôi cũng không dám. Chị Bình lại đây, tôi xin lỗi chị trước mặt mợ Cả và các cô của chị, cứ cho tôi là “quá chén mất khôn thôi”!
Mọi người nghe nói đều cười ầm lên.
Lý Hoàn cười hỏi Bình Nhi:
- Thế nào? Tôi phải nói cho chị hả giận mới thôi!
Bình Nhi cười nói:
- Dù các mợ nói đùa, tôi cũng không dám nhận.
Lý Hoàn nói:
- Sao lại không dám! Đã có tôi đây! Thôi, đi lấy chìa khóa, bảo chủ chị mở cửa lấy các đồ dùng ra.
Phượng Thư cười nói:
- Chị ơi! Chị hãy vào trong vườn với họ đã. Tôi vừa định mang sổ gạo ra tính với họ một lúc, mẹ tôi bên kia lại sai người sang gọi, không biết là bảo việc gì, tôi phải đi sang đó mới được. Lại còn quần áo cuối năm cho các cô, tôi phải sắp sẵn cho người ta may nữa.
Lý Hoàn cười nói:
- Mặc kệ! Thím cứ làm xong việc này cho tôi đi nghỉ, để các cô ấy khỏi quấy rầy tôi.
Phượng Thư vội cười nói:
- Chị ơi! Hãy để cho em rỗi một tý đã, xưa nay chị vẫn thương em, sao bây giờ vì việc Bình Nhi, chị lại không thương em nữa? Chị thường khuyên em: “Tuy nhiều việc, nhưng cũng nên giữ gìn sức khỏe, được rỗi lúc nào cũng nên nghỉ ngơi”. Thế mà hôm nay chị lại bắt ép em quá như thế à. Vả chăng, những quần áo cuối năm của người khác mà chậm thì không can gì, chứ quần áo của các cô mà chậm thì trách cứ ở chị đấy. Chị đã chẳng chịu làm gì, lại không nói giúp lấy một lời, lẽ nào cụ chả trách chị. Tôi thà đành nhận lỗi một mình, chứ không khi nào dám làm lụy đến chị.
Lý Hoàn cười nói:
- Các cô nghe kìa, nó nói thế có được không? Thế mà vẫn cho nó là biết ăn nói đấy, Tôi hãy hỏi: thím có nhận trông nom việc thi xã này không?
Phượng Thư cười nói:
- Sao chị lại nói thế? Nếu tôi không tốn mấy đồng tiền cho thi xã thì chẳng hóa ra tôi là kẻ lật lọng ở vườn Đại Quan này, còn hòng ăn ở đây được nữa không? Sớm mai tôi xin đến nhậm chức. Xuống ngựa nhận ấn, là tôi bỏ ngay ra năm mươi lạng bạc để chị em làm tiền mở tiệc họp thi xã tiêu dần. Sau này tôi không biết làm thơ làm văn, chẳng qua chỉ là một người rất tục thôi. Giám sát hay chẳng giám sát nữa cũng được, đã có tiền, chẳng còn lo chị em đuổi tôi ra nữa!
Mọi người đều cười. Phượng Thư lại nói:
- Lát nữa tôi sẽ mở buồng gác, còn thứ gì cho người mang xuống để chị em xem. Thứ gì dùng được để lại mà dùng, thiếu gì cứ chiếu đơn của chị em cho người đi mua là được rồi. Lụa vẽ tôi sẽ cắt. Tấm bản đồ không để ở bên cụ đâu, anh Trân giữ đấy. Nói cho các người biết khỏi phải tìm tòi lôi thôi. Tôi bảo người đi lấy về và đưa cả lụa cho bọn thợ vẽ hồ nước phèn, có được hay không?
Lý Hoàn gật đầu cười nói:
- Thế thì cảm ơn thím. Được như thế là xong việc. Thôi chúng ta về đi, nếu thím ấy không sai người mang đến, tôi lại phải đến quấy rầy lần nữa.
Nói xong, dẫn các chị em về.
Phượng Thư nói:
- Việc này chẳng phải tại ai, đều tự chú Bảo bới việc ra cả.
Lý Hoàn nghe nói, quay lại cười nói:
- Chính vì chú Bảo mới đến đây, thế mà lại lãng quên đi! Cuộc họp thơ đầu tiên, chú ấy đã làm lỡ việc. Chúng tôi nể quá, nay thím bảo nên phạt như thế nào?
Phượng Thư nghĩ một lúc rồi nói:
- Chẳng có cách nào khác, chỉ bắt chú ấy quét một lượt các nhà cửa của chị em là đủ.
Mọi người đều cười nói: “Phạt thế phải lắm".
Mọi người định ra về, thấy một a hoàn nhỏ dắt bà Lại đến. Phượng Thư vội đứng dậy cười nói: “Mời bà ngồi chơi”. Rồi họ đều ngỏ lời mừng bà ấy. Bà Lại ngồi xuống cạnh giường, cười nói:
- Tôi mừng, các vị chủ nhà cũng mừng. Nếu không nhờ được ơn chủ, thì tôi làm gì có việc mừng này? Hôm nọ mợ lại sai anh Thái mang đến cho đồ mừng. Cháu tôi đã bái vọng tạ ơn rồi.
Lý Hoàn cười nói:
- Bao giờ anh ấy đi nhậm chức?
- Bao giừ nó đi thì đi, chứ tôi cô biết đâu? Hôm nọ nó đến lạy tôi, tôi cũng chăng biết nói gì hơn, chỉ dặn nó: “Cháu đừng tưởng được làm quan là tha hồ ngang tàng bậy bạ! Nay mày đã ba mươi tuổi, tuy là con nhà tôi tớ, nhưng vừa mới lọt lòng mẹ đã được ơn chủ buông tha ra, trên nhờ hồng phúc của chủ, dưới nhờ có bố mẹ, cũng như các cậu, mày được đọc sách biết chữ, có bà già, a hoàn, có vú nuôi nâng niu như chim phượng hoàng. Giờ nhớn như thế, liệu mày đã biết viết hai chữ “nô tài”(2) thế nào chưa? Hay chỉ biết hưởng phúc mà không hiểu ông mày, bố mày đã chịu bao nhiêu khổ nhục, hai ba đời người vất vả mới nặn ra được mày như thế này! Từ lúc bé, mày bị bao nhiêu là tai nạn, tốn kém bao nhiêu là tiền bạc, giá đúc lại cũng bằng người mày rồi ấy. Đến năm mày ngoài hai mươi tuổi, lại nhờ ơn chủ, quyên cho một chức. Mày có biết chính trong họ nhà chủ cũng còn bao nhiêu người nhịn đói nhịn khát đấy không? Mày là con nhà tôi tớ, giờ hồn đấy, khéo không lại hết phúc! Mười năm trời sung sướng không biết mày giở trò ma quỷ thế nào, van xin chủ, lại được ra làm quan. Chức quan huyện tuy nhỏ, nhưng trách cứ rất lớn. Làm quan ở vùng nào tức là cha mẹ dân vùng ấy. Nếu mày không biết làm tròn phận sự, hết lòng giúp nước thờ chủ, thì trời cũng không dung cho mày đâu!”
Lý Hoàn, Phượng Thư đều cười nói:
- Bà hay lo xa, chúng tôi xem anh ấy cũng tốt đấy chứ. Trước kia anh ấy còn đến đây vài lần, nhưng mấy năm nay không thấy anh ấy đến. Lễ sinh nhật cuối năm ngoái, chỉ thấy tên của anh ấy thôi. Hôm nọ anh ấy đến chào cụ và bà Hai khi ở bên nhà cụ, chúng tôi thấy anh ấy mặc quân phục mới, trông càng oai vệ và béo hơn trước nhiều. Giờ anh ấy được làm quan, bà nên vui mới phải, tội gì mà buồn? Nếu anh ấy không tốt, đã có cha mẹ anh ấy, bà cứ yên hưởng phúc nhà là đủ rồi. Khi nào rỗi, bà đi kiệu sang đánh bài với cụ chúng tôi, nói chuyện cho vui, ai nỡ khinh rẻ bà? Ở nhà lại có cửa cao lầu rộng, ai chả kính nể? Bà thật cũng như một vị phong quân già vậy.
Bình Nhi pha nước mang đến, bà Lại vội đứng dậy nói:
- Xin cô đừng làm phiền, cứ bảo đứa hầu nhỏ nào pha cũng được.
Bà ta ta uống nước vừa nói:
- Mợ không biết, đám trẻ con này cần phải dạy bảo nghiêm ngặt. Nghiêm như thế mà chúng còn lén lút làm bậy, để người nhớn phải bận lòng. Người biết ra bảo tính trẻ con bướng bỉnh; người không biết lại bảo là chúng nó cậy của, cậy thế khinh người, làm cho chủ nhà cũng mang tiếng. Nhiều khi tức quá, tôi không làm thế nào được, phải gọi bố chúng đến, mắng cho một trận mới yên.
Bà ta lại chỉ Bảo Ngọc nói:
- Cậu giận tôi cũng cứ nói, bây giờ hễ ông nhà có răn bảo cậu một chút, cụ đã chằm chặp bênh. Chứ khi ông nhà còn bé, bị cụ ông đánh luôn, ai mà không biết? Ông nhà hồi còn bé có ngỗ ngược như cậu thế này đâu! Lại còn ông bác ở bên kia hay nghịch ngợm thực, nhưng không ru rú ở trong nhà như cậu, thế mà ngày nào cũng bị đòn. Lại còn ông thân của cậu Trân ở bên phủ Đông, tính nóng như lửa, hễ nổi cơn giận chẳng kể gì con, đánh như tra giặc vậy! Bấy giờ tôi mắt thấy tai nghe, thì bác Trân dạy con cũng theo khuôn phép của cụ trước, nhưng chỉ có cái là gặp đâu nói đấy. Chính bản thân bác ấy cũng không kiềm chế được mình, trách sao được con cháu nó không sợ? Cậu hiểu ra sẽ cho tôi nói là phải, không hiểu thì ngoài mặt không nói, nhưng trong bụng có lẽ cậu chửi thầm tôi đấy!
Chợt thấy vợ Lại Đại đến, rồi vợ Chu Thụy và vợ Trương Tài cũng đến trình việc. Phượng Thư cười nói:
- Nàng dâu đến đón mẹ chồng đấy.
Vợ Lại Đại cười nói:
- Không phải tôi đến đón mẹ tôi về đâu, đến dò xem các mợ các cô có nghĩ đến thể diện cho không?
Bà Lại nghe thấy thế cười nói:
- Tôi lẩn thẩn thật! Cái việc đáng nói lại không nói, chỉ nói những chuyện dây mơ rễ má đâu đâu ấy thôi. Vì cháu nó được bổ làm quan, bạn hữu đều định đến mừng, thế nào cũng phải bày tiệc rượu. Tôi nghĩ đã bày tiệc rượn, mời người nọ không mời người kia thì không tiện. Sau lại nghĩ, nhờ ơn chủ mới được vẻ vang thế này, dù sạt nghiệp tôi cũng vui lòng, vì thế tôi bảo bố nó phải bày tiệc rượu ba ngày liền. Hôm đầu bày mấy bàn rượu và một rạp hát ở vườn hoa, mời cụ, các bà, các mợ, các cô đến giải buồn một hôm; nhà khách bên ngoài cũng bày một rạp hát, mấy bàn rượu mời các ông, các cậu đến cho được thơm lây. Hôm thứ hai mời các bạn thân. Hôm thứ ba mời bè bạn hai phủ. Vui nhộn luôn ba ngày, gọi là nhờ hồng phúc của chủ, được chút thể diện.
Phượng Thư, Lý Hoàn đều cười nói:
- Định hôm nào đấy? Thế nào chúng tôi cũng sang. Chưa biết chừng cụ cao hứng cũng sang đấy.
Vợ Lại Đại vội nói:
- Chọn vào ngày mười bốn, xin các mợ nể lời bà tôi.
Phượng Thư cười nói:
- Ai không biết, chứ tôi thì nhất định đi. Nhưng phải nói trước, tôi không có lễ mừng, mà cũng không thưởng tiền gì cả. Chỉ ăn xong rồi về thôi, đừng cười nhé.
Vợ Lại Đại cười nói:
- Sao mợ lại nói thế? Khi mợ vui dù thưởng cho chúng cháu vài ba vạn bạc cũng có.
Bà Lại cười nói:
- Tôi vừa đến mời cụ, người đã nhận lời đi, thế mới biết tôi nói còn đắt nhời.
Nói xong, lại dặn một lượt nữa, rồi đứng dậy muốn về. Chợt trông thấy vợ Chu Thụy, lại nhớ ra một việc, bà Lại nói:
- Tôi còn có một điều muốn hỏi mợ: thằng bé con chị Chu phạm lỗi gì mà đuổi nó ra không dùng nữa?
Phượng Thư cười nói:
- Tôi đang định nói với nàng dâu của bà đấy. Nhưng lắm việc cũng quên đi mất. Chị Lại về bảo cho chồng chị biết, trong hai phủ không ai được chứa thằng con Chu Thụy nữa, bảo nó đi đâu thì đi.
Vợ Lại Đại đành phải nhận lời. Vợ Chu Thụy liền quỳ xuống van xin. Bà Lại vội nói:
- Việc gì thế? Nói ra để tôi bàn hộ.
Phượng Thư nói:
- Hôm nọ ngày sinh nhật tôi, trong nhà chưa ai uống rượu, con nó đã say khướt rồi. Bên nhà mẹ tôi đưa lễ sang, nó không ở ngoài trông nom, cũng không chịu mang lễ vật vào, lại ngồi mắng người ta. Hai người con gái mang đến, nó mới dẫn bọn trẻ con bưng vào. Bọn trẻ con bưng tử tế, còn nó thì đánh rơi một cái hộp bánh hấp đổ tung ra nhà. Người ta về rồi, tôi sai Thái Minh ra gọi, nó lại mắng Thái Minh một trận. Cái hạng ranh con láo lếu coi trời bằng vung ấy, không đuổi đi để làm gì?
Bà Lại nói:
- Tôi tưởng là việc gì, hóa ra việc ấy. Xin mợ hãy nghe lời tôi: nếu nó có lỗi, đánh mắng một trận để cho nó chừa đi thì phải hơn; chứ đuổi nó đi thì quyết không nên. Nó không phải như con đẻ của tôi tớ nhà ta, mà là người hầu của bà Hai đem sang. Nếu mợ đuổi nó đi, đối với bà Hai cũng khó coi. Theo ý tôi, mợ nên đánh nó mấy roi để bận sau nó chừa đi, rồi cứ cho nó ở lại. Dù không nể mẹ nó, cũng nên nể bà Hai chứ.
Phượng Thư nghe nói, liền bảo vợ Lại Đại:
- Đã thế, ngày mai bắt nó lại đây đánh bốn mươi trượng, từ nay cấm không cho uống rượu nữa.
Vợ Lại Đại vâng lời. Vợ Chu Thụy lạy tạ đứng dậy, muốn lạy tạ cả bà Lại, nhưng vợ Lại Đại kéo lên mới thôi. Sau đó ba người cùng đi ra. Bọn Lý Hoàn cũng về trong vườn.
Đến chiều, Phượng Thư sai người mang những đỗ vẽ vào trong vườn. Bọn Bảo Thoa chọn một lúc, chỉ dùng được một nửa. Còn thiếu một nửa, liền biên vào đơn đưa cho Phượng Thư theo thế mà mua.
Một hôm, thợ vẽ bên ngoài đã hồ lụa xong, kẻ thành mẫu mang vào. Bảo Ngọc hàng ngày đến giúp Tích Xuân. Bọn Thám Xuân, Lý Hoàn, Nghênh Xuân, Bảo Thoa cũng đến chơi, vừa xem vẽ vừa họp nhau nói chuyện.
Bảo Thoa thấy trời mát, đêm lại hơi dài, liền đến bàn với mẹ mang ít đồ thêu thùa sang. Ban ngày, hai lần sang thăm Giả mẫu và Vương phu nhân, có khi lại phải ngồi tiếp chuyện cho vui. Khi rỗi lại sang bên vườn nói chuyện phiếm với chị em, vì thế bận suốt ngày, đêm lại phải thắp đèn thêu thùa đến canh ba mới ngủ.
Đại Ngọc hàng năm cứ đến kỳ xuân phân, thu phân, là bệnh ho lại phát. Mùa thu năm nay, vì Giả mẫu cao hứng quá, phải dự tiệc vui hai lần, đâm ra mệt. Gần đây bệnh ho trở lại và nặng hơn trước, vì thế không ra ngoài được, chỉ tĩnh dưỡng ở trong buồng thôi. Lúc nào buồn thì mong chị em đến nói chuyện cho khuây khỏa; đến khi bọn Bảo Thoa tới thăm, nói được dăm ba câu lại uể oải không muốn tiếp. Mọi người đều biết Đại Ngọc đương ốm, vả lại ngày thường thân thể gầy yếu, hễ buồn phiền một tí là không chịu được, vì thế dù cô ta tiếp đãi không được chu tất cũng chẳng ai trách.
Hôm ấy, Bảo Thoa đến thăm Đại Ngọc, nhân nhắc đến bệnh, Bảo Thoa nói:
- Ở đây đã mời mấy thầy thuốc, nhưng có uống cũng không thấy khỏi, chi bằng mời một danh sư khác đến chữa thì hơn. Năm nào cứ đến mùa xuân, mùa hạ lại ốm, bé đã qua già chưa đến, cứ mãi thế này thì còn ra làm sao?
- Không ăn thua gì đâu. Tôi biết bệnh tôi không thể chữa được. Không cứ lúc có bệnh, ngay lúc khỏe trông thân hình tôi cũng đủ biết.
- Chính là như thế. Cổ nhân có câu “Có ăn được cơm mới sống”, nhưng ngày thường cô vẫn ăn cơm mà không bồi bổ được tinh thần khí huyết, tất không phải là việc tốt đâu.
Đại Ngọc thở dài nói:
- “Sống chết có số, phú quý ở trời”, người ta muốn cũng không được! Bệnh tôi năm nay xem ra có phần nặng hơn năm ngoái.
Trong khi nói chuyện, Đại Ngọc ho đến ba, bốn lần.
Bảo Thoa nói:
- Hôm nọ tôi xem đơn thuốc của cô, thấy nhiều nhân sâm, nhục quế lắm. Tuy bảo là ích khí bổ thần, nhưng không nên dùng vị nóng quá. Cứ ý tôi, trước hết phải bình can dưỡng vị. Can hỏa mà bình thì không khắc tỳ thổ, vị khí tự khắc không có bệnh, ăn uống vào mới có thể bổ dưỡng được. Cứ mỗi sáng lấy một lạng yến sào thượng hạng hòa với năm đồng cân đường miếng, lấy cái ấm bạc đun thành cháo, nếu ăn quen còn hay hơn thuốc, nó rất tư âm bổ khí.
Đại Ngọc thở dài:
- Chị ngày thường đối với mọi người rất tốt, nhưng tôi là người đa nghi, cứ cho chị là ác ngàm. Từ hôm nọ, chị bảo tôi không nên xem sách nhảm, giờ lại khuyên tôi câu này, tôi rất là cảm động. Trước đây tôi nhầm, nhầm mãi đến bây giờ. Ngẫm nghĩ từ khi mẹ tôi chết, tôi không có anh chị em, năm nay đã mười lăm tuổi, không có một người nào dạy bảo tôi như lời chị nói hôm trước. Không trách được, cô Vân bảo chị là người tốt. Trước đây thấy cô ấy khen chị, tôi vẫn khó chịu; hôm nọ chính tôi gặp mới biết rõ. Ví như chị nói câu nào, tôi hay chấp nhặt, chị cũng không để ý, lại còn lấy những lời khuyên tôi. Thế mới biết là tự tôi nhầm. Nếu hôm nọ tôi không nhận ra, có lẽ hôm nay tôi cũng không nói với chị những câu này đâu. Vừa rồi, chị bảo tôi ăn cháo yến sào, tuy yến sào cũng dễ kiếm đấy, nhưng chỉ vì người yếu năm nào cũng mắc bệnh. Kể ra bệnh không lấy gì làm quan hệ, nhưng cũng phải mời thầy bốc thuốc, uống nhân sâm, nhục quế đủ làm nghiêng trời lệch đất rồi. Bây giờ lại giở cái món cháo yến sào mới lạ ra, bà tôi, dì tôi và chị Phượng thì chẳng nói gì đâu, nhưng đám bà già và a hoàn chắc sẽ cho tôi bới chuyện. Chị xem bọn họ thấy bà tôi thương Bảo Ngọc và Chị Phượng hơn, họ còn nhìn chòng chọc, bày chuyện nói vụng, huống chi là tôi? Vả chăng tôi không phải là chủ nhà, chỉ vì không có chỗ nương tựa, nên mới đến đây, họ đã khó chịu với tôi lắm rồi. Bây giờ tôi lại không biết điều, để cho người ta phải nguyền rủa mình nữa hay sao?
- Cô đừng nói thế, tôi cũng như cô.
- Chị sao lại ví với tôi? Chị còn có mẹ, có anh; ở nhà, chị có nhà có ruộng, đến đây lại có đất, có cửa hàng. Chị chẳng qua vì chỗ bà con nên mới đến đây, việc lớn nhỏ không phải nhờ ai một đồng nào, lúc nào muốn đi thì đi. Tôi không có một tí gì, ăn mặc tiêu pha lại đều được đối đãi như các cô ở nhà này. Như thế bọn tiểu nhân lẽ nào họ không chán ghét mình?
Bảo Thoa cười nói:
- Sau này chỉ tốn thêm một bộ đồ cưới thôi, bây giờ hãy chưa cần nghĩ đến.
Đại Ngọc đỏ mặt lên, cười nói:
- Tưởng chị đứng đắn, nên người ta mới kể những nỗi buồn phiền ra cho nghe, thế mà chị lại đem tôi ra làm trò cười!
- Tuy tôi nói đùa, nhưng là chuyện thực. Cô cứ yên tâm, tôi còn ở đây ngày nào, sẽ làm cho cô được khuây khỏa ngày ấy. Cô có điều gì bực tức khó khăn, cứ nói cho tôi biết, có thể đỡ đần được, thế nào tôi cũng đỡ đần cho cô. Tôi tuy có anh, chắc cô cũng đã biết anh tôi như thế nào rồi, tôi chỉ hơn cô ở chỗ còn mẹ thôi. Chúng ta là người cùng bệnh nên thương lẫn nhau. Cô là người hiểu đời, tội gì lại than thở như Tư Mã Ngưu(3) ngày trước? Câu vừa rồi cô nói phải đấy, “thêm một việc chẳng bằng bớt một việc”. Có lẽ nhà tôi còn yến sào, tôi sẽ về nói với mẹ tôi đưa đến cho cô mấy lạng, mỗi ngày bảo bọn a hoàn nấu lên, vừa tiện vừa không bận đến ai.
- Vật tuy nhỏ, nhưng chị có lòng tốt như thế, thật là đáng quý.
- Cái đó có gì đáng nói? Chỉ sợ không được vừa lòng mọi người thôi. Bây giờ sợ cô mệt, tôi về đây.
- Tối chị lại đến chơi nói chuyện với tôi.
Bảo Thoa nhận lời rồi về.
Đại Ngọc húp mấy ngụm cháo rồi nằm ngả ở trên giường. Không ngờ về chiều giở trời, mưa xuống tầm tã, mây kéo đùn đùn, khi mưa khi tạnh. Lúc ấy đã về chiều, trời tối sầm xuống, nước mưa nhỏ róc rách vào những cành trúc, càng thêm buồn tẻ. Biết Bảo Thoa không thể đến được, Đại Ngọc ngồi bên đến cầm quyển sách xem, quyển Nhạc phủ tạp cảo(4), trong đó có hai bài từ “thu khuê oán” và “biệt ly oán". Đại Ngọc trong lòng cảm xúc, làm ngay một bài Đại biệt ly theo điệu "Xuân giang hoa nguyệt dạ"(5) đặt tên từ là "Thu song phong vũ tịch”(6) như sau:
Sang thu hoa cỏ úa vàng,
Đèn thu trằn trọc đêm trường đầy thu.
Song thu thu vẫn trơ trơ.
Lạnh lùng giờ lại gió mua thêm càng.
Đòi cơn mưa gió phũ phàng,
Sang thu tan giấc mơ màng từ đây.
Bận lòng nào nỡ ngủ say,
Bình kia bước tới, sáp này khêu cao,
Tờ mờ ngọn sáp dọi vào,
Này buồn, này giận nao nao khôn cầm.
Nhà nào gió chẳng tới thăm?
Nơi nào mưa chẳng rì rầm bên song?
Gió thu lạnh toát chăn hồng,
Mưa thu như giục tiếng đồng hồ reo.
Đêm đêm rả rích rì rào,
Trước đèn như muốn nghẹn ngào cùng ai.
Buồn tênh khói lạnh phía ngoài,
Trúc thưa cửa vắng bên tai lầm rầm.
Lúc nào gió tắt mưa cầm,
Thì đây lệ đã ướt đầm song the.
Ngâm xong, Đại Ngọc gác bút lên định đi ngủ, có a hoàn vào báo: “Cậu Bảo đã đến”. Nói chưa dứt lời, đã thấy Bảo Ngọc đội nón lá, khoác áo tơi đến, Đại Ngọc phì cười nói:
- Chàng đánh cá này ở đâu đến đây?
Bảo Ngọc liền hỏi:
- Hôm nay có đỡ chưa? Uống thuốc gì? Ăn được bao nhiêu cơm?
Vừa nói vừa bỏ nón xuống, cởi áo tơi ra, một tay cầm đèn, một tay che ánh đèn, soi vào mặt Đại Ngọc, nhìn một lúc rồi cười nói:
- Hôm nay thần sắc khá rồi đấy.
Khi Bảo Ngọc cởi áo tơi ra, Đại Ngọc thấy trong người cậu ta chỉ mặc một áo lụa đỏ ngắn hơi rung rúc, lưng buộc khăn xanh, mặc quần áo lụa xanh cải hoa, chân đi bí tất sợi dệt lẫn chỉ kim tuyến, đôi giày bươm bướm vờn hoa, Đại Ngọc hỏi:
- Trên đầu anh sợ mưa, sao dưới chân lại đi giày và bít tất này vẫn khô thế?
- Nguyên là anh mặc cái bộ như thế này. Vừa đi cả đôi guốc gỗ đường, lên đến thềm thì bỏ ra.
Đại Ngọc lại thấy áo tơi và nón rất tinh xảo nhẹ nhàng, không phải là đồ bán ở chợ, liền hỏi:
- Đan bằng cỏ gì thế? Thảo nào mặc những đồ này không lù xù như là lông dím.
- Ba thứ này là của Bắc Tĩnh vương cho. Khi trời mưa, Đức vương ở nhà thường dùng những thứ này, nếu em thích, anh sẽ kiếm một bộ đưa cho. Thứ khác không nói, chỉ có chiếc nón này là thích nhất: cái chóp ở trên có thể mở ra đóng vào được, gặp khi có tuyết đội mũ vào rút cái que cài ra, bỏ chóp trên đi, chỉ còn lại một cái vành thôi. Lúc có tuyết thì con trai con gái đều đội được cả. Anh đưa cho em một cái để mùa đông có tuyết sẽ đội.
Đại Ngọc cười nói:
- Em không cần, nếu đội cái này thành ra một bà đánh cá vẽ ở trong tranh hay là diễn ở trên sân khấu mất.
Nói đến câu này, Đại Ngọc mới nhớ ngay ra câu mình vừa nói ăn khớp với câu nói đùa Bảo Ngọc lúc nãy nên cứ hối mãi, rồi đỏ ửng mặt lên, gục xuống án ho.
Bảo Ngọc không để ý, thấy trên án có bài thơ, liền lấy ra xem, khen hay mãi. Đại Ngọc vội giật lấy đốt đi. Bảo Ngọc cười nói:
- Đốt cũng không can chi, anh đã thuộc hết rồi.
- Em khỏi nhiều rồi, cảm ơn anh hàng ngày lại thăm em mấy lần, mưa cũng lại. Bây giờ đêm khuya rồi, em muốn đi nghỉ, anh hãy về đi, mai lại đến.
Bảo Ngọc nghe nói, móc ra một cái đồng hồ vàng to bằng hạt đào để xem, thấy kim đã chỉ vào chỗ cuối giờ tuất đầu giờ hợi, vội vàng cất đi và nói:
- Đáng lẽ em đi nghỉ rồi, anh lại đến quấy rầy em một lúc.
Nói xong, đội nón khoác áo đi ra, bỗng quay lại hỏi:
- Em muốn ăn cái gì cứ nói, sáng mai anh sẽ trình với cụ. Anh nói lại không rõ ràng hơn bọn bà già à?
- Để đến đêm em nghĩ xem đã, sáng mai sẽ nói. Anh xem, lại mưa to rồi, về đi thôi. Có ai đi theo hầu đấy không?
Hai bà già trả lời:
- Thưa cô, đã có người ở ngoài này cầm dù và thắp đèn lồng rồi.
Đại Ngọc cười nói:
- Giời này mà thắp đèn lồng à?
Bảo Ngọc nói:
- Không việc gì, đèn kiểu sừng dê đấy, không sợ mưa.
Đại Ngọc nghe nói, lấy cái đèn pha lê hình quả cầu ở trên tủ sách xuống, sai thắp một cây nếp nhỏ, đưa cho Bảo Ngọc, nói:
- Đèn này sáng hơn đèn kia, dùng để đi mưa đấy.
- Anh cũng có một cái đèn kiểu này, nhưng sợ họ trượt chân ngã thì vỡ mất, nên không mang đi.
- Vỡ đèn hơn hay người ngã đáng kể hơn? Anh lại không quen đi guốc gỗ. Cái đến lồng kia để họ thắp mang đi trước, còn cái đèn này vừa nhẹ vừa sáng, chỉ để cho một người dùng khi đi mưa thôi. Anh cầm lấy cái đèn này thì hơn, ngày mai sẽ mang sang giả em. Nếu nhỡ tay đánh vỡ cũng chẳng là bao, việc gì mà lại giở cái lối "mổ bụng giấu ngọc"(7) ấy?
Bảo Ngọc nghe nói, cầm lấy đèn. Đằng trước, hai bà già che dù và cầm đèn sừng dê; đằng sau lại có hai a hoàn nhỏ che dù. Bảo Ngọc đưa cái đèn cho một a hoàn cầm, rồi vịn vào vai nó đi về.
Có hai bà già ở Hành Vu Uyển, cũng che dù, xách đến đến đưa cho Đại Ngọc một gói yến sào lớn, một gói đường mai hoa trắng và nói:
- Những thứ này tốt hơn của đi mua. Cô chúng tôi bảo: “Cô cứ ăn đi, hết lại đưa sang”.
Đại Ngọc nói: “Làm phiền cô nhà quá". Rồi mời họ ra ngoài uống nước. Bà già cười nói:
- Chúng tôi không uống, còn phải đi có việc.
Đại Ngọc cười nói:
- Tôi cũng biết các bà bận. Hôm nay mát trời, đêm lại dài, càng nên chơi mấy ván bài.
Một bà già cười nói:
- Chẳng giấu gì, năm nay cũng có phần khá; vả chăng đêm nào cũng phải có mấy người canh, nếu để lỡ giờ không được, chi bằng họp nhau đánh bạc để vừa ngồi cầm canh vừa giải buồn. Đêm nay đến phiên tôi, hễ đóng cửa vườn là chúng tôi lại sắp đánh đấy.
Đại Ngọc cười nói:
- Phiền các bà phải đi giữa mưa vất vả, lại làm cho các bà lỡ dịp phát tài.
Rồi sai người đưa cho họ mấy trăm đồng tiền, đem mua rượu uống để chống lạnh. Hai bà già cười nói:
- Lại quấy quả cô phải thưởng rượu.
Nói xong, họ chào rồi ra ngoài nhận tiền, che dù ra về.
Tử Quyên cất yến sào rồi tắt đèn, buông rèm, hầu hạ Đại Ngọc đi ngủ. Đại Ngọc nằm nghĩ cảm ơn Bảo Thoa, lại mừng cho chị ta còn có mẹ có anh, một lúc lại nghĩ Bảo Ngọc thường ngày thân mật với chị ta, vẫn có chỗ đáng ngờ vực. Bỗng nghe giọt mưa róc rách trên tàu chuối và cành trúc, gió lạnh thổi qua màn, tự nhiên nước mắt Đại Ngọc lại tràn ra, đến canh tư mới ngủ được.
---------------------
(1). Thời phong kiến, những người được phong chức tước hoặc con làm quan to mà cha mẹ được phong, đều gọi là phong quân hoặc phong ông.
(2). Những người làm tôi tớ cho bọn quý tộc địa chủ trong thời phong kiến.
(3). Tư Mã Ngưu: học trò Khổng Tử, không có anh em nào.
(4). Các bài thơ trong Nhạc phủ.
(5). Đêm giăng hoa ở sông mùa xuân.
(6). Buổi chiều mưa gió trước cửa sổ mùa thu.
(7). Trọng của hơn người.
Hồi thứ bốn mươi sáu
Người liều lĩnh khó thoát việc liều lĩnh
Gái Uyên Ương thề dứt bạn uyên ương
Phượng Thư thấy Hình phu nhân gọi, không biết là việc gì, liền mặc áo lên xe đi sang. Hình phu nhân đuổi những người trong nhà ra, rồi khẽ bảo Phượng Thư:
- Gọi con đến đây, vì có một việc khó nghĩ quá. Cha con bảo ta điều này, ta chưa biết nghĩ sao, hãy bàn với con trước. Cha con trông thấy con Uyên Ương ở đằng nhà cụ, muốn lấy nó làm nàng hầu bảo ta đến xin cụ. Ta nghĩ cũng là một việc thường, nhưng chỉ sợ người không cho. Con có cách gì giúp được việc này không?
Phượng Thư cười nói:
- Cứ ý con thì không nên đụng vào cái đinh ấy. Cụ mà dứt con Uyên Ương ra thì sẽ ăn không ngon ngủ không yên đâu. Vả chăng ngày thường lúc vui chuyện, người vẫn nói: cha con bây giờ đã có tuổi rồi, thế mà nàng hầu ở trong nhà cứ kè kè bên này một đứa bên kia một đứa. Điều thứ nhất là làm nhỡ nhàng con gái nhà người ta, điều thứ hai là không biết giữ gìn thân thể, việc quan làm cũng chẳng ra gì, cả ngày chỉ chè chén với bọn hầu trẻ! Mẹ nghe đấy, bà có ưa gì cha con đâu? Bây giờ muốn tránh đi chả được, lại còn định cầm gậy rơm thọc vào mũi hùm hay sao? Xin mẹ đừng giận, con không dám nói việc ấy đâu. Rõ ràng nói cũng chẳng ăn thua gì, mà lại gây thêm những điều không hay. Cha con bây giờ đã già rồi, việc làm cũng có khi nhầm lẫn, mẹ nên khuyên ngăn mới phải. Nếu lúc còn trẻ mà làm những việc ấy thì cũng không sao. Bây giờ anh em con cháu hàng đàn rồi, lại còn gây chuyện như thế, chẳng khó coi với người ta lắm hay sao?
Hình phu nhân cười nhạt nói:
- Nhà quan năm thiếp bảy thê cũng là thường, riêng nhà ta lại không được à? Mẹ có ngăn cha con cũng chẳng nghe đâu. Con Uyên Ương dù là người hầu thân yêu của cụ, nhưng một ông con cả đầu râu đốm bạc; lại làm quan, muốn lấy nó làm nàng hầu, chắc nó cũng chả từ chối. Ta gọi chị đến đây, chẳng qua để bàn thôi, thế mà chị đã nói ra hàng tràng không nên. Lẽ nào ta lại bảo chị đi? Tất nhiên ta phải đi lấy. Chị lại còn bảo ta không biết can ngăn. Chị không biết tính bố chồng chị à! Can không được lại đâm ra cãi nhau với ta thôi.
Phượng Thư thấy Hình phu nhân tính vốn khờ dại nhút nhát, chỉ tìm cách chiều chuộng Giả Xá để được yên thân, và tham vớ được nhiều tiền là thích, còn việc lớn nhỏ trong nhà đều mặc Giả Xá sắp đặt. Những khoản chi thu nào vào tay bà ta, thì tìm cách bớt xén thậm tệ. Bà ta thường lấy cớ Giả Xá hay hoang phí, ta phải tằn tiện, mới có thể bù vào. Trong bọn con gái, người hầu, không tin ai và cũng chẳng nghe ai. Phượng Thư biết bà ta lại giở tính, dù can ngăn cũng chẳng được nào, liền cười nói:
- Mẹ nói rất phải. Con hãy còn dại, chưa biết đắn đo. Con nghĩ rằng đã xin trước cha mẹ, thì không những một con a hoàn, dù người ngọc đi nữa cụ chả cho cha con còn cho ai? Những lời nói vắng mặt, tin làm sao được? Con thực là ngu ngốc! Ngay như cha con, khi có điều gì không phải, cha mẹ giận, muốn lôi ngay đến đánh chết, nhưng khi thấy mặt là xong hết, rồi lại lấy những vật quý đem ra cho. Cứ ý con, hôm nay cụ đang vui, mẹ đến xin ngay đi. Con hãy đến trước chuyện trò cho cụ vui, khi mẹ đến con sẽ kiếm cách đem tất cả người hầu trong nhà lảng ra một chỗ. Khi ấy mẹ tha hồ nói với người, nếu người cho càng hay, không cũng chẳng sao, chả ai biết cả.
Hình phu nhân thấy Phượng Thư nói thế, liền vui vẻ bảo:
- Ta định không nên thưa với cụ vội, nếu nói trước, người không nghe sẽ hỏng mất việc. Ta nghĩ nên bảo khẽ Uyên Ương trước đã. Dù nó xấu hổ, ta sẽ nhỏ to bảo nó rạch ròi, nó không nói gì tức là yên chuyện. Bấy giờ ta mới trình cụ, dù người không bằng lòng cũng không thể ngăn cấm được ý muốn của nó. Người ta thường nói "người đã định không nên giữ lại, như vậy mới là ổn thỏa".
Phượng Thư cười nói:
- Mẹ nhiều mưu trí thực, thế là êm thấm vạn phần. Đừng nói là con Uyên Ương, dù ai đi nữa, cũng chẳng muốn trèo cao trông lên, để mong được mở mày mở mặt hay sao? Nó bỏ danh giá nửa bà chủ không làm, đâm đầu đi làm a hoàn, sau này lấy một thằng ranh con, thế là xong đời.
Hình phu nhân cười nói:
- Nói thế phải đấy. Không cứ con Uyên Ương, ngay cả đến những a hoàn lớn coi việc, ai mà chẳng thích được như thế? Giờ chị hãy sang trước đi, chớ để lộ chuyện đấy, ta ăn cơm xong sẽ sang ngay.
Phượng Thư nghĩ thầm: “Con Uyên Ương thực đáng ghét. Nhưng chắc đâu nó bằng lòng? Nếu mình sang trước, nó bằng lòng ra thì không có chuyện gì, nếu không bằng lòng, mẹ ta là người đa nghi, lại ngờ ta nói lộ chuyện, để cho nó làm bộ. Bấy giờ mẹ ta thấy đúng như lời ta nói, đâm xấu hổ, đem ta ra giày vò cho hả giận, như thế không hay. Chi bằng ta cùng đến với mẹ ta, dù nó bằng lòng hay không, chắc mẹ chẳng ngờ đến ta”. Liền cười nói:
- Lúc nãy con vừa về đến nhà, bên nhà mợ con mang cho hai lồng gà gô, con đã bảo chúng nó quay rồi, định đến bữa cơm chiều đưa sang biếu mẹ. Khi mới đến cửa ngoài, thấy bọn hầu nhỏ kéo xe đi, nói: “Xe của mẹ bật mui, phải đem đi sửa”. Chi bằng bây giờ mẹ ngồi xe của con cùng đến thì hơn.
Hình phu nhân nghe nói, liền gọi người đến lấy quần áo thay, Phượng Thư vội vàng hầu hạ một lúc, rồi hai mẹ con cùng ngồi xe đi, Phượng Thư lại nói:
- Mẹ đến đằng cụ, nếu con cùng đi, người hỏi đến làm gì sẽ không tiện; vậy mẹ đến trước, con về thay quần áo rồi sẽ sang sau.
Hình phu nhân nghe nói có lý, liền một mình đến chỗ Giả mẫu, chuyện phiếm một lúc rồi ra, nói vờ là sang nhà Vương phu nhân. Theo lối cửa sau tìm đến buồng Uyên Ương, thì thấy nó đang ngồi thêu. Thấy Hình phu nhân đến, Uyên Ương đứng dậy. Hình phu nhân cười hỏi:
- Cô làm gì thế?
Vừa hỏi vừa cầm lấy bức thêu ở tay Uyên Ương ra xem, rồi nói:
- Ta xem hoa của cô thêu nào.
Ngắm một lúc rồi nói: “Đẹp lắm”. Liền bỏ bức thêu xuống, ngắm nghía suốt người Uyên Ương, thấy nó mặc áo lụa màu hoa sen rung rúc, đeo cái khoác vai bằng nhiễu xanh, mặc quần màu nước biển, thắt đáy lưng ong, mặt trái xoan, tóc đen láy, mũi dọc dừa, hai má có mấy nốt rỗ nhỏ.
Uyên Ương thấy Hình phu nhân nhìn mình, đâm ra ngượng, trong bụng lấy làm lạ, cười hỏi:
- Thưa bà, bây giờ giữa chừng giữa buổi, bà sang có việc gì?
Hình phu nhân đưa mắt, bọn người hầu lui ra ngoài. Hình phu nhân ngồi xuống, cầm lấy tay Uyên ương cười nói:
- Ta sang cốt để mừng cho cô đây.
Uyên Ương nghe nói, trong bụng đã đoán được vài ba phần, đỏ mặt cúi đầu, không nói câu gì. Hình phu nhân nói:
- Chắc cô cũng biết, ông nhà hiện giờ không có người hầu nào đáng tin cậy cả. Định bụng mua một người, nhưng lại sợ những người của bọn lái buôn đưa đến không được tử tế, nhỡ ra phải người có tật xấu gì, mua về được vài ba ngày lại đâm giở quẻ. Muốn tìm một người con gái ở ngay trong nhà, nhưng không có người nào khá cả: kẻ thì xấu người, kẻ thì xấu nết, được đằng nọ, hỏng đằng kia. Ta để ý đến nửa năm nay, chỉ có cô là hơn cả: dáng người đẹp, thạo công việc, tính nết ôn hòa, có thể tin cậy, thật là được cả người lẫn nết, ý ta muốn trình cụ lấy cô em về nhà. Cô không phải như người ở ngoài mới mua về, cứ về đến nhà là sẽ phong ngay làm dì Hai, vừa có thể diện, vừa được tôn quý. Tục ngữ nói: "người vàng lại đổi lấy vàng”, ngờ đâu lại vừa mắt ông nhà như thế! Bây giờ cô về bên nhà, sẽ được thỏa lòng mong muốn cao quý xưa nay, lại bịt miệng được những kẻ vẫn không ưa cô. Cô theo tôi về trình cụ đi.
Nói xong định kéo tay Uyên Ương đi.
Uyên Ương đỏ bừng mặt lên, giật tay lại không đi. Hình phu nhân tưởng cô ta xấu hổ, liền nói:
- Việc gì mà cô phải xấu hổ? Cô không phải nói câu gì cả, chỉ theo tôi đi là được rồi.
Uyên Uơng chỉ cúi đầu không đi. Hình phu nhân thấy thế liền hỏi:
- Không lẽ cô còn không bằng lòng hay sao? Nếu quả có thế thì cô khờ dại quá. Không muốn làm bà chủ, lại muốn làm con hầu à! Vài ba năm nữa, cô đi lấy một thằng bé con, đầy tớ lại hoàn đầy tớ. Nay về với chúng tôi, chắc cô đã biết tính tôi, hiền lành, hay dung kẻ dưới, ông nhà lại đối đãi tử tế với cô. Độ chừng một năm, năm bảy tháng sinh được đứa con, thế là cô bằng vai với tôi rồi. Cô muốn sai bảo người trong nhà ai chẳng phải nghe? Danh giá bà chủ mà không chịu làm, sau này lỡ dịp có hối cũng muộn!
Uyên Ương vẫn cúi đầu, không chịu nói một câu. Hình phu nhân lại nói:
- Cô xưa nay là người nhanh nhẹn kia mà, sao bây giờ lại thẫn thờ ra thế? Có điều gì không bằng lòng cô cứ nói, tôi hứa sẽ làm cho cô được vừa ý”.
Uyên Ương vẫn không nói gì. Hình phu nhân lại cười nói:
- Chắc cô còn bố mẹ ở nhà, tự mình không nói ra, sợ xấu hổ, phải chờ bố mẹ cô hỏi mới nói ra chăng? Như thế cũng đúng lý. Vậy để tôi đi hỏi, rồi bảo bố mẹ cô đến. Có điều gì cô cứ nói với bố mẹ cô cũng được.
Nói xong liền đi đến nhà Phượng Thư.
Phượng Thư đã thay quần áo xong, nhân tiện trong nhà vắng người, liền đem việc này nói cho Bình Nhi biết. Bình Nhi lắc đầu cười nói:
- Cứ ý tôi việc này chưa chắc đã ổn. Những khi vắng người, chúng tôi thường gợi chuyện, nhưng xem ý chị ta chưa chắc đã chịu. Thôi hãy cứ nói xem sao.
Phượng Thư nói:
- Bà Cả tất phải đến đây bàn việc ấy, nó bằng lòng còn khá nếu không, chỉ thêm bẽ mặt với các chị thôi, nghĩ cũng khó coi đấy. Chị đi bảo họ quay gà gô, làm thêm mấy món ăn nữa, sắp sửa bữa cơm rồi chị đi ra đâu đó, lúc nào bà ấy về hãy vào.
Bình Nhi nghe nói, truyền bảo bọn bà già, rồi đủng đỉnh đi qua bên vườn.
Uyên Ương thấy Hình phu nhân đi rồi, chắc thế nào cũng đến bàn với Phượng Thư và sẽ có người đến hỏi mình, chi bằng tránh đi một chỗ cho xong. Uyên Ương liền tìm Hổ Phách bảo:
- Cụ có hỏi tôi, chị cứ bảo tôi khó ở, sáng nay không ăn cơm, đi vào trong vườn chơi một chốc sẽ về.
Hổ Phách nhận lời. Uyên Ương qua vườn chơi, không ngờ lại gặp Bình Nhi. Bình Nhi thấy không có ai, liền cười nói:
- Bà dì mới đã đến đấy à?
Uyên Ương đỏ mặt nói:
- Không trách được chúng mày thông đồng với nhau định kế hại tao! Tao sẽ đến làm to chuyện với mụ chủ nhà mày xem!
Bình Nhi thấy Uyên Ương giận dỗi ra mặt, tự hối mình đã lỡ lời, liền kéo chị ta đến gốc cây phong, ngồi xuống hòn đá, kể rõ đầu đuôi câu chuyện Phượng Thư vừa nói. Uyên Ương đỏ mặt lên, cười nhạt, bảo Bình Nhi:
- Tôi nghĩ chị em chúng ta vẫn ăn ở tốt với nhau: như các chị Tập Nhân, Hổ Phách, Tố Vân, Tử Quyên, Thái Hà, Ngọc Xuyến, Xạ Nguyệt, Thúy Mặc, cùng chị Thúy Lũ theo hầu cô Sử, chị Khả Nhân và chị Kim Xuyến đã chết rồi, chị Phiến Tuyết đã đi rồi, kể cả chị với tôi nữa tất cả hơn mười người, từ khi còn bé, điều gì mà chẳng nói với nhau, việc gì mà chẳng bàn với nhau? Bây giờ đã lớn cả rồi, ai có thân người ấy lo,nhưng bụng tôi thì vẫn như trước: có điều gì, việc gì, tôi không giấu các chị. Câu này thì tôi nói, chị hãy để bụng, đừng nói cho mợ Hai biết: đừng nói ông ấy muốn tôi làm vợ lẽ, chứ dù bây giờ, bà ấy chết đi, ông ấy mối lái năm lần bảy lượt lấy tôi về làm vợ cả, tôi cũng chẳng nghe!
Bình Nhi muốn nói nữa, thấy đằng sau núi có tiếng cười ha hả nói:
- Thật cái con không biết thẹn! Nói không biết ngượng mồm!
Hai người nghe nói giật nảy mình, vội chạy ra sau núi tìm, thấy Tập Nhân đang cười rồi chạy đến hỏi:
- Có việc gì thế? Nói cho tôi nghe với.
Rồi ba người cùng ngồi trên hòn đá, Bình Nhi kể lại chuyện vừa rồi cho Tập Nhân nghe. Tập Nhân nói:
- Nhẽ ra chúng ta không nên nói: lão già này thực là đê tiện quá! Hễ thấy ai hơi dễ coi là lão không chịu buông tha.
Bình Nhi nói:
- Chị đã không bằng lòng, tôi xin bảo cách cho chị.
Uyên Ương hỏi: “cách gì?”
- Chị cứ nói với cụ rằng, đã cho cậu Liễn rồi, như thế ông Cả sẽ không thể đòi nữa.
Uyên Ương nhổ toẹt một cái nói:
- Mày còn nhắc đến cái của ấy làm gì? Hôm trước chủ mày chả đã nói bậy đó sao? Không ngờ bây giờ tao mới rõ.
Tập Nhân cười nói:
- Chị không bằng lòng hai người kia, theo ý tôi, chị nên nói với cụ, nhờ người bảo rằng đã cho cậu Bảo rồi, như thế ông Cả cũng sẽ dứt lòng đòi hỏi.
Uyên Ương vừa tức vừa thẹn, vừa nổi nóng, liền mắng:
- Hai con khốn nạn này! Chúng mày không được chết tử tế đâu! Người ta có việc khó xử, tưởng chúng mày là người đứng đắn, nên bàn cách giúp, chúng mày chẳng nghĩ hộ được gì, lại thay nhau đem tao ra làm trò cười Chúng mày tưởng rằng rồi đây sẽ tốt cả đấy! Sẽ làm dì Hai cả đấy? Cứ ý tao, việc ở trên đời này chưa chắc đã được như ý cả đâu. Chúng mày hãy xếp lại, vừa vừa chứ, đừng có hí hửng vội.
Hai người thấy Uyên Ương nóng lên, liền cười nói:
- Chị đừng nên ngờ vực, chúng ta từ bé đến giờ đã thân mật với nhau như chị em ruột, chẳng qua lúc vắng người, chúng tôi nói đùa để cười cho vui đấy thôi. Chị định thế nào cứ nói cho chúng tôi biết, không ngại gì đâu.
- Chả có ý định gì. Tôi cứ không đi là xong.
Bình Nhi lắc đầu nói:
- Chị không đi, chưa chắc người ta đã để cho chị yên. Tính ông Cả thế nào, chị đã biết rồi đấy. Tuy chị là người hầu bên cụ, bây giờ lão chẳng dám làm gì chị đâu, nhưng không dễ chị theo hầu cụ suốt đời? Cũng có lúc phải đi chứ. Bấy giờ mà lọt vào tay lão thì không ra gì đâu!
Uyên Ương cười nhạt:
- Cụ còn sống ngày nào tôi nhất định không rời chỗ này! Nếu người quy tiên, thế nào lão ta cũng phải để tang ba năm, không có lẽ mẹ vừa chết lại đi lấy vợ lẽ! Chờ hết ba năm, xem cơ mầu thế nào bấy giờ sẽ liệu. Nếu khi nguy cấp khó xử, tôi đành cắt tóc đi tu! Không thì chết là cùng! Suốt đời chẳng lấy chồng đã làm sao? Lại càng khỏi vướng.
Bình Nhi và Tập Nhân cười nói:
- Con bé này thật không biết thẹn, thuận miệng cứ lau láu nói ra hết cả.
- Đã đến nông nỗi này thẹn mà làm gì? Các chị không tin, sau này sẽ biết! Bà ấy nói sẽ đi tìm bố mẹ tôi. Cứ cho đến tận Nam Kinh mà tìm!
Bình Nhi nói:
- Ông bà nhà chị đều trông nhà cho chủ ở Nam Kinh không đến đây bao giờ, lâu rồi cũng sẽ tìm được. Nhưng hiện giờ có anh và chị dâu chị ở đây. Tiếc rằng chị là người sinh ra ở nhà này, chứ không như hai chúng tôi chỉ có một mình đến đây thôi.
Uyên Ương nói:
- Sinh ra ở nhà này thì đã làm sao? "Trâu không muốn uống nước cố đè sừng" liệu có được chăng? Tôi không bằng lòng chẳng lẽ giết cả bố mẹ tôi?
Đương nói thì chị dâu Uyên Ương đến. Tập Nhân nói:
- Bây giờ họ không tìm đến bố mẹ chị, chắc họ đã nói chuyện với chị dâu chị.
Uyên Ương nói:
- Con đĩ ấy chỉ chuyên làm nghề “bán rau chào khách”, nghe thấy vậy làm gì mà nó chẳng chiều chuộng đi ngay.
Vừa lúc ấy người chị dâu đến nơi, cười nói:
- Cô ở đây à? Tôi đi tìm mãi không thấy. Cô lại đằng này tôi nói câu chuyện.
Bình Nhi, Tập Nhân đều mời ngồi. Người chị dâu nói:
- Các cô cứ ngồi, tôi cùng cô em nói câu chuyện riêng.
Tập Nhân và Bình Nhi giả cách không biết, đều cười nói:
- Chuyện gì mà cần thiế? Chúng tôi thử đoán xem, chờ đoán xong rồi hãy đi.
Uyên Ương nói:
- Chuyện gì đấy? Chị cứ nói đi.
Người chị dâu cười nói:
- Cô cứ lại đây tôi sẽ nói, thế nào cũng có chuyện hay.
- Có phải là việc bà ấy đã nói với chị không?
- Cô đã biết lại còn hỏi vặn gì tôi! Mau mau lại đây! Tôi nói rạch ròi cho mà nghe. Việc vui mừng to như trời ấy!
Uyên Ương nghe nói, đứng ngay dậy, nhìn thẳng vào mặt chị dâu nhổ toẹt một cái, mắng:
- Thôi hãy ngậm ngay cái mồm l... ấy lại, cút khỏi chỗ này cho rảnh. Chuyện gì hay? Chuyện con khỉ ăn gừng! Chuyện gì mừng? Chuyện ông huyện về quê!(1) Thảo nào ngày thường các người cứ thèm thuồng bọn a hoàn nhà khác được làm bà trẻ, để cả nhà cậy thế làm càn, cả nhà đều được làm bà trẻ! Thấy thế là các người nóng mắt lên, chực đẩy tôi vào lò lửa. Nếu tôi đắc thế, các người ở ngoài tha hồ ngang tàng làm bậy, tự phong cho mình là ông cậu. Nếu tôi không ra gì, gặp lúc thất thế, các người sẽ rụt cổ lại, sống chết bỏ mặc tôi.
Uyên Ương vừa nói vừa khóc. Bình Nhi, Tập Nhân tìm cách khuyên giải. Người chị dâu ngượng mặt quá, liền nói:
- Bằng lòng hay không, cô cũng nói tử tế, việc gì mà phải xỉa xói nhau. Tục ngữ có câu: "Trước mặt người lùn chớ nói chuyện lùn”. Cô mắng tôi, tôi không dám nói lại; nhưng hai cô này có trêu ghẹo gì cô, thế mà cô cũng nhai nhải như bà trẻ thế này, bà trẻ thế nọ, như thế có ngượng mặt cho các cô không?
Bình Nhi, Tập Nhân vội nói:
- Chị đừng nói những câu như thế. Chị ấy có nói gì đến chúng tôi đâu, chị đừng có gắp chúng tôi vào. Chị đã thấy các ông bà nào cất nhắc chúng tôi lên làm bà trẻ chưa. Vả chăng hai người chúng tôi chẳng có anh em, bố, mẹ nào ở đây để nhờ thế lực chúng tôi mà làm bậy! Chị ấy muốn mắng người nào tha hồ mà mắng, chúng tôi không việc gì phải chạnh lòng.
Uyên Ương nói:
- Nó thấy tôi mắng, đâm ra xấu hổ, không biết làm thế nào cho khỏi bẽ mặt, mới kiếm lời xúc xiểm hai chị đấy thôi. May mà hai chị là người hiểu đời. Vì tôi quá nóng, nói không biết giữ lời, nó mới nhân đó bày chuyện.
Chị dâu cụt hứng, hầm hầm bỏ đi.
Uyên Ương tức quá vẫn còn mắng theo. Bình Nhi, Tập Nhân can ngăn một lúc mới yên. Bình Nhi hỏi Tập Nhân:
- Chị núp ở đây làm gì thế? Chúng tôi không trông thấy chị.
Tập Nhân nói:
- Tôi nhân sang buồng cô Tư thăm cậu Bảo. Không ngờ chậm một chút, nghe nói cậu ấy đã về rồi. Tôi đang ngờ, sao lại không gặp? Tôi định sang bên cô Lâm tìm, lại gặp người nhà cô ấy bảo là cậu ấy không sang đấy. Tôi ngờ cậu ấy đi ra ngoài vườn. Ngay lúc đó gặp chị ở đằng kia lại. Tôi tránh ra một bên, chị không trông thấy. Sau chị Uyên Ương đến, tôi liền ở trong gốc cây chạy về phía sau núi giả, thấy hai chị đương ngồi nói chuyện. Thế mà bốn con mắt không trông thấy tôi.
Nói chưa dứt lời, chợt đằng sau có người nói:
- Bốn con mắt không trông thấy chị à? Giờ cả sáu con mắt cũng không trông thấy tôi đấy!
Ba người giật mình quay lại nhìn, té ra Bảo Ngọc.
Tập Nhân cười nói:
- Cậu ở đâu đến đây? Làm tôi tìm mãi.
- Tôi ở đằng cô Tư về, thấy chị đi đến, chắc là chị tìm tôi, nên tôi nép vào một chỗ để lừa chị. Trông thấy chị ngơ ngác đi qua, vào nhà rồi lại ra, gặp ai cũng hỏi, tôi buồn cười quá. Có ý chờ chị đến gần sẽ dọa lên một tiếng cho giật mình. Sau lại thấy chị cũng lẩn lẩn lút lút, biết là chị lại định dọa ai. Tôi ló đầu ra nhìn thấy hai chị kia, tôi liền đi vòng đến sau lưng chị. Chị đi rồi, tôi nấp vào chỗ của chị.
Bình Nhi cười nói:
- Chúng ta ra phía sau tìm xem chưa biết chừng lại vớ được một đôi nữa đấy.
Bảo Ngọc cười nói:
- Không còn ai nữa đâu.
Uyên Ương biết là Bảo Ngọc nghe hết chuyện này rồi, nên chỉ gục đầu xuống hòn đá giả cách ngủ. Bảo Ngọc lay dậy cười bảo:
- Đá này lạnh lắm, chúng ta về nhà ngủ chẳng hơn ư?
Nói xong, kéo Uyên Ương dậy, lại mời cả Bình Nhi về nhà uống nước, và cùng Tập Nhân khuyên Uyên Ương đi, Uyên Ương mới chịu đứng dậy. Bốn người cùng đến viện Di Hồng. Những câu chuyện vừa rồi, Bảo Ngọc đã nghe thấy cả, nên trong bụng cũng khó chịu thay cho Uyên Ương, cứ lặng lẽ nằm ngủ trên giường, mặc cho ba người cười nói ở nhà ngoài.
Hình phu nhân hỏi Phượng Thư về bố mẹ Uyên Ương, Phượng Thư nói:
- Bố nó tên là Kim Thái, hai vợ chồng đều trông nom nhà cửa ở Nam Kinh không hay về đây. Anh nó là Văn Tường, hiện giữ việc mua bán cho cụ. Chị dâu nó cũng trông coi việc giặt rửa ở nhà cụ.
Hình phu nhân sai người gọi vợ Kim Văn Tường đến, nói rạch ròi cho nghe. Chị ta lấy làm thích lắm, hăm hở đi tìm Uyên Ương, chắc mẩm nói một câu là xong ngay; ai ngờ bị Uyên Ương mắng cho một trận, lại bị Tập Nhân, Bình Nhi nói cho mấy câu, xấu hổ quá, về nói với Hình phu nhân:
- Chẳng ăn thua gì, tôi lại bị nó mắng cho một trận.
Vì có Phượng Thư ở đấy, chị ta không dám nói đến Bình Nhi chỉ nói:
- Tập Nhân lại hùn thêm vào, nói tôi nhiều câu chẳng ra gì, không thể kể với bà được. Bà bàn với ông đi mua đám khác vậy thôi. Chắc con ranh ấy chẳng có số tốt, mà nhà chúng tôi cũng chẳng làm gì có phúc lớn như thế.
Hình phu nhân nói:
- Việc gì đến con Tập Nhân? Sao nó lại biết được?
Rồi lại hỏi:
- Còn có ai ở đấy nữa không?
Vợ Kim Văn Tường nói:
- Còn có cô Bình nữa.
Phương Thư vội nói:
- Sao chị không lôi cổ nó về cho tôi? Tôi vừa mới đi khỏi, nó đã chạy biến rồi, về đến nhà chẳng thấy bóng vía đứa nào! Chắc nó cũng hùn thêm mấy câu chứ gì?
- Cô Bình không đứng gần đấy, tôi nhìn xa hình như cô ta, nhưng không chắc có đúng không, tôi đoán chừng đấy thôi.
Phượng Thư liền sai người:
- Mau đi gọi Bình Nhi, nói ta đã về rồi, bà cũng ở đây, bảo nó phải về ngay.
Phong Nhi liền thưa:
- Cô Lâm cho người mang giấy đến mời ba, bốn lần chị ấy mới đi. Lúc mợ vừa về đến cửa, tôi đi gọi chị ấy ngay. Nhưng cô Lâm nói: “về thưa với mợ, ta nhờ chị ấy một việc”.
Phượng Thư nghe vậy mới thôi, lại cố ý nói:
- Có việc gì mà ngày nào cũng nhờ nó thế?
Hình phu nhân không làm thế nào được, ăn xong cơm chiều rồi về nói với Giả Xá, Giả Xá nghĩ một lúc, liền gọi Giả Liễn đến bảo:
- Nhà cửa ở Nam Kinh còn có nhiều người khác trông nom, chứ không phải một mình Kim Thái, phải gọi ngay nó về đây.
Giả Liễn thưa:
- Lần trước ở Nam Kinh đưa tin về nói Kim Thái bị chứng đờm, thường mê man bất tỉnh, đã cho cả tiền mua sẵn áo quan rồi. Không biết bây giờ nó còn sống hay chết. Nếu nó sống cũng chẳng biết việc gì, gọi về cũng vô ích. Còn vợ nó thì lại điếc.
Giả Xá nghe xong quát mắng:
- Đồ ngu biết gì? Mày không cút ngay đi à?
Giả Liễn sợ quá lùi ra. Một lúc lại cho gọi Kim Văn Tường đến, Giả Liễn đành đứng chờ ngoài thư phòng, không dám về, cũng không dám gặp bố.
Một lúc, Kim Văn Tường đến. Bọn hầu nhỏ dẫn hắn vào cửa thứ hai, lâu lắm mới thấy hắn ra về. Giả Liễn không dám hỏi chuyện. Một lúc sau, thấy Giả Xá ngủ rồi mới dám về nhà. Đến tối, Phượng Thư kể lại chuyện, hắn mới hiểu rõ.
Uyên Ương suốt đêm không ngủ. Đến hôm sau, người anh cô ta đến xin Giả mẫu cho cô ta về nhà chơi, Giả mẫu bằng lòng. Uyên Ương không muốn về, nhưng sợ Giả mẫu ngờ, nên đành phải đi. Người anh đem những lời của Giả Xá nói cho cô ta biết, lại hứa hẹn nào là được thể diện, được làm dì Hai, trông nom việc nhà. Uyên Ương chỉ cắn răng không bằng lòng. Người anh không biết làm thế nào, đành phải về trình Giả Xá. Giả Xá tức giận nói:
- Ta bảo cho mà biết, mày về bảo vợ mày rằng: xưa nay “chị hằng yêu tuổi trẻ” chắc nó chê ta già, có lẽ nó chỉ yêu các cậu trẻ thôi! Chắc chắn là nó đã nhắm vào Bảo Ngọc, có lẽ cả thằng Liễn nữa. Nếu nó có bụng ấy thì bảo nó hãy mau mau xếp lại. Ta muốn lấy, nó không bằng lòng, sau còn ai dám lấy nó nữa? Đó là điều thứ nhất. Điều thứ hai nó tưởng cụ thương nó, sau này sẽ chính thức gả nó cho một người ở ngoài phủ này. Bảo nó nghĩ kỹ đi: dù nó lấy ai nữa, cũng khó thoát khỏi tay ta! Trừ phi nó chết đi, hay suốt đời không lấy chồng, ta mới chịu! Nếu không, bảo nó nên mau mau nghĩ lại, sẽ có nhiều điều hay đấy.
Giả Xá nói một câu, Kim Văn Tường “vâng” một câu. Giả Xá lại bảo:
- Không được nói dối ta, ngày mai ta lại bảo bà mày đến hỏi thẳng Uyên Ương. Mày nói nó không bằng lòng, sẽ không có lỗi; nếu ta hỏi nó bằng lòng thì mày liệu hồn đấy!
Kim Văn Tường vâng dạ luôn mồm. Về đến nhà, không kịp bảo vợ đi nói, hắn tự mình đến bảo thẳng Uyên Ương; Uyên Ương tức quá không trả lời được câu gì. Nghĩ một lúc, Uyên Ương nói:
- Dầu tôi bằng lòng, cũng phải mang tôi đến trình cụ đã.
Người anh và chị dâu đều cho Uyên Ương đã nghĩ lại, vui mừng khôn xiết. Người chị dâu liền dẫn Uyên Ương đến trình Giả mẫu.
Vừa gặp lúc Vương phu nhân, Tiết phu nhân và bọn chị em Lý Hoàn, Phượng Thư, Bảo Thoa cùng mấy người đàn bà coi việc có thể diện đang nói chuyện vui ở đấy. Uyên Ương mừng lắm, kéo chị dâu vào quỳ trước mặt Giả mẫu, vừa khóc vừa kể lại những câu Hình phu nhân nói thế nào, chị dâu nói ở trong vườn thế nào, nay người anh lại nói như thế nào. "Vì cháu không bằng lòng, ông Cả bảo là cháu mê cậu Bảo Ngọc, nếu không thì cũng đợi lấy người ngoài, bảo cháu có chạy lên trời suốt đời cũng không thoát khỏi tay ông ấy. Thế nào ông ấy cũng báo thù! Lòng cháu đã lạnh tắt rồi! Cháu nói trước mặt mọi người ở đây, đừng nói là Bảo Ngọc, chứ dù “Bảo Kim”, "bảo Ngân”, “Bảo Thiên Vương”, “Bảo Hoàng Đế” nào nữa, cháu cũng chẳng lấy, cứ ở vậy suốt đời là xong chuyện! Nếu cụ ép quá, cháu đành một nhát dao là xong đời, chứ không thể nào tuân lời được. Tốt phúc ra, cháu được chết trước cụ, nếu không may, cháu cũng đành nhất định hầu hạ đến khi cụ quy tiên, cháu sẽ không về với bố mẹ và anh em cháu đâu, hoặc tự tử, hoặc gọt đầu đi tu. Nếu bảo cháu không thực bụng, chỉ tạm thời tình cách chống đỡ, thì đã có giời đất, quỷ thần, mặt trời, mặt trăng chứng minh, sẽ bóp cháu sưng cổ nổ hầu ra mà chết!
Trước lúc Uyên Ương đến, trong tay áo đã giấu sẵn một cái kéo, nay vừa nói vừa đưa kéo lên cắt tóc. Bọn bà già, a hoàn trông thấy vội giữ lại, thì đã cắt mất một nửa nắm rồi. May tóc cô ta quá rậm, cắt vẫn không việc gì, mọi người vội vàng giúp cô ta búi lên.
Giả mẫu nghe nới, giận quá, người run cầm cập, rít giọng nói:
- Ta chỉ còn có một người trông cậy được, chúng nó lại định tìm cách cướp đi.
Nhân thấy Vương phu nhân đứng bên cạnh, liền bảo:
- Các người xưa nay đều lừa ta cả! Ngoài mặt ra vẻ hiếu thảo trong bụng lại ngấm ngầm chực hại ta. Có của gì tốt cũng đến lấy, có người nào tốt cũng đến đòi; còn có một con bé, thấy ta yêu nó, tự nhiên các người đâm tức, định xách nó đi, để rồi tha hồ mà làm hại ta.
Vương phu nhân đứng dậy, không dám nói lại một câu gì. Tiết phu nhân thấy Vương phu nhân cũng bị quở, nên không tiện khuyên giải; Lý Hoàn vừa nghe thấy những câu nói của Uyên Ương, đã dẫn chị em đi ra rồi. Thám Xuân là người biết nghĩ: biết Vương phu nhân bị mắng oan không dám nói lại; Tiết phu nhân là em ruột Vương phu nhân, không tiện cãi hộ cho chị; Bảo Thoa cũng không thể nói hộ cho dì; Lý Hoàn, Phượng Thư, Bảo Ngọc lại càng không dám lên tiếng; chỉ còn nhờ có bọn cháu gái; nhưng Nghênh Xuân thì thực thà, Tích Xuân hãy còn bé. Vì vậy, chị ta đang đứng ngoài cửa sổ nghe ngóng, vội chạy ngay vào cười nói với Giả mẫu:
- Việc này có liên can gì đến mẹ cháu đâu? Bà nghĩ lại xem: ông anh Cả muốn lấy người trong nhà, thì em dâu biết làm sao được? Mà dù có biết cũng phải chịu thôi.
Thám Xuân chưa nói dứt lời, Giả mẫu cười nói:
- Thật ta già lẫn rồi! Bà dì đừng cười tôi nhé? Chị bà là người rất hiếu thuận, không như chị dâu cả của tôi, một tí gì cũng sợ chồng, trước mặt mẹ chồng chẳng qua cũng chỉ dựa dẫm cho xuôi chuyện thôi. Thật là tôi nói oan cho chị ấy.
Tiết phu nhân chỉ vâng dạ, rồi lại nói:
- Cụ hơi thiên vị, có lẽ cũng vì thương con dâu út hơn.
Giả mẫu nói:
- Tôi không thiên vị đâu!
Lại nói:
- Bảo Ngọc, bà mắng nhầm mẹ cháu, sao cháu không nhắc để mẹ cháu bị mắng oan?
Bảo Ngọc cười nói:
- Không có nhẽ cháu lại bênh mẹ cháu mà nói bác giai và bác gái à? Chung quy cũng có người không phải, nhưng nếu mẹ cháu không nhận thì còn đổ cho ai? Cháu nhận lỗi về cháu chắc bà cũng chẳng tin nào.
Giả mẫu cười nói:
- Thế cũng có nhẽ. Nay cháu quỳ xuống trước mặt mẹ cháu nói: Mẹ đừng bực nữa, bà đã có tuổi rồi, xin mẹ hãy nhìn Bảo Ngọc này thôi.
Bảo Ngọc chạyđến quỳ xuống định nói, Vương phu nhân vội cười kéo Bảo Ngọc dậy:
- Đứng dậy, không thể thế được, lễ nào mày lại thay bà đến xin lỗi ta à?
Bảo Ngọc nghe nói liền đứng dậy:
Giả mẫu cười nói:
- Cháu Phượng cũng chẳng nhắc gì bà!
Phượng Thư cười nói:
- Cháu chưa vạch những điều không phải của bà ra, bà đã lại quặc cả cháu vào.
Giả mẫu nghe nói, cùng mọi người cười ầm lên:
- Thế mới lạ chứ! Ta cần nghe điều nào là điều không phải?
Phượng Thư nói:
- Ai bảo bà khéo chải chuốt cho người? Chải chuốt đến nỗi nó đẹp mơn mởn lên, trách nào người ta chả thích? May cháu là dâu đấy, chứ là cháu trai, thì cháu đòi bà đã lâu rồi, không còn chờ đến bây giờ.
- Đó là điều không phải của ta à?
- Đúng là điều không phải của bà.
- Đã thế thì ta không cần nó nữa, cháu đem nó về.
- Để cháu tu hết kiếp này, đến kiếp sau được làm con trai, cháu mới cần đến nó.
- Cháu mang nó về cho thằng Liễn, để xem ông bố chồng mặt dày của cháu còn đòi nữa hay thôi!
- Cháu Liễn không xứng đáng, nó chỉ xứng đáng với cháu và Bình Nhi là hai chiếc “bánh cháy” đấy thôi.
Mọi người nghe nói cười ầm lên.
A hoàn vào trình:
- Bà Cả đã đến.
Vương phu nhân vội ra đón.
------------------------
(1). Nguyên văn truyện con cắt của vua Huy Tông đời Tống, con ngựa của Triệu Tử Ngang và truyện quan trạng lên đậu mùa đang mưng.
Hồi thứ bốn mươi bảy
Tiết Bàn đa tình bị đánh
Tương Liên sợ tội trốn đi
Vương phu nhân thấy Hình phu nhân đến, liền ra đón. Hình phu nhân chưa hiểu Giả mẫu đã biết việc Uyên Ương, định đến thăm dò tin tức. Vào đến cửa, được bọn bà già khẽ mách, Hình phu nhân mới biết. Định quay về, nhưng người trong nhà đã trông thấy; lại thấy Vương phu nhân ra đón, nên đành phải vào chào Giả mẫu. Giả mẫu không thèm bắt lời. Hình phu nhân tự nghĩ xấu hổ. Phượng Thư mượn cớ tránh đi chỗ khác. Uyên Ương tức giận về buồng. Tiết phu nhân và Vương phu nhân sợ Hình phu nhân sượng mặt, cũng dần dần lui ra. Hình phu nhân đành phải ngồi lại. Giả mẫu thấy không có ai, mới bảo:
- Ta nghe nói, chị đi làm mối cho ông nhà chị phải không? Chị cũng làn hạng có đủ “tam tòng tứ đức” đấy. Nhưng cái hiền hậu của chị thật là quá đáng. Bây giờ nhà chị, con cháu đã đầy đàn rồi, thế mà chị còn sợ ông ấy. Tại sao chị không can ngăn câu nào, cứ mặc cho ông ấy muốn giở tính gì thì giở.
Hình phu nhân đỏ bừng mặt lên, thưa:
- Con đã khuyên ngăn nhiều lần, mà không nghe. Mẹ còn lạ gì nữa? Con cũng bất đắc dĩ phải chiều đấy thôi.
Giả mẫu nói:
- Thế nó bắt chị giết người, chị cũng giết à? Chị thử nghĩ xem, em dâu chị xưa nay vốn là người thực thà, lại hay đau ốm. Nhưng có việc gì mà không qua nó. Tuy có con dâu chị giúp đỡ nhưng cứ “buông dầm cầm chèo”, trăm việc đến tay. Mặc dù ta đã bớt việc cho nó nhiều rồi, nhưng cũng có khi cả hai người không nghĩ xiết, thì đã có con Uyên Ương cẩn thận, biết lo toan ít nhiều đến việc riêng của ta. Cái gì cần nó lấy ngay cho ta; cái gì đáng thêm, nó lựa dịp bảo họ thêm cho ta. Nếu không được con Uyên Ương thì các việc trong ngoài lớn nhỏ, chỉ có hai mẹ con nó, làm gì chằng có thiếu sót? Bây giờ lại còn để ta phải lo lắng, để ta ngày nào cũng tính toán đòi thứ này thứ nọ hay sao? Cả nhà này, chỉ còn một mình nó lớn tuổi, nó đã biết nết ta, hợp tính với ta, nó lại không hề mượn tiếng ta đòi bà này cho áo quần, bà nọ cho tiền bạc bao giờ. Vì thế mấy năm nay, hễ nó nói việc gì, thì từ em dâu chị, nàng dâu chị, cho chí lớn bé trong nhà, chẳng ai là không tin nó. Bởi vậy không những một mình ta nhờ cậy nó, mà cả em dâu chị, nàng dâu chị, cũng đỡ phải lo toan. Có con bé ấy, dù việc gì con dâu, cháu dâu không nghĩ xiết, ta cũng không phải thiếu thốn và cũng không có gì phải bực mình. Bây giờ lấy nó đi, các chị định cho ai đến hầu ta? Dù các chị có đem đến một người đẹp như châu báu mà không biết nói năng gì thì cũng vô ích. Ta đang định sai người đến bảo ông chồng chị muốn lấy ai, ta có tiền đây, nó lấy tám nghìn, một vạn đi mua cũng được, chứ đòi con bé này thì không xong đâu! Để nó hầu hạ ta mấy năm, cũng như chính chồng chị giữ đạo hiếu hết lòng hầu hạ ta. Nay vừa hay chị đến đây, chị sẽ đem lời ta về nói cho chồng chị biết, để cho êm chuyện.
Nói rồi, gọi người đến bảo: “Mời bà dì và các cô đến đây, đang nói chuyện vui, sao lại về cả thế?"
A hoàn vội đi tìm. Mọi người lại đều sang cả. chỉ có Tiết phu nhân bảo a hoàn:
- Ta vừa sang rồi, giờ còn sang làm gì nữa? Chị về nói là ta đã ngủ rồi.
A hoàn nói:
- Trăm lạy bà dì! Ngàn lạy bà dì! Cụ cháu đang giận đấy! Nếu bà không sang thì làm sao cho êm chuyện được. Xin được thương các cháu với! Nếu bà ngại đi, cháu xin cõng bà sang.
Tiết phu nhân cười nói:
- Đồ ranh con! Việc gì phải sợ! Chẳng qua bị mắng mấy câu thôi.
Nói xong, đành cùng a hoàn đi sang. Giả mẫu mời ngồi, rồi cười nói:
- Chúng ta đánh bài chứ! Bà đánh bài cũng vẫn còn thấp, chúng ta ngồi một chỗ đừng để con Phượng ăn gian.
Tiết phu nhân cười nói:
- Phải đấy! Xin cụ xem hộ bài cho. Chỉ có bốn bà cháu đánh thôi, hay phải thêm một vài người nữa?
Vương phu nhân cười nói:
- Bốn người thôi!
Phượng Thư nói:
- Thêm một người nữa càng vui.
Giả mẫu nói:
- Gọi con Uyên Ương đến đây, cho nó ngồi tay dưới. Mắt bà dì đã kém, cho nó trông cả bài của hai chúng ta.
Phượng Thư cười bảo Thám Xuân:
- Các cô biết chữ, sao không đi học xem bói.
Thám Xuân nói:
- Thế mới lạ chứ, bây giờ chị không cố nghiền ngẫm để kiếm mấy đồng của bà, lại nghĩ đến xem bói?
Phượng Thư nói:
- Tôi đương muốn bói xem hôm nay thua hết bao nhiêu, chứ tôi lại còn mong gì được nữa! Cô thử xem, chưa đánh bài mà hai bên đã sẵn sàng mai phục cả rồi.
Giả mẫu và Tiết phu nhân cười ầm lên.
Một lúc, Uyên Ương đến ngồi ở dưới cánh Giả mẫu. Dưới cánh Uyên Ương là Phượng Thư. Thảm đỏ giải ra, lần lượt trang bài, bắt cái. Năm người cầm bài lên đánh một lúc. Uyên Ương thấy bài của Giả mẫu đã thập thành, chỉ chờ một quân “nhị bính” thôi, liền ra hiệu cho Phượng Thư. Đến lượt đánh ra, Phượng Thư cố ý ngần ngừ một lúc, rồi nói:
- Nếu cháu đánh quân này thì đúng vào quân chờ của dì. Nếu cháu không đánh thì dì không ù được.
Tiết phu nhân nói:
- Tôi không chờ quân của chị đánh ra đâu.
- Để rồi cháu xem bài dì.
- Chị cứ việc xem bài. Thôi hãy đánh đi, xem quân gì nào?
Phượng Thư liền để ngay quân bài ra trước mặt Tiết phu nhân. Tiết phu nhân xem là quân “nhị bính”, cười nói:
- Ta không cần quân này, chỉ sợ cụ ù đấy thôi!
Phượng Thư cười nói:
- Cháu đánh nhầm rồi!
Giả mẫu hạ ngay bài xuống, cười nói:
- Mày dám rút về à? Ai bảo mày đánh nhầm?
Phượng Thư nói:
- Cháu đã nói là phải bói một quẻ mới được! Tự mình đánh ra, không còn dám trách ai!
Giả mẫu cười nói:
- Thế là tự mày vả vào mồm lại còn hỏi mình xem có đúng hay không?
Lại cười bảo Tiết phu nhân:
- Không phải tôi thích được tiền, cốt để làm vui đấy thôi.
Tiết phu nhân cười nói:
- Chúng cháu ai mà chả nghĩ thế. Đâu lại có người vớ vẩn dám bảo cụ chỉ thích tiền.
Phượng Thư đang đếm tiền, nghe thấy nói thế, liền xâu tiền vào, cười bảo mọi người:
- Thế là tôi hòa vốn rồi! Bà không thích tiền, chỉ thích vui thôi. Tôi bủn xỉn thật, đánh thua là đếm tiền, thôi cất đi vậy.
Giả mẫu vẫn quen lối để Uyên Ương trang bộ bài, rồi cười nói với Tiết phu nhân. Nhưng không thấy Uyên Ương trang bài. Giả mẫu nói:
- Mày giận gì thế? Bài cũng chẳng buồn trang cho tao?
Uyên Ương cầm bài lên cười nói:
- Mợ không xỉa tiền ra cho bà?
Giả mẫu nói:
- Nó không xỉa tiền cho tao, thế là nó đếm hộ tao rồi đấy.
Liền sai a hoàn nhỏ lấy hết chuỗi tiền của Phượng Thư về. A hoàn cầm lấy chuỗi tiền, để bên cạnh Giả mẫu, Phượng Thư cười nói:
- Bà cho cháu xin lại chuỗi tiền! Cháu thua bao nhiêu bà lấy đủ số thôi, còn thừa bà trả lại cháu.
Tiết phu nhân cười nói:
- Chị Phượng này bủn xỉn thật, bà đùa đấy thôi!
Phượng Thư nghe nói, đứng dậy kéo Tiết phu nhân, quay lại trỏ vào cái hòm đựng tiền của Giả mẫu, cười nói:
- Dì xem kìa, không biết trong hòm này đã “đùa” bao nhiêu tiền của cháu rồi đấy! Chuỗi tiền này chơi chưa đầy nửa giờ, tiền ở trong hòm đã vẫy tay gọi, chờ khi nào chuỗi tiền này rơi vào hòm rồi thì chả cần đánh bài và bà cũng hết cả giận. Thế là bà lại sai cháu đi làm việc khác ngay.
Giả mẫu và mọi người cười ầm lên. Giữa lúc ấy Bình Nhi lại mang một chuỗi tiền đến, vì sợ không đủ đánh, Phượng Thư nói:
- Không cần phải để trước mặt ta, cứ để bên cạnh bà. Đưa cả số tiền một lúc cho gọn, không cần phải đưa hai lần, sợ số tiền ở trong hòm thêm bận việc.
Giả mẫu cười, bài ở trên tay rơi cả xuống bàn, liền đẩy Uyên Ương bảo:
- Mau đến rạch mồm nó ra coi!
Bình Nhi theo lời, đặt tiền xuống, cười một lúc mới về. Vừa đến cửa, Giả Liễn hỏi:
- Bà bây giờ ở đâu? Ông bảo ta mời về.
- Bà đứng hầu cụ lâu lắm, chẳng dám động đậy gì, cũng chỉ muốn có dịp là lẻn về thôi. Cụ tức giận mãi, may có mợ Hai pha trò một lúc mới hơi nguôi nguôi.
- Giờ ta sang hỏi cụ xem hôm mười bốn này có sang nhà Lại Đại không, để sắp kiệu sẵn. Ta đến vừa mời bà về, vừa góp vui, thế có được không?
- Cứ ý tôi, cậu không nên sang là phải, cả nhà này, ngay đến bà Hai và Bảo Ngọc cũng còn có lỗi nữa là, bây giờ cậu sang chỉ tội rước vạ vào mình mà thôi.
- Câu chuyện đã xong rồi, không lẽ lại còn kéo cả ta vào hay sao? Vả chăng việc này không liên can gì đến ta. Ông bảo ta phải đi tìm bà về. Nếu biết ta sai người khác đi, trong lúc ông đang giận, sẽ lại mượn cớ để mắng ta cho hả.
Bình Nhi thấy Giả Liễn nói có lý, cũng theo cả sang. Lên đến thềm, Giả Liễn rón rén đi, ngó đầu vào trong nhà, thấy Hình phu nhân đang đứng ở đấy. Phượng Thư trông thấy trước liền đưa mắt bảo hắn đừng vào; lại đưa mắt cho Hình phu nhân. Hình phu nhân không tiện đi ngay, liền rót một chén nước dâng Giả mẫu. Giả mẫu quay lại, Giả Liễn không kịp tránh. Giả mẫu liền hỏi:
- Ai ở ngoài kia? Trông như đứa bé con nào thò đầu vào đấy.
Phượng Thư đứng dậy nói:
- Cháu cũng thoáng nhìn thấy có bóng một người.
Vừa nói vừa đứng dậy đi ra.
Giả Liễn liền đi vào cười nói:
- Cháu đến hỏi xem hôm mười bốn này bà có đi chơi không để sắp sẵn kiệu.
Giả mẫu nói:
- Sao mày không vào ngay, lại thậm thụt ngoài ấy như con ma ấy?
- Thấy bà đang đánh bài, cháu không dám vào, gọi nhà cháu ra ngoài hỏi đấy thôi.
- Làm gì mà vội thế? Chờ khi nó về nhà, hỏi có được không? Sao trước kia không thấy mày cẩn thận như thế? Không biết mày đến đây để lắng tin hay dò xét việc gì! Cứ thập thò như ma, làm tao giật cả mình! Cái thằng đê tiện kia! Vợ mày đánh bài với tao, được lúc vắng nhà, mày hãy về mà bàn với con vợ Triệu Nhị tìm cách hại vợ mày đi!
Nói xong, mọi người cười ầm lên. Uyên Ương cười nói:
- Vợ Bão Nhị chứ! Bà lại kéo vợ Triệu Nhị vào.
Giả mẫu cười nói:
- Thế à? "Bão" hay "bội" tao nhớ thế nào được(1). Nhắc đến chuyện này làm tao thêm bực mình! Khi tao về nhà này làm chắt dâu, đến bây giờ tao cũng có chắt dâu rồi. Trước sau năm mươi tư năm, bao nhiêu việc rùng rợn quái gở đều đã qua cả, nhưng chưa từng gặp việc nào như thế! Mày còn không bước khỏi chỗ này à!
Giả Liễn không dám nói câu gì, vội chạy ra. Bình Nhi chờ ở ngoài cửa sổ, khẽ cười nói:
- Tôi đã bảo cậu không nghe, để đến nỗi sa vào lưới!
Đương nói thì Hình phu nhân cũng ra. Giả Liễn nói:
- Chỉ vì cha sinh chuyện, bây giờ trút cả tội cho mẹ con ta!
Hình phu nhân nói:
- Cái giống bất hiếu trời đánh này! Người ta chết thay cho cha còn được nữa là; mới bị mắng có mấy câu mà đã kêu ca ầm lên. Mày hãy liệu chừng! Mấy hôm nay bố mày tức giận, giờ hồn không lại bị đòn đấy!
- Thôi mẹ về đi, cha con bảo đi mời mẹ đã lâu rồi.
Nói xong Giả Liễn đưa mẹ hắn về nhà.
Hình phu nhân đem chuyện vừa rồi kể qua mấy câu, Giả Xá không còn cách gì, đâm ra xấu hổ. Từ đấy, liền cáo bệnh, không dám đến hầu Giả mẫu, chỉ sai Hình phu nhân và Giả Liễn hàng ngày đến thăm. Rồi sai người đi tìm kiếm các nơi, sau cùng, bỏ ra năm trăm lạng bạc, mua một đứa con gái mười bảy tuổi, tên là Yên Hồng đem về.
Thấm thoát đã đến ngày mười bốn. Tờ mờ sáng, vợ Lại Đại lại đến mời. Giả mẫu cao hứng, dẫn Vương phu nhân, Tiết phu nhân và chị em Bảo Ngọc đến vườn hoa nhà Lại Đại ngồi một lúc. Vườn hoa này tuy không bằng vườn Đại Quan, nhưng cũng rộng rãi ngăn nắp, rừng suối lâu đài, cũng có nhiều chỗ đẹp làm cho người ta say sưa mến cảnh. Ở bên ngoài, có Tiết Bàn, Giả Trân, Giả Liễn, Giả Dung cùng mấy người họ gần đều đến cả. Lại Đại cũng mời mấy người quan lại đương chức và một số con nhà đại gia đến tiếp. Trong đám ấy có Liễu Tương Liên mà trước đây Tiết Bàn đã được gặp một lần, trong bụng vẫn quyến luyến không quên. Lại nghe thấy hắn thích chơi tuồng hát, và trong đó chơi toàn những vai học trò, vai nữ rất tài hoa. Tiết Bàn nhận nhầm hắn là con nhà ăn chơi, muốn kết thân với hắn, nhưng không có người đưa đón. May sao hôm đó gặp hắn, Tiết Bàn vui quá, mê tít. Bọn Giả Trân cũng hâm mộ tiếng hắn, liền mượn hơi men nói với hắn hát cho nghe hai vở. Sau lại sang ngồi bên cạnh, hỏi tẩn mẩn chuyện nọ chuyện kia.
Liễu Tương Liên nguyên là con nhà thế gia, vì học không đỗ lại gặp cha mẹ mất sớm. Hắn vốn tính hào hiệp, không câu nệ những việc vặt, lại thích chơi thương múa kiếm, rượu chè, cờ bạc, trai gái, đàn hát, cái gì cũng biết. Vì hắn trẻ tuổi xinh trai, những người không biết rõ tung tích, đều nhận nhầm là hạng phường chèo con hát. Con Lại Đại là Lại Thượng Vinh thường chơi thân với hắn, nên hôm nay cũng mời hắn đến dự tiệc. Không ngờ sau khi say rượu, người khác còn khá, chứ Tiết Bàn thì lại trở lại bệnh cũ. Vì thế, Liễu Tương Liên trong bụng không vui, định lừa dịp ra về cho xong chuyện. Không ngờ Lại Thượng Vinh đến nèo nằng mãi:
- Vừa rồi cậu Bảo dặn tôi; cậu ấy vừa vào đến cửa, tuy trông thấy anh, nhưng đông người không tiện nói chuyện, bảo tôi dặn anh, khi tan tiệc anh đừng về vội, cậu ấy có câu chuyện muốn nói với anh. Nếu anh nhất định đòi về, để tôi gọi cậu ấy ra, hai người gặp nhau đã, như thế thì không can gì đến tôi.
Nói xong, liền sai đứa hầu bé vào trong nhà bảo khẽ bà già mời cậu Bảo đến. Đứa bé vào một lát thì Bảo Ngọc đi ra. Lại Thượng Vinh cười bảo Bảo Ngọc:
- Thưa chú, tôi giao anh này cho chú, để tôi đi tiếp khách đây.
Nói xong đi ngay.
Bảo Ngọc kéo Liễu Tương Liên đến thư phòng bên cạnh hỏi chuyện:
- Lâu nay anh có đến thăm mộ Tần Chung không?
- Có đến. Hôm nọ mấy người chúng tôi đi săn, cách mộ anh ấy chỉ có vài dặm. Tôi nghĩ mùa hạ năm nay nhiều mưa, sợ mộ lở, liền lẻn đến đấy xem, thì có chỗ bị lở. Khi về nhà kiếm được mấy trăm đồng tiền, đến sáng hôm thứ ba, tôi thuê mấy người đến đắp lại tử tế rồi.
- Thảo nào. Tháng trước sen trong ao vườn Đại Quan nở hoa, tôi ngắt mười cái, sai Dính Yên đem đến viếng mộ anh ấy. Khi về tôi hỏi: trời mưa thế, mộ có bị lở không? Dính Yên nói: Không những không lở mà lại mới hơn trước. Tôi chắc là có người bạn nào đã đến sửa dọn. Tiếc rằng ngày nào tôi cũng bị giữ rịt ở nhà không được đi đâu, hơi làm việc gì người nhà cũng biết, không người này ngăn thì người khác khuyên, chỉ nói được chứ không làm được! Dù có tiền đấy, tôi cũng không được tiêu.
- Anh không cần phải để ý đến việc ấy, bên ngoài đã có tôi, chỉ cần anh có bụng nghĩ đến cậu ấy là được rồi. Tôi đã sắp sẵn một món tiền để đến ngày mồng một tháng mười sắp tới sẽ tiêu về việc thăm mộ. Anh cũng biết đấy, tôi nghèo rớt mồng tơi, trong nhà chung dành dụm được gì, hễ kiếm được đồng nào lại tiêu hết sạch. Nên nhân dịp này, tôi dành lại một món, để đến khi ấy khỏi phải chạy vạy.
- Cũng chính vì việc ấy mà tôi định sai Dính Yên đi tìm anh, nhưng anh không mấy khi ở nhà, biết anh thường nay đây mai đó, không ở chỗ nào nhất định.
- Anh không cần phải tìm tôi, tôi làm việc này chẳng qua chỉ vì hết lòng với bạn. Bây giờ tôi lại phải đi xa, có lẽ năm, ba năm tôi mới về.
Bảo Ngọc nghe nói, vội hỏi:
- Tại sao lại thế?
Liễu Tương Liên cười nhạt nói:
- Tâm sự của tôi, chờ khi đến nơi sẽ biết. Giờ xin tạm biệt.
- Không mấy khi được gặp nhau, anh nên đợi đến chiều chúng ta cùng về một thể có hơn không?
- Anh con nhà dì của anh vẫn giữ cái thói ấy, nếu tôi ngồi lại, không khỏi có chuyện, chi bằng tôi tránh đi là hơn.
Bảo Ngọc nghĩ một lúc, nói:
- Đã thế thì anh tránh hẳn đi là phải. Nhưng nếu anh quả thực định đi xa, cũng nên nói trước cho tôi biết, chứ nhất thiết đừng lẳng lặng mà đi!
Nói xong, nước mắt tràn ra.
Liễu Tương Liền nói:
- Thế nào tôi cũng phải từ biệt anh, nhưng anh đừng nói cho ai biết.
Nói xong liền đứng dậy chực đi, lại nói:
- Thôi anh vào đi, không cần phải tiễn tôi.
Vừa nói vừa ra khỏi thư phòng. Mới đi đến cửa ngoài, đã thấy Tiết Bàn đứng đấy gọi ầm lên:
- Ai cho chú Liễu đi đấy?
Liễu Tương Liên nghe hắn nói, bốc nóng lên, giận không đánh được một cái cho chết ngay. Nhưng rồi lại nghĩ, khi say rượu mà đánh người, chỉ làm ngượng mặt Lại Thượng Vinh, nên đành phải nén giận. Tiết Bàn thấy Liễu Tương Liên đi ra, mừng như được của báu, vội loạng choạng chạy theo nắm lấy cười hỏi:
- Em ơi! Đi đâu đấy?
- Đi một tí rồi về ngay.
- Em mà đi thì anh mất vui. Em thương anh với, hãy ngồi một tí đã. Có việc gì cần, em cứ giao cho anh, đừng vội vã như thế. Em có người anh này, thì muốn làm quan, phát tài, cái gì cũng dễ thôi!
Tương Liên thấy Tiết Bàn nói những câu khó chịu quá, trong lòng bực bội, nghĩ ngay một kế, liền kêu hắn ra chỗ vắng, cười nói:
- Anh thực bụng yêu em hay là nói dối em đấy?
Tiết Bàn nghe nói, trong lòng rạo rực, liếc mắt nói:
- Em ơi! Sao em lại hỏi anh câu ấy? Nếu có bụng giả dối, anh chết ngay ở đây!
- Đã thế, ở đây không tiện, anh hãy ngồi lại một chốc, rồi em đi trước, anh sẽ theo sau. Khi về nhà em, chúng ta nhất định uống rượu suốt đêm. Ở nhà em còn có hai đứa bé con rất đẹp, chưa hề tiếp khách bao giờ. Anh không cần phải mang ai đi theo, đến đấy có sẵn người hầu.
Tiết Bàn nghe nói, mừng quá tỉnh hẳn rượu, nói:
- Có thật thế không?
- Người ta thực bụng đối với anh, anh lại không tin à?
- Anh có phải thằng ngốc đâu, sao lại không tin? Nếu em đi trước, anh không biết chỗ, làm thế nào tìm được em?
- Nhà em ở ngoài cửa Bắc, anh có thể ra đó ngủ một đêm được không?
- Đã có em thì anh còn cần gì đến nhà nữa?
- Đã thế em chờ anh ở đầu cầu ngoài cửa Bắc. Chúng ta hãy vào uống rượu đã. Khi nào em đi rồi, anh hãy đi theo, như thế họ không để ý.
Tiết Bàn nhận lời.
Hai người lại vào uống rượu một lúc. Tiết Bàn không nén nổi, cứ đưa mắt nhìn Tương Liên, trong bụng càng nghĩ càng vui sướng, hết be rượu nọ đến be rượu kia, cứ tự rót uống, không cần phải ai mời. Không ngờ hơi men đã hăng lên tám chín phần. Thấy không ai để ý, Tương Liên đứng dậy đi ra ngoài cửa, bảo hầu nhỏ là Hạnh Nô:
- Mày về trước đi, tao đi ra ngoài thành đã rồi về sau.
Nói xong, cưỡi ngựa ra thẳng cửa Bắc, đến cầu chờ Tiết Bàn. Độ chừng ăn xong bữa cơm, thấy Tiết Bàn cưỡi ngựa chạy đến, phùng má trợn mắt, đầu lắc lư, hết nhìn bên nọ lại quay sang bên kia. Khi hắn đi đến trước ngựa Tương Liên, mắt cứ nhìn về đằng xa, không để ý đến xung quanh. Tương Liên vừa bật cười, vừa tức giận, liền lùi ngựa về đằng sau. Tiết Bàn đi mãi, thấy đã dần dần thưa vắng bóng người, liền quay ngựa trở lại gặp ngay Tương Liên. Hắn vui mừng như được ngọc báu, vội cười nói:
- Anh chắc em không khi nào sai hẹn.
- Đi mau lên, cẩn thận không có người ta trông thấy lại chẳng ra làm sao!
Nói xong Tương Liên tế ngựa đi trước. Tiết Bàn theo sát đằng sau.
Tương Liên thấy trước mặt vắng người, lại có một bãi sậy, liền xuống buộc ngựa vào cây, rồi cười bảo Tiết Bàn:
- Anh xuống ngựa đi, chúng ta hãy thề trước đã, nếu sau này ai thay lòng đổi dạ, nói cho người khác biết, sẽ chịu tội như lời thề.
- Em nói phải đấy.
Rồi cũng buộc ngựa vào cây, Tiết Bàn quỳ xuống thề:
- Nếu anh ngày sau thay lòng đổi dạ, nói cho người khác biết, thì trời tru đất diệt...
Nói chưa dứt lời, thấy đằng sau "choang” một tiếng như chùy sắt giáng xuống, Tiết Bàn mặt tối sầm lại, mắt nổ đom đóm, người lảo đảo, ngã lăn xuống đất. Biết hắn không chịu quen đòn, Tương Liên mới tát nhẹ mấy cái, hắn đã mặt mũi thâm tím như quả bồ quân. Tiết Bàn trước muốn chống đỡ, định đứng dậy, nhưng bị Tương Liên lấy chân đá một cái, lại ngã vật xuống. Hắn liền làu nhàu:
- Hai người đều bằng lòng cả! Nếu em không nghe thì cứ nói, việc gì lại lừa tôi đến đây để đánh tôi?
Rồi hắn mắng ầm lên. Tương Liên nói:
- Tao bảo cho thằng mù này! Mày có biết cụ Liễu là ai không? Mày không van xin, lại dám nói láo! Tao đánh chết mày cũng vô ích, chỉ đánh cho mày ốm đòn thôi.
Nói xong, lại lấy roi ngựa, đánh ba bốn chục roi vào lưng và đùi.
Tiết Bàn đã gần tỉnh rượu, đau quá không chịu nổi, kêu lên một tiếng “úi chao”. Tương Liên cười nhạt nói:
- Mới có thế thôi! Tao cứ tưởng mày dạn đòn!
Vừa nói vừa kéo chân trái Tiết Bàn dìm xuống bãi sậy, bùn lấm be bét, đầy người, lại hỏi:
- Mày đã biết tay tao chưa?
Tiết Bàn không trả lời, chỉ nằm gục xuống rên hừ hừ. Tương Liên lại vất roi đi, nắm tay đấm mấy quả. Tiết Bàn kêu rối rít lên:
- Xương tôi gãy cả rồi! Tôi biết em là người đứng đắn, chỉ vì tôi nghe người ta đồn nhầm đấy thôi!
- Không được kéo người ta vào. Mày chỉ được nói chuyện hiện giờ thôi.
- Hiện giờ tôi không có gì đáng nói cả? Chẳng qua em là người đứng đắn, tôi trót nhầm đấy thôi!
- Phải nói nhũn nữa, tao mới tha cho.
Tiết Bàn rén hừ hừ, nói: “Bạn ơi”. - Tương Liên lại đấm cho một quả nữa. Tiết Bàn kêu lên một tiếng, rồi nói: “Ông anh ơi” - Tương Liên lại đấm luôn cho hai quả nữa. Tiết Bàn vội kêu lên “úi chao ơi”, rồi nói:
- Ông ơi! ông tha cho con là thằng mù không có mắt! Từ nay trở đi, con kinh người, sợ lắm rồi.
- Mày phải uống hai ngụm nước bùn này đi!
- Nước này bẩn quá, con uống thế nào được?
Tương Liên lại giơ tay lên đấm. Tiết Bàn vội nói:
- Con xin uống... Con xin uống... -
Nói xong hắn đành phải cúi đầu xuống gốc sậy uống một ngụm, chưa kịp nuốt đã ọe ngay ra, bao nhiêu thức ăn mửa ra hết cả. Tương Liên nói:
- Mày phải ăn hết những đồ thối tha này tao mới tha cho!
Tiết Bàn lạy thì thụp nói:
- Xin ông làm phúc tha cho con, đến chết con cũng không ăn được đâu!
- Đồ thối xác này, làm bẩn lây cả đến tao!
Nói xong Tương Liên bỏ mặc Tiết Bàn ở đấy, rồi lên ngựa đi.
Tiết Bàn thấy Tương Liên đi rồi mới yên tâm, tự hối mình không nên nhận nhầm người ta. Muốn gượng đứng dậy, nhưng khắp người đau đớn không chịu được.
Bọn Giả Trân không thấy Tiết Bàn và Tương Liên ở trong tiệc, đi tìm các nơi cũng không thấy. Có người nói: “Thấy họ đi vội ra cửa Bắc rồi." Đứa hầu nhỏ của Tiết Bàn xưa nay vẫn sợ hắn, thấy hắn bảo không được theo, nó còn dám đi sao được? Giả Trân không yên tâm, sai Giả Dung dẫn bọn hầu nhỏ đi tìm; ra thẳng cửa Bắc, đi qua cầu độ hai dặm đường, chợt trông thấy ngựa của Tiết Bàn buộc ở bên bãi sậy. Mọi người đều nói: “May quá! Có ngựa tất phải có người!” Rồi cùng đến chỗ buộc ngựa, nghe trong đám sậy có người rên rỉ. Mọi người chạy đến xem, thấy quần áo Tiết Bàn rách tươm, mặt mũi sưng vù lên, khắp người ướt như lợn sề đẫm bùn.
Giả Dung đã đoán được tám chín phần, liền xuống ngựa sai người kéo hắn lên, cười nói:
- Chú Tiết ngày nào cũng giở thói lẳng lơ, hôm nay lại lẳng lơ đến bãi sậy này, chắc hẳn ông long vương yêu chú là người phong nhã, muốn vời chú đến làm phò mã, chú đã va phải sừng rồng rồi đấy!
Tiết Bàn xấu hổ quá, không thể chui ngay xuống hố được, còn mặt mũi nào trên lên ngựa nữa. Giả Dung liền sai người ra cửa ô thuê một cái kiệu nhỏ cho Tiết Bàn ngồi, rồi cùng về trong thành. Giả Dung lại muốn khiêng hắn vào dự tiệc ở nhà họ Lại, nhưng Tiết Bàn vật vã van xin đừng cho ai biết. Giả Dung mới chịu thôi. Giả Dung lại đến nhà họ Lại trình Giả Trân việc này. Giả Trân cũng biết là hắn bị Tương Liên đánh, liền cười nói:
- Cho nó như thế mới đáng kiếp!
Đến chiều về, Giả Trân đến hỏi thăm, Tiết bàn nằm ở trong nhà, cáo ốm không ra.
Giả mẫu về rồi, mọi người đâu về đấy cả. Tiết phu nhân và Bảo Thoa về, thấy Hương Lăng khóc sưng cả mắt, hỏi nó đầu đuôi rồi vội đến thăm Tiết Bàn, thấy trên mặt và mình đầy thương tích, nhưng không đến nỗi sai gân gẫy xương gì.
Tiết phu nhân vừa thương vừa giận, mắng Tiết Bàn, rồi lại mắng Tương Liên, muốn nói với Vương phu nhân sai người đi bắt hắn. Nhưng Bảo Thoa ngăn lại nói:
- Việc này không quan trọng gì, chẳng qua họ uống rượu với nhau, quá say thường hay giở mặt. Kẻ say bị đánh đau cũng là lẽ thường. Vả chăng ai còn chả biết cái anh bạo thiên nghịch địa của nhà ta. Chẳng qua chỉ tại mẹ quá thương anh ấy thôi. Muốn hả giận cũng dễ, chờ năm, ba ngày nữa anh ấy khỏi, đi ra ngoài được, bên bác Trân và cậu Liễn chưa chắc đã chịu bỏ qua việc này, nhất định sẽ đứng ra dàn xếp, mẹ sẽ bắt hắn xin lỗi anh con ở trước mặt mọi người là được rồi. Nếu mẹ coi việc này là to tát, đi nói với mọi người chỉ tỏ ra mẹ quá nuông chiều, để anh ấy gây chuyện với người ta, nay anh ấy mới bị đánh đau một lần, mẹ đã làm ầm lên, dựa thần dựa thế bà con để đè nén người ta à.
Tiết phu nhân nói:
- Con ơi! Con nghĩ phải đấy, mẹ vì một lúc tức giận đâm ra hồ đồ.
Bảo Thoa cười nói:
- Thế mới được. Anh ấy không sợ mẹ, không nghe người ta khuyên ngăn, càng ngày càng ngông cuồng; có bị vài ba lần như thế mới chừa.
Tiết Bàn nằm trên giường, chửi mắng Tương Liên luôn miệng, lại sai người hầu đến phá nhà, đánh chết hắn, rồi đi kiện. Tiết phu nhân quát ngăn bọn hầu lại, bảo:
- Tương Liên lúc say rượu ngông cuồng, bây giờ tỉnh rượu hối lại sợ tội, đã trốn đi mất rồi.
------------------------
(1). “Bão” là ôm, “bội” là cõng. Người Trung Quốc thường dùng chữ trong khi khôi hài. Việc Giả Liễn ngoại tình với vợ Bão Nhị xem ở hồi 41.
Hồi thứ bốn mươi tám
Dùng bậy chữ tình, nhầm về tình, chàng đi buôn bán
Mến yêu gái nhã, gặp cuộc nhã, nàng mải ngâm thơ
Tiết Bàn nghe thấy Tương Liên trốn đi rồi mới đỡ giận. Mấy hôm sau, hắn bớt đau, nhưng thương tích chưa lành, đành phải giả ốm ở nhà, không dám ló mặt đến thăm bè bạn.
Thấm thoát đã đến tháng mười, trong số người làm công ở các cửa hiệu, cuối năm tính tiền xong, họ muốn về nhà, nên phải sửa rượu tiễn. Trong đó có một người tên là Trương Đức Huy, từ bé vẫn làm quản lý cho hiệu cầm đồ của nhà Tiết Bàn. Gia tài hắn có đến hai, ba nghìn vàng. Năm nay hắn cũng muốn về quê, sang xuân mới đến, liền nói với Tiết Bàn:
- Năm nay giấy sắc và các loại hương khan hiếm, sang năm tất phải đắt. Ra giêng tôi sẽ cho đứa con lớn của tôi đến trông nom cửa hiệu, trước tết Đoan Ngọ, tôi tiện đường đi mua một số giấy sắc và hương bánh về bán. Trừ nộp thuế và tiêu pha, ít nhất cũng có thể được lãi gấp mấy lần.
Tiết Bàn nghe nói, nghĩ bụng: “Giờ mình bị đòn, không mặt mũi nào nhìn thấy người ngoài, muốn tránh đi ít lâu, nhưng không có chỗ, nếu ngày nào mình cũng giả cách ốm, chẳng lẽ cứ ốm mãi sao được. Vả chăng mình đã lớn rồi, vẫn văn dốt vũ dát, nói là đi buôn, nhưng cân kẹo, bàn tính không sờ đến bao giờ; thổ ngơi, phong tục, đường sá xa gần cũng chẳng biết gì cả. Chi bằng ta thu xếp ít tiền vốn, đi theo Trương Đức Huy độ một năm, lỗ lãi không cần, hãy tránh đi cho đỡ xấu hổ đã. Mặt khác, đi ra để xem phong cảnh các nơi cũng hay”. Đến khi tan tiệc, hắn liền vui vẻ bảo Trương Đức Huy hãy chờ một vài ngày nữa, hắn cùng đi một thể.
Đến tối, Tiết Bàn nói việc ấy với mẹ. Tiết phu nhân nghe nói tuy cũng thích đấy, nhưng lại sợ con ra ngoài sinh sự, còn việc tiêu mất tiền vốn chỉ là điều nhỏ thôi. Vì thế không muốn cho hắn đi và nói:
- Mày thế nào cũng phải ở gần tao, tao mới yên lòng. Vả chăng cũng không cần mày phải đi buôn, không phải chờ mấy trăm bạc lãi của mày mới có mà tiêu. Mày ở nhà yên phận làm ăn, còn hơn là được mấy trăm bạc lãi.
Nhưng khi nào Tiết Bàn lại chịu nghe, liền nói:
- Ngày thường mẹ vẫn bảo con không biết việc đời, cái này không biết, cái kia không hay. Bây giờ con cố cắt đứt những việc chơi phiếm, để đi lập thân, học buôn học bán, mẹ lại không để cho con đi à! Vậy mẹ bảo con làm gì bây giờ? Con không phải là con gái, cứ giam hãm ở nhà, thì bao giờ mới khá ra được? Vả chăng Trương Đức Huy là người có tuổi, nhà ta quen ông ta từ lâu, việc gì con cũng hỏi ông ấy, thì nhầm thế nào được? Nhỡ con có sơ hở việc gì, ông ta tất phải khuyên bảo. Món hàng đắt rẻ thế nào, ông ấy thông thạo cả, cái gì con cũng hỏi ông ấy rồi mới mua, thì thuận lợi biết chừng nào! Thế mà mẹ lại không cho con đi! Mấy hôm nữa con không nói gì với nhà, cứ việc sửa soạn đi. Sang năm phát tài trở về, lúc đó mẹ mới biết tay con!
Nói xong, hắn hậm hực đi ngủ.
Tiết phu nhân liền bàn với Bảo Thoa. Bảo Thoa cười nói:
- Quả thực anh ấy muốn ra đời làm ăn đứng đắn thì cũng được đấy. Chỉ sợ ở nhà nói hay, đến khi ra ngoài lại chứng nào tật ấy, thì khó mà ngăn giữ được. Thôi mẹ chẳng hơi đâu mà lo nhiều thế. Nếu anh ấy biết sửa lỗi, thì phúc cho cả đời anh ấy; bằng không mẹ cũng chẳng còn cách nào hơn. Ta chỉ biết hết sức người thôi, còn hay dở là nhờ trời. Giờ anh ấy đã lớn rời, mẹ không cho anh ấy đi ra khỏi cửa, không cho làm việc gì, năm nay ru rú trong nhà, sang năm cũng lại thế thôi. Anh ấy đã nói, có phần danh chính ngôn thuận, thì mẹ cũng nên nghĩ kỹ, bỏ ra một nghìn hay tám trăm lạng bạc giao cho anh ấy đi thử một chuyến xem sao. Dầu sao đã có bạn buôn giúp đỡ chắc họ cũng không nỡ lừa dối anh ấy đâu. Vả lại anh ấy đi ra ngoài, bên cạnh không có ai xúi giục làm bậy, không có chỗ dựa để cậy thần cậy thế. Mỗi người ở mỗi nơi thì còn ai sợ ai nữa? Có thì ăn, hết thì nhịn, chung quanh không có người nương tựa, biết thân như thế, anh ấy sẽ đỡ sinh chuyện cũng chưa biết chừng.
Tiết phu nhân ngẫm nghĩ một lúc, nói:
- Con nói phải đấy, để cho nó đi học khôn, có tốn ít tiền cũng đáng.
Đến sáng hôm sau, Tiết phu nhân sai người mời Trương Đức Huy đến, bảo Tiết Bàn thết rượu ở ngoài thư phòng, còn mình ngồi ở sau hành lang cách cửa số, dặn đi dặn lại, nhờ Trương Đức Huy trông nom con hộ. Trương Đức Huy vâng dạ luôn mồm. Ăn cơm xong, hắn cáo từ ra về, và nói:
- Ngày mười bốn này xuất hành rất tốt, xin cậu sắp sẵn hành lý, thuê một con lừa, đến sáng hôm ấy chúng ta cùng đi.
Tiết Bàn mừng lắm, kể lại cho Tiết phu nhân nghe.
Tiết phu nhân, Bảo Thoa và Hương Lăng cùng mấy bà già sửa soạn hành lý trong mấy ngày liền, sai bõ già của Tiết Bàn, và hai người hầu đã quen việc cùng hai đứa hầu cận đi theo, tất cả là sáu người. Thuê ba cỗ xe lớn chở hành lý, lại thuê bốn con lừa đi đường trường. Tiết Bàn cưỡi con lừa lớn màu xám của nhà nuôi, lại dắt thêm một con ngựa nữa đi theo. Mọi việc xong xuôi, Tiết phu nhân và Bảo Thoa suốt đêm khuyên bảo Tiết Bàn.
Đến ngày mười ba, Tiết Bàn sang chào mợ trước, rồi đi chào những người trong nhà họ Giả. Bọn Giả Trân cũng đều chào lại, không cần kể rõ. Đến sáng ngày mười bốn, Tiết phu nhân và Bảo Thoa tiễn Tiết Bàn ra cửa ngoài, hai mẹ con nhìn hắn đi khuất rỗi mới quay về.
Khi Tiết phu nhân vào kinh, chỉ mang theo bốn năm gia đinh người nhà, vài ba bà già và lũ hầu con thôi. Bây giờ trừ những người đi theo Tiết Bàn ra, ở nhà chỉ còn có vài đứa hầu trai. Vì thế, hôm đó Tiết phu nhân đến thu dọn ngay những đồ chơi và rèm màn ở thư phòng Tiết Bàn đem về, rồi gọi vợ của hai người hầu trai đi theo Tiết Bàn cũng vào trong nhà ngủ. Lại bảo Hương Lăng: “Xếp đặt cẩn thận trong nhà, khóa cửa lại, tối đến lên ngủ với ta”.
Bảo Thoa nói:
- Mẹ đã có những người này ở bên cạnh rồi, nên cho chị Lăng đến ở với con. Trong vườn vắng, đêm lại dài, đêm nào con cũng làm việc, nếu thêm được một người chẳng vui hay sao?
Tiết phu nhân cười nói:
- Phải đấy, ta quên mất, nên cho nó sang ở với con là phải. Hôm đó, ta đã bảo anh con: Văn Hạnh còn bé, nói trước quên sau, một mình Oanh Nhi hầu không xuể. Cần phải mua thêm cho con một con hầu nữa.
- Không biết lai lịch mà cứ mua người về, lỡ ra không vừa ý, tốn tiền không đáng kể, lại thêm bực mình nữa. Mẹ hãy để thong thả xem đã, biết rõ người rồi sẽ mua.
Vừa nói vừa bảo Hương Lăng thu dọn chăn đệm, hòm rương, sai một bà già và Trần Nhi mang đến Hành Vu Uyển, rồi Bảo Thoa và Hương Lăng cùng vào trong vườn.
Hương Lăng nói với Bảo Thoa:
- Tôi vẫn muốn nói với mẹ, khi cậu ấy đi rồi, tôi sẽ đến ở với cô. Nhưng lại sợ mẹ ngờ vực bảo tôi chỉ thích sang vườn để chơi đùa, không ngờ bây giờ cô lại nói cho.
Bảo Thoa cười nói:
- Tôi vẫn biết chị thích vườn này đã lâu, chỉ vì không có dịp thôi. Thỉnh thoảng đến một lần, chị lại vội vội vàng vàng, chẳng có thú gì. Vì thế, nhân dịp này, tôi xin cho chị ở lâu, chừng một năm. Tôi thì có thêm bạn, chị thì được thỏa lòng.
- Cô ơi! Nhân dịp này, cô dạy tôi làm thơ nhé!
- Chị thật là được đất Lũng lại mong đất Thục(1). Tôi khuyên chị hãy thong thả. Hôm nay mới đến, trước hết chị ra phía cửa Đông, đến chào cụ, rồi chào tất cả mọi người, nhưng không nên nói cho họ biết vì cớ làm sao mà chị lại dọn sang ở bên vườn này. Có ai hỏi, chỉ nói là tôi bảo chị sang ở với tôi cho vui. Xong rồi chị vào vườn thăm các cô.
Hương Lăng vâng lời, khi sắp đi, thấy Bình Nhi vội vàng chạy đến. Hương Lăng liền hỏi thăm. Bình Nhi cũng cười đáp lại. Bảo Thoa cười bảo Bình Nhi:
- Hôm nay tôi đem chị Hương Lăng đến ở với tôi, định sang nói với mợ chị đây.
- Sao cô lại nói câu ấy? Làm tôi không thể trả lời được.
- Như thế mới đúng nhẽ. “Nhà phải có chủ, đền phải có ông từ chứ". Tuy việc không to tát, nhưng cũng phải nói qua, để những người canh gác trong vườn biết là có thêm hai người, tiện cho họ trong khi đóng mở cửa ngõ. Chị về nói hộ, tôi khỏi phải sai người sang nữa.
Bình Nhi vâng lời, lại hỏi Hương Lăng:
- Chị đến ở đây sao không đi chào bà con hàng xóm?
Bảo Thoa cười nói:
- Tôi đang bảo chị ấy đi đấy.
Bình Nhi nói:
- Chị đừng đến nhà tôi vội, cậu Hai đương ốm nằm ở nhà đấy.
Hương Lăng vâng lời, đến chào Giả mẫu trước.
Bình Nhi thấy Hương Lăng đi rồi, liền kéo Bảo Thoa khẽ hỏi:
- Cô có nghe thấy bên nhà tôi mới xảy ra việc gì không?
- Không. Vì mấy hôm nay bận tiễn anh tôi đi, nên việc bên nhà các chị, tôi chẳng biết gì cả. Ngay các chị em mấy hôm nay tôi cũng không được gặp.
- Ông tôi vừa mới đánh cậu ấy một trận nhừ tử. Thế mà cô không biết à?
- Sáng ngày mới thoảng nghe, nhưng tôi chưa tin là thực. Tôi định sang thăm mợ chị, lại gặp chị đến. Tại sao ông lại đánh cậu ấy thế?
Bình Nhi nghiến răng nói:
- Chỉ vì lão Giả Vũ Thôn “Vũ xã”(2) nào ấy, bỗng dưng vác cái mặt vọ ở đâu lần đến. Mới nhận họ chưa đầy mười năm, nó đã sinh ra bao nhiêu chuyện rắc rối! Mùa xuân năm nay, không biết ông tôi trông thấy mấy cái quạt cũ ở đâu khi về, xem tất cả những quạt ở nhà đều không có cái nào đẹp bằng. Thế là ông tôi lập tức sai người đi tìm các nơi. Ai ngờ có một tên oan gia không sợ chết, người ta đặt đùa cho nó cái hiệu thằng “ngốc đá”. Nó nghèo xác, cơm cũng không có mà ăn, nhưng trong nhà lại có đến hai mươi cái quạt. Nó chết cũng không chịu mang ra khỏi nhà. Cậu tôi nhờ người nói lót mãi mới được gặp; nói đến hai, ba lần, nó mới chịu mời đến nhà chơi và giở quạt ra cho xem qua một tí. Theo lời cậu tôi, hạng quạt ấy làm bằng loại trúc Tương phi(3) và ngọn trúc... lại đều có nét vẽ và chữ đề của người xưa. Cậu tôi về trình, ông tôi liền bảo đi mua, hết bao nhiêu tiền cũng trả cho nó. Nhưng thằng “ngốc đá” nói: “Tôi thà chết đói chết rét, chứ một nghìn lạng bạc một cái, cũng không bán”. Ông tôi không biết làm thế nào, ngày nào cũng cứ mắng cậu tôi là không làm được việc gì. Cậu ấy đã hứa đưa trước cho nó năm trăm lạng bạc, sau mới lấy quạt, nhưng nó nhất định không bán, chỉ nói: “Muốn lấy quạt thì hãy giết tôi trước đã!" Cô thử nghĩ xem còn có cách gì nữa không? Ngờ đâu lão Vũ Thôn là hạng không có lương tâm, nghe thấy thế, liền bày mưu vu cho nó thiếu tiền công, bắt nó đến cửa quan, bảo: Mày thiếu tiền công, phải bán gia tài để nộp Rồi tịch thu số quạt, tính thành quan giá, mang đi! Hiện giờ thằng “ngốc đá” không biết còn sống hay chết. Ông tôi mới hỏi cậu tôi: “Sao người ta lại lấy đước về đây?” Cậu ấy chỉ nói có một câu: “Vì một việc nhỏ làm người ta khuynh gia bại sản cũng không phải là giỏi”. Ông tôi nổi giận, bảo là cậu ấy đem lời chẹn họng ông tôi. Đó là việc lớn thứ nhất. Mấy ngày sau, lại có mấy việc nhỏ nữa, tôi không nhớ hết; vì thế ông tôi góp cả tội lại, đánh cậu tôi một trận. Chẳng biết đánh đấm thế nào, không đánh bằng roi, bằng vọt, bạ cái gì ông tôi đánh cái ấy, làm mặt cậu tôi bị toạc hai chỗ. Thấy nói bên bà dì có một thứ thuốc chữa khỏi vết đòn, nên đến nhờ cô tìm hộ cho tôi xin một viên.
Bảo Thoa sai Oanh Nhi lấy hai viên thuốc đưa cho Bình Nhi, rồi nói:
- Như thế tôi không sang nữa, nhờ chị về nói hộ, tôi gửi lời hỏi thăm.
Bình Nhi nhận lời rồi về.
Hương Lăng đi chào mọi người xong, về nhà ăn cơm chiều. Ăn xong, bọn Bảo Thoa đến cả đằng Giả mẫu, Hương Lăng liền sang quán Tiêu Tương. Bấy giờ Đại Ngọc đã đỡ nhiều rồi, thấy Hương Lăng vào ở trong vườn, tự nhiên cũng vui thêm. Hương Lăng cười nói:
- Em sang ở đây, lúc nào rỗi, đến nhờ cô dạy làm thơ thì phúc cho em lắm.
Đại Ngọc cười nói:
- Chị đã muốn làm thơ thì phải gọi tôi bằng thầy. Tôi không giỏi, cũng dạy nổi chị.
- Nếu thực thế, em xin gọi cô là thầy, xin cô đừng ngại.
- Làm thơ có gì khó mà phải học? Chẳng qua chỉ có khai, thừa, chuyển, hợp, trong đó thừa và chuyển đều là hai vế đối nhau, chữ bằng đối với chữ trắc, hư đối với hư, thực đối với thực. Nếu được câu hay khác thường thì bằng trắc hư thực không cần phải đối nhau cũng được.
- Thảo nào khi rảnh, em thường lấy quyền thơ cũ ra xem mấy bài, có câu đối nhau rất chỉnh, có câu lại không đối. Lại nghe người ta nói, các chữ thứ nhất, thứ ba, thứ năm không cần, chỉ có các chữ thứ hai, thứ tư, thứ sáu là phải rõ ràng. Xem thơ của cổ nhân, có khi đúng như thế, có khi những chữ thứ hai, thứ tư, thứ sáu lại không thế. Vì vậy lúc nào em cũng lấy làm ngờ. Bây giờ cô nói, thì ra khuôn phép ấy không cần lắm, chỉ cần lời và câu văn cho mới lạ là hay thôi.
- Đúng đấy. Nhưng lời và câu văn là việc phù du, cần nhất phải đặt từ cho sát. Nếu từ sát thực thì lời và câu văn không cần điêu luyện cũng vẫn hay. Như thế gọi là: “Không nên lấy lời hại ý”.
- Em chỉ thích câu thơ của Lục Phóng Ong(4), lời rất thiết thực:
Rèm mau không cuộn hơơng còn mãi,
Nghiên cổ hơi sâu mực đọng nhiều.
- Chớ nên xem loại thơ ấy. Vì chị chưa biết làm thơ, nên thấy những câu nông cạn đã thích ngay. Nếu mắc vào khuôn sáo ấy thơ sẽ không tiến được nữa. Chị hãy nghe tôi: chị thích học, ở đây tôi có toàn tập thơ Vương Ma Cật, chị hãy chịu khó nghiền ngẫm kỹ càng một trăm bài thơ ngũ ngôn của ông ta, rồi sau đọc một trăm hai mươi bài thất ngôn của Đỗ Phủ, sau nữa lại đọc độ một, hai trăm bài thất ngôn tuyệt cú của Lý Bạch. Phải lót dạ thơ của ba thi hào ấy đã, sau mới xem đến thơ của Đào Uyên Minh, Ứng Dịch, Lưu Vũ Tích, Tạ Diểu, Nguyễn Tịch, Dữu Lượng, Bão Chiếu. Chị là người thông minh nhanh nhẹn, học chừng trong một năm sẽ thành nhà thơ.
- Cô ơi, đã thế cô cho em mượn sách mang về, đến đêm em đọc mấy bài.
Đại Ngọc bảo Tử Quyên đưa tập thơ ngũ ngôn của Vương Ma Cật cho Hương Lăng và bảo:
- Chị xem những bài nào có khuyên đỏ là tôi đã chọn rồi, có bài nào học bài ấy. Nếu không hiểu nghĩa, chị sẽ hỏi cô Bảo, hoặc gặp tôi, tôi sẽ giảng cho.
Hương Lăng cầm tập thơ về Hành Vu Uyển, chẳng nhìn đến công việc gì, thắp ngay đèn đọc hết bài này đến bài khác. Bảo Thoa mấy lần giục cũng không đi ngủ. Bảo Thoa thấy Hương Lăng mài miệt quá, đành phải để tùy ý.
Một hôm, Đại Ngọc vừa rửa mặt chải đầu xong, thấy Hương Lăng cười hớn hở đem đến giả tập thơ cũ, và mượn tập thơ Đỗ Phủ. Đại Ngọc cười nói:
- Nhớ được tất cả bao nhiêu bài rồi?
- Nhưng bài có khuyên đỏ, em đọc hết cả.
- Đã lĩnh hội được ít nào chưa?
- Em đã lĩnh hội được một ít, nhưng chưa biết có đúng không. Em nói cho cô nghe nhé.
- Cần phải nhận xét bàn bạc mới tiến được. Chị hãy nói cho tôi nghe nào.
- Cứ ý em thì những chỗ hay của bài thơ, có nhiều ý tứ không thể nói ra được, nhưng ngẫm nghĩ lại rất thiết thực; có nhiều câu thơ như là vô lý, nhưng nghĩ rất có lý có tình.
- Nói thế là chị đã có ít nhiều thi tứ rồi đấy! Nhưng do đâu mà chị biết được như thế?
- Em xem bài “Ngoài cửa ải” có câu:
Bãi rộng khói đùn làn thẳng tắp;
Sông dài ác xế mặt tròn vành.
Em nghĩ khói thì “thẳng” thế nào được? Mặt trời tất nhiên là “tròn” rồi. Thế thì chữ “thẳng” như là vô lý, mà chữ "tròn” hình như rất tục. Nhưng sau gấp sách lại ngẫm nghĩ, hình như mắt trông thấy hẳn cái cảnh ấy. Muốn tìm hai chữ khác thay vào nhưng không sao tìm được. Lại còn câu:
Trắng xóa sông ngòi khi ác lặn;
Xanh lè giời đất lúc trào dâng.
Hai chữ "trắng” và “xanh , mới nghe cũng hình như vô lý, nhưng nghĩ kỹ ra thì chỉ có hai chữ ấy mới hình dung hết được phong cảnh. Đọc lên thấy nặng chình chịch như miệng ngậm quả trám ấy. Lại có câu:
Mặt trời rớt lại rơi đầu bến;
Đám khói trơ ra bốc giữa làng.
Chữ “rớt” và chữ “trơ" sao mà họ khéo nghĩ được như vậy. Năm trước, khi chúng em lên kinh, một hôm về chiều, thuyền đậu trên bờ, người vắng, chỉ có mấy cái cây, đằng xa có mấy nhà đang nấu cơm chiều, khói bốc lên màu xanh biếc lẫn với đám mây. Ngờ đâu đêm qua đọc đến hai câu thơ này, mắt em như lại trông thấy cảnh ấy.
Đang nói chuyện thì Bảo Ngọc và Thám Xuân đến, đều vào ngồi nghe Hương Lăng nói về thơ. Bảo Ngọc cười nói:
- Đã thế thì không cần phải xem thơ nữa. Chỗ lãnh hội không phải ở đâu xa xôi, cứ nghe nói hai câu ấy đủ biết về chị đã nắm được mấu chốt của cách làm thơ rồi.
Đại Ngọc cười nói:
- Chị bảo mấy chữ “đám khói trơ ra” là hay, nhưng chị chưa biết đó là bắt chước ý câu thơ của người trước. Tôi cho chị xem câu này, so với câu kia nhẹ nhàng và thiết thực hơn.
Nới xong, liền đưa cho Hương Lăng xem câu thơ của Đào Uyên Minh:
Tờ mờ xóm làng xa,
Trơ vơ khói trên bãi.
Hương Lăng xem rồi gật đầu khen ngợi mãi, cười nói:
- Thế thì chữ "trơ" là do ý hai chữ “trơ vơ" mà ra!
Bảo Ngọc cười to nói:
- Thế là chị đã hiểu lắm rồi, không cần phải giảng giải nữa. Nếu còn giảng giải đâm ra loãng mất. Bây giừ chị cứ làm thơ đi, nhất định là hay.
Thám Xuân cười nói:
- Ngày mai tôi viết thêm một cái thiếp, mời chị vào thi xã.
Hương Lăng nói:
- Cô ơi, sao cứ trêu chọc em thế? Chẳng qua thích thơ, em học để mà chơi đấy thôi.
Thám Xuân, Đại Ngọc đều cười nói:
- Ai chẳng chơi? Không lẽ chúng tôi mới là người biết làm thơ à? Nếu bảo chúng tôi biết làm thơ, tiếng đồn ra khỏi vườn này, có lẽ người ta cười đến vỡ bụng mất!
Bảo Ngọc nói:
- Thế là mình coi rẻ mình rồi. Hôm trước tôi ra bàn việc vẽ với các ông họa sư ở ngoài kia, họ nghe thấy chúng ta mở thi xã đều xin tôi đưa tập thơ cho họ xem. Tôi viết mấy bài đưa cho họ, ai cũng phải thán phục. Họ đã chép để mang đi khắc rồi.
Thám Xuân, Đại Ngọc hỏi:
- Có thật thế không?
- Tôi mà nói dối thì cũng như con vẹt trên cây này.
- Anh thật bậy quá! Đừng nói thơ chẳng ra thơ, mà có ra thơ chăng nữa cũng không nên mang bút tích của chúng tôi ra ngoài.
- Sợ cái gì? Nếu bút tích của những người trong khuê các trước kia không truyền ra ngoài, bây giờ biết sao được những bài thơ của họ.
Chợt thấy Tích Xuân sai Nhập Họa đến mời Bảo Ngọc. Bảo Ngọc vừa đi thì Hương Lăng lại xin đổi lấy tập thơ Đỗ Phủ, và nói với Đại Ngọc, Thám Xuân:
- Xin hai cô ra đầu bài cho em về làm thử; làm xong, nhờ hai cô chữa hộ.
Đại Ngọc nói:
- Đem qua trăng đẹp quá, tôi đang định làm một bài, nhưng chưa nghĩ xong. Chị làm đi. Hạn vần thập tứ hàn, chị muốn dùng chữ nào trong vần ấy thì dùng.
Hương Lăng mừng quá, mang tập thơ về, nghĩ một lúc, làm được hai câu. Nhưng lại tiếc thơ Đỗ Phủ, nên mải miết đọc vài bài, không thiết đến ăn uống, nằm ngồi cũng không yên. Bảo Thoa nói:
- Làm gì chị phải đeo khổ vào mình thế? Chỉ tại cái cô Tần cám dỗ chị, để tôi kể tội cho nó. Xưa nay chị vốn là ngớ ngẩn, giờ đến việc này, lại cảng ngớ ngẩn thêm.
- Cô ơi! Cô đừng làm rầy tôi nữa.
Hương Lăng vừa nói vừa đưa bài thơ mới làm cho Bảo Thoa xem. Bảo Thoa cười nói:
- Bài này không được, không phải lối làm như thế. Nhưng đừng xấu hổ, cứ mang sang cho cô Đại Ngọc, xem cô ta bảo thế nào.
Hương Lăng cầm bài thơ sang đưa cho Đại Ngọc, Đại Ngọc xem thơ thấy:
Đêm lạnh vừng trăng đừng giữa giời,
Tròn xoe trong vắt bóng chơi vơi.
Nhà thơ hứng quá trừmg đôi mắt,
Khách ẩn buồn tênh lảng một nơi.
Lầu thúy gương đâu treo xế cạnh,
Rèm châu băng những giắt bên ngoài.
Đêm nay đuốc bạc chi cần đốt,
Bức vẽ lan can đã sáng ngời.(5)
Đại Ngọc cười nói:
- Ý tứ thì có, nhưng lời không được nhã, chỉ vì chị xem thơ ít nên bị nó gò bó. Bỏ bài này đi, chị làm bài khác. Cần phải mạnh dạn mà làm.
Hương Lăng nghe nói, lẳng lặng về nhà, không buồn vào buồng, lại đến gốc cây bên bờ ao, khi thờ thẫn trên hòn đá, khi ngồi xuống vạch đất. Những người qua lại đều lấy làm lạ. Bọn Lý Hoàn, Bảo Thoa, Thám Xuân và Bảo Ngọc đều đứng ở sườn núi đằng xa nhìn mà cười. Thấy Hương Lăng lúc cau mày, lúc mỉm cười một mình, Bảo Thoa cười nói:
- Chị này nhất định điên rồi! Đêm qua chị ta lầm rầm đến tận canh năm mới ngủ. Nằm được một lúc giời sáng, đã lại thấy dậy rồi, vội vàng chải đầu sang ngay bên cô Tần. Khi về thẫn thờ một lúc, làm được một bài nhưng không hay, chắc bây giờ chị ta lại làm bài khác đấy.
Bảo Ngọc cười nói:
- Thật đúng là “đất thiêng thì người giỏi!” Trời đã sinh ra người, không bao giờ bỏ phí tính tình của người. Ngày thường chúng ta vẫn phàn nàn, tiếc cho chị ấy là người tục! Ngờ đâu bây giờ lại thế này! Mới biết trời đất rất công bằng.
Bảo Thoa cười nói:
- Anh chịu khó được như chị ấy, thì học cái gì mà chẳng thành tài?
Bảo Ngọc không trả lời. Chọt thấy Hương Lăng hớn hở chạy sang bên Đại Ngọc. Thám Xuân cười nói:
- Chúng ta đi sang đó, xem thơ của chị ta có hay không?
Liền cùng nhau đến quán Tiêu Tương, thấy Đại Ngọc đang xem và giảng giải bài thơ của Hương Lăng. Mọi người hỏi Đại Ngọc:
- Thơ làm ra sao rồi?
- Kể ra chị ta cũng đáng khen rồi đấy, nhưng vẫn chưa được. Bài thơ này lại gọt quá, còn phải làm lại.
Mọi người xem, thì thấy:
Bạc hay là nước dọi ngoài song,
Mâm ngọc nhìn xem giữa ánh hồng.
Hương đượm hoa mai màu nhạt nhạt,
Móc tan tơ liễu sợi thòng thòng.
Thềm vàng xoa phấn thừa, đâu đấy?
Giàn ngọc dây sương nhẹ phải không?
Tỉnh giấc lâu tây người vắng ngắt,
Ngoài rèm còn đấy mảnh gương trong.
Bảo Thoa cười nói:
- Không phải là vịnh trăng. Theo tứ bài này, dưới chữ trăng phải thêm chữ “sắc" nữa mới được. Chị xem đấy, câu nào cũng là vịnh “sắc trăng" cả. Nhưng thôi, xưa nay thơ vẫn là nói phiếm hết, chị cứ làm ít lâu nữa, thơ sẽ hay đấy.
Hương Lăng vẫn cho bài thơ này đã hay lắm rồi, giờ nghe nói thế, đâm ra cụt hứng, không chịu bỏ qua, lại muốn nghiền ngẫm ngay. Thấy các chị em đang cười nói, Hương Lăng ra đứng trước cây trúc dưới thềm, dốc cả tâm trí vào thơ, tai không cần nghe, mắt không cần nhìn đến nhưng sự việc ở chung quanh. Một lúc Thám Xuân đứng ở trong cửa sổ cười nói:
- Cô Lăng ơi, hãy “nhàn nhàn” một tí đã.
Hương Lăng giật mình trả lời:
- Chữ “nhàn” ở vần thập ngũ san kia, cô nhầm rồi.
Mọi người nghe nói, cười ầm lên. Bảo Thoa nói:
- Thực là con ma thơ! Chỉ tại con Tần cám dỗ chị ấy.
Đại Ngọc cười nói:
- Thánh nhân nói “dạy người không biết chán”, chị ta cứ hỏi đến tôi, lẽ nào tôi lại không bảo?
Lý Hoàn cười nói:
- Chúng ta kéo chị ấy đến nhà cô Tư xem bức vẽ, để chị ấy tỉnh lại mới được.
Nói xong, đứng dậy, kéo Hương Lăng đi sang Ngẫu Hương tạ. Vào đến ổ Noãn Hương, thấy Tích Xuân đang mệt, nằm ngủ trưa trên giường, bức vẽ dựng cạnh vách, ngoài có the phủ. Mọi người gọi Tích Xuân dậy, mở the ra xem, thấy mười phần mới vẽ xong được ba. Trong bức vẽ có mấy vị mỹ nhân, Hương Lăng liền chỉ vào đó nói:
- Vị này là các cô, vị kia là cô Lâm.
Thám Xuân cười nói:
- Những người nào biết làm thơ, đều được vẽ vào bức tranh này, chị cố học thơ đi.
Mọi người cười đùa một lúc, rồi đâu lại về đấy.
Hương Lăng trong bụng lúc nào cũng nghĩ đến thơ. Buổi tối ngồi thờ thẫn ở trước đèn cho đến hết canh ba mới lên giường nằm, hai mắt cứ trừng trừng cho đến canh năm mới ngủ được một tí.
Một lúc trời sáng, Bảo Thoa trở dậy. Lắng nghe Hương Lăng đang ngủ say, nghĩ bụng: “Chị ta trằn trọc, cả đêm không biết đã làm xong thơ chưa? Bây giờ chắc mệt, ta đừng gọi vội”. Bỗng thấy Hương Lăng nói mê:
- Thơ xong rồi! Lẽ nào bài này lại không hay?
Bảo Thoa nghe vậy, vừa bực mình vừa buồn cười, liền gọi Hương Lăng dậy hỏi:
- Đã xong thơ chưa? Lòng thành của chị đã thấu đến trời rồi. Khéo không thơ chẳng học nổi, lại đeo cái ốm vào người đấy!
Vừa nói vừa đi rửa mặt chải đầu, rồi cùng chị em sang bên Giả mẫu. Nguyện Hương Lăng cố chí mài miệt học làm thơ, tinh thần để cả vào đấy, ban ngày chẳng nghĩ được câu gì, chợt trong giấc mộng, lại nghĩ được cả tám câu. Rửa mặt chải đầu xong, chị ta vội vàng viết ngay ra, đem đến đình Thấm Phương, thấy Lý Hoàn cùng các chị em vừa ở bên Vương phu nhân về, Bảo Thoa nói với họ là chị ta ngủ mê cũng làm thơ. Mọi người đang cười, ngẩng đầu lên, đã thấy Hương Lăng đến rồi, liền tranh nhau xem thơ.
-----------------------
(1). Ý nói được cái nọ lại mong cái kia.
(2). Nguyên văn: Vũ thôn “phong thôn”.
(3). Vợ vua Thuấn là Tương phu nhân. Khi vua Thuấn chết, bà khóc nhiều quá, nước mắt nhỏ vào cành trúc đến đâu thì có vần đến đấy, nên gọi là Tương phi trúc.
(4). Tức Lục Du, người đời Tống, làm thơ rất giỏi.
(5). Nguyên văn “Hàn”, vì hạn chế của dịch, phải dịch theo vần khác.
Hồi bốn mươi chín
Cõi lưu ly mai hồng tuyết trắng;
Gái son phấn, ăn sống nuốt tanh.
Hương Lăng thấy mọi người đang cười mình, liền đi lại cười nói:
- Các cô xem bài thơ này được thì tôi còn học nữa; nếu không, tôi cũng chán chết về thơ thôi.
Nói xong đưa bài thơ cho Đại Ngọc và mọi người xem, thì thấy:
Tinh hoa đâu để giấu cho mình.
Bóng vẫn run run vẻ vẫn xinh.
Nghìn dặm chày vang khi giặt lụa,
Nửa vừng gà giục lúc dòn canh.
Sáo nghe mặt nước thu buồn ngắt,
Áo tựa bên lầu đêm vắng tanh.
Hãy hỏi mình xem này chị Nguyệt,
Khi tròn khi khuyết mãi sao đành.
Mọi người xem xong cười nói:
- Bài này không những hay mà lại có ý mới mẻ khéo léo. Mới biết tục ngữ nói “Đời không có việc gì khó, chỉ sợ lòng không bền”. Nhất định chúng tôi phải mời chị vào thi xã.
Hương Lăng nghe nói, trong bụng vẫn không tin, cho là bọn họ nói dối, lại cứ xoắn hỏi Đại Ngọc và Bảo Thoa.
Chợt bọn a hoàn và bà già vội vàng chạy đến, cười nói:
- Có các cô các mợ nào đến chơi ấy, chúng tôi không biết là ai; các cô các mợ về mà nhận bà con.
Lý Hoàn cười nói:
- Làm gì có chuyện ấy? Các người cứ nói rõ xem, bà con của ai nào?
- Hai cô em của mợ đều đến; lại có một cô nữa, nói là em của cô Tiết, còn một cậu thì nghe nói là em của cậu Tiết. Tôi đi mời bà dì đây! Mợ và các cô hãy về trước.
Nói xong họ đi thẳng. Bảo Thoa cười nói:
- Không lẽ là Tiết Khoa nhà chúng tôi và em gái nó đến chơi chăng?
Lý Hoàn cười nói:
- Có lẽ thím tôi cũng lại vào Kinh đây? Tại sao bọn họ lại cùng đi với nhau một chuyến? Chuyện này cũng lạ thật.
Mọi người sang bên Vương phu nhân, thấy chật ních cả nhà. Lại có chị dâu của Hình phu nhân đem con gái là Tụ Yên đến Kinh nhờ vả Hình phu nhân. Vừa gặp lúc anh Phượng Thư là Vương Nhân cũng vào Kinh, nên hai nhà cùng đến một lúc. Đi đến nửa đường khi thuyền đậu lại, gặp thím của Lý Hoàn đem theo hai con gái cô lớn là Lý Văn, cô nhỏ là Lý Ỷ, cũng lên Kinh. Mọi người kể chuyện, té ra đều là chỗ bà con cả. Vì thế ba nhà cùng đi một đường. Sau lại có em họ Tiết Bàn là Tiết Khoa, mang theo em gái là Tiết Bảo Cầm vào Kinh để đính hôn, vì trước đây cha hắn đã hứa gả Bảo Cầm cho con quan hàn lâm họ Mai. Nay nghe Vương Nhân vào Kinh, nên hắn đem em gái đi theo. Hôm nay mọi người cùng đến, người nào hỏi thăm vào nhà bà con người ấy.
Giả mẫu và Vương phu nhân rất đỗi vui mừng, Giả mẫu cười nói:
- Thảo nào, đêm qua ngọn đèn cứ nở hoa mãi, thì ra báo điềm cho ngày hôm nay.
Mọi người kể lể chuyện nhà, thu nhận quà bánh, rồi mời khách ở lại cơm rượu, Phượng Thư tất nhiên đã bận lại càng bận thêm. Lý Hoàn và Bảo Thoa kể lể những chuyện xa cách lâu ngày với thím và các chị em. Đại Ngọc thấy thế, trước còn vui, sau nghĩ người ta đều có bà con, chỉ mình là trơ trọi, nước mắt tự nhiên lại chảy ra. Bảo Ngọc hiểu ý, khuyên ngăn an ủi mãi mới thôi.
Bảo Ngọc vội về viện Di Hồng, cười bảo Tập Nhân, Xạ Nguyệt, Tình Văn:
- Các chị không đi mà xem! Ai ngờ anh ruột chị Bảo như thế, mà em con nhà chú hình dáng đi đứng khác hẳn. Thật giống hệt em ruột chị Bảo vậy. Còn lạ hơn nữa là ngày thường các chị nói chị Bảo rất đẹp, nay hãy so với cô em chị ấy xem. Lại còn hai cô em chị Cả nữa, tôi không thể tả ra hết được! Trời ơi! Có bao nhiêu tinh hoa đúc ra được lớp người đẹp đẽ tuyệt vời như vậy! Thế mới biết tôi là “con ếch dưới giếng". Ngày thường cứ nói mấy người ở đây đẹp có một không hai, ngờ đâu không phải tìm đâu xa, chỉ ở trong vùng này cũng mỗi người mỗi vẻ. Giờ tôi lại hiểu thêm được một bậc nữa. Ngoài mấy người này ra, biết đâu chẳng có những người đẹp hơn nữa?
Bảo Ngọc nói rồi lại cười một mình.
Tập Nhân thấy Bảo Ngọc nói có ý vớ vẩn, không thèm đi xem. Bọn Tình Văn đi xem về ngặt nghẽo cười bảo Tập Nhân:
- Chị đi mà xem! Cháu gái Hình phu nhân, em gái cô Bảo, hai em gái mợ Cả, trông đều ngồn ngộn như đám hành non.
Nói chưa dứt lời, thấy Thám Xuân hớn hở tìm Bảo Ngọc nói:
- Thi xã của chúng ta có lẽ thịnh vượng đấy.
- Phải đấy. Vì chúng ta có hứng mở thi xã nên quỷ thần xui khiến những người ấy đến đây. Có điều, không hiểu họ đã biết làm thơ chưa?
-Em có hỏi, họ đều nói nhũn, nhưng xem ra có lẽ ai cũng biết cả. Nếu họ chưa biết cũng chẳng khó gì. Anh cứ xem Hương Lăng đủ biết.
Tập Nhân cười nói:
- Nghe đâu em cô Bảo đẹp lắm, cô Ba xem thấy thế nào?
- Đúng đấy. Cứ theo ý tôi, ngay chị Bảo và những người ở đây cũng không ai bằng.
Tập Nhân lấy làm lạ, cười nói:
- Lạ nhỉ! Ở đâu còn tìm người đẹp hơn thế nữa? Tôi phải đi xem mới được.
Thám Xuân nói:
- Cụ mới trông thấy Bảo Cầm đã mừng rối lên, bắt mẹ tôi phải nhận cô ấy làm con nuôi. Cụ định mang cô ấy về nuôi đấy.
Bảo Ngọc cười hỏi:
- Em nói có thực không?
- Khi nào em lại nói dối. - Lại cười nói - Giờ cụ đã có cô cháu gái đẹp ấy, chắc sẽ bỏ quên anh là cháu giai!
- Cái đó không sao, đúng lẽ ra cũng nên thương cháu gái hơn mới phải. Mai là ngày mười sáu, chúng ta nên mở thi xã đi thôi.
- Cô Lâm vừa ốm khỏi, chị Phượng cũng ốm, được người nọ lại mất người kia.
- Chị Phượng không biết làm thơ, thiếu chị ấy cũng không sao.
- Thôi hãy cố chờ mấy hôm nữa, để những người mới đến làm quen với nhau đã, chúng ta sẽ mời họ chẳng hơn ư? Hiện giờ chị Lý và chị Bảo chắc không còn bụng nào nghĩ đến chuyện làm thơ nữa. Vả chăng Tương Vân chưa đến, cô Tần mới khỏi, còn những người khác đều chưa hợp lệ. Chi bằng hãy chờ Tương Vân sang, mấy người mới đến dần dần quen thuộc nhau, cô Tần khỏi hắn, chị Lý và chị Bảo trong bụng thư thái. Hương Lăng làm thơ đã khá, bấy giờ chúng ta mới họp thi xã thực đầy đủ, như thế chẳng vui hơn ư? Nay chúng ta hãy sang bên cụ nghe ngóng xem, cô em chị Bảo nhất định ở lại nhà chúng ta rồi, còn ba cô kia nếu không ở lại, chúng ta xin với cụ cho họ ở trong vườn, như thế lại thêm được mấy người nữa, chẳng hay hay sao.
Bảo Ngọc hớn hở cười nói:
- Em nghĩ sáng suốt quá. Anh thực là hồ đồ, chỉ mừng hão một lúc, chứ không nghĩ được đến đấy.
Nói xong. hai anh em sang bên Giả Mẫu. Quả nhiên Vương phu nhân đã nhận Tiết Bảo Cầm làm con nuôi. Giả mẫu rất là vui mừng, không cho Bảo Cầm sang ở bên vườn, bắt phải ngủ ở đây với mình. Tiết Khoa thì đến ở buồng của Tiết Bàn. Giả mẫu bảo Hình phu nhân:
- Chị không cần phải mang cháu gái chị về nhà vội, cứ để nó ở trong vườn chơi mấy hôm đã. Anh và chị dâu Hình phu nhân vì nhà túng thiếu, chuyến này vào Kinh cốt để nhờ Hình phu nhân giúp đỡ cho nhà cửa và tiêu pha. Nay nghe nói thế, lẽ nào họ lại không vui lòng.
Hình phu nhân liền giao Hình Tụ Yên cho Phượng Thư. Phượng Thư nghĩ chị em trong vườn thì nhiều, tính tình mỗi người một khác, sợ Hình Tụ Yên ở riêng một nơi không tiện. Chi bằng đưa nó đến ở với Nghênh Xuân, sau này nó có điều gì không vừa lòng. Hình phu nhân có biết cũng chẳng liên lụy gì đến mình.
Từ đó trở đi, trừ khi Hình Tụ Yên về nhà không kể, nếu ở lại trong vườn Đại Quan độ một tháng trở lên, Phượng Thư cũng cấp tiền lương cho cô ta như Nghênh Xuân. Phượng Thư thấy Tụ Yên tâm tính ôn hòa, đáng mến, không giống như Hình phu nhân và cha mẹ nó, lại nhà nghèo vất vả, nên thương nó hơn các chị em khác. Hình phu nhân thì chẳng để ý gì đến.
Giả mẫu và Vương phu nhân vẫn mến Lý Hoàn là người hiền lành, góa chồng từ trẻ, mà vẫn giữ được tiết. Nay thấy bà thím của Lý Hoàn đến, liền không cho ra ở ngoài. Tuy bà thím không bằng lòng, nhưng vì Giả mẫu nhất định giữ lại nên đành phải mang Lý Văn, Lý Ỷ vào ở trong Đạo Hương thôn.
Công việc xếp đặt xong. Chợt Trung Tĩnh hầu là Sử Đỉnh phải đổi ra làm quan ở tỉnh ngoài, sắp sửa mang gia quyến đi nhậm chức. Giả mẫu không rời được Tương Vân, liền đem cô ta sang bên này và bảo Phượng Thư sắp đặt một chỗ cho ở. Sử Tương Vân xin đến ở với Bảo Thoa.
Bấy giờ trong vườn Đại Quan lại nhộn nhịp hơn trước: Lý Hoàn là đầu, còn nữa là Nghênh Xuân, Thám Xuân, Tích Xuân, Bảo Thoa, Đại Ngọc, Tương Vân, Lý Văn, Lý Ỷ, Bảo Cầm, Hình Tụ Yên, lại thêm Phượng Thư và Bảo Ngọc, tất cả mười ba người. Kể tuổi ra, Lý Hoàn lớn hơn, Phượng Thư thứ hai. Còn mấy người kia chỉ chừng mười lăm, mười sáu, mười bảy tuổi, hoặc cùng năm khác tháng, hoặc cùng ngày khác giờ, ngay bọn họ cũng không thể nhớ rõ ai là lớn, ai là bé được, thành ra bốn tiếng “chị", “em", "anh", “em", muốn gọi thế nào thì gọi.
Hương Lăng đang hăm hở thích làm thơ nhưng không dám quấy rầy Bảo Thoa. May sao có Sử Tương Vân đến, Tương Vân rất thích nói chuyện, tránh sao Hương Lăng chả lại nhờ chỉ bảo cách làm thơ? Tương Vân thấy vậy càng cao hứng, suốt ngày đêm trò chuyện huyên thiên. Bảo Thoa cười nói:
- Điếc tai quá, không thể chịu được. Chúng mình là gái lại thích thơ, coi việc làm thơ là chính, như vậy chỉ tổ làm cho bọn có học cười thôi, họ lại cho là mình không biết yên phận. Một mình Hương Lăng đang làm nhộn nhà rồi, lại thêm cái lưỡi gầu dai của cô nữa, luôn mồm luôn miệng nào là thơ của Đỗ Công Bộ(1) uất ức âm thầm; thơ của Vi Tô Châu(2) thanh đạm tao nhã; thơ của Ôn Bát Soa(3) đẹp nhời; thơ của Lý Nghĩa Sơn(4) kín đáo sắc sảo. Cô bỏ hai nhà thơ hiện đại không nói, lại cứ nhắc đến những nhà thơ trước làm gì?
Tương Vân nghe xong cười hỏi:
- Hai nhà thơ hiện đại là ai?
Bảo Thoa cười nói:
- Nỗi lòng chật vật của Hương Lăng ngốc và lời nói ba hoa của Tương Vân điên.
Hương Lăng và Tương Vân nghe vậy đều cười ầm lên.
Chợt Bảo Cầm khoác áo đi mưa vàng xanh lấp lánh, không biết làm bằng thứ gì, từ ngoài đi vào. Bảo Thoa hỏi:
- Cái áo này em lấy ở đâu đấy?
- Vì trời xuống tuyết, cụ tìm cái này cho em đấy.
Hương Lăng đứng lên xem, nói:
- Thảo nào, trông đẹp quá, dệt bằng lông công đấy.
Tương Vân cười nói:
- Có phải lông công đâu? Là lông mào vịt trời đấy. Thế mới biết cụ thương cô thực. Người thương Bảo Ngọc đến thế cũng không cho anh ấy.
Bảo Thoa cười nói:
- Tục ngữ nói rất đúng: “Mỗi người có một số phận riêng". Tôi không ngờ nó đến đây, lại được cụ thương như thế.
Tương Vân nói:
- Cô ở bên nhà cụ, hoặc sang bên vườn, nơi nào cũng tha hồ chơi đùa ăn uống. Còn khi đến nhà bà Hai, người ở nhà, cô có thể ngồi lâu nói cười không sao, nếu người đi vắng, cô đừng nên vào. Vì ở đấy họ đều xấu bụng, chỉ muốn trêu chọc chúng ta thôi.
Bảo Thoa, Bảo Cầm, Hương Lăng, Oanh Nhi nghe vậy đều bật cười. Bảo Thoa nói:
- Cứ tưởng chị là người vô tâm, mà hóa ra con người hay để ý. Thực ra chị có để ý đấy, nhưng có gì lại nói tuột ra. Em Cầm nhà tôi cũng giống chị. Trước đây, chị muốn nhận tôi làm chị, bây giờ tôi bảo chị nên nhận nó là em đi.
Tương Vân lại nhìn Bảo Cầm cười nói:
- Chỉ có cô ấy mới đáng mặc cái áo này, chứ người khác thì không xứng.
Lúc đó Hổ Phách chạy đến cười nói:
- Cụ bảo: Cô Cầm hãy còn bé, cô Bảo không được thằng thúc cô ấy quá. Cô ấy thích cái gì. muốn cái gì cũng nên chiều, đừng xét nét lắm.
Bảo Thoa vội đứng dậy vâng lời, lại đẩy Bảo Cầm cười nói:
- Phúc em đấy! Thôi về đi, kẻo lại bảo là chị quấy rầy em. Thật không ngờ chị lại không bằng em.
Đương nói thì Bảo Ngọc, Đại Ngọc đến. Bảo Thoa vẫn còn cười đùa. Tương Vân cười nói:
- Chị Bảo ơi, tuy chị nói đùa, nhưng biết đâu có người lại thật lòng nghĩ như thế đấy.
Hổ Phách cười nói:
- Kể ra cũng chẳng ai bực tức đâu. có chăng chỉ người này thôi.
Miệng nói tay chỉ vào Bảo Ngọc. Bảo Thoa, Tương Vân đều cười nói:
- Anh ấy không phải là người như thế đâu.
Hổ Phách lại cười nói:
- Không phải cậu đấy thì là cô này.
Vừa nói, vừa chỉ vào Đại Ngọc. Tương Vân không nói gì, Bảo Thoa cười nói:
- Cũng không đúng nữa. Em tôi cũng như em cô ấy, có lẽ cô ấy lại vui thích hơn tôi nữa kia, việc gì mà bực tức. Chị nghe chị Vân nói nhảm, chẳng có gì đứng đắn cả.
Bảo Ngọc xưa nay biết rõ Đại Ngọc có tính hẹp hòi, nhưng chưa biết câu chuyện giữa Đại Ngọc và Bảo Thoa. Nay thấy Giả mẫu thương Bao Cầm quá, Bảo Ngọc sợ Đại Ngọc trong bụng khó chịu, giờ thấy Tương Vân nhắc đến, Bảo Thoa lại đưa thêm, nhưng nét mặt Đại Ngọc không có gì thay đổi, lại hùa theo với Bảo Thoa, nên Bảo Ngọc trong bụng không hiểu ra sao, liền nghĩ: “Xưa nay hai người này không như thế bao giờ, nay xem ra lại thấy họ đối xử với nhau tốt hơn người khác nhiều". Một chốc lại thấy Đại Ngọc gọi Bảo Cầm là em, chứ không gọi đến tên họ, coi như chị em ruột vậy. Bảo Cầm lại trẻ người hăng hái, thông minh nhanh nhẹn, từ bé đi học, nay đến phủ Giả mới vài ngày, đã quen biết hầu hết mọi người, thấy đám chị em không phải là bọn gái khinh bạc, đối xử tử tế với chị mình, nên không dám khinh nhờn ai. Cô ta lại rất kính mến Lâm Đại Ngọc là người xuất sắc nhất. Bảo Ngọc thấy vậy, trong bụng càng lấy làm lạ.
Sau khi chị em Báo Thoa đến nhà Tiết phu nhân. Tương Vân về nhà Giả mẫu. Đại Ngọc về buồng nghỉ. Bảo Ngọc liền đến tìm Đại Ngọc, cười nói:
- Trước anh xem Tây Sương ký có mấy câu rõ nghĩac anh thường nói để mà cười, em lại sinh ra tức giận. Bây giờ nghĩ lại còn có một câu không hiểu, anh đọc ra đây, em giảng cho anh nghe nhé.
Đại Ngọc nghe nói, biết Bảo Ngọc lại có ý tứ gì đây, liền cười nói:
- Anh cứ đọc cho em nghe đi.
- Trong khúc "Náo giản" có một câu rất hay: “Tự bao giờ Mạnh Quang đỡ án trước Lương Hồng?”(5) Câu này chẳng qua là điển có sẵn, nhưng ba chữ "tự bao giờ" ý hỏi rất thú vị. Vậy thì họ đỡ án tự bao giờ? Em nói cho anh nghe.
Đại Ngọc nghe xong. cười nói:
- Nguyên câu hỏi ấy là hay. Họ hỏi cũng hay, nay anh hỏi lại càng hay.
- Trước kia em cứ ngờ anh, bây giờ chắc em không ngờ nữa.
- Ngờ đâu chị Bảo thực là người tốt, trước em vẫn cứ cho chị ta là hạng ác ngầm.
Rồi Đại Ngọc đem việc nói nhầm tửu lệnh, Bảo Thoa dặn bảo thế nào, khi có bệnh, Bảo Thoa đến chuyện trò và cho yến sào ra sao, kể hết cho Bảo Ngọc nghe. Bảo Ngọc mới biết rõ đầu đuôi, liền cười nói:
- Đã biết mà, anh đang băn khoăn về việc "Tự bao giờ Mạnh Quang đỡ án trước Lương Hồng" thì ra đỡ từ lúc "Đồ trẻ con nói chẳng nể lời"(6) ấy.
Nhân câu chuyện Bảo Cầm, Đại Ngọc nghĩ ngay mình không có chị em, nên lại không cầm được nước mắt. Bảo Ngọc vội vàng khuyên:
- Thật là em chuốc lấy phiền não vào người. Em thử nhìn xem, năm nay lại gầy hơn năm ngoái đấy. Thế mà không biết giữ gìn, hàng ngày bỗng dưng vô cớ, em cứ phải khóc được một lúc mới coi như xong việc một ngày.
Đại Ngọc gạt nước mắt nói:
- Gần đây em cảm thấy trong lòng chua xót, nước mắt ít hơn năm ngoái. Lòng càng đau xót, thì nước mắt lại càng ít đi!
- Vì em khóc quen rồi, nên ngờ thế thôi, chứ nước mắt có bao giờ ít đi.
Đương nói chuyện, một a hoàn đưa cái áo khoác da vượn đến, nói:
- Mợ Cả vừa cho người đến bảo: “Giờ đã có tuyết, muốn bàn ngày mai mời mọi người đến làm thơ đấy.”
Bỗng cả a hoàn của Lý Hoàn đến mời Đại Ngọc. Bảo Ngọc liền rủ Đại Ngọc cùng đến Đạo Hương thôn. Đại Ngọc thay đôi giày da dê thêu hoa nạm kim tuyến, khoác một cái áo da cáo trắng, ngoài bằng lông chim màu đỏ, thắt một cái dây lưng như ý xanh vàng lấp lánh, đầu đội mũ che tuyết. Hai người giẫm tuyết cùng đến, đã thấy bọn chị em ở cả đấy rồi. Người nào cũng mang áo khoác màu đỏ, bằng lông chim, riêng Lý Hoàn mặc một cái áo nỉ rộng, Tiết Bảo Thoa mặc một cái áo gấm thêu hoa. Hình Tụ Yên vẫn mặc áo thường, không có áo đi mưa.
Một lúc, Tương Vân đến, khoác một cái áo của Giả mẫu cho, bên ngoài bằng da con rái cá, bên trong bằng da chuột đen, đầu trùm một cái khăn kiểu Chiêu Quân dệt bằng da vượn màu đỏ giát vàng, lại quấn một cái khăn quàng cổ, bằng da rái cá. Đại Ngọc cười nói:
- Các chị xem kìa, Tôn Hành Giả đến đây rồi. Cũng một thứ áo che tuyết, mà nó cố ý làm ra vẻ tao nhã lắm đấy.
Tương Vân cười nói:
- Các chị xem bên trong tôi mặc đây này.
Vừa nói vừa cởi áo ngoài ra, thấy bên trong mặc một cái áo ngắn kín vạt bằng da chuột bạch đã hơi rung rúc, cổ áo giát vàng, tay áo hơi hẹp, thêu rồng bằng chỉ ngũ sắc, mặc cái quần đoạn thủy hồng lót bằng da cáo, lưng thắt một cái dây dài năm màu tết hình con bướm, chân đi đôi giày da hươu. Trông người càng tỏ ra thướt tha uốn éo, như lưng ong mình vượn, dáng hạc hình ve. Mọi người cười nói:
- Cô ấy thích mặc kiểu cậu bé, vì kiểu ấy trông sắc sảo lanh lợi hơn là kiểu cô bé.
Tương Vân cười nói:
- Hãy bàn việc làm thơ đi! Cho tôi biết ai là chủ đây?
Lý Hoàn nói:
- Theo ý tôi, hôm qua là ngày chính đã qua, nếu lại chờ đến ngày chính nữa, sợ lâu quá. Nay lại có tuyết, chi bằng chúng ta họp nhau đầy đủ, vừa để mừng khách mới đến, vừa để làm thơ. Chị em nghĩ thế nào?
Bảo Ngọc nói ngay:
- Chị nói rất phải nhưng hôm nay đã muộn, ngày mai lỡ không có tuyết thì còn thú gì.
Mọi người đều nói:
- Mai chắc chưa tạnh, có tạnh nữa thì trong đêm nay tuyết còn xuống cũng đủ thưởng rồi.
Lý Hoàn nói:
- Họp ở đây cũng được, nhưng ra Lư Tuyết am tốt hơn. Tôi đã sai người đào lò sưởi rồi, chúng ta sẽ đến đấy sưởi lò làm thơ. Cụ chưa chắc đã thích đến. Vả chăng đây là cuộc chơi đùa của chúng tao chỉ nên cho thím Phượng biết thôi. Chị em mỗi người bỏ ra một lạng, đưa lại đây cho tôi.
Rồi trỏ Hương Lăng, Bảo Cầm, Lý Văn, Lý Ỷ, Tụ Yên nói:
- Năm người này không phải góp, trong bọn chúng ta, cô Hai ốm, cô Tư xin nghỉ, đều không kể, còn bốn phần của chị em mang lại dây, tôi bỏ thêm năm, sáu lạng là đủ.
Bọn Bảo Thoa nhận lời, rồi bàn đến việc ra đầu bài và hạn vần, Lý Hoàn cười nói:
- Tôi đã định trước rồi. Để đến ngày mai thế nào sẽ biết.
Nói xong, mọi người chuyện phiếm, một lúc, rồi sang bên Giả mẫu.
Cả đêm, Bảo Ngọc thắc thỏm không sao ngủ được. Hôm sau, trời vừa sáng, đã trở dậy mở màn ra xem thì cửa sổ còn đóng, nhưng trông sáng lóa cả mắt, trong bụng ngần ngại, thầm trách trời đã lạnh và mặt trời đã lại mọc rồi. Bảo Ngọc vội đứng dậy, mở cửa sổ, từ trong cửa kính nhìn ra, té ra không phải ánh sáng mặt trời, mà là tuyết rơi đêm qua đọng dày gần một thước, trên trời còn trắng xóa như bông. Bảo Ngọc sung sướng lắm, gọi người dậy, rửa mặt súc miệng xong, mặc cái áo bằng da cáo khổ rộng màu tím lại thêm cái áo bằng da con cắt bể, thắt lưng, ngoài khoác cái áo tơi giát ngọc, đội nón mây vàng, đi đôi guốc gỗ đường, vội vàng đến Lư Tuyết am. Nhìn ra ngoài cửa, bốn bề trắng xóa một màu, xa xa là tùng xanh trúc biếc, chẳng khác nào mình đứng trong chậu pha lê vậy. Bảo Ngọc đi đến dưới dốc núi vừa vòng qua chân núi, đã ngửi thấy mùi hương lạnh. Quay lại, am Lũng Thúy của Diệu Ngọc ngay đó có mấy chục cây hồng mai, đỏ thắm như son, chiếu xuống màn tuyết càng thêm chói lọi, trông rất đẹp mắt. Bảo Ngọc đứng lại ngắm nghía một lúc rồi mới đi. Thấy trên cầu Phong Yên có một người che dù đi đến, đó là người của Lý Hoàn sai đi mời Phượng Thư. Bảo Ngọc đến Lư Tuyết am, thấy bọn bà già a hoàn đương quét tuyết dọn đường. Am này làm dựa vào núi trông ra sông, một dãy mấy gian nhà gianh tường đất, cửa trúc giậu găng, mở cửa ra đã có thể buông câu, bốn mặt lau sậy che kín, có một lối quanh co lách qua lau sậy đi ra, đến ngay cái cầu trúc ở Ngẫu Hương tạ. Các bà già, a hoàn thấy Bảo Ngọc mặc áo tơi, đội nón đến, đều cười nói:
- Chúng tôi vừa nói chỉ thiếu có một ông câu cá thôi, giờ đủ cả rồi. Các cô ăn cơm xong mới đến, cậu vội vã quá.
Bảo Ngọc nghe nói, đành quay trở về. Đến đình Thấm Phương, thấy Thám Xuân ở Thu Sảng trai ra, khoác cái áo tơi màu đỏ, đội mũ quan âm, vịn vào vai a hoàn, đằng sau có một người đàn bà che dù lụa xanh. Bảo Ngọc biết Thám Xuân đến nhà Giả mẫu liền đứng lại chờ, rồi hai người cùng đi ra vườn. Bảo Cầm đương rửa mặt chải đầu và thay quần áo ở trong buồng.
Một lúc, chị em đến đủ cả. Bảo Ngọc kêu đói cứ đòi ăn cơm. Chờ mãi mới có cơm bưng lên, món đầu là dê bao tử hầm với sữa. Giả mẫu nói:
- Đó là vị thuốc của người già đấy. Những thứ chưa ra bóng mặt trời thì các cháu còn bé không nên ăn. Hôm nay có món thịt hươu tươi, các cháu hãy chờ mà ăn.
Mọi người vâng lời.
Bảo Ngọc không chờ được, lấy nước chè chan vào cơm, ăn với thịt gà rừng, và lấy và để cho xong bữa. Giả mẫu nói:
- Ta biết các cháu hôm nay có việc bận, nên chẳng thiết gì đến ăn.
Liền gọi:
- Để lại món thịt hươu, đến chiều cho chúng nó ăn.
Phượng Thư vội nói:
- Hãy còn nhiều, cứ ăn cho hết đi.
Tương Vân bàn với Bảo Ngọc:
- Có thịt hươu mới, chi bằng chúng ta xin một miếng mang vào vườn, rồi vừa ăn vừa chơi.
Bảo Ngọc xin Phượng Thư một miếng, sai bà già mang vào trong vườn.
Mọi người đến Lư Tuyết am để nghe Lý Hoàn ra đầu bài và hạn vần, nhưng không thấy Tương Vân và Bảo Ngọc đâu. Đại Ngọc nói:
- Hai người ấy cùng đi với nhau, sẽ sinh lắm chuyện. Nhất định bây giờ họ chỉ bàn tính cái món thịt hươu đấy thôi.
Đương nói thì thím Lý chạy đến xem và hỏi Lý Hoàn:
- Tại sao một cậu đeo ngọc, một cô đeo kỳ lân vàng, trông vẻ thanh tú, lại không phải thiếu ăn, thế mà họ đương bàn với nhau ăn thịt sống đấy. Tôi không tin, thịt sống lại ăn được à?
Mọi người đều cười:
- Khá thật! Gọi ngay hai đứa về đây!
Đại Ngọc cười nói:
- Chỉ tại cô Vân bày chuyện ra thôi. Tôi đoán không sai mà!
Lý Hoàn vội chạy đi tìm hai người, bảo:
- Hai đứa chúng bay muốn ăn thịt sống, ta đưa đến chỗ cụ cho mà ăn, chỉ sợ không ăn hết cả con hươu thôi. Sau này có sinh bệnh cũng chả việc gì đến ta. Tuyết xuống nhiều, lạnh dữ, khéo lại làm tội ta đấy!
Bảo Ngọc vội cười nói:
- Có ăn thịt sống đâu! Chúng tôi nướng rồi mới ăn đấy.
Lý Hoàn nói:
- Thế thì được.
Rồi thấy bọn bà già mang lò sắt, xiên sắt, vỉ sắt đến, Lý Hoàn nói:
- Cẩn thận đấy, lỡ đứt tay lại khóc!
Phượng Thư ở nhà đường bận việc phát tiền thưởng hàng năm, nên sai Bình Nhi đi trả lời là không đến được. Tương Vân gặp Bình Nhi, khi nào cho về ngay? Bình Nhi vốn thích chơi đùa, ngày thường ở với Phượng Thư cũng cứ chơi bừa bãi, giờ thấy thế, càng vui, liền tháo ngay vòng ở tay ra, ba người ngồi quanh lò lửa, Bình Nhi muốn nướng ba miếng ăn trước. Bảo Thoa, Đại Ngọc ngày thường đã trông quen rồi, không lấy làm lạ. Bảo Cầm và thím Lý cho là việc chưa từng có. Thám Xuân cùng Lý Hoàn đã bàn nhau ra bài hạn vần rồi. Thám Xuân cười nói:
- Các chị ngửi xem, ở đây cũng sực cả mùi thơm, tôi đi ăn đây.
Nói xong, chạy ngay đến chỗ mấy người nướng thịt. Lý Hoàn cũng theo ra nói:
- Khách đến đủ cả rồi, các người còn ăn chưa chán à?
Tương Vân vừa ăn vừa nói:
- Ăn đến món này muốn uống rượu. Có uống rượu mới ra thơ chứ. Nếu không cò món thịt hươu này, hôm nay chắc không làm được thơ.
Chợt thấy Bảo Cầm mặc báo cừu thêu đàn le, đứng đó cười. Tương Vân cười nói:
- Đồ ngốc! Lại đây mà nếm xem!
Bảo Cầm cười nói:
- Bẩn lắm!
Bảo Thoa cười nói:
- Em thử nếm xem, ngon lắm đấy! Chị Lâm người yếu, ăn không tiêu, chứ không thì chị ấy cũng thích lắm!
Bảo Cầm nghe nói, đến ăn một miếng thấy ngon, lại ăn nữa.
Phượng Thư cho a hoàn đến gọi Bình Nhi. Bình Nhi nói:
- Mày cứ về trước đi, cô Sử còn giữ tao ở lại đây.
A hoàn về. Một lúc thấy Phượng Thư khoác áo tơi đến, cười nói:
- Ăn gì ngon thế, lại không gọi tôi?
Nói xong liền ngồi xuống ăn. Đại Ngọc cười nói:
- Ở đâu kéo đến một lũ ăn mày thế kia? Thôi, thôi! Hôm nay Lư Tuyết am thực là đốn kiếp, chỉ tại con Vân làm hại thôi. Ta phải khóc cho Lư Tuyết am mới được.
Tương Vân cười nhạt:
- Chị biết cái gì: "Là danh sĩ thật phải phong lưu”. Các người chỉ giả làm bộ thanh cao, đáng ghét nhất! Bây giờ chúng tôi ăn uống nhồm nhoàm, tuy tanh hôi thật, nhưng chốc nữa sẽ là bụng gấm miệng thêu cả đấy.
Bảo Thoa cười nói:
- Lát nữa làm thơ không hay, sẽ móc hết thịt ra, rồi lấy lau sậy dính tuyết tọng vào họng họ để cho hết kiếp đi.
Ăn xong, mọi người đi rửa tay.
Bình Nhi định đeo vòng vào tay, thấy thiếu một cái, tìm trước tìm sau, chẳng thấy đâu cả. Mọi người đều lấy làm lạ. Phượng Thư cười nói:
- Cái vòng đi đâu, tôi đã biết rồi. Các chị cứ việc làm thơ, chúng ta cũng không cần phải tìm. Độ ba ngày nữa thế nào cũng thấy.
Nói xong lại hỏi:
- Các chị hôm nay làm thơ gì đấy? Cụ bảo bây giờ gần hết năm, sang giêng nên bày cuộc đố thơ đèn để mọi người cùng vui.
Mọi người đều cười nói:
- Phải đấy, thế mà quên mất. Bây giờ làm sẵn mấy bài thật hay, để ra giêng chơi.
Nói xong mọi người cùng vào nhà có lò sưởi ngầm. Ở đây mâm bát hoa quả đã bày đủ cả, trên tường đã dán đầu bài, vần thơ và thể lệ làm thơ. Bảo Ngọc, Tương Vân vội đến xem, thấy đầu đề: Tức cảnh liên cú ngũ ngôn bài luật nhất thủ, hạn nhị tiêu vận.(7) Nhưng dưới chưa kê thứ tự. Lý Hoàn nói:
- Tôi không quen làm thơ mấy. Tôi chỉ xướng ra ba câu thôi, còn sau ai nghĩ được trước làm trước.
Bảo Thoa nói:
- Phải viết thứ tự ra chứ.
----------------------------------
1. Tức Đỗ Phủ.
2. Tức Vi Ứng Vật, người đời Huyền Tông và Đức Tông nhà Đường.
3. Tức Ôn Đình Quân người đời nhà Đường,làm thơ rất nhanh, xoa tay tám lần là làm xong bài thơ, vì thế người ta gọi là Ôn Bát Soa.
4. Đã chú thích ở hồi 40.
5. Mạnh Quang là vợ Lương Hồng, nhà nghèo, nhưng vẫn kính trọng nhau như chủ với khách. Khi đưa đồ ăn cho chồng, Mạnh Quang dâng khay lên đến tận lông mày.
6. Chữ trong “Tây Sương ký”
7. Một bài thơ Đường luật 5 chữ, tả cảnh trước mắt, mỗi người nối một câu, hạn vần “nhị tiêu”.
Hồi thứ năm mươi
Am Lư Tuyết nối nhau thơ tức cảnh;
Ổ Noãn Hương khéo đặt câu đố đèn.
Bảo Thoa nói:
- Cần phải định thứ tự, để tôi viết ra.
Nói xong, liền bảo mọi người rút thăm. Người bắt đầu chính là Lý Hoàn, rồi theo thứ tự mà rút.
Phượng Thư nói:
- Đã thế tôi cũng đọc một câu.
Mọi người đều cười nói:
- Thế thì càng hay.
Bảo Thoa viết một chữ “phượng” ở trên chữ “Đạo Hương lão nông”. Lý Hoàn giảng nghĩa đầu bài cho Phượng Thư nghe.
Phượng Thư nghĩ một lúc, cười nói:
- Chị em đừng cười tôi nhé, tôi chỉ có một câu nôm na thôi, còn sau không biết gì hết.
Mọi người đều cười nói:
- Càng nôm na càng hay. Chị cứ đọc ra đây, rồi đi làm việc của chị.
Phượng Thư cười nói:
- Khi tuyết xuống thế nào cũng có gió bấc. Đêm qua nghe gió bấc thổi, tôi có một câu: “một đêm gió bấc ào ào”, được hay không, tôi cũng chẳng cần.
Mọi người nhìn nhau cười nói:
- Câu này tuy nôm na, nhưng chưa nói hết ý. Đó chính là biết cách mở đầu bài thơ đấy. Không những hay, mà còn để lại rất nhiều ý tứ cho người làm sau. Vậy cứ lấy câu này làm đầu, Đạo Hương lão nông tiếp luôn đi.
Phượng Thư cùng thím Lý và Bình Nhi lại uống hai chén rượu rồi đi.
Lý Hoàn viết:
Một đêm gió bấc ào ào(1),
Rồi đọc câu của mình:
Cửa ngoài còn thấy tuyết giào giạt bay.
Thương thay thân trắng bùn dây,
Hương Lăng:
Tiếc thay ngọc lại rắc đầy khắp nơi.
Muốn cho cỏ héo lại tươi,
Thám Xuân:
Còn như mầm lụa tưới hoài công thôi.
Rượu quê giá đã lên rồi,
Lý Ỷ :
Được mùa kho thóc khá dồi dào thay.
Gió lay ống sậy, gió bay,
Lý Văn:
Giời kia ló mặt, sao này quay chuôi.
Hàn sơn xanh đã kém mùi,
Tụ Yên:
Nước chiều gặp lạnh đọng rồi không dâng.
Trên cành liễu, bám lưng chừng,
Tương Vân:
Chuối kia lá rách, đong chăng được nào.
Đỉnh vàng mùi xạ ngạt ngào,
Bảo Cầm:
Vạt tay áo lụa ủ vào kim điêu.
Trước song sáng lấn gương treo,
Đại Ngọc:
Mùi thơm quyện lẫn hạt tiêu trên tường.
Vẫn còn ngọn gió tạt ngang,
Bảo Ngọc:
Ai người tỉnh giấc mơ màng là ai
Nơi nào tiếng sáo hoa mai?
Bảo Thoa:
Nhà nào đương thổi mấy bài ngọc tiêu?
Cua buồn trục đất sắp xiêu,
Lý Hoàn cười nói:
- Để tôi đi xem rượu nóng cho các chị thôi.
Bảo Thoa nhắc Bảo Cầm đọc tiếp, Tương Vân đứng ngay lên đọc:
Đuổi nhau rồng đánh tan vèo đám mây.
Chiếc thuyền bến nội về đây,
Bảo Cầm:
Bá kiều roi trỏ chốn này tặng thơ.
Áo cừu cho tướng nơi xa,
Tương Vân đâu có chịu kém. Vả lại, không ai nhanh bằng cô ta, nên đều trừng mắt nhìn cô ta đọc:
Áo bông này thiếp gửi đưa tới chàng.
Tổ xây kiến khéo lo lường,
Bảo Thoa khen hay luôn miệng, rồi đọc tiếp:
Cành kìa lá nọ xem nhường lung lay.
Sáng trong nhẹ bước đường mây,
Đại Ngọc:
Uốn lưng thoăn thoắt múa may giữa trời.
Đòi khi trà đắng thưởng chơi,
Đại Ngọc vừa đọc vừa đẩy Bảo Ngọc bảo đọc tiếp. Bảo Ngọc đương mải nhìn Bảo Cầm, Bảo Thoa, Đại Ngọc hùa nhau đấu với Tương Vân, rất lấy làm thú, còn nghĩ gì đến thơ nữa. Bây giờ bị Đại Ngọc đẩy, mới đọc:
Rắc đầy hoa muối nhớ lời ca xưa.
Câu buông, tơi khoác trên bờ,
Bảo Cầm:
Tiếng tiêu văng vẳng vọng qua rừng nào.
Voi quỳ nghìn ngọn núi cao,
Tương Vân:
Một đường rắn lượn ngoằn ngoèo đằng xa.
Hoa này lạnh mới chồi hoa,
Bảo Thoa cùng mọi cười đều khen hay. Thám Xuân đọc tiếp:
Màu này nào sợ sương sa kém màu.
Trong nhà sẻ lạnh xôn xao,
Tương Vân đương khát, vội đi uống nước, bị Tụ Yên đọc cướp:
Cú già trên núi nghẹn ngào buồn tênh.
Trên thềm lên xuống lượn quanh,
Tương Vân vội vất chén nước xuống, đọc luôn:
Nước ao mặc sức bập bềnh khắp nơi.
Trong veo khi mới sáng trời,
Đại Ngọc:
Đến đêm khuya lại tơi bời bay cao.
Lòng thành biết lạnh đâu nào.
Tương Vân:
Điềm lành sua nóng tan vào từng mây.
Nằm khèo ai hỏi ta đây,
Bảo Cầm vội đọc:
Chơi ngông có bạn rủ ngay đi cùng.
Dây lưng trắng đứt trên không,
Tương Vân:
Lụa giao chợ bể chớ mong sánh cùng.
Đại Ngọc ngắt ngay Tương Vân:
Vẻ buồn che kín lầu hồng,
Tương Vân đọc cướp:
Giỏ bầu nghèo xác nhớ ông Nhan Hồi.
Bảo Cầm cũng không chịu thua, đọc ngay:
Trà pha nước mới gần sôi,
Tương Vân thấy thế, rất lấy làm thú, vừa cười vừa đọc:
Lá tươi nấu rượu lá đời nào khô?
Đại Ngọc cười đọc:
Chổi đâu sư muốn quét chùa,
Bảo Cầm cười đọc:
Đàn vui đâu để trẻ khua gậy tìm.
Tương Vân cười ngặt nghẽo, định đọc luôn một câu.
Mọi người cười hỏi:
- Cô định đọc câu gì đây?
Tương Vân đọc:
Hạc trên lầu đã ngủ yên,
Đại Ngọc ôm bụng cười rồi đọc to:
Quen người, mèo cũng ủ rền nệm nhung.
Bảo Cầm:
Trong trăng sóng bạc trập trùng,
Tương Vân:
Thành mây thấp thoáng vầng hồng trên cao.
Đại Ngọc:
Hương mai hãy nhấm xem nào,
Bảo Thoa cười khen hay rồi đọc:
Rượu pha nước trúc nhấp vào càng say.
Bảo Cầm:
Uyên ương lưng ướt đầm dây,
Tương Vân:
Kìa chim phỉ thúy dính đầy cả đuôi.
Đại Ngọc:
Tiếng đâu như gió thổi ngoài,
Bảo Cầm:
Tiếng đâu sầm sập như trời đổ mưa.
Tương Vân gục xuống, cười rũ rượi. Mọi người thấy ba người này đối chọi nhau, không ai nghĩ đến làm thơ, chỉ nhìn mà cười. Đại Ngọc lại giục Tương Vân đọc luôn nữa và bảo:
- Mày đến lúc tài cùng lực kiệt rồi sao? Tao xem mày còn nỏ mồm nữa thôi?
Tương Vân cứ gục vào lòng Bảo Thoa cười mãi. Bảo Thoa đẩy dậy, nói:
- Mày có giỏi gieo hết cả vần nhị tiêu tao mới phục.
Tương Vân đứng dậy cười nói:
- Không phải làm thơ đâu, tôi đọc liều đấy thôi.
Mọi người cười nói:
- Chính là tự cô nói ra đấy!
Thám Xuân nghĩ mình không thể đọc chen vào chỗ nào được nữa, liền viết ra rồi nói:
- Chưa kết thúc đâu.
Lý Văn cầm lấy đọc một câu:
Sớm nay hỏi đã vui chưa?
Lý Ỷ đọc kết một câu:
Mượn thơ để chúc Đường Ngu thanh bình.
Lý Hoàn nói:
- Thôi đủ rồi! Tuy chưa làm hết vần nhưng gò ép mãi, nặn thêm ra lại không hay.
Nói xong, mọi người lại bình phẩm một lần nữa, có thơ Tương Vân là nhiều hơn. Họ đều cười nói:
- Đó là công lao của miếng thịt hươu đấy.
Lý Hoàn cười nói:
- Cứ theo từng câu mà cắt nghĩa, đều liền mạch cả, chỉ có Bảo Ngọc là hỏng thôi.
Bảo Ngọc cười nói:
- Tôi vốn không biết làm thơ liên cú, phải nơi nới cho tôi mới được.
Lý Hoàn cười nói:
- Không lẽ lần nào họp thi xã cũng nới cho chú, khi chú bảo vần khó, khi làm dở bài, nay lại bảo không biết làm liên cú. Hôm nay nhất định tôi phải phạt chú. Tôi vừa trông thấy những cây hồng mai trong am Lũng Thúy rất đẹp, muốn bẻ một cành để cắm lọ, nhưng tôi ghét Diệu Ngọc, không muốn gặp cô ta. Bấy giờ chú phải đến đấy lấy một cành mang về thưởng chơi.
Mọi người đều nói:
- Cách phạt này vừa nhã lại vừa thú!
Bảo Ngọc thấy thế cũng thích, nhận lời đi ngay. Tương Vân, Đại Ngọc đều nói:
- Ngoài ấy lạnh lắm, anh uống một chén rượu nóng rồi hãy đi.
Lúc đó Tương Vân đã hâm sẵn bình rượu rồi. Đại Ngọc cầm lên rót đầy một chén lớn. Tương Vân cười nói:
- Anh uống chén rượu này của chúng tôi, nếu không lấy được hoa về, sẽ lại phạt thêm!
Bảo Ngọc uống ngay một chén, rồi đi ra ngoài tuyết.
Lý Hoàn sai người đi theo. Đại Ngọc ngăn lại nói:
- Không cần. Có người nữa đi theo sẽ không lấy được hoa đâu.
Lý Hoàn gật đầu nói: “Phải đấy”.
Rồi sai a hoàn mang đến một cái bình vẽ một mỹ nhân nhún vai, đổ nước vào để chờ cắm cành mai, lại cười nói:
- Nếu mang về, ta phải làm bài thơ vịnh hồng mai mới được
Tương Vân nói:
- Tôi làm trước một bài.
Bảo Thoa cười nói:
- Hôm nay không cho cô làm nữa! Cô cướp mất cả để người khác ngồi không thì chẳng có thú gì. Khi nào Bảo Ngọc về sẽ bắt phạt cậu ta cứ nói là không biết liên cú. Đã vậy bắt cậu ta phải làm bài thơ này.
Đại Ngọc cười nói:
- Phải lắm. Tôi không có ý định ấy. Những người vừa rồi không liên cú được nhiều, bây giờ phải làm thơ hồng mai.
Bảo Thoa cười nói:
- Phải lắm. Vừa rồi các cô Hình, cô Lý không được thi tài, và lại là khách. Cô Cầm, cô Tần và cô Vân làm tranh mất nhiều, chúng ta không ai nên làm nữa, cứ để cho các cô ấy làm mới phải.
Lý Hoàn nói:
- Cô Ỷ không quen làm thơ lắm, nên để cho em Cầm làm thôi.
Bảo Thoa đành phải nhận lời, rồi nói:
- Thế thì dùng ba chữ “hồng mai hoa” làm vận, mỗi người làm một bài thất ngôn: cô Hình làm vần “hồng”, cô Lý làm vần “mai” cô Cầm làm vần “hoa”.
Lý Hoàn nói:
- Nếu tha cho Bảo Ngọc, tôi không phục.
Tương Vân nói:
- Có một đầu bài hay lắm, bắt anh ấy làm.
Mọi người hỏi: “Đầu bài gì?”
Tương Vân nói:
- Bắt anh ấy làm bài thơ “Đến thăm Diệu Ngọc xin cành hồng mai”, như thế chẳng thú lắm hay sao?
Mọi người đều nói: “Thú đấy!”
Nói chưa dứt lời thì Bảo Ngọc hớn hở cầm cành hồng mai về. Bọn a hoàn vội ra đỡ lấy cắm vào lọ, mọi người đều đến ngắm nghía. Bảo Ngọc cười nói:
- Bây giờ chị em thưởng ngoạn đi, không biết mất bao nhiêu hơi sức mới xin được đấy!
Thám Xuân đã mang một cốc rượu ấm đến. Bọn a hoàn đi lấy nón, áo tơi rồi đập tuyết đi. Người hầu ở các nhà đều mang thêm quần áo đến. Tập Nhân cũng sai người mang cái áo khoác da cáo còn rung rúc đến. Lý Hoàn sai người mang một khay khoai luộc, hai mâm cam, quất và trám đưa cho Tập Nhân. Tương Vân nói lại cho Bảo Ngọc biết đầu bài thơ vừa rồi, và giục làm ngay, Bảo Ngọc nói:
- Xin các chị em đừng hạn vần, để tôi chọn lấy.
Mọi người đều nói:
- Anh muốn làm vần nào thì làm.
Mọi người vừa nói, vừa ngắm cành mai. Cành cao gần hai thước, bên cạnh có một nhánh đâm ngang dài độ hai, ba thước. Nhánh ấy lại có nhiều nhánh nhỏ đâm ra, nhánh như ly cuộn tròn, nhánh như giun nằm thẳng, nhánh khẳng khiu như cái bút, nhánh rườm rà như rừng cây. Thật là hoa khoe son phấn, hương lấn huệ lan. Mọi người xem đều khen ngợi. Ngờ đâu Tụ Yên, Lý Văn, Bảo Cầm đã làm xong thơ, viết ra cả rồi. Mọi người theo thứ tự xem chữ hồng, chữ mai, chữ hoa. Đầu tiên là bài Hồng mai hoa của Hình Tụ Yên.
Kìa đào kia hạnh chửa đâm bông.
Mai đã ngoài sương cợt gió đông,
Đại Dĩu(2) hồn bay xuân khó biết,
La Phù(3) ráng phủ mộng chưa thông.
Cuống xanh đuốc rợi tô màu đẹp,
Rượu choáng tiên dìu vượt quãng không.
Nhìn kỹ sắc này hồ dễ có,
Ở hàng băng tuyết nhạt pha nồng.
Lý Văn:
Bạch mai biếng vịnh, vịnh hồng mai,
Đón khách say hoa, trổ mọi tài.
Mặt lạnh nổi hằn dây những máu,
Lòng chua thành bụt giận gì ai.
Uống nhầm viên thuốc xương thay hẳn,
Ăn trộm đào tiên kiếp đổi rồi.
Giang Bắc, Giang Nam xuân chói lọi,
Bướm ong thôi chớ đắn đo hoài.
Bảo Cầm:
Cành lá lơ thơ hoa chói màu,
Chị em trang điểm khéo đua nhau.
Cửa cong sân vắng trời tan tuyết,
Nước chảy non cao ráng dọi đầu,
Mộng kín lạnh lùng vang sáo ngọc,
Chèo tiên ngào ngạt lướt sông Ngâu.
Dao đài kiếp trước là ai đấy,
Sắc tướng này xem có khác đâu.
Mọi người xem xong, đều cười khen ngợi và cho bài cuối cùng hay hơn. Bảo Ngọc thấy Bảo Cầm trẻ hơn cả lại có tài nhanh nhẹn. Đại Ngọc, Tương Vân mỗi người rót một chén rượu nhỏ mừng Bảo Cầm, Bảo Thoa cười nói:
- Cả ba bài đều có câu hay. Ngày thường các chị trêu tôi chán rồi, bây giờ lại trêu đến em nó.
Lý Hoàn lại hỏi Bảo Ngọc:
- Chú đã làm xong thơ chưa?
Bảo Ngọc vội nói:
- Tôi đã làm xong rồi, nhưng khi xem ba bài này lại sợ quá quên mất cả. Để tôi nghĩ lại xem.
Tương Vân nghe nói, liền cầm cái đũa đồng gõ vào lồng ấp cười nói:
- Tôi gõ hết hồi mà anh không làm xong thì lại phải phạt đấy.
Bảo Ngọc cười nói:
- Tôi có thơ rồi.
Đại Ngọc cầm bút cười nói:
- Anh đọc đi, em viết hộ.
Tương Vân gõ một cái, cười nói:
- Thế là hết một hồi rồi.
Bảo Ngọc cười nói:
- Có thơ rồi, em viết đi.
Mọi người nghe Bảo Ngọc đọc:
Thơ chửa làm xong rượu chửa mời.
Đại Ngọc viết rồi lắc đầu cười nói:
- Câu mở đầu thường lắm.
Tương Vân lại nói:
- Đọc nhanh lên!
Bảo Ngọc cười đọc:
Tìm xuân, hỏi chạp tới bồng lai.
Đại Ngọc, Tương Vân đều gật đầu cười nói:
- Cũng hơi có tứ đấy.
Bảo Ngọc lại đọc:
Cần chi Đại Sĩ lưng bình móc,
Xin hẳn Sương Nga một nhánh mai.
Đại Ngọc viết rồi lấc đầu nói:
- Chỉ khéo vặt đấy thôi.
Tương Vân lại gõ một cái, Bảo Ngọc cười đọc:
Gạt tuyết đỏ đi đời bớt lạnh,
Kéo mây tía xuống bụi thêm mùi.
Nhà thơ ai tiếc thân gầy guộc,
Áo dính đầy rêu trước phật đài.
Đại Ngọc viết xong, Tương Vân đương bàn thơ, thấy mấy a hoàn chạy đến nói:
- Cụ đến đấy!
Mọi người vội ra đón, cười nói:
- Sao người cao hứng thế?
Nói xong, trông đằng xa thấy Giả mẫu khoác áo che tuyết đội mũ bằng lông chuột, ngồi trên kiệu nhỏ, che dù xanh, bọn Hổ Phách, Uyên Ương và năm sáu a hoàn, cầm dù đỡ kiệu đi đến. Bọn Lý Hoàn vội chạy ra đón. Giả mẫu bảo họ đứng lại, nói:
- Thôi, các cháu cứ đứng ở đấy được rồi.
Giả mẫu xuống kiệu cười nói:
- Ta trốn mẹ mày và cháu Phượng đến đây. Tuyết xuống nhiều, ta ngồi kiệu không sao, chứ không nên để cho mẹ con nó phải dầm tuyết.
Mọi người vâng dạ, đều cầm lấy áo tơi và đỡ Giả mẫu xuống.
Giả mẫu vào trong nhà, cười nói:
- Hoa mai đẹp nhỉ! Các cháu chỉ biết vui lấy một mình ta không tha cho đâu!
Lý Hoàn sai người lấy một cái nệm da chó sói đến trải giữa. Giả mẫu ngồi xuống cười nói:
- Các cháu cứ việc chơi đùa ăn uống. Mùa này ngày ngắn, ta không muốn ngủ trưa. Đánh một hồi bài, chợt nghĩ đến các cháu, nên ta lại đây để góp vui.
Lý Hoàn lại mang cái lồng ấp đến. Thám Xuân lấy riêng đũa chén, rót rượu ấm mời Giả mẫu. Giả mẫu uống một hớp, hỏi:
- Ở mâm kia có những thứ gì đấy?
Mọi người liền bưng lại, nói:
- Đây là món gà gô om rượu.
Giả mẫu nói:
- Được rồi, xé một miếng đùi mang lại đây.
Lý Hoàn vâng lời đi rửa tay, xé một miếng mang đến.
Giả mẫu nói:
- Các cháu cứ ngồi xuống, coi như ta không đến đây mới được, nếu không ta sẽ về ngay.
Mọi người nghe nói, mới theo thứ tự ngồi xuống. Lý Hoàn ngồi ở tận bên dưới. Giả mẫu hỏi:
- Các cháu chơi gì đấy?
- Chúng cháu đang làm thơ.
- Làm thơ chẳng bằng làm mấy câu đố đèn để ra giêng chơi.
Mọi người vâng lời.
Cười nói một lúc, Giả mẫu nói:
- Chỗ này ẩm ướt, các cháu đừng ngồi lâu, sợ bị cảm lạnh. Nhà cháu Tư ấm hơn, chúng ta đến xem bức vẽ của nó xem cuối năm liệu có xong được không.
Mọi người cười nói:
- Cuối năm nay xong thế nào được? Có lẽ đến tiết đoan ngọ sang năm mới xong.
- Như thế sao được? Thật lại tốn công hơn là làm cái vườn này.
Nói xong, Giả mẫu ngồi vào kiệu, mọi người đi theo, qua Ngẫu Hương tạ, đi vào một con đường hẹp, hai bên đông tây đều là cửa đi ra phố, trên cửa lầu, trong ngoài đều có biển đá. Đi vào cửa tây, có biển phía ngoài khắc hai chữ xuyên vân, biển bên trong khắc hai chữ độ nguyệt. Lên đến thềm, vào cửa giữa hướng nam, Giả mẫu xuống kiệu. Tích Xuân ra đón. Đi qua dãy hành lang, đến buồng ngủ Tích Xuân. Dưới mái treo cái biển có chữ Noãn Hương ổ, đã có mấy người đứng mở bức rèm da vượn màu đỏ, hơi ấm bốc ngay lên mặt.
Mọi người vào trong nhà, Giả mẫu không ngồi, hỏi ngay Tích Xuân:
- Vẽ đến đâu rồi?
- Trời lạnh lắm, keo rắn lại không chảy, sợ vẽ không đẹp nên cháu phải cất đi.
- Cuối năm nay thế nào cũng phải xong, cháu đừng giở lối lười ra; hãy mang ra vẽ đi cho ta.
Nói chưa dứt lời, thấy Phượng Thư mặc áo nhung màu tía, cười hì hì đi vào, nói:
- Hôm nay bà lẻn đi một mình, chẳng nói cho ai biết, làm cháu phải đi tìm mãi!
Giả mẫu thấy Phượng Thư, trong bụng mừng lắm, nói
- Ta sợ cháu rét, nên không cho cháu biết. Cháu thật là con ma khôn, cũng biết tìm đến đây. Cứ lý ra có phải hiếu kính ở chỗ ấy đâu.
Phượng Thư cười nói:
- Có phải là cháu hiếu kính mà đi tìm bà đâu? Vì cháu đến đó, thấy im lặng như tờ, hỏi bọn hầu nhỏ, chúng không chịu bảo, cháu đành phải vào vườn tìm. Đương lúc nghi hoặc thấy có hai sư cô đến, cháu mới hiểu là các sư cô chắc lại đến đòi tiền sớ hay tiền hương đèn hàng năm gì chăng, chả vì cứ cuối năm là bà tiêu nhiều, nên phải đi trốn nợ. Cháu hỏi sư cô, quả thế thật. Cháu đã giả tiền lễ hàng năm cho họ về rồi. Thế là chủ nợ đã đi bà không cần phải trốn nữa. Cháu đã nấu sẵn gà gô non, mời bà về xơi cơm chiều, nếu để chậm sợ quá lửa mất.
Phượng Thư nói một câu làm mọi người lại cười ầm lên.
Phượng Thư không chờ Giả mẫu trả lời, cứ sai người khiêng kiệu đến. Giả mẫu cười, vịn tay Phượng Thư bước lên kiệu, dẫn mọi người, cười nói ra đến cửa Đông, nhìn lên xem bốn mặt đều trắng xóa như trát phấn, dát bạc. Trông thấy Bảo Cầm mặc áo cừu thêu đàn le, đang đứng đợi ở sau sườn núi, sau lưng có một a hoàn, bưng cái lọ cắm cành hồng mai. Mọi người đều cười nói:
- Thảo nào thiếu hai người, thì ra họ đến chờ ở đây, lại cũng đi kiếm hoa mai rồi!
Giả mẫu mừng quá, cười nói:
- Các cháu hãy nhìn xem, trên sườn núi tuyết này, có dáng người như thế, ăn mặc quần áo như thế, đằng sau lại có hoa mai như thế liệu giống cái gì?
Mọi người đều cười nói:
- Giống bức tranh Diễm tuyết đồ của Cừu Thập Châu(4) treo ở nhà cụ.
Giả mẫu lắc đầu, cười nói:
- Bức vẽ ấy đâu có quần áo như thế này? Người cũng không được đẹp như thế!
Nói chưa dứt lời, thấy phía sau Bảo Cầm có một người mặc áo da vượn màu đỏ đi đến. Giả mẫu hỏi:
- Lại cô ả nào nữa đấy?
- Chúng cháu ở đây cả, chắc là cậu Bảo Ngọc.
- Ta càng ngày càng sinh lóa mắt.
Hai người đi đến, chính là Bảo Ngọc và Bảo Cầm. Bảo Ngọc cười bảo bọn Bảo Thoa, Đại Ngọc:
- Tôi vừa đến am Lũng Thúy, cô Diệu Ngọc gửi biếu chị em mỗi người cành mai, tôi đã sai người đưa đến nhà rồi.
Mọi người đều cười nói:
- Cám ơn cậu có lòng nghĩ đến chúng tôi.
Mọi người ra khỏi cửa vườn, đến buồng Giả mẫu. Ăn cơm xong, lại chuyện trò một lúc. Chợt thấy Tiết phu nhân đến, nói:
- Tuyết xuống nhiều quá! Suốt ngày không đến thăm cụ được. Hôm nay sao người không cao hứng? Đáng lẽ người nên đi thưởng tuyết mới phải.
Giả mẫu cười nói:
- Sao lại không cao hứng? Tôi đã đến chỗ chị em chúng nó thưởng tuyết một lúc rồi.
Tiết phu nhân cười nói:
- Chiều hôm qua tôi định đến mượn dì nó cái vườn một ngày, bày vài bàn rượu, mời cụ hôm nay đến đó thưởng tuyết. Nhưng thấy người đã đi nghỉ rồi, tôi lại nghe cháu Bảo nói là người không được khoan khoái. Vì thế tôi không dám quấy rầy. Nếu biết thế này, tôi phải đến mời người mới phải.
Giả mẫu cười nói:
- Bây giờ là tháng mười mới bắt đầu có tuyết, sau này còn nhiều, sẽ còn làm phiền đến bà dì, lúc ấy cũng chưa muộn.
Tiết phu nhân cười nói:
- Được như vậy cũng bõ lòng thành kính của tôi.
Phượng Thư cười nói:
- Chỉ sợ dì lại quên chăng? Chi bằng bây giờ dì cân ngay năm mươi lạng bạc giao cho cháu, khi nào có tuyết, cháu sẽ sắm sửa tiệc rượu. Như thế, người không phải để ý đến và cũng không quên được nữa.
Giả mẫu cười nói:
- Đã vậy bà dì cứ giao hẳn cho nó năm mươi lạng và nó sẽ chia đôi mỗi người một nửa. Hôm nào có tuyết, tôi giả cách người khó ở để lấp liếm cho xong chuyện. Như thế bà dì không phải bận lòng, mà tôi và cháu Phượng sẽ được hưởng món lộc đó.
Phượng Thư vỗ tay cười nói:
- Hay lắm! Bà nói rất hợp ý cháu.
Mọi trời đều cười.
Giả mẫu cười nói:
- Hừ! Không biết xấu! Cứ định nhờ bão bẻ măng. Sao mày chẳng nói: bà dì là khách, đến ở nhà ta, chúng ta nên bày tiệc mời bà dì mới phải, lẽ nào để bà dì tốn tiền! Mày lại còn giở mặt ra đòi bà dì năm mươi lạng bạc, thật không biết xấu hổ!
Phượng Thư cười nói:
- Bà tinh lắm, cháu mới nói thử đấy thôi. Nếu bà dì nhẹ dạ bỏ ra năm mươi lạng bạc, bà sẽ chia ngay cho cháu đấy. Bây giờ bà đắn đo biết là không ăn thua gì, nên trở mặt đem cháu ra làm bung xung, nói những câu ra vẻ đứng đắn. Thế thì bây giờ cháu cũng không lấy bạc của bà dì nữa, cháu sẽ ứng tiền ra làm tiệc rượu mời bà đến ăn, rồi lại gói thêm năm mươi lạng bạc nữa đem biếu bà, coi như bà phạt cháu hay ôm đồm những việc không đâu. Thế có được không?
Mọi người nghe nói cười lăn ra.
Nhân nói tới việc Bảo Cầm bẻ cành mai dưới tuyết, đẹp hơn trong tranh, Giả mẫu lại hỏi tỉ mỉ về ngày sinh tháng đẻ cùng tình cảnh gia đình của Bảo Cầm. Tiết phu nhân biết ý, có lẽ lại muốn dạm hỏi cho Bảo Ngọc đây, trong bụng cũng rất vui, nhưng đã trót hẹn gả cho nhà họ Mai rồi; vì Giả mẫu chưa nói rõ, nên tự mình cũng không tiện nói ra, cứ nửa kín nửa hở nói với Giả mẫu:
- Tiếc rằng cháu nó kém phúc! Cha cháu mất năm trước rồi. Từ bé cháu vất vả nhiều, theo cha đi khắp đó đây, hễ nó buôn bán ở đâu là đem gia quyến đi theo. Năm nay chơi tỉnh này một năm, sang năm chơi tỉnh khác mấy tháng, vì thế trong nước mười phần cháu đi tới năm sáu. Mấy năm trước đây, cha cháu đã hứa gả cháu cho con quan hàn lâm họ Mai. Năm sau cha cháu mất, rồi mẹ cháu lại bị bệnh suyễn…
Chưa chờ dứt câu, Phượng Thư đã thở dài giậm chân nói:
- Thực không may! Tôi đang định làm mối cho cô ấy, đã lại nhận lời người khác mất rồi!
Giả mẫu cười hỏi:
- Cháu muốn làm mối cho ai?
- Bà không cần phải nghĩ nữa. Trong bụng cháu đã nhằm sẵn rồi. Hai người ấy xứng đôi lắm. Nhưng bây giờ đã có người khác hỏi, nói cũng vô ích, thà chẳng nêu ra cho xong.
Giả mẫu cũng biết ý Phượng Thư, thấy đã gả cho người khác nên không nói nữa. Mọi người lại nói chuyện phiếm một lúc mới về.
Hôm sau tạnh tuyết. Ăn cơm xong, Giả mẫu lại dặn Tích Xuân:
- Bất cứ lạnh hay ấm, cháu phải vẽ đi, cuối năm chưa xong cũng được. Có điều cần nhất là cháu phải theo đúng cảnh Bảo Cầm cùng a hoàn và hoa mai, mà vẽ thêm vào đấy.
Biết là khó, Tích Xuân cũng vẫn phải nhận lời. Một lúc, mọi người đến xem, thấy Tích Xuân đang ngồi thừ người ra. Lý Hoàn cười bảo mọi người:
- Chúng ta hãy nói chuyện với nhau, để cho cô ấy nghĩ. Hôm nọ cụ bảo phải làm mấy bài thơ đố đèn, về đến nhà không ngủ được, tôi đã đặt hai câu đố về “Tứ thư”. Còn cô Ỷ và cô Văn mỗi người cùng đặt hai câu.
Mọi người đều cười nói: “Cái đó cần phải làm. Chị hãy nói trước để chúng tôi đoán”.
Lý Hoàn cười đọc:
- Quan âm vị hữu thế gia truyền(5), đố một câu ở trong “Tứ thư”.
Tương Vân liền đọc câu:
- Tại chỉ ư chí thiện(6)
Bảo Thoa cười nói:
- Cô hãy nghĩ nghĩa ba chữ thế gia truyền đã rồi hãy đoán.
Lý Hoàn cười nói:
- Nghĩ nữa đi.
Đại Ngọc cười nói:
- Tôi đoán nhé. Có phải là câu “tuy thiện vô trưng”(7) hay không?
Mọi người đều cười nói:
- Câu ấy phải đấy.
Lý Hoàn lại đọc:
- Cỏ xanh ao nọ gọi tên gì?
Tương Vân nói:
- Nhất định là “lau sậy” có đúng không?
- Cô đoán tài đấy. Còn câu của cô Văn là “Nước trôi bên đá dòng càng lạnh”, đố tên một người xưa.
Thám Xuân cười hỏi:
- Có phải là Sơn Đào(8) không?
- Đúng đấy.
Lý Hoàn lại nói:
- Câu đố của cô Ỷ là một chữ “huỳnh” (đom đóm), đoán ra một chữ.
Mọi người đoán một lúc, Bảo Cầm nói:
- Chữ này ý tứ rất sâu. Không biết có phải chữ “hoa” là hoa cỏ không(9)?
Lý Ỷ cười nói: “Phải đấy”.
Mọi người hỏi: “Đom đóm với hoa có liên can gì với nhau?”
Đại Ngọc cười nói:
- Hay lắm! Đom đóm không phải là cỏ hóa ra à?
Mọi người hiểu ý, đều cười nói: “hay”
Bảo Thoa nói:
- Những câu này tuy hay đấy, nhưng không hợp với ý cụ. Chi bằng chúng ta tìm những vật gần gũi dễ trông thấy để người nhã hay người tục đều thưởng thức được cả mới vui.
Mọi người đều nói
- Cũng nên làm câu đố những vật gì gần gũi dễ thấy mới phải.
Tương Vân nghĩ một lúc, cười nói:
- Tôi đặt một khúc hát “điểm giáng thần”(10) thật là một vật tục, các chị thử đoán xem. - Nói xong liền đọc:
Suối khe nỡ bỏ mà đi,
Bụi hồng nào có thú gì mà chơi ?
Hão huyền danh lợi một đời.
“Việc sau” thôi thế thì thôi còn gì.
Mọi người đều không hiểu, nghĩ một lúc, có người đoán là ông sư, có người đoán là đạo sĩ, có người đoán là con rối. Bảo Cầm cười một lúc rồi nói:
- Không đúng cả. Tôi đoán trúng rồi, nhất định là con khỉ nuôi để làm trò chơi.
Tương Vân cười nói: “Đúng đấy”.
Mọi người nói:
- Câu đầu đúng, nhưng câu cuối cùng cắt nghĩa thế nào?
Tương Vân nói:
- Con khỉ nào để chơi mà chẳng chặt đuôi?
Mọi người đều cười nói:
- Nó đặt câu đố cũng lắt léo kỳ quái quá!
Lý Hoàn nói:
- Hôm qua bà dì nhân nói cô Cầm trải đời nhiều, đi đây đi đó cũng nhiều, cô cần phải làm câu đố. Vả chăng làm thơ cô lại hay, tại sao không biên mấy câu đố để cho chúng tôi đoán?
Bảo Cầm nghe nói, gật đầu mỉm cười, đang nghĩ. Bỗng Bảo Thoa đọc ngay một bài:
Gỗ đàn gỗ tử chạm trồng lên.
Thợ giỏi nào đây xếp đặt nên?
Mưa gió lưng trời dù tạt lại.
Chùa đâu nghe được tiếng chuông rền?
(Là một vật gì?)
Mọi người đang đoán, Bảo Ngọc cũng lại đọc một bài:
Tiên tục hai nơi khéo viển vông,
Ngọc đâu hòa nhịp vẳng trên không.
Tiếng loan tin hạc nghe cho kỹ.
Cũng thở than đi đáp tấm lòng.
Đại Ngọc cũng đọc một bài:
Ngựa tốt cần chi phải buộc thừng?
Lên thành xuống trại dáng hung hăng,
Gió mây chuyển động tùy tay chủ,
Núi cưỡi lưng ngao cũng khó bằng.
Thám Xuân cũng có một bài, định đọc, thì Bảo Cầm chạy đến cười nói:
- Từ bé tôi đã đi nhiều nơi, đã xem nhiều cổ tích. Tôi chọn mười nơi, làm ra mười bài hoài cổ. Thơ tuy quê, nhưng ghi lại được việc trước, và ám chỉ được mười vật thường trông thấy, các chị thử đoán xem.
Mọi người nghe xong, đều nói:
- Thế càng hay lắm. Sao không viết ra cho chị em xem?
--------------------------
1. Nguyên văn mỗi câu năm chữ. Muốn đọc dễ hiểu, chúng tôi xin dịch ra thể lục bát.
2. Núi Đại Dĩu cao tuyệt vời có nhiều hồng mại và bạch mai.
3. Cát Hồng đời Tấn tu tiên ở núi này.
4. Ông tên là Cửu Anh, người quận Thái Thương, nhà Minh, có tài vẽ, nhất là vẽ nữ sĩ, thì thần thái rất sinh động.
5. Đây là câu đố, chưa rõ nghĩa là gì.
6. Chữ ở sách Đại học, nghĩa là cốt ở chỗ làm điều lành.
7. Chữ trong sách Trung dung. Nghĩa là: tuy làm điều lành nhưng không có báo ứng.
8. Sơn Đào người đời Tấn. Theo nghĩa chữ Hán, “sơn” là núi, “đào” là sóng. Có nghĩa là nước ở trong núi. Đúng với nghĩa câu đố “nước ở bên đá chảy ra”.
9. Theo chữ Hán, chữ “hoa” trên là bộ “thảo”, dưới là chữ “hóa”. Tục truyền giống đom đóm là do cỏ mục hóa ra, tức là chữ “thảo” và chữ “hóa”, cho nên đố chữ “huỳnh”, đoán chữ “hoa” là đúng.
10. Tên điệu hát.
Hồi thứ năm mươi mốt
Cô em họ Tiết làm thơ hoài cổ;
Lang băm họ Hồ dùng thuốc hổ lang.
Mọi người thấy Bảo Cầm lấy đề ở những nơi cổ tích trong các tỉnh mà mình đã đi qua, làm thành mười bài tuyệt cú hoài cổ, trong thơ ám chỉ mười vật, nên đều nói “Thế thì rất là mới lạ!”
Rồi tranh nhau xem:
1. Xích Bích hoài cổ:
Xích Bích sông kia nước chẳng trôi,
Truyền trơ tên họ chở đi thôi.
Ầm ầm gió thảm theo làn khói,
Biết mấy hồn thiêng quẩn đấy rồi.
2. Giao Chỉ hoài cổ:
Cột đồng đứng vững với thành vàng,
Tiếng rộn ngoài xa khắp bốn phương.
Mã Viện từ đây công rất lớn.
Cần chi nhờ đến sáo Trương Lương?
3. Chung Sơn hoài cổ:
Lợi danh ai nỡ buộc vào thân?
Bỗng chốc lôi nhau xuống cõi trần.
Dùng dẳng suốt đời không dứt được,
Cho người chế giễu lại băn khoăn.
4. Hoài Âm hoài cổ:
Tráng sĩ nên ngừa chó cắn càn,
Vua Tề là lúc sắp vào quan.
Bảo cho đời tục đừng khinh vội,
Một bữa cơm khi chết vẫn ơn.
5. Quảng Lăng hoài cổ:
Ve kêu quạ đậu chóng làm sao,
Giờ cảnh đê Tùy cảnh thế nào?
Vì nỗi xa hoa xưa chiếm hệt,
Cho đời mai mỉa miệng nhao nhao.
6. Đào Diệp độ hoài cổ:
Hoa tàn cỏ héo đợi trên ao,
Rời rã cành đào với lá đào.
Người cũ Lục triều giờ vắng cả,
Ảnh đề chỉ thấy vách treo cao.
7. Thanh Trửng hoài cổ:
Sông hắc mênh mông khéo nghẹn dòng,
Khúc đầu gạn hệt nỗi đau lòng;
Ngán cho chế độ vua nhà Hán,
Cậy gạo muôn năm đáng thẹn thùng.
8. Mã Ngôi hoài cổ:
Phấn son lặng lẽ đẫm mồ hôi,
Thoắt giã thân kia xuống bể khơi.
Vì dấu phong lưu còn sót lại.
Áo quần khe ấy vẫn thơm hoài.
9. Bồ Đông tự hoài cổ:
Tiểu hồng hèn hạ phận tôi đòi,
Lẻn lút đưa đi ghép lứa đôi;
Thôi mẫu dù tra ra việc ấy,
Ả kia đã bị rủ đi rồi.
10. Mai Hoa quán hoài cổ:
Nếu không bên liễu cũng bên mai,
Ai vẽ thuyền quyên vẽ cũng tài.
Sum họp Xuân Hương đừng nghĩ vội,
Gió tây lại vắng một năm trời.
Mọi người xem xong đều khen hay. Bảo Thoa nói:
- Sự tích tám bài đều có chép ở trong sử, còn hai bài cuối không có sách nào chép, chúng tôi không hiểu rõ, chi bằng làm lại hai bài khác thì hơn.
Đại Ngọc vội ngăn lại:
- Chị Bảo thật là “gắn phím gẩy đàn”, câu nệ vẽ vời quá. Dù trong sử sách không chép, các truyện ngoài cũng không nói đến, nên không biết đầu đuôi ra sao, nhưng chúng ta chẳng đã xem thấy ở hai vở hát là gì? Đến đứa trẻ lên ba cũng còn biết nữa là.
Thám Xuân nói:
- Chị nói phải đấy.
Lý Hoàn lại nói:
- Vả chăng sách không chép thật, nhưng chính cô ấy đã đi đến các nơi đó. Xưa nay thường hay đồn nhảm nghe nhảm, những kẻ muốn bới việc thường cố ý bày ra chuyện cổ tích để lừa dối người đời. Ví như năm trước tôi vào kinh, thấy ba, bốn chỗ là mộ Quan Công. Sự nghiệp Quan Công trong sử đều chép rõ, nhưng sao lại có nhiều mộ thế? Chắc là người đời sau kính mến nhân phẩm Quan Công khi còn sống, rồi từ chỗ kính mến ấy họ bày đặt ra đấy thôi. Khi xem đến bộ Quảng dư ký, không chỉ riêng Quan Công, cả những người có danh tiếng xưa nay cũng có nhiều mộ. Trong nhiều cổ tích không tra cứu vào đâu được. Hai bài thơ này tuy không có căn cứ thực, nhưng nghe người kể chuyện, hát tuồng, hay xem thẻ, cũng đều nói đến. Những câu tục ngữ trước cửa miệng, bất kỳ trẻ, già, trai, gái ai ai mà chả biết, chả nói được? Vả chăng, nó có phải sách nhảm như những vở kịch Mẫu đơn đình, Tây sương ký đâu mà sợ? Vì vậy cứ nên để lại hai bài thơ ấy cũng không sao.
Bảo Thoa nghe nói mới thôi. Mọi người đoán một lúc, đều không đúng cả.
Mùa đông ngày ngắn, đã đến bữa cơm chiều, mọi người đều đi ăn cả. Có người trình Vương phu nhân:
- Anh Tập Nhân là Hoa Tự Phương đứng ở ngoài trình mẹ hắn ốm nặng, nhớ con gái lắm. Vì vậy hắn đến xin cho em gái về thăm nhà.
Vương phu nhân nói:
- Đó là tình mẹ con, lẽ nào ta lại không cho nó về!
Rồi sai người đến bảo Phượng Thư thu xếp cho Tập Nhân. Phượng Thư vâng lời, về nhà sai vợ Chu Thụy đến dặn:
- Chị cùng một người đàn bà và hai đứa a hoàn nhỏ đi theo Tập Nhân về. Chị cắt bốn người có tuổi đi theo xe. Các chị ngồi xe lớn, còn bọn a hoàn ngồi xe nhỏ.
Vợ Chu Thụy sắp đi, Phượng Thư lại bảo:
- Tập Nhân xưa nay vẫn quen lối giản dị, chị nói rằng tôi bảo chị ấy phải mặc bộ quần áo lịch sự, mang theo một bọc quần áo to và đẹp, lồng ấp cũng phải đem cái đẹp. Khi sắp đi, chị bảo chị ta phải đến đây cho tôi xem.
Vợ Chu Thụy vâng lời đi.
Một lúc ăn mặc xong, Tập Nhân đến, hai a hoàn cùng vợ Chu Thụy mang lồng ấp và bọc quần áo theo sau. Phượng Thư thấy trên đầu Tập Nhân cài mấy cành thoa vàng giắt hạt châu, rất là lộng lẫy; mặc cái áo da chuột bạch thêu hoa đào, quần bông màu thông lục thêu kim tuyến, ngoài khoác áo da chuột đen trong lót đoạn xanh. Phượng Thư cười nói:
- Ba bộ quần áo này đều là của u cho chị, còn đẹp lắm; nhưng áo khoác thì xoàng quá, bây giờ lạnh chị nên mặc thêm một cái áo lông nữa.
Tập Nhân cười nói:
- Bà Hai vừa cho tôi cái áo da chuột đen, lại còn một cái áo da chuột bạch nữa, người bảo cuối năm sẽ thêm cái áo lông.
Phượng Thư cười nói:
- Tôi cũng có một cái áo lông, nhưng vì lông đã thò ra ngoài, không được đẹp, tôi đương định thay, nay tôi hãy để cho chị mặc. Đến cuối năm bà cho chị cái khác, tôi sẽ đổi. Như thế cũng coi như chị đã giả tôi rồi.
Mọi người đều cười nói:
- Mợ thì cứ quen nói thế. Ngày thường mợ hay rộng rãi, không biết đã phải bù đắp ngấm ngầm cho bà bao nhiêu rồi. Những khoản bù không đâu ấy còn tính toán với bà sao được. Bây giờ mợ lại đem những chuyện bủn xỉn nói ra để làm trò cười.
Phượng Thư nói:
- Khi nào bà nghĩ đến chuyện ấy. Thật ra nó cũng chả phải là việc chính. Nhưng nếu tôi không trông nom vào đấy, thì còn ra thể diện nhà đại gia sao được. Thà mình tôi chịu thiệt, để mọi người ăn mặc tử tế, miễn sao tôi cũng được tiếng tốt, chứ các chị ăn mặc xấu xí như con ma ấy, thì người ta cười tôi trước, bảo tôi cai quản trong nhà lại để các chị như ăn mày cả một lũ.
Mọi người đều than thở:
- Có ai sáng suốt được như mợ! Trên được lòng bà, dưới biết thương yêu người hầu.
Phượng Thư sai Bình Nhi mang cái áo màu thạch thanh thêu tám chùm hoa mặc ngày hôm trước ra, đưa cho Tập Nhân. Lại trông thấy cái bọc áo nhỏ màu xam xám lót lụa đỏ, trong bọc chỉ có hai cái áo da bọc lông đã mặc dở chừng và cái áo khoác bằng da. Phượng Thư lại sai Bình Nhi đưa ra một cái bọc lụa màu trắng bọc thêm cái áo đi tuyết. Bình Nhi lấy ra một cái áo da vượn cũ màu đỏ, một cái nữa dệt bằng lông chim màu đỏ hơi rung rúc. Tập Nhân nói:
- Một cái còn không mang nổi nữa là.
Bình Nhi cười nói:
- Chị lấy cái áo da vượn này. Nhân tiện tôi lấy cái áo kia ra bảo người đưa cho cô Hình Tụ Yên. Hôm qua tuyết xuống nhiều, người ta ai cũng mặc áo da vượn, hoặc áo lông, hàng mười bộ quần áo, màu đỏ rọi xuống tuyết trắng, trông rất lịch sự! Chỉ có cô ta là mặc mấy cái quần áo cũ, xo vai rụt cổ, trông thực đáng thương! Giờ tôi mang cái áo này cho cô ấy.
Phượng Thư cười nói:
- Của tôi mà chị tự tiện mang cho người ta. Một mình tôi phung phí chưa đủ, lại còn thêm chị nhắc đi nữa, càng tốt.
Mọi người cười nói:
- Đó cũng là vì ngày thường mợ có bụng hiếu kính bà, thương yêu kẻ dưới; nếu mợ là người bủn xỉn, cái gì cũng cóp nhặt cho mình, không nghĩ đến kẻ dưới, thì cô ấy đâu dám như thế?
Phượng Thư cười nói:
- Cho nên có nó là biết lòng tôi ít nhiều thôi.
Nói xong, lại dặn Tập Nhân:
- Bà nhà chị khỏe thì thôi, nếu có mệnh hệ nào, chị cứ ở lại cho người về bảo tôi, tôi sẽ sai người mang chăn màn đến cho. Chị đừng nên dùng chăn màn và gương lược của ai.
Lại dặn vợ Chu Thụy:
- Chắc các chị đã biết khuôn phép nhà này rồi, tôi không phải dặn nhiều nữa.
Vợ Chu Thụy nói:
- Biết rồi ạ. Chúng tôi đến đấy, sẽ bảo người nhà họ phải tránh. Nếu cần ở lại, sẽ ở riêng một, hai gian buồng trong.
Nói xong, cùng Tập Nhân đi ra, lại dặn dò đám hầu nhỏ sắp sẵn đèn lồng, rồi lên xe đến nhà Hoa Tự Phương.
Phượng Thư lại gọi hai bà già ở viện Di Hồng đến bảo:
- Tập Nhân chưa về ngay được đâu. Ngày thường các người biết a hoàn lớn nào thạo việc thì sai đến trực đêm nhà chú Bảo. Các người phải trông nom cẩn thận, không được để chú ấy làm càn.
Hai bà già vâng lời đi ra, một lúc về trình:
- Đã cắt Tình Văn và Xạ Nguyệt ở trong nhà rồi, bốn người chúng tôi sẽ thay phiên nhau trực đêm.
Phượng Thư gật đầu, lại bảo:
- Tối đến bảo chú ấy phải đi ngủ sớm, sáng ra phải dậy sớm.
Bọn bà già vâng lời rồi về trong vườn.
Một lúc, vợ Chu Thụy về báo tin cho Phượng Thư biết:
- Mẹ Tập Nhân đã chết rồi, Tập Nhân không thể về được.
Phượng Thư đến trình Vương phu nhân, rồi sai người đến vườn Đại Quan lấy chăn nệm và hộp trang điểm của Tập Nhân. Bảo Ngọc trông cho Tình Văn, Xạ Nguyệt sửa soạn đâu vào đấy. Sau khi đưa người mang đi rồi, Tình Văn, Xạ Nguyệt cởi đồ trang sức và đi thay quần áo. Sau đó Tình Văn cứ ngồi sưởi ở cạnh lò. Xạ Nguyệt cười nói:
- Hôm nay chị đừng giở lối tiểu thư ra nữa, hãy mó tay vào việc một tí.
- Bao giờ các chị đi hết, tôi sẽ làm cũng chưa muộn. Có các chị ở đây ngày nào, tôi hãy chơi cho thỏa ngày ấy đi.
- Chị ơi, tôi đi trải giường đây, chị cao hơn tôi hãy bấm cái bấm ở trên đầu giá gương, để buông cái phủ gương xuống.
Nói xong, liền đi trải giường cho Bảo Ngọc. Tình Văn “hừ” một tiếng, cười nói:
- Người ta vừa mới ngồi ấm được một tí, chị lại đến quấy rầy!
Bấy giờ Bảo Ngọc đang ngồi buồn, nghĩ mẹ Tập Nhân không biết sống chết ra sao. Thấy Tình Văn nói thế, liền đứng ngay dậy, bấm cái nút cho vải phủ gương buông xuống, rồi đi đến cười nói:
- Tôi đã làm xong cả rồi, các chị cứ ngồi đấy cho ấm.
Tình Văn cười nói:
- Ngồi ấm mãi thế nào được. Tôi vừa nghĩ ra, còn chưa mang lồng ấp vào đây.
Xạ Nguyệt nói:
- Khen cho chị lại nghĩ đến điều đó. Ngày thường cậu ấy có dùng lồng ấp đâu, vì đã có lò sưởi, không lạnh như ở trong nhà trong, nên hôm nay không cần.
Bảo Ngọc cười nói:
- Đêm nay hai chị ngủ ở đằng này cả, bên ngoài chỗ tôi nằm không có người, tôi sợ lắm không ngủ được.
Tình Văn nói:
- Tôi ngủ ở đây, cậu bảo chị Xạ Nguyệt ra bên ngoài mà ngủ.
Khi nói chuyện thì đã hết canh hai, Xạ Nguyệt đã buông rèm màn xuống, cất đèn, thắp hương, sắp sửa cho Bảo Ngọc đi nằm, rồi hai người mới đi ngủ. Tình Văn ngủ ngay cạnh lò sưởi, Xạ Nguyệt ra ngủ ở ngoài noãn các.
Đến canh ba, Bảo Ngọc nằm mê, gọi Tập Nhân hai tiếng liền, không ai trả lời. Tỉnh dậy, biết là Tập Nhân không ở nhà.
Bảo Ngọc bật cười.
Tình Văn cũng tỉnh dậy gọi Xạ Nguyệt:
- Ngay cả tôi cũng đã tỉnh dậy. Thế mà nó nằm ngay ở bên cạnh đó lại không biết một tý gì, thật là cái thây chết!
Xạ Nguyệt giở mình ngáp dài, cười nói:
- Cậu gọi Tập Nhân, việc gì đến tôi.
Liền hỏi:
- Cậu cần gì?
- Tôi muốn uống nước.
Xạ Nguyệt dậy, chỉ mặc một cái áo bông lụa hồng. Bảo Ngọc nói:
- Khoác áo da của tôi mà đi, cẩn thận kẻo lạnh đấy.
Xạ Nguyệt nghe nói, quay lại khoác cái áo bằng da con rái cá lót bông của Bảo Ngọc, đi xuống rửa tay, rót một chén nước nóng, lấy ống nhổ cho Bảo Ngọc súc miệng, sau mới lấy chén ở tủ chè xuống, tráng qua nước sôi, rót nửa chén trà đưa cho Bảo Ngọc uống. Xạ Nguyệt cũng súc miệng, uống nửa chén nước. Tình Văn cười nói:
- Em ơi, cho chị một chén!
- Càng ngày chị càng lên mặt!
- Em ơi, tối mai em đừng làm gì, để chị hầu em cả đêm, có được không?
Xạ Nguyệt đành phải lấy nước súc miệng và rót nửa chén nước trà cho Tình Văn uống. Xạ Nguyệt cười nói:
- Cậu và chị Tình Văn đừng ngủ vội, hãy nói chuyện đi, tôi đi ra ngoài một lúc rồi về.
Tình Văn cười nói:
- Ngoài ấy có ma đang đợi em đấy.
Bảo Ngọc nói:
- Ngoài ấy trăng sáng lắm. Chúng tôi nói chuyện, chị cứ việc đi.
Vừa nói vừa ho mấy tiếng.
Xạ Nguyệt mở cửa đi ra đằng sau, vén màn nhung lên xem, thấy trăng sáng thực. Xạ Nguyệt đi ra, Tình Văn định chạy theo dọa đùa chơi. Tình Văn cậy mình xưa nay khỏe hơn mọi người, không sợ rét, chỉ mặc một cái áo lót, không mặc áo ngoài, rón rén bước khỏi lò sưởi. Bảo Ngọc ngăn lại:
- Thôi đi, trời rét đấy, không phải chuyện đùa đâu!
Tình Văn xua tay đi theo ra cửa, thấy trăng sáng lung linh. Bỗng có một cơn gió nhẹ, lạnh buốt đến xương, rởn cả gai ốc trong bụng nghĩ: “Chẳng trách người ta nói mình đương nóng không nên ra gió. Cơn gió này ghê thật!” Đương định dọa Xạ Nguyệt, thấy Bảo Ngọc ở trong gọi to:
- Chị Tình Văn ra đấy!
Tình Văn vội quay về cười nói:
- Nào đã dọa chết nó đâu? Cậu lại có vẻ lo lắng thắc thỏm như đàn bà ấy.
Bảo Ngọc cười nói:
- Không phải tôi sợ bị dọa chết chị ta đâu, một là chị bị lạnh không nên, hai là chị ta bất thình lình kêu lên, làm người khác giật mình tỉnh dậy, họ có biết là mình đùa đâu, lại cho là Tập Nhân mới đi vắng một đêm đã thấy ma thấy mãnh rồi. Chị đi lại kéo cái chăn lên cho tôi một tý.
Tình Văn chạy lại kéo chăn, rồi ủ ngay tay vào đó. Bảo Ngọc cười nói:
- Tay chị lạnh quá! Tôi đã bảo chị khéo bị rét mà!
Lại thấy hai má Tình Văn đỏ ửng lên, đặt tay vào, thấy lạnh giá. Bảo Ngọc nói:
- Mau mau vào chăn đây mà ủ đi.
Nói chưa dứt lời, thấy tiếng cửa kêu cạch một cái, Xạ Nguyệt hớt hải chạy vào cười nói:
- Tôi sợ đến rùng mình! Trông thấy cái gì như người chồm chỗm trong bóng tối ở đằng sau núi ấy. Tôi định kêu, té ra con gà rừng to. Trông thấy người nó mới bay ra chỗ sáng. Nếu kêu bừa lên, lại làm ầm ĩ cả nhà.
Vừa nói vừa đi rửa tay, lại cười nói:
- Cậu bảo Tình Văn ra đấy, sao tôi không trông thấy nó. Chắc nó lại định ra dọa tôi chứ gì?
Bảo Ngọc cười nói:
- Chả phải chị ấy đương ủ ở trong chăn đấy à? Nếu tôi không gọi mau, thế nào chị cũng bị giật mình.
Tình Văn cười nói:
- Tôi không cần phải dọa, con ranh ấy đã sợ run lên rồi.
Vừa nói vừa chui vào trong chăn, Xạ Nguyệt nói:
- Chị cứ ăn mặc cụt lủn đi ra ngoài phải không?
Bảo Ngọc cười nói:
- Ăn mặc như thế mà cũng đi ra ngoài đấy!
Xạ Nguyệt nói:
- Chị thì chết cũng chả cần phải chọn ngày. Hãy ra đây đứng một lúc xem lại không rét xé da ra à?
Nói xong mở nắp lò sưởi ra, cầm cái gạt than vùi than hồng xuống, bỏ thêm hai viên nữa, đậy nắp lại, rồi đến sau bình phong khêu đèn lên, xong mới đi ngủ.
Tình Văn lúc nãy bị lạnh, bây giờ ấm lên, hắt hơi mấy tiếng. Bảo Ngọc thở dài:
- Thế nào? Lại bị cảm rồi đấy.
Xạ Nguyệt cười nói:
- Sớm dậy chị ta đã kêu khó chịu, cả ngày không muốn ăn cơm, bây giờ lại không biết giữ mình, còn định chòng ghẹo người ta. Ngày mai mà ốm thực là thân làm tội thân!
Bảo Ngọc hỏi:
- Đầu có nóng không?
Tình Văn ho hai tiếng, nói:
- Không can gì, đâu đã yếu ớt đến thế.
Bỗng đồng hồ nhà ngoài keng keng hai tiếng, bà già canh đêm ho, rồi nói:
- Các cô đi ngủ, mai hãy cười đùa.
Bảo Ngọc khẽ cười, nói:
- Chúng ta đừng nói chuyện nữa, kẻo họ lại nói cho đấy.
Hôm sau trở dậy, quả nhiên Tình Văn thấy mũi tắc, tiếng nặng, chân tay rời rạc. Bảo Ngọc nói:
- Đừng ai nói ầm lên đấy! Lỡ bà biết, lại bắt về nhà nghỉ. Ở nhà vẫn tốt, nhưng sợ lạnh, không bằng ở đây. Chị cứ vào nằm trong nhà, tôi sẽ cho người đi mời thầy thuốc lẻn vào cửa sau xem bệnh cho.
Tình Văn nói:
- Dù thế mặc lòng, cậu cũng nên nói cho mợ Cả biết. Nếu không chốc nữa thầy thuốc đến, mợ ấy hỏi sẽ nói thế nào?
Bảo Ngọc nghe nói có lý, liền gọi một bà già bảo:
- Bà đi trình với mợ Cả là chị Tình Văn chỉ bị cảm lạnh qua loa, không nặng đâu. Chị Tập Nhân đi vắng, nếu chị ấy về nhà nghỉ, ở đây không còn ai trông nom. Tôi sẽ cho mời một thầy thuốc đi luồn cửa sau vào xem bệnh cho chị ấy, đừng nên để bà Hai biết.
Bà già đi một lúc về nói:
- Mợ Cả dặn là cho uống hai thang thuốc, khỏi thì chớ, nếu không, nên cho chị ấy về nhà nghỉ. Thời tiết bây giờ không tốt, lây sang người khác không sao, chứ lây sang các cô thì rầy rà lắm.
Tình Văn nằm ở trong noãn các đương ho, nghe thấy thế, tức kêu rầm lên:
- Tôi có bị bệnh dịch đâu mà sợ lây đến người khác? Tôi thử đi ra khỏi chỗ này, xem các người suốt đời có nhức đầu chóng mặt hay không?
Rồi định trở dậy, Bảo Ngọc vội ngăn lại cười nói:
- Đừng nóng thế, đó là mợ ấy sợ bà biết sẽ bị mắng, nên dặn qua đấy thôi. Chị xưa nay tính hay gắt, chắc bị bốc hỏa lên rồi.
Ngay lúc ấy có người vào trình “Thầy thuốc đã đến”. Bảo Ngọc đứng dậy nép vào đằng sau tủ sách. Mấy bà già ở cửa sau, đưa thầy thuốc vào. A hoàn ở trong nhà đều lẩn đi hết, mấy bà già buông màn thêu màu hồng ở noãn các xuống. Tình Văn nằm ở trong màn thò tay ra. Thầy thuốc trông thấy tay có để hai móng dài độ hai, ba tấc, nhuộm màu hoa kim phượng, liền quay đầu đi. Bà già vội mang một mảnh lụa che lên tay. Thầy thuốc bắt mạch một lúc rồi ra nhà ngoài bảo bọn bà già:
- Bệnh của tiểu thư là ngoại cảm nội trệ. Mấy hôm nay thời tiết không tốt, chắc là bị cảm hàn xoàng thôi. May tiểu thư ngày thường ăn uống điều dộ, bệnh không đến nỗi nặng lắm, chẳng qua vì khí huyết yếu sẵn, nên cho uống vài thang sơ tán là khỏi.
Bấy giờ Lý Hoàn đã sai người bảo a hoàn ở cổng sau và các nơi tránh đi, nên thầy thuốc thấy trong vườn không có một người con gái nào. Một chốc ra cửa vườn, vào ngồi ở buồng canh của bọn hầu nhỏ để kê đơn. Bà già nói:
- Thầy đừng đi vội, cậu Hai tôi tính hay lôi thôi, sợ còn muốn hỏi gì chăng.
Thầy thuốc vội hỏi:
- Vừa rồi không phải là cô, mà là cậu à? Nhà ấy là buồng thêu, buông màn xuống để xem mạch, sao lại bảo là cậu.
Bà già cười nói:
- Thầy ơi! Thảo nào đứa bé vừa nói: Hôm nay mời một thầy thuốc mới đến xem mạch, nên người không biết trong nhà chúng tôi! Nhà ấy là nhà của cậu tôi, còn người bị bệnh là a hoàn trong nhà, lại là “đại thư” kia đấy, có phải là buồng thêu của tiểu thư nào đâu? Nếu tiểu thư ốm, thày đâu lại được vào dễ dàng như thế?
Nói xong cầm đơn thuốc đi.
Bảo Ngọc xem đơn, thấy có kê các vị tử tô, cát cánh, phòng phong, kinh giới; sau lại kê chỉ thực, ma hoàng. Bảo Ngọc liền nói:
- Chết thật! Hắn chữa bệnh cho con gái như là chữa cho con trai vậy, dùng thế nào được? Chị ấy có uất trệ chăng nữa, cũng không được dùng chỉ thực, ma hoàng. Ai mời hắn thế? Tống cổ ngay nó đi! Mời một thầy thuốc quen đến đây.
Bà già nói:
- Tôi không biết thuốc thày này có hay gì không. Bây giờ sai đứa hầu nhỏ đi mời thầy thuốc họ Vương đến cũng được. Nhưng còn thày này, thế nào cũng phải trả tiền xe cho họ, vì khi mời không nói cho phòng tổng quản biết.
- Giả cho nó bao nhiêu?
- Giả ít không tiện, xoàng ra cũng phải một lạng mới đúng lẽ của nhà ta.
- Trả thầy thuốc họ Vương bao nhiêu?
- Thầy thuốc họ Vương và thầy thuốc họ Trượng, mỗi khi đến xem bệnh, không phải trả tiền vặt, chẳng qua một năm bốn mùa, đưa lễ một lần thôi, đó là lệ nhất định hàng năm, còn thày này mới đến, nên trả cho họ một lạng.
Bảo Ngọc liền sai Xạ Nguyệt đi lấy tiền. Xạ Nguyệt nói
- Không biết chị Hoa cất ở đâu.
- Tôi vẫn thấy chị ấy lấy tiền ở cái hòm khảm xà cừ nhỏ, tôi và chị đi tìm xem.
Hai người vào buồng để đồ đạc của Tập Nhân, mở hòm khảm ra, thấy ngăn trên để bút mực, quạt, bánh hương túi và khăn mặt; ngăn dưới để mấy chuỗi tiền. Mở ngăn kéo ra, thấy trong hộp nhỏ có mấy cục bạc và một cái cân tiểu ly. Xạ Nguyệt lấy một cục bạc và cái cân, hỏi Bảo Ngọc:
- Cái hoa một lạng ở chỗ nào?
- Chị hỏi tôi hay thật, cứ làm như là người mới đến ấy.
Xạ Nguyệt cũng cười, rồi định đi hỏi người khác. Bảo Ngọc nói:
- Chọn cục nào to nhất trả cho hắn. Đây không phải là buôn bán, tính toán làm gì!
Xạ Nguyệt nghe nói, bỏ cân xuống, chọn một cục, nhấc đi nhấc lại, cười nói:
- Có nhẽ cục này một lạng đây. Thà cho hơn một tí, kẻo thầy kiết ấy không cười chúng ta không biết cân, lại cho là chúng ta bủn xỉn.
Bà già đứng ở cửa cười nói:
- Đó là một thỏi năm lạng, đã cắt đi một nửa rồi, cục này ít nhất cũng phải hai lạng đấy! Giờ không có dao chặt, cô hãy cất nó đi, chọn một cục nào nhỏ hơn.
Xạ Nguyệt đã khóa hòm, đi ra cười nói:
- Ai còn tìm được nữa, nhiều ít bà cũng cứ mang đi cho xong!
Bảo Ngọc nói:
- Bảo Dính Yên đi mời thầy thuốc khác đến.
Bà già cầm lấy cục bạc đi ra. Một lúc Dính Yên mời thầy thuốc họ Vương đến, ông ta trước xem mạch, sau gọi bệnh, khác hẳn thầy thuốc lúc nãy.
Trong đơn quả nhiên không có những vị chỉ thực, ma hoàng, lại kê những vị đương quy, trần bì, bạch thước, đồng cân đồng lạng cũng bớt hơn đơn trước. Bảo Ngọc vui mừng nói:
- Đây mới là thuốc cho con gái uống. Tuy có sơ tán, nhưng không mạnh quá. Năm ngoái tôi cũng bị cảm hàn, ăn uống không tiêu, ông ta xem mạch xong, bảo tôi không nên dùng những vị thuốc hùm thuốc beo như ma hoàng, thạch cao, chỉ thực. Tôi và các chị cũng như hoa hải đường trắng mới nở mà mùa thu vừa rồi cháu Vân đem đến biếu ấy. Tôi còn không dùng, thì các chị dùng thế nào được? Cũng như những cây dương lớn, người ta trồng ở trên mả, cành lá xanh tốt thực, nhưng ruột thì rỗng.
Xạ Nguyệt cười nói:
- Mồ mả ngoài đồng không lẽ chỉ có cây dương, mà không có cây tùng cây bách à? Người ta ghét nhất là cây dương, cây to như thế lại chỉ có một tí lá. Không có một tí gió nào, nó cũng cứ rào rào luôn. Thế mà cậu cứ so sánh với cây dương, thực là hèn quá!
Bảo Ngọc cười nói:
- Tôi không dám ví với tùng bách. Ngay Khổng Tử cũng còn nói “năm rét mới biết tùng bách héo sau”(1). Tùng bách là hai thứ cây cao nhã, người không biết xấu hổ mới đem nó ra ví bậy thôi.
Nói xong, thấy bà già mang thuốc về, Bảo Ngọc sai lấy cái ấm bạc đến, sắc ngay ở lò sưởi. Tình Văn nói:
- Cứ đưa cho phòng trà họ sắc! Chứ sắc ở đây mùi thuốc xông lên, chịu thế nào được.
Bảo Ngọc nói:
- Mùi thuốc còn thơm hơn các mùi hoa đấy! Ngay thần tiên còn hái thuốc, sắc thuốc, bậc cao nhân dật sĩ cũng hái thuốc trị bệnh nữa là. Thuốc là một thứ rất quí! Tôi nghĩ trong nhà này mùi thơm gì cũng có, chỉ còn thiếu mùi thuốc thôi, bây giờ có đủ cả.
Bảo Ngọc lại bảo Xạ Nguyệt sắp sửa các thứ, sai bà già đưa cho Tập Nhân, khuyên bảo chị ta ít khóc chứ. Mọi việc xong xuôi, Bảo Ngọc mới sang bên Giả mẫu và Vương phu nhân hỏi thăm rồi ăn cơm.
Phượng Thư bàn với Giả mẫu và Vương phu nhân:
- Ngày vừa ngắn, vừa lạnh, từ nay trở đi, chị Cả cứ cho các cô ăn cơm ở trong vườn. Khi nào trời ấm sẽ sang đây cũng được.
Vương phu nhân cười nói:
- Chị bàn thế phải đấy. Khi có gió tuyết cũng tiện. Bụng vừa đói vừa lạnh, lại ăn thức ăn vào, không tốt lắm đâu. Chi bằng lấy năm gian nhà ở phía sau cửa vườn và hai người trong bọn đàn bà canh đêm ở bên ấy ra thổi nấu cho chị em họ ăn. Các thứ rau tươi đã chia phần rồi, do phòng tổng quản chi ra, hoặc lấy tiền, hoặc lấy món ăn. Còn các thứ dã vị như gà rừng, hươu, nai... cứ chia phần cho họ là được.
Giả mẫu nói:
- Ta cũng muốn thế, nhưng sợ thêm bếp lại thêm việc.
Phượng Thư nói:
- Cũng chẳng thêm việc gì đâu, bên này thêm thì bên kia bớt đi. Nếu sợ bận việc để các cô ấy bị lạnh, người khác còn khá, chứ em Lâm thì chịu làm sao được? Ngay cả chú Bảo cũng không thể chịu nổi. Vả chăng, tất cả các cô chẳng ai được mạnh.
Giả mẫu nói:
- Phải đấy. Lần trước ta cũng định nói, nhưng vì thấy các người bận nhiều việc. Nay lại thêm việc này ra, tuy các người không dám oán trách gì, nhưng sẽ cho ta chỉ biết thương lũ cháu nhỏ, không nghĩ đến các người phải bận rộn việc nhà. Chị đã nói thế thì làm ngay đi.
Lúc ấy Tiết phu nhân và thím Lý đều ngồi ở đấy, Hình phu nhân và Vưu Thị cũng đến hỏi thăm chưa về. Giả mẫu bảo Vương phu nhân:
- Câu này ta để bụng từ lâu, nay mới nói ra: một là, ta sợ con Phượng lên mặt, hai là sợ mọi người không phục. Bây giờ các người đều ở đây, cũng đã từng qua cảnh làm dâu làm con cả, liệu có ai nghĩ được chu đáo như nó không?
Tiết phu nhân, thím Lý và Vưu Thị đều cười nói:
- Thực là hiếm có! Người khác chỉ nói khéo bề ngoài thôi, chứ thím ấy mới thực biết thương đến các cô các chú, biết hiếu thuận với cụ.
Giả mẫu gật đầu nói:
- Tôi tuy thương nó, nhưng lại sợ nó sắc sảo quá cũng không tốt đâu.
Phượng Thư vội cười nói:
- Bà nói nhầm rồi. Người ta thường nói: thông minh sắc sảo quá sợ không sống lâu. Nói thế rồi tin là thế. Nhưng chỉ có bà là không nên nói thế và cũng không nên tin thế. Bà thông minh sắc sảo gấp mười cháu, sao lại được phúc thọ song toàn như thế? Có lẽ ngày sau cháu lại còn được hơn bà nữa kia. Cháu sẽ sống một nghìn tuổi, chờ khi bà về chầu trời rồi cháu mới chết.
Giả mẫu cười nói:
- Mọi người đều chết, chỉ trơ lại bà cháu ta là hai con yêu già, còn có gì là thú nữa!
------------------------
1. Chữ trong sách Luận ngữ.
Hồi thứ năm mươi hai
Bình Nhi cố tình giấu việc mất vòng ngọc;
Tình Văn đương ốm, vùng dậy vá áo cừu
Mọi người ra về, riêng có chị em Bảo Thoa ở lại ăn cơm với Giả mẫu. Bảo Ngọc chợt nhớ đến Tình Văn, liền về vườn trước. Vừa đến nhà, thấy mùi thuốc thơm sực, không có một người nào, chỉ trơ Tình Văn nằm ở trên giường, mặt đỏ bừng, người nóng giật. Bảo Ngọc đến lò sưởi hơ tay rồi thò vào chăn sờ trên người Tình Văn thấy nóng như lửa, liền nói:
- Người khác bỏ đi cũng được, chứ Xạ Nguyệt, Thu Văn sao lại vô tình bỏ cả đi thế?
Tình Văn nói:
- Thu Văn thì tôi bảo đi ăn cơm, còn Xạ Nguyệt thì chị Bình vừa đến tìm đi. Hai người thậm thụt, không biết nói gì. Chắc họ nói chuyện tôi ốm, không chịu dời ra khỏi nhà này chứ gì.
Bảo Ngọc nói:
- Chị Bình không phải là người như thế đâu. Vả chăng chị ta không biết chị ốm, chắc tìm Xạ Nguyệt để nói chuyện gì đấy, ngẫu nhiên thấy chị ốm, liền thuận miệng nói là đến thăm chị, đó cũng là câu chuyện mà người ta hay xử khéo đấy thôi. Chị không chịu dời khỏi nhà này có can gì đến chị ấy. Các chị xưa nay vẫn tử tế với nhau, quyết không nên vì chút việc không đâu để mất tình thân.
Tình Văn nói:
- Cậu nói phải đấy, nhưng chỉ ngờ tại sao tự nhiên chị ta lại giấu tôi?
- Để tôi ra phía cửa sau, đứng dưới cửa sổ nghe xem họ nói những gì, sẽ về bảo chị.
Nói xong, Bảo Ngọc đi ra cửa sau, đứng nấp dưới cửa sổ nghe, thấy Xạ Nguyệt khẽ hỏi:
- Làm sao mà chị lại tìm được?
Bình Nhi nói:
- Hôm ấy, khi rửa tay không thấy, mợ Hai không cho nói ra. Khi ra khỏi vườn, liền truyền ngay cho bọn bà già ở các nơi phải hết lòng dò xét. Chúng tôi chỉ ngờ cho a hoàn của cô Hình, vì nó vốn nghèo, từ bé không trông thấy cái vòng ấy bao giờ, nên nghĩ có nhẽ nó lấy, không ngờ lại là người ở bên nhà các chị. Hôm ấy già Tống bên này cầm cái vòng đến, bảo là con hầu nhỏ Trụy Nhi ăn cắp, già ấy trông thấy, định đến trình với mợ Hai, may mợ ấy không có nhà. Tôi vội cầm lấy vòng, nghĩ cậu Bảo lúc nào cũng để ý đến các chị, muốn cho hơn người. Năm trước có con Lương ăn trộm ngọc, việc này đã bẵng đi hai năm, những lúc rỗi vẫn có người nhắc đến cho hả dạ. Bây giờ lại xảy ra một con ăn trộm vòng vàng, mà lại ăn trộm của người nhà. Cậu ấy thì thế, mà người nhà lại làm cái việc “vả vào miệng mình”. Vì thế tôi phải dặn dò già Tống, nhất thiết không được nói cho cậu Bảo biết, cũng không nên nói với người khác nữa, cứ im đi như không, nếu cụ và bà Hai biết, người sẽ nổi giận. Hơn nữa, chị Tập Nhân và các chị cũng đâm ngượng mặt. Cho nên tôi chỉ trình mợ Hai rằng: Khi sang bên mợ Cả về, không ngờ cái vòng tuột ra, rơi xuống bãi cỏ, tuyết phủ lên không tìm thấy. Nay tuyết tan, nắng chiếu xuống, màu vàng đỏ ối, thì nó vẫn còn đấy, tôi lại tìm được. Mợ Hai cũng tin thế, nên tôi đến bảo các chị: từ nay trở đi phải để ý không nên sai nó đi đâu. Đợi chị Tập Nhân về, các chị bàn với nhau tìm cách đuổi nó đi là xong.
Xạ Nguyệt nói:
- Con ranh ấy đã trông thấy những của ấy rồi, làm sao còn híp mắt lại!
- Cái vòng ấy có nặng bao nhiêu đâu! Nguyên là của mợ Hai, gọi là vòng râu tôm, chỉ có hạt châu nặng thôi. Con ranh Tình Văn tính nóng như lửa, nếu nó biết sẽ không nhịn được đâu. Nó cáu lên sẽ lại đánh mắng làm to chuyện. Vì thế tôi chỉ bảo riêng chị phải để ý đấy thôi.
Nói xong Bình Nhi ra về.
Bảo Ngọc nghe nói, vừa mừng, vừa giận, vừa than thở: mừng vì Bình Nhi biết thể tất bụng mình; giận vì con Trụy Nhi ăn cắp; than thở vì con Trụy Nhi người lanh lẹn như thế lại làm những việc xấu xa. Bảo Ngọc về buồng kể hết những lời của Bình Nhi cho Tình Văn nghe, rồi nói:
- Chị Bình bảo chị nóng tính, lại đang ốm, nghe thấy sợ ốm thêm, vì vậy chờ chị khỏi sẽ nói.
Tình Văn giận quá, mày ngài dựng ngược, mắt phượng tròn xoe, muốn gọi ngay con Trụy Nhi đến, Bảo Ngọc khuyên:
- Bây giờ lại làm ầm lên thì chẳng hóa ra phụ lòng chị Bình đối với tôi và chị hay sao? Chi bằng hãy nhận lấy tấm lòng tốt của chị ấy, rồi sau tìm cách đuổi nó đi là xong.
- Mặc dầu cậu nói thế, nhưng tôi tức quá, nhịn sao được?
- Việc ấy có gì đáng tức? Chị cứ nên tĩnh dưỡng đi.
Tình Văn uống nước thuốc thứ hai, đến đêm tuy ra được ít mồ hôi, nhưng chưa thấy bớt, người vẫn nóng hực, nhức đầu, ngạt mũi, nặng tiếng. Hôm sau thầy thuốc họ Vương lại đến xem mạch, gia giảm một vài vị. Nóng tuy đỡ nhưng đầu vẫn nhức. Bảo Ngọc liền bảo Xạ Nguyệt lấy thuốc xông mũi đến cho Tình Văn ngửi, nếu hắt hơi được mấy cái thì nhẹ ngay. Xạ Nguyệt đi lấy cái hộp pha lê nhỏ giát vàng đưa cho Bảo Ngọc. Bảo Ngọc mở ra, thấy hình một cô gái bé tóc vàng, mình trần, hai bên nách lại có cánh, trong đó đựng thuốc tây hạng tốt nhất. Tình Văn chỉ mải nhìn hình cô gái, Bảo Ngọc nói:
- Ngửi đi, để hả hơi thì không tốt.
Tình Văn liền lấy móng tay khêu một tí để vào mũi chẳng thấy gì, lại khêu thêm một tí nữa, ngửi thấy một mùi cay gắt xông lên tận óc, hắt hơi năm sáu cái liền, nước mắt nước mũi chảy giàn giụa. Tình Văn cất hộp đi, cười nói:
- Cay lắm! Không chịu được! Cho tôi ít giấy.
A hoàn nhỏ đã mang sẵn tập giấy đến. Tình Văn lấy từng tờ ra hỉ mũi.
Bảo Ngọc cười hỏi Tình Văn:
- Thế nào?
- Dễ chịu hơn. Nhưng thái dương hãy còn nhức.
- Cứ chữa thuốc tây có lẽ khỏi đấy.
Nói xong Bảo Ngọc liền bảo Xạ Nguyệt:
- Chị đến đằng mợ Hai bảo là tôi nói: “Đằng ấy thường có thứ thuốc cao “Y phơ na” của ngoại quốc dùng để chữa nhức đầu cho tôi một ít.”
Xạ Nguyệt vâng lời đi một lúc, cầm nửa miếng về. Rồi lấy một mảnh lụa hồng, cắt hai miếng tròn bằng đầu ngón tay, hơ cho thuốc cao chảy, lấy trâm dàn mỏng ra, Tình Văn soi gương rồi xoa lên hai bên thái dương. Xạ Nguyệt cười nói:
- Ốm như con ma bù đầu, bây giờ dán cái này lên, xem lại có vẻ xinh! Mợ Hai dán luôn trông quen mắt nên không khác mấy.
Xạ Nguyệt lại nói với Bảo Ngọc:
- Mợ Hai bảo: ngày mai là sinh nhật ông cậu, bà bảo cậu phải đi dự lễ. Vậy cậu định mặc quần áo gì, để tôi sắp sẵn; sớm mai khỏi phải bận.
- Tiện cái gì thì mặc cái ấy thôi. Quanh năm chỉ bận về sinh nhật, biết bao giờ cho xong.
Bảo Ngọc đứng dậy đi đến nhà Tích Xuân xem vẽ. Vừa đến ngoài cửa, thấy a hoàn của Bảo Cầm là Tiểu Loa ở đằng kia đi tới, Bảo Ngọc vội chạy đến hỏi:
- Chị đi đâu?
- Hai cô tôi đều ở cả bên nhà cô Lâm, giờ tôi cũng đi sang đó.
Bảo Ngọc nghe nói, cùng Tiểu Loa quay sang quán Tiêu Tương, gặp cả chị em Bảo Thoa và Tụ Yên đều ở đây. Bốn người đương ngồi xung quanh lò sưởi nói chuyện việc nhà việc cửa. Tử Quyên thì ngồi thêu ở trước cửa sổ noãn các. Trông thấy Bảo Ngọc, mọi người cười nói:
- Lại thêm một người nữa. Không có chỗ cho anh ngồi đâu.
Bảo Ngọc cười nói:
- Thật là một bức tranh đồng khuê tập diễm!(1) Rất tiếc tôi đến chậm quá! Nhưng dầu sao nhà này cũng ấm hơn các nhà khác, ngồi ở ghế cũng không thấy lạnh.
Nói xong liền ngồi vào chỗ Đại Ngọc thường ngồi, là chỗ ghế dựa có trải tấm dd chuột gio. Nhân thấy trong noãn các có một cái chậu bằng ngọc thạch, trong chậu trồng mấy cụm thủy tiên giống một giò, chỗ nhặt chỗ thưa, Bảo Ngọc khen nức nở:
- Hoa này đẹp nhỉ! Nhà này càng ấm, mùi hoa càng đượm! Tại sao hôm qua tôi không trông thấy?
Đại Ngọc cười nói:
- Đó là vợ Lại Đại, tổng quản nhà anh, cho cô Bảo Cầm, có hai chậu thủy tiên, hai chậu lạp mai. Cô ấy đem cho em một chậu thủy tiên, cho cô Thám một chậu lạp mai. Em vốn không muốn lấy, lại sợ phụ lòng cô ấy. Giờ anh thích, xin biếu lại anh, có được không?
- Ở nhà anh cũng có hai chậu, nhưng không đẹp bằng chậu này. Cô Bảo Cầm đã cho em, sao em lại cho người khác? Không thể thế được.
- Em ngày nào cũng không rời khỏi lò thuốc, đã quen mùi thuốc lắm rồi, lại còn ngạt thêm mùi hoa nữa thì chịu sao nổi, chỉ tổ ốm thêm thôi. Vả chăng nhà này sực những mùi thuốc làm hỏng mất mùi hoa đi. Anh mang về bên ấy để cho hoa được trong sạch, không bị mùi khác lẫn vào.
- Nhà anh hôm nay cũng có người ốm, đương sắc thuốc đấy. Em không biết à?
- Anh nói mới lạ chứ. Em vô tình nói câu ấy, chứ biết đâu được việc bên anh? Anh không đến sớm mà nghe truyện cổ tích, bây giờ lại ra vẻ nhớn nhơ nhớn nhác.
- Ngày mai chúng ta mở thi xã, lại có đầu bài rồi, cứ vịnh ngay thủy tiên và lạp mai là được.
- Thôi, thôi! Em không dám làm thơ nữa, làm lần nào cũng bị phạt, thực xấu hổ quá.
Nói xong liền giơ tay che mặt. Bảo Ngọc cười nói:
- Việc gì lại đem anh ra làm trò đùa? Chính anh còn chưa sợ xấu hổ mà em lại che mặt đi.
Bảo Thoa cười nói:
- Lần sau tôi sẽ mời họp thi xã, có bốn đầu bài thơ, và bốn đầu bài từ, ai nấy đều phải làm hết. Đầu bài thơ là Vịnh đồ thái cực, hạn vần nhất tiên, thơ ngũ ngôn, bao nhiêu chữ ở trong vần nhất tiên phải làm hết, không được bỏ sót một chữ nào.
Bảo Cầm cười nói:
- Nghe đã đủ biết chị không thích mời họp thi xã rồi, rõ ràng là chị tìm cách làm khó cho người ta thôi. Như vậy là gò ép chỉ lấy những câu ở trong kinh Dịch xoay đi xoay lại mà điền bừa vào, còn thú gì nữa! Khi tôi lên tám tuổi, theo cha tôi sang miền bể tây mua hàng. Ngờ đâu ở đó có một cô gái nước Chân Chân, mới mười lăm tuổi, nét mặt đẹp như một vị mỹ nhân ở bức tranh vẽ của phương tây, tóc vàng, tết hai đuôi sam, trên đầu cài đầy những mã não, san hô, ngọc mắt mèo và ngọc xanh, mình mặc áo giáp dệt kim tuyến, tay áo bầng gấm, đeo dao găm có bịt vàng khảm ngọc. Thực ra người vẽ trong bức tranh cũng không đẹp bằng! Có người nói cô ta thạo chữ Trung Quốc, giảng được nghĩa ngũ Kinh, biết làm thơ và điền từ. Vì thế, cha tôi nhờ một người thông ngôn, xin viết cho một bài thơ do cô ta làm.
Mọi người đều lấy làm lạ. Bảo Ngọc cười nói:
- Em ơi, mang ngay ra đây cho anh xem.
Bảo Cầm nói:
- Em còn để ở Nam Kinh, lấy thế nào được.
Bảo Ngọc nghe nói, rất lấy làm thất vọng, liền nói:
- Thực là vô phúc, tôi không được trông thấy của quí trên đời!
Đại Ngọc cười kéo Bảo Cầm, nói:
- Em đừng nói dối chúng ta. Chắc khi đến đây thế nào em cũng mang theo những thứ ấy đi, không khi nào lại để ở nhà. Ai thì tin, chứ chị không bao giờ tin đâu.
Bảo Cầm đỏ mặt lên, cúi đầu mỉm cười không nói gì. Bảo Thoa cười nói:
- Chỉ có cô Tần mới quen nói những câu như thế. Kể mày cũng tinh ranh quá lắm đấy!
Đại Ngọc cười nói:
- Em đã mang đến đây thì cho các chị xem với.
Bảo Thoa cười nói:
- Một đống hòm xiểng hãy còn bỏ lổng chổng ở đó. Chưa thu xếp xong, đã biết ở đâu mà tìm? Để ít lâu thu dọn xong, sẽ lấy ra cho mọi người xem.
Lại bảo Bảo Cầm:
- Nếu em còn nhớ, sao không đọc cho các chị nghe?
Bảo Cầm nói:
- Em nhớ bài thơ ấy là một bài ngũ ngôn. Con gái nước ngoài mà biết được như thế cũng là hiếm có đấy.
Bảo Thoa nói:
- Em đừng đọc vội, gọi cả chị Vân đến đây nghe một thể.
Liền bảo Tiểu Loa:
- Mày sang bên nhà, nói là có một mỹ nhân nước ngoài đến chơi, làm thơ giỏi lắm, mời cô “điên thơ” sang nghe, và dắt cả con “ngốc thơ” sang nữa.
Tiểu Loa cười rồi đi. Một lúc nghe thấy Tương Vân cười, hỏi:
- Mỹ nhân nước ngoài nào đến đấy?
Vừa nói, vừa cùng Hương Lăng đi vào. Mọi người cười nói:
- Chưa thấy mặt đã thấy tiếng rồi.
Bảo Cầm mời ngồi, rồi đem câu chuyện lúc nãy kể lại cho hai người nghe. Tương Vân cười nói: “Đọc mau lên”.
Bảo Cầm đọc:
Lầu son đêm trước mơ màng,
Đêm nay thơ lại ngâm vang trong thuyền.
Bể khơi ngùn ngụt mây đen,
Quẩn quanh khí núi tỏa trên rừng dày.
Trăng kia xưa vẫn thế này,
Bể tình sao lại khi đầy khi vơi.
Hán Nam trải mấy xuân rồi,
Lòng này thắc thỏm dễ nguôi được nào.(2)
Mọi người nghe xong, đều nói: “Khó được có người như thế! Giỏi hơn cả người Trung Quốc chúng ta!”
Nói chưa dứt lời, thì Xạ Nguyệt chạy đến thưa:
- Bà sai người đến bảo cậu Hai sáng mai phải sang bên ông cậu, nói là bà không được khoẻ, nên không sang được.
Bảo Ngọc vội đứng dậy “Xin vâng”. Rồi hỏi Bảo Thoa, Bảo Cầm:
- Các cô có đi không?
Bảo Thoa nói:
- Chúng tôi không đi. Hôm qua đã cho mang đồ lễ sang rồi.
Mọi người nói chuyện một lúc rồi mới về.
Bảo Ngọc nhường chị em đi trước, còn mình ở lại sau. Đại Ngọc gọi Bảo Ngọc lại hỏi:
- Tập Nhân độ bao giờ thì về?
- Chắc phải chờ tống táng xong.
Đại Ngọc còn muốn nói nữa, nhưng không nói ra được, đứng ngẩn người một lúc, rồi nói:
- Thôi anh về đi.
Bảo Ngọc cũng cảm thấy trong bụng có nhiều điều muốn nói, nhưng không biết nói thế nào, nghĩ một lúc, cười nói:
- Thôi có chuyện gì ngày mai sẽ hay.
Bảo Ngọc xuống thềm, cúi đầu định đi, nhưng lại quay lại hỏi:
- Bây giờ đêm càng dài, một đêm em ho mấy lần? Tỉnh dậy mấy lần?
Đại Ngọc nói:
- Đêm qua đã đỡ rồi, chỉ ho có vài lần thôi, nhưng ngủ được có một trống canh tư, đã lại dậy rồi.
Bảo Ngọc cười nói:
- Anh có câu chuyện quan hệ muốn nói, bây giờ mới nhớ ra.
Vừa nói, Bảo Ngọc vừa ghé lại gần, khẽ bảo:
- Anh nghĩ đến việc chị Bảo Thoa cho em yến sào...
Chợt thấy dì Triệu đến thăm Đại Ngọc:
- Mấy hôm nay cô đã đỡ chưa?
Đại Ngọc biết ngay là dì Triệu ở bên Thám Xuân về, qua đó tiện đường rẽ vào hỏi lấy lệ, liền mời ngồi, rồi nói:
- Cám ơn dì nhớ đến cháu, trời lạnh thế mà cũng đến.
Rồi bảo pha nước và đưa mắt cho Bảo Ngọc. Bảo Ngọc hiểu ý liền đi ra.
Đến bữa cơm chiều, Vương phu nhân lại dặn Bảo Ngọc mai phải đi sớm. Bảo Ngọc về nhà, trông cho Tình Văn uống thuốc. Đêm hôm ấy, Bảo Ngọc vẫn để Tình Văn ngủ trong noãn các, tự mình đến ngủ phía ngoài Tình Văn. Bảo Ngọc lại sai mang lò sưởi ra phía trước noãn các. Xạ Nguyệt ngủ ngay ở cạnh lò sưởi.
Sớm hôm sau, trời chưa sáng, Tình Văn đã gọi Xạ Nguyệt “Dậy đi thôi ngủ mãi chưa chán à. Em ra bảo người sắp trà nước cho cậu Bảo, rồi chị đánh thức cậu ấy dậy thì vừa”. Xạ Nguyệt vội mặc áo đứng dậy, nói:
- Chúng ta hãy gọi cậu ấy dậy thay quần áo, phải khênh lò sưởi đi, rồi hãy gọi bọn bà già vào; vì họ thường nói, không nên cho cậu ấy ngủ ở trong nhà này, sợ bị lây bệnh. Bây giờ thấy chúng ta ngủ cả một chỗ, chắc họ lại eo sèo.
Tình Văn nói:
- Chị cũng nghĩ thế.
Hai người vừa mới gọi, thì Bảo Ngọc đã tỉnh, vội đứng dậy mặc quần áo. Xạ Nguyệt sai bọn hầu nhỏ đến thu xếp đâu vào đấy mới sai bọn Thu Văn vào hầu. Bảo Ngọc rửa mặt chải đầu xong, Xạ Nguyệt nói:
- Trời u ám lắm, chỉ sợ có tuyết, cậu nên mặc thêm một cái áo da nữa.
Bảo Ngọc gật đầu, liền đi thay quần áo. A hoàn nhỏ để chén nước trà sen Phúc Kiến vào cái khay bưng lên, Bảo Ngọc uống hai ngụm. Xạ Nguyệt lại mang đến cái đĩa nhỏ đựng gừng chế, Bảo Ngọc nhấm một miếng, dặn dò Tình Văn, rồi sang bên Giả mẫu.
Giả mẫu chưa dậy, nhưng biết Bảo Ngọc đã đến, liền sai mở cửa gọi vào, Bảo Ngọc thấy Bảo Cầm nằm sau lưng Giả mẫu, quay mặt vào trong chưa dậy. Thấy Bảo Ngọc mặc cái áo chẽn bằng lụa dệt lông màu hồng thẫm, ngoài khoác áo da vượn màu đỏ kép đoạn, Giả mẫu hỏi:
- Có tuyết đấy à?
- Nặng trời lắm, nhưng chưa có tuyết.
Giả mẫu liền gọi Uyên Ương đến bảo:
- Mang cái áo lông công hôm nọ ra cho cậu mặc.
Uyên Ương vâng lời đem đến, Bảo Ngọc trông thấy cái áo màu vàng choáng lộn, màu xanh lấp lánh, không giống cái áo thêu đàn le của Bảo Cầm. Giả mẫu cười nói:
- Áo này gọi là tước kim nê, người nước Nga La Tư dệt bằng sợi lông công đấy. Hôm nọ cho em cháu cái áo lông vịt trời còn cái này thì để cho cháu.
Bảo Ngọc cúi đầu tạ ơn, rồi mặc vào người. Giả mẫu cười nói:
- Sang cho mẹ cháu xem đã rồi hãy đi.
Bảo Ngọc vâng lời đi ra, thấy Uyên Ương đứng ở dưới sân dụi mắt. Từ hôm Uyên Ương thề không đi lấy chồng, đến nay vẫn không chịu nói chuyện gì với Bảo Ngọc. Bảo Ngọc ngày đêm áy náy, bây giờ lại thấy chị ta định tránh mình, liền chạy đến cười hỏi:
- Chị ơi, xem tôi mặc cái áo này có đẹp không?
Uyên Ương hất tay, chạy vào nhà Giả mẫu. Bảo Ngọc đành sang cho Vương phu nhân xem, lại trở về trong vườn cho Tình Văn, Xạ Nguyệt xem, rồi mới đến trình Giả mẫu:
- Mẹ cháu đã xem rồi, bảo là quý lắm, dặn cháu phải mặc cẩn thận đừng làm hư hỏng.
Giả mẫu nói:
- Chỉ còn có cái này thôi, nếu cháu làm hư hỏng thì không còn cái nào khác nữa. Bây giờ muốn may riêng cho cháu một cái cũng không thể nào có được.
Nói xong, lại dặn dò: “không được uống nhiều rượu, phải nhớ về sớm”.
Bảo Ngọc vâng liền mấy câu. Bà già vừa theo ra đến ngoài hiên, thì anh vú của Bảo Ngọc là Lý Quý, Vương Vinh, cùng Trương Nhược Cẩm, Triệu Diệu Hoa, Tiền Thăng và Chu Thụy đem theo bốn đứa hầu nhỏ nữa là Dính Yên, Bạn Hạc, Sừ Dược, Tảo Hồng đeo bọc áo, ôm nệm thắng một con ngựa trắng có yên chạm, dây cương tết hoa, cả bọn đã đứng chực ở ngoài từ lâu. Bà già lại dặn dò một hồi, sáu người đều vâng lời, rồi giữ yên và thả bàn đạp xuống. Bảo Ngọc thong thả lên ngựa, Lý Quý, Vương Vinh bịt hàm thiếc ngựa lại, Tiền Thăng, Chu Thụy đi trước dẫn đường, Trương Nhược Cẩm, Triệu Diệc Hoa thì đi sát hai bên. Bảo Ngọc ngồi trên ngựa cười nói:
- Anh Chu, anh Tiền, chúng ta đi sang cửa bên kia, đừng đi qua thư phòng của ông, khỏi phải xuống ngựa.
Chu Thụy nghiêng người cười nói:
- Ông lớn có ở thư phòng đâu, ngày nào cũng khóa cửa, cậu không phải xuống ngựa nữa.
Bảo Ngọc cười nói:
- Cửa khóa cũng phải xuống ngựa.
Tiền Thăng, Lý Quỳ đều cười nói:
- Cậu nói phải đấy. Nếu mượn cớ, lười không chịu xuống, nhỡ ra ông Lại và ông Lâm trông thấy, tuy không nói năng gì, nhưng cũng khuyên bảo mấy câu. Có điều gì không phải lại đổ diệt cho chúng tôi, bảo chúng tôi không nhắc cậu giữ.
Bọn Chu Thụy, Tiền Thăng liền đi thẳng ra cửa bên cạnh. Họ đang nói chuyện, ngẩng mặt lên, thấy Lại Đại đi đến, Bảo Ngọc ghìm ngựa định xuống. Lại Đại vội đến ôm lấy chân. Bảo Ngọc đứng thẳng trên bàn đạp cười, kéo tay, nói mấy câu. Rồi lại thấy đứa hầu nhỏ dẫn hai, ba mươi người cầm chổi và thúng đi đến. Trông thấy Bảo Ngọc, họ đều buông tay đứng sát vào tường, chỉ đứa dẫn đầu trong bọn vái lạy, hỏi thăm. Bảo Ngọc không biết tên họ nó, cũng mỉm cười gật đầu. Khi ngựa đi qua rồi, nó mới dẫn cả bọn đi. Ra đến ngoài cửa bên cạnh, đã có mấy người hầu và phu ngựa của bọn Lý Quý sắp sẵn mười con ngựa chực ở đấy rồi. Vừa ra khỏi cửa, bọn Lý Quý lên ngựa đi trước, cả đoàn vùn vụt chạy theo.
Ở nhà, Tình Văn uống thuốc không thấy bớt, nóng ruột mắng thầy thuốc ầm lên: “Chỉ biết lừa người ta lấy tiền! Chứ không có thang nào hay cả”. Xạ Nguyệt cười khuyên bảo:
- Chị nóng nảy quá. Tục ngữ nói: “Bệnh đến nhanh như núi đổ, bệnh khỏi chậm như kéo tơ”. Có phải là thuốc tiên của Lão quân đâu mà khỏi ngay được? Chị cứ nên tĩnh dưỡng vài hôm tự khắc khỏi. Chị càng nóng càng thêm khó chữa.
Tình Văn lại mắng đám hầu nhỏ:
- Chuồn đi đâu cả rồi! Thấy ta ốm chúng bay bỏ đi hết. Mai kia khỏi, ta sẽ lột xác chúng bay ra!
A hoàn nhỏ là Định Nhi sợ quá vội vàng đến hỏi:
- Cô bảo gì?
- Chúng nó chết cả rồi, chỉ còn một mình mày hay sao?
Đương nói thì con Trụy Nhi cũng chạy đến. Tình Văn nói:
- Kìa đồ ranh con này! Không gọi nó chẳng thèm đến! Tao phát tiền lương đây! Chia hoa quả đây! Mày vào ngay đi! Đứng sát lại đây một tí. Tao có phải là hùm ăn thịt mày đâu mà sợ!
Trụy Nhi đành phải đứng sát lại. Nhân lúc bất ngờ, Tình Văn nhoài người ra, túm lấy tay nó, rồi cầm cái trâm dài ở cạnh gối đâm bừa vào tay nó và mắng:
- Để cái tay này làm gì? Không biết cầm cái kim sợi chỉ, chỉ biết ăn vụng thôi. Mắt ốc nhồi, chân choi choi, nói như vẹt, chả đâm cho nát ra thì để làm gì.
Trụy Nhi đau quá, kêu ầm lên. Xạ Nguyệt vội gỡ ra, và ấn Tmh Văn nằm xuống:
- Chị vừa ra được ít mồ hôi, lại muốn chết à. Khi nào khỏi, đánh nó bao nhiêu chẳng được? Làm gì mà phải ồn lên?
Tình Văn sai người gọi già Tống đến, nói:
- Cậu Bảo vừa mới bảo tôi, nói cho các bà biết, con Trụy lười lắm, cậu ấy sai gì nó cũng vênh mặt lên, không chịu làm, ngay chị Tập Nhân bảo gì, nó cũng lẩm bẩm chửi vụng. Hôm nay thế nào cũng phải đuổi nó đi, ngày mai cậu Bảo về sẽ trình bà sau.
Già Tống thấy thế, biết ngay là việc ăn cắp vòng bị lộ chuyện, liền cười nói:
- Tuy thế mặc lòng, cũng nên chờ cô Hoa về, nói cho biết đã, rồi hãy đuổi nó đi.
Tình Văn nói:
- Cậu Bảo dặn tôi, hôm nay thế nào cũng đuổi nó đi, việc gì phải chờ cô “hoa” với cô “nụ”? Chúng tôi đã có cách! Mau mau gọi người nhà nó mang nó về.
Xạ Nguyệt nói:
- Thế cũng được. Sớm muộn nó cũng phải về, cho về sớm ngày nào càng bớt chuyện ngày ấy.
Già Tống nghe thấy nói thế, đành phải đi gọi mẹ Trụy Nhi đến. Mẹ nó sắp xếp đồ đạc xong, đến hỏi Tình Văn:
- Sao các cô lại làm thế? Cháu nó có điều gì không phải, các cô dạy bảo, việc gì lại đuổi nó đi? Cũng nên để thể diện cho tôi một tí chứ.
Tmh Văn nói:
- Thôi, chuyện này chờ Bảo Ngọc về hãy nói, không việc gì đến chúng tôi.
Người kia cười nhạt:
- Tôi đâu lại dám hỏi cậu ấy? Việc gì mà cậu ấy chẳng nghe các cô? Dù cậu ấy bằng lòng, mà các cô không bằng lòng, thì cũng chưa chắc đã ăn thua! Ví như vừa rồi vắng mặt cậu ấy cô cũng gọi thẳng ngay tên cậu ấy ra; các cô gọi thế được, chứ chúng tôi mà gọi thế, người ta lại cho là quân hỗn láo!
Tình Văn nghe nói, càng tức, mặt đỏ bừng lên, nói:
- Tôi gọi tên cậu ấy đấy. Chị đến mà mách cụ và bà Hai, bảo tôi hỗn, xin tống cổ tôi đi!
Xạ Nguyệt nói:
- Chị ơi, chị cứ mang nó về, có điều gì hãy nói sau. Ở đây có phải là chỗ để chị giảng giải lễ phép đâu?
- Chị có thấy ai giảng giải lễ phép với chúng tôi không? Không cứ chị, ngay đến mợ Lại và mợ Lâm cũng phải nể chúng tôi ít nhiều. Còn việc gọi tên cái, là do cụ dặn chúng tôi từ khi cậu ấy còn bé đến giờ. Chắc các chị cũng biết: vì sợ khó nuôi, nên cụ cho viết tên cái cậu ấy dán ra khắp nơi để mọi người đều gọi, như thế mới dễ nuôi. Ngay đứa gánh nước, đứa hót phân, đứa ăn mày cũng đều gọi được cái tên cậu ấy, huống chi là chúng tôi? Hôm nọ mợ Lâm chỉ gọi một tiếng “cậu” thôi, cụ cũng mắng đấy. Đó là một việc. Hai nữa là, chúng tôi ở đây thường phải hầu chuyện cụ và bà Hai, nếu không gọi thẳng tên ra, chẳng nhẽ lại gọi là “cậu” à? Ngày nào không gọi mấy trăm lượt hai chữ “Bảo Ngọc”? Thế mà chị lại còn bới chuyện ấy ra! Ngày nào chị rỗi, đến chỗ cụ và bà Hai mà nghe chúng tôi gọi tên cái cậu ấy ra thì sẽ rõ. Vì chị không được hầu gần cụ và bà Hai, quanh năm chỉ đứng ở ngoài cửa thứ ba, chẳng trách không biết được khuôn phép của chúng tôi ở trong này! Đây không phải là chỗ chị đứng đâu! Nếu đứng một lúc nữa, chúng tôi không cần phải nói gì, cũng sẽ có người đến hỏi chị. Chị hãy mang nó về đi, muốn phân trần điều gì, cứ đến nói với mợ Lâm, nhờ mợ ấy nói với cậu Bảo. Trong nhà này hàng nghìn người, người nọ chạy đến, người kia chạy đến, chúng tôi nhận mặt, hỏi tên sao xiết!
Tình Văn nói xong, liền sai a hoàn nhỏ lấy vải lau nền nhà.
Người đàn bà kia nghe nói, không biết trả lời thế nào, cũng không dám đứng lâu, ức quá, mang Trụy Nhi về. Già Tống liền nói:
- Chả trách chị không biết khuôn phép gì là phải. Con gái chị ở nhà này mấy lâu, lúc ra về, cũng nên cúi đầu chào các cô ấy. Các cô ấy không cần đồ lễ gì khác, chỉ cúi đầu chào là đủ rồi. Bảo đi là cắm cổ đi ngay?
Trụy Nhi nghe nói, đành phải quay lại cúi đầu chào Xạ Nguyệt và Tình Văn, rồi đi chào bọn Thu Vân, nhưng không ai thèm nhìn. Người đàn bà ấy hậm hực thở dài, không dám nói, đành nuốt giận ra về.
Tình Văn vừa bị nhiễm gió, vừa nổi giận, nên càng thấy người khó chịu. Vật vã mãi đến lúc lên đèn mới nằm yên. Bảo Ngọc vừa về đến cửa đã thở dài dậm chân. Xạ Nguyệt vội hỏi đầu đuôi, Bảo Ngọc nói:
- Hôm nay cụ vui, cho tôi cái áo khoác này, ngờ đâu không cẩn thận, để vạt sau cháy một miếng, may trời đã tối, cụ và bà không để ý đến.
Vừa nói vừa cởi áo ra, Xạ Nguyệt xem thì có một chỗ cháy bằng ngón tay, liền nói:
- Chắc là lửa ở lồng ấp bắn vào. Nhưng không gì đâu, khẽ mang ra cho thợ may nào khéo mạng lại là được.
Xạ Nguyệt liền gói áo vào trong bọc, gọi một bà già đến mang đi thuê mạng, và bảo:
- Làm thế nào đến sáng mai phải xong, nhất thiết không được nói cho cụ và bà biết!
Bà già đi một lúc lại mang áo về, nói:
- Không những thợ mạng, mà đến thợ may giỏi, thợ thêu, thợ nữ công, tôi đều đi hỏi hết, họ không biết là thứ hàng gì nên không dám nhận.
Xạ Nguyệt nói:
- Thế thì làm thế nào bây giờ? Ngày mai không mặc cũng được.
Bảo Ngọc nói:
- Cụ và bà nói ngày mai là ngày chính tiệc, phải mặc áo này. Mới hôm đầu đã bị cháy rồi, thật là chán quá!
Tình Văn nghe xong, không nhịn được, trở mình lại nói:
- Mang lại đây tôi xem nào! Số không được mặc cái áo ấy thì thôi! Bây giờ lại còn làm rối lên!
Bảo Ngọc cười:
- Nói thế cũng đúng đấy.
Rồi đưa áo cho Tình Văn, lại mang đèn đến để nhìn kỹ một lượt. Tình Văn nói:
- Đó là chỉ kim tuyến bằng lông công đấy. Nay cũng lấy chỉ làm tuyến bằng lông công mạng từng hàng cho khít nhau thì cũng có thể nhuế nhóa được.
Xạ Nguyệt nói:
- Có sẵn chỉ lông công đấy, nhưng ở đây ngoài chị ra còn ai biết mạng nữa.
Tình Văn nói:
- Biết nói sao đây, tôi cũng đành liều mà làm vậy.
Bảo Ngọc nói:
- Thế sao được? Chị vừa mới đỡ mệt một tí, đã làm việc thế nào được?
Tình Văn nói:
- Tôi biết thân tôi, cậu không cần phải để ý quá.
Tình Văn đứng dậy quấn tóc, khoác áo, thấy người loạng choạng mắt hoa đầu váng, không thể gượng được. Nhưng nếu không làm, sợ Bảo Ngọc sốt ruột đành phải cắn răng ngồi làm, và bảo Xạ Nguyệt xâu chỉ hộ. Tình Văn lấy một sợi ướm thử rồi cười nói:
- Tuy không giống lắm, nhưng đính vào cũng không khác mấy.
Bảo Ngọc nói:
- Thế cũng đẹp lắm rồi, tìm đâu cho được thợ may Nga La Tư bây giờ?
Tình Văn liền tháo vải bọc ở trong ra, lấy cái vòng tre tròn bằng miệng chén, đính vào mặt trái, lấy dao xén chung quanh chỗ rách cho phẳng, rồi lấy kim khâu hai đường, chia ra ngang dọc. Cứ mạng hai mũi, lại phải ngắm mỗi phía một lượt. Khốn nỗi đầu nhức, mắt hoa, người mệt mỏi, tinh thần bải hoải, mới mạng được dăm mũi, Tình Văn đã phải gục xuống gối nghỉ một lúc. Bảo Ngọc ngồi bên cạnh, lúc hỏi có muốn uống nước không? Lúc bảo hãy nghỉ một tí. Lúc lấy áo da khoác lên lưng hoặc lấy gối cho cô ta dựa, làm Tình Văn bực mình phải nói :
- Ông trẻ ơi, ông cứ đi ngủ đi, thức đến nửa đêm, ngày mai mắt hõm lại, thì làm thế nào.
Bảo Ngọc thấy Tình Văn nói vậy, đành phải vội vàng nằm xuống, nhưng không ngủ được. Một lúc nghe đồng hồ điểm bốn tiếng, thì vừa mạng xong áo. Tình Văn lấy bàn chải nhỏ khẽ chải cho những lông tơ còn lù xù. Xạ Nguyệt nói:
- Tốt lắm rồi, không nhìn kỹ thì chẳng biết được đâu.
Bảo Ngọc vội cầm lấy xem, cười nói:
- Thật giống như hệt.
Tình Văn ho mấy lần, mãi mới mạng xong, rồi nói:
- Mạng xong rồi đấy, nhưng vẫn không giống. Thôi tôi cũng chẳng biết làm thế nào được nữa!
Rồi “úi chà” một tiếng, nằm vật xuống ngủ.
-------------------------------
1. Các cô gái đẹp họp trong buồng mùa đông.
2. Nguyên văn là thơ ngũ ngôn, vì hạn chế về vần, chúng tôi dịch theo thể lục bát.
Hồi thứ năm mươi ba
Đêm trừ tịch, phủ Ninh tế tổ tiên;
Tối nguyên tiêu, phủ Vinh mở yến tiệc.
Bảo Ngọc thấy Tình Văn mạng xong áo, thì đã kiệt sức rồi, liền sai a hoàn nhỏ thay nhau đến đấm cho cô ta. Độ ăn xong bữa cơm thì trời đã sáng. Bảo Ngọc chưa đi vội, sai người mời thấy thuốc ngay. Một lúc, thầy thuốc họ Vương đến xem mạch, có ý ngờ, hỏi:
- Hôm qua đã khá kia mà, sao hôm nay mạch lại phù hư vi xúc(1) thế này? Có phải ăn uống nhiều quá không? Nếu không thì do nghĩ quá, tinh thần mỏi mệt. Bệnh ngoại cảm thì nhẹ thôi, nhưng sau khi ra mồ hôi mà không biết điều dưỡng thì bệnh nặng chứ không phải vừa đâu.
Thầy thuốc kê đơn. Bảo Ngọc xem thấy đã rút bớt những vị sơ tán, lại thêm những vị ích thần dưỡng huyết như phục linh, địa hoàng, đương quy. Bảo Ngọc vừa sai người đi sắc thuốc, vừa thở dài:
- Bây giờ làm thế nào đây? Nếu có mệnh hệ nào thì tội ở ta cả.
Tình Văn nằm ở trên gối, nói:
- Cậu Hai ạ! Cậu cứ làm việc của cậu đi! Tôi mắc phải bệnh lao đâu mà sợ?
Bảo Ngọc không biết làm thế nào, đành phải đi vậy.
Đến trưa Bảo Ngọc kêu người mệt, cáo từ ra về. Bệnh Tình Văn tuy nặng thực, nhưng may xưa nay chị ta là người chỉ dùng sức lực chứ không hay dùng đến trí óc, ăn uống lại thanh đạm, không bao giờ no quá hoặc đói quá. Hơn nữa, lối bí truyền trong nhà họ Giả là: không cứ người nào, hễ hơi bị cảm gió ho khan một tí là phải nhịn cơm, rồi sau mới uống thuốc. Vì thế khi Tình Văn bắt đầu ốm, đã nhịn đói hai, ba ngày, rồi lại uống thuốc điều dưỡng cẩn thận, cho nên tuy có nhọc mệt, nhưng được tẩm bổ trong mấy ngày, dần dần, cũng đỡ. Độ này các chị em trong vườn dầu ăn cơm ở buồng mình, thổi nấu rất tiện, Bảo Ngọc muốn có canh có riêu đều sẵn cả.
Sau khi chôn cất mẹ xong, Tập Nhân đã về. Xạ Nguyệt liền đem việc Trụy Nhi ăn cắp, việc Tình Văn đuổi nó đi, kể lại đầu đuôi cho Tập Nhân nghe. Tập Nhân không nói gì chỉ bảo: “Chị ấy cũng nóng nảy quá.”
Vừa qua, Lý Hoàn bị cảm, Hình phu nhân đau mắt, nên bọn Nghênh Xuân, Tụ Yên sớm tối hầu hạ thuốc thang; em thím Lý lại đón thím ấy và Lý Văn, Lý Ỷ về nhà mấy hôm. Bảo Ngọc thấy Tập Nhân thường buồn rầu nhớ mẹ, Tình Văn lại chưa khỏi hẳn, vì thế chẳng ai nghĩ đến việc thi xã cả, mấy kỳ bỏ qua không họp.
Sang tháng chạp, gần hết năm, Vương phu nhân và Phượng Thư bận sắm sửa đồ tết. Vương Tử Đằng được thăng chức Đô Kiểm Điểm chín tỉnh. Giả Vũ Thôn được bổ chức Đại Tư Mã, bàn bạc quân cơ, tham dự triều chính.
Giả Trân mở cửa nhà thờ, sai người quét dọn, bày các đồ thờ và rước thần chủ ra. Lại quét dọn nhà trên, lấy chỗ treo ảnh tổ tiên. Bấy giờ hai phủ Vinh, phủ Ninh, trong ngoài trên dưới, đều bận rộn tíu tít cả.
Hôm đó trong phủ Ninh, Vưu Thị đương cùng vợ Giả Dung sửa soạn đồ thêu và lễ vật đem sang tết Giả mẫu, thì a hoàn bưng vào một cái khay đựng những thỏi vàng nhỏ để làm món mừng tuổi và nói:
- Hưng Nhi trình mợ: một gói vàng vụn hôm nọ là một trăm tám mươi ba lạng sáu đồng bảy phân, màu sắc không đều nhau, đúc được tất cả hai trăm hai mươi thỏi nhỏ.
Nói xong, nó đưa khay vào. Vưu thị xem một lượt, thấy cái thì kiểu hoa mai, cái kiểu hoa hải đường, cái kiểu “bút đĩnh như ý”(2), cái kiểu “bát bảo liên xuân”(3). Vưu thị sai cất đi và bảo “Hưng Nhi mang những thỏi bạc đến đây mau.”
A hoàn vâng lời đi ra.
Một lúc Giả Trân vào ăn cơm, vợ Giả Dung tránh đi một nơi. Giả Trân hỏi Vưu thị:
- Tiền thưởng tế xuân của chúng ta đã lĩnh chưa?
- Hôm nay tôi đã sai thằng Dung đi lĩnh rồi.
- Nhà ta tuy không phải chờ mấy lạng bạc ấy mới có tiêu, nhưng ít nhiều cũng là ơn vua. Đi lĩnh ngay mang về đây, rồi đưa sang bên cụ để mua đồ lễ, tỏ lòng trên đội ơn vua, dưới nhờ phúc tổ. Chúng ta cúng tổ hàng vạn bạc cũng không sợ, nhưng không bằng mấy lạng bạc này, vừa có thể diện lại được thấm nhuần ơn vua. Ngoài một vài nhà như chúng ta ra, còn những nhà thế tập nghèo kiết, nếu không có số bạc này, thì lấy gì mà cúng tổ tiên và ăn tết? Thực là ơn vua rộng rãi, nghĩ rất chu đáo.
- Đúng đấy.
Họ đương nói chuyện, thì một người vào trình: “Cậu Cả đã về.”
Giả Trận bảo: “Gọi vào.”
Giả Dung xách một cái túi nhỏ bằng vải vàng đi vào. Giả Trân hỏi:
- Tại sao mày đi mất cả ngày?
- Hôm nay không lĩnh ở bộ Lễ, lại lĩnh ở kho Quang Lộc Tự, nên phải đến đó. Các vị ở đó đều hỏi thăm sức khỏe cha. Lâu ngày không được gặp, các ông ấy rất nhớ.
- Họ nhớ gì ta! Giờ đã đến cuối năm rồi, nếu không nhớ đồ tặng, thì cũng nhớ bữa chén của ta đấy thôi.
Giả Trân nhìn vào cái bọc vải vàng trên có bốn chữ niêm phong “Ơn vua lâu dài”. Một bên có dấu của bộ Lễ. Lại có một hàng chữ nhỏ viết: Ninh Quốc Công là Giả Diễn, Vinh Quốc Công là Giả Pháp đời đời được lĩnh thưởng để tế xuân, tất cả là hai phần, thành bao nhiêu lạng bạc, ngày... tháng... năm... chức hậu bổ thị vệ long cẩm úy là Giả Dung đã nhận đủ. Viên tự thừa giữ việc này ký tên đóng dấu.
Giả Trân ăn cơm xong, súc miệng, đi giày, đội mũ, bảo Giả Dung mang theo gói bạc đến trình Giả mẫu và Vương phu nhân, lại sang trình Giả Xá và Hình phu nhân, rồi mới về nhà.
Lấy bạc ra rồi, Giả Trân sai đem bỏ cái túi vải vào lư hương lớn ở nhà thờ đốt đi. Lại bảo Giả Dung:
- Mày sang thím Hai xem, tháng giêng này bên ấy đã định ngày mời uống rượu tết chưa? Nếu định ngày rồi, phải bảo thư ký kê rõ vào giấy mang về đây, để đến khi chúng ta mời, khỏi bị trùng. Năm ngoái không để ý đến việc này, thành ra mấy nhà mời trùng nhau. Người ta có cho là chúng ta vô ý đâu, lại bảo hai nhà đã bàn định sẵn, sợ tốn kém mời vờ đấy thôi.
Giả Dung vội vâng lời đi ngay. Một lúc cầm về cái giấy kê ngày bên ấy mời uống rượu tết. Giả Trân xem xong, bảo:
- Đưa cho Lại Thăng xem, nếu mời người ta uống rượu, phải tránh những ngày đã kê trên này.
Giả Trân ngồi ở trên nhà trông cho bọn hầu nhỏ khênh dọn bình phong, lau chùi bàn ghế và đồ thờ bằng vàng bạc. Bỗng thấy đứa hầu nhỏ cầm một cái thiếp và quyển sổ vào trình:
- Tên quản lý họ O ở Hắc Sơn thôn đã đến.
Giả Trân nói:
- Thằng già chết chém này sao hôm nay mới đến?
Giả Dung vội cầm lấy thiếp và sổ mở ra đưa lên. Giả Trân chắp hai tay ra sau lưng nhìn vào tay Giả Dung, thấy trong thiếp hồng viết: “Con là quản lý O Tiến Hiếu, cúi đầu chúc ông bà và các cô các cậu mạnh khỏe. Xuân mới được mọi sự tốt lành, bình an, vinh quý, thăng quan tiến chức, vạn sư như ý.” Giả Trân cười nói:
- Người nhà quê mà nói có văn vẻ đấy.
Giả Dung cũng cười nói:
- Không cần gì văn, chỉ cốt lời chúc tốt lành thôi.
Rồi hắn giở sổ ra xem, thấy viết:
Hươu to 30 con, hươu nhỏ 50 con, hoẵng 50 con, lợn xiêm 20 con, lợn đồ 20 con, lợn nhớn 20 con, lợn rừng 20 con, lợn nhà ướp 20 con, dê rừng 20 con, dê non 20 con, dê đồ 20 con, dê ướp 20 con, cá chép 200 con, các loại cá 200 cân, gà, vịt, ngỗng còn sống mỗi thứ 200 con, gà rừng, thỏ mỗi thứ 200 đôi, tay gấu 20 đôi, gân hươu 20 cân, hải sâm 50 cân, lưỡi hươu 50 cái, lưỡi bò 50 cái, trùng trục khô 20 cân, hạt thông, hạt đào, hạt mận mỗi thứ 2 túi, tôm to 50 đôi, tôm khô 200 cân, than hoa tốt nhất 1000 cân, than vừa 2000 cân, than củi 30.000 cân, gạo tám tiến 2 gánh, gạo cẩm 50 hộc, gạo nếp trắng 50 hộc, gạo ré muộn 50 hộc, các thứ hoa màu mỗi thứ 50 hộc, gạo thường 1000 gánh, rau dưa khô một xe, các thứ lúa gạo súc vật bán đi, tính thành tiền là 2.500 lạng. Ngoài ra còn biếu riêng cậu cả mấy giống này để chơi: hươu sống 2 đôi, thỏ trắng 4 đôi, thỏ đen 4 đôi, gà cẩm kê sống 2 đôi, vịt tây 2 đôi.
Giả Trân xem xong nói: “Cho nó vào”. Một lúc thấy O Tiến Hiếu vào, quỳ lạy ở ngoài thềm. Giả Trân sai người đỡ hắn dậy, cười nói:
- Chú hãy còn khỏe nhỉ.
- Nhờ ơn đức của ông, con hãy còn đi được.
- Con chú lớn rồi, sao không bảo nó đi cho.
- Không dám giấu gì ông: con đi quen rồi, nếu không đi buồn không chịu được. Các cháu đứa nào mà chẳng muốn đến xem phong cảnh nơi đế đô. Nhưng vì chúng còn trẻ tuổi, sợ đi đường có sự gì thất thố. Để mấy năm nữa sẽ cho chúng đi, con mới yên tâm.
- Chú đi mất mấy ngày?
- Thưa ông, năm nay tuyết xuống nhiều quá, sâu đến bốn, năm thước, hôm nọ mới trời ấm tuyết tan, vì thế đường khó đi phải chậm lại mất mấy ngày. Đi mất một tháng hai ngày. Năm hết tết đến, con sợ ông nóng ruột, nên phải đi gấp cho kịp.
- Ta đã nói mà, sao hôm nay chú mới đến? Ta vừa xem đơn thì ra năm nay chú lại định giở ngón bớt xén thì phải?
O Tiến Hiếu vội bước đến gần nói:
- Thưa ông, năm nay mùa màng xấu quá. Từ tháng ba đến hết tháng tám mưa luôn, không lúc nào tạnh được năm, sáu ngày. Đến tháng chín có một trận mưa đá, một vùng gần hai ba trăm dặm, người, nhà cửa, súc vật, lương thực bị hại hàng nghìn hàng vạn, nên mới có thế này. Con không dám nói man.
Giả Trân cau mày nói:
- Ta tưởng ít ra chú cũng phải mang nộp 5000 lạng bạc, chứ có ngần ấy thì làm được cái gì. Bây giờ chỉ còn có tám, chín trại thôi, năm nay có đến hai trại kêu bị hạn, bị lụt, chú lại bớt xén, định không cho ta ăn nữa hay sao?
O Tiến Hiếu nói:
- Ruộng đất của ông còn khá đấy, chứ chỗ anh em con ở cách chỗ con chỉ độ một trăm mẫu, thì lại kém xa. Họ trông nom tám trại thuộc phủ bên kia, so với trại của con trông nom còn rộng gấp mấy lần, thế mà những món đưa đến chẳng qua chỉ đáng hai, ba nghìn lạng bạc thôi, cũng vì bị mất mùa.
- Thực vậy. Bên ta còn có thể được, vì không có việc gì đặc biệt phải tiêu nhiều, chẳng qua chỉ để dùng trong một năm thôi. Ta tiêu rộng tý nào tốn tý ấy, bớt được chừng nào đỡ chừng ấy. Vả chăng những lệ thường hàng năm như tết nhất, mời mọc, ta chịu dày mặt một chút là xong, bì sao được với phủ bên kia. Ở bên ấy số hoa lợi vẫn như cũ, mà mấy năm nay lại nhiều việc phải tiêu đến tiền, nhất định không thể thiếu được, phải bù ra rất nhiều, nếu không lấy ở các người thì còn hỏi vào đâu?
- Bên ấy có nhiều việc, nhưng có xuất lại có nhập. Nhà vua và quý phi chẳng lẽ lại không chu cấp cho hay sao?
Giả Trân nghe nói, cười bảo Giả Dung:
- Chúng mày nghe đấy, nó nói có đáng buồn cười không?
Giả Dung vội cười nói:
- Các chú là người ở nơi rừng sâu bể thẳm, biết đâu được những việc ấy? Chẳng lẽ quý phi lại lấy tiền ở kho nhà vua ra cho chúng ta à? Dù người có muốn chăng nữa, cũng không làm chủ được. Kể ra thì thời nào tiết ấy cũng có thưởng đấy, nhưng chẳng qua chỉ cho một ít vóc nhiễu, đồ cổ, đồ chơi. Có chăng cũng chỉ được một trăm lạng vàng, đáng giá hơn một nghìn lạng bạc, thấm vào đâu? Trong hai năm nay, năm nào mà chẳng phải bù ra mấy nghìn lạng bạc. Năm đầu, quý phi về thăm nhà, kể cả việc làm vườn hoa, chú tính xem phải tiêu hết bao nhiêu thì đủ biết. Vài năm sau nếu người lại về thăm nữa, có lẽ đến nghèo xác mất!
Giả Trân cười nói:
- Vì thế bọn người nhà quê là người thực thà, họ chỉ biết việc bề ngoài chứ biết đâu được bên trong. Lấy hoàng bá làm dùi khánh, chỉ đẹp dáng bề ngoài, bên trong thì đắng ngắt.
Giả Dung vừa cười, vừa nói với Giả Trân:
- Quả là bên ấy cũng kiệt thật. Hôm nọ con nghe thấy thím Hai bàn khẽ với Uyên Ương phải ăn cắp những đồ của cụ đem đi cầm.
Giả Trân cười nói:
- Đó là thím Phượng giở trò ma đấy thôi, lẽ nào lại kiết đến thế? Chắc là thím ấy biết công việc phải tiêu nhiều, tất phải bù vào nhiều, nhưng không biết nên bớt món tiền nào, mới bày ra cách này, muốn người ta biết là mình kiết đến như thế. Ta đã tính rồi, chưa đến nỗi túng thiếu lắm đâu.
Nói xong liền sai người tiếp đãi O Tiến Hiếu tử tế.
Giả Trân lại sai người mang lễ vật của O Tiến Hiếu đem đến để lại mấy thứ cúng tổ, rồi chọn mỗi thứ một ít cho Giả Dung mang sang biếu phủ Vinh. Lại bớt đủ số cho nhà dùng, còn thừa thì theo thứ tự chia ra từng phần, để ở dưới thềm, sai người gọi con cháu trong họ đến để nhận phần. Sau đó, phủ Vinh cũng đưa đến nhiều lễ vật cúng tổ và biếu Giả Trân. Giả Trân trông cho người nhà bầy biện đồ thờ xong, rồi đi giày, khoác áo da, sai người trải một cái thảm da chó sói ở trên thềm, chỗ có ánh mặt trời, để sưởi nắng, và xem con cháu đến lĩnh phần. Thấy Giả Cần cũng đến lĩnh. Giả Trân gọi lại bảo:
- Sao mày cũng đến đây? Ai gọi mày đến?
Giả Cần buông thõng tay thưa:
- Cháu nghe nói bác gọi chúng cháu đến lĩnh phần, cháu đến chứ không ai gọi cả.
Giả Trân nói:
- Những thứ này là ta định để cho chú bác anh em không có công ăn việc làm. Hai năm trước, mày chưa có việc, ta cũng đã cho rồi. Bây giờ mày đã được làm công việc ở phủ bên kia, trông nom bọn hòa thượng, đạo sĩ ở miếu, ngoài tiền lương hàng tháng, số tiền phát cho bọn hòa thượng cũng qua tay mày, thế mà mày vẫn còn đến lĩnh phần. Sao tham quá thế? Mày thử nghĩ xem: mày ăn mặc có khác gì bọn người sẵn tiền trong tay không? Trước mày nói không có việc làm, bây giờ thì thế nào? Vẫn còn kém trước nữa à?
Giả Cần nói:
- Vì nhà cháu nhiều miệng ăn, phải tiêu nhiều.
Giả Trân cười nhạt:
- Mày lại cứ chống chế mãi với ta! Mày tưởng ta không biết những việc mày làm ở trong miếu à! Ở đấy, mày làm ông lớn, không ai dám trái lời. Trong tay có tiền, lại ở xa chúng ta, mày tha hồ làm vương làm tướng, đêm nào cũng tụ tập những bọn vô lại, cờ bạc trai gái đủ thứ, nên mới xác như vờ, lại còn dám đến đây lĩnh phần nữa à? Mày chẳng lĩnh được gì đâu, có lĩnh trận đòn thì lĩnh! Để xong tết, ta sẽ bảo chú Hai đuổi mày đi.
Giả Cần đỏ mặt, không dám nói gì. Có người đến trình:
- Bên Bắc phủ vương đem câu đối và túi đến.
Giả Trân sai Giả Dung ra tiếp và nói là mình đi vắng. Giả Dung đi ra.
Giả Trân đuổi Giả Cần đi, xem mọi người lĩnh phần xong, rồi về nhà ăn cơm với Vưu thị. Hôm sau lại càng bận việc.
Đến ngày hai mươi chín tháng chạp, các thứ bày biện đầy đủ. Trong hai phủ, chỗ thờ thần cửa, câu đối, bài treo, đều sơn lại một màu bóng loáng. Bên phủ Ninh, từ cửa ngoài, nghi môn, nhà khách, noãn các, nhà trong, cửa thứ ba, cửa nghi môn trong, cửa cấm vào đến chính đường, suốt một dãy các nhà chính đều mở toang cả. Dưới thềm, hai bên đốt hai hàng nến to và cao đỏ chói như hai con rồng vàng. Hôm sau Giả mẫu ngồi kiệu bát cống dẫn những người có phong cáo theo phẩm cấp, mặc triều phục vào cung làm lễ triều hạ. Ăn yến xong, trở về, đến noãn các bên phủ Ninh, xuống kiệu. Những con cháu không theo vào chầu, đều xếp hàng đứng chực trước cửa, để Giả mẫu dẫn vào nhà thờ.
Bảo Cầm lần đầu được vào xem nhà thờ họ Giả, để ý ngắm nghĩa mãi. Nhà thờ này dựng ở bên tây phủ Ninh, trong một cái vườn riêng phía trong hàng rào sơn đen, có năm gian cửa lớn, trên treo bức hoành viết bốn chữ Giả thị tôn tử(4), bên cạnh viết “Diễn thánh công Khổng Kế Tông viết”, hai bên có đôi câu đối:
Lấm đất óc gan, muôn họ thấm nhuần ơn bảo dưỡng.
Ngập trời công đức, trăm năm nghi ngút lễ chưng thường.
Đó cũng là chữ viết của Diễn Thánh công. Đi vào trong sàn, giữa có đường mai võng lát đá trắng, hai bên đều là tùng bách um tùm, trên nguyệt đài bầy những đỉnh vạc bằng đồng cổ. Trước nhà bái đường treo bức hoành vàng chạm chín con rồng, viết chữ Tinh huy phụ bật(5). Đó là chữ của đức vua trước viết. Hai bên có đôi câu đối:
Sự nghiệp sáng soi cùng nhật nguyệt,
Công danh truyền mãi đến nhi tôn.
Cũng là chữ vua viết.
Trước năm gian chính điện, treo bức hoành sơn xanh vẽ rồng uốn khúc, viết bốn chữ Thận chung truy viên(6). Bên cạnh lại có đôi câu đối:
Con cháu từ đây nhờ phúc đức,
Nhân dân giờ vẫn nhớ Vinh Ninh.
Đều là chữ vua viết cả.
Bên trong đèn đuốc sáng trưng, trượng thêu màn gấm, tuy có bày thần chủ, nhưng trông không rõ.
Những người họ Giả chia bên “chiêu” bên “mục”(7) xếp hàng đứng yên. Giả Kính chủ tế, Giả Xá bồi tế, Giả Trân dâng rượu, Giả Liễn, Giả Tôn dâng lụa, Bảo Ngọc bưng hương, Giả Xương, Giả Lăng rải thảm tế, giữ cái lư đốt văn. Bọn nhạc công tấu nhạc. Ba lần dâng rượu, hương bái xong, đốt lụa rót rượu. Lễ xong, âm nhạc ngừng lại, lui ra. Mọi người theo Giả mẫu đến trước chỗ bày ảnh ở trên chính đường, màn gấm treo cao, bình phong căng rộng, hương bay nghi ngút, nến thắp sáng trưng. Chính gian giữa, treo hai bức chân dung của Vinh Quốc công và Ninh Quốc công, đều mặc áo mãng bào đeo đai ngọc; hai bên lại có mấy bức chân dung của các vị liệt tổ.
Bọn Giả Hành, Giả Chỉ đứng xếp hàng từ cửa trong ra mãi đến ngoài thềm chính đường. Ngoài bạo cửa là chỗ Giả Kính, Giả Xá; trong bạo cửa là chỗ đàn bà đứng. Bọn người nhà và hầu bé đều đứng ngoài nghi môn. Cứ một món ăn dâng lên đến cửa nghi môn, là bọn Giả Hành, Giả Chỉ đỡ lấy, theo thứ tự đưa đến tay Giả Kính. Giả Dung là cháu trưởng chi trưởng, nên được đứng với đám đàn bà ở trong bạo cửa. Mỗi lần Giả Kính đưa món ăn đến trao cho Giả Dung, Giả Dung đưa lại cho vợ, vợ hắn lại đưa cho Phượng Thư và Vưu Thị; khi đưa đến trước bàn thờ, thì Vương phu nhân nhận lấy đưa cho Giả mẫu. Giả mẫu đặt lên bàn thờ. Hình phu nhân đứng ở phía tây bàn thờ, ngoảnh mặt sang phía đông, cùng Giả mẫu dâng cỗ lên. Đến khi dâng cỗ và chè rượu xong, Giả Dung mới lui ra ngoài, đứng hàng đầu chỗ bọn Giả Cần.
Lúc này Giả Kính đứng đầu hàng người có tên theo chữ “văn” ở bên. Giả Trân đứng đầu hàng người có tên theo chữ “ngọc” ở bên, cuối nữa là Giả Dung đứng đầu hàng người có tên theo bộ “thảo đầu”. Bên tả hàng “chiêư”, bên hữu hàng “mục”. Trai ở bên đông, gái ở bên tây. Khi Giả mẫu thắp hương lạy rồi, mọi người đều quỳ xuống làm cho năm gian nhà lớn, ba gian bái đường, hiên trong hiên ngoài, thềm trên thêm dưới, hai dãy thềm đỏ đều như hoa như gấm, chật ních không chỗ nào hở. Ngoài nhạc vàng vòng ngọc khẽ chạm leng keng và giày dép sột soạt khi đứng khi quỳ ra, còn đều im lặng như tờ. không một tiếng động.
Một lúc lễ xong, bọn Giả Kính, Giả Xá lui ra đi sang phủ Vinh, chờ làm lễ mừng Giả mẫu. Bên phòng Vưu thị, dưới đất trải đầy thảm đỏ, giữa nhà để một chậu than lớn tráng vàng. Trên giường chính giữa trải một cái nệm da vượn đỏ mới, đặt một cái gối dựa màu đỏ thêu kiểu vân long bổng thọ(8); ngoài nệm ngồi lại có cái bao bằng da cáo đen đặt ở trên và cái nệm ngồi bằng da cáo trắng. Vưu thị mời Giả mẫu ngồi lên đó. Hai bên lại trải nệm da, mời mấy bà bác bà thím ngang hàng với Giả mẫu cùng ngồi. Bọn Hình phu nhân thì ngồi ở một cái giường nhỏ cũng trải nệm da, có bức vách chắn ngang. Ở hai bên, có mười hai cái ghế sơn chạm đối mặt nhau, đều trải nệm lông chuột đen, dưới mỗi cái ghế có một lò sưởi bằng đồng, để cho chị em bọn Bảo Cầm ngồi. Vưu thị pha trà dâng Giả mẫu, vợ Giả Dung dâng mời các bà ngang hàng với Giả mẫu, sau Vưu thị lại dâng mời Hình phu nhân, vợ Giả Dung lại dâng bọn chị em. Phượng Thư, Lý Hoàn thì đứng ở ngoài chực sẵn.
Dâng nước trà xong, bọn Hình phu nhân đứng dậy hầu Giả mẫu uống. Giả mẫu cùng chị em nhiều tuổi nói chuyện phiếm mấy câu rồi sai sắp kiệu. Phượng Thư vội đỡ Giả mẫu lên. Vưu thị cười nói:
- Cháu đã sắp sẵn cơm chiều để mời bà xơi rồi. Hàng năm bà không hề hạ cố đến các cháu. Bây giờ dùng cơm chiều rồi bà hãy về. Nếu không thì chẳng hóa ra các cháu không bằng thím Phượng hay sao?
Phượng Thư đỡ Giả mẫu, cười nói:
- Mời bà về nhà xơi cơm, mặc kệ chị ấy.
Giả mẫu cười nói:
- Bên này chị còn phải soạn sửa cúng tế tổ tiên, bận rộn lắm rồi, giữ ta ở lại để thêm bận à? Vả chăng hàng năm ta không ăn ở đây, các chị cũng cứ mang sang biếu, vậy cứ biếu đi, ta không ăn hết, để dành đến ngày mai, như thế chẳng ăn được nhiều hơn ư?
Mọi người nghe vậy đều cười. Giả mẫu lại dặn: “Đêm đến phải cắt người đèn hương cẩn thận, không được sơ suất đấy”, Vưu thị vâng lời, Giả mẫu đi ra ngoài, đến trước noãn các, bọn Vưu thị tránh ra sau bình phong, bọn hầu nhỏ mới dẫn phu kiệu đến mời Giả mẫu lên kiệu. Vưu thị cũng theo bọn Hình phu nhân đến phủ Vinh.
Kiệu ra khỏi cửa ngoài. Dọc đường, bên đông bầy nghi trượng và nhạc khí của phủ Ninh, bên tây bày nghi trượng và nhạc khí của phủ Vinh. Những người đi đường đều phải lùi lại, không được qua đấy.
Về đến phủ Vinh, cửa lớn, cửa chính cũng đều mở suốt vào tận phía trong. Giả mẫu không xuống kiệu ở noãn các nữa, mà đi qua nhà khách, vòng sang phía tây, đến thẳng nhà chính. Mọi người xúm theo đến gian giữa nhà Giả mẫu, cũng có nệm gấm màn thêu, mọi thứ đều mới cả, ở giữa để lò lửa đốt hương tùng bách và cây bách hợp. Giả mẫu vào ngồi, bọn bà già trình: “Các cụ bà đến làm lễ”. Giả mẫu đứng dậy định ra đón, thấy mấy bà chị em nhiều tuổi đến nơi. Mọi người cầm tay nhau cười và mời nhau một lúc. Họ uống trà xong rồi đi. Giả mẫu đưa ra đến cửa nghi môn mới về chỗ ngồi. Bọn Giả Kính và Giả Xá dẫn các con em đến. Giả mẫu cười nói:
- Cả năm làm phiền các người rồi, thôi đừng làm lễ nữa.
Một bên trai, một bên gái, tốp này đến tốp khác, lũ lượt vào làm lễ; bên tả bên hữu đều đặt ghế đối nhau, rồi cứ theo thứ tự lớn bé ngồi nhận lễ. Bọn hầu nhỏ và a hoàn trong hai phủ cũng theo thứ tự trên dưới đứng làm lễ. Sau đó phân phát tiền thưởng tết, túi và thỏi vàng, thỏi bạc cho mọi người. Bữa tiệc hợp hoan bày ra, trai ngồi bên đông, gái ngồi bên tây; uống rượu đồ tô(9), ăn canh hợp hoan(10), quả cát tường(11) và bánh như ý, xong rồi Giả mẫu vào trong nhà nghỉ, mọi người mới đi ra.
Tối hôm ấy, các nơi thờ phật và thờ vua bếp đều thắp hương cúng lễ. Ngoài sân nhà chính của Vương phu nhân, bày vàng hương ngựa giấy cúng trời đất. Cửa giữa vườn Đại Quan treo đèn lồng, rọi sáng hai bên, các ngả đường lại đều có giồng cây đèn. Kẻ trên người dưới đều ăn mặc như hoa như gấm. Suốt đêm, tiếng cười nói ồn ào, pháo nổ không dứt. Đến canh năm ngày hôm sau. Giả mẫu cùng mọi người theo phẩm tước mặc triều phục, bày toàn bộ nghi trượng vào cung chào mừng và chúc thọ Nguyên Xuân. Ăn yến xong, Giả mẫu trở về phủ Ninh tế tổ, rồi mới về nhà. Nhận lễ mừng xong, Giả mẫu thay áo đi nghỉ. Bạn bè đến mừng tết đều không tiếp, chỉ ngồi nói chuyện với Tiết phu nhân và thím Lý, hoặc đánh cờ, đánh bài với bọn Bảo Ngọc và chị em Bảo Thoa, Bảo Cầm, Đại Ngọc.
Vương phu nhân và Phượng Thư ngày nào cũng bận về mọi khách đến uống rượu tết, nhà trong nhà ngoài, chỗ nào cũng bày bàn rượu, bạn bè đi lại không ngót. Bận rộn suốt bảy, tám ngày mới xong.
Lại sắp đến tết nguyên tiêu, hai phủ Vinh, Ninh đều thắp đèn kết hoa. Ngày mười một, Giả Xá mời Giả mẫu, hôm sau Giả Trân lại mời Giả mẫu. Vương phu nhân và Phượng Thư, ngày nào cũng có người mời uống rượu tết.
Đến chiều hôm rằm, Giả mẫu sai người bày mấy bàn tiệc ở phòng khách lớn, thuê một bọn con hát, treo đầy đèn hoa các màu, dẫn các con cháu trai gái hai phủ Vinh, Ninh đến ăn tiệc. Giả Kính xưa nay không uống rượu, ăn mặn, vì thế không mời. Đến ngày mười bảy, tế tổ xong, Giả Kính liền ra ngoài thành tu đạo. Trong mấy hôm ở nhà, ông ta cũng chỉ ngồi yên lặng trong gian nhà kín, không hỏi đến việc gì.
Giá Xá lĩnh đồ thưởng của Giả mẫu xong, cáo từ ra về. Giả mẫu biết ông ta ở đấy cũng không tiện, nên để mặc cho về.
Giả Xá về đến nhà, cùng bọn gia khách thưởng đèn uống rượu, đàn sáo rộn tai, gấm thêu hoa mắt, cuộc vui của ông ta khác hẳn bên này.
Giả mẫu cho bày hơn mười bàn rượu ở nhà khách, bên cạnh mỗi bàn đặt một cái kỷ. Trên kỷ đặt lư hương, bình hoa, đốt hương bách hợp của vua ban; lại có những chậu cảnh nhỏ dài độ tám tấc, rộng bốn năm tấc, cao hai ba tấc, trong chồng núi giả, đều trồng cỏ hoa tươi tốt; lại có khay chè sơn hay những bộ chén rót nước trà ngon hạng nhất. Một loạt đều làm bằng gỗ đàn tía chạm trổ, viền rèm lụa đỏ, đính ngọc, thêu hoa và đề thơ. Nguyên cái rèm này là do tay cô gái Cô Tô, tên là Tuệ Nương thêu ra. Vì cô ta cũng là con nhà thư hương thế hoạn, rất giỏi nghề vẽ, chẳng qua ngẫu nhiên thêu thùa vài thứ để chơi, chứ không phải thứ đem ra ngoài bán. Những hoa thêu trên, theo cành cây hoa lá của các nhà danh họa từ đời Đường, Tống, Nguyên, Minh để lại, nên cách thức, màu sắc đều đậm đà, tinh xảo không một ai có thể sánh kịp. Mỗi một cành hoa bên cạnh lại có một bài thơ, từ, ca, phú của người xưa và đều thêu chữ nổi bằng nhung đen. Hơn nữa cả từ nét ngoặc, nét chấm, to, nhỏ, liền, cách, đều giống hệt như chữ viết, không phải lối thêu chữ bán rao có thể sánh kịp. Cô ta không vì nghề này kiếm lợi, nên tiếng đồn khắp nơi, ít người mua được. Rất nhiều nhà danh gia thế hoạn cũng không có của này. Vì vậy đời sau gọi là nàng Tuệ Tú. Gần đây, có những kẻ trục lợi, cũng bắt chước lối thêu của cô ta để lừa người kiếm tiền. Tuệ nương đến mười tám tuổi thì chết, nên sau không tìm đâu ra bức thêu nào như vậy. Nhà nào có một vài bức, đều giữ gìn rất cẩn thận. Có một số nhà văn “múa rối”, nhân tiếc sắc đẹp của nàng, liền tung tin rằng nàng thêu chữ chưa hết vẻ đẹp, so sánh đường kim thêu với chữ “Tú” có vẻ hơi vội vã. Rồi cùng mọi người bàn bạc, đem đổi chữ “Tú” thành chữ “Văn”, nên người đời mới gọi là “Tuệ Văn”. Nếu phải là bức thêu của nàng Tuệ Văn thì giá đắt vô ngần. Trong phủ Giả có ba bức, năm ngoái đã tiến vua hai bức, chỉ còn lại cái rèm này có mười sáu dải, Giả mẫu cất giữ rất cẩn thận, không hay bày ra nhà khách, chỉ để trong phòng riêng, khi cao hứng bày tiệc rượu mới đem ra dùng.
Trong các bình cổ nhỏ có đủ các màu đều cắm cây tuế hàn tam hữu(12) và hoa ngọc đường phú quý(13). Hai bàn phía trên là chỗ ngồi của Tiết phu nhân và thím Lý; bên đông bày riêng một tiệc có cái giường nhỏ chân thấp chạm quỳ long hộ bình(14) có đủ cái tựa lưng, gối dài, nệm da. Trên giường bày một cái kỷ nhỏ, sơn son thếp vàng rất đẹp, và nhẹ. Trên kỷ bày chén trà, ống nhổ, khăn mặt và cái hộp kính.
Giả mẫu nằm nghiêng trên giường, cười nói với mọi người một lúc, lại đeo kính nhìn lên sân khấu rồi nói với Tiết phu nhân và thím Lý:
- Tha lỗi cho tôi già rồi mình mẩy hay đau, để tôi vô phép nằm nghiêng tiếp chuyện.
Lại sai Hổ Phách ngồi lên giường, cầm cái nắm tay “mỹ nhân”(15) đấm đùi. Cạnh giường không đặt bàn rượu, chỉ có một cái kỷ cao, trên bày giá cao, lọ cao và lư hương, ngoài ra lại có một cái bàn nhỏ cao rất xinh trên bày bát đũa. Bên cạnh bày một bàn rượu cho Bảo Cầm, Tương Vân, Đại Ngọc, Bảo Ngọc cùng ngồi. Khi đồ ăn mang lên, đều đưa Giả mẫu xem trước, món nào thích để lên trên bàn nhỏ nếm một ít, còn lại đưa ra bàn bốn người ngồi gần đấy, như thế cũng xem như ngồi một bàn với Giả mẫu. Phía dưới mới là chỗ của Hình phu nhân và Vương phu nhân; dưới nữa là chỗ ngồi của bọn Vưu Thị, Lý Hoàn, Phượng Thư và vợ Giả Dung; bên tây là chỗ ngồi của Bảo Thoa, Lý Văn, Lý Ỷ, Tụ Yên và chị em Nghênh Xuân. Trên xà nhà, hai bên treo từng chùm đèn pha lê. Trước mỗi bàn rượu đặt một cây đèn sơn đen hình lá sen rũ xuống, trên lá sen cắm sáp. Cây đèn này là của bên Tây Dương, làm bằng pha lê, có thể quay vặn được. Lúc này, đèn xoay lá sen cho ánh sáng hắt ra ngoài để xem hát được rõ. Bao nhiêu cánh cửa và cửa sổ đều được lấy xuống và treo vào đó bằng các đèn hoa trong cung cho. Trong thềm, ngoài thềm và giàn hoa hai bên hiên đều treo đèn lồng, đèn pha lê, đèn che lụa, hoặc thêu, hoặc vẽ bằng lụa, bằng giấy, thứ gì cũng có. Mấy bàn ở trên hiên là chỗ ngồi của Giả Trân, Giả Liễn, Giả Hoàn, Giả Tôn, Giả Dung, Giả Cần, Giả Vân, Giả Xương, Giả Lăng.
Giả mẫu sai người đi mời các người trong họ. Nhưng bọn họ có người đã già, không thích ồn ào, có người đi vắng, có người ốm đau, muốn đến cũng không đến được. Lại có người ghen giàu thẹn nghèo không chịu đến, có người thì ghét Phượng Thư, tức giận không đến; lại có người e lệ nhút nhát, không quen chỗ đông người. Vì thế họ tuy to, nhưng về phía đàn bà chỉ có mẹ Giả Lam là họ Lâu dắt Giả Lam đến, về phía đàn ông chỉ có Giả Cần, Giả Vân, Giả Trong và Giả Lăng đến, bốn người hiện đương giúp việc cho Phượng Thư. Kể ra người không đông mấy, nhưng tiệc nhỏ trong gia đình cũng đủ náo nhiệt lắm rồi.
Vợ Lâm Chi Hiếu dẫn sáu người đàn bà, cứ hai người một khênh ba cái bàn nhỏ đến, mỗi bàn trải một tấm thảm đỏ, trên để những tiền đồng mới đúc xâu bằng dây đỏ. Vợ Lâm Chi Hiếu bảo mang hai cái đặt ở cạnh bàn rượu của Tiết phu nhân và thím Lý, còn một cái đặt ở cạnh giường Giả mẫu. Giả mẫu nói: “Để ở giữa nhà kia”. Những người đàn bà ấy đã quen khuôn phép nhà này, họ đặt bàn xuống, rút dây đỏ đi, rồi bỏ tiền ra để ở trên bàn.
Lúc đó, đương hát vở Tây lâu hội(16). Khi sắp tan hát, đứa đóng vai Vũ Thúc Dạ giận dỗi bỏ đi, đứa đóng vai Văn Báo liền nói đùa: “Anh giận bỏ đi mặc anh. Hôm nay đúng ngày rằm tháng giêng, trong nhà cụ ở phủ Vinh ăn tiệc, tôi còn phải cưỡi ngựa này, đến xin mấy thứ quả để ăn mới được”. Câu nói ấy làm cho Giả mẫu cười ầm lên. Bọn Tiết phu nhân đều nói: “Thằng ranh con này đáng thương thật!” Phượng Thư liền nói:
- Nó mới có chín tuổi thôi.
Giả mẫu cười nói:
- Nó khéo nói đấy!
Rồi gọi một tiếng “thưởng”. Liền có ba người đàn bà cầm sẵn các cái giỏ nhỏ, chạy mau đến bàn, mỗi người bốc tiền bỏ vào một giỏ rồi chạy ra trước sân khấu nói:
- Cụ, bà dì, và các bà trong họ thưởng cho Văn Báo mua quả ăn đây.
Nói xong họ vất tiền lên sân khấu, chỉ nghe thấy tiếng “loảng xoảng”, tiền rơi khắp nơi. Giả Trân và Giả Liễn đã sai bọn hầu nhỏ sắp sẵn những thúng tiền lớn khênh ra.
-----------------------
1. Phù hư vi xúc: danh từ mạch lý của Đông y, ý nói khí huyết suy nhược.
2. Một thứ đồ chơi làm bằng vàng bạc hay ngà voi, có chạm cỏ chi, hoặc đám mây, để mừng tặng nhau.
3. Tiếng của nhà Phật, là tám thứ quý báu.
4. Nhà thờ họ Giả.
5. Sao Phụ bật sáng ngời.
6. Cẩn thận việc về sau, tưởng nhớ người đã khuất.
7. Theo điển tế tự của Trung Quốc thời trước, trong nhà thờ thủy tổ ở giữa, hai bên hàng chiêu ở bên tả, hàng mục ở bên hữu, chiêu thuộc hàng cha, mục thuộc hàng con.
8. Rồng mây chúc thọ.
9. Một thứ rượu nấu bằng cỏ đồ tô, uống vào ngày nguyên đán để trừ dịch khí.
10. Canh nấu bằng hoa hợp hoan, một thứ hoa màu đỏ, sớm nở tối cụp, tượng trưng cho sự đoàn kết.
11. Quả ăn vào được phúc lành.
12. Ba người bạn trong mùa rét: tùng, bách, mai.
13. Hoa mẫu đơn.
14. Giống thú trông giống con rồng, có một chân đỡ lấy cái bình phong.
15. Một cái dùi nhỏ bằng gỗ bọc da hình như nắm tay người con gái, dùng để đấm mình.
16. Tên vở kịch của Viên Vu Lệnh nhà Thanh soạn, diễn điển Vu Quyên cùng Mục Tố Huy khi tan khi hợp.
Hồi thứ năm mươi bốn
Sử Thái Quân bỏ lối chuyện sáo ngày xưa;
Vương Hy Phượng học đòi áo hoa múa hát.
Giả Trân, Giả Liễn sắp sẵn tiền vào trong thúng lớn, nghe thấy Giả mẫu nói thưởng, liền sai người hầu ném tiền ra, tiếng loảng xoảng khắp trên sân khấu. Giả mẫu thích lắm. Hai người đứng dậy, người hầu mang bình đựng rượu bằng bạc mới hâm lên, Giả Liễn cầm lấy, đi theo Giả Trân vào phía trong. Giả Trân đến trước bàn thím Lý, cúi xuống lấy chén, quay lại Giả Liễn vội rót một chén; sau cùng rót đến bàn Tiết phu nhân. Tiết phu nhân và thím Lý vội đứng dậy cười nói:
- Mời hai cậu cứ ngồi, cần gì phải giữ lễ nghi quá?
Lúc đó, trừ Hình phu nhân và Vương phu nhân, các người dự tiệc đều đứng dậy chắp tay. Giả Trân, Giả Liễn đến trước giường Giả mẫu, vì giường thấp, hai người phải quỳ xuống. Giả Trân cầm chén quỳ ở phía trước, Giả Liễn cầm bình rượu quỳ ở phía sau. Tuy chỉ có hai người dâng rượu thôi, nhưng anh em bọn Giả Tôn cũng đều đứng dậy xếp hàng đi theo; thấy hai người quỳ, quỳ họ cũng đều quỳ. Bảo Ngọc cũng vội quỳ theo. Tương Vân khẽ đẩy Bảo Ngọc cười nói:
- Bây giờ anh cũng theo người ta mà quỳ làm gì? Đã thế thì anh cũng đi rót một tuần rượu có hơn không?
Bảo Ngọc cười nói:
- Chốc nữa sẽ rót.
Đợi hai người rót rượu xong, họ mới đứng dậy. Giả Trân lại rót rượu mời Hình phu nhân và Vương phu nhân. Sau đó cười nói:
- Còn các cô thì làm thế nào đây?
Giả mẫu nói:
- Các anh cứ đi ra để mặc cho họ được thoải mái hơn.
Bọn Giả Trân mới lui ra.
Đêm chừng đã sang canh hai, tuồng hát đang diễn tích “Bát nghĩa quan đăng”(1). Giữa lúc vui, Bảo Ngọc đứng dậy đi ra ngoài. Giả mẫu hỏi:
- Đi đâu? Ở ngoài đốt pháo dữ lắm, không cẩn thận tàn lửa rơi vào người thì bỏng đấy!
Bảo Ngọc cười nói:
- Cháu không đi xa đâu, chỉ ra đây một tí rồi về ngay thôi.
Giả mẫu sai bọn bà già theo hầu cẩn thận. Khi Bảo Ngọc ra, chỉ có Xạ Nguyệt, Thu Văn mấy a hoàn nhỏ đi theo. Giả mẫu liền hỏi:
- Sao không thấy Tập Nhân? Bây giờ nó đã ra vẻ lớn rồi, chỉ ngồi sai đám hầu nhỏ đi thôi.
Vương phu nhân đứng dậy cười nói:
- Hôm nọ mẹ nó chết, nó có tang, nên không tiện đi ra ngoài.
Giả mẫu gật đầu cười nói:
- Đã đi hầu thì không thể nói hiếu với không hiếu được. Nếu nó còn ở hầu ta, liệu bây giờ có thể tránh được chỗ này không? Việc ấy cũng như đã thành lệ rồi.
Phượng Thư vội chạy lại cười nói:
- Đêm hôm nay dù chị ta không có tang nữa, ở trong vườn này cũng phải trông nom đèn đuốc pháo hoa cho khỏi áy náy. Đã có hát xướng, người trong vườn ai chẳng lẻn đến xem? Chị ấy cẩn thận, nên ở nhà trông nom các nơi. Khi tan hát, chú Bảo về ngủ, mọi thứ đã được sắp đặt đầy đủ. Nếu chị ấy cĩmg đến đây, không ai để ý đến công việc, tan hát ra về, chăn đệm thì lạnh, nước trà không có, cái gì cũng thiếu cả. Vì thế cháu bảo chị ấy trông nhà, không cần đến nữa, để khi về, các cái được sắp đặt đầy đủ mọi người khỏi phải lo toan, lại trọn đạo hiếu của chị ấy, như thế chả hơn hay sao? Nay bà muốn gọi chị ấy, cháu bảo đi gọi ngay.
Giả mẫu bảo:
- Cháu nói phải đấy. Cháu nghĩ rất là chu đáo, đừng gọi nó nữa. Nhưng mẹ nó mất bao giờ? Sao ta lại không biết?
- Hôm nọ Tập Nhân có đến trình, bà đã lại quên rồi à?
Giả mẫu nghĩ một lúc, cười nói:
- Ta nhớ ra rồi. Bây giờ trí nhớ ta kém lắm!
Mọi người đều cười nói:
- Cụ nhớ đâu đến những việc ấy.
Giả mẫu thở dài:
- Từ bé nó hầu ta một dạo, rồi hầu cháu Vân, sau đến hầu thằng quỷ Bảo Ngọc này, làm nó phải chịu dãi dầu mấy năm nay! Nó không phải là bọn hầu sinh trưởng trong nhà này, chưa được nhờ vả ta mấy, khi mẹ nó chết, ta định cho nó mấy lạng bạc để chi phí chôn cất, thế rồi cũng quên đi.
Phượng Thư nói:
- Hôm nọ mẹ con đã cho chị ấy bốn mươi lạng bạc, thế là được rồi.
Giả mẫu gật đầu nói:
- Nếu thế thì thôi. Hôm trước mẹ Uyên Ương chết, ta nghĩ bố mẹ nó đều ở cả bên nam, không cho nó về chịu tang. Bây giờ chúng nó muốn giữ lễ, sao không cho hai đứa đến ở một chỗ làm bạn với nhau?
Bèn sai bà già mang hoa quả, đồ ăn và đồ điểm tâm đến cho hai người ăn. Hổ Phách cười nói:
- Còn phải chờ đến bây giờ nữa. Chị ta đã đến đấy từ lâu rồi.
Sau đó mọi người lại uống rượu xem hát.
Bảo Ngọc đi một mạch về trong vườn, bọn bà già thấy cậu ta về buồng, không đi theo nữa, chỉ ngồi sưởi ngoài phòng trà cửa vườn và uống rượu, đánh bài với bọn con gái ở đó. Bảo Ngọc vào đến nhà, thấy đèn sáng trưng, nhưng không có tiếng người. Xạ Nguyệt nói:
- Có lẽ họ ngủ cả rồi hay sao? Chúng ta khẽ đến dọa chơi.
Hai người rón rén đi lẻn vào vách giường, thấy Tập Nhân cùng một người nữa đương nằm đối diện với nhau trên giường, đằng kia có hai bà già ngồi ngủ gật.
Bảo Ngọc cứ tưởng hai người đã ngủ, vừa muốn đi vào, bỗng nghe Uyên Ương ho một tiếng nói:
- Việc đời khó mà định trước! Cứ lẽ ra, một mình chị ở đây bố mẹ ở nơi khác, hàng năm các cụ phải chạy ngược chạy xuôi không có chỗ nhất định, tưởng là khi bà cụ mất, chị không thể về tống táng được. Ngờ đâu bà cụ mất ở đây, chị lại được về đưa đám!
Tập Nhân nói:
- Đúng đấy, tôi cũng không ngờ được nhìn thấy mặt mẹ tôi. Khi đến trình bà Hai lại được thưởng bốn mươi lạng bạc. Như thế cũng bõ công cha mẹ nuôi nấng. Tôi thật không dám mơ ước gì hơn.
Bảo Ngọc nghe nói, quay lại khẽ bảo bọn Xạ Nguyệt:
- Ai ngờ chị ta đã lại đây rồi. Nếu ta vào, chị ấy bực mình sẽ chạy về mất, chi bằng chúng ta quay lại, để cho họ được yên tĩnh nói chuyện với nhau. Tập Nhân đương lúc buồn, may được Uyên Ương đến rất tốt.
Họ lại khe khẽ đi ra. Bảo Ngọc đến phía sau núi, đứng lại vén vạt áo lên. Xạ Nguyệt và Thu Văn cũng đứng lại, quay mặt đi, khẽ cười nói:
- Ngồi xuống rồi hãy cởi quần, cẩn thận kẻo gió thổi vào bụng đấy!
Hai đứa hầu ở đằng sau biết là Bảo Ngọc đi giải, liền chạy về phòng trà sấp sẵn nước rửa.
Bảo Ngọc đang đi, có hai người đàn bà đón hỏi: “Ai đấy?” Thu Văn nói:
- Cậu Bảo đấy, đừng làm ầm lên cho cậu ấy sợ.
Bọn đàn bà vội cười nói:
- Chúng tôi không biết, ngày tết lại sinh chuyện rồi. Các cô mấy ngày hôm nay vất vả quá.
Nói xong họ đã đi đến trước mặt. Bọn Xạ Nguyệt hỏi:
- Bà mang gì đấy?
- Đồ ăn của cụ sai mang sang cho cô Kim và cô Hoa đấy.
- Ngoài ấy hát vở “bát nghĩa” chứ có hát vở “hỗn nguyên hạp”(2) đâu, mà lại nảy ra cô Kim với Hoa?
Bảo Ngọc nói:
- Mở hộp ra cho tôi xem nào.
Thu Văn, Xạ Nguyệt mở hai cái hộp ra, hai người đàn bà liền ngồi xuống. Bảo Ngọc thấy trong hộp đựng những hoa quả bánh trái ngon nhất trong bữa tiệc, liền gật đầu rồi đi. Bọn Xạ Nguyệt vội đậy nắp hộp lại, cũng đi theo. Bảo Ngọc cười nói:
- Hai người này xem ra tính tình ôn hòa. nói năng vui vẻ, họ ngày nào cũng khó nhọc, thế mà lại bảo các chị vất vả suốt ngày; như thế là họ không tự khoe công lao mình đấy.
Xạ Nguyệt nói:
- Hai người này tết thì tốt thật đấy, nhưng không biết điều cũng lại ra trò.
Bảo Ngọc nói:
- Các chị là người hiểu biết, họ là người quê mùa đáng thương, nên chăm lo họ mới phải.
Vừa nói vừa đi ra cửa vườn.
Bọn bà già đương uống rượu đánh bài, thỉnh thoảng cũng chạy ra nhòm ngó, thấy Bảo Ngọc đi ra, họ cũng theo ra. Đến thềm hoa, thấy hai đứa hầu nhỏ, một bưng chậu, một cầm khăn tay và lọ sáp thơm đứng chờ ở đó từ lâu. Thu Văn dúng tay vào chậu nước, nói:
- Chúng bay càng lớn càng đoảng, sao nước lạnh thế này?
Bọn hầu nhỏ cười nói:
- Thưa cô, trời này cháu sợ nước lạnh nên rót nước sôi đấy. Thế mà lại lạnh mất rồi.
Bỗng có một bà già mang bình nước sôi đi qua, đứa hầu nhỏ liền nói:
- Bà ơi, cho tôi ít nước để pha.
- Chị ơi, nước pha trà của cụ đấy, chị nên đi múc lấy, có to chân lên đâu mà sợ!
Thu Văn nói:
- Nước của ai tôi cũng không cần! Nếu bà không đưa, cứ để ấm nước chè của cụ ra để rửa tay!
Bà già quay lại, nhìn thấy Thu Văn, liền đồ ra ít nước nóng. Thu Văn nói:
- Đủ rồi! Bà đã già mà chẳng biết gì cả! Ai chẳng biết là của cụ! Không lấy được, chúng tôi lại dám xin à?
Bà già cười nói:
- Tôi mắt lóa, không nhận ra được cô.
Bảo Ngọc rửa tay xong, bảo đứa hầu nhỏ cầm hộp sáp đổ vào tay cho xoa. Nhân có nước nóng. Thu Văn, Xạ Nguyệt cũng rửa tay rồi theo Bảo Ngọc đi.
Bảo Ngọc lấy một bình rượu nóng, bắt đầu rót mời từ thím Lý. Tiết phu nhân và thím Lý đều cười và mời ngồi, Giả mẫu nói:
- Cháu còn bé, cứ để cho nó rót, chúng ta phải uống cạn chén này.
Rồi Giả mẫu cầm chén uống trước. Hình phu nhân và Vương phu nhân đều vội uống. Tiết phu nhân và thím Lý cũng phải cạn chén. Giả mẫu lại bảo Bảo Ngọc:
- Cháu rót cả cho các chị em nữa, không được rót bừa, bảo họ đều phải uống hết.
Bảo Ngọc vâng lời, theo thứ tự rót đến Đại Ngọc. Đại Ngọc không uống, cầm chén lên đưa vào mồm Bảo Ngọc, Bảo Ngọc uống một hơi hết ngay. Đại Ngọc cười nói: “Cám ơn anh”.
Bảo Ngọc lại rót hộ cho cô ta một chén. Phượng Thư cười nói:
- Chú Bảo không được uống rượu nguội, cẩn thận đấy kẻo lại run tay, sau không viết được chữ, không giương được cung đâu.
- Em có uống rượu nguội đâu.
- Tôi vẫn biết chú không uống rượu nguội. Đó là tôi dặn qua đấy thôi.
Bảo Ngọc lại đi rót rượu mời mọi người ngồi phía trong, riêng có vợ Giả Dung thì sai a hoàn rót; sau ra ngoài hiên rót mời bọn Giả Trân. Một lúc sau rồi về chỗ.
Sau khi mang đồ nước lên, lại tiếp đến dâng lễ nguyên tiêu. Giả mẫu liền bảo: “Hãy cho nghỉ hát. Lũ con trẻ đáng thương thực, cho chúng nó một ít canh nóng, đồ ăn nóng rồi sẽ lại hát”.
Lại sai mang hoa quả và đồ lễ nguyên tiêu cho chúng ăn.
Lúc nghỉ hát, bà già dẫn đến hai cô xẩm kể chuyện, thường vẫn ra vào trong phủ. Hai người đặt hai cái ghế ở bên cạnh, Giả mẫu bảo họ ngồi và đưa đàn tì bà cho họ gẩy. Giả mẫu hỏi thím Lý và Tiết phu nhân: “Thích nghe tích gì?” Hai người đều thưa: “Tích gì cũng được”. Giả mẫu liền hỏi:
- Gần dây có học thêm được chuyện nào mới không?
Hai cô xẩm thưa:
- Có một chuyện về đời Ngũ đại cuối nhà Đường.
Giả mẫu hỏi tên là vở gì. Cô xẩm thưa:
- Vở Phượng cầu loan.
Giả mẫu nói:
- Cái tên cũng hay đấy, nhưng do đâu mà có chuyện ấy? Hãy nói qua cho ta nghe, hay thì hãy kể.
Cô xẩm thưa:
- Cuối đời Đường, có một vị hương thân, người Kim Lăng, tên gọi Vương Trung, đã từng làm tể tướng hai triều vua. Sau cáo lão về nhà, chỉ có một vị công tử tên là Vương Hy Phượng.
Mọi người nghe nói cười ầm lên. Giả mẫu cười nói:
- Thế không trùng tên với con Phượng nhà ta à?
Một bà già vội đứng dậy đẩy cô xẩm nói:
- Đó là tên mợ Hai đấy, không được nói bậy!
Giả mẫu nói:
- Cứ việc nói đi.
Cô xẩm cười đứng dậy nói:
- Chúng cháu thật đáng chết! Không biết là tên mợ Hai!
Phượng Thư cười nói:
- Sợ gì! Cứ nói đi. Nhiều người trùng tên trùng họ chứ.
Cô xẩm lại nói:
- Năm ấy vị hương thân họ Vương cho công tử lên Kinh thi. Một hôm mưa to, công tử vào trú ở một cái trại. Ngờ đâu trong trại ấy cũng có một vị hương thân họ Lý, là bạn thân với vị hương thân họ Vương, liền giữ công tử ở lại thư phòng. Vị hương thân họ Lý không có con trai, chỉ có một tiểu thư tên gọi là Sồ Loan, cầm kỳ thi họa, món gì cũng giỏi.
Giả mẫu nói:
- Chẳng trách được gọi là phượng cầu loan. Thôi không cần nói nữa, ta đã đoán ra rồi. Chắc là Vương Hy Phượng muốn lấy Sồ Loan làm vợ chứ gì?
Cô xẩm cười nói:
- Cụ đã xem tích này rồi thì phải?
Mọi người đều nói:
- Truyện nào mà cụ chẳng xem! Dù chưa xem, người cũng đoán ra được.
Giả mẫu cười nói:
- Truyện ấy cũng cùng một lối như các truyện khác thôi, chỉ kể những giai nhân tài tử, chẳng có thú gì. Nói con gái nhà người ta rất tệ mạt, lại còn bảo là “giai nhân”! Toàn là đặt chuyện, không căn cứ vào đâu cả. Cứ mở mồm ra là con nhà “hương thân”, bố không phải thượng thư tất là tể tướng. Hễ là tiểu thư thì nhất định được yêu quí như ngọc. Tiểu thư ấy tất là hạng thông văn chương, biết lễ nghĩa, vào bực giai nhân hiếm có. Rồi thấy đứa con trai nào xinh đẹp, không kể họ hàng, bạn bè, lại nghĩ ngay đến việc trăm năm của mình, quên cả bố mẹ, bỏ cả sách vở, ma chẳng ra ma, giặc chẳng ra giặc, như thế có giống bậc giai nhân một tí nào không? Dù có học giỏi đến đâu, mà làm những việc như thế, cũng không thể gọi là giai nhân được! Ví như một người con trai học hành rất giỏi mà đi làm giặc, thì phép vua có coi là tài tử mà tha tội cho không? Thế mới biết bọn làm sách chỉ tự mình bưng miệng mình. Vả chăng, đã nói là nhà thư hương thế hoạn, tiểu thư nhà đại gia ấy lại thông sách vở, biết lễ nghĩa, mà bà mẹ cũng vậy, dù khi đã cáo lão về nhà rồi, tất nhiên cũng còn nhiều bà già bà vú a hoàn theo hầu, thế mà trong truyện hễ xảy ra các việc như vậy, thì lại chỉ có một a hoàn hầu cận tiểu thư biết thôi! Các người thử nghĩ xem, những người hầu khác thì làm việc gì? Có phải là sách chép đầu Ngô mình Sở không?
Mọi người đều cười nói:
- Cụ thực moi ra hết những chuyện nói nhảm.
Giả mẫu cười nói:
- Việc ấy cũng có duyên cớ. Trong số người viết truyện, có một hạng thấy người ta phú quý, đem lòng ghen ghét, hoặc mong muốn điều gì không được, nên viết ra sách nói xấu. Lại có một hạng người nữa, đọc lệch truyện đi, tự mình cũng mong sao được gặp giai nhân, nên viết ra truyện để mua vui. Chứ họ có biết rõ được đạo lý con nhà thi thư thế hoạn là thế nào đâu. Không nói đến những hạng con nhà đại gia trong các truyện, chỉ nói ngay những nhà bậc bình thường như nhà chúng ta dây, cũng không hề có những truyện như thế. Đừng để cho họ lau láu cái mồm! Vì thế, nhà chúng ta xưa nay có cho ai kể những chuyện ấy đâu. Ngay trong đám a hoàn cũng vậy. Mấy năm nay ta già rồi, con cháu lại ở xa, khi buồn ta bảo người kể mấy câu cho qua, nhưng hễ cháu nó đến, là ta lại bắt họ thôi ngay.
Thím Lý và dì Tiết đều cười nói:
- Đó thực là khuôn phép nhà đại gia. Ngay nhà chúng cháu cũng không cho trẻ con nghe những chuyện nhảm ấy.
Phượng Thư chạy lại rót rượu, cười nói:
- Thôi, thôi! Rượu nguội mất rồi, xin bà uống một chén cho ráo cổ, rồi hãy vạch hết chuyện nhảm ấy ra. Hồi này có thể gọi là hồi “vạch chuyện nhảm”, chuyện xảy ra đúng giờ này, ngày này, tháng này, năm này, nơi này, triều đại này. Bà ơi! Mở miệng khó nói được hai việc “Hai bông hoa nở chung một cành”, “Thực giả chưa cần nói rõ”(3), cháu hãy sắp đặt người xem đèn, xem hát đã. Bà mời hai vị thân thích đi uống chén rượu, xem vài vở hát rồi sẽ vạch những chuyện nói nhảm từ mấy đời trước ra có được không?
Phượng Thư vừa rót rượu vừa cười, mọi người nghe vậy đều cười lăn ra.
Hai cô xẩm cũng cười nói:
- Mợ nói khéo quá! Mợ mà kể truyện thì thật chúng tôi hết chỗ kiếm ăn!
Tiết phu nhân cười nói:
- Chị nói ít chứ! Bên ngoài có khách, không như lúc thường đâu.
Phượng Thư cười nói:
- Bên ngoài chỉ có một mình anh Trân thôi, chúng tôi kể là anh em, từ lúc bé vẫn thường đùa ngịch với nhau. Mấy năm nay, vì đã có chồng, nên tôi phải giữ phép anh chồng em dâu, chứ không còn như khi nhỏ nữa. Trong nhị thập tứ hiếu có chuyện “múa áo ban”(4) các anh ấy không mặc áo hoa múa cho cụ tôi vui thì tôi phải khó khăn mới làm cho cụ tôi cười, để ăn thêm được một ít, cho cả nhà vui mừng. Đáng ra phải cảm ơn tôi mới phải, không lẽ lại cười tôi à?
Giả mẫu cười nói:
- Hai ngày hôm nay ta chưa có một trận cười nào thỏa thích, may có nó nói ra làm ta cười một trận, uống thêm chén rượu nữa.
Giả mẫu uống xong lại sai Bảo Ngọc:
- Đến mời chị cháu một chén.
Phượng Thư cười nói:
- Không cần chú ấy mời, cháu đến nhờ lộc bà đây.
Phượng Thư đến uống hết chén rượu còn thừa của Giả mẫu, và đưa chén cho a hoàn, bảo lấy chén khác đã ngâm nước nóng mang đến. Các người trong tiệc cũng đều đứng dậy thay chén đã ngâm nước nóng, rót rượu mới vào, rồi lại trở về chỗ ngồi.
Cô xẩm thưa:
- Cụ không nghe chuyện, chúng cháu xin gẩy một khúc hát để người nghe.
- Các người hãy họa bài “Tướng quân lệnh” cho ta nghe.
Hai người liền so dây gẩy đàn, Giả mẫu hỏi:
- Giờ đã canh mấy rồi?
Bọn bà già thưa:
- Canh ba.
Giả mẫu nói:
- Thảo nào đã thấy hơi lạnh.
Bọn a hoàn đã mang sẵn quần áo. Vương phu nhân cười nói:
- Xin cụ vào ngồi ở giường ấm trong noãn các. Hai vị này không phải là người lạ, để các con tiếp cũng được.
- Đã thế thì chúng ta cùng vào cả, có ấm hơn không?
- Sợ trong ấy không đủ chỗ ngồi.
- Ta đã có cách. Bây giờ không cần nhiều bàn nữa, chỉ dùng độ hai ba chiếc đặt liền nhau, mọi người ngồi quây quần một chỗ, vừa thân mật lại ấm áp.
Mọi người đều nói : “Thế mới vui chứ!”
Nói xong liền đứng dậy. Bọn đàn bà dọn hết bàn tiệc đi, dồn làm ba bàn lớn, lại đặt hoa quả cỗ bàn mới vào. Giả mẫu nói:
- Không phải câu nệ gì, ta cắt đặt đâu, các người phải ngồi đấy.
Nói xong, mời Tiết phu nhân và thím Lý ngồi đối diện bàn trên, còn mình ngồi trông ra hướng tây. Bảo Cầm, Đại Ngọc, Tương Vân cho ngồi liền bên cạnh, rồi bảo Bảo Ngọc:
- Cháu ngồi cạnh mẹ cháu.
Bảo Ngọc ngồi ở khoảng giữa Hình phu nhân và Vương phu nhân. Chị em Bảo Thoa ngồi ở phía tây. Theo thứ tự, Lâu thị ngồi kèm thêm Giả Huân; Vưu Thị và Lý Hoàn ngồi với Giả Lan; vợ Giả Dung ngồi ở ghế ngang phía dưới.
Giả mẫu nói:
- Anh Trân đẫn bọn anh em về đi, ta sắp đi ngủ đây.
Bọn Giả Trân vâng lời đi vào, Giả mẫu nói:
- Thôi anh về đi, không cần phải vào nữa, kẻo ngồi rồi lại phải đứng dậy. Anh về mà nghỉ, ngày mai còn có việc cần.
Giả Trân vâng lời, cười nói:
- Xin để cháu Dung ở lại rót rượu mới phải.
- Phải đấy, ta quên mất nó.
Giả Trân dẫn bọn Giả Liễn đi ra. Hai người rất mừng. Giả Trân sai người đưa Giả Tôn và Giả Hoàng về nhà rồi hẹn Giả Liễn đi mau vui ở chỗ khác.
Giả mẫu cười nói:
- Giờ ta mới nghĩ ra, ở đây đông người góp vui nhưng không có một đôi vợ chồng nào. Ta quên đi mất, bây giờ có vợ chồng chắt Dung, thế là song toàn rồi. Dung ơi! Mày cùng ngồi một chỗ với vợ mày, như thế mới thực là đoàn viên chứ.
Bọn bà già đem trình đơn hát, Giả mẫu cười nói:
- Bà cháu chúng ta đang vui, lại làm ồn lên. Vả chăng bọn trẻ con này phải thức đêm, trời lại lạnh, chi bằng cho chúng nó nghỉ, gọi bọn con hát gái của nhà ta đến đây diễn vài vở và cũng để cho chúng nó nghe luôn.
Các bà già vâng lời đi ra, một mặt bảo người đến vườn Đại Quan gọi bọn con gái hát, một mặt ra cửa thứ hai truyền cho những người hầu vào chờ sẵn đấy. Bọn người hầu đến buồng hát, cho những người lớn trong ban về hết, chỉ để trẻ con ở lại thôi.
Một lúc, người giáo tập ở viện Lê Hương dẫn bọn Văn Quan mười hai đứa từ cửa nách bên hè đi vào. Họ không kịp mang rương hòm, chỉ có các bà già đem theo mấy bọc quần áo, vì biết Giả mẫu chỉ thích nghe dăm ba vở thôi. Các bà già dẫn Văn Quan vào chào, chắp tay đứng yên. Giả mẫu cười nói:
- Trong tháng giêng này, thầy các người không cho ra nghỉ chơi à! Bây giờ các người hát vở gì? Vừa rồi hát tám khúc “bát nghĩa” nhộn lắm, làm ta nhức cả đầu. Nên hát khác gì êm ái thì hơn. Các người xem, dì Tiết và thím Lý đều có ban hát cả, đã nghe bao nhiêu vở hát hay rồi; các cô kia cũng đã xem và nghe nhiều khúc hát hay. Còn bọn con hát này lại là một ban hát có tiếng xưa nay, tuy chúng nó còn bé, nhưng hát khá hơn người lớn. Chúng ta đừng chịu mang tiếng, phải hát vở gì cho thật mới. Bây giờ Phương Quan hãy hát vở “tầm mộng” dùng đàn và tiêu sáo không cần sênh phách.
Văn Quan cười nói:
- Cụ dạy rất đúng. Vở hát của chúng tôi chắc không lọt tai các vị mấy, chẳng qua giọng vịt đực, khàn khàn trong cổ họng thôi.
Giả mẫu nói: “Đúng đấy”.
Thím Lý và Dì Tiết đều cười nói:
- Con bé ranh thật! Mày cũng biết theo cụ đi đùa chúng ta à?
Giả mẫu nói:
- Chúng ta gặp thế nào vui thế, chứ không phải kiểu buôn bán kiếm lời, nên không cần phải hợp thời lắm.
Nói xong lại bảo Quỳ Quan:
- Hát vở “Huệ minh hạ thư”(5) cũng không cần phải vẽ mặt. Chỉ hát hai vở này để cho hai bà thêm vui thôi. Nếu không cố hát cho hay thì ta không bằng lòng đâu.
Lũ Văn Quan vâng lời đi ra, sắm sửa lên sân khấu, trước hết hát vở “tầm mộng”, sau hát vở “hạ thư”. Mọi người ngồi rất im lặng. Tiết phu nhân cười nói:
- Tôi đã xem hàng mấy trăm ban hát, chưa bao giờ lại chỉ dùng tiêu với sáo.
Giả mẫu nói:
- Có đấy như vừa rồi vở “Sở giang tình” trong “Tây lâu” thường chỉ có vai nam thổi tiêu hòa nhịp thôi. Vở này ít khi đem ra họa chung. Đó là tùy người nghe có quen hay không đấy thôi, chứ có gì là lạ.
Lại trỏ Tương Vân nói:
- Hồi tôi còn nhỏ như nó, đã được xem một ban hát của bố nó cũng chỉ có một người đánh đàn, hòa vở “thính cầm” trong “Tây sương ký”. Vở “cầm khiên” trong “Ngọc trâm ký”, nghe ra như thực ấy. Vậy so với vở này thì thế nào?
Mọi người đều nói: “Thế lại càng khó mà bì nổi”.
Giả mẫu sai mấy người đàn bà đến bảo bọn Văn Quan đàn sáo hát khúc “đăng nguyệt viên”. Bọn đàn bà vâng lời đi. Vợ chồng Giả Dung rót một lượt rượu.
Phượng Thư thấy Giả mẫu cao hứng quá, liền cười nói:
- Nhân có các cô xẩm ở đây, chi bằng bảo họ đánh trống, chúng ta bày cuộc truyền cành mai làm lệnh “xuân hỷ thượng my sao”(6) có nên không?
Giả mẫu cười nói:
- Lệnh ấy hay đấy! Đúng với thời cảnh bây giờ.
Rồi sai người mang cái trống lệnh đóng đanh đồng sơn đen đến cho các cô xẩm đánh, và lấy một cành mai trên bàn tiệc ra. Giả mẫu cười nói:
- Hễ cành mai truyền đến tay ai mà ngừng trống thì người ấy uống một chén rượu, và phải nói một câu chuyện mới được.
Phượng Thư cười nói:
- Kể ra thì ai được như bà, muốn đọc cái gì có cái ấy ngay. Chúng cháu không làm được lại chẳng hóa ra mất vui sao? Phải làm thế nào để người nhã và người tục đều thưởng thức cả mới thú. Chi bằng trống dứt ở tay người nào, người ấy phải kể một câu chuyện cười.
Mọi người đều biết Phượng Thư ngày thường tài pha trò, trong bụng có vô số là chuyện vui mới lạ, nay thấy chị ta nói thế, không những người trong tiệc, ngay đám hầu lớn nhỏ ở đấy cũng đều thích cả. Chúng liền đi rủ chị gọi em: “Mợ Hai sắp nói pha trò đấy, mau đến mà nghe”. Một lúc sau, người đến đông nghịt cả nhà.
Đàn hát xong, Giả mẫu bảo mang ít hoa quả, chè thang cho bọn Văn Quan ăn. Rồi sai đánh trống. Các cô xẩm đã đánh quen, lúc thưa lúc nhặt, thánh thót như giọt đồng hồ, dồn dập như vó ngựa chạy, nhanh nhanh như điện vút qua. Bỗng nhiên tiếng trống dừng lại, cành mai đã đưa đến tay Giả mẫu, mọi người cười ầm lên. Giả Dung vội đến rót chén rượu. Mọi người cười nói:
- Cụ phải vui trước, để chúng cháu vui nhờ với.
Giả Dung cười nói:
- Cụ kể hay hơn chị Phượng nhiều, xin người nói lên, để chúng cháu được vui cười.
Giả mẫu cười nói:
- Rượu uống cũng được, nhưng kể chuyện vui thì hơi khó đấy.
Mọi người đều nói:
- Cụ kể hay hơn chị Phượng nhiều, xin người nói lên, để chúng cháu được vui cười.
Giả mẫu cười nói:
- Chẳng có chuyện gì mới lạ đáng buồn cười cả, thôi già này đành mặt dày kể một chuyện vậy: “Một nhà có mười người con giai, lấy mười người con dâu. Chỉ có người con dâu thứ mười là thông minh lanh lợi, mồm mép bẻo lẻo, bố mẹ chồng rất thương, suốt ngày cứ chê chín người con dâu kia không biết hiếu thuận. Chín người con dâu ấy ức quá, liền bàn với nhau: chín đứa chúng ta bụng rất hiếu thuận, nhưng mồm mép không bẻo lẻo bằng con ranh ấy, nên bố mẹ chỉ bảo nó tốt thôi. Nỗi uất ức này biết kêu ai cho được! Có người nghĩ ra một cách: Ngày mai chúng ta thắp hương khấn hỏi vua Diêm vương: đã cho chúng tôi sinh ra làm người, tại sao lại chỉ cho con ranh con ấy cái mồm lém lỉnh, còn chúng tôi thì đều ăn nói vụng về cả? Tám người kia nghe xong, lấy làm thích thú lắm, đều nói: nghĩ thế đúng đấy! Hôm sau, họ rủ nhau đến thắp hương ở miếu Diêm vương. Chín người đều nằm mộng dưới bàn thờ. Chín cái hồn cứ chơ vơ mãi, không thấy Diêm vương đến. Đương lúc sốt ruột thì Tôn Hành Giả cưỡi mây lộn xuống nhìn thấy chín cái hồn, liền cầm gậy bít vàng định đánh. Chín cái hồn sợ quá, quỳ xuống van xin. Tôn Hành Giả hỏi duyên cớ vì sao, chín cái hồn ấy vội tỉ mỉ thuật lại câu chuyện. Nghe xong, Tôn Hành Giả giậm chân thở dài: Việc này may gặp ta đây! Chứ gặp Diêm Vương thì người chẳng hiểu ra sao đâu. Chín cái hồn liền nói: Xin đức đại thánh rủ lòng từ bi cho chúng con được nhờ! Tôn Hành Giả cười nói: Việc này không khó gì đâu, hôm mười chị em chúng mày hóa kiếp làm người, vừa lúc ta đến điện Diêm vương, ta đái một bãi xuống đất, con em dâu bé chúng mày uống hết cả. Bây giờ chúng mày muốn khôn ngoan, lém lỉnh, sẵn nước đái đây ta đái cho mà uống.
Giả mẫu kể xong, mọi người đều cười ầm lên. Phượng Thư cười nói:
- Chuyện hay lắm! May mà các cháu đây đều là hạng mồm mép vụng về cả. Nếu không, cũng phải uống nước đái khỉ rồi đấy.
Lâu Thị, Vưu Thị đều ngoảnh lại Lý Hoàn, cười nói:
- Bọn chúng ta đây ai là người đã uống nước đái khỉ rồi? Đừng có giả vờ nữa!
Tiết phu nhân cười nói:
- Chuyện vui cốt ở chỗ đúng với cảnh mới đáng buồn cười.
Lúc đó lại đánh trống. Bọn hầu chỉ muốn nghe Phượng Thư nói chuyện cười, liền khẽ bảo cô xẩm, cứ nghe tiếng đằng hắng thì ngừng trống lai. Một lúc cành mai đã truyền đi hai lượt, vừa đến tay Phương Thư, bàn hầu nhỏ đằng hắng, cô xẩm ngừng trống lại. Mọi người đều cười nói:
- Tóm đúng cổ rồi! Thôi uống rượu rồi kể chuyện đi. Nhưng đừng làm người ta cười đứt ruột đấy!
Phượng Thư nghĩ một lúc, cười nói:
- Một nhà nọ ăn tết tháng giêng, cả nhà xem đèn uống rượu, rất là náo nhiệt. Nào cụ, nào bà, nào con dâu, cháu dâu, chắt dâu, cháu dâu họ, cháu họ, chắt họ, cháu nuôi, cháu dây mơ rễ mái, cháu gái, cháu gái ngoại, cháu gọi bằng bà dì, cháu gọi bằng bà cô... Úi chà! Thật là đông đúc nhộn nhịp!
Mọi người nghe vậy, cười lớn nói:
- Nghe cái miệng rông dài ấy, chưa biết lại định chọc người nào đấy!
Vưu Thị cười nói:
- Thím mà trêu tôi thì tôi xé mồm ra đấy!
Phượng Thư đứng dậy vỗ tay cười nói:
- Người ta đã phải nói khó nhọc, các người lại cứ quấy rối, thôi tôi không nói nữa.
Giả mẫu cười nói:
- Cháu cứ nói đi, sau đó thế nào?
Phượng Thư nghĩ một lúc rồi cười nói:
- Sau quây quần cả vào trong một nhà, uống rượu suốt đêm rồi đâu về đấy.
Mọi người thấy giọng nói có vẻ nghiêm chỉnh, ai nấy im lặng, ngồi ngây ra nghe, nhưng thấy Phượng Thư lạnh lùng ngừng hẳn lại không nói nữa. Tương Vân nhìn một lúc lâu. Phượng Thư cười nói:
- Lại kể một chuyện nữa về tết tháng giêng: Có mấy người mang cây pháo to ra ngoài thành, hàng vạn người đi theo để xem. Có một người sốt ruột không chờ được, liền lấy hương đốt vụng, thì “ầm” một tiếng. mọi người đều cười rộ lên, rồi về cả. Người khênh cây pháo lại oán trách người bán pháo cuộn không chắc, chưa đốt đã nổ rồi.
Tương Vân nói:
- Chẳng lẽ người ấy lại không nghe tiếng à?
Phượng Thư nói:
- Người đó là người điếc.
Mọi người nghĩ một lúc bỗng cười to, lại nghĩ đến câu chuyện trước chưa nói hết, liền hỏi:
- Câu chuyện nói trước rồi ra thế nào? Nói hết đi.
Phương Thư đập bàn nói:
- Khéo lôi thôi lắm! Ngày mai là ngày mười sáu, hết năm mới rồi, hết tết rồi, tôi phải trông nom cho người ta dọn dẹp đồ đạc còn biết sau đó ra thế nào nữa.
Mọi người nghe rồi lại cười ầm lên.
Phượng Thư cười nói:
- Đã canh tư rồi, cứ ý cháu thì bà đã mệt, chúng ta cũng nên như “thằng điếc đốt pháo” về đi là hơn.
Vưu Thị lấy khăn bịt mồm cười rũ rượi, trỏ Phượng Thư nói:
- Cái con này, thật là miệng nói rông rài!
Giả mẫu cười nói:
- Con Phượng đúng càng ngày càng quen nói rông rài!
Rồi lại bảo:
- Nó đã nhắc đến cây pháo, thì chúng ta cũng lấy pháo ra đốt để giải rượu.
Giả Dung nghe nói, liền dẫn bọn người hầu dựng cái giá ở sân, rồi treo sẵn pháo lên. Thứ pháo này là của các nơi đem đến tiến cống, tuy không to lắm, nhưng làm rất công phu. Khi pháo nổ, sẽ có đủ những sự tích và đủ các màu sắc, lại kèm thêm pháo hoa. Đại Ngọc vốn người yếu sẵn, không chịu nổi những tiếng nổ to, Giả mẫu liền ôm cô ta vào lòng. Tiết Phu nhân cũng ôm lấy Tương Vân. Tương Vân cười nói:
- Cháu không sợ.
Bảo Thoa cười nói:
- Xưa nay nó vẫn thích đốt pháo lớn, còn sợ cái gì.
Vương phu nhân cũng ôm Bảo Ngọc vào lòng. Phượng Thư cười nói:
- Chúng tôi thì chẳng ai thương cả!
Vưu Thị cười nói:
- Có tôi đây, tôi ôm thím vào lòng nhé. Bây giờ lại làm nũng rồi đấy. Nghe nói nổ pháo thì thích như “uống nước đái con ong” ấy lại còn làm bộ.
Phượng Thư cười nói:
- Chờ xong đây, chúng ta sẽ về trong vườn đốt pháo nữa. Tôi còn đốt giỏi hơn bọn người hầu kia đấy.
Đương nói chuyện thì bên ngoài đã đốt luôn các thứ pháo. Nào là kiểu “mãn thiên tinh” (sao khắp trời), nào là “cửu long nhập vân” (chín con rồng lượn trong đám mây), nào là “bình địa nhất thanh lôi” (một tiếng sấm trên đất bằng), nào là “phi thiên thập hưởng” (mười tiếng nổ tung trên trời). Đốt pháo xong, lại sai bọn con hát nhỏ đánh một hồi trống “liên hoa lạc” (hoa sen rụng), rồi rắc đầy tiền trên sàn hát để đám trẻ con lên cướp làm trò vui.
Khi ăn cháo, Giả mẫu nói:
- Đêm dài quá đâm ra đói.
Phượng Thư vội nói:
- Đã sắp sẵn cháo vịt rồi.
- Ta ăn thứ gì thanh đạm thôi.
- Đã có thứ cháo gạo tám nấu với táo để cho các bà ăn chay.
- Ta ăn món ấy thôi.
Lúc đó bàn tiệc đã dọn đi cả, khắp trong ngoài lại bày đặt các món ăn thanh đạm. Ai muốn gì thì ăn. Súc miệng xong, ai nấy đều về.
Đến sáng hôm mười bảy, Giả mẫu lại sang phủ Ninh làm lễ chờ đóng cửa nhà thờ, thu dọn ảnh, xong mới về. Hôm ấy Tiết phu nhân lại mời Giả mẫu đến uống rượu tết. Ngày mười tám, nhà Lại Đại mời. Ngày mười chín nhà Lai Thăng bên phủ Ninh mời. Ngày hai mươi, nhà Lâm Chí Hiếu mời. Ngày hai mươi mốt, nhà Đan Đại Lương mời. Ngày hai mươi hai, nhà Ngô Tân Đăng mời. Có ngày Giả mẫu đi, có ngày Giả mẫu không đi. Khi cao hứng thì đợi cho tiệc tan mới về, không vui thì chỉ đến một lúc là về ngay. Các bạn hữu lại mời hoặc lại dự tiệc, Giả mẫu nhất thiết không tiếp, mặc cho Hình phu nhân, Vương phu nhân và Phượng Thư trông nom. Ngay Bảo Ngọc cũng chỉ đến nhà Vương Tử Đằng thôi, còn đều từ chối cả, chỉ nói là Giả mẫu giữ lại ở nhà để cho đỡ buồn.
-----------------------------
1. Vở kịch do Từ Thúc Hồi đời nhà Minh soạn, diễn tích Triệu Thuẫn người nước Tấn đời Xuân Thu.
2. Một chuyện thần thoại diễn tích Kim Hoa nương nương.
3. Phượng Thư toàn dùng những câu cuối hồi các truyện ra để pha trò cười.
4. Chuyện ông Lão Lai đã 70 tuổi, còn mặc áo hoa sặc sỡ, múa hát để bố mẹ vui.
5. Trong Tây sương ký: Khi Tôn Phi Hổ đem quân đến vây chùa Tướng Quốc, chú tiểu Huệ Minh đã dũng cảm, cầm lá thư của Trương Sinh đưa đến Bạch Mã tướng quân, nhờ đem quân về giải vây, cứu thoát mẹ con Thôi Oanh Oanh trong tay giặc.
6. Vui mừng xuân đến cả cuối lông mày ý nói vui mừng quá.
Hồi thứ năm mươi lăm
Mắng con gái mình, dì Triệu tức nhảm;
Khinh cô chủ bé, mụ Ngô ác ngầm.
Ngày tết đã qua. Lúc này trong cung có vị thái phi bị yếu do đức vua lấy đạo hiếu trị thiên hạ, nên các phi tần đều bớt món ăn, thôi trang điểm, không những không về thăm cha mẹ, mà mọi yến tiệc cũng đều bỏ cả. Vì vậy phủ Vinh trong đêm nguyên tiêu năm nay cũng không có buổi đố đèn. Tết vừa qua, Phượng Thư bị tiểu sản, phải nằm ở nhà một tháng, không trông nom được công việc, ngày nào cũng mời hai, ba thầy thuốc đến chữa. Phượng Thư cậy mình khỏe, tuy không đi ra ngoài,nhưng vẫn lo tính công việc, hễ nghĩ đến điều gì là sai ngay Bình Nhi sang trình Vương phu nhân. Ai can ngăn cũng không nghe. Vương phu nhân xem như mất một cánh tay. Một người được bao nhiêu sức lực, nên việc gì quan trọng, bà ta mới nhìn đến, còn việc lặt vặt trong nhà đều giáo cho Lý Hoàn trông nom. Lý Hoàn vốn là người trọng đức không trọng tài, đâm ra nuông chiều người dưới quá. Vương phu nhân liền sai Thám Xuân hợp sức trông nom với Lý Hoàn. Cũng tưởng chỉ độ một tháng, Phượng Thư khỏi rồi, lại giao giả công việc cho chị ta; nào ngờ Phượng Thư vốn đã hư nhược, còn trẻ người, không biết giữ gìn, xưa nay lại hay khoe khôn cậy khéo, nên sức càng yếu thêm, tuy là tiểu sản, nhưng thực ra trong người hư nhược lắm rồi. Sau một tháng, lại thêm bênh rong huyết. Tuy chị ta không chịu nói ra, nhưng mọi người thấy mặt mũi vàng vọt, biết ngay là kém điều dưỡng. Vương phu nhân bắt phải uống thuốc và nghỉ ngơi, không được nghĩ đến việc gì cả. Phượng Thư cung sợ bệnh nặng thêm, người ta cười chê, nên cũng muốn nhân lúc rỗi để tĩnh dưỡng, chỉ bực mình không mau được khỏe như cũ. Ngờ đâu uống thuốc đến ba tháng, bệnh mới đỡ.
Vương phu nhân thấy Phượng Thư như thế, Thám Xuân và Lý Hoàn mới cáng đáng công việc, sợ trong vườn nhiều người, không trông nom xuể, bèn nhờ Bảo Thoa trông nom hộ các nơi cho cẩn thận, và dặn: “Bọn bà già thực vô dụng, ban ngày thì ngủ, đêm đến lại bài bạc. Ta biết cả rồi. Khi chị Phượng còn trông nom công việc, họ còn chút sợ hãi, bây giờ thì tha hồ bừa bãi. Cháu là người đứng đắn, các em cháu hãy còn bé cả, ta lại không có thì giờ, nhờ cháu chịu vất vả trông nom hộ ít ngày. Nếu xảy ra việc gì cháu đến nói với ta, chớ để khi cụ hỏi đến, lại không biết trả lời ra sao. Có người nào hư, cháu cứ răn bảo, nếu nói không nghe, sẽ nói cho ta biết, không nên để xảy ra to chuyện.” Bảo Thoa nghe nói, đành xin vâng lời.
Bấy giờ đã cuối xuân, Đại Ngọc lại ho trở lại. Tương Vân cũng bị cảm nằm ở Hành Vu Uyển, suốt ngày thuốc men không ngớt.
Thám Xuân và Lý Hoàn ở cách nhau, nên có việc gì, người đi lại trình báo rất không tiện. Họ bàn với nhau, cứ mỗi buổi sáng cùng đến bàn việc ở ba gian nhà hoa bên phía nam cửa vườn. Từ sau bữa cơm sáng, đến quá trưa họ mới về.
Ba gian nhà này là chỗ đứng chực của bọn thái giám trong dịp Quý phi về thăm nhà. Sau đó bỏ không, chỉ để bọn bà già đến canh đêm. Bây giờ trời ấm, nên không cần phải sửa sang mấy, chỉ bày biện qua loa cho hai người ngồi thôi. Nhà này cũng có cái biển đề bốn chữ “phụ nhân dụ đức” (giúp nhân khuyên đức) người trông nhà thường chỉ gọi là “nhà bàn việc”. Hai người cứ giờ mão đến, giờ ngọ về. Bọn đàn bà giữ việc, đi lại trình báo không ngớt. Ban đầu, mọi người thấy một mình Lý Hoàn trông nom, trong bụng đều mừng thầm, vì Lý Hoàn xưa nay là người trung hậu, chỉ làm ơn chứ không hay phạt ai. Sau thêm Thám Xuân. Thấy vậy ai cũng yên trí đó là một cô tiểu thư trẻ tuổi, chưa từng ra khỏi buồng the, mà tính khí xưa nay lại hòa nhã điềm đạm. Vì thế công việc trễ nải hơn khi Phượng Thư trông nom. Nhưng sau ba, bốn ngày, qua mấy việc, dần dần thấy rõ Thám Xuân sành sỏi chẳng kém gì Phượng Thư, chỉ khác là tính tình hòa nhã, nói năng dịu dàng mà thôi.
Vừa hay trong mấy ngày liền, có hàng mười mấy nơi, nào là vương công hầu bá, quan viên thế tập hoặc là họ hàng, hoặc là bạn thân của hai phủ Vinh, Ninh, người được thăng chức đổi đi nơi khác, người bị giáng truất, hoặc có việc tang hay việc hôn, Vương phu nhân phải đi mừng, đi viếng, đưa đón không lúc nào rỗi, nên bên ngoài lại càng không có ai trông nom. Lý Hoàn và Thám Xuân ngày nào cũng phải ngồi ở nhà hoa, Bảo Thoa thì lên nhà trên trông nom, đến khi Vương phu nhân về mới nghỉ.
Ban đêm khâu vá, xong trước khi đi ngủ, họ ngồi kiệu dẫn những người canh trong vườn đi xem xét các nơi một lượt. Ba người này làm như thế, so với lúc Phượng Thư giữ việc lại có phần cẩn thận hơn. Vì thế các người hầu trong ngoài oán ngầm: “Một con quỉ dạ soa vừa ngã, thì ba sao thái tuế lại lên”, ngay đến cả việc uống trộm chơi trộm ban đêm cũng không được nữa.
Hôm ấy Vương phu nhân đi dự tiệc ở phủ Cẩm Hương Hầu, Lý Hoàn và Thám Xuân rửa mặt chải đầu xong, đứng chực để đưa ra cửa. Khi Vương phu nhân đi rồi, hai người mới về nhà hoa ngồi, vừa uống chén nước, thấy vợ Ngô Tân Đăng đến trình:
- Em dì Triệu là Triệu Quốc Cơ hôm nọ chết, đã trình cụ và bà Hai, người nói biết rồi, và bảo đến trình cô.
Nói xong, liền buông thõng tay đứng cạnh. Bấy giờ có nhiều người đến trình việc, đều thăm dò xem Lý Hoàn và Thám Xuân làm ăn thế nào. Nếu sắp đặt thỏa đáng, thì họ mới sợ, có thiếu sót điều gì, không những họ không phục, mà khi ra đến cửa ngoài lại còn nói nhiều câu chế giễu, để làm trò cười. Vợ Ngô Tân Đăng đã có ý định như vậy, nên trước đây đối với Phượng Thư, chị ta tỏ vẻ ân cần, đưa nhiều ý và tra lệ cũ ra, tùy Phượng Thư lựa chọn mà làm; nhưng bây giờ chị ta coi thường Lý Hoàn là người thực thà, Thám Xuân là cô gái trẻ tuổi, nên chỉ nói thõng một câu, để xem ý định của hai người ra sao.
Thám Xuân hỏi Lý Hoàn. Lý Hoàn nghĩ một lúc rồi nói:
- Hôm nọ thấy nói mẹ Tập Nhân chết, có giúp cho bốn mươi lạng bạc, bây giờ ta cũng nên giúp cho bốn mươi lạng.
Vợ Ngô Tân Đăng liền “vâng” một tiếng, rồi cầm thẻ đi lĩnh tiền. Thám Xuân nói:
- Chị hãy quay lại đây.
Vợ Ngô Tân Đăng đành phải quay lại. Thám Xuân nói:
- Chị khoan chi tiền. Tôi hỏi chị: Mấy năm trước, các bà dì ở trong nhà cụ, có người ở trong nhà, có người ở ngoài đến, hai hạng khác hẳn nhau. Khi có bà con chết thì người ở trong nhà được giúp bao nhiêu? Người ở ngoài được giúp bao nhiêu? Chị nói cho chúng tôi biết.
Nghe hỏi, vợ Ngô Tân Đăng cuống lên, cười nói:
- Việc ấy không can hệ gì, giúp nhiều hay ít, còn ai dám tị nạnh nữa.
Thám Xuân cười nói:
- Nói càn thế sao được! Cứ ý tôi thì giúp một trăm lạng mới phải! Nhưng nếu không theo lệ thì chẳng những các chị cười mà sau này tôi cũng ngượng mặt với mợ Hai nhà chị.
Vợ Ngô Tân Đăng cười nói:
- Đã thế thì tôi đi tra sổ cũ xem, bây giờ không nhớ được.
Thám Xuân cười nói:
- Chị giữ việc lâu nay, còn chưa nhớ được, lại đến làm khó dễ chúng tôi? Ngày thường chị đến trình với mợ Hai cũng phải đi tra sổ à? Nếu quả như thế thì mợ Hai không phải là người cay nghiệt, mà là người rộng lượng đấy. Thôi chị đi lấy sổ cho tôi xem! Nếu nhỡ việc một ngày, người ta không cho là các chị sơ suất, lại bảo chúng tôi hồ đồ.
Vợ Ngô Tân Đăng đỏ bừng mặt, quay ra. Các người đàn bà đứng đấy đều lè lưỡi. Rồi có mấy người nữa vào trình việc.
Một lúc vợ Ngô Tân Đăng mang sổ đến. Thám Xuân giở ra xem, có hai người ở trong nhà được giúp hai mươi bốn lạng, hai người ngoài đến được giúp bốn mươi lạng. Ngoài ra còn có hai người ở ngoài nữa: một người được giúp một trăm lạng, một người được giúp sáu mươi lạng. Hai món tiền này ở dưới đều chua rõ: một người phải rước linh cữu bố mẹ đi ra tỉnh khác, nên giúp thêm sáu mươi lạng; một người phải mua đất chôn nên giúp thêm hai mươi lạng. Thám Xuân đưa sổ cho Lý Hoàn xem, rồi nói:
- Giúp hai mươi lạng thôi. Để sổ này ở đây, chúng tôi còn phải xem lại.
Vợ Ngô Tân Đăng đi ra.
Bỗng thấy dì Triệu đến, Lý Hoàn, Thám Xuân vội mời ngồi. Dì Triệu nói:
- Người trong nhà này ai cũng muốn giúi đầu tôi xuống, các cô hãy làm thế nào cho tôi hả giận mới phải!
Dì Triệu vừa nói vừa khóc sướt mướt. Thám Xuân vội nói:
- Dì nói ai thế? Tôi thật không hiểu. Ai giúi đầu dì xuống? Xin cứ nói ra, tôi sẽ làm cho dì hả giận.
Dì Triệu nói:
- Chính cô giúi đầu tôi xuống, tôi còn biết kêu ai được nữa?
Thám Xuân đứng dậy nói:
- Tôi đâu dám thế.
Lý Hoàn vội đứng dậy khuyên ngăn. Dì Triệu nói:
- Các người hãy ngồi xuống để tôi nói. Tôi dãi dầu chịu đựng trong nhà này đã chừng này tuổi đầu, mới đẻ được cô và thằng em cô, thế mà bây giờ không bằng cả con Tập Nhân. Tôi còn mặt mũi nào nữa. Việc này không riêng gì tôi, mà cả cô cũng mất thể diện đấy.
Thám Xuân cười nói:
- Thế ra vì việc này à! Tôi nghĩ tôi không bao giờ dám làm việc gì phạm phép trái lễ.
Thám Xuân ngồi xuống, lấy sổ ra đọc cho dì Triệu nghe, lại nói:
- Đây là thể lệ của ông cha đặt ra từ trước, ai cũng phải theo thôi, thay đổi thế nào được? Không những riêng đối với chị Tập Nhân, mà sau này em Hoàn có lấy người hầu ở ngoài, tất nhiên cũng được đối đãi như Tập Nhân. Đây không phải là việc tranh giành hơn kém, dì không nên nói đến việc có thể diện hay mất thể diện. Họ là đầy tớ của bà Hai, tôi phải làm theo lệ cũ. Nếu tôi làm phải, họ sẽ đội ơn tổ tiên và bà Hai; nếu bảo tôi làm không công bằng, thì đó là tự họ hồ đồ không biết phúc phận dấy thôi, dù có oán trách tôi cũng mặc. Dù bà Hai có cho cả cái nhà đi nữa, tôi cũng chẳng được thể diện gì, mà không cho một đồng nào, tôi cũng chẳng mất thể diện. Cứ ý tôi, hiện giờ bà Hai đi vắng chưa về, dì nên yên tĩnh giữ sức khỏe, tội gì phải bận lòng thế. Bà Hai rất thương tôi, vì dì cứ hay tính chuyện, nên mấy lần người rất phiền lòng. Nếu tôi là con giai được ra ngoài lập công danh, thì đã đành đi một nhẽ. Nhưng tôi lại là con gái, ăn nói phải giữ gìn từng câu. Trong bụng bà Hai đã biết hết, vì người tin tôi nên mới bảo tôi trông nom việc nhà. Tôi chưa làm được cái gì đáng kể, dì đã đến giày vò tôi. Nếu bà Hai biết, sợ tôi khó xử không cho tôi trông nom nữa, thế mới thật là mất thể diện. Và ngay dì cũng mất thể diện nữa.
Thám Xuân vừa nói vừa khóc nức nở. Dì Triệu không trả lời được câu gì, chỉ nói:
- Bà Hai thương cô, cô càng nên dắt díu chúng tôi. Đằng này cô chỉ làm thế nào cho bà Hai thương, lại đâm ra quên hẳn chúng tôi đi.
Thám Xuân nói:
- Tôi quên sao được. Bắt tôi dắt díu cái gì? Cứ đi hỏi các người xem. Chủ nào mà chẳng thương những người làm được việc. Đã là người giỏi thì còn cần ai dắt díu nữa.
Lý Hoàn đứng ở bên cạnh cứ khuyên:
- Dì đừng nóng nảy thế, cũng không nên trách cô ấy. Dù trong bụng cô ấy muốn dắt díu chăng nữa, cũng không khi nào nói ra miệng được.
Thám Xuân nói:
- Chị Cả cũng hồ đồ! Tôi dắt díu được ai? Có các cô nhà nào lại đi dắt díu bọn đầy tớ? Họ hay dở thế nào, các người chắc cũng biết đấy, can gì đến tôi?
Dì Triệu tức tối hỏi:
- Ai bảo cô dắt díu người khác. Nếu cô không trông nom việc nhà, thì tôi chẳng đến hỏi làm gì. Bây giờ cô nói một là một, hai là hai. Cậu của cô chết, cô có cho thêm hai, ba mươi lạng, chẳng lẽ bà Hai lại không bằng lòng hay sao? Rõ ràng bà Hai tốt bụng, chỉ vì các người cay nghiệt đấy thôi. Đáng tiếc là bà Hai muốn ban ơn cũng không biết ban vào chỗ nào được! Cô cứ yên tâm! Việc này không phải tiêu tiền của cô đâu! Sau này cô đi lấy chồng, tôi còn mong gì cô nhìn ngó đến nhà họ Triệu nữa! Bây giờ chưa mọc cánh mà đã quên tổ chỉ chực chọn cây cao mà bay thôi.
Thám Xuân chưa nghe hết lời, tức tái mặt, nghẹn ngào khóc nức khóc nở, hỏi:
- Ai là cậu tôi? Cậu tôi đã thăng chức tuần kiểm chín tỉnh rồi! Bây giờ lại còn một cậu nào nữa. Xưa nay tôi vẫn kính trọng lẽ phải, nhưng khi nào lại kính trọng đến những hạng thân thích như thế? Dì nói thế thì sao mỗi khi em Hoàn đi ra, Triệu Quốc Cơ lại phải đứng dậy? Lại phải theo hầu nó đi học? Sao không giở cái lối ông cậu ra! Ai chả biết dì đẻ ra tôi, cứ vài ba tháng lại tìm cách gây chuyện, đào bới nhau lên, sợ người ta không biết, nên cố ý bêu ra! Ai làm cho ai mất thể diện đây! May tôi là đứa biết điều, nếu hồ đồ không giữ lễ thì đã nóng máu lên rồi.
Lý Hoàn vội vàng khuyên mãi, dì Triệu vẫn cứ càu nhàu không thôi.
Chợt có người vào nói:
- Mợ Hai sai cô Bình đến có việc.
Dì Triệu mới ngậm miệng không nói nữa. Thấy Bình Nhi đến, dì Triệu liền cười, mời ngồi, lại vội vàng hỏi:
- Mợ nhà đã khỏi chưa? Tôi định sang thăm nhưng chưa có lúc rỗi.
Lý Hoàn thấy Bình Nhi đến, liền hỏi:
- Đến có việc gì đấy?
- Mợ tôi bảo: em dì Triệu chết rồi, sợ mợ và cô không biết lệ cũ. Nếu theo lệ thường thì chỉ được cấp hai mươi lạng thôi, nay tùy ý cô châm chước, thêm ít nhiều nữa cũng được.
Thám Xuân đã lau nước mắt, liền nói:
- Tự dưng vô cớ thêm cái gì? Ai là người “chửa hai mươi bốn tháng mới đẻ”? Hoặc chăng là người cõng chủ chạy trốn trước trận tiền? Mợ chị thật khéo quá: bảo tôi bỏ cả lệ đi. Mợ ấy muốn được tiếng tử tế thì cứ việc vung tiền của bà ra không hề đau xót để lấy lòng người ta. Nhờ chị nói với mợ ấy: tôi không dám tự ý thêm bớt gì cả. Mợ ấy muốn lấy ơn, chờ khi khỏi đến đây thêm bao nhiêu thì thêm.
Lúc Bình Nhi đến đã biết việc này, bây giờ nghe nói lại càng hiểu ý. Thấy Thám Xuân có vẻ tức giận, Bình Nhi không dám giở lối vui đùa như mọi ngày, cứ thõng tay đứng hầu một bên. Lúc đó Bảo Thoa ở trong buồng trên cũng xuống, Thám Xuân vội đứng dậy mời ngồi, chưa kịp nói câu gì, đã có người đàn bà đến trình việc. Thám Xuân vừa mới khóc xong, lên ba, bốn đứa hầu nhỏ bưng chậu nước, khăn mặt và gương đến. Thám Xuân đương ngồi xếp bằng tròn ở trên giường thấp, một đứa bưng nước đến trước mặt quỳ xuống giơ cao chậu lên; còn hai đứa cũng đều quỳ bên cạnh, đưa lên khăn mặt, gương soi và phấn sáp.
Bình Nhi thấy Thị Thư không có ở đây, liền đến vén tay áo, tháo vòng, lấy cái khăn tay to che vạt áo đằng trước cho Thám Xuân. Thám Xuân vừa mới thò tay vào chậu nước, đã có một người đàn bà đến trình:
- Thưa mợ, thưa cô, nhà học xin chi tiền học hàng năm cho cậu Hoàn và anh Lan.
Bình Nhi nói:
- Bà vội gì thế? Cô đang rửa mặt, bà có mở mắt nhìn thấy không! Sao không ra ngoài kia đứng chờ, lại còn trình cái gì? Trước mặt mợ Hai, bà cũng dám vô ý như thế à? Cô đây tuy rộng lượng thực, nhưng tôi mà về trình mợ Hai, nói là các bà không coi cô ra gì, có bị quở phạt thì đừng trách tôi!
Người đàn bà ấy sợ hãi, vội cười nói: “Tôi sơ suất quá!” Rồi vội vàng lui ra.
Thám Xuân xoa phấn rồi cười nhạt, bảo Bình Nhi:
- Chị đến chậm nên không biết có một việc đáng buồn cười. Ngay chị Ngô Tân Đăng là người làm việc đã lâu cũng không biết tra sổ rõ ràng, lại chực đến lòe tôi! May tôi hỏi đến, chị ta lại dám trơ mặt ra nói là quên. Tôi bảo chị ta, khi có việc đến trình mợ Hai, chị cũng nói là quên rồi đi lục sổ hay sao? Tôi chắc chủ chị không khi nào chịu để yên cho chị đi tìm!
Bình Nhi nói:
- Nếu chị ta có lần nào như thế, e gân chân bị cắt đứt từ bao giờ rồi. Cô đừng có tin. Họ thấy mợ Cả lành như bụt, cô lại là vị tiểu thư hay e lệ, cố nhiên họ sinh lười đến nói bậy đấy thôi.
Bình Nhi lại ngoảnh ra phía ngoài nói:
- Các người cứ việc hỗn láo đi! Chờ mợ Hai khỏi tôi sẽ mách cho.
Bọn đàn bà ở ngoài cửa đều cười nói:
- Cô là người biết điều. Tục ngữ nói “người nào làm bậy người ấy chịu”. Chúng tôi có dám dối trá gì chủ đâu. Nay cô chủ là một vị trẻ tuổi được chiều chuộng quen, cô ấy tức giận, thì chúng tôi chết không có chỗ chôn!
Bình Nhi cười nhạt:
- Các người hiểu nhẽ thế là phải.
Rồi lại cười nói với Thám Xuân:
- Cô đã biết đấy, mợ Hai bận lắm, làm gì mà trông nom đến những việc ấy! Thế nào cũng không tránh khỏi sơ suất. Tục ngữ nói “người bên cạnh nhìn rất rõ”. Cô để ý xem, trong mấy năm nay, có việc gì nên thêm nên bớt, mà mợ Hai chưa kịp làm, thì cô cứ sửa đổi lại. Một là có lợi cho bà Hai, hai là không phụ tình nghĩa cô đối với mợ tôi.
Bảo Thoa, Lý Hoàn nghe vậy đều cười, nói:
- Chị này giỏi thật! Không trách chị Phượng yêu chị. Chẳng có việc gì đáng thêm bớt cả, nhưng nghe chị nói, chúng tôi cũng phải tìm vài việc châm chước mà làm để khỏi phụ câu nói của chị.
Thám Xuân cười nói:
- Tôi tức đầy ruột, đang định đem chị ấy ra nói cho hả giận, nhưng nghe đến những lời của chị ấy, làm tôi quên hẳn những chuyện trước.
Thám Xuân liền gọi người đàn bà lúc nãy vào hỏi:
- Tiền học hàng năm của cậu Hoàn và anh Lan là dùng vào việc gì?
- Tiền ăn sáng và mua bút giấy hàng năm ở trong trường, mỗi người phải tiêu mất tám lạng bạc.
- Những tiền các cậu ấy tiêu, đều ở trong sổ lương hàng tháng, phần cậu Hoàn do dì Triệu lĩnh hai lạng, phần cậu Bảo Ngọc do Tập Nhân ở nhà cụ lĩnh hai lạng; phần anh Lan do mợ Cả lĩnh, làm gì mỗi người còn phải thêm tám lạng nữa! Thì ra đi học là chỉ vì tám lạng bạc ấy à! Từ nay trở đi bỏ khoản này đi. Chị Bình về trình với mợ chị rằng tôi bảo thế nào cũng phải bỏ món này.
Bình Nhi cười nói:
- Đáng lẽ bỏ lâu rồi. Năm ngoái mợ tôi đã bảo bỏ đi, nhưng vì cuối năm bận quá, quên khuấy đi mất.
Người đàn bà đó đành vâng lời đi ra. Lại có người đàn bà ở trong vườn Đại Quan bưng cơm đến. Thị Thư và Tố Vân mang một cái bàn nhỏ vào. Bình Nhi vội đứng dậy dọn cơm, Thám Xuân cười nói:
- Chị xong việc rồi thì về, ở đây làm gì nữa.
Bình Nhi cười nói:
- Tôi ở nhà không có việc gì. Mợ tôi bảo đến đây, một là để trình việc, hai là sợ những người ở đây chưa quen, nên sai tôi đến hầu mợ, hầu cô giúp các chị em.
Thám Xuân hỏi:
- Sao không mang đồ ăn của cô Bảo đến đây cùng ăn một thể?
A hoàn nghe nói, ra ngoài thềm bảo lũ đàn bà:
- Cô Bảo hôm nay cũng ăn cơm ở đây, bảo họ mang cơm đến.
Thám Xuân quát to:
- Mày không được sai bậy! Những người này đều là các bà trông nom công việc lớn trong nhà. Chúng mày không biết ai là người trên kẻ dưới, dám sai các bà ấy đi lấy cơm lấy nước à? Chị Bình đứng đấy, bảo chị ấy đi gọi hộ!
Bình Nhi vội vâng lời đi ra, đám đàn bà khẽ kéo lại:
- Việc gì cô phải đi? Chúng tôi đã có người đi gọi rồi.
Vừa nói họ vừa lấy khăn tay phủi đất ở trên thềm, nói:
- Cô đứng mãi mỏi chân, hãy ngồi nghỉ ngoài nắng một lúc.
Bình Nhi ngồi xuống, có hai bà già ở phòng trà mang cái thảm rải ra và nói:
- Đá lạnh. Thảm này sạch sẽ đấy, mời cô ngồi tạm.
Bình Nhi gật đầu cười nói: “Cám ơn”.
Một người nữa lại pha một chén nước trà rất ngon đem đến, khẽ cười nói:
- Đây không phải là trà của chúng tôi thường dùng đâu. Trà này chỉ để pha cho các cô uống thôi, mời cô hãy uống một chén cho đỡ khát.
Bình Nhi nghiêng mình cầm lấy, rồi trỏ vào bọn đàn bà khẽ nói:
- Các người chẳng ra cái gì cả! Cô ấy là cô gái con nhà đại gia, không muốn ra oai nổi giận, đó là người biết giữ giá. Thế mà các bà lại khinh nhờn cô ấy. Nếu để cô ấy phải cáu lên, dù mang tiếng là người lỗ mãng, nhưng các bà lại bị thiệt rất nhiều! Cô ấy làm nũng, bà Hai cũng phải chiều một phần nào, mợ Hai cũng chẳng dám làm gì. Thế mà các bà lại cả gan không coi cô ấy ra gì, khác nào trứng chọi với đá?
- Chúng tôi khi nào dám cả gan thế? Đó đều tự dì Triệu gây ra!
- Thôi! Các bà ơi, “giậu đổ bìm leo”, dì Triệu vốn hay nông nổi, không biết nghĩ xa nghĩ gần, nên việc gì cũng chỉ đổ riệt cho dì ấy. Ngày thường các bà bụng dạ ghê gớm, chẳng coi ai ra gì, tôi đã biết từ mấy năm nay rồi. Ngay mợ Hai có tý gì sơ suất là các bà đã nghĩ cách định đè bẹp xuống. Đã thế, hễ sểnh ra là y rằng các bà tìm cách làm khó dễ. Đã nhiều lần mợ ấy chưa hỏi tội các bà đấy. Ai cũng cho là mợ ấy ghê gớm, các bà đều sợ cả nhưng chỉ có tôi biết là trong bụng mợ ấy cũng không phải là không gờm các bà. Hôm nọ chúng tôi đã bàn đến việc này. Nếu không trên thuận dưới hòa, rồi thế nào cũng sẽ sinh chuyện. Cô Ba hãy còn trẻ, các bà đều coi thường. Nhưng trong các cô lớn, cô bé ở đây, mợ Hai cũng phải nể dăm phần. Thế mà các bà lại không coi cô ấy ra gì à?
Chợt Thu Văn đi vào, bọn đàn bà vội chạy đến chào hỏi, rồi nói:
- Cô hãy ngồi nghỉ, trong nhà đã dọn cơm rồi. Chờ ăn xong, cô hãy vào trình việc.
Thu Văn cười nói:
- Tôi đâu có rỗi được như các bà, chờ thế nào được.
Thu Văn định vào ngay, Bình Nhi vội gọi giật lại. Thu Văn quay lại thấy Bình Nhi, cười nói:
- Chị đến đây canh gác gì ở ngoài vườn đấy?
Rồi quay lại ngồi vào thảm cạnh Bình Nhi, Bình Nhi khẽ hỏi:
- Trình việc gì?
- Tôi muốn hỏi xem tiền lương của cậu Bảo và tiền lương của chúng tôi bao giờ mới được lĩnh.
- Việc ấy có quan hệ gì. Cô về báo chị Tập Nhân rằng: hôm nay, dù có việc gì cũng chớ nên trình. Trình một việc là bị bác một việc, trình một trăm việc bị bác một trăm đấy!
- Tại sao thế?
Bình Nhi và bọn đàn bà đều kể lại đầu đuôi câu chuyện cho Thu Văn nghe, và nói:
- Họ đương muốn moi những chỗ quan hệ và những người có thể diện ra mở đầu, tìm cách áp lép để làm gương cho mọi người đấy. Tội gì bây giờ cô lại đến trước để chạm vào cái đinh ấy. Nay cô đến trình, nếu họ bác lời cô để làm gương cho người khác, thì lại động đến cụ và bà Hai, nếu không nhè vào nhà các cô mà bác đi một vài việc, người ta lại bảo là thiên người nọ vị ngươi kia, ai dựa vào uy thế cụ và bà Hai thì không dám động đến, chỉ đem những người yếu thế ra làm bung xung đấy thôi. Cô xem đấy, việc của mợ Hai, họ còn bác đi vài khoản, có như thế mới chặn được họng mọi người chứ.
Thu Văn lè lưỡi cười nói:
- May gặp chị ở đây, chứ không thì lại bị trát gio vào mặt rồi. Tôi phải mau mau về báo tin cho chúng nó biết.
Cơm của Bảo Thoa đã mang đến. Bình Nhi vội đứng dậy vào hầu. Lúc đó dì Triệu đã về rồi, ba người ngồi ở giường ăn cơm. Bảo Thoa ngoảnh về hướng nam, Thám Xuân ngoảnh về hướng tây, Lý Hoàn ngoảnh về hướng đông, bọn đàn bà ớ dưới thềm im lặng đứng chờ, bên trong chỉ có a hoàn hầu cận đứng hầu, người khác không ai dám vào cả.
Lũ đàn bà khẽ bàn tán với nhau:
- Chúng ta bỏ cái lối ấy đi, đừng giữ ý nghĩ xằng bậy nữa. Bà Ngô cũng còn bẽ mặt nữa là chúng mình đã thấm vào đâu.
Mọi người chờ họ ăn xong mới dám vào trình việc. Bây giờ ở phía trong thỉnh thoảng có tiếng đằng hắng khẽ, ngoài ra không ai nghe thấy chạm bát chạm đũa. Một lát sau, một a hoàn vén rèm lên, rồi hai a hoàn khiêng bàn ăn ra. Trong buồng trà, ba a hoàn bưng sẵn ba chậu nước rửa mặt, đi vào. Một lúc, họ mang chậu nước và ống nhổ ra, rồi Thị Thư, Tố Vân và Oanh Nhi mỗi người bưng một cái khay đựng ba tách nước có nắp vào. Sau khi bọn a hoàn kia ra, Thị Thư bảo đứa hầu nhỏ:
- Chúng bay phải hầu hạ tử tế, không được ngồi lảng một chỗ. Ta đi ăn cơm rồi sẽ về thay.
Bấy giờ mọi người mới rón rén đi vào trình việc, không dám nhâng nháo như trước nữa.
Thám Xuân vừa mới nguôi giận, nhân bảo Bình Nhi:
- Tôi có một việc quan hệ, muốn bàn mới mợ chị, nay mới nhớ ra. Chị về ăn cơm xong, lại đây ngay. Cô Bảo cũng còn ở đây, bốn chúng ta sẽ bàn với nhau, rồi hỏi mợ chị xem có nên làm hay không.
Bình Nhi vâng lời đi về. Phượng Thư hỏi:
- Làm sao đi lâu thế?
Bình Nhi cười, kể lại những việc vừa mới xảy ra. Phượng Thư cười nói:
- Cô Ba khá đấy! Ta nói không sai. Chỉ tiếc là cô ấy xấu số không phải bà Hai đẻ ra.
- Mợ cũng nói vớ vẩn. Cô ấy không phải bà Hai đẻ ra, nhưng ai dám coi cô ấy kém các cô kia?
- Chị biết đâu được! Con vợ lẽ cũng như con vợ cả thực, nhưng là con gái thì bì thế nào được với con trai. Sau này đến tuổi lấy chồng, những hạng khinh bạc thường hay dò hỏi con vợ cả hay con vợ lẽ, chỉ vì con vợ lẽ mà nhiều người không dạm. Chứ họ biết đâu người tử tế, thì dù đứa ở cũng còn gấp trăm lần cô tiểu thư kia. Sau này, người nào vô phúc kén chọn con vợ cả thì sẽ bị lầm, người nào có phúc không câu nệ con vợ lẽ mà lấy được cô ấy thì lại hóa may.
Phượng Thư lại cười nói với Bình Nhi:
- Chị đã biết mấy năm nay ta phải nghĩ ra bao nhiêu cách tằn tiện, bớt ăn bớt tiêu, có lẽ người trong nhà ai cũng giận ngầm ta cả. Bây giờ ta như người “cưỡi hổ” vậy, tuy biết thế, nhưng không thể nào rộng rãi được. Vả chăng trong nhà này chi nhiều thu ít, việc lớn nhỏ đều phải theo lệ của tổ tiên đặt ra, nhưng hoa lợi thu vào hàng năm lại kém trước nhiều. Rút bớt món tiêu đi, thì người ngoài chê cười, mà cụ và bà Hai cũng khó chịu, tôi tớ trong nhà cũng oán ta cay nghiệt. Nếu không tìm cách tằn tiện ngay từ bây giờ, mấy năm nữa sẽ phải bù mà hết thôi.
- Mợ nói cũng phải đấy! Sau này công việc ba, bốn cô, hai, ba cậu và cụ đều mợ phải lo cả.
- Ta đã nghĩ đến những việc ấy rồi, cũng có thể đỡ được chú Bảo và cô Lâm, một người lấy vợ, một người lấy chồng, có thể không phải tiêu tiền trong phủ, thế nào cụ cũng bỏ tiền riêng của mình ra cho. Cô Hai là người bên ông Cả, không phải tính đến. Cô Ba, cô Tư có tiêu hoang chăng nữa, cũng chỉ mỗi người độ vạn bạc thôi. Cậu Hoàn lấy vợ chỉ tiêu mất độ ba nghìn, nếu không đủ thì bớt đi một món gì đó là xong. Việc tống táng cụ sau này, cái gì cũng sắp sẵn cả rồi, chỉ phải tiêu những món lặt vặt chừng dăm, ba nghìn lạng. Nếu biết tằn tiện ngay từ bây giờ cũng đủ. Chỉ sợ tự nhiên xảy ra một vài việc, thì không biết xoay vào đâu được. Thôi, chúng ta chẳng nên quá lo đến việc sau này. Chị hãy đi ăn cơm rồi sang xem họ bàn việc gì. Đây cũng là một dịp may. Ta đang lo không có người giúp đỡ. Tuy có Bảo Ngọc đấy, nhưng chưa quen việc, có lôi kéo được hắn cũng chẳng ăn thua gì. Mợ Cả thì hiền như bụt, không làm được việc. Cô Hai lại càng không được, và cũng không phải là người trong nhà này. Cô Tư thì còn bé, Anh Lan và cậu Hoàn thì như con mèo nhỏ gặp trời lạnh chỉ chờ có bếp lửa là chui vào sưởi thôi. Thực là cùng một bụng mẹ đẻ ra, mà hai đứa con lại khác nhau một trời một vực! Nghĩ đến, ta càng không hiểu. Cô Lâm và cô Bảo thì khá đấy, nhưng đều là họ ngoại, không tiện trông coi việc nhà. Vả chăng một người như cái đèn mỹ nhân, gió thổi một cái là tắt, một người thì giữ gìn ý tứ, không phải việc của mình không bao giờ chịu hé răng, hỏi điều gì cứ nguây nguẩy lắc đầu. Như thế cũng khó mà bàn với cô ta được. Chỉ còn một mình cô Ba là khá cả trong lẫn ngoài, lại chính là người nhà này, bà lại rất thương cô ấy, chỉ vì dì Triệu hay sinh chuyện, nên bề ngoài bà có vẻ hững hờ, nhưng trong bụng lúc nào cũng thương yêu như Bảo Ngọc. Chứ không giống em Hoàn, chẳng ai thương được. Cứ ý ta thì đã đuổi nó bước đi từ lâu rồi. Nay cô ấy đã có ý định như thế, cũng nên chung sức mà làm, có hai người giúp đỡ nhau, ta không đến nỗi lẻ loi nữa. Theo lẽ phải và lương tâm mà nói, đã có cô ấy giúp, chúng ta càng đỡ phải lo nghĩ và cũng có lợi cho bà. Kể ra về mặt tâm tư nham hiểm, bấy lâu nay ta đã quá cay nghiệt, bây giờ cũng nên lùi bước nhìn lại xem, cứ khắc khổ mãi, để cho mọi người căm giận, ngoài miệng họ cười, nhưng trong bụng họ chứa đầy dao găm, mà hai người chúng ta chỉ có bốn con mắt và hai quả tim, có lúc không kịp đề phòng sẽ hỏng việc mất. Nhân lúc thuận chiều này, cô ấy đứng ra trông coi công việc, mọi người sẽ dẹp quên những nỗi tức giận ngày trước đối với chúng ta. Còn một việc nữa, tuy ta biết chị rất hiểu việc nhưng chỉ sợ trong lòng chị chưa dứt khoát, nay ta dặn chị, cô ấy tuy là tiểu thư, nhưng việc gì cũng hiểu thấu, ăn nói biết giữ gìn, lại là người có học. Như vậy cô ấy sẽ ghê gớm hơn ta. Tục ngữ nói: “Bắt giặc phải bắt tướng”. Muốn ra oai lần đầu, nhất định cô ấy phải kể đến ta trước. Nếu cô ấy có bác bỏ công việc gì của ta, chị cũng không nên cãi lại, cứ lễ phép nói rằng bác như thế mới phải. Nhất thiết đừng sợ ta mất thể diện mà chống lại cô ấy thì không hay đâu.
Bình Nhi không đợi Phượng Thư nói hết, cười nói:
- Chị xem người hồ đồ quá! Tôi làm trước rồi, bây giờ chị mới dặn!
- Ta sợ chị chỉ hiềm có ta, không biết đến ai, nên phải dặn thế; nếu đã biết trước, thì chị lại sáng suốt hơn ta đấy. Nhưng chị lại nóng rồi, sao cứ luôn mồm “chị chị” “tôi tôi” như vậy?
- Cứ gọi là “chị” đấy! Không bằng lòng thì mặt đây tát đi! Ai bảo là cái mặt này chưa từng bị tát hao giờ?
- Đồ ranh con này, định nhắc lại việc cũ đã từ bao giờ mới thôi? Xem ta ốm như thế này mà lại còn trêu tức à! Thôi, lại đây ngồi xuống, gặp lúc không có ai đến, chúng ta nên cùng ngồi ăn một chỗ.
Bọn Phong Nhi ba, bốn đứa mang cái làn nhỏ đến. Phượng Thư chỉ ăn cháo yến sào và hai đĩa đồ ăn ngon. Vì phần ăn hàng ngày đã rút bớt, Phong Nhi mang bốn món ăn của Bình Nhi bày lên bàn và xới cơm. Bình Nhi quỳ một chân lên mép giường, một chân đứng ở dưới, cùng Phượng Thư ăn cơm. Bình Nhi hầu Phượng Thư súc miệng xong, dặn dò Phong Nhi mấy câu rồi sang bên Thám Xuân. Đến nơi, thấy trong nhà im lặng, mọi người đã đi cả.
Hồi thứ năm mươi sáu
Thám Xuân thông thạo, tìm mối lợi bỏ hẳn lệ xưa;
Bảo Thoa khôn ngoan, ra ơn nhỏ giữ gìn thể thống.
Bình Nhi hầu Phượng Thư ăn cơm súc miệng rửa tay xong mới đến đằng Thám Xuân, thấy ngoài sân im lặng chỉ có mấy bà già và a hoàn đứng bên cửa sổ chực hầu, đang bàn việc nhà, việc ngày tết đến uống rượu ở vườn nhà Lại Đại. Thấy Bình Nhi đến, Thám Xuân bảo ngồi xuống ghế thấp và nói:
- Có chuyện gì đâu. Nhân nghĩ đến việc chúng ta tiêu mỗi tháng hai lạng bạc, bọn a hoàn cũng đã có tiền lương tháng, thế mà hôm trước lại có người trình mỗi tháng chi hai lạng bạc cho mỗi người về tiền phấn sáp nữa. Số tiền này chẳng khác tám lạng bạc tiền học vậy, cứ chồng chất mãi lên. Việc này tuy nhỏ nhưng số tiền có chừng, xem ra chi tiêu như thế là không đúng, tại sao mợ chị không nghĩ đến việc ấy?
Bình Nhi cười nói:
- Việc ấy cũng có duyên cớ. Những thứ các cô dùng đã có lệ định sẵn, mỗi tháng các nơi phải mua đủ, bảo bọn đàn bà đưa đến cho chúng tôi giữ, chẳng qua chúng tôi chỉ sắp cho các cô dùng thôi. Chứ không phải hàng ngày nhận tiền rồi sai người đi mua. Vì thế mãi biện bên ngoài lĩnh tiền cả, rồi hàng tháng sai người theo các phòng giao cho chúng tôi. Số tiền hai lạng hàng tháng của các cô, không phải để mua những thứ ấy đâu, mà cốt để phòng khi các bà các mợ trông nom việc nhà đi vắng, hoặc bận việc, mà các cô dùng ngay đến tiền, thì đỡ phải sai người đi lấy. Làm như thế cốt để cho các cô khỏi phiền đấy thôi. Đủ biết số tiền này không phải để mua những thứ đó. Nhưng nay tôi để ý xem ra thì phần nhiều chị em ở các nhà đều lấy tiền đi mua các thứ. Tôi ngờ rằng, không phải bọn mãi biện ăn bớt hoặc để chậm ngày giờ, thì cũng chuốc lấy của xấu, nhuế nhóa cho xong chuyện.
Thám Xuân và Lý Hoàn đều cười nói:
- Chị cũng để ý thấy rõ việc ấy à? Việc ăn bớt chưa chắc có, chỉ là để chậm thì giờ thôi. Khi nào giục gấp, họ đem ở đâu về đều là những thứ có tên thôi, thực ra chẳng dùng gì được. Rồi vẫn phải lấy hai lạng bạc, sai con em các bà vú đi mua thứ khác về dùng. Người trong phủ đi bao giờ cũng vẫn mua phải hàng xấu, không biết họ làm ăn ra sao? Cứ cửa hàng bên ngoài bỏ đi là họ vác về cho chúng ta dùng.
Bình Nhi cười nói:
- Bọn mãi biện đi mua là cứ thế mãi. Người khác có mua được hàng tốt, thì họ lại không chịu, cứ bảo là người ta xấu bụng muốn tranh chức mãi biện của mình. Vì vậy ai nấy thà chịu lỗi với các mợ các cô, chứ không dám làm mất lòng họ. Chỉ khi nào các cô sai vú già đi mua, họ mới không dám lời ra tiếng vào.
Thám Xuân nói:
- Vì thế trong bụng tôi vẫn áy náy. Phải tiêu phí hai lần tiền mà đồ dùng vẫn vất đi một nửa, chi bằng bỏ cái khoản đưa bọn mãi biện mua ấy đi. Đó là việc thứ nhất. Việc thứ hai, năm ngoái chị cũng đi dự tiệc nhà Lại Đại đấy, chị xem vườn nhà ấy so với vườn nhà ta như thế nào?
- Không bằng một nửa vườn nhà, cây cối hoa quả cũng ít.
- Nhân lúc ta nói chuyện với lũ con gái nhà ấy, họ nói vườn ấy trừ số hoa để cài và măng rau, tôm cá để nhà ăn ra, còn cho người thầu. Một năm cũng thừa được hai trăm lạng. Từ hôm đó ta mới biết từ cái lá sen rách, cái rễ cỏ khô cũng đều đáng tiền cả.
Bảo Thoa cười nói:
- Thực là chuyện của con nhà phú quý! Các cô tuy là tiểu thư nghìn vàng, xưa nay không biết đến việc ấy, nhưng đã là người đọc sách biết chữ, lại không đọc đến thiên “bất tự khí”(1) của ông Chu Tử hay sao?
Thám Xuân cười nói:
- Đã đọc rồi, nhưng chẳng qua là lời nói phù phiếm, khuyên người ta phải cố gắng chứ có gì là thực tế?
Bảo Thoa nói:
- Ông Chu Tử mà là người phù phiếm à? Câu nói nào cũng sát thực tế đó. Cô mới nhận việc có mấy hôm mà lòng đã mê muội về lợi, cho ông Chu Tử là người phù phiếm. Nếu cô đi ra ngoài, thấy nhiều việc lợi hại lớn hơn nữa, có lẽ đến cả ông Khổng Tử cô cũng cho là người phù phiếm hết!
Thám Xuân cười nói:
- Chị là người thông thái như thế lại chưa xem sách Cơ Tử(2) à? Sách có nói: “Bước vào vòng lợi lộc, ở vào địa vị bàn mưu tính kế, thì quên hẳn lời Nghiêu, Thuấn, trái hẳn đạo Khổng, Mạnh”.
- Dưới còn câu gì nữa?
- Đây tôi chỉ cắt câu văn để lấy ý thôi. Nếu đọc xuống câu dưới thì chăng hóa ra lại tự mắng tôi à?
- Trên đời cái gì mà không dùng được, đã dùng được phải đáng tiền chứ. Khen cho cô là người thông minh, ngay những việc to tát, sờ sờ ra đấy, vẫn chưa từng trải.
Lý Hoàn cười nói:
- Bảo người ta đến, chẳng nói gì việc chính, lại mang học vấn ra cãi vã nhau.
Bảo Thoa nói:
- Trong học vấn tức là việc chính đấy. Nếu không nói đến học vấn thành ra sa vào hạng tục mất.
Ba người nói đùa một lúc rồi mới bàn đến việc chính.
Thám Xuân nói tiếp:
- Vườn của chúng ta rộng gấp đôi vườn nhà Lại Đại, cứ tính gấp đôi thôi, một năm cũng có thể được lợi bốn trăm bạc. Bây giờ cho người thầu, bủn xỉn quá, nhà chúng ta không đáng làm như vậy; nhưng không giao hẳn cho vài người trông nom, thì thững thứ đáng tiền bị hủy hoại đi, sẽ bỏ phí của trời. Chi bằng chọn mấy bà già thực thà ở trong vườn, biết việc trồng trái, cho họ đứng lên trông coi. Không bắt họ nộp tô nộp thuế, chỉ mỗi năm biếu xén ít nhiều gì đó. Làm như thế, một là trong vườn có người chuyên trách, sửa sang cây cối, mỗi năm một tốt hơn lên, không phải chờ đến lúc có việc mới cuống cuồng vội vã; hai là hoa màu không đến nỗi bị hủy hoại phí của; ba là bọn bà già được nhờ đấy mà kiếm ít tiền, cũng bỏ cái công vất vả trông nom vườn tược hàng năm; bốn là bớt được những món tiền thuê người sửa hoa, sửa núi, quét dọn. Đem chỗ thừa bù vào chỗ thiếu, như thế cũng được đấy.
Bảo Thoa đương đứng xem bức tranh trên vách, nghe vậy, gật đầu cười nói:
- Hay thật! Như thế thì “trong ba năm chẳng còn ai đói khát nữa.”(3)
Lý Hoàn nói:
- Nghĩ hay đấy! Nếu làm được thế, chắc chắn bà cũng vui lòng. Sự bớt tiêu là việc nhỏ, nhưng trong vườn có người chuyên trách, quét dọn, lại được món tiền, tức là lấy quyền sai khiến, lấy lợi thúc giục, thì ai mà chẳng hết lòng làm việc.
Bình Nhi nói:
- Việc này chỉ cô là có thể nói được thôi. Mợ tôi tuy cũng muốn đấy, nhưng chưa chắc đã chịu ngỏ lời. Hiện giờ các cô đương ở cả trong vườn, đã không bày thêm được trò chơi để giúp vui lại còn sai người đến trông nom sửa sang, mong đỡ tốn tiền, nhất định mợ tôi không tiện nói ra.
Bảo Thoa chạy lại sờ vào mặt Bình Nhi, cười nói:
- Chị há mồm ra cho tôi xem lưỡi răng chị thế nào? Từ sáng đến giờ, cứ mỗi việc chị nói một giọng, không nịnh hót cô Ba, cũng không nói là mợ chị vụng tính. Hễ cô Ba nói một câu, chị lại có một câu đỡ ngay. Cứ việc gì cô Ba nghĩ được, là mợ chị cũng đã nghĩ đến rồi, nhưng chỉ vì có một nhẽ riêng không thể làm được thôi. Bây giờ lại nói là các cô ở trong vườn, không tiện vì sự bớt tiêu mà sai người đến trông nom. Chị em thử nghĩ câu nói ấy xem, nếu thực cho người ta trông nom để lấy tiền, thì ngay một cành hoa, một thứ quả, người ta cũng không cho động chạm đến. Về phần các cô, chắc cũng không ai dám nói gì, nhưng với các cô bé, sợ hàng ngày không khỏi sinh chuyện eo sèo với nhau. Chị ấy biết lo gần lo xa, không chống lại người ta, cũng không tự hạ mình, dù mợ chị ấy không tốt với chúng ta, nay nghe thấy tất nhiên phải xấu hổ mà ăn ở cho tốt, không bằng lòng cũng phải bằng lòng.
Thám Xuân cười nói:
- Sáng hôm nay tôi đang bực mình, nghe chị ấy đến, tôi nghĩ ngay đến chủ chị ấy ngày thường trông nom việc nhà để bọn người hầu lộng hành quen thân, nên lại càng bực thêm. Ngờ đâu chị ấy vào đến nơi, len lét như chuột sợ mèo đứng hầu hàng giờ, thực là đáng thương, rồi lại nói những câu như thế. Chủ chị ấy đối với tôi đã tử tế, chị ấy lại còn nói “không phụ tình nghĩa xưa nay cô đối với mợ tôi!” Nghe câu nói ấy, tôi không những hết giận mà lại còn xấu hổ và đau lòng nữa. Tôi nghĩ kỹ: mình là con gái, đương bực không có người đoái thương, thì còn có gì hay mà đối xử tử tế với người ta nữa?
Nói đến đây, Thám Xuân nước mắt chảy ròng ròng.
Lý Hoàn thấy Thám Xuân nói thiết tha như thế, lại nghĩ đến dì Triệu ngày thường sỉ vả cô ta, và ngay ở trước mặt Vương phu nhân cũng vì dì Triệu mà cô ta phải lụy lây, nên chảy nước mắt, liền khuyên:
- Nhân hôm nay vắng vẻ, chúng ta cùng bàn vài việc, làm thế nào thêm lợi bớt hại, để khỏi phụ lòng ủy thác của bà. Cô nhắc đến những việc không cần thiết ra làm gì.
Bình Nhi nói:
- Tôi đã hiểu rồi. Cô xem ai giỏi thì giao cho người ta đến trông nom là được.
Thám Xuân nói:
- Tuy thế, nhưng cũng phải về trình mợ chị trước đã. Ở đây chúng ta tìm tòi những món lợi nhỏ là không đúng, nhưng vì mợ chị là người hiểu việc nên mới làm như thế; nếu là một người hồ đồ hay ngờ vực ghen ghét, thì tôi không làm đâu, sẽ mang tiếng là tranh khôn, lẽ nào lại không bàn trước với mợ chị.
Bình Nhi cười nói:
- Đã thế để tôi về nói với mợ tôi.
Đi một lúc, Bình Nhi trở lại, cười nói:
- Tôi đã bảo là đi chỉ tốn công thôi. Việc hay như thế lẽ nào mợ tôi lại không bằng lòng!
Thám Xuân nghe nói, liền cùng Lý Hoàn sai người đem danh sách các bà già trong vườn đến xem. Hai người tính xong, chấm được mấy người. Rồi gọi họ đến, Lý Hoàn nói qua cho họ nghe. Ai nấy đều vui mừng. Có người nói:
- Cái rặng tre ấy cứ giao cho tôi sửa sang, một năm trừ măng ở trong nhà ăn rồi, còn có thể nộp thêm một số tiền nữa.
Người khác lại nói:
- Cái thửa đất trồng lúa kia xin giao cho tôi, hàng năm thóc gạo nuôi chim không phải lấy tiền ở trong phủ, tôi còn có thể nộp thêm một số tiền nữa.
Thám Xuân đang muốn nói, thì có người vào trình:
- Thầy thuốc đã vào vườn thăm cho cô Sử.
Bọn bà già ra đón, Bình Nhi liền nói:
- Chỉ miệng các bà thôi, thì một trăm người cũng không được trang trọng, sao không gọi vài người coi việc đi đón?
Người trình việc nói:
- Có bà Ngô và bà Đan đang chờ đón ở ngoài cửa Tụ Cẩm về phía tây nam rồi.
Bình Nhi thấy thế mới thôi.
Các bà đi rồi. Thám Xuân hỏi: “Việc ấy thế nào?” Bảo Thoa cười nói:
- Người nào trước trót lọt sau tất trễ nải, người khéo nói tất là hám lợi.
Thám Xuân gật đầu khen phải, liền trỏ mấy người ở trong danh sách cho Lý Hoàn, Bảo Thoa và Bình Nhi xem. Bình Nhi vội mang giấy bút đến. Ba người nói:
- Già Chúc là người đứng đắn, vả chăng chồng con bà ấy đời đời đều trông nom việc sửa sang rặng tre. Bây giờ nên giao cả việc này cho bà ấy. Già Điền vốn là nhà làm ruộng, bao nhiêu lúa má rau cỏ ở Đạo Hương thôn, tuy để làm cảnh chơi, không cần phải bày biện nhiều lắm, nhưng nếu có bà ấy theo thời tiết chăm bón cẩn thận, thì chẳng hơn hay sao?
Thám Xuân lại cười nói:
- Tiếc rằng Hành Vu Uyển và viện Di Hồng, đất đai rộng thế mà chẳng có thứ gì đáng tiền!
Lý Hoàn cười nói:
- Hành Vu Uyển lại càng quan trọng hơn! Hiện giờ những hoa thơm cỏ thơm bán ở hiệu hàng hương, ở các chợ và các đền miếu, chẳng phải đều là những thứ ở trong đây hay sao? Tính ra, ở đấy lại càng thu được nhiều lợi hơn! Trong viện Di Hồng, không kể các thứ, chỉ riêng hoa hồng, hai mùa xuân hạ cũng có tới bao nhiêu bông! Lại còn các thứ hoa tường vi, nguyệt quý, bảo tường, kim ngân, đằng hoa ở chung quanh hàng rào, hái về phơi khô rồi bán cho hiệu chè, hiệu thuốc cũng được khá nhiều tiền đấy.
Thám Xuân cười, rồi gật đầu nói:
- Mẹ chị Oanh Nhi hầu cô Bảo biết hái đấy. Dạo trước bà ấy hái ít hoa về phơi khô, tết thành lẵng hoa, bầu rượu đem cho tôi chơi. Cô đã quên rồi à?
Bảo Thoa cười nói:
- Tôi vừa mới khen chị, giờ chị lại trêu chọc tôi.
Ba người đều lấy làm lạ hỏi:
- Thế là thế nào?
Bảo Thoa nói:
- Không thể làm thế được. Bên nhà các chị còn bao nhiêu là người thạo việc, lại nhàn rỗi chẳng làm lụng gì cả. Bây giờ tôi mà đưa người đến, tất nhiên họ sẽ coi thường. Tôi đã nghĩ hộ cho các chị một người. Bên viện Di Hồng có già Diệp là mẹ Dính Yên, bà ấy thực thà lắm, lại chơi thân với mẹ Oanh Nhi bên nhà tôi. Chi bằng giao việc này cho già Diệp, có điều gì bà ấy không biết, thì không cần chúng ta phải nhắc, bà ấy cứ đến bàn bạc với mẹ Oanh Nhi là được rồi. Nếu già Diệp không làm, mà giao cho người khác, thì đó là tùy tình riêng của họ, người ngoài có ai muốn nói nhảm gì cũng không thể oán chúng ta được. Làm như thế các chị được tiếng công bằng, lại thêm chạy việc.
Lý Hoàn và Bình Nhi đều nói: “Phải đấy”.
Thám Xuân cười nói:
- Dù thế, nhưng cũng còn sợ họ thấy lợi quên mất cả lẽ phải.
Bình Nhi cười nói:
- Không việc gì đâu. Hôm nọ Oanh Nhi còn nhận già Diệp làm mẹ nuôi, mời ăn mời uống, hai nhà đối đãi với nhau rất tử tế.
Thám Xuân nghe nói thế mới thôi. Họ lại bàn định với nhau chọn thêm mấy người nữa, đều là những người đã được chú ý từ trước, rồi lấy bút khuyên tên.
Một lúc sau, bà già vào trình “thầy thuốc đã về rồi” và đưa đơn thuốc lên. Ba người xem xong, sai người đưa ra ngoài lấy thuốc sắc cho Tương Vân uống. Thám Xuân, Lý Hoàn bảo cho mọi người biết:
- Người nào coi giữ chỗ nào, cứ theo mùa nào thức ấy trừ số trong nhà để dùng không kể, còn thì cho bán lấy lợi, cuối năm sẽ tính sổ.
Thám Xuân cười nói:
- Tôi lại nghĩ ra một việc: nếu cuối năm tính sổ, tất phải nộp tiền ở phòng thu chi, lại thêm một người giữ. Món tiền đã lọt vào tay họ, sẽ lại bị bớt xén một lần nữa. Bây giờ tôi nghĩ ra việc này, giao cho các bà, không qua tay bọn quản gia. Dù họ tức đấy nhưng cũng không dám nói. Đến cuối năm, các bà phải nạp tiền cho họ, chờ gì họ chẳng giở lối mè nheo? Vả chăng trong một năm bất cứ việc vì, chủ được một phần, họ cũng vớ nửa phần, đó là lệ cũ xưa nay ai cũng biết cả, ấy là chưa kể đến chỗ ăn vụng ăn trộm. Bây giờ việc trong vườn này là do chúng ta đặt ra, chứ không phải qua tay họ, thì hàng năm cứ nộp tiền vào nhà trong mới phải.
Bảo Thoa cười nói:
- Cứ ý tôi, nhà trong cũng không cần phải thu tiền, vì thu người này nhiều, người kia ít, lại thêm bận ra. Chi bằng hỏi họ xem ai nhận phần nào thì phải đứng ra gánh lấy một việc gì đó, chẳng qua cũng chỉ là những việc của các người ở trong vườn cần dùng thôi. Tôi tính hộ các chị em phải tiêu những món gì. Quanh quẩn cũng chỉ có mấy món như phấn, sáp, hương, giấy. Mỗi cô có mấy người hầu đều có lệ định sẵn; ngoài ra thì chổi quét, thúng hót rác, phất trần và đồ ăn của chim, hươu, thỏ trong các nhà. Những thứ này họ phải nhận hết, không phải ra lĩnh tiền ở phòng thu chi nữa. Chị thử tính xem, như thế đỡ được bao nhiêu?
Bình Nhi cười nói:
- Tuy mấy việc nhỏ mọn ấy, nhưng tính cả năm cũng đỡ được hơn bốn trăm lạng bạc đấy.
Bảo Thoa cười:
- Còn phải nói nữa! Một năm bốn trăm lạng, hai năm tám trăm lạng, cũng có thể thừa mua mấy gian nhà cho thuê, hay mấy mẫu ruộng xấu đấy, nhưng họ khó nhọc cả năm cũng nên cho họ kiếm ít lời để tiêu riêng việc nhà chứ! Chúng ta cốt để thêm món lợi, bớt tiêu phí, nhưng cũng không nên làm quá, bớt được vài trăm lạng bạc mà mất thể thống thì cũng không đúng. Vì thế làm việc này, phòng thu chi bên ngoài một năm đỡ phải tiêu tốn, năm trăm lạng bạc, cũng đỡ phần chật vật, mà những người ở bên trong và các bà già trước đây không có việc làm cũng sẽ kiếm được tý chút. Cây cối trong vườn mỗi năm cũng được tốt tươi thêm lên. Các chị cũng có các thức mà dùng, như thế không đến nỗi mất thể thống. Nếu chỉ vì bớt tiêu thôi, thì kiếm đâu mà chẳng ra tiền? Hễ có được món lợi gì cũng nộp vào của công cả, có lẽ cả trong lẫn ngoài, họ sẽ oán trách ầm lên, như thế chẳng mất thể thống của nhà các chị hay sao? Vả lại trong vườn này có mấy chục bà già, mà chỉ cho mấy người này, tất nhiên người khác sẽ oán trách là không công bằng. Như tôi nói lúc nãy, họ phải nộp có mấy thứ thôi, kể cũng rộng rãi đấy. Hằng năm trừ những thứ ấy ra, mỗi người thừa thiếu mặc, đều phải bỏ ra mấy quan tiền, rồi góp cả lại, đem chia đều cho các bà già ở trong vườn. Những người này tuy không trông nom việc ấy thật, nhưng ngày đêm họ đều phải hầu hạ ở trong vườn, phải đóng cửa, mở cửa, thức khuya dậy sớm, khi mưa khi tuyết, các cô đi đâu họ phải khiêng kiệu, chèo thuyền, kéo xe đi tuyết, bao nhiêu việc khó nhọc, họ đều phải cáng đáng cả. Quanh năm họ chịu vất vả, nay trong vườn có món lợi, thì cũng phải cho họ được nhờ tý chút. Lại còn một chuyện rất nhỏ cũng cần nói toạc ra: các bà này chỉ biết vơ phần nhiều về mình, không chịu chia cho ai. Dù ngoài mặt chẳng ai dám nói ra, nhưng trong bụng họ sẽ không phục. Họ sẽ mượn việc công để làm việc tư, ngắt ít quả bẻ ít hoa, chắc các bà kia cũng chẳng kêu vào đâu được. Nay họ cũng được hưởng lợi một ít, thì chỗ nào các bà kia không trông nom xuể, sẽ có họ trông nom hộ.
Các bà già nghe thấy bàn định như thế, đã không bị phòng thu chi cai quản, lại không phải tính sổ với Phượng Thư, một năm chỉ phải bỏ ra mấy quan tiền thôi, họ đều vui vẻ nói:
- Chúng tôi bằng lòng! Như thế còn hơn là bị họ giày vò mà vẫn phải bỏ tiền ra nộp!
Những người không được trông nom vườn, thấy nói hàng năm không phải làm cũng được hưởng ít tiền, đều vui vẻ nói:
- Các bà kia làm lụng vất cả, đáng được món tiền để tiêu pha, chứ chúng tôi có làm gì đâu mà lại ngồi không hưởng lợi!
Bảo Thoa cười nói:
- Các bà không nên từ chối, đây là phần của các bà đáng hưởng. Chỉ cần các bà ngày đêm chịu khó đừng lười, đừng để mặc cho người ta uống rượu đánh bạc, thế là được rồi. Tôi cũng không muốn nhận trông nom việc này đâu, nhưng chắc các bà cũng đã biết, dì tôi phó thác tôi năm, bảy lần, và bảo: bây giờ mợ Cả thì bận, các cô hãy còn bé, nhờ tôi trông nom giúp. Tôi không nghe lời lại làm dì tôi bận lòng. Mẹ tôi hay ốm luôn, việc nhà lại bận, tôi vốn là người sốt sắng hão, ngay hàng xóm láng giềng có việc cần tôi cũng đến giúp đỡ huống chi là dì tôi ủy thác! Ai oán trách tôi cũng chẳng cần. Nếu chỉ cốt lấy tiếng khen, để họ rượu chè cờ bạc, sinh chuyện lôi thôi, thì tôi còn mặt mũi nào trông thấy dì tôi nữa? Khi đó ngay các bà cũng mất thể diện, có ăn năn cũng muộn. Các cô ở trong ấy, cái vườn hoa rộng ấy, đều nhờ các bà trông nom cả, vì tôi coi các bà là người hầu hạ đã ba, bốn đời, xưa nay vẫn giữ được khuôn phép, thì mọi người nên đồng lòng cùng nhau giữ lấy thể thống. Nếu các bà lại dung túng người khác, để mặc họ uống rượu đánh bạc, dì tôi nghe thấy, mắng bảo các bà còn khá, chứ đến tai mấy người quản gia, họ không cần trình dì tôi, cứ mắng thẳng các bà, chẳng hóa ra già không trót, vẫn bị bọn trẻ lên mặt dạy đời. Họ là quản gia, có quyền trông nom các bà thực, nhưng nếu mình giữ thể diện thì họ khinh rẻ sao được? Vì thế tôi nghĩ hộ các bà cách kiếm lời thêm, cũng muốn cho mọi người hết lòng cẩn thận trông nom cái vườn được chu tất, để những người coi việc, thấy cách sắp đặt cẩn thận chu đáo, họ không phải bận lòng đến, trong bụng lại chẳng kính phục hay sao! Như thế mới không phụ lòng tôi tính toán những việc có lợi cho các bà. Các bà nên nghĩ kỹ những lời tôi nói.
Mọi người đều vui vẻ thưa:
- Cô nói phải lắm. Từ nay các mợ các cô cứ yên tâm. Các mợ các cô có lòng thương đến chúng tôi như thế, nếu chúng tôi không thể tất lòng trên, thì trời đất cũng không dung.
Chợt vợ Lâm Chí Hiếu đến trình:
- Gia quyến bên phủ Chân ở Giang Nam đến kinh đô, vào cung triều hạ, hiện sai người mang lễ đến thăm.
Nói xong liền đưa tờ giấp kê đồ lễ lên. Thám Xuân cầm lấy xem: mười hai tấm đoạn thêu, mười hai tấm đoạn các thứ, mười hai tấm the các màu, mười hai tấm lụa, tất cả đều là đồ vua dùng. Hai mươi bốn tấm the đoạn, lụa các màu trong cung dùng.
Xem xong, Lý Hoàn và Thám Xuân nói:
- Thưởng cho họ phong bao(4) hạng nhất.
Rồi lại sai người đến trình Giả mẫu. Giả mẫu cho gọi Lý Hoàn, Thám Xuân, Bảo Thoa đến xem qua lễ vật. Lý Hoàn xếp cả vào một bên, dặn người giữ kho:
- Chờ bà Hai về xem rồi mới được cất đi.
Giả mẫu liền nói:
- Nhà họ Chân không như nhà khác đâu. Đã thưởng phong bao hạng nhất cho bọn đàn ông rồi, sợ chốc nữa họ lại sai bọn đàn bà đến hỏi thăm đấy, phải sắp sẵn phần thưởng.
Chưa nói dứt lời, đã có người vào trình: “Bốn người đàn bà ở phủ Chân đến hỏi thăm”. Giả mẫu sai người dẫn vào. Bốn người này trạc ngoài bốn mươi, ăn mặc chẳng khác bà chủ mấy. Chào hỏi xong, Giả mẫu sai lấy bốn cái ghế thấp cho họ ngồi. Bọn người tạ ơn, chờ bọn Bảo Thoa ngồi rồi mới dám ngồi. Giả mẫu hỏi:
- Đến Kinh từ bao giờ?
Bốn người đứng dậy trình:
- Hôm qua vào Kinh, hôm nay bà tôi dẫn cô Ba vào cung “thỉnh an”(5), vì thế sai chúng tôi đến hầu cụ và hỏi thăm các cô.
- Mấy năm nay không thấy bà nhà vào Kinh, không ngờ bây giờ lại vào.
- Vâng, năm nay có chiếu chỉ gọi vào.
- Gia quyến vào cả à?
- Cụ bà, cậu cả, hai vị tiểu thư cùng các vị lệnh bà đều không ai vào, chỉ có một mình bà tôi dẫn cô Ba vào thôi.
- Cô ấy đã có người hỏi chưa?
- Chưa có.
- Cô Cả và cô Hai nhà các chị rất thân với nhà ta.
- Vâng. Hàng năm các cô viết thư về, nói vẫn nhờ quý phủ chăm sóc.
- Có gì là “chăm sóc”? Vừa là bạn thân, lại là họ hàng, tất phải như thế chứ. Cô Hai nhà các chị cũng tốt, tính nết nhũn nhặn, vì thế chúng ta mới đi lại thân mật luôn.
- Đó là cụ nói nhũn đấy.
- Cậu Cả các người cũng ở với cụ nhà à?
- Vâng ạ.
- Năm nay cậu ấy bao nhiêu tuổi rồi? Đã đi học chưa?
- Năm nay cậu ấy mười ba tuổi. Người vốn xinh xắn, nên cụ chúng tôi rất thương, từ bé tính bướng bỉnh, ngày nào cũng trốn học, ông bà chúng tôi không tiện quở mắng lắm.
- Cũng không phải như thằng cháu ta ở đây chứ? Cậu ấy tên là gì?
- Cụ chúng tôi quý cậu ấy như ngọc, lại người trắng trẻo, nên đặt tên là Bảo Ngọc.
Giả mẫu ngoảnh vào Lý Hoàn, cười nói:
- Thế ra cũng gọi là Bảo Ngọc?
Bọn Lý Hoàn vội khép nép cười:
- Từ xưa đến nay, hoặc đồng thời hay khác đời, có rất nhiều người trùng tên.
Bốn người cười nói:
- Khi đặt tên cậu ấy, chúng tôi trên dưới ai cũng ngờ ngợ, hình như có một nhà bạn thân nào cũng có người đặt tên như thế, chỉ vì đã mười năm nay không vào kinh, nên không nhớ rõ được.
Giả mẫu cười nói:
- Cháu ta đấy. Ai vào đây ta bảo.
Bọn đàn bà và a hoàn vâng lời đến gần mấy bước. Giả mẫu cười nói:
- Vào trong vườn gọi cậu Bảo Ngọc nhà ra đây, để cho bốn bà xem cậu Bảo này có bằng cậu Bảo nhà họ không.
Bọn bà già đi, một lúc đưa Bảo Ngọc đến. Bốn người trông thấy, đứng dậy cười nói:
- Làm cho chúng tôi giật nảy mình lên! Nếu chúng tôi không vào trong phủ này mà lại gặp ở chỗ khác, thì cho ngay là cậu Bảo nhà chúng tôi cũng theo vào Kinh đấy!
Họ đến kéo tay Bảo Ngọc, hỏi vắn hỏi dài. Bảo Ngọc cũng cười hỏi thăm họ. Giả mẫu cười nói:
- So với cậu nhà các người thế nào?
Lý Hoàn cười nói:
- Cứ theo như bốn bà này vừa mới nói, thì chắc hình dáng hai cậu giống nhau.
Giả mẫu cười nói:
- Đâu lại có việc khéo thế? Những trẻ con các nhà đại gia mới đẻ ra đã xinh đẹp, trừ những người trên mặt có tàn tật xấu lắm không kể, còn thì trông cũng xinh xắn cả, việc ấy cũng không có gì là lạ.
Bốn người cười nói:
- Giờ xem ra hình dáng hai cậu giống nhau, và theo cụ vừa nói, thì tính khí bướng bỉnh cũng giống nhau. Nhưng theo chúng tôi thì cậu đây tốt nết hơn cậu nhà chúng tôi đấy.
Giả mẫu cười nói:
- Thế nào?
- Vừa rồi chúng tôi kéo tay cậu ấy nói chuyện cũng đủ biết. Chứ cậu bên nhà chúng tôi thì đã cho chúng tôi sỗ sàng rồi. Đừng nói là kéo tay, ngay từ đồ dùng, chúng tôi động đến một tý là cậu ấy đã không bằng lòng. Những người cậu ấy sai bảo lại đều là bọn con gái cả.
Bốn người ấy chưa nói dứt lời, chị em Lý Hoàn đã không nhịn được, đều cười ầm lên. Giả mẫu cũng cười nói:
- Bây giờ chúng ta sai người đến thăm cậu Bảo nhà các người, nếu họ kéo tay cậu ấy, tất nhiên cậu ấy cũng phải cố nhịn. Chả cứ trẻ con nhà này hay bên ấy, dù chúng có bướng bỉnh ương gàn thế nào chăng nữa, khi gặp người lạ đến cũng phải giữ lễ phép đúng đắn. Dù đã không biết giữ lễ phép, cũng không khi nào để cho nó gàn bướng mãi được. Người lớn nuông chiều nó, cũng chỉ vì một là thấy nó có vẻ dễ coi, hai là nó biết giữ lễ phép hơn người lớn, ai trông thấy cũng phải yêu phải thương, nên mới chợp mắt bỏ qua, nuông chiều nó một chút. Nếu cứ một mực bất chấp kẻ quen người lạ, làm xấu mặt cả người lớn, thì dù xinh đến đâu cũng đáng đánh chết.
Bốn người đều cười nói:
- Cụ dạy phải lắm. Tuy cậu Bảo nhà chúng tôi tính nết ương gàn thật, nhưng khi có khách, cũng biết giữ lễ phép hơn cả người lớn, vì thế ai trông thấy cũng yêu, cứ bảo rằng: làm sao lại còn đánh cậu ấy? Có biết đâu khi ở nhà, cậu ấy coi trời bằng vung, cả gan dám nói những câu, dám làm những việc mà người lớn không hề dám nói, dám làm. Vì thế ông bà chúng tội giận lắm, nhưng cũng không biết làm thế nào. Trẻ con thì hay chơi bời lêu lổng, sợ phải đi học, những nết xấu ấy còn có thể sửa chữa được. Tệ nhất là cái tính ương gàn bướng bỉnh có ngay từ lúc mới lọt lòng, thì chịu làm sao cho được.
Chợt có người vào trình: “Bà Hai đã về”. Vương phu nhân vào hỏi thăm Giả mẫu, bốn người đứng chào, nói qua loa mấy câu chuyện. Giả mẫu bảo đi về nghỉ. Vương phu nhân dâng nước mời Giả mẫu rồi đi ra. Bốn người cũng cáo từ, đến chỗ Vương phu nhân nói chuyện việc nhà một lúc, rồi họ ra về.
Giả mẫu vui mừng, gặp ai cũng khoe: có một Bảo Ngọc nữa, hình dáng tính nết cũng như cháu ta. Mọi người đều nghĩ các nhà thế hoạn đại gia giống tên nhau cũng nhiều, bà nuông chiều cháu giai cũng là việc thường, chẳng có gì đáng lạ, nên cũng không để ý đến. Duy có Bảo Ngọc tính nết ngây thớ vẩn, cho là bốn người này nói thế để làm vui lòng Giả mẫu đấy thôi. Sau về trong vườn thăm bệnh Tương Vân. Tương Vân liền bảo:
- Thôi anh tha hồ mà đùa mà nghịch. Trước thì “một sợi không thành dây, một cây không thành rừng”, nay đã có bạn rồi. Cứ nghịch tràn đi, có bị đánh dữ thì lần đến với cái anh ở Nam Kinh kia.
Bảo Ngọc nói:
- Chuyện hoang đường mà cô cũng tin? Lại còn có Bảo Ngọc khác nữa à?
- Thế thì tại sao đời Liệt quốc có Lạn Tương Như, mà đời nhà Hán cũng có Tư Mã Tương Như.
- Cái ấy đã đành đi rồi, còn như hình dáng giống nhau như hệt thì làm gì có?
- Thế tại sao người nước Khuông trông thấy ông Khổng Tử lại cho là Dương Hóa?(6)
- Khổng Tử và Dương Hóa mặt giống nhưng tên khác; Lạn và Tư Mã tên giống nhưng mặt lại khác. Riêng tôi và hắn không lẽ lại giống cả mặt lẫn tên?
Tương Vân không biết trả lời thế nào, liền cười nói:
- Anh chỉ cãi bướng, tôi không nói với anh nữa. Có cũng mặc, không cũng mặc, chẳng việc gì đến tôi.
Nói xong Tương Vân đi nằm.
Bảo Ngọc đâm ra ngờ ngợ: “Nếu bảo là không thì hình như cũng có, nếu bảo có thì mắt mình lại chưa trông thấy”.
Trong bụng bứt rứt, về buồng nằm ngẫm nghĩ mãi, đâm ra ngủ mê, thấy mình đi vào trong một vườn hoa, Bảo Ngọc lấy làm lạ nói:
- Trừ vườn Đại Quan của chúng ta ra, còn có cái vườn nào đây?
Đương lúc ngờ ngợ, thấy có mấy đứa gái bé đi đến, đều là a hoàn cả. Bảo Ngọc lại lấy làm lạ nói:
- Trừ Uyên Ương, Tập Nhân, Bình Nhi ra, còn đám nào đây?
Bọn a hoàn đó cười nói:
- Sao cậu Bảo Ngọc lại đến đây?
Bảo Ngọc cho là nói mình, chạy lại cười nói:
- Ngẫu nhiên tôi đi chơi đến đây, không biết là vườn hoa của vị thế giao(7) nào. Nhờ các chị đưa tôi đi xem.
- Thì ra không phải là cậu Bảo nhà chúng mình! Trông hắn cũng sạch sẽ ăn nói lại lém lỉnh đấy.
- Thế ra trong nhà đây cũng lại có cậu Bảo Ngọc à?
- Cụ và bà nhà chúng tao đặt tên hai chữ “bảo ngọc” cho cậu chúng tao, cốt để giữ gìn cho cậu ấy được sống lâu và tránh hết tai nạn. Cậu ấy cũng thích cho chúng tao gọi tên. Mày là thằng bé con ở đâu đến đây, cũng dám gọi bậy! Giờ hồn không chúng tao đánh cho nát xác ra!
Lại một a hoàn khác cười nói:
- Thôi chúng ta về đi, đừng để cậu Bảo Ngọc trông thấy.
Lại nói:
- Nói chuyện với thằng bé con thối này làm chúng mình cũng thối lây!
Bảo Ngọc buồn rầu nói:
- Xưa nay chưa từng bị ai đối xử tệ bạc với mình, sao bọn này lại như thế? Không lẽ lại có một người như ta à?
Vừa nghĩ vừa tiện bước đi đến một ngôi nhà, Bảo Ngọc lấy làm lạ nói:
- Trừ viện Di Hồng ra, lại còn có một cái nhà như thế này à?
Rồi lên thềm, vào hẳn phía trong, thấy trên giường có một người nằm, bên cạnh có mấy đứa con gái đương thêu thùa, cười đùa với nhau. Người trẻ tuổi nằm ở trên giường thở dài một tiếng, một a hoàn cười hỏi:
- Cậu Bảo, sao không ngủ mà lại thở dài thế? Chắc là vì cô em đương yếu, cậu mới buồn bực vớ vẩn chứ gì?
Bảo Ngọc nghe nói, giật mình thấy người trẻ tuổi trên giường nói:
- Ta thấy cụ nói, trong kinh cũng có một anh Bảo Ngọc tính nết cũng giống ta, ta vẫn không tin. Nhưng vừa rồi ta nằm mê đi vào một cái vườn hoa to ở trong kinh, bỗng gặp mấy chị đều cho ta là thằng ranh con bẩn thỉu, không thèm nhìn đến. Ta tìm mãi mới đến được cái buồng của anh ấy, thấy anh ấy đương nằm ngủ, nhưng chỉ có cái xác thôi, còn hồn thì đi đâu rồi ấy.
Bảo Ngọc nói:
- Tôi vì đi tìm Bảo Ngọc mới đến đây, thế ra anh là Bảo Ngọc à?
Người nằm trên giường vội chạy xuống kéo tay, cười nói:
- Thế ra anh cũng là Bảo Ngọc? Phải chăng là giấc chiêm bao?
- Sao lại là chiêm bao? Thực lắm đấy chứ!
Hai bên chưa nói dứt lời, có người đến bảo:
- Ông gọi cậu Bảo đấy.
Hai người đều sợ cuống lên. Một Bảo Ngọc chạy đi, một Bảo Ngọc vội gọi giật lại: “Bảo Ngọc, mau về đây!” “Bảo Ngọc, mau về đây!”
Tập Nhân ngồi bên cạnh thấy Bảo Ngọc nằm mê, gọi tên mình, liền đánh thức dậy, cười hỏi:
- Bảo Ngọc ở đâu?
Bảo Ngọc đã tỉnh, nhưng tinh thần hãy còn bàng hoàng, liền trỏ ra ngoài cửa nói:
- Hắn vừa mới đi kia kìa.
- Thôi, cậu nằm mê rồi. Cậu thử dụi mắt nhìn kỹ xem, đó là bóng cậu ở trong cái gương đấy.
Bảo Ngọc nhìn lên, thì ra cái gương lớn sừng sững đứng trước mặt. Không nhịn được, Bảo Ngọc bật cười. Một a hoàn đã đem sẵn nước và ống nhổ đến cho Bảo Ngọc súc miệng.
Xạ Nguyệt nói:
- Không trách được, cụ thường bảo: nhà có trẻ con không nên treo nhiều gương, vì người còn bé chưa cứng vía, soi gương nhiều, khi ngủ tất sợ hãi nói mê. Bây giờ lại đem kê giường ngủ ở trước cái gương lớn, lúc nhớ buông cái màn che xuống còn khá, sau này trời càng nóng, càng mệt, thì còn nghĩ gì đến buông màn gương nữa? Vừa rồi cũng là vì quên buông màn gương xuống. Khi nằm trước gương chơi đùa với bóng rồi ngủ đi, thành ra hay mê mẩn nói nhảm; nếu không thì sao mình lại gọi tên mình? Chi bằng ngày mai dời giường đi chỗ khác thì hơn.
Bỗng Vương phu nhân sai người đến gọi Bảo Ngọc.
-----------------------------
1. Tức là Chu Hy, tên chữ là Trọng Hối, Hối Ông, Khảo Đình hay Chu Văn Công, là một nhà lý học đời Tống. Đời sau thường gọi là Khảo Đình học phái. Bất tự khí là không nên bỏ phí vật gì
2. Hình như tác giả bịa ra để cười cho vui, chứ không có người như thế.
3. Chữ trong sách Luận ngữ.
4. Tiền mừng tuổi, hoặc thưởng, ngoài gói bằng giấy đỏ.
5. Trong thời phong kiến, việc đến hỏi thăm vua chúa, hoàng hậu, hoặc quí tộc bậc cao, đều gọi là “thỉnh an”.
6. Trong sách Luận ngữ khi ông Khổng tử đến nước Khuông, người nước Khuông tưởng là Dương Hóa, liền đến vây lại.
7. Bạn thân với nhau, đời này đến đời khác.
Hồi thứ năm mươi bảy
Tử Quyên khôn ngoan, đặt chuyện thử lòng cậu Bảo;
Tiết Di hiền hậu, đem lời an ủi cô Lâm.
Vương phu nhân muốn dẫn Bảo Ngọc đến chào Chân phu nhân. Bảo Ngọc nghe nói, rất vui, vội thay quần áo, theo Vương phu nhân đi ngay. Thấy phong cảnh nhà họ Chân cũng chẳng khác phong cảnh phủ Vinh và phủ Ninh mấy, có một vài nơi còn lịch sự hơn. Hỏi kỹ ra, cũng có một cậu tên là Bảo Ngọc. Chân phu nhân giữ lại ăn cơm, hết ngày mới về. Bảo Ngọc vẫn chưa tin. Tối về nhà, Vương phu nhân bảo phải sắp tiệc thật long trọng, tìm một ban hát có tiếng để mời mẹ con Chân phu nhân đến dự. Hai hôm sau, mẹ con Chân phu nhân không kịp cáo từ, trở về chỗ làm quan.
Hôm ấy Bảo Ngọc thấy Tương Vân gần khỏi, mới sang thăm Đại Ngọc. Gặp lúc Đại Ngọc đang ngủ trưa, Bảo Ngọc không dám đánh thức, nhân thấy Tử Quyên ngồi ở ngoài hiên thêu thùa, liền đến hỏi:
- Đêm hôm qua cô ấy đã đỡ ho chưa?
- Hơi đỡ rồi.
- A di đà phật! Thôi cũng nên khỏi đi!
- Cậu mà cũng niệm phật, thực là việc lạ!
- Người ta thường bảo “Bệnh gấp hay uống thuốc bừa”.
Bảo Ngọc thấy Tử Quyên mặc cái áo bông mỏng bọc lụa, ngoài khoác áo đoạn xanh, liền giơ tay xoa vào người cô ta vừa nói:
- Khí trời xấu mà mặc phong phanh thế này, ngồi ở trước gió, lỡ ra ốm thì lại khổ.
Tử Quyên nói:
- Từ nay trở đi, chúng ta có nói chuyện gì thì nói, chứ đừng táy máy chân tay. Bây giờ đã lớn rồi, lỡ người ta trông thấy, không ra sao đâu, lại làm cho những kẻ bậy bạ nói vụng. Cậu không để ý đến việc ấy, cứ cợt nhả như lúc còn bé thế nào được? Cô tôi thường dặn chúng tôi không được đùa cợt với cậu. Gần đây, những khi cậu đến thăm, cô tôi cũng muốn tránh cậu nhưng sợ không tránh được đấy!
Tử Quyên liền đứng dậy mang đồ thêu sang phòng khác.
Bảo Ngọc thất thế, trong bụng như bị giội một chậu nước lạnh, đứng ngẩn người ra nhìn rặng tre. Giữa lúc ấy già Chúc đương cuốc đất trồng tre và quét lá ở đấy. Như người mất hồn, Bảo Ngọc ngồi ngay trên hòn đá, nước mắt chảy ròng ròng. Một lúc lâu, nghĩ quanh nghĩ quẩn, không biết làm thế nào. Tuyết Nhạn đến nhà Vương phu nhân lấy nhân sâm về qua đấy, thấy một người tay chống cằm, ngồi ngây ra trên hòn đá dưới gốc cây đào, không phải ai lạ, chính là Bảo Ngọc. Tuyết Nhạn ngờ ngợ: - “Trời lạnh thế này, cậu ấy ngồi một mình ở đấy làm gì? Mùa xuân này chỉ có những hạng rồ dại mới liều như thế, chẳng lẽ cậu ấy cũng mắc bệnh ngốc à?” Liền chạy lại, ngồi xuống cười nói:
- Cậu ngồi đây làm gì thế?
Bảo Ngọc trông thấy Tuyết Nhạn liền nói:
- Chị đến tìm tôi làm gì đây? Chị không phải là con gái à? Cô ấy đã giữ kẽ không cho các chị gần tôi, chị lại đến đây, nhỡ để người ta trông thấy, lại chẳng sinh chuyện đồn đại à? Thôi chị về ngay đi.
Tuyết Nhạn nghe nói, cứ tưởng Bảo Ngọc bị Đại Ngọc trêu tức, đành phải về nhà. Đại Ngọc hãy còn ngủ, Tuyết Nhạn đưa nhân sâm cho Tử Quyên. Tử Quyên hỏi:
- Bà đương làm gì?
- Đương ngủ trưa, vì thế phải chờ một lúc. Tôi kể cho chị nghe câu chuyện này đáng buồn cười: lúc chờ bà, tôi cùng chị Ngọc Xuyến nói chuyện ở dưới nhà , tự nhiên dì Triệu vẫy tôi đến. Tôi tưởng chuyện gì, té ra dì ấy xin phép bà về nhà túc trực đám ma người em, sáng mai thì đưa. Đứa hầu nhỏ theo dì ấy là Tiểu Cát Tường không có quần áo, muốn mượn cái áo lụa nguyệt bạch của tôi. Tôi nghĩ: bọn họ cũng được cấp hai cái áo như mọi người, sợ đem ra mặc đi đưa đám thì hỏng, nên không dám mặc áo của mình, lại đi mượn của người khác. Mượn làm hỏng áo cũng là việc nhỏ, nhưng tôi nghĩ xưa nay dì ấy đối với chúng ta chẳng tử tế gì. Vì thế tôi bảo: quần áo trâm vòng của tôi, cô tôi giao cho chị Tử Quyên giữ cả. Bây giờ tôi phải trình cô tôi như thế mất nhiều thì giờ lắm, lại làm lỡ việc của dì thôi. Chi bằng dì mượn chỗ khác là hơn.
- Con ranh này láu lắm. Mày không bằng lòng cho người ta mượn, lại đổ cho ta và cô, để người ta khỏi oán mày. Dì ấy đi bây giờ hay sáng mai?
- Đi ngay đấy, có lẽ bây giờ đã đi rồi.
Tử Quyên gật đầu. Tuyết Nhạn nói:
- Có lẽ cô còn chưa dậy, không biết ai làm cho cậu Bảo tức giận, đương ngồi khóc ở ngoài kia kìa!
- Cậu ấy ngồi ở đâu?
- Ở dưới cây đào sau đình Thấm Phương.
Tử Quyên vội bỏ đồ thêu xuống, dặn Tuyết Nhạn:
- Phải cẩn thận, ngồi chực đấy. Cô có hỏi thì nói ta ra ngoài một tí rồi về ngay.
Tử Quyên ra khỏi quán Tiêu Tương, chạy một mạch đi tìm Bảo Ngọc. Tử Quyên mỉm cười nói:
- Tôi nói câu ấy, chẳng qua cũng chỉ muốn giữ tiếng tốt cho cả mọi người thôi, thế mà cậu tức giận, ra ngồi chỗ gió máy mà khóc, lỡ ốm thì làm thế nào!
Bảo Ngọc cười nói:
- Ai tức? Tôi nghe chị nói cũng phải. Các chị bây giờ đối với tôi thế này, rồi người khác cũng thế, dần dần chẳng ai thèm nhìn đến tôi. Tôi nghĩ thế đâm ra tủi thân.
Tử Quyên liền ngồi sát vào Bảo Ngọc. Bảo Ngọc cười nói:
- Vừa rồi đứng đối diện nói chuyện, chị còn bỏ chạy sao bây giờ lại ngồi sát vào bên cạnh tôi?
- Cậu quên rồi à? Mấy hôm trước cậu và cô Lâm đương nói chuyện với nhau thì dì Triệu đi vào, giờ thấy dì ấy đi vắng, tôi mới đến hỏi cậu. Hôm nọ cậu mới nhắc một câu “yến sào”, rồi không nói gì nữa, bây giờ tôi muốn đến hỏi cậu việc ấy.
- Việc ấy không quan hệ gì, chẳng qua tôi nghĩ chị Bảo là khách đến ở đây, mà cô Lâm đã ăn yến sào thì phải ăn luôn, cứ xin mãi cũng ngượng. Món yến sào tuy không tiện xin bà, nhưng tôi đã bày tỏ với cụ biết, có lẽ người cũng đã bảo chị Phượng rồi. Tôi định nói với cô ấy, nhưng chưa nói hết. Bây giờ đâu như mỗi ngày đã cho cô ấy một lạng yến sào, thế là được rồi.
- Thế ra cậu nói hộ. Cảm ơn cậu đã hết lòng nghĩ đến cô tôi. Tôi cứ ngờ tại làm sao tự nhiên cụ lại nhớ đến, hàng ngày lại sai người mang sang cho cô tôi một lạng yến sào. Té ra là thế.
- Ngày nào cũng phải ăn cho quen, ăn độ hai, ba năm thì khỏe được.
- Ở đây ăn quen rồi, sang năm về nhà lấy tiền đâu mà ăn được thứ ấy.
Bảo Ngọc nghe nói giật mình hỏi:
- Ai về nhà ?
- Cô tôi về Tô Châu.
- Chị lại nói hão rồi. Tô Châu là nguyên quán thực, nhưng bà cô tôi đã mất, không có người trông nom, nên phải đón cô ấy về ở đây. Thế thì sang năm về Tô Châu ở với ai? Chị lại nói dối rồi.
- Cậu khinh người quá! Chỉ có họ Giả nhà cậu là họ to người nhiều hay sao? Không lẽ trừ nhà cậu, các nhà khác chỉ có một bố, một mẹ, họ hàng không còn ai nữa à? Cô tôi đến đây là vì cụ thương cô ấy còn bé, tuy có chú bác, cũng không bằng bố mẹ nên mới đón về đây ở tạm mấy năm đấy thôi. Khi đi lấy chồng, thế nào cũng phải trở về nhà họ Lâm, chứ có nhẽ nào con gái nhà họ Lâm, lại suốt đời ở nhà họ Giả? Nhà họ Lâm tuy nghèo không có bát ăn, nhưng là dòng dõi thư hương, không khi nào chịu đem người nhà mình giao cho bà con để chịu tiếng chê cười. Vì thế sang năm sớm thì mùa xuân, muộn thì mùa thu, dù ở đây không ai đưa về, thì nhà họ Lâm chắc cũng có người đến đón. Đêm hôm nọ cô tôi bảo tôi nói với cậu, những đồ chơi lúc còn bé, có thứ gì của cô tôi đưa lại, cậu sẽ soạn ra để trả cô tôi; cô tôi cũng đã soạn sẵn những thứ cậu cho cô tôi rồi.
Bảo Ngọc nghe nói như sét đánh ngang tai. Tử Quyên thử ngồi xem Bảo Ngọc trả lời ra sao, nhưng chờ mãi chẳng thấy nói câu gì, đương định hỏi thì thấy Tình Văn đến tìm Bảo Ngọc nói:
- Cụ gọi đấy, ngờ đâu cậu lại ở đây!
Tử Quyên cười nói:
- Cậu ấy đến hỏi thăm bệnh cô tôi, tôi nói mãi cậu ấy cũng chẳng tin, thôi chị dẫn cậu ấy về đi.
Nói xong, liền đi về nhà.
Tình Văn thấy Bảo Ngọc đờ người ra, đầu toát mồ hôi, mặt xám nhợt, vội kéo về thẳng viện Di Hồng. Tập Nhân thấy th sợ quá, cho là bị cảm gió. Bảo Ngọc nóng không thì khá, đằng này hai mắt lại trợn lên, bọt mép xùi ra, đưa gối thì nằm, đỡ dậy thì ngồi; đưa nước thì uống, mê man chẳng biết gì cả. Mọi người thấy thế nháo cả lên, nhưng chưa dám đi trình Giả mẫu, vội sai người đi tìm già Lý trước.
Một lúc già Lý đến, nhìn hồi lâu, hỏi mấy câu, Bảo Ngọc cũng không trả lời; lấy tay sờ vào mạch, ấn mạnh hai cái vào huyệt nhân trung ở môi trên, vết ấn khá sâu mà cũng không thấy đau. Già Lý kêu lên một tiếng “úi chao, hỏng mất rồi!” Rồi ôm đầu khóc ầm lên.
Tập Nhân vội kéo già Lý lại hỏi:
- Già xem có đáng lo ngại hay không, hãy nói cho chúng tôi biết, để đi trình cụ và bà Hai, việc gì mà khóc ầm lên thế?
Già Lý đập giường vật gối nói:
- Hỏng cả rồi! Thôi uổng công tôi cả một đời!
Tập Nhân nghĩ già Lý là người đã già, nhiều kinh nghiệm, nên mời lại xem; giờ nghe thấy già nói thế, tin là thực, cũng khóc ầm lên. Tình Văn kể lại việc vừa rồi cho Tập Nhân biết, Tập Nhân chạy thẳng đến quán Tiêu Tương, thấy Tử Quyên đương hầu Đại Ngọc uống thuốc. Tập Nhân không kịp đắn đo gì, hỏi ngay Tử Quyên:
- Vừa rồi cô nói với cậu Bảo những câu gì thế? Cô đến mà xem! Cô đi mà trình cụ, tôi mặc kệ đấy!
Nói xong liền ngồi phịch xuống ghế.
Đại Ngọc thấy Tập Nhân nét mặt giận dữ, có ngấn nước mắt, bộ dạng khác hẳn, cũng đâm hoảng sợ, liền hỏi:
- Làm sao thế?
Tập Nhân lặng im một lúc rồi khóc:
- Không biết cô Tử Quyên nói những câu gì làm cậu ngốc ấy mắt đờ ra, tay chân lạnh toát, không nói dược nữa. Già Lý bấm cũng không biết đau. Các bà già đều nói là không ăn thua gì nữa, ở bên ấy đương khóc ầm lên. Có lẽ bây giờ thì chết rồi!
Đại Ngọc nghe nói thế, nghĩ già Lý là người có nhiều kinh nghiệm mà cũng nói là chết thì chắc là chết thật, liền “ọe” một tiếng, bao nhiêu thuốc vừa uống, mửa ra hết cả, ruột gan cồn cào, ho rũ rượu hồi lâu. Bỗng chốc mặt đỏ gay, tóc rối bù, mắt sưng húp, gân nổi lên, cứ gục đầu xuống mà thở. Tử Quyên vội đến đấm lưng. Đại Ngọc gục xuống gối thở một lúc, rồi đẩy Tử Quyên nói:
- Chị không phải đấm nữa! Cứ mang thừng đến thắt cổ tôi cho chết đi là hơn!
Tử Quyên nói:
- Tôi có nói gì đâu? Chẳng qua nói đùa mấy câu, cậu ấy lại tưởng thật.
Tập Nhân nói:
- Cô lại không biết cậu ngốc ấy, nói đùa câu gì cũng cho là thật à?
Đại Ngọc nói:
- Chị nói những câu gì, phải đến nói lại đi, cậu ấy mới tỉnh lại được.
Tử Quyên nghe nói liền bước xuống giường, cùng Tập Nhân đi đến viện Di Hồng. Giả mẫu và Vương phu nhân cũng đều ở cả đấy. Vừa trông thấy Tử Quyên, Giả mẫu mắt đã nảy lửa liền mắng:
- Con ranh con này nói những câu gì với nó đấy?
Tử Quyên vội trình:
- Con có dám nói gì đâu, chỉ nói đùa mấy câu thôi.
Bảo Ngọc vừa trông thấy Từ Quyên đã “úi chào” một tiếng, rồi khóc òa lên. Mọi người thấy thế mới yên tâm. Giả mẫu kéo Tử Quyên lại, vì cho là nó đã làm điều gì có lỗi với Bảo Ngọc, nên bắt xin lỗi. Không ngờ Bảo Ngọc nắm chặt lấy tay Tử Quyên không chịu buông, rồi nói:
- Cô có đi thì mang cả tôi đi nữa!
Mọi người không hiểu, hỏi kỹ mới vỡ chuyện Tử Quyên nói đùa Đại Ngọc sắp về Tô Châu. Giả mẫu nhỏ nước mắt nói:
- Ta cứ tưởng có việc gì quan hệ kia, té ra là một câu nói đùa, lại mắng Tử Quyên: - Con ranh này, ngày thường mày là đứa thông minh nhanh nhẹn, mày vẫn biết nó sẵn có tính ngớ ngẩn, sao tự nhiên lại lừa nó làm gì?
Tiết phu nhân khuyên:
- Cháu Bảo xưa nay là người thật thà, cô Lâm lại đến đây ở từ lúc bé, hai người cùng với nhau đến tận bây giờ, so với người khác thì thân mật hơn nhiều. Bây giờ đột nhiên lại nói dối là sắp đi, không cứ cháu là người thực thà ngớ ngẩn, ngay người lớn kiên gan đến đâu cũng phải thương tâm. Bệnh không quan hệ gì, cụ và dì cứ yên tâm, cho uống một vài thang thuốc là khỏi.
Lúc đó có người vào trình:
- Vợ Lâm Chi Hiếu và vợ Lại Đại đến hỏi thăm.
Giả mẫu nói:
- Cảm ơn các bà có lòng nghĩ đến, mời các bà vào chơi.
Bảo Ngọc nghe nói đến chữ “Lâm”, liền kêu ầm lên:
- Thôi hỏng rồi! Người nhà họ Lâm đã đến đón cô ấy về đấy, đuổi ngay họ đi!
Giả mẫu liền nói:
- Đuổi ngay họ đi!
Lại dỗ dành Bảo Ngọc:
- Đây không phải là người họ Lâm đâu, người họ Lâm chết hết cả rồi, không có ai đến đón nó nữa, cháu cứ yên tâm.
Bảo Ngọc nói:
- Dù ai cũng mặc! Trừ cô Lâm ra, không ai được gọi là họ Lâm cả!
Giả mẫu nói:
- Chẳng có ai là họ Lâm đến đây, bao nhiêu người họ Lâm đều đuổi đi cả rồi.
Giả mẫu lại dặn mọi người:
- Từ nay trở đi không được cho bà Lâm Chi Hiếu đến vườn này. Chúng bay cũng không được nói đến chữ “Lâm”. Nghe rõ lời ta dặn chưa?
Mọi người vâng lời, không ai dám cười.
Một lúc, Bảo Ngọc trông thấy trên cái tủ thập cẩm bày một cái thuyền bằng vàng của người nước ngoài đem đến, liền nói ầm lên:
- Kia có phải là cái thuyền đến đón cô Lâm không? Thuyền đậu ở đấy rồi!
Giả mẫu vội sai Tập Nhân lấy cái thuyền xuống. Bảo Ngọc giơ tay đòi. Tập Nhân đưa đến. Bảo Ngọc giấu ngay vào trong chăn cười nói:
- Thôi còn đi vào lối nào?
Vừa nói vừa nắm chặt lấy Tử Quyên không chịu buông ra.
Một lúc có người trình:
- Thầy thuốc đã đến.
Giả mẫu vội sai mời vào. Vương phu nhân, Tiết phu nhân và Bảo Thoa tạm lánh vào nhà trong. Giả mẫu ngồi cạnh Bảo Ngọc. Thầy thuốc họ Vương vào, thấy nhiều người, vội đến chào Giả mẫu, rồi cầm tay Bảo Ngọc bắt mạch một lúc. Tử Quyên đành phải cúi đầu xuống. Thầy thuốc họ Vương cũng không hiểu ra sao, đứng dậy nói:
- Cậu đây mắc bệnh “cấp thống mê tâm”. Cổ nhân thường đã nói: “Có nhiều chứng đờm mê khác nhau: có người vì khí huyết suy yếu, ăn uống không tiêu đâm mê, có người vì giận dỗi quá, đờm sộc lên đâm mê, có người bị đau khổ quá đờm tắc lại.” Đây cũng là chứng đờm mê do đau khổ bất chợt, chỉ chốc lát bị đờm tắc lại đấy thôi, nhẹ hơn các chứng đờm khác nhiều.
- Ông hãy nói cho tôi biết bệnh cháu có đáng lo ngại hay không, ai bảo ông đọc cả tràng sách thuốc ra?
Thầy thuốc họ Vương vội chắp tay cười nói:
- Không đáng ngại, không đáng ngại.
- Chắc không đáng ngại chứ?
- Thực không đáng ngại, nếu có việc gì xin trách cứ ở tôi.
- Quả vậy thì mời người ra ngồi chơi ngoài kia kê đơn. Chữa khỏi ta sẽ sắp sửa đồ lễ, bắt cháu phải thân hành đến tạ, nếu có xảy ra việc gì, ta sai người đến kéo đổ nhà thái y đấy.
Thầy thuốc họ Vương cứ cúi đầu cười nói:
- Không dám ạ, không dám ạ.
Vì ông ta nghe thấy Giả mẫu nói: “Sẽ sắp đồ lễ sai Bảo Ngọc đến tạ”, nên luôn miệng nói “không dám”, chưa nghe câu nói đùa là đến kéo đổ nhà thái y, nên vẫn cứ “không dám” mãi, Giả mẫu cùng mọi người đều cười ầm lên.
Một lúc, uống thuốc vào, Bảo Ngọc đã yên tĩnh hơn trước, nhưng vẫn không chịu buông Tử Quyên ra, cứ nói:
- Nếu buông ra, thế nào cô ấy cũng về Tô Châu.
Giả mẫu và Vương phu nhân không biết làm thế nào, đành phải cho Tử Quyên ở luôn đấy với Bảo Ngọc, rồi cho Hổ Phách đến hầu Đại Ngọc. Đại Ngọc lại thường cho Tuyết Nhạn đến thăm hỏi. Đến chiều, Bảo Ngọc đã đỡ, Giả mẫu và Vương phu nhân mới về nhà, nhưng một đêm sai người hỏi thăm đến mấy lần. Già Lý dẫn già Tống cùng mấy già khác đến trông nom cẩn thận. Tử Quyên, Tập Nhân và Tình Văn ngày đêm ở liền bên cạnh. Lúc nào Bảo Ngọc ngủ thì lại mơ mộng giật mình kinh hoảng, hết khóc Đại Ngọc đã đi, lại khóc có người đến đón. Những lúc ấy, Tử Quyên lại phải an ủi mới yên.
Giả mẫu lại sai lấy các thứ thuốc quí bí truyền như: “khư tà thủ linh đơn” và “khai khiếu thông thần tán” cho uống, hôm sau lại uống thuốc của thầy thuốc họ Vương, bệnh mới đỡ dần. Bảo Ngọc trong bụng đã tỉnh, nhưng vì sợ Tử Quyên về mất, nên cố ý làm ra dáng điên dại. Tử Quyên từ hôm ấy rất là hối hận, nên ngày đêm vất vả cũng không dám oán trách gì. Tập Nhân bây giờ đã yên lòng, cười bảo Tử Quyên:
- Bệnh này do cô gây ra, thì cô phải đến chữa. Chẳng có ai như cậu ngốc nhà ta “thấy gió cho là mưa”, nếu cứ mãi thế, chẳng biết rồi sẽ ra làm sao!
Bấy giờ Tương Vân đã khỏi, ngày nào cũng đến thăm Bảo Ngọc, thấy Bảo Ngọc đã tỉnh, liền diễn lại dáng dấp lúc mê cho Bảo Ngọc xem, làm Bảo Ngọc gục đầu xuống gối cười.
Trước kia Bảo Ngọc không biết mình ngây dại như thế, nên thấy người ta nói vẫn chưa tin. Lúc vắng người, Tử Quyên ngồi bên cạnh, Bảo Ngọc nắm tay hỏi:
- Sao chị lại nói dọa tôi thế?
- Chẳng qua tôi nói đùa thôi, cậu lại cho là thật.
- Chị nói có tình có lý, sao lại bảo là nói đùa?
- Những câu ấy tôi đặt ra cả đấy. Họ Lâm thực chẳng còn ai, còn chăng cũng chỉ là những người họ rất xa, mà không ở Tô Châu, đi tản mác ra các tỉnh cả rồi. Có ai đến đón, cụ cũng chẳng cho cô ấy đi nào.
- Dù cụ có cho cô ấy đi, tôi cũng chẳng nghe.
- Thật không nghe chứ? Chỉ sợ nói mồm thế thôi. Bây giờ cậu đã lớn, đã định nơi hỏi vợ rồi, vài năm nữa sẽ cưới, thì trong con mắt cậu còn biết đến ai nữa?
Bảo Ngọc lại giật mình hỏi:
- Ai hỏi vợ? Hỏi ai?
- Kỳ trong năm tôi nghe thấy cụ nói định hỏi cô Cầm cho cậu; nếu không thì sao lại thương cô ấy quá thế?
- Ai cũng bảo tôi ngớ ngẩn, nhưng thực ra chị lại ngớ ngẩn hơn tôi! Chẳng qua đó là câu nói đùa đấy thôi. Cô ấy đã nhận lời với nhà ông hàn lâm họ Mai rồi. Nếu định hỏi cô ta thì tôi đâu lại còn đến nỗi thế này? Trước kia tôi đã thề, đập cả hòn ngọc đi, chị chẳng ngăn tôi là gì? Tôi vừa ốm khỏi mấy hôm nay, chị lại đến chọc tức tôi. - Vừa nói Bảo Ngọc vừa nghiến răng nghiến lợi, lại nói: - Bây giờ tôi chỉ muốn chết ngay lập tức, moi hẳn ruột ra cho các chị xem, còn cả da và xương đều hóa ra một đống gio, rồi lại hóa ra một đám khói, gặp cơn gió to bay tan đi hết, thế là xong chuyện! - Nói xong lại khóc.
Tử Quyên vội bịt mồm Bảo Ngọc lại, lau nước mắt cho cậu ta, rồi cười nói:
- Cậu đừng có nóng nảy. Vì tôi sốt ruột, nên mới thử cậu đấy thôi.
Bảo Ngọc lại lấy làm lạ hỏi:
- Tại sao chị lại sốt ruột?
- Cậu cũng biết tôi không phải là người nhà họ Lâm, tôi cũng như chị Tập Nhân và chị Uyên Ương đấy thôi. Tôi tình cờ được sang ở với cô Lâm, cô ấy đối với tôi rất tử tế, coi tôi hơn những người hầu mang từ Tô Châu đến nhiều, chúng tôi không rời nhau một giờ một phút. Bây giờ cô ấy mà về thì tôi cũng phải đi theo. Nhà tôi ở cả đây, tôi không đi thì phụ mối tình bấy lâu chúng tôi ăn ở với nhau, mà đi ra thì phải bỏ cả gia đình. Vì thế tôi vẫn áy náy, cố bịa đặt những câu nói ấy để hỏi cậu. Ngờ đâu cậu lại ngốc nghếch làm nhộn lên như thế!
- Thế ra chị lo về việc ấy, chị lại là người ngốc nốt! Từ nay chị đừng lo nữa nhé! Tôi nói vắn tắt một câu cho chị nghe: sống chúng ta sống chung một chỗ; chết thì chúng ta cùng hóa ra gio, ra khói một chỗ, chị nghĩ thế nào?
Tử Quyên nghe nói, trong bụng đương đắn đo, chợt có người vào trình:
- Cậu Hoàn và anh Lan đến hỏi thăm.
Bảo Ngọc nói:
- Cứ ra bảo cảm ơn các cậu ấy. Ta vừa mới ngủ, không cần phải vào nữa.
Bà già vâng lời đi ra.
Tử Quyên cười nói:
- Bây giờ cậu đã khỏi rồi, nên để tôi về trông nom cô bên kia chứ?
- Phải đấy, hôm qua tôi đã định cho chị về, nhưng lại quên mất. Giờ tôi đã khỏi hẳn rồi, thôi chị về đi.
Tử Quyên nghe nói, liền sửa soạn chăn đệm và đồ trang sức. Bảo Ngọc cười nói:
- Hôm nọ tôi trông thấy trong hộp đồ trang sức của chị có hai, ba cái gương, chị để lại cho tôi cái gương nhỏ hình hoa sen. Tôi sẽ để ở đầu giường để soi lúc đi ngủ và đi đâu mang theo cho nhẹ.
Tử Quyên đành phải để cái gương lại, sai người mang đồ đi trước, chào mọi người rồi về quán Tiêu Tương.
Mấy hôm thấy Bảo Ngọc như thế, Đại Ngọc đâm ra ốm thêm, khóc luôn mấy lần. Nay thấy Tử Quyên về, hỏi ra mới biết Bảo Ngọc đã khỏi, Đại Ngọc lại cho Hổ Phách về hầu Giả mẫu. Đêm khuya vắng người, Tử Quyên cởi áo đi ngủ, thủ thỉ cười nói với Đại Ngọc:
- Cậu Bảo thực tâm đấy, nghe thấy chúng ta sắp đi, đâm ra ốm ngay.
Đại Ngọc không trả lời. Tử Quyên ngừng một lúc, rồi lại nói một mình:
- Động không bằng tĩnh,(1) kể ra ở đây đối với chúng ta cũng tử tế đấy. Điều khác thì dễ, chứ cái việc từ bé đến lớn cùng ở với nhau một chỗ, cùng biết tính nết nhau, mới thực là khó.
Đại Ngọc gắt:
- Mấy hôm nay chị không biết mệt à, bây giờ không ngủ đi lại còn nói lảm, nói nhảm gì thế?
- Không phải tôi nói nhảm đâu, cũng là thực bụng vì cô đấy. Tôi buồn cho cô đã mấy năm nay, không có cha mẹ, anh em, ai là người biết thương mình? Gặp lúc này, cụ còn khỏe mạnh sáng suốt, cần phải lo việc lớn của mình đi. Tục ngữ nói “Tuổi già nóng lạnh bất thường”. Nếu cụ có mình nào, lúc đó dù có xong việc, cũng sợ chậm trễ ngày giờ, khó được như ý muốn. Bọn công tử vương tôn tuy nhiều, nhưng người nào mà chẳng năm thê bảy thiếp, nay đông mai tây? Dù họ có lấy được một bà tiên, cũng chỉ độ dăm ba đêm rồi lại gạt ra một nơi. Thậm chí nhiều người có mới nới cũ, trở mặt thù hận nữa. Nhà người ta có người, có thế, thì không sao, chứ như cô đây, cụ sống ngày nào còn khá, cụ mà chết đi thì mặc cho người ta hất hủi thôi. Vì thế tôi bàn với cô, cần phải lo liệu trước đi. Cô là người sáng suốt, chẳng lẽ không nghe câu tục ngữ: “Hàng vạn lạng vàng dễ kiếm, một người tri kỷ khó tìm” hay sao?
- Con này điên rồi! Sao mới đi có mấy ngày đã đổi hẳn tính nết thế? Ngày mai ta phải trình cụ cho mày về, ta không dám dùng mày nữa.
- Những câu tôi nói đều đúng cả, cốt nhắc cô để ý đấy thôi, chứ có bảo cô đi làm bậy gì đâu. Sao lại phải trình cụ, tôi bị mắng thì cô được lợi gì?
Nói xong liền đi ngủ.
Đại Ngọc ngoài miệng nói thế, nhưng trong bụng cũng có phần thương cảm, chờ Tử Quyên đi ngủ rồi, liền khóc suốt đêm, đến sáng mới chợp mắt. Hôm sau gượng dậy rửa mặt súc miệng ăn ít cháo yến sào. Rồi có Giả mẫu sang thăm và dặn dò mấy câu.
Ngày sinh nhật Tiết phu nhân đã đến, từ Giả mẫu trở xuống, ai cũng có lễ mừng; Đại Ngọc cũng phải đưa đến mừng hai thứ đồ thêu. Hôm ấy, Tiết Phu nhân sắp một ban hát nhỏ, mời Giả mẫu và Vương phu nhân đến dự. Chỉ có Bảo Ngọc và Đại Ngọc là vắng thôi. Đến chiều tàn tiệc, Giả Mẫu tiện đường đến thăm hai người một lần nữa rồi mới về nhà.
Hôm sau, Tiết phu nhân lại bảo Tiết Khoa mời những người làm công đến dự tiệc. Bận rộn đến ba, bốn ngày mới xong.
Tiết phu nhân trông thấy Hình Tụ Yên là người đoan trang nhã nhặn, nhưng là con nhà thanh bạch, một cô gái áo vải quần thô, nên muốn hỏi cho Tiết Bàn. Nhưng sợ Tiết Bàn là người lông bông, nhỡ lại làm khổ con gái nhà người ta. Đương lúc ngần ngại, chợt nghĩ ngay đến Tiết Khoa, xem hai người này giống như một đôi vợ chồng trời xe sẵn, liền bàn với Phượng Thư. Phượng Thư cười nói:
- Xưa nay cô còn lạ gì tính mẹ chồng tôi, việc này để tôi liệu dần.
Nhân lúc Giả mẫu đến thăm, Phượng Thư liền nói:
- Cô cháu có một việc muốn nhờ bà, nhưng không tiện nói ra.
- Việc gì?
Phượng Thư liền nói rõ câu chuyện muốn cầu hôn. Giả mẫu cười nói:
- Việc ấy rất tốt, có gì mà không tiện nói ra? Để ta sẽ nói chuyện với mẹ chồng chị, thế nào mà chẳng bằng lòng.
Về nhà, cho người gọi Hình phu nhân đến, Giả mẫu tự nhận đứng ra làm mối. Hình phu nhân nghĩ: họ Tiết là nhà dòng dõi, hiện nay giàu có. Tiết Khoa kể ra cũng xinh trai, lại có Giả mẫu đứng ra làm mối. Được dịp liền nhận lời ngay.
Giả mẫu mừng lắm, sai người mời Tiết phu nhân đến. Hai người gặp nhau tất nhiên cũng có những câu đun đẩy. Hình phu nhân liền sai người đi nói việc ấy với vợ chồng Hình Trung. Vợ chồng y đến ở đây cốt là nhờ vả Hình phu nhân, thì làm gì mà chẳng bằng lòng, liền luôn miệng nói:
- Việc ấy hay lắm.
Giả mẫu cười bảo:
- Ta vốn hay hứng việc, xong rồi chả biết tạ bà mối được bao nhiêu?
Tiết phu nhân cười nói:
- Điều đó tất nhiên rồi, chỉ sợ tạ một vạn bạc, người cũng không thèm nhận thôi. Nhưng có một việc, cụ đã đứng lên làm mối thì phải tìm một vị chủ hôn mới được.
Giả mẫu cười:
- Gì chẳng có, chứ hạng què chân cụt tay thì nhà chúng ta cũng có vài mống.
Rồi sai người gọi mẹ con Vưu Thị đến. Giả mẫu nói rõ việc ấy cho họ nghe, hai người đều vội vàng ngỏ lời mừng.
Giả mẫu dặn:
- Khuôn phép nhà ta chị đã biết đấy, xưa nay hai nhà thông gia không hề so đọ về lễ cưới lễ xin. Bây giờ chị đứng ra lo liệu hộ ta, không nến dè sẻn quá, cũng không nên hoang phí quá, thu xếp việc hai nhà cho xong rồi trình ta biết.
Vưu Thị vội vâng lời. Tiết phu nhân mừng lắm, về nhà bảo viết thiếp mời, đưa sang phủ Ninh. Vưu Thị xưa nay vẫn biết tính nết Hình phu nhân, định không muốn nhận việc ấy, nhưng vì Giả mẫu phó thác nên phải vâng lời, đành cứ lựa theo ý Hình Phu nhân mà làm. Còn Tiết phu nhân là người thế nào cũng xong, nên cũng dễ nói.
Việc Tiết phu nhân hỏi Hình Tụ Yên làm nàng dâu, trong phủ ai cũng biết cả. Hình phu nhân muốn đón Hình Tụ Yên ra ngoài ở.
Giả mẫu nói:
- Điều đó có ngại gì. Hai đứa chúng nó có giáp mặt nhau đâu. Vả lại ngoài bà dì ra chỉ có một cô chị chồng, một cô em chồng, thì có can gì? Chúng nó là con gái cả, cũng nên cho chúng nó gần gũi nhau.
Hình phu nhân nghe vậy mới thôi.
Tiết Khoa và Tụ Yên trước kia có lần gặp nhau ở giữa đường, đại để hai bên đều bằng lòng nhau. Song Tụ Yên giữ kẽ, không muốn lui tới chuyện trò với chị em Bảo Thoa, hơn nữa Tương Vân hay chế giễu, nên càng giữ ý. Có diều Tụ Yên là người đọc sách hiểu lễ, dù là phận gái cũng không tỏ ra giả hổ giả thẹn, làm bộ làm dạng như ai. Bảo Thoa từ ngày gặp Tụ Yên, nghĩ đến cảnh nhà cô ta túng thiếu, bố mẹ người ta thì tuổi cao đức cả, bố mẹ cô ta chỉ rượu bét nhè, chẳng chăm nom gì con cái. Hình phu nhân đối với cô ta chẳng qua tình nghĩa bề ngoài, không phải thực bụng thương yêu. Vả lại, Tụ Yên ở chung với Nghênh Xuân, một người thì ý tứ đứng đắn, một người thì có xác không hồn, tự mình không trông nom chu tất nổi mình, còn trông nom người khác sao được. Vì vậy những đồ dùng hàng ngày có khi thiếu thốn, không ai săn sóc tới, Tụ Yên cũng không hề hé miệng nói với ai.
Bảo Thoa thường ngấm ngầm giúp đỡ, cũng không dám cho Hình phu nhân biết, vì sợ sinh ra lắm chuyện. Bây giờ duyên may run rủi, không ai ngờ hai nhà lại thành thông gia với nhau. Trong bụng Tụ Yên rất mến Bảo Thoa, cũng mến cả Tiết Khoa, nên khi chuyện trò với nhau, Bảo Thoa thường gọi ngay là em.
Một hôm, Bảo Thoa đến thăm Đại Ngọc, Tụ Yên cũng đến đó. Hai người gặp nhau ở giữa đường, Bảo Thoa mỉm cười gọi Tụ Yên lại, rồi hai người cùng đi đến sau vách đá. Bảo Thoa cười hỏi:
- Trời rét như thế này, sao em lại không mặc áo kép?
Tụ Yên cúi đầu không trả lời. Bảo Thoa biết ngay là có duyên cớ gì đây, liền cười hỏi:
- Chắc là tiền lương tháng này em không lĩnh được chứ gì? Chị Phượng kể cung vô tâm thật.
Tụ Yên nói:
- Chị ấy vẫn trả lương đúng ngày đấy! Nhưng vì cô em sai người đến bảo: một tháng không tiêu hết hai lạng bạc đâu, phải bớt một lạng đưa cho thày mẹ em, nếu cần cái gì, dùng của chị Hai cũng được. Chị thử nghĩ xem, chị Hai là người thực thà không để ý việc gì cả. Những thứ em dùng chị ấy không hề nói, nhưng bọn hầu có phải là hạng ít mồm đâu, người nào chả hay sinh chuyện. Dù ở ngay nhà ấy, em thật không bao giờ dám sai bảo họ. Cứ độ dăm ba ngày em lại phải bỏ ít tiền ra cho họ uống rượu, ăn quà sáng. Giờ lại bớt đi một lạng. Hôm nọ em phải đưa giấu cái áo bông cho người mang đi cầm, lấy mấy quan tiền về tiêu đấy.
Bảo Thoa thở dài:
- Hiện giờ gia quyến nhà họ Mai còn ở cả chỗ làm quan, năm sau mới về đây. Nếu họ ở đây thì em Cầm về nhà chồng, rồi sẽ bàn đến việc của em ra khỏi chỗ này là yên chuyện. Nhưng bây giờ việc em Cầm chưa xong, chắc em Khoa cũng không dám cưới vợ trước. Thật là một việc khó xử. Nếu để chậm vài năm nữa, sợ em bị dãi dầu quá đâm ra ốm mất. Để chị bàn với mẹ chị xem. Số tiền một lạng bạc em cứ đưa phăng cho họ, thế là yên chuyện. Sau này em đừng cho bọn kia ăn uống nữa. Họ châm chọc gì mặc họ, em chẳng cần nghe, nói chán thì thôi. Nếu em có thiếu thứ gì, cứ đến bảo chị, đừng có e lệ. Từ ngày em đến đây, chị em ta vẫn tử tế với nhau, chứ có phải sau ngày dạm hỏi nhau mới thế đâu. Nếu em sợ người ngoài bàn tán, thì cứ khẽ sai a hoàn đến bảo chị là được.
Tụ Yên cúi đầu xin vâng.
Bảo Thoa lại trỏ viên ngọc đeo ở quần Tụ Yên hỏi:
- Ai cho em đấy?
- Chị Ba cho em đấy.
- Chị ấy thấy ai cũng có, chỉ một mình em là không, sợ người ta chê cười, nên mới đưa lại cho em. Đó là chị ấy thông minh chu tất đấy. Có điều em phải biết rằng, những đồ trang sức này là của các cô tiểu thư ở các nhà quan sang mới dùng. Em cứ nhìn chị xem, từ đầu đến chân, chị có những đồ trang sức lộng lẫy ấy đâu. Trước đây bảy tám năm, chị cũng có, nay kém trước nhiều. Vì thế cái gì thấy bớt thì tự mình bớt đi. Sau này đem về nhà chồng, có lẽ còn hàng hòm những đồ vô dụng. Chúng ta bây giờ không bì với họ được, phải theo nề nếp nhà mình.
- Chị đã nói thế, em sẽ về tháo viên ngọc ra là hơn.
- Em cũng đừng nên thế. Người ta cho mình, không đeo họ sẽ ngờ. Chị chẳng qua chợt nhắc đến thôi, sau này sẽ hay.
Tụ Yên xin vâng và hỏi:
- Bây giờ chị đi đâu?
- Chị đến quán Tiêu Tương đây. Em hãy về lấy cái phiếu cầm đồ đưa cho a hoàn mang đến, chị sẽ chuộc hộ cho, rồi đến tối sẽ sai người đưa lại, sớm tối phải mặc, nếu không thì bị gió lạnh không được đâu! Nhưng không biết em đem cầm ở hiệu nào?
- Đâu như hiệu Hằng Thư ở đường Cổ Lâu Tây ấy.
- Thế ra lại vào nhà mình rồi! Nếu bọn làm công biết thì họ sẽ bảo: người chưa đến mà quần áo đã đến trước.
Tụ Yên nghe vậy, biết ngay là hiệu của nhà Bảo Thoa, không nói gì cả, đỏ mặt lên, cười rồi chạy đi.
Bảo Thoa đến quán Tiêu Tương gặp Tiết phu nhân cũng đến thăm và đương ngồi nói chuyện với Đại Ngọc. Bảo Thoa cười nói:
- Mẹ đến lúc nào? Con không biết.
- Mấy hôm nay ta bận, không đến thăm cháu Bảo và cháu Đại được. Hôm nay đến thì cả hai cháu đều đã khá rồi.
Đại Ngọc mời Bảo Thoa ngồi rồi nói:
- Việc đời khó mà biết trước được. Cứ nói về việc dì và mợ Cả tôi lại thành ra thông gia với nhau?
Tiết phu nhân nói:
- Các cháu hãy còn bé, biết thế nào được? Người trước có nói “Nhân duyên nghìn dặm xe vào một dây”. Ông Nguyệt Lão trông nom việc nhân duyên, đã biên vào sổ trước, ngầm lấy một sợi dây tơ buộc chân hai người lại. Đã hợp duyên nhau thì dù hai nhà cách sông cách biển, hoặc thù hằn với nhau thế nào cũng có dịp thành vợ thành chồng. Việc này thực không ai ngờ đến. Có khi bố mẹ đôi bên đều bằng lòng, hoặc là luôn luôn ở gần nhau, tưởng thế nào cũng thành đôi thành lứa, nhưng ông Nguyệt không xe dây, cũng không thể sum họp với nhau được. Ví như việc hôn nhân của hai chị em cháu đây, bây giờ không biết ở gần trước mắt hay là ở tận góc biển chân trời!
Bảo Thoa nói:
- Mẹ động nói việc gì cũng kéo chúng con vào.
Vừa nói vừa gục vào lòng mẹ, cười nói:
- Thôi chúng ta về đi.
Đại Ngọc cười nói:
- Xem kìa! Lớn như thế kia rồi, hễ vắng dì thì ra vẻ đạo mạo, nhưng có dì, lại giở lối làm nũng.
Tiết phu nhân lấy tay xoa vào người Bảo Thoa, thở dài bảo Đại Ngọc:
- Chị cháu đây không khác gì chị Phượng ở bên cụ, hễ có việc quan trọng là ta phải bàn với nó; lúc không có việc gì nó cũng làm cho ta vui lên. Ta thấy nó như thế cũng khuây khỏa nỗi buồn rầu.
Đại Ngọc nhỏ nước mắt thở dài:
- Chị ấy lại giở những trò ấy ra để trêu tức cháu là người không có mẹ, cố ý nêu cái cảnh khổ của cháu ra.
Bảo Thoa cười nói:
- Mẹ ơi, mẹ xem cô ấy quá quắt thế, lại bảo con hay làm nũng.
Tiết phu nhân nói:
- Không trách được em nó đau xót là phải, cha mẹ mất cả, không còn ai là người thân, nghĩ thật đáng thương.
Tiết phu nhân lại vỗ về Đại Ngọc, cười nói:
- Cháu ơi, đừng khóc nữa. Cháu thấy ta thương chị cháu, đâm ra buồn rầu, nhưng không biết bụng ta càng thương cháu lắm đấy! Chị cháu tuy không còn cha, nhưng có mẹ, có anh thì cũng hơn cháu. Ta thường nói với cha cháu, bụng ta thương cháu lắm, nhưng không tiện tỏ ra bên ngoài, ở đây lắm người nhiều lời, người nói tốt thì ít, nói xấu thì nhiều. Họ có biết đâu cháu không có chỗ nương tựa, đáng để cho người ta thương; chẳng qua thấy cụ thương cháu, họ cũng hùa theo đó thôi.
Đại Ngọc cười nói:
- Dì đã nói thế, ngày mai cháu xin nhận dì làm mẹ. Nếu dì không nhận, thì chỉ là dì thương miệng thương môi thôi.
- Không chê thì cháu cứ nhận.
Bảo Thoa vội vàng nói:
- Không nhận được đâu.
Đại Ngọc nói:
- Tại sao không nhận được?
- Tôi hãy hỏi cô, tại sao anh tôi chưa lấy vợ mà lại hỏi em Hình cho em tôi trước? Thế là vì lẽ gì?
- Anh ấy đi vắng, hay là ngày giờ không hợp, vì thế hỏi cho em trước.
- Không phải thế đâu. Anh tôi đã nhắm một chỗ rồi, chỉ chờ khi nào về thì lo đấy thôi, nhưng cũng không cần nói tên người ấy ra. Tôi bảo cô không nhận là mẹ được. Cô thử nghĩ xem.
Nói xong Bảo Thoa nháy mắt nhìn mẹ mà cười.
Đại Ngọc nghe thấy nói thế, liền gục đầu vào người Tiết phu nhân nói:
- Nếu dì không đánh chị ấy, cháu không chịu đâu!
Tiết phu nhân ôm Đại Ngọc cười nói:
- Cháu đừng nghe lời chị cháu, nó nói đùa đấy thôi.
Bảo Thoa cười nói:
- Ngày mai mẹ cứ đến nói với cụ, xin cô ấy làm dâu, chẳng hơn đi tìm người ngoài à?
Đại Ngọc xông lên định túm lấy, Bảo Thoa cười nói:
- Mày điên à?
Tiết phu nhân vội cười ngăn lại, lấy tay gạt hai người ra. Bà ta lại bảo Bảo Thoa:
- Ngay cô Hình ta cũng còn sợ bị anh con giày vò, vì thế phải hỏi cho em con, huống chi cháu Lâm, ta không khi nào lại hỏi cho anh con đâu. Trước kia cụ định hỏi em con cho Bảo Ngọc, nhưng vì nó đã có người hỏi; nếu không thì cũng vừa đôi phải lứa đấy. Hôm nọ ta hỏi cô Hình cho em con, cụ còn nói đùa: “Ta định hỏi người nhà bên ấy, chưa hỏi được, ngờ đâu lại bị bên ấy sang hỏi một người nhà ta.” Tuy là câu nói đùa, nhưng nghĩ kỹ ra cũng có ý đấy. Bảo Cầm đã có nơi, ta không còn người nào gả cho bên ấy nữa. Nhưng chẳng lẽ không giúp được một câu nói hay sao? Ta xem Bảo Ngọc cũng xinh xắn, cụ lại thương nó, nếu tìm người ngoài, chắc cụ không bằng lòng, chi bằng hỏi em Lâm cho nó, như thế chẳng được vẹn toàn mọi mặt hay sao?
Đại Ngọc trước còn ngồi ngây ra nghe, sau thấy nói đến mình, liền đỏ mặt, kéo Bảo Thoa cười nói:
- Tôi chỉ đánh chị thôi! Tại sao chị khêu chuyện để dì nói như thế?
- Lạ thật! Mẹ tôi nói cô, việc gì cô lại đánh tôi?
Tử Quyên vội chạy lại cười nói:
- Dì đã có ý định như thế, sao không đến nói với cụ?
Tiết phu nhân cười nói:
- Con bé này vội cái gì thế! Chắc là mày muốn cô mày đi lấy chồng, để mày cũng đi kiếm một anh chồng nhỏ chứ gì?
Tử Quyên đỏ mặt cười nói:
- Dì già, nói lẫn rồi!
Đại Ngọc trước còn mắng:
- Việc gì đến con ranh con này!- Sau thấy thế cũng cười nói: - A di đà phật! Đáng! đáng! Đáng! Cũng bị trát gio vào mặt rồi đấy!
Mẹ con Tiết phu nhân và các bà già, a hoàn đều cười ầm lên và nói:
- Dì tuy nói đùa, nhưng không sai mấy. Lúc nào rỗi, dì đến bàn với cụ xem, rồi dì làm mối cho đôi bên nên vợ nên chồng, thật là ổn thỏa mọi đường.
Tiết phu nhân nói:
- Ta mà nói ra, nhất định cụ sẽ vui mừng.
Chợt Tương Vân đi vào, tay mang một phiếu cầm đồ, cười nói:
- Mảnh giấy nợ gì đây?
Đại Ngọc nhìn không biết là cái gì. Bọn bà già đứng đấy đều cười nói;
- Cái này hay lắm! Phải mất gì chúng tôi mới bảo cho!
Bảo Thoa vội cầm lấy xem, thì chính là cái phiếu cầm đồ của Tụ Yên vừa nói lúc nãy, liền gấp ngay lại.
Tiết phu nhân nói:
- Bà già nào đánh rơi cái giấy cầm đồ thì phải, tìm trả ngay cho họ, chắc rồi họ lại tìm cuống lên thôi. Cháu nhặt được ở chỗ nào đấy?
Tương Vân hỏi:
- Thế nào là giấy cầm đồ?
Bọn bà già cười nói:
- Cô này thật là ngớ ngẩn, đến tờ giấy cầm đồ cũng không biết!
Tiết phu nhân thở dài:
- Không trách được nó là tiểu thư ngàn vàng còn trẻ tuổi, thì làm gì biết được cái này? Nó có trông thấy cái này bao giờ đâu? Dù người trong nhà có, nó cũng chẳng được trông thấy. Đừng cười nó, tất cả các cô ở đây, xem ai cũng thành ngớ ngẩn cả.
Bọn bà già đều cười nói:
- Vừa rồi cô Lâm cũng chẳng nhận ra được. Không nói các cô làm gì, ngay đến cậu Bảo hay đi ra ngoài cũng chưa chắc đã trông thấy cái này.
Tiết phu nhân kể rõ đầu đuôi cho họ nghe. Tương Vân và Đại Ngọc cười nói:
- Hạng người này thật chỉ nghĩ cách kiếm tiền thôi. Hiệu cầm đồ của dì có cái này không?
Mọi người cười nói:
- Câu hỏi ngớ ngẩn nhỉ! Trên đời này “Quạ nào lại chẳng đen đầu”, làm gì có hai giống quạ?
Tiết phu nhân lại hỏi:
- Cháu nhặt được ở đâu đấy?
Tương Vân đương muốn nói, thì Bảo Thoa nói lấp đi:
- Đó là phiếu cầm quá hạn, đã xóa sổ từ bao giờ rồi. Hương Lăng nhặt lấy mang về lừa cho họ chơi đấy thôi.
Tiết phu nhân nghe thay thế cho là thật, nên không hỏi nữa. Một lúc sau có người vào trình:
- Mợ Cả ở phủ hên kia đến mời dì sang nói chuyện.
Tiết phu nhân đứng dậy đi. Bấy giờ trong nhà không có ai, Bảo Thoa mời hỏi Tương Vân:
- Nhặt được ở đâu thế?
- Con Triện Nhi, a hoàn của em dâu chị, lẻn đưa cái giấy ấy cho Oanh Nhi. Oanh nhi gấp vào trong sách, tưởng là tôi không trông thấy. Chờ họ đi rồi, tôi giở ra xem, không biết là cái gì, thấy các chị ở đây, nên cầm đến để cho xem.
Đại Ngọc liền hỏi:
- Không lẽ cô ấy cũng phải cầm quần áo à? Đã cầm rồi sao lại còn đưa giấy cho chị?
Bảo Thoa thấy hỏi thế, không tiện giấu, kể lại việc vừa rồi cho hai người nghe. Đại Ngọc nghe nói, “cùng chung cảnh ngộ, thỏ chết cáo thương”, cũng thở than thương cảm. Tương Vân tức quá nói:
- Để tôi đi hỏi chị Hai xem! Tôi sẽ mắng cho bọn bà già và a hoàn một trận để các chị hả giận, có đươc không?
Tương Vân định chạy đi ngay. Bảo Thoa kéo lại cười nói:
- Cô lại điên rồi, hãy ngồi xuống đây đã nào!
Đại Ngọc cười nói:
- Nếu là con trai, có lẽ cô sẽ sẵn sàng dẹp hẳn những nỗi bất bình; cô lại định đóng vai Kinh Kha, Nhiếp Chính(2) đó phải không? Thật đáng buồn cười!
Tương Vân nói:
- Đã không cho tôi đến hỏi chị Hai, thì ngày mai sẽ đón cô Hình đến ở với chúng ta có hơn không?
Bảo Thoa cười nói:
- Để ngày mai bàn xem đã.
Ngay lúc đó có người vào trình:
- Cô Ba và cô Tư đến chơi.
Ba người nghe nói liền im hẳn, không nhắc đến chuyện ấy nữa.
----------------------------
(1). Ý nói đi không bằng ở lại.
(2). Kinh Kha và Nhiếp Chính: hai người nghĩa hiệp đời Chiến Quốc. Kinh Kha nhận lời với con vua nước Yên, đến giết Tần Vương, không trúng, bị quân Tần giết chết. Nhiếp Chính nhận lời với Nghiêm Trọng Tử, giết vua Hàn Ai Hầu và Hiệp Lũy rồi cắt mũi khoét mặt tự tử.
Hồi thứ năm mươi tám
Dưới bóng hạnh, phượng giả khóc hão huyền;
Bên cửa the, tình thật nghĩ vơ vẩn.
Bọn Thám Xuân hỏi thăm xong, mọi người cười đùa một lúc rồi đâu về đây.
Ngờ đâu trong cung lão thái phi chết, các bà mệnh phụ đều phải vào triều theo thứ tự chịu tang. Có sắc ban xuống cả nước, những nhà có chức tước, trong một năm không được mở tiệc hát xướng; dân chúng thì ba tháng không được cưới xin. Mẹ con, bà cháu Giả mẫu ngày nào cũng phải vào triều dự tế, đến giờ mùi mới được về. Sau hai mươi mốt ngày làm lễ ở cung bên cạnh, mới rước linh đến tiên lăng, ở huyện Hiếu Từ. Từ Kinh đến lăng, phải đi về mất mười ngày. Khi rước linh đến đấy, lại phải để vài ngày nữa mới đặt vào địa cung (cung ở dưới đất) thế là công việc vừa vặn mất một tháng. Vợ chồng Giả Trân ở phủ Ninh cũng phải đi tế. Hai phủ vắng người, vì thế họ bàn với nhau, trong nhà không có chủ, phải nói dối là Vưu thị “ở cữ” để ở nhà trông nom công việc cả hai phủ.
Lại nhờ Tiết phu nhân vào ở trong vườn, trông nom bọn chị em và a hoàn. Bấy giờ bên nhà Bảo Thoa đã có Tương Vân và Hương Lăng; bên nhà Lý Hoàn tuy thím Lý về rồi, nhưng cứ dăm ba ngày lại đến một lần. Giả mẫu lại giao Bảo Cầm cho thím ấy trông nom, bên Nghênh Xuân đã có Tụ Yên; Thám Xuân thì việc nhà bận rộn, thỉnh thoảng dì Triệu cùng Giả Hoàn lại cứ đến quấy rầy, rất là khó chịu; nhà Tích Xuân thì hẹp quá không có chỗ cho Tiết phu nhân ở. Giả mẫu lại căn dặn Tiết phu nhân nhiều lần nhờ trông nom Đại Ngọc. Tiết phu nhân xưa nay vẫn thương yêu Đại Ngọc, nhân địp này, liền dọn đến quán Tiêu Tương cùng ở với cô ta. Tất cả thuốc men, ăn uống đều được trông nom cẩn thận. Đại Ngọc cảm kích quá, từ đấy cũng gọi Tiết phu nhân là mẹ, gọi Bảo Thoa bằng chị, Bảo Cầm bằng em, thân thiết như chị em ruột, hơn hẳn mọi người. Giả mẫu thấy thế cũng rất vui vẻ yên tâm.
Tiết phu nhân chỉ trông nom các chị em và ngăn cấm bọn a hoàn thôi; còn những việc lớn nhỏ trong nhà đều không hay nhắc đến. Vưu Thị ngày nào cũng sang, nhưng chỉ điểm đầu chiếu lệ chứ không lên mặt oai quyền. Vả lại, trong nhà trên dưới chỉ còn một mình chị ta trông nom, lại ngày nào cũng phải sắm sửa các thứ ăn mặc, đồ dùng đưa đến chỗ Giả mẫu và Vương phu nhân, vì thế cũng rất khó nhọc.
Lúc này cả chủ nhà lẫn người giữ việc ở hai phủ Ninh, phủ Vinh đều rất bận rộn. Có người phải theo vào chầu, có người phải trông nom công việc ở nơi nhà trọ, có người đi trước sắp đặt nơi nghỉ trọ, nên ở nhà không có ai cầm đầu đứng đắn cả. Họ hoặc nhuế nhóa cho qua chuyện, hoặc tụ tập, đàn đúm với bọn giữ việc tạm thời, ỷ thế làm càn. Bên phủ Vinh chỉ còn có Lại Đại cùng mấy người trông nom việc ngòai thôi. Những người xưa nay Lại Đại quen dùng để giúp việc cũng phải đi cả, tuy mượn người khác thay, nhưng đều mới lạ, chưa quen việc. Vả chăng bọn họ đều là hạng ngú ngớ hoặc bớt xén bừa bãi, hoặc trình báo vu vơ, hoặc cất nhắc liều lĩnh, việc gì cũng hỏng, chỗ nào cũng sinh rắc rối, không thể kể ra hết được. Thấy bọn con hát ở các nhà quan đều cho về cả, bọn Vưu thị liền bàn nhau, cũng trình với Vương phu nhân cho mười hai con hát về. Có người nói:
- Bọn này đều là những người mua về, bây giờ không cho học hát nữa, nhưng có thể giữ lại để sai khiến, chỉ cho bọn giáo tập(1) về thôi.
Vương phu nhân nói:
- Bọn học hát không thể so với lũ người sai khiến được. Họ là con nhà tử tế, vì không có nghề gì, nên bán đi để cho học hát. Chúng nó đã bôi râu vẽ mặt mấy năm rồi. Bây giờ nhân dịp này, cho mỗi người mấy lạng bạc để chúng về. Ngày trước các cụ cũng đã đặt ra lệ này. Chúng ta không nên làm việc thất đức bụng dạ hẹp hòi. Hiện giờ còn mấy người ở lại đã lâu, vì duyên cớ gì không muốn về nhà thì nên cho nó ở lại để sai khiến, chờ khi lớn lên sẽ gả cho những người hầu ở trong nhà.
Vưu thị nói:
- Ta nên hỏi mười hai con hát này, đứa nào muốn về sẽ cho mấy lạng bạc và báo tin cho bố mẹ nó đến nhận, như thế mới phải. Không gọi người nhà nó đến, lỡ ra có những kẻ bậy bạ mạo tên đến lĩnh, rồi lại đem đi bán ở chỗ khác, như thế chẳng phụ công ơn mình hay sao? Đứa nào không muốn về thì cho ở lại.
Vương phu nhân cười nói:
- Nói thế phải đấy.
Vưu thị sai người báo cho Phượng Thư biết rồi truyền xuống phòng tổng quản cấp cho mỗi người giáo tập tám lạng bạc, làm gì tùy ý. Một mặt tra xét những sổ sách đồ đạc ở viện Lê Hương và sai người đến canh đêm.
Khi gọi mười hai đứa bé đến hỏi kỹ càng thì đến quá nửa không muốn về nhà. Có đứa nói, tuy còn bố mẹ, nhưng chỉ chuyên muốn bán con đi thôi, nay trở về lại sợ bị mang đi bán lần nữa; có đứa nói bố mẹ chết rồi, bị anh em chú bác mang đi bán; có đứa nói không có chỗ nào nương tựa; có đứa nói mến ơn chủ không muốn bỏ đi. Chỉ có bốn, năm đứa là xin về.
Vương phu nhân đành cho chúng ở lại. Bốn, năm đứa kia thì giao cho bọn mẹ nuôi, đợi bố mẹ đẻ chúng đến nhận sẽ trả. Những đứa không muốn về thì chia đến ở các nhà trong vườn. Giả mẫu giữ lại Văn Quan để sai khiến, giao Phương Quan cho Bảo Ngọc, Nhụy Quan cho Bảo Thoa, Ngẫu Quan cho Đại Ngọc, Quỳ Quan cho Tương Vân, Đậu Quan cho Bảo Cầm, Ngải Quan cho Thám Xuân, Vưu Thị xin nhận Già Quan. Mọi người được chốn yên thân, như chim sổ lồng, ngày nào cũng ra vườn chơi đùa. Bọn trẻ này không thạo may vá thêu thùa, không quen sai khiến, ai cũng biết nên không chấp nó. Cũng có mấy đứa biết nghĩ, lo sau này ra đời không có nghề làm ăn, nên tự bỏ nghề cũ, học lấy những công việc may vá thêu thùa.
Hôm ấy chính là ngày đại tế trong triều, Giả mẫu dậy từ canh năm đến chỗ nghỉ ăn lót dạ rồi vào triều. Cơm sáng xong, về nhà trọ nghỉ, ăn bữa cơm trưa, nghỉ một lúc, vào triều dự hai buổi tế trưa và tối. Sau đó về nhà trọ nghỉ, ăn cơm tối rồi mới về phủ. May sao chỗ trọ là ngôi miếu của một ông quan to, có sư vãi trông nom, nhà cửa rất là sạch sẽ, có hai dãy phòng bên đông và bên tây. Phủ Vinh thuê dãy phòng bên đông, phủ Bắc Tĩnh vương thuê dãy phòng bên tây. Bọn thái phi, thiếu phi hàng ngày thường đến nghỉ ở đấy, cùng đi về với Giả mẫu, nên cùng trông nom giúp đỡ lẫn nhau.
Giả mẫu và Vương phu nhân phải đi đưa ma một tháng, bọn a hoàn và bà già đều rỗi việc, thường ra chơi đùa ở trong vườn. Các bà già hầu hạ ở trong viện Lê Hương cũng gọi về và cắt đi sai vặt ở các nơi, thành ra trong vườn lại nhiều thêm mấy chục người.
Bọn Văn Quan trước kia đứa thì tính nết kiêu ngạo, đứa thì cậy thế bắt nạt kẻ dưới, đứa thì thích ăn ngon mặc đẹp, đứa thì chanh chua chỏng lỏn, phần nhiều không biết yên phận. Vì thế bọn bà già đều oán ngầm, nhưng không dám cãi cọ với chúng. Bây giờ chúng thôi không học hát nữa, mọi người đều được hả dạ. Có người thì bỏ qua; có người bụng dạ ẹp hỏi vẫn nhớ thù xưa, nhưng vì chúng đã về các phòng, nên không ai dám động đến.
Một hôm vừa gặp ngày thanh minh, Giả Liễn sắm sửa đồ lễ thường năm, dẫn Giả Hoàn, Giả Tôn, Giả Lan đến chùa Thiết Hạm tế lễ đốt vàng. Giả Dung bên phủ Ninh cũng dẫn người trong họ đem đồ lễ đến tế. Bảo Ngọc vì ốm chưa khỏi hẳn, nên không đi được. Ăn cơm xong Bảo Ngọc kêu mệt, Tập Nhân nói:
- Hôm nay tốt giời, cậu hãy đi ra ngoài chơi, kẻo ăn cháo rồi đi ngủ ngay thì khó tiêu.
Bảo Ngọc chống gậy đi giày ra ngoài sân chơi. Gần đây công việc trong vườn đều giao cho các bà già trông nom, người nào việc ấy, ai cũng bận rộn. Có người sửa trúc, có người đẵn cây, có người trồng hoa, có người gieo đậu, trong ao lại có các cô lái đò chèo thuyền lấy bùn, trồng sen. Tương Vân, Hương Lăng, Bảo Cầm cùng một số a hoàn đều ngồi trên đá xem họ làm việc cho vui. Bảo Ngọc cũng lững thững đi đến. Tương Vân trông thấy cười nói:
- Tống cổ cái thuyền này đi, họ đến đón cô Lâm đấy!
Mọi người đều cười ầm lên. Bảo Ngọc đỏ mặt lên, cười nói:
- Khi ốm còn ai nói hay được? Cô lại còn nhắc để làm trò cười!
Tương Vân cười nói:
- Bệnh ấy khác hẳn mọi chứng bệnh, chính mình chuốc lấy trò cười, lại đi nói người ta.
Bảo Ngọc cũng ngồi xuống xem mọi người đang tấp nập làm việc. Tương Vân nói:
- Đây có gió, đá lại lạnh, anh ngồi một tí rồi về thôi. Bảo Ngọc định đến thăm Đại Ngọc, chống gậy đứng dậy, cáo từ mọi người rồi đi theo con đê ở cầu Thấm Phương. Hai bên dây liễu rủ vàng, hoa đào khoe thắm; một cây hạnh lớn ở sau núi đá hoa đã rụng cả, lá râm xanh om, trên cây có nhiều quả hạnh nhỏ bằng hạt đậu. Bảo Ngọc liền nghĩ:
- Ốm mất mấy hôm, thành ra phụ cả hoa hạnh này! Không ngờ nay đã “Lá xanh rợp bóng quả đầy cành” rồi!- Bảo Ngọc nhìn mãi cây hạnh không thôi. Lại nghĩ đến việc Hình Tụ Yên sắp lấy chồng, tuy việc trai lấy vợ, gái lấy chồng là lẽ tất nhiên, nhưng lại thiếu mất một cô gái trong sạch, chỉ độ vài năm nữa chắc lại “lá xanh rợp bóng quả đầy cành”. Mấy hôm nữa, cây hạnh này quả rụng cành trơ; mấy năm nữa cô Tụ Yên cũng chẳng tránh khỏi má hồng phai nhạt, mớ tóc bạc phơ! Bảo Ngọc đâm ra thương tâm, chỉ nhìn cây hạnh thở dài. Đương lúc than thở, chợt có con chim sẻ bay đến, kêu ríu rít trên cành, Bảo Ngọc lại đâm ngơ ngẩn, nghĩ bụng: “Chắc khi hoa hạnh nở, con chim sẻ đã từng đến đây, nay thấy không còn hoa, chỉ có lá nên nó kêu ríu rít. Tiếng kêu này tất là tiếng khóc than gì đây? Tiếc rằng Công Dã Tràng(2) không ở đây, nên không hỏi được con chim ấy. Nhưng không biết sang năm khi cây hạnh nở hoa, liệu con chim sẻ này còn nhớ mà bay đến để họp mặt với hoa nữa không?”
Đương nghĩ vơ vẩn, thì có ánh lửa từ bên kia núi rọi sang, con chim sẻ sợ bay đi mất. Bảo Ngọc giật mình, lại nghe thấy bên ngoài có tiếng quát: “Ngẫu Quan, mày muốn chết! Làm sao lại mang giấy tiền đến đây mà đốt? Ta về trình các mợ cho mà xem, liệu xác mày đấy!” Bảo Ngọc càng nghi hoặc, liền đi vòng sang núi xem, thấy Ngẫu Quan nước mắt giàn giụa, ngồi ở đấy tay vẫn cầm mồi lửa, ngồi trước đống gio giấy tiền mà than khóc, Bảo Ngọc vội hỏi:
- Chị đốt giấy tiền cho ai đấy? Đừng đốt ở đây! Có đốt cho bố mẹ anh em, thì nói rõ tên họ ra, tôi sẽ bảo người hầu làm cho một cái bao giấy, viết tên họ vào đấy rồi đem mà đốt.
Ngẫu Quan trông thấy Bảo Ngọc, không nói câu gì. Bảo Ngọc hỏi mãi nó cũng chẳng trả lời. Chợt thấy một bà già hằm hằm chạy đến kéo Ngẫu Quan, mồm lảm nhảm: “Tao đã trình các mợ rồi, các mợ ấy giận lắm!” Ngẫu Quan tính còn trẻ con, nghe nói, sợ mất thể diện nên không chịu đi. Bà già nói:
- Tao bảo mày không được nhông nháo quá như thế! Bây giờ không làm bậy được như lúc còn ở ngoài đâu! Đây là chỗ nghiêm cấm đấy. - Lại trỏ Bảo Ngọc nói: - Ngay cậu chúng tao đây cũng phải giữ khuôn phép, mày là hạng gì mà dám đến đây làm bậy? Rồi cũng chỉ là đồ vất đi thôi. Hãy đi theo tao!
Bảo Ngọc vội nói:
- Cô ấy có đốt giấy tiền đâu, cô Lâm bảo cô ấy đốt giấy vụn đấy, bà không biết rõ, lại đi mách nhầm.
Ngẫu Quan chẳng hiểu ra sao, trông thấy Bảo Ngọc lại càng sợ thêm. Thấy Bảo Ngọc bênh mình, trong bụng đương lo hóa mừng, liền nói bướng:
- Bà trông thực là giấy tiền à? Tôi đốt giấy vụn của cô Lâm đấy.
Bà già cúi xuống nhặt mảnh giấy còn sót lại ở đống gio lên nói:
- Mày còn cãi bướng à? Có chứng cớ đây, đi lên nhà tao sẽ nói chuyện với mày.
Liền cầm tay Ngẫu Quan chực lôi đi.
Bảo Ngọc vội kéo Ngẫu Quan lại, lấy gậy gạt tay bà già, nói:
- Bà cứ bắt cô ấy đi. Tôi nói thực cho bà biết: đêm qua tôi nằm mê, thấy thần hạnh hoa đòi một bó giấy tiền, bảo phải sai người lạ đốt, không được sai người trong nhà, bệnh tôi mới chóng khỏi. Vì thế tôi đưa giấy tiền nhờ cô Lâm nói với cô đem đốt và khấn hộ, không cho một ai biết, nên hôm nay mới dậy được. Không may bà lại trông thấy. Bây giờ tôi mà khó chịu là tại chạm phải vía bà đấy! Bà lại còn muốn đi mách cô ấy à? Cô Ngẫu Quan đến chỗ các mợ cứ theo thế mà nói cho tôi.
Ngẫu Quan nghe nói càng đắc ý, lại kéo bà già đi. Bà già vất giấy tiền xuống, cười xin Bảo Ngọc:
- Vì tôi không biết, nếu cậu trình bà thì còn gì là đời tôi nữa? Bây giờ tôi về trình với các mợ là cậu ra lễ thần, tôi trông lầm đấy.
Bảo Ngọc nói:
- Bà mà không trình thì tôi cũng không nói.
- Tôi trót trình rồi, các mợ bảo phải mang nó lên. Bây giờ đành chỉ nói là cô Lâm gọi nó về rồi.
Bảo Ngọc gật đầu bằng lòng. Bà già liền đi ngay.
Bảo Ngọc hỏi kỹ Ngẫu Quan:
- Đốt giấy tiền cho ai đấy? Đốt cho bố mẹ anh em, tất phải nhờ người ngoài, chắc cô lại có mối tình riêng gì đây?
Ngẫu Quan thấy Bảo Ngọc vừa mới che chở cho mình và cũng có những tâm tư giống mình, lòng càng cảm kích, khó bề giấu giếm được, liền rơm rớm nước mắt nói:
- Việc này của tôi, trừ Phương Quan nhà cậu và Nhụy Quan ở nhà cô Bảo ra, không có người thứ ba nào biết nữa. Hôm nay bất chợt cậu trông thấy, đành phải nói thực với cậu, nhưng cậu không được nói cho người khác biết. - Rồi nó lại khóc - Tôi không tiện nói thẳng với cậu, cậu cứ về đi, khi vắng người cậu khẽ hỏi Phương Quan sẽ biết. - Nói xong bùi ngùi đi về.
Bảo Ngọc trong lòng buồn bực, đành đi đến quán Tiêu Tương thăm Đại Ngọc. Thấy Đại Ngọc người gầy đáng thương, hỏi ra đã đỡ hơn trước nhiều. Đại Ngọc cũng thấy Bảo Ngọc gầy hơn trước nhiều, nhớ đến việc hôm nọ, nước mắt lại giàn giụa. Cô ta nói chuyện qua loa mấy câu rồi giục Bảo Ngọc về nghỉ. Bảo Ngọc đành phải đi về. Nhớ đến việc lúc nãy, Bảo Ngọc muốn hỏi Phương Quang, nhưng có Tương Vân, Hương Lăng ở đấy đang nói chuyện với Tập Nhân và Phương Quan, nên không tiện gọi nó, sợ người ta tra hỏi, đành phải nín lại.
Một lúc sau, Phương Quan đi gội đầu với mẹ nuôi. Nhưng mẹ nuôi nó lại cho con gái đẻ gội trước, rồi mới đến Phương Quan. Phương Quan thấy thế, cho là mẹ nuôi bênh con đẻ liền nói:
- Mẹ lấy nước thừa của con gái cho tôi gội à? Tiền lương tháng của tôi mẹ lấy cả, không biết đã phải nhờ vào tôi, lại còn cho tôi dùng những đồ thừa!
Mẹ nó xấu hổ quá, đâm ra cáu giận, mắng:
- Đồ vô ơn này! Chẳng trách người ta thường nói là “xướng ca vô loài”. Mày dù hay đến đâu, đã nhập vào bọn ấy cũng đến hỏng thôi! Mới ba tuổi ranh đã biết bới lông tìm vết, lời ong tiếng ve, chả khác gì con lừa cắn quanh!
Hai mẹ con cãi nhau ầm lên.
Tập Nhân vội sai người ra bảo:
- Làm ồn vừa chứ! Tại sao cứ nhè lúc cụ đi vắng là cãi nhau om sòm, không ai chịu lựa lời êm thắm nói chuyện với nhau.
Tình Văn nói:
- Đó là Phương Quan bới việc, chẳng biết nó làm ầm cái gì? Mới biết được vài vở hát, đã tưởng mình giết được tướng giặc, bắt được kẻ làm phản ấy!
Tập Nhân nói:
- Ông ghê bà cũng gớm!(3) Người già cư xử bất công, con bé thì cũng đáng ghét.
Bảo Ngọc nói:
- Không trách được Phương Quan. Người xưa nói: “Con giun xéo lắm cũng phải quằn”. Ở đây nó không có bố mẹ họ hàng, chẳng ai trông nom; bà ấy đã lấy tiền của nó, lại còn giày vò nó, thì trách sao được?
Lại hỏi Tập Nhân:
- Một tháng nó được bao nhiêu tiền lương? Từ nay chị nhận lấy lương mà trông nom nó, chẳng nhẹ việc hay sao?
- Tôi làm gì chả trông nom được, cứ gì phải mấy đồng tiền của nó, để người ta chửi cho đấy?
Nói xong Tập Nhân đứng dậy vào trong nhà lấy một lọ dầu móc hoa, trứng gà, xà phòng thơm, dây buộc tóc, gọi bà già đến bảo:
- Bà mang cho Phương Quan, dặn nó lấy nước khác mà gội, đừng làm ồn lên nữa.
Mẹ nuôi Phương Quan càng xấu hổ nói:
- Đồ bội bạc! Cứ bảo tao ăn bớt tiền của mày! - Rồi đánh nó mấy cái.
Phương Quan khóc ầm lên, Bảo Ngọc chạy ra, Tập Nhân vội ngăn lại:
- Cậu ra làm gì? Để tôi đi bảo mụ ấy.
Tình Văn vội chạy ra, trỏ vào mẹ nuôi Phương Quan nói:
- Bà già mà không biết điều! Bà không cho nó nước gội đầu, chúng tôi mới phải cho nó. Bà không biết xấu hổ, lại còn vác mặt đi đánh nó, nó còn học nghề ở ban hát liệu bà có dám đánh nó không?
- Một ngày nhận mẹ là nghĩa suốt đời. Nó hỗn láo, tôi đánh nó đấy!
Tập Nhân gọi Xạ Nguyệt bảo:
- Tôi không quen cãi nhau với ai. Tình Văn nóng tính quá. Chị ra đe mẹ ấy mấy câu.
Xạ Nguyệt chạy ra nói:
- Bà hãy im đi. Tôi hỏi bà: không riêng chỗ chúng tôi ở đây, mà cả trong vườn này, bà xem có ai dám mắng mỏ con cái ở trong nhà chủ không? Dù là con đẻ của bà nữa, đã cho đi ở các phòng, phạm lỗi gì, đã có người chủ đánh mắng. Sau nữa có các cô, các chị lớn tuổi mới đánh mắng được thôi, ai cho phép bà ở ngoài đến sấn sổ vào những việc không đâu? Nếu bà còn làm thế, thì bảo chúng nó đến đây học chúng tôi cái gì? Càng già càng vô phép! Hôm nọ bà thấy mẹ Trụy Nhi đến làm ầm lên, giờ bà cũng lại định học mụ ấy phỏng? Các bà hãy bình tâm. Mấy hôm nay, người nọ ốm, người kia ốm, cụ lại bận việc, nên tôi chưa đi trình được thôi. Chờ ít lâu, tôi sẽ trình hết, để các bà nhụt bớt cái lối hung hăng đi mới được! Vả lại, cậu Bảo ốm mới khỏi, chúng tôi cũng chẳng dám nói to, bà lại dám đánh người, để nó tru tréo lên thế! Chủ mới đi khỏi nhà có mấy ngày, các bà đã coi trời bằng vung, mắt không coi ai ra gì cả! Có lẽ sau này các bà đánh cả chúng tôi đấy! Nó cũng không cần gì hạng mẹ nuôi như thế đâu! Không có bà thì nó bị đống rác mục vùi đi mất hay sao?
Bảo Ngọc giận quá, cầm gậy đập vào ngưỡng cửa nói:
- Bọn bà già này đều là ruột đồng gan sắt cả. Thật là việc lạ. Đã không trông nom lại còn hành hạ chúng nó. Trời đất cứ mãi thế này thì biết làm sao được?
Tình Văn nói:
- Biết làm cái gì? Cứ tống cổ cả đi, không cần cái hạng bánh vẽ ấy là được.
Bà già này xấu hổ quá, không nói lại câu nào. Phương Quan thì mặc cái áo bông cánh màu hoa hải đường, cái quần rộng ống bằng lụa xanh chấm hoa, tóc đen nhánh rủ ra đằng sau, đứng khóc sướt mướt như người tắm nước mắt vậy.
Xạ Nguyệt cười nói:
- Làm cho cô Oanh Oanh trở thành chị Hồng Nương vừa mới bị đòn. Không đi ăn mặc cho tử tế, lại để thế à?
Tình Văn chạy lại kéo Phương Quan đi gội đầu, rồi vắt lau khô, bới tóc lên, sau đó bảo nó mặc quần áo và dẫn về bên này.
Ngay sau đó, bà già ở nhà bếp lên hỏi:
- Cơm chiều có rồi, đã mang lên được chưa?
Đứa hầu nhỏ nghe đoạn, vào hỏi Tập Nhân. Tập Nhân cười nói:
- Vừa rồi cãi nhau ầm ĩ, không để ý là mấy giờ rồi.
Tình Văn nói:
- Cái quái ấy không biết giở chứng gì, lại phải đem đi sửa thôi!
Nói xong lấy đồng hồ ra xem và bảo:
- Chờ một tý nữa thì vừa đấy.
Rồi đứa hầu nhỏ đi ra.
Xạ Nguyệt cười nói:
- Nhắc đến chuyện nghịch, lại muốn đánh cho Phương Quan mấy cái. Hôm qua chính nó cứ táy máy cái quả lắc mãi, nên đồng hồ mới không chạy được.
Đương nói chuyện thì đồ ăn đã sửa soạn xong.
Một lúc đứa hầu nhỏ bưng cái hộp lên đứng đấy, Tình Văn, Xạ Nguyệt mở ra xem, vẫn là bốn món ăn thường.
Tình Văn cười nói:
- Đã khỏi rồi mà vẫn cho ăn mấy món thanh đạm! Cứ cháo với dưa muối mãi đến bao giờ!
Nhìn thấy trong hộp còn một bát canh thịt lợn nướng nấu với măng tươi, Tình Văn vội bày ở trước mặt Bảo Ngọc. Bảo Ngọc đến bàn húp một húp, nói:
- Canh ngon lắm!
Mọi người đều cười:
- Phật sống ơi! Đã mấy hôm nay không trông thấy đồ ăn mặn. Chẳng trách mà thèm như thế!
Vừa nói họ vừa bưng bát canh lên khẽ thổi. Thấy Phương Quan đứng ở bên cạnh, họ đưa cho nó, bảo:
- Mày cũng tập hầu đi, đừng ngớ ngẩn thế nữa. Khẽ thổi thôi, đừng cho nước dãi bắn vào.
Phương Quan nghe lời, thổi mấy cái rất nhẹ nhàng. Mẹ nuôi nó bưng cơm đứng chực ở cửa ngoài. Trước khi Phương Quan mới đến, bà ta đã nhận nhau từ bên ngoài, rồi cùng vào viện Lê Hương. Bà này là người hầu hạng ba ở phủ Vinh, chẳng qua chỉ làm việc giặt giũ, chưa được vào trong các phòng bao giờ, nên chưa biết khuôn phép. Nay mới được vào trong vườn, theo bọn con gái về các buồng. Ngay lúc đầu bà ta bị Xạ Nguyệt làm cho một trận, đã biết thân biết phận phần nào. Bà ta rất lo Phương Quan không nhận làm mẹ nuôi, sẽ có nhiều chỗ không lợi, nên trong lòng muốn mua chuộc bọn này. Thấy Phương Quan thổi canh, bà ta chạy vào cười nói:
- Nó chưa thạo, coi chừng đánh vỡ bát, để tôi thổi cho.
Vừa nói vừa bưng lấy. Tình Văn quát to:
- Ra mau! Nó có đánh vỡ bát nữa cũng chưa đến lượt bà thổi! Sao bà vô cớ được chạy vào trong buồng này? - Rồi lại mắng bọn a hoàn nhỏ - Chúng mày mù à! Bà ấy không biết thì phải bảo chứ!
Bọn a hoàn nhỏ đều nói:
- Chúng tôi nói, bà ấy không tin, đuổi bà ấy cũng không ra, thành ra chúng tôi bị mắng lây, nghĩ thật bực! Bà đã biết chưa? Chỗ chúng tôi vào được thì bà cũng chỉ được đến nửa chừng thôi, không thể vào hẳn nơi đó. Huống chi bà lại lần cả vào những chỗ chúng tôi không được vào. Việc ấy đã đành, bà lại còn dám giơ tay đỡ lấy bát cháo, thò mồm vào thổi nữa.
Vừa nói vừa đẩy mụ ấy ra. Mấy bà già chờ dưới thềm đón lấy hộp không, thấy mụ ấy đi ra, đều cười nói:
- Bà chị chưa lấy gương soi mặt mà đã đi vào à?
Mụ ấy xấu hổ đâm ra tức giận, nhưng đành phải nín nhịn đi ra.
Phương Quan thổi mấy cái, Bảo Ngọc cười nói:
- Mày thử nếm xem đã vừa ăn chưa?
Phương Quan cho là nói đùa, cứ cười nhìn bọn Tập Nhân. Tập Nhân nói:
- Em cứ nếm một tí có việc gì đâu?
Tình Văn nói:
- Xem ta nếm đây này.
Nói xong liền húp một miếng. Phương Quan thấy thế cũng húp một miếng rồi nói: “Được rồi!” Liền đưa lên B Ngọc húp hết nửa bát, ăn mấy miếng măng và nửa bát cháo, thế là xong bữa. Mọi người dọn dẹp mang ra. Bọn hầu nhỏ bưng chậu nước vào, súc miệng, rửa mặt xong, bọn Tập Nhân mới đi ăn cơm.
Bảo Ngọc đưa mắt liếc Phương Quan. Phương Quan vốn tính khôn, lại học hát mấy năm, việc gì mà nó chẳng hiểu? Nó giả cách đau bụng không ăn cơm.
Tập Nhân nói:
- Đã không ăn cơm thì ở lại đây hầu. Để phần cháo cho đấy, lúc nào đói thì ăn.
Nói xong rồi đi ra.
Bảo Ngọc đem việc gặp Ngẫu Quan vừa rồi, mình bịa ra để che lỗi cho nó thế nào, và Ngẫu Quan bảo về hỏi Phương Quan thế nào, kể lại một lượt cho nó nghe, lại hỏi:
- Nó tế ai đấy?
Phương Quan mắt đỏ hoe, thở dài nói:
- Việc này nói ra thì chị Ngẫu Quan cũng vớ vẩn quá!
- Thế nào?
- Chị ấy tế chị Dược Quan mới chết đấy!
- Hai người là bạn với nhau thì tế cũng phải.
- Có phải bạn bè gì đâu? Chẳng qua nghĩ vớ vẩn đấy thôi. Chị ấy đóng vai học trò. Dược Quan đóng vai hề. Hai người thường làm vợ chồng, hằng ngày lên hát, ra bộ thân mật với nhau, lần này lần khác, chúng nó vớ vẩn y như vợ chồng thật. Sau thành ra thương yêu nhau. Khi Dược Quan chết, chị ấy khóc lóc chết đi sống lại, đến nay cũng vẫn chưa quên, vì thế cứ đến ngày Tết là đốt vàng cho Dược Quan. Sau này Nhụy Quan bù vào vai ấy, chúng tôi thấy chị ấy lại thân mật như Dược Quan ngày trước, liền hỏi. - Tại sao có người mới đã quên ngay người cũ? Chị ấy nói: “Không phải quên đâu. Cũng như người đàn ông góa vợ, sau khi lấy vợ khác, nhưng vẫn giữ mối tình chung thủy không bao giờ quên hẳn người vợ đã chết. Nếu vì người chết mà giữ tiết ở lại trọn đời, không lấy người khác, như vậy không đúng, người chết sẽ băn khoăn”. Cậu xem chị ấy nói thế có phải điên ngốc đáng cười hay không?
Bảo Ngọc nghe những câu chuyện ngốc ấy, hợp với tính ngốc của mình, đâm ra vừa mừng vừa thương, cho là chuyện lạ, nói:
- Trời đã sinh ra những người như vậy, còn cần gì đến ta là hạng râu mày ô trọc làm nhơ nhuốc cả cõi trần - Nhân lại kéo Phương Quan dặn:
- Đã vậy tôi có một câu dặn cô. Nếu tôi gặp thẳng Ngẫu Quan, tất sẽ không tiện, nên nhờ cô nói giúp.
Phương Quan hỏi việc gì. Bảo Ngọc nói:
- Từ nay không nên đốt giấy tiền nữa. Giấy tiền là dị đoan của người sau đặt ra, chứ không phải lời dạy của Khổng Tử. Sau này hễ gặp ngày tết thì chỉ thắp một lò hương, lòng thành tâm niệm, tự nhiên sẽ cảm ứng. Hạng người ngu xuẩn có biết đâu, bất kỳ thần phật hoặc người chết, họ đều chia ra thứ bậc, thế nọ thế kia, có biết đâu cốt lấy “lòng thành” làm chủ. Ngay những ngày loạn ly hốt hoảng, hương khói không có, gặp đống đất, đống cỏ nào sạch sẽ là tế cũng được. Không những người chết đến hưởng, mà cả quỷ thần cũng hưởng. Cô xem trên bàn của tôi vẫn đặt cái lư hương, tôi có tâm sự gì, không cứ ngày nào, thường thường thắp hương; có chè mới cúng một chén chè, có nước trong cúng chén nước, hoặc có hoa quả mới, hoặc đồ chay đồ mặn cũng đem lên cúng. Chỉ cốt ở lòng thành, thần phật sẽ lại hưởng. Cho nên nói: cốt ở lòng kính, không ở nghi tiết hão huyền. Từ nay nhớ bảo cô ấy không nên đốt giấy tiền nữa.
Phương Quan nghe nói, vâng lời.
Một lúc, ăn cơm xong, có người về trình: cụ và bà Hai đã về.
--------------------------
(1). Người dạy.
(2). Học trò Khổng tử, ông biêt nghe hiểu tiếng chim.
(3). Nguyên văn: một bàn tay vỗ không nên tiếng.
Hồi thứ năm mươi chín
Bến Liễu Diệp, tủi phận yến oanh;
Hiên Giáng Vân nhở tay ấn quyết.
Nghe nói cụ đã về, Bảo Ngọc liền mặc thêm quần áo chống gậy sang thăm. Giả mẫu bấy nay vất vả, cần phải nghỉ sớm để đến canh năm hôm sau lại vào chầu.
Gần đến ngày đưa ma, Uyên Ương, Hổ Phách, Phỉ Thúy, Pha Ly, đều bận sắn sửa đồ vật cho Giả mẫu; Ngọc Xuyến, Thái Vân, Thái Hà thì sắm sửa đồ vật cho Vương phu nhân, rồi giao tay cho bọn đàn bà giữ việc mang đi. Tất cả sáu a hoàn và mười bà già theo hầu, không kể đàn ông. Sưốt ngày sắm sửa xe kiệu và hành nghi. Uyên Ương, Ngọc Xuyến ở lại trông nhà. Trước mấy hôm đã sắp sẵn chăn màn và đồ bài trí, giao cho bốn, năm người đàn bà cùng mấy người đàn ông ngồi xe mang đến bầy sẵn ở nhà trọ.
Đến ngày ấy, Giả mẫu dẫn vợ Giả Dung ngồi một kiệu, Vương phu nhân ngồi một kiệu theo sau, Giả Trân cưỡi ngựa dẫn bọn gia đinh đi hộ vệ. Lại có mấy cái xe lớn cho bọn bà già, a hoàn ngồi, và để mấy bọc quần áo thường dùng. Tiết phu nhân cùng Vưu thị dẫn mọi người tiễn ra đến cổng ngoài rồi mới về.
Giá Liễn sợ đi đường có sự gì không tiện, liền sắm sửa cho bố mẹ hắn đi theo kịp kiệu Giả mẫu và Vương phu nhân, còn mình cũng đem người nhà theo sau hộ vệ.
Trong phủ Vinh, Lại Đại cắt thêm người canh đêm, đóng hết các cửa nhà ngoài ở hai phủ, chỉ để cái cửa nhỏ ở phía tây cho mọi người ra vào. Chiều đến, đóng cửa nghi môn, các cửa nách đông, tây sau trước trong vườn đều khóa cả, chỉ mở một cái cửa sau phòng Vương phu nhân là nơi các chị em thường ra vào, và cửa đông thông sang nhà Tiết phu nhân thôi. Vì hai cửa này đều ở trong nhà không cần phải khóa. Bên trong thì Uyên Ương cùng Ngọc Xuyến đóng cửa buồng trên lại, rồi dẫn bọn a hoàn và bà già xuống ngủ ở buồng dưới. Đêm nào vợ Lâm Chí Hiếu cũng dẫn độ mười bà già lên canh, trong xuyên đường lại có thêm nhiều người hầu cầm canh. Công việc xếp đặt ổn thỏa đâu vào đấy cả.
Một buổi sáng, Bảo Thoa ngủ dậy vén màn bước xuống giường, thấy người hơi lạnh, mở cửa nhìn ra sân thấy đất ướt rêu xanh, vì lúc canh năm có mưa lấm tấm. Bảo Thoa gọi Tương Vân dậy. Rửa mặt chải đầu xong, Tương Vân nói:
- Hai má thấy ngứa, có lẽ bị rôm đây.
Liền hỏi Bảo Thoa lấy một ít bột tường vi để xoa. Bảo Thoa nói:
- Hôm nọ còn thừa, cho cả em Cầm rồi, ở bên cô Tần có nhiều, tôi cũng muốn xin một ít, nhưng năm nay không ngứa, nên quên mất.
Rồi sai Oanh Nhi đi xin. Oanh Nhi sắp đi thì Nhụy Quan nói:
- Tôi cùng đi với chị, nhân tiện đến thăm Ngẫu Quan một thể.
Hai người đi ra khỏi Hành Vu Uyển.
Trên đường họ nói chuyện cười đùa, bất giác đã đến bến Liễu Diệp, theo bên bờ rặng liễu, thấy lá mới điểm xanh, dây tơ vàng rũ, Oanh Nhi cười hỏi Nhụy Quan:
- Chị có biết đan đồ bằng dây liễu không?
- Đan cái gì?
- Đan cái gì chẳng được? Đồ chơi, đồ dùng đều được cả. Tôi sẽ ngắt một ít để nguyên lá, đan một cái lẵng, rồi cắm ít hoa chơi cho thích.
Oanh Nhi chưa đi lấy bột xoa vội, giơ tay bẻ rất nhiều cành liễu non, bảo Nhụy Quan cầm, rồi vừa đi vừa đan lẵng hoa. Đi đường thấy hoa, cũng bẻ mấy cành đan thành một cái lẵng hoa có quai xách rất khéo. Trên cành có nhiều lá xanh, để hoa lên trông lại càng đẹp.
Nhụy Quan thích quá cười nói:
- Chị cho tôi nhé!
- Cái này đem biếu cô Lâm, khi về chúng ta sẽ bẻ nhiều để đan mấy cái nữa cùng chơi.
Nói xong đi đến quán Tiêu Tương.
Đại Ngọc đương lúc trang điểm buổi sáng, trông thấy lẵng hoa cười nói:
- Ai đan cái lẵng này mà đẹp thế?
Oanh Nhi nói:
- Cháu đan đem biếu cô đấy.
Đại Ngọc cầm lấy, cười nói:
- Không trách, ai cũng khen chị khéo tay, cái này trông rất nhã.
Vừa xem vừa bảo Tử Quyên treo vào nhà trong.
Oanh Nhi vào hỏi thăm Tiết phu nhân rồi mới xin bột xoa, Đại Ngọc sai Tử Quyên gói một gói đưa cho Oanh Nhi, nói:
- Tôi đã đỡ rồi, hôm nay muốn đi ra ngoài chơi. Chị về thưa với chị Bảo không phải đến thăm tôi, cũng không dám phiền chị ấy đến thăm mẹ nữa. Tôi gội đầu xong, sẽ cùng mẹ sang bên ấy ăn cơm cho vui.
Oanh Nhi vâng lời đi ra, đến buồng Tử Quyên tìm Nhụy Quan. Thấy Nhụy Quan và Ngẫu Quan đương mải nói chuyện không rời nhau ra được. Oanh Nhi cười nói:
- Cô Lâm cũng đi đấy. Chị Ngẫu Quan sang trước với tôi, chờ ở bên ấy, chẳng hơn à?
Tử Quyên nói:
- Phải đấy, ở nhà, nó cứ nghịch ngợm khó chịu lắm.
Vừa nói vừa lấy cái khăn, gói thìa đũa của Đại Ngọc đưa cho Ngẫu Quan, bảo:
- Mày hãy mang cái này đi trước, thế cũng là một chuyện sai đấy.
Ngẫu Quan cầm lấy, cười hì hì, cùng Oanh Nhi và Nhụy Quan theo bờ rặng liễu đi về. Oanh Nhi lại bẻ ít dây liễu, ngồi ngay trên hòn đá đan lẵng hoa, sai Nhụy Quan mang bột về trước. Nhưng hai đứa thích xem đan, khi nào chịu bỏ đi? Oanh Nhi cứ giục:
- Các chị không đi thì tôi không đan nữa.
Ngẫu Quan liền bảo Nhụy Quan:
- Tao đi với mày xong rồi sẽ trở lại.
Oanh Nhi đang đan thì con gái già Hà là Xuân Yến đến, cười hỏi:
- Chị đan gì đấy?
Nhụy Quan, Ngẫu Quan cũng đến.
Xuân Yến nói với Ngẫu Quan:
- Hôm nọ chị đốt giấy gì để cho dì tôi trông thấy thế? Dì tôi định đi trình, bị cậu Bảo dọa cho mấy câu, dì ấy tức giận, đem kể hết với mẹ tôi. Các người ở bên ngoài hai, ba năm, chứa chất những mối thù hằn gì đến bây giờ vẫn chưa gỡ ra?
Ngẫu Quan cười nhạt:
- Có thù hằn gì? Họ không biết thế nào là đủ, lại còn oán chúng tôi! Ở bên ngoài hai năm nay, không biết đã vớ của chúng tôi bao nhiêu thứ rồi. Chị thử xem có đúng thế không?
Xuân Yến cũng cười nói:
- Bà ấy là dì tôi nên không tiện nói ra. Chẳng trách cậu Bảo thường nói: “Khi con gái chưa đi lấy chồng, khác nào một hạt châu rất quý; lấy chồng rồi, không hiểu sao lại sinh ra rất nhiều tật xấu. Dù vẫn là hạt châu đấy, nhưng đã trở thành hạt châu chết, phai mờ ánh sáng; đến già thì không phải là hạt châu, mà là mắt cá đấy! Cũng là một người, saolại hóa ra ba dạng như thế?” Tuy là nói nhảm, nhưng nghĩ kỹ thì rất đúng. Người ta không biết, cứ bảo mẹ tôi và dì tôi, hai chị em giờ càng già càng thích tiền. Lúc trước ở nhà các bà ấy cứ oán là không có công ăn việc làm. Nhờ có cái vườn này tôi được gọi vào làm, lại may mắn được cắt vào hầu ở viện Di Hồng. Ở nhà không những đã đỡ một miệng ăn, hàng tháng lại thừa được bốn, năm trăm đồng tiền, thế mà vẫn không đủ. Về sau cả hai chị em bà ấy được cắt vào trông nom viện Lê Hương, Ngẫu Quan nhận dì tôi, Phương Quan nhận mẹ tôi làm mẹ nuôi, mấy năm nay thực ra cũng dễ chịu. Bây giờ vào ở trong này, mỗi người một nơi, nhưng lòng tham vẫn chưa chán. Chị xem thế có đáng buồn cười không. Sau đó dì tôi cãi nhau với Ngẫu Quan, mẹ tôi cãi nhau với Phương Quan một trận. Vì Phương Quan muốn gội đầu, mẹ tôi không cho. Hôm qua khi lĩnh tiền lương tháng về, ai đẩy mẹ tôi cũng chả chịu đi. Mua các thứ gội đầu thì lại chỉ dành riêng cho tôi. Tôi nghĩ: Dù mình có tiền hay không, muốn gội, chỉ nói một tiếng với chị Tập Nhân, Tình Văn, Xạ Nguyệt là được, cần gì phải nhờ như vậy cho bẽ mặt. Vì thế tôi không gội. Sau đó mẹ tôi gọi em tôi gội rồi mới đến Phương Quan, nên mới xảy ra chuyện cãi nhau. Rồi lại chực thổi canh cho cậu Bảo. Chị xem có đáng tức cười không? Khi mẹ tôi mới vào đây, tôi đã nói rõ cả khuôn phép nhà này rồi, mẹ tôi không tin, cứ ra điều ta biết đây, chỉ chuốc lấy bẽ mặt thôi. May mà trong vườn nhiều người, không nhớ rõ ai là thân thuộc với ai, nếu có người nhớ ra, họ còn coi nhà tôi ra gì nữa. Bây giờ chị lại còn ngồi đan cái này. Chị nên biết bao nhiêu những thứ ở đây đều do dì tôi trông nom cả, từ khi được mảnh đất này, dì tôi giữ nó hơn là giữ cơ nghiệp của riêng mình, ngày nào cũng thức khuya dậy sớm, tự mình vất vả đã đành, lại bắt chúng tôi phải đến trông nom, chỉ sợ người ta phá phách. Nhưng nếu tôi trông nom thì lại sợ làm lỡ công việc của tôi. Bây giờ hai chị em bà ấy trông nom cẩn thận lắm, từ một ngọn cỏ cũng không cho ai động đến, thế mà chị lại ngắt những hoa đẹp, bẻ những cành non thế này, các bà ấy đến đây trông thấy, sẽ oán chị đến chết đấy.
Oanh Nhi nói:
- Người khác bẻ thì không được, chứ tôi bẻ thì được. Từ khi chia đất cho các bà ấy, hàng ngày chưa kể số hoa đưa về các phòng, chỉ riêng những hoa để chơi thôi, ai trông nom thứ gì, phải hái một ít đưa đến cho các cô và a hoàn dùng, còn hoa cắm lọ nữa là đằng khác. Nhưng cô tôi nói: không phải đưa gì cả, khi nào cần sẽ lấy. Rút cục vẫn chưa lấy qua lần nào. Bây giờ tôi có ngắt một ít, các bà ấy cũng chẳng nói vào đâu được.
Chưa nói dứt lời, bà dì Xuân Yến đã chống gậy đến, Oanh Nhi và Xuân Yến mời ngồi. Thấy Oanh Nhi bẻ nhiều liễu non, bọn Ngẫu Quan hái nhiều hoa tươi, bà ta rất là khó chịu, nhưng nhìn cái lẵng đan lại không tiện nói ra, liền bảo Xuân Yến:
- Tao bảo mày đi trông, mày cứ ham chơi không chịu đi. Có ai gọi đến, mày lại bảo là tao sai mày. Lấy tao làm bung xung để mày được vui chơi cho thích phải không?
Xuân Yến nói:
- Dì vừa được sai tôi, lại vừa lo sợ, bây giờ còn mắng tôi. Chẳng lẽ đem chia tôi ra làm mấy mảnh?
Oanh Nhi cười nói:
- Bà đừng tin lời con bé Yến, chính nó bẻ và nhờ tôi đan hộ đấy. Tôi đuổi nó chẳng đi.
Xuân Yến cười nói:
- Chị đừng nói đùa, kẻo dì tôi lại cho là thật đấy!
Bà này vốn người ngu xuẩn, lại thêm tuổi già mê muội, chỉ biết hám lợi không nể nang gì ai cả. Bà ta đang xót ruột, nhưng không làm thế nào được, nay thấy Oanh Nhi nói, liền cậy già, cầm gậy đánh Xuân Yến mấy cái và mắng:
- Con ranh con này! Tao bảo mày, mày lại còn nỏ mồm! Mẹ mày giận mày lắm, đang nghiến răng, nghiến lợi, muốn xé xác mày ra đấy! Mày lại định đánh song đánh nga với tao phải không?
Xuân Yến bị đánh vừa tức vừa xấu hổ, khóc nói:
- Chị Oanh nói đùa dì tưởng thực lại đánh tôi! Tại sao mẹ tôi giận tôi? Tôi có làm điều gì nhầm lỗi “Lấy râu nọ cắm cằm kia đâu?”
Oanh Nhi chỉ định nói đùa, không ngờ bà già tưởng thực nổi giận, liền đứng dậy ngăn lại cười nói:
- Tôi vừa mới nói đùa, bà lại đánh chị ấy, như thế không phải là làm bẽ mặt tôi hay sao?
Bà già nói:
- Cô đừng sấn sồ vào việc của chúng tôi, không nhẽ vì có cô ở đây mà chúng tôi không được phép dạy con cháu hay sao?
Nghe thấy những câu ngu xuẩn ấy, Oanh Nhi tức đỏ mặt lên, buông tay xuống, cười nhạt:
- Bà muốn dạy nó lúc nào chẳng được? Tôi mới nói đùa một câu mà bà đã làm như thế! Đấy bà cứ việc dạy đi!
Nói xong liền ngồi xuống đan lẵng hoa.
Ngay lúc ấy mẹ Xuân Yến đến quát mắng:
- Mày không đi múc nước, còn đứng đấy làm gì?
Bà già kia nói theo:
- Chị đến mà xem? Con gái chị chẳng coi tôi ra gì, đang cãi lại tôi đấy!
Mẹ Xuân Yến chạy đến hỏi:
- Làm sao thế dì? Con bé này không coi mẹ ra gì đã đành, lại còn dám khinh thường cả dì mày nữa à?
Oanh Nhi liền kể rõ đầu đuôi cho bà ta nghe. Nhưng dì nó có để cho nói đâu, cứ cầm hoa và cành liễu ở trên hòn đá đưa cho mẹ nó xem và nói:
- Chị xem con chị đấy! Lớn như thế mà còn mang người đến làm hại tôi, bảo tôi nói ai được.
Mẹ Xuân Yến vẫn còn tức về việc Phương Quan, lại giận Xuân Yến không làm được vừa lòng mình, liền chạy đến tát nó một cái và mắng:
- Con đĩ này, mày mới lên thớ được bao lâu, đã lại theo đòi những gái lẳng lơ tệ bạc. Tao không dạy được chúng mày phỏng? Con nuôi tao không dạy được chứ con đẻ chẳng lẽ tao cũng không dám dạy hay sao? Tao tưởng bọn ranh con chúng mày đã vào được những nơi chúng tao không được vào, thì cứ ở đấy mà hầu hạ cho đến chết, lại còn ra đây mà đi theo trai à?
Vừa nói vừa cầm lấy cành liễu giơ tận mặt nó, hỏi:
- Đây là cái gì? Mày đem cái gì của mẹ mày đây?
Oanh Nhi vội nói:
- Cái này là của tôi đan đấy, bà đừng có giở lối chửi mèo quèo chó!
Bà già này rất ghét bọn Tập Nhân, Tình Văn, vì biết những a hoàn lớn trong nhà đều có quyền thế và thể diện hơn, nên chỉ nể mặt bề ngoài, nhưng trong lòng vẫn bực tức, đâm ra giận lây cả người khác. Nay thấy Ngẫu Quan lại là kẻ thù của chị mình, nên càng sinh bực tức thêm.
Xuân Yến khóc chạy về viện Di Hồng. Mẹ nó sợ bọn Tình Văn hỏi, nó kể cả ra, mình sẽ bị mắng, nên chạy theo gọi với:
- Mày trở lại đây! Tao bảo đã rồi hãy đi.
Xuân Yến khi nào chịu trở lại. Mẹ nó tức quá, vội chạy theo. Xuân Yến quay lại trông thấy, liền chạy biến đi. Mẹ nó cứ cố đuổi không ngờ bị trượt rêu ngã, làm cho bọn Oanh Nhi cười ầm lên. Oanh Nhi tức quá vất cả hoa và cành liễu xuống sông, rồi đi về nhà. Bà già này tiếc đứt ruột chỉ niệm phật, rồi mắng:
- Con ranh tai ác này! Làm hại bao nhiêu là hoa. Thiên lôi thế nào cũng đánh mày!
Rồi hái hoa đưa đi các phòng.
Xuân Yến chạy thẳng về nhà, gặp Tập Nhân đi thăm Đại Ngọc, liền ôm chầm lấy và nói:
- Cô cứu tôi với mẹ tôi đánh tôi đấy.
Tập Nhân thấy mẹ nó đến, liền nổi giận nói:
- Ba ngày nay bà đánh hết con nuôi đến con đẻ, có phải bà định khoe nhiều con đấy không? Bà không coi phép tắc ra gì cả?
Bà già này mới đến mấy ngày, thấy Tập Nhân không hay nói, cho là tốt nết, liền nói:
- Cô không biết, đừng nên động chạm đến việc của chúng tôi. Chỉ tại các cô nuông chiều nó đấy.
Tập Nhân tức quá ngoắt trở lại, Xạ Nguyệt đương phơi khăn ở dưới cây hải đường, nghe ồn ào, liền nói:
- Chị cứ mặc kệ, xem mụ ấy làm trò gì!
Rồi đưa mất cho Xuân Yến, Xuân Yến hiểu ý, chạy thẳng đến chỗ Bảo Ngọc. Mọi người đều cười nói: “Thật là việc xưa nay chưa từng có bao giờ”.
Xạ Nguyệt nói với bà già:
- Bà hãy bớt giận đi. Chẳng lẽ những người ở đây nói với bà không đắt lời hay sao.
Thấy Xuân Yến chạy đến bên cạnh. Bảo Ngọc cầm lấy tay nó, nói:
- Chị đừng sợ, đã có tôi đây!
Xuân Yến khóc, kể lại việc bọn Oanh Nhi vừa rồi. Bảo Ngọc cáu nói:
- Chị cứ ở trong này chơi, việc gì lại mang lỗi cả với họ hàng nữa.
Xạ Nguyệt nói với bà già và mọi người:
- Chả trách bà già này bảo chúng tôi không được động chạm vào việc của họ. Chúng tôi không biết, nhầm to rồi. Bây giờ mời một người khác có thể động chạm được, chắc bà ấy mới phục và mới biết phép tắc!
Liền quay lại bảo đứa hầu nhỏ:
- Mày đi gọi chị Bình đến đây, nếu chị ấy bận thì gọi già Lâm.
Đứa hầu nhỏ vâng lời đi ngay. Bọn đàn bà đều cười nói:
- Bà nên xin ngay với các cô cho gọi em bé lại. Cô Bình mà đến thì không hay đấy!
Bà già nói:
- Dù cô nào đến chăng nữa cũng phải có lý có lẽ, không khi nào mẹ dạy con mà người khác lại cấm đoán được.
Mọi người cười nói:
- Bà có biết cô Bình nào không? Chính cô Bình ở nhà mợ Hai đấy! Tử tế ra cô ấy chỉ mắng mấy câu thôi, nếu cô ấy đã đổi nét mặt thì bà liệu cuốn gói sớm.
Một lúc đứa hầu nhỏ về trình:
- Cô Bình đương bận, hỏi tôi có việc gì, tôi kể lại, cô ấy bảo: “Hãy tống cổ mụ ấy ra, bảo già Lâm lôi sang cửa bên cạnh đánh cho bốn mươi roi là xong”.
Bà này thấy vậy sợ quá, khóc sướt mướt, van xin Tập nhân: “Vất vả mãi tôi mới được vào đây. Vả chăng tôi là đàn bà góa, trong nhà không có ai, chỉ muốn một lòng hầu hạ các cô trong này, sẽ không lo lắng gì, các cô cũng tiện, nhà chúng tôi cũng đỡ lo. Nếu tôi phải bỏ chỗ này, tự đi tìm kiếm sinh nhai, chưa chắc đã đủ sống.”
Tập Nhân thấy thế, dịu lòng nói:
- Bà muốn ở đây mà lại không biết giữ phép tắc, không biết nghe lời, dám đánh bậy, đâu lại có hạng người như bà không hiểu gì cả. Ngày nào cũng om sòm, làm mất cả thể thống, để người ta cười cho.
Tình Văn nói:
- Mặc kệ mụ ấy, cứ tống cổ đi là xong. Hơi đâu nói mãi.
Bà già này lại van xin mọi người:
- Tôi dù có lỗi, nhờ các cô dạy bảo, từ nay tôi xin chừa. Như thế chả phải là các cô đã để lại âm đức hay sao?
Rồi lại nói với Xuân Yến:
- Chưa đánh được con, mẹ đã phải chịu tội. Con ơi! Xin hộ mẹ đi!
Bảo Ngọc thấy thế thương hại, liền cho ở lại và bảo:
- Không được làm ầm lên nữa! Nếu còn thế thì nhất định đánh đuổi đi.
Chợt Bình Nhi chạy đến hỏi là việc gì. Tập Nhân nói:
- Thôi xong rồi, nhắc đến làm gì nữa.
Bình Nhi cười nói:
- “Chỗ tha người được cứ nên tha”. Ta hãy bỏ qua đi cho bớt việc. Nhưng nghe đâu những người lớn người nhỏ ở các nhà đều làm bậy cả, hết chỗ nọ đến chỗ kia, làm tôi không biết trông nom chỗ nào cho phải.
Tập Nhân cười nói:
- Tôi cứ tưởng chỉ có bên chúng tôi là họ làm bậy thôi, thế ra còn mấy chỗ nữa à?
Bình Nhi cười nói:
- Thế đã thấm vào đâu. Tôi vừa tính với mợ Trân, ba bốn ngày nay xảy ra tám chín việc rồi. Việc bên chị là việc nhỏ, đáng kể gì, còn những việc tầy trời đáng bực và đáng buồn cười nữa kia.
Hồi thứ sáu mươi
Đem phấn mạt ly thay cho bột tường vi;
Biếu mai quế lộ lòi ra bột phục linh.
Tập Nhân hỏi Bình Nhi:
- Việc gì mà rối rít lên như thế?
- Đều là những việc bất ngờ, thật cũng buồn cười. Để mấy hôm nữa tôi sẽ nói với chị, bây giờ chưa có manh mối gì, và tôi cũng không được rỗi.
Nói chưa dứt lời, thấy người gái hầu của Lý Hoàn đến hỏi:
- Chị Bình ở đây à! Mợ chờ chị đấy, sao không thấy chị đến?
Bình Nhi quay ra cười nói:
- Tôi đến đây! Tôi đến đây!
Tập Nhân cười nói:
- Vì mợ chị ta ốm, chị ta khác nào cái bánh thơm, ai cũng muốn giật lấy.
Bình Nhi quay đi ra.
Bảo Ngọc gọi Xuân Yến:
- Chị đi theo mẹ chị, đến đằng cô Bảo, nói lại với Oanh Nhi mấy câu, đừng để chị ấy mếch lòng.
Xuân Yến cùng mẹ đi ra. Bảo Ngọc lại dặn với:
- Không nên nói trước mặt cô Bảo, sợ Oanh Nhi lại bị quở đấy.
Hai mẹ con vâng lời, vừa đi vừa nói chuyện. Xuân Yến nói:
- Ngày thường con khuyên mẹ không nghe. Tội gì lại gây ra chuyện lôi thôi thế?
Mẹ nó cười nói:
- Con ranh này, đi đi thôi! Tục ngữ nói: “Không trải qua việc thì người không khôn được”. Tao đã biết rồi. Mày lại còn vặn tao nữa à?
- Nếu mẹ biết thân biết phận, được ở đây lâu, sẽ có nhiều điều hay. Con nói cho mẹ biết, cậu Bảo thường nói: Tất cả người hầu trong phủ như bọn chúng con, không cứ ở trong hay ở ngoài, cậu ấy sẽ trình với bà Hai cho về để cha mẹ được quyền gả bán. Mẹ xem việc ấy có hay hay không?
- Chuyện ấy có thực không?
- Ai nói dối làm gì?
Mẹ nó niệm Phật luôn mồm.
Khi đến Hành Vu Uyển, thấy Bảo Thoa, Đại Ngọc và Tiết phu nhân đương ngồi ăn cơm. Oanh Nhi đi pha nước, Xuân Yến cùng mẹ nó lẻn đến trước mặt Oanh Nhi cười nói:
- Lúc nãy có câu sỗ sàng, tôi đến xin lỗi, xin chị đừng giận.
Oanh Nhi cười mời ngồi, rồi đi pha nước. Mẹ con nó nói bận việc, cáo từ ra về. Chợt thấy Nhụy Quan chạy ra gọi:
- Mẹ ơi! Chị ơi! Hãy đứng lại đã.- Rồi nó chạy đến đưa cho hai mẹ con một gói.- Đây là bột tường vi đưa cho Phương Quan xoa mặt.
Xuân Yến cười nói:
- Chị cẩn thận quá sợ bên ấy không có cái này à? Sao lại còn mất công gửi cho nó.
Nhụy Quan nói:
- Của chị ấy là của chị ấy, của tôi đưa lại là của tôi. Chị thế nào cũng mang về cho chị ấy!
Xuân Yến đành phải cầm lấy. Hai mẹ con trở về, gặp Giả Hoàn, Giả Tôn cũng vừa đến thăm Bảo Ngọc. Xuân Yến nói với mẹ:
- Để con vào thôi, mẹ không cần phải vào.
Mẹ nó nghe lời, bảo gì nghe thế, không dám cưỡng lại. Xuân Yến đi vào, Bảo Ngọc biết là về trình, liền gật đầu. Xuân Yến biết ý, không nói câu gì, đứng một lát rồi quay ra, đưa mắt cho Phương Quan. Ra đến ngoài, Xuân Yến khẽ nói với Phương Quan về việc Nhụy Quan gửi cho nó gói bột tường vi. Bảo Ngọc không có chuyện gì nói với Giả Hoàn và Giả Tôn, liền cười hỏi Phương Quan:
- Tay cầm cái gì đấy?
Phương Quan đưa cho Bảo Ngọc xem và nói:
- Bột tường vi để thoa rôm đấy.
- Chị ấy chu tất quá!
Giả Hoàn nghe nói, nghểnh cổ ra nhìn, ngửi thấy thơm thơm, liền cúi xuống lấy mảnh giấy ở trong ống giày ra cười nói:
- Anh cho em một nửa!
Bảo Ngọc đành phải cho hắn. Phương Quan nghĩ bụng: gói này là của Nhụy Quan tặng mình, không nên cho người khác, liền gạt đi, cười nói:
- Đừng động vào đấy, để tôi đi lấy cho thứ khác.
Bảo Ngọc hiểu ý, liền bảo gói lại và cười nói:
- Đem gói kia lại đây mau.
Phương Quan cầm lấy gói này cất đi, rồi tìm thứ bột của mình thường dùng ở trong hộp ra. Khi mở hộp không thấy gì cả, trong bụng ngờ ngợ: “Sáng ngày còn một ít, sao bây giờ lại hết?” Hỏi mọi người, không ai biết cả, Xạ Nguyệt nói:
- Bây giờ mà còn hỏi đến cái ấy, người trong nhà, ai thiếu lấy dùng đấy thôi. Cô cứ gói một ít bột gì đó cho họ cũng được. Ai biết đâu đấy? Mau cho họ về để chúng mình còn ăn cơm.
Phương Quan nghe nói, liền gói một ít mạt lỵ(1) mang ra. Giả Hoàn trông thấy mừng quá, giơ tay đỡ lấy. Nhưng Phương Quan lại vất lên trên giường. Giả Hoàn đành đến giường cầm lấy giắt vào trong người rồi cáo từ ra về.
Từ ngày Giả Chính đi vắng, Vương phu nhân không ở nhà, Giả Hoàn ngày nào cũng cáo ốm trốn học. Bây giờ được gói bột, hớn hở về tìm Thái Vân. Gặp lúc Thái Vân đương nói chuyện với dì Triệu, Giả Hoàn cười hì hì nói:
- Tôi có gói phấn này tốt lắm, cho chị để xoa mặt. Chị thường nói bột tường vi xoa rôm tốt hơn phấn ngân tiêu mua ở ngoài nhiều. Chị thử xem có phải bột này không?
Thái Vân giở ra xem, “xì” một tiếng, cười nói:
- Cậu xin của ai đấy?
Giả Hoàn kể lại chuyện vừa rồi. Thái Vân cười nói:
- Họ cho cậu là người nhà quê, đánh lừa cậu đấy! Thứ này không phải là bột tường vi đâu, chính là phấn mạt lỵ đấy.
Giả Hoàn xem lại, thấy phấn này đỏ hơn, ngửi cũng thơm thơm, cười nói:
- Thứ này cũng tốt đây, chả khác gì hột tường vi đâu, chị giữ lấy mà xoa, dù sao cũng cứ tốt hơn thứ phấn mua ở ngoài.
Thái Vân đành phải cất đi.
Dì Triệu liền nói:
- Khi nào nó chịu cho mày thứ tốt. Ai bảo mày đi xin, trách sao được chúng nó chả trêu đùa. Cứ như tao thì mang vất giả vào mặt chúng nó. Nhân dịp này mày đến mắng cho chúng nó, làm toang hoang ra một mẻ, để cho cả nhà nháo lên, thế mới gọi là báo thù chứ. Mấy tháng sau chả lẽ còn ai bới những chuyện bẩn này ra hỏi mày nữa à? Dù có hỏi, mày cũng có mồm chứ. Bảo Ngọc là anh, mày không dám động đến, chứ những hạng chó mèo ở nhà nó, mày cũng không dám sao?
Giả Hoàn nghe nói chỉ cúi đầu. Thái Vân liền nói:
- Tội gì như vậy! Dù sao cũng nên nhịn đi là phải.
Dì Triệu nói:
- Mặc tao, không can gì đến mày. Cứ vịn lấy cớ này mắng cho bọn con đĩ ấy một trận mới được.
Lại trỏ Giả Hoàn nói:
- Hừ! Đồ khốn nạn hèn nhát, đáng để cho bọn ranh con nó trêu tức! Ngày thường tao mắng mày một câu, hoặc vô ý lấy nhầm cái gì của mày, thì mày đã cứng đầu cứng cổ, nổi gân, trợn mắt, hất hủi tao; bây giờ bị bọn ranh con ấy trêu, mày câm không dám nói. Thế mà lại muốn ngày sau để người trong nhà này phải nể sợ. Mày không có cái tài ấy đâu, tao cũng tức thay cho mày!
Giả Hoàn nghe đoạn, vừa xấu hổ vừa nổi nóng, nhưng không dám đi, chỉ xua tay nói:
- Mẹ biết ăn, biết nói sao lại không dám đi, cứ xui con đi gây chuyện? Nếu họ đến trường mách con phải đòn, mẹ có thương con không? Đã bao lần mẹ xui con đi, khi xảy ra chuyện, con bị đánh đòn mẹ cũng đành phải cúi đầu chịu thôi. Bây giờ lại còn xui con đi cãi nhau với bọn hầu nhỏ! Mẹ không sợ chị Ba, cứ dám đi con mới phục!
Nghe nói như đâm vào ruột, Dì Triệu gào lên:
- Tao đẻ nó ra mà tao phải sợ nó, thì nhà mày còn có thể thống gì?
Vừa nói vừa cầm gói phấn chạy biến vào trong vườn.
Thái Vân ngăn mãi không được, đành phải lánh sang buồng khác. Giả Hoàn cũng lánh ra chơi ngoài cửa nghi môn.
Dì Triệu đỏ mặt tía tai hằm hằm đi vào vườn, mẹ nuôi Ngẫu Quan là già Hạ trông thấy liền hỏi:
- Bà dì đi đâu đấy?
Dì Triệu đập tay nói:
- Bà xem đấy! Bọn hát ranh con mới vào nhà này được ít ngày đã lá mặt lá trái, khinh người nọ, trọng người kia. Người khác tôi không bực, nhưng lại để bọn ranh trêu tức thì còn ra làm sao nữa?
Già Hạ nghe câu nói trúng với ý mình, liền hỏi:
- Việc gì thế?
Dì Triệu kể lại việc chúng khinh rẻ Giả Hoàn, đem cho phấn giả.
Già Hạ nói:
- Bây giờ dì mới biết à? Thế đã thấm vào đâu. Hôm nọ chúng đốt giấy tiền ở đây, cậu Bảo cũng còn bênh đấy. Có những cái người ta chưa mang đến mà nó đã nói ngay là không dùng được, không sạch sẽ, thế thì đốt giấy tiền không kiêng à? Dì thử nghĩ xem, nhà này ngoài bà Hai ra, còn ai bằng dì? Dì không ra tay đấy thôi, chứ dì ra tay, ai lại không sợ? Cứ ý tôi, nhân dịp mấy con ranh này không phải là hạng người trong nhà, dù có gây chuyện với chúng cũng không sao đâu. Hãy cứ lấy hai việc này, làm cho ra nhẽ, tôi sẽ làm chứng cho. Dì có ra oai chuyến này, sau mới trị nổi họ được. Các cô các mợ cũng không nỡ vì bọn đĩ ranh con ấy mà bắt bẻ dì đâu?
Dì Triệu nghe đoạn, càng cho là có lý, liền nói:
- Việc đốt giấy tiền tôi không biết, bà kể rõ cho tôi nghe.
Già Hạ kể ra hết và nói:
- Dì cứ việc nói ra, nếu xảy chuyện gì đã có tôi giúp sức.
Dì Triệu nghe càng đắc ý, đánh bạo vào thẳng viện Di Hồng.
Lúc đó Bảo Ngọc đã sang thăm Đại Ngọc, Phương Quan cùng Tập Nhân đương ăn cơm, thấy dì Triệu đến đều đứng dậy:
- Mời dì xơi cơm. Có việc gì mà vội thế?
Dì Triệu không trả lời, chạy ngay đến vất gói phấn vào mặt Phương Quan, trỏ mắng:
- Con đĩ này! Mày chẳng qua là hạng con đĩ rạc rài, tao bỏ tiền mua mày về để cho học hát. Đứa đầy tớ hạng bét nhà tao cũng còn sang hơn. Thế mà mày lại dám “Nhìn người đặt cỗ” à? Anh Bảo Ngọc đã cho nó rồi, mày còn giữ lại. Người ta xin của mày đấy à? Mày đưa cái này đánh lừa thằng Hoàn, tưởng nó không biết đấy! Hay dở gì thì chúng nó cũng là anh em ruột vớinhau, cũng là chủ cả, mày lại dám khinh nó à?
Phương Quan không chịu nổi, vừa nói vừa khóc:
- Hết bột tường vi rồi, sợ cậu ấy không tin, tôi phải đưa thứ phấn này. Ai bảo phấn này là không tốt? Tôi có học hát, nhưng không phải đi hát ở bên ngoài. Tôi là con gái bé, biết thế nào là đĩ với thõa! Dì không thể mắng được tôi, tôi không phải là người dì mua về. “Con hầu lạy thằng ở”, cũng đều là bọn đầy tớ cả thôi!
Tập Nhân vội kéo nó lại.
- Không được nói bậy.
Dì Triệu tức run người lên, chạy lại tát Phương Quan hai cái. Tập Nhân đứng dậy ngăn:
- Dì không nên trẻ con như nó, để chúng tôi bảo nó cho.
Phương Quan bị đánh hai cái, khi nào chịu thôi. Nó lăn lóc giẫy giụa, khóc ầm lên:
- Dì đánh được tôi à? Lấy gương soi mặt đã rồi hãy đánh người! Dì cứ đánh đi, tôi không thiết sống nữa.
Rồi nó lao vào trong lòng dì Triệu. Mọi người vừa ngăn vừa kéo nó lại.
Tình Văn khẽ kéo Tập Nhân nói:
- Mặc kệ họ, cứ để cho họ đánh nhau xem rồi ra sao. “Xểnh chúa nhà, gà mọc đuôi tôm”, người này đến đánh, người kia đến đánh, cứ mãi thế này thì còn làm ăn sao được!
Những người đi theo dì Triệu đứng bên ngoài, nghe thấy thế trong bụng lấy làm hể hả, đều niệm Phật: “Ai ngờ lại có ngày hôm nay!” Bọn bà già xưa nay tức sẵn Phương Quan, thấy vậy cũng đều lấy làm thích thú.
Ngẫu Quan, Nhụy Quan đương chơi với nhau. Quỳ Quan ở với Tương Vân, Đậu Quan ở với Bảo Cầm, được tin, liền đến bảo hai đứa kia:
- Phương Quan bị người ta bắt nạt, chúng ta cũng bẽ mặt, phải đến làm toang hoang một trận mới hả giận được. Bốn đứa còn tính trẻ con, chỉ muốn làm thế nào trả thù cho chị em, chứ đã biết nghĩ xa nghĩ gần gì, liền chạy cả vào viện Di Hồng. Đậu Quan chạy ngay đến lao người vào dì Triệu suýt nữa bị ngã. Ba đứa kia kéo cả đến, kêu khóc ầm lên, chúng tay túm đầu húc, vây chặt lấy dì Triệu. Bọn Tình Văn vừa cười, vừa giả vờ đến gỡ ra. Tập Nhân giằng lấy đứa này thì đứa kia lại chạy mất, liền nói:
- Chúng bay muốn chết cả à! Có điều gì oan ức, cứ nói ra, chứ làm điều trái ngược thế này thì coi sao được!
Dì Triệu không biết làm thế nào, cứ chửi mắng ầm lên.
Ngẫu Quan, Nhụy Quan mỗi đứa nắm lấy một tay; Đậu Quan, Quỳ Quan đứng chặn đằng trước đằng sau nói:
- Có giỏi thì đánh chết cả bốn đứa chúng tôi đi!
Phương Quan nằm thẳng đẵng dưới đất, khóc lặng người đi. Đương lúc giằng co thì Tình Văn đã sai Xuân Yến đi trình Thám Xuân. Vưu thị, Lý Hoàn, Thám Xuân dẫn Bình Nhi và mấy người đàn bà đến, mắng át bốn đứa, hỏi nguyên cớ ra sao. Dì Triệu tức quá, phùng má trợn mắt, hút hơi kể lể đầu đuôi. Vưu thị, Lý Hoàn không trả lời, chỉ cản bốn đứa kia.
Thám Xuân thở dài:
- Có việc gì quan hệ đâu! Dì nóng nảy quá. Tôi đương muốn mời dì đến nói một câu chuyện, thảo nào bọn a hoàn về nói, không biết dì ở đâu, té ra lại đến đây sinh chuyện! Thôi mời dì về nhà với tôi.
Vưu thị và Lý Hoàn cũng cười nói:
- Mời dì lên nhà khách, chúng ta bàn bạc.
Dì Triệu không biết làm thế nào, đành theo ba người này về, nhưng miệng vẫn kể lể lôi thôi. Thám Xuân liền nói:
- Bọn trẻ con này vốn hay chơi đùa. Khi thích, dì cười đùa với chúng mấy câu, không thích thì thôi mặc kệ chúng. Chúng có điều gì không đúng, dì chỉ nên xem như con mèo, con chó cắn càn, đáng tha thì tha, không đáng tha thì bảo bọn đàn bà giữ việc quở phạt chúng, tội gì không biết tự trọng mà lại gào thét ầm lên, làm mất cả thể thống. Dì thử xem dì Chu, có ai dám khinh nhờn đâu, mà dì ấy cũng chẳng gây chuyện với ai. Xin dì hãy về nhà dẹp cơn giận lại, đừng nghe kẻ nói bậy xúc xiểm, để cho người ta cười mình là ngu ngốc, chỉ tốn công lo việc vu vơ hão huyền cho người ta thôi. Trong bụng có tức chết đi nữa, dì cũng nên nín nhịn mấy ngày, chờ bà Hai về sẽ liệu.
Dì Triệu nghe vậy lặng thinh không nói lại được, đành phải về nhà.
Thám Xuân bực quá, nói với Lý Hoàn và Vưu Thị:
- Nhiều tuổi như thế mà còn làm những việc không để cho người ta nể! Câu chuyện có ra gì đâu, cũng cãi nhau ồn lên, không biết giữ gìn thể thống! Tai hay nghe nhảm, bụng lại nông nổi, hơi một tý là làm tung lên cho to chuyện. Chắc có đứa đầy tớ đê hèn nào thấy dì ấy ngu ngốc, mới xúi giục để nhờ đó cho hả giận chứ gì?
Thám Xuân càng nghĩ càng tức, sai người dò xem ai xui giục. Bọn đàn bà vâng lời đi ra, nhìn nhau cười nói:
- Mò thế nào được kim ở dưới đáy biển?
Rồi gọi người hầu dì Triệu và những người trong vườn đến hỏi, ai cũng nói là không biết. Họ không làm thế nào được, đành về trình Thám Xuân:
- Tra ngay thì khó, phải thong thả xem đứa nào hay bép xép sẽ về trình để cô quở phạt.
Thám Xuân dần dần nguôi giận. Vừa hay Ngải Quan khẽ đến trình:
- Già Hạ ngày thường không ưa Phương Quan, nên hay bịa chuyện. Hôm nọ đổ cho Ngẫu Quan đốt giấy tiền, may có cậu Bảo nhận cho, già ấy mới không dám nói. Hôm nay tôi đi đưa cái khăn cho cô, gặp già ấy đương thầm thào to nhỏ với dì Triệu một lúc lâu, thấy tôi đến, già ấy mới bỏ đi.
Thám Xuân nghe nói, biết rõ ẩn tình, đoán bọn này cùng về một hùa, tức tối lẫn nhau, nhưng chỉ ậm ừ, cũng chưa cho thế là đúng.
Ngờ đâu cháu ngoại già Hạ là Tiểu Thiền được cắt vào hầu Thám Xuân, thường đi mua hộ các thứ cho bọn a hoàn ở đấy, nên lũ hầu gái đều đối với nó từ tế. Hôm ấy ăn cơm xong, Thám Xuân ngồi ở nhà trên làm việc, Thúy Mặc ở lại trông nhà, bèn sai Tiểu Thiền gọi đứa bé con đi mua bánh.
Tiểu Thiền cười nói:
- Tôi vừa mới quét xong cả cái sân, mỏi chân lắm, chị sai người khác đi vậy.
Thúy Mặc cười nói:
- Tao còn bảo ai nữa? Mày chịu khó đi ngay, tao sẽ nói cho nghe một chuyện rất hay. Mày đi cửa sau, nhân tiện về nói cho bà mày biết, phải cẩn thận đấy.
Liền đem việc Ngải Quan mách bà nó cho nó nghe.
Tiểu Thiền nhận ngay tiền nói:
- Con ranh con này cũng định bới móc người ta. Để tôi đi mách cho.
Nó đứng dậy đi ra, đến cửa sau, thấy những người ở trong bếp rỗi việc, đều ngồi nói chuyện trên thềm. Già Hạ cũng ở đấy. Tiểu Thiền bảo một bà già đi mua bánh, còn mình thì vừa làu nhàu vừa đem chuyện mới rồi kể cho già Hạ nghe. Già Hạ vừa tức vừa sợ, muốn đi tìm ngay Ngải Quan để hỏi; lại muốn đến kêu oan với Thám Xuân. Tiểu Thiền ngăn lại, nói:
- Bà đến đó định nói thế nào? Tại sao bà biết được chuyện này? Như thế chỉ thêm lúng túng không được đâu. Cháu nói thế để bà liệu chừng, chứ việc gì phải vội thế?
Bỗng thấy Phương Quan đi đến, gõ vào cánh cửa, cười nói với vợ họ Liễu ở trong bếp:
- Thím Liễu ơi, cậu Bảo nói: món ăn bữa chiều hôm nay, làm thứ gì mát mát chua chua, đừng cho dầu thơm vào, ăn thêm ngán thôi.
Thím Liễu cười nói:
- Biết rồi. Hôm nay có cần gì mà lại sai chị đến bảo tôi. Nếu chị không sợ bẩn thì hãy vào đây chơi đã.
Phương Quan đi vào, bỗng thấy một bà già tay cầm một đĩa bánh đến. Phương Quan hỏi đùa:
- Bánh nóng này ai mua thế? Tôi nếm trước một miếng nào.
Tiểu Thiền cầm lấy đĩa bánh nói:
- Của người ta mua đấy. Các chị thì thèm gì thứ này.
Thím Liễu trông thấy cười nói:
- Cô Phương, cô muốn ăn thứ bánh này? Tôi vừa mới mua cho chị cô ăn đấy. Nó chưa ăn, còn cất nguyên ở kia, chưa ai động đến.
Nói xong cầm đĩa bánh đưa cho Phương Quan, lại nói:
- Cô chờ đấy, tôi đi pha cho cô ấm trà.
Rồi đi đun nước.
Phương Quan cầm cái bánh giơ lên mặt Tiểu Thiền nói:
- Ai thèm ăn bánh của chị! Cái này không phải là bánh à? Tôi nói đùa đấy thôi, chứ chị có lạy, tôi cũng chả thèm ăn!
Nói xong bẻ chiếc bánh vất cho con chim sẻ để đùa chơi và nói:
- Thím Liễu đừng tiếc của nhé, tôi về sẽ mua hai cân biếu thím.
Tiểu Thiền tức quá lườm nó nói:
- Ông thiên lôi có mắt làm sao không đánh chết con quái này đi. Nó lại còn trêu tức tôi? Tôi thì bì với chúng nó sao được. Có người biếu xén, có người xin làm tôi tớ, luồn lụy tâng bốc chúng nó để nhờ nói giúp.
Mọi người đều nói:
- Các cô thôi đi! Ngày nào gặp nhau cũng càu nhàu như thế.
Có mấy người sáng ý, thấy chúng cãi nhau, sợ sinh chuyện, đều chạy đi cả. Tiểu Thiền cũng không dám nói câu gì, chỉ lảu bảu chạy về.
Thím Liễu thấy mọi người đi rồi, liền chạy ra hỏi Phương Quan:
- Cô đã nói câu chuyện hôm nọ chưa?
- Nói rồi. Chờ một vài hôm nữa sẽ nhắc lại. Chỉ bực cái mụ Triệu chết hụt ấy lại cãi nhau với tôi một trận. Rượu mai quế lộ hôm nọ chị ấy đã uống chưa? Chị ấy có đỡ không?
- Uống hết rồi. Nó thích thứ ấy lắm, nhưng không tiện xin cô lần nữa.
- Có đáng gì, để tôi xin thêm một ít cho chị ấy.
Thím Liễu có đứa con gái năm nay mười sáu tuổi, là con thứ năm, nên đặt tên là Năm. Cô Năm tuy là con gái người nấu bếp, nhưng dáng người cũng khá, xấp xỉ sánh với Bình Nhi, Tập Nhân, Uyên Ương, Tử Quyên. Chỉ vì người yếu, nên chưa có việc làm. Gần đây thím Liễu thấy nhiều a hoàn trong phòng Bảo Ngọc làm những công việc nhẹ, lại nghe nói sau này Bảo Ngọc sẽ cho họ về cả, nên muốn xin cho con mình ghi tên vào hầu. Đương lúc chưa có người đưa vào thì may sao thím Liễu trước kia lại là người hầu ở viện Lê Hương, chăm nom nâng giấc bọn Phương Quan rất cẩn thận, hơn các bà mẹ nuôi khác. Bọn Phương Quan đối với thím cũng rất tử tế. Nhân đó thím Liễu nhờ Phương Quan nói với Bảo Ngọc cho con vào hầu, Bảo Ngọc đã bằng lòng, nhưng gần đây lại ốm và bận việc, nên chưa tiện nhắc lại.
Phương Quan về viện Di Hồng, vào trình Bảo Ngọc. Bấy giờ vì dì Triệu làm ầm ỹ, Bảo Ngọc trong bụng khó chịu, nhưng há miệng mắc quai, đành chờ cho cãi nhau xong, Thám Xuân bảo dì Triệu về rồi mới từ Hành Vu Uyển quay về, khuyên nhủ Phương Quan, một lúc, dàn xếp xong xuôi. Thấy Phương Quan muốn xin rượu mai quế lộ cho con Năm. Bảo Ngọc nói:
- Hãy còn đấy, tôi không uống mấy, cô đưa cho nó.
Nói xong, bảo Tập Nhân lấy ra. Thấy trong chai không còn mấy, Bảo Ngọc đưa cả cho Phương Quan.
Phương Quan mang chai rượu đi. Gặp lúc thím Liễu dẫn con Năm đi dạo chơi ở góc nhà bên cạnh, vừa về đến bếp, ngồi nghỉ uống nước. Thấy Phương Quan cầm cái chai bằng pha lê nhỏ cao độ năm tấc, trông lấp lánh, trong đựng độ nửa chai nước màu đỏ như son, thím Liễu cho là rượu nho của Bảo Ngọc vẫn uống. Hai mẹ con liền nói:
- Cô hãy ngồi đây, để tôi đi đun nước.
Phương Quan cười nói:
- Chỉ còn có ngần ấy thôi, cho thím cả cái chai đó.
Con Năm nghe xong, mới biết là rượu mai quế lộ, cầm lấy ngay, rồi cám ơn Phương Quan, lại nói:
- Hôm nay mát giời, tôi đi chơi cho khuây, nhưng ở phía sau chẳng có gì thú, chỉ rặt những hòn đá lớn, những cây cao và bức tường sau nhà thôi, không có cảnh gì đẹp cả.
Phương Quan hỏi:
- Sao chị không đi nữa?
Thím Liễu nói:
- Tôi không cho nó đi, sợ các cô ở đây không biết nó, bất chợt mà gặp những người không vừa mắt thì lại thêm chuyện. Ngày mai cô đưa nó vào hầu rồi lo gì không có người dẫn nó đi chơi! Chỉ sợ chơi lắm đâm chán thôi.
- Sợ gì? Đã có tôi!
- Úi chà! Cô ơi, chúng tôi thấp cổ bé họng, bì thế nào được với các cô.
Nói xong đi pha trà đem lại. Nhưng Phương Quan khi nào thèm uống. Chỉ súc miệng rồi về.
Thím Liễu nói:
- Ta đương giở tay, con Năm tiễn cô ấy một tý.
Con Năm đi tiễn, thấy không có người lạ, liền kéo Phương Quan hỏi:
- Chị đã nhắc việc ấy cho tôi chưa?
- Tôi nói dối chị hay sao? Tôi thấy trong phòng đương thiếu hai người hầu, chưa có ai thay: một là chị Hồng Ngọc, mợ Hai lấy đi, hai là chị Trụy Nhi. Nay lấy thêm chị vào cũng chẳng phải là thừa. Nhưng chị Bình thường nói với chị Tập Nhân: “Việc gì phải động đến người, đến tiền, có thể chậm được thì cứ để chậm. Hiện giờ cô Ba đương muốn tìm cớ đưa người ra. Ngay bên nhà chị ấy cũng phải bác đi mấy việc. Lại định bới cả nhà chúng tôi, nhưng không bới ra được việc gì, như thế thì chị tội gì đã vội đâm đầu vào lưới? Nói mà bị bác thì sau này muốn lấy cũng không được, quá muộn mất rồi. Hãy cứ yên đi một dạo, chờ cụ và bà Hai rỗi, sẽ nói với người, dù việc to như trời cũng phải xong.”
- Chị nói thế nhưng tính tôi nóng không chờ được. Nếu tôi vào làm, một là mẹ tôi được mở mày mở mặt, cũng bõ công đẻ ra tôi; hai là tôi có lương tháng, nhà cũng được rộng rãi; ba là tôi được hởi dạ, bệnh sẽ chóng khỏi. Có phải mời thày uống thuốc cũng đỡ tốn tiền.
- Những lời chị nói, tôi biết cả rồi. Chị cứ yên tâm.
Nói xong Phương Quan đi về.
Con Năm trở về, hai mẹ con đều cám ơn Phương Quan. Mẹ nó nói:
- Không ngờ lại được những thứ này. Tuy là của quý thực, nhưng uống nhiều sinh nóng, chi bằng rót một ít mang đi biếu người khác, mình lại được ơn.
- Biếu ai?
- Biếu anh con cậu mày một ít. Nó bị bệnh nóng cũng muốn uống rượu này. Ta rót nửa chén đưa cho nó.
Nghe vậy con Năm ngồi lặng một lúc, mặc cho mẹ rót nửa chén và đem chai rượu cất vào trong chạn. Sau đó nó cười nhạt:
- Cứ ý con thì không nên cho anh ấy. Lỡ có người biết lại xảy ra lôi thôi.
- Cần gì mà phải sợ. Sợ gì cái ấy. Chúng ta vất vả hầu hạ, kiếm được chút ít thứ này thứ nọ là lẽ tất nhiên, chứ có phải đi ăn trộm đâu?
Thím Liễu không nghe lời con, đi thẳng một mạch đến là anh. Đứa cháu đương nằm. Trông thấy cả nhà vui mừng, liền đem pha với nước lạnh cho cháu uống một bát, trong bụng nó khoan khoái, mắt sáng lên, đầu mát dần. Còn thừa nửa chén, nó lấy giấy bịt lại để trên bàn.
Ngay lúc ấy có mấy đứa hầu nhỏ là bạn chơi thân với cháu thím Liễu, đến hỏi thăm, trong đó có Tiền Hòe là cháu họ dì Triệu. Bố mẹ Tiền Hòe hiện giữ sổ trong kho, còn nó thì được cắt đến hầu Giả Hoàn đi học. Nhà nó cũng khá, nhưng chưa lấy vợ. Ngày thường thấy con Năm xinh đẹp, nó cố xin với bố mẹ hỏi làm vợ, và đã nhờ bà mối đến nói ba bốn lần. Vợ chồng họ Liễu thì bằng lòng, riêng con Năm nhất định không thuận, nhưng chưa nói ra, vì thế vợ chồng họ Liễu cũng chưa dám nhận lời.
Gần đây con Năm lại muốn vào hầu trong vườn, nên không nhắc đến việc ấy nữa. Chờ dăm ba năm sau khi trở về, sẽ lấy chồng ở bên ngoài. Nhà Tiền Hòe thấy thế, cũng thôi không đến hỏi. Tiền Hòe không lấy được con Năm, trong bụng vừa tức vừa xấu hổ, nhất định tìm cách lấy cho bằng được mới thỏa lòng. Hôm nay nó cùng bạn đến chơi nhà cháu thím Liễu, không ngờ thím Liễu lại ở đây.
Thấy một lũ người đến, trong đó có Tiền Hòe, thím Liễu nói lảng là bận việc, đứng dậy ra về. Anh và chị dâu vội nói:
- Sao cô không uống nước đã về ngay? Cám ơn cô đã nhớ đến cháu.
Thím Liễu cười nói:
- Sợ ở nhà gọi cơm, khi nào rỗi, tôi sẽ lại sang thăm cháu.
Người chị dâu liền lấy một gói giấy ở trong ngăn kéo ra, cầm ở trong tay, tiễn thím Liễu ra đến cạnh tường, dúi đưa cho thím, cười nói:
- Anh có trực nhật ở ngoài cửa suốt năm ngày chẳng vớ được món bổng nào. Hôm qua có một ông quan ở Việt Động đến thăm, đem biếu trên nhà hai giỏ bột phục linh, còn lại một giỏ để làm quà cho người canh cửa, anh cô cũng được chia một ít. Ở đó có nhiều cây tùng bách sống hàng nghìn năm, chỉ nguyên lấy nhựa phục linh hòa với thuốc là được, không biết làm thế nào mà bột trắng ngần như vậy? Tối hôm qua, tôi giở ra xem, đẹp quá, trắng như tuyết. Họ bảo: thứ nhất là, hòa với sữa người, sáng dậy uống một bát, bổ lắm. Thứ hai là dùng sữa bò; không dùng được sữa thì dùng nước lã đun sôi cũng được. Tôi nghĩ cháu đằng ấy ăn cũng tốt. Sáng hôm nay cho hầu nhỏ đưa đến, nhưng nó nói là khóa cửa, và cháu bên ấy cũng đi đâu vắng. Tôi vẫn muốn sang thăm và mang cho cháu gói này, nhưng các vị chủ đi vắng cả, chỗ nào cũng canh gác cẩn thận, tôi lại không có việc gì, đến thế nào được. Vả chăng hai ngày hôm nay nghe nói có người trong nhà làm bậy, sang đó mà bị vạ lây lại thêm khổ. Cô đến thật là đúng lúc, nhờ mang về hộ cho cháu.
Thím Liễu cám ơn rồi về. Vừa đi đến trước cửa bên cạnh, có một đứa bé con cười nói:
- Thím đi đâu thế? Trên nhà sai người gọi ba, bốn lượt đấy, bắt ba, bốn đứa chúng tôi đi tìm các ngả. Thím ở đâu về? Đường này lại không phải là đường đi về nhà thím, tôi lấy làm ngờ lắm.
Thím Liễu cười nói:
- Con khỉ con này!
------------------------
(1). Cây hoa nhài.
Hồi thứ sáu mươi mốt
Ném chuột sợ vỡ đồ, Bảo Ngọc đành phải nhận lỗi;
Xét việc thấy oan uổng, Bình Nhi khéo tòng quyền.
Thím Liễu nghe đứa bé nói thế, cười bảo:
- Đồ khỉ con này! Thím mày đi kiếm một ông chồng nữa thì mày chẳng được thêm một ông chú hay sao? Có gì mà đáng ngờ! Đừng để cho tao phải túm chỏm mày dúi xuống! Còn không mở cửa cho tao vào à!
Đứa bé vẫn không mở cửa, kéo thím lại cười nói:
- Thím ơi! Thím có vào, thế nào cũng ăn cắp cho cháu mấy quả mận. Cháu sẽ chờ mãi ở đây. Thím quên thì sau này đêm khuya có đi mua rượu mua dầu, cháu không mở cửa cho đâu, tha hồ thím gọi.
Thím Liễu mắng:
- Mày mê rồi! Năm nay có được như năm ngoái nữa đâu? Bao nhiêu cây cối ở đây đã chia cho các bà già cả. Người nào người ấy mặt cứ sưng lên. Hễ có ai đi qua gốc cây là mắt cứ nhìn hau háu như cú vọ ấy. Thế thì còn ai dám động đến hoa quả của họ. Hôm qua tao đi qua gốc mận, gặp phải con ong mật bay qua mặt, tao lấy tay đập, không ngờ mợ mày ở đằng xa đi lại nhìn không rõ, lại cho tao trẩy mận, thế là cứ mồm năm miệng mười, tru tréo lên. Nào là “còn chưa cúng Phật; cụ và bà Hai không có nhà, chưa biếu của mới, đợi biếu bậc trên xong, các chị em sẽ đều có phần cả”. Cứ như người mắc bệnh lao, đợi có quả mận mới ra được mồ hôi ấy, làm cho tao không giữ được lời, cãi nhau với bà ấy một trận. Mợ mày và dì mày cũng đều trông nom trong vườn đấy, sao mày không xin, lại cứ đi xin tao? Thật không khác gì “chuột ở trong kho lại hỏi vay thức ăn của quạ”. Cái giống ở liền trong kho không có thức ăn lại còn đi hỏi cái giống bay trên trời à?
Đứa bé cười nói:
- Úi chà ! Không có thì thôi, thím cứ nói dài dòng mãi! Liệu từ nay trở đi thím không cần đến cháu nữa hay sao? Chị Năm có việc làm thì sau này còn phải sai khiến đến chúng cháu nhiều. Chỉ cần chúng cháu ngoan một tý là được.
Thím Liễu cười nói:
- Con khỉ con này lại giở lối ranh mãnh ra! Chị mày có việc làm ở đâu?
Đứa bé cười nói:
- Cháu biết rồi, đừng nói đối nữa. Chỉ thím có tay trong, chứ chúng cháu không có tay trong hay sao? Tuy cháu ở ngoài này nhưng có hai chị là người hầu có thể diện ở trong ấy, còn giấu cháu sao được!
Chợt có tiếng bà già ở trong gọi ra:
- Đồ khỉ con, đi gọi ngay thím Liễu mày về đây, nếu không thì nhỡ việc đấy.
Thím Liễu không nói chuyện với đứa bé nữa, vội đẩy cửa đi vào, cười nói:
- Vội gì thế, tôi đã về đây.
Nói rồi đi vào bếp. Trong bếp cũng có mấy người cùng làm, nhưng họ không dám tự tiện, cứ phải đợi thím về đề cắt đặt.
Thím Liễu hỏi:
- Con Năm đi đâu?
Mọi người đều nói:
- Nó vừa sang phòng trà tìm chị em.
Thím Liễu nghe nói, cất gói bột phục linh rồi đi chia thức ăn cho các phòng. Chợt thấy Liên Hoa là hầu nhỏ ở buồng Nghênh Xuân đến nói:
- Chị Tư Kỳ bảo muốn ăn trứng gà luộc lòng đào.
Thím Liễu nói:
- Thứ ấy đắt lắm, không biết vì sao năm nay hiếm trứng gà thế! Mười đồng một quả trứng cũng không mua được. Hôm nọ ở nhà trên muốn cho bà con ít trứng để ăn cháo, bốn, năm người đi mua mãi mới được hai nghìn quả. Bây giờ bảo tôi tìm đâu ra? Về nói với chị ấy, hôm khác hãy ăn vậy.
Liên Hoa nói:
- Bữa ăn đậu phụ hôm nọ, thím cho đậu thiu, làm tôi bị mắng một trận. Hôm nay muốn ăn trứng gà, thím lại bảo không có. Thế thì còn ăn món gì? Tôi không tin được, đến cả trứng gà cũng không có nữa kia? Thím đừng để tôi phải đi lục!- Vừa nói nó vừa đến chạn lục, thấy có độ mười quả trứng gà để đó, liền nói:
- Không phải trứng đây à? Sao thím ghê gớm thế? Chúng tôi ăn vào phần của chủ cho, sao thím cũng tiếc đứt ruột ra thế? Có phải trứng của thím đẻ ra đâu mà sợ người ta ăn đi?
Thím Liễu chạy lại nói:
- Mày đừng có mở mồm nói láo! Mẹ mày mới đẻ ra trứng ấy. Tất cả còn mấy quả trứng để bày trên món ăn, các cô chưa ăn, nên chưa làm vội, sắp sẵn đấy để chờ khi cần. Bây giờ cho các người ăn, lỡ khi hỏi đến, món gì không có thì thôi, chứ quả trứng cũng không có à? Các người ở nơi nhà cao cửa rộng, cơm bưng tận miệng, nước rót tận tay, nên mới coi thường quả trứng, chứ có biết đâu ngoài chợ mua bán khó khăn? Không nói đến trứng làm gì, có khi rễ cỏ cũng chẳng có mà ăn nữa kia! Ta bảo cho mà biết, ngày nào cũng ăn cơm trắng gạo ngon, gà béo, vịt to, thì có sút đi một chút cũng được. Ăn lắm cho đầy ruột rồi đi bới chuyện: nào là trứng gà, đậu phụ rồi miến, củ cải xào, muốn ăn gì là tự ý thay đổi. Ta không thể chiều các người được. Mỗi nơi đòi một thứ, đến hàng chục thứ ấy, thì ra ta không còn hầu chủ nhất, mà chỉ sắp sẵn để hầu chủ nhì thôi!
Liên Hoa đỏ mặt lên, nói to:
- Ai là người ngày ngày đến đòi, thím phải kể ra hàng tràng thế! Không phải để trên sai bảo thì cho thím đến đây làm gì? Hôm nọ Xuân Yến đến bảo chị Tình Văn muốn ăn rau ngải, tại sao thím lại còn hỏi xào với thịt gà hay thịt lợn? Xuân Yến bảo món ấy xào mặn không ngon, phải xào riêng một món miến, cho ít mỡ mới ngon, thím lại bảo là thím đâm mê, vội rửa tay đi xào, rồi tự mình bưng ngay lên, thím cứ xoăn xoe như con chó vẫy đuôi ấy! Thế mà hôm nay thím lại lấy tôi ra làm bung xung, rêu rao trước mặt mọi người!
Thím Liễu nói:
- A di đà phật, ai cũng trông thấy cả đấy! Không nói hôm nọ làm gì, ngay từ năm ngoái đến nay, trong các phòng, bất cứ cô nào, chị nào, thỉnh thoảng muốn thêm thức ăn gì, ai chẳng đưa tiền trước để mua riêng. Dù có hay không, cũng phải giữ tiếng chứ! Nếu tôi nấu riêng cho các cô, sẽ lại được thừa nữa. Khi tính sổ càng làm người ta ghét thêm. Tất cả các cô với bọn chị em hàng bốn, năm mươi người, mỗi ngày chỉ có hai con gà, hai con vịt, non chục cân thịt, một quan tiền rau, các chị thử tính xem, như thế có đủ vào đâu. Ngay hai bữa cơm cũng còn chưa xoay nổi, lại người này đòi thứ này, người kia đòi thứ kia. Thứ mua về thì không thèm ăn, lại còn ăn thứ khác! Chi bằng trình với bà, cho thêm phần ăn rồi cũng như nhà bếp của cụ, thiên hạ có bao nhiêu thứ ăn cứ viết lên bảng, mỗi ngày thay món ăn một lần, đến cuối tháng tính tiền, thế là xong chuyện. Ngày hôm nọ cô Ba và cô Bảo tình cờ bàn với nhau muốn ăn đậu xào mỡ, sai cô bé đưa cho tôi năm trăm đồng tiền. Tôi cười nói: “Bụng hai cô có to bằng bụng phật Di Lặc cũng chả ăn hết năm trăm đồng. Món ấy chỉ đáng độ vài ba chục đồng, tôi có thể mua được.” Sau tôi trả lại tiền, các cô ấy cũng không chịu nhận, bảo là thưởng cho tôi để uống rượu. Các cô lại bảo: “Hiện giờ bếp dọn vào trong này, không tránh khỏi mọi người đến quấy rầy. Một tí tương, một tí muối, cái gì mà chẳng phải mua? Không cho thì không đành lòng, nếu cho thì thím lấy tiền đâu mà mua bù. Thím cứ giữ lấy món tiền ấy coi như để bù những thứ trước quấy rầy”. Hai cô thực là biết thương kẻ dưới, trong bụng tôi luôn luôn cầu khấn cho hai cô được khỏe mạnh. Không ngờ dì Triệu biết việc này, tức mà không nói ra, cho là hai cô ấy dễ dãi với tôi quá, chưa đầy mười hôm đã sai đứa hầu nhỏ đến đòi thứ nọ, đòi thứ kia, thực đáng buồn cười. Các chị lại coi như có lệ sẵn rồi, người nọ đòi, người kia đòi, tôi lấy đâu mà bù được.
Đang lúc ồn ào, thấy Tư Kỳ sai người đến giục Liên Hoa, bảo:
- Mày chết ở đây à? Sao không đi về?
Liên Hoa hậm hực trở về lại bày thêm chuyện mách với Tư Kỳ. Tư Kỳ nghe vậy nổi giận, hầu cơm Nghênh Xuân xong, liền mang mấy đứa hầu nhỏ chạy đến. Lúc ấy mọi người đương ăn cơm, thấy Tư Kỳ đến với vẻ mặt hầm hầm, đều đứng dậy đon đả mời ngồi.
Tư Kỳ thét bảo bọn hầu nhỏ:
- Mang hết cả thức ăn ở trong rương, trong chạn ra cho chó ăn, chẳng ai được ăn nữa.
Bọn hầu nhỏ ba chân bốn cẳng chạy ùa cả vào lục lọi bừa bãi, quăng vứt lung tung. Mọi người sợ quá, vừa ngăn lại, vừa van xin:
- Xin cô đừng nghe trẻ con nói nhảm! Dù thím Liễu có ba đầu sáu tay cũng chả dám hỗn với cô. Thím ấy có nói trứng gà khó mua thực. Chúng tôi vừa mới trách thím ấy không biết điều, dù là thứ gì cũng phải cố tháo vát tìm cách mà mua chứ. Thím ấy đã biết lỗi và đi luộc rồi. Cô không tin, vào bếp mà xem.
Mọi người khuyên răn mãi, Tư Kỳ mới bớt giận. Bọn hầu nhỏ cũng thôi không vứt thức ăn nữa. Tư Kỳ mắng ầm lên một lúc mới về. Thím Liễu vùng vằng quăng mâm quăng bát, lủng bủng một lúc, rồi luộc một bát trứng cho người mang đi. Tư Kỳ hắt cả xuống đất. Người kia trở về không dám nói, sợ lại sinh chuyện.
Thím Liễu cho con gái ăn một bát canh, nửa bát cháo, rồi nói đến việc mợ nó gửi cho bột phục linh. Con Năm nghe nói, muốn cho Phương Quan một ít, liền lấy giấy sẻ ra một nửa gói, nhân buổi chiều tối vắng người, lẻn lút dưới khóm hoa, rặng liễu đi tìm Phương Quan. May sao đến tận cửa viện Di Hồng cũng không có ai hỏi. Con Năm không tiện đi vào, đành đứng xa xa trước rặng hoa hồng nghe ngóng. Độ uống xong một chén nước, thấy Xuân Yến ra, con Năm cất tiếng gọi, Xuân Yến không biết là ai, đến gần mới rõ, liền hỏi:
- Chị đến làm gì đây?
- Chị bảo hộ Phương Quan ra đây, tôi có câu chuyện muốn nói với chị ấy.
- Chị nóng nảy quá. Chẳng qua chỉ chờ độ mươi ngày nữa thì vào, cứ đến tìm chị ấy làm gì? Vừa rồi chị ấy có việc đi ra đằng kia, chị hãy chờ một lúc; hay là có việc gì cứ nói, tôi sẽ nói lại với chị ấy cho. Chị chờ không được đâu, sợ cửa vườn lại đóng.
Con Năm đưa gói bột phục linh cho Xuân Yến, nói:
- Đây là bột phục linh. Ăn bổ lắm. Tôi có một ít biếu chị ấy, nhờ chị đưa hộ.
Nói xong quay về. Khi ra đến bến Lục Tự, thấy vợ Lâm Chi Hiếu dẫn mấy bà già đi tới, con Năm không kịp tránh, đành phải đứng lại chào. Vợ Lâm Chi Hiếu hỏi:
- Tao nghe nói mày ốm, sao lại ra được đây?
- Mấy hôm nay đã khá, tôi theo mẹ tôi đi chơi cho đỡ buồn. Vừa rồi mẹ tôi sai tôi đưa mấy thứ đồ dùng đến viện Di Hồng.
- Mày nói dối rồi, vừa nãy thấy mẹ mày đi ra, tao mới đóng cửa. Nếu mẹ mày sai mày đi, tại sao không bảo cho tao biết? Lại cứ để cho tao đóng cửa, thế là nghĩa làm sao?
Con Năm không biết trả lời thế nào, chỉ nói:
- Mẹ tôi bảo tôi đi lấy đồ từ sớm. Tôi quên mất, đến bây giờ mới nhớ ra. Có nhẽ mẹ tôi tưởng tôi đi từ trước rồi, nên không nói gì với bà.
Thấy nó vẻ mặt hoảng hốt, ăn nói lúng túng, lại vì gần đây Ngọc Xuyến nói ở buồng bên ấy mất đồ đạc, mấy a hoàn đổ lẫn cho nhau, chưa tìm ra manh mối, vợ Lâm Chi Hiếu đâm ra ngờ vực. Vừa lúc ấy Tiểu Thiền, Liên Hoa cùng mấy bà già đi đến, thấy vậy liền nói:
- Bà Lâm nên tra hỏi nó. Hai ngày nay nó cứ thậm thụt đi vào đây không biết làm việc gì?
Tiểu Thiền lại nói:
- Phải đấy. Hôm nọ chị Ngọc Xuyến đã nói: Cái hòm của bà để ở buồng bên cạnh bị mở, mất khá nhiều đồ vật. Mợ Hai sai cô Bình đến nói với chị Ngọc Xuyến để lấy ít rượu mai quế lộ thấy mất một chai. Nếu không lục đến, có nhẽ cũng không biết.
Liên Hoa cười nói:
- Việc ấy tôi không nghe thấy. Nhưng tôi lại trông thấy cái chai đựng rượu mai quế lộ.
Vợ Lâm Chi Hiếu vì chưa tra ra việc này, ngày nào Phượng Thư cũng sai Bình Nhi đến giục, nên hỏi ngay:
- Trông thấy ở đâu?
- Ở trong bếp nhà nó ấy.
Vợ Lâm Chi Hiếu liền sai thắp đèn lồng dẫn người đi tìm.
Con Năm vội nói:
- Đó là chị Phương Quan ở nhà cậu Bảo cho tôi đấy.
Vợ Lâm Chi Hiếu nói:
- Phương Quan hay “viên quan”(1) cũng mặc kệ! Hiện bắt được tang chứng, tao phải đi trình! Mày cứ đến chỗ chủ mà nói!
Vừa nói vừa đi vào trong bếp. Liên Hoa đi theo lấy chai rượu ra. Vợ Lâm Chi Hiếu vẫn ngờ nó còn ăn trộm thứ khác, lại khám kỹ một lượt, bắt được một gói phục linh, liền cầm cả lấy rồi dẫn nó đến trình Lý Hoàn và Thám Xuân.
Vì Giả Lan ốm, Lý Hoàn không trông nom công việc, bảo đến trình Thám Xuân.
Thám Xuân lúc này đã về buồng và đang tắm rửa trong nhà, bọn a hoàn thì đứng hóng mát ở ngoài sân. Thị Thư vào trình, một lúc ra nói:
- Cô đã biết rồi, bảo các người đến nói với chị Bình để trình lên mợ Hai.
Vợ Lâm Chi Hiếu đành phải dẫn sang bên nhà Phượng Thư, nhờ Bình Nhi vào trình. Phượng Thư vừa mới đi ngủ, nghe vậy liền bảo:
- Đánh cho mẹ nó bốn mươi roi rồi đuổi đi, từ nay không được vào đến cửa thứ hai; đánh cho con Năm bốn mươi roi, rồi mang trả ngay lên trại, hoặc bán hay gả cho người ta.
Bình Nhi theo thế bảo vợ Lâm Chi Hiếu. Con Năm sợ quá khóc ầm lên, quỳ xuống trước mặt Bình Nhi kể lại việc Phương Quan cho nó.
Bình Nhi nói:
- Việc ấy cũng không khó. Ngày mai hỏi lại Phương Quan sẽ biết thực hay dối. Nhưng gói bột phục linh, hôm nọ người ta đem biếu, còn phải chờ cụ và bà về xem mới dám động đến, sao đã lấy trộm trước.
Con Năm kể lại việc ông cậu nó cho nó. Bình Nhi cười nói:
- Nếu thế thì mày là đứa thẳng thắn, không có tội gì, người ta mang mày ra để thế mạng đấy thôi. Bây giờ tối rồi, mợ vừa uống thuốc đi nghỉ, việc nhỏ không nên làm phiền. Hãy giao nó cho người gác giữ một đêm, ngày mai ta trình với mợ, sẽ liệu sau.
Vợ Lâm Chi Hiếu không dám trái lời, đành phải mang nó ra giao cho các bà già canh đêm rồi mới về.
Con Năm bị người ta giam lỏng ở đấy, không dám đi đâu một bước. Bọn bà già có người khuyên nó: “Không nên làm những việc xấu xa như thế!” Cũng có người ghét nó, nói: “Canh đêm không xong, lại còn đưa con ăn cắp này đến đây cho chúng mình giữ, nếu không cẩn thận, lỡ nó tự tử hoặc trốn đi, lại rầy rà đến mình đây!” Lại có một bọn xưa nay không ưa thím Liễu, thấy thế lấy làm thích thú, chạy đến đùa cợt chế giễu nó. Con Năm trong bụng vừa tức vừa oan, không biết kêu vào đâu. Vả xưa nay người nó hay ốm yếu, bây giờ muốn uống chè không có, nước cũng không, muốn ngủ không có chăn gối, nên cứ khóc nức nở suốt đêm.
Những người xưa nay có thù hằn với mẹ con nó, chỉ mong sao đuổi ngay được nó đi, kẻo mai sự việc lại thay đổi chăng, nên họ dậy thật sớm đưa quà đến mua chuộc Bình Nhi, vừa ton hót cô ta làm việc dứt khoát, vừa kể tội mẹ con Năm xưa nay làm nhiều điều không tốt. Bình Nhi gật đầu bảo họ về, còn mình đến đằng Tập Nhân hỏi xem có thực Phương Quan cho nó rượu mai quế lộ không. Tập Nhân nói:
- Có cho Phương Quan rượu mai quế lộ, nhưng sau Phương Quan cho ai thì không biết.
Tập Nhân lại hỏi Phương Quan. Phương Quan giật mình, nhận là có cho con Năm thực. Phương Quan lại nói với Bảo Ngọc. Bảo Ngọc cũng cuống lên nói:
- Rượu mai quế lộ thì đúng là có cho rồi. Bột phục linh nó khai cũng đúng đấy. Nhưng nếu người ta biết là cậu nó khi gác cửa nhận được, tất có lỗi. Thế chẳng hóa ra người ta có bụng tốt lại bị chúng ta làm hại hay hao?
Liền bàn với Bình Nhi:
- Việc rượu thì xong rồi, nhưng việc bột phục linh cũng có lỗi đấy. Chị cứ bảo nó nói của Phương Quan cho là xong cả.
Bình Nhi cười nói:
- Dù thế, nhưng hôm qua nó đã nói với mọi người là cậu nó cho nó rồi. Sao bây giờ lại bảo là Phương Quan cho? Vả lại, bên ấy mất bột phục linh chưa tìm ra manh mối, bây giờ có tang chứng rõ ràng, lại tha trắng đi, thế thì còn đi bắt ai? Ai còn chịu nhận? Xử thế chắc người ta không phục đâu.
Tình Văn chạy lại cười nói:
- Rượu mai quế lộ ở bên bà không ai lấy đâu, rõ ràng là Thái Vân ăn cắp cho cậu Hoàn đấy thôi, các chị đừng có nhắm mắt nói liều.
Bình Nhi cười nói:
- Ai chẳng biết nguyên do như vậy? Bấy giờ Ngọc Xuyến tức quá phát khóc lên. Lẽ ra khẽ hỏi nó, nó nhận đi thì Ngọc Xuyến cũng thôi, mà cả nhà cũng lờ đi, ai hơi đâu còn bôi chuyện ra nữa. Nhưng đáng giận là Thái Vân không những không nhận, còn đổ cho Ngọc Xuyến ăn cắp! Hai đứa trong một nhà lại cứ hục hặc cãi cọ nhau, cả phủ đều biết, chúng ta làm ngơ đi sao được? Thế nào cũng phải tra hỏi. Biết đâu đứa kêu mất trộm lại chả là đứa ăn trộm. Nhưng không có tang chứng thì làm gì được nó?
Bảo Ngọc nói:
- Thôi việc này tôi lại đứng ra nhận cho, cứ nói là tôi lẻn sang ăn cắp của bà để dọa họ chơi đấy. Như thế là hai việc đều xong cả.
Tập Nhân nói:
- Cũng là việc làm phúc đấy, đỡ cho người ta khỏi mang tiếng ăn cắp, nhưng nếu bà nghe thấy lại bảo cậu là trẻ con, không biết hay dở gì cả.
Bình Nhi cười nói:
- Chỉ là việc nhỏ thôi. Bây giờ nếu vào tìm tang vật ở nhà dì Triệu thì cũng dễ đấy, nhưng tôi sợ lại làm mất thể diện của một người tốt. Người khác không sao chứ người ấy thì thế nào mà không tức giận? Người ấy thực đáng thương, không nên vì việc “ném chuột làm vỡ mất bình ngọc”.
Nói xong giơ ba ngón tay lên.
Bọn Tập Nhân nghe nói, biết ngay là chỉ vào Thám Xuân. Mọi người liền nói:
- Thực đúng như chị nói. Nếu thế, chúng ta ở đây nhận cho là được rồi.
Bình Nhi lại cười nói:
- Nhưng cũng phải gọi hai con ranh Thái Vân và Ngọc Xuyến đến đây, hỏi cho rõ nhẽ mới được; nếu không, chúng nó lại được thể, có nghĩ thế đâu, lại cho mình không có tài tra xét nên lấp liếm cho xong chuyện. Sau này đứa ăn trộm cứ ăn trộm, đứa không trông nom vẫn không chịu trông nom.
Tập Nhân cười nói:
- Đúng đấy, cũng nên để lại đường đất sau này.
Bình Nhi sai gọi hai người đến, nói:
- Đừng sợ, đã bắt được kẻ trộm rồi.
Ngọc Xuyến hỏi trước:
- Kẻ trộm ở đâu?
- Hiện nó ở nhà mợ Hai này, hỏi gì nó nhận nấy. Tôi đã biết rõ: không phải nó ăn trộm, nhưng nó sợ quá, đều nhận cả. Cậu Bảo không nỡ lòng, muốn nhận hộ nó một nửa. Tôi muốn nói ra, nhưng đứa ăn trộm ấy ngày thường lại là chị em thân thiết với ta, người chủ chứa chỉ là một người thường thôi, nếu xét ra, sợ mất thể diện một người tốt trong nhà. Vì thế mới khó xử, đành phải nhờ cậu Bảo đứng lên nhận cho thì cả nhà đều được yên. Nhưng bây giờ phải hỏi hai chị xem thế nào? Từ nay trở đi, ai cũng giữ gìn thể diện, tôi sẽ nhờ cậu Bảo nhận; nếu không thì tôi sẽ trình mợ Hai xét cho ra, chứ không nên đổ oan cho người khác.
Thái Vân nghe nói, đỏ ửng mặt lên, trong lòng rộn rực, tỏ vẻ xấu hổ, liền nói:
- Xin chị cứ yên tâm. Không nên đổ oan cho người ngay, tôi xin nói thực: làm việc mất thể diện, ăn cắp đồ vật, là do dì Triệu cả. Dì ấy nằn nì tôi mấy lần, tôi có lấy cho cậu Hoàn một ít, tình thực như thế. Ngay khi bà ở nhà, tôi vẫn thường lấy cho người khác. Tôi cứ tưởng, dù có ai biết cũng chỉ rêu rao vài ngày là xong. Bây giờ lại đổ oan cho người, thì bụng tôi không nỡ. Chị cứ mang tôi đến trình mợ Hai, tôi xin nhận hết.
Mọi người nghe nói, ai cũng lấy làm lạ, sao nó có can đảm như thế.
Bảo Ngọc cười nói:
- Chị Thái Vân thực là người đứng đắn. Nay không cần chị phải nhận, tôi cứ nói là tôi lấy trộm để dọa các chị. Bây giờ việc xảy ra, tôi tất phải nhận. Tôi chỉ mong từ nay các chị bớt việc đi, thì mọi người mới được yên ổn.
Thái Vân nói:
- Việc tôi làm, tại sao lại để cho cậu phải nhận? Sống chết tôi cũng phải chịu lấy.
Tập Nhân và Bình Nhi vội nói:
- Không phải thế đâu. Nếu chị nhận, không khéo lại kéo cả dì Triệu vào. Cô Ba nghe thấy, lại chẳng tức sao? Để cậu Bảo nhận thì chẳng ai vướng víu gì cả. Vả lại trừ mấy người này ra không còn ai biết, như thế thì rảnh rang biết nhường nào! Nhưng từ nay mọi người nhất thiết phải cẩn thận mới được. Muốn lấy cái gì phải chờ bà về hãy hay. Khi đó đem cả cái nhà cho người ta, cũng chẳng can hệ gì đến chúng tôi.
Thái Vân cúi đầu nghĩ một lúc, đành phải nghe lời.
Mọi người bàn định xong rồi. Bình Nhi dẫn hai người cùng Phương Quan đến buồng canh đêm, gọi con Năm ra, khẽ bảo nó cứ nói là bột phục linh cũng của Phương Quan cho. Con Năm cám ơn mãi. Bình Nhi đem bọn này về nhà, thấy vợ Lâm Chi Hiếu dẫn mấy người đàn bà, áp giải bọn thím Liễu đến chờ đấy đã lâu.
Vợ Lâm Chi Hiếu nói với Bình Nhi:
- Sớm nay giải họ đến đây, sợ trong vườn không có người hầu cơm sáng, tôi đã tạm cắt vợ Tần Hiển đến sắm sửa cơm các cô rồi.
Bình Nhi hỏi:
- Vợ Tần Hiển là ai? Tôi không biết rõ.
Vợ Lâm Chi Hiếu nói:
- Chị ta là người trực đêm ở phía nam trong vườn, ban ngày không đến làm việc, nên cô không biết. Chị ta có gò má cao, mắt to, sạch sẽ và nhanh nhẹn.
Ngọc Xuyến nói:
- Phải đấy. Chị quên rồi à? Chị ta là thím của Tư Kỳ hầu cô Hai ấy. Bố Tư Kỳ là người hầu ở phủ bên kia, nhưng chú nó thì lại hầu ở bên này.
Bình Nhi nghĩ ra, cười nói:
- À! Nếu chị nói ra từ trước thì tôi hiểu ngay.- Lại cười nói: Cắt thế e vội quá. Hiện nay việc đã hai năm rõ mười, rành rành ra đấy rồi. Cả những thứ bên nhà bà Hai mất hôm nọ cũng ra manh mối cả. Hôm ấy không biết cậu Bảo đến nhà bà Hai bảo hai con ranh này lấy cái gì, nhưng chúng nó lại nói trêu chọc là “Bà đi vắng, không dám lấy”. Nhân lúc chúng không để ý, cậu Bảo tự mình đi vào lấy mấy thứ ra. Hai đứa không biết ai lấy, sợ hoảng lên. Nay cậu Bảo thấy mình làm liên lụy đến người khác, mới kể rõ ràng với tôi, có mang những thứ ấy ra cho tôi xem, thì không sai một tý gì. Còn bột phục linh, cậu Bảo nhận được ở bên ngoài, đem thưởng cho nhiều người. Không chỉ cứ người ở trong vườn mới có đâu, ngay bọn bà già cũng có, đem ra chia cho bọn Phương Quan. Tình riêng của họ, có đi có lại biếu xén nhau, cũng là việc thường. Hai giỏ bột phục linh hôm nọ đương để trên nhà khách vẫn còn nguyên, không ai động đến, sao lại vu vạ cho người ta? Để tôi vào trình mợ Hai xem đã.
Nói xong, liền đi vào buồng đem đầu đuôi câu chuyện kể lại cho Phượng Thư nghe.
Phương Thư nói:
- Mặc dù thế, nhưng Bảo Ngọc là người bất chấp hay dở, việc gì cũng thích dây vào. Ai đến nhờ việc gì, hễ nói vài câu tử tế là nó cũng nể lời. Ai tâng bốc mấy câu thì việc gì mà nó chẳng nhận? Nếu chúng ta cứ vội tin, sau này có việc gì quan trong hơn, làm thế nào mà trừng trị được người khác? Cần phải dò xét cẩn thận mới được. Cứ ý ta, phải gọi tất cả bọn a hoàn ở nhà bà đến, tuy không tiện tra khảo, nhưng cũng bắt chúng nó quỳ lên mảnh sành ở ngoài nắng, cơm không cho ăn, nước không cho uống, không thú thực, cứ quỳ mãi, dù gan sắt cũng chỉ một ngày là chúng nó thú ra hết.
Lại nói:
- “Thớt có tanh ruồi mới đỗ”, mặc dầu vợ họ Liễu không lấy trộm, nhưng cũng dính dáng ít nhiều, người ta mới đổ cho nó. Không bắt phạt nó, nhưng cũng phải đuổi nó đi, không dùng nữa. Triều đình cũng còn trị kẻ sai nữa là, như thế cũng chẳng phải oan ức cho nó.
Bình Nhi nói:
- Tội gì nghĩ lắm cho bận lòng? Có thể nới tay được thì cứ nới, việc có to tát gì, cũng nên ra ơn thì hơn. Cứ như tôi, dù bên này có lo lắng trăm phần đi nữa, rút cục chúng ta vẫn phải về bên kia, đừng nên gây thù gây hằn với bọn tiểu nhân để họ oán ghét. Vả chăng mợ lại gặp năm xung tháng hạn, vất vả mãi mới có mang được em trai thì sau bảy tháng, lại bị sẩy, biết đâu chẳng phải ngày thường mợ quá vất vả hay tức giận mới đến nỗi thế? Bây giờ nhân lúc còn mập mờ chưa rõ lẽ, cũng nên bỏ qua cho xong chuyện là hơn.
Phượng Thư bật cười, nói:
- Tùy chị đấy! Nhưng đừng làm cho tôi bực mình.
- Tôi nói thế không đúng à?
Nói xong quay ra, tha cả cho mọi người về.
----------------------------
(1). Phương là vuông, viên là tròn; đây là dùng chữ trái nghĩa để đối chọi lại.
Hồi thứ sáu mươi hai
Tương Vân ngây thơ, ngủ trên hoa thược dược;
Hương Lăng trơ trẽn, cởi tấm quần hồng lăng.
Bình Nhi ra bảo vợ Lâm Chi Hiếu:
- Việc lớn coi thành nhỏ, việc nhỏ coi như không, thế mới là nhà thịnh vượng. Chỉ một tý cỏn con, chị đã đánh trống gõ mõ ầm lên, thì không ra làm sao. Bây giờ cho mẹ con con Năm về, vẫn giữ việc như cũ. Vợ Tần Hiển thì cho ra. Từ nay không ai được nhắc đến việc này nữa, chỉ cần hàng ngày để ý canh gác cho cẩn thận thôi.
Nói xong đứng dậy đi. Mẹ con thím Liễu vội cúi đầu cám ơn. Vợ Lâm Chi Hiếu dẫn bọn họ về trong vườn trình Lý Hoàn và Thám Xuân. Hai người đều nói:
- Biết rồi. Bớt việc đi thế là phải.
Bọn Tư Kỳ bị một phen tưng hửng. Vợ Tần Hiển chờ mãi mới có chỗ khuyết, nhưng chỉ mừng hão được có nửa ngày. Lúc này chị ta đương ở trong bếp thu xếp lại đồ đạc, thóc gạo, than củi, thấy thiếu mất nhiều thứ, liền nói:
- Gạo tám thiếu hai gánh, gạo ăn hàng ngày lại chi thừa ra một tháng, than cũng thiếu.
Rồi len lén sắp một sọt than, một gánh gạo tám, sai người mang biếu vợ Lâm Chi Hiếu. Lại sắp lễ mang biếu phòng thu chi và sửa rượu mời mấy người làm việc ở đó và nói:
- Tôi đến đây đều nhờ ở các vị giúp đỡ. Từ nay chúng ta là người một nhà, tôi có điều gì thiếu sót, xin các bà nhắc bảo cho.
Đương lúc tíu tít thì có người đến nói: “Xong bữa cơm sáng rồi chị đi về. Mẹ con thím Liễu không bị lỗi, lại giả công việc cho thím ấy trông nom”.
Vợ Tần Hiển nghe vậy, mất cả hồn vía, ủ rũ cúi đầu, rồi không kèn không trống cuốn gói đi về. Bao nhiêu lễ vật đưa cho người ta đành chịu mất không. Chị ta phải bán chác của nhà để bù vào.
Dì Triệu vì Thái Vân dấm dúi cho nhiều thứ. Bị Ngọc Xuyến phát giác, sợ họ tra ra, nên ngày nào cũng nơm nớp lo âu, cứ lẻn đi thăm dò tin tức. Chợt thấy Thái Vân đến nói:
- Cậu Bảo nhận cả rồi. Từ nay không có việc gì nữa.
Dì Triệu mới yên tâm.
Không ngờ Giả Hoàn nghe thấy, đâm ra ngờ vực liền đem những thứ của Thái Vân cho mình vất cả vào mặt nó mà nói:
- Mày là đồ lá mặt lá trái, tao không thèm những thứ này đâu! Nếu mày không có tình ý với Bảo Ngọc, sao nó lại nhận hộ mày? Mày đã có gan đưa cho tao thì không nên nói cho một người nào biết; bây giờ mày đã mách nó, tao có lấy những thứ này cũng chẳng thú gì.
Thái Vân tức quá, phân trần, thề bồi, đến nỗi phải khóc lên. Nó tìm hết cách để giãi bày, nhưng Giả Hoàn nhất định không tin, nói:
- Nếu không nghĩ tình cũ, tao sẽ đi mách chị Hai, bảo là mày ăn cắp đem về, nhưng tao không dám nhận. Mày nghĩ kỹ xem!
Nói xong nó hất tay ra đi.
Dì Triệu mắng:
- Đồ vô phúc! Mày nói gì thế?
Thái Vân tức quá, khóc hết nước mắt. Dì Triệu tìm cách an ủi:
- Con ơi! Nó phụ lòng con, nhưng ta thì biết rõ lắm. Ta cứ cất những thứ này đi, độ vài ngày nữa, thế nào nó cũng phải nghĩ lại.
Dì Triệu định cất những thứ ấy đi, nhưng Thái Vân cứ vùng vằng gói cả vào bọc, nhân lúc không ai trông thấy, đem vào trong vườn vứt xuống sông, cái thì chìm lỉm, cái thì nổi lềnh bềnh. Sau đó quay về bực dọc trùm chăn khóc thầm suốt đêm.
Ngày sinh nhật Bảo Ngọc đã đến! Bảo Cầm cũng sinh đúng vào ngày ấy. Vì Vương phu nhân đi vắng, nên không được vui nhộn như năm ngoái, chỉ có vị đạo sĩ họ Trương đưa đến bốn thứ đồ lễ và đổi bùa bán khoán, hòa thượng và sư cô các nơi đưa đến biếu các vật như ngựa giấy, lá số, sao bản mệnh, sao thái tuế năm ấy, và khóa thay hàng năm v.v... Những người hầu thân trong nhà đến chúc mừng trước một hôm. Bên Vương Tử Đằng vẫn đưa mừng một bộ quần áo, một đôi giày, một trăm quả thọ đào, một trăm bó miến, buộc bằng dây bạc. Bên Tiết phu nhân đưa lễ mừng kém một nửa, người trong nhà như Vưu thị cũng đưa mừng một đôi giầy. Phượng Thư đưa mừng một cái túi thêu bốn mặt của trong cung làm, trong đựng một cái thọ tinh bằng vàng và một thứ đồ chơi của nước Ba Tư. Rồi sai ngươi đi bố thí và cúng tiền ở các miếu. Ngoài ra có lễ mừng cho Bảo Cầm, không thể kể hết được. Bọn chị em thì tùy tình, có người mừng quạt, có người mừng chữ, có người mừng tranh vẽ, có người mừng bài thơ.
Hôm đó Bảo Ngọc dậy sớm, rửa mặt chải đầu xong, đội mũ mặc áo đi ra nhà khách, bọn Lý Quý bốn người đã đặt sẵn hương đèn lễ trời đất. Sau khi Bảo Ngọc thắp hương làm lễ, dâng trà, đốt vàng, liền đến làm lễ ở hai nhà thờ trong phủ Ninh. Rồi ra nguyệt đài bái vọng Giả mẫu, Giả Chính và Vương phu nhân. Bảo Ngọc trước tiên đến phòng Vưu thị làm lễ, ngồi một lúc rồi về phủ Vinh. Bảo Ngọc trước hết đến chào Tiết phu nhân. Tiết phu nhân giữ ở lại; sau mới đến thăm Tiết Khoa một lúc, rồi về vườn. Tình Văn, Xạ Nguyệt đi theo, bọn a hoàn nhỏ mang sẵn cái thảm để đi chào, từ họ Lý trở xuống, lần lượt đi đến những người hơn tuổi mình. Rồi lại ra cửa ngoài, đến thăm bốn bà vú nuôi, một lúc mới trở về. Mọi người đều xin làm lễ, nhưng Bảo Ngọc không nhận. Về đến phòng, bọn Tập Nhân chỉ đến chào thôi. Vương phu nhân đã bảo còn trẻ tuổi không được nhận lễ, sợ giảm tuổi thọ, vì thế không ai làm lễ cả.
Giả Hoàn và Giả Lan đến mừng. Tập Nhân mời họ ngồi một lúc rồi về.
Bảo Ngọc cười nói:
- Hôm nay đi mệt lắm rồi!
Liền nằm nghiêng xuống giường. Mới uống được nửa chén nước, thì bọn Thúy Mặc, Tiểu Loa, Thúy Lũ, Nhập Họa, Triệu Nhi hầu Hình Tụ Yên, cùng vú em bế Xảo Nhi, Thái Loan, Tú Loan, tất cả tám chín người đều mang thảm đỏ từ ngoài, cười ầm ĩ đi vào, nói:
- Người đến chúc thọ chen đổ cả cửa rồi. Mau mang miến ra đây cho chúng tôi ăn!
Thám Xuân, Tương Vân, Bảo Cầm, Tụ Yên và Tích Xuân cũng đều đến cả.
Bảo Ngọc vội ra đón, cười nói:
- Không dám phiền các cô. Mau pha trà ngon ra đây!
Mọi người vào trong nhà đun đẩy nhau một lúc rồi cùng ngồi.
Bọn Tập Nhân pha trà mang lại. Vừa uống một chén thì Bình Nhi cũng ăn mặc lộng lẫy tha thướt đi vào. Bảo Ngọc vội ra đón, cười nói:
- Tôi đến chào chị Phượng nhưng chị ấy không tiếp. Tôi lại cho người đến chào chị.
Bình Nhi cười nói:
- Tôi đương chải đầu cho chị Phượng, nên không ra tiếp cậu được. Sau lại thấy cậu cho người đến chào, nhưng khi nào tôi dám nhận, giờ tôi lại đây chúc thọ cậu.
Bảo Ngọc cười nói:
- Tôi cũng không dám nhận.
Tập Nhân đã để sẵn cái ghế ở cạnh cửa, mời Bình Nhi ngồi, Bình Nhi liền cúi xuống lạy, Báo Ngọc vội vàng vái lại. Bình Nhi lại quỳ xuống, Bảo Ngọc cũng vội quỳ xuống. Tập Nhân liền kéo dậy. Bình Nhi lại lạy một lạy, Bảo Ngọc vái lại một cái.
Tập Nhân cười đẩy Bảo Ngọc, nói:
- Cậu vái thêm một vái nữa.
Bảo Ngọc nói:
- Đã vái xong rồi, sao lại còn vái nữa?
Tập Nhân cười nói:
- Đấy là chị ấy đến chúc thọ cậu. Nhưng hôm nay cũng là ngày sinh nhật chị ấy, cậu cũng nên chúc thọ chị ấy.
Bảo Ngọc mừng lắm, lại vái nữa, cười nói:
- Thế ra hôm nay cũng là ngày sinh nhật của chị!
Bình Nhi vội vái giả lại.
Tương Vân kéo Bảo Cầm và Tụ Yên nói:
- Bốn người chúc thọ lẫn nhau thì vái suốt cả ngày mới đủ.
Thám Xuân vội hỏi:
- Thế ra cô Hình cũng đẻ ngày hôm nay à? Sao tôi lại quên mất?
Liền bảo a hoàn:
- Đến nói với mợ Hai sắp thêm một phần lễ vật nữa, cũng như phần của cô Cầm, để đưa sang nhà cô Hai.
A hoàn vâng lời rồi đi.
Tụ Yên thấy Tương Vân buột mồm nói ra như thế, đành phải đi chào các nhà.
Thám Xuân cười nói:
- Thế cũng hay đấy. Một năm có mười hai tháng, tháng nào cũng có mấy ngày sinh nhật. Trong nhà nhiều người, nên khéo trùng nhau. Có khi ba người, có khi hai người cùng một ngày. Mồng một tết cũng có sinh nhật, chính chị Nguyên Xuân đẻ vào ngày ấy đấy. Không trách chị ấy hưởng phúc nhiều, đến ngày sinh nhật cũng chiếm trước tiên. Hôm đó cũng lại là ngày sinh nhật của cụ tổ nhà ngày trước. Sau tết nguyên tiêu là ngày sinh nhật của bà Cả(1) và chị Bảo, sao mà hai người khéo gặp nhau thế? Mồng một tháng ba là sinh nhật bà Hai, mồng chín tháng ba là sinh nhật anh Liễn. Tháng hai thì không có ai.
Tập Nhân nói:
- Ngày mười hai tháng hai là ngày sinh nhật cô Lâm, sao lại bảo không có ai? Chỉ có điều cô ấy không phải là người trong nhà chúng ta thôi.
Thám Xuân cười nói:
- Chị xem trí nhớ của tôi như thế đấy!
Bảo Ngọc cười, trỏ Tập Nhân nói:
- Vì chị ấy đẻ cùng ngày với em Lâm, nên mới nhớ được.
Thám Xuân cười:
- Thế ra hai cô đẻ cùng một ngày à? Vậy mà năm nào cũng không thấy chị đến lạy mừng chúng tôi.(2) Ngày sinh nhật chị Bình, chúng tôi cũng không biết, nay mới rõ đấy.
Bình Nhi cười nói:
- Chúng tôi là hạng không có tên tuổi gì, không có phúc để làm lễ sinh nhật, và cũng không có chức phận gì để nhận lễ thì rêu rao lên làm gì? Chẳng thà lẳng lặng bỏ qua đi là hơn. Thế mà hôm nay chị ấy lại nói ầm lên. Thôi chờ khi các cô về nhà, tôi sẽ đến làm lễ vậy.
Thám Xuân cười nói:
- Không dám làm phiền chị. Nhưng hôm nay phải làm lễ sinh nhật cho chị thì tôi mới đành lòng.
Bảo Ngọc, Tương Vân đều nói: “Phải đấy”.
Thám Xuân liền sai a hoàn:
- Đến thưa với mợ Hai, hôm nay không cho chị Bình đi đâu, chúng tôi sẽ góp tiền làm lễ sinh nhật cho chị ấy.
A hoàn cười rồi đi, một lúc về nói:
- Mợ Hai bảo, cám ơn các cô làm cho chị Bình được thể diện. Không biết làm sinh nhật thì cho chị ấy ăn những thứ gì? Nhưng đừng có quên mợ Hai, mợ ấy mới không làm rầy rà đến chị Bình.
Mọi người đều cười. Thám Xuân nói:
- May sao hôm nay bếp nhà trong không làm cơm, các thức ăn đều lấy ở bên ngoài cả. Nay chúng ta góp tiền lại, sai mụ Liễu làm, và sẽ nấu nướng ở bếp trong này.
Mọi người đều nói: “Phải đấy!”
Thám Xuân vừa bảo đi mời Lý Hoàn, Bảo Thoa, Đại Ngọc, vừa sai người đi gọi thím Liễu đến, bảo phải làm hai bàn rượu ở bếp trong. Thím Liễu không biết thế nào, nói:
- Bếp ngoài đã sắp sẵn cả rồi.
Thám Xuân cười nói:
- Chị không hiểu hôm nay là ngày sinh nhật của cô Bình. Ở bếp ngoài sắp đồ ăn là của trên nhà. Bây giờ chúng tôi góp tiền riêng làm hai bàn rượu để mời cô ấy. Chị cứ đi sắm sửa những thức ăn ngon và mới, sau đó biên vào sổ, sẽ sang bên tôi nhận tiền.
Thím Liễu cười nói:
- Thế ra hôm nay là sinh nhật cô Bình à? Tôi thật không biết.
Nói xong cúi đầu làm lễ, Bình Nhi vội kéo đứng dậy.
Thím Liễu liền đi sắp sửa tiệc rượu.
Thám Xuân lại cho đi mời Bảo Ngọc cùng đến nhà khách ăn mì. Chờ Lý Hoàn, Bảo Thoa đến đủ, rồi sai người đi mời Tiết phu nhân và Đại Ngọc. Hôm ấy ấm trời, Đại Ngọc đã đỡ nên cũng đến được. Một đoàn như hoa như gấm, chật ních cả nhà. Tiết Khoa mang khăn, quạt, hương, lụa đến chúc thọ Bảo Ngọc. Bảo Ngọc lại sang nhà Tiết Khoa ăn mì. Hai nhà cùng làm rượu thọ, cùng đưa lễ mừng nhau. Đến buổi trưa, Bảo Ngọc lại đến uống mấy chén rượu với Tiết Khoa. Bảo Thoa dẫn Bảo Cầm đến lạy chào và dâng rượu Tiết Khoa. Sau đó, Bảo Thoa dặn Tiết Khoa:
- Rượu ở nhà không phải mang sang bên ấy nữa, bỏ những việc khách sáo ấy đi. Cậu cứ mời những người giúp việc hiệu buôn đến uống rượu thôi. Chúng tôi và cậu Bảo còn phải về mời khách, không thể ở lại tiếp cậu được.
Tiết Khoa nói:
- Xin chị và cậu Bảo cứ về, có lẽ bọn người giúp việc sắp đến đấy.
Bảo Ngọc cũng xin lỗi, cùng về với chị em Bảo Thoa. Đến cửa bên, Bảo Thoa sai bà già khóa cửa lại, rồi tự cầm lấy chìa khóa. Bảo Ngọc nói:
- Cái cửa ấy ít người đi lại, cần gì phải đóng? Dì và chị em lại đều ở cả trong này, muốn về nhà lấy cái gì, chẳng phiền lắm hay sao?
Bảo Thoa cười nói:
- Cẩn thận thế cũng không lấy gì làm quá! Bên nhà cậu mấy hôm nay xảy ra nhiều việc lôi thôi, không có người nào bên tôi dính dáng vào đấy, thế mới biết là đóng cửa này cũng có công hiệu. Nếu cửa mở, những người quen lối thuận đường cứ theo đây mà đi, thì ngăn làm sao được? Chi bằng khóa lại, ngay mẹ tôi và tôi cũng không được đi lối ấy. Lỡ có xảy ra việc gì cũng không thể đổ cho người bên này được.
- Thế ra chị cũng biết bên tôi mấy hôm nay mất đồ đạc à?
- Cậu chỉ biết mất hai thứ rượu mai quế lộ và bột phục linh thôi. Đó là vì đụng đến người mới biết mất đồ vật, nếu không, chính hai việc này cậu cũng không biết. Cậu có biết đâu ngoài hai thứ ấy ra còn mất nhiều thứ quan hệ hơn kia. Sau này tra xét không ra thì cũng phúc cho mọi người, nếu tra xét ra thì không biết liên lụy đến bao nhiêu người ở nhà này. Cậu không trông nom công việc, nên tôi mới nói cho cậu nghe. Bình Nhi là người hiểu biết, hôm nọ tôi đã nói rõ với chị ấy. Vì mợ Hai mệt, không ra ngoài, thành ra tôi phải nói cho chị ấy hiểu tất cả. Nếu không xảy việc gì, mọi người sẽ rảnh tay. Lỡ xảy ra, chị ấy đã nắm trước, tự nhiên tìm được manh mối, không đến nỗi xử oan cho người. Cậu nên nghe lời tôi, từ nay để ý cẩn thận mới được. Chuyện này không nên nói cho người thứ hai biết.
Nói xong, đến đình Thấm Phương, thấy Tập Nhân, Hương Lăng, Thị Thư, Tình Văn, Xạ Nguyệt, Phương Quan, Nhụy Quan, Ngẫu Quan, đương ngồi xem cá bơi ở đấy. Thấy Bảo Ngọc và Bảo Thoa đến, họ đều nói:
- Đã sắp sẵn ở dưới giàn thước dược cả rồi, xin mời vào tiệc.
Bảo Thoa dẫn bọn họ vào trong nhà ba gian Hồng Hương phố ở dưới giàn thước dược. Vưu thị cũng đã đến. Mọi người đều ở đấy chỉ thiếu Bình Nhi thôi.
Lúc Bình Nhi về, có vợ họ Lâm, vợ họ Lại đưa lễ vật đến, hết người nọ đến người kia, hàng trên, hàng giữa, hàng dưới, đều mang lễ đến chúc thọ khá nhiều. Bình Nhi mang tiền ra thưởng và cám ơn, rồi đem các thứ lễ vật trình Phượng Thư, chỉ giữ lại một vài thứ để dùng thôi. Có thứ không nhận; có thứ nhận rồi lại đem thưởng cho người khác ngay. Bận rộn lúc lâu, lại phải chờ Phượng Thư ăn mì xong mới đi thay quần áo sang bên vườn. Vừa tới nơi, đã gặp mấy a hoàn đi mời, rồi cùng vào Hồng Hương phố thì thấy khắp nơi toàn là đồi mồi sáng ngời, phù dung rực rỡ. Mọi người đều cười nói: “Thọ tinh đủ cả rồi!” Rồi mời bốn người ngồi ở bàn trên, nhưng không ai chịu lên.
Tiết phu nhân nói:
- Ta già rồi, không hợp với bọn tuổi trẻ, nếu ngồi đây có phần gò bó, chi bằng lên nằm ở nhà trên thì hơn. Ta cũng không ăn, không uống rượu gì, để cho các ngươi ở đây được tự nhiên.
Vưu thị nhất định không nghe. Bảo Thoa nói:
- Thế cũng được. Cứ để mẹ tôi lên nhà nằm nghỉ thì dễ chịu hơn. Tùy ý thích, người thích ăn gì, thì đưa lên. Vả lại trên ấy vắng người, lại có thể trông nom được.
Thám Xuân cười nói:
- Đã thế thì cung kính không bằng theo ý người.
Mọi người đều đưa Tiết phu nhân lên nhà trên, trông những đứa hầu nhỏ trải nệm và đặt gối dựa, rồi dặn:
- Phải bóp đùi cho bà cẩn thận, phải pha trà rót nước, không được tị nạnh đổ đưa cho nhau. Thức ăn sẽ đưa lên sau. Bà ăn xong thì cho chúng mày. Không đứa nào được đi đâu đấy.
Lũ hầu nhỏ đều vâng lời.
Thám Xuân quay về. Bảo Cầm, Tụ Yên được mời ngồi trên, Bình Nhi ngồi ngoảnh phía tây, Bảo Ngọc ngoảnh phía đông. Thám Xuân lại mời Uyên Ương lên, hai người ngồi đối diện nhau. Bảo Thoa, Đại Ngọc, Tương Vân, Nghênh Xuân, Tích Xuân, theo thứ tự ngồi ở bàn phía tây, lại kéo Hương Lăng, Ngọc Xuyến ngồi ngang hàng. Vưu Thị, Lý Hoàn ngồi ở bàn thứ ba, lại kéo Tập Nhân, Thái Vân cùng ngồi, Tử Quyên, Oanh Nhi, Tình Văn, Tiểu Loa, Tư Kỳ thì ngồi chung quanh bàn thứ tư.
Thám Xuân định nâng chén mừng. Bọn Bảo Cầm đều nói:
- Làm như thế thì cả ngày cũng chẳng xong.
Mọi người mới chịu thôi. Hai cô xẩm đánh đàn hát chúc thọ. Mọi người đều nói:
- Ở đây chúng lôi không ai nghe những câu hát quê ấy đâu. Các chị lên nhà trên hát cho bà dì nghe để đỡ buồn. Rồi chọn mấy món ăn ngon, sai người mang lên cho Tiết phu nhân. Bảo Ngọc nói:
- Ngồi im thì không có thú gì, nên làm tửu lệnh mới vui.
Trong đó có người nói làm lệnh này hay, làm lệnh kia hay. Đại Ngọc nói:
- Cứ ý tôi, đem bút giấy ra kê hết các thứ tửu lệnh, rồi bỏ vào rút thăm, rút được cái nào, chúng ta làm cái ấy.
Mọi người đều nói: “Hay lắm”. Liền sai lấy bút giấy ra.
Gần đây Hương Lăng học làm thơ, ngày nào cũng tập viết, trông thấy bút giấy không nhịn được, vội đứng dậy nói:
- Để tôi viết cho.
Mọi người nghĩ một lúc, được tất cả mười tửu lệnh, đọc ra cho Hương Lăng viết, rồi vo viên bỏ vào trong cái lọ. Thám Xuân bảo Bình Nhi gắp. Bình nhi xóc đều lên, lấy đũa gắp một cái, mở ra xem, thấy viết hai chữ “xạ phúc”.(3)
Báo Thoa cười nói:
- Lại vớ cái lệnh từ đời ông tổ ông tinh nào rồi. “Xạ phúc” có từ lâu nhưng đã thất truyền, sau này người ta mới bịa ra, khó hơn tất cả các tửu lệnh khác. Ở đây có tới nửa số người không hiểu, chi bằng bỏ đi, gắp cái khác để cho người nhã, người tục đều thưởng thức cả.
Thám Xuân cười, nói:
- Đã gắp được, sao lại bỏ đi? Bây giờ gắp thêm cái khác, nếu gắp đúng cái lệnh người nhã người tục đều thưởng thức được, sẽ để cho họ dùng cái lệnh ấy, còn chúng ta cứ theo cái lệnh này.
Nói xong, lại bảo Tập Nhân gắp một cái, là chữ “mẫu chiến”(4). Tương Vân cười nói:
- Cái này giản dị vui nhộn, hợp với tính tôi. Tôi không phơi cái “xạ phúc”, khỏi phải buồn tẻ, tôi chỉ đánh toan thôi.
Thám Xuân nói:
- Cô này phá rối tửu lệnh. Chị Bảo phạt cô ấy một chén.
Bảo Thoa không cho Tương Vân phân trần, dốc luôn cho một chén rượu.
Thám Xuân nói:
- Tôi là người cầm lệnh, uống trước một chén. Không cần nói gì cả, ai nấy đều phải nghe tôi cắt đặt. Đem hộp súc sắc đến đây, cô Cầm gieo trước, rồi theo thứ tự, nếu hai người gieo đúng điểm nhau, thì một người đố, một người đoán.
Bảo Cầm gieo được mặt “tam”. Tụ Yên, Bảo Ngọc gieo không đúng, đến Hương Lăng mới gieo được mặt “tam”, Bảo Cầm cười nói:
- Chỉ nói những chuyện vui ở trong nhà thôi, nếu nói các việc ở ngoài thì xa xôi quá không biết đâu mà lần.
Thám Xuân nói:
- Đúng đấy. Đoán ba lần không đúng phải phạt một chén. Bây giờ chị đố để chị ấy đoán.
Bảo Cầm nghĩ một lúc, nói chữ “lão”. Hương Lăng vốn không quen chơi cái lệnh này, nghĩ một lúc không ra, trông suốt cả nhà, cả bàn tiệc, cũng không tìm được câu thành ngữ nào hợp với chữ “lão” cả. Tương Vân nghe vậy cũng nhìn quanh nhìn quẩn, chợt trông thấy trên cửa có dán ba chữ “Hồng Hương phố” biết ngay là Bảo Cầm đố chữ “phố” trong câu “ngộ bất như lão phố”(5). Thấy Hương Lăng đoán không đúng, mọi người lại đánh trống giục. Tương Vân khẽ kéo Hương Lăng, bảo nói chữ “được”. Đại Ngọc trông thấy nói:
- Phạt nó đi. Nó lại gà rồi đấy.
Mọi người đều biết, làm ầm lên và phạt Tường Vân một chén. Tương Vân tức quá, lấy đũa đánh vào tay Đại Ngọc. Hương Lăng cũng phải phạt một chén. Rồi đến Bảo Thoa và Thám Xuân gieo đúng điểm nhau. Thám Xuân đố chữ “nhân”.
Bảo Thoa cười nói:
- Chữ “nhân” thì rộng quá.
Thám Xuân cười, nói:
- Thêm một chữ nữa, đố hai chữ mà đoán cũng không rộng đâu.
Nói xong lại đọc một chữ “song” nữa. Bảo Thoa vừa nghĩ, thấy trên bàn tiệc có thịt gà, chắc cô ta dùng hai điển: “kê song”(6) và “kê nhân”(7) liền đoán ngay là chữ “thời”. Thám Xuân biết Bảo Thoa đoán đúng, theo điển “kê thê vu thời”(8). Hai người cười rồi uống một chén rượu.
Tương Vân không chờ được, đã đánh toan với Bảo Ngọc, hét “tam” hét “ngũ” ầm lên. Bàn bên kia, Vưu thị với Uyên Ương cũng đánh toan, hét “thất” hét “bát” ầm lên. Bình Nhi với Tập Nhân cũng đánh toan, toàn nghe vòng xuyến trên tay rung động lẻng kẻng. Một lúc, Tương Vân được Bảo Ngọc; Tập Nhân được Bình Nhi; hai người hẹn trước những câu tửu lệnh.
Tương Vân nói:
- Vào đầu phải đọc một câu cổ văn, một câu thơ cũ, một câu tên bài, một câu tên khúc hát, lại phải một câu nói ở trong quyển lịch. Tất cả phải liền nghĩa với nhau. Đến cuối phải có một câu tên một thứ quả hoặc một thức ăn, có ý liên quan với việc người.
Mọi người nói:
- Chỉ có tửu lệnh của cô ấy là rắc rối hơn cả, nhưng cũng có ý nghĩa đấy.
Liền giục Bảo Ngọc nói. Bảo Ngọc cười.
- Ai đã học qua cái ấy? Phải để nghĩ một lúc đã.
Đại Ngọc liền nói:
- Thôi anh hãy uống thêm một chén rượu đi, em nói hộ cho.
Bảo Ngọc quả uống rượu thật. Rồi nghe Đại Ngọc đọc:
Chim vụ cùng bay với dáng chiều,
Qua sông, gió lộng, nhạn buồn kêu.
Thế là nhạn đã què đôi cẳng.
Khiến người chín khúc ruột hắt hiu(9)
Đó là chim Hồng nhạn bay đến.
Mọi người nghe vậy cười nói: “Đọc ra một tràng như vậy cũng có ý nghĩa đấy!” Đại Ngọc lấy tay cặp quả giẻ đọc câu cuối:
Hạt giẻ phải chăng là đá giặt;
Tiếng đâu đập áo khắp muôn nhà.
Xong lệnh, Uyên Ương, Tập Nhân mỗi người đều nói một câu tục ngữ, có kèm theo một chữ “thọ” không cần phải kể rõ.
Mọi người lại lần lượt đố nhau lung tung. Ở trên thì Tương Vân đối lại với Bảo Cầm. Lý Hoàn và Tụ Yên gieo đúng điểm nhau. Lý Hoàn đố chữ “biều” (bầu). Tụ Yên đoán chữ “lục” (xanh). Hai người hiểu ý nhau, cùng uống một chén. Tương Vân đố thua, liền hỏi đến câu đầu và câu cuối lệnh. Bảo Cầm cười nói:
- Mời cô vào cái vò này.(10)
Mọi người cười nói:
- Dùng cái điển này rất thích đáng.
Tương Vân liền đọc:
- Vùn vụt mông mênh, trên sông sóng cuộn ngập trời xanh; phải dùng dây sắt, gò lại chiếc thuyền lênh đênh; gặp khi sóng gió, không nên xuất hành.
Mọi người nghe vậy đều cười nói: “Thực khéo nói đùa làm người ta cười đứt ruột. Thảo nào cô ấy ra cái lệnh này”. Họ lại giục: “Đọc mau câu cuối đi”. Tương Vân uống rượu, gắp một miếng thịt vịt, nhấp một hớp rượu, chợt thấy trong bát có nửa cái đầu vịt liền moi lấy óc ra ăn. Mọi người lại giục: “Đừng có mải ăn nữa, hãy đọc ngay đi”.
Tương Vân cầm đũa lên nói:
- Đầu vịt không phải là “a đầu”(11)
Trên đầu làm gì có dầu quế?
Mọi người đều cười. Tình Văn, Tiểu Loa chạy đến nói:
- Cô Vân thật khéo đùa, đem chúng tôi ra làm trò cười, phải phạt một chén mới được. Tại sao cô lại biết chúng tôi phải bôi dầu hoa quế? Phải cho chúng tôi mỗi người một lọ dầu hoa quế để bôi!
Đại Ngọc cười nói:
- Cô ấy cũng muốn cho các cô một lọ dầu đấy, nhưng lại sợ can tội ăn trộm phải ra cửa quan.
Mọi người không để ý đến. Chỉ có Bảo Ngọc hiểu rõ, cúi đầu không nói gì. Thái Vân có tật giật mình, đỏ bừng mặt lên, Bảo Thoa khẽ đưa mắt cho Đại Ngọc. Đại Ngọc đã nói lỡ lời và định trêu Bảo Ngọc thôi, không ngờ lại đụng chạm đến Thái Vân, ăn năn không kịp, vội quay ra làm lệnh đánh toan dể xí xóa câu chuyện.
Cuối cùng Bảo Ngọc lại gieo đúng điểm với Bảo Thoa, Bảo Thoa đố chữ “bảo”. Bảo Ngọc nghĩ một lúc, biết là Bảo Thoa nói đùa, liền trỏ viên ngọc “thông linh” của mình cười nói:
- Chị mang tôi ra đùa một cách nhã, tôi đã đoán được rồi. Nói ra thì chị đừng giận, tôi đoán là chữ “thoa” tức là tên của chị.
Mọi người nói:
- Thế thì cắt nghĩa ra sao?
Bảo Ngọc nói:
- Chị ấy đố chữ “bảo” tất nhiên ở dưới chữ “bảo” phải là chữ “ngọc”. Tôi đoán chữ “thoa”, vì thơ cũ có câu: “Thoa ngọc gõ xong tàn đuốc lạnh”, đoán như thế chẳng đúng à?
Tương Vân nói:
- Không thể dùng việc người thời bây giờ được. Cả hai người đều đáng phạt.
Hương Lăng nói:
- Không chỉ là việc thời bây giờ, mà trước kia cũng đã có nói rồi.
Tương Vân nói:
- Hai chứ “bảo ngọc” không thấy ở đâu cả, có chăng chỉ trong những câu đối mừng xuân, chứ Kinh Thi, Kinh Thư đều không chép đến, không thể nói thế được.
Hương Lăng nói:
- Ngày trước tôi đọc thơ ngũ ngôn của Sầm Gia Châu có một câu: “Nơi này nhiều bảo ngọc”. Thế mà cô quên à? Sau đọc thơ thất ngôn tuyệt cú của Lý Nghĩa Sơn lại có một câu: “Thoa báu ngày nào không bám bụi?” Tôi thường cười nói: thì ra tên hai người ấy đều có ở trong thơ Đường cả.
Mọi người cười, nói:
- Thế là không hỏi vào đâu được nữa rồi, cô phải phạt một chén!
Tương Vân không trả lời, đành phải uống rượu phạt. Mọi người lại gieo điểm đánh toan.
Nhân Giả mẫu và Vương phu nhân đi vắng, không có ai cai quản, nên họ cứ chơi đùa bừa bãi, hò hét ầm ĩ, đầy nhà đỏ xanh tha thướt, châu ngọc rung rinh, rất là vui nhộn. Chơi đùa một lúc rồi mọi người tan tiệc ra về, riêng Tương Vân không thấy đâu cả. Ai nấy cứ tưởng cô ta đi ra ngoài rồi trở vào ngay, không ngờ càng chờ càng mất hút, liền sai người đi tìm khắp nơi, nhưng nào có thấy.
Khi ấy vợ Lâm Chi Hiếu dẫn mấy bà già đến, một là xem có việc gì sai khiến; hai là sợ bọn a hoàn còn trẻ tuổi, nhân lúc Vương phu nhân đi vắng, không chịu nghe lời Thám Xuân, uống rượu bừa bãi, làm mất thể thống.
Thám Xuân biết ý, cười nói:
- Các bà không đành tâm, đến đây dò xét. Chúng tôi không hề uống rượu nhiều đâu, chẳng qua chị em chơi đùa với nhau, mượn chén làm vui đấy thôi. Các bà đừng lo.
Lý Hoàn, Vưu thị đều cười nói:
- Các bà về nghỉ thôi. Chúng tôi không để cho họ uống nhiều rượu đâu.
Vợ Lâm Chi Hiếu cười nói:
- Chúng tôi biết rồi. Ngay những khi cụ cho uống rượu, các cô còn chẳng chịu uống. Bây giờ các bà không có nhà tất nhiên các cô chỉ chơi đùa đấy thôi. Chúng tôi sợ có việc gì sai bảo nên đến chực sẵn. Vả lại mùa này ngày dài, các cô chơi một lúc rồi cũng nên ăn một chút gì. Ngày thường các cô không ăn được nhiều, bây giờ uống mấy chén rượu, nếu không ăn sợ sinh bệnh ra.
Thám Xuân cười nói:
- Bà nói đúng đấy, chúng tôi phải ăn chứ!
Rồi quay lại bảo mang đồ điểm tâm lên. Thám Xuân lại cười nói:
- Các bà đi nghỉ hay sang bên kia chuyện trò với dì Tiết cho vui. Tôi sẽ sai người mang ngay rượu sang để các bà uống.
Vợ Lâm Chi Hiếu cười nói:
- Chúng tôi không dám nhận.
Họ đứng một lúc rồi mới về.
Bình Nhi sờ lên mặt cười nói:
- Mặt tôi nóng rồi, không tiện tiếp họ. Cứ ý tôi, nên xếp dọn đi thôi, đừng để họ quay trở lại thì chẳng ra sao cả.
Thám Xuân cười nói:
- Không việc gì, dù sao chúng ta không uống nhiều rượu là được rồi.
Chợt một đứa hầu bé cười hì hì, đến nói:
- Các cô ra mau mà xem cô Vân say rượu, ra hóng mát, ngủ ngay ở trên hòn đá sau núi kia kìa.
Mọi người nghe nói đều cười:
- Đừng làm ồn lên!
Họ chạy ra xem, thấy Tương Vân đầu gối vào cái khăn lụa bọc chùm hoa thược dược, đang ngủ say trên hòn đá ở hẻm núi. Hoa thược dược bay đầy lên người, mặt mũi và quần áo sực những mùi thơm. Quạt trong tay rơi xuống đất cũng bị hoa phủ lấp mất một nửa. Một đàn ong bướm xôn xao bay lượn chung quanh. Mọi người trông thấy, vừa cười vừa yêu, vội đánh thức và nâng cô ta dậy. Tương Vân vẫn ngủ say, mơ nói lệnh rượu, miệng còn lảm nhảm: “Suối thêm say rượu... phải đưa về… nên gặp bạn bè”.
Mọi người đẩy cô ta dậy, cười nói:
- Mau tỉnh dậy, đi ăn cơm, ngủ ở đá ướt này thì ốm mất!
Tương Vân lim dim con mắt, nhìn mọi người, lại cúi đầu nhìn mình, mới biết là say. Nguyên Tương Vân định ra chỗ vắng hóng mát, không ngờ bị phạt mấy chén rượu, sức yếu không chịu nổi, liền ngủ đi mất, trong bụng có ý hối hận. Ngay lúc đó có một đứa hầu nhỏ bưng chậu nước rửa mặt, và hai đứa mang gương lược phấn sáp đến. Mọi người đứng chờ. Tương Vân ngồi trên hòn đá đánh phấn chải đầu, rồi đứng dậy cùng về Hồng Hương phố. Lại uống mấy chén nước trà đặc. Thám Xuân vội sai lấy viên đá tỉnh rượu cho cô ta ngậm. Một lúc lại cho ăn canh chua, mới thấy tỉnh dần. Bấy giờ lại chọn mấy thứ hoa quả mang sang biếu Phượng Thư, Phượng Thư cũng biếu lại mấy thứ. Bọn Bảo Thoa ăn điểm tâm xong, có người ngồi lại, có người đứng dậy, có người ra ngoài, có người tựa vào lan can xem cá, thích gì chơi nấy, cười nói ầm ĩ. Thám Xuân đánh cờ với Bảo Cầm, Bảo Thoa, Tụ Yên đứng xem. Đại Ngọc và Bảo Ngọc thì to nhỏ với nhau ở dưới rặng hoa, không biết là nói những gì.
Bỗng thấy vợ Lâm Chi Hiếu và một bọn con gái đưa một người đàn bà đến. Người này nét mặt buồn rầu, không dám lên trên nhà, chỉ đứng ở dưới thềm quỳ vái. Thám Xuân có một quân cờ bị nước bí, tính đi tính lại, nếu gỡ được hai quân thì mất một nước quan trọng, hai mắt chăm chú nhìn vào bàn cờ, một tay để vào trong hộp, sờ quân cờ suy nghĩ. Vợ Lâm Chi Hiếu đứng chờ mãi. Thám Xuân quay lại uống nước mới trông thấy, hỏi:
- Việc gì đấy?
Vợ Lâm Chi Hiếu trỏ người đàn bà ấy nói:
- Người này là mẹ Thái Nhi hầu ở bên nhà cô Tư, hiện đương hầu hạ trong vườn. Vừa rồi tôi nghe thấy nó nói nhiều câu bậy, những lời nó nói tôi không dám trình. Cô cứ nên đuổi nó đi mới phải.
Thám Xuân nói:
- Sao không đi trình mợ Cả.
- Mợ Cả sang bên dì Tiết. Tôi đã gặp và trình rồi, mợ bảo sang trình cô.
- Sao không đi trình mợ Hai?
Bình Nhi nói:
- Thôi không trình cũng được, tôi về nói là đủ. Đã thế thì hãy đuổi nó ra, chờ bà về sẽ trình. Xin cô định đoạt cho.
Thám Xuân gật đầu rồi lại cúi xuống đánh cờ. Vợ Lâm Chi Hiếu dẫn người đàn bà ấy đi ra.
Đại Ngọc và Bảo Ngọc đứng dưới rặng hoa, ngắm nhìn đằng xa, Đại Ngọc nói:
- Cô Ba nhà anh thật là khôn ngoan quá. Tuy bảo cô ta trông nom công việc, nhưng một chút cũng không dám làm quá tay, nếu là người khác đã làm mưa làm gió rồi.
Bảo Ngọc nói:
- Em không biết, khi em ốm, cô ấy đã làm được mấy việc. Vườn này đã chia cho mấy người trông nom. Bây giờ muốn nhổ một cái cỏ cũng không được. Cô ấy cũng đã bớt được mấy việc; lại đem anh và chị Phượng ra làm bung xung để cấm đoán người ta. Cô ấy là người biết tính toán, không những khôn ngoan mà thôi đâu!
- Phải như thế mới được. Nhà chúng ta tiêu phí nhiều quá. Tuy em không phải trông nom công việc, nhưng khi nào trong lòng thư thái, thường hay tính toán, thấy tiêu nhiều mà thu ít. Bây giờ nếu không tằn tiện thì sau này lấy đâu cho đủ.
- Dù sau này không đủ, hai chúng ta cũng không đến nỗi phải bị thiếu thốn.
Đại Ngọc nghe nói liền quay người đi lên nhà tìm Bảo Thoa nói chuyện.
Lúc Bảo Ngọc sắp đi, thấy Tập Nhân đến tay bưng cái khay sơn chạm lối liên hoàn, trong đặt hai chén trà mời, và hỏi:
- Cô ấy đi đâu rồi? Tôi thấy hai người đã lâu không uống nước, nên pha hai chén trà mang lại đây.
Bảo Ngọc nói:
- Không phải cô ấy ở kia à? Chị mang đến cho cô ấy.
Nói xong, Bảo Ngọc cầm lấy một chén nước. Tập Nhân mang chén nước kia đi, nhưng thấy Đại Ngọc cùng ngồi với Bảo Thoa, mà chỉ có một chén nước, liền nói:
- Cô nào khát thì xin uống trước, tôi lại đi pha nữa.
Bảo Thoa cười nói:
- Tôi không uống, chỉ cần một ngụm súc miệng thôi.
Nói xong cầm lấychén nước uống một ngụm, còn thừa nửa chén đưa cho Đại Ngọc.
Tập Nhân cười nói:
- Tôi lại đi pha thêm nữa nhé?
Đại Ngọc cười nói:
- Chị đã biết bệnh tôi rồi, thày thuốc không cho uống nhiều nước trà, nửa chén này là đủ. Cảm ơn chị nghĩ chu đáo quá!
Nói xong, uống hết và đặt chén xuống.
Tập Nhân lại sang lấy chén của Bảo Ngọc. Bảo Ngọc hỏi:
- Từ nãy đến giờ không thấy Phương Quan. Nó đi đâu rồi?
Tập Nhân nhìn chung quanh nói:
- Nó vừa mới ở đây. Mấy người đương đánh chọi gà chơi, giờ không thấy đâu cả.
Bảo Ngọc nghe nói, chạy về phòng, thấy Phương Quan đương ngủ ở trên giường, mặt ngoảnh vào trong. Bảo Ngọc đẩy nó nói:
- Đừng ngủ nữa, chúng ta ra ngoài chơi một lát rồi đi ăn cơm.
- Các người uống rượu, không nhìn gì đến tôi, nãy giờ tôi buồn quá, thà về ngủ cho xong.
Bảo Ngọc kéo Phương Quan dậy, cười bảo:
- Chiều nay chúng ta lại uống rượu ở nhà. Để rồi tôi bảo chị Tập Nhân dẫn cô lên ăn chung một bàn có được không?
- Ngẫu Quan, Nhụy Quan không ai được lên ăn, một mình tôi lên đấy không tiện. Tôi không ăn quen cái món mì ấy. Vả lại sớm dậy cũng không muốn ăn. Vừa rồi đói, tôi đã nói với thím Liễu làm cho tôi một bát canh với nửa bát cơm, tôi ăn ở đây là được rồi. Nếu chiều hôm nay uống rượu, đừng ai ngăn tôi, để tôi uống đủ sức mới được. Trước tôi ở nhà, uống được hai ba cân rượu Huệ Toàn đấy. Bây giờ học cái nghề khốn nạn này, họ bảo uống vào hỏng mất giọng, nên mấy năm nay không biết đến rượu là gì. Hôm nay tôi phải phá giới mới được.
- Việc ấy cũng dễ thôi.
Bỗng thím Liễu sai người mang một cái quả đến. Xuân Yến đỡ lấy, mở ra xem, trong có một bát canh da gà bọc tôm, một bát vịt tần rượu, một đĩa nem ngỗng ướp mặn, một đĩa bốn miếng bánh cuốn hạt thông trộn với sữa, một liễn cơm gạo tám nóng, thơm phức. Xuân Yến, để cả lên bàn, chạy đi đặt bát đũa rồi xới một bát cơm, Phương Quan nói:
- Mỡ ngấy lắm, ai ăn được những thứ này!
Rồi chỉ lấy canh chan cơm ăn một bát, gắp mấy miếng thịt ngỗng thôi. Bảo Ngọc ngửi thấy mùi ngon hơn thức ăn mọi ngày, liền ăn một miếng bánh cuốn, lại bảo Xuân Yến xới nửa bát cơm chan canh ăn rất ngon lành. Xuân Yến và Phương Quan đều cười.
Xuân Yến định đưa trả những thức ăn còn thừa lại, Bảo Ngọc nói:
- Cứ ăn đi, nếu không đủ thì bảo lấy thêm.
- Không cần lấy thêm nữa, thế này là đủ. Vừa rồi chị Xạ Nguyệt cho chúng tôi ăn hai đĩa điểm tâm, bây giờ tôi ăn những thứ này cũng đủ.
Nói xong Xuân Yến đứng ở cạnh bàn ăn. Rồi để lại hai cái bánh cuốn, nói:
- Cái này để phần mẹ tôi. Chiều nay có uống rượu, cho tôi uống vài chén nhé.
Bảo Ngọc cười nói:
- Cô cũng thích uống rượu à? Chiều nay chúng ta sẽ uống một bữa thật say. Chị Tập Nhân và chị Tình Văn cũng uống được khá đấy, nhưng ngày nào cũng uống thì không tiện. Nhân dịp hôm nay chúng ta phá giới một bữa. Lại còn việc này, tôi định bảo cô nhưng quên mất, giờ mới nhớ ra. Từ nay trở đi, cô phải trông nom Phương Quan, có điều gì sơ suất, cô nên nhắc nó. Chị Tập Nhãn không trông nom xuể đâu.
- Tôi biết rồi, cậu không phải bận tâm đến. Nhưng việc chị Năm thì thế nào?
- Chị bảo thím Liễu biết, ngày mai cho nó vào đây. Tôi dặn họ một câu là xong.
Phương Quan nghe rồi cười:
- Đúng! Việc ấy cần phải làm ngay đi.
Xuân Yến lại sai hai đứa hầu nhỏ đến hầu Bảo Ngọc rửa tay, uống nước, còn mình đi thu dọn bát đĩa giao cho bà già rồi cũng đi rửa tay, và sang tìm thím Liễu. Bảo Ngọc lại đi đến Hồng Hương phố tìm các chị em. Phương Quan cầm khăn và quạt theo sau. Vừa ra đến cửa, thấy Tập Nhân và Tình Văn dắt tay nhau đi vào, Bảo Ngọc hỏi:
- Các chị đến làm gì đấy?
Tập Nhân nói:
- Dọn cơm xong rồi, chờ cậu đến ăn đấy.
Bảo Ngọc cười, nói là vừa mới ăn cơm ở nhà xong, Tập Nhân cười:
- Cậu ăn như mèo ấy, chỉ đánh hơi là đã đủ no. Tuy vậy cũng nên tiếp họ một tý.
Tình Văn ấn tay vào trán Phương Quan, nói:
- Mày là con yêu tinh! Hở một tý là chạy đi rình ăn! Chẳng biết các người đã hẹn nhau bao giờ rồi? Sao không bảo chúng tao một tiếng?
Tập Nhân cười nói:
- Chẳng qua vừa gặp thì ăn đấy thôi, chứ có hẹn hò gì đâu.
- Đã thế ở đây cũng vô ích. Ngày mai chúng ta bước cả để một mình Phương Quan ở lại cũng đủ sai rồi.
- Chúng tôi đi được, chứ chị không thể đi được.
- Tôi là người đáng đi đầu tiên. Vừa lười biếng, vừa thô tục, lại xấu tính chẳng làm được việc gì.
- Nếu chị đi mà cái áo lông công cháy miếng nữa thì ai là người vá cho? Chị đừng lời qua tiếng lại với tôi nữa. Tôi nhờ làm gì, dù là mũi chỉ đường kìm, chị cũng cứ !ười. Nhưng đó có phải là việc riêng của tôi đâu, cũng là việc của cậu ấy cả đấy. Khi tôi đi vắng mấy hôm, chị ốm thập tử nhất sinh, tại sao lại cố sống cố chết thức suốt đêm vá áo cho cậu ấy? Thế là nghĩa làm sao? Chị nói đi nào! Sao lại cứ giả bộ ngây thơ mà cười với tôi? Nói đi xem sao?
Mọi người nói chuyện rồi đi vào nhà khách. Tiết phu nhân cũng đến, theo thứ tự ngồi ăn cơm. Bảo Ngọc chỉ lấy nước trà chan cơm ăn nửa bát cho qua chuyện.
Ăn xong, mọi người uống nước nói chuyện, rồi ai thích gì chơi nấy. Ở bên ngoài, bọn Tiểu Loa, Hương Lăng, Phương Quan, Ngụy Quan, Ngẫu Quan, Đậu Quan ra vườn chơi. Mọi người hái ít hoa cỏ ngồi xúm lại ở bãi cỏ đánh chọi gà chơi. Người này nói: “Tôi có cây liễu Quan Âm”; người kia nói: “Tôi có cây thông La Hán”. Người này nói: “Tôi có cây trúc Quân Tử”; người kia nói: “Tôi có cây chuối Mỹ Nhân”. Người này nói: “Tôi có cỏ tinh tinh”(12); người kia nói: “Tôi có hoa nguyệt nguyệt”(13). Người này nói: “Tôi có hoa mẫu đơn trong vở Mẫu Đơn đình”; người kia nói: “Tôi có quả tỳ bà trong bản Tỳ bà ký”.
Đậu Quan nói:
- Tôi có cành hoa “tỉ muội”.
Nghe vậy không ai đáp lại, Hương Lăng liền nói:
- Tôi có cánh huệ “phu thê”.
Đậu Quan nói:
- Xưa nay chẳng thấy ai nói cánh huệ “phu thê” cả.
Hương Lăng nói:
- Một cành có một bông hoa gọi là “lan”, một cành có mấy bông hoa gọi là “huệ”. Trên dưới đều có hoa thì gọi là cánh huệ “huynh đệ”; hoa nở ngang nhau thì gọi là cánh huệ “phu thê”. Chùm hoa này của tôi nở liền nhau, chẳng phải cánh “phu thê” là gì?
Đậu Quan không cãi lại được, đứng dậy cười nói:
- Cứ như chị nói thì một bông hoa lớn, một bông hoa bé là cánh huệ “bố con”; bông hoa quay lưng lại nhau thì gọi là cánh huệ “kẻ thù” à? Chồng chị đi vắng hơn nửa năm nay, chị nhớ anh chàng, nên nhìn chùm hoa, cũng bảo là hoa vợ chồng, không biết xấu hổ!
Hương Lăng nghe nói, đỏ mặt lên, đứng dậy định bẹo Đậu Quan, cười mắng:
- Con ranh thối miệng này! Chỉ nói những chuyện khó ngửi!
Đậu Quan thấy vậy khi nào chịu tha, liền kéo Hương Lăng xuống, quay lại cười bảo bọn Nhụy Quan:
- Lại đây giùm tôi bẹo vào mồm nó!
Hai người vật nhau ở dưới đất. Mọi người vỗ tay cười nói:
- Hỏng rồi! Vũng nước kia kìa, khéo làm bẩn cả quần mới của chị ấy!
Đậu Quan quay lại nhìn, thấy bên cạnh có một vũng nước mưa, Hương Lăng bị bẩn quần đâm ngượng, vội giật tay bỏ chạy. Mọi người cười ầm lên, nhưng sợ Hương Lăng giận lây nên cũng bỏ đi cả.
Hương Lãng đứng dậy, cúi đầu nhìn, thấy quần áo mình hãy còn nước bẩn đương nhỏ từng giọt, liền mắng luôn miệng. Vừa lúc ấy Bảo Ngọc trông thấy họ chọi cỏ gà, cũng đi ngắt cỏ đến chơi. Thấy mọi người bỏ chạy, chỉ còn trơ lại một mình Hương Lăng đương cúi đầu nhìn xuống quần, liền hỏi:
- Tại sao họ chạy cả thế?
- Tôi có một chùm hoa “phu thê”, họ không biết lại bảo tôi nói bậy, đâm ra cãi nhau. Họ lại làm bẩn cả quần mới của tôi.
- Chị có chùm hoa “phu thê” thì đây tôi lại có hoa ấu “tịnh đế”.
Miệng nói, tay Bảo Ngọc cầm một cành hoa ấu “tịnh đế” chập cả chùm hoa “phu thê” vào làm một.
Hương Lăng nói:
- “Phu thê” với không phu thê, “tịnh đế” với chẳng tịnh đế! Cậu hãy nhìn cái quần tôi đây này!
Bảo Ngọc cúi đầu nhìn, “úi chà” một tiếng nói:
- Tại sao chị lại bị kéo xuống bùn thế này? Đáng tiếc! Lụa đỏ thạch lựu này dễ bẩn lắm!
- Đây là của cô Cầm mang đến cho hôm nọ, cô Bảo may một cái, tôi may một cái, hôm nay mới đem ra mặc đấy.
Bảo Ngọc giậm chân thở dài:
- Nhà các chị, một ngày làm hỏng một cái quần cũng chẳng thấm vào đâu. Nhưng một là cô Cầm mang đến cho, chị và chị Bảo, mỗi người may một cái. Quần của chị Bảo còn tốt, mà quần của chị đã hỏng rồi, như thế chẳng phụ lòng tốt của cô Cầm hay sao? Hai là, dì bên ấy cũng lắm nhời, tôi thường nghe thấy dì ấy bảo các chị hoang phí, chỉ phá hại, không biết tiếc của. Bây giờ để dì ấy trông thấy, lại làm rầm lên đấy!
Hương Lăng nghe vậy chạm trúng lòng mình, vui lên cười nói:
- Chính thế đấy. Tuy tôi có mấy cái quần mới, nhưng đều không giống màu này. Có cái nào giống, đổi được thì hay, sau này sẽ liệu.
Bảo Ngọc nói:
- Chị cứ đứng đây, đừng đi vội. Nếu không thì cả áo lót, quần đùi và giày cũng đính bùn đấy. Tập Nhân có may một cái quần giống hệt như thế. Nhưng vì chị ấy có tang, chưa mặc đến. Tôi sẽ lấy cho chị đổi, có được không.
Hương Lăng cười, lắc đầu nói:
- Không được. Nếu họ biết thì còn ra làm sao?
Bảo Ngọc nói:
- Sợ cái gì? Chờ khi hết tang, chị ấy thích thứ gì, ta sẽ trả cho chị ấy, chẳng lẽ lại không được à? Chị mà nghĩ thế thì còn gì là tình thân mật với nhau hàng ngày? Vả chăng cũng không phải là việc che giấu người ta, chị cứ nói với chị Bảo là được. Chỉ sợ dì tôi biết lại gắt thôi.
Hương Lăng nghĩ một lúc cho là phải, gật đầu cười nói:
- Thế cũng được, không dám phụ lòng cậu. Tôi chờ ở đây. Xin cậu bảo chị ấy thân hành mang đến cho tôi mới được!
Bảo Ngọc nghe nói rất mừng, nhận lời về nhà ngay. Rồi cúi đầu ngẫm nghĩ: “Đáng tiếc con người như thế không có bố mẹ, quên cả họ hàng, bị người ta dỗ đi, lại đem bán cho hạng vũ phu ấy!” Rồi lại nghĩ: “Dạo trước ta gặp Bình Nhi là việc không ngờ, bây giờ cũng lại là việc không ngờ ngoài cái không ngờ nữa!” Nghĩ quanh nghĩ quẩn, Bảo Ngọc về đến phòng, kéo tay Tập Nhân, khẽ bảo cho biết việc ấy.
Hương Lăng vốn được mọi người thương yêu, Tập Nhân lại có tính hào phóng, vẫn chơi thân với chị ta. Được tin, mở ngay hòm, lấy cái quần ra, gấp cẩn thận, theo Bảo Ngọc đi tìm Hương Lăng. Thấy chị ta đứng yên ở đấy. Tập Nhân cười nói:
- Chị hay quấy lắm, quấy đến nỗi xảy ra chuyện mới chịu thôi.
Hương Lăng đỏ mặt cười nói:
- Cám ơn chị lắm, không ngờ bọn quỷ sứ ấy nó làm ác.
Nói xong cầm lấy cái quần, giở ra xem, quả nhiên giống hệt cái quần của mình, liền bảo Bảo Ngọc quay mặt đi chỗ khác rồi ngoảnh vào phía trong cởi quần bẩn ra, mặc quần mới vào.
Tập Nhân nói:
- Đưa cái quần bẩn ấy cho tôi giặt hộ rồi sẽ đưa sang cho. Chị mang về, người ta trông thấy, lại hỏi căn vặn đấy.
- Chị ơi, chị cứ mang về, không cần phải trả lại em. Em đã có cái này, không cần cái ấy nữa.
- Bụng chị rộng rãi quá.
Hương Lăng lạy tạ Tập Nhân hai lạy. Tập Nhân mang cái quần kia về.
Hương Lăng thấy Bảo Ngọc ngồi xổm dưới đất, lấy cành cây đào một cái hố, rắc hoa rụng vào đấy, rồi chôn chùm hoa “phu thê” và cành hoa “tịnh đế” xuống, lại phủ hoa rụng lên trên, lấp đất lại. Liền kéo tay Bảo Ngọc cười nói:
- Cậu lại làm cái trò gì đấy? Không trách ai cũng bảo cậu hay chơi ma chơi mãnh, làm cho người ta ghê cả người. Xem kìa! Tay cậu dính đầy bùn và rêu, không rửa ngay đi à?
Bảo Ngọc cười, đứng dậy đi rửa tay, Hương Lăng cũng quay về.
Hai người đi được mấy bước, Hương Lăng gọi giật lại. Bảo Ngọc không biết có chuyện gì, xoa hai tay dính bùn, cười hì hì quay lại hỏi: “Việc gì thế?”
Hương Lăng đỏ mặt chỉ cười, mồm muốn nói, nhưng không ra lời. Lúc đó Trăn Nhi là đứa hầu ở bên kia chạy lại nói:
- Cô Hai chờ chị đấy!
Hương Lăng lại đỏ mặt lên, rồi nói với Bảo Ngọc:
- Việc cái quần, cậu đừng nói cho anh cậu biết nhé!
Nói xong quay đi. Bảo Ngọc cười nói:
- Tôi điên đâu? Lại thò đầu vào miệng hổ!
------------------------------
(1). Câu này có bản chép là lão thái thái (tức Giả mẫu), có bản chép là đại thái thái (tức Hình phu nhân) và tiếp ngay câu sau nói: “Hai mẹ con khéo gặp nhau thế”. Nhưng ở Hồi hai mươi hai có nói đến sinh nhật Bảo Thoa vào ngày 21, ngoài ra không có sinh nhật ai nữa. Chúng tôi dịch theo chữ đại thái thái (bà Cả) và dưới đổi là “hai người khéo gặp nhau” để đợi trả lời sau.
(2). Theo tục lệ phong kiến Trung Quốc đời xưa, ngày sinh nhật chủ nhà, thì tôi tớ phải lạy mừng; ngày sinh nhật của tôi tớ, cũng phải lạy chủ nhà.
(3).Một trò chơi rượu, đại khái: người này dùng chữ đố, người kia dùng chữ giảng.
(4). Đánh toan.
(5). Ta không bằng lòng lão làm vườn - chữ trong sách luận ngữ.
(6). Ngôi nhà yên lặng để đọc sách.
(7). Chức quan giữ trống canh buổi sáng.
(8). Gà đậu trên giậu - chữ trong Kinh Thi.
(9). Bài này mỗi câu có một điển tích, đúng như lời Tương Vân giao hẹn.
(10). Võ Hậu đời nhà Đường, có Chu Hưng và Lai Tuấn Thần tra xét tội phạm rất là tàn ác. Sau có người nói: Chu Hưng làm phản. Võ Hậu sai tra hỏi. Lai Tuấn Thần mời Chu Hưng đến hỏi: “Tôi tra xét tù phạm nhiều đứa không chịu thú thì nên làm thế nào?” Chu Hưng nói: “Việc ấy rất dễ, chỉ lấy một cái vò lớn, đốt than nóng xung quanh, rồi bắt nó vào, thì việc gì nó chẳng thú nhận”. Lai Tuấn Thần liền sai người lấy cái vò lớn, đốt than đỏ lên, rồi nói với Chu Hưng: “Xin mời bác vào trong vò, vì có người cáo giác bác”. Chu Hưng cúi đầu xin nhận tội.
(11). “Đầu vịt” tiếng Trung Quốc cũng đọc là a đầu, và a đầu có nghĩa là đứa ở.
(12). Cỏ tinh tinh cứ đến mùa hạ mùa thu nở hoa nhỏ như sao.
(13). Hoa nguyệt nguyệt là một loại hoa hồng, cứ đến cuối tháng sáu thì nở.
Hồi thứ sáu mươi ba
Viện Di Hồng chị em mở tiệc;
Nuốt kim đan, Giả Kính chết oan.
Bảo Ngọc về phòng rửa tay, rồi bàn với Tập Nhân:
- Tối nay uống rượu, chúng ta chỉ cần góp vui, chứ không nên câu nệ. Bây giờ muốn ăn món gì, chị bảo họ sắp sẵn đi.
- Cậu cứ yên tâm, tôi cùng Tình Văn, Xạ Nguyệt, Thu Văn, mỗi người góp năm đồng, cộng là hai lạng. Phương Quan, Bích Ngân, Xuân Yến, con Tư mỗi người góp ba đồng; những người nghỉ phép thì thôi không kể. Tất cả là ba lạng hai đồng cân. Tôi đã giao cho thím Liễu sắp sẵn bốn mươi đĩa các thứ quả. Tôi lại bảo chị Bình lấy một vò rượu Thiệu Hưng để ở bên kia rồi. Đó là riêng tám người chúng tôi làm sinh nhật mừng cậu.
Bảo Ngọc vui mừng nói:
- Họ lấy đâu ra tiền? Không nên bảo họ góp mới phải.
Tình Văn nói:
- Họ không có tiền, thì chúng tôi có tiền à? Đó là bụng tốt của mọi người, dù là tiền ăn cắp đâu ra cũng nên nhận cho họ mới phải.
Bảo Ngọc cười nói:
- Chị nói phải đấy.
Tập Nhân cười nói:
- Ngày nào không được người ta nói nặng mấy câu thì cậu không chịu yên.
Tình Văn cười nói:
- Chị cũng học được thói xấu rồi đấy, cứ hay giở cái lối đâm bị thóc chọc bị gạo!
Nói xong mọi người đều cười.
Bảo Ngọc nói:
- Đóng cửa đi thôi.
Tập Nhân cười nói:
- Không trách người ta bảo cậu “không có việc lại hay bận”. Đóng cửa từ giờ, người ta lại ngờ đấy. Hãy chịu khó chờ một tý nữa.
Bảo Ngọc gật đầu nói:
- Tôi đi dạo chơi một lúc. Con Tư đi múc nước vắng, Xuân Yến sẽ theo tôi.
Bảo Ngọc ra ngoài thấy không có ai, liền hỏi đến việc con Năm, Xuân Yến nói:
- Tôi đã bảo thím Liễu rồi, thím ấy mừng lắm, nhưng đêm nọ con Nam bị oan, bực quá đâm ốm, chưa đến được. Chờ khi nào khỏi sẽ hay.
Bảo Ngọc nghe nói, đâm ra hối hận thở dài, lại hỏi:
- Việc này chị Tập Nhân có biết không?
- Tôi không nói với chị ấy, chẳng biết chị Phương Quan có nói hay không?
- Tôi cũng chưa nói gì với chị ấy cả.
- Thôi, để tôi bảo chị ấy là xong.
Nói xong, Xuân Yến chạy về giả cách rửa tay.
Đến lúc lên đèn, nghe ngoài sân có một toán người. Nhìn qua cửa sổ, thấy vợ Lâm Chi Hiếu dẫn lũ đàn bà coi việc đi đến. Một người đi trước cầm đèn lồng. Tình Văn khẽ cười nói:
- Họ đi tuần tra những người canh đêm đấy. Chờ họ ra là chúng ta đóng cửa thôi.
Những người canh đêm ở Viện Di Hồng đều ra đón cả.
Vợ Lâm Chi Hiếu xem xét cẩn thận rồi dặn:
- Không được bạc bài, chè rượu rồi ngả ra hè ngủ đến trời sáng bảnh mới dậy. Tôi biết sẽ không tha đâu.
- Chúng tôi đâu dám cả gan như thế.
- Cậu Bảo đã đi ngủ chưa?
- Chúng tôi không biết.
Tập Nhân vội đẩy Bảo Ngọc. Bảo Ngọc đi giày ra cửa đón, cười nói:
- Tôi chưa đi ngủ. Bà hãy vào chơi.
Lại gọi Tập Nhân đi pha nước. Vợ Lâm Chi Hiếu đi vào cười nói:
- Cậu chưa đi ngủ à? Dạo này ngày dài đêm ngắn, cậu nên đi ngủ ngay để ngày mai dậy sớm; nếu dậy trưa người ta sẽ cười cho. Họ bảo không phải cậu ấm đi học, mà là hạng người đi gánh thuê.
- Bà nói phải đấy. Hôm nào tôi cũng đi ngủ sớm. Mọi khi bà đến, tôi đã đi ngủ rồi, nên không biết gì cả. Hôm nay vì ăn miến, sợ không tiêu, nên phải thức chơi một lúc.
Vợ Lâm Chi Hiếu quay lại nói với bọn Tập Nhân:
- Nên pha trà Phổ Nhị cho cậu ấy uống.
- Đã pha một ấm trà Nữ Nhi cho cậu ấy uống hai chén rồi. Có sẵn đây, mời bà xơi một chén.
Nói xong, Tình Văn pha trà mang đến. Vợ Lâm Chi Hiếu đứng dậy cầm lấy, cười nói:
- Gần đây tôi xem ra cậu Hai đã đổi cả cách xưng hô, trước mặt các cô, lại gọi tên người ta ra thế. Tuy ở trong nhà, nhưng đều là người của cụ và bà Hai. Cậu cũng nên ăn nói dè chừng mới phải. Một đôi khi lỡ miệng nói lầm thì được chứ quen mồm gọi tràn, sợ sau này anh em con cháu bắt chước, người ta sẽ cười cho. Họ lại bảo con cháu nhà này không coi bậc tôn trưởng ra gì cả.
Bảo Ngọc cười:
- Bà nói phải đấy. Chẳng qua tôi gọi nhầm một đôi khi đấy thôi.
Tập Nhân, Tình văn đều cười nói:
- Không nên trách oan cậu ấy. Từ trước đến giờ, cậu ấy vẫn luôn miệng gọi là chị, chẳng qua trong những lúc vui đùa với nhau, thỉnh thoảng cậu ấy mới gọi tên thôi. Nhưng có người lạ, cậu ấy vẫn gọi như trước.
Vợ Lâm Chi Hiếu cười nói:
- Thế mới là người đi học biết lễ phép chứ! Càng khiêm tốn bao nhiêu, người ta càng trọng mình bấy nhiêu. Không kể những người ở đã lâu đời, ngay những người của cụ và bà Hai sai sang hầu, hay cả từ con mèo con chó của người, cậu cũng không nên khinh rẻ. Thế mới là cách ăn ở của cậu ấm đã được ăn học chứ.
Bà ta uống nước, rồi nói:
- Thôi mời cậu đi ngủ, chúng tôi đi đây.
Bảo Ngọc nói:
- Bà hãy ngồi chơi đã.
Vợ Lâm Chi Hiếu đã dẫn mọi người đi tuần tra chỗ khác.
Bọn Tình Văn ra bảo đóng cửa, rồi đi vào cười nói:
- Cái bà này đã uống rượu ở đâu, ăn nói ba hoa, lại còn lên giọng dạy chúng mình một trận.
Xạ Nguyệt cười nói:
- Bà ta có phải tốt bụng gì đâu? Chẳng qua nhắc nhở để ngăn ngừa trước những chuyện lầm lỗi lớn đấy thôi.
Nói xong, đi dọn rượu.
Tập Nhân bảo:
- Không cần bày bàn cao. Chúng ta cứ đem cái bàn tròn kiểu hoa lê đặt lên trên giường, vừa rộng, lại vừa tiện.
Mọi người cùng khiêng bàn đến, Xạ Nguyệt và con Tư, dùng hai khay lớn, mang các thứ quả đến bốn, năm lần mới hết. Hai bà già ở bên ngoài hâm rượu.
Bảo Ngọc nói:
- Giời nực, chúng ta cởi áo ngoài ra mới được.
Mọi người cười nói:
- Cậu muốn cởi cứ cởi, chứ chúng tôi còn phải thay phiên nhau mời rượu kia.
Bảo Ngọc cười nói:
- Nếu mời rượu thì đến canh năm mới xong. Tôi rất ghét cái lối ấy. Đối với người lạ, bất đắc đĩ mới phải theo. Bây giờ làm phiền tôi như thế thì mất thú.
Mọi người đều nói:
- Thôi cũng nghe cậu.
Ai nấy chưa vào ngồi hãy đi cởi áo ngoài và tháo bỏ đồ trang sức, đầu búi tóc trần, mình mặc áo lót. Bảo Ngọc chỉ mặc một cái áo cánh lụa đỏ, quần lót lụa xanh, ống quần buông xỏa, thắt một cái dây lưng, dựa vào cái gối lụa thêu hoa hồng và hoa thước dược, rồi cùng đánh toan với Phương Quan. Phương Quan cứ kêu nóng, chỉ mặc cái áo lót kẻ ô bằng đoạn ba màu, thắt một cái dây lưng màu lá liễu, dưới mặc cái quần lót màu thủy hồng cải hoa, cũng buông tỏa ống; trước trán tết một búi tóc nhỏ lên tận đỉnh đầu, lại tết một cái đuôi sam vắt ra đằng sau gáy; tai bên phải giắt một viên ngọc to bằng hạt gạo, tai bên trái đeo một cái khuyên vàng đỏ chói to bằng quả mận; rõ ràng mặt trắng như trăng hôm rằm, mắt trong hơn nước mùa thu. Mọi người thấy vậy cười nói:
- Hai người này trông như là anh em sinh đôi vậy.
Tập Nhân đến rót rượu nói:
- Lát nữa hãy đánh toan. Tuy không mời rượu, nhưng chúng ta mỗi người phải tự uống một chén đã.
Tập Nhân cầm chén uống trước, theo thứ tự, ai cũng uống hết, rồi đều ngồi quây cả xuống. Xuân Yến và con Tư vì không ngồi được cạnh giường, liền ngồi vào hai cái đòn lót đệm gấm ở gần đó. Bốn mươi đĩa sứ Định Châu màu trắng, to bằng đĩa trà, đều đựng những thứ quả khô và tươi cùng sơn hào hải vị, hoặc ở trong nước, hoặc ở nước ngoài.
Bảo Ngọc nói:
- Chúng ta nên làm tửu lệnh cho vui.
Tập Nhân nói:
- Nhưng phải nhã một tý mới được, đừng hét ầm lên để người ta nghe thấy, vả chăng chúng tôi không biết chữ, cũng không nên nói văn chương nhiều quá.
Xạ Nguyệt cười nói:
- Thôi lấy hột xúc xắc ta gieo chơi.
Bảo Ngọc nói:
- Chẳng có thú gì, không thích. Chúng ta chơi cách rút tên hoa thì hơn.
Tình Văn cười nói:
- Phải đấy. Tôi đã nghĩ đến cái lối chơi như thế rồi.
Tập Nhân nói:
- Chơi thế vui thật, nhưng ít người quá không thú.
Xuân Yến cười nói:
- Cứ ý tôi khẽ lại mời cô Bảo, cô Vân, cô Lâm sang chơi một lúc, đến canh hai về ngủ cũng chưa muộn.
Tập Nhân nói:
- Lại phải mở cửa, đóng cửa ầm lên, nhỡ gặp bọn đi tuần đêm hỏi.
Bảo Ngọc nói:
- Sợ gì? Cô Ba cũng biết uống rượu đấy. Mời cô ấy một tiếng mới phải. Và cả cô Cầm nữa.
Mọi người đều nói:
- Thôi đừng mời cô Cầm, cô ấy ở nhà mợ Cả, rồi lại làm to chuyện lên.
Bảo Ngọc nói:
- Sợ cái gì? Các cô cứ đi mời sang đây.
Xuân Yến, con Tư không nói câu gì. Nó mở cửa dẫn bọn hầu nhỏ chia nhau đi mời. Tình Văn, Xạ Nguyệt và Tập Nhân lại nói:
- Hai cô ấy đi mời chưa chắc họ đã chịu đến, để chúng tôi đi sống chết cũng kéo họ lại cho được.
Tập Nhân, Tình Văn sai lũ bà già cầm đèn lồng đi. Quả nhiên Bảo Thoa thì nói: “Đêm khuya rồi”. Đại Ngọc thì nói: “Người không được khỏe”. Nhưng hai người cứ nằn nì nói: “Thế nào cũng xin nể mặt chúng tôi, đến ngồi chơi một lúc rồi về ngay”. Mọi người nghe nói, đều lấy làm vui thích. Trước không định mời Lý Hoàn, nhưng họ nghĩ, nhỡ ra chị ấy biết lại không ra làm sao, liền sai Thúy Mặc cùng đi với Xuân Yến cố đến mời Lý Hoàn và Bảo Cầm. Mọi người đều lần lượt đến cả. Tập Nhân lại cố kéo Hương Lăng đến. Trên giường bày thêm một cái bàn nữa rồi mới vào ngồi.
Bảo Ngọc vội nói:
- Em Lâm chắc sợ lạnh, sang ngồi dựa cạnh vách này.
Rồi đem đến một cái nệm dựa lót vào phía sau. Bọn Tập Nhân lấy ghế ngồi tiếp ở cạnh giường. Đại Ngọc ngồi dựa vào nệm, cách bàn hơi xa, cười nói với bọn Bảo Thoa, Lý Hoàn và Thám Xuân:
- Chị em thường vẫn nói, người ta đêm hay đánh bạc uống rượu. Hôm nay chúng ta lại như thế này, liệu còn bảo ai được nữa!
Lý Hoàn nói:
- Có hại gì đâu? Trong một năm chỉ có ngày sinh nhật, chứ có phải đêm nào cũng như thế đâu, chẳng đáng ngại lắm.
Tình Văn mang đến một cái ống thẻ bằng trúc chạm, trong đựng những thẻ bằng ngà có khắc tên hoa, xóc đi xóc lại, đem để ở giữa. Lại lấy quân xúc xắc ra bỏ vào trong hộp, xóc một cái mở ra xem, vừa đúng sáu chấm, tính đến Bảo Thoa. Bảo Thoa cười nói:
- Tôi rút trước, chẳng biết rút được cái gì đây!
Nói xong, xóc ống, rút ra một cái thẻ, mọi người xem, thấy vẽ một cành hoa mẫu đơn, có đề bốn chữ “Hơn hẳn trăm hoa”. Phía dưới có khắc mấy chữ nhỏ là một câu thơ Đường: “Dù chẳng tình gì, người cũng cảm”. Lại chua thêm: “Cả bàn tiệc mừng một chén. Vì là đứng đầu các thứ hoa, nên được tùy ý mình bảo ai đọc mừng một bài thơ từ hay khúc hát cho vui”.
Mọi người đều cười nói:
- Khéo quá! Cô thực đáng là hoa mẫu đơn.
Mỗi người đều mừng một chén. Bảo Thoa uống xong, cười nói:
- Cô Phương Quan hát một câu cho chúng tôi nghe nào.
Phương Quan nói:
- Đã thế thì mỗi người hãy uống trước một chén để nghe cho vui.
Mọi người đều uống. Phương Quan hát: “Tiệc thọ bày đây phong cảnh đẹp”... Mọi người đều nói: “Bỏ câu ấy đi! Bây giờ không cần cô đến chúc thọ. Chọn bài nào hay nhất thì hát”.
Phương Quan đành phải khẽ hát một câu ở hài “Thưởng hoa thì”:
Cánh tiên cắp chổi thướt tha,
Gót sen đủng đỉnh, quét hoa cửa trời…
Bảo Ngọc cứ cầm lấy cái thẻ, miệng đọc đi đọc lại: “Dù chẳng tình gì, người cũng cảm”. Nghe hát xong, Bảo Ngọc vẫn nhìn vào Phương Quan không nói gì. Tương Vân giật lấy cái thẻ đưa cho Bảo Thoa. Bảo Thoa lại gieo được một quân mười sáu điểm, tính đến lượtThám Xuân.
Thám Xuân cười nói:
- Không biết rút được cái gì đây?
Rồi lấy ra một cái thẻ, xem xong vứt ngay lên bàn, đỏ mặt cười nói.
- Không nên chơi cái lệnh này. Đó là cái lệnh của bọn đàn ông thường chơi ở ngoài, có nhiều câu nói nhảm.
Không ai hiểu ra sao cả. Bọn Tập Nhân vội nhặt lấy thẻ đưa cho mọi người xem, thấy mặt trên vẽ một cành hoa hạnh, viết bốn chữ đỏ “Tiên phẩm đền Dao”. Mặt sau có đề câu thơ: “Tựa mây hồng hạnh giồng bên mặt trời”. Lại chua thêm: “Ai rút được thẻ này, tất lấy được chồng sang. Mọi người mừng một chén rồi cùng uống một chén”.
Mọi người cười nói:
- Chúng tôi tưởng là cái gì kia chứ, thẻ này cốt để bày trò cười ở trong khuê các, chỉ có vài ba cái là có những câu thế này thôi, còn thì không nói nhảm cả. Thế có hại gì? Nhà chúng ta đã có vị vương phi rồi. Có lẽ cô lại sẽ là vương phi cũng chưa biết chừng? Đáng mừng! Đáng mừng!
Nói xong mọi người lại đưa rượu mừng. Thám Xuân không chịu uống. Sau bị Tương Vân, Hương Lăng, Lý Hoàn ép mãi mới uống một chén. Thám Xuân nói:
- Bỏ cái tửu lệnh này đi, chơi cái khác thôi.
Mọi người nhất định không nghe. Tương Vân cầm lấy tay Thám Xuân bắt gieo được điểm mười chín, tính đến lượt Lý Hoàn.
Lý Hoàn xóc ống, rút thẻ ra xem, cười nói:
- Hay lắm! Chị em xem mấy chữ này, rất có ý nghĩa.
Mọi người cầm thẻ xem, thấy vẽ một cành mai già, viết bốn chữ “Vóc đựng sương mai”. Mặt sau đề một câu thơ cổ: “Nhà tranh giậu trúc nhưng lòng vẫn vui”. Lại chua thêm: “Tự mình uống một chén, người ngồi dưới gieo xúc xắc”.
Lý Hoàn cười nói:
- Rất là thú! Các cô cứ gieo đi. Tôi tự uống một chén, dở hay mặc các cô.
Nói xong uống chén rượu, đưa xúc xắc cho Đại Ngọc. Đại Ngọc gieo được số mười tám điểm, tính đến tượt Tương Vân.
Tương Vân cười, xoa tay xắn áo rút ra một cái thẻ. Mọi người xem, thấy cành hải đường, có đề bốn chữ “Mộng thơm say tít”. Mặt sau có đề một câu thơ: “Chỉ sợ đêm khuya hoa ngủ mất”.
Đại Ngọc cười nói:
- Hai chữ “đêm khuya” nên đối là “đá lạnh” thì hay hơn.
Mọi người biết Đại Ngọc nói chọc Tương Vân say rượu ngủ trên hòn đá giữa ban ngày, đều cười ầm lên. Tương Vân cười chỉ cho Đại Ngọc xem cái thuyền rồi nói:
- Thôi xuống cái thuyền này mà đi về nhà, đừng nói nhảm nữa.
Mọi người đều cười. Lại xem thấy lời chú: “Đã gọi là “mộng thơm say tít” thì người nào rút được thẻ này không nên uống rượu, chỉ để cho người ngồi trên, ngồi dưới, mỗi người uống một chén thôi”.
Tương Vân vỗ tay cười nói:
- A di đà Phật! Thẻ này hay quá!
Vừa đúng Đại Ngọc ngồi trên. Bảo Ngọc ngồi dưới hai người rót hai chén rượu, đành phải uống vậy. Bảo Ngọc uống được nửa chén, thấy không ai nhìn đến, liền đưa cho Phương Quan. Phương Quan cầm lấy, ngửa mặt lên uống hết. Đại Ngọc giả vờ nói chuyện với người khác, rồi đổ hết rượu vào trong ống nhổ.
Tương Vân lấy xúc xắc gieo được chín điểm, đếm số đến lượt Xạ Nguyệt. Xạ Nguyệt rút một cái thẻ, mọi người xem thấy một cành hoa đồ mi, có đề bốn chữ “Cảnh xuân đẹp tuyệt”. Lại có một câu thơ cổ: “Hoa đồ mi nở là ngày xuân đi”. Lại có chua thêm: “Mỗi người trong tiệc uống ba chén tiễn xuân”.
Xạ Nguyệt hỏi:
- Nói thế nào?
Bảo Ngọc cau mày, giấu thẻ đi, nói:
- Thôi, chúng ta cứ uống rượu đi.
Mọi người uống đủ ba nhấp thay cho ba chén.
Xạ Nguyệt gieo được mười điểm, đếm số đến lượt Hương Lăng. Hương Lăng rút được một cái thẻ vẽ cành hoa “tịnh đế” có đề bốn chữ “Điềm xuân liên tiếp”. Mặt sau có một câu thơ cổ: “Liền cành hoa nọ vừa đua nở”. Lại chua thêm: “Cùng mừng người rút uống ba chén, sau đó mọi người đều uống một chén”.
Hương Lăng lại gieo được sáu điểm, tính đến lượt Đại Ngọc. Đại Ngọc nghĩ thầm: “Không biết còn thẻ gì hay nữa!” Rồi rút được một thẻ vẽ một cành hoa phù dung, có đề bốn chữ “sương gió buồn tênh”. Mặt sau có một câu thơ cổ: “Thương mình nào dám giận gì gió đông”. Lại chua thêm “Tự uống một chén, hoa mẫu đơn uống tiếp một chén”.
Mọi người cười nói:
- Hay quá! Trừ cô ấy ra, không còn có ai đáng làm hoa phù dung nữa.
Đại Ngọc cũng cười thầm, uống một chén, rồi gieo được mười hai điểm, tính đến lượt Tập Nhân.
Tập Nhân rút ra một cái thẻ vẽ cành hoa đào, đề bốn chữ “Phong cảnh Vũ Lăng”. Mặt sau có đề một câu thơ cổ: “Hoa đào lại báo một mùa xuân sang”. Lại chua thêm: “Hoa hạnh uống tiếp một chén, người nào cùng tuổi hay cùng họ đều uống tiếp một chén”.
Mọi người cười nói:
- Lần này nhộn nhịp quá, rất vui.
Tính tất cả thì Hương Lăng, Tình Văn và Bảo Thoa đều cùng tuổi với Tập Nhân, Đại Ngọc thì đẻ cùng giờ, nhưng không có người nào cùng họ.
Phương Quan vội nói:
- Tôi cũng họ Hoa, để tôi uống tiếp với chị ấy một chén.
Rồi mọi người đều rót rượu uống.
Đại Ngọc cười bảo Thám Xuân:
- Có số lấy được chồng sang. Cô là hoa hạnh phải uống đi để cho chúng tôi cùng uống.
Thám Xuân cười nói:
- Nói gì thế! Chị Cả tiện tay tát cho nó một cái!
Lý Hoàn cười nói:
- Người ta đã không lấy được chồng sang, lại còn bị đánh, tôi không nỡ đâu.
Mọi người đều cười.
Tập Nhân đương định gieo, chợt có người gọi cửa, bọn bà già ra hỏi thì té ra Tiết phu nhân sai người sang đón Đại Ngọc về. Mọi người hỏi:
- Canh mấy rồi?
Có người nói: “Quá canh hai. Đồng hồ đã điểm 11 tiếng”.
Bảo Ngọc không tin, bảo mang đồng hồ đến xem, thì đã quá giờ tý. Đại Ngọc đứng dậy nói:
- Tôi không thể ngồi nán được nữa, còn phải về uống thuốc.
Mọi người đều nói:
- Cũng nên về cả thôi.
Bọn Tập Nhân, Bảo Ngọc còn muốn giữ lại, nhưng Lý Hoàn, Thám Xuân đều nói:
- Đêm đã khuya, thế này cũng quá lắm rồi.
Tập Nhân nói:
- Đã thế mỗi người uống thêm một chén nữa rồi hãy về.
Bọn Tình Văn vội rót đầy chén, mọi người uống rồi, đều sai thắp đèn đi về.
Bọn Tập Nhân tiễn họ đến bờ sông đình Thấm Phương, mới quay về, đóng cửa lại, đánh đố rượu. Tập Nhân rót mấy chén to, lấy mấy thứ ăn, đưa cho các bà già hầu ở đấy ăn uống. Ai cũng ngà ngà say, vừa đánh toan vừa hát. Bấy giờ đã đến canh tư, các bà già vừa ăn thật, vừa ăn vụng, vò rượu hết sạch. Mọi người thấy thế, mới thu dọn rửa ráy đi ngủ.
Phương Quan uống nhiều quá, mặt đỏ dừ, đầu mày cuối mắt, càng nhìn càng xinh. Nó cố gượng không đứng dậy được, liền nằm ngả vào người Tập Nhân, nói:
- Chị ơi! Bụng tôi cồn cào quá!
- Ai bảo mày cứ nốc cho lắm vào!
Xuân Yến và con Tư cũng say mềm, đi ngủ cả rồi. Tình Văn thì cứ kêu mãi. Bảo Ngọc nói:
- Đừng kêu nữa, chúng ta cứ nằm bừa ra đây mà ngủ.
Nói xong, gối đầu vào cái gối thơm màu đỏ, nằm ngả ra ngủ ngay. Tập Nhân thấy Phương Quan say quá, sợ nó bị nôn, bèn khẽ nâng nó dậy, đặt nằm ngủ cạnh Bảo Ngọc, còn mình sang nằm ngủ ở cái giường trước mặt. Mọi người ngủ say không biết trời đất gì cả.
Tập Nhân choàng mắt dậy, trời đã sáng bạch, nói:
- Muộn mất rồi!
Trông sang giường trước mặt, thấy Phương Quan gối đầu vào thành giường, vẫn ngủ say, vội gọi nó dậy. Bảo Ngọc cũng giở mình tỉnh dậy, cười nói:
- Muộn mất rồi!
Bèn lay Phương Quan. Phương Quan ngồi dậy giật mình dụi mắt.
Tập Nhân cười nói:
- Rõ không biết xấu hổ! Say rượu không biết đi tìm chỗ ngủ, lại nằm lăn ra đấy.
Phương Quan nhìn ra mới biết là mình nằm cũng giường với Bảo Ngọc, xấu hổ tụt xuống đất cười nói:
- Tôi ăn uống ra làm sao lại chẳng biết gì cả.
Bảo Ngọc cười nới:
- Tôi cũng không biết gì; nếu biết đã bôi mực vào mặt cô rồi.
Bọn a hoàn lên hầu rửa mặt chải đầu. Bảo Ngọc cười nói:
- Hôm qua làm phiền các chị, tối nay tôi xin giả tiệc.
Tập Nhân cười nói:
- Thôi, thôi! Hôm nay đừng quấy nữa, nếu còn quấy thì người ta sẽ nói cho đấy.
Bảo Ngọc nói:
- Sợ cái gì! Chẳng qua mới có hai lần thôi. Chúng ta kể cũng uống được rượu đấy. Thế nào lại uống hết cả một vò kia à? Tiếc đương lúc vui rượu lại hết!
Tập Nhân cười nói:
- Uống vừa vừa thế mới thú, chứ uống quá lại mất vui. Hôm qua hứng lên, Tình Văn cũng không biết xấu hổ nữa. Tôi nhớ nó còn hát một bài gì đó?
Con Tư cười nói:
- Chị quên rồi, chị cũng có hát một bài đấy! Trong tiệc rượu ai mà chẳng hát?
Mọi người nghe nói, đều đỏ mặt, lấy tay bưng mặt cười rũ rượi.
Chợt Bình Nhi cười hì hì chạy đến, nói:
- Hôm nay tôi thân đến mời trả lại những người dự tiệc hôm qua, thiếu một vị cũng không được.
Mọi người mời chị ta ngồi uống nước. Tình Văn cười nói:
- Tiếc rằng hôm qua không có chị!
Bình Nhi vội hỏi:
- Tối hôm qua các chị làm trò gì?
Tập Nhân nói:
- Không thể kể hết với chị được. Hôm qua vui nhộn lạ thường, dù những ngày cụ và bà Hai cho mọi người đi dự tiệc cũng không vui bằng. Cả một vò rượu cũng nốc sạch. Ai cũng say không biết xấu hổ, lại còn hát nữa cơ. Đến quá canh tư mới nằm ngổn ngang ra ngủ.
Bình Nhi cười nói:
- Giỏi nhỉ! Chỉ biết lấy rượu lại không mời tôi, còn kể ra để trêu tức người ta!
Tình Văn nói:
- Chiều nay hắn mời trả lại, thế nào cũng sang mời chị, chị hãy chờ đấy.
Bình Nhi cười hỏi:
- Hắn là ai? Ai là hắn?
Tình Văn nghe nói, đỏ bừng mặt lên, chạy lại đánh, cười nói:
- Chị thính tai quá, nghe rõ thế!
Bình Nhi cười nói:
- Con ranh này không biết xấu hổ! Bây giờ đương bận đây không nói chuyện với cô vội! Tôi đi có việc, lúc về sẽ cho người lại mời. Người nào không đến tôi vào tận nhà kéo cổ bắt đi!
Bảo Ngọc vội giữ lại, nhưng Bình Nhi đã đi rồi. Bảo Ngọc tắm gội xong, đương uống nước, nhìn dưới nghiên mực có một tờ giấy, liền nói:
- Các chị cứ để bừa bãi thế này không được đâu.
Tập Nhân và Tình Văn vội hỏi:
- Lại cái gì đấy? Chắc có ai làm điều gì không đúng rồi?
Bảo Ngọc trỏ tay nói:
- Dưới cái nghiên kia là cái gì? Chắc là miếng giấy mẫu của cô nào bỏ quên không cất.
Tình Văn vội nhấc cái nghiên ra, thấy một tờ thiếp, đưa cho Bảo Ngọc xem, một tờ giấy hoa tiên màu phấn hồng, có viết: “Người ngoài cửa là Diệu Ngọc kính chúc ngày sinh nhật”. Bảo Ngọc xem xong, nhảy lên hỏi:
- Ai nhận được giấy này lại không cho tôi biết?
Tập Nhân và Tình Văn thấy thế, tưởng là cái thiếp của người nào quan hệ đưa đến có việc gì, liền cùng hỏi:
- Hôm qua ai nhận được cái thiếp này?
Con Tư vội chạy đến cười nói:
- Hôm qua cô Diệu Ngọc sai bà già đưa đến, chứ cô ấy không đến đây. Tôi để ở đấy, không ngờ uống rượu say quên mất.
Mọi người đều nói:
- Cứ tưởng là ai, đâm ra nhớn nhác như thế! Chứ biết của người ấy thì đáng kể gì.
Bảo Ngọc liền sai:
- Mang giấy đến đây.
Trong khi sắp giấy mài mực, nhìn thiếp, thấy Diệu Ngọc viết ba chữ “người ngoài cửa”. Bảo Ngọc cầm bút nghĩ mãi không biết dùng chữ gì để đáp lại được. Lúc lâu vẫn chưa biết viết chữ gì. Liền nghĩ: “Nếu đi hỏi Bảo Thoa, chắc cô ấy lại trách mình là gàn dở, chi bằng đi hỏi Đại Ngọc”. Bèn bỏ thiếp vào tay áo, chạy đến tìm Đại Ngọc. Vừa đến đình Thấm Phương, thấy Tụ Yên thướt tha đi đến. Bảo Ngọc hỏi:
- Chị đi đâu đấy?
- Tôi đến thăm Diệu Ngọc đây.
Bảo Ngọc lấy làm lạ nói:
- Cô ấy khó tính, không hợp với đời, không coi ai ra gì cả. Vậy mà cô ấy lại quý trọng chị! Thế mới biết chị không phải là hạng tục như chúng tôi!
Tụ Yên cười nói:
- Chưa chắc cô ấy thực bụng quý trọng tôi, nhưng chúng tôi đã ở gần nhau hàng mười năm trời, chỉ cách nhau có một cái tường thôi. Cô ấy tu ở chùa Bàn Hương, nhà tôi vốn nghèo, phải thuê một gian buồng ở trong chùa ấy suốt mười năm. Lúc rỗi tôi thường đến chơi với cô ấy. Tôi biết ít chữ cũng là nhờ cô ấy dạy cho cả. Tôi đối với cô ấy đã là bạn chơi lúc nghèo hèn, lại có tình thầy trò nữa. Khi chúng tôi đi đến nhà cô tôi, có nghe nói cô ấy không hợp với đời, bọn quyền thế không ưa, nên phải đến ở đây. May sao chúng tôi lại gặp nhau, tình cũ vẫn chưa thay đổi, cô ấy đối với tôi mối tình lại hơn ngày trước.
Bảo Ngọc nghe vậy, choáng tai lên, mừng nói:
- Không trách được, cách ăn nói đi đứng của chị như là hạc nội mây ngàn. Té ra là có lai lịch. Tôi đương băn khoăn vì một việc của cô ấy, định đi hỏi người khác. May được gặp chị, thực là duyên trời đem lại, nhờ chị bảo giúp cho.
Nói xong cầm thiếp đưa cho Tụ Yên xem. Tụ Yên cười nói:
- Tính nết cô này chẳng đổi tí nào, vẫn giữ cái thói ngông gàn kỳ quặc. Xưa nay chưa thấy ai viết thiếp mà lại đề biệt hiệu. Thực đúng như tục ngữ nói: “Sư không phải sư, tục không phải tục, gái không phải gái, trai không phải trai”, chẳng ra nghĩa lý gì cả!
Bảo Ngọc cười nói:
- Chị không biết, cô ấy không phải là người trong đám trần tục, mà là đứng ngoài cuộc đời, vì thấy tôi cũng hiểu biết một đôi chút, nên mới đưa đến cái thiếp này. Tôi không biết hàng chữ gì để trả lời cho phải, nghĩ mãi không ra, đương định đi tìm cô Lâm, may sao lại gặp chị.
Tụ Yên nghe vậy, đưa mắt ngắm nghía Bảo Ngọc một lúc, cười bảo:
- Tục ngữ nói: “Tai nghe không bằng mắt thấy”, không trách được Diệu Ngọc lại đưa cái thiếp này cho cậu, cũng không trách được năm ngoái cô ấy cho cậu cành hoa mai. Đã vậy tôi xin nói rõ đầu đuôi câu chuyện cho cậu nghe. Cô ấy thường nói: người xưa từ đời Hán, Tấn, Ngũ Đại, Đường, Tống đến nay, chẳng có bài thơ nào hay, chỉ có hai câu dưới đây là hay thôi:
Cửa sắt nghìn năm dầu vững chắc,
Đốt bùn một nắm cũng chôn vùi.
Vì thế cô ấy tự xưng là “người ngoài cửa”. Lại thường khen: Văn của Trang Từ là hay nhất, nên cũng tự xưng là “kỳ nhân”. Nếu trong thiếp cô ấy xưng kỳ nhân” tức cho mình là người kỳ quặc, thì cậu nên khiêm tốn xưng “thế nhân”, tức là người nhiều tục lụy, như vậy cô ấy sẽ thích. Nhưng bây giờ, cô ấy lại xưng là “người ngoài cửa”, nghĩa là cô ấy đứng ở ngoài cửa sắt, thì cậu nên xưng là “người trong cửa”, tất sẽ hợp ý cô ấy.
Bảo Ngọc nghe xong tỉnh ngộ ngay, liền “úi chà” một tiếng, rồi cười nói:
- Thảo nào chùa nhà tôi đặt tên là “Thiết Hạm”, tức là “cửa sắt”, té ra như thế đấy! Xin chị cứ đi, để tôi về nhà viết thiếp trả lời.
Bảo Ngọc về nhà viết thiếp, ngoài đề mấy chữ “Người trong cửa là Bảo Ngọc kính cẩn bái tạ”, tự mình mang thiếp đến am Lũng Thúy, từ ngoài khe cửa đưa qua rồi về.(1)
Xong bữa cơm, Bình Nhi mời đãi tiệc, lại bày mấy mâm rượu, hoa quả trong Du Ấm đường, vì cho vườn Hồng Hương nóng lắm, Vưu thị cũng đem theo hai người nàng hầu là Bội Phượng, Giai Loan đến chơi ngắm cảnh. Hai người nàng hầu này cũng là bọn con gái trẻ tuổi láu lỉnh không hay đến đấy. Nay vào vườn gặp bọn Tương Vân, Hương Lăng, Phương Quan, Nhụy Quan thực là “người họp theo loại, vật chia theo đàn”, hai câu nói ấy quả không sai. Thấy mọi người cười đùa, người này không nghĩ gì đến Vưu thị có mặt ở đó, cứ để mặc cho đám a hoàn phục dịch, rồi chơi đùa khắp nơi.
Bây giờ họ đều đã ở trong Du Ấm đường, mượn tiếng uống rượu, mọi người chơi đùa, bảo các cô xẩm đánh trống. Bình Nhi ngắt một cành thược dược, tất cả độ hai mươi người, chuyền tay cành hoa làm tửu lệnh, vui đùa với nhau một lúc. Khi đó có người vào trình:
- Bên nhà họ Chân cho hai người đàn bà đem lễ đến.
Thám Xuân, Lý Hoàn và Vưu thị cùng ra tiếp ở nhà khách.
Mọi người trong nhà đều ra ngoài chơi, Bội Phượng và Giai Loan đi ra đánh đu, Bảo Ngọc nói:
- Hai cô cứ trèo lên, để tôi đẩy cho.
Bội Phượng cuống lên, nói:
- Thôi, đừng quấy rối chúng tôi nữa!
Chợt thấy mấy người bên phủ Đông hớt hải chạy đến nói:
- Ông(2) đã quy tiên rồi.
Mọi người giật mình nói:
- Lạ nhỉ, chẳng thấy ốm đau gì, sao lại mất ngay!
Người nhà nói:
- Ngày nào ông cũng tu luyện, chắc là thành quả tên tiên.
Vưu thị thấy thế, nghĩ ngay bố con Giả Trân và Giả Liễn không có ai ở nhà. Lại không có một người đàn ông nào lo lắng cho mình, nên cũng không khỏi bối rối. Chị ta vội bỏ ngay đồ trang sức, sai người đến quán Huyền Chân giam tất cả bọn đạo sĩ lại, chờ Giả Trân về xét hỏi; một mặt vội lên xe, dẫn bọn vợ Lai Thăng và những người hầu già trong nhà đi ra ngoài thành. Lại mời thầy thuốc đến xem chết vì bệnh gì. Thầy thuốc thấy người đã chết rồi, còn bắt mạch vào đâu được nữa. Họ vốn biết thuật “đạo khí” của Giả Kính rất là hão huyền, đến cả những việc lễ sao, giữ giờ, uống linh sa, nhiều sự nhảm nhí hư tổn tinh thần, hại cả đến tính mệnh. Nay ông ta đã chết, bụng cứng như sắt, mật và môi sém nứt cả ra. Các thầy thuốc bảo bọn bà già:
- Đó là do ông nuốt vàng, uống linh sa, theo phép đạo, đâm ra chảy ruột chương bụng mà chết.
Các đạo sĩ sợ quá nói:
- Đó là vì ông nuốt đan sa theo phép bí truyền mới, đến nỗi bị hại. Bọn tiểu đạo chúng tôi thường khuyên: “Công tu luyện chưa đến ngày thì không nên uống”. Không ngờ hôm nay vào lúc giữa giờ, người lẻn đi uống, liền quy tiên ngay. Việc ấy là do thành tâm đắc đạo, ra ngoài bể khổ, thoát khỏi thể xác đấy.
Vưu thị cũng không nghe, cứ bảo giam họ lại, rồi sai người cưỡi ngựa đi báo tin. Thấy trong quán chật hẹp không để được áo quan và cũng không thể rước vào thành được, Vưu thị cho chết mặc quần áo cẩn thận, đặt vào kiệu êm đưa về để ở chùa Thiết Hạm. Bấm đốt ngón tay sớm nhất cũng phải nửa tháng nữa Giả Trân mới về đến nhà, hiện giờ trời đương nồng nực, không thể chờ được. Vưu thị liền đứng lên lo liệu, bảo thầy cúng chọn ngày khâm liệm. Áo quan thì sắp sẵn từ lâu, đã để sẵn ở chùa này, nên cũng rất tiện. Sau ba ngày sẽ phát tang và đặt đàn làm chay.
Phượng Thư ở bên phủ Vinh ốm, nên không đi được. Lý Hoàn phải trông nom bọn chị em, Bảo Ngọc chẳng biết việc gì cả, nên công việc bên ngoài đành phải tạm giao cho mấy người quản lý hạng nhì. Bọn Giả Thiên, Giả Quang, Giả Hành, Giả Anh, Giả Xương, Giả Lăng mỗi người giữ một việc. Vưu thị không về nhà được, liền mời kế mẫu của mình đến phủ Ninh trông nom hộ. Bà kế mẫu đem theo hai người con gái chưa có chồng đến ở cả đấy, mới yên lòng.
Được tin cha chết, Giả Trân xin phép nghỉ. Giả Dung cùng là một viên chức. Bộ Lễ thấy nhà vua coi trọng đạo hiếu, nên không dám tự quyết, phải tâu lên xin ý chỉ. Nhà vua là bậc nhân hiếu hơn trời, trọng đãi dòng dõi những bậc công thần, tiếp được sớ tâu liền xuống chiếu hỏi Giả Kính giữ chức gì? Bộ Lễ tâu: “Giả Kính là tiến sĩ xuất thân, còn quan chức của ông ta đã phong ấm cho con là Giả Trân rồi. Giả Kính tuổi cao nhiều bệnh, thường tịnh dưỡng ở quán Huyền Chân ngoài đô thành, nay bị ốm chết ở đó. Con là Trân, cháu là Dung, nhân có quốc tang, đều chực hầu ở đây cả, nên mới xin phép về khâm liệm”.
Nhà vua nghe nói, đặc cách xuống chiếu chỉ: “Giả Kính tuy không có công gì với nước, nhưng nghĩ đến lòng trung thành của ông cha, truy tặng cho hàm ngũ phẩm, cho phép con cháu đem linh cữu qua cửa Bắc vào đô thành, được khâm liệm ở nhà riêng. Con cháu phát tang, làm lễ xong rồi, rước linh cữu về quê quán. Lại truyền cho Quang Lộc tự chiếu lệ đến tế. Trong triều từ Vương công trở xuống cho phép đến tế riêng. Phải theo chỉ thi hành”.
Chỉ vua vừa xuống, không những người nhà phủ Giả tạ ơn, mà cả bậc đại thần trong triều cũng không ngớt lời reo mừng ca tụng.
Cha con Giả Trân ngày đêm lật đật trở về. Giữa đường thấy Giả Thiên, Giả Quang cưỡi ngựa dẫn người nhà đi đến. Trông thấy Giả Trân, họ đều xuống ngựa chào hỏi.
Giả Trân hỏi:
- Đi làm gì thế?
Giả Thiên trình:
- Chị Cả sợ anh và cháu về trước rồi, cụ đi đường không có người trông nom, nên bảo hai chúng tôi đến đây để hộ tống.
Giả Trân nghe thấy nói thế, khen ngợi không ngớt. Lại hỏi: “Ở nhà lo liệu ra sao rồi?”
Giả Thiên kể lại việc giam bọn đạo sĩ; việc rước cữu về gia miếu, lại sợ trong nhà không có người trông nom, nên đã mời bà thông gia cùng hai dì đến lo liệu giúp. Lúc đó Giả Dung xuống ngựa, nghe thấy hai dì đến ở nhà mình, nét mặt tươi cười hớn hở. Giả Trân khen luôn miệng: “Thu xếp ổn đấy!” Rồi ra roi chạy liền, suốt đêm thay đổi ngựa để phóng về không nghỉ lại ở trạm nào cả.
Hôm sau đến cửa thành, Giả Trân đi thẳng vào chùa Thiết Hạm. Bấy giờ đã canh tư, người gác nghe thấy, liền gọi mọi người đậy. Giả Trân xuống ngựa cùng Giả Dung khóc ầm lên, từ cửa ngoài, quỳ đi vào đến trước cữu, đập đầu khóc lóc thảm thiết cho đến sáng; khóc khản tiếng mới thôi. Bọn Vưu thị đều ra chào. Cha con Giả Trân vội mặc đồ tang, đến trước cữu quỳ lạy. Đứng trước công việc, Giả Trân không thể nhắm mắt bịt tai được, đành phải nén bớt nỗi đau thương, tự mình cắt đặt mọi người. Rồi hắn kể lại việc ân chỉ nhà vua cho họ hàng bạn hữu nghe, lại sai Giả Dung về nhà lo liệu việc quàn cữu.
Giả Dung lập tức cưỡi ngựa về nhà, sai người thu dọn bàn ghế, bỏ vách chắn đi, treo màn tang, trước cửa dựng nhà tang. Rồi vội vàng chạy vào chào bà ngoại và hai dì. Bà Vưu tuổi già hay ngủ, cứ nằm luôn; dì Hai và dì Ba đương làm việc với bọn a hoàn, thấy hắn vào, đều tỏ lời chia buồn.
Giả Dung trông thấy dì Hai, hì hì cười nói:
- Dì Hai, dì đã sang đấy à? Cha tôi đang mong dì đấy.
Dì Hai đỏ mặt lên mắng:
- Thằng ranh con này! Cứ vài hôm tao không mắng là mày không chịu được, càng ngày càng tệ, chẳng giữ thể thống gì cả! Mày là một vị công tử nhà đại gia, ngày nào cũng đọc sách học lễ, thế mà không bằng con nhà ti tiện!
Nói xong, tiện tay cầm cái bàn là đánh vào đầu Giả Dung. Hắn vờ làm bộ run sợ, ôm đầu lăn xả vào lòng dì Hai xin tha tội. Dì Ba quay mặt đi, nói:
- Chờ chị về sẽ mách cho nó!
Giả Dung cười, quỳ xuống giường xin tha tội, làm cho cả hai người cười ồ lên. Giả Dung lại vồ nắm sa nhân của dì Hai để ăn. Dì Hai nhai bã sa nhân đầy mồm nhổ toẹt vào mặt, hắn thè lưỡi liếm hết. Bọn a hoàn thấy trái mắt, đều cười, nói:
- Cậu vừa có tang, bà ngoại lại mới ngủ. Hai cô tuy trẻ tuổi nhưng đều là bậc dì. Cậu không coi bà ra gì à! Khi ông về bà sẽ mách, liệu cậu chạy đằng nào cho thoát!
Giả Dung buông dì hắn ra, ôm lấy a hoàn hôn, nói:
- Em ơi! Em nói phải đấy. Chúng ta buông hai dì ấy ra!
Bọn a hoàn giận quá, đẩy hắn ra, mắng:
- Anh đốn kiếp này! Anh đã có vợ và a hoàn, lại còn chòng ghẹo chúng tôi! Người biết ra cho là đùa, người không biết hay những hạng người thối bụng, thối dạ, thích ngồi rồi mách lẻo, vắng mặt nói xấu, sẽ đồn đại sang phủ bên kia, cho là bên này chúng ta hay bậy bạ.
Giả Dung cười nói:
- Đèn nhà ai rạng nhà ấy, ai còn hơi đâu lo chuyện nhà người. Từ xưa đến nay, dù nhà Hán, nhà Đường, người ta cũng còn chê là “Đường dở, Hán thối” nữa là nhà chúng ta. Nhà nào mà chẳng có chuyện phong lưu? Đừng để tôi phải nói ra. Ngay ông Cả phủ bên kia cũng là tay đáo để, thế mà chú Liễn dám tằng tịu với dì bé đấy! Thím Phượng đanh đá như thế mà chú Thụy còn hòng gạ gẫm! Có việc gì giấu được tôi đâu!
Giả Dung cứ nói huênh hoang bậy bạ, dì Ba sa sầm mặt, bước xuống giường, vào nhà trong đánh thức bà già Vưu dậy.
Giả Dung thấy bà ngoại dậy rồi, liền vào chào hỏi, nói:
- Làm bà phải bận lòng, lại làm hai dì phải vất vả, cha con cháu rất là cảm động! Để khi xong việc cả nhà cháu sẽ sang tạ ơn bà.
Bà già Vưu gật đầu nói:
- Cháu ơi, cháu khéo nói lắm! Chỗ thân thuộc thì phải thế chứ.
Lại hỏi:
- Cha cháu có mạnh khỏe không? Biết tin bao giờ mà về ngay thế?
Giả Dung cười, nói:
- Cũng vừa mới về. Cha cháu bảo cháu về thăm bà, nhờ bà trông nom hộ việc nhà cho, khi xong việc bà hãy về.
Nói xong hắn lại nháy mắt nhìn dì Hai. Dì Hai khẽ nghiến răng mắng:
- Thằng ranh con lém lỉnh này! Giữ chúng tao ở đây để làm mẹ bố mày à?
Giả Dung lại nói với bà ngoại:
- Xin bà cứ yên tâm. Cha cháu ngày nào cũng nghĩ đến hai dì, muốn kén hai người con nhà giàu sang, vừa trẻ vừa đẹp để gả hai dì. Thế mà mấy năm nay vẫn chưa kén được. May sao hôm nọ đi đường mới tìm được một người vừa mắt.
Bà già Vưu tưởng thực hỏi:
- Con nhà ai đấy?
Dì Hai bỏ việc, vừa cười, vừa chạy đến đánh, nói:
- Mẹ ơi, đừng nghe thằng trời đánh ấy.
Bọn a hoàn đều nói:
- Ông trời có mắt, liệu coi chừng đấy.
Chợt có người vào thưa:
- Mọi việc xong cả, mời cậu ra xem rồi đi trình ông.
Giả Dung cười hì hì đi ra.
-------------------------
(1). Trong nguyên bản, chỗ này còn thêm một đoạn: Bảo Ngọc cho Phương Quan ăn mặc giả trai và đổi tên là Hung Nô, sau lại đổi thành tên Thổ Phồn là “Da luật hùng nô”. Mọi người thấy vậy cũng mến, liền cho Quỳ Quan, Đậu Quan cũng ăn mặc giả trai và đổi tên… Nhưng các bản Hồng lâu mộng khác đều lược đi. Chúng tôi thấy đoạn này không cần thiết lắm, nên cũng không dịch thêm nữa.
(2). Tức Giả Kính.
Hồi thứ sáu mươi tư
Gái buồn rầu đề thơ ngũ mỹ;
Trai lẳng lơ tặng ngọc cửu long.
Giả Dung thấy mọi việc thu xếp đã ổn, liền chạy đến chùa trình với Giả Trân. Ngay đêm đó, các người coi việc được cắt đặt, các thứ cần dùng được sắp sẵn như cờ phướn để chọn đến giờ mão ngày mồng bốn là rước linh cữu vào thành; mặt khác cho người đi báo tang các nhà bạn bè thân thích. Hôm ấy đám ma linh đình, khách khứa tấp nập, từ chùa Thiết Hạm đến phủ Ninh, đứng xem ở hai bên đường kể có mấy vạn người. Trong đám, có người than thở; có người khen ngợi; lại có bọn thầy đồ dở hơi, bảo là “lễ nên tiết kiệm hơn là xa xỉ, tang nên thương xót hơn là linh đình”. Trên đường mỗi người bàn mỗi cách. Đến khoảng giờ mùi, giờ thân mới rước linh cữu vào gian giữa. Tế viếng xong, bạn bè dần dần ra về, chỉ còn những người trong họ ở lại tiếp khách. Bà con gần chỉ có ông cậu họ Hình ở lại chưa về.
Giả Trân, Giả Dung bị lễ pháp ràng buộc, cũng phải nằm cỏ, gối đất ở cạnh linh cữu, buồn rầu chịu tang. Nhưng khi vắng người, họ lại lẻn vào trong nhà dan díu với hai dì. Bảo Ngọc ngày nào cũng mặc đồ tang sang phủ Ninh, đến chiều vắng người mới về trong vườn. Phượng Thư tuy người chưa được khỏe, không đến luôn được, nhưng gặp những ngày lập đàn tụng kinh hay bạn bè đến tế viếng, cũng cố gượng đến giúp đỡ công việc cho Vưu thị.
Một hôm, cúng cơm sớm xong, vì ngày dài, Giả Trân mấy ngày nhọc mệt, phải nằm chợp mắt ở cạnh linh cữu. Bảo Ngọc thấy không có khách, muốn về nhà thăm Đại Ngọc, liền đi về viện Di Hồng. Vào đến cửa, thấy trong nhà vắng tanh, có mấy bà già và a hoàn nhỏ ngồi hóng mát ở ngoài hiên, có người nằm ngủ, có người ngủ gật. Bảo Ngọc cũng không muốn gọi họ dậy. Chỉ có con Tư trông thấy vội chạy đến vén rèm. Ngay lúc ấy Phương Quan từ trong nhà cười chạy ra, suýt nữa đâm sầm vào Bảo Ngọc. Vừa trông thấy Bảo Ngọc, Phương Quan mỉm cười đứng lại hỏi:
- Sao cậu lại về? Cậu cản ngay chị Tình Văn lại cho tôi. Chị ấy định đánh tôi đấy!
Nói chưa dứt lời, thấy trong nhà có tiếng loảng xoảng, không biết là vỡ cái gì. Sau thấy Tình Văn chạy đến mắng ầm lên:
- Tao xem con ranh con này chạy đến đâu nào? Thua mà lại không cho đánh à? Cậu Bảo không ở nhà, tao xem ai cứu mày?
Bảo Ngọc vội ngăn lại cười nói:
- Em chị còn bé, không biết có lỗi gì với chị, thôi hãy nể tôi tha cho nó!
Tình Văn không ngờ Bảo Ngọc đã về, trông thấy bật cười, nói:
- Phương Quan là con yêu tinh hiện ra đấy! Dù nó biết phù phép hô thần, sai tướng cũng không nhanh được như thế!
Lại cười nói:
- Mày có hô thần về đây tao cũng không sợ!
Tình Văn liền giằng tay định túm lấy Phương Quan, nhưng nó đã luồn ra đằng sau, ôm lấy Báo Ngọc. Bảo Ngọc một tay nắm lấy Tình Văn, một tay giữ Phương Quan. Lúc đi vào thấy Xạ Nguyệt, Thu Văn, Bích Ngân, Xuân Yến đương ngồi đánh chắt ở giường bên tây, ai được thì ăn hạt dưa. Vì Phương Quan thua Tình Văn, không chịu cho đánh và bỏ chạy, Tình Văn chạy đuổi theo Phương Quan, nên những hòn chắt trong người đều rơi xuống đất.
Bảo Ngọc cười nói:
- Ngày dài thế này, tôi phải đi vắng, sợ các chị buồn, nếu ăn xong đi ngủ ngay sẽ sinh bệnh. Bây giờ các chị bày ra trò chơi này để tiêu khiển thì hay lắm.
Không thấy Tập Nhân đâu, Bảo Ngọc hỏi:
- Chị Tập Nhân đi đâu?
Tình Văn nói:
- Chị ấy à? Đạo mạo lắm rồi, đương ngồi “nhập định” ở trong nhà đấy. Từ nãy đến giở, chúng tôi không vào, không biết chị ấy làm cái gì, chẳng nghe tăm hơi gì cả. Cậu vào mà xem, hay là đã “ngộ đạo” rồi cũng chưa biết chừng.
Bảo Ngọc nghe nói, vừa cười chạy vào trong nhà, thấy Tập Nhân đương ngồi ở giường trước cửa sổ, tay còn tết một sợi dây đen. Thấy Bảo Ngọc vào, liền đứng dậy cười nói:
- Con Tình Văn đã đơm đặt gì tôi đấy? Vì tôi phải tết vội cho xong cái dây này, không có thì giờ đi chơi phiếm với họ, nên nói dối là các chị cứ chơi đi, được lúc cậu Hai đi vắng, tôi muốn ngồi dưỡng thần ở trong này một lúc. Thế mà nó lại lem lém cái mồm những “nhập định” và “ngộ đạo” gì gì ấy. Để lúc nữa tôi sẽ xé miệng nó ra mới được!
Bảo Ngọc cười, ngồi sát vào Tập Nhân xem tết dây, rồi hỏi:
- Ngày dài thế này, chị cũng nên nghỉ ngơi, hay là chơi đùa với họ, nếu không cũng nên sang thăm cô Lâm. Trời nóng thế mà ngồi tết cái này, chị định để làm gì đấy?
Tập Nhân nói:
- Tôi thấy cái dây quạt cậu đeo vẫn là cái dây tết từ ngày có đám tang mợ Dung bên phủ Đông năm trước. Chỉ người trong họ hoặc bạn thân có tang vào mùa hạ mới đeo cái dây xanh kia, tình cờ gặp việc thì một năm đeo một vài lần thôi, chứ lúc thường không cần đeo. Bây giờ bên phủ ấy lại có việc, cậu ngày nào cũng phải sang, nên tôi mới tết vội cái khác cho cậu đeo. Tết xong sẽ đem thay cái cũ. Cậu thì không hay để ý đến việc này, nhưng sợ khi cụ về trông thấy, lại bảo là chúng tôi lười nhác, đến cả những thứ mặc, thứ đeo của cậu cũng không để ý đến.
Bảo Ngọc cười nói:
- Thật chị nghĩ chu đáo quá. Nhưng cũng không nên vội, nếu chị cảm nóng lại ra to việc.
Nói xong Phương Quan bưng đến một chén trà mới ngâm ở trong nước lạnh ra. Vì Bảo Ngọc người vốn yếu, mùa hè cũng không dám dùng nước đá, chỉ lấy nước giếng mới múc lên, đem ngâm cả ấm nước trà vào trong chậu, cứ thế thay đổi để cho có hơi mát thôi. Bảo Ngọc cầm lấy chén nước ở tay Phương Quan uống một nửa rồi quay lại bảo Tập Nhân:
- Khi tôi về đã dặn Bồi Dính, nếu bên anh Trân có khách sang đến viếng, phải về báo tôi ngay. Không có việc gì cần, tôi sẽ không sang nữa.
Nói xong ra khỏi buồng, quay lại bảo bọn Bích Ngân:
- Có việc gì, sang bên cô Lâm tìm tôi.
Bảo Ngọc đi thẳng đến quán Tiêu Tương thăm Đại Ngọc.
Khi gần đến cầu Thấm Phương, thấy Tuyết Nhạn dẫn hai bà già mang theo củ ấu, ngó sen và mấy quả dưa, Bảo Ngọc hỏi Tuyết Nhạn:
- Xưa nay cô Lâm không ăn những thứ mát bao giờ, mang dưa ấu ấy về làm gì? Hay là định mời mợ nào, cô nào đấy?
Tuyết Nhạn cười nói:
- Tôi nói cho cậu nghe, nhưng cậu không được kể lại với cô tôi.
Bảo Ngọc gật đầu nhận lời.
Tuyết Nhạn bảo hai hà già:
- Mang những thứ dưa ấu này đi trước, giao cho chị Tử Quyên, nếu chị ấy hỏi, thì bà bảo tôi còn bận một tý, rồi về ngay.
Bà già nhận lời đi. Tuyết Nhạn mới nói:
- Hai hôm nay cô tôi mới thấy người dễ chịu. Hôm nay ăn xong, cô Ba đến rủ đi thăm mợ Hai, cô tôi không đi. Sau không thiết nghĩ đến việc gì, ngồi khóc một lúc, rồi cầm bút viết khá nhiều, không biết là thơ hay từ. Lúc sai tôi đi lấy dưa lấy ấu lại thấy sai chị Tử Quyên cất những thứ ở trên cái bàn nhỏ trong nhà đi, đem bàn bày ra phía ngoài. Rồi lại sai bày cái đỉnh Long Văn lên bàn, chờ khi mang dưa ấu về sẽ dùng. Nếu bảo là để mời khách, thì không lẽ lại bày lư hương ra trước. Nếu bảo là để thắp hương thì trong nhà cô tôi xưa nay trừ những khi có hoa quả mới ra, cũng vẫn không thích xông quần áo. Dù có thắp hương cũng phải thắp ở nơi mình thường nằm ngồi chứ. Chẳng lẽ vì các bà già nặng hơi, sặc sụa cả nhà mà phải đốt hương xông để át mùi đi hay sao? Rút cục chính tôi cũng chẳng hiểu tại sao cả. Cậu Hai thử đến mà xem.
Bảo Ngọc nghe xong, tự nhiên cúi đầu, trong lòng ngẫm nghĩ: “Cứ theo như lời Tuyết Nhạn, chắc có duyên cớ gì đây. Nếu có chị em nào đến chơi, cũng không cần phải bày biện như thế. Hay là gặp ngày giỗ chú, giỗ cô nào cũng nên? Nhưng mình vẫn nhớ hàng năm đến ngày giỗ ấy, cụ vẫn sai làm cỗ bàn riêng, mang sang cho cô Lâm làm lễ. Những ngày đó thì đã qua rồi. Có lẽ giờ là tháng bảy, mùa có dưa ấu và sen, nhà nào cũng ra mộ làm lễ cúng mùa thu, chắc cô Lâm trong lòng cảm động, nên đặt lễ riêng ở trong nhà, theo ý sách lễ ký “đến mùa xuân mùa thu thì dâng lễ vật trong mùa ấy” cũng chưa biết chừng. Bây giờ ta đến ngay, thấy cô ấy thương cảm, tất phải hết sức khuyên ngăn, sợ cô ấy trong bụng buồn rầu uất ức; không đến lại sợ cô ấy thương cảm quá không có người khuyên ngăn. Cả hai đều có thể làm cho cô ấy sinh ốm. Chi bằng hãy đến thăm chị Phượng, ngồi một lúc rồi về. Nếu thấy cô Lâm thương cảm, sẽ nghĩ cách khuyên giải. Như thế đã không để cho cô ấy đau khổ quá mà lại được hả nỗi đau thương ít nhiều, cũng không đến nỗi đau buồn thành bệnh.
Bảo Ngọc nghĩ xong, cáo từ Tuyết Nhạn, ra ngoài cửa vườn, đi thẳng đến nhà Phượng Thư. Bấy giờ nhiều bà già đến trình việc xong, lần lượt ra về. Phượng Thư đương đứng dựa cửa nói chuyện với Bình Nhi.
Trông thấy Bảo Ngọc, Phượng Thư cười nói:
- Chú đã về đây à? Tôi vừa dặn vợ Lâm Chi Hiếu, sai người đến bảo đứa hầu của chú, nếu không có việc gì thì mời chú về nhà nghỉ. Bên ấy đông người, chú chịu sao được những hơi hướng ấy? Không ngờ chú đã về rồi.
- Cám ơn chị nghĩ đến em. Vì hôm nay em rỗi việc, lại thấy hai ngày vừa rồi chị không sang phủ bên kia, không biết chị đã khỏi hẳn chưa, nên đến thăm chị.
- Bệnh chị nó cứ lằng nhằng thế thôi, ba ngày khỏe lại hai ngày ốm. Nhân lúc cụ và bà Hai đi vắng, các bà già không người nào chịu yên phận cả. Ngày nào không đánh nhau cũng cãi nhau, và đã xảy ra hai ha việc cờ bạc trộm cắp rồi đấy! Tuy cô Ba có giúp việc, nhưng lại là một cô gái chưa chồng, có việc nói cho cô ấy biết, cũng có việc không thể cho cô ấy biết, đành phải cố gượng làm lấy vậy. Không được một lúc nào trong bụng yên ổn! Đừng nói mong khỏi bệnh, chỉ mong đừng ốm thêm là được rồi.
- Tuy chị nói thế, nhưng chị cũng nên giữ gìn sức khỏe đừng lo nghĩ nhiều.
Rồi lại nói mấy câu chuyện phiếm, mới cáo từ Phượng Thư, đi về trong vườn. Khi đến cửa quán Tiêu Tương, thấy khói hương nghi ngút, rượu lễ sặc mùi. Tử Quyên đương đứng trông cho người thu dọn bàn và đồ lễ. Bảo Ngọc biết là đã lễ xong, liền chạy vào trong nhà, thấy Đại Ngọc nằm ngoảnh mặt vào trong, người mệt lử đi, có dáng khó chịu lắm. Tử Quyên vội nói:
- Cậu Bảo đã đến đấy.
Đại Ngọc mới uể oải ngồi dậy, mỉm cười mời Bảo Ngọc ngồi.
Bảo Ngọc hỏi:
- Mấy hôm nay em đã khỏe chưa! Thần sắc xem cũng tỉnh táo đấy, nhưng tại sao lại thương cảm như thế?
- Sao anh lại nói như vậy! Tự nhiên vô cớ khi nào em lại thương cảm?
- Mặt em hãy còn ngấn nước mắt, sao lại nói dối anh thế? Vì anh nghĩ, thường ngày em vốn là người lắm bệnh, việc gì cũng nên bỏ qua, đừng buồn rầu vô ích. Nếu cứ hủy hoại thân thể như thế, làm cho anh...
Vừa nói đến đấy, thấy khó nói được nữa, liền ngừng lại. Vì Báo Ngọc và Đại Ngọc tuy từ bé đến lớn cùng ở một chỗ với nhau, tính tính cũng hợp nhau, lại muốn sống chết cùng nhau, điều này chỉ biết riêng trong bụng, chưa từng nói hẳn ra mặt. Xưa nay Đại Ngọc tính hay chấp nhặt, nhỡ mình hấp tấp nói nhầm câu gì sợ lại mang lỗi với cô ta. Hôm nay cốt đến để khyên giải, không ngờ lại nói hấp tấp quá, thành ra không nói được nữa, trong bụng bối rối, lại sợ Đại Ngọc giận. Rồi lại nghĩ bụng, mình cốt cho Đại Ngọc được vui, vì thế lại đâm buồn rầu, ứa nước mắt ra.
Lúc đầu Đại Ngọc giận Bảo Ngọc nói không biết cân nhắc, nhưng trông thấy quang cảnh ấy, lòng cũng cảm động, và xưa nay tính vẫn hay khóc, nên bây giờ cũng lại nhìn nhau mà khóc.
Tử Quyên bưng nước đến, trong bụng đoán hai người này lại có chuyện gì cãi nhau đây, liền nói:
- Cô tôi vừa mới hơi đỡ, cậu Bảo lại đến trêu tức rồi. Lại vì chuyện gì như thế?
Bảo Ngọc lau nước mắt, cười nói:
- Ai dám trêu tức cô em?
Rồi đứng dậy dạo chơi, bỗng thấy dưới nghiên lòi ra một mảnh giấy, liền giơ tay cầm lấy. Đại Ngọc định đứng dậy giật lại, nhưng Bảo Ngọc đã giấu vào trong người, cười nói:
- Em ơi, để cho anh xem đã!
- Chẳng cứ cái gì, hễ đến là lục bừa ra!
Đại Ngọc vừa nói dứt lời, thì Bảo Thoa chạy đến cười nói:
- Cậu Bảo định xem cái gì đấy!
Bảo Ngọc chưa nhìn thấy trong giấy viết những gì, lại không biết bụng Đại Ngọc thế nào, nên không dám hấp tấp trả lời, chỉ nhìn Đại Ngọc mà cười. Đại Ngọc vừa mời Bảo Thoa ngồi, vừa cười nói:
- Tôi từng xem trong sử chép những người con gái có tài, có sắc mà cảnh ngộ suốt đời có nhiều điều làm cho người ta đáng vui, đáng khen, đáng thương, đáng tiếc. Hôm nay ăn cơm xong, rỗi việc, muốn chọn ra mấy người làm mấy bài thơ nhảm để bày tỏ nỗi lòng, vừa hay cô Thám lại đến rủ tôi đi thăm chị Phượng, nhưng tôi thấy người uể oải, không đi với cô ấy. Vừa làm xong được năm bài thơ, mệt quá vứt ra đấy, không ngờ anh Bảo đến trông thấy. Thực ra thì cho anh ấy xem cũng chẳng sao, nhưng tôi chỉ sợ anh ấy lại viết cho người ngoài xem thôi.
Bảo Ngọc vội nói:
- Tôi đã đưa cho ai xem bao giờ đâu. Hôm nọ vì tôi thích mấy bài thơ “Bạch hải đường”, nên có viết theo lối chân phương vào cái quạt, cốt để cầm luôn tay xem cho tiện. Tôi lại không biết bút tích thi từ trong khuê các không được tự tiện đem truyền ra ngoài. Từ khi em bảo tôi, không bao giờ tôi mang quạt ra ngoài vườn nữa.
Bảo Thoa nói:
- Cô Lâm nghĩ thế cũng phải. Cậu đã viết vào quạt, lỡ quên đi, mang để ở ngoài thư phòng, các ông nhà nho trông thấy, lẽ nào họ không hỏi ai làm? Lỡ họ đồn đại ra ngoài lại càng không hay. Người xưa nói: “Con gái không có tài ấy là đức” đấy! Con gái cần phải lấy trinh tĩnh làm chủ, nữ công cũng chỉ là việc cần thiết thứ hai. Còn như thi từ, chẳng qua là để chơi đùa trong khuê các, biết cũng được mà không biết cũng được. Chúng tôi là con gái trong những nhà thế này, không cần đến tiếng khen ngợi tài hoa ấy.
Rồi lại cười nói với Đại Ngọc:
- Cô cứ cho tôi xem không hại gì, chỉ không để cho cậu Bảo mang ra ngoài là được rồi.
Đại Ngọc cười nói:
- Chị đã nói thế, thì chính chị cũng không nên xem nữa.
Rồi trỏ vào Bảo Ngọc cười nói:
- Anh ấy đã cướp đi mất rồi.
Bảo Ngọc nghe nói, lấy ở trong người ra một tờ giấy, đến cạnh Bảo Thoa cùng xem, thấy viết:
TÂY THI(1)
Trôi theo hoa sóng ngán cho đời,
Luống để vua Ngô nhớ thiếp hoài.
Đừng bảo Đông Thi nhăn mặt vụng,
Bạc đầu mà vẫn giặt bên khơi.
NGU CƠ(2)
Gió thét chim kêu ruột rối ghê,
Nhìn ai buồn hát khúc “ngu hề”.
Kình, Bành(3) sau chịu thân làm mắm,
Thua kẻ trong màn tuốt kiếm kia.
MINH PHI(4)
Người tiên ra khỏi Hán cung,
Mỏng manh là kiếp má hồng xưa nay.
Quân vương dù rẻ thân này,
Trọng khinh thợ vẽ hỏi bay quyền gì?
LỤC CHÂU(5)
Hạt châu viên ngói quăng bừa,
Thạch Lang nào biết đẹp là gì đâu?
Cũng vì nợ trước duyên sau,
Kiếp này sống thác cùng nhau đỡ buồn.
HỒNG PHẤT(6)
Chống gươm tỏ vẻ anh hùng,
Mắt xanh biết kẻ đường cùng là ai?
Già Dương thoi thóp cầm hơi,
Dây nào mà buộc được người anh thư?
Bảo Ngọc xem xong, khen không dứt lời, nói:
- Thơ của em vừa đúng năm bài, sao không đặt tên là “Ngũ mỹ ngâm”?(7)
Rồi không chờ nói lại, Bảo Ngọc cầm bút viết ngay đằng sau. Bảo Thoa cũng nói:
- Làm thơ không kể là đầu bài gì, cốt khéo lật lại cái ý của cổ nhân là được. Nếu cứ theo dấu vết người trước mà làm, dù chữ có hay, câu có khéo thế nào đi nữa, cũng là kém, không gọi thơ hay được. Người xưa có rất nhiều thơ vịnh Chiêu Quân, có bài thương tiếc Chiêu Quân, có hài oán trách Mao Diên Thọ(8), lại có người chê vua Hán không cho thợ vẽ bầy tôi hiền, lại đi vẽ các mỹ nhân. Mỗi người mỗi ý, không ai giống ai. Sau Vương Kinh Công(9) lại có một câu: “Thần thái xưa nay ai vẽ nổi, giết Mao Diên Thọ cũng là oan”. Âu Dương Vĩnh Thúc(10) lại có câu: “Tai nghe mắt thấy còn như thế, muôn dặm ngăn sao được rợ Hồ”. Hai câu thơ này đều do ý sâu sắc của mình, không giống với người khác. Năm bài của cô Lâm cũng có thể gọi là dùng ý mới lạ, mở riêng ra một lối khác vậy.
Bảo Thoa còn muốn nói nữa, thì có người vào trình:
- Cậu Liễn đã về. Nghe người ngoài nói cậu ấy sang phủ Đông đã lâu rồi, chắc sẽ về đấy.
Bảo Ngọc nghe nói, đứng ngay dậy, ra cửa ngoài chờ đón, vừa gặp Giả Liễn từ ngoài xuống ngựa đi vào. Bảo Ngọc ra trước vái chào, trước hết hỏi thăm sức khỏe Giả mẫu và Vương phu nhân, sau mới hỏi thăm Giả Liễn. Hai người dắt tay nhau đi vào. Bọn Lý Hoàn, Phượng Thư, Bảo Thoa, Đại Ngọc, Nghênh Xuân, Thám Xuân, Tích Xuân đương đứng chờ ở nhà giữa. Mọi người chào hỏi nhau xong. Giả Liễn nói:
- Sáng sớm mai cụ về đến nhà. Đi đường người vẫn được mạnh khỏe. Hôm nay người sai tôi về thăm nhà trước. Sớm mai, canh năm tôi phải ra ngoài thành đón người.
Nói xong mọi người lại hỏi qua tình hình đi đường. Vì Giả Liễn đi xa mới về, mọi người đều cáo từ lui ra, để hắn về nhà nghỉ.
Vào khoảng bữa cơm sáng hôm sau, Giả mẫu, Vương phu nhân về đến nhà. Mọi người đến chào hỏi, ngồi một lúc, uống trà. Giả mẫu dẫn bọn Vương phu nhân sang bên phủ Ninh. Tới nơi, nghe bên trong tiếng khóc vang trời, đó là tiếng Giả Xá, Giả Liễn. Khi đưa Giả mẫu về đến nhà rồi, họ sang ngay bên này. Giả mẫu vào đến nhà, Giả Xá, Giả Liễn đã dẫn những người trong họ khóc lóc ra đón. Hai bố con mỗi người một bên, dìu Giả mẫu đi đến trước linh cữu. Giả Trân, Giả Dung quỳ xuống, gục vào lòng Giả mẫu khóc ầm lên. Giả mẫu tuổi già, thấy quang cảnh ấy cũng ôm lấy Giả Trân, Giả Dung khóc mãi. Giả Xá, Giả Liễn đứng bên cạnh khuyên ngăn, mới chịu thôi. Vòng sang bên hữu linh cữu, thấy Vưu thị và nàng dâu, lại khóc to lên một hồi. Khóc xong, mọi người mới đứng lên hỏi thăm sức khỏe.
Giả Liễn thấy Giả mẫu mới về, chưa được nghỉ ngơi, sợ ngồi mãi đấy, sẽ không khỏi thương tâm, liền khuyên can hai ba lần, Giả mẫu bất đắc dĩ mới chịu về nhà. Vì người già không chịu nổi phong sương và lòng thương xót, quả nhiên đến đêm Giả mẫu thấy nhức đầu đau bụng, ngạt mũi nặng tiếng, vội mời thầy thuốc đến xem mạch bốc thuốc, chạy cuống lên mất đúng một ngày và nửa đêm. May sao phát tán ngay được, bệnh chưa nhiễm sâu vào người, đến canh ba ra ít mồ hôi, mạch lắng xuống, người mát hẳn, cả nhà mới yên tâm. Hôm sau vẫn còn phải uống thuốc.
Mấy hôm sau, đến ngày đưa ma Giả Kính. Giả mẫu chưa khỏi hẳn, nên giữ Bảo Ngọc ở nhà hầu. Phượng Thư vì chưa được mạnh cũng không đi. Giả Xá, Giả Liễn, Hình phu nhân và Vương phu nhân dẫn người nhà và bọn đàn bà theo hầu đi đưa đám đến chùa Thiết Hạm, chiều tối mới về. Giả Trân, Vưu thị cùng Giả Dung ở lại chùa túc trực. Qua một trăm ngày mới rước linh cữu về nguyên quán. Mọi việc trong nhà vẫn nhờ già Vưu, dì Hai và dì Ba trông nom hộ.
Giả Liễn ngày thường vẫn nghe tiếng chị em họ Vưu, nhưng chưa có dịp được gặp. Gần đây, vì linh cữu Giả Kính để ở trong nhà, nên ngày nào hắn cũng gặp chị em họ. Nhìn nhau quen mặt trong bụng đâm ra thèm thuồng.Vả chăng ngày thường nghe cha con Giả Trân, Giả Dung vẫn có tiếng xấu hỗn dâm, vì thế Giả Liễn muốn nhờ dịp tìm cách khêu gợi đưa tình. Dì Ba biết vậy cứ lờ như không, riêng dì Hai lại có ý lưu luyến, chỉ vì người đông, tai mắt nhiều, nên chưa tiện dịp giở trò. Giả Liễn lại sợ Giả Trân ghen, chưa dám làm liều. Hai người cứ ngấm ngầm hiểu ý nhau thôi.
Từ khi rước linh cữu đi, trong nhà Giả Trân vắng người làm, chỉ có già Vưu, dì Hai, dì Ba cùng a hoàn và bọn bà già để sai vặt thôi, còn bao nhiêu tì thiếp đều đến chùa hầu hạ cả. Bọn đầy tớ đàn bà bên ngoài đêm đi tuần, ngày canh cửa, không có việc gì không vào đến nhà trong. Giả Liễn định nhân dịp ấy giở trò. Hắn mượn tiếng đến cùng ở với Giả Trân, rồi cũng vào nghỉ trong chùa, nhưng lại thường hay về trông nom đỡ việc nhà cho Giả Trân, thỉnh thoảng lại đến phủ Ninh gạ gẫm dì Hai.
Một hôm tên quản gia là Du Lộc đến trình Giả Trân:
- Món tiền chi việc bắc rạp, vải tang và may áo xanh cho người khênh đòn, cộng tất cả là 1.110 lạng bạc, đã trả được 500 lạng, còn thiếu 610 lạng nữa. Hôm nọ người bán hàng ở hai nơi đều đến đòi, con đến hỏi ông truyền bảo thế nào?
- Mày cứ đến kho mà lĩnh, việc gì phải hỏi ta nữa?
- Hôm nọ con đã đến kho lĩnh, nhưng từ khi cụ nhà mất, các nơi chi phí rất nhiều, lại phải để dành làm chay một trăm ngày và chi tiêu các việc trong miếu. Hiện giờ không có tiền chi ra, vì thế con phải đến hỏi ông. Hoặc tạm trích kho trong nhà ra, hoặc mượn món nào, xin ông truyền cho, con mới dám làm.
- Mày cứ tưởng lúc nào ta cũng sẵn tiền không tiêu như ngày trước hay sao. Thôi mày vay đâu được để trả cho người ta thì vay.
- Nếu một vài trăm con có thể lo liệu được, chứ những năm, sáu trăm thì con lấy đâu ra.
Giả Trân nghĩ một lúc rồi bảo Giả Dung:
- Đi hỏi mẹ mày xem, hôm nọ khi rước cữu, có nhà họ Chân ở Giang Nam đem đến viếng 500 lạng, chưa giao vào kho, nên về nhà gom góp thêm nữa rồi đưa cho nó mang đi trả.
Giả Dung vâng lời, chạy vào trong nhà trình Vưu thị, sau đó quay ra trình với Giả Trân:
- Món tiền ấy hôm nọ đã tiêu mất 200 lạng, còn lại 300 lạng, mẹ con đã sai người mang về nhà đưa cho bà giữ rồi.
Giả Trân nói:
- Đã thế, mày dẫn nó về nhà hỏi bà lấy tiền đó giao cho nó. Rồi xem nhà có việc gì không, và hỏi thăm sức khỏe hai dì mày. Còn thiếu bao nhiêu, Du Lộc sẽ vay tạm bù vào.
Giả Dung và Du Lộc vâng lời, định đi ra. Thấy Giả Liễn đi vào, Du Lộc vội đến chào, Giả Liễn hỏi: “Có việc gì?” Giả Trân kể lại cho nghe. Giả Liễn nghĩ bụng: “Nhân dịp này ta có thể về phủ Ninh lần đến với dì Hai được”. Liền nói:
- Đáng là mấy mà phải đi vay. Hôm nọ em vừa lấy được món tiền, chưa tiêu đến, chi bằng đưa cho nó thêm vào đấy, lại không đỡ việc hay sao?
- Như thế rất tốt, chú dặn cháu Dung bảo nó đi lấy một thể.
- Món tiền này em phải tự mình đi lấy mới được. Mấy hôm nay em chưa về nhà, cũng muốn về thăm sức khỏe cụ và cha mẹ, rồi sang bên anh xem bọn người nhà có sinh chuyện gì không, và cũng đến hỏi thăm sức khỏe bà thông gia luôn.
- Như thế thì phiền chú quá, tôi không đành lòng tý nào.
- Chỗ anh em nhà có ngại gì việc ấy.
Giả Trân lại dặn Giả Dung:
- Mày theo chú về hỏi thăm sức khỏe cụ, ông Cả và bà Cả, nhớ nói là ta và mẹ mày gửi lời hỏi thăm. Để ý hỏi xem cụ đã khỏi hẳn chưa, còn phải uống thuốc nữa không?
Giả Dung vâng lời, theo Giả Liễn đi ra, dẫn mấy người hầu cùng cưỡi ngựa về thành. Đi đường chú cháu nói chuyện với đi nhau. Giả Liễn có ý gợi chuyện dì Hai họ Vưu, khen ngợi nào là phong nhã, đứng đắn, đi đứng đường hoàng, ăn nói nhũn nhặn, cái gì cũng đáng để cho người ta kính mến. Ai cũng bảo thím đẹp, nhưng theo ý ta thì so với dì Hai mày đã thấm vào đâu.
Giả Dung biết ý, cười nói:
- Chú đã thích dì ấy, cháu xin làm mối, hỏi làm vợ hai cho chú có được không?
- Mày nói đùa hay nói thực thế?
- Cháu nói thực đấy chứ!
- Thế thì tốt lắm. Nhưng chỉ sợ thím mày không nghe và cũng sợ bà cụ không bằng lòng. Ta lại nghe dì Hai mày cũng đã có nơi rồi.
- Cái đó không can gì. Dì Hai và dì Ba không phải là con của ông cháu, mà là bà cháu mang đến nuôi. Cháu nghe nói, bà cháu khi còn ở nhà chồng trước có mang dì Hai cháu, đã hứa gả cho nhà họ Trương là người giữ trại nhà vua. Về sau, nhà họ Trương bị kiện sa sút, bà cháu cũng lại đi lấy chồng khác. Đến nay đã mười mấy năm, hai nhà không biết tin tức nhau nữa. Bà cháu thường hối hận, không muốn gả cho họ nữa. Cha cháu cũng muốn gả dì cháu cho người khác, chỉ chờ có người tử tế đến dạm, sẽ sai người đi tìm nhà họ Trương đến cho nó mười mấy lạng bạc, bảo nó viết một tờ thoái hôn. Nhà họ Trương nghèo túng thế, thấy tiền làm gì mà chả xong? Vả chăng, nó biết nhà ta thế này, bảo sao chẳng phải nghe. Chú mà lấy dì cháu về làm vợ hai, chắc bà cháu và cha cháu đều bằng lòng cả. Nhưng chỉ có chỗ thím là khó thôi.
Giả Liễn nghe thấy câu ấy, mừng nở gan nở ruột, còn biết nói gì nữa, chỉ cười ngẩn ra mà thôi.
Giả Dung lại nghĩ một lúc, cười nói:
- Nếu chú có can đảm, cứ theo ý cháu, chắc không can gì, chỉ phải tiêu tốn ít tiền thôi.
- Cháu ơi! Ý cháu thế nào, cứ nói cho chú nghe.
- Chú về nhà không nên để lộ ra một tí gì . Để cháu trình với cha cháu, nói với bà cháu xong đã, rồi tìm một nơi ở sau phủ, mua một cái nhà và các đồ dùng, cắt hai người đến đấy hầu hạ, chọn ngày tốt, cưới về đó, người không biết, ma không hay, rồi dặn họ không được để lộ tiếng tăm. Thím ở trong nhà sâu vườn rộng, biết thế nào được. Chú cứ ở hai nơi, độ một năm nửa năm, dù có vỡ chuyện, đến tai ông, bị mắng một trận là cùng. Chú cứ nói là vì thím không sinh đẻ nữa, muốn có con trai nối dõi, nên mới lấy giấu để ở bên ngoài. Khi thấy “gạo đã nấu thành cơm”, thím cũng đành phải chịu. Vả lại, nhờ cụ can thiệp cho thì việc gì mà chẳng xong.
Xưa có câu: “Dục vọng làm người ta mất khôn”. Giả Liễn chỉ thích dì Hai có sắc đẹp, nghe Giả Dung tán một hồi, cho là mọi việc đều êm thấm cả, có nghĩ đâu hiện mình đương có tang, có vợ rồi lại lấy vợ khác, bố thì nghiêm, vợ thì ghen. Tất cả những điều rắc rối đều gác ra ngoài cả. Mặt khác, Giả Dung cũng chẳng tử tế gì, ngày thường nó vẫn nô đùa với dì nó, chỉ vì có Giả Trân ở đấy, nên không được thỏa lòng. Giờ đây Giả Liễn lấy về, tất nhiên phải để ở bên ngoài, nhân những lúc Giả Liễn vắng mặt, nó sẽ dễ giở trò ma. Giả Liễn không hề nghĩ đến điều ấy, cứ cảm ơn Giả Dung:
- Cháu ơi, nếu cháu thu xếp được như thế, chú sẽ mua hai con hầu thật đẹp trả ơn cháu.
Hai người về đến cửa phu Ninh. Giả Dung nói:
- Chú đến nói với bà ngoại cháu để lấy tiền đưa cho Du Lộc mang đi. Cháu phải đến chào cụ đã.
Giả Liễn mỉm cười gật đầu nói:
- Đến bên cụ, cháu đừng nói chú cùng về với cháu nhé.
- Cháu biết rồi.
Giả Dung lại nói thầm với Giả Liễn:
- Hôm nay gặp dì Hai, chú không nên hấp tấp vội, lỡ xảy ra chuyện gì, thì sau khó xử lắm đấy.
- Đừng nói nhảm. Mày đi mau lên! Tao đợi ở đây.
Giả Dung đi sang chào Giả mẫu. Giả Liễn vào phủ Ninh. Tên quản gia dẫn mọi người đến chào, rồi lên nhà trên. Giả Liễn hỏi mọi người xong, bảo họ đi ra, một mình vào trong nhà. Vì Giả Liễn và Giả Trân là anh em thân mật với nhau, chẳng kiêng kỵ gì, nên cứ ra vào tự nhiên, không phải có người báo trước. Tới nhà trên, đã có bà già chực hầu ở dưới thềm vén rèm mời vào.
Giả Liễn đi và trong phòng, chỉ có dì Hai họ Vưu cùng hai a hoàn làm việc ở trên cái bục phía nam, không thấy bà già và dì Ba đâu cả. Giả Liễn đến trước mặt chào hỏi. Dì Hai mỉm cười mời ngồi, Giả Liễn ngồi xuống hàng ghế ở phía đông, mời dì Hai ngồi lên phía trên. Hàn huyên mấy câu, rồi Giả Liễn cười hỏi:
- Bà và dì Ba đi đâu? Sao không thấy?
- Vừa mới có việc đi ra ngoài, cũng sắp về.
Bấy giờ a hoàn đi pha trà, không có người nào ở đấy. Giả Liễn luôn luôn liếc nhìn dì Hai. Dì Hai chỉ cúi đầu mỉm cười không để ý đến. Giả Liễn không dám hấp tấp sỗ sàng. Thấy dì Hai đương mân mê chiếc khăn lụa buộc cái túi, hắn cũng ra vẻ băn khoăn sờ vào lưng, nói:
- Tôi quên không mang túi cau đến, cô có cau cho tôi một miếng.
- Có đây, nhưng cau của tôi xưa nay không cho ai ăn cả.
Giả Liễn cười, muốn đến gần để lấy. Dì Hai sợ có người trông thấy không tiện, liền cười rồi vứt khăn ra. Giả Liễn cầm lấy túi dốc ra, chọn miếng đã ăn giở, cho vào mồm nhai ngấu nhai nghiến, rồi lấy số cau còn thừa đùm lại. Đương định mang trả cái túi, thấy hai a hoàn pha trà mang đến. Giả Liễn vừa cầm lấy chén nước, vừa khẽ cởi viên ngọc Cửu Long đeo ở trong mình, buộc vào cái khăn tay lụa, nhằm lúc a hoàn quay đi, liền ném cái khăn sang. Dì Hai không cầm, giả vờ không trông thấy, cứ ngồi uống nước.
Lúc đó, phía sau có tiếng mở rèm, thì ra bà già họ Vưu cùng dì Ba dẫn hai a hoàn nhỏ từ đằng sau đi vào. Giả Liễn đưa mắt cho dì Hai, bảo cầm lấy khăn, dì Hai vẫn không để ý đến. Giả Liễn không biết ý dì Hai ra sao, rất là nóng ruột, đành phải đứng dậy chào bà già và dì Ba. Khi quay lại nhìn, dì Hai vẫn cười nói như thường, cái khăn lụa đã biến đâu không thấy nữa. Giả Liễn mới yên lòng. Rồi mọi người cùng ngồi xuống nói chuyện. Giả Liễn nói:
- Chị tôi bảo, hôm nọ có gửi bà một gói bạc. Nay cần tiền trả người ta, anh tôi sai tôi về lấy và nhân tiện hỏi xem trong nhà có việc gì không.
Bà già họ Vưu thấy nói thế, sai dì Hai mở khóa lấy gói bạc ra.
Giả Liễn lại nói:
- Nhân tiện tôi cũng đến chào bà và hỏi thăm hai dì. Trông sắc mặt bà thì khá đấy, chỉ có hai cô em thật là vất vả.
Bà già họ Vưu cười nói:
- Chúng ta là chỗ bà con thân thuộc, sao cậu lại nói thế? Ở nhà cũng như ở đây. Không nói giấu gì cậu, từ khi ông nó mất đi, nhà tôi thật là khó khăn, cái gì cũng phải nhờ bác nó(11) ở bên này giúp đỡ. Bây giờ bác nó có việc to tát như thế này, chúng tôi đã không giúp được việc gì khác, chỉ ngồi trông nhà, thì có gì là vất vả?
Đương nói thì dì Hai đã mang gói bạc ra, đưa cho bà già họ Vưu. Bà già đưa lại cho Giả Liễn. Giả Liễn sai một đứa a hoàn nhỏ gọi một bà già đến dặn:
- Già cầm gói bạc này đưa cho Du Lộc bảo nó mang về chờ tôi ở bên nhà.
Bà già vâng lời đi ra. Bỗng ở ngoài sân có tiếng Giả Dung. Một thoáng, hắn vào chào bà ngoại và hai dì, rồi quay lại cười nói với Giả Liễn:
- Vừa rồi ông Cả hỏi chú, ông nói là có việc gì cần, định sai người đến miếu gọi chú. Cháu nói chú sắp về đấy. Ông dặn cháu, nếu gặp chú ở đường, bảo chú phải về ngay.
Giả Liễn nghe nói, muốn đứng dậy ngay, nhưng lại nghe thấy Giả Dung nói với bà hắn:
- Lần trước cháu đã nói với bà là cha cháu muốn tìm chú dượng cho dì Hai. Người ấy mặt mũi và hình dáng chẳng khác gì chú cháu đây. Bà bảo có được không?
Nói xong lại khẽ trỏ tay vào Giả Liễn và hất làm cho dì Hai. Dì Hai không tiện nói câu gì, chỉ thấy dì Ba cười không ra cười, giận không ra giận, quát mắng:
- Thằng khỉ con đốn kiếp này! Hết chuyện cho mày nói rồi à? Thế nào ta cũng sẽ xé rách mồm mày ra.
Giả Dung cười chạy mất, Giả Liễn cũng cười rồi cáo từ đi ra. Tới nhà ngoài, Giả Liễn dặn dò người nhà không được đánh bạc, uống rượu. Lại khẽ dặn Giả Dung nói ngay việc ấy với Giả Trân. Giả Liễn lại dẫn Du Lộc về lấy đủ số tiền, giao cho hắn mang đi. Sau đến chào Giả Xá và Giả mẫu.
Giả Dung thấy Du Lộc theo Giả Liễn đi lấy tiền, mình không có việc gì liền quay vào trong nhà, đùa cợt với hai dì một lúc rồi mới đi. Buổi chiều đến chùa, Giả Dung vào trình Giả Trân:
- Đã giao tiền cho Du Lộc rồi. Cụ đã khỏi hẳn, không phải uống thuốc nữa.
Sau đó nhân tiện hắn lại nói việc khi đi đường, Giả Liễn ngỏ ý muốn lấy dì Hai làm vợ lẽ, rồi tìm một cái nhà ở bên ngoài để cho Phượng Thư không biết. “Muốn như thế chẳng qua là vì con cái hiếm hoi, và vì đã gặp mặt dì Hai rồi, hai bên thân lại thêm thân, hơn là lấy người ngoài xưa nay chưa hề quen biết”. Vì thế chú Hai ân cần nhờ con nói với cha.
Hắn không nói rõ đó là ý của mình.
Giả Trân nghĩ một lúc, cười nói:
- Việc đó cũng được thôi, nhưng không biết dì Hai có bằng lòng hay không. Sáng mai mày về nói với bà. Nhờ bà thử hỏi dì Hai xem rồi sẽ liệu.
Giả Trân lại bày cho Giả Dung mấy câu, rồi qua bên kia nói cho Vưu thị biết. Vưu thị biết việc này không ổn, nên cố can ngăn. Nhưng Giả Trân đã nhất định như thế, mà Vưu thị xưa nay vẫn quen lối chiều chồng, vả chăng dì Hai lại là chị em khác mẹ nên không cần để ý lắm, cứ mặc họ làm thế nào thì làm.
Sáng sớm hôm sau Giả Dung lại về thành thăm bà ngoại nói lại ý định của hắn rồi thêm thắt nhiều điều, nào là Giả Liễn người tử tế, hiện giờ thím Phượng đương ốm, khó lòng khỏi được. Trước hết hãy mua tạm một cái nhà cho dì ở riêng bên ngoài độ một năm, năm bảy tháng, chờ thím Phượng chết đi là đón dì Hai về làm chính thất. Lại nói đến việc cha hắn sẽ đứng lên sắm sửa lễ cưới như thế nào, bên Giả Liễn sẽ làm lễ cưới ra sao, rồi sẽ đón bà về nuôi nấng thế nào, còn dì Ba sau này cũng sẽ do bên ấy gả bán cho. Nó tán hươu một hồi, làm bà già họ Vưu chẳng bằng lòng. Vả chăng ngày thường bà ta vẫn nhờ Giả Trân giúp đỡ, bây giờ Giả Trân lại đứng lên chủ hôn, mình không phải sắm sửa đồ tư trang, Giả Liễn lại là chàng công tử trẻ tuổi, hơn nhà họ Trương nhiều. Vì vậy bà già vào bàn với dì Hai. Dì Hai vốn là người lẳng lơ, dâm đãng, trước kia đã tằng tịu với anh rể, thường oán mình gả nhầm cho Trương Hoa đến nỗi sau này phải long đong cả đời, không nơi nương tựa. Nay thấy Giả Liễn yêu mình, mà anh rể mình lại đứng lên gả bán cho thì làm gì mà chẳng bằng lòng? Dì Hai gật đầu nhận lời ngay.
Giả Dung về trình với cha hắn. Sáng hôm sau sai người mời Giả Liễn đến chùa, Giả Trân nói cho hắn biết về việc bà già Vưu đã bằng lòng.
Giả Liễn mừng quá, cám ơn hai cha con Giả Trân. Hai người bàn với nhau, sai người đi tìm nhà, sắm cho dì Hai những đồ trang sức, giường màn và các thứ cần dùng trong nhà mới. Chỉ trong mấy ngày, mọi việc đã thu xếp đâu vào đấy, Giả Liễn mua một cái nhà hai mươi gian ở trong ngõ Tiểu Hoa Chi, cách phía sau phủ Vinh, phủ Ninh độ hai dặm. Lại mua hai a hoàn nhỏ nữa. Giả Trân lại cho hai vợ chồng Bào Nhị vào ở nhà mới để chờ hầu hạ dì Hai.
Sau đó Giả Trân lại cho gọi bố con Trương Hoa đến, bắt nó viết tờ thoái hôn đưa cho bà già họ Vưu.
Trước đây, ông của Trương Hoa là người coi trại cho nhà vua. Người ông chết đi, bố Trương Hoa lại làm việc ấy. Vì bố Trương Hoa chơi thân với người chồng trước của bà già họ Vưu, nên ông ta đã hứa gả dì Hai cho Trương Hoa từ lúc ở trong bụng mẹ. Không ngờ về sau nhà Trương Hoa bị kiện, cửa nhà sa sút, ăn mặc không đủ, thì còn lấy gì mà cưới vợ nữa. Sau bà già họ Vưu lại đi lấy chồng khác, thành ra mười mấy năm ròng hai bên im bặt không có tin tức đi lại. Nay thấy người nhà phủ Giả gọi đến, bắt phải thoái hôn với dì Hai, Trương Hoa tuy không bằng lòng, nhưng sợ uy thế Giả Trân, nên đành phải viết giấy thoái hôn. Bà già họ Vưu cho hắn hai mươi lạng bạc, thế là xong việc.
Giả Liễn thấy công việc thu xếp đâu vào đấy, liền chọn ngày mồng ba là ngày hoàng đạo, đón dì Hai về. Chính là:
Bởi tại cùng cành tham sắc dục;
Gây nên liền gốc nổi gươm đao.
-------------------------------
(1).Người con gái đẹp nước Việt, mỗi khi nhăn mặt lại thấy đẹp thêm. Có nàng Đông Thi rất xấu, cũng bắt chước ôm bụng nhăn mặt, người ta trông thấy bỏ chạy. Tục truyền Tây Thi có đến giặt áo quần ở khe Nhược Gia (thuộc huyện Thiệu Hưng).
(2). Vợ Hạng Vũ nước Sở, thường theo Hạng Vũ ra trận. Khi Hạng Vũ bị thua ở đất Cai Hạ, nàng rút kiếm ra tự tử.
(3). Kình Bố và Bành Việt là hai viên tướng đời Hán Cao Tổ; bị Cao Tổ giết chết và xào thịt làm mắm.
(4). Tức Vương Chiêu Quân, đời Hán Nguyên Đế, bị đưa sang cống Hồ.
(5). Ái thiếp của Thạch Sùng đời Tần. Khi Thạch Sùng bị giết, Lục Châu nhảy trên lầu xuống tự tử.
(6). Con hầu của Dương Tố đời Tùy, tên là Xuất Trần. Khi Lý Tĩnh vào hầu Dương Tố, Xuất Trần liếc mắt nhìn. Đêm ấy lẻn ra theo Lý Tĩnh.
(7). Vịnh năm người con gái đẹp.
(8). Người thợ vẽ đã vẽ xấu dung mạo Chiêu Quân.
(9). Tức Vương An Thạch, tể tướng đời Tống.
(10). Tức Âu Dương Tu, một nhà văn nổi tiếng đời Tống.
(11). Chỉ Giả Trân.
Hồi thứ sáu mươi lăm
Giả Liễn vụng trộm cưới dì Hai;
Dì Ba quyết lòng lấy chàng Liễu.
Giả Liễn, Giả Trân và Giả Dung bàn định mọi việc xong xuôi, đến ngày mồng hai, cho mời bà già Vưu cùng dì Ba vào ở nhà mới. Bà già họ Vưu nhìn một lượt, tuy không được như lời Giả Dung nói, nhưng thấy mọi thứ đầy đủ cả, hai mẹ con đều lấy làm bằng lòng. Hai vợ chồng Bào Nhị rất là vồn vã nồng nhiệt luôn miệng gọi bà già họ Vưu là “mẹ” hoặc “cụ”, gọi chị Ba là “dì ba” hoặc “dì”. Canh năm sáng hôm sau, một cỗ kiệu đưa dì Hai đến, hương nến, ngựa giấy, chăn màn cùng cơm rượu đã sắp đủ cả. Một lúc sau, Giả Liễn mặc quần áo thường, ngồi kiệu nhỏ đến, lễ trời đất, đốt ngựa giấy. Bà già Vưu thấy chị Hai ăn mặc toàn mới, không như lúc còn ở nhà, nên rất đắc ý. Hai người dắt nhau vào động phòng. Đêm ấy Giả Liễn cùng chị Hai phượng loan nghiêng ngửa, ân ái tràn trề, không thể kể ra hết được.
Giả Liễn càng nhìn càng yêu, càng ngắm càng mến, không biết làm cách gì để chiều chuộng dì Hai cho phải. Hắn truyền cho bọn Bào Nhị không được dùng tiếng hai ba gì cả, cứ gọi thẳng dì Hai là “mợ”. Ngay hắn cũng gọi là “mợ” mà gạt phăng Phượng Thư đi. Có khi về nhà, hắn cứ nói là sang bên phủ Đông có việc. Phượng Thư biết hắn thân với Giả Trân, chắc có việc gì bàn bạc, nên cũng không ngờ vực. Trong nhà tuy nhiều người, nhưng chẳng ai để ý đến việc ấy. Ngay những kẻ nhàn rỗi, hay tò mò bới việc cũng đều chiều ý Giả Liễn, muốn nhân đó luồn lọt kiếm chác, còn ai nói hở ra nữa.
Giả Liễn rất cám ơn Giả Trân. Mỗi tháng hắn bỏ ra mười lăm lạng bạc để chi dùng hàng ngày. Khi Giả Liễn không đến, thì ba mẹ con họ Vưu cùng ăn một nơi, khi Giả Liễn đến thì hai vợ chồng hắn ăn với nhau, mẹ con bà già Vưu về phòng ăn riêng. Giả Liễn lại đem hết cả tiền riêng của mình dành dụm mấy năm đưa cho dì Hai giữ. Những khi đầu gối má kề, Giả Liễn kể hết chuyện ngày thường của Phượng Thư cho dì Hai nghe. Chỉ chờ khi nào Phượng Thư chết, sẽ đón dì Hai về. Dì Hai nghe nói tất nhiên vui lòng lắm. Trong nhà độ mười người ăn tiêu rất là đầy đủ.
Thấm thoát đã hai tháng. Hôm đó Giả Trân lễ Phật ở chùa Thiết Hạm xong, đến chiều về nhà. Đã lâu không được gặp chị em họ Vưu, nên Giả Trân định đến thăm. Hắn sai người hầu đến trước xem Giả Liễn có ở đấy không. Người hầu về trình: “Cậu Liễn không có ở đấy”. Giả Trân thích lắm, bảo người nhà về trước, chỉ để lại đứa hầu thân dắt ngựa. Một lúc đến nhà vừa mới lên đèn, Giả Trân lẳng lặng đi vào. Hai đứa hầu đem ngựa buộc ở ngoài vườn, rồi xuống nhà dưới chực hầu.
Khi Giả Trân vào, trong nhà mới thắp đèn. Trước hết Giả Trân vào thăm mẹ con già Vưu, sau đó dì Hai ra chào. Giả Trân trông thấy dì Hai hớn lở vui cười, vừa uống nuớc vừa nói:
- Người tôi làm mối thế nào? Nếu lỡ dịp thì có thắp đèn lồng đi tìm cũng chẳng thấy. Mai kia, chị nhà sẽ mang lễ đến mừng chú và dì đấy.
Trong khi nói chuyện, dì Hai đã sai người dọn rượu. Rồi đóng cửa lại, vì đều là người trong một nhà, nên không e dè gì cả. Bào Nhị đến chào, Giả Trân nói:
- Anh là người có bụng tốt, nên cậu Hai bảo anh vào đây hầu. Sau này còn cần đến anh nhiều nữa đấy. Anh không nên ra ngoài uống rượu gây chuyện, thế nào ta cũng sẽ thưởng cho. Cậu Hai thì bận việc, bên ấy lại đông người, nếu có gì thiếu thốn, anh cứ đến trình ta. Anh em chúng ta không như người khác đâu.
- Cháu biết rồi, chỉ trừ cháu mất đầu mới không hết lòng hầu hạ thôi.
- Anh mà biết thế thì tốt lắm.
Bốn người cùng ngồi uống rượu, dì Hai biết chừng, liền nói với bà già họ Vưu:
- Con sao cứ sờ sợ, mẹ cùng con đi sang bên kia đi.
Bà già họ Vưu hiểu ý, cùng dì Hai đi ra, chỉ còn trơ lại lũ a hoàn nhỏ. Giả Trân liền ngấp nghé dì Ba, định giở trò bậy bạ. Bọn a hoàn nhỏ thấy ngượng, đều lẩn đi một nơi, để mặc hai người muốn làm trò gì thì làm.
Hai người hầu nhỏ thì xuống uống rượu với Bào Nhị ở dưới bếp. Vợ Bào Nhị đương làm cơm. Chợt thấy hai a hoàn chạy xuống, cười đùa đòi uống rượu, Bào Nhị nói:
- Các chị không hầu ở trên ấy, sao lại lẻn xuống đây? Nhỡ ông gọi đến, không có ai, lại sinh chuyện.
Vợ hắn mắng:
- Đồ ngu! Nốc cho nhiều rượu vào. Say bứ họng ra rồi dấp cổ mà ngủ đi. Gọi hay không có việc gì đến anh. Việc gì đã có tôi đây. Mưa hay gió cũng chẳng ướt đến đầu thứ người ấy.
Bào Nhị nhờ vợ mới có thể diện. Gần đây ngoài việc ăn bớt tiền đi uống rượu, hắn không nhìn đến việc gì. Giả Liễn cũng không hề trách mắng hắn. Vì thế, hắn sợ vợ như mẹ, bảo gì nghe nấy. Lúc này hắn uống rượu say mềm, đi ngủ ngay.
Bấy giờ vợ Bào Nhị cùng ngồi uống rượu với bọn a hoàn và người hầu, cố chiều lòng bọn này để chúng ton hót với Giả Trân.
Đang uống rượu cao hứng thì có tiếng gõ cửa, vợ Bào Nhị chạy ra mở cửa, thấy Giả Liễn xuống ngựa, hỏi nhà có việc gì không. Vợ Bào Nhị khẽ nói:
- Ông Cả bên phủ Đông đương ở buồng phía tây kia.
Giả Liễn nghe nói, đi vào buồng, thấy dì Hai cùng bà già họ Vưu đương ở đấy. Thấy Giả Liễn vào, dì Hai có vẻ hơi ngượng. Giả Liễn làm ra không biết, chỉ nói:
- Thôi lấy rượu ra, chúng ta uống vài chén rồi đi ngủ. Hôm nay anh mệt lắm.
Dì Hai cười, đỡ áo, bưng nước, hỏi vắn hỏi dài, Giả Liễn thích quá, trong bụng ngứa ngáy khó chịu. Một lúc, vợ Bào Nhị bưng rượu lên, hai người cùng uống. Bà già họ Vưu không uống, về buồng ngủ ngay. Hai a hoàn nhỏ chia nhau mỗi đứa hầu mỗi nơi.
Đứa hầu thân của Giả Liễn là thằng Long dắt ngựa, trông thấy ở đấy có một con ngựa nữa, nhìn kỹ biết là ngựa của Giả Trân. Nó hiểu ý, chạy xuống dưới bếp. Thẳng Hỉ và thằng Thọ đương ngồi uống rượu ở đấy, thấy thằng Long vào, cũng đều hiểu ý, cười nói:
- Anh đến thật là khéo. Vì chúng tôi không theo kịp ngựa ông tôi, sợ đi đêm khuya bị phạt, phải vào nghỉ nhờ ở đây một tối.
Thằng Long cười nói:
- Có giường thì các anh cứ ngủ. Cậu Hai sai tôi mang tiền sang giao cho mợ rồi. Tôi cũng không về nữa.
Thằng Hỉ bảo thằng Long:
- Chúng tôi uống nhiều rồi, anh lại đây uống một chén.
Thằng Long vừa ngồi xuống, cất chén rượu lên, nghe thấy trong chuồng có tiếng ngựa hét. Vì hai con ngựa buộc cùng chuồng, không chịu, nên chúng cắn đá nhau. Bọn thằng Long vội bỏ chén rượu xuống, chạy ra quát cho im đi, buộc riêng mỗi con ra mỗi nơi rồi đi vào. Vợ Bào Nhị cười nói:
- Các chú ngủ đi. Trà được rồi, ta phải đi đây.
Thằng Hỉ uống mấy chén, say đờ mắt ra. Thằng Long, thằng Thọ đi đóng cửa, quay lại thấy thằng Hỉ nằm sóng sượt trên giường. Hai đứa đẩy nó, nói:
- Anh ơi, dậy đi, rồi nằm cho ngay ngắn mà ngủ. Anh chỉ biết lấy mình, còn để khổ cho chúng tôi.
Thằng Hỉ cười nói:
- Hôm nay chúng ta trông thấy một lò bánh nướng thật đường hoàng. Nếu có đứa nào, ta phải đ... mẹ nó một cái cho sướng.
Thằng Long, thằng Thọ biết nó say, cũng mặc kệ, tắt đèn đi ngủ.
Dì Hai nghe thấy ngựa hét, trong bụng rất áy náy, cứ phải tìm cách nói lấp đi. Giả Liễn uống được mấy chén, hứng lên, sai cất dọn bàn rượu rồi đóng cửa cởi áo đi ngủ. Dì Hai chỉ mặc một áo chẽn đỏ, tóc buông xõa, vẻ mặt lẳng lơ, trông càng đẹp hơn ban ngày. Giả Liễn ôm lấy cười nói:
- Ai cũng bảo con vợ dạ xoa nhà anh đẹp, nhưng bây giờ xem ra nó xách dép cho em cũng không đáng!
Dì Hai nói:
- Em có đẹp lại kém phẩm hạnh, chẳng thà đừng đẹp còn tốt hơn.
- Sao em lại nói thế? Anh không hiểu.
Dì Hai rớm nước mắt nói:
- Các người cho em là người hồ đồ, nhưng có việc gì mà em chẳng biết. Bây giờ chúng ta làm bạn với nhau mới hai tháng, kể ra hãy còn mới mẻ, nhưng em biết anh không phải là người hồ đồ. Em sống là người của anh, chết là ma của anh! Đã là vợ chồng thì suốt đời em trông cậy vào anh, còn dám giấu anh một tí gì? Hôm nay em đã có nơi nương tựa rồi. Còn dì nó sau này biết kết quả ra sao? Theo ý em, nếu cứ nhập nhằng mãi như thế, sợ không thể yên được đâu, phải nghĩ một cách nào lâu dài mới được!
Giả Liễn cười nói:
- Em cứ yên tâm, anh không phải là người hay ghen tuông đâu. Việc trước của em, anh biết cả rồi, em không cần phải nói úp mở nữa. Bây giờ em thấy anh ấy, tất nhiên cũng ngượng. Chi bằng ta phải bỏ thói đó đi.
Nói xong, Giả Liễn đi sang phòng phía tây, thấy trong cửa sổ đèn nến sáng trưng, hai người vẫn đang uống rượu vui đùa. Giả Liễn đẩy cửa vào, nói.
- Anh ở đây à, em sang chào anh.
Giả Trân đứng dậy mời ngồi. Giả Liễn cười nói:
- Anh làm gì như vậy? Chúng ta là chỗ anh em từ trước đối xử với nhau như thế nào. Anh phải bận lòng vì em, dù em có thịt nát xương tan cũng không quên ơn. Nếu anh quá nghĩ, làm em càng khó xử. Từ nay xin anh cứ coi như người thường mới phải, nếu không, em thà đành chịu không có con trai, chứ không dám đến chỗ này nữa.
Nói xong liền quỳ xuống. Giả Trân vội kéo dậy nói:
- Chú bảo gì anh cũng xin vâng lời.
Giả Liễn sai:
- Mang rượu đến đây, ta cùng anh Cả uống vài chén.
Rồi lại cười hì hì bảo dì Ba:
- Sao dì không mời ông chú uống một chén.
Giả Trân cười nói:
- Chú Hai! Vì chú, anh cũng uống cạn chén này.
Nói xong, ngửa cổ lên uống.
Dì Ba đứng ở trên giường, chỉ vào Giả Liễn, cười nhạt:
- Anh đừng có giở giọng đường mật với tôi. Đem miến nấu với nước lã, anh ăn đi tôi xem. Đưa người vẽ lên sân khấu, khéo kẻo làm rách giày. Anh đừng lú lấp ruột gan, tưởng chừng tôi không biết việc trong nhà các anh hay sao? Lần này anh em nhà anh định vung một ít tiền thối ra, coi chị em chúng tôi là đĩ thõa để mua vui. Các anh đừng có nghĩ nhầm! Tôi cũng biết vợ anh là một người đáo để. Nay anh lấy chị tôi làm vợ lẽ, khác nào “kẻ ăn trộm chiêng không dám đánh”. Tôi nhất định gặp chị Phượng, xem chị ấy có mấy đầu mấy tay! Nếu hai bên hòa thuận thì thôi, chứ có việc gì ngang trái, tôi cũng đủ sức moi ruột móc gan các anh ra, rồi liều chết với con mụ cay nghiệt ấy một phen. Uống rượu chứ sợ gì. Nào chúng ta uống đi.
Nói xong, chị ta cầm ngay lấy nậm rót ra một chén, rồi kéo Giả Liễn lại, dốc nốt cho hắn, nói:
- Tôi đã uống với ông anh anh rồi. Bây giờ chúng ta uống với nhau.
Giả Liễn sợ quá, tỉnh hẳn rượu. Giả Trân cũng không ngờ dì Ba lại giở mặt đến thế. Hai anh em hắn xưa nay quen lối ăn chơi sỗ sàng trong đám giăng hoa, không dè hôm nay lại bị cô gái này choảng cho một vố, không hé răng vào đâu được.
Dì Ba thấy thế, càng dồn già:
- Mời chị ra đây! Muốn vui thì bốn người chúng ta cùng vui. Tục ngữ nói: “Vui gì cho bằng người nhà”. Các anh là anh em, chúng tôi là chị em, không phải người ngoài, chị cứ ra đây.
Dì Hai bấy giờ thấy ngượng. Giả Trân định nhân dịp chuồn nhưng dì Ba khi nào chịu buông. Bấy giờ Giả Trân mới hối hận, không ngờ cô ta là hạng người như thế. Hắn cùng Giả Liễn không còn giở thói khinh bạc được nữa.
Dì Ba tháo đồ trang sức, cởi áo ngoài, vén tóc mai lên, chỉ mặc một cái áo lót đỏ, nửa kín nửa hở, cố ý để lộ bộ ngực trắng nõn ra, dưới mặc quần xanh, đi giày đỏ, trông rất lộng lẫy. Lúc đứng lúc ngồi, khi vui khi giận, không có một phút nghiêm trang, đôi khuyên cứ lủng lẳng như đánh đu; dưới ánh đèn, trông càng tỏ ra mày liễu xanh rờn, môi son đỏ chót, đôi mắt như nước mùa thu, lại uống mấy chén rượu, càng thêm lẳng lơ khêu gợi. Vẻ đẹp của chị ta không những ăn đứt chị Hai, mà theo lời ca tụng của Giả Trân, Giả Liễn, thì biết bao con gái, bất cứ nhà sang hay hèn, từ trên chí dưới, họ đã được nhìn qua, chưa ai có dáng điệu phong lưu, lộng lẫy như vậy. Hai người càng nhìn càng say, bất giác gọi dì Ba lại. Nhưng dáng điệu lẳng lơ tình tứ của dì Ba lại làm cho hai người phải im bặt. Chị giơ tay ra, thử một tý, thấy hai anh em nhà kia chẳng biết chút gì, ấp úng không nói được một câu, chẳng qua chỉ là đồ “tửu sắc” mà thôi. Chị Ba cứ cười nói huyên thuyên, tự ý muốn làm gì thì làm, lôi hai anh em nhà kia ra làm trò đùa một trận, khác nào chị ghẹo con trai, chứ không phải con trai dám chòng ghẹo chị. Một lúc, rượu say, hết hứng, chị Ba không muốn cho anh em họ ngồi lâu, liền đuổi ra, rồi đóng cửa đi ngủ.
Từ đó trở đi, bọn a hoàn hầu hạ không đến nơi đến chốn, chị Ba cứ mắng bọn Giả Trân, Giả Liễn, Giả Dung thậm tệ. Chị nhiếc là bố con, anh em nó đã lừa dối gái góa, con côi. Từ đó Giả Trần không dám bén mảng đến nữa. Chị Ba nhiều lúc cao hứng, lại sai đứa hầu nhỏ đi mời, hắn mới dám đến, nhưng mặc chị Ba muốn làm gì thì làm.
Chị Ba có tính kỳ quặc lạ thường, vì nhan sắc chị ta có vẻ phong lưu lịch sự, lại thích trang điểm hơn người, nay lối này, mai kiểu khác, làm ra nhiều vẻ lẳng lơ không ai theo kịp. Bọn đàn ông nhìn thấy thèm thuồng, muốn gần không được, muốn xa không dứt, đầu óc cứ choáng váng, say mê. Chị ta thấy thế lại cho là khoái trí. Bà già và chị Hai khuyên can. Chị ta nói:
- Chị thực là hồ đồ! Chúng ta là thân vàng ngọc, nỡ để cho hai thằng quỷ dữ ấy giày vò nhơ bẩn đi thì hèn quá! Nhà nó có một chị vợ rất là đanh ác, bây giờ lén lút không cho biết cũng được đấy, nhưng sau này chị ta biết, lẽ nào lại chịu thôi. Chắc rồi sẽ có một phen lục đục, biết đâu ai sống ai chết. Không bằng nhân lúc này chúng ta đưa nó ra làm trò cười, khỏi về sau phải mang tiếng xấu, hối cũng đã muộn.
Hai mẹ con thấy chị Ba nói thế, biết không khuyên nổi, nên cũng đành thôi.
Chị Ba ngày nào cũng kén chọn thức ăn đồ mặc, đã đeo bạc lại muốn đeo vàng, có hạt châu lại đòi ngọc báu; ăn ngỗng xong lại đòi mổ vịt; có điều gì không bằng lòng, liền hất cả mâm đi. Quần áo không vừa ý thì bất cứ lụa là mới may cũng lấy kéo cắt vụn ra, vừa xé vừa mắng. Rút cục bọn Giả Trân có được ngày nào vừa ý đâu? Trái lại phải tiêu trộm mất bao nhiêu là tiền. Nhưng khi Giả Liễn đến, chỉ ở buồng chị Hai, trong bụng đã dần dần hối hận. Chị Hai lại là người đa tình, cho Giả Liễn là người nương tựa suốt đời của mình, việc gì cũng chăm sóc hỏi han. Chị Hai lại có vẻ dịu dàng hòa thuận, không những mọi việc bàn bạc không dám lộng quyền mà đáng điệu và lời nói việc làm cũng hơn hẳn Phượng Thư. Nhưng đã trót lỡ bước mắc phải một chữ “dâm” rồi, thì bao nhiêu điều hay cũng vứt đi cả. Giả Liễn lại nghĩ: “Ai không có điều lầm lỗi? Nhưng biết lỗi mà sửa đổi đi thì tốt”. Cho nên hắn không nhắc đến việc dâm lúc trước, chỉ kể điều hay bây giờ thôi, thành ra hai người một lòng một dạ, dính như keo sơn, thề cùng sống chết với nhau, còn để ý gì đến Phượng Thư và cô Bình nữa.
Những khi bên chăn bên gối, chị Hai cũng thường khuyên Giả Liễn:
- Anh nên bàn với anh Cả xem có quen biết người nào thì gả chồng cho dì Ba đi, cứ để mãi thế này không tiện đâu, sau tất có ngày sinh chuyện.
- Hôm nọ anh đã nói với anh Cả rồi, nhưng anh ấy không chịu buông ra. Anh ấy lại nói “miếng thịt dê béo thực, nhưng nóng quá sợ bỏng mồm; hoa hồng đáng yêu thực, nhưng nhiều gai đâm phải tay”. Chúng ta chưa chắc đã nói nổi, nên chọn người gả cô ấy đi là phải. Nhưng anh ấy cứ dùng dằng bỏ qua. Như thế em bảo anh còn có cách gì nữa.
- Anh cứ yên tâm, chúng ta sẽ khuyên dì Ba, hỏi lại cho rõ, cứ để cho dì ấy quấy, quấy chán không còn cách gì nữa, rồi cũng phải lấy chồng thôi.
- Phải đấy.
Hôm sau chị Hai sắp dọn rượu. Giả Liễn cũng không đi đâu, đến trưa mời em và mẹ đến. Chị Ba đã biết ý, khi mời rót rượu không để cho chị phải nói, rỏ nước mắt nói trước:
- Hôm nay chị mời em đến, tất là định một việc gì quan hệ đây, nhưng em không phải là người mê muội, chị không cần phải nói đi nói lại nhiều điều. Những việc về trước em đã biết hết cả, nói cũng vô ích. Bây giờ chị đã được chỗ tử tế yên thân, mẹ cũng đã có chỗ nương tựa, em cũng phải tự mình lo liệu lấy cuộc đời mới đúng lẽ. Nhưng việc này quan hệ suốt đời, từ lúc sống đến lúc chết, không phải trò đùa. Chị muốn em sửa chữa tính nết thì phải chọn một người như ý muốn, em mới lấy. Nếu để mẹ và chị chọn cho, dù là người giàu như Thạch Sùng, tài hơn Tử Kiến, đẹp sánh Phan An, em cũng không bằng lòng, đành bỏ qua một đời thôi.
Giả Liễn cười nói:
- Việc ấy dễ lắm. Dì bằng lòng ai thì lấy người ấy. Những đồ sính lễ đã có anh chị xếp đặt cho, mẹ cũng không phải bận lòng.
Chị Ba khóc nói:
- Ai thì chị đã biết rồi, em không cần phải nói.
Giả Liễn cười hỏi chị Hai:
- Ai thế?
Chị Hai nghĩ mãi không ra. Giả Liễn đoán, rồi vỗ tay cười nói:
- Anh biết người ấy rồi, khen cho em tinh mắt thực!
Chị Hai cười hỏi: “Ai đấy?”
- Người khác khi nào dì ấy bằng lòng. Nhất định là Bảo Ngọc.
Chị Hai và bà già Vưu nghe thấy nói thế, cũng chắc là Bảo Ngọc.
Chị Ba nhổ toẹt một cái, nói:
- Chúng tôi có mười chị em cùng phải lấy mười anh em nhà anh hay sao. Chẳng lẽ trừ nhà anh ra, thiên hạ không còn có người con trai nào giỏi à?
Mọi người đều lấy làm lạ nói:
- Trừ Bảo Ngọc ra, còn có người nào nữa?
Chị Ba nói:
- Chị đừng nghĩ đến người hiện giờ ở đây, cứ nhớ lại việc năm năm về trước thì biết.
Đương nói chuyện, chợt thấy đứa hầu thân của Giả Liễn là thằng Hưng đến mời về, nói:
- Ông nhà đương chờ cậu có việc cần. Cháu nói là cậu đương ở bên nhà ông cậu. Cháu phải chạy ngay lại đây mời cậu.
Giả Liễn hỏi:
- Ở nhà hôm qua có hỏi gì ta không?
- Cháu trình với mợ: cậu phải ở trong miếu bàn việc làm lễ trăm ngày với ông Cả bên kia, có lẽ không về được.
Giả Liễn sai dắt ngựa ra, thằng Long theo sau, để thằng Hưng ở lại xem có ai hỏi gì không?
Chị Hai lấy ra hai đĩa thức ăn, sai lấy chén to để rót rượu, bảo thằng Hưng đứng ở cạnh giường uống rồi nhỏ to, hỏi nó mấy câu:
- Mợ bên nhà độ bao nhiều tuổi? Là người đáo để như thế nào? Cụ bao nhiêu tuổi? Có bao nhiêu cô? - Cùng những việc vặt trong nhà.
Thằng Hưng cười hì hì, đứng bên cạnh giường vừa uống rượu, vừa kể tỉ mỉ các việc bên phủ Vinh cho mẹ con chị Hai nghe. Lại nói:
- Cháu là người canh cửa thứ hai. Chúng cháu có hai tốp, mỗi tốp bốn người, tất cả là tám người. Có mấy người thân với mợ, chúng cháu không dám động đến. Những người hầu thân của cậu, thì mợ lại đe nẹt luôn. Cháu không thể nói hết với mợ về việc mợ Hai ở nhà được. Bụng thì nham hiểm, mồm thì thơn thớt. Kể ra cậu Hai cũng là tay khá đấy, nhưng địch thế nào được với mợ ấy. Cô Bình cũng tốt, tuy cùng một bè với mợ ấy, nhưng khi vắng mặt lại làm được nhiều việc hay. Chúng cháu có điều gì lầm lỗi, mợ ấy không tha, chỉ nhờ cô Bình là xong. Bây giờ lớn bé trong nhà, trừ cụ và bà Hai ra, ai cũng oán ghét mợ ấy, chẳng qua ngoài mặt phải nể sợ đó thôi. Vì mợ ấy không cho ai bằng mình, chỉ tìm cách lừa phỉnh để cụ và bà Hai vui lòng. Mợ ấy nói một là một, hai là hai, chẳng ai dám cãi lại. Lại muốn tìm hết cách bớt xén tiền bạc, chất lại thành núi để cho cụ và bà Hai khen là biết thu vén, chứ biết đâu mợ ấy mà được tiếng khen thì chỉ khổ người dưới thôi. Nếu có điều gì hay thì mợ ấy đi hớt lẻo trước, không để cho người khác nói; điều gì không hay hoặc tự mình làm trái thì rụt đầu lại, đổ cho người khác, lại còn đứng bên cạnh hùn thêm vào. Hiện giờ ngay chính bà mẹ chồng mợ ấy cũng phải ghét, thường nói “Chim khôn biết tìm nóc nhà quan mà đỗ”, “gà mái đen cả ổ cùng đen”, “việc nhà thì nhác, việc chú bác thì siêng”. Nếu không có cụ ở bên ấy thì đã tống mợ ấy về từ lâu rồi.
Chị Hai cười nói:
- Mày nói vụng mợ ấy như thế, sau này không biết mày nói vụng ta thế nào. Ta kém mợ ấy một bực, chắc mày lại càng nói xấu ta nhiều hơn.
Thằng Hưng vội quỳ xuống nói:
- Mợ nói thế, cháu không sợ giời đánh à? Nếu chúng cháu có phúc ra, khi cậu cháu lấy vợ, lấy ngay được người như mợ, chúng cháu cũng đỡ bị đánh mắng, đỡ phải lo sợ. Hiện giờ mấy người hầu cậu cháu, ngay khi vắng mặt, đứa nào cũng khen mợ là người có đức, biết thương kẻ dưới. Chúng cháu đương bàn với nhau xin với cậu Hai cho sang ở bên này để chúng cháu được hầu mợ.
- Thằng ranh con này! Sao mày không đứng dậy. Mới nói một câu mà đã sợ hãi như thế. Chúng mày định đến đây làm gì? Tao đương định sang bên ấy với mợ mày đây.
Thằng Hưng vội xua tay nói:
- Xin mợ nhất thiết chớ sang bên ấy. Cháu nói cho mợ biết: Suốt đời mợ không gặp mợ ấy càng hay. Mợ ấy “miệng thơn thớt, dạ ớt ngâm”, “đòn xóc hai đầu”, trên nét mặt thì tươi cười cởi mở, nhưng dưới chân thì ngấm ngầm giật dây trói người. Đúng là “miệng nam mô, bụng một bồ dao găm”. Tất cả những điều này, mợ ấy đều có đủ cả. Mồm mép như chị Ba đây cũng chưa chắc đã theo kịp, huống chi mợ là người hiền lành thùy mị đối địch thế nào với mợ ấy.
- Ta cứ lấy lẽ phải đối đãi thì mợ ấy dám làm gì ta?
- Không phải là cháu uống rượu nói bừa: dù mợ có chịu nhường nhịn chăng nữa, nhưng mợ ấy thấy mợ đẹp hơn, lại được lòng mọi người hơn, khi nào mợ ấy chịu thôi. Người ta chỉ có một lọ dấm, chứ mợ ấy thì một vại dấm, một chum dấm kia. Những a hoàn nào mà cậu Hai có nhìn đến một tý là mợ ấy quả quyết đánh vỡ đầu người ấy ngay trước mặt cậu ấy. Cô Bình tuy là nàng hầu, nhưng một hai năm hai người chỉ được gần nhau độ một lần, thế mà mợ ấy còn nhắc đi nhắc lại hàng mười lần, làm cô Bình ức quá phát khóc lên nói: “Có phải tự tôi tìm đến đâu! Mợ cứ ép tôi. Tôi không bằng lòng thì bảo tôi giở quẻ. Bây giờ lại đối xử với tôi như thế”.
- Mày đặt chuyện ra phải không? Mợ ấy đã nổi tiếng là con quỷ dạ xoa, sao lại phải sợ nàng hầu?
- Tục ngữ nói “Khôn chẳng qua nhẽ”. Cô Bình vốn là a hoàn của mợ ấy từ lúc bé. Khi mợ ấy đi lấy chồng, có bốn người theo hầu, về sau người thì chết, người thì đi lấy chồng, chỉ còn lại một mình cô ấy là được tin cậy nhất, nên nhận làm nàng hầu. Một là để tỏ ra mợ ấy là người hiền lành, hai là để buộc cẳng cậu Hai, không cho ra ngoài làm bừa. Lại còn một nguyên do nữa: Theo khuôn phép nhà chúng cháu, các cậu lớn rồi, trước khi lấy vợ, đều được đưa đến hai người hầu hạ. Cậu Hai cũng có hai người hầu. Ngờ đầu mợ ấy về chưa đầy nửa năm, đã bới lông tìm vết, đuổi đi sạch. Người ngoài tuy không nói gì, nhưng mợ ấy cũng thấy trẽn mặt, liền bắt ép cô Bình làm nàng hầu. Cô Bình vốn người đứng đắn, không hề để tâm đến việc đó, và cũng không hay xoi mói chuyện nọ chuyện kia, chỉ hết lòng hầu hạ mợ ấy. Vì thế mới còn ở lại được đến giờ.
- Té ra như thế. Nhưng ta nghe ở bên ấy còn một mợ góa chồng và mấy cô nữa, nếu mợ Hai đanh ác, thế thì người ta chịu à?
Thằng Hưng vỗ tay cười nói:
- Thế mà mợ không biết à? Mợ góa này là người phúc hậu bực nhất, chúng cháu thường gọi là phật sống. Khuôn phép nhà chúng cháu ghê lắm. Các mợ góa chỉ giữ tiết trong sạch, không nhìn đến việc gì cả. Hơn nữa lại có nhiều các cô, nên cụ tôi giao cho mợ ấy trông nom dạy bảo các cô xem sách, viết chữ, thêu thùa, học điều hay lẽ phải. Đó là việc của mợ ấy. Ngoài ra việc gì cũng không biết, chuyện gì cũng không hay. Hôm nọ vì mợ Hai ốm, mợ Cả phải trông tạm việc trong phủ mấy hôm, nhưng cứ theo thể lệ cũ mà làm, chứ không như mợ Hai chỉ bày việc để khoe tài. Cô Cả thì tốt lắm không cần phải nói. Còn cô Hai thì gọi đùa là “cô hai gỗ”, châm kim vào người cũng không biết “ái” lên một tiếng. Cô Ba gọi là “hoa hồng”.
Chị em họ Vẫn liền hỏi nguyên do, thằng Hưng cười nói:
- Hoa hồng vừa đỏ vừa thơm, ai mà chẳng phải yêu, có điều lắm gai thôi. Đáng tiếc là cô ấy lại không phải bà Hai đẻ ra, thực là “phượng hoàng đẻ trong tổ quạ”. Cô Tư, chính ra là em ruột cậu Trân. Bà Hai mang về nuôi cho lớn như thế. Cô ấy cũng không hay nhìn đến việc nhà. Mợ chưa biết rõ, trừ các cô bên nhà chúng cháu ra, còn có hai cô nữa, thực là thiên hạ hiếm có. Một cô là con gái của bà cô chúng cháu, họ Lâm, tên là Đại Ngọc. Cô này giống hệt dì Ba, lại văn hay, chữ tốt, chỉ tội hay ốm đau luôn. Trời này mà cô ấy vẫn phải mặc áo kép, đi ra ngoài gió thổi là ngã. Chúng cháu thường gọi vụng cô ấy là “nàng Tây Thi đa bệnh”, một cô là con gái bà dì chúng cháu, họ Tiết, tên gọi Bảo Thoa, chừng như ở trong đống tuyết chui lên vậy. Khi gặp các cô ấy đi ra cửa, hoặc lên xe hay chơi trong vườn, chúng cháu sợ quá không dám thở.
Chị Hai cười nói:
- Nhà mày phép tắc lắm, khi trẻ con đi ra ngoài gặp các cô đều phải tránh xa, còn dám thở vào đâu nữa!
Thằng Hưng xua tay nói:
- Không phải thế! Không phải thế! Chính là giữ lễ phải tránh xa, điều đó không cần nói. Mặc dầu đã tránh xa, nhưng ai nấy vẫn phải nín thở vì sợ thở mạnh quá sẽ thổi ngã mất cô Lâm, thở nóng quá sẽ làm tan cô Tiết.
Câu nói ấy làm cho mọi người cười ầm lên.
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top