Honglaumong (hoi101_het)
Hồi thứ một trăm lẻ một
Vườn Đại Quan đêm trăng rợn hồn ma
Chùa Tán Hoa quẻ thần ghê điềm lạ
Phượng Thư về nhà, thấy Giả Liễn vẫn chưa về, liền bảo đầy tớ sắm sửa hành lý và các đồ cần dùng của Thám Xuân. Lúc đó trời đã bắt đầu tối. Phượng Thư sực nghĩ đến Thám Xuân, muốn đến thăm, liền gọi Phong Nhi và hai a hoàn nữa đi theo, một người thứ ba cầm đèn lồng đi trước.
Ra khỏi cửa, thấy bóng trăng đã lên, chiếu sáng như nước. Phượng Thư liền cho người cầm đèn về. Đến dưới cửa sổ phòng trà, nghe bên trong có người nói rì rầm như khóc, như cười lại như bàn bạc cái gì, chắc lại bọn bà già trong nhà bàn tán chuyện gì đây, trong lòng Phượng Thư tức bực, liền bảo Tiểu Hồng:
- Mày vờ như không để ý.,vào hỏi dò và nói khéo cho ra đầu đuôi.
Tiểu Hồng vâng lời đi.
Phượng Thư cùng Phong Nhi đến trước cửa vườn. Cửa chưa đóng, chỉ khép hờ. Hai thầy trò vừa đẩy cửa đi vào. Bóng trăng trong vườn càng sáng lung linh; bóng cây che khắp mặt đất im bặt tiếng người, cảnh tượng rất là thê lương tịch mịch. Hai người vừa muốn đi theo con đường đến Thu Sảng trai, bỗng có tiếng gió vi vút thổi qua, lá cây trên cành rơi xuống, cả vườn nổi lên một loạt những tiếng lắc cắc. Trên cành cây có tiếng sột soạt, làm cho chim quạ đậu đó đều giật mình hay lên. Phượng Thư vừa mới uống rượu, gặp gió, cảm thấy trong mình rởn gai. Phong Nhi đi sau cũng rụt cổ nói :
- Rét thật !
Phong Thư chịu không nổi. liền hảo Phong Nhi :
- Mau về đem cái áo khoác da trắng tới đây, ta chờ mày ở nhà cô Ba.
Phong Nhi cũng muốn về nhà mặc thêm áo, chỉ chờ lệnh là vội vàng chạy về.
Phượng Thư cất bước đi chưa xa, bỗng đằng sau có tiếng “phì phì” như là người nào ngửi hít cái gì, chị ta sợ dựng tóc gáy. Ngoảnh đầu lại thì thấy một vật gì đen lù lù hai tròng con mắt lóng lánh như ngọn đèn, đang ở sau giơ mũi lên định hít chị ta. Phượng Thư sợ khiếp vía, buột miệng kêu “ai!”. Thì ra đó là một con chó to. Con chó ấy cụp đuôi chạy một mạch lên núi đất mới đứng lại rồi quay về phía Phượng Thư mà giơ chân lên.
Phượng Thư hoảng sợ, lật đật đi tới Thu Sảng trai. Lúc gần đến cửa, vừa vòng qua trái núi, thì thấy có bóng người thoáng qua trước mặt. Phượng Thư trong bụng ngờ vực, còn cho
đó là một a hoàn ở phòng nào, liền hỏi :
- Ai thế ?
Hỏi luôn hai tiếng, chẳng thấy có ai ra. Chị ta hồn xiêu phách lạc, mơ mơ màng màng hình như sau lưng có người nói :
- Cháu đây mà, thím không nhận được sao?
Phượng Thư vội vàng ngoảnh đầu lại nhìn thì thấy người ấy hình dung yểu điệu, áo quần bảnh bao, trông rất là quen thuộc, nhưng không nhớ ra người ở nhà nào, phòng nào. Lại nghe người ấy nói :
- Bụng thím chỉ nghĩ đến việc hưởng vinh hoa phú quý, còn câu nói của cháu năm nọ về việc “lập cơ nghiệp muôn đời” thì vứt xuống biển đông cả rồi.
Phượng Thư nghe nói, cúi đầu nghĩ ngợi, vẫn không nhớ ra là ai. Người ấy cười nhạt, nói:
- Hồi đó, thím yêu cháu như thế nào? Nay thím quên cả rồi à?
Phượng Thư nghe nói, mới nhớ ra người ấy là Tần thị, vợ trước của Giả Dung, liền nói :
- Ái chà! Chị đã chết rồi, sao lại đến đây ?
Rồi chị ta nhổ toẹt một cái, quay người định đi. Không ngờ vấp phải hòn đá, ngã lăn ra và cảm thấy mình y như trong giấc chiêm bao tỉnh dậy. Mồ hôi tuôn ra như tắm. Lúc đó Phượng Thư sợ dựng tóc gáy, nhưng vẫn tỉnh táo, vừa thấy Tiểu Hồng và Phong Nhi thấp thoáng đi đến, Phượng Thư sợ bị họ cười, vội vàng đứng dậy, và nói :
- Bọn chúng mày làm gì mà đi lâu thế? Mau đưa áo lại đây cho ta.
Phong Nhi chạy lại hầu chị ta mặc, còn Tiểu Hồng thì tới đỡ chị ta đi.
Phượng Thư nói :
- Ta vừa đến đấy, họ ngủ cả rồi, ta đi về thôi.
Rồi vội vàng cùng hai a hoàn về nhà. Lúc đó Giả Liễn đã về, Phượng Thư thấy thần sắc chồng có vẻ thay đổi, không như mọi hôm, định hỏi, nhưng lại biết tính tình thường ngày của chồng, nên không dám hỏi đột ngột, đành phải đi ngủ.
Đến canh năm Giả Liễn vội dậy, định tới nhà viên thái giám tổng lý trong nội là Cừu Thế An để dò hỏi công việc. Nhưng vì còn sớm, thấy trên bàn có tờ háo hôm qua mới đưa đến liền cầm lên xem.Trong báo ghi việc thứ nhất là: “Bộ lại tâu xin chọn gấp viên lang trung, vâng chỉ theo lệ cũ mà làm việc” - Việc thứ hai là: “Bộ hình dâng lên một bản tấu của quan tiết độ sứ Vân Nam là Vương Trung nói về việc mới bắt được một bọn phạm tội đưa trộm súng và thuốc đạn ra khỏi biên giới, gồm mười tám người, người thứ nhất tên là Bào Âm, là người nhà quan thái sư Trấn quốc công Giả Hóa ". Giả Liễn ngẫm nghĩ một chút rồi xem tiếp. Việc thứ ba là: “Tờ tâu của quan thứ sử Tô Châu là Lý Hiếu hạch về tội thả lỏng bọn gia nô, cậy thế lăng nhục quan dân, đến nỗi vì hiếp dâm không được mà giết chết ba người trong nhà tiết phụ. Hung phạm là Thì Phúc, xưng là người nhà Giả Phạm thế tập chức hàm bực ba".
Giả Liễn thấy tin ấy, trong bụng bứt rứt, định xem tiếp việc thứ ba, lại sợ chậm mất không gặp được Cừu Thế An. Giả Liễn mặc áo không kịp ăn uống gì . Vừa lúc Bình Nhi bưng trà lại anh ta uống hai hớp, rồi ra ngoài cưỡi ngựa đi ngay. Bình Nhi liền cất áo quần của hắn vừa thay.
Lúc đó Phượng Thư còn chưa dậy. Bình Nhi nói :
- Đêm nay tôi nghe mợ ngủ không được, để tôi đấm hộ cho mà chợp mắt một tý.
Phượng Thư cũng không nói gì. Bình Nhi biết chị ta bằng lòng, liền bò lên giường, ngồi bên người, đấm nhè nhẹ. Phượng Thư có vẻ muốn ngủ, bỗng nghe bên kia Xảo Thư khóc. Phượng
Thư lại mở mắt. Bình Nhi liền nói sang :
- Già Lý ơi! Già làm sao thế. Em khóc rồi phải dỗ và ru nó đi chứ. Già cũng mê ngủ thật!
Già Lý ở bên kia mơ màng tỉnh dậy, nghe Bình Nhi nói thế, trong bụng tức tối, liền phát bẳn vỗ mạnh mấy cái, miệng càu nhàu:
- Đồ ranh con chết non này! Cứ ỳ xác ra không chịu ngủ, nửa đêm gà gáy, khóc con mẹ mày đấy.
Bà ta vừa nói vừa nghiến răng, nhắm mình con bé véo một cái, con bé khóc thét lên.
Phượng Thư nghe thấy, nói:
- Chết chưa! Chị xem mụ ấy lại đay nghiến con bé rồi! Chị qua bên kia, đánh chết con mụ ác nghiệt cho tôi, rồi bế con bé lại đây.
Bình Nhi cười, nói :
- Mợ đừng giận, mụ ta làm gì dám đay nghiến em bé? Chắc là không cẩn thận chạm phải nó đó thôi. Bây giờ đánh mụ ta mấy cái cũng chẳng quan hệ gì, nhưng đến hôm sau vắng mình, người ta lại bàn tán, bảo nửa đêm gà gáy cũng lôi người ra
đánh.
Thượng Thư nghe nói. im lặng một hồi lâu, rồi thở dài nói :
- Chị thử nghĩ xem: giờ đây có phải là lúc nhà mình đang thịnh vượng không? Sau này ta chết đi, bỏ lại con bé ấy, thì chưa biết nó đến thế nào!
Bình Nhi cười, nói :
- Mợ nói cái gì vậy? Mới canh năm tảng sáng, tại sao lại nghĩ đến việc chết chóc?
Phượng Thư cười nhạt, nói :
- Chị chưa hiểu điều đó, chứ tôi thì đã biết rõ rồi. Tôi cũng chẳng sống được lâu nữa đâu! Tuy rằng mới có hai mươi lăm tuổi đầu, nhưng cái gì người ta chưa thấy mình cũng đã thấy, cái gì người ta chưa ăn mình cũng được ăn, về phần ăn mặc cũng được đầy đủ, tất cả những cái gì trên đời này có, mình đều có cả. Tức khí cũng chán rồi, tranh hơn cũng đủ rồi, dù phần chữ “thọ” có thiếu một chút cũng thôi.
Bình Nhi nghe nói, bất giác mắt đỏ hoe. Phượng Thư cười :
- Chị đừng giả bộ từ bi! Tôi chết các chị lại càng mừng. Các chị lại một lòng một dạ ăn ở vui vẻ với nhau khỏi phải nhìn tôi như cái gai trong mắt. Chỉ có một việc, các chị biết điều thì thương lấy con bé là được !
Bình Nhi càng thêm nước mắt dầm dề. Phượng Thư cười, nói :
- Thôi đừng bêu xấu nữa! Tôi đã chết ngay đâu mà chị khóc sớm thế! Tôi không chết, khéo chị lại khóc cho tôi chết đấy !
Bình Nhi nghe nói, vội vàng nín khóc, và nói :
- Mợ nói làm người ta đau lòng!
Chị ta vừa nói vừa đấm, Phượng Thư mới mơ màng ngủ đi.
Bình Nhi ở trên giường vừa bước xuống, thì nghe tiếng chân đi bên ngoài, không ngờ Giả Liễn đi chậm. Cừu Thế An đã vào chầu. Giả Liễn không gặp, phải trở về, trong bụng đang bực nên vào đến nhà liền hỏi Bình Nhi :
- Chúng nó còn chưa dậy à?
- Chưa ạ.
Giả Liễn vừa đi vào vừa hất cái màn rồi cười nhạt và nói :
- Giỏi thật! Giờ mà còn chưa dậy, bỏ mặc tất cả hay sao !
Rồi hắn lại giục pha trà uống. Bình Nhi vội rót một chén trà đưa lại. Nguyên là bọn a hoàn và bà già thấy Giả Liễn đi rồi, đều lăn ra ngủ, không ngờ hắn đã về, nên chưa hề sắm sửa gì cả. Bình Nhi liền đưa thứ trà hâm lại đến. Giả Liễn nổi giận, giơ chén trà lên, vứt đánh chát một tiếng chén trà vỡ tan.
Phượng Thư giật mình, sợ toát mồ hôi kêu: “Ái chà”, mở mắt ra thì thấy Giả Liễn giận hầm hầm, ngồi một bên. Bình Nhi thì đang khom lưng nhặt những mảnh chén vỡ. Phượng Thư nói:
- Sao cậu lại về ngay thế ?
Hồi lâu không thấy Giả Liên trả lời, chị ta đành phải hỏi lại lần nữa. Giả Liễn to tiếng:
- Mợ không muốn cho tôi về, thế muốn tôi chết ở ngoài ấy à ?
Phượng Thư cười nói :
- Sao lại nói thế? Mọi hôm không thấy cậu về mau như hôm nay. Tôi hỏi một tiếng, có gì mà giận.
Giả Liễn lại gào lên:
- Không gặp thì làm gì mà chẳng về mau.
Phượng Thư cười:
- Không gặp thì phải chịu phiền một tý, mai đi sớm hơn, tự nhiên sẽ gặp.
- Mình rõ thật ăn cơm nhà vác ngà voi ! Việc ở nhà chất đống, chẳng ma nào giúp, vô duyên vô cớ đi lo việc cho người, chạy mất mấy ngày hôm nay, chẳng được cái gì cả. Thế mà chính người đương sự lại ở nhà phè phởn, sống chết chẳng hay. Còn nghe nói định khua chuông gõ trống, tiệc tùng, hát xướng làm lễ sinh nhật nữa đấy! Rõ thật chạy uổng chân.
Hắn vừa nói vừa nhổ toẹt xuống đất, lại mắng Bình Nhi.
Phượng Thư nghe nói, tức nghẹn cổ họng, định cãi lại, nhưng nghĩ ngợi một chút, lại nín nhịn, rồi miễn cưỡng cười lấy lòng, nói:
- Tội gì mà cậu nổi giận như thế? Sáng dậy tinh sương đã hò hét với tôi làm gì? Ai bảo cậu chuốc lấy việc người ta? “Đã trót thì trét”, phải lo liệu giùm người ta. Tôi chưa thấy ai có việc rầy rà, mà còn có gan bày ra tiệc tùng hát xướng.
- Mợ cũng nói thế à? Đến mai mợ thử hỏi xem ?
Phượng Thư lấy làm lạ. nói :
- Hỏi ai?
- Hỏi ai à. Hỏi ông anh mợ ấy!
- Anh tôi ấy à?
- Không phải anh ấy thì còn ai nữa!
- Anh ấy có việc gì mà bảo cậu chạy hộ.
- Mợ còn như người ở trong hũ ấy!
- Thật là kỳ quặc! Tôi chả biết một chút gì cả.
- Mợ làm gì mà biết được? Việc này ngay cả thím và dì cũng không biết. Một là vì tôi sợ thím và dì lo lắng; hai là mợ lại đang mệt cho nên tôi bảo im đi, không cho trong này biết. Việc ấy nói ra thật người ta phải giận! Hôm nay mợ không hỏi thì tôi cũng không tiện nói ra. Mợ thử nghĩ xem, ông anh mợ làm việc có ra người nữa không! Mợ có biết bên ngoài họ gọi anh ta là gì không?
- Họ gọi anh ta là gì?
- Họ gọi anh ta là gì à? Họ gọi anh ta là “Vương nhân” (1)
Phượng Thư phì cười:
- Anh ấy không gọi là Vương Nhân thì gọi là gì nữa?
- Mình đoán xem chữ Vương này viết như thế nào? Đó là chữ “Vong Nhân” tức là quên mất hết cả nhân, nghĩa, lễ, trí, tín.
- Người đâu lại độc mồm độc miệng rủa người ta như thế?
- Không phải họ rủa anh ta đâu! Hôm nay tôi nói thẳng cho mợ biết, kẻo mợ không biết ông anh mợ hay hớm như thế nào. Mợ cũng biết anh ta làm lễ sinh nhật cho chú Hai anh ta đấy chứ!
Phượng Thư nghĩ ngợi một lúc, rồi nói:
- Ái chà! Thế à! Tôi quên hỏi cậu: sinh nhật cậu Hai có phải là về mùa đông không? Tôi nhớ năm nào chú Bảo Ngọc cũng đi dự lễ. Trước đây ông lớn được thăng chức, bên cậu Hai đưa phường hát sang mừng, tôi còn nói trộm: "Cậu Hai keo cú, không bì được với cậu Cả” (2). Bọn họ trong nhà cũng còn như gà chọi ấy. Chẳng thế mà vừa rồi lúc cậu Cả qua đời, cậu Hai là em ruột lại còn ra mặt nhận thầu các việc đấy. Vì thế, hôm ấy tôi nói nhân ngày sinh nhật của chú ấy, nhà mình mừng trả lại một ban hát để khỏi mắc nợ bà con. Nay lại làm lễ sinh nhật sớm như thế, không biết là có ý gì.
- Mợ thực như còn mê ngủ ấy! Ông anh mợ khi đến kinh, nhân dịp đám ma của cậu Cả, liền bày ra lễ điếu. Anh ta sợ chúng ta cản trở nên không bàn gì đến, quả nhiên vớ được mấy ngàn lạng bạc. Sau cậu Hai trách anh ta, bảo không nên vơ vét hết cả như thế, anh ta không biết làm thế nào, liền giả cách mượn tiếng ngày sinh nhật của cậu Hai, lại tung lưới ra định vơ một món nữa, để cho cậu Hai khỏi giận. Thật là anh ta không quản gì bà con bạn hữu, mùa đông hay mùa hạ, người ta biết hay không. Rõ thật xấu hổ! Mợ có biết tôi dậy sớm làm gì không? Hiện nay có việc xảy ra ở miền biển, quan ngự sử tâu lên, hạch cậu Cả làm thiếu hụt công quỹ. Nay cậu Cả đã chết, nên bắt em là Vương Tử Thắng, cháu là Vương Nhân bồi thường. Hai chú cháu hoảng lên, đến tìm tôi nhờ nói giúp. Tôi thấy họ khiếp sợ, vả chăng việc này lại quan hệ đến thím và mợ, nên mới nhận lời. Tôi định tìm ông thái giám họ Cừu làm tổng lý trong nội lo liệu giúp, hoặc giả xê xích giữa quan sau và quan trước như thế nào đó cho xong. Không ngờ tôi đến chậm, ông ta vào chầu mất. Mình thì uổng công dậy sớm, chạy vạy, còn bọn họ ở nhà lại lo bàn bạc bày đặt tiệc tùng hát xướng đấy. Mợ bảo thế có tức hay không ?
Phượng Thư nghe nói, mới biết Vương Nhân như thế, nhưng tính chị ta vốn hay bào chữa “cái tốt phô ra, xấu xa đậy lại” nên nghe Giả Liễn nói như thế, liền bảo:
- Anh ấy có thế nào đi nữa, cũng là anh vợ của cậu. Vả lại việc này, cậu Cả đã mất và cậu Hai đang sống đó đều cảm ơn cậu. Chẳng biết nói gì, việc nhà tôi, tôi đành phải ba luồn bảy lụy nhờ cậu, chả lẽ lại làm lụy người khác, để khi vắng mặt họ chửi tôi à?
Nói xong, chị ta chảy nước mắt, lật chăn lên, ngồi dậy, búi tóc, mặc áo.
- Mợ không cần như th,. đó là vì anh mợ không ra hồn người, chứ tôi có nói gì mợ đâu. Đã thế tôi đi ra, mợ lại ốm, tôi đã dậy rồi mà chúng nó còn ngủ, cha ông nhà ta có cái thói ấy không? Bây giờ mợ làm như con người vô sự, chẳng phải trông nom việc gì. Tôi mới nói một câu mà mợ đã dậy: đến mai kia tôi có quở trách họ, không lẽ mợ đều chịu thay cho họ sao? Thật chẳng ra sao cả!
Phượng Thư nghe vậy, mới nín khóc, nói:
- Trời không còn sớm nữa, tôi cũng nên dậy. Cậu đã nói thế, thì cậu để tâm lo liệu giùm cho họ. Đó là tình nghĩa của cậu đối với tôi. Vả chăng, cũng không riêng một mình tôi, bà Hai nghe vậy chắc cũng mừng.
- Phải rồi, biết rồi đấy! Mợ chẳng phải dạy tôi nữa.
Bình Nhi nói :
- Mợ dậy sớm làm gì? Hôm nào mợ cũng dậy vào giờ nhất định kia mà. Không biết cậu mang cái nóng nảy ở đâu về, lại đem chúng tôi ra mà giày vò cho hả giận. Tội gì thế! Mợ thật đã hết lòng hết sức với cậu rồi, có việc gì mà không phải do mợ ra tay cáng đáng? Tôi nói không phải, chứ cậu đã ngồi hưởng sẵn bao nhiêu, lần này lo giúp cho mợ một tý việc, lại dính líu đến mấy tầng, mà đã làm bộ làm tịch như thế, rõ không sợ người ta chán ngán? Mà nào có phải việc riêng gì một mình mợ! Chúng tôi dậy chậm, cậu giận là phải, đằng nào chúng tôi cũng chỉ là tôi tớ. Còn mợ đây vất vả mãi nên đã mang ốm, thì làm gì cho thêm khổ! - Chị ta nói rồi, mắt đỏ lên.
Giả Liễn vốn đang bực sẵn, nhưng địch sao nỗi vợ cả, nàng hầu vừa xinh đẹp lại ăn nói mềm mỏng, sắc sảo như thế. Hắn liền cười nói :
- Đủ rồi! Thôi, thôi! Một mình mợ ấy cũng đã đủ không cần cô phải nói nữa. Đằng nào tôi cũng là người ngoài, bao giờ tôi chết đi, các người sẽ rảnh rang.
Phượng Thư nói:
- Cậu đừng nên nói thế, ai biết được ai ra sao? Cậu không chết, khéo tôi chết đấy! Chết sớm ngày nào càng được rảnh rang ngày ấy.
Nói đến đó, Phượng Thư lại khóc oà lên. Bình Nhi phải khuyên một hồi.
Lúc ấy trời đã sáng trưng, ánh nắng mặt trời xuyên ngang cửa sổ. Giả Liễn cũng không tiện nói nữa, đứng dậy đi ra.
Phượng Thư đang gội đầu rửa mặt, chợt thấy a hoàn nhỏ bên nhà Vương phu nhân qua nói:
- Bà lớn bảo hỏi mợ Hai xem hôm nay mợ có qua bên nhà ông cậu không? Nếu mợ đi thì gọi mợ Hai Bảo cùng đi một thể.
Phượng Thư vì câu chuyện vừa rồi đã chán ngấy, giận họ nhà mình làm cho mình bẽ mặt, lại thêm một mẻ sợ trong vườn đêm qua, thật không còn đầu óc nữa, liền nói:
- Mày về thưa với bà lớn, ta còn một vài việc chưa làm xong, hôm nay không thể đi được. Vả lại việc nhà họ cũng chẳng phải là quan trọng gì. Mợ Hai Bảo muốn đi thì cứ đi thôi.
A hoàn nhỏ vâng lời rồi về trình lại.
Thượng Thư chải đầu thay áo xong, nghĩ bụng: dầu mình không đi cũng nên tin cho người ta biết. Vả lại, Bảo Thoa vẫn còn là cô dâu mới, ra ngoài, tất nhiên mình phải trông nom một chút. Vì thế chị ta qua gặp Vương phu nhân, mượn cớ để thoái thác, rồi đi sang phòng Bảo Ngọc. Thấy Bảo Ngọc ăn mặc chỉnh tề nằm nghiêng trên giường, hai mắt chằm chằm nhìn Bảo Thoa
chải đầu, Phượng Thư đứng bên cửa, Bảo Thoa ngoảnh lại mới thấy, vội vàng đứng dậy mời ngồi. Bảo Ngọc cũng bò dậy. Phượng Thư cười, ngồi xuống.
Bảo Thoa trách bọn Xạ Nguyệt:
- Các chị thấy mợ Hai đi vào, sao không báo gì cả.
Xạ Nguyệt cười nói :
- Mợ Hai đi vào, liền xua tay bảo đừng nói.
Phượng Thư nói với Bảo Ngọc :
- Chú chưa đi, còn chờ gì nữa? Chẳng có ai lớn người còn tính khí trẻ con như thế. Người ta chải đầu, chú bò lại xem cái gì? Cả ngày ở chung chạ trong nhà, còn nhìn chưa chán à? Không sợ bọn a hoàn họ cười cho hay sao?
Nói xong, chị ta cười khì, rồi lại nhìn Bảo Ngọc mà bĩu môi. Bảo Ngọc tuy khó chịu nhưng không để ý. Bảo Thoa thì thẹn đỏ mặt, im lặng cũng khó coi, nhưng chẳng biết nói gì cho phải. Thấy Tập Nhân bưng trà đến, cô ta cũng vờ vẫn đưa túi
thuốc ra.
Phượng Thư đứng dậy cười, cầm lấy và nói:
- Em Hai ạ, em cứ mặc áo mau lên, để mặc chúng tôi.
Bảo Ngọc cũng lăng xăng tìm cái này, tìm cái nọ. Phượng Thư nói:
- Chú đi trước đi thôi, đời nào lại có cái lý các cậu chờ các mợ cùng đi bao giờ?
Bảo Ngọc nói:
- Tôi chỉ ngại cái áo này không đẹp, không bằng mặc cái áo lông công của cụ cho năm trước, đẹp hơn.
Phượng Thư liền trêu Bảo Ngọc:
- Thế sao chú lại không mặc?
- Mặc áo ấy hơi sớm quá.
Phượng Thư chợt nhớ ra, biết mình lỡ lời. May mà Bảo Thoa cũng là bà con bên ngoại của họ nhà Vương, nhưng trước mặt bọn a hoàn cũng thấy khó coi. Tập Nhân đỡ lời:
- Mợ Hai không biết đấy, chứ cô mặc được, cậu ấy cũng không mặc.
Phượng Thư nói:
- Sao thế ?
- Thưa mợ, cậu tôi, làm việc gì cũng thực là kỳ quặc. Năm nọ nhân ngày sinh nhật ông cậu Hai, cụ cho cậu tôi cái áo ấy, không ngờ hôm đó áo bị cháy mất một chỗ. Lúc ấy mẹ tôi ốm nặng, tôi không ở nhà. Hồi đó hãy còn mồ ma chị Tình Văn. Nghe nói chị ấy ốm, nhưng suốt đêm vẫn mạng lại cái chỗ cháy ấy, hôm sau cụ mới không nhận thấy. Năm ngoái, một hôm cậu ấy đi học, trời lạnh tôi bảo Bồi Dính đem cái áo ấy đi cho cậu ấy mặc, không ngờ cậu thấy nó, lại nhớ tới Tình Văn, cho nên nhất định không mặc nữa, bảo tôi cất cho cậu ấy suốt đời.
Phượng Thư không đợi nói xong, liền bảo:
- Cô nhắc đến Tình Văn, tôi cũng thương cho nó! Con bé ấy mặt mũi thân hình đều khá, chỉ có mồm miệng sắc sảo. Thế rồi không biết bà Hai nghe lời bịa đặt ở đâu làm cho nó phải chết. Lại còn một việc, hôm nọ tôi thấy con gái mụ Liễu ở nhà bếp, gọi con Năm đó. Con bé ấy giống hệt như Tình Văn. Trong bụng tôi định gọi nó vào đây. Tôi hỏi mẹ nó, mẹ nó rất mừng.Tôi nghĩ con Tiểu Hồng ở phòng chú Bảo sang hầu bên tôi, mà tôi chưa trả người cho chú ấy, nên định đem con Năm thế vào. Nhưng chị Bình lại nói: “Hôm nọ bà Hai đã dặn, những người giông giống Tình Văn, không sai đến ở nhà chú Bảo”, cho nên tôi phải gác lại. Bây giờ, chú Bảo đã có vợ, thì còn sợ gì nữa ? Để tôi gọi nó vào đây. Không biết chú Bảo có bằng lòng không? Nếu chú ấy mà nhớ Tình Văn thì chỉ nhìn con Năm là được.
Bảo Ngọc đã định đi, nhưng nghe nói đến chuyện ấy lại ngẩn người ra. Tập Nhân nói:
- Sao lại không bằng lòng, đáng lẽ đã gọi nó đến rồi, chỉ vì lời nói của bà Hai đấy thôi.
Phượng Thư nói:
- Đã thế, thì mai tôi cho nó đến, bà Hai hỏi thì đã có tôi.
Bảo Ngọc nghe nói. mừng rỡ vô cùng, qua nhà Giả mẫu. Còn Bảo Thoa thì thay quần áo.
Phượng Thư thấy hai vợ chồng họ yêu quý quấn quít nhau như thế, nghĩ đến bộ dạng Giả Liễn vừa rồi, thật là đau lòng, không thể ngồi rán nữa, bèn đứng dậy cười nói với Bảo Thoa:
- Em với chị sang bên cụ đi.
Rồi chị ta đi ra. Hai người đến gặp Giả mẫu. Bảo Ngọc cũng đang trình với Giả mẫu việc đi qua nhà ông cậu.
Giả mẫu gật đầu nói:
- Cháu đi đi thôi, nhưng đừng uống nhiều rượu và về sớm một chút, người cháu mới khỏe đấy.
Bảo Ngọc vâng lời đi ra. Vừa đến giữa sân, lại quay lại ghé vào tai Bảo Thoa nói mấy câu, chẳng biết là nói gì. Bảo Thoa cười :
- Phải rồi, cậu đi nhanh lên thôi.
Rồi chị ta giục Bảo Ngọc đi. Giả mẫu cùng Phượng Thư và Bảo Thoa vừa nói được mấy câu, thì thấy Thu Văn vào nói :
- Cậu Hai sai Bồi Dính về mời mợ Hai.
Bảo Thoa nói:
- Cậu ấy lại quên cái gì mà bảo nó trở về?
Thu Văn nói:
- Tôi bảo a hoàn nhỏ đi hỏi Bồi Dính, thì nó nói là cậu Hai quên không dặn trước. Cậu ấy bảo tôi về thưa với mợ Hai rằng: nếu mợ đi thì đi mau lên, nếu không đi thì đừng có đứng trước gió đấy.
Giả mẫu, Phượng Thư và bọn a hoàn, bà già đứng đấy đều cười ồ.
Bảo Thoa đỏ mặt, “xì” Thu Văn một cái và nói:
- Khéo cái con vớ vẩn này! Thế mà mày cũng hốt hoảng chạy về nói à?
Thu Văn cũng cười, rồi về bảo a hoàn nhỏ đi ra mắng Bồi Dính, Bồi Dính vừa đi vừa ngoảnh lại nói:
- Cậu Hai vội vàng bắt tôi xuống ngựa cho được và bảo về nói, nếu tôi không nói, sau này cậu hỏi ra, thế nào cũng mắng tôi. Giờ tôi nói cũng bị mắng!
A Hoàn nhỏ cười, chạy về nói lại. Giả mẫu nói với Bảo Thoa :
- Cháu đi đi thôi, đừng để nó nhớ đấy.
Bảo Thoa nghe nói, không thể đứng lại được nữa, lại bị Phượng Thư trêu cho một mẻ, thấy khó coi quá, đành phải ra đi.
Lúc đó vừa thấy ni cô ở chùa Tán Hoa là Đại Liễu đến. Cô ta hỏi thăm sức khoẻ Giả mẫu, chào Phượng Thư rồi ngồi xuống uống trà. Giả mẫu hỏi:
- Sao lâu nay ni cô không đến?
- Vì mấy hôm nay, ở miếu làm chay, có mấy bà quan thường nghỉ lại đó, nên không được rảnh. Hôm nay có ý đến trình với cụ: ngày mai có một nhà làm chay, không biết cụ có thích hay không? Nếu thích thì xin mời cụ tới vãn cảnh chùa chơi.
- Tại sao phải làm chay?
- Tháng trước đây, ở phủ cụ Vương không được yên ổn, thấy ma thấy quỷ gì ấy. Ban đêm bà lớn nằm mơ thấy quan lớn về. Vì thế, hôm qua đến miếu nói với chúng con, định hứa nguyện đốt hương trước đức phật “Tán Hoa” làm một đàn chay thủy lục bốn mươi chín ngày, để xin ngài phù hộ cho người nhà yên ổn. Người chết lên trời, người sống được phúc. Do đó con không được rảnh dể tới hỏi thăm cụ.
Phượng Thư ngày thường rất ghét những việc ấy. Nhưng từ hôm nọ thấy ma, trong lòng cứ ngờ vức. Giờ nghe Đại Liễu nói thế, bỗng tâm tính ngày thường thay đổi đi một nửa, đã có vài phần tin, liền hỏi Đại Liễu:
- Phật “Tán Hoa” là ai? Tại sao ngài lại đuổi được tà, trừ được quỷ?
Đại Liễu nghe hỏi, biết rằng chị ta đã có ý tin, liền nói:
- Mợ muốn hỏi đức Phật ấy thì tôi xin nói cho mợ biết. Đức Phật “Tán Hoa” nguồn gốc rất sâu, đạo hạnh rất lạ, sinh ra ở nước Đại Thụ phương tây. Cha mẹ ngài làm nghề hái củi. Khi
sinh ngài, đầu có ba sừng, trán mọc bốn mắt, mình cao tám thước, hai tay dài chấm đất. Cha mẹ ngài cho là yêu tinh, đem vứt vào núi băng. Ai ngờ trên núi ấy có một con khỉ già đắc đạo, đi ra kiếm ăn, thấy trên đầu đức Phật, có làn khói trắng xông lên ngất trời, hùm beo đều phải xa lánh. Con khỉ biết người này có lai lịch khác thường, liền bế về trong động nuôi nấng. Không ngờ đức
Phật đã mang sẵn tính chất thông minh, biết giảng đạo Phật, ngày nào cũng cùng con khỉ tham thiền, đàm đạo, nói làu làu làm cho hoa trời bay xuống phất phới. Sau một ngàn năm, ngài bay lên thành Phật. Đến nay trên núi còn thấy chỗ giảng kinh, hoa trời man mác, ai cầu gì cũng linh ứng. Ngài thường hiện hình, cứu vớt tai nạn cho người ta. Vì thế người đời mới dựng miếu tô tượng phụng thờ.
Phượng Thư nói:
- Điều đó có gì làm bằng cứ ?
- Mợ lại khéo bài bác. Cần gì phải có bằng cứ mới rõ là Phật. Nếu mà nói dối, thì cũng chỉ lừa được một vài người thôi, không lẽ xưa nay bao nhiêu người sáng suốt cũng đều bị lừa cả ư? Mợ nghĩ xem, chỉ có nhà Phật là từ xưa tới nay, khói nhang không dứt, thế thì phải có gì linh nghiệm trong việc hộ nước giúp dân, người ta mới tin phục chứ?
Phượng Thư nghe nói rất có lý, liền bảo:
- Đã thế thì ngày mai tôi đi xem. Trong miếu bà có thẻ không? Tôi đến xin một quẻ. Nếu mà trên thẻ nói rõ được việc trong bụng tôi, thì từ nay tôi sẽ tin.
- Thẻ của miếu chúng tôi rất là linh nghiệm. Ngày mai mợ đến xin một quẻ thì biết.
Giả mẫu nói:
- Thế thì cháu cứ đợi cho đến ngày kia là ngày mùng một sẽ đi xin.
Nói xong, Đại Liễu uống nước rồi đến gặp Vương phu nhân hỏi thăm sức khỏe và về.
Đến tảng sáng ngày mồng một, Phượng Thư miễn cưỡng sai người sửa soạn xe ngựa, dẫn Bình Nhi và nhiều đầy tớ khác đến chùa Tán Hoa. Đại Liễu cùng bọn ni cô đón vào chùa. Sau khi uống trà xong, Phượng Thư liền rửa tay đến trên điện lớn thắp hương. Phượng Thư cũng không để ý gì, đi xem tượng thánh, chỉ một lòng thành kính, khấu đầu rồi giơ ống thẻ lên, đem những việc thấy ma và thân thể đau ốm khấn vái một hồi. Vừa lắc được mấy cái, bỗng “soạt” một cái trong ống bật ra một chiếc thẻ. Phượng Thư lại khấu đầu rồi nhặt lên xem thì thấy viết:
“Quẻ thứ ba mươi ba, thượng thượng đại cát”.
Đại Liễu vội vàng xem sổ thì thấy trên thẻ viết: “Vương Hy Phượng mặc áo gấm về làng”.
Phượng Thư thấy mấy chữ ấy, giật nẩy mình, vội hỏi Đại Liễu:
- Xưa cũng có người gọi ta Vương Hy Phượng à?
- Mợ rất là thông hiểu xưa nay, không lẽ cũng không biết chuyện ông Vương Hy Phượng đời nhà Hán đi cầu quan à?
Chu Thụy đứng một bên cười, nói:
- Năm trước cô xẩm họ Lý đã kể câu chuyện ấy. Chúng tôi thấy cô ấy kể cũng trùng tên với mợ, nên tôi không cho kể nữa.
Phượng Thư cười:
- Ừ, phải đấy, thế mà tôi quên mất.
Chị ta nói xong, xem phía dưới, thấy viết:
Năm xa làng nước trọn đôi mươi,
Áo gấm nay về vườn cũ chơi.
Ong đã hái hoa thành được mật,
Vì ai cay đắng, ngọt vì ai?
Người đi đến. Âm tín chậm. Việc kiện nên giải hoà. Việc hôn nhân hãy bàn lại.
Phượng Thư xem xong cũng không rõ ràng lắm.
Đại Liễu nói:
- Xin mừng cho mợ, thẻ này rất hay. Mợ từ lúc nhỏ, sinh trưởng ở đây, đã khi nào về Nam Kinh đâu. Giờ đây, ông lớn làm quan ngoài, hoặc giả đón gia quyến đến, rồi nhân tiện về thăm nhà, thế chẳng phải là mợ “mặc áo gấm về làng” đó sao?
Cô ta vừa nói, vừa sao ra một bản thẻ khác, trao cho a hoàn.
Phượng Thư cũng nửa tin nửa ngờ. Đại Liễu dọn cổ chay ra, Phượng Thư chỉ nếm một tý, rồi đặt đũa xuống định về, lại đưa số tiền hương đèn. Đại Liễu giữ mãi không được, đành phải để cho chị ta về. Phượng Thư về đến nhà, gặp Giả mẫu và Vương phu nhân hỏi đến thẻ rồi bảo người giảng nghĩa, tất cả đều rất lấy làm mừng: “Hoặc giả ông lớn thật có ý định như thế thì chúng ta đi một chuyến cũng hay”
Phượng Thư thấy mọi người nói thế, nên cũng tin.
Một hôm Bảo Ngọc ngủ trưa dậy, không thấy Bảo Thoa, đang định hỏi thì Bảo Thoa đi vào. Bảo Ngọc hỏi:
- Đi đâu mãi không về?
- Tôi xem quẻ thẻ cho chị Phượng một chốc.
Bảo Ngọc nghe nói, liền hỏi. Bảo Thoa đọc lên một lượt những lời trong quẻ thẻ. Rồi nói :
- Trong nhà, ai cũng nói tốt, theo ý tôi thì trong bốn chữ “áo gấm về làng” còn có duyên cớ khác, sau này sẽ rõ.
Bảo Ngọc nói:
- Mợ cứ hay nghi, giải nghĩa lệch lạc ý thánh, bốn chữ “áo gấm về làng” từ xưa tới nay, đều cho là tốt, nay mợ lại nói là có duyên cớ! Theo như mợ nói, thì bốn chữ “áo gấm về làng” ấy còn có cách giảng giải khác nữa hay sao?
Bảo Thoa đang định giảng thêm, thì thấy bên nhà Vương phu nhân sai người sang mời mợ Hai. Bảo Thoa liền đi sang ngay.
(1) Theo âm Trung Quốc thì chữ Vương và chữ Vong đều đọc như nhau, cho nên mượn chữ “Vương nhân” đồng âm để rủa Vương Nhân là người quên mất nhân nghĩa.
(2) Tức Vương Tử Đằng
Hồi thứ một trăm lẻ hai
Phủ Ninh Quốc, ruột thịt bị tai ương
Vườn Đại quan, phù thủy trừ yêu quái
Vương phu nhân sai người đến gọi Bảo Thoa. Bảo Thoa vội vàng đến hỏi thăm sức khỏe. Vương phu nhân nói:
- Em Ba con sắp đi lấy chồng, con là chị dâu, phải dặn dò, bảo ban nó, cũng là tình chị em. Vả lại nó là con bé hiểu biết, ta xem con cũng hòa hợp với nó. Nhưng nghe nói thằng Bảo nghe em nó sắp đi, cứ khóc mãi. Con cũng phải khuyên nó mới được. Hiện nay ta cứ nay ốm mai đau, chị Hai con thì ba bữa khỏe, hai bữa ốm, con có hiểu việc đôi chút, cũng nên nhìn ngó công việc, đừng chỉ lặng thinh, sợ làm mất lòng người ta. Việc nhà sau này con đều phải lo cả.
Bảo Thoa vâng lời. Vương phu nhân lại nói :
- À, còn một việc nữa, chị Hai con hôm qua đem con gái nhà mụ Liễu đến, nói cho vào hầu các con.
- Hôm nay chị Bình mới đưa đến, nói là theo ý của mẹ và chị Hai.
- Phải đấy. Chị Hai con nói với ta, ta thấy điều đó cũng không quan hệ gì, bác đi không tiện. Nhưng có một điều, ta thấy con bé ấy, bộ dạng mặt mày không phải là người yên phận lắm đâu Trước đây vì bọn a hoàn ở nhà Bảo Ngọc cứ như là yêu tinh, ta mới đuổi đi mấy đứa. Con cũng đã biết điều đó, cho nên mới dọn về nhà ở. Giờ đây đã có con, cố nhiên là không phải như trước nữa. Ta nói với con, chẳng qua phải để ý một chút đấy thôi. Trong nhà các con, chỉ có con bé Tập Nhân còn có thể dùng được.
Bảo Thoa vâng lời, lại nói vài câu nữa rồi về. Sau khi ăn cơm, Bảo Thoa sang nhà Thám Xuân, cố nhiên là ân cần khuyên giải, không cần phải nói kỹ.
Ngày hôm sau, Thám Xuân định lên đường, lại qua từ giã Bảo Ngọc. Bảo Ngọc cố nhiên là khó lòng chia tay. Thám Xuân lại đưa chuyện cương thường đại thể ra nói, ban đầu Bảo Ngọc cúi đầu làm thinh, sau lại đổi buồn làm vui, hình như có ý tỉnh ngộ. Thấy vậy, Thám Xuân yên lòng, từ biệt mọi người, ngồi kiệu lên đường.
Trước kia bọn chị em đều ở trong vườn Đại Quan, nhưng từ khi Giả Phi chết rồi, vườn cũng không sửa sang lại nữa. Đến khi Bảo Ngọc cưới vợ, Đại Ngọc chết. Tương Vân, Bảo Cầm về
Nhà, trong vườn ít người, tiết trời lại lạnh, nên bọn chị em Lý Hoàn, Thám Xuân, Tích Xuân đều dời về chỗ cũ. Nhưng gặp lúc hoa nở trăng trong, họ vẫn hẹn nhau vào vườn dạo chơi như trước. Nay Thám Xuân đi rồi, Bảo Ngọc thì từ lúc ốm không ra khỏi cửa, càng chẳng có ai cao hứng nữa. Vì thế, trong vườn vắng vẻ chỉ có mấy người ở đấy trông nom.
Hôm nọ, Vưu thị qua đưa Thám Xuân lên đường, vì trời đã chiều, muốn khỏi phải đi xe, liền qua cái cửa trong vườn năm kia mở thông sang phủ Vinh mà về. Chị ta cảm thấy lâu đài còn nguyên như cũ, mà cảnh vật rất đỗi thê lương, một dãy tường hoa chẳng khác gì nương vườn trồng trọt, trong lòng buồn bã, hình như áy náy vì việc gì . Khi về đến nhà, người chị ta phát nóng. Gắng gượng một vài ngày rồi cũng phải nằm xuống. Ban ngày còn nhẹ, đến đêm người nóng lạ thường. Nói mê nói sảng liên miên. Giả Trân vội vàng mời thầy xem bệnh. Thầy thuốc nói vì bị cảm, nay bệnh đã truyền vào túc dương minh vị kinh (1) cho nên mới nói nhảm như thấy cái gì, phải hạ thì mới yên được.
Vưu thị uống luôn hai thang không bớt chút nào, mà lại phát điên lên. Giả Trân cuống quít, liền bảo Giả Dung:
- Con đi ra ngoài kia xem có thầy thuốc giỏi thì mời mấy người đến xem.
- Ông thầy này trước đây là đắt khách nhất đấy, chỉ sợ bệnh mẹ con không thể chữa bằng thuốc được.
- Nói nhảm! Không uống thuốc thì không lẽ cứ để mặc đấy à?
- Không phải con nói không chữa, nhưng vì hôm trước mẹ đi sang phủ tây, rồi sau về qua vườn. Khi về đến nhà thì người phát nóng, không khéo gặp phải ma quái gì đấy. Ngoài kia có ông Mao Bán Tiên là người phương Nam, bói rất linh ứng, chi bằng mời ông ta đến bói xem, nếu đoán ra việc gì thì theo ông ta mà làm; nếu không ăn thua, sẽ mời thầy thuốc giỏi khác.
Giả Trân nghe nói, lập tức cho người mời vào. Mao Bán Tiên đến, ngồi trong thư phòng uống nước xong, liền hỏi:
- Quý phủ gọi tôi, không hiểu hỏi việc gì? Giả Dung nói:
- Mẹ tôi bị bệnh, xin thầy bói cho một quẻ.
- Đã thế thì lấy nước sạch rửa tay, bày hương án ra, để tôi bói một quẻ xem.
Một lúc người nhà bày đặt xong, ông ta kéo cái ống thẻ ở trong bọc ra, đến trước hương án, kính cẩn vái một cái, trong tay lắc ống thẻ, miệng khấn: “Thái cực lưỡng nghi, hun đúc giao cảm, sinh ra đồ thư mà biến hoá vô cùng. Thần thánh xuất hiện, nên thành tâm cầu thì thế nào cũng ứng. Nay có tín chủ Giả mỗ, nhân vì mẹ đau, thành tâm xin các vị Phục Hy, Văn Vương, Chu Công, Khổng Tử, bốn vị thánh nhân, chứng giám ở trên, thành cảm thiêng liêng, có dữ báo dữ, có lành báo lành, xin trước ba hào nội tượng”.
Ông ta móc tiền trong ống gieo lên trên khay và nói:
- Thiêng lắm, hào thứ nhất là “giao”. - Lại cầm ống lắc một cái nữa, đổ ra nói: - “đơn” - đến hào thứ ba lại là “giao” (2)
Ông ta nhặt tiền lên, miệng khấn: “Nội hào đã cho, nay xin ba hào ngoại tượng, để xong một quẻ”. Khi gieo xong rồi thì ra quẻ “đơn chiết đơn” (3)
Mao Bán Tiên cất ống và thẻ, tiền đi, ngồi xuống, nói:
- Mời ngồi, mời ngồi để tôi xem cho kỹ, quẻ này là quẻ “Vị tế” (4) “thế hào” là hào thứ ba, “ngọ hoả” gặp lúc hao tài tốn của, nhất định là có việc gì xúi quẩy. Nay ngài hỏi bệnh cho mẹ dung thần là hào đầu, thật là hào “phụ mẫu”, động sinh ra “quan quỉ”, trên năm hào lại có một tầng “quan quỉ” nữa, cho nên theo tôi thì bệnh bà nhà ta khá nặng đấy. Nhưng còn may, còn may, giờ đây còn nước “tý hợi ngưng đọng”, “dần mộc” động sinh ra hoả, trên “thế hào” động sinh ra "tứ tôn", trở lại “khắc quỉ”. Vả lại "nhật nguyệt sinh thần", cách hai ngày nữa, tý thủy “quan quỉ”, đụng chỗ không thì đến ngày tuất sẽ khỏi. Nhưng trên hào “phụ mẫu” “biến quỉ”, chỉ e ông cụ nhà ta cũng có quan ngại ít nhiều. Ngay cả “thế hào của bản thân, kiếp cũng quá nặng đến ngày thủy vượng thổ suy cũng không tốt.
Ông ta nói xong, liền vểnh râu ngồi yên.
Giả Dung ban đầu thấy ông ta giở trò ma, trong bụng nhịn không được, chỉ muốn cười, sau nghe ông ta giảng lý trong quẻ rất rõ ràng, lại nói sợ cha mình cũng không yên, liền hỏi:
- Thầy đoán rất tài, nhưng không biết mẹ tôi bị bệnh gì?
- Cứ như quẻ này, “thế hào” thủy hoả khắc nhau, tất nhiên là hàn hỏa ngưng kết. Nếu muốn đoán cho rõ ràng, bói cỏ thi (5) cũng không rõ lắm, phải dùng "đại lục nhâm", thì mới đoán được đúng.
- Thầy cũng đều biết cả à?
- Cũng biết ít nhiều.
Giả Dung liền xin ông ta xem cho một quẻ và báo ra một giờ. Ông ta liền vẽ lên cái khay, bày các thần tướng ra mà tính thì là bạch hổ trong cung tuất. Quẻ này gọi là “phách hoả”. Bạch hổ tức là hung tướng, nếu gặp vượng khí sẽ bị dẹp lại không thể làm hại. Nay lại gặp "tử thần" "tử sát", và thời lệnh giam hâm thành ra hổ đói, tất sẽ làm hại người. Cũng như phách thần bị kinh sợ mà tiêu tán, cho nên gọi là "phách hoá" (6). Quẻ này đoán rằng con người bị mất vía, lo phiền liên miên, bị bệnh thì sẽ chết, kiện thì bị lo sợ. Cứ tượng mà xét thì ngày chiều hổ tới nên nhất định mắc bệnh vào lúc chiều tối. Trong tượng lại nói: “Phàm ai mà bói đúng quẻ này thì nhất định là nơi vườn cũ có hổ nấp làm dữ, hoặc là có hình dáng, có tiếng động". Nay ngài vì cha mẹ mà bói, đúng vào câu: hổ ở dương thì đàn ông phải lo, ở âm thì đàn bà phải lo. Quẻ này rất là hung dữ, nguy hiểm!
Giả Dung nghe chưa xong, trên mặt thất sắc nói:
- Thầy nói rất đúng, nhưng so với quẻ trước, xem ra không hợp lắm, như thế có can gì không?
- Ngài đừng có vội, để tôi thong thả xem lại đã.
Ông ta cúi đầu xuống, lầm rầm một lúc rồi nói:
- May lắm, có cứu tinh rồi! Tính ra thì ở cung “Tỵ”, có quỉ thần giải cứu, gọi là "phách hoá hồn quý", trước lo mà sau mừng, không can gì đâu, cần phái cẩn thận ít nhiều là được.
Giả Dung trả tiền bói rồi tiễn ông ta ra.
Giả Dung vào nhà thưa với Giả Trân :
- Bệnh mẹ mắc phải là do hồi chiều tối ở bên vườn vì gặp “phục thi bạch hổ” nào đó.
- Mày nói mẹ mày hôm trước đi qua vườn mà về, khéo không lại gặp cái gì ở đấy cũng nên. Mày có nhớ việc thím Hai mày vào vườn về rồi bị ốm không? Thím ấy tuy không thấy gì, nhưng sau bọn a hoàn và bà già đều nói lúc đó trên núi có một vật gì lông lá xồm xoàm, mắt như cái đèn lồng to tướng lại biết nói nữa. Nó đuổi thím Hai, làm thím Hai về rồi khiếp mà sinh ốm.
- Con vẫn còn nhớ. Con còn nghe Bồi Dính bên nhà chú Bảo nói, chị Tình Văn thì làm thần hoa phù dung ở trong vườn, khi cô Lâm chết thì giữa trời có tiếng âm nhạc, nhất định cô ta cũng trông coi hoa gì rồi đấy. Trong vườn nhiều yêu quái như thế thì nguy thật! Trước kia, người nhiều, dương khí thịnh, đi lại luôn không ngại gì, nay gặp lúc vắng vẻ mà mẹ đi qua đó, không biết lại giẫm phải hoa gì cũng nên, không thì cũng lại gặp phải vị nào rồi đấy? Quẻ ấy bói cũng đúng đấy.
- Thế ông ta bảo có can gì không?
- Cứ như ông ta nói thì đến ngày tuất sẽ khỏi. Chỉ mong sao cho khỏi được hai ngày hoặc chậm lại hai ngày thì hay.
- Thế là thế nào?
- Nếu ông ta mà đoán đúng thì sợ cha cũng không được yên.
Đang nói chuyện thì nghe bên trong nhà kêu:
- Mợ đòi ngồi dậy sang bên vườn, bọn a hoàn giữ không được.
Giả Trân chạy vào yên ủi thì nghe Vưu thị miệng nói lảm nhảm:
- Người mặc áo đỏ đến gọi ta! Người mặc áo xanh đến đuổi ta.
Bọn a hoàn đứng đấy vừa sợ vừa buồn cười.
Giả Trân liền sai người đi mua ít vàng giấy, đưa vào vườn đốt. Quả nhiên đêm ấy Vưu thị đổ mồ hôi, bệnh giảm được đôi phần. Đến ngày tuất, dần dần khoẻ hẳn. Từ đó, một đồn mười, mười đồn trăm, ai cũng nói trong vườn Đại Quan có quỉ. Bọn coi vườn sợ quá. không còn dám sửa sang cây cối, vun tưới cỏ rau gì cả. Trước thì ban tối không ai dám qua lại, đến nỗi chim muông lấn người, gần đây, thậm chí ban ngày cũng hai ba người cầm khí giới mới dám đi. Cách đó ít lâu, quả nhiên Giả Trân cũng ốm, nhưng không mời thầy thuốc chữa nữa, nhẹ thì đến vườn đốt vàng xin khất, nặng thì bói toán cầu cúng. Giả Trân khỏi thì bọn Giả Dung nối tiếp nhau ốm. Mấy tháng trời liên tiếp như vậy, làm cho cả hai phủ đều sợ. Từ đó, nghe tiếng chim kêu, gió thổi, và từng gốc cây ngọn cỏ, người ta cũng cho là yêu tinh cả. Các khoản cho thầu trong vườn nhất thiết bỏ hết, tiền chi tiêu hàng tháng, các phòng đều phải tăng thêm, làm cho phủ Vinh càng
chật vật. Bọn coi vườn không còn mơ ước gì nữa, ai cũng muốn bỏ đó mà đi, thường bịa ra những chuyện yêu quái để đòi dời ra. Sau đó họ đóng chặt cửa vườn lại, không ai dám vào, làm cho lầu cao gác rộng, quán ngọc đài dao đều trở thành nơi chim muông nương đậu.
Anh ngoại Tình Văn là Ngô Quý nhà ở ngay trước cửa vườn. Từ khi Tình Văn chết, nghe nói cô ta làm thần hoa, cho nên cô vợ anh ta cứ tối đến là không dám ra khỏi cửa. Hôm đó, Ngô Quý đi ra mua đồ vật, cô vợ anh ta bị cảm sẵn, ban ngày uống lầm thuốc nên đến đêm Ngô Quý về nhà, thì thấy vợ đã chết nằm trên giường. Người ngoài thấy mụ ta là người không đứng đắn, liền bịa chuyện nói là yêu quái leo tường ra hút hết tinh cho nên chị ta chết. Giả mẫu nghe nói, hoảng sợ, liền sai một số người vây kín lấy phòng ở của Bảo Ngọc, chia canh tuần phòng nghiêm ngặt. Bọn a hoàn nhỏ, đứa thì nói thấy người mặt đỏ, đứa thì nói thấy người con gái rất đẹp, bàn tán không ngớt, làm cho Bảo Ngọc luôn luôn khiếp sợ. May được Bảo Thoa vững vàng, nghe bọn a hoàn nói nhảm, liền doạ đòi đánh, nên những lời nói bịa đặt ấy cũng ngày một đỡ. Khốn nỗi, người ở các phòng đều sợ người, sợ quỉ, nơm nớp không yên, nên phải thêm người canh đêm, do đó, sự ăn tiêu càng tốn.
Chỉ có Giả Xá không tin lắm, bảo:
- Cái vườn yên tĩnh như thế, làm gì có ma quỉ.
Ông ta liền chọn ngày gió mát, ấm trời, dẫn một số người nhà cầm khí giới, vào vườn dò xem có động tĩnh gì không. Mọi người khuyên, ông ta không nghe. Khi vào vườn, quả nhiên âm khí ghê người. Giả Xá mạnh dạn tiến vào, nhưng bọn người đi theo thì đều so đầu rụt cổ. Trong đó, có một anh trẻ tuổi, bụng đã khiếp sợ, bỗng nghe “soạt” một tiếng, ngoảnh nhìn thì thấy một vật gì năm sắc chói lọi hay qua. Anh ta khiếp quá, kêu cái “ái chà” một tiếng, hai chân mềm nhũn, liền ngã ngay xuống. Giả Xá ngoảnh lại hỏi thì anh ta hồi hộp thưa:
- Chính mắt cháu trông thấy một con yêu tinh mặt vàng râu đỏ, áo tía xiêm xanh chạy vào hốc núi sau rừng cây.
Giả Xá nghe nói cũng hơi chột dạ, liền hỏi:
- Chúng bay đều thấy cả à?
Có mấy người cùng nói hùa theo:
- Sao lại không thấy, nhưng vì có ông lớn ở đấy, chúng con không dám kinh động, còn giữ vững tinh thần được.
Giả Xá nghe nói sợ hãi, cũng không dám đi nữa vội vàng trở về, dặn bọn hầu nhỏ không được nhắc đến, cứ nói đi xem khắp nơi chẳng thấy có gì. Thực ra thì trong bụng ông ta cũng tin, định đến phủ Chân Nhân mời pháp sư đến đuổi ma. Ngờ đâu bọn người nhà dầu không có chuyện chúng cũng còn bịa ra, huống gì bây giờ chúng thấy Giả Xá cũng sợ, nên chẳng những không giấu mà lại còn bịa đặt ra nhiều điều làm cho ai nghe cũng phải lè lưỡi.
Giả Xá chẳng biết làm thế nào, đành phải mời đạo sĩ đến vườn hoá phép trừ tà. Đạo sĩ chọn ngày tốt, trước hết lập một đàn tràng ở điện "Tỉnh thân ", trên hay tượng Tam thanh; hai hên bày hình ảnh hai mươi tám vị sao và bốn đại tướng là Mã, Triệu, Ôn, Chu; bên dưới bày tranh ba mươi sáu thiên tướng. Hương hoa đèn đuốc bày khắp cả nhà. Chuông trống và các đồ pháp bảo bày
la liệt hai bên. Các thứ cờ cắm theo màu sắc năm phương. Ty đạo kỷ sắp đặt bốn mươi chín vị đạo sĩ làm người chấp sự, để riêng một ngày làm lễ tĩnh đàn. Ba vị pháp quan hành hương lấy nước xong, rồi mới nổi hiệu trống lên. Các vị pháp sư đều đội mũ thất tinh, mặc áo pháp y cửu cung bát quái, đi giày đằng vân, tay cầm hốt ngà, liền dâng biểu mời các vị thánh. Lại đọc một ngày kinh Động Nguyên, để trừ tai, đuổi tà, và tiếp phúc, rồi sau đó ra bảng triệu tướng. Trên bảng viết: đại pháp sư, linh bảo phù lục diễn giáo ba cõi Thái ất, Hỗn nguyên, Thượng thanh, ra lệnh cho các thần ở địa phương đều đến nghe lệnh sai khiến”.
Ngày hôm ấy, các người trên dưới ở hai phủ, cậy có pháp sư bắt yêu, đều vào vườn xem, ai cũng nói:
- Pháp lệnh lớn thật! Gọi thần sai tướng rầm lên như thế, bất luận yêu quái nhiều hay ít cũng đều sợ chạy hết.
Mọi người đều chen nhau đến trước đàn. Đạo sĩ nhỏ dựng cờ và phướn lên đứng theo năm phương, chờ chực hiệu lệnh của pháp sư. Ba vị pháp sư, một vị tay cầm bảo kiếm và bưng nước phép; một vị cầm cờ đen có vẽ thất tinh và một vị cầm roi đánh yêu quái bằng gỗ đào, đều đứng ở trước đàn. Bỗng thấy pháp khí dừng lại rồi thì bên trên đánh ba tiếng lệnh, trong miệng pháp sư đọc câu thần chú, cờ năm phương bày rải rác ra xung quanh. Pháp sư bước xuống đàn, gọi người nhà dẫn đi đến các chỗ lầu gác, đình, đài, nhà cửa, hiên phòng, cho đến chân núi, bến nước, rảy nước phép, rồi dùng gươm chỉ vẽ một chốc, trở về đánh luôn mấy tiếng lệnh, đem cờ thất tinh tung lên. Các đạo sĩ thì đem cờ và phướn nhóm lại một chỗ. Pháp sư lại cầm roi đánh
yêu quái đánh luôn ba cái vào giữa khoảng không. Bọn người nhà đều cho là bắt được yêu quái, giành nhau lại xem. Khi đến tận nơi thì chẳng thấy hình dáng tiếng tăm gì cả. Chỉ thấy bọn pháp sư gọi các đạo sĩ đưa bình.lọ đến bắt yêu quái nhốt lại, dán giấy lên trên. Pháp sư dùng bút son viết bùa sai người mang về giữ lại ở một cái tháp trong chùa rồi hạ đàn và làm lễ tạ thần tướng. Giả Xá kính cẩn tạ ơn các pháp sư.
Anh em Giả Dung sau đó cứ cười mãi, nói :
- Bày biện một cách đồ sộ như thế, bọn mình cứ tưởng là bắt được yêu quái cho nhìn một tý xem ra làm sao, ai ngờ lại có thế thôi, biết họ có thật bắt được yêu quái không?
Giả Trân nghe nói, mắng :
- Đồ ngu! Yêu quái khi nhóm lại thì thành hình, khi tan ra thì thành khí, hiện nay có biết bao nhiêu thần tướng ở đây, yêu quái còn dám hiện hình ra à? Cốt sao thu lấy khí yêu, không cho nó quấy nhiễu nữa, thế là pháp lực đấy.
Mọi người nửa tin nửa ngờ, hãy chờ xem không thấy hiệu nghiệm gì rồi sẽ nói.
Bọn người dưới biết là yêu quái bị bắt, trong bụng hết nghi ngờ, nên không sợ sệt như trước nữa, về sau quả nhiên chẳng có ai nhắc đến. Bọn Giả Trân khỏi bệnh, bình phục như cũ đều cho là nhờ có thần lực của pháp sư. Riêng có một tên hầu nhỏ cười và nói:
- Trước kia ma quái như thế nào, tôi cũng chả biết, còn như hôm theo ông lớn vào vườn, thì rõ ràng là một con gà trống rừng bay qua, thằng Thuyên khiếp sợ, mù mắt, nói như chuyện thật? Bọn chúng tôi nói dối dùm cho nó, ông lớn cho là thật, làm chúng mình được xem một đàn tràng vui nhộn.
Mọi người nghe nói, nhưng chẳng ai dám tin. Rút cục vẫn không ai vào ở trong vườn.
Một hôm Giả Xá rảnh việc, đang định gọi người dọn vào trông nom trong vườn, sợ đêm hôm có quân gian trốn núp ở đó. Vừa muốn truyền lời ra gọi, bỗng thấy Giả Liễn đi vào hỏi thăm sức khoẻ và thưa:
- Hôm nay con sang bên nhà cậu Cả, nghe có tin bịa đặt nói là chú Hai bị quan tiết độ hạch về tội không chịu xem xét để bọn tuỳ thuộc thu thuế lương gạo quá nặng, tâu xin cách chức.
Giả Xá nghe xong, giật mình, nói:
- Có lẽ là tin bịa đặt thôi? Hôm trước chú Hai viết thư về, nói Thám Xuân ngày nọ đến nơi, chọn ngày giờ tốt đưa em mày tới miền biển, dọc đường gió yên sóng lặng, cả nhà không cần lo nghĩ. Lại còn nói quan tiết độ nhận làm bà con, thết tiệc chúc mừng, lẽ nào đã làm bà con rồi lại còn hặc nhau? Hãy khoan nói gì cả, con cứ đến bộ lại dò cho rõ ràng rồi về nói với ta.
Giả Liễn tất tưởi ra đi, chưa đến nửa ngày đã về, thưa lại:
- Con vừa đến bộ lại dò xem thì quả nhiên chú Hai bị hặc. Bản tâu dâng lên, may nhờ ân đức của hoàng thượng, không giao xuống bộ, liền xuống chiếu chỉ nói: "Không xem xét bọn quan dưới thu thuế lương gạo quá nặng, làm hại nhân dân, tội đáng cách chức. Nhưng nghĩ rằng mới làm quan ngoài, chưa quen việc cai trị nên bị bọn quan dưới che giấu. Vậy chỉ giáng ba cấp, gia ân cho vẫn làm chức viện ngoại bộ công như trước và truyền phải về kinh ngay". Tin này là đúng đấy. Lúc con đang nói chuyện ở bộ lại thì có một viên tri huyện ở Giang Tây được đưa vào bệ kiến cũng vừa đến đó. Nói đến chú Hai nhà ta, ông ta rất là cảm kích. Ông ta nói chú Hai là một vị quan rất tốt, nhưng dùng người không đúng. Bọn người nhà ở ngoài rêu rao lừa dối, khinh rẽ viên chức ở dưới, làm chú Hai mang tiếng. Quan tiết độ biết đã lâu, ngài cũng nói. Chú Hai là người tốt, không hiểu sao bây giờ ông ta lại hặc. Chắc là quan tiết độ thấy tệ quá, sợ sau này xảy ra vạ lớn, cho nên mượn việc không xét người dưới mà hặc để giảm nhẹ tội, cũng chưa biết chừng.
Giả Xá ngắt lời bảo Giả Liễn:
- Con hãy đi trình với thím Hai. Khoan trình với bà là được.
Giả Liễn liền đi ra trình lại với Vương phu nhân.
(1) Một danh từ Đông y, nghĩa là đường kinh lạc từ dạ dày đi xuống chân.
(2) Thầy bói dùng ba đồng tiền gieo xuống khay: ngửa cả ba đồng là “giao”, sấp một đồng là “đơn”, sấp hai đồng là “sách”, sấp ba đồng là “trùng”, rồi theo đó mà tính ra là quẻ gì.
(3) “Đơn chiết đơn” là cách tình các quẻ đơn trong kinh Dịch.
(4) Tên một quẻ trong kinh Dịch.
(5) Bói cỏ thi là đếm cây cỏ thi để mà bói theo phép kinh dịch.
(6) Các chữ như thế hào, bạch hổ, phách hoả, tử thần, tử sát, v.v.. đều là danh từ riêng trong phép bói toán đời xưa.
Hồi thứ một trăm lẻ ba
Giở kế độc ác, Kim Quế tự giết mình
Không hiểu đạo thiền, Vũ Thôn gặp người cũ
Giả Liễn sang nhà Vương phu nhân nói rõ đầu đuôi. Đến hôm sau anh ta vào trong bộ thu xếp ổn thỏa rồi, về nhà đem việc thu xếp ở bộ lại nói với Vương phu nhân. Vương phu nhân liền hỏi:
- Cháu dò chắc rồi à? Nếu quả như thế, chú cũng bằng lòng, mà cả nhà cũng yên tâm. Còn làm quan ngoài thì thật là không làm được! Nếu không gặp việc như thế mà về thì có lẽ bọn tầm bậy kia còn chôn cả mạng chú đi nữa kia.
- Sao thím biết?
- Từ khi chú Hai cháu đi làm quan ngoài tới nay, chẳng thấy gửi một đồng tiền nào về nhà, mà lại lấy mất bao nhiêu tiền nhà đem đi. Cháu xem đấy, bọn đi theo chú thì chồng ở ngoài chưa được mấy lâu mà vợ ở nhà đã hoa vàng xuyến bạc, trang điểm lộng lẫy. Không phải chúng ở ngoài che mắt chú mà làm tiền là gì? Thế mà chú cháu cũng để mặc cho chúng làm bậy. Nếu xảy ra chuyện chẳng lành thì chẳng những mất chức quan của mình, mà cả chức quan của cha ông để lại cũng mất luôn nữa.
- Thím nói cũng phải. Vừa rồi cháu nghe chú bị hặc, cũng sợ cuống lên. Đến khi dò hỏi rõ ràng mới yên tâm. Cháu cũng muốn chú làm quan ở kinh yên ổn mấy năm, mới giữ tròn được thanh danh cả đời người. Dầu cụ có nghe thấy, chắc cũng yên lòng, chỉ cần thím lựa lời nói cho nhẹ nhàng một chút.
- Ta hiểu rồi, cháu lại đi dò hỏi thêm nữa xem.
Giả Liễn vâng lời, định ra đi. Bỗng thấy một bà già ở bên nhà Tiết phu nhân, ra vẻ hoảng hốt, chạy đến. Vào đến nhà Vương phu nhân, bà ta cũng không hỏi thăm sức khỏe, mà nói ngay:
- Bà nhà chúng tôi bảo đến trình với bà lớn ở đây, bên nhà chúng tôi nguy lắm, lại xảy ra việc rồi!
Vương phu nhân vội hỏi:
- Có việc gì thế?
- Nguy lắm, nguy lắm!
Vương phu nhân hừ một tiếng, bảo:
- Đồ lẩm cẩm! Có việc gì quan hệ thì mụ cứ nói ra xem nào?
- Cậu Hai nhà tôi đi vắng, không có người đàn ông nào ở nhà, việc này xảy ra biết làm thế nào! Nhờ bà lớn cho mấy cậu sang lo liệu giùm cho.
Vương Phu nhân nghe nói, chẳng hiểu ra sao, hoảng lên nói:
- Mời các cậu sang để làm gì chứ?
- Mợ cả nhà tôi chết mất rồi!
Vương phu nhân nghe nói, nhổ toẹt một cái rồi nói:
- Cái thứ đàn bà ấy chết đi thì thôi, có đáng gì mà cũng làm rầm lên như thế?
- Không phải chết bình thường mà là chết một cách ám muội. Nhờ bà lớn mau cho người sang lo liệu hộ.
Bà ta nói xong định chạy về.
Vương phu nhân vừa tức, vừa buồn cười, liền nói:
- Bà già này rõ lẩn thẩn! Anh Liễn ạ, anh sang xem, đừng nghe cái mụ ngu ngốc ấy.
Bà già kia không nghe câu “cho người sang”, mà chỉ nghe “đừng nghe mụ ấy “, liền đâm giận, bỏ chạy về.
Bên này Tiết phu nhân đang lúc cuống quít, chờ mãi không thấy ai đến. Vừa thay bà già về, bà ta hỏi ngay :
- Dì sai ai đến?
Bà già thở dài:
- Người ta khi có việc nguy cấp mới biết. Bà con thân thiết xem chừng cũng chẳng ăn thua gì? Dì chẳng những không chịu giúp đỡ nhà ta mà còn mắng tôi là ngu ngốc?
Tiết phu nhân nghe nói vừa tức vừa hoảng, liền bảo:
- Dì không nhìn thì cô nói thế nào?
- Dì đã không nhìn thì chắc rằng cô nhà ta lại càng không nhìn nốt, nên tôi không đến nói.
Tiết phu nhân nhổ toẹt một cái và nói:
- Dì là người ngoài. Cô là con ta, sao lại không nhìn được.
Bà già nghe nói mới nhớ ra:
- Phải rồi! Đã thế thì để tôi đi nói.
Đang nói thì thấy Giả Liễn đến chào Tiết phu nhân, ngỏ lời hỏi thăm rồi nói:
- Thím cháu nghe nói mợ nó mất đi, hỏi bà già không rõ gì cả. Thím cháu rất sốt ruột, sai cháu sang hỏi lại cho rõ ràng, và bảo cháu ở đây lo dùm, nên như thế nào, dì cứ nói để liệu.
Tiết phu nhân đang tức, ngồi khóc thầm, nghe Giả Liễn nói, vội vàng trả lời:
- Thật làm phiền cậu. Tôi đã nói dì đối đãi với tôi rất tử tế nhưng con mụ già ấy nói không rõ, suýt nữa làm hỏng việc. Mời cậu ngồi xuống để thong thả, tôi nói cho cậu nghe.
Đoạn lại nói tiếp:
- Không có việc gì khác, chỉ vì con dâu tôi chết không phải bình thường!
- Chắc là vì chú em mang tội, mợ ta buồn giận mà chết chứ gì?
- Nếu đượcc như thế thì đã phúc! Mấy tháng trước đây, ngày nào nó cũng cứ đi chân không, bỏ xoã tóc làm như con điên. Sau nghe em cậu (1) bị tội chết, nó có khóc một trận, nhưng sau đó lại bôi son đánh phấn. Tôi nói thì nó làm ầm lên. Không chịu nổi nên tôi cứ để mặc. Hôm gần đây không biết tại sạo nó bảo con Hương Lăng đến ở chung với nó. Tôi bảo nó: “Mày có con Bảo Thiềm rồi, còn gọi con Hương Lăng làm gì? Vả lại mày vẫn không thích con Hương Lăng, tội gì mà làm cho thêm tức giận? Nó nhất định không nghe. Tôi không biết làm thế nào, đành phải bảo Hương Lăng tới phòng nó. Tội nghiệp con Hương Lăng, không đám cưỡng lời tôi, phải mang bệnh mà đến. Ai ngờ nó đãi Hương Lăng rất tốt, tôi cũng vui mừng. Cô em của cậu (2) biết thế liền nói: “Chỉ sợ chẳng phải tốt thật đâu”. Tôi cũng không để ý. Mấy hôm đầu, Hương Lăng ốm nằm. nó tự tay đi nấu canh cho Hương Lăng ăn. Không ngờ Hương Lăng vô phúc, vừa bưng canh thì tay nó bị bỏng, vỡ cả bát canh. Tôi chắc rằng nó sẽ giận lây Hương Lăng. Nhưng nó không giận rồi tự lấy chổi quét sạch. múc nước chùi đất. Hai đứa vẫn tử tế với nhau như thường. Chiều hôm qua, nó lại bảo con Bảo Thiềm làm hai bát canh để ăn chung với Hương Lăng. Cách một lúc thấy bên nhà nó ồn lên. Con Bảo Thiềm hoảng hốt kêu to. Sau đó con Hương Lăng cũng
kêu và vịn tường đi ra gọi người. Tôi vội vàng sang thì thấy con dâu tôi lỗ mũi con mắt đều chảy máu, đang vật vã giữa đất, hai tay cào bụng, hai chân giãy đành đạch, làm cho tôi chết khiếp đi được. Tôi xem bộ dạng thì rõ là nó uống phải thuốc độc. Bảo Thiềm liền khóc lên và níu lấy Hương Lăng, nói là Hương Lăng bỏ thuốc độc giết chết mợ nó. Tôi xem Hương Lăng không phải là người như thế. Vả chăng nó ốm, dậy cũng không được, làm sao mà bỏ thuốc độc giết được người. Khốn nỗi, con Bảo Thiềm cứ nói chắc chắn như thế. Cậu Hai xem, tôi làm thế nào bây giờ. Tôi đành phải bảo bọn bà già trói con Hương Lăng lại, giao cho con Bảo Thiềm và khoá trái cửa phòng lại. Tôi và em hai cậu (3), ngồi giữ suốt đêm, chờ cho bên phủ mở cửa mới đi nói được. Cậu Hai ạ! Cậu là người thông hiểu, việc này bây giờ làm thế nào đây?
Giả Liễn nói:
- Bên nhà họ Hạ đã biết chưa!
- Cũng phải xử trí thế nào cho rõ ràng đã rồi mới báo tin cho họ được.
- Theo tôi thì việc này phải báo quan mới xong. Chúng ta cố nhiên là nghi cho con Bảo Thiềm. Nhưng người ta sẽ hỏi tại sao con Bảo Thiềm lại bỏ thuốc độc giết chết cô nó. Nếu mà gán cho Hương Lăng thì đáng còn có lý.
Đang nói chuyện thì thấy bọn con gái hầu ở bên Phủ Vinh đi vào thưa:
- Mợ Hai chúng tôi đến đấy!
Giả Liễn tuy là anh chồng, nhưng vì hai bên đã biết nhau từ lúc nhỏ, nên cũng không cần tránh. Bảo Thoa vào chào mẹ và Giả Liễn, rồi vào nhà trong ngồi với Bảo Cầm.
Tiết phu nhân theo vào, đem chuyện vừa rồi nói lại cho Bảo Thoa nghe, Bảo Thoa liền nói:
- Nếu bắt trói Hương Lăng thì ra mình cũng nói Hương Lăng bỏ thuốc giết người à? Mẹ nói canh ấy do Bảo Thiềm nấu thì nên trói nó lại mà hỏi, một mặt cho người báo tin với nhà họ Hạ; một mặt đi báo quan mới phải.
Tiết phu nhân nghe nói có lý, liền hỏi Giả Liễn. Giả Liễn nói:
- Em Hai nói rất phải. Việc báo quan thì tôi phải đi, phải dặn trước những người bộ hình thì khi khám nghiệm và lấy khẩu cung họ mới giúp đỡ mình. Còn việc trói Bảo Thiềm, tha Hương Lăng thì hơi khó.
Tiết phu nhân nói:
- Không phải là tôi muốn trói Hương Lăng, nhưng sợ Hương Lăng trong khi ốm lại bị oan, hoảng lên mà tự tử, thì lại thêm một nhân mạng nữa, nên mới trói mà giao cho Bảo Thiềm, đó cũng là có ý.
Giả Liễn nói:
- Tuy nói như vậy, nhưng làm như thế thì lại hoá ra mình giúp cho Bảo Thiềm rồi. Nếu tha thì tha cả; trói thì trói cả; vì ba người ấy ở chung một chỗ. Chỉ nên sai người yên ủi riêng Hương
Lăng là được.
Tiết phu nhân liền sai người mở cửa đi vào. Bảo Thoa sai mấy người đàn bà theo đến giúp sức trói Bảo Thiềm.
Lúc đó, thấy Hương Lăng đã khóc lóc, chết đi sống lại. Còn Bảo Thiềm thì hớn hở đắc ý, sau nó thấy người ta định trói mình thì gào lên, nhưng người Phủ Vinh quát nạt, rồi trói lại và mở cửa ra để sai người trông nom cho tiện.
Người tin cho nhà họ Hạ cũng đã đi. Nhà họ Hạ trước kia không ở trong kinh, nhân vì gần đây cảnh nhà sa sút, lại nhớ con gái nên mới dọn ra ở kinh. Người cha đã mất, chỉ còn có mẹ, lại lập tự Hạ Tam là một đứa tầm bậy, phá sạch cơ nghiệp. Hắn cũng thường đến nhà họ Tiết. Kim Quế vốn là người dâm đãng, chịu cảnh phòng không sao nỗi. Chị ta ngày ngày tơ tưởng Tiết Khoa không được, nên có vẻ như người đói không chọn thức ăn. Nhưng khốn nỗi, Hạ Tam lại là một thằng ngốc, tuy có hiểu biết ít nhiều, nhưng cũng chưa dám ăn nằm với nhau. Vì thế, Kim Quế thường về nhà, giúp hắn ít nhiều tiền bạc.
Hôm đó, Hạ Tam đang mong Kim Quế về, thì thấy người nhà họ Tiết đến, bụng hắn nghĩ thầm: “Chừng lại mang cái gì về đây?” Không ngờ nghe nói là cô uống thuốc độc chết, hắn liền nổi nóng, kêu gào ầm ĩ. Mẹ Kim Quế nghe nói cũng vừa khóc vừa gào:
- Con gái ta ở nhà nó vô duyên vô cớ, tại sao lại uống thuốc độc?
Bà ta vừa kêu vừa khóc, rồi cùng người con đi ngay không chờ thuê xe nữa. Họ Hạ nguyên là một nhà buôn bán, nay không có tiền thì còn giữ sĩ diện gì. Con bà ta chạy trước, còn bà ta thì cùng một bà già ăn mặc rách rưới ra khỏi cửa, dọc đường phố, vừa khóc vừa kêu rồi thuê một cái xe xộc xệch đi thẳng đến nhà họ Tiết. Vào nhà, bà ta cũng chẳng bắt chuyện với ai, liền gọi: “Con ơi, con hỡi!” và bắt đền người.
Lúc đó Giả Liễn còn đến bộ hình nhờ người ta giúp đỡ, ở nhà chỉ có Tiết phu nhân, Bảo Thoa và Bảo Cầm, họ chưa bao giờ thấy cái cảnh tượng như thế, nên đều khiếp sợ không dám lên tiếng. Muốn nói phải chăng với bà ta, nhưng bà ta không chịu nghe, cứ một mực nói:
- Con gái tôi ở nhà bà có được sung sướng gì đâu? Hai vợ chồng nó bấy nay cứ sớm tối đánh chửi nhau như mổ bò. Các người lại không để cho hai vợ chồng nó ở một chỗ, bàn cách đem rể tôi nhốt vào nhà giam, lâu ngày không thấy mặt nữa. Mẹ con các người có bà con tốt, hưởng ung sướng đã đành,sợ để nó đấy gai mắt, nên sai người đánh thuốc giết chết nó đi, rồi nói là nó uống thuốc độc! Con tôi làm sao mà lại uống thuốc độc?
Vừa nói bà ta vừa đâm bổ đến trước mặt Tiết phu nhân. Tiết phu nhân đành phải lùi lại sau, nói:
- Bà thông gia này! Bà hãy nhìn con một chút, hỏi lại con Bảo Thiềm rồi hãy nói nhảm cũng chưa muộn!
Bảo Thoa và Bảo Cầm vì có đứa con nuôi họ Hạ ở ngoài nên không tiện ra can ngăn, bênh vực, chỉ ở trong nhà hoảng hốt.
May sao Vương phu nhân cho vợ Chu Thụy đến trông nom. Mụ vừa vào cửa, trông thấy một bà già, đang chỉ vào mặt Tiết phu nhân vừa khóc vừa mắng. Vợ Chu Thụy biết là mẹ Kim Quế, liền chạy lại nói:
- Đây là bà thông gia đấy à? Mợ cả uống thuốc độc có can gì đến bà dì chúng tôi đâu? Bà không được làm ầm ĩ như thế!
Mẹ Kim Quế hỏi:
- Bà là ai ?
Tiết phu nhân thấy có người, mạnh dạn hơn, liền nói:
- Bà này người bên phủ Giả, là bà con chúng tôi đấy?
- Ai không biết nhà bà có bà con nương tựa. Có như thế mới bắt thằng rể tôi vào nhà giam được chứ? Không lẽ bây giờ để cho con gái tôi chết oan hay sao?
Nói đến đó, bà ta liền nắm lấy Tiết phu nhân mà bảo:
- Bà giết con gái tôi bằng cách nào, để cho tôi xem!
Vợ Chu Thụy khuyên:
- Bà cứ đi xem, không cần phải lôi lôi kéo kéo nữa.
Rồi mụ giơ tay đẩy ra. Con nuôi họ Hạ liền chạy lại, quát:
- Nhà mụ cậy thế bên phủ Giả, đến đánh mẹ tôi à?
Nói xong, nó vác ghế ném một cái. nhưng không trúng. Bọn người theo hầu Bảo Thoa nghe bên ngoài làm ồn lên, vội vàng ra xem, sợ vợ Chu Thụy bị lép vế, đều kéo bè, nửa khuyên nửa quát. Mẹ con nhà họ Hạ nổi khùng lên, nói:
- Biết thế lực của phủ Vinh rồi đấy! Nhưng con gái nhà chúng tao đã chết rồi, giờ đây chúng tao không cần gì đến tính mạng nữa.
Nói xong, chúng định chạy lại liều mạng với Tiết phu nhân. Người ở đấy tuy nhiều nhưng không sao cản nổi. Đúng như người xưa nói: “Một người liều mạng, muôn người khó chống”. Đang lúc gay go thì Giả Liễn dẫn bảy tám tên gia nhân đến. Trông thấy thế, Giả Liễn bảo kéo con họ Hạ ra và nói:
- Các ngươi không được làm càn, có điều gì cứ nói tử tế. Mau mau dọn dẹp trong nhà, các quan trong bộ hình sắp đến khám nghiệm rồi đấy.
Mẹ Kim Quế đang hung hăng, chợt thấy Giả Liễn đến quát nạt, mọi người đều buông tay đứng hầu. Bà ta thấy tình hình này cũng không biết Giả Liễn là người nào ở bên phủ Giả. Lại
thấy con mình đã bị mọi người tóm lấy, và nghe nói hộ hình sắp đến khám. Bà ta vốn định hễ thấy xác của con là trước hết làm cho một trận tan nát rồi mới đi kêu oan. Không ngờ ở đây họ đã đi báo quan trước, nên bà ta cũng non đi ít nhiều.
Tiết phu nhân khiếp sợ, đâm ra ngơ ngác, vợ Chu Thụy nói:
- Bọn họ đến, không nhìn con gái họ mà lại dày vò dì. Chúng tôi có lòng tốt đến khuyên, lại có một tên đầu bò ở đâu chạy đến, đánh bậy, nói bậy ở giữa chỗ các mợ. Thì ra không còn có phép vua gì nữa.
Giả Liễn nói :
- Giờ đây không cần nói lý với nó nữa, chỗc nữa sẽ đánh nó và hỏi: đàn ông thì có chỗ của đàn ông. Trong này đều là các cô các mợ cả, vả có mẹ nó rồi lại không nhìn được chị nó hay sao? Nó chạy vào đây để mà ăn cướp à?
Bọn người nhà vừa đổ vừa tìm cách đe nẹt nó. Vợ Chu Thụy cậy có nhiều người, liền nói:
- Bà Hạ! Bà không hiểu gì cả? Đã đến đây bà cũng nên hỏi cho rõ đen trắng chứ? Cô gái nhà bà tự mình uống thuốc độc mà chết, không thì cũng là con Bảo Thiềm giết chết chủ nhà. Tại sao bà không hỏi rõ ràng, không nhìn xác chết con gái mà đã vu vạ cho người ta? Không lẽ chúng tôi lại chịu cho con dâu tự nhiên vô cớ mà chết oan hay sao? Hiện nay đã bắt Bảo Thiềm trói lại rồi. Vì cô gái nhà bà muốn lây bệnh, gọi Hương Lăng đến ở chung một nhà, cho nên cả hai người đều bị bắt giữ lại ở đây. Chúng tôi vẫn định chờ bà đến chính mắt trông thấy bộ hình khám nghiệm rồi hỏi cho ra manh mối mới được!
Bà mẹ Kim Quế lúc bấy giờ thế cô, đành phải theo vợ Chu Thụy đến phòng con gái, thì thấy chị ta đầy mặt máu đen, nằm sóng sượt trên giường. Bà ta liền khóc và gào. Bảo Thiềm thấy người nhà nó đến, cũng gào lên:
- Cô nhà ta có bụng tốt đối với con Hương Lăng, bảo nó ở chung, ai ngờ nó lại thừa dịp thuốc chết cô!
Lúc đó, người nhà họ Tiết đều ở đấy, liền đồng thanh quát bảo:
- Nói nhảm! Hôm qua mợ ăn phải canh mới bi chết. Canh ấy không phải là mày nấu hay sao?
Bao Thiềm nói:
- Canh thì do tôi nấu, khi bưng lên, tôi có việc đi ra, không thiết Hương Lăng dậy bỏ gì nào trong ấy.
Bà mẹ Kim Quế chưa nghe nói hết, đã vội chạy lại chỗ Hương Lăng. Mọi người ngăn lại. Tiết phu nhân liền nói:
- Xem bộ dạng này thì bị thạch tín thuốc chết đấy. Vật này trong nhà quyết không có, bất luận là Hương Lăng hay Bảo Thiềm thế nào cũng có đứa mua cho nó. Chốc nữa ra bộ hình hỏi, sẽ không chối được. Giờ hãy đem con dâu đặt nằm ngay ngắn để quan đến khám.
Bọn bà già tới sửa sang ngay ngắn. Bảo Thoa nói:
- Chốc nữa toàn là đàn ông vào đấy. Các bà hãy đi thu xếp các đồ dùng của phụ nữ lại.
Khi xem thì thấy dưới nệm giường có cái gói giấp vo tròn thành một cục. Bà mẹ Kim Quế trông thấy, liền nhặt lên mở ra xem, thấy không có gì, liền vứt đi. Bảo Thiềm trông thấy, nói:
- Bằng cứ ở đây rồi! Tôi biết gói giấy ấy: Mấy hôm trước đây, chuột phá dữ lắm, mợ về bên nhà nhờ cậu tìm cho, đem về để trong hộp đồ trang sức. Chắc là Hương Lăng trông thấy, rồi dùng nó để thuốc chết mợ. Nếu không tin thì các bà xem trong hộp trang sức xem còn có nữa không?
Bà mẹ Kim Quế nghe lời nói của Bảo Thiềm, lấy hộp ra thì chỉ có mấy cái trâm bạc. Tiết phu nhân liền nói:
- Tại sao những đồ trang sức khác đâu không còn nữa?
Bảo Thoa gọi người mớ rương và tủ ra, đều trống không, liền nói:
- Đồ đạc của chị, ai lấy đi thế? Cái này thì phải hỏi Bảo Thiềm mới được.
Bà mẹ Kim Quế trong bụng hơi lo, thấy Tiết phu nhân tra hỏi Bảo Thiềm, liền nói:
- Đồ đạc của cô nó, nó biết sao được.
Vợ Chu Thụy nói :
- Bà đừng nói thế. Tôi biết cô Bảo ngày nào cũng ở cạnh mợ cả, sao lại không biết?
Bảo Thiềm thấy hỏi găng quá, chối quanh cũng không được đành phải nói:
- Mợ thường mang về bên nhà, tôi giữ được à?
Mọi người liền nói :
- Giỏi thật! Phỉnh lấy của con gái hết rồi, bảo con tự tử để vu vạ cho chúng tôi? Giỏi thật! Chốc nữa, quan khám xong có hỏi. chúng tôi cứ nói như thế.
Bảo Thoa bảo người nhà:
- Ra ngoài kia, nói với cậu Hai Liễn. Đừng có thả người nhà họ Hạ ra.
Trong này bà mẹ Kim Quế cuống lên, liền mắng Bảo Thiềm:
- Con ranh kia đừng có nói nhảm, cô đem đồ đạc về nhà bao giờ thế?
Báo Thiềm nói:
- Giờ đây đồ đạc là việc nhỏ, đền mạng cho cô là việc lớn.
Bảo Cầm nói:
- Có đồ đạc là có người đền mạng? Mau mau nói với anh Hai Liễn hỏi cho rõ việc con nhà họ Hạ mua thạch tín, để chốc nữa trả lời với bộ hình cho tiện.
Bà mẹ Kim Quế hoảng hốt nói:
- Con Bảo Thiềm nhất định là bị quỉ ám, nói nhảm, nói bậy. Cô nhà ta có mua thạch tín bao giờ? Nói như thế, thì nhất định là Bảo Thiềm thuốc chết đấy!
Bảo Thiềm tức quá, kêu ầm lên:
- Người khác vu vạ cho tôi đã đành, sao bà cũng vu vạ cho tôi? Nhà bà chẳng đã thường nói với cô tôi rằng: chẳng tội gì mà chịu khổ, phá cho nó một trận. Người mất, của hết, rồi cứ cuốn đồ đạc vào một gói, đi lấy chồng khác tốt hơn. Bà có nói câu ấy không ?
Bà mẹ Kim Quế còn chưa trả lời, thì vợ Chu Thụy đã nói ngay:
Đấy là người nhà bà nói đấy nhé. còn chối đằng trời.
Bà mẹ Kim Quế tức quá. nghiến răng nghiến lợi, mắng
Bải Thiềm :
Tao đối xử với mày không đến nỗi tệ bạc? Sao mày dám buông lời định chôn chết tao? Chốc nữa hầu quan, tao sẽ nói là mày thuốc chết cô đấy!
Bảo Thiềm tức trợn mắt. nói :
- Xin bà lớn thả Hương Lăng ra, không việc gì mà làm tội oan người khác. Lúc hầu quan tôi sẽ có cách nói.
Bảo Thoa bắt được đầu mối, liền sai người thả Bảo Thiềm ra, và nói:
- Chị là người sáng suốt, linh lợi, tội gì mà chịu oan. Có việc gì thì cứ nói trắng ra cho mọi người rõ, có phải là xong việc không ?
Bảo Thiềm cũng sợ đến cửa quan sẽ chịu khổ, liền nói:
- Mợ cả chúng tôi ngày nào cũng oán trách, nói: “Mình thế này, làm sao lại gặp phải bà mẹ đui mắt, không gả mình cho cậu Hai, lại gả cho con người u mê bậy bạ ấy? Nếu mà được ở chung với cậu Hai một ngày, thì có chết cũng cam! Hễ nói đến đó mợ lại giận Hương Lăng. Ban đầu tôi cũng chẳng để ý, sau thấy mợ thân mật với Hương Lăng, tôi tưởng là Hương Lăng bày
vẽ gì cho mợ ấy rồi. Không ngờ việc nấu canh hôm qua có dụng ý không tốt.
Bà mẹ Kim Quế nói chẹn ngay:
- Lại càng nói nhảm! Nếu nó muốn thuốc Hương Lăng, sao lại thuốc lấy mình?
Bảo Thoa liền hỏi:
- Chị Hương Lăng, hôm qua chị có ăn canh không?
Hương Lăng nói :
- Mấy hôm trước đây, tôi ốm không cất đầu dậy được, mơ bảo tôi ăn canh, tôi không dám nói không ăn, vừa định gượng dậy thì bát canh đã đổ mất, trở lại làm cho mợ phải dọn dẹp khó khăn, trong lòng tôi áy náy mãi. Hôm qua, nghe gọi tôi ăn canh, tôi ăn không được, không biết làm thế nào, lúc đang định ăn thì đầu lại choáng váng. Thấy chị Bảo Thiềm bưng đi, tôi đang mừng thầm, vừa nhắm mắt thì mợ ăn canh và bảo tôi nếm thử, tôi cũng cố gắng nuốt hai ngụm.
Hương Lăng nói chưa xong thì Bảo Thiềm đã đỡ lời:
- Phải rồi, tôi nói thật ra thôi. Hôm qua mợ bảo tôi làm hai bát canh, nói là để ăn chung với Hương Lăng. Tôi tức quá, nghĩ bụng: “Hương Lăng là cái thứ gì mà mình phải nấu canh
cho nó ăn? Tôi cố ý bỏ thêm mắm muối vào một bát, làm dấu sẵn: chính là để cho Hương Lăng ăn. Tôi vừa định bưng lên thì mợ ngăn lại, bảo ra ngoài gọi đứa bé thuê chiếc xe, hôm nay về bên nhà. Tôi đi ra nói xong trở về, thì thấy cái bát nhiều muối để trước mặt mợ. Tôi sợ để mợ ăn thấy mặn thì lại mắng tôi. Đang lúng túng không biết làm thế nào mà mợ đi ra, tôi nhân khi mợ sơ ý không nhìn thấy, liền đánh tráo bát canh chỗ Hương Lăng qua chỗ mợ. Thật cũng là số mệnh xui nên như thế. Mợ trở vào cầm bát canh đến bên giường Hương Lăng, quát: “Mày phải nếm một tý chứ?” Hương Lăng cũng không biết mặn, hai người đều ăn xong. Tôi còn cười Hương Lăng miệng không biết mùi gì, ai ngờ cái mợ chết tiệt ấy muốn thuốc Hương Lăng, chắc chắn là nhân lúc vắng tôi, mợ rắc thạch tín vào, cũng không biết là tôi đánh tráo bát. Thật là: “Lẽ trời rõ rệt, mình lại tự hại mình vậy!”
Mọi người nghe nói, nghĩ lại trước sau, thật là không sai một chút nào, liền tha Hương Lăng ra, đỡ cho cô ta nằm lên giường như trước.
Bà mẹ Kim Quế có tật giật mình, việc lại rõ ràng, còn toan chối cãi. Bọn Tiết phu nhân mỗi người một điều, định bắt con bà ta đền mạng cho Kim Quế.
Đang lúc lời qua tiếng lại ồn ào thì Giả Liễn ở ngoài kêu lên:
- Không cần nói nhiều làm gì, mau mau thu xếp cẩn thận, quan lớn bộ hình sắp đến đấy?
Mẹ con họ Hạ hoảng sợ, nghĩ rằng đường nào mình cũng phải chịu thiệt, bất đắc dĩ quay lại xin với Tiết phu nhân:
- Muôn ngàn đều không phải, cũng là do con gái tôi hư thân. Đó là tự nó làm nó chịu, nếu để bộ hình khám nghiệm thì thể diện nhà ta cũng khó coi. Xin bà thôi việc ấy đi cho!
Bảo Thoa nói :
- Cái đó không được, đã cáo quan rồi, làm sao mà thôi được?
Bọn vợ Chu Thụy vừa dọa vừa khuyên:
- Nếu muốn thôi việc, chỉ có cách bà Hạ tự mình đứng ra xin đừng khám, chúng tôi không nói gì phải trái là thôi.
Giả Liễn ở ngoài cũng dọa thằng con. Thằng này tình nguyện đến gặp quan bộ hình, làm giấy cam kết xin đừng khám.
Mọi người đều bằng lòng. Tiết phu nhân sai người mua quan tài chôn cất Kim Quế.
Giả Vũ Thôn được thăng chức phủ doãn ở kinh và coi luôn việc thu thuế. Một hôm Vũ Thôn đi khám đất ruộng khai khẩn ở ngoài kinh đô, dọc đường qua huyện Tri Cơ, đến bến Cấp Lưu, đang định đi đò sang bờ bên kia, nhưng chờ dân phu nên tạm dừng kiệu lại. Vũ Thôn thấy bên đường có một toà miếu nhỏ, tường vách sụp đổ, để lộ ra mấy cây thông già, xem bộ cũng xanh um cổ kính, ông ta xuống kiệu, thong thả đi vào, thấy trong miếu tượng thần đã bị tróc mất lớp sơn trên mình, nhà cửa xiêu vẹo, một bên bia đá đã vỡ, dấu chữ lờ mờ, xem không rõ nữa. Ông ta định đi ra sau miếu thì thấy có một cây bách xanh biếc, dưới có một gian nhà tranh, trong nhà có một vị đạo sĩ, đang nhắm mắt ngồi nhập định. Vũ Thôn lại gần thì thấy người này diện mạo rất quen, mường tượng hình như đã gặp ở nơi nào, nhưng nghĩ không ra. Người đi theo định quát. Vũ Thôn ngăn lại, rồi thong thả đi tới nơi, gọi:
- Vị đạo sĩ già ơi!
Đạo sĩ hé mở hai mắt, khẽ cười và nói:
- Quan lớn có việc gì ?
- Tôi từ kinh đô ra tra xét công việc, dọc đường qua đây, thấy vị đạo sĩ già yên lặng tu hành, có vẻ đắc đạo, chắc là đạo hạnh sâu rộng. Tôi muốn đánh bạo xin ngài dạy bảo.
Đến có chỗ đến, đi có phương đi.
Vũ Thôn biết người này chắc có lai lịch gì đây, liền vái dài một cái và hỏi:
- Đạo sĩ già bắt đầu đi tu từ đâu mà làm nhà ở đây? Miếu này tên là gì? Trong miếu cả thảy có mấy người? Hoặc muốn tu thật, thiếu gì núi cao? Hoặc muốn kết duyên sao không chọn chỗ đường lắm ngã ?
- “Hồ Lô” (4) còn có thể yên mình, hà tất phải làm nhà ở núi cao. Miếu mất tên đã lâu, bia vỡ còn đấy, hình bóng theo nhau, hà tất phải tu hành mộ hoá (5). Có phải như bọn “Ngọc ở trong hòm chờ giá bán, thoa nằm trong hộp đợi thời bay” đâu.(6)
Vũ Thôn vốn là người thông minh, ban đầu nghe nói hai chữ "Hồ lô", sau lại nghe câu “thoa. ngọc”, chợt nhớ đến việc Chân Sĩ Ẩn, lại ngắm nghía kỹ người đạo sĩ một hồi nữa, thấy dung mạo của ông ta vẫn giống như trước, liền đuổi người đi theo ra, và hỏi:
- Ngài có phải là Chân lão tiên sinh không?
Đạo sĩ kia mỉm cười, và nói:
- “Chân” là gì, “Giả” là gì. Phải biết rằng “Chân” tức là “Giả”, “Giả” tức là “Chân”.
Vũ Thôn nghe nói đến chữ “Giả”, càng không nghi ngờ gì nữa, liền lại vái chào và nói:
- Học sinh này từ khi nhờ tiên sinh khảng khái giúp đỡ, vào kinh may mắn thi đậu, được bổ nhậm ở quý huyện, mới biết lão tiên sinh đã thoát nơi phàm tục, lên đến cõi tiên. Học sinh tuy băn khoăn tưởng nhớ, nhưng nghĩ mình là kẻ tục, lại ở chốn phong trần, không thể nào được thấy mặt tiên. May sao lại gặp ở đây, xin tiên ông dạy bảo cho kẻ ngu muội này. Nếu được tiên ông đoái đến, học sinh xin thờ phụng để sớm tối được nghe lời dạy bảo.
Vị đạo sĩ kia đứng dậy đáp lễ, nói:
- Bần đạo ngoài cái chiếu bồ ra, không còn biết trong thiên hạ này có vật gì. Những điều quan lớn nói vừa rồi, bần đạo này không hiểu gì cả.
Nói xong, lại ngồi xuống như trước.
Vũ Thôn trong lòng ngờ vực, nghĩ thầm:
- Nếu không phải là Sĩ Ẩn thì sao diện mạo nói năng giống hệt như thế? Từ khi cách biệt đến nay đã mười chín năm, mà sắc mặt như cũ, chắc là ông ta tu luyện thành công cho nên không chịu nói rõ việc trước. Nhưng mình đã gặp ân nhân, không thể để lỡ mất dịp. Xem chừng thì không thể lấy việc giàu sang làm cho ông ta động lòng, còn về chuyện vợ con, lại càng không cần nói nữa.
Vũ Thôn nghĩ rồi. lại nói:
- Tiên sư đã không chịu nói rõ việc trước, trong lòng kẻ học sinh này sao đành được?
Vũ Thôn đang định nói thì thấy người nhà vào thưa:
- Trời sắp tối, mời quan lớn mau mau qua sông.
Vũ Thôn bối rối chưa biết nghĩ sao, thì người đạo sĩ kia nói:
- Mời quan lớn mau qua bờ bên kia, sẽ có lúc gặp mặt, chậm trễ thì sẽ nổi sóng gió. Nếu quả có lòng tưởng đến thì ngày khác bần đạo này sẽ xin chờ ở bến đò để nói chuyện.
Nói xong, ông ta nhắm mắt lại, ngồi im.
Vũ Thôn chẳng có cách gì, đành phải cáo từ đi ra. Đang định đi qua đò, thì thấy một người chạy đến như bay.
(1) Tức Tiết Bàn.
(2) Tức Bảo Thoa.
(3) Tức Bảo Cầm.
(4) Cái bầu. Ở đây có ý nhắc đến cái miếu Hồ Lô mà Vũ Thôn trọ trước kia.
(5) Mộ hoá là một danh từ đạo Phật, nghĩa là tìm người có duyên tu hành, có khi chỉ việc tìm kiếm vật chất.
(6) Hai câu thơ cũ của Giả Vũ Thôn ngâm hồi ở trong miếu Hồ Lô (xem hồi một)
Hồi thứ một trăm lẻ bốn
Kim cương say, cá nhỏ gây thành sóng lớn
Công tử ngốc, thương thừa nhớ lại tình xưa
Giả Vũ Thôn vừa định qua đò, bỗng thấy một người đến trước mặt và nói:
- Bẩm ông lớn, cái miếu ngài vừa dạo chơi đó bốc cháy rồi.
Vũ Thôn ngoảnh lại nhìn thì thấy lửa cháy ngất trời, gió bay đầy đất. Vũ Thôn nghĩ thầm:
- Lạ thật! Mình vừa đi ra, chưa xa bao nhiêu, lửa ở đâu đã cháy? Phải chăng là Sĩ Ẩn hoá kiếp ở đấy? Muốn quay trở lại, nhưng lại sợ lỡ chuyến qua sông; nhưng nếu không quay lại, thì không đành lòng. Nghĩ một lát ông ta liền hỏi:
- Vừa rồi anh có thấy người đạo sĩ đi ra không?
- Con theo ông lớn đi ra, con đau bụng, đi rẽ ra một chút. Khi ngoảnh lại thấy một đám lửa đỏ rực. Thì ra trong miếu ấy bị cháy, nên chạy đến báo với ông lớn chứ không hề thấy có người đi ra.
Vũ Thôn có ý ngờ vực, nhưng ông ta là người ham mê danh lợi, đâu có chịu quay lại xem, liền bảo người kia:
- Anh ở đây chờ lửa cháy tàn, vào xem người đạo sĩ có ở đó nữa hay không, rồi lập tức về báo cho ta biết.
Người kia đành phải vâng lời, ở lại chờ xem.
Vũ Thôn qua sông rồi đi tra xét qua loa mấy nơi, gặp công quán liền vào nghỉ. Hôm sau Vũ Thôn lại đi một độ đường nữa, vào cửa kinh đô, bọn nha dịch đón tiếp, tiền hô hậu ủng. Vũ Thôn ngồi trong kiệu, nghe thấy bọn dẹp đường đi phía trước gào thét, liền hỏi việc gì. Họ dắt một người đến quỳ ở trước kiệu, và bẩm:
- Thằng này say rượu, không biết tránh lại còn xông vào. Chúng con quát, nó lại mượn cớ say rượu làm ầm lên, nằm ngay ra giữa đường, nói là chúng con đánh nó.
Vũ Thôn liền nói :
- Ta cai trị địa phương này, chúng mày đều là dân của ta, biết ta đi qua, cứ uống rượu mà không chịu tránh, lại còn dám vu vạ à?
Người kia nói :
- Tôi uống rượu là tiền của tôi. Tôi nằm là nằm đất vua. Dầu cho quan lớn cũng không can thiệp được.
Vũ Thôn nổi giận:
- Thằng này trong mắt không còn pháp luật kỷ cương gì cả! Hỏi xem tên nó là gì?
Người kia trả lời:
- Tên gọi là “thần rượu” Nghê Nhị.
Vũ Thôn nghe xong nổi giận bảo:
- Chúng bay đánh cho nó một trận, xem có phải là “Thần rượu” không?
Bọn thủ hạ đè Nghê Nhị xuống đánh cho mấy roi thật đau. Nghê Nhị đau quá, tỉnh cả rượu, van lạy xin tha.
Vũ Thôn ngồi trong kiệu cười khà khà:
- Cái đồ “kim cương” gì mà như thế! Ta hãy chưa đánh màỵ vội, cho người giải vào nha môn rồi thong thả sẽ hỏi mày sau.
Bọn nha dịch vâng lời, trói Nghê Nhị lại bắt đi. Nghê Nhị van xin cũng không ăn thua.
Vũ Thôn vào cung phục mệnh rồi về nha môn, cố nhiên là không còn thì giờ đâu nghĩ đến việc ấy nữa. Những người ở ngoài phố tụm năm tụm ba đồn đại với nhau.
- Nghê Nhị cậy thế cậy mạnh, mượn rượu vu vạ cho người ta, chuyến này lọt vào tay cụ lớn Giả có lẽ khó mà được tha!
Câu chuyện ấy đồn đến tai vợ và con gái Nghê Nhị. Đêm ấy quả nhiên không thấy lão về. Con gái lão đến tìm ở các sòng bạc. Người ở các sòng bạc đều nói như thế. Con gái lão liền khóc lóc Mọi người đều nói:
- Cô đừng có hoảng. Cụ già là người cùng họ với phủ Vinh. Có cậu Hai gì ở phủ Vinh quen biết cha cô. Cô cùng mẹ đi tìm cậu ta nhờ nói dùm cho thì sẽ được tha ngay.
Con gái Nghê Nhị nghĩ lại mới nhớ: “Phải đấy, cha mình thường nói có quen với cậu Hai họ Giả kề bên nhà, sao mình lại không đi tìm cậu ta?” Cô ta vội vàng về nói với mẹ, rồi hai mẹ con đi tìm Giả Vân. Hôm đó vừa lúc Giả Vân đang ở nhà, thấy hai mẹ con nó đến, liền mời ngồi. Mẹ Giả Vân rót nước mời uống. Mẹ con họ Nghê kể rõ chuyện Nghê Nhị bị cụ lớn Giả bắt, và nói:
- Nhờ cậu Hai nói giúp một tiếng để được tha ra.
Giả Vân nhận lời, và nói:
- Có gì cái quái ấy, tôi đến phủ Tây nói một tiếng thì sẽ được tha ngay. Cụ Giả hoàn toàn nhờ bên phủ tây nhà tôi mới làm được quan to như thế, chỉ cần sai người đi nói một tiếng là xong thôi.
Mẹ con họ Nghê mừng rỡ, về nhà, liền đến phủ nói cho Nghê Nhị biết, bảo ông ta đừng sợ, đã xin với cậu Hai Giả, cậu ta sốt sắng nhận lời, hứa nói giúp, sẽ được tha đấy. Nghê Nhị nghe nói cũng mừng.
Ngờ đâu Giả Vân từ hôm đưa lễ, Phượng Thư không nhận. Anh ta thấy khó coi, nên cũng không hay qua phủ Vinh. Bọn coi cửa ở phủ Vinh thường chiều đón ý chủ mà làm việc. Chủ muốn cho ai đến thì người ấy mới có thể diện. Khi đến, họ mới vào báo. Nếu chủ nhà có vẻ không để ý thì dù là bà con trong họ, họ cũng không báo, cứ kiếm cớ đẩy đi cho xong chuyện. Hôm ấy Giả Vân đến Phủ, nói:
- Tôi muốn vào hỏi thăm sức khoẻ của cậu Hai Liễn.
Bọn coi cửa nói:
- Cậu Hai không ở nhà, khi nào cậu ấy về chúng tôi sẽ nói hộ.
Giả Vân định nói xin vào hỏi thăm sức khỏe của mợ Hai, lại sợ bọn coi cửa chán ghét, đành phải quay ra. Hắn về đến nhà lại bị mẹ con nhà họ Nghê đến giục và nói:
- Cậu Hai thường nói bên quí phủ không cứ là cửa quan nào, nói một tiếng ai cũng nghe. Giờ đây cụ Giả cũng là người họ của quí phủ, lại không phải là việc gì thì lớn lắm, mà còn xin không được, chẳng hoá ra chúng tôi uổng công xin với cậu Hai sao?
Giả Vân bẽ mặt quá, nhưng vẫn nói cứng:
- Hôm qua bên nhà chúng tôi có việc, chưa đi được; hôm nay sai người đi thế nào cũng được tha ngay. Việc ấy có to tát gì!
Mẹ con họ Nghê nghe nói cũng tin là thực. Không ngờ gần đây Giả Vân không được vào cửa chính nữa, hắn liền quanh ra phía sau, định vào vườn tìm Bảo Ngọc, nhưng cửa vườn khóa kỹ, lại đành phải buồn rầu lủi thủi ra về. Giả Vân nghĩ bụng: “Năm mình vay Nghê Nhị ít bạc, mua hương liệu đưa đến, họ mới cho mình coi việc trồng cây. Bây giờ mình không có tiền lo lót thì họ từ chối. Kể ra họ chẳng có tài gì, chẳng qua chỉ vung tiền của cha ông ra cho người ngoài vay lấy lời. Nhưng nhà nghèo khổ như nhà mình, muốn vay một lạng cũng không được. Họ tưởng là giữ được suốt đời không nghèo đấy hẳn. Họ có biết đâu tiếng tăm bên ngoài không tốt, mình không nói đấy thôi, chứ nếu nói ra thì những việc kiện cáo và nhân mạng biết bao nhiêu mà kể”. Giả Vân vừa đi vừa nghĩ, về đến nhà, đã thấy mẹ con họ Nghê đang chờ. Giả Vân hết cách che đậy, liền nói:
- Phủ tây đã sai người đi nói, nhưng họ bảo là Giả đại nhân không nghe. Bây giờ mẹ con bà phải nhờ Lãnh Tử Hưng là con rể người đầy tớ nhà ta là Chu Thụy, mới ăn thua.
Mẹ con họ Nghê nghe xong, liền nói:
- Thể diện như cậu Hai còn không ăn thua, nếu mà nhờ đến đầy tớ thì lại càng không ăn thua nữa.
Giả Vân bẽ mặt quá, nổi nóng nói:
- Các người không biết, chứ bây giờ đầy tớ lại hơn chủ nhà nhiều đấy?
Mẹ con họ Nghê nghe nói, chẳng còn cách gì đành phải cười nhạt mấy tiếng và nói:
- Thật phiền cho cậu Hai phải tốn công chạy vạy mất mấy ngày? Chờ ông nhà tôi ra, sẽ xin đến tạ ơn.
Mẹ con họ Nghê ra về đi nhờ người khác. Nghê Nhị được thả ra. Hắn chỉ bị đánh mất gậy, chứ cũng chẳng có tội gì.
Nghê Nhị về nhà, vợ con hắn kể cho hắn ta nghe chuyện Giả Vân không chịu xin dùm. Hắn đang uống rượu, nghe nói, tức quá, định đi tìm Giả Vân, nói:
- Thằng bé đê tiện vô lương tâm kia? Trước kia nhà nó không có cơm ăn, muốn chạy chọt vào phủ kiếm việc làm, nhờ tao giúp cho. Giờ đây tao có việc, nó lại bỏ mặc. Giỏi thật! Nếu tao mà nói ra thì ngay cả hai phủ kia cũng đừng hòng được vô sự!
Vợ con hắn vội vàng khuyên:
- Chà! Ông cứ nốc rượu rồi vào nói những câu chẳng còn trời đất nào. Hôm trước chẳng phải vì say rượu gây ra tai vạ mà bị đánh hay sao? Vết thương vẫn chưa khỏi, ông đã lại nói nhảm rồi!
- Không, nhẽ mình bị đánh rồi sợ họ à? Chỉ sợ không lần ra được đầu mối thôi? Khi ở nhà giam, tôi quen biết mấy người bạn có nghĩa khí. Nghe họ nói thì họ Giả chẳng những ở nhiều trong kinh thành này mà còn ở rải rác các tỉnh cũng không phải ít. Hôm trước đây có mấy người nhà họ Giả bị giam trong ngục, tôi nghĩ nhà họ Giả ở đây, tuy bọn ít tuổi, và lũ đầy tớ không tốt, nhưng những người nhiều tuổi thì còn khá, tại sao lại phạm tội? Tôi hỏi dò thì nghe nói là bọn ấy cùng một họ với họ Giả nhưng đều ở tỉnh ngoài. Họ đã bị xét hỏi kỹ càng rồi mới giải vào đây định tội. Tôi nghe vậy mới an tâm, còn thằng ranh con Giả Vân, đã quên ơn phụ nghĩa như thế, thì tôi sẽ mách với người bạn nói nhà hắn cậy thế khinh người như thế nào, đặt nợ nặng lãi bóc lột dân đen như thế nào, lấy ép vợ người như thế nào, để họ tung,chuyện đồn đại đến tai quan đô ngự sử trị cho hắn một phen thì mới biết tay lão Nghê Nhị này!
Vợ hắn nói :
- Ông uống rượu rồi ngủ đi thôi. Họ cướp con gái nhà ai? Làm gì có việc ấy? Đừng nói nhảm nữa.
- Bà mày ở nhà làm gì biết việc bên ngoài? Năm trước lôi ở trong sòng bạc gặp thằng Trương nói vợ nó bị nhà họ Giả cướp mất. Nó còn bàn với tôi, tôi trở lại khuyên nó mới im chuyện(1). Không biết thằng Trương hiện giờ đi đâu, hai năm nay không thấy. Nếu gặp mặt nó, tôi sẽ bày cho nó một cách, để thằng Hai Giả ranh con kia sẽ chết với tôi cho mà xem! Muốn tốt thì liệu mà lễ lạy ông Nghê đây mới xong.
Nói xong, hắn ta ngả mình ra, miệng còn lảm nhảm một hồi nữa mới ngủ. Vợ con hắn chỉ cho là câu nói khi say rượu nên cứ thây kệ. Hôm sau dậy sớm, Nghê Nhị lại đến sòng bạc.
Giả Vũ Thôn về đến nhà, nghĩ một đêm, rồi đem chuyện dọc đường gặp Chân Sĩ Ẩn nói cho vợ nghe. Vợ hắn liền trách:
- Tại sao không quay lại xem?
Nói xong, nước mắt ròng ròng. Vũ Thôn nói:
- Ông ta là người ngoài cuộc, không chịu ở một chỗ với chúng mình đâu.
Đang nói chuyện thì bên ngoài chuyển lời vào bẩm:
- Người hôm trước ông lớn dặn đi xem tình hình miếu bị cháy đã trở về.
Vũ Thôn khoan thai bước ra. Người nha dịch kia hỏi thăm sức khoẻ rồi nói:
- Con vâng lệnh ông lớn quay lại không đợi lửa cháy tàn, liền xông vào trong lửa để tìm vị đạo sĩ kia. Không ngờ chỗ ông ta ngồi cũng cháy mất rồi. Con chắc là vị đạo sĩ kia đã bị chết cháy. Bức tường bị đổ về phía sau mà vị đạo sĩ chẳng thấy tăm tích đâu cả. Chỉ có cái chiếu bồ và cái bầu thì còn nguyên vẹn. Con tìm xác ông ta khắp nơi, nhưng chẳng thấy một mẩu xương nào. Con sợ ông lớn không tin, định đem cái chiếu bồ và cái bầu về làm chứng, ai ngờ vừa cầm lấy thì nó đều hoá ra tro cả.
Vũ Thôn nghe xong, trong bụng biết Sĩ Ẩn đã thành liên, liền bảo người nha dịch đi ra. Lúc về phòng ông ta cũng không nhắc đến chuyện Sĩ Ẩn đã hoá kiếp, sợ vợ không hiểu đâm ra thương cảm. Ông ta chỉ nói rằng không thấy dấu vết gì cả, chắc là vị đạo sĩ đã chạy trước rồi.
Vũ Thôn ra ngoài, một mình ngồi ở thư phòng, đang suy nghĩ về câu nói của Sĩ Ẩn. Chợt có người nhà lên trình:
- Trong nội có chỉ truyền ông vào xét công việc. Vũ Thôn vội vàng lên kiệu vào trong nội thì nghe người ta nói:
- Hôm nay quan lương đạo tỉnh Giang Tây là Giả Chính bị hặc về kinh, đang vào triều tạ tội.
Giả Vũ Thôn vội vàng đến nội các, gặp các vị đại thần rồi xem chỉ ý nhà vua nói về khoản xử lý công việc miền ven biển không tốt. Sau đó ông ta vội vàng ra ngoài tìm Giả Chính, trước hết nói mất câu ngỏ ý, đáng tiếc cho Giả Chính, rồi sau đó chúc mừng và hỏi thăm chuyện đi đường.
Giả Chính cũng kể lại kỹ lưỡng chuyện sau khi cách biệt tới nay.
Giả Vũ Thôn nói:
- Sớ tạ tội ông đã dâng lên chưa?
- Đã dâng lên rồi, chờ xem chỉ ý nhà vua giao xuống.
Đang nói, thì nghe trong cung truyền chỉ nhà vua gọi Giả Chính. Giả Chính vội vàng vào. Các quan thân thiết với Giả Chính đều ở đấy chờ tin. Một hồi lâu, mới thấy Giả Chính ra, trên đầu mồ hôi đầm đìa. Mọi người đón hỏi:
- Chỉ ý nói việc gì?
Giả Chính lè lưỡi nói:
- Khiếp quá! Khiếp quá! Cảm ơn các vị đại nhân có lòng lo lắng đến tôi, may mà không việc gì.
- Chỉ ý hỏi về những việc gì?
- Hỏi về vụ án mạng trộm súng ở tỉnh Vân Nam. Trong tờ tâu nói rõ là người nhà quan nguyên thái sư Giả Hóa. Hoàng thượng nhớ đến tên cụ tổ nhà tôi nên mới hỏi. Tôi vội vàng khấu đầu tâu rõ: cụ tổ nhà tôi là Đại Hóa. Hoàng thượng bật cười, lại hỏi: “Người trước đây bổ thượng thư bộ binh, sau dáng xuống phủ doãn, có phải cũng gọi là Giả Hóa không?”
Lúc ấy Giả Vũ Thôn cũng đứng một bên, nghe nói giật nẩy mình, liền hỏi:
- Ông lớn tâu như thế nào?
- Tôi thong thả tâu: “Quan thái sư Giả Hoá là người Vân Nam; còn người hiện làm phủ doãn cũng họ Giả thì ở Chiết Giang”. Hoàng thượng lại hỏi: Giả Phạm bị thứ sử Tô Châu tâu hặc đó, là người họ nhà ngươi à? Tôi khấu đầu tâu “Vâng”. Hoàng thượng liền đổi sắc mặt truyền: “Thả bọn gia nô cưỡng chiếm vợ con dân lành, còn ra sự thể gì nữa?” Tôi không dám tâu gì. Hoàng thượng lại hỏi: “Giả Phạm là người thế nào với nhà người?” Tôi vội vàng tâu: “Là người họ xa” Hoàng thượng hừ một tiếng rồi truyền chỉ cho ra. Có lạ không.
Mọi người nói:
- Cũng kỳ thật? Làm sao mà một lúc có những hai việc liền?
Giả Chính nói:
- Sự việc thì chẳng có gì lạ, chỉ lạ ở chỗ đều là người họ Giả không tốt. Kể ra thì họ chúng tôi người nhiều, và đã lâu đời nên chỗ nào cũng có. Hiện giờ tuy chẳng có việc gì, nhưng rốt cục Hoàng thượng nhớ lấy một chữ “Giả” là không hay.
- Thật là thật, giả là giả, chứ sợ gì?
- Trong bụng tôi chỉ trông sao đừng phải làm quan, nhưng không dám cáo lão. Hiện nay ở nhà chúng tôi hai chức thế tập, điều đó cũng chẳng biết làm thế nào.
Vũ Thôn nói:
- Nay ông lớn lại làm ở bộ công, chắc làm quan ở kinh thì chẳng có việc gì.
Giả Chính nói :
- Làm quan ở Kinh tuy là vô sự, nhưng tôi đã làm quan ngoài hai lần rồi, thì cũng không thể nói được nữa.
Mọi người nói:
- Phẩm hạnh và việc làm của ông lớn, chúng tôi đều kính phục. Ông Cả cũng là người tốt, chỉ cần kiềm thúc các cháu cho nghiêm một chút là được.
Giả Chính nói:
- Tôi vì ít khi ở nhà, nên không xem xét đến việc các cháu mấy, trong bụng tôi rất lấy làm áy náy. Hôm nay các vị nhắc đến, chúng ta đều là chỗ thân, hoặc giả nghe nhà cháu ở phủ đông có việc gì không làm đúng khuôn phép chăng?
Mọi người nói:
- Cũng không nghe việc gì khác. Chỉ có mấy ông thị lang không được vừa ý lắm, và trong bọn nội giám cũng có vài người không bằng lòng. Chắc cũng chẳng sợ gì đâu, nhưng cần dặn dò bên nhà cháu ngài, phải để ý đến mọi việc là được.
Mọi người nói xong, vái chào nhau rồi ra về.
Giả Chính về nhà, con cháu đều ra đón. Trước hết Giả Chính hỏi thăm sức khỏe của Giả mẫu, sau đó con cháu đến hỏi thăm sức khỏe của Giả Chính, rồi cùng nhau về phủ. Bọn vương phu nhân cũng đến đón tiếp ở nhà Vinh Hi. Giả Chính trước hết đến lạy chào Giả mẫu, trình qua về chuyện sau khi xa cách. Giả mẫu hỏi tin tức của Thám Xuân. Giả Chính đem chuyện cưới Thám Xuân trình lại rõ ràng, và nói thêm:
- Con lên đường gấp quá, không kịp đến đó từ biệt. Tuy con không chính mắt trông thấy, nhưng nghe người bên nhà thông gia đến nói thì rất tốt. Ông bà hên nhà thông gia đều nói, xin gửi lời hỏi thăm sức khỏe của bà, và còn nói, mùa đông năm nay hoặc mùa xuân sang năm, có thể đổi về kinh. Được như thế thì rất tốt. Nhưng bây giờ nghe nói miền biển có việc, chỉ sự đến lúc đó lại không đổi về được.
Giả mẫu lúc đầu cho là Giả Chính bị giáng về kinh. Thám Xuân ở nơi đất khách xa xôi, không ai là bà con quen biết nên trong lòng thương cảm; sau nghe Giả Chính nói rõ việc quan, lại biết Thám Xuân khỏe mạnh nên cũng đổi buồn làm vui, liền cười bảo Giả Chính đi ra. Sau đó, anh em Giả Chính gặp nhau, bọn con cháu lạy chào, định đến sáng ngày mai thì bái yết từ đường.
Giả Chính về đến phòng, bọn Vương phu nhân chào hỏi, rồi Giả Liễn và Bảo Ngọc lại lạy chào lần nữa. Giả Chính thấy Bảo Ngọc so với lúc mình lên đường thì quả nhiên mặt mũi đầy đặn hơn, xem bộ cũng yên tĩnh, chứ không hề biết anh ta ngây dại, cho nên rất mừng, không buồn bực về việc bị giáng. Giả Chính nghĩ thầm: may nhờ mẹ mình khéo lo liệu. Lại thấy Bảo Thoa thì chín chắn; Giả Lan thì văn nhã tươi đẹp, ông ta vui mừng lộ ra nét mặt. Riêng Giả Hoàn là vẫn như trước, nên không yêu lắm. Nghỉ ngơi một hồi, Giả Chính sực nhớ: “Sao mà hôm nay thiếu một người?” Vương phu nhân biết ông ta nhớ đến Đại Ngọc, vì thư nhà trước kia không nói đến. Hôm nay ông ta lại vừa về nhà, đang lúc vui mừng, nói thẳng ra không tiện, nên chỉ nói
là Đại Ngọc đang ốm. Không ngờ trong bụng Bảo Ngọc đã như dao đâm, chỉ vì cha mới về, đành phải dằn lòng ngồi hầu.
Vương phu nhân bày tiệc tẩy trần, rồi con cháu dâng rượu. Phượng Thư tuy là cháu dâu, nhưng hiện coi việc nhà, nên cũng theo bọn Bảo Thoa dâng rượu.
Giả Chính cho dâng một tuần rượu, rồi bảo mọi người về nghỉ. Lại bảo bọn người nhà, không phải chờ chực, đợi đến sáng mai khi bái yết từ đường xong rồi sẽ vào chào.
Dặn dò xong, Giả Chính cùng Vương phu nhân nói qua về chuyện sau khi từ biệt, những việc khác Vương phu nhân đều không dám nói. Giả Chính lại nhắc đến chuyện Vương Tử Đằng, Vương phu nhân cũng không dám tỏ ra đau buồn. Giả Chính lại nói việc Tiết Bàn, Vương phu nhân chỉ nói đó là tự nó làm nó chịu; rồi nhân tiện đem việc Đại Ngọc chết nói cho Giả Chính biết. Giả Chính giật nẩy mình, chảy nước mắt và than thở mãi. Vương phu nhân nín không được cũng phải khóc. Bọn Thái Vân đứng bên, vội vàng kéo áo bà ta. Vương phu nhân nín khóc, lại nói mấy câu chuyện vui mừng, rồi đi ngủ.
Sáng hôm sau, Giả Chính đến từ đường làm lễ, bọn con cháu đều đi theo. Ông ta ngồi trong phòng một bên từ đường, gọi Giả Liễn và Giả Trân đến, hỏi việc trong nhà. Giả Trân lựa việc
gì nên nói thì nói. Giả Chính bảo:
- Ta mới về nhà, cũng không tiện tra hỏi cặn kẽ, nhưng nghe bên ngoài người ta nói, bên nhà anh càng lộn xộn hơn trước, mọi việc phải cẩn thận mới được. Anh bây giờ cũng nhiều tuổi rồi, phải dạy bảo con cái, đừng để chúng ra ngoài gây chuyện. Anh Liễn cũng nghe đấy. Không phải là ta vừa về đã trách đến các anh đâu, nhưng ta có nghe, nên mới nói. Các anh cần phải cẩn thận mới được.
Bọn Giả Trân mặt đỏ bừng lên, chỉ trả lời "Vâng", không dám nói gì khác. Rồi Giả Chính cũng bỏ qua.
Giả Chính trở về phủ tây, người nhà lạy chào xong, Giả Chính lại vào nhà trong, bọn hầu gái làm lễ.
Bảo Ngọc nhân hôm qua Giả Chính hỏi đến Đại Ngọc, Vương phu nhân trả lời là bị ốm, trong lòng đau xót âm thầm, và khi Giả Chính bảo về phòng, dọc đường đã nhỏ khá nhiều nước mắt. Về đến phòng, thấy Bảo Thoa đang nói chuyện với Tập Nhân, anh ta buồn bực, một mình ngồi ở nhà ngoài. Bảo Thoa bảo Tập Nhân bưng trà ra. Biết anh ta sợ cha tra hỏi bài học, nên mới thế, đành phải tới an ủi. Bảo Ngọc mượn cớ ấy nói với Bảo Thoa:
- Đêm nay mợ ngủ trước đi, tôi cần nghỉ ngơi một chỗc. Giờ đây không thể như trước nữa, nói điều này quên điều khác, cha mà biết thì sẽ không hay. Mợ ngủ trước đi, bảo Tập Nhân ngồi với tôi một lát.
Bảo Thoa nghe cũng có lý, liền vào phòng ngủ trước. Bảo Ngọc khẽ bảo Tập Nhân, nhờ gọi Tử Quyên đến muốn hỏi câu chuyện. Nhưng Tử Quyên hễ gặp tôi thì khi nào vẻ mặt cũng giận, cần có chị đến khuyên giải trước để chị ta nghe ra mới được.
Tập Nhân nói :
- Cậu nói muốn nghỉ ngơi, tôi cũng mừng. Tại sao lại nghỉ ở chỗ ấy? Có chuyện gì ngày mai cậu hỏi không được à?
- Tối hôm nay tôi mới rảnh, nếu ngày mai mà ông lớn bảo làm việc gì thì tôi không còn lúc nào rỗi nữa. Chị ơi, chị mau mau gọi chị ấy lại đây.
- Nếu không phải mợ Hai gọi thì chị ta không tới đâu.
- Vì thế phải có chị đến nói rõ trước với chị ta mới được.
- Cậu bảo tôi nói với chị ấy như thế nào?
- Chị còn chưa biết bụng tôi và bụng chị ta à? Cũng đều là vì cô Lâm cả thôi. Chị cũng biết tôi không phải là người phụ bạc. Nhưng bây giờ, các người làm cho tôi thành ra một người phụ bạc rồi?
Nói đến đó Bảo Ngọc lại nhìn vào nhà trong, lấy tay chỉ và nói:
- Tôi vốn không bằng lòng chị ấy, chỉ vì bà và bọn họ bày mưu lập kế, tự dưng làm chết cô Lâm. Dầu cô ta chết thì cũng cho tôi nhìn một chút chứ. Nói thật ra cô ta có chết cũng không oán trách gì tôi. Chắc chị cũng đã nghe bọn cô Ba nói, cô Lâm lúc chết rất giận tôi. Tử Quyên vì chuyện cô Lâm cũng giận tôi hết sức. Chị thử nghĩ tôi có phải là người vô tình không? Tình Văn chỉ là một a hoàn, cũng chẳng có gì tốt cho lắm, mà chị ta chết đi, tôi nói thật với chị, tôi còn làm văn tế chị ta nữa đấy. Việc đó chính mắt cô Lâm cũng trông thấy. Giờ đây cô Lâm chết, không lẽ lại không bằng Tình Văn hay sao? Thế mà đến cả chuyện tế cô ta, tôi cũng không tế được một lần nào. Nếu cô Lâm có thiêng vẫn còn biết đến thì thế nào cô ta lại chẳng giận tôi!
- Cậu muốn tế thì cứ tế ai ngăn cấm cậu?
- Tôi từ khi khoẻ dậy, cũng định làm một bài văn tế, không biết tại sao bây giờ không còn chút thông minh nào nữa. Muốn tế người khác, thì làm qua loa đi cũng được, chứ tế cô Lâm mà lời văn quê kệch một chút là nhất định không được. Vì thế tôi muốn gọi Tử Quyên đến để hỏi rõ tâm sự của cô Lâm, vì chị ta biết rõ cô ấy. Khi tôi chưa ốm thì trong đầu óc còn nghĩ ra, từ khi đau, tôi không nhớ gì nữa. Chị nói cô Lâm đã khoẻ rồi, sao bỗng chốc lại chết? Khi cô ta còn khoẻ, tôi không đến thì cô ta nói gì? Lúc tôi đau, cô ta không đến, thì cô ta nói những gì? Những đồ dùng của cô ta tôi lừa lấy được, mợ Hai nhà chị nhất thiết không cho tôi động đến, không biết là có ý gì?
- Mợ Hai chị sợ cậu thương tâm mà thôi, còn có ý gì nữa?
- Tôi không tin, cô Lâm đã nghĩ đến tôi, tại sao khi chết lại đốt tập thơ đi, không để lại cho tôi làm kỷ niệm? Lại nghe nói khi cô ta chết, trên trời có tiếng nhạc, nhất định cô ta đã thành thần, hoặc đã lên tiên. Tôi tuy đã thấy quan tài, nhưng không biết trong quan tài có cô ta hay không?
- Cậu nói rõ vớ vẩn! Người không chết làm sao lại đặt chiếc quan tài không, làm như người chết được?
- Không phải đâu! Phàm người thành tiên thì hoặc đem cả hình hài, hoặc trút bỏ hình hài để lên tiên - Chị ơi, chị cứ gọi Tử Quyên lại đây!
- Bây giờ hãy để tôi đến bày tỏ tấm lòng của cậu, nếu chị ta chịu đến còn khá; không đến thì còn phải nói nhiều. Dầu cho chị ta có đến, nhưng thấy cậu chị ta cũng không chịu nói kỹ đâu. Theo ý tôi, ngày mai chờ khi mợ Hai lên trên nhà, tôi sẽ hỏi lại chị ta cho thật tường tận rồi có rỗi tôi sẽ thong thả nói lại với cậu.
- Chị nói cũng phải, nhưng chị không biết tôi sốt ruột lắm.
Hai người đang nói chuyện thì thấy Xạ Nguyệt ra bảo:
- Mợ Hai nói đã đến canh tư rồi, mời cậu vào đi ngủ thôi. Chị Tập Nhân chắc là thích nói chuyện, say sưa quá quên mất cả giờ giấc rồi đấy.
Tập Nhân nghe xong, liền nói: .
- Đến giờ ngủ rồi, có chuyện gì mai hãy nói.
Bảo Ngọc chẳng biết làm thế nào, đành phải đi vào, lại ghé vào tai Tập Nhân nói nhỏ:
- Ngày mai thế nào cũng đừng quên nhé.
- Biết rồi. Xạ Nguyệt vênh mặt lên cười nói:
- Hai người lại thầm thụt gì rồi đây. Đã thế sao không nói rõ với mợ Hai, rồi đến bên chị Tập Nhân mà ngủ? Mặc cho các người nói chuyện một đêm, chúng tôi cũng thây kệ.
Bảo Ngọc xua tay nói:
- Không cần nói làm gì.
Tập Nhân tức giận nói:
- Con ranh con này, mày lại nói điêu, đến mai tao sẽ xẻo cái miệng mày ra!- Rồi chị ta ngoảnh lại nói với Bảo Ngọc:
- Cũng là tự cậu cả đấy. Nói chuyện mất những bốn canh mà vẫn chẳng ra đầu cuối gì cả.
Chị ta vừa nói, vừa đưa Bảo Ngọc vào phòng, rồi ai về phòng người ấy.
Đêm đó, Bảo Ngọc không ngủ, đến ngày mai vẫn còn tơ tưởng việc ấy. Bỗng nghe bên ngoài truyền lời vào:
Bà con bạn hữu nhân ông lớn mới về, đều muốn đưa ban hát đến làm lễ mừng. Ông lớn từ chối mãi, bảo không cần phải hát xướng, để nhà ta dọn rượum mời bà con bạn hữu tới nói chuyện cho vui. Đã định đến ngày kia dọn rượu mời khách vì thế đến nói cho trong nhà biết.
(1) Đây là chuyện của Giả Liễn chứ không phải Giả Vân.
Hồi thứ một trăm lẻ năm
Quân Cẩm y khám biên phủ Ninh quốc
Quan ngự sử tâu hặc châu Bình An
Giả chính đang bày tiệc mời khách uống rượu, bỗng thấy Lại Đại vội vàng chạy vào nhà Vinh Hi thưa:
- Có quan Cẩm y vệ là ông Triệu dẫn mấy vị ty thuộc, nói đến chào mừng. Con hỏi tên họ chức tước để vào trình. Ông Triệu nói: “Chúng tôi là chỗ rất thân thiết, không cần phải làm như thế”. Ông ta vừa nói vừa xuống xe đi vào, mời ông lớn và các vị mau ra đón tiếp.
Giả Chính nghe nói, nghĩ bụng: "Mình với ông Triệu, không hề đi lại, sao ông ta cũng đến? Hiện giờ đang có khách, mời ông ta ở lại không tiện, mà không mời cũng không tiện"
Giả Chính đang ngẫm nghĩ, thì Giả Liễn nói:
- Chú mau mau đi ra thôi. Còn nghĩ ngợi nữa thì người ta vào đến nơi mất.
Đang nói thì thấy người nhà ở cửa thứ hai vào thưa:
- Ông Triệu đã vào đến cửa thứ hai rồi.
Bọn Giả Chính vội vàng bước ra đón, thì thấy Triệu Toàn mặt mày hớn hở không nói gì cả, lên thẳng nhà khách, có năm sáu vị ty thuộc đi theo, cũng có người quen, cũng có người không quen, nhưng không ai nói một câu. Bọn Giả Chính trong bụng băn khoăn, không biết ra sao, đành phải theo vào mời ngồi.
Bà con bạn hữu cũng có người biết mặt Triệu Toàn, nhưng thấy ông ta cứ vác mặt lên, không để ý đến ai, chỉ cầm lấy tay Giả Chính cười và nói mấy câu thăm hỏi. Thấy quang cảnh không tốt, có người tránh vào nhà trong, có người thì buông tay đứng hầu.
Giả Chính đang định nói chuyện, thì thấy người nhà hoảng hốt chạy vào báo:
- Đức Tây Bình vương đã đến.
Giả Chính vội vàng ra đón, đã thấy đức vương đi vào. Triệu Toàn bước nhanh lại hỏi thăm sức khoẻ, rồi bẩm:
- Vương gia đã đến, các vị đi theo, hãy dẫn bọn phủ dịch canh giữ các cửa trước và sau.
Các quan vâng lời đi ra.
Bọn Giả Chính biết là chuyện không hay, vội vàng quỳ xuống đón tiếp. Tây Bình vương giơ hai tay đỡ dậy, rồi cười bảo:
- Không có việc gì thì không dám đến đây đường đột; nay vâng chỉ nhà vua giao công việc phải làm. Vậy đòi ông Xá ra nhận chỉ. Hiện nay cả nhà yến tiệc chưa tan, chắc là có bà con bạn hữu ở đây, như vậy không tiện. Vậy mời các vị bà con bạn hữu đều về đi, chỉ giữ người trong nhà này ở lại chờ thôi.
Ông Triệu thưa:
- Vương gia tuy ban ơn như thế , nhưng vị vương gia làm việc ở phủ bên đông thẳng thắn, chắc đã niêm phong cửa ngõ rồi.
Mọi người nghe vậy biết là việc này liên can đến cả hai phủ, chỉ lo không biết làm thế nào để thoát thân. Lại thấy vương gia cười bảo:
- Các vị cứ đi ra. Gọi người đưa họ ra cho ta và nói với quan viên ở phủ Cẩm y rằng: đây đều là bạn hữu thân thích, bất tất phải tra xét, mau mau thả cho họ ra.
Bọn bạn bè quen thuộc nghe nói, liền chạy một mạch như bay, riêng Giả Xá và Giả Chính khiếp sợ, mặt tái mét, người run lẩy bẩy.
Được một lát thấy vô số vệ quân tiến vào, canh giữ các cửa. Tất cả người nhà từ trên đến dưới, không được đi đâu một bước. Triệu Toàn liền trở mặt, trình với Vương gia:
- Mời Vương gia tuyên đọc chỉ ý để bắt tay làm việc.
Bọn vệ quân đều xắn áo giơ tay chờ chỉ ý.
Tây Bình vương thong thả nói:
- Bản chức vâng chỉ ý nhà vua, dẫn quan Cẩm y phủ là Triệu Toàn đến tra xét gia sản của Giả Xá.
Bọn Giả Xá nghe nói, đều sụp lạy dưới đất. Vương gia liền đứng phía trên, nói:
- Có chỉ ý truyền rằng: Giả Xá giao thông với quan ngoài, ỷ thế ức hiếp kẻ yếu, phụ ơn của trẫm, và làm nhơ nhuốc đến công đức của cha ông. Nên cách chức thế tập đi - Khâm thử.
Triệu Toàn liền gọi ngay:
- Bắt Giả Xá đưa ra, còn nữa thì canh giữ lấy.
Lúc đó, Giả Xá, Giả Chính, Giả Liễn, Giả Trân, Giả Dung, Giả Tường, Giả Chi, Giả Lan đều ở đấy, chỉ trừ Bảo Ngọc nói dối bị ốm, ở lẩn bên nhà Giả mẫu. Giả Hoàn thì xưa nay ít khi ra tiếp khách cho nên họ chỉ canh giữ có mấy người đó.
Triệu Toàn lập tức gọi người nhà, truyền bảo các viên ty thuộc, dẫn bọn vệ quân chia đi từng phòng khám xét tài sản và ghi sổ. Câu nói ấy chẳng quan hệ lắm, nhưng đối với bọn Giả Chính thì từ trên đến dưới đều hồi hộp nhìn nhau; còn bọn vệ binh và người nhà họ thì hớn hở xoa tay, định tới các nơi để hành động ngay.
Tây Bình Vương bảo:
- Nghe nói ông Xá và ông Chính ở chung mà ăn riêng. Vậy cứ theo chỉ ý, chỉ tra xét gia tư của Giả Xá, ngoài ra thì hãy niêm phong từng phòng lại, để chúng ta tâu lên, rồi chờ trên định đoạt.
Triệu Toàn đứng dậy thưa:
- Trình với Vương gia: Giả Xá và Giả Chính chưa chia gia tài. Nghe nói hiện giờ người cháu là Giả Liễn coi chung việc nhà, không thể không khám xét hết thảy.
Tây Bình Vương nghe xong, cũng không nói gì. Triệu Toàn liền nói:
- Đức Vương cho phép tôi thân đến khám xét nhà Giả Xá và Giả Liễn mới được.
Tây Bình vương vội nói:
- Khoan đã. Hãy tin cho người nhà trong biết, bảo bọn đàn bà con gái tránh đi rồi hãy khám xét cũng không muộn.
Nói chưa dứt lời, bọn gia nô và vệ quân của Triệu Toàn đã dắt người trong nhà đưa đường, chia đi khám xét các nơi.
Vương gia quát:
- Không được làm ồn, để bản chức tự mình đi khám xét!
Nói xong Vương gia từ từ đứng dậy dặn bảo:
- Những người đi theo ta. Không một đứa nào được đi đâu, đều phải đứng đấy mà chờ. Chốc nữa xem xét xong sẽ về trình để ta ghi sổ.
Đang nói thì thấy một viên quan ty cẩm y quỳ xuống bẩm:
- Ở trong kia xét được đồ quần áo ngự và nhiều vật cấm không dám tự tiện động đến, xin Vương gia chỉ bảo.
Một chốc lại có một nhóm người đón Tây Bình vương mà trình:
- Ở nhà phía đông, xét ra được hai rương văn khế nhà và ruộng đất, một rương phiếu vay nợ, đều là lấy lãi trái phép.
Triệu Toàn liền nói:
- Đồ bóc lột nặng lãi! Tịch thu hết là phải. Mời Vương gia ngồi xuống đây, bọn chúng tôi đi tra soát cho hết, để chờ định đoạt.
Đang nói thì thấy quan trưởng sử ở vương phủ tới bẩm:
- Quân canh cửa chuyển lời vào thưa: chúa thượng đặc phái Bắc Tĩnh Vương đến đây truyền chỉ ý, xin mời Vương gia ra tiếp.
Triệu Toàn nghe nói, nghĩ bụng:
- Rõ đen đủi, gặp phải vị vương mù mở này! Bây giờ vị vương kia đến, mình sẽ dễ ra oai đây.
Ông ta vừa nghĩ, vừa chạy ra đón, thì thấy Bắc Tĩnh vương đã đến nhà khách lớn, rồi đứng ngoảnh mặt ra ngoài mà truyền:
- Có chỉ ý, Triệu Toàn ở phủ Cẩm y nghe truyền.
Rồi ông ta lại nói:
- Vâng chỉ: giao quan Cẩm y chỉ bắt Giả Xá xét hỏi; ngoài ra giao Tây Bình vương tuân theo chỉ ý mà làm. Khâm thử.
Tây Bình vương nhận được chỉ ý, rất là vui mừng, liền cùng Bắc Tĩnh vương ngồi xuống, sai Triệu Toàn giải Giả Xá về phủ. Bọn người đang khám xét ở trong, nghe nói Bắc Tĩnh vương đến, đều kéo nhau ra. Khi nghe nói Triệu Toàn đi rồi, mọi người tiu nghỉu, đành phải đứng hầu chờ lệnh. Bắc Tĩnh vương liền chọn hai người ty thuộc thực thà và hơn mười người vệ quân già; còn nữa, đuổi ra hết.
Tây Bình vương nói:
- Tôi đang tức về lão Triệu, may được Vương gia đến truyền chỉ ý, không thì ở đây sẽ bị thiệt hại nặng.
Bắc Tĩnh vương nói:
- Tôi ở trong triều, nghe nói vương gia vâng chỉ khám xét nhà họ Giả, tôi rất yên lòng, chắc là ở đây không đến nỗi thiệt hại lắm. Không ngờ lão Triệu làm càn như thế. Nhưng không biết hiện ông Chính và Bảo Ngọc ở đâu? Trong ấy không biết đã bị tan tác như thế nào rồi?
Mọi người thưa:
- Giả Chính thì bị giữ lại ở phòng dưới, còn trong nhà thì đã bị khám xét lung tung.
Bắc Tĩnh vương liền bảo bọn ty thuộc:
- Mau mau đưa Giả Chính tới đây, ta hỏi chuyện.
Mọi người vâng lời, dẫn Giả Chính đến, Giả Chính quỳ xuống, ứa nước mắt, xin nhờ ơn trên giúp đỡ. Bắc Tỉnh vương liền đứng dậy, nắm lấy và nói:
- Ông đừng lo.
Rồi nói rõ chỉ của vua. Giả Chính cảm kích chảy nước mắt, hướng về phía bắc tạ ơn, rồi lại đứng dậy chờ lệnh. Vương gia nói:
- Ông Chính, vừa rồi lúc ông Triệu ở đây, bọn vệ quân trình bẩm có những đồ cấm và văn tự cho vay nặng lãi, chúng tôi cũng khó che giấu. Đồ cấm vốn là sắm cho quý phi, chúng tôi tâu rõ cũng không can gì chỉ có khế cho vay nợ thì phải nghĩ cách gì mới được? Bây giờ ông hãy dẫn bọn ty thuộc đem gia sản ông Xá ra trình, thế là xong. Nhất thiết không được giấu giếm mà mang lấy tội.
Giả Chính thưa:
- Kẻ phạm tội này đâu dám giấu giếm, nhưng di sản ông cha chúng tôi thật chưa hề chia, duy có những đồ đạc ở trong nhà người nào là của riêng người ấy mà thôi.
Hai vị vương gia liền nói:
- Việc ấy cũng không can gì, chỉ đem những đồ vật bên nhà ông Xá giao ra là được.
Vương gia lại dặn bọn ty thuộc theo lệnh mà làm, không được lục soát lung tung. Bọn ty thuộc vâng lệnh đi ra.
Bên nhà Giả mẫu thì bọn đàn bà cũng đang bày yến tiệc trong nhà. Vương phu nhân nói:
- Bảo Ngọc không ra ngoài ấy, coi chừng cha mày giận đấy!
Phượng Thư đang ốm, vừa thở hổn hển vừa nói:
- Tôi xem chừng chú Bảo cũng không phải là sợ người, có lẽ chú ấy thấy ngoài kia người tiếp khách nhiều rồi, nên ở trong này trông nom. Nếu ông lớn nghĩ ở trong này thiếu người, thì thím nói chú Bảo ra, như thế không hơn à!
Giả mẫu cười, nói:
- Con Phượng ốm như thế mà miệng lưỡi còn khéo léo sắc sảo.
Đang lúc cao hứng thì thấy người nhà bên Hình phu nhân hoảng hốt chạy thẳng đến và gào lên:
- Cụ bà, bà lớn ơi, nguy... nguy to! Vô số kẻ cướp đi giày đội mũ đến rồi!Họ dốc rương đổ hòm ra cướp hết cả đồ đạc!
Bọn Giả mẫu nghe nói ngơ ngác. Lại thấy Bình Nhi đầu bù tóc rối, tay dắt Xảo Thư la khóc om sòm, chạy đến nói:
- Nguy to rồi! Tôi đang cùng em Xảo ăn cơm, bỗng thấy Lai Vượng bị người ta trói lại dẫn đến, nói: “Cô mau mau chuyển lời vào mời các bà tránh đi. Ngoài kia Vương gia sắp tới tịch biên gia sản đấy”. Tôi nghe nói, suýt chết khiếp! Đang định vào phòng lấy đồ vật quan trọng, thì bị một bọn người xô bừa đổ nhào ra. Ở đây, ai có cái gì nên mang, nên mặc thì thu xếp mau lên.
Hình phu nhân và Vương phu nhân nghe nói, hồn vía lên mây, không biết nên làm thế nào. Riêng có Phượng Thư, lúc đầu trợn trừng trợn trạc rồi sau ngã lăn ra đất. Giả mẫu nghe chưa xong, khiếp quá, nước mắt đầm đìa, không còn nói ra lời.
Lúc đó những người trong nhà, lôi kéo nhau rối rít cả lên. Lại nghe tiếng thét:
- Bảo đàn bà con gái tránh đi, vương gia vào đấy.
Bọn Bảo Thoa, Bảo Ngọc còn chưa biết làm thế nào. Lũ a hoàn, bà già còn đang kéo nhau lung tung. Chợt thấy Giả Liễn thở hồng hộc chạy vào nói:
- May lắm! May lắm! Nhờ Vương gia cứu cho chúng ta rồi.
Mọi người đang định hỏi, Giả Liễn thấy Phượng Thư chết nằm giữa đất, vừa khóc vừa gọi rối rít; lại thấy Giả mẫu cũng khiếp ngất đi, thở không được nữa, hắn càng hoảng lên. May nhờ có Bình Nhi gọi Phượng Thư tỉnh dậy, sai người vực lên giường. Giả mẫu cũng tỉnh lại, khóc lóc mê mẫn, nằm ở trên giường, Lý Hoàn khuyên lơn an ủi mãi. Sau đó Giả mẫu bình tĩnh lại, Giả Liễn mới nói rõ việc hai vương gia ban ơn, nhưng sợ Giả mẫu và Hình phu nhân nghe tin Giả Xá bị bắt, sẽ sợ chết khiếp, nên không dám nói rõ, đành phải đi ra lo liệu công việc. Hắn vào đến nhà, thấy đồ đạc bị cướp gần hết, rương hòm đều bị phá tung.
Giả Liễn đang hoảng hốt, hai mắt trợn ngược, ngẩn ngơ rơi nước mắt, thì lại nghe bên ngoài gọi, đành phải đi ra. Lúc đó thấy Giả Chính đang cùng bọn ty thuộc khai các đồ đạc, một người xướng:
- Đồ thủ sức bằng vàng đỏ cộng một trăm hai mươi cái, có đủ các thứ châu báu. Hạt trân châu mười ba chuỗi. Mâm vàng nhạt hai chiếc. Bát vàng hai đôi, thìa vàng bốn mươi chiếc, bát bạc lớn tám mươi cái. Mâm bạc hai mươi chiếc. Đũa ngà bịt vàng hai nắm. Hồ rượu mạ vàng hai cái. Chén mạ vàng ba đôi. Khay trà hai cái. Đĩa bạc bảy mươi sáu cái. Chén rượu bằng bạc ba mươi sáu cái. Da cáo đen mười tám tấm. Da cáo xanh sáu tấm. Da điêu ba mươi sáu tấm. Da cáo vàng ba mươi tấm. Da cầy mười hai tấm. Da ngoài màu xám sáu mươi tấm. Da cáo màu xám bốn mươi tấm. Da dê màu vàng sẫm hai mươi tấm. Da hồ ly hai tấm. Áo da cáo vàng hai chiếc. Da cáo trắng nhỏ hai mươi mảnh. Nỉ ngoại ba mươi thước. Len hai mươi ba thước. Nhung mười hai thước. Áo lót da chuột thơm mười chiếc. Da chuột đậu bốn mảnh. Nhung ngỗng trời một cuộn. Da hươu rằn một tấm. Áo lót da cáo hai cái. Da cầy một cuộn. Nệm lông vịt bảy bộ. Da chuột xám một trăm sáu mươi tấm. Da lợn rừng tám tấm. Da hổ sáu tấm. Da hải báo ba tấm. Da hải long mười sáu tấm. Da dê màu gió bốn mươi mảnh. Da dê màu đen sáu mươi ba tấm. Mũ da cáo màu huyền mười bộ. Mũ hình dao mười hai bộ. Mũ da điêu hai bộ. Da cáo nhỏ mười sáu tấm. Da cầy sông hai tấm. Da rái cá hai tấm. Da mèo ba mươi lăm tấm. Vải Nhật mười hai thước. Đoạn tơ một trăm ba mươi cuộn. The lụa một trăm tám mươi cuộn. Tơ lông ba mươi cuộn. Nhung tây ba mươi cuộn. Đoạn thêu tám cuộn. Vải mỏng ba bó. Vải nhiều màu ba bó. Áo da nhiều màu một trăm ba mươi chiếc. Áo lụa kép bông ba trăm bốn mươi chiếc. Đồ chơi bằng ngọc ba mươi hai cái. Đai chín bộ. Đồ dùng bằng đồng và thiếc trên năm trăm cái. Đồng hồ mười tám cái. Hạt Triều châu chín chuỗi. Áo thêu các màu ba mươi tư chiếc. Nệm dựa bằng đoạn thêu thượng hạng ha bộ. Áo quần cung trang tám bộ. Đai ngọc một chiếc. Đoạn vàng mười hai cuộn. Bạc Triều châu năm ngàn hai trăm lạng. Vàng đỏ năm mươi lạng. Tiền bảy ngàn quan (1). Tất cả đồ dùng trong nhà đều niêm phong và vào sổ. Các toà nhà của vua cho phủ Vinh đều phải kê khai. Những tờ văn khế về nhà cửa ruộng đất, giấy tờ của người nhà, cũng đều niêm phong cả.
Giả Liễn đứng bên nghe trộm. không thấy xướng đến đồ vật của mình, trong bụng đang ngờ vực. Bỗng nghe hai vương gia hỏi Giả Chính:
- Khi tịch biên gia sản trong đó có giấy cho vay nợ, rõ ràng là bóc lột. Vậy do ai làm? Ông Chính cứ khai thực mới được.
Giả Chính nghe nói, quỳ giữa đất, đập đầu và nói:
- Thật kẻ phạm tội này không coi việc nhà, nên không biết gì hết, xin hỏi cháu là Giả Liễn sẽ rõ.
Giả Liễn vội vàng đi tới, quỳ xuống bẩm:
- Hòm văn khế ấy đã lục soát được ở trong nhà kẻ phạm tội này thì còn đâu dám chối cãi. Chỉ xin Vương gia rộng thương cho. Còn chú kẻ phạm tội này thật là không biết gì đến.
Hai Vương gia nói:
- Cha anh đã bị tội, thì phải xử chung vào một án. Bây giờ anh nhận lấy, cũng là phải lẽ. Hãy cho người giữ Giả Liễn lại, còn tất cả đều nhốt lỏng ở trong nhà. Ông Chính phải cẩn thận chờ chỉ nhà vua. Chúng tôi vào cung phúc chỉ (2). Ở đấy đã có quan quân canh giữ.
Nói đoạn, hai vương gia lên kiệu ra cửa. Bọn Giả Chính quì ở cửa thứ hai tiễn đưa. Bắc Tĩnh vương giơ tay lên nói:
- Xin cứ yên lòng.
Xem mặt Vương gia tỏ vẻ thương hại.
Lúc bấy giờ, tinh thần Giả Chính mới ổn định, nhưng hãy còn ngơ ngác. Giả Lan liền nói:
- Mời ông vào trong nhà xem cụ một chút.
Giả Chính nghe nói, vội vã đứng dậy đi vào, thì thấy bọn đàn bà con gái ở các cửa sổ cứ nhao nhao lên, không biết là họ định làm gì. Giả Chính cũng không có bụng dạ nào mà xét hỏi, một mạch đi thẳng vào phòng Giả mẫu, thì thấy người nào người nấy, nước mắt đầm đìa. Vương phu nhân và Bảo Ngọc ngồi vây chung quanh Giả mẫu, lặng lẽ không nói gì. Mọi người chảy nước mắt, còn Hình phu nhân thì ngồi khóc sướt mướt. Thấy Giả Chính đi vào, mọi người đều nói:
- Hay lắm! Hay lắm!
Họ liền nói với Giả mẫu:
- Ông lớn vẫn vào đây như thường. Không cai gì cả. Xin cụ cứ yên lòng.
Giả mẫu chỉ hơi thở thoi thóp, hé mở hai mắt ra nói:
- Con ơi, không ngờ mẹ lại còn thấy con!
Nói chưa dứt lời, Giả mẫu đã khóc ầm lên. Thế rồi cả nhà đều khóc. Giả Chính sợ mẹ khóc mãi sinh ốm, liền cầm nước mắt lại mà nói:
- Mẹ cứ yên tâm. Việc vốn không nhỏ, nhưng nhờ ơn của chúa thượng, của hai vị Vương gia rủ lòng thương. Anh Cả tuy tạm thời bị bắt hỏi, nhưng khi sự việc rõ ràng, chúa thượng sẽ còn ban ơn. Giờ đây tất cả của cải còn lại trong nhà này, không động chạm đến nữa đâu.
Giả mẫu thấy Giả Xá không ở đấy thì lại đau lòng. Giả Chính yên ủi mãi mới thôi. Mọi người đều không dám ra về. Riêng có Hình phu nhân về đến nhà mình, thấy cửa đã khoá chặt và niêm phong, bọn a hoàn và bà già đều bị nhốt vào mấy gian nhà. Chẳng biết đi vào đâu, bà ta liền khóc rống lên, đành phải đi sang nhà Phượng Thư, thì thấy bên cửa thứ hai cũng có giấy niêm phong, chỉ cửa trong nhà là còn mở; phía trong có tiếng khóc nghẹn ngào không ngớt. Hình phu nhân đi vào, thấy Phượng Thư mặt xanh như tàu lá, nhắm mắt nằm yên. Bình Nhi ngồi một bên khóc thầm. Hình phu nhân trung là Phượng Thư chết rồi, lại khóc ầm lên. Bình Nhi đón lại và nói:
- Bà đừng khóc. Khi khiêng mợ cháu về, tưởng là đã chết, nhưng để yên một chốc lại tỉnh lại, khóc lên mấy tiếng, bây giờ đờm đã hạ, hơi thở điều hòa, tinh thần hơi bình phục. Xin hà cũng
nên yên nghỉ một tý; nhưng không biết cụ thế nào rồi?
Hình phu nhân cũng không trả lời, lại đi sang nhà Giả mẫu. Thấy trước mắt đều là người nhà của Giả Chính, nghĩ đến mình thì chồng con bị bắt, dâu ốm nguy cấp, con gái chịu khổ, hiện nay thân mình chẳng biết về đâu. Trước cảnh đó ai chẳng khuyên lơn, an ủi. Bọn Lý Hoàn sai người thu xếp nhà cửa, mời Hình phu nhân tạm nghỉ. Vương phu nhân sai người hầu hạ.
Giả Chính ở ngoài thậm thọt lo âu, cứ xoắn râu, xoa tay chờ chỉ của nhà vua. Chợt nghe bọn lính canh ở ngoài thét ầm lên.
- Anh là người bên nào? Đã đụng phải chúng ta đây thì ghi vào sổ, bắt lấy nộp cho các quan ở phủ Cẩm y.
Giả Chính đi ra ngoài xem, thấy là Tiều Đại. liền hỏi:
- Tại sao anh lại chạy đến đây!
Tiều Đại thấy hỏi, liền kêu trời kêu đất khóc mà nói:
- Ngày nào tôi cũng khuyên can mấy ông hư thân ấy, họ lại cho tôi là kẻ oan gia. Ông lại không biết Tiều Đại này theo hầu cụ cố trước đây đã từng chịu khổ như thế nào hay sao? Hôm nay đến tình cảnh này: cậu cả Trân và anh Dung đều bị Vương gia nào bắt đi cả rồi; các bà trong nhà đều bị nha dịch trong phủ nào đó lôi đi đến nỗi đầu bù tóc rối, đem nhốt vào một gian nhà không; bọn chó má ấy đều lồng lên như lang như hổ, có gì chúng lục soát ra để vào một chỗ; đồ gỗ thì chúng đánh nát bét, đồ sứ thì chúng đập cho vỡ đi. Chúng nó lại còn định trói cả tôi. Tôi sống đã tám chín mươi tuổi đầu, chỉ có đi theo cụ cố trói người ta, đâu lại để cho họ trói mình? Tôi nói tôi là người phủ tây, rồi bỏ đi ra. Bọn họ không nghe, bắt giải đến đây, ai ngờ ở đây cũng thế. Giờ đây tôi cũng không cần sống nữa, quyết liều mạng với bọn này thôi!
Tiều Đại nói xong, liền đập đầu. Bọn nha dịch thấy ông ta tuổi già, lại nghe hai vương gia dặn, nên cũng không dám làm dữ, liền nói:
- Ông già yên lặng một chút. Đây là chúng tôi vâng lệnh nhà vua. Ông hãy nghĩ một chút, để chờ tin tức.
Gỉa Chính nghe nói, tuy để mặc ông ta, nhưng bụng như dao cắt, liền nói:
- Thế là hết! Thế là hết! Không ngờ nhà mình suy sụp đến thế này!
Đang khi hoảng hốt, chờ tin trong cung, bỗng thấy Tiết Khoa thở hồng hộc chạy vào, nói:
- Chà! Khó khăn lắm mới vào đây được! Bác ở đâu rồi?
Giả Chính nói:
- Cháu đến đúng lúc quá! Ngoài ấy sao mà họ cho cháu vào?
- Cháu năn nỉ mãi và cho họ một ít tiền nên mới vào được
Giả Chính đem việc bị lục soát nhà nói cho anh ta biết, nhờ anh ta dò la tin tức và nói:
- Đang lúc cấp bách này cũng không kịp đưa tin cho bà con bạn hữu, chỉ có cháu là có thể thông tin được.
- Việc ở đây cháu chưa biết rõ; còn việc ở phủ đông thì cháu đã nghe nói rồi.
- Vậy thì phạm tội gì thế?
- Hôm nay cháu nhân việc đi dò tin về tội của anh cháu, thấy trong nha môn nói có hai vị ngự sử nghe tin đồn đại anh cả Trân quyến rũ con nhà thế gia đánh bạc. Khoản này còn nhẹ. Còn có một khoản nặng là cường chiếm vợ lương dân làm lẽ, người ta không theo, liền áp bức người ta chết. Quan ngự sử kia sợ không chắc, bắt Bào Nhị nhà mình đem đi, lại còn kéo ra một người họ Trương nữa. Chỉ sợ ngay cả đô sát viện cũng có lỗi, vì họ Trương trước đã kiện rồi.
Giả Chính nghe chưa hết, liền giẫm chân, nói:
- Còn gì nữa! Thôi! Thôi!
Ông ta thở dài, rồi nước mắt chảy xuống ròng ròng. Tiết Khoa yên ủi mấy câu, lại ra ngoài dò la. Cách độ nửa ngày, anh ta trở vào, nói:
- Tình hình không tốt, cháu đi dò ở bộ hình, không nghe tin hai vương gia phúc chỉ, chỉ nghe nói hôm nay Lý ngự sử hặc quan châu Bình An xu nịnh các quan trong kinh, chiều theo ý quan trên, làm hại nhân dân, gồm mấy khoản lớn. Giả Chính vội vàng nói:
- Việc người ta thì mặc kệ, cháu chỉ dò xem việc nhà mình như thế nào thôi.
- Nói đến Bình An châu tức là có việc chúng ta đấy, ông quan trong kinh bị hặc tức là ông Cả nhà ta. Người ta tố cáo ông Cả bao thầu trong việc kiện tụng. Tình hình như lửa cháy đổ thêm đầu. Các quan trong triều đều lo trốn tránh không kịp, ai còn dám đưa tin. Còn bọn bà con bạn hữu vừa ở đây ra về, người thì về nhà, người thì dừng lại chỗ xa để nghe ngóng. Đáng giận là những người trong họ đây, dọc đường đều nói: “Công nghiệp cha ông để lại, bây giờ gây ra biến cố này, không biết thế tước ấy sẽ bay đến đầu người nào, để chúng mình được mở mắt một chút...”
Giả Chính chưa nghe xong liền giẫm chân nói:
- Đó là vì ông Cả nhà ta hồ đồ quá. Bên phủ đông cũng không ra thể thống gì cả! Giờ đây bà và chị Liễn không biết chết hay sống! Cháu lại cứ đi dò xem, để ta vào bên chỗ bà xem một chút. Nếu có tin gì cho biết sớm một tý thì tốt.
Đang nói thì nghe nhà trong kêu ầm lên:
- Cụ bà nguy lắm rồi.
Giả Chính vội vàng chạy vào.
(1) Trong bảng kê này có một số không rõ là vật gì, chúng tôi lược đi không dịch.
(2) Sau khi vâng chỉ nhà vua đi làm việc xong, trở về tâu lại với vua.
Hồi thứ một trăm lẻ sáu
Gây tai ương, Vương Hy Phượng xiết bao hổ thẹn
Tránh hoạ hoạn, Giả thái quân cầu khấn phật trời
Giả chính nghe nói Giả mẫu nguy cấp, vội vàng vào xem, thấy Giả mẫu khiếp sợ, khí ngược lên cổ. Vương phu nhân và Uyên Ương gọi mãi mới tỉnh, rồi cho uống thuốc viên “sơ khí an thần”. Dần dần Giả mẫu hơi đỡ nhưng cứ thương tâm chảy nước mắt. Giả Chính đứng một bên khuyên :
- Bọn chúng con hư thối, gây nên tai vạ, để mẹ chịu sợ hãi. Mẹ có thư thái ít nhiều thì bọn con mới có thể ở ngoài lo liệu ; nếu mẹ có mệnh hệ nào thì tội chúng con lại càng thêm nặng !
Giả mẫu nói :
- Ta sống đã hơn tám mươi tuổi. Từ khi còn là con gái, về nhà chồng, đều nhờ phúc ấm cha ông, chưa bao giờ thấy việc như thế này. Giờ già rồi, nếu nhìn thấy các con chịu tội, bụng ta sao đành ? Chi bằng nhắm mắt để mặc các con.
Nói rồi lại khóc.
Lúc đó Giả Chính bối rối vô cùng. Bỗng nghe bên ngoài nói : “Thưa ông lớn, trong cung có tin ra”.
Giả Chính vội vàng đi ra, thì thấy quan trưởng sử phủ Bắc Tĩnh vương đến nói :
- Xin mừng cho ngài.
Giả Chính cảm ơn, mời ngồi và hỏi :
- Vương gia có chỉ dụ gì ?
- Vương gia chúng tôi và Tây Bình quận vương vào nội phúc chỉ tâu rõ việc quan lớn sợ hãi, và lời cảm kích ơn vua. Chúa thượng rất thương và nghĩ tới quí phi mất chưa bao lâu, không nỡ làm tội, nên vẫn gia ân cho ngài nhậm chức viên ngoại bộ công như cũ. Gia sản bị niêm phong, chỉ đem phần của Giả Xá nhập vào của công, còn nửa đều trả lại, và truyền chỉ cho ngài phải tận tâm làm chức vụ. Chỉ có khế cho vay, thì sai Vương gia chúng tôi tra xét. Nếu có khoản nào lấy lãi nặng quá lệ, thì đều nhập vào của công, còn những khoản lấy lãi đúng lệ, cùng giấy tờ nhà cửa ruộng đất, đều trả lại hết. Giả Liễn thì bị cách chức tha về.
Giả Chính nghe xong, liền đứng dậy sụp lạy cảm tạ ơn vua, lạy tạ ơn Vương gia, và nói :
- Xin quan trường sứ bẩm giúp : “sáng mai tôi sẽ đến cửa cung tạ ơn và đến Vương phủ lạy tạ.”
Viên trướng sứ ra về.
Một lát, chỉ vua truyền ra, quan thừa biện tuân theo chỉ ý, tra rõ tất cả, cái gì nhập vào của công thì nhập ; cái gì trả lại thì trả. Tha Giả Liễn ra, còn bao nhiêu đàn ông đàn bà thuộc về nhà Giả Xá, thì đều kê sổ nhập quan. Đáng thương trong nhà Giả Liễn, ngoài những giấy tờ hợp lệ được trả lại, còn nửa tuy chưa xung công hết cả, nhưng đã bị bọn người tra soát cướp hết, chỉ trơ lại đồ dùng mà thôi.
Giả Liễn ban đầu sợ phạm tội, sau được tha, đã là may mắn. Đến khi nghĩ lại những của cải dành dụm mấy năm nay cùng với của riêng của Phượng Thư, gần năm bảy vạn lạng bạc, một lúc hết sạch, làm sao khỏi đau lòng. Vả lại cha thì đang bị giam ở phủ Cẩm y; Phượng Thư thì ốm nguy ngập, nên hắn vừa buồn bả vừa đau xót. Lại thấy Giả Chính rưng rưng nước mắt, gọi hắn mà bảo :
- Ta vì bận việc quan, không trông nom việc nhà được, mới bảo vợ chồng cháu đến coi giúp. Việc cha cháu làm, đã đành khó lòng khuyên can, còn việc cho vay lấy lãi ấy, thì do ai làm ? Vả lại việc ấy không phải là hạng nhà chúng ta nên làm. Nay bị xung công, tuy tiền bạc không quan hệ, nhưng tiếng tăm đồn đại thì còn ra gì nữa.
Giả Liễn quỳ xuống thưa :
- Cháu lo việc nhà thật là không dám có chút gì tư túi. Sổ sách ra vào có bọn Lại Đại, Ngô Tân Đăng, Đái Lương ghi chép. Chú gọi bọn ấy tra hỏi thì rõ. Hiện mấy năm nay. bạc ở kho chi nhiều thu ít, tuy chưa phải bù nhưng ở các nơi đã thiếu hụt nhiều. Xin chú hỏi thím thì biết. Còn những món tiền cho vay lấy lãi ấy, ngay cháu cũng không hiểu là bạc ở đâu, phải hỏi bọn Chu Thụy và Lai Vượng mới biết.
- Cứ như cháu nói, ngay cả việc trong nhà cháu còn không biết, thì những việc trên việc dưới, cháu lại càng không biết nữa! Bây giờ ta cũng không tra hỏi cháu làm gì. Hiện nay cháu là người vô tội, phải mau mau dò la tin tức về cha cháu và việc anh Trân xem sao ?
Giả Liễn trong lòng uất ức, nước mắt dàn dụa, vâng lời đi ra. Giả Chính than thở luôn miệng, nghĩ bụng : “Cha ông mình khó nhọc về việc nhà vua, lập nên công nghiệp mới được hai chức thế tước, nay đều phạm tội, đều bị cách cả. Xem chừng
bọn con cháu, không một đứa nào nên thân ! Trời ơi là trời ! Họ Giả nhà mình sao đến nỗi suy sụp như thế ? Mình tuy nhờ ơn trên thương đến, trả lại gia sản, nhưng rồi việc ăn tiêu cả hai nơi, phải dồn về một chỗ. Một mình ta chèo chống sao nỗi ? Vừa rồi thằng Liễn nói lại càng lạ : “chẳng những trong kho không có bạc mà lại còn nợ nần thiếu thốn. Thì ra mấy năm nay chỉ có tiếng hão bên ngoài. Mình sao mà ngu dại đến như thế ? Nếu thằng Châu còn sống thì còn có người giúp đỡ. Bảo Ngọc tuy lớn cũng là vô dụng”. Giả Chính nghĩ đến đó, nước mắt đầm đìa thấu áo, rồi lại nghĩ : “Mẹ mình tuổi cao như thế, con cháu chưa phụng dưỡng được một ngày nào mà lại làm cho mẹ già khiếp sợ chết đi sống lại tội này mình còn biết để cho ai . “
Giả Chính đang một mình buồn bã, bỗng thấy người nhà vào bẩm :
- Bà con bạn hữu đến hỏi thăm.
Giả Chính cảm ơn hết thảy mọi người và nói :
- Trong nhà gặp lúc không may, chỉ vì tôi không biết dạy bảo con cháu, cho nên đến nông nỗi này.
Có người nói :
- Từ lâu chúng tôi đã biết. ông Cả làm việc không được đứng đắn. Anh cả Trân bên kia lại càng kiêu căng phóng túng. Nếu vì làm việc quan lầm lẫn mà phải lỗi, thì cũng không hổ, bây giờ mình gây nên vạ, lại làm liên lụy đến ông Hai.
Có người nói :
- Người ta làm xằng cũng nhiều, nhưng cũng không thấy quan ngự sứ hặc tâu. Nếu không phải là ông cả Trân làm mếch lòng bạn bè, thì đâu đến nỗi như thế !
Có người nói :
- Cũng không nên trách quan ngự sử. Chúng tôi nghe chính là người nhà ở phủ đây cùng mấy thằng vô lại ở ngoài làm ầm ĩ lên. Quan ngự sử sợ hặc tâu không thật, cho nên dỗ chúng nói ra. Tôi nghĩ quí phủ đây đối đãi với tôi tớ rất khoan dung, làm sao còn có việc ấy ?
Có người nói :
- Bọn đầy tớ không thể nuôi đứa nào hết. Hôm nay ở đây đều là bạn bầu thân thiết cả, tôi mới dám nói. Ngay khi ngài làm quan ngoài, tôi cũng không thể tin chắc rằng ngài không ham tiền. Tiếng tăm ở ngoài sở dĩ không tốt, đều là do bọn tôi tớ gây ra. Ngài cũng nên để ý đề phòng. Nay tuy không động đến gia sản của ngài, nhưng nếu gặp lúc chúa thượng ngờ vực, thì sẽ không hay.
Giả Chính nghe nói, trong lòng hoảng sợ, liền hỏi :
- Các vị nghe tiếng tăm của tôi ra sao ?
Mọi người nói :
- Chúng tôi tuy không biết sự thực. Nhưng nghe người ngoài nói lúc ngài làm quan lương đạo, có bảo bọn người nhà đòi tiền thế nào đó.
Giả Chính nghe xong, liền nói :
- Tôi thật thề với trời xưa nay chưa hề dám nghĩ đến chuyện đó. Nhưng vì bọn tôi tớ ớ ngoài lừa gạt người ta mà gây nên chuyện, thì tôi cũng phải chịu tội.
Mọi người nói :
- Giờ đây sợ cũng vô ích, chỉ cần đem bọn người nhà xét tra cho nghiêm ; nếu có đứa nào chống lại chủ nhà, xét cho ra mà nghiêm trị là được.
Giả Chính nghe nói gật đầu. Vừa lúc đó thấy người ngoài cửa vào thưa :
- Cậu Tôn sai người đến nói bận việc không đến được, cho người đến hỏi thăm, và bảo ông lớn phải nhận trả số bạc mà ông Cả nợ của cậu ta.
Giả Chính trong lòng bực bội, chỉ nói :
- Biết rồi !
Mọi người đều cười nhạt và nói :
- Người ta hảo Tôn Thiệu Tổ bà con với ngài là người gàn dở. Quả thật là đúng ! Hiện nay ông nhạc bị soát nhà, chàng rễ chẳng những không đến trông nom giúp đỡ mà lại vội vàng đến đòi nợ. Thật là vô lý !
Giả Chính nói :
- Bây giờ hãy chưa cần nói. Việc hôn nhân ấy là do anh tôi làm sai. Cháu gái tôi chịu khổ đã đủ bây giờ lại quàng đến cả tôi đấy .
Đang nói thì thấy Tiết Khoa đi vào thưa :
- Tôi dò nghe Triệu Toàn ở phủ Cẩm y nhất định đòi trị tội như lời quan ngự sử hặc, sợ rằng ông Trân và ông Cả sẽ bị tội nặng.
Mọi người đều nói :
- Ông lớn cần phải đi xin với Vương gia, làm sao kiếm cách cứu vãn mới được. Nếu không thì cả hai nhà sẽ tan tành.
Giả Chính vâng lời và cảm tạ, rồi mọi người ra về.
Lúc đó, chừng vừa lên đèn, Giả Chính vào thăm Giả mẫu, thấy Giả mẫu hơi đỡ . Về đến phòng ông ta oán trách vợ chồng Giả Liễn không biết gì hết. Bây giờ xảy ra chuyện cho vay lấy lãi, làm cả nhà mang tiếng. Bây giờ mới biết rõ Phượng Thư làm. Ông ta rất tức tối, nhưng thấy Phượng Thư hiện đang ốm nặng, chị ta cái gì đều bị mất hết. Cố nhiên trong lòng đau đớn. Vì vậy cũng không tiện quở trách, đành tạm nín nhịn không nói gì.
Hôm sau, Giả Chính vào cung tạ ơn và đến các phủ Bắc Tĩnh và Tây Bình lạy tạ. Xin hai Vương gia xét thương anh và cháu mình. Hai vương gia đều nhận lời. Giả Chính lại đến nhà các quan đồng liêu thân thiết xin họ giúp đỡ . Giả Liễn thấy tình hình cha và anh xem chừng không xong, chẳng biết làm thế nào đành phải về nhà. Bình Nhi ngồi trông nom Phượng thư và khóc lóc. Thu Đồng ngồi ở buồng bên cạnh oán trách Phượng Thư. Giả Liễn chạy đến một bên, thấy Phượng Thư chỉ còn thoi thóp, dầu có bao nhiêu lời trách móc, cũng không thể nói ra.
Bình Nhi khóc nói :
- Nay đã đến nỗi này, của cải mất rồi, không thể trở lại được nữa. Mợ như thế này, cũng phải mời thầy thuốc xem một chút mới được chứ !
Giả Liễn đâm cáu :
- Chà! Mạng tao đây khó lòng mà giữ trọn. Còn trông coi đến nó được à ?
Phượng Thư nghe nói, hé mắt ra nhìn một cái, tuy không nói gì, nhưng nước mắt trào ra. Thấy Giả Liễn ra rồi, chị ta bèn nói với Bình Nhi :
- Chị đừng có u mê không hiểu nữa. Đã đến nỗi nước này. Chị còn lo đến ta làm gì ? Ta chỉ mong chết ngay bây giờ càng hay. Chỉ cần chị còn nhớ đến ta, sau ta chết rồi, chị nuôi nấng con Xảo cho khôn lớn, ta ở nơi âm ty cũng cảm kích tình nghĩa của chị.
Bình Nhi nghe nói, càng khóc nức nở. Phượng Thư lại nói:
- Chị cũng là người hiểu đời. Dù họ không đã động đến ta. Nhưng thế nào cậu ấy cũng oán trách ta. Việc này tuy bên ngoài gây nên, nhưng nếu ta không tham lãi, thì cũng chẳng có việc gì đến ta. Giờ đây uổng phí bao nhiêu tâm lực suốt đời lo dành phần hơn người ta. Nay trở lại thua kém họ ! Ta còn mang máng nghe nói việc của anh cả Trân là do cưỡng ép vợ lương dân làm vợ lẽ. Nó không theo nên bức hiếp nó đến chết. Trong việc này lại có người họ Trương. Chị nghĩ xem còn có ai nữa ? Việc ấy mà xét ra, thì cậu Hai nhà ta không sao tránh khỏi tội. Lúc đó ta còn mặt mũi nào mà nhìn người ta nữa ? Ta muốn chết ngay. Nhưng lại không chịu nỗi những việc nuốt vàng sống, hoặc uống thuốc độc. Chị còn muốn mời thầy thuốc làm gì . Thế có phải chị không thương ta mà lại làm hại ta không .
Bình Nhi càng nghe càng đau xót, nghĩ lại cũng khó xử, chỉ sợ Phượng Thư tìm cách tự tử , nên cứ ngồi giữ miết không rời. May mà Giả mẫu không biết rõ đầu đuôi, nên gần đây trong người có hơi đỡ. Lại thấy Giả Chính vô sự, Bảo Ngọc và Bảo Thoa ngày nào cũng ở luôn bên cạnh mình, nên cũng hơi yên lòng. Giả mẫu xưa nay vốn yêu Phượng Thư, liền bảo Uyên Ương :
- Mày đem một ít đồ vật của riêng ta cho con Phượng, và đem một ít tiền giao cho con Bình để lo hầu hạ con Phượng chu đáo rồi thong thả ta sẽ xếp đặt.
Giả mẫu lại bảo Vương phu nhân trông nom Hình phu nhân. Lúc đó phủ Ninh đã xung công, tất cả của cải, nhà cửa, đất đai và bọn gia nô đều ghi sổ tịch thu hết. Giả mẫu sai người đưa xe đón Vưu thị và con dâu qua bên này, phủ Ninh tấp nập như thế mà nay chỉ còn lại mẹ con Vưu thị và Bội Phượng, Giải Loan, ngay một người hầu cũng không có. Giả mẫu chỉ cho một ngôi nhà để ở liền vách với chỗ ở của Tích Xuân . Lại sai bốn bà già và hai a hoàn hầu hạ. Tất cả vật dụng cơm nước đều do nhà bếp lớn chia phần đưa đến . Áo quần đồ đạc thì do Giả Mẫu đưa cho . Còn nhưng món tiêu dùng lặt vặt cũng do phòng kế toán chu cấp theo như tiền lương tháng của mỗi người bên phủ Vinh. Tiền tiêu dùng của bọn Giả Xá, Giả Trân và Giả Dung ở phủ Cẩm y thì phòng kế toán không biết lấy ở khoản gì ra mà chi nữa . Hiện giờ Phượng Thư không còn gì; Giả Liễn ở ngoài mắc nợ rất nhiều . Giả Chính không hiểu việc nhà, chỉ cho rằng đã giao cho người ta, tự nhiên có kẻ trông nom . Giả Liễn không còn cách gì . Nghĩ đến các nhà thân thiết thì nhà Tiết phu nhân đã suy sụp . Vương Tử Đằng đã chết, còn các nhà bà con káhc thì đều không thể giúp đỡ cho mình. Hắn đành phải sai người ngấm ngầm tới các trại bán đỡ ruộng đất lấy vài ngàn lạng để tiêu phí trong nhà giam . Bọn tôi tớ thấy chủ thất thế, cũng nhân dịp làm càn, giả danh mượn trước một số địa tô ở trại phía đông để tiêu vụng .
Giả mẫu thấy chức tước của cha ông để lại bị cách mất, con cháu đang bị giam, chờ ngày tra hỏi. Hình phu nhân và Vưu thị đêm ngày khóc lóc . Phượng Thư bệnh tình nguy cấp, tuy có Bảo Ngọc, Bảo Thoa ở bên cạnh, nhưng chỉ có thể khuyên giải chứ không thể chia nỗi lo âu được. Vì thế, đêm ngày phiền muộn, lo trước nghĩ sau, nước mắt không bao giờ khô .
Một hôm, trời đã về chiều . Giả mẫu bảo Bảo Ngọc về phòng, rồi một mình gắng gượng dậy. Bà ta bảo bọn Uyên Ương đi thắp hương ở các phật đường, lại bảo thắp hương ở giữa sân, rồi chống gậy đi ra. Hổ Phách biết là Giả Mẫu định lễ phật, liền trải nệm hồng ra. Giả mẫu thắp hương, quỳ xuống sụp lạy mấy lần, niệm phật một hồi, rồi ứa nước mắt khấn trời đất :
- Trời phật ở trên, tôi là họ Sử, dâu nhà họ Giả, thành kính cầu khẩn, xin đức phật rủ lòng từ bi. Nhà họ Giả chúng tôi mấy đời nay không dám ngang tàng làm bậy. Tôi giúp chồng dạy con, tuy không làm được điều thiện, cũng không dám làm điều ác . Chắc là vì bọn con cháu kiêu sa dâm dật, phí phạm của trời đến nỗi cả nhà bị khám xét. Hiện nay con cháu bị giam, chắc hẳn dữ nhiều lành ít, đó đều là tội tại một mình tôi không biết dạy bảo chúng nó cho nên đến nông nỗi này. Giờ đây tôi xin trời phù hộ người bị giam gặp dữ hoá lành ; người có bệnh mau mau mạnh khỏe, dầu cả nhà có tội, tôi tình nguyện xin chịu một mình. Chỉ mong tha thứ cho bọn con cháu. Nếu trời thương tôi thành tâm kính cẩn, thì xin cho tôi chết sớm, mà khoan dung tội lỗi cho bọn con cháu ?
Giả mẫu lâm râm cầu khẩn đến đó, rồi bất giác thương tâm nghẹn ngào khóc lóc.
Bọn Uyên ương, Trân Châu vừa khuyên giải vừa dìu vào phòng.
Vương phu nhân dẫn Bảo Ngọc, Bảo Thoa tới hỏi thăm sức khoẻ. Thấy Giả mẫu thương khóc, ba người cũng đều khóc lóc . Bảo Thoa lại có một nỗi khổ tâm khác -anh mình đang bị giam, sau này xử án không biết có được giảm nhẹ hay không? - Cha mẹ chồng tuy rằng vô sự, nhưng gia nghiệp đã tiêu điều ; Bảo Ngọc vẫn còn rồ dại, không có chút chí khí, nghĩ đến việc chung thân sau này, lại càng khóc lóc thảm thiết hơn . Giả mẫu và Vương phu nhân, Bảo Ngọc thấy Bảo Thoa như thế, cũng có một nỗi thương cảm riêng, nghĩ bụng : “Bà tuổi già. không được yên tâm. Cha và mẹ thấy quang cảnh này ắt phải đau lòng. Bọn chị em tan tác chia phôi càng ngày càng ít. Nhớ lại hồi ở trong vườn ngâm thơ lập xã, vui vẻ biết chừng nào ? Từ khi em Lâm qua đời, mình buồn bực cho đến nay, lại có chị Bảo làm bạn khóc lóc luôn cũng không tiện. Vả lại thấy chị ta lo cho anh, nhớ đến mẹ, đêm ngày mặt ủ mày chau. Nay thấy chị ta khóc lóc thảm thiết, trong lòng lại càng không nỡ. Do đó Bảo Ngọc cũng nức nở khóc. Bọn Uyên ương, Thái Vân, Oanh Nhi, Tập Nhân trông thấy ai nấy cũng đều có mối lo buồn riêng, nên đều đua nhau khóc. Các a hoàn thấy vậy thương tâm cũng khóc lên, không còn có ai khuyên giải. Tiếng khóc cả nhà như rung trời chuyển đất, bọn bà già canh đêm hoảng sợ, vội vàng tin cho Giả Chính biết.
Giả Chính đang buồn bực ở thư phòng, nghe bọn người nhà Giả mẫu báo tin, trong bụng hoảng hết, vội vàng chạy vào.
Xa xa nghe tiếng khóc vang lên rất đông. Giả Chính tưởng là Giả mẫu có việc gì, hồn phách rụng rời. Chạy vội vào, thấy mọi người ngồi thừ ra khóc, ông ta mới yên lòng, liền nói :
- Cụ thương tâm thì cả nhà nên khuyên giải mới phải. Tại sao lại kéo bè mà khóc như thế ?
Mọi người nghe tiếng Giả Chính vội vàng nín khóc, nhìn nhau ngơ ngác. Giả Chính lại gần yên ủi Giả mẫu và trách mắng bọn họ mấy câu. Mọi người đều nghĩ thầm: “bọn mình vốn sợ bà thương tâm, nên đến khuyên giải, tại sao lại quên bẳng đi; cùng nhau khóc lóc như vậy .”
Đang lúc ngẩn ngơ thì thấy một bà ở bên nhà Sử hầu đi vào hỏi thăm sức khoẻ của Giả mẫu và mọi người xong, liền nói.
- Ông lớn, bà lớn và cô nhà chúng tôi sai chúng tôi đến nói : “ Nghe thấy bên phủ đâu có việc, nhưng vốn không quan hệ gì chẳng qua bị kinh khủng trong một lúc thôi. Sợ ông bà lo phiền, cho nên bảo chúng tôi đến thưa chuyện.” Ông Hai ở đây
chẳng có gì đáng sợ. Cô chúng tôi vốn muốn sang đây, nhưng vì chẳng bao lâu nữa thì về nhà chồng, nên không sang được.
Giả mẫu nghe nói, không tiện cảm ơn, chỉ nói :
- Các bà về nói hộ, chúng tôi có lời hỏi thăm sức khoẻ.
Đây là vận nhà chúng tôi gặp bước như thế. Cảm ơn ông bà bên nhà tưởng đến. Hôm khác sẽ xin qua tạ ơn. Cô nhà các bà về nhà chồng, chắc chú rễ thì không cần phải nói nữa, còn gia tư nhà họ ra sao ?
Hai người đàn bà thưa :
- Gia tư thì cũng chẳng sao. Nhưng cậu rể người rất xinh xắn, tính lại hiền hoà. Chúng tôi đã thấy mặt mấy lần, xem chừng không khác cậu Bảo đây mấy, và nghe nói, văn tài cũng giỏi .
Giả mẫu nghe xong, vui mừng nói :
- Thế thì tốt lắm ! Đó là phúc của cô ấy. Nhưng mà nề nếp nhà chúng ta còn theo lễ phương Nam. Vì thế chúng ta không được thấy mặt chú rể mới. Hôm trước tôi còn nghĩ đến người bên họ ngoại nhà tôi. Tôi chỉ yêu nhất là cháu nó, một năm ba trăm sáu mươi ngày thì ở đây đến trên hai trăm ngày. Nay đã lớn như thế, tôi định kiếm cho nó một người chồng tốt. Nhưng vì chú nó không ở nhà, tôi không tiện làm chủ. Cháu nó đã có phúc lấy được chú rể tốt, thì tôi cũng yên lòng. Tháng này nó về nhà chồng, tôi vốn định qua uống chén rượu mừng, không ngờ nhà chúng tôi xảy ra việc thế này, lòng tôi nóng như nước sôi, đâu còn sang bên ấy được ? Các bà về nói tôi có lời hỏi thăm. Mọi người bên này cũng đều gửi lời hỏi thăm. Các bà lại nói hộ với cháu nó đừng nghĩ gì đến tôi. Tôi nay đã hơn tám mươi tuổi, dầu có chết cũng không phải thiếu phúc nữa. Mong sao cho cháu nó về nhà người ta, vợ chồng hòa thuận, bách niên giai lão là tôi yên lòng.
Giả mẫu nói đến đó, lại rơi nước mắt.
Người đàn bà kia nói :
- Cụ bà không cần phải thương tâm. Cô tôi về nhà chồng, đến hôm làm lễ hồi môn rồi thế nào cũng cùng cậu rể tới chào cụ lúc đó cụ thấy mặt sẽ vui mừng đấy.
Giả mẫu gật đầu.
Người đàn bà kia đi ra rồi, cũng không ai nghĩ đến chuyện ấy nữa, chỉ có Bảo Ngọc nghe rồi ngẩn người ra một lúc, nghĩ bụng cứ thế này, ngày này qua ngày khác, mình khó mà sống nổi. Tại sao người ta sinh ra con gái cứ lớn lên lại phải đi
lấy chồng ? Khi đã lấy chồng thì hình như biến thành một con người khác. Em Sử như thế, lại bị chú ép gả cho người ta, sau này cô ta có gặp mình cũng sẽ không nhìn ngó gì đến nữa. Ta nghĩ một con người mà đã đến lúc không ai nhìn đến thì còn sống mà làm gì ? “ Nghĩ đến đó, Bảo Ngọc lại thương tâm, nhưng thấy Giả mẫu vừa mới yên lặng nên không dám khóc nữa, đành chỉ ngồi buồn rũ.
Được một lúc, Giả Chính không đành lòng, lại vào thăm Giả mẫu. Thấy mẹ đã hơi đỡ, ông ta liền gọi Lại Đại bảo đem sổ những người nhà coi việc trong toàn phủ điểm lại một lượt. Trừ bọn người thuộc về Giả Xá đã xung công, còn lại hơn ba mươi nhà, cả trai gái gồm hai trăm mười hai người. Giả Chính bảo gọi bốn mươi mốt người đàn ông hiện đang làm việc trong phủ vào hỏi về việc tiêu dùng may năm nay. thu vào bao nhiêu, chi ra bao nhiêu. Giả Chính xem thì thấy tiền thu không đủ chi, lại thêm mấy năm nay, tiêu dùng về việc trong cung. Trong sổ có nhiều khoản phải vay mượn bên ngoài. Lại tra về khoản địa tô tỉnh Đông thì thấy mấy năm gần đây địa tô nạp vào không bằng một nửa so với đời cha ông, mà tiêu dùng lại nhiều hơn gấp mười lần. Giả Chính không xem thì thôi, xem rồi hoảng lên, giẫm chân nói :
- Chết thật ! Ta tưởng là cháu Liễn coi việc thế nào cũng biết lo lắng, ai ngờ mấy năm nay, năm Dần đã tiêu lan sang tiền năm Mão. Thế mà vẫn tô điểm bề ngoài. Cho bổng lộc thế chức (1) là việc không quan hệ gì, làm gì mà chẳng suy sụp ! Bây giờ mình mới biết dành dụm thì đã muộn rồi.
Nghĩ đến đó, ông ta cứ đi đi lại lại, chẳng còn biết làm cách nào.
Mọi người biết.Giả Chính không quen việc nhà, có sốt ruột cũng vô ích, liền nói :
- Ông lớn không cần phải lo phiền, nhà nào cũng như thế cả . Nếu tính tổng cộng lại thì ngay nhà đức vương cũng không đủ tiêu, chẳng qua chỉ trau chuốt bộ mặt ngoài, đến đâu hay đây thôi. Giờ đây ông lớn nhờ ơn chúa thượng mới có chút gia sản này. Nếu bị xung công hết, không lẽ ông lớn không ăn tiêu nữa .
Giả Chính quát :
- Nói nhảm ! Bọn tôi tớ chúng bay là đồ vô lương tâm cả ! Lúc chủ nhà còn khá thì chúng bay tiêu pha bừa bãi , đến khi hết sạch, mỗi đứa bỏ đi mỗi nơi. Kể gì chủ nhà chết với sống ? Giờ đây chúng bay nói không bị tịch thu niêm phong là tốt, nhưng chúng bay biết sao được tiếng tăm ở bên ngoài. Gốc đã khó giữ thì còn chịu sao nổi bọn chúng bay ở ngoài làm càn, nói láo, lừa gạt người ta ? Khi xảy ra chuyện thì chúng bay đổ vào đầu chủ nhà là xong ! Giờ nghe nói việc ông Cả, anh Trân là do Bào Nhị. Người nhà chúng ta rêu rao lộ chuyện. Nay xem sổ này không có tên Bào Nhị nào cả, là tại làm sao .
Mọi người thưa :
-Tên Bào Nhị không ở trong danh sách này. Trước kia hắn ở bên phủ Ninh. Vì cậu Hai thấy hắn ta thật thà mới gọi hai vợ chồng hắn qua bên này. Sau vợ chết, hắn lại về phủ Ninh. Lúc ông lớn bận việc ở cửa quan, cụ bà, bà lớn, các ông đều đi lên lăng. Cậu Trân coi hộ việc nhà, đem hắn sang, sau đó hắn lại đi ngay. Mà năm nay ông lớn không coi việc nhà, làm gì mà biết những chuyện ấy ! Ông lớn cứ tưởng rằng trên danh sách không có tên chỉ có một người ấy thôi, không biết rằng là cũng có tôi tớ của họ, rồi tôi tớ cũng lại có tôi tớ nữa đấy .
Giá Chính nói :
- Thế thì chết thật !
Rồi ông ta nghĩ rằng trong một lúc chưa có thể xử trí dứt khoát, đành phải quát mọi người lui ra, nhưng trong bụng đã có ý sẵn sàng, hãy chờ xem quan trên xét hỏi bọn Giá Xá ra sao rồi sẽ định sau.
Một hôm, Giả Chính đang ngồi trù tính ở thư phòng, bỗng một người vội vàng chạy vào trình :
- Xin mời ông lớn vào cung mau để hầu chuyện.
Giả Chính nghe nói trong bụng hoảng hốt, đành phải đi vào cung.
Ghi chú :
1. Tức là đời đời nối chức .
Hồi thứ một trăm lẻ bảy
Cho của thừa, Giả mẫu hiểu nghĩa lớn
Phục chức cũ, Giả Chính đội ơn trời
Giả chính vào triều, gặp các vị đại thần viện khu mật, lại gặp các vị vương gia, Bắc Tỉnh vương nói :
- Hôm nay chúng tôi gọi ông đến theo chỉ ý, hỏi ông mấy việc .
Giả Chính vội vàng quỳ xuống.
Các đại thần liền nói :
- Những việc anh ông giao thông với quan ngoài, cậy thế mạnh áp bức người hèn, dung túng con cháu đánh bạc, cưỡng chiếm vợ lương dân làm lẽ, nó không theo, bức hiếp đến chết, ông có biết không !
Giả Chính thưa :
- Tôi từ khi đội ơn Chúa thượng, nhậm chức học chính xong, đi tra xét việc phát chẩn, hết mùa đông năm kia mới về nhà. Sau đó lại được sai đi làm các việc công trình, rồi được nhậm chức lương đạo tỉnh Giang Tây, bị hặc về kinh, vẫn làm ở bộ Công, đêm ngày không dám lười biếng. Tất cả mọi việc trong nhà, tôi đều không để ý xem xét. Tôi thật là u mê không biết dạy bảo con cháu, phụ ơn thánh thượng, dám xin Chúa thượng trị tội nặng.
Bắc Tỉnh Vương cứ thế mà tâu lên. Được một lát, trong cung truyền chỉ vua ra, Bắc Tỉnh Vương thuật lại rằng :
- Chúa thượng nhân việc ngự sứ hặc tâu Giả Xá giao thông với quan ngoài, cậy mạnh áp bức người hèn, theo lời quan ngự sử kia tâu lên thì Giả Xá đi lại với Châu Bình An, bao thầu trong việc kiện tụng. Sau khi tra hỏi Giả Xá theo lời khai của Giả Xá thì Châu Bình An vốn là chỗ bà con thông gia qua lại, chưa hề có can thiệp đến việc quan. Quan ngự sứ kia cũng không nêu ra được chứng cứ rõ rệt. Duy có việc cưỡng bức lấy quạt của anh chàng Thạch ngốc nào đó là có thật. Nhưng đó chỉ là đồ chơi, không thể xem như việc công bức lấy của cải của lương dân. Anh chàng Thạch ngốc kia tự tử cũng là do nó điên dại mà làm như thế, không phải việc bức bách làm cho người ta chết. Nay hoàng thượng khoan hồng, đày Giả Xá ra nơi đài trạm (1) làm việc để chuộc tội. Còn khoản hặc Giả Trân cưỡng chiếm vợ lương dân làm vợ lẽ, nó không theo bức hiếp nó phải chết thì xét theo nguyên án ở đô sát viện, thấy chị Hai họ Vưu là vợ chưa cưới của Trương Hoa, hứa gả từ khi ở trong thai, vì anh ta nghèo khổ tự nguyện thoái hôn. Mẹ chị Vưu bằng lòng gả cho em Giả Trân làm vợ lẽ, không phải là cưỡng chiếm. Đến khoản chị Ba họ Vưu tự vẫn, tự ý đem chôn, không báo quan thì xét như sau : “Chị Ba họ Vưu là em vợ Giả Trân. Nguyên Giả Trân muốn gả chồng cho chị ta, nhân vì người ta đòi lại vật đính hôn rồi người ngoài lại rêu rao nói xấu, nên cô ta hổ thẹn tự tử, không phải là Giả Trân bức bách mà chết. Giả Trân là một viên chức thế tập, chẳng biết pháp luật, chôn trộm mạng người, đáng lẽ phải trị tội nặng. Nhưng nghĩ anh ta vẫn là con cháu nhà công thần, không nỡ làm tội nên cũng theo lệ khoan hồng, cách chức thế tập, sai tới ven biển làm việc để chuộc tội. Giả Dung tuổi trẻ, không liên can gì được tha bổng. Giả Chính coi việc nhà không đúng đắn, nhưng vì làm quan ngoài đã lâu, mọi việc cũng siêng năng cẩn thận nên miễn tội.
Giả Chính xem xong, cảm kích chảy nước mắt, sụp lạy lia lịa, lại xin vương gia tâu hộ lòng thành của mình.
Bắc Tỉnh vương nói :
- Ông nên lạy tạ ơn trên, còn tâu gì nữa ?
Giả Chính nói :
- Kẻ phạm tội này đội ơn trời không xử tội nặng, đội ơn trả lại giả sản, thật là trong lòng hổ thẹn, sẽ đem tất cả gia tài bổng lộc do tổ tiên để lại, dành dụm và sắm sửa ra đều đưa vào của công.
Bắc Tĩnh vương nói :
- Chúa thượng đãi người dưới nhân từ, dùng hình sáng suốt cẩn thận, thưởng phạt không sai. Nay đã đội ơn cao sâu, trả lại tài sản, hà tất ông phải tâu thêm làm gì.
Các quan khác cũng đều nói :
- Bất tất phải tâu điều đó.
Giả Chính liền tạ ơn, lại lạy tạ vương gia rồi đi ra. Sợ Giả mẫu lo lắng, ông ta vội vàng về nhà. Bọn người nhà không biết nhà vua cho gọi Giả Chính vào là việc lành hay dữ, nên đều ở ngoài nghe ngóng. Khi thấy Giả Chính về nhà, ai nấy mới đỡ lo, nhưng không dám hỏi. Giả Chính vội vàng đến chỗ Giả mẫu kể lại việc được ơn trên khoan hồng tha thứ như thế nào. Giả mẫu tuy yên lòng nhưng nghĩ lại : “hai thế chức đều bị cách. Giả Xá phải đi đài trạm làm việc, Giá Trân phải đi ra ven biển, nên đau lòng khóc lóc.
Hình phu nhân và Vưu thị nghe thấy, khóc lóc mãi không thôi. Giả Chính nói :
- Xin mẹ cứ yên lòng. anh Cả tuy phải đi làm việc ở nơi đài trạm, nhưng cũng là làm việc cho nhà nước, không đến nổi chịu khổ ; chỉ cần làm cho chu đáo là có thể phục chức. Còn cháu Trân đang ít tuổi, cũng phái cố sức làm việc. Nếu không như thế, thì mặc dầu cha ông có công đức để lại cũng không hưởng được lâu .
Ông ta lại nói thêm mấy lời an ủi.
Giả mẫu xưa nay vốn không ưa Giả Xá lắm, còn Giả Trân bên phủ Đông thì lại xa cách thêm một tầng. Chỉ có Hình phu nhân và Vưu thị thì cứ khóc mãi.
Hình phu nhân nghĩ bụng : “gia sản sạch không, chồng tuổi già lại phải đi xa, tuy có thằng Liễn, nhưng xưa nay nó vốn về hùa với chú nó ; nay việc gì cũng nương tựa vào chú Hai, vợ chồng nhà nó tất nhiên lại càng theo về bên ấy. Chỉ trơ lại một mình cô độc khổ sở, biết làm thế nào Vưu thị thì xưa nay một mình trông coi việc nhà ở phủ Ninh. Ngoài Giả Trân, chị ta là người được tôn quý hơn cả. Vợ chồng lại vốn thuận hòa. Nay Giả Trân mắc tội phải đi xa, gia tài bị tịch thu hết, sống nương nhờ phủ Vinh. Tuy rằng được Giả mẫu thương yêu, nhưng dẫu sao cũng vẫn là ăn nhờ ở đậu. Lại đèo thêm Bội Phượng, Giai Loan nữa và vợ chồng Giả Dung, đều là người không biết sinh cơ lập nghiệp.” Chị ta lại nghĩ : “em Hai và em Ba chết đều do chú Liễn gây nên, giờ đây bọn họ yên ổn vô sự, vợ chồng vẫn sum họp như thường, còn mình thì chỉ sót lại mấy đứa, làm sao sống cho qua ngày ?” Nghĩ đến đó, chị ta lại khóc lóc thảm thiết.
Giả mẫu không nở lòng, liền hỏi Giả Chính.
- Anh Cả con và cháu Trân hiện đã thành án, có thể về nhà được không ? Còn thằng Dung không việc gì, chắc cũng được tha chứ ?
- Nếu như lệ đã đặt thì anh Cả không về nhà được. Nhưng con đã nhờ người ta thể theo tình riêng, cho anh Cả và cháu Trân về nhà, để tiện việc sắp sửa hành lý. Trong nha môn đã nhận lời. Chắc là cháu Dung sẽ cùng ông và cha nó đều về một thể. Xin mẹ cứ yên lòng, để con lo liệu.
- Ta mấy năm nay già cả, chẳng còn ra người nữa, việc nhà cũng không khi nào hỏi đến. Giờ đây bên phủ Đông bị tịch thu hết, nhà cửa cũng xung công, không còn phải nói. Kho bạc phủ Tây của chúng ta và đất đai ở phủ Đông, anh có biết còn lại bao nhiêu không ? Hai chú cháu chúng nó ra đi cũng phải cấp cho chúng mấy ngàn bạc mới được chứ ?
Giả Chính đang không biết tính làm sao, nghe Giả mẫu nói, nghĩ bụng : “Nếu nói rõ ra thì sợ mẹ lo. Nhưng nếu không nói rõ, thì sợ sau này, và ngay bây giờ cũng không biết lo liệu ra sao, ông ta liền thưa :
- Nếu mẹ không hỏi thì con cũng không dám nói. Nay mẹ đã hỏi đến việc đó, và hiện giờ cháu Liễn cũng ở đây, con có thể nói, hôm qua con đã xét việc ấy rồi - bạc ở kho đã hết sạch, chẳng những đã tiêu hết, còn thiếu hụt phải mắc nợ nữa. Giờ đây việc của anh Cả nếu không bỏ tiền ra lo nhờ người ta, mặc dù nói chúa thượng khoan hồng, nhưng e rằng chú cháu nó vẫn có điều không hay. Ngay số bạc ấy bây giờ cũng chưa biết lấy vào đâu. Còn hoa lợi đất đai tỉnh Đông thì tô năm Dần đã tiêu sang tô năm Mão. Trong một lúc cũng khó lòng mà xoay xở. Chỉ có cách bán những quần áo và đồ trang sức, nhờ ơn trên không động đến để làm phí tổn cho anh Cả và cháu Trân thôi. Còn việc ăn tiêu sau này sẽ liệu cách.
Giả mẫu nghe nói hoảng hốt, chảy nước mắt, và nói :
- Làm sao thế ? Nhà mình mà đến nông nỗi ấy à . Ta tuy chưa từng trải, nhưng nghĩ bên nhà ta ngày trước so với bên này còn hơn gấp mười. Cũng chỉ vì lo tô điểm hảo bộ mặt bề ngoài, nên sau mấy năm không xảy ra việc như ở bên này. Nhưng cũng đã suy sụp . Không đầy hai năm là sạch cả ! Theo như anh nói, thì nhà mình không thể chèo chống được một vài năm nữa à .
- Nếu hai thế bổng (2) không mất thì bên ngoài còn có cách xoay xở, giờ đây người ta không còn nhìn vào cái gì làm đảm bảo thì còn ai chịu giúp đỡ.
Giả Chính nói đến đó, nước mắt tràn ra :
- Nghĩ đến bà con, những nhà nhờ tiền của mình thì nay đều cùng túng. Những nhà không nhờ gì mình lại không chịu giúp đỡ. Hôm qua con cũng chưa tra xét kỹ, chỉ xem danh sách bọn người nhà. Chưa nói đến tiền tiêu trên đây chẳng biết lấy vào đâu mà người hầu hạ bên dưới cũng không nuôi được nhiều như thế.
Giá mẫu đang lo lắng, thì thấy bọn Giả Xá, Giả Trân, Giả Dung đi vào hỏi thăm sức khỏe. Giả mẫu thấy quang cảnh như thế, một tay nắm Giả Xá, một tay nắm Giả Trân, khóc oà lên.
Hai người tỏ vẻ hỗ thẹn, lại thấy Giả mẫu khóc lóc, đều quỳ xuống đất. vừa khóc vừa nói :
- Con cháu chúng con hư thân, làm hỏng mất sự nghiệp của cha ông, lại làm cho mẹ phải đau lòng, tội chúng con thật là chết không có chỗ chôn !
Mọi người thấy quang cảnh như thế, lại đua nhau khóc ầm lên. Giả Chính đành phải khuyên giải :
- Bây giờ trước hết phải kiếm tiền tiêu cho hai chú cháu đã. Xem chừng chỉ ở nhà được một vài ngày, chậm thì người ta không nghe cho đâu.
Giả mẫu nín khóc và nói :
- Thôi hai con hãy về chuyện trò với vợ đã.
Rồi bà ta lại dặn Giả Chính :
- Việc này không chờ được lâu đâu ! Chắc xoay xở bên ngoài cũng không ăn thua, nhỡ lại qua mất hạn trên định thì làm sao được ? Đành để ta liệu hộ cho thôi. Vả chăng trong nhà cứ rối bời lên thế này, cũng không phải là cách lâu dài.
Giả mẫu vừa nói vừa gọi Uyên Ương đến dặn. Bọn Giả Xá ra ngoài lại cùng Giả Chính khóc lóc một hồi, kể lể những chuyện trước đây tự ý làm càn, sau này ăn năn - và giờ đây phải ly biệt nhau. Rồi ai nấy vợ chồng cùng nhau khóc lóc. Giả Xá
tuổi đã già, còn có thể dứt tình ra đi. Chỉ có Giả Trân và Vưu thị làm sao rời nhau cho đành ? Bọn Giả Liễn, Giả Dung cũng chỉ biết nắm lấy cha mà khóc lóc. Dầu nói là nhẹ hơn tội xung quân, nhưng vẫn là cảnh sinh ly tử biệt, việc đã đến thế đành phải bẩm bụng cho qua.
Giả mẫu gọi Hình phu nhân và Vương phu nhân cùng bọn Uyên Ương mở rộng đổ hộp lấy ra hết cả những đồ vật dành dụm từ khi làm dâu đến nay, lại gọi bọn Giả Xá, Giả Chính, Giả Trân đến chia cho từng phần rõ ràng. Giả mẫu cấp cho Giả Xá ba ngàn lạng và nói :
- Số bạc hiện có ở đây, anh đem đi hai ngàn làm tiền tiêu để một ngàn cho chị ấy tiêu riêng. Đây có ba ngàn lạng cho cháu Trân, nhưng chỉ được đưa đi một ngàn lạng, để lại hai ngàn lạng cho vợ cháu giữ lấy. Ai nấy tự lo lấy sinh sống. Nhà cửa thì ở chung với nhau, cơm nước thì ăn riêng. Việc hôn nhân của con Tư sau đây cũng là việc của ta. Tội nghiệp con Phượng lo liệu bấy lâu bây giờ sạch không, cũng cho nó ba ngàn lạng, giao cho nó giữ lấy không cho cháu Liễn tiêu. Giờ đây nó còn ốm mê mệt thì bảo con Bình đến mà nhận về. Đây là xiêm áo của cha ông để lại cả áo quần và đồ trang sức của ta dùng khi còn nhỏ, nay ta không dùng đến. Đồ đàn ông thì bảo ông Cả, cháu Liễn, cháu Trân, cháu Dung đem ra mà chia nhau. Đồ đàn bà thì bảo bà Cả, vợ cháu Trân và con Phượng đem mà chia nhau. Đây có năm trăm lạng bạc giao cho cháu Liễn, sang năm đưa linh cữu con Lâm về Nam.
Giả mẫu phân phát xong, lại nói với Giả Chính :
- Anh nói còn mắc nợ người ngoài, việc đó cũng không thiếu được. Anh bảo đem số vàng này bán đi mà trả cho người ta. Đó là bọn chúng nó phá mất của ta đấy. Anh cũng là con ta, ta không hề có thiên vị. Bảo Ngọc đã nên cửa nên nhà, những vàng bạc và đồ vật còn lại đây ước chừng mấy ngàn lạng, đều đã cho nó cả. Vợ cháu Châu xưa nay ăn ở hiếu thuận với ta, thằng chắt Lan cũng tốt, ta cũng chia cho mẹ con nó ít nhiều. Thế là công việc của ta xong xuôi.
Bọn Giả Chính thấy Giả mẫu phân xử sáng suốt như thế, đều quỳ xuống khóc và nói:
- Tuổi già như thế, bọn chúng con chưa có chút gì hiếu thuận. Giờ đây lại chịu ơn của người thế này. Thật bọn chúng con lấy làm xấu hổ !
Giả mẫu nói :
- Đừng nói nhảm ! Nếu không, xảy ra tai vạ này thì ta còn cất đi đấy. Có điều hiện giờ người nhà nhiều quá, chỉ có mình anh Hai đi làm việc, thì để lại ít người là đủ. Anh nên dặn ngay bọn coi việc gọi mọi người đến đầy đủ rồi phân phối cho thỏa đáng. Nhà nào cũng có người để sai bảo là được. Giá hôm nọ bị tịch thu cả thì làm sao nữa . Trong nhà ta đây cũng phải bảo họ sắp xếp đứa nào nên gả thì gả đi; đứa nào cho về thì cho về. Bây giờ tuy nhà này không xung công, nhưng anh cũng nên giao cái vườn đi mới phải. Còn đất ruộng thì giao cho cháu Liễn xem xét đâu đấy . Chỗ nào nên bán thì bán đi, chỗ nào nên để lại thì để lại . Nhất thiết đừng có làm cái lối tô điểm cái vỏ bề ngoài nữa. Ta cũng nói trắng ra cho mà biết, chứ bên nhà bà Hai còn giữ mấy lạng bạc của nhà họ Chân phương Nam, cũng nên sai người đưa trả đi. Giả phỏng lại xảy ra việc gì thì không phải là bọn họ tránh vỏ dưa lại dẫm phải vỏ dừa hay sao .
Giả Chính vốn là người không biết lo liệu việc nhà, khi nghe Giả mẫu nói, thì nhất nhất vâng lời, nghĩ bụng : “Mẹ mình thật là người biết xử trí việc nhà, chỉ tại bọn mình hư thân làm hỏng hết đấv thôi”. Giả Chính thấy Giả mẫu nhọc mệt, liền mời nghỉ ngơi để di dưỡng tinh thần. Giả mẫu lại nói :
- Những đồ vật của ta còn lại cũng chẳng là bao. Chừng khi ta chết, để sử dụng vào việc hậu sự cho ta. Còn thừa bao nhiêu thì cho bọn a hoàn hầu hạ ta.
Bọn Giả Chính nghe đến đó, càng thêm thương cảm. Mọi người đều qùy xuống nói :
- Xin mẹ bớt lo. Mong sao cho bọn con nhờ phúc ấm của mẹ ít lâu nữa, được ơn trên thương đến, lúc bấy giờ, sẽ lo lắng trông nom việc nhà để chuộc lỗi trước là phụng thờ mẹ đến trăm tuổi .
Giả mẫu nói :
- Ta mong sao cho được như thế mới tốt. Ta có chết đi cũng còn mặt mũi mà nhìn cha ông. Các người đừng tưởng rằng ta là người chỉ biết hưởng phú quý mà không chịu được bần cùng ! Chẳng qua mấy năm nay thấy bọn các người làm ra vẻ bề thế ta đành cứ để mặc, nói nói cười cười, di dưỡng con người đấy thôi. Ngờ đâu vận nhà suy sụp đến nông nỗi này ! Nếu nói đến việc tiếng cả nhà không thì ta đã biết lâu rồi. Nhưng vì ăn ở quen nết, trong một lúc khó lòng thay đổi mà thôi. Nay nhân dịp này thu hẹp lại, giữ lấy nếp nhà, nếu không người ta sẽ chê cười cho. Các người còn chưa biết, chỉ tường rằng ta thấy cùng túng thì hoảng lên muốn chết. Bụng ta nghĩ là nghĩ đến công nghiệp vô cùng lớn lao của cha ông. Ngày nào ta cũng trông nom cho các người hơn cha ông, biết giữ được thanh danh. Ai ngờ hai chú cháu nhà nó lại làm cái trò như thế .
Giả mẫu đương nói miên man thì thấy bọn Phong Nhi hoảng hốt chạy đến trình với Vương phu nhân :
- Hôm nay mợ chúng tôi nghe thấy việc ngoài như thế, khóc lóc một hồi, bây giờ thở không được. Chị Bình bảo tôi đến trình bà lớn.
Phong Nhi nói chưa xong. Giả mẫu nghe thấy liền hỏi :
- Nó thế nào rồi ?
Vương phu nhân trả lời thay :
- Hiện giờ nghe nói nó nguy cấp.
Giả mẫu đứng dậy nói :
- Chà ? Cái bọn oan gia này, làm ta chết mất !
Nói xong bảo người dìu đi, định thân hành đến thăm.
Giả Chính vội vàng ngăn lại và khuyên :
- Mẹ nãy giờ đau lòng mãi, lại lo liệu công việc, bây giờ cần nghỉ một chút. Dầu cháu nó có việc gì thì chỉ bảo nhà con qua thăm đựơc. Mẹ hà tất phải đi sang làm gì ? Nếu mẹ lại thương cảm nữa thì có việc gì không hay, con biết xử trí ra sao?
Giả mẫu nói :
- Các anh cứ đi, chốc nữa sẽ lại đây, ta có chuyện muốn nói.
Giả Chính không dám nói nhiều, đành phải đi ra, lo liệu việc anh và cháu lên đường, lại báo Giả Liễn chọn người theo hầu.
Giả mẫu gọi Uyên Ương sai người mang những đồ vật cho Phượng Thư theo bà ta đi sang. Lúc đó Phượng Thư đang bị khí quyết (3). Bình Nhi khóc lóc sưng cả mắt. Nghe nói Giá mẫu dẫn bọn Vương phu nhân đến, chị ta vội vàng ra đón tiếp. Giả mẫu liền hỏi :
- Giờ nó ra sao rồi ?
- Giờ đã hơi đỡ . Cụ đã đến đây, xin mời vào thăm mợ ấy một chút.
Nói xong, Bình Nhi theo Giả mẫu vào, rồi vội vàng chạy trước, khẽ vạch màn ra. Phượng Thư mở mắt nhìn, thấy Giả mẫu đi vào trong bụng rất là hổ thẹn. Ban đầu chị ta tưởng bọn Giả mẫu giận mình, không còn yêu thương nữa, sống chết cũng mặc. Không ngờ thấy Giả mẫu thân hành đến thăm, trong bụng chị ta khoan khoái, cảm thấy nhẹ nhàng, liền muốn gắng gượng ngồi dậy. Giả mẫu bảo Bình Nhi giữ lại và nói :
- Đừng có gắng dậy ! Cháu có đỡ không ?
Phượng Thư rưng rưng nước mắt, nói :
- Cháu hơi đỡ rồi. Từ khi nhỏ cháu qua đây, bà và thím yêu cháu biết chừng nào. Ngờ đâu phúc phận của cháu mỏng manh, bị ma quỉ xui giục, như người mất hồn. Đối với bà và cha mẹ chồng, cháu chưa tròn chút lòng hiếu thảo để người vui lòng.
Thế mà bà và thím còn cho cháu là người, bảo giúp đỡ lo liệu, việc nhà để đến nỗi cháu làm cho thất điên bát đảo, giờ cháu còn mặt mũi nào nhìn thấy bà và thím nữa. Hôm nay bà và thím lại thân hành đến đây, cháu làm sao cho xứng đáng, chỉ sợ sống được ba hôm thì lại giảm đi hai hôm thôi.
Nói xong, chị ta nghẹn ngào nức nở.
Giả mẫu nói :
- Những việc ấy là do bên ngoài gây ra, can gì đến cháu . Ngay cả những đồ vật của cháu bị người ta lấy đi cũng chẳng đáng kể. Hiện giờ ta đưa đến cho cháu một ít đồ vật, cháu hãy xem đây.
Nói đến đó, bà ta hầu đưa đồ vật đến cho Phượng Thư xem. Phượng Thư vốn là người tham lam không biết chán, của cải bị tịch thu hết sạch, cố nhiên là đau xót, lại sai người ta trách móc, chính là lúc không muốn sống nữa. Nay thấy Giả mẫu vẫn thương mình. Vương phu nhân cũng không trách giận mà vẫn đến an ủi mình, lại nghĩ đến Giả Liễn không bị can gì, trong bụng cũng đỡ lo. Chị ta liền dập đầu trước Giả mẫu và nói :
- Xin bà yên lòng, nếu nhờ phúc ấn của bà mà bệnh cháu khỏe được thì cháu tình nguyện làm con hầu sai vặt, hết lòng hết sức hầu hạ bà và thím.
Giả mẫu nghe chị ta nói ra vẻ thương tâm. Bất giác rơi nước mắt. Bảo Ngọc xưa nay là người chưa từng trải qua sóng gió bao giờ, trong lòng chí huyết yên vui, không biết lo lắng, bây giờđi đến đâu cũng đều là chuyện khóc lóc, nên lại càng ngơ ngác, thấy người ta khóc cũng khóc theo. Phượng Thư thấy mọi người lo buồn, lại phải gắng gượng nói mấy câu an ủi Giả mẫu và năn nỉ :
- Mời bà và thím về, khi nào cháu đỡ, cháu sẽ qua bái tạ.
Nói xong, chị ta ngước đầu lên. Giả mẫu bảo Bình Nhi :
- Con hầu hạ cho tử tế, thiếu cái gì sang bên ta mà lấy.
Nói đến đó, Giả mẫu cùng bọn Vương phu nhân toan về phòng mình, thì nghe hai ba chỗ có tiếng khóc. Giả mẫu trong lòng thương hại, liền bảo Vương phu nhân về, và bảo Bảo Ngọc- cháu sang chào bác và anh, tiễn đưa một lúc rồi về
ngay.
Giả mẫu nằm trên giường chảy nước mắt; may có bọn Uyên ương dùng đủ mọi cách để khuyên giải, nên cũng tạm yên.
Chuyện biệt ly đau thương của bọn Giả Xá, hãy tạm gác lại đã. Nay nói đến bọn người nhà theo đi, chẳng có ai bằng lòng cả, trong họ không khỏi oán giận, kêu van rầm trời. Thật là sinh ly còn đau buồn hơn là tử biệt. Người nhìn thấy lại càng đau lòng hơn người trong cuộc. Cả một tòa phủ Vinh đầy những người khóc kêu gào.
Giả Chính là người rất giữ khuôn phép, về mặt cương thường luân lý cũng rất chu đáo. Sau khi cầm tay từ biệt bọn Giả Xá, ông ta tự cưỡi ngựa đi trước ra đếnngoài thành, nâng chén tiễn đưa lại dặn dò :
- Nhà nước bao giờ cũng thương đến con nhà công thần, phải ra sức báo đền cho xứng đáng...
Bọn Giả Xá gạt nước mắt, chia tay từ biệt.
Giả Chính dẫn Bảo Ngọc về nhà, chưa kịp vào cửa thì khi ấy ở ngoài có một số người đang lao nhao nói :
- Hôm nay có chỉ nhà vua cho Giả Chính thưa kế chức Vinh quốc công.
Bọn người ấy đòi tiền mừng. Nhưng những người canh cửa cãi :
- Chức thế tập của nhà đây, thì người nhà đây thừa kế, có gì mà bảo tin mừng !
Bọn người kia nói :
- Vinh dự của chức thế tập. So với bất cứ quan chức lại càng khó hơn. Ông Cả nhà các anh làm mất đi, không mong gì lại được nữa. Nay nhờ ơn thánh thượng như trời bể. Lại cho anh Hai thừa kế. Đó là việc nghìn năm hiếm có, sao lại không cho tiền mừng ?
Hai bên đang cãi cọ nhau thì Giả Chính vừa về. Người nhà trình lại, ông ta cũng mừng, nhưng vì do anh mình phạm tội, nên mới đến thế. Nghĩ cảm cảnh lại chảy nước mắt. Ông ta vội vàng chạy vào báo với Giả mẫu. Giả mẫu cố nhiên là mừng rỡ liền nắm lấy Giả Chính nói mấy câu dặn dò phải siêng năng cố gắng để báo ơn vua.
Vương phu nhân đang sợ Giả mẫu đau lòng, đến để yên ủi nghe nói lại được phục chức thế tập cũng lấy làm mừng. Chỉ có Hình phu nhân và Vưu thị trong lòng đau khổ, nhưng không tiện nói ra.
Bọn bà con bạn hữu ở ngoài quen thói xu phụ thế lợi. Ban đầu thấy nhà họ Giả có việc đều tránh xa không đến ; nay thấy Giả Chính được tập chức, biết là vua còn yêu, nên mọi người đều đến mừng. Ngờ đâu Giả Chính tính tình thật thà, thấy mình thừa kế chức tước của anh nên trong bụng đâm ra buồn bực, chỉ biết cảm kích ơn vua mà thôi. Hôm sau, Giả Chính vào cung tạ ơn, lại làm tờ tâu xin đem nhà vườn được trả lại nộp vào của công.
Trong nội đình xuống chỉ bảo không cần phải như thế. Giả Chính mới yên tâm về nhà.Từ sau tuân theo phận sự của mình mà làm công việc. Nhưng cảnh nhà tiêu điều, tiền thu vào không đủ chi ra. Giả Chính lại không biết đưa đón với bên ngoài. Bọn người nhà thấy Giả Chính thật thà. Phượng Thư tâm đau không thể trông nom việc nhà. Giả Liễn thì ngày càng túng thiếu, khó lòng tránh khỏi việc cầm nhà bán đất. Mấy tên người nhà có tiền, sợ Giả Liễn làm rầy rà, đều vờ ra bộ túng bấn để trốn tránh, thậm chí họ xin phép nghỉ rồi không đến, ai nấy lo tìm đường khác làm ăn.
Riêng có Bao Dũng tuy là người mới đến, lại gặp lúc phủ Vinh rắc rối, anh ta vẫn hết lòng lo lắng công việc. Thấy bọn người kia lừa dối chủ nhà, anh ta thường thường bực bội. Nhưng không thể nói được, nên đâm ra tức giận, hằng ngày cứ ăn rồi lại ngủ. Bọn người kia giận anh ta không chịu hùa theo mình, liền nói với Giả Chính rằng anh ta cả ngày chỉ uống rượu sinh sự, không làm việc gì cả.
Giả Chính nói :
- Hãy mặc kệ đấy.. Anh ta là do họ Chân cử đến, không tiện nói ra. Thôi đành như thêm một người ăn nữa, tuy nói là túng, nhưng cũng không chi một người.
Ông ta cũng không bảo đuổi đi.
Bọn người kia lại nói với Giả Liễn về Bao Dũng như thế nào. Nhưng Giả Liễn cũng không dám tự mình tác oai tác phúc đành để mặc đấy.
Một hôm, Bao Dũng bực mình, uống mấy chén rượu, rồi đi chơi rong ở con đường trước phủ Vinh. Bỗng thấy hai người đang nói chuyện với nhau. Một người nói :
- Anh xem ? Tòa phủ lớn như thế, trước đây bị tịch biên, không biết nay ra sao rồi ?
Người kia nói :
- Nhà họ làm gì mà suy sụp được ? Nghe nói có bà quí phi là con gái nhà ấy, tuy bà ta chết rồi, nhưng vẫn có thế lực. Vả lại, hồi thường thấy những người qua lại với họ đều là các bậc vương, công, hầu, bá cả, thiếu gì người giúp đỡ ? Ngay quan phủ doãn lệnh này, trước nhận chức ở bộ hình, cũng là một nhà với họ đấy.
Không nhẽ có những người như thế mà không bênh vực được hay sao ?
Một người lại nói :
- Anh ở đây mà chẳng hiểu gì cả. Người khác không nói làm gì, chứ ông Giả ấy thì lại ghê lắm! Tôi thường thấy ông ta qua lại với hai phủ. Trước đây quan ngự sử tuy có hặc chúa thượng còn bảo quan phủ doãn tra cứu rõ ràng sự thực rồi mới xử . Anh có biết ông ta làm thế nào không ? Ông vốn nhờ ơn cửa hai phủ, nhưng sợ người ta nói bênh vực người cùng họ, liền chơi một vố rất đau, cho nên hai phủ mới đến nỗi bị tịch biên đấy.
- Anh nói thế tình ngày nay có ghê hay không ?
Hai người ấy vô tâm nói chuyện suông, không biết ở bên cạnh có người theo nghe được rõ ràng. Bao Dũng trong bụng nghĩ thầm : “thiên hạ lại có hạng người như thế ! Nhưng không biết họ là bà con thế nào với ông lớn nhà mình. Ta mà gặp thì ta đánh cho một trận bỏ xác, có xảy ra việc thì ta chịu tội “.
Bao Dũng say rượu đang nghĩ ngợi lung tung, chợt nghe bên kia có tiếng dẹp đường đi tới. Bao Dũng đứng xa xa, nghe hai người kia thì thầm nói với nhau :
- Người đi tới là Giả đại nhân đấy.
Bao Dũng nghe nói trong bụng tức giận, nhân có hơi men. liền quát to :
- Đồ vô lương tâm ! Tại sao mà quên ơn họ Giả nhà ta !
Vũ Thôn ngồi trong kiệu, nghe một chữ giả, liền để ý xem, thấy là một người say rượu, cũng không để ý, cứ việc đi qua. Bao Dũng đang say, chẳng hiểu hay dở, liền hớn hở thích chí đi về trong phủ, hỏi lại người bạn,mới biết ông quan mình
vừa gặp là do phủ Vinh đề cử lên. Anh ta khoe :
- Ông ấy không nghĩ đến ơn xưa, lại làm hại nhà mình. Khi nãy gặp ông ấy, tôi mắng cho mấy câu, ông ấy không dám nói gì.
Bọn người nhà ở phủ Vinh vốn ghét Bao Dũng, nhưng không làm sao được, vì chủ nhà cứ để mặc anh ta. Nay thấy anh ta gây chuyện, nhân khi Giả Chính rảnh việc, họ liền đem chuyện anh ta uống rượu sinh sự trình với Giả Chính.
Lúc bấy giờ, Giả Chính đang sợ tiếng tăm, nghe bọn người nhà nói, liền nổi giận, gọi Bao Dũng đến mắng mấy câu !
Vì không tiện trách phạt nặng nên cho anh ta ra coi vườn, không cho đi lại bên ngoài. Bao Dũng là người tính khí thẳng thắn, đến ở với chủ, thì hết lòng giúp chủ, không ngờ Giả Chính nghe lời người khác lại mắng anh ta. Anh ta cũng không dám cãi lại, đành phải thu xếp đồ đạc, vào vườn trông nom và vun tưới cây cỏ.
Ghi Chú :
1. Nơi biên phòng ngày xưa.
2. Bỗng lộc tập chức.
3. Bị khí ngược lên, giá lạnh chân tay.
Hồi thứ một trăm lẻ tám
Tiệc bày vui gượng, viện Hoành Vu mừng ngày sinh
Chết vẫn say đời, quán Tiêu Tương nghe quỉ khóc
Giả chính trước đây đã từng tâu xin đem nhà cửa và vườn Đại Quan nhập vào của công. Trong cung không nhận, nhưng trong vườn không có người ở, nên đành phải khóa lại. Vì vườn ấy nối liền với nhà ở của Vưu thị và Tích Xuân, rộng rãi nhưng rất vắng vẻ, cho nên ông ta phạt Bao Dũng vào coi vườn hoang.
Hồi đó Giả Chính coi việc nhà, vâng lời Giả mẫu bớt dần người ở, mọi việc đều giảm bớt, nhưng vẫn không duy trì nổi.
May được Phượng Thư là người Giả mẫu yêu, bọn Vương phu nhân tuy không thích lắm, nhưng về phần lo liệu việc nhà, thì chị ta còn có thể ra sức, nên vẫn giao cho chị ta trông nom việc nhà.
Gần đây sau khi gia tài bị tịch thu, mọi việc xoay xở khó khăn, thường thường chật vật. Người ở các phòng vốn ăn tiêu rộng rãi quen, bây giờ so với trước mười phần bớt đến bảy, làm gì mà chu đáo được . Vì thế họ oán trách luôn. Phượng Thư cũng không dám từ chối, vẫn mang bệnh hầu hạ Giả mẫu.
Cách ít lâu, bọn Giả Xá và Giả Trân đến chỗ làm việc nhờ có tiền tiêu, tạm được yên ổn. Họ viết thư về, đều nói bình yên rỗi rãi, ở nhà không cần phải lo nghĩ. Do đó Giả mẫu yên tâm. Bọn Hình phu nhân và Vưu thị cũng đỡ lo. Sau khi về nhà chồng, Sử Tương Vân về thăm nhà, rồi đến hỏi thăm sức khoẻ của Giả mẫu. Giả mẫu nhân nhắc đến việc chồng chị ta tốt. Sử Tương Vân kể lại việc bên nhà mình được bình yên như thế nào và xin cụ cứ yên lòng. Lại nhắc đến chuyện Đại Ngọc qua đời, ai nấy đều rơi nước mắt. Giả mẫu lại nghĩ đến chuyện Nghênh Xuân khổ sở, càng thêm thương cảm. Tương Vân khuyên giải một hồi, đến các nhà chào hỏi xong, lại về nghỉ ở phòng Giả mẫu.
Nói về nhà họ Tiết thì Tiết Bàn làm cho nhà tan người chết, năm nay tuy hoãn việc xử quyết phạm nhân, nhưng sang năm không biết có được giảm tội hay không. Giả mẫu nói :
- Cháu còn chưa biết, chứ vừa rồi vợ thằng Bàn chết một cách mờ ám. Suýt nữa lại có chuyện không hay . May nhờ đức Phật có mắt, bắt con hầu của nó tự xưng ra. Mụ Hạ kia không làm được gì, mới phải đứng ra xin thôi việc khám nghiệm. Bà dì của cháu mới thu xếp để cho chôn cất. Bây giờ bà ta ở với cháu Khoa. Thằng cháu ấy cũng tốt. Nó nói anh ở nhà giam chưa xong việc nên nó không chịu cưới vợ. Cháu Hình ở bên nhà bà Cả cũng rất khổ. Còn cô Cầm thì vì ông nhạc chết chưa hết tang nên nhà họ hai cung chưa cưới. Cháu xem, thật là sáu họ cùng tận như nhau. Nhà họ Tiết thì như thế, còn bên ngoại nhà bà Hai thì từ khi ông cậu Cả chết rồi, anh con Phượng cũng chẳng ra người; ông cậu Hai là người keo kiệt, lại vì tiền công chưa hồi xong, cũng túng thiêu. Nhà họ Chân từ khi bị tịch thu rồi, không nghe tin tức gì nữa.
Tương Vân nói :
- Chị Thám Xuân đi, có thư từ gì không ?
Giả mẫu nói :
- Theo ông Hai về nói thì từ khi đi lấy chồng, chị Ba cháu ở miền biển rất tốt. Nhưng không có thư, ta cũng ngày đêm tưởng nhớ. Vì ở nhà đây luôn xảy ra bao nhiêu việc không tốt, nên ta cũng không thể nghĩ đến nó nữa. Việc hôn nhân của con Tư cũng
chưa bàn đến. Còn thằng Hoàn thì ai có công hơi đâu mà nhắc đến nữa ? Nhà chúng ta hiện nay so với lúc cháu còn ở đây khổ hơn nhiều. Chỉ tội nghiệp chị Bảo nhà cháu từ khi về đây chưa hề được ngày nào thư thái. Anh Hai cháu thì vẫn điên điên, dại dại, biết làm sao bây giờ .
- Cháu từ lúc nhỏ, lớn lên ở đây, tính khí những người bên này cháu đều biết cả. Bây giờ xem ra đều thay đổi hết. Cháu tưởng là lâu ngày đến, họ xa lạ mình, nhưng nghĩ cho kỹ thì không phải. Khi gặp cháu xem chừng ai cũng vui vẻ như trước, nhưng không biết tại sao nói chuyện một lúc là nảy ra đau lòng, vì thế cháu chỉ ngồi chốc lát là về đây ngay.
- Tình cảnh hiện giờ về phần ta thì chẳng nói làm gì, nhưng chúng nó là những người trẻ tuổi kể thì cũng buồn thật ? Ta đang định nghĩ cách gì để cho chúng vui một ngày mới được, có điều không làm sao có đầu óc vui nhộn ấy.
- Cháu nghĩ ra rồi : “Ngày kia không phải là ngày sinh chị Bảo à ? Để cháu ở thêm một hôm mừng tuổi cho chị ta, mọi người cùng vui một ngày, không biết bà nghĩ thế nào ?
- Rõ là lẩn thẩn quá ? Cháu không nhắc thì ta quên mất. Ngày kia không phải là ngày sinh của nó à ! Để mai ta sẽ xuất tiền ra sắm sửa đồ mừng cho nó. Khi nó còn chưa kết hôn với cháu Bảo, ta đã làm lễ sinh nhật nó mấy lần. Thế mà từ khi nó về
đây ta lại không làm. Thằng Bảo Ngọc trước rất lanh lợi, hay quấy gì đây nhà có việc không hay làm nó chẳng buồn nói năng gì nữa. Chỉ có vợ cháu Châu là vẫn giỏi. Khi giàu nó cũng như thế, khi nghèo nó cũng như thế, sống lặng lẽ với cháu Lan, thật là đáng khen ?
- Người khác không đến nỗi lắm, riêng chị hai Liễn thì hình dáng cũng đổi khác, ăn nói cũng không lanh lợi nữa. Để đến mai cháu sẽ trêu họ xem họ làm thế nào. Có điều ngoài miệng không ai nói gì, nhưng trong bụng họ sẽ oán trách cháu. Vừa nói đến đó, má Tường Vân đỏ ửng lên.
Giả mẫu hiểu ý nói :
- Sợ cái gì ? Bọn chị em cháu trước kia đều ở một chỗ. Vui đùa với nhau đã quen, cứ việc cười cười, nói nói đừng có để bụng những điều ấy. Con nghĩ ta giàu cũng vậy, nghèo cũng vậy cần phải biết hưởng giàu sang, biết chịu nghèo hèn mới đúng. Chị
Bảo cháu từ khi nhỏ đến giờ là người có độ lượng rộng rãi. Trước kia nhà nó khá như thế, nó cũng không hề có chút gì kiêu căng, về sau nhà nó bị suy sút, nó vẫn bình thản ung dung. Bây giờ tới nhà chúng ta đây, Bảo Ngọc đối đãi với nó tử tế, nó cũng vui vẻ như thường, có lúc đối đãi nó không được tử tế, nó cũng không có gì là buồn rầu. Ta xem con bé ấy thật là người có phúc. Chị Lâm nhà cháu, tính khí rất là nhỏ nhen, lại hay nghi ngờ, vì thế mà không thọ. Con Phượng cũng đã từng trải nhiều, không nên hơi thấy sóng gió đã đổi thay như vậy. Nếu nó không có kiến thức như thế thì cũng là nhỏ nhen. Hôm sau ngày sinh nhật của con Bảo ta bỏ tiền ra làm cho thật vui để nó cũng được vui vẻ một ngày.
- Bà nói rất phải, nên mời hết bọn chị em đến cả, để cùng nhau nói chuyện.
- Cố nhiên là phải mời.
Giả mẫu cao hứng bảo Uyên ương :
- Mày đem một trăm lạng bạc ra bảo bọn đầy tớ bắt đầu từ ngày mai sửa soạn cơm rượu hai ngày.
Uyên ương vâng lời, gọi bà già đem bạc giao ra.
Ngày hôm sau, truyền lời ra, sai người đi đón Nghênh Xuân, mời Tiết phu Nhân và Bảo Cầm, báo cho cả Hương Lăng sang, lại mời thím Lý nữa. Chẳng bao lâu, bọn Lý Văn, Lý Ỷ đều đến cả.
Bảo Thoa vốn không biết, nghe a hoàn bên nhà Giả mẫu đến mời, và nói :
- Dì đã đến, mời mợ Hai sang. Bảo Thoa vui mừng, ăn mặc như thường, đi sang, định gặp mẹ mình, thì thấy Bảo Cầm và Hương Lăng đều ở đấy. Lại thấy bọn thím Lý cũng đến cả, nghĩ bụng chắc là những người này biết việc nhà mình xong xuôi rồi nên đến hỏi thăm. Bảo Thoa liền đến hỏi thăm thím Lý, chào Giả mẫu, nói chuyện với mẹ mấy câu, rồi cùng chị em họ Lý thăm hỏi nhau.
Tương Vân đứng bên cạnh nói :
- Mời các bà ngồi xuống, để chị em chúng tôi mừng tuổi cho chị.
Bảo Thoa nghe nói ngẩn người ra, nghĩ ngợi một lúc : “không phải ngày mai là sinh nhật của mình à ?”. Chị ta liền nói:
- Chị em đến thăm bà là phải, còn nói là vì sinh nhật của tôi thì nhất định không dám.
Đang lúc đó thì Bảo Ngọc cũng đến hỏi thăm sức khỏe Tiết phu Nhân và thím Lý. Thấy Bảo Thoa đang khiêm nhượng, anh ta trong bụng đã tính toán sẵn việc ăn mừng sinh nhật của Bảo Thoa, nhân vì trong nhà công việc rối ren, nên cũng không
dám nhắc với Giả mẫu. Nay thấy bọn Tương Vân định mừng, anh ta liền vui mừng, nói :
- Ngày mai mới đúng là sinh nhật. Cháu đang định thưa với bà đấy.
Tương Vân cười nói :
- Khéo trơ chưa ? Bà còn đợi anh nói nữa à ? Anh thử nghĩ xem những người này vì sao mà đến đây ? Đó là vì bà mời đến đấy.
Bảo Thoa nghe nói, trong bụng chưa tin. Lại nghe Giả mẫu nói với mẹ nàng :
- Tội nghiệp con Bảo về làm dâu một năm nay, trong nhà cứ xảy ra hết việc này đến việc khác, chưa khi nào làm được lễ sinh nhật cho nó. Hôm nay tôi làm lễ sinh nhật cho cháu, mời dì và các bà đến chúng ta nói chuyện cho vui.
Tiết phu Nhân nói :
- Cụ giờ đây mới được yên tâm. Nó là con cháu, chưa có gì hiếu kính cụ, mà lại làm cho cụ bận lòng !
Tường Vân nói :
- Cụ yêu nhất là anh Hai, không lẽ lại không yêu chị Hai hay sao . Vả lại, chị Bảo cũng đáng được cụ làm lễ sinh nhật.
Bảo Thoa cúi đầu không nói gì.
Bảo Ngọc nghĩ thầm :
- Mình tưởng cô Sử đi lấy chồng rồi, thế nào cũng đổi tính khí đi, nên mình không dám gần, mà chắc cô ta cũng chẳng còn để ý gì đến mình; nhưng nghe lời nói của cô ta, thì ra vẫn giống như trước. Không hiểu sao mà cô nhà mình (1) về nhà chồng rồi
xem chừng e lệ hơn trước, nói cũng không ra câu nữa ?
Bỗng thấy a hoàn nhỏ vào nói :
- Cô Hai đã về.
Sau đó, Lý Hoàn và Phượng Thư đều đến. Mọi người chào hỏi nhau.
Nghênh Xuân nhắc đến việc cha ra đi, và nói :
- Cháu đã định về gặp một chút, nhưng anh ấy không cho về nói là nhà ta đang lúc đen đủi, đừng có vương lấy vào mình. Cháu cãi không được nên không về, rồi khóc luôn hai ba ngày.
Phượng Thư nói :
- Hôm nay sao họ lại cho cô về ?
Nghênh Xuân nói :
- Anh ấy lại bảo, ông Hai lại được tập chức, có thể đi lại không can gì, nên mới cho tôi về - Nghênh Xuân nói rồi lại khóc.
Giả mẫu nói :
- Ta buồn quá, nên hôm nay làm sinh nhật cho cháu dâu để cười nói cho khuây khỏa, chúng mày lại nhắc đến chuyện buồn ấy làm cho ta bực thêm.
Nghênh Xuân không dám nói nữa. Phượng Thư tuy vẫn cố gắng tìm một vài câu bông đùa, nhưng lời bông đùa không được hóm hỉnh nên không làm cho người ta cười như trước. Giả mẫu trong bụng muốn Bảo Thoa vui, cố ý trêu cho Phượng Thư nói. Phượng Thư cũng biết ý của Giả mẫu nên hết sức cố gắng nói :
- Hôm nay bà hơi vui vẻ. Các người xem, những người này đã lâu không ở một chỗ. hôm nay đông đủ...
Chị ta nói đến đó, ngoảnh cổ lại, thấy mẹ chồng mình và Vưu thị không ở đây, liền ngậm miệng không nói nữa. Giả mẫu nghe đến hai chữ “đông đủ” cũng nghĩ đến bọn Hình phu nhân, liền cho người đi mời. Bọn Hình phu nhân, Vưu thị và Tích Xuân nghe nói Giả mẫu gọi, đành phải đến, nhưng trong bụng cũng không vui. Họ nghĩ rằng, gia nghiệp đã suy tàn, vẫn còn làm lễ sinh nhật cho Bảo Thoa, thế là Giả mẫu vẫn thiên vị, cho nên dẫu có đến cũng buồn rũ, chẳng vui vẻ gì. Giả mẫu hỏi đến Hình Tụ Yên, Hình phu nhân vờ nói là ốm không đến được. Giả mẫu hiểu ý, biết là có Tiết phuNhân ở đấy, cô ta đến có điều bất tiện, nên cũng không nhắc nữa.
Một lúc sau, bày biện cỗ rượu. Giả mẫu nói :
- Cũng đừng đưa gì ra ngoài, hôm nay chỉ mẹ con mình vui với nhau thôi.
Bảo Ngọc tuy đã lấy vợ, nhưng vì Giả mẫu thương yêu nên anh ta vẫn la cà ở trong này; có điều anh ta không ngồi chung với bọn Tương Vân, Bảo Cầm, mà ngồi riêng một chỗ gần bên Giả mẫu. Anh ta lần lượt rót rượu, mời thay cho Bảo Thoa.
Giả mẫu nói :
- Giờ đây cứ ngồi xuống uống rượu đã, đến chiều tối hãy đến các nơi làm lễ. Nếu bây giờ làm lễ ngay, thì mọi người lại phải giữ gìn khuôn phép làm cho ta mất hứng, chẳng còn thú vị gì nữa.
Bảo Thoa vâng lời ngồi xuống. Giả mẫu lại nói với mọi người :
- Hôm nay chúng ta cũng dễ dãi một chút. Ai nấy chỉ để một vài người hầu hạ thôi. Ta sẽ bảo Uyên ương dẫn bọn Thái Vân, Oanh Nhi, Tập Nhân, Bình Nhi cùng vào phía sau ngồi uống rượu.
Bọn Uyên Ương nói :
- Chúng cháu chưa lạy mừng mợ Hai, mà đã uống rượu thì sao cho phải.
Giả mẫu nói :
- Ta bảo thì chúng mày cứ việc đi, khi nào gọi hãy đến.
Bọn Uyên Ương vâng lời.
Lúc đó Giả mẫu mới mời bọn Tiết phu Nhân uống rượu.
Nhưng thấy ai nấy đều có vẻ không vui mừng như trước. Giả mẫu sốt ruột nói :
- Các bà làm sao thế ? Phải vui lên một chút mới được chứ !
Từơng Vân nói :
- Chúng cháu vừa ăn vừa uống, còn muốn làm sao nữa ?
Phượng Thư nói :
- Bọn họ lúc nhỏ đều hồ hởi, bây giờ giữ gìn thể diện không dám nói càn, nên bà nhìn thấy họ im lặng.
Bảo Ngọc nói nhỏ với Giả mẫu :
- Nói thì chẳng có gì mà nói, nếu nói nữa sẽ chạm đến điều không hay, chi bằng bà bảo họ làm tửu lệnh thôi.
Giả mẫu vểnh tai lên nghe, rồi cười nói :
- Nếu mà làm tửu lệnh thì lại phải gọi con Uyên ương.
Bảo Ngọc nghe xong, không chờ nói lại, liền chạy ra phía sau tìm Uyên ương và nói :
- Cụ muốn làm lệnh, nên bảo gọi chị.
Uyên Ương nói :
- Ông trẻ ơi, để chúng tôi uống chén rượu cho khoan khoái, tội gì lại đến quấy thế ?
Bảo Ngọc nói :
- Cụ bảo gọi chị đấy mà. Tôi có làm gì đâu .
Uyên ương chẳng có cách gì liền nói :
- Các chị cứ việc uống đi, tôi đi một chốc sẽ trở lại.
Rồi cô ta đến liên phòng Giả mẫu. Giả mẫu nói :
- Mày đã tới đấy là ở đây định làm lệnh đấy. .
- Nghe cậu Bảo nói cụ gọi, cháu mới lại đây, không biết cụ định làm lệnh gì ? Lệnh mà hiền quá thì buồn, bạo quá cũng không hay, mày thừ nghĩ cách chơi gì cho mới lạ thì tốt.
Uyên ương nghĩ một lát rồi nói :
- Bây giờ dì đã có tuổi, không chịu bận lòng, chi bằng lấy hộp xúc xắc ra, mọi người gieo lấy tên khúc hài để dành hơn thua mà uống rượu thôi.
- Cái đó cũng được.
Liền sai người lấy hộp xúc xắc để trên bàn.
Uyên ương nói :
- Giờ gieo bốn hộp xúc xắc, ai gieo không ra tên khúc hài thì phải uống một chén rtợu phạt, ai gieo ra được thì mọi người phải uống một chén, gieo rồi sẽ định.
Mọi người nghe xong, đều nói :
- Cách ấy dễ dàng, chúng tôi đều xin theo.
Uyên ương liền sửa soạn để làm lệnh. Mọi người bảo chị ta uống một chén, rồi bắt đầu đếm từ chị ta thì vừa đúng Tiết phu Nhân gieo trước. Tiết phu Nhân gieo một cái là bốn con “yêu”.
Uyên Ương nói :
- Cái đó có tên đấy gọi là “ Bọn ông già ở núi Thương sơn “(2), ai có tuổi đều phải uống một chén.
Do đó Giả mẫu, thím Lý, Hình phu nhân và Vương phu nhân đều phải uống.
Giả mẫu cất chén định uống. Uyên ương nói :
- Dì gieo thì dì còn phải nói ra tên khúc bài, và người ngồi dưới phải nói tiếp một câu thiên gia thi. Nếu nói không ra, phải phạt một chén rượu .
Tiết phu Nhân nói :
- Chị lại định trêu tôi rồi, tôi làm gì mà nói được ?
Giá mẫu nói :
- Không nói thì cũng buồn tẻ quá, phải nói một câu. Người ngồi dưới là tôi. Nếu nói không ra, thì tôi cũng uống hầu dì một chén .
Tiết phu Nhân nói :
- Tôi nói câu “ Tới già đủng đính khóm hoa “.
Giả mẫu gật đầu đọc tiếp :
- “Nhân lúc thanh nhàn nói thiếu niên “ .
Nói xong hộp xúc xắc chuyển đến Lý Văn. Lý Văn gieo được hai con “tứ” và hai con “nhị”. Uyên ương nói :
- Cũng có tên đấy. Đó gọi là Lưu Nguyễn vào Thiên Thai “(3).
Lý Văn liền nói :
- “Hai người vào tới nguồn đào “.
Người ngồi dưới là Lý Hoàn nói :
- “ Tìm tới đào nguyên để lánh Tần “.
Mọi người đều uống một ngụm rượu. Hộp xúc xắc lại đến trước mặt Giả mẫu. Giả mẫu gieo được hai con “ nhị “ và hai con tam, bà ta nói :
- Cái này thì phải uống rượu thôi.
Uyên ương nói : .
- Có tên đấy, đó gọi là “Chim én dắt con”.
Mọi người đều phải uống một chén. Phượng Thư nói :
- Chim con thì chim con, nhưng bay mất một ít rồi.
Mọi người lườm chị ta một cái. Phượng Thư liền im lặng. Giả mẫu nói:
- Ta nói gì đây. Nói câu “ông dắt cháu “ thôi !
Người ngồi dưới là Lý Ỷ, liền đọc :
- “ Ngắm xem con bé ngắt cành liễu tơ ! “
Mọi người đều khen hay. Bảo Ngọc chỉ mong đến lượt mình được nói. Nhưng cái hộp lệnh không đến cho. Đang nghĩ ngợi thì hộp lệnh vừa đến trước mặt, anh ta gieo được một con “nhị”, hai con tam”, một con “ yêu”, liền hỏi :
- Cái này cái gì ?
Uyên ương cười nói :
- Đó là cái “hỏng” ! Uống trước một chén mà gieo lại đi thôi.
Bảo Ngọc đành phải uống rượu và gieo lại. Lần này anh ta gieo được hai con “tam”, hai con “tứ” . Uyên ương nói :
- Có tên rồi đấy. Cái này gọi là Trương Sương vẽ mày cho vợ (4).
Bảo Ngọc biết là cô ta bỡn mình. Bảo Thoa cũng đỏ má lên. Phượng Thư không hiểu lắm, còn nói :
- Chú Hai nói nhanh lên, để xem nhà dưới là ai ? Bảo Ngọc thấy khó nói đành phải nhận . Chịu phạt thôi, tôi cũng chằng có nhà dưới nào.
Hộp lệnh ấy đến phiên Lý Hoàn. Lý Hoàn gieo một cái.
Uyên ương nói :
- Mợ gieo được “ Mười hai thoa vàng”.
Bảo Ngọc nghe nói, chạy lại bên Lý Hoàn xem, thì thấy hai bên hồng lục đối nhau, liền nói :
- Cái này trông rất đẹp.
Anh ta chợt nghĩ đến “giấc mộng mười hai thoa “ liền ngơ ngẩn lui về chỗ ngồi, nghĩ bụng :”mười hai thoa “ ấy nói là ở Kinh Lăng. Sao bọn người nhà mình giờ đây tan tác chỉ còn lại mấy người. Anh ta lại nhìn bọn Bảo Thoa, Tường Vân, tuy còn ở đó nhưng không thấy Đại Ngọc nữa. Anh ta cố nín không được, nước mát muốn rơi xuống, nhưng sợ người ta nhìn thấy, liền giả vờ nói trong người bị sốt xin phép đi cởi áo, rồi để thẻ xuống đi ra ngoài.
Tường Vân thấy bộ dạng Bảo Ngọc như thế, tưởng là anh ta gieo không được quân tốt, mà lại bị người khác gieo được, trong bụng không vui, nên mới bỏ đi . Chị ta lại sợ cái lệnh này không thú, cho nên hơi chán.
Lý Hoàn nói :
- Tôi không nói nữa. Người trong tiệc cũng không đầy đủ, chi bằng phạt tôi một chén.
Giả mẫu nói :
- Cái lệnh này cũng không vui lắm, chi bằng nghỉ đi để cho Uyên ương gieo thử xem ra cái gì ?
A hoàn nhỏ đem cái hộp để trước mặt Uyên ương . Uyên Ương vâng lời, liền gieo được hai con “nhị “. Một con “ngũ” còn một con nữa cứ xoay trong hộp. Uyên ương gọi : “ Đừng có ngũ đấy?”, con xúc xắc lại cứ xoay ra con ngũ”. Uyên ương nói :
- Nguy rồi? Tôi thua rồi !
Giả mẫu nói :
- Không thành cái gì à ?
Uyên ương nói :
- Tên thì có. Nhưng tôi không nói ra được tên khúc bài.
Giả mẫu nói :
- Mày cứ nói tên ra, tao bịa hộ cho.
Uyên ương nói :
- Đó là “Sóng vỗ bèo trôi ! “
Giả mẫu nói :
- Cái đó cũng không khó. Ta nói thay cho mày là : “Mùa thu gộc ấu cá dong chơi“.
Người ngồi dưới Uyên ương là Tương Vân liền nói :
- “ Mùa thu, bến Sở ngâm câu bạch bình “.
Mọi người đều nói :
- Câu này rất là đúng.
Giả mẫu nói :
- Lệnh này xong rồi. Chúng ta uống thêm vài chén, rồi ăn cơm thôi.
Bà ta ngoảnh lại nhìn Bảo Ngọc còn chưa vào, liền hỏi :
- Bảo Ngọc đi đâu mà còn chưa vào !
Uyên ương nói :
- Đi thay áo rồi.
Giả mẫu nói :
- Ai theo đi .
Oanh Nhi đi tới thưa :
- Cháu thấy cậu Hai đi ra. Cháu bảo chị Tập Nhân theo đi.
Giả mẫu và Vương phu nhân mới yên lòng. Chờ một chốc. Vương phu nhân bảo người đi tìm, a hoàn nhỏ đến phòng mời, thấy con Năm đang cắm nến ở đấy, liền hỏi :
- Cậu Bảo đi đâu rồi.
- Đang uống rượu ở bên nhà bà cụ đấy.
- Tôi ở bên nhà cụ bà sang. Bà lớn bảo tôi tới đây tìm, không lẽ cậu ta ở bên ấy mà lại bảo tôi đến tìm hay sao ?
- Thế thì không biết. Mày đi tìm ở chỗ khác vậy.
A hoàn nhỏ chẳng có cách gì, đành phải trở về, vừa gặp Thu Văn liền hỏi :
- Chị thấy cậu Hai ở đâu không ?
- Tôi cũng đi tìm. Các bà đang chờ cậu ta tới ăn cơm.
- Không biết lúc này mà cậu ta đi đâu thế ?
- Em mau mau về trình với cụ bà, đừng nói cậu ấy không ở nhà, chỉ nói là cậu ta uống rượu và hơi khó chịu, không ăn cơm nữa, nằm nghĩ một chốc sẽ tới, xin mời cụ bà và các bà ăn cơm đi thôi.
A Hoàn nhỏ nghe lởi về nói với Trân Châu. Trân Châu thưa với Giả mẫu. Giả mẫu nói :
- Nó xưa nay vốn ít ăn, không ăn cũng thôi, bảo nó cứ nghĩ, không cần phải qua đây, có vợ nó ở đây cũng được rồi.
Trân Châu liền nói với a hoàn nhỏ :
- Em nghe rõ chưa ?
A hoàn nhỏ vâng lời, không tiện nói rõ. Chỉ đi vòng ra ngoài mặt lát rồi trở lại thưa : “Con đã nói rồi”.
Mọi người cũng không để ý, ăn cơm xong, họ ngồi rải rác nói chuyện phiếm.
Nhắc lại Bảo Ngọc bỗng chốc thương tâm bỏ đi ra ngoài, đang bổi rồi chưa biết làm gì bỗng thấy Tập Nhân chạy theo hỏi :
- Cậu làm sao thế ?
- Chẳng làm sao cả, trong bụng tôi buồn bức. Giờ đây sao không nhân khi họ đang uống rượu, chúng mình đến chỗ mợ cả Trân chơi một tí.
- Mợ cả Trân ở đây rồi. Còn tìm ai nữa ?
- Không cần phải tìm ai, chỉ xem chị Cả ở đấy, nhà cửa như thế nào thôi .
Tập Nhân đành phải đi theo, vừa đi vừa nói chuyện. Hai người đi đến nhà Vưu thị, thấy có cái cửa nhỏ nửa mở ra nửa khép.
Báo Ngọc cũng không vào, lại thấy hai bà già coi cửa vườn đang ngồi trên ngưỡng cửa nói chuyện. Bảo Ngọc hỏi :
- Cái cửa nhỏ này vẫn mở à ?
Bà già nói :
- Cửa này ngày nào cũng đóng. Hôm nay có người ra nói chờ sẵn xem cụ bà có dùng quả cây trong vườn chăng, nên mới mở cửa để đợi.
Bảo Ngọc liền thong thả đi lại bên ấy, quả nhiên thấy cái cửa nách hé mở. Bảo Ngọc vừa định đi vào, thì Tập Nhân nắm lại và nói :
- Cậu đừng có vào. Trong vườn chẳng sạch sẽ gì, thông thường không có ai đến đó. Cậu đừng vào mà lại gặp phải gì đấy!
Bảo Ngọc trong lúc ngà ngà say, nói :
-Tôi sợ gì những thứ ấy.
Tập Nhân cứ cố giữ không cho vào. Bà già coi cửa chạy lại nói :
- Bây giờ trong vườn yên lặng rồi. Từ hôm nọ đạo sĩ bắt yêu quái đi khi hái hoa, hái quả, chúng tôi thường vẫn đi một mình. Nếu cậu Hai muốn vào, để chúng tôi theo đi. Có nhiều người, còn sợ cái gì !
Bảo Ngọc vui mừng. Tập Nhân giữ lại cũng không tiện, đành phải đi theo.
Bảo Ngọc vào vườn, thấy cỏ hoa khô héo, đầy vẻ thê lương, màu sắc các đình đài phai nhạt đã lâu. Xa xa trông thấy một lùm trúc xanh, vẫn còn tươi tốt. Bảo Ngọc nghĩ một tí rồi nói:
- Tôi từ khi ốm, dời ra khỏi vườn ở tại phía sau luôn mấy tháng nay, họ không cho tôi đến đây. Cảnh vật bỗng chốc trở nên hoang vắng. Chị xem chỉ có mấy cây trúc kia vẫn còn xanh tươi, đấy không phải là quán Tiêu Tương à ?
Tập Nhân nói :
- Mấy tháng nay cậu không đến đây, ngay đến phương hướng cũng quên mất. Chúng ta chỉ lo nói chuyện, không biết đã đi qua Viện Di Hồng rồi.
Nói đến đó, chị ta ngoảnh lại, lấy tay chỉ và nói :
- Chỗ kia mới là quán Tiêu Tương.
Bảo Ngọc theo hướng tay Tập Nhân chỉ, rồi nói :
- Chẳng phải đã đi qua mất rồi à ? Chúng ta trở lại xem một chút đi.
Tập Nhân nói :
- Trời tối rồi, thế nào cụ cũng chờ ăn cơm, cậu nên về đi . Bảo Ngọc không nói gì, cứ theo đường cũ đi tới. Kể ra Bảo Ngọc tuy rời vườn Đại Quan đã gần một năm, nhưng không lẽ đã quên mất đường ? Chỉ vì Tập Nhân sợ anh ta thấy quán Tiêu Tương, nhớ đến Đại Ngọc thì lại đau lòng, nên muốn dùng lời nói cho qua đi. Sau thấy Bảo Ngọc cứ đi vào trong. Tập Nhân lại sợ anh ta mắc lây tà khí, nên nói dối là đã đi qua rồi, có biết đâu bụng Bảo Ngọc chỉ nghĩ đến quán Tiêu Tương. Lúc đó Bảo Ngọc cứ vội vàng đi tới. Tập Nhân đành phải theo. Bỗng thấy anh ta dừng lại, hình như có nghe gì, hay thấy gì. Tập Nhân liền hỏi :
- Cậu nghe gì đấy ?
- Trong quán Tiêu Tương có người ở à ?
- Hình như không có người ở.
- Rõ ràng tôi nghe có người khóc ở trong ấy. Sao lại không có người ?
- Đó là cậu ngờ vực đấy thôi. Thường khi cậu đến đây, hay nghe cô Lâm thương khóc, nay vẫn còn tưởng như thế.
Bảo Ngọc không tin, còn muốn nghe nữa. Bọn bà già chạy đến nói :
- Cậu về mau đi thôi, trời đã chiều rồi. Chỗ khác chúng tôi còn dám đi, chứ ở đây đường xá hẻo lánh, lại nghe người ta nói từ sau khi cô Lâm chết, thường nghe có tiếng khóc ở chỗ này, cho nên chẳng ai dám đi.
Tập Nhân và Bảo Ngọc nghe nói đều giật mình kinh sợ.
Bảo Ngọc nói :
- Đúng rồi !
Nói đoạn anh ta khóc:
- Em Lâm ơi ! Em Lâm ơi ! Thật là anh đã làm hại em ? Em đừng oán anh. Đó là do cha mẹ làm chủ, không phải là anh phụ lòng !
Bảo Ngọc càng nói càng đau lòng rồi khóc to lên.
Tập Nhân còn chưa biết làm thế nào, thì thấy Thu Văn dẫn mấy người chạy đến, nói với Tập Nhân :
- Chị to gan thật ? Sao lại đi cùng cậu Hai tới đây ? Cụ và bà lớn sốt ruột sai người kiếm hết mọi nơi. Vừa rồi có người ở bên cửa nách nói là chị với cậu Hai vào trong này, cụ bà và bà lớn sợ quá mắng tôi và bảo tôi dẫn người theo đến đây. Còn không về mau đi à !
Bảo Ngọc vẫn còn khóc lóc thảm thiết. Tập Nhân cũng không kể gì anh ta đang khóc, liền cùng với Thu Văn dắt về ngay. Một mặt thì lau nước mắt cho anh ta và nói cho biết cụ bà đang hoảng sợ.
Bảo Ngọc chẳng biết làm sao đành phải quay về. Tập Nhân biết là Giả mẫu lo lắng, nên vẫn đưa Bảo Ngọc đến bên nhà Giả mẫu. Mọi người đang chờ đó chưa về.
Giả mẫu nói :
- Tập Nhân này ? Ngày thường thấy mày có ý tứ nên ta mới giao phó Bảo Ngọc cho mày. Sao hôm nay mày lại đem nó vào trong vườn ? Bệnh nó mới khỏi, nếu mà chạm phải cái gì, lại sinh chuyện, thì làm thế nào ?
Tập Nhân cũng không dám cãi, chỉ cúi đầu im lặng. Bảo Thoa thấy Bảo Ngọc thần sắc ủ ê, trong bụng cũng lo sợ.
Bảo Ngọc sợ Tập Nhân mang lỗi, liền nói :
- Giữa ban ngày, sợ cái quái gì. Cháu vì lâu này không vào vườn chơi. Nay nhân lúc hơi rượu đi một lát có chạm phải cái gì đâu.
Phượng Thư vốn đã bị một vố khiếp quá ở trong vườn, nghe nói đến đó, sởn gáy lên và nói :
- Chú Bảo to gan thật !
Tương Vân nói :
- Không phải gan to, mà đó là lòng thật. Không biết anh ấy lại định gặp thần phù dung hay là tìm vị tiên nào đấy ?
Bảo Ngọc nghe nói, cũng không trả lời. Chỉ có Vương phu nhân hoảng quá, không nói một câu nào.
Giả mẫu hỏi :
- Cháu vào vườn không sợ à ? Không cần nói nữa, sau muốn đi chơi thì phải đem thêm người mới được. Nếu không phải là cháu sinh chuyện thì mọi người đã về rồi. Thôi. về đi ngủ một đêm cho ngon, ngày mai đến đây sớm, ta định bù thêm cho các người vui một ngày nữa đấy . Đừng vì nó mà lại xảy ra chuyện.
Mọi người nghe nói, cáo từ Giả mẫu rồi ra về. Tiết phu Nhân đến nghĩ ở nhà Vương phu nhân. Sử Tương Vân vẫn nghỉ ở phòng Giả mẫu, Nghênh Xuân qua nghỉ ở bên Tích Xuân. Còn tất cả thì đều về nhà.
Riêng có Bảo Ngọc về đến phòng mình, cứ than thở mãi.
Bảo Thoa biết rõ duyên cớ cũng cứ để mặc, nhưng sợ anh ta lo buồn, bệnh cũ trở lại, liền vào trong nhà, gọi Tập Nhân lại hỏi cặn kẽ về tình hình Bảo Ngọc vào vườn thế nào.
Ghi chú :
1. Chỉ Bảo Thoa
2. Đời Hán Cao đế, có bốn ông già ở ẩn trong núi Thương .
3. Theo truyền thuyết, Lưu Thần, Nguyễn Triệu vào khoảng đời Hán, nhân ngày đoan ngọ, vào núi Thiên Thai hái thuốc, gặp tiên, rồi lấy nhau. Sau Lưu, Nguyễn về nhà. Đến khi quay lại thì không tìm ra lối nữa .
4. Trương Sương người đời Hán Tuyên đế, nổi tiếng là người vẽ lông mày cho vợ .
Hồi thứ một trăm lẻ chín
Hồn thơm chờ đợi, con Nam may được yêu nhầm
Oan án trả xong, Nghênh Xuân trở về cõi lạc
Bảo Thoa gọi Tập Nhân hỏi rõ duyên cớ. Sợ Bảo Ngọc đau xót sinh bệnh, liền vờ đem chuyện lúc Đại Ngọc chết bàn với Tập Nhân. Chị ta nói:
- Người ta sống ở đời thì có tình có ý. Sau khi chết rồi thì tình ý đều hết. Chứ không phải lúc sống thế nào thì khi chết cũng thế. Người sống dù có mơ tưởng đến họ, người chết cũng không hề biết. Vả lại, nếu cô Lâm đã thành tiên rồi thì cô ta xem người trần là hạng dơ bẩn, đời nào lại ở trên đời này? Đó chỉ vì tự lòng người ta ngờ vực nên mới bị tà ma quấy nhiễu đấy thôi.
Bảo Thoa tuy nói chuyện với Tập Nhân, nhưng cốt là để cho Bảo Ngọc nghe. Tập Nhân hiểu ý cũng nói:
- Đúng đấy, nếu nói là linh hồn cô Lâm còn ở trong vườn thì sao bọn mình là người thân, chẳng bao giờ thấy chiêm bao lần nào cả?
Bảo Ngọc ở ngoài nghe nói, nghĩ bụng :
- Lạ thật ? Từ lúc em Lâm chết đi, ngày nào ta lại chẳng mơ tưởng mấy lần. Thế sao không thấy chiêm bao ? Chắc là cô ta lên trời rồi. Coi bọn phàm phu tục tử mình đây, không có thể thông cảm với thần minh, cho nên không hề hiện ra trong lúc chiêm bao. Hôm nay ta thử nằm ngủ ở ngoài, sau khi vừa ở trongvườn về, có lẽ em Lâm cũng hiểu rõ lòng ta mà chịu gặp ta ở trong giấc mơ chăng. Ta sẽ hỏi cô ta ở đâu, để ta thường thường tế lễ. Nếu quả cô ta không nhìn đến cái hạng nhơ bẩn như ta và
không hề ứng vào chiêm bao thì ta cũng chàng tưởng nhớ cô ta nữa.
Bảo Ngọc định sẵn như vậy. liền nói :
- Đêm nay tôi nghỉ ở nhà ngoài, các chị cứ để mặc tôi.
Bảo Thoa cũng không ép, chỉ nói :
- Cậu cũng đừng có nghĩ ngợi lan man đấy. Cậu lại không thấy mẹ vì cậu đi vào vườn mà đến nỗi hoảng sợ nói không ra lời hay sao ? Bây giờ cậu không giữ gìn thân thể, nếu mà bà biết, lại bảo chúng tôi không tận tâm.
Bảo Ngọc nói :
- Tôi nói chơi thế thôi, tôi ngồi một chốc rồi sẽ vào. Mợ cũng mệt rồi, cứ đi ngủ trước đi thôi.
Bảo Thoa biết anh ta thế nào cũng vào, giả vờ nói :
- Tôi đi ngủ trước, bảo chị Tập Nhân hầu cậu.
Bảo Ngọc nghe nói, chính hợp ý mình. Chờ Bảo Thoa nằm rồi, anh ta liền bảo Tập Nhân và Xạ Nguyệt giải riêng một bộ chăn nệm rồi sai vào xem mợ Hai đã ngủ hay chưa. Bảo Thoa cố ý vờ ngủ, kỳ thực cũng suốt đêm không yên.
Bảo Ngọc tưởng là Bảo Thoa ngủ rồi, liền nói với Tập Nhân :
- Các chị ai nấy cứ đi ngủ thôi, tôi không hề có thương cảm gì cả. Nếu các chị không tin thì cứ hầu hạ cho tôi ngủ rồi hãy vào đừng làm kinh động đến tôi là được.
Tập Nhân quả nhiên hầu cho Bảo Ngọc nằm xuống, sắp sẵn trà nước, đóng cửa tử tế, vào nhà trông nom một chốc rồi ai nấy nằm giả ngủ, chờ xem Bảo Ngọc có việc gì thì lại ra.
Bảo Ngọc thấy Tập Nhân vào rồi. liền bảo hai bà già canh đêm ra ngoài. Anh ta khẽ ngồi dậy lầm rầm khấn khứa mấy câu rồi mới nằm xuống. Ban đầu anh ta ngủ không được, sau cố định thần rồi ngủ quên lúc nào không biết. Ngủ suốt đêm cho tớitrời sáng mới tỉnh dậy, dụi mắt một lát, không hề thấy chiêm bao gì cả. Anh ta liền thở dài và nói :
- Thật là “Cách năm sống thác đôi nơi, thấy đâu hồn phí vãng lai giấc nồng ? “.
Trái lại, Bảo Thoa suốt đêm không ngủ. Nghe Bảo Ngọc ở ngoài đọc hai câu ấy. liền đỡ lời:
- Cậu nói câu ấy tục quá. Nếu em Lâm còn sống thì lại đâm giận đấy.
Bảo Ngọc nghe nói, cảm thấy khó coi, đành phải ngượng ngùng dậy đi vào nhà trong và nói :
- Tôi định vào trong nhà, không biết thế nào mà ngủ quên đi mất.
Bảo Thoa nói :
- Cậu vào hay không, can gì đến tôi?
Tập Nhân cũng không ngủ, nghe hai người nói chuyện liền dậy pha trà. Bỗng thấy Giả mẫu sai a hoàn nhỏ sang hỏi:
- Cậu Bảo đêm qua ngủ có yên giấc không ? Nếu ngủ yên thì mau mau chải đầu rửa mặt cùng mợ Hai đi sang ngay.
Tập Nhân nói :
- Em về thưa với cụ : đêm qua cậu Bảo ngủ rất yên giấc. Chốc nữa sẽ tới.
A hoàn nhỏ ra về.
Bảo Thoa vội vàng chải đầu rửa mặt. Bọn Oanh Nhi và Tập Nhân đi theo. Trước hết đến chỗ Giả mẫu làm lễ rồi đến chào Vương phu nhân và Phượng Thư. Chào hỏi xong lại đến chỗ Giả mẫu thì thấy Tiết phu Nhân cũng đã đến. Mọi người hỏi:
- Đêm qua Bảo Ngọc có khỏe không?
Bảo Thoa nói :
- Về rồi ngủ ngay. Không xảy ra việc gì.
Mọi người yên lòng rồi cùng nhau nói chuyện suông.
Bỗng thấy a hoàn nhỏ vào nói :
- Cô Hai định về. Nghe nói người bên cậu Tôn đến chỗ bà Cả nói những gì gì. Rồi bà Cả sai người đến chỗ cô Tư bảo đừng giữ cô Hai lại nữa. cứ để cho cô ấy về. Hiện giờ cô Hai đang khóc ở bên nhà bà Cả. Có lẽ cô ấy sắp đến đây từ biệt cụ bà đấy.
Giả mẫu nghe xong, trong lòng bực tức. Ai nấy đều nói:
- CÔ Hai là người tốt, sao lại gặp phải thằng chồng như thế. Suốt đời không sao mở mày mở mặt ra được. Nhưng làm sao được bây giờ ?
Đang nói thì Nghênh Xuân đi vào, mắt đầy ngấn lệ, nhưng vì là ngày sinh nhật của Bảo Thoa. đành phải nuốt lệ từ biệt mọi người định về. Giả mẫu biết cô ta khổ, nhưng giữ lại không tiện, chỉ nói :
- Cháu về cũng được, nhưng đừng có buồn. Gặp phải con người như thế cũng chẳng biết làm thế nào. Mấy ngày nữa, ta sẽ cho người đến đón cháu về chơi.
Nghênh Xuân nói :
- Bà bao giờ cũng thương cháu, nhưng nay không thể được. Thương hại cho cháu từ nay không còn có ngày trở về đây nữa đâu !
CÔ ta nói đến đó lại ứa nước mắt.
Mọi người đều khuyên :
- Có gì mà không được. Có phải như em Ba nhà cô ở quá xa thì gặp mặt mới khó chứ.
Bọn Giả mẫu nghĩ đến Thám Xuân. Ai nấy đều ứa nước mắt. Vì là ngày sinh nhật của Bảo Thoa, họ đành phải đổi buồn làm vui và nói :
- Cái đó cũng không khó, cốt sao miền biển yên lặng. Bên nhà thông gia được đổi về kinh thì sẽ gặp mặt thôi.
Mọi người đều nói :
- Đúng như thế đấy .
Nghênh Xuân đành ngậm buồn từ biệt. Mọi người tiễn cô ta ra rồi trở về chỗ Giả mẫu. Từ sáng đến chiều, cùng nhau vui một ngày nữa. Họ thấy Giả mẫu mệt nhọc nên đều ra về.Riêng Tiết phu Nhân từ biệt Giả mẫu rồi đến bên nhà Bảo Thoa nói:
- Anh con thì hết năm nay phải chờ đến khi ơn vua đại xá, giảm nhẹ án tích mới có thể chuộc tội được. Trong lúc này, một mình mẹ bơ vơ khổ sở biết làm thế nào ? Mẹ định cưới vợ cho anh Hai con, con nghĩ có nên không?
Bảo Thoa nói :
- Mẹ khiếp sợ vì chuyện vợ anh Cả nên đối với việc anh Hai cũng đâm ra ngờ vực. Theo ý con thì lo cưới đi là phải. Cô Hình thì mẹ đã biết. Ở bên ấy cũng rất khổ. Cưới về tuy nói là nhà mình nghèo, nhưng còn hơn phải ở nhờ nhà người ta.
- Khi nào tiện, con thưa với cụ rằng nhà ta không có người, xin chọn ngày rước dâu.
- Mẹ cứ bàn với anh Hai, chọn được ngày tốt rồi sang thưa với cụ và bà Cả, cưới về đi, thế là xong việc.
- Hôm nay nghe nói cô Sử cũng về. cụ bà định giữ em con ở lại đây mấy hôm cho nên nó ở lại. Mẹ nghĩ em con cũng chưa biết sớm muộn sẽ về nhà người ta, chị em cũng nên trò chuyện với nhau thêm ít hôm.
- Phải đấy. Tiết phu Nhân lại ngồi một lát rồi ra cáo từ mọi người ra về.
Đêm ấy. Bảo Ngọc về phòng. nghĩ bụng : “Đêm qua Đại Ngọc không ứng mộng, có lẽ vì cô ta đã thành tiên, không chịu đến gặp hạng người nhơ bẩn như mình. Hay là có thể vì tính mình nôn nóng cũng chưa biết chừng”. Anh ta liền nghĩ một cách, rồi
nói với Bảo Thoa :
- Đêm qua tôi ngẫu nhiên ngủ ở ngoài, hình như yên giấc hơn ngủ ở trong nhà. Sáng nay thức dậy, cảm thấy trong bụng yên tĩnh hơn. Ý tôi muốn ngủ ở ngoài vài hôm, chỉ sợ các chị lại ngăn cản tôi.
Bảo Thoa nghe nói, biết rõ lúc súc miệng anh ta ngâm mấy câu thơ ấy, tất nhiên là vì việc Đại Ngọc. Nhưng nghĩ lại cái tính si ngốc của anh ta không thể nào khuyên được, chi bằng cứ để cho anh ta ngủ ở ngoài vài đêm, để tắt hẳn cái lòng mơ tưởng
ấy đi. Vả lại đêm qua thấy anh ta ngủ yên giấc. Chị ta liền nói :
- Rõ buồn cười. Cậu muốn ngủ ngoài thì cứ ngủ. Chúng tôi ngăn cậu làm gì. Nhưng đừng có nghĩ ngợi lung tung, sinh chuyện ma quỷ là được.
Bảo Ngọc cười nói :
- Nào ai nghĩ gì đâu?
Tập Nhân nói:
- Tôi khuyên cậu nên ngủ trong nhà thôi. Ngủ ngoài, nhỡ khi trông nom không chu đáo, gặp phải lạnh thì lại không hay.
Bảo Ngọc chưa kịp trả lời, Bảo Thoa liền liếc mắt ra hiệu. Tập Nhân hiểu ý liền nói :
- Thôi cũng được. Bảo một người theo hầu, đến đêm tiện việc pha trà lấy nước cho cậu.
Bảo Ngọc cười nói :
- Vậy thì chị theo tôi thôi.
Tập Nhân nghe nói, đâm ngượng, má đỏ ửng lên, không nói gì cả.
Bảo Thoa vốn biết Tập Nhân là người đứng đắn, liền nói :
- Chị ấy với tôi đã quen rồi, cứ để theo tôi thôi. Bảo Xạ Nguyệt và con Năm trông nom cậu là được. Vả lại chị ấy hôm nay bận rộn suốt ngày, cũng mệt rồi, để cho chị ấy nghỉ một chút.
Bảo Ngọc đành phải cười mà đi ra.
Bảo Thoa bảo Xạ Nguyệt và con Năm soạn sửa chăn nệm cho Bảo Ngọc nằm ở ngoài. Lại dặn hai người :
- Phải tỉnh ngủ, để khi cậu cần trà nước.
Hai người vâng lời đi ra, thấy Bảo Ngọc ngồi ngay ngắn trên giường. nhắm mắt chắp tay, y như ông sư. Hai người không dám nói, chỉ nhìn anh ta mà cười. Bảo Thoa lại bảo Tập Nhân ra ngoài trông nom. Tập Nhân thấy thế cũng buồn cười, liền gọi
- Cậu nên đi ngủ đi. sao lại ngồi như thế?
Bảo Ngọc mở mắt. thấy Tập Nhân, liền nói:
- Các chị cứ ngủ đi thôi. Tôi ngồi một lát sẽ ngủ.
- Vì hôm qua cậu như thế làm cho mợ Hai suốt đêm không ngủ. Nay cậu lại như thế này thì còn ra sao nữa?
Bảo Ngọc nghĩ mình không ngủ thì họ sẽ không chịu ngủ, nên soạn sửa nằm xuống. Tập Nhân lại dặn dò bọn Xạ Nguyệt mấy câu mới đi vào đóng cửa mà ngủ.
Ngoài này, Xạ Nguyệt và con Năm cũng sắm sửa chăn nệm, chờ cho Bảo Ngọc nằm rồi ai nấy đều nằm xuống.
Không ngờ Bảo Ngọc muốn ngủ cũng không ngủ được, thấy hai người sửa soạn chăn nệm, chợt nhớ lại chuyện năm nọ lúc Tập Nhân không ở nhà, Tình Văn và Xạ Nguyệt hầu hạ mình, đang đêm Xạ Nguyệt ra ngoài, Tình Văn định đi dọa chị ta, nhưng vì không mặc áo, cảm lạnh, sau này cũng vì bệnh ấy mà chết. Nghĩ đến đó, anh ta lại tưởng nhớ đến Tịnh Văn. Chợt nghĩ đến Thượng Thư nói con Năm giống Tịnh Văn như lột, vì thế anh ta đem lòng nhớ tưởng nhớ Tình Văn chuyển sang con Năm.
Bảo Ngọc giả vờ ngủ, mắt nhìn trộm con Năm. Càng nhìn càng giống Tình Văn. Tự nhiên tình si trở lại. Anh ta để ý nghe nhà trong đã im lặng, biết là ngủ rồi, nhưng không biết Xạ Nguyệt đã ngủ hay chưa, liền cố ý gọi vài tiếng thì thấy Xạ Nguyệt không trả lời.
Con Năm thấy Bảo Ngọc gọi. liền hỏi :
- Cậu cần gì ?
- Tôi muốn súc miệng một tý.
Con Năm thấy Xạ Nguyệt đã ngủ, đành phải dậy cắt lại ngọc nến, rót một chén trà, một tay bưng ống nhổ. Vì dậy vội vàng nên chị ta chỉ mặc một cái áo lót bằng lụa màu đào hồng trên đầu búi tóc vấn lên qua loa. Bảo Ngọc trông kỹ. hệt như
Tình Văn sống lại. Bỗng lại nhớ đến câu nói của Tình Văn: “Nếu biết mắc phải tiếng hão thì thà làm thật cho xong”. Nghĩ như thế, cho nên anh ta cứ nhìn trừng trừng con Năm, cũng không đón lấy chén trà.
Sau khi Phượng Quan đi rồi, con Năm cũng không nghĩ gì đến chuyện vào ở nữa. Rồi nghe nói Phượng Thư gọi mình vào hầu Bảo Ngọc, thì nó lại nóng lòng trông đợi hơn là Bảo Ngọc trông nó vào. Không ngờ sau khi vào, thấy Bảo Thoa và Tập Nhân đều là người đứng đắn, trong lòng nó kính mến ; lại thấy Bảo Ngọc điên điên dại dại. không còn dáng điệu đẹp đẽ như trước. Vả chăng, nghe nói Vương phu nhân đuổi hết bọn con gái hay cười đùa với Bảo Ngọc nên nó đã gác hết mọi niềm tâm sự tư tình của một cô gái. Khốn nổi cái anh ngốc ấy đêm nay lại cứ xem nó là Tình Văn mà một mực yêu đương. Nó thẹn quá, hai má đỏ ửng, lại không dám lên tiếng to, đành phải nói khẽ :
- Cậu súc miệng này ?
Bảo Ngọc cười rồi cầm lấy chén trà vào tay, cũng không biết có súc miệng hay không. chỉ cười và hỏi :
- Chị thân với chị Tịnh Văn phải không ?
Con Năm nghe nói, không hiểu đầu đuôi ra sao, liền nói:
- Cũng là chị em cả, sao lại không thân ?
Bảo Ngọc lại hỏi khẽ :
- Chị Tình Văn ốm nặng, tôi đến thăm, chị cũng đến thăm phải không ?
Con Năm mỉm cười, gật đầu, Bảo Ngọc nói :
- Chị có nghe chị ta nói gì không ?
Con Năm lắc đầu :
- Không.
Bảo Ngọc lúc đó quên bẵng, liền kéo tay nó. Con Năm đỏ mặt lên, trống ngực đánh thình thịch, nói khẽ :
- Cậu có việc gì cứ nói. đừng lôi kéo như thế.
Bảo Ngọc mới buông tay và nói :
- Chị ta nói với tôi rằng : Nếu biết mắc phải tiếng hão thì thà làm thật sự cho xong, tại sao mà chị không nghe?
Nghe câu ấy, rõ ràng là Bảo Ngọc có ý trêu ghẹo mình.
Con Năm không dám làm gì, liền nói :
- Đó là chị ta không biết thẹn. Bọn con gái chúng tôi mà nói câu ấy được à ?
Bảo Ngọc nóng lên nói :
- Sao chị cũng làm ra vẻ cụ đồ như thế ! Tôi thấy người chị giống hệt như chị ta, tôi mới nói câu ấy. Sao chị lại đem những lời nói ấy mỉa mai chị ta.
Lúc ấy trong bụng con Năm không biết Bảo Ngọc có ý tứ gì liền nói :
- Đêm khuya rồi, cậu nằm ngủ thôi, đừng ngồi thế mãi, sợ mắc phải lạnh đấy. Vừa rồi mợ Hai và chị Tập Nhân dặn gì, cậu không nhớ à?
- Tôi không lạnh.
Nói đến đó, Bảo Ngọc chợt nghĩ con Năm không mặc áo ngoài, sợ cũng bị lạnh như Tình Văn năm nọ. liền hỏi :
- Sao chị không mặc áo vào mà đã lại đây ?
- Cậu gọi gấp quá. làm gì có thì giờ mặc áo. Nếu biết nói chuyện như từ nãy đến giờ thì tôi cũng đã mặc áo rồi.
Bảo Ngọc nghe nói, vội vàng lấy cái áo bông màu nguyệt bạch đang đắp đưa cho nó, bảo khoác vào người. Nó không chịu cầm và nói :
- Cậu đắp lấy thôi, tôi không lạnh. Tôi lạnh đã có áo của tôi
Nói xong, nó trở lại chỗ nằm, kéo một chiếc áo dài khoác lên người, lắng nghe một lúc, thấy Xạ Nguyệt đang ngủ say, mới thong thả trở lại và nói:
- Cậu đêm nay định dượng thần phải không ?
Bảo Ngọc cười nói :
- Nói thật với chị chứ có dượng thần gì đâu! Ý tôi là muốn gặp tiên đấy.
Con Năm nghe nói, trong bụng càng nghi ngờ, liền hỏi :
- Gặp tiên nào ?
- Chị muốn biết thì chuyện này dài lắm. Chị ngồi xuống sát đây tôi nói cho mà nghe. Con Năm đỏ mặt lên. cười nói :
- Cậu nằm ở đó, tôi ngồi sao tiện.
- Điều đó có làm gì ? Năm nọ trời lạnh. tôi cùng chị Tình Văn và chị Xạ Nguyệt chơi đùa. Tôi sợ chị ta lạnh. còn kéo chung vào trong một chăn đấy. Người ta không cần vờ làm bộ mới được.
Con Năm thấy Bảo Ngọc nói câu nào cũng ra vẻ trêu ghẹo mình, có biết đâu đó là lòng thực của anh chàng ngốc. Lúc đó, nó lui ra cũng dở, đứng lại cũng dở, ngồi xuống cũng dở, rất là bối rối. Nó lườm một cái, nhoẻn miệng cười và nói :
- Cậu đừng nói nhảm nữa, nhỡ người ta nghe thấy còn ra cái gì. Chẳng trách người ta nói cậu chỉ chăm nom đến bọn con gái ! Mợ Hai và chị Tập Nhân đều đẹp như tiên mà cậu lại hay đi dan díu với người khác. Sau này mà cậu còn nói những câu
chuyện ấy nữa thì tôi thưa lại với mợ Hai. Xem cậu còn mặt mũi nào mà nhìn người ta.
Đang nói thì nghe bên ngoài “thịch” một tiếng làm cho hai người giật mình. Trong nhà Bảo Thoa ho. Bảo Ngọc vội vàng dẩu môi ra hiệu. Con Năm cũng tắt phụt đèn, khe khẽ nằm xuống. Thì ra Bảo Thoa và Tập Nhân đêm qua không ngủ, cả ngày lại mệt cho nên ngủ say, không hề nghe họ nói chuyện. Lúc đó trong sân có tiếng động. Chợt tỉnh dậy lắng tai nghe thì chẳng có tăm hơi gì.
Lúc bấy giờ. Bảo Ngọc đang nằm trên giường, trong bụng nghi ngờ : “phải chăng là em Lâm tới đây, thấy mình nói chuyện với con Năm, rồi cố ý doạ mình ?” Anh ta cứ nằm trằn trọc, nghĩ ngợi lan man đến canh năm mới mơ màng ngủ đi.
Con Năm bị Bảo Ngọc quấy rầy một lúc lâu, lại nghe Bảo Thoa ho, trong bụng lo lắng ngờ vực, chỉ sợ Bảo Thoa nghe thấy nên cũng lo trước nghĩ sau, suốt đêm không ngủ. Hôm sau chị ta dậy sớm, thấy Bảo Ngọc đang ngủ say, liền nhẹ nhàng quét dọn
nhà cửa. Xạ Nguyệt tỉnh dậy. liền hỏi :
- Sao chị dậy sớm thế ? Chả nhẽ cả đêm chị không ngủ hay sao ?
Con Năm nghe câu ấy. hình như Xạ Nguyệt đã biết, nên chỉ ngượng ngùng cười gượng, không nói gì cả. Một lúc Bảo Thoa và Tập Nhân đều dậy. Hai người mở cửa ra, thấy Bảo Ngọc đang ngủ, trong bụng cũng bực. Nghĩ sao anh ta ngủ ngoài hai
đêm lại yên giấc như thế?
Đến khi Bảo Ngọc tỉnh giấc, thấy mọi người đều dậy, vội vàng bò dậy, dụi mắt, nghĩ lại thì đêm qua cũng không hề thấy chiêm bao gì cả, thật là trời tiên cõi tục cách nhau xa vời ! Rồi anh ta thong thả bước xuống giường. Nhớ đến câu nói của con
Nam đêm qua : “Bảo Thoa và Tập Nhân đều đẹp như tiên”, câu nói ấy thật không sai. Anh ta cười, nhìn Bảo Thoa chằm chằm.
Bảo Thoa thấy anh ta có vẻ ngơ ngác, tuy biết là vì việc Đại Ngọc, nhưng cũng không đoán ra là có chiêm bao hay không? Chỉ thấy anh ta cứ nhìn mình lấy làm khó coi, liền hỏi :
- Đêm qua, cậu có gặp tiên không?
Bảo Ngọc nghe nói, cho rằng câu chuyện đêm qua bị Bảo Thoa nghe được, bèn cười và miễn cưỡng trả lời:
- Làm gì có chuyện ấy ?
Con Năm nghe câu ấy thì động lòng, càng hối hận, cũng không tiện nói gì, đành chờ xem Bảo Thoa có tỏ vẻ gì không?
Bỗng thấy Bảo Thoa cười và hỏi con Năm.
- Chị có nghe cậu Hai trong khi ngủ nói chuyện với ai không ?
Bảo Ngọc nghe nói, không thể ngồi yên, ngượng ngùng ra khỏi phòng. Con Năm má ửng đỏ, đành phải trả lời một cách bâng quơ :
- Vào khoảng nửa đêm, cậu Hai có nói mấy câu, tôi cũng không nghe rõ, nào là “mang tiếng hão”. nào là “làm thật sự” gì đó tôi cũng không hiểu, chỉ khuyên cậu Hai nên ngủ đi. Sau đó, tôi ngủ rồi, không biết cậu Hai có nói gì không?
Bảo Thoa cúi đầu nghĩ ngợi : “Những câu ấy rõ ràng là vì Đại Ngọc, nếu cứ để cho cậu ta ngủ ở ngoài mãi, vốn sẵn lòng tà, sợ lại vướng lấy chuyện yêu ma. Vả lại, bệnh cũ của cậu ta, vốn là vì nặng tình với chị em. Vậy phải có cách làm cho cậu ta xoay lòng chuyển dạ, thì sau này mới khỏi sinh chuyện”. Nghĩ đến đó. chị ta đỏ mặt, liền thờ thẫn vào phòng, chải đầu rửa mặt.
Hai ngày vừa rồi, Giả mẫu vì cao hứng ăn hơi nhiều, chiều hôm ấy trong người thấy khó ở; hôm thứ hai cảm thấy đầy bụng. Bọn Uyên ương định thưa với Giả Chính, nhưng Giả mẫu không cho, và nói:
- Hai hôm nay ta tham ăn nhiều quá, nhịn đói một bữa thì khỏi chúng bay đừng làm ồn lên.
Bọn Uyên ương cũng không nói với ai.
Chiều hôm đó, Bảo Ngọc về phòng, thấy Bảo Thoa đi hỏi thăm sức khỏe của Giả mẫu và Vương phu nhân cũng vừa về.
Bảo Ngọc nghĩ đến việc ban đêm, nên lúc sáng dậy, có vẻ hổ thẹn. Bảo Thoa thấy bộ dạng như thế cũng biết là anh ta bẽ bàng vì việc gì. Bảo Thoa lại nghĩ Bảo Ngọc là người si tình, muốn trị bệnh ấy, không gì hơn lại lấy si tình mà trị. Nghĩ ngợi một lúc rồi chị ta hỏi Bảo Ngọc :
- Cậu hôm nay vẫn ngủ ở ngoài chứ ?
Bảo Ngọc cảm thấy khó coi, liền nói:
- Trong ngoài gì thì cũng thế.
Bảo Thoa ý muốn nói nữa, nhưng nói ra không tiện.
Tập Nhân nói :
- Thôi đi, thế là nghĩa lý gì ? Tôi không tin cậu ngủ yên giấc như thế!
Con Năm nghe nói liền đỡ lời :
- Cậu Hai ngủ ở ngoài cũng chẳng có việc gì khác, chỉ hay nói mơ làm cho người ta không hiểu đầu đuôi gì, lại không dám cãi lại.
Tập Nhân liền nói :
- Để đêm nay tôi dời ra nằm giường ấy, xem có nói mơ hay không. Các chị cứ đem chăn nệm của cậu trải vào nhà trong là được
Bảo Thoa nghe nói cũng không lên tiếng. Về phần Bảo Ngọc thì đã xấu hổ, còn đâu dám cãi lại, nên liền thuận cho dọn vào trong nhà. Bảo Ngọc tự thấy mình có lỗi, muốn yên ủi Bảo Thoa. Bảo Thoa lại sợ Bảo Ngọc uất ức thành bệnh. chi bằng tỏ
ra tình âu yếm cho anh ta được gần gũi để làm cái kế “dời hoa nọ chắp cành kia “. Do đó, đêm ấy Tập Nhân dời ra ngoài nằm. Bảo Ngọc cố nhiên trong lòng ăn năn hổ thẹn, Bảo Thoa cũng muốn lung lạc Bảo Ngọc. Từ khi làm lễ cưới đến nay mới thật là mây mưa tình đượm, ân ái triền miên, khí âm dương bắt đầu kết hợp lại (I) Đó là câu chuyện sau này.
Sáng hôm sau, Bảo Ngọc và Bảo Thoa cùng thức dậy.
Bảo Ngọc chải đầu rửa mặt rồi qua nhà Giả mẫu trước. Giả mẫu vì thương yêu Bảo Ngọc, lại thấy Bảo Thoa hiếu thuận, chợt nhớ đến một vật, liền bảo Uyên ương mở rương lấy ra một viên ngọc đời ông cụ để lại. Tuy nó không bằng viên ngọc của Bảo Ngọc, nhưng nếu đeo trên mình thì cũng là vật hiếm có.
Uyên ương tìm viên ngọc ra đưa cho Giả mẫu và nói :
- Vật này hình như cháu chưa bao giờ trông thấy. Đã bao nhiêu năm rồi mà cụ còn nhớ được như thế, bảo để ở hộp nào trong rương nào. Cháu theo lời cụ mà tìm là thấy ngay. Bây giờ cụ bảo lấy ra làm gì ?
Giả mẫu nói :
- Mày biết sao được. Viên ngọc này nguyên là cố của ta cho ông ta. Khi ta xuất giá, ông ta thương ta liền gọi đến trao tận tay cho ta và nói: “Viên ngọc này là người đời Hán đeo, rất quý giá. Cháu cầm lấy cũng như là trông thấy ta “. Lúc đó, ta còn nhỏ,
cầm lấy ngọc cũng chẳng cho ra gì, liền vứt vào trong rương. Khi ề đây ta thấy đồ vật của nhà mình cũng nhiều. viên ngọc ấy cũng chẳng đáng gì. nên ta không bao giờ đeo. vứt vào rương, đến nay đã hơn 60 năm. Bây giờ thấy cháu Bảo hiếu thuận với ta như thế mà lại mất viên ngọc, ta sực nhớ lại mới lấy ra để cho nó, cũng giống như ông cố ta cho ta ngày trước.
Một lúc sau. Bảo Ngọc tới hỏi thăm sức khỏe. Giả mẫu liền vui mừng nói :
- Cháu lại đây, bà cho xem cái này.
Bảo Ngọc đi tới trước giường. Giả mẫu liền cầm viên ngọc ấy trao cho anh ta. Bảo Ngọc đi lấy xem thì thấy viên ngọc ấy to chừng ba tấc, hình như quả dưa, màu sắc đỏ sẫm, rất là tươi. Bảo Ngọc tấm tắc ngợi khen.
Giả mẫu nói :
- Cháu thích à ? Đó là ông ta cho ta. nay ta giao lại cho cháu đấy.
Bảo Ngọc cười rồi lạy tạ, lại định đem cho mẹ anh ta xem. Giả mẫu nói :
- Mẹ cháu xem sẽ nói với cha cháu rồi lại bảo là ta yêu cháu hơn yêu con. Vì xưa nay chưa hề ai trông thấy của này.
Bảo Ngọc cười rồi đi ra. Bọn Bảo Thoa cũng nói mấy câu rồi cáo từ ra về.
Từ đó. Giả mẫu luôn hai ngày không ăn uống, lại thêm nhức đầu chóng mặt và ho. Hình phu nhân,Vương phu nhân và Phượng Thư đến hỏi thăm sức khỏe, thấy tinh thần Giả mẫu vẫn khá, nên chỉ cho người nói với Giả Chính. Giả Chính lập tức vào
hỏi thăm. rồi ra mời thầy thuốc đến xem mạch. Một chốc, thầy thuốc đến xem xong. Nói là người già, ăn uống bị ngừng trệ, và bị cảm hàn, chỉ uống tiêu dao và phát tán một chút là khỏi. Thầy thuốc kê đơn. Giả Chính xem, biết là những vị thuốc thường, liền sai người sắc cho Giả mẫu uống. Sau đó. sớm chiều nào Giả Chính cũng vào thăm. Uống luôn ba ngày. chẳng thấy bệnh bớt chút nào.
Giả Chính lại sai Giả Liễn đi tìm thầy thuốc giỏi và nói :
- Cháu mau đi tìm thầy thuốc giỏi đến xem bệnh cho bà. Mấy ông thầy nhà mình hay mời. ta thấy chẳng ra sao cả. Bây giờ cháu đi tìm thầy khác.
Giả Liễn nghĩ ngợi một lát rồi nói:
- Cháu còn nhớ lúc em Bảo ốm, có mời một người không làm nghề thuốc mà chữa khỏi. Chi bằng bây giờ đi tìm thầy ấy.
Giả Chính nói :
- Nghề thuốc rất khó, càng là ông thầy không đông khách lại càng eo tài. Cháu cứ cho người đi mời ngay.
Giả Liễn vâng lời. vội vàng đi. Một lúc trở về nói:
- Thầy Lưu gần đây ra ngoài thành dạy học. Chừng hơn mười ngày mới về một lần. Bây giờ chờ không được. đã mời một thầy khác, cũng sắp đến đấy.
Giả Chính nghe nó, đành phải chờ.
Từ khi Giả mẫu ốm, tất cả đàn bà con gái trong nhà ngày nào cũng đến hỏi thăm. Một hôm, mọi người đều đang ở đấy thì thấy bà già coi cửa nách trong vườn vào nói:
- CÔ Diệu Ngọc ở am Lũng Thúy trong vườn nghe cụ bà ốm nên đến hỏi thăm.
Mọi người nói :
- CÔ ta không hay đến, hôm nay tới đây, các người mau mau ra mời vào.
Phượng Thư đến bên giường thưa lại với Giả mẫu. Tụ Yên là người bạn quen cũ của Diệu Ngọc nên ra đón trước. Thấy Diệu Ngọc đầu đội mũ Diệu Thường ( 1 ), mình mặc áo trừu màu nguyệt bạch, bên ngoài khoác áo cà sa dài bằng đoạn xanh viền
biên, lưng thắt dây tơ màu thu hương. bên dưới mặc cái quần là trong, có vẽ màu mực nhạt, tay cầm chuỗi tràng hạt. CÔ ta thướt tha đi đến, theo sau là một người hầu gái. Tụ Yên chào hỏi và nói :
- Lúc ở bên vườn, tôi đến thăm cô luôn. Gần đây trong vườn ít người, một mình khó đi. Cái cửa nách đấy lại thường đóng, nên mấy lâu nay không được gặp cô. Hôm nay được gặp thật là may mắn.
Diệu Ngọc nói :
- Trước kia các chị là người sống trong cảnh náo nhiệt. nên tuy ở vườn ngoài tôi cũng không tiện qua lại. Nay nghe nói việc nhà ở đây không được tốt, cụ bà lại ốm. Một phần cũng nhớ chị và luôn tiện đến thăm cô Bảo. Tôi có kể gì cửa các người
đóng hay không. Tôi muốn đến thì đến, tôi không muốn đến thì mặc ai muốn cho tôi đến cũng vô ích.
Tụ Yên cười nói :
- Cô vẫn giữ cái tính khí ấy ?
Hai người vừa đi vừa nói chuyện, đã đến phòng Giả mẫu.
Mọi người thấy cô ta, đều chào hỏi. Diệu ngọc đến trước giường Giả mẫu, hỏi thăm và nói mấy câu chuyện suông. Giả mẫu liền nói :
- Cô là một nữ bồ tát. CÔ xem bệnh tôi có khỏe được hay không
Diệu Ngọc nói :
- Người từ thiện như cụ bà, tuổi thọ còn nhiều. Chẳng qua bị cảm trong chốc lát. Uống mấy liều thuốc chắc sẽ khỏi. Người có tuổi không nên quá lo nghĩ.
Giả mẫu nói :
- Tôi không phải vì thế mà sinh ốm đâu. Tôi là người rất ưa vui. Giờ đây bệnh cũng chẳng sao. Có điều trong bụng cứ đầy tức khó chịu. Vừa rồi. ông thầy thuốc nói vì tức giận sinh bệnh. Cô cũng biết đấy. ai dám làm cho tôi giận ? Có phải là cách xem
mạch của ông ta kém không? Tôi đã nói với cháu Liễn. chỉ có ông thầy trước kia nói bị cảm mạo và ăn không tiêu là đúng hơn. Ngày mai cứ mời thầy ấy đến.
Giả mẫu nói đến đó. lại bảo Uyên ương :
- Mày dặn nhà bếp làm một mâm cơm chay cho tinh khiết mời sư phụ ở đây xơi cơm.
Diệu Ngọc nói :
- Tôi đã ăn cơm trưa rồi. tôi không ăn gì đâu.
Vương phu nhân nói :
- CÔ không ăn cũng được, chúng ta ngồi rốn một chốc nói chuyện phiếm cho vui.
Diệu Ngọc nói :
- Đã lâu tôi không gặp các vị cho nên hôm nay đến thăm một chút.
CÔ ta lại nói chuyện một hồi nữa định về, chợt thấy Tích Xuân đứng đấy, liền hỏi :
- Cô Tư sao mà gầy gò thế ? Đừng có ham vẽ quá mà mệt.
Tích Xuân nói :
- Đã lâu nay tôi không vẽ nữa. Cái phòng ở bây giờ không còn sáng láng như hồi ở trong vườn, nên không còn hứng thú gì mà vẽ.
- Bây giờ cô ở đâu ?
- Chính là ngôi nhà ở cái cửa phía đông mà cô vừa đi qua đấy. Cô muốn đến chơi cũng rất gần.
- Lúc nào thích. tôi sẽ đến thăm.
Bọn Tích Xuân tiễn Diệu Ngọc đi ra, vừa quay trở về.
Bỗng nghe a hoàn nói thầy thuốc đang ở trong nhà Giả mẫu. Mọi người hãy tạm ra về.
Không ngờ bệnh Giả mẫu càng ngày càng nặng. Mời thầy chữa chạy đều không công hiệu. về sau lại thêm chứng đi ngoài. Giả Chính hoảng sợ, biết là bệnh khó chữa, liền sai người đến nha môn xin phép nghỉ. Ngày đêm cùng Vương phu nhân hầu hạ
thuốc thang. Một hôm thấy Giả mẫu ăn uống được đôi chút. trong bụng mới hơi dễ chịu. Bỗng thấy có một bà ở ngoài cửa thò đầu vào dòm. Vương phu nhân bảo Thái Vân ra hỏi xem ai. Thái Vân thấy là người đi theo hầu Nghênh Xuân khi về nhà họ Tôn, liền hỏi:
- Bà đến làm gì ?
- Tôi đến đây đã lâu, tìm chẳng được chị nào. Sốt ruột quá nhưng lại không dám hấp tấp.
- Bà sốt ruột vì việc gì Không nhẽ lại vì chuyện cậu rể hành hạ cô tôi à?
- CÔ nguy lắm rồi ? Hôm trước đây lại xảy ra chuyện cãi vã. Cô khóc suốt một đêm. Hôm qua đờm tắc lên cổ. Bọn họ không chịu mời thầy thuốc. Hôm nay lại càng nguy cấp.
- Cụ bà đang ốm bà đừng có làm ầm lên.
Vương phu nhân sợ Giả mẫu nghe lại sinh buồn, vội vàng bảo Thái Vân đưa bà ta ra ngoài mà nói. Không ngờ Giả mẫu trong khi ốm, lòng rất yên tĩnh, nên cũng nghe, liền hỏi:
- Con Nghênh Xuân sắp chết à ?
Vương phu nhân thưa :
- Không phải đâu! Bọn bà già không biết hay dở, nói là hai hôm nay cô ta hơi mệt, sợ là không thể khỏi ngay, đến đây hỏi thăm thầy thuốc.
Giả mẫu nói :
- Ông thầy xem bệnh cho ta khá đấy, mau mau mời ông ta đi
Vương phu nhân liền bảo Thái Vân :
- Mày bảo bà già kia đi thưa với bà Cả.
Bà già đi ra. Trong này Giả mẫu thấy thương hại nói :
- Ba đứa cháu gái ta, một đứa hưởng hết phúc đã chết rồi; con Ba lấy chồng xa không được gặp mặt, con Nghênh Xuân chịu khố, còn mong may ra qua khỏi được. Không ngờ còn trẻ như thế mà đã phải chết, để lại người nhiều tuổi như ta đây, sống làm cái gi.
Bọn Vương phu nhân và Uyên ương khuyên giải một hồi.
Lúc đó, bọn Bảo Thoa và Lý Hoàn không ở trong phòng. Phượng Thư thì dạo này lại ốm. Vương phu nhân sợ Giả mẫu đau xót thêm bệnh, liền sai người gọi bọn họ đến hầu, còn bà ta thì về phòng mình gọi bọn Thái Vân đến quở :
- Mụ ấy không hiểu gì cả ! Sau này ta ở nhà cụ bà thì chúng mày dù có việc gì cũng đừng tới nói.
Bọn a hoàn vâng lời. Không ngờ bà già kia vừa đến bên nhà Hình phu nhân thì người bên ngoài đã đưa tin vào nói: “Cô Hai chết rồi!”
Hình phu nhân nghe nói cũng khóc một hồi. Hiện giờ Giả Xá không ở nhà, đành phải bảo Giả Liễn qua thăm. Mọi người đều biết Giả mẫu ốm nặng nên không ai đám trình lại. Đáng thương cô gái xinh đẹp như hoa, lấy chồng vừa được hơn một năm, không ngờ bị họ nhà Tôn giày vò đến nơi phải chết. Lại vừa gặp ỉúc Giả mẫu ốm nặng, không ai dám rời bước, đành để mặc nhà họ Tôn tống táng qua loa.
Bệnh tình của Giả mẫu ngày một nặng thêm. Bà ta chỉ nhớ bọn cháu gái. Nhớ Tương Vân, liền sai người đến thăm. Người đi thăm về khẽ tìm Uyên ương. Vì Uyên ương ở luôn bên Giả mẫu. Bọn Vương phu nhân cũng đều ở đấy. Đến đó không tiện, người ấy liền ra phía sau tìm Hổ Phách và nói với chị ta :
- Cụ bà nhớ cô Sử, bảo tôi đi thăm. Không ngờ cô Sử đang khóc lóc thảm thiết, nói là cậu rể bị bệnh đột ngột. Các thầy thuốc xem đều nói sợ không khỏi được. Nếu dở chứng lao sẽ còn kéo dài bốn năm năm, vì thế trong bụng cô Sử lo sợ. Cô ta cũng biết cụ bà ốm, nhưng không sang thăm được. CÔ ta còn bảo tôi đừng nói chuyện ấy với cụ bà. Nếu cụ bà có hỏi thì nhờ các chị tìm cách mà thưa lại mới được.
Hổ Phách nghe nói. đằng hắng một cái, không nói gì. Hồi lâu mới nói :
- Chị ra đi thôi.
Hổ Phách thưa lại thì không tiện, định bàn với Uyên Ương liệu cách nói dối, vì thế chị ta mới đến bên giường Giả mẫu, nhưng thấy sắc mặt Giả mẫu đã thay đổi hẳn, người đứng chật nhà, nói thầm với nhau: “xem chừng nguy lắm” vì thế Hổ Phách cũng không dám nói nữa.
Giả Chính khẽ bảo Giả Liễn tới bên cạnh, rồi ghé vào tai dặn mấy câu Giả Liễn vâng lời, khe khẽ đi ra, gọi tất cả bọn người nhà lại và nói :
- Các người mau mau chia nhau đi lo liệu việc cụ thôi. Đầu tiên phải đem quan tài ra xem, để may đồ tang cho đúng. Rồi đến các phòng đo kích thước, áo quần của mọi người, ghi chép rõ ràng, bảo bọn thợ may may áo tang ngay. Những người
coi việc làm rạp cũng bàn định sẵn. Nhà bếp cũng phải thêm mấy người nữa.
Bọn Lại Đại nói:
- Thưa cậu, những việc ấy không cần cậu phải bận tâm, chúng tôi đã tính toán đầy đủ cả rồi, nhưng khoản tiền ấy thì lấy vào đâu ?
Giả Liễn nói :
- Khoản tiền ấy không cần lấy ở ngoài. Cụ bà đã để dành lại rồi. Vừa rồi, ý ông lớn muốn lo liệu cho tử tế, tôi nghĩ bên ngoài cũng phải cho đẹp mặt mới được.
Lại Đại vâng lời, phái người chia nhau đi lo liệu.
Giả Liễn lại về phòng mình mà hỏi Bình Nhi:
- Mợ hôm nay ra sao?
Bình Nhi ngoảnh vào trong ra hiệu và nói :
- Cậu vào mà xem.
Giả Liễn đi vào thì thấy Phượng Thư đang định mặc áo, nhưng vì mệt quá, không mặc được, tạm dựa vào cái bàn mà nghỉ.
Giả Liễn nói :
- Sợ mợ không tĩnh dưỡng được nữa đâu. Việc bà chỉ ngày một ngày hai thôi. Mợ không thể nào vắng mặt được. Mau mau bảo người thu xếp đồ đạc trong nhà rồi nên gắng gượng mà sang. Nếu có việc, tôi với mợ còn về nhà được hay sao ?
Phượng Thư nói:
- Nhà mình đây còn có cái quái gì nữa mà thu xếp? Chẳng qua chỉ còn một ít đồ đạc, sợ cái gì ? Cậu sang trước đi. nhỡ ông Hai gọi. Tôi thay áo rồi sẽ sang sau.
Giả Liễn đi trước tới phòng Giả mẫu nói nhỏ với Giả Chính:
- Mọi người đều cắt đặt xong xuôi rồi.
Giả Chính gật đầu. Bên ngoài lại báo tin:
- Thầy thuốc đã đến.
Giả Liễn đón vào xem mạch, hồi lâu thầy thuốc ra nói nhỏ với Giả Liễn
- Mạch của cụ bà kém lắm, cần phải đề phòng.
Giả Liễn hiểu ý, nói cho bọn Vương phu nhân biết.
Vương phu nhân vội vàng đưa mắt cho Uyên ương, hảo cô ta sắp đặt sẵn sàng quần áo của cụ bà. Uyên ương vội vàng đi sửa soạn. Giả mẫu mở mắt đòi uống nước. Hình phu nhân liền bưng lại một chén nước sâm. Giả mẫu vừa ghé miệng uống. liền nói :
- Không cần cái ấy, rót một chén trà lại đây ta uống.
Mọi người không dám trái lời, vội vàng đưa trà lại. Giả Mẫu uống một hớp lại đòi uống hớp nữa, liền nói:
- Ta muốn ngồi dậy.
Giả Chính nói :
- Mẹ cần cái gì cứ nói, không cần phải ngồi dậy thì hơn.
Giả mẫu nói:
- Ta uống hớp nước, trong bụng hơi đỡ, nên muốn ngồi dựa một tý để nói chuyện với các con.
Bọn Trân Châu lấy tay nhẹ nhàng đỡ dậy, xem chừng tinh thần của Giả mẫu lúc đó hơi khá.
Hồi thứ một trăm mười
Sử Thái quân tuổi già về nơi địa phủ
Vương Hy Phượng sức kiệt làm mất lòng người
Giả mẫu ngồi dậy và nói :
- Ta về nhà đây đã hơn sáu mươi năm, phúc cũng hưởng hết rồi. Từ cha con đến con cháu cũng đều tốt cả. Nhất là Bảo Ngọc, ta thương yêu nó lâu nay...
Nói đến đó, bà ta mở to mắt nhìn khắp mọi nơi, Vương phu nhân đẩy Bảo Ngọc đến trước giường.
Giả mẫu giơ tay từ trong chán ra. nấm lấy Bảo Ngọc và nói
- Cháu ơi, cháu phải làm nên mới được.
Bảo Ngọc miệng vâng dạ, trong lòng đau xót, nước mắt trào ra nhưng lại không dám khóc, đành phải đứng đấy. Giả Mẫu lại nói:
- Ta trông thấy đứa chắt nữa thì sẽ an tâm. Chắt Lan đâu rồi?
Lý Hoàn cũng đẩy Giả Lan lại gần.
Giả mẫu buông Bảo Ngọc nắm lấy Giả Lan và nói :
- Chắt phải hiếu thuận với mẹ nhé ? Sau này chắt nên người cũng phải để cho mẹ chắt mở mày mở mặt một chút ? Con Phượng đâu rồi?
Phượng Thư đang đứng một bên, vội vàng chạy lại trước mặt và nói :
- Cháu đây ạ.
- Cháu ơi. cháu thông minh quá, sau này nên tu lấy phúc nhé! Ta cũng không hề tu gì, chẳng qua lòng ngay thiệt đấy thôi. Những việc ăn chay niệm phật, ta cũng không hay làm. Năm trước đây ta có bảo viết kinh Kim Cương đưa cho mọi người, không biết đã đưa xong chưa?
- Chưa ạ.
- Phải làm xong cho sớm mới phải. Ông Cả nhà ta và cháu Trân thì ở ngoài vui vẻ rồi, ta chỉ giận là con Sử vô tình, tại sao nhất định không đến thăm ta ?
Bọn Uyên ương biết rõ duyên cớ nhưng đều không dám nói.
Giả mẫu lại nhìn Bảo Thoa, thở dài, sắc mặt đỏ lên. Giả Chính biết là Giả mẫu sắp tắt thở, vội vàng bưng nước sâm đến. Giả mẫu đã cắn chặt răng và nhắm mắt lại ; một lát lại mở to mắt nhìn khắp nhà. Vương phu nhân và Bảo Thoa chạy lại, nhè nhẹ
đỡ lấy. Hình phu nhân và Phượng Thư vội vàng mặc áo. Bọn Bà già đã đặt giường và trải chăn nệm sẵn sàng. Nghe trong cổ Giả mẫu hơi khò khè và trên mặt mỉm cười, rồi tắt thở, thọ tám mươi ba tuổi. Bọn bà già vội vàng đặt nằm lên giường. Bọn Giả Chính quỳ một hên ở ngoài. Bọn Hình phu nhân quỳ một bên ở nhà trong. Mọi người đều cất tiếng khóc. Người nhà ở ngoài đều đã sắp đặt mọi việc sẵn sàng. Khi nghe tin trong này truyền ra thì khắp trong ngoài, cánh cửa mở toang, dán toàn giấy trắng. Lập tức đựng rạp tang và lầu tế ở ngoài cửa lớn. Ngay đó các người trên dưới đều mặc đồ tang.
Giả Chính báo tin về việc mẹ chết. Bộ lễ tâu lên. Nhà vua là người rất nhân hậu. Nghĩ bà ta dòng dõi nhà công thần, lại là bà nội của Nguyên phi nên ban thưởng một ngàn lạng bạc, và sai bộ lễ chủ tế. Người nhà báo tang đi các nơi. Bà con bạn hữu tuy biết họ Giả đã suy, nhưng nay thấy nhà vua ban ơn hậu hĩ, nên đều đến thăm viếng. Chọn giờ tốt nhập liệm, rồi đặt linh cữu giữa nhà chính.
Giả Xá không ở nhà. Giả Chính làm trưởng ; Bảo Ngọc, Giả Hoàn và Giả Lan là cháu chắt ruột lại còn ít tuổi nên đều phải ở luôn bên linh cữu. Giả Liễn tuy cũng là cháu ruột. nhưng phải cùng với Giả Dung lo cắt đặt người nhà làm việc. Tuy có mời một số đàn ông, đàn bà họ ngoại đến trông nom, nhưng bọn Hình phu nhân, Vương phu nhân, Lý Hoàn, Phượng Thư, Bảo Thoa, đều phải ở bên linh sàng khóc lóc ; Vưu thị tuy có thể trông nom nhưng từ khi Giả Trân đi rồi, chị ta ở nhờ phủ Vinh, lâu nay việc gì cũng không dám đảm đang. Vả lại việc ở đây cũng không thông thạo lắm. Vợ Giả Dung thì không cần phải nói nữa. Tích Xuân còn ít tuổi, tuy rằng lớn lên ở nhà này, nhưng đối với việc nhà, cô ta không biết gì cả. Thành ra, ở trong chẳng có
một người nào trông nom. Chỉ có Phượng Thư là người có thể trông nom công việc bên trong. Vả lại Giả Liễn làm chủ ở ngoài, trong ngoài do hai vợ chồng trông nom cũng là hợp lý. Trước kia, Phượng Thư cậy tài, nghĩ rằng khi bà cụ chết, mình sẽ có dịp để trổ tài làm việc. Hình phu nhân và Vương phu nhân vốn biết chị ta đã từng lo việc tang Tần thị nên tin rằng thế nào chị ta cũng làm được chu đáo, vì thế hai người vẫn bảo Phượng Thư coi hết mọi việc bên trong. Phượng Thư không thể từ chối, cố nhiên là phải nhận lời. Chị ta nghĩ : “Việc nhà đây vốn do mình coi, bọn người nhà đều là tay chân của mình. Người nhà của bà Cả và chị Trân vốn khó sai bảo, thì nay đều đi cả rồi. Khoản tiền dù không có đối bài, nhưng đã sẵn sàng từ trước. Việc ở ngoài lại do cậu ấy lo liệu. Mặc dầu người mình không được khỏe, nhưng cũng
không đến nỗi để người ta chê bai. Thế nào cũng còn lo liệu chu tất hơn khi ở phủ Ninh nữa.”Trong bụng chị ta đã định sẵn, chờ đến ngày mai nhận việc rồi sáng hôm sau sẽ cắt đặt công việc. Chị ta sai vợ Chu thụy chuyển lời ra để lấy danh sách gia nhân vào xem.
Phượng Thư xem kỹ thì thấy hầu trai chỉ có hai mươi mốt người, hầu gái chỉ có mười chín người, còn đều là bọn a hoàn. Tính hết các phòng, số a hoàn cũng chỉ có hơn ba mươi người, thật khó cắt đặt công việc. Chị ta nghĩ: “lần này là việc bà mình, mà lại không đông người bằng ở phủ đông trước kia”. Rồi chị ta lại cho gọi thêm mấy người ở các trại đến, nhưng cũng vẫn không đủ sai khiến
Phượng Thư đang suy tính thì thấy một a hoàn nhỏ đến nói:
- Chị Uyên ương nói muốn gặp mợ.
Phượng Thư đành phải sang thì thấy Uyên ương khóc lóc, nước mắt dầm dề. Chị ta nắm ngay lấy Phượng Thư và nói :
- Mời mợ ngồi, cho tôi lạy mợ, tuy rằng trong khi có tang không làm lễ. nhưng tôi vẫn cần phải lạy.
Uyên Ương nói rồi quỳ xuống. Phượng Thư vội vàng đỡ lấy và nói :
- Lạy lục gì thế ? Có việc gì chị cứ nói cho rõ.
Uyên ương vẫn quỳ. Phượng Thư kéo dậy. Uyên ương nói :
- Cụ bà mất. tất cả mọi việc trong ngoài đều do cậu và mợ lo liệu. Tiền bạc thì cụ bà đã để lại. Suốt đời cụ bà cũng không hề xa phí gì, giờ đây xảy đến việc lớn này, nhất thiết xin mợ lo liệu cho có bề thế một tý mới được. Vừa rồi tôi nghe ông lớn nói những “thi vân, tử viết” gì đó. tôi cũng không hiểu. Lại nghe nói : “đám tang. thà buồn thương hơn là bày biện linh đình”. Tôi lại càng không rõ ràng. Tôi hỏi mợ Hai Bảo, thì mợ ấy nói : “ý của ông lớn cho rằng, tang của cụ bà chỉ cần thương buồn
mới là thực hiếu, không nên nghĩ đến việc xa phí nhiều để rầy thể diện.” Tôi nghĩ người như cụ bà, sao lại không nên làm cho có thể diện. Tôi tuy là con hầu, dám nói sao được? Nhưng mà cụ bà lâu nay thương yêu mợ và tôi, giờ đến khi chết lại không để cho người được mát mặt một chút hay sao? Tôi nghĩ mợ là người có tài lo liệu việc lớn, cho nên tôi mời mợ đến làm chủ. Tôi sống theo hầu cụ bà. Nay cụ bà chết rồi, tôi cũng xin đi theo hầu cụ bà! Nếu công việc không lo liệu ra sao, thì sau này tôi còn mặt mũi nào mà gặp cụ bà nữa?
Phượng Thư nghe câu nói kỳ quặc, liền nói :
- Chị cứ yên tâm, muốn cho có thể diện thì khó gì. Tuy ông lớn nói muốn tằn tiện, nhưng nề nếp cũng phải giữ. Dẫu có đem hết số tiền ấy lo về việc cụ bà thì cũng là phải.
- Cụ bà trối lại rằng : những cái gì còn thừa sẽ để lại cho chúng tôi. Nếu mợ tiêu không đủ thì xin cứ đem những cái ấy bán đi mà bù vào. Dầu ông lớn có nói gì. cũng không thể trái lời trối lại của cụ bà. Vả lại lúc cụ bà dặn dò không phải là ông lớn
cũng ở đó và cũng nghe thấy hay sao ?
- Chị lâu nay vốn rất sáng suốt, tại sao giờ đây lại cuống quít lên như thế?
- Không phải tôi cuống quít, nhưng vì bà Cả thì cứ để mặc, ông lớn thì sợ tiếng tăm. Nếu trong bụng mợ mà cũng nghĩ như ông lớn cho là nhà đã bị tịch thu mà đám tang còn linh đình như thế, không khéo sau này sẽ bị tịch thu nữa. Rồi không nghĩ gì
đến cụ bà, thì còn ra thế nào? Tôi là con hầu, hay dở cũng không can gì, rút cục vẫn là quan hệ đến tiếng tăm ở đây !
- Tôi biết rồi. Chị cứ yên lòng. Đã có tôi.
Uyên ương hết sức cảm tạ và căn dặn mãi.
Phượng Thư đi ra, nghĩ bụng: “con Uyên ương kỳ quặc thật ? chẳng biết ý nó như thế nào? Cứ lý ra thì việc của bà mình cần phải có thể diện mới được. Chà ? Hãy mặc nó, mình cứ theo khuôn khổ nhà mình trước mà làm”. Rồi chị ta sai vợ Lai Vượng chuyển lời ra mời cậu Hai vào. Một lát Giả Liễn đi vào, hỏi :
- Tìm tôi làm gì ? Mợ ở trong này trông nom đôi chút là được. Đã có ông Hai làm chủ, ông nói thế nào thì mình cứ làm thế.
- Cậu cũng nói như thế, có phải là lời của Uyên ương ứng nghiệm rồi đấy không ?
- Uyên ương nói cái gì ?
Phượng Thư đem chuyện Uyên ương mời mình qua thuật lại đầu đuôi. Giả Liễn nói :
- Lời nói của bọn chúng kể làm gì ! Vừa rồi chú gọi tôi đến bảo: “Việc của bà đáng lẽ phải làm cho thật bề thế, nhưng người biết ra thì nói là tiền của bà để lại lo cho mình, người không biết lại nói chúng mình thu giấu đi, nên bây giờ rất là dư dật. Số bạc của bà dùng không hết, ai còn dám lấy, vẫn cứ phải dùng cho bà. Bà ở phương Nam tuy có đất mộ, mà chưa có lăng tẩm. Linh cữu của bà cần đưa về Nam. Dành số bạc đó để xây dựng một ít nhà cửa bên lăng tổ, còn thừa thì mua ít ruộng tế, rồi
chúng ta về ở đấy cũng hay; dầu không về thì để cho những người nghèo đói trong họ đến ở. Cũng tiện cho việc lo hương khói cúng tế.” Mợ nghĩ xem, nói thế không phải là đúng đắn hay sao ? Không nhẽ đem xài hết cả đi hay sao?
- Bạc đã phát ra chưa?
- Ai thấy bạc biếc gì đâu. Tôi thấy mẹ nghe lời nói của chú thì hết sức xui giục thím và chú, cho rằng: “ý ấy rất hay”. Thế thì bảo tôi còn biết làm thế nào. Hiện nay việc làm rạp bên ngoài cần phải chi mấy trăm bạc mà cũng chưa có đồng nào. Tôi
đi hỏi thì họ nói có đấy, nhưng bảo bên ngoài hãy biện lấy, rồi sau sẽ tính. Mợ nghĩ xem, bọn tôi tớ, thằng nào có tiền thì chuồn mất rồi. Theo số mà gọi, người thì nói ốm, người thì nói xuống trại, còn lại mấy người không chuồn được thì chỉ có tài bòn tiền, làm gì chịu xuất tiền.
Phượng Thư nghe nói. ngơ ngác một hồi lâu, rồi nói :
- Thế thì còn lo liệu quái gì được ?
Đang nói thì thấy một a hoàn đến nói:
- Bà Cả bảo hỏi mợ Hai, nay đã đến ngày thứ ba rồi, mà trong này còn rối beng. Cúng cơm rồi còn bắt bà con chờ hay sao? Gọi một hồi lâu, được thức ăn thì thiếu cơm, lo liệu thế nào lại như thế?
Phượng Thư vội vàng đi vào quát bảo người tới hầu, làm qua loa cho xong bữa cơm sớm. Ngày hôm đó. bà con lại tới rất đông, mà bọn người nhà bên trong đều trừng mắt trợn mày, đứng ỳ ra đó. Phượng Thư đành phải ở đấy trông nom. Lại nhớ đến cắt đặt người làm việc, chị ta vội vàng đi ra, bảo vợ Lai Vượng gọi bọn hầu gái đến đầy đủ, chia công việc cho tất cả mọi người. Họ vâng dạ nhưng vẫn đứng im. Phượng Thư nói :
- Bây giờ là lúc nào rồi mà các người còn chưa dọn cơm ?
Mọi người nói :
- Dọn cơm thì dễ, nhưng phải đưa đồ đạc trong ấy ra, chúng tôi mới sắp đặt được chứ.
Phượng Thư nói :
- Đồ lẩn thẩn ! Khi chia công việc cho các người xong rồi thì thế nào cũng có
Họ đành phải miễn cưỡng vâng lời.
Phượng Thư lập tức lên nhà trên để lấy các vật cần dùng, định đi hỏi Hình phu nhân và Vương phu nhân. Nhưng thấy người đông khó nói, mà xem chừng trời đã xế bóng rồi, chị ta đành phải đi tìm Uyên ương, định lấy một số đồ đạc của Giả mẫu để lại.
Uyên ương nói :
- Mợ còn hỏi tôi à? Năm nọ cậu Hai đem cầm đi, đã chuộc về chưa?
- Không cần đồ vàng đồ bạc, chỉ cần một số đồ thường dùng thôi.
- Những cái bên nhà bà Cả và mợ Trân dùng, lấy ở đâu ra đấy?
Phượng Thư nghĩ lại, quả nhiên không sai. Đành phải chạy đi tìm bọn Ngọc Xuyến và Thái Vân ở bên nhà Vương phu nhân, lấy được một số đồ đạc, vội vàng bảo Thái Minh ghi sổ rồi phát cho mọi người giữ lấy.
Uyên ương thấy Phượng Thư luống cuống như thế. gọi trở lại cũng không tiện, nghĩ bụng: “Mợ ta trước kia làm việc lanh lợi và chu đáo biết dường nào, sao nay bị lúng ta lúng túng như thế ? Mình xem ba bốn hôm nay, mợ ấy cứ lẩm ca lẩm cẩm.
thật là phụ lòng thương yêu của cụ bà!” Chị ta nghĩ vậy. chứ có biết đâu, Hình phu nhân khi nghe lời nói của Giả Chính, hợp với ý mình, đang lo cho việc nhà sau này khó khăn. chỉ trông mong để lại ít nhiều mà lo liệu việc sau. Vả lại việc của Giả mẫu vốn là do con trưởng làm chủ, Giả Xá tuy không ở nhà, nhưng Giả Chính là người câu nệ, gặp việc gì cũng cứ nói : “ Hỏi bà Cả xem sao ?” Hình phu nhân vốn biết Phượng Thư ăn tiêu rộng rãi. Giả Liễn thì lại hay dở trò ma, nên cố chết nắm chặt lấy.
Uyên ương chỉ nghĩ trong số bạc ấy đã phát ra rồi. Nên thấy Phượng Thư lúng túng như thế thì cho là không chịu hết lòng, liền ngồi bên linh sàng của Giả mẫu khóc lóc kể lể luôn miệng.
Hình phu nhân nghe trong lời khóc của chị ta có ý oán trách. Bà ta không nghĩ đến việc mình không cho Phượng Thư tùy ý làm việc, lại nói đổ :
- Con Phượng quả thật không chịu hết lòng ?
Đến đêm, Vương phu nhân gọi Phượng Thư đến và nói :
- Nhà mình tuy nói là sa sút, nhưng thể diện bên ngoài cũng phải giữ. Hai ba hôm nay người qua kẻ lại, ta xem bọn người kia trông nom không đến nơi đến chốn. Chắc là chị không đặn dò họ. Chị phải chịu khó lo hộ mới được ?
Phượng Thư nghe nói, ngơ ngác một lúc, định nói rõ rằng không đủ tiền bạc chi tiêu, nhưng việc tiền nong là việc ở người khác lo còn Vương phu nhân nói đây là việc trông nom không cllu đáo Vì vậy Phượng Thư chỉ đứng im không dám cãi lại.
Hình phu nhân ngồi một bên, nói :
- Đúng lý ra thì bọn con dâu chúng ta đây phải lo liệu, chứ không phải là việc của cháu dâu. nhưng bọn chúng ta không rành nên phải nhờ chị. Chị đừng có làm cái lối buông phóng tay đấy
Phượng Thư mặt đỏ bầm lên, đang định trả lời, thì nghe bên ngoài tiếng nhạc nổi lên, đã đến lúc hoàng hôn phải đốt vàng. Mọi người đều cất tiếng khóc, nên không nói được. Phượng Thư vốn nghĩ chốc nữa sẽ nói, nhưng Vương phu nhân giục chị ta
đi lo liệu và nói :
- ở đây đã có chúng ta rồi. Chị mau mau đi lo liệu việc ngày mai đi thôi.
Phượng Thư không dám nói nữa, đành phải buồn rầu nuốt lệ đi ra, rồi cho gọi mọi người đến đầy đủ. Dặn dò một hồi và nói
- Các bà, các thím thương tôi với. Tôi đã bị trên quở trách, là vì các người không trông nom đầy đủ, làm cho người ta chê cười. Ngày mai các người cố chịu khó nhọc thêm một tý.
Bọn người nhà trả lời :
- Mợ lo liệu công việc, không phải chỉ mới một lần này. Chúng tôi có dám ngang trái đâu. Nhưng mà công việc lần này, bề trên làm lôi thôi quá? Ngay như việc hầu hạ bữa cơm này, người thì ăn ở đây; người thì đòi ăn ở nhà. Mời được bà này, thì mợ kia lại không đến. Việc linh tinh như thế, làm sao cho chu đáo được? Xin mợ hãy khuyên các cô kia đừng bới móc quá mới được
- Thứ nhất là bọn a hoàn của cụ bà khó nói, mà bọn a hoàn của các bà cũng thế, thì còn bảo tôi nói với ai nữa ?
- Trước đây ở phủ Đông chẳng qua mợ chỉ làm thay, mà còn đánh, còn mắng họ, đanh thép như thế. Ai dám không nghe? Bây giờ lại không trị nổi các cô ấy à ?
Phượng Thư thở dài :
- Việc ở phủ Đông, tuy ta làm thay. Các bà cũng có ở đấy, nhưng không ai nói gì. Giờ đây việc của nhà mình, lại là việc chung, ai nói cũng được. Vả chăng việc tiền nong ở ngoài cũng chẳng thuận tiện gì. Ngay ở trong rạp cần có một vật, chuyển lời ra gọi mãi mà bên ngoài vẫn chẳng thấy đưa vào. Bảo tôi còn có cách nào nữa ?
- Cậu Hai ở ngoài. còn sợ không đưa vào đầy đủ hay sao?
- Còn nhắc cái đó nữa à? Cậu ấy ở ngoài ấy cũng lúng túng. Trước hết là tiền không có trong tay, muốn làm việc gì là phải trình báo thì thuận tiện sao được?
- Số tiền của cụ bà không ớ trong tay cậu Hai à ?
- Chốc nữa các người hỏi mấy người coi việc thì rõ.
- Chẳng trách chúng tôi nghe bọn đàn ông bên ngoài oán trách, nói: “Việc lớn như thế này mà bọn mình không sờ mó được được chút gì. Chỉ chịu khổ suông, thì người ta dốc lòng sao được?”
- Bây giờ không cần nói nữa. Công việc trước mắt các người để ý cho với. Nếu để bề trên còn quở trách thì tôi không nghe cho đâu.
- Mợ định như thế nào. chúng tôi dám oán trách đâu? Nhưng mà bề trên mỗi người mỗi ý, chúng tôi thật khó mà lo liệu chu đáo được.
Phượng Thư nghe nói cũng chẳng có cách gì. đành phải năn nỉ với họ :
- Các bà ạ? Ngày mai hãy giúp tôi một hôm. Tôi làm cho các cô ấy một mẻ thì mới xong.
Mọi người nghe lời đi ra.
Phượng Thư trong bụng uất ức càng nghĩ càng tức. Mãi đến khi trời sáng lại phải dậy trông nom. Chị ta định răn bảo bọn người ở các nhà. lại sợ Hình phu nhân đâm giận ; muốn nói với Vương phu nhân thì khốn nổi lại bị Hình phu nhân ton hót, xui giục. Bọn a hoàn thấy Hình phu nhân không bênh vực Phượng Thư, nên càng giày vò chị ta. May có Bình Nhi bày tỏ hộ cho Phượng thư. Chị ta nói :
- Mợ Hai cũng chỉ cốt trông nom lo liệu cho tử tế. nhưng vì ông lớn và các bà dặn bảo bên ngoài không được xa phí. cho nên mợ Hai cũng không thể lo liệu cho đến nơi đến chốn được.
Bình Nhi nói đi nói lại mấy lần. nên họ mới hơi yên.
Mọi việc như mời hòa thượng đọc kinh sám hối, điếu tế cúng cơm liên tiếp không ngớt, nhưng rút cục vì chi tiêu keo sẻn quá nên không ai chịu hăng hái, chẳng qua chỉ làm qua loa cho xong chuyện. Liên tiếp mấy ngày, các vi vương phi và các hà
quan tới rất đông. Phượng Thư cũng không thể lên trên trông nom, chỉ ở dưới nhà sắp đặt. Gọi được người này thì người khác chạy mất. Phượng Thư hết gào thét lại van xin. làm xong việc này lại lo đến việc khác, chưa nói bọn Uyên ương thấy việc đinh đám chẳng ra sao đâm bực mình. mà chính trong lòng Phượng Thư rất là áy náy. Hình phu nhân tuy nói là dâu cả, nhưng cứ lấy cớ bốn chữ ”thương xót là hiếu” nên việc gì cũng cứ để mặc. Vương phu nhân đành phải theo Hình phu nhân mà làm. Còn các người khác thì không cần phải nói nữa.
Chỉ có Lý Hoàn thấy rõ nỗi khổ tâm của Phương Thư. nhưng lại không dám nói, chỉ than thở một mình : tục ngữ có câu: “hoa mẫu đơn dầu đẹp, toàn nhờ lá xanh nâng niu. Các bà mà không nhờ thím Phượng thì đời nào họ còn giúp cho nữa? Nếu cô Thám Xuân ở nhà còn khá. nhưng bây giờ chỉ còn có mấy người nhà thím ấy lo suông; trước mặt sau lưng, ai cùng oán trách. Họ nói một đồng tiền không vớ được, thể diện cũng chẳng còn chút nào! Ông lớn thì chỉ một mực lo tròn chữ hiếu. Mọi việc
không thông hiểu lắm. Việc lớn như thế. không bỏ ra ít tiền mà lo liệu thì xong. được hay sao? Thật đáng thương cho thím Phượng ăn lo mấy năm trời, không ngờ nay đến việc cụ bà. có lẽ không gĩư được thể diện nữa đấy”.
Vì thế. nhân lúc rảnh, chị ta gọi người nhà lại và dặn:
- Bọn các người đừng có bắt chước người ta quấy rầy mợ Hai Liễn. Đừng tưởng rằng các người mang áo tang, ngồi khóc lóc bên linh cữu là việc lớn đâu. Nếu thấy họ lo liệu không kịp thì phải dúng tay và làm giúp cũng là nên. việc là việc chung, mọi người đều phải ra sức.
Những người vốn phục Lý Hoàn đều vâng lời và nói:
- Mợ cả nói rất đúng, chúng tôi cũng không dám như thế. Nhưng nghe giọng nói cô Uyên ương xem chừng oán trách mợ Hai LIễn đấy.
Lý hoàn nói:
- Tôi cũng nói với cô Uyên ương rồi, Tôi bảo mợ Hai lIễn hoàn toàn không phải không hết lòng với việc cụ bà, nhung tiền bạc không ở trong tay mợ ấy, bảo nàng dâu có khéo mấy cũng không thể nấu cháo nếu không có gạo. Nay Uyên Uơng đã biết rồi nên cũng không trách mợ ta nữa. Nhưng bộ dạng Uyên ương không giống như trước, thật là kỳ quái. Lúc cụ bà thương yêu, chị ta không hề làm oai phúc gì cả, bây giờ cụ bà chết rồi, chị ta không có người để dựa nữa, thế mà tôi xem tính khí chị ta lại không hiền lành như trước. Trước đây tôi lo thay cho chị ta, bây giờ may mà ông Cả không có nhà, nếu không thì lại xảy ra chuyện.
Đang trò chuyện thì Giả Lan chạy đến nói:
- Mẹ đi ngủ đi thôi. Từ sáng đến giờ người qua khách lại, mẹ mệt lắm rồi, nên nghỉ một chút. Mấy ngày nay con không sờ đến sách, hôm nay ông bảo con về nhà ngủ, con mừng quá, phải ôn lại một vài quyển mới được, kẻo đến khi hết trở lại quên hết.
Lý hoàn nói:
- Con ạ, đọc sách cố nhiên là rất phải, nhưng hôm nay hãy nghỉ đã, chờ đưa đám cố xong sẽ học.
- Mẹ muốn ngủ thì con ngủ, nhưng nằm trong chăn ôn nhớ lại cũng được.
Mọi người nghe nói đều khen:
- Anh giỏi thật. sao mới chừng ấy tuổi mà lúc nào cũng nhớ đến sách? Chẳng bù với cậu hai bảo, có vợ rồi mà vẫn tính khí trẻ con. Mấy hôm nay theo ông lớn quỳ. xem chừng cậu ta khó chịu lắm, chỉ mong ông lớn quay người đi một tý là chạy đi tìm mợ Hai. không biết rầm rầm rì rì nói những chuyện gì. Thậm chí cậu ấy làm cho mợ Hai cũng không nhìn nữa. Cậu ấy lại đi tìm cô Cầm. Cô Cầm cũng tránh đi. CÔ Hình cũng ít nói chuyện với cậu ta lắm. Chi có người họ nhà mình là cô Hỷ và cô Tư nào
đó cứ một anh hai anh, trò chuyện thân mật với cậu ta. Chúng tôi xem chừng cậu hai Bảo trừ việc quấn quít với các mợ, các cô ra, có lẽ trong bụng chẳng nghĩ đến việc gì khác. Thật là phụ lòng cụ bà đã trót thương yêu cậu ta lớn bằng chừng ấy. Thật cậu ấy không bằng anh Lan lấy một ly. Mợ Cả sau này không phải lo gì nữa.
Lý Hoàn nói :
- Nó dù khá, nhưng vẫn còn nhỏ. Chỉ lo khi nó lớn lên, nhà mình chẳng biết rồi ra thế nào! Còn thằng Hoàn thì các người xem ra sao?
- Cái anh ấy thì lại càng chẳng ra gì nữa. Hai mắt cứ y như là mắt khỉ sống, hết liếc bên này lại liếc hên kia. Tuy là gào khóc ở đây, nhưng khi thấy các mợ các cô đến, anh ta ở trong màn tang cứ liếc mắt nhìn trộm!
- Thực ra thì tuổi nó cũng lớn rồi. Trước đây nghe nói định dạm vợ cho nó đấy. nhưng bây giờ lại phải chờ rồi. ái chà? Còn có một việc: những người của nhà chúng ta đây, tôi xem thì nói cũng không hết lời được! Hãy khoan nói chuyện dông dài, hôm sau đi đưa đám thì xe cộ các phòng như thế nào ?
- Mợ hai Liễn mấy hôm nay công việc bối rối, như người mất hồn, cũng không thấy nhắc nhở gì cả. Hôm qua nghe bọn đàn ông ở ngoài nói: “cậu Hai sai cậu Tường lo liệu, bảo rằng xe nhà mình không đủ, mà người đẩy xe cũng ít, phải đi mượn xe
của nhà bà con đấy.”
- Xe cũng mượn được à?
- Mợ lại nói đùa rồi, sao lại không mượn được? Nhưng hôm đó tất cả bà con đều dùng xe, chỉ sợ khó mượn, có lẽ phải thuê nữa ấy.
- Xe những người bề dưới ngồi thì đành phải thuê, còn xe trắng người bề trên ngồi cũng thuê được hay sao ?
- Hiện giờ bà Cả, mợ Cả ở phủ Đông và mợ Dung bé đều không có xe, không thuê thì làm gì có?
Lý Hoàn nghe nói, than thở:
- Trước kia hễ thấy các mợ, các bà con nhà mình ngồi xe thuê thì bọn mình đều chê cười, giờ đây đến lượt mình rồi ? Các chị ngày mai nói với các anh: “sửa soạn xe ngựa của chúng tôi cho sớm để khỏi chen chúc.”
Mọi người vâng lời đi ra.
Sử Tương Vân vì chồng ốm, sau khi Giả mẫu chết chỉ đến có một lần. Bấm đốt ngón tay, hôm sau là ngày đưa đám, không thể không đến, lại thấy chồng đã mắc bệnh lao, tạm thời chưa can gì, nên trước hôm đưa đám một ngày thì cô ta sang. Nghĩ đến
ngày thường Giả mẫu thương yêu mình, lại nghĩ đến số mình khổ sở vừa lấy được người chồng tài mạo song toàn, tính tình hòa nhã, không ngờ mắc phải chứng bệnh oan nghiệt, chỉ còn chờ từng ngày mà thôi, nên càng thêm đau xót. Cô ta khóc mãi đến nửa đêm. bọn Uyên ương cố khuyên lơn an ủi mãi.
Bảo Ngọc nhìn thấy cô ta, cũng khôn xiết đau lòng, nhưng tới khuyên thì không tiện, thấy cô ta án mặc đồ trắng, son phấn không xoa, mà so với lúc chưa đi lấy chồng còn đẹp hơn nhiều. Ngoảnh lại, thấy bọn Bảo Cầm cũng đều ăn mặc đồ trắng
mà phong vận tuyệt vời. Riêng nhìn đến Bảo Thoa thì thấy chị ta mặc toàn đồ tang, cái dáng điệu phong nhã so với khi ăn mặc hoa hòe lại càng khác hẳn. Bảo Ngọc nghĩ bụng : “ Người xưa nói : muôn hồng ngàn tía. rút cục phải nhường hoa mai làm đầu. Xem ra thì chẳng những hoa mai nở sớm, mà bốn chữ “Sạch, trắng, trong, thơm” thật không có gì bì kịp. Nhưng nếu lúc này mà có em Lâm, cũng ăn mặc như thế, thì không biết còn xinh đẹp đến thế nào nữa !
Bảo Ngọc nghĩ đến đó, cảm thấy trong lòng chua xót, nước mắt trào ra. Nhân tiện có việc tang Giả mẫu. nên cất tiếng khóc to lên cũng không ngại gì.
Mọi người đang khuyên Tương Vân, thì thấy phía ngoài lại thêm một người khóc nữa. Ai cũng tưởng là anh ta nghĩ đến Giả mẫu thương yêu, cho nên khóc lóc. Không biết rằng hai người đều có nổi đau xót riêng của mình. Lần khóc này làm cho cả nhà
ai cũng đều rơi lệ. Tiết phu Nhân và thím Lý khuyên mãi mới thôi.
Ngày sau là ngày chực đêm càng thêm nhộn nhịp. Hôm đó Phượng Thư không gắng gượng nổi, cũng chẳng có cách gì đành phải cố hết sức, đến nỗi gào mãi khản cả cổ, bôi bác qua loa nửa ngày: Đến buổi chiều. bà con bạn hữu đến càng đông,
công việc càng tới tấp, nhìn trước mất sau. Phượng Thư đang hoảng lên, thì thấy một a hoàn nhỏ chạy tới, nói :
- Mợ Hai ở đây à? Chẳng trách bà Cả nói : trong nhà nhiều người mà trông nom không xiết, mợ Hai thì tránh đi cho khỏe rồi .
Phượng Thư nghe câu nói ấy, cố gắng nén nỗi bực tức, nước mắt trào ra, cảm thấy trước mặt tối sầm, trong cổ ngòn ngọt, liền hộc máu tươi ra, người đứng không vững, ngã xuống đất. May có Bình Nhi vội vàng chạy lại đỡ lấy, thấy Phượng Thư cứ hộc mãi ra từng cục máu.
Hồi thứ một trăm mười một
Gả Uyên Ương theo chủ lên chầu trời
Hầu chó lớn đem người về cướp của
Phượng Thư nghe a hoàn nhỏ nói, vừa sốt ruột vừa tức giận, lại đau lòng, bất giác thổ ra một cục máu rồi mê man ngồi phệt xuống đất. Bình Nhi vội vàng tới đỡ và gọi người từ từ dìu về phòng. Đặt nằm trên giường, rồi lập tức bảo Tiểu Hồng rót một chén nước đưa lên miệng Phượng Thư.
Phượng Thư nhấp một miếng nhưng vẫn nằm mê mệt. Thu Đồng qua nhìn một tí rồi đi ra. Bình Nhi cũng không gọi lại.
Thấy Phong Nhi đứng một bên. Bình Nhi liền nói :
- Mau mau đi báo tin cho hai bà biết.
Phong Nhi liền đem việc Phượng Thư thổ huyết không thể trông coi công việc, trình lại với Hình phu nhân và Vương phu nhân. Hình phu nhân tưởng là Phượng Thư giả ốm để trốn tránh. Trong bụng không tin lắm. Nhưng lúc ấy bà, con, đàn bà đều ở đấy nói ra không tiện, nên chỉ nói :
- Bảo chị ta nghỉ thôi.
Mọi người cũng không nói gì. Đêm ấy, cố nhiên là bà con bạn hữu qua lại không ngớt, may nhờ được mấy người bà con trông nom hộ. Bọn người nhà thấy Phượng Thư không ở đấy, cũng có người thừa cơ nghỉ trộm, làm bừa bãi lung tung, không ra sự thể gì cả.
Đến canh hai, sau khi khách xa đã về, liền sửa soạn làm lễ từ linh (1) Bọn con cháu đàn bà ở trong màn tang đều khóc. Uyên Ương khóc lóc mê đi. Mọi người vực chị ta dậy, xoa bóp một hồi mới tỉnh. Chị ta cứ nói :
- Lâu nay cụ thương yêu tôi, giờ tôi nhất định đi theo cụ.
Mọi người cho rằng người ta đến lúc thương khóc quá, thì hay nói thế, nên cũng không để ý. Đến lúc làm lễ từ linh, trên dưới cả thảy có hơn trăm người, chỉ thiếu Uyên Ương. Mọi người vì đang rối rít nên cũng không hỏi đến. Đến lúc tất cả bọn Hổ Phách khóc tế, không thấy Uyên Ương, cứ tưởng rằng chị ta khóc mệt quá, tạm nghỉ ở nơi nào đó, nên cũng không nói gì. Làm lễ từ linh xong, Giả Chính ở ngoài gọi Giả Liễn hỏi :
- Việc đưa đám, và bàn việc cắt người coi nhà.
Giả Liễn nói :
- Ở nhà thì cắt cháu Vân trông nom, bất tất phải đưa đám; về người hầu thì cắt cả nhà Lâm Chí Hiếu ở lại trông nom các việc dỡ rạp. Nhưng không biết ở trong thì cắt ai coi nhà ?
Giả Chính nói :
- Nghe mẹ cháu nói vợ cháu ốm không đi được, thì để nó ở nhà. Chị cả Trân lại nói vợ cháu đau nặng lắm, phải bảo con Tư ở cùng, dẫn mấy người a hoàn và bà già trông nom ở nhà trên mới được.
Giả Liễn nghe nói, nghĩ bụng : “ Chị cả Trân và cô Tư không hòa hợp với nhau. nên xui giục không cho cô ta đi. Nếu trên ấy mà để cô ta trông nom, thì cũng không ăn thua. Vợ mình lại ốm, cũng khó mà trông coi được.
Giả Liễn nghĩ một lát rồi nói :
- Tức là làm lễ đưa linh cữu ra khỏi nhà . Chú hãy nghỉ một chút, để cháu vào bàn cho rõ ràng rồi sẽ thưa lại.
Giả Chính gật đầu, Giả Liễn liền vào nhà trong. Không ngờ lúc đó Uyên Ương khóc một trận. rồi nghĩ bụng : “Mình suốt đời theo hầu cụ bà, thân mình cũng chưa biết sau này ra sao. Giờ đây ông Cả tuy không ở nhà, nhưng cách ăn tiền của bà Cả như thế, mình cũng lấy làm gai mắt quá. Ông Hai là người không nhìn đến công việc, rồi sau này chẳng khác thời loạn ai nấy cũng sẽ xưng vương xưng tướng cả. Chúng mình lại không bị họ hành hạ hay sao. Rồi đứa thì lấy làm lẽ mọn, đứa thì gả cho bọn hầu trai. Mình thật không thể nào chịu được sự đày đọa ấy, chi bằng chết đi cho rảnh ! Nhưng giờ đây biết chết bằng cách nào ? Uyên Ương vừa nghĩ vừa chạy vào gian trong nhà Giả mẫu. Vừa bước qua cửa thì thấy bóng đèn ảm đạm thấp thoáng có một người con gái tay cầm cái dây lưng, bộ dạng hình như muốn thắt cổ. Uyên Ương cũng không sợ, nghĩ bụng : “ Người ấy là ai! Cũng đồng bụng với ta mà lại đi trước ta vào con đường ấy rồi “ Cô ta liền hỏi :
- Chị là ai ? Hai chúng mình cũng đồng một lòng, muốn chết thì ta cùng chết một chỗ.
Người ấy không nói gì. Uyên Ương chạy đến xem thì không phải là người ả hoàn trong nhà này. Nhìn kỹ, cảm thấy khí lạnh rởn người, bỗng chốc không thấy đâu nữa.
Uyên Ương ngơ ngác một hồi, lui ra ngồi trên mép giường, nghĩ kỹ một lúc, rồi nói :
- Thôi ? Phải rồi ! Chị ấy là mợ cả Dung bên phủ Đông đấy! Mợ ấy chết rồi, sao lại đến đây ? Nhất định là đến gọi ta đây. Nhưng tại sao chị ta lại thắt cổ ?
Uyên ương nghĩ một lát, lại lẩm bẩm một mình :
- Chắc là mợ ấy bày vẽ cho ta cách chết đấy.
Uyên Ương nghĩ như thế, thấy hơi lạnh thấu vào xương, liền đứng dậy vừa khóc vừa mở hộp trang sức, lấy cái nắm tóc đã cắt từ năm xưa giấu vào trong người rồi cởi dây lưng ra, theo đúng chỗ Tần thị đứng vừa rồi mà buộc lên, chị ta lại khóc lóc một hồi nữa. Khi nghe bên ngoài khách đã tan rồi. Sợ có người nên vội vàng đóng cửa lại, rồi đặt một cái ghế đứng lên trên lồng vòng dây lưng thắt vào cổ.
Sau đó lấy chân đẩy cho cái ghế đổ lăn. Thương thay? Thế là chị tắt thở. Hồn thiêng thoát ra ngoài xác thịt ! Đang lúc hồn phách của Uyên Ương chưa thiếp đi đâu. thì thấp thoáng trông thấy Tần thị ở đằng trước. Chị ta vội vàng theo lại. và nói :
- Mợ cả Dung ơi, chờ tôi với.
Người kia nói :
- Tôi chẳng phải là mợ cả Dung nào cả, mà là em gái nàng tiên Cảnh Ảo. Tên là Khả Khanh đây.
- Chị rõ ràng là mợ cả Dung. Sao lại nói không phải ?
- Việc này cũng có duyên cớ, để tôi nói với chị sẽ rõ. Nguyên trong cung Cảnh Ảo.Tôi vốn đứng đầu trong lớp chung tình, trông coi duyên nợ gió trăng. Khi xuống trần gian, phải làm người tình nhân thứ nhất, để đưa bọn con gái si tình mau mau về ty tình. Vì thế tôi phải treo mình trên xà nhà thắt cổ. Nhưng tôi hiểu rõ tình đời thoát ra bể ái, về với trời tình ; nên tuy si tình trong Thái hư ảo cảnh, không có người trông coi. Nay nàng tiên Cảnh Ảo đã lấy chị xung vào, thay tôi trông coi ty ấy. Cho nên sai tôi đi dẫn chị đến đây.
- Tôi là người rất vô tình. Tại sao lại cho tôi là người có tình ?
- Chị còn chưa biết. Người đời đều cho việc dâm dục là tình, vì thế mà gây ra chuyện thương phong bại tục, lại còn tự cho là trăng gió đa tình. Không quan hệ gì. Họ không hiểu mừng, giận, buồn, vui chưa lộ ra thì đó là tính. Mà lúc đã lộ ra rồi. thì đó là tình. Đến như tình của tôi và chị, chính là cái tình chưa lộ ra. Cái tình như bông hoa còn đang nụ. Nếu chờ phát tiết ra rồi, thì cái tình ấy không phải là chân tình nữa.
Hồn của Uyên ương gật đầu hiểu ý. Nên theo Tần Khả Khanh mà đi, ở trong nầy Hổ Phách dự lễ từ linh xong, nghe Hình phu nhân và Vương phu nhân cắt người coi nhà. Chị ta định đi hỏi Uyên Ương xem ngày mai ngồi xe ra sao, liền vào nhà Giả mẫu tìm khắp nơi không thấy, lại tìm nốt gian bên trong. Vừa đến nơi, thấy cửa khép lại, chị ta ghé nhìn qua khe cửa thấy bóng đèn le lói mờ mờ tỏ tỏ, trong bụng khiếp sợ, và cũng không nghe trong nhà có tiếng tăm gì, liền chạy trở ra và nói :
- Con ranh chạy đi đâu rồi ?
Vừa lúc đó thì gặp Trân Châu. Hổ Phách liền hỏi :
- Chị có thấy chị Uyên Ương không ?
- Tôi cũng đang tìm chị ấy. Các bà đang chờ chị ta nói chuyện đấy. Chắc lại ngủ ở gian nhà trong chứ gì .
- Tôi đã nhìn trong nhà không có, đèn thì không ai cắt hoa, tối lờ mờ đáng sợ. Tôi không vào. Bây giờ chúng mình cùng đi vào xem sao ?
Bọn Hổ Phách vào đặng cắt hoa đèn thì Trân Châu nói :
- Ai đem cái ghế chân vứt ở đây, tí nữa làm tôi vướng ngã ?
Nói xong, ngước mắt nhìn lên, bỗng chị thét to một tiếng :
- Ôi trời !
Rồi ngã ngửa ra sau, đè lên người Hổ Phách. Hổ Phách cũng trông thấy, liền gào to lên, hai chân mềm nhũn không đi được nữa. Người bên ngoài nghe thấy, liền chạy vào xem. Mọi người kêu ầm lên, rồi báo cho Hình phu nhân và Vương phu nhân
biết. Vương phu nhân và Bảo Thoa nghe nói, đều khóc lóc tới xem. Hình phu nhân nói :
- Tôi không ngờ Uyên Ương có chí khí như thế ? Mau mau cho người đi trình ông lớn.
Bảo Ngọc nghe được tin ấy, khiếp quá, hai mắt trợn ngược lên. Bọn Tập Nhân vội vàng đỡ lấy và nói :
- Cậu muốn khóc thì cứ khóc, đừng có nín hơi.
Bảo Ngọc cố liều khóc oà lên. Anh ta nghĩ bụng :
- Chị Uyên ương. Người như thế mà lại chết một cách lạ nhỉ ? Thật là khí thiêng trong trời đất, chỉ vun đúc riêng vào những người con gái ! Chị ta như thế là chết đúng chỗ rồi đấy. Bọn mình rốt cuộc chỉ là những đồ dơ đục, trong số con cháu bà, ai mà theo kịp chị ta ?” .
Nghĩ đến đó, anh ta lại đâm ra vui mừng. Lúc đó Bảo Thoa nghe Bảo Ngọc khóc ầm lên, liền đi ra. Khi đến nơi thì thấy anh ta lại cười.
Bọn Tập Nhân hoảng sợ nói :
- Nguy to ? Cậu lại muốn điên rồi !
Bảo Thoa nói :
- Không can gì đâu. Cậu ấy đang nghĩ gì đấy thôi.
Bảo Ngọc nghe nói, càng thích thú với lời nói của BảoThoa, nghĩ bụng : “Rốt cuộc chỉ có chị ta là hiểu bụng mình, người khác làm gì mà biết”. Bảo Ngọc đang nghĩ ngợi lan man thì bọn Giả Chính vào. Giả Chính đau xót than thở :
- Con bé giỏi quá ! Thật không uổng mẹ thương yêu nó lâu nay.
Rồi ông ta bảo Giả Liễn :
- Đi ra bảo người mua quan tài và nhập liệm ngay trong đêm nay, ngày mai cùng đưa theo và đặt ở sau quan tài của bà để cho trọn tấm lòng của nó.
Giả Liễn vâng lời đi ra.
Ở trong này, ông sai người đem xác Uyên ương xuống và đặt vào nhà trong.
Bình Nhi nghe xong, liền đi qua cùng tất cả bọn Tập Nhân và Oanh Nhi khóc lóc rất là thảm thiết. Trong bọn đó riêng có Tứ Quyên cũng nghĩ đến số phận của mình, chưa biết sau nầy ra sao cả. Giận mình không biết theo cô Lâm mà đi, để
trọn ơn nghĩa tớ thầy, lại cũng được nơi chết xứng đáng. Giờ đây ở trong nhà Bảo Ngọc cũng là ở sướng. Tuy rằng Bảo Ngọc vẫn thân mật dịu dàng, nhưng rốt cuộc cũng chẳng ra sao. Do đó chị ta lại càng khóc lóc thảm thiết.
Vương phu nhân lập tức cho người gọi chị dâu Uyên Ương vào, bảo chị ta trông coi việc nhập liệm. Lại bàn với Hình phu nhân, trích trong số tiền của Giả mẫu. cho chị ta một trăm lạng bạc và nói :
- Chờ lúc rảnh sẽ đem tất cả đồ đạc của Uyên Ương cho nhà chị ta hết.
Chị dâu Uyên Ương khấu đầu đi ra, lòng vui mừng, nói :
- Thật cô nhà mình là người có chí khí, có phúc phận, đã được tiếng tốt, lại được tống táng tử tế !
Một bà già đứng bên cạnh nói :
- Thôi đi chị ! Bây giờ chị đem cô em bán đi một trăm lạng bạc thì vui mừng như thế. Chứ nếu năm nọ mà gả cho ông Cả chưa biết chị được bao nhiêu bạc. Chắc chị lại càng đắc ý hơn nữa đấy.
Câu nói ấy chạm vào lòng chị ta. Chị ta đỏ mặt bỏ đi nơi khác.
Vừa ra đến cửa thứ hai, thì thấy Lâm Chí Hiếu dẫn người khiêng quan tài vào. Chị ta đành phải theo vào giúp việc nhập liệm và giả vờ gào khóc mấy tiếng.
Giả Chính nghĩ Uyên ương chết vì Giả mẫu, nên thắp ba tuần hương. Vái một vái và nói :
- Chị ta là người chết theo cụ, không thể xem như ả hoàn, bọn bậc dưới chúng bay đều nên làm lễ.
Bảo Ngọc nghe nói, mừng không kể xiết. Liền chạy lại kính cẩn khấu đầu mấy cái.
Giả Liễn nghĩ chị ta ngày thường tử tế. Cũng định tới làm lễ, nhưng Hình phu nhân nói :
- Một vị chủ nhà làm lễ là được rồi, đừng làm quá phận. Nó không đương nổi, thì lại không được siêu sinh.
Giả Liễn nghe nói không tiện tới làm lễ nữa. Bảo Thoa nghe vậy trong lòng áy náy liền nói :
- Đối với chị ấy, tôi đáng lẽ không nên làm lễ, nhưng bà qua đời, chúng ta đều có duyên nợ chưa dứt ra được, nên không dám làm càn. Chị ấy thay chúng ta làm tròn đạo hiếu ; chúng ta cũng nên nhờ chị ấy thay chúng ta hầu hạ bà trên trời. Đó cũng là để tỏ hết chút lòng thành của chúng ta.
Nói xong, Bảo Thoa vịn vào Oanh Nhi đi đến trước linh cữu vừa rót rượu, vừa khóc sướt mướt. Rót rượu xong, chị ta lạy mấy lạy, khóc lóc thảm thiết một hồi.
Thấy vậy, cũng có người nói hai vợ chồng Bảo Ngọc đều là si ngốc , cũng có người nói hai vợ chồng họ bụng dạ tử tế ; cũng có người nói chị ta là người biết lễ. Giả Chính thì lấy làm vừa lòng.
Lúc đó đã hàn định xong, người coi nhà vẫn là PhượngThư, và Tích Xuân. Còn lại thì đều đi theo linh cữu. Suốt đêm không ai dám ngủ.
Vừa đến canh năm, người ngoài đã đến đầy đủ. Đến đầu giờ Thìn thì phát dẫn. Giả Chính làm con trưởng, ăn mặc đồ tang và khóc lóc hết đạo làm con. Linh cữu ra khỏi cửa, liền có lễ tế trên đường đi của các nhà. Dọc đường quang cảnh như thế
nào không cần nói kỹ. Độ nửa ngày, đến chùa Thiết Hạm, đặt linh cữu ở đấy. Đàn ông đều phải ngủ lại trong miếu.
Ở nhà, bọn Lâm Chí Hiếu dẹp đồ đi. Lắp cánh cửa lại tử tế quét dọn sân nhà sạch sẽ, cắt người tuần phòng, tối đến cầm canh và thức đêm trông nom.
Ở phủ Vinh vẫn có cái lệ bắt đầu đến canh hai thì đóng cửa thứ hai lại. Đàn ông không được vào, chỉ có đàn là canh phòng mà thôi .
Cách một đêm, tinh thần của Phượng Thư tuy đã dần dần tỉnh táo, nhưng vẫn chưa đi được. Chỉ có Bình Nhi cùng Tích Xuân đi đến các nơi một lượt, dặn dò những người canh đêm, rồi ai về phòng ấy.
Năm ngoái khi Giả Trân sang coi hộ việc nhà. Con nuôi của Chu Thụy là Hà Tam, đánh nhau với Bào Nhị, nên bị Giả Trân đánh cho một trận, đuổi ra ở ngoài. Từ đó hắn suốt ngày sống ở sòng hạc. Gần đây nghe tin Giả mẫu chết, hắn chắc mừng
là có ít nhiều việc có thể nhận làm. Không ngờ thăm dò mấy ngày, chẳng vớ được món gì, hắn liền than thở trở về sòng bạc, rầu rầu ngồi xuống. Bọn người kia liền hỏi :
- Anh Ba! Anh không xuống mà gỡ vốn à ?
Hà Tam nói :
- Cũng tường là gỡ vốn, nhưng không có tiền.
- Anh đến chỗ nhà ông Chu mấy hôm nay, chắc vớ được bao nhiêu tiền trong phủ ấy rồi, lại vờ làm bộ túng bẩn với chúng tôi à ?
- Các anh đừng nói nữa. Vàng bạc của bọn họ không biết là mấy trăm vạn. Nhưng cứ cất giấu đi không chịu tiêu. Sau nầy không phải cháy nhà thì cũng bị mất trộm, khi đó họ mới chịu.
- Anh lại nói láo chứ nhà họ bị tịch thu rồi làm gì mà còn nhiều vàng bạc thế ?
- Các anh còn chưa biết. Số của bị tịch thu đó chỉ là những thứ vứt không hết đấy thôi. Giờ đây, cụ bà chết, còn để lại rất nhiều vàng hạc, bọn họ không tiêu một đồng, còn để cả trong nhà cụ bà, chờ đưa đám về rồi mới chia nhau.
Trong bọn họ có một người nghe xong để ý, gieo qua loa mấy hột xúc xắc, rồi nói :
- Tôi thua mất mấy đồng tiền cũng chẳng thèm gỡ vốn nữa, đi ngủ thôi.
Nói xong hắn liền chạy ra, nắm lấy Hà Tam và nói :
- Anh Ba, tôi nói với anh câu này.
Hà Tam theo ra. Người ấy nói :
- Anh là người khôn ngoan, mà lại chịu túng bấn như thế. Tôi cũng giận thay cho anh ?
- Số tôi túng bẩn còn biết làm cách gì ?
- Vừa rồi anh nói đến tiền bạc của phủ Vinh nhiều như thế, sao không đi kiếm một ít mà tiêu ?
- Anh ơi, vàng bạc của họ tuy nhiều, nhưng hôm kia mình đi xin một vài đồng, đời nào họ cho.
- Họ không cho, mình lại không biết lấy hay sao ?
Hà Tam nghe câu nói ấy có ngụ ý, vội vàng hỏi :
- Theo ý anh thì làm thế nào mà lấy được ?
- Tôi đã nói anh là người không có tài, nếu như tôi thì tôi đã lấy được rồi.
- Anh có tài gì mà lấy ?
Người ấy liền nói khẽ :
- Anh mà muốn phát tài, thì chịu khó đi đẫn đường. Tôi có một số bạn, đều là dân tài nghệ tuyệt vời. Đừng nói là bọn họ đi đưa đám rồi. Ở nhà chỉ còn mấy người đàn bà, chứ dù có bao nhiêu đàn ông đi nữa cũng không sợ!...Chỉ sợ anh non gan không dám chơi thôi.
- Làm gì mà dám với không dám? Anh tưởng tôi sợ cái lão cha nuôi ấy hẳn.Tôi nghĩ đến tình nghĩa của mẹ nuôi. Tôi mới nhận ông ấy là cha nuôi đấy thôi ! Câu nói của anh vừa rồi, tôi chỉ sợ làm không nổi, thì lại xảy ra nguy hiểm. Bọn họ thì cửa quan nào lại không quen ? Chưa nói là lấy không được. Chứ có lấy được cũng sẽ sinh chuyện.
- Như thế là vận đỏ của anh đến rồi đấy ? Bọn bạn tôi, còn cả người ở ven biển nữa, hiện nay đều ở đây cả. Nếu công việc xong xuôi, chúng mình ở đây cũng vô ích, chi bằng mọi người đều đi xuống ven biển mà tiêu xài cho sướng, thế chẳng tốt hay sao ? Nếu anh không dứt tình với bà mẹ nuôi được thì đem cả bà ta đi, cả lũ chúng mình chơi cho thích, có tốt không ?
- Ông cả, ông say rồi à ? Nói nhảm gì thế ?
Nói xong, hắn ta dắt người ấy đến một nơi vắng vẻ. Hai người bàn bạc một hồi, rồi mỗi người đi một nơi.
Bao Dũng từ lúc bị Giả Chính quát mắng, sai đi coi vườn. Lúc việc tang Giả mẫu xảy ra, vì bận rộn nên không sai khiến gì anh ta. Anh ta cũng không để ý, cứ làm lấy mà ăn, buồn thì nằm ngủ, thức dậy thì hoa dao múa gậy, chẳng ai gò bó gì. Hôm đưa đám Giả mẫu. Anh ta cũng biết, nhưng vì không ai sai phái, nên cứ tha hồ rong chơi. Bỗng thấy một ni cô, dẫn một đạo bà tới gõ cửa cánh trong vườn. Bao Dũng chạy lại hỏi :
- Bà vãi. Bà đi đâu ?
Người đạo bà nói :
- Hôm nay nghe nói việc cụ đã xong, mà không thấy cô Tư đi đưa đám, chắc là coi nhà. Sợ cô ta hiu quạnh, nên sư phụ chúng tôi tới thăm cô ta một chút.
- Chủ nhà đều đi vắng. Cửa vườn do tôi trông coi. Mời các bà về đã. Nếu muốn đến thì chờ các vị chủ nhà về hãy đến.
- Anh quay mặt đi đâu thế ? Anh dám cản việc đi lại của chúng tôi à ?
- Tôi ghét bọn các bà. Tôi không cho các bà đến, thì các bà làm gì nào ?
Người đạo bà tức quá, gào lên :
- Thật là ngược đời. Ngay cả khi sinh thời cụ bà cũng không thể ngăn cấm được chúng ta đi lại. Mày là tên cướp ở đâu đến mà láo xược như thế. Ta cứ đi xem nào !
Nói xong bà ta liền dang tay đập mạnh mấy cái lên vòng cửa. Diệu Ngọc giận quá, không nói năng gì, đang định quay về không ngờ bà già coi cửa thứ hai, nghe có người cãi nhau, vội vàng mở cửa ra xem. Thấy Diệu Ngọc đã quay ra, biết chắc là vì Bao Dũng làm mất lòng cô ta. Lâu nay bọn bà già đều biết các bà và Tích Xuân chơi thân với cô ta, sợ sau này cô ta nói, người coi cửa không cho vào, thì sẽ mang lỗi, nên bà ta vội vàng chạy lại nói :
- Không biết cô đến. Chúng tôi mở cửa quá chậm. Cô Tư chúng tôi đang ở nhà và đang nhớ cô đấy. Xin mời cô mau mau trở lại. Chú canh cửa là người mới đến, không biết công việc của chúng tôi . Để rồi thưa với bà lớn, đánh cho nó một trận rồi đuổi đi là xong.
Diệu Ngọc tuy nghe nói, vẫn không thèm nhìn. Nhưng bà già coi cửa cứ theo nằn nì mãi. Sau mới nói rõ việc sợ mình bị lỗi và hoảng sợ toan quỳ xuống. Diệu Ngọc chẳng biết làm thế nào, đành phải theo bà ta trở vào. Bao Dũng thấy tình hình như
thế cố nhiên là không tiện ngăn lại, tức quá, trợn mắt thở dài mà vô.
Diệu Ngọc dẫn đạo bà vào nhà Tích Xuân hỏi thăm rồi nói chuyện suông. Tích Xuân nói :
- Tôi ở nhà coi nhà, đành phải gắng cho qua mấy đêm nhưng vì mợ Hai ốm, một mình tôi vừa buồn vừa sợ. Nếu được một người ở đây thì tôi cũng yên lòng. Bây giờ trong nhà không có người đàn ông nào cả. Hôm nay cô đến, chơi với tôi một
đêm. Chúng ta đánh cờ nói chuyện, có được không ?
Diệu Ngọc định về, nhưng thấy Tích Xuân tội nghiệp lại nhắc đến chuyện đánh cờ, đâm ra cao hứng, nên nhận lời rồi sai đạo bà về lấy đồ trà và áo nệm, bảo con hầu đưa đến, để ngồi nói chuyện một đêm.
Tích Xuân hết sức vui mừng, nên sai Thái Bình lấy nước mưa vũ thủy cất dành năm trước, sửa soạn pha trà. Diệu Ngọc đã có đồ trà riêng. Đạo bà đi chưa bao lâu thì lại có một người hầu đến, đưa sang các vật của Diệu Ngọc hàng ngày thường dùng. Tích Xuân tự đi pha trà. Hai người chuyện trò hồi lâu rất hợp ý tâm đầu. Khoảng canh một, Thái Bình đặt bàn cờ ra, hai người đánh cờ. Tích Xuân thua luôn hai ván. Diệu Ngọc lại nhượng bốn con. Tích Xuân ăn không được nửa con.
Đánh cờ đến khoảng canh tư, lúc đó thật là trời đất bao la, bốn bề lặng lẽ. Diệu Ngọc nói :
- Đến canh năm, tôi phải nhập định, đã có người hầu. Cô cứ đi nghỉ.
Tích Xuân còn tiếc, chưa muốn nghỉ. Nhưng thấy Diệu Ngọc muốn đi dưỡng tinh thần, nài ép không tiện. Hai người đang định đi nghỉ, chợt nghe bọn canh đêm trong nhà trên phía đông kêu ầm lên một loạt. Bọn bà già ở nhà Tích Xuân cũng tiếp lời gào lên :
- Nguy to ? Có người nào đấy !
Bọn Tích Xuân và Thái Bình khiếp sợ quá, lại nghe bọn đàn ông canh đêm ở ngoài kêu ầm lên.
Diệu ngọc nói :
- Nguy to rồi ! Chắc là có cướp !
Nói xong, vội vàng đóng cứa lại, che bóng đèn đi, từ trong song cửa sổ nhìn ra ngoài, thì thấy mấy người đàn ông đứng ngoài sân. Sợ quá, cô ta không dám lên tiếng, quay lại chống tay, khe khẽ bò lại, và nói :
- Nguy to ! Ngoài kia có mấy người đàn ông to lớn đứng đấy.
Nói chưa xong, lại nghe trên nhà có tiếng rầm rầm không ngớt. Bên đó có bọn người canh đêm ở ngoài chạy vào kêu bắt kẻ cướp. Một người nói :
- Đồ đạc ở nhà trên mất hết cả rồi, mà không thấy người nào cả. Phía đông đã có người chạy đi tìm. Bọn mình đi sang phía tây xem. Bà già ở phòng Tích Xuân nghe đúng người của mình rồi, liền ở nhà ngoài nói vọng ra :
- Ở đây có mấy người leo lên nhà.
Bọn người canh đêm đều nói :
- Các anh trông kìa ? Chúng đang ở đấy !
Rồi họ đều kêu ầm lên. Bỗng thấy trên mái nhà bay xuống rất nhiều mảnh ngói, không ai dám lại gần. Đang lúc họ chưa biết làm thế nào, bỗng thấy cửa nách
bên vườn đánh sầm một cái, một người cao lớn, tay cầm côn gỗ, tung cửa chạy vào. Mọi người khiếp sợ, chạy trốn không kịp.
Chợt nghe người ấy kêu to .
- Đừng để cho đứa nào thoát ! Các anh đều theo tôi lại đây ?
Bọn người nhà nghe nói, càng khiếp sợ run rẩy không chạy được nữa. Người ấy cứ đứng đấy kêu ầm lên. Trong bọn người nhà có một người mắt hơi tinh, nhận ra anh ta. Các bạn có biết là ai không ? Anh ta chính là Bao Dũng mà nhà họ Chân cử
đến. Thấy anh ta, bọn người nhà hơi vững dạ, liền run lập cập và nói :
- Có một thằng chạy rồi ? Có thằng thì đang ở trên mái nhà đấy.
Bao Dũng giậm chân một cái, nhảy thót lên mái nhà, đuổi theo bọn cướp. Bọn cướp biết rõ nhà họ Giả không có đàn ông. Ban đầu chúng đứng ngoài sân nhìn trộm vào phòng Tích Xuân, thấy có một ni cô tuyệt đẹp, liền nảy ra ý dâm dục. Chúng lại khinh người trong nhà đều là con gái đang khiếp sợ, nên định phá cửa mà vào. Vì thấy bên ngoài có người đuổi theo, chúng liền leo lên mái nhà. Thấy ít người, chúng định chống cự. Chợt một người nhảy lên mái nhà đuổi theo. Bọn cướp thấy chỉ có một người, càng không để ý, liền rút đao chống đở. Bao Dũng hết sức đánh một côn, một tên ngã lăn xuống dưới nhà, còn các tên khác chạy như bay, vượt qua tường, qua vườn mà ra. Bao Dũng cũng chạy theo đuổi hết. Không ngờ trong vườn đã nấp sẵn mấy tên, chờ để chuyển của đã cướp được. Bọn chúng đã chuyển được một số. Thấy đồ đảng của chúng chạy ra, chúng liền giơ khí giới lên để hộ vệ. Khi thấy chỉ có một người đuổi theo, chúng nghĩ rằng ít không địch nổi nhiều, nên chúng trở lại đón đánh, Bao Dũng thấy thế nổi giận nói :
- Bọn giặc cỏ này ! Chúng mày dám địch với ông à ?
Bọn giặc nói :
- Một người trong bọn chúng ta bị nó đánh ngã, không biết chết hay sống. Chúng ta phải cướp nó ra mới được.
Bao Dũng nghe tiếng, vội chạy lại đánh. Bọn giặc bốn năm tên múa khí giới vây chặt lấy Bao Dũng đâm chém lung tung. Bọn canh đêm ở ngoài cũng đều mạnh dạn đuổi tới. Bọn giặc thấy đánh không nổi, đành phải bỏ chạy.
Bao Dũng còn định đuổi nữa, nhưng chạm phải một cái rương. Anh ta đứng lại nhìn, nghĩ bụng: đồ đạc chưa mất, mà bọn giặc đã trốn xa, nên cũng không đuổi nữa, liền bảo mọi người thắp đèn lên soi. Thấy dưới đất chỉ có mấy cái rương không, anh ta sai người đưa cất đi. Bao Dũng muốn chạy ngay lên nhà trên.
nhưng không thuộc đường lối. Đi đến bên nhà Phượng Thư, thấy đèn đuốc sáng trưng, anh ta liền hỏi:
- Ở đây có cướp không ?
Bình Nhi ở trong nhà run rẩy trả lời :
- Ở đây không mở cửa, chỉ nghe nhà trên kêu la nói có kẻ cướp. Anh đến đấy xem.
Bao Dũng chưa tìm ra lối, thì xa xa thấy bọn canh đêm đi đến, liền theo họ cùng tìm đến nhà trên. Tới nơi, thấy cửa ngõ mở toang bọn canh đêm đang khóc lóc ở đấy.
Một lát sau Giả Vân và Lâm Chí Hiếu vào, thấy mất cướp, mọi người đều hoảng lên. Vào trong xem xét, thì thấy cửa phòng Giả mẫu đã mở tung. Đem đèn soi, thấy khóa bị bẻ gãy. Vào tròng phòng thấy rương tủ đều bị mở toang. Họ liền mắng
bọn đàn bà canh đêm :
- Các người đều là người chết cả. Kẻ trộm vào, các người không biết à ?
Bọn người canh đêm khóc lóc và nói :
- Mấy đứa chúng tôi chia phiên nhau mà canh. Vào khoảng canh hai và canh ba, cứ đi đi lại lại, không khi nào nghỉ chân. Các người kia thì canh vào khoảng canh tư và canh năm. Chúng tôi vừa mới thay bạn ra nghỉ thì nghe bọn họ kêu lên,
nhưng không thấy người nào. Chúng tôi vội vàng thắp đèn lên soi thì không biết đồ đạc đã mất từ hao giờ. Xin các ông hỏi bọn canh lúc canh tư và canh năm xem.
Lâm Chí Hiếu nói :
- Bọn chúng bây đứa nào cũng muốn chết cả, chốc nữa sẽ nói. Giờ đây chúng ta hãy đến xem các nơi đã.
Bọn đàn ông canh đêm dẫn họ đến nhà Vương thị, thấy cửa đóng chặt. Có mấy người ở trong nói ra :
- Chúng tôi chết khiếp mất !
Lâm Chí Hiếu hỏi :
- Ở đây không mất đồ đạc gì chứ ?
Người trong nhà ấy mới mở cửa ra và nói :
- Không mất gì cả.
Lâm Chí Hiếu lại dẫn người đi đến nhà Tích Xuân, thì nghe nhà nói : “Nguy to ! Cô chết khiếp mất. Tỉnh dậy đi cô!” Lâm Chí Hiếu gọi người mở cửa, hỏi làm sao thế ? Bà già trong nhà mở cửa và nói :
- Kẻ cướp đánh nhau ở đây, làm cho cô chết khiếp. May có cô Diệu và chị Thái Bình cứu cô tỉnh lại, còn đồ đạc thì không mất gì.
Lâm Chí Hiếu nói :
- Kẻ cướp đánh nhau với ai ?
Người đàn ông canh đêm nói :
- May nhờ ông Bao lên mái nhà đánh cho chúng bỏ chạy, lại còn nghe nói đánh ngã một tên nữa đấy.
Bao Dũng nói :
-Tên bị đánh ngã đang nằm trong cửa vườn đấy. Các người mau mau đến xem.
Bọn Giả Vân chạy đến đấy thì quả nhiên thấy có một người nằm dưới đất, chết rồi, nhìn kỹ thì giống như con nuôi của Chu Thụy. Mọi người trông thấy lấy làm lạ, liền sai một người canh giữ, lại bảo hai người đến xem cửa trước và cửa sau thì vẫn khóa như cũ. Lâm Chí Hiếu liền sai người mở cửa, báo cho quan doanh biết. Quan doanh lập tức đến tra khám dấu vết bọn cướp, thì ra bọn chúng theo con đường ống phía sau mà vào, trèo lên mái nhà phía tây, dẫm ngói nát tan tành, rồi một mạch đi qua vườn sau mà ra.
Bọn canh đêm đồng thanh nói :
- Đấy không phải là kẻ trộm mà là kẻ cướp.
Quan doanh hoảng lên, nói :
- Nó không hề đốt đuốc cầm gậy, sao lại cho là kẻ cướp được?
Bọn người canh nói :
- Bọn tôi đuổi chúng. Chúng ở trên mái nhà ném ngói xuống. Bọn tôi không đến gần được, may nhờ ông Bao nhà chúng tôi nhảy lên mái nhà đánh cho chúng bỏ chạy. Đuổi đến trong vườn, còn có mấy tên đánh nhau với ông Bao, chúng đánh không nổi ông Bao, thì mới bỏ chạy.
Quan doanh nói :
- Ấy đấy nếu là kẻ cướp, chẳng lẽ không đánh nổi người của các anh hay sao? Thôi không cần nói nữa, mau mau, tra xét rõ đồ đạc, trình đơn mất của, để chúng tôi báo lên trên là được.
Bọn Giả Vân lại đến nhà trên, thấy Phượng Thư mặc dầu ốm cũng gắng gượng đi sang. Tích Xuân cũng đã đến. Giả Vân hỏi thăm sức khỏe Phượng Thư và chào hỏi Tích Xuân, rồi mọi người cùng xem xét các đồ đạc bị mất. Vì Uyên Ương đã chết, bọn Hổ Phách lại đi đưa đám, đồ đạc của Giả mẫu, chưa hề thấy con số rõ ràng, lâu nay cứ niêm phong lại, nên bây giờ biết đằng nào mà tra ra ? Mọi người đều nói :
- Đồ đạc rương tủ rất nhiều, bây giờ sạch không, đủ biết thời gian chúng lấy không phải là ngắn. Không biết bọn canh đêm trông nom cái nỗi gì? Vả lại người bị đánh chết lại là con nuôi Chu Thụy, chắc thế nào bọn chúng cũng thông đồng với nhau.
Phượng Thư nghe nói, tức quá, mắt trợn ngược lên, liền quát :
- Bắt cả bọn đàn bà canh đêm trói lại, giao cho trong doanh xét hỏi.
Bọn ấy kêu khóc ầm ĩ, quỳ xuống van lạy mãi.
Hồi thứ một trăm mười hai
Sống đầy oan nghiệt, Diệu Ngọc bị giặc cướp đi
Chết vì hiềm thù, dì Triệu sa xuống âm phủ
Phượng Thư bảo trói bọn đàn bà canh đêm giao cho quan doanh tra hỏi, chúng qùy lạy xin tha tội.
Lâm Chí Hiếu cùng Giả Vân nói :
- Ông lớn sai chúng ta coi nhà, vô sự là may, bây giờ sinh chuyện, trên dưới đều có lỗi, ai cứu được các người. Nói đến chuyện con nuôi Chu Thụy thì ngay từ bà lớn cho đến những người bên trong bên ngoài đều có liên can cả.
Phượng Thư thở hổn hển nói :
- Đó là do số mệnh xui nên nói với chúng nó làm gì ? Đem chúng nó đi là xong. Còn những đồ đạc bị mất thì anh trình với quan doanh. Đồ đạc của cụ, chờ hỏi các bà mới biết. Để chúng tôi mời ông lớn về rồi sẽ lập tờ khai đưa tới. Trong nha
môn quan văn, cũng trình báo như thế.
Bọn Lâm Chí Hiếu và Giả Vân vâng lời đi ra.
Tích Xuân không nói gì, chỉ khóc than :
- Những việc như thế này, xưa nay tôi chưa từng nghe, làm sao lại nhè vào hai đứa chúng ta ; sau này chú và thím về, tôi còn mặt mũi nào nữa. Đem nhà cửa giao phó cho chúng mình. Bây giờ xảy ra tình cảnh này còn tưởng sống nữa hay sao ?
Phượng Thư nói :
- Có phải chúng mình muốn như thế đâu. Hiện còn có bọn canh đêm ở đó chứ.
Tích Xuân nói .
- Chị còn có thể nói được. Vả lại chị còn ốm, chứ tôi thì chẳng nói được gì. Thật là chị Cả tôi làm hại tôi ! Chị ấy xúi giục tôi coi nhà. Giờ đây thể diện của tôi thật chẳng còn gì.
Nói xong, cô ta lại khóc lóc thảm thiết.
Phượng Thư nói :
- Cô đừng nghĩ như thế. Nếu nói mất thể diện thì hai đứa mình cũng đều như nhau. Nếu cô nghĩ lẩn thẩn như thế, tôi lại càng không thể chịu nổi.
Hai người đang nói, bỗng nghe ngoài sân có người kêu rầm lên :
- Tôi nói bọn sư vãi kia là không chơi với họ được. Ở nhà họ Chân chúng tôi xưa nay nhất thiết không cho họ đến cửa. Không ngờ ở đây lại khác. Hôm trước quan tài cụ bà vừa đưa ra thì một ni cô nào đó trong am, cố chết đòi vào cho được. Tôi quát nạt không cho vào, bọn bà già ở cửa hông còn mắng tôi, lạy lục mời ni cô ấy vào. Cái cửa hông ấy lúc mở lúc đóng, không biết để làm gì. Tôi không yên tâm không dám ngủ. Đến canh tư, chợt nghe ở đấy kêu ầm lên. Tôi tới gọi cửa thì lại không mở. Tôi nghe tiếng kêu gấp quá, hèn đập cửa mà vào. Thấy sân nhà phía tây có người đứng đấy, tôi liền chạy lại đánh chết nó. Bây giờ tôi mới biết là nhà cô Tư. Ni cô kia chính ở nhà ấy. Hôm nay trời chưa sáng nó đã chuồn mất, không phải ni cô ấy đã dẫn kẻ cướp vào là gì ?
Bọn Bình Nhi nghe xong đều nói :
- Đứa nào mà vô phép vô tắc thế . Cô và mợ đều ở đây, lại dám ở ngoài kêu gào bậy bạ !
Phượng Thư nói :
- Các chị chừng cũng nghe nó nói đến phủ Chân. Thôi, lại cái thằng đáng ghét mà nhà họ Chân tiến cử đến đây thôi.
Tích Xuân nghe rõ ràng, trong lòng lại càng khó chịu.
Phượng Thư liền hỏi Tích Xuân :
- Thằng kia nói ni cô nào ? Ni cô nào mà lại ở bên nhà cô thế ?
Tích Xuân liền nói rõ câu chuyện Diệu Ngọc đến thăm, và cô ta giữ lại đánh cờ và thức đêm. Phượng Thư nói :
- Té ra là cô ấy à ? Cô ấy đời nào lại thế ! Việc ấy nhất định là không có. Nhưng nếu cho cái thằng đáng ghét ấy rêu rao lộ chuyện ra, ông Hai biết được thì cũng không hay.
Tích Xuân càng nghĩ càng sợ, đứng dậy định đi. Phượng Thư tuy ngồi không nổi, nhưng sợ Tích Xuân sợ hãi, sinh chuyện không hay, đành phải bảo cô ta khoan đi và nói :
- Hãy xem cho họ thu xếp những đồ còn lại, sai người canh giữ, chúng mình mới đi được.
Bình Nhi nói :
- Chúng ta không nên thu xếp, phải chờ người trong nha môn đến tra xét xong mới tiện. Chúng ta chỉ nên trông nom mà thôi. Nhưng không biết đã có người đi báo với ông lớn chưa ?
Phượng Thư nói :
- Chị sai một bà già đi hỏi xem.
Một chốc người kia về nói :
- Ông Lâm Chí Hiếu thì không thể đi được, vì người nhà còn phải chờ các quan đến khám, còn người khác thì sợ, nói không rõ ràng, nên cậu hai Vân đã đi rồi.
Phượng Thư gật đầu rồi buồn bực ngồi cạnh Tích Xuân.
Bọn cướp kia nguyên là do Hà Tam rủ đến cướp được một số vàng bạc của báu, chuyển ra rồi không thấy đuổi theo, chúng biết đều là hạng người vô dụng, nên định qua nhà bên tây lấy nữa. Chúng ở ngoài cửa sổ trông vào, thấy dưới đèn có hai người con gái đẹp. Một cô gái và một ni cô. Bọn cướp sinh lòng bất lương, không kể gì tính mệnh, định đạp cửa mà vào. Thấy Bao Dũng đuổi, chúng mới mang của cải chạy, nhưng không thấy Hà Tam. Bọn chúng trốn ở nhà chủ chứa, đến ngày sau đó dò la tin tức biết Hà Tam đã bị đánh chết. Người nhà họ đã trình báo với các nha môn văn võ, chúng thấy không thể trốn tránh ở đây được nữa. Bàn nhau tìm cách nhập bọn với đám giặc lớn ở ven biển. Nếu chậm trễ, khi giấy truy nã đưa ra, thì sẽ không thể nào lọt khỏi các nơi quan ải. Trong bọn chúng, có một tên rất to gan, nói :
- Chúng mình đi thì đi. Nhưng tôi không tài nào bỏ được người ni cô kia. Nó đẹp quá ! Không biết là con chim non ở am nào đấy ?
Một người nói :
- Ái chà ? Tôi nhớ ra rồi ? Chắc là ni cô ở am Lũng Thúy nào đó trong vườn nhà họ Giả. Năm trước có tin đồn cô ta dan díu với cậu Hai Bảo nào đó trong nhà họ. Sau đó, chẳng biết vì sao lại mắc bệnh tương tư, mời thầy uống thuốc. Nhất định là cô ấy rồi ?
Người kia nghe xong, nói :
- Chúng mình hôm nay hãy trốn tránh một ngày. Bảo anh cả đem tiền sắm sửa một ít hàng hóa, ngày mai lúc chuông sáng đánh, chúng mình lần lượt ra khỏi cửa quan, các anh chờ tôi ở cái bãi cách ngoài cửa quan hai mươi dặm.
Bọn giặc bàn xong, chia của, rồi phân tán mỗi người đi mỗi nơi. Bọn Giả Chính đưa quan tài đến chùa làm lễ xong. Bà con bạn hữu ra về. Giả Chính ở gian nhà ngoài giữ linh. Bọn Hình phu nhân và Vương phu nhân thì ở nhà trong, suốt đêm khóc lóc.
Đến ngày thứ hai, lại bày lễ cúng bái. Đang lúc dọn cơm thì thấy Giả Vân đi vào. đến khấu đầu trước bàn thờ Giả mẫu, rồi vội vàng đến trước mặt Giả Chính, quỳ xuống, hỏi thăm sức khỏe, thở hổn hển, trình lại đầu đuôi việc mất cướp tối qua, đồ
đạt của cụ bà ở nhà trên đều mất hết. Bao Dũng đuổi theo đánh chết một tên, đã đi trình báo với các nha môn văn võ. Giả Chính nghe nói, ngẩn người ra. Bọn Hình phu nhân và Vương phu nhân ở trong nhà nghe vậy đều khiếp sợ mất vía, không nói gì cả, chỉ biết khóc lóc.
Sau một hồi. Giả Chính hỏi :
- Đơn kê khai mất trộm như thế nào ?
- Người ở nhà đều không biết mất những gì nên vẫn chưa khai.
- Thế thì còn khá, nhà mình mới bị soát nhà, nếu khai ra những vật quý thì lại mang tội. Gọi cháu Liễn mau.
Lúc đó, Giả Liễn còn dẫn bọn Bảo Ngọc đi lễ ở nơi khác.
Giả Chính sai người chạy theo tìm về.
Giả Liễn nghe nói điên tiết lên, trông thấy Giả Vân, anh ta cũng không kể gì Giả Chính ở đó, liền mắng cho hắn một trận thậm tệ :
- Đồ khốn nạn vô dụng ? Tao đem giao cho mày một việc quan trọng như thế,
bảo mày đốc xuất người nhà canh tuần đêm hôm. Mày là người chết rồi hay sao. Thế mà còn vác mặt đến báo tin.
Nói xong, anh ta nhắm vào mặt Giả Vân nhổ toẹt một cái. Giả Vân đứng yên, không dám nói lại một lời. Giả Chính nói :
- Cháu mắng nó cũng vô ích.
Giả Liễn vội quỳ xuống thưa :
- Việc ấy bây giờ làm thế nào ?
Giả Chính nói :
- Cũng chẳng có cách gì, chỉ còn báo quan để tầm nã kẻ cướp. Có điều là chúng ta chưa hề động đến đồ đạc của bà để lại. Cháu nói cần bạc, nhưng ta nghĩ bà mới chết được mấy ngày, ai nở động đến bạc của người. Ta vẫn tưởng rằng, khi xong việc, tính toán sổ sách, sẽ trả cho người ta, còn nữa thì sẽ tậu một ít ruộng ở đây và xây phần mộ Phương Nam. Tất cả các thứ đều chưa biết là bao nhiêu. Bây giờ các nha môn văn võ đòi kê đơn mất trộm. Nếu khai ra một số đồ vật quý giá thì sợ không tiện. Nếu khai vàng bạc là bao nhiêu, áo quần là bao nhiêu, thì lại không có số mục rõ ràng, khai man không thể được. Buồn cười cho cháu, nay lại như người mất hồn, không biết lo liệu gì cả.
- Cháu quỳ ở đấy làm gì ?
Giả Liễn cũng không dám trả lời, đành phải đứng dậy đi. Giả Chính hỏi :
- Cháu đi đâu thế ?
Giả Liễn trở lại thưa :
- Cháu đi về nhà lo liệu đâu đó rồi sẽ lại.
Giả Chính “hừ” một tiếng. Giả Liễn cúi đầu xuống, Giả Chính nói :
- Cháu vào thưa với mẹ cháu gọi một vài đứa a hoàn của bà cùng về, rồi bảo chúng nó nhớ lại cho kỹ mà khai.
Giả Liễn trong bụng biết rõ ràng là đồ đạc Giả mẫu đều do Uyên Ương trông nom, nay chị ta chết rồi còn biết hỏi ai . Dầu có hỏi bọn Trân Châu thì làm gì chúng nhớ được rành mạch. Nhưng anh ta không dám cãi. Vội vàng vâng dạ rồi quay vào nhà trong. Hình phu nhân và Vương phu nhân oán trách một hồi, rồi bảo Giả Liễn đi mau về hỏi những người coi nhà :
- Rồi đây họ còn mặt mũi nào mà trông thấy chúng ta ?
Giả Liễn đành phải vâng lời đi ra, một mặt sai người sắm xe sửa soạn đưa bọn Hổ Phách vào thành ; còn mình thì cỡi lừa cùng mấy đứa hầu trai phi nhanh về nhà. Giả Vân cũng không dám thưa lại với Giả Chính, lẻn chuồn ra cỡi ngựa chạy theo
Giả Liễn. Giả Liễn về đến nhà, Lâm Chí Hiếu hỏi thăm sức khỏe rồi đi theo vào trong. Giả Liễn vào nhà trên của Giả mẫu, gặp bọn Phượng Thư, Tích Xuân ở đấy, trong lòng tức giận, nhưng không tiện nói ra, liền hỏi Lâm Chí Hiếu :
- Người ở nha môn đã đến khám chưa ?
Lâm Chí Hiếu tự biết có lỗi, liền quỳ xuống trả lời :
- Nha môn văn võ đều đến khám cả các dấu vết vào ra và xác chết.
Giả Liễn giật mình. hỏi :
- Lại khám xác chết nào ?
Lâm Chí Hiếu liền thưa lại việc Bao Dũng đánh chết một tên đồ đảng của giặc, giống như con nuôi Chu Thụy.
Giả Liễn nói :
- Gọi thằng Vân tới đây.
Giả Vân đi vào, quỳ xuống nghe chỉ bảo.
Giả Liễn nói :
- Lúc mày gặp ông lớn, sao không thưa việc con nuôi Chu Thụy theo bọn cướp bị Bao Dũng đánh chết ?
- Người canh đêm nói giống như nó, cháu sợ không đúng nên không dám thưa.
- Đồ ngu ? Nếu mày nói thì ta đã đem Chu Thụy về nhận, có phải là biết rõ ngay không ?
Lâm Chí Hiếu nói :
- Bây giờ người ở nha môn đem xác chết đặt ở cửa chợ để gọi người nhận rồi.
Giả Liễn nói :
- Lại càng lẩn thẩn nốt ! Đời nào có người đi ăn cướp, bị người ta đánh chết, lại đòi đền mạng bao giờ ?
Lâm Chí Hiếu nói :
- Không cần người ta nhận, tôi cũng nhận ngay được là nó.
Giả Liễn nghe xong nghĩ ngợi và nói :
- Phải đấy ? Ta nhớ năm nọ anh Trân định đánh con Chu Thụy, phải nó đấy không?
Lâm Chí Hiếu nói ?
- Chính nó đánh nhau với Bào Nhị, cậu cũng thấy đấy.
Giả Liễn nghe nói tức giận, định đánh bọn canh đêm.
Lâm Chí Hiếu nằn nì :
- Xin cậu bớt giận. Những người canh đêm ấy, được lệnh sai phái, đâu dám lười biếng. Nhưng vì theo nề nếp của phủ nhà ta, nên không một người đàn ông nào dám vào. Chúng tôi ở ngoài cùng anh Vân lúc nào cũng đi tra xét, thấy ba lần cửa vẫn đóng chắc chắn, những cửa bên ngoài không hề mở một lớp nào. Bọn cướp đi theo con đường ống phía sau mà vào.
Giả Liễn hỏi :
- Bọn đàn bà canh đêm ở trong nhà đâu rồi ?
Lâm Chí Hiếu thưa :
- Đã vâng lệnh mợ, trói bọn đàn bà canh đêm lại, chờ cậu tra hỏi.
- Bao Dũng đâu rồi ?
- Anh ta lại qua bên vườn rồi.
- Đi gọi anh ta đến đây.
Bọn hầu trai liền dẫn Bao Dũng đến, Giả Liễn nói :
- Còn may có anh ở đấy, nếu không có lẽ tất cả đồ đạc trong nhà đều bị cướp hết.
Bao Dũng đứng im lặng. Tích Xuân sợ Bao Dũng kể lại chuyện kia ra, trong bụng hoảng hốt. Phượng Thư cũng không dám nói gì. Bỗng nghe bên ngoài nói :
- Chị Hổ Phách đã về.
Mọi người gặp nhau lại khóc một hồi.
Giả Liễn sai người soát những đồ đạc còn lại, thì thấy chỉ còn một ít áo quần, vải, bông và rương tiền chưa động đến, còn các đồ vật khác đều mất hết. Giả Liễn càng hoảng, nghĩ đến số tiền làm rạp ở ngoài., số tiền tiêu của nhà bếp đều chưa đưa ra, rồi đây không biết lấy gì mà trả cho người ta. Bọn Hổ Phách đi vào khóc lóc một lúc, thấy rương tủ đều mở toang, không sao mà nhớ hết đồ đạc trong ấy, đành phải ước lượng phỏng đoán, kê bừa một tờ khai đồ đạc đã mất, sai người đưa đến các nha môn văn võ. Giả Liễn lại sai người canh giữ. Còn Phượng Thư và Tích Xuân thì ai về phòng nấy.
Giả Liễn không dám nghỉ ở nhà, cũng không kịp trách Phượng Thư, liền cưỡi ngựa đi ra ngoài thành. Phượng Thư ở nhà lại sợ Tích Xuân tìm cách tự tử, nên sai Phong Nhi qua an ủi. Vào khoảng canh hai, trong phủ Vinh lúc đó, đúng như người ta nói giặc đi rồi, mới lo đóng cửa ? Mọi người càng thêm cẩn thận, không hề dám nghỉ. Tên trộm cướp kia một lòng luyến tiếc Diệu Ngọc, biết rằng bọn đàn bà ở trong am ít ỏi rất dễ bắt nạt. Chờ đến canh ba đêm vắng, nó mang theo dao ngắn và một ít muội hương trèo lên tường cao. Xa xa trông thấy trong am Lũng Thúy, bóng đèn còn sáng, nó liền lẻn xuống, nấp ở chỗ hẻo lánh ở ngoài phòng. Chờ đến canh tư, thấy bên trong chỉ còn một ngọn đèn lớn. Một mình Diệu Ngọc ngồi nhập định trên cái nệm. Cô ta nghĩ một lát rồi thở than :
- Ta từ Nguyên Mộ tới kinh, vốn định để chút tiếng tăm về sau, vì ở đây mời, không thể bỏ đi nơi khác. Hôm trước vì lòng tốt đi thăm cô Tư. Không ngờ lại phát bực với tên ngu xuẩn kia. Đến đêm lại bị một trận khiếp sợ. Hôm nay về đây, ngồi trên nệm không yên, cảm thấy lòng dạ nơm nớp run sợ.
Nhưng vì ngày thường ngồi nhập định một mình, nên hôm nay cô ta cũng không chịu gọi người ngồi cùng. Ai ngờ đến canh năm, trong người thấy sởn gai lên, đang định gọi người thì nghe ngoài cửa có tiếng động. Diệu Ngọc nghĩ đến việc đêm
hôm trước càng thêm sợ hãi, đành phải gọi người. Ngờ đâu bọn bà già đều không trả lời. Một mình cô ta ngồi đấy, bỗng ngửi thấy một mùi hương thấu vào óc, chân tay tê mê, không thể cử động, miệng cũng không nói nên lời, trong bụng lại càng hoảng hốt. Chợt thấy một người cầm một con dao sáng quắc đi vào. Lúc bấy giờ Diệu Ngọc vẫn tỉnh táo, chỉ không cử động được, nghĩ bụng : “Nó muốn giết mình chăng ? Nhưng đã quyết liều mạng, nên cũng không sợ”. Nào ngờ tên kia giắt dao vào sau lưng, giơ tay ra, nhẹ nhàng ôm Diệu Ngọc dậy, đùa cợt một hồi rồi cõng lên trên lưng. Lúc bấy giờ Diệu Ngọc mê man ngây ngất. Thương thay ! Một người con gái trong sạch, bị kẻ cướp dùng muội hương làm cho mê mẩn, để mặc cho nó trêu đùa. Tên giặc kia cõng Diệu Ngọc đến bên tường sau vườn, dùng thang dây leo qua. Bên ngoài đã có đồ đảng của nó đem xe chờ sẵn. Người kia để Diệu Ngọc vào trong xe, ngoài treo một chiếc đèn lồng có dấu hiệu quan chức rồi vội vàng đi đến cửa thành. Lúc ấy chính là giờ mở cửa. Quan coi thành chỉ nghĩ là người có việc quan đi ra ngoài nên cũng không kịp tra hỏi. Ra khỏi thành rồi, tên kẻ cướp giục ngựa đi, chừng hai mươi dặm, đến một nơi cùng bọn đồ đảng gặp mặt rồi chia đường đi về miền biển Nam Hải. Không biết sau khi Diệu Ngọc bị cướp đi, có cam chịu nhơ nhớp hay không chịu khuất phục mà chết, chẳng rõ ra sao, khó lòng đoán ra được. Trong am Lũng Thúy có một ni cô thường theo Diệu Ngọc, cô ta ngủ ở phía sau nhà. Đêm đó, ngủ đến canh năm, nghe phía trước có tiếng người, cứ cho là Diệu Ngọc ngồi nhập định không yên. Sau nghe có tiếng chân của đàn ông và cửa sổ rung động, cô ta định dậy xem, nhưng người bủn rủn không nói ra được, lại không nghe Diệu Ngọc nói năng gì, cô ta cứ giương to đôi mắt lắng nghe. Đến lúc trời sáng, cô ta mới thấy tỉnh táo, khoác áo đứng dậy, gọi đạo bà sấm sửa trà nước, còn mình thì ra phía trước để gặp Diệu Ngọc. Không ngờ chẳng thấy Diệu Ngọc đâu cả. Cửa sổ thì mở toang ra. Cô ta lấy làm lạ, nghĩ lại tiếng động ban đêm rất là ngờ vực, trong bụng nghĩ thầm :
- Còn sớm như thế mà cô ấy đã đi đâu ?
Cô ta chạy ra ngoài sân thì thay một cái thang dây dựa bên tường, dưới đất lại có một cái bao dao, một cái tay nải, liền nói :
- Nguy to? Đêm qua rõ ràng là bọn cướp đốt muội hương rồi?
Cô ta vội vàng gọi mọi người dậy xem xét, thì thấy cửa am vẫn đóng chặt. Bọn bà già và gái hầu đều nói :
- Đêm qua ngửi phải hơi than, sáng nay đều dậy không được. Trời đang sớm như thế, gọi chúng tôi làm gì ?
Người ni cô nói :
- Sư phụ không biết đi đâu mất ?
Sư phụ ngồi nhập định ở gác Quan âm kia.
- Các bà còn mơ ngủ à ? Thử tới mà xem.
Mọi người chẳng hiểu đầu đuôi ra sao, cũng đều hoảng hốt, mở cửa am ra. Tìm khắp trong vườn. Lại ngờ cô ta đến bên nhà cô Tư. Họ liền tới gõ cửa hông, lại bị Bao Dũng mắng cho một trận.
- Sư cô Diệu ngọc chúng tôi chẳng biết đêm qua đi đâu, nên phải đi tìm. Nhờ ông mở cửa hông để chúng tôi hỏi xem có đến đấy hay không ?
- Sư phụ các bà dẫn bọn giặc đến ăn cướp của chúng tôi. Đã cướp được rồi thì đi theo bọn giặc mà hưởng đấy !
- A di đà phật ? Nói như thế coi chừng phải xuống địa ngục cắt lưỡi đấy.
Bao Dũng nổi giận, nói :
- Nói nhảm. Các bà mà còn lôi thôi nữa thì tôi đánh đấy.
Mọi người chỉ lấy lòng và vật nài :
- Nhờ ông bảo mở cửa cho chúng tôi xem một tí, nếu không có thì sẽ không dám làm phiền đến ông nữa. .
- Các bà không tin thì cứ đi mà tìm, nếu không có thì chốc nữa sẽ nói chuyện với các bà.
Bao Dũng nói xong, gọi mở cửa hông. Mọi người tìm đến nhà Tích Xuân.
Tích Xuân đang buồn bực nhớ đến việc sáng hôm ấy Diệu Ngọc ra về, không biết có nghe câu nói của Bao Dũng không, chỉ sợ mình lại mang lỗi, sau này cô ta không chịu đến, thì người tri kỹ của mình không còn ai nữa. Hiện giờ gặp mọi
người, mình thật khó coi. Cha mẹ chết sớm, chị dâu lại ghét mình. Trước kia có bà, còn thương mình ít nhiều, bây giờ bà cũng chết rồi, để lại một mình bơ vơ khổ sở, rốt cuộc biết làm thế nào . Cô ta lại nghĩ đến chị Nghinh Xuân bị dày vò mà chết, chị Sử làm bạn với người mợ, chị Ba đi xa, đều là do số mệnh xui nên, không thể tự do được. Chỉ có một mình Diệu Ngọc, như hạc nội mây ngàn, không gì ràng buộc. Nếu mình được như cô ta, thì phúc không phải nhỏ. Nhưng mình là con gái nhà thế gia, làm sao thỏa ý muốn được. Lần này coi nhà lại mang lỗi lớn, còn mặt mũi nào nữa. Lại sợ các thím không rõ tâm sự của mình. Việc tương lai rồi chưa hiểu sẽ ra sao ? Tích Xuân nghĩ đến đó, liền định cắt tóc đi tu. Bọn Thái Bình nghe thấy, vội vàng tới khuyên, nào ngờ cô ta đã cắt mất một nửa mái tóc. Thái Bình càng hoảng sợ và nói :
- Việc này chưa xong, đã xảy ra việc khác, biết làm sao bây giờ .
Đang lúc ồn ào, bỗng thấy đạo bà ở bên am sang tìm Diệu Ngọc. Thái Bình hỏi rõ nguyên do, giật mình và nói :
- Hôm trước về rồi sư cô có sang nữa đâu ?
Tích Xuân ở trong nhà nghe nói, vội vàng hỏi :
- Cô ấy đi đâu mất à ?
Đạo bà kể rõ chuyện đêm qua, nghe thấy tiếng động, bị hơi than xông ngạt. Sáng nay không thấy Diệu Ngọc. Trong am lại thấy có thang dây và bao dao. Tích Xuân sợ hãi ngờ vực, chẳng hiểu ra sao, chợt nghĩ đến câu nói của Bao Dũng, chắc là bọn trộm trông thấy cô ta, rồi đêm qua bắt cóc đi cũng chưa biết chừng. Nhưng cô ta xưa nay rất là cao thượng, trong sạch, có đâu lại chịu thế mạng mình ? Tích Xuân liền hỏi :
- Tại sao các người đều không nghe gì cả ?
- Sao lại không nghe, nhưng chúng tôi đều giương mắt ra mà không nói được nửa lời. Chắc là bọn giặc đốt muội hương. Cô Diệu chắc đã bị bọn giặc làm cho mê mẩn, không nói năng được. Bọn giặc nhất định đông, cầm dao cầm gậy bứt bách. Cô ta còn dám kêu la nữa à ?
Đang nói thì Bao Dũng lại ở chỗ cửa hông gào to :
- Trong này mau mau đuổi bọn đạo bà bậy bạ ấy ra đi. Đóng cửa hông mau lên ?
Thái Bình nghe nói sợ mình mang lỗi, đành phải giục bà già đi ra, bảo người đóng cửa hông lại. Tích Xuân càng thêm khổ sở. Bọn Thái Bình lấy lễ khuyên giải mãi và quấn nửa mái tóc còn lại cho cô ta. Mọi người bàn với nhau việc này bất tất nói lộ ra làm gì. Đến chuyện Diệu Ngọc bị bắt cũng làm như không biết. Chờ ông lớn bà lớn về hãy nói. Tích Xuân từ đó kiên quyết đi tu. Giả Liễn trở lại chùa Thiết Hạm thưa lại với Giả Chính việc về nhà tra hỏi những người canh đêm, và kê khai những đồ mất trộm. Giả Chính hỏi :
- Khai như thế nào ?
Giả Liễn đem trình đơn kê những đồ vật mà Hổ Phách nhớ được và nói thêm :
- Trong ấy những vật Nguyên Phi cho, đều chưa rõ ràng, còn những vật hiếm có không tiện khai ra thì để khi cháu hết tang sẽ đi nhờ người ta dò hỏi kỹ lưỡng, thế nào cũng tìm ra.
Giả Chính nghe nói, vừa lòng, liền gật đầu, không nói gì. Giả Liễn vào trong nhà, gặp Hình phu nhân,Vương phụ nhân và bàn :
- Nên khuyên chú sớm liệu về nhà mới được, nếu không thì rối như tơ vò ấy cả.
Hình phu nhân nói :
- Phải đấy. Chúng ta ở đây cũng cứ hốt hoảng lo sợ.
Giả Liễn nói :
- Điều đó chúng con không dám nói, cần phải có ý của thím thì chắc chú sẽ nghe theo.
Hình phu nhân bèn cùng Vương phu nhân bàn bạc xong xuôi. Qua một đêm, Giả Chính cũng không yên lòng, sai Bảo Ngọc vào nói :
- Hôm nay mời mẹ và bác về nhà, vài ba hôm nữa lại tới. Người nhà ngoài này đều cắt đặt xong rồi. Trong ấy mẹ và bác lo cắt đặt người đi thôi.
Hình phu nhân cắt bọn Anh Kha ở lại trông nom hương đèn ; bọn vợ Chu Thụy coi chung mọi việc ; nên các người khác đều ra về. Lúc đó mọi người vội vàng sắm sửa xe ngựa. Bọn Giả Chính từ biệt trước linh vị của Giả mẫu, lại khóc một hồi.
Lúc họ đứng dậy định đi thì thấy Dì Triệu vẫn còn lom khom giữa đất không dậy. Dì Chu tưởng dì Triệu còn khóc, liền tới dắt dậy, không ngờ dì Triệu miệng sùi bọt, mắt trợn ngược, lưỡi lè ra ngoài, làm cho bọn người nhà giật mình. Giả Hoàn
chạy lại, kêu rầm lên. Dì Triệu tỉnh lại rồi nói :
- Ta không về đâu. Ta theo cụ bà về Nam đây !
Mọi người nói :
- Cụ bà đâu có cần dì theo hầu ?
Dì Triệu nói : .
- Ta theo cụ bà suốt đời. Ông Cả còn không chịu để yên, dùng mưu thần chước quỷ làm hại ta ! Ta tưởng nhờ phép Mã đạo bà để làm cho hả giận. Kết quả mất đi một số bạc, chẳng làm chết đứa nào. Giờ đây ta về, không biết rồi lại có ai làm hại ta !
Mọi người ban đầu tưởng là hồn Uyên ương nhập vào dì ta. Sau nghe nói đến việc Mã đạo bà thì lại hình như không phải. Hình phu nhân và Vương phu nhân đều không nói gì. Chỉ có bọn Thái Vân cầu khẩn để xin hộ cho dì ta :
- Chị Uyên ương ơi, chị chết là tự mình chứ có can gì đến dì Triệu. Chị tha dì ấy ra.
Vì thấy Hình phu nhân ở đây, nên bọn họ cũng không dám nói gì khác.
Dì Triệu nói :
- Ta không phải là Uyên ương. Ta là do Diêm vương sai người đến bắt đi, để hỏi về cái án tại sao cùng Mã đạo bà dùng phép ma làm hại người.
Nói đến đó, dì ta lại van lơn :
- Mợ Hai Liễn ơi ? Trước mặt quan lớn đây bớt lời xúc xiểm đi cho với ! Tôi dầu có ngàn ngày không tốt cũng còn có một ngày tết. Mợ Hai ơi ! Mợ Hai thân yêu ơi! Thật không phải tôi định hại mợ ; chỉ vì trong một lúc rồ dại tôi trót nghe lời con ở già đấy thôi.
Bà ta đang kêu la, thì Giả Chính sai người đến gọi Giả Hoàn. Bọn bà già đều trình :
- Dì Triệu bị trúng tà, cậu Ba đang ở lại trông nom.
Giả Chính nói :
- Làm gì có chuyện ấy. Chúng ta đi trước đây.
Thế rồi bọn đàn ông đều ra về trước. Dì Triệu ở đấy vẫn cứ nói nhảm, không sao tỉnh lại được. Hình phu nhân sợ dì ta còn nói chuyện gì nữa, liền bảo :
- Sai thêm người ở đây trông nom dì ấy, chúng ta đi trước. Về đến thành, sẽ cho thầy thuốc đến xem bệnh.
Vương phu nhân vốn ghét dì Triệu, nên cũng bỏ lơ không nhìn. Bảo Thoa là người trung hậu, tuy nghĩ đến việc dì ta làm hại Bảo Ngọc. Nhưng rốt cuộc vẫn không đành lòng, liền dặn riêng dì Chu ở đấy trông nom. Dì Chu cũng là người tốt nhận lời ngay.
Lý Hoàn nói :
- Tôi cũng ở đây thôi.
Vương phu nhân nói :
- Bất tất phải thế.
Thế rồi mọi người đều định đứng dậy ra về.
Giả Hoàn hoảng lên nói :
- Tôi cũng ở đây à ?
Vương phu nhân quát :
- Cái thằng lẩn thẩn ? Mẹ mày chưa biết sống chết ra sao, mày còn định về à ?
Giả Hoàn không dám nói gì nữa, Bảo Ngọc nói :
- Em ạ, em không về được đâu, để anh vào thành, sẽ sai người đến thăm em.
Nói xong, mọi người đều lên xe về nhà. Trong chùa chỉ còn bọn dì Triệu, Giả Hoàn, Anh Kha. Bọn Giả Chính và Hình phu nhân về đến nhà, vào nhà trên, khóc lóc một hồi. Lâm Chí Hiếu dẫn bọn người nhà đến hỏi thăm sức khỏe rồi quỳ xuống. Giả Chính quát :
- Cút đi ngày mai sẽ hỏi chúng mày !
Ngay hôm ấy, Phượng Thư mấy lần mê man, không thể ra đón, chỉ có Tích Xuân trông thấy mọi người thì có vẻ hổ thẹn. Hình phu nhân cũng không nhìn. Vọng phu nhân thì vẫn đối đãi như thường. Lý Hoàn và Bảo Thoa nắm tay cô ta, nói mấy câu. Riêng có Vưu thị thì nói :
- Cô ơi cô thật chịu khó trông nom mấy ngày trời.
Tích Xuân mặt mày đỏ tía, không nói lại một câu. Bảo Thoa kéo Vưu thị và đưa mắt lườm chị ta rồi ai về nhà nấy. Giả Chính nhìn qua một lượt, thở dài không nói gì cả. Rồi đến thư phòng, trải chiếu xuống đất mà ngồi, gọi bọn Giả Liễn. Giả Dung, Giả Vân đến dặn dò mấy câu. Bảo Ngọc định ở lại thư phòng hầu Giả Chính. Giả Chính nói :
- Không cần.
Giả Lan thì vẫn theo mẹ anh ta. Đêm ấy không có chuyện gì.
Sáng hôm sau, Lâm Chí Hiếu vào quỳ ở thư phòng. Giả Chính hỏi lại đầu đuôi việc mất trộm. Lâm Chi Hiếu lại khai Chu Thụy ra và nói :
- Nha môn bắt được Bào Nhị, xét được trong mình nó có những đồ vật đã kê trong đơn mất trộm, hiện đang tra tấn, định bắt nó khai ra bọn trộm cướp.
Giả Chính nghe xong, giận lắm, nói :
- Đầy tớ phụ ơn, đem kẻ cướp về ăn cướp của nhà, thật là ngược đời.
Ông ta sai người lập tức ra ngoài thành, trói Chu Thụy đưa đến nha môn tra hỏi. Lâm Chí Hiếu vẫn cứ quỳ đấy, không dám dậy. Giả Chính nói :
- Anh còn quỳ làm gì ?
Lâm Chí Hiếu nói :
Bọn chúng tôi đáng chết, xin ông lớn ban ơn. .
Đang nói thì bọn Lại Đại cùng các người nhà đều vào hỏi thăm sức khỏe và đưa sổ sách lo việc tang trình lên. Giả Chính nói:
- Giao cho cậu Liễn tính toán rõ ràng rồi trình với ta.
Đoạn ông ta quát mắng, Lâm Chí Hiếu đứng dậy đi ra. Giả Liễn quỳ một chân xuống bên Giả Chính nói câu gì. Giả Chính trợn mắt và bảo :
- Nói nhảm ! Không lẽ bị mất cướp rồi bắt phạt bọn đầy tớ phải xuất tiền bạc lo cho bà hay sao ?
Giả Liễn đỏ mặt lên, không dám nói năng gì, đứng dậy nhưng cũng không dám cử động. Giả Chính hỏi :
- Nhà cháu ra sao rồi ?
Giả Liễn lại quỳ xuống và nói :
- Xem chừng thì không có hy vọng gì.
Giả Chính thở dài, nói :
- Ta không ngờ vận nhà suy bại đến thế . Vả lại mẹ thằng Hoàn đang còn ốm ở trong chùa, cũng chẳng biết mắc chứng bệnh gì. Các cháu có hiểu hay không ?
Giả Liễn cũng không dám nói gì. Giả Chính bảo :
- Cháu chuyển lời ra ngoài, bảo người dẫn thầy thuốc đến thăm bệnh cho nó.
Giả Liễn vội vàng vâng lời đi ra, sai người đưa thầy thuốc đến chùa Thiết Hạm xem bệnh cho dì Triệu.
Hồi thứ một trăm mười ba
Ăn năn lỗi trước, Phượng Thư nhờ cậy già Lưu
Quên hẳn hiềm xưa, Tử Quyên cảm thương Bảo Ngọc
Dì Triệu mắc bệnh ở chùa Thiết Hạm, thấy ít người lại, càng nói nhảm. Mọi người đều ngơ ngác khiếp sợ. Hai người đàn bà đỡ cho dì Triệu quỳ ở dưới đất. Dì ta nói rồi lại khóc, có lúc bò ra giữa đất xin tha tội và nói :
- Ông đánh tôi chết mất ! Ông râu đỏ ơi. Tôi không dám nữa đâu !
Có lúc lại chắp lai tay kêu đau. Con mắt lồi ra, miệng chảy máu tươi, đầu bù tóc rối, ai cũng sợ hãi, không dám lại gần.
Lúc trời gần tối, tiếng nói của dì Triệu càng khan dần, y như quỷ gào, không có ai dám đứng trước bà ta. Đành phải gọi mấy người đàn ông can đảm vào ngồi đấy. Có lúc dì Triệu chết đi được một lúc lại sống lại, suốt đêm cứ như thế. Đến hôm thứ hai. Bà ta không nói nữa, chỉ làm như bị ma ám, tự tay xé tung áo quần, để lòi bụng ra hình như có ai xúi cởi áo quần. Tội nghiệp dì Triệu, tuy không nói gì nhưng xem có vẻ đau đớn khổ sở ! Đang khi nguy cấp thì thầy thuốc đến. Thầy thuốc cũng không xem mạch, chỉ dặn :
- Lo liệu việc hậu sự đi thôi .
Nói xong, liền đứng dậy đi ra. Người nhà đưa thầy ta đến, cứ nằn nì :
- Nhờ thầy xem qua mạch một tí, để tôi tiện về bẩm với chủ nhà.
Thầy thuốc lấy tay sờ một cái, thì không còn có mạch nhảy nữa. Giả Hoàn nghe nói, mới khóc rống lên. Mọi người chỉ lo săn sóc Giả Hoàn, còn dì Triệu thì chẳng có ai nhìn. Chỉ có dì Chu nghĩ bụng : « Cái kiếp vợ mọn, chẳng qua như thế ! Vả lại bà ta còn có con đấy. Chứ lúc mình chết, chưa biết sẽ ra sao ? »
Dì Chu càng khóc lóc thảm thiết.
Người nhà chạy về trình. Giả Chính liền sai người đến chùa, theo lệ cũ mà lo liệu. Cùng Giả Hoàn ở lại ba ngày, rồi đều về. Người kia vâng lời ra đi. Ở đấy, một người truyền mười, mười người truyền trăm, ai cũng biết chuyện dì Triệu độc ác làm hại người, bị âm ty tra tấn mà chết. Họ lại nói :
- Mợ hai Liễn cũng nguy rồi. Sao lại nói là mợ hai Liễn kiện ?
Lời đồn ấy đến tai Bình Nhi. Chị ta hoảng sợ, xem bộ dạng Phượng Thư cũng khó lòng khỏi được. Vả lại gần đây, Giả Liễn không hề âu yếm như trước nữa. Công việc lại nhiều, thành ra việc Phượng Thư đau ốm hình như không liên can gì đến hắn. Ở trước mặt Phượng Thư, Bình Nhi chỉ một mực khuyên lơn, an ủi. Lại thêm Hình phu nhân và Vương phu nhân về nhà mấy hôm nay, chỉ sai người qua hỏi, không hề thân hành đến thăm, Phượng Thư càng thêm đau xót. Giả Liễn về nhà cũng chẳng nói một câu nào thân mật. Phượng Thư chỉ mong sao cho chóng chết, hễ sực nghĩ đến, trong lòng lại thấy ma quỷ kéo đến. Chị ta thấy chị Hai họ Vưu từ sau phòng đi tới, dần dần lại gần trước giường và nói :
- Chị ơi, lâu nay không gặp nhau, em rất tưởng nhớ. Nhưng muốn gặp cũng không được. Giờ đây khó khăn lắm mới vào được đây thăm chị. Chị thật đã đem hết tâm lực mà cậu Hai lẩn thẩn kia lại không biết cảm ơn tấm lòng tốt của chị. Đã thế lại oán trách chị làm việc quá khắc bạc, làm mất con đường tương lai của cậu ta, để cậu ta không mặc mũi nào nhìn thấy người khác nữa. Em thật tức thay cho chị .
Phượng Thư mơ màng trả lời :
- Giờ đây chị cũng phàn nàn tâm địa chị hẹp hòi quá. Em không nghĩ đến mối thù xưa mà còn đến thăm chị à .
Bình Nhi ở bên nghe nói, liền hỏi :
- Mợ nói gì thế ?
Phượng Thư tỉnh dậy, nghĩ lại chị hai Vưu đã chết, chắc là chị ta đến đòi đền mạng. Bị Bình Nhi gọi tỉnh dậy, trong lòng Phượng Thư sợ hãi, nhưng không chịu nói ra, đành miễn cưỡng trả lời :
- Ta tâm hồn rối loạn, chắc là nói mơ, em đấm bóp cho ta một chút.
Bình Nhi leo lên giường đang đấm, thì thấy một a hoàn nhỏ đi vào, nói bà cụ Lưu đã đến. Bọn bà già đưa vào hỏi thăm sức khỏe của mợ.
Bình Nhi vội vàng tụt xuống, và hỏi :
- Bà ấy đâu rồi ?
- Bà ta không dám vào ngay. Còn chờ mợ truyền bát.
Bình Nhi nghe nói gật đầu, nghĩ bụng mợ ấy đang ốm, chắc là không muốn gặp ai, liền nói :
- Mợ đang nghỉ ngơi để di dưỡng tinh thần, bảo bà ta hãy chờ đấy, và em có hỏi bà ta đến có việc gì không ?
- Bọn họ hỏi rồi, không có việc gì, bà ta chỉ nói, nghe tin cụ bà qua đời. Nhưng vì không ai báo tin, nên đến chậm.
A hoàn nhỏ đang nói thì Phượng Thư nghe thấy liền bảo :
- Chị Bình . Người ta có lòng tốt đến thăm, không nên lạnh nhạt với họ. Chị đi mời bà Lưu vào đây, ta nói chuyện với bà ấy một chút.
Bình Nhi đành phải ra mời bà Lưu vào trong này ngồi. Phượng Thư vừa muốn nhắm mắt, lại thấy một trai một gái chạy đến, hình như muốn trèo lên giường, Phượng Thư vội vàng gọi Bình Nhi và hỏi :
- Người đàn ông ở đâu mà chạy đến đây thế ?
Gọi luôn hai tiếng, thì thấy Phong Nhi và Tiểu Hồng chạy vào nói :
- Mợ muốn lấy gì ?
Phượng Thư giương mắt nhìn một cái, chẳng thấy người nào, trong bụng biết rõ, nhưng không chịu nói ra, liền hỏi Phong Nhi :
- Con Bình đi đâu rồi ?
- Không phải là mợ đã bảo chị ấy đi mời bà Lưu rồi à ?
Phượng Thư nằm yên không nói gì. Chợt thấy Bình Nhi cùng bà Lưu dẫn một đứa gái nhỏ đi vào, và nói :
- Mợ ở đâu ?
Bình Nhi dẫn bà ta đến bên giường. Bà Lưu liền nói :
- Xin hỏi thăm sức khỏe mợ.
Phượng Thư giương mắt nhìn, bất giác đau lòng, liền nói :
- Bà có khỏe không ? Sao đến bây giờ mới tới ? Xem kìa, cháu ngoại bà cũng lớn ngần ấy rồi đấy.
Bà Lưu thấy Phượng Thư mình gầy như que củi, tinh thần hoảng hốt, trong bụng cũng thương xót, liền nói :
- Mợ ơi ? Sao mới mấy tháng không thấy mà đã ốm đến thế ? Thật tôi u mê đáng chết, sao không sớm đến hỏi thăm mợ !
Bà ta liền bảo con Thanh hỏi thăm sức khỏe. Con Thanh chỉ cười. Phượng Thư trông thấy, cũng rất thương yêu, liền bảo Tiểu Hồng dỗ dành nó.
Bà Lưu nói :
- Người trong trại chúng tôi không hay ốm, nếu mà ốm thì sẽ cầu thần hứa hẹn, chứ xưa nay không biết uống thuốc. Tôi nghĩ bệnh của mợ đây chắc mắc phải ma quỷ gì đấy thôi.
Bình Nhi nghe câu nói ấy không đúng lý, vội vàng ở sau kéo trộm áo bà ta. Bà Lưu hiểu ý liền không nói nữa. Không ngờ câu nói ấy lại hợp ý Phượng Thư. Chị ta liền gắng gượng nói :
- Già ơi, già là người có tuổi, nói không sai. Dì Triệu mà trước kia già đã gặp, nay cũng chết rồi, già có biết không ?
Bà Lưu lấy làm lạ, và nói :
- A di đà phật ? Người mạnh khỏe như thế, sao đã chết sớm ? Tôi nhớ bà ta cũng có mặt anh con nhỏ, bây giờ biết làm thế nào ?
Bình Nhi nói :
- Sợ cái gì ? Còn có ông lớn và bà lớn đấy.
Bà Lưu nói :
- Cô ạ cô biết sao được ? Mẹ đẻ chết đi là không hay, người không mang nặng đẻ đau thì ăn thua gì ?
Câu nói ấy lại làm cho Phượng Thư buồn, nghẹn ngào nức nở khóc lên. Mọi người đều tới khuyên giải. Xảo Thư thấy mẹ nó khóc lóc, liền chạy đến trước giường, giơ tay cầm lấy tay Phượng Thư, rồi cũng khóc lên.
Phượng Thư vừa khóc vừa hỏi :
- Con đã gặp bà Lưu chưa ?
- Chưa.
- Bà ta đặt tên cho con, cũng như mẹ nuôi đấy. Con tới hỏi thăm sức khỏe bà đi.
Xảo Thư liền chạy đến trước mặt, bà Lưu vội vàng nắm lấy và nói :
- A di đà phật ? Đừng làm tôi chết mất ! Cô Xảo ơi đã hơn năm nay tôi không đến, cô còn nhận được tôi không ?
- Sao lại không nhận được ? Năm nọ khi gặp bà ở trong vườn, tôi còn nhỏ. Năm trước bà đến, tôi xin bà con châu chấu già, bà chưa cho tôi, chắc là quên rồi.
Bà Lưu nói :
- Cô ơi ! Tôi già lẩm cẩm mất rồi, nếu nói đến châu chấu thì ở trang trại chúng tôi rất nhiều, có điều cô không đến chỗ đó được thôi. Nếu cô đến thì muốn lấy một xe châu chấu cũng không khó gì,
Phượng Thư nói :
- Bà đem nó về với.
Bà Lưu cười và nói :
- Vô là thân ngàn vàng, lớn lên trong lụa là, ăn toàn thức ăn ngon, đến chỗ chúng tôi thì lấy gì cho cô chơi, lấy gì cho cô ăn. Thế lại không làm tôi chết mất à !
Bà ta lại cười và tiếp luôn :
- Đã thế, thì để tôi làm mối cho cô một nơi. Chỗ chúng tôi tuy nói là đất trang trại, nhưng cũng có nhà giàu lớn, có mấy ngàn thửa ruộng, mấy trăm trâu bò, tiền bạc cũng nhiều ; có điều không có vàng, có ngọc như đây. Mợ thì cố nhiên không coi
những hạng nhà ấy ra gì; chỉ chúng tôi con nhà trang trại thấy những nhà giàu như thế, cũng cho là người trên trời rồi đấy.
Phượng Thư nói :
- Bà cứ nói đi, tôi bằng lòng sẽ gả.
- Nói chơi đấy thôi, ngay những nhà quan quyền sang trọng như nhà mợ đây, sợ mợ cũng chẳng chịu gả, đời nào lại gả cho con nhà trang trại ? Dầu cho mợ bằng lòng, các bà ở trên cũng không thuận.
Xảo Thư thấy bà ta nói đến chuyện ấy, đứng nghe không tiện, liền chạy đi trò chuyện với con Thanh. Hai cô gái nhỏ nói chuyện hợp ý nhau, dần dần quen nhau.
Bình Nhi sợ bà Lưu nói nhiều làm phiền Phượng Thư, liền kéo bà ta và nói :
- Bà nhắc đến bà lớn, mà bà chưa sang bên ấy. Tôi ra gọi người đưa bà sang gặp một chút, cũng không uổng công đi chuyến này.
Bà Lưu muốn đi ngay, Phượng Thư nói :
- Vội gì ? Bà hãy ngồi xuống. Tôi hỏi bà - gần đây ăn tiêu có được đầy đủ không ?
Bà Lưu cảm ơn mãi và nói :
- Chúng tôi mà không nhờ mợ. - Nói đến đó, bà ta chỉ con Thanh và nói tiếp - thì cha mẹ nó đến chết đói mất. Bây giờ tuy nói con nhà trang trại khổ, nhưng trong nhà cũng đã tậu được mấy mẫu ruộng, lại đào một cái giếng, trồng một ít rau, bầu, dưa. Quanh năm cũng bán được nhiều tiền, đủ cho bọn chúng tôi ăn rồi. Hai năm nay, mợ lại thường cho ít nhiều quần áo vải bông, ở trang trại chúng tôi như thế cũng tạm cho là đầy đủ. A di đà Phật ! Trước đấy bố nó vào trong thành, nghe nói ở nhà mợ đây xảy ra việc không may, tôi gần chết khiếp đi được; may có người lại nói, không phải ở đây tôi mới yên lòng. Sau lại nghe nói ông lớn đây được thăng chức, tôi lại vui mừng, định đến mừng ngay, vì việc cấy hái đang bận rộn nên đi không được. Hôm qua lại nghe nói cụ bà quy tiên. Tôi đang hái đậu ở ngoài đồng. nghe vậy, sợ quá không tài nào cầm nổi quả đậu nữa, đến khóc một hồi lâu, rồi nói với người rể tôi : « Thôi, tao cũng không giúp đỡ công việc cho chúng mày được nữa . Không biết tin đồn có đúng hay không, nhưng tao cũng phải vào thành thăm một chút ! » Rể tôi và con tôi cũng không phải là hạng người bạc bội, nghe nói thế chúng cũng khóc một hồi. Hôm nay trời chưa sáng, chúng nó đã giục tôi vào đây. Đến nơi tôi chẳng quen ai, cũng chẳng biết dò la ở đâu. Tôi đi một mạch tới cửa sau. Thấy tất cả các tượng thần ở cửa đều dán giấy trắng tôi sợ quá. Vào cửa rồi tôi đi tìm chị Chu, tìm không được, vừa gặp một cô, cô ta nói : « Chị Chu có lỗi, bị đuổi ra rồi. » Tôi lại chờ một hồi lâu, gặp một người quen, mới vào được đây. Không ngờ mợ cũng ốm như thế !
Nói xong, bà ta chảy nước mắt ra. Bình Nhi sốt ruột, không chờ bà ta nói xong, liền nắm lấy tay dắt đi và nói :
- Bà nói chuyện một hồi lâu khô cả cổ, chúng ta đi uống chén trà đã.
Rồi chị ta dắt bà Lưu xuống ngồi ở nhà dưới. Còn con Thanh thì ở bên chỗ Xảo Thư. Bà Lưu nói :
- Trà thì không cần, nhờ cô bảo người dẫn tôi sang chào bà lớn và đi khóc cụ bà một chút.
Bình Nhi nói :
- Bà đừng vội. Hôm nay cũng không ra khỏi thành kịp. Vừa rồi tôi sợ bà nói sơ ý làm mợ tôi khóc, nên mới giục bà ra. Bà đừng nghĩ gì.
- A di đà Phật ! Cô ơi, cô quá lo đấy thôi, tôi cũng biết rồi. Nhưng bệnh mợ thì làm thế nào bây giờ ? Bà xem có cần gì không ?
- Nói ra thì có tội, chứ tôi xem chừng nguy lắm đấy !
Đang nói thì nghe Phượng Thư gọi. Bình Nhi đến bên giường thì Phượng Thư lại không nói gì cả. Bình Nhi đang hỏi Phong Nhi thì Giả Liễn vào. Hắn nhìn lên giường, cũng không nói gì, đi vào nhà trong hầm hầm ngồi xuống. Chỉ có Thu Đồng theo vào, rót chén trà ân cần thăm hỏi, rồi nhỏ to câu chuyện, chẳng biết là nói những gì. Một chốc, Giả Liễn gọi Bình Nhi tới hỏi :
- Mợ không uống thuốc à ?
- Không uống. Biết làm thế nào bây giờ ?
- Ta biết sao được ? Chị đưa cái chìa khóa tủ lại đây.
Bình Nhi thấy Giả Liễn có vẻ tức giận, cũng không dám hỏi, đành phải đi ra, ghé bên tai Phượng Thư nói nhỏ mấy câu. Phượng Thư im lặng, Bình Nhi liền đưa một cái hộp nhỏ để bên mình Giả Liễn rồi đi ngay.
Giả Liễn nói :
- Ma bắt chị rồi à ? Chị để đấy bảo ai mở ?
Bình Nhi nén giận, mở hộp lấy chìa khóa ra mở tủ rồi hỏi:
- Cậu lấy cái gì ?
- Chúng mình còn cái gì nữa.
Bình Nhi tức phát khóc lên, bèn nói :
- Có việc gì cậu cứ nói cho rõ ràng, tôi có chết cũng cam lòng !
Giả Liễn nói :
- Còn phải nói nữa ? Việc trước kia do các người gây ra, giờ đây việc của cụ còn thiếu mất bốn năm ngàn bạc. Chú bảo đem sổ sách công để xoay tiền. Chị xem còn có nữa không ? Nợ nần bên ngoài còn không biết lấy gì mà trang trải đây. Ai bảo tôi nhận lấy cái danh hão này ! Đành phải đem những vật dụng mà bán đi để bù vào thôi ? Chị không bằng lòng hay sao ?
Bình Nhi nghe xong, không nói một câu nào, liền khuân hết đồ vật trong tủ ra. Bỗng thấy Tiểu Hồng chạy sang nói :
- Chị Bình đến mau ! Mợ nguy lắm rồi.
Bình Nhi cũng không kể gì Giả Liễn nữa, vội vàng chạy sang, thì thấy Phượng Thư giơ tay bắt chuồn chuồn giữa không, Bình Nhi nắm lấy tay, vừa khóc vừa gọi. Giả Liễn cũng chạy sang nhìn rồi dậm chân, và nói :
- Cứ thế này là định giết tôi đấy ?
Nói xong, hắn chảy nước mắt.
Phong Nhi vào nói :
- Ngoài kia đang tìm cậu Hai đấy.
Giả Liễn đành phải đi ra.
Ở trong này Phượng Thư càng nguy cấp. Bọn Phong Nhi khóc ầm lên. Xảo thư nghe tiếng chạy lại. Bà cụ Lưu cũng vội vàng chạy đến trước giường. Miệng niệm Phật, phù phép gì một lát; quả nhiên Phượng Thư hơi đỡ hơn. Một lúc Vương phu nhân nghe a hoàn nói, cũng qua thăm, thấy Phượng Thư có phần yên tĩnh, cũng tạm yên lòng. Bà ta thấy bà Lưu liền hỏi :
- Bà cụ có khỏe không ? Đến đây từ bao giờ ?
- Xin hỏi thăm sức khỏe của bà lớn.
Rồi hai người cũng không kịp nói chuyện gì, chỉ bàn tán về bệnh Phượng Thư. Trò chuyện một hồi lâu. Thái Vân vào nói :
- Ông lớn mời bà lớn.
Vương phu nhân dặn dò Bình Nhi mấy câu rồi ra về. Sau một hồi nguy cấp, Phượng Thư lại hơi tỉnh táo. Thấy bà Lưu ngồi đấy trong bụng chị ta tin việc bà ấy nói chuyện cầu thần cầu thánh, liền tìm cách bảo bọn Phong Nhi ra ngoài, rồi gọi
bà Lưu lại nói cho bà ta biết tâm thần mình không yên, hình như trông thấy ma quỷ. Bà Lưu bèn kể lại ở trang trại có vị bồ tát nào thiêng liêng ngôi đền nào linh ứng. Phượng Thư nói :
- Nhờ bà cầu hộ cho tôi, cần tiền cúng lễ thì có đây, chị ta liền rút một chiếc vòng vàng trong cổ tay ra trao cho bà cụ.
- Mợ ạ. Không cần cái ấy đâu. Người ở trang trại chúng tôi hứa nguyện rồi mà bệnh khỏi thì chỉ tiêu mấy trăm đồng tiền là được làm gì cần đến như thế ? Ngay cả tôi cầu hộ cho mợ đây. cũng là khấn trước đấy thôi, chờ mợ khỏe rồi, muốn cúng bao nhiêu thì mợ tự đi cúng lấy thôi.
Phượng Thư biết rõ lòng tốt của bà ta, nài ép không tiện, đành phải để lại, và nói :
- Bà ạ. .Tính mạng của tôi xin giao phó cho bà. Con Xảo nhà tôi, trăm chứng ngàn tật, nay cũng giao phó cho bà luôn ?
Bà Lưu thuận miệng vâng lời, và nói :
- Đã vậy tôi xem trời còn sớm, có thể ra thành kịp, để tôi đi ngay. Sau này mợ khỏi rồi, sẽ mời đi lễ tạ.
Phượng Thư bị mấy hồn oan quấn quít, đâm ra sợ hãi, chỉ trông mong bà ta đi cầu ngay cho, liền nói :
- Nếu bà chịu hết lòng hộ tôi, tôi ngủ được một giấc yên ổn, thì tôi rất cảm ơn bà. Còn cháu ngoại bà thì bảo nó ở lại đây với tôi .
- Con cái nhà trang trại, không biết gì. Ở đây chỉ thêm sinh chuyện người ta chê cười, tôi đưa nó về là hơn.
- Bà quá lo. Đã là bà con thì sợ gì điều ấy . Nhà chúng tôi đây hiện nay túng thiếu nhưng thêm một người ăn. Có đáng là bao.
Bà Lưu thấy Phượng Thư thật tình. Bảo con Thanh ở đây mấy hôm, trong nhà đỡ tốn miệng ăn thì cũng thích. Nhưng sợ nó không chịu ở. Chi bằng gọi nó tới hỏi, nếu bằng lòng thì để ở lại. Rồi bà ta nói với con Thanh mấy câu. Con Thanh chơi với Xảo Thư đã quen, Xảo Thư lại không bằng lòng cho nó về. Con Thanh cũng muốn ở lại. Bà cụ liền dặn dò mấy câu, rồi từ biệt Bình Nhi, vội vàng ra thành.
Am Lũng Thúy nguyên là đất của phủ Giả. Khi làm vườn tỉnh thân, họ liền bao cả am ấy vào trong vườn. Lâu nay tiền ăn tiêu và hương dầu không hề động đến tiền lương của phủ Giả. Bây giờ Diệu Ngọc bị cướp. Bọn ni cô trình báo đến cửa quan.
Một là phải chờ xem quan trên tầm nã trộm cướp ra sao ; hai là cơ nghiệp của Diệu Ngọc không tiện bỏ đi, nên vẫn để lại như cũ. Họ chỉ trình cho phủ Giả biết tình hình mà thôi. Lúc bấy giờ người trong phủ Giả tuy ai cũng biết. Nhưng vì Giả Chính mới có tang, vả lại trong bụng lo lắng không yên, nên không ai dám đem
việc không quan trọng ấy trình với ông ta. Chỉ có Tích Xuân biết rõ việc này, thì ngày đêm áy náy. Việc Diệu Ngọc bị kẻ gian bắt cóc dần dần đồn đến tai Bảo Ngọc. Có người nói : “Diệu Ngọc động lòng tình dục, bỏ đi theo người.” Bảo Ngọc nghe tin rất là buồn bực nghĩ bụng : « Chắc cô ta bị bọn cướp bắt đi. Con người ấy nhất định không chịu, thế nào cũng chết chứ không chịu nhục? » Nhưng không thấy rõ kết quả ra sao, trong lòng anh ta rất là áy náy, ngày nào cũng thở vắn than dài. Anh ta lại nói :
- Con người như thế, thường tự xưng là «Người ngoài cửa », sao mà kết cục lại như thế ?
Rồi anh ta lại nghĩ : « Trước kia trong vườn vui vẻ biết bao ! Từ khi chị Hai về nhà chồng tới nay, người thì chết, người thì đi lấy chồng, mình tưởng Diệu Ngọc là người không vướng chút bụi trần, thế nào cũng giữ được lâu dài. Ngờ đâu sóng gió
bất thường, so với em Lâm chết càng kỳ quái ! Do đó một nghĩ đến hai, hai nghĩ đến ba, anh ta nghĩ lại việc xưa rồi nhớ đến câu nói của Trang tử cuộc đời hư vô mịt mùng. Người ta sinh ra ở đời khó lòng tránh khỏi cảnh mây tan gió cuốn”. Bảo Ngọc nghĩ như thế, bất giác khóc to lên. Bọn Tập Nhân cho là bệnh điên anh ta lại phát, nên tìm mọi cách ôn tồn khuyên giải. Ban đầu Bảo Thoa không biết là duyên cớ vì đâu, cũng dùng lời khuyên răn. Khốn nỗi Bảo Ngọc cứ uất ức không cởi mở ra được, nên tinh thần đâm ra hoảng hốt. Bảo Thoa nghĩ không hiểu vì lý do gì sao dò la mãi, mới biết là vì Diệu Ngọc bị bọn cướp bắt, không biết đi đâu. Bảo Thoa cũng thương cảm, nhưng thấy Bảo Ngọc buồn phiền, phải dùng lời ngay lẽ thẳng khuyên giải. Chị ta nói :
- Cháu Lan từ khi đi đưa đám tang về. Tuy không đi học, nhưng ngày đêm vẫn mải miết học hành. Nó là chắt đầu của bà. Bà xưa nay trông mong cho cậu nên người. Cha ngày đêm lo lắng cho cậu. Thế mà cậu cứ ngây ngây, dại dại, làm hư hỏng mình. Chúng tôi đây làm bạn với cậu sau này sẽ ra sao đây ?
Câu nói ấy làm cho Bảo Ngọc không biết trả lời ra sao. Hồi lâu mới nói :
- Tôi có để ý gì đến việc người ta đâu . Tôi chỉ buồn vì vận nhà mình suy sụp !
Bảo Thoa nói :
- Lại còn phải nói ! Cha và mẹ vốn muốn cho cậu nên người để nối nghiệp ông cha. Thế mà cậu cứ mê man không tỉnh, thì làm thế nào ?
Bảo Ngọc nghe chừng nói không vừa ý mình, liền dựa lên bàn mà ngủ. Bảo Thoa cứ để mặc, bảo bọn Xạ Nguyệt hầu, rồi đi vào đi ngủ.
Bảo Ngọc thấy lúc đó trong nhà vắng người, nghĩ bụng : “Từ khi Tử Quyên đến đây, mình chưa hề cùng chị ta nói chuyện tâm tình. Bộ chị ta lạnh nhạt như thế, mình rất lấy làm băn khoăn. Chị ta lại không phải như bọn Xạ Nguyệt, Thu Văn mà mình có thể bảo ban gì cũng được. Nhớ lại năm nọ khi mình ốm, chị ta ở với mình một độ lâu, có một cái gương nhỏ của chị ta hiện nay còn ở trong người mình. Chị ta cũng không phải là người vô tình. Bây giờ không biết vì sao, chị ta thấy mình cứ tỏ vẻ lạnh lùng, nhạt nhẽo. Nếu nói là vì vợ mình rất thân với em Lâm, và xem ra đối với Tử Quyên cũng khá. Lúc mình đi vắng, Tứ Quyên với nó cũng cười cũng nói không có chuyện gì ; chỉ khi mình đến là Tử Quyên chạy đi nơi khác. Chắc là Tử Quyên giận về chỗ em Lâm mới chết, mình đã cưới vợ. Chao ôi ! Tử Quyên ! Tử Quyên ! Chị là người con gái thông minh như thế, mà không nghĩ cho nỗi khổ tâm của tôi. Rồi anh ta lại nghĩ - Đêm nay người thì ngủ, người thì làm việc, chi bằng nhân dịp này mình đi tìm Tử Quyên, xem chị ta có nói gì không. Nếu mình còn có điều gì không phải thì cứ xin lỗi chị ta cũng được .”
Bảo Ngọc nghĩ thế rồi bước nhẹ ra cửa phòng, đi tìm Tử Quyên. Phần Tử Quyên ở gian trong nhà phía tây. Bảo Ngọc nhè nhẹ đi đến dưới cửa sổ, thấy bên trong còn có bóng đèn, liền dùng lưỡi liếm cho rách giấy cửa sổ nhìn vào trong, thấy Tử
Quyên một mình khêu đèn ngồi ngơ ngẩn, chẳng làm gì cả.
Bảo Ngọc bèn gọi nhỏ :
- Chị Tử Quyên ơi ! Chị chưa ngủ à ?
Tử Quyên nghe gọi, giật nẩy mình, ngơ ngác một hồi lâu, rồi mới hỏi :
- Ai đấy ?
- Tôi đây.
Tử Quyên nghe giống như tiếng Bảo Ngọc, liền hỏi :
- Cậu Bảo đấy à ?
Bảo Ngọc ở ngoài ừ một tiếng nhỏ. Tử Quyên hỏi :
- Cậu đến có việc gì ?
- Chị yên tâm, tôi muốn nói chuyện với chị. Chị mở cửa ra, tôi vào phòng chị ngồi một chút.
Tử Quyên im lặng một chốc, rồi nói :
- Trời khuya rồi, mời cậu về đi, có chuyện gì ngày mai hãy nói. Bảo Ngọc nghe nói, lạnh ngắt nửa con người, muốn vào thì sợ Tử Quyên chưa chắc đã chịu mở cửa, muốn trở về thì mối tình thầm kín trong lòng càng bị lời nói của Tử Quyên khêu gợi. Bất đắc dĩ, anh ta phải nói :
- Tôi cũng chẳng nói gì nhiều, chỉ hỏi chị một câu.
- Đã là một câu thì xin cứ nói ngay đi.
Bảo Ngọc đứng hồi lâu không nói gì cả. .
Tử Quyên ở trong nhà, không nghe Bảo Ngọc nói, biết anh ta vốn có bệnh ngây, sợ trách móc nặng lời sẽ gợi bệnh của anh ta lên, thì lại không hay, liền đứng dậy lắng nghe một lát rồi lại hỏi :
- Cậu đi rồi hay còn đứng ngây người ra đấy ? Có chuyện gì không nói đi, cứ đứng ì ra đó mà trêu tức người ta ? Đã trêu chết một người rồi, không lẽ lại định trêu chết một người nữa hay sao ? Tội tình gì mà như thế ?
Nói xong, chị ta cũng ghé vào lỗ giấy Bảo Ngọc liếm rách mà trông ra ngoài. Thấy Bảo Ngọc vẫn ngơ ngác đứng nghe ở đấy. Tử Quyên không tiện nói thêm nữa, quay lại cắt hoa đèn.
Bỗng nghe Bảo Ngọc thở dài một tiếng và nói :
- Chị Tử Quyên ơi ! Xưa nay chị vốn không phải là người ruột gan sắt đá như thế, sao mà gần đây chẳng hề nói một câu tử tế nào ? Tôi cố nhiên là đồ dơ-đục, không đáng cho các chị nhìn tới, nhưng nếu tôi có điều gì không phải, mong chị cứ nói rõ ra, thì dẫu suốt đời chị không nhìn tôi, tôi chết đi cũng thỏa lòng ?
Tử Quyên nghe xong, cười nhạt và nói :
- Cậu Hai chỉ có câu chuyện ấy thôi à ? Hay còn có gì nữa? Nếu chỉ có câu chuyện ấy, thì lúc cô tôi còn sống. Tôi nghe đã nhàm tai rồi ; nếu chúng tôi có chỗ nào sai lầm thì tôi là người bà lớn sai đến, cậu Hai cứ trình lại với bà lớn. Đằng nào chúng
tôi cũng là bọn con hầu, có đáng kể gì ?
Tử Quyên nói đến đó, giọng đã nghẹn ngào, vừa nói vừa sụt sùi . Bảo Ngọc ở ngoài biết chị ta đau lòng mà khóc, liền hoảng lên dậm chân và nói :
- Nói cái gì thế ? Sự việc của tôi, chị ở đây đã mấy tháng trời, còn có gì chưa biết rõ hay sao ? Dầu người khác không chịu nói hộ với chị cho tôi, không lẽ chị còn không để cho tôi nói, định bắt tôi chết đi à ?
Nói xong, anh ta cũng khóc nức nở.
Bảo Ngọc đang đứng khóc ở đấy, bỗng nghe sau lưng có một người nói tiếp :
- Cậu bảo ai nói hộ cho cậu ? Mình mang lỗi với người ta thì mình phải nài xin lấy chứ ? Người ta có nể mặt hay không thì mặc người ta, tại sao lại lôi cả bọn người vô can như chúng tôi vào đấy ?
Câu nói ấy làm cho cả hai đều giật mình. Các bạn thử nghĩ người đó là ai ? Đó là Xạ Nguyệt. Bảo Ngọc cảm thấy khó coi. Chợt nghe Xạ Nguyệt nói tiếp :
- Rút cục lại làm sao thế ? Một người xin lỗi. Một người cứ để mặc. Cậu phải mau mau van xin đi chứ ! Chà ? Chị Tử Quyên nhà mình cũng độc ác quá ! Ngoài này trời lạnh như thế, người ta van xin mãi cũng không lay chuyển gì cả !
Rồi chị ta lại nói với Bảo Ngọc :
- Vừa rồi mợ Hai nói trời khuya lắm rồi, tường là cậu đi đâu, té ra cậu lại một mình đứng dưới thềm cái phòng này làm gì?
Tử Quyên ở trong nhà nói tiếp :
- Thế này là nghĩa lý gì ? Mời cậu Hai đi về, có điều gì ngày mai hãy nói. Tội tình gì thế ?
Bảo Ngọc còn muốn nói nữa, nhưng thấy Xạ Nguyệt ở đấy, nói không tiện, đành phải cùng Xạ Nguyệt đi về, và nói :
- Thôi ! Thôi ! Đời này kiếp này tôi cũng khó mà giải tỏ nỗi lòng ! Chỉ có trời già biết cho mà thôi !
Anh ta nói đến đó, chẳng biết nước mắt từ đâu tuôn ra như suối. Xạ Nguyệt nói :
- Cậu Hai ạ, cậu nghe tôi khuyên mà dập tắt tấm lòng ấy đi thôi. Cứ nhỏ nước mắt suông như thế, cũng đáng tiếc đấy.
Bảo Ngọc cũng không nói lại, đi vào trong nhà, thấy BảoThoa đã ngủ rồi. Bảo Ngọc cũng biết là Bảo Thoa giả vờ ngủ. Chỉ có Tập Nhân nói một câu :
- Có chuyện gì ngày mai cậu nói không được hay sao ? Lại cứ chạy đến đấy mà quấy rầy, sinh ra ...
Chị ta thôi không nói nữa, dừng một lát, mới nói tiếp :
- Trong người cậu không thấy làm sao chứ ?
Bảo Ngọc chỉ lắc đầu không nói gì. Tập Nhân liền dọn giúp cho Bảo Ngọc nằm xuống. Suốt đêm anh ta không ngủ, điều đó không cần phải nói.
Tử Quyên bị Bảo Ngọc gợi chuyện ra, trong lòng lại càng khó chịu, khóc suốt một đêm, nghĩ bụng : « Bảo Ngọc rõ ràng là vì ốm mê man, bị họ bày mưu lập kế mà sinh việc ấy. Sau đó anh ta rõ chuyện, bệnh cũ lại phát, thường thường nhớ nhung khóc lóc, không phải là hạng người quên tình phụ nghĩa. Hôm nay anh ta tỏ rõ mối tình âu yếm như th, lại càng làm cho mình khó chịu. Chỉ đáng thương cô Lâm nhà mình thật là kém phúc. Xem như thế thì duyên phận con người đều đã định từ trước. Khi duyên phận chưa đến thì ai nấy đều ngây ngất mơ tưởng, đến lúc khôn làm sao được thì người hồ đồ sẽ không nghĩ gì nữa, còn người tình sâu nghĩa nặng rút cục cũng chỉ trông trăng đón gió, khóc lóc than phiền mà thôi. Đáng thương người chết chưa chắc đã biết gì, mà người sống thật là đau lòng xót ruột, không bao giờ nguôi. Kể ra thì con người không bằng cỏ, cây, hòn đá, không hay biết gì, thế mà lại được rãnh rỗi.” Chị ta nghĩ đến đó, tấm lòng chua xót, chốc lát trở nên nguội lạnh. Tử Quyên vừa định thu xếp đi ngủ, thì nghe bên nhà phía đông có tiếng ồn ào.
Hồi thứ một trăm mười bốn
Vương Hy Phượng trải qua cơn ảo nhớ lại Kim Lăng
Chân ứng Gia được đội ơn vua về chầu ngọc khuyết
Bảo Ngọc, Bảo Thoa nghe nói bệnh Phượng Thư nguy cấp vội vàng ngồi dậy. A hoàn cầm đèn chờ sẵn. Đang định đi ra, thì thấy bên Vương phu nhân sai người đến nói :
- Mợ hai Liễn nguy lắm rồi, nhưng chưa tắt thở. Mợ và cậu hãy khoan sang. Bệnh mợ hai Liễn có phần kỳ quặc ; từ canh ba đến canh tư, đòi hỏi luôn miệng, đòi thuyền đòi kiệu, nói là để về Kim Lăng nhập vào cuốn sổ gì đấy. Mọi người không hiểu. Mợ ta cứ kêu van khóc lóc. Cậu hai Liễn chẳng biết làm thế nào, đành phải sai người đi bẻ thuyền và kiệu giấy. Thuyền và kiệu chưa về, mợ ta cứ thở hổn hển chờ. Bà lớn sai chúng tôi đến đây, nói cậu mợ chờ mợ ấy tắt thở rồi hãy sang.
Bảo Ngọc nói :
- Thế cũng lạ thật ? Chị ấy đi Kim Lăng làm gì ?
Tập Nhân nói khẽ :
- Không phải năm trước cậu đã thấy chiêm bao. Tôi còn nhớ cậu nói có những mấy cuốn sổ à ? Phải chăng là mợ hai Liễn đi đến chỗ ấy ?
Bảo Ngọc nghe xong, gật đầu nói :
- Phải đấy ! Đáng tiếc tôi không nhớ những lời ghi trong mấy cuốn sổ ấy nữa. Xem như thế thì người ta ai cũng có số cả. Nhưng không biết em Lâm thì đi chỗ nào ? Bây giờ nghe chị nói, tôi hơi hiểu rồi. Nếu lại được thấy chiêm bao mấy lần nữa, thế nào tôi cũng xem cho kỹ, có lẽ chẳng phải bói cũng đã biết trước.
Tập Nhân nói :
- Cậu lẩn thẩn thế tôi không thể nói chuyện được. Tôi ngẫu nhiên nhắc đến một câu, mà cậu đã cho là thật ? Cậu có biết trước thì liệu còn cách gì nữa.
Bảo Ngọc nói :
- Chỉ sợ không biết trước thôi, nếu biết trước thì tôi cũng không cần gì lo lắng hão cho các người !
Hai người đang nói chuyện, thì Bảo Thoa chạy đến hỏi :
- Hai người nói gì đấy ?
Bảo Ngọc sợ chị ta tra hỏi, liền trả lời :
- Đang bàn chuyện chị Phượng.
- Người ta sắp chết rồi. Các người cứ bàn chuyện chị ấy làm gì. Năm trước cậu cứ nói tôi nguyền rủa chị ấy, chứ quẻ thẻ thần phải ứng nghiệm đấy à ?
Bảo Ngọc nghĩ một lát, rồi vỗ tay và nói :
- Phải đấy ? Xem như thế thì mợ có thể biết trước được. Tôi hỏi mợ có biết tương lai của tôi sẽ như thế nào không ?
Bảo Thoa cười và nói :
- Lại nói nhảm rồi, tôi chẳng qua cứ lời trên quẻ thẻ chị ấy xin mà nói bừa ra đấy thôi, thế mà cậu lại cho là thật. Cậu thật giống như chị Hai nhà tôi. Lúc cậu mất ngọc, chị ta đi nhờ Diệu Ngọc cầu tiên, tiên viết chữ ra, mọi người không hiểu. Khi
vầng người, chị ta còn nói với tôi. Diệu Ngọc biết trước như thế nào, tham thiền ngộ đạo như thế nào, bây giờ chính Diệu Ngọc mắc nạn lớn, mà bản thân cô ấy lại không biết ? Thế lại cho là biết trước à ? Ngay cả tôi ngẫu nhiên nói đúng việc của mợ Hai, thực ra thì làm sao biết số chị ấy như thế nào ? Ngay cả số tôi, tôi cũng chẳng biết nữa là. Những việc như thế, vốn là chuyện hoang đường, tin làm sao được ?
Bảo Ngọc nói :
- Đừng nhắc chuyện chị ấy nữa, mợ chỉ nói chuyện em anh thôi. Từ khi nhà ta luôn luôn có việc, lãng quên việc của cô ta. Một việc lớn như thế. Sao bên nhà lại làm qua loa xong chuyện ? Cũng không mời mọc bà con chúng bạn gì cả .
Bảo Thoa nói :
- Cậu nói như thế lại viễn vông rồi. Bà con nhà chúng tôi, chỉ có nhà mình đây và nhà họ Vương là gần gũi. Nhà họ Vương hiện chẳng có ai là người đứng đắn, còn nhà mình thì mắc việc tang bà, nên cũng không mời ; chỉ có anh Liễn là còn lo liệu việc này việc khác. Bà con nơi khác cũng có một vài nhà. Cậu không sang làm sao mà biết. Kể ra số phận chị Hai nhà tôi cũng chẳng khác tôi mấy, từ khi hứa gả cho anh Hai tôi, mẹ tôi vốn định cưới cho anh ấy thật đường hoàng. Nhưng một là vì anh Cả tôi đang bị giam, anh Hai cũng không chịu làm to; hai là vì việc nhà mình đây; ba là vì chị Hai ở bên nhà bà Cả khổ quá, lại bị khám xét, bà Cả hết sức cay nghiệt, chị ấy không thể chịu nổi. Vì thế tôi nói với mẹ tôi chịu làm qua loa bôi bác mà cưới về cho xong. Tôi xem chị Hai tôi giờ đây thật là yên tâm vui vẻ, hiếu kính mẹ tôi, so với dâu thật còn hơn gấp mười, đối đãi với anh Hai cũng giữ hết đạo làm vợ. Lại rất thân mật với chị Hương Lăng. Khi anh Hai tôi đi vắng, hai người ăn ở vui vẻ hòa thuận, tuy trong nhà có phần túng thiếu, nhưng gần đây mẹ tôi có phần ung dung hơn trước. Chỉ khi nào nghĩ đến anh Cả tôi là mẹ tôi không khỏi đau lòng. Anh Cả tôi cũng thường sai người về nhà lấy tiền tiêu, may nhờ anh Hai tính toán công nợ ở ngoài, lo tiền gởi cho. Tôi nghe nói có mấy ngôi nhà trong thành đã cầm đi rồi, còn lại một ngôi, bây giờ đang định dọn đến đấy ở.
Bảo Ngọc nói :
- Tại sao lại định dọn đi ? Ở chỗ này mợ qua lại cũng tiện, nếu dọn đi xa, mợ muốn đến phải mất một ngày.
Bảo Thoa nói :
- Tuy nói là bà con, nhưng ai ở nhà nấy thì vẫn tiện hơn, lẽ nào lại ở nhà bà con suốt đời ?
Bảo Ngọc còn định nói tại sao không nên dọn đi, thì thấy Vương phu nhân cho người đến nói :
- Mợ hai Liễn đã mất. Tất cả mọi người đều qua bên ấy rồi. Mời cậu Hai và mợ Hai sang ngay.
Bảo Ngọc nghe nói, không nín được nữa, dẫm chân định khóc. Bảo Thoa cũng thương xót, lại sợ Bảo Ngọc thương tâm, liền nói :
- Đừng khóc ở đây, sang bên ấy mà khóc luôn thể.
Rồi hai người đi một mạch đến nhà Phượng Thư, thì thấy có nhiều người đang đứng vây quanh mà khóc. Bảo Thoa tới nơi, thấy Phượng Thư chết rồi, đã đặt nằm trên giường, liền oà khóc to. Bảo Ngọc cũng nắm lấy tay Giả Liễn, khóc lóc thảm thiết. Giả Liễn lại khóc lóc lúc lâu. Bọn Bình Nhi thấy không có ai khuyên giải, đành phải cố nhịn đau thương mà tới khuyên. Mọi người đều thương khóc mãi.
Giả Liễn cuống quít sai người gọi Lại Đại đến, bảo ông ta lo liệu việc tang, còn mình thì thưa lại đầu đuôi với Giả Chính, rồi đi lo liệu công việc. Nhưng vì trong nhà thiếu thốn, nên việc gì cũng chật vật. Nhớ lại ngày thường Phượng Thư ăn ở quí hóa, hắn càng không sao cầm được nước mắt. Lại thấy Xảo Thư khóc lóc, chết đi sống lại, càng thêm thương tâm. Hắn khóc cho đến sáng, rồi sai người đi mời cậu cả là Vương Nhân đến.
Sau khi Vương Tử Đằng chết. Vương Tử Thắng lại là người bất tài. Vương Thân tha hồ càn dở làm cho bà con nội ngoại xích mích lẫn nhau. Nay nghe em gái chết, hắn ta đành phải chạy đến, khóc lóc một hồi. Thấy ở đấy mọi việc đều bôi bác qua loa, trong bụng hắn ta không bằng lòng, nói :
- Em gái tôi ở nhà các người khó nhọc vất vả trông coi việc cửa việc nhà mấy năm nay, chẳng có điều gì sai lầm. Nhà các người cần phải tống táng cho ra trò mới phải. Tại sao đến giờ mà mọi việc vẫn chưa đầy đủ ?
Giả Liễn vốn không bằng lòng với Vương Nhân, thấy hắn nói những câu nhảm nhí. Biết hắn chẳng hiểu gì, nên cũng không để ý. Vương Nhân liền gọi cháu ngoại là Xảo Thư lại, và nói :
- Lúc mẹ cháu còn sống, ăn ở không chu đáo, chỉ biết một mực chiều chuộng bà mà khinh thường bọn chúng ta. Cháu này ! Cháu đã lớn rồi. Cháu thấy cậu xưa nay có nhờ vả gì nhà cháu không ? Bây giờ mẹ cháu chết rồi. Mọi việc cháu phải nghe lời cậu. Bà con bên ngoại nhà cháu chỉ có cậu đây và cậu Hai của cháu thôi. Cha cháu người như thế nào, cậu cũng biết cả. Anh ta chỉ có kính trọng người khác thôi. Năm nọ dì Vưu nào đó chết đi, cậu tuy không ở Kinh nhưng nghe nói cha cháu mất khá nhiều tiền. Nay mẹ cháu chết, cha cháu lại lo liệu qua loa như thế. Cháu cũng không biết khuyên cha cháu à ?
Xảo Thư nói :
- Cha cháu cũng muốn lo liệu cho chu đáo. Nhưng bây giờ không bì với trước được. Hiện giờ trong tay không có tiền, mọi việc đều phải dè sẻn ít nhiều.
- Đồ đạc của nhà cháu còn ít à ?
- Năm trước bị tịch thu hết, còn đâu nữa ?
- Cháu cũng nói như thế à ? Cậu nghe nói cụ bà lại cho một số đồ vật, cháu nên đưa ra mới phải.
Xảo Thư nói cha mình đã dùng đi rồi thì không tiện, nên chỉ chối là không biết. Vương Nhân liền nói :
- Chà ? Tao biết rồi, chẳng qua mày muốn để dành sau này làm đồ hồi môn đấy thôi.
Xảo Thư nghe nói, không dám trả lời. Tức quá nghẹn ngào khóc lên. Bình Nhi giận quá nói :
- Cậu có điều gì thì chờ cậu Hai chúng tôi vào hãy nói. Cô mới chừng ấy tuổi. đã hiểu cái gì ?
Vương Nhân nói :
- Bọn các người thì chỉ trông chờ cho mợ Hai chết đi, để dễ làm vương làm tướng ! Tôi có đòi gì đâu. Lo liệu cho chu đáo là thể diện của các người đấy thôi. Nói xong, hắn hầm hầm ngồi xuống.
Xảo Thư trong bụng rất bực bội, nghĩ thầm : “Cha mình không phải người phụ bạc. Khi mẹ mình đang còn, cậu lấy không biết bao nhiêu là đồ vật, thế mà bây giờ lại chối trơn đi như thế.” Vì thế, cô ta không trọng cậu lắm. Ngờ đâu Vương Nhân trong bụng suy nghĩ, em gái mình dành dụm không biết bao nhiêu, tuy nhà bị khám xét, nhưng tiền bạc có phải ít đâu. Chắc là sợ mình đến vòi vĩnh nên bày trò nói như thế. Con bé kia cũng không giúp mình được gì. Từ đó Vương Nhân cũng ghét cả Xảo Thư. Giả Liễn chẳng hề biết gì, chỉ loay hoay kiếm tiền để tiêu. Mọi việc ở ngoài, bảo Lại Đại lo liệu ; bên trong cũng cần tiêu khá nhiều tiền, không thể một lúc kiếm đâu ra được. Bình Nhi biết hắn hoảng hốt liền can :
- Cậu Hai cũng không nên hủy hoại đến thân thể lắm ?
- Còn thân với thể gì ! Hiện giờ tiền tiêu hàng ngày không còn nữa, việc này biết lo liệu làm sao ? Thế mà lại có hạng người lẩn thẩn cứ ở đây quấy rầy. Chị cứ nghĩ xem còn cách gì nữa ?
- Cậu cũng đừng hoảng lên, nếu không có tiền tiêu thì tôi còn ít nhiều đồ vật. May mà năm trước không bị tịch thu, cậu cần thì đem cầm đi mà tiêu.
Giả Liễn nghe nói, nghĩ bụng, thế thật may quá, liền cười và nói :
- Thế thì càng tốt, đỡ cho tôi khỏi phải chạy vay nơi này nơi khá. Chờ khi nào tôi kiếm được tiền sẽ trả lại cho chị.
- Của tôi cũng là của mợ cho, trả với vay gì ! Cốt làm sao lo liệu việc này cho dễ coi một chút là được.
Giả Liễn rất là cảm kích, liền đem đồ vật của chị ta cầm đi mà tiêu. Mọi việc cùng bàn hạc với chị ta mà làm ! Thu Đồng thấy vậy, trong bụng khó chịu, thường nói ra miệng :
- Mợ Hai chết rồi. Con Bình muốn leo lên đấy ? Tôi là người của ông lớn. Sao nó lại vượt cả tôi ?
Bình Nhi cũng biết ý, nhưng cứ để mặc. Giả Liễn lúc đó biết rõ, nên càng ghét Thu Đồng, gặp việc gì buồn bực thì đem Thu Đồng ra hành hạ. Hình phu nhân biết thế, lại bảo Giả Liễn không tốt. Giả Liễn đành phải chịu nhịn.
Linh cữu của Phượng Thư để hắn mười ngày rồi mới đưa đi. Giả Chính chịu tang mẹ, nên chỉ ở thư phòng bên ngoài. Lúc bấy giờ bọn môn khách đều dần dần từ biệt đi nơi khác, chỉ có Trình Nhật Hưng còn ở đấy, thường ngồi tiếp chuyện. Giả Chính nói :
- Vận nhà không may. Chết luôn mấy người, ông Cả và anh Trân lại còn ở ngoài. Cảnh nhà càng ngày càng gặp khó khăn. Ruộng đất ở ngoài trại Đông cũng chẳng biết ra làm sao. Thật là gay ?
Trình Nhật Hưng nói :
- Tôi ở đây đã mấy năm, cũng biết người nhà ở phủ đây không ai là không tư túi. Năm nào họ cũng bòn của về nhà thì cố nhiên ở phủ đây càng ngày càng thiếu hụt. Lại thêm phải chi tiêu cho bên ông Cả và ông Trân nữa. Bên ngoài, còn có ít nhiều nợ, vừa rồi lại mất trộm một ít, trông mong các nha môn truy lùng đám cướp để lấy lại của, là việc rất khó. Ông lớn nếu muốn cho việc nhà ổn định, chỉ có cách gọi hết những người coi việc nhà đến, sai một người tâm phúc tra xét rõ ràng các nơi; ai nên cho về thì cho về, ai nên ở lại thì ở lại ; chỗ nào bị thiếu hụt mất mát, thì bắt những người đã làm trước phải bồi thường. Như thế mới được rõ ràng. Cái vườn lớn kia, không ai dám tấu, nhưng trong đó có nhiều món lợi, thế mà lại không cắt người coi sóc. Mấy năm trước đây khi ông lớn đi vắng, bọn họ bịa đặt ra ma quỷ làm cho không ai dám vào vườn. Đó đều do bọn người nhà gây chuyện. Lúc này nên tra xét lại bọn tôi tớ, tốt thì dùng, không tốt thì đuổi đi. Thế mới là hợp lý.
Giả Chính gật đầu nói :
- Tiên sinh cũng chưa biết hết ! Chẳng cần nói người nhà, ngay cả cháu mình, cũng không thể tin cậy được ! Nếu bảo tôi tra xét lấy thì làm thế nào mà việc gì cũng tai nghe mắt thấy được hết ? Vả lại tôi lại đang có tang, không có thể trông nom được
những việc ấy. Tôi xưa nay lại không hay xem xét việc nhà. Cái gì có, cái gì không, tôi cũng không hề biết đến.
- Ông lớn là người nhân đức, nếu như ở nhà khác mà gặp tình cảnh thế này, dầu cho có túng thiếu đi nữa, năm năm mười năm cũng còn không sợ. Chỉ bắt bọn quản gia mà lấy cũng đủ. Tôi nghe nói người nhà của ông còn có người làm tri huyện kia mà.
- Tiêu tiền của bọn người nhà thì còn ra gì nữa. Chỉ có cách tự mình biết tiết kiệm ít nhiều là hơn. Những sản nghiệp trong sổ sách, nếu mà có thật thì còn khá, chỉ sợ có danh mà không có thực thôi.
- Ông lớn nói rất đúng. Nhưng ông lớn có hiểu vì sao vãn sinh nầy lại nói ông cần phải xem xét không ?
- Chắc là tiên sinh có nghe được việc gì chăng ?
- Tôi có biết ít nhiều về mánh khóe của những người coi việc ở đây nhưng cũng không dám nói ra.
Giả Chính nghe nói, biết ngay là trong lời nói ấy thế nào cũng có duyên cớ, liền than thở :
- Nhà chúng tôi từ cha ông tới nay, đều là nhân hậu, chưa hề đối đãi khắc bạc với người dưới. Tôi xem giờ đây bọn người ấy mỗi ngày mỗi khác ! Đến ngay tôi mà chúng vẫn lên mặt chủ nhà, thực làm cho người ta chê cười !
Hai người đang nói chuyện thì người canh cửa vào thưa :
- Cụ Chân ở Giang Nam đã đến.
Giả Chính hỏi :
- Cụ Chân đến kinh làm gì ?
- Con đã hỏi rồi. Nghe nói là nhờ ơn Hoàng thượng cho phục chức.
- Không cần nói nữa. Mày ra mời vào mau.
Người kia đi ra, mời vào ông Chân tức là cha Chân Báo Ngọc, tên là Chân Ứng
Gia, tức là Hữu Trung, cũng người Kim Lăng, và là con cháu nhà công thần. Ông ta vốn có bà con với phủ Giả. Xưa nay vẫn thường đi lại. Năm trước vì phạm lỗi, bị cách chức, bị tịch thu gia sản. Nay gặp lúc hoàng thượng tưởng nhớ đến công thần, trả lại chức thế tập và gọi vào kinh bệ kiến. Ông ta biết Giả mẫu vừa mất, liền sắm sửa lễ vật, chọn ngày đến chỗ để linh cữu để viếng, vì thế đến nhà hỏi thăm trước.
Giả Chính có tang, không thể ra đón xa, chỉ đứng bên ngoài cửa thư phòng. Chân Ứng Gia vào gặp, vừa buồn vừa vui. Vì trong lúc có tang, Giả Chính không tiện hành lễ, nên hai người cầm tay nhau nói mấy câu chuyện xa cách tưởng nhớ, rồi đôi bên khách chủ cùng ngồi. Dâng trà xong, hai bên lại nói về chuyện sau khi xa cách. Giả Chính hỏi :
- Ông vào bệ kiến bao giờ ?
- Hôm trước.
- Chúa thượng đã có ơn hậu, chắc là có chỉ dụ khoan hồng.
- Ơn chúa thượng thật là cao hơn trời, có ban khá nhiều chỉ ý.
- Có chỉ ý gì hay ?
- Gần đây bọn giặc ở đất Việt lăng loàn. Một dãy ven biển, nhân dân không yên. Chúa thượng đã sai An Quốc công đi đánh dẹp. Biết tôi quen thuộc nơi này, nên chúa thượng sai tôi qua đó vỗ yên dân chúng. Nhưng phải lên đường ngay. Hôm qua nghe nói cụ bà quy tiên, tôi kính cẩn sắm nén hương đến trước linh vị người cúng viếng, đặng tỏ chút lòng thành.
Giả Chính vội vàng khấu đầu bái tạ, và nói :
- Ông đi lần này, chắc là trên thỏa lòng thánh thượng, dưới yên ổn nhân dân. Công lao rất lớn chính là ở chuyến đi này. Mắt tôi không được nhìn thấy tài cao. Xin chờ nghe tin báo tiệp. Quan trấn hải thống chế hiện nay là thông gia nhà tôi. Thế nào
cũng nhờ ông để ý giúp đỡ.
- Ông với quan thống chế bà con thế nào ?
- Năm trước, lúc tôi nhậm chức lương đạo tỉnh Giang Tây, có gả con gái cho quan thống chế. Chúng kết hôn đã ba năm rồi. Vì công việc miền biển chưa xong, sau đó bọn giặc biển lại nhóm họp làm loạn. cho nên tin tức không thông. Tôi rất nhớ cháu. Chờ khi nào việc vỗ yên dân chúng xong. Xin ông tiện dịp qua thăm cháu một chút. Tôi xin viết vài chữ nhờ người nhà của ông đưa đi luôn thể. Tôi rất lấy làm cảm kích !
- Ai lại không thương cảm. Tôi cũng đang có việc muốn nhờ ông. Vừa rồi đội ơn thánh thượng triệu vào kinh, vì cháu còn trẻ tuổi, trong nhà lại thiếu người, nên phải đem cả gia quyến cùng vào kinh. Tôi vì lệnh trên gấp rút, nên phải đi luôn cả đêm ngày để đến trước. Gia quyến còn đi chậm lại sau. Ít hôm nữa mới tới kinh. Tôi vâng chỉ ra đi, không dám ở lại lâu. Sau này gia quyến của tôi tới kinh, thế nào cũng đến tôn phủ đây. Và chắc sẽ bảo cháu tới hầu. Nếu cháu có thể dạy bảo được thì gặp nơi nào có thể kết hôn, xin ông lưu ý cho, tôi rất lấy làm cảm kích.
Giả Chính đều vâng lời.
Chân Ứng Gia lại nói mấy câu chuyện nữa rồi định đứng dậy ra về, và nói :
- Ngày mai tôi sẽ xin gặp lại ở ngoài thành.
Giả Chính thấy ông ta công việc vội vàng, liệu chừng không thể ngồi lâu được nữa, đành phải tiễn khỏi thư phòng. Giả Liễn và Bảo Ngọc đã chờ sẵn ở đấy để tiễn thay. Nhưng vì Giả Chính không gọi, nên chưa dám vào. Khi Chân Ứng Gia đi ra, hai người tới hỏi thăm sức khỏe. Ứng Gia chợt thấy Bảo Ngọc, hết sức sửng sốt, nghĩ bụng : “Anh này tại sao lại giống hệt Bảo Ngọc nhà mình, chỉ có khác là mặt đồ trắng thôi.” Ông ta liền hỏi :
- Bà con thân thiết, lâu ngày không gặp nhau. Các cậu đây tôi đều không nhận ra ai được nữa cả.
Giả Chính vội vàng chỉ Giả Liễn mà nói :
- Đây là cháu Hai Liễn. Con anh Xá nhà tôi.
Lại chỉ Bảo Ngọc mà nói :
- Đây là cháu thứ hai của tôi, tên gọi là Bảo Ngọc.
Ứng Gia vỗ tay và nói :
- Lạ thật ! Lúc tôi ở nhà nghe nói ông có cậu con quý. Khi đẻ ngậm hòn ngọc, tên là Bảo Ngọc. Vì là trùng tên với thằng cháu nhà tôi, nên trong bụng tôi rất lấy làm lạ. Sau nghĩ việc ấy cũng thường, nên không để ý. Không ngờ hôm nay gặp mặt, chẳng những diện mạo giống nhau, mà bộ điệu đi đứng cũng hệt nhau, thì càng lạ quá !
Ứng Gia lại hỏi tuổi Bảo Ngọc, và nói :
- Cháu nhà tôi kém cậu em đây một tuổi.
Giả Chính lại nhắc đến chuyện năm trước bên quý phủ tiến cử Bao Dũng, và đã hỏi đến việc cậu em bên nhà cùng thằng cháu đây trùng tên. Ứng Gia vì để ý vào Bảo Ngọc, nên cũng không kịp hỏi Bao Dũng hay dở như thế nào, cứ nói luôn miệng : - Thật là lạ lùng ! Rồi ông ta cầm tay Bảo Ngọc, ngỏ ý ân cần. Nhưng lại sợ An Quốc công khởi hành rất gấp, cần phải sắm sửa để đi xa, nên đành miễn cưỡng chia tay. Giả Liễn và Bảo Ngọc tiễn chân. Dọc đường, ông ta lại hỏi Bảo Ngọc mấy câu rồi sau đó mới lên xe mà đi. Giả Liễn và Bảo Ngọc trở vào gặp Giả Chính thuật lại những chuyện Ứng Gia vừa hỏi. Giả Chính bảo hai người về nhà.
Giả Liễn lại xoay xở để cho xong số tiền tiêu về đám tang Phượng Thư.
Bảo Ngọc về phòng mình, nói chuyện với Bảo Thoa :
- Anh Chân Bảo Ngọc mà ta thường nhắc đến, tôi cứ nghĩ là không thể gặp được. Hôm nay lại gặp bố anh ta rồi. Nghe ông ta nói ít ngày nữa Chân Bảo Ngọc cũng lên kinh, và sẽ đến chào cha. Ông ta cũng nói Chân Bảo Ngọc giống hệt tôi, tôi vẫn không tin. Nếu hôm sau anh ta đến nhà mình, các chị đến xem có thật giống tôi không ?
Bảo Thoa nói :
- Ái chà ! Cậu nói rõ vớ vẩn ! Người con trai nào giống mình cậu cũng bàn tán, lại bảo chúng tôi ù lì xem mặt nữa kia !
Bảo Ngọc nghe nói, biết mình lỡ lời, đỏ mặt, định tìm lời phân giải.
Hồi thứ một trăm mười lăm
Tri lời thiên lệnh, Tích Xuân thề vẫn giữ chí xưa
Tên người dù giống nhau, Bảo Ngọc không coi là tri kỷ
Bảo Ngọc biết mình lỡ lời, bị Bảo Thoa bẻ lại, đang tìm cách lấp liếm. Bỗng thấy Thu Vân đến thưa :
- Ông lớn ở nhà ngoài gọi cậu đấy.
Bảo Ngọc vội vã đi ngay đến chỗ Giả Chính. Giả Chính nói :
- Ta gọi mầy không có việc gì khác là hiện mầy đang có tang, không thể đến trường học, vậy ở nhà mầy phải cố chăm lo ôn lại bài vở. Nhân dịp này ta rỗi rãi, cứ vài ba ngày, mầy làm vài bài văn đưa tới, ta xem mầy học hành có tấn tới không.
Bảo Ngọc đành phải vâng lời. Giả Chính lại nói :
- Tao cũng bảo em Hoàn và cháu Lan phải ôn tập bài vở. Nếu bài vở của mầy mà kém chúng nó thì thật không ra thể thống gì.
Bảo Ngọc không dám nói, chỉ dạ một tiếng, đứng yên.
Giả Chính bảo :
- Thôi, cho về.
Bảo Ngọc lui ra, vừa gặp bọn Lại Đại đem sổ đến trình. Bảo Ngọc chạy một mạch về phòng, Bảo Thoa hỏi lại, biết rõ là Giả Chính bắt anh ta làm bài, trong lòng cũng mừng. Riêng Bảo Ngọc không thích nhưng cũng không dám lười biếng. Đang định ngồi một lúc để cho tâm hồn thư thái, bỗng thấy hai ni cô ở am Địa Tạng đến. Trông thấy Bảo Thoa, hai ni cô liền nói :
- Xin đến chào mợ Hai.
Bảo Thoa ra vẻ thờ ơ nói :
- Hai cô vẫn mạnh khỏe chứ ?
Rồi gọi người hầu pha trà cho các sư phụ uống, Bảo Ngọc cũng muốn bắt chuyện với các ni cô, nhưng thấy Bảo Thoa có vẻ chán ngấy bọn họ nên cũng không tiện xen vào. Các ni cô thấy Bảo Thoa ra chiều lạnh nhạt, cũng không ngồi lâu, cáo từ xin về.
Bảo Thoa nói :
- Ngồi chơi lúc nữa.
- Chúng tôi bấy lâu bận việc công đức ở chùa Thiết Hạm nên không đến thăm các bà và các mợ được. Hôm nay đến hầu bà và mợ rồi phải đến thăm cô Tư nữa.
Bảo Thoa gật đầu, để họ đi. Đến phòng Tích Xuân, các ni cô trông thấy Thái Bình liền hỏi :
- Cô ở đâu ?
- Đừng nhắc đến nữa. Cô tôi mấy hôm nay chẳng thiết ăn uống gì cả, chỉ nằm một chỗ.
- Sao thế ?
- Nói ra thì dài lắm. Các cô vào thăm, có lẽ cô tôi sẽ nói chuyện đấy.
Tích Xuân nghe tiếng, vội ngồi dậy hỏi :
- Hai cô vẫn khỏe mạnh đấy chứ ? Gần đây thấy nhà chúng tôi sa sút, chắc các cô không đến nữa ?
- A di đà phật ? Dù có cho hay không thì cũng vẫn là thí chủ. Đó là không nói chúng tôi tu ở trong am nhà ta, chịu nhiều ơn huệ của cụ. Nay nhân việc tang của cụ, chúng tôi đã gặp đủ các bà và các mợ, chỉ còn thiếu cô thôi, nên nhớ cô, hôm nay chúng tôi cốt đến thăm cô đấy.
Tích Xuân nhân tiện hỏi thăm các cô tu trong am Thủy Nguyệt. Các ni cô nói :
- Trong am có xảy ra chút việc không hay, nên lâu nay không cho người ngoài ra vào.
Đoạn họ lại hỏi Tích Xuân :
- Hôm trước nghe nói sư phụ Diệu Ngọc ở am Lũng Thúy đã đi theo người ta phải không ?
- Câu nói ấy ở đâu ra thế ? Ai nói coi chừng sẽ bị cắt lưỡi đấy ? Người ta bị kẻ cướp bắt đi, sao lại nói bậy như vậy ?
- Sư phụ Diệu Ngọc là người kỳ quặc, chúng tôi sợ cô ta bày đặt ra thôi. Trước mặt cô, nói ra thì không tiện, chứ cô ta có phải như bọn quê mùa chúng tôi đâu. Chúng tôi chỉ biết tụng kinh niệm Phật, sám hối cho người khác, và cũng tu lấy thiện quả cho mình.
- Như thế nào là thiện quả ?
- Những người ăn ở phúc đức như nhà ta đây thì không kể, còn các nhà khác thì dù là mệnh phụ, tiểu thư cũng khó lòng giữ trọn vinh hoa suốt đời. Đến lúc gặp tai nạn, sẽ không tài nào cứu vớt được. Chỉ có đức Phật Quan âm đại từ đại bi thấy người khổ nạn mới rủ lòng từ bi ớm phương cứu giúp. Vì thế xưa nay người ta vẫn gọi bà là đức Phật Quan âm đại từ đại bi cứu khổ cứu nạn. Chúng tôi là người tu hành, so với các bậc phu nhân, tiểu thư thì chịu khổ nhiều hơn, nhưng lại ít gặp tai nạn. Dù không được thành Phật thành tiên, nhưng cũng cố tu để kiếp sau họa may làm con trai. Như thế đã là phúc rồi, không đến nỗi như cái kiếp con gái bây giờ, bao nhiêu nỗi uất ức lo buồn, đều không thể nói ra được. Thưa cô, cô còn chưa biết hay sao ? Dù là bậc tiểu thư đi nữa, nhưng đã lấy chồng thì suốt đời chỉ biết theo người ta mà thôi. Nhưng đã tu thì phải tu cho đứng đắn. Sư phụ Diệu Ngọc cứ cho mình tài giỏi hơn chúng tôi, cứ chê bọn chúng tôi là tục. Biết đâu có tục mới có “duyên lành”. Còn mình, rốt cuộc lại gặp phải điều khổ lớn !
Tích Xuân nghe các sư cô nói rất hợp với ý của mình, nên cũng không ngại có bọn a hoàn ở đó, kể chuyện Vưu thị đối xử với mình thế nào. Hôm trước mình ở lại coi nhà trong lúc đám tang như thế nào, đoạn chỉ món tóc trên đầu, nói :
- Các cô xem tôi còn luyến tiếc cái hố lửa này không ? Tôi rắp tâm từ lâu, chỉ vì chưa biết tìm ra con đường nào đó thôi.
Các ni cô nghe vậy, giả bộ làm kinh hoảng :
- Cô đừng nói thế chứ ! Mợ Cả Trân mà nghe thấy thì nhất định mắng chúng tôi chết mất và sẽ đuổi chúng tôi ra khỏi am đấy . Cô là người phẩm cách như thế, gia đình như thế, ngày sau lấy chồng sẽ suất đời hưởng vinh hoa phú quý...
Tích Xuân không đợi họ nói hết lời, mặt đỏ lên, bảo :
- Chị cả Trân đuổi được các cô. Tôi lại không đuổi được các cô hay sao ?
Các ni cô biết Tích Xuân một lòng muốn đi tu, liền tìm lời nói khích :
- Chúng tôi lỡ lời, xin cô đừng chấp. Các bà và các mợ đời nào lại chiều theo ý muốn của cô ? Lại xảy ra chuyện lôi thôi thì thật không ra làm sao. Chúng tôi nói vậy cũng là vì cô đấy.
Tích Xuân nói :
- Việc này chờ xem sao đã.
Thấy câu chuyện không hay. Bọn Thái Bình liền đưa mắt ra hiệu. Họ hiểu ý, cũng sợ, nên không dám gợi chuyện, liền cáo từ ra về.
Tích Xuân cũng không mời lại, chỉ cười nhạt, nói :
- Xem chừng trong thiên hạ chỉ có một cái am Địa Tạng của các cô hay sao ?
Các in cô không dám trả lời. Thấy vậy. Thái Bình sợ mang lỗi, liền đến trình với Vưu thị :
- CôTư khăng khăng đòi cắt tóc đi tu. Mấy hôm nay không phải cô ấy đau ốm đâu mà chỉ vì than thân tủi phận đấy thôi. Mợ nên đề phòng, kẻo xảy ra việc rồi lại đổ tội cho chúng cháu.
Vưu thị nói :
- Lẽ nào cô ấy lại muốn đi tu . Chỉ vì cậu nhà đi vắng nên cô ấy cố ý làm ra thế, để tỏ ra chẳng ăn ở được với ta. Thôi thì cứ mặc cô ấy !
Bọn Thái Bình không biết làm thế nào, đành chỉ tìm lời khuyên giải. Không ngờ Tích Xuân vẫn không chịu ăn uống gì, chỉ nói đến việc cắt tóc đi tu. Bọn Thái Bình không thể làm thinh, đành phải đi trình các nơi. Hình phu nhân và Vương phu nhân cũng khuyên can nhiều lần, nhưng Tích Xuân vẫn một mực không nghe. Hai người đang định trình với Giả Chính, bỗng bên ngoài có tin truyền vào :
- Bà lớn họ Chân dẫn công tử Bảo Ngọc đến.
Mọi người vội vàng ra đón, mời bà Chân vào phòng Vương phu nhân. Hai bên chào hỏi, hàn huyên. Vương phu nhân sực nhớ người ta nói Bảo Ngọc giống hệt con mình nên mới mời anh ta vào để xem mặt. A hoàn đi ra một lúc trở lại nói :
- Cậu Chân đang ở thư phòng hầu chuyện ông lớn. Ông lớn rất vừa lòng nên có sai người đến mời cậu Hai, cậu Ba và cả anh Lan cũng ra ngoài ấy ăn cơm. Ăn xong, cậu Chân sẽ xin vào hầu. Sau đó trong nhà cũng dọn cơm ăn.
Số là Giả Chính trông thấy diện mạo của Chân Bảo Ngọc giống hệt con mình. Khi hỏi đến văn chương, anh ta đối đáp như nước chảy, nên trong lòng rất là yêu mến, bèn cho gọi bọn Bảo Ngọc ra cốt để khuyên răn họ. Đồng thời, cũng muốn nhân đó so sánh giữa hai người xem sao. Bảo Ngọc vâng lời, mặc bộ đồ trắng, dẫn em và cháu đi ra. Trông thấy Chân Bảo Ngọc, Giả Bảo Ngọc thân mật như bạn cũ. Chân Bảo Ngọc cũng tưởng chừng như mình đã gặp Giả Bảo Ngọc ở đâu rồi. Hai chào hỏi nhau xong. Giả Hoàn và Giả Lan cũng đến chào. Giả Chính trải chiếu ngồi dưới đất (1), muốn mời Chân Bảo Ngọc ngồi trên ghế, nhưng anh ta là bậc con, đời nào dám ngồi, liền trải nệm ra ngồi giữa đất. Nay Bảo Ngọc đến, nhất định không thể ngồi chung với Giả Chính được. Chân Bảo Ngọc lại là hàng em, càng không thể để Giả Bảo Ngọc cứ đứng mãi đấy. Giả Chính thấy không tiện, chuyện trò vài câu rồi đứng dậy, bảo người nhà dọn cơm và nói :
- Tôi xin lỗi để các em ngồi tiếp. Anh em nói chuyện với nhau. Mong cậu dạy bảo cho.
Chân Bảo Ngọc khiêm tốn từ tạ : .
- Xin bác cho tùy tiện. Chính cháu cũng muốn học hỏi các anh đây !
Giả Chính đáp lại vài lời rồi đi vào thư phòng. Chân Bảo Ngọc muốn tiễn ra cửa. Giả Chính ngăn lại. Bọn Bảo Ngọc ra đứng ngang ngưỡng cửa thư phòng đợi Giả Chính đi rồi mới trở vào mời Chân Bảo Ngọc ngồi. Hai bên nói những lời khách sáo một lúc. Đại khái : “bấy lâu nghe tiếng. vẫn mong gặp mặt” v. v .
Giả Bảo Ngọc gặp Chân Bảo Ngọc liền nhớ lại cuộc gặp gỡ trong giấc mộng khi trước. Lại vốn biết Chân Bảo Ngọc là người như thế nào, nên chắc rằng anh ta sẽ cùng một ý nghĩ như mình, và nghĩ rằng mình đã gặp được người tri kỷ. Nhưng vì mới gặp nhau lần đầu, không thể ăn nói vội vàng, lại có Giả Hoàn, Giả Lan ngồi đó, nên Bảo Ngọc đành phải hết lời khen ngợi :
- Nghe tiếng anh đã lâu, chưa có dịp được gần. Hôm nay gặp mặt, trông anh thật là hạng thần tiên giáng thế !
Chân Bảo Ngọc thường ngày cũng đã biết Giả Bảo Ngọc là người như thế nào. Hôm nay gặp mặt, quả là không sai, nghĩ bụng : “Anh này chỉ có thể cùng chung học, chứ không thể cùng đi một đạo với mình. Anh ta không những trùng tên mà diện mạo lại như nhau. Âu cũng là linh hồn cũ trên hòn đá “tam sinh” đây mà.
Nay ta có hiểu biết ít nhiều lý lẽ, sao không đưa ra giảng giải cho anh ấy nghe. Nhưng vì mới gặp lần đầu, chưa biết anh ấy có suy nghĩ như mình hay không, nên phải để thư thả đã .”
Chân Bảo Ngọc nói :
- Tài danh của anh, em đã biết từ lâu. Anh thực là học thanh nhã, mười người mới có một. Còn em đây chỉ là hạng ngu dại, tầm thường, thế mà lại được trùng tên với anh, em cảm thấy đã làm nhơ bẩn đến cái tên Bảo Ngọc ấy.
Giả Bảo Ngọc nghe xong, nghĩ bụng : « anh này quả cùng một ý nghĩ với mình. Nhưng anh ta với mình đều là con trai, có đâu được trong sạch như đám con gái. Vì sao anh ta lại xem mình như con gái ?” Nghĩ vậy, rồi đáp :
- Anh quá lời khen. Tôi đâu dám nhận. Tôi là hạng rất ngu, rất bẩn, chẳng qua chỉ là một hòn đá thô kệch đó thôi. Tôi dám đâu sánh với anh có đủ phẩm cách thanh cao, thực là người xứng đáng với hai chữ ấy.
Chân Bảo Ngọc nói :
- Hồi còn bé, em chưa biết cân nhắc, cứ cho mình có thể mài dũa được. Không ngờ vận nhà gặp cơn sa sút, nên vài năm nay em lại càng kém xa ngói gạch. Tuy em không dám khoe đã từng trải hết mùi cam khổ. Nhưng về nhân tình thế thái thì em cũng đã hiểu được ít nhiều. Anh là con nhà phú quý, mặc đẹp ăn sang. Việc gì cũng được vừa lòng, chắc rằng áng văn chương cũng như tài kinh bang tế thế của anh phải hơn hẳn mọi người. Vì vậy bác mới thương yêu, coi như hòn ngọc quý. Cho nên vừa rồi em bảo anh thật xứng đáng với cái tên Bảo Ngọc.
Bảo Ngọc lắng nghe, thấy trong lời lẽ chẳng khác gì khuôn sáo của bọn “mọt ăn lộc nước”, nên đương nghĩ cách trả đũa.
Giả Hoàn chưa được nói chuyện với Chân Bảo Ngọc, trong bụng thấy ấm ức. Trái lại, Giả Lan nghe vậy, thấy rất hợp ý mình, liền đỡ lời :
- Anh khiêm tốn quá đấy thôi. Văn chương cũng như tài kinh bang tế thế tất phải do rèn luyện mà ra mới là thực học. Cháu còn nhỏ tuổi, chưa hiểu rõ văn chương là gì. Nhưng cứ nghiền ngẫm thì thấy thú vị lắm. Cho hay danh tiếng còn quý gấp trăm lần cái trò ăn ngon mặc đẹp.
Giả Bảo Ngọc nghe vậy càng không thích, nghĩ rằng : “không biết thằng bé này học cái lối gàn dở ấy từ bao giờ ?” Và nói :
- Tôi nghe anh nói ghét bọn tục, chắc trong lòng anh thế nào cũng có những ý nghĩ khác người. Hôm nay may mắn được tiếp mong anh dạy bảo cho những điều “siêu phàm nhập thánh”, để từ nay em rửa sạch được lòng trần, mở rộng được tầm con mắt. Không ngại anh lại cho em là một phường ngu xuẩn, nên đã đem cái chuyện của bọn tục khách ra nói với em.
Chân Bảo Ngọc nghe vậy, trong bụng hiểu rằng : “anh ta biết rõ tính tình của mình lúc còn nhỏ nên mới ngờ mình giả dối. Thôi mình cứ nói thẳng, may ra anh ta sẽ là bạn tri âm của mình thì hay lắm. Nghĩ rồi nói :
- Anh nói thật là sâu sắc. Từ bé em đã ghét cay ghét độc những câu khuôn sáo cũ rích ấy. Chỉ vì mỗi năm một lớn, thân phụ em lại về hưu, nhác tiếp khách, thường giao việc ấy cho em. Nhờ vậy, em gặp dược các bậc đại nhân, những vị đã làm rạng rỡ cha ông, danh tiếng lẫy lừng. Em lại thấy người ta viết sách viết văn, không ngoài chữ trung chữ hiếu. Bản thân mình có lập nên dược sự nghiệp đạo đức và văn chương mới khỏi uổng cái cơ hội được sinh ra trong thời vua thánh trị vì. Và cũng không phụ công ơn cha nuôi thầy dạy. Vì thế, bao nhiêu chuyện thoát phàm tục đi vào cõi thánh mơ tưởng hão huyền ngây ngô của em hồi bé dần dần thì vứt bỏ hết. Nay em cũng muốn đi tìm thầy hỏi bạn, dạy bảo cho mình khỏi bề ngu tối. May mắn được gặp anh, chắc rằng, anh sẽ hết lòng chỉ bảo giúp. Những câu em nói đây, thực quả không phải là những lời khách sáo dâu.
Giả Bảo Ngọc càng nghe càng phát ngấy, không tiện tỏ vẻ lạnh nhạt, đành phải nói đưa đẩy cho qua chuyện. May sao có người trong nhà ra nói :
- Nếu các cậu xơi cơm rồi. Xin mời cậu Chân vào trong nhà chơi.
Bảo Ngọc nghe vậy, nhân tiện mời Chân Bảo Ngọc vào. Chân Bảo Ngọc đi trước, bọn Giả Bảo Ngọc theo sau vào chào Vương phu nhân. Giả Bảo Ngọc thấy có bà Chân ngồi trên liền đến chào. Giả Hoàn, Giả Lan cũng đến chào. Chân Bảo Ngọc đến chào Vương phu nhân. Lúc đó, hai bà mẹ cùng nhận mặt hai cậu con. Mặc dầu Giả Bảo Ngọc đã có vợ, nhưng Chân phu nhân nhiều tuổi, lại là bà con lâu đời, thấy Giả Bảo Ngọc mặt mày in hệt con mình, tự nhiên tỏ ra thân yêu vồn vã. Vương phu nhân càng không cần phải nói, cứ cầm tay Chân Bảo Ngọc hỏi hết chuyện này sang chuyện nọ và nhận thấy anh ta có phần chín chắn hơn con mình. Nhìn lại Giả Lan, mặt mày thanh tú, tuy không bằng hai chàng Bảo Ngọc, nhưng cũng không kém bao nhiêu. Riêng Giả Hoàn thì dáng người thô kệch, nên bà ta không khỏi có lòng thiên vị. Thấy hai chàng Bảo Ngọc cùng ở một nơi, mọi người đều đến nhìn rồi nói :
- Lạ thật ! Tên giống nhau đã đành, sao người lại in hệt như nhau ? May mà Bảo Ngọc nhà ta mặc đồ tang, nếu hai người cũng ăn mặc như nhau thì khó mà phân biệt. Trong đám này có Tử Quyên nảy ra một ý nghĩ ngây ngô. Nhớ đến Đại Ngọc, chị ta nghĩ bụng : “Chỉ tiếc cô Lâm chết rồi ! Nếu không, lấy Chân Bảo Ngọc chắc cô ta cũng bằng lòng đấy”. Bỗng nghe Chân phu nhân nói với Vương phu nhân :
- Hôm trước nghe ông nhà tôi về bảo “Bảo Ngọc nhà tôi cũng đã lớn, muốn nhờ ông lớn bên này tìm hộ một nơi.”
Vương phu nhân vốn yêu Chân Bảo Ngọc, liền thuận miệng nói ngay :
- Tôi cũng muốn làm mối cho cậu em bên nhà đấy. Nhà chúng tôi có bốn cô : “Ba cô đầu thì một cô đã chết. Một cô đã đi lấy chồng không nói làm gì. Còn cô em gái anh cả Trân chúng tôi lại kém những mấy tuổi, e cũng không đẹp đôi. Chỉ có hai cô em họ chị dâu Cả nhà tôi, vẻ người đoan chính. Cô Hai đã hứa gả cho người ta rồi, còn cô Ba thì thật là tốt đôi vừa lứa với cậu em đây. Để mai kia tôi làm mối cho. Nhưng chỉ hiềm nhà người ta hiện nay có phần sa sút.
Chân phu nhân nói :
- Bà lớn khách sáo làm gì. Nhà chúng tôi hiện nay thì có cái gì kia chứ. Chỉ sợ người ta chê nghèo thôi.
Vương phu nhân nói :
- Hiện nay quý phủ vâng mệnh ra làm quan, sau này không những sẽ trở lại như cũ mà chắc còn thịnh vượng hơn trước nhiều.
Chân phu nhân nói :
- Được như lời bà lớn thì hay quá. Vậy nhờ bà lớn làm mối hộ cho.
Chân Bảo Ngọc thấy hai bà nói đến chuyện dạm vợ cho mình, liền cáo từ đi ra. Bọn Giả Bảo Ngọc cũng phải theo đến thư phòng. Thấy Giả Chính ở dấy, Chân Bảo Ngọc đứng lại nói chuyện mấy câu. Bỗng thấy người nhà họ Chân đến thưa với Chân Bảo Ngọc :
- Bà sắp ra về, xin mời cậu đi ngay.
Chân Bảo Ngọc cáo từ đi ra. Giả Chính sai Bảo Ngọc, Giả Hoàn và Giả lan cùng tiễn ra ngoài. Từ hôm được gặp thân phụ Chân Bảo Ngọc. Giả Bảo Ngọc biết rằng Chân Bảo Ngọc sắp vào kinh nên ngày đêm mong đợi. Nay được gặp mặt, trong lòng khấp khởi, tưởng sẽ gặp người tri kỷ. Không ngờ nói chuyện với nhau hồi lâu, vẫn thấy loạc choạc. Rồi Bảo Ngọc buồn rầu về phòng chẳng nói chẳng rằng, người như mất hồn. Bảo Thoa liền hỏi :
- Anh Chân Bảo Ngọc có thật giống cậu không ?
- Diện mạo thì hệt nhau. Nhưng xem cách nói năng chẳng qua chỉ là « con mọt ăn lộc » mà thôi.
- Cậu lại đặt điều cho người ta rồi. Sao lại biết anh ta là « con mọt ăn lộc ? »
- Nói chuyện với anh ta chẳng có câu nào là tâm đầu ý hợp cả, chỉ rặt văn chương với kinh bang tế thế, và trung hiếu gì đó. Hạng người như thế không phải là « con mọt ăn lộc » thì là gì ? Đáng tiếc hắn sinh ra mặt mày hệt như tôi. Tôi nghĩ đã có nó rồi thì tôi cũng chẳng cần đến diện mạo của tôi nữa.
Bảo Thoa thấy Bảo Ngọc lại nói ngớ ngẩn, liền bảo :
- Cậu nói rõ buồn cười. Tại sao cậu lại không cần đến diện mạo. Vả lại lời nói của người ta là đúng. Làm con trai phải lo lập thân, làm cho rạng rỡ tiếng tăm chứ ? Ai lại như cậu, chỉ toàn là những tâm tình yếu đuối và ý nghĩ riêng tây. Cậu không thấy là mình không có chí khí cứng rắn gì hết, lại bảo người ta là « con mọt ăn lộc » à ?
Bảo Ngọc nghe Chân Bảo Ngọc nói đã ngấy lắm rồi, nay lại bị Bảo Thoa trách móc cho một trận, trong bụng càng không thích, rồi cứ buồn rầu mê mẩn, bất giác bệnh cũ trở lại. Anh ta chẳng nói chẳng rằng, chỉ cười luôn, miệng như ngây như dại. Bảo Thoa không hiểu, cứ tưởng vì mình lỡ lời nên anh ta cười nhạt cũng không để ý. Nào ngờ hôm ấy Bảo Ngọc lại trở lại bệnh ngây. Bọn Tập Nhân cố chọc cũng chẳng nói năng gì. Cách một đêm. Sớm hôm sau ngủ dậy, anh ta vẫn cứ ngây ngô, lại giống như bệnh lần trước.
Vương phu nhân thấy Tích Xuân định cắt tóc đi tu. Vưu thị không ngăn lại được, xem chừng nếu không chiù cô ta thì cô ta sẽ tự tử. Mặc dù ngày đêm có người canh giữ, nhưng cũngkhông thể kéo dài được mãi. Vì vậy Vương phu nhân nói với Giả Chính. Giả Chính thở dài, dẫm chân nói :
- Bên phủ Đông không biết làm thế nào mà đến nông nỗi thế này ?
Lại gọi Giả Dung đến nói một hồi, bảo về nói với mẹ hắn, nên cố hết sức khuyên giải : « nếu nó cứ khăng khăng một mực thì sẽ không phải là con gái nhà này nữa. » Nào ngờ Vưu thị không khuyên can còn khá, chứ hễ khuyên can thì cô ta lại cứ đòi chết, và nói :
- Sinh ra con gái, rút cục không thể nào ở nhà cha mẹ suốt đời. Nếu tôi gặp cảnh ngộ chị Hai, chỉ làm cho chú và thím đau lòng rồi rút cục cũng chết. Nay cứ xem như là tôi đã chết, để mặc cho tôi đi tu, thì đời tôi sẽ được trong sạch. Thế là chú
thương tôi đấy. Vả chăng tôi đi tu cũng không phải là ra khỏi nhà. Am Lũng Thúy là thuộc về phủ chúng ta, tôi sẽ ra tu ở đó. Dù tôi có làm sao thì các người cũng còn chăm sóc được. Hiện nay người coi nhà cho Diệu Ngọc còn ở đó. Các người hãy chiù tôi thế là tôi được yên thân ; nếu không thì tôi cũng không có cách gì khác, chỉ chết mà thôi. Nếu tôi được thỏa lòng mong ước thì đến khi anh Cả trở về, tôi sẽ nói cho anh ấy biết rằng không phải các người bức bách gì tôi, lỡ bằng tôi chết đi, thì khi anh ấy về đây sẽ trách móc các người không lo cho tôi.
Vưu thị xưa nay vốn không hợp với Tích Xuân. Nhưng nghe cô ta nói, có vẻ có lý đành phải tới trình Vương phu nhân. Vương phu nhân lúc này đã sang bên Bảo Thoa. Thấy Bảo Ngọc như người mất hồn, bà ta nổi nóng, liền bảo Tập Nhân:
- Chúng mày không để ý gì cả. Cậu Hai bị bệnh cũng không sang trình ta biết.
Tập Nhân nói :
- Bệnh của cậu Hai thì thường vẫn thế. Khi lành khi lại ốm. Ngày nào cậu ấy cũng sang hỏi thăm bên bà lớn như thường, vẫn yên lành chẳng có chuyện gì cả. Hôm nay mới đâm ra lẩn thẩn như thế. Mợ Hai đang định sang trình bà, nhưng lại sợ bà bảo chúng tôi chưa chi đã làm ầm ĩ cả lên.
Bảo Ngọc nghe Vương phu nhân mắng họ, trong bụng tỉnh táo. Sợ họ bị mắng oan, liền nói :
- Xin mẹ cứ yên tâm. Con có đau ốm gì đâu. Chỉ thấy trong bụng hơi buồn bực mà thôi.
- Mày vốn đã có sẵn bệnh ấy, nên nói sớm đi, để mời thầy thuốc uống vài thang xem có khỏi không ? Nếu lại để như hồi bị mất viên ngọc thì sẽ sinh ra nhiều chuyện.
- Nếu mẹ không yên tâm thì bảo mời thầy đến xem. Con sẽ uống thuốc.
Vương phu nhân liền bảo a hoàn truyền ra cho người đi mời thầy thuốc. Bà ta chỉ lo nghĩ về việc Bảo Ngọc nên quên hẳn việc Tích Xuân. Một lúc lâu, thầy thuốc đến xem bệnh và cho thuốc, rồi Vương phu nhân ra về.
Cách mấy hôm sau, bệnh Bảo Ngọc lại càng nặng, cơm cũng không ăn. Mọi người nhốn nháo cả lên. Lại vừa gặp lúc đoạn tang, cả nhà bận rộn. Không có người, đành phải gọi Giả Vân đến để tiếp thầy thuốc . Trong nhà Giả Liễn cũng không có ai coi sóc, nên mời Vương Nhân đến giúp đỡ lo liệu việc ngoài. Còn Xảo Thư thì cứ ngày đêm khóc mẹ, nên cũng ốm. Vì vậy, phủ Vinh rất là nhốn nháo.
Một hôm làm lễ đoạn tang xong về nhà, Vương phu nhân đến thăm Bảo Ngọc, thấy anh ta mê man bất tỉnh. Mọi người cuống quít không biết làm sao, vừa khóc vừa sai đi trình Giả Chính :
- Thầy thuốc nói là không thể cho thuốc nữa. Chỉ nên sắp sửa hậu sự thôi.
Giả Chính than thở luôn miệng, đành phải thân hành đến thăm. Quả thấy khó khỏi được, liền bảo Giả Liễn đi sắp đặt công việc. Giả Liễn không dám trái lời, ra bảo người đi lo liệu. Nhưng trong nhà thiếu thốn, đang khó nghĩ. Bỗng thấy một người
chạy vào nói :
- Cậu Hai ơi ? Nguy to ? Lại có chuyện rầy rà !
Giả Liễn không rõ việc gì, giật mình, trừng mắt hỏi :
- Cái gì thế ?
- Có một nhà sư đến trước cửa, tay cầm viên ngọc của cậu Bảo bị mất và nói đến lấy một vạn bạc thưởng.
Giả Liễn suýt một cái nói :
- Tưởng là việc gì mà mày nhớn nhác như thế. Độ trước đã bị viên ngọc giả, mày không biết à ? Mà dù có là viên ngọc thật đi nữa thì bây giờ người đã sắp chết còn cần nó làm gì ?
- Con cũng đã nói rồi. Nhưng vị hòa thượng ấy bảo cứ đưa bạc cho ông ta là bệnh khỏi.
Đang nói lại thấy người ở ngoài xôn xao chạy vào nói :
- Nhà sư hổ mang ấy cứ xông thẳng vào nhà, chúng tôi cản lại không được !
- Đâu lại có việc lạ lùng thế ? Chúng mày không đuổi ông ta đi à ?
Đang lúc ồn ào. Giả Chính thấy vậy, không biết tính sao. Trong nhà lại nghe tiếng kêu khóc :
- Cậu Hai nguy rồi !
GiảChính lại càng bối rối. Bỗng thấy nhà sư ấy nói :
- Muốn người sống thì đem bạc ra đây ?
Giả Chính chợt nhớ lại hồi trước Bảo Ngọc bị bệnh, nhờ một vị hoà thượng chữa khỏi, bây giờ nhà sư lại đến, có lẽ cũng là cứu tinh đây. Nhưng nếu viên ngọc ấy là thật mà nhà sư cứ đòi cho được bạc thưởng thì làm thế nào ?
Sau lại nghĩ : “Bây giờ hãy khoan để ý đến điều đó, nếu người khỏe được thì ta sẽ tính sau”. Ông ta liền sai người ra mời, thì nhà sư đi vào không chào hỏi, cũng không nói năng gì, cứ chạy thẳng vào trong nhà. Giả Liễn giữ lại, nói :
- Trong nhà, đều là đàn bà con gái, hạng người như anh chạy vào làm gì ?
Khắp nhà trong nhà ngoài, ai nấy đều vui mừng niệm Phật. Ngay cả Bảo Thoa cũng không e ngại có nhà sư ở đó nữa. Giả Liễn cũng chạy đến xem, quả thấy Bảo Ngọc đã tỉnh lại, trong bụng mừng rỡ, vội đi ra. Nhà sư chẳng nói chẳng rằng, vội
nắm tay Giả Liễn mà chạy. Giả Liễn đành phải đi theo, ra đến phía ngoài trình với Giả Chính. Giả Chính nghe nói mừng rỡ, liền đến chào hỏi và tạ ơn. Nhà sư đáp lễ rồi ngồi xuống. Giả Liễn trong bụng ngờ vực chắc là ông ta đòi cho được bạc mới chịu đi. Giả Chính nhìn kỹ thì không phải là nhà sư đã gặp lần trước, liền hỏi :
- Hòa thượng tu hành ở chùa nào ? Pháp hiệu là gì ? Viên ngọc ấy tìm được ở đâu ? Vì sao thằng con nhà tôi trông thấy mà sống lại được ?
Ông ta mỉm cười trả lời :
- Tôi cũng không biết rõ. Cứ đưa một vạn lạng bạc ra đây là được.
Giả Chính thấy ông ta thô kệch, cũng không dám trái ý, liền nói :
- Xin vâng.
- Có thì đưa mau, tôi phải đi đây.
- Xin mời người ngồi nán lại một chốc, để tôi vào trong nhà xem đã.
- Ngài vào rồi ra mau cho.
Giả Chính không nói năng gì, đi ngay đến trước giường Bảo Ngọc. Bảo Ngọc thấy cha, muốn cố gắng ngồi, nhưng người còn yếu, không thể dậy được. Vương phu nhân giữ lại, bảo :
- Đừng gượng dậy nữa.
Bảo Ngọc cười, cầm viên ngọc đưa cho Giả Chính xem và nói :
- Bảo Ngọc về đây rồi !
Giả Chính nhìn qua, biết viên ngọc ấy có căn nguyên, cũng không xem kỹ, đoạn hỏi Vương phu nhân :
- Bảo Ngọc đã khỏe rồi. Còn số bạc thưởng thì định thế nào ?
Vương phu nhân nói :
- Cứ đem tất cả những đồ đạc của tôi bán đi để trả cho ông ta là được.
Bảo Ngọc nói :
- Con e rằng nhà sư ấy không phải cốt đòi số bạc đâu.
Giả Chính gật dầu :
- Ta cũng cho là một người kỳ lạ, nhưng ông ta lại cứ cố đòi cho được số bạc.
Vương phu nhân nói :
- Ông hãy ra tiếp ông ta rồi ta sẽ nói chuyện.
Giả Chính đi ra. Bảo Ngọc liền kêu đói, húp một bát cháo, lại đòi ăn cơm. Các bà già đưa cơm đến. Vương phu nhân còn chưa muốn cho ăn. Bảo Ngọc nói :
- Không can gì đâu, con đã khỏe rồi.
Rồi anh ta bò dậy ăn một bát, quả thấy tinh thần dần dần khá lại, liền định ngồi thẳng dậy.
Xạ Nguyệt đỡ nhè nhẹ. Vì vui mừng quá chị ta lỡ lời nói :
- Thật là bảo bối ! Mới nhìn thấy đã lành bệnh. May mà hồi trước không đập vỡ đi!
Bảo Ngọc nghe vậy liền đổi thần sắc, bỏ viên ngọc ra rồi ngả người ra đằng sau. Chưa biết sống chết thế nào ?
Chú thích :
1. Theo tục phong kiến Trung Quốc. Khi có tang cha mẹ, thì lòng nằm đất đế tỏ lòng thương xót. Lúc nầy Giá Chính đang chịu tang Giá mẫu nên cũng trải chiếu ngồi giữa đất.
Hồi thứ một trăm mười sáu
Được ngọc thiêng, nhận thấy duyên tiên nói ảo cảnh
Trọn đạo hiếu, đưa linh cữu mẹ về cố hương
Bảo Ngọc nghe Xạ Nguyệt nói, liền ngả người ra đằng sau, mê man bất tỉnh, làm cho bọn Vương phu nhân khóc lóc ầm ĩ. Xạ Nguyệt biết mình lỡ lời, gây ra tai vạ, nhưng lúc đó, Vương phu nhân cũng không kịp mắng chị ta. Xạ Nguyệt vừa khóc vừa định sẵn trong bụng : “nếu cậu Bảo chết, mình sẽ tự tử theo”...
Vương phu nhân thấy gọi Bảo Ngọc không tỉnh lại, liền vội vàng bảo người ra mời nhà sư vào cứu chữa. Không ngờ lúc Giả Chính ở trong nhà đi ra thì không thấy nhà sư nữa. Giả Chính đang ngạc nhiên, bỗng nghe trong nhà ồn ào, vội vàng chạy vào. Trông thấy Bảo Ngọc lại mê man như trước. Hai hàm răng cắn chặt, mạch không đập, lấy tay sờ vào giữa rốn, thấy còn nóng. Giả Chính lại bảo đi mời thầy thuốc đến ngay, đổ thuốc cấp cứu. Có biết đâu hồn phách Bảo Ngọc đã lìa khỏi xác. Nhưng liệu Bảo Ngọc có chết thật không ? Số là anh ta mơ mơ màng màng thấy mình đi ra ngoài. Gặp vị hòa thượng đưa trả viên ngọc đang còn ngồi đó, liền đến chào. Ông ta đứng dậy, dắt Bảo Ngọc đi với theo ông ta, cảm thấy trong người nhẹ nhàng như chiếc lá. Họ không ra cửa chính, nhưng cũng không biết là đi lối nào. Đi được một quãng, đến một nơi đồng không mông quạnh, thấy xa xa có một tòa lầu, giống như là đã nhìn thấy ở đâu rồi. Bảo Ngọc định hỏi, bỗng thấp thoáng có một người con gái đi lại Bảo Ngọc nghĩ bụng : “ở giữa chỗ đồng không vắng vẻ nầy làm gì có người xinh đẹp như thế ? Chắc là thần tiên xuống trần!” Anh ta đến gần nhìn kỹ thì có vẻ quen quen, nhưng trong chốc lát không nhớ ra. Người con gái chỉ chào một tiếng rồi không thấy đâu nữa. Bảo Ngọc nhớ lại thì đó là cô Ba họ Vưu, càng thêm buồn bực : “ Tại sao cô ta cũng ở chỗ này ?” Anh muốn hỏi thì nhà sư đã dắt đến một cái lầu. Trên lầu có một tấm bảng viết bốn chữ lớn : “Chân như phúc địa” (cõi phúc của người tiên) và hai bên có đôi câu đối :
Giả đi chân đến, chân hơn giả
Không nguyên là có, có nào không.
Đi khỏi cái lầu có tấm bảng ấy, thì đến một tòa cửa cung.
Trước cửa có viết ngang bốn chữ lớn : “phục thiện họa dâm” (lành được phúc, dâm bị họa), lại có một câu đối :
Kiếp trước đời sau, dầu bậc trí hiền không hiểu thấu ;
Nhân nào quả ấy, dù người thân cận vẫn phải xa nhau.
Bảo Ngọc xem xong, nghĩ bụng : “à ra thế ! Để ta hỏi thử những việc nhân quả, quá khứ, tương lai kia xem”. Đang nghĩ thì thấy Uyên Ương đứng ở đâu đó giơ tay vẫy đến, Bảo Ngọc lại nghĩ : “mình đi đã lâu, mà xem ra vẫn chưa ra khỏi vườn. Sao vườn này thay đổi đến thế ?” Anh ta chạy theo, muốn nói chuyện với Uyên Ương, nào ngờ ngoảnh lại thì không thấy nữa. Trong bụng đâm ra ngờ vực, liền chạy đến chỗ Uyên Ương đứng lúc nãy, thì ra đó là một dãy đền miếu, tòa nào cũng có biển. Bảo Ngọc không để ý nhìn, cứ chạy thẳng đến chỗ Uyên Ương đứng thì thấy có một tòa miếu, cửa vào hé mở. Anh ta không dám hấp tấp bước vào, định hỏi vị hòa thượng nhưng ngoảnh lại thì ông ta đã biến mất.
Bảo Ngọc mơ màng trông thấy tòa miếu ấy đồ sộ, không giống cảnh trong vườn Đại Quan chút nào. Liền dừng lại, ngẩng đầu trông thấy cái biển đề bốn chữ : “Dẫn giác tình si” (Đưa kẻ si đến nơi giác ngộ). Hai bên có đôi câu đối :
Cười, mừng, thương, tủi, đều là giả
Ham, muốn, nhớ nhung chỉ vì si.
Bảo Ngọc xem xong gật đầu thở dài. Đến tìm Uyên Ương để hỏi cho rõ đấy là chỗ nào. Nhưng nhìn kỹ thì ra một nơi rất quen thuộc. Anh ta liền đánh bạo, đẩy cửa vào, nhìn khắp trong nhà không thấy Uyên Ương đâu cả, chỉ thấy tối om, nên trong bụng sợ hãi. Bảo Ngọc đang muốn lui ra thì thấy có hơn mười cái tủ lớn hé mở. Bảo Ngọc sực nhớ lại : “ta hồi nhỏ đã mơ thấy đến một chỗ như thế này. Bây giờ lại được đến đây, thực là may lắm!” Trong lúc mơ màng quên cả Uyên Ương. không đi tìm nữa. Anh ta đánh liều mở cái tủ lớn đầu tiên xem thì thấy có mấy quyển sổ. Trong bụng càng thích, nghĩ rằng : “người ta chiêm bao, cứ bảo đó là chuyện giả. Nhưng biết đâu đã có cái mộng ấy thì phải có cái việc ấy! Ta thường nghĩ muốn thấy lại cái mộng ấy một lần nữa mà không mộng. Ngờ đâu hôm nay lại gặp mộng ! Nhưng không biết cái sổ kia có phải là ta đã gặp rồi hay không? Anh ta liền giơ tay lên phía trên lấy một quyển, thấy có đề chữ : “Kim Lăng thập nhị thoa chính sách”. Bảo Ngọc cầm lấy quyển sổ, nghĩ bụng : “ta nhớ mang máng hình như đã thấy quyển sổ này, chỉ giận một điều là nhớ không rõ lắm”. Rồi mở trang đầu ra xem, thấy phía trên có bức vẽ nhưng dấu vẽ lờ mờ, nhìn không rõ. Phía sau có mấy hàng chữ cũng không rõ nhưng còn có thể đoán được. Nhìn kỹ thì hình như trên chữ “Đại Ngọc” lại có một chữ giống như chữ “lâm”, liền nghĩ bụng : “nhất định là nói về em Lâm rồi “. Lại cố xem kỹ nữa. Phía dưới còn thấy bốn chữ “trâm vàng trong tuyết”, anh ta lấy làm lạ, nói : “Làm sao lại giống như tên họ của vợ ta nhỉ?”... Bảo Ngọc liền chắp cả bốn câu trên dưới đọc một lượt và nói : “cũng không có ý nghĩa gì. Chỉ nói kín tên họ cô ta thôi, chẳng lấy gì làm lạ. Nhưng có chữ “thường” và chữ “than” thì không tốt. Như thế thì giải nghĩa ra sao ? “ (1)
Bảo Ngọc nghĩ đến đó, tự gắt với mình : “Ta đã xem trộm lại còn nghĩ vơ nghĩ vẩn. Nếu có ai đến thì còn xem sao được nữa ?” Rồi lại xem tiếp, cũng không kịp nhìn kỹ mấy bức vẽ kia. Cứ xem từ trên xuống. Khi xem đến đoạn cuối, thấy có một câu gì như là “thỏ gặp hùm kia giấc mộng xuôi.” Chợt tỉnh ra, nói :
- Đúng rồi ! Quả là cơ trời không sai chút nào ! Câu này chắc là nói về chị Nguyên Xuân rồi. Nếu thấy rõ ràng như thế thì ta phải biên lấy để nghiền ngẫm cho kỹ. Sau nầy những việc rủi may sống chết của chị em, mình đều biết hết. Ta trở về nhất định không tiết lộ ra, chỉ làm một người “chưa bói đã biết”, thế cũng đã được bao nhiêu điều suy nghĩ vớ vẩn. Rồi anh ta đi tìm khắp cũng không thấy bút nghiên gì cả. Bảo Ngọc sợ có người ngoài đến, lại vội xem, thấy một bức vẽ lờ mờ hình một người đang thả diều, cũng không để ý nhìn kỹ. Vội vàng xem suốt cả mười hai bài thơ, có bài nhìn qua đã biết. Có bài xem rồi nghĩ ra ngay, cũng có bài không hiểu rõ lắm, nhưng trong bụng nhớ rất kỹ. Anh ta vừa thở than vừa cầm lấy “Kim Lăng hựu phó sách” để xem. Khi xem đến cậu “Khen cho ưu linh phúc tết. Ngờ đâu công tử duyên ôi”, lúc đầu không hiểu gì cả. Sau thấy phía trên có hình khóm hoa và chiếc chiếu, anh ta liền khiếp sợ, khóc òa lên. Đang còn muốn xem nữa thì
nghe thấy có tiếng người bảo :
- Anh lại ngây rồi. Cô Lâm mời anh đấy !
Nghe giống như giọng nói của Uyên Ương. Ngoảnh lại thì không thấy người đâu. Đang lúc nghi hoặc, bỗng thấy Uyên Ương đứng ngoài cửa vẫy. Bảo Ngọc mừng quá, chạy ra . Uyên Ương yêu kiều thướt tha đi trước. anh ta không sao theo kịp, liền cất tiếng gọi :
- Chị ơi ? Đợi tôi với !
Uyên Ương vẫn không để ý, cứ đi một mạch. Bảo Ngọc không biết làm sao, cố hết sức chạy theo. Bỗng lại thấy một khoảng mênh mông, lầu gạc nguy nga, cung điện sáng ngời. Thấp thoáng có nhiều cung nữ. Anh ta ham nhìn cảnh đẹp, quên mất Uyên Ương. Bảo Ngọc luôn chân đi vào cửa một tòa lầu. thấy trong đó có nhiều hoa quả lạ lùng, không biết tên là gì. Chỉ có một cái bờ rào hoa bằng đá trắng bao quanh một cây xanh, đầu lá hơi đỏ. Bảo Ngọc nghĩ thầm : “không biết là cây gì mà quý hóa như thế?” Bỗng thấy gió thổi nhẹ qua, cây xanh cứ lay động mãi. Tuy là một loài cây nhỏ, lại không có hoa, nhưng dáng điệu nó xinh đẹp làm cho anh ta thích thú say mê. Bảo Ngọc cứ sững sờ đứng nhìn. Bỗng nghe bên cạnh có một người bảo :
- Giống ngu xuẩn ở đâu đến đây dòm ngó cây tiên thế ?
Bảo Ngọc nghe xong, giật mình ngoảnh lại nhìn, thấy một vị tiên nữ, liền đến kính chào và nói :
- Tôi đi tìm chị Uyên Ương, vào nhầm cõi tiên. Dám mong tha thứ tội.
- Xin hỏi nàng. Đây là chỗ nào? Sao chị Uyên Ương nhà tôi nói em Lâm gọi tôi ? Xin nàng bảo cho tôi được rõ.
Người ấy trả lời :
- Ai biết được chị em nhà anh ? Ta là người coi giữ cây tiên, thì không để cho người trần được dừng lại ở đây.
Bảo Ngọc cũng muốn đi ra, nhưng không dứt được, đành phải nài xin :
- Thưa tiên nữ, chắc nàng là một vị hoa thần. Không biết cây tiên ấy có những gì đáng quý ?
- Anh muốn biết rõ cây ấy à ? Nói ra thì câu chuyện cũng dài đấy. Nguyên cây ấy trước ở trên bờ sông Linh Hà, tên là cây giáng châu. Xưa kia nó bị khô héo, may gặp vị Thần Anh hằng ngày lấy nước cam lộ tưới cho nó nên được sống mãi. Sau nó xuống trần làm người, trả xong cái ơn tưới bón khi trước, nó đã trở về chân cảnh. Vì vậy, cảnh ảo hàng ngày sai ta trông nom không để cho bướm ong vương vấn đến (1). Bảo Ngọc nghe vậy không hiểu, trong bụng cứ tưởng là gặp được hoa thần. Hôm nay nhất định không bỏ lỡ dịp, liền hỏi :
- Người trông coi cây ấy chính là nàng đây rồi. Nhưng còn biết bao nhiêu thứ hoa. Tất nhiên mỗi hoa phải có một vị coi riêng. Tôi cũng không dám hỏi nhiều, chỉ muốn biết vị tiên nào coi hoa phù dung ?
- Chỉ có chủ nhân ta mới rõ, ta biết làm sao được.
- Chủ nhân của nàng là ai ?
- Chủ nhân của ta là Tiêu Tương phi tử.
- Phải rồi ? Nàng không biết vị phi tử ấy là em ngoại của tôi tên là Lâm Đại Ngọc à.
- Nói nhảm ? Đây là nơi ở của các thần nữ thượng giới, tuy gọi là Tiêu Tương phi tử. Mhưng không phải như các bà Nga Hoàng và Nữ Anh đâu. Làm gì lại có họ hàng với người trần ? Anh đến đây nói bậy vừa chứ ? Coi chừng phải gọi lực sĩ ra đánh đuổi đấy !
Bảo Ngọc nghe vậy, đâm ra sửng sốt, nghĩ mình nhơ đục, đang định lui ra. Bỗng có người chạy đến bảo :
- Ở trong truyền bảo mời vị Thần Anh thị giả vào.
Người kia nói :
- Tôi vâng lệnh chờ từ lâu. Không thấy có Thần Anh thị giả đến, thì bảo tôi mời ở đâu ?
- Chẳng phải mời người mới đi ra đó à !
Thị nữ ấy vội vàng chạy theo nói :
- Xin mời Thần Anh thị giả ở lại.
Bảo Ngọc tưởng họ hỏi người khác, lại sợ người ta đuổi theo nên vội vàng chạy trốn. Đang chạy bỗng có người cầm cây kiếm, ngăn lại bảo :
- Chạy đi đâu !
Bảo Ngọc khiếp sợ, đánh bạo ngẩng đầu lên thì không phải là ai khác mà chính là cô ba họ Vưu. Bảo Ngọc trông thấy mới hoàn hồn, liền kêu nài :
- Chị ơi, sao chị bức bách tôi thế ?
- Anh em nhà anh không có một người nào khá, làm hỏng danh tiết người ta, phá cuộc hôn nhân người ta ? Hôm nay anh đến đây, không thể tha cho anh được ?
Bảo Ngọc nghe rõ câu chuyện không hay, còn đang luống cuống, bỗng nghe phía sau có người gọi :
- Chị ơi, mau mau cản lại ? Đừng để cho nó chạy thoát ?
Cô Ba Vưu nói :
- Ta vâng lệnh phi tử, chờ đợi đã lâu. Hôm nay gặp đây, nhất định lưỡi kiếm nầy cắt đứt mối trần duyên của anh !
Bảo Ngọc nghe xong càng cuống quít. Lại không hiểu những câu nói ấy là có ý nghĩa gì, quay đầu định chạy. Không ngờ người nói phía sau đó không phải là ai lạ, mà chính là Tình Văn.
Bảo Ngọc trông thấy, vừa mừng vừa tủi, liền nói :
- Tôi một mình lạc đường đến đây, gặp kẻ thù, muốn trốn về mà không thấy một chị em nào đi theo tôi cả. Bây giờ gặp chị, may quá! Chị Tình Văn ơi, mau mau dẫn tôi về nhà !
Tình Văn nói :
- Thị giả đừng quản ngại, tôi đây không phải Tình Văn. Chính là người vâng mệnh phi tử, cốt đến mời thị giả vào chơi, chứ không có ý làm khó dễ gì đâu.
Bảo Ngọc rất đỗi ngờ vực, phải hỏi lại :
- Chị bảo phi tử mời tôi. Vậy thì phi tử ấy là người nào?
- Bây giờ không cần phải hỏi, vào trong ấy sẽ rõ.
Bảo Ngọc không biết làm sao, đành phải theo đi, nhìn kỹ người ấy thì đúng là Tình Văn; gương mặt, tiếng nói quả không sai, nhưng sao lại nói không phải ? “Ta bây giờ trong bụng mê mẩn. Hãy khoan để ý đến chị ta đã. Đợi khi vào trong ấy gặp phi tử nếu có điều gì không phải, ta sẽ van xin. Các cô gái vốn lòng từ bi, chắc sẽ tha thứ cho sự lầm lẫn của ta ”. Trong khi nghĩ ngợi như vậy, không bao lâu đã đi đến một chỗ. Thấy có đền đài lộng lẫy, vẻ đẹp huy hoàng, giữa sân có một khóm trúc, ngoài cửa vài gốc tùng xanh. Dưới hành lang có mấy thị nữ đứng, đều trang điểm theo lối trong cung. Các thị nữ trông thấy Bảo Ngọc đến, liền khe khẽ hỏi :
- Thần Anh thị giả đó à ?
Người dẫn Bảo Ngọc đến trả lời :
- Đúng đấy. Chị vào trình báo đi.
Một thị nữ cười rồi vẫy tay. Bảo Ngọc liền đi theo. Đi qua mấy gian phòng đến một phòng chính, thấy có rèm châu treo cao. Người thị nữ ấy nói :
- Hãy đứng đó đợi truyền.
Bảo Ngọc nghe vậy, cứ việc im lặng đứng chờ ở ngoài. Thị nữ đi vào một lát bước ra, nói :
- Mời thị giả vào.
Lại có một người khác cuốn rèm châu lên. Bỗng thấy một cô con gái đầu đội mũ hoa, mình mặc đồ thêu, ngồi đường hoàng ở trong. Bảo Ngọc vừa mới ngẩng đầu lên thấy là Đại Ngọc, bất giác nói lên :
- Cô em ở đây mà để tôi mong nhớ mãi !
Thị nữ đứng ngoài rèm khẽ hét :
- Thị giả này vô lễ ! Mau mau đi ra ?
Nói chưa dứt lời. Bỗng thấy một thị nữ buông rèm châu xuống. Bảo Ngọc bấy giờ muốn vào cũng không dám, muốn đi cũng không đành. Đang định hỏi rõ, nhưng thấy mấy thị nữ ấy cũng không quen biết, lại bị họ đuổi phải đi ra, còn muốn hỏi lại Tình Văn, nhưng ngoảnh nhìn thì không thấy Tình Văn đâu cả. Anh ta đành ngờ vực bực bội đi ra, lại không có ai dẫn đường.
Muốn tìm lối vào lúc trước lại không thấy. Bảo Ngọc đanh loay hoay. Chợt thấy Phượng Thư đứng dưới hành lang một gian phòng vẫy tay. Anh ta mừng quá, nói :
- Chị ở đây à. Họ trêu đùa tôi đến thế. Cô Lâm cũng không chịu gặp tôi, không biết vì cớ gì .
Nói rồi chạy đến chỗ Phượng Thư đứng, nhìn kỹ ra thì không phải Phượng Thư mà lại là vợ trước Giả Dung là Tần thị.
Bảo Ngọc dừng lại, muốn hỏi chị Phượng ở đâu, Tần thị cũng không trả lời, bỏ đi vào trong nhà. Bảo Ngọc mơ mơ màng màng, không dám đi theo. Cứ đứng phía ngoài than thở : “Không biết ta đã làm điều gì sai trái mà không ai chịu nhìn đến
ta ?” Anh ta khóc oà lên. Bỗng thấy có mấy lực sĩ khăn vàng cầm roi đến bảo:
- Anh ở đâu mà dám xông xáo vào nơi trời tiên cõi phúc của chúng tôi ? Ra ngay đi !
Bảo Ngọc nghe xong không dám nói gì, đang tìm lối đi ra. Bỗng trông thấy xa xa một đám con gái vừa cười vừa nói đi tới . Nhìn ra thì giống như bọn Nghênh Xuân. Bảo Ngọc rất mừng và kêu lên :
- Tôi lạc ở đây. Các chị đến cứu tôi với !
Đang gọi thì một lực sĩ ở phía sau chạy đến. Bảo Ngọc bí quá cứ việc chạy ra. Bỗng thấy đám con gái ấy biến thành ma quỷ cùng đến bắt anh ta. Bảo Ngọc đang lúc cấp bách, chợt trông thấy vị hoà thượng đã đưa trả viên ngọc. Ông ta trong tay cầm chiếc gương soi vào mặt Bảo Ngọc và bảo :
- Ta vâng chỉ của Nguyên phi đến cứu anh đây ?
Ma quỷ bỗng hiến hết, lại hiện ra cánh đồng hoang. Bảo Ngọc cầm tay ông ta nói :
- Con còn nhớ. Chính sư phụ đã đem con đến chỗ này. Rồi một chốc không thấy sư phụ đâu nữa. Con gặp nhiều người thân thiết. Họ đều không nhìn con, bỗng lại biến thành ma quỷ. Vậy đó là cảnh mộng hay cảnh thực. Xin sư phụ chỉ bảo cho con được rõ.
- Khi anh đến đây đã xem trộm cái gì chưa ?
Bảo Ngọc nghĩ lại : “ông ấy đã đưa ta đến chỗ trời tiên cõi phúc này, tất nhiên là bậc thần tiên. Ta nói dối ông ta sao được. Vả lại ta cũng đang muốn hỏi việc này cho rõ ràng” Anh ta liền nói :
- Con cũng có xem qua nhiều quyển sổ.
- Thế còn sao nữa ? Anh xem sổ rồi. Còn chưa hiểu rõ à ?
- Phàm tình duyên trên đời đều là những thứ ma chướng ấy cả. Anh nên nhớ kỹ lại những việc đã qua. Sau này ta sẽ nói rõ với anh.
Nhà sư nói xong, cố xô Bảo Ngọc một cái và bảo :
- Trở về đi .
Bảo Ngọc chân đứng không vững, liền ngã xuống, miệng kêu lên :
- Ái chà ?
Mọi người đang khóc lóc, chợt thấy Bảo Ngọc tỉnh lại. Vội vàng gọi. Bảo Ngọc mở mắt nhìn, thấy mình vẫn nằm trên giường, lại thấy Vương phu nhân và Bảo Thoa khóc sưng cả mắt. Anh ta định thần nhớ lại, nghĩ bụng : “đúng rồi. Ta chết rồi sống lại đây?” Anh ta cố nhớ lại những việc mà linh hồn đã từng trải qua, đều nhớ được hết, liền cười to :
- Đúng rồi ? Đúng rồi !
Vương phu nhân cho là bệnh cũ của Bảo Ngọc lại phát, phải mời thầy thuốc điều trị, liền bảo một a hoàn già đi mau đến trình Giả Chính :
- Bảo Ngọc đã tỉnh lại. Lúc trước là vì ngất đi đó thôi, nay đã nói được. Không cần phải sắm đồ hậu sự nữa.
Giả Chính nghe xong vội đến xem, quả thấy Bảo Ngọc đã sống lại, liền bảo :
- Thằng con si ngốc kia ! Mày định dọa ai đấy ?
Nói xong, bất giác chảy nước mắt, lại than thở vài câu, rồi trở ra, bảo người đi mời thầy xem mạch cho đơn.
Trong nhà, Xạ Nguyệt đang định tự tử, nay thấy Bảo Ngọc tỉnh lại, mới được yên tâm. Vương phu nhân gọi người bưng nước quế đến, bảo anh ta uống mấy ngụm. Bảo Ngọc dần dần tỉnh táo. Vương phu nhân mới yên tâm, cũng không trách móc gì Xạ Nguyệt, rồi gọi người đưa viên ngọc cho Bảo Thoa để đeo cho Bảo Ngọc. Vương phu nhân lại nghĩ đến việc vị hoà thượng liền nói :
- Viên ngọc ấy không biết tìm được ở đâu. Lạ thực ! Sao lúc thì đòi bạc, rồi bỗng chốc không thấy đâu nữa. Phải chăng là một vị thần tiên ?
Bảo Thoa nói :
- Nghĩ lại hình tích vị sư ấy khi đến cũng như khi đi thì viên ngọc này không phải là tìm được. Chưa biết chừng lần trước bị mất cũng là ông ta lấy đi đó thôi.
- Ngọc ở trong nhà, làm sao mà lấy đi được ?
- Đã đưa đến được thì lấy đi cũng được chứ .
Tập Nhân và Xạ Nguyệt đều nói :
- Năm trước khi mất viên ngọc, ông Lâm Chí Hiếu đi bói, sau mợ Hai về đây. chúng tôi đã thưa với mợ rằng bói được chữ “thưởng “ gì đó. Mợ Hai còn nhớ rõ không ? (1)
Bảo Thoa nhớ lại:
- Đúng rồi, nghe các cô nói khi ấy bói ra là phải đi tìm trong hiệu cầm đồ. Nay mới rõ, thì ra chính là chữ “thưởng” là hoà thượng ở trên đầu, thế không phải là “hoà thượng” đã lấy viên ngọc đi sao ? Vị hoà thượng kỳ quặc thật ?
- Năm trước Bảo Ngọc bị bệnh, một vị hoà thượng đến nói nhà ta có bảo bối, có thể chữa bệnh. Tức là nói viên ngọc ấy, ông ta đã hiểu rõ như thế. Tất nhiên là viên ngọc ấy vẫn có lai lịch. Vả lại chồng con khi sinh ra đã ngậm sẵn viên ngọc trong miệng. Xưa nay các con có thấy người thứ hai nào như thế không ? Không biết sau này viên ngọc ấy sẽ ra sao ! Cho đến cái anh này cũng chưa biết rồi ra thế nào ! Dữ cũng do viên ngọc ấy, lành cũng do viên ngọc ấy...
Nói đến đó, bà ta bỗng ngừng lại, bất giác lại chảy nước mắt.
Bảo Ngọc nghe xong, bụng cũng hiểu rõ, lại nghĩ đến việc mình ngất đi một lúc, càng có nguyên do. Nhưng không nói gì trong bụng nhẩm lại rất kỹ.
Bấy giờ Tích Xuân mới nói :
- Năm trước mất ngọc, nhờ sư Diệu ngọc cầu tiên có cho câu thơ : “dưạ núi Thanh Ngạnh dựa câu thông”. Lại còn có câu: “Vào cửa ta đây gặp nhau cùng”. Nghĩ lại ba chữ “vào cửa” ta cần đáng xét kỹ : “cửa nhà Phật rất lớn, chỉ sợ anh Hai không vào được thôi.”
Bảo Ngọc nghe xong cười nhạt. Bảo Thoa nghe nói bất giác cau mày sửng sốt. Vưu thị nói :
- Cô này mở miệng ra là nói đến cửa nhà Phật. Còn chưa chịu bỏ ý muốn đi tu à?
Tích Xuân cười :
- Không dấu gì chị. Tôi không ăn mặn đã lâu.
Vương phu nhân bảo :
- A di đà Phật. Cháu ơi, nghĩ như thế không nên.
Tích Xuân nghe vậy cũng không nói gì.
Bảo Ngọc nhớ đến câu thơ : “một ngọn đèn xanh trước Phật bà”, (2) rồi thở dài luôn mấy tiếng. Chợt lại nhớ đến những chữ “một chiếc chiếu, một khóm hoa “, rồi đưa mắt nhìn Tập Nhân, bất giác chảy nước mắt.
Mọi người thấy Bảo Ngọc khi vui khi buồn, cũng không hiểu vì sao, chỉ cho đó là bệnh cũ. Có biết đâu Bảo Ngọc vì đã biết những điều bí ẩn, đã nhớ lại rành mạch nhưng câu thơ xem trộm trong các quyển sổ. Tuy không nói ra, nhưng trong lòng đã có ý định sẵn.
Người trong nhà thấy Bảo Ngọc chết rồi sống lại, tinh thần sáng suốt, lại uống thuốc luôn mấy hôm, nên mỗi ngày một khá. Dần dần bình phục như cũ. Còn Giả Chính trông thấy Bảo Ngọc đã khỏi, hiện nay đang nghỉ ở nhà chịu tang cũng còn rảnh việc; nghĩ lại Giả Xá chưa biết lúc nào được thăm linh cữu của mẹ đã để lâu trong chùa. Vẫn không đành lòng, nên muốn rước linh cữu về miền Nam để an táng. Giả Chính liền gọi Giả Liễn đến để bàn. Giả Liễn thưa :
- Chú nghĩ rất phải. Nay nhân dịp chịu tang, làm xong được việc lớn ấy càng hay. Nếu để đến sau này, chú lại ra làm quan, có lẽ sẽ không làm được vừa ý. Chỉ có điều cha cháu không ở nhà, mà cháu lại không dám vượt quyền. Ý định của chú rất hay ; nhưng muốn lo liệu việc ấy thì phải cần đến mấy nghìn lạng bạc. Nếu chỉ chờ nha môn tra ra của mất trộm thì không thể tra ra ngay được đâu.
Giả Chính nói :
- Ý ta đã định rồi. Chỉ vì anh Cả đi vắng nên gọi cháu đến bàn xem nên làm thế nào. Cháu thì không thể đi ra khỏi nhà được vì trong nhà đây hiện giờ không có ai. Ta nghĩ mấy chiếc quan tài đều phải rước về. Một mình ta làm sao trông nom cho xuể . Ta định đem cháu Dung đi, vì có cả quan tài vợ nó cũng đưa theo. Lại còn quan tài của cháu Lâm nữa, theo lời bà trối lại, bảo phải đem theo đi với bà. Còn số tiền ấy thì ta nghĩ chỉ cần mượn tạm đâu đó mấy nghìn cũng cũng đủ.
- Nhân tình bây giờ rất là tệ bạc, chú thì đang về nghỉ chịu tang ; cha cháu thì còn ở ngoài. Thực cháu không thể vay mượn vào đâu được. Chỉ còn cách đem khế tờ nhà đất đi cầm mà thôi.
- Nhà cửa chúng ta ở đây đều do của công xây dựng ; động đến sao được ?
- Nhà ở đã đành không thể động đến được. Nhưng còn mấy sở nhà ở ngoài, có thể đem cầm tạm, đợi sau chú ra làm quan sẽ chuộc lại cũng được. Hoặc là sau này cha cháu trở về, nếu được bổ dụng nữa thì cũng có thể chuộc lại. Chỉ ngại một điều là chú tuổi tác như thế mà chuyến đi này rất vất vả thì trong bụng cháu không đành !
- Việc của bà nhất định phải làm. Chỉ cần cháu ở nhà cẩn thận lo lắng việc nhà chu đáo là được.
- Xin chú cứ yên tâm. Cháu tuy ngu dại, nhưng cũng quyết xin hết sức lo liệu. Vả lại, chú về Nam, chắc cũng phải đem nhiều người đi. Người ở nhà đây chẳng bao nhiêu, chỉ cần một số ít tiền cũng có thể xoay xở lo liệu. Nếu đi đường thiếu tiền tiêu thì khi qua chỗ Lại Thượng Vinh làm quan, chú có thể bảo anh ta giúp một ít.
- Việc của mẹ mình mà lại bảo người khác giúp làm gì?
Giả Liễn “dạ” rồi lui ra, thu xếp tiền bạc.
Giả Chính nói chuyện với Vương phu nhân, bảo ở nhà trông nom, còn mình chọn được ngày tốt sẽ rước quan tài đi xa. Bảo Ngọc lúc ấy đã bình phục như cũ. Giả Hoàn, Giả Lan cũng biết chăm học. Giả Chính dặn Giả Liễn phải để ý trông nom :
- Năm nay vừa gặp khoa thi. Thằng Hoàn còn có tang, không vào thi được. Thằng Lan là hàng cháu, hết tang cũng có thể đi thi. Cần phải nhắn nhủ Bảo Ngọc đi thi với cháu, may đậu được một tên cử nhân cũng đủ chuộc lại tội lỗi của chúng ta.
Giả Liễn vâng lời.
Giả Chính lại dặn dò những người ở nhà, nói thêm mấy câu rồi đến bái biệt từ đường, sau đó ra ngoài thành, tụng kinh mấy hôm, rồi rước quan tài xuống thuyền cùng bọn Lâm Chí Hiếu ra đi. Giả Chính không muốn làm phiền các bà con bạn bè, chỉ có bọn đàn ông đàn hà trong phủ đi đưa một độ đường rồi trở về.
Bảo Ngọc vì Giả Chính dặn bảo đi thi. Vương phu nhân thỉnh thoảng cũng thúc giục và xét hỏi đến bài vở. Bọn Bảo Thoa,Tập Nhân thường thường khuyên bảo, việc ấy không cần kể rõ. Nào ngờ Bảo Ngọc sau khi lành bệnh, tuy tinh thần ngày càng khá hơn, nhưng ý nghĩ lại càng kỳ quặc, thay đổi khác hẳn. Không những anh ta chán ghét công danh quan chức mà đến cả tình duyên đối với con gái cũng lạt lẽo đi nhiều. Nhưng mọi người không ai để ý lắm. Bảo Ngọc cũng không nói ra.
Một hôm Tử Quyên đi đưa linh cữu Đại Ngọc trở về, buồn bã ngồi trong nhà khóc lóc, chị ta nghĩ bụng : “Bảo Ngọc thật vô tình ! Thấy quan tài cô Lâm đưa về mà cũng không hề thương khóc. Thấy mình khóc lóc thế này cũng không đến yên ủi lại nhìn mình mà cười. Con người phụ bạc ấy trước kia chỉ khéo tìm lời ngon ngọt tán tỉnh mình. May mà đêm hôm nọ mình nghĩ vỡ lẽ ra được, nếu không thì đã mắc lừa cậu ta rồi ! Nhưng có một điều không sao hiểu rõ. Bây giờ cậu ấy đối với bọn chị TậpNhân cũng có vẻ thờ ơ, mợ Hai vốn là người không ưa vồn vã, nhưng còn bọn Xạ Nguyệt lại không giận cậu ấy sao ? Xem ra bạn gái phần nhiều là bọn si ngốc, đã uổng phí tâm lực bấy lâu nay, sau này không biết rồi ra thế nào ?”...
Cô ta đang nghĩ thì vừa hay con Năm đến hỏi thăm. Thấy Tử Quyên nước mắt dàn dụa. Con Năm liền hỏi :
- Chị lại khóc cô Lâm à ? Người ta nói tai nghe không bằng mắt thấy, quả là đúng. Trước kia, nghe tiếng cậu Hai đối với chị em bạn gái rất là tốt. Mẹ tôi xin mãi mới đưa được tôi vào hầu. Không ngờ sau khi vào đây. Tôi đã hết lòng hết sức hầu hạ
những khi đau ốm, thế mà đến lúc lành bệnh, lại chẳng được một câu nói tử tế nào. Bây giờ thậm chí cậu ấy không thèm nhìn đến tôi nữa !
Tử Quyên nghe con Năm nói buồn cười, liền cười và mắng :
- Con ranh! Mày muốn cậu Bảo đối đãi với mày như thế nào cơ? Đồ con gái không biết xấu hổ. Người ta đường hoàng là người hầu trong nhà mà cậu ấy còn xem như không, thì còn công hơi nào nhìn đến mày nữa ?
Rồi cô ta lại cười, giơ đầu ngón tay quẹt vào má con Năm và hỏi :
- Rút cục mày là hạng người gì của Bảo Ngọc ?
Con Năm nghe nói, biết mình lỡ lời, liền đỏ mặt lên. Nó định nói là không phải mình muốn Bảo Ngọc đối đãi với mình như thế nào, mà chỉ muốn nói gần đây anh ta không biết thương kẻ dưới. Bỗng nghe ngoài sân có tiếng kêu lên :
- Ông sư lại đến ngoài kia đòi một vạn lạng bạc đấy. Bà lớn sốt ruột bảo cậu Hai Liễn ra thương lượng với ông ấy, không may cậu Liễn lại đi vắng ! Ông sư ở ngoài ấy nói nhiều chuyện điên rồ. Bà lớn bảo mời mợ Hai sang bàn.
Hồi thứ một trăm mười bảy
Ngăn việc tu hành, hai gái đẹp cố giữ viên ngọc
Thích họp bạn xấu, một con hư coi giữ việc nhà
Vương phu nhân sai người đi mời Bảo Thoa sang để bàn. Bảo Ngọc nghe nói có ông sư ở ngoài, một mình vội vàng chạy ra, gọi ồn lên :
- Sư phụ ở đâu ?
Gọi một hồi lâu, không thấy vị hòa thượng, Bảo ngọc phải chạy ra phía ngoài, thấy Lý Quý cản đường không để cho ông ta đi vào, liền nói :
- Bà lớn bảo ta ra mời sư phụ vào.
Lý Quý nghe nói buông tay ra, ông ta bèn ngất ngưởng đi vào.
Bảo Ngọc trông thấy hình dáng vị hòa thượng này giống hệt như người mình đã trông thấy khi ngất đi, trong bụng đã hiểu một phần, liền đến trước mặt kính chào, nói :
- Thưa sư phụ, đệ tử xin lỗi ra tiếp chậm .
- Ta không cần các người phải tiếp đón, chỉ cần đem số tiền ra đây là ta sẽ đi.
Bảo Ngọc nghe giọng nói này không giống giọng nói của người có đạo hạnh. Lại trông thấy ông ta khắp đầu chốc lở, đầy mình bẩn thỉu rách rưới, bèn nghĩ thầm : “Người xưa nói - là chân nhân, thì không lộ tướng, lộ tướng không phải là chân nhân. Nay ta đã gặp thì không nên bỏ lỡ. Ta cứ nhận đưa số bạc tạ ông ta để thử dò ý định ông ta như thế nào.” Rồi anh ta nói :
- Sư phụ không cần nóng vội, thân mẫu của đệ tử đang lo liệu số tiền. Mời sư phụ ngồi chở một lát. Đệ tử xin hỏi - có phải sư phụ từ Thái hư ảo cảnh đến đây không?
- Ảo cảnh nào ? Chẳng qua là đến từ chỗ đến, đi từ chỗ đi mà thôi. Ta là người đưa trả viên ngọc. Vậy ta hỏi anh - viên ngọc ấy ở đâu mà đến ?
Bảo ngọc trong chốc lát không thể trả lời được. Nhà sư cười :
- Anh chưa biết từ đường nào đến đây, sao còn hỏi tôi. Bảo Ngọc vốn thông minh, lại từng được phép giác ngộ nên đã biết thấu cõi hồng trần, chỉ còn số phận của mình là chưa biết rõ. Nay nghe ông ta hỏi đến viên ngọc, cảm thấy như bị đánh một đùi trên đầu, nên trả lời :
- Sư phụ không cần hỏi đến số bạc nữa, để đệ tử đem viên ngọc trả lại cho sư phụ.
Nhà sư cười nói :
- Cũng nên trả lại cho ta rồi đấy.
Bảo Ngọc không đáp, chạy vào trong nhà, đến phòng mình, thấy Bảo Thoa và Tập Nhân còn sang bên Vương phu nhân, vội đến bên giường lấy viên ngọc rồi đi ra thì chạm phải Tập Nhân. Tập Nhân giật mình nói :
- Bà bảo cậu ngồi tiếp ông sư là phải. Bà ở bên nhà thu xếp số bạc để đưa cho ông ta. Sao cậu lại vào đây làm gì ?
- Chị mau mau đến trình bà, không cần sửa soạn số bạc, tôi cứ đem viên ngọc trả lại cho ông ta là xong.
Tập Nhân nghe vậy vội giữ lấy Bảo Ngọc nói :
- Không được đâu ? Viên ngọc ấy tức là bản mệnh của cậu, nếu ông ấy mang đi thì cậu lại ốm thôi.
- Giờ tôi không đau ốm nữa đâu. Tôi đã có quả tim rồi, còn dùng viên ngọc ấy làm gì.
Bảo Ngọc đẩy Tập Nhân rồi muốn chạy đi. Tập Nhân hoảng hốt vội kêu lên :
- Thì cậu hãy trở lại để tôi nói với cậu một câu đã ?
Bảo Ngọc quay cổ lại bảo :
- Chẳng phải nói gì nữa.
Tập Nhân không ngần ngại gì nữa, vừa chạy theo vừa gọi to lên :
- Lần trước mất viên ngọc, tí nữa là mất cả mạng tôi, rồi mới tìm thấy nó đấy. Nay cậu lại mang đi à. Thế thì cậu không sống được mà tôi cũng chết mất ? Cậu muốn đem trả ngọc cho ông ấy thì hãy bắt tôi chết đi đã !
Nói xong. Tập Nhân chạy theo giữ lại. Bảo Ngọc điên tiết lên, bảo :
- Chị chết haykhông cũng phải trả.
Rồi Bảo Ngọc thục mạng quay mình định chạy. Nhưng Tập Nhân hai tay cứ ôm lấy thắt lưng Bảo Ngọc, không chịu buông, vừa khóc vừa kêu, ngồi xệp xuống đất. Các a hoàn trong nhà nghe vậy, vội vàng chạy ra, trông thấy bộ dạng hai người rất
là ghê gớm, lại nghe Tập Nhân khóc và kêu :
- Mau đi trình với bà lớn ? Cậu Bảo định đem viên ngọc đi trả cho ông sư đấy !
A hoàn liền chạy ngay đi báo Vương phu nhân. Bảo Ngọc lại càng tức tối, ra sức bẻ tay Tập Nhân, nhưng Tập Nhân vẫn cứ cố cắn răng không chịu thả. Tử Quyên ở trong nhà nghe nói Bảo Ngọc định đem viên ngọc đi trả thì hoảng hốt hơn ai hết, tuy ngày thường chị ta tỏ ra lạnh nhạt với Bảo Ngọc. Nhưng lúc ấy quên đi đâu mất, vội vàng đến giúp sức ôm ghì lấy Bảo Ngọc. Bảo Ngọc tuy là con trai, đã cố sức giằng ra, nhưng bị hai người liều chết ôm chặt không thả, nên cũng khó thoát. Anh ta liền than thở :
- Chỉ vì một viên ngọc mà các chị đều chết giữ lấy như thế . Nếu chính thân tôi bỏ đi thì các chị sẽ làm thế nào.
Tập Nhân và Từ Quyên nghe nói, bất giác khóc oà lên. Trong lúc đang giằng co như vậy thì Vương phu nhân và Bảo Thoa vội vàng chạy đến. Thấy quang cảnh ấy, Vương phu nhân khóc và quát :
- Bảo Ngọc ! mày điên rồi à ?
Bảo Ngọc thấy Vương phu nhân đến, biết không thể thoát, liền đấu dịu cười và nói:
- Có gì cái chuyện ấy mà mẹ phải nóng nảy. Các chị ấy cứ làm nhớn nhác lên như thế đó thôi. Con nghĩ ông ấy không biết nể nang, cứ đòi một vạn lạng bạc, thiếu một lạng cũng không được. Con đâm tức, chạy về lấy viên ngọc định trả cho ông ta và sẽ nói đó là viên ngọc giả không dùng làm gì. Ông ấy thấy ta không quý viên ngọc thì ta có thể tùy trả cho ông ấy bao nhiêu cũng xong.
Vương phu nhân nói :
- Ta tưởng mày muốn đem trả cho ông ấy kia. Thế thì cũng được. Nhưng sao không nói rõ cho chúng nó biết, để chúng nó kêu khóc ầm lên như thế còn ra thể thống gì nữa.
Bảo Thoa nói :
- Cậu nói như vậy cũng được, chứ nếu đem viên ngọc trả cho ông sư thì không nên, xem ra ông ta cũng hơi kỳ quặc. Lỡ trả cho ông ta rồi, trong nhà xảy ra không yên, như thế chẳng lại sinh ra lắm chuyện ! Còn như số bạc thì cứ đem những đồ trang sức của tôi cầm bán cũng còn đủ.
Vương phu nhân nghe vậy nói :
- Thế cũng được, cứ làm như vậy.
Bảo Ngọc cũng không nói lại, Bảo Thoa đến cầm lấy viên ngọc trong tay Bảo Ngọc và nói :
- Cậu cũng không cần đi ra, để tôi cùng mẹ đem bạc ra cho ông ta là xong.
Bảo Ngọc nói :
- Viên ngọc không trả cho ông ta thì thôi, nhưng tôi cần phải gặp mặt ông ta một lần nữa mới được.
Bọn Tập Nhân vẫn không chịu buông ra. Cuối cùng, Bảo Thoa cả quyết nói :
- Cứ buông ra để mặc cho cậu ấy đi.
Tập Nhân đành phải buông ra. Bảo Ngọc cười :
- Té ra các chị chỉ trọng viên ngọc chứ không trọng người! Các chị buông tôi ra, tôi sẽ theo ông sư đi, xem các chị cứ giữ lấy viên ngọc, rồi sẽ ra sao ?
Tập Nhân trong bụng hoảng sợ, muốn giữ Bảo Ngọc lại, nhưng vì trước mặt Vương phu nhân và Bảo Thoa, không tiện tỏ ra liều lĩnh. Vừa lúc đó, Bảo Ngọc được buông ra, liền bỏ chạy. Tập Nhân vội gọi a hoàn nhỏ ra cửa ngoài truyền lại cho bọn Bồi Dính :
- Phải dặn ngoài kia trông nom cậu Hai. Cậu ấy hơi điên đấy ?
A hoàn nhỏ vâng lời đi ra.
Vương phu nhân và Bảo thoa vào ngồi, hỏi Tập Nhân đầu đuôi ra sao. Tập Nhân bèn kể lại tỉ mỉ những câu nói của Bảo Ngọc. Vương phu nhân và Bảo Thoa rất là áy náy, lại bảo ra dặn mọi người phải lắng nghe xem vị hòa thượng nói những chuyện gì. Một lúc, a hoàn nhỏ vào trình với Vương phu nhân :
- Cậu Hai quả là điên rồi ! Các chú hầu nhỏ ngoài kia kể lại - trong nhà không chịu giao viên ngọc, cậu ấy không biết làm sao. Bây giờ cậu ấy tự đi ra, xin ông sư đem cậu ta đi.
Vương phu nhân nghe xong, nói :
- Thế sao được ! Ông sư ấy còn nói những gì ?
- Ông sư bảo cần viên ngọc chứ không cần người.
Bảo Thoa hỏi :
- Lại không đòi bạc nữa à ?
- Không nghe nói. Sau rồi ông sư cùng cậu Hai vừa nói vừa cười, có nhiều chuyện lắm, nhưng các chú hầu nhỏ ngoài kia đều không hiểu hết.
Vương phu nhân nói :
- Đồ ngu ? Nghe không hiểu chứ kể lại thì kể được chứ.
Rồi bảo a hoàn nhỏ :
- Mày đi gọi tên hầu nhỏ ấy vào đây.
A hoàn nhỏ vội đi gọi tên hầu nhỏ ấy vào. Nó đứng dưới hành lang từ ngoài cửa sổ chào Vương phu nhân. Vương phu nhân liền hỏi :
- Vị hòa thượng và cậu Hai nói chuyện với nhau, chúng mầy không hiểu, chứ kể lại cũng không kể được à ?
Tên hầu nhỏ thưa :
- Chúng con chỉ nghe nói mấy tiếng như núi “Đại Hoang”. đỉnh “Thanh Ngạnh” và “Cõi Thái hư”, cắt đứt trần duyên” gì gì đó...
Vương phu nhân nghe cũng không hiểu. Bảo Thoa nghe xong khiếp sợ, trợn trừng trợn trạc, không nói ra được nửa lời.
Bảo Thoa đang định cho người dắt Bảo Ngọc vào, thì vừa thấy Bảo Ngọc cười hớn hở đi vào nói :
- Tốt rồi ! Tốt rồi !
Bảo Thoa vẫn còn sửng sốt. Vương phu nhân hỏi :
- Mày điên điên dại dại nói những câu gì thế ?
- Con nói đứng đắn. Mẹ lại bảo là điên. Ông ấy nguyên cớ kiếm con, chẳng qua ông ta muốn đến thăm con đó thôi. Có phải ông ta thật đến đòi bạc đâu ? Ông ta chỉ đến bố thí cái thiện duyên đấy thôi. Vì thế sau khi nói rõ, ông ta liền vùn vụt
ra đi, thế không phải là tốt rồi à .
Vương phu nhân không tin, lại từ trong cửa sổ hỏi tên hầu nhỏ. Tên ấy vội vàng chạy ra hỏi người gác cửa rồi vào trình :
- Ông ấy đi thực rồi và có dặn lại xin bà cứ yên tâm. Ông ấy không cần số bạc, chỉ cần cậu Hai thường năng tới chỗ ông ấy là được. Mọi việc đều phải tùy theo “nhân duyên”, đã có cái lẽ nhất định.
Vương phu nhân nói :
- Thế ra ông ấy lại là một ông sư phúc đức ! Chúng mày có nhớ ông ấy ở đâu không ?
Người canh cửa nói :
- Cháu đã hỏi thì ông ta nói cậu Hai nhà ta có biết đấy.
Vương phu nhân liền hỏi Bảo Ngọc :
- Vậy ông ta ở chỗ nào ?
Bảo Ngọc cười :
- Chỗ ấy bảo xa thì xa. Bảo gần thì gần.
Bảo Thoa không đợi Bảo Ngọc nói hết, liền bảo :
- Cậu hãy tỉnh lại chứ ? Đừng quá mê mẩn! Lâu nay bà và mẹ chỉ thương một mình cậu, cha lại còn bảo cậu lo theo đòi để lập công danh nữa đấy.
Bảo Ngọc đáp :
- Chuyện tôi vừa nói không phải là công danh à ? Các người chưa biết “một người con cháu đi tu, bảy ông tổ được lên chầu trời” hay sao ?
Vương phu nhân nghe đến đó, bất giác đau lòng nói :
- Vận nhà chúng ta không biết rồi sẽ ra sao. Con Tư đã luôn miệng đòi đi tu, bây giờ lại thêm một thằng nầy nữa. Đời ta như thế này, còn sống để làm gì !
Bà ta nói xong, khóc òa lên. Bảo Thoa thấy Vương phu nhân thương tâm, đem hết lời khuyên giải. Bảo Ngọc cười :
- Con nói đùa một câu mà mẹ lại cho là thực.
Vương phu nhân mãn khóc hỏi lại :
- Những câu mầy nói đều là nói bậy cả chứ ?
Đang lúc ồn ào, bỗng thấy a hoàn vào trình :
- Cậu Hai Liễn đã về, nhìn sắc mặt đổi hẳn. Cậu ấy bảo mời bà đến để thưa chuyện.
Vương phu nhân lại sợ hãi, bảo :
- Cứ mời anh ấy vào đây. Cô em dâu cũng là họ hàng cũ, không cần phải tránh.
Giả Liễn vào chào hỏi Vương phu nhân. Bảo Thoa cũng ra chào, hỏi thăm Giả Liễn. Giả Liễn thưa :
- Cháu vừa mới tiếp được bức thư của cha cháu, nói bị ốm rất nặng, bảo cháu đi ngay, nếu chậm thì e không được gặp mặt.
Hắn nói đến đó, liền rơi nước mắt.
Vương phu nhân hỏi :
- Trong thư nói đau bệnh gì ?
- Lúc đầu do cảm mạo phong hàn, nay đã thành ra bệnh lao. Hiện rất nguy cấp, nên cha cháu sai một người đi suốt ngày đêm về đây báo, nếu cháu còn chần chừ một vài ngày thì sẽ không được gặp mặt. Giờ cháu đến trình thím, cháu thế nào cũng
phải đi. Chỉ có điều là trong nhà không có ai trông nom. Cháu Tường, cháu Vân tuy dại dột, nhưng cũng là đàn ông, khi có việc gì ở ngoài, chúng nó còn có thể truyền lời vào được. Còn trong nhà cháu thì cũng chẳng có chuyện gì. Con Thu Đồng ngày nào cũng kêu khóc, không muốn ở lại, cháu đã cho người đi gọi người nhà mẹ nó đem nó về. Như vậy thì Bình Nhi cũng đỡ tức tối. Tuy cháu Xảo không có người chăm nom, nhưng may còn có Bình Nhi là người không đến nỗi hư hỏng. Cháu Xảo cũng thông minh, nhưng tính khí bướng bỉnh hơn cả mẹ nó. Mong thím luôn luôn dạy bảo cho.
Hắn nói xong, quầng mắt đỏ lên, vội lấy cái khăn lụa buộc bao cau trong lưng ra lau mắt. Vương phu nhân nói :
- Bà nội nó ở đấy mà lại gửi nhờ ta ?
Giả Liễn nói khẽ :
- Thím nói thế thì tội cháu thật đáng chết. Không cần phải nói gì cả, chỉ mong thím thương đến cháu là được.
Nói đoạn, hắn quỳ xuống. Vương phu nhân mắt đỏ lên nói :
- Anh hãy đứng dậy ! Thím cháu chuyện trò với nhau sao lại làm thế ? Chỉ có một điều con cháu cũng đã lớn rồi, nếu bác có rủi ro thế nào thì lại nhẹ nhàng cho nó. Khi gặp nhà môn đăng hộ đối đến hỏi thì phải đợi anh về, hay là do bác gái ở nhà làm chủ ?
- Hiện có thím và mẹ cháu ở nhà, thì tất nhiên là do hai người làm chủ, không cần đợi cháu.
- Anh cần phải đi thì viết ngay một tờ trình đưa tin cho chú, nói rằng ở nhà đây không có người, bác lại chưa biết ra sao. Xin chú thu xếp việc lớn giúp bà cho nhanh chóng rồi về nhà gấp.
Giả Liễn vâng dạ, đang định đi ra, nhưng lại quay trở vào thưa :
- Số người hầu hạ của phủ ta, trong nhà còn đủ sai phái. Nhưng bên vườn không có người, rất là trống trải. Bao Dũng đã đi theo chủ nó rồi. Tiết Khoa đã dọn ra ở nhà riêng. Không ở cái nhà dì Tiết ở lúc trước. Một dãy nhà trong vườn đều bỏ không, chẳng ai nhìn ngó. Thím nên thỉnh thoảng sai người dến xem. Am Lũng Thúy nguyên là đất của phủ ta. Nay cô Diệu Ngọc không biết đi đâu rồi. Bao nhiêu nhà cửa ở đó, ni cô giữ nhà cho Diệu Ngọc. không dám làm chủ, chỉ mong có một người trong phủ đến trông coi.
- Việc của mình lo chưa xong, còn cáng lấy những việc khác sao được. Việc này đừng để cho con Tư biết. Nếu nó nghe thấy lại om sòm lên, đòi di tu đấy. Anh thử nghĩ gia thế chúng ta như thế nào ? Mà để một cô con gái đi tu thì còn ra sao nữa ?
- Thím không nhắc đến thì cháu cũng không dám nói. Cô tư vẫn là người của phủ Đông, cha mẹ không có ; anh ruột lại phải đi ra tỉnh ngoài, chị dâu cũng không nói nổi. Cháu nghe nói cô ta đã đòi chết đến mấy lần rồi. Bụng cô ấy đã vậy, nếu cứ
khăng khăng giữ lại, sợ sau này cô ta chết thật thì tai hại hơn là đi tu nữa đấy.
Vương phu nhân nghe xong gật dầu bảo :
- Việc ấy ta cũng khó gánh nổi. Ta không làm chủ được, chỉ đành để mặc chị dâu nó thôi.
Giả Liễn lại nói thêm mấy câu nữa, rồi mới đi ra gọi người nhà đến cắt đặt rõ ràng, viết một phong thư rồi thu xếp đồ đạc để lên đường. Bọn Bình Nhi tất nhiên cũng có nhiều câu dặn dò. Riêng Xảo Thư thì đau xót vô cùng. Giả Liễn lại muốn gửi cho Vương phu nhân trông nom. Nhưng Xảo Thư không thuận. Cô ta lại nghe nói đã nhờ bọn Giả Tường, Giả Vân coi việc bên ngoài, trong bụng càng khó chịu, nhưng không nói ra được. Cô ta đành phải tiễn cha đi rồi cùng sống với Bình Nhi cho qua ngày tháng.
Phong Nhi và Tiểu Hồng từ khi Phượng Thư mất rồi, người thì xin nghỉ, ngươi thì cáo bệnh. Bình Nhi muốn đón một cô nào trong phủ đến ở chung, trước là để làm bạn với Xảo Thư. Sau nữa, để kèm cặp cô ta. Nhưng nghĩ mãi không có người nào. Chỉ có Hỷ Loan và cô Tít là hai người trước kia được Giả mẫu yêu chiều. Cô Tư thì vừa mới đi lấy chồng. Còn Ỷ Loan thì cũng đã có nơi, không bao lâu sẽ phải về nhà chồng; nên Bình Nhi cũng đành chịu.
Giả Vân và Giả Tường tiễn chân Giả Liễn đi rồi, vào chào Hình phu nhân và Vương phu nhân. Hai người thấy nhau ở thư phòng ngoài. Ban ngày thì họ cùng bọn người nhà đùa nghịch, có lúc kéo bè bạn đến thay phiên nhau làm chủ bữa tiệc thậm chí họp nhau đánh bạc, nhà trong làm sao mà biết được.
Một hôm cậu cả Hình và Vương Nhân đến trông thấy Giả Vân, Giả Trang tại đó, biết rằng bọn họ vui nhộn nên cũng mượn tiếng trông nom dùm rồi thường đến thư phòng ngoài bày trò đánh bạc, uống rượu. Trong số những người nhà đứng đắn thì
Giả Chính đã đem đi mấy người. Còn mấy người theo Giả Liễn, chỉ trơ lại con cháu các nhà họ Lại, họ Lâm mà thôi. Bọn thiếu niên ấy, nhờ ơn cha mẹ, chỉ quen ăn uống chứ làm gì biết lo liệu việc nhà. Vả lại, cha anh của họ đều đi vắng, nên họ như ngựa không cương. Đã thế lại có hai ông chủ xúi giục thêm, thì chuyện gì mà họ không thích làm. Bọn chúng làm cho phủ Vinh thật là hỗn độn. Chẳng còn kể đến trật tự, thể thống gì nữa.
Giả Tường muốn lôi kéo cả Bảo Ngọc. Giả Vân can :
- Cậu Bảo là người không có số tốt, đụng đến cậu ấy làm gì. Năm kia tôi mách mối cho cậu ấy một nhà rất xứng đáng. Ông cha làm quan coi thuế ở tỉnh ngoài, ở nhà gồm những mấy hiệu cầm đồ, còn cô con gái thì đẹp hơn tiên. Tôi vội vàng viết một bức thư rất tỉ mỉ đưa cho cậu ấy. Nào ngờ cậu ta không có số tốt...
Hắn nói đến đó, liếc nhìn hai bên thấy không có ai, lại tiếp :
- Bụng cậu ta đã trót gắn bó với thím Hai nhà mình rồi ? Anh chưa nghe nói đấy thôi. Còn cả cô Lâm nữa. Kết quả cô Lâm mắc bệnh tương tư mà chết, ai cũng biết đấy ? Việc ấy đã đành, cũng là do số phận cả. Không ngờ vì bức thư ấy mà cậu ta giận tôi không để ý gì đến tôi. Cậu ấy xem chừng rồi đây biết ai phải nhờ đến thể diện của ai ?
Giả Tường nghe xong gật đầu, mới từ bỏ ý định của mình. Họ có biết đâu Bảo Ngọc từ ngày gặp ông sư đã muốn cắt đứt trần duyên. Nhưng vì còn có Vương phu nhân nên không dám làm theo ý muốn của mình. Tuy vậy, anh ta cùng bọn Bảo Thoa, Tập Nhân đã không hòa hợp lắm. Bọn a hoàn không hiểu, còn muốn khêu gợi cậu ta, nhưng Bảo Ngọc vẫn không thèm nhìn đến. Thậm chí cũng không nghĩ gì đến việc nhà nữa. Vương phu nhân và Bảo Thoa vẫn thường khuyên bảo anh ta đọc sách. Anh ta cũng làm bộ giả học, nhưng bụng chỉ nghĩ đến vị hòa thượng đã dẫn anh ta đến cảnh tiên. Cho nên gặp ai anh ta cũng cho toàn là người tục cả. Vì ở nhà khó chịu, Bảo Ngọc lúc rảnh lại đến Tích Xuân nói chuyện suông. Hai người hợp ý nhau, nên ý nghĩ của anh ta lại thêm chắc chắn hơn. Do đó, không còn để ý gì đến bọn Giả Hoàn, Giả Lan nữa.
Giả Hoàn nhân lúc cha không ở nhà, dì Triệu đã chết. Vương phu nhân lại không để ý lắm, liền theo bọn Gia Tường. Chỉ có Thái Vân năng khuyên can, nhưng lại bị Giả Hoàn mắng át. Ngọc Xuyến thấy Bảo Ngọc càng điên dại quá, nên nói với mẹ, nói xin cho về. Bây giờ hai anh em Bảo Ngọc và Giả Hoàn mỗi người một tính khí riêng, làm cho ai cũng chẳng buồn nhìn đến. Chỉ có Giả Lan thì nghe lời mẹ, cố gắng đọc sách làm bài đưa đến nhà trường xin Đại Nho chấm hộ. Vì gần đây Đại Nho già yếu chỉ nằm trên giường, nên anh ta đành phải chịu khó học lấy Lý Hoàn vốn là người trầm lặng, ngoài việc đi thăm Vương phu nhân và qua lại với Bảo Thoa thì không đi đâu một bước. Chỉ trông coi cho Giả Lan đọc sách thôi. Vì vậy tuy số người trong phủ Vinh không phải ít. Nhưng người nào lo việc người ấy, không ai chịu làm chủ ai cả. Giả Hoàn và Giả Tường thì càng bừa bãi, không ra thể thống gì, thậm chí còn cầm vụng bán trộm lung tung. Giả Hoàn lại chơi gái, đánh bạc, không việc gì là hắn không làm.
Một hôm cậu cả Hình và Vương Nhân đến uống rượu ở thư phòng của phủ Giả. Trong lúc thích thú, hai người bảo mấy tên hầu rượu hát hò để mời rượu. Giả Tường liền nói :
- Các ông chơi tục quá, để tôi ra một cái lệnh.
Mọi người nói :
- Cũng được.
Giả Tường nói :
- Chúng ta hò theo lôi “nguyệt tự lưu trường”, rồi sẽ nói trước câu có chữ “nguyệt”, rồi đếm đến người nào thì người ấy uống rượu. Lại còn những câu đầu câu cuối lúc uống rượu cũng phải theo người ra lệnh. Ai không đúng sẽ phạt ba chén rượu lớn.
Mọi người đều bằng lòng. Giả Tường uống một chén rượu lệnh và đọc câu “phi vũ trường nhi túy nguyệt” (cất chén lên say với bóng trăng). Rồi theo thứ tự đếm đến Giả Hoàn.
Giả Tường nói :
- Câu đầu phải có chữ “quế”.
Gả Hoàn liền đọc :
-Lãnh lộ ô thanh thấp quế hoa” (sương lạnh không có tiếng làm ướt hoa quế) -- Nhưng còn câu cuối ?
Giả Tường nói :
- Phải đọc câu có chữ “hương”.
Giả Hoàn đọc :
- “Thiên hương vân ngoại phiêu” (hương trời bay bổng ngoài tầng mây).
Cậu cả Hình nói :
- Chán lắm ! Chán lắm ? Các anh biết được mấy chữ, lại giả làm bộ văn nhân. Cách ấy không được vui lại làm khó cho người ta . Chúng ta hò lệnh ấy đi, chỉ chơi đánh toan là bỏ. Người thua phải uống rượu, lại phải hát. Như thế gọi là “khổ trong cái khổ”. Nếu không ai biết hát thì nói câu chuyện vui cười cũng được chỉ cần cho vui thôi.
Mọi người đều nói :
- Được đấy !
Mọi người đều đưa tay ra đánh toan ầm ì. Vương Nhân bị thua, uống một chén rượu, lại hát một bài. Mọi người đều bảo “được!”. Rồi lại đánh toan nữa. Tên hầu rượu thua, hát câu, “tiểu thư, tiểu thư nhiều duyên dáng”gì ấy. Sau hết, cậu cả Hình thua, họ bắt ông ta hát một bài. Ông ta nói :
- Tôi hát không được. Để tôi nói chuyện vui cười thôi.
Giả Tường nói :
- Nếu nói chuyện mà người ta không cười được thì anh bị phạt đấy !
Cậu cả Hình liền uống một chén rượu rồi kể :
- Xin quý vị lắng nghe - trong thôn trang nọ có một tòa miếu Huyền Đế bên cạnh lại có một ngôi đền thờ thần thổ địa. Đức Huyền đế thường gọi thần thổ địa đến nói chuyện. Một hôm trong miếu Huyền đế mất tiền. Ngài liền gọi thần thổ địa đến
hỏi. Thổ địa bẩm, “Trong xứ nầy không có kẻ trộm. Chắc là vì các thần tướng không cẩn thận, để bọn thần ở ngoài đến lấy mất đồ đạc đấy thôi.” Huyền đế bảo, “Nói vậy, nhà ngươi là thân thổ địa, mất trộm không hỏi nhà ngươi thì còn hỏi ai? Nhà ngươi không đi lùng bắt kẻ trộm, lại nói thần tướng của ta không cẩn thận à ?” Thổ địa bẩm, “tuy cũng vì tôi không cẩn thận, nhưng thực ra chỉ vì địa lý trong cái miếu không được hay.” Huyền đế bảo, “nhà ngươi cũng biết xem địa lý à ?” Thổ địa bẩm, “xin để tiểu thần xem thử”. Thần thổ địa đi xem khắp nơi một lúc rồi trở vào bẩm, “sau lưng thần vị của ngài có hai cánh cửa đỏ, thế là không cẩn thận. Còn sau lưng chỗ ngồi của tiểu thần thì có tường xây, tất nhiên đồ vật không mất đi đâu được. Từ nay sau lưng thần vị của ngài cũng nên đổi lại xây tường thì được chắc chắn”. Đức Huyền đế nghe nói có lý, liền gọi thần tướng sai người đi xây tường. Các thần tướng than thở, “ hiện nay một nén hương cũng không ai thắp, còn lấy đâu ra ngói gạch và nhân công để xây tường.” Đức Huyền đế không biết làm sao, bảo các thần tướng kiếm cách, nhưng vị nào cũng chịu. Lúc đó tướng rùa ở dưới chân Đức Huyền đế đứng dậy bảo, “các chú không làm được trò trống gì ? Ta định như thế này - các chú mở hai bức cửa đỏ đem xuống, đến đêm thì lấy cái bụng của ta mà lấp vào lỗ cửa hở, không phải là thành một bứ tường à ?” Các thần tướng đều nói, “đã không tốn tiền lại vững chắc !” Thế rồi tướng rùa nhận lấy công việc ấy, trong miếu lại được yên tĩnh. Không ngờ mấy hôm sau trong miếu ấy lại mất đồ đạc. Các thần tướng liền gọi thổ địa đến hỏi, “ nhà người bảo xây được tường thì không mất đồ đạc nữa. Vì sao nay đã có tường rồi vẫn cứ bị mất?” Thổ địa nói, “cái tường ấy xây không được vững chắc!” Các thần tướng bảo, “ Nhà ngươi thử xem”. Thổ địa đến xem thì đó quả là một bức tường. Nhưng sao còn mất trộm ? Thổ địa liền giơ tay sờ một cái rồi nói : “Tôi cứ tưởng là tường thật. Biết đâu lại là tường giả ! “ ( Đây là một lối chơi chữ. Cậu cả Hình lấy chữ “tường” ra chế diễu Giá Tường.) Mọi người nghe xong, cười ồ lên. Giả Trang cũng không nhịn được cười, liền nói :
- Ông cả ngốc ơi ! Ông giỏi nhỉ? Tôi không chế diễu ông. Sao ông lại chế diễu tôi Mau đưa chén rượu đây, phạt một chén lớn.
Cậu cả Hình uống xong, đã hơi say. Mọi người uống thêm mấy chén nữa, đều say nhừ. Cậu cả Hình thì nói chuyện người chị mình không tốt. Vương Nhân thì nói cô em mình hư. Rồi đều trách móc thậm tệ. Giả Hoàn nghe vậy cũng nhân lúc hứng rượu nói Phượng Thư không ra gì, nào là cay nghiệt với chúng tôi, nào là đạp lên đầu chúng tôi. Mọi người đều nói :
- Người ta ở đời. Cần phải có lòng nhân hậu. Xem như chị Phụng của ông, nhờ thế cụ bà ghê gớm như thế. Đến nay cũng cụt đuôi rồi. Chỉ còn lại một chút con gái, e cũng là báo ứng trước mắt đấy !
Giả Vân nhớ lại việc Phượng Thư đối đãi với mình không tử tế lại nghĩ đến việc Xảo Thư hễ trông thấy mình là khóc, nên cũng luôn miệng nói hấy. Chỉ có Giả Trang nói :
- Uống rượu đi thôi ! Nói chuyện người ta làm gì ?
Hai người hầu rượu liền hỏi :
- Cô con gái ấy nay bao nhiêu tuổi ? Nhan sắc ra sao?
Giả Tường nói :
- Nhan sắc thì tuyệt đẹp. Nó cũng đã mười ba mươi bốn tuổi rồi.
Người kia nói :
- Tiếng rằng người đẹp như thế mà lại sinh vào trong phủ này. Nếu sinh một nhà thường dân, thì cha mẹ anh em đều được làm quan, mà lại phát tài nữa kia.
Mọi người lại hỏi :
- Sao thế ?
Người kia nói :
- Nay có một đức vương ở tỉnh ngoài, là người rất đa tình, muốn chọn một vị vương phi. Nếu cô nào làm ngài vừa ý thì cha mẹ anh em đều được đi theo. Thế không phải là sung sướng hay sao?
Mấy người khác không ai để ý lắm, chỉ có Vương Nhân hơi động lòng, nhưng vẫn cứ uống rượu. Bỗng thấy anh em họ Lại, họ Lâm từ ngoài đi vào nói :
- Các ông, các cậu vui quá nhỉ ?
Mọi người đứng dậy nói :
- Anh Cả, anh Ba. Sao bây giờ mới đến ? Để chúng tôi chờ mãi .
Hai người trả lời :
- Sớm hôm nay nghe tin đồn, nói trong phủ chúng ta lại xảy ra việc. Chúng tôi sốt ruột, liền đi dò la, thì ra không phải việc trong phủ ta.
Mọi người hỏi :
- Không phải việc trong phủ ta là được rồi. Vì sao lại không đến ngay ?
Hai người ấy nói :
- Tuy không phải là việc phủ ta, nhưng người ấy cũng có hơi dính dáng đến chúng ta. Các vị có biết là ai không? Chính là ông Giả Vũ Thôn đấy. Hôm nay chính tôi ra xem, thấy ông ta mang xiềng, nghe nói bị giải đến tòa tam pháp để xét tội. Chúng tôi thấy ông ấy thoáng qua lại trong phủ ta. Sợ có việc gì, nên đi theo để dò la xem sao ?
Giả Vân nói :
- Anh Cả để ý đến việc ấy là phải lắm. Anh hãy ngồi xuống uống một chén đã rồi sẽ nói chuyện.
Hai người từ chối một lúc rồi mới ngồi uống rượu và nói tiếp :
- Ông Vũ Thôn ấy vẫn là tay cừ, có tài xoay xở, chức quan cũng không phải nhỏ. Chỉ phải cái bệnh tham tiền, nên bị người ta tâu vua kể tội sách nhiễu bọn thuộc hạ. Hiện nay đức hoàng thượng rất sáng suốt và nhân từ, chỉ nghe nói đến tham, hoặc làm hại dân chúng, hoặc cậy thế lừa dối dân là người rất giận, cho nên đã hạ chỉ truyền bắt xét hỏi. Nếu xét đúng sẽ nguy, nhưng không có tang chứng, thì người ấy cũng sẽ không yên. Hiện nay là một thời buổi tốt, chỉ cần có phúc làm được quan là sướng rồi .
Mọi người nói :
- Ông anh của anh là người có phúc, hiện làm tri huyện. Còn không sướng à ?
Người họ Lại nói :
- Anh tôi tuy đã làm tri huyện, nhưng xem cách làm ăn của anh ấy sợ chưa biết rồi sẽ ra sao ?
Mọi người hỏi :
- Anh ta cũng hay vòi vĩnh à .
Người họ Lại gật đầu rồi cầm chén rượu uống. Mọi người lại nói :
- Còn nghe được chuyện gì mới lạ nữa không ?
- Không có việc gì khác, chỉ nghe nói bắt được nhiều tên kẻ cướp ở ven biển và giải đến tòa tam pháp để xét tội. Sau đó xét ra có nhiều tên ẩn nấp ở trong thành, dò la tin tức, rồi nhân lúc sơ hở vào cướp giật nhà người ta. Bây giờ nghe đâu các vị quan to trong triều đều là văn hay võ giỏi, hết sức báo đáp ơn vua. Cho nên các ngài đi đến đâu, đã trừ hết bọn cướp rồi.
Mọi người hỏi :
- Các anh nghe nói có bọn cưp ở trong thành. Không biết họ đã tra ra vụ cướp trong phủ chúng ta hay chưa ?
Hai người kia trả lời :
- Vẫn chưa thấy gì. Nhưng nghe đâu có người đồn rằng có một tên quê ở xứ nầy đã phạm tội ở trong thành, rồi bắt một người con gái chạy xuống miền bể. Người con gái ấy không chịu theo, bị tên cướp giết chết. Tên cướp ấy muốn chạy trốn ra ngoài cửa quan. Nhưng bị quan quân bắt lại và hành hình ngay tại chỗ.
Mọi người nói :
- Cái cô Diệu Ngọc nào đó tu ở trong am Lũng Thúy của phủ ta, chẳng phải đã bị người nào bắt đi đấy sao? Có phải người con gái bị bất ấy chính là cô ta không !
Giả Hoàn nói :
- Chắc là cô ta !
- Sao cậu biết được ?
- Cái con Diệu Ngọc ấy thực đáng ghét. Suốt ngày nó hay làm bộ, nhưng hễ thấy anh Bảo Ngọc là nó vui tươi hớn hở; có gặp tôi thì nó không thèm nhìn. Nếu quả thực nó bị giết thì tôi cũng thỏa lòng !
Mọi người nói :
- Người bị bắt cũng nhiều. Sao lại chắc là cô ta ?
Giả Vân nói :
- Cũng có phần đáng tin. Hôm trước có người nói một đạo bà trong am ấy nằm mộng thấy Diệu Ngọc bị người ta giết chết rồi.
Mọi người cười nói : .
- Chuyện chiêm bao ấy kể làm gì ?
Cậu cả Hình nói :
- Mặc họ mộng hay không mộng, chúng ta đi ăn cơm đi, rồi đêm nay quyết sát phạt nhau một trận.
Mọi người bằng lòng, ăn cơm xong, họ mở cuộc sát phạt nhau rất to. Đánh đến quá trống canh ba bỗng nghe phía trong kêu ồn lên :
- Cô Tư cùng mợ cả Trân cãi nhau. Cô ấy đã cắt hết mớ tóc rồi chạy đến bên Hình phu nhân và Vương phu nhân lạy xin để cho cô ấy làm sư cô. Xin ra ở một nơi khác, nếu không cho cô ấy đi tu thì cô dọa sẽ tự sát. Hai bà không biết quyết định ra sao, bảo mới cậu Tường và cậu Vân vào trong nhà.
Giả Vân nghe nói biết việc này là do ý định của cô ta khi người ta giao cho cô ta ở lại coi nhà một mình, và chắc là khuyên can không nổi, liền bàn định với Giả Tường :
- Bà lớn gọi chúng ta vào. Nhưng chúng ta không làm chủ được mà cũng chẳng chủ chiếc làm gì. Ta chỉ nên khuyên can, nếu không nghe thì để mặc họ. Chúng ta chỉ nên bàn nhau viết một bức thư gửi cho chú hai Liễn. Thế là tránh khỏi tai tiếng.
Hai anh bàn định xong rồi vào hầu hai bà, lại giả cách khuyên can một lúc. Nhưng Tích Xuân cứ một mực đòi đi tu, nếu không được đi ra khỏi nhà, cũng xin cho ở một gian nhà sạch sẽ, để tụng kinh niệm Phật.
Vưu thị thấy hai người không dám làm chủ, lại sợ Tích Xuân tự tử, nên đứng ra nói:
- Việc tội lỗi nầy tôi đành gánh hết. Người ta sẽ bảo tôi làm chị dâu không rộng lượng với cô em chồng, để cô ta phải đi tu thế là hết chuyện ? Cô ra ở ngoài thì quyết không được ; nhưng ở lại trong phủ thì được. Trước mặt hai thím đây cứ xem như là ý định của tôi vậy. Cháu Tường viết một bức thư gửi cho cậu Trân và chú Liễn là được.
Bọn Giả Tường vâng lời chưa biết hai bà có thuận hay không ?
Hồi thứ một trăm mười tám
Nhớ hiềm xưa ông cậu lừa gái nhỏ
Sợ nói nhảm, vợ hầu can chàng ngây
Hình phu nhân và Vương phu nhân nghe Vưu thị nói, biết không thể giữ Tích Xuân được. Vương phu nhân đành nói :
- Cô muốn làm việc thiện. Đó là do cái duyên nợ từ kiếp trước. Chúng tôi không thể giữ được. Chỉ có điều nhà ta thế nầy mà con gái đi tu, thì còn ra thể thống gì nữa. Nay chị dâu cô đã bằng lòng cho cô đi tu cũng là việc tốt. Nhưng ta còn muốn nói một câu. Cô không cần phải cắt tóc, đi tu chỉ cốt ở lòng, chứ có phải ở tóc đâu? Cô xem cô Diệu Ngọc cũng là người đi tu đấy ; không biết cô ta vì sao động lòng phàm tục, nên mới xảy ra nông nỗi như thế ? Nếu cô cứ một mực khăng khăng thì chúng tôi sẽ xem cái phòng tôi đây như là buồng tu của cô. Cũng phải gọi những người hầu hạ cô đến hỏi xem ai muốn theo thì không được nói đến việc lấy chồng, ai không theo thì sẽ định liệu. Tích Xuân nghe nói vậy, khóc, lạy tạ hai bà Lý Hoàn và Vưu thị.
Vương phu nhân nói xong, liền hỏi bọn Thái Bình, ai muốn theo cô đi tu. Bọn họ thưa :
- Các vị cắt ai thì người ấy đi.
Vương phu nhân biết là họ không thuận, đang muốn tìm người. Bấy giờ Tập Nhân đứng sau lưng Bảo Ngọc cầm chắc Bảo Ngọc sẽ khóc to lên, không khéo bệnh lại phát. Nào ngờ Bảo Ngọc lại nói :
- Thật là hiếm có !
Tập Nhân nghe vậy càng thêm đau xót. Bảo Thoa tuy không nói gì. Nhưng gặp việc cũng để ý thăm dò, thấy Bảo Ngọc vẫn mê không tỉnh, đành chỉ khóc thầm.
Vương phu nhân đang muốn gọi các a hoàn đến hỏi, thấy Tử Quyên đến quỳ xuống thưa :
- Vừa rồi bà lớn hỏi các chị theo hầu cô Tư, ý bà lớn định thế nào?
Vương phu nhân nói :
- Việc ấy ta bắt buộc sao được. Ai vui lòng đi cứ nói ra.
Tử Quyên thưa :
- Cô đi tu tất nhiên là do lòng thành của cô, chứ không phải là do ý muốn của các chị. Cháu có lời xin trình với bà lớn. Không phải cháu có ý chia rẽ các chị ấy đâu. Người nào có bụng của người ấy. Cháu đã hầu hạ cô Lâm mấy lâu, cô ấy đối đãi với cháu thế nào, chắc bà lớn đã biết. Thực là ơn nặng như núi, không biết lấy gì báo đáp. Cô ấy mất đi, cháu chỉ ân hận không chết theo được. Đó là vì cô ta không phải người trong nhà này, mà cháu lại chịu ơn chủ nhà nhiều quá, không thể làm thế được. Nay cô Tư đã muốn đi tu. Cháu xin hai vị cho cháu được theo hầu cô Tư suốt đời. Không biết hai vị có y cho không ? Nếu được như vậy thì thực là phúc cho cháu.
Hai bà còn chưa trả lời. Bảo Ngọc nghe vậy, sực nhớ đến Đại Ngọc, đau lòng chảy nước mắt. Mọi người còn muốn hỏi, thì anh ta đã cười ha hả chạy lại thưa :
- Đáng lý con không nên nói. Nhưng vì Tử Quyên là người trước kia nhờ mẹ sai đến hầu trong nhà con, nên con mới dám nói, xin mẹ y cho chị ấy, để cái lòng tốt của chị ấy được trọn vẹn.
Vương phu nhân nói :
- Trước kia chị em mầy đi lấy chồng, thì mầy khóc lóc dở chết dở sống. Nay thấy cháu Tư đi tu, mày không những không can, còn cho là việc tốt. Bụng dạ mầy bây giờ ra thế nào ? Thực là ta không hiểu nổi.
Bảo Ngọc thưa :
- Việc cô Tư tu hành đã được các vị y cho rồi. Ý cô ấy cũng đã nhất định. Nếu thế, thì con sẽ có lời trình với mẹ, nếu chưa nhất định thì con không dám nói.
Tích Xuân nói :
- Anh Hai nói rõ buồn cười ! Rồi không nhất định, làm sao chuyển được lòng các thím, tôi có thể nói như lời Tử Quyên. Nếu cho đi tu thì phúc cho tôi. Nếu không cho, thì tôi chỉ liều chết. Chứ đâu sợ gì. Anh Hai muốn nói gì cứ nói đi. Đây tôi cũng không phải tiết lộ điều bí mật gì đâu.
- Việc nầy cũng đã nhất định rồi. Tôi sẽ ngâm một bài thơ để các người nghe.
Mọi người nói :
- Trong lúc người ta đang buồn đứt ruột đi. Anh lại làm thơ để trêu người ta à?
- Không phải tôi làm thơ. Đây là bài thơ tôi đã xem thấy ở một chỗ nào. Hãy lắng mà nghe.
Mọi người nói :
- Được. Anh cứ đọc đi. Nhưng không được luôn miệng nói nhảm đấy.
Bảo Ngọc cũng không phân trần gì, liền đọc lên :
- Biết ai hay xuân canh chóng giờ,
Thời trang dồi lấy áo cà sa.
Thương thay con gái ni là khuê các,
Một ngọc đón anh cạnh Phật đà.( !)
Lý Hoàn và Bảo Thoa nghe xong, lấy làm lạ, nói :
- Nguy rồi ! Cậu này lại bị ma ám rồi ?
Vương phu nhân nghe nói, lắc đầu than thở, rồi hỏi :
- Bảo Ngọc. Mầy thấy bài thơ ấy ở đâu ?
Bảo Ngọc không tiện nói ra, liền thưa :
- Mẹ không cần hỏi. Con trông thấy ở một nơi nọ.
Vương phu nhân ngẫm nghĩ ý nghĩa, lại khóc oà lên và nói :
- Hôm trước mầy bảo là mầy nói chơi. Thế vì sao bỗng dưng lại có bài thơ ấy. Thôi! Tao biết rồi. Tao làm thế nào bây giờ đây ? Tao cũng hết cách rồi, đành phải để mặc cho chúng bây đi thôi. Nhưng hãy đợi tao nhắm mắt đã, rồi đứa nào cứ làm theo ý của đứa ấy !
Bảo Thoa tìm cách khuyên can Vương phu nhân. Nhưng trong bụng đau như dao cắt, cầm lòng không nổi, cũng khóc òa lên. Tập Nhân đã khóc suýt ngất đi, may có Thu Vân dìu lấy. Bảo Ngọc không khóc cũng không khuyên can, chỉ ngồi yên. Giả Lan, Giả Hoàn nghe vậy liền bỏ đi ra. Chỉ có Lý Hoàn hết sức khuyên giải :
- Cũng vì chú Bảo thấy cô Tư đi tu, chắc là đau lòng quá, không kịp suy trước nghĩ sau, mới nói ra những câu điên dại ấy. Điều đó không có gì đích xác. Còn việc Tử Quyên xin mẹ có cho hay không, để bảo chị ấy đứng dậy .
Vương phu nhân nói :
- Có gì mà cho với không ? Dù sao thì chủ ý người ta đã định, cũng không thể giữ lại được. Như thằng Bảo Ngọc nói, việc gì cũng đã có tiền định.
Tử Quyên nghe xong, gục đầu xuống lạy. Tích Xuân lạy tạ Vương phu nhân. Tử Quyên cũng lạy Bảo Ngọc và Bảo Thoa. Bảo Ngọc niệm phật và nói :
- Thật là hiếm có ! Không ngờ cô lại đi trước !
Bảo Thoa tuy cứng rắn, nhưng cũng không giữ vững được. Tập Nhân thì không ngại có Vương phu nhân đang ngồi trên, cứ nức nỡ khóc và nói :
- Tôi cũng bằng lòng theo cô Tư đi tu !
Bảo Ngọc cười :
- Chị cũng đi, có lòng tốt, nhưng chị không có cái phúc ấm đâu !
Tập Nhân khóc, nói lại :
- Thế thì tôi sẽ chết mất.
Bảo Ngọc nghe vậy, lại thấy đau lòng, nhưng không nói ra được. Bấy giờ đã đến canh năm, Bảo Ngọc mời Vương phu nhân đi nghỉ. Bọn Lý Hoàn đều ra về. Bọn Thái Bình hãy tạm theo hầu Tích Xuân. Sau đó lấy ai sẽ hay. Tử Quyên suốt đời hầu Tích Xuân không hề thay đổi.
Giả Chính rước linh cữu Giả mẫu theo đường về Nam, gặp lúc có thuyền bè của quan quân đi đánh giặc về, kéo qua miền ấy. Đường sông mắc nghẽn, thuyền không đi nhanh. Giả Chính sốt ruột. May sao nghe tin quan thống chế Trấn Hải được chỉ triệu vào kinh. Giả Chính chắc Thám Xuân cũng theo về thăm nhà, nên trong lòng đỡ bực bội. Chỉ có một điều là chưa biết rõ ngày lên đường, nên cũng sốt ruột. Ông ta thấy số tiền đi đường không đủ, bất đắc dĩ viết thư sai người cầm đến chỗ Lại Thượng Vinh, mượn năm trăm lạng bạc, dặn phải cho người đón đường đưa bạc đến, để kịp tiêu dùng. Cách vài hôm sau, thuyền Giả Chính vừa đi được hơn mười dặm, thì người nhà trở về, đưa bức thư của Lại Thượng Vinh, trong thư kể tình cảnh túng thiếu và đưa đến năm mươi lạng bạc.
Giả Chính xem xong giận lắm, liền sai người nhà đem bạc và thư trả lại cho Lại Thượng Vinh. Bảo anh ta không cần phải phiền lòng. Người kia đành phải trở lại chỗ lại Thượng Vinh. Lại Thượng Vinh nhận được thư và số bạc, trong bụng buồn bực, biết mình làm việc không chu đáo, liền thêm một trăm lạng nữa, van nài anh kia mang về, và nhờ nói hộ ít lời. Không ngờ anh kia không chịu mang đi, ném bạc lại dưới đất rồi ra về. Lại Thượng Vinh trong bụng băn khoăn, liền viết thư về nhà bày tỏ với cha là Lại Đại, bảo ông ta tìm cách xin nghỉ, rồi xin chuộc thân ra khỏi nhà chủ. Lại Đại nhờ bọn Giả Tường, Giả Vân trình với Vương phu nhân xin cho ra. Giả Tường biết chắc không được. Hôm sau, hắn bịa ra nói Vương phu nhân không cho. Lại Đại một mặt xin phép nghỉ việc, một mặt sai người đến chỗ Lại Thượng Vinh, bảo anh ta cáo bệnh từ quan mà về. Việc nầy Vương phu nhân không biết gì cả. Giả Vân nghe lời nói dối của Giả Tường, trong lòng không còn mong gì nữa. Vả lại mấy hôm nay hắn đánh bạc lại thua mất khá nhiều, không có gì mà trả, liền đến bàn với Giả Hoàn.
Giả Hoàn không có đồng tiền nào. Tuy trước kia dì Triệu có dành dụm được ít nhiều, nhưng hắn đã tiêu xài hết sạch, thì còn giúp ai được. Hắn nhớ đến việc Thượng Thư lúc trước đối đãi với mình khắc bạc. Nhân lúc Giả Liễn đi vắng, hắn định làm hại Xảo Thư để cho hả giận. Hắn gọi Giả Vân đến, cố trách móc :
- Anh là hạng người nhiều tuổi, có việc kiếm được tiền thì bỏ không dám làm. Lại di hại đến tôi là một thằng kiết .
- Chú Ba nói rõ buồn cười ? Chúng ta chơi đùa một chỗ với nhau. Có cách gì kiếm được tiền đâu ?
- Không phải hôm trước có người nói đức vương ở tỉnh, ngài muốn mua một nàng hầu à ? Sao các anh không bàn với cậu Vương đem dâng Xảo Thư cho ngài .
- Chú tôi nghe câu này sợ chú giận, đức vương bỏ tiền ra mua người, đời nào nghĩ đến việc đi lại với bọn chúng ta. Giả Hoàn ghé vào tai Giả Vân nói nhỏ mấy câu. Giả Vân gật đầu, nhưng cũng cho lời Giả Hoàn là chuyện trẻ con không đáng kể.
Khi ấy vừa lúc Vương Nhân đến hỏi :
- Các anh bàn bạc chuyện gì đấy ? Định giấu tôi à ?
Giả Vân liền nói thầm về những chuyện Giả Hoàn vừa nói.
Vương Nhân vỗ tay bảo :
- Việc này quả là một việc tốt, lại có bạc đấy. Chỉ sợ các anh không làm được thôi, nếu các anh dám làm, thì tôi đây là cậu ruột nó, cũng làm chủ được. Cần nhất là cậu Hoàn phải nói với bà Cả, còn tôi cũng sẽ nói với cậu Cả Hình. Khi các bà hỏi đến, các anh cứ kéo hùa nhau tán vào là xong.
Bọn Giả Hoàn định đâu vào đấy rồi, Vương Nhân liền đi kiếm cậu cả Hình, còn Giả Vân đi trình với Hình phu nhân và Vương phu nhân, nói toàn những chuyện tốt đẹp như hoa như gấm. Vương phu nhân nghe cũng xuôi tai, nhưng vẫn không tin. Còn Hình phu nhân nghe nói cậu cả Hình đã biết rõ, trong bụng thích lắm, liền cho người đi tìm ông ta đến hỏi. Ông nầy đã nghe lời Vương Nhân, và cũng mong được chia số bạc, liền nói với Hình phu nhân :
- Đức Vương ấy quả là một người rất sang trọng. Nếu nhận lời gả nơi ấy, tuy không phải là làm vợ chính, nhưng chắc sau khi cháu về nhà người ta, thì anh nhà đây sẽ được phục chức, và thanh thế phủ ta sẽ lại rầm rộ.
Hình phu nhân vốn là người không biết suy trước nghĩ sau, mới nghe ông cậu ngốc ấy nói lừa đã động lòng ngay, liền cho người đi mời Vương Nhân đến hỏi. Hắn ta lại tán tỉnh thêm. Thế là Hình phu nhân sai người ra thúc giục Giả Vân đi nói việc
ấy. Vương Nhân lập tức bảo người đến chỗ công quán đức vương để nói chuyện. Đức vương ấy không rõ đầu đuôi, liền sai người đi xem mặt. Giả Vân lại luồn lọt nói riêng với người xem mặt :
- Việc này nguyên là giấu hết mọi người trong phủ, chỉ nói người vương phủ đến xem mặt thôi. Chờ khi xong rồi, bà nội cô ta sẽ đứng làm chủ ; ông cậu ruột sẽ đứng làm mối, thì còn sợ gì.
Người xem mặt nhận lời. Giả Vân liền đưa tin cho Hình phu nhân và trình với Vương phu nhân . Bọn Lý Hoàn và Bảo Thoa không rõ duyên cớ, chỉ cho là việc tốt lành, nên đều mừng rỡ.
Một hôm quả có mấy người đàn bà đến. Họ đều ăn mặc lộng lẫy. Hình phu nhân mời vào nói qua mấy câu chuyện suông. Họ biết Hình phu nhân là một bà mệnh phụ, nên không dám khinh nhờn. Hình phu nhân vì là việc chưa chắc chắn, nên
không nói cho Xảo Thư biết, chỉ bảo có bà con đến thăm, và gọi Xảo Thư ra chào.
Xảo Thư vẫn còn trẻ con, nên không để ý, liền theo bà vú đi ra. Bình Nhi không đành lòng, cũng đi theo. Hai người ăn mặc theo lối trong cung. Thấy Xảo Thư, họ liền nhìn khắp người, từ trên xuống dưới, rồi đứng dậy cầm tay Xảo Thư nhìn lại một lượt. Họ ngồi một lúc rồi về. Xảo Thư thấy vậy, xấu hổ trở về phòng buồn bực. Cô ta nhớ lại mình không có bà con nào như thế, liền hỏi Bình nhi.
Bình Nhi thấy quang cảnh này đã đoán được tám, chín phần, chắc là người đến xem mặt. Nhưng cậu Hai không ở nhà, bà Cả lại đứng làm chủ, vẫn chưa rõ là người ở phủ nào. Nếu là nhà thông gia ngang hàng thì không thể có cái lối xem mặt như thế. Nhìn qua bộ dạng mấy người ấy, không giống chính dòng vương phủ ở đây, mà hình như hạng người ở ngoài. Bấy giờ chưa vội nói với cô ta biết. Hãy dò la cho rõ ràng hãy hay.
Bình Nhi trong bụng để ý nghe ngóng. Các a hoàn và bà già lâu nay ở dưới quyền Bình Nhi sai bảo, nên khi Bình Nhi hỏi đến, thì họ kể rõ hết cả bao nhiêu tin đồn nghe được ở ngoài. Bình Nhi hoảng sợ, chưa biết định liệu ra sao. Chị ta không cho Xảo Thư biết vội, rồi đến nói với Lý Hoàn và Bảo Thoa, nhờ hai người trình với Vương phu nhân.
Vương phu nhân biết việc này không hay, liền nói rõ với Hình phu nhân. Khốn nỗi H nh phu nhân cứ tin lời em và Vương Nhân, lại ngờ cho Vương phu nhân không có lòng tốt, liền nói :
- Cháu nó đã lớn rồi. Hiện nay thằng Liễn không ở nhà, việc ấy tôi vẫn làm chủ được. Vả lại ông cậu nó và cậu ruột nó đều đã nghe ngóng kỹ càng chẳng lẽ lại không đích xác hơn người ngoài hay sao . Việc này dù sao tôi cũng đã bằng lòng. Nếu có điều gì không hay, thì tôi và cháu Liễn cũng không dám trách đến người khác.
Vương phu nhân nghe vậy, trong bụng giận thầm, miễn cưỡng chuyện trò vài câu rồi ra về, nói lại với Bảo Thoa và rơi nước mắt. Bảo Ngọc khuyên giải :
- Mẹ không nên lo phiền làm gì. Con xem việc ấy cũng không xong đâu. Đó chẳng qua là do số phận của cháu Xảo Thư, xin mẹ đừng nghĩ đến là xong.
Vương phu nhân nói :
- Hễ mày mở miệng ra là nói nhảm ? Người ta nói xong là họ sẽ đón dâu về nhà ngay. Nếu sự việc đúng như lời Bình Nhi, thì anh hai Liễn mầy sau nầy không trách ta hay sao ? Dù nó không phải cháu gái nhà mình, chỉ là con của nhà thân thích đi nữa, cũng nên gả cho xứng đáng mới phải. Cô Hình Tụ Yên là do chúng ta làm mối, gả cho cậu hai Tiết đấy. Họ ăn ở với nhau rất là hòa thuận, như thế không tốt sao. Cô Bảo Cầm thì nhà họ Mai cưới về rồi, nghe nói trong nhà ăn mặc đầy đủ, cũng rất tốt. Còn cô Sứ Tương Vân là do ông chú cô ta đứng gả, lúc đầu cũng khá, nay chồng bị bệnh lao mà chết, cô ấy quyết chí ớ góa, kể ra cũng khổ. Bấy giờ nếu đem cháu Xảo Thư gả nhầm cho người ta, thì thật là ta đã xấu bụng với nó.
Đang nói chuyện thì Bình Nhi đến thăm Bảo Thoa và cũng để dò la ý kiến của Hình phu nhân. Vương phu nhân thuật lại những lời của Hình phu nhân. Bình Nhi đứng ngây người một lúc rồi quỳ xuống kêu van :
- Việc trăm năm của cô Xảo đều trông nhờ ở bà lớn cả ? Nếu tin theo lời người ta thì không những suốt đời cô ấy chịu khổ mà đến khi cậu Hai về đây cũng không biết ăn nói ra sao ?
Vương phu nhân nói :
- Cháu là người thông hiểu, đứng dậy ta nói cho mà nghe. Xảo Thư vốn là cháu gái của bà Cả. Bà ấy đứng ra làm chủ. Ta ngăn cản sao được ?
Bảo Ngọc khuyên :
- Không ngại gì, chỉ cốt việc cho rõ ràng là được.
Bình Nhi sợ Bảo Ngọc điên dại, lại làm ồn lên, nên không nói gì, chỉ trình với Vương phu nhân rồi ra về.
Vương phu nhân nghĩ lại buồn bực, cảm thấy đau lòng gọi a hoàn đến đỡ, gắng gượng về nằm trong buồng, không gọi Bảo Ngọc và Bảo Thoa đến, và nói :
- Ngủ một chốc là đỡ thôi.
Nhưng trong người lại cứ buồn bực. Nghe nói thím Lý đến chơi, cũng không kịp tiếp. Giả Lan đến hỏi thăm và trình :
- Sớm hôm nay ông nội có sai người mang một bức thư về do bọn hầu nhỏ ở ngoài đưa vào. Mẹ cháu nhận được, định sang hầu, nhân có bà thì cháu đến chơi nên bảo cháu đem thư trình bà trước, lát nữa mẹ cháu xin sang hầu bà. Mẹ cháu còn bảo bà thím cháu cũng định sang thăm. Nói xong, hắn đưa bức thư lên.
Vương phu nhân vừa cầm thư vừa hỏi :
- Bà thím của cháu đến có việc gì ?
- Cháu cũng không biết rõ. Chỉ nghe bà thím cháu nói, bên nhà mẹ chồng dì Ba cháu có đưa tin gì đến.
Vương phu nhân nghe xong, nhớ lại lần trước mình nói dùm để dạm Lý Ỷ cho Chân Bảo Ngọc. Sau đó đã đưa đi lễ hỏi. Chắc là bây giờ bên nhà họ Chân muốn đón dâu về, cho nên thím Lý đến đây bàn. Bà ta gật đầu, và bóc thư ra, thấy trong thư viết : “Gần đây trên các đường sông đều đầy cả thuyền của quan quân len bể đi đánh giặc về nên không thể vượt lên đi nhanh được. Nghe con Thám Xuân sẽ theo cha chồng và chồng về kinh, không biết đã có tin chưa ? Trước đây tiếp được giấy trình của cháu Liễn, biết rằng ông Cả không được khỏe mạnh, nhưng cũng không biết đã có tin gì đích xác chưa ? Bảo Ngọc và cháu đã gần đến kỳ thi, cần phải chăm chỉ học, chớ có lười biếng. Sau khi rước linh cữu của mẹ về nhà rồi tôi còn phải ở lại ít ngày. Tôi vẫn mạnh khỏe, không cần phải để ý lo nghĩ. Thư nay truyền cho bọn Bảo Ngọc biết. Sau đó là ngày tháng và chữ ký, và viết thêm: “ Giả Dung sẽ có thư riêng “.
Vương phu nhân xem xong, đưa lại cho Giả Lan và đặn :
- Cháu cầm đến đưa cho chú Hai xem, rồi giao lại cho mẹ cháu.
Đang nói thì Lý Hoàn cùng thím Lý đến hỏi thăm. Vương phu nhân mời ngồi. Thím Lý kể lại việc nhà họ Chân muốn cưới Lý Ỷ. Mấy người cùng nhau bàn định một lúc. Lý Hoàn hỏi :
- Mẹ đã xem thư của cha gửi về chưa !
Vương phu nhân nói :
- Đã xem rồi.
Giả Lan cầm thư đưa cho mẹ. Lý Hoàn xem thư rồi nói :
- Cô Ba về nhà chồng đã mấy năm rồi, vẫn chưa về thăm nhà; nay sắp sửa vào kinh, chắc mẹ cũng được yên lòng.
Vương phu nhân nói :
- Ta đau lòng, nay con Thám Xuân sắp trở về. Trong bụng cũng đỡ nhớ, nhưng không biết bao giờ nó mới tới.
Thím Lý hỏi thăm sức khỏe của Giả Chính trong lúc đi đường. Lý Hoàn ngoảnh lại bảo Giả Lan :
- Con đã thấy chưa ? Kỳ thi gần đến nơi. Ông con lo nghĩ như thế đấy. Con cầm ngay bức thư đưa cho chú Hai xem.
Thím Lý nói :
- Hai chú cháu nó chưa vào trường giám, làm sao đi thi được ?
Vương phu nhân nói :
- Ông nó khi sắp đi nhận chức quan lương đạo, đã nộp tiền giám sinh (1) cho cả hai chú cháu nó rồi.
Thím Lý gật đầu. Giả Lan liền cầm bức thư đi tìm Bảo Ngọc.
Bảo Ngọc đưa Vương phu nhân về, đang ngồi nghiền ngẫm “thiên thu thủy”(2). Bảo Thoa ở trong đi ra, thấy anh ta xem sách có vẻ say mê. Đến nhìn mới biết quyển sách này, trong bụng rất là buồn bực. Nàng nghĩ thầm : “Cậu ta cứ cho những chuyện lánh đời né tục là việc quan trọng. Cứ cái tình hình này thì thật không ổn !” Nhìn thấy thế, Bảo Thoa biết là không khuyên nổi, liền ngồi lại bên người Bảo Ngọc, cứ nhìn sửng sốt, Bảo Ngọc thấy thế, liền hỏi :
- Mợ sao thế ?
- Tôi nghĩ cậu cùng tôi đã kết nghĩa vợ chồng, thì cậu là người tôi nương tựa suốt đời, vốn không phải chỉ vì lòng tình dục. Chuyện vinh hoa phú quý, chẳng qua cũng thoáng qua như mây khói mà thôi. Nhưng các bậc thánh hiền đời xưa, vẫn xem phẩm cách con người là chính.
Bảo Ngọc chưa nghe hết, đã đặt quyển sách xuống mỉm cười :
- Nghe mợ nói về phẩm cách con người, lại nhắc đến thánh hiền đời xưa gì đó. Mợ biết thánh hiền đời xưa có nói câu “chớ làm sai tấm lòng đứa trẻ mới sinh” hay không ? Đứa trẻ mới sinh có gì đáng quý ? Chẳng qua chỉ vì nó không hiểu, không
biết, không tham, không ghét mà thôi. Chúng ta sinh ra đã đắm đuối trong vòng tham, giận, ngây, yêu. Chẳng khác gì bùn lầy. Làm thế nào thoát khỏi cái lưới ấy của cõi trần. Cho hay người xưa tuy đã nói qua bốn chữ “tụ tán phù sinh” (3). Nhưng chưa làm cho một ai tỉnh ngộ cả. Đã muốn nói về nhân phẩm thì thử hỏi ai là kẻ đạt được cái trình độ sơ sinh ?
- Cậu đã nói đến “tấm lòng đứa trẻ”, thì nên biết thánh hiền đời xưa cho rằng trung hiếu chính là tấm lòng đứa trẻ, chứ không phải tránh đời xa người, không chỉ vương vấn vào cái gì mới là tấm lòng đứa trẻ. Các bậc thánh hiền như Nghiêu, Thuấn, vua Thang, Chu Công, Khổng Tử, lúc nào cũng nghĩ đến cứu dân giúp đời. Gọi là tấm lòng đứa trẻ. Không qua tóm tắt trong hai chữ “bất nhẫn” mà thôi. Còn theo lời cậu vừa nói, thì là nỡ lòng bỏ cả thiên luân, còn ra đạo lý gì ?
Bảo Ngọc gật đầu cười :
- Nghiêu, Thuấn cũng không ép được Sào Phủ, Hứa Do. Võ Vương, Chu Công cũng không ép được Bá Di Thúc Tề (4)
Bảo Thoa không đợi nghe hết câu, liền nói :
- Những câu nói ấy của cậu lại càng không đúng. Ai cũng là Sào, Hứa, Di, Tề cả, thì sao đến nay người ta lại khen Nghiêu, Thuấn, Chu, Khổng là bậc thánh biền ? Vả lại cậu ví mình như Di, Tề thì thật không đúng. Di, Tề vì sinh vào cuối đời nhà
Thương, gặp phải nhiều việc khó xử, nên mới có cớ để trốn tránh. Chứ bây giờ gặp đời vua thánh, nhà ta mấy đời đội ơn triều đình, cha ông được hưởng biết bao điều sung sướng... Vả lại, cậu từ khi lọt lòng đến giờ, bà trước kia và cha mẹ đều xem như một hòn ngọc quý. Cậu vừa nói những câu ấy, thử nghĩ lại xem có đúng hay không .
Bảo Ngọc nghe xong, không trả lời, cứ ngẩng đầu lên mỉm cười. Bảo Thoa lại khuyên :
- Cậu đã đuối lý thì tôi khuyên cậu từ sau nên hồi tâm lại. Cố sức học hành, nếu mà thi đậu, sau đó mà thôi, cũng không đến nổi uổng phí ơn trời đức tổ ?
Bảo Ngọc gật đầu, than thở rồi nói :
- Thi đậu à, kể ra thì cũng không phải là việc gì khó đâu. Nhưng những câu mợ nói “sau đó mà thôi” và “không uổng ơn trời đức tổ”, thì xem ra cũng đúng đấy.
Bảo Thoa chưa kịp trả lời, thấy Tập Nhân đến nói :
- Vừa rồi mợ Hai nói đến các bậc thánh hiền đời xưa, tôi cũng chẳng hiểu gì. Tôi chỉ nghĩ bọn chúng tôi khó nhọc vất vả theo hầu cậu Hai từ thuở bé, hết sức lo lắng săn sóc. Nói đúng ra, đó vẫn là bổn phận phải làm, nhưng cậu cũng nên xét lại một chút. Vả lại mợ Hai đã thay cậu giữ trọn đạo hiếu đối với ông lớn và bà lớn. Dù cậu không để ý đến tình vợ chồng đi nữa, thì cũng không nên phụ tấm lòng tốt của người ta. Còn chuyện thần tiên là câu chuyện hoang đường, có ai mắt thấy vị thần tiên nào đi xuống cõi trần đâu ? Không biết cái ông sư ấy ở đâu đến, nói nhảm mấy câu, mà cậu cho là thực. Cậu là người có học, không lẽ coi lời nói của ông sư trọng hơn lời dạy của cha mẹ hay sao ?
Bảo Ngọc nghe xong, cúi đầu không đáp. Tập Nhân đang muốn nói nữa, bỗng nghe phía ngoài có tiếng bước chân, rồi từ cửa sổ có tiếng hỏi vào : “ Chú Hai có ở nhà không?”
Bảo Ngọc nghe rõ liếng Giả Lan, liền đứng dậy cười nói :
- Cháu cứ vào.
Bảo Thoa cũng đứng dậy. Giả lan đi vào, đến chào Bảo Ngọc và Bảo Thoa, có vẻ vui mừng lắm, lại chào cả Tập Nhân. Tập Nhân cũng chào lại. Giả Lan đưa bức thư cho Bảo Ngọc xem. Bảo Ngọc cầm thư đọc rồi nói :
- Cô Ba cháu về thăm à ?
- Ông đã viết trong thư như thế, chắc là sẽ về.
Bảo Ngọc gật đầu không đáp, lặng lẽ dường như đang nghĩ ngợi gì. Giả Lan hỏi :
- Chú đã xem rồi chứ. Đoạn cuối bức thư, ông dặn cậu cháu ta lo học hành đấy. Cháu sợ lâu nay chú không làm bài vở gì thì phải ?
Bảo Ngọc cười :
- Ta cũng muốn tập làm mấy bài cho thành thạo, để đi kịp đời kiếm chút công danh.
- Chú đã định như thế, thì nên nghĩ sẵn mấy đầu bài. Cháu sẽ cùng chú tập làm, để vào trường thi quấy quá cho xong, nếu phải nộp quyển trắng thì không những người ta chê cười cháu, mà chê cười cả chú nữa đấy.
- Cháu không đến nổi thế đâu.
Giả Lan nói xong, Bảo Thoa mời ngồi. Bảo Ngọc vẫn ngồi ở chỗ cũ. Giả lan ngồi ghé một bên. Hai chú cháu bàn chuyện văn bài một lúc, mặt mày vui vẻ. Bảo Thoa thấy hai chú cháu đang chuyện trò thích thú như vậy, bèn đi vào trong nhà, nghĩ bụng : “xem bộ dạng cậu Bảo bây giờ, có lẽ đã tỉnh ngộ rồi. Nhưng theo lời cậu ta vừa nói, thì cậu ta chỉ đồng ý mấy tiếng “sau đó mà thôi”. Không rõ là có ý tứ gì.”
Trong lúc Bảo Thoa đang còn phân vân, Tập Nhân thấy Bảo Ngọc thích bàn văn chương, và nhắc đến việc đi thi, thì lại mừng rỡ nghĩ bụng “A di đà phật ? Mợ ấy giảng như giảng sách tứ thư, cậu ta mới vỡ lẽ ra được.”
Bảo Ngọc và Giả Lan còn đang nói chuyện văn bài, thì Oanh Nhi pha trà đưa đến. Giả Lan đứng dậy cầm lấy chén trà, lại nói một hồi về những phép tắc vào trường thi và việc mời Chân Bảo Ngọc cùng đến họp bạn. Bảo Ngọc hình như rất thích.
Một lát sau, Giả Lan ra về, để lại bức thư cho Bảo Ngọc. Bảo Ngọc cầm bức thư cười tủm tỉm, đưa cho Xạ Nguyệt cất đi, rồi ra cất bộ sách Trang Tử, lại soạn những bộ sách trước đây thích đọc nhất như Tham đồng khế (5) , Nguyên mệnh bao (6), Ngũ đăng hội nguyên (7)...gọi bọn Xạ Nguyệt. Thu Văn, và Oanh Nhi xếp vào một chỗ.
Bảo Thoa thấy hành động lần này của Bảo Ngọc, rất lấy làm lạ, muốn dò thử xem, liền cười hỏi :
- Không xem những sách ấy là đúng rồi. Nhưng cần gì cậu lại phải chuyển đi nơi khác ?
Bảo Ngọc nói :
- Bây giờ tôi mới hiểu rõ, những thứ sách ấy đều chằng ra gì, tôi phải đốt hết đi cho rảnh.
Bảo Thoa nghe vậy vui sướng vô cùng. Bỗng nghe Bảo Ngọc đọc khe khẽ :
- Trong nội điển tuyệt không tính Phật,
Ngoài kim đan lại có thuốc tiên.
Bảo Thoa cũng không nghe rõ lắm, chỉ lõm bõm mấy chữ “không tính phật” và “có thuốc tiên.” Trong bụng lại đâm ra ngờ vực hãy chờ xem bộ dạng cậu ta như thế nào. Bảo Ngọc sai bọn Xạ Nguyệt, Thu Vân thu xếp một gian nhà yên tĩnh, rồi chọn những sách hay về loại ngữ lục và các thể thơ theo lối thi cử đem để trong gian nhà ấy. Anh ta lại tỏ ra vẻ thực sự yên tĩnh đọc sách. Bấy giờ Bảo Thoa mới yên tâm. Tập Nhân chưa hề nghe thấy việc ấy bao giờ, nên cười nói với Bảo Thoa :
- Tóm lại nhờ lời lẽ của mợ thông suốt, nên chỉ bàn luận một hồi, đã khuyên giải được cậu Hai. Đáng tiếc hơi chậm một chút, ngày vào trường thi đã gần đến rồi.
Bảo Thoa gật đầu mỉm cười :
- Chỉ mong từ sau cậu ấy một lòng đi con đường chính, không dính dáng đến những thứ tà ma như trước, thế là tốt rồi !
Chị ta nói đến đó, thấy trong buồng không có ai, lại gọi nhỏ :
- Lần này cậu ấy tỉnh ngộ là rất hay. Nhưng còn có một chuyện, sợ lại mắc bệnh cũ, ham chơi bời với chị em bạn gái, thì lại không tốt.
- Mợ nói cũng đúng, cậu Hai từ khi nghe theo vị hòa thượng mới tỏ ra lạnh nhạt với đám chị em. Nếu cậu ấy không tin ông ta nữa, sợ lại mắc phải bệnh cũ đấy. Theo ý tôi thì cậu Hai không để ý đến mợ và tôi lắm đâu. Nhà này trừ Tử Quyên đi rồi, chỉ còn bốn chị em chúng nó. Trong đó có con Năm hơi ranh mãnh, nghe nói mẹ nó đã thưa với mợ Cả, nói với mợ, xin nó về để gả chồng, nhưng vài hôm nay nó vẫn còn ở đây. Xạ Nguyệt và Thu Vân tuy không có điều gì, nhưng mấy năm lại đây cậu Hai cũng hay đùa bỡn với chúng. Bây giờ nhìn lại, chỉ có Oanh Nhi là cậu Hai không hề để ý lắm. Vả lại Oanh Nhi tính cũng đứng đắn. Tôi nghĩ những việc pha trà múc nước, chỉ cần bảo Oanh Nhi cùng bọn a hoàn nhỏ hầu là đủ, không biết ý mợ nghĩ sao ?
- Tôi cũng lo về việc ấy. Cô nói thế cũng được đấy.
Từ đó, Oanh Nhi cùng các a hoàn nhỏ được cắt vào hầu hạ Bảo Ngọc. Bảo Ngọc vẫn không ra khỏi cửa phòng, ngày nào cũng chỉ sai người đến hỏi thăm Vương phu nhân. Vương phu nhân thấy anh ta như thế, vui sướng vô cùng.
Đến ngày mồng ba tháng tám, đúng ngày “lễ minh thọ” (8) của Giả mẫu. Bảo Ngọc sang cúng rồi về ngay, lại vào ngồi trong gian nhà kín. Cơm xong, Bảo Thoa, Tập Nhân, cùng bọn chị em đều theo Hình phu nhân và Vương phu nhân ngồi nói chuyện. iphiếm ở nhà trước. Bảo Ngọc một mình ngồi yên lặng trong gian nhà kín. Bỗng thấy Oanh Nhi bưng đến một mâm các thứ dưa quả thưa :
- Đây là lễ vật cúng bà. Bà lớn bảo người đưa sang để cậu xơi.
Bảo Ngọc đứng dậy nhận, rồi lại ngồi xuống nói :
- Để lại đó.
Oanh Nhi vừa đặt dưa xuống, vừa khẽ nói với Bảo Ngọc :
- Bà lớn đang khen cậu Hai ở bên ấy đấy.
Bảo Ngọc mỉm cười.
Oanh Nhi lại nói :
- Bà lớn bảo lần này cậu Hai cố hết sức học hành, nay mai vào trường thi đậu rồi, sang năm lại thi đậu tiến sĩ, rồi ra làm quan, thì thực không uổng công ông lớn và bà lớn trông mong cậu.
Bảo Ngọc chỉ gật đầu cười mỉm.
Oanh Nhi bỗng nhớ lại câu nói của Bảo Ngọc hồi năm nọ, khi mình đến bện dây giúp, liền nói :
- Nếu quả cậu Hai thi đậu, thì thật là cô tôi tốt phúc ! Cậu còn nhớ năm nọ ở trong vườn, khi cậu bảo tôi đến bện cái dây kiểu hoa mai, cậu có nói : sau này không biết cô tôi cùng với tôi đến nhà một người nào tốt phúc.(9) Thế thì bây giờ cậu là người tốt phúc đấy nhỉ ?
Bảo Ngọc nghe đến đó, lại cảm thấy động lòng trần tục, liền định thần nín thở, mỉm cười nói :
- Theo như cô, thì tôi và cô của cô đều là người có phúc, còn cô thì sao ?
Oanh Nhi đỏ mặt, gượng cười thưa :
- Chúng tôi chẳng qua chỉ làm a hoàn suốt đời, còn có phúc phận gì ?
- Nếu quả suốt đời được làm a hoàn, thì phúc ấy còn to hơn phúc của chúng tôi nữa đấy !
Oanh Nhi nghe câu ấy, giống lời nói điên, sợ mình lại gây ra bệnh của Bảo Ngọc, định bỏ đi. Bỗng thấy Bảo Ngọc cười rồi nói :
- Cô bé ngây ngô ơi, để ta nói cho mà nghe !
Chưa biết Bảo Ngọc sẽ nói ra những chuyện gì.
Chú Thích :
1. Theo chế độ khoa cử đời Thanh, những người học thi Quốc tử giám gọi là
giám sinh. Có tư cách giám sinh mới được đi thi cử nhân. Nhưng hầu hết chỉ cần quyên nạp một số liền là được.
2. Một thiên trong “Nam hoa kinh “ của Trang Tử.
Đoạn này bảo là muôn dặm giáo lời như Phật nói chuyện Bảo Tháp.
3. Gặp nhau chỉ để chia ly. Cuộc đời chớp nhoáng.
4. Sào Phủ và Hứa Do là những người cao sĩ đời nhà Đường. Ở ẩn trong núi,
vua Nghiêu nhường thiên hạ cho Sào Phủ. Sào Phủ không nhận, nhượng lại
cho Hứa Do. Hứa Do cũng không chịu, rồi bỏ trốn đi cày. Bá Di và Thúc Tề là con vua Cô Trúc đời nhà Thương. Anh em nhưng ngôi Vua cho không nhận rồi đều bỏ trốn. Khi Chu Võ Vương đánh Trụ, Bá Di, Thúc Tề can không được, liền bỏ vào trong núi Thú Dường ăn rau mà chết đói. . . .
5. Sách này có hai loại, một loại nói về phép luyện đan của Đạo học.
một loại bàn về đạo lý nhà Phật
6. Một thứ sách chuyên nói về những điềm lạ lùng, những ước đoán trước.
7. Sách chép về hệ thông tông phái của Phật giáo- Công danh có số, thi đậu hay hỏng, cũng không phải do học, sớm hay muộn.
8. Lễ kỷ niệm ngày chết rồi. (Ngày giỗ)
9. Xem lại hồi thứ 35.
Hồi thứ một trăm mười chín
Dỗ hương khôi, Bảo Ngọc rũ sạch duyên trần
Đội ơn vua, họ Giả dồi dào hưởng phúc
Oanh Nhi nghe những câu của Bảo Ngọc, không hiểu ra sao, định bỏ đi, bỗng Bảo Ngọc gọi lại bảo :
- Cô bé ngây ngô ơi, để ta nói cho mà nghe ? Cô của cô đã có phúc phận, thì cô đi theo cô ta tức là cũng có phúc phận rồi, không nhờ cậy chị Tập Nhân được đâu. Vậy từ nay về sau cô hãy hết lòng hầu hạ cô ta nhé. Ngày sau mà có điều gì hay, thì cũng không uổng công cô đã chịu khó theo hầu cô ta mấy lâu.
Oanh Nhi nghe câu nói, đoạn đầu thì có vẻ có nghĩa, đoạn sau hình như vô nghĩa, liền nói :
- Tôi hiểu rồi, cô tôi đang chờ tôi đấy. Khi nào cậu muốn ăn quả, thì sai a hoàn nhỏ đến gọi tôi.
Bảo Ngọc gật đầu. Oanh Nhi đi ra Bảo Thoa và Tập Nhân đều về phòng nghỉ.
Mấy hôm sau đến ngày vào trường thi. Mọi người chỉ trông mong hai chú cháu Bảo Ngọc làm văn bài cho hay, để được đậu cao ; còn Bảo Thoa thì nhận thấy Bảo Ngọc tuy học tập chăm chỉ, nhưng những lúc vô tình hoặc hữu ý, lại tỏ ra lạnh nhạt. Chị ta để ý đến Bảo Ngọc sắp vào trường thi, việc thứ nhất là hai chú cháu đều đi thi lần đầu, ra chỗ đông người chen chúc, sợ bị thất lạc; vì hai là Bảo Ngọc sau khi ông sư đi rồi, vẫn không ra khỏi cửa, học hành lại vui vẻ. Thấy sự thay đổi quá nhanh chóng và quá tốt đẹp như thế, chị ta cũng có phần ngờ vực, sợ lại có biến cố gì chăng. Vì vậy trước khi vào trường thi một hôm, chị ta một mặt sai Tập Nhân dẫn các a hoàn nhỏ cùng bọn Tố Vân sắp đặt đồ đạc chu đáo cho hai chú cháu. Chị ta nhìn qua một lượt, bảo cắt đặt cẩn thận đâu vào đấy. Một mặt lại đi sang Lý Hoàn, cùng Lý Hoàn đến trình Vương phu nhân, chọn mấy người lão thành biết việc trong nhà theo hầu, cứ nói là sợ người ngựa chen chúc dẫm phải.
Hôm sau Bảo Ngọc và Giả Lan mặc quần áo không cũ, không mới, vui vẻ đến chào Vương phu nhân.Vương phu nhân dặn :
- Hai chú cháu mầy vừa mới đi thi lần đầu. Nhưng chúng mầy đã lớn đến chừng ấy, vẫn chưa bao giờ rời ta. Dù có những lúc không ớ với ta, cũng có bọn a hoàn, người hầu quây quần chung quanh, chứ có đêm nào nằm ngủ riêng một mình đâu ?
Ngày nay chú cháu ra đi, cô quạnh lủi thủi, xung quanh không có bà con, cần phải giữ gìn cẩn thận đấy. Gắng làm văn bài xong cho mau mà ra trường, rồi tìm người nhà về cho sơm sớm, để mẹ và vợ các con được yên lòng.
Vương phu nhân nói xong, không khỏi thương xót. Giả Lan nghe đến đâu vâng dạ đến đấy; còn Bảo Ngọc không hề hé môi, đợi Vương phu nhân nói xong, liền đến quỳ xuống, nước mắt đầy tròng, gục đầu lễ ba lễ rồi thưa :
- Mẹ sinh con ra, đời con không có gì báo đáp. Chỉ có lần nầy vào trường, con xin cố sức làm văn trài, may đậu được cử nhân, để mẹ được vui mừng. Thế là việc cả đời con được trọn vẹn rồi. Dù con có điều gì không hay, cũng có thể chuộc lại.
Vương phu nhân nghe xong, càng thấy thương tâm, bảo :
- Con có bụng nghĩ như thế là giỏi. Chỉ tiếc rằng bà không sống để trông thấy mặt con nữa.
Bà ta vừa nói vừa kéo Bảo Ngọc dậy, nhưng anh ta cứ quỳ mãi, rồi lại thưa :
- Dù bà trông thấy hay không, người cũng vẫn biết rõ. Đã biết rõ, đã vui mừng, thì dù người không trông thấy cũng như đã trông thấy. Chẳng qua hai bên chỉ cách biệt về thể xác, chứ không cách biệt về tinh thần.
Lý Hoàn thấy Vương phu nhân cùng Bảo Ngọc như thế, một là sợ lại gây ra bệnh cũ của Bảo Ngọc, hai là xem tình hình nầy cũng không có vẻ tốt lành lắm. Nên vội vàng đến trình :
- Thưa mẹ. Đây là việc rất vui mừng, sao mẹ lại thương tâm như thế ? Vả lại chú Bảo gần đây đã hiểu lẽ phải trái, dốc lòng hiếu thuận, lại chịu ra sức học hành. Chỉ mong chú ấy đem cháu vào trường thi. lo làm văn bài cho hay, thu xếp về nhà cho sớm, rồi sao lại bài thi đem nhờ các bậc thế giao xem hộ, chờ cho đến khi hai chú cháu đều có tin mừng là được.
Đoạn chị ta gọi người đến đỡ Bảo Ngọc dậy.
Bảo Ngọc quay lại vái Lý Hoàn và nói :
- Xin chị cứ yên tâm. Hai chú cháu chúng tôi nhất định sẽ đậu cả. Sau này cháu Loan còn làm nên, rồi chị sẽ được đội mũ cánh phượng, mặc áo ráng đỏ (1) nữa đấy.
Lý Hoàn cười :
- Chỉ mong được như lời chú nói, cũng không uổng công !
Chị ta nói đến đó, lại sợ gây ra mối thương tâm của Vương phu nhân, liền dừng lại. Bảo Ngọc cười, nói :
- Chỉ cần có đứa con nối nghiệp tổ tiên là được. Dù anh Cả không trông thấy, cũng coi như là việc đời sau của anh ấy đã đầy đủ rồi.
Lý Hoàn thấy trời đã muộn nên không chịu nói hết lời với Bảo Ngọc, chỉ có gật đầu. Bảo Thoa nghe nói, rất là sửng sốt nghĩ bụng : “Không những lời nói của Bảo Ngọc mà những câu của Vương phu nhân và Lý Hoàn cũng đều là những điềm không tốt.” Nhưng chị ta không dám thật thà nói ra, chỉ ứa nước mắt không nói gì.
Bảo Ngọc đến trước mặt chị ta, vái một vái dài. Mọi người thấy anh ta làm điều quái gỡ như vậy, không hiểu sao, cũng không dám nói. Bỗng thấy Bảo Thoa nước mắt ròng ròng, ai cũng lấy lại lạ. Rồi lại nghe Bảo Ngọc nói :
- Thưa chị ? Tôi phải đi đây. Chị nên chăm lo hầu mẹ, đợi tin mừng của tôi.
- Đến giờ ra đi rồi. Cậu không cần nói những câu lảm nhảm ấy nữa.
- Chị lại giục tôi gấp. Tôi cũng tự biết là phải đi rồi.
Anh ta quay lại thấy mọi người đều đông đủ cả, chỉ thiếu Tích Xuân và Tử Quyên, liền nói :
- Nhờ thay lời tôi nói hộ với cô Tư và chị Tử Quyên. Dù sao cũng sẽ gặp lại là được.
Mọi người nghe lời của Bảo Ngọc hình như đúng, lại hình như điên. Họ chỉ cho rằng anh ta xưa nay chưa ra khỏi nhà, chỉ vì mấy câu nói của Vương phu nhân gợi ra cả, chi bằng thúc giục anh ta đi mau là xong việc. Họ bèn nói :
- Đã có người chờ sẵn cậu ngoài kia rồi, nếu còn dùng dằng nữa, sợ lại lỡ mất thì giờ.
Bảo Ngọc ngửa mặt cười to:
- Đi thôi, đi thôi ! Không cần dùng dằng lôi thôi. Xong việc rồi.
Mọi người cũng cười, bảo :
- Đi mau lên thôi.
Chỉ có Vương phu nhân và Bảo Thoa thì lại thấy như cảnh sinh ly tử biệt, nước mắt không biết ở đâu cứ chảy ròng ròng, khóc không ra tiếng. Còn Bảo Ngọc lại có vẻ hí hớn như người điên, từ đó bước ra cửa đi mất. Thế là :
Danh lợi đi tìm nơi tột bực !
Củi lồng thoát khỏi cửa đầu tiên.
Khoan nói việc Bảo Ngọc và Giả Lan đi thi. Hãy nói Giả Hoàn trông thấy hai chú cháu họ ra đi thì vừa tức giận, lên giọng thánh tướng, nói thầm :
- Ta cũng phải báo thù cho mẹ ta mới được ! Nay trong nhà không có một người đàn ông nào, nếu bác Cả bên kia cũng nghe lời ta thì còn sợ gì ai !
Hắn nghĩ rồi liền chạy đến bên Hình phu nhân hỏi thăm và tâng bốc mấy câu.
Hình phu nhân tất nhiên vui thích, liền nói :
- Cháu như thế mới là hiểu lẽ phải chứ ? Như việc con cháu Xảo Thư, đáng lẽ do ta làm chủ, thế mà anh hai Liễn cháu cứ lẩn thẩn, lại bỏ mẹ đẻ đi nhờ người khác ?
- Ở bên kia họ cũng đã nói. Họ chỉ biết có nhà bác đây thôi, nếu xong việc thì sẽ sắp sửa một món lễ vật to để đưa biếu bác đây. Bác được người cháu rể như đức vương ấy thì còn lo gì bác Cả không làm quan to chứ. Không phải là cháu nói xấu mẹ cháu đâu, bên ấy họ có chị cả là Nguyên Phi, nên họ ra cách khinh rẻ người ta, khiến ai nấy rất là khó chịu. Sau này cháu Xảo Thư không nên mất hết lương tâm như thế. Để cháu hỏi nó xem.
- Cháu cũng nên nói cho nó biết, nó mới hiểu rõ lòng tốt của cháu. Dù cha nó ở nhà e cũng không thể tìm ra được mối nhà thông gia sang trọng như thế ? Vậy mà cái con Bình u mê kia lại bảo là không được. Nó nói mẹ cháu cũng không bằng lòng. Xem ra chỉ vì họ sợ chúng ta lại được sung sướng đấy thôi. Việc nầy nếu để chậm, đến khi anh Hai cháu về, anh ấy sẽ nghe người ta, lại không xong đâu.
- Bên kia đã nhất định rồi, chỉ chờ bác đưa canh thiếp sang là được. Theo khuôn phép của vương phủ, chỉ trong ba ngày là rước dâu về. Nhưng còn một điều, sợ bác không bằng lòng; bên kia họ bảo không nên cưới cháu gái một viên quan phạm tội về làm vợ, chỉ có thể lặng lẽ đón đi thôi ; đợi khi bác trai được tha, lại làm quan, hai bên sẽ mở tiệc mừng vui vẻ.
- Việc ấy có gì mà không được ? Theo lễ cũng phải làm như thế.
- Đã thế thì xin bác giao canh thiếp cho cháu là được.
- Cháu rõ lẩn thẩn ! Trong này đều là đàn bà cả, cháu ra bảo cháu Tường viết cho một cái thiếp là xong.
Giả Hoàn nghe nói, vui mừng khôn xiết, vội vàng vâng dạ đi ra, kiếm Giả Vân nói chuyện. Lại nhờ Vương Nhân đến công quán đức vương ấy làm giấy tờ, để nhận số bạc. Ngờ đâu những câu chuyện vừa rồi đã bị a hoàn hầu Hình phu nhân nghe được. A hoàn này trước đây nhờ Bình Nhi mới được chọn vào hầu, nay nhân lúc rảnh, nó chạy đến chỗ Bình Nhi kể lại rành mạch.
Bình Nhi biết việc này không hay, và nói rõ với Xảo Thư. Xảo Thư khóc suốt đêm, chỉ nói chờ cha về làm chủ, chứ không thể nghe theo lời bà được. Nay lại nghe nói thế, nó khóc òa lên, định đến cãi lại với bà. Bình Nhi ngăn nó lại :
- Cô hãy khoan đã ? Bà là bà nội của cô. Bà bảo cậu Hai không ở nhà, thì bà đứng làm chủ được . Đã thế lại còn có ông cậu ruột đứng làm mối nữa. Họ vào bè với nhau, một mình cô nói làm sao lại ? Tôi thì đã đành là bậc dưới, không thể nói nổi. Bây giờ cô nên nghĩ cách nào, chứ nhất thiết không được nông nỗi.
A hoàn ấy bảo :
- Các cô nên định liệu mau mau, không thì họ sẽ đón đi đấy !
Bình Nhi ngoảnh lại, thấy Xảo Thư quỵ khóc sướt mướt, vội vàng đỡ dậy nói :
- Cô ơi, khóc cũng không ăn thua gì đâu ! Hiện nay không thể đợi cậu Hai được. Nghe câu chuyện họ nói...
Chưa nói dứt lời, thấy bên Hình phu nhân đã sai người sang báo :
- Việc vui mừng của cô tới nơi rồi ? Bảo chị Bình soạn sửa tất cả những đồ vật gì cô cần dùng. Còn lễ vật tư trang sẽ đợi khi cậu Hai về mới sắm sửa.
Bình Nhi đành phải vâng lời. Lúc ấy lại thấy Vương phu nhân đến, Xảo Thư liền ôm chặt lấy bà ta cứ lăn vào lòng mà khóc. Vương phu nhân cũng khóc và nói :
- Cháu không cần nóng nảy ! Ta vì cháu đã phải chịu bao nhiêu câu nói của bà cháu, nhưng xem chừng thì không thể xoay chuyển lại được nữa. Chúng ta cứ nhận lời rồi tìm cách tạm hoãn, và lập tức sai người đi đến nơi cha cháu nói rõ việc ấy.
Bình Nhi thưa :
- Bà còn chưa biết sao. Sớm nay cậu Ba đã trình với bà Cả là khuôn phép trong Vương phủ chỉ trong ba ngày phải rước dâu về. Bây giờ bà Cả đã bảo cậu Vân viết thiếp rồi, như thế đợi cậu Hai sao kịp .
Vương phu nhân nghe đến tiếng cậu Ba, tức quá, nói không ra lời, ngẩn người ra một lúc, giục bảo đi tìm Giả Hoàn.
Một hồi lâu, có người vào trình :
- Sáng hôm nay cậu Ba cùng cậu Tường và ông Vương Nhân đi đâu rồi .
- Còn thằng Vân đâu ?
- Không biết ạ.
Mọi người đều trợn trừng trợn trạc không còn cách gì.
Vương phu nhân cũng khó cãi nhau với Hình phu nhân, nên ai nấy đành ôm đầu mà khóc. Trong lúc đang bối rối, chợt có bà già vào trình :
- Người canh cửa sau báo tin bà Lưu lại đến.
Vương phu nhân nói :
- Nhà chúng ta đang gặp lúc bối rối như thế này, còn rảnh rang đâu mà tiếp khách, nói thế nào đó cho bà ấy về đi thôi.
Bình Nhi thưa :
- Bà lớn nên cho mời vào. Bà ấy là mẹ nuôi của cô Xảo, cũng nên nói qua cho bà ấy biết.
Vương phu nhân không nói gì. Người nhà dẫn bà Lưu vào. Hai bên chào hỏi xong, bà Lưu trông thấy người nào con mắt cũng đỏ hoe, chẳng hiểu ra sao, bà ta chậm rãi một lúc rồi hỏi :
- Làm sao thế ? Chắc là bà lớn và cô lại nhớ đến mợ Hai?
Xảo Thư nghe nhắc đến mẹ mình, càng khóc to lên. Bình Nhi nói :
- Bà đừng nói chuyện suông nữa. Bà đã là mẹ nuôi của cô, cũng nên biết việc này.
Rồi chị ta kể hết đầu đuôi, làm bà Lưu khiếp sợ sửng sốt.
Một lúc sau bà ta bỗng phá lên cười :
- Chị là người lanh lợi như thế mà chưa nghe khúc “Cổ nhi từ” (2) à. Việc ấy còn có nhiều cách, khó khăn gì đâu.
Bình Nhi vội hỏi :
- Bà ơi. bà có cách gì, xin nói mau lên ?
- Việc ấy có gì khó khăn đâu ? Không để cho một người nào trong bọn họ biết, rồi thình lình trốn đi lã xong.
- Bà nói bậy rồi ? Con nhà chúng tôi thể diện như thế nầy, trốn đi đâu được ?
- Chỉ sợ các cô không chịu đi thôi, nếu đi thì cứ đến chỗ quê tôi. Tôi sẽ dấu kín cô Xảo đi, rồi bảo cô ấy tự tay viết một bức thư. Tôi lập tức bảo anh rể tôi tìm người, mang ngay đến chỗ cậu Hai, chắc cậu ấy sẽ về ngay, như thế không được ư ?
- Nếu bà Cả biết thì sao ?
- Khi tôi đến bà lớn biết không ?
- Bà Cả ở nhà phía trước. Bà ta đối đãi với người dưới rất khắc nghiệt, có tin tức gì không ai báo cho bà ấy cả. Nếu bà đi vào cửa trước thì họ biết ; nhưng bà lại đi cửa sau, thì không can gì.
- Các cô định bao giờ đi, thì tôi bảo anh rể tôi đem xe đến đón.
- Còn đợi đến bao giờ nữa ? Thôi mời bà hãy ngồi đây đã.
Rồi chị ta vội vàng đi vào, tránh những người đứng xung quanh, trình rõ những lời bà Lưu vừa nói với Vương phu nhân. Vương phu nhân nghĩ một lúc, thấy không ổn. Bình Nhi nói :
- Chỉ có cách ấy thôi. Vì là bà lớn nên cháu mới dám nói rõ. Bà lớn cứ giả làm như không biết, rồi cứ vờ hỏi bà Cả. Còn chúng cháu ở bên này sẽ sai người đi, chắc cậu Hai cũng về nhanh.
Vương phu nhân không nói gì, chỉ thở dài. Xảo Thư nghe vậy, liền thưa với Vương phu nhân :
- Xin bà cứu lấy cháu ! Dù sao lúc cha cháu trở về, cũng chỉ biết ơn bà mà thôi.
Bình Nhi nói :
- Không cần phải nói nữa, xin mời bà lớn về đi thôi. Chỉ nhờ bà lớn sai người đến coi nhà cho.
Vương phu nhân nói :
- Phải kín đáo một tí. Nhớ mang theo áo quần chăn nệm của chúng cháu đấy.
Bình Nhi nói :
- Phải đi nhanh mới kịp, nếu để họ giao giá xong trở về thì rắc rối đấy.
Câu nói ấy như giục giã Vương phu nhân. Bà ta nói :
- Phải rồi, các cháu cứ soạn sửa nhanh lên ! Đã có ta đây !
Sau đó Vương phu nhân trở về, lại sang bên Hình phu nhân nói chuyện suông, để giữ bà ta lại. Bên này Bình Nhi bảo người sắp sửa ra đi, và dặn dò :
- Đừng giấu diếm gì. Nếu có người trông thấy thì cứ nói là bà Cả truyền bảo, cần một cỗ xe để đưa bà Lưu về.
Rồi lại đem tiền lót cho người canh cửa sau, bảo thuê xe đến. Bình Nhi cải trang cho Xảo Thư giả làm con Thanh, cháu gái bà Lưu, rồi vội vàng lên xe đi ngay. Sau đó Bình Nhi làm bộ tiễn khách, nhân lúc người ta không để ý, cũng nhảy lên xe đi
luôn. Số là gần đây cửa sau phủ Giả tuy mở, nhưng nhà rộng, đầy tớ ít, nên chỉ một vài người canh, trông nom không xuể, rất là trống trải. Vả lại Hình phu nhân là người không biết thương kẻ dưới. Người trong nhà tuy biết việc ấy không hay, nhưng họ lại nhớ ơn Bình Nhi ăn ở tử tế, nên thông đồng với nhau, để mặc cho
Xảo Thư đi. Hình phu nhân vẫn còn ngồi nói chuyện với Vương phu nhân, có để ý gì đến việc ấy. Riêng Vương phu nhân là không yên tâm chút nào. Bà ta nói chuyện một lúc, rồi lặng lẽ sang ngồi bên phòng Bảo Thoa, lòng lo ngay ngáy. Bảo Thoa thấy Vương phu nhân sắc mặt hoảng hốt, liền hỏi :
- Trong bụng mẹ nghĩ việc gì phải không ?
Vương phu nhân nói thầm việc ấy với Bảo Thoa, Bảo Thoa nói :
- Làm liều quá. Bây giờ phải sai cháu Vân mau mau sang đình chỉ bên kia đi mới yên chuyện.
- Ta cho tìm thằng Hoàn không thấy đâu cả.
- Mẹ cứ vờ như không biết, để con tìm người sang nói cho bác biết mới được.
Vương phu nhân gật đầu; mặc cho Bảo Thoa tìm người. Số là đức vương này muốn mua mấy người con gái để hầu hạ, vì chưa tin lời người mối, nên mới sai người đi xem mặt. Người đi xem về bẩm rõ. Đức vương hỏi đến con nhà dòng dõi
thế nào, họ không dám dấu đành phải nói thực. Đức vương nghe xong, biết rõ nhà ấy đã mấy đời có công và có họ ngoại với nhà vua, nên bảo :
- Không xong đâu ! Việc ấy phạm lệ cấm đấy, suýt nữa làm hỏng việc lớn ! Vả lại ta về chầu vua đã xong, phải chọn ngày lên đường. Nếu có người nào nói đến việc ấy nữa, phải đuổi đi ngay.
Hôm ấy vừa lúc Giả Vân và Vương Nhân đưa canh thiếp đến, bỗng thấy người trong cửa phủ ra nói : “vâng mệnh đức vương truyền, người nào còn dám đem
người trong phủ Giả mạo nhận là con gái nhà thường dân thì phải bắt lấy để trị tội. Hiện nay đương đời thái bình, ai dám to gan như vậy.” Nghe vậy, Vương Nhân khiếp sợ, cúi cổ bỏ trốn, oán trách người đã nói lộ chuyện, rồi cả bọn cụt hứng ra về. Giả Hoàn ở nhà chờ tin, nghe Vương phu nhân truyền gọi, hắn lo cuống quít. Bỗng thấy Giả Vân về một mình, hắn vội đón lại hỏi :
- Đã xong chưa ?
Giả Vân hoảng hốt dẫm chân nói :
- Không xong rồi. không xong rồi ! Chẳng biết đứa nào đã để lộ chuyện ra.
Rồi hắn kể lại chuyện đã bị mắng nhiếc. Giả Hoàn tức giận sửng sốt, nói :
- Ban sáng tôi đến trình với bác việc tốt đẹp như thế, giờ biết xử trí ra sao đây ? Thực là bọn các anh chôn sống tôi rồi ?
Bỗng nghe phía trong có tiếng kêu ầm lên, gọi tên bọn Giả Hoàn và nói :
- Bà Cả và bà lớn đang gọi đấy .
Hai người đành phải thất thểu đi vào. Liền thấy Vương phu nhân nổi giận hầm hầm nói :
- Chúng mày làm việc giỏi nhỉ ? chúng mày bức bách con Xảo Thư và con Bình chết đâu rồi. Mau mau tìm thấy chúng về ngay cho ta.
Hai người đều quỳ xuống. Giả Hoàn không dám nói gì.
Giả Vân cúi đầu thưa :
- Chúng cháu không dám làm việc gì. Chỉ tại cậu cả Hình và cậu Vương nói là làm mối cho em Xảo Thư, chúng cháu mới dám trình với các vị. Bà Cả bằng lòng, mới gọi cháu viết canh thiếp đưa đi. Người ta còn không muốn lấy nữa là, sao lại buộc cho chúng cháu là bức bách em ?
Vương phu nhân nói :
- Chúng Hoàn đã thưa với bà Cả là nội trong ba ngày họ sẽ đón đi. Lại có cái thói làm mối làm manh như thế à ? Thôi ta cũng không cần hỏi nữa, chúng mày phải đem cháu Xảo Thư trả ngay cho ta, đợi ông lớn về đây rồi sẽ nói chuyện !
Hình phu nhân cũng không nói được một câu, chỉ chảy nước mắt. Vương phu nhân mắng Giả Hoàn :
- Cái dì Triệu ấy là đồ bậy bạ sinh ra thằng con cũng bậy bạ nốt !
Bà ta nói xong bảo a hoàn đến đỡ, rồi đi về phòng. Giả Hoàn, Giả Vân và Hình phu nhân chỉ oán trách lẫn nhau. Mấy người bảo nhau :
- Bây giờ chưa cần oán trách vội. Chắc Xảo Thư không đến nỗi chết đâu, lại con Bình đem nó trốn đi ở một nhà bà con nào đó thôi.
Hình phu nhân cho gọi mấy người canh gác cửa trước, cửa sau đến, mắng và hỏi :
- Chúng mày có biết Xảo Thư và Bình Nhi đi đâu không ?
Nào ngờ bọn đầy tớ đều một loạt thưa :
- Bà Cả không cần phải hỏi chúng con. Xin hỏi mấy ông quản gia sẽ rõ. Xin bà Cả đừng nóng nảy, đợi khi bà lớn chúng con hỏi đến, chúng con sẽ có lời thưa lại. Nếu cần đánh, cần phạt, chúng con đều sẵn sàng xin chịu. Từ khi cậu Hai đi vắng, ở ngoài kia họ làm bậy bạ vô cùng. Tiền gạo hàng tháng của chúng con họ không phát. Họ đánh bạc uống rượu, chơi trai, lại còn dắt cả gái ở ngoài về nữa. Đó chẳng phải các ông ấy làm hay sao ?
Những câu ấy làm cho bọn Giả Vân ngậm miệng không nói lại được. Bên Vương phu nhân lại sai người sang thúc giục :
- Các cậu phải đi tìm về mau .
Bọn Giả Hoàn cuống quít chỉ giận không có lỗ nẻ để chui xuống.Chúng lại không dám tra hỏi những người bên nhà Xảo Thư. Chúng biết người ta đều căm ghét, chắc là họ đã đem Xảo Thư giấu di đâu rồi, nhưng điều đó không dám trình với Vương phu nhân. Chúng đành phải đi đến các nhà thân thích để nghe ngóng, vẫn chẳng ăn thua gì. Trong mấy ngày liền, bên trong thì Hình phu nhân, bên ngoài thì bọn Giả Hoàn, đều rối rít lên, đêm ngày không yên.
Đến ngày ra trường thi, Vương phu nhân trông đợi Bảo Ngọc và Giả Lan về nhà. Đợi mãi đến trưa cũng không thấy về. Vương phu nhân, Lý Hoàn và Bảo Thoa hoảng hốt, sai người đến nhà trọ nghe ngóng. Một bọn đi, bặt không tin tức.
Sau đó lại sai bọn khác đi, cũng không thấy về nốt. Ba người ruột nóng như lửa, đợi mãi đến xế chiều, mới thấy một mình Giả Lan về. Mọi người vui mừng hỏi :
- Còn chú Bảo đâu ?
Giả Lan không kịp chào hỏi mọi người, liền khóc oà :
- Chú Bảo lạc mất rồi !
Vương phu nhân nghe vậy, ngẩn người đi một lúc lâu, không nói năng gì, rồi ngã sóng sượt giữa giường. May có bọn Thái Vân ở phía sau đỡ dậy, cố hết sức mới gọi tỉnh lại được. Bà ta cứ khóc. Bảo Thoa thì trợn ngược mắt lên Bọn Tập Nhân đều nước mắt đầm đìa. Lý Hoàn khóc và mắng Giả Lan :
- Đồ ngốc ! Mày ở với chú Hai một chỗ. Sao chú ấy lại lạc mất ?
Giả Lan nói :
- Ở nhà trọ, con với chú Hai cùng ăn cùng ngủ một nơi. Khi vào trường, hai người lúc nào cũng gần gũi nhau. Sáng hôm nay chú Hai làm bài thi xong sớm, còn chờ cháu. Chúng cháu đi nộp quyển một lần, rồi cùng ra cửa. Nhưng đến khi chen nhau ở cửa long môn, cháu ngoảnh lại không thấy chú ấy đâu nữa. Người nhà đi đón đều lại hỏi cháu. Anh Lý Quý còn nói, có trông thấy cậu Hai chỉ cách nhau vài bước, không biết làm sao chen một cái rồi không thấy đâu cả. Hiện giờ bọn Lý Quý đang chia nhau đi tìm. Cháu cũng đem người đi tìm khắp các nơi, không thấy, nên đến bây giờ mới về.
Vương phu nhân khóc lóc, không nói được ra lời. Bảo Thoa trong bụng đã hiểu rõ tám, chín phần. Tập Nhân thì cứ gào khóc mãi. Bọn Giả Tường không đợi ai sai bảo, cũng chia nhau đi tìm. Đáng thương cho mọi người trong phủ Vinh, ai ai cũng dỡ sống dỡ chết, uổng công sửa soạn bữa tiệc để đón tiếp người đi thi về.
Giả Lan cũng quên hẳn mỏi mệt, muốn tự mình đi tìm. Nhưng Vương phu nhân ngăn lại nói :
- Cháu ơi ! Chú đã lạc mất rồi, lại còn để mất cả cháu nữa sao ? Thôi cháu cứ đi nghỉ ngơi đã.
Nhưng Giả Lan nào chịu nghe ? Bọn Vưu thị phải hết sức khuyên can mãi. Trong mấy người đó chỉ một mình Tích Xuân là hiểu rõ, nhưng không chịu nói ra, cô ta vờ hỏi Bảo Thoa :
- Anh Hai có mang viên ngọc đi không?
- Đó là vật tùy thân của cậu ấy, sao lại không mang đi ?
Tích Xuân nghe xong không nói gì.
Tập Nhân nhớ lại việc mất viên ngọc lúc trước, cũng đoán chừng là vị hoà thượng tác quái, nên bụng đau như cắt, nước mắt chảy ròng ròng, nghẹn ngào khóc mãi. Chị ta nghĩ lại mối tình Bảo Ngọc đối với mình khi trước. Có lúc mình trêu tức
cậu ta, tuy cậu ta giận, nhưng cũng có chỗ tốt làm cho người ta phải hồi tâm lại, còn tấm lòng thể tất ôn tồn thì không cần phải nói nữa, có lúc mình trêu quá, cậu ta thề sẽ đi tu, không ngờ ngày nay lại ứng với câu nói ấy.”
Hãy gác chuyện Tập Nhân nghĩ ngợi bực mình. Hôm ấy đã đến canh tư, vẫn không được tin gì về Bảo Ngọc cả. Lý Hoàn sợ Vương phu nhân thương xót sinh ốm, nên hết sức khuyên giải và đưa bà ta về phòng. Mọi người đều theo đến hầu, chỉ một
mình Hình phu nhân về nhà. Giả Hoàn thì trốn tránh không dám ra. Vương phu nhân bảo Giả Lan về và nằm suốt đêm không ngủ.
Sáng hôm sau tuy có người nhà trở về, nhưng ai nấy đều nói :
- Tìm khắp nơi không ai thấy bóng dáng Bảo Ngọc đâu cả.
Tiết phu nhân, Tiết Khoa, Sử Tương Vân và thím Lý lũ lượt đến thăm và hỏi tin. Qua mấy ngày liền như thế, Vương phu nhân khóc đến nổi bỏ cả ăn uống. Người đã sắp nguy. Bỗng có người nhà vào trình :
- Có một người ở miền bể, nói là người nhà quan thống chế sai đến và thưa, cô Ba nhà ta ngày mai sẽ về kinh.
Vương phu nhân nghe nói Thám Xuân về kinh, tuy nhiên không khuây hẳn nỗi mong nhớ Bảo Ngọc, nhưng cũng hơi được yên tâm.
Đến hôm sau, quả nhiên Thám Xuân về. Mọi người ra đón từ xa, trông Thám Xuân lại càng xinh đẹp, ăn mặc lộng lẫy hơn trước. Thấy Vương phu nhân dáng người tiều tụy và ai nấy đều khóc sưng mắt lên, cô ta cũng khóc to một lúc lâu rồi mới
chào hỏi mọi người. Thám Xuân thấy Tích Xuân ăn mặc theo lối nhà tu, trong bụng rất là khó chịu. Lại nghe nói đến việc Bảo Ngọc bị lạc, trong nhà xảy ra nhiều chuyện không hay nên mọi người lại khóc. May có Thám Xuân khôn khéo, kiến thức cao, đem lời khuyên giải dần dần, bọn Vương phu nhân mới khuây khỏa ít nhiều.
Sáng hôm sau nữa thì chồng Thám Xuân đến, biết trong nhà xảy ra nhiều việc, nên để chị ta ở lại khuyên giải. Các a hoàn, bà già theo hầu Thám Xuân, nay được gặp lại, chị em cùng nhau kể lể tâm tình sau khi xa cách. Từ đó người trên kẻ dưới, ngày đêm chỉ chờ tin tức Bảo Ngọc.
Một hôm, đã quá canh năm, có mấy người nhà ở ngoài vào cửa thứ hai báo tin mừng. Mấy a hoàn nhỏ xô nhau chạy vào, không kịp nói với các a hoàn lớn, liền chạy thẳng vào nhà trong trình :
- Xin mừng bà lớn và các mợ !
Vương phu nhân đoán chừng đã tìm thấy Bảo Ngọc, liền đứng dậy vui vẻ hỏi :
- Tìm thấy nó ở đâu ? Bảo nó vào đây mau !
Người ấy thưa :
- Đã đậu cử nhân thứ bảy.
Câu nói ấy lại làm cho Vương phu nhân khóc to lên. Lý Hoàn nói :
- Từ xưa đã có nhiều vị thành Phật thành tiên, quả là vứt bỏ hết cả giàu sang chức tước.
Vương phu nhân khóc :
- Nếu nó bỏ cha mẹ mà đi, tức là bất hiếu, sao lại thành Phật thành tiên được.
Thám Xuân nói :
- Người đời không nên có cái gì kỳ lạ quá. Anh Hai khi mới sinh đã có sẵn viên ngọc, ai cũng bảo là việc tốt ; nhưng nay xét lại cũng vì có viên ngọc ấy mà không tốt. Nếu mấy ngày nữa không tìm thấy, tức là có duyên cớ. Con nói xin mẹ đừng giận, mẹ cứ nên xem như không sinh ra anh ấy là được. Nếu quả anh ấy có duyên kiếp từ trước, tu được thành chánh quả, cũng là do mẹ tích phúc mấy đời đấy.
Bảo Thoa nghe xong không nói gì. Tập Nhân không nén được nữa đâm ra đau ruột, choáng đầu, ngã nhào xuống. Vương phu nhân thấy thế thương hại, sai người vực chị ta về nhà. Giả Hoàn thấy anh và cháu đều thi đậu, lại thêm việc Xảo Thư, nên trong bụng rất là khó chịu, chỉ oán trách Giả Tường, Giả Vân. Hắn lại nghĩ Thám Xuân nay về thăm nhà, tất không chịu bỏ qua việc ấy, nhưng cũng không dám bỏ trốn, vì vậy mấy hôm nay cứ như cá nằm trên thớt.
Hôm sau Giả Lan đành phải đi tạ ơn trước. Lại biết Chân Bảo Ngọc cũng thi đậu, mọi người cùng nhau tỏ tình đồng khoa. Khi nhắc đến việc Bảo Ngọc vì mê mẫn bị lạc, Chân Bảo Ngọc tỏ lời than thở yên ủi.
Quan chấm trường xem các quyển thi đậu, tâu tới nhà vua mở ra xem, thấy những bài văn lấy đậu đều là đúng đắn thông suốt. Thấy Giả Bảo Ngọc đậu thứ bảy là người Kim Lăng; Giả Lan đậu thứ một trăm ba mươi cũng là người Kim Lăng, nhà vua truyền chỉ xuống hỏi : “Hai người họ Giả ở Kim Lăng có phải cùng họ với Giả phi không ?” Quan đại thần vâng mệnh ra truyền gọi Gả Bảo Ngọc và Giả Lan vào hỏi. Giả Lan trình rõ việc Bảo Ngọc sau khi ra khỏi trường, đi lạc mất và khai rõ cha ông ba đời, rồi quan đại thần thay lời tâu lên.
Nhà vua rất là thánh minh nhân đức. Người nhớ đến công ơn họ Giả, truyền xuống các quan đại thần xét và tâu lên. Các quan xét kỹ và tâu rõ. Nhà vua rất là thương xót, sai một vị quan xét lại bản án Giả Xá phạm tội đầu đuôi thế nào, rồi tâu lên. Nhà vua lại xem một bản tâu về “các việc sắp đặt sau khi đã dẹp yên bọn giặc ven biển và rút quân về”, trong bản án ấy nói rõ hiện nay bể lặng sông yên, muôn dân làm ăn vui vẻ. Nhà vua rất vui, truyền các quan cửu khanh kê rõ công lao để định thưởng, và ban ơn đại xá cả thiên hạ.
Bọn Giả Lan sau khi vào hầu xong ra về, liền đến chào lạy các quan chấm trường, lại nghe tin trong triều có ban ơn đại xá liền trình với bọn Vương phu nhân. Cả nhà đều vui mừng, chỉ mong chờ Bảo Ngọc trở về. Tiết phu nhân lại càng vui vẻ hơn, liền lo việc chuộc tội cho Tiết Bàn.
Một hôm, người nhà báo có cụ Chân và chồng cô Ba đến mừng. Vương phu nhân sai Giả Lan ra tiếp. Một lúc sau Giả Lan vào, cười vui vẻ trình với Vương phu nhân :
- Thưa các bà, có tin mừng, cụ Chân ở trong triều nghe nói đã có chỉ truyền, ông Cả được tha tội hẳn. Bác Trân không những được tha tội, vẫn còn được tập chức Ninh quốc công hạng ba. Còn thế chức bên phủ Vinh thì vẫn do ông nội chúng ta tập, chờ khi hết hạn nghỉ tang rồi sẽ thăng chức lang trung bộ công. Bao nhiêu gia sản bị tịch thu, đều trả lại hết. Nhà vua xem văn chương của chú Hai, rất vui thích. Người ban hỏi biết rõ là em đức bà Nguyên phi, Bắc Vĩ anh vương lại tâu về phẩm cách chú Hai cũng tốt nên vua truyền chỉ đòi vào chầu. Các quan đại thần tâu : “Theo lời người cháu là Giả Lan đã trình, thì anh ta đã đi lạc mất sau khi ra khỏi trường, hiện đang tìm hỏi khắp nơi”. Nhà vua đã xuống chỉ, truyền các nha môn năm doanh đều để ý tìm tòi. Chỉ đã xuống rồi. Xin bà cứ yên lòng. Đội ơn nhà vua như thế, lẽ nào lại không tìm được !
Nghe nói, bọn Vương phu nhân mới chúc mừng nhau và tỏ vẻ vui mừng. Chỉ có bọn Giả Hoàn vẫn cuống quít đi tìm Xảo Thư khắp nơi.
Xảo Thư đi theo bà Lưu, cùng Bình Nhi ra khỏi thành. Khi về đến thôn trại, bà Lưu cũng không dám khinh rẻ Xảo Thư. Bà ta quét dọn gian phòng nhà trên, mời Xảo Thư và Bình Nhi ở. Hàng ngày bà ta cung cấp các món ở thôn quê, nhưng cũng sạch sẽ lại có con Thanh làm bạn, nên họ cũng tạm khuây khỏa.
Trong thôn đó có mấy nhà giàu. Biết có một vị tiểu thư phủ Giả đến nhà già Lưu, ai nấy đều chạy lại xem. Họ cho là nàng tiên trên trời sa xuống. Rồi có người đưa món ăn thức quả đến, có người đưa các thứ dã vị đến, cũng khá nhộn nhịp. Trong
số ấy có một nhà rất giàu là họ Chu, gia tài tới hàng vạn, ruộng đất có đến nghìn khoảnh. Nhà ấy chỉ có một con trai, dáng người văn nhã thanh tú, mới mười bốn tuổi. Cha mẹ anh ta rước thầy về dạy học, khoa mới rồi thi đậu tú tài. Hôm nọ mẹ anh ta trông thấy Xảo Thư, trong bụng tấm tắc khen ngợi, nghĩ bụng : “Chúng mình là người ở thôn trại, làm gì mà sánh đôi được với vị tiểu thư con nhà thế gia như vậy ?”. Rồi bà ta cứ ngẩn người ra.
Già Lưu đã dò biết tâng sự bà ấy. liền nói :
- Tôi biết bụng bà rồi, để tôi làm mối hộ cho.
Bà Chu cười :
- Thôi bà đừng lừa tôi nữa. Họ là con nhà như thế nào, đời nào chịu gả cho chúng tôi là người ở thôn trại.
- Thì cũng cứ nói thử xem.
Thế rồi hai người đi hai nơi.
Già Lưu nhớ đến phủ Giả, liền bảo Bản Nhi vào thành nghe ngóng. Một hôm vừa đi đến phố Ninh Vinh. Bỗng thấy có nhiều xe kiệu ở đó. Bản Nhi đến chỗ gần xung quanh lắng nghe. Hắn nghe nói hai phủ Ninh, Vinh đã được trả lại chức quan, trả lại gia sản. Nay trong phủ lại sắp trở nên thịnh vượng. Chỉ có cậu Bảo Ngọc thi đậu cử nhân, rồi không biết đi đâu mất. Bản Nhi trong bụng vui mừng, đã định trở về. Lại thấy có mấy con ngựa chạy đến rồi một người đến trước cửa xuống ngựa.
Bỗng thấy người canh cửa ra chào, hỏi thăm, và nói : “Cậu Hai đã về ! Mừng quá ? ông Cả đã mạnh khỏe rồi chứ ?” Người ha hả cười bảo : “Khỏe rồi ? Lại vừa có ân chỉ tha tội, người cũng sắp về đấy.” Cậu ta lại hỏi : “Mấy người kia làm chuyện gì đấy”. Người canh cửa thưa . “Đó là các quan đến truyền chỉ, cho đi nhận lại gia sản”. Người kia vui mừng cuống quít đi vào. Bản Nhi đoán chừng đó là Giả Liễn. Anh ta không nghe ngóng nữa, vội quay về thưa với bà ngoại.
Già Lưu nghe nói mừng rỡ, nở từng khúc ruột, đến chỗ Xảo Thư kể lại một lượt những điều Bản Nhi vừa nói.
Bình Nhi cười bảo :
- Thật là nhờ già bày ra cách ấy. Nếu không thì cô tôi cũng không còn gặp được dịp vui vẻ này nữa.
Xảo Thư lại càng vui mừng. Đang nói chuyện, thì người đưa tin cho Giả Liễn cũng về, và nói :
- Cậu Hai rất là cảm kích, dặn tôi sau khi về đến nhà, phải đưa cô về phủ mau. Lại còn thưởng cho tôi mấy lạng bạc nữa.
Bà Lưu nghe nói rất mừng, liền cho người đi tìm hai cỗ xe, rồi mời Xảo Thư và Bình Nhi lên xe về. Bọn Xảo Thư ở trong nhà bà Lưu đã quen, nên cứ dùng dằng không chịu chia tay. Con Thanh lại khóc lóc, giận không sao giữ họ lại được nữa. Già Lưu thấy chúng không nỡ xa nhau, nên cho con Thanh đi theo vào thành, rồi mấy người đi một mạch về phủ Vinh.
Giả Liễn trước kia được tin Giả Xá ốm nặng, liền đi đến chỗ bị đày. Cha con gặp nhau, khóc lóc một hồi, sau đó Giả Xá dần dần lành bệnh. Đến khi Giả Liễn tiếp thơ, biết rõ việc nhà, trình với Giả Xá rồi đi về, dọc đường nghe tin đại xá, lại đi gấp hai ngày nữa. Hôm nay về đến nhà, vừa gặp lúc vua ban ân chỉ. Trong nhà thì bọn Hình phu nhân đang lo không có người tiếp chỉ. Tuy có Giả Lan, nhưng vẫn còn ít tuổi. Bỗng nghe người báo tin, cậu hai Liễn đã về. Mọi người gặp nhau, mừng mừng tủi tủi. Chưa kịp nói chuyện, Giả Liễn liền ra nhà khách, vái chào quan khâm mạng. Vị quan ấy hỏi thăm sức khỏe Giả Xá, rồi bảo :
- Ngày mai vào nội phủ lĩnh thưởng. Dinh thự bên phủ Ninh nay giao trả cho dọn về ở.
Rồi mọi người đứng dậy từ biệt. Giả Liễn tiễn họ ra cửa. Sau đó thấy có vài cỗ xe đến. Người nhà không cho đỗ lại. Đang cơn ồn ào thì Giả Liễn đã biết rõ đó là xe của Xảo Thư về, liền mắng bọn người nhà :
- Bọn chúng bay là người vô lương ! Nhân lúc ta đi vắng, chúng bây sinh lòng lừa dối hại chủ, bắt buộc con ta phải bỏ đi ; bây giờ người ta đưa về, bay lại muốn ngăn cản à ? Có phải chúng bây thù oán gì ta không ?
Bọn người nhà vốn sợ Giả Liễn trở về làm lôi thôi, nhưng cũng tưởng ít lâu rồi việc mới lộ, nào ngờ Giả Liễn lại nói ra rõ ràng như thế. Họ không hiểu ra sao, đành phải đứng lại thưa :
- Sau khi cậu ra đi, bọn chúng cháu đứa thì ốm, đứa thì xin nghỉ. Việc ấy là do cậu Ba, cậu Tường và cậu Vân làm chủ, chứ không can gì đến chúng cháu cả.
Giả Liễn nói :
- Đồ khốn nạn ! Xong việc rồi ta sẽ nói chuyện với chúng bây. Mau ra đưa xe vào !
Giả Liễn đi vào, thấy Hình phu nhân cũng không nói gì, lại quay sang bên Vương phu nhân gục đầu quỳ xuống thưa :
- Việc này đều nhờ ơn thím đùm bọc cả ? Em Hoàn thì không cần phải nói nữa. Chỉ ghét cái thằng Vân, lần trước coi nhà, đã làm bậy bạ, nay cháu mới đi mấy tháng, nó đã gây ra chuyện như thế. Cháu xin trình trước với thím, cái giống người
ấy thì đuổi cổ đi, không cho nó đi lại nữa cũng đáng.
Vương phu nhân nói :
- Cái thằng Vương Nhân đốn mạt ấy không biết vì sao cũng hư tệ như thế ?
- Thím không cần phải nói. Cháu đã có cách.
Đang nói thì bọn Thái Vân vào trình :
- Cô Xảo đã vào đây rồi.
Bấy giờ Xảo Thư vào chào Vương phu nhân. Tuy xa cách chưa bao lâu, nhưng nhớ lại tình cảnh lúc đi trốn, bất giác rơi nước mắt. Xảo Thư cũng khóc oà lên. Giả Liễn vội đến tỏ lời cảm tà bà Lưu. Vương phu nhân kéo bà cụ ngồi xuống, lại nhắc đến câu chuyện ngày trước. Giả Liễn trông thấy Bình Nhi, bề ngoài tuy không tiện nói, nhưng trong lòng rất là cảm kích, bất giác ứa nước mắt. Từ đó anh ta càng kính trọng Bình Nhi, định đợi Giả Xá trở về, sẽ lập Bình Nhi làm vợ chính. Đó là chuyện sau, chưa vội nhắc đến.
Về phần Hình phu nhân thì đang sợ Giả Liễn không tìm thấy Xảo Thư, chắc sẽ gây chuyện rắc rối ; lại nghe Giả Liễn đang ở bên Vương phu nhân, nên càng sốt ruột liền bảo a hoàn đi dò xem sao. A hoàn về trình :
- Xảo Thư cùng bà Lưu đang nói chuyện ở bên ấy.
Hình phu nhân như tỉnh giấc mơ, biết là bọn họ chơi khăm. Lại oán trách Vương phu nhân. Bà ấy chỉ xúi cho mẹ con mình bất hòa với nhau ? Nhưng vẫn không biết đứa nào đã đưa tin cho Bình Nhi ? Đang tự hỏi thì thấy Xảo Thư cùng bà Lưu dẫn cả Bình Nhi đến, Vương phu nhân cũng đi theo sau. Trước hết họ đem những chuyện đó đổ tội cả cho Giả Vân và Vương Nhân, rồi nói :
- Bà lớn nguyên chỉ nghe theo lời người ta, cũng muốn được việc tốt lành, biết đâu được bọn quỷ quái bên ngoài !
Hình phu nhân nghe nói, cảm thấy thẹn thùng, nghĩ lại ý định của Vương phu nhân là đúng, trong bụng cảm phục. Từ đó Hình phu nhân và Vương phu nhân lại vui vẻ với nhau. Bình Nhi trình với Vương phu nhân rồi dẫn Xảo Thư sang phòng của Bảo Thoa thăm hỏi. Mỗi người đều nhắc đến nỗi khổ của mình. Họ lại nói - Đội ơn hoàng thượng, phủ ta sẽ trở lại thịnh vượng. Chắc cậu Bảo cũng sẽ trở về.
Họ vừa nói đến câu ấy, thấy Thu Vân ra vẻ cuống quít sợ sệt chạy đến thưa :
- Chị Tập Nhân nguy rồi ! Không biết đã xảy ra việc gì ?
Chú thích :
1. Ý nói được đội mũ mệnh phụ vì có con ra làm quan.
2. Cố nhi từ hoặc cổ tử từ - tên một từ khúc đời xưa, vừa dùng lời nói vừa hát, do nhiều khúc điệu và nhiều đoạn văn xuôi kết hợp lại.
Hồi thứ một trăm hai mươi
Chân Sinh ẩn kể rõ cảnh thái hư
Giả Vũ Thôn kết thúc Hồng lầu mộng
Bảo Thoa nghe Thu Vân nói đến Tập Nhân nguy cấp, vội đi xem. Xảo Thư và Bình Nhi cũng đi theo. Khi đến trước giường Tập Nhân, thấy cô ta bụng đau quặn, có lúc cứ thở dốc. Bảo Thoa dùng nước nóng đổ cho tỉnh lại, đỡ cô ta nằm xuống,
rồi sai người đi mời thầy thuốc.
Xảo Thư nhân hỏi Bảo Thoa :
- Chị Tập Nhân tại sao ốm đến như thế ?
- Chiều hôm kia chị ấy khóc quá thương tâm, choáng váng ngã xuống. Bà sai người đỡ về. Chị ấy liền nằm lịm luôn. Vì ngoài nhà còn bận, chưa mời được thầy thuốc đến thăm, nên mới đến nổi thế.
Đang nói thì thầy thuốc đến. Bọn Bảo Thoa tạm lánh mặt. Thầy thuốc vào xem mạch, bảo bệnh này do uất ức mà ra, liền kê đơn rồi về. Số là Tập Nhân thoáng nghe nói, nếu Bảo Ngọc không về, sẽ cho người hầu trong nhà về hết. Chị ta cuống lên, lại càng ốm thêm. Sau khi thầy thuốc xem bệnh, Thu Văn lo sắc thuốc dùm. Chị ta nằm một mình, tâm thần chưa định, cứ tưởng như Bảo Ngọc đứng ở trước mặt. Lại thấp thoáng như thấy một vị hòa thượng, tay cầm một quyển sổ, mở ra xem rồi lại nói, “chị đừng có lầm, tôi không nhận các chị đâu.” Tập Nhân còn muốn nói chuyện với anh ta thì Thu Văn đến nói :
- Thuốc được rồi. Chị uống đi.
Tập Nhân mở choàng mất nhìn, mới biết là chiêm bao, nhưng cũng không nói với ai. Uống thuốc xong, chị ta suy nghĩ một mình, “cậu Bảo chắc là đi theo vị hòa thượng rồi. Lần trước cậu ta định cầm viên ngọc đi ra, đó là ý muốn thoát thân. Lúc cậu ta bị mình giữ lại, xem bộ dạng không giống như ngày thường, cứ xô đẩy mình túi bụi, không nể nang chút nào ; sau lại đối đãi với mợ Hai càng lạnh nhạt và cũng không nhìn ngó gì đến các chị em khác. Đó là cậu ta đã ngộ đạo. Nhưng ngộ đạo mà bỏ mợ Hai đi thì làm thế nào!” Còn mình là người của bà lớn sai sang hầu cậu ấy tuy số tiền lương tháng chiếu theo lệ ấy mà lĩnh (1) nhưng thực ra trước mặt ông lớn, bà lớn mình chưa bao giờ được nhận rõ ràng là vợ lẽ của cậu ấy. Nếu ông lớn và bà lớn cho mình về, mình cố chết ở lại, thì sợ người ta chê cười. Mình mà về thì nghĩ đến mối tình cậu Bảo đối với mình, thực là không nỡ !... Chị ta nghĩ đi nghĩ lại, càng thấy khó xử. Lại nhớ đến giấc mộng vừa rồi, hình như Bảo Ngọc vô duyên với mình, chẳng thà chết quách đi cho rảnh.
Không ngờ sau khi uống thuốc, chứng đau bụng đã bớt nhiều, nằm mãi cũng khó coi, đành phải miễn cưỡng dậy. Qua vài ngày nữa, chị ta dậy hầu hạ Bảo Thoa. Bảo Thoa tưởng nhớ Bảo Ngọc, cứ khóc thầm, than thân tuổi phận. Bảo Thoa biết mẹ đang định lo việc chuộc tội cho anh, cần chạy vạy nhiều, nên cũng phải lo liệu giúp mẹ.
Giả Chính rước linh cữu của Giả mẫu, Giả Dung đưa quan tài của Tần thị, Phượng Thư và Uyên Ương, về đến Kim Lăng an táng xong. Sau đó Giả Dung lại đưa quan tài của Đại Ngọc đi an táng. Giả Chính thì lo việc xây đắp phần mộ.
Một hôm Giả Chính tiếp được thư nhà, lần lượt đọc từng hàng, trước xem thấy Bảo Ngọc và Giả Lan thi đậu, trong bụng vui mừng, sau xem đến chỗ Bảo Ngọc lạc mất, thì lại lo buồn, đành phải trở về nhà gấp. Dọc đường, lại nghe có chỉ ân xá, rồi
lại tiếp được thư nhà nói Giả Xá đã được tha tội phục chức, lại càng vui vẻ, liền đi luôn cả ngày đêm.
Một hôm đi đến trạm Côn Lăng, trời rét, tuyết xuống, thuyền đậu ở chỗ vắng vẻ. Giả Chính sai người lên bộ, đưa danh thiếp đi từ tạ bầu bạn, nói thuyền sẽ đi ngay, không dám phiền ai đến thăm hỏi. Khi ấy đầu thuyền chỉ để lại một đứa nhỏ để hầu. Giả Chính ở trong thuyền viết thư, định cho người đi bộ đem về nhà trước. Khi viết đến việc Bảo Ngọc, liền dừng bút lại, ngẩng đầu lên, bỗng thấy đầu thuyền lờ mờ có dáng một người trong bóng tuyết, đầu trọc chân trần, mình khoác chiếc áo đi mưa bằng lông vượn màu đại hồng, ngoảnh vào Giả Chính và sụp xuống lạy. Giả Chính chưa nhìn được rõ, vội ra đầu thuyền, muốn đến đỡ dậy để hỏi. Người ấy lạy bốn lạy, rồi đứng dậy chào theo lối nhà Phật. Giả Chính còn muốn vái đáp, chợt nhìn thấy trước mặt mình không phải ai lạ mà chính là Bảo Ngọc. Giả Chính kinh ngạc vô cùng, vội hỏi :
- Có phải Bảo Ngọc không ?
Người ấy không nói gì, như mừng như tủi. Giả Chính lại hỏi :
- Nếu mày là Bảo Ngọc, thì sao lại ăn mặc như thế mà đến chỗ này ?
Bảo Ngọc chưa kịp trả lời, bỗng thấy một nhà sư, một đạo sĩ đến đầu thuyền. Hai người nắm tay Bảo Ngọc nói :
- Tục duyên đã hết, không đi nhanh lên à ?
Nói rồi, ba người vùn vụt lên bờ đi. Giả Chính không kể đất trơn, vội vàng chạy theo. Thấy ba người đi trước, nhưng không sao theo kịp. Chỉ nghe một người nào trong bọn họ hát :
Chỗ ta ở chừ, đỉnh núi thanh u,
Chỗ ta chơi chừ, cõi không mịt mù;
Ai đi cùng ta chừ, ta đi theo với ?
Mênh mông mù mịt chừ, về nơi Đại hoang !
Giả Chính chạy đuổi theo, đến một cồn đất nhỏ, bỗng không thấy nữa. Giả Chính thở dốc lên, trong lòng ngờ vực. Lúc quay lại thì thấy tên hầu nhỏ cũng chạy theo sau. Giả Chính hỏi :
- Mày có trông thấy ba người vừa rồi không ?
- Có trông thấy. Vì cháu thấy ông lớn chạy theo, nên cháu cũng chạy. Nhưng rốt cuộc chỉ thấy ông lớn, chứ không thấy ba người kia nữa.
Giả Chính còn muốn chạy theo, nhưng chỉ thấy một cánh đồng tuyết tùng mênh mông, không có người nào, Giả Chính lấy làm kỳ lạ, đành trở về. Bọn người nhà về thuyền, thấy Giả Chính không ở trong khoang, hỏi bọn chèo thuyền họ nói ông lớn đang lên bộ theo nhà sư và đạo sĩ. .Bọn họ cũng theo dấu chân trên tuyết đi tìm, xa xa trông thấy Giả Chính trở về. Họ đến đón rồi cùng về thuyền. Giả Chính ngồi xuống, thở một lát, rồi kể qua một lượt về việc trông thấy Bảo Ngọc. Mọi người nói, nên đi kiếm quanh miền nầy.
Giả Chính thở dài :
- Chúng mày không hiểu rõ ! Đó là chính mắt ta trông thấy, chứ có phải ma quỷ gì đâu. Vả lại nghe tiếng ca, có vẻ rất huyền diệu ? Bảo Ngọc khi sinh ra, ngậm viên ngọc.. cũng đã kỳ lạ. Ta vẫn biết trước là điềm không tốt, chỉ vì cụ bà thương yêu nó, nên mới nuôi nó đến ngày nay. Còn vị hòa thượng và vị đao sĩ ấy, ta đã gặp ba lần, lần thứ nhất hai người ấy đến nói về sự linh thiêng của viên ngọc; lần thứ hai, lúc Bảo Ngọc ốm nặng, vị hòa thượng đến, cầm viên ngọc tụng niệm một hồi, thì Bảo Ngọc lành ; lần thứ ba, ông ta đưa viên ngọc đến trả, ngồi ở nhà khách, ta vừa ngoảnh đi một cái, bỗng không thấy đâu. Trong bụng ta lấy làm lạ. Nhưng cho là Bảo Ngọc thực có phúc phận, nên các bậc cao tăng tiên đạo đến phù hộ cho nó. Ngờ đâu nó là người đổi kiếp xuống cõi trần. Rốt cục lừa dối cụ bà suốt mười chín năm, đến nay ta mới biết rõ !
Ông ta nói đến đấy, nước mắt ròng ròng. Mọi người thưa :
- Cậu Bảo nếu quả là một vị hòa thượng xuống trần gian, thì không nên đậu cử nhân. Vì sao thi đậu rồi mới bỏ đi ?
- Các người biết sao được ? Phàm các tinh tú trên trời, các cao tăng trên núi, hay những tinh linh trong động, đều có một tánh tình riêng. Các ngươi thử xem Bảo Ngọc thường có chịu đọc sách đâu ; nhưng hễ nó để bụng đến thì không có cái gì là không làm được. Còn tính khí của nó cũng không giống người ta !
Ông ta nói xong, lại than thở. Người nhà liền đem việc Giả Lan thi đậu, nhà lại thịnh vượng, để khuyên giải. Giả Chính viết tiếp bức thư, nói luôn cả việc ấy, và khuyên người nhà không cần nhớ nhung nữa. Ông ta viết xong, niêm phong lại, rồi bảo người nhà mang về trước, còn mình sẽ về sau.
Sau khi nghe tin đại xá,Tiết phu nhân sai Tiết Khoa đi giật tạm các nơi. Lại bòn nhặt thêm của nhà cho đủ số bạc để chuộc tội. Bộ hình chuẩn y, thu đủ số bạc, rồi làm công văn, tha cho Tiết Bàn về. Mẹ con anh em chị em trong nhà lại được gặp
nhau, tất nhiên vừa mừng vừa tủi, không cần nói hết. Tiết Bàn thề:
- Nếu con mắc lại tật xấu như trước, nhất định bị băm vằm.
Tiết phu nhân thấy thế, liền bịt miệng hắn lại, nói :
- Chỉ cần con giữ chí cho vững là được, chứ mở miệng thề nguyền độc địa như thế làm gì ? Riêng con Hương Lăng theo hầu con, đã chịu đựng biết bao nhiêu nỗi khổ. Vợ con thì chính tự nó làm hại đời nó. Nay trong nhà tuy túng thiếu, nhưng cũng còn có bát cơm ăn. Theo như ta nghĩ, thì ta coi Hương Lăng là con dâu rồi, không biết bụng con nghĩ sao.
Tiết Bàn gật đầu bằng lòng. Bọn Bảo Thoa cũng nói :
- Thật đáng như thế.
Việc đó làm cho Hương Lăng đỏ ửng má, nói :
- Đằng nào cũng là hầu hạ cậu cả, cần gì phải làm như thế?Người trong nhà liền gọi Hương Lăng là mợ cả, ai cũng mến phục.
Tiết Bàn liền đi lạy tạ bên phủ Giả. Tiết phu nhân và Bảo Thoa cũng theo sang. Khi gặp mọi người, hai bên đông đủ, lại cùng nhau chuyện trò một hồi.
Đang nói chuyện thì vừa lúc người nhà Giả Chính về đem trình bức thư và nói :
- Ông lớn nay mai cũng về đấy.
Vương phu nhân bảo Giả Lan đọc thư. Giả Lan đọc đến đoạn Giả Chính đã trông thấy Bảo Ngọc, ai nghe cũng khóc. Vương phu nhân, Bảo Thoa và Tập nhân lại càng khóc nhiều. Mọi người lại nhắc lời Giả Chính dặn trong thư, “Bảo Ngọc chỉ là mượn bào thai giáng sinh. Trong nhà không cần phải thương nhớ.” Họ đem những câu ấy ra để khuyên giải, nếu làm quan mà gặp lúc vận mệnh không tốt, can phạm việc gì, đến nỗi tan nhà hại của, lại chẳng hay gì, thà rằng trong nhà mình có một vị Phật giáng sinh là hơn. Chỉ vì ông lớn bà lớn tích đức nên cậu ấy mới đầu thai vào nhà này. Không phải chúng tôi ăn nói không biết gìn trước giữ sau đâu. Lúc trước cụ bên phủ Đông cũng đã lu luyện đến mười mấy năm, mà vẫn không thành tiên được. Còn thành Phật thì lại càng khó nữa ! Bà lớn nghĩ lại như thế, thì lòng sẽ nguôi nguôi.
Vương phu nhân khóc nói với Tiết phu nhân :
- Bảo Ngọc bỏ tôi mà đi. Tôi còn giận nó đấy ? Tôi lại phàn nàn cho con dâu xấu số, mới lấy nhau được một vài năm. Sao nó nỡ đành tâm bỏ ra đi được.
Tiết phu nhân nghe nói cũng thương tâm. Bảo Thoa khóc đến mê đi không biết gì cả. Khi đó bọn đàn ông đều ở nhà ngoài.
Vương phu nhân nói :
- Suốt đời tôi cứ phải lo sợ về nó. Nó vừa mới lấy vợ, thi đậu cử nhân. Tôi lại biết con dâu đã có thai, mới hơi vui mừng một chút. Không ngờ lại kết thúc như thế ! Nếu sớm biết vậy, thì không nên hỏi vợ cho nó, để khỏi làm hại đến con gái người ta !
Tiết phu nhân nói :
- Điều đó đã có duyên phận nhất định. Khuôn phép nhà chúng ta đây còn nói gì khác nữa. May mà cháu nó đã có mang, sau sinh ra đứa cháu, chắc sẽ làm nên, thế là tốt phúc. Chị thử xem mợ cả kia. Cháu Lan đã đậu cử nhân, sang năm đậu tiến sĩ. Thế không phải sẽ làm quan sao ? Mợ ấy trước kia đã chịu khổ, nay được sung sướng cũng là do mợ ấy đứng đắn tử tế. Con cháu nhà tôi, chị cũng đã biết, không phải là người khắt khe, nông nỗi, chị không cần phải lo nghĩ.
Vương phu nhân nghe Tiết phu nhân bàn giải một hồi, rất có lý, nghĩ bụng, “Bảo Thoa từ nhỏ đã có tính trầm tĩnh, ít hay ham muốn, rất thích giản dị mộc mạc, nên mới có việc như thế. Nghĩ lại người ta ở đời, đều do số mệnh định trước ! Ta xem Bảo Thoa dù khóc lóc, cũng vẫn giữ nguyên được vẻ đoan trang, lại còn trở lại khuyên ngăn ta nữa. Điều đó thực là hiếm có ! Không ngờ thằng Bảo Ngọc là người như thế, mà lại không được hưởng một chút phúc nào ở cõi trần.” Nghĩ một lúc, bà ta cũng thấy an tâm, rồi lại nghĩ đến phận Tập Nhân. “Nếu các a hoàn khác thì không có gì khó xử. Đứa lớn cho ra lấy chồng, đứa nhỏ cho ở lại hầu mợ Hai là được. Chỉ có Tập Nhân thì nên đối xử như thế nào đây ?” Bấy giờ đông người bà ta chưa tiện nói, đành đợi đến tối bàn với Tiết phu nhân.
Hôm đó Tiết phu nhân cũng chưa về nhà, sợ Bảo Thoa khóc lóc nên ở lại trong nhà chị ta để khuyên giải. Bảo Thoa là người rất hiểu lẽ, biết suy trước nghĩ sau, “Bảo Ngọc là hạng người kỳ dị. Kiếp trước duyên xưa, đã sẵn như thế. Không thể oán trách ai được.” Bảo Thoa lại đem việc đạo lý ra nói một lượt. Mọi người đều yên lòng . Chị ta lại còn đem những câu đạo lý thưa lại với mẹ. Tiết phu nhân cũng được yên tâm, liền đến phòng Vương phu nhân, thuật lại những câu nói của Bảo Thoa. Vương phu nhân gật đầu than :
- Nếu bảo là tôi không có đức, thì không đáng được người con dâu đứng đắn như thế .
Nói xong bà ta lại thấy đau lòng. Tiết phu nhân lại khuyên giải một lúc, rồi nhắc đến Tập Nhân, và nói :
- Tôi thấy Tập Nhân gần đây gầy quá, vì nó một lòng tưởng nhớ cháu Bảo. Nếu là vợ chính, thì theo lẽ phải thủ tiết, vợ lẻ xin thủ tiết cũng có. Tập Nhân tuy được xem như một người vợ lẻ, nhưng đối với cháu Bảo, danh phận chưa có gì rõ ràng cả.
Vương phu nhân nói :
- Tôi vừa nghĩ đến, đang muốn chờ dì để bàn định. Nếu cho về, sợ nó không thuận, lại đòi chết đòi sống ; muốn để nó ở lại cũng được, nhưng sợ ông lớn không nghe, cho nên việc này khó xử.
- Tôi xem chừng ông nhà cũng không muốn cho chị ta thủ tiết đâu. Vả chăng bác cũng chưa biết rõ việc Tập Nhân, cho rằng chẳng qua là một a hoàn. Lẽ nào lại ở lại ? Chỉ cần chị gọi người nhà nó đến, dặn dò kỹ lưỡng, bảo tìm cho nó một nơi tử tế, lại cho nó khá nhiều lễ vật hồi môn. Con bé ấy cũng khá, lại còn trẻ. Thế cũng khỏi uổng công nó theo hầu chị bấy lâu, và như thế là chị đối đãi tử tế với nó rồi. Còn về phần Tập Nhân, tôi sẽ khuyên bảo nó cặn kẽ. Dù khi người nhà đến, cũng chưa cần cho nó biết trước. Đợi lúc người nhà nó đã bàn định xong nơi tử tế, chúng ta cũng còn phải dò la xem, nếu quả là một nhà đủ ăn đủ mặc, thằng chồng lại ra dáng người, thì sẽ cho nó về.
Vương phu nhân nghe vậy nói :
- Dì nghĩ thế rất phải, nếu không thì ông lớn nhà tôi sẽ xử trí nông nỗi, thế chẳng phải là tôi lại làm hại một người nữa hay sao.
Tiết phu nhân nghe xong, gật đầu nói :
- Thực đúng như vậy.
Lại nói chuyện vài câu rồi từ biệt Vương phu nhân trở về phòng Bảo Thoa.
Tiết phu nhân thấy Tập Nhân khóc sướt mướt, liền khuyên giải một hồi. Tập Nhân xưa nay vốn thực thà, đâu phải là người lanh mồm lém mép, nghe Tiết phu nhân nói một tiếng thì cô ta dạ một tiếng, rồi thưa :
- Cháu là người bậc dưới, bà dì không xem thường cháu, mới nói với cháu những câu ấy. Lâu nay cháu không có việc gì dám làm trái ý bà.
Tiết phu nhân nghe cô ta nói, nghĩ thầm, “Thật là một con bé ngoan !” Trong bụng lại càng vui mừng.
Cách mấy ngày sau, Giả Chính về nhà, người nhà đều ra đón. Giả Chính thấy Giả Xá, Giả Trân đều đã về, anh em chú cháu gặp nhau, ai nấy cùng bày tỏ tình cảnh từ khi cách biệt. Sau đó đến lượt gia quyến vào chào. Nhắc đến Bảo Ngọc, mọi người đều thương xót. Giả Chính quát chặn đi và bảo :
- Đó là lẽ nhất định ! Từ nay ở bên ngoài chúng ta lo liệu việc nhà, ở bên trong các người cố sức giúp đỡ, nhất thiết không được bê trễ như trước nữa ? Việc các phòng thì nhà nào lo việc nhà ấy, không cần phải đặt người coi chung. Còn việc nhà chúng ta đây, bên trong đều giao cho bà Cả, cứ nên theo lẽ phải mà làm.
Vương phu nhân lại thưa rõ việc Bảo Thoa đã có thai, và nói :
- Rồi đây bọn a hoàn đều cho về cả.
Giả Chính nghe xong, giật đầu không nói gì.
Hôm sau Giả Chính vào triều xin các vị đại thần truyền bảo, và nói :
- Đội ơn hoàng thượng, tôi rất là cảm kích. Nhưng vì chưa hết tang, thì cách tạ ơn nên như thế nào, xin các vị chỉ bảo cho.
Các triều thần hứa sẽ thay mặt tâu lên để đợi chỉ vua. Ơn vua rộng rãi, cho vào bệ kiến. Giả Chính vào triều tạ ơn xong, hoàng thượng lại ban xuống nhiều đạo chỉ, và hỏi đến việc Bảo Ngọc. Giả Chính cứ thực tâu lên. Hoàng thượng cho là lạ, bèn truyền chỉ, “văn chương của Bảo Ngọc trong sáng ly kỳ, chắc mẩm anh ta có tiên duyên kiếp trước nên mới như vậy. Nếu còn ở lại trong triều, thì có thể bổ dụng ; nhưng đã không dám nhận chức tước của thánh triều, thì ban thường cho đạo hiệu Văn diệu chân nhân.” Giả Chính lại gục đầu tạ ơn rồi lui.
Khi về đến nhà, Giả Liễn và Giả Trân ra đón. Ông ta kể lại một lượt những việc trong triều, mọi người đều vui vẻ. Giả Trân lại thưa :
- Nhà cửa bên phủ Ninh đã thu xếp đâu vào đấy, rồi xin trình lại để dọn về ở. Còn am Lũng Thúy ở trong vườn, thì giao cho cô Tư làm nơi tu dưỡng.
Giả Chính không nói gì, hồi lâu mới dặn dò mấy câu về việc báo đáp ơn vua.
Giả Liễn lại nhân dịp thưa : .
- Việc hôn nhân của cháu Xảo, cha mẹ cháu đều bằng lòng gả cho nhà họ Chu.
Giả Chính hôm qua đã biết rõ đầu đuôi việc Xảo Thư liền nói :
- Hai bác làm chủ là được rồi. Đừng bảo người ở thôn quê không tốt, miễn là người ta thanh bạch, thằng bé biết lo học hành, làm nên danh phận là được. Các quan trong triều đình, không lẽ đều là người thành thị cả sao ?
Giả Liễn vâng dạ rồi lại thưa :
- Cha cháu đã có tuổi. Vả lại có sẵn chứng đờm, cần phải tĩnh dưỡng ít năm, mọi việc nhờ chú làm chủ cho.
Giả Chính nói :
- Nhắc đến việc về ở thôn quê tĩnh dưỡng, thì rất hợp ý ta, chỉ vì ta đội ơn vua rất nặng, chưa báo đáp được đấy thôi.
Giả Chính nói xong, vào nhà. Giả Liễn sai đi mời bà Lưu đến để nói về việc ấy.
Bà Lưu vào chào bọn Vương phu nhân, liền nói những chuyện sau này nào là được thăng quan, nào là nhà thịnh vượng, con cháu đông đúc... -
Đang nói chuyện thì a hoàn vào trình :
- Vợ anh Hoa Tự Phương vào hầu.
Vương phu nhân hỏi mấy câu. Vợ Hoa Tự Phương liền kể lại việc người bà con làm mối Tập Nhân cho nhà họ Tưởng ở phía Nam ngoài thành. Anh ta có nhà, có đất, lại có cả cửa hiệu nữa. Người chồng có lớn hơn vài tuổi, nhưng chưa hề lấy vợ. Vả lại vẻ đẹp của anh ta thì thực trăm người khó lòng được một.
Vương phu nhân nghe cũng bằng lòng, bảo :
- Cháu cứ về nhận lời đi, vài ngày nữa sẽ đến đây đón cô em cháu về.
Vương phu nhân lại sai người đi dò hỏi, họ đều nói thế.
Bà ta liền nói với Bảo Thoa, rồi lại nhờ Tiết phu nhân bảo riêng với Tập Nhân.
Tập Nhân khóc thương mãi, nhưng không dám trái lời, trong bụng nhớ lại năm nọ, sai khi Bảo Ngọc ra chơi nhà mình, chính mình đã nói dầu chết cũng không trở về nhà nữa, nay bà lớn đứng làm chủ, nếu mình ở vậy, thì sợ người ta bảo là không biết xấu hổ ; nếu bỏ ra về thì thực không đành lòng ? Rồi cô ta nghẹn ngào khóc, không nói ra lời. Tiết phu nhân và Bảo Thoa lại cố khuyên giải, cô ta mới nghĩ lại : “nếu mình mà chết ở đây, lại làm uổng mất lòng tốt của bà lớn, mình phải về chết ở nhà mới được”. Tập Nhân bèn nuốt tủi vái chào mọi người. Khi các chị em chia tay, tất nhiên càng đau xót. Tập Nhân lên xe với tấm lòng quyết chết. Đến khi về chào anh chị, cũng cứ khóc lóc, không nói nên lời. Hoa Tự Phương liền đem những lễ cưới của nhà họ Tưởng và những món tư trang mới mua sắm cho cô ta xem, rồi bảo :
- Vật này là bà lớn thưởng cho, vật là là ở nhà sắm lấy.
Tập Nhân càng khó nói. Ở nhà hai ngày, suy nghĩ lại, “anh mình xử sự cũng đúng, nếu mà chết ở trong nhà anh. Không phải là mình làm hại anh sao ?” Tính trước nghĩ sau, đằng nào cũng khó. Thực là ruột rối như tơ vò, hầu như đứt đoạn, đành phải nín nhịn chịu vậy. Đến ngày rước dâu, Tập Nhân vốn không phải là tay gan dạ, nên cứ lủi thủi lên kiệu ra đi, trong bụng nghĩ, hãy sang bên kia rồi sẽ liệu. Không ngờ về đến nhà chồng, thấy họ Tưởng sắp đặt rất là chu đáo, việc gì cũng theo lề lối cưới vợ chính. Vừa mới vào nhà, thì đàn bà con gái hầu hạ đều gọi là “mợ”. Tập Nhân khi ấy muốn chết ở đó, nhưng lại sợ làm hại người ta, uổng mất tấm lòng họ đối xử tử tế với mình. Đêm ấy cũng vẫn cứ khóc, không chịu thuận theo. Người chồng lại tỏ ra dịu dàng, chiù theo ý chị ta.
Đến ngày thứ hai, Tập Nhân mở rương ra, người chồng trông thấy cái thắt lưng màu đỏ, mới biết chị ta là a hoàn của Bảo Ngọc (2). Nguyên trước đây người chồng chỉ nghe nói cô dâu là người hầu của Giả mẫu, cũng không ngờ người ấy là Tập Nhân. Khi đó Tưởng Ngọc Hàm nhớ đến mối ơn của Bảo Ngọc đối với mình. Cảm thấy rất là hổ thẹn, nên càng âu yếm ; rồi cả ý đưa ra cái thắt lưng màu xanh hoa thông mà Bảo Ngọc đã đổi cho mình. Tập Nhân nhìn thấy, biết anh chàng họ Tưởng này chính là Tưởng Ngọc Hàm, mới tin rằng nhân duyên của mình đã định từ trước. Chị ta mới bày tỏ hết tâm sự của mình. Tưởng Ngọc Hàm cũng than thở kính phục, không dám cưỡng ép, lại càng tỏ ra dịu dàng thể tất, làm cho Tập Nhân muốn chết cũng không chết được nữa.
Bạn đọc, việc đời tuy có tiền định, không biết làm thế nào ; nhưng những kẻ con hiếu, tôi trung, chồng nghĩa, vợ tiết, không phải ai cũng đổ vì ba chữ “bất đắc dĩ” được cả. Vì vậy Tập Nhân mới ở trong “Hựu phó sách”. Đó chính như câu thơ người đời xưa khi đi qua Đào hoa miếu đã nói :
Khó nhất trên đời là cái chết.
Thương tâm đâu chỉ Tức phu nhân (3)
Tập Nhân từ đó lại ở trong một cảnh ngộ khác, không cần nhắc đến nữa.
Giả Vũ Thôn trước đây can án tham lam, yêu sách, đã xét rõ và định tội. Nay gặp lúc đại xá, được tha về làm thường dân. Vũ Thôn cho gia quyến đi trước, mình chỉ đem theo một tên hầu nhỏ và một xe đồ đạc. Đi đến cửa sông Giác Mê ở bến Cấp Lưu, vừa gặp một đạo sĩ từ trong lều cỏ bên bến đi ra, chắp tay chào.
Vũ Thôn nhận ra người ấy là Chân Sĩ ẩn, vội vàng chào lại, Sĩ ẩn nói :
- Giả tiên sinh, từ khi chia tay, vẫn mạnh khỏe chứ ?
- Té ra lão tiên ông đây là Chân lão tiên sinh, sau lần trước gặp nhau ngài lại tránh mặt không nhận tôi ? Sau nghe nói gian nhà cỏ bị cháy, tôi rất sợ hãi. Hôm nay may được gặp, càng thấy lão tiên ông là người đạo cao đức lớn. Chỉ vì kẻ quê hèn này là người hết sức ngu độn, không sửa đổi được chút nào, nên mới đến nông nỗi này!
- Khi trước người còn quan cao chức trọng, bần đạo đâu dám nhìn nhận ? Vì là chỗ bạn cũ, nên bần đạo mới dám tặng vài lời. Không ngờ ngài lại bỏ quên bần đạo! Nhưng mà mọi việc giàu sang may rủi, không phải là ngẫu nhiên. Hôm nay chúng ta lại được gặp nhau, thực là một chuyện lạ ? Ở đây cũng gần lều cỏ xin mời ngài vào lều nói chuyện một lát, không biết ý ngài thế nào ?
Giả Vũ Thôn vui vẻ nhận lời. Hai người dắt tay nhau đi. Tên hầu nhỏ đẩy xe theo sau. Đến một gian nhà tranh, Sĩ ẩn mời vào. Vũ Thôn ngồi xuống. Tiểu đồng bưng trà lên. Vũ Thôn hỏi về việc tiên ông siêu thoát ra ngoài cõi trần như thế nào.
Sĩ ẩn cười bảo :
- Chỉ trong ý nghĩ khác nhau là cõi trần đổi hẳn. Lão tiên sinh sống cảnh phồn hoa, có biết trong chốn giàu sang êm ấm có anh chàng Bảo Ngọc hay không ?
- Sao lại không biết ? Gần đây nghe tiếng đồn đại lung tung, bảo rằng anh ta cũng đã đem thân vào cửa Phật. Kẻ ngu muội này lúc trước cũng có gặp anh ta vài lần, nhưng không ngờ con người ấy mà lại kiên quyết từ bỏ được như thế.
- Không phải như vậy ! Cái căn duyên lạ lùng ấy, tôi đã biết trước. Năm xưa khi tôi cùng tiên sinh trò chuyện trước cửa ngôi nhà cũ trong ngõ Nhân Thanh, tôi đã gặp anh ta một lần.
Vũ Thôn lạ lùng hỏi :
- Kinh thành cách quí quán rất xa, sao lại gặp anh ấy được ?
- Chúng tôi giao du với nhau trên tinh thần đã lâu.
- Đã vậy thì hiện nay Bảo Ngọc ở đâu, chắc tiên ông biết rõ ?
Bảo Ngọc tức là viên bảo ngọc. Năm nọ, trước khi phủ Vinh và phủ Ninh bị khám xét. Bảo thoa và Đại Ngọc xa cách nhau, viên ngọc ấy đã ra khỏi cõi đời, một là để tránh khỏi tai vạ, hai là để nên đôi vợ chồng. Từ đó duyên nợ xong xuôi, hình và chất nhập lại làm một. Viên ngọc lại tỏ rõ linh thiêng, đậu cao, con quí, thế mới rõ đó là trời đất rèn đúc ra, khác hẳn mọi vật ở giữa trần gian. Trước kia Mang Mang đạo sĩ và Diễu Diễu chân nhân đem nó xuống cõi trần, đến nay duyên nợ đã hết, lại do hai vị ấy đem nó về chỗ cũ. Đó là nơi qui kết của Bảo Ngọc.
Vũ Thôn nghe xong, tuy không biết rõ hết cả, nhưng mười phần cũng hiểu được bốn năm, liền gật đầu than :
- Thế mà kẻ ngu dốt này không hiểu ! Nhưng tôi muốn xin tiên ông chỉ giáo cho điều này : Bảo Ngọc đã có lai lịch, tại sao lại còn mê mẩn vì tình ? Rồi lại ngộ đạo mau mắn như thế ?
Sĩ ẩn cười :
- Việc này nói ra chưa chắc tiên sinh đã hiểu hết. Cõi Thái-hư ảo cảnh, tức là cõi phúc “chân như”. Bảo Ngọc đã hai lần mở cửa sổ vận mệnh ra xem, những việc nguyên do từ trước đến sao đều thấy rành rành, thì làm gì mà không ngộ đạo ? Cây
giáng tiên đã về tiên giới, lẽ nào ngọc “thông linh” chẳng trở lại chốn xưa ?
Vũ Thôn nghe xong, vẫn không hiểu rõ, nhưng biết đó là việc tiên cơ, không tiện hỏi thêm, rồi lại nói :
- Về việc Bảo Ngọc, tôi đã được tiên ông dạy cho biết rồi. Nhưng còn con gái khuê các trong họ tôi nhiều đến thế, mà sao từ Nguyên phi trở xuống, người nào kết cục cũng chỉ bình thường thôi ?
Sĩ ẩn than thở :
- Lời nói của tôi, xin tiên sinh đừng lấy làm lạ, con gái trong họ ngài đều từ trong trời tình hiển khổ mà ra. Xưa nay con gái cố nhiên không thể mắc vào chữ “dâm”, mà cũng không được vấn vương đến chữ “tình” ! Cho nên Thôi Oanh, Tô tiểu muội, chẳng qua là tiên nữ vướng lòng trần ; Tống ngọc, Tương Như, đều hạng văn nhân mang vạ miệng. Những kẻ đã trót dan díu đến chữ tình, kết cục sẽ không đáng nói đến nữa ?
Vũ Thôn nghe đến đó, bất giác vuốt râu thở dài, rồi lại nói :
- Xin hỏi tiên ông ; hai phủ Vinh, Ninh còn có thể trở lại thịnh vượng như trước không ?
- Ở lành gặp phúc, dâm dục mang tai, xưa nay đã có lẽ nhất định. Hiện nay trong hai phủ Vinh và Ninh, người thiện tu phúc, người ác ăn năn tội lỗi. Sau này lan quế đua thơm, nghiệp nhà trở lại như trước, cũng là lẽ tất nhiên vậy.
Vũ Thôn gục đầu hồi lâu, rồi bỗng cười :
- Phải rồi, phải rồi ? Hiện nay trong phủ Giả có một anh tên là Lan đã đậu cử nhân, chính là ứng vào chữ “lan”. Vừa rồi tiên ông có nói “lan quế đua thơm”, lại nói Bảo Ngọc đậu thủ khoa và sinh quí tử”, có lẽ anh ta còn có đứa con trong thai, sau
này có thể phát đạt lên to chăng ?
Sĩ ẩn mỉm cười nói :
- Đó là việc về sau, không tiện nói trước.
Vũ Thôn còn muốn hỏi nữa, nhưng Sĩ ấn không đáp, rồi bảo người dọn cỗ mời Vũ Thôn cùng ăn, ăn xong, Vũ Thôn còn muốn hỏi việc chung thân của mình. Sĩ ẩn nói :
- Lão tiên sinh hãy nghỉ tạm trong lều cỏ này. Tôi còn mắc mối trần duyên, hôm nay phải gỡ cho hết.
Vũ Thôn lấy làm lạ hỏi :
- Tiên ông tu hành như thế, không biết vì sao lại còn mắc mối trần duyên ?
- Thì cũng chẳng qua là chút tình riêng con cái mà thôi.
Vũ Thôn nghe nói, lại càng lấy làm lạ :
- Xin tiên ông cho biết vì sao lại có câu nói ấy ?
- Tiên sinh chưa biết rõ, con gái tôi là Anh Liên. Hồi con nhỏ gặp phải kiếp xấu. Khi tiên sinh mới ra làm quan, đã từng xử việc này. Nay nó lấy anh chàng họ Tiết, gặp lúc sinh đẻ khó, nên đã thoát kiếp, sinh được một đứa cháu cho nhà họ Tiết để nối dõi. Chính bây giờ là lúc nó trút hết nợ trần. Tôi phải đưa nó đi.
Ông ta nói xong, liền vẫy ống tay áo đứng dậy.
Vũ Thôn trong bụng mơ mơ màng màng, rồi nằm ngủ luôn trong lều cỏ ở cửa sông Giác Mê nơi bến Cấp Lưu. Sĩ ẩn độ thoát cho Hương Lăng, rồi đưa chị ta đến Thái
Hư ảo cảnh, giao cho nàng tiên Cảnh ảo để ghi sổ. Khi ông ta vừa đi qua một cái nhà bia, thì thấy một hòa thượng và một đạo sĩ thoăn thoắt bước tới, Sĩ ẩn đón lại hỏi :
- Thưa hai vị chân nhân. Đáng mừng ! Đáng mừng ! Những mối tình duyên kết liễu đã giao lại xong xuôi chưa ?
Hai vị ấy nói :
- Tình duyên vẫn chưa xong, nhưng cái vật xuẩn ngốc ấy thì đã trở về rồi. Còn phải đưa nó về chỗ cũ, rồi ghi rõ những việc sau này của nó để không uổng công nó đã xuống cõi trần mấy lâu.
Sĩ ẩn nghe xong, vái chào tạm biệt Hòa thượng là đạo sĩ lại mang ngọc đến dưới núi Thanh Ngạnh, đặt viên bảo ngọc ấy ở chỗ Nữ Oa luyện đá vá trời, rồi đều vân du. Từ đó về sau :
Sách ngoài trời chép chuyện ngoài trời,
Người hai kiếp làm người một kiếp.
Một hôm, Không Không đạo nhân lại đi qua núi Thanh Ngạnh, trông thấy viên đá chưa dùng “vá trời” hãy còn ở đó, trên mặt nét chữ vẫn nguyên như cũ, liền xem lại một lượt từ đầu đến cuối thấy sau bài kệ lại ghi chép nhiều chuyện “duyên nợ đã trải qua ở dưới trần”, liền gật đầu than :
- Trước kia ta thấy đoạn văn lạ lùng của Thạch huynh, nghĩ rằng có thể đem làm chuyện lạ cho đời, nên ta sao chép lại, nhưng chưa thấy ghi rõ việc trở lại gốc cũ, không biết câu chuyện hay ho này được thêm vào lúc nào ? Thế mới biết Thạch
huynh xuống trần một lần, đã tỏa ra chất sáng lóa, rồi lại tu hành trọn đạo, cũng có thể nói là không còn ân hận gì nữa ? Chỉ sợ sau này ngày tháng trôi qua, nét chữ mờ đi không rõ, lại có sự gì sai lầm chăng. Chi bằng ta sao chép lại một lần nữa, rồi tìm một người thanh nhàn vô sự ở trên đời, nhờ họ truyền khắp, để cho người đời biết việc này lạ không ra lạ, tục không ra tục, thật không ra thật, giả không ra giả. Hoặc giả : “Cõi trần lật đật giấc mơ, đành phải mượn chim gọi lại. Thần núi say sưa mến khách từ nơi hóa đá bay về, cũng chưa biết chừng ?”
Đạo nhân nghĩ xong, liền sao chép lại, rồi mang đến những nơi phồn hoa thịnh vượng tìm hỏi một lượt. Nhưng trong các chỗ ấy, nếu không phải là những kẻ tính toán lập công lập nghiệp thì lại là hạng người chạy vạy lo áo kiếm cơm, có ai rảnh
rỗi đâu mà đi nói chuyện với viên đá ? Đạo nhân tìm mãi đến trong gian lều cỏ ở cửa sông Giác Mê nơi bến Cấp Lưu, thấy một người nằm ngủ. Chắc hắn ta là người rảnh rỗi, đạo nhân định đem chuyện Thạch đầu ký đã sao chép được cho hắn xem. Nào ngờ gọi mãi người ấy không tỉnh. Đạo nhân cố sức kéo. Hắn mới từ từ mở mắt ngồi dậy, rồi cầm lấy truyện ấy xem qua, lại đặt xuống nói : “Việc này tôi đã trông thấy và đã biết hết, bản sao chép của đạo nhân cũng không sai. Tôi xin chỉ cho đạo nhân một người, rồi nhờ người ấy truyền ra, thì có thể kết thúc được cái án mới mẻ này.”
Không Không đạo nhân vội hỏi là người nào. Người ấy nói :
- Đạo nhân phải đợi cho đến năm nọ, tháng nọ, ngày nọ, đi đến một chỗ gọi là hiên Điệu Hồng, sẽ thấy ở đó có ông Tào Tuyết Cần, và bảo rằng : “Giả Vũ Thôn nói nhờ ông ta như thế như thế.”
Người trong lều nói xong, lại nằm xuống ngủ.
Không Không đạo nhân ghi nhớ kỹ những lời nói ấy. Sau đó không biết trải qua mấy đời mấy kiếp, quả thấy có hiên Điệu Hồng, và Tào Tuyết Cần đang ở đấy giở xem những sách cổ sử xưa nay. Không Không đạo nhân liền thuật lại câu nói của Giả Vũ Thôn rồi đem truyện Thạch đầu ký ra. Tào Tuyết Cần cười bảo :
- Quả thực là Giả Vũ Thôn nói rồi ! (4)
Không Không đạo nhân liền hỏi :
- Tiên sinh vì sao biết được người ấy, mà chịu truyền thuật truyện này thay cho ông ta ?
Tào Tuyết Cần cười nói :
- Người ta gọi ngài là Không Không, quả nhiên trong bụng không có gì cả ! Truyện này toàn là câu chuyện thêu dệt, thì cất sao khỏi những chỗ sai lầm, mâu thuẫn, chỉ để khi cơm no rượu say, đêm mưa đèn sáng, sẽ cùng mấy người chung chí hướng đọc với nhau, làm tiêu tan những nỗi hiu quạnh là được. Chứ cần gì phải có những bậc đại nhân bình phẩm và truyền khắp trên đời. Còn như ngài muốn dò xét từ ngành ngọn thì thật hết sức câu nệ. Chẳng khác “vạch vào thuyền để tìm gươm, gắn phím để gãy đàn vậy ? “
Không Không đạo nhân nghe xong, ngửa mặt lên trời cười to rồi vứt bản sao lại, vùn vụt ra đi, vừa đi vừa nói :
- Té ra toàn là chuyện bày đặt viễn vông cả ? Không những người làm không biết, người chép không biết, mà cả người đọc cũng không biết nữa. Chẳng qua chỉ là thứ văn chương du ký, để cho thích thú tính tình mà thôi.
Nhưng ráng chiếu cố một đoạn nữa, vì những câu thơ ghi nhớ sẽ hiểu rõ hơn.
Người đời sau thấy bản truyền kỳ này, cũng đã viết bốn câu kệ, để bổ sung vào những lời nói từ đầu của tác giả.
Nói đến nỗi chua cay,
Hoang đường lại buồn thay.
Xưa nay đều cảnh mộng,
Chớ bảo người đời ngây.
Chú Thích :
1. Ý nói theo lệ lương tháng của bọn vợ lẻ, mỗi tháng hai lạng.
2. Việc Tưởng Ngọc Hàm tặng thắt lưng cho Bảo Ngọc và Bảo Ngọc đưa thắt lưng ấy cho Tập Nhân, xin xem lại hồi thứ 28.
3. Sở Văn Vương lánh nạn, vợ vua nước Tần, Tức phu nhân bị bắt về làm thiếp, sinh được hai con. Sở Văn Vương hỏi phu nhân, sao vẫn không chịu nói năng gì. Phu nhân nói : “ Tôi là một người đàn bà đã phải lấy hai lần chồng, chỉ còn khác một cái chết, có gì đáng nói nữa?” Đời sau tôn là Đào Hoa phu nhân, lập miếu thờ phụng.
4. Cũng như chú thích ở hồi một. Chữ “ Giá ngữ thôn ngôn “ (nói bịa) với “Giá Vú Thôn ngôn” (Giá Vũ Thôn nói) đọc giống nhau. Tác giả lấy chữ “Giả Vũ Thôn ngôn” thay cho “Giá ngữ thôn ngôn”, chữ nọ đánh ra chữ kia.
Trọn Bộ
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top