Hờn Vong Quốc

Hờn Vong Quốc

Tác Giả: Huỳnh Dung

Nguồn: Sưu Tầm

Ebook: kiemgioi.com

TIỂU THUYẾT DÃ SỬ KIẾM HIỆP KỲ TÌNH VIỆT NAM

(Thời An Nam vong quốc, đô hộ bởi nhà Minh/Trung Hoa vào năm 1414 – 1427)

 Tựa: Lời phi lộ

Đây là một câu chuyện hoàn toàn giả tưởng, dựa theo một số dữ kiện lich sử (phần có chú thích). Phần giả tưởng lấy nỗi lòng của người Việt thời hiện tại mà viết ra.

Mục đích của tôi vừa nhắc nhở đồng bào hải ngoại những trang lịch sử oai hùng của dân tộc đánh đuổi quân xâm lăng thuở xưa, vừa ghi chép lại những gì xảy ra ngày nay, để lưu vào lich sử ngàn sau.

Ngoài ra cũng để cống hiến độc giả «cái lý thú trọn vẹn» khi đọc một câu chuyện Việt Nam, với những thần tượng vẫy vùng trên đất địch, đã làm những việc «kinh thiên động địa», đối lại những thần tượng anh hùng trong chuyện Tàu hay kiếm hiệp Trung Hoa, mà hầu hết độc giả Việt Nam si mê, (dĩ nhiên có cả tôi).

Thường khi đọc xong một câu truyện dịch Trung Hoa, tôi si mê những nhân vật anh hùng đánh Nam dẹp Bắc, bỗng tưởng tượng vị anh hùng ấy có thể là những người hùng khuấy động trên quê hương nhỏ bé của chúng ta, mà trong sách Tàu gọi là «rợ phương Nam»!

Tôi thẫn thờ dở trang sử của nước nhà… xem thời Bắc thuộc lần thứ 1, 2, 3… từ đời Hán, Tống, Tề, Lương, Đường, Minh… Các vi Vua đem lại thái binh thịnh vượng cho dân tộc Trung Hoa, thì ở An Nam điêu đứng khổ nhục trăm chìu bởi hoạ xăm lăng.

Tôi đau nhói ở tim và « thần tượng Hán tộc »trong sách Tàu bỗng dưng mất hẳn trong lòng tôi, làm cho nỗi lý thú khi đọc truyện bị giảm đi, hay không còn nữa!

Thế nên, để cho thần tượng trong lòng được tồn tại vĩnh viễn và cái lý thú trọn vẹn khi đọc sách, tôi quyết tạo thần tượng cho tôi:

«Thần tượng hoàn toàn Việt Nam».

Hy vọng rằng câu chuyện của tôi sẽ giúp cho bạn đọc những giờ phút khoan khoái khi đọc, vừa để nhớ quê hương, nhớ đến dòng sử oai hùng... Và có những hãnh diện dân tộc.

Huỳnh Dung

Tham khảo những tài liệu sau đây:

Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim.

Sử Trung Hoa (bản dịch) của Phan Khoang

Histoire de l’Asie của René Grousset

L’histoire de la Chine của Otto Ladstätter và Sepp Lienhard

Tài liệu về Angkor (Đế Thiên Đế Thích) của Robert Davreu

Tài liệu về Xiêm, Chiêm Thành, Chân Lạp, Lão Qua của Dr John Villers (Südostasien vor der Kolonialzeit)

Tài liệu của giáo sư Nguyễn Ngọc Huy và nghĩa phụ Hồ Yêm

Lưu ý: Trong truyện có những nhân vật có thật và những nhân vật tưởng tượng, cững như những địa danh thật và những địa danh tưởng tưọng.

 Chương 1 : Thục nữ ra tay giết Hồ

Lúc bấy giờ vào khoảng cuối năm bính Tuất (1406) tức Hồ Hán Thương ngũ niên, ngoài biên cương quân nhà Minh bên Tàu đã tràn xuống nước ta đánh chiếm các cửa ải [1]. Quân Hồ thua to phải bỏ chạy về trấn thủ thành Ða Bang [2]. Khí thế quân Minh rất là dũng mãnh, đánh đâu thắng đó.

Tình hình phương Bắc vô cùng khẩn trương!

Phương Nam vẫn còn đắm chìm trong khung cảnh tịch mịch vắng lặng của một sự đợi chờ...

Trên giòng Lỗi Giang [3] xuôi về miền Thanh Hóa có một con thuyền buông xuôi mái chèo. Cô lái đò đã ngưng tiếng hát từ lâu. Trên sông bây giờ chỉ còn nghe tiếng rẽ nước của con thuyền lướt nhẹ trên làn lau sậy và tiếng bì bõm thật khẽ của chiếc dầm bơi.

Trời chiều thật êm.

Gió ngàn phương dường như ngưng thổi, để lại cho không gian một sự im vắng ngộp thở…

Thuyền tấp vào một nơi lau sây sầm uất, cô lái đò dùng mái chèo đập trên mặt nước ba cái thật khẽ… Từ trong mui xuất hiện hai chàng thanh niên mặc dạ hành, phóng lên bờ.

Bỗng nghe có tiếng động nơi lùm cây gần đó… Một người đi ra tay dắt hai con tuấn mã. Người này đầu đội nón lá lụp sụp, mặc chiếc áo vải thô màu đen như nhà nông, chấp tay xá chào hai chàng thanh niên và trao dây cương, sau khi thì thầm vài câu.

Trong nháy mắt đôi kỵ mã lao mình vút đi. Người nông phu cũng cất bước và con thuyền từ từ rời bến…

Bấy giờ trên sông tiếng hát lãnh lót của nàng thôn nữ ngân lên, vang dội một vùng!

Một lúc sau đôi kỵ mã dừng cương trước một ngôi nhà ngói đỏ nằm kín đáo bên lũy tre xanh, thuộc ngoại ô tỉnh Thanh Hóa.

Hai chàng thanh niên buộc ngựa nơi lùm cây và bước tới cửa gõ hai tiếng «cạch cạch». Phút chốc cửa mở.

Một người đàn ông lú mặt ra, mừng rỡ reo lên:

A! Nhị vị công tử đã tới! Mời vào.

Khách vừa lách mình vào trong, chủ nhà đã hấp tấp cài then. Trời bên ngoài chưa tối, song cửa đóng kín mít nên bên trong phải thấp đèn.

Qua ánh sáng mờ ảo của ngọn đèn dầu hiện ra hai gương mặt thật tuấn nhã, mặt, mũi, miệng …chi chi cũng giống nhau như đôi giọt nước. Chủ nhà lên tiếng:

- Xin lỗi! Tôi gặp nhị vị công tử mấy lần nhưng vẫn không tìm ra khác biệt! Chàng thanh niên mặc dạ hành màu đen cười nhẹ:

- Tôi là huynh trưởng tên Trường Sơn, nhị đệ tôi tên Trường Giang. Chàng thanh niên mặc dạ hành màu xanh thẵm cũng cười, tiếp lời:

- Trong gia đình tôi, ai ai cũng đều lầm lẫn anh em tôi, huống hồ là lão bá?

Vị chủ nhà họ Dương tên Trang Tấn. Khi xưa là tay võ tướng đánh Nam dẹp Bắc dưới triều vua Trần Nghệ Tông và cũng là quan dưới trướng của Kim Ngô Ðại Tướng quân Nguyễn Trường Hân, thân sinh của hai vị công tử này.

Từ khi Hồ Quí Ly chuyên quyền, rồi thoán ngôi nhà Trần, các quan trong triều có người chán nản xin về trí sĩ, có kẻ bất phục chiêu binh mãi mã chiếm cứ một vùng, sống đối lập với triều Hồ.

Dương Trang Tấn không may bị tai nạn, một chân mang tật, không đi đứng được bình thường nên đành sống cuộc đời bất động bên ruộng sắn nương khoai nơi thôn Dạ Lý này, thuộc ngoại ô Thanh Hóa.

Trái lại Nguyễn Trường Hân tuy đã ngoài ngũ tuần, song thân thể còn cường tráng, tánh tình bất khuất, không chấp nhận chế độ nhà Hồ, nên đưa gia quyến về ẩn náu ở miền rừng núi cao nguyên Mường Lai, tận biên thùy Lão Qua, bên

cạnh Lỗi Giang, ngày ngày thao luyện võ nghệ, tuyển mộ binh lính, chờ dịp đưa quân về Thanh Hóa tiêu diệt quân Hồ.

Nguyễn Trường Hân lập gia đình năm 30 tuổi và có hai quí tử song sinh đã được 21 tuổi. Cả giống nhau như hai giọt nước từ hình hài đến giọng nói. Trường Sơn ra trước làm anh, tuy con trẻ mà đã là một tay kiếm khách tuyệt luân, có sức mạnh địch muôn ngừời. Thật đáng mặt anh hùng xuất chúng!

Ngược lại Trường Giang quyết không theo nghiệp cha, lại thề nguyền không rờ mó gươm đao. Suốt ngày chàng miệt mài với sách vỡ… Cái học, cái biết, của chàng thật mênh mông vô tận, vời vợi như mây, sâu xa như biển ...Thật là một nhân vật phi thường hiếm có trên thế gian!

Ngoài cái học uyên bác, chàng còn có đặc tài về ăn nói. Lời của chàng phát ra không những thu phục nhân tâm người nghe, mà còn chứa chất cả một sức mạnh vô hình, khiến ai cũng phải kiêng nể.

Đương nhiên một kẻ học rộng biết nhiều, thứ chi cũng nghiên cứu, thì các môn «cầm kỳ thi họa» chàng phải sở trường.

Năm lên 11 tuổi, Trường Giang theo thân phụ vào triều kiến Thượng Hoàng Nghê Tông, lúc ấy đang nằm trên giường bệnh [4]. Thượng Hoàng sợ mình không còn sống bao lâu nên cho vời các danh họa trong nước tới hoàng cung vẽ chân dung mình, để lưu lại cho con cháu. Trường Hân biết con mình có thiên tài nên đưa con đến trình diện Thượng Hoàng.

Kết quả thì chàng hoa sĩ tí hon đã qua mặt các họa sĩ lừng danh thời ấy với bức chân dung của Nghệ Tông. Nét vẽ thật linh động, trông như người thật, khiến cho bà Hoàng Thái Hậu vô cùng xúc động. Sau đó Thượng Hoàng bảo vua Thuận Tông ban thưởng chàng họa sĩ một cây bút lông cán vàng, có khắc bốn chữ: «Thần Ðồng Nam Quốc».

Hai anh em Trường Sơn Trường Giang mỗi ngày một lớn hình vóc như in, song tánh tình hoàn toàn khác biệt.

Trường Sơn hào hùng khí phách… Ðúng là con nhà võ! Trái lại Trường Giang hòa nhã ôn nhu, phong tư thư thái của một học giả.

Ngày ngày Trường Sơn cùng cha và bọn gia binh thao luyện võ nghệ cung kiếm …thì Trường Giang làm bạn riêng tư với sách vỡ, nghiên cứu tất cả tinh hoa của trời đất, của thế nhân.

Chàng thông suốt khoa thiên văn địa lý, lại làu thông cả văn hoá lịch sử và ngôn ngữ các nước lân bang. Nói tóm lại, việc chi chàng cũng sưu tầm học hỏi, ngoại trừ võ nghệ và cung kiếm!

Bị áp lực gia đình vốn chuộng võ nghiệp, chàng vẫn cương quyết nói:

- Xin song thân đừng ép con phải lấy gươm đao làm bạn. Làm trai ai cũng có chí lớn và quyết đem tài năng phục vụ cho tổ quốc. Nếu như gia huynh con có thể vung gươm giết kẻ thù, thì con cũng có thể dùng trí tuệ mà hủy diệt kẻ thù. Sức mạnh tinh thần nếu đem sánh với sức mạnh của vũ khí, ắt phải có phần hơn!

Lý luận của chàng tuy có sắc bén và đánh đổ được thành kiến chuộng võ bài văn của cha mẹ và huynh trưởng, song vẫn làm cho mọi người lo âu. Vì giữa thời đại nhiễu nhương ly loạn, con người không biết võ nghệ, không có vũ khí trong tay, làm sao giữ được thân? Làm sao chống nổi bạo quyền?

Trường Sơn thấy em khư khư từ chối, không chịu học tí võ phòng thân thì lấy làm lo. Tuy nhiên chàng nghĩ:

- Em ta có trí tuệ thông minh tuyệt đỉnh, dù nó gặp hoàn cảnh khó khăn nào, chắc cũng xoay sở được!

Trong nhà ai cũng lo lắng cho cậu quí tử này, mà ai cũng hãnh diện về cậu quí tử này! Gần như mọi việc quan trọng trong ngoài… song thân chàng đều hỏi qua ý kiến của chàng.

Với phong tư tao nhã, trí tuệ tuyệt vời và tài ăn nói thu phục lòng người, chàng đi đâu cũng gây được cảm tình. Chàng thích giao tình kết bạn, nên tri kỷ tri âm khắp nơi.

Trường Sơn thương và phục em hơn hết. Lúc nào xa cách thì thôi, khi gặp mặt anh em vô cùng khắn khít, ý hợp tâm đầu.

Lý tưởng chung của họ cũng là lý tưởng của những con người ái quốc, khi nước mất nhà tan phải hy sinh thân thế để rửa thù cho nhà, rửa hận cho nước.

Từ khi bọn Hồ nắm quyền cai trị, gieo rắc bao đau thương khốn khổ cho dân lành. Nào là sưu cao thuế nặng, nào là không còn quyền sống tự do… Cả ngày làm lụng cực nhọc ngoài đồng áng, mà quanh năm suốt tháng không có gạo ăn. Bao nhiêu hoa màu triều đình Hồ cho bọn đồ đệ chó săn đem quân xe tới hốt không còn một mống!

Lúa vừa lú ngọn, quân binh đã tới canh chừng. Gia súc nuôi trong chuồng chưa kịp lớn, chúng đã đưa quân tới lùa. Cây trái trong vườn hãy còn xanh đã phải chui vào xe bọn quan quyền. Vườn sắn nương khoai mới đó đã bị tan hoang!

Kẻ nào chống đối sẽ bị vào tù. Nhà tù mọc ra như nấm! Cho tới nhà dạy trẻ của các thầy đồ cũng biến thành nhà tù. Chùa miếu nếu không biến thành nhà tù thì cũng bị phá vỡ.

Thật trãi qua bao thế hệ vua chúa từ khi lập quốc Hồng Bàng đến Ðinh, Lê, Lý, Trần... Chưa có chế độ nào trị dân bằng cái kiểu cướp của bốc lột dân, lấy chính sách dã man làm phương châm trị quốc [5].

Trước tình cảnh như thế, dân chúng phải bỏ nhà ra đi đào nạn ở các nước láng giềng. Kẻ ở lại vào rừng lập chiến khu. Trong nước loạn lạc nổi lên khắp nơi. Dân gian ai cũng muốn vùng lên tiêu diệt triều Hồ.

Hai anh em Trường Sơn và Trường Giang xót xa trước niềm đau của dân tộc nên dốc lòng lo việc cứu quốc.

Ðêm trước Nguyễn Trường Hân cùng vài cận tướng và hai con bàn một kế hoạch tốc hành…

Nguyên khi hay tin quân Minh tràn qua biên thùy đánh chiếm các cửa ải một cách dễ dàng, chỉ vì triều đình Hồ không được lòng dân. Quân Minh dựa vào thế đó đi đến đâu cũng hô hào giải phóng dân tộc An Nam. Dân quân ta vì quá ghét Hồ mà buông gươm buông giáo, mặc cho quân ngoại bang tràn vào quê hương.

Trước tình thế đó, Nguyễn Trường Hân thấy không thểchần chờ việc tấn công triều đình Thanh Hóa. Ông nghĩ rằng cần phải diệt gấp triều đình thối tha hiện hữu, rồi nắm binh quyền trong tay mà chống lại quân ngoại xâm.

Vì tình hình khẩn trương nên Nguyễn Trường Hân quyết định cho hai con cấp bách đột nhập cung vi. Trường Giang có bổn phận vẽ bức họa đồ của nội thành, ghi rõ những chỗ yếu.

điểm của cẩm vệ quân, để Nguyễn Trường Hân lập kế hoạch tấn công. Trường Sơn đi theo giữ an ninh cho em.

Thế nên chuyến đi của anh em họ chiều này vô cùng trọng đại và giữ hết sức bí mật, với sự hổ trợ của Dương Trang Tấn.

Thấy hai chàng công tử vẫn chưa chịu ngồi xuống ghế, chủ nhà nói:

- Để tôi vào nhà trong bảo bọn trẻ dọn bữa ăn qua loa cho nhi vị trước khi đi... Trường Sơn vội vàng ngắt lời:

- Xin lão bá gấp sữa soạn ra đi cùng chúng tôi trước khi trời tối, vì nhị đệ không thể vẽ trong bóng đêm. Mình cần lẻn vào giờ họ ăn cơm chiều, sự canh phòng sẽ lơ là hơn.

Dương Trang Tấn nghe nói hấp tấp bỏ chạy vào nhà trong, chớp mắt trở ra với bộ y phục nát bét, trên vai có đeo một túi vải vá víu nhiều chỗ, tay cầm gậy.

Cả ba tức khắc rời khỏi gian nhà cùng với đôi tuấn mã nhắm hướng Tây Bắc Thanh Hóa phi nước đại…

Chốc sau ngựa đi vào con đường ngoằn ngoèo tối om, lau sậy mọc vút khỏi đầu, mênh mông như rừng hoang.

Bấy giờ trước mắt họ hiện ra bức tường dài hun hút. Cả ba xuống ngựa dắt bộ một đỗi đến con đường mòn cạnh chân tường. Trường Sơn rỉ nhỏ vào tai em và Dương Trang Tấn mấy lời… rồi tung mình vào trong thành nhẹ nhàng như chiếc lá rơi.

Dương Trang Tấn trông theo mỉm cười, đưa mắt nhìn Trường Giang, ngụ ý vô cùng khâm phục thế phóng qua tường của Trường Sơn. Trường Giang gục gật đầu, bảo khẽ:

- Võ nghệ anh ấy ngày nay xuất chúng lắm. Riêng tôi không biết tí gì! Cũng may hàng ngày tôi có tập chạy nhảy cho thân thể cường tráng, mà gặp bức thành này không đến nỗi chào thua.

Lúc ấy bỗng có tiếng mèo kêu vang lên. Trường Giang chấp tay xá chào Dương Trang Tấn, rồi cũng nhún mình phóng qua thành.

Dương Trang Tấn đứng im lắng nghe động tỉnh một lúc mới dắt đôi ngựa đến giấu nơi bụi chuối um tùm gần đó, rồi tới ngồi tựa lưng nơi vách thành nhắm mắt ngủ…

Xem ông không khác gì một hành khất vô gia cư tìm chỗ nghỉ lưng!

Trong khi đó anh em Trường Sơn đang len lỏi giữa khu vườn đào. Đào nơi đây trồng san sát, thành hàng dày kín, lá cành sầm uất, bít cả lối đi.

Chợt có một cơn gió thoảng qua cùng với hương thơm ngào ngạt. Hai anh em Trường Sơn nương mình theo hướng gió… Chẳng mấy chốc trước mắt họ hiện ra rừng hoa đủ loại, trăm màu nghìn sắc, hương bay nồng nực tỏa ngát một vùng.

Chính giữa rừng hoa có một hồ sen nho nhỏ, một chiếc tiểu kiều có thành cầu hình bán nguyệt bắc ngang, để đi qua bên kia là một hòn sơn giả với thác nước nhân tạo chảy róc rách, làm cho khung cảnh vô cùng nên thơ.

Từ khu hoa viên có hai con đường lát đá dẫn về hai dãy hành lang có nốc. Mà đầu đàng kia là tòa lầu các diễm lệ nguy nga.

Thỉnh thoảng có vài tên cấm binh cầm thương đao sáng quắc đi tới đi lui nơi dãy hành lang.

Hai anh em Trường Sơn đứng núp nơi hòn non bộ dò xét tình hình… Trường Giang lo ngúy ngoáy vẽ họa đồ.

Bỗng hai anh em thấy nơi hành lang bên tả có bầy cung nữ độ 20 cô, tuổi độ 15,16, xiêm y lộng lẫy, trên tay người nào cũng có cầm một bó hoa sen.

Trường Sơn bấm tay em kéo đi về hướng đó… Cũng may giờ ấy là giờ cơm chiều, các phiên gác cũng lơ là, nên hai anh em họ Nguyễn không gặp trở ngại nào.

Bầy con gái không hay biết có kẻ mon men phía sau, cười nói vang rân:

- Bữa này chúng mình vũ một vũ khúc mới, chắc Thượng hoàng phải vừa lòng.

- Thượng hoàng chỉ mê nàng Huỳnh Như, chứ đâu thèm để ý đến bọn mình!

Trường Sơn và Truờng Giang đi phía sau, nghe câu chuyện của họ thì đoán chắc bọn này đi hát múa làm vui cho Quí Ly, nên càng theo họ bén gót.

Khi đoàn cung nữ bước vào tòa nhà khép cửa lại, hai anh em Trường Sơn liền nép mình nhìn vào lỗ hẻ, chú mắt trông vào…

Trời bên ngoài chưa tối, song bên trong đèn đốt sáng rực. Gian phòng to lớn như một cái đình. Tường vách sơn son thếp vàng, trình bày cực kỳ diễm lệ. Có điều phòng để trống không, chẳng thấy bàn ghế vật dụng chi, ngoài chiếc giường hình thù như cái Ngai Vua.

Trên giường có hai nàng con gái thật đẹp, ăn mặc hở hang, ngồi tựa lưng nơi thành giường, đôi chân hơi duỗi ra để làm gối cho một người nửa nằm nửa ngồi.

Người ấy là một lão già thân hình gầy yếu, râu tóc bạc phơ, gương mặt nhọn choắt choắt.

Một người con gái khác quỳ cạnh chân giừờng, hai tay nâng mâm thức ăn đầy rượu thịt hoa quả... Hai cô gái ngồi trên giường, một cô rót rượu dâng lên, một cô gắp thịt bỏ vào miệng lão già…

Bầy con gái mới vào mọp đầu xuống tung hô: «Thượng Hoàng vạn tuế», khiến hai anh em Trường Sơn chấn động tâm thần, vì biết đó là tên gian tộc cướp nước Hồ Quí Ly!

Trường Sơn giận run, nói:

- Giặc ngoại bang đã dày xéo quê hương, lão già này còn ở đây lo hưởng thụ bên cạnh gái đẹp! Anh phải cho lão một nhát kiếm cho xong đời một kẻ gây họa cho dân! Chàng nói vừa xấn bước tới, ý chừng muốn tông cửa xông vào… Trường Giang kinh hoảng níu tay anh, bảo sẽ:

- Gia huynh đừng nóng tính mà hư việc! Bổn phận chúng ta tới đây không phải để giết lão. Việc đại sự phải có kế hoạch hẳn hòi, chớ không thể hành động trong một phút bốc đồng.

Nghe lời can gián của em, Trường Sơn đứng nép mình trở lại chỗ cũ, song bàn tay còn run rẫy trong tay em vì cơn bực tức chưa nguôi.

Lúc bấy giờ bầy vũ nữ đã bắt đầu múa hát. Lớp xiêm y lộng lẫy cùng với đai lụa ngũ sắc phất phơ… Trông các nàng không khác gì đàn bướm nhỡn nhơ bay lượn ...

Già Hồ dường như không để ý đến bọn con gái múa hát trước mắt. Thần sắc lão có vẻ xốn xang khó chịu như trông đợi một ai?

Ðiệu vũ vừa dứt, bỗng nghe một tiếng «két»... Cánh cửa từ phòng bên mở ra. Lão Hồ ngồi bật dậy, đôi mắt hau háu, nét mặt hớn hỡ. Lão khoát tay ra lệnh bọn vũ nữ đứng vẹt qua, để nhường chỗ cho một người từ phòng bên kia đi ra ...

Mọi con mắt đồng chiếu về hướng ấy, kể cả anh em Trường Sơn.

Gian phòng vụt im phăng phắc. Không ai dám buông hơi thở mạnh vì sợ làm tiêu tan hình ảnh siêu phàm thoát tục của giai nhân xuất hiện trước mắt họ.

Người con gái mới đến cực kỳ diễm lệ, song đôi mắt buồn da diết. Nàng chỉ hơi nghiêng mình làm lễ, chớ không dập đầu tung hô Thượng Hoàng.

Già Hồ nhìn nàng ngây dại một lúc mới tỉnh cơn mê.

Lão run run nói:

- Sao giai nhân để ta chờ lâu quá vậy? Ta cứ lo sợ giai nhân đau bệnh chưa dứt. Nàng ấy không đáp, chỉ hơi nhếch môi cười. Một nụ cười hết sức chua chát gượng gạo. Lão Hồ lại hỏi:

- Bữa nay nàng có thể cho ta thưởng thức khúc Nghệ Thường được không?

Thiếu nữ vẫn không trả lời, song gật đầu tỏ ý vâng chịu. Nàng bắt đầu điệu vũ...

Hai tay nàng vung vẫy hai giải lụa màu trắng, nàng mặc chiếc áo màu thiên thanh tay rộng, thân hình ẻo lã, lúc ẩn, lúc hiện... Giải lụa phất phơ như mây bay, như gió vờn, vô cùng ngoạn mục!

Bỗng dưng nàng cất tiếng hát… m thanh réo rắt du dương như ru hồn người vào bến mộng bờ mê nào...

Già Hồ như con người bằng gỗ, không cử động, không nhúc nhích, thần hồn điên đảo, nửa tỉnh, nửa say...

Thình lình trong tay áo rộng của nàng mỹ nữ có một vật sáng bay ra như một ánh sao xẹt.

Ánh sao ấy chỉ là một thanh đao nhỏ, mỏng như lá liễu, sáng ngời, cấm phập trên phần ngực nỏn nà phơi bày của một trong hai cô gái ngồi làm gối cho lão Hồ.

Nàng ấy chỉ kịp rú lên một tiếng rồi ngã xuống giường lăn lộn giẫy chết trên vũng máu. Người con gái ngồi bên cạnh quá kinh hãi cũng bất tỉnh ngã theo. Bọn vũ nữ trong phòng hồn vía không còn, xô nhau chạy… Có kẻ đứng một chỗ thét la inh ỏi.

Già Hồ bấy giờ mới tỉnh mộng, phóng khỏi giường la thất thanh:

- Quân bay đâu! Bắt thích khách! Bắt thích khách!

Mỹ nữ vẫn đứng nguyên một chỗ, nét mặt thật trầm tĩnh, không sợ hãi, cũng không bỏ chạy. Nàng ngước mặt lên trời than nhỏ:

- Ôi, vận nước suy vi! Thanh đao của ta đã không giết được kẻ thù của dân tộc! Huỳnh Như này hôm nay đành phải chết tại đây!

Nàng dứt lời bước tới mấy bước… rút thanh đao đang cấm trên ngực cô gái nạn nhân ra. Máu văng tung toé vào người nàng. Mặt nàng nhợt nhạt lạnh lùng, dí mũi đao vào ngực mình đâm mạnh một nhát...

Tác động của nàng thật bất ngờ và thật nhanh ! Nhưng cũng không nhanh bằng một người từ ngoài cửa xông vào như một cơn gió lốc.

Người ấy tước thanh đao trên tay mỹ nữ, ôm nàng chạy bay ra hướng vườn Thượng Uyển…

Người ấy không ai khác hơn là Trường Sơn!

Mới đầu chàng thấy bọn cung nữ múa hát làm trò vui cho già Hồ, trong lòng lấy làm bực tức. Nếu không có Trường Giang bên cạnh níu giữ lại, chàng đã xông vào giết hết cả lũ cho đã giận.

Bất ngờ sự xuất hiện của Huỳnh Như có vẻ lạ lùng. Kế đó hành động thích khách của nàng khiến anh em chàng sững sờ kinh hãi chưa kịp có phản ứng nào?

Ðến khi thấy Huỳnh Như quyết tìm cái chết, hai anh em Trường Sơn không chần chờ nữa, tông cửa xông vào giải cứu.

Trường Sơn nhanh chân lẹ tay hơn em, giựt được thanh đao trong tay Huỳnh Như. Mũi đao đã ghim vào da thịt, tuy không đến nỗi sâu, song máu đổ khá nhiều. Nàng nằm quằn quại trên đôi tay chàng không khác gì một cánh hoa vật vờ trước gió.

Bấy giờ cung vi náo loạn. Bọn vệ binh ùn ùn kéo đến, hò hét rượt theo anh em Trường Sơn. Ðường trong hoa viên khúc chiết, vướng bận bởi khóm hoa bụi kiểng không chạy nhanh được, do đó binh Hồ mỗi lúc một xáp gần…

Thấy thế nguy, Trường Sơn trao thiếu nữ cho em, bảo:

- Hiền đệ hãy đưa nàng ra trước tìm cách cứu chữa, may ra nàng không đến nỗi chết ! Anh chận bước tiến của bọn lính, nhân thể cho chúng nếm mùi kiếm báu họ Nguyễn.

Trường Giang vâng lời anh ôm thiếu nữ chạy về phía vườn đào tìm lối cũ trở ra. Trường Sơn còn lại một mình tay không vướng bận Huỳnh Như, liền tuốt kiếm khỏi võ, đứng sừng sựng như một vị thần, khí thế vô cùng dũng mãnh. Bọn thị vệ ào tới tấn công… Tay chàng vung tả, chém hữu... Mỗi nhát kiếm đưa ra là máu đổ thịt rơi, lớp lớp người ngã gục!

Chém giết một hồi sức chàng đã bắt đầu sút kém, mà binh Hồ tràn tới mỗi lúc một đông, bao vây chàng vào giữa.

Trường Sơn chống cự thêm một lúc cánh tay đỡ gạt đã yếu. Bọn Hồ thừa thế tấn công ráo riết. Toàn thân chàng bấy giờ đầy thương tích, y phục rách toác nhiều chỗ…

Biết không thể cầm cự được lâu, chàng mở đường máu phi thân ra khu vườn đào.

Nhờ vườn cây sầm uất, sự rượt bắt khó khăn,, nên chàng thoát khỏi vòng vây địch chạy đến vách thành, tung mình ra ngoài. Bọn Hồ bấy giờ mới lục đục kéo đến.

Chân vừa chạm đất, Trường Sơn đã nghe tiếng hí của con tuấn mã. Không chần chờ, chàng phóng lên yên ngựa sải như bay, bất kể phương hướng.

--------------------------------

1. Quân Minh tràn chiếm 2 cửa ải then chốt của nhà Hồ là Ba Lụy (Nam Quân) và Phú Lĩnh (thuộc tỉnh Tuyên Quang)

2. Thuộc xã Cổ Pháp huyện Tiên Phong tỉnh Sơn Tây. Thành này Quý Ly cho xây từ năm Ất Dậu (1405) ðể chận bước tiến của Thủy quân nhà Minh xâm nhập Ðông Ðô (Thãng Long).

3. Tức Mã Giang.

4. Nghệ Tông băng hà vào tháng chạp năm Giáp Tuất (1394) làm vua 3 năm, làm Thượng Hoàng 27 năm, thọ 74 tuổi.

5. Hoàn toàn giả tưởng.

 Chương 2: Anh hùng ngộ nạn gặp giai nhân

Một vùng trời thật êm.

Những chiếc lá vàng còn đậu trên cành, lấp lánh dưới ánh ráng chiều… tạo cho cảnh vật đó đây vô cùng rạng ngời kỳ ảo!

Nơi ngôi nhà mát hình lục giác của quan Hàn Lâm Học Sĩ Nguyễn Phi Khanh có một người con gái đứng tì tay nơi thành rào, say sưa ngắm cảnh thưởng hoa.

Mặt nàng đẹp như ngọc. Hình dáng thướt tha yểu điệu trong lớp xiêm y màu sương đục, hòa lẫn với cảnh trí thiên nhiên cực kỳ mộng ảo, càng làm cho trời đất trở thành một vùng thoát tục!

Bất thình lình giữa khung cảnh êm đềm thanh thoát ấy có một tiếng động làm rung chuyển cả cỏ cây hoa lá. Tiếng động của vó ngựa vút ngang qua mãnh liệt như một trận cuồng phong, khiến thiếu nữ đang thả hồn với thiên nhiên phải giật mình kinh hãi. Nàng quay đầu nhìn lại… chỉ kịp thấy đuôi một con tuấn mã chạy biến vào khu vườn nhà mình.

Thiếu nữ châu mày lạ lùng, vội vàng rời ngôi nhà mát. Dọc theo lối ngựa vừa phóng qua còn để lại từng vũng máu rải rác trên cỏ…

- «Như vậy kẻ vừa phóng ngựa ngang qua đây hẳn bị thương trầm trọng?»

Nàng lẩm bẩm một mình, nét mặt thoáng bâng khuâng. Rồi không hiểu nghĩ sao, nàng bước theo vết máu đi lần ra khu vườn.

Bỗng lúc ấy có tiếng hò hét om om ngoài ngõ.

Xuyên qua giàn rào hoa Thiên Lý, thiếu nữ trông rõ binh gia lính tráng của triều đình đứng 1ố nhố...

Họ đang theo dấu một người. Tiếng họ vọng vào trong:

- Vừa thấy tên thích khách chạy hướng này, sao đã mất dạng? — Tôi nghe tiếng vó ngựa đi xa rồi.

- Nó bị thương nặng không thể phi ngựa nhanh được. Chắc nó ẩn trốn đâu đây...

- Nó không thể trốn ở đây!

- Làm sao chú biết? Một giọng kẻ cả quát lên:

- Chúng bây khỏi cãi nhau vô ích. Nửa đội do chú Lươn chỉ huy hãy rượt theo con đường trước mắt. Nửa đội ở lại đây với ta vào nhà này lùng soát.

Có tiếng vâng dạ và tiếng vó ngựa rộn ràng.

Thiều nữ nghe lời bàn tán của nhóm lính, sắc mặt có nhiều thay đổi. Nàng dừng bước, xoay người đổi hướng đi vào nhà.

Đồng lúc ấy có tên hoàng nô [1] từ trong nhà đi ra thấy bọn người tông cửa rào, liền chạy tới chận lối, hổn hển nói:

- Các ông muốn làm gì? Nơi đây là gia tư của quan

Hàn Lâm.

Bọn lính đang xông xáo tiến vào, nghe nói nhà quan thì đứng khựng lại. Song tên trưởng đội vẫn nói giọng hách dịch:

- Ngươi vào bẩm với chủ ngươi: «có binh triều đến đây». Tên hoằng nô vẫn đứng chận ngang lối vào, nhỏ nhẹ nói:

- Thưa các ông, giờ này các quan chưa bãi chầu, chỉ có phu nhân ở nhà thôi.

- Thế ngươi vào thông báo với phu nhân: «binh triều cần khám xét khu vườn nhà này».

- Các ông không nên làm phiền phu nhân.

Tên đội trưởng bất kể lời ngăn cản của tên hoằng nô, xông xáo bước tới… Tên hoằng nô quả thật can đảm, nắm tay tên đội trưởng kéo giật lại và nói:

- Ông không được tự tiện! Chờ tôi bẩm lại phu nhân...

Trong lúc hai bên dằng co, thì từ trong nhà có một người đàn bà độ tứ tuần, hình thái trang trọng, ung dung bước ra, theo sau có một nàng hầu.

Người ấy chính là Nguyễn Phi Khanh phu nhân. Tên hoằng nô thấy chủ liền chạy tới báo trình tự sự. Người đàn bà nghe qua gật đầu, rồi khoan thai bước ra ngõ, cất tiếng nhỏ nhẹ hỏi:

- Các ngươi muốn tìm ai trong ngôi nhà này?

- Bẩm phu nhân! Có kẻ thích khách Vua vừa phóng ngựa ngang đây. Chắc chắn hắn trốn trong vườn.

Phu nhân mỉm cười điềm đạm:

- Kẻ nào đó làm gì dám chạy vào nhà ta?

- Xin phu nhân hãy để cho chúng tôi tìm bắt kẻ thích khách, kẻo mang trọng tội với triều đình. Nghe tên đội trưởng dùng lời hâm dọa mình, phu nhân đã hơi phật ý, song bà vẫn ôn tồn nói:

- Nhà ta không bao giờ chứa kẻ thích khách. Tốt hơn các ngươi nên đi nơi khác tìm.

Tên đội trưởng chỉ một gốc nơi hàng rào, nói bằng giọng cương quyết:

- Phu nhân hãy nhìn kia… Nơi đó vết ngựa vừa

phóng qua còn rành rành.

Nguyễn phu nhân lấy làm lạ, bước tới gần giàn rào xâm xoi… thấy cành gẫy hoa rơi lả tả trên mặt đất… Rõ ràng có dấu người cưỡi ngựa vừa lướt qua đấy.

Mặt bà vụt đổi sắc khi trông thấy một vũng máu không xa nơi đó. Bà chưa biết sẽ có thái độ nào với bọn lính, chợt nghe một giọng thỏ thẻ sau lưng:

- Thưa mẫu thân! Khi nãy con bắt bướm té vào giàn rào làm gẫy nát cả hoa. Mẫu thân không trách con chứ? Người con gái đứng ngắm hoa khi nãy đã đến đó từ bao giờ? Nguyễn phu nhân xoay người lại, nói khẽ:

- Thúy Uyên, con nên vào nhà cho mau! Đừng để bọn thô lỗ này nhìn thấy mặt!

Thiếu nữ nũng nịu:

- Mẫu thân nên bảo chúng đi chỗ khác tìm người!

Trong lòng phu nhân đã tin điều nghi ngờ của tên đội trưởng là đúng. Song không hiểu sao bà lại chìu ý con gái, lớn giọng bảo đám binh:

- Các ngươi chớ thắc mắc làm gì. Nhà này không có kẻ lạ vào đây. Còn chỗ giàn rào gẫy nát kia là do con gái ta sẫy chân té nơi đó.

- Thế còn dấu chân ngựa phu nhân nghĩ sao?

Thấy tên đội trưởng vẫn chưa chịu đi, thiếu nữ đang núp sau lưng mẹ vụt ló mặt ra nói:

- Các người đi đi thôi!

m thanh thoát ra nghe thật êm tai, mà lời nói y như một lệnh truyền và lệnh truyền ấy tuy thảnh thót mà oai dũng còn hơn vạn tiếng thét của quân binh!

Bọn lính Hồ vừa trông thấy mặt nàng đã buông gươm giáo xuống đất. Chừng nghe lời nàng phát ra, cả bọn đồng ríu ríu rút lui có trật tự. Ngay cả tên đội trưởng khi nãy hùng hổ, bây giờ cũng sò co đi thụt lùi trở gót ra ngoài! Rồi cũng chẳng ai bảo ai, cả bọn đồng lên ngựa đi thẳng, không dám hó hé một lời!

Sắc đẹp của nàng này quả thật lạ lùng huyền bí. Nhất là đôi mắt như sao trời lóng lánh ngân quang, khiến cho kẻ đối diện nhìn vào phải kiêng dè sợ hãi.

Tên hoằng nô thấy bọn lính lủi thủi bỏ đi, khoan khoái vỗ tay reo:

- Ha ha... Bọn bây thấy cô nương thì hồn phi phách tán, hết dám hung hăng!

Nguyễn phu nhân mỉm cười với con gái:

- Con gái mẹ oai quá! Người con gái có tên Thúy Uyên ôm vai mẹ nũng nịu

nói:

- Chúng sợ mẫu thân nên rút lui, chớ nào phải sợ con? Nguyễn phu nhân vụt nghiêm giọng hỏi:

- Khi nãy con đứng ngoài vườn chắc trông thấy kẻ lạ

vào nhà ta?

Thúy Uyên cúi mặt đáp nhỏ:

- Xin mẫu thân tha lỗi cho con. Quả thật có kẻ lạ vừa phóng ngựa vào đây. Nhưng... Nàng nín lặng một lúc ngước mặt lên nói bằng giọng xúc động:

- Người ấy chắc bị thương nặng lắm mẫu thân à. Con thấy vết máu rãi rác khắp nơi. Một người mang thương nặng, lẽ nào mình nhẫn tâm để bọn lính bắt đi?

Phu nhân thở ra, nói:

- Con có nghe chúng nói chứ? Kẻ đó là kẻ thích khách vua. Con không sợ bị liên lụy đến phụ thân và gia huynh con à?

Thúy Uyên nghe mẹ trách, sợ hãi cúi gầm mặt, đôi mắt rưng rưng lệ... Nguyễn phu nhân biết tánh con gái hay thương người, hay che chỡ kẻ lâm nạn, nên tuy ngoài mặt bà rầy la mà trong lòng rất đẹp ý. Bà nắm tay con dắt đi và nói:

- Thôi việc đã lỡ rồi, ta hãy ra vườn tìm xem người ấy còn đó không?

Hai mẹ con bước nhanh ra khu vườn. Tên hoằng nô và con hầu cũng nối gót theo sau.

Trời bấy giờ đã nhá nhem tối. Các vết máu rơi rớt trên mặt đất khó thể nhận ra. Lại thêm vườn rộng mênh mông, cây trái sầm uất, bốn người lục lạo một lúc vẫn chẳng thấy dấu vết kẻ lạ.

Thúy Uyên lo âu nói:

- Cứ xem những vũng máu còn động thì người này không thể đi xa được, chắc là bị thương nặng lắm! Nhưng sao không thấy... Nguyễn phu nhân ngắt lời:

- Cũng có thể người ấy vượt khỏi khu vườn nhà ta rồi! Như vậy càng hay! Ta chỉ sợ thân phụ và gia huynh con biết chuyện sẽ trách mẹ con mình làm điều phi pháp. Bà nói vừa trở gót quay vào nhà. Thúy Uyên kéo tay mẹ gìữ lại, nài nỉ:

- Mình tìm thêm một lượt nữa! Nếu không thấy người ấy thì thôi.

Nguyễn phu nhân mỉm cười nhìn con gái lắc lắc đầu, tỏ ý chịu thua tánh bướng bỉnh của nàng. Bà vốn rất cưng con gái.

Hơn nữa lòng nhân của Thúy Uyên nào khác gì Bà? Chính bà thường ngày răn dạy con phải cứu giúp kẻ lâm nạn, thì làm sao bà có thể làm ngơ vụ này?

Hai mẹ con cùng rảo bước khu hoa viên một vòng nữa. Chợt nơi bụi hoa Quỳnh Anh um tùm trước mắt các cành lá lay động.

Tên hoằng nô cũng vừa thoáng thấy nên bươn bả chạy tới trước, bỗng la lên:

- Bẩm phu nhân! Người này nằm chết ở đây, ghê quá!

Nguyễn phu nhân và Thúy Uyên nhanh chân bước tới, thấy một người nằm không động đậy trên vũng máu, không khỏi kinh hoàng sợ hãi.

Một khắc lấy lại bình tĩnh, Nguyễn phu nhân cúi xuống xem xét thương thế nạn nhân, nghe hơi thở yếu ớt, tim còn đập. Bà vội vàng hối tên gia nhân của mình:

- Ngươi mau mang người này vào ngôi nhà mát để có chỗ sạch sẽ băng bó thương tích. May ra người này còn sống.

Tên hoằng nô vâng lệnh chủ ôm nạn nhân đi về ngôi nhà mát cách đó không xa. Toàn thân người ấy đầy những vết đao kiếm, máu vẫn chưa ngưng chảy, gương mặt tái xanh không khác gì người chết. Có điều mọi người nhận ra là một thanh niên trẻ tuổi, hình thể cao lớn.

Nạn nhân được đặt trên chiếc băng dài nơi nhà mát. Nguyễn phu nhân ra lệnh cho hai gia nhân vào nhà lấy nước nóng và khăn lau để lau vết thương cho nạn nhân. Bà cũng tất tả vào nhà tìm vải băng và thuốc cầm máu.

Thúy Uyên ngồi lại canh chừng nạn nhân, thấy nơi cườm tay người ấy máu nhễu từng giọt, lòng bất nhẫn lấy khăn tay của mình buộc vào chỗ vết thương để cầm máu.

Bỗng nhiên người ấy rên nho nhỏ và mở mắt ra, ánh mắt lờ đờ... Thúy Uyên thấy nạn nhân tỉnh, mừng rỡ cúi xuống gần toan hỏi thăm vài lời. Song người ấy như còn chìm trong cơn mê, đôi mắt mở ra mệt nhọc, rồi từ từ khép lại…

Nhìn gương mặt không huyết sắc của nạn nhân, Thúy Uyên thở dài.

Người nằm trước mắt nàng là một tử tội của triều đình, mà nàng thấy rõ là một vị anh hùng.

Từ mấy năm qua nhà Hồ cai trị có lắm người chống đối. Người này cũng như những kẻ đã ngã gục trước, chỉ vì không chấp nhận một triều đình bạo tàn.

Ôi, có can đảm nào bằng một mình lẻn vào hoàng cung hành thích nhà Vua? Giờ đây xác thân tan nát, chẳng biết sống chết ra sao?

Tự nhiên hai hàng nước mắt chảy dài trên gương mặt mỹ miều của người con gái...

Thúy Uyên chợt nghĩ đến phụ thân và gia huynh...

- «Cha và anh nàng hiện làm quan tại trào, là kẻ ái quốc hay phản quốc?»

Câu hỏi thoáng qua trong đầu làm nàng sợ hãi, đứng lên đi tới đi lui, cố xua đuổi những ý nghĩ không phải về phụ thân và huynh trưởng.

Lúc ấy Nguyễn phu nhân từ trong nhà trở ra với hai gia nhân và đầy đủ dụng cụ lau rửa, băng bó, thuốc men. Có mang theo cả ngọn đèn lồng.

Vừa bước vào nhà mát, Nguyễn phu nhân đã lên tiếng hỏi con:

- Nạn nhân vẫn chưa tỉnh sao?

- Người ấy tỉnh một khắc rồi thiếp đi, máu chảy quá nhiều, sợ không sống nỗi!

Nàng nói với giọng hết sức hiu hắt. Nguyễn phu nhân liếc thấy vẻ ảm đạm trên gương mặt con gái có hơi lạ lùng, song bà không hỏi thêm, lo băng bó cho nạn nhân.

Chốc sau mọi việc đã hoàn tất. Nguyễn phu nhân bảo

tên hoàng nô:

- Ngươi chạy ra ngõ xem động tĩnh thế nào? Nếu không có gì nghi ngờ thì trở vào đưa người này ra ngoài.

Tên hoằng nô chưa kịp chạy đi, chợt nghe tiếng ngựa hí thật gần. Mọi người kinh hãi nhìn lên… thấy con ngựa của ai đứng sừng sựng trước nhà mát?

Thúy Uyên kêu khẽ:

- Con tuấn mã của người này! Ban chiều chính con thấy con ngựa này vút qua. Lạ chưa! Nó ẩn núp ở đâu mà bây giờ tới đây tìm chủ? Nguyễn phu nhân nói:

- Giống ngựa tinh khôn lắm! Khi chiều nó ẩn trốn một nơi để không ai tìm thấy chủ nó. Giờ nó tìm chủ vì biết hiểm nguy đã không còn.

Bà quay sang tên hoằng nô ra lệnh:

- Ngươi mau buộc con tuấn mã giữ lại, rồi ra đường dò

xét tình hình xem sao?

Tên hoằng nô vâng lệnh chạy đi. Nguyễn phu nhân sai

con a hoàn:

- Ngươi vào nhà lấy bình trà nóng, cái chén và ít bánh trái đem ra đây. Thúy Uyên nghe mẹ sai bảo hai gia nhân, trố mắt kinh hãi, hỏi mẹ:

- Thân mẫu muốn cho người này rời nhà ta ngay bây giờ sao? Thương thế nặng như vậy làm sao lên ngựa được? — Nguyễn phu nhân nghiêm giọng nói:

- Chúng ta không thể chứa người này lâu hơn, con đã rõ vì sao. Bữa nay may là cha con và anh con về muộn, chứ không chưa chắc chúng ta có thể giúp gì được.

Thúy Uyên nài nỉ:

- Thân mẫu ơi, cứu người phải cứu cho trót! Lẽ nào thân mẫu nhẫn tâm quăng người ta ra đường đang lúc bất tỉnh mê man sao?

- Ta không thể làm khác hơn! Cha và anh con phục vụ triều đình, nhà ta không thể chứa kẻ thích khách vua! Cái tội này nếu triều đình biết được, gia đình ta sẽ bị bay đầu. Con đừng đòi hỏi mẹ phải làm hơn!

- Con nghĩ, dù có phụ thân hay gia huynh ở nhà, chắc cũng phải có lòng che chỡ cứu giúp người này. Nguyễn phu nhân nhìn con gái, lắc đầu thở ra:

- Thúy Uyên, lòng nhân của con ta rất đẹp ý. Nhưng lần này ta không thể nghĩ đến người khác mà quên tai họa của gia đình ta về sau. Con đừng thắc mắc nữa! Ta sẽ bảo tên hoằng nô đưa người này tới chỗ an toàn. Con không phải lo nữa!

Bà dứt lời vội vàng rời ngôi nhà mát, sau khi căn dặn

con gái:

- Mẹ vào nhà tìm bộ y phục của anh con để người này mặc thêm vào. Nếu người ta có tỉnh, con nên cho uống chén thuốc đó.

Thúy Uyên còn lại một mình với nạn nhân. Bây giờ nhờ ngọn đèn sáng tỏ và nạn nhân vừa được lau rửa lớp bùn đất trên mặt, nên nàng thấy rõ là một chàng thanh niên vô cùng anh tuấn. Từ cái miệng, cái mũi, đôi mày, đôi mắt... Tất cả hợp thành một dung nghi quyền quí cao sang, khiến con tim nàng vùng đập liên hồi.

Người con gái tuổi đôi tám chưa biết yêu, lần đầu tiên chợt nghe một thứ tình cảm len lỏi vào hồn. Tình cảm này mới lạ quá, nàng không hiểu ra sao? Nhưng con tim như bị giao động say say ngây ngất…

Người ấy bỗng cựa mình tỉnh giấc. Đây là lần thứ hai người ấy hồi tỉnh và cũng là lần thứ hai người ấy nhìn thấy trước mặt mình một gương mặt thiên thần kỳ bí, với đôi mắt lóng lánh như sao trời...

Thúy Uyên thấy nạn nhân tỉnh, liền bưng chén thuốc kề vào miệng, nhỏ nhẹ nói:

- Người gắng uống chén thuốc này để phục hồi sinh lực.

Nạn nhân nhìn nàng trân trối và vâng lời nàng uống chén thuốc, chớ không nói được tiếng nào.

Uống xong chén thuốc người ấy có vẻ mệt ngất ngư. Thúy Uyên xót xa bảo:

- Người hãy ngủ yên. Tai nạn đã qua rồi! Không còn gì nguy hiểm nữa đâu!

Giọng nàng thật êm, nhưng chính đôi mắt thu hút hồn người của nàng mới có mãnh lực làm cho kẻ đối diện râm rấp tuân theo.

° ° °

Tỉnh dậy lần thứ ba, chàng thanh niên tức Trường Sơn thấy mình nằm trong một chòi lá, dưới nền đất có lót rơm. Nhà không cửa nên nhìn thấy trước sân từng đống rơm cao ngất.

Chàng bật mình ngồi dậy, nghe toàn thân ê ẩm đau nhức. Nhưng lạ lùng là các vết thương đều được băng bó sức thuốc.

- Ai? Ai đã làm điều này? Nơi đây là đâu? Vì sao ta nằm đây?

Những câu hỏi nhảy múa trong đầu khiến chàng choáng váng nằm trở xuống, mắt nhắm lại, hồi nhớ những gì xảy ra...

Nhớ đến giờ phút tử chiến với bọn lính Hồ nơi hoàng cung để cho em thoát khỏi vòng vây địch cùng với nàng mỹ nữ Huỳnh Như… Nhớ đến lúc chạy thoát khỏi thành nội, phóng lên lưng con tuấn mã thì bất tỉnh không còn biết gì nữa.

Bất thình lình chàng vùng ngồi dậy kêu lên:

- n nhân! n nhân của tôi!

Phải! Chàng nhớ rõ trong hai lần hồi tỉnh chàng có thấy gương mặt của người con gái… Một gương mặt đẹp khó thể tả bằng lời. Nhất là đôi mắt của nàng vừa lạ lùng, vừa thu hút...

Chính người đó là ân nhân của chàng! Người đó cho chàng uống thuốc. Người đó băng bó vết thương cho chàng. Nhưng... tại sao người đó lại đem bỏ chàng nơi đây? Vì sao không cho chàng biết rõ họ tên để chàng đền ân đáp nghĩa?

Chàng khốn khổ ôm đầu… Chợt thấy cạnh chỗ mình nằm có một bình trà, một cái chén và một đĩa đựng đầy bánh mứt, hoa quả.

- Trời ơi, ân nhân của chàng chu toàn đến thế! Nàng chu toàn chỉ vì không muốn cho chàng biết nàng là ai, nhà cửa ở đâu!

Chàng khép mắt nhớ lại gương mặt ấy... Gương mặt chỉ cần nhìn một lần thôi trọn đời không thể quên!

Chàng với tay lấy chén rót nước. Nước đã nguội lạnh từ lâu, trái cũng héo xèo. Chứng tỏ chàng nằm nơi chòi tranh này chắc cũng đôi ba ngày?

Trà nguội nhưng hương vị thật ngon! Trường Sơn uống một hớp trà nghe trong người khỏe khoắn, không hiểu là loại sâm trà hay là trà ở thượng giới?

Từ cái đĩa bạc, đến cái bình, cái chén... rõ ràng là vật dụng của một nhà quyền quí! Chàng chợt thấy chiếc áo gấm chàng đang mặc trên người là loại gấm quí, chỉ nhà quan mới có.

Như vậy ân nhân của chàng nếu không là con quan, thì cũng thuộc nhà giàu có nhất nước. Hèn chi người ta thi ân không cần báo!

Nhưng chàng vốn là con người ân oán phân minh. Dù ân nhân chàng cố ý không cho chàng trả ân, chàng cũng quyết tìm người ấy để ít ra nói đôi lời cảm tạ.

Ăn ít bánh và uống nửa bình trà, chàng cảm nghe sinh lực hồi phục, nên lần bước ra ngõ.

Trời đang nắng gay gắt, song nhờ những đống rơm cao che khuất ánh mặt trời, nên trong nhà mát rượi. Đôi mắt Trường Sơn vụt sáng rực lên khi trông thấy chính giữa hai đống rơm cao có con tuấn mã đang vẫn vơ ngậm cỏ.

Con tuấn mã ấy chính là con Phi Long của chàng! Vừa thấy chủ nó hí lên những tiếng mừng rỡ. Trường Sơn đi lần dò đến bên con vật, vuốt ve nói:

- Phi Long, mi chờ ta chắc mòn mỏi lắm? Giờ mi gắng đưa ta về nhà Dương lão bá nhé?

Con vật như hiểu ý chủ, hai chân đạp thình thịch xuống đất tỏ vẻ vui mừng. Trường Sơn leo lên yên ngựa một cách khó khăn mệt nhọc, tuột lên té xuống mấy lần, các vết thương lại rỉ máu. Cuối cùng chàng cũng ngồi được trên lưng con tuấn mã rời túp lều tranh với vó câu hết sức nặng nề.

Nơi đó là đồng không mông quạnh không có dân cư. Chàng thả ngựa đi một lúc lâu vẫn không tìm ra người hỏi thăm đường về nhà Dương Trang Tấn.

Mãi đến chiều ngựa mới đến một làng nhỏ. Chàng hỏi ra mới biết nơi đấy là thôn Lộc Ninh thuộc Đông Nam Thanh Hóa. Nhà của Dương Trang Tấn ở hướng Tây Bắc, nên chàng và ngựa lại phải đổi hướng đi.

Thể xác rã rời, tinh thần mệt mỏi, Trường Sơn về được tới cửa nhà Dương Trang Tấn thì té huỵch ngay cạnh chân ngựa.

Cũng may lúc ấy có hai đứa trẻ 7, 8 tuổi, cháu nội của Dương Trang Tấn đang nô đùa trước sân, thấy Trường Sơn trở về mình mẩy băng bó, té sụm ngay chân ngựa, chúng hốt hoảng gọi nội tổ ơi ới.

Trường Sơn được mang vào nhà trong tình trạng nửa tỉnh nửa mê. Đến khuya chàng tỉnh táo, thấy Dương Trang Tấn ngồi bên cạnh giường, chàng cảm động hỏi:

- Tôi đã về được đến nhà lão bá rồi sao? Còn em tôi đâu? Dương Trang Tấn lắc đầu, thở dài:

- Mấy hôm rày tôi lo cho nhị vị công tử vô cùng, nên đã cho tin Nguyễn tướng công. — Như vậy nhị đệ tôi chưa trở lại đây sao?

- Chính tôi cũng không hiểu vì sao đệ nhị công tử chưa về đây! Hôm đó hai công tử phóng vào trong thành rồi, tôi ngồi lại một chỗ chờ tin. Thỉnh thoảng có bọn lính tuần rảo ngựa đi qua, nhưng chúng ngỡ tôi chỉ là lão ăn mày nên không để ý đến tôi. Lúc sau tôi nghe có tiếng hò hét bên trong thì biết có biến, nên tức khắc chạy tới lùm cây dắt hai con ngựa của nhị vị đến bề tường chờ sẵn. Bỗng thấy đệ nhị công tử từ trong thành phóng ra, trên tay có ôm một người con gái mình mẩy nhuộm máu. Tôi vừa kinh hãi vừa ngạc

nhiên, song chưa kịp hỏi, thì công tử đã phóng lên yên ngựa mang cô gái chạy đi và nói vọng lại: «Bị động rồi! gia huynh tôi cản đường cho tôi thoát trước để cứu nàng này».

Tôi nghe thế thì giữ cương ngựa chờ công tử. Khi công tử nhảy lên yên ngựa phóng đi, bọn Hồ cũng leo thành ra ngoài, nên tôi không dám ra mặt, phải đứng núp nơi lùm cây chờ đến khuya mới lần dò về nhà.

Ngừng một lúc ông tiếp:

- Tôi tưởng đệ nhị công tử đã yên thân trở về nhà tôi lâu rồi, không ngờ đến nay vẫn bặt tâm! Còn công tử mấy hôm ở đâu? Trường Sơn dàu dàu kể:

- Tôi phóng lên yên ngựa thì ngất đi, mặc cho con tuấn mã chạy tới, bất kể phương hướng. Trong lúc thần trí mơ mơ tỉnh tỉnh tôi có cảm tưởng như binh Hồ rượt theo đông lắm. Thế rồi chẳng biết mọi sự diễn biến ra sao? Chỉ biết rằng hai lần hồi tỉnh đều thấy gương mặt của một người con gái dung nhan kỳ bí... Tôi nhớ dường như nàng đã cho tôi uống thuốc và tôi chắc cũng chính nàng là ân nhân cứu chữa vết thương, băng bó cho tôi.

Dương Trang Tấn hỏi:

- Thế ra mấy ngày qua công tử nương náu nơi nhà ân

nhân?

Trường Sơn đáp giọng buồn rầu:

- Tôi chẳng rõ ân nhân tôi là ai, ở đâu? Vì lần thứ ba hồi tỉnh, tôi thấy mình nằm trong một chòi lá giữa đồng, thuộc thôn Lộc Ninh. Người ta không muốn tôi trả ân. Suốt đời tôi có lẽ sẽ không có cơ hội đền đáp cái ân cứu tử! Dương Trang Tấn an ủi:

- Công tữ hãy an tâm tịnh dưỡng. Khi thương thế lành lại, sức khỏe bình phục rồi, tôi tin chắc công tử tìm ân

nhân không khó.

Trường Sơn đổi giọng lo âu:

- Tôi đinh ninh nhị đệ tôi đã an lành trở về đây trước rồi. Chẳng rõ vì lý do gì em tôi và cô gái bặt tâm?

- Tôi nghĩ đệ nhị công tử ẩn trốn đâu đó, chưa tiện về đây, chớ không việc gì đâu. Công tử đừng quá lo! Trường Sơn ôm mặt rầu rỉ:

- Nhị đệ tôi không biết dùng một tấc sắt để tự vệ, lại phải lo cho cô gái bị thương nặng! Tôi chỉ sợ bọn Hồ đã bắt được họ... Dương Trang Tấn lắc đầu, ngắt lời:

- Đệ nhị công tử là người đa mưu túc trí. Bọn Hồ không dễ gì hại được đâu! Bỗng nhiên Dương Trang Tấn đứng lên nói:

- Tôi vào nhà bếp hâm cháo cho công tử ăn đỡ đói nhé? Giờ này bọn trẻ đi ngủ hết rồi. Trường Sơn cảm động nói:

- Chúng tôi làm phiền lão bá muôn phần, chẳng biết lấy chi đền đáp? Dương Trang Tấn cười nhỏ:

- Công tử lo việc quốc gia, tôi phụng sự cho công tử. Kể như tôi cũng dóng góp một phần nhỏ mọn cho đại cuộc thì sao gọi là ân được?

Ông nói xong bỏ vào nhà bếp, chốc sau mang ra tô cháo nóng. Trường Sơn vừa ăn vừa kể những gì xảy ra trong hoàng cung chiều bữa trước.

Dương Trang Tấn bấy giờ mới hết thắc mắc về ngườicon gái bị thương do Trường Giang mang đi. Ông chắt lưỡi nói:

- Đàn bà con gái can đảm như nàng ấy thật hiếm! Chúng ta là nam nhân cũng cảm thấy hổ thẹn trước sự gan dạ và tấm lòng yêu nước của nàng. Trường Sơn ngùi ngùi:

- Chẳng biết nàng ấy có thoát khỏi tử thần không? Nếu em tôi và nàng ấy bị bắt lại, chắc là cả hai phải chết. Thương thế tôi như vầy làm sao đi tìm họ? Sau câu nói chàng thở ra áo não, không muốn ăn nữa. Dương Trang Tấn lại phải an ủi:

- Đệ nhị công tử là người quyền biến. Dù họ ở hoàn cảnh nào chắc cũng biết xoay sở. Hiện thời công tử cần nằm yên một chỗ cho vết thương sớm lành. Mọi việc khác tôi xin lo liệu.

Trường Sơn biết không thể làm gì được hơn, vì sức chàng hiện thời chưa thể hoạt động. Chàng khổ tâm lắm! Sợ Dương Trang Tấn lo lắng thêm, chàng gượng cười nói:

- Khuya rồi, xin lão bá đi nghỉ. Tôi không sao!

Dương Trang Tấn đi rồi Trường Sơn cũng tắt đèn nhắm mắt tìm giấc ngủ, song mãi một lúc lâu vẫn không sao ngủ

được! Tâm trí chàng nặng trĩu lo âu vì em, vì Huỳnh Như, vì cái ân không biết làm sao đền đáp người con gái 1ạ khó quên.

--------------------------------

1. Người ở nhà quan.

 Chương 3 : Thần chết xe duyên

Trong gian phòng trọ của khách điếm thuộc vùng cao nguyên hẻo lánh huyện Thường Xuân có một người nằm trên giường gần như bất động. Một người ngồi trên ghế bên cạnh giường cũng gần như bất động.

Họ trong tình trạng như thế đã ba hôm.

Chàng thanh niên ngoại trừ những lúc phải ra ngoài để nhờ tiểu nhị của quán trọ đi hốt thuốc, thì ngồi mãi một chỗ canh chừng nạn nhân là một cô gái mang thương tích trầm trọng.

Trong phòng thỉnh thoảng có tiếng rên nho nhỏ của cô gái và tiếng thở dài của người ngồi bên cạnh. Không ai còn nghe gì nữa giữa khung cảnh tịch mịch của một vùng hoang vắng.

Chàng thanh niên không ai khác hơn là Trường Giang. Từ lúc anh giao trách nhiệm mang nàng mỹ nữ Huỳnh Như rời cung vi, chàng lên yên ngựa sải như bay bất kể phương hướng, một lúc đã lìa xa thị trấn Thanh Hóa.

Sợ binh Hồ rượt theo, chàng cho ngựa chạy về miệt rừng núi. Cũng may chàng tìm được một khách điếm nho nhỏ ven rừng, nên đưa nàng vào tìm chỗ an nghỉ chữa trị vết thương. Vết đao cấm vào ngực tuy không trúng tim, cũng không sâu, song máu đổ khá nhiều. Mấy hôm rồi nàng nằm thiêm thiếp trên giường chưa hồi tỉnh.

Ngày đêm Trường Giang ngồi bất động một chỗ, khắc khoải lo âu cho số phận một trang quốc sắc thiên hương đang lần dò trước cửa thần chết…

Nghĩ đến hành động can đảm liều lĩnh của nàng nơi cung vi, chàng đem lòng kính phục quí mến. Rồi tình yêu đến lúc nào chàng không hay? Chỉ biết rằng mỗi tiếng rên khẽ của nàng, trái tim chàng đau nhói lên.

Bấy giờ vào khoảng ban mai, nắng bên ngoài hắt vào phòng chút ánh sáng mong manh, đủ cho Trường Giang nhìn rõ gương mặt ngọc tái xanh, đôi mắt nhắm nghiền, hơi thở yếu ớt.

Chàng xúc động ứa nước mắt, nắm tay nàng gọi khẽ:

- Huỳnh Như cô nương! Huỳnh Như cô nương!

Chàng gọi mãi một cái tên mà giờ đây đối với chàng vô cùng thân thiết. Nhưng cô gái vẫn im lìm bất động, để lại trong lòng chàng nỗi đau đớn héo hon.

Mãi đến trưa bỗng nhiên Huỳnh Như cựa mình mở mắt ra… Đôi mắt thiếu tinh anh, nhưng vẫn làm cho người đối diện dạt dào cảm xúc. Chàng cúi mặt gần nàng, nhẹ hỏi:

- Cô nương cảm thấy đỡ chưa? Ba hôm rồi cô trong tình trạng hôn mê khiến tôi lo lắm!

Nàng nhìn chàng chăm chăm… một lúc cất giọng yếu ớt:

- Nơi đây là đâu? Người là ai?

Trường Giang dịu dàng đáp:

- Nơi đây thuộc phụ cận Thanh Hóa. Tôi là người đưa cô nương khỏi hoàng cung.

- Vậy ra người là ân nhân của em? Người đã cứu emkhỏi bàn tay sanh sát của quân Hồ? n của người đối với em ví bằng trời bằng bể... Giọng nàng nhẹ như hơi gió, mong manh như sương ! Trường Giang xót xa nói:

- Cô nương đừng nghĩ đến điều ân nghĩa. Cô nương bình phục là tôi sung sướng vui mừng hơn hết.

Huỳnh Như nhếch môi cố nở nụ cười cảm ơn, song đôi môi không đủ sức làm nên nụ cười. Nàng chỉ biết đưa mắt nhìn chàng bằng cái nhìn nói muôn lời cảm tạ.

Trường Giang rúng động trước ánh mắt của nàng, ngất ngây một lúc, vụt đứng lên nói:

- Tôi ra ngoài nhờ tiểu nhị hâm lại siêu thuốc, tôi sẽ trở lại ngay. Chàng quày quả bước đi… chốc sau trở vào với chén thuốc. Huỳnh Như thấy chàng vào, chống tay lên giường có ý muốn ngồi dậy. Trường Giang hốt hoảng kêu lên:

- Ấy! Cô nương chưa thể ngồi! Cô nương hãy nằm xuống. Tôi sẽ giúp cô nương uống thuốc. Chàng nói vừa đưa chén thuốc kề tận miệng nàng, nhỏ nhẹ bảo:

- Cô nương hãy uống chén thuốc này. Thuốc hơi đắng một chút, nhưng có công hiệu tăng cường máu huyết. Cô nương bị mất máu khá nhiều, cần phải tẩm bổ một thời gian. Huỳnh Như uống xong chén thuốc ngủ ngay một giấc đến nửa đêm tỉnh dậy. Trông qua ánh sáng mờ ảo của ngọn đèn dầu trong phòng thấy vị ân nhân vẫn còn ngồi canh chừng mình, nàng cảm động nói giọng nghẹn ngào:

- n nhân đã vì em mà khổ cực trăm chiều, Huỳnh Như này mang ân sâu biết dịp nào đền đáp? Nghe nàng cứ mãi nghĩ việc trả ân, chàng mỉm cười nhỏ nhẹ bảo:

- Chính tôi phải mang ơn nàng, tổ quốc phải ghi công ơn nàng. Huỳnh Như thở dài, rưng rưng nước mắt nói:

- Em bất tài không giết được tên gian hùng, đâu xứng đáng để được người nhắc tới? Trường Giang an ủi:

- Chẳng qua vận nước còn suy! Chứ như gia huynh tôi hôm ấy cũng muốn xông vào giết lão Hồ, nhưng tôi đã kịp thời ngăn cản, vì thấy chưa đến lúc để ra tay. Bất ngờ cô nương xuất hiện…

Chàng thành thật tỏ gốc gác mình cho nàng biết và nói rõ lý do vì sao anh em chàng có mặt nơi hoàng cung buổi đó.

Hai hôm sau vết thương nơi ngực Huỳnh Như đã bớt. Nàng ngồi dậy được và ăn uống chút ít, sinh lực đã bắt đầu phục hồi. Trường Giang vui mừng khôn xiết.

Tối đêm đó sau khi cho nàng uống xong chén thuốc, thấy nàng có vẻ tỉnh táo, chàng ngồi lại gợi chuyện:

- Vì sao nàng bị sa vào cung?

- Chính em tự nạp mình... Thật ra cũng do mưu kế của

cha già.

Nghe nàng nói Trường Giang châu mày như không hiểu nàng muốn nói gì? Không để chàng thắc mắc lâu, nàng vội vàng kể rõ ngọn ngành:

- Cha em họ Trần tên Vân Thái, vốn là một đồ nho. Cha có một ngôi trường nhỏ và một ngôi nhà nhỏ cạnh Tây Hồ. Em mồ côi mẹ từ thuở bé. Quanh năm suốt tháng em nuôi tầm dệt lụa, cùng phụ thân sống cảnh thanh bần, vui với nghề đạm bạc. Đêm đêm cha giảng sách vỡ thánh hiền, răn dạy em làm dân phải biết thương nước nhớ nòi. Ngày ngày cha khuyên nhủ học trò một tấc dạ trung thành vì nước.

Từ khi nhà Hồ nắm quyền cai trị, dân tình đói khổ. Người làm ruộng không có gạo ăn, kẻ trồng sắn trồng khoai không còn chi để đỡ đạ. Thú nuôi trong chuồng không được quyền làm thịt. Bao nhiêu sinh lợi làm ra phải nộp vào kho nhà nước. Chỉ cái bọn quan quyền ngồi trên hưởng lợi!

Cha em xót xa trước tình cảnh đó nên khuyên nhủ học trò vùng lên dành quyền sống, vùng lên chống lại triều đình thối tha hiện hữu.

Thế rồi một hôm cha đang cùng với đám thư sinh ngâm nga kinh kệ… Chợt có một toán quân binh hùng hổ xông vào trường học bắt cha và lũ học trò dẫn đi. Chúng bảo rằng các cụ đồ nho là mầm mống gây loạn chống đối triều đình, cần phải thanh trừng.

Em chạy theo cha khóc lóc thảm thiết. Cha ôm em nghẹn ngào bảo rằng:

- Con ơi, thù cha, hận nước con khá chớ quên! Hãy dùng cái nhan sắc khuynh thành mà hủy diệt lũ chúng nó. Ta có chết cũng ngậm cười nơi chín suối và hãnh diện vì con đã làm rạng rỡ một bậc anh thư. Em sụt sùi hứa hẹn với cha rằng:

- Con xin vâng lời cha dạy, quyết hy sinh kiếp má hồng để trả thù cho cha và trả hận cho quốc gia. Xin cha hãy chỉ dạy con phải làm thế nào? Cha rỉ nhỏ vào tai em:

- Với nhan sắc đó con hiến vào cung không khó. Từ đó hễ gặp dịp thì ra tay giết ngay tên Hồ già. Hai anh em Hồ Nguyên Trừng, Hồ Hán Thương và đám tay sai chóp bu của chúng lúc ấy như rắn không đầu giẫy đuôi chết sạch! Chừng ấy giang san sẽ tìm được một minh quân xứng đáng để an dân trị quốc.

Lời nói ấy là lời trăn trối cuối cùng của phụ thân! Sau đó họ chém đầu cha em cùng với đám học trò tử tội khác. Em còn lại một thân bơ vơ, với trách nhiệm nặng nề về lời đã hứa với cha.

Để thực hiện ước muốn cuối cùng của phụ thân, nhà cửa và tài vật của cha em, em đem bán hết. Sau khi gom được ít tiền em sắm vài chiếc áo đẹp và thuê kiệu đưa em đến ra mắt huyện quan.

Vừa thấy em, quan huyện trố mắt sững sờ hỏi:

- Giai nhân từ phương nào tới? Kẻ này vô tình không lưu ý xuất xứ của giai nhân, thật là có lỗi! Em giả bộ e thẹn đáp:

- Thiếp sinh sống ở vùng này, song ít khi có dịp ra khỏi nhà nên đại quan không rõ. Nay tiện thiếp bạo gan đến đây để kính nhờ đại quan giúp cho một việc...

Lão ta có lẽ quá ngũ tuần, sau khi nghe em nói mấy lời đôi mắt chớp chớp, buông giọng cười hết sức nham nhỡ:

- Có điều chi giai nhân cứ nói. Kẻ này nguyện hết

lòng vì... giai nhân mà!

Vừa nói lão vừa nhìn em với đôi mắt tình tứ dâm đãng. Em uất lắm song cố dằn lòng nói:

- Tiện thiếp tuy vào hàng dân giả, nhưng được cha mẹ nuông chìu, cho ở không ăn học, nên cũng làu thông kinh sử, lại biết múa hát, ngâm vịnh thi phú... Nghĩ mình không đến đổi xấu xí, không muốn dung nhan giấu kín sau lũy tre làng nên... Thiếp ước mong đại quan tiến cử vào cung… Nếu may mắn được sự chiếu cố của đấng chí tôn, tấm thân của tiện thiếp hưởng được vinh hoa phú quí, chừng ấy quyết không quên ân tiến cử. Tên huyện lắng nghe em nói, mắt sáng rực, run giọng bảo:

- Phải đó! Nhan sắc của cô nương nhất định phải sống nơi lầu son gác tía. Trời ơi! Bấy lâu quả nhân có tai có mắt mà không khác gì kẻ điếc kẻ mù, khiến cho cô nương chậm đường tiến thân, thật sơ sót và có lỗi quá!

Lão bỗng đổi thái độ từ nham nhỡ trở nên cung kính vớiem và cho em vào tạm trú nơi hậu dinh. Ít hôm sau đích thân lão hộ tống kiệu xe đưa em về Thanh Hóa.

Trước khi chia tay với em ở hoàng cung, lão sợ em quên ơn lão nên căn dặn mãi: «Khi cô nương được lòng sũng ái của Vua, nhớ xin thăng quan tiến chức cho tôi nhé». Em phải thề thốt đủ lời cho lão yên tâm.

Trường Giang nghe nàng nói chuyện quá lâu, sợ nàng hao hơi tổn sức, nên dịu dàng bảo:

- Cô nương nên nghĩ một lúc.

Nàng ngồi tựa lưng nơi thành giường, nhìn chàng thân thiết nói:

- Em đã đỡ nhiều. Cảm tạ ân nhân đã quá lo.

Rồi nàng tiếp tục kể:

- Theo kế hoạch của cha, em phải thanh toán lão Hồ già trước. Nên khi vào cung em hối lộ quan thái giám cho em được hầu hạ Thượng hoàng.

Già Hồ từ khi gặp mặt em thì si mê lắm, ngày đêm thích được nghe em múa hát quên cả việc triều chính. Em biết thế càng làm cao, nay giả vờ đau, mai giả vờ mệt… khiến lão khốn đốn không ít.

Hôm ấy là ngày phụ thân chết đúng trăm ngày. Em thương nhớ cha khóc suốt đêm và thề hôm sau sẽ ra tay giết kẻ thù để tế linh hồn cha.

Nào ngờ vì trọn đêm thao thức, cả ngày suy tính, tinh thần mệt mỏi, đầu óc choáng váng... Lúc vung tay đao chẳng bay trúng đích, hại người cung nữ phải chết oan... Lỗi tại em… Em thật…

Nàng nói đến đấy vụt ôm mặt khóc. Trường Giang không biết an ủi sao, lặng im nhìn nàng khóc, sắc mặt vô cùng thảm não.

Một lúc, chàng đứng lên đi tới chiếc bàn con rót nước và lấy thuốc đem đến trao cho nàng, vỗ về:

- Việc đã lỡ rồi, nàng đừng buồn trách nàng nữa! Người cung nữ bị chết là một tai nạn vô tình. Còn nàng chưa giết được gian tặc là do vận nước. Đời nàng còn dài, còn có dịp phụng sự cho quê hương. Điều quan trọng là cô nương sớm bình phục sức khoẻ. Chàng nhỏ nhẹ nói thêm:

- Cô hãy uống thêm lần thuốc này nữa. Chính nhờ những chén linh dược này mà cô thoát chết.

Huỳnh Như nghe Trường Giang nói càng khóc to hơn. Trường Giang kinh hãi không hiểu nguyên cớ ra sao, run giọng hỏi:

- Tôi đã nói lời phật ý cô nương chăng?

Huỳnh Như đáp trong tiếng nấc:

- Huỳnh Như này còn sống đến hôm nay không phải chỉ nhờ linh dược, mà chính nhờ sự tận tình chăm sóc của ân nhân. Nghĩa ân đó sánh bằng trời bằng bể! Em khốn khổ vì nghĩ mãi không biết cách nào để đến đáp ơn sâu? Trường Giang vụt ngồi lai nơi ghế, mắt nhìn mắt nàng, nói giọng xúc động:

- Mấy hôm nàng nằm thoi thóp… Tôi đau xé tâm can. Nay sức khoẻ nàng đã dần dần bình phục, tôi tưởng chừng như chính mình vừa được hồi sinh.

Giọng chàng vừa đầm ấm vừa thiết tha. Nàng nghe với cõi lòng bồi hồi cảm xúc, ngồi bất động, đôi mắt ướt lệ.

Đêm ấy trời vô tình có trăng thật tròn đầy. Trăng xuyên qua mành trúc nơi cửa sổ, rọi vào chỗ hai người ánh kỳ quang vô cùng rực rỡ. Bấy giờ nét mặt kiều mị của Huỳnh Như dưới ánh trăng càng diễm lệ yêu kiều khiến Trường Giang không tự chủ được nữa, gọi khẽ:

- Huỳnh Như cô nương!

Nàng ngẩng mặt lên sau tiếng gọi thiết tha của chàng. Bốn mắt nhìn nhau, đôi tim cùng xuyến xao rung động... Trường Giang nói qua hơi thở:

- Huỳnh Như, tôi yêu nàng! Nếu nàng cũng đáp lại tình tôi, tôi xin lấy đất trời và trăng kia làm chứng. Trọn đời tôi chỉ yêu nàng mà thôi.

Huỳnh Như lại khóc! Lần này nàng khóc thật sướt mướt và thật lâu. Những giòng lệ của hạnh phúc tuôn trào như thác đổ nguồn.

Một lúc sau nàng nín khóc, cho tay rút cây trâm cài trên tóc trao cho chàng, nói một giọng sắt son:

- Sinh mạng của Huỳnh Như do chàng tái tạo. Từ đây thiếp thuộc về chàng. Cây trâm này ví như tấm thân của người con gái. Em xin trao cho chàng giữ, ví như thân em đã giao cho người quân tử. Trường Giang cảm động nhận cây trâm, ngồi lặng một lúc mới cho tay vào túi lấy ra một cây bút lông cán vàng, có khắc bốn chữ «Thần Đồng Nam Quốc» đưa cho Huỳnh Như và nói:

- Cây bút này tôi được vua Thuận Tông ban tặng trước ngày Thượng Hoàng Nghệ Tông băng hà. Đối với tôi và gia đình tôi, nó là một bảo vật. Nay tôi xin giao lại bảo vật này cho nàng giữ, xem như sính lễ cầu hôn. Hoàn cảnh của nàng chắc không thể trở về nguyên quán. Tôi sẽ đưa nàng về tá túc nơi nghĩa phụ tôi ở Trần Gia trang. Sau đó tôi về nhà sẽ trình lại với song thân câu chuyện của chúng ta. Ngừng một lúc chàng tiếp:

- Phận làm trai nợ nước chưa trả, hai vai tôi còn nặng gánh sơn hà... Mong nàng chờ đợi ngày toàn dân tiêu diệt triều đình thối tha hiện hữu. Khi ấy đất nước thanh bình, dân ta có một đấng minh quân an dân trị quốc, thì cũng là ngày hai ta sẽ nên đôi chồng vợ. Huỳnh Như nước mắt lưng tròng, thỏ thẻ thề nguyền:

- Dù cho sông cạn đá mòn, tấm trung trinh này quyết không thay đổi và đợi chờ ngày sum hợp cùng chàng.

Đêm đó hai kẻ yêu nhau trút cạn nỗi lòng, mãi đến trăng khuya nhạt nhóa, sương mai giăng mắc mới thôi.

Ít hôm sau khi Huỳnh Như đã đi đứng được, Trường Giang liền mua thêm ngựa đưa người yêu về tạm trú nơi trang viện của nghĩa phụ chàng ở Đà Giang lộ (Độc giả nên xem câu chuyện Tình Nhà Nợ Nước để hiểu rõ hơn về cuộc đời «hy sinh cho nhà hiến thân cho nước» của người nghĩa phụ tài hoa xuất chúng này).

Trần Quốc Anh sau khi nghe Trường Giang tường thuật cuộc gặp gỡ với Huỳnh Như và cũng biết cả hai đã đính ước thì vui vẻ lắm và đón nhận Huỳnh Như như con dâu của mình.

Trường Giang yên tâm giã từ nghĩa phụ. Bấy giờ một mình một ngựa trở lại Thanh Hóa chàng mới nhớ tới gia huynh.

Mấy hôm vì điên đảo lo cho sinh mạng của Huỳnh Như, chàng đã quên nghĩ đến anh. Giờ nhớ tới gia huynh, lòng chàng nôn nóng như lên cơn sốt.

Chàng cho ngựa phi nước đại, đầu óc rối bời... Phần lo cho gia huynh không thoát khỏi vòng vây của quan binh Hồ, phần lo Dương Trang Tấn cấp báo với song thân việc chàng biệt tích nửa tháng qua… Chắc mọi người lo lắng chờ đợi tin chàng?

Càng nghĩ Trường Giang càng thấy ân hận và xấu hổ, tự trách mình đã sớm nghĩ đến tình yêu mà quên đạo hiếu và tình huynh đệ.

Cảm thấy tội lỗi quá nặng, chàng trông mau về đến nhà Dương Trang Tấn gặp lại anh để tạ tội, nên ruổi ngựa không ngừng, nhịn đói nhịn khát…

Về đến ngõ nhà Dương Trang Tấn con tuấn mã kiệt sức muốn sụm. Còn chàng cũng không đủ sức rời yên ngựa, té lăn xuống đất!

Chàng vừa lồm cồm ngồi dậy, trong nhà có một người đàn bà chạy ra hơ hải kêu lên:

- Đệ nhị công tử! Trời ơi, công tử sao vậy? Mấy hôm nay ông nhà tôi đi dọ tìm công tử khắp nơi... Trường Giang không ngạc nhiên khi nghe tin Dương Trang Tấn đi tìm mình. Chàng nói giọng ân hận:

- Tôi vì lo cho một người bị thương mà không kịp trở về đây ngay, để lo âu cho Dương bá bá và Dương bá mẫu, thật là có lỗi! Xin Dương bá mẫu rộng lòng thứ lỗi cho tôi.

Rồi chàng lo lắng hỏi:

- Chẳng hay huynh trưởng tôi đã trở về đây chưa? Dương phu nhân đáp giọng ấp úng:

- Đại công tử hiện ở trong nhà… nhưng... Nhưng sức khỏe có vẻ không...

Trường Giang thất sắc kêu lên:

- Anh tôi bị trọng thương? Dương phu nhân thở ra:

- Thương thế trên người cũng không đến nỗi trầm trọng. Chỉ có điều thần trí đại công tử không được tỉnh táo. Tôi sợ...

Trường Giang không chờ nghe nói tiếp, phóng nhanh vào nhà. Dương phu nhân chạy theo hướng dẫn chàng đến gian phòng dành riêng cho Trường Sơn.

Vào phòng, thấy gia huynh nằm trên giường, mình mẫy băng bó, sắc mặt hốc hác, đôi mắt nhắm nghiền, chàng xót xa lắm, chạy đến bên anh lay gọi.

Trường Sơn mở mắt ra nhìn Trường Giang với vẻ ngơ ngác như không biết chàng là ai, rồi nhắm mắt lại, không đếm xỉa gì đến chàng ngồi một bên nghẹn ngào ứa lệ!

Dương phu nhân thấy thế bảo:

- Công tử nên ra ngoài dùng ít cơm cháo. Bệnh của đại công tử tuy trầm trọng, nhưng chắc cứu chữa được.

Trường Giang uể oải đứng lên ra nhà khách, lòng rối bời không hiểu cớ gì anh mình không nhận ra mình?

Bỗng chàng kinh hoảng khi nghĩ rằng : Gia huynh vì quá lo cho chàng mà tâm tư giao động, mất trí.

Dương phu nhân dọn cơm ra song chàng không buồn ăn, mặc dù trong bụng đói cào!

Đến tối Dương Trang Tấn trở về giữa lúc Trường Giang đang ôm mặt rầu rỉ.

Dương Trang Tấn vô nhà nhìn thấy Trường Giang ngồi một mình ủ rũ nơi phòng khách, ông ta mừng rỡ reo lên như trẻ con:

- Chao ơi, công tử đã về! Từ nay tôi không còn gì phải lo nữa! Công tử biết không, mấy ngày qua ngày nào tôi cũng đi khắp nơi dọ hỏi tin tức của công tử. Trường Giang đứng lên đón Dương Trang Tấn với nét mặt xốn xang:

- Tôi thật mang trọng tội vì đã làm lo âu cho mọi người. Anh tôi cũng vì tôi mà... Chàng nghẹn ngào không nói dứt câu. Dương Trang Tấn nắm tay chàng kéo ngồi chung trên ghế trường kỷ với mình, ôn tồn nói:

- Công tử không trở về đây ngay được chắc có nguyên cớ. Tôi thông cảm lắm! Còn việc gia huynh công tử mắc tâm bệnh thì quả thật lạ lùng. Ông tường thuật cho Trường Giang nghe những gì xảyra từ khi Trường Sơn trở về nhà ông. Ông nói:

- Tâm bệnh này một phần vì quá lo cho công tử, một phần vì mang ân với người mà không biết làm sao trả được. Nhất là từ khi biết tên người ấy do nơi chiếc khăn tay...

Trường Giang nhíu mày hỏi:

- Chiếc khăn tay?

- Phải! Từ buổi gia huynh của công tử nhận ra chiếc khăn buộc vết thương nơi tay mình có thêu cái tên Thúy Uyên thì tâm thần chấn động, cả ngày ngớ ngẩn gọi mãi tên ấy. Trường Giang nghe Dương Trang Tấn thuật sự tình, nét mặt tươi tỉnh nói:

- Chắc là anh ấy đã tương tư ân nhân của mình rồi! Chứng bệnh tương tư có thể trị! Chỉ cần giúp bệnh nhân thỏa mãn ước vọng của mình tất sẽ khỏi bệnh. Dương Trang Tấn cũng mừng rỡ nói:

- Tôi cũng nghĩ như công tử! Đại công tử mắc bệnh tương tư đó thôi và bệnh này tôi tin công tử sẽ tìm được phương cách chữa trị có hiệu quả.

- Tôi cũng hy vọng thế! Tối nay tôi sẽ biên toa thuốc an thần. Sáng ngày nhờ lão bá cho người ra tiệm hốt vài thang. Tôi tin sau khi dùng thuốc, tâm thần anh tôi sẽ an định trở lại. Sau đó tôi sẽ dọ tìm ân nhân của anh ấy. Như thế may ra căn bệnh ngớ ngẫn mất trí của anh sẽ được bình phục.

Cả hai ngồi hàn huyên một lúc. Trường Giang thuật rõ lý do vì vết thương trầm trọng của Huỳnh Như khiến chàng không trở về ngay.

Dương Trang Tấn nghe nói, gục gặc đầu như hiểu tâmsự của chàng. Ông nói:

- Tôi biết lắm! Tôi không hề nghĩ công tử bị quân lính

bắt.

Bên ngoài trời bỗng gầm gừ sấm sét… Phút chốc mưa rơi tầm tã. Dương Trang Tấn buột miệng nói bâng quơ:

- Trận mưa cuối năm gội rửa tất cả những xui xẻo. Ngày mai sẽ là một ngày trời quang đãng!

 Chương 4: Tình si hai mối

Trong gian phòng của Trường Sơn ngoài chiếc giường còn có cái ghế đẩu.

Trường Giang ngôi lặng yên nơi ghế, hai tay chống lên càm, đôi mắt đăm chiêu nghĩ ngợi...

Hai hôm rồi Trường Sơn uống thuốc an thần, cơn bệnh có thuyên giảm, không còn nói lời ngớ ngẩn, song vẫn chưa nhận ra em! Trường Giang khắc khoải lo âu cho sức khoẻ của anh. Tự thấy mình có trách nhiệm trong vụ này, vì đã để cho gia huynh nặng lòng lo đến nỗi mất trí.

Chàng nhìn anh trong lớp vài băng, lòng xót thương vô vàn. Nhớ lại buổi đó… nếu anh chàng không hy sinh ở lại chận đánh bọn Hồ, chắc chắn chàng và Huỳnh Như đã bị quân của triều đình bắt. Nàng chắc phải chết, mà chàng cũng có thể bị chém đầu!

Xem thế mới thấy nghĩa trọng tình thâm giữa tình huynh đệ cao đẹp biết chừng nào?

Chàng bỗng nghĩ đến phụ thân... Từ khi hai anh em chàng lãnh trách nhiệm hệ trọng ra đi… nay là đã hơn nửa tuần trăng. Song thân chàng hẳn nóng lòng chờ đợi tin tức của chàng! Nhất là sau khi nhận được tin không lành của Dương Trang Tấn, chắc cha mẹ chàng càng khôn khổ lo âu lắm?

Chàng lại nhớ đến việc đại sự quốc gia… Chẳng biết phụ thân và các cận tướng định liệu thế nào? Tình hình phương Bắc mỗi ngày một trầm trọng, làm sôi động dân tình khắp nơi. Gót chân của quân xâm lăng đã chà đạp trên nửa mảnh địa đồ, mà anh em chàng còn kẹt lại đây! Gia huynh thương thế chưa lành, thần trí chưa tỉnh! Còn chàng ngồi một chỗ bất lực trước cuộc diện, người như lên cơn sốt!

Không chịu đựng được những khốn khổ lo âu trong lòng, chàng rời ghế đến tì tay nơi khung cửa sổ nhìn trời.

Trời chiều gió hây hây thổi làm phe phẫy chiếc lá, rung động cành tre… tạo nên một điệu nhạc buồn.

Khung cảnh miền quê vô cùng tịch mịch. Nếu không nghe tiếng reo cười của hai đứa trẻ, cháu nội của Dương Trang Tấn, có lẽ nơi đây trở thành một vùng đất chết!

Trường Giang thở dài quay mặt vào phòng. Bất ngờ chàng thấy gia huynh ngồi tựa lưng nơi thành giường chăm chăm nhìn chàng…

Trường Giang chưa kịp nói lời nào, bỗng nghe giọng nói thân yêu cất lên:

- Hiền đệ về từ bao giờ?

Trường Giang mừng rỡ chạy tới nắm tay anh nghẹn ngào

nói:

- Em về đây đã mấy hôm rồi, song hiền huynh không nhận ra em. Nay xem chừng căn bệnh của anh đã bình phục, em thật vui mừng khôn xiết!

- Hiền đệ chậm trở về đây khiến anh lo lắm!

Trường Giang nhỏ nhẹ nói:

- Cũng vì sinh mạng của Huỳnh Như nguy kịch mà em không trở về nhà Dương lão bá để họp mặt với anh ngay được, khiến anh lo lắng. Em thật có lỗi! Xin anh tha lỗi cho em.

Trường Sơn nghe nhắc đến Huỳnh Như, liền hỏi:

- Nàng ấy đã thoát khỏi tử thần phải không đệ?

- Vết thương của nàng tuy chưa lành hẳn, song giờ đây không còn gì nguy hiểm nữa.

Chàng kể cho gia huynh nghe hết mọi việc xảy ra, ngay cả lời hẹn ước trăm năm với Huỳnh Như cũng không giấu giếm.

Trường Sơn nghe qua sắc mặt tươi hẳn lên. Chàng thành thật nói:

- Nàng ấy là một bậc anh thư, đáng làm dâu nhà ta! Anh tin cha mẹ rất vừa lòng về tin tức này.

Sau câu nói chàng bỗng thở dài, tay mân mê chiếc khăn lụa trắng…

Trường Giang tinh ý hiểu ngày cớ sầu của anh, thân thiết

nói:

- Em nghe Dương lão bá kể về người ân của huynh cố tình không muốn cho huynh biết tung tích! Nhưng em có cách tìm ra tung tích nàng. Chỉ cần anh cho em biết thêm một vài chi tiết.

Đôi mắt Trường Sơn vụt sáng rực lên:

- Hiền đệ thật có thể giúp anh tìm nàng được sao? Anh biết lắm mà! Tài trí của đệ ắt có thể làm được những việc khác thường.

- Điều trước tiên hiền huynh cần cho em rõ dung nhan của nàng. Huynh chờ em một chốc nhé? Chàng nói dứt lời phóng nhanh khỏi phòng. Một lúc không lâu chàng trở vào với giấy mực và bút lông trên tay, nói:

- Em cần phác họa chân dung của nàng. Xin hiền huynh kể lại cho em rõ những chi tiết. Trường Sơn vụt nhắm mắt, nói giọng mơ màng:

- Mắt nàng đẹp như ngọc, cái miệng xinh như hoa hàm tiếu, sóng mũi thanh nhã tuyệt vời, đôi mắt... Đôi mắt kỳ bí lóng lánh như sao trời...

Khi Trường Sơn mở mắt ra, Trường Giang đã đứng bên cạnh anh với bức chân dung vừa phác họa và hỏi:

- Nàng có giống trong bức họa này chứ? Trường Sơn cười nhẹ, lắc đầu:

- Không giống! Không giống! Nàng đẹp lắm chứ không như vậy đâu!

Trường Giang lấy giấy khác vẽ lại. Một lúc trao bức họa mới vẽ cho anh, hỏi:

- Phải chăng đúng người trong mộng?

- Không! Anh đã bảo nàng đẹp lắm mà!

Trường Giang lại vẽ bức chân dung khác. Đến lần thứ năm Trường Sơn bực mình, xẳng giọng:

- Anh những tưởng hiền đệ có thiên tài về hội họa, sao vẽ năm bảy lượt vẫn không ra hình bóng một người? Bị quở trách Trường Giang không giận, chỉ cười thầm trong lòng về thái độ của gia huynh. Chàng lui cui vẽ lại bức chân dung khác. Đến lần thứ mười Trường Sơn bỗng kêu lên:

- Đúng rồi! Đúng rồi! Hình hài đó chính là nàng! Hiền đệ ơi! Hãy tô điểm thêm đôi mắt! Đôi mắt của nàng giống như hai vì sao lóng lánh ngân quang, em à!

Trường Giang nghe lời anh, tô điểm thêm đôi mắt của ân nhân bí ẩn của gia huynh.

Sáng hôm sau, sau khi trao chén thuốc cho anh, chàng hỏi thêm:

- Hiền huynh còn nhớ nơi hiền huynh tỉnh dậy thuộc phương hướng nào không? Nếu anh biết, nói em rõ. Hôm nay em sẽ đi dọ hỏi vùng đó xem sao?

- Nơi đó là thôn Lộc Ninh thuộc đông nam Thanh Hóa.

Trường Giang xiết tay anh, nói lời hứa hẹn chắc chắn:

- Gia huynh yên lòng ở nhà tịnh dưỡng nhé? Chiều nay em sẽ có tin tức về nàng.

Chàng lên ngựa ruổi dong, mang theo bức chân dung của Thúy Uyên. Mãi đến trưa chàng mới tìm thấy chòi tranh Trường Sơn trú bữa trước. Nơi đó là đồng không, chẳng có dân cư, nên chàng phải tìm những làng kế cận hỏi thăm.

Lạ lùng là chẳng ai nghe biết gì về nàng mỹ nữ có tên Thúy Uyên. Cũng không ai nhận diện được người trong tranh! Chiều tối Trường Giang trở về nhà Dương Trang Tấn với nét mặt rầu rỉ. Sợ anh tuyệt vọng, chàng an ủi:

- Anh chớ thất vọng! Ngày mai em sẽ đi hỏi thăm những làng xã xa hơn nơi đó. Nhất định sẽ tìm ra mà! Nào ngờ ba hôm liên tiếp, tông tích của Thúy Uyên vẫn chưa ra manh mối! Trường Sơn nói giọng buồn thiu:

- Thôi đi! Hiền đệ đừng khổ thân vì anh nữa! Nàng ấy ban ân mà không muốn mình đền đáp nên cố ý không để mình tìm ra tông tích đó thôi! Trường Giang không biết nói sao? Chàng ngồi ôm đầu một lúc vụt đập tay lên đùi một cái "bốp", rồi cười nói:

- Trời ơi, em thật ngu quá! Theo như huynh kể, nàng ấy là con nhà phú quí, hoặc con nhà quan, tất phải sống tại thị trấn. Em về miền quê làm sao tìm ra nàng được? Thôi thôi, ngày mai em quyết đem tin tốt về cho anh.

Chàng cười cười:

- Tạm thời huynh cho em mượn chiếc khăn tay của

nàng.

Trường Sơn không hiểu ý em muốn lấy khăn tay của ân nhân mình làm gì, song không chống đối, đưa ngay khăn cho em.

Hôm sau Trường Giang đi đến thị trấn Thanh Hóa, ghé tiệm bán dụng cụ hội họa mua ít thứ cần dùng và gửi ngựa nơi đó, rồi đi tới chợ Hương Thủy, là chợ mua bán sầm uất nhất ngay trung tâm thị trấn Thanh Hóa.

Chàng bày các thứ hội họa ngay chỗ bán hoa. Bức chân dung của Thúy Uyên cũng đặt lồ lộ trước mặt. Người đi chợ ai ngang qua đó cũng đều trông thấy chân dung của mỹ nữ. Chiếc khăn tay của nàng đính dưới chân bức họa.

Chàng nghĩ: «Đàn bà con gái thích đi chợ ngắm hoa. Nàng ấy có đi qua đây mà thấy người trong tranh giống mình, tất phải thắc mắc tò mò đến xem. Chừng thấy chiếc khăn của mình nhất định nàng không thể thờ ơ. Lúc ấy ta sẽ tỏ thật với nàng tình cảnh của gia huynh… Có lẽ nàng sẽ động lòng chịu cho anh của ta gặp mặt».

Chàng tưởng tượng sẽ gặp Thúy Uyên nên lòng khoan khoái ngồi vẽ chợ hoa… Thỉnh thoảng chàng liếc mắt nhìn quanh xem có ai lưu ý đến tranh không?

Thật ra nơi mua bán kẻ qua người lại… Ai thấy tranh mỹ nữ cũng chú mắt nhìn vào rồi đi. Chẳng có gì đáng cho thiên hạ lưu tâm.

Đến quá giờ ngọ, thình lình có một cô gái độ 14,15 tuổi, ăn mặc theo kiểu người hầu nhà quan, xách giỏ đầy thức ăn rau cải đi ngang qua… Vừa trờ tới thấy bức tranh, nó sững sờ kêu lên một tiếng ngạc nhiên. Chừng khi nhìn thấy mặt chàng, nó liền cấm đầu chạy biến.

Thái độ lạ lùng của cô gái làm Trường Giang vô cùng thắc mắc. Nhưng cô gái đã mất dạng giữa rừng người! Chàng không còn cách gì chận cô ta lại để hỏi thăm điều chi, nên chán nản không thiết vẽ nữa, lẳng lặng thu dọn các thứ ra về. Giờ ấy các bạn hàng đã bắt đầu dọn dẹp đồ đạc. Người đi chợ cũng không còn bao nhiêu.

Giữa lúc Trường Giang đang lay quay thu xếp giá vẽ, bất ngờ thoáng thấy cô gái khi nãy trở lại, theo sau có một thanh niên ăn mặc theo kiểu gia nô phục dịch nhà quan.

Cả hai chạy tới làm lễ ra mắt chàng hết sức cung kính và đồng nói:

- Chủ nhân tôi kính mời công tử rảo bước đến tư dinh. Người có điều thưa lại với công tử.

Trường Giang mỉm cười gật đầu, tỏ ý nhận lời. Tên hoằng nô lẹ làng dành ôm các dụng cụ của chàng. Cả ba rời khỏi khu chợ đi một lúc đến con đường vắng teo, thỉnh thoảng mới có một ngôi nhà.

Đương nhiên nhà vùng này chỉ dành cho giới phú hộ hoặc quan quyền.

Mút con đường hiện ra một tòa lầu các xinh xinh ngói đỏ. Nhà không to nhưng chu vi rào khá rộng, có ao sen, có nhà mát, có khu hoa viên... Cảnh trí thanh nhã của một chốn quyền quí cao sang.

Vào đến nhà Trường Giang được mời đi thẳng lên tầng lầu. Người con gái hướng dẫn chàng vào một phòng thật trống trải, không vách, không cửa, hai bên là hai tấm song chạm trỗ rất tinh vi. Phía trước để trống, liền với lan can, hướng nhìn ra khu hoa viên.

Có lẽ phòng này là nơi để chủ nhân dùng trà buổi tối, vừa để thưởng gió ngắm trăng?

Mỗi lần có cơn gió thoảng qua mang theo cả hương thơm. Thật là một nơi thoát tục!

Trong phòng ngoài bàn ghế thanh lịch, còn có cây đàn tranh. Trường Giang vốn là con người tao nhã. Cái thú chơi đàn chàng cũng rất ưa thích, nên chú ý ngay đến nhạc cụ.

Người tớ gái mời chàng ngồi, rồi vòng tay thưa: — Kính mời công tử chờ ở đây. Tiện nữ vào trình với

phu nhân.

Trường Giang mỉm cười gật đầu. Người tớ gái chạy vút đi. Trường Giang bỗng chú ý bức tranh lụa treo trên mặt vách duy nhất của gian phòng. Tranh vẽ một cành trúc có con chim Uyên. Nét vẽ tuy còn đơn sơ, nhưng không kém linh động, phía dưới có ký tên Thúy Uyên, khiến chàng rúng động nghĩ thầm: «Người này quả có phong tư nghệ sĩ !»

Chàng đang nghĩ vẫn vơ… chợt nghe tiếng cửa mở thật nhẹ.

Một người từ phòng bên khoan thai bước ra… Trường Giang chưa từng thấy người đàn bà nào có tướng đi sang cả như thế! Tuổi người này chắc vào khoảng tứ tuần, nét mặt hao hao giống hình hài ân nhân của gia huynh chàng tả lại mà chàng đã phác họa lên tranh. Chàng kinh hãi nghĩ thầm:

- Chẳng lẽ người này có cái tên Thúy Uyên, là ân nhân của gia huynh ta? Chàng còn đang lúng túng làm lễ ra mắt, người đàn bà đon đả nói:

- Tôi rất mừng gặp lại công tử! Không ngờ sức khỏe công tử chóng bình phục như thế.

Trường Giang biết người này nhận lầm mình với gia huynh, nên vội cải chính:

- Thưa phu nhân, tiểu nhân chỉ là...

Nữ chủ nhân không để chàng nói dứt câu, nét mặt vô cùng trầm trọng:

- Hôm ấy sau khi băng bó sức thuốc thương thế của công tử, tôi buộc lòng phải cho người nhà đưa công tử ra đi một cách vội vàng, vì sợ bọn lính trở lại làm khó dễ. Con gái tôi vì quá ân hận việc cứu người mà không cứu đến tận cùng, nên ân hận sinh bệnh. Tôi cũng rất tự trách việc này, mà không biết dò la tin tức của công tử nơi đâu? Cũng vì hôm ấy công tử còn mê man nên tôi không có dịp hỏi thăm gia tư. Hôm nay bất ngờ gia nhân tôi gặp công tử ngoài chợ, thật may mắn cho gia đình tôi! Xin công tử vui lòng cho con tôi gặp mặt. May ra sau khi thấy công tử an lành, tâm bệnh của nó mới có hồi thuyên giảm.

Trường Giang lại muốn đính chánh mình không là người bữa trước, nên ấp úng:

- Tiểu sinh... Tiểu sinh không phải...

- Lẽ nào công tử từ chối cứu một người đang mắc tâm bệnh trầm trọng hay sao? Giọng nói của phu nhân đầy vẻ hờn mát, khiến Trường Giang không dám nói lôi thôi, vội vàng thưa:

- Tiểu sinh cũng biết ít y học. Xin phép phu nhân cho tiểu sinh chẫn mạch tiểu thư xem sao?

Nguyễn Phi Khanh phu nhân nghe chàng nói có biết y học, nét mặt vô cùng mừng rỡ. Bà hối hả mời chàng đi theo bà đến gian phòng phía Tây.

Vừa bước vào phòng Trường Giang phải giật nẫy mình, vì quả thật người con gái nằm thiêm thiếp trên giường giống như dung nhan anh chàng tả lại. Có điều sắc mặt bơ phờ hốc hác, hơi thở yếu ớt… Xem chừng cô nàng đau bệnh trầm trọng lắm.

Chàng hỏi vị phu nhân: — Thưa phu nhân, căn bệnh của tiểu thư phát sinh từ lúc

nào?

- Từ khi gặp công tử! Tức cách đây hơn nửa tuần trăng.

Trường Giang nghe nói cũng lấy làm ngẫm nghĩ: «Gia huynh chàng thấy nàng một lần về nhà đau bệnh tương tư! Còn nàng này cũng ôm mối tình si với con người nàng ra ân! Xem thế nếu không phải duyên nợ cùng nhau, làm gì có sự mê luyến sau một lần gặp mặt?»

Chàng thừa hiểu vị tiểu thư này cùng chứng bệnh tương tư như gia huynh mình, tuy trông có vẻ trầm trọng, song chẳng có gì khó trị, nên bình tỉnh nói:

- Tiểu thư mắc tâm bệnh. Tiểu sinh xin biên ngay toa thuốc an thần. Bệnh này chỉ cần trút cạn nỗi lòng với người đúng tâm sự thì cơn bệnh sẽ dứt ngay.

Chàng dẫn giải theo y lý một cách vô tư và quên tuốt «người đúng tâm sự» của bệnh nhân là gia huynh mình, mà hiện tại trong nhà này ai cũng nhận lầm là chàng. Nên chi sau khi nghe câu nói của chàng, Nguyễn phu nhân chúm chím cười. Bà sợ chàng trông thấy nụ cười của mình, nên vờ lục tìm trong ngăn tủ bàn viết lấy giấy bút mực ra trao cho chàng để kê toa thuốc.

Chàng ngồi nơi ghế cạnh chiếc bàn nhỏ ngay trong phòng biên toa thuốc vừa xong, chợt nghe tiếng rên khẽ của Thúy Uyên nên đứng bật dậy. Nguyễn phu nhân chạy a lại nắm tay con gái âu yếm gọi:

- Thúy Uyên con! Người con cứu thương bữa trước đang đứng trước mặt con đó. Chàng đến thăm con đó.

Thúy Uyên nghe mẹ nói, giật mình ngồi phắt dậy. Chừng thấy chàng trai hôm nào đứng sừng sững cạnh bàn viết, nàng chấn động tâm thần, ngã xuống giường bất tỉnh !

Nguyễn phu nhân thấy con gái ngất xỉu, đưa mắt kinh hãi cầu cứu Trường Giang:

- Công tử! Xin công tữ hãy cứu con tôi!

Không chần chờ, Trường Giang bước gấp tới chẩn mạch cho nàng. Bất ngờ nàng tỉnh ngay và mở đôi mắt đẹp lóng lánh như sao trời, nói giọng xúc cảm bồi hồi:

- Thương thế người đã lành hẳn rồi sao? Thiếp những

lo...

Nàng quá xúc động nghẹn lại không thể nói dứt câu, đôi mắt ngấn lệ. Trường Giang không nỡ để nàng thất vọng, nên đành phải đóng luôn vai trò của gia huynh! Chàng nói:

- Tôi vì cảm cái ơn cứu tử của ân nhân mà quyết đi tìm tung tích ân nhân. Nửa tháng qua nhờ chiếc khăn tay của tiểu thư tôi biết được tên nên đi hỏi thăm cùng hết. Nay ơn trên đã cho tôi tìm gặp tiểu thư để nói lời tạ ơn, tâm thần tôi mới nhẹ nhàng phần nào. Giờ đây biết tiểu thư vì quá lo cho tôi mà sinh bệnh, lòng tôi thật xốn xang vô vàn.

- Chỉ cần biết người bình an là thiếp vui mừng hết bệnh.

Trường Giang nghe nàng nói lời tha thiết với gia huynh, bỗng chợt nhớ tới mối tình đầm thấm giữa chàng với Huỳnh Như…!

Hồn chàng nửa mê nửa tỉnh… nhìn Thúy Uyên mà có cảm tưởng như nàng mỹ nữ trước mắt là người yêu của chàng…

Nhớ đêm nào nàng chết lịm trong tay chàng, nhớ đêm nào nàng thoi thóp trước ngưỡng cửa thần chết, chàng ngồi một bên đau đớn xót xa… Nhớ đêm nào cả hai thề nguyền trọn đời một tấm tình chung, đổi trao kỷ vật...

Thời gian tuy không bao lâu, song Trường Giang có cảm tưởng như một thế kỷ trôi qua.

Chàng ngồi lặng yên bên giường, hồi nhớ đến những ngày kỷ niệm cùng người yêu nơi quán trọ bên đường…Tai chàng như còn nghe văng vẳng lời thỏ thẻ của Huỳnh Như kể lại khoảng đời đau thương của nàng. Mắt chàng chợt trông thấy nàng vũ nữ kiều mị hí lộng hoàng cung chiều nào... Sắc mặt chàng lúc bấy giờ như kẻ si tình ngẩn ngơ ngơ ngẩn...

Thúy Uyên ngồi trên giường cũng dạt dào với muôn ngàn cảm xúc...

Nguyễn phu nhân đã rút lui từ bao giờ, để lại gian phòng thật im lìm, không nghe tiếng gì ngoài nhịp tim và hơi thở của hai kẻ tương tư không cùng một mối này!

Một lúc thật lâu Trường Giang bỗng nói bằng một giọng mê sảng:

- Một ngày xa cách nàng tôi có cảm tưởng như ba mùa thu không gặp nhau. Nàng có thấu rõ tình tôi không? Nàng có biết tôi không quên kỷ niệm của chúng mình không?

Chàng đang đóng vai trò của gia huynh trước mắt Thúy Uyên, bỗng quên lững tưởng mình đang trò chuyện cùng người yêu Huỳnh Như!

Câu nói diễm tình của chàng phát ra trong lúc này không khác gì mười thang thuốc bổ, giúp cho Thúy Uyên vốn đau bệnh kiệt quệ mấy hôm bỗng có sức mạnh phi thường! Nàng tuột khỏi giường đến ngăn tủ bàn trang điểm lấy ra một vòng

ngọc thạch xanh biếc trao cho Trường Giang, rồi trang trọng

nói:

- Thiếp họ Nguyễn tên Thúy Uyên, phụ thân tên gọi Nguyễn Phi Khanh, phũ mẫu là Trần Thị [1]. Nếu chàng đã có tình thấm thiết cùng thiếp, xin hãy nhận vật này.

Lúc bấy giờ Trường Giang mới tỉnh mộng, không nhớ mình đã nói lời gì? Tay chàng cầm chiếc vòng ngọc của Thúy Uyên mà trong dạ hết sức hoang mang.

Thúy Uyên nhìn thấy thần sắc chàng ngẩn ngơ ngơ ngẩn, nghĩ lầm chàng quá xúc động, nên nhắc nhỡ:

- Xin chàng hãy trao cho thiếp kỷ vật làm tin. Thúy Uyên này quyết một lòng chờ đợi ngày chàng đưa cha mẹ đến cầu hôn. Tuy mới gặp nhau, nhưng duyên nợ đôi ta chắc đã hẹn từ kiếp trước, khiến cho chàng và thiếp đã có tình gắn bó. Trường Giang nghe nàng nói, đứng chết điếng một lúc, mới gượng gạo nói:

- Tôi họ Nguyễn tên Trường Sơn, phụ thân là Nguyễn Trường Hân, vốn giòng võ tướng, quê ở Tràng An, hiện lập nghiệp ở Mường Lai cận biên thùy Lão Qua.

Chàng nói mà trong lòng rối bời, không biết lấy vật chi trao đổi với nàng?

Thời bấy giờ trai gái lén lút yêu nhau hay trao đổi kỷ vật để làm tin. Chàng đã đóng vai trò gia huynh mình, bây giờ không thể nào để cho lỡ dở. Nhưng giữa lúc bất chợt này biết lấy chi trao cho nàng?

Chàng mò mẫm trong túi áo mình, bỗng moi ra một túi gấm nhỏ, mới sực nhớ đó là túi gấm của Huỳnh Như để cây trâm vàng bên trong khi trao cho chàng.

Trong lúc khẩn trương không kịp nghĩ suy, lại cũng muốn cho duyên nợ của anh thành tựu, nên không chần chờ, chàng mở túi gấm lấy cây trâm trao cho Thúy Uyên rồi nói:

- Đây là bảo vật quí nhất của tôi, xin gửi nàng để làm tin. Tôi về nhà sẽ trình lại với song thân việc nhân duyên của chúng ta. Có điều phận làm trai nợ nước chưa trả, xin nàng nán lòng chờ đợi ngày dẹp được triều Hồ và ngoại bang, lúc ấy đôi ta mới kết hợp duyên tình. Thúy Uyên nhận cây trầm với nỗi xúc động mãnh liệt. Nàng nghẹn đi một lúc mới nói ra câu:

- Cây trâm này xem như người bạn tình của thiếp trong khi chờ đợi ngày nên duyên cùng chàng.

Hai người nói đến đây Nguyễn Phi Khanh phu nhân trở lại với con hầu, tay bưng cái khay có chén thuốc khói bay nghi ngút.

Nguyễn phu nhân thấy con gái ngồi tỉnh táo trên giường tiếp khách, trong lòng vui vẻ lắm. Mấy ngày trước đó nàng nằm liệt giường như kẻ sắp chết. Giờ đây thuốc chưa uống mà bệnh đã khỏi!

Thế mới biết cơn đau của ái tình chỉ có thuốc ái tình mới trị liệu được!

Bà biết chén thuốc này giờ đối với con gái là thừa, song vẫn mang tới cho con,; âu yếm nói:

- Thuốc này chính công tử biên toa khi nãy. Mẹ sai chúng nó đi hốt thuốc gấp cho con. Con hãy uống để làm vui lòng công tử.

Thúy Uyên cảm động bưng chén thuốc uống một hơi, lúc ngẩng mặt lên đôi mắt long lanh ngấn lệ, nhìn Trường Giang với vẻ cảm kích tột cùng…

Trường Giang rúng động trước ánh mắt thu hồn của nàng, hốt hoảng quay mặt ra cửa sổ. Con tim của chàng đã dâng trọn cho Huỳnh Như, thì chàng không có quyền để lòng xúc động trước người con gái nào khác, dù biết rằng đó chỉ là vai trò yêu đương tạm bợ thay cho anh.

Thấy bổn phận đến đấy đã tròn, chàng cáo từ Nguyễn

phu nhân và Thúy Uyên.

Nguyễn phu nhân lưu luyến giữ chàng lại, nói:

- Công tử ở lại dùng cơm, cũng để tôi giới thiệu với phu quân tôi và trưởng nam tôi. Họ còn làm việc trong triều, nhưng chắc cũng sắp về đến nhà.

Trường Giang nhìn trời thấy đã xế chiều. Một ngày sắp tàn, gia huynh chàng trên giường bệnh hẳn đang mỏi mòn trông đợi chàng trở về. Lẽ đâu chàng còn trì huỡn ở lại đây? Vả lại cực chẳng đã chàng phải đóng vai gia huynh để chữa bệnh cho Thúy Uyên, chớ chàng nào phải người yêu của nàng mà trình diện trước phụ thân hay gia huynh nàng?

Chàng nghĩ thế, nên cương quyết chối từ:

- Xin phu nhân tha lỗi cho tiểu sinh về tội bất tuân. Cũng vì nhà xa, tiểu sinh cần phải lên đường trước khi trời tối. Xin phép phu nhân cho tiểu sinh được trở lại vào dịp khác.

Nguyễn phu nhân thở ra, tỏ vẻ tiếc rẻ. Bỗng nhiên hỏi:

- Công tử quê quán ở đâu? Có thể nào cho tôi rõ lệnh

tôn là ai?

Sở dĩ đến phút chót Nguyễn phu nhân mới hỏi thăm thân thế của chàng, vì khi bọn gia nhân tìm gặp Trường Giang ở chợ đưa về nhà, bà quá vui mừng, không thắc mắc chi về chàng trai xa lạ mà con gái bà ôm mối tương tư. Bà không gấp hỏi lai lịch, mà chỉ mong sao người ấy cứu con bà qua cơn đau bệnh. Hơn nữa lần này gặp lại chàng, bà mới thấy rõ người kỵ mã bà cứu bữa trước có hình hài cao đẹp, dung mạo tuấn tú, lời lẽ cử chỉ chứng tỏ con cái nhà quí tộc, bà rất đẹp ý, nên không thắc mắc tìm hiểu về chàng. Giờ chàng nói lời giã từ, tất nhiên bà cần biết rõ thân thế nên mới lên tiếng hỏi.

Trường Giang cung kính đáp:

- Tiểu sinh họ Nguyễn, tên Trường Sơn, phụ thân tên Nguyễn Trường Hân vốn dòng võ tướng, quê ở Tràng An.

Cái tên Nguyễn Trường Hân vừa nói ra, Nguyễn Phi Khanh phu nhân giật nẫy mình. Bởi bà còn lạ gì vị tướng này lừng danh khắp xứ từ đời Trần Thuận Tông, mấy năm gần đây rút lui về mạn rừng núi ra mặt chống triều đình vô cùng quyết liệt.

Chồng bà là quan Hàn Lâm học sĩ Nguyễn Phi Khanh và trưởng nam Nguyễn Trãi sở dĩ còn ở lại phục vụ cho triều đình hiện hữu vì họ là kẻ sĩ, thấy bọn Hồ quá dốt nát, không muốn chúng làm thầy dạy cả một thế hệ trẻ đang lên, nên đành phải ra chấp chưởng quyền hành của Hồ Hán Thương đề cử, hầu cứu dân tộc cái họa ngu xuẩn.

Cho nên tuy họ làm quan tại trào, nhưng với phe chống đối họ rất trọng vọng, dù không dám công khai.

Bởi thế hôm trước Thúy Uyên và phu nhân che chỡ cho Trường Sơn thoát sự lùng bắt của binh triều, nhưng sau đó phải lén đưa chàng ra đi.

Nghe thân thế của chàng, Nguyễn phu nhân tươi ngay nét mặt. Bà hỏi thêm:

- Công tử nay được bao nhiêu tuổi?

- Thưa tiểu sinh 21. Nguyễn phu nhân nhủ với mình:

- Thúy Uyên 16, nhỏ hơn người này 5 tuổi. Thật là tốt!

Có thể nói bà là người mẹ rất nuông chìu con gái, lại có tư tưởng canh tân, muốn cho con được kết hôn với người nó yêu, chớ không câu nệ lễ giáo nho phong Vì vậy khi nãy bà cố ý để cho cả hai tự do tâm tình, ước hẹn trăm năm [2].

Không nghe chủ nhân hỏi gì thêm, Trường Giang chấp tay xá chào lần chót, sau khi giao tặng Thúy Uyên bức chân dung của nàng.

Nguyễn phu nhân tiễn chân chàng xuống lầu. Thúy Uyên đưa mắt theo dõi người yêu khuất nẻo hành lang, tay mân mê trâm vàng, lệ long lanh khoé mắt...

° ° °

Trường Sơn ngồi yên lắng nghe em kể lại cuộc gặp gỡ với Thúy Uyên không bỏ sót một chi tiết hay một lời đối thoại nào! Chàng xúc động nói:

- Anh không ngờ nàng dành cho anh tâm tình sâu đậm như thế. Nghĩ cũng kỳ lạ! Trong khi anh ôm mối si tình vị ân nhân của mình, thì nàng lại đau bệnh tương tư vì nhớ tưởng kẻ nàng ra tay cứu tử! Xem thế cái duyên nợ này cao xanh đã an bày.

Chàng ngừng một lúc nhìn em nói giọng hết sức chân

tình:

- Duyên tình của anh êm đẹp phải kể công ơn hiền đệ. Từ lâu nay anh luôn khâm phục đệ là ngươi quyền biến, có thể định liệu mọi việc để đi đến kết quả. Như chuyến này thì quả thật anh không tưởng tượng được hiền đệ có thể tìm ra ân nhân bí mật của anh, lại còn dàn xếp cuộc hứa hẹn trăm năm! Em đáng được anh bái phục lắm. Trường Giang cười dòn, nói giọng khôi hài:

- Nhưng em đã hẹn với nàng ấy chờ khi đất nước thanh bình mới kết hợp duyên tình. Hiền huynh đồng ý chứ? Em chỉ lo anh trách thầm em sao quá ác, kéo dài thài gian hội ngộ với giai nhân! Trường Sơn cười hề hề, rồi nghiêm giọng nói:

- Anh quyết nối nghiệp cha, ông… chọn cuộc đời vẫy vùng trên yên ngựa. Đương nhiên mối tình si đành phải giấu kín. Chờ ngày dân ta dẹp được triều đình thối tha kia, lúc ấy anh mới tính chuyện lứa đôi. Hiền đệ thay anh hẹn với nàng như vậy là đúng ý anh lắm! Ngẫm nghĩ một chốc chàng tiếp:

- Cái may là hiền đệ thay anh giáp mặt nàng. Chớ như anh là anh trong lúc đó, chưa chắc đã nói được lời gì cảm động được lòng nàng. Bởi anh là hạng võ biền ăn nói vụng về, làm sao nói được lời văn vẽ của kẻ sĩ như đệ? Trường Giang cười nhẹ, an ủi:

- Nàng yêu anh ngay từ đêm anh nằm chết trong vườn nhà nàng, đâu cần phải nghe anh nói lời nào? Trường Sơn lại nói:

- Nếu không có hiền đệ thay anh thì làm sao chẫn bệnh cho toa? Ví như nàng có mắc bệnh trầm kha, anh chỉ biết lấy mắt nhìn trơ. Trường Giang cười khì, cải chính:

- Quả thật em có ra tài biên toa thuốc. Nhưng nói thật, thuốc chưa uống nàng đã dứt bệnh rồi! Thấy gia huynh có vẻ không tin lời mình, Trường Giang nghiêm giọng:

- Nàng chỉ tương tư anh mà sinh bệnh, chớ nào có đau yếu chi đâu? Gặp em, nàng tưởng lầm là anh, lại thấy em lành lặn không băng bó thì ngỡ thương thế anh đã lành, nên nỗi vui mừng làm nàng hết bệnh. Như vậy nào phải do thầy thuốc hay?

Thấy anh cứ mãi thắc mắc nghĩa ân với mình, Trường

Giang nói khôi hài:

- Bao phen em mở miệng toan cải chính em chỉ là đệ của huynh, nhưng Nguyễn phu nhân chẳng để em có dịp cải chính. Rồi nàng lại ngất xỉu, em đành phải nhận bừa vai trò của anh. Báo hại em phải hy sinh cây trâm vàng của Huỳnh Như. Ngày sau gặp lại Huỳnh Như, em không biết phải giải thích sao đây? Giả như nàng có nổi trận lôi đình với em, anh nhớ can thiệp đó nhé?

Trường Sơn nói giọng tự nhiên:

- Để anh ra hiệu kim hoàn đặt làm cây trâm khác trả lại cho hiền đệ.

- Thôi anh khỏi ra hiệu kim hoàn chi cho phiền phức.

Chàng nói mà trong bụng tức cười gia huynh mình sao quá vô tư! Cây trâm của Huỳnh Như mới có giá trị đối với chàng. Chứ như chàng có một vạn cây trâm khác thay thế cũng đâu có ý nghĩa gì sánh với kỷ vật trao hôn?

Chàng bỗng sực nhớ tới chiếc vòng ngọc của Thúy Uyên, nên cho tay vào túi áo lấy ra trao cho anh và nói:

- Còn đây là kỷ vật của nàng trao cho hiền huynh. Hiền huynh hãy giữ lấy.

Trường Sơn đón nhận vòng ngọc xanh biếc, nhỏ nhắn, tưởng tượng cườm tay nỏn nà của nàng trong đó… lòng ngất ngây đưa lên môi hôn.

Trường Giang thấy vẻ si tình của anh, chúm chím cười. Tự nhủ:

- «Những con ngươì tung hoành trên yên ngựa là những con người đa tình nhạy cảm nhất».

Tối đêm đó hai anh em trò chuyện đến thâu canh mới ngủ.

Tờ mờ sáng hôm sau cả nhà đang yên giấc, bỗng có một tên gia binh của Nguyễn Trường Hân từ Mường Lai tới gõ cửa nhà Dương Trang Tấn tìm hai vị tiểu chủ trao mật thư.

Hai anh em Trường Sơn bàng hoàng nhận được tin của cha như vầy:

«Bọn Hồ bất lực để quân ngoại bang chiếm cứ khắp nơi. Thăng Long thất thủ! Tình hình vô cùng khẩn trương. Hai con phải trở về gặp cha tức khắc. Thân phụ».

Thư không chữ ký, song dưới cuối thư có in dấu hình trang trại Mường Lai.

Trường Giang nhìn anh phân vân hỏi:

- Gia huynh nhắm có thể đi ngựa được chưa? Trường Sơn gật đầu, cười nhỏ:

- Dù không được lệnh của phụ thân, anh cũng phải về nhà. Chẳng lẽ nào anh nằm vạ nhà Dương lão bá mãi hay sao? Hiền đệ an tâm! Bữa nay anh đã khá lắm rồi. Trường Giang vui mừng nói:

- Nếu thế để em sữa soạn hành trang. Chúng mình lên đường ngay.

--------------------------------

1. Nguyễn Phi Khanh tức Nguyễn Ưng Long lấy con gái của Trần Nguyên Đán tên là Trần Thị Thái.

2. Cũng nên biết Bà Trần Thị Thái con gái ông Trần Nguyên Đán vốn dòng tôn thất chính của nhà Trần, lén lút yêu Nguyễn Ưng Long (Phi Khanh) một hàn sĩ và có thai (Nguyễn Trãi) là bà đã có tư tưởng tự do tình ái, trái với luân lý dân tộc, vừa trái với gia pháp họ Trần (Trần Thủ Độ đặt ra) chỉ được kết hôn với người cùng họ.

 Chương 5: Thảm cảnh chạy giặc

Trang trại Mường Lai nằm bên cạnh giòng Lỗi giang. Nhà cất thấp, rộng lớn, có ba gian. Phía trước có sân rộng thẳng tấp đến bờ sông, phía sau là đồi núi chập chùng.

Sáng hôm ấy vào khoảng giờ Thìn, tháng ba năm Đinh Hợi (1407), nơi chiếc bàn vuông dài của gian nhà giữa dùng làm đại sảnh, Nguyễn Trường Hân với hai con là Trường Sơn và Trường Giang đang bàn luận quốc sự cùng ba cận tướng là Trần Gia Viễn, Lê Tất Hóa, Đoàn Trí... Nét mặt người nào cũng vô cùng trầm trọng.

Trường Hân cất giọng sang sảng:

- Thực lực quân Minh như sóng tràn thác lũ, gót chân ngoại bang đã dày xéo hơn nửa mãnh đất quê hương, máu người dân vô tội đổ thành sông, thây chất thành núi. Triều đình Hồ quả thật là một bọn bất lực, gây họa cho dân! Hiện tại Hồ Quí Ly và Hồ Hán Thương đã bỏ hoàng cung Thanh Hóa về ẩn náu ở trại Hoàng Giang với Hồ Nguyên Trừng. Trước tình thế này cái đích diệt Hồ của chúng ta không còn nữa. Kẻ thù hiện tại là quân ngoại bang. Có điều thế giặc quá

mạnh. Với số quân ít ỏi chúng ta chưa thể làm gì được trong

lúc này.

Tướng Trần Gia Viễn là người trẻ tuổi nhất trong ba cận tướng của Nguyễn Trường Hân vụt đứng lên nói:

- Quân ta tuy ít nhưng lòng diệt thù hăng say, chúng ta sợ gì chúng mà chẳng bày một trận đấu nhau mãnh liệt, cho bọn chúng kinh hồn mà rút lui về Tàu?

- Ý lão đệ muốn chúng ta bày trận như thế nào để tiêu diệt một đoàn quân hùng mạnh?

Câu nói này là của Phạm Khôi, con người chững chạc nhất trong bọn. Trần Gia Viễn nghe Phạm Khôi nói có vẻ móc họng, nên hổ thẹn nói bừa:

- Ta cứ đưa quân đánh chiếm lại Thăng Long.

Đoàn Trí cất giọng ôn tồn xen vào:

- Khi trước quân Hồ yếu thế mà ta không chiếm được Thăng Long, nay với thế ồ ạt của quân Minh, với số binh ít ỏi của ta làm sao thắng nổi? Hiền đệ không thấy trở ngại của chúng ta?

Trần Gia Viễn vẫn chưa chịu im:

- Nói như các huynh, chẳng lẽ ta khoanh tay ngồi ngó bọn cướp nước dày xéo quê hương ta? Trường Sơn chợt lên tiếng:

- Cháu cũng nghĩ như thúc thúc. Ta không thể làm nô lệ cho triều đình Minh.

Được người hổ trợ ý kiến, Trần Gia Viễn khoan khoái

nói thêm:

- Chúng ta phải đánh.

Trường Giang cất giọng đầm ấm xen vào:

- Kính thưa quí thúc thúc. Cháu trộm nghĩ, khi muốn đánh quân ngoại bang phải có kế hoạch hẳn hòi và cũng phải biết thời cơ. Hiện tại thế giặc hùng mạnh, chúng ta với số binh quá ít, không đủ sức chống trả họ. Cứ suy luận triều đình Hồ yếu kém mà ta con phải lần lựa chờ thời. Nay với binh cuồng tướng bạo của nhà Minh, ta cần phải dè dặt hơn.

Quanh cái bàn sáu người bàn luận chỉ có Trường Giang là kẻ sĩ không biết võ nghệ, nhưng tiếng nói của chàng được mọi người chú trọng nhất.

Khi chàng dứt lời mọi người tỏ vẻ tán thưởng. Trường Hân gật gật đầu:

- Phải lắm! Ta không thể làm gì được trong lúc này! Việc khẩn cấp là rút quân vào rừng sâu để tránh sự lưu ý của quân nhà Minh. Trang trại này phải được di tản càng sớm càng tốt. Ta ẩn nhẫn chờ đợi thời cơ, khi kẻ thù tưởng rằng đã thần phục được dân ta, lúc đó ta đánh bất chợt.

Mọi người đồng nói:

- Chúng tôi đồng ý với Nguyễn tướng công.

Trường Hân nói tiếp:

- Còn điều này nữa, tôi không biết quí vị có đồng quan điểm như tôi không? Đó là chúng ta cho đàn bà trẻ con di tản chốn an toàn, cũng để cho chúng ta rảnh tay lo việc binh đao.

Nơi đây ai cũng đều có gia đình con cái. Chỉ có hai vị công tử họ Nguyễn chưa phải lo nghĩ điều này. Song câu nói của cha khiến Trường Sơn và Trường Giang bỗng nhớ đến người con gái đã cùng họ ước hẹn trăm năm. Vô tình hai anh em đưa mắt nhìn nhau…

Từ khi trở về nhà đến nay đã bốn tháng, hai anh em Trường Sơn vẫn chưa có dịp thưa lại với song thân và tổ mẫu việc nhân duyên, vì tình hình đất nước khẩn trương.

Bàn bạc một lúc, ba cận tướng của Nguyễn Trường Hân rút về gia tư để tính việc đưa vợ con đi đào nạn.

Bấy giờ còn lại một mình với hai quí tử, Nguyễn Trường Hân mới nói:

- Ta muốn hai con đưa tổ mẫu và thân mẫu sang Chiêm Thành tá túc một thời gian. Ở đó có tướng Bồ Điền là cửu phụ của vua Chiêm, vốn có hàm ân với ta thuở trước, chắc chắn sẽ đùm bộc gia quyến ta trong lúc này. Trường Giang nhỏ nhẹ hỏi cha:

- Thưa cha, cha quen với tướng Chiêm Bồ Điền vào dịp nào?

- Nhân khi xưa đưa quân sang đánh Chiêm Thành ta có giải thoát tướng Bồ Điền khỏi ngục tù của Chế Bồng Nga. Y mang cái ơn cứu tử của ta từ ngày đó. Giờ đây cháu của y là Ba Đích Lại làm vua Chiêm Thành, quyền hành rộng lớn trong tay y. Ta thiết tưởng hai con đưa mẹ và tổ mẫu sang tá túc một thời gian, chắc sẽ được tiếp đón nồng hậu. Trường Sơn vụt nói:

- Thưa cha, xin cho con ở lại nhà giúp cha một tay. Việc đưa gia quyến đi tị nạn một mình em con tưởng cũng được. Nguyễn Trường Hân lắc đầu:

- Xứ lạ quê người em con chỉ là kẻ sĩ thì làm sao che chỡ cho hai người đàn bà yếu đuối? Trường Giang nghe cha nói thế, liền thưa:

- Xin để con ở lại nhà với cha. Gia huynh con đưa gia quyến đi tị nạn. Con đi theo chẳng ích lợi gì.

- Con không đi thì tổ mẫu, thân mẫu và gia huynh con cũng như kẻ câm, kẻ điếc! Không biết tiếng xứ người, sống ở xứ người sao tiện? Trường Sơn nói:

- Thưa cha, con thiết tưởng mình đi tị nạn thì đâu có cần cái tài võ tướng? Con ở lại nhà giúp cha việc chinh chiến là phải hơn. Trường Giang toan mở miệng nói thì Trường Hân khoát tay bảo:

- Thôi! Hai con đừng cãi lời ta nữa! Ta đã quyết định rồi. Hai con đưa mẹ và tổ mẫu sang Chiêm Thành trước là để tránh cho hai người đàn bà khỏi cái cuồng bạo của quân Minh, sau là hai con xem tình cảm của Chiêm Chúa đối với nước ta thế nào? Nếu họ có lòng tốt phụ giúp ta việc quân bị, thì ngày ta xua quân đuổi giặc sẽ không còn bao lâu nữa! Đương nhiên là... Ông nói chưa dứt lời chợt thấy vợ dìu mẹ từ gian nhà bên đi ra. Trường Giang chạy tới đón tổ mẫu dìu tới ngồi nơi chiếc ghế mây có lót nệm. Bà tuy đã quá thất tuần, song trông còn khoẻ mạnh. Bà cười nói với con trai:

- Con và tụi nhỏ bàn tính việc chi mà đi đi ở ở ngoài này? Ta già rồi, ta đâu có muốn chôn thây ở xứ người mà bày chuyện đi đâu cho mệt? Nguyễn Trường Hân chấp tay cung kính nói:

- Thưa mẫu thân, quân Minh cuồng bạo, đi tới đâu là gieo đau thương cho dân ta. Đàn bà con gái ở lại đây thập phần nguy hiểm, nên con muốn mẹ cùng hiền thê con và hai tiểu tử rời chốn này để con rảnh tay lo việc chinh chiến.

Nguyễn phu nhân xen vào nói:

- Thân mẫu già rồi, đi đường xa và ở xứ người sao tiện? Còn thiếp và hai con nỡ nào bỏ chàng ở lại đây một mình hay sao?

Nguyễn Trường Hân cười dòn:

- Tôi còn các cận tướng của tôi, phu nhân chớ quá lo!

- Nhưng... nhưng ai lo cơm nước? Ai chăm sóc cho chàng? Vả lại thiếp... thiếp...

Nguyễn phu nhân khi kết hôn với Nguyễn Trường Hân bà còn trẻ lắm. Cho nên hai con trai đã 22 tuổi mà bà chưa tới tứ tuần, nhan sắc còn mặn mòi xem như thiếu nữ đang xuân.

Trường Hân nghe vợ nói giọng ngập ngừng uất nghẹn,có vẻ không chịu ra đi thì xót xa lắm. Ông cúi đầu nín lặng một lúc mới ngẩng mặt lên nhìn mẹ và vợ nói một lời cương quyết, nhưng bằng giọng xúc động:

- Tôi đã quyết định rồi! Phu nhân hãy cùng thân mẫu và hai con xa lánh chốn này, để tôi rảnh tay lo việc binh đao...

Sau câu nói ông cố làm vẻ mặt lạnh lùng rời gian đại sảnh. Nguyễn phu nhân sụm ngay chân mẹ chồng sụt sùi…

Tin Đông Quan (Thăng Long) thất thủ, cha con già Hồ bỏ hoàng cung Thanh Hóa về ẩn náu ở Hoàng Giang làm chấn động dư luận muôn dân.

Giặc Minh tràn về đốt phá nhà cửa, cướp giựt của cải, bắt đàn bà con gái v.v... khiến dân chúng hoảng sợ bỏ nhà bỏ xứ dìu dắt nhau đi trốn… Kẻ chạy vào rừng theo đường bộ trốn sang Lão Qua (Lào). Người chạy ra cửa biển tìm thuyền bôn đào vào phương Nam sang Chiêm Thành.

Dọc theo miền duyên hải từ Đồ Sơn đến Sầm Sơn, khi mặt trời vừa lặn, từng đoàn người già trẻ lén lút dìu dắt nhau ra bãi bể đón các ghe thuyền chài thuê họ đưa đi.

Quan quân nhà Minh thừa biết dân nhà giàu di tản sản nghiệp của họ qua hai nước Chiêm Thành và Lão Qua nên trấn giữ vùng biên giới thật nghiêm mật. Trước tình thế đó gia quyến Nguyễn Trường Hân cũng phải đổ ra cửa biển tìm thuyền.

Chiều hôm ấy có một cổ xe song mã mui kín chạy phon phon trên con đường mòn hẻo lánh đổ ra bãi Sầm Sơn.

Người đánh xe là một thanh niên trẻ đẹp, mặc bộ dạ hành bó sát màu đen, tay vung ngọn roi mây thật nhẹ nhàng như chẳng đụng vào người con vật. Song đôi ngựa chạy vùn vụt như được sự điều khiển thần kỳ của chủ.

Một lúc cổ xe dừng lại nơi một tòa cổ miếu cây cối sầm uất. Bấy giờ trong xe có một chàng thanh niên mở cửa bước xuống. Người này mặc bộ dạ hành màu xanh thẫm, nét mặt hình hài giống hệt như chàng thanh niên đánh xe. Cả hai dìu hai người đàn bà từ trong mui ra… Một người quá thất tuần, một người khoảng tứ tuần, dung nhan xinh lịch.

Chàng thanh niên mặc dạ hành màu đen nhỏ nhẹ nói với hai người đàn bà:

- Xin tổ mẫu và mẫu thân chịu khó đi bộ một đoạn đường, vì xe chạy đến tận bãi có thể gây chú ý quân binh.

Người đàn bà trẻ dịu dàng nói:

- Ta chỉ lo cho tổ mẫu, chớ ta đâu ngại gì?

- Hay là để con cõng tổ mẫu? Bà lão vụt lên tiếng xen vào với nụ cười dòn:

- Tuy ta đã già, nhưng ta đâu đã liệt mà các cháu lo chi lắm vậy? Còn bao xa mới ra tới bãi? — Chắc độ một dậm đường (khoảng 576m).

- À, nếu thế ta đi được mà! Hai cháu nên lo xách hành lý. Ta đi từ từ cũng đến nơi.

Chàng thanh niên mặc dạ hành màu xanh bấy giờ mới lên tiếng:

- Gia huynh nên dìu tổ mẫu và thân mẫu. Phần em lo

hành lý cho.

- Tốt hơn hiền đệ nên lo cho mẹ và tổ mẫu. Để anh quảy hành lý. Chàng thanh niên mặc áo xanh cười, lắc đầu:

- Gia huynh lúc nào cũng muốn trổ tài dũng tướng! Mấy cái túi vải có nặng nề gì đâu, ngoại trừ mớ sách của em!

- Chính thế! Chính mấy quyển sách của ông nho gàn nặng nề, nên anh mới dành quảy thay cho.

Cả hai anh em cùng cười vang. Người đàn bà trẻ châu

mày nói:

- Trường Giang con! Đi chạy giặc mà con đem sách theo chi cho nặng nề vậy?

- Thưa mẫu thân! Đó là kho tàng quí báu của con. Tiền bạc của cải mất còn kiếm được, chứ tài liệu sách vỡ mất thì khó thể tìm đâu ra.

- Quả thật con chẳng chừa tánh nho sĩ gàn! Chạy giặc lo cái thân chưa xong, có ai đâu lại lo cho sách? Bà nói với giọng nửa thương yêu nửa trách mắng. Trường Giang cười lã chã:

- Mẫu thân à, thân con mà không có sách thì con không còn là con nữa! Con người mà cái đầu trống rỗng thì đâu còn là con người nữa? Ví như anh con là dũng tướng, lúc nào bên mình cũng kè kè thanh kiếm, mẹ không thấy sao?

Trường Sơn nghe em nói liền đính chính:

- Bữa nay anh không có kè kè thanh kiếm bên mình đó

nhé?

Sự thật chàng không đeo bên mình, vì lúc nãy ngồi đánh xe sợ gây chú ý bọn binh lính nhà Minh nên chàng giấu thanh kiếm trong bao hành lý. Bà lão cười dòn xen vào:

- Ối thôi, ai có cái gì quý thì mang theo. Ví như ta đây mang theo cái ống ngoáy trầu, các con không thấy sao?

Mọi người đồng cười rộ sau câu nói khôi hài của bà lão. Trường Giang một tay quảy túi sách, một tay cùng mẹ dìu tổ mẫu. Trường Sơn quảy trên vai ba túi hành lý đi lẻo đẻo phía sau.

Xa xa nghe tiếng sóng vỗ ì ầm, hòa với tiếng gió đại dương gào thét...

Bốn người ra đến bãi cát trời đã hoàng hôn. Ánh dương quang còn lấp ló phía chân trời phản chiếu một màu vàng óng ánh trên mặt biển không khác gì một tấm tơ lụa mênh mông vô tận…

Mọi người dừng bước ngắm cảnh trí tuyệt vời của hóa công với ánh mắt say sưa xuất thần.

Bất thình lình từ trong các ngõ ngách của xóm dân chài từng đoàn người bồng bế dìu dắt chạy ra bãi, trên tay mang những túi... những giõ ...

Trường Sơn kinh ngạc chạy tới hỏi thăm, mới hay những người này nhà cửa ở Thăng Long, bị giặc Minh tàn phá nên bỏ chạy tới đây. Họ cũng đi đào nạn như gia đình chàng, có điều họ chưa biết sẽ đi đâu?

Trường Giang cũng chạy tới bên anh để nghe những người nọ tường thuật sự tàn bạo của quân cướp nước.

Trường Sơn nghe những hành động dã man của giặc lấy làm uất hận, buột miệng kêu lên:

- Hiền đệ ơi, chúng ta đưa mẹ và tổ mẫu sang Chiêm, rồi cũng nên trở về hợp cùng cha diệt thù. Bổn phận làm trai còn nặng, ta đâu thể nào bỏ đi? Mảnh giang san ngày nay đã nghiêng ngửa vì giặc, thì anh có đôi tay dũng mãnh, hiền đệ có trí tuệ phi thường… Chúng ta thà nát thân với cỏ cây, chớ quyết không để bọn cướp nước mặc sức tung hoành. Trường Giang ngùi ngùi:

- Cũng vì hai ta không thể cưỡng ý cha nên phải ra đi. Chớ thật ra giai đoạn này tổ quốc cần chúng ta hơn hết.

Hai anh em thở vắn than dài đi dọc theo bờ biển hỏi thăm tìm thuyền. Giờ này mặt trời vừa lặn nên đã trông thấy những chiếc thuyền con nhấp nhô ra khơi… Thuyền nào cũng chở đầy người… ngồi chen chúc với nhau thật vô cùng nguy hiểm.

Một ông lão trong nhóm người chạy loạn kể cho hai anh em Trường Sơn biết những người ngồi trên thuyền đó phần đông là dân giàu có, phải trả cho các chủ ghe 5, 10 lạng vàng.

Trường Giang thở ra:

- Đi như vậy chưa tới nơi đã vào bụng cá!

Ông lão gật đầu nói:

- Công tử nói đúng lắm! Tuy ai cũng biết đi như vậy nếu không làm mồi cho cá, thì cũng có thể chết vì đói khát. Nhưng dân mình ai cũng sợ bọn giặc cướp nước, nên dù biết ra đi thập phần nguy hiểm, sự sống sự chết như đường tơ kẻ tóc, song chẳng thà họ chết trong không khí tự do, còn hơn sống trong gong cùm bọn tàn bạo. Ngừng một lúc ông lão tiếp:

- Điều đáng buồn là những tên chủ thuyền thừa cơ đục lợi, không nghĩ gì đến tình đồng bào hoạn nạn. Họ thu vàng thật nhiều, chỡ đầy khẩm, thức uống thức ăn, không đủ… Người nào không đủ sức chịu đựng hành trình gian khổ thiếu thốn như vậy phải chết. Ra giữa biển kẻ mạnh có thể quăng kẻ yếu xuống biển để giựt của. Hoặc giả thu tiền thu vàng của người rồi không thực hiện lời hứa, lẽn bỏ đi... Biết bao nhiêu vụ lường gạt… Biết bao thảm trạng xảy ra giữa đồng hương chạy giặc! Thời buổi này chỉ những kẻ gian hùng mới sống được ! Trường Giang nghe kể, than dài:

- Buồn thay! Nạn giặc còn đó đã gặp nạn đồng loại xâu xé nhau! Trong lúc biến loạn như thế này những kẻ tham tàn gian ác càng lợi dụng thời cơ [1]. Trường Sơn ngao ngán nói với em:

- Đường đường như chúng mình mà phải đi cầu cạnh bọn chủ thuyền đó thật là nhục nhã. Bây giờ nếu trở về chắc cha sẽ nỗi giận, chớ thật tình anh không muốn đi nữa. Hiền đệ ơi, hay là ta đưa thân mẫu và tổ mẫu trở về nhà nhé?

- Gia huynh chớ tức giận bọn tiểu nhân làm gì cho mệt. Mục đích của cha muốn anh em ta đưa gia quyến sang Chiêm không phải chỉ để trốn giặc, mà còn dọ dẫm tình ý Chiêm chúa cầu họ cho quân tiếp viện.

Trường Sơn nghe em nhắc nhỡ mấy lời căn dặn của cha nên không nói gì nữa, sắc mặt vô cùng ủ rũ.

Tối đêm đó mẹ con anh em bà cháu thuê chỗ trọ ở xóm dân chài. Qua ngày thứ ba mới có người đồng ý đưa gia quyến Truờng Sơn qua Chiêm Thành. Nhưng họ phải trả đến trăm thỏi vàng! Gần hết số của cải mang theo!

Khi thuê thuyền, Trường Sơn cẩn thận nhắc nhỡ nhiều lần với chủ thuyền là thuê bao, ông ta không được rước thêm mối khác.

Hôm sau là ngày khỡi hành, trời đêm ấy vô cùng ảm đạm, nền trời mây đen vần vũ, che lấp trăng sao…

Trường Giang vốn có nghiên cứu thiên văn, nhìn trời lo lắng nói với chủ thuyền:

- Màn trời mây đen dày kịt như thế chắc là bảo sắp tới nơi. Ra đi lúc này rất nguy hiểm. Chúng tôi muốn dời chuyến khởi hành. Tên chủ thuyền cãi bướng:

- Gặp trời mưa càng dễ tránh hải quân tuần hành nhà Minh. Nếu quí công tử không muốn đi hôm nay tôi xin rước mối khác. Trường Giang trả lời không đắn đo:

- Cũng được! Ông hãy hoàn trả số vàng để chúng tôi thuê thuyền đi vào ngày khác. Tên chủ thuyền tráo trỡ nói:

- Đây là tự quí vị không muốn đi, chớ nào phải tôi không muốn chỡ quí vị mà phải hoàn trả vàng? Trường Sơn nghe tên chủ thuyền nói ngang bướng, tức giận muốn tống cho hắn một đạp. Song Trường Giang ngăn anh lại, nói nhỏ:

- Người này không xứng để gia huynh dụng võ của một bậc anh hùng đâu!

Chàng quay sang mẹ và bà nội cung kính hỏi:

- Tổ mẫu và mẫu thân quyết định thế nào?

Lão phu nhân nói:

- Vàng đã trao trước cho họ rồi, nếu ta không đi thì mất sạch! Thôi thì con người ai cũng có số phần. Sự sống chết của chúng ta Hoàng Thiên đã định sẵn rồi! Sở dĩ ta chấp nhận ra đi như thế này vì ta biết phụ thân các con muốn ngỏ lời cầu viện Vua Chiêm. Chớ nếu vì cái thân già của ta, thì dù nó có ép buộc ta thế nào ta cũng quyết ở lại.

Nguyễn phu nhân cũng nói:

- Mẹ biết ý cha các con muốn hai con ra quốc ngoại là để hoạt động cứu quốc. Con đường cứu quốc của cha con không những hoạt động trong nước, mà rất cần sự hổ trợ bên ngoài. Đó là lý do thân phụ con muốn gia đình ta gấp ra đi.

Trường Giang nghe bà nội và mẹ nói thế đành bảo nhỏ

anh:

- Gia huynh ơi, gia đình ta phải đi ngay đêm nay, dù có gặp giông tố cũng đành phó mặc cho trời.

Bốn người theo chủ thuyền đi ra bãi biển. Ngoài khơi thấy có khoảng mươi chiếc thuyền chứa đầy người, mà thiên hạ còn lội ra tranh nhau leo lên những thuyền đầy ăm ắp ấy.

Trường Giang không thấy thuyền dành riêng cho gia đình mình nơi đó, liền hỏi chủ thuyền:

- Thuyền của bác đậu nơi đâu?

Chủ thuyền không đáp lới chàng, hai tay xăng quần lội nước, vừa hất mặt ra dấu bảo chàng và gia quyến làm theo hắn.

Thái độ vô lễ của hắn làm Trường Giang ngao ngán. Tự nghĩ: «Vào thời nhiễu nhương ly loạn ta phải chung đụng với bọn người vô liêm sĩ thật đáng buồn!».

Chàng lặng lẽ dìu mẹ xuống nước đi ra chỗ thuyền đậu. Trường Sơn cõng tổ mẫu trên vai, hai tay quảy xách những túi hành trang.

Dĩ nhiên không có thuyền dành riêng cho gia đình chàng! Chủ thuyền bây giờ tráo trở nói với Trường Sơn:

- Chạy giặc chớ đâu phải đi chơi trên du thuyền. Xin quí vị chịu khó ngồi chung thuyền với người khác.

Khi lấy trăm thỏi vàng hắn cam đoan thuyền chỉ dành riêng cho gia đình chàng. Giờ hắn tham lam rước thêm mối khác, lại còn trở giọng ngược ngang!

Trường Sơn uất lắm chưa có thái độ nào, thì tên chủ thuyền đã lên thuyền trương buồm và nói giọng khinh khỉnh:

- Mời lên thuyền! Tôi không thể chờ lâu hơn nữa. Lão phu nhân nói giọng thật hiền:

- Thôi, đã đến nước nầy dù ta là Vua cũng phải nghe theo hắn. Các cháu chớ giận làm gì! Trường Sơn đỡ tổ mẫu và mẹ lên thuyền vừa xong, định phụ em đỡ bao sách, bỗng nghe tên chủ thuyền nói:

- Một người lên thuyền này thôi! Còn một người xin qua thuyền bên cạnh.

Trường Sơn không chịu nỗi bực tức, lớn giọng hỏi:

- Vì sao chúng tôi không cùng đi một thuyền?

- Thuyền tôi đầy khẩm quá rồi, công tử không thấy

sao?

- Đã biết thế sao ngươi rước thêm nhiều người?

Tên chủ thuyền làm như không nghe lời chàng nói, gằn giọng lập lại:

- Mời một vị lên ngay cho. Còn một vị sang thuyền kia, cũng là của tôi, do em tôi lái, cùng khởi hành một lượt.

Trường Giang không muốn nói dây dưa với hạng tiểu

nhân, nên khuyên anh:

- Gia huynh nên theo mẹ và tổ mẫu, em đi thuyền kia cũng được.

Chàng nói và lội đến thuyền kia với túi sách.

Lúc bấy giờ hai chiếc thuyền đã nhổ neo. Gió thổi lồng lộng chẳng mấy chốc thuyền đã bỏ xa bãi Sầm Sơn. Trời tối đen như mực! Cũng may trên thuyền có ngọn đèn dầu với chút ánh sáng mong manh.

Mọi người ngồi xúm xít dưới khoang thuyền ngủ gà ngủ gật. Đến giữa khuya Trường Sơn bỗng tỉnh hẳn vì tiếng gió thét gào dữ dội. Sóng dồi dập mỗi lúc một cao. Con thuyền lúc nghiêng bên này, lúc ngã bên kia, lúc bị tung cao như đưa lên núi, lúc bị trút xuống như rơi xuống hố... Đoàn người hoảng sợ la thét thật hổn loạn. Ngọn đèn dầu đã tắt phụt từ lâu, nên không ai trông thấy gương mặt khủng khiếp của ai trong lúc này.

Con thuyền vẫn lướt đảo điên trong bảo tố. Mặt biển bây giờ không còn nghe thấy gì ngoài tiếng rú kinh hồn của mưa sa bão táp.

Trường Sơn không nghe tiếng mẹ và tổ mẫu nên lo sợ quờ quạng tìm kiếm… Nhưng sau bao lần con thuyền nghiêng ngữa, người nọ té nhào lên người kia vị trí chỗ ngồi cũng thay đổi, khiến chàng không còn biết mẹ và tổ mẫu ngồi hướng nào?

Bỗng có một trận cuồng phong bay tới, tiếp theo là tiếng cột buồm gẫy. Con thuyền ngã sang một bên, đồng lúc với lượn sóng nhào tới, lật úp con thuyền xuống bể.

Trường Sơn chỉ kịp kêu lên một tiếng «mẫu», toàn thân đã chìm lỉm. Trong cơn hoảng hốt chàng vẫn nghĩ tới mẹ và bà nội, nên cố ngoi lên mặt nước quờ quạng... Tay chàng bỗng đụng vật tròn tròn như đầu người xâu dính với nhau, nổi lêu phêu trên nước. Nhờ biết bơi lội và đã lấy được bình tỉnh, Trường Sơn đoán ra vật ấy chỉ là những trái dừa khô của một hành khách mang theo lên thuyền.

Chàng níu chặt xâu dừa khô lặn ngụp trên sóng nước, một tay quờ quạng tìm kiếm người thân, cơ thể rời rã mỏi mòn, mà dường như bể nước mênh mông chỉ còn lại một mình chàng lẻ loi?

Bây giờ tiếng người khóc la không còn nữa, mà chỉ còn tiếng gào thét của đại dương. Bỗng nhiên Trường Sơn thấy toàn thân bị bốc đưa lên cao… Chàng như mê đi, không còn biết gì nữa!

Khi tỉnh dậy Trường Sơn thấy mình nằm trong một gian nhà lá, trên một cái giường tre, bên cạnh có hai người đàn ông lạ mặt, một già, một trẻ. Họ mặc xà rong và nói chuyện với nhau bằng thứ ngôn ngữ Trường Sơn không hiểu.

Chàng lồm cồm ngồi dậy, ngơ ngác chẳng rõ nơi đấy là đâu? Vì sao chàng nằm đó?

Hai người đàn ông lạ mở đôi mắt to đen nhìn chàng lộ vẻ vui mừng và nói một tràng dài. Trường Sơn càng ngạc nhiên không hiểu họ muốn nói gì? Một lúc định tỉnh tinh thần, chàng nhớ những việc xảy ra…

Chiếc thuyền chỡ đầy người tị nạn An Nam sang Chiêm Thành đã đi vào lòng biển cả, mang theo hai kẻ thân yêu của chàng là mẹ và bà nội.

Nhớ đến đó Trường Sơn quá đau đớn bật khóc thành tiếng. Hai người đàn ông lạ để tự nhiên cho chàng khóc. Lúc sau, một người chạy vào nhà bếp mang tới cho chàng mấy vắt cơm nguội và một chén nước lã.

Trường Sơn nói cám ơn và bóc cơm ăn, song hình như họ chẳng hiểu chàng nói gì?

Uống xong chén nước, chàng muốn hỏi thăm họ về chiếc thuyền bị đắm còn ai sống sót như chàng không? Chàng cũng muốn biết nơi đây là đâu? Họ cứu chàng trong trường hợp nào?

Chàng mở miệng toan hỏi, bỗng nhớ lại những người này không hiểu được tiếng chàng nói và chàng cũng không thể hiểu họ!

Trong hoàn cành dỡ khóc dỡ cười này chàng nhớ đến em... Đứa em trí tuệ của chàng phải có ở đây thì có thể trò chuyện với những người này.

Bây giờ chàng mới thấy thấm thía lời nói của Trường Giang độ nào: «Võ giỏi chưa đủ bảo đảm an ninh cho đời sống»! Phải chi khi xưa chàng chịu khó học với em một ít tiếng xứ người thì giờ đây đâu phải gặp khó khăn?

Chàng ngùi ngùi nuối tiếc và tự hỏi: «Cảnh ngộ của em chàng hiện giờ ra sao?». Hai con thuyền cùng đi một hướng, tất phải gặp bảo như nhau. Trời ơi, có thể nào Trường Giang lại đồng cảnh ngộ như mẹ và tổ mẫu sao?

Tất cả người thân của chàng đã đi vào cõi chết, thì chàng sống để làm gì?

Trường Sơn ôm đầu khổ sở, nước mắt lại lã chã tuôn rơi.

Hai người đàn ông lạ hiểu nỗi thống khổ của chàng, nên họ nắm tay chàng dẫn đi…

Trường Sơn không hiểu họ muốn đưa mình đi đâu, nhưng nhắm cũng không thể hỏi nên lẳng lặng đi theo. Ra khỏi nhà, chàng thấy trước mắt là biển với hàng dừa mọc vòng theo bãi cát. Trời có lẽ đã quá trưa nên nắng vô cùng gay gắt. Thỉnh thoảng có vài cơn gió thật nhẹ từ đại dương mang theo mùi nước mặn. Biển giờ này thật lặng, chỉ còn những gợn sóng lăn tăn ngoài khơi.

Đến bãi cát hai người đàn ông lạ hướng dẫn chàng tới chỗ một tảng đá to. Nơi đó có khoảng mươi xác chết đặt nằm ngay ngắn như được hai người kéo vào đấy.

Trường Sơn nhận ra những gương mặt đồng hành với mình, lòng xót xa, thương cảm. Bỗng chàng thấy trong số những người chết nằm đó có mẫu thân, thì run rẫy quỳ sụm xuống ôm thây mẹ khóc ngất.

Một lúc lâu sau chàng cố nén đau thương, đứng lên ra dấu hỏi hai người này cho chàng đi chôn xác mẹ.

Họ hiểu ý chàng chỉ đường đi vào trong xóm. Thật ra nơi đấy chỉ có dăm ba gian nhà lá, dân cư ít ỏi nên chẳng trông thấy người. Chàng mang xác mẫu thân theo chân hai người đàn ông đi một khoảng xa xa, tới chỗ cây cỏ um tùm, thấy nơi đó có vài ngôi mộ đất. Chàng đã hiểu ý họ.

Trong khi chàng đào đất để chôn xác mẹ, thì hai người kia cũng lo đào đất để chôn những xác còn lại.

Những ngôi mộ đất sơ xài hoàn tất mặt trời cũng ngã về tây. Cả bọn trở về căn nhà khi nãy. Trường Sơn thấy có một

người đàn bà còn trẻ và một thằng bé độ 4, 5 tuổi ngồi trước

sân.

Người đàn bà cũng vận xà rong, chấp tay xá chào chàng. Chàng cũng xá chào lại. Bà ta nói huyên thiên với hai người kia. Chàng đứng ngây người không đoán được họ bàn tán những gì?

Người đàn ông trẻ ngoắt chàng theo ông ta ra ngoài.Cạnh nhà có mấy lu nước. Ông ta lấy gàu múc nước rửa tay. Chàng cũng rửa tay như ông ta. Xem chừng chủ nhân rất tiết kiệm nước. Có lẽ vì vùng biển nước ngọt khan hiếm.

Khi chàng trở vào nhà đã thấy trên cái bàn nhỏ duy nhất trong nhà có hai cái nồi đất. Một nồi là cơm trắng, một nồi là cá kho quéo. Bốn khúc cây thay cho ghế ngồi. Chàng được mời ngồi ăn cùng với họ.

Lạ lùng là trên bàn không có chén đũa chi? Chàng còn đang ngạc nhiên, chợt thấy mọi người cho tay vào nồi cơm vắt từng nắm cơm bỏ vào miệng, sau đó bóc cá xé ăn.

Từ nhỏ quen lối sống thượng lưu, chưa hề ăn uống kiểu này, khiến chàng vô cùng bỡ ngỡ. Cũng may chàng vốn con người khoáng đạt, việc chi cũng chấp nhận dễ dàng, nên làm theo họ, cho tay vào nồi bóc ăn.

Cơm nước xong mọi người chia nhau đi ngủ. Bây giờ Trường Sơn biết được người đàn bà và đứa nhỏ là vợ và con của người đàn ông trẻ. Còn người già có lẽ là cha vợ. Trong nhà chỉ có hai cái giường tre, nên đương nhiên chàng phải ngủ chung giường với ông lão.

Trời chỉ chạng vạng tối mà mọi người đều lên giường. Trong nhà chẳng thấp đèn. Họ nói chuyện với nhau một lúc thì ngáy pho pho.

Trường Sơn nằm im nhắm mắt thật lâu vẫn không sao ngủ được. Hình ảnh cuối cùng của mẫu thân nằm chết cứng trong tay chàng ban chiều khiến chàng đớn đau rên siết, rồi nhớ đến gương mặt dịu hiền của tổ mẫu trước phút ra đi... Lời nói cuối cùng của hai người thân còn văng vẳng bên tai chàng, giờ đây đã trở thành lời trối trăn giả biệt! Giờ đây kẻ dương gian người âm cảnh, chàng còn lại một mình bơ vơ khốn khổ nơi xứ lạ quê người! Trời cao có thấu nỗi khổ của chàng chăng?

Không chịu đựng được những đớn đau dày xéo trong lòng, chàng ngồi bật dậy rón rén rời giường ngủ, ra ngồi trước bệ cửa… Thật ra nhà để trống không cửa, nên bệ chỉ là một đường cách ngăn giữa nhà với sân.

Chàng ngồi trong bóng đêm, mắt mờ vì lê, nên cũng chẳng trông thấy gì ! Tai nghe tiếng sóng vỗ ì ầm hòa cùng tiếng gió đại dương gào thét… mà tưởng chừng như tiếng kêu la khóc lóc của những người đồng hành trong giờ phút hãi hùng khi con thuyền sắp vào lòng biển cả.

Tất cả cùng một hy vọng đi tìm đất sống, để tất cả cùng về cõi chết!

AI GÂY NÊN THẢM CẢNH NÀY?

Ai làm cho nhà tan cửa nát?

Ai tạo nên thảm cảnh sinh ly tử biệt?

Ai khiến cho đồng bào bỏ nơi chôn nhau cắt rún ra đi?

Ai làm cho vợ lìa chồng, con lìa cha mẹ?

TẤT CẢ ĐAU THƯƠNG ĐÓ ĐỀU DO BỌN THAM TÀN CƯỚP NƯỚC GY RA!

Nếu họ Hồ không tham lam cướp nước đoạt ngôi, thì quân Minh đâu có cớ dày xéo quê hương ta?

Chính họ Hồ đã đưa dân tộc vào xiềng xích của đế quốc. Chính họ Hồ đã gây nên thảm cảnh:

«NGƯỜI ĐI CHẾT TỨC TỬ1, KẺ Ở LẠI CHẾT HÉO

HON».

Con cái hận nào bằng «Cái hận vong quốc»?

Còn đớn đau nào hơn «Đớn đau sinh ly»?

Chàng nhớ đến phụ thân... nhớ tới gương mặt rắn rỏi phong trần của một nhà tướng, suốt đời nặng gánh giang sơn! Chẳng biết giờ đây ra sao?

Chàng nhớ tới Trường Giang… nhớ tới vẻ ôn nhu thông thái của em, phong trần chưa gội, giờ đây sống trong hoàn cảnh nào? Trong thế giới của loài người hay của những âm hồn vật vờ cõi chết?

Mới cách đây hai hôm thôi, gia đình chàng còn đoàn tụ, mới khoảng thời gian ngắn ngủi thôi, chàng trở thành kẻ bơ vơ nơi xứ lạ quê người!

Cơn đau tự đáy lòng ngùn ngụt dâng lên, khiến chàng cảm nghe tứ chi rời rã, hồn xác nửa sống nửa chết!

Bỗng đâu có một gương mặt thiên thần hiện ra...

Gương mặt diễm kiều của Thúy Uyên với đôi mắt như hai vì sao lóng lánh… Gương mặt ấy chỉ cần nhìn một lần thôi trọn đời không quên. Và cái tên ấy chỉ nghe qua thôi, con tim đã bồi hồi xúc động!

Giờ phút khốn khổ này hình ảnh của người yêu hiện ra

càng làm cho tim chàng tan nát!

Cuộc hứa hẹn trăm năm biết có vuông tròn hay không? Khi mà chàng sống vất vưỡng đau thương nơi xứ người. Còn nàng nơi quê nhà hiện giờ ra sao?

Hỏi để mà nghe con tim quằn quại rên siết và nỗi thống khổ tưởng không chịu đựng được! Chàng gục đầu trên gối...

° ° °

Buổi sáng trời còn mờ sương cha con chủ nhà đã ra bể. Họ là dân chài, cuộc đời dính liền với sóng nước và con thuyền. Quanh năm suốt tháng họ sống với cái nghề đùa giỡn với tử thần, nhưng lại vô cùng đạm bạc.

Trường Sơn vì trọn đêm không ngủ, đến gần sáng mới lên giường thiếp đi một lúc, khi tỉnh dậy trời đã có nắng. Chủ nhà thật tốt lòng tốt bụng, để yên cho chàng ngủ.

Người đàn bà đang ngồi chẻ củi phía sân sau, bên cạnh có thằng bé. Thấy chàng thức, bà vội vàng chạy vào nhà bếp mang ra cho chàng tô cháo.

Chàng ngồi ăn mà tính mãi không biết phải làm gì, đi đâu? Chắc chắn chàng không thể ở lại đây để chủ nhà nuôi cơm nuôi cháo mãi!

Chàng nghĩ, chàng trở về quê hương sống với phụ thân. Nhưng thử hỏi chàng có can đảm gặp lại cha trong hoàn cảnh này không? Cha chàng giao cho chàng trọng trách đưa mẹ và tổ mẫu sang Chiêm đào nạn, cũng để cầu viện binh Chiêm. Giờ nếu chàng trở về với thân tàn ma dại, mẹ chết bà nội chết, thì còn mặt mũi nào nhìn lại phụ thân?

Không! Chàng không thể trở về gặp cha trong lúc này! Chàng phải gặp Chiêm chúa để hoàn thành sứ mệnh cha giao phó.

Ngặt một điều không có em bên cạnh, chàng có miệng có tai mà như kẻ câm kẻ điếc! Không hiểu không nói được tiếng người thì biết hỏi thăm ai mà tìm đường tới gặp vua Chiêm? Ngay đến chỗ chàng đang sống cũng không biết thuộc xứ nào? Cái tài võ tướng trong hoàn cảnh này thật là vô dụng!

Ăn xong chàng đi tới chỗ người đàn bà muốn tỏ đôi lời cám ơn và muốn chẻ củi giúp bà ta, nhưng chàng đứng tần ngần một lúc lâu chẳng biết nói ra sao, tay chân quờ quạng như một thằng ngáo!

Chưa có bao giờ chàng gặp cái khổ kỳ lạ như vậy! Có miệng mà không nói được, thật là khó chịu!

Đứng xớ rớ một lúc chàng giựt cây búa trên tay người đàn bà. Bà ấy hiểu ý chàng muốn làm, nên vui vẻ nhường chỗ cho chàng ngồi đó chẻ củi.

Tuy việc này thuở giờ chàng chưa hề làm, nhưng với sức dũng tướng cái nghề chân tay thật chẳng cần phải học!

Người đàn bà bỏ đi vào nhà, thằng nhỏ cũng lót tót chạy theo mẹ. Tới bây giờ Trường Sơn mới để ý thằng nhỏ. Phải nói nó là đứa bé lạ lùng hơn hết. Từ lúc chàng gặp nó đến giờ chưa hề nghe nó khóc hay la hét. Nó là một thằng bé im lìm nhất thế gian! Nó hay lắm lét nhìn chàng bằng đôi mắt đen kháu khỉnh, rồi chạy tới bên mẹ nhỏ nhẹ lời chi đó... Thật là một đứa bé dễ thương!

Chàng vừa chẻ củi, vừa nghĩ đến thằng bé… chợt nghe tiếng chó sủa trong xóm. Chốc lát nghe tiếng chân nhiều người trước nhà và tiếng người đàn bà nói chuyện với nhóm người lạ.

Chàng chưa kịp thắc mắc đã thấy một toán người võ trang đi tới chỗ chàng ngồi, ra dấu bảo chàng đứng lên đi theo họ.

Chàng muốn hỏi họ định đưa chàng đi đâu, bỗng sực nhớ hiện giờ chàng trở thành câm trên xứ này nên lẳng lặng đi theo họ, sau khi xá chào từ biệt nữ chủ nhân.

Những người mang gươm giao này có lẽ là binh lính địa phương ở xứ này. Nhìn quân phục của họ chàng đoán họ là dân Chiêm Thành. Vì khi xưa mấy lần quân Chiêm gây chiến với nước ta, chàng có dịp thấy binh lính họ ăn mặc như bọn người này. Có lẽ nơi đây thuộc phần đất ChiêmThành?

Chàng theo nhóm người đó trở ra bãi biển bỗng vô cùng kinh ngạc, vì thấy nơi đó có khoảng vài chục người đồng hương, kẻ đứng người ngồi trên bãi cát, chung quanh có một số binh sĩ võ trang.

Đương nhiên họ là những người An Nam bỏ xứ trốn giặc ra đi như chàng, nên nhóm lính làng này đưa chàng nhập bọn với người đồng hương.

Chưa có bao giờ Trương Sơn cảm thấy hạnh phúc và vuimừng như lúc này. Ít ra nơi xứ lạ quê người chàng còn gần gủi với người đồng hương để cùng nói cùng nghe tiếng mẹ thân yêu.

Chàng nghẹn ngào hỏi thăm tình hình quê nhà, mặc dù mới xa hai ngày mà chàng có cảm tưởng như hai mùa Thu trôi qua. Ngờ đâu những người này bỏ nhà đến túc trực ở bãi biển Sầm Sơn đã lâu, nên họ chẳng hay biết tin tức gì hơn chàng. Họ có cái may mắn không gặp bảo tố, không bị nạn chìm thuyền, nên gia đình còn sum hợp, của cải không tiêu mất!

Những người lính Chiêm đưa nhóm dân tị nạn rời làng này thật xa. Đến chiều tối mọi người đi tới một nơi gần như nhà tù, chung quanh có hàng rào tre nhọn hoắt.

Vào trại, Trường Sơn với những người đồng hương ngạc nhiên không ít. Vì bên trong còn có vô số đồng bào già trẻ, bé lớn… sống chen chúc trong những túp lều dựng sơ sài.

Bây giờ những người mới tới được phát vật liệu để dựng lều. Trường Sơn tự nghĩ, chàng sẽ nhờ quan địa phương đưa đến Đồ Bàn [2] để gặp tướng Bồ Điền và vua Chiêm [3] nên không cần dựng lều cho mình. Chàng giúp những người đồng hương dựng lều, xem như bổn phận làm trai thời loạn đối với đồng bào ruột thịt.

Trại tị nạn thuộc huyện Bình Khê nằm cận bờ biển Chiêm Thành. Ngày ngày chính quyền Chiêm phát gạo cá rau cải cho dân tị nạn An Nam và ngày ngày vẫn xảy ra những vụ cãi vả, đánh lộn giành thức ăn giữa người An Nam với nhau! Đâu đâu kẻ vũ phu thô lỗ cũng hà hiếp người yếu thế!

Hôm ấy có quan Huyện đến viếng trại. Trường Sơn nhờ những người biết nói tiếng Chiêm Thành nói giúp chàng với quan huyên việc hướng dẫn chàng về kinh đô gặp vua Chiêm hoặc tướng Bồ Điền. Nhưng điều làm chàng ngạc nhiên và thất vọng là không ai nhận chịu nói dùm, nếu chàng không có vàng bạc trả công thông dịch.

Té ra bọn vô liêm sĩ lợi dụng thời cơ nhan nhản khắp nơi, từ bọn vô học đến hạng có học!

Ôi quê hương mất mà tình người cũng mất! Những ai có lòng nghĩ đến quốc gia dân tộc hẳn phải đau đớn xót xa trước thảm trạng này.

Những lúc khốn khổ như vậy Trường Sơn lại nhớ tới em. Phải có Trường Giang nơi đây chàng đâu phải gặp cảnh khó khăn này? Khi xưa thấy em nghiên cứu học tiếng người chàng hay chế nhạo:

- Hiền đệ học thứ tiếng quái lạ ấy để trò chuyện với ai? Chẳng lẽ gặp địch tấn công hiền đệ xử dụng các ngôn ngữ lạ hoắc ấy để tự vệ? Trường Giang nghiêm giọng đáp:

- Em học tiếng xứ người là để nghiên cứu văn hóa và lịch sử nước họ. Hơn nữa em có mộng ngày kia đi chu du thế giới, thăm viếng các nước lân bang. Lúc ấy em phải biết tiếng họ để giao dịch chứ? Vả lại ở đời không biết trước được việc tương lai. Mình biết nhiều vẫn hơn là không biết gì. Gia huynh chớ chế nhạo em!

Lúc ấy Trường Sơn chỉ cười về cái gàn gàn của em. Giờ đây nghĩ lại chàng càng thấy xấu hổ!

Kết quả việc không nói được tiếng người và không có vàng bạc để thuê người nói, chàng bị nhốt ở trại tị nạn khá lâu. Sau đó người ta cho chàng ra ngoài làm việc ở một lò rèn chế tạo binh khí.

Một thời gian sau chàng đã biết nói chút ít tiếng Chiêm Thành, nhưng vẫn phải tiếp tục làm việc cho lò rèn để dành dụm ít tiền làm 1ộ phí đi đến kinh đô Đồ Bàn. Hơn nữa, chàng cũng cần có tiền để mua ngựa và sắm ít y trang thay

đổi, chớ không thể ăn mặc rách rưới đến trình diện vua

Chiêm.

Chàng cũng tự biết muốn gặp tướng Bồ Điền chàng phải lẻn vào dinh ông ta, giáp mặt ông để trình bày việc cầu viện binh, chớ không mong gì các quan địa phương chịu hướng dẫn chàng về triều.

Có điều dự tính của chàng trong hoàn cảnh hiện tại không phải dễ. Vì công việc rèn đúc võ khí thật nhọc nhằn, song thu lợi rất ít, mặc dù chàng gặp chủ tốt.

Sáu tháng trời ròng rã chàng không sắm nỗi một bộ y phục tốt, thì biết năm tháng nào mới có tiền mua ngựa?

Chàng ôm trong lòng nỗi chán nản và buồn khổ, nghĩ tủi thân phận mình một thời liệt oanh trên yên ngựa, cùng phụ thân đánh Nam dẹp Bắc, khí tiết anh hùng vung vẫy theo mũi kiếm đường gươm! Ngày nay cả ngày chàng ngồi một góc ì ạch với công việc một người thợ hèn hạ để đổi lấy bát cơm. Thật không còn gì chua xót tủi thân hơn!

Đôi khi chàng muốn chết quách cho khỏi phải sống nhục cuộc đời của một dũng tướng. Nhưng phận làm trai nợ nước chưa trả, giang san đang hồi nghiêng ngửa, lẽ đâu chàng hèn nhát muốn chết để trốn trách nhiệm?

Chàng phải sống! Dù chàng không muốn sống cho mình, cũng phải sống cho quốc gia.

Nhờ ý niệm ràng buộc thân phận mình với quê hương Trường Sơn đã vượt qua cơn khủng hoàng tinh thần, can đảm chịu đựng cuộc sống gian khổ ở xứ người.

Làng chàng ở cũng có rất nhiều đồng bào tị nạn. Nhưng phần đông những người này giỏi xoay sở, họ có vốn liếng sẵn vì không bị tai nạn thuyền chìm mất của. Nhờ vậy họ hành nghề thương mại với người Chiêm thật khá giả.

Cuộc sống ở xứ người quá dễ dàng đối với những người này, nên không ai còn muốn nghĩ tới hoàn cảnh nước mất nhà tan, nhân dân đồ thán bởi gót giày quân xâm lăng nữa! Không ai còn muốn nhắc nhớ quê hương, thậm chí có người nói được tiếng Chiêm không nhận mình là dân An Nam nữa!

Trường Sơn ngao ngán trước tình đời nên ít giao thiệp với ai. Chẳng thà chàng sống cô độc buồn tẻ, hơn là chung đụng với những người đồng hương quên cội nguồn này, để không phải nghe thấy những chướng tai gai mắt.

Lúc nào rảnh rỗi chủ nhân cho tự do, chàng hay vào rừng săn thú đem về bán cho người trong xóm kiếm thêm tiền dành dụm. Cũng có hôm chàng vào rừng tập dợt lại võ nghệ.

Nhờ làm chỗ đúc luyện võ khí, chàng có phương tiện làm cho mình một thanh kiếm thật bén và khá đẹp, mà mỗi khi vào rừng chàng luôn luôn mang theo.

Hôm ấy một buổi sáng đẹp trời, nhằm vào ngày quốc lễ của dân tộc Chiêm Thành, Trường Sơn được chủ nhân cho nghỉ làm, nên mang cung kiếm vào rừng săn bắn.

Nay là lần thứ nhất chàng đi vào tận rừng sâu. Cây cao chót vót trên đầu, giây lá chằng chịt dưới chân... Tay chàng vung kiếm chém lá làm lối, miệng huýt sáo một khúc nhạc miền sơn cước Mường Lai, lòng bồi hồi nhớ lại những kỷ niệm cùng gia quyến thuở nào...

Bất thình lình chàng nghe tiếng kêu thật nhỏ của ai? Tiếng kêu nghe không xa nhưng âm thanh yếu ớt, chừng như người nói không còn hơi sức phát ra lời.

Trường Sơn lấy làm kinh ngạc vì giữa rừng già sao có tiếng người? Chàng vốn gan dạ không tin chuyện ma quỷ, song lần này trong lòng không khỏi run sợ.

Chàng quay gót trở ra lối cũ, chợt nghe tiếng khi nãy lại vang lên, lần này nghe thều thào:

- Ai… làm ơn… cứu tôi...Làm ơn...

Trường Sơn bất nhẫn không nỡ bỏ đi, xoay người về hướng phát ra tiếng nói, hỏi lớn:

- Có phải ai vừa kêu cứu đó không?

Dĩ nhiên kẻ nào đó nói tiếng Chiêm Thành, nên chàng cũng phải hỏi bằng tiếng Chiêm Thành. Một lúc sau mới có tiếng yếu ớt kêu lên:

- Cứu tôi... Làm ơn...

Không còn nghi ngờ gì nữa, Trường Sơn vẹt lá tất tả chạy về hướng người kêu cứu…

Bấy giờ trước mắt chàng hiện ra một cảnh tượng vô cùng thương tâm.

Một người nằm trên vũng máu, tay chân bị trói, áo quần rách nhiều chỗ vì những vết đao kiếm. Nơi chỗ người ấy nằm là một khoảng đất trống bên cạnh con đường mòn dẫn ra bià rừng.

Trường Sơn không chần chờ, chạy tới mở trói cho người ấy và hỏi:

- Vì sao người ra nông nỗi này?

- Tôi bị... bọn tôi tớ... hãm hại.

Nghe giọng thều thào không còn hơi sức của nạn nhân, Trường Sơn thương xót, nhỏ nhẹ bảo:

- Người nằm yên để tôi băng các vết thương cho máu ngưng chảy ra. Sau đó tôi sẽ đưa người về làng cứu chữa. Chàng cởi áo mình xé ra làm nhiều mãnh vải băng. Thấy các vết thương máu chảy ra không ngừng, chàng nói:

- Người chờ tôi chốc lát, tôi cần tìm ít cỏ có công hiệu cầm máu mới được.

Sau câu nói chàng chạy biến vào rừng cây, nháy mắt trở ra với mớ lá thuốc, rồi cho vào miệng nhai nhỏ đấp vào chỗ vết thương của nạn nhân.

Nạn nhân nhắm mắt nằm yên chừng như ngất đi. Bỗng lúc ấy có tiếng chân ngựa dồn dập tiến về chỗ hai người. Trường Sơn vừa băng xong vết thương sau cùng nơi đùi nạn nhân, chợt nghe tiếng thét sau lưng:

- Hắn có cứu tinh! Chúng bây mau giết tên này cho ta!

Đồng với tiếng thét có hai người phóng khỏi yên ngựa. Trường Sơn đang ngồi chồm hổm, lưng quay về phía bọn người mới tới, biết thế nguy liền chụp ngay thanh kiếm của chàng, mà khi nãy chàng quăng xuông đất để tiện việc băng bó thương thế cho nạn nhân.

Nắm vũ khí trong tay, chàng phóng tới trước như con ếch và đồng thời đứng phắt lên, xoay người về phía địch vung kiếm tới tấp như vũ bão.

Hai tên vừa xuống ngựa vì không ngờ Trường Sơn có khí giới nên không kịp đề phòng, lãnh đủ mấy nhát kiếm từ tay chàng vung ra. Chúng kinh hồn không còn nghĩ tới việc vung vũ khí chống trả, co giò chạy biến vào rừng.

Tên ngồi trên yên ngựa ăn mặc như đại quan Chiêm Thành, tay cầm cây thương thật dài, liền thúc hông ngựa chạy sấn tới, chỉa mũi thương về phía Trường Sơn.

Trường Sơn chờ mũi thương vừa đúng tầm tay, tung mình chụp cây thương kéo giật xuống. Sức kéo của chàng quả thật mãnh liệt và cánh tay chàng nhanh nhẹn phi thường khiến cho địch thủ không kịp xoay sở, té ngay xuống ngựa. Song hắn không phải là tay vừa, chân vừa chấm đất là thanh kiếm đeo bên hông hắn cũng được rút ra khỏi võ. Hắn tấn công Trường Sơn bằng một thế kiếm vô cùng lợi hại.

Lúc bấy giờ tiếng hò hét của hai đối thủ làm nạn nhân hồi tỉnh. Người ấy vừa trông thấy kẻ đang giao đấu với Trường Sơn, sắc mặt đang tái xanh biến thành màu đỏ vì uất hận, cố sức ngồi dậy thét lớn:

- Bớ Bồ Chấn! Cha ta đối xử với cha con ngươi hết tình hết nghĩa, cớ sao ngươi hãm hại ta? Tên kia vừa đấu với Trường Sơn vừa đối đáp:

- Ngôi đại bảo của cha ngươi là do cha ta gầy dựng. Giờ phải trả lại cho giòng họ nhà ta.

- Sao ngươi ăn nói tráo trở thế? Phụ vương ta đùm bộc cha con giòng họ nhà ngươi, thế mà ngươi không hết dạ trung thành lại còn muốn tiếm ngôi. Họ Bồ nhà ngươi quả thật là phường vô loại!

Trường Sơn nghe hai bên đối đáp, tâm thần không khỏi chấn động. Hoá ra nạn nhân nằm chết ngất khi nãy mà chàng băng bó vết thương là hoàng tử Chiêm. Còn tên đang giao đấu với chàng họ Bồ. Phải chăng có dính líu đến tướng Bồ Điền?

Chàng hoang mang nhảy thụt lùi mấy bước, hỏi lớn:

- Tướng Bồ Điền là gì của ngươi?

Hắn không đáp lời chàng, thấy chàng bỗng dưng ngưng chiến, hắn mừng rỡ tung mình về phía hoàng tử Chiêm vung kiếm lên định kết liễu cuộc đời của nạn nhân.

Trường Sơn đã đề phòng trước. Mặc dù trong lòng thắc mắc về lai lịch của Bồ Chấn, song thấy thái độ hung hăng của hắn, chàng quyết không để hắn hãm hại nạn nhân hoàng tử. Vì vậy tuy tạm thời dừng đấu, mắt chàng vẫn không rời đối thủ. Vừa khi thanh kiếm trên tay của Bồ Chấn vung lên, thì thanh kiếm trên tay chàng xẹt ra như làn chớp, xớt đứt cườm tay của hắn. Thanh kiếm và bàn tay hắn rơi cùng một lúc với tia máu bắn ra…

Trường Sơn đứng chết sững! Vì thâm tâm chàng không cố ý hại hắn, một kẻ không thù không oán với chàng. Chàng nhìn hắn lấp bấp lời hối hận:

- Ta không muốn hại ngươi đâu! Chỉ vì thanh kiếm của ta quá sắc bén... Ta xin lỗi...

Tên Bồ Chấn quả thật can đảm! Bàn tay đứt lìa, máu tuôn xối xả, mà hắn vẫn không kêu la một tiếng. Hắn bình tỉnh chạy tới yên ngựa rút ra một giải lụa khá dài. Hắn dùng miệng và một tay còn lại buộc trên chỗ cườm tay bị đứt để chận máu chảy ra. Đôi mày hắn hơi nhíu lại khi xiết mạnh chỗ vết thương.

Đến bây giờ Trường Sơn mới để ý nhìn hắn và nghĩ hắn có lẽ không hơn chàng bao tuổi. Có điều màu da trên gương mặt hắn đen sậm, khiến chàng tưởng như hắn già hơn mình.

Chàng còn trong trạng thái bất động, Bồ Chấn đã lượm kiếm của hắn ghim vào đay nơi thắt lưng, rồi nhặt cây thương phóng lên mình ngựa.

Bất thình lình cây thương trong tay hắn bay vút qua đầu chàng, cấm phập lên mình vị hoàng tử đang nằm bất tỉnh dưới nền đất. Bị mũi thương đâm vào da thịt vị hoàng tử giật mình tỉnh dậy, thét lên một tiếng rồi lại ngất đi.

Trường Sơn chưa kịp phản ứng, con tuấn mã đã đưa Bồ Chấn mất dạng. Bấy giờ Trường Sơn mới chạy tới nạn nhân hoàng tử.

Cũng may vì cây thương khá nặng không bay xa dễ dàng, nên vừa chạm đến mình nạn nhân thương đã rơi xuống đất. Dù vậy cũng làm cho hoàng tử Chiêm bị rách toét một đường dài nơi lưng.

Trường Sơn lại lấy cỏ lá cầm máu nhai nát đấp lên vết thương mới của vị hoàng tử.

Nạn nhân vẫn còn mê man khi chàng vác về nhà. Nhà của chàng chỉ là cái chái lá xiêu vẹo bên cạnh lò rèn, nhưng trong lúc này phải kể là một chỗ khá tiện nghi vì có những thứ cần dùng giúp chàng chu toàn cho kẻ bị thương.

Sau khi lau rửa lớp bùn đất trên mặt nạn nhân, chàng mới thấy hoàng tử này có gương mặt tuấn tú, màu da không khác gì dân An Nam, tuổi độ 18, 19 tuổi.

Nhìn người này chàng bỗng nhớ tới nét trẻ trung thư sinh của Trường Giang độ nào, tim nghe quặn đau, lòng bùi ngùi thổn thức...

Dĩ vãng thân yêu cùng gia quyến lại quay về… khiến chàng không cầm lòng được, lệ anh hùng lã chã tuôn rơi!

Đâu có ai ngờ một chuyến ra đi để sinh ly tử biệt? Phải biết trước như thế này thà ở lại liều chết với quân thù, thà vùi thây nơi đất mẹ, còn hơn sống những ngày lang thang trên nẻo đường xa lạ với cái «hận vong quốc!».

Chàng lai khóc!

Lần này chàng khóc cho quê hương, cho dân tộc bị đọa đày...

--------------------------------

1. Nguyên văn của sử gia Trần Trọng Kim phê bình bọn đục lợi thời cơ lúc bấy giờ.

2. Thủ đô Chiêm Thành (thuộc huyện Tuy Viễn tỉnh Khánh Hòa)

3. Chế Bồng Nga bị Trần Khát Chân giết chết 1389, tướng Chiêm La Khải làm vua từ 1390-1400. Ba Đích Lại làm vua từ 1401-1433 (Bồ Điền là cậu của Ba Đích Lại).

 Chương 6: Kết nghĩa với Thái tử Chiêm thành

Những giọt nước mắt nóng hổi của Trường Sơn rơi rớt trên gương mặt tái xanh của vị hoàng tử làm người ấy hồi tỉnh và khi mở mắt ra thấy vị ân nhân ngồi khóc bên cạnh mình, hoàng tử Chiêm quá cảm động thều thào nói:

- n nhân chớ quá thương tâm vì tôi. Trước khi chết... được trối trăn vài lời với ân nhân tôi thỏa nguyện lắm rồi... Xin ân nhân đừng bận lòng vì cái chết của tôi... Tôi nhờ ân nhân về triều tìm phụ vương tôi nói rằng: «Người phải đề phòng cha con Bồ Điền làm phản». Nếu ân nhân có thể chuyển mấy lời đó, tôi rất cảm ơn. Kiếp sau xin trả.... Trường Sơn cười nhỏ, ngắt lời:

- Hoàng tử an tâm! Người bị thương không nặng lắm, chắc không chết đâu! Tuy tôi không làm nghề y, nhưng cũng biết chữa thương. Chỉ độ nửa tuần trăng hoàng tử sẽ đi đứng được.

- Đầu tôi nhức và trong người khó chịu lắm. Chắc không qua đêm nay... Nhờ ân nhân thương tình nói dùm...

—Vâng! Tôi sẽ theo lời hoàng tử dặn. Xin hoàng tử an

lòng...

Câu sau của chàng có lẻ vị hoàng tử không nghe, vì người ấy đã nhắm mắt lại. Trường Sơn quan sát nạn nhân, nghe hơi thở đều hòa nên an tâm lắm.

Chàng chạy qua nhà chủ lò rèn nhờ ông ta ra chợ mua thuốc trị thương và thuốc bổ tăng cường sinh lực cho hoàng tử Chiêm.

Người này nghe nói hoàng tử nước mình thì chạy quýnh, nhưng thay vì ra tiệm mua thuốc, ông ta chạy vào lều Trường Sơn để xem mặt mũi con vua thế nào? Chừng khi thấy chàng thanh niên trẻ nằm đó ăn mặc thường dân, lại thêm y trang rách toét nhiều chỗ thì có dạ nghi ngờ, đưa mắt nhìn Trường Sơn tỏ ý không tin, không muốn cứu.

Trường Sơn thấy thái độ của ông ta lấy làm buồn cười. Nghĩ bụng: hạng người tầm thường như lão đánh giá trị con người chỉ bề ngoài. Chừng nào vị hoàng tử lành mạnh, quân lính rần rộ tới đón, chắc lão kinh sợ chết ngất! Bây giờ nhắm ta có nói thế nào, chắc lão cũng không chịu giúp một tay!

Chàng nghĩ thế nên không nói với lão chủ lời nào nữa, chạy phăng ra chợ, mang theo cái ống tre mà chàng cất tiền dành dụm thời gian qua. Chàng vào tiệm thuốc mua mấy lọ thuốc trị thương và hốt vài thang thuốc bổ thì đã mất hết phân nửa tài sản của mình ! Tiền hết chàng không tiếc rẻ, chỉ lo số tiền còn lại không đủ chữa trị cho nạn nhân.

Trong lòng ngùi ngùi về thân phận nghèo của mình, chân chàng đặt lên ngưỡng cửa nhà hồi nào không hay?

Hoàng tử Chiêm vẫn còn nằm thiêm thiếp. Chàng lui cui nhóm lửa nấu thuốc, bỗng nhớ tới lợi căn dặn của thái tử Chiêm khi nãy…

Té ra tên Bồ Chấn bị chàng chém đứt tay là con trai của Bồ Điền. Như vậy vô tình chàng đã gây thù oán với họ, còn hy vọng gì nhờ người ấy đem quân giúp cha đánh quân ngoại xâm?

Bấy lâu nay chàng ẩn nhẫn sống với cái nghề bạc bẽo này là cố ý học nói tiếng Chiêm, chờ khi kiếm đủ tiền đủ làm lộ phí sẽ tới kinh thành tìm gặp tướng Bồ Điền theo lời căn dặn của cha. Bây giờ việc cầu viện binh nơi tướng Bồ Điền kể như phải bỏ.

Một ý nghĩ thoáng qua trong đầu chàng: «Tại sao ta không cầu sự giúp đỡ của Vua Chiêm? Nay ta may mắn cứu vị hoàng tử khỏi cái chết, ta là ân nhân của người này, tất người này sẽ mang ơn ta nói với vua cha những thỉnh cầu của ta, chắc chắn Chiêm chúa không thể từ chối».

Nồi thuốc sắc xong, chàng rót ra mang vào cho thái tử Chiêm. Thấy nạn nhân nằm thoi thóp trên giường, lòng chàng xót xa, lại nghĩ: «Ta cứu người vì lòng nhân chớ nào để mưu lợi cho mình? Tại sao ta bỗng có ý nghĩ hèn hạ như vậy?»

Chàng ân hận và tự trách mình có lòng dạ tiểu nhân nên nét mặt buồn thiu. Thái tử Chiêm tỉnh dậy lần này lại thấy vị ân nhân ngồi một bên với vẻ mặt ảm đạm thì nghĩ rằng ân nhân quá lo lắng vì mình, nên nghẹn ngào nói:

- n nhân ơi, tôi với người nào có sợi dây thiêng liêng ràng buộc mà người lo lắng buồn bã vì tôi mãi như thế? Lạy trời cho tôi được bình phục. Tôi nguyện cùng người kết nghĩa anh em để đáp lại cái tình nghĩa sâu nặng của ân nhân. Trường Sơn nghe vị hoàng tử nói mấy lời chí tình, lòng càng hổ thẹn. Chàng đưa thuốc cho người ấy uống và nói bằng giọng ân hận:

- Tôi không xứng đáng với tấm lòng cao đẹp của thái tử đâu. Xin thái tử chớ... Hoàng tử Chiêm ngắt lời chàng trong nỗi xúc động nghẹn ngào:

- Tôi còn sống đến giây phút này là nhờ ơn ân nhân. Cái ơn cứu tôi khỏi chết nhục bởi kẻ phản loạn ví như ơn sanh thành của cha mẹ. Cửu Vân này thề nguyền kết nghĩa đệ huynh với ân nhân. Xin chớ chối từ! Sau câu nói vị hoàng tử nhìn chàng bằng đôi mắt thân thiết. Trường Sơn nghe một vị hoàng tử mà nói lời khiêm tốn chân tình, lòng cảm động nắm tay chàng ta nói một câu hết sức thành tâm:

- Trường Sơn tôi xin hứa từ đây sẽ hồi đáp tấm chân tình của thái tử một cách xứng đáng hơn. Hoàng tử Chiêm nghe Trường Sơn nói thế sung sướng ứa nước mắt:

- Hiện giờ tôi chưa đủ sức tế trời đất để cùng ân nhân kết nghĩa anh em, nhưng tôi cũng mong từ đây chúng ta gọi nhau bằng huynh đệ. Tiểu đệ 18 tuổi, nếu tiểu đệ đoán không lầm thì huynh lớn tuổi hơn? — Vâng, ngu huynh 22 tuổi.

- Từ đây chúng mình coi nhau như anh em, có phúc đồng hưởng, hoạn nạn đồng chia nhé. Trường Sơn gật đầu:

- Được! Nhưng trước tiên nghĩa đệ cần nghỉ ngơi, chớ nói nhiều hao tổn tâm sức đó. Cửu Vân im lặng được một lúc, lại lên tiếng:

- Tiểu đệ nghe giọng nói của huynh y như không phải người bản xứ? Phải chăng... Cửu Vân ngập ngừng không dám nói thêm. Trường Sơn thấy không việc gì phải giấu lai lịch mình, nên thành thật đáp:

- Đúng vậy! Huynh chỉ là người An Nam tị nạn ở đây. Cũng vì bọn côn đồ cướp nước mà phải bỏ quê hương ra đi.

Không đợi Cửu Vân hỏi thêm, chàng kể rõ quê quán nguồn gốc mẹ cha… cùng thảm cảnh chạy giặc. Mẹ và tổ mẫu chết, đứa em không biết đã chết hay lưu lạc phương nào?

Cửu Vân nghe câu chuyện của nghĩa huynh với nhiều xúc động, nhưng chỉ một thoáng đổi giọng vui mừng nói:

- Nhìn huynh tiểu đệ biết ngay không thuộc hạng tầm thường. Cái tên của lệnh đường nghe quen lắm! Dường như tiểu đệ có nghe phụ vương nói đến vài lần. Trường Sơn muốn thuật chuyện khi xưa cha mình đưa quân sang Chiêm Thành có giải cứu Bồ Điền khỏi nhà tù của Chế Bồng Nga. Nhưng chàng kịp nghĩ, hiện nay Bồ Điền cùng Cửu Vân đã có hiềm khích, tốt hơn chàng đừng nhắc đến chuyện đó. Chàng hỏi:

- Tại sao Bồ Chấn biết nghĩa đệ ở rừng này mà hãm hại?

- Tiểu đệ rất thích đi săn. Khu rừng nào trong xứ tiểu đệ cũng tới và luôn luôn ăn mặc thường dân đi với hai hầu cận, để mỗi khi đi xa ăn ở dọc dường không sợ đồng bào lưu

ý. Hôm đó Bồ Chấn dọ biết tiểu đệ sẽ đến khu rừng vùng này, nên thuê hai tên cẩu tặc giả làm thợ săn tới khách điếm rủ tiểu đệ đi chung với họ. Tiểu đệ không từ chối, vì thường khi tới vùng nào để săn thú, đệ cũng thường đi chung với thợ săn địa phương. Vì vậy sáng hôm đó bọn ấy tới rủ, tiểu đệ không nghi ngờ chi cả. Đến khi vào rừng, thừa lúc tiểu đệ không đề phòng, cả hai vung đao tấn công tiểu đệ. Tiểu đệ vung kiếm chống đỡ được một lúc, cuối cùng bị bọn chúng bắt trói lại. Chúng nói: tiểu đệ với chúng không có thù oán nên chúng không giết, mặc dù Bồ Chấn thuê chúng giết. Chúng bỏ đi một lúc sau Bồ Chấn trở lại với hai tên hộ vệ của hắn là để xem tiểu đệ chết chưa. Nào ngờ hắn gặp huynh…

Trường Sơn lại hỏi:

- Đệ đi ngựa với hai tên hầu cận đến đây. Vậy họ ở đâu, sao không tiếp cứu chủ?

Lúc vào rừng chỗ giây leo chằng chịt, ngựa không tiện đi tới nên đệ phải buộc bên ngoài bìa rừng. Còn hai tên hầu cận của tiểu đệ luôn đi phiá sau, có lẽ Bồ Chấn đã thủ tiêu chúng trước rồi. Tiểu đệ vì hối hả tiến tới săn mồi, mới không lưu ý sự mất tích của hai tên hầu !

Trường Sơn gục gật đầu:

- Thì ra là thế!

Nín lặng một lúc chàng vụt nói bâng quơ:

- Hai tên gian tặc dám xúc phạm đến hoàng tử đương triều, quả thật chúng gan to mật lớn đó! Cửu Vân cười nhẹ:

- Cũng vì tiểu đệ ăn mặc thường dân nên chúng không ngờ là thái tử. Chúng bị Bồ Chấn dối gạt sao đó nên mới dám làm vậy. Khi ấy tiểu đệ có hỏi: «Chúng bây có biết ta là ai không mà dám xúc phạm đến ta?» Chúng đáp: «Chúng tôi không biết gì cả, chỉ làm theo lệnh của quan Đô tướng Bồ Chấn là thủ tiêu người». Tiểu đệ nghe mấy lời đó, uất khí trào lên, ngất đi tức khắc.

- Phải chi nghĩa đệ đi săn có quân gia lính tráng hầu hạ thì Bồ Chấn làm gì hãm hại được?

- Tiểu đệ rất ghét những nghi lễ rườm rà của triều đình, nên đi đâu vẫn hay giả dạng. Trường Sơn thở dài:

- Khổ là người đời chỉ ngán sợ bề ngoài. Ví như nghĩa đệ ăn mặc sang trọng của một vị hoàng tử hay con nhà quan thì hai tên cẩu tặc chắc không dám đụng tới, dù được Bồ Chấn thuê! Còn tên chủ lò rèn của huynh cũng ba chân bốn cẳng chạy đi mua thuốc. Cửu Vân châu mày hỏi:

- Nghĩa huynh nói gì về chủ lò rèn? Y có dính líu gì đến tiểu đệ? Trường Sơn sực nhớ khi nãy Cửu Vân còn bất tỉnh, không hay biết việc chủ lò rèn vào xem mặt và chống đối việc cứu giúp mua thuốc, 4nên tường thuật cho Cửu Vân nghe, rồi kết luận:

- Anh nghĩ, sau khi đệ bình phục rồi muốn hồi kinh cũng không có phương tiện.

- Tiểu đệ sẽ bảo quan địa phương đưa thẳng vào hoàng

cung.

- Bọn quan vùng này biết mặt đệ chứ?

Cửu Vân không đáp lời Trường Sơn, lại hỏi:

- Ý huynh muốn nói chúng không biết mặt, tất sẽ từ chối việc đưa đệ về kinh? Trường Sơn gật đầu. Cửu Vân lo lắng châu mày. Trường Sơn cười nhỏ, an ủi:

- Nói vậy chớ nghĩa đệ đừng lo! Chúng ta là thân nam tử, dù cho núi cao sông rộng đường dài cũng vượt qua được, sá gì khoảng đường từ đây về kinh chớ ?

- Anh nói phải lắm! Em thiếu gì cách buộc tụi quan mục nát vùng này đưa về Đồ Bàn.

Trường Sơn nheo mắt:

- Chính anh cũng nghĩ thế!

Cả hai cười vang sau câu nói của Trường Sơn. Tuy họ không nói với nhau sẽ dùng cách gì để Cửu Vân có phương tiện về kinh, nhưng trên gương mặt người nào cũng lộ vẻ lý thú.

Trường Sơn thấy Cửu Vân nói chuyện khá lâu vẫn còn tỉnh táo thì biết chén thuốc khi nãy có công hiệu, nên mừng rỡ nói:

- Tuy đệ bị thương nhiều chỗ, nhưng vết thương không sâu lắm, lại không nhằm chỗ nhược, huynh tin rằng chỉ vài hôm nữa đệ sẽ đi đứng được. Giờ huynh ra ngoài để yên cho đệ ngủ một thêm một lúc.

Nói xong chàng đi ngay ra ngoài nhà bếp. Bếp của chàng chỉ là khoảng đất trống bên hông nhà. Khi chàng trở vào thấy Cửu Vân ngủ yên, nên ngồi một bên nhắm mắt dưỡng thần.

Đến tối Cửu Vân tỉnh dậy, Trường Sơn sức thêm thuốc lên vết thương của nghĩa đệ và cho ăn cháo.

Ít hôm sau Cửu Vân đi đứng được, Trường Sơn và Cửu Vân liền làm lễ bái Thiên bái địa, chính thức kết nghĩa anh em.

Tối đêm đó hai anh em kết nghĩa ngồi hàn huyên rất là tương đắc vui vẻ. Trường Sơn vì bấy lâu sống cô độc lẽ loi, nay có được một nghĩa đệ chân thật hiền lành, an ủi rất nhiều.

Còn Cửu Vân thì sung sướng hơn bao giờ hết, vì có một nghĩa huynh cung kiếm tuyệt luân, dòng dõi anh hùng đất An Nam.

Trường Sơn nhìn vẻ hớn hỡ của Cửu Vân bỗng nhớ đến Trường Giang, sắc mặt đang vui chợt đổi dàu dàu… Cửu Vân tinh ý hiểu ngay nỗi buồn của người anh kết nghĩa, nhỏ nhẹ khuyên:

- Nghĩa huynh chớ hoài nhớ mãi dĩ vãng. Gắng sống và hãy quên đi! Trưòng Sơn giả bộ cười to, dối rằng:

- Nào phải anh nhớ dĩ vãng đâu? Anh đang suy tính ngày mai nói thế nào với tên huyện quan vùng này, để hắn chịu đưa nghĩa đệ về triều.

Cửu Vân cười khì:

- Dễ lắm mà! Em ra lệnh cho hắn trao ngựa xe và quân binh hộ tống. Nếu hắn không vâng lệnh thì em dùng võ lực buộc hắn tuân theo. Nếu cần em sẽ cho hắn về chầu Diêm chúa.

Trường Sơn cười lắc đầu:

- Chắc chắn không bao giờ hắn chịu tuân lệnh của đệ. Hai chúng ta như hai tên ăn mày đến gặp huyện quan, có khi chưa mở miệng nói gì đã bị bọn lính bắt vào tù.

- Cái tài dũng tướng của huynh mấy tên lính quèn ở huyện này đụng tới thì không khác gì tìm đường gặp Diêm vương. Trường Sơn nghiêm giọng:

- Nhưng anh là dân tị nạn ở xứ này, đâu có nên làm điều thô lỗ với quan quân triều đình.

- Thôi để em tới nói hết sự thật cho lão huyện nghe. Nếu lão không tin em, em chửi ba đời quan quân vua chúa của lão. Lão tức giận bắt em nhốt vào tù và liệt em vào trọng tội dám xúc phạm đến vua, nên sẽ giải em về kinh. Lúc ấy bọn lính rần rộ đưa đi, không khác gì hộ tống em về triều. Trường Sơn phì cười:

- Đệ nói chuyện nghe vô tư quá! Bộ đệ không biết tội nhân bị đưa về kinh đô cho vua xét xử đều bị hành hạ trước sao chứ? Làm gì có chuyện cho tù nhân ngồi thoải mái trên xe đưa về kinh với đoàn quân hộ tống?

- Dĩ nhiên là em đâu để bọn hèn hạ đụng đến mình? Chắc là sẽ có một cuộc dụng võ. Trường Sơn nói:

- Vết thương nghĩa đệ tuy đã bớt, nhưng chưa thể dụng võ được đâu! Dù sao thì huynh sẽ bảo vệ và đưa nghĩa đệ về kinh an toàn. Chỉ cần tìm được hai con tuấn mã. Nhưng anh nghèo quá không có tiền để mua ngựa… Suy nghĩ một lúc chàng tiếp:

- Cách duy nhất là lẽn vào huyện đường trộm hai con ngựa tốt. Anh sẽ hộ tống nghĩa đệ về Đồ Bàn. — Kế ấy hay lắm.

- Nhưng nghĩa đệ phải đi ngựa đoạn đường dài nhiều phong sương gió bụi, nhắm đủ sức chịu đựng không? Cửu Vân đáp không đắn đo:

- Em đã khá nhiều mà nghĩa huynh? Vả lại lúc nào mệt ta tìm chỗ nghỉ.

- Phải! Nhưng sức khoẻ của đệ không thể dầm mưa giải nắng, lấy trời làm màn lấy đất làm chiếu được! Cho nên khi nào đệ không còn sức tiến tới, chúng ta phải tìm quán trọ. Ngặt số tiền anh hiện có chỉ đủ mua thức ăn cho hai ta dọc đường thôi! Cửu Vân suy nghĩ một khắc rồi cười dòn:

- Nghĩa huynh à, mình trộm ngựa được, sao không trộm ít tiền bạc làm lộ phí? Trường Sơn ú ớ:

- Chỉ vì... chỉ vì anh cảm thấy nếu trộm tiền thì mình có vẻ đạo chích quá! Cửu Vân cười lớn:

- Được rồi! Ngày mai nghĩa huynh tìm cách vào huyện trộm hai con tuấn mã. Còn phần đệ… hà hà… đệ sẽ cạy tủ lão huyện hốt một mớ bạc! Ngày nào vua cha biết được chắc chẳng trách phạt em đâu! Thái tử lấy của công làm chi phí đi đường, thật không có gì trái phép.

Trường Sơn cười trừ:

- Đành phải làm vậy thôi!

Tờ mờ sáng hôm sau trước cửa nhà huyện bọn lính nhao nhao… Chỉ vì đêm đó có đạo chích vào hậu dinh trộm hai con tuấn mã, lại còn vơ vét hết số vàng bạc tích trử tại nha!

Khi Trường Sơn dắt ngựa đến chỗ hẹn đón Cửu Vân, thấy nghĩa đệ quảy một túi vải nặng chịch đầy vàng bạc, chàng kinh hãi kêu lên:

- Trời ơi, nghĩa đệ lấy nhiều vàng bạc để làm gì? Chúng ta chỉ cần vài nén bạc làm lộ phí đủ rồi. Cửu Vân cười hì hì:

- Nghĩa huynh sợ có nhiều vàng bạc à? Từ đây về đến kinh phải năm bảy ngày đường, ta cần phải có bạc tiền dư giả để xài chớ? Hơn nữa nếu gặp kẻ nghèo đói giữa đường, ta phát cho họ. Như vậy cũng là việc đáng làm đó chớ?

- À nếu hoàng tử có lòng với dân như thế, tốt lắm!

Chàng nói giọng nửa đùa nửa thật. Cửu Vân vô cùng

khoan khoái nói thêm:

- Chẳng biết lão huyện vơ vét ở đâu mà quỹ đầy ấp. Có lẽ vùng này có nhiều dân tị nạn An Nam, lão nhận của hối lộ chăng? Trường Sơn cười khì:

- Chắc lão may mắn không gặp dân tị nạn khố rách như anh, nên trong quỹ mới chứa đầy ấp. Nhưng bữa nay bị đệ hốt sạch, lão biến thành khố rách rồi! Cả hai cười vang. Trường Sơn đỡ Cửu Vân lên yên. Đôi tuấn mã rộn ràng tung vó...

 Chương 7: Lưu lạc tới đảo Hải Nam gặp di tích của Tô Ðông Pha

Mặt trời đã nhô lên khỏi mặt nước, chiếu những tia nắng ban mai dịu dàng ấm cúng xuống đại dương, tạo cho biển cả một vùng thật đẹp.

Trong khung cảnh bao la tuyệt vời ấy có một con thuyền không người lèo lái trôi nổi lênh đênh… mặc cho sóng gió đẩy đưa...

Bất thình lình thuyền tròng trành lay động, đồng với tiếng người reo mừng:

- Bảo tố qua rồi bà con ơi! Chúng ta đến nơi rồi!

Sau một đêm gặp giông tố tơi bời, hành khách ngầy ngật nằm chồng chất lên nhau như những xác chết… Tiếng reo của người ấy như có năng lực huyền bí giúp mọi người có khả năng ngồi dậy, nét mặt rạng rỡ mừng vui.

Xa xa trước mắt họ, giữa biển nước mênh mông… hiện ra mỗt hòn đảo cây cối xanh rì, núi cao chót vót.

- Thuyền trôi đến một hoang đảo! Chúng ta lạc hướng đi rồi!

Tiếng kêu tuyệt vọng của người thứ hai làm mọi gương mặt đang rạng rỡ đều đổi sắc. Ai nghe nói lạc tới hoang đảo cũng thất kinh hồn vía, nhốn nháo cả lên, khiến cho con thuyền vốn chỡ đầy khẳm bị nghiêng qua ngả lại… thập phần nguy hiểm!

Một người ngồi trước mũi thuyền vẻ mặt hết sức trầm tĩnh, thấy những người khách đồng hành quá kinh hãi, liền cao giọng trấn an:

- Bà con chớ quá kinh động! Chúng ta tới được một hòn đảo, còn hơn trôi nổi bềnh bồng giữa biển chết đói chết khát. Tôi thiết tưởng từ hòn đảo này chúng ta cũng có thể tìm đường trở về miền nam Hóa Châu hoặc Chiêm Thành.

Giọng nói của người ấy thật ôn tồn hòa nhã, trong giờ phút này giúp cho hành khách dịu được nỗi hãi hùng.

Chẳng mấy chốc thuyền tấp vào mé. Đâu đâu cũng mỏm đá cheo leo, rong biển phủ lớp... Mùi sương lam chướng khí từ lòng đảo hắt ra vô cùng ngột ngạt.

Giờ này mặt trời vừa lên, chưa đủ sức làm tan khói sương mù dày đặc của núi rừng âm u… Tiếng chim kêu vượn hú buổi sớm đã vang vang trời đất… hòa cùng tiếng gió đại dương… tạo thành một âm thanh ghê rợn của một nơi hoang dã không dấu vết của loài người!

Chủ thuyền lên tiếng:

- Hiện tại số nước và lương thực trữ theo đã hết. Bà con cô bác tạm thời lên đảo chờ tôi đi tìm thức ăn nước uống.

Lời nói của hắn không có người hưởng ứng, vì ai ai trông thấy rừng cây chằng chịt âm u cũng sợ hãi không muốn lên bờ.

Trường Giang là người duy nhất nhảy khỏi thuyền, lần dò leo qua những tảng đá trơn trợt để lên bờ. Tên chủ thuyền là kẻ thứ hai nối gót theo chàng.

Lúc sau một số đàn ông trai trẻ cùng lục tục rời thuyền. Ngoại trừ số đàn bà và trẻ con ngồi lại, số thanh nữ cũng lên theo.

Bây giờ tên chủ thuyền bàn tính chia nhau đi tìm nước suối và trái rừng cho mọi người ăn đỡ dạ. Những hành khách, ngoại trừ Trường Giang, ai cũng lắc đầu không chịu. Họ viện lẽ: «chủ thuyền lấy vàng bạc của họ, phải có bổn phận cung cấp thức ăn nước uống cho họ».

Không còn cách gì hơn, tên chủ thuyền với Trường Giang đành chia nhau mỗi người mỗi hướng… Trường Giang đi dọc theo bờ biển tiến về hướng Đông Bắc, chủ thuyền đi về phía Tây Bắc.

Số hành khách còn lại chỉ lẩn quẩn nơi đó tìm trái rừng.

Trường Giang đi dọc theo bờ biển, đá mọc lỏm chỏm, lúc phải leo lên cao, lúc phải xuống dốc… Mặt biển có khi sâu thăm thẳm, có lúc như ngang ngang với núi...

Chàng đi đến giữa trưa trong bụng đói cào, vẫn không tìm ra dòng suối nào hay cây trái gì khả dĩ ăn được! Bất ngờ chàng thấy có một con đường mòn len lỏi giữa đá và cây cỏ, lòng rúng động tự nhủ:

- Nơi đây có người ở chớ không là một hòn đảo hoang!

Sự vui mừng làm chàng quên được cơn đói và khát. Chàng nhanh chân bước trên con đường mòn ngoằn ngoèo hun hút… đi thật lâu cũng chẳng thấy có nhà, có người, chân đã mỏi, sức đã kiệt, mà con đường gần như bất tận! Chàng tuyệt vọng ngồi trên một tảng đá đưa mắt nhìn quanh tìm cây trái rừng… Nhưng cây cối vùng cận biển cằn cổi tiêu sơ, không có gì để dinh dưỡng loài người trên vùng đất này!

Chàng ôm đầu nghĩ ngợi… nửa muốn trở về thuyền, nửa muốn tiếp tục đi theo con đường mòn. Nhưng bụng đói, người chàng mệt lã, đôi chân không còn đủ sức lê lết bước tới trước, càng không thể leo đèo xuống dốc trở về lối cũ.

Chàng ngồi thừ trên tảng đá, tâm tư hết sức não nề… chợt nhớ đến mẫu thân, tổ mẫu và gia huynh… Giờ đây chắc gia quyến chàng đã tới Chiêm Thành. Hẳn mọi người đang lo âu trông đợi con thuyền của chàng?

Mẹ và bà nội chắc khóc nhiều vì ngỡ chàng đã chết trong lòng biển cả. Một chuyến ra đi mà chàng có cảm tưởng như ngàn thu vĩnh biệt. Chẳng biết có ngày gặp lại không?

Rồi đây gia đình chàng mới ăn nói xoay sỡ ra sao để nhờ vả vua Chiêm? Phải biết trước như thế này, giờ ra đi chàng nhất quyết ngồi cùng thuyền với gia quyến. Chẳng thà sống chết có nhau, còn hơn kẻ chân trời, người gốc bể!

Thể xác rã rời, tâm hồn khốn khổ, chàng ngã dài trên tảng đá thiếp đi một lúc. Chợt có tiếng người nói thật gần:

- Lạ kià, sao có người nằm nơi đó? Còn sống hay chết vậy?

- Chắc là còn sống! Nhìn kìa, người này ăn mặc lạ lùng, chắc không phải là dân trên đảo mình.

Họ nói chuyện với nhau bằng tiếng Quãng Đông. Trường Giang nghe tiếng người và tiếng chân bước đến gần, giật mình ngồi bật dậy ngơ ngác nhìn quanh…

Không xa chỗ chàng nằm mấy bước có hai người đàn ông ăn mặc theo kiểu thợ săn Trung Quốc, vai đeo nặng trĩu cung tên. Bên cạnh chỗ họ đứng có 3 xác nai rừng cột dính vào nhau.

Nghe họ nói và nhìn lối ăn mặc của họ, Trường Giang đoán được nơi đây là đảo của người Tàu. Tự nghĩ:

- Mình bỏ xứ ra đi vì quân ngoại bang dày xéo quê hương, nhè đâu trôi dạt đến xứ họ. Thật là mĩa mai!

Cũng may chàng vốn trầm tỉnh, cơ trí hơn người, ở hoàn cảnh nào cũng xoay sỡ được, nên mỉm cười chấp tay chào họ và hỏi bằng tiếng Quãng:

- Xin liệt vị cho biết nơi đây là đâu? Người cao niên liền đáp:

- Đây là đảo Hải Nam ngoài khơi Trung Hoa.

Thật ra Trường Giang đã đoán ngay từ đầu. Hòn đảo này nằm về hướng đông bắc bãi Sầm Sơn. Con thuyền chàng gặp bảo đẩy đưa trôi dạt về hướng này. Từ đây muốn đi qua Chiêm Thành cũng chẳng phải là vô vọng, mà chỉ cần trữ đủ số nước và lương khô. Chàng nghĩ thế nên nhỏ nhẹ nói:

- Thuyền tôi bị bảo trôi tấp vào đảo này. Mong liệt vị giúp cho nước uống và lương thực để chúng tôi có thể tiếp tục đi. Chúng tôi xin trả bằng tiền vàng.

Người trẻ hỏi:

- «Nị» từ đâu tới?

Họ là dân miền sơn cước không biết dùng lời xưng hô trang trọng của giới học thức thượng lưu. Trường Giang nghe họ xưng gọi «nị, ngộ» với mình lấy làm khó chịu nên gượng gạo đáp:

- Tôi... Tôi từ Vân Nam chu du đây đó, hiện theo đoàn người đi viếng nước Chiêm Thành, chẳng may gặp bảo nên thuyền trôi lạc tới đảo này.

Chàng cố tránh không nói mình là dân An Nam, sợ họ nghi kỵ đang khi hai nước chiến tranh. Sự thật nếu chàng có nói rõ nguồn gốc, họ cũng chẳng biết gì về hiện tình một quốc gia nhỏ bé không xa chỗ họ một khoảng trùng dương. Họ lại càng không hay việc triều đình Yên Vương Lệ [1] đưa quân chinh phục bờ cõi phía Nam.

Trường Giang nói tiếng Trung Hoa rất giỏi, nên chàng xưng là người Vân Nam chẳng gây sự nghi ngờ của hai người này. Người cao niên thấy thần sắc chàng tuy mệt mỏi, nhưng rõ ràng là một bậc phú quí, phong tư tao nhã, lòng sinh kính trọng, chấp tay nói:

- Nếu công tử muốn có nước và lương thực hãy theo

chúng tôi.

Nghe họ đổi lối xưng hô với mình, Trường Giang vui mừng nối gót theo hai người thợ săn. Cả ba đi vào con đường mòn trong núi một lúc tới vùng đồng bằng. Từ đó nhìn thấy những mái nhà lụp sụp dọc theo bãi bể. Dọc trên đường bây giờ là rẫy ngô, sắn, rau cải đủ loại… Có điều mỗi khoảnh trồng trọt rất nhỏ.

Gian nhà của hai người thợ săn nằm ngay bìa làng. Họ ở cách xa những mái nhà trong xóm.

Hai người này biết chàng đói và khát, nên vừa vào đến nhà họ mời chàng ngồi trên ghế và vào nhà bếp mang ra cho chàng một chén nước lã với cái đùi nai thui đã nguội lạnh từ lâu.

Trong lúc đói được ăn, dù thức ăn nguội lạnh vẫn thấy ngon hơn cao lương mỹ vị lúc no!

Thật vậy! Chưa bao giờ Trường Giang ăn thịt nai mà ngon miệng như lần này! Chén nước giếng không đun sôi, đục ngầu, nhưng bây giờ không khác gì chén thanh trà ngon ngọt lạ lùng!

Sau bữa ăn chàng đã phục hồi sinh lực, nên đứng lên chấp tay cám ơn và nói:

- Tôi còn những người đồng thuyền đang chờ đợi nước và lương thực. Xin liệt vị làm ơn mang giúp đến chỗ thuyền đậu, cũng để tôi lấy tiền vàng trả những hao tốn cho liệt vị.

Người cao niên nhìn trời rồi hỏi:

- Thuyền đậu nơi đâu?

- Về hướng Tây, nơi mỏm đá tựa hình con kỳ lân.

- A!

Trường Giang nghe ông ta kêu một tiếng với giọng chán nản, thì lo lắng hỏi:

- Người có thể giúp tôi mang các thứ đến nơi đó chứ?

- Từ đây đi tới đó xa lắm, không thể trở về trước khi trời tối. Người trẻ nói thêm:

- Con đường đi đến đó thập phần nguy hiểm, trời tối không nhìn rõ lối đi, sảy chân có thể té xuống biển.

Những điều họ nói không sai tí nào! Vì khi chàng rời thuyền mặt trời vừa lên, mà lúc đến đây trời đã hoàng hôn. Dĩ nhiên chàng không thông thuộc đường đi nên mất nhiều thì giờ. Nhưng đoạn đường chàng đi qua không phải là gần, và lúc lên đèo xuống dốc quá là nguy hiểm.

Tuy biết những lời của ngưòi thợ săn là đúng, nhưng Trường Giang quyết định trở lại thuyền. Vì chàng biết mọi người đang đói khát chờ đợi mình mang lương thực trở về, nên dù nguy hiểm khó khăn ra sao chàng cũng phải trở về thuyền.

Lòng đã quyết, chàng chắp tay xá chào chủ nhà:

- Tôi không thể chần chờ ở đây lâu hơn. Xin cho tôi hai túi nước và ít lương khô. Sáng mai tôi sẽ trở lại đây thanh toán những hao tốn của liệt vị. Người cao niên biết không thể ngăn cản được ý muốn của Trường Giang, ông ta thở ra nhè nhẹ, rồi đưa mắt bảo người trẻ:

- Nị mang giúp vị công tử này ra ngoài ấy, sáng mai hãy trở về nhà.

- Gia gia, ngộ đi đến đó cũng có thể trở về ngay đêm

nay mà?

- Chớ cãi lời ta!

Nghe cả hai đối đáp, Trường Giang mới biết họ là hai cha con. Chỉ vì người cha trông quá già, từ lúc gặp họ chàng nghĩ hai người là ông cháu.

Người con vâng lời cha, chạy vào nhà bếp lấy hai túi nước, một túi vải chứa đầy thịt khô, cá khô và một mớ khoai lang, rồi gật đầu bảo Trường Giang đi theo.

Chàng được người cha trao cho ngọn đèn lồng, tuy trời chưa tối. Trường Giang xá chào gia chủ và nói lời cảm ơn thêm lần nữa.

Trở ra lối cũ tuy là đoạn đường đã đi qua, song chàng vẫn không tiến nhanh được, vì trời đã chạng vạng, sương đêm giăng mắc đó đây... Trong khi đó người thợ săn trẻ hai vai quảy nước và thức ăn mà bước chân đi thoăn thoắt, thỉnh thoảng cứ phải dừng lại chờ chàng.

Trường Giang sợ anh ta bực mình nên lã chã nói:

- Tôi không quen leo núi nên phiền huynh quá!

Chàng trai mỉm cười. Một nụ cười thân thiện khả ái, có lẽ muốn tỏ cho Trường Giang biết là không phiền, nhưng lòng dạ chất phác không biết nói sao?

Trường Giang gợi chuyện:

- Gia đình huynh lập nghiệp nơi đây lâu chưa?

- Từ khi tôi ra đời, nay là đã 20 năm. Trước kia gia gia và má má tôi sống ở Đạm Châu. Trường Giang nghe nói bỗng giật mình hỏi:

- Nếu tôi nhớ không lầm thì cách đây hơn 300 năm một văn nhân đại tài đời nhà Tống họ Tô, hiệu Đông Pha, từng sống ở Đạm Châu? Chàng trai thật thà đáp:

- Từ nhỏ tôi chỉ sống quanh quẩn trong làng nên không nghe kể chuyện đó. Nhưng tôi nghe nói một vài nơi trên đảo này dân chúng không gọi Hải Nam đảo, mà gọi Đông Pha đảo. Không hiểu có phải vì họ Tô [2] mà người vừa nói đó không?

Trường Giang gật đầu, nét mặt chừng như xúc động khi nhắc đến người xưa.

Ra khỏi con đường mòn cả hai phải lên đèo xuống dốc dọc theo mé biển, nên kẻ đi trước người đi sau, không ai chuyện trò với ai nữa. Khi họ đến mỏm đá hình con kỳ lân trời đã tối hẳn. May nhờ có chút ánh sáng của trăng lưỡi liềm và ngọn đèn mang theo Trường Giang nhận định được chỗ thuyền đậu. Nhưng…

Người không thấy mà thuyền cũng không thấy! Đó đây vắng lặng… ngoại trừ tiếng sóng vỗ vào đá!

Trong bóng tối chàng trai không nhìn thấy sắc mặt biến đổi của Trường Giang, nhưng hắn cũng biết được mức kinh động của chàng qua giọng nói run run:

- Họ đi rồi! Họ… không chờ tôi!

Giọng chàng lệch lạc nghẹn ngào. Chàng trai bỏ hai túi nước và túi thức ăn xuống đất, rồi đứng im ru bên cạnh Trường Giang, sắc mặt cũng buồn thiu.

Một lúc, nỗi xúc động đã lắng dịu, Trường Giang nhìn quanh các hốc đá… hy vọng chủ thuyền dời chỗ đậu ở nơi.

kín đáo để mọi người an nghỉ. Nhưng tìm kiếm khắp nơi… hẻm hốc nào chàng cũng chỉ thấy sóng nước!

Chàng đi dọc theo bờ bể, lớn tiếng gọi chủ thuyền. Chàng trai cũng bụm miệng làm tiếng tù-và hú inh ỏi... Song tiếng kêu của hai người nửa như lạc vào rừng núi thâm u, nửa như chìm sâu dưới đáy nước...

Dư âm không vọng lại! Không có tiếng người hồi đáp lại! Khung trời vô tận, bể nước mênh mông, tựa như nỗi khốn khổ và tuyệt vọng trong lòng chàng cũng mênh mông vô tận như trời bể!

Hai người ngồi im nơi tảng đá, quay mặt nhìn ra khơi... Sóng trùng dương dưới ánh trăng nhạt nhòa nhấp nhô ẩn hiện… mà chàng có cảm tưởng như bóng dáng của ma vương quỉ quái đang nhảy múa trêu cợt trước nỗi thống khổ của chàng. Chàng vùng đứng dậy chạy phăng tới trước... Chàng trai lầm tưởng Trường Giang vì quá thất vọng muốn đâm đầu xuống bể, nên hốt hoảng chạy theo níu lại, nói khẽ:

- Người chớ hủy mình! Hãy theo tôi về nhà tạm sống, chờ ngày tìm thuyền ra đi.

Tiếng nói nhỏ nhẹ của người thợ săn trẻ dường như không đủ cho Trường Giang để tâm nghe thấy. Chàng tuy không cố ý hủy mình, nhưng giữa lúc tâm tư bất an, đầu óc rối loạn, vì không biết làm sao theo kịp con thuyền của mẹ và gia huynh. Hành động chạy tới của chàng vô cùng nguy hiểm, nếu không có thanh niên kia giữ lại có lẽ chàng đã rơi tòm xuống vực sâu.

Không nghe chàng nói gì, người thợ săn trẻ lập lại:

- Công tử chớ buồn và tuyệt vọng. Thỉnh thoảng vẫn có thuyền từ Chiêm Thành ghé đảo này. Lúc ấy công tử xin họ cho quá giang. Trường Giang như người vừa tỉnh mộng khi nghe mấy lời khuyên của chàng trai. Chàng cảm kích nói:

- Vâng, tôi không thể làm gì khác hơn là chờ đón thuyền khác đi qua Chiêm Thành. Chỉ e ngại là làm phiền huynh và gia chủ. Hơn nữa tôi không có tiền bạc của cải gì mang theo trong người. Tôi… Chàng trai vội vàng ngắt lời:

- Gia đình chúng tôi nghèo, sống bằng nghề săn thú đổi cơm gạo, nên chúng tôi không cần vàng bạc. Người chớ lo điều này.

Nghe lời chí tình của người nọ, Trường Giang vô cùng cảm động. Chàng bỗng nhớ đến hôm tới bãi Sầm Sơn tìm thuyền ra đi. Những tên chủ thuyền An Nam biết lúc ấy đồng bào sống trong cơn hãi hùng, quá sợ bọn côn đồ cướp nước, cần tìm thuyền đi lánh nạn, nên họ lợi dụng thời cơ đục lợi, còn làm khó dễ đủ điều! Họ nào nghĩ đến tình đồng hương mà giúp đỡ?

Tự nhiên chàng đem lòng thương mến chàng trai xa lạ này. Chàng thân thiết hỏi:

- Huynh tên họ là chi?

- Tôi họ La tên Nam Liêm. Nam Liêm là tên làng tôi ở. Còn công tử?

- Tôi họ... Đoàn, tên... Hoài Nam.

Vì chàng cố ý không muốn nói mình là dân An Nam trên đất địch nên không cho biết tên họ thật, thành ra phải tìm một tên họ vu vơ.

Nam Liêm không lưu ý câu trả lời ngập ngừng của chàng, hỏi một câu hết sức ngây ngô:

- Tên của công tử có phải tên làng công tử ở không? Trường Giang mỉm cười đáp gọn:

- Không!

Nam Liêm ngồi lặng im một lúc, chợt hỏi:

- Công tử biết đi săn không? Trường Giang lắc đầu:

- Tôi chưa hề cầm vũ khí trên tay, nên chưa từng đi săn

thú.

- Vậy công tử làm rẫy hay đánh cá?

Nam Liêm nghe cha gọi Trường Giang là công tử thì bắt chước gọi theo, chớ không hiểu tiếng xưng gọi đó dành cho người giàu có quí phái, nên mới hỏi Trường Giang làm nghề gì trong ba nghề chàng ta biết.

Trường Giang thầm nghĩ Nam Liêm từ nhỏ đến giờ chỉ sống quanh quẩn trong làng, không biết gì về xã hội bên ngoài, nên không ngạc nhiên về câu hỏi ấy. Chàng đáp:

- Tôi không làm rẫy, cũng không đánh cá. Tôi làm nghề dạy học trò. Nam Liêm nghe chàng nói dạy học thì có vẻ kính trọng không dám thân thiết, ngồi xê ra một chút, rồi nhút nhát hỏi:

- Tôi có nghe gia gia tôi nói «học trò là những người chỉ ngồi trong nhà đọc sách, chớ không làm lụng». Vậy họ phải là người giàu có lắm mới ở không ăn học. Nghề của công tử là dạy con nhà giàu đọc sách phải không? Trường Giang cười nhẹ:

- Tôi dạy học trò là nói những điều tôi biết cho học trò nghe, giảng giải lời nói của các văn nhân thánh hiền cho học trò hiểu. Những ai muốn nghe muốn hiểu đều làm học trò được, chớ không chỉ riêng người giàu có.

Nam Liêm ngồi trầm ngâm một lúc chợt hỏi:

- Như tôi làm thợ săn có thể làm học trò được không?

- Được chứ! La huynh biết đọc và biết viết chưa? Nếu chưa, tôi có thể chỉ cho.

Sở dĩ chàng gọi Nam Liêm bằng La huynh vì thấy chàng ta tuy nhỏ hơn chàng hai tuổi, song nét mặt dày dạn nắng mưa, trông già dặn hơn mình, nên không tiện gọi tên.

Nam Liêm nghe Trường Giang hứa dạy học, mừng rỡ chấp tay nói:

- Gia gia tôi nói người làm học trò phải coi người dạy học mình hơn cả cha mẹ và gọi là sư phụ. Trường Giang vội nói:

- Giữa tôi với La huynh thì không cần xem như sư phụ và học trò. Chúng ta xem nhau như anh em vẫn có thể học hỏi chỉ dạy nhau.

Hai người ngồi chung trên một phiến đá phẳng lì, khá to, không khác gì một cái giường bằng ngọc. Nam Liêm sung sướng ngã dài trên đá ngửa mặt nhìn trời. Trường Giang nằm một bên với khối lo âu nặng trĩu trong lòng…

Một chốc sau Trường Giang nghe tiếng thở đều của Nam Liêm. Chàng cũng nhắm mắt cố dỗ giấc ngủ, nhưng mãi một lúc lâu vẫn không sao ngủ được, đầu óc rối bời, tâm tư da diết...

Nghĩ đến mẹ, bà nội và anh đang mong đợi mình trên đất Chiêm Thành, nghĩ đến người cha nuôi chí diệt thù đang chờ binh cứu viện của hai con… nghĩ đến gót giày quân xâm lăng chà đạp trên mảnh đất quê hương… nghĩ đến dân lành điêu linh khốn khổ bởi thời cuộc...

Bất thần tim chàng vụt đau nhói khi nghĩ tới Huỳnh Như… người tình yêu dấu của chàng giờ đây hẳn sống những chuỗi ngày đau thương tan tác vì sự cai trị tham tàn của bọn cướp nước. Chẳng biết nàng có chịu đựng nỗi những khổ nhục của người dân nô lệ không?

Nàng tuy là nữ lưu, nhưng lại là một bậc anh thư, một trang nữ kiệt, thì đâu dễ gì chấp nhận ngoại bang dày xéo quê hương dân tộc mình?

Toàn thân chàng bỗng toát mồ hôi lạnh khi tưởng tượng người yêu một mình xông xáo vào chốn hiểm nguy để diệt thù. Biết rằng cái nhan sắc khuynh thành của nàng có thể làm điên đảo lòng giặc. Nhưng tấm thân liễu yếu ấy nhỡ sa vào tay bọn hôi tanh, chắc nàng lại chọn con đường tử tiết như đêm nào ở cung Hồ.

Trời ơi! Huỳnh Như nàng ơi, tôi có trách nhiệm với cuộc đời nàng mà nhẫn tâm ra đi không một lời từ giã. Chỉ vì nặng lòng với cha mẹ, nặng nợ với non sông mà chữ tình phải xem nhẹ, nàng có hiểu dùm tôi không? Mong nàng không trách tôi là kẻ bạc tình quên lời hẹn ước. Mong nàng hiểu rằng dù

phương trời nào, dù hoàn cảnh nào, tim tôi chỉ yêu mỗi nàng

mà thôi.

Nằm một chỗ lăn lộn rên siết một hồi chàng không hay trời đã sáng. Tiếng chim kêu vượn hú từ khu rừng vang dội tận ngoài ghềnh đá, dư âm bàng bạc trên sóng nước… đã đánh thức chàng thợ săn Nam Liêm và gọi Trường Giang trở về với thực tại.

Cả hai cùng ngồi bật dậy. Bỗng nhiên Nam Liêm reo

lên:

- Ai bỏ cái gì trên tảng đá. Kìa! Công tử trông thấy

không?

Theo ngón tay chỉ của Nam Liêm, Trường Giang nhìn xuống phía dưới… thấy cái túi sách của-chàng nằm lồ lộ trên một phiến đá gần chỗ thuyền đậu hôm qua. Mặt nước giờ này đã dâng cao, chỉ còn một gang tay là tràn lên mặt đá. Trường Giang cuống quýt kêu lên:

- Sách của tôi! Chao ôi! Sách không thể bị ướt!

Chàng nói vừa chạy phăng phăng tới. Nam Liêm chạy theo bảo:

- Công tử để tôi xuống đó mang lên cho.

Không đợi Trường Giang đồng ý hay không, Nam Liêm nhảy từ tảng đá này sang tảng đá khác… chẳng mấy chốc vác lên túi sách nặng trĩu của Trường Giang.

Nhìn kho tàng sách vỡ của mình còn đủ, không bị hư ướt, Trường Giang mừng rỡ tưởng chừng như gặp lại người bạn cố tri. Chàng quảy túi sách lên vai, theo Nam Liêm về làng. Tự nhủ:

- «Chắc chủ thuyền không muốn chờ chàng trở lại nên quăng túi sách của chàng lên bờ đá! Dĩ nhiên nhờ là túi sách nặng trĩu chẳng ích lợi gì cho ông ta. Chớ nếu là túi vàng chắc ông ta không điên khùng gì trả lại cho chàng!».

Người đời chỉ biết quí vàng bạc của cải, chớ mấy ai quí sách? Mấy ai biết lấy lời nói của bậc văn nhân thánh hiền làm món ăn tinh thần cho mình?

Con đường mòn trở về làng Nam Liêm chuyến này Trường Giang cảm thấy bớt cô độc, hết lẽ loi, y như có người bạn thân thiết một bên.

Nỗi vui mừng làm chàng đi không biết mỏi, vai quảy nặng không biết mệt và nỗi khốn khổ bị bỏ rơi trên hoang đảo như không còn nữa!

° ° °

Ngày ngày mỏi mắt trông ra khơi… chẳng thấy bóng dáng cánh buồm lộng gió! Niềm hy vọng gặp lại mẹ, gia huynh và tổ mẫu không còn nữa! Trường Giang chấp nhận định mệnh trớ trêu chung sống với dân một nước nghịch thù đã được nửa năm.

Áo quần không có, chàng phải ăn mặc như dân trên đảo. Dân chúng làng Nam Liêm gần như không còn nhớ Trường Giang từ xa tới. Họ thương mến quí trọng chàng xem như một bậc hiền nhân và gọi chàng là Đoàn tiên sinh.

Gian nhà của Đoàn tiên sinh là do dân làng Nam Liêm chung nhau dựng lên. Nhà khá rộng, xây cửa ra bể, nằm núp bóng dưới hàng dừa xanh ngát ven bãi.

Trong nhà thật trang nhã. Ngoài các kệ sách, còn có những bức tranh do bàn tay thần kỳ của tiên sinh phác họa.

Ngày nào cũng có một số học trò đủ hạng tuổi thay phiên tới gặp Đoàn tiên sinh để học đọc, học viết. Thỉnh thoảng có buổi họp đông đảo trong làng để nghe tiên sinh giảng dạy giáo lý Thánh Hiền và chỉ dẫn cách ăn ở theo khuôn phép gia đình, trên kính, dưới nhường v.v...

Đoàn tiên sinh có một tiểu đồng tên Chu Thập, con trai thứ mười của Chu Ký làm nghề đánh cá, năm này đã 12 tuổi.

Chu Thập thông minh đỉnh ngộ, nên được Đoàn tiên sinh đem về nhà dạy học và cho làm thơ đồng. Ngoài ra Đoàn tiên sinh còn có một người thân thiết xem như anh em, tuy không kết nghĩa, nhưng luôn luôn sát cánh với tiên sinh và cáng đáng mọi việc trong nhà. Đó là La Nam Liêm.

Từ buổi sáng đẹp trời Nam Liêm dẫn về làng một người quí phái từ Vân Nam đi chu du gặp bảo, lạc tới đảo Hải Nam rồi bị thuyền bỏ rơi, hai cha con họ La tiếp đãi hết sức kính trọng, cho ở chung trong nhà để chờ đón thuyền ra đi.

Thế nhưng ngày qua ngày trông ra cửa biển chỉ thấy xa xa cánh buồm lộng gió… Không ai ghé lại hòn đảo này để nỗi tuyệt vọng của vị công tử họ Đoàn mỗi ngày một chồng chất, cuối cùng người ấy không còn tính đến chuyện ra đi nữa và quyết định sinh sống trên hải đảo.

Mới đầu chàng mở lớp dạy học cho dân làng ngay tại gian nhà họ La, vì thường ngày cha con La Nam Liêm đi săn bắn vắng mặt luôn. Đến tối người ta thấy Nam Liêm ngồi bên cạnh vị khách học đọc, học viết… dưới ngọn đèn leo lét.

Bây giờ gần như đàn ông trai tráng trong làng ai ai cũng biết đọc vài câu kinh kệ, nên họ lấy làm cảm kích người đã chỉ dạy họ.

Từ đó danh vị Đoàn tiên sinh được truyền tụng từ người này đến người kia. Rồi dân chúng chia nhau cất cho tiên sinh một gian nhà, vừa để sinh sống, vừa để tiếp nhận học trò.

Cả làng tranh nhau cung cấp nhu cầu thiết yếu cho tiên sinh, tùy theo huê lợi họ thu được. Người chài lưới cung cấp cá tôm. Kẻ trồng rẫy đem tặng ngô sắn rau cải. Cha con Nam Liêm dâng thịt tươi, da thú v.v...

Một điều làm xúc động dân tình hơn hết là tiên sinh thu nhận các thứ rất ít cho mình. Số còn lại đem biếu tặng những gia đình thiếu thốn trong làng.

Những lúc rỗi rảnh tiên sinh vào rừng tìm lá và rễ cây loại y dược đem về phơi khô lưu trữ. Nhờ vậy hễ ai đau yếu đều được tiên sinh chẩn mạch cho thuốc.

Tấm lòng bác ái của tiên sinh vang dội đến các làng kế cận. Thiên hạ đua nhau tới thăm viếng, kẻ ngưỡng mộ, người tri bệnh... Lần lần khắp làng mạc trên Hải Nam đảo ai cũng nghe tiếng biết tên tiên sinh. Rồi họ thêu dệt những chuyện hoang đường như: «Đoàn tiên sinh không là người trần thế, là người từ trời hiện xuống để cứu nhân độ thế». Hoặc giả: «Đông Pha tiên sinh đầu thai làm Đoàn tiên sinh» v.v...

Lời đồn huyền hoặc ấy mỗi ngày một trầm trọng, cho đến đỗi cha con Nam Liêm cũng nghi ngờ người họ tiếp rước tại nhà độ nào chẳng phải bị thuyền bỏ rơi. Vì sự thật họ bắt gặp chàng nằm ngủ trên tảng đá giữa rừng, chớ nào thấy ghe thuyền chi đâu?

Hôm ấy vào buổi sáng tinh sương, Trường Giang tức Đoàn tiên sinh, đang cùng đứa thơ đồng sữa soạn hành trang lên đường đi Đạm Châu.

Từ khi lưu lạc tới hòn đảo này Trường Giang có ý viếng Đạm Châu để xem di tích Tô Đông Pha, nhưng chưa có dịp. Nay chàng nhất định khăn gói lên đường.

Đảo Hải Nam khí hậu rất ẩm thấp. Người Trung Hoa chỉ sống ở ven biển, bên trong là núi rừng. Cho nên từ Nam Liêm đến Đạm Châu phải đi một đường vòng dọc theo bờ biển. Trên đảo thiếu thốn mọi thứ, ngay cả gạo từ nội địa chỡ sang cũng rất hiếm. Đương nhiên là việc di chuyển trên đảo chỉ bằng đôi chân, chớ không có ngựa xe võng lọng, vì đường đi vô cùng trắc trở. Thành ra tuy khoảng cách không xa, mà cuộc hành trình phải mất nhiều ngày.

Bấy giờ Trường Giang với thơ đồng Chu Thập vừa ra đến đầu làng, bỗng thấy Nam Liêm gánh hai giỏ mây từ xa đi tới, miệng cười toe toét, nói:

- Gia gia tôi bảo đưa công tử tới Đạm Châu, vì đường xá xa xôi hiểm trở. Sẵn dịp tôi cũng muốn đi chơi cho biết đó đây. Trường Giang mỉm cười, thành thật nói:

- Nếu thật La huynh muốn đi theo cho biết thì càng vui cho thầy trò tôi. Bằng như chỉ để hộ tống thì không cần đâu! Nam Liêm nghiêm giọng nói:

- Khoảng đường từ làng Linh Châu (Ling Chouei) đến Vạn Ninh (Wan Ning) phải qua một khoảng đèo, thỉnh thoảng có bọn hắc đạo chận đường tác quái. Công tử với Chu Thập không biết võ nghệ đi ngang qua đó rất nguy hiểm.

Trường Giang nghe nói liền bảo:

- Nếu được La huynh đi theo hộ tống thì còn gì bằng?

Nam Liêm nghe Trường Giang bằng lòng cho theo, mừng quýnh bỏ gánh xuống đất, chạy tới xách các túi hành lý trên vai Chu Thập bỏ vào giỏ, rồi nói:

- Để ta mang các thứ cho! Bao giờ ta mệt em phụ ta

gánh thay.

Trường Giang thấy Nam Liêm gánh hai giỏ đầy nhóc nhiều thứ thì lấy làm lạ, hỏi:

- La huynh mang đồ đạc gì trong đó mà đầy ấp vậy?

- Tôi đem theo chăn chiếu và ít thịt khô để cho công tử dùng giữa đường nên mới rườm rà. Sự thật thì chẳng có gì là nặng. Trường Giang cảm động nói:

- Sao La huynh bày vẽ chi cho cực thân vậy? Tôi cũng có thể lấy trời làm màn, đất làm chiếu như mọi người mà? Nam Liêm lắc đầu:

- Chỉ tại công tử không rõ, ban đêm dọc theo mạn rừng trời rất lạnh. Công tử không quen giải nắng dầm sương không chịu nổi khí hậu ẩm mục vùng này đâu ! Chu Thập vụt chấp tay thưa với chủ:

- Thưa tiên sinh, má má em cũng nói như thế. Tiên sinh không quen khí hậu ở đây, sợ chịu không nổi.

Trương Giang cười thân thiết:

- Đừng lo quá cho ta!

Chàng nói và nghe trong lòng vô cùng an ủi. Hơn nửa năm qua lạc loài trên hải đảo, lòng chàng lúc nào cũng hoài về cố quốc và thương tưởng gia quyến, nhưng may nhờ dân chúng nơi đây thương yêu quí trọng, nhất là có Chu Thập một bên trò chuyện và Nam Liêm tới lui thăm viếng, mà chàng phôi pha được nỗi sầu.

Cả ba cùng đi cùng trò chuyện vui vẻ. Con đường chỉ là con đường duy nhất từ làng nọ đến làng kia nên thầy trò cứ thẳng tiến.

Tối đêm đó họ ngủ tại làng Linh Châu. Nam Liêm khuyên Trường Giang vào nhà dân chúng xin ngủ trọ, nhưng Trường Giang không muốn làm phiền người trong làng nên nhất quyết ngủ ngoài trời. Đến giữa khuya bỗng nghe gió thổi ào ào, cây rung lá đổ... Mưa bảo sắp tới nơi khiến ba thày trò chạy bán sống bán chết tìm chỗ trú mưa nơi một tòa cổ miếu.

Sáng hôm sau họ lên đường sớm, trời chưa có nắng, đường sá còn lấy lội ướt át, áo quần người nào cũng bùn đất lấm lem!

Đến trưa cả ba tới mạn đèo, có tên là đèo «Tử Địa», đường ngoằn ngoèo khúc khuỷu, lúc trèo cao, lúc xuống thấp, nhìn lên là núi cao chót vót… nhìn xuống là vực sâu thăm thẳm... Chỉ bước lệch đôi chân thì thân xác nát tan thành trăm mảnh!

Quả đúng là một vùng tử địa!

Nhưng hóa công cũng khéo tạo nơi đây cảnh trí tuyệt vời, với những cành hoa mọc chen với đá, với những thác nước trong vắt như gương, với lớp sương mù giăng giăng lửng lơ trên sườn núi… xem không khác gì những cụm mây trôi giạt lênh đênh, khiến cho con đường cheo leo như dẫn về nẻo thiên thai...

Hai khối lượng mênh mông «bầu trời với đại dương» cùng một màu xanh biếc, tạo cho ngọn đèo «Tử địa» thành một bức tranh tuyệt mỹ mà chỉ có đấng toàn năng mới hình thành được!

Trường Giang vốn là một họa sĩ đại tài, trước cảnh sắc của thiên nhiên cực kỳ trác tuyệt, lòng không khỏi rung động cảm xúc.

Vì đường còn xa, vả chăng là một vùng hiểm trở, nên chàng không thể dừng bước, tuy thâm tâm vẫn muốn ở lại mượn giấy bút họa khung cảnh trời đất núi non…

Nam Liêm và Chu Thập đâu còn lạ gì tài nghệ của Đoàn tiên sinh? Mấy tháng gần đây dân trên đảo tới viếng Đoàn tiên sinh có người mua giấy bút mực từ nội địa đem tặng, vì biết Đoàn tiên sinh không những là một nhà văn uyên bác, còn là một hoa sĩ đại tài. Bởi thế họ mới nghi ngờ chàng là Tô Đông Pha tái sinh [3].

Chiều tối đó, thầy trò tới thôn Vạn Ninh gặp ngay một trận mưa bảo. Ở các vùng biển mưa bảo liên miên, Trường Giang không lạ gì! Nhưng đi chu du mà gặp thời tiết ướt át, đường sá lầy lội thật là khó chịu!

Qua ngày thứ tư cả ba vào tới thị trấn Đạm Châu trời đã hoàng hôn. Trường Giang nóng lòng tìm di tích người xưa nên sai Chu Thập hỏi thăm những người qua đường.

Chu Thập thấy những người ở thị trấn có vẻ lạnh nhạt, chớ không ân cần như dân ở các thôn xóm, nên tức giận khoe rằng:

- Thầy tôi là «Đoàn tiên sinh» ở Nam Liêm đó, các người có nghe danh chứ?

Mấy ngày qua Trường Giang căn dặn Chu Thập và Nam Liêm giấu danh tánh chàng, vì ngại khi dân chúng biết được sẽ đón tiếp, gây phiền phức cho làng xã.

Chu Thập tánh trẻ con, biết chủ nhân mình mọi người vọng ngưỡng, nên bất chấp lời căn dặn, bô bô khai rõ họ tên của chủ.

Trường Giang đang cùng Nam Liêm đứng nghỉ mệt chờ Chu Thập đi hỏi thăm đường, bỗng thấy thằng bé trở lại với một toán người nét mặt vô cùng trầm trọng.

Trong số những người này có tên hầu cận quan huyện Đạm Châu, thấy Chu Thập có vẻ xấc láo khoe khoang trong bụng tức lắm, định tát thằng nhỏ mấy tát tay, nhưng hắn muốn xem mặt chủ nhân của thằng bé trước, nên xăng xăng bước tới. Những người qua đường, có người đã từng nghe nói về Đoàn tiên sinh, nên nhanh chân bước theo thằng bé để được nhìn tận mặt con người họ vọng ngưỡng. Có người không biết Đoàn tiên sinh là ai, nhưng thấy câu chuyện có vẻ khích động nên cũng tò mò muốn xem cho biết kết quả ra sao?

Bọn người ùn ùn kéo đến… chừng thấy một người đứng tựa nơi gốc cây, vóc dáng cao đẹp quí phái, hình dung tuấn nhã thanh kỳ… Ai thấy cũng đem lòng kính trọng.

Trường Giang còn đang ngơ ngác không hiểu những người này muốn gì? Chợt có một người trong nhóm bước ra chấp tay xá chào chàng và cung kính hỏi:

- Dám hỏi người có phải là Đoàn tiên sinh ở Nam Liêm tới đây? Trường Giang nhã nhặn đáp:

- Vâng! Thầy trò tôi từ Nam Liêm vừa tới đây và muốn viếng di tích của Tô tiên sinh. Chẳng hay quí vị có thể chỉ đường dùm chúng tôi? Nghe chàng xác nhận là Đoàn tiên sinh, một số người vội vàng quỳ xuống bái lạy. Họ xem chàng như ông thánh sống! Trường Giang kinh hãi nói:

- Xin liệt vị bình tỉnh nghe tôi nói. Tôi cũng như liệt vị, một người trần tục mà thôi. Tôi từ xa tới đây với mục đích thăm viếng nơi sinh sống của Đông Pha cư sĩ lúc sinh thời...

Trong nhóm có người không chờ chàng nói dứt câu, la to

lên:

- Bà con ơi, người này đúng là Tô Đông Pha tái sinh.

Trường Giang luýnh quýnh không biết tính sao, sắc mặt hết sức ngượng ngùng. Nam Liêm và Chu Thập trái lại hí hửng khoan khoái, nhìn mọi người với vẻ hãnh diện vô cùng. Tên hầu cận quan huyện thấy Trường Giang cau mày khó chịu, liền cao giọng nói:

- Bà con tỏ lòng ngưỡng mộ Đoàn tiên sinh xong rồi, xin tránh ra để tôi hướng dẫn người đến đền thờ của Đông Pha cư sĩ.

Giọng nói của người này rổn rảng và đầy oai lực, khiến cho một số người không dám cãi, vội vàng bước đi, sau khi chấp tay xá Đoàn tiên sinh lần chót.

Ba thầy trò liền theo chân tên hầu của quan huyện tiến về trung tâm thị trấn. Tên hầu cận đang đi bỗng đứng khựng lại nói:

- Hồi còn sinh thời Đông Pha tiên sinh ở ngôi nhà cạnh huyện đường, nhưng không hiểu sao dân chúng lại lập hai nơi thờ tự! Trường Giang liền giải thích:

- Lúc tiên sinh bị Vua Triết Tôn đày tới đảo, quan huyện Đạm Châu thời ấy là Trương Trung, một người rất tốt và rất ngưỡng mộ tiên sinh, nên cho ở căn nhà của chính phủ. Sau đó quan thái thú Quãng Đông hay được bèn ra lệnh cách chức Trương Trung và đuổi Đông Pha tiên sinh khỏi chỗ ở ấy. Dân chúng thương tình cất cho ông một gian nhà lá ở phía nam thị trấn. Có lẽ vì vậy ngày nay đồng bào lập đền thờ hai nơi.

Tên hầu cận nghe Trường Giang nói quá rành, lấy làm lạ, rón rén nhìn chàng, trong bụng càng nghi ngờ lời đồn của thiên hạ là đúng.

Sự thật Trường Giang nhờ đọc sách nhiều, lại có nghiên cứu lịch sử Trung Hoa và những nhân vật nổi tiếng từ đời Phục Hi, Nghiêu, Thuấn v.v... đến triều Minh. Nên chi chàng hiểu rõ mọi chuyện!

Khoảng đường đi tới huyện đường không xa, chẳng mấy chốc họ tới nơi. Tên hầu cận chỉ căn nhà nhỏ ngói đỏ cạnh huyện đường, nói:

- Nhà ấy là nơi Tô tiên sinh ngụ lúc sinh thời, nay trở thành nơì thờ phượng. Thầy trò Trường Giang chào từ biệt tên hầu cận quan huyện và đi thẳng tới ngôi đền. Nhìn mái nhà và tường vách sơn phết như mới, Trường Giang chép miệng nói thầm:

- Trãi qua gần 300 năm, chắc triều đình phải bao lần trùng tu để cho ngôi đền đứng vững.

Khi cả ba vào đền, thấy bên trong trống rỗng, chính giữa có một bàn thờ khói hương nghi ngút. Mắt Trường Giang bỗng rực sáng lên khi trông thấy trên hai mặt vách có treo rất nhiều tranh vẽ, màu đã nhạt nhòa theo thời gian, nhưng nét họa thần tình hãy còn lưu lại.

Hầu hết các tranh vẽ cảnh núi non biển trời trên đảo. Có một bức làm Trường Giang xúc động hơn hết là vẽ đèo «Tử địa». Đèo «Tử địa» dưới ban tay thần kỳ của tiên sinh người xem có cảm tưởng như chốn Bồng Lai tiên cảnh.

Đứng cạnh tường nhìn ngắm những bức tranh, chàng thấy có vài bức ký tên «Quốc Quô'c» thì biết đó là tên của người con út của Tô Đông Pha, người con duy nhất theo cha đến hải đảo.

Chàng ngậm ngùi nhớ đến người xưa tài danh lừng lẫy, thương dân yêu nước. Cũng vì lòng trung bất khuất mà bị kẻ nịnh dèm pha hãm hại, đến đỗi bị vua đày nơi chân trời gốc bể, mà vẫn không than oán. Thật là một bậc hiền nhân hiếm có trên thế gian!

Tối đêm đó thầy trò họ ngủ tại ngôi đền. Sáng hôm sau cả ba hỏi thăm đường lò dò đến ngôi nhà của tiên sinh ở ngoài thị trấn.

Gian nhà lá trãi qua gần ba thế kỷ thì còn gì ngoài một khoảng đất trơ trơ?

Nơi đây dân chúng xây một cái miếu nhỏ để ngày ngày cúng tế và trở thành một vùng linh thiêng.

Ngày thứ ba, Trường Giang và hai đồ đệ đi viếng phố Đạm Châu, cũng sẵn dịp chàng đem mấy tấm da thú cha con Nam Liêm biếu thuở trước, đổi lấy tiền mua giấy mực, bút lông và ít lương khô đem theo trên đường về.

Nhìn phố xá Đạm Châu, Trường Giang bỗng nhớ đến huyện Đồng Giao nơi quê nhà. Nơi đây là hải đảo xa lìa nội địa Trung Hoa, nên mặc dù là một huyện mà dân cư thưa thớt, tiện nghi thiếu thốn, không như các thôn huyện ở quê hương.

Lúc bước qua cây cầu bắc ngang con sông, Trường Giang chạnh lòng nhớ đến giòng Lỗi Giang xuôi về miền Thanh Hoa, mắt chàng y như bao phủ một lớp sương mờ.

--------------------------------

1. Tức Thành Tổ nhà Minh niên hiệu Vĩnh Lạc, trị vì nước Tàu từ 1403-1425 (Lệ là con thứ Minh Thái Tổ được phong vương đất Yên nên mới gọi là Yên Vương Lệ)

2. Suốt 7 thế kỷ từ đời Đường đến đời Tống, Trung Hoa có 8 đại văn hào, mà Tô Thức, tức Tô Đông Pha là một trong những "bát đại gia" ấy. Khoảng 1094 bị Chương Đôn dèm pha khiến vua Triết Tôn tức Tống Thần Tông khép tội : "phỉ báng tiên đế" và bị đày đến Hải Nam trong 5, 6 năm trời sống tại Đạm Châu.

3. Tô Đông Pha không những là một đại văn hào đời Tống, mà còn là một người viết chữ rất đẹp, vẽ rất tài tình, mở đầu cho một phái họa mới của Trung Hoa : phái "Thi nhân họa".

 Chương 8: Làm bạn với Vua

Cả ba về tới đèo «Tử địa» mặt trời đã dịu nắng. Con đường cheo leo trên triền núi vẫn hắt hiu... Gió từ đại dương lộng vù vù rít vào khe đá, phát ra từng âm thanh vô cùng cổ quái khiến Chu Thập sợ hãi chạy tới níu cái quảy Nam Liêm đang gánh, nói giọng run run:

- Anh ơi, má má tôi nói ở đây hay có ma quỉ. Anh đi chậm chậm chờ tôi với.

Vì đường hẹp chỉ đủ chân một người đi, nên Nam Liêm đi trước, kế đó Chu Thập, rồi mới đến Trường Giang. Nhưng khi lên dốc khoảng cách giữa thày trò họ trở thành xa lắc, bởi Trường Giang còn thong thả ngắm cảnh phía sau.

Nam Liêm thấy thằng bé kinh sợ trong lòng cũng cảm thấy ghê ghê, muốn cất tiếng gọi «Đoàn công tử đi nhanh một chút» nhưng không dám gọi, mà cũng không dám dừng bước ở khoảng đèo heo hút gió này. Một bên là vực sâu thăm thẳm, sảy chân một cái có thể rớt xuống biển, một bên là núi rừng âm u, thú dữ và bọn đạo tặc có thể xuất hiện bất kỳ.

Trường Giang đang ung dung tiến bước, chợt nghe sau lưng có tiếng người ho sù sụ. Chàng lấy làm lạ, vì con đường từ thôn Vạn Ninh đến đây rất hắt hiu, chẳng thấy bóng một ai, ngoại trừ ba thầy trò chàng. Bỗng dưng giờ chàng nghe tiếng người phía sau lưng thật gần?

Chàng muốn quay mặt lại xem cho rõ kẻ xuất hiện bất chợt ấy ra sao, nhưng trong lòng vô cùng hoang mang, không hiểu người ấy theo sau chàng từ lúc nào? Vì sao mãi đến khoảng đèo chênh vênh này chàng mới nghe tiếng?

Tiếng ho mỗi lúc một dồn dập, nghe như một người già cả bệnh hoạn. Lạ lùng bước chân người ấy thật nhẹ, chàng không nghe tiếng chân, chỉ nghe tiếng gậy chống lụp cụp trên đường đi.

Bao lần Trường Giang muốn quay mặt lại nhìn kẻ lạ, nhưng chàng có linh tính như kẻ ấy cố ý trêu ghẹo mình. Vì những tiếng ho đầu nghe như người bệnh hoạn, nhưng những tiếng ho gằn gằn về sau nghe giả tạo, cốt gây sự chú ý của chàng thôi.

Bỗng chàng nghe một tiếng «huỵch» và tiếng kêu «trời ơi», thì không chần chờ nữa, quay mình chạy về phía người ấy…

Cách không xa chàng mấy bước có một người nằm sóng soài dưới đất, nửa thân mình lơ lững trên không… Trường Giang kinh hãi chạy tới kéo người ấy vào trong, vì chậm chân có thể rơi tùm xuống vực sâu.

Chàng đã phải dùng hết sức bình sinh mới kéo được người ấy vào chỗ an toàn, mặc dù người ấy chỉ là một ông lão ốm nhom như que củi. Còn chàng tuy không là một dũng tướng, nhưng hình hài cao lớn đầy đặn, sức lực dồi dào, dù có phải bồng ẵm ông lão cũng chẳng phải dùng sức. Thế mà chàng ì ạch mãi vẫn chưa đỡ được một người già! Thật lạ lùng! Chàng gập mình xuống thấp, choàng tay qua cổ người ấy định bồng lên. Bất ngờ ông ta vòng hai cánh tay vào cổ chàng xiết cứng như hai gọng kềm và nói nửa như van lơn, nửa như ra lệnh:

- Đưa lão về nhà dùm, lão không bước đi được nữa!

Sau câu nói, vòng tay của người ấy xiết mạnh thêm, thiếu điều chàng nghẹt thở. Trường Giang biết mình đã lọt vào tay tên cường đạo có võ nghệ. Chàng không học tí gì về võ, tất không thể nào chống cự với lão. Nhất thời chưa nghĩ ra kế thoát thân, chàng nhỏ nhẹ nói:

- Tiểu sinh chỉ là kẽ sĩ nhàn du qua đây, lão nhân có cần gì tiểu sinh sẵn sàng giúp. Có điều tiểu sinh còn hai đứa học trò đi phía trước, xin cho tiểu sinh gọi chúng trở lại.

Vốn biết Nam Liêm có võ nghệ và sức mạnh phi thường, có thể kềm chế lão già này, nên chàng mượn kế kêu gọi học trò.

Thảm thay! Con đường dốc trước mắt không còn hình bóng Nam Liêm và Chu Thập nữa! Có thể chúng đã đi xa rồi, cũng có thể chúng đã bị bọn cường đạo chận bắt, vì chắc chắn lão già này không đơn thân hành sự chốn này.

- Đưa lão đi thôi! Chúng đi xa rồi.

Câu nói của lão khiến Trường Giang rúng động. Lão già này biết chàng đi chung với Nam Liêm và Chu Thập, nhưng dường như lão chỉ cố ý kiềm hãm một mình chàng thôi! Điều đó làm cho chàng vô cùng thắc mắc. Nếu là bọn đạo tặc cướp của, tất phải lưu ý đến hai cái quảy trên vai Nam Liêm. Chớ như chàng đi tay không, trong mình không mang thứ gì, lẽ nào lão già chỉ muốn chàng đưa về nhà thôi sao?

Nhất định lão bắt chàng để mưu tính việc gì đó. Chàng hiện giờ như cá vào rọ, nhắm cưỡng lại ý lão cũng không được, nên nói:

- Vâng, tiểu sinh xin cõng lão nhân về nhà, mong lão nhân nới tay một chút, kẻo khó thở quá.

Lão già cất tiếng cười «hít hít» và nới lõng vòng tay, rồi toàn thân lão đeo dính trên lưng chàng.

Lão ra lệnh chàng đi ngược trở xuống. Đó cũng là cái may chàng không phải leo lên đường dốc.

Đi một đỗi hết mạn đèo, lão bảo chàng quẹo về phía tả, tất vào mạn rừng núi. Đường trên núi lỏm chỏm đá chen với cây đi đã khó, mà trên vai còn phải cõng một người, khiến chàng mệt ngất ngư.

Đi mấy canh giờ trong rừng, càng vào sâu rừng càng rậm, giây leo chằng chịt, khó bước tới vô cùng, Trường Giang dừng lại nói:

- Tiểu sinh mệt lắm, cần phải nghỉ một lúc.

Lão già xiết mạnh cổ chàng, nói:

- Lão cần đến nơi trước khi trời tối, không thể nghỉ được đâu!

Trường Giang bắt buộc phải tiếp tục cuộc hành trình. Trong lòng khốn khổ tự nghĩ: «Phải khi xưa ta nghe lời gia huynh học ít võ phòng thân, thì hôm nay đâu bị lão già này uy hiếp?»

Xem thế văn với võ phải đi đôi. Người giỏi võ cần có văn để cho phong tư tao nhã. Kẻ sĩ phải biết võ để tự mình có thể giữ thân, không bị lệ thuộc người khác.

Dù sao chàng không ân hận lắm về lời thề: «trọn đời không học võ và rờ mó gươm đao». Chàng vững tin với cơ trí của mình có thể xoay chuyển thế cuộc. Trường hợp này chàng muốn cho lão già xuống đất không có gì khó, song chàng chưa tính thả lão, vì lòng tò mò muốn biết cái ổ của bọn hắc đạo nơi đâu? Chúng tổ chức ra sao? Để khi thoát khỏi nơi đây chàng có thể thuật lại cho dân hai làng Vạn Ninh và Linh Châu biết rõ mà đề phòng hoặc diệt trừ.

Bản tánh trầm tĩnh nhẫn nhục, nhất là đã có chủ đích, nên tuy mệt lã chàng vẫn vui vẻ cõng lão già, vừa đi vừa huýt sáo một bản nhạc vui.

Lão già thấy thái độ của chàng, lấy làm lạ hỏi:

- Chẳng oán lão à?

Trường Giang cười nhẹ:

- Tiểu sinh với lão nhân có quen biết trước đâu mà có oán thù? Lão nhân già yếu, bị té, đi không được, tiểu sinh giúp đưa về tận nhà là lẽ thường. Chỉ có điều tiểu sinh đi bộ trong rừng không quen nên có chút khó khăn. Chứ sự thật suốt đời cõng lão nhân trên vai, vẫn nghe thích thú.

Ông lão nghe chàng nói thích thú cõng mình, trợn mắt hỏi:

- Vì sao thích thú?

- Lão nhân nghĩ coi. Trời sinh con người có đôi chân để đi, ví như loài chim có cánh để bay. Giả tỉ như lão nhân suốt đời ngồi trên lưng tiểu sinh thì không khác gì người tàn tật, có sống bao lâu chẳng thú vị gì ! Giống như chim bị gẫy cánh thì còn gì là đời chim ! Đó là chưa kể đến cái hại theo y học. Nếu một ngươìi ngồi mãi một chỗ, đôi chân không cử động, máu huyết không lưu thông, chỉ một thời gian ngắn các huyệt đạo bị bế tắc, thì dù cho võ nghệ cao cường cũng thành kẻ tê liệt bại xuội. Lão nhân không tin cứ ngồi trên lưng tiểu sinh thêm một lúc nữa, rồi lắng nghe đôi chân thế nào?

Lão già không cần phải ngồi lâu thêm! Tự nãy giờ lão đã tê cóng đôi chân, song vì thích thú được người cõng nên ráng chịu. Giờ nghe chàng giải thích y học, lão đâm hoảng la lớn:

- Bỏ ta xuống đất.

Trường Giang làm lờ không nghe, tỉnh tuồng bước tới đều đều… Lão xiết mạnh cổ chàng, thét lên:

- Bỏ ta xuống đất tức khắc!

Chàng bỏ «oan gia» đứng xuống, miệng chúm chím cười. Tự nghĩ: «với bọn võ nghệ đầu óc không có này, chỉ cần một câu nói của chàng cũng đánh ngã chúng được».

Lão già vừa đứng xuống đất, vội vàng chụp ngay cườm tay Trường Giang khóa lại bằng một thế võ. Nhưng đôi chân lão vụt sụm xuống vì tê cứng, bước tới không được, đứng thẳng cũng không nổi! Trường Giang không tắt nụ cười trên môi, ôn tồn nói:

- Nếu lão nhân cho tiểu sinh rõ lý do gì uy hiếp tiểu sinh đến đây, thì tiểu sinh sẽ chỉ cách cho lão nhân giải chứng tê liệt. Gần nửa ngày lão ngồi vắt vẻo trên vai chàng đương nhiên máu tê gân liệt, không thể tức thời điều hòa được. Bởi thế người học võ họ vận động luôn, ít khi ngồi một chỗ. Lão già này học võ mà không học phần lý thuyết, nên không biết tí gì về các huyệt đạo trong người. Lão đứng lên sụm xuống bao phen nên đâm hoảng, nhỏ giọng nài nỉ:

- Đoàn tiên sinh hãy chỉ tôi cách giải huyệt đôi chân, tôi xin khai thật lý do đưa tiên sinh đến chỗ này.

Trường Giang nghe lão già gọi mình bằng Đoàn tiên sinh thì giật nẩy mình. Như vậy lão theo dõi chàng từ đâu đó rồi, chớ nào phải vô tình trên con đường núi này.

Có điều làm chàng đâm lo là hơn nửa năm qua dân chúng trên đảo Hải Nam ai cũng quí trọng chàng, xem như một bậc hiền nhân cứu dân độ thế. Người này bởi lý do gì có ác cảm với chàng?

Trong lòng vô cùng thắc mắc. Chàng nghiêm giọng hỏi:

- Lão nhân hãy nói rõ lý do vì sao uy hiếp tiểu sinh vào khu rừng này?

- Cũng vì chủ nhân tôi muốn giáp mặt với tiên sinh...

- Chủ nhân lão là ai? Đối với tiểu sinh có oán thù gì?

Lão không thèm trả lời chàng, khóa khuỷu tay chàng bằng một thế võ… Có lẽ là thế «cầm nã» hay chi chi đó. Chàng không học võ nên không biết rõ, nhưng nghe gia huynh vẫn thường nói đến cái thế bẻ lọi tay này.

Bị đau, song chàng vẫn giữ giọng ôn tồn:

- Được rồi! Lão nhân hãy nằm xuống đất co duổi đôi chân một lúc cho máu chạy điều hòa, sau đó đứng lên bước từng bước một. Khi đã bước đi được thì phải co giò chạy thật nhanh cho các huyệt đạo bị bế tắc được đả thông. Lão nhân nên làm ngay đi, kẻo chậm trễ thì khó cứu.

Lão già nghe chàng nói liền răm rắp làm theo. Một lúc lão đứng lên đi được thì mừng quýnh co giò chạy thẳng.

Trường Giang nhanh chân trốn vào hốc đá. Trời bây giờ đã nhá nhem tối. Chàng đứng núp một chỗ mà trong lòng không khỏi tức cười về lão già ngớ ngẩn. May mà chàng gặp đạo tặc ngu đần ngớ ngẩn như lão, chớ không thì khó thể thoát thân được!

Chàng nghĩ, có lẽ lão mới học lóm của ai vài ngón võ, nên khi nghe chàng nói đến các từ ngữ «huyệt đạo» «bế tắc» «đả thông» v.v... lão kinh hồn không còn biết nghĩ suy, cho đến đổi bị tê chân mà hoảng sợ đến mức độ đó!

Chàng đoán lão chạy một lúc nhớ tới chàng, chắc chắn sẽ quay trở lại tìm. Chừng đó chàng sẽ theo dấu lão vào tận sào huyệt.

Chốc lát quả thật lão già chạy trở lại ! Lão không thấy Trường Giang còn đó thì chửi rủa thậm tệ, rồi bỗng ôm mặt khóc hu hu không khác gì trẻ nít.

Lão vừa khóc vừa lảm nhảm nói một mình:

- Hoàng thượng bảo ta tìm kế đưa vị tiên sinh họ Đoàn vào động thất. Chẳng ngờ tên nho sĩ gàn ấy lường gạt ta rồi trốn mất, khiến ta phải chịu tội với hoàng thượng hu hu...

Trường Giang nghe mấy lời lão nói, giật mình đánh thót và phân vân không biết mình có nghe lầm không?

- Hoàng thượng? Lão gọi ai bằng hoàng thượng?

Chàng nhíu mày nghĩ ngợi… bỗng suýt bật cười thành tiếng. Tự nhủ:

- Lão già này điên! Trời ơi, một lão già điên mà cũng bắt nạt được ta, báo hại ta cõng lão suốt nửa ngày trời! Càng nghĩ chàng càng tức cười mình với lão già, chợt nhớ tới Nam Liêm và Chu Thập. Tự hỏi:

- Không hiểu chúng đi luôn hay còn chờ ta trên đường? Chàng hỏi để tự trả lời:

- Nam Liêm gan dạ, Chu Thập trung tín. Chắc chắn cả hai đang điên đảo lo âu chờ đợi chàng… Không chần chờ, chàng rón rén rời chỗ núp quay gót trở ra lối cũ, chợt nghe tiếng chân nhiều người chạy tới. Rồi tiếng một người nói vang từ xa bằng ngôn ngữ Trung Hoa miền Bắc [1]:

- Hoàng thượng sai lão thái giam đi đâu mà giờ này còn đứng đây khóc lóc?

Lão già nghe hỏi càng khóc «hu hu» to hơn, lão nói:

- Hoàng thượng sai tôi ra ngoài dẫn dụ vị tiên sinh họ Đoàn vào trong động thất cho hoàng thượng xem rõ con người mà dân gian tôn sùng như thế nào? Tôi đã bắt được người ấy dẫn được tới đây, nhưng lại ngu muội bị người ấy gạt gẫm bỏ trốn mất rồi! Giờ tôi vào chịu tội với hoàng thượng đã đành. Chỉ ân hận là chút việc hoàng thượng giao phó tôi không làm tròn!

Trường Giang nghe lão già đối đáp với người kia không khỏi sững sờ kinh ngạc. Tự nghĩ: «lời lẽ lão già ấy đâu phải của người điên? Còn bọn kia cũng gọi ai đó bằng hoàng thượng. Chẳng lẽ chúa trùm đạo tặc và bọn lâu la lại xưng hô như ở triều đình vua chúa sao? Lại còn có cả thái giám nữa! Như vậy là thế nào?».

Trong lòng vô cùng thắc mắc, chàng quyết theo dõi họ. Năm sáu người từ xa hối hả chạy đến bên lão già… Họ mặc đồng phục, dây thắt lưng màu đỏ, mang vũ khí sáng quắc.

Họ nói chuyện vang vang... Chàng đứng núp dưới lùm cây cách họ hơi xa, nên chỉ nghe được tiếng còn tiếng mất. Có điều chắc chắn là họ nói về hoàng thượng, về vị đại quan nào đó...

Một lúc sau cả bọn đi vào lòng thung lũng, tứ phía bao bọc những núi… Trời bây giờ đã tối hẳn, may nhờ trăng sao trên trời vằng vặc giúp cho Trường Giang trông rõ cảnh vật nơi đây.

Bây giờ chàng có cảm tưởng như mình đang nằm mơ. Vì rõ ràng trước mắt chàng là một vườn hoa cực kỳ lạ mắt, hương bay ngào ngạt.

Vườn hoa khá rộng, chiếm gần phân nửa thung lũng mà chỉ trồng một loại hoa duy nhất: «phong lan». Hoa mọc chi chít trắng toát một vùng như sương tuyết. Nửa thung lũng còn lại là sân cỏ thẳng tấp, chính giữa có chừa một lối đi khá rộng như những con lộ chính nơi thị trấn.

Những người khi nãy và lão già biến mất vào lòng núi. Dường như dưới chân những ngọn núi này đều có các động thất, hoặc do thiên nhiên tạo thành, hoặc do bàn tay người làm ra.

Trường Giang định đi dọ dẫm các động thất, chợt nghĩ: «Bọn họ có lẽ khá đông, ta một thân một mình không biết võ, nhỡ bị chúng bắt được hành hạ khổ thân. Chi bằng chờ đến khuya bọn chúng ngủ hết, lúc ấy ta lẻn vào trong xem cho biết thế nào?»

Trong bụng dự tính như thế nên chàng nằm dài giữa rừng hoa, mắt nhìn trời đếm sao… Chốc chốc chàng nghe tiếng cười nói, tiếng bước chân… Họ ra vào các động thất mãi đến quá khuya mới yên tĩnh.

Trường Giang nghĩ đã đến lúc có thể dọ dẫm sào huyệt nhóm người nọ nên chờ mình ngồi dậy…

Bỗng chàng hốt hoảng thụt đầu xuống, vì lúc ấy có một người từ thạch động bên hữu bước ra, theo sau có hai tên ăn mặc theo kiểu tiểu thái giám ở hoàng cung, tuổi độ 15, 16.

Người ấy mặc áo gấm màu hoàng yến tay rộng, tuổi chắc không hơn chàng bao nhiêu, nét mặt tuấn tú sang cả, xem ra vẻ con nhà phú quí tột bực.

Trường Giang nắm sấp xuống đất, đầu ngóc lên, mắt không bỏ sót cử động nào của con người tao nhã đó.

Cả ba vụt đi thẳng về phía Trường Giang, khiến chàng kinh hãi nằm im, không dám cục cựa.

Một lúc chàng lén ngóc đầu lên… thấy người ấy ngồi trên một phiến đá to phẳng lì cách chỗ chàng không xa, đôi mắt buồn dịu vợi. Hai thiếu niên đứng hầu hai bên rất nghiêm chỉnh cung kính.

Bỗng một giọng nói thật nhẹ thoảng ra:

- Trao đàn cho ta.

Bây giờ Trường Giang mới thấy một trong hai thiếu niên cầm đàn. Hắn quỳ xuống dâng đàn một cách trịnh trọng như nghi cách giữa «vua tôi».

Trường Giang giật mình tự hỏi:

- Hay người này mà lão già khi nãy gọi là hoàng thượng?

Chàng nhìn kỹ người ấy… thấy không có vẻ gì là phường đạo tặc, nét mặt nghiêm chỉnh quí phái không khác gì một ông Vua, nhưng không hiểu tại sao lại sống giữa rừng núi thâm u này?

Chàng đọc sách nhiều và nghiên cứu nhiều về sử Trung Hoa, song chưa hề nghe nói về một vương quốc trên hòn đảo này. Vậy người kia là ai? Từ đâu tới? Nhất định họ không phải người miền này, vì họ nói chuyện với nhau không bằng tiếng Quãng.

Giữa lúc Trường Giang đang miên man nghĩ ngợi… bỗng có tiếng đàn trầm bổng thoát ra, lúc dồn dập sát phạt như bao nhiêu oán thù chứa chất trong đó, lúc nỉ non ai oán như mang mang một mối sầu khôn giải!

Thật là một tâm trạng bi thương, không khác gì tâm trạng của chàng đối với cái hận cái sầu vong quốc!

Tiếng đàn vừa dứt, chàng xúc động buột miệng khen:

- Tuyệt!

Tiếng «tuyệt» vừa thoát ra khỏi miệng Trường Giang, một trong hai thiếu niên lao vút về phía chàng như tên bắn. Hắn xử dụng ngay một thế võ cực kỳ nhanh nhẹn, khóa hai tay hai chân chàng cùng một lúc như trói một con gà.

Trường Giang không có một phản ứng nào, vì chàng đang nằm sấp dưới đất, ở vào cái thế rất tiện cho đối phương ra tay. Hơn nữa chàng không biết một tí võ công, thì bất cứ trường hợp nào cũng bị người kềm chế.

Có lẽ thiếu niên biết ngay chàng không là nhà võ, nên xách chàng đứng lên, rồi nói:

- Nhà ngươi làm gì núp ở đây?

Chàng chưa kịp đáp, bỗng người áo gấm lên tiếng:

- Thất tử! Chớ hổn láo! Mau dập đầu tạ tội với Đoàn tiên sinh, khách quí của ta. Trường Giang giật mình kinh hãi, vì không hiểu tại sao người này biết rõ danh tánh mình? Chàng đứng ngây người bất động mặc cho thiếu niên mọp dưới chân chàng tạ lỗi. Người áo gấm lại nói:

- Xin tiên sinh tha lỗi cho bọn tôi tớ của tôi. Chúng ngu muội lỡ xúc phạm đến tiên sinh. Trường Giang nghe người ấy nói năng lễ giáo khiêm cung, trong lòng kính phục sinh mối cảm tình. Nhưng không biết người ấy là hạng nào trong xã hội để kêu gọi cho dễ, nên đứng im một lúc tự nhủ: «Dù người này là vua chúa xứ nào, mà hiện tại chưa ra mặt thì ta cũng vờ như không lưu ý». Chàng nghĩ thế nên bước tới vòng tay nói:

- Tiểu đệ vô tình lạc bước đến đây, chợt nghe tiếng đàn thanh nhã của nhân huynh có chứa niềm u uất đúng tâm sự mình, nên không dằn được niềm xúc động buột miệng kêu lên, làm khuấy phá giờ phút yên tịnh của nhân huynh, thật là có lỗi. Mong nhân huynh niệm tình tha thứ.

Người ấy không đáp lời chàng ngay, sẽ đứng lên làm chỗ nơi phiến đá và nói:

- Mời tiên sinh ngồi đây cho tôi được hân hạnh chuyện

vãn.

Trường Giang không từ chối, ngồi xuống bên cạnh. Người ấy quay mặt nhìn chàng, thân mật nói:

- Tôi nghe nhân gian ca tụng tài đức của tiên sinh bấy lâu, nay mới có cơ duyên hội ngộ, hân hạnh vô cùng. Trường Giang nhún nhường đáp:

- Tiểu đệ nào có tài đức chi đâu? Chẳng qua đồng bào quí thương thêu dệt những lời quá đáng, thật xấu hổ hết sức! Người ấy chợt nói:

- Tiếng đàn ô trọc của tôi nếu quả thật làm xúc động tiên sinh, thật là vạn hạnh. Chẳng hay tiên sinh có nể tình cho tôi được thưởng thức nghệ thuật cầm đài?

Ngươì ấy nói vừa trao đàn nhè nhẹ qua chàng. Trường Giang không từ chối, nhưng khiêm nhượng nói:

- Chỉ sợ làm bẩn tai nhân huynh mà thôi.

Tay chàng vuốt nhẹ trên mấy sợi dây bằng vàng. Dây ngân lên những tiếng réo rắt tuyệt vời. Chàng ngước nhìn người ấy, nói giọng tự nhiên:

- Cây đàn này quí giá vô ngần, ngoài nhân huynh chắc chỉ bậc vua chúa đế vương mới có được! Người ấy biến sắc sau câu nói của chàng, nhưng trấn tĩnh ngay và mỉm cười nói:

- Khi xưa gia nghiêm làm nghề mua bán khá giả hay tìm mua các bảo vật. Tôi may mắn có được món gia bảo này, mong rằng nó không làm thất vọng trong tay một bậc tài hoa.

Thấy người ấy cố tình giấu giếm lai lịch, Trường Giang mỉm cười, tay dạo lên phím...

Khúc nhạc của chàng thoáng nghe u sầu áo não như tâm sự một người đang thương nhà nhớ nước… bỗng chốc âm điệu thay đổi vừa hào hùng vừa vui tươi như đoàn quân chiến thắng từ biên cương ồ ạt dẫn về… Khiến cho người nghe cảm thấy nỗi sầu, nỗi hận tiêu tan, để hy vọng ngày mai sáng lạn.

- Khúc nhạc của tiên sinh y như khúc chiêu binh phục quốc. Chẳng hay tiên sinh có tâm sự gì? Câu hỏi của hoàng y nhân ngay sau khi âm thanh cuối cùng chấm dứt. Trường Giang điềm tĩnh nhìn người ấy, đáp:

- Tiểu đệ một đời phiêu bạt, sống kiếp tha phương, nên lúc nào cũng nhớ nhà nhớ quê. Người ấy hỏi giọng xa xăm:

- Từ ngàn xưa kẻ sĩ mấy ai chọn kiếp sống giang hồ? Tiên sinh quả thật khác thường người đời, hẳn có lý do?

- Lý do rày đây mai đó trong đời tiểu đệ là bất đắc dĩ lắm. Cũng có thể ... gần như một người bị bắt buộc bỏ giang sơn ra đi. Hai người cùng dọ dẫm lai lịch của nhau, chưa ra manh mối! Nhưng câu nói vừa phát ra của Trường Giang làm người kia xúc động, cúi mặt lặng thinh. Một lúc ngước mặt lên mỉm cười nói giọng thân thiết:

- Trời đêm nay có trăng sáng đẹp quá! Tiên sinh hãy cùng tôi uống vài ngụm rượu tẩy trần.

Người ấy vừa dứt lời, một trong hai thiếu niên vội vàng bỏ chạy vào động thất. Phút chốc trở ra với một người thứ hai có bưng một cái khay bạc với bình rượu và hai cái chén bằng ngọc.

Người bưng khay ruợu không ai khác hơn là lão già bắt Trường Giang cõng ngoài khu rừng.

Lão thấy chủ nhân ngồi trò chuyện với chàng có vẻ trọng vọng thì kinh hãi lắm. Có lẽ lão được lệnh ra mời đón chàng vào đây, lão nghĩ chàng hàng dân giả, lại không biết võ nghệ nên tác oai, tác quái. Và có lẽ lão không ngờ chủ nhân tiếp đãi chàng ân cần thân mật như thế, chớ nếu biết trước chắc lão không dám vô lễ.

Bây giờ Trường Giang mới quyết chắc người lão gọi bằng hoàng thượng là người đang cùng chàng đàm đạo. Có điều chàng vẫn chưa đoán ra vì vua ngồi đó là ai?

Nhân lão già đứng trước mặt dâng rượu, chàng hỏi

hoàng y nhân:

- Phải chăng nhân huynh sai người này đón tiểu đệ trên mạn đường đèo?

Câu hỏi của chàng làm lão già run rẩy, mặt tái xanh. Hoàng y nhân đáp gọn:

- Đúng vậy!

Trường Giang cười nói:

- Tiểu đệ có hơi thắc mắc, không hiểu do đâu nhân huynh biết được tiểu đệ sẽ đi ngang qua đường đó?

- Bọn tôi tớ tôi có việc đi Đạm Châu, vô tình nghe dân chúng kể tiên sinh đang viếng di tích của Đông Pha cư sĩ. Chúng trở về có kể lại tôi nghe. Bấy lâu nay tôi vẫn mong có cơ hội đàm đạo với tiên sinh, nên sẵn dịp này cho bọn gia nhân đón chờ trên đường, vì đoán rằng từ Đạm Châu về Nam Liêm tiên sinh sẽ phải qua đèo «Tử địa». Lời giải thích minh bạch của người ấy giúp Trường Giang hết thắc mắc, song chàng vẫn còn mù mịt về lai lịch của người ấy, nên tiếp tục dọ dẫm:

- Tiểu đệ có thể biết lý do vì sao nhân huynh sống nơi rừng núi thâm u này

Câu hỏi của chàng quả là đường đột! Người ấy không trả lời ngay, giả vờ lấy chung rượu trao cho chàng và nói:

- Mời tiên sinh thưởng thức chén rượu Bồ đào.

Người ấy cũng lấy chén rượu cho mình, hớp một ngụm rồi, nói giọng buồn buồn:

- Câu chuyện vì sao tôi sống trong thạch động này cũng khá dài. Tôi sẽ nói rõ lý do để tiên sinh hết thắc mắc. Có điều tôi muốn biết tiên sinh họ Đoàn, có phải gốc người Vân Nam chăng? — Vâng, đúng như vậy!

- Nhìn dung mạo của tiên sinh tôi cũng đoán được tiên sinh thuộc dòng dõi hoàng tộc. Trường Giang còn đang ngơ ngác không hiểu người ấy muốn nói gì? Người ấy đã tiếp lời:

- Họ Đoàn khi xưa lập quốc ở Vân Nam, gây dựng nước Đại Lý cai trị mấy trăm năm, đem thái bình cho trăm họ. Chỉ vì quân Mông Cổ hung hăng tiêu diệt quý quốc [2] gây.

bao điêu linh tang tóc cho dân tình! Cái hận vong quốc của tiên sinh sánh với cái hận của tôi ngày nay nào có khác gì?

Trường Giang giật nẩy mình khi nghe người ấy nghi ngờ chàng thuộc hoàng tộc nước Đại Lý ở Vân Nam.

Sự thật khi lạc tới đảo Hải Nam chàng biết mình đã lọt vào đất địch, không tiện khai tên họ thật, nên mới nói trớ họ Đoàn và cũng vô tình nói mình người từ Vân Nam đi chu du, chớ quên nghĩ họ Đoàn là họ hoàng tộc của nước Đại Lý.

Sở dĩ hoàng y nhân hiểu lầm lai lịch của Trường Giang, vì thấy chàng có phong tư quí phái, cốt cách cao sang, lại họ Đoàn gốc Vân Nam, vừa là kẻ học rộng biết nhiều, có lòng nhân ái... Bao nhiêu dữ kiện trùng hợp đó khiến hoàng y nhân quyết chắc chàng là người hoàng gia nước Đại Lý, cùng mang một nỗi sầu hận như mình, nên đem lòng quí mến.

Hơn nữa lúc mới xuất hiện Trường Giang có nói: «Tiểu đệ nghe tiếng đàn thanh nhã của nhân huynh có chứa niềm u uất đúng tâm sự mình...» làm cho hoàng y nhân càng muốn thân thiết với chàng, một người cùng tâm sự.

Trường Giang tuy không có ý dối gạt người, song đã lỡ nói tên họ đó rồi không thể đổi lại, nên đành lặng im thừa nhận mình là người Đại Lý để chờ nghe tâm sự của con người ẩn tích này.

Cả hai ngồi bên nhau ngắm trăng khuya, hớp từng ngụm rượu Bồ Đào. Chưa bao giờ Trường Giang được thưởng thức thứ rượu ngon như thế.

Đương nhiên thứ rượu này chỉ có bậc vua chúa mới có và Trường Giang cũng đoán được rằng người ngồi bên cạnh mình là một ông vua mất ngôi. Nhưng chàng vẫn chưa tìm ra ngôi báu ấy ở đâu?

Bỗng dưng trong đầu chàng loé ra một tia sáng, làm tâm thần chàng xúc động ngẩn ngơ ! Bây giờ thì chàng đã đoán ra người này là ai!

Chàng nhớ rõ lắm… Khi Hồ Quí Ly thoán ngôi nhà Trần được một vài năm thì triều đình nhà Minh bên Tàu cũng khá rối reng. Vua Huệ Đế lên ngôi hãy còn trẻ lắm, hùng lược chưa có, nên bị Yên Vương Lệ cướp ngôi phải bôn đào [3].

Hồi ấy triều đình An Nam cũng bàn tán nhiều về vụ này. Cha chàng lúc ấy đã lập chiến khu ở Mường Lai nhiều năm rồi và cũng biết rõ điều này nên đem kể cho cả nhà nghe.

À thì ra vì vua mất ngôi là Huệ Đế nhà Minh! Tám chín năm qua mà người ấy hãy còn trẻ, đủ biết khi lên ngôi tuổi còn nhỏ lắm.

Trường Giang nhìn người ấy lòng ngậm ngùi thương cảm, bất giác thở dài. Huệ Đế nghe tiếng thở dài của chàng, nghĩ rằng chàng cũng đang xót xa thân phận như mình, nên chua xót nói:

- Lòng tham của con người không đáy, những gì không thuộc về mình cũng vẫn thích chiếm đoạt, dù phải dấy động can qua, gây điêu linh khốn khổ cho dân tình.

- Những kẻ tham lam cướp nước cướp ngôi của người khác có bao giờ biết nghĩ đến nỗi khổ của dân tộc? Buồn.

cười là mồm miệng chúng lúc nào cũng rêu rao giải phóng dân tộc, mà thật sự chỉ là một lũ ăn cướp.

Chỉ vì khi quân Minh đưa quân đánh chiếm An Nam lấy cớ giải phóng dân An Nam khỏi sự cai trị áp bức của cha con Hồ Quí Ly. Trên thực tế họ chỉ là bọn cướp nước cướp của, nên Trường Giang mới uất hận nói như thế.

Nghe chàng nói đúng tâm sự, Huệ Đế xúc động nắm tay Trường Giang, sẽ nói:

- Tiên sinh đúng là tri kỷ của tôi. Ước gì được tiên sinh bên cạnh mãi để trò chuyện. Trường Giang chưa kịp nói gì, Huệ Đế vụt kéo tay chàng đứng lên, thân mật bảo:

- Khuya rồi! Mời tiên sinh theo tôi vào động thất tạm nghỉ. Nơi đây thiếu thốn mọi thứ tiện nghi. Nếu tiên sinh không lấy đó làm trọng, xin cho tôi được mời tiên sinh lưu lại một thời gian. Bao giờ tiên sinh chán, không thích ở lại thì ra đi. Bằng như tiên sinh thích lưu lại đây cùng tôi giao tình tri kỷ thì thật vạn hạnh cho tôi.

Trường Giang nghe nhà vua nói với mình lời nào cũng lễ độ khiêm nhường, trong lòng lấy làm cảm kích. Chàng không từ chối lời mời, bước theo Huệ Đế vào động thất. Hai tiểu thái giám và lão già cũng lót tót theo sau.

Nãy giờ hai người nói chuyện quá lâu bọn họ buồn ngủ lắm, song không dám ngáp vắn ngáp dài. Chừng nghe Huệ Đế mời khách đi ngủ, bọn chúng mừng quýnh tỉnh ngủ luôn!

Thạch thất không to lắm. Có hai chiếc giường bằng đá, hay nói đúng ra có hai phiến đá to bằng phẳng lót mấy tấm lông cừu. Hai bên vách đá có treo hai giá sách và nhiều tranh họa. Vì đã quá khuya, Trường Giang chỉ liếc mắt nhìn sơ qua một lượt…

Dưới giá sách có hai cái rương to bằng gỗ quí, chạm trổ tinh vi, cẩn vàng ròng. Rương được khóa kỹ bởi ổ sắt thật to.

Ngoài ra còn có một cái bàn vuông dài bằng ngọc thạch, hai bên có hai băng để ngồi, cũng bằng ngọc.

Một người khoảng lục tuần đang ngồi nơi bàn xâm xoi trước chồng văn kiện, dưới ánh đèn leo lét.

Thấy Huệ Đế bước vào với Trường Giang, người ấy đứng lên vòng tay thi lễ. Trường Giang cũng vội vàng đáp lễ người ấy. Huệ Đế liền giới thiệu:

- Hoàng tiên sinh ! Đây là thầy dạy học của tôi, cũng là người ao ước được dịp đàm đạo với tiên sinh.

Quay sang người họ Hoàng [4] Huệ Đế nói:

- Tôi có mời Đoàn tiên sinh lưu lại với chúng ta ít

hôm.

Họ Hoàng chỉ cúi đầu đứng im, chớ không nói gì. Trường Giang đoán một trong hai giường đá dành cho họ Hoàng. Giờ Huệ Đế mời chàng nghỉ tại đây, tất người nọ phải qua thạch động khác.

Quả thật người ấy vội vã rút lui sau bức rèm. Bấy giờ Trường Giang mới để ý thạch động này ăn thông với thạch động khác bởi bức rèm bằng trúc, mà lúc mới bước vào chàng ngỡ là lối trang hoàng.

Giường đá có lót lông thú dày nên nằm thật êm. Chăn gối cũng bằng nhung gấm, nên tuy nằm trong thạch động mà êm ấm không khác gì chốn cung son!

Huệ Đế lên giường nằm êm ru một lúc chợt nói:

- Khi nãy tiên sinh có hỏi tôi vì sao chọn cuộc sống nơi sơn lâm cùng cốc này. Tôi xin kể để tiên sinh rõ: «Khi xưa gia nghiêm chẳng may chết sớm, tổ phụ tôi giàu có, sản nghiệp to lớn giao cho tôi, nhưng bị người chú gian manh chiếm đoạt và tìm đủ mọi cách giết tôi. Tôi nhờ có một vài tôi tớ trung thành đưa đi lánh nạn, nay ở chỗ này, mai trốn chỗ kia… Tấm thân phiêu bạt không giờ phút nào yên...» Ngừng một lúc để đè nén xúc động, Huệ Đế tiếp:

- Tôi lìa nội địa với một ít của cải, tới hòn đảo này vào lúc giữa khuya không ai hay biết, rồi cùng bọn tôi tớ lánh ngay vào rừng. Sau đó chúng tôi may mắn tìm ra thung lũng này có những thạch động kín đáo, có thể làm chỗ che nắng trú mưa. Nhờ dân trên đảo chỉ sống ven biển, khu rừng nơi đèo Tử địa không ai dám lui tới, nên tôi được yên thân từ hai năm qua.

Thường ngày bọn tôi tớ của tôi đi săn thú để làm lương thực. Thỉnh thoảng chúng cũng đi lưới cá thay đổi thức ăn. Song tôi nghiêm cấm dữ lắm, vì chú tôi có tai mắt khắp nơi. Một khi hắn đã rấp tâm giết tôi, thì tìm trăm phương ngàn kế cho bọn tay sai truy lùng.

Năm ngoái nghe tin Đoàn tiên sinh tới đảo mở trường dạy học, làm thầy thuốc cứu người... Tôi nghi ngờ chú tôi gửi người gia nhập dân làng sống ở đây để dọ dẫm tin tức của tôi, nên bàn với Hoàng tiên sinh cho bọn tôi tớ giả làm ma quỉ xuất hiện ở khu rừng này để dân chúng sợ không dám lui tới

săn bắn hay kiếm củi, hầu không ai hay biết chỗ ẩn thân của

tôi.

Sau này tôi cho gia nhân theo dõi, biết tiên sinh chỉ vì một ẩn tình nào đó phải sống trên hải đảo. Lúc tiên sinh đi Đạm Châu cũng chỉ có mục đích viếng di tích của Đông Pha cư sĩ, nên tôi không còn nghi ngờ gì nữa và muốn kết tình thân, bèn cho gia nhân chực sẵn trên mạn đường đèo tìm cách mời tiên sinh vào đây. Sau đó thì tiên sinh đã biết rồi. Chỉ có điều khi giáp mặt tiên sinh tôi mới chợt nhớ đến dòng dõi hoàng tộc nước Đại Lý và hiểu tâm sự của tiên sinh.

Trường Giang nghe những lời tâm tình của Huệ Đế, xúc động nhiều.

Tội nghiệp một ông vua mất ngôi báu, mất địa vị quyền uy tài sản... cho đến sự tự do cũng không còn!

Có lẽ cái khổ mất đế nghiệp không bằng cái khổ làm người không có quyền sống tự do trên quê hương của mình.

Nghĩ đến đó Trường Giang chạnh lòng ngồi bật dậy, chạy tới nắm tay Huệ Đế, nói giọng nghẹn ngào:

- Nhân huynh! Nỗi khổ của nhân huynh tiểu đệ thấu rõ lắm. Hai ta tuy hoàn cảnh có khác, nhưng cùng một nỗi khổ không còn quyền sống tự do trên đất mẹ chỉ vì bọn ăn cướp. Huệ Đế cũng ngồi dậy, làm chỗ cho Trường Giang ngồi chung trên giường mình, nói trong nước mắt:

- Tiên sinh ơi ! Mười năm qua tôi không có một người bạn để thố lộ tâm tình. Tiên sinh là người đầu tiên thấu rõ nỗi khốn khổ trong lòng tôi và cũng là người đầu tiên biết rằng tôi mất của cải sản nghiệp cũng không đau khổ bằng mất quyền sống tự do và nhất là kẻ thù cùng mang một giòng máu, cùng một nguồn gốc tổ tiên!

Hai người ngồi nói chuyện suốt đêm, đến gần sáng cả hai quá mệt ngã dài xuống giường ngủ một giấc đến trưa.

Khi tỉnh dậy Trường Giang nghe tiếng chân nhiều người và tiếng binh khí chạm bên ngoài. Chàng lẹ làng phóng khỏi giường chạy ra ngoài… thấy bọn vệ binh của Huệ Đế khoảng nửa đội, kẻ đấu võ, người đấu kiếm... Chàng thấy có hai thiếu niên hầu Huệ Đế tối qua đang dợt võ với nhau, xem chừng tài nghệ hơn bọn vệ binh.

Chàng đang mãi mê nhìn, chợt nghe giọng nói ôn nhu

bên tai:

- Chúng là bọn ngự lâm quân trung thành của đệ. Thật là tội nghiệp! Gần mười năm nay chúng bỏ nhà, bỏ gia đình, sống rày đây mai đó vì tấc dạ trung trinh với chủ. Ngay cả Hoàng tiên sinh tuổi đã quá lục tuần mà vẫn phải sống lang thang!

Nghe tiếng Huệ Đế sau lưng, Trường Giang quay mặt lại mỉm cười và làm lễ chào hỏi.

Đêm qua Huệ Đế đã thú thật với Trường Giang, mình chính là cháu nội của Minh thái tổ Chu Nguyên Chương, làm vua chưa đầy 4 năm thì bị chú ruột chiếm ngôi.

Trường Giang vốn đã đoán biết trước, nên khi nghe Huệ Đế khai thật không lấy gì ngạc nhiên, nhưng chàng đổi ngay lối xưng hô, gọi Huệ Đế bằng hoàng thượng. Nhưng Huệ Đế cười, nói rằng: «Làm vua mà không có ngai, cả quyền sống cũng không còn, thì tiên sinh gọi tôi là hoàng thượng chỉ làm cho tôi đau xót mà thôi. Chúng ta hãy xem như bạn hữu cho thân mật». Thế rồi Huệ Đế gọi Trường Giang bằng huynh chớ không gọi tiên sinh nữa.

Trường Giang thấy Huệ Đế cũng bắt chước mình lú mặt ra nhìn bên ngoài, nên khen một câu:

- Nhân huynh có bon cận vệ giỏi võ quá, nhất là hai chú nhỏ.

- Chúng là hai tiểu thái giám học võ nghệ từ thuở bé. Huệ Đế vụt hỏi Trường Giang:

- Huynh đài cũng biết võ nghệ chứ? Trường Giang lắc đầu:

- Tiểu đệ có thề trọn đời không học võ và xử dụng đao kiếm. — Vì sao có lời thề ấy?

- Vì tiểu đệ cho rằng con người có thể dùng trí tuệ thắng võ lực và tiểu đệ muốn thí nghiệm đời mình. Huệ Đế ngẫm nghĩ một lúc rồi nói:

- Trí tuệ có thể chiến thắng võ lực, đúng vậy! Nhưng phải là một trí tuệ phi thường như Gia Cát Lượng, như Trương Lương... Và tiểu đệ tin rằng huynh đài cũng sẽ là một trong những kẻ sĩ trên thế gian có thể dùng trí tuệ đánh ngã vũ lực.

Trường Giang cười nhẹ:

- Căn cứ vào đâu nhân huynh có lời nhận xét đó?

Chàng vừa hỏi, vừa đi trở vào thạch động xem các bức tranh treo trên vách đá. Giờ này nắng chan hòa tỏ rõ bên trong.

Trường Giang thấy có cả bức vẽ ở Thạch thất của Võ Lương đời Hán. Hơn một trăm thế kỷ mà tranh vẽ hãy còn lưu nét thần kỳ, lòng không khỏi rúng động.

Ngoài ra còn có hai bức tranh sơn thủy của «Mễ Thị» đời Tống, cũng vào hàng quí giá bậc nhất.

Huệ Đế theo dõi đôi mắt thưởng thức nghệ thuật của Trường Giang, biết ngay chàng cũng là tay sành hội họa. Nhà Vua vừa đáp câu hỏi của chàng, vừa dọ dẫm xem tầm hiểu biết về hội họa của chàng đến đâu:

- Phong tư quí phái cùng với trí tuệ tuyệt vời của huynh đài sẽ là vũ khí chống mọi vũ lực. Tiểu đệ xem chừng huynh đài cũng là tay kiệt tác về hội họa. Xin cho tiểu đệ rõ giá trị của những bức tranh này ra sao? Trường Giang mỉm cười:

- Nhân huynh có tranh của Mễ Thị mà không có tranh của Tô Đông Pha là cái thiếu sót. Vì hai người này là đôi tri kỷ. Vả chăng lúc sinh thời họ là người đề xướng phái «thi nhân họa ». Chàng bàn đến các tranh cổ đời Hán, đời Ngụy, đời Tần, đời Đường... Mỗi danh hào có cái trác tuyệt thế nào... Chàng nói thêm:

- Vương Duy đời Đường chủ trương: «Thi trung hữu họa, họa trung hữu thi» (trong thơ có họa, trong họa có thơ), cũng gần như cái đề xướng sau này của Tô Đông Pha. Một việc rất dễ hiểu, vì hai nhân vật này vừa có tài văn chương xuất chúng, vừa là tay vẽ khéo thần kỳ, nên mới phối hợp được cả hai nghệ thuật «thi họa» đến mức tinh diệu.

Đến lượt chàng xem mấy bức tranh không chữ ký, màu sơn còn mới. Một vài bức vẽ cảnh bồng lai trên hải đảo. Có ba bức đáng lưu ý:

«Một, vẽ cảnh ngôi chùa hoang phế trên một hòn núi cây cỏ tiêu sơ. Chùa có người song không phải là các nhà sư, mà chính là bọn vệ binh của Huệ Đế».

«Bức thứ hai, vẽ một người ngồi khom lưng trên một tảng đá cậm cụi viết. Không xa chỗ người ấy có mấy người đang lăng xăng đóng cột dựng lều. Dĩ nhiên những túp lều tạm bợ bằng lá. Điều đáng lưu ý là chỗ họ dựng lều là một vùng đất trơ trọi không cây cỏ hoa lá, đó đây chỉ một màu đá xám xì. Quả là một vùng đất chết!»

«Bức thứ ba, vẽ ngay thung lũng này vào một ngày mưa ảm đạm, rừng «phong lan» tàn tạ, thạch động tối âm u... Người xem tranh có cảm tưởng như linh hồn của người sáng tác u uất bên trong.

Trường Giang xem bức tranh sau cùng, xúc động nói:

- Nỗi hận nỗi khổ của nhân huynh mênh mang trên bức họa này, đã làm cho tranh trở nên tuyệt tác. Tiểu đệ là người có am hiểu chút ít về hội họa, chưa từng xem bức họa nào mà cõi lòng rung cảm đến như thế! Huệ Đế thở dài:

- Chẳng qua huynh đài là người có tâm hồn nghệ sĩ, mới cảm thông được nội tình của người sáng tác. Người làm họa khi vẽ một bức tranh, cũng như một nhà văn khi viết tạo một tác phẩm, tâm sự họ gửi gấm vào đó, cõi lòng họ rung động theo đó, linh hồn họ quấn quýt trong đó... Những ai hiểu được tâm sự họ, cảm xúc được với họ, thấy được linh hồn họ… thì người đó cũng là họa sĩ, cũng là văn nhân. Nếu

người ấy chưa từng sáng tác, vì họ chưa gặp hoàn cảnh, chưa có dịp phơi bày bản chất nghệ sĩ của họ đó thôi!

Ngừng một lúc Huệ Đế tiếp:

- Ví như tiểu đệ khi còn sống ở hoàng cung rất yêu văn chương, rất chuộng hội họa. Thế nhưng trót sinh ra ở ngôi vị đế vương, cái sở thích nghệ thuật đành phải quên lãng vì việc chính trị, vì việc đao binh... Mãi đến những năm bôn ba đào nạn, tháng ngày dằng dặc quạnh hiu, tâm sự u uất không làm sao phát tiết, nên tiểu đệ mới mượn giấy bút ký gửi tâm sự mình. Gần 10 năm qua tiểu đệ viết ba tập thi gồm 300 bài «Trường hân ca» và một tập «Phong Vân tùy bút», ghi lại khoảng đời trôi nổi đó đây… Tranh thì tiểu đệ vẽ khá nhiều, song mỗi lần bỏ chỗ chạy trốn không thể mang theo hết, bọn thị vệ đem bán cho nhà giàu, hoặc chúng đem đổi rượu về trữ đó.

Nhắc mối thương tâm giọng nói của nhà vua nghẹn lại. Trường Giang muốn người ấy quên nỗi sầu hận cũ, nên lái câu chuyện văn thư của các đại văn hào như Hàn Dũ, Lý Bạch đời Đường, rồi nhắc đến Khuất Nguyên đời chiến quốc, Đào Tiềm đời Tấn, Tô Đông Pha đời Tống...

Hai người ngồi đàm luận maĩ mê quên đói! Lão thái giám bưng mâm dọn ra, mà cả hai vẫn còn ngồi trên giường đá bàn bạc hết văn chương đến hội họa… hết hội họa đến thi phú… Thật là đôi tri kỷ tri âm vô cùng tương đắc !

Hoàng Tử Trừng nhìn thấy lần đầu tiên, kể từ 10 năm lưu lạc, nhà vua quên nỗi sầu, nên ra hiệu bọn tôi tớ và ngự lâm quân rạp mình trước thạch động tung hô: «Hoàng thượng vạn tuế».

Trường Giang với Huệ Đế đang mê man trong câu chuyện, vụt nghe tiếng «tung hô» vang rền đều giật nẩy mình. Hoàng Tử Trừng mọp trước cửa động nói:

- Mừng hoàng thượng tìm được tri kỷ.

Huệ Dế vội vàng chạy tới đỡ Hoàng Tử Trừng đứng lên và khoát tay bảo mọi người đứng lên, rồi nghiêm giọng bảo:

- Từ lâu rồi ta đâu còn nhớ ta là Vua? Hoàng tiên sinh cũng nên quên đi và các ngươi cũng nên quên đi ngôi vị của Huệ Đế! Hãy gọi ta bằng công tử như bấy lâu nay khi chạm mặt với bọn tai mắt quan lại của chú ta. Từ đây giữa ta và các ngươi không còn là «vua tôi» nữa. Cứ gọi ta là... hàn công tử (ý nói công tử nhà nghèo).

Bỗng Huệ Đế đổi giọng vui vẻ vừa cười, vừa nói:

- Hôm nay là ngày vui nhất trong đời ta, vì được kết bạn với Đoàn tiên sinh nước Đại Lý. Lão thái giam! À không, lão Ngưu! Mau mau đem mấy hủ rượu Bồ Đào cho anh em thưởng thức với ta cùng Đoàn huynh và Hoàng tiên sinh.

Lão thái giám vâng lệnh chạy đi, sau khi liếc mắt nhìn Trường Giang bằng cái nhìn vừa kính trọng vừa biết ơn, vì chàng không đá động tới thái độ vô lễ của lão bữa qua.

Phút chốc trong lòng thung lũng vang vang tiếng nói cười. Bữa nay vua tôi cùng ăn một thứ thịt nai rừng, cùng uống một thứ tửu Bồ Đào.

Hoàng Tử Trừng hứng chí ngâm nga khúc «Thanh bình điệu» của Lý Bạch [5].

Huệ Đế cười bảo:

- Tiên sinh ngâm khúc ấy không hạp rồi! Vì tôi không là Đường Minh Hoàng, mà Đoàn huynh đây cũng chẳng phải là Dương Quí Phi. Trường Giang cười, nói giọng pha trò:

- Tốt hơn Hoàng tiên sinh nên ngâm bài thơ «Chí Lam quan thị điệt Hàn tương» của Hàn Dũ [6] cho «hàn» công tử nghe là phải hơn.

Cũng vì khi nãy Huệ Đế xưng mình là «hàn công tử» nên Trường Giang mới đùa như thế. Cả ba cùng cười vang dội cả thạch thất.

Bên ngoài vùng thung lũng thật đẹp, có nắng chan hòa, có hương Phong Lan ngào ngạt...

--------------------------------

1. Nước Tàu rộng lớn nên có nhiều thỗ ngữ khác nhau. Ba tiếng được thông dụng là tiếng Quảng, Phúc Kiến và Quan thoại (miền Bắc, cũng là tiếng của triều đình).

2. Đoàn Tử Bình lập nên nước Đại Lý ở Vân Nam vào đời Ngũ Quí (khoảng Hậu Tấn). Đến khi Thành Cát Tư Hản chiếm miền Bắc Trung Hoa lấy hiệu Nguyên Thái Tổ. Đời Nguyên Thế Tổ (Hốt Tất Liệt) đưa quân chiếm Nam Tống và Đại Lý khoảng năm Đinh Tỵ 1257. Hốt Tất Liệt phong cho con là Hốt Khả Kích làm Vân Nam Quốc vương, sát nhập Đại Lý vào Trung Hoa. Tuy nhiên con cháu họ Đoàn vẫn nối tiếp xưng vương đến đời Hồng Võ nhà Minh mới dứt.

3. Chu Nguyên Chương sau khi đuổi quân Mông Cổ khỏi nước Tàu lên làm Vua lấy hiệu Minh Thái Tổ trị vì 21 năm. Người con trưởng là thái tử Tiêu chẳng may mất sớm nên khi vua băng hà triều đình lập thái tôn (cháu nội) lênlàm Vua tức Huệ Đế. Huệ Đế lên ngôi hãy còn trẻ (16 tuổi) bị chú là Lệ (làm vương đất Yên kinh) cướp ngôi. Theo sử Tàu số phận Huệ Đế không ai biết ra sao ? Có lời đồn bị chết thiêu, co người nói đã trốn ra nước ngoài. Yên Vương Lệ lên ngôi tức Minh Thành Tổ.

4. Hoàng Tử Trừng là cận thần dưới thời Huệ Đế, đã bày mưu kế giúp Huệ Đế chống Yên Vương Lệ, nhưng bất thành.

5. Bài thơ gồm 3 đoạn, 12 câu. Nhân khi Đường Minh Hoàng và Dương Quí Phi thưởng hoa ở đình Trầm Hương có ban nhạc hoàng triều hát, nhà vua nói : "Bữa nay có người đẹp của trẫm thưởng hoa, phải có bài hát mới, mới được". Vua cho vời Lý Bạch đến tận nơi để làm bài thơ mới. Lý Bạch vâng lệnh vua làm ngay khúc "Thanh bình điệu" dâng lên cho vua và quí phi đang khi ông say lúy túy.

6. Một trong những bài thơ nỗi tiếng của Hàn Dũ, bài thơ gửi cho cháu là Hàn Tương (1 trong bát tiên của Tàu). Vì dâng biểu can vua rước Phật cốt vào cung nên bị giáng làm thứ sử Triều Châu đang khi ông làm Hình bộ thi lang tại kinh. Từ kinh đô Tràng An đến Triều Châu đường xa 8.000 dậm, vua ra lệnh đi trong 8 ngày. Hàn Dũ không dám trái lệnh đi ngày đêm song chẳng tới đâu. Sau nhờ cháu Hàn Tương là tiên hóa phép đưa đi. Hàn Dũ cảm xúc làm bài thơ tâm tình với cháu. (Hàn Dũ sống vào thời trung Đường 768-826. Khi bị giáng chức là đời Đường Hiến Tôn).

 Chương 9 : Trái tim sắt đá

- Nguyễn huynh! Nguyễn huynh! Đưa Hoa Na đi chơi hồ hái sen nhé?

Người con gái tuổi khoảng đôi tám, gương mặt xinh như mộng, đôi má phính đồng tiền, đôi mắt to đen với hàng mi cong vút. Tóc nàng bới cao lên đỉnh đầu, cài với vòng hoa Sơn Trà trắng như tuyết. Nàng mặc chiếc áo màu hoa lý, chiếc xà rong cùng loại tơ, loại màu, bó sát vào thân hình. Một thân hình thật đẹp thật khêu gợi ! Nhưng phải nói phần khêu gợi nhất là bộ điệu nhõng nhẽo và giọng nói ngọt lịm của nàng ai nghe cũng phải ngất ngây, cũng phải động tình.

Thế nhưng vị Nguyễn huynh nàng gọi đôi ba lần vẫn ngồi trơ trơ như đá!

Người ấy có lẽ bị mù nên không nhìn thấy vẻ đẹp của nàng? Hoặc giả trái tim người ấy bằng sắt hay bằng đá, nên không biết rung động trước sức quyến rũ của nàng?

Trước mắt người ấy là một cái hồ nhân tạo, sen mọc chi chít. Cũng có thể gọi nơi đó là cái đầm sen, lá xanh che kín mặt nước, hoa màu hồng đỏ nhô cao lên… Hoa lá dày đặc san sát biến hồ nước thành rừng hoa tuyệt đẹp.

Bầu trời hôm ấy thật xanh, lơ thơ vài cụm mây trắng… Nắng thật dịu, gió phất phơ trên ngọn cây chót lá...

Nơi đó nằm trong vòng thành của hoàng cung Chiêm quốc, bên hữu là vườn Thượng Uyển, bên tả là đài vọng nguyệt, phía trước là cung điện, phía sau là rừng cây trái.

Trước khung cảnh thi vị của trời đất và vạn vật… con người không khỏi xúc cảm. Thế mà người ấy vẫn ngồi trơ trơ như xác chết!

Có lẽ người ấy không nhớ mình là ai? Ở đâu? Mắt người ấy nhìn phía trước, nhưng chắc không trông thấy gì!

Người ấy đang chết! Hay nói đúng ra hồn người ấy như muốn xa lìa thân xác để khỏi phải sống những ngày đau đớn nhất trong đời.

Phải! Gần hai Thu bỏ quê hương ra đi, mẹ và bà nội chết trong lòng biển cả, đứa em bặt vô âm tích. Giờ nghe tin cha già đã chết, gia đình người yêu tan nát, dân lành sống kiếp nô lệ đọa đày bởi quân xâm lăng tham tàn... Thử hỏi còn ai khốn khổ hơn người ấy?

Cô gái gọi mãi không nghe tiếng hồi đáp của người ấy, liền chạy ngay lại phụng phịu đôi má, đôi mắt chớp chớp như muốn khóc:

- Nguyễn huynh, Hoa Na gọi Nguyễn huynh bao lần mà Nguyễn huynh làm lờ, Hoa Na giận rồi!

Người ấy bấy giờ mới gượng gạo đứng lên, đôi môi nhếch nhếch làm nụ cười, nói giọng thật nhẹ:

- À, công chúa! Công chúa ra đây hồi nào?

- Tiểu muội đứng đàng kia, ngoắc Nguyễn huynh mãi mà không thèm nhìn, kêu Nguyễn huynh mấy tiếng mà không thèm nghe, tiểu muội ghét Nguyễn huynh lắm lắm!

Tiếng ghét nàng kéo thật dài, thật nhõng nhẽo.

Người họ Nguyễn lúng túng cúi mặt xuống đất, không nói lời gì. Nàng Hoa Na kéo tay chàng dục dặc bảo:

- Đưa Hoa Na chơi hồ hái sen huynh nhé?

Chàng gật đầu, nét mặt vẫn buồn thiu!

Cả hai đi tới cây cầu nhỏ, nơi đó có chiếc thuyền con chạm trổ thật đẹp. Thuyền đặc biệt dành cho nàng công chúa chơi hồ hái hoa.

Chàng nhảy xuống thuyền trước, một tay vịn thành cầu, một tay dìu nàng xuống thuyền. Sen dày đặc không thể dùng dầm bơi. Chàng đứng chống sào cho thuyền lướt tới. Nàng ngồi trước mũi thuyền quay mặt nhìn chàng, miệng hát líu lo, đôi mắt thật tình tứ…

Chàng không thèm nhìn nàng ? hay không dám nhìn

nàng? Thấy chàng không nhìn mình, nàng gọi khẽ:

- Nguyễn huynh!

- Vâng!

Chàng đáp, song đôi mắt vẫn chăm chú việc chống sào cho thuyền lướt tới. Nàng lại gọi:

- Nguyễn huynh! Nhìn tiểu muội một lần thôi! Tiểu muội yêu cầu Nguyễn huynh đó.

Chàng đưa mắt nhìn nàng… Ánh mắt thật xa xôi...

- Tiểu muội có xấu lắm không Nguyễn huynh?

- Không!

- Không nghĩa là đẹp hay xấu?

- Đẹp!

Chiếc thuyền vút tới nhanh, vì chàng đẩy ngọn sào quá mạnh trong khi nói. Tiếng đáp cộc lốc của chàng vẫn làm cho trái tim nàng công chúa đập rộn ràng.

Được khen, nàng xúc động hỏi nhỏ:

- Vì sao lúc nào Nguyễn huynh cũng lạnh lùng với Hoa

Na?

- Không!

- Quả thật Nguyễn huynh không... ghét tiểu muội chứ?

- Không!

- « Không » nghĩa là Nguyễn huynh... yêu tiểu muội chút chút chứ?

- Không!

Nàng giận dỗi nún nẩy, làm con thuyền chòng chành, mếu máo nói:

- Sao tiểu muội hỏi gì Nguyễn huynh cũng trả lời «không», nghĩa là sao?

- Tôi...

Nàng ôm mặt khóc thút thít. Chàng đứng im như pho tượng bằng đá, ánh mắt dịu vợi trôi theo mây...

Nàng hé mắt nhìn chàng qua màn lệ... Bức tượng trước mắt làm tim nàng nhũn ra. Nàng muốn nhào tới quỳ dưới chân tượng, khóc mà rằng:

- Hoa Na yêu chàng! Chàng đẹp như thiên thần! Xin hãy làm vị thần tình ái của Hoa Na. Nàng không chạy tới bên chân tượng, nên ôm mặt tỉ tê:

- Trường Sơn chàng ơi! Sao chàng quá vô tình trước một công chúa? Nào tiểu muội có xấu xí đâu? Nào tiểu muội có phải hàng dân giả không xứng với chàng đâu?

Có lẽ chàng không nghe nàng nói gì? Nàng tức tửi gọi:

- Nguyễn huynh! Trường Sơn chàng! Tiểu muội yêu

chàng!

Sau lời thú nhận tình yêu nàng khóc oà. Trường Sơn quay mặt nhìn nàng, nói giọng rầu rỉ:

- Công chúa ơi! Sá gì tôi một kẻ bơ vơ không nhà, không thân bằng quyến thuộc, không quê hương, mà công chúa để tâm đến? Công chuá là cành vàng lá ngọc, bao nhiêu vương tôn công tử thầm yêu trộm nhớ. Hãy nghĩ đến họ...

Hoa Na ngắt lời:

- Nhưng tiểu muội chỉ yêu Nguyễn huynh mà thôi.

- Tôi…

Hoa Na lại ngắt lời:

- Chẳng lẽ vì tiểu muội không là dân An Nam nên Nguyễn huynh không yêu tiểu muội?

- Không phải thế đâu!

- Thế tại sao lúc nào chàng cũng lạnh lùng hờ hững với

Hoa Na?

- Tôi... tôi đã có vị hôn thê! Hơn nữa thế cuộc đão điên, gia đình tan nát, tôi đâu còn lòng dạ nào nghĩ đến tình yêu?

- Nào tiểu muội có buộc Nguyễn huynh phải yêu tiểu muội bây giờ đâu? Tiểu muội chỉ mong Nguyễn huynh đừng hờ hững lẫn tránh tiểu muội.

- Nhưng...

Chàng không nói tiếp, hướng mắt nhìn ra xa chân trời của quê hương… Nơi đó người cha chưa rửa được quốc thù đã ngã gục. Gia đình của người yêu dường như cũng bị giặc bắt đi. Ngôi nhà của cha nàng hiện nay do một tên quan "ăn cướp" chiếm ở. Thúy Uyên của chàng chẳng biết sống chết ra sao? Ví như nàng đã chết thì trọn đời chàng quyết giữ tấm tình chung với người con gái đã cùng chàng đổi trao kỷ vật.

«Không! Ta không thể yêu người con gái nào khác ngoài

Thúy Uyên.»

Chàng nhủ với lòng như thế. Hoa Na không nghe chàng nói tiếp, gạn hỏi:

- Nhưng thế nào? Chàng nhớ mãi người xưa phải không? Nàng ấy chết rồi! Chẳng lẽ chàng lại chung tình với người đã chết? Nàng chưa là vợ của chàng, thì dù cho nàng còn sống có khi đã kết hôn với giặc để được sướng thân. Giữa thời buổi nhiễu nhương ly loạn những nàng kiều nữ hoặc giả tự hiến thân cho giặc để được sống tốt, hoặc giả bị giặc bắt về làm vợ phải nhận chịu. Hiếm lắm mới có nàng tuẩn tiết để cho tấm thân không bị ô uế. Trường hợp nào nàng ấy cũng...

Mỗi lời nói của Hoa Na như có gai nhọn châm chích vào tim chàng nhức nhối không chịu được! Trường Sơn đau đớn bịt tai nhắm mắt để không nghe không thấy người con gái

Chiêm Thành vì quá si tình mà xúc phạm đến người yêu của

chàng.

Ác nghiệt thay tiếng nói của Hoa Na vẫn rì rào:

- Trường hợp nào nàng ấy cũng không thuộc về chàng nữa ! Vả chăng chàng định bao giờ trở về xứ? Ngày mai chăng? Mùa thu tới chăng? Chàng trở về giặc có để cho chàng yên không? Chàng trở về có giải thoát nàng khỏi tay giặc không? Bằng như nàng đã chết, chàng trở về có cứu nàng sống dậy được không?

Không đè nén nỗi thống khổ được nữa, Trường Sơn tức giận quát lên:

- Im đi! Dù nàng có ra sao ta cũng không thể yêu mi.

Câu nói của chàng làm nàng công chúa tái mặt, rồi từ màu xanh của hờn giận biến sang màu đỏ của hận thù. Hai tay nàng run rẩy vịn vào be thuyền, đôi môi nàng mím chặt...

Trường Sơn biết mình nói quá lời, toan lên tiếng xin lỗi. Chàng chưa kịp mở miệng, giọng Hoa Na đã vang lên:

- Đưa ta vào bờ nhanh lên, quân mất nước!

Giọng nói mật ngọt của nàng bây giờ biến thành chất cay độc giữa hai hàm răng nghiến trèo trẹo, ai nghe chắc cũng phải rùng mình, vì nó xuất phát từ môi miệng của một nàng công chúa, con gái cưng độc nhất của một ông Vua đầy uy quyền.

Trường Sơn không có được tính trầm tĩnh của Trường Giang, nên khi nghe Hoa Na gọi mình là «quân mất nước» chàng vừa tủi, vừa hận, không còn biết nghĩ điều hơn thiệt, lớn tiếng nói:

- Phải! Ta là quân mất nước, còn cô là công chúa mất nết!

Hoa Na lúc ấy đang ngồi trước mũi thuyền, vùng đứng dậy một cách giận dữ, thét lên:

- Bớ bọn thị vệ! Cứu ta! cứu ta! Tên côn đồ này...

Chiếc thuyền chòng chành khi nàng dùng dằng đứng lên. Trường Sơn không kịp giữ thế quân bình, thuyền nghiêng hẳn một bên, quăng cả hai xuống nước giữa lúc nàng đang la hét.

Trường Sơn hốt hoảng phóng xuống nước níu Hoa Na. Cũng may nhờ hồ đầy nghẹt sen, nàng chưa kịp chìm, chàng đã chụp được nàng, ôm lội vào bờ.

Lúc ấy có một toán thị vệ và cung nữ nghe tiếng la hét của Hoa Na vội vàng chạy tới. Thấy Trường Sơn bồng nàng công chúa từ hồ sen bước lên, cả bọn nhao nhao, nhưng không ai tới đỡ.

Hơn nữa năm qua, từ ngày vị thái tử của họ đi săn mang về hoàng thành một chàng thanh niên xa lạ, hình hài cao đẹp quí phái, mặt mũi anh tuấn, đã làm cho bọn con gái chốn cung vi nhớ trộm yêu thầm và họ cũng không lạ gì mà không biết công chúa của họ si mê chàng thanh niên ấy ngay buổi đầu.

Hầu hết quan lại trong triều ai cũng xầm xì vụ nàng công chúa yêu chàng trai tị nạn An Nam. Ai cũng đoán rằng nhà vua sẽ phong cho chàng làm phò mã một ngày không xa, vì chàng có công cứu Đông cung thái tử trong chuyến đi săn, vừa là người được hoàng hậu hết sức thương quí. Nhất là khi biết chàng võ nghệ tuyệt luân, cung kiếm song toàn, nhà vua càng trọng vọng, cho chàng ở ngay trong hoàng thành, được tự do đi lại như các vương tử, công chúa.

Thiên hạ bàn tán, thiên hạ xầm xì, kẻ thương thì ít, kẻ ghét thì nhiều, vì không ai muốn ngôi phò mã rơi vào tay kẻ khác giống.

Trong số những người thù ghét chàng trai An Nam phải nói là những chàng si tình nàng công chúa, mà người đáng lưu ý nhất là thế tử Quí Do, con trai của thân vương Ba San Đài.

Quí Do thầm yêu Hoa Na từ lâu. Thuở trước Hoa Na cũng rất thân thiết với Quí Do. Nhưng từ khi thấy dung mạo của Trường Sơn, nàng như bị tiếng sét của ái tình, si mê chàng một cách điên dại.

Trường Sơn sợ hãi lẫn trốn. Nàng càng theo đuổi, vì ái tình ví như người với bóng. Hễ cái bóng chạy tới, người cũng chạy theo và nàng công chúa mỗi ngày một tương tư đậm con người hờ hững với mình.

Hoàng Hậu Nhữ Lan biết con gái yêu điên cuồng chàng trai An Nam, song bà không ngăn cấm hay chống đối. Vì hình hài tuấn nhã ấy mỗi khi bà trông thấy trái tim cũng đập liên hồi.

Thật là lạ lùng! Chính bà cũng không hiểu tại sao đất An Nam có thể có loại đàn ông võ nghệ tuyệt luân mà phong tư lại tao nhã đến như thế?

Cứ mỗi lần trông thây thân hình cao đẹp của chàng, không ốm yếu như bọn đồ nho, cũng không vai thô thịt bắp như võ tướng đương triều, kể cả các vương tử và con trai bà là thái tử Cửu Vân, cũng chưa ai có được cái đẹp vừa hào hùng vừa tao nhã của chàng họ Nguyễn xứ An Nam, khiến cho bà hoàng hậu phải ngẩn ngơ.

Đương nhiên bà rất vừa ý chọn người ấy làm phò mã để thỏa mãn ước vọng của con gái, mà còn một lý do mà chính bà cũng không hiểu do đâu? Ví như một người thấy một viên ngọc đẹp thì muốn giữ làm của riêng cho mình. Vua Ba Đích Lại là một ông vua rất sợ vợ. Cho nên ở vào thời đại ông không có lập các bậc phi tần. Số cung nữ hầu hạ cũng rất ít, sánh với các triều vua trước. Vì hoàng hậu Nhữ Lan không muốn ở hoàng cung có một người thứ hai đẹp hơn bà.

Phải thành thật mà nói trông nội cung chưa có một thiếu nữ nào đẹp và quyến rũ hơn bà hoàng hậu, kể cả công chúa Hoa Na, mặc dù tuổi bà ta năm nay hơn tứ tuần. Đó cũng là ly do khiến vua Chiêm «nể» vợ, gần như mọi việc triều chính đều có quyết định của bà hoàng hậu.

Năm trước khi Cửu Vân đưa Trường Sơn vào trình diện vua cha và thuật câu chuyện Bồ Chấn hãm hại mình, may nhờ Trường Sơn cứu khỏi cái chết. Vua Ba Đích Lại đùng đùng nổi giận, ra lệnh giam thái tử vào ngục thất về tội : « cải lệnh phụ vương trốn khỏi hoàng thành đi săn ».

Còn cha con Bồ Điền thì nhà vua không nói động tới. Chẳng hiểu vì ông ta nể tình cửu phụ đã có công giúp mình chiếm ngai vàng khỏi tay họ La [1] ? Hay sợ thế lực binh bị quá mạnh của tướng Bồ Điền?

Vừa về đến hoàng cung Cửu Vân bị vào ngục thất, thì đương nhiên Trường Sơn làm sao được nhà vua trọng đãi, dù chàng có công cứu con trai ông ta thoát chết trong tay bọn phản thần!

Sở dĩ ông thờ ơ với ân nhân của con trai mình một phần cũng vì nghe chàng là dân tị nạn An Nam, sống một mình ở huyện Bình Khê. Ông không muốn biết gốc gác gia cảnh chàng ở An Nam ra sao, ra lệnh cho nội quan thưởng cho chàng ít vàng bạc và định đuổi chàng ra khỏi nội thành.

Lúc ấy Trường Sơn đang làm lễ bệ kiến Vua Chiêm, thấy thái độ nhạt nhẽo của nhà vua cũng không muốn nấn ná lại đó làm gì. Ước vọng nhờ vả vua Chiêm đưa quân giúp cha chống kẻ thù như tiêu tan. Chàng chán nán muốn xa lánh hoàng cung tức khắc, vì Cửu Vân đã vào ngục thất, Bồ Chấn không bị hình phạt gì, tất nhiên chàng sẽ không được yên thân với cha con Bồ Điền về tội chém đứt lìa một bàn tay của Bồ Chấn.

Chàng nghĩ số phận chàng không may, tuy có một người em kết nghĩa hiền hậu dễ mến như Cửu Vân, nhưng giai cấp của một vị thái tử con vua và một kẻ tị nạn nghèo khổ như chàng không thể kéo dài tình bằng hữu được. Chàng buồn tủi không thiết nhận phần thưởng của vua Chiêm, nên vòng tay tâu rằng:

- Tâu bệ hạ, tiểu nhân không dám nhận phần thưởng của bệ hạ, chỉ xin cho được rời hoàng thành trở về chốn cũ sinh sống.

Vua Chiêm nghe chàng từ chối tặng vật, nghĩ chàng muốn đòi hỏi điều gì, nên sẵng giọng hỏi:

- Nhà ngươi muốn gì?

- Tâu bệ hạ! Tiểu nhân cứu thái tử vì lòng nhân, chớ không mưu cầu lợi lộc.

Vua Chiêm cười ha hả:

- Đã thế ngươi theo con ta về đây làm gì?

- Cũng vì thương thế thái tử chưa lành nên tiểu nhân...

Hoàng hậu Nhữ Lan lúc ấy đang bận nơi hậu cung, nghe tên thái giám chạy vào báo cáo mọi sự bên ngoài. Bà nổi giận chạy phăng ra nội điện, nép mình sau rèm, nói giọng giận dữ với chồng:

- Con bị phản tặc hãm hại sao không bênh vực, còn trừng trị nó? Bà trông ra nội điện thấy chàng trai An Nam đang quỳ trước ngai vàng hình hài hết sức khác lạ, làm cho con tim bà bồi hồi xúc động, bà đâm oán giận chồng, hậm hực nói:

- n nhân của con phải được hậu đãi! Nếu người ấy bỏ đi, thần thiếp cũng sẽ bỏ bệ hạ rời hoàng cung với con đó. Đang chất vấn Trường Sơn với giọng khó chịu, chợt nghe mấy lời vợ nói, vua Chiêm tức thì đổi thái độ với Trường Sơn, lã chã nói:

- Nãy giờ trẫm thử lòng khanh. Chứ như khanh đây là ân nhân của con Trẫm, cũng là ân nhân của Trẫm. Khanh không thiết lãnh phần thưởng thì cũng nên ở lại đây với thái tử cho trọn tình anh em, vì cả hai đã kết nghĩa, nếu trẫm không nghe lầm? Trường Sơn còn đang lạ lùng về thái độ thay đổi bất chợt của nhà vua, thì nghe ông ta phán:

- Quân bây đâu! Mau vào ngục thất rước Thái tử đưa về cung thái tử. Vị ân nhân của con ta phải được hầu hạ tử tế. Thế là Trường Sơn được đưa vào Đông cung sum hợp với Cửu Vân. Hai anh em mới cách nhau vài giờ, mà tưởng chừng như mấy tháng không gặp! Cửu Vân nói giọng nghẹn ngào:

- Phụ vương bỏ em vào tù, em không buồn. Em chỉ lo người đối xử tệ bạc với nghĩa huynh, thì em còn mặt mũi nào mà gặp lại nghĩa huynh? Trường Sơn chưa kịp nói gì, Cửu Vân tiếp lời:

- Vụ này chắc có tay mẫu hậu nhúng vô. Chứ như phụ hoàng đã ra lệnh nhốt em vào ngục, chắc không thể có chuyện cấp tốc thả em ra ngay. Trường Sơn cũng nghĩ, bà hoàng hậu có lẽ đã can thệp vào vụ này nên nhà Vua mới đổi thái độ với chàng trong khoảnh khắc. Tuy nhiên chàng không muốn để Cửu Vân thắc mắc, nên nói:

- Hoàng thượng chỉ muốn cảnh cáo nghĩa đệ về tội dám nghịch ý cha trốn khỏi hoàng thành đi săn không quân hộ tống, suýt hại đến thân. Vì nghĩa đệ đừng quên mình là Đông cung thái tử, mai sau nối nghiệp Vua cha...

Hai anh em đang nói chuyện thì nàng công chúa nghe tin anh đi săn trở về bị cha giam vào ngục thất, may nhờ mẫu hậu can thiệp cho tự do, nên vội vàng đến thăm anh.

Vừa trờ tới, thấy anh đang sóng bước với chàng thanh niên quá đẹp, nàng công chúa như bị tiếng sét ái tình, hồn phách bay đâu mất, đứng sững như bị trời trồng!

Cửu Vân thấy em gái tới chơi, vội vàng kéo Trường Sơn giới thiệu:

- Công chúa! Giới thiệu em, đây là người anh kết nghĩa của anh, cũng là ân nhân của anh, họ Nguyễn tên Trường Sơn, thuộc dòng dõi anh hùng đất An Nam, là người cung kiếm song toàn, võ nghệ tuyệt luân.

Trường Sơn và nàng công chúa bối rối thi lễ. Hoa Na hỏi nhỏ bên tai anh:

- Vương huynh à, tiểu muội phải xưng gọi với người ta

ra sao?

- Thì công chúa cứ gọi chàng là Nguyễn huynh và xưng tiểu muội.

Sau đó Cửu Vân đưa Trường Sơn vào hậu cung yết kiến mẫu hậu.

Từ đó nàng công chúa Hoa Na quấn quýt theo vị nghĩa huynh của anh không rời. Cả triều thần từ vua đến hoàng hậu ai cũng biết điều này.

Vua Ba Đích Lại sau khi biết Trường Sơn võ nghệ cung kiếm tinh thông, lại là trưởng nam của Nguyễn Trường Hân, là người mà ông không lạ gì, vì đã cứu cậu mình là Bồ Điền khỏi ngục tù của Chế Bồng Nga năm xưa.

Biết được gốc gác của Trường Sơn, Vua Chiêm và hoàng hậu càng trọng vọng, phong chàng chức Đô Úy, cho ở trong hoàng cung, dụng ý kén chàng làm phò mã trong một ngày gần đây.

Trường Sơn thấy công chúa Hoa Na bám sát mình và cũng đoán được ý muốn của vua và hoàng hậu nên lấy làm lo. Bao phen chàng muốn từ giả Cửu Vân và xin phép nhà Vua ra đi, nhưng vì ước nguyện cầu viện của cha già đành phải nấn ná ở lại, chờ dịp thuận tiện tâu xin vua Chiêm giúp mình quân bị.

Hai tháng trước chàng tâm sự với Cửu Vân. Cửu Vân vào trình với mẹ. Bà hoàng hậu liền «ra lệnh» cho nhà Vua tức tốc sai người lẻn qua An Nam dò tình hình quân nhà Minh, cũng để tìm tin tức của Nguyễn Trường Hân.

Người qua An Nam là một cận tướng thân tín của Vua tên gọi Bồ Nhài, một người nói tiếng An Nam rất giỏi.

Hôm ấy Trường Sơn chỉ dẫn Bồ Nhài đường đi đến Mường Lai để tìm cha mình, đồng thời cũng nhờ dọ dẫm tin tức của gia quyến quan Hàn Lâm Nguyễn Phi Khanh ở Thanh Hóa.

Cách đây hai ngày Bồ Nhài trở về Đồ Bàn trình với Chiêm Chúa như sau:

«Nước Nam hiện nay quân Minh chiếm giữ và chia đất ra làm 17 phủ, đặt dưới quyền cai trị của quan Thượng thư Tàu là Hoàng Phúc » [2].

Vua quân Hồ đều bị bắt giải về Kim Lăng. Thế nhưng có người con thứ của vua Trần Nghệ Tông thuở trước chiêu mộ binh sĩ nổi lên chống quân Minh, xưng là Giản Định đế, được các anh hùng hào kiệt theo về khá đông.

Trong số có ông Đặng Tất [3] đang làm Đại tri châu ở Hóa Châu hay tin vua Trần nổi lên, liền giết quan nhà Minh đem quân về giúp Vua nhà Trần.

Lại có ông Trần Nguyệt Hồ ở Đông Triều [4] mấy năm nổi lên khởi nghĩa chống quân Minh, cũng đem quân về ủng hộ vua Giản Định.

Người thứ ba là Nguyễn Trường Hân đóng tại Lỗi Giang, cũng đem quân sát nhập với vua Trần chống ngoại xâm. Tháng chạp năm ngoái quân Trần xáp chiến với quân Minh ở bến Bô Cô [5], quân Trần thắng trận, chém được quan Đô chưởng Lữ Nghị và đuổi được tướng Mộc Thanh về Tàu. Trong trận này rủi thay Nguyễn Trường Hân bị thương nặng phải chết. Sau đó vua Trần lại chém đầu hai trung thần là Đặng Tất và Nguyễn Cảnh Chân vì lời gièm pha [6] của bọn nịnh bợ.

Riêng ngôi nhà của quan Hàn Lâm họ Nguyễn ở Thanh Hóa, Bồ Nhài có tới tận nơi hỏi thăm, thì biết hiện có tên quan cướp nước trú ngụ. Gia quyến họ Nguyễn không biết ra sao? Nghe đâu quan Hàn Làm bị bắt giải về Tàu, phu nhân và con trai, con gái về quê v.v...27.

Từ khi được tin cha chết, gia đình người yêu tan nát, Trường Sơn thẫn thờ như người mất hồn mất trí.

Cửu Vân cảm thông nỗi thống khổ của người anh kết nghĩa, nhưng không biết giúp đỡ ra sao? Khi nãy trông thấy Trường Sơn ngồi một mình nơi bệ đá bên hồ sen, vẻ mặt âu sầu ảm đạm, Cửu Vân định tới bên cạnh nghĩa huynh trò chuyện an ủi cho đỡ buồn. Nào ngờ Cửu Vân nghe tiếng Công chúa ở đó, nên lánh mặt, vì Cửu Vân thừa biết em gái mình yêu Trường Sơn.

Một lúc sau chàng nghe tiếng la thét của Công chúa, thì biết có chuyện lôi thôi nên lú mặt ra, chừng thấy Trường Sơn từ dưới hồ nước loi ngoi bước lên, hai tay bồng công chúa, bọn cung nữ đứng bu quanh mà chẳng đứa nào tới đỡ, nên quát bảo:

- Sao chúng bây không đưa công chúa vào cung thay đổi xiêm y.

Sự thật Hoa Na vẫn tỉnh táo, nhưng vì sung sướng được nằm trên tay Trường Sơn nên giả vờ ngất. Đến khi bọn cung nữ tới đỡ, nàng dùng dằng bỏ chạy, vừa khóc rống lên.

Trường Sơn vẫn còn trong trạng thái thẫn thờ, Cửu Vân bước tới nắm tay kéo đi. Bọn thị vệ bấy giờ mới chia nhau đi vớt thuyền.

° ° °

Sau tai nạn té hồ Hoa Na không tìm gặp Trường Sơn nữa. Nơi chàng ở là một tòa lầu các trong hoàng thành. Chiều chiều chàng hay ngồi trước lan can hướng mắt trông về quê hương mênh mang nỗi sầu...

Hai tháng qua chàng sống dật dờ như người sắp chết, không buồn ăn, không buồn nói. Nghĩ mãi không biết mình phải làm gì? Đi đâu?

Bỏ quê hương sang Chiêm với mục đích xin viện binh giúp cha cứu nước. Nay cha chết, vua Trần không đáng một vua anh minh lãnh đạo, chàng có nên trở về hổ trợ không?

Nếu chàng không trở về, mà ở lại đây chẳng biết có yên với Hoa Na không? Dù hai tháng qua nàng công chúa không tìm cách giáp mặt chàng, song chàng vẫn thấy nàng lấp ló từ xa và từ khoảng xa cách ấy nàng không quên chiếu tia mắt câm hận về phía chàng.

Chàng không quên được Thúy Uyên, không quên lời ước hẹn, dù lời ước hẹn đó do Trường Giang thay mặt nói dùm. Nhưng giây phút gặp gỡ trong cơn mê tỉnh đêm nào y như có sợi giây tình ái ràng buộc không thể gỡ ra được ! Nàng còn sống hay đã chết, chàng nguyện giữ dạ thủy chung, trọn đời quyết không yêu người con gái nào khác.

Kỷ vật trao hôn lúc nào chàng cũng để trong giây thắt lưng. Lúc chìm thuyền của cải mất hết, nhưng kỷ vật cũng còn đó. Khi nghèo đói hết tiền ăn, vòng ngọc quý báu của nàng vẫn là món vật tùy thân.

Ai dám bảo con người dũng tướng đa tình không biết

chung tình?

Đêm đêm nằm một mình trong cảnh chăn đơn gối chiếc, chàng vẫn nghe khát khao được gần gủi thân thể đàn bà. Nhưng hình vóc huyền hoặc của Thúy Uyên với đôi mắt lóng lánh như sao trời đã đưa hồn chàng sang thế giới mê man bất tận...

Đời người không có tình yêu, dù đang sống kể như đã chết! Chàng tự hỏi «cuộc sống như đã chết này sẽ kéo dài bao năm?».

Ôi, thân xác do cha mẹ tạo thành không thể hủy diệt, nhưng xác thân nguyên vẹn mà hồn chết, thì thời gian cũng sẽ hủy diệt xác thân!

Đang khi tâm tư nặng trĩu tình sầu… Trường Sơn bỗng nghe tiếng người nói:

- Hoàng thượng cho vời quan Đô úy vào đại điện có việc khẩn cấp.

Trường Sơn nghe tiếng nói quay mặt lại, thấy tên nội giám Ba Tu đang vòng tay sau lưng mình. Chàng lẹ làng chạy vào phòng thay đổi y phục và hỏi:

- Hoàng thượng gọi ta có việc chi?

- Bẩm tôi không được rõ.

Chàng theo tên nội giám vào đại điện mà trong lòng vô cùng thắc mắc, không hiểu Vua Chiêm gọi mình vào giờ bãi triều để làm gì?

Chàng vừa mọp trước ngai vàng, nhà vua đã lên tiếng:

- Hai năm qua Trẫm đối đãi với khanh thế nào?

Trường Sơn tâu:

- Thần mang ơn nặng với Bệ hạ và toàn gia quyến hoàng gia, lòng lúc nào cũng áy náy không yên.

- Nếu đã biết ơn trẫm, tại sao khanh dám làm điều bại hoại hại đến thanh danh trẫm? Nghe Vua Chiêm nói, Trường Sơn vừa ngạc nhiên vừa xấu hổ, không hiểu ông ta muốn nói gì? Chàng nhíu mày mím môi, hỏi giọng hơi nặng:

- Xin cho thần rõ, thần đã làm điều gì bại hoại đến thanh danh Bệ hạ? Cho tới lúc đó nhà vua vẫn còn nói giọng ôn hòa với chàng. Chừng thấy chàng tỏ thái độ vô lễ, ông ta giận dữ đập tay xuống long án một cái rầm, quát lớn:

- Cả gan thay cho nhà ngươi dám ương ngạnh trước mặt ta! Bấy lâu nay cả triều thần ai ai cũng hay biết ngươi và công chúa yêu nhau. Ta và hoàng hậu lẽ đâu không hay biết?

Nhưng xét vì công chúa năm nay hãy còn trẻ, cuộc hôn nhân phải chờ sau ngày thái tử kén chọn Nguyên Phi vào kỳ đăng hội tháng tới. Sau đó thì ngôi vị phò mã sẽ được sắc phong, để cho công chúa và ngươi được kết hôn. Sao ngươi không biết chờ đợi, đã vội vàng làm điều bất chính với công chúa? Việc xảy ra như vậy, ta và hoàng hậu còn mặt mũi nào nhìn mặt quần thần?

Nhà vua nói một hơi, đôi mắt đỏ ngầu giận dữ. Trường Sơn lắng tai nghe vẫn không hiểu ông ta buộc mình vào tội gì? Chàng liều lên tiếng một lần nữa:

- Tâu Bệ hạ, thần ngu muội không hiểu Bệ hạ khép...

Chàng chưa dứt câu, nhà vua đã bừng bừng sát khí:

- Trước mặt ta ngươi còn dám giả vờ ngây ngô để chạy tội? Thử hỏi ngươi làm cho công chúa mang thai, ngươi có làm trò ngây ngô ấy không?

Tiếng nói của vua Ba Đích Lại lần này Trường Sơn tưởng như vừa nghe tiếng sét đánh bên tai. Toàn thân chàng toát mồ hôi, đôi chân đang quỳ muốn sụm xuống.

Trời ơi, sao lại có chuyện kinh thiên động địa này? Nàng công chúa khi trước tuy có bám theo chàng, nhưng cả hai đâu có gần gủi... Không! việc này hoàn toàn quá sức tưởng tượng của chàng!

- «Không! Không thể như thế được!»

Chàng lẩm bẩm trong cổ họng, hai chân bây giờ đã sụm xuống, mặt nhợt nhạt, toàn thân run run…

Hoàng hậu Nhữ Lan đang núp sau ngai vàng, chứng kiến từ phút đầu, thấy chàng quá kinh sợ dũng khí không còn, nhưng dung mạo anh tuấn ấy làm cho con tim bà nhũn ra. Bà không chịu đựng nhìn thấy người đàn ông ấy chịu cực hình lâu hơn, nên quát vào tai vua:

- Thiếp tưởng bệ hạ vời người ấy vào để bàn chuyện hôn nhân với công chúa. Sao Ngài lại cố ý hành hạ người ta? Vụ này nếu xử tội thì phải xử công chúa không biết giữ thân. Vả chăng nếu Bệ hạ làm to chuyện sẽ làm trò cười cho quần thần trong triều, mà có khi còn bay ra khắp dân gian nữa. Bệ Hạ muốn như thế à?

Vua Ba Đích Lại nghe vợ nói, liền sò co hỏi:

- Vậy chớ hoàng hậu muốn Trẫm nói với chàng ta thế

nào?

- Bệ hạ cho người ấy hay rằng trong kỳ đăng hội tháng tới thái tử kén Nguyên phi, công chúa cũng sẽ được kết hônvới quan Đô Úy vào ngày ấy.

Vua Ba Đích Lại lập lại râm rấp theo lời vợ!

Nhưng lời nào bay tới tai Trường Sơn cũng 1àm cho chàng kinh tâm động phách !

Chàng đã nguyện với lòng « trọn đời không yêu người con gái nào khác ngoài Thúy Uyên » thì 1àm sao chấp nhận cuộc hôn nhân với công chúa Hoa Na được?

Nếu chàng chống đối thì vua và hoàng hậu chắc chắn sẽ nổi trận lôi đình, có khi chàng phải tội bay đầu ngay lúc này. Nhưng chàng không yêu Hoa Na, thì 1àm sao chung sống với nàng được?

Hơn nữa nàng đã mang thai với kẻ khác, nếu chàng chịu kết hôn với nàng, tất mặc nhiên thừa nhận tội đã giao tình với công chúa ngoài vòng lễ giáo.

Không! Trường Sơn này đường đường một bậc chính nhân quân tử, không bao giờ làm việc mờ ám nhơ nhớp đó.

Chọn cuộc đời 1àm bạn với gươm đao là đã xem nhẹ cái chết, thì tấm thân này dù có bị hủy diệt vì trái ý vua, chàng cũng quyết không chấp nhận cuộc nhân duyên này !

Đã xem nhẹ cái chết, trong lòng chàng không còn sợ gì nữa, thản nhiên đứng lên nói:

- Tâu Bệ hạ, ân đức của Bệ hạ bấy lâu nay đối với thần thật không khác gì non cao bể rộng. Sở dĩ thần nấn ná lại đây, chịu nhận chức chưởng của Bệ hạ là cũng mong có ngày đem sức dũng tướng lập công, hầu đền đáp ơn sâu. Còn việc hôn nhân với công chúa... thần không thể tuân lệnh Bệ hạ. Vua Chiêm vừa mới nguôi nguôi giận, nghe Trường Sơn từ chối việc cưới công chúa, ông ta nổi trận lôi đình, nạt lớn:

- Thật là to gan! Ngươi đã làm điều nhơ nhớp, ta và hoàng hậu thương tình giải quyết êm đẹp cho ngươi. Ngươi đã không biết ơn, lại còn dám cãi lệnh ta! Quả 1à quân mất nước, không xứng đáng với ngôi vị phò mã của Chiêm quốc! Quân bây đâu! Mau đem tên này giam vào ngục thất, ngày mai xử trảm. Nghe lệnh chém đầu, Trường Sơn không một chút sợ hãi, ngẩng mặt nhìn lên, nói trong uất hận:

- Dù tôi là dân mất nước, cũng quyết không 1àm phò mã Chiêm quốc để lấy một vị công chúa đã mang thai với kẻ khác. Bệ hạ hãy chém đầu tôi ngay bây giờ, cần chi phải chờ đến ngày mai?

Vì bị sĩ nhục 1à dân mất nước, chàng uất khí không còn nhớ mình đứng trước mặt vua. Vả chăng lúc này chàng đang muốn chết, hơn 1à sống mà phải 1àm chồng cô gái không phải 1à Thúy Uyên của chàng.

Câu nói bướng bỉnh của Trường Sơn không khác gì lấy dầu chế vô lữa! Nhà Vua vùng đứng dậy phất tay ra lệnh bọn Ngự lâm quân khoảng mươi người, lúc ấy đứng dọc hai bên đại điện, thét lớn:

- Chém đầu tên Nam quốc ấy ngay cho ta!

Mấy tiếng dạ rân cùng với toán người võ trang xông vào. Trường Sơn đứng xuôi tay chờ chết! Mặc dù với võ nghệ tuyệt luân chàng có thể thoát khỏi vòng vây số Ngự lâm quân này. Nhưng chàng đang muốn chết, nên đứng y một chỗ, nét mặt không buồn không hận, cũng không sợ hãi, mà có lẽ còn phảng phất nỗi vui mừng, y như một người đang chờ giờ phút gặp lại người thân, lòng nôn nao vui sướng!

- Hãy khoan! Các ngươi đem quan Đô Úy vào ngục, chờ xét xử lại.

Giọng nói thanh tao phát ra cùng một lúc với người đàn bà xiêm y lộng lẫy, mặt đẹp như tiên, thân hình cực kỳ quyến rũ. Bọn Ngự lâm quân đang xách Trường San đem chém, nghe tiếng người đàn bà thì đứng sựng lại, không biết phải thi hành thế nào?

Vì người ra lệnh ấy không ai khác hơn là hoàng hậu của họ và họ cũng không lạ gì việc hoàng hậu xuất hiện bất thình lình bên cạnh ngai vàng xen xỏ vào việc của nhà vua.

Vua Ba Đích Lại 1à một ông vua tánh tình hung tợn nóng nảy, tướng tá thô kệch, mặt mũi xấu xí, lại thêm tiếng nói như trâu rống. Nhưng trước mặt người đẹp ông ta trở thành thỏ đế, giọng nói xuôi xị:

- Quân bây hãy theo lệnh của hoàng hậu!

Lần thứ nhất Trường Sơn trông thấy vua và hoàng hậu Chiêm bên cạnh nhau. Hai hình hài ấy quả là hai thái cực, khiến chàng nhìn sững bà hoàng hậu và thầm tiếc cho một dung nhan khác phàm phải chung đụng với hạng thô tục, dù hắn là vua oai quyền một cõi!

Anh mắt của Trường Sơn làm hoàng hậu Nhữ Lan bấn loạn tâm thần. Bà sợ hãi quay mặt hướng khác… vô tình đối mặt với chồng. Gương mặt này chưa bao giờ bà thấy thô bỉ như buổi nay.

- Trời ơi, phải chi chồng ta được một phần của người ấy, thì dù ta trở thành hạng dân giả nghèo khó, vẫn sung sướng hơn ngôi vị hoàng hậu! Hoa Na con gái ta không giống cha, sắc đẹp nó cũng thuộc vào hàng thiên kiều bá mị mà vẫn không làm rung động được người này. Hóa ra mẹ con ta chẳng ai có diễm phúc trao thân cho con người ngọc tú như chàng!

Bà đang than trách cho thân phận, chợt nhớ đến cái bào thai trong bụng con gái. Người này phủ nhận là cha đứa con trong bụng công chúa. Vậy kẻ trộm hái hoa là ai?

Hoàng hậu Nhữ Lan không tin Trường Sơn vì quá sợ hãi mà chối tội. Nét kiêu hùng của chàng khi nãy, nghênh ngang trước mặt vua, chẳng coi cái chết không ra gì, thì không thể là kẻ tiểu nhân làm điều mờ ám được! Có lẽ Hoa Na vì quá yêu người này mà không toại, nên vu oan để trả thù chăng?

Lúc bấy giờ ở chính điện không còn ai nữa. Bọn Ngự lâm quân đã đưa Trường Sơn vào ngục thất, chỉ còn hai tên nội giám đứng hầu tại đó. Vua Ba Đích Lại ngồi sò co trên ngai vàng chờ cơn thịnh nộ của người đẹp.

Thường khi hoàng hậu Nhữ Lan đứng núp sau rèm, phía sau ngai vàng, rỉ tai ra lệnh chồng. Chỉ trừ trường hợp bất đắc dĩ lắm bà mới lú mặt ra và những trường hợp như vậy đều do sự khẩn trương, hoặc quá tức giận bà không chịu đựng được mới nhào ra can thiệp.

Sự thật các quan trong triều tuy họ tâu trình trước vua, nhưng họ biết mọi quyết định do hoàng hậu đứng phía sau. Thành ra kể như trong nước cai trị bởi nữ hoàng, mà thần dân không hay biết.

Hoàng hậu Nhữ Lan thuộc dòng tôn thất Chế Bồng Nga, lại là người đàn bà vừa đẹp vừa thông minh, biết trọng đãi nhân tài và các quan trung thần. Nên các quan tuy biết Chiêm chúa không có quyền hành, mọi việc do người đàn bà thống trị, mà chẳng ai chống đối. Ai ai cũng không muốn để tên thô bỉ ngu ngốc Ba Đích Lại trị nước.

Thấy «ái khanh» chỉ quét mắt lườm mình chớ không la rầy, Ba Đích Lại mừng quýnh nói:

- Trẫm để «hậu» tùy ý xét xử tên An Nam ấy. Có điều hắn quá đẹp trai để ở đây sợ làm loạn trong cung. Tốt hơn «hậu» nên ra lệnh giết quách hắn, nếu hắn không chịu kết hôn với công chúa. Không nghe vợ nói gì, lại thấy đôi mắt vợ có vẻ mơ màng nghĩ ngợi đâu đâu… Ba Đích Lại vụt nhớ lúc nãy Trường Sơn nhìn sững «ái khanh» của ông ta và hoàng hậu thẹn thùng quay mặt đi, ông ta chợt nỗi cơn ghen, nói xa xôi:

- Bao phen hậu che chỡ cho nó, ta có cảm tưởng như hậu thiên vị người quốc ngoại! Giả tỉ như ai khác xúc phạm đến con gái của hậu, ta biết hậu ra lệnh chém đầu từ lâu. Nghe chồng nói đúng tim đen của mình, hoàng hậu Nhữ Lan hổ thẹn chống chế:

- Thiếp nào thiên vị người ấy? Nếu thật người ấy là cha của đứa con trong bụng công chúa thì phải chọn, hoặc làm phò mã, hoặc ra pháp trường. Bệ hạ khoan vội khép tội người ta, chờ thần thiếp hỏi lại con gái.

Bà nói xong câu ấy thì bỏ đi ngay. Nhà vua và bọn nội giám cũng lục đục theo sau…

Trở vào nội cung hoàng hậu liền ra lệnh nội giám gọi thái tử Cửu Vân và công chúa Hoa Na đến trình diện phụ vương và mẫu hậu tức khắc.

Cửu Vân không hay biết gì! Cả ngày chàng với bọn thị vệ đi săn. Mấy lúc sau này chàng không được phép rời kinh, nên chỉ săn bắn lẩn quẩn các khu rừng tại Đồ Bàn. Thường Trường Sơn cùng đi với Cửu Vân. Nhưng hai tháng qua, từ khi được tin buồn từ quê nhà Trường Sơn như người có xác không hồn, Cửu Vân không dám rủ rê.

Hôm nay chàng vừa về đến hoàng cung, nghe lệnh phải trình diện cha mẹ nên không kịp thay áo, khoác vội áo choàng chạy đi.

Vào đến nội cung Cửu Vân đã thấy công chúa, vua cha và mẫu hậu chờ đó. Chàng quỳ chúc tụng phụ vương và mẫu hậu. Vua Ba Đích Lại nghiêm giọng nói ngay:

- Con ngồi đó đi và trả lời cho ta và mẫu hậu con rõ về chàng họ Nguyễn mà con kết nghĩa kim bằng, có quả đúng dòng dõi trung liệt đất An Nam không? Cửu Vân nhíu mày đáp:

- Thưa phụ vương và mẫu hậu! Con thiết tưởng phụ vương cũng có nghe biết về lệnh nghiêm đường của nghĩa huynh con. Chẳng hay có điều chi làm phụ vương và mẫu hậu nghi ngờ? Hoàng hậu Nhữ Lan lên tiếng thay cho nhà vua:

- Công chúa em con cho ta biết, nó và người ấy dan díu với nhau và hiện giờ nó đã mang thai hai tháng. Ta và phụ vương con nghĩ đến cái ơn cứu tử của người ấy đối với con năm xưa nên không bắt tội, chấp thuận cho người ấy được làm phò mã và hôn lễ sẽ cử hành vào kỳ «hoa đăng hội» tháng tới, cùng một lúc với ngày con tuyển chọn Nguyên phi. Thế nhưng người ấy từ chối kết hôn với công chúa. Phụ vương con nổi trận lôi đình ra lệnh chém đầu. Ta đã khuyên can và hiện giờ tạm giam vào ngục thất.

Cửu Vân nghe mẹ nói ngồi chết điếng, mặt tái mét, vì không tưởng tượng nổi vị nghĩa huynh đã làm điều xúc phạm đến lễ giáo, lại còn từ chối hàm ân của vua và hoàng hậu.

Đến bây giờ chàng mới để ý em gái ngồi ủ rủ một góc. Chàng nhìn em, lòng xót xa thương cảm, đâm oán giận người anh kết nghĩa mà chàng xem như ruột thịt, đã làm điều sĩ nhục đến hoàng gia, nhất là đã phụ cái nghĩa kim bằng với chàng.

Buồn, thương, tức, giận… Chàng vùng đứng lên định chạy vào ngục thất tìm Trường Sơn mắng vài lời cho hả dạ. Hoàng hậu Nhữ Lan như đọc được tâm trạng của con trai, nên thở dài nói:

- Ta nghĩ tiếc một nhân tài... Vả lại dung mao ấy thật xứng đáng ngôi vị phò mã nên không nỡ giết. Nhưng hình như người ấy muốn chết, nên quyết làm trái ý phụ vương con.

Câu nói «hình như người ấy muốn chết» đập vào tai Cửu Vân, khiến chàng nghe lòng mềm yếu, cơn tức giận dịu xuống, chàng nói:

- Thưa phụ vương và mẫu hậu ! Từ khi được tin buồn từ quê nhà nghĩa huynh con như người đã chết. Con thiết tưởng không phải là lúc để bàn chuyện hôn nhân với công chúa.

Vua Ba Đích Lại xen vào, nói giọng hậm hực:

- Ta và mẫu hậu con nào có định cho tên ấy làm lễ hôn phối với công chúa gấp đâu? Chỉ tại cái bào thai kia buộc ta phải giải quyết để che giấu điều ô nhục trước triều đình và thần dân Chiêm quốc.

Cửu Vân nghe cha nói trong lòng trở lại bực tức vị nghĩa huynh. Chàng nghĩ, nếu Trường Sơn đã gây nghiệt chướng, thì dù ở hoàn cảnh nào cũng phải giải quyết, cớ sao từ chối? Chàng nói với cha mẹ:

- Con xin phép phụ vương và mẫu hậu vào ngục thất khuyên nhủ người ấy. Nếu người ấy thuận tình thì cũng êm đẹp cho công chúa, bằng ngược lại phụ vương hãy trị tội. Vì chính con đây rất lấy làm hổ thẹn đã kết nghĩa với kẻ tiểu nhân.

Hoàng hậu Nhữ Lan và vua Ba Đích Lại nghe con trai nói phải, nên thuận ý để con vào ngục thất gặp tội nhân.

Lúc bấy giờ trời đã bắt đầu tối. Ngục thất ở cuối tường thành phía Nam. Nhắm đi chân hơi lâu, nên Cửu Vân phóng lên ngựa sải như bay, phút chốc đến trước cửa nhà lao. Binh lính canh gác thật cẩn mật như những lúc giam trọng tội. Thấy Đông cung thái tử tới, tên chủ ngục vội vàng nghênh tiếp. Cửu Vân nói:

- Ta vâng lệnh phụ vương vào nhà lao hỏi chuyện quanĐô Úy. Ngươi mau mau mở cửa ra!

Tên chủ ngục hấp tấp mở cửa và đốt đèn, vì nhà lao tối

om.

Trường Sơn được giam riêng trong gian phòng nhỏ không đến nỗi dơ bẩn. Chàng chưa phải mặc y phục nhà tù, cũng chưa bị đối xử tệ bạc. Vì chủ ngục nghe nói người này không chịu làm phò mã nên bị giam cầm.

Dĩ nhiên hắn ta sợ nếu chàng đổi ý chịu làm phò mã, mà bây giờ hắn xúc phạm, thì sau này phải nguy. Nhờ vậy Trường Sơn được yên thân trong ngục thất.

Chàng ngồi êm ru một góc, hồi nghĩ đến người thân nay đã về bên kia thế giới, chàng sống bơ vơ đêm nay nữa, ngày mai Chiêm chúa sẽ đưa hồn chàng về sum hợp vói gia quyến. Cũng có khi chàng sẽ gặp Thúy Uyên của chàng ở thế giới hư ảo đó...

Như vậy cũng hay! Chàng không là kẻ hèn nhát ! Nhưng cầm gươm giết mình phải tội với Trời đất, mẹ cha. Giờ đây chàng là kẻ sung sướng vì sắp sữa được chết, sắp sữa xa lìa cõi đời ô trọc này, một nơi không còn gì để chàng quyến luyến nữa !

Chàng bỗng nghĩ đến Cửu Vân…

Hai năm kết nghĩa anh em. Cửu Vân đã cho chàng rất nhiều tình gia đình, đã giúp chàng tìm được nguồn vui trong cuộc sống, chàng hết cô độc, bớt lẽ loi. Chàng lại không phải sống cuộc đời khổ cực đen tối nơi lò rèn ở một vùng hẻo lánh. Chàng không thể tìm một người tốt thứ hai trên cõi đời này. Một vị hoàng tử mà không kiêu căng, đối xử với chàng thật chí tình huynh đệ.

Được một người em kết nghĩa như Cửu Vân thật là may mắn! Bỗng nhiên chàng cảm nghe mình vẫn con lưu luyến cõi đời.

Bất thình lình cửa nhà lao mở ra… Một người len vào với ngọn đèn leo lét trên tay. Người ấy trông thấy chàng nghẹn ngào kêu lên:

- Nghĩa huynh!

- Nghĩa đệ!

Cả hai ôm chầm lấy nhau mừng mừng tủi tủi, y như nhiều năm không gặp. Trường Sơn bỗng sực nhớ mình hiện là kẻ tử tội, không nên thân mật với một vị hoàng tử, nên buông Cửu Vân ra, nói giọng ảm đạm:

- Thái tử tới thăm tôi lần cuối cùng chăng?

Cửu Vân nghe chàng đổi lối xưng hô, chợt nhớ đến bổn phận mình, đứng nhích ra một tí.

Trường Sơn thấy được khoảng cách đó, tuy gang tấc mà vời vợi. Chàng ngậm ngùi bảo:

- Thái tử nên về thôi! Kẻ hèn này được thái tử đối xử như vầy đã chí tình lắm. Giờ tôi có chết cũng không còn oán hận gì nữa. Cửu Vân xót xa hỏi:

- Vì sao Nguyễn huynh quyết chọn cái chết? Em gái tiểu đệ không xứng đáng với anh chăng?

Cửu Vân hết sức tế nhị, không muốn gọi em mình là công chúa. Trường Sơn nào không hiểu điểm tế nhị đó? Chàng chua chát đáp:

- Tôi làm sao xứng đáng với một vị công chúa?

Giọng chàng đầy mỉa mai, khiến Cửu Vân bực mình sẳng giọng:

- Đã biết thế sao huynh con gây điều oan nghiệt?

- Điều oan nghiệt?

Trường Sơn không hiểu Cửu Vân muốn nói gì nên lập lại câu nói. Chợt chàng như hiểu ra, sắc mặt trắng phệt dưới ánh đèn, giọng nói lệch lạc:

- À, thì ra thái tử nghĩ rằng tôi là kẻ làm điều tồi bại?

Cửu Vân nín im, trong lòng vô cùng thắc mắc. Từ khi đem Trường Sơn về hoàng thành tính đến nay đã hai năm, Hoa Na lúc nào cũng quấn quít với vị nghĩa huynh của anh. Nay nàng có thai và đã thú thật với vua cha và mẫu hậu: “cha của đứa con trong bụng là Trường Sơn”. Điều này ai cũng cho là đúng! Vì ngoài Trường Sơn ra, công chúa đâu luyến ái ai khác?

Thấy bạn nghi kỵ mình, Trường Sơn uất hận nói:

- Phải! Tôi là kẻ nhơ nhớp trộm hoa trong vườn Thượng Uyển, nên tôi thà chịu làm quỷ không đầu hơn làm phò mã. Thái tử nên về thôi!

Chàng dứt lời bỏ mặc Cửu Vân đứng đó, quay lưng đi tới góc phòng ngồi phệt xuống đất, mắt nhắm lại.

Cửu Vân đứng im một lúc, rồi không biết nghĩ sao lặng lẽ rời nhà lao.

Bọn thủ ngục vội vàng khóa cửa, đưa thái tử ra ngoài. Chàng thót lên yên ngựa đầu óc vẫn còn quay cuồng điên đảo không biết tin ai? Ngờ ai?

Nghĩa huynh chàng nói giọng hờn mát uất hận như thế, chắc chắn không phải là kẻ giao tình với công chúa ngoài vòng lễ giáo. Chắc chắn công chúa đã lén lút dan díu với kẻ khác và vu oan cho Trường Sơn, để buộc Trường Sơn phải chịu kết hôn.

Nghĩ đến đấy toàn thân Cửu Vân run lên. Chàng cảm thấy xấu hổ, vì đã có ý nghi ngờ vị nghĩa huynh đã cùng chàng thề nguyền sống chết có nhau.

- Không! Ta không thể để cho nghĩa huynh ta chết một cách oan ức như vậy được! Chàng kêu gào trong cổ họng và quay ngựa trở lại. Bọn gác ngục thấy thái tử vừa đi đã trở lại đều kinh ngạc. Cửu Vân vội nói:

- Ta còn quên vài điều cần hỏi tội nhân. Mau mở cửa! Ta còn phải trở về trình báo phụ vương. Tên chủ ngục lấy đèn chạy đi mồi lữa, vì khi nãy Cửu Vân đi ra chúng đã tắt rồi. Cửu Vân vội nói:

- Không phải đốt đèn làm gì! Ta gấp lắm! Mau mở cửa cho ta! Các ngươi hãy chờ ta bên ngoài.

Chàng trở vào nhà lao lần này không đèn, tối om, không nhìn thấy Trường Sơn nơi đâu, nên gọi khẽ:

- Nghĩa huynh! Em trở lại cứu anh đây!

Trường Sơn đang nhắm mắt chưa ngủ, nghe tiếng Cửu Vân thì giật mình, song không lên tiếng. Cửu Vân gọi lần nữa:

- Nghĩa huynh! Em trở lại để tạ lỗi với huynh, khi nãy đã có dạ nghi ngờ điều không phải với anh. Em ân hận lắm ! Vì em biết rằng con người quân tử như nghĩa huynh không thể làm điều xấu xa mờ ám. Nghĩa huynh ơi, chúng ta đã thề sống chết có nhau thì em đâu có thể để cho huynh chết một cách oan ức như vậy được?

Chàng vừa nói vừa quờ quạng tìm kiếm Trường Sơn. Câu nói của chàng như vị thuốc xoa dịu vết thương lòng cho người anh kết nghĩa. Trường Sơn cảm động đứng lên dang hai tay đón Cửu Vân. Cả hai ôm nhau nghẹn ngào một lúc. Trường Sơn nói:

- Nghĩa đệ hiểu rõ lòng anh, bao nhiêu đó an ủi anh lắm rồi. Ngày mai anh có chết cũng không còn gì uất ức nữa!

- Huynh không thể chết! Huynh nên rời ngục thất ngay bây giờ. Chàng nói và cởi chiếc áo choàng khoác lên người Trường Sơn. Bây giờ đã quen với bóng tối cả hai đều trông thấy nhau. Trường Sơn trả áo lại cho Cửu Vân, bảo:

- Nghĩa đệ muốn anh mượn xác em ra khỏi nhà lao để em ngồi đây thay anh à? Không! Anh không thể nào làm thế! Anh không tham sống sợ chết để liên lụy cho đệ.

- Em chỉ tạm ngồi đây đến sáng, khi bọn thủ ngục vào tìm anh, chúng thấy em thì đâu dám làm gì?

- Hoàng thượng và hoàng hậu sẽ trừng trị em vì đã giải

thoát tù nhân.

- Bất quá em bị quở mắng. Chớ hùm dữ kia còn không ăn thịt con, cha mẹ em không giết em đâu ! Huynh đừng lo! Trường Sơn quyết không đi, nói:

- Anh chỉ muốn được chết, vì đời anh đâu còn nguồn vui để sống? Gia đình anh đâu còn ai nữa? Anh sống để làm gì? Sống cho ai?

- Hiền huynh chẳng từng nói với em : « hiền huynh sống không cho mình mà cho quốc gia dân tộc ». Hiền huynh quên rồi sao?

Lời nhắc nhỡ của Cửu Vân khiến Trường Sơn nghe toàn thân lạnh ngắt.

Phải! Thù nhà còn đó... nợ nước còn kia... Từ khi lìa quê hương ra đi, hiền mẫu chết, tổ mẫu chết, tấm thân bơ vơ lưu lạc... Những lúc cùng cực đau khổ, bao phen chàng quyết tìm cái chết. Song kịp nghĩ đến dân tộc đang sống kiếp đọa đày, đất nước điêu linh trong tay giặc, tổ quốc đang chờ những đứa con thân yêu trở về giải thoát quê hương khỏi quân hung bạo, nên chàng đã phải sống!

Giờ đây chàng lại càng không thể chết một cách vô lý vì người con gái Chiêm Thành.

Chàng tự xấu hổ với mình, nên nắm tay Cửu Vân nghẹn

ngào:

- Cám ơn hiền đệ đã nhắc nhỡ đến bổn phận của anh.Thù nhà và nợ nước còn nặng oằn đôi vai, anh phải sống! n của hiền đệ kiếp này không trả được, kiếp sau xin báo đền. Chàng nói vừa lấy áo của Cửu Vân khoác vào mình. Cửu Vân dặn dò:

- Ngựa của tiểu đệ đứng trước cửa nhà lao, hiền huynh cứ tự nhiên đi ra. Bên ngoài trời tối, bọn lính canh không thể phân biệt mặt mũi giữa chúng ta đâu ! Hiền huynh đừng lên tiếng, nhanh chân lên ngựa phóng khỏi hoàng thành, đi về hướng Tây độ ba chục dậm sẽ thấy một gian nhà lá ở đầu rừng. Hiền huynh tạm nghỉ đêm nơi đó. Ngày mai em sẽ cho người đem cho huynh ít tiền bạc, y trang và hướng dẫn huynh

sang Chân Lạp lánh nạn. Đời chúng ta còn dài, em tin chúng mình sẽ có ngày gặp nhau.

Trường Sơn xiết mạnh Cửu Vân trong vòng tay một lần nữa, rồi bước nhanh ra khỏi phòng giam.

Cửu Vân ngồi thu mình một góc phòng, nghe tên chủ ngục cài cửa và nghe tiếng vó ngựa vút đi, trong lòng vui mừng vì biết nghĩa huynh đã qua mặt được bọn giữ ngục.

Chàng lo nhất là bọn thị vệ ở cửa ngọ môn. Bỗng chàng phì cười một mình, vì nhớ lại nghĩa huynh chàng võ nghệ tuyệt luân, muốn thoát khỏi vòng vây của bọn vệ binh thật dễ như trở bàn tay.

Chàng hồi nhớ đến những ngày chung sống với Trường Sơn nơi chòi lá cạnh lò rèn... Chàng bị thương nằm một chỗ, Trường Sơn chăm sóc thuốc thang. Tuy bữa cơm bữa cháo, mà cái tình tri kỷ đậm đà biết mấy!

Chàng lại nhớ đến buổi nằm chết giấc trong rừng được Trường Sơn giải cứu khỏi bàn tay hung bạo của Bồ Chấn. Từ ấy đến nay Bồ Chấn biệt tích, phụ vương chàng và Bồ Điền làm lờ như không hay biết câu chuyện xảy ra.

Hai năm sống chung tại hoàng cung, chiều chiều Trường Sơn dạy chàng võ nghệ, đêm đêm đàm đạo nơi vọng nguyệt lầu, thỉnh thoảng anh em đi săn thú... Thật là đôi bạn tương đắc, tưởng thế gian này không ai có được!

Với dung mạo sang cả, khí phách hào hùng, nghĩa huynh chàng đã thu phục được cảm tình của vua cha và mẫu hậu, em gái chàng lại yêu say đắm. Chàng kết nghĩa với con người hoàn hảo như thế, hoàng gia thoả mản vô cùng.

Thế nhưng con người hoàn mỹ ấy lại được thêm một điểm đáng ca ngợi là điểm chung tình. Cửu Vân biết Trường Sơn đã hứa hôn và cũng biết gia đình của vị hôn thê của nghĩa huynh bị giặc bắt. Người con gái ấy có thể đã chết. Thế mà nghĩa huynh chàng vẫn quyết giữ dạ thủy chung, nên Hoa Na theo đuổi hai năm trời vẫn yêu trong tuyệt vọng!

- Vì nó yêu tuyệt vọng nên thâm thù vu oan cho người

ta!

Chàng tự hỏi công chúa đã dan díu với ai? Hai năm qua nó chỉ si mê nghĩa huynh chàng. Vậy ngoài...

Chàng bỗng nhớ tới buổi chiều cả hai té hồ, Hoa Na oán hận Trường Sơn từ đó không tìm gặp nhau nữa. Vụ này xảy ra hơn hai tháng rồi! Thì ra từ ngày ấy công chúa lén lút giao tình với kẻ khác để trả hận con người nhạt nhẽo với mình. Nhưng... kẻ bí mật ấy là ai?

Chàng hỏi hoài một câu hỏi mà không giải đáp được nên chán nản không nghĩ tới nữa, ngoẹo đầu vào vách ngủ một giấc đến nửa đêm, bỗng nghe bên ngoài có tiếng rù rì nho nhỏ. Lạ lùng là âm thanh của phụ nữ và chàng nghe quen thuộc lắm:

- Con đã xông mười nén mê hồn hương, bọn chúng mê man đến sáng mai mới dậy. Cửa phòng giam con đã mở từ lúc nãy. Lệnh bà có cần con làm điều gì nữa không?

- Con Phi Hồng mã đâu sao không thấy?

Câu hỏi của người ấy làm Cửu Vân giật mình nhảy nhỏm. Giọng nói này làm sao chàng không nhận ra được?

Chấn động tâm thần Cửu Vân ngồi đờ không nhúc nhích, mình xuất mồ hôi.

Bên ngoài tiếng nói của hai người vẫn vọng vào:

- Ngựa buộc phía sau ngục thất này, để con dắt tới đây. Lệnh bà...

- Thôi con đi dắt ngựa, rồi chờ ta bên ngoài.

- Thưa vâng.

Có tiếng chân chạy đi. Bỗng có tiếng người đàn bà thứ hai gọi giật lại:

- Hãy khoan! Con hãy hướng dẫn ta đến phòng giam ấy, rồi hãy đi dắt ngựa.

Tiếng chân hai người bước vào nhà giam… kế tiếp là tiếng cửa mở. Một người chạy đi, một ngươì len vào...

Cửu Vân kinh hãi quay mặt vào vách. Vì người đàn bà bước vào không ai khác hơn là mẫu hậu của chàng!

Cũng may nhà lao tối om và hoàng hậu Nhữ Lan có lẽ hổ thẹn nên không dám xách đèn theo. Đèn bỏ lại bên ngoài nên bà không trông rõ tù nhân ngồi đâu. Bà gọi khẽ:

- Công tử! Nguyễn công tử!

Giọng bà hơi run, chứng tỏ bà xúc động nhiều và phải một lúc sau bà mới nói được:

- Cửa ngục đã mở... bên ngoài có ngựa... Công tử hãy gấp rời chốn này, lánh kinh đô càng xa càng tốt... Công tử nên đi ngay... Thiếp... đã soạn sẵn hành trang cho công tử ... Thiếp cầu chúc...

Mỗi lời phát ra dường như cơn xúc động cũng tuôn theo, hoàng hậu Nhữ Lan cứ phải ngập ngừng bỏ lững câu.

Cửu Vân sợ nếu mình không lên tiếng thân mẫu sẽ tới gần lay gọi, chừng ấy khó thể giấu mặt, nên nhái giọng cưng cứng của Trường Sơn nói tiếng Chiêm Thành:

- Da tạ! Người là ai? Vì sao...

Hoàng hậu Nhữ Lan ngắt lời Cửu Vân:

- Công tử đừng thắc mắc vì sao thiếp cứu công tử ... Thiếp... Thôi! Công tử hãy kíp ra đi và đừng nên biết thiếp là ai.

Lúc bấy giờ Cửu Vân đã quay mặt về phía mẫu thân. Trong bóng tối chập chờn, chàng thấy mẹ vận y phục màu đen, đầu trùm chiếc khăn đen che kín cả mặt.

Chàng ngẩn ngơ nhìn mẹ, trong lòng không hiểu lý do vì sao mẹ mình giải thoát cho nghĩa huynh một cách lén lút? Vì sợ phụ vương chàng phản đối chăng? Điều này chàng không chắc lắm! Vì chàng đâu lạ gì mọi lệnh trong ngoài đều do mẫu hoàng quyết định?

Thấy chàng vẫn ngồi ì một chỗ không chịu chạy đi, hoàng hậu Nhữ Lan cuống cuồng nói:

- Chàng nên kíp ra đi, vì tên vua hung bao ấy tìm mọi cách lấy đầu chàng. Trời ơi, chỉ vì lòng dạ xấu xa ghen bóng ghen gió mà hắn xúi giục con gái vu oan cho chàng tội lỗi nhơ nhớp để có cớ chém đầu. Thiếp thật không ngờ hắn quá tiểu nhân như thế!

Câu nói của mẹ khiến Cửu Vân sững sờ đứng lên… Bao nhiêu thắc mắc trong lòng gần như giải tỏa! Không chần chờ, chàng chạy biến ra ngoài.

Hoàng hậu Nhữ Lan vì quá xúc động mặt cúi gầm xuống, nên không trông thấy con trai mình vừa phóng qua.

Cửu Vân chạy ra tới sân… thấy con Đan Trang cung nữ thân tín của mẹ đang nắm giữ cương ngựa. Nó thấy một người từ nhà ngục phóng ra, ngỡ là Trường Sơn, nên luýnh quýnh trao dây cương, không dám nhìn mặt. Cửu Vân tung mình lên ngựa sải như bay.

Khoảng đường đến cửa ngọ môn đâu đâu cũng lặng như tờ. Bọn lính canh đều ngủ say như chết! Chàng đoán là mẫu hậu đã ra lệnh con Đan Trang xông mê hồn hương để Trường Sơn thoát đi không bị trở ngại.

Một lúc ngựa đã bỏ xa hoàng thành, chàng thả cương đi chầm chậm, lòng miên man nghĩ ngợi không biết mình phải làm gì?

Khi nãy vì sợ mẫu thân nhìn mặt, chàng đóng vai trò nghĩa huynh nên phải ra đi. Giờ cần chi phải đi?

Chàng toan quay ngựa trở về hoàng thành, bỗng sực nhớ mẫu hậu có nói đã soạn đầy đủ hành trang cho nghĩa huynh. Như vậy chàng cứ việc đem đến cho nghĩa huynh, ngày mai khỏi phải sai cận vệ mang tới.

Con phi hồng mã bây giờ phóng vùn vụt trên con đường vắng teo, dưới bầu trời lưa thưa vài ánh sao đêm...

--------------------------------

1. La Khải có chú thích ỏ đoạn trước.

2. Quan Tàu cai trị An-Nam từ 1407-1424.

3. Nhân vật có thật trong sử gíup nhà Hậu Trần.

4. Như trên.

5. Trận Bô Cô xảy ra vào tháng chạp năm Mậu Tý 1408 quân Minh thua, Vua Giản Định muốn thừa thế tấn công Đông Đô (Thăng Long), nhưng Đặng Tất và Nguyễn Cảnh Chân can, muốn chờ binh các nơi tựu về. Gián Định nghe lời gièm pha giết hai người này.

6. Như trên.

7. ua quân nhà Hồ đều bọ bắt giải về Tàu, Nguyễn Phi Khanh đồng số phận. Riêng Nguyễn Trãi giữ chánh Ngự Sử Đài mà không bị bắt, vì quan nhà Minh muốn tìm cách thu dụng.

 Chương 10: Những kẻ bán nước hại dân

Mái nhà hoang vô chủ trước khu rừng buổi nay bỗng xuất hiện đôi tuấn mã cao lớn, lông dài mướt tuyệt đẹp.

Bầy chim rừng có lẽ thấy sự khác líu lo hỏi nhau, làm thành một khúc nhạc tưng bừng vào buổi bình minh.

Thình lình cửa nhà mở toang. Bầy chim hốt hoảng bay ra xa, dương đôi mắt lấm lét nhìn về gian nhà...

Một chàng thanh niên thật tuấn tú từ trong bước ra ngẩng mặt nhìn trời…

Bầu trời hôm ấy thật xanh.

Nắng ban mai trải dịu dàng lên cây cỏ, chiếu trên những giọt sương long lanh buổi sớm, tựa như ngọc kết trên cành, ngọc rơi trên lá...

Chàng thanh niên ngắm cảnh một lúc quay trở vào nhà. Nhà chỉ là một mái lá nhỏ xíu bên trong không có gì ngoài cái giường bằng tre, từ trước đến sau trống rỗng!

Trên giường có một người đang ngủ say. Chàng thanh niên ngồi bên bệ giường vẻ mặt đăm chiêu nghĩ ngợi…

Chốc nữa đây hai người sẽ chia tay. Nghĩa đệ chàng trở về với cuộc đời vương giả. Còn chàng dấn bước giang hồ nơi đất khách xa xôi.

Chẳng biết ngày mai ra sao?

Thân phận của con người vong quốc lưu lạc nổi trôi... Nơi đâu cũng chẳng phải là nhà! Nơi đâu cũng chẳng phải là quê hương!

- Ôi đời ta như lục bình trôi, không biết ngày nào mới trở về bến cũ?

Sau tiếng than nho nhỏ là tiếng thở dài. Người đang ngủ bỗng giật mình mở mắt nhoẻn miệng cười:

- Nghĩa huynh dậy rồi à? Sao không gọi tiểu đệ?

- Anh thấy đêm qua hiền đệ ngủ quá ít nên để yên. Bây giờ trễ quá rồi, anh phải lên đường. — Phải! Tới giờ chúng ta khởi hành. Chàng thanh niên gượng cười:

- Chúng ta cùng khởi hành một lượt, để đi đến khoảng cách chân trời gốc bể, phải không Cửu Vân hiền đệ?

- Không! Chúng ta cùng đi một hướng. Tiểu đệ đưa nghĩa huynh qua Chân Lạp, sẵn viếng thành An Dương một thể [1]. Em nghe... — Đừng nên...

- Ô, Trường Sơn anh! Hãy để em nói hết. Em không có ý đưa nghĩa huynh đi đâu. Em muốn đi theo nghĩa huynh để viếng thành quách lâu đài của vua Chân Lạp, là một kỳ quan tuyệt thế, mà em hằng ao ước được tới xem một lần.

- Nhưng...

- Nghĩa huynh nhìn thấy đó không? Cửu Vân vừa nói vừa chỉ hai túi hành trang, cười bảo:

- Em đã soạn sẵn các thứ cho cuộc hành trình của chúng mình.

Đêm qua Trường Sơn đang ngủ bỗng nghe tiếng vó ngựa dừng trước ngõ. Chàng phóng khỏi giường rón rén bước về phía cửa, chợt giật mình đánh thót vì tiếng nói quen thuộc vang bên ngoài:

- Nghĩa huynh ơi! Mở cửa cho em vào nhà với.

Trường Sơn mừng rỡ mở cửa chạy ra đón nghĩa đệ. Cửu Vân xuống ngựa, quảy hai túi nặng trĩu trên yên ngựa vào nhà nói:

- Em đến để tiễn huynh lên đường, nhưng bây giờ còn khuya mình nên ngủ cái đã, mai ngày sẽ hay.

Cửu Vân không muốn kể việc mẹ tới ngục thất giải cứu Trường Sơn, mà không hay biết con trai mình ngồi đó. Chàng mang hai túi nặng thì đoán mẫu hậu cho rất nhiều vàng bạc, nên mới tính theo Trường Sơn qua Chân Lạp.

Đêm qua vì quá buồn ngủ cả hai không có thời giờ trò chuyện và Cửu Vân cũng chưa kịp nói ý mình cho nghĩa huynh biết.

Nghe Cửu Vân muốn đi theo mình, Trường Sơn tuy có vui mừng, nhưng chống đối:

- Hiền đệ giải thoát cho anh khỏi nhà giam, giờ còn bỏ hoàng cung ra đi. Anh nghĩ không nên đâu! Em chớ vì anh mà làm phiền giận cha mẹ để mang tội bất hiếu.

- Em sẽ thư cho mẫu hậu biết em đi đâu. Lúc nữa đi ngang huyện đường, em sẽ đưa thư cho quan huyện nhờ mang về triều. Lão quan vùng này biết em nhiều, nên chắc lão sẽ làm theo lời em ngay. Em tin mẫu hậu không phiền giận, vì người biết tánh em thích phiêu lưu.

Trường Sơn vẫn không an tâm:

- Còn việc tuyển chọn nguyên phi tháng tới? Cửu Vân cười dòn:

- Ôi việc cưới vợ hơi đâu anh lo! Năm nay không tuyển nguyên phi được thì năm tới. Nói thật với anh, có hai việc trên đời mà em ngán nhất là cưới vợ và làm vua. Trường Sơn nhìn Cửu Vân bằng ánh mắt hết sức chiêm ngưỡng. Tự nhủ:

- Hắn là thái tử mà tánh tình phóng khoáng tự do, trên đời hiếm có người được như vậy. Chàng thân thiết nói:

- Được nghĩa đệ làm bạn đồng hành còn gì vui thú cho bằng? Cửu Vân nhìn ra ngoài trời, vụt la hoảng lên:

- Ôi chao, trưa quá rồi! Mình phải gấp lên đường kẻo bị...

Chàng không nói dứt câu, vì thấy mình lỡ lời có thể làm buồn lòng nghĩa huynh. Giờ này chắc hoàng cung xôn xao vì tù nhân vượt ngục. Phụ vương chàng có khi đã ra lệnh trốc nã Trường Sơn khắp nẻo đường cũng nên! Bởi mẫu hậu cho biết vì lòng ghen tuông cha mình quyết lấy đầu nghĩa huynh.

Nhớ tới vụ lục đục giữa cha mẹ, Cửu Vân thấy khó chịu không muốn nghĩ thêm nữa, bèn nói nửa đùa nửa thật:

- Ngủ trên cái chổng tre này mà khoan khoái còn hơn giường ấm nệm êm ở cung vi, thật là lạ! Tiểu đệ đầu thai làm con vua quả không đúng chỗ!

Rồi chàng tới lục nơi hai túi hành lý lấy ra hai bộ áo gấm, một đưa cho nghĩa huynh, một cho mình vừa nói:

- Bắt đầu từ nay hai anh em mình làm hai công tử nhà giàu đi chu du. Nghĩa huynh và em gấp thay y trang, mình đi ngay.

Trường Sơn không chống đối, hấp tấp thay áo mới.

Số y phuc này một phần của Trường Sơn đã có sẵn. Hoàng hậu Nhữ Lan cho lệnh con nữ tỳ Đan Trang sang tư phòng của chàng lấy theo. Một phần là do hoàng hậu tặng cho.

Đương nhiên Trường Sơn không hay biết gì và đinh ninh Cửu Vân soạn y phục của mình và số kia là của Cửu Vân.

Ngoại trừ những bộ dạ hành bó sát người thì khó mặc chung, vì Trường Sơn cao hơn Cửu Vân nửa đầu. Còn loại áo rộng có đai thắt lưng như áo gấm họ đang mặt, thì sự chênh lệch cao thấp không thành vấn đề.

Chốc lát từ trong túp lều tranh có hai chàng công tử ăn mặc sang trọng chun ra với hai túi hành trang nặng trĩu. Đôi tuấn mã thấy chủ vẫy đuôi mừng rỡ.

Con đường mòn trong khu rừng buổi ấy chim muông tưng bừng vỗ cánh cùng với vó ngựa tung bay.

° ° °

Rời thủ đô Đồ Bàn hai anh em kết nghĩa xuyên qua miền rừng núi cao nguyên đất đỏ, ban ngày nắng cháy da, ban đêm lạnh thấu xương.

Khoảng đường họ đi làng mạc rãi rác, dân cư thưa thớt và thỉnh thoảng mới tìm thấy quán trọ. Thường thường hai anh em ăn ngủ ngoài trời, có hôm phải săn thú, có hôm phải ăn đỡ trái rừng. Phải nói cuộc hành trình vô cùng nhọc nhằn, nhưng chưa bao giờ Trường Sơn cảm thấy thích thú và yêu đời đến như thế.

Ngày ngày trên lưng con tuấn mã vượt suối băng đèo, kiếp sống giang hồ lãng bạc giúp chàng tìm lại cái thú vị của thời oanh liệt cùng phụ thân tung hoành trên yên ngựa.

Bên cạnh chàng, Cửu Vân là kẻ sung sướng hơn hết. Vì từ khi phụ vương đánh họ La, chiếm được ngai vàng lên làm vua, lúc ấy Cửu Vân mới 10 tuổi, khoảng thời gian lớn lên cứ phải sống gò bó trong hoàng thành. Nay được tự do ngao du sơn thủy, sống kiếp giang hồ như những chàng kiếm sĩ anh hùng thời xưa, Cửu Vân thích thú vô cùng.

Hôm ấy đã gần nửa tuần trăng, hai anh em bỗng trông thấy trước mắt đồng bằng bát ngát, núi non Chiêm Thành đã bỏ lại đàng sau.

Hiện họ đang đi trên đường mòn xuyên qua ruộng lúa thuộc xứ Chân Lạp. Xa xa nhìn thấy mái nhà lúp xúp... Khói lam chiều ẻo lã bay bay giữa khoảng trời trong vắt.

Hai anh em phóng ngựa đi một lúc qua khỏi thôn xóm, bỗng thấy trước mắt giòng sông to rộng mênh mông, mặt nước êm ả xanh lơ.

Trường Sơn kêu nhỏ:

- Anh chưa từng thấy con sông nào to lớn như vậy. Thật không khác gì nhìn thấy đại dương! Cửu Vân ngẫm nghĩ một lúc nói:

- Em nghe phụ hoàng kể ở Chân Lạp có Cửu Long giang bắt nguồn từ Vân Nam bên Trung Hoa chảy qua Vạn Tượng, đổ dài xuống Chân Lạp đến tỉnh Nam Vang [2], rẽ về miền tây sẽ đến biển Hồ, rẽ về miền đông thì đổ ra biển.

Trường Sơn nghe Cửu Vân nói bỗng sực nhớ khi xưa có nghe Trường Giang kể về con sông này…

Hôm đó chàng và Trường Giang lấy thuyền đi trên sông Hồng đến làng Tây Kiết (phủ Khoái Châu tỉnh Hưng Yên) để gặp Lê Tất Hóa cận tướng của thân phụ. Trường Giang ngồi trên thuyền thấy nước chảy xiết bỗng nói: «Con sông này nước chảy quá mạnh, gây nạn vỡ đê, nước tràn về đồng bằng phá hại nhà cửa mùa màng của dân cư. Thật là cái nạn nghìn đời cho dân mình ! Chẳng bù ở Lang Chang [3] và Chân Lạp có Cửu Long giang rộng mênh mông như biển, mà thủy triều lại êm dịu hiền hòa, đem lại cái trù phú cho dân nước họ» [4].

Trường Sơn nghe em nói liền hỏi:

- Do đâu hiền đệ biết rành quá vậy?

- Em đọc sách nghiên cứu địa hình các nước lân bang, thấy tài nguyên thiên nhiên của xứ họ phong phú mà thèm khát cho dân mình [5].

Lời nói của thằng em học giả văng vẳng bên tai… khiến Trường Sơn ngậm ngùi thương nhớ. Hơn hai năm biền biệt tâm hơi, huynh đệ bỗng dưng chia lìa, chẳng biết trong đời có còn được phút tương phùng hay không?

Chàng vụt thở dài. Cửu Vân nghe tiếng thở dài của Trường Sơn lấy làm lạ, hỏi:

- Có điều gì làm nghĩa huynh phiền muộn?

- Không!

Chàng cười để khỏa lấp nỗi buồn đang xâm chiếm tâm tư, rồi cao giọng nói:

- Nghĩa đệ nói đúng lắm! Giòng sông này đích thị là Cửu Long giang, nước chảy hiền hòa như nàng thục nữ nương mình bên cạnh tình quân.

Cửu Vân nghe Trường Sơn ví giòng sông như nàng con gái không nhịn cười được, vui vẻ nói:

- Nghĩa huynh à, nàng dịu hiền như vậy, tại sao ta không lấy thuyền xuôi về kinh đô An Dương ? Vừa để cho chúng ta và ngựa nghĩ ngơi, bù lại những ngày lăn lóc trong rừng, vừa thưởng thức cái êm dịu của giòng Cửu Long?

Trường Sơn vỗ tay tán thành:

- Ý hiền đệ hay lắm! Ta nên gấp đến bến tìm thuyền.

Bấy giờ trời đã hoàng hôn, gió bay lãng đãng... Đôi kỵ mã thong thả buông cương, chẳng mấy chốc đến bến Chơ Long [6], thuyền bè tấp nập, người người đông đảo...

Vì tiếng Chiêm Thành và Chân Lạp không khác nhau nhiều, nên cả hai hỏi thăm tìm thuyền không khó. Có người điềm chỉ chiếc thuyền to lớn đậu ngoài xa là thuyền buôn từ Vạn Tượng, sẽ ghé Nam Vang và An Dương, người chủ thuyền hiện đang ngồi trong quán ăn.

Trường Sơn và Cửu Vân nghe nói liền đi tới giáp mặt với chủ thuyền. Người này tiếp đón hai anh em chàng rất vồn vã:

- Tôi sẽ đưa quí công tử đến nơi đến chốn. Hiện giờ nhị vị nên ăn no bụng, rồi chúng ta sẽ khởi hành.

Trường Sơn với Cửu Vân không từ chối, gọi chủ quán đem rượu thịt và các thức ăn đặc biệt của người Chân Lạp để hai anh em chàng thưởng thức với chủ thuyền.

Trong bữa ăn ông ta kể:

- Tôi là người mua bán, giao dịch nhiều với các nước lân bang, nên tới đâu tôi cũng học nói một ít. Tôi nói được tiếng Chiêm Thành, tiếng Chân Lạp và tiếng An Nam. Người Xiêm nói cùng một ngôn ngữ như dân xứ tôi.

Cửu Vân nghe ông ta nói biết tiếng Chiêm và An Nam nên vui vẻ giới thiệu:

- Nghĩa huynh tôi người An Nam, còn tôi là người

Chiêm.

Chủ thuyền nghe giới thiệu Trường Sơn là người An Nam, liền nói:

- Từ khi nước An Nam bị quân ăn cướp chiếm giựt, người An Nam sống lưu lạc khắp nơi. Ở nước tôi cũng có khá nhiều dân tị nạn.

Cửu Vân sợ nhắc đến dân tị nạn khơi mối thương tâm của nghĩa huynh, nên lập tức xen vào:

- Thuyền ông có ghé Nam Vang không?

- Tôi ghé Nam Vang hai ngày. Nếu nhị vị công tử đồng ý ở lại hai ngày tại Nam Vang thì đi với thuyền tôi. Bằng hai vị muốn đi gấp thì cứ đón thuyền khác đi ngay An Dương. Trường Sơn cười nói:

- Anh em chúng tôi đi chu du, nơi đâu cũng có thể dừng chân. Chúng tôi chẳng phải đi gấp đâu!

- Nếu thế thì tiện lắm.

Ba người ăn uống no say. Cửu Vân định trả tiền, song người chủ thuyền dành trả, nói:

- Thuyền tôi đưa khách bao cả ăn. Xin để tôi trả bữa ăn

này.

Trường Sơn nghe nói liền hỏi:

- Xin cho chúng tôi biết chi phí cho cuộc hành trình luôn ăn uống của hai anh em tôi và đôi ngựa đến An Dương là bao nhiêu?

Đáng lý ra chủ thuyền đã mở đầu giá cả trước, nhưng vì thấy hai chàng công tử có vẻ phú quí sang giàu nên ông ta không nêu ra. Giờ nghe Trường Sơn hỏi, ông ta cười hề hề đáp:

- Quý công tử muốn trả bao nhiêu tùy ý. Trường Sơn nghiêm giọng nói:

- Xin ông cứ thành thật cho chúng tôi biết giá.

- Xin cho tôi một lượng vàng. Trường Sơn tưởng mình nghe lầm, gạng hỏi lại:

- Một lượng vàng?

Chủ thuyền thấy thái độ của chàng, hiểu lầm chàng chê mắc, vội vã phân trần:

- Vì tôi muốn cung phụng cho nhị vị thức ngon vật lạ, thịt tươi, cá tươi, nên hao tốn. Nếu như... Trường Sơn lắc đầu ngắt lời:

- Ông hiểu lầm rồi! Tôi muốn trả thêm chi phí cho ông vì có đôi ngựa.

Cửu Vân cười nói:

- Chúng tôi trả ông hai lượng, được chứ? Chủ thuyền mừng rỡ ríu rít nói:

- Tôi biết nhị vị là người giàu có, tính tình hào phóng... Chuyến buôn này gặp quý công tử là cái may cho tôi.

Trường Sơn chợt nhớ tới các chủ thuyền ở bãi Sầm Sơn độ nào. Gia đình chàng đã phải trả trăm lượng vàng để bao thuyền ra đi. Rốt cuộc bị hắn ta lường gạt rước thêm mối khác, chỡ đầy khẳm đến nỗi gây ra tai nạn ! Ngoài ra, bọn ấy nếu tính tiền đầu người, mỗi người phải trả ít nhất 5, 10 lượng!

Thế mới biết chủ thuyền An Nam vì thấy đồng bào quá sợ giặc nên thừa cơ đục lợi một cách tàn nhẫn, không nghĩ gì tới tình đồng bào che chỡ đùm bọc trong cơn hoạn nạn !

Cửu Vân là người rất tinh tế thông minh, thoáng thấy nghĩa huynh nét mặt dàu dàu, nên vờ hỏi chuyện khác:

- Gặp con nước chắc thuyền đi nhanh lắm hỡ ông chủ?

- Vâng, chiều mai mình sẽ đến Nam Vang.

Ba người rời quán ăn xuống chiếc thuyền con cùng với Phi Hồng mã và Hoàng Long mã. Một người đàn bà Chân Lạp bơi thuyền nhỏ đưa họ ra cập với thuyền lớn đậu ngoài khơi.

Hai con ngựa nhảy lên phóng xuống từ thuyền nọ qua thuyền kia một cách thần tình, khiến chủ thuyền người Lão Qua buột miệng khen dài:

- Tôi chưa từng thấy ngựa của ai to lớn, lại xinh đẹp khôn ngoan dường ấy. Ngàn vàng không đổi được ngựa quí như thế ! Nhị vị công tử làm sao mua được?

Cửu Vân với Trường Sơn đưa mắt nhìn nhau, hội ý giấu nhẹm gốc tích đôi ngựa và chủ nhân nó, nên cả hai lờ đi.

Thuyền quá to, người An Nam gọi là ghe bầu, có mui rộng lớn. Dưới khoang thuyền chỡ đầy ấp chén bát kiểu, bên trên chứa tơ lụa gấm vóc, nên ngăn từng buồng có cửa khóa

cẩn thận. Chính giữa có lối đi để thông thương từ mũi đến

lái.

Ông chủ thuyền tên gọi là Bòn Mân. Sau khi giới thiệu khắp nơi trên thuyền cho hai anh em Trường Sơn và Cửu Vân, ông ta nói:

- Các sản phẩm này từ Vân Nam đưa xuống. Chén bát kiểu từ Giang Tây, tơ Tô Châu, gấm Thượng Hải... Các thứ này dân giàu có và vua chúa Chân Lạp rất ưa thích. Tôi bán các thứ này tại đây, chuyến về mua lại cá khô.

Hai con ngựa đứng phía trước mũi, phía sau có chỗ nấu ăn. Trên thuyền có 4 đàn ông lực lưỡng. Có hai thiếu niên độ 13,14 tuổi và hai cô gái khoảng 17,18 tuổi. Tựu chung có 8 gia nhân phục dịch dưới thuyền.

Bòn Mân ra lệnh cho gia nhân thu dọn hàng hóa vào hai buồng kia để làm một buồng trống cho hai anh em Trường Sơn.

Vàng bạc hoàng hậu Nhữ Lan đưa cho quá nhiều, nên có được phòng riêng cửa khóa cẩn thận Cửu Vân rất vừa ý.

Qua ngày thứ hai thuyền mới tới Nam Vang, tức tới trễ hơn dự tính. Chủ thuyền lên bờ để giao dịch với các con buôn, phân phối hàng hóa. Trường Sơn với Cửu Vân cũng lên bờ với đôi ngựa, vàng bạc, hành lý… và hẹn với chủ thuyền hai hôm sau sẽ trở lại để cùng đi An Dương.

Phố Nam Vang thời bấy giờ buôn bán khá nhộn nhịp, lại nhầm vào giờ ăn trưa thiên hạ vô cùng tấp nập. Hai anh em Trường Sơn thả ngựa chầm chậm vào khu thương mại. Bất thần đôi mắt Trường Sơn dán kín vào các tấm biển treo trước các cửa tiệm, nào là : Chợ Thăng Long, Chợ Thanh Hóa, Chợ Tràng An v.v... Đó đây cũng đầy dẫy các quán ăn to lớn với bảng hiệu: «Tửu lầu Gia Lâm», «Tửu điếm Hòa Bình»...

Chỗ nọ: «Phủ Nho Quan điếm tứ», chỗ kia «Đà Giang tửu quán» v.v... và v.v...

Tất cả đều ghi rành rành bằng tiếng An Nam, không khác gì cả xứ An Nam dời về đó! [7]

Trường Sơn không tưởng tượng nỗi dân mình sao có thể trở nên giàu có thịnh vượng nơi xứ người như vậy?

Chàng và Cửu Vân bước vào một quán ăn cỡ trung trung, cũng do người An Nam làm chủ. Sẵn dịp chàng hỏi thăm tình hình đồng bào.

Bà chủ tiệm cho biết bà họ Khúc, trước ở Đông Triều, lập nghiệp ở Nam Vang đã được hai năm. Bà và gia quyến bà có thuyền nên cả gia đình ra đi từ Đồ Sơn, định tị nạn ở Chiêm Thành, nhưng mỗi khi thuyền tấp vào cửa bể đều bị lính Chiêm đẩy ra biển [8]. Thuyền bà xuôi dọc theo hải phận mãi đến lúc thấy con sông lớn thì rẽ vào, cũng không biết đó là Cửu Long Giang thuộc nước Chân Lạp.

Trường Sơn hỏi:

- Thuyền bà lênh đênh trên biển trên sông chắc lâu lắm mới tấp được vào đây?

- Vâng, công tử đoán đúng lắm. Hơn tháng trời ròng rã thuyền tôi mới cập được bến Nam Vang, cũng do số phận chớ không tính trước. Nhờ thuyền lớn chứa nhiều thức ăn nước uống cho gia đình tôi 10 người, nên không gặp cảnh đói khát trên biển. Khi vào Cửu Long giang thì thức ăn nước uống vừa hết. Chúng tôi uống nước trên sông, bắt cá làm độ nhật, thành ra may mắn được sống còn. Chớ thật, nhiều người bỏ quê hương ra đi bị chết vì đói, vì khát, vì hải tặc... [9]

Trường Sơn lại nhớ đến tình cảnh mình, mẹ chết, bà nội chết, đứa em biệt tích, con tim vụt đau nhói lên. Chàng đang ăn vụt thẫn thờ buông đũa !

Người đàn bà họ Khúc vô tình kể tiếp:

- Dân mình về sống ở đây đông lắm. Phần đông thì cũng đủ ăn, gói ghém qua ngày. Cái khổ là gia đình ly tán. Có người tới nơi chỉ còn một thân. Có người vợ con sống ở đây, chồng còn kẹt ở quê nhà. Cũng có người chồng con bị hành hạ chết trong nhà tù, nên một mình ra đi. Cảnh tình dân mình: « cha mẹ con cái anh em kẻ chân trời, người gốc biển! Bà con họ hàng không mong gì gặp gỡ! Thật chưa có thời đại nào khốn khổ như vầy! [10] ». Bà ta vụt đổi giọng hậm hực:

- Chỉ mấy tên bán nước thì sướng đời, không gặp thảm cảnh như dân đen ! Bà nói và chỉ tay ra ngõ, bảo nhỏ:

- Công tử thấy mấy tửu lầu khách điếm đồ sộ đó chứ? Đấy Đấy! Các quan tai to mặt lớn triều Trần vơ vét của dân di tản trước khi bọn cướp nước tới, nên vợ con họ được an toàn, của cải tài sản họ đầy ấp… Họ sống nơi đâu cũng giàu có. Chính họ làm suy sụp triều đại nhà Trần bởi sự mua quan bán chức. Từ Vua đến tể tướng, từ quan to đến quan nhỏ… Ai nấy đua nhau vơ vét sản nghiệp của quốc gia! Nhưng bao nhiêu đó cũng chưa đủ, họ lại còn bán chức cho giặc, cho đến đổi ngày quân ăn cướp vào cướp nước ta, họ cũng không hay biết, chỉ lo cho túi tiền! Họ làm mất nước mà nhân dân lại lãnh họa, còn họ lúc nào cũng phây phây hưởng thụ!

Cửu Vân không hiểu tiếng An Nam nên ngồi yên lặng ăn, chốc chốc liếc mắt nhìn nghĩa huynh thấy sắc mặt lúc đỏ, lúc tái, lúc buồn, lúc giận... cũng đóan được phần nào câu chuyện người đàn bà kể. Đến khi chàng thấy bàn tay của Trường Sơn nắm chặt chén cơm thiếu điều bóp nát từng mảnh, thì kinh hãi gọi khẽ:

- Nghĩa huynh!

Trường Sơn dường như không nghe tiếng gọi của Cửu Vân, đôi mắt đỏ ngầu uất hận:

- Những kẻ bán nước hại dân! Chính họ mở đường cho bọn cướp nước, giờ đây lại còn vênh váo ngựa xe, không biết xấu hổ ăn năn về tội làm vong quốc. Thật là bọn mặt dầy, hình người, dạ thú! Trời cao lẽ nào để cho họ yên thân phì da mãi sao?

- Thưa công tử, ở đây có mấy ngôi chùa dân An Nam mình xây cất. Các bà phu nhân ấy đi lễ thường lắm.

Trường Sơn nghe nói, thở ra:

- Làm tội, rồi đi chùa lạy Phật để hết tội chăng?

Người đàn bà lắc đầu tỏ vẻ chán nản:

- Phải họ đi chùa để tụng kinh sám hối thì nói làm gì? Họ đến chùa để khoe của, vàng vòng kim cương đeo chớp cả người, để cho đám dân khổ nạn tới chùa thấy họ khiếp sợ, hoặc thèm thuồng, hoặc tủi thân, khổ thêm tí nữa, thì họ mới khoan khoái.

- Trời cao có thấu cho dân nước tôi không?

Sau lời than thở Trường Sơn ôm mặt. Người đàn bà đôi mắt cũng đỏ au, bỏ đi vào trong. Cửu Vân lặng nhìn nghĩa huynh, một lúc lên tiếng an ủi:

- Nghĩa huynh à, mọi sự thuộc về dĩ vãng. Anh nên bỏ qua điều buồn khổ, chờ ngày Phục Quốc. Trường Sơn buông hai tay ra, nghẹn ngào nói:

- Mấy năm qua anh sống cũng vì hai tiếng «Phục Quốc» đó thôi.

Người đàn bà chủ quán vụt trở ra hỏi:

- Nhị vị công tử từ đâu tới? Trường Sơn đáp:

- Tôi từ Chiêm Thành sang đây. Còn người này là bằng hữu của tôi, người Chiêm.

- Ở Chiêm Thành đồng bào tị nạn An Nam có nhiều chứ?

- Ở đâu cũng nhiều, vì dân mình không chịu nổi kiếp sống nô lệ tù đày nên bỏ xứ ra đi.

- Gia đình công tử sinh sống ở Chiêm Thành chắc khá lắm?

Chỉ vì bà ta nhìn thấy Trường Sơn ăn mặc sang trọng nên mới dọm hỏi một câu, nhè động mối thương tâm của chàng, mặt chàng tái nhợt, đôi môi giật giật.

Thấy chàng nín im, vẻ mặt khác thường, bà ấy tưởng chàng bệnh thình lình, nên hỏi:

- Công tử khó chịu trong người chăng?

- Không!

Trường Sơn đáp một tiếng cụt ngủn, rồi thẫn thờ đứng lên chào bà chủ quán, nói:

- Cám ơn bà đã cho tôi biết tình hình đồng bào ở đây.

Chàng kéo Cửu Vân ra cửa, phóng lên ngựa chạy một đỗi ra đến bờ sông. Lúc bấy giờ tời vừa quá ngọ, nắng vô cùng gay gắt. Hai anh em dừng nơi gốc cây bên đường núp bóng mát.

Trường Sơn vẫn còn dàu dàu về câu chuyện đất nước điêu linh, dân lành khốn khổ, mà bọn bán nước hại dân phây phây hưởng thụ ở xứ người.

Cửu Vân hiểu rõ tâm sự của nghĩa huynh mà không biết an ủi ra sao, mặt cũng buồn thiu.

Cả hai xuống ngựa ngồi tựa lưng nơi gốc cây, hướng mắt nhìn giòng Cửu Long giang mênh mông vô tận... Trường Sơn ngậm ngùi bảo:

- Đời người giống như giòng nước kia, không biết từ đâu tới, rồi sẽ đi về đâu? Sự sống sự chết...

Chàng đang nói… chợt có một bầy trẻ con chạy qua chỗ hai người chữi bới thô tục bằng tiếng An Nam, trên tay đứa nào cũng có cái ná bắn chim với mớ đạn đất.

Trường Sơn chăm chăm nhìn chúng. Nơi xứ lạ quê người thấy đồng bào mình dù là trẻ con cũng động tâm! Chàng định gọi chúng lại hỏi thăm nhà cửa ở đâu? Chợt bọn chúng chia làm hai phe, lấy gốc cây chỗ Trường Sơn với Cửu Vân ngồi làm ranh giới. Rồi hai phe giương cung bắn loạn xạ nhau, đạn bay véo véo qua đầu hai người.

Trường Sơn lớn tiếng kêu gọi hai bên dừng trận, nhưng bên nào cũng hăng, vừa bắn vừa chữi. Có đứa bị trúng đạn khóc la ỏm tỏi.

Cửu Vân cười, nói:

- Huynh có thét đến động trời chúng cũng không nghe đâu! Hay là huynh biểu diễn thần lực cho bọn chúng ngán. Trường Sơn mỉm cười lắc đầu:

- Biểu diễn thần lực với bọn nhóc con làm gì? Để anh cho chúng thấy trò chơi lạ.

Chàng quơ tay xuống đất hốt một nắm sỏi. Cứ mỗi lần đạn bay qua đầu chàng, chàng búng sỏi bay lên… Viên đạn đất đang bay gặp sức cản của sỏi bể nát, rơi lả tả xuống đất. Cứ như thế, hai phe con nít bắn vù vù… gặp sỏi trên tay Trường Sơn búng ra như mưa.

Bọn con nít thấy kỳ lạ dừng trận đấu, chạy ùa tới chỗ người phá đám chiến cuộc của chúng với thái độ hùng hổ. Chừng thấy hai chàng mặc áo gấm sang trọng ngồi đó… cả bọn lắm lét nhìn rồi lặng lẽ bỏ đi.

Trường Sơn thấy thằng bé đi sau cùng có vẻ hiền lành, trong tay không ná, ý chừng không phải trong bọn làm giặc khi nãy, nên gọi giật lại:

- Này em kia, tới đây cho anh hỏi thăm chút coi!

Thằng bé ngần ngừ không dám bước tới gần. Trường Sơn mỉm cười, ngọt ngào bảo:

- Anh hỏi thăm ba má em ở đâu chớ có gì mà sợ? Thằng nhỏ vẫn đứng xa xa trả lời:

- Ba ở đàng kia.

- Tới đây, tới đây anh hỏi thêm chút chuyện.

Chàng thò tay vào túi định tìm món gì dụ thằng bé, nhưng túi trống rỗng nên tức cười, nói với mình:

- Chàng có kẹo bánh chi! Dụ con nít khó quá!

Cửu Vân bật cười, cho tay vào túi áo mình móc ra ra thỏi bạc nói:

- Đây này, huynh hãy dụ nó thứ này đi.

Thằng bé thấy bạc bỏ chạy một hơi. Trường Sơn với Cửu Vân trông theo cười vang. Cửu Vân cười ha hả nói:

- Nó thấy bạc mà tưởng như thấy ma! Trường Sơn mỉm cười, lẩm bẩm:

- Con cái nhà ai mà thấy bạc không ham, thật đáng

khen !

Chàng trông theo lưng thằng bé chạy mút đàng xa, thấy nó khuất vào trong xóm nhà lụp sụp trước mắt. Chàng đứng lên bảo Củu Vân:

- Anh muốn tới xóm đó xem cho biết, đệ theo anh chứ?

Cửu Vân cười:

- Đương nhiên.

Hai anh em thả ngựa đi chầm chậm vào khu xóm. Tới đâu chàng cũng nghe tiếng đồng bào nói vang rân ra đường. Chàng bảo nhỏ Cửu Vân:

- Xem chừng xóm này là xóm của dân tị nạn An Nam.

- Em cũng nghĩ vậy. Cửu Vân vụt reo lên:

- A, thằng nhõ khi nãy!

Quả thật thằng bé đứng lấp ló bên trong cánh cửa một căn nhà nhỏ. Trường Sơn bỗng có ý nghĩ muốn vào thăm hỏi ba má nó, nên rũ Cửu Vân:

- Mình vào nhà thằng bé nhé ?

Cửu Vân đồng tình. Cả hai xuống ngựa. Khu này nhà nào cũng có sân nho nhỏ, nhưng không có rào. Trước nhà có một cây me to khá cao. Đôi ngựa buộc nơi gốc me.

Trường Sơn toan xách hành lý theo, Cửu Vân cản lại:

- Không cần xách theo nghĩa huynh à! Hai con ngựa này chỉ anh em mình tới gần được. Kẻ lạ xáp tới nó đá ngay.

Trường Sơn gật đầu:

- Phải phải! Hiền đệ nhắc anh mới nhớ.

Hai anh em vừa tới trước ngõ nhà đã thấy một người đàn ông ốm yếu khoảng trên 40 tuổi từ trong nhà bước ra hỏi:

- Liệt vị tìm ai chăng? Trường Sơn với Cửu Vân đồng chấp tay xá chào. Trường Sơn nói:

- Chúng tôi tình cờ đi ngang qua đây, thấy thằng bé dễ thương nên có ý muốn làm quen với gia chủ.

Người kia vui vẻ mời:

- Kinh mời liệt vị vào nhà.

Trường Sơn thấy người này cung cách quí phái, dù nơi ăn chốn ở đơn sơ. Chàng với Cửu Vân được mời ngồi nơi ghế cạnh chiếc bàn nhỏ gian nhà ngoài. Có lẽ là chỗ để tiếp khách và chỗ ăn. Trong nhà có kệ sách và mấy chiếc ghế mây.

Trường Sơn liếc nhìn mớ sách, thấy toàn sách quí như Trương Giang vẫn đọc, lòng thầm kính trọng chủ nhân. Tự nhủ: «Ta cũng nên nói sơ gốc gác mình trước để tỏ lòng kính trọng».

Chàng nói:

- Vãn sinh quê ở Tràng An, rời xứ gần 3 năm và sinh sống ở Chiêm Thành. Người này là anh em kết nghĩa với vãn sinh, vốn là người Chiêm. Chủ nhà luôn giữ nụ cười hiền hậu trên môi:

- À hóa ra liệt vị từ Chiêm Thành qua chơi. Gia đình tôi vừa định cư ở đây được hai tháng. Quê tôi ở Thanh Hóa. Sau ngày giặc chiếm nước, tôi bị vào tù về tội sĩ phu. Hiền thê tôi mua bán vặt vừa nuôi con, vừa nuôi tôi trong tù. Vì bọn chúng nhốt người mình quá nhiều không cung cấp đủ gạo cơm, nên gia đình phải nuôi luôn người nhà trong tù. Người ấy kể đến đó nụ cười không còn nữa, đôi môi mím lại như đè nén nỗi đau thương. Một lúc nghẹn ngào nói:

- Tôi trốn khỏi nhà ngục tìm thuyền đưa vợ con ra đi. Hiền thê tôi vì mấy năm lao lực nuôi chồng hơi sức kiệt quệ, không chịu đựng nỗi cơn đói khát trong cuộc hành trình, nên chết dọc đường.

Trường Sơn xúc động nói:

- Thảm cảnh của gia chủ vãn sinh thông cảm lắm, vì...

Chàng nghẹn một lúc mới trút hết tâm sự của mình. Người kia nghe xong câu chuyện của Trường Sơn, liền nói:

- Lệnh nghiêm đường tôi chưa tận mặt, song tên tuổi nghe biết nhiều. Người chết đi, nhưng cái chết trung nghĩa sẽ lưu danh thiên cổ. Tôi cảm phục người dám bỏ địa vị quyền uy vào rừng lập chiến khu chống triều Hồ, sau đó theo Giản Định đế chống ngoại xâm. Năm trước trong nhà ngục, tôi hay tin người chết sau trận tấn công quân Minh ở bến Bô Cô, lòng bồi hồi thương xót một vị anh hùng.

Trường Sơn nghe nhắc đến cha, mắt rơm rớm lệ. Gương mặt rắn rỏi phong trần của phụ thân như lãng vãng trước mắt chàng...

Mới ngày nào người dặn dò hai con lời tâm huyết, giờ đã là người thiên cổ! Phút chia tay đâu có nghĩ là nghìn thu vĩnh biệt? Đớn đau thay!

Chủ nhà dàu dàu tâm sự:

- Tôi họ Đinh tên Duệ, đổ thái học sinh (tiến sĩ) đời Trần Duệ Tông. Vì thấy vua nhà Trần bạc nhược tham nhũng từ quan lớn đến quan nhỏ, nên chán chường công danh về làng dạy học trò. Đến khi quân cướp nước tràn vào, học trò tôi có người nổi lên chống đối, nên quân dã man ấy bắt nhốt luôn cả tôi.

Trường Sơn ngậm ngùi hỏi:

- Cuộc sống của gia chủ nơi đây có dễ dàng không?

- Mấy năm trước nghe nói chính quyền Chân Lạp cũng trọng vọng người khoa bảng ở xứ mình, nên giúp đỡ phương tiện sống dễ dàng. Nhưng từ năm sau này vì một số người giảo ngôn, khai gian tuổi tác, tên họ, nghề nghiệp… Rồi gần như hạng nào tới đây cũng đều đậu « Trạng Nguyên, Tiến sĩ! » Thành ra chính quyền Chân Lạp cho tất cả dân tị nạn An Nam đồng hạng : «thất học»! Tôi cũng phải làm nghề tay chân như những người khác! Khốn nỗi mình yếu đuối không quen việc nặng nhọc nên đau yếu luôn. Tôi làm trong lò gốm quần quật suốt ngày vẫn không đủ ăn, may nhờ có con gái tôi phụ giúp.

Chủ nhà nói đến đấy rưng rưng nước mắt:

- Tội nghiệp con tôi! Ở quê nhà nó đã làu thông kinh sử, giờ phải làm thợ may cho hiệu may người An Nam làm chủ, cay đắng trăm chiều.

Trường Sơn nghe nói bỗng nghĩ đến Thúy Uyên… Nàng cũng vào hàng tiểu thư đài các, gặp cảnh ngộ như vầy biết có chịu đựng nỗi hay không?

Chàng bỗng thở dài, ánh mắt xa xăm... Tiếng nói của chủ nhà đều đều vang lên:

- Trong xóm này ngoại trừ gia đình tôi, ai ai cũng khá giả, vì phần đông họ là dân chài, sinh sống theo miền duyên hải Đồ Sơn, Sầm Sơn. Hai nơi đó đồng bào mình tới thuê thuyền rời xứ. Họ chỡ người đi thu vàng nhiều vô số, nên đến đây họ có vốn sẵn, lại thêm làm nghề tay chân trên xứ này họ cũng chẳng gặp khó khăn. Trường Sơn than thở:

- Thời cuộc ly loạn, thế sự đảo điên ! Đời người không khác gì một giấc chiêm bao! Có những việc không thể tưởng tượng được! Chủ nhà bỗng đổi giọng oán hờn:

- Dù sao giai cấp ấy cũng không đáng trách. Bất quá họ may mắn nhờ thời cuộc mà thay đổi cuộc sống, chớ chưa phải

là kẻ bán nước hại dân. Chính bọn quan lại tham ô kia làm mất nước mới đáng cho nhân dân nguyền rủa. Lúc nào họ sống nơi nhà cao, cửa rộng, tôi tớ phục dịch. Khi xưa ở quê nhà họ vơ vét tài sản của quốc gia. Giờ ở xứ người họ dùng của cải đó để [11] thao túng đồng bào, gọi là «hạm con buôn».

Trường Sơn thở dài thườn thượt. Cửu Vân không hiểu hai người nói, ngồi yên lặng một bên cũng chán, nên nháy nhó nhăn mặt làm hề với thằng bé. Thằng nhỏ cứ thập thò trốn sau cánh cửa, lúc lúc lú mặt ra cười giỡn với Cửu Vân.

Chủ nhà bỗng đứng lên đi tới kệ sách, lấy ra mấy tờ giấy khá to, rồi mở phanh ra trước mặt Trường Sơn:

- Công tử hãy đọc xem mớ giấy này.

Trường Sơn liếc mắt nhìn vào thấy chữ viết chi chít, nét bút không ra người đoan chính, toàn những lời thô bỉ tục tằn chữi bới mạ lị bên trong.

Nhìn qua tờ thứ hai thì thấy nét bút ngã xiêu, chẳng ra thể thống con người có đọc sách thánh hiền ! Đương nhiên lời viết cũng một giọng điệu chữi bới mạ lị...

Tờ thứ ba, thứ tư… cũng một hình thức như thế. Trường

San cau mày nói:

- Các giấy này hình như là nhóm người nọ chữi bới mạ lị nhóm người kia ? Đâu chừng năm bảy nhóm ! Sao lạ quá, tên của họ nghe thật quen tai? Chủ nhân chua chát nói:

- Thì nhũng tên bán nước ấy tên tuổi vang lừng, nhân dân ai chẳng biết? Giờ họ chia phe, chia nhóm, mướn các thầy đồ viết những tờ «hịch» như vậy đó (ý muốn nói tờ truyền đơn), ngày ngày cho người ra giữa đường giữa chợ đọc lên inh ỏi, châm chích chữi bới nhau bằng «thứ văn chương nặng mùi của họ», có khi bằng tay chân võ lực nữa !

Tội nghiệp cho đồng bào ta, xa nhà xa quê hương, thấy mấy tờ "hịch" ấy tưởng tờ rao truyền đạo lý, hay tin tức quê nhà, nên xúm nhau đọc. Chừng đọc xong mọi người thấy đầu óc choáng váng, tai ù, mắt hoa, tưởng như bùn nhơ trét lên mặt!

Trường Sơn châu mày:

- Họ «đồng nghiêp», «đồng thuyền», «đồng hạm», «đồng đồng»... với nhau, sao lại trở thành thù? Quả thật vãn sanh không hiểu! Còn thầy đồ vốn là người chuộng đạo lý, lẽ nào chịu viết những lời thô tục ấy sao? [12]

- Cũng vì họ «đồng đồng...» với nhau nên biết cái xấu của nhau để phanh phui ra. Sở dĩ có sự thù nghịch vì ngày nay các «Ngài» đều xưng mình là «nhà ái quốc» và các phe của họ lập ra là để «cứu quốc». Họ dành nhau «cứu quốc» giống như thuở nào họ tranh nhau «mãi quốc» vậy! Chủ nhà chợt nhỏ giọng:

- Nói thật, dù cho Ngọc Hoàng Thượng Đế có hạ giới cũng không thể hiểu nổi các «cha nội ấy» muốn gì?

Còn thầy đồ cũng năm bảy hạng thầy đồ. Những thầy đồ chân chính biết điều liêm sĩ, đâu ai chịu viết lời dơ dáy?

Vả chăng công tử cũng nhìn thấy đó… Nét chữ nét bút của hạng thầy đồ đó cũng đoán được là hạng lem nhem đạo lý, làm gì biết được lời cao đẹp của Khổng Mạnh? Họ lại có bao giờ chịu nghiên cứu lời đẹp ý hay của các bậc văn nhân thánh hiền để có thể viết được câu văn hoa mỹ ? Khiến cho người đọc có cảm giác «hành văn lưu thủy», nghe êm dịu như «tiếng chim mùa Xuân», «tiếng dế mùa Thu», hay cao vợi như «tiếng hạc trên không»? Họ xưng là thầy đồ, nhưng làm công việc của thiên lôi! Hễ ai thuê họ «đả» người nào thì họ «đả» người đó. Tội nghiệp cho những nhà ái quốc chân chính, tội nghiệp cho những vị quan thanh liêm, tội nghiêp cho những nhà hàn sĩ... những người suốt đời sống nghèo khổ thanh bạch, hy sinh cho dân cho nước, cũng bị hạng «thầy đồ thiên lôi» kia xúc phạm bôi nhọ.

Trường Sơn nghe qua đầu óc choáng váng, mặt mày bơ phờ, nói giọng thều thào:

- Hơn hai năm qua vãn sinh sống nương nhờ nhà người bạn Chiêm Thành kín cổng cao tường, không hay biết thế sự bên ngoài đảo điên, điên đảo! Than ôi! Nước mất nhà tan, mà tình người cũng mất! Vận nước suy vi cùng cực nên biến «giống Tiên rồng» thành giống «ma vương quỷ quái» đó chăng?

Chàng ngẩn ngơ sầu muộn, một lúc ngẩng mặt nhìn chủ

nhà nói:

- May mà giống người này không nhiều và dân mình cũng biết điều nghĩ suy, không ai còn tin bọn nhơ danh ấy. Vả chăng hồn thiêng của tổ tiên sẽ phù trợ cho đất nước. Ước mong ngày kia sẽ có người tài đức đứng ra lèo lái con thuyền cứu quốc về bến vinh quang [13].

- Tôi cũng hy vọng như thế! Công tử còn trẻ, xem ra cũng là người có chí lớn, nếu có dịp đi chu du nhiều nơi cũng nên tìm những người có lòng vì dân vì nước kết thành một khối, để trở về khôi phục cơ đồ.

Hai người nói chuyện quá lâu, nắng chiều đã ngã dài bóng cây trước ngõ. Trường Sơn thấy nghĩa đệ ngồi buồn thiu một chỗ, vì thằng bé nằm ngoẹo đầu nơi chiếc ghế mây ngủ khò.

Chàng tự nhủ:

- Nghĩa đệ tánh tình thuần hậu, ta bỏ ngồi một mình mà không oán than cằn nhằn chi hết! Con vua mà như hắn, thế gian chỉ có một! Chàng thấy mình có lỗi với bạn, nên nói:

- Hiền đệ tha lỗi cho anh mãi mê nói chuyện, bỏ hiền đệ thui thủi một mình! Cửu Vân nghe nói đến mình giật mình nhìn lại, cười hiền:

- Tuy em không hiểu hai người nói gì, nhưng cũng đoán được câu chuyện. Huynh cần tâm sự với người đồng hương xin cứ tự nhiên, đừng e ngại việc em ngồi đây. Rất tiếc em không biết tiếng An Nam để cùng chuyện trò. Lỗi này một phần do huynh làm thầy dạy võ cho em mà không dạy chữ nghĩa.

Câu nói sau cùng chàng nói bằng giọng dí dỏm, vừa nheo mắt với nghĩa huynh. Trường Sơn cười hề hề.

Chủ nhà nghe hai người nói chuyện với nhau tiếng Chiêm Thành nên không hiểu gì nhiều, bèn bỏ vào nhà trong, phút chốc trở ra với bình trà, ba cái chén và rót nước mời khách.

Hai anh em Trường Sơn không từ chối, nốc một hơi cạn sạch chén trà, rồi đứng lên từ giã.

Trước khi tiễn chân Trường Sơn và Cửu Vân ra cửa, chủ nhà còn dặn dò:

- Còn một điều tôi cũng nên cho công tử rõ, hiện nay có rất nhiều người làm nội tuyến cho địch. Công tử nên đề phòng hạng người này. Hiện nay địch tung rất nhiều những tên chó săn dựa theo đồng bào tị nạn để lấy tin. Cũng có một số tham quyền lợi riêng làm trung gian thuyên chuyển vàng bạc đồ đạc về nước làm giàu cho giặc. Thật là một bọn sâu mọt không nghĩ gì đến quyền lợi đất nước và công cuộc cứu quốc. Trường Sơn chấp tay xá chào chủ nhân, nói:

- Cám ơn những lời vàng ngọc của gia chủ. Mong có ngày gặp lại gia chủ trên quê hương không có bóng quân thù.

Cửu Vân cũng xá chào vị chủ nhà. Hai anh em sóng bước ra đường. Đôi tuấn mã vẫy đuôi mừng chủ.

Con đường bỗng chốc mịt mù cát bụi...

° ° °

Cuộc vui nào cũng có phút tàn, cuộc sum hợp nào cũng có lúc phải chia phôi !

Họ ngồi lặng yên bên nhau lâu lắm. Giòng nước Cửu Long chảy lững lờ trước mắt họ. Con thuyền ngược dòng trở về Vạn Tượng đưa họ đến địa điểm tách rời nhau: «bến Chơ Long» thuộc tỉnh Ra Ty (Kratie) Chân Lạp.

Họ đã định như thế rồi. Đến bến Chơ Long, Cửu Vân sẽ cùng Hoàng long mã rời thuyền của lão Bòn Man trở về Đồ Bàn. Trường Sơn tiếp tục cuộc hành trình đến thủ đô Vạn Tượng xứ Lan Chang (thời kỳ này Lào gọi là Lan Chang).

Sở dĩ giờ chót Trường Sơn đổi ý không lưu lại Chân Lạp để xin tị nạn ở xứ này, vì sau một thời gian ngắn ở đây, tiếp xúc với đồng bào, nghe biết về những tên bán nước, nghe kể về những kẻ nối giáo cho giặc v.v... Chàng chán nản không muốn sống chung đụng với họ, nên quyết đi Vạn Tượng.

Hôm ấy ghé Nam Vang hai ngày, Trường Sơn với Cửu Vân trở về thuyền lão Bòn Man xuôi Cửu Long giang đến Biển hồ.

Thấy chủ thuyền tánh tình vui vẻ chân thật, hai anh em Trường Sơn muốn chuyến trở về cùng đi với lão, nên khi đến Biển hồ chàng hẹn với lão Bòn Man hôm sau anh em chàng sẽ trở lại thuyền lão để cùng đi chuyến về.

Chiều hôm đó đôi tuấn mã nhắm hướng thành An Dương phi nước đại.

Vì từ mấy chục năm nay người Xiêm (dân Thái ngày nay) thường đưa quân sang uy hiếp Chân Lạp [14] nên vua Chân Lạp phòng thủ thành nội rất nghiêm mật. Hai anh em Trường Sơn không dễ gì lãng vãng tới gần.

Hơn nữa, hoàng thành nằm trên một diện tích rộng lớn, bốn mặt đông tây nam bắc đều có những thành quách lâu đài xây bằng đá cao sừng sững, đình nhọn choc trời. Thành ấy là một công trình vỉ đại của dân tộc Chân Lạp xây dựng từ nhiều triều đại vua chúa [15].

Chờ đến tối anh em Trường Sơn giấu đôi ngựa dưới lùm cây, dùng thuật phi hành lao vút về phía lâu đài.

Nhờ trời đêm ấy có trăng, tuy không sáng tỏ, nhưng cũng đủ làm cho anh em Trường Sơn, Cửu Vân chấn động tâm thần trước những tòa lâu đài uy nghi bằng đá, đỉnh nhọn chọc trời. Với những vách thành bằng những tảng đá khổng lồ tạc hình người đứng sừng sựng như chận sự đột nhập của thế giới bên ngoài. Cửa nẻo làm bằng vàng rồng, cho đến đổi cây cầu bắc ngang cũng lóng lánh kim ngân [16].

Thật chỉ lấy mắt mà xem, chớ không lời nào tả nổi công trình vỉ đại siêu việt của dân tộc Chân Lạp thời bấy giờ.

Trọn đêm đó hai anh em Trường Sơn phi thân từ chỗ nọ đến chỗ kia …Vì mỗi lâu đài có một lối kiến trúc đặc biệt [17].

Tờ mờ sáng hôm sau cả hai trở về chỗ cũ lấy ngựa, tâm thần vẫn còn khích động bàng hoàng như vừa tỉnh thức sau một giấc mơ kỳ thú.

Ngồi trên yên ngựa, Cửu Vân cứ chắt lưỡi mãi:

- Cách đây khoảng 200 năm, vào thời vua Chế Ma Na, đã có lần quân Chiêm tấn công thành này và chiếm giữ mấy năm trời. Em xem sử nước nhà, nghe kể giai đoạn này, nhưng quả thật không tưởng tượng nổi với sức nhỏ bé của con người mà có thể xây dựng được công trình vĩ đại dường ấy [18]. Trường Sơn bỗng thở dài, nói giọng ngậm ngùi:

- Muốn gầy dựng một công trình như thế nhân dân Chân Lạp phải cực khổ hy sinh công của, đóng góp cho nhu cầu đòi hỏi của Vua Chúa họ. Hàng trăm vạn sanh linh chắc đã bỏ thây cho cuộc xây cất! Thật tàn nhẫn đâu khác gì Tần Thủy Hoàng bên Tàu khi xưa xây Vạn Lý Trường Thành bằng triệu triệu thân xác người Trung Hoa? Ngừng một lúc chàng tiếp:

- Thường thường sau các triều đại vua chúa bắt dân cung phụng cho cuồng vọng của họ, nhân dân nghèo đói sẽ có những cuộc nổi dậy, hoặc giả ngoai bang xâm lăng vì tiềm lực trong nước không còn. Xem như mấy chục năm nay, Chân Lạp bị sự uy hiếp của Xiêm, sức tàn hơi kiệt. Anh chỉ sợ rồi đây An Dương sẽ vào tay người Xiêm [19], cũng như Vạn Tượng đã rơi vào tay Fa Ngum, để ngày nay thuộc về nước Lan Chang vậy! [20]

Cửu Vân thở ra:

- Xem thế sức mạnh trong lòng dân mới vĩnh cửu, nhưng không mấy vì vua trên thế giới biết gầy dựng sức mạnh ấy.

Hai anh em bàn luận một hồi lên ngựa phi nước đại, chẳng mấy chốc về đến bến Cáp Tu (Kp Phtoul) Biển hồ. Khi lên thuyền lão Bòn Man cả hai ngủ thẳng một giấc đến chiều, không hay là thuyền đã nhổ neo rồi!

Chuyến về thuyền trống hàng hoá, lão Bòn Man rước thêm rất nhiều khách. Lúc tỉnh dậy Trường Sơn với Cửu Vân nghe tiếng cười nói trong phòng chứa hàng hóa bữa nọ, là phòng rộng nhất trong thuyền. Dựa theo tiếng cười nói của họ, Trường Sơn đoán chừng có khoảng trên chục người, mà in hình như họ đang đánh bạc ?

Trong giờ ăn lão Bòn Man cũng tế nhị cho gia nhân mang cơm vào phòng cho anh em Trường Sơn ăn riêng, chớ không ra ngoài ăn với lão như lần trước.

Thành ra tuy đi chung với số hành khách mới, mà anh em Trường Sơn cũng không hề chạm mặt họ.

Hôm ấy thuyền đã qua khỏi Nam Vang từ lâu và đang đi trên mạn sông hơi hẹp [21]. Chẳng còn bao xa nữa thuyền sẽ đến bến Chơ Long. Trường Sơn với Cửu Vân đều ngùi ngùi trước

phút chia tay.

Họ muốn nói thật nhiều, nhưng họ không nói được lời nào, cổ họng như nghẹn lại, hồn họ như quấn quýt không rời!

Cuộc chia tay này có khi trọn đời không còn gặp lại nữa, cả hai đều biết thế nên trong lòng vô cùng ủ ê.

Buổi chiều sau giờ ăn, Trường Sơn với Cửu Vân ra ngồi trên boong thuyền hóng mát, cũng để tâm tình lần chót. Nhưng sự thật thì họ không khác gì hai hình người bằng đá, ngồi lặng yên bên nhau, mênh mang nỗi sầu ly biệt. Trời đã bắt đầu tối, sương rơi lớp lớp trên mặt nước đen ngòm... Thình lình Cửu Vân lên tiếng:

- Hai túi hành lý và vàng bạc em giao hết cho nghĩa huynh để làm vốn. Em về đến biên thùy sẽ đến huyện gần nhất bảo bọn quan lại hộ tống về Đồ Bàn. Em không cần tiền bạc hay quần áo chi, ngoài Hoàng Long mã. Trường Sơn lắc đầu:

- Hiền đệ cho anh nhiều quá, anh làm sao dám nhận? Vả chăng, hiền đệ cũng cần chi phí chuyến về.

- Huynh đừng lo cho em! Từ khi tai nạn về vụ Bồ Chấn, đi đâu em cũng mang theo phù hiệu thái tử. Lúc nào trong phần đất quê hương, em không phải lo gì nữa. Nhân dân Chiêm sẽ tiếp rước thái tử của họ. Trường Sơn quyết định chối từ:

- Không! Anh không muốn nhận quá nhiều vàng bạc của em đâu ! Hiền đệ nên đem về bớt để chi việc khác.

- Thật ra tất cả những thứ đem theo này là của huynh chớ không phải của em. Hoàng hậu Nhữ Lan tặng cho Trường Sơn, mà Trường Sơn không hay biết, vì cho tới giờ Cửu Vân không hề hó hé câu chuyện Mẫu hoàng tới nhà giam. Đã có ý giấu Trường Sơn, bây giờ lại nói hớ ra, nên Cửu Vân giả vờ đứng lên nói:

- Em có một kỷ vật để tặng nghĩa huynh. Anh chờ đây để em vào buồng thuyền lấy ra nhé? Cửu Vân bỏ chạy sau câu nói. Trường Sơn ngồi chờ, ngẫm nghĩ:

- Nghĩa đệ tánh tình rộng rãi nhân hậu, lại hết sức tình cảm và tế nhị. Kiếp này ta không thể nào đền đáp được tình nghĩa cao sâu của nghĩa đệ đã dành cho ta.'

Cửu Vân nói:

Chàng ngồi nghĩ vẫn vơ một lúc lâu không thấy Cửu Vân trở ra, nên quay mặt nhìn vào… Bên ngoài trời tối, nhưng bên trong mui thuyền càng tối om om, vì không có đèn.

Trường Sơn lấy làm lạ, tự hỏi: «Chẳng lẽ Cửu Vân buồn ngủ bỏ đi và dối gạt chàng để đùa giỡn cho vui?»

Chàng vụt đứng phắt dậy, vì thoáng thấy có điều bất thường. Gian phòng của lão chủ, kể cả gian phòng của những người khách, đều không có đèn. Tôi tớ của lão Bòn Man đều như yên giấc cả! Một sự im vắng đầy giả tạo khiến Trường Sơn liên tưởng những tai biến xảy ra cho nghĩa đệ.

Ý nghĩ đó làm chàng lao mình vào trong như tên bắn, đồng lúc ấy có một vật sáng loé lên...

Vật sáng loé lên chẳng phải gươm đao, mà chỉ là một bình rượu bằng bạc, một trong số hàng hóa lão Bòn Man tải về Vạn Tượng. Vì trong mui chỉ chừa một khoảng hẹp ăn thông từ trước mũi đến sau lái và cũng là lối đi duy nhất đến các buồng, nên kẻ nào đó biết chắc Trường Sơn sẽ trở vào phòng tìm kiếm Cửu Vân. Hắn đứng sẵn trong bóng tối, chờ khi chàng đến đúng tầm tay sẽ bổ bình rượu bạc nặng trĩu lên đầu chàng và đinh ninh nếu chàng không bị bể sọ mà chết, thì cũng ngất xỉu.

Có điều hắn không ngờ là Trường Sơn đã đề phòng trước và có điều hắn không tưởng tượng nổi là chàng công tử mặc áo gấm xem văn nhã thế kia là tay võ nghệ tuyệt luân.

Bình rượu trên tay hắn vừa mới nhấc lên để bổ lên đầu nạn nhân theo mưu định của hắn, thì hắn đã kêu một tiếng «hự», vì bị một bàn tay sắt tung vào ngực.

Trong bóng tối không ai đoán được tình trạng sống chết của hắn, chỉ nghe một thân người mềm nhũn rơi trên ván. Cùng lúc ấy cánh cửa buồng chứa khách của lão Bòn Man mở ra, tiếp theo một giọng cười khoái trá và tiếng nói rổn rảng:

- Hắn chết xịu rồi phải không? Mau đốt đèn lên tụi bây! Hạng công tử bột thanh toán dễ quá! ha ha...

Tiếng cười của người này bỗng đổi thành âm thanh è è ự ự trong cổ họng, khiến người nghe có cảm tưởng như hắn cười nôn nã, không kịp thở, bị nghẹt hơi!

Đèn đốt lên… ba tên thủ hạ trong phòng chợt thấy sau lưng thủ lãnh họ có một người hình hài cao đẹp, cái miệng hơi cười. Hai tay người ấy như chiếc gọng kềm vòng vào cổ thủ lãnh họ, giọng nói người ấy lạnh băng băng:

- Mau đưa trả em ta lại đây, nếu các ngươi chưa muốn chết.

Người ấy nói tiếng Chiêm Thành, nhưng tên này hiểu ngay, nên ra lệnh cho bọn thủ hạ chạy đi. Bỗng nghe có tiếng «ôi ôi» và sau đó tiếng «rầm rầm» của hai ba thây người ngã trên ván thuyền.

Trường Sơn không hiểu việc gì xảy ra bên ngoài? Tay xiết mạnh vào cổ tên thủ lãnh... Bất thình lình có một người lao vào phòng như một cơn gió lốc, đồng với tiếng gọi:

- Nghĩa huynh, anh ở đâu?

Qua bóng đen mờ mờ… anh em họ trông thấy nhau. Trường Sơn mừng rỡ buông tên đại đạo, chạy tới đón Cửu Vân. Tên nọ khỏi sự kềm chế của chàng, ngã lăn ra như xác chết. Cửu Vân không chờ Trường Sơn hỏi, vội vàng kể:

- Lúc nãy em chạy vào trong định lấy món quà cho nghĩa huynh, nào ngờ bị bọn trâu ngựa kia tấn công thình lình. Em vì không đề phòng nên bọ một tên bổ lên đầu bằng thứ chi đó, ngất không kịp la.

Khi hồi tỉnh em thấy mình nằm trong phòng, hai tay bị trói, một tên đại đạo ngồi trấn giữ nơi cửa. Thừa lúc hắn không để ý, em vùng dậy chẹt hai tay bị trói vào cổ hắn, ra lệnh hắn mở trói cho em. Hắn vừa mở xong dây trói, em liền tặng cho hắn một cú lên đầu, nằm đơ tức khắc. Vừa phóng ra khỏi phòng, em bỗng nghe tiếng chân người đi tới. Không chờ cho bọn chúng kịp ra tay, em thanh toán một lượt ba tên bằng thế «tam hổ tranh hôn» của hiền huynh dạy. Chúng nó cụng đầu nhau ngất ngư té xịu hết!

Nguyên thế võ này phải là người có sức mạnh và nhanh nhẹn, hai tay vớ một lượt 3 địch thủ rồi tống cả ba vào nhau. Tùy theo sức đẩy mạnh, yếu, địch thủ có thể bị vỡ sọ chết tốt, hoặc chỉ bị u đầu bất tỉnh.

Trường Sơn nghe Cửu Vân nói pha trò «tam hổ tranh hùng» đổi là «tam hổ tranh hôn» không nhịn cười được. Chàng cười ha hả nói:

- Ba tên ấy đi giải thoát cho đệ theo lệnh của anh, ngờ đâu bị em cho «tranh hôn» xúm nhau chết tốt, thật oan mạng! Cửu Vân vừa cười vừa nói:

- Chúng không chết đâu! Em không cố ý giết chúng, mà chỉ cho mỗi đứa một cục u, để trả thù tên nọ đã làm đầu em sưng một cục to như quả trứng. Trường Sơn bỗng nín cười, lẩm nhẩm tính:

- Tên thủ lãnh nằm đây. Hiền đệ xử hết bốn tên. Một tên anh cho nằm ngoẹo bên ngoài. Như vậy cũng có thể chúng còn vài ba tên nữa đang canh giữ lão Bòn Man và bọn gia nhân. Chúng ta mau mau đi giải thoát cho họ.

Chàng nói dứt lời bỗng nghe hai tiếng «ùm ùm» dưới sông. Hai anh em, người chạy ra trước mũi, người chạy ra sau lái, nhìn xuống giòng nước…

Trời tối đen chẳng trông thấy gì, song cả hai cũng đoán có người vừa nhảy khỏi thuyền.

Trường Sơn trở lại buồng tên thủ lãnh và bảo Cửu Vân:

- Hiền đệ vào buồng lão Bòn Man giải cứu lão và bọn gia nhân rồi trở lại đây với anh. Anh canh chừng tên đầu giọc này, chờ hắn tỉnh tra hỏi hắn, để biết lý do vì sao muốn hãm hại anh em mình.

Cửu Vân vâng lời chạy qua buồng lão Bòn Man, chẳng thấy có người, chạy tới chạy lui không biết tìm kiếm lão nơi đâu? Bỗng chàng nhớ dưới hầm thuyền có chỗ chứa cá khô, thực phẩm, nên mồi ngọn đèn dỡ khoang nhìn xuống… thấy chủ thuyền cùng bọn gia nhân bị trói dồn cục với nhau, miệng người nào cũng bị nhét giẻ.

Chàng nhảy xuống mở dây trói cho lão chủ và nói:

- Ông chủ giải cứu cho bọn gia nhân, tôi trở lên trói bọn kia lại để ông tùy ý xử trị.

Chàng chạy trở lên. Bốn tên bị chàng cho ngất ngư khi nãy rên ư ử. Không chần chờ, chàng kéo chúng nhốt vào buồng khóa cửa lại, rồi trở qua gặp nghĩa huynh.

Bây giờ tên thủ lãnh đã tỉnh. Hắn ngồi khúm núm trước mặt Trường Sơn như kẻ tội trước mặt vua. Cổ hắn còn in mấy dấu tay của Trường Sơn tím bầm và sưng húp. Khó nhọc lắm hắn mới nói ra lời:

- Xin đại quan tha tội cho tôi. Tôi xin khai thật... Cũng vì tôi nghe lỏm câu chuyện của hai tên nọ ở Biển Hồ, biết được thái tử Chiêm bỏ hoàng cung đi chu du nên... Cửu Vân nhảy nhỏm, quát:

- Té ra ngươi biết tiếng Chiêm quá rành, lại còn biết ta là thái tử? Ngươi là ai? Dân nước nào?

Tên nọ nhìn thấy Trường Sơn trừng mắt lên, hắn ríu ríu

nói:

- Tiểu nhân người Xiêm, sống ở Păc Xế (Pakse) họ Nhiên tên Bư. Nhân chuyến vừa qua đưa anh em xuống Biển Hồ chơi, vô tình nghe lỏm câu chuyện của hai người nọ, biết họ đi tìm thái tử Chiêm theo lệnh của quốc vương và hoàng hậu xứ này. Bọn tôi theo dõi những người ấy và biết được đi tới đâu họ cũng hỏi thăm tin tức một người hình dáng như... thái tử…

- Và khi biết được hình dáng ta rồi, ngươi cùng bọn đàn em chia nhau đi tìm ta ? Chừng gặp ta đi trên thuyền lão Bòn Man thì chúng bây giả vờ cũng thuê thuyền lão để theo dấu ta ? Nhưng điều ta muốn biết là ngươi hạ thủ ta với mục đích gì?

- Bẩm thái tử ... tiểu nhân ... tiểu nhân không có ý hại thái tử, mà chỉ bắt giữ để đòi quốc vương Chiêm tiền chuộc ... Tiểu nhân không ngờ thái tử và vị đại quan đây võ nghệ phi thường mới dám làm liều... Chớ nếu... Trường Sơn cười, ngắt lời:

- Sao ngươi ngu thế? Hèn chi ngươi tên Bư cũng phải! Nên biết rằng làm thái tử phải tài kiêm văn võ để sau này nối nghiệp đế chứ? Ngươi tưởng thái tử yếu xịu như hạng công tử bột để ngươi bắt làm con tin à? Thật đáng tội chết!

Cửu Vân nói hớt:

- Bẩm bẩm...

Câu chót của Trường Sơn làm tên đại đạo líu lưỡi nói không ra câu. Cửu Vân lẩm bẩm nói:

- Chẳng biết mẫu hoàng sai ai đi tìm em để rắc rối này?

Lúc ấy lão Bòn Man đã ra tới. Lão nghe nói Cửu Vân là thái tử Chiêm thì thất kinh dập đầu làm lễ tạ ơn chàng đã cứu lão.

Trường Sơn bỗng hỏi tên cướp:

- Ngươi định bắt hai ta và cướp luôn thuyền của người này chứ gì?

Tên đạo tặc cúi mặt lặng thinh. Lão Bòn Man tức giận

nói:

- Xin thái tử và đại quan trừng trị bọn này để tránh tai họa cho dân. Chúng là bọn cướp nổi tiếng trên sông này. Thuyền bè qua lại đều bị chúng quấy nhiễu. Bấy lâu nay tiểu nhân nghe tiếng mà không ngờ chuyến này gặp chúng. Nếu không nhờ thái tử và đại quan giải cứu, chắc đã bị thẩy trôi sông.

Trường Sơn với Cửu Vân nghe nói liền quắc mắt nhìn tên đại đạo. Hắn sợ hãi chối leo lẻo:

- Bẩm thái tử và đại quan! Đây là lần đầu tiên tôi làm... bậy. Tôi không có ý định thả trôi những người này... Nếu không thì... họ đâu còn trên thuyền tới giờ này?

Trường Sơn nhìn thấy mắt hắn giảo hoạt, mặt mày hung hiểm, nhưng tạm thời chưa định giết hắn, vì muốn điều tra trọn ổ chúng, nên nói:

- Thôi được! Ta chưa xử tội ngươi đâu.

Chàng bảo lão Bòn Man tìm sợi dây thừng thật chắc, trói cả bọn dính với nhau và nhốt trong buồng chúng.

Bọn tôi tớ bây giờ mới lục đục tới lạy tạ ơn hai người hùng đã cứu họ. Họ chưa biết Cửu Vân là thái tử, nhưng nhìn vẻ sang cả của hai chàng công tử áo gấm không ngờ trong nháy mắt đã nắm đầu được bọn đạo tặc, ai nấy đều hết sức khâm phục.

Một lúc sau Trường Sơn kéo Cửu Vân ra trước boong thuyền ngồi lại chỗ cũ. Trời đã khuya lắm, song cả hai chưa muốn đi ngủ. Nỗi buồn của cuộc chia tay sắp tới lại xâm chiếm tâm hôn họ.

Trường Sơn bỗng thở phào nói:

- May mà nghĩa đệ không hề gì, chứ không trọn đời anh ân hận.

Cửu Vân cười:

- Hiền huynh ân hận điều chi?

- Vì đưa anh đi Chân Lạp mà đệ suýt bị hại.

Cửu Vân cười nhỏ:

- Hơn hai năm sống chung nhau mà huynh chưa hiểu tánh tình của em. Đã đành chuyến này em qua Chân Lạp là cũng muốn tiễn chân huynh. Nhưng máu trong người em là máu phiêu lưu mạo hiểm. Cuộc sống trong lòng son em ngán vô cùng! Cho nên chuyến đi này vì huynh một phần, mà vì em nhiều hơn. Chàng ngừng một lúc rồi tiếp:

- Em biết huynh chống đối, chớ thật ra hiện giờ em chưa muốn về thẳng Đồ Bàn. Sáng ngày ghé bến Chơ Long mình lên bờ đi vòng vòng cho ngựa bớt chồn chân, rồi cùng trở về thuyền đi đến sào huyệt chúng. Em không để huynh đi thám hiểm một mình đâu. Trường Sơn giật nẩy mình, vì không ngờ Cửu Vân quá thông minh, đoán được ý chàng muốn tới sào huyệt bọn cướp. Chàng toan lựa lời chối để Cửu Vân không đòi theo, nhưng chưa kịp mở miệng, Cửu Vân đã nói chặn:

- Hiền huynh chớ tìm cách kìm hãm ý thích của tiểu đệ. Em nhất quyết đi theo huynh.

Cả hai quay mặt nhìn nhau. Dưới trời đêm mờ ảo, bốn con mắt long lanh ngấn lệ, mà môi miệng họ lại chứa chất nụ cười.

--------------------------------

1. Tức Angkor, người Việt Nam gọi là Đế Thiên Đế Thích.

2. Trước thủ đô của Chân Lạp là An Dương (Angkor). Năm 1431 bị người Xiêm đánh phá và chiếm cứ nên thủ đô mới đổi về Nam Vang. Thời kỳ này Nam Vang chỉ là một thị trấn.

3. Lão Qua (Lào) do Fa Ngum lập quốc từ 1353.

4. Thời kỳ này miền Nam Việt Nam còn thuộc phần đất Chân Lạp (Cao Miên)

5. Trường Giang là một nhà ái quốc, mọi tư tưởng và hành độngcủa chàng d đều nghĩ đến dân đến nước.

6. Tức Cholong thuộc tỉnh Kratie – Cambodge.

7. Hoàn toàn giả tưởng.

8. Tác giả dựa vào những thảm trạng xảy ra của người Việt hiện tại để mường tượng cùng hoàn cảnh ấy của dân tộc An Nam thời vong quốc ngày xưa.

9. Như trên.

10. Hoàn toàn giả tưởng.

11. Danh từ Hạm có từ thời đại nhà Trần và nhà Hồ (tức thế kỷ 14)

12. Ngày xưa chưa có báo chí nên việc thông tin cho dân do các tờ "hịch" hoặc "cáo tri" của vua do quan văn viết ra, hoặc các thầy đồ chép ra. Từ khi có nhà in nhà báo thầy đồ giải nghệ !!.

13. Ước nguyện của chàng sau thành sự thật, nhờ có người anh hùng Lê Lợi khởi nghĩa đuổi quân Minh.

14. Năm Giáp Tuất (1394) người Xiêm chiếm thành An Dương (Angkor) để hoàng tử Xiêm la Anto làm vua Chân Lạp, nhưng chẳng bao lâu ông này bị dân Chân Lạp giết, thành ra hai nước luôn luôn thù hận chiến tranh.

15. Thành xây từ đời vua Indravarman (thế kỷ thứ 9) đến đời vua Jayavarman VII (thế kỷ 15) hoàn thành một chương trình vỉ đại với nhiều lâu đài thành quách, hồ nhân tạo, sông nhân tạo, trên diện tích 60 km2.

16. Mỗi vì vua nối ngôi xây một lâu đài, biến chế theo ý riêng của mình. Những cái tiêu biểu nhất là: Angkor Vat, Bayon, Angkor Thom, Ta Prohm, Preah Khan, Bakheng.

17. Mỗi vì vua nối ngôi xây một lâu đài biến chế theo ý riêng của mình. Những cái tiêu biểu nhất là: Angkor Vat, Bayon, Angkor Thom, Ta Prohm, Preah Khan, Bakheng.

18. Chiêm Thành chiếm Angkor từ 1177-1181 (Thời Chế Ma Na ?) Giòng họ Chế trị vì Chiêm Thành từ đầu thế kỷ 11 với Vua Chế Củ chuyển đến đời thứ 10 là Chế Bồng Nga là dứt (1390).

19. Trong thời gian 1350-1430 Chân Lạp bị Xiêm uy hiếp đến 1431 Xiêm lại tấn công Angkor, vua Ponhea buộc lòng phải dời đô về Nam Vang sau khi Angkor bị tàn phá.

20. Cuối thế kỷ 12 từ Mékong (Cửu Long) đến Vientiane (Van Tượng) thuộc Chân Lạp. 100 năm sau bị Xiêm chiếm giữ, đến 1353 Fangum nhờ giúp đỡ của vua Chân Lạp chinh phục cả đất Lào và Vạn Tượng lập thành quốc gia mới tên Lan Chang.

21. Khoảng này là Kompong Cham chính giữa có một cù lao nên sông rẽ làm hai ngánh hẹp đến Peam Chileang sông mới nhập lại.

 Chương 11: Vào lòng đất địch

Bức tranh đèo «Tử Địa» đã hoàn thành, Trường Giang buông ngọn bút lông đứng ra xa ngắm nghía, vẻ mặt vô cùng thỏa mãn.

Hơn một năm qua chàng tới lui nhiều lần đèo Tử Địa để vẽ bức họa đó, nhưng trên thực tế là cũng để viếng thăm Huệ Đế.

Từ đêm trăng tâm tình trò chuyện với nhà vua nơi thạch động, hai người trở thành đôi tri kỷ. Trường Giang vẫn trở về ngôi nhà của mình nơi làng Nam Liêm để tiếp tục nghề thày thuốc và dạy học, cũng để theo dõi tình hình quê nhà. Thỉnh thoảng chàng trở lai khu rừng nơi đèo Tử Địa lén thăm Huệ Đế và lưu lại vài ngày.

Đương nhiên đối với dân làng họ chỉ biết chàng đến đó để vẽ tranh và đương nhiên chàng đi một mình chớ không đem theo Chu Thập hay Nam Liêm, để giữ bí mật tuyệt đối chỗ ở của Huệ Đế.

May mà chẳng ai dám tò mò đi theo, vì vùng đó ma quỉ xuất hiện phá quấy người đi đường, chỉ riêng Đoàn tiên sinh vẫn không hề gì.

Lần đầu tiên thầy trò đi Đạm Châu viếng di tích Tô Đông Pha, chuyến trở về Đoàn tiên sinh bỗng dưng mất tích. Nam Liêm với Chu Thập về làng khóc lóc báo tin. Dân chúng thương tiếc lập miếu thờ và đinh ninh Đoàn tiên sinh bị ma quỉ bắt. Nào ngờ ít hôm sau Trường Giang trở về làng, kể rằng: «Chỉ vì ham mê ngắm cảnh nên đi lạc trong rừng, sau mới tìm được đường ra».

Dân làng Nam Liêm nghe Đoàn tiên sinh nói ai cũng tin là thật và cho rằng chàng là thần thánh nên ma quỉ không dám động tới. Sau này thấy chàng đi lại nhiều lần vẫn bình yên, họ lại càng tin chắc chàng không phải người thường.

Đáng lý ra bức họa này chàng đã hoàn thành từ lâu, nhưng vì muốn có cớ tới lui vùng đó mà chàng cứ phải vẽ dây dưa.

Buổi nay nét tô điểm cuối cùng đã xong, Trường Giang đứng ngắm nhìn một lúc rất vừa ý. Chàng cất tiếng gọi Chu Thâp lấy búa và đinh để treo tranh lên vách, song gọi hai ba lần vẫn không nghe tiếng hồi đáp của tên gia đồng.

Bỗng có tiếng người xôn xao trước ngõ, Trường Giang ngẩng mặt trông ra… thấy hai người ăn mặc binh sĩ đi vào, theo sau là đám dân làng, có cả Chu Thập.

Chàng còn đang ngơ ngác, hai người lạ tiến tới hỏi:

- Có phải tiên sinh là thầy thuốc ở đây?

- Vâng.

- Mời tiên sinh theo chúng tôi trị bệnh cho một vị đại quan của triều đình.

Trường Giang hỏi:

- Vị đại quan hiện ở đâu?

- Hiện ở trên hải thuyền kia.

Theo tay người ấy, chàng hướng mắt nhìn ra cửa biển, thấy vô số hải thuyền đậu ngoài khơi. Thuyền nào cũng to lớn vĩ đại. Loại hải thuyền chiến đấu, có đặt các giàn xạ tiễn chung quanh.

Trên thuyền cờ xí bay phất phới, thủy quân Minh đứng lố nhố. Rõ ràng là một quân lực hùng hậu đi chinh phục xứ người!

Trường Giang rúng động tự hỏi:

- Bọn này đi dày xéo quê hương ta đây chăng?

Ý nghĩ ấy làm chân chàng chùn lại, lòng mênh mang đau thương và thù hận...

Hai binh sĩ Minh thấy Trường Giang đứng khựng lại liền

nói:

- Tiên sinh theo chúng tôi lên thuyền nhỏ ấy ra khơi mới tới thuyền vị đại quan được.

Chàng biết mình không thể cưỡng lại quyền lực của bọn này. Hơn nữa lương tâm của một thầy thuốc không cho phép chàng từ chối hay chần chờ việc cứu chữa bệnh nhân. Nhưng quả thật là trớ trêu cho hoàn cảnh một vị lương y phải trị bệnh cho kẻ thù trên đường đi tiêu diệt dân tộc mình!

Chàng theo hai tên binh ra khơi với cõi lòng nặng trĩu. Một lúc thuyền nhỏ bơi tới gần, Trường Giang trông thấy trước mũi hải thuyền đậu giữa có lá cờ đỏ với 6 chữ thật to: «Bình Tây Đại sứ Trịnh Hòa» và phía dưới cờ có 2 chữ: «hồi quốc» [1].

Trường Giang đọc hai hàng chữ, biết ngay bọn này ghé đây trên đường về. Chàng hỏi dọ hai tên binh:

- Chẳng hay binh triều từ đâu trở về?

Một tên nhanh miệng đáp:

- Quan Đại sứ dẫn hùng binh đi tuyên truyền oai đức của thiên triều ở các nước Mã Lai, Nam Dương… và đã thần phục được các nước ấy. Trên đường về chẳng may Ngài bị bệnh nặng, nên quan Đề Đốc hạ lệnh ghé đảo này tìm lương

y.

Khi chàng leo lên hải thuyền, có một vị quan ăn mặc oai vệ, tuổi khoảng tứ tuần, râu quai hàm, bước ra đón chàng bằng ánh mắt vừa xâm xoi, vừa kinh ngạc.

Có lẽ ông ta không tưởng tượng nổi trên hải đảo xa xôi hẻo lánh này có một người dung nghi quí phái, hình vóc cao đẹp sang cả thế ấy, nên trân trối nhìn chàng.

Một trong hai tên binh đi rước chàng, chạy tới nói nhỏvào tai ông ta lời chi đó… Ông ta bước tới tươi cười nói với Trường Giang:

- Té ra tiên sinh không là người trên đảo?

Chàng đáp:

- Tôi người Vân Nam, họ Đoàn, lưu lạc tới đảo này đã hơn hai năm. Người ấy lại nói:

- Nghe nói tiên sinh về văn học đã uyên thâm, mà nghề thuốc lại tinh vi. Thật là cái may cho Trịnh Đại sứ đang lâm bệnh ngặt nghèo! Nào, mời tiên sinh theo tôi vào chẩn mạch cho người.

Trường Giang theo người ấy bước xuống mấy bậc thang đi vào trong. Buồng thuyền rộng lớn như một gian nhà có nhiều phòng. Đồ đạc bàn ghế không thiếu món chi. Đó đây trướng gấm màn the, đẹp đẻ không khác gì chốn lầu son.

Chàng thật không tưởng tượng nổi trên nóc thuyền đặt đầy giàn xạ tiễn, trang bị quân sự, binh sĩ nghiêm trang canh gác, mà phía dưới chỗ ở kiêu sa như thế!

Chàng được dẫn đến gian phòng phía trước. Một tên binh đứng gác cửa thấy chàng đi tới với vị Đề Đốc liền làm lễ chào theo nghi cách quân sự, rồi mở cửa cho hai người vào.

Người nằm trên giường mặt mày sưng húp, đôi môi tím ngắt, nên khó đoán được niên kỷ bao nhiêu ? Chàng ngồi trên ghế cạnh giường chẫn mạch bệnh nhân, nghe tim đập yếu ớt, các huyết mạch có điều khác lạ, nên nói với vị Đề Đốc:

- Vị quan này bị trúng độc trầm trọng. Xin Ngài cho tôi rõ bệnh xuất phát lâu chưa?

- Cách đây một ngày, sau khi ăn buổi cơm chiều, ngài Đại Sứ cảm thấy khó chịu nên đi ngủ sớm. Sáng hôm sau thức dậy thấy toàn thân sưng phù, người nóng hâm hấp, lúc tỉnh lúc mê. Lúc tỉnh, Ngài nói trong bụng Ngài đau đớn khó chịu lắm.

- Buổi ăn bữa trước có cá phải không?

Câu hỏi của chàng làm vị Đề Đốc hết sức ngạc nhiên.Ông ta đáp:

- Tiên sinh đoán đúng lắm! Tôi còn nhớ rõ bữa cơm hôm qua ngoài hải yến còn có cá chiên. Quan Đại Sứ vừa ăn vừa nói: «Tôi chưa từng ăn con cá nào ngọt thịt như vậy». Ngài bảo tôi ăn. Tôi có nếm thử, song vì thấy món ấy Ngài thích nên tôi không ăn.

Trường Giang nhìn vị Đề Đốc, cười nhẹ:

- Thật là may cho Ngài! Ấy là do thiên số. Nghe chàng nói thế, vị Đề Đốc lo âu hỏi:

- Tiên sinh nhắm có thể cứu Ngài Đai Sứ được không?

Trường Giang ngẫm nghĩ một lúc mới đáp:

- Vị Đại sứ ăn nhầm con cá cực độc, lại traĩ qua một ngày một đêm rồi. Tuy hiện tại tánh mạng còn, song chất độc đã tan vào máu, làm kiệt quệ các tạng phủ. Tôi không dám hứa với Ngài điều chi. Hy vọng là còn cứu kịp. Ngay bây giờ xin Ngài cho người theo tôi vào đảo lấy thuốc và hãy cho vị Đại sứ uống theo lời căn dặn của tôi. Vị Đề Đốc nói:

- Xin tiên sinh chịu khó mỗi ngày ra thăm bệnh vị Đại sứ. Nếu Ngài thoát khỏi tử thần, công của tiên sinh sẽ được thưởng tưởng xứng đáng. Trường Giang nghiêm giọng:

- Làm thầy thuốc có bổn phận cứu người, dù là kẻ thù. Tôi làm cho trọn với lương tâm, chớ không mưu cầu điều lợi.

Vị Đề Đốc nghe chàng nói, lòng sinh kính trọng, vội vàng chữa lời:

- Tôi biết con người cao quí như tiên sinh không tham muốn điều chi. Nhưng làm người phải biết điều ân nghĩa, nhất là cái ơn cứu tử sánh bằng ơn sanh thành. Tôi tin Trịnh Đại Sứ khi được cứu sống chắc chắn phải cảm cái ân sâu của tiên sinh.

Trường Giang cười nhẹ:

- Xin Ngài và Trịnh Đại Sứ chớ bận tâm việc ấy.

Chàng hối hả bước đi, nói:

- Cứu người như cứu hỏa! Ngài nên cho người theo tôi lên đảo lấy thuốc ngay. Mỗi sáng tôi sẽ trở ra thăm bệnh.

Hai tên đi rước chàng khi nãy, giờ đưa chàng trở vào đảo.

Đúng theo lời chàng hứa hẹn và căn dặn, mỗi buổi sáng chúng vào đảo đón chàng ra hải thuyền để chữa bệnh vị Đại sứ. Đến ngày thứ tư bệnh tình của bệnh nhân đã thuyên giảm.

Hôm ấy chàng vừa bước vào phòng, vị Đại sứ ngồi dậy nắm tay chàng nói giọng thân thiết:

- Mấy hôm tôi như người chết. May nhờ tiên sinh tậntình cứu chữa và chăm sóc tôi, tôi mới sống được. n của tiên sinh to lắm... Tôi... thật rất muốn đền đáp mà không biết phải đền như …

Trường Giang ngắt lời:

- Xin Ngài an tâm! Tôi chỉ làm bổn phận một lương y.

Qua ngày thứ sáu, người ấy đã hoàn toàn bình phục, nên bảo bọn binh sĩ hộ tống ông ta theo chàng lên đảo. Vị Đề Đốc cũng đi theo.

Vừa bước vào gian nhà của chàng cả hai đều sững sờ ngắm các bức tranh treo trên vách. Tuy họ có nghe bọn binh sĩ kể lại dân trên đảo rất quí trọng chàng, gọi chàng là Tô Đông Pha tái thế. Nhưng trong trí họ, họ không tưởng chàng có tài hội họa cao diệu đến thế.

Dưới những bức họa đều có đề thơ. Hai vị quan ngâm nga đọc, lòng càng kính phục, buột miệng khen dài:

- Tranh đã tuyệt tác, mà thơ cũng tuyệt luân! Quả thật tài thi họa của tiên sinh vượt hơn Đông Pha cư sĩ. Trường Giang khiêm nhường:

- Các ngài khen quá lời khiến tôi vô cùng hổ thẹn. Tôi chỉ là một thư sinh không đường khoa cử. Trịnh Đại Sứ chân thật nói:

- Chắc vì ẩn tình nào đó Tiên sinh lánh nẻo công danh. Theo tôi, tài năng của Tiên sinh mà đua chen với đời chắc chắn danh phận sẽ ở vào hàng tuyệt đỉnh.

Trường Giang mỉm cười: — Tôi lại không thích mùi chung đỉnh.

Vị Đề Đốc xen vào:

- Lời thơ trên các bức họa này tuy có ý nói cảnh đẹp của trời đất, nhưng nghe như tiếng hờn u uất của con người thương nhà nhớ nước?

Trường Giang không muốn họ tìm hiểu ẩn tình của

mình, nên nói lãng:

- Ngày mai Trịnh Đại sứ có thể tiếp tục cuộc hành

trình.

Trịnh Hòa vụt bước tới nắm tay chàng, nài nỉ:

- Tôi không có gia đình, nên tuy chức phận rỡ ràng mà trong đời cô đơn lắm. Đối với tiên sinh không những tôi mang ơn cứu tử, mà còn có lòng quí mến kính phục. Mong tiên sinh theo tôi về kinh, cho tôi được dịp đền đáp ân sâu. Trong lúc khám bệnh cho người họ Trịnh, Trường Giang đã biết ông ta là một quan thái giám. Nên khi nghe ông than «nỗi cô đơn trong đời», chàng không ngạc nhiên lắm. Người ấy thấy chàng trầm tư, nên nói tiếp:

- Ví như ở chốn phồn hoa phú quí tiên sinh không hạp, thì chuyến sau tôi đưa tiên sinh trở lại đây.

Cũng vì cảm cái ơn cứu tử nên ông ta mới hết tình mời mọc chàng.

Sự thật Trường Giang nào muốn sống đời trên đảo này? Hai năm qua chàng cố tìm thuyền trở về quê hương. Năm ngoái có một chiếc thuyền của người Mã Lai trên đường sang Trung quốc triều cống Minh Thành Tổ ghé đảo lấy nước ngọt, chàng trò chuyện hỏi thăm họ, mới hay nước nhà đã hoàn toàn lệ thuộc Minh triều. Vua quan nhà Hồ đều bị bắt giải về Kim Lăng (Nam Kinh).

Nghe nói trong nước vẫn còn những cuộc nổi dậy, nhưng nhân dân An Nam đào nạn xứ ngoài khá nhiều. Số người vượt biên chết vì sóng gió, chết vì hải tặc, không biết bao nhiêu mà kể!

Ngày nghe tin ấy Trường Giang khốn khổ muốn trở về xứ ngay. Nhưng kịp nghĩ lại, nếu chàng trở về khơi khơi không tính toán trước kế hoạch thì khó thể làm được điều gì. Chàng ở lại đảo chờ tình thế thuận tiện, chờ thời cơ nào đó khi trở về quê hương có thể hoạt động.

Bất thần một ý nghĩ loé trong đầu chàng: «Tại sao ta không thừa dịp này vào lòng đất địch, biết đâu xoay sở được vận nước?»

Tư tưởng ấy làm tâm tư chàng xao động, song ngoài mặt chàng trấn tỉnh nói:

- Ngài đã hết lòng mời, nếu tôi từ chối mãi sẽ mang tội bất kính! Thôi thì tôi chìu ý Ngài, theo Ngài về kinh chuyến này, cũng để thử vận trời. Một mai công danh thành đạt, ấy là nhờ Ngài ban cho hồng phúc.

Trịnh Đại sứ nghe chàng thuận tình, mừng rỡ lắm! Chuyến này ông đi sứ hải ngoại đem thắng lợi vẻ vang cho Thiên Triều, bảy nước chịu triều cống Trung quốc. Chắc chắn sẽ làm đẹp ý nhà Vua! Nhưng điều ông ta biết Minh Thành tổ vô cùng hoan hỉ là đưa về một bậc anh tài, văn chương xuất chúng, hội họa có một trên đời, lại còn là ông thầy thuốc giỏi.

Tìm được một người như chàng đưa về phục vụ triều đình, thì không khác gì mang tất cả tinh hoa của vũ trụ dâng cho vua.

Vị Đề Đốc vốn có cảm tình với Trường Giang từ phút gặp gỡ đầu tiên, nghe chàng chịu theo họ về Kinh thử thách đường công danh, ông ta vui vẻ nói:

- Với tài văn chương lỗi lạc của tiên sinh tôi tin Hoàng Thượng sẽ trọng dụng khi Trịnh Đại sứ tiến cử.

Hai vị quan đàm đạo một lúc trở về hải thuyền, hẹn với Trường Giang sẽ cho binh sĩ vào rước chàng ngày hôm sau.

Họ đi rồi Trường Giang ngồi lại một mình với nỗi vui buồn lẫn lộn. Buồn vì sắp sữa rời mái nhà quen thuộc cùng những người dân trên đảo, mà hơn hai năm qua đối với chàng biết bao nhiêu tình. Vui là nghĩ đến ngày đem trí tuệ của mình thao túng đất địch, xoay chuyển thế cờ, đổi thay vận nước.

Nghĩ đến ngày quê hương thoát khỏi gong cùm của bọn cướp nước, nghĩ đến ngày gặp lại cha già, cùng mẹ, cùng anh... lòng chàng run lên bao nỗi cảm xúc.

Ngày mai ...

Ngày mai của thử thách ...

Ngày mai của hy vọng ...

Chàng chờ đợi ngày mai đó với lòng xúc động, dạ bồi hồi.

Chu Thập đã nghe rõ việc Trường Giang nhận lời hai vị quan trên hải thuyền đi Đế kinh, nên lo sợ chạy tới ấp úng hỏi:

- Tiên sinh... muốn bỏ... muốn rời nơi đây đi Đế kinh thật sao?

Nghe thằng bé hỏi, chàng biết khi nãy nó đã nghe câu chuyện của chàng với hai quan Tàu. Chàng nhìn nó với ánh mắt thân yêu, hỏi:

- Em muốn theo ta đi Đế kinh không? Chu Thập gật đầu lia lịa:

- Muốn lắm! Tiên sinh cho em theo hầu hạ tiên sinh suốt đời nhé? Chàng cười nhẹ:

- Em theo ta không nhớ gia gia má má của em sao? Em không định cưới vợ à? Chu Thập bẽn lẽn đáp:

- Em nhớ gia gia và má má chớ. Nhưng... em muốn theo tiên sinh. Em không cưới vợ đâu!

Sau câu chót thằng nhỏ bỏ chạy và quay đầu lại nói:

- Để em báo tin cho gia gia, má má hay. Trường Giang gọi giật lại:

- Khoan đã! Em hãy báo cho tất cả gia đình trong làng hay rằng ta sẽ rời đảo ngày mai và rất muốn cùng họ uống chén trà ly biệt. Em nói ta mời mọi người tới nhà ta chiều nay.

Câu nói của chàng vừa dứt, Chu Thập đã biến mất sau rặng dừa. Trường Giang trở vào nhà gỡ các bức tranh và gói mớ sách quí lại.

Bên ngoài sóng vỗ ì ầm như muôn thuở, song lần này Trường Giang nghe thật vui tai. Chàng vừa sắp sữa hành trang, vừa huýt sáo một khúc nhạc rộn ràng.

--------------------------------

1. Khi Thành Tổ cướp ngôi của cháu (Huệ Đê) có nhìều hoạn quan (thái giám) làm nội ứng, nên khi lên làm vua Thành Tổ tin dùng bon hoạn quan trong việc đi sứ, việc quan lập ra "đông xưởng" giao cho hoạn quan làm chủ để dò xét án sự của dân. Thời kỳ này có Trinh Hòa (thái giám) là một sứ quan có công rất lớn trong sự nghiệp thực dân. Trong 30 năm (1405-1433) Trịnh Hòa đi sứ 7 lần, thần phục được 40 nước triều cống Trung quốc. Quân lực của Trịnh Hòa gồm 62 hải thuyền và 37 ngàn thủy binh, ra hải ngoại dương oai công đức của Minh đế và nhân thể tìm kiếm Huệ Đế, mà Thành Tổ nghi ngờ là trốn ở nước ngoài.

 Chương 12: Kiếp người nô lệ

Một chiếc hải thuyền thật to, bề dài ước độ 40 hay 50 trượng, bề ngang vào khoảng 20 trượng, loại thuyền quân sự trang bị chiến cụ, nào giàn hỏa tiễn, nào súng thần công...

Trên thuyền ngoài bọn hải binh đứng 1ố nhố, còn có vô số đàn bà con gái, người nào cũng xinh như mộng. Chỉ có điều gương mặt những trang tuyệt sắc giai nhân ấy đầy vẻ thống khổ uất hận.

Họ là dân một nước bị ngoại bang xâm lăng. Thân phận họ là thân phận của những con người nô lệ trước sự hung tàn của giặc, không khác gì những con thú bị nhốt không biết ngày giờ nào người ta lôi ra hành hạ làm thịt ! Sự hiện diện của họ trên thuyền là cả một nỗi niềm chua xót đớn đau, không phải là tù binh, mà bị kể như một thứ đồ vật, một «chiến lợi phẩm» người ta mang về xứ sau trận chiến thắng vẻ vang.

Trái lại với đoàn phụ nữ, bọn thủy binh mặt mày hớn hỡ, nhưng nhân vật đáng nói hơn hết là quan thống binh họ Trương tên Phụ [1], là kẻ thống lãnh binh quyền, là kẻ chỉ huy chiến trận, kẻ vung gươm tàn bạo trên đầu một dân tộc vô tội, kẻ đã ra lệnh rút ruột người treo trên cây, nấu thịt người để lấy dầu, chặt thây người làm thành núi... Một kẻ xâm lăng tàn bạo khát máu nhất thế gian!

Đương nhiên gương mặt của hắn rạng rỡ vô cùng, vì hắn đang ngất ngây sung sướng trước những chiến lợi phẩm mà hắn thu giựt cướp tải về: «Nào vàng bạc châu báu… nào đàn bà, con gái đẹp...»

Hắn khoảng trên 50, người vạm vỡ, mặt tròn đầy, đôi má phính đầy mở, đôi mắt đỏ ngầu... Nhìn hắn người ta có cảm tưởng hắn là một tên đồ tể, hơn là một vị quan võ xông xáo ngoài chiến trường.

Hôm ấy vào ngày rầm tháng 8 năm giáp ngọ (1414) chiếc hải thuyền đã rời cửa bể An Nam từ lâu và hiện đang lướt sóng trùng dương nhắm hướng thủ đô Trung Quốc tiến tới.

Trương Phụ ngồi chễm chệ trên chiếc ghế bành bằng da thú trong gian phòng rộng lớn dưới mui hải thuyền, ra lệnh cho bọn cận vệ:

- Chúng bây hãy bảo bọn binh sĩ treo đèn kết hoa sữa soạn đón Trung Thu. Đêm nay ta muốn ăn một cái Tết Trung Thu thật lớn, vừa là một lễ ăn mừng chiến thắng trên đường hồi kinh.

Vương Hữu là tên phó Thống binh từ dưới hầm thuyền chun lên nghe nói, liền xen vào:

- Quan Thống binh đón mừng Trung Thu cũng nên bảo bọn con gái An Nam đến múa hát giúp vui.

Hắn là quan dưới trướng của Trương Phụ. Hắn hoàn toàn khác biệt với Trương Phu từ bản chất đến hình hài. Người hắn hơi gầy, bộ dáng lỏng khỏng, mặt nhọn, mắt ti hí. Hắn không nóng nảy hung tàn như Trương Phụ, song lại là con người nham hiểm.

Phải nói những việc chém giết hành hạ dân An Nam là do hắn bày ra để mua vui cho Trương Phụ, vừa để cảnh cáo dân An Nam không ai dám quật cường chống đối.

Trương Phụ nghe Vương Hữu bàn đúng ý mình nên khoan khoái cười ha hả, ra lệnh bọn cận vệ:

- Đúng đấy! Bọn bây đưa hết đám con gái An Nam đến đây trình diện ta!

Tiếng vâng dạ vang rân, cùng tiếng chân người chạy tới chạy lui để làm công việc treo đèn kết hoa. Một số chạy đi bắt đám con gái dẫn tới.

Trương Phụ ngồi nhâm nha chén rượu. Trên tay hắn cầm một con hải yến nướng, to bằng con gà giò, còn nóng hổi, bay mùi thơm phức. Hắn cho vào miệng nhai ngoồm ngoàm vài cái là hết sạch. Đầu bếp lập tức dâng ngay một con chim nóng hổi khác!

Giờ ấy chỉ vào khoảng xế bóng, chưa phải là giờ ăn, song trong đời hắn dường như chỉ có cái thú ăn và cái thú giết người.

Lúc nào không chém giết thì hắn ăn liên tu bất tận, uống tới say mềm mới thôi.

Vương Hữu ngồi bên cạnh Trương Phụ không uống cũng không ăn. Mắt hắn chăm chú đọc một quyển sổ ghi chi chít những tên... Hắn lẩm bẩm nói:

- Theo danh sách này, chúng ta đem về tất cả 48 đàn bà con gái An Nam từ 16 đến 28 tuổi. Có 2 vị công nương, 3 tiểu thư con quan, còn kỳ dư là hạng dân giả. Trương Phụ vừa nhai vừa nói:

- Tôi sẽ dâng tất cả cho Chúa Thượng để làm nô tỳ ở hoàng cung, chỉ dành lại 2 nàng. Vương Hữu nghe nói, liền cười nịnh:

- Ngài định như vậy là phải lắm! Ít nhất Ngài cũng nên dành lại cho Ngài vài ba nàng… Cung tần mỹ nữ ở hoàng cung quá nhiều, giả tỉ có nộp cho Hoàng Thượng ít bớt vài nàng chắc chẳng có gì quan trọng. Trương Phụ lắc đầu:

- Không phải tôi muốn dành lại hai cô gái cho tôi đâu! Tôi định dâng một nàng cho quan Binh Bộ thượng thư Trần Hiệp, vì Trần phu nhân qua đời đã 4 năm mà Ngài vẫn chưa tìm được một kế thiếp. Con gái An Nam đẹp hơn dân mình, nên tôi thiết nghĩ nếu Ngài có một nàng hầu xinh tươi hầu hạ chắc vừa lòng lắm.

Vương Hữu nghe nhắc Trần Hiệp [2] thì đôi mắt hí rực ánh vui mừng, phụ họa:

- Nghe nói Thượng Thư Trần Hiệp hiện nay rất được lòng chúa thượng. Ngài tặng cho người ấy một nàng là nên lắm. Trương Phụ lắc đầu cười nhỏ:

- Người ấy có cái ơn tiến cử tôi hai lần qua An Nam lập công to, nên tôi muốn đền ơn. Chớ thật vị quan đứng đầu nội các Dương sĩ Kỳ [3] mới là người được Vua trọng vọng. Chính vì vậy mà tôi muốn dành nàng thứ hai cho ông này. Vương Hữu lại a dua:

- Tối nay nhân dịp các nàng múa hát, ngài nên chọn sẵn hai nàng ấy một thể.

Trương Phụ gật gù:

- Tôi cũng định thế.

Có tiếng gõ cửa, một tên cận vệ chạy vào quỳ xuống thưa:

- Bẩm đại quan, tôi đã đưa các nàng An Nam tới đây hầu đại quan. Các nàng đang chờ ngoài cửa.

- Được lắm! Ngươi cho vào từng toán 10 cô.

- Bẩm vâng!

Tên hầu lui ra mở cửa. Tức thì có hai tên binh đẩy vào phòng 10 cô gái. Nơi cổ người nào cũng có đeo một tấm thẻ ghi tên họ. Cô nào cũng đẹp, mỗi người mỗi vẻ. Chỉ có điều đôi mắt đỏ hoe sưng húp. Chứng tỏ họ đã khóc nhiều!

Trương Phụ quét mắt nhìn một lượt và chỉ 3 cô bảo đứng lại, còn 7 cô cho ra ngoài. Bọn cận vệ đưa toán khác vô... Trương Phụ cũng giữ lại 3 nàng. Cứ như thế năm lượt, Trương Phụ chọn đủ 15 cô đẹp nhất.

Vì không hiểu hai tên quan Tàu định làm gì, các cô gái An Nam vô cùng kinh hãi. Có cô quá sợ ngất đi. Có cô khóc thút thít…

Trương Phụ thấy các người đẹp sợ mình càng khoái chí, cười ha hả...

Tiếng cười của hắn chưa dứt, bỗng thấy một nàng từ trong đám con gái khoan thai tiến ra… đôi mắt long lanh quắc, hỏi:

- Các ngươi muốn làm gì chị em ta?

Nàng nói tiếng Trung Hoa khá thông, nhưng điều đó cũng không làm cho Trương Phụ và Vương Hữu sững sốt bằng sắc đẹp của nàng vô cùng kỳ bí. Nhất là đôi mắt, đôi mắt như hai vì sao có sức hút kỳ lạ, mà kẻ nhìn vào cảm nghe toàn thân bủn rủn sợ hãi. Giọng nói của nàng thật êm, mơ hồ như tiếng nhạc thoát ra, mà nghe oai dũng hơn vạn tiếng thét của binh hùng!

Trương Phụ ngưng bặt tiếng cười, tâm thần choáng

váng!

Người con gái nói tiếp:

- Chúng bây là phường vô loại bạo ngược! Đã bắt được chúng ta thì cứ giết. Đừng tưởng đàn bà con gái An Nam chịu để cho chúng bây 1àm nhục! Vương Hữu không bị giao động lắm vì cô gái, vùng đứng dậy lên tiếng:

- Quan Thống binh chỉ muốn tuyển chọn các nàng để múa hát giúp vui đêm nay. Nàng đừng...

Hắn định dùng lời thị oai, để cô gái kia hết dám mở miệng nói lôi thôi. Nào ngờ giọng hắn xuôi xị, miệng đớ ra không nói hết câu, y như các huyệt đạo trong người hắn tê liệt, toàn thân yếu ớt, phải ngồi phệt xuống ghế!

Các cô gái An Nam không hiểu tiếng Trung Hoa, nên không biết nàng kia đã nói gì? Nhưng họ nhìn thần sắc hai tên quan Tàu đờ đẫn, ai nấy đều lấy làm lạ, mở mắt to nhìn cô gái… Gương mặt tái xanh của họ bỗng đổi sắc hồng, lòng họ rạng rỡ mừng vui vì không ngờ người bạn đồng hương kia chế ngự được hai tên giặc!

Một lúc sau Trương Phụ dường như hóa giải được sức hút kỳ lạ của đôi mắt cô gái, hắn ngẩng mặt lên nói với bọn cận vệ của hắn:

- Cho các nàng này về chỗ cũ, tối đêm nay đưa họ đến đây múa hát giúp vui cho ba quân tướng sĩ.

Hắn vừa dứt lời, chợt có một giọng nói trong vắt ngân

lên:

- Một mình ta múa hát cho các ngươi xem đủ rồi! Hãy để yên cho các bạn đồng hương của ta.

Rõ ràng không phải giọng nói của cô gái khi nãy!

Trương Phụ và Vương Hữu, kể cả đám mỹ nữ An Nam cùng giật mình nhìn về hướng phát ra tiếng nói… Bấy giờ mọi người mới trông rõ một nàng dung nhan cực kỳ diễm lệ, có một thân hình tuyệt mỹ, có đôi mắt hồ thu quyến rũ lạ lùng.

Nàng đứng sau cùng trong nhóm các thiếu nữ và cũng chính là người tự nãy giờ cứu giúp các cô gái bị ngất xỉu.

Cho tới bây giờ Trương Phụ mới để ý nàng này với cô gái khi nãy, ngoài cái đẹp tuyệt thế vượt trội hơn trong nhóm các cô gái bị bắt, còn có thần sắc thản nhiên, không ủ ê, không khóc lóc, không tỏ vẻ sợ hãi… Và điều làm cho hắn ngạc nhiên là cả hai nàng này đều nói tiếng Trung Hoa khá rành.

Hắn chưa kịp có phản ứng nào, giai nhân hướng nhìn các bạn đồng hương, nhỏ nhẹ nói bằng tiếng An Nam:

- Xin các chị em đừng quá kinh sợ bọn này. Ngày chúng ta bị giặc bắt hãy kể như ngày chúng ta đã chết, thì không còn gì phải sợ nữa! Sỡ dĩ chúng ta chịu theo chúng lên thuyền ra đi vì còn thù nhà và nợ nước chưa trả. Trời cho chúng ta có nhan sắc, lợi hại hơn cả gươm đao vũ khí. Các chị em nên dùng nhan sắc của mình làm điên đảo lòng giặc, mà tiêu diệt giặc. Tấm thân chúng ta từ đây đừng kể thuộc về chúng ta, mà hãy kể như đã hiến cho quốc gia.

Hể chúng ta có dịp giáp mặt các tên đầu xỏ của Minh triều, ngay cả lão Hoàng đế, thì dùng kế mỹ nhân mà giết chúng.

Bọn chúng tưởng mang chúng ta về xứ là mang những «chiến lợi phẩm» vẻ vang, chớ chúng không ngờ là đem đao kề cổ mình.

Các chị em! Hãy cùng tôi dùng chiến lược lấy «gậy ông đập lưng ông », cho cả triều đình Trung Quốc ngất ngư cả lũ, để không hổ thẹn là đàn bà Nam quốc.

Nàng nói những câu sau cùng nhỏ xíu, giữa họ mới nghe lọt vào tai. Sự thật dù cho nàng có nói giọng bình thường, Trương Phụ có nghe cũng không nhớ nàng nói gì? Dù rằng hai lần qua An Nam, mỗi lần 4, 5 năm, hắn hiểu và nói được tiếng An Nam. Nhưng âm thanh thảnh thót từ cửa miệng nàng thoát ra trong trẻo như tiếng oanh ca, hắn nghe nàng nói mà tưởng chừng như nghe nàng hát, tâm thần đê mê không còn biết trời trăng gì nữa!

Các cô gái An Nam nghe nàng này nói, người nào cũng phấn chấn tinh thần, cảm động rưng rưng…

Thiếu nữ lên tiếng lúc đầu có lẽ là người xúc động nhiều hơn hết. Nàng chạy tới nắm tay nàng kia, nói:

- Đa tạ lời vàng ngọc của chị đã vạch cho chúng em một con đường. Nếu đêm nay chị tình nguyện đến đây một mình múa hát làm vui cho bọn chúng để tránh cái khốn khổ cho những người bạn đồng hương của chúng ta, thì em cũng sẽ tình nguyện tới đây để chia xớt hiểm nguy với chị.

Nàng nói và không chờ sự đồng ý cúa cô bạn mới quen, cất tiếng dõng dạc nói với Trương Phụ:

- Ngươi nghe rõ đấy chứ? Đêm nay hai ta sẽ trở lại, một người sẽ đàn, một người sẽ hát, để giúp vui cho bọn ngươi. Còn các đồng hương khác của chúng tôi, ngươi hãy để yên!

Hai giọng nói của hai cô gái đẹp gây ảnh hưởng hoàn toàn trái ngược, mà lại đem cùng kết quả!

Một người nói ra, người nghe mê man điên đảo. Một người nói ra, y như một lệnh truyền, oai phong kỳ dị! Khiến cho người nghe phải ríu ríu vâng theo.

Lần thứ nhất trong đời Trương Phụ bại trận!

Cho hay Thượng Đế cũng khéo bày! Những kẻ hung hăng thét ra lữa, giết người như ngoé, là những con thỏ đế trước đàn bà. Nhất 1à truớc đàn bà con gái đẹp họ biến thành những con gà con, những con nai tơ, những con chuột nhắt...

Và Trương Phụ là một trong những loại đó!

- Vâng vâng! Được hai giai nhân tới giúp vui thì còn gì bằng.

Giọng nói hùng hổ của hắn bây giờ nhỏ xíu lí nhí... Các nàng An Nam tuy chưa hết sợ hãi, nhưng không khỏi tức cười. Có cô đã phải bụm miệng cười nhỏ.

Trương Phụ cất giọng hết sức dịu ngọt:

- Thôi, các nàng hãy an tâm về chỗ nghỉ ngơi.

Rồi hắn đảo mắt nhìn hai cô gái vừa bắt hồn hắn, nhỏ nhẹ bảo:

- Hai nàng đừng quên trở lại đây nhé? Cô gái có đôi mắt hồ thu nói:

- Với điều kiện 1à từ đây ông với bọn binh lính của ông không được khuấy nhiễu chị em chúng tôi cho đến ngày tới nội địa. — Vâng ! vâng !

- Nếu ông không giữ lời, chị em chúng tôi tự tử chết hết, thì kể như chuyến hồi quốc của ông trắng tay!

- Tôi bảo đảm với nàng không ai dám động tới các

nàng.

- Được lắm!

Mười lăm cô gái kéo nhau ra cửa.

Trương Phụ ngồi đờ đẫn một lúc mới tỉnh. Hắn vụt nhớ có Vương Hữu bên cạnh, nên hỏi:

- Nãy giờ ông Phó Thống 1àm gì?

- Tôi bận tìm lý lịch hai nàng ấy. Trương Phụ mừng quýnh hỏi:

- Hai nàng ấy tên gì? Gốc gác ở đâu?

Trên cổ mỗi nàng đều có mang một tấm thẻ ghi tên họ rành mạch, song vì trước mặt người đẹp hắn như thằn lằn đứt đuôi, run rẩy sợ hãi, đâu có dám nhìn thẳng các nàng mà hòng đọc bản tên?

Vương Hữu vụt đọc lớn lên:

- Nguyễn Thúy Uyên, 24 tuổi, quê quán ở Thăng Long, ái nữ của quan Hàn Lâm Nguyễn Phi Khanh triều Hồ, phụ mẫu Trần Thị, dòng tôn thất nhà Trần, trưởng huynh Nguyễn Trãi giữ chức Chánh Ngự sữ Đài.

Trương Phụ buột miệng nói:

- Té ra nàng ấy 1à con quan à?

- Ngài có biết nàng nào không?

- ơ… ơ…

- Chính 1à cô lên tiếng trước tiên đấy.

- A… nàng ấy à? Vô tình hắn bỗng nghe lạnh xương sống, mà chẳng rõ vì

sao?

Vương Hữu lật lật các trang giấy tìm kiếm một lúc liền đọc lớn lên:

- Trần Huỳnh Như, năm nay 25 tuổi, quê quán ở Gia Lâm, phụ thân Trần Văn Thái vốn là thầy đồ, phụ mẫu Trần Mỵ Lan dòng Tôn thất nhà Trần, song thân đều đã qua đời. Trương Phụ nghe xong báo cáo, nói giọng thê lương:

- Ôi, nàng nào cũng dòng dõi trâm anh quí phái, hèn chi dung nhan mới kiều mị dường ấy! Hắn bỗng nhớ tới cô gái có đôi mắt hồ thu… lòng ngây ngất rung động, than nhỏ:

- Mặt nàng đã đẹp, mà thân hình lại tuyệt mỹ! Trời ơi, tấm thân ấy mà ôm vào dù có phải chết cũng đáng một đời.

Vương Hữu nghe hắn nói giọng si tình, liền dóng một câu nịnh bợ:

- Ngài nên giữ nàng ấy cho Ngài.

- Than ôi! tôi cũng muốn giữ nàng ấy cho tôi lắm, ngặt vì phu nhân tôi không cho tôi lập... lập... phòng nhì!

Hắn lấp bấp như đang đứng trước mặt "hiền thê" của hắn.

Rồi hắn bỗng rùng mình khi nhớ tới bà vợ «sư tử cái» của hắn gốc người Sơn Đông, võ nghệ phi thường, thân hình hộ pháp… Mỗi khi hắn đi xa trở về đều bị «phu nhân» dợt vài ngón võ, mình mẩy bầm giập… Chỉ vì hắn ú ớ nói không ra câu khi bị nàng chất vấn: «Những ngày xa nhà chàng giao tiếp với ai?»

Nhớ tới «hiền thê»… hắn vụt thở dài thườn thượt, nhủ thầm:

- Phải chi phu nhân ta đẹp bằng một phần trăm của các nàng này thì dầu ta có làm thân trâu ngựa cho nàng, ta cũng không than van. Đầu này nàng vốn là Chung Vô Diệm đầu thai, nên võ nghệ phi thường mà dung nhan phát ngán! Từ khi được tiến cử sang An Nam, lần thứ nhất thắng trận vẻ vang, tàn ác có tiếng xứ người, được Minh đế trọng thưởng, cho thăng quan tiến chức. Hắn cũng có ý muốn tìm một nàng hầu nho nhỏ xinh xinh. Nhưng «đại phu nhân» của hắn tuyên bố chận họng trước:

- Nè, nếu phu quân tính điều nọ điều kia để phản bội tôi, thì đừng trách tôi sao tàn nhẫn. Chẳng thà tôi giết phu quân để làm góa phụ, hơn là để phu quân lập nhị phòng, tam phòng, tứ phòng... Hắn thụt lưỡi, nói ú ớ:

- Bẩm phu nhân... Tiểu nhân đâu dám mơ… ước lập... nhiều phòng... Chỉ xin phu nhân ban ân huệ...

Trương phu nhân quát hỏi:

- n huệ gì?

Nghe nàng quát quá to, nhà cửa rung rinh muốn sập, hắn vội vàng chữa:

- Ban ân huệ cho tiểu nhân... làm tôi mọi cho phu nhân suốt đời.

Trương phu nhân cười khẩy:

- n huệ đó thì được. Tôi chấp thuận!

Ngày được Minh đế triệu vào triều cử sang An Nam lần thứ II, hắn mừng quýnh vì sắp sữa được xa «sư tử cái», nên về nhà mặt mày hí hững báo tin với «hiền thê» của hắn. Dè đâu nàng thấu rõ ruột gan của hắn, nên nghiến răng nói:

- Này, tôi báo cho phu quân biết trước điều này: «Đừng tưởng qua xứ An Nam xa xôi nghìn dậm đó mà chơi bời tự do nhé? Tôi cho người theo dõi, hễ biết phu quân lẹo tẹo với cô nào, thì dù phu quân có trốn lên trời tôi cũng bay theo vặn cổ cả đôi đấy.»

Hắn nghe nàng hâm dọa, thất kinh hồn vía, không dám tính chuyện mây mưa gì nữa ! Bốn năm sinh sống ở An Nam, đi đâu cũng thấy nhan nhản đàn bà con gái đẹp, quyền hành sanh sát trong tay, nhưng vì sợ thấu đến tai «cọp nhà» thì ngày đáo hồi gia cư chỉ còn nước «đầu lìa khỏi cổ». Nên chi, thời gian ở đó thấy gái chỉ biết thèm thuồng và trân mình chịu. Mấy lần rời dinh lẽn đến lầu xanh du hí, hắn phải giả làm người An Nam trốn bọn cận tướng, binh sĩ, lén lúc ra đi, vì sợ bọn này có tên nào làm «mật vụ» cho phu nhân hắn thì nguy.

Không chiếm được người đẹp cho mình nên hắn ức lòng bắt về mấy chục nàng để dâng cho Vua, gọi là mang về «chiến lợi phẩm».

Bởi thế, hơn nửa tháng trời lênh đênh trên biển cả, chiếc hải thuyền chứa đầy đàn bà con gái, mà Trương Phụ không dám dở trò chi hết!

Vương Hữu thuộc loại kỵ đàn bà. Hắn không cưới vợ, cũng không thích phụ nữ.

Trong đời hắn có lẽ chỉ thích «bợ cấp trên». Dù cấp trên chưa chắc tài giỏi hơn hắn, hay thuộc loại sâu mọt của xã hội, người đời phỉ nhổ, mà hễ đương quyền là hắn «bợ đít» một cách trịnh trọng, một cách vô liêm sĩ [4].

Vương Hữu không nghe Trương Phụ nói gì, sắc mặt lúc đỏ, lúc tái, lúc vui, lúc buồn… cũng đoán được phần nào tâm trạng quan cao cấp của mình. Hắn lựa lời an ủi:

- Tiếc quá! Phải Ngài giữ được một trong hai nàng ấy thì ấm nhà, ấm cửa. Trương Phụ nghe Vương Hữu nói mấy tiếng «ấm nhà ấm cửa», hắn ngỡ Vương Hữu nói xỏ hắn, mặt hắn đỏ bừng, mắt trừng lên:

- Tôi đã nói với ông Phó Thống là tôi sẽ dành hai cô để dâng cho Thượng Thư Binh Bộ Trần Hiệp và quan Đại Học Sĩ đứng đầu nội các là Dương Sĩ Kỳ.

Vương Hữu bợ một câu chẳng được lòng cấp trên, nên lã

chã nói:

- Phải phải! Hai cô ấy biết tiếng Trung Hoa, nếu Ngài đem tặng cho hai vị Đại quan ấy, chắc chắn họ sẽ vừa ý và yêu chuộng Ngài lắm. Trương Phụ đổi giận làm vui, nói:

- Được lắm! Một nàng dâng cho quan Đại Học Sĩ và một nàng dâng cho quan Binh bộ. Theo ý ông nàng nào cho người nào?

- Tôi nghĩ, con gái của quan Hàn Lâm triều Hồ đem dâng cho quan Đại Học Sĩ, chắc ông ấy vừa ý lắm.

Trương Phụ gật gật đầu:

- Đúng! Đúng!

Sau câu nói hắn cười một tràng dài, rồi ra lệnh cho bọn hầu cận:

- Quân bay đâu! Mau, bảo đầu bếp dọn rượu thịt ra đây cho ta tiếp tục nhậu nhẹt.

° ° °

Từng trên hải thuyền khoảng phía sau khá rộng, có mui, nhưng hai mặt không có vách, gió lộng ào ào...

Nơi đó là chỗ giam lỏng mấy chục đàn bà con gái An Nam mà Trương Phụ bắt đem về Tàu.

Hơn nửa tháng trời lênh đênh trên biển cả, họ khóc nhiều hơn là tâm tình. Nay là lần đầu tiên các cô ngồi xúm xít với nhau, vây quanh hai nàng con gái khi nãy làm điêu đứng hai tên quan nhà Minh.

Đúng như Vương Hữu đã lưu ý, tên họ của hai nàng ấy, một là Huỳnh Như, một là Thúy Uyên, hai vị hôn thê của anh em Trường Sơn và Trường Giang.

Sự gặp gỡ vô tình trên thuyền giặc, chính hai nàng cũng không biết họ có sự liên hệ.

Khi đưa quân chiếm làng mạc thị trấn An Nam, Trương Phụ ra lệnh bọn binh sĩ lùng bắt đàn bà con gái đẹp. Đương nhiên hai mỹ nhân như Thúy Uyên và Huỳnh Như làm sao lọt khỏi vòng lưới của bọn ô trọc nhà Minh?

Hai nàng cùng bị bắt và cùng bi giải về Tàu, không lấy gì làm lạ. Điểm lạ đáng nói là cả hai không khóc lóc hay sợ hãi như mấy chục người bạn đồng hương.

Vì sao?

Cùng nên nhắc lại, lần thứ nhất Trương Phụ được Minh Thành Tổ cử sang An Nam vào năm Bính Tuất (1406) nhân việc Hồ Hán Thương giết Trần Thiểm Bình là con vua Nghệ Tông, quân Minh mượn cớ diệt Hồ giúp Trần, đưa quân đánh An Nam.

Đến năm Đinh Hợi (1407) Trương Phụ bắt được cha con Hồ Quí Ly giải về Tàu. Các lão quan tại triều cũng đều bị giải về Kim Lăng (Nam Kinh) và Nguyễn Phi Khanh cha của Thúy Uyên phải chịu cảnh ngộ đó.

Ngày ấy Thúy Uyên cùng với thân mẫu là Trần thị trốn về ẩn náu ở Thăng Long. Nguyễn Trãi tuy làm quan nhưng nhờ còn trẻ nên quân nhà Minh không bắt, cho tự do, cố tìm cách thu dụng.

Nguyễn Trãi khóc lóc theo cha đến ải Nam Quan. Nguyễn Phi Khanh nói: «Con theo ta khóc lóc mà làm gì, nên trở về nhà lo trả thù cho cha và rửa thẹn cho nước».

Nguyễn Trãi vâng lời cha trở về với thân mẫu và em gái, nhưng sau đó lại tìm cách sang Trung quốc kiếm cha.

Thúy Uyên cùng mẹ ở nhà chờ đợi tin cha và anh. Kế đến nhà Hậu Trần nổi lên đánh chiếm vài nơi. Minh đế liền cử Trương Phụ sang An Nam lần thứ hai vào đầu năm Ất Sữu (1409) và cuối năm Quí Tị (1413) quân Hậu Trần bị tiêu diệt và nước ta hoàn toàn lệ thuộc nước Tàu.

Khi Trương Phụ ra lệnh lùng bắt tất cả đàn bà con gái đẹp dưới 30 tuổi, Thúy Uyên bị bắt, nhưng không khóc, nói với mẫu thân rằng:

- Con chịu theo chúng ra đi, mục đích là sang Trung quốc thăm dò tin tức cha và anh. Đàn bà con gái chỉ có hai chữ tiết trinh. Tuy rằng bảy tám năm qua con không được tin tức của chàng, song lời thề hẹn năm xưa con nguyện giữ. Dù con có lọt vào tay giặc, cũng cố xoay sỡ, nếu gặp bước đường cùng con quyết giữ vẹn trinh tiết cùng chàng. Cho nên chuyến đi này cầm bằng như con đã chết. Xin mẫu thân chớ quá thương tiếc vì con. Con người ai cùng một lần chết. Một điều thân mẫu an lòng là con thà chết chớ quyết không để tấm thân bị ô nhục.

Nàng vì có mục đích tìm cha và anh và đã vạch sẵn con đường sống chết cho mình nên không còn nỗi lo âu sợ hãi.

Trường hợp Huỳnh Như thì khác!

Huỳnh Như từ nhỏ tới lớn được cha un đúc chí khí trung liệt, lúc nào cũng nghĩ đến thù nhà hận nước. Nên ngay đêm nàng bị bắt, nàng đã có mưu định dùng nhan sắc khuynh thành làm con đường tiến thân, chờ ngày nào đó giáp mặt với Minh đế, nàng sẽ liều mạng giết kẻ đại thù của dân tộc, như khi xưa dấn thân vào cung Hồ hành thích Hồ Quý Ly.

Vả chăng, từ khi nghe tin người yêu đã chết, nàng không thiết sống nữa, song vì nhớ tới lời trăn trối của cha mà nàng cố gắng sống. Nàng sống không phải cho mình, nên tấm thân ra sao cũng không cho làm trọng, mục đích là giết được kẻ thù.

Nguyên khi xưa sau khi hứa hẹn duyên tình với Huỳnh Như, Trường Giang đưa nàng về nương náu ở nhà của nghĩa phụ, cũng là sư phụ của chàng là Trần Quốc Anh, ở Trần gia trang, thuộc Đà giang lộ. Nghĩa phụ của chàng vốn là anh em kết nghĩa với cha chàng. Cả hai sát cánh nhiều năm chống triều Hồ. Cho đến khi triều Hồ bị diệt, quân Minh tràn chiếm An Nam, mật khu của Nguyễn Trường Hân ở núi Ba Vì bị ngoại bang kiểm soát. Nguyễn Trường Hân đành phải đưa vợ con về ẩn náu ở Mường Lai. Còn Trần Quốc Anh thì trở về gia tư của mình sống với gia đình người cháu ở Trần Gia trang (độc giả nên xem Tình Nhà Nợ Nước để biết đọan đời và cuộc tình hy sinh của Trần Quốc Anh). Trường Giang tin tưởng chỗ ở của sư phụ an toàn hơn hết mới đem Huỳnh Như gửi gấm sư phụ.

Chẳng dè ít lâu sau triều đình Hồ bị diệt, quân Minh tàn phá khắp nơi. Gia trang của Trần Quốc Anh, sư phụ Trường Giang, cũng bị bọn quân Minh tấn công và tàn phá. Người trong trang bị lính Minh càn giết. Huỳnh Như may mắn được sư phụ của Trường Giang giải thoát và đưa nàng cùng vớí gia quyến người cháu ẩn trú ở một làng nhỏ cách xa thị trấn Thanh Hóa.

Ít lâu sau, sư phụ chàng nghe tin người anh kết nghĩa Nguyễn Trường Hân về đầu quân Giản Định đế, thì nghĩ rằng rằng anh emTrườn Sơn cũng theo cha lo việc cứu quốc.

Bất ngờ một hôm Trần Quốc Anh nghe tin Nguyễn Trường Hân tử nạn, xác được đưa về chôn cất ở Mường Lai. Nhà Hậu Trần hoàn toàn bị diệt. Trần Quốc Anh dọ hỏi thêm tin tức mới biết trước đó anh em Trường Sơn đưa mẹ và tổ mẫu đi lánh nạn ở Chiêm Thành, cũng để cầu viện binh. Nhưng từ khi rời xứ đã hai năm không ai biết tin tức của họ. Có người nói ngày vượt biên thuyền gặp bảo, cả đoàn người chết hết.

Huỳnh Như ngất xỉu ngày nghe hung tin, mấy phen toan tự tử chết theo chàng, nhưng mỗi lần cầm đao muốn giết mình lại nhớ đến lời trăn trối của cha.

Cái nhục vong quốc chưa rửa thì nàng chưa thể chết được!

Nhưng sống mà nhìn nhân dân đồ thán, giặc ngoại bang dày xéo trên mãnh đất quê hương, nàng cũng không chịu đựng được. Cho nên một hôm nàng khóc, nói với nghĩa phụ của Trường Giang:

- Xin nghĩa phụ cho phép con đi nộp mình cho bọn «Hoàng Phúc và Lữ Nghị» (là hai tên quan Tàu cai trị An Nam lúc bấy giờ).

Mưu định của nàng là dùng kế mỹ nhân để lấy đầu giặc. Nhưng sư phụ Trần Quốc Anh vì thương yêu nàng như con và không nỡ để nàng hy sinh thân xác, nên khuyên can rằng:

- Con ơi, biết rằng nghĩa tử của ta, tức vị hôn phu của con đã chết thì con không còn lẽ sống trên đời. Nhưng mấy năm nay cùng con gần gủi, ta xem con đâu khác gì là con gái của ta? Làm sao ta có thể chịu đựng được khi con bị giặc dày vò?

Vả chăng nước ta hiện nay tuy bị quân Minh chiếm đoạt, nhưng anh hùng các cứ nổi lên khắp nơi giúp vua Hậu Trần khôi phục cơ đồ. Dù cho hoàn cảnh khó khăn, mà ý chí không sờn, lòng không nản, thì sớm muộn gì dân ta cũng đuổi giặc ra khỏi biên cương.

Nghe lời khuyên nhủ của sư phụ Trần Quốc Anh, Huỳnh Như không thể dứt tình ra đi.

Cho đến ngày hay tin Vua quan nhà Hậu Trần bị bắt, nước ta hoàn toàn 1ệ thuộc nước Tàu, Trần Quốc Anh nhìn thấy sắc mặt Huỳnh Như lạ lùng khó hiểu, y như sắp sẵn trong đầu dự tính gì? Vốn biết nàng thuộc loại gái trung liệt, chí khí hơn cả nam nhi. Ví như nàng không «dựng cờ khởi nghĩa» như Trưng Triệu thuở xưa, chắc chắn cũng không thể ngồi một chỗ ôm gối nhìn nước mất.

Và cái điều Trần Quốc Anh ước đoán quả không sai! Khi Trương Phụ ra lệnh lùng bắt đàn bà con gái đẹp đem về Tàu, Huỳnh Như đích thân chường mặt ra tình nguyện theo họ.

Trước phút ra đi nàng lạy nghĩa phụ Trần Quốc Anh và nghẹn ngào thưa rằng:

- Chuyến đi này là tử biệt, con xin lạy nghĩa phụ lạy này để tỏ lòng cảm ơn nghĩa phụ đã thương yêu và bảo bọc con từ bấy lâu nay. Hồn con đã chết từ ngày hay tin chàng không còn trên cõi đời này, nhưng thể xác con còn là để báo thù cho Quốc gia. Vậy xin nghĩa phụ chớ ưu phiền, nên kể như con đã chết từ mấy năm qua.

Huỳnh Như gạt lệ giã từ theo chân binh lính nhà Minh, lòng đã quyết dùng khí giới lợi hại của đàn bà để tiêu diệt địch.

Bởi thế từ ngày leo lên thuyền của Trương Phụ rời xứ, nàng không lo âu sợ hãi như các bạn đồng hương. Nàng nghĩ: «Được chúng đưa đi là dịp may cho nàng có thể giáp mặt kẻ thù là Minh đế».

Khi nãy được tuyển chọn trong số 15 mỹ nữ, Huỳnh Như mừng thầm, tuy chưa biết bọn Trương Phụ sẽ làm gì. Chẳng ngờ Thúy Uyên vọt miệng chất vấn tên quan Tàu, hắn đã không nổi giận, mà còn có vẻ sợ hãi.

Huỳnh Như cảm phục thiếu nữ ấy, nên lên tiếng dành việc múa hát thay cho các chị em đồng hương.

Bấy giờ trở về chỗ cũ, bọn con gái bu quanh hai nàng ríu rít hỏi điều nọ việc kia… Huỳnh Như thỏ thẻ nói:

- Thưa các chị em, chúng ta có tất cả 48 người rời xứ. Nếu mỗi người chúng ta nắm được một tên quan đầu xỏ Tàu, thì tùy hoàn cảnh mà ra tay. Thiết tưởng gần 50 tên đại quan nhà Minh tử nạn bởi chị em mình, triều đình Trung quốc chắc phải điêu đứng hốt hoảng lắm!

Một cô trong bọn lên tiếng hỏi:

- Nhưng chúng em phải làm cách nào?

- Phải dùng lợi khí của đàn bà, tức là dùng sắc đẹp mà mê hoặc họ. Khi đã «mê hoặc» họ được rồi thì tùy cơ ứng biến, hoặc hạ thủ bằng đao kiếm, hoặc bằng thuốc độc... Nói tóm lại, tùy người, tùy trường hợp, tùy hoàn cảnh… mà ra tay.

Các nàng nghe Huỳnh Như nói đều thở ra, than dài:

- Việc như thế đâu dễ gì làm hỡ chị?

Thúy Uyên xen vào:

- Đương nhiên là khó! Nhưng chúng ta là những kẻ bỏ cái chết bên ngoài, tức là những kẻ liều mạng, thì dù khó khăn nguy hiểm đến đâu ta cũng lấy hết can đảm quyết tâm tiêu diệt địch. Một cô lại hỏi:

- Xin hai chị bày vẽ cho chúng em phải làm việc chi đầu tiên. Huỳnh Như mỉm cười:

- Trước tiên các chị dẹp bỏ nỗi lo âu sợ hãi, chăm lo nhan sắc của mình lúc nào cũng xinh tươi. Khi gặp đúng một con «cá to» thì thả lưới buông câu và khi «cá» đã vào «rọ ái tình» rồi thì nó chỉ còn chờ ngày giẫy chết trong tay mình. Một cô khác thắc mắc nói:

- Nhưng chúng em không nói được tiếng Tàu như hai chị thì làm sao làm được điều gì? Thúy Uyên cười nhỏ:

- Không khó lắm đâu! Bắt đầu từ ngày mai em tình nguyện chỉ vẽ cho các chị. Học nói nhanh lắm, không cần nhiều thời gian. Em tin, nếu các chị cố tâm học thì ngày tới nội địa ai cũng nói và hiểu được ít nhiều.

Sở dĩ Thúy Uyên và Huỳnh Như nói được tiếng Tàu cũng do một trường hợp đặc biệt. Thân phụ của Huỳnh Như vốn là ông thầy đồ rất giỏi ngoại ngữ, nên Huỳnh Như được cha dạy tiếng Tàu từ nhỏ.

Thúy Uyên chỉ mới học sau này. Từ khi thân phụ bị bắt về Tàu, gia huynh Nguyễn Trãi phải tới lui bọn quan lại nhà Minh để hỏi thăm tin tức của cha nên phải học tiếng của họ và Thúy Uyên cũng học theo anh.

Huỳnh Như nghe Thúy Uyên tự nguyện giúp bạn đồng hương học ngoại ngữ vui mừng lắm, nói:

- Ngày mai em và chị Thúy Uyên sẽ cố gắng bày cho các chị học tiếng Tàu và chúng ta sẽ bàn về cách thức làm mê hoặc kẻ thù. Bọn con gái cười ồ sau câu nói của Huỳnh Như. Nàng nghiêm giọng bảo:

- Thưa các chị! Đàn bà con gái chỉ quí hai chữ đoan chính. Nhưng chúng ta vì quốc gia mà phải tự mình chọn con đường ô nhục. Chúng ta là phận gái yếu đuối không thể tung gươm dụng võ để chống địch, nên đành phải dùng lợi khí của chúng ta là nụ cười và ánh mắt để thay thế gươm đao!

Câu nói của Huỳnh Như làm mọi người xôn xao. Người nọ hỏi một câu, người kia nói một câu… Họ bàn bạc đến chiều tối. Trong lòng ai nấy đều nửa vui mừng nửa lo âu.

Vui mừng vì họ không còn sợ bọn giặc, vì đã chọn con đường chết xứng đáng. Lo âu vì không biết mưu tính có đạt được không?

Lúc bấy giờ trăng rằm trung thu tỏa rực trên sóng nước đại dương lóng lánh bàng bạc...

Hai chị em Huỳnh Như và Thúy Uyên sau buổi ăn tối đã phải tất tả trang điểm, thay đổi xiêm y lộng lẫy, trâm cài lược vắt...

Bọn cận vệ của Trương Phụ đến giờ tới đón hai nàng đưa vào phòng khánh tiết của hải thuyền, lúc bấy giờ treo đèn kết hoa vô cùng ngoạn mục.

Thúy Uyên vốn là con quan, được mẹ cưng chìu từ nhỏ, cho học đủ mọi thứ tao nhã «cầm kỳ thi họa». Nên khi Trương Phu trao đàn cho nàng, nàng chỉ búng thử vài cái trên mấy sợi dây tơ đồng, âm thanh đã vang réo rắc. Bọn quan quân nhà Minh hoan hô reo hò ầm ĩ.

Huỳnh Như tuy không thạo đủ các món «cầm kỳ thi họa», nhưng nàng được cha truyền dạy văn chương thi phú lão luyện. Vả lại tuy không biết đàn, biết vẽ, nhưng bù lại nàng ngâm thơ rất hay, múa hát rất tài tình. Trời phú cho nàng có một giọng nói làm người nghe phải ngẩn ngơ xúc động, có một nhan sắc khiến người nhìn phải ngây ngất si mê.

Không cần nhìn nàng múa, không cần nghe nàng hát, chỉ cần nhìn nàng thôi, kẻ đối diện đã xiêu hồn lạc phách! Huống hồ xem nàng múa hát thì gặp hạng phàm phu tục tử như Trương Phụ, bảo hắn đưa đầu cho nàng chém, hắn cũng vâng lời.

Thật thế! Lúc bấy giờ bọn quan quân Tàu đều như lạc vào «mê hồn trận», hồn phách chúng như bay đâu mất, mặt mày ngẩn ngơ ngơ ngẩn... Huỳnh Như ngưng vũ khúc, bước tới bên Thúy Uyên lúc ấy đang ngồi đàn, bỗng nàng thất sắc kinh hoàng trố mắt nhìn lên tóc của Thúy Uyên …rồi ngất xỉu.

Thúy Uyên hốt hoảng nhào tới chụp Huỳnh Như, réo gọi:

- Chị Huỳnh Như! Việc gì vậy hỡ chị?

Huỳnh Như tỉnh ngay sau đó. Thấy mình nằm trong lòng Thúy Uyên, mà người bạn gái nhìn nàng bằng đôi mắt lo âu thương mến, nàng ngồi bật dậy gượng gạo nói:

- Em chỉ hơi chóng mặt chớ không hề gì, xin chị an

tâm.

Nàng đứng lên kéo bạn ra cửa, nói:

- Bọn chúng ngủ hết rồi. Mình đi về chỗ của bọn mình.

Hai nàng đi ra cửa. Trương Phụ và đám binh lính dương mắt trông theo với vẻ mặt ngốc nghếch hết sức buồn cười.

Trở về nhập bọn với bạn gái An Nam, Huỳnh Như vẫn còn trong tình trạng quái lạ. Thúy Uyên nghĩ, có lẽ vũ khúc quay cuồng đã làm cho Huỳnh Như mệt mỏi khó chịu, nên nói với mọi người:

- Chị Huỳnh Như hơi mệt nên chúng em đi ngay. Bọn ấy chẳng dỡ trò gì với chúng em cả! Xin các chị an tâm. Sáng mai chúng em sẽ tường thuật rõ hơn.

Các cô gái nghe Thúy Uyên nói liền chia nhau đi ngủ. Huỳnh Như ngồi tựa lưng bên vách hải thuyền, mắt thẫn thờ nhìn đại dương...

Trăng vàng trãi trên sóng bạc lấp lánh rạng ngời, làm cho nàng nhớ đến đêm trăng kỳ dịu nơi quán trọ cùng người yêu thề nguyền ước hẹn…

Người tình nay đã chết, kỷ vật trao hôn của nàng sao lại lọt vào tay cô gái lạ Thúy Uyên?

Khi nãy sau điệu vũ nàng định kéo bạn ra cửa, bất chợt trông thấy cây trâm vàng của mình trên tóc của bạn, nàng choáng váng sững sờ đến nỗi ngất đi.

Nàng tự hỏi: «do đâu Thúy Uyên có được cây trâm ấy?» Nó không là cây trâm quý giá đắt tiền, nhưng chính cha nàng vẽ kiểu trao cho thợ bạc làm để tặng thân mẫu nàng ngày hôn lễ. Mẫu thân chết, nàng giữ kỷ niệm của mẹ mãi đến ngày trao cho người yêu làm món vật định hôn. Người yêu nàng đã chết trong lòng biển cả, sao kỷ vật lại sờ sờ đó? Phải chăng ngày chàng ra đi bỏ quên lại nhà, nên có kẻ khác chiếm đoạt? Kẻ chiếm đoạt tài vật của người khác thì không thể là người ngay. Mà cô con gái con nhà quan như Thúy Uyên lẽ đâu làm điều bất chính đó?

Hỏi mà không giải đáp được, nàng ngồi lặng im, ánh mắt u buồn. Thúy Uyên ngồi bên cạnh theo dõi sắc mặt bạn, lấy làm 1o lắng, hỏi giọng ái ngại:

- Chị bị đau hay có tâm sự gì buồn?

Huỳnh Như đáp không ngẩng mặt lên:

- Em không sao! Chẳng qua trăng đêm nay làm em nhớ đến đêm nào cùng người tình thề non hẹn biển.

Nghe bạn nói, Thúy Uyên chợt động tâm nhớ lại 7 năm về trước…

Một chiều đẹp trời có một chàng trai xa lạ phóng ngựa qua ngõ nhà nàng, toàn thân bị thương tích, máu đào rơi rớt khắp nẻo hoa viên nhà nàng. Nàng cùng mẫu thân cứu thương người ấy, rồi nàng bỗng đem lòng tương tư… Tưởng đâu ôm mối tình si tuyệt vọng! Nào ngờ một hôm chàng trở lại thú nhận yêu nàng, cả hai hò hẹn trăm năm. Chàng trao cho nàng cây trâm vàng, con nàng trao cho chàng chiếc vòng ngọc.

Bảy năm rồi, kỷ vật còn đây mà người xưa bặt tâm! Nàng rút cây trâm mân mê tưởng nhớ đến chàng, một hình hài phong lưu tuấn nhã, con tim xúc động bồi hồi...

Huỳnh Như thấy Thúy Uyên mân mê cây trâm của mình với vẻ tha thiết si tình, thì biến sắc không nín được nữa:

- Chị có thể nào cho em biết do đâu chị có cây trâm ấy?

Thúy Uyên nhìn bạn mỉm cười, ánh mắt mơ màng:

- Ấy là kỷ vật định hôn của vị hôn phu của em.

Huỳnh Như thầm nghĩ: «vị hôn phu của Thúy Uyên là một tên đạo chích», nên hỏi giọng mai mỉa:

- Người ấy chắc là giàu có lắm?

Thúy Uyên cười nhẹ:

- Giàu? Chính em cũng không biết gia đình chàng giàu hay nghèo? Nhưng không quan trọng đâu! Em yêu chàng, chàng yêu em, tưởng đã đủ! Vả chăng, chàng cũng thuộc vào hàng thế gia vọng tộc, chỉ vì phụ thân chống đối với triều Hồ mà phải sống nơi rừng sâu.

Huỳnh Như run giọng hỏi:

- Người ấy họ Nguyễn?

Thúy Uyên gật đầu:

- Chị đoán đúng lắm. Phụ thân chàng vốn là một võ tướng lừng danh, mà dân chúng đều nghe tên Nguyễn Trường Hân.

Huỳnh Như chợt nhớ người yêu của mình có người anh song sinh võ nghệ phi thường, nên mừng quýnh ôm Thúy Uyên hỏi:

- Người ấy võ nghệ siêu việt lắm phải không?

- Em chưa xem tận mắt, nhưng em đoán chắc là như vậy. Có điều em biết chàng vẽ rất tài tình, văn chương tột bực, lại thêm nghề thầy thuốc tinh diệu… Huỳnh Như cau mày ngắt lời:

- Chàng biết cả nghề thầy thuốc? Biết cả hội họa? Có chắc không? Sở dĩ nàng hỏi như thế vì mấy năm chung sống với sư phụ, cũng là nghĩa phụ của Trường Giang, nàng vẫn thường nghe kể về anh em Trường Sơn:

- Hai anh em nó giống như hai giọt nước, nhưng tánh tình khác một trời, một vực. Tánh Trường Sơn nóng nảy bao nhiêu, tánh Trường Giang hòa nhã dịu hiền bấy nhiêu. Nếu Trường Sơn võ nghệ tuyệt luân, thì Trường Giang lại không biết tí gì về võ, nhưng nó là một học giả uyên thâm, tài trí phi thường. Dù rằng nó không tranh khoa bảng dưới triều Hồ, nhưng ta thiết tưởng dưới vòm trời này không ai học rộng biết nhiều như nó. Ngoài ra còn là một họa sĩ kỳ tài, âm nhạc tinh diệu, đánh cờ cũng là tay nổi tiếng.

Huỳnh Như thường nghe nghĩa phụ của chàng ca tụng người yêu, sung sướng lắm, giả vờ hỏi:

- Chàng tài giỏi đến thế ư?

Sư phụ cười lớn, đáp:

- Ta chưa kể ra hết đâu! Bởi vì vị hôn phu của con là một kẻ đa tài, kiến thức sâu rộng. Tuy nó được sự truyền dạy của ta, nhưng nó thật sự hiểu biết nhiều hơn ta.

Tối ngày nó nghiên cứu sách vỡ, thông thạo cả khoa thiên văn địa lý, rành cả ngôn ngữ các nước lân bang, lại thêm nghề thầy thuốc tinh vi hơn cả ta nữa!

Huỳnh Như thỏ thẻ:

- Chàng đã cứu chữa vết thương trầm trọng của con. Mạng sống của con do chàng tái tạo! Thật đối với chàng con mang ân sâu, tình nặng. Trần Quốc Anh lại kể:

- Trong nhà không ai biết được những điều nó biết. Cha, anh nó chỉ lo trau dồi võ nghệ, cung kiếm thôi. Chính vị hôn phu của con mới là đầu não không những của toàn gia họ Nguyễn, mà còn đối với ba quân tướng sĩ của phụ thân nữa.

Lời nói của nghĩa phụ chàng còn văng vẳng bên tai. Ai là người võ nghệ phi thường? Ai là người đa tài đa trí?

Nếu vị hôn phu của Thúy Uyên biết vẽ, biết nghề thầy thuốc, văn chương lỗi lạc… thì không ai khác hơn, ngoài «chàng»!

Huỳnh Như kêu khổ trong lòng:

- Trời ơi, có thể nào là chàng? Nếu không là chàng vì sao cây trâm của ta lại trong tay của Thúy Uyên?

Huỳnh Như quá khốn khổ, thiếu điều muốn ngất đi. Thúy Uyên vô tình đáp câu hỏi của bạn khi nãy:

- Sở dĩ em biết chàng rành nghề thầy thuốc là vì hôm ấy em đau liệt giường, chàng đến thăm em biên toa cho thuốc. Em uống thuốc ấy tức khắc hết bệnh ngay! Quả là thần y!

Rồi nàng cười với ánh mắt ngời hạnh phúc, tiếp tục nói:

- Em chưa từng thấy ai có tài họa tuyệt kỷ như chàng, vẽ qua trí nhớ! Chao ôi, thật là tài tình! Chàng chỉ gặp em một lần mà có thể nhớ ra chi tiết để vẽ được chân dung của em! Thiết tưởng trên thế gian này không ai làm được! Bức chân dung ấy em giữ mãi đến ngày ra đi mới để lại cho mẹ.

Câu chuyện của Thúy Uyên kể hoàn toàn đúng sự thật!

Có điều nàng không rõ việc Trường Giang đóng vai anh mình để hứa hôn với Thúy Uyên trong hoàn cảnh khá đặc biệt, mà chỉ có hai anh em chàng biết.

Đương nhiên cây trâm vàng của Huỳnh Như, mà Trường Giang trao cho Thúy Uyên để làm kỷ vật định hôn dùm anh, quả là một việc làm thiếu suy nghĩ. Hoặc giả vì chàng quá thương anh, không nghĩ đến tư tình của mình, gây sự hiểu lầm khôn giải giữa hai cô gái!

Mỗi lời nói, mỗi âm thanh réo rắt của Thúy Uyên kể về người yêu không khác gì đường đao, mũi kiếm, bâm vầm châm chọt thân xác của Huỳnh Như! Nàng quằn quại đau đớn muốn thét lên.

Thúy Uyên vô tình không hiểu nỗi khổ của bạn, ve vuốt mãi cây trâm, hồi tưởng đến người xưa...

Trời càng khuya, trăng vàng rực lung linh trên mặt biển… đẹp vô ngần! Không khác gì Hằng Nga rời Nguyệt điện xuống đại dương tung tăng vui đùa cùng sóng nước.

Trước bối cảnh tuyệt vời của hóa công hai người con gái vốn có tâm hồn thi sĩ vẫn chẳng thấy xúc động, vì mỗi người ôm một tâm sự riêng…

Họ không còn thấy gì chung quanh họ, cũng không nghĩ đến ai khác ngoài người tình của họ.

Thúy Uyên mơ màng nhớ tới những lời tình tự của

chàng…

Huỳnh Như ôm mặt khốn khổ, tưởng tượng đến người yêu có lẽ bị cha mẹ bắt buộc phải cưới con nhà quan, chàng buộc lòng phải hứa hẹn với Thúy Uyên, nên mới không dám trở lại gặp nàng trước phút ra đi.

Nàng bỗng nghĩ: Như vậy cũng không đúng! Vì Thúy Uyên đã nói rõ ràng hai người họ yêu nhau sâu sắc lắm. Nếu không yêu làm sao chàng có thể mượng tượng nhớ ra để họa hình? Nếu không yêu, chàng đã không lấy kỷ vật của nàng tặng cho Thúy Uyên!

Nghĩ đến đó cơn ghen hùng hục nổi lên, nàng vùng đứng dậy muốn cho tình địch một bài học. Biết rằng chàng đã chết, nhưng chàng phản bội trước khi chết thì không thể tha thứ được! Hiện tại nàng không thể trả thù chàng, thì ít nhất cũng làm cho «người yêu» của chàng điêu đứng.

Đàn bà con gái chỉ có sự ghen tuông là mù quáng! Xem như Huỳnh Như đã vào hàng nữ lưu hào kiệt, chí khí hơn cả bọn nam nhi, mà cũng không thoát khỏi thường tình nhi nữ!

Lòng sôi sục câm hờn, nàng quắc mắc nhìn tình địch...

Dưới ánh trăng huyền dịu, nét mặt ngọc của Thúy Uyên không khác gì tiên nữ bị đày chốn trần ai, u hoài, da diết...

Chuyến đi này là tử biệt! Còn mong gì gặp lại người tìnhyêu dấu? Ánh mắt sao trời của nàng lúc bấy giờ như chìm sâu dưới đáy nước, thăm thẳm mịt mờ...

Nàng sẽ thở dài. Tiếng thở dài của Thuý Uyên vô cùng não nuột khiến Huỳnh Như xúc động bồi hồi, nỗi hận thù trong lòng dường như đã tan biến. Nàng nhủ thầm:

- Nàng ấy với ta cùng yêu một người, cùng một hoàn cảnh làm nô lệ, cùng một ý chí diệt thù báo quốc… Đáng lý ra ta với nàng ấy phải vô cùng thân thiết, cớ sao oán ghét? n hận vì sự ghen ghét của mình, Huỳnh Như sẽ nắm tay bạn gọi nhỏ:

- Chị à, đời con gái chỉ một lần yêu! Mối tương tư của chúng mình thôi đành ôm xuống tuyền đài. Đôi mắt của Thúy Uyên chợt tỏa rực hai ánh kỳ quang, chiếu thẳng vào mắt bạn:

- Phải lắm! Chúng mình đã chọn cuộc nhân duyên kiếp này cho «người tình tổ quốc», mối tương tư đành phải mang xuống tuyền đài! Ngủ đi chị! để ngày mai chúng ta có sức cùng các chị em bày kế diệt thù...

- Huỳnh Như có cảm tưởng như mê đi sau cái nhìn và câu nói của bạn.

--------------------------------

1. Minh Thành Tổ gửi Trương Phụ sang An Nam lân thứ I (1406) đánh triều đình Hồ, bắt được cha con Quí Ly giải về Tàu. Đến khi nhà Hậu Trần nổi lên đánh thắng vài trận, Minh đế liền cử Trương Phụ sang An Nam lần thứ II (1409), Trương Phụ cũng thắng vẻ vang, dẹp được Hậu Trần và đến tháng 8 năm Giáp ngọ mới trở về nước, mang theo rất nhiều đàn bà con gái An Nam. Vương Hữu là phó thông binh.

2. Thượng thư Binh Bộ Trần Hiệp cai trị An Nam từ 1424-1426.

3. Nhân vật có thật trong triều Minh.

4. Xã hội VN thời nào cũng có lắm hạng người này. Đương nhiên những hạng thích "bợ đít" các quan có quyền thế cũng là kẻ thích đấm đá hãm hại hiếp đáp người yếu thế. Hạng này có thể xem là hạng tiểu nhân thối tha nhất, đáng khinh bỉ nhất.

 Chương 13: Người chồng quái dị

Nơi đó thuộc khu vườn của tư dinh quan Đại Học Sĩ Dương Sĩ Kỳ, nằm trong vòng thành rộng lớn với nhiều tòa nhà dọc ngang đồ sộ và lộng lẫy.

Một người con gái đứng bất động trên cây cầu đá bắc ra ngôi nhà mát giữa lòng hồ.

Cảnh vật trước mắt nàng vô cùng thi vị…

Dưới nước có sen, có cá ngũ sắc. Quanh hồ là khu hoa viên trồng đủ loại hoa kiểng. Có tùng, có trúc, có liễu... Xa xa thấy hòn sơn giả, có cả thác suối con.

Nhưng người con gái dường như không phải đứng đó để ngắm cảnh. Hồn phách nàng như gửi đâu đâu...

Ngôi nhà mát hình lục giác này gợi cho nàng hình ảnh của ngôi nhà năm xưa. Khu vườn hoa hương bay ngào ngạt này làm cho nàng bồi hồi nhớ về quá khứ…

Nửa năm qua chiều nào nàng cũng nghêu ngao trước cảnh đó để lòng mênh mang một nỗi sầu hận khôn giải!

Từ khi nước mất, làm dân một nước nô lệ bị giặc bắt giải về xứ này, tuy có may mắn không bị làm vợ người, nhưng cuộc sống vàng son nơi đây đâu khác gì con chim bị nhốt trong lồng, ngày ngày ngóng trông về tổ...

Mẹ hiền biền biệt nơi chân trời quê hương, chẳng rõ có yên thân trước sự cai trị hung tàn của giặc? Cha già làm kiếp tu đày trên đất khách, hiện sống chết ra sao? Thân huynh bôn ba hải ngoại tìm cha, hiện lưu lạc phương nào? Người tình biệt vô âm tích, giờ có còn trên dương thế hay đã về cõi chết?

Bao nhiêu thắc mắc với muôn ngàn sầu thảm làm cho nét mặt ngọc của nàng lúc nào cũng hắt hiu ảm đạm.

Nàng bỗng nhớ đến Huỳnh Như, cô bạn gái thân thiết của nàng trên hải thuyền của Trương Phụ. Nàng ấy quả là một bậc anh thư, nữ kiệt! Những ngày lênh đênh trên thuyền giặc, chị em bạn gái đồng hương đã học ở nàng ý chí cương quyết diệt thù.

Khi tàu cặp bến Lưu gia cảng [1] chị em chia tay mỗi người mỗi ngả. Trước phút chia tay Huỳnh Như còn nhắc nhỡ: «Trả hận vong quốc». Hơn 40 cô gái nghe nàng nói gật đầu, rồi ôm nhau khóc ngất. Trương Phụ cho họ lên xe đưa đi.

Chỉ riêng Thúy Uyên với Huỳnh Như đi hai cỗ xe riêng. Còn số chị em khác đi chung một cỗ xe lớn. Chẳng ai biết trước mình bị đưa về đâu?

Ngồi trong cỗ xe bịt bùng ba hôm sau Thúy Uyên được đưa vào phủ một vị đại quan. Nàng không hiểu Trương Phụ đã bàn tính gì với vị đại quan này? Chỉ biết rằng sau hai ngày tới đây nàng mới bị đưa ra trình diện chủ nhân.

Nàng hỏi thăm con hầu, biết được vị quan này họ Dương tên Sĩ Kỳ, là một Đại học Sĩ đứng đầu nội các. Đến khi giáp mặt ông ta, Thúy Uyên thấy ông ta có vẻ con người đoan chính, nghiêm minh, tuổi độ 50. Dương phu nhân khoảng trên 40, vẻ mặt phúc hậu.

Sau khi hỏi thăm thân thế của nàng, biết nàng là con gái của quan Hàn Lâm học sĩ xứ An Nam, lại thêm nhan sắc mĩ miều, hai vợ chồng lấy làm mừng rỡ. Dương Sĩ Kỳ nói:

- Ta thấy nàng dung nhân kiều mị, cốt cách khác phàm. lại thêm biết nói tiếng Trung Hoa, nên muốn nhận làm nghĩa nữ. Ta chỉ có hai con trai đã lập gia thất, đều là võ tướng hiện trấn ngoài ải Nhạn Môn. Hai ta ở nhà thân đơn vò võ, nên cũng ước mong có thêm một nghĩa nữ cho vui. Nàng nghĩ thế nào?

Thúy Uyên những tưởng mình bị bắt buộc làm vợ, làm thê thiếp, bọn quan nhà Minh và đã dự trù kế hoạch giết thù như Huỳnh Như đã vạch.

Giờ thấy hai vợ chồng người này đối đãi tử tế, nhất thời nàng chưa biết hành động ra sao, nên lễ phép thưa:

- Đại quan và phu nhân đã có lòng thương yêu, tiện nữ vô cùng cảm kích. Vậy xin lạy một lạy này để tỏ lòng thành kính và biết ơn.

Dương Sĩ Kỳ và Dương Phu nhân mừng rỡ, bảo nàng đứng lên, ân cần hỏi han, rồi đặt tên cho nàng là Dương Kiều Nga.

Dương Phu nhân không muốn nàng mang tên Thúy Uyên, vì sợ nàng hồi nhớ cố quốc, có ngày bay về tổ như loài chim Uyên.

Thúy Uyên bây giờ tức là Kiều Nga, được vợ chồng Dương Sĩ Kỳ trọng đãi, cho ở lầu Mộng Ngọc, có hai tỳ nữ hầu hạ như các tiểu thư quyền quí con quan đại thần Trung Quốc.

Hàng ngày Dương phu nhân quấn quít bên nàng, thấy nàng làu thông kinh sử, lại giỏi đủ nghề «cầm kỳ thi họa», bà vô cùng đẹp ý, nên càng yêu nàng như con ruột.

Mặc dù được đối xử tử tế, song Thúy Uyên vẫn không nguôi buồn khổ. Thâm tâm nàng lúc nào cũng nghĩ: «Ta được kẻ thù nuôi dưỡng trong lồng son này để quên tổ quốc, quên cội nguồn!».

Xem thế, kẻ thù đối đãi tốt càng nguy hiểm hơn kẻ hung bạo! Nàng luôn luôn nhủ thầm:

- Ta phải thoát ly khỏi ngục tù nhung gấm này, mới có thể tìm cách trả thù cho nhà, trả hận cho quốc gia. Rồi nàng tự hỏi:

- Chẳng biết Huỳnh Như và các bạn khác ra sao? Có ai đã làm được điều gì cho đất nước chưa? Đang lúc trầm tư nghĩ ngợi, Thúy Uyên chợt nghe tiếng nói nhỏ nhẹ bên tai:

- Thưa tiểu thư, Đại quan và phu nhân cho gọi tiểu thư vào khách sảnh bàn chuyện.

Thúy Uyên giật mình nhìn lại… thấy con tỳ nữ Kim Đào đứng sau lưng mình, sắc mặt hí hửng mừng vui.

Từ ngày làm nghĩa nữ cho họ Dương, Thúy Uyên được Dương phu nhân cấp cho 2 nô tỳ hầu hạ là Kim Anh và Kim Đào, một đứa 15 và một đứa 14 tuổi.

Vốn là hai chi em ruột, song Kim Đào thật thà dễ thương, còn Kim Anh tánh tình lanh lợi, xảo quyệt. Hai chị em khác nhau một trời một vực, từ hình hài đến tánh tình.

Thúy Uyên tín nhiệm Kim Đào nên để nó hầu hạ cận kề mình. Còn Kim Anh nàng ngán ngẫm không muốn nhìn. Nàng thấy trong ánh mắt của nó có sự ghen ghét, vì rằng nàng có may mắn được chủ nó thương yêu nhận làm nghĩa nữ.

Thúy Uyên nghĩ nó là hàng tôi tớ hạ cấp, chẳng đáng cho nàng bận tâm, nên giả vờ không thấy cái nhìn ghen ghét của nó. Trái lại nàng rất thương mến Kim Đào.

Thấy con hầu có cái nhìn kỳ lạ, nàng đoán ngay có điều bất thường, nên hỏi:

- Chắc em biết rõ nghĩa phụ và nghĩa mẫu ta muốn bàn chuyện gì phải không?

Kim Đào ấp úng:

- Dạ... Em không...

Thúy Uyên nhìn thẳng vào mặt nó, bảo:

- Giấu ta vô ích! Bởi vì trước sau gì ta cũng biết. Tốt hơn em nên cho ta biết ngay bây giờ mới thật xứng đáng tấm lòng thương yêu của ta.

- Thưa… Em nghe Đại quan và phu nhân bàn về việc cho tiểu thư lấy chồng.

Thúy Uyên nghe nó nói không khỏi giật mình kinh hãi. Kim Đào nhìn thấy cô chủ nhỏ mặt mày đổi sắc thì hết sức ngạc nhiên. Vì thói thường các nàng Trung Hoa nghe cha mẹ tính chuyện gả chồng đều hết sức vui mừng, mặc dù có chút hổ thẹn. Còn cô gái An Nam này in hình như không hoan hỉ lắm, lại còn tỏ vẻ kinh hoàng sợ hãi.

Nàng theo chân Kim Đào vào khách sảnh, lòng miên man nghĩ ngợi: «Ta có nên chấp nhận hay từ chối cuộc hôn nhân của họ Dương đề nghị?»

Vô tình tay nàng chụp lên mái tóc mò mẫm cây trâm… con tim bỗng rên siết từng cơn…

Nhớ lại buổi chiều nơi tư phòng nhà nàng, cả hai thú nhận yêu nhau. Nàng trao cho chàng vòng ngọc, còn chàng trao cây trâm cho nàng, nói rằng:

- Đây là bảo vật quí nhất của tôi, xin gửi nàng để làm tin. Tôi về nhà sẽ trình lại với song thân việc nhân duyên của chúng ta. Có điều phận làm trai nợ nước chưa trả, xin nàng

nán lòng chờ đợi ngày toàn dân ta đuổi được loài hung bạo khỏi quê hương, lúc ấy đôi ta mới nên duyên chồng vợ.

Câu nói của chàng, nàng thuộc nằm lòng! Nàng nhận cây trâm và nghẹn ngào bảo:

- Cây trâm này ví như người bạn tình của thiếp cho đến ngày tương ngộ cùng chàng.

Lời nói của cả hai còn rành rành đó… Mấy năm qua nàng quyết giữ tấm thân băng tuyết cho vẹn lời thề với người xưa. Khi bị giặc bắt, nàng đã hứa với mẹ là bảo vệ tiết trinh cho người yêu, dù phải chết.

Nào ngờ gặp cô bạn gái Huỳnh Như, bao nhiêu ý chết trong đầu đã tan biến. Huỳnh Như khuyên nhủ các chị em đồng hương nên dùng nhan sắc của mình mà trả thù cho quốc gia. Đừng vì chút tình riêng mà hủy hoại thân xác, trong khi tổ quốc đang cần những đứa con thân yêu mưu đồ phục quốc.

Nhớ đến lời căn dặn sau cùng của Huỳnh Như, Thúy Uyên cảm giác như có một luồng khí lạnh chạy từ chân lên đỉnh đầu. Nàng tê tái nhủ với mình:

- Thân ta bây giờ không thuộc về ta nữa, mà hãy kể như đã hiến cho công cuộc phục quốc. Việc gì nhắm có lợi cho quốc gia thì ta phải hy sinh, dù có bị thất tiết hay phải chết!

Nàng nghĩ như thế nên tính trong bụng: «Nếu như Dương sĩ Kỳ và Dương Phu nhân gả nàng cho một tên quan Tàu quyền thế mạnh, nàng sẽ bằng lòng lấy hắn để xoay sở vận mệnh nước nhà.»

Đã có quyết tâm như thế, nàng bình tĩnh vào khách sảnh chào cha mẹ nuôi, thỏ thẻ hỏi:

- Chẳng hay nghĩa phụ và nghĩa mẫu có điều chi dạy bảo? Dương phu nhân ngọt ngào:

- Con năm nay đã 23, 24 tuổi rồi. Dù ích kỷ ta cũng không thể giữ con ở mãi trong nhà. Mấy tháng qua thân phụ con đã để ý tìm được một người xứng đáng cho con. Ngặt vì mình là đàng gái khó thể lên tiếng trước, nên phụ thân con phải tìm người nhờ làm môi giới. Cũng may có quan Hình bộ Trình Ngô Công chịu đứng ra giúp dùm. Bữa nay người ấy đã chịu. Vậy ý cha mẹ định tháng sau cho con xuất giá, con nghĩ thế nào? Thúy Uyên giả vờ nói:

- Con chưa kịp hầu hạ nghĩa phụ và nghĩa mẫu để đền đáp công ơn đã thương yêu nuôi dưỡng con, làm sao có thể tính chuyện xuất giá theo chồng? Dương Sĩ Kỳ cười khà khà nói:

- Những lời hiếu thảo của con, ta rất cảm động. Sự thật nếu con chịu lấy người mà ta sắp đặt cho con, cũng là cách đền ơn ta đó.

Thúy Uyên đưa mắt nhìn Dương Sĩ Kỳ, hỏi:

- Xin nghĩa phụ cho con rõ vì sao?

- Bởi vì người ấy hiện nay được Hoàng thượng yêu chiều, các quan kính nể. Tuy ta đứng đầu bá quan, nhưng thế lực không bằng người ấy, sợ rằng bọn hoạn quan thu phục kéo người ấy về một phe thì rất nguy hiểm cho việc trị nước. Thúy Uyên nghe nói nghĩ thầm:

- Té ra bấy lâu mình lầm tưởng hai vợ chồng này tử tế với mình, nhận làm nghĩa nữ. Sự thật họ đã có dụng ý dùng ta để thu phục kẻ lợi hại khác! Thúy Uyên này đâu phải con mồi để các người buông câu?

Trong lòng uất hận, song ngoài mặt nàng bình tĩnh dọ dẫm:

- Người ấy làm chức chi hỡ nghĩa phụ?

- Người ấy vừa trông coi Hàn Lâm viện, vừa làm trong nội các, được vua phong là Long Đồ Đại Học Sĩ.

- Nghĩa phụ đứng đầu nội các, quyền thế lẫy lừng, sá gì người ấy?

- Chỉ tại con không hiểu! Người ấy tuy mới làm quan và cấp bực dưới ta, song lại được vua thương yêu hết mực. Tuy ta đứng đầu bá quan, nhưng thế lực cũng không thể sánh

với người ấy, dù rằng chức vụ của ta gần như chức vụ thừa tướng, còn người ấy vừa coi Hàn Lâm, vừa phụ giúp ta [2].

Thúy Uyên nghe nói người sẽ làm chồng mình là tên quan được lão hoàng đế trọng vọng thì có ý mừng. Tự nhủ: «Nếu hắn là tay chân quan trọng của Minh đế, ta trừ được hắn là kể như ta trả được mối hận nho nhỏ cho quốc gia».

Vì nghĩ thế nên nét mặt nàng lộ vẻ mừng rỡ. Dương Sĩ Kỳ và Dương Phu nhân không thấu rõ ý nghĩ thầm kín của nàng, ngỡ nàng sung sướng vì sắp lấy chồng nên cả hai vui vẻ nói:

- Ta tin với tài trí và nhan sắc của con, con sẽ chinh phục được lòng yêu thương của người ấy. Con phải gắng...

Dương Sĩ Kỳ nói đến đó vụt nín tuốt. Thúy Uyên lấy làm thắc mắc, gạn hỏi:

- Có điều gì làm nghĩa phụ lo nghĩ chăng?

Dương phu nhân đáp thay chồng:

- Có một điều con cũng nên biết là chung quanh người ấy có rất nhiều mỹ nhân, cũng vào hàng tiểu thư quyền quí con nhà quan, giàu có xinh đẹp nhất thành Nam Kinh, do các quan trong triều dâng cho người ấy làm thê thiếp. Mấy năm trước người ấy không chấp nhận một ai. Nghe nói trong tư dinh chỉ có vài ba đầy tớ và tên thơ đồng. Nhưng bỗng dưng nửa năm sau này người ấy thu nhận con gái đẹp về chứa trong dinh đông đảo không khác gì cung tần mỹ nữ ở hoàng cung. Lạ một điều là cho đến nay vẫn chưa có cô gái nào được chọn làm người bạn tình chung chăn gối.

Thúy Uyên cười nhẹ, nói giọng mai mỉa:

- Ai lại đem dâng con cho con người kiêu hãnh như thế? Dương phu nhân thở ra:

- Chỉ vì người ấy được hoàng thượng yêu chiều, nên các quan đua nhau nịnh bợ dâng con để mong dựa thế lực... Dương phu nhân nói câu đó thấy mình lỡ lời, nên vội vàng chữa:

- Nghĩa phụ con chẳng cần dựa thế người ấy, vì ổng đã đứng đầu trăm quan, song vì sợ bọn hoạn quan mua chuộc kéo người ấy về một phe, rất có hại cho việc trị quốc. Mong rằng con hiểu được thành ý của nghĩa phụ mà chinh phục tình yêu của người ấy, để đời con được sung sướng, mà chúng tôi cũng hãnh diện vì con rể. Thúy Uyên lẩm bẩm nói:

- Chinh phục người ấy? Vâng, con sẽ cố làm cho hắn điên đảo đảo điên vì con!

Nàng nhớ đến lời nhắn nhủ của Huỳnh Như: «dùng cái nhan sắc khuynh thành làm điên đảo lòng giặc». Giờ phút quan trọng đã điểm rồi đây!

Chờ xem nàng sẽ dùng mánh lới nào để hạ tên quan Tàu ấy...

Dương phu nhân nghe nàng hứa hẹn mừng lắm, bảo nhỏ:

- Nhan sắc của con gái Trung Quốc không ai bì nổi. Ta tin rằng người ấy sẽ lụy vì con. Dương Sĩ Kỳ căn dặn:

- Con nhớ đừng cho bất cứ ai biết con là gái An Nam. Đối với mọi người, con là con ruột của ta. Quay sang vợ, ông nói:

- Phu nhân nên cho bọn tôi tớ trong nhà biết rằng từ nay Dương tiểu thư là con ruột của chúng ta. Đứa nào hó hé việc Kiều Nga là nghĩa nữ tôi sẽ trị tội.

Dương phu nhân gật đầu:

- Để thiếp cho bọn chúng biết.

Dương Sĩ Kỳ lại nói:

- Mấy tháng qua ta nhờ quan Hình Bộ tới lui nhà người ấy để làm môi giới nói rõ ý ta muốn gả con gái. Người ấy chần chừ không trả lời, mãi đến nay mới ưng chịu. Ta liền ra điều kiện phải làm lễ nghinh hôn, tiệc cưới hẳn hòi và phải xem con là vị phu nhân chính thức. Dương phu nhân tiếp lời chồng:

- Chắc con cũng biết nghĩa phụ con là đường đường một vị quan đứng đầu triều đình, đâu có thể làm cái kiểu đem con gái của mình dâng không như bọn nịnh bợ hạ cấp kia! Thúy Uyên thầm nhủ trong lòng:

- Bọn nịnh bợ hạ cấp hay thượng cấp cũng là bọn nịnh bợ. Té ra triều đình chúng bây thối tha hết chỗ nói! Phe đảng bè phái tranh giành cho đến đổi đưa con gái làm món vật hối lộ! Quả thật nghề hối lộ bọn Tàu chúng bây giựt giải quán

quân! Đau đớn thay cho thân ta lọt vào vũng bùn nhơ nhớp này để chúng bây tranh giành quyền lực! Hừ! Thúy Uyên này quyết dùng «gậy ông đập lưng ông», cho cả bọn thù nghịch đâm chém nhau. Triều đình Trung quốc tan nát, thì họa may nước ta dân ta mới quật khởi được.

Trong lòng mênh mang thù hận, ánh mắt nàng long lên như hai vì sao sáng quắc.

Lần đầu tiên Dương Sĩ Kỳ và Dương phu nhân nhìn thấy đôi mắt nàng chiếu những tia sáng kỳ lạ, cả hai có cảm tưởng như vừa bị mê hoặc, như bị thôi miên, bần thần một lúc.

Thúy Uyên chợt hỏi:

- Con muốn biết...

Nàng muốn biết năm nay hắn bao nhiêu tuổi, hình hài ra sao? Nhưng nghĩ lại: «Ta lấy hắn là cố ý tìm cơ hội giết hắn, chớ nào phải yêu thương sống đời với hắn đâu mà thắc mắc tuổi tác hình hài?» Vì nghĩ thế nên nàng nói trớ rằng:

- Con muốn biết nhà người ấy có xa lắm không? Chỉ sợ theo chồng xa xôi cách trở, lúc nhớ nghĩa phụ và nghĩa mẫu chẳng biết làm sao gặp được?

Dương phu nhân nghe nàng nói lời chí tình, cảm động chạy tới ôm nàng vào lòng nghẹn ngào:

- Con thật xứng đáng là con gái yêu quí của ta.

Chiều đó trong buổi cơm chung, cả ba đều lộ vẻ vui mừng hớn hỡ. Chẳng bù nửa năm qua nét mặt Thúy Uyên lúc nào cũng dàu dàu. Dương Sĩ Kỳ lúc nào cũng trầm ngâm ít nói, còn Dương phu nhân thì buồn bã lo âu.

Bữa nay người nào cũng hạnh phúc tràn trề.

Thúy Uyên nghĩ mình sắp sửa ra tay giết tên quan đầu xỏ Tàu, rửa được mối hận cho quốc gia, để không phải sống đau thương nơi đất khách với thân phận cá chậu chim lồng, nên trong bụng nôn nao lắm.

Dương Sĩ Kỳ khoan khoái hơn hết, vì mấy năm qua muốn níu kéo con người được hoàng thượng yêu quí về phe mình, nhưng không biết tính sao? Kịp khi Trương Phụ từ An Nam trở về dâng cho ông một cô gái đẹp để làm thiếp, ông bỗng nảy ý nhận nàng làm con nuôi để gả cho người ấy, hầu ông có được chàng rể quí thế lực nhất triều đình. Cha vợ, con rể quyền thế tột bực, không sợ bọn nào đấm đá nữa.

Dương phu nhân bấy lâu mang một tâm trạng lo âu với chồng. Nay mọi việc được giải quyết êm đẹp, bà sắp sữa làm nhạc mẫu con người mà hết thảy các mệnh phụ phu nhân trong triều mơ ước, nên bà hãnh diện vô cùng.

° ° °

Thời gian trôi nhanh, thắm thoát đã một tháng. Cả Dương phủ rộn ràng treo đèn kết hoa, tổ chức linh đình lễ cưới cho tiểu thư Dương Kiều Nga lấy quan Đại học sĩ.

Dương phu nhân chu toàn cho Thúy Uyên tất cả các thứ, từ áo gối thêu đến của hồi môn... Bà lại cắt đặt cho hai con nữ tỳ Kim Anh và Kim Đào theo Thúy Uyên về nhà chồng.

Những ngày cuối cùng Thúy Uyên chợt nghe sợ hãi và có cảm tưởng như dự tính «hạ» con người sắp làm chồng nàng không phải dễ. Nàng chưa biết mặt mũi hắn ra sao? Nhưng cũng đoán được một người được lòng Hoàng đế chắc phải lanh lợi điêu ngoa. Trong tay hắn vô số con gái đẹp mà hắn vẫn dững dưng, thì không biết nhan sắc của nàng có đủ chinh phục hắn không?

Theo lời nghĩa mẫu nàng kể: Hoàng thượng cưng hắn cho đến đổi ra lệnh quan công bộ xây cho hắn một tòa dinh thự tân kỳ và tiện nghi bậc nhất ở Nam Kinh.

Đám cưới của con gái một vị quan đại thần với một quan đại thần tất nhiên phải linh đình và trọng thể.

Lúc ấy gần tới giờ hoàng đạo, bỗng thấy đoàn kiệu rước dâu đến. Thúy Uyên ăn mặc lộng lẫy, trước mặt có che tấm mạng bằng the đỏ và được hai nữ tỳ Kim Anh và Kim Đào dìu lên kiệu hoa.

Hai tòa nhà cách nhau không xa lắm. Chẳng mấy chốc đoàn kiệu hoa tới nơi, đúng vào giờ hoàng đạo. Thúy Uyên được đưa thẳng vào trong sảnh đường để cùng với chú rể hành lễ.

Đang lúc làm lễ bái Thiên bái Địa, Thúy Uyên chợt nghĩ: «Ta cố ý làm vợ hắn để giết hắn, mà để cho Trời đất chứng dám, hóa ra ta mang tội sát phu sao?» Vì nghĩ vậy nên khi làm lễ nàng lâm râm khấn:

- Xin Trời đất Thánh Thần đừng chứng dám đám cưới

này.

Lạy tạ Trời Đất và Hoàng ân xong, đến lạy tạ cha mẹ đôi bên, Thúy Uyên chợt nhớ Dương phu nhân có nói: «Cha mẹ hắn ở quá xa nên không đến dự lễ cưới». Vì vậy cả hai chỉ lạy cha mẹ vợ, tức vợ chồng Dương Sĩ Kỳ mà thôi.

Sự thật cả triều đình ai cũng xầm xì về vụ đám cưới không có cha mẹ chồng chứng dám. Nghe nói cha mẹ của hắn quá già, lại ở tận miền quê xa xôi, nên không muốn tới Nam kinh sinh sống.

Lễ nghi đã xong, nàng được gia nhân đưa lên phòng cưới trên từng lầu trên. Chú rễ vẫn còn ở lại tiếp khách nơi sảnh đường.

Bây giờ chiếc mạng the được mở ra, Thúy Uyên mới trông rõ cảnh vật…

Gian phòng này trưng bày thật trang nhã, dưới nền có lót thảm, trên vách có treo tranh. Các màn cửa đều bằng the màu xanh trời thật dịu, khác hẳn với các phòng cưới cổ điển thứ chi cũng màu hồng, màu đỏ.

Phòng không rộng lắm! Song đồ đạc bên trong đâu ra đó. Ngoài cái tủ áo quần có gương soi, còn có bàn trang điểm và chiếc bàn con để viết.

Vật đáng lưu ý nhất phải nói là chiếc giường cẩn thật đẹp, với nệm thật dầy. Có điều chiếc giường quá hẹp, chỉ vừa đủ cho một người nằm. Nệm được bọc bằng một tấm lụa trắng tinh. Chăn gối cũng bọc áo bằng lụa trắng. Trên giường còn có một cái gối duy nhất.

Vì nàng không có nỗi cảm xúc của cô dâu, nên thứ chi trong phòng cũng làm cho nàng tò mò...

Thấy giường màn chăn gối đều đơn chiếc, nàng biết «hắn với nàng» sẽ không có đêm «động phòng hoa chúc». Nàng cười khảy:

- Hứ, tên này kiêu hãnh quá!

Rồi nàng bật cười một tràng dài. Hai gia nhân của hắn là hai mụ đàn bà hướng dẫn Thúy Uyên lên phòng, tuổi độ trên 40, nghe Thúy Uyên lảm nhảm một câu bằng tiếng An Nam hai mụ không hiểu gì. Thấy nàng cười, hai mụ càng lạ mắt!

Thúy Uyên cứ tỉnh bơ, kể như không có mặt hai mụ đó, nói to, mà dĩ nhiên chỉ riêng nàng hiểu:

- Hắn tưởng cô dâu thấy cảnh: «Không rượu hợp cẩn, không đêm động phòng» chắc sẽ khóc ngất! Nào dè đúng ý ta! Thân ta còn giữ trong sạch đêm nay nữa!

Nàng cười hết sức khoan khoái. Hai mụ gia nhân nghe nàng lảm nhảm, rồi lại cười... tưởng nàng hóa điên, nên sắc mặt họ từ ngơ ngác đổi thành thương hại.

Hai người hối hả bước đi, có lẽ đi trình báo với chủ nhân? Thúy Uyên vẫn không dứt tiếng cười, gọi giật hai mụ lại:

- Nhờ hai mụ nói với chủ nhân: «Ta có lời cảm ơn».

Cả hai quay mặt nhìn Thúy Uyên sững sờ một lúc như không hiểu lời nàng. Một mụ châu mày hỏi:

- Cám ơn điều chi cô nương?

Thúy Uyên không tắt nụ cười trên môi, đáp:

- Mụ thử nghĩ coi, cả ngày tân lang tiếp khách nhậu nhẹt li bì, mà chui vào đây để làm cái lễ động phòng với ta, có phải khổ cho thân ta không chứ? Ta làm sao chịu nổi mùi hôi hám của «hắn» chứ? Mụ đàn bà nghe nàng gọi chủ nhân họ bằng «hắn», có vẻ khó chịu. Mụ nói:

- Có lẽ cô nương là người thứ nhất cười chứ không khóc khi trông thấy phòng cưới thế này. Nhưng chỉ sợ...

Thúy Uyên cười lớn ngắt ngang câu nói của mụ.

Nàng có nghe nghĩa phụ và nghĩa mẫu kể: «Mấy năm qua thiên hạ dâng cho hắn rất nhiều gái đẹp để làm thê thiếp, nhưng hắn không chung chăn gối với cô nào». Nay hắn cưới nàng về cũng đối xử như các cô gái kia, có lẽ hắn tưởng nàng đau khổ lắm! Tức cười hết sức!

Thúy Uyên lại cười.

Thấy nàng cứ mãi cười, mụ thứ hai nhịn không được, gằn giọng nói:

- Chỉ sợ cô nương cười hết đêm nay, rồi những đêm sau cô nương sẽ khóc nhiều hơn ai hết!

- Vì sao chứ?

Nàng hỏi giọng hơi nặng. Mụ gia nhân đáp:

- Vì cô nương cũng sẽ ao ước được chủ nhân tôi gần gủi mà không được, tất phải khóc tủi thân phận như 15 mỹ nhân trong nhà này.

- Không bao giờ!

Hai mụ không cãi lời nàng, quay lưng bỏ đi. Thúy Uyên lớn giọng hỏi:

- Hai nữ tỳ của ta đâu?

- Chúng ở chỗ khác! Người sống trong tòa nhà này đều có phận sự riêng. Cô nương rồi cũng sẽ làm lụng như tất cả mọi người. Hai mụ nói xong đi thẳng. Thúy Uyên thấy gia nhân của hắn vô lễ với mình, cười khảy một tiếng, nói vọng theo:

- Nên nhắc với chủ nhân các ngươi nhớ rằng: Ta là ái nữ của quan Đại thần Dương Sĩ Kỳ. Những gì ta đem từ

Dương phủ sang đây đều thuộc về ta! Không ai được quyền xử dụng gia nhân của ta!

Có lẽ câu nói chót của nàng hai mụ không nghe. Thúy Uyên tức giận chạy tới khép cửa phòng, cài then lại, nằm duỗi trên giường trong lớp áo cưới.

Giường thật êm, thoang thoảng mùi hương dìu dịu từ lọ hoa đặt trên chiếc bàn nhỏ bên cạnh, làm cơn bực tức của nàng không còn nữa!

Nàng nhắm mắt lại hồi tưởng đến giây phút làm lễ với hắn nơi sảnh đường… Qua tấm màng the đỏ, nàng không thấy rõ mặt mũi của hắn, nhưng dáng dấp chừng như thanh tú chứ không giống những tên Tàu bụng phệ khác. Sự thật mắt nàng khó thể trông rõ, lại thêm đầu óc choáng váng vì mùi trầm hương xông lên nồng nặc, cùng với hơi thở của khách quá đông, nên cũng khó thể đoán được hắn già trẻ, hung hiểm… ra sao!

Dù sao cũng không gấp gì! Nàng với hắn còn cả một trường tranh đấu trong những ngày sắp tới… Để xem phần thắng về ai?

Bỗng dưng nàng nghe lý thú khi tưởng tượng đến ngày nàng «hạ» được hắn, một tên quan Tàu kiêu hãnh lợi hại!

Nàng tự hỏi:

«— Bởi lý do gì hắn kiêu hãnh? Vì được lòng lão Hoàng đế nên phách lối tự đắc chăng? Quả là hạng nịnh bợ được thời, lếu láo có khác!»

Nàng bỗng nghĩ tới Dương Sĩ Kỳ và Dương phu nhân. Hai người tìm đủ mọi cách để hắn chịu làm hôn lễ linh đình với «con gái của họ», tưởng đâu «con họ» được trọng vọng như một vị phu nhân, chớ không ngờ nàng vẫn bị ngược đãi như các cô gái khác!

Nếu biết được điều này chắc chắn Dương Sĩ Kỳ và Dương phu nhân phải ức lắm, vì bị cấp dưới bẽ mặt!

Cũng may con gái của họ là nàng! Cũng may nàng không là gái Trung Quốc và nàng chịu ưng hắn vì có mục đích, nên sự ngược đãi của hắn làm nàng lý thú hơn là khổ hận.

Nhất thời nàng chưa biết mình sẽ có thái độ nào, nên nghĩ bụng:

- Ta phải ngủ một giấc cho khoẻ, mọi việc ngày mai sẽ

tính.

° ° °

Thúy Uyên tỉnh dậy thì trời đã quá trưa. Chiều qua nàng ngả lên giường không ngờ ngủ một giấc thẳng tuốt đến sáng hôm sau. Cửa sổ quên đóng, nắng chiếu vào tận chỗ nàng nằm đem hơi nóng ấm áp dễ chịu.

Nàng ngồi bật dậy, thấy mình vẫn còn trong lớp áo cưới, miệng chúm chím cười, thong thả bước đến khung cửa sổ nhìn ra ngoài…

Giờ này có lẽ khoảng giờ Thìn, mặt trời đã lên cao, song chưa gay gắt lắm. Phía dưới là vườn hoa chia riêng biệt với nhau. Mỗi khu mỗi loại hoa, màu sắc khác nhau.

Điều đáng lưu ý là mỗi khu đều có một thiếu nữ chăm sóc. Có cô đang cắt lá, có cô đang vun sới đất, có cô đang nhổ cỏ... Từ lầu cao nàng không trông rõ mặt họ, nhưng cũng có thể cho họ thuộc hạng «đẹp».

Nàng tự hỏi: «Phải chăng các thiếu nữ này đều là vợ hắn?» Có thể lắm! Nàng lẩm bẩm:

«— Hừ! tội gì ở đây làm tôi mọi cho hắn? Bọn gái Tàu ngu muội không chịu được! Đừng hòng ta làm việc đó!»

Nàng bỗng nhớ tới lời của hai mụ gia nhân chiều qua: «Người sống trong tòa nhà này đều có phận sự riêng. Cô nương rồi cũng sẽ làm lụng như tất cả mọi người».

Nhớ đến lời nói của hai mụ này cơn giận trong lòng nàng bừng bừng trào lên. Nàng phải giáp mặt hắn nói vài lời cho hả dạ. Tự nhủ:

- Trương Phụ là võ quan thô lỗ hung bạo, ta còn không ngán, sá gì mi chỉ là một tên quan văn?

Lòng uất hận tràn trề, nàng tung cửa chạy ra khỏi phòng, chợt thấy mấy rương quần áo và của cải hồi môn của nàng do cỗ xe dâu đem đi hôm qua, giờ ai chất đống trước cửa ?

Không có Kim Anh và Kim Đào, nàng đành phải khệ nệ ôm đồ đạc của mình vào phòng và sắp xếp vào tủ.

Xong việc nàng ngồi thở dốc. Nghỉ một lúc nàng cỡi bỏ lớp áo cưới, mặc chiếc áo lụa màu xanh thanh nhã, mở cửa phòng nhẹ bước ra ngoài…

Bên ngoài là dãy hành lang dài hun hút. Các phòng nối tiếp nhau, rộng hơn phòng nàng và khoảng chừng 10 phòng. Chính giữa có một khoảng trống là lối để đi xuống cầu thang.

Từ cửa phòng đến thành lan can là khoảng hành lang khá rộng, gió lộng vù vù.

Nhà có 3 tầng. Tầng nàng đang đứng là tầng giữa. Tường vách cửa nẻo lan can đều sơn phết một màu trắng toát, làm cho tòa nhà nổi bật dưới nền trời xanh, đẹp một cách kiêu kỳ!

Sân phía trước là sân cỏ, thứ cỏ mịn như nhung, không khác gì sân có lót thảm.

Từ cổng rào đi vào nhà có hai con đường song song, một đường lát đá hoa, một đường trải sỏi để cho người đi bộ và xe ngựa cũng có thể chạy thẳng vào trong.

Dĩ nhiên nhà nằm trong một bức tường thành khá cao, chiếm một chu vi rộng lớn, vì phía trước là sân cỏ và hồ nước. Phía sau là khu hoa viên. Bên hữu khu hoa viên có một dãy nhà cất thấp là nhà chứa xe và chuồng ngựa... Sánh với phủ Dương Sĩ Kỳ thì nơi đây không được kể là đồ sộ. Nhưng lối kiến trúc tân kỳ và lối trình bày lạ mắt mà nàng chưa từng thấy nơi khác.

- Chủ nhân quả là con người khác lạ!

Hắn càng khác lạ, nàng càng tò mò muốn biết về hắn. Chân nàng bước tới...

Giờ này trong nhà dường như không còn ai? Tất cả hình như đều làm lụng bên ngoài? Nàng lắng tai vẫn không nghe một tiếng động nhỏ. Các cửa phòng tầng này đều đóng kín.

Thúy Uyên nhẹ bước qua dãy hành lang, lần dò đến cầu thang. Cầu thang để đi xuống nhà dưới thì không có chi đáng nói. Cầu thang để lên tầng trên có một dây sắt chấn ngang và có treo tấm biển đề mấy chữ như vầy: «Chỗ dành riêng cho chủ nhân, miễn vào».

Thùy Uyên «hứ» một tiếng rồi nói:

- Đồ làm phách! Ngươi cấm lên trên đó, ta càng muốn lên xem cho biết ngươi ăn ở quái dị thế nào?

Nói là làm! Nàng chui ngang sợi dây xích leo lên mấy bậc thang...

Thình lình có tiếng còi hụ inh ỏi. Thúy Uyên không hiểu hiệu lệnh gì, nên lẹ làng phóng trở xuống, chạy tuốt về phòng mình.

Nàng nhìn qua cửa sổ, thấy các cô gái đang làm việc ngoài vườn lần lượt vào nhà. Thúy Uyên càng thắc mắc, không hiểu việc gì xảy ra? Bỗng có tiếng chân người đi ngoài hành lang và dừng trước cửa phòng nàng. Nàng giả vờ như không nghe biết, đứng tì tay nơi khung cửa sổ nhìn trời.

Một người gõ cửa nhè nhẹ rồi xô cửa bước vào… Thúy Uyên từ từ quay mặt lại... Người ấy không ai khác hơn là một trong hai mụ gia nhân chiều qua. Mụ lên tiếng ngay:

- Mời cô nương xuống nhà dưới dùng cơm. Từ đây hễ nghe tiếng còi hụ thì cô nương phải tự động xuống phòng ăn.

À thì ra hiệu lệnh giờ cơm!

Nàng theo chân mụ ra ngoài. Mụ nói:

- Cô nương hãy khóa cửa lại và lấy chìa khóa theo. Mỗi người tự giữ an toàn và tự dọn dẹp lấy phòng mình.

Nghe mụ nói, nàng lẳng lặng khóa cửa và đi theo mụ xuống tầng dưới, không thèm nói một lời.

Phòng ăn khá rộng, cạnh bên khách sảnh mà nàng làm lễ cưới hôm qua. Nhà này phòng nào in hình đều lót thảm, nên bước chân êm ru.

Trong phòng đã có sẵn trên mười cô gái trẻ đẹp ngồi ăn quanh cái bàn vuông dài. Thấy nàng vào, có vài cô ngước mặt lên mỉm cười như chào, còn phần đông thì điềm nhiên ăn uống, không cần biết sự hiện diện của nàng.

Mụ gia nhân đưa nàng tới phòng rồi đi tuốt. Nàng tìm một ghế trống ngồi xuống ăn tự nhiên như mọi người, nhưng đôi mắt không ngừng quan sát các cô gái...

Trong buổi ăn họ nói chuyện om om. Tiếng cười tiếng nói ồn ào không khác gì giữa chợ! Câu chuyện của họ đều chú về một mục đích duy nhất là: «Làm thế nào để được lòng chủ nhân».

Thúy Uyên lắng nghe mà tức cười thầm cho bọn con gái ngu ngốc này. Nàng càng thắc mắc không hiểu hắn là «cái quái gì» mà các cô này chịu phục tùng? Chẳng lẽ vì hắn làm quan to, các nàng mê địa vị mới cầu lụy hắn cỡ đó?

Theo Dương phu nhân cho biết thì bọn này đều là con quan, hoặc con nhà giàu có nhất thành Nam Kinh, vì ham địa vị mà chịu làm tôi mọi cho hắn.

Sau buổi ăn các cô tự động dọn dẹp vào nhà bếp phía bên tả phòng ăn. Khách sảnh nằm bên hữu.

Trong khi các cô gái dọn dẹp, nàng đưa mắt quan sát phòng ăn… Bàn ghế nơi đây đều làm bằng thứ gỗ quí, chạm trổ tinh vi. Trên vách có treo tranh và liễn.

Tranh không chữ ký, song nét vẽ thật điêu luyện, giống như hai bức tranh trong phòng nàng. Chữ viết trên mấy tấm liễn thì quả thật là đẹp! Nàng chưa từng thấy ai có bút tự đẹp như thế!

Đang lúc nàng đứng tần ngần xem tranh, xem liễn… Bỗng có một cô bước tới mỉm cười hỏi:

- Chị là cô dâu hôm qua đó à?

Thúy Uyên chưa kịp đáp câu hỏi cô gái ấy, thì có một cô khác chạy tới nói xen vào:

- Chị đẹp quá, chắc sẽ được chủ nhân chọn! Cô tới trước liền nói:

- Đương nhiên là chị này được chọn mới có lễ cưới linh đình chứ?

- Chưa chắc! Nếu chị ấy được chọn sao lại nhập bọn với chúng ta?

Chợt có một giọng thứ ba sau lưng Thúy Uyên vang lên:

- Chị thấy mặt tân lang không chị? Thúy Uyên không đáp, lại nói:

- Mặt của «hắn» thấy làm chi cho phát ghét? Câu nói của nàng làm cả bọn lạ lùng. Bây giờ thì chung

quanh Thuý Uyên không chỉ có ba cô, mà có cả chục cô! Một cô trong bọn lên tiếng:

- Chị có thấy mặt tân lang chưa mà tuyên bố ghét? Giọng cô ta đầy mỉa mai khiến Thúy Uyên bực mình gắt:

- Cần gì phải thấy mặt hắn? Thái độ ngược đãi của hắn với các chị, chưa đủ ghét hắn à? Đáng lý các chị phải phản đối bỏ đi...

- Đã vào đây thì khó ra đi và cũng không ai muốn đi!

Chính là cô gái làm quen với Thúy Uyên đầu tiên nói câu đó. Nàng chưng hửng nhìn cô ta. Cô ta nói tiếp:

- Chị không thấy hai tên gác cửa ngoài cổng đó à? Nơi đây không khác gì cung cấm, đã vào thì không thể ra được!

- Hắn lấy quyền hành gì mà nhốt các chị ở đây?

- Quyền chủ nhân! Quyền làm chồng!

Một nàng trả lời Thúy Uyên câu này, cả bọn cười ồ. Thúy Uyên nghiêm giọng:

- Dù là chủ nhân, dù là chồng, cũng không có quyền nhốt người hay hành hạ người.

- Nào chàng có nhốt hay hành hạ ai đâu? Chàng có nói: Hễ ai không thích ở đây thì chàng sẽ giao trả lại cha mẹ. Bằng nếu muốn ở trong nhà này, phải chịu theo khuôn phép

nhà này. Thúy Uyên châu mày:

- Vậy sao các chị không đi phứt cho rồi. Ở đây làm gì để phải làm tôi mọi cho hắn?

- Chẳng ai muốn đi cả! Lúc trước có vài nàng chờ đợi mãi mà không được chủ nhân lưu ý, nên chán nản muốn trở về nhà cha mẹ. Cô ta báo với tên gia đồng xin gặp chủ nhân để từ giã. Đến chừng gặp chủ nhân rồi thì các nàng ấy xin ở lại, chớ không phải xin đi!

- Vì sao?

Cả bọn lại cười ồ. Một cô thấy nàng mới tới chưa biết gì, liền bảo:

- Bao giờ chị gặp được chủ nhân sẽ rõ vì sao. Thúy Uyên nói giọng cương quyết:

- Chiều nay tôi sẽ gặp hắn, để xem thái độ lếu láo kiêu hãnh của hắn đến mực nào? Một cô nhỏ nhẹ nói:

- Chị muốn gặp chủ nhân không phải là dễ. Có hai trường hợp được gặp chủ nhân: Trường hợp thứ nhất phải làm việc cho giỏi, chừng nào chủ nhân vừa ý mới được chọn và gọi tới giáp mặt. Trường hợp thứ hai, nếu muốn chủ nhân trao trả về nhà cha mẹ. Bữa trước các nàng muốn về cha mẹ phải khóc lóc nài nỉ dữ lắm mới được ở lại. Vì trên nguyên tắc, chỉ người được chọn mới biết mặt chủ nhân. Thúy Uyên hỏi:

- Như vậy các chị đều chưa biết mặt hắn, ngoại trừ các nàng xin về bữa trước?

- Đúng vậy!

Thúy Uyên ngẫm nghĩ: «Nếu hắn cũng đối xử với nàng như các cô gái này thì nàng phải làm vừa lòng hắn, nếu muốn hắn chọn và cho gặp mặt».

Mục đích nàng đến đây làm vợ hắn là để chinh phục hắn, gây rối reng thù nghịch giữa các quan lại triều Minh. Hoặc giả nếu nhắm không xong thì tìm cách «hạ thủ» hắn, cho bớt một tên quan quan trọng được lão hoàng đế yêu chuộng.

Như vậy nàng phải làm những việc như gia nô trong nhà như các nàng này để được lòng hắn. Thật là nhục! Nếu không chấp nhận cái nhục này chỉ còn con đường xin trở về phủ Dương Sĩ Kỳ để sống trong cái lồng chim trưởng giả đó.

Cũng có thể khi nàng bị trả về, Dương Sĩ Kỳ và Dương phu nhân đối xử tệ bạc không chừng! Bởi họ đâu có thương yêu gì nàng? Khi Trương Phụ dâng nàng cho họ, họ đã có mục đích dùng nàng làm mồi câu tên này. Nàng trở về là họ thất bại rồi!

Thấy nàng trầm ngâm, một cô an ủi:

- Cũng có thể chị được đối xử đặc biệt hơn bọn này, vì chị có lễ cưới hẳn hòi.

Thúy Uyên chợt hỏi:

- Công việc của các chị ra sao?

- Có hai loại việc. Ai thích hoa cỏ thì lãnh việc ở hoa viên. Mỗi người châm sóc một khoảnh vườn. Ai thích công việc trong nhà thì lãnh nấu ăn, hay dọn dẹp nhà cửa. Chị mới tới nên chưa bị phân công. Có lẽ sáng mai tên gia đồng của chủ nhân sẽ cho chị biết công việc phải làm.

Thúy Uyên tự nhủ: «Nàng sẽ chọn việc nấu ăn để có phương tiện thực hiện mưu định của mình. Giả tỉ một thời gian mà nàng vẫn chưa được hắn lưu ý, thì nàng phải «hạ» hắn bằng cách bỏ độc vào thức ăn».

Đã có chủ định như thế, nàng vui vẻ trò chuyện với các nàng Trung Quốc. Các cô có làn da trắng mịn, nhưng đôi mắt nhỏ xíu, đôi má hơi bầu. Nên chi sánh với gái An Nam trên thuyền của Trương Phụ, bọn này thua xa!

Nàng chợt nhớ tới Huỳnh Như… Người bạn thân nhất của nàng có đôi mắt bồ câu xinh đẹp, có nụ cười nghiêng thành đảo quốc, có thân hình cực kỳ quyến rũ... Bạn của nàng tên này thấy mặt có làm ngơ được không?

Nàng không dám chắc sắc đẹp của mình có thể chinh phuc được hắn, vì nàng không dám chủ quan.

Sau buổi cơm trưa, ngoài trời nắng gay gắt. Các cô gái ngồi tụ ba tụ bảy nơi phòng ăn và khách sảnh nói chuyện phiếm.

Thúy Uyên cũng theo ra khách sảnh để xem cho biết, vì hôm qua nàng bị tấm mạng che trước mặt, không trông thấy gì.

Chưa bao giờ Thúy Uyên thấy một sảnh đường to lớn và chưng bày đẹp như thế! Ngoài vô số ghế bành khảm xa cừ, lót nệm gấm, còn có rất nhiều đồ cổ. Những chiếc lọ bằng sứ, những bức tượng bằng đồng, những vật điêu khắc bằng ngà... Món chi ra đó, vật nào đáng vật ấy… Không những cho thấy cái giàu sang, mà còn chứng tỏ con người yêu nghệ thuật nữa.

Đương nhiên phòng này cũng có tranh. Nhưng nơi đây sưu tầm rất nhiều tranh cổ từ đời Hán, đời Đường, đời Tống...

Một cô gái thấy Thúy Uyên xâm xoi những bức tranh, liền rỉ vào tai nàng:

- Những bức tranh còn mới do chính chàng vẽ đấy. Trong nhà này đâu đâu cũng có tranh vẽ của chàng.

Thúy Uyên nghe nói «à» một tiếng như chẳng có gì quan trọng, mà thật sự trong lòng nàng hết sức khâm phục, vì nàng vốn biết về nghệ thuật hội họa, nên hiểu rõ giá trị của tác phẩm.

Từ khách sảnh nhìn qua các cửa sổ thấy hồ nước trong veo. Thúy Uyên nhân thể hỏi cô gái Tàu:

- Hồ nước bên ngoài không thấy nuôi cá hay trồng sen. Chủ nhân dành để chứa nước mưa thôi sao? Cô gái cười khì:

- Ai tới đây cũng thắc mắc về cái hồ đó chớ không phải mình chị! Đó là hồ tấm của chàng! Vì chàng rất thích bơi lội nên cho xây cái hồ đó, có thể làm cho nước dơ rút đi, nước sạch chảy vô. Cho nên nước lúc nào cũng trong veo. Thúy Uyên ngạc nhiên không ít về hồ tấm. Vì thời kỳ này ở Trung Quốc hay An Nam chưa có nhà nào xây hồ tấm. Nàng vụt hỏi:

- Các chị vô ra trong nhà tự do, chủ nhân cũng đi đứng bình thường, vậy chắc thế nào cũng đụng mặt?

- Thật ra chủ nhân vào triều sớm lắm. Chị em ai nấy còn ngủ trong phòng riêng. Nếu ai vô tình nghe tiếng vó ngựa dưới sân, tông cửa chạy ra lan can nhìn xuống, chỉ còn thấy cái đuôi ngựa! Còn buổi chiều sau giờ ăn, tất cả mọi người đều bị cấm ra khỏi phòng, vì đó là giờ chàng tấm rửa bơi lội và đi đứng trong nhà, không ai được phép lảng vảng bên ngoài.

- Không ai lén rình xem mặt mũi hắn ra sao à?

Một cô đứng sau lưng Thúy Uyên trả lời:

- Rình rập làm gì để rồi sẽ khổ như Tố Tố, Lệ Chi và Mai Nương!

Thúy Uyên rất lấy làm kỳ, hỏi:

- Ba nàng nào vậy? Vì sao họ bị khổ?

- Chính ba cô nàng xin về cha mẹ bữa trước. Từ ngày thấy mặt chủ nhân rồi họ ít nói ít cười, ngoài giờ làm việc chỉ thích thơ thẩn một mình. Cái bệnh tương tư làm họ khốn đốn không ít!

Thúy Uyên suýt bật cười lớn khi nghe kể ba nàng kia sau khi thấy mặt chủ nhân mắc phải bệnh tương tư. Nhưng nàng cố nhịn cười, hỏi nhỏ:

- Ba chị ấy có nơi đây không?

- Làm gì chúng có mặt ở đây? Tô Tố thích làm thơ. Ngoài giờ làm việc cô ta trở về phòng mơ mộng tương tư làm thơ ca tụng chàng. Có lần Tố Tố làm một bài thơ gởi đến chủ nhân, «tôn chủ nhân làm vua trong mộng ước, còn cô ta là một cung nữ, muốn được vua ban cho một lần ân ái rồi có chết cũng thỏa nguyện». Bài thơ ấy gửi đi không có hồi đáp! Thúy Uyên cười khỉnh:

- Nàng ấy quả là khờ dại! Trên đời này có thiếu gì đàn ông? Dù hắn có đẹp như Phan An cũng không nên bi lụy vì hắn.

- Phải! Trên đời có lắm đàn ông! Nhưng hầu hết là thứ tồi bại hoặc ngu dốt. Còn một người như chàng thì thế gian không có người thứ hai! Cô ta nói đến đó thấy Thúy Uyên trề môi tỏ vẻ không tin, nên tiếp:

- Một người trẻ tuổi, tài cao, danh vọng lẫy lừng, lại thêm «cầm kỳ thi họa» trác tuyệt… Nội tiếng đàn văng vẳng trong đêm, nội thấy những tranh treo nhan nhản trong nhà này… đàn bà con gái đã chết mê mệt rồi. Huống hồ gì gặp mặt chủ nhân? Thú thật cho đến bây giờ bọn này chưa hề thấy bóng dáng chàng. Nhưng từ khi ba nàng kia sau khi thấy mặt chủ nhân rồi thần hồn điên đảo. Hỏi họ: «Người ấy hình dung ra sao?» Họ chỉ khóc, không nói. Xem các bài thơ của Tố Tố thì đoán rằng khắp cả thành Nam Kinh không ai có thể sánh với «chàng». Phan An chắc phải thua! Thúy Uyên mắng thầm:

- Bọn bây chỉ giỏi tài nói phóng đại, đưa hắn lên tận mây xanh! Con gái gì mà mê trai cở đó, bảo hắn không khinh khi sao được?

Nàng nói trong lòng:

- Để bây sẽ thấy gái An Nam trổ tài chinh phục tên cổ quái ấy. Ngày nào hắn bi lụy vì ta, ta sẽ hành hạ hắn cho chúng bây lác mắt! Bỗng có tiếng thở dài và giọng nói hết sức chân tình:

- Thú thật với chị, em tới đây đã bốn tháng rồi và cũng không hy vọng gì được chàng lưu ý, nhưng không dám đòi về cha mẹ, vì sợ gặp mặt chàng rồi sẽ đau tương tư khốn khổ như ba nàng kia.

Thúy Uyên kêu «Trời», vì không tưởng tượng nổi các cô gái này yếu bóng vía như thế! Hắn là người chớ nào phải là ma quỉ thần thánh? Ví như hắn có đẹp trai, có tài hoa, có quyền thế và gì gì đi nữa… thì cũng không thể vừa trông thấy mặt là si mê.

Đàn ông hay đàn bà cũng thế! Bao giờ gặp đúng người lý tưởng của mình, mình mới yêu thích, si mê. Chớ như có người mình thấy hoàn mỹ, đáng yêu, nhưng người khác thì cho rằng kẻ ấy chỉ là hạng tầm thường, đáng khinh, đáng ghét. Huống chi trai gái mê nhau đâu phải do vẻ đẹp bề ngoài?

Ngoại trừ các nàng Trung Quốc bị hắn dùng bùa ngải mê hoặc!

Nàng bỗng giật mình khi nghĩ đến điều đó, nên lo lắng hỏi:

- Phẳi chăng hắn có bùa ngải làm mê loạn các chị? Một cô trả lời, giọng nửa đùa nửa thật:

- Điều đó không biết chừng.

Thúy Uyên nghe lạnh xương sống, lẩm bẩm nói:

«— Hắn dùng bùa ngải mê hoặc các cô này làm gì? Hắn không thèm đá động đến bọn chúng kia mà?»

Trời ơi! Thật là khó hiểu! Nàng bỗng có cảm giác như tên này thuộc «thành phần nguy hiểm», mà với tài sức yếu kém nàng không dễ gì «thanh toán» hắn.

Giờ phút này nàng ao ước có Huỳnh Như bên cạnh. Huỳnh Như cơ trí hơn người, may ra mới trị nổi hắn.

Các nàng Trung Quốc thấy Thúy Uyên ôm mặt lặng thinh, nên không ai hỏi chuyện nữa. Vả chăng tới giờ họ phải lo việc làm của họ nên kéo nhau đi hết.

Thúy Uyên ngồi trên chiếc ghế bành một lúc ngẩng mặt lên, chợt thấy có một cô ngồi buồn hiu hắt nơi góc phòng. Cô này hình như từ nãy giờ chưa hề nói chuyện với nàng.

Cô ta có đôi mắt phượng ươn ướt, chắc vừa mới khóc, nét mặt non choẹt, chắc chỉ vào khoảng 15, 16 tuổi.

Thúy Uyên thương hại đứng lên đi tới bên cô ta, nhỏ nhẹ hỏi:

- Nàng có sao không?

Cô ta không đáp, lại hỏi:

- Chị là cô dâu hôm qua phải không? Thúy Uyên gật đầu. Cô ta hỏi tiếp:

- Như vậy là chàng chọn chị rồi phải không?

Thúy Uyên lắc đầu. Cô gái thấy nàng lắc đầu mặt tươi tỉnh ngay, nói giọng xúc động:

- Em yêu chàng! Ngày nào chàng chọn được người nào đó, chắc em chết mất!

Thúy Uyên thầm đoán cô này là một trong ba cô đã gặp chủ nhân, nên hỏi:

- Nàng là Tố Tố phải không? Cô ta lắc đầu đáp:

- Em là Lệ Chi.

Trong phòng bấy giờ không còn ai. Thúy Uyên hy vọng biết thêm về «hắn», nên dọ dẫm Lệ Chi:

- Người ấy tử tế với nàng lắm sao?

Lệ Chi gật đầu. Rồi không hiểu nguyên do gì cô ta bỗng tâm sự với nàng:

- Hôm ấy em nói với tên gia đồng, em muốn gặp chủ nhân để xin trở về nhà cha mẹ, chủ nhân thuận tình. Ngày hôm sau tên gia đồng đón em lên tầng lầu trên. Em được đưa vào phòng vẽ. Lúc ấy chàng đang vẽ, lưng quay về phía cửa. Nghe tiếng chân em chàng lên tiếng ngay, mặc dù tay vẫn không ngừng làm viêc:

- Đào cô nương đến từ giã đó chăng?

Em chỉ mới thấy sau lưng chàng, con tim đã đập rộn ràng, chừng nghe giọng nói đầm ấm của chàng phát ra, hồn phách như bay đâu mất, không mở miệng nói được một lời! Chàng bỗng thở dài, bảo:

«— Lúc trước tôi đã từ chối quan Ngự Sử về việc đưa cô nương đến đây, nhưng Ngài ép buộc tôi quá, tôi đành phải nhận lời. Nay cô nương muốn trở về nhà thì để sáng mai vào triều gặp thân phụ cô, tôi sẽ báo cho người rõ, để đem ngựa xe đến đón. Tôi rất tiếc không có chỗ ở xứng đáng, cũng không có đủ gia nhân hầu hạ, khiến cô nương cực nhọc trăm chiều. Nhưng chắc cô nương cũng hiểu: Tôi làm quan lương bổng có hạn, làm sao có đủ khả năng cung phụng cho tất cả các nàng ở đây đời sống thoải mái hơn đươc? Đó cũng là lý do ngày trước tôi từ chối với quan Ngự Sử tiếp nhận cô.»

Em nghe chàng nói, lòng bồi hồi xúc động. Quả thật việc này chính cha mẹ em ép buộc nài nỉ chàng, chớ nào phải chàng muốn?

Đang khi em cúi mặt đứng lặng thinh sau lưng chàng với nỗi cảm xúc, chàng bỗng quay mặt lại nói:

- Tôi cũng không phải là một thằng đàn ông dâm đảng thích nhiều thê thiếp, nên không thể làm thỏa lòng các nàng. Mà tôi cũng không muốn phụ ai, nên không thể chọn lựa người nào... Cô nương hiểu rõ nỗi khổ tâm của tôi chứ? Lúc ấy em không còn thấy gì nữa, vũ trụ như quay cuồng, em sụm ngay dưới chân chàng, mếu máo nói:

- Em muốn ở lại để phục vụ cho chàng. Em không muốn trở về với cha mẹ nữa! Chàng cười nhẹ:

- Cô nương đã muốn về thì không thể ở lại đây được nữa, vì tôi biết một ngày kia cô nương lại muốn đi.

Em khóc ngất nài nỉ:

- Xin cho em ở lại! Em thề trọn đời ở lại làm tôi tớ cho

chàng.

Chàng nhìn em lặng thinh. Em ngồi phệt dưới nền nhà khóc lóc thảm thiết. Chàng quay lưng tiếp tục vẽ tranh, để mặc tình cho em khóc… Một lúc… em bỗng nghe chàng nói sau tiếng thở ra:

- Thôi được! Cô nương hãy trở về phòng và nên nhớ rằng lần này cũng chính cô nương ép buộc tôi đó nhé?

Tên thơ đồng đưa em trở về chỗ cũ em vẫn chưa tỉnh, hồn xác như ngây như dại. Trời ơi, hình hài đó, giọng nói đó... nếu em có phải vì chàng mà chết cũng không chối từ, huống hồ làm công việc nhỏ nhặt trong nhà này?

Tuy chưa được làm vợ, nhưng em biết chàng không cách em bao xa, em biết chàng ở đâu, em mường tượng chàng lúc ấy đang làm gì... Bao nhiêu đó cũng hạnh phúc lắm rồi!

Lệ Chi nói với ánh mắt mơ màng, vẻ mặt vô cùng xúc động. Thúy Uyên nhìn chăm chăm cô gái… lòng nghe vừa thương hại, vừa tức cười. Tự nhủ:

- Nàng này còn trẻ quá, trái tim còn bồng bột quá, gặp trai lần đầu đã vội vã si tình!

Chợt mặt nàng đỏ ửng, nhớ lại 8 năm về trước… Người con gái 16, con quan Hàn Lâm họ Nguyễn đau bệnh tương tư chàng trai xa lạ mà nàng cứu chữa thương tích nơi hoa viên nhà nàng.

Người con gái trẻ si tình thuở xưa cũng tương tư đau khổ như nàng Trung Quốc trước mặt nàng… Nàng với cô ta nào có khác gì?

Ái tình!

Khung trời nào con người cũng lụy vì tình!

Dân tộc nào, cá nhân nào, cũng cần có tình yêu để sống!

Nghĩ đến đấy lòng nàng quặn đau. Hình ảnh người xưa chợt hiện ra… giọng nói người xưa chợt văng vẳng bên tai... cũng đầm ấm, cũng thiết tha...

Giọng nói ấy… hình hài ấy... Trời ơi, Thúy Uyên này cũng muốn vì chàng mà chết như thiếu nữ Trung Hoa kia! Chàng ơi, chàng ở đâu?

Trong gian phòng rộng thênh thang có hai cô gái ngồi gục đầu thổn thức. Họ đang tương tư người tình của họ. Họ đang mơ mộng về người yêu của họ...

«Két» cánh cửa bị kéo ra… Một người bước vào…

Thúy Uyên giật mình ngước mặt lên… thấy một chàng thanh niên trẻ, ăn mặc khá bảnh bao. Nàng chưa kịp nghĩ là ai, thanh niên đã lên tiếng:

- À cô nương, tôi vừa đến phòng cô nương tìm cô mà không gặp! Hoá ra cô nương ở đây. Chủ nhân tôi có lời chào cô nương về sum hợp với đại gia đình này. Chủ nhân tôi cũng rất cảm ơn cô đã nhắc nhỡ chủ nhân tôi về thân phận và nguồn gốc của cô nương. Xin cô nương yên tâm! Người lúc nào cũng nhớ rõ cô nương là ái nữ của Dương đại quan. Có điều trong tòa nhà này mỗi người đều tự lo cho mình, nên hai gia nhân của cô nương không thể để phục vụ riêng, gây sự tị hiềm của người khác. Mong cô nương hiểu cho.

Tên này đứng nói một hơi y như học trò trả bài thuộc

lòng!

Thúy Uyên cười khảy, vì chợt nhớ hôm qua nàng có nói mấy lời với hai mụ gia nhân. Chắc hai mụ đã «tâu» với chủ nhân, nên «thằng chả» mới cho tên gia đồng đến «diễn thuyết» với nàng.

Nàng đã biết chút chút về hắn và tình hình trong tòa nhà này, nên những lời tên gia đồng vừa nói chẳng làm cho nàng nổi giận hay bực mình.

Nàng cười, giọng mai mỉa:

- Ta cũng có lời chào chủ nhân ngươi. Bảo hắn: «Dương cô nương không yếu bóng vía lắm đâu, chớ có ngạo mạn!» Tên gia đồng nghe nàng nói mấy lời, mặt hắn tái đi. Có lẽ hân giận lắm vì nàng có lời bất kính với chủ nhân hắn. Tuy nhiên hắn chỉ xịu mặt một thoáng rồi bình tĩnh nói tiếp:

- Bắt đầu từ ngày mai cô nương cũng phải làm việc như mọi người. Trời sinh ra ai cũng có tay chân, thì không thể có người ngồi hưởng thụ để chờ người phục thị. Vậy cô nương phải chọn, hoặc làm công việc ngoài… Thúy Uyên ngắt lời:

- Ta biết rồi! Ta lãnh việc nấu ăn cho! Đây là sự ham thích của ta. Ta tình nguyện làm, chớ không vì ngán sợ chủ nhân ngươi đâu! Nhớ trình với hắn như thế.

Tên gia đồng cụt hứng không biết nói gì thêm, bèn rút lui có trật tự!

Lệ Chi nghe Thúy Uyên nói động tới «thần tượng» của cô ta, cô ta giận dỗi bỏ đi.

Còn lại một mình, Thúy Uyên lững thững xuống nhà bếp… Nhà bếp cũng rộng thênh thang, nhưng đâu đó ngăn nắp. Giờ này cơm nước đã xong, dọn dẹp đã xong, nên các cô lo việc bếp núc cũng rãnh rang ngồi chùm nhum nói chuyện…

Ngoài các mỹ nhân ra, Thúy Uyên thấy có 5 gia nhân kể luôn Kim Anh và Kim Đào. Thúy Uyên không thấy hai mụ gia nhân hôm qua nơi đó.

Kim Anh, Kim Đào thấy nàng thì chạy ngay lại chào hỏi tíu tít. Có lẽ cả hai được nghe nói ít nhiều về tình hình nơi đây, nên Kim Đào nhìn nàng bằng đôi mắt ươn ướt. Trái lại Kim Anh vô cùng khoan khoái.

Nàng hiểu bụng dạ nó từ lâu nên không lạ gì thái độ của nó. Kim Anh láu lỉnh nói:

- Chủ nhân trong nhà này nói: «nơi đây không có ai là chủ tớ. Mọi người đều phải làm việc». Thúy Uyên cười nhẹ:

- Đúng vậy! Có điều, việc của các nàng ấy là nấu nướng, còn việc của ngươi là dọn dẹp. Hai việc khác nhau, ngươi không biết sao?

Không chờ nó nó gì thêm, nàng quay sang Kim Đào nhỏ nhẹ hỏi:

- Gia nhân của chủ nhà này là ai?

Kim Đào nhỏ giọng đáp:

- Bà lớn tuổi ấy là quản gia trong nhà này, nghe đâu đã theo chủ nhân nhiều năm rồi. Còn hai mụ sồn sồn đang dọn dẹp tầng lầu của chủ nhân thì chỉ mới vào làm thôi. Nghe nói tầng lầu trên ngoài ba gia nhân và tên gia đồng thì không ai được quyền đặt chân lên.

Thúy Uyên hỏi khẽ:

- Do đâu em biết rành quá vậy?

- Hai con nhỏ đứng nơi gốc kia… Chúng cũng như tụi em, đi theo nữ chủ của chúng đến đây mấy tháng rồi. Chúng biết khá nhiều nên mới kể cho tụi em nghe về…

Kim Đào không nói tiếp! Có lẽ nó muốn kể về tình trạng các cô con nhà quan bị chủ nhân ngược đãi, song sợ nàng nghe buồn lòng nên không dám nói tiếp.

Thúy Uyên hiểu ý, nắm tay Kim Đào dịu dàng bảo:

- Đừng lo cho ta! Ta không như các nàng ấy đâu!

Bà quản gia độ ngũ tuần, nét mặt phúc hậu. Thấy nàng, bà liếc nhìn mỉm cười như chào, rồi lo phận sự chớ không lên tiếng.

Thúy Uyên rời nhà bếp, thong thả ra vườn hoa...

Giờ này trời đã bớt nắng. Gió phây phây thổi đong đưa cành liễu êm ả vô cùng. Khu vườn này liễu trồng san sát dọc theo lối đi. Mùa này nhằm giữa mùa Xuân, hoa đua nhau nở màu sắc thật huy hoàng.

Thúy Uyên không trông thấy các nàng Trung Quốc trong vườn hoa thì lấy làm lạ, ngó quanh quất tìm… Nàng đi mãi một đỗi bỗng nghe tiếng cười nói vang từ xa.

Nương theo tiếng của họ nàng đi một lúc ra tới vườn đào. Mùa này đào hãy còn xanh, trái đơm trên cành nặng trĩu. Té ra các cô chơi cút bắt, chạy giỡn ngoài này không khác gì trẻ nít!

Trong lòng thấy vui vui. Thúy Uyên thầm nghĩ:

- Mới nghe qua mình tưởng nơi đây là nhà tù. Thật ra thì các cô chỉ làm chút việc để vận động chân tay. Phải nói ở đây các cô có dịp tựu hợp vui chơi đùa giỡn, có lẽ lý thú hơn các cô ở nhà cha mẹ! Cũng có lẽ vì vậy mà các cô không muốn đi, dù không hy vọng chủ nhân đoái hoài chăng?

Nàng bỗng nhớ những lời Lệ Chi kể khi nãy về buổi giáp mặt với chủ nhân. Qua lời lẽ đối thoại của hắn với cô gái, thì hắn ăn nói mềm mỏng chớ không hung hăng kiêu hãnh như nàng nghĩ.

Hắn nói: «Nếu cô nương muốn về nhà cha mẹ thì sáng mai vào triều gặp phụ thân cô nương tôi sẽ báo cho người rõ, để đem ngựa xe tới đón cô».

Như vậy hắn có ác độc giam hãm ai đâu? Cũng như hắn nói: «Tôi rất tiếc không có chỗ ở xứng đáng, mà cũng không đủ gia nhân hầu hạ, để cô nương cực nhọc. Chỉ vì tôi làm quan lương bổng có hạn, không đủ khả năng cung phụng cho tất cả các nàng đời sống thoải mái hơn. Đó là lý do tôi luôn luôn từ chối đón nhận các cô...»

Xem ra lời hắn nói cũng khiêm nhường dễ chịu đó chứ? Câu nói của hắn mà nàng khích động nhất là: «Tôi không là một thằng đàn ông dâm đãng thích nhiều thê thiếp, nên không thể thỏa lòng các nàng...»

Bỗng dưng Thúy Uyên tự hỏi: «Các cô gái này là nạn nhân của hắn, hay hắn là nạn nhân của sự hối lộ người?»

Có lẽ thiên hạ thấy hắn chưa vợ, quyền cao, thế mạnh… nên đua nhau dâng con để dựa hơi, cũng để kéo phe phái bè đảng, như trường hợp Dương Si Kỳ dâng nàng cho hắn đã có mục đích hẳn hòi.

Tự nhiên nàng nghe có cảm tình với hắn và lòng oán ghét y như không còn nữa!

Giữa lúc tình cảm lâng lâng như thế, nàng nghe như có tiếng nói từ đáy lòng vang lên:

- Thúy Uyên ơi! Dù hắn là ma quỉ hay thần thánh xứ này, hắn cũng là kẻ thù của ngươi, của dân tộc An Nam! Hắn càng tài giỏi, càng được sự yêu thương của lão hoàng đế, thì ngươi càng phải thủ tiêu cho sớm.

Nàng bàng hoàng một lúc quay gót đi trở vào nhà, chợt thấy dưới gốc đào có mấy cái nấm nho nhỏ. Trong bóng mát nấm chiếu ngời như ánh sao ban đêm. Đấy là loại nấm có chất lân tinh cực độc!

Nàng ngồi xuống nhổ mấy cây nấm bỏ vào túi, tự nhủ:

- Ta phải thủ sẵn độc dược để phòng lúc cần.

Con đường lát sỏi trong vườn hoa xao động theo bước chân của nàng, nhưng Thúy Uyên cảm nghe tâm hồn vô cùng bình thản.

--------------------------------

1. Hải cảng thuộc Tô Châu phia bắc Thượng Hải.

2. Vào năm Hồng Võ 13 (1380) vì thừa tướng Hồ Duy Dung làm phản, nên Minh Thái Tổ bãi chức thừa tướng. Bởi thế trong chế độ Minh từ 1380 không có chức vụ này. Nhà vua đích thân điều khiển mọi việc và có một vài quan Đại Học Sĩ phụ giúp trông coi nội các, có thể xem như chức Hữu, Tã thừa tướng trong truyện này, hay Thủ Tướng và Phó Thủ Tướng ngày nay.

 Chương 14: Cưỡng lại duyên trời

Ngày qua ngày Thúy Uyên về "nhà chồng" đã được một tháng. Người chồng quái dị ấy vẫn còn là con "người vô hình" đối với nàng, ngoại trừ đêm đêm nghe tiếng đàn thảnh thót từ lầu cao vọng xuống.

Ngày nào nàng cũng xuống bếp phụ việc nấu nướng. Trên nguyên tắc mỗi cô gái đứng ra làm chủ bếp ba ngày và cứ tuần tự thay phiên làm các món ăn đặc biệt của mình để phụng sự chủ nhân.

Thường thường chủ nhân chỉ ăn buổi sáng "lót lòng" và buổi chiều. Buổi trưa không hiểu người ấy làm gì và ăn ở đâu?

Hôm ấy là ngày Thúy Uyên phải làm chủ bếp. Nàng phải dậy sớm vì chủ nhân vào triều rất sớm. Nàng phân vân không biết phải làm món gì? Các cô Tàu bao giờ cũng đem hết tài ba làm các món cao lương mỹ vị ngay từ bữa ăn sáng cho chủ nhân thưởng thức, nhưng dường như chủ nhân ăn rất ít. Có hôm còn cho tên gia đồng mang trả xuống chê mặn, lạt, dầu mở... lắm điều!

Nàng nào bị chê, sợ hãi khóc sướt mướt, thật buồn cười, mà cũng thật tội nghiệp!

Thúy Uyên từ nhỏ vốn được song thân cưng chìu nên có tánh bướng bỉnh, hay bất bình chuyện thiên hạ. Mỗi lần tên gia đồng mang lời chê bai của chủ nhân, nàng tức lắm. Nghĩ bụng:

- Tới phiên ta, ta cho ngươi ăn cơm với muối, hoặc ta sẽ lấy đá nấu cho ngươi ăn v.v...

Vì nàng không có chủ đích lấy lòng "chủ nhân" nên cóc thèm tính trước món cao lương nào phải làm khi tới lượt mình.

Nàng nghĩ:

- Ta cứ làm khác đời, để ngươi ức quá phải "vời" ta lên xem mặt. Chừng ấy ta với ngươi tranh đấu trên chiến trường khác!

Buổi sáng hôm đó nàng loay hoay mãi vẫn chưa tìm ra món ăn quái lạ nhất để làm, bỗng sực nhớ:

- Tụi Chệt hay ăn hủ tiếu, hoặc mì, hoặc bánh bao buổi sáng, chớ làm gì biết ăn phở? Ta nấu phở cho hắn lầm tưởng là "hủ tiếu kỳ quái", ăn không được chơi!

Nghĩ là làm! Nàng nấu một tô phở thịt bò tái, rau thơm hành ớt bỏ lên đầy nhóc… giao cho mụ gia nhân mang lên.

Lúc ấy bọn con gái Tàu đứng xúm xít coi nàng nấu, tưởng nàng nấu hủ tiếu mà không biết làm, bỏ loạn xạ các thứ, nên chúng cười ồ.

Bà quản gia và mụ gia nhân đều tức cười, nhưng mụ vẫn mang lên cho chủ.

Một chốc sau tên gia đồng mang mâm không trở xuống, tô phở sạch bốc không còn một chút xíu thừa! Cả bọn con gái trân trối nhìn nhau, nhất là bà quản gia và mụ gia nhân thì kinh ngạc hơn ai hết.

Đám con gái lấy làm lạ, bảo Thúy Uyên nấu cho chúng ăn thử. Có cô ăn khen ngon, có cô phun phèo phèo…

Thúy Uyên khoan khoái trong bụng, song ngoài mặt làm tỉnh. Nàng nghĩ: "Có lẽ hắn ăn được món ăn lạ miệng nên mới thấy ngon "sực" hết.

Buổi chiều nàng cho hắn ăn canh chua tôm nấu với thơm và một đỉa cá lòng tong kho quéo, có cả chén nước mấm ớt, ăn với cơm trắng.

Đương nhiên ở xứ này làm gì có nước mấm? Nàng phải lấy nước muối pha chanh đường ớt tỏi, nêm vừa ăn, cũng tạm ngon.

Vừa làm Thúy Uyên vừa nghĩ:

- Thằng Chệt này biết ăn phỡ, thật là lạ! Vậy ta cho ngươi ăn thử nước mấm xem ngươi ăn được không? Vả chăng món canh chua mà chấm "xì dầu" thì chẳng đúng điệu tí nào!

Mâm cơm đưa đi… Nàng khoan khoái chờ kết quả. Tự nhủ:

- Ta không thèm cho ngươi ăn cao lương mỹ vị làm gì cho cực thân nấu nướng! Cho ngươi ăn món bình dân nhất nước ta, cho biết xứ An Nam thứ rẻ tiền hạng bét cũng ngon lành!

Các cô gái Tàu lần đầu tiên thấy nàng nấu món ăn kỳ lạ, mà các nàng chưa hề thấy, chưa hề ăn, nên ai cũng nôn nao xem phản ứng của chủ nhân.

Bất thình lình tên gia đồng từ lầu trên chạy xuống nhà bếp vừa thở vừa nói:

- Ai làm bếp bữa nay lên gặp chủ nhân gấp.

Mọi người thấy tên gia đồng chạy xuống ngay khi mâm cơm vừa đưa lên thì đoán chủ nhân chưa ăn, mà gọi Thúy Uyên lên tất chẳng phải được khen, nên ai ai cũng nhìn nàng với cái nhìn thương hại.

Một cô nói:

- Tội nghiệp chị ấy là ái nữ của Dương đại quan, chưa từng nấu nướng, thì làm sao biết làm các món ăn? Cô khác lại nói:

- Đáng lý chị ấy phải được xem như vị phu nhân chính thức không phải làm việc như bọn mình!

Thiên hạ bàn tán… thiên hạ xì xào...

Thúy Uyên bình tĩnh theo chân tên gia đồng, vừa đi vừa nghĩ:

«— Có khi tên này thấy món ăn chiều nay khác lạ, ngỡ ta bỏ thuốc độc không dám ăn, nên gọi ta lên để tra hỏi chăng?»

Dù sao nàng đâu ngán sợ hắn? Hắn gọi nàng lên là đúng mưu định của nàng.

Một tháng qua nàng nóng lòng muốn giáp mặt hắn để xem bọn con gái ở đây phóng đại cở nào? Vả chăng đã xem hắn là kẻ thù phải trừ khử, mà nàng lúc nào cũng ở vào thế thụ động thì biết bao giờ mới có cơ hội ra tay?

Bữa nay dù được khen hay bị chê về món ăn cũng không là điều quan trọng. Việc quan trọng là nàng cùng hắn đối diện. Nàng quyết không «khớp» trước hắn như bọn con gái Tàu, để hắn hết kiêu hãnh.

Khi sợi dây xích chấn ngang tầng lầu trên đưọc tên gia đồng gỡ ra để nàng bước qua, Thúy Uyên thong thả leo lên mấy bậc thang…

Tên gia đồng đi lướt qua mặt nàng để dẫn đưòng. Tầng lầu trên rộng mênh mông mà một mình hắn ở, nên các phòng phải to lớn.

Qua khỏi hành lang vừa quẹo trái tới ngay gian phòng trang hoàng khá đẹp, không thua gì ở khách sảnh tầng dưới. Nhà này đi đâu cũng thấy tranh. Nàng đã xem nhiều và đồng ý: «hắn là bậc kỳ tài trong ngành hội họa».

Cũng như các nơi khác, phòng này cũng lót thảm. Có bốn chiếc ghế bành chạm sa cừ bộc nệm, đặt quanh chiếc bàn thấp nhỏ bằng ngọc thạch. Gốc đàng kia là chiếc bàn ăn bằng gỗ với bốn cái ghế.

Nàng nghĩ: Nơi đây là phòng ăn của hắn, vì mâm canh chua cá kho quéo còn để trên bàn, mà bây giờ có lẽ nguội lạnh lắm rồi!

Hắn đứng tần ngần bên khung cửa sổ nhìn ra ngoài trời, tay chấp sau đít, lưng quay về phía nàng…

Chiếc áo lụa trắng tay rộng, với đai thắt lưng màu xám trông thật thanh nhã, nhưng phải nói phần thanh nhã ấy từ thân người hắn thoát ra, bởi một hình hài vừa vặn cao đẹp, không hùng vĩ như hạng võ tướng, cũng không gầy còm ốm yếu như hạng nho sĩ.

Có thể ví hắn như một bức tượng người thật đẹp do bàn tay của nghệ sĩ nắn ra!

Hắn đứng bất động thật lâu, làm như không biết có sự hiện diện của nàng trong phòng, mặc dù tên gia đồng khi hướng dẫn nàng vào có lên tiếng ngay.

Thúy Uyên cũng đứng im ru quan sát hắn... Nàng nhất định không lên tiếng trước, chờ xem bao giờ hắn chịu nói?

Rốt cuộc rồi hắn cũng thua nàng! Hắn lên tiếng:

- Nàng chính thật là ái nữ của Dương đại quan đó à? Chắc chắn mụ gia nhân khi mang mâm cơm lên đã nói rõ

ai nấu, nên hắn chưa quay mặt lại đã biết là nàng! Nhưng Thúy Uyên không vội trả lời. Nàng nói thầm:

- Nếu mi muốn hỏi chuyện ta, thì quay mặt nhìn ta mà nói, chứ cái kiểu vô lễ xây lưng như vậy ta nhất định không đàm thoại với mi. Không nghe nàng đáp, hắn lập lại lần thứ hai:

- Dương tiểu thư chính thật là ái nữ của quan Đại Học Sĩ?

Giọng nói của hắn tuy có đầm ấm và êm dịu, nhưng thái độ khinh người của hắn làm Thúy Uyên bực tức không chịu đựng được, quay lưng bỏ đi…

Ra ngoài hành lang nàng vừa đi, vừa nghĩ:

- Hắn nghi ngờ ta không phải là con gái của Dương Sĩ Kỳ nên vặn hỏi mãi! Vì sao hắn có nghi ngờ đó? Vì thức ăn khác lạ chăng? Chợt có tiếng chân bước gấp sau lưng nàng và tiếng hắn gọi giật lại:

- Dương tiểu thư, hãy dừng bước! Tôi muốn nói chuyện với cô.

Nàng giả tuồng như không nghe, chân bước đều đều... Hắn chạy theo nắm cánh tay nàng giữ lại. Thúy Uyên quay mặt trừng mắt lườm hắn…

Hắn biến sắc, buông nàng ra. Thúy Uyên ngã lăn xuống nền nhà ngất đi, sau khi gọi ba tiếng:

- Trường Sơn chàng!

Phải! Tên quan Tàu mà Thúy Uyên mưu định làm vợ để «hạ thủ» không ai khác hơn là Trường Giang, mà trước đôi mắt của Thúy Uyên là Trường Sơn. Bởi cả hai vốn một hình hài! Mà sự thật con người thề non hẹn biển với nàng năm xưa chính là người này với cái tên Trường Sơn.

Thấy nàng ngất đi, Trường Giang vội réo tên gia đồng:

- Chu Thập! Em bồng nàng đưa về phòng nàng, mau lên! Bảo nhà bếp đem sâm trà cho nàng uống khi tỉnh dậy.

Chu Thập mang Thúy Uyên đi rồi Trường Giang chạy về tư phòng, hai tay ôm đầu rên rỉ:

- Trời ơi, sao có chuyện oái oăm thế này? Con gái của Dương Sĩ Kỳ sao lại là Thúy Uyên, chị dâu của ta? Trời ơi, ta làm lễ bái Thiên, bái Địa với cô gái Tàu cốt để mua vui trả thù bọn chúng, nhè đâu nhầm vào người yêu của gia huynh ta!

Giờ đây biết ăn nói làm sao khi nàng tỉnh dậy? Biết giải thích thế nào cho nàng hiểu? Vả chăng ta đang đội lớp tên quan Tàu chính cống trên xứ này, không một ai biết rõ nguồn gốc. Nếu nói cho Thúy Uyên biết, đàn bà con gái hời hợt vô tâm, nhỡ ta bị bại lộ thân thế, lão hoàng đế giết ta không nói làm gì, mà cả chị dâu cũng không toàn mạng, nhất là công cuộc phục quốc làm sao thực hiện?

Chàng ôm đầu rên rỉ một hồi ngẩng mặt lên, cương quyết nhủ với mình:

- Không! Ta không thể nào làm lỡ dỡ mưu định của ta đối với cuộc phục hưng của tổ quốc. Hiện tại đất nước hoàn toàn lệ thuộc ngoại bang, việc giải phóng vô cùng cam go và trọng đại. Ta không thể để lộ bí mật về ta, dù người ấy là Thúy Uyên, chị dâu của ta!

Khi xưa ta đã đóng vai trò gia huynh ta trước mặt nàng. Giờ ta cũng phải đóng vài trò tên quan Tàu họ Đoàn trước mặt nàng. Chỉ có điều khó khăn: «Hiện tại trên pháp lý nàng là vợ ta, ta phải đối xử sao đây?»

Chàng bỗng nhớ đến lời hò hẹn trăm năm với Thúy Uyên tám năm về trước nơi tư phòng của nàng… Lúc ấy chàng vì thương anh mà thề thốt trao đổi kỷ vật với nàng cho cuộc hứa hôn được suông sẻ. Bỗng dưng giờ đây thêm một lần nữa chàng tuyên thệ với trời đất kết tình phu thê với nàng. Phải chăng duyên nợ của cả hai trời đã định sẵn, mới xui khiến cho chàng hai lần kết ước?

Duyên trời đã định như thế, làm sao cưỡng lại? Nhưng...

«Nếu chàng còn mong có ngày gặp lại thân quyến, còn mong gặp lại gia huynh, thì không thể nào chung sống với Thúy Uyên ! Cả hai không thể làm chồng vợ!».

Duyên nợ này chàng quyết cưỡng lại mệnh trời!

Vả chăng, trái tim chàng đã dâng trọn cho Huỳnh Như, chàng không thể kết tình với ai khác, ngoài Huỳnh Như!

Lòng đã quyết như thế, chàng bình tĩnh trở lại phòng ăn, ăn mâm cơm với canh chua và cá kho quéo của Thúy Uyên nấu.

Cơm canh đã nguội lạnh từ lâu, song chàng ăn vẫn nghe ngon, vì chín năm rồi xa xứ, chưa được ăn lại những món ăn thuần túy của quê hương.

Tô phở của Thúy Uyên sáng này làm chàng chấn động tâm thần, không hiểu do dâu một nàng Trung quốc biết nấu món ăn đặc biệt của An Nam?

Chàng vào làm việc trong nội các, trọn ngày thắc mắc, không hiểu cô gái Tàu nấu tô phở sáng này có đúng thật là ái nữ của Dương Sĩ Kỳ, hay chỉ là một người giả mạo? Mà người giả mạo phải là cô gái An Nam mới rành vụ nấu phở.

Chàng nhớ «Trương Phụ bắt về đúng 44 cô gái An Nam đưa hết vào cung làm nô tỳ cho lão hoàng đế. Làm gì còn một cô An Nam lạc lõng bên ngoài?»

Sở dĩ chàng biết chắc chắn như vậy, vì chàng có đọc «báo cáo» của Trương Phụ từ An Nam chiến thắng trở về có đem theo 44 cô gái tuyển chọn trong hàng gái đẹp nhất nước An Nam để dâng cho Vua.

Đương nhiên việc Trương Phụ chận bớt 2 cô đem dâng cho các quan có thế lực trong triều để «bợ đít», làm gì có báo cáo?

Và cũng vì hắn xa nhà nhiều năm nên không hay hiện người được lão hoàng đế tin dùng và trọng vọng là Long Đồ Đại Học Sĩ Đoàn Hoài Nam. Nếu biết trước hắn đã dành sẵn cho chàng một cô!

Hôm ấy Trường Giang hồi họp đọc bản danh sách tên các cô gái Trương Phụ mang về. Chàng không thấy tên vị hôn thê của mình là Huỳnh Như và vị hôn thê của gia huynh là Thúy Uyên tâm thần mới an định trở lại.

Tuy nhiên trong lòng chàng vô cùng oán hận quân Tàu đã xâm lăng nước mình, lại còn bắt đàn bà con gái An Nam đem về xứ. Nên chàng tức giận thu nhận lũ con quan Tàu về nhà chàng, cho họ làm «tôi mọi» cho bỏ ghét!

Ngày nay chàng ở vào địa vị và quyền uy mạnh nhất triều đình Trung Quốc cũng do sự may mắn tình cờ…

Bảy năm về trước thái giám Trịnh Hòa đi sứ sang Mã Lai trên đường về ghé đảo Hãi Nam được Trường Giang cứu khỏi cái chết vì trúng thực. Hắn cảm ân cứu tử nên đưa chàng về Nam Kinh giới thiệu tài năng với Minh Thành Tổ.

Lão hoàng đế nhận thấy chàng văn chương lỗi lạc nên thu nhận vào viện Hàn Lâm.Chẳng bao lâu cả triều đinh từ vua đến quan ai cũng khâm phục tài cao trí rộng của chàng và xem chàng như một học giả uyên thâm nhất nước thời bấy giờ. Nhà vua bèn thăng chức cho chàng làmThượng Thư Bộ Lại, nhân vị quan này về hưu.

Rồi một hôm bà quí phi Vương Ngọc Thúy, là người được nhà vua sũng ái nhất, đau nặng. Các quan Thái y trong triều chữa hoài không khỏi. Minh đế mới sực nhớ tới Trường Giang biết nghề thầy thuốc, đã từng cứu Thái giám Trịnh Hòa khỏi chết, nên triệu chàng vào cung trị bệnh cho Vương Quí Phi.

Sau khi uống vài thang thuốc do chàng biên toa, bệnh Vương Quí Phi thuyên giảm và ít lâu thì dứt. Chẳng dè khi dứt bệnh nọ, Vương Quí Phi xây qua bệnh «tương tư» ông thầy thuốc «đẹp trai chưa vợ».

Để mua chuộc trái tim của chàng, bà bảo vua ra lệnh cho Công bộ Thị lang Kế Tường [1] xây cho chàng một tòa dinh thự theo ý riêng của chàng, vừa tân kỳ lộng lẫy, vừa tiện nghi nhất thành Nam Kinh, để gọi là đền ơn chữa bệnh. (Lúc Trường Giang theo Trịnh Hòa về kinh phải ở chung với Trịnh Cư, là anh em chú bác với Trịnh Hòa hiện làm Lễ bộ Thị Lang tại triều. Mãi đến khi chàng giữ chức Thượng Thư bộ Lại mới có chỗ ở riêng do lão Thượng Thư Lưu Cương về hưu để lại.

Tòa nhà này xây cất nhiều năm, đã cũ kỹ lắm, nên Vương Quí phi mới bảo vua tặng nhà mới).

Minh Thành Tổ năm ấy đã ngoài 60, mà bà quí phi chỉ mới 25, nên ông ta rất yêu chiều «ái khanh» của ông ta. Đương nhiên ông ta phải yêu chiều trọng đãi Trường Giang, vì ngoài tài văn học chàng còn là một thầy thuốc giỏi cứu «người đẹp» của ông thoát chết.

Sau vụ này chàng còn được vua phong là Long Đồ Đại Học Sĩ, trông coi nội các phụ với Dương Sĩ Kỳ, kiêm nhiệm Hàn Lâm viện.

Vì từ đời Minh Thái Tổ đã bãi chức Thừa tướng, nên Minh Thành Tổ không lập lại quan bậc này, nhưng quyền hành của Dương Sĩ Kỳ và Trường Giang gần như quyền của Tả, Hữu thừa tướng vậy!

Triều đình chia rất nhiều phe. Thế lực khá mạnh là các hoạn quan (quan thái giám). Trường Giang vốn do thái giám Trịnh Hòa tiến cử, nên phe này [2] cũng muốn níu kéo chàng. Hai, ba phe khác cũng muốn níu kéo chàng, nên xúm nhau dâng con. Mới đầu chàng từ chối, vì vốn dĩ không thuộc phường háo sắc đa dâm, chàng đã có người yêu là Huỳnh Như nên không muốn dan díu với cô gái nào khác.

Nào ngờ Trương Phụ từ An Nam trở về, chàng biết được nhà Hậu Trần bị tiêu diệt, nước Nam hoàn toàn bị người Tàu đô hộ, chàng đau đớn khốn khổ. Thêm vào đó, khi biết vụ đàn bà con gái An Nam bị Trương Phụ bắt về đem dâng nạp lão hoàng đế, chàng tức giận mới đổi ý thu nhận đám con quan Tàu, bắt hầu hạ cơm nước và giam lõng trong nhà không khác gì cung cấm.

Các cô gái vì mơ ước được chàng cho làm vợ, nên râm rấp vâng theo lệnh chàng, không than van hay chống đối chi hết!

Bữa trước Dương Sĩ Kỳ cậy Hình Bộ Thượng Thư Trịnh Ngô Công dọ tình ý chàng, lại cũng vụ muốn dâng con gái! Dĩ nhiên Dương Sĩ Kỳ quyền hành đứng đầu nội các, lẽ đâu đưa con cho chàng làm thê thiếp? Vì vậy, nếu chàng chấp thuận thì phải cử hành lễ cưới hẳn hòi.

Thật ra mới đầu chàng cũng từ chối, sau nghĩ lại: «Lão muốn ta cưới con gái lão thì ta cưới, còn việc ta yêu thương cho làm vợ hay không là quyền của ta! Bọn chúng làm khổ dân ta, vậy ta cũng nên làm khổ con gái chúng, mới thỏa dạ!».

Vì nghĩ như thế nên chàng mới chịu cưới ái nữ Dương Sĩ Kỳ!

Vả chăng, chàng nghĩ lão cũng ở vào thế mạnh trong triều, quyền hành sau lưng lão hoàng đế, chàng nắm giữ con gái lão, cũng như nắm giữ linh hồn lão vậy!

Từ hôm rước Dương tiểu thư về nhà, chàng không buồn xem mặt. Hôm lễ cưới nàng che mạng, nên chàng đâu có thấy dung mạo ra sao? Để rồi hôm nay chàng đối diện với chị dâu trong hoàn cảnh hết sức ngỡ ngàng!

Chàng tự hỏi: «Vì sao Thúy Uyên lọt vào tay họ Dương? Phải chăng Trương Phụ dâng cho?»

Việc này chàng phải dọ hỏi Thúy Uyên cho rõ ngọn

ngành.

Dù sao hiện tại thì...

- Thưa tiên sinh. Dương tiểu thư khóc lóc thảm thiết và nói những lời không ai hiểu nổi. Bà quản gia nói tiểu thư bị sốt nặng. Tiên sinh định thế nào?

Chu Thập vẫn quen gọi Trường Giang là tiên sinh như hồi ở Nam Liêm. Nghe Chu Thâp nói Thúy Uyên bị sốt, chàng vội vã đứng lên đi theo Chu Thập xuống nhà dưới.

Chàng vừa trờ tới cửa phòng nàng đã nghe tiếng Thúy Uyên vừa khóc vừa nói bằng tiếng An Nam:

- Trời ơi, hắn là ai? Tên Tàu ấy là ai? Tại sao hắn có bộ mặt và hình hài của chàng? Tiếng của bà quản gia:

- Dương cô nương! Tỉnh dậy Dương cô nương! Cô nói lời mê sảng, tôi không hiểu gì. Cô muốn tôi trình với chủ nhân tôi thế nào?

Trường Giang nghe qua, tim đau nhói. Chàng nghĩ, Thúy Uyên bị chấn động tâm thần vì cuộc chạm mặt với chàng khi nãy, chớ không phải cảm sốt chi. Vì nàng nói tiếng An Nam bọn này không hiểu nên tưởng nàng mê sảng nói bậy.

Chàng bước vào phòng, ra dấu bảo bà quản gia đi ra ngoài. Thúy Uyên vẫn nằm úp mặt xuống gối khóc thút thít… Trường Giang cố giữ giọng nói tự nhiên bằng tiếng Trung Hoa:

- Dương tiểu thư! Tôi xin lỗi khi nãy có xúc phạm đến tiểu thư. Tôi hứa từ nay tôi sẽ không để... tiểu thư buồn lòng nữa. Tiểu thư là con quan đại thần đứng đầu triều đình thì... trong nhà này tiểu thư phải được đối đãi đặc biệt. Tôi... tôi sẽ cắt đặt gia nhân hầu hạ tiểu thư...

Đang khóc chợt nghe tiếng Trường Giang, Thúy Uyên càng khóc tức tưởi hơn.

«Trời ơi, giọng nói này, hình hài đó... mà lại là một tên quan Tàu, bảo nàng không khốn khổ sao được?»

Nàng nghe hắn nói lời dịu ngọt tử tế với mình nên ngồi dậy, bắt gặp đôi mắt hắn nhìn nàng đầy vẻ xót xa, gợi đến hình ảnh người yêu năm xưa thăm nàng bên giường bệnh... Nàng càng đau khổ, ôm mặt khóc như mưa.

Trường Giang thấy Thúy Uyên cứ mãi khóc, không biết dỗ dành ra sao? Chàng thừa biết nàng khóc vì mối tình với gia huynh, nhưng ở vào hoàn cảnh này chàng không thể nói gì khác hơn là giả vờ an ủi:

- Tiểu thư đừng khóc nữa! Tôi sẽ không để tiểu thư cực nhọc vì tôi đâu! Chẳng qua bấy lâu nay các nàng ấy nấu hoài các món cao lương, tôi ăn mãi cũng ngán. Nay thấy tiểu thư biến chế mấy món ăn lạ mà tôi chưa hề ăn, thấy ngon quá mới gọi tiểu thư lên để khen, chớ chẳng phải cố ý làm buồn lòng tiểu thư đâu! Bắt đầu từ ngày mai tiểu thư không phải làm gì nữa.

Thúy Uyên nghĩ: «Tên Tàu này» không thể nào hiểu nỗi uẩn khúc của mình, nên khóc một lúc rồi quẹt nước mắt, nói:

- Cám ơn ... đã nói lời tử tế!

Nàng không biết gọi «hắn» bằng gì? Mà cũng không rõ lòng mình đối với hắn hiện giờ ra sao? Thù hận oán ghét hay cảm tình?

Trường Giang thấy nàng đã nguôi ngoai, không tiện đứng đó lâu, bước ra ngoài sau khi nhắn nhủ lần nữa:

- Xin tiểu thư bỏ qua điều phiền muộn. Kể từ giờ phút này không ai có quyền xúc phạm đến tiểu thư, ngay cả tôi cũng phải hết lòng kính trọng.

Chàng nói rất thành thật và xem nàng như chị dâu của mình.

Câu nói của chàng làm Thúy Uyên rơi rơi nước mắt mà không hiểu vì sao?

--------------------------------

1. Kế Tường hiệu Lỗ Ban (lấy tên người thợ mộc nổi tiếng thời Xuân Thu) là một kiến trúc sư đại tài. Tất cả cung điện trong nội cung và lăng tẩm đời Minh Thành Tổ và Tuyên Tôn ở Nam Kinh đều do ông xây cất.

2. Ca'c hoạn quan vì có công giúp Thành Tổ giựt ngôi của cháu là Huệ Đế, nên vua cho nhiều quyền hành, thế lực rất mạnh.

 Chương 15: Những kẻ tương tư

Sau buổi Dương Kiều Nga tức Thúy Uyên nấu cơm bị chủ nhân gọi lên trình diện, rồi nàng ngất xỉu, tên gia đồng bồng về phòng, bọn con quan Tàu không hiểu việc gì xảy ra giữa chủ nhân với Thúy Uyên? Họ chỉ biết rằng sau đó Thuý Uyên được đối đãi hết sức đặc biệt.

Tư phòng nàng được gia nhân dời xuống tầng dưới cùng, cạnh bên khác sảnh (phòng ăn bên tả, phòng nàng bên hữu khách sảnh) Một phòng rộng rãi xinh đẹp nhất trong tòa nhà.

Thúy Uyên được trao trả hai nữ tỳ Kim Anh và Kim Đào để hầu hạ riêng. Nàng được hoàn toàn tự do đi đứng trong nhà, quyền hành như một nữ chủ. Đương nhiên nàng không phải nấu cơm hay làm vườn như các cô gái khác.

Có điều chủ nhân vẫn không xem nàng là một vị phu nhân. Nàng vẫn chưa được làm vợ!

Đó cũng là lý do khiến các nàng Trung Quốc còn nuôi hy vọng…Nhất là sau ngày ấy, chủ nhân không lánh mặt mọi người nữa!

Thấy mặt người ấy rồi 15 cô gái đang tuồi xuân thì như bị hốt hồn! Bây giờ thì không phải chỉ có Tố Tố, Lệ Chi và Mai Nương ngất ngây điên đảo, mà bao nhiêu mỹ nhân trong nhà đều mang một chứng bệnh «tương tư»!

Còn Thúy Uyên thì sao?

Chính thật nàng cũng không hiểu rõ lòng nàng!

Bây giờ nàng đã biết chắc chắn hắn là tên Tàu chính cống, gốc người Vân Nam, họ Đoàn, thuộc hoàng tộc nước Đại Lý. Chứ không phải là người yêu của nàng, mà nàng đã nhận lầm phút gặp gỡ đầu tiên.

Như thế giữa nàng với hắn phải có một biên giới «cừu

thù».

Khổ một điều, hắn đối với nàng hết sức dịu dàng và mềm mỏng. Hắn chìu chuộng nàng đủ thứ. Nàng nhận thấy hắn rất kính trọng mình mà không hiểu vì sao?

Một hôm bắt gặp nàng trong phòng vẽ của hắn, hắn đã không la rầy, còn vui vẻ nói:

- Nếu Dương tiểu thư thích vẽ, tôi sẽ soạn các thứ cho tiểu thư.

Hắn nói và sắp đặt ngay giá vẽ, khung lụa và các dụng cụ trao cho nàng, rồi lánh mặt để nàng tự do.

Cũng có lần nàng muốn nghiên cứu các thi văn đời Đường nên lẻn vào phòng sách của hắn để tìm. Nhằm vào hôm ấy hắn bãi triều sớm, bất chợt gặp nàng đang lục lạo tìm kiếm làm văng mớ sách quý tung toé dưới nền nhà. Nàng thấy vẻ mặt hắn xót xa lắm, nhưng không dám giận, chỉ nói:

- Tiểu thư cần sách gì, để tôi tìm cho tiểu thư.

Bữa nọ nàng qua phòng âm nhạc sờ mó các khí cụ của hắn, hắn không phiền trách chi hết, còn vui vẻ nói:

- Tiểu thư thích món nào, cứ tùy tiện mang về phòng.

Thấy hắn chìu chuộng mình Thúy Uyên đâm lo, vì sợ lòng thù hận oán ghét của mình đối với hắn giảm đi, nên nàng cố ý làm những việc trái ngược để chọc tức hắn.

Đại sảnh là nơi hắn tiếp đón khách thường xuyên, nên hắn rất chú ý lối chưng bày thật hoa mỹ và gia nhân hàng ngày phải lau chùi bụi bậm. Nàng trêu hắn bằng cách thay đổi lối trang hoàng theo ý nàng. Bàn ghế xây qua xây lại trái ngược hết!

Mới đầu hắn không biết là nàng, nên gọi bọn tôi tớ la rầy. Chừng nghe nói, đó là do ý của Dương tiểu thư. Hắn nín êm và bảo bọn gia nhân:

- Nếu nàng muốn thay đổi, các ngươi cứ làm theo ý

nàng.

Nàng bướng bỉnh chọc tức hắn, hắn vẫn nhẫn nhục chịu đựng không một chút giận hờn, mà trái lại càng ngày càng tỏ ra thân thiết!

Thuý Uyên nói: «nàng cần một cổ xe để đi đây đi đó». Hắn sắm ngay cho nàng một cổ xe song mã thật đẹp, với người đánh xe thật giỏi, lúc nào cũng chực sẵn trong nhà để đưa nàng đi những nơi theo ý muốn.

Không những thế, mỗi lần nàng rời dinh thự, gia đồng Chu Thập đều cỡi ngựa theo phía sau để hộ tống.

Có thể nói, chưa có người vợ nào được chồng chìu chuộng như hắn đối với nàng. Mà cũng chưa có người chồng nào lễ độ với vợ và giữ gìn ý tứ một cách nghiêm chỉnh như hắn đối với nàng!

Thuý Uyên không hiểu tại sao?

Nhiều đêm nàng trằn trọc không ngủ để nghĩ về hắn, để nhớ đến hắn và tự hỏi: «Nàng nên thù hận hay mang ơn?» Vì từ khi về sống trong ngôi nhà này nàng không bị xem là kẻ nô lệ, xác thân không bị xúc phạm. Đối với gia nhân trong nhà, nàng không khác gì một nữ chủ.

Nàng được hắn che chở và chăm sóc từng li từng tí trong lúc đau ốm, mà cái nghĩa ấy còn hơn nghĩa vợ chồng.

Và cũng không hiểu tại sao những lúc sau này Thúy Uyên bỗng dành công việc nấu ăn. Nàng làm những món ăn đặc biệt của quê hương cống hiến cho hắn. Mỗi lần như vậy hắn vô cùng cảm kích, ăn rất nhiều, tuy không nói ra, mà cũng không đòi hỏi nàng phải làm.

Ngày qua ngày nàng ở toà nhà này đã được một năm. Mọi hoạt động trong nhà vẫn không có gì thay đổi. Mọi giao tiếp giữa chủ nhân với các cô gái, kể cả Thuý Uyên, vẫn giữ một khoảng cách.

Hôm ấy Trường Giang sữa soạn hành trang để đi công cán xa. Chàng theo phái đoàn nhà Vua đi Bắc Kinh. Vì từ khi chiếm ngôi của Hụê Đế, lên làm vua, Thành Tổ đặt tại Bắc Kinh một tòa đại diện trung ương [1].

Bắc Kinh trước kia vốn là thủ đô thời người Mông Cổ trị vì Trung Hoa (nhà Nguyên). Đời Minh thái tổ nhà Nguyên bị thua chạy khỏi Trung nguyên, nhưng con cháu vẫn kế tiếp xưng Đại Hãn.

Minh Thành Tổ bao phen phải thân chinh để dẹp quân Mông Cổ ở Mạc Bắc, nhưng vẫn lo ngại sự xâm nhập của họ nên đặt ở đó một tòa đại diện, mà thỉnh thoảng phải đi kinh lý.

Nay theo chiến lược của Trường Giang : «nên dời kinh đô về Bắc để phòng sự xâm lăng của người Mông Cổ». Trong triều các lão quan chống đối kịch liệt, vì cho rằng đó là thủ đô của người Mông. Những dấu tích của dân ngoại Mộng, Hán tộc không theo!

Nhưng rốt cuộc rồi Minh Thành Tổ vẫn nghe theo đề nghị của Trường Giang. Chuyến đi năm nay ra Bắc Kinh là để xem tình hình lần chót, sang năm dời đô.

Sở dĩ Trường Giang đưa ý kiến đổi đô ra Bắc, vì chàng nghĩ: Một khi triều đình Minh rời xa miền Nam, thì sự cai trị phương Nam sẽ hời hợt, lợi thế cho dân mình ngày kia quật khởi.

Vả lại từ nhiều năm nay, mỗi lần tháp tùng Vua ra Bắc, chàng đều tìm cách móc nối với nhóm cựu trào nhà Nguyên, xúi họ nổi dậy chống triều đình.

Một khi kinh đô dời về Bắc, chàng làm nội tuyến cho bọn người Mông Cổ và người Mãn [2] dễ dàng hơn. Cố ý sao cho Minh Thành Tổ phải đương đầu với hai nhóm dân này, quân lực dồn về mặt đó, tiềm lực quân đội mỗi ngày một yếu. Lúc ấy chàng sẽ tìm cách về nước, móc nối với những nhà ái quốc trong nước, đánh đuổi quân thù khỏi biên cương.

Vì là chuyến đi xa và đi lâu, mà từ khi có bọn con gái Tàu và Thuý Uyên ở đây, chuyến này là lần thứ nhất chàng phải xa nhà vài tháng. Nên trước khi ra đi chàng từ giã mọi người trong một buổi cơm chung và dặn riêng Chu Thập phải bảo vệ Dương tiểu thư kỹ lưỡng trong thời gian chàng vắng mặt.

Các cô gái thấy chủ nhân sắp sữa ra đi, cô nào cũng khóc. Thúy Uyên không khóc! Nàng cố giữ lòng thật bình tĩnh, xem như việc đi ở của chủ nhân không dính líu đến nàng!

Nhưng khi cỗ xe đưa hắn rời toà dinh thự rồi, nàng chạy về tư phòng, nhủi đầu lên giường khóc như mưa.

Nàng khóc một lúc thật lâu, ướt đẫm cả gối, mà không hiểu vì sao mình khóc?

Những ngày kế tiếp thật dài và thật buồn!

Tòa nhà thuở nào vang rần tiếng nói cười của hơn 15 thiếu nữ, giờ tưởng chừng như nhà hoang vô chủ! Các cô không ai muốn làm điều gì nữa. Người nào cũng nằm dật dờ trên giường, không buồn hoạt động, không buồn ăn!

Thúy Uyên cũng một tâm trạng như họ: Uể oải, u sầu, không thiết gì nữa!

Thật là lạ lùng!

Chủ nhân có ở nhà, gần như cả ngày họ không gặp mặt. Nhưng vì họ biết «chàng ở trong nhà». Hoặc giả: «một lúc chàng sẽ trở về», nên họ không nghe thiếu thốn.

Có «chàng», tòa nhà y như có linh hồn, Chàng đi vắng, nhà không khác gì bãi tha ma, chỉ còn những xác chết… Hay nói đúng ra còn những người có xác không hồn!

Sáng nào Thúy Uyên cũng lên phòng vẽ, nắn nót những bức họa còn bỏ dở, để phôi pha ngày giờ. Nhưng từ sáng đến chiều nàng cũng chẳng vẽ được nét nào gọi là «cho ra hồn».

Có hôm nàng qua phòng âm nhạc ngồi thừ một chỗ, mà tưởng chừng như đêm đã về, tiếng đàn du dương êm dịu của ai kia đang rót nhẹ vào tai…

Dù nàng muốn quên người ấy, song tâm trí lúc nào cũng nghĩ đến hắn, nhìn vật gì trong nhà cũng nhớ đến hắn…

Nàng nghĩ và nhớ hắn quá nhiều và có cảm tưởng trong đời nàng không thể thiếu hắn!

Nàng tự hỏi: «Chẳng lẽ nàng yêu hắn?»

Dù cho hình hài ấy có giống người xưa chăng nữa, hắn vẫn là hắn, một Đoàn Hoài Nam, một tên Tàu. Chớ nào phải một Nguyễn Trường Sơn mà nàng thề nguyền ước hẹn đâu mà để lòng nhớ thương?

Một tháng trôi qua thật dài. Ngày ngày nàng mỏi mắt trông qua cửa sổ, mong chờ cỗ xe quen thuộc trở về. Đêm đêm nàng trằn trọc không ngủ, để lòng không dối lòng nữa…

Để biết rằng nàng đã thật sự yêu hắn!

Dù hắn là một Đoàn Hoài Nam, một người không cùng chủng tộc, nhưng lại là một người chồng tốt.

Hắn đối với nàng ân tình sâu rộng, mà không có người chồng thứ hai nào trên thế gian này đối đãi với vợ như thế.

Sự ôn nhu hòa dịu và đức tánh cao thượng của hắn đã chinh phục được nàng, đã làm cho tình yêu nảy nở và nàng cũng nhận biết rằng tình này không gì lay chuyển nổi, vì nó xây dựng trên nền tảng nghĩa ân.

Chẳng biết rồi đây mối cựu thù giữa hai dân tộc sẽ giải quyết ra sao?

Tình yêu và tình nước phải chọn một. Nàng có thể nào «hạ thủ» hắn như dự tính, để «rửa hận cho quốc gia» được không?

Càng nghĩ, Thúy Uyên càng khốn khổ!

Nàng không thể yêu hắn, mà nàng cũng không thể giết hắn! Tình yêu và hận thù cứ ray rứt xâu xé tâm tư nàng ngày qua ngày… làm nàng bơ phờ mệt mỏi, tưởng chừng như sắp chết!

Hai tháng trôi qua…

Những chuỗi ngày mong đợi dài dằng dặc… Những con người tương tư gần như kiệt quệ vì thương nhớ…

Bỗng nhiên ngoài ngõ có tiếng vó câu dồn dập… Đoàn ngựa xe từ Bắc kinh trở về mang trả lại linh hồn cho toà nhà!

Khi Trường Giang bước xuống xe, cả bọn gia nhân và đám con gái ùa nhau ra đón bằng đôi mắt ướt lệ.

Chàng mỉm cười chào mọi người, song câu hỏi trước tiên của chàng với Chu Thập là:

- Dương tiểu thư mạnh không? Sao không thấy nàng?

- Độ rày tiểu thư đau yếu luôn, ít khi ra khỏi phòng.

Nghe Chu Thập nói Thuý Uyên không khỏe, Trường hơi lo, đi thẳng đến tư phòng nàng thăm hỏi.

Những ngày xa nhà, chàng nghĩ đến gia quyến nhiều và tưởng tượng ngày trở về quê hương tìm anh giao trả một chị dâu trọn vẹn, như viên ngọc trinh nguyên không tì vết.

Chàng gõ cửa hai ba lần, cửa mới mở ra… Thúy Uyên cũng như những người khác, đón chàng bằng đôi mắt uớt!

Thấy dung nhan nàng tiều tụy, chàng ân cần nói:

- Nghe Chu Thập nói tiểu thư không khoẻ, tôi lấy làm lo. Để tôi biên toa sai chúng hốt vài thang thuốc bổ cho tiểu thư uống nhé?

Sự thật nàng có đau yếu gì đâu ngoài nỗi tương tư?

Khi nãy nàng là kẻ đầu tiên thấy cỗ xe trở về. Cũng là kẻ khóc đầu tiên vì mừng. Song nàng không như các cô gái khác, chạy ra ngoài đón chủ nhân.

Nàng biết nàng yêu hắn. Đồng thời nàng cũng muốn oán thù. Cứ những dằng co giữa lý trí và tình cảm xâu xé hồn xác nàng, làm nàng khổ!

Nàng muốn ghét «người ta» mà có được đâu? Vì người ta vừa về đến nhà sau một cuộc hành trình dài đã lo lắng cho nàng!

Thúy Uyên cảm động lắm, nhưng cố giữ vẻ lạnh lùng cố hữu, nói:

- Tôi có đau ỳếu gì đâu. Đừng quá lo cho tôi!

Cho tới bây giờ nàng cũng không biết gọi hắn bằng gì? Hai tiếng «phu quân» ngọt ngào từ cửa miệng người vợ, nàng không dám phát ra. Y như nhiều đêm nàng ao ước được «hắn cho làm vợ thật sự», nhưng cũng sợ «bị làm vợ thật sự!».

Trường Giang không thắc mắc cho tâm trạng của Thuý Uyên. Chàng nghĩ: «nàng là gái An Nam trên đất này, đối với ai nàng cũng oán thù, thì trước mắt nàng, chàng là một tên quan Tàu, nàng thâm thù oán ghét là phải!».

Cũng vì lý do đó mà mỗi khi nàng bướng bỉnh làm những điều trái ngược để chọc tức chàng, Trường Giang không một chút bực mình. Trái lại còn cho nàng xử sự rất đúng, vì chàng với nàng có «mối cựu thù của hai dân tộc».

Thăm hỏi qua loa vài câu, chàng trở về phòng tắm rửa nghỉ ngơi. Giờ ăn bọn gia nhân mang lên một con cá nướng có rau thơm, có nước mắm, có món canh chua…

Té ra nàng lãnh đạm trước mặt hắn, nhưng khi không có hắn nàng yêu nhiều và chăm sóc bữa ăn không khác gì người vợ hiền, vì nàng đã biết những món ăn chàng thích!

Trường Giang được ăn một bữa cơm quê hương sau hơn hai tháng xa nhà rất lấy làm cảm khái.

Chuyến đi vừa qua chàng thu được nhiều kết quả. Chàng đã móc nối thêm được một số người Mãn và Mông Cổ quan trọng. Trong tương lai hai dân tộc này sẽ gây nhiều rối reng phiền toái trên giải đất Trung nguyên.

Từ đây về sau chàng cần liên lạc mật thiết với binh bộ Thuợng thư Trần Hiệp để nắm vững tình hình quân sự từng giờ từng khắc, để cho hoạt động phá rối của chàng có kết quả.

Sắp sẵn trong đầu chương trình phá hoại địch để cứu quốc, chàng khoan khoái qua phòng âm nhạc dạo lên phím đàn…

Tòa nhà hai tháng qua đắm chìm trong tịch mịch, bỗng vang dội âm thanh trầm bổng…

Trong nhạc có hồn, vì đã làm cho những trái tim dật dờ bừng sống dậy!

--------------------------------

1. ThànhTổ trước được Thái Tổ phong làm vương đất Yên (Bắc Kinh), nên sau khi cướp ngôi ông đặt tại đó một toà đại diện Trung Ương gọi là Hình Bộ Thượng Thư. Còn triều đình vẫn ở Nam Kinh (Kim Lăng). Đến 1420 Thành Tổ mới chính thức dời đô về Bắc Kinh.

2. Thời Tống gọi là người Kim (Mãn), là dân tộc sống ở miền Bắc nước Tàu. Vào thời Tống, người Kim chiếm gần nửa đất Trung nguyên. Sau Thành Cát Tư Hản (Mông Cổ) thu gồm Trung Hoa, nước Kim cũng bị diệt. Đến khi Minh thái tổ thống nhất sơn hà, dẹp Kim, chia làm nhiều vệ dưới sự cai trị của Minh đế. Nhưng dân tộc Kim vẫn quật khởi, sau này chiếm được nước Tàu, tức là nhà Thanh.

 Chương 16: Hận tình khôn giải

Phủ Dương Sĩ Kỳ hôm ấy rất là nhộn nhịp, vì là ngày sinh nhật thứ 40 của Dương phu nhân. Các quan trong triều từ hàng nhất và nhị phẩm đều được mời. Đương nhiên các vị phu nhân cũng được mời.

Trường Giang gần như là người chủ tiệc, vì chàng là con rể. Hơn nữa Dương Sĩ Kỳ muốn biểu dương thế lực mạnh của cha vợ và con rể với các phe nhóm khác. Cho nên bề ngoài là tổ chức lễ mừng sinh nhật của Dương phu nhân, mà thật sự là lễ phô trương con rể của Dương Sĩ Kỳ.

Lần đầu tiên sau ngày cưới, Thúy Uyên xuất hiện bên cạnh Trường Giang. Lâu nay Trường Giang cố tránh việc sóng đôi với Thúy Uyên như cặp vợ chồng. Mỗi khi được Vua hay quan mời chàng thường đi một mình.

Nay vì là Dương Sĩ Kỳ mời, mà Thúy Uyên là Dương tiểu thư, nên chàng không thể bỏ nàng lại nhà.

Cổ xe ngựa đưa Thúy Uyên với Kim Anh, Kim Đào trở về Dương phủ, Trường Giang cỡi ngựa theo phía sau. Chàng giữ gìn ý tứ, không ngồi với Thuý Uyên trong xe. Nhưng khi bước vào Dương phủ, trước mặt mọi người, chàng phải đóng vai chồng vợ với nàng.

Lần đầu tiên Thúy Uyên nghe mọi người gọi mình là Đoàn phu nhân và cũng là lần đầu tiên nàng nghe được từ môi miệng người đàn ông nàng vừa yêu vừa thù giới thiệu với mọi người: «phu nhân tôi».

Mỗi lần nghe như thế nàng đỏ mặt vì thẹn, mà trong lòng hạnh phúc vô ngần.

Bấy giờ các quan văn võ lần lượt tề tựu chật cả sảnh đường. Dương Sĩ Kỳ mời mọi người vào bàn tiệc, chợt thấy thiếu Binh Bộ thượng thư Trần Hiệp, nên cười nói:

- Nghe nói Trần thượng thư từ khi cưới được nàng thiếp xinh đẹp thì ít khi chịu ra khỏi nhà. Nay phu nhân tôi mời, buộc phải đem nàng thiếp theo. Chẳng biết ông ta có dám đem nàng ấy tới đây không ? Hay là ông ta ích kỷ, muốn giấu giai nhân để riêng cho mình ngắm thôi?

Hình bộ thượng thư Trình Ngô Công cười bảo:

- Chẳng qua từ khi Trần phu nhân qua đời, ông ta chăn đơn gối chiếc nhiều năm, nên bây giờ phải keo sơn gắn bó với người mới để đền bù những ngày thiếu thốn.

Công bộ thượng thư Chu Văn Tài đồng tình:

- Đúng đấy! Quan Hình Bộ nói thật đúng! Chỉ sợ ông ta không đến, hoặc có đến cũng không dám đem người đẹp theo để chúng ta chiêm ngưỡng đâu!

Lại Bộ thượng thư Vũ Lan Hầu xen vào:

- Người hùng gặp giai nhân thì không khác gì cá gặp nước, mặc sức mà vẫy vùng trong biển ái.

Mọi người hoan nghênh câu nói của quan Lại Bộ, ai nấy cười nghiêng ngửa. Hộ Bộ thượng thư Trần Hoàng, vốn là anh em chú bác với Trần Hiệp, lắc đầu cãi lại:

- Ông Lại Bộ nói sai rồi! Phải nói là anh hùng gặp giai nhân thì không khác gì cá vào rọ!

Cũng vì Trần Hoàng thường tới lui nhà Trần Hiệp, nên không lạ gì việc Trần Hiệp bị người đẹp «xỏ mũi».

Quanh cái bàn tiệc mấy chục người ngồi, ai cũng xen vào một câu. Các mệnh phụ phu nhân ngồi bàn bên cạnh khúc khích cười theo câu chuyện của các đấng lang quân. Chỉ riêng có Long Đồ Đại học Sĩ Đoàn Hoài Nam ngồi im ru không bàn vô, cũng không cười, mắt nhìn bâng quơ trên trần nhà… chẳng biết nghĩ ngợi gì?

Phải nói các bà hiện diện trong phòng tiệc đều vào tuổi sồn sồn hoặc lão, thế mà lòng họ không khỏi xao động về vẻ trang nghiêm của con người tuấn nhã tuổi trẻ tài cao đó.

Họ xầm xì to nhỏ về «chàng», khiến Thúy Uyên cũng cảm thấy khó chịu và nổi cơn ghen. Nàng liếc mắt nhìn hắn… Thầm nhủ:

«Thiên hạ bàn tán về người đẹp nào đó… Cho đến đỗi ta cũng phải lưu ý, mà hắn vẫn chẳng động tâm! Mười mấy mỹ nhân trong nhà hắn, chẳng làm cho hắn động tâm! Đàn bà không làm cho hắn động tâm! In hình như trên thế gian này không có gì khiến hắn động tâm, ngay cả màn danh lợi! Cho nên nghe nói mỗi khi lão Hoàng đế muốn thăng chức cho hắn phải ép buộc dữ lắm, hắn mới chịu nhận. Thật là một con người lạ lùng khó hiểu!

Đang lúc mọi người xôn xao cười nói, bỗng có tên hoằng nô từ ngoài tất tả chạy vào thưa với chủ:

- Bẩm Đại quan! Cổ xe của quan Binh Bộ đã vào đến

ngõ.

Dương Sĩ Kỳ cười khà khà, nói với mọi người:

- Dù muốn giấu người đẹp, nhưng ông Binh Bộ còn nể vì tôi nên phải tới đây, tuy tới trễ cũng đáng được chúng ta hoan nghênh!

Tiếng cười của mấy chục quan khách vang rền khắp sảnh đường.

Trường Giang và Thúy Uyên nghe nói Binh Bộ Trần Hiệp tới, nên đứng lên đi ra ngõ đón khách thay cho vợ chồng Dương Sĩ Kỳ.

Chàng và Thúy Uyên vừa ra khỏi cửa khách sảnh, Trần Hiệp và phu nhân hắn đã tới trước ngưỡng cửa rồi. Cả hai nghiêng mình chào và giới thiệu hai vị phu nhân. Bỗng nhiên ái thiếp của Trần Hiệp ngất xỉu dưới sân gạch, còn Trường Giang mặt tái ngắt, đứng chết sững!

Trong khi đó Thúy Uyên vụt nhào tới ôm ái thiếp của Trần Hiệp khóc gọi bằng tiếng An Nam:

- Chị Huỳnh Như! Chị làm sao vậy?

Trần Hiệp thấy Ái thiếp tự nhiên ngất xỉu, lýnh quýnh ôm nàng chạy vào nhà. Thuý Uyên cũng chạy theo. Trường Giang đứng trân trân tại chỗ như bị trời trồng!

Trong nhà, các quan nhốn nháo cả lên. Dương phu nhân vội vã chạy tới hướng dẫn Trần Hiệp đưa vào phòng riêng để có chỗ cứu tỉnh nàng ái thiếp.

Bây giờ các bà đều bỏ bàn tiệc, chạy vào phòng trong bu quanh chiếc giường người đẹp đang nằm bất tỉnh.

Dương phu nhân chợt nhớ hiền tế mình là ông thầy thuốc, nên hối bảo Thuý Uyên:

- Con mau ra mời phu quân con vào đây cứu tỉnh nàng.

Thúy Uyên chạy ra ngõ… thấy Đoàn lang vẫn còn đứng nguyên chỗ cũ. Nàng kêu gọi mấy tiếng mà chàng vẫn không nghe. Nàng chạy tới gần nói:

- Đoàn lang! Sao chàng lại đứng mãi ở đây? Chàng hãy vào nhà cứu tỉnh người bạn của thiếp.

Lần đầu tiên nàng gọi hắn là Đoàn lang và xưng thiếp, nên hổ thẹn cúi mặt nói, không dám nhìn lên. Nhưng Trường Giang giống như bức tượng đá, đứng trơ trơ không nhúc nhích.

Thúy Uyên ngước mắt lên… thấy gương mặt chàng tái xanh, không còn chút huyết sắc. Nàng sợ hãi nắm tay chàng nghẹn ngào gọi:

- Đoàn Lang! Chàng sao vậy? Đoàn Lang!

Nàng gọi hai ba lần Trường Giang mới nhìn nàng bằng ánh mắt đờ đẫn…

Kể từ biết mặt «chồng», nay là lần đầu tiên nàng thấy «hắn» kinh tâm động phách, mà không hiểu vì sao? Nàng tự hỏi: «Hắn bàng hoàng vì sắc đẹp của Huỳnh Như chăng?» Vô lý! Hắn là người không động tâm trước đàn bà. Dù cho Huỳnh Như đẹp đến mức siêu phàm cũng không làm cho hắn rúng động đến thế!

Trường Giang bỗng vùng khỏi bàn tay của Thúy Uyên, chạy bắn ra sân, sau khi nói:

- Tôi cần về nhà gấp. Nhờ tiểu thư tạ lỗi với mọi người

dùm.

Chàng chạy như người điên đến chỗ buộc ngựa, rồi phóng lên yên sải như bay.

Thúy Uyên ngỡ ngàng trông theo cho đến khi không thấy bóng chàng và ngựa mới trở vào nhà.

Lúc bấy giờ Huỳnh Như đã tỉnh. Các bà và Dương phu nhân đã trở ra khách sảnh, chỉ còn lại Trần Hiệp quỳ bên cạnh giường ve vuốt bàn tay của ái thiếp lão.

Thúy Uyên nhìn thấy hai người họ định trở ra, song Huỳnh Như vừa trông thấy nàng đã lên tiếng:

- Phu quân ra ngoài phòng tiệc với mọi người đi. Tôi muốn hỏi thăm Đoàn phu nhân chút việc riêng.

Trần Hiệp tuy không muốn rời người ngọc trong lúc này, nhưng không dám làm trái ý nàng, nên thất thểu bước đi. Thúy Uyên vụt nhào tới ôm Huỳnh Như khóc nức nở.

Hơn một năm rồi họ không gặp. Phút tương phùng của hai kẻ bơ vơ trên đất khách cảm động biết chừng nào ?

Thúy Uyên khóc thật nhiều, nhưng Huỳnh Như không khóc. Nàng bị chấn động tâm thần khi gặp lại người xưa trong hoàn cảnh éo le, nên hồn xác đã chết lịm, không còn xúc cảm để khóc chung với Thuý Uyên.

Nàng nhìn bạn, thấy dung nhan xơ xác thì lấy làm lạ. Tự hỏi: «Thuý Uyên đã sum hợp với người yêu, đáng lý phải sung sướng hạnh phúc, cớ sao thân xác võ vàng?

Mấy tháng qua ray rứt giữa tình yêu và hận thù đã làm cho Thúy Uyên gầy sút nhiều. Giờ gặp lại người bạn gái có thể trút cạn nỗi lòng, Thúy Uyên như người chết đuối gặp bè trôi tới. Nàng ôm bạn sụt sùi:

- Em khổ lắm chị ơi!

Huỳnh Như châu mày kinh ngạc:

- Em tưởng trong bọn mình, chị là người may mắn hạnh phúc đó chứ?

Thúy Uyên không hiểu câu nói của Huỳnh Như, tức tửi bày tỏ chân tình:

- Từ ngày chúng mình chia tay ở Lưu Gia Cảng, lúc nào em cũng nhớ lời dặn dò của chị: «trả hận vong quốc». Trương Phụ đưa em vào nhà này. Dương Sĩ Kỳ và Dương phu nhân nhận em làm nghĩa nữ. Tám tháng sau em bị gả chồng. Chính là « hắn » khi nãy chị gặp ngoài ngõ.

Huỳnh Như mở mắt tròn xoe ngơ ngác nhìn Thúy Uyên. Nàng không hiểu tại sao Thuý Uyên gọi người yêu là «hắn»?

Thúy Uyên tiếp tục kể:

- Hắn là người chồng kỳ quái nhất! Chưa cưới vợ đã có sẵn 15 thê thiếp, mà hắn chỉ cố ý làm khổ người ta, chớ chẳng cho ai nhìn mặt. Một tháng sau ngày cưới em mới giáp mặt hắn. Gặp hắn em ngất đi, vì phút hội ngộ quá bất chợt với người yêu năm xưa. Em không hiểu do đâu chàng lạc vào đất địch thay đổi họ tên, nghiểm nhiên làm quan to ở triều đình địch?

Nào ngờ hắn chính thật là tên quan Tàu họ Đoàn tên Hoài Nam, gốc người Vân Nam, in hình như thuộc hoàng tộc nước Đại Lý xưa kia. Hắn được lão hoàng đế tin dùng cũng do ở nguồn gốc quí phái ấy.

Mấy lần em giả vờ nói tiếng An Nam với hắn, hắn lơ láo không hiểu gì. Chỉ vì hình hài và giọng nói của hắn không khác gì chàng, đã làm tim em lẫn lộn, không biết hắn là người yêu hay kẻ thù?

Sự ray rức giữa tình yêu và hận thù giữa hai dân tộc đã làm em khổ. Vì yêu hắn cũng không được, giết hắn cũng không nỡ!

Huỳnh Như nghe bạn kể lể tâm sự, mắt đăm chiêu nghĩ ngợi… Té ra nàng cũng nhận lầm hắn! Nàng tự hỏi:

«Thế gian sao lại có người giống người đến như thế? Phải rồi! Chàng đã chết trong lòng biển cả, làm sao có thể nghiểm nhiên làm quan trên đất này?»

Bỗng dưng nàng nghe trong lòng nhẹ nhàng thơ thới, nỗi khốn khổ như không còn nữa!

Thật là lạ lùng! Nàng yêu Trường Giang, nhưng vẫn thích chàng chết hơn là sống mà làm chồng người khác.

Đàn bà máu ghen có sẵn từ lúc lọt lòng mẹ! Khi nãy thấy chàng sóng vai với Thúy Uyên, nàng ngất đi vì uất hận con người phản bội.

Việc cây trâm của nàng, chàng lấy trao cho Thúy Uyên đã làm cho Huỳnh Như đau nhói ở tim mỗi khi nhớ tới. Nàng nghĩ, Thúy Uyên không hay biết việc chàng thề non hẹn biển với nàng, nên không oán trách Thúy Uyên. Cũng vì vậy nàng không nói với bạn rõ vụ cây trâm.

Thấy bạn cứ mãi sụt sùi, Huỳnh Như xót xa hỏi:

- Hắn đối xử với chị thế nào?

- Một người chồng thật tốt. Hắn chiều chuộng chăm sóc em từng li từng tí. Nhưng… nhưng em với hắn vẫn chưa làm chồng vợ.

- Chắc hắn có nhiều thê thiếp nên mới lãnh đạm với chị chớ gì?

Thúy Uyên đang khóc bỗng bật cười:

- Nói đến bọn thê thiếp của hắn thật tức cười mà cũng thật đáng thương. Mười lăm nàng Trung quốc mê hắn như điếu đổ, mà hắn chẳng thèm ngó nửa mắt, đừng nói chi đến việc chung chăn gối.

- Chúng đẹp không?

- Đẹp! Mỗi người mỗi vẻ, đều là con nhà khuê các giàu có nhất thành Nam Kinh. Vậy mà hắn đày đọa người ta, bắt nấu cơm, làm vườn, lau chùi nhà cửa… không khác gì tôi tớ vậy!

Huỳnh Như nghe câu chuyện lý thú, tươi cười hỏi:

- Rồi các nàng Trung Quốc vẫn chịu làm tôi mọi cho hắn à?

Thúy Uyên như quên nỗi sầu, hí hửng kể:

- Chị không tưởng tượng được đâu! Các nàng ấy… nếu hắn bảo chết, chúng cũng chịu chết ! Huống hồ là làm tôi mọi…

Huỳnh Như cười dòn, ngắt ngang câu nói của Thúy

Uyên:

- Chỉ vì hắn quá đẹp trai, lại thêm quyền cao chức trọng…

Nàng bỗng ngưng câu nói, rỉ nhỏ vào tai Thúy Uyên:

- Hắn không thích đàn bà, có khi bị bệnh đấy!

- Bệnh gì? Hắn mạnh khỏe, sinh lực dồi dào. Tuy là quan văn mà đâu có gầy còm ốm yếu như bọn đồ nho? Ngày nào hắn cũng bơi lội, chạy nhảy, cỡi ngựa…

Huỳnh Như chúm chím cười:

- Chị đọc sách nhiều, không nghe nói chứng bệnh đàn ông không thích đàn bà là bệnh gì sao?

- Em đọc nhiều sách, nhưng làm gì có sách nói đến chứng bệnh kỳ cục ấy?

Huỳnh Như thấy bạn ngây thơ, nên nghiêm giọng:

- Em nghĩ, hắn bị bệnh không thể gần đàn bà, nên mới lạnh lùng với chị và bọn thê thiếp.

Thúy Uyên trầm ngâm một lúc nói:

- Nếu vậy cũng là cái may cho em có thể giữ được tấm tình chung với người xưa. Vả chăng, trước khi gặp chị trên hải thuyền của Trương Phụ, em đã dự tính nếu kẻ nào có ý xúc phạm đến em, em sẽ tự tử để giữ vẹn trinh tiết. Nhưng sau khi nghe lời khuyên của chị «dùng nhan sắc để làm gươm đao giết thù, mà trả hận cho quốc gia». Từ đó em không còn ý định chết. Nay thân em đã lọt vào tay hắn, nếu hắn vì mang bệnh mà không đụng chạm đến em, ấy cũng là cái may cho em.

Nàng bỗng nhớ hôm lễ cưới, lúc bái thiên bái địa, nàng lâm râm khấn: «xin Trời Đất đừng chứng dám cho cuộc nhân giữa nàng với hắn».

Cho tới nay hắn không bắt nàng làm vợ, có lẽ do Trời xui khiến như thế.

Huỳnh Như chợt thở dài:

- Em không được cái may mắn của chị. Lão ấy không khác gì thú vật! Làm vợ một người chồng không yêu đâu khác gì cô gái bán thân?

Nàng nói xong câu ấy, đôi mắt long lanh ngấn lệ, song trên môi gượng nụ cười, tiếp:

- Thân em, em không nghĩ thuộc về em nữa, vì kể từ ngày rời xứ em đã hiến cho cuộc phục thù cho quốc gia. Mỗi lần gần gủi lão, tâm hồn và thể xác em đau đớn, lòng uất hận em dâng cao, em không quên thù nhà và hận nước.

Thúy Uyên trở lại dàu dàu:

- Hai chúng ta cùng khổ, nhưng là hai nỗi khổ khác nhau. Chị khổ vì thân xác bị giặc dày vò. Em khổ vì tình yêu và thù hận dày vò.

Huỳnh Như trách nhẹ bạn:

- Nếu chị còn nghĩ đến người xưa, sao lại yêu hắn chứ?

Không hiểu sao nàng nói thế? Nàng không muốn Thúy Uyên yêu người yêu của nàng, song nghe Thúy Uyên thay lòng đổi dạ với người yêu của nàng, nàng oán trách!

Thúy Uyên nào hiểu rõ nỗi uẩn khúc trong lòng của Huỳnh Như! Nàng nói như nói cho mình:

- Em cũng muốn thù ghét hắn chứ! Em vẫn luôn nhớ đến người xưa. Nhưng… hắn tốt quá! Hắn không gây cho em nỗi oán thù như lão già…ấy đối với chị.

Nói đến đó Thúy Uyên bỗng bật cười khi gọi Trần Hiệp là lão già. Sự thật Trần Hiệp chỉ vào khoảng 40, còn Trường Giang năm ấy đã trên 30 tuổi rồi. Cả Huỳnh Như và Thúy Uyên gọi trần Hiệp bằng «lão già» chỉ vì cái bụng phệ của ông ta.

Cả hai vụt lặng im, cùng nghĩ về hắn…

Thúy Uyên muốn nói bạn biết về thái độ «kinh tâm động phách» của hắn khi chạm mặt Huỳnh Như bên ngoài. Nàng muốn nói đùa với bạn rằng: «Trái tim sắt đá của hắn trước đàn bà dường như đã mềm nhũn thành bột khi gặp chị đấy!». Nhưng không hiểu sao nàng không có hứng thú nói đùa? Trong lòng mênh mang một nỗi buồn khổ…

Huỳnh Như mường tượng đến hình hài con người nàng gặp khi nãy… lòng run lên những cảm xúc dạt dào, tưởng chừng như đêm nào cùng người tình ngồi bên khung cửa sổ nơi quán trọ thề nguyền.

Một lúc thật lâu, Thúy Uyên chợt ngước mặt lên nhìn bạn, sẽ hỏi:

- Chị khuyên em phải có thái độ nào với hắn?

Huỳnh Như không trả lời ngay, lặng im suy nghĩ một lúc mới đáp:

- Chúng ta chưa biết các chị em khác hiện trong hoàn cảnh nào, nên chị và em chưa thể «hạ thủ» hai tên này một cách lẻ tẻ. Chúng ta hãy ẩn nhẫn chờ thêm một thời gian xem sao?

Thúy Uyên bỗng thở ra nhè nhẹ. Nàng chỉ sợ khi nghe bạn bảo: «Trở về nhà thủ tiêu hắn ngay»!

Dương phu nhân từ ngoài chạy vào thấy chỉ có Thúy Uyên ngồi đó, nên ngạc nhiên hỏi:

- Phu quân con đâu? Ta tưởng phu quân con và con ở trong này để chăm sóc cho Trần phu nhân.

Huỳnh Như thấy Dương phu nhân vào, liền bước xuống giường làm lễ chào hỏi. Thúy Uyên cũng đứng lên nói:

- Khi nãy chàng gấp trở về nhà, hình như có việc khẩn cấp phải làm. Chàng có nhờ con cáo lỗi với mọi người. Xin nghĩa mẫu nói lại dùm.

Dương phu nhân thấy sắc thái Huỳnh Như bình thường, biết nàng đã khoẻ lại, nên kéo nàng với Thuý Uyên đi ra, nói:

- Nàng nên ra ngoài bàn tiệc cho vui. Ai cũng náo nức muốn xem rõ dung nhan nàng.

Huỳnh Như vâng lời uể oải bước đi. Dương phu nhân vụt nói:

- Té ra nàng là bạn của nghĩa nữ ta? Nàng là gái An Nam, hèn chi dung nhan mới mỹ lệ như thế ! Ta cứ tưởng trên trời đất này không có người đẹp thứ hai nào ngoài nghĩa nữ ta. Giờ đây gặp nàng ta mới biết mình lầm!

Huỳnh Như mỉm cười đưa mắt nhìn bạn, không nói tiếng nào. Ngoài khách sảnh tiếng cười nói, tiếng khua động chén bát ồn ào như giữa chợ. Bỗng dưng gian phòng im phăng phắc khi Huỳnh Như bước vào.

Bọn đàn ông ngẩn ngơ không nói làm gì, các bà mệnh phụ đều dương mắt nhìn nàng không chớp!

Trần Hiệp là quan Binh Bộ võ lược hơn người, tiếng nói rổn rảng như chuông đồng, ăn uống hùng hục như hổ đói. Thế mà vừa thấy ái thiếp hắn bước ra, hắn bỗng thu mình ngồi xếp ve như chuột thấy mèo, không dám ăn, không dám cười.

Hai bàn tiệc cho các quan và các vị phu nhân. Huỳnh Như thỏ thẻ chào mọi người, rồi ngồi xuống bên cạnh Thúy Uyên.

Dương phu nhân bỗng lớn tiếng nói:

- Hiền tế của chúng tôi có việc khẩn cấp phải trở về gia tư, gửi lời cáo lỗi với mọi người.

Quan Hình Bộ là người mai nhân bữa nọ, cười nói:

- Trên đời này chẳng có điều chi làm quan Đại Học Sĩ động tâm, ngoài công vụ! Hoàng thượng trọng vọng ông ta là phải!

Thúy Uyên nghe nói cũng lấy làm ngẫm nghĩ… Chính nàng cũng cho rằng trên cõi đời này không có gì làm cho «hắn» động tâm, ngoại trừ lúc nãy gặp Huỳnh Như ngoài ngõ.

Phải chăng vì «hắn» thình lình nhớ đến công vụ khẩn cấp, hay vì sự chạm mặt với người con gái quá đẹp như Huỳnh Như?

° ° °

Vừa bước xuống xe đi vào nhà Thúy Uyên bỗng thấy đám con gái Tàu đứng khóc thút thít nơi dãy hành lang.

Nghe tiếng nàng, bà quản gia từ nhà bếp chạy tới lấp bấp nói không ra câu:

- Tiểu thư! Chúng tôi trông đợi tiểu thư… Chủ nhân tôi… Trời ơi, làm sao bây giờ…

Thúy Uyên biến sắc hỏi:

- Việc gì đã xảy ra?

- Khi sáng gia chủ từ Dương phủ trở về đến ngõ ngã ngay dưới chân ngựa. Bọn lính canh hốt hoảng đỡ người đem lên tư phòng. Cả ngày nay người chỉ la hét đập phá đồ đạt trong phòng, không ăn uống chi hết! Chúng tôi sợ quá, không biết phải làm sao? Khi nãy thấy người yên yên một chút, Chu Thập mới rón rén vào phòng dâng lên một chén sâm trà… Nào ngờ người ngồi bật dậy, vứt chén trà qua cửa sổ, thét la một chập, mồm hộc máu tươi. Chu Thập kinh hãi chạy xuống nhà la làng. Chúng tôi và các nàng ấy quýnh quáng chạy lên. Nhưng gia chủ đã cài kín cửa phòng, không ai có thể vào được! Không hiểu người có mệnh hệ nào không?

Bà vừa khóc vừa nói tiếp:

- Tôi làm gia nhân cho người đã 8 năm, chưa hề nghe gia chủ lớn tiếng hay nói lời gay gắt với ai. Chu Thập theo hầu từ nhỏ, nói chủ nhân là người ôn nhu hòa dịu, cho đến đổi ở Nam Liêm là nơì chủ nhân sống một thời gian, thiên hạ tôn chủ nhân là ông Thánh sống…

Thúy Uyên không chờ nghe bà quản gia nói tiếp, bỏ chạy lên tầng lầu trên đến phòng của Đoàn lang, thấy Chu Thập ngồi sụm trước cửa đôi mắt đỏ hoe.

Trông thấy Thúy Uyên, Chu Thập quẹt nước mắt đứng

lên nói:

- Dương tiểu thư! Chủ nhân tôi rất quí trọng tiểu thư. Tiểu thư lên tiếng gọi thử xem. Có thể khi nghe tiếng tiểu thư người sẽ mở cửa. Người bị thổ huyết mà không để ai chăm sóc, cứ la hét hoài, tôi lo lắm !

Thúy Uyên gõ cửa nhè nhẹ, run giọng gọi:

- Đoàn lang! Đoàn lang! …Đoàn lang!

Nàng gọi nhiều lần vẫn không nghe động tĩnh. Nước mắt nàng tuôn như suối! Bây giờ nàng không muốn nhớ đến hai tiếng thù hận nữa. Nàng yêu chàng! Nàng thật sự yêu chàng nên đau nhói ở tim khi nghe tin chàng thổ huyết.

Nàng nghĩ maĩ vẫn không tìm ra nguyên nhân tại sao chàng nổi chứng kỳ quái như vậy? Thần sắc lạ lùng của chàng khi sáng lúc chạm mặt Huỳnh Như càng làm cho Thúy Uyên nghĩ ngợi... Chẳng lẽ vì Huỳnh Như? Cả hai mới gặp nhau lần đầu chưa kịp chào hỏi, làm sao có thể gây điều gì phẫn uất trong lòng chàng? Chắc chắn là do nguyên nhân nào khác… Hay là vì lão Trần Hiệp? Có thể lắm! Lão ta với chàng chung đụng việc quan, biết đâu lão đã làm điều mích lòng chàng, nên lúc ra đón lão, chàng mới có thái độ lạ lùng đó?

Đắn đo một lúc nàng thấy cũng không đúng! Vì chàng gặp Trần Hiệp hằng ngày ở triều, chớ đâu phải lần đầu mà có phản ứng bất thường như vậy? Như vậy vụ này không dính líu gì đến Trần Hiệp hay Huỳnh Như.

Vậy thì dính líu đến ai? Thúy Uyên nghĩ mãi không ra nguyên nhân. Một điều nàng biết chắc là chàng đang gặp điều khổ hận tận cùng, mà không nói ra được.

Lúc bấy giờ trời đã bắt đầu tối. Chu Thập vẫn đứng gục đầu nơi cửa, nhỏ giọng nài nỉ chủ nhân mở cửa.

Bất thình lình cánh cửa bị đá tung ra như gặp trận cuồng phong. Tiếp theo là tiếng gọi lớn:

- Chu Thập đâu?

Chu Thập vừa nhảy tránh sang một bên khi cánh cửa bị tung ra, nghe chủ gọi vội vàng lên tiếng :

- Dạ có em đây!

- Mau xuống nhà dưới bắt một cô gái mang lên cho ta.

Chu Thập ngần ngừ hỏi:

- Thưa… em phải đưa cô nào lên…

- Cô nào cũng được!

Giọng nói của chàng thật gay gắt, làm Chu Thập hoảng sợ không dám hỏi lôi thôi, bỏ chạy một hơi. Thúy Uyên ngẩng mắt lệ nhìn về phía cửa… Nhưng Trường Giang đứng khuất bên trong cửa, nên không trông thấy nàng.

Chu Thập trở lên ngay với một cô. Chính là Tố Tố. Tố Tố vừa trờ tới cửa phòng… đã bị một bàn tay với ra kéo vô trong một cách mạnh bạo ! Cánh cửa đóng lại và sau tiếng khóa cửa là tiếng quát:

- Cỡi bỏ xiêm y ra!

Có lẽ Tố Tố còn đang chới với chưa kịp làm gì, nên có tiếng thét thứ hai:

- Ta bảo nàng cỡi xiêm y, nghe chưa!

Chu Thập với Thúy Uyên đứng bên ngoài đều rúng động, vì nghe tiếng nút áo bị giật phăng ra và tiếng cô gái khóc nho nhỏ…

Chu Thập không đứng lại đó lâu hơn. Hắn nhanh chân trở về phòng hắn bên phải dãy hành lang.

Bên trong văng vẳng tiếng khóc của cô gái… Bên ngoài Thúy Uyên ngồi phệt một chỗ, hồn xác đờ đẫn…

Một lúc sau Tố tố bị xô ra, cánh cửa đóng ập lại. Trong bóng tối mờ mờ, Thúy Uyên thấy cô gái trần truồng như nhộng, hai tay run rẩy mặc xiêm y, thỉnh thoảng quẹt nước mắt.

Nàng nhìn Tố Tố mà trong lòng không hiểu cô ta có cảm giác gì? Hạnh phúc hay đau khổ? Đêm nay Tố Tố có thỏa mãn ước vọng: «được chàng ban cho một lần ân ái» như cô ta hằng mơ ước?

Còn Đoàn lang của nàng? Y như chàng trút hận lên đầu cô gái, chớ không phải lòng ham muốn gần gủi thể xác đàn bà!

Thúy Uyên tự hỏi: «Sau cuộc tình ấy chàng có vơi được nỗi hận không?».

Nàng không giải đáp được. Bởi giữa chàng với nàng có một khoảng cách vời vợi: «không làm chồng vợ»!

Hai thể xác chưa làm một, thì hai tâm hồn hãy còn xa nhau lắm! Nàng chưa thể hiểu chàng, vì hồn xác họ chưa gần gủi, vì ở chàng còn có cả một khung trời bí mật!

Thúy Uyên uể oải đứng lên lủi thủi trở về tư phòng. Trời đêm ấy thật vắng và thật chìm, không nghe thấy gì dù một hơi gió thoảng!

° ° °

Cả ngày hôm sau không ai thấy mặt chủ nhân, cũng không ai thấy mặt Tố Tố, vì cô ta nằm rút trong phòng.

Đến tối mờ chủ nhân mới trở về nhà và Chu Thập lại đùng đùng chạy xuống lầu dẫn lên một nàng…

Một chốc sau cô ta trở xuống, đôi mắt cũng đỏ hoe và ngày hôm sau cũng nằm rút trong phòng như Tố Tố.

Đến ngày thứ ba, các nàng đã đoán trước, nên có nàng đứng chờ sẵn nơi cầu thang, để Chu Thập không phải chạy tìm.

Ngày thứ tư, các cô tranh nhau đứng cầu thang, cô nào cũng nói mình tới trước, gây cảnh tranh cãi chửi bới… khiến bà quản gia phải ra sức can thiệp.

Ngày thứ năm, Chu Thập nhận của «hối lộ» nên giấu sẵn «nàng ấy» trong phòng hắn…

Và chiều đó…

Trường Giang về nhà sớm, chớ không đi lang thang như mọi khi.

Mấy hôm quá đau khổ về việc vị hôn thê bị giặc bắt làm vợ, chàng tức giận hành hạ đám con quan Tàu cho vơi nỗi hận. Nhưng sau cuộc tình mênh mang thù hận, hồn xác chàng rã rời chán nản!

Thú vị của tình ái chỉ có giữa hai kẻ yêu nhau. Và chỉ có hai kẻ yêu nhau mới tạo được giây phút tuyệt vời trong ân ái.

Chàng không thể tiếp tục chung đụng với những cô gái mà lòng chàng đầy thù hận, vì không giúp cho chàng vơi nỗi hận, mà trái lại càng làm cho tâm hồn chàng khốn khổ.

Suy nghĩ tận cùng chàng thấy rõ kẻ thù của mình, của dân tộc mình, chính là lão Hoàng đế và Trương Phụ.

Hiện, chàng chưa thể làm gì lão Hoàng đế, thì ít nhất chàng phải trừng trị Trương Phụ bằng tất cả quyền uy và thế lực của chàng, mới vơi được nỗi hận tình nặng trĩu trong lòng.

Đã tìm được lối thoát để giải tỏa nỗi thống khổ, tâm tư chàng nhẹ nhàng đôi chút, vì thế hôm nay chàng trở về nhà sớm để ăn một bữa cơm ngon của gia tẩu Thúy Uyên.

Từ hôm trở về từ phủ Dương Sĩ Kỳ chàng chưa gặp lại Thúy Uyên. Hôm nay chàng đi thẳng đến tư phòng nàng để thăm hỏi, cũng để dọ dẫm Huỳnh Như ngất xỉu hôm ấy ra sao ? Nàng có nghi ngờ gì về chàng không ?

Đến phòng của Thúy Uyên chàng gõ cửa hai ba lần vẫn không nghe tiếng bên trong. Thấy cửa hé mở không đóng, chàng xô nhẹ bước vào…

Thúy Uyên đang gục đầu nơi bàn viết, đôi vai run

run…

Nàng đang khóc ! Nàng khóc vì biết rằng tình yêu đối với người xưa vẫn còn trong tim nàng và nàng không quên lời hẹn ước. Nhưng khi xưa nàng gặp Trường Sơn, rồi tương tư… rồi kết nghĩa trăm năm… Cả hai chưa biết rõ nhau, chưa tâm tình, cũng chưa gần gủi để cảm vì tài, để yêu vì nghĩa.

Tình đối với người xưa chưa sâu đậm, mới khiến cho nàng yêu chồng. Một người chồng không chung chăn gối, một người chồng không cùng tổ quốc, một người chồng có thể xem như kẻ địch… nhưng lại là một người chồng tốt !

Nàng biết chàng đang khổ, mà không biết làm sao chia xẻ nỗi khổ của chàng!Nàng không ghen những gì đã xảy ra giữa chàng và các cô gái. Vì nàng biết chàng đối xử với các nàng ấy không khác gì ông Vua bạo.

Mà đối với con người nguyên thủy nhân ái, khi làm những điều hung bạo khác với nhân tính của họ, thì Thúy Uyên cũng đo lường được mức đau khổ của chàng đến độ cùng cực.

Chính vì thế mà nàng xót xa thương chồng!

Trường Giang đứng sau lưng Thúy Uyên thật lâu, vẫn không lên tiếng, vì thấy chị dâu cứ mãi sụt sùi… Chàng nhận thấy nàng đã gầy sút nhiều, lòng tê tái nghĩ đến gia huynh.

Bỗng chàng nghĩ: «Nếu chàng là tên quan Tàu thật, thì giờ đây gia huynh chàng cũng đã mất vị hôn thê!».

Làm trai mà không gìn được nhà, không giữ được giang sơn, thật không đáng sống trên cõi đời này nữa!

Nếu chàng không rửa được cái nhục vong quốc và cái nhục mất người tình, tốt hơn đừng làm người nữa!

Thúy Uyên chợt nghe có hơi thở dồn dập sau lưng, nên giật mình quay mặt lại…bắt gặp chàng đang đứng tần ngần nơi ngưỡng cửa, vẻ mặt đầy đau khổ.

Nàng thương cảm chạy tới nhào vào lòng chàng, thống thiết gọi:

- Đoàn lang!

Trường Giang hoảng kinh, xô nhẹ nàng ra, cố giữ giọng nói tự nhiên:

- Dương tiểu thư ! Tôi tới nhờ tiểu thư nấu một bữa ăn ngon. Chắc không phiền tiểu thư lắm chứ?

Thúy Uyên ngước mắt lệ nhìn chàng, nói trong nghẹn

ngào :

- Đoàn lang! Thiếp biết chàng đang khổ! Thiếp muốn chia xẻ nỗi khổ với chàng.

Lời thú nhận của Thúy Uyên khiến Trường Giang sợ

hãi không dám nhìn nàng.

Định mệnh quá trớ trêu!

Phải chi con gái của Dương Sĩ Kỳ là Huỳnh Như thì có phải giờ đây tình nồng duyên mặn đó không? Hay giả như Thúy Uyên là cô gái An Nam nào khác, thì cũng có thể chia xẻ nỗi khốn khổ của chàng trong lúc này.

Người tình bị cướp mất! Mà người vợ trước mắt không thể cho làm vợ! Thiết tưởng trên thế gian này không có ai gặp cảnh não lòng như thế!

Chàng ngậm ngùi lặng im, một lúc gượng gạo nói:

- Dương tiểu thư, Tôi rất cảm động trước hảo tâm của tiểu thư. Nhưng… nỗi khổ hận của tôi không ai có thể giải tỏa được. Trái tim tôi chai đá lắm! Tiểu thư nên thù ghét tôi như bấy lâu nay thì hơn.

Thúy Uyên ngỡ chàng vẫn còn giận vì những bướng bỉnh của nàng thuở trước, nên ân hận nói:

- Thiếp biết thiếp không phải với chàng.

- Nào tiểu thư có làm điều gì sai quấy với tôi đâu? Tôi … tôi không phải với mọi người trong nhà này. Từ đây tôi sẽ cố gắng chữa những lỗi lầm của mình.

Thúy Uyên nghe chàng nói những lời dịu hiền như thuở nào, biết chàng đã qua cơn chấn động tinh thần, trở lại bản tánh nhân ái cũ, nên miệng nở nụ cười, mà nước mắt ràn rụa :

- Đoàn lang! Miễn chàng hết buồn khổ là bao nhiêu người trong nhà này vui sướng.

Nàng nói xong ngoe nguẫy đi, sau khi bảo:

- Để thiếp đi nấu món ăn thích nhất cho chàng.

Trường Giang cũng trở bước về tư phòng mà trong lòng xốn xang không yên.

Chàng không thể yêu Thúy Uyên, mà cũng không thể để Thúy Uyên yêu chàng. Nhưng tình trạng chồng vợ cả hai biết tính sao đây?

Chàng thừa hiểu đàn bà con gái thể xác và tâm hồn họ vốn yếu đuối. Gần gủi với một người tử tế với họ, từ cái nghĩa đó phát sinh tình yêu.

Chàng biết chị dâu không muốn phản bội gia huynh. Nhưng chính sự chăm sóc lo lắng của chàng đã làm nàng cảm kích. Rồi tình yêu tự nhiên đến…

Bây giờ chàng phải thận trọng việc đối xử với nàng. Có lẽ đã muộn rồi!

Lần thứ nhất trong đời, chàng nhận biết rằng có những việc không thể giải quyết được, dù với trí tuệ phi thường! Đó tức là định mệnh! Đó tức là số trời!

Chàng có thể nào chống chọi được mãi với cuộc nhân duyên thiên định này không?

° ° °

Vua thành tổ vừa ra ngự triều, các quan văn võ vừa tung hô xong, Long Đồ Đại Học Sĩ Đoàn Hoài Nam liền bước ra quỳ tâu:

- Tâu bệ hạ! Thần xưa nay rất ghét việc làm mờ ám. Nay nghe biết điều này, nhắm không thể không nói ra. Chỉ sợ lời của thần sẽ đụng chạm đến các đại thần và phiền lòng bệ hạ.

Từ lâu nhà Vua rất quí trọng Trường Giang, nên khi nghe chàng nói mấy lời, ông ta vui vẻ bảo:

- Trẫm miễn lễ cho khanh. Hãy đứng lên đi! Nào, trong triều có việc chi mờ ám, khanh cứ thật tình nói ra. Chớ e ngại!

Các quan nghe nói việc có đụng chạm các đại thần, ai nấy đều hồi hộp chờ nghe. Trường Giang đứng lên tâu:

- Nhân mùa thu năm ngoái thống binh Trương Phụ, nay là Bình Giang Hầu trấn giữ Yên kinh, đi chinh phục xứ An Nam lúc hồi kinh có đem về khoảng 50 thiếu nữ. Nhưng theo giấy tờ báo cáo chỉ có 44 nàng đưa vào cung. Số còn lại đem dâng cho các quan, hay để giữ lại tư gia. Hạ thần thiết nghĩ việc làm này mờ ám, dám qua mặt Hoàng thượng. Tuy đây là việc nhỏ không quan trọng, nhưng với bầy tôi lừa lọc như thế e rằng ngày kia Bình Giang Hầu lợi dụng binh quyền và thực lực nắm giữ phương Bắc, sẽ mưu đồ chống lại triều đình. Cho nên thần thấy cần phải tâu cho bệ hạ rõ để suy gẫm.

Minh Thành Tổ nghe xong nổi giận đùng đùng, thét

lên:

- Hay cho Trương Phụ ! Giỏi cho Trương Phụ dám qua mặt ta! Lâu nay các quan che chỡ vụ mờ ám này để cho tên gian tặc không những chẳng bị trừng trị, còn được tiến chức thăng quan!

Đám quần thần thấy vua nổi trận lôi đình ai nấy cũng run sợ, nhất là các quan có nhận của hối lộ của Trương Phụ, mặt không còn chút huyết sắc.

Dương Sĩ Kỳ kinh hãi hơn ai hết!

Ông nghĩ: «Thằng rể quí của ông có lẽ đã biết con gái ông là giả mạo, là tặng phẩm của Trương Phụ, nên đứng ra tố cáo chăng ?».

Lúc ấy Thành Tổ nhìn đám quan lại trước mắt mình biến sắc run rẩy, thì biết ngay kẻ nào có nhận được của riêngcủa Trương Phụ. Ông tức giận quát hỏi :

- Trong các ngươi, ai nhận được tặng phẩm của Trương Phụ, mau khai báo ta rõ!

Trường Giang nghĩ mình có thù riêng với Trương

Phụ, nhắm để lão hoàng đế trừng trị các quan trong triều chẳng ích lợi gì, mà họ sẽ thù ghét mình, nhất là đám quan võ, lại còn dính líu đến Dương Sĩ Kỳ cùng vụ chàng cưới Thúy Uyên, nên vội vàng nói:

- Tâu bệ hạ! Thần thiết nghĩ vụ này Trương Phụ tự ý làm việc mờ ám, các quan không hay biết trước. Cúi xin bệ dung xá cho mọi người thì thần đây mới khỏi xốn xang. Nếu không thần sẽ bị hiểu lầm, vì không nhận được tặng phẩm của Trương Phụ mới ganh tị nói ra.

Lão Hoàng đế vốn yêu chuộng Trường Giang đến độ mù quáng. Một lời nói của chàng ông ta có thể nổi trận lôi đình, mà một lời nói của chàng cũng làm ông ta dịu ngay cơn thịnh nộ.

Bởi đó mà mấy năm sau này cả triều đình ai cũng ngán sợ chàng, kể cả Dương Sĩ Kỳ. Ngay việc con gái của họ bị giam lỏng và làm việc cực nhọc trong nhà chàng, mà chẳng ai dám hó hé phản đối.

Vả lại vụ này muốn làm lớn chuyện cũng không được, vì chính họ nài nỉ dâng con.

Câu che chỡ của Trường Giang giúp cho mọi người mừng như vừa chết đi được sống lại. Vua Thành Tổ mới đập bàn giận run, bỗng trở lại tươi cười, nhỏ nhẹ nói với Trường Giang :

- Khanh chớ quá lo! Trẫm sẽ không để khanh bị mang tiếng đâu!

Rồi quét mắt một lượt các đại thần đang quỳ trước mặt, ông ta phán rằng:

- Vì trẫm không muốn Đoàn Đại Học Sĩ bị mang tiếng, nên không xét tội các ngươi. Từ rày về sau nếu ai hay biết có kẻ làm việc mờ ám mà không tâu trình lên trẫm, sẽ bị nghiêm trị.

Mọi người mừng rỡ lạy tạ Vua và đưa mắt nhìn Trường Giang như nói lời cảm ơn. Thành Tổ liền bảo Trường Giang:

- Khanh thảo ngay một chiếu chỉ, rồi giao cho Hình bộ thượng thư đích thân ra Bắc triệu Trương Phụ về đây trị tội.

Dương sĩ Kỳ vốn là bậc trung thần, thấy Trương Phụ có công đánh An Nam 2 lượt chiến thắng vẻ vang, và là một tướng tài có thể ngăn chặn được sự tấn công của quân Mông Cổ ở Mạc Bắc, nên quỳ xuống can gián vua:

- Tâu bệ hạ! Hạ thần trộm nghĩ, Trương phụ tuy mang trọng tội, dám lấy chiến lợi phẩm xài riêng, nhưng ông ta cũng có công khuyển mã, hai lần đem chiến thắng vẻ vang thần phục xứ An Nam. Y lại là vị tướng tài có thể giữ ban ninh ở phương Bắc. Xin Bệ hạ nghĩ đến công kia mà tha tội cho y.

Trường Giang không ngờ Dương Sĩ Kỳ nhảy ra can thiệp, sợ mối thù của mình không trả được. Biết rằng nếu chàng chống lại sẽ mích lòng ông già vợ, nhưng ông có cái lý và lòng yêu nước của ông. Còn chàng có cái lý của chàng. Việc lấy đầu Trương Phụ cũng là việc đại sự của dân tộc An Nam, nên không chần chờ, chàng quỳ xuống tâu thêm:

- Mong Bệ hạ suy gẫm lại xem. Việc lấy chiến lợi phẩm xài có đáng để Bệ hạ lưu tâm, hay là mầm mống phản trắc trong tương lai? Hạ thần đồng ý với Dương đại quan, lấy công của Trương Phụ để tha tội cho y. Song thần e rằng với binh quyền và thực lực ở miền Bắc hiện nay nếu Trương Phụ muốn làm phản không khó.

Thành Tổ vốn là ông vua đa nghi, hay sợ người giựt ngôi báu của mình. Ngay như Huệ Đế biệt vô âm tích nhiều năm, ai cũng cho là đã chết, vậy mà ông ta vẫn e ngại Huệ Đế còn sống, nên mấy năm cho Trịnh Hòa đi sứ nước ngoài là cũng cố ý tìm Hụê Đế để diệt trừ hậu hoạn.

Vụ này không cần Trường Giang nói, kẻ nào khác nói mà khích động đến ngai vàng của ông, ông cũng không để yên. Tuy nhiên Dương Sĩ Kỳ là bậc trung thần, tuy nói lời trái ý mà ông ta không giận, chỉ hỏi:

- Khanh có nhận được của hối lộ của y không, mà muốn trẫm tha tội cho y?

Nghe câu hỏi đó, Dương Sĩ Kỳ hoảng kinh, dập đầu lạy lia lịa. Thành Tổ nghiêm giọng phán:

- Không ai được tâu rỗi điều chi nữa! Nếu không trẫm sẽ trừng trị về tội đồng lỏa với tên phản tặc Trương Phụ.

Triều thần đâu còn ai dám hó hé gì nữa? Như Dương Sĩ Kỳ đứng đầu bá quan, vừa can gián vài lời đã bị Vua trám miệng ngay. Hơn nữa ai cũng biết bất cứ việc gì Đoàn Đại học Sĩ nói ra nhà Vua đều nghe. Ngay đến việc dời đô ra Bắc, các quan đều chống đối, thế mà vẫn thất bại vì ý kiến của Đoàn Đại Học Sĩ đưa ra !

Cho đến giờ bãi triều các quan lặng lẽ rút lui, không ai dám bàn luận gì thêm về việc Trương Phụ.

Chiều đó Trường Giang trở về nhà với lòng phấn khởi, vì biết việc trả thù Trương Phụ sẽ thành. Hắn là tay giỏi võ, lại rành việc binh cơ. Một khi hắn bị tước quyền hoặc chết đi, lão hoàng đế sẽ mất một tướng tài, có lợi cho việc phục quốc của chàng. Hơn nữa, nếu hắn còn quyền thế ở phương Bắc sẽ bất lợi cho hai nhóm người Mãn và Mông mà chàng đang móc nối.

Xem thế việc diệt trừ Trương Phụ vô cùng quan trọng cho chương trình cứu quốc của chàng, vừa trả được thù riêng, vừa rửa hận cho dân tộc An Nam.

Kẻ thù thứ hai phải diệt trừ là Trần Hiệp. Tuy nhiên, hiện tạị chàng chưa tìm ra yếu điểm của ông ta để có thể ra tay trừ khữ. Nghĩ đến Trần Hiệp chàng không quên người yêu Huỳnh Như.

Gần mười năm xa cách, tình thương nỗi nhớ ấp ủ trong tim, thế mà phút hội ngộ không dám nhìn tận mặt. Nàng ngất xỉu mà chàng giả vờ như người không quen biết. Thật chưa có cuộc tương phùng nào chua xót đớn đau hơn!

Thảm thương cho dung nhan ấy bị sa vào tay giặc, làm sao nàng chịu đựng nổi khi chung sống với kẻ thù?

Càng nghĩ đến nàng, nỗi uất hận trong lòng chàng bừng bừng trào lên… Chàng lại muốn đập phá thét gào cho vơi khổ hận. Song chợt nhớ đến lời đã hứa với Thuý Uyên, nên đè nén cơn uất tức.

Cho đến khuya tâm thần vẫn còn u uất vì mối hận tình khôn giải, chàng thẫn thờ bước sân thượng ngắm nhìn trời đêm.

Chàng đứng tì tay nơi thành lan can, phóng tầm mắt nhìn phương trời xa, lòng ngậm ngùi nhớ nhà nhớ nước!

Mười mấy năm bôn ba trên đất khách, đại sự chưa thành, thời thế chưa thuận, ngày trở về quê hương thăm thẳm mịt mờ… Để rồi từng đêm từng đêm buồn bơ vơ trên lầu các, nhìn trăng khuya mà lệ đổ hai hàng.

Mẹ cha anh em mỗi người mỗi ngả, muôn trùng xa cách ! Não lòng này tự hỏi do đâu?

Bỗng dưng chàng nhớ đến mấy câu thơ của Bạch cư dị, nhà thơ nổi tiếng đời Đường.

Thời nạn niên hoang thế nghiệp không Đệ huynh cơ lữ các Tây Đông Điền viên lưu lạc can qua hậu Cốt nhục lưu ly đạo lộ trung Đố ảnh phân phi thiên lý nhạn Từ căn tan tác cửu thu hồng Cọng khan minh nguyệt ưng thùy lệ Nhất dạ hương tâm ngũ xứ đồng. [1]

Trong lúc này bài thơ kia vô cùng thấm thía, không khác gì tiếng lòng chàng thổn thức với trăng khuya.

--------------------------------

1. Bạch Cư Dị sống vào thời trung Đường 766-835. Bài thơ trên tựa đề là « Loạn trung ức chi huynh đệ » Tạm dịch xuôi : «Thời loạn nhớ anh em»: Thời loạn cơ nghiệp mật hết.Anh em phiêu bạc kẻ bên Đông, người bên Tây. Ruộng vườn hoang phế bởi chiến tranh. Ruột thịt lưu lạc khắp phương trời. Thương bóng chim nhạn chia tay nghìn dậm. Cỏ bồng tháng chín tan tác bay bay. Cùng trông trăng sáng cùng rơi nước mắt. Dù ở năm chỗ khác nhau mà lòng hoài nhớ cố hương như nhau.

 Chương 17: Hồi hương phục quốc

Trường dạy võ nghệ to lớn và nổi tiếng cách thành phố Vạn Tượng 500 dậm về phía Tây, nằm bên cạnh Cửu Long giang, thuộc làng Buồng Nông Keo (B. Nong Keun).

Trường có khoảng 300 học trò, phần đông là dân tị nạn An Nam đủ hạng tuổi. Ngoài ra còn có khoảng 30 gia nhân người địa phương, trông coi cả một chu vi rộng 1ớn 50 dậm.

Chủ nhân ngôi trường tức ông thầy dạy võ, mà dân chúng quanh vùng ít ai biết mặt. Nghe lời đồn đãi thì vị "sư phụ" ấy chỉ là một người còn trẻ, tuổi khoảng 30.

Không ai biết trường xây cất vào lúc nào? Chỉ biết rằng từ ngày thu nhận học trò tính đến nay đã được 8 năm. Có tất cả 4 dãy nhà. Hai dãy đâu mặt với nhau cách một sân cỏ rộng lớn, làm thành một "tứ hợp viện" hai tầng.

Mỗi toà nhà có rất nhiều phòng làm nơi ăn chốn ở cho học trò. Chính giữa tầng dưới của mỗi tòa nhà là giảng võ đường to rộng mênh mông.

Hôm ấy một buổi sáng đẹp trời, 300 "đệ tử" ngồi tề tựu dưới sân cỏ chờ nghe tuyên ngôn của "sư phự". Có thể nói đó là một buổi họp trọng đại đầu tiên qui tụ tất cả học viên cùng một lúc.

Mọi gương mặt đều khích động, bởi ai ai cũng đoán được mục đích của buổi họp này là "bãi khóa" và trường sẽ đóng cửa vĩnh viễn, vì...

Một người hình hài cao đẹp từ giảng võ đường phía Đông tất tả đi ra. Người ấy chính là thầy dạy võ, là sư phụ của 300 đệ tử. Chỉ có điều thầy dạy còn quá trẻ và người học nơi đây không xưng gọi "sư phụ, đệ tử" như thói thường.

Người ấy đứng trước mặt mọi người nghiêng mình chào một cách kính cẩn và dõng dạc nói:

- Thưa quý anh em…

"Buổi họp hôm nay là buổi họp lần chót giữa chúng ta. Trong các anh em có người đã tới đây nhiều năm và có người mới đến một hai năm. Dù sự quen biết lâu dài hay ngắn ngủi, tình chúng ta vẫn là tình đồng bào ruột thịt. Chúng ta đồng một hoàn cảnh bỏ xứ ra đi vì giặc, đồng một tâm trạng khổ đau sống những ngày lang thang trên đất khách và đồng một lý tưởng vọng về cố quốc nuôi chí phục thù.

"Mười năm qua quân cướp nước cai trị hà khắc trên quê hương, dân ta khổ nhục trăm chiều, tiếng oan kêu thấu lòng Trời. Nay đã có một vị anh hùng áo vải đất Lam Sơn họ Lê tên Lợi, dựng cờ khởi nghĩa. Tuy thế lực còn yếu, tài chánh không đủ nuôi quân, bao phen chống với địch chưa có thắng lợi đáng kể. Nhưng với con người chí lớn, khi làm một việc thuận lòng trời hạp ý dân thì việc khôi phục giang sơn chắc chắn có ngày thành đạt.

"Riêng tôi, từ khi lập ngôi trường này chỉ có mục đích duy nhất là qui tụ một số anh em đồng bào cùng chí hướng thao luyện võ nghệ, chờ ngày hồi quốc đánh đuổi kẻ hung bạo.

"Nay tình thế thuận tiện, tôi quyết định giải tán "Học viện" trở về nước nương theo bóng cờ của vị anh hùng ấy, góp phần giải phóng dân tộc khỏi ách nô lệ đọa đày…

"Vậy trong anh em, những ai muốn ở lại xứ người thì trở về sum hợp với gia đình. Còn ai muốn cùng tôi đáo hồi cố quốc, xin hẹn ba hôm nữa trên ngọn đồi phía Tây, cách đây 20 dậm. Nơi đó tôi sẽ gặp anh em để lập thành một đoàn quân hùng hậu tiến về Chí Linh, là nơi Bình Đinh Vương Lê Lợi đóng quân.

Người ấy vừa dứt lời, 300 học trò vùng đứng dậy dơ tay lên hô to: "Hoan nghênh anh lãnh tụ".

Trong đám có một người tiếng nói như sấm, chạy ra khỏi đồng bạn, cao giọng nói:

- Anh em chúng tôi cùng theo anh lãnh tụ "Hồi hương phục quốc".

Tiếng hoan hô lại vang dội.

Ông thầy dạy võ, tức người được gọi anh lãnh tụ, thấy anh em đồng lòng nhất trí về nước đuổi giặc, cảm động lắm, nói:

- Còn nỗi vui mừng nào cho tôi hơn là được cùng anh em sát cánh diệt thù trong những ngày sắp tới! Như vậy buổi nay không có cái sầu ly biệt, mà chúng ta chỉ tạm biệt ít hôm để các anh em trở về giã từ thân quyến. Học viện này hai ngày nữa cũng sẽ được giao cho chủ mới. Số tiền bán nhà và đất tôi sẽ đem về dâng cho Bình Định Vương.

Lại có tiếng hoan hô ầm ỷ.

Lúc ấy bọn gia nhân khệ nệ khiêng ra sân những tấm ván to và chân bàn để làm những cái bàn ăn ngoài trời. Chủ nhân dõng dạc nói:

- Chúng ta còn buổi tiệc chung lần chót nơi đây bữa nay, vừa cũng để ăn mừng ngày hồi quốc. Xin anh em hãy cùng tôi phụ giúp bọn gia nhân bày bàn tiệc. Sau giờ ăn mọi người tự động giải tán và hẹn gặp lại ba hôm sau nơi ngọn đồi phía Tây.

Mọi người xúm nhau lo công việc, kẻ bày bàn, kẻ dọn thức ăn, kẻ lo rượu ... Tiếng cười nói thật ồn ào vui vẻ.

Lúc bấy giờ phía sau dãy nhà bỗng thấy từng cụm khói bay lên mang theo mùi bò thui heo quay thơm phức, khiến ai ai cũng đói bụng.

Một tên gia nhân từ ngoài ngõ chạy vào tìm chủ nhân thưa:

- Bẩm gia chủ, có hai người hỏi mua nhà bữa trước tới để trả tiền nhà.

- Được! ngươi đưa họ vào sảnh đường phía Đông, ta sẽ vào đó ngay.

Phút chốc thủ tục giấy tờ mua bán hoàn tất. Người mua là ông địa chủ giàu có người Lão Qua, sai hai tên hầu khiêng vào nhà giao cho chủ nhân rương tiền vàng và hẹn hai hôm sau đến nhận nhà.

Nhìn số tiền đầy ấp trong rương, chủ nhân bỗng rưng rưng nước mắt, nói thầm:

« -Tài sản này là của nghĩa đệ Cữu Vân. Ta nhờ nó mà có phương tiện thành lập võ đường, đào luyện cho mấy trăm anh em thông thạo võ nghệ kiếm cung, để mai ngày trở vềquê hương giải phóng đất nước. n tình của Cữu hiền đệ kiếp này ta không thể nào trả được! »

Chủ nhân ngôi trường không ai khác hơn là Trường Sơn.

Mười năm về trước vì không chịu cưới công chúa Chiêm Thành nên bị vua Chiêm giam vào ngục thất. May nhờ Cữu Vân, thái tử Chiêm, vốn là anh em kết nghĩa với chàng giải thoát khỏi ngục tù và cũng nhờ bà hoàng hậu Nhữ Lan tặng cho nhiều vàng bạc giúp chàng trốn sang Chân Lạp sinh kế.

Cữu Vân cùng theo đưa Trường Sơn đến Nam Vang và viếng thành An Dương (Angkor). Lúc đầu Trường Sơn định lưu lại đó. Đến chừng đi tới đâu chàng cũng thấy đồng bào mình vui chơi hoan lạc, không nghĩ gì đến quê hương đau khổ, lại thấy quân bán nước ngày xưa làm giàu trên xứ người bởi đồng tiền bóc lột tham nhũng của dân. Chàng chán nản không muốn sống chung đụng với họ, nên rời Chân Lạp sang Vạn Tượng lập nghiệp.

Trên đường đến Vạn Tượng chàng và Cữu Vân bị cướp. Cũng vì bọn cướp biết Cữu Vân là thái tử Chiêm, định bụng bắt chàng để buộc Vua trả tiền chuộc. Nào ngờ anh em Trường Sơn Cữu Vân võ nghệ cao cường, bọn cướp đã không làm gì được mà còn bị giải về sào huyệt.

Nơi đây Trường Sơn với Cữu Vân lại biểu diễn tài võ nghệ khiến đám lâu la hết sức khâm phục và tôn Trường Sơn làm chúa tể của chúng.

Trường Sơn thu phực đám lâu la, giải tán đảng cướp, thiêu hủy sào huyệt. Cữu Vân chia tay người anh kết nghĩa trở về Đồ Bàn. Còn Trường Sơn đi đến Vạn Tượng định lập nghiệp lâu dài tại đó.

Sau khi lưu lại Vạn Tượng một thời gian chàng thấy đồng bào tị nạn An Nam không bao nhiêu mà sống rất chia rẽ. Nơi đây không có những tên bán nước, nhưng lại có một số người rời xứ đã lâu năm. Họ là thành phần giàu có, hoặc quyền thế thời Trần, sợ chiến tranh rời quê nhà đã lâu. Có người quên cả tiếng mẹ, hoặc giả không muốn nghĩ tới quê hương lầm than bởi giặc. Họ sống ích kỷ trong tư tưởng giai cấp "người cũ người mới" và kỳ thị đồng bào tị nạn mới tới.

Niềm ao ước của họ không phải về quê hương đuổi giặc, cũng không phải tạo dựng một nước An Nam an lành và thịnh vượng. Mơ ước của họ là trở thành dân nước Lan Chang (Lão Qua) chính cống!

Trong khi đó thành phần mới tới đủ hạng tạp nhạp. Người tốt có lòng nghĩ đến quê hương dân tộc thì ít, kẻ xấu sống ích kỷ thì nhiều. Những vụ trộm cắp lừa đảo giữa họ với nhau xảy ra thường xuyên. Nhất là từ khi sống ở xứ người vấn đề sinh kế dễ dàng hơn, họ lại được huyện làng địa phương giúp đỡ đời sống sung túc, nên mặc tình ăn chơi cờ bạc thỏa thích.

Trước tình thế ấy Trường Sơn không muốn ở lại Vạn Tượng. Chàng tìm đến làng hẻo lánh Buồng Nông Keo thành lập « viện võ đường ».

Mới đầu chàng thu nhận cả học trò người địa phương. Dần dần chàng chú tâm việc huấn luyện võ nghệ cho đồng bào An Nam. Chàng kết hợp những người đồng tâm đồng chí, chia nhau đi các nước có dân tị nạn An Nam tìm người có nhiệt tâm với công cuộc cứu quốc tựu tập về đó thao dợt binh bị, chờ thời cơ trở về nước.

Mấy năm theo dõi tình hình quê nhà, chàng nghe biết có vị anh hùng áo vải đất Lam Sơn dấy binh khởi nghĩa, xưng là

Bình Định Vương. Chàng liền tuyển chọn thêm anh em (học trò) để khả dĩ có được một số quân tinh nhuệ về giúp Lê Lợi.

Nay mọi việc tốt đẹp, 300 chiến sĩ đồng tâm hồi quốc. Ngôi trường bán với giá khá cao, số vàng thu được chàng đem về cung ứng cho việc cứu quốc.

Ít hôm nữa thôi, chân chàng sẽ đặt lên mãnh đất quê hương, mắt chàng sẽ nhìn thấy lại xóm làng thân yêu, tai chàng sẽ nghe được tiếng mẹ ru con à ơi trên khắp nẻo đường sông núi ...

Trời Nam cõi đó đang chờ đợi những người trai hùng trở về giải phóng dân tộc khỏi xiềng xích kẻ hung tàn.

Trường Sơn bỗng nghe bên tai vang dội khúc quân hành.

Chàng bước trở ra sân, bất chợt nghe thấy mọi người đang ca hát vang lừng khúc nhạc "Chiêu binh Phục Quốc".

° ° °

Thúy Uyên ôm Huỳnh Như khóc thật thảm thiết.

Từ nhiều năm nay mỗi lần gặp nhau cả hai đều ôm nhau khóc, kể lể tâm tình, nhắc nhớ quê hương ... Nhưng lần này hoàn toàn chỉ vì cuộc chia ly sắp tới. Thúy Uyên nức nở nói:

- Chị trở về quê hương bỏ em ở lại xứ này, lúc buồn khổ không còn ai để tâm sự! Chị ơi, sao chị nỡ bỏ em đi như vậy?

Huỳnh Như đôi mắt đỏ hoe, nghẹn ngào đáp:

- Chị biết không ! Nhiều năm rồi em làm áp lực với lão Trần Hiệp, bảo lão xin Minh đế sang An Nam phục vụ, nhưng Minh đế chưa chuẩn y. Nay nhờ Công Bộ Thượng thư Hoàng Phúc từ An Nam trở về, Minh đế mới chịu cho lão sang thay. Mấy năm làm vợ kẻ thù, xác thân đau đớn tủi nhục, nhưng em cố chịu đựng chỉ vì muốn lợi dụng lão cho cuộc cứu quốc. Nên chuyến hồi quốc này vô cùng trọng đại, không phải cho cá nhân em, mà cho đại cuộc. Biết rằng con người ai cũng nắm nuối nơi chôn nhau cắt rún của mình. Nhưng đời em không con mục đích để sống, nên dù phương trời này hay quê hương em cũng không sống cho em.

Ngày nào rửa được quốc thù, em sẽ hủy diệt thân xác, để không phải nhớ khoảng đời nhục nhã này nữa ...

Ngừng một lúc để qua cơn uất nghẹn, Huỳnh Như nói tiếp:

- Em rất tiếc không có chị cùng hồi hương để đôi ta sát cánh diệt thù.

Thúy Uyên tức tửi:

- Chị nắm đầu được lão Trần Hiệp nên nói gì lão cũng nghe. Còn em, tuy hắn quý trọng em, nhưng mười năm qua em với hắn đâu phải là chồng vợ thực thụ? Cuộc hôn nhân của em với hắn chỉ là hình thức. Em chưa phải là vợ hắn, em không thể nắm được hắn, em không có quyền gì với hắn! Em và hắn tuy sống chung một nhà, mà không khác gì hai kẻ ở hai hành tinh khác nhau! Nhất là từ khi triều đình dời về Bắc Kinh này, hắn làm việc ngày đêm và vắng nhà luôn …

Nhìn vẻ mặt đầy bí ẩn của hắn, em không thể hiểu nổi hắn nghĩ gì và hắn muốn làm gì? Với con người như thế làm sao em có thể dùng lợi thế người vợ buộc chồng làm theo ý mình? Vả chăng, hắn là quan văn, lấy cớ gì để xin lão hoàng đế sang An Nam?

Nói đến đấy nàng vụt khóc ré lên:

- Chắc là em phải bỏ xác nơi đây, không mong gì thấy lại quê hương! Mẫu thân em, gia huynh em, ngày nay không biết còn sống hay đã chết? Mười năm rồi sống lạc loài khốn khổ nơi đây, nhờ tới lui với chị mà nguôi ngoai nỗi sầu cố quốc. Giờ chị ra đi chắc em chết mất! Chỉ ân hận với sức yếu tài hèn em chưa trả được thù nhà, cũng chưa làm được điều gì cho đất nước. Ngày nào chết đi linh hồn chắc mãi uất hận không tan!

Huỳnh Như thấy bạn quá thảm thiết, nên an ủi:

- Xin chị chớ quá tuyệt vọng! Nếu chị muốn hồi hương thì về nhà cố tranh đấu với hắn, đòi hắn xin lão hoàng đế qua An Nam công cán. Khi ấy chúng ta hợp tác diệt hai tên đầu xỏ này, mở cửa thành đón binh phục quốc vào…

Thúy Uyên nước mắt lả tả:

- Cái khổ là em phải lấy cớ gì nói với hắn đòi qua An Nam? Vì chắc chị cũng biết, tới bây giờ hắn cũng tưởng em là con gái của Dương Sĩ Kỳ thật. Hắn không thắc mắc gì về em! Ngay đến việc tại sao em quen biết chị, hắn cũng không hỏi.

Huỳnh Như ngẫm nghĩ một lúc, rồi bảo:

- Chị thử nói với hắn như vầy: "Người nào đi ngoại quốc trở về quê đều giàu có. Xứ An Nam hiện là thuộc địa của mình, nên qua đó hốt của vài năm".

Thúy Uyên lắc đầu:

- Thằng cha này dường như không thích của cải và gái đẹp. Chẳng biết em phải dụ dỗ hắn thứ gì?

Bỗng nàng ôm đầu kêu lên:

- Trời ơi, hắn là một tên đàn ông lạ lùng quái gở nhất thế gian! Không màng công danh, không ham của quí, không thích gái đẹp ...! Trên đời này em không biết hắn thích thứ gì? Em không thể hiểu được hắn! Đôi khi em bắt gặp hắn nhìn em với ánh mắt lạ lùng, không phải của tình yêu, mà cũng không phải của hận thù. Em có cảm tưởng ánh mắt ấy vừa thân thiết gần gủi, vừa lạnh lùng xa cách.

Huỳnh Như nghe nhắc đến ánh mắt người ấy thì bỗng nhớ đến hai lần nàng bắt gặp hắn nhìn nàng …

Lần thứ nhất cách đây khá lâu. Ngày ấy Trần Hiệp đi vắng, nàng thẫn thờ trước sân miên man nghĩ tới người yêu đã chết, hai hàng nước mắt tuôn rơi …

Nàng đứng bên cạnh giàn rào trước sân nhà, sụt sùi khóc một mình. Thình lình nghe tiếng ngựa hí bên tai, nàng giật mình ngẩng mặt trông lên, thấy hắn ngồi sừng sựng trên yên con bạch mã bên ngoài rào nhà nàng, châm châm nhìn vào…

Hình như hắn đến đó lâu lắm rồi? Vì nàng không nghe tiếng vó ngựa đi tới từ bao giờ? Có lẽ hắn theo dõi mọi cử động của nàng từ lúc đầu, chừng bị nàng bắt gặp, hắn sợ hãi phóng ngựa đi tuốt. Nàng còn nhớ rõ ánh mắt hắn buổi ấy chứa chất cả một trời đau thương.

Hôm ấy nàng vô cùng thắc mắc: «Không hiểu cớ gì hắn tới rình nhà nàng?». Trần Hiệp có việc quan đi công cán xa, ở triều đình chắc ai cũng biết. Còn như hắn không biết mà tới tìm Trần Hiệp, cớ sao bỏ đi?

Cái nhìn của hắn làm nàng chấn động tâm can và có cảm tưởng như người xưa hiện về. Nàng sống những ngày tâm tư giao động bất an lâu lắm mới phôi pha.

Lần thứ hai vào một đêm trăng sáng tỏ, hôm ấy Trần Hiệp cũng vắng nhà, nàng đứng trên vọng nguyệt lầu ngắm trăng khuya, bất chợt trông thấy một kỵ mã dừng chân bên đường ngẩng mặt trông lên lầu vọng nguyệt.

Nàng lấy làm thắc mắc không hiểu người ấy muốn gì, nên giả vờ như không lưu ý đến người ấy, thản nhiên nhìn trời đêm, song đôi mắt vẫn không bỏ sót mỗi cử động của kẻ lạ.

Người ấy ngồi bất động trên yên ngựa, ngẩng mặt trông lên vọng nguyệt lầu nhà nàng không biết bao lâu? Chừng như nàng còn đứng đó, người ấy còn đó!

Huỳnh Như khó chịu, định chạy xuống sân nhà xem cho rõ mặt kẻ xâm xoi nhà nàng là ai? Nào dè nàng vừa bước đi, người ấy phóng ngựa chạy tuốt. Lúc ấy Huỳnh Như mới biết là hắn ! Vì đuôi con bạch mã dài tha thướt ấy ở Bắc Kinh chỉ hắn có.

Nghe Trần Hiệp kể lại, con Bạch mã ấy là do vua nước Ba Tư tặng cho Minh Đế. Nhà Vua biết hắn thích cỡi ngựa nên ban cho hắn ngựa quí.

Hai lần nàng bắt gặp hắn nhìn nàng lén lút, kỳ dư mỗi lần tới lui nhà nàng bàn bạc quân sự với Trần Hiệp, đôi khi hắn chạm mặt nàng, nhưng hắn không nhìn, hoặc giả cái nhìn hời hợt giữa khách với chủ. Vẻ mặt hắn lúc nào cũng nghiêm chỉnh đến độ khắc khổ và in hình như chưa bao giờ nàng thấy hắn cười.

Trần Hiệp thấy hắn tới lui thường xuyên trong bụng vừa mừng vừa ngán. Mừng vì được làm thân với cấp trên, lại là người hoàng đế yêu quí, thế lực nhất triều đình. Ngán vì không hiểu vì sao mình được lưu ý đặc biệt như vậy?

Một hôm Trần Hiệp tâm tình với nàng:

- Ái nương! Nàng có bao giờ để ý Long Đồ Đại Học Sĩ Đoàn Hoài Nam không? Tôi thấy người ấy lúc nào cũng mắt sầu mày nhíu, mà không hiểu bởi đâu? Tuổi trẻ, quyền cao, chức trọng, vua trọng vọng, quan lại kính nể, vợ đẹp, thê thiếp đầy nhà ... Thiết tưởng một người được hưởng thụ như thế phải là kẻ sung sướng hạnh phúc nhất đời. Đầu này, nhìn người ấy không ai cho là kẻ có nhiều diễm phúc hết! Nghiêm chỉnh đến độ không biết cười, giữ gìn ý tứ từng lời nói, từng cử chỉ … Thật tình giao thiệp với người ấy, tôi sợ nhiều hơn

ham thích!

Huỳnh Như nghe Trần Hiệp nói chỉ cười nhẹ, không nói tiếng nào. Thường thường có khi nào nàng chịu tâm tình với

lão?

Ban ngày nàng cố ý bận bịu điều kia việc nọ để không phải chạm mặt lão. Nhưng đêm đêm phải chịu cảnh chung chăn gối với lão, nàng ghê sợ và kinh tởm vô cùng. Cứ mỗi buổi chiều màn đêm vừa rủ xuống, Huỳnh Như có cảm tưởng như sắp sữa bước vào cửa địa ngục ...

Tưởng tượng một lúc nữa đây thân thể lão cựa quậy trên thân xác nàng, từng giọt máu trong tim nàng rỉ ra, từng thớthịt trong người nàng nhức nhối ... Ôi kinh tởm khôn cùng làm vợ một kẻ không yêu! Giây phút ái ân đớn đau tưởng như bị ma vương quỉ quái chốn âm ty hành hạ.

Nhớ đến cảnh tượng đó xảy ra hằng đêm, Huỳnh Như khốn khổ ôm mặt khóc vùi. Nàng kêu thầm:

« -Tại sao ta phải sống khổ như thế này? Tại sao ta không giết quách lão cho rồi? ».

Thế nhưng mỗi lần nàng muốn giết lão, lại nhớ đến lời giao huấn của cha … Nàng nghe như tiếng cha thì thầm bên

tai:

«-Không! Con chưa thể giết lão! Con cần lão đưa con về nước, con cần mượn tay lão giết bọn côn đồ trong xứ.»

Không nghe Huỳnh Như nói gì, Thúy Uyên ngước mắt lệ hỏi:

- Em phải làm sao bây giờ hỡ chị?

Huỳnh Như lặng thinh một lúc như tìm ra được một kế, hớn hở nói:

- Để khi về đến An Nam em sẽ buộc lão Trần Hiệp làm sớ tâu với Minh Đế xin hắn qua làm quân sư. Em bảo lão, giả vờ khai trong nước có quân Phục quốc nổi dậy [1], cần hắn qua An Nam. Nghe nói từ khi về Bắc Kinh, mọi kế hoạch chống quân Mông Cổ và quân Mãn phá rối biên thùy đều do hắn đưa ra. Lão hoàng đế xem hắn không khác gì Gia Cát Lượng vậy.

Thúy Uyên chợt nói:

- Chỉ sợ hắn là tay mưu trí ! Mình đem hắn về nước mình, không khác gì cõng rắn cắn gà nhà.

Huỳnh Như mím môi:

- Chỉ cần hắn đưa chị về xứ, chừng đó chúng ta liệu bề "hạ thủ".

Nàng nói xong con tim bỗng đau nhói lên. Còn Thúy Uyên cảm tưởng như có luồng khí lạnh chạy từ chân lên đỉnh đầu, toàn thân lạnh ngắt!

Mỗi khi hai nàng nghĩ đến việc "hạ thủ" tên họ Đoàn đều có cảm giác lạ lùng như thế ...

Huỳnh Như và Thúy Uyên đều không hiểu tại sao? Tuy cả hai không nói ra, song thâm tâm họ đều nghĩ : "Hạ con người đó không phải dễ. Không phải là họ không đủ khả năng, mà vì có một ma lực bí ẩn làm họ mềm yếu không thể ra tay !".

Ngồi im một lúc, Thúy Uyên vụt đứng lên nói:

- Thôi để em ra về, chị còn phải sắp xếp hành trang. Vả lại có lẽ họ đang chờ mình bên ngoài.

«Họ» mà Thúy Uyên muốn nói đây tức là Trần Hiệp và ông chồng quái dị của nàng.

Khi Huỳnh Như và Thúy Uyên bước ra khách sảnh, hai người đàn ông đang nói chuyện vội đứng lên. Huỳnh Như chưa kịp có thái độ gì, bỗng có giọng nói đầm ấm phát ra:

- Tôi và phu nhân tôi đến đây để tiễn biệt quan Thượng Thư và phu nhân lên đường. Cầu chúc nhị vị thượng lộ bình an và mong ngày tái ngộ.

Lần đầu tiên hắn nói chuyện với nàng!

Huỳnh Như bấn loạn cúi mặt, không dám nhìn lên, miệng

lí nhí:

- Xin hết lòng cảm tạ.

Trần Hiệp đưa tiễn khách ra tận ngõ. Thúy Uyên leo lên cỗ xe ngựa, còn Trường Giang trên lưng con bạch mã.

Trần Hiệp đứng nhìn theo, buột miệng nói:

- Tôi chưa từng thấy một đấng lang quân nào kỳ dị như ông Đại Học Sĩ, chẳng bao giờ ngồi chung cỗ xe với vợ!

Không hiểu sao Huỳnh Như bỗng bênh vực cho hắn:

- Người có cái thú cỡi ngựa, đâu ai chịu ngồi tù túng

trong xe?

Trần Hiệp nghe ái thiếp nói chuyện với mình, mừng quýnh, tán một câu:

- Dù tôi là một tay kỵ mã tuyệt luân, mà có người vợ đẹp như ái nương, tôi vẫn thích ngồi tù túng trong cỗ xe hơn là lẻ loi bên ngoài.

Huỳnh Như nguýt lão một cái thật dài và quay lưng đi.

° ° °

Trên đường về Thúy Uyên suy tính mãi không biết dùng lý lẽ gì khuyên tên họ Đoàn qua An Nam?

Lúc bước xuống xe đi vào nhà ngang qua khách sảnh, những bức họa như đập vào mắt nàng, khiến đầu óc nàng lóe lên ý nghĩ:

«Hắn không tham của cải gái đẹp, nhưng lại mê thú cầm kỳ thi họa. Vậy ta nên dụ hắn những thứ này…

Vì nghĩ như thế, nàng đứng khựng lại chờ hắn.

Trường Giang đi lủi thủi phía sau, chợt thấy Thúy Uyên chờ mình, trên môi điểm nhẹ nụ cười, mặc dù đôi mắt còn sưng húp vì khóc nhiều với Huỳnh Như lúc nãy. Chàng cũng mỉm cười với chị dâu, tuy trong lòng đang ủ ê.

Thúy Uyên lên tiếng:

- Đoàn lang! Thiếp có điều ước muốn, không hiểu Đoàn lang có thoả mãn được không?

Trường Giang điềm đạm hỏi:

- Dương tiểu thư ước muốn điều chi?

Ngần ngừ một lúc, Thúy Uyên nhỏ nhẹ nói:

- Thiếp nghe nói ở An Nam có rất nhiều thắng cảnh thiên nhiên đẹp tuyệt vời. Nghĩ rằng chàng thích vẽ, nên đề nghị chàng xin hoàng thượng qua bên ấy một thời gian, cho thiếp được đi theo du lịch, vừa để xem chàng vẽ phong cảnh xứ ấy.

Trường Giang đang rầu rỉ vì người yêu ra đi, nghe Thúy Uyên "dụ" mình qua An Nam để vẽ, trong bụng lấy làm tức cười, mà cũng không khỏi thương hại chị dâu ! Biết rằng nàng muốn theo Huỳnh Như về xứ, nên bày chuyện nói như vậy để chàng đưa đi. Dĩ nhiên vì nàng tưởng chàng là tên quan Tàu thật và cũng không biết hai năm qua chàng vận động xin Minh Thành Tổ sang An Nam mà nhà vua không cho. Lão hoàng đế nói:

«-Khanh là tay lương đống của triều đình, bỏ đi xa sao tiện?

Vì lão quá thương quí chàng, nên không cho chàng đi. Hơn nữa từ một năm nay lão đau yếu luôn, nên muốn chàng kề cận một bên chăm sóc.

Trường Giang nghĩ mãi không biết cách gì rời Bắc Kinh ? Chàng bỏ trốn hay treo ấn từ quan lặn lội về xứ, thì lấy cái thế gì để hoạt động cứu nước ? Còn chàng ở lại với địa vị quan trọng của triều Minh, thì cũng khó thể xa lão hoàng đế !

Trong lòng chàng ngổn ngang trăm mối, đầu óc lúc nào cũng căng thẳng ; vì một mặt làm nội tuyến cho quân Mãn, Mông ; một mặt đưa kế hoạch giúp Thành Tổ chống họ.

Những đòn cân não mượn tay người đánh địch làm cho tâm trí chàng lúc nào cũng căng thẳng, lại thêm khốn khổ vì người yêu trong tay giặc mà không biết cách gì giải thoát được!

Bỡi những lý do đó mà từ khi kinh đô dời về Bắc, chàng làm việc ngày đêm, lúc bỏ nhà lẻn gặp các thủ lãnh Mông Cổ, Mãn Châu, lúc thảo luận khẩn cấp với Minh đế chương trình dẹp loạn v.v... và v.v... Cũng vì như thế mà khi chàng xin qua An Nam để xem xét tình hình bên đó, lão ta cười nói:

- Tài trí như Khanh đâu có đáng lưu tâm xứ mọi rợ đó mà lo làm chi cho mệt ? Để Trẫm cử Trần Hiệp sang cai trị bên An Nam được rồi.

Chàng viện lý do gì xin đi An Nam, Thành Tổ cũng bác bỏ. Chàng bối rối không biết tính sao? Phần cũng e ngại không dám tâu xin hoài, sợ lão ta nghi kỵ nguồn gốc mình.

Ba năm về trước mượn tay Minh Đế lấy đầu Trương Phụ, trả được mối thù cho dân tộc và cho cá nhân mình. Còn Trần Hiệp chàng chưa làm gì được, nên cố bám sát lão để tìm những sơ hỡ lỗi lầm của lão mà trừ diệt lão. Nhưng cho đến nay mục đích vẫn chưa thành !

Chuyến này lão thoát khỏi tay chàng, thong dong sang An Nam, mang người yêu chàng về xứ…

Từ đây nghìn trùng xa cách, không mong gì thấy mặt nàng nữa, lại cũng chẳng biết dịp nào diệt trừ Trần Hiệp. Cho nên lòng chàng khốn khổ ê chề, mà phải giả vờ tới nhà tiễn đưa!

Một điều mà Trường Giang không ngờ là việc Trần Hiệp xin Minh Đế qua An Nam là do áp lực của Huỳnh Như. Từ nhiều năm nay nàng đòi lão phải xin qua An Nam làm việc. Lão tâu xin hoài song Minh đế không cho, bảo rằng:

- Xứ man ri mọi rợ ấy không cần cai trị bởi hai thượng thư.

Cũng vì Hoàng Phúc là thượng thư Công bộ, cai trị An Nam từ khi nhà Hồ bị diệt vong.

Giờ đây Hoàng Phúc hết hạn về nước, Minh đế mới chịu cho Trần Hiệp sang thay. Lão mừng vô ngần, vì thỏa mãn được đòi hỏi của "ái thiếp" lão.

Từ khi biết được mình sắp lìa Bắc Kinh, Huỳnh Như vui mừng nên đối xử với lão tử tế chút ít. Lão hạnh phúc lắm!

Trường Giang nào biết được bí ẩn ấy đâu? Cứ tưởng Trần Hiệp muốn qua An Nam là để thoát khỏi sự kềm chế của chàng, tự tung tự tác. Chớ không dè đầu não của Trần Hiệp là Huỳnh Như, người yêu của chàng!

Không nghe chàng nói gì, Thúy Uyên nghĩ rằng "hắn" không chịu thỏa mãn ước nguyện của mình, nên nét mặt rầu rỉ, đôi mắt rưng rưng Iệ ...

Trường Giang nhìn thấy chị dâu tiều tụy buồn khổ, xót thương lắm, muốn thú thật tất cả để nàng biết chàng là ai, để nàng yên lòng chờ đợi. Nhưng nhớ lại nàng đã thú nhận yêu mình, sợ khi biết mình là em của vị hôn phu, nàng hổ thẹn chết được, nên trong lòng rối bời không biết nói sao?

Đắn đo một lúc, chàng nhỏ nhẹ bảo:

- Dương tiểu thư. Tôi rất thích sang An Nam để viếng phong cảnh. Chắc tiểu thư có nghe nói Vịnh Hạ Long chứ? Tôi nghe thiên hạ đồn rằng xứ mình chưa có thắng cảnh kỳ quan nào đẹp bằng chỗ ấy, nên chắc chắn có ngày tôi sẽ tìm cách qua xứ đó nhìn tận mắt cho thỏa lòng. Bao giờ hoàng thượng cho phép đi, tôi sẽ mời tiểu thư đi theo cho vui.Tôi tin ngày ấy không xa đâu.

Thúy Uyên nghe chàng hứa hẹn mừng lắm, lại nghe nhắc đến Vịnh Hạ Long nơi quê hương, lòng không khỏi xúc động nước mắt đổ dài, mà cái miệng cười thật xinh:

- Thiếp biết chàng sẽ thích vẽ phong cảnh ấy.

Trường Giang gật đầu mỉm cười:

- Dương tiểu thư đoán đúng lắm! Trong đời tôi, môn hội họa tôi si mê lắm.

Chàng đổi giọng dí dỏm cho nàng vui trước khi chia tay về phòng riêng:

- Chiều nay tiểu thư ban cho tôi một tô canh chua nhé?

Chàng nói xong bước đi, không thấy đôi má Thúy Uyên ửng hồng vì thẹn, mà cũng vì nỗi vui mừng hạnh phúc.

--------------------------------

1. Hồi này ở An Nam Bình Định Vương khỡi nghĩa lâu rồi, song quân nhà Minh cai trị bên đó cho là bọn giặc cỏ không đáng tâu về triều, nên triều đình không hay biết. (Huỳnh Như định buộc Trần Hiệp tâu dối, chớ sự thật trong nước đã có quân Phục Quốc).

 Chương 18: Kẻ sĩ diệt thù, Giai nhân trừ giặc, Anh hùng cứu quốc

Huỳnh Như đứng núp sau tấm bình phong nghe cuộc bàn bạc quân sự giữa Trần Hiệp với các tướng lãnh nhà Minh, trong lòng vô cùng khẩn trương.

Như vậy chuyến này họ định đem cả thủy bộ đánh Bình Định Vương. Nàng cần thông báo cho Vương biết để đề

phòng.

Nàng lắng tai nghe những chi tiết quan trọng trong cuộc hành quân sắp tới của hai tướng Trần Trí và Phương Chính [1], liền chạy về tư phòng lấy giấy viết vội bức thư, rồi nhét vào túi áo trong.

Việc quan trọng là làm sao đưa thư này tới tay Bình Định Vương? Làm sao nàng rời nội thành để nhờ người tín cẩn trao thư?

Nàng theo Trần Hiệp về quê hương đã nửa năm và sống trong nội thành Đông Quan (Thăng Long) tức hoàng cung từ đời nhà Lý.

Từ khi về đây nàng bị Trần Hiệp giam lỏng không khác tù nhân. Cũng vì lão sợ nàng bỏ lão trốn đi, nên ra lệnh bọn thủ môn quan tuyệt đối không cho "ái thiếp" lão ra khỏi thành.

Lúc còn ở Nam Kinh hay Bắc Kinh lão để nàng tự do muốn làm gì thì làm, đi đâu thì đi, cho gia nhân nô tỳ theo hầu là đủ. Nhưng từ khi về đến An Nam, lão biết là xứ sở của nàng, nếu buông nàng ra thì không khác gì để chim sổ lồng. Bởi thế dù ngán sợ "ái nương", lão vẫn ra nghiêm lệnh với bọn thủ hạ không cho nàng ra ngoài nửa bước.

Mới đầu Huỳnh Như khóc lóc làm dữ với lão, lão sợ lắm, song trân mình chịu cho nàng hành hạ, chớ quyết không để nàng tự do.

Nay tình thế khẩn trương cho công cuộc phục quốc của Bình Định Vương, nàng phải làm sao rời nội thành để mật báo tin quan trọng ?

Từ khi về xứ nàng biết ngay tin trong nước có vị anh hùng Lê Lợi dấy binh khởi nghĩa đã nhiều năm, nhưng triều đình Bắc Kinh không có báo cáo vụ này, nên Trần Hiệp cũng không hay biết gì.

Khi về đến An Nam, nghe tin Bình Định Vương chiếm được đồn Đa Căng, đánh châu Trà Long, khiến quan Tri Phủ là Cầm Bành phải hàng. Quân Minh thua trận, tướng Trần Trung bị giết, 2000 binh sĩ tử nạn. Bình Định Vương thu được chiến lợi phẩm đáng kể trong trận này [2].

Trần Hiệp vội vàng làm sớ tâu Minh Đế rõ tình hình… Hôm đó Huỳnh Như nghe tin quân mình thắng trận, mừng lắm ! Chuyện có thật như vậy nàng không cần làm áp lực với Trần Hiệp tâu dối về Bắc Kinh có quân Phục Quốc ở An Nam. Chắc lão hoàng đế thấy tình hình khẩn trương sẽ gửi tên họ Đoàn sang để xem xét tình hình… Lúc ấy nàng với Thúy Uyên hạ thủ hắn trước.

Cách đây mấy hôm Trần Hiệp nhận được chiếu chỉ của Minh Đế trách mắng bọn tướng lãnh nặng nề và buộc phải dẹp tan quân Bình Định Vương tức khắc.

Trong chiếu chỉ nhà vua cũng báo tin cho Trần Hiệp biết để sữa soạn đón tiếp Khâm sai của triều đình là Đoàn Đại Học Sĩ sẽ đi kinh lý sang An Nam một thời gian.

Lúc bấy giờ Thành Tổ đã băng hà, nên chiếu chỉ do ấn ký của vua Nhân Tông niên hiệu Hồng Hi.

Trần Hiệp nhận chiếu chỉ liền tức tốc gọi hai tướng lãnh Trần Trí và Phương Chính tới thành Đông Quan để nghe chiếu chỉ của vua và bàn kế hoạch tấn công Bình Định Vương trước khi Khâm sai của triều Đình đến nơi.

Theo chương trình họ bàn bạc khi nãy, chuyến này quân Minh sẽ đem cả thủy và bộ binh dẹp quân khởi nghĩa. Nàng nghe rõ chúng sẽ đi tới đâu và làm gì... nên đã ghi rõ trong thơ viết cho Bình Định Vương.

Việc khẩn yếu là nàng rời nội thành hôm nay, hoặc trễ lắm ngày mai, để kịp thời báo tin ấy.

Huỳnh Như nghĩ : bấy lâu này nàng làm dữ với Trần Hiệp không kết quả, chuyến này phải đổi chiến lược "mỹ nhân kế" !

Nên khi các tướng Minh vừa ra về, Huỳnh Như chạy nhủi vào lòng Trần Hiệp, nũng nịu nói :

- Phu quân tối ngày lo việc giặc giả, bỏ thiếp một mình buồn chết được !

Nàng nói vừa ôm Trần Hiệp khóc thút thít.

Tự nãy giờ bàn bạc quân sự đầu óc căng thẳng, bất ngờ được "ái thê" nhõng nhẽo nũng nịu, lão sướng như điên, bồng nàng thẳng tuốt vào tư phòng đặt nàng lên giường, hổn hển nói :

- Trời ơi, bữa nay "ái nương" yêu tôi được rồi sao ? Trời ơi, tôi là người sung sướng nhất đời ! Mười năm rồi, tôi chỉ ao ước có ngày ái nương nghĩ tình chồng vợ mà ban cho tôi hạnh phúc này. Nay Trời đất đã nhậm lời cầu xin của tôi, khiến ái nương không lạnh lùng hờ hững với tôi nữa. Ái nương ơi ! Nàng đừng sợ buồn ! Tôi hứa không bỏ ái nương cô tịch một mình nữa đâu !

Lão vừa nói vừa mò mẫm cởi xiêm y nàng giữa ban ngày. Huỳnh Như run lên vì uất hận, song cố dằn lòng, nhõng nhẽo nói :

- Phu quân à, mai này là ngày giỗ của thân phụ thiếp, thiếp muốn đi tảo mộ cúng vái linh hồn cha. Phu quân cho thiếp ra ngoài chốc lát nhé ?

Thấy lão ngần ngừ, nàng nhào lên mình lão hôn hít. Tấm thân ngà ngọc với làn da thơm phức trong người nàng tỏa ra khiến lão ngất ngây, toàn thân run rẩy. Lão nói :

- Được được ! Ái nương đi đâu tôi cũng để ái nương đi,miễn ái nương đừng bỏ tôi ! Ái nương yêu tôi hoài nhé ái nương ?

Nghe lão chịu cho mình đi, Huỳnh Như mừng lắm, sợ để hôm sau lão đổi ý, nên bật ngồi dậy, nhăn nhăn mặt nói :

- Phu quân à, thiếp nhớ lộn ngày rồi ! Chính hôm nay mới là ngày cha thiếp lìa đời. Bọn Hồ lấy đầu cha thiếp hôm nay, nên thiếp phải đi viếng mộ cúng vái đúng ngày, kẻo linh hồn cha tủi hờn.

Lão đang say sưa ve vuốt tấm thân ngà ngọc, chợt nàng vùng dậy làm lão cụt hứng, vẻ mặt buồn thiu. Huỳnh Như thấy rõ nỗi thèm khát của lão, nên giả vờ hứa hẹn :

- Đêm nay thiếp đền cho phu quân nhé ? Giờ chàng để cho em đi nhé ?

Lần đầu tiên nàng gọi lão bằng chàng, xưng em. Tiếng em ngọt ngào thân ái khiến lão cảm động lắm, nói :

- Ái nương đi mau mau trở về kẻo lòng tôi lo sợ không yên. Địch đánh phá khắp nơi, nếu như chúng biết ái nương là ái thiếp của tôi, chúng bắt giữ, thì tôi chỉ còn nước chết mà thôi.

Huỳnh Như ve vuốt :

- Chàng cứ để thiếp ra ngoài thành một mình như người An Nam thì địch bắt làm gì ?

Trần Hiệp giẫy nảy lên :

- Không được đâu ! Nàng đi một mình không quân hộ tống, tôi làm sao yên tâm ? Hay để tôi đưa nàng đi ?

Huỳnh Như nghe lão đòi theo, sợ không làm nên chuyện, nên nhỏ nhẹ nói :

- Em đâu muốn làm bận rộn chàng ? Thôi chàng cứ cho ngựa xe và bọn cận vệ đưa em ra ngoài vậy.

Trần Hiệp nghe nàng chịu cho cận vệ đi theo hơi an lòng, song vẫn còn lo lắng :

- Mộ nhạc gia ở đâu ? Có xa lắm không ?

- Ở phía bắc Tây Hồ, cách nội thành chừng vài dậm

thôi.

- Ái nương đi thẳng đến đó rồi về ngay nhé ?

- Vâng, thiếp về ngay đó mà.

Nàng nói giọng hết sức nũng nịu kèm với nụ cười thật đẹp, vừa thay đổi xiêm y. Trần Hiệp sung sướng bước tới nắm tay nàng hôn một cái hôn hết sức âu yếm, rồi chạy ra ngoài thét bọn cận vệ sữa soạn ngựa xe cho ái thiếp lão đi tảo mộ.

Sáu tên binh được lệnh hộ tống Huỳnh Như ra đi. Xe chạy vừa ra khỏi nội thành, Huỳnh Như nghĩ : "phụ thân bị bọn Hồ chém đầu, xác chôn nơi đâu nàng không rõ, nên không thể lạy mộ cha. Nàng trở về Tây Hồ tìm đến nghĩa trang "Mạc Đỉnh" lạy mộ tổ tiên và mẫu thân mà thôi. Có điều tới thẳng nghĩa trang thì làm sao tìm được người trao thư ?

Nàng nghĩ, nàng cần ra phố Thăng Long, nên bảo tên đánh xe đưa nàng ra phố. Bọn cận vệ nghe bảo liền chống đối :

- Đại quan chỉ cho phép đưa Iệnh bà tới thẳng nghĩa trang rồi ra về.

Huỳnh Như mỉm cười, nói giọng thật dịu :

- Khi nãy ta quên báo phu quân ta việc ra phố mua nhang đèn. Không có các thứ ấy cúng vái làm sao được ?

Mấy tên binh nghe nàng nói phải, nên bằng lòng. Vả chăng thấy nụ cười và nghe giọng nói của giai nhân chúng đã xiêu hồn lạc phách rồi, đâu còn hơi sức mở miệng nói lời gì ?

Cỗ xe và đoàn hộ tống nhắm phố Thăng Long tiến tới...

Mười năm rồi mới thấy lại cảnh cũ, nhìn đâu đâu cũng tiêu điều buồn bã, y như linh hồn u uất của người chết vướng vất khắp cùng nội cỏ ngàn cây ...

Phố phường tấp nập ngày xưa… Giờ đây vắng teo thưa thớt ! Thỉnh thoảng có vài người dân qua lại, mà trong đôi mắt họ chứa chất muôn ngàn sầu thảm oán hờn.

Xúc động trước những điêu tàn của quê hương, nước mắt nàng rơi rớt hồi nào không hay ?

Một lúc cỗ xe dừng trước hiệu "tạp hóa", Huỳnh Như thẫn thờ bước xuống xe đôi mắt còn ướt. Nàng vào quán hỏi mua nhang đèn.

Người chủ tiệm thấy nàng ăn mặc sang trọng, lại đi với bọn lính Minh, nên nghĩ rằng nàng là hạng gái rẽ tiền chạy theo giặc, nên cái nhìn của ông ta có vẻ khinh miệt, mặc dù bề ngoài gượng gạo đón tiếp.

Huỳnh Như muốn khơi chuyện với ông ta, nhưng chủ tiệm tỏ thái độ lạnh nhạt, ý chừng mong nàng mua xong đi phứt cho rồi.

Trong khi đó bọn cận vệ của Trần Hiệp lúc nào cũng kè kè một bên Huỳnh Như. Chúng là những tên lính ở An Nam lâu dài, nên nói và hiểu tiếng An Nam khá rành. Huỳnh Như không biết làm sao nói riêng với chủ tiệm mà bọn cận vệ không nghe thấy ?

Nàng bối rối đứng xớ rớ một lúc, bỗng nghĩ ra một kế « giả vờ ngất xỉu ».

Bọn lính Minh thấy nàng ngả, chúng thất kinh, nhưng chẳng tên nào dám chạy tới đỡ. Vì chúng không lạ gì "đại quan" của chúng "ghen số một". Đụng đến người ngọc của ông ta, ông ta biết được bị tội bay đầu chớ chẳng phải chơi.

Cả bọn luýnh quýnh… mà chỉ đứng trân một chỗ nghếch mặt nhìn. Chủ nhà thấy Huỳnh Như bất tỉnh nằm lăn dưới đất, mà bọn kia chẳng tới đỡ lên, thấy cũng thương tâm, bèn gọi vợ và con gái ở nhà trong ra đỡ nàng đứng dậy.

Một tên trong đám cận vệ liền nói :

- Dìu bà chủ tôi ra xe dùm đi.

Hắn nói tiếng An Nam giọng lơ lớ và ngang tàng. Người đàn bà toan làm theo lời hắn, nhưng Huỳnh Như bỗng mở mắt ra nói :

- Tôi khó chịu lắm, chắc bị trúng gió ! Nhờ bà đưa vào nhà trong đánh gió (cạo gió) dùm, tôi không quên ơn bà.

Nàng nói và nhìn người đàn bà với ánh mắt khẩn cầu.

Tên cận vệ nghe nàng đòi vào nhà trong « cạo gió », tuy trong bụng không vừa ý, song không dám cản, cũng không dám bước theo, để mặc cho người đàn bà và cô gái dìu nàng đi.

Vừa qua khỏi vách ngăn, Huỳnh Như vụt đứng thẳng người, nói thật khẽ : -Tôi chỉ giả vờ ngất để được nói chuyện riêng với bà. Người đàn bà không hiểu nàng muốn gì, đưa mắt trân trối

nhìn nàng…

Huỳnh Như nói thêm :

- Tôi là gái An Nam bị bọn kia bắt. Dù sao việc này không quan trọng. Tôi có một khẩn thư gửi Bình Định Vương. Nhờ bà tìm người tín cẩn đưa thư dùm.

Người đàn bà nhìn nàng chăm chăm, nửa tin nửa ngờ.

Huỳnh Như thấy thế nói :

- Bà ơi, nếu bà có lòng nghĩ đến nỗi khổ nhục của dân mình trước bọn giặc tham tàn, thì nên giúp tôi chuyển thơ này đến Bình Định Vương. Tôi không thể nói dài dòng cho bà hiểu. Xin bà hãy tin tôi là gái An Nam, cùng đau lòng trước cảnh nước mất nhà tan, cùng hy vọng có ngày quê hương được giải phóng ...

Nàng nói chưa dứt câu đã nghẹn ngào rơi lệ. Người đàn bà bấy giờ xúc động lắm, nên hỏi nhỏ :

- Cô nương là ai ? Vì sao bị chúng bắt ?

Huỳnh Như không đáp câu hỏi ấy, lấy trong túi áo ra một phong thư dán kín, trao cho người đàn bà và hỏi :

- Bà biết Bình Định Vương là ai chứ ? Bà nhắm có thể đưa thư tới nơi đóng quân của Ngài chứ ?

Người đàn bà gật đầu, nước mắt rơi rơi :

- Sáu bảy năm qua dân gian ai cũng nuôi hy vọng Bình Định Vương đuổi được quân thù, giành lại giang san.

Huỳnh Như nói giọng khẩn trương :

- Bà nên tìm người phi ngựa ngày đêm đến chỗ đóng quân của Bình Định Vương ở Phủ Thiệu Hóa (thuộc Thanh Hóa). Nhớ giấu kín mật thư, đừng để giặc bắt được.

Nàng nói vừa moi trong túi tiền lấy ra một lượng vàng trao cho người đàn bà :

- Còn đây là lộ phí, nhờ bà trả công cho người đưa thư.

Người đàn bà nhét thư vào túi áo, nhưng nén vàng trả lại,

nói :

- Nếu là việc quan trọng, ông nhà tôi sẽ đích thân ra đi. Cô nương hãy cất giữ lại nén vàng này. Chúng tôi tuy hàng dân giả, nhưng cũng có tấc lòng vì nước. Bức thư này nếu có lợi ích cho công cuộc phục quốc, thì chúng tôi có bổn phận giúp cô nương đưa tới tay Bình Định Vương.

Huỳnh Như nghe người đàn bà có tình với quốc dân như vậy, cảm động lắm. Nàng biết người này có ép cũng không chịu lấy vàng, nên đành cất vào túi tiền, rồi hối hả nói :

- Tôi không thể ở trong này lâu, kẻo chúng nó nghi ngờ. Nhờ bà và cô nương giả vờ dìu tôi đi ra xe.

Người đàn bà và cô gái làm theo lời nàng. Bọn lính Minh từ nãy giờ sốt ruột lắm, chạy tới chạy lui. Chừng thấy nàng đi ra leo lên xe, chúng mới thở ra nhẹ nhỏm.

Bấy giờ đoàn người ngựa rời phố Thăng Long, chạy phon phon về hướng Tây Hồ. Một lúc sau xe chạy tới thôn Hương Hoài, nơi mà Huỳnh Như cùng cha sinh sống thuở xưa. Cảnh cũ hiện ra trước mắt… Có điều ngày nay thay đổi khá nhiều, dân trong xóm di tản đi hết, nhà cửa bọn giặc chiếm ở.

Hình ảnh quen thuộc ngày xưa chỉ còn lơ thơ vài bụi tre khóm trúc, làm nàng chua xót nước mắt lại tuôn rơi.

Nhắm vào thôn xóm cũng chẳng còn ai quen biết, nàng bảo tên đánh xe chạy thẳng tới nghĩa trang "Mạc Đỉnh".

Nào dè tới nơi nghĩa trang đâu không thấy, chỉ thấy tường xiêu đá vỡ, bên trong một vùng đất trống trơn !

Té ra bọn giặc ngày nay hung tàn, đào mồ cuốc mả người ta, mộ bia lăng tẩm đều bị san thành bình địa !

Không còn thấy mồ mả tổ tiên và thân mẫu đâu nữa, Huỳnh Như ôm mặt khóc ngất. Nàng không tưởng tượng nổi sự việc xảy ra !

Ngay đến thời kỳ Bắc thuộc thứ I thứ II, thứ III... cai trị bởi nhà Hán, nhà Tấn, nhà Đường v.v... cũng chưa có bọn nào tàn nhẫn vô nhân bằng bọn cướp nước ngày nay ! Giựt nhà cướp của người sống, cho đến chỗ yên giấc ngàn thu của người chết chúng cũng giành lấy, không để yên !

Nàng tự hỏi :

- Phải chăng bọn này không phải giống người ?

Chỉ có ma vương quỷ quái mới không sợ Trời đất thánh thần, mới dám xúc phạm đến chỗ thiêng liêng của con người.

- Quả thật bọn này là loài quỉ quái !

Nàng tức giận thét lên, nỗi câm hờn sôi sục tâm can, lệ không con đổ nữa, nước mắt đã ráo hoảnh.

Trên đường về lòng mênh mang thù hận, nàng lẩm bẩm :

- Dù ta là phận đàn bà cũng quyết rửa cái nhục này cho tổ

tiên.

° ° °

Tòa cung điện nguy nga thuở xưa của vua An Nam xây cất từ đời nhà Lý, nay là chỗ ở của Thượng Thư Binh Bộ Trần Hiệp, quan Tàu cai trị An Nam.

Đại điện nằm chính giữa tầng dưới là một gian phòng rộng lớn, là chỗ khi xưa vua lâm trào, ngày nay Trần Hiệp dùng làm phòng họp cho các quan và tướng lãnh.

Tầng trên tòa cung điện có rất nhiểu phòng, nay được chia làm hai. Phần bên hữu dành cho Trần Hiệp và ái thê của lão. Phần bên tả dành cho quan Khâm sai của triều Minh và vị phu nhân trong thời gian công cán tại An Nam.

Tòa nhà rộng lớn, hai bên đều có lối đi riêng biệt, nên tuy Huỳnh Như và Thúy Uyên sống cận kề vẫn ít khi gặp mặt.

Thúy Uyên theo "Đoàn lang" qua An Nam đã được một tháng rồi. Nàng về đến quê nhà tức tốc đi tìm thân mẫu ở Gia Lâm. Nào dè đến nơi nghe tin thân mẫu vì rầu rỉ con gái bị bắt, chồng bị bắt, con trai biền biệt xứ người, nên đã chết một năm sau ngày nàng ra đi. Bà con trong xóm ngày nay lưu lạc khắp phương trời, không còn mấy ai sinh sống nơi đó nữa. Thúy Uyên khóc mờ cả mắt!

Nàng hỏi thăm bà con xa gần để tìm ngôi mộ thân mẫu, nhưng không ai biết được ở đâu? Vì thời buổi này bọn cướp nước đào mồ cuốc mả, nên mộ bia đều bị san bằng không còn dấu vết.

Nàng hỏi thăm tin tức gia huynh, có người nói còn sống, có kẻ nói đã bị bọn giặc giết rồi, có kẻ bảo hiện nay đang giúp cho Bình Định Vương…

Ngày nào Thúy Uyên cũng lấy xe ra ngoài thành để thăm dò tin tức của anh. Nhưng người đồn vầy… người đồn khác… Có điều, tin gia huynh nàng còn sống được nhiều người nói tới.

Trong khi Huỳnh Như đi đứng khó khăn vì Trần Hiệp giữ khít rim, thì trái lại Thúy Uyên được "hắn" cho đi đứng tự do. Hắn chỉ nói :

- Tiểu thư nên bảo trọng lấy thân ! Mỗi khi đi ra ngoài cứ giả làm người An Nam thì không sợ gì phiền phức khi giao thiệp với họ. Gắng học nói tiếng An Nam chút chút là đi đứng một mình, không cần đem quân gia lính tráng theo hầu làm chi.

Nàng nghe hắn bảo mình giả làm người An Nam thì có hơi tức cười, nhưng cũng thầm phục hắn lưu ý điểm đó để nàng đi đứng dễ dàng.

Nàng thường lấy xe ra ngoài thành một mình, không binh lính hộ tống. Thành ra đồng bào An Nam không ai biết nàng là vợ một tên quân Tàu, nên những lúc ra phố giao thiệp với người đồng hương dễ dàng cởi mở, chớ không gặp cảnh khó chịu như Huỳnh Như.

Thúy Uyên không hiểu tại sao "hắn" chìều chuộng và hiểu ý muốn của nàng từng li từng tí như thế ?

Nàng nhớ hôm ấy lúc còn ở Bắc Kinh, ba tháng sau ngày Thành Tổ băng hà, tân vương lúc ấy là Nhân Tông Hồng Hi có lệ lâm trào rất trễ, nên "hắn" vào triều muộn lắm. Ngày đó hắn vừa ra khỏi nhà một lúc, bỗng phóng ngựa như bay trở về đi thẳng đến tư phòng nàng, nét mặt rạng rỡ mừng vui :

- Dương tiểu thư ! Binh Bộ Trần Hiệp qua đến An Nam có làm sớ tâu tình hình ở An Nam có quân nổi dậy. Quân ta vừa thua trận nặng nề, nên hoàng thượng lấy làm lo lắng. Tôi liền tâu xin Hoàng thượng đi qua bên ấy xem xét tình hình. Vua đã chuẩn y. Chuyến này tôi mời tiểu thư cùng đi theo.

Thúy Uyên nghe tin mừng, chảy nước mắt. Hắn thấy nàng khóc mà không hỏi vì sao, đứng y một chỗ, xem chừng cũng cảm động lắm (?). Một lúc hắn căn dặn nàng:

- Tiểu thư nên gấp sữa soạn hành trang, mình khỡi hành càng sớm càng tốt. Những thứ gì quí giá mà tiểu thư thích mang theo thì cứ lấy theo, kể cả quần áo và tư trang.

Thúy Uyên cảm động lắm, vì không ngờ "hắn" cho nàng theo, lại lo lắng căn dặn đủ điều, y như cho nàng về xứ ở luôn !

Nàng nghĩ, chắc gia đồng Chu Thập và vài ba người trong nhà cũng được đi theo, nên hỏi :

- Chuyến đi này chàng đem theo mấy người ?

Hắn lắc đầu, bảo :

- Đi công cán xa mà cho người nhà theo nhiều sao tiện? Hôm trước vì nghe tiểu thư mơ ước qua nước đó xem thắng cảnh, nên tôi chỉ mời tiểu thư đi thôi. Còn nhà này giao cho Chu Thập trông coi.

Sự thật Trường Giang tính chuyến này về quê hương vĩnh viễn nên đưa chị dâu về. Còn bọn tôi tớ hay đám con quan Tàu đem theo làm gì ?

Chàng đã dự trù trước và viết sẵn một tờ mật thư, như tờ di chúc vậy. Trong thư đó chàng viết : "Nếu vì một lý do gì mà chàng không trở lại Bắc Kinh, tòa nhà và tài sản thuộc quyền sỡ hữu của Chu Thập, với điều kiện những người ở trong nhà nếu muốn sống tại đó, Chu Thập phải bảo bọc.

Đám con gái nếu muốn làm vợ hắn, hắn được trọn quyền,

bao nhiêu tùy thích".

Khi viết câu đó chàng cười một mình. Tự nghĩ : "Bọn con quan Tàu cho làm thê thiếp gia đồng của ta, cho đáng kiếp !

Chàng biết đám con gái sẽ chịu làm vợ hắn, chớ không trở về nhà cha mẹ, vì hắn cũng bãnh trai, lại đang tuổi thanh niên. Bấy lâu bọn con gái thấy chủ nhân chẳng ngó ngàng tới mình đã tuyệt vọng lắm, có cô len lén liếc mắt đưa tình với hắn, nhưng Chu Thập còn ngán chủ, chưa dám rục rịch gì.

Chàng đi khỏi nhà, chắc chắn đám con gái với hắn mặc tình tự tung tự tác.

Dù sao chàng có dặn bà quản gia : « bức thư ấy chỉ được giao cho Chu Thập khi nào không nghe tin chàng nữa. »

Hôm ấy chàng giao thư nói lời giã từ như cái kiểu ra đi không ngày về, cả nhà ai cũng khóc. Lần thứ nhất Thúy Uyên không khóc vì được đi theo !

Mấy ngày sau cùng ở Bắc Kinh, Thúy Uyên nôn nao ăn ngủ không được, mong chờ ngày lên đường.

Hành trang của Trường Giang thì gồm mớ sách quí và những bức họa. Chàng có lấy theo cây đàn quí giá do Minh Thành Tổ tặng. Kỳ dư đồ đạc bỏ lại hết !

Thúy Uyên nghe lời căn dặn của "hắn", nàng đem theo rất nhiều thứ. Ngoài quần áo và tư trang, nàng còn đem theo nhiều thứ mà nàng mua sắm sau này.

Mười năm qua tuy không làm vợ thật sự, nhưng nàng được "hắn" cung cấp tài chánh hàng tháng để tự do mua sắm. Cho nên Thúy Uyên mua rất nhiều món.

Có điều nàng không theo thói thường đàn bà có tiền mua sắm nữ trang. Nàng mua các bức họa cổ của các danh nhân thuở xưa, hoặc những tấm lụa thêu.

Mỗi lần nàng mua tranh đem về nhà hay đem khoe hắn. Hắn thấy nàng mua các thứ ấy rất vui mừng và căn dặn :

- Tôi không có nhiều giờ rãnh để sưu tầm những bức họa quí giá đó. Cho nên lúc nào tiểu thư tìm thấy những tranh có giá trị mà không đủ tiền mua thì cho tôi biết, tôi sẽ đưa thêm tiền, đừng bỏ lỡ cơ hội.

Có thể nói, nàng với hắn rất hạp nhau về thú "cầm kỳ thi họa". Sống chung nhau lâu dài, tuy không ân ái, nhưng cái tình tri kỷ rất tương đắc, bao nhiêu kỷ niệm, bao nhiêu ân tình !

Chưa bao giờ hắn nói một lời khó chịu hay nặng nhẹ với nàng. Đôi khi nàng có cảm tưởng như hắn đối với nàng như ruột thịt, chớ không phải vợ chồng, khiến nàng quên tuốt nàng với hắn không cùng một tổ quốc !

Lạ một điều không bao giờ hắn hỏi, mà hắn đã biết trước ý muốn của nàng.

Ví như hôm vừa về đến quê nhà, Thúy Uyên gặp lại Huỳnh Như, hai chị em ôm nhau khóc mừng. Huỳnh Như kể :

"-Từ khi về đến An Nam, Trần Hiệp giữ nàng khít rim, mỗi lần muốn ra khỏi nhà khó còn hơn đi lên trời. Nàng đi đâu lão cũng cho quân lính theo hộ vệ rần rần, khiến nàng bị đồng bào An Nam e dè khinh khi, không ai muốn nhìn mặt vợ một tên quan Tàu. Thét rồi nàng chán nản, không muốn đi đâu nữa".

Thúy Uyên nghe qua rất lấy làm lo. Sợ "hắn" cũng làm khó dễ nàng như kiểu Trần Hiệp đối với Huỳnh Như. Nào dè vừa về tới quê nhà, sáng hôm sau hắn bảo nàng :

- Tôi biết tiểu thư nóng lòng ra ngoài để ... viếng phong cảnh, nên tôi có ra lệnh cho bọn thủ môn quan để tiểu thư vô ra tự do và có dành sẵn một cỗ xe ngựa cho tiểu thư. Có điều đừng quá tín nhiệm tên đánh xe và mỗi khi đi ra ngoài nhớ làm như người An Nam để không gặp khó khăn khi giao tiếp với họ.

Mấy ngày liên tiếp nàng đi về Gia Lâm tìm dò tin tức thân mẫu và gia huynh. Nàng đi suốt ngày suốt buổi, mà hắn không hề gạn hỏi nàng đi đâu ? Nàng làm gì ?

Thật là lạ lùng ! Một ông chồng không bao giờ thắc mắc về vợ ! Cho đến đổi nàng mừng quýnh khi được rời Bắc Kinh, không có vẻ quyến luyến bịn rịn vợ chồng Dương Sĩ Kỳ. Vậy mà hắn cũng chẳng ngạc nhiên về thái độ của

nàng !

Dĩ nhiên trước khi đi nàng phải cùng với hắn về nhà giã từ vợ chồng Dương Sĩ Kỳ, vì bấy lâu nay nàng vẫn đóng vai trò con ruột của họ. Hôm đó Dương phu nhân quyến luyến ôm nàng khóc, dặn dò rằng :

- Con nhớ cùng phu quân trở về Bắc Kinh, chớ đừng quyến luyến xứ người nghe con.

Vì bà sợ nàng về quê hương rồi ở lại đó, nên mới nói gần xa như vậy. Còn Thúy Uyên đã dự tính : « chuyến trở về này là then chốt, giúp được gì cho công cuộc cứu quốc thì giúp, bằng không được thì hủy mình cho yên, chớ không tính theo hắn trở về Tàu làm gì. Cho nên nghe Dương phu nhân nói nàng ú ớ chưa biết trả lời ra sao ?, thì "hắn" đã đáp thay cho

nàng :

- Xin nhạc mẫu an lòng ! Con sẽ đưa hiền thê con về xứ, chớ lẽ đâu ở luôn xứ người ?

Chàng nói một câu hai nghĩa, cả Dương phu nhân và Thúy Uyên cùng không hiểu. Dương phu nhân đinh ninh chàng là người Tàu chính tông, thì câu nói của chàng có nghĩa là đưa Thúy Uyên trở lại Bắc Kinh.

Về đến An Nam nàng đi liên tu ra ngoài thành, còn hắn dường như cũng đi vắng luôn, có khi đi suốt cả đêm.

Nàng không ở chung phòng với hắn, nhưng từ khi về đây cả hai ở cùng tầng nhà, hai phòng ngủ sát nhau, nên nàng biết đôi khi hắn đi suốt đêm, đến sáng mới lò dò về. Mà mỗi lần ra ngoài thành hắn cải trang và đi ngựa một mình, chớ không cho binh gia lính tráng hộ tống như Trần Hiệp.

Trần Hiệp thấy hắn làm như thế lo lắng lắm, khuyên can hắn, hắn vẫn không nghe ! Có hôm Trần Hiệp phàn nàn với Huỳnh Như như vầy :

« -Xứ này giặc giã đang phá rối, chớ phải như ở Bắc Kinh đâu mà ổng đi đâu cũng cỡi ngựa một mình, không đem theo quân hộ tống ? Ngày nào ổng gặp địch hại thân, mà hại cả luôn tôi ! Vì ông ta có bề gì, hoàng thượng nhất định quở phạt tôi. »

Huỳnh Như nghe biết điều đó lấy làm lo. Nàng nghĩ :

« Hắn cải dạng làm người An Nam ra ngoài dò xét dân tình nước mình, thật nguy hại cho Bình Định Vương. Hắn quả là con người nguy hiểm ! »

Từ lâu rồi nàng vốn biết hắn là người mưu trí, chỉ vì thương Thúy Uyên mà nàng mong hắn qua An Nam để Thúy Uyên được theo về xứ. Chớ thật con người ấy cần phải thủ tiêu cho sớm !

Trong khi Huỳnh Như âu sầu lo lắng vì sợ tên họ Đoàn làm trở ngại cho công cuộc Phục Quốc của Bình Định Vương và nghĩ cách tiêu trừ hắn, thì bỗng thấy Thúy Uyên vô cùng thỏa mãn và cảm kích hắn, vì được hắn cho đi thong dong. Bởi lý do đó Huỳnh Như đâm nghi ngờ bạn, nghĩ rằng :

« -Bạn được hắn đối xử tốt, nên không còn nhớ đến mối cựu thù giữa hai dân tộc. »

Thành ra mấy hôm đầu khi Thúy Uyên mới về nước, hai chi em khắng khít nhau. Nhưng ít hôm sau Huỳnh Như đâm dè dặt với bạn. Kết cuộc rồi cả hai tuy ở chung tòa nhà, mà ít tìm gặp nhau như hồi còn ở Nam Kinh hay Bắc Kinh !

Huỳnh Như vì sự đi đứng khó khăn nên thuê một gia nhân An Nam tín cẩn có thể thay nàng làm việc đại sự. Chính là vợ chủ quán tạp hóa bữa nọ mà nàng nhờ trao mật thư.

Trong trận ấy Bình Định Vương biết rõ đường tiến quân của địch, nên cho quân phục kích ở Bắc ngạn sông Lam Giang, (huyện Lương Sơn tỉnh Nghệ An) bắt được tướng Minh là Chu Kiệt và giết được tướng Hoàng Thành. Trần Trí chạy thoát, trở về trấn giữ thành Nghệ An [3].

Nghe tin Bình Định Vương đại thắng, Huỳnh Như mừng rỡ và tin tưởng vợ chồng chủ quán, nên xin với Trần Hiệp cho mình đổi người bếp nấu ăn.

Nàng thương lượng với vợ chủ quán, có tên là Lâm, vào làm gia nhân cho nàng. Hai vợ chồng người này tuy người bình dân nhưng rất yêu nước. Nghe nàng kể rõ sự tình, người chồng xung phong làm kẻ đưa thư, người vợ làm gia nhân để tiện bề ra vô nội thành đem mật thư ra ngoài. Từ đó Huỳnh Như không thèm đi đâu nữa. Trần Hiệp thấy thế càng yêu chìều nàng hết mực.

Cuộc bàn bạc quân sự giữa Trần Hiệp với các tướng lãnh vẫn xảy ra nơi đại điện. Chỉ có điều từ khi có quan Khâm Sai Đoàn Hoài Nam qua đây các cuộc họp thường xuyên hơn. Các tướng lãnh nhà Minh đóng tại An Nam biết Minh đế gửi quan Khâm sai qua để giám thị họ, nên họ rất kiêng dè.

Tin tức chiến trường được phúc trình báo cáo thật đầy đủ trong các buổi họp và dĩ nhiên Huỳnh Như đều thu lượm tất cả tin tức trong các cuộc mật bàn.

° ° °

Nói về Bình Định Vương thắng được mấy trận liên tiếp nên đầu năm Ất Tí (1425) quyết định đem quân về chiếm thành Nghệ An. Lúc tới làng Đà Lôi, huyện Thổ Dụ (huyện Thanh Chương ngày nay) Ngài cùng ba quân tướng sĩ tạm đóng quân tại đó. Dân chúng già trẻ ra đón mừng và đua nhau đem tặng phẩm vật. Kẻ dâng trâu, người tặng gạo, kẻ dâng rượu thịt v.v...

Bỗng có một thằng bé chạy tới quỳ trước mặt Vương, dâng cho Ngài một bức thư dán kín. Vương thấy lá thư mừng lắm.

Cách đây nửa năm, lúc Vương đóng binh ở đồn Linh Cảm (Hương Sơn), đang cùng tham mưu Nguyễn Trãi và các tướng lãnh bàn bạc, bỗng có một tên binh chạy vào dâng lên một lá thư, nói rằng do một người buôn bán từ Đông Quan đi ngựa đưa đến.

Bình Định Vương mở thư ra xem, thấy không chữ ký, chữ viết nguệch ngoạc ra chìu người viết khẩn trương lắm. Trong thư báo tin cho Vương biết địa điểm của cuộc tiến quân của địch, đường bộ như thế nào… đường thủy như thế nào ...

Vương lấy làm lạ, trao thư cho Nguyễn Trãi và các tướng xem. Mọi người xúm nhau bàn bạc, nửa tin nửa ngờ. Nguyễn Trãi ngẫm nghĩ một lúc nói :

- Nhìn nét chữ người viết thư này chắc chắn là nữ lưu. Có thể là đồng bào ta len lỏi trong hàng nô tỳ của quân nhà Minh thu lượm tin tức này chăng?

Quan Tư Đồ Trần Nguyên Hãn [4] đồng tình:

- Tôi đồng ý với Nguyễn Tham mưu. Người phụ nữ biên thư này chắc là đồng bào ta len lỏi trong hàng gia nhân nô tỳ, nên mới nghe ngóng được cuộc bàn bạc của họ mà thông báo

cho phe ta.

Bình Định Vương nhíu mày nghi ngờ:

- Trẫm chỉ sợ địch giả viết thư này để dẫn dụ quân ta lọt vào ổ phục kích của chúng.

Tướng Nguyễn Trường Sơn lên tiếng:

- Hạ thần nghi ngờ bức thư ấy giả mạo! Có thể sau trận Trà Long địch tổn thất nặng nề, nên chuyến này bày mưu để dẫn dụ binh ta chăng?

Nguyễn Trãi nói:

- Hạ thần không nghi bức thư này giả mạo, vì người viết xúc động nhiều, nét chữ run rẩy nguệch ngoạc. Dù sao ta cũng phải đề phòng mưu kế của địch, một mặt cứ cho quân phục kích các địa điểm tiến quân của địch như trong thư, một mặt cho quân yểm trợ những nơi nhắm địch có thể tấn công.

Các tướng nghe Nguyễn Trãi nói cùng tán thành. Trận ấy quân ta toàn thắng nhờ bức thư bí mật của ai đó… Nên chuyến này nhận được thư Bình Định Vương hối hả trao cho Nguyên Trãi đọc.

Bỗng thấy Nguyễn Trãi mặt đổi sắc, hai tay cầm thư run rẩy. Ai nấy đều lấy làm lạ! Bình Định Vương ngạc nhiên hỏi:

- Có điều chi khiến khanh kinh tâm?

Nguyễn Trãi lấp bấp nói :

- Bức thư này không phải... người bữa... trước... Hạ thần... thần...

Bình Định Vương nóng lòng, giựt bức thư trên tay Nguyễn Trãi, thấy vỏn vẹn một câu như vầy:

"Bình Định Vương nhã giám.

"Kính báo Điện hạ, tướng Minh là Lý An sẽ đưa quân theo đường bể từ Đông Quan vào Nghệ An dể tăng cường quân Trần Trí." Kính Khải.

- Thư không đề tên, không chữ ký, song phía dưới có vẽ

hình con chim Uyên.

Bình Định Vương cau mày nói:

- Lạ chưa! Nét chữ này không phải là người bữa trước! Ta có thể tin được không?

Vương vừa nói vừa trao thư cho các tướng xem. Nguyễn Trãi bấy giờ đã lấy được bình tĩnh, vội vàng tâu trình:

- Khải Chúa công! Bức thư này do chính em gái của hạ thần viết. Nó tên thật là Thúy Uyên, bị Trương Phụ bắt đưa về Tàu từ mười năm qua, hạ thần không biết sống chết ra sao? Bỗng dưng hôm nay trông thấy bút tích của đứa em, thần quá cảm xúc. Không ngờ em thần còn sống, lại có thể len lỏi trong hàng ngũ địch để biết tin tức mà báo cho Ngài.

Tướng Nguyễn Trường Sơn đang đọc thư, nghe Nguyễn Trãi nói mấy lời với Bình Định Vương giật nẩy mình, làm rơi bức thư xuống đất, vẻ mặt sững sờ…

Ngoại trừ Nguyễn Trãi, ai nấy chưa kịp hiểu nguyên do. Bỗng có một bô lão bước vào trướng, quỳ xuống dâng lên Bình Định Vương một hộp sâm trà từ nước Cao Ly. Vương sai hầu cận đón nhận. Chợt thấy trên hộp có kẹp bức thư niêm phong cẩn thận, Vương lấy làm lạ, lại bảo Nguyễn Trãi mở ra đọc.

Nguyễn Trãi mở thư, thấy nét chữ như rồng bay phượng múa, văn kỳ trác tuyệt, lời lẽ minh quang. Thư ghi rõ ràng chi tiết cuộc tiến quân của địch, cùng báo tin như Thúy Uyên, có điều rành mạch hơn, lại thêm phần dẫn giải binh lược, nên đánh thế nào… nhử địch thế nào ...

Thư cũng không tên, không chữ ký, nhưng Nguyễn Trãi đọc thư như bị mê hoặc thu hút, đọc tới đọc lui, thần sắc kinh động, trao thư cho Bình Định Vương, tâu rằng :

- Khải trình Điện hạ xem bức thư này. Người viết không những là bậc kỳ tài trong thiên hạ về văn chương, mà bút tự thế gian chỉ có một! Cứ xem phần dẫn giải binh lược, thần có cảm tưởng như đang đọc binh thơ của Tôn Tử, Nhạc Phi, hoặc sách lược của Khổng Minh! Tài trí người này hạ thần còn kém xa, nên không dám phê bình. Kính mừng Điện hạ được bậc anh tài giúp đỡ.

Bình Định Vương nghe Nguyễn Trãi nói, mừng quýnh lấy thơ xem. Chừng đọc xong mặt rồng hớn hỡ, nói :

- Chẳng biết thư này là giả chân? Nếu thật quân ta có được bậc anh tài ẩn mặt giúp sức thì vận nước đã hết suy, quân ăn cướp không thể tồn tại lâu hơn nữa !

Nói xong Bình Định vương trao thư cho Trần Nguyên Hãn và tướng Nguyễn Trường Sơn.

Trường Sơn lúc ấy còn đang chấn động tâm thần về tin người yêu còn sống, mà Nguyễn Trãi vừa xác nhận trước mặt Bình Định Vương, nên không nghe rõ lời bàn tán của Nguyễn Trãi về bức thư này. Đến khi Trần Nguyên Hãn xem xong trao thư cho chàng, chàng chưa kịp đọc, mới thoáng nhìn nét chữ, vụt kêu lên :

- Trời ơi !

Rồi té ngồi xuống ghế, gương mặt xúc động tột cùng.

Mọi người thấy Trường Sơn hai lần khác lạ, biết có điều bí ẩn nên đưa mắt nhìn nhau.

Trường Sơn bàng hoàng một lúc đứng lên vòng tay nói với Bình Định Vương :

- Khải Chúa công ! Thần có một đứa em song sinh lưu lạc từ mười mấy năm qua, bút tự đúng như vầy. Em của hạ thần vốn là một bậc kỳ tài trong ngành hội họa, chữ viết đẹp hiếm có trên thế gian. Bấy lâu nay thần không nghe tin tức của đứa em ... Những tưởng đã chết ...

Chàng nói đến đó cổ họng nghẹn lại, mắt ứa lệ.

Bình Định Vương, Nguyễn Trãi, Trần Nguyên Hãn ... ai nấy đều mừng rỡ khi nghe Trường Sơn xác nhận người biên thư là em mình.

Bình Định Vương nói :

- Nếu người này là gia đệ của khanh, thì chúng ta không còn lo gì nữa.

Nguyễn Trãi xúc động lắm, nói :

- Không ngờ hôm nay là ngày đại hỉ ! Hạ thần nhận được tin em gái, còn quan Thượng Tướng cũng biết tin gia đệ. Hai thân nhân xuất hiện cùng một lúc giúp cho đại cuộc. Thật may mắn vô cùng!

Khi Trường Sơn đưa đồng bào tị nạn ở quốc ngoại về đầu quân Bình Định Vương, lúc ấy Nguyễn Trãi đã ra giúp Lê Lợi hai năm rồi. Trường Sơn gặp Nguyễn Trãi thì biết ngay là gia huynh của người yêu mình, vì năm xưa Trường Giang đi hứa hôn thay cho anh, về nhà có kể lại Thúy Uyên là con gái của Nguyễn Phi Khanh.

Còn Nguyễn Trãi khi ấy nghe Trường Sơn khai rõ gốc gác với Bình Dinh Vương thì giật nẩy mình. Vì mẫu thân chàng có nói vị hôn phu của Thúy Uyên là con trai của tướng Nguyễn Trường Hân.

Biết rõ gốc gác nhau hai người trở nên thân và coi như thân quyến. Trần Nguyên Hãn lại là ngoại thích của Nguyễn Trãi, nên ba người ngoài tình đồng đội, còn có tình tương thân tương ái gia đình.

Nguyễn Trãi kể việc em gái bị giặc bắt đem về Tàu, thân mẫu đau buồn chết ngay năm sau, còn cha già Nguyễn Phi Khanh chết ở xứ người.

Trường Sơn nghe tin người yêu bị giặc bắt, khốn khổ lắm. Song chàng không khóc ! Vì mấy năm bôn ba hải ngoại chàng đinh ninh vị hôn thê đã chết rồi, nên bao năm khóc thầm thương xót người yêu và thề trọn đời ở vậy cho vẹn tấm tình chung với người đã chết.

Từ lâu nay, chàng phải ăn, phải thở, phải sống… là cho Quốc Gia. Cho nên những lúc xông pha ngoài chiến trường chàng đã bỏ cái chết ra ngoài, không hề nao núng trước địch.

Chính nhờ điểm gan lì đó giúp chàng bách chiến bách thắng khi giao chiến.

Từ khi có Trường Sơn dưới trướng thanh thế Bình Định Vương vang dội khắp nơi, quân Minh không còn dám xem thường nữa. Chúng nghe đồn vị tướng này từ ngoại quốc về, võ nghệ siêu việt, cung kiếm song toàn, nên sợ hãi lắm. Khi ra trận, quân Minh nghe chàng cầm quân chúng bỏ chạy ngay, không dám chống trả.

Như trận đánh Châu Trà Long, quan Tri Phủ Cẩm Bành nghe tin Bình Định Vương cùng với "Người hùng hải ngoại" (biệt danh này quân sĩ tặng cho chàng) vây thành, hắn ta quá kinh sợ mở cửa thành ra hàng.

Bình Định Vương có được trung thần như Nguyễn Trãi, Trần Nguyên Hãn, Nguyễn Trường Sơn, thỏa nguyện lắm ! Nghĩ mình đã được hoàng thiên phù trì mới khiến cho các bậc hiền thần tài trí gan dạ ủng hộ hết lòng.

Bỗng dưng hôm nay lại xuất hiện bậc anh tài ẩn mặt giúp cho đại cuộc, Vương có cảm tưởng như chiêm bao, không dám tin là sự thật !

Tối đêm đó mọi người mừng rỡ, không ai ngủ được !

Trường Sơn suy tính mãi không biết hiện nay em mình làm gì? Ở đâu? Làm sao thấu rõ hành tung của địch? Còn Thúy Uyên của chàng bị giặc bắt sang Tàu, làm sao có thể trở về nước? Và làm sao nàng cũng biết những bí mật quân sự của đối phương?

Nỗi vui mừng và thắc mắc của chàng không khác gì Nguyễn Trãi.

Tờ mờ sáng hôm sau, đang lúc mọi người nai nịt sữa soạn lên đường, bỗng có tên binh chạy vào dâng lên Bình Định Vương bức thư thứ ba! Bình Định Vương tức tốc mở ra đọc, thấy nội dung cũng giống như hai thư hôm qua và nét chữ chính là người đã viết hồi mấy tháng trước.

Bình Định Vương mừng rỡ trao thư cho các cận thần xem

và nói:

- Một sự việc xảy ra có ba người báo trước thì chắc chắn nguồn tin phải đúng !

Chúa, tôi… đều lấy làm hoan hỉ.

Từ ngày đó, mọi kế hoạch, mọi cử động của quân Minh, Bình Định Vương đều nhận được ba báo cáo. Hai thư thông báo tin tức quân sự của địch. Còn một thư luôn luôn kèm theo chiến lược. Có lần dặn quân Bình Định Vương: "Kỳ này giả vờ thua để nhử địch". Có lần dặn: "Chuyến này phải đánh úp lúc địch không đề phòng" v.v... và v.v...

Trường Sơn càng nhìn nét chữ càng quyết chắc là em mình. Vả chăng với tài trí đó, chàng không lạ gì mà không nghĩ chính là Trường Giang, đứa em tài trí mưu lược của chàng! Vì vậy chàng tâu với Bình Định Vương nên theo chiến lược của em mình mà hành quân.

Một năm sau Bình Định Vương đánh chiếm rất nhiều nơi, lúc vây Tây Đô, lúc chiếm Tân Bình, lúc lấy Thuận Hóa... Thanh thế Vương bấy giờ mạnh lắm. Các tướng tôn Ngài là "Đại thiên hành hóa" (có nghĩa là thay Trời làm mọi việc).

Trong khi đó trong nội thành Đông Quan, Trần Hiệp cùng với Khâm sai Đoàn Hoài Nam và các tướng lãnh Minh lúc nào cùng trong tình trạng khẩn trương.

Có một điều họ không hay biết là trong lúc họ bàn bạc quân sự, bao nhiêu bí mật đều lọt vào tai hai vị phu nhân Huỳnh Như và Thúy Uyên.

Hai nàng vì muốn giữ bí mật tuyệt đối, nên không ai tỏ với ai. Thành ra cả hai cùng làm một sự việc mà không ngờ !

Thúy Uyên nhờ vô ra tự do, và "Đoàn lang" quá dễ dãi với nàng, nên trong lúc họp bàn có khi nàng ngồi sờ sờ đó mà chẳng ai dám nghi kỵ. Một phần vì nàng là vị phu nhân nhất phẩm triều đình, một phần ai cũng đinh ninh nàng là ái nữ của Dương Sĩ Kỳ đứng đầu triều đình Trung Quốc, nên không ai dám đụng chạm tới.

Một điều cả Thúy Uyên và Huỳnh Như phải lưu ý là : Kế hoạch nào do Đoàn Hoài Nam đưa ra thì quân Minh toàn thắng. Còn kế hoạch nào do Trần Hiệp hay các tướng lãnh đưa ra, Bình Định Vương thắng ! Khiến cho hai nàng vô cùng kinh hãi, không hiểu vì sao Đoàn Hoài Nam đưa ra kế hoạch họ cũng thông báo cho Bình Định Vương, mà vẫn thua?

Phải chăng vì tên ấy mưu trí quá lợi hại, Bình Định Vương dù biết trước kế hoạch cũng không chống nổi ? Hay vì bí ẩn nào khác?

Còn Trần Hiệp và các tướng Minh thi ngán sợ quan Khâm sai Đoàn Hoài Nam vô cùng. Nhưng con người này lúc nào cùng khiêm nhường và tế nhị, ít chịu đưa ra kế hoạch và luôn luôn nói:

- Quí vị là võ tướng kinh nghiệm nhiều năm trên xứ này, xin cứ đưa ra chiến lược diệt địch, tôi chỉ xin góp thêm ý kiến mà thôi.

Khi nào quân Minh bái xái vài trận, Đoàn Hoài Nam mới "tức giận" đưa ra một kế. Lần ấy quân Minh thắng trận dễ dàng, có khi không cần đánh địch cũng bỏ chạy trước.

Thúy Uyên và Huỳnh Như điên đảo không ít vì tên họ Đoàn ! Bây giờ họ mới thấy rõ kẻ thù số một của họ là tên Đoàn Hoài Nam và phải nói kẻ đau khổ hơn hết là Thúy Uyên.

Từ khi về nước tình yêu của nàng đối vài "Đoàn lang" càng sâu đậm hơn thêm, nhưng mối cựu thù giữa hai dân tộc giờ đây lại dâng cao.

Mỗi lần nghe tin quân Minh thắng và chính kế hoạch "Đoàn lang" đưa ra, Thúy Uyên ôm đầu khổ sở và cũng biết rằng giữa nàng với "hắn" không thể có tình yêu. Nghĩa ân của mười năm làm chồng vợ không ân ái, cũng phải quên đi !

Hôm ấy Thúy Uyên quyết định hạ thủ hắn , nên chạy ra vườn hái vài nấm độc, xào nấu thơm phức giao cho nô tỳ đưa lên bàn ăn.

Từ khi về xứ nàng với "hắn" ăn chung.

Nàng đã quyết định rồi! Nàng quyết giết hắn để trừ mối hại cho cuộc phục quốc của Bình Định Vương. Nhưng hắn đối với nàng ân sâu nghĩa rộng, hắn chết đi nàng cùng không thể sống được, nên định cả hai cùng chết!

- Mâm cơm mang lên có canh chua, có cá hấp, có tôm nướng, có nấm xào...

Buổi cơm này là buổi cơm cuối cùng trong đời nàng và đời hắn. Nàng ngồi chờ đợi...

Trường Giang bước vào phòng ăn thấy chị dâu chờ mình bằng đôi mắt ửng đỏ thì lấy làm lạ, hỏi:

- Tiểu thư có điều gì phiền muộn chăng?

Từ khi về xứ, chàng dọ dẫm tình hình biết được Nguyễn Trãi gia huynh nàng hiện dưới trướng Bình Định Vương, nên mừng lắm. Bao phen chàng muốn tỏ cho nàng biết điều đó. Nhưng đã lỡ đóng vai tên quan Tàu, phải đóng cho trót, nên đành ngậm câm.

Tuy nhiên chàng nghĩ, Thúy Uyên chắc cũng biết được điều này. Vì thỉnh thoảng chàng vẫn theo dõi chị dâu đi đâu làm gì, để bảo vệ an ninh. Nên chàng biết rõ Thúy Uyên ra ngoài là để dò dẫm tin tức gia huynh nàng.

Lâu nay chàng nghe biết dưới trướng Bình Định Vương có vị tướng võ nghệ tuyệt luân, từ ngoại quốc trở về, biệt danh là "người hùng hải ngoại". Chàng không rõ họ tên người ấy, nhưng có cảm tưởng như người ấy là anh ruột của mình. Nên mỗi khi thấy mặt Thúy Uyên, lòng chàng dâng lên tình thân thiết gia đình, bao nhiêu phiền toái mệt nhọc bởi những đòn cân não với địch như quên được vài giây.

Bên cạnh chị dâu chàng tìm lại được giây phút êm đềm thuở nào cùng thân quyến ở Mường Lai.

Chàng thầm nghĩ, chắc Thúy Uyên vui mừng lắm vì được sống trên quê hương. Bữa nay thấy nàng khóc, chàng lấy làm lạ, gạn hỏi hai ba lần, Thúy Uyên vẫn không đáp, mà nước mắt cứ tuôn như suối. Trường Giang lo lắng nói :

- Nếu có gì không giải quyết được tiểu thư cứ thật tình cho tôi rõ, tôi sẽ cố gắng giúp tiểu thư toại lòng.

Thúy Uyên thét trong cổ họng :

« -Thiếp chỉ muốn giết chàng và chết theo chàng mà

thôi ! »

Nàng ngồi trước mặt chàng sụt sùi khóc. Trường Giang không biết dỗ dành ra sao, đành lặng yên ngồi ăn. Chàng thấy mâm cơm có canh chua, tôm nướng, cá hấp… thì thích lắm.

Thúy Uyên thấy chàng không ăn nấm nên nhắc nhỡ, mà nước mắt đổ dài :

- Chàng hãy ăn nấm xào ấy, ngon lắm !

Trường Giang từ nhỏ tới lớn chưa hề ăn nấm. Nghe chị dâu mời mọc ăn nấm, nghĩ rằng chắc nàng ưa thích nấm nên chàng càng không muốn ăn.

Thúy Uyên thấy chàng không ăn, mời mọc hai ba lần bảo chàng ăn thử. Trường Giang muốn chị dâu ăn tự nhiên, không phải nhường nhịn cho mình, nên nói :

- Chỉ tại tiểu thư không rõ, từ nhỏ tới lớn tôi không hề ăn nấm. Cũng chẵng hiểu tại sao ? Có lẽ do mẫu thân tôi không cho ăn, nên không quen ăn.

Rồi chàng muốn nàng vui, nên kể tiếp :

- Tiểu thư biết tại sao mẫu thân tôi không cho cả nhà tôi ăn nấm không ? Nguyên hồi xưa, bên cạnh nhà song thân tôi có người láng giềng rất thích ăn nấm. Ngày nọ người vợ vào rừng hái phải nấm độc đem về nấu ăn. Báo hại cả nhà vợ chồng con cái chết hết ! Mẫu thân tôi từ đó ghê sợ, không cho gia đình tôi ăn món nguy hiểm đó. Tuy nhiên những năm nghiên cứu về y dược, tôi có tìm được thứ thuốc trị chứng ngộ độc này. Tôi làm món ăn bằng nấm độc cho con mèo ăn thử. Một lúc sau nó ngất ngư. Tôi liền lấy một loại bông cỏ cực độc đâm bỏ vào miệng nó. Phút chốc nó đi đứng như thường, thoát chết ngay !

Chàng mỉm cười, nói tiếp :

- Trên nguyên tắc, lấy thứ độc này trị thứ độc kia. Loại bông cỏ độc này tìm rất dễ, ở đâu cũng có.

Thúy Uyên nghe chàng nói, sợ điếng hồn! Ngỡ "hắn" biết nàng dùng nấm độc thuốc hắn, nên nói xa nói gần… Nàng hoảng kinh nín khóc, hết dám mời chàng ăn, mà cũng không ăn, vì sợ nàng ăn xong ngã chết trước mặt "hắn" thì lộ tẩy.

Trường Giang thấy mình kể chuyện xưa tích cũ, chị dâu nín khóc, tưởng nàng đã hết buồn nên thỏa thích lắm. Chàng tìm vài ba câu chuyện dí dỏm khác kể cho nàng nghe cho vui.

Giọng chàng đầm ấm êm êm… Nàng nghe mà không nhớ đã nghe gì ? Lòng rối bời giữa cảm xúc với hận thù .

« Chuyến này không giết được chàng bằng nấm độc, thì chỉ còn nước liều mạng đâm chàng một nhát, rồi ta sẽ tự tử chết theo. »

Nàng ngồi âm thầm suy tính cách "hạ thủ" chàng, sắc mặt bơ phờ nhợt nhạt ...

Trường Giang dù là kẻ thông minh tuyệt đỉnh, vẫn không tưởng tượng nổi "Thúy Uyên dịu hiền" trước mắt đang tính cách giết mình !

Sau buổi cơm, Thúy Uyên chạy vô nhà bếp lén đổ đĩa nấm xào, vì sợ bọn tôi tớ ăn vào toi mạng.

Mấy ngày sau đó nàng tìm mua được một thanh đao nhỏ, thật nhọn, thật bén, lúc nào cũng thủ sẵn trong mình chờ dịp thuân tiện ra tay ...

Tối hôm ấy Trường Giang không đi đâu, ở nhà ngủ sớm. Thúy Uyên hồi họp nằm trong phòng nàng chờ đợi chàng ngủ…Đến nửa đêm nàng rón rén nhẹ bước ra ngoài.

Hành lang bây giờ thật im vắng. Bọn tôi tớ gia nhân giờ này đã ngủ hết, không còn ai lai vãng. Nàng mò mẫm đi đến cửa phòng chàng, mặc dù hai phòng sát vách nhau. Nhầm vào đêm 30 trời tối đen, mấy ngọn đèn lồng ngoài lan can thật mờ ảo.

Cửa phòng không khóa, Thúy Uyên lách nhẹ vào trong, bỗng giật nẩy mình, vì ngọn đèn bên trong thật tỏ. Cũng may chàng đã ngủ say, không hay biết gì !

Qua lớp màn (mùng) the mỏng, nàng trông rõ gương mặt chàng thật tuấn nhã và thuần lương. Gương mặt này đã làm cho người con gái của quan Hàn Lâm họ Nguyễn tương tư hồi 18 năm về trước. Cũng gương mặt này đã in sâu vào tim vào óc nàng mười năm chồng vợ, tuy không ái ân, nhưng biết bao nhiêu tình !

Có tiếng nói từ đáy lòng nàng vang lên :

« Ai đã chăm sóc cho ta những khi đau ốm ? Ai đã vỗ về an ủi ta những lúc buồn khổ ? Ai đã lo lắng che chở cho ta nơi xứ lạ quê người ?

« Trời ơi, tình nghĩa này sâu rộng tợ núi cao sông dài, mà biết thù bao nhiêu, hận bao nhiêu, cho đủ sức cầm đao giết chết người yêu ?

Toàn thân nàng run rẩy… Nàng bước tới bên giường chàng, tay cầm đao đưa ra… nhưng cánh tay không hạ xuống được và cuối cùng nàng sụm xuống ! Thanh đao rơi trên nền nhà vang một tiếng "keng".

Trường Giang nghe tiếng động giật mình tỉnh giấc, thấy chị dâu quỳ sụm bên giường mình lấy làm kinh hãi, ngồi bật dậy. Thúy Uyên hốt hoảng đứng lên, đôi mắt đầy lệ, toàn

thân run run.

Trường Giang vốn là con người thông minh. Từ lâu nay chàng đoán biết tâm trạng Thúy Uyên ray rứt giữa tình yêu và hận thù. Chàng biết Thúy Uyên yêu mình, mà cũng oán thù mình vì ngỡ chàng là một tên quan Tàu. Nhưng chàng vẫn không tưởng tượng nổi Thúy Uyên đã hai lần toan giết chàng, nên không thắc mắc nửa đêm nàng lò dò sang phòng chàng làm gì và cũng không lưu ý thanh đao rơi dưới nền

nhà.

Chàng giả vờ nói để khỏa lấp sự yên lặng ngượng ngùng của cả hai :

- Tôi ngủ quên tắt đèn, khiến tiểu thư phải nhọc lòng qua tắt dùm chăng ? Xin tiểu thư yên tâm về ngủ. Tôi hứa từ đây không để tiểu thư nhọc lòng nữa đâu.

Thúy Uyên không biết nói sao, đành lủi thủi bước đi, mà cũng không dám cúi xuống nhặt thanh đao.

Trường Giang chờ nàng ra khỏi phòng, mới nhảy xuống giường tắt đèn cài cửa với một thoáng bâng khuâng…

Mười năm qua sống vai trò chồng vợ, biết Thúy Uyên yêu mình mà chàng vẫn giữ được lòng thanh khiết, vì nghĩ đến

gia huynh.

Chàng mong chờ ngày gặp lại gia huynh để trao trả một chị dâu trọn vẹn.

Từ khi về đến quê nhà, một mặt chàng lo móc nối với Bình Định Vương mưu đồ việc cứu quốc, một mặt tìm tung

tích thân nhân.

Chàng trở về trang trại Mường Lai cạnh giòng Lỗi Giang xưa kia thăm dò. Nào dè đến nơi thấy tường xiêu, mái đổ, khung cảnh tiêu điều. Dân chúng quanh vùng không còn ai nữa ! Kẻ đào nạn Chiêm Thành, kẻ di tản sang Lão Qua, kẻ bôn ba ở Chân Lạp ...

Quê hương không còn gì nữa, ngoài dấu vết điêu tàn gây bởi bọn xâm lăng !

Trở về Tràng An thăm dò làng cũ… Nơi đây nhờ gặp một gia đình nhà nông quen biết lúc trước, chàng biết tin cha ra giúp nhà Hậu Trần và bị tử nạn trong trận Bô Cô hồi năm Mậu Tý, tính đến nay đã 17 năm.

Hỏi thăm tin tức tổ mẫu, thân mẫu và gia huynh, nhưng chẳng một ai hay biết ra sao ? Hỏi thăm nghĩa phụ Trần Quốc Anh, thì nghe nói người cùng gia quyến người cháu di tản xứ ngoài, mà cũng không ai rõ ở xứ nào ?

Ngày nào chàng cũng rời nội thành nghe ngóng tin tức của gia huynh. Vì chàng nghĩ, anh chàng nếu còn sống chắc chắn đã hồi hương giúp Lê Lợi chống xâm lăng. Nhưng cho đến nay chàng vẫn chưa biết đích xác. Vì tên các cận tướng của Bình Định Vương đều được giữ kín, hoặc giả họ có bí danh.

"Người hùng hải ngoại" chàng được nghe nói nhiều nhất và cũng không hiểu tại sao chàng có linh tính như người ấy có liên quan với mình. Mỗi lần nghĩ tới người ấy, chàng nghe tâm tư xao động, y như có một sợi dây thiêng liêng ràng buộc giữa chàng với người ấy.

Chàng nuôi hy vọng ngày gần đây anh em gặp nhau để chàng trao trả người tình cho anh.

Chàng biết nỗi khổ của Thúy Uyên, yêu mà không dám yêu, hận thù không thể hận thù, làm vợ mà bị chồng đối xử lạnh nhạt chắc nàng tủi thân lắm!

Thương cho cảnh ngộ chị dâu, mà cũng xót xa cho cảnh ngộ mình. Bất thần chàng bỗng nhớ đến Huỳnh Như giờ này trong vòng tay giặc… Nỗi ghen hờn làm luồng máu trong người chàng như ứ đọng lại, con tim như ngưng đập. Chàng thét lên một tiếng thật to... Một búng máu từ trong cổ họng chàng văng ra tung toé trên gối...

Chàng nằm vật xuống giường nấc lên một tiếng, kêu gào :

- Huỳnh Như em ơi! Anh thề với đất trời rửa mối nhục

này cho em.

° ° °

Lần đầu tiên kể từ nửa năm, Thúy Uyên tìm gặp Huỳnh Như. Cả hai ôm nhau khóc một lúc, bỗng trố mắt nhìn nhau. Bởi người nọ nhận thấy người kia đôi mắt thâm quầng vì thiếu ngủ.

Thúy Uyên lên tiếng trước:

- Chị có tâm sự gì không?

Huỳnh Như thở dài, nói giọng xa xôi:

- Tâm sự của một con người vong quốc.

Từ khi Thúy Uyên về nước, Huỳnh Như đâm nghi ngờ bạn nên hay nói bóng nói gió, chớ không muốn bày tỏ nỗi

lòng.

Thúy Uyên không hiểu lý do bạn lạnh nhạt với mình, nên không dám tới lui thường xuyên. Bữa nay nàng khốn khổ quá mới tìm bạn vấn kế, song thấy bạn vẫn còn thái độ lạnh nhạt thờ ơ, nên tủi thân ôm mặt khóc vùi.

Huỳnh Như thấy Thúy Uyên khóc, cảm thấy hối hận, nhỏ nhẹ hỏi:

- Chị có điều buồn khổ lắm sao?

Thúy Uyên nói giọng tức tửi:

- Chị có còn là bạn thiết của em nữa không ? Từ khi em về đây tuy là quê cha đất tổ, nhưng em vẫn là kẻ lạc loài khốn khổ. Phụ thân nghe đâu đã chết ở xứ người trong lúc bị giam cầm. Mẫu thân em chết một năm sau ngày em ra đi. Thân huynh em thì vẫn chưa rõ đích xác còn sống hay đã chết ! Trước sau gì em cũng một thân bơ vơ !

Huỳnh Như nghe bạn nói cảm động lắm và thấy mình có lỗi với bạn, nên nói giọng ân hận :

- Xin chị tha lỗi cho em. Từ lâu rồi em vì nghi ngờ chị... nên không dám tỏ thật nỗi lòng ...

Thúy Uyên ngước mắt đỏ hoe, hỏi:

- Chị nghi ngờ em không hết dạ vì nước chăng? Chắc chị không bao giờ nghĩ rằng mọi cuộc họp bàn của bọn quan nhà Minh em đều rình nghe và thông báo cho Bình Định Vương?

Huỳnh Như giật mình đánh thót, vì không tưởng Thúy Uyên cùng làm một việc như mình! Té ra bấy lâu nay nàng nghi ngờ bạn không nghĩ đến việc cứu quốc là không phải.

Nàng xấu hổ cúi mặt đáp nhỏ: -Em thật có lòng dạ tiểu nhân, xin chị tha …

Thúy Uyên ngắt lời bạn trong nước mắt chan hòa :

- Chị nghi ngờ em cũng phải ! Em quả thật không xứng đáng làm người đối với quốc gia dân tộc. Lòng dạ em yếu hèn quá, đứng trước kẻ thù cứ mãi vương vấn tình yêu ! Bao phen em muốn giết "hắn", vẫn không thành công ! Em ... không biết tính sao ? Xin chị hãy giúp em diệt trừ tên Đoàn Hoài Nam ... Để hắn sống ngày nào bất lợi cho công cuộc phục quốc của Bình Định Vương ngày ấy ! ... Phải giết hắn !

Nàng nói câu sau cùng bật khóc to lên, con tim đau nhói !

Huỳnh Như cũng khóc, nói :

- Bấy lâu nay em thấy hắn quá lợi hại, mỗi lần đưa ra chiến lược đều đem thắng lợi cho quân Minh, nên trong lòng rầu rỉ, ăn ngủ không yên. Nghĩ mãi không biết cách nào để diệt trừ hắn, mà không cho chị biết, vì em nghĩ chị ... yêu hắn. Té ra chị cũng một lòng như em là muốn trừ khử hắn ...

Thúy Uyên cười nhẹ, mà nước mắt rơi rơi:

- Em vẫn yêu hắn đó chứ? Ở hắn em yêu hai người. Yêu người tình thuở xưa đã cùng em thề nguyền ước hẹn, yêu người chồng tốt mười năm ân tình... Nhưng dù yêu hắn bao nhiêu em cũng quyết "hạ thủ" hắn. Rồi em sẽ chết theo cho trọn với tình. Xin chị hãy giúp em giết hắn.

Bấy giờ Huỳnh Như mới cảm phục bạn và thấy mình còn kém bạn xa! Nàng không yêu Trần Hiệp, lúc nào cũng nhìn lão cũng bằng đôi mắt thù hận. Lòng nàng lúc nào cũng sôi sục câm hờn trước lão, nên nàng muốn "hạ thũ" lão không cần phải có can đảm.

Chứ như cảnh ngộ của Thúy Uyên thật đáng thương. Cầm đao giết người yêu khó trăm vạn lần hơn cầm đao giết mình. Ai ở trong hoàn cảnh ấy mới thấu được nỗi khổ của nàng.

Bây giờ Huỳnh Như mới cảm phục và thương bạn. Nàng cầm tay bạn vừa khóc vừa nói :

- Em có mua một gói độc dược để dành cho Trần Hiệp và cho em. Đó là thứ cực độc, uống vào chết tức khắc không phương gì cứu. Nghe nói như râu cọp thui tán nhuyển, không mùi vị. Chị cứ bỏ vào rượu cho hắn uống.

Thúy Uyên lắc đầu:

- Em làm không được! Em biết em làm không được! Em yếu hèn lắm! Em không thể "hạ thủ" hắn. Xin chị giúp em cho hắn uống ...

Huỳnh Như làm thinh. Thúy Uyên ôm bạn nài nỉ:

- Nếu chị yêu nước, hãy thay em giết hắn.

Huỳnh Như bỗng gật đầu nói:

- Thôi được! Mai này em làm bình rượu độc cho hai tên ấy chết một lượt cho yên.

Thúy Uyên trố mắt ngạc nhiên:

- Ủa, chị cũng muốn "hạ thủ" lão Trần Hiệp ngay bây giờ sao?

Huỳnh Như thở ra:

- Em đâu có muốn để lão sống thêm ngày nào? Ngặt hễ lão với tên họ Đoàn cùng chết thì hai ta cũng phải chết. Bởi bọn quan nhà Minh đâu để cho hai chị em mình yên, vì đã đầu độc hai đại quan của chúng? Chúng ta chết không nói làm gì! Chỉ lo từ đây việc thông báo tin tức cho Bình Định Vương dỡ dang giữa chừng.

Thúy Uyên nói:

- Chị hãy khoan "hạ" tên Trần Hiệp để nơi đây còn cuộc họp bàn, mình mới thu lượm tin tức được. Vả lại Trần Hiệp không là tay mưu trí. Lão có sống thêm một thời gian, nhắm cũng chẳng hại gì. Chỉ có "hắn" quá nguy hiểm, cần phải trừ khử trước. Chị giúp dùm em nhé?

Huỳnh Như lại lặng thinh. Thúy Uyên ôm bạn vừa khóc vừa nói:

- Giúp em nghe chị! Em hèn yếu quá. Em biết chị có nhiều can đảm hơn em.

Huỳnh Như thở dài:

- Được rồi! Em sẽ cố gắng giúp chị ... Chờ vài ngày nữa Trần Hiệp đi vắng, em giả vờ đau, sai nô tỳ qua nhờ hắn chẩn bệnh dùm. Sau đó em sẽ tạ ơn hắn ly rượu độc ...

Thúy Uyên chợt nói:

- Xin chị dành sẳn cho em một ly. Em vì đại cuộc mà hạ thủ hắn, nhưng đối với hắn em mang nặng ân tình, nên cũng phải chết để tạ lỗi với hắn.

Huỳnh Như cau mày nín thinh, không trả lời. Thúy Uyên lại rơi nước mắt :

- Chị giúp em hãy giúp cho trót ! Đời em không còn mục đích để sống nữa. Em ...

Huỳnh Như chận lời:

- Việc cứu quốc chưa xong, sao chị vội vàng trốn trách nhiệm?

Thúy Uyên khóc sướt mướt:

- Em yếu đuối quá! Em biết khi hắn chết rồi, em sẽ ân hận khốn khổ mà chết dần mòn. Đó là chưa kể bọn nhà Minh sẽ nghĩ sao khi thấy hắn chết bất tử? Cho nên sau khi hắn chết rồi, em sẽ thừa nhận trước mặt mọi người em vì giận chồng bạc tình nên giết chồng. Sau đó em chết theo là yên! Như vậy bọn ở đây không nghi ngờ gì cả, vì chúng vẫn đinh ninh em là con Dương Sĩ Kỳ.

Huỳnh Như biết không thể cản được ý chết của bạn. Vả chăng, ngay chính nàng, sau khi Trần Hiệp chết thì nàng không sống nữa làm gì. Nàng không như Thúy Uyên vì Trần Hiệp mà chết theo. Nhưng khoảng đời nhục nhã này nàng không muốn kéo dài thêm nữa.

Nàng nhìn bạn, u ám nói:

- Vâng, sau khi cho hắn uống chén rượu độc, em sẽ giao cho chị bình rượu thừa.

Nàng nói xong bật khóc! Không hiểu khóc vì thương bạn, hay vì sắp sữa phải giết tên họ Đoàn?

° ° °

Hôm ấy Trường Giang vừa ăn cơm xong chưa kịp đứng lên, chợt con hầu của Huỳnh Như gõ cửa đi vào thưa :

—Bẩm Đại quan ! Phu nhân con bỗng dưng đau bệnh bất thình lình. Chủ nhân con lại vắng nhà, nên con không biết cầu cứu ai... Xin đại quan nể tình...

Thúy Uyên còn đang ăn. Thấy con hầu của Huỳnh Như đi vào, mặt nàng tái mét tay bủn rủn làm rơi chén đũa xuống nền nhà, bể văng tung toé.

Vì nàng đã biết trước Huỳnh Như sẽ sai con hầu sang mời "Đoàn lang", nên không còn bình tĩnh khi trông thấy nó.

Khoảng cách chỗ họ ở chỉ là một khoảng hành lang phân chia bên tả, bên hữu. Một khoảng đường ngắn ngủi…

Nhưng Thúy Uyên biết chàng đang đi đến cõi mịt mờ xa xăm, cách ngăn với dương thế!

Chốc nữa đây chàng sẽ chết. Giờ phút cuối cùng này nàng chưa nói được một lời thương yêu!

Tình không biên giới. Nhưng chính loài người đã tạo ra thành trì biên giới, để chàng và nàng cách nhau bởi một vĩ tuyến "cừu thù"!

Trường Giang thấy Thúy Uyên thất sắc kinh hoàng, thì nghĩ nàng quá lo lắng cho bệnh trạng của Huỳnh Như, nên chàng không chờ con hầu nói dứt câu, tất tả chạy đi…

° ° °

Huỳnh Như ngồi chờ chàng nơi phòng khách, tựa lưng nơi thành ghế trường kỷ, hai chân duỗi dài trên ghế, nét mặt âu sầu mệt mỏi.

Nhiều đêm rồi nàng thao thức không ngủ, mong cho đại cuộc chóng thành để giải thoát đời mình. Buổi nay thay bạn trừ kẻ thù, lòng nàng vừa xốn xang vừa hồi hộp. Khi Trường Giang bước vào, nàng không dám ngẩng mặt nhìn lên.

Trường Giang thấy người yêu trong sắc thái ủ ê, lòng bồi hồi thương xót, muốn bước tới ghì nàng vào lòng, nói muôn vạn lời tha thiết yêu đương, nhưng cổ họng như nghẹn lại, toàn thân tê dại không nhúc nhích được.

Người yêu trước mắt đó… chỉ cách nhau một với tay, mà tưởng chừng như xa xôi vạn dậm. Mặt chạm mặt bao lần, vẫn chẳng dám nhìn nhau!

Nếu không có tai biến của quốc gia, nàng nay đã là hiền thê của chàng. Nếu không bị quân thù gây họa, giây phút đối diện này hạnh phúc biết bao nhiêu!

Chàng đứng bất động nhìn nàng với nỗi thương đau sầu hận ...

Huỳnh Như vô tình ngẩng mặt lên… bắt gặp đôi mắt "hắn" chứa chất một thiên tình sầu. Nàng bàng hoàng cúi mặt xuống.

Trời ơi, con người đó... Con người nàng sắp sữa trừ khử,sao lại mang hình hài của người nàng yêu? Ánh mắt ấy như nói với nàng muôn lời thân ái, chớ nào phải ánh mắt của phường vô loại cướp nước?

Rõ ràng người đứng trước mặt nàng là người nàng yêu, chớ nào phải quân thù nghịch mà nàng ra tay hạ thủ?

Giữa lúc thần trí mê loạn, không xét đoán được kẻ đứng đó là giặc hay người tình, Huỳnh Như chợt nhớ đến lời đã hứa với Thúy Uyên… Nàng vụt nhớ tới trận chiến vừa qua, do kế hoạch của người này đưa ra, quân của Bình Định Vương thua chạy, thì cơn tức giận sôi lên. Song nàng cố dằn lòng, nhỏ nhẹ nói:

- Trong người thiếp mệt mỏi khó chịu lắm! Xin Đoàn Đại Học Sĩ biên dùm toa thuốc. Thiếp xin hết lòng cảm tạ.

Trong lúc bấn loạn, nàng quên nhè nói một câu bằng tiếng An Nam. Trường Giang vẫn còn trong trạng thái ngẩn ngơ bất động, nên cũng chẳng nghe nàng nói gì?

Huỳnh Như thấy "hắn" có vẻ không hiểu lời mình nói, mới chợt nhớ "hắn" là tên quan Tàu, làm gì hiểu được tiếng An Nam ? Nàng giết hắn không việc gì ân hận nữa!

Lòng đã an định, nàng bình tĩnh lập lại câu nói khi nãy bằng tiếng Trung Hoa.

Bấy giờ Trường Giang mới nghe nàng nói gì.

Chàng chưa kịp đi đến bàn viết biên toa thuốc, Huỳnh Như đã bảo con hầu :

- Ngươi mang bình rượu tới đây, để ta rót mời quan Khâm sai một chén tỏ lòng kính trọng một lương y.

Bình rượu độc nàng pha để sẵn trên chiếc bàn con… Chén rượu ngọc nàng cũng đã soạn sẵn để tiễn đưa "kẻ thù" qua bên kia thế giới…

Con hầu trao rượu và chén cho chủ.

Huỳnh Như đứng dậy rót rượu dâng lên ...

Trường Giang cảm động nhận chén rượu trên tay nàng đưa lên môi… bất giác ứa lệ xót xa cho cuộc tình duyên lỡ dở. Nước mắt của chàng rơi vào chén, hòa với rượu… làm thành thứ rượu "oan tình"! Mà có lẽ trước phút lìa đời chàng cũng không hiểu vì sao người yêu giết mình?

Chỉ còn một cái nhấc tay, rượu sẽ tuôn vào môi miệng chàng, đưa chàng ra đi vĩnh viễn ... Huỳnh Như bỗng ngã chúi vào người chàng, bất tĩnh ! Chén rượu chưa kịp uống bị hất văng ra đổ ướt xiêm y nàng.

Trường Giang hốt hoảng bồng nàng qua tư phòng nàng, đặt lên giường. Con hầu cũng quýnh quáng chạy theo phía sau.

Trường Giang bảo nó :

- Một chốc phu nhân ngươi tỉnh, cho nàng uống một chén sâm trà. Ta trở về bên ấy biên toa và sai bọn tôi tớ hốt thuốc. Khoảng một giờ sau ngươi trở qua kiếm ta lấy thuốc cho chủ nhân ngươi uống.

Chàng căn dặn xong thất thểu bước đi. Lúc ngang qua phòng ăn chàng thấy Thúy Uyên còn ngồi gục đầu nơi bàn ăn.

Nghe tiếng chân người, nàng ngước đôi mắt đẫm lệ nhìn lên… Bất ngờ trông thấy chàng trở lại, nàng vừa mừng rỡ, vừa kinh hãi.

Trường Giang không lưu ý thái độ kỳ quái của Thúy Uyên, lảo đảo đi thẳng về thư phòng.

Bên ngoài trời có nắng không gay gắt lắm, song Thúy Uyên có cảm tưởng như nghẹt thở đứt hơi, vì có tiếng nói từ tâm linh nàng vang lên:

- Hắn chưa chết! Ngươi chưa làm tròn bổn phận đối với quốc gia!

° ° °

Hôm ấy là buổi chiều, nhầm ngày rầm tháng hai năm Bính Ngọ (1426), Bình Định Vương nhận được lá thư phía dưới có vẽ hình con chim Uyên như vầy :

"Bình Định Vươmg nhã giám, "Khải xin Diện hạ cho người lẻn vào nội thành Đông "Quan trừ tên Khâm sai Đoàn Hoài Nam, là tên mưu trí "lợi hại của Minh triều, thì việc phục quốc mới không bị "trở ngại. Đêm 20 này, nơi cửa sổ bên tả tầng lầu trên của "Tòa Chính điện sẽ có buộc một chiếc khăn trắng để làm "hiệu gian phòng ngủ của họ Đoàn. "Kính Khải.

Bình Dịnh Vương đọc xong lá thư liền trao cho Trần Nguyên Hãn và Nguyễn Trường Sơn xem, rồi nói :

- Chữ viết này và dấu hiệu này… nếu Trẫm không lầm thì chính là em gái của quan Tham mưu Nguyễn Trãi. Vậy ý các khanh thế nào ?

Hôm ấy Nguyễn Trãi đi công cán nơi khác, vắng mặt. Trường Sơn mỗi lần nhận được thư của người yêu, xúc động lắm, nên chưa có ý kiến gì. Trần Nguyên Hãn nói :

- Theo ý của hạ thần việc đột nhập vào nội thành Đông Quan không phải là dễ. Huống chi nơi tòa chính điện là chỗ ở của Đại quan nhà Minh, sự canh phòng cẩn mật lắm.

Trường Sơn nhớ khi xưa mình với Trường Giang đột nhập vào hoàng cung Thanh Hóa không mấy gì khó, nên trịnh trọng tâu :

- Khải điện hạ! Việc này tuy khó, song hạ thần cũng muốn đánh liều đột nhập vào chỗ ấy để trừ bớt một tên lợi hại của Minh triều, cũng nhân thể tìm kiếm em trai của hạ thần và vị hôn thê ẩn núp trong đó. Nếu gặp được họ thì sau này việc thông tin hai bên cũng dễ dàng, càng tiện lợi cho ta.

Binh Định Vương e ngại :

- Khanh là cánh tay mặt của Trẫm, nhỡ có mệnh hệ nào Trẫm mất đi một kiện tướng, thiệt thòi cho đất nước. Để Trẫm sai Lý Triệu hay Đinh Lễ len vào chỗ ấy, nhắm diệt trừ được tên Khâm sai nhà Minh thì trừ, bằng không cũng thăm dò tình hình để sau này ta tấn công thành Đông Quan, hoặc giả khanh muốn đột nhập cũng dễ.

Trường Sơn cương quyết tâu :

- Khải xin Điện hạ cho thần đích thân ra đi. Vì hiện nay địch không ngờ mình dám vào tận ổ, nên sự canh phòng không đến đổi gắt gao, sẽ dễ dàng cho thần hành động. Chứ một khi đã vào trong rồi mà không làm được việc, để đổ bể sau này quân Minh canh gác cẩn mật hơn, lúc ấy thần khó thể đột nhập vào trong, mà cũng không còn dịp nào tìm gặp đứa em và vị hôn thê.

Trần Nguyên Hãn biết Trường Sơn nóng lòng tìm gặp gia đệ và người yêu, nên khuyên can rằng :

- Theo thiển ý của tôi, quan Thượng Tướng len vào nội thành Đông Quan chỉ nên hạ thủ tên Khâm Sai nhà Minh mà thôi. Chớ nên tìm thân nhân ! Nhỡ có bề nào liên lụy đến họ, mà mình cũng thiệt hại vì không còn người làm nội tuyến.

Bình Định Vương nghe Trần Nguyên Hãn nói phải, liền nói với Trường Sơn :

- Quan Tư Đồ nói đúng ý Trẫm. Vậy nếu Khanh đột nhập vào đó phải thật cẩn thận và chớ nên tìm người nhà.

- Hạ thần xin tuân lệnh.

- Khanh nên liệu đi ngay Đông đô sớm để dò tình hình sự canh phòng của quân Minh trong và ngoài thành. Tốt hơn ăn mặc giả dạng thường dân.

- Vâng! Hạ thần sẽ giả làm một nông dân gánh gạo đem

bán.

Bình Định Vương và Trần Nguyên Hãn nghe nói cùng bật cười lớn. Bình Định Vương vừa cười vừa bảo : -Không được đâu! Bộ mặt của Khanh giả làm nhà nông càng làm cho người ta chú ý. Khanh giả làm nho sĩ đúng hơn. Trường Sơn tâu : -Hạ thần chỉ sợ cử chỉ mình ngốc nghêch quá, làm nho sĩ sẽ bị bại lộ … Bình Định Vương cười ha hả, ngắt lời:

- Tuy Khanh là võ tướng, mà lại có hình hài thanh tú của văn nhân. Đừng ngại chi ! Cứ nghe theo lời Trẫm, giả làm nho sĩ tiện hơn.

- Hạ thần xin tuân theo chỉ thị của Ngài.

--------------------------------

1. Hai võ tướng Minh trấn giữ xứ An Nam nhiều năm.

2. Trận này xảy ra vào giữa năm Giáp Thìn 1424, thanh thế Bình Định Vương sau trận này khá lừng lẫy. Trần Hiệp vội vàng làm sớ tâu Minh đế. Trước đó bọn quan nhà Minh còn khinh thị không tâu về Bắc Kinh.

3. Trận xảy ra vào cuối năm Giáp Thìn 1424.

4. Là cháu của Trần Nguyên Đán, là bậc khai quốc công thần nhà Lê.

 Chương 19: Cốt nhục tương phùng

Y lời Bình Định Vuơng, Trường Sơn đến Thăng Long sẵn trước một ngày Thúy Uyên hò hẹn trong thư.

Chiều đó chàng mặc chiếc áo nhiễu đen, đầu chít khăn đen như nhà nho, thả bộ vòng vòng ngoài thành nội để quan sát lực lượng phòng thủ của địch.

Nơi đây không như hoàng cung ở Thanh Hóa, bốn bề tường cao ngất. Quân Minh đặt nơi đây làm Toà Bố Chính,Án Sát, Chưởng Đô để cai trị đất Giao Chỉ (An Nam), nên thành trì sữa sang kiến cố, chớ không như thời vua Lý vua Trần dùng làm hoàng cung.

Thêm nữa lực lượng quân sự nhà Minh ở mặt Bắc đóng tại thành Đông Quan, nên sự canh phòng vô cùng nghiêm mật.

Khoảng nửa dậm có một chòi canh, (một dậm thời ấy vào khoảng 576m) bệ tường cao và dầy, làm cả lối đi. Thỉnh thoảng có vài tên binh mang gươm giáo sáng quắc, tay dắt đàn chó to lớn, loại chó săn miền Bắc Trung Hoa cao lớn

lông dài và hung tợn, đi thám thính chung quanh nội thành từ

trên cao…

Nhìn lối phòng vệ gắt gao của địch, Trường Sơn đâm lo. Dù rằng với võ công tuyệt đỉnh chàng có thể phóng qua tường, song bầy chó săn mới đáng sợ. Phải biết lúc nào không có bầy chó đi tuần hành, họa may mai có thể an thân vào bên trong.

Chàng vừa đi vừa suy tính…một lúc đến cửa thành hồi

nào không hay!

Khi xưa nơi đây là cửa ngọ môn, là vùng cấm địa. Từ khi nhà Hồ dời đô về Thanh Hóa, rồi quân nhà Minh chiếm đóng, vùng này tuy không là vùng cấm địa, nhưng dân chúng chẳng ai dám léo hánh tới gần.

Nhìn xa xa thấy bọn lính đứng lố nhố, Trường Sơn nhủ thầm:

- Ban phòng vệ trấn giữ nơi cửa chắc phải đông lắm!

Chàng đánh bạo đi lò dò tới gần xem lực lượng vệ binh cở

nào?

Để che mắt địch, chàng giả vờ vừa đi vừa ngâm nga đọc sách như kiểu nho sĩ gàn không sợ trời đất là gì, để tiện bề tới gần cửa thành xem cho rõ bên trong.

Bất ngờ lúc chàng vừa tới cỗng, bọn lính Minh đang cười nói đùa giỡn, bỗng hoảng hốt làm hàng ngũ dàn chào vô cùng long trọng. Hai tên vội vàng chạy tới mở banh hai cánh cửa rào, y như để chàng đi vô?

Trường Sơn lấy làm ngạc nhiên không hiểu vì sao bọn này mời chàng vô?

Lòng kinh động chân chàng hơi khựng lại, song vốn là con nhà võ gan lì, chàng cố giữ tự nhiên tiếp tục bước tới, mà trong bụng hết sức hoang mang.

Chốc chốc chàng gặp từng toán quân đi qua, thấy chàng chúng đều chào một cách trịnh trọng.

Trường Sơn vừa đi vừa nghĩ… vẫn không hiểu nổi thái độ quái lạ của bọn lính Minh ?

Trước mắt chàng bây giờ là cung vàng điện ngọc, dãy dọc

dãy ngang ...

Trời đã chạng vạng tối. Nhân khoảng đường vắng không thấy người, chàng liền phi thân tới núp phía sau một tòa lầu các, bụng nghĩ thầm:

« Ta bỗng dưng lọt được vào trong này thật là may mắn bất ngờ. Chứ như phóng qua tường như khi xưa đột nhập hoàng cung Thanh Hóa chắc dễ bị bại lộ vì bầy chó săn. »

Đêm nay chưa đúng ngày hẹn của Thúy Uyên, chàng không biết nơi đâu chỗ ngủ của tên Khâm sai họ Đoàn. Thừa dịp tối nay rỗi rảnh, chàng cũng nên lẻn vào các tòa nhà này xem cho rõ tình hình địch, nhân thể tìm người yêu ẩn nấp nơi đâu ?

Chàng nghĩ Thúy Uyên lẫn 1ộn trong đám nô tỳ, nên cố ý tìm chỗ nhà bếp. Chàng tìm quanh quất một lúc mới lọt vào chỗ nấu ăn, liền đứng ẩn mình phía sau một cái tủ, một chỗ có thể quan sát rõ nhà bếp và lối đi từ nhà trên.

Chàng thấy một tên Tàu bụng phệ, ở trần trùng trục, đứng trước hỏa lò nấu nướng. Chung quanh hắn ta có 4, 5 tên binh phụ làm việc lặt vặt, cười nói xí xô xí xào. Chốc chốc có vài ba tên binh từ nhà trên chạy xuống mang thức ăn.

Giờ này là giờ cơm, nên bọn chúng lăng xăng lo cơm nước. Trường Sơn đứng một lúc đoán chừng tòa nhà này chỉ là chỗ đóng binh, chắc không có tỳ nữ, nên rời chỗ núp chạy ra ngoài, lẻn đến tòa nhà bên cạnh.

Chàng lục lạo một lúc các tòa lầu các, thấy toàn chỗ ở của binh sĩ, trong lòng hết sức kinh động.

Có lọt vào đây mới rõ lực lượng hùng hậu của địch. Xem thế muốn tấn công thành này cần phải chia lực lượng của chúng đi nơi khác, may ra mới chiếm được.

Chàng vừa nghĩ vừa phi thân từ chỗ nọ đến chỗ kia. Một lúc sau trước mắt chàng hiện ra một cung điện nguy nga tráng lệ, đèn đuốc sáng rực như ban ngày. Có 3, 4 tên binh đứng gác trên mấy bậc thềm rồng.

Trường Sơn chắt lưỡi nghĩ thầm :

« Nơi đây là tòa chính điện, chỗ này là chỗ khi xưa vua lâm trào, chắc chắn ngày nay do các Đại quan nhà Minh chiếm ở nên mới có lính gác cẩn thận. »

Tim chàng vụt đập rộn ràng khi nghĩ chỗ này chàng có thể tìm gặp Thúy Uyên trong đám nô tỳ. Chàng rón rén đi vòng phía sau vì đoán là nhà bếp. Chàng đứng núp bên cửa sổ nhìn vào… thấy vô số đàn bà con gái đang lau rửa dọn dẹp.Giờ này cơm nước đã xong, các nàng vừa làm vừa ngáp vắng ngáp dài.

Chàng nhìn từng mặt các cô…không thấy nàng nào giống nàng tiên của mình, trong lòng có hơi thất vọng.

Bỗng lúc ấy có một toán 3, 4 cô đi vào, ăn mặc đẹp đẻ, đều màu hồng, mặt mũi xinh tươi. Các cô cười nói tíu tít bằng tiếng An Nam.

Chàng nghĩ bọn này là tỳ nữ hầu cận của đám phu nhân Tàu, nên mở mắt lau láu nhìn, song chẳng thấy cô nào là Thúy Uyên, nên chán nản toàn bỏ đi. Chợt có một toán khác 4, 5 cô, dung nhan cũng xinh lịch, mặc đồng phục màu xanh bước vào…

Trường Sơn lại một phen hồi hộp nhìn đám con gái ... Đang lúc chàng nhướng mắt nhìn mặt họ, bỗng nghe tiếng một cô trong bọn áo hồng vang lên:

- Từ nửa tháng nay bà chủ tôi mắc chứng bệnh vô cùng kỳ quái, cả ngày đóng cửa nằm trong phòng, không chịu cho ai tới gần, mà cũng không chịu uống thuốc. Trần đại quan vô cùng rầu rĩ.

Một cô trong bọn thanh y nói:

- Còn bà chủ tụi này mấy tháng nay hay khóc. Tội nghiệp Đoàn đại quan ... Tôi thấy nét mặt người lúc nào cũng âu sầu lo nghĩ ...

Một cô hồng y bỗng hỏi:

- In hình như Đoàn đại quan và Đoàn phu nhân ở riêng ?

Cô thanh y chợt nhỏ giọng đáp:

- Đúng vậy ! Tôi có cảm tưởng như Đoàn đại quan và Đoàn phu nhân không phải là vợ chồng. Họ không bao giờ ngủ chung, mà ổng lại cứ gọi vợ là tiểu thư mới là kỳ !

Một cô thanh y lên tiếng trách bạn:

- Chị Oanh Oanh chớ bàn chuyện riêng tư của chủ, nhỡ thấu đến tai hai người họ thì chị không toàn mạng đó nhé?

Cô thanh y có tên Oanh Oanh chống chế: -Tụi này nói tiếng An Nam họ làm sao hiểu được ?

Một cô hồng y vụt nói:

- Chị Oanh Oanh lầm rồi nhé ? Bà chủ của tôi nói tiếng

An Nam y như người mình vậy ! Cô thanh y Oanh Oanh cười hì hì: -Trần phu nhân là người An Nam, bà nói tiếng An Nam

không rành sao được ? Cô hồng y nghe nói, mở đôi mắt tròn xoe: -Ủa, ai nói cho chị biết bà chủ của tụi này là người An

Nam ?

Cô thanh y Oanh Oanh ấp úng đáp:

- Tại vì ...lúc mới tới Trần phu nhân hay xuống bếp nói chuyện với người nọ người kia bằng tiếng An Nam, nên ... em chắc là người An Nam. Vả lại em thấy Trần phu nhân đẹp quá! Trông bà giống như người An Nam vậy.

Một cô thanh y khác nghe Oanh Oanh nói, liền chu miệng xen vào:

- Bộ hễ đẹp là người An Nam ? Vậy Đoàn phu nhân cũng đẹp vậy, mà có phải là người An Nam đâu ?

Cô Oanh Oanh bướng bỉnh :

- Sao chị quyết chắc Đoàn Phu nhân không là gái An

Nam?

- Vậy chị có bao giờ nghe người nói tiếng An Nam chưa?

- Em chưa nghe, nhưng ... em có cảm tưởng như bà là người An Nam.

Các cô hồng y và thanh y bỗng bụm miệng cười hắc hắc. Một cô vừa cười vừa nói :

- Chị Oanh Oanh có nhiều tưởng tượng quá ! Có khi chị cho rằng hai vị Đại quan cũng là người An Nam. Như vậy nước mình cai trị bởi người An Nam, có phước quá !

Bị nói móc, cô Oanh Oanh xụ mặt, nhưng cô ta vẫn không chịu nhịn, nói :

- Ông chủ của chị bụng phệ râu rìa, chắc là người Tàu thật. Chớ còn ông chủ của tụi này ... em không thấy giống người Tàu tí nào ! Nhất là khi ổng giả làm người An Nam đi ra ngoài, ổng đẹp .. như ...như

Cả bọn nghe Oanh Oanh nói đều cười ồ. Một cô thanh y nãy giờ im lìm, vụt nghiêm giọng giải thích :

- Trần đại quan và Đoàn đại quan đều là người Trung Hoa sang đây cai trị nước mình. Các chị không cần phải bàn bạc nữa. Người Trung hoa với người mình không khác bao nhiêu, nên chị Oanh Oanh mới lầm tưởng như vậy !

Cô thanh y Oanh Oanh chợt nói:

- Em bị bắt vào đây từ đời Thượng Thư Hoàng Phúc.Tên ấy và phu nhân hắn từ hình hài đến cử chỉ quả thật người Tàu ! Nhất là thái độ hống hách hung hăng của họ đối với bọn tôi tớ An Nam. Còn Đoàn đại quan nghe nói chức vụ lớn nhất ở triều đình Trung quốc, như Thừa Tướng vậy, mà tánh tình hoà nhã dễ chịu, vị phu nhân cũng dịu hiền. Cả hai đối xử rất tốt với mọi người, không giống người Tàu, nên em mới nghĩ thế.

Các cô thanh y đồng nói:

- Em đồng ý với chị Oanh Oanh điểm này. Đoàn Khâm sai và Đoàn phu nhân thật là người tốt.

Cô hồng y vụt xía vô:

- Tuy em không phục thị cho Đoàn đại quan của các chị, nhưng em thấy ông ta đẹp dễ mê quá. Đàn ông con trai An Nam mình chưa thấy ai đẹp như vậy !

Hai đám con gái nghe nàng này nói đều khúch khích cười, rồi chia nhau đi ngủ.

Trường Sơn nãy giờ lắng nghe câu chuyện của họ, chàng biết ngay đám áo hồng phục thị cho tên quan Tàu họ Trần, mà chàng đoán là tên Binh Bộ Thượng Thư Trần Hiệp sang cai trị An Nam từ hai năm nay thay cho Hoàng Phúc. Còn đám thanh y thì phục thị cho tên Khâm sai họ Đoàn. Chắc chắn hắn là tên Đoàn Hoài Nam mà Thúy Uyên đã nói trong thư.

Theo lời bọn này thì tên Khâm sai họ Đoàn hay giả làm người An Nam đi ra ngoài dọ dẫm tình hình dân sự nước mình. Chàng nhủ thầm :

« Hắn quả thật là con người nguy hiểm ! Hèn chi Thúy Uyên muốn thanh toán hắn là phải ! »

Có điều chàng lấy làm lạ, không hiểu tại sao bọn con gái An Nam lại ca tụng hắn ? Chẳng lẽ vì hắn quá đẹp trai, bọn này si mê nên ca tụng hắn ? Chắc không phải ! Vì theo lời bọn họ nói, hình như hắn là người ôn hòa dễ chịu, không hống hách với kẻ dưới, nên mới được lòng đám nô tỳ.

Một cô áo xanh còn đứng đó đun nước nấu trà. Cô ta bảo đồng bạn :

- Các chị đi ngủ trước đi, em còn phải mang trà cho Đoàn đại quan mới xong phận sự.

Bấy giờ bọn con gái áo hồng, áo xanh, đều kéo nhau đi hết. Bọn trong nhà bếp dường như cũng không còn ai. Trường Sơn tính thầm :

- Ta đi theo nàng này đến chỗ tên họ Đoàn hạ sát hắn ngay đêm nay. Ta cần gì phải chờ đến tối mai ? Nhỡ ngày mai ta bị bại lộ, có thể bị bắt, có thể bị giết, thì không thể thanh toán hắn ta theo sự yêu cầu của Thúy Uyên.

Chàng tự hỏi :

« Vì sao Thúy Uyên không có trong đám áo xanh, áo hồng ? Phải chăng nhà trên còn có một số tỳ nữ khác ? Hay là... nàng là vợ của Trần Hiệp, mà bọn áo hồng khi nãy nói bà chủ chúng là người An Nam, lại đẹp nữa ?

Nghĩ đến đó tim chàng đau nhói lên. Bây giờ cô thanh y đã châm xong bình trà, cô đặt lên cái khay bạc sáng ngời khệ nệ bưng đi.

Trường Sơn không chần chờ, phóng qua cửa sổ, nương mình theo cô gái… Nhờ chàng có võ nên bước chân thật nhẹ nhàng, đi sát một bên mà cô gái không hay biết gì !

Đi một lúc qua dãy hành lang thì tới bậc thang leo lên lầu, rồi quẹo về phía tả.

Trường Sơn nhớ trong thư Thúy Uyên cũng dặn đúng như vậy.

Khi cô gái bước tới cửa phòng gỏ cửa. Bên trong có tiếng nói đầm ấm vang lên. Trường Sơn không hiểu hắn ta nói gì, vì hắn nói tiếng Trung Hoa. Có điều giọng nói này làm cho chàng bâng khuâng mà không hiểu vì sao ?

Cô gái mở hé cửa lách mình đi vào. Bên ngoài đèn mờ ảo, nhưng đèn bên trong sáng rực hắt ra. Trường Sơn thấy rõ đây là phòng làm việc.

Chàng nghĩ :

« Giờ này đã khuya rồi mà hắn còn làm việc, thì quả là một tên quan cần mẫn và lợi hại. Cũng có thể hắn có võ nghệ tuyệt luân, nên mới dám xông xáo ra ngoài thành trà trộn với dân An Nam để dọ dẫm. Tốt hơn chàng nên cẩn thận, chờ hắn ngủ say mới ra tay. »

Vì nghĩ thế nên chàng tìm chỗ ẩn núp.

Trước dãy hành lang có đặt rải rác mấy chậu kiểng to lớn, lá cành sum sê. Chàng ẩn mình một chỗ, vừa đúng lúc cô gái bước ra khép cửa, rồi đi thẳng không nghi ngờ gì cả.

Sự thật khắp tòa nhà đèn lồng treo rải rác, nếu cô gái lưu ý chắc chắn trông thấy chàng ngồi lù lù đó.

Trường Sơn ngồi một lúc bực bội đứng lên quan sát đó đây

...

Từ chỗ chàng đứng nhìn thấy toàn diện khu hoa viên phía dưới.

Đêm nay trăng lưỡi liềm ánh sáng thật mờ ảo. Từ lầu cao chàng không trông rõ cỏ cây hoa lá của vườn Ngự Uyển, nhưng hương hoa ngào ngạt bay theo gió phảng phất đó đây, khiến chàng ngất ngây tưởng nhớ hồi 18 năm về trước ở hoàng cung Thanh Hóa…

Vườn Thượng Uyển ngày xưa có lẽ không rộng lớn và xinh đẹp như nơi đây, nhưng cũng một mùi hương quí, khiến chàng có cảm tưởng như đang sống trong thời dĩ vãng cùng em len lỏi vào cung Hồ…

Thuở ấy anh em chàng vừa đúng 21 tuổi, tuổi hoa niên chưa nếm mùi cay đắng, mà nay đã hơn nửa đời người, phong trần dày dạn, khổ đau đã nhiều. Chẳng biết ngày gặp nhau có còn nhận ra không ?

Chàng đứng ngẩn ngơ nhìn cảnh vật dưới trời đêm, sương sa lớp lớp ướt cả khăn áo ...

Lúc ấy có một người từ trong phòng mở cửa đi ra nhìn trời… Bất thần người ấy đứng khựng lại, khi trông thấy một người đứng như pho tượng trước hành lang phòng mình.

Trường Sơn nghe tiếng động kinh hãi quay mặt lại… Người kia cũng vừa trông thấy mặt chàng, cả hai trố mắt nhìn nhau, ngây người chết sững !

Thời gian trôi qua không biết bao lâu, hai pho tượng như cùng đúc một khuôn mới nhúc nhích được. Cả hai nhào tới ôm chầm lấy nhau, đồng lúc với câu nói nghẹn ngào phát ra cùng một âm thanh :

- Có lẽ nào ? Tôi có nằm mơ không ?

- Anh đây ! Hiền đệ ơi, anh đây !

Vòng tay huynh đệ xiết chặt nhau, nỗi xúc động của cuộc hội ngộ bất ngờ khiến họ nghẹn lời không nói được, bốn mắt cùng rơi lệ !

Một lúc sau Trường Giang kéo anh vào phòng, khép cửa lại. Cả hai ngồi chung trên chiếc ghế trường kỷ, Trường Giang cười nói qua màn lệ :

- Ngọn gió nào đưa anh tới đây ? Mười mấy năm nay lúc nào em cũng tin tưởng anh còn sống và có ngày chúng mình gặp nhau. Nhưng quả thật em không ngờ đêm nay !

Trường Sơn vỗ vai em, nghẹn ngào nói :

- Trời ơi, tài trí phi thường của hiền đệ anh khâm phục từ lâu. Nhưng nói thật, anh không tưởng tượng nổi em lại là một đại quan Tàu, đứng đầu hàng ngũ địch ! Hiền đệ ơi, cha mẹ ta dù đã chết, nhưng anh chắc chắn dưới suối vàng cũng ngậm cười hãnh diện vì em.

Trường Giang nghe anh nói, thất sắc kêu lên :

- Mẫu thân đã chết ! Vì sao ?

Trường Sơn nghẹn một lúc mới đáp :

- Mẫu thân và tổ mẫu chết ngay đêm rời bãi Sầm Sơn cùng với đoàn người di tản. Anh là kẻ duy nhất sống sót trong thảm cảnh hồi 18 năm về trước.

Chàng không nói thêm nữa, hai tay ôm mặt.

Trường Giang gục đầu nơi thành ghế thổn thức từng cơn… Một lúc chàng ngẩng mặt lên nhìn anh, xót xa hỏi :

- Cuộc đời mười mấy năm nay ra sao ? Anh hãy kể cho

em rõ.

Trường Sơn lau nuớc mắt, gượng cười :

- Nỗi đoạn trường kể sao cho xiết ? Bao phen anh muốn liều mình tự tử để không phải sống bơ vơ khốn khổ nơi xứ người. Nhưng vì lời dặn dò của cha, vì cái nhục vong quốc mà anh phải gắng sống…

Chàng tóm tắt nỗi gian truân sau khi mẹ và bà nội chết. Nửa năm làm thợ rèn ở huyện Bình Khê Chiêm Thành. Rồi kết nghĩa với thái tử Chiêm trường hợp nào… Cuộc đời sau đó ra sao…Chàng nhất nhất kể lại cho em nghe.

Chàng nói :

- Mỗi khi anh gặp khó khăn trong việc giao thiệp với người nước ngoài, anh nhớ hiền đệ vô cùng và thầm khấn nguyện trời đất cho anh em ta còn gặp nhau.

Trường Giang cũng nghẹn ngào kể lại khoảng đời mình, đem tài trí vẫy vùng trên đất địch, danh vọng lẫy lừng, quyền thế tột bực. Đồng thời với đòn cân nảo mượn tay người (hai dân tộc Mãn Mông) gây rối loạn trên mãnh đất Trung Nguyên ra sao…

Đến lượt chàng kể : Vì tức giận Trương Phụ bắt đàn bà con gái An Nam về Tàu, nên mới trả thù bằng cách thu nhận đám con quan Tàu cho làm gia nhân nô tỳ. Cưới con gái Dương sĩ Kỳ để rửa nhục cho đàn bà Nam quốc, dè đâu lúc chạm mặt mới nhận ra là chị dâu. Dở khóc dở cười trước hoàn cảnh, chàng quyết giấu nhẹm nguồn gốc với Thúy Uyên và tiếp tục đóng vai trò tên quan Tàu với nàng, mà một lòng kính trọng chăm sóc nàng như gia tẩu.

Chàng nhìn thẳng vào mắt anh, nói một lời tâm huyết :

- Em chỉ mong ngày gặp lại gia huynh để trao trả một chị dâu trọn vẹn.

Trường Sơn nghe em nói nước mắt lã chã tuôn rơi. Chàng đã có nghe bọn gia nhân nô tỳ khi nãy bàn tán về tình trạng chồng vợ của Đoàn đại quan với Đoàn phu nhân, nên những lời Trường Giang vừa mới nói ra chàng đã rõ biết hết !

Chàng nói trong cảm xúc nghẹn ngào :

- Hiền đệ hy sinh cho anh quá nhiều ! Duyên tình của anh từ đầu đến cuối đều do hiền đệ tạo cho. Anh thật không xứng đáng nhận lãnh sự hy sinh cao cả của em.

Trường Giang nắm tay anh nói giọng thương yêu :

- Hiền huynh xứng đáng trên muôn một ! Đôi tay dũng tướng của anh đã lèo lái con thuyền cứu quốc, đưa Bình ĐịnhVương về bến vinh quang. Tổ quốc sẽ ghi công ơn anh, dân tộc sẽ nhớ ơn anh và em mãi mãi thương yêu kính phục anh, người hùng của thế hệ.

Trường Sơn vẫn giọng bi thương :

- Tài sức anh sá gì với cái trí siêu việt của hiền đệ mà hiền đệ nhọc lòng khâm phục ?

Trường Giang nghiêm giọng :

- Văn chỉ để trị thiên hạ, chớ không thể bình thiên hạ. Tài trí em có thế nào cũng cần đôi tay dũng tướng. Sự hy sinh xương máu của nhà võ là sự hy sinh to lớn nhất mà không ai có thể phủ nhận được.

Dưới ánh đèn sáng rực, chàng nhìn gương mặt anh rắn rỏi phong trần, làn da đậm màu nắng cháy… Lòng chàng bồi hồi xúc động, xiết chặt bàn tay chai cứng của anh nghẹn ngào nói:

- Thương cho đời anh giãi nắng dầm sương.

Trường Sơn bấy giờ mới ngước mắt quan sát em ...

Mười tám năm qua gương mặt phong lưu tuấn nhã của Trường Giang không có nhiều thay đổi, vì chàng sống trong lầu son gác tía, ăn sung, mặc sướng, kẻ hầu người hạ ... Có điều đầu óc lúc nào cũng căng thẳng bởi những trận giặc trí não với địch, lại thêm tâm tư dằn vật bởi nỗi hận tình, đã làm cho mái tóc chàng điểm hoa râm.

Bây giờ giữa hai anh em đã có sự khác biệt !

Một Trường Sơn với dáng phong trần lãng tử. Một Trường Giang biểu hiện nét một học giả uyên thâm tột bực.

Trường Sơn buột miệng nói :

- Nhìn mái tóc hoa râm của hiền đệ anh cũng rõ được nỗi khổ lòng của em đã nặn óc mài tâm, để rửa cái hận vong quốc cho dân cho nước.

Trường Giang chợt thở dài :

- Gia huynh ơi, tâm trí em đã mệt mỏi lắm rồi ! Mong cho đại sự chóng thành, quân thù sớm ra khỏi biên cương, để em rút lui về miền hoang dã xa lánh những phiền toái của đời.

Chàng bỗng chợt nhớ ra, không hiểu vì sao gia huynh biết chàng nơi đây mà đến tìm, nên hỏi :

- Do đâu hiền huynh biết em hiện ở đây ?

Trường Sơn móc trong túi áo lấy ra bức thư của Thúy Uyên gửi Bình Định Vương trao choTrường Giang và nói :

- Cũng vì bức thư này mà anh tới đây.

Trường Giang thoáng nhìn nét chữ của Thúy Uyên, lòng đã kinh động. Chừng đọc xong bức thư, chàng không khỏi kinh hãi!

Bây giờ chàng mới nghĩ ra hai lần Thúy Uyên muốn giết chàng… Một lần nài ép chàng ăn nấm độc, một lần lẻn vào phòng chàng lúc nửa đêm với thanh đao nhọn. Sáng hôm ấy chàng nhặt thanh đao bên cạnh giường, trong lòng mãi thắc mắc không hiểu Thúy Uyên đem qua làm gì?

Giờ đây chàng mới hiểu tâm trạng "yêu thù" của nàng trầm trọng thế đó! Chàng buột miệng kêu lên:

- Té ra bấy lâu nay nàng ra tay giết em mà không thành,nên nay nàng cầu cứu Bình Định Vương. Ôi ghê gớm thay đàn bà Nam quốc!

Trường Sơn nghe em than mấy lời, vội an ủi :

- Chẳng qua nàng nghĩ em là tên quan Tàu nên mới hành động như thế. Cũng may người vào đây là anh, chứ như là kẻ nào khác thì oan nghiệt biết chừng nào ! Em đừng oán giận

Thúy Uyên em nhé ?

Trường Giang mỉm cười, lắc đầu :

- Cũng vì hai lần em giả vờ đưa kế hoạch để Bình ĐịnhVương thua, nên gia tẩu mới oán hận em thế đó. Chứ nếu biết được Bình Định Vương chỉ giả thua theo kế hoạch của em, chắc nàng ...

Chàng không nói hết câu, vì chàng biết Thúy Uyên yêu chàng, nên mỗi lần muốn giết chàng, nàng đều khóc.

Đáng phục cho nàng biết đặt nợ nước trước tình riêng. Mỗi lần muốn thực hiện việc giết chàng, chắc nàng phải cố gắng và khổ đau nhiều!

Chàng nghe thương hại chị dâu, nên bảo anh nửa đùa nửa thật:

- Đêm mai em giả vờ chết bởi người của Bình ĐịnhVương cho nàng thỏa nguyện. Sau đó hiền huynh nên đưa nàng ra đi. Để nàng gần em, nguy hiểm quá!

Trường Sơn cười, lắc đầu:

- Bữa nay em cũng nên xuất đầu lộ diện, để nàng biết em là gia đệ của anh, mà không có những hiểu lầm đáng tiếc về sau.

Trường Giang thầm nghĩ:

«Mười năm chung sống, tuy không ái ân, nhưng Thúy Uyên đã nặng tình cùng chàng, nàng cũng đã thú nhận yêu

chàng. Nếu nay biết chàng là gia đệ của vị hôn phu, nàng xấu hổ chết được! Chi bằng hãy để cho Đoàn Hoài Nam chết thật trong tâm trí nàng, cho nàng hạnh phúc trọn vẹn bên gia

huynh ».

Vì nghĩ thế nên chàng nói tránh rằng:

- Gia huynh ơi, gia tẩu đã hai ba lần toan giết em, mà nay nếu nàng biết được em là gia đệ của anh, nàng xấu hổ ngượng ngùng lắm. Chi bằng anh đừng nói cho nàng biết gì về em, để nàng đinh ninh mình đã "hạ thủ" được tên quan Tàu, rửa được quốc thù. Như vậy mới thỏa nguyện cho tấm lòng ái quốc của nàng đó anh.

Trường Sơn ngẫm nghĩ một lúc nói :

- Chẳng lẽ từ đây về sau em và nàng không nhìn mặt nhau? Chẳng lẽ anh em ta không gặp nhau nữa?

Trường Giang cương quyết đáp:

- Có khó gì việc anh em ta hò hẹn tìm gặp nhau ? Còn việc anh muốn em nhận là gia đệ của anh trước mặt gia tẩu, em khuyên anh nên chờ đợi một thời gian.

Trường Sơn thở ra :

- Thôi thì mọi việc tùy em quyết định.

Trường Giang bỗng chắt lưỡi nói :

- Em thật không ngờ các cuộc mật bàn quân sự giữa bọn nhà Minh gia tẩu đã rình nghe.

Trường Sơn nói với ánh mắt ngời hạnh phúc :

- Ngày Bình Định Vương nhận được thư em cũng là ngày nhận được thư của Thúy Uyên. Nàng bí mật đưa tin từ một năm qua.

Trường Giang gật đầu :

- Em đưa nàng về nước đúng một năm. Như vậy nàng đã hoạt động từ phút đầu đặt chân trên quê hương. Quả là một nữ nhi trung liệt ! Nếu em là một tên quan Tàu thật, có vợ như nàng đáng sợ biết bao !

Trầm ngâm một lúc chàng hỏi :

- Làm sao anh nhận biết là nàng ?

- Chính thân huynh của nàng là Nguyễn Trãi đã nhận ra nét chữ và dấu hiệu con chim Uyên.

Trường Giang cười nhỏ :

- A, phải rồi ! Suýt chút nữa em quên nàng có gia huynh dưới trướng Bình ĐịnhVương ! Theo em dò biết, gia huynh của nàng là một người tài trí lắm.

- Phải ! Một người tài trí hơn người. Nhưng người ấy khâm phục em lắm và rất muốn làm quen với em đó. Mỗi lần được thư em, người ấy đọc nghiền ngẫm rồi nói : « Trên trời đất này khó tìm được một người thứ hai văn tài trác tuyệt và trí tuệ siêu việt như em. »

Trường Giang cười nhẹ :

- Người ấy nói quá lời.

Bỗng dưng Trường Sơn như nhớ ra điều gì :

- Anh có một điều thắc mắc là mỗi kỳ Bình Định Vương đều nhận được ba nguồn tin. Vậy ngoài Thúy Uyên và em đưa tin, còn người thứ ba là ai ? Người này móc nối với Bình Định Vương trước em và Thúy Uyên nửa năm.

Trường Giang nghe anh nói, vẻ mặt vô cùng xúc động, hỏi giọng hơi run :

- Nét chữ của đàn bà phải không ?

- Chính thế ! Mọi người ở Mật khu đều nhận ra là bút tự của phụ nữ. Nguyễn Trãi đoán rằng có lẽ là một cô gái An Nam trong đám nô tỳ của quan lại nhà Minh. Hôm nhận được tin Thúy Uyên, anh cũng nghĩ nàng trong số nô tỳ.

Trường Giang nói qua hơi thở :

- Nàng chính là phu nhân của Trần Hiệp đó.

Nghe giọng nói khác lạ của em, Trường Sơn kinh ngạc trố mắt nhìn em … Trường Giang cúi mặt nói tiếp bằng lời uất nghẹn :

- Nàng ấy chính là Huỳnh Như !

Sau câu nói mặt chàng trắng phệt, khoé miệng giật giật, mắt đỏ ngầu.

Trường Sơn nhìn thần sắc của gia đệ cũng đoán được nỗi thống khổ trong lòng em.

Thúy Uyên may mắn nhờ Trường Giang che chỡ đến ngày nay để cuộc tình duyên chàng trọn vẹn. Còn Huỳnh Như, người yêu của em, lại rơi vào tay giặc. Thảm thiết cho cảnh ngộ của hai người biết bao !

Chàng thương em quá, nhưng không biết nói lời gì để an ủi, đôi mắt ngấn lệ…

Trường Giang ngồi im một lúc vụt đứng lên gượng cười bảo anh :

- Không ngờ nước ta có hai bậc nữ lưu trung liệt, đáng lưu danh sử sách ! Đàn bà như hai nàng không hổ là con cháu Trưng Triệu thuở xưa.

Bất thần chàng có cảm tưởng như có một luồng khí lạnh chạy từ chân lên đỉnh đầu, khi nghĩ rằng : "Thúy Uyên đã ba lần tìm cách giết chàng vì kế hoạch chàng đưa ra Bình Định Vương thua trận, thì Huỳnh Như có để yên cho chàng không? »

Chàng bỗng nhớ đến cách đây nửa tháng, đang khi dùng cơm trưa với Thúy Uyên, con hầu Huỳnh Như hơ hãi chạy vào nài nỉ chàng qua phòng cứu chủ nó đang đau bệnh trầm trọng. Nào đâu tới nơi chàng thấy nàng ngồi bình tĩnh trên ghế trường kỷ, không có vẻ đau bệnh gì nguy kịch cả.

Nàng nhờ chàng biên toa thuốc, chàng chưa kịp biên, nàng đã vội rót rượu mời chàng uống.

Phải chăng chén rượu ấy là chén rượu độc, nên phút chót nàng sợ hãi ngất xỉu ?

Phải chăng Thúy Uyên đã biết trước, nên vừa thấy con hầu của Huỳnh Như, nàng đã thất sắc kinh hoàng ?

Chắc chắn hai nàng đã mưu tính giết chàng lần đó !

Bây giờ chàng mới ghê sợ hai cô gái An Nam này ! Bây giờ chàng mới biết rằng, dù với trí tuệ phi thường lo liệu đủ cả, vẫn có sơ hỡ !

Bởi vì trước mắt chàng, hai nàng là người thân yêu, nên chàng không đề phòng. Nhưng lại quên nghĩ rằng : "Chàng là tên quan Tàu, là kẻ thù số một của hai nàng !".

Cũng may số chàng không chết vì họ, chứ không lúc hồn lìa khỏi xác chắc uất ức lắm !

Trường Sơn thấy em có vẻ mệt mỏi nên bảo :

- Thôi anh em mình nghỉ ngơi một lúc, mai ngày nói chuyện tiếp.

Trường Giang cười nhẹ :

- Mười tám năm xa cách, dù tâm sự một năm cũng chưa hết ! Đêm nay em có thức trắng đêm để hàn huyên cùng anh cũng không thấy mệt.

Trường Sơn như nhớ ra chuyện gì vui, bật cười thành tiếng :

- Anh nghĩ tới chuyện này tức cười quá ! Đang khi anh dọ dẫm tình hình ngoài thành nội, thấy tường cao, quân lính canh phòng nghiêm ngặt, có hơi lo. Nào dè khi chân vừa bước trờ tới cửa ngọ môn, bọn lính Minh vừa trông thấy anh đã vội vàng mở rộng cửa rào mời anh vào. Anh làm gan bước vô mà trong bụng hết sức hoang mang, không hiểu nổi vì sao bọn họ làm thế ?

Trường Giang phì cười :

- Anh biết tại sao không ? Cũng vì thường ngày em hay ăn mặc giả làm người An Nam ra ngoài thành. Thỉnh thoảng em cũng mặc chiếc áo nhiễu đen, đầu chít khăn đen như anh, nên chúng ngỡ là quan Khâm sai họ Đoàn.

Trường Sơn cười ngất :

- Hèn chi mỗi lần gặp anh bọn chúng chào thật nghiêm chỉnh. Khiến anh chẳng hiểu chúng dỡ trò gì ?

Chàng cười cười, nói pha trò :

- Bọn ấy vì tưởng là Đại quan của chúng nên hồn vía bay mất không nhìn cho kỹ, chớ không chúng đã nhận ra "đại quan này mặt mày đen thui ».

Trường Giang cười :

- Cái may là anh chít khăn, chúng không thấy tóc anh đen quá. Còn đại quan của chúng tóc hoa râm.

Sự thật hai anh em hình vóc như in, nếu không đứng gần người lạ khó tìm ra khác biệt. Cái may là bọn lính không dám hỏi lôi thôi với đại quan của chúng. Chớ nếu chúng nói chuyện tiếng Trung Hoa với Trường Sơn, chàng không hiểu gì có khi đã gây rắc rối.

Đang khi hai anh em cười nói, bỗng có tiếng gõ cửa. Trường Giang ra dấu bảo anh núp sau cánh cửa. Chàng hé cửa ló mặt nhìn ra, thấy con hầu mang tới bình trà nóng. Nó nói :

- Bẩm đại quan, giờ này đã đúng ngọ. Con xin phép mời đại quan ra dùng cơm. Lệnh bà đang chờ ngài nơi phòng ăn.

Trường Giang nghe con hầu nói không khỏi giật mình. Té ra hai anh em chàng nói chuyện suốt đêm và nửa ngày hôm sau, mà không hay !

Chàng đón lấy cái khay trà, vừa nói :

- Ta làm việc suốt đêm không ngủ nên quên cả ngày giờ, mà công việc cũng chưa xong. Ngươi thưa lại với phu nhân : « Nói ta bảo nàng ăn trước, đừng chờ. Lúc nào đói bụng ta sẽ ăn sau. ». Phần ngươi hãy xuống nhà bếp mang lên đây cho ta một mâm cơm đầy đủ thức ăn, phần ăn cũng nhiều hơn thường ngày. Nhưng ngươi chớ nói cho phu nhân ta rõ việc này nhé.

Con hầu vâng dạ bước đi. Trường Giang khép cửa lại, rồi rót trà đưa cho anh một chén, bảo nhỏ :

- Giờ này đúng ngọ rồi, anh biết không ? Anh em mình nói chuyện vang rân trong này, hy vọng không ai nghe.

Vì con hầu với Trường Giang nói tiếng Trung Hoa, Trường Sơn không hiểu gì. Chừng nghe em nói đã đúng ngọ, chàng nhảy nhỏm, kêu khẽ :

- Thời gian trôi nhanh quá ! Chẳng mấy chốc chúng ta phải chia tay ! Trường Giang nhỏ giọng :

- Hiền huynh à, trang trại của cha ở Mường Lai em đã thuê người xây dựng lại từ một năm qua. Thỉnh thoảng em trở về đó. Vậy anh có muốn nhắn nhủ em điều gì, có thể để tin lại đó.

- Hiền đệ giao cho ai trông coi ?

- Giao cho lão Tứ, hiền huynh còn nhớ lão chứ ?

- Nhớ chớ ! Hiền đệ gặp lão ở đâu vậy ?

- Ở Tràng An. Gặp lão em mới biết tin cha tử nạn hồi năm Mậu Tý. Nét mặt chàng vụt dàu dàu : -Em đi tìm mộ cha để cúng vái, nhưng không thấy nữa. Bọn cướp nước đào mồ cuốc mả phụ thân ! Trường Sơn nghe em nói đôi mắt ửng đỏ, nói giọng oán hờn : -Vụ này anh đã khóc bao lần và thề với linh hồn cha tiêu diệt lũ vô thần. Khi xưa anh chôn xác mẫu thân ở một làng

hẻo lánh ở Chiêm Thành, mỗi lần nghĩ tới đều xót xa thương mẹ vùi thây xứ người. Giờ ngẫm nghĩ lại, nếu mẹ chết ở quê nhà mồ mả cũng không yên ! Thật chưa có thời đại nào bi thảm như vậy.

"Người sống phập phòng lo sợ, không biết chết lúc nào ? Người chết hồn bay vật vờ, không biết thây vùi nơi đâu ?"

Đang lúc nhắc nhỡ chuyện xưa, hai anh em bỗng nghe tiếng bước chân ngoài hành lang, liền nín im. Trường Giang đoán chừng con hầu khi nãy trở lại nên hé cửa phòng nhìn ra. Dè đâu Thúy Uyên tới tìm chàng với đôi mắt ướt lệ.

Có lẽ nàng nghĩ đêm nay là đêm cuối cùng, nên muốn được cùng chàng ăn buổi cơm chung. Nàng nói thật nhỏ :

- Đoàn lang, thiếp ước muốn cùng chàng ăn buổi cơm

chung hôm nay.

Trường Giang muốn thử lòng nàng, nên nói :

- Tiểu thư với tôi ăn chung trọn đời, sá gì buổi này tôi bận việc vắng mặt một lần, tiểu thư sao lại bận tâm như vậy?

Thúy Uyên đổ nước mắt hàng hàng :

- Chàng nói đúng lắm ! Chúng ta vĩnh viễn không xa

nhau.

Câu nói của nàng khiến Trường Giang kinh tâm không ít. May mà cả hai nói tiếng Trung Hoa, Trường Sơn không hiểu.

Trường Giang thầm nghĩ :

« Đêm nay ta phải tính mưu kế sao cho vẹn. Chớ có khi ta chưa kịp giả chết, nàng đã hủy thân trước thì nguy ! ».

Thấy nàng tiều tụy, chàng thương cảm muốn tới phòng ăn chung với nàng, cho nàng thoả nguyện, nhưng nhắm không thể bỏ gia huynh trong phòng một mình, nên đành nói :

- Hôm nay tôi bận lắm. Tiểu thư nên ăn trước đừng chờ. Tôi hứa ngày mai sẽ làm vừa ý tiểu thư.

Câu nói của chàng làm nước mắt nàng tuôn như suối. Nàng cúi mặt lủi thủi bước đi…

Trường Giang khép cửa, quay bước trở vào muốn nói cho anh rõ người ấy là Thúy Uyên, nhưng không hiểu sao chàng lặng im ?

Cũng may Trường Sơn không hỏi, vì chàng nghe hai người nói tiếng Trung Hoa, nên không tưởng người ấy là Thúy Uyên.

Thúy Uyên vì đóng vai trò con gái của Dương Sĩ Kỳ, nên nói chuyện với mọi người đều bằng tiếng Trung Hoa. Huỳnh Như thì trái lại, khi nói chuyện với người An Nam, nàng nói tiếng An Nam. Chỉ trừ lúc nói chuyện với Thúy Uyên mà có kẻ thứ ba thì nàng mới nói tiếng Trung Hoa.

Trường Giang từ khi lưu lạc tới đảo Hải Nam quen nói tiếng Trung Hoa, nên lúc mở miệng chàng nói tiếng Trung Hoa một cách tự nhiên, nhờ vậy không bị lộ.

Khi Trường Giang vừa về tới quê nhà, chàng vội vàng gọi thầy vào nội thành dạy chàng tiếng An Nam để Trần Hiệp và bọn quan nhà Minh không có điều nghi kỵ. Trần Hiệp qua tới An Nam cũng học ngay, lão nói được ít ít. Chừng thấy chàng mới học sau mà nói rót rót, lão ngán sợ vô cùng, thầm nhủ :

- Người này có trí óc siêu việt, hèn chi hoàng thượng nể vì thương quí cũng phải !

Trường Giang giả vờ học tiếng An Nam để qua mặt bọn quan lại nhà Minh, mỗi khi ra thành một mình bọn ấy không thắc mắc. Nhưng khi nói chuyện với bọn nô tỳ gia nhân người An Nam, chàng vẫn nói tiếng Trung Hoa. Thành ra mọi người đinh ninh chàng là người Tàu chính cống.

Trường Sơn nghe em nói tiếng Trung Hoa quá rành, buột miệng khen :

- Hiền đệ nói tiếng Tàu giỏi hơn người Tàu nữa là khác !

Trường Giang cười :

- Thật ra em chỉ nói được 3 ngôn ngữ thông dụng của họ thôi. Đó là tiếng Quan Thoại, Phúc Kiến và tiếng Quảng. Gia huynh biết không ? Xứ họ có mấy chục thổ ngữ khác nhau, nên giữa họ với nhau cũng không hiểu. Tiếng Quan Thoại là tiếng miền Bắc, giọng nghe êm đẹp hơn tiếng Quảng. Tiếng Quảng nghe chướng tai lắm, nên người mình mới nói họ"xí xô xí xào » là vậy !

Một lúc sau con hầu mang đến cho chủ mâm cơm đầy cao lương mỹ vị, nhưng chỉ có một cái chén và một đôi đủa. Thành ra hai anh em cùng nhường nhịn, không ai chịu dùng. Rốt cuộc cả hai cùng bốc.

Trường Sơn vụt nhớ hồi trôi giạt tới bờ biển Chiêm Thành, chàng được cha con người đánh cá cứu về nhà. Buổi cơm dọn ra mọi người cho tay vào nồi bốc ăn, nên thuật lại cho em nghe, rồi nói :

- Đời anh phong trần dày dạn, ăn bốc, uống nước gàu ...lúc đói, lúc khát… Chẳng cầu kỳ chi hết ! Nhất là những lúc hành quân bị địch bao vây có khi uống cả nước bùn, ăn cả cỏ ! Nên anh đã quen sống thiếu thốn mà không thấy khổ. Có thể

nói bữa nay là bữa ăn thịnh soạn và ngon nhất trong đời anh từ 18 năm qua.

Trường Giang ngùi ngùi :

- Những thứ này em ngán ngẫm lắm, nhưng hôm nay gặp lại anh nỗi mừng vui làm em ngon miệng. Cũng có thể nói là bữa cơm ngon nhất của em từ khi anh em mình chia tay.

Sau buổi ăn hai anh em bàn chuyện quân sự. Trường Giang trao cho anh một phong thư, bảo rằng :

- Tất cả những chi tiết về việc tấn công thành Đông Quan này em đều ghi rõ ở trong. Vậy anh cứ trình lên Bình Định Vương kế hoạch của em.

Trường Sơn nói :

- Hôm qua anh dọ dẫm tình hình trong nội thành, thấy binh lính quá đông, sợ quân mình ít ỏi tấn công không nổi. Mà nếu dồn tất cả lực lượng quân ta về đánh Đông quan, e rằng các địa phương đã chiếm được bị tấn công.

- Kế hoạch em đưa ra có tiên liệu điều này. Nghĩa là ta đưa quân đánh Đông Quan, nhưng giả vờ đưa binh vây Nghệ An, Thanh Hóa. Bọn Trần Trí, Trần Hiệp tưởng phe ta tấn công hai nơi đó, sẽ đưa đám binh tinh nhuệ ở đây vào Thanh Hóa và Nghệ An tăng cường. Lúc ấy Đông Quan bỏ ngỏ, ta đánh thốc vào. Đó chính là kế dương đông kích tây đấy mà !

- Anh hiểu ý hiền đệ rồi !

- Trong kế hoạch này em cũng có bàn với Bình Định Vương, trong khi đánh Đông Quan quân ta phải chia làm nhiều cánh chận các đường cứu viện của họ từ Vân Nam và Lưỡng Quảng (Quảng Đông và Quảng Tây). Nói tóm lại, mọi chi tiết em đều ghi rõ trong thư. Từ đây về sau hiền huynh muốn liên lạc với em cứ trở về căn nhà của song thân khi xưa ở Mường Lai đưa tin và lấy tin.

Ngừng một lúc chàng tiếp :

- Còn kế hoạch tối nay thì như vầy, như vầy ... Xin anh hãy làm theo lời em, đưa gia tẩu rời chốn này, để em không phải chướng ngại vì nàng.

Trường Sơn nghi ngại hỏi :

- Bọn ở đây sẽ nghĩ thế nào khi thấy Thúy Uyên mất tích ?

- Nàng đi rồi em tuyên bố với mọi người nàng vì giận em lạnh nhạt nên cuốn gói trở về với cha mẹ ở Bắc Kinh. Ở đây không ai biết nàng là gái An Nam, ngoại trừ em và Huỳnh Như.

Chàng bỗng hỏi :

- Bọn binh sĩ cận vệ của anh có ai biết nói giỏi tiếng Trung

Hoa không ?

- Có một người nói y như người Tàu vậy !

- Hay lắm ! Vậy sau khi cỗ xe đưa anh và Thúy Uyên rời nội thành về đến địa điểm, anh tìm cách giữ tên đánh xe của em lại mật khu và đổi người tín cẩn của phe mình đánh xe trở về tìm gặp em. Em cần người của anh một thời gian.

- Anh sẽ làm theo lời em dặn.

- Bây giờ tạm thời anh nên về tư phòng em nằm nghỉ mộtlúc, chờ đến trời tối thực hiện kế hoạch. À, trong phòng em có cánh cửa ăn thông qua phòng nhỏ bên cạnh, là phòng tắm và nhà vệ sinh đầy đủ tiện nghi, nếu anh cần tắm hay lau rửa.

Trường Sơn hỏi :

- Em không về tư phòng nghỉ lưng một lúc sao ? Trọn đêm qua em cũng không ngủ, chắc phải mệt lắm ?

- Anh về tư phòng nghỉ trước. Em chờ anh đi rồi sẽ mở cửa văn phòng này ra, ngồi làm việc một lúc cho bọn nô tỳ không nghi kỵ. Rồi em sẽ về tư phòng sau. Hiền huynh cứ tự nhiên ngủ trước. Anh nhớ khép cửa lại thì không ai dám đi vào.

Chàng căn dặn xong liền hé cửa nhìn ra ngoài hành lang, thấy không có bóng người. Chàng gật đầu ra dấu với Trường Sơn :

- Anh nên đi ra một cách tự nhiên. Cánh cửa thứ hai là phòng ngủ của em, tức cách phòng này một phòng.

Trường Sơn y lời bước nhanh ra ngoài đi vào tư phòng em. Trường Giang vội vàng tắt đèn và mở tất cả các cửa sổ, ngồi làm việc như thường lệ.

Chàng ngồi một lúc cảm nghe mệt mỏi nên gục đầu trên bàn viết thiếp đi không biết bao lâu, bỗng giật mình tỉnh giấc vì có bước chân nhè nhẹ tiến gần…

Chàng ngẩng mặt lên… thấy Thúy Uyên đang nhìn chàng với đôi mắt đẫm lệ.

Y như mỗi lần chàng gặp nàng đều thấy nàng khóc ! Nàng khóc quá nhiều, đôi mắt lúc nào cũng đỏ hoe.

Xót xa trước tâm tình của chị dâu, Trường Giang muốn nhân dịp này nhắn nhủ với nàng vài lời, nên mỉm cười với nàng và nhỏ nhẹ bảo :

- Tiểu thư khóc quá nhiều, tôi chẳng biết khuyên nhủ ra sao ? Tôi chỉ mong tiểu thư hiểu rằng, dù mai ngày có xảy ra điều gì tiểu thư cũng đừng ân hận hay đau buồn vì tôi. Mỗi người có một số phần. Sự sống sự chết… tất cả Thượng Đế đã an bày sẵn rồi.

Thúy Uyên nghe mấy lời của chàng, có cảm tưởng như chàng đã linh cảm trước cái chết nên nói lời trăn trối với mình. Tim nàng đau nhói lên, nước mắt lại tràn ra, nàng sụt sùi nói :

- Đoàn lang ơi, nếu thiếp có làm điều gì không phải vớichàng, xin chàng tha lỗi cho thiếp và đừng oán hờn. n tình chàng kiếp này, kiếp sau thiếp nguyện sẽ đáp đền.

Trường Giang cười nhẹ :

- Xin tiểu thư an tâm, tôi chẳng bao giờ oán hận tiểu thư, vì tôi biết nếu tiểu thư có làm điều gì không phải với tôi là do hoàn cảnh bắt buộc, chớ thâm tâm tiểu thư không muốn. Nói thật, tôi có chết bởi tiểu thư cũng chẳng oán giận đâu.

Chàng muốn nói xa nói gần để nàng không phải quá ân hận sống ray rứt trong những ngày sắp tới.

Thúy Uyên nghe chàng nói lời cao thượng, bật khóc to lên. Trường Giang không biết vỗ về cách nào để nàng nín, đành đổi giọng giận dỗi:

- Điều mà tôi không thích là đàn bà khóc ! Tiểu thư cầm dao đâm tôi, tôi không phiền trách, nhưng khóc trước mặt tôi, tôi cảm thấy khó chịu phiền phức lắm.

Câu nói của chàng làm Thúy Uyên hoảng sợ nín khóc ! Trường Giang thấy tội nghiệp, nên an ủi :

- Nói vậy chớ tôi không phiền trách tiểu thư đâu ! Miễn rằng tiểu thư vui cười là tôi thỏa thích.

Chàng đứng lên khỏi ghế và nói :

- Đêm qua tôi chong đèn làm việc suốt đêm đến trưa hôm nay mà không hay, giờ mới thấy mệt và buồn ngủ. Tôi đi ngủ sớm tối nay. Tiểu thư dặn bọn nô tỳ chớ phá rầy tôi nhé ?

Không chờ Thúy Uyên có phản ứng gì, chàng nói xong đi tuốt về tư phòng, thấy gia huynh đã ngủ nên rón rén lên giường nằm một bên.

Thúy Uyên cũng trở về phòng nàng, mà trong lòng miên man nghĩ ngợi:

"Điều chi khiến chàng bỗng dưng làm việc suốt đêm qua, để hôm nay mệt mỏi ngủ sớm ? Phải chăng số phận đã an bày như thế để người của Bình Định Vương dễ dàng hành động ? ».

Mới đó nàng khóc thương chàng, giờ nàng hồi hộp vì mưu kế giết chàng sắp được thực hiện ! Thúy Uyên ôm đầu rên rỉ :

« -Ta là con người một mặt hai lòng, tàn nhẫn nhất thế gian, mà cũng đáng thương nhất thế gian ! »

Nàng nằm trên giường, úp mặt xuống gối khóc một lúc thấy trời đã tối, nên chờ dậy đi qua tư phòng chàng lén buộc vào song cửa sổ chiếc khăn trắng.

Xong việc nàng vừa bước tới phòng ăn đã thấy con hầu mang mâm cơm vào. Nó thấy nàng, vội vàng thưa :

- Con thấy lệnh bà và đại quan trong tư phòng, sợ phá giấc ngủ nên không dám gọi, thành ra dọn cơm chiều quá trễ.

Trong lòng ủ ê, nàng không để tâm nghe con hầu nói gì ? Nhìn mâm cơm rượu thịt ê chề, nàng càng xót xa nước mắt rơi rơi, nói với con hầu :

- Ngươi đem dẹp các thứ ấy đi, ta không muốn ăn. Còn đại quan đang ngủ, ngươi chớ đánh thức làm gì.

Con hầu vâng lời dẹp mâm cơm tức khắc. Thúy Uyên uể oải trở về tư phòng, mở tủ lấy ra bình rượu đặt lên chiếc bàn trong phòng. Chính là bình rượu độc Huỳnh Như pha bữa trước để hạ độc Đoàn khâm sai, nhưng sự việc bất thành. Sau đó Thúy Uyên xin được cất giữ để dành cho mình.

Cũng vì Huỳnh Như thất bại, Thúy Uyên mới phải cầu cứu Bình Định Vương. Đêm nay nếu người của Bình Định Vương thành công việc thủ tiêu "Đoàn Hoài Nam", thì nàng cũng sẽ chết theo chàng bằng chén rượu độc còn lại đó.

Nàng ngồi trong bóng tối chờ đợi giờ phút sẽ đến, lòng tê tái thương đau. Thời gian trôi qua chầm chậm ...

Đêm đã sắp tàn rồi, trống đã điểm canh năm, người của Bình Định Vương có lẽ gặp trở ngại không tới được ? Hay là người nào đó đã bị lính Minh bắt giữ ?

Bỗng dưng nàng đâm lo cho sự an nguy của ai đó trong lúc đột nhập nội thành… Rồi chợt nhớ người yêu năm xưa nằm chết lịm trong khu vườn nhà nàng cũng vì len vào cung Hồ. Tim nàng vụt đau nhói lên khi nhớ lại kỷ niệm của 18 năm về trước…

Thình lình Thúy Uyên nghe tiếng thét của "Đoàn lang". Tiếng thét không to lắm, chỉ đủ cho nàng ở phòng bên cạnh nghe tiếng.

Thúy Uyên run rẩy ngồi bật dậy, tuột xuống giường bước tới mấy bước, định ra ngoài hành lang nghe ngóng…

Thình lình cánh cửa phòng nàng bị mở banh ra… Một người từ ngoài lao vào như một cơn gió lốc. Thúy Uyên còn đang chấn động tâm thần, người ấy khép cửa lại rồi đứng trấn nơi cửa.

Trong phòng không đốt đèn, nhưng nhờ ánh sáng từ hành lang xuyên qua cửa sổ, Thúy Uyên trong rõ người ấy mặc toàn đen, đầu trùm khăn đen bít cả mặt, chỉ chừa hai lỗ mắt. Người ấy nói bằng tiếng An Nàm :

- Nếu cô nương là gái An Nam, xin vui lòng giúp tôi rời chỗ này.

Thúy Uyên run giọng, hỏi bằng tiếng An Nam :

- Người là ai ? Vì sao biết tôi là gái An Nam ?

- Tôi không biết cô nương là người An Nam. Tôi vào đây theo lời yêu cầu của ... một cô gái An Nam để ám sát một tên quan Tàu. Giờ tôi đã làm xong lời thỉnh cầu của nàng ấy, nên cần phải rời nơi này gấp, kẻo bị động.

Giọng nói của Thúy Uyên vẫn còn run rẩy :

- Người là người của Bình Định Vương ?

– Vâng !

- Thế ra hắn đã ... ? Nàng không dám nói tiếp, nhưng người kia cũng hiểu ý

nàng, đáp gọn : -Chết rồi ! Thúy Uyên bật khóc, nhưng vội nín ngay. Người kia

hỏi : -Có phải cô nương là người gửi thư cho Bình Định Vương ? Nàng đáp thật nhỏ :

- Vâng !

- Vậy ra cô nương là em gái của quan tham mưu Nguyễn Trãi dưới trướng Bình Định Vương ? Tôi có bổn phận đưa cô nương về đoàn tụ với thân huynh.

Nghe nhắc tên anh, Thúy Uyên mừng quýnh hỏi dồn : -Gia huynh tôi còn sống ? Như vậy lời đồn trong dân gian là sự thật ? Gia huynh tôi hiện đang phục vụ dưới trướng Bình ĐịnhVương ? -Đúng vậy ! Chính quan Tham mưu đã nhận ra dấu hiệu và bút tích của cô nương từ bức thư đầu. Bất ngờ nhận được tin tức gia huynh, Thúy Uyên vui mừng quên cái chết của "Đoàn Lang" ! Nàng cười qua màn lệ : -Trời ơi, tôi còn gặp được gia huynh tôi ? Quả thật không ngờ ! -Cô nương kíp rời chốn này. Những gì cô nương cần lấy

theo, nên đem theo lần này.

Thúy Uyên cuống quýt :

- Nhưng tôi phải làm gì ? Mà làm sao rời khỏi chốn này ?

- Cô nương có xe riêng phải không ?

- Có

- Vậy cô nương xuống nhà tìm người đánh xe bảo hắn đỗ xe bên hông nhà, rồi theo cô nương lên phòng ôm hành trang xuống. Trong khi cô nương xuống nhà, tôi sẽ thay cô soạn sẵn các thứ cho khỏi mất thì giờ.

Thúy Uyên ngơ ngác hỏi :

- Bỗng dưng tôi ôm đồ đạc ra đi giữa đêm hôm khuya thế này, bọn nô tỳ và bọn lính gác sẽ thắc mắc, tôi biết nói thế nào ?

- Trời sắp sáng rồi, không còn ban đêm nữa ! Cô nương chỉ cần nói : "Ta không muốn ở xứ này giờ khắc nào nữa, ta trở về Bắc Kinh với cha mẹ".

Thúy Uyên trố mắt kinh hãi nhìn người bịt mặt. Nàng có cảm tưởng người này quen thuộc với nàng và biết tất cả đời tư của nàng. Bỗng nhiên nàng nghe giọng nói này không mấy xa lạ, nàng hỏi :

- Người là ai?

- Khi rời khỏi nơi đây tôi sẽ cho cô nương rõ tôi là ai.

Hiện giờ cô nương nên gấp làm theo lời tôi.

- Thưa vâng !

Thúy Uyên bước đi vài bước, vụt đứng khựng lại hỏi :

- Người làm thế nào rời khỏi nơi đây ?

- Một lúc nữa tôi sẽ len vào xe cô nương. Cô nương cho

phép tôi ngồi chung xe chứ ? Thúy Uyên đáp nhỏ : -Cũng được ! Nàng mở cửa bước đi. Lúc ngang qua phòng "Đoàn lang" vụt đứng lại, gục đầu nơi cửa khóc ngất. Nhưng nàng không dám đứng lâu, kéo tay áo lau nước mắt, thất thểu bước đi. Lúc xuống nhà dưới, hai tên gác cửa thấy nàng vội vàng làm lễ chào và kính cẩn hỏi : -Lệnh bà cần việc chi mà thức quá sớm ?

Thúy Uyên bảo :

- Ngươi đi tìm tên đánh xe của ta, bảo tới gặp ta gấp.

Một tên nghe nói bỏ chạy một mạch. Chốc sau trở lại với tên đánh xe, mắt còn lem nhem ngái ngủ. Thúy Uyên ra lệnh tên đánh xe :

- Ngươi đổ xe bên hông nhà, rồi theo ta lên phòng mang đồ đạc xuống.

Tên đánh xe là một thanh niên tuổi khoảng 20, người Quảng Đông, vốn rất ngưỡng mộ bà chủ. Thường ngày nàng sai bảo hắn đưa đi đâu thì tuân lệnh râm rấp, chớ không dám hỏi lôi thôi. Bữa nay thấy chủ nhân mặt mũi như vừa mới khóc, mà lại đòi đi ra ngoài quá sớm, hắn không biết có việc gì xảy ra, bạo gan hỏi :

- Chẳng hay ... vì sao lệnh bà muốn đi đâu mà khởi hành quá sớm như vậy ?

Thúy Uyên đáp cộc lốc :

- Về Bắc Kinh !

Hai tên binh gác cửa và tên đánh xe nghe nói đều trố mắt nhìn nàng kinh ngạc. Sợ chúng thắc mắc, Thúy Uyên nói

thêm :

- Ta chán sống ở đây, ta về xứ nên cần ra đi thật sớm. Ngươi đưa ta tới Khâm Châu (thuộc nước Tàu, giáp giới AnNam) rồi ngươi có thể trở lại đây, ta đổi xe khác đi.

- Lệnh bà đi về một mình sao ? Đường sá xa xôi, sợ ...

- Mặc ta !

- Đại quan có cùng đi với lệnh...

Thúy Uyên đổ quạu :

- Sao bữa nay ngươi hỏi lôi thôi thế ? Ta giận Đại quan mới bỏ về xứ, có hiểu không ?

Hai tên binh và tên đánh xe tin lời nàng ngay, vì chúng vẫn thường nghe bọn gia nhân xầm xì về cặp vợ chồng lạ lùng này. Chúng nghe đồn quan Khâm sai rất lạnh nhạt với vợ và cả hai không bao giờ ngủ chung.

Chúng cũng nghe nói Thúy Uyên là con gái của Đại Học Sĩ Dương Sĩ Kỳ đứng đầu triều đình Bắc Kinh, nên ngán sợ nàng lắm.

Tên đánh xe làm râm rấp theo ý của nàng. Một lúc sau hắn trở lại theo nàng lên tư phòng mang đồ đạc xuống.

Người kia đã gói sẵn hai túi, một túi quần áo và tư trang, một túi các đồ quí và tranh ảnh.

Dĩ nhiên người bịt mặt không còn ở đó nữa ! Điều mà nàng lấy làm lạ, là không hiểu sao người ấy biết những món nàng quí mà gom đi, mà lại soạn nhanh như vậy ?

Cổ xe của Thúy Uyên có mui kín, có cửa sổ và có rèm the. Thúy Uyên đinh ninh người kia đã ngồi sẵn bên trong. Nào ngờ khi nàng leo lên thấy băng ghế trống trơn. Nàng không biết chờ người ấy bao lâu, trong ruột nóng rang như lên cơn sốt.

Tên đánh xe bắt đầu vung ngọn roi mây, đôi ngựa rộn

ràng tung vó…

Thúy Uyên lýnh quýnh toan bảo tên đánh xe dừng lại để chờ người bịt mặt. Bỗng nhiên cửa xe lay động. Một người lao mình vào trong, nhẹ như con én, ngồi xuống bên cạnh nàng.

Nàng đã biết trước mà cũng không khỏi giật mình, vì tác động nhanh nhẹn phi thường của người ấy tung mình vào trong đang lúc xe chạy.

Ra đến cửa ngọ môn bọn lính gác dường như đã được lệnh trước, mở banh hai cỗng rào cho xe lướt qua. Chẳng mấy chốc xe đã bỏ xa nội thành tiến về hướng Đông Bắc. Người bịt mặt rỉ vào tai Thúy Uyên :

- Cô nương hãy bảo hắn chạy về hướng Tây Nam.

Thúy Uyên không hỏi lôi thôi, thò đầu ra ngoài bảo tên đánh xe đổi hướng. Hắn nghe lệnh nàng rất ngạc nhiên, thắng xe lại hỏi :

- Lệnh bà muốn tới biên giới Khâm Châu sao lại đổi hướng đi ?

- Ta cần ghé một nơi trước khi đến Khâm Châu.

Nghe nàng giải thích tên đánh xe cho ngựa quay đầu chạy về hướng Tây Nam. Đến trưa cổ xe chạy trên con đường hẹp, hai bên là rừng. Tên đánh xe lo sợ nói :

- Vùng này là vùng chiếm đóng của quân An Nam, rất

là nguy ...

Hắn chưa nói dứt câu, Thúy Uyên đã nghe tiếng reo hò từ hai cánh rừng bên hữu và bên tả.

Tên đánh xe nhìn thấy quân binh An Nam 1ố nhố hai bên rừng, kinh hãi vung ngọn roi mây vun vút trên mình ngựa. Cỗ xe lao tới như điên…

Bỗng có một người từ trong xe bay ra, chụp ngọn roi mây và sợi giây cương trên tay hắn.

Tác động người ấy vừa nhanh nhẹn vừa nhẹ nhàng, nhưng lại có sức mạnh phi thường, quăng tên đánh xe trên lề cỏ và hảm xe lại.

Tên đánh xe vừa lồm cồm ngồi dậy, ngơ ngác không hiểu vì sao trong mui xe của nữ chủ hắn ngồi, lại có người lạ bay ra ?

Đoàn binh An Nam từ hai bên rừng ùa đến. Người kia kéo chiếc khăn trùm mặt khỏi đầu, tên đánh xe há hốc mồm kêu thất thanh :

- Trời ơi, sao lại là Đoàn đại quan ?

Trong khi quân An Nam reo lên:

- Nguyễn tướng công!

Tiếng kêu của phe An Nam và của tên đánh xe không ăn nhập với nhau, vì một đàng nói tiếng Trung Hoa và một đàng nói tiếng An Nam, tuy cùng để ám chỉ một người, nhưng rõ ràng nghe gọi hai cái tên khác nhau, mà hai tên đó đều làm cho Thúy Uyên kinh tâm động phách.

Nàng mở cửa xe nhào ra… Chừng thấy mặt người "bịt mặt", nàng ngã lăn xuống đường bất tỉnh.

 Chương 20: Tình yêu màu nhiệm đem hạnh phúc và sự sống cho con người

Lúc mở mắt ra Thúy Uyên thấy mình nằm trong chòi lá, trên một cái giường tre. Người mặc áo đen đang quỳ bên cạnh giường, một tay cầm vòng ngọc, một tay ve vuốt bàn tay nàng, gọi khẽ:

- Thúy Uyên! 18 năm qua kỷ vật trao hôn của nàng tôi còn giữ, lời hứa hẹn trăm năm tôi không quên. Vì nguy biến của quốc gia mà duyên tình đôi ta lỡ dở, nhưng Trường Sơn này vẫn một lòng chung thủy chờ ngày sum họp với người xưa.

Thúy Uyên dương mắt lơ láo nhìn người yêu… Trời ơi, giọng nói này, gương mặt này… nào khác gì «Đoàn lang» hôm qua?

Nàng không biết mình đang nằm mộng hay sống ngoài đời?

Và con người trước mắt thật sự là Nguyễn Trường Sơn hay là Đoàn Hoài Nam?

Ai là người thật? Ai là người trong mộng?

Chẳng lẽ mười năm dài dằng dặc phiêu lưu trên đất khách chỉ là giấc mộng?

Chẳng lẽ bắt đầu từ giờ phút này nàng đi vào cõi mộng?

Đầu óc nàng muốn nổ tung vì không làm sao nhận định được giữa mộng với đời!

Tiếng nói êm êm và ấm cúng của chàng lại vang lên:

- Thúy Uyên! Nàng còn nhận ra tôi không? Nàng còn yêu tôi nữa không?

Thúy Uyên bật khóc! Hình hài này lúc nào cũng hiện diện trước mắt nàng … quên sao được! Con tim nàng lúc nào cũng rộn ràng bên chàng… hết yêu sao được!

Chỉ có cái tên đã làm xáo trộn tâm tư nàng, đã làm nàng khổ!

«Tại sao một người lại mang hai tên khác nhau, hai vai trò khác nhau, hai dân tộc khác nhau?»

Nước mắt nàng tuôn như suối! Hai tay ôm đầu rên rỉ...

Trường Sơn thấy nàng khóc, bấn loạn chụp tay nàng nài nỉ:

- Thúy Uyên, tôi yêu nàng! Nếu nàng còn yêu tôi, xin hãy quên dĩ vãng. Chúng ta còn cả tương lai sáng lạng đang chờ... Quân thù sẽ bị đuổi khỏi biên cương. Ngày toàn dân ca khúc khải hoàn không xa nữa. Rồi đây chúng ta sẽ được sống trên quê hương thanh bình. Thúy Uyên vụt ngồi bật dậy, sụt sùi hỏi:

- Chàng thật là người yêu năm xưa đã cùng thiếp hứa hẹn trăm năm? Chàng không là người trong mộng?

Trường Sơn mỉm cười trao chiếc vòng ngọc cho nàng. Chiếc vòng ngọc mà chàng luôn luôn giữ trong giây thắt lưng.

Thúy Uyên nhìn kỹ… thấy đúng là vòng ngọc của mình, liền rút cây trăm trên đầu đưa ra, vừa khóc vừa nói:

- Còn đây là kỷ vật của chàng.

Đến bây giờ Thúy Uyên mới nhận ra điều khác biệt giữa chàng với «Đoàn lang»… Chính là bàn tay chai cứng của con nhà võ suốt ngày làm bạn với gươm đao!

Nàng cũng kịp nhận ra màu da xạm nắng giang hồ trên gương mặt tuấn nhã của chàng, cùng với mái tóc nhuộm phong sương!

Đến bây giờ Thúy Uyên mới biết chàng với «Đoàn lang» không là một!

Nàng có hai người tình trong hai khoảng đời khác nhau, mà có lẽ cho đến chết vẫn không hiểu khoảng đời nào là thật? Khoảng đời nào là mộng?

Nàng sẽ gọi cái tên:

- Trường Sơn!

Nàng gọi cái tên này, song trước mắt lại nhìn thấy nụ cười dịu dàng và khả ái của Đoàn lang! Tim nàng rung động dạt dào... Nàng ngã vào vòng tay người yêu, mi khép lại, tình ngút ngàn dâng cao...

° ° °

- Thưa lệnh bà. Đại quan đã bỏ mình ở Tụy Động [1] hồi khuya này. Trước khi lìa đời Ngài có giao cho tôi vật này để trao lại cho lệnh bà và căn dặn lệnh bà nên rời nội thành trở về quê quán, kẻo bị liên lụy.

Huỳnh Như đứng bất động bên khung cửa sổ tư phòng nàng, hai ba tỳ nữ khoanh tay đứng hầu một bên.

Trước mắt nàng là Lưu Viên, tên hầu cận của Trần Hiệp vừa chạy theo đám tàn quân từ Tụy Động trở về.

Món vật mà Trần Hiệp bảo hắn mang về, là cái «Bảo quốc huy chương» bằng vàng, do Minh Thành Tổ ban cho Trần Hiệp hồi 23 năm về trước, sau khi ông ta lên ngôi.

Trần Hiệp là một trong số các quan có công giúp Thành Tổ việc thoán ngôi của cháu là Huệ Đế, nên đưọc ân thưởng.

Món bảo vật ấy lúc nào Trần Hiệp cũng đeo trong mình. Giờ đây trước khi chết lão muốn trao lại cho «ái thiếp» của lão, nên trăn trối tên cận vệ mang về.

Huỳnh Như đón nhận tin Trần Hiệp tử trận và miếng huy chương của lão bằng sắc mặt hết sức lạ lùng, vừa như đau khổ tột cùng không thể tỏ ra lời, vừa như vui thích vô biên vì nguyện ước đạt thành.

Lưu Viên thấy nàng đứng im như pho tượng, hắn không dám nói thêm lời nào nữa.

Một lúc sau Huỳnh Như mới lên tiếng bằng một giọng nhẹ như hơi gió:

- Ngươi hãy kể cho ta rõ trận chiến thế nào?

- Quân ta hoàn toàn bại trận ở Tụy Động! Đại quan và nội quan Lý Lượng tử thương. Binh sĩ kẻ tử trận, kẻ chết đuối dưới sông, chết vô sô kể. Ngoài ra có một số bị bắt làm tù binh. Địch thu rất nhiều chiến lợi phẩm. Thật chưa có lần nào quân ta bị thảm bại như lần này!

Huỳnh Như nhếch môi:

- Còn các tướng lãnh khác thì sao?

- Các vị tướng Vương Thông, Mã Kỳ và Phương Chính đang trên đường bôn đào về đây để giữ thành. Cũng vì trên một vài nẻo đường dẫn về Đông Quan có quân An Nam phục kích, nên các tướng ấy chưa về đến nơi. Tôi may mắn thoát khỏi vòng vây, vì địch chú tâm bắt các tướng lãnh, chớ không bắt giết cấp dưới.

Huỳnh Như bỗng ngước mặt lên:

- Thế còn quan Khâm sai họ Đoàn?

- Ngài đã bị giặc bắt!

Lưu Viên nói đến đấy đôi mắt ứa lệ, nghẹn một lúc mới tiếp:

- Ngài không biết võ nghệ, không xử dụng gươm đao, mà cũng theo ra chiến trường! Thật là một nhân vật phi thường và can đảm! Không có Ngài sợ rồi đây quân ta không phương gì chống trả nổi quân An Nam trong những ngày sắp tới. Nét mặt Huỳnh Như vẫn lạnh lùng:

- Thôi được! Ta cám ơn ngươi đã báo cho ta rõ mọi điều.

Lưu Viên ấp úng nói:

- Đại quan có dặn... lệnh bà rời nội thành… Huỳnh Như sẽ nhếch môi làm nụ cười:

- Ngươi yên lòng! Để rồi ta sẽ liệu tính cho ta. Thôi ngươi hãy về chỗ ngơi nghỉ. Lưu Viên rút lui sau câu nói của nàng. Huỳnh Như quay sang đám nô tỳ, bảo:

- Các ngươi là gái An Nam bị giặc bắt vào đây, nhân lúc bọn tướng Minh chưa về tới nên gấp trốn đi.

Các cô gái nghe nàng nói vô cùng mừng rỡ. Một cô rưng rưng nước mắt, hỏi:

- Còn Iệnh bà?

- Các ngươi hãy rời nội thành ngay đi, rồi ta cũng sẽ đi… Một cô khác nói:

- Chỉ sợ bọn vệ binh nơi cửa ngọ môn không cho chúng em ra ngoài, vì giờ này đã tối rồi.

- Các ngươi cứ nói ta sai các ngươi ra ngoài có việc. Nên đi làm hai toán và chớ đi một lượt.

Các cô gái gật đầu và mếu máo nói:

- Chúng em không quên ân đức của lệnh bà. Nói xong cả bọn sụp xuống lạy.

Huỳnh Như khoác tay bảo đứng lên, nói:

- Hãy đi nhanh lên, chớ trì hưỡn! Nhớ báo cho các chịem khác biết, bảo họ cũng trốn đi. À, bảo bà bếp Lâm thị rời nội thành tức khắc theo lệnh của ta.

- Thưa vâng.

Bọn tỳ nữ đi khuất cả rồi Huỳnh Như vẫn đứng im lìm một chỗ, không cử động, không nhúc nhích, từ giờ nọ sang giờ kia… y như con người bằng gỗ!

Đêm ấy đúng vào đêm 14 tháng 10 năm Bính Ngọ (1426) trời vần vũ mưa, mây đen che lấp ánh trăng, sấm sét gầm gừ dữ tợn, gió lộng vù vù, đập vào các cửa sổ nghe rầm rập.

Huỳnh Như bước tới khép các cửa sổ, rồi quay vào đứng trước bàn thờ trong phòng. Đó chỉ là một kệ thờ nhỏ có một lư hương với ngọn đèn dầu leo lét.

Nàng đốt nhang đứng trước bàn thờ, lâm râm khấn:

- Thưa cha, quốc thù con đã trả, bổn phận công dân con đã làm tròn. Chiến trận vừa qua Bình Định Vương đại thắng, công cuộc thống nhất giang sơn sắp sữa hoàn thành. Dù con có ở lại chăng nữa nhắm cũng không giúp ích được gì! Vậy nén hương này là nén hương cuối cùng, xin phép cha cho con được giải thoát đời mình.

Nàng khấn xong ghim mấy cộng nhang vào lư hương, rồi sụp trước bàn thờ lạy ba lạy, lúc đứng lên đôi mắt nhòa lệ, bước thất thểu đến ngồi nơi giường.

Trên giường có để một giải lụa trắng, giải lụa mà nàng hay dùng trong các vũ khúc. Bữa nay giải lụa đó sẽ giải quyết đời nàng.

Nàng cầm giải lụa trong tay, anh mắt ngời xa xăm, vành môi điểm nụ cười tuyệt đẹp:

- Trường Giang anh ơi! Mười mấy năm nay em chờ đợi giây phút này đây để tái ngộ cùng anh nơi miền âm cảnh xa xôi đó... Xin anh hãy đón em để từ đây đôi ta mãi mãi bên nhau.

Nàng dứt lời vòng giải lụa vào cổ, hai tay xiết mạnh…

Tấm thân kiều mị của nàng ngã sống soài dưới nền nhà. Đúng vào lúc bên ngoài mưa tuôn xối xả...

Tiếng gió rít từng cơn, cùng với tiếng mưa trút xuống ồ ạt, làm thành một âm thanh vừa ghê rợn vừa não nùng.

Bất thình lình cánh cửa phòng bị mở tung ra… Một người từ bên ngoài lao vào cùng lúc với tia chớp loé lên, làm tắt phụt ngọn đèn dầu lờ mờ trên bàn thờ, khiến gian phòng đen đặc một màu…

Cũng may, người vừa phóng vào đã trông thấy cái thây của Huỳnh Như nằm đó, nên nhào tới đúng vị trí ôm nàng vào lòng.

Giải lụa oan nghiệt được tháo bỏ ra. Huỳnh Như thở hắt một tiếng, song vẫn trong tình trạng mê man.

Người kia bồng nàng chạy nhanh ra ngoài.

Tòa nhà đắm chìm trong đêm tối, vì các ngọn đèn lồng dọc theo dãy hành lang đều tắt phụt.

Nhưng người kia dường như thông thuộc đường đi nước bước, ôm Huỳnh Như chạy phăng phăng xuống lầu, rồi vòng ra ngõ sau của tòa nhà. Nơi đó có cổ xe ngựa đã chờ sẵn. Chính là cổ xe của Thúy Uyên độ nào.

Người kia vừa ôm Huỳnh Như phóng lên xe. Người đánh xe tức thì ra roi điều khiển đôi tuấn mã phi vùn vụt dưới trời mưa bão.

Trong lúc ấy nơi cửa ngọ môn, quân An Nam cùng với vệ binh Minh trấn nơi cửa đang giao chiến… Một bên quyết tấn công đoạt thành, một bên cố cầm cự giữ thành. Hai bên giao tranh vô cùng ác liệt giữa lúc cổ xe mang Huỳnh Như vút qua.

Dọc theo lối đi… thây người nằm lớp lớp… Máu đổ loang trong nước mưa chưa kịp rút, biến cửa ngọ môn thành một vùng biển máu!

Cổ xe rời nội thành đôi ngựa càng phi nhanh, phút chốc bỏ xa thành Đông Quan huyết lệ…

Đến khoảng giữa đêm, mưa đã bắt đầu thưa hạt, mây đen cũng kéo đi, màn trời đã lấp ló bóng nguyệt ...

Bấy giờ cổ xe dừng trước sân một khách điếm nhỏ ven bờ sông Đà, bên kia làng Tư Vũ.

Bị nước mưa dội lên mặt, Huỳnh Như chập chờn nửa tỉnh nửa mê và có cảm tưởng như mình đang nằm trên tay một người đi dưới trời mưa. Cuối cùng người ấy mang nàng vào nhà, đặt lên giường, cởi bỏ lớp xiêm y ướt sũng của nàng, rồi kéo chăn đắp cho nàng.

Hơi ấm của chăn gíúp Huỳnh Như tỉnh hẳn, mở mắt ra...

Một người ngồi nơi ghế bên cạnh giường, đang nhìn nàng chăm chăm bằng đôi mắt xót xa thương cảm…

Huỳnh Như vừa trông thấy người ấy, bỗng thất thanh

kêu lên:

- Đoàn...

Người ấy lắc đầu, đưa tay bụm nhẹ miệng nàng, nói giọng thật êm:

- Huỳnh Như em! Tới bây giờ em vẫn chưa nhận ra anh sao? Đoàn Hoài Nam đã chết rồi! Hiện tại người trước mắt em là Nguyễn Trường Giang của 19 năm về trước.

Huỳnh Như nấc lên một tiếng, nghẹn ngào:

- Trường Giang anh! Đây là âm cảnh phải không anh? Chúng mình vĩnh viễn bên nhau trong thế giới này phải không anh?

- Không! Chúng ta còn sống! Em còn trên dương thế bên cạnh anh đây.

- Em chưa chết? Anh thật sự chính là...

Chàng cúi sát mặt nàng, thì thầm:

- Phải! Anh là chính thật là Trường Giang của em. Em cảm thấy trong người thế nào? Huỳnh Như mếu máo:

- Thì ra em còn sống! Và lần này đây cũng chính anh là người tái tạo mạng sống cho em! Nhưng ngày nay em không còn gì nữa anh ơi! Lỡ dở cả rồi! Chàng với tay lấy bình trà trên chiếc bàn con cạnh đó, rót ra một chén, trao cho nàng, nhỏ nhẹ bảo:

- Uống chén trà này đi em! Đừng khóc nữa! Hãy vui trong buổi tương phùng của chúng mình.

Nàng vâng lời chàng, ngồi dậy bưng chén nước, chăn trên mình nàng rớt xuống mới hay xiêm y không còn, tay lýnh quýnh níu chăn che thân.

Trường Giang biết nàng hổ thẹn, vội vàng giải thích:

- Anh xin lỗi đã cởi lớp xiêm y của em trong lúc em bất tĩnh, vì em không thể mặc ướt như thế lâu hơn nữa. Anh chỉ làm bổn phận của một lương... Huỳnh Như bật khóc, ngắt lời chàng:

- Em hiểu! Sự thật em đâu còn là gái trinh trắng mà kiêu kỳ với anh? Huỳnh Như hôm nay không xứng đáng để anh nhìn mặt! Chàng mỉm cười, giúp nàng uống xong chén trà, rồi ngồi một bên ngọt ngào bảo:

- Trên thế gian này nếu còn một người đàn bà xứng đáng để anh yêu… Người đó là em! Huỳnh Như toan mở miệng nói. Chàng bụm miệng nàng, mắt nhìn mắt nàng đắm đuối:

- Bằng với đôi mắt nghệ sĩ của anh, em là người đàn bà đẹp nhất thế gian! Bằng với tấm lòng ái quốc của anh, em là một nữ nhi trung liệt đáng cho anh tôn thờ trọng vọng! Nghe chàng nói thế, Huỳnh Như khóc sướt mướt, lệ ướt đẫm tay chàng… Chàng lau nước mắt cho nàng, nhỏ nhẹ:

- Đừng khóc nữa em! Nước mắt em làm não lòng anh! Anh yêu em, anh đau lòng khi thấy em khóc.

Huỳnh Như vẫn không ngăn được lệ, nghẹn ngào nói:

- Nhưng nay em đã là đàn bà... Thân em không còn trong trắng nữa! Một người đàn bà đã 34 tuổi, đâu khác gì hoa chiều tàn tạ. Anh có tiếc rẽ nhặt về cũng chẳng giữ được bao lâu!

Chàng cười, âu yếm bảo:

- Em là người chớ nào phải là hoa? Người có cuộc sống lâu dài. Nhan sắc của em đang ở vào thời kỳ tuyệt đỉnh, chớ không tàn tạ như em nghĩ. Huống chi anh không là một thằng đàn ông ham mê sắc dục, thì dù em có thế nào tình yêu của anh đối với em vẫn không thay đổi, nếu không muốn nói sâu đậm hơn thêm. Giọng chàng vụt trở nên thảm thiết:

- Mười mấy năm dài đối diện với em mà không dám nhìn, kề cận bên em mà phải tưởng như xa xôi cách biệt. Nỗi khổ lòng của kẻ làm trai không giữ được người tình, để rơi vào tay giặc, đau đớn uất hận đến mực nào?

Nhưng cũng vì đại sự quốc gia, mà anh gắng nhận chịu những khổ đau triền miên ấy… Cũng vì muốn rửa cái nhục vong quốc, mà anh phải đóng cho tròn vai trò tên quan Tàu để che mắt quân thù.

Để rồi đêm đêm thao thức canh trường… nhớ thương em, con tim anh quằn quại rên siết. Mỗi khi mường tượng em trong vòng tay giặc, đầu óc anh muốn nổ tung! Anh điên cuồng muốn thét gào cho long trời lỡ đất, cho vũ trụ tiêu tan mới vơi được nỗi hận trong lòng.

Chàng nói trong uất hận, ánh mắt đỏ ngầu.

Huỳnh Như úp mặt trong tay chàng, sụt sùi:

- Vậy mà bấy lâu nay em cứ oán thù anh! Em cứ ngỡ... anh thật sự là Đoàn Hoài Nam! Em đã... Nàng nói đến đó bật khóc to lên. Trường Giang rời ghế đến ngồi bên giường, ôm đầu nàng vào lòng, vỗ về:

- Nín đi em! Anh đã biết tất cả... Anh khâm phục hành động của em và gia tẩu của anh. Phải! Thúy Uyên là gia tẩu của anh! Con gái của Dương Sĩ Kỳ chính là gia tẩu của anh! Thật là trớ trêu!

Anh vì oán hận Trương Phụ bắt đàn bà con gái An Nam, nên tức giận thu đám con quan Tàu về nhà cho làm nô tỳ. Cưới con gái Dương Sĩ Kỳ để hành hạ cho bỏ ghét, nào ngờ khi giáp mặt mới nhận ra nàng là vị hôn thê của gia huynh!

Trước cảnh ngộ éo le đó anh không biết tính sao, đành phải đóng vai trò một người chồng lạnh lùng để chờ ngày gặp lại gia huynh mà trao trả người tình.

Bấy giờ Huỳnh Như mới hiểu vì sao chàng cưới Thúy Uyên mà không cho nàng làm vợ. Ẩn tình này cho đến chết Thúy Uyên cũng không hiểu, mà nàng cũng không ngờ!

Nhớ lại thời gian ở Trung Quốc… Chung quanh chàng biết bao nhiêu thê thiếp mà chàng không ngó ngàng tới, chỉ một dạ thủy chung yêu mình đã là vợ Trần Hiệp !

Trời ơi! Một người tình như chàng thiết tưởng trên thế gian này không có kẻ thứ hai!

Huỳnh Như thương quá lại cảm thấy xấu hổ, không xứng đáng với tấm chung tình của chàng, ngẩng mắt lệ nói:

- Em bị giặc bắt, đáng lý ra phải tử tiết để giữ vẹn tiết trinh cho anh. Nhưng em đã không làm thế, vì em nghe tin anh đã chết, em không thiết sống nữa, nên quyết hy sinh thân xác cho công cuộc cứu quốc.

Nàng kể lại nỗi đoạn trường từ khi chia tay với chàng ở Tràng An... Đến khi tự nguyện lên thuyền của Trương Phụ với mục đích gì... Nắm đầu Trần Hiệp buộc đưa về quê để hoạt động thế nào...

Trường Giang gật đầu:

- Anh đã đoán biết tất cả quãng đời của em. Lỗi này là lỗi của anh ra đi mà không đưa em theo. Cũng vì tình hình nước nhà lúc ấy hết sức khẩn trương, nên anh và gia huynh anh không có can đảm tỏ bày với song thân việc hứa hẹn nhân duyên.

Chàng thuật lại vụ Trường Sơn vì lo lắng việc chàng biệt tích sau khi rời cung Hồ mà đau nặng, lại thêm tương tư vị ân nhân Thúy Uyên trong lúc thương thế trầm trọng. Chàng phải đóng vai trò gia huynh hứa hẹn hôn nhân thay cho anh trong hoàn cảnh nào...

Nhất nhất chàng kể cho nàng nghe, rồi nói:

- Cây trâm vàng em trao cho anh, anh đã trao cho Thúy Uyên làm món vật hứa hôn của gia huynh. Gia tẩu cũng không hay biết gia huynh anh có một người em song sinh hình hài như tạc, mà cũng không hay biết vụ tráo người giữa hai anh em của anh. Chàng chợt ngưng nói, đưa mắt nhìn sâu vào mắt nàng, hỏi:

- Chắc em cũng nhận ra cây trâm của em trên tóc Thúy Uyên? Và chắc em oán trách anh vụ này? Huỳnh Như nhớ lúc mình ghen tuông với Thúy Uyên khi nhận ra cây trâm của mình trên tóc bạn. Lúc ấy nàng muốn ăn thua với bạn vì ngỡ là tình địch. Giờ nghĩ lại nàng quá xấu hổ, gầm mặt xuống giường, hỏi nhỏ:

- Anh đã gặp gia huynh? Và chị Thúy Uyên đã hội ngộ với anh ấy chớ không phải vô cớ bỏ đi về Bắc Kinh?

- Đúng vậy! Anh đã trao trả Thúy Uyên cho gia huynh anh ngày anh em anh gặp nhau. Hiện nay hai người đã thành hôn trong chiến khu. Vì Nguyễn Trãi, anh của Thúy Uyên, không muốn em gái mình chờ đợi thêm nữa. Chàng cười cười nói:

- Đáng lý ra anh chưa gặp được gia huynh sớm như vậy! Nhờ gia tẩu Thúy Uyên mà có cuộc tương phùng hi hữu đó.

Chàng kể cho nàng nghe về bức thư của Thúy Uyên cầu cứu Bình Định Vương cho người lấy đầu quan Khâm sai Đoàn Hoài Nam, nên Trường Sơn mới lãnh mạng ra đi diệt địch.

Huỳnh Như nghe qua kinh tâm động phách, ôm chàng khóc ngất.

Chàng vuốt nhẹ mái tóc nàng, rồi ngẩng mặt nàng lên cười, bảo:

- May mà anh không chết vì người yêu và gia tẩu. Chứ không lúc hồn lìa khỏi xác, chắc anh uất hận hai nàng lắm và quyết bắt tội chớ không tha. Mắt chàng vụt ngời ngời hãnh diện:

- Ngày anh về nước móc nối ngay với Bình Định Vương, chẳng dè Thúy Uyên và em cũng làm việc đó. Em và gia tẩu thật không hổ thẹn là con cháu của hai bà Trưng Triệu!

Đêm đã khuya lắm rồi. Mưa bên ngoài đã tạnh hạt từ lâu. Trăng 14 chiếu qua khung cửa sổ, rọi vào chỗ hai người ngồi ánh hào quang kỳ ảo như đêm trăng thề nguyền năm xưa khiến cho đôi lòng cùng dạt dào xúc động...

Trường Giang vụt chỉ trăng nói:

- Khi xưa đôi ta đã chỉ trăng thề nguyền hứa hẹn trăm năm. Ngày nay anh cũng mượn vầng trăng đó chứng dám cho cuộc hôn nhân của chúng mình.

« Huỳnh Như em! Cha mẹ anh đã chết, em cũng mồ côi như anh. Vậy hôn lễ của chúng mình chỉ có đất trời và trăng kia làm chứng. Anh thề, từ giờ phút này coi em là người vợ yêu quí nhất của anh. Em bằng lòng kết hôn với anh ngay đêm nay? »

Huỳnh Như nói qua màn lệ:

- Em đã là vợ một tên quan Tàu, tấm thân em đã nhơ nhớp, làm sao dám nhận làm vợ anh? Trường Giang nghiêm giọng bảo:

- Chữ trinh của đàn bà tùy hoàn cảnh mà luận xét. Huống chi tiết trinh em đem hiến cho công cuộc cứu quốc là một hành động hy sinh cao quí nhất đời. Chưa có người con gái nào đáng trọng hơn em và trước mắt anh, em là người con gái toàn vẹn hơn hết. Huỳnh Như lại nói:

- Anh cao thượng quá nên mới suy xét như thế, chớ người đời nào có bụng dạ quân tử như anh? Rồi đây dư luận quanh anh sẽ làm anh khổ và ngày kia anh sẽ ân hận vì cưới một người đàn bà thừa thãi như em. Trường Giang cương quyết nói:

- Trong đời anh, việc anh làm anh suy nghĩ chính chắn và không bao giờ ân hận về sau. Anh hãnh diện vì có người vợ như em. Còn dư luận nghĩ sao mặc họ, anh không cần biết tới dư luận! Vả lại anh đã chọn sẵn cuộc đời ẩn dật. Bắt đầu từ giờ phút này xã hội của anh chỉ còn đôi đứa chúng mình, hoặc nếu có thêm nữa thì chỉ thêm một vài người dân mộc mạc ở miền hoang dã Mường Lai.

- Vì em mà anh bỏ đường công danh, xa lánh chốn phồn hoa đô hội! Trường Giang lắc đầu:

- Huỳnh Như em ơi! Một điều mà em cũng nên biết : « Anh là kẻ chán mùi phú quí, chán bã vinh hoa. Nếu anh tham muốn địa vị quyền uy và cuộc sống vàng son vinh hiển, thì anh đã không bỏ quốc ngoại mà trở về đây ». Chàng nhìn thẳng vào mắt nàng nói tiếp:

- Chẳng thà anh sống trong mái tranh nghèo với dân làng mộc mạc, mà vui thú hơn cửa rộng nhà cao chạy đua với vật chất, bên cạnh những kẻ chỉ biết đâm chém thù nghịch vì danh lợi. Hơn nữa danh lợi ở xứ người dù vàng son vẫn là tam bợ. Con chim có ổ, con người có tổ. Quê hương mình nghèo, nhưng sống trên quê hương vẫn ấm áp tình người, hơn là sống nơi lầu son gác tía mà tâm hồn trống trải bơ vơ.

- Tài trí siêu việt của anh rất cần cho công cuộc gầy dựng đất nước của Bình Định Vương. Trường Giang cười mỉm:

- Em sợ Bình Định Vương không có người trợ tá giúp đỡ chăng? Hỏi mà không chờ Huỳnh Như đáp lời, chàng cười cười tiếp:

- Buổi sơ thời khi Ngài chưa thành công thì quả thật không có người muốn giúp, mà có khi họ còn phá đám! Chớ như nay giang san đã thu phục gần xong, Ngài không cần gọi,

cũng có lắm người vỗ ngực xưng danh mình là kẻ tài cao trí rộng, ái quốc ái dân nhất nước! Anh chỉ sợ rồi đây triều đình không còn ghế để chia chác cho họ ngồi đó thôi!

Chàng bỗng thở dài nói:

- Anh rất ngán nhìn những bộ mặt xu thời dua nịnh và cái trò bỉ ổi đấm đá tranh giành của người đời, nên đã liệu bề lánh nẻo công danh. Gian nhà của cha khi xưa ở Mường Lai anh đã cho thợ sữa chữa để sống quãng đời còn lại với nghề day học, thầy thuốc… như thuở nào anh lạc tới đảo Hải Nam. Cuộc đời an nhàn làm bạn với cỏ cây hoa lá và người dân mộc mạc, anh thích thú hơn chốn phồn hoa đô hội. Chàng vụt nhìn xoáy vào mắt nàng, hỏi:

- Em thích có một ông chồng thầy đồ, sống thanh đạm bên lũy tre làng, bên giòng sông con không em? Huỳnh Như nhủi vào ngực chàng, thỏ thẻ nói:

- Đấy là cuộc sống của em với cha thuở xưa! Còn hạnh phúc nào bằng được cùng anh sống lại cuộc đời ấy? Nghe nàng nói, chàng mừng rỡ đứng lên đi tới bàn rót chén trà nguội lạnh mang tới, trân trọng nói:

- Chén trà này thay cho chén rượu hợp cẩn của hôn lễ chúng mình. Em hãy cùng anh uống cạn chén trà này.

Chàng kề vào miệng nàng cho nàng uống phân nửa, còn mình uống phân nửa.

Nửa chén trà nhạt mà chàng có cảm giác như vừa nốc vào một bầu rượu mạnh, toàn thân rạo rực, men tình ngất ngưỡng say...

Chàng lảo đảo giật tấm chăn trên người nàng, sẽ nói:

- Cho anh được ngắm tấm thân tuyệt mỹ của em, tấm thân mà 19 năm anh si mê tưởng nhớ. Nàng hổ thẹn khép mắt nằm im như pho tượng… Chàng ngây người nhìn pho tượng bằng đôi mắt say sưa của người nghệ sĩ… miệng lẩm bẩm:

- Tuyệt! Chỉ có bàn tay siêu việt của Hóa công mới hình thành được một bức tượng tuyệt mỹ như thế.

Thật vậy! Thân thể của người con gái đã làm đàn bà… các đường cong mới nảy nở đúng mức, làn da thớ thịt mới căng căng nhựa sống!

Mười năm làm vợ Trần Hiệp tuy tâm tư nàng có đớn đau khổ hận. Nhưng cũng nhờ làm đàn bà mà nhan sắc nàng không bị tàn phai.

Ở vào tuổi 34 mà trông nàng không khác gì thiếu nữ đang xuân. Khác hẳn với những cô con gái già, bước vào tuổi ấy thì không khác gì khóm hoa không có người chăm nom săn sóc, héo hon cằn cỗi.

Bất thần Huỳnh Như cảm nghe các luồng máu trong người như ứ đọng lại. Từng thớ thịt run rẩy vì sự ve vuốt của một bàn tay...

Lần đầu tiên trong đời nàng có cảm giác đê mê kỳ thú, mà không hiểu vì do bàn tay của một họa sĩ thần kỳ mới tạo được cảm giác tuyệt diệu như thế ? Hay bởi tình yêu đã làm nàng cảm xúc như thế?

Tình yêu quả thật kỳ diệu và đầy bí ẩn!

Bây giờ nàng mới hiểu: «hai con tim phải cùng hòa một nhịp mới gây được giây phút tuyệt vời cho nhau».

Mười năm làm đàn bà, đêm nay Huỳnh Như mới biết thế nào là hạnh phúc của một lần ân ái! Mỗi cử động của chàng như đưa hồn xác nàng lên đỉnh trời ngất ngây.

Nàng sung sướng rên khẽ bên tai chàng. Chàng say sưa lặn ngụp trên thân thể nàng... Đôi hồn xác chìm vào bễ ái bất tận mê man...

Giây phút ái ân tuy ngắn ngủi, mà tuyệt diệu. Và hạnh phúc của đôi vợ chồng muốn lâu bền cần phải có giây phút ngắn ngủi mà tuyệt diệu ấy.

Cuộc hôn nhân không tình yêu thì người vợ không khác gì cô gái bán thân, mà người chồng là khách làng chơi!

Nhớ lại mười năm dài làm vợ Trần Hiệp, Huỳnh Như bật khóc! Hai hàng lệ đổ dài trên gương mặt mĩ miều…

Chàng nghiêng bờ môi uống nước mắt cho nàng, sẽ hỏi:

- Vì sao em khóc? Nếu anh thô lỗ làm em đau, tha tội

cho anh!

Nàng lắc đầu giải thích:

- Em khóc vì nhớ lại khoảng đời ghê sợ mười năm làm vợ kẻ thù, mà cũng khóc vì được hưởng giây phút tuyệt vời làm vợ anh đêm nay. Chàng hôn nhẹ trên mắt trên môi nàng, bảo nhỏ:

- Đôi mắt xinh đẹp này từ nay cấm khóc. Cái miệng quyến rũ này từ đây phải luôn luôn nở hoa! Quên dĩ vãng đi em cho hạnh phúc chúng mình trọn vẹn!

Chàng nằm xuống gối đầu nàng trên tay mình, thiếp trong giấc mơ nồng nàn...

Huỳnh Như nằm im một bên… mắt nhắm lại thật lâu vẫn không sao ngủ được. Nàng thao thức nhớ khoảng đời cũ...

Từ đêm trăng huyền diệu hứa hẹn duyên tình với chàng trai phong nhã… Đến tám năm héo hon khóc thương người yêu đã chết và cuối cùng mười năm đem thân xác làm vợ kẻ thù để rửa quốc thù…

Khoảng đời đã qua đớn đau và dài dằng dặc!

Cũng vì tai biến của quốc gia mà duyên tình cả hai lỡ dở. Cũng vì quân cướp nước tham tàn mà chàng và nàng đã mất đi 19 năm hạnh phúc!

Cả hai không có khoảng đời tuổi trẻ! Cả hai không được hưởng thời gian yêu đương hoa mộng của tuổi xuân. Nửa đời đã qua chìm trong cái hận vong quốc!

Nhớ lại những năm sinh sống ở Nam Kinh và Bắc Kinh… Bao nhiêu gái trẻ đẹp si mê thương tưởng, mà chàng vẫn một dạ sắt son yêu mình đã là vợ kẻ khác. Trong khi đó nàng lại vô tâm, bao phen khuyên Thúy Uyên «hạ thủ», lại đích thân trao rượu độc cho chàng uống!

Nhớ tới đó, Huỳnh Như quá ân hận bật khóc to lên.

Trường Giang chờn vờn tỉnh giấc... Cảm giác đầu tiên đến với chàng là nghe trong người nhẹ nhàng phơi phới, từng thớ thịt đê mê vì sự đụng chạm làn da mát mịn của đàn bà...

Chàng giật mình ngồi bật dậy, thấy người yêu nằm bên cạnh mới nhớ những gì xảy ra đêm qua...

Chàng nằm xuống ngóc đầu hôn lên mắt nàng, thủ thỉ

bên tai:

- Anh cấm em không được khóc, sao em lại lén khóc trong lúc anh ngủ? Nàng rút vào người chàng, nói giọng còn tức tửi:

- Nhớ đến bao lần em muốn giết anh, em thương quá và muốn chết để đền tội đã...

Chàng hôn trên miệng nàng chận lời:

- Cái miệng này nói bậy rồi, anh cắn cho mà coi!

Nàng trốn vào lòng chàng. Chàng gói nàng trong vòng tay, mắt nhắm lại tìm giấc ngủ. Nhưng mùi hương da thịt từ người nàng bốc ra quấn quít thân thể chàng… say say quyến rũ cùng cực, làm tim chàng đập bấn loạn, các huyết mạch trong người cơ hồ muốn đứt ra...

Không làm sao ngủ lại được, cũng không thể chịu đựng được tình trạng chất ngất đảo điên của thể xác, chàng nhỏ nhẹ xin:

- Mười mấy năm khát khao thương nhớ, đêm nay em cho anh được yêu em lần nữa nghe em? Nghe chàng nói, Huỳnh Như nhủ thầm trong dạ:

- Chàng đa tình như thế, mà sao lúc làm Đoàn Hoài Nam lại lạnh lùng chai đá trước một đoàn thê thiếp, nghĩ cũng lạ! Không nghe nàng cho phép, chàng nói giọng ân hận:

- Anh đòi hỏi quá phải không em? Tha lỗi cho anh! Anh không dám xin nữa đâu.

Huỳnh Như nghe chàng nói vừa thương vừa tội nghiệp, nước mắt lại ứa ra. Nghĩ mình làm vợ yêu chồng phải biết chiều chồng, nên đè nén cơn xúc động, trườn lên mình chàng, môi đặt lên môi một nụ hôn…

Họ lại trao đổi nhau hơi thở và đôi tim cách bởi đôi làn da lại cùng hòa nhịp điệu ái ân...

Mười chín năm khát khao thương nhớ, mười chín năm mòn mỏi đợi chờ... cho nhau đêm nay!

Bầu trời hạnh phúc nhỏ hẹp trong gian phòng tình ái, nhưng cũng to rộng vô biên. Vì tình yêu là hương, là gió, mênh mông trời đất, ngút ngàn vũ trụ...

--------------------------------

1. Trận Tụy Động xảy ra vào tháng 10 năm Bính Ngọ 1426. Trần Hiệp và Lý Lượng chết tại chỗ, quân Minh tử vong khoảng 5 vạn, bị bắt khoảng một vạn. Quân ta thu được rất nhiều chiến lợi phẩm. Đây là một trận đánh quan trọng nhất của Bình Định Vương, 10 phần kể như đã nắm được 7, 8 phần trong công cuộc chống xâm lăng.

 Chương 21: Lánh nẻo công danh

Trang trại Mường Lai của Nguyễn Trường Hân 20 năm về trước có ba gian rộng lớn, giờ là một mái nhà nhỏ nhắn xinh xinh, bao bọc bởi gian hoa Thiên Lý.

Cạnh ngôi nhà có ngôi trường không lớn lắm, đủ chứa đôi ba chục học trò.

Làm đúng theo ước nguyện của mình, sau đêm kết hôn với Huỳnh Như nơi quán khách, Trường Giang đưa vợ về sinh sống chỗ ở của cha mẹ thuở xưa.

Mái nhà này chàng thuê người xây dựng lại từ khi đặt chân về nước, lúc còn là Đoàn Khâm sai.

Mái nhà đơn sơ nhưng ngăn nấp và tiện nghi. Ngoài khách sảnh nho nhỏ, còn có phòng ăn, phòng ngủ và thư phòng làm việc.

Phía trước là sân cỏ, có trồng ít khóm hoa và từ đó nhìn rõ mặt nước lẵng lờ của Lỗi giang. Phía sau là núi rừng cao nguyên bát ngát.

Các tranh ảnh và sách vở của chàng cũng được chuyển về đấy từ khi chàng còn là vị quan Tàu. Mỗi lần rời nội thành chàng đưa ra ngoài một ít, nên ngày rước Huỳnh Như về nhà chỗ ở của họ đã tươm tất và không thiếu món chi.

Huỳnh Như thấy chồng vừa là con người tài hoa, vừa là người biết lo liệu đủ thứ, lại chăm sóc nâng niu chiều chuộng mình, nên càng thương yêu quí trọng.

Đã một năm qua họ sống tràn trề hạnh phúc bên nhau, mà thiết tưởng trên thế gian này chưa có đôi vợ chồng nào đầm ấm như thế.

Nàng là vợ hiền, chàng là thầy đồ dạy học, vừa làm thầy thuốc, giống như khi xưa trên đảo Hải Nam.

Đám học trò và dân chúng trong làng cũng gọi chàng là Nguyễn tiên sinh.

Hôm ấy vào khoảng cuối tháng 8 năm Đinh Vị (1427) Huỳnh Như có thai gần tới ngày sinh nở, Trường Giang cho học trò nghỉ học để ở nhà chăm sóc vợ.

Chàng gọi thợ mộc tới nhà đóng cái giường nhỏ có thành bốn bên, để làm chỗ ngủ cho đứa bé sắp chào đời.

Người thợ đã hoàn tất chiếc giường xinh xắn. Trường Giang toan gọi Huỳnh Như đến xem, chợt nghe tiếng vó ngựa dừng trước sân. Chàng lấy làm ngạc nhiên bước vội ra ngõ, chừng thấy người kỵ mã vừa xuống ngựa không ai khác hơn là gia huynh. Chàng mừng rỡ chạy tới đón anh với nét mặt rạng rỡ:

- Một năm trông đợi tin tức hiền huynh mà không thấy, bữa nay ngọn gió nào đưa anh tới đây? Trường Sơn cười nói:

- Anh nhớ hiền đệ và hiền muội lắm chứ? Ngặt số kiếp nhà võ nặng nợ với gươm đao, nên anh còn bận bịu cho đến đỗi hay tin hiền đệ cưới vợ mà anh cũng không tới đây được để uống rượu mừng. Chàng vụt nghiêm giọng:

- Bữa nay anh đến tìm đệ có hai việc để nói. Thứ nhất là việc quốc gia, còn thứ hai là báo tin mừng.

Trường Giang nghe anh nói việc quốc gia, vội vàng hỏi:

- Có điều chi hệ trọng vậy hiền huynh?

Trường Sơn đi theo em vào nhà khách, nói ngay:

- Sau trận Tụy Động quân Minh sợ hãi tâu về Minh Đế xin cứu viện. Theo nguồn tin Bình Định Vương bắt được, thì chuyến này Minh Tuyên Tông cử hai Thượng thư : binh bộ Lý Khánh, công bộ Hoàng Phúc và Chính Lỗ phó tướng quân An Vĩnh Hầu Liễu Thăng đem mười vạn quân, hai vạn kỵ mã, đi từ Quãng Đông, hợp với các tướng Mộc Thạnh, Từ Hanh và Đàm Trung từ VânNam sang đánh nước ta.

Bình Định Vương nghe giặc đưa quân hai ngã tấn công nước mình lấy làm lo lắng, nhất là việc Hoàng Phúc có mặt trong nhóm địch. Bởi vì lão đã cai trị An Nam nhiều năm, đã quen phong thổ và thông thuộc địa hình nước mình, mới là mối nguy cho cuộc chiến này.

Các tướng khuyên Bình Định Vương đánh Đông Quan để tuyệt đường nội ứng. Nhưng Nguyễn Trãi khuyên can, bảo nên dưỡng sức, chờ địch vừa tới chưa kịp nghỉ ngơi, đánh chúng không kịp trở tay.

Bình Định Vương chưa quyết định nên bảo anh tới hỏi ý em. Vì em đã ở trong lòng địch, chắc hiểu rõ cơ mưu bọn đầu não.

Trường Sơn nói một hơi, thấy em ngồi lặng thinh, không tỏ thái độ gì, tưởng em đã không màn đến thế sự nữa, nên nhỏ nhẹ nói:

- Em nên giúp Bình Định Vương chiến lược kỳ này, hầu đuổi hai đám quân kia về nước, sơn hà mới hoàn toàn thống nhất. Trường Giang bấy giờ mới đưa mắt nhìn anh, thủng thẳng nói:

- Bình Định Vương không theo lời các tướng đánh Đông Quan là sáng suốt. Quân ta cần dưỡng sức, chờ bọn bên Tàu vừa tới nơi lập tức tấn công. Ấy là chiến lược dùng binh khoẻ đánh quân đến từ xa đường trường mệt mỏi. Tuy nhiên chúng ta phải dùng kế, làm như binh ta sợ hùng lực của chúng không dám ra quân chống địch. Chờ chúng lọt vào tròng mới ra tay. Trường Sơn hết sức chú tâm nghe em nói. Trường Giang chợt khoác tay, cười bảo:

- Để rồi em tính kỹ chiến lược và sẽ ghi rõ trên giấy cho anh trình lên Bình Định Vương. Chuyến này anh ở lại chơi với chúng em vài ngày chứ?

- Sáng mai anh phải đi sớm. Cũng vì việc nước chưa yên, anh đâu dám vui chơi trì huỡn? Trường Giang gật đầu tỏ ý cảm thông:

- Em hiểu được! Tối nay em sẽ giải quyết việc này, xin hiền huynh an tâm.

Chàng định vào nhà bếp gọi vợ ra chào gia huynh, chợt thấy con Tiểu nhi giúp việc nhà cho Huỳnh Như lú mặt ra. Nó thấy chàng ngồi trên chiếc ghế trường kỷ với một người mặt mũi giống như in thì hốt hoảng bỏ chạy.

Cử chỉ kỳ quái của người tớ nhỏ khiến Trường Giang lưu ý, gọi giật lại:

- Tiểu nhi! Việc gì em cấm đầu chạy như bị ai rượt vậy? Mau vào nhà trong gọi hiền thê ta ra đây!

Tiểu nhi vào nhà bếp vừa thở vừa kể với nữ chủ: «Có một người giống hệt Nguyễn tiên sinh đang ngồi ngoài nhà khách». Huỳnh Như biết ngay là anh chồng, nên tất tả chạy ra. Chừng thấy hai người đàn ông mặt mày như tạc, cùng cười với mình thì đứng khựng lại, không biết ai là chồng ? Ai là anh chồng?

Anh em Trường Sơn lại có ý muốn trêu ghẹo nàng, nên cả hai cùng đưa mắt nhìn nàng với nụ cười trên môi, nhưng không ai mở miệng nói tiếng nào. May sao Huỳnh Như chợt nhớ chiếc áo chồng mặc sáng này, nên thẹn thùng bước tới Trường Sơn làm lễ ra mắt.

Trường Giang thấy vợ không mắc mưu mình, nên bật tiếng cười lớn, nói:

- Em giỏi quá, nhận ra gia huynh!

Trường Sơn thấy bụng Huỳnh Như quá to, đi đứng khó khăn mệt nhọc, nên hỏi:

- Còn bao lâu nữa hiền muội tới ngày lâm sản? Trường Giang đáp thay cho vợ:

- Chắc là nay mai đó thôi! Còn anh và gia tẩu thế nào?

Trường Sơn cười:

- Hôm nay anh đến đây cũng để báo tin hai em, Thúy Uyên vừa sinh được một gái. Anh rất mừng vì mẹ tròn con vuông, nhưng cũng buồn vì mình đã 40 tuổi mới có con đầu lòng, lại là gái, sợ không sinh được nữa để có con trai nối dõi tông đường.

Trường Giang nói nửa đùa nửa thật:

- Hiền huynh đừng lo không có kẻ nối dõi tông đường. Mai mốt Huỳnh Như đẻ một lượt ba bốn con trai cho anh yên lòng.

Sở dĩ chàng nói thế vì thấy vợ mang con so mà bụng quá to, lại khi chẩn bụng cho vợ chàng nghe có nhiều trái tim đập, nên đoán có lẽ vợ sẽ sinh đôi.

Huỳnh Như toan hỏi thăm về Thúy Uyên, chợt nghe chồng bảo:

- Em nên bảo Tiểu nhi dọn chỗ nghỉ cho gia huynh và bảo bà bếp nấu cơm ngon với bầu rượu nhé? Huỳnh Như vừa nghe chồng nói tất tả bước đi. Trường Giang hốt hoảng nói:

- Ấy ấy! Nàng tiên của anh phải đi từ từ, chớ bước hối hả nhỡ té thì nguy!

Huỳnh Như đưa mắt âu yếm nhìn chồng với nụ cười tuyệt đẹp.

Trường Sơn thấy vợ chồng em đầm ấm mừng lắm, nói:

- Anh mừng cho hạnh phúc của em.

Trường Giang bỗng muốn biết tình cảnh gia đình của anh, nên hỏi:

- Anh và gia tẩu ra sao?

- Nàng yêu anh, nhưng thỉnh thoảng hay khóc thầm! Thật tình anh không hiểu nguyên cớ gì? Đôi khi anh có cảm tưởng như xác nàng một nơi, mà hồn nàng một nẻo. Thường đêm trong giấc mơ nàng hay khóc và nói một tràng tiếng Trung Hoa, anh không hiểu gì! Trường Giang nghe anh kể, cúi mặt nói giọng xót xa:

- Em tin rằng nhờ đứa con mới ra đời gia tẩu sẽ không còn nhớ quãng đời cũ.

Chàng biết Thúy Uyên còn yêu mình, tức là còn yêu Đoàn Hoài Nam và có lẽ nàng ray rứt khốn khổ vì nghĩ nàng đã giết chàng. Trường Giang rất thương cảm hoàn cảnh của chị dâu, nhưng không tiện giãi bày cho gia huynh hiểu, nét mặt dàu dàu.

Trường Sơn bỗng đổi câu chuyện:

- Nguyễn Trãi anh vợ của anh, hiện giữ chức Lại Bộ Thượng Thư. Bình Định Vương muốn mời em giữ chức Hình Bộ và trông coi Hàn Lâm viện sau này. Nhưng anh có nói với Ngài: «Em quyết lánh đường công danh, sống đời ẩn dật». Nghe biết quyết định của em, Ngài lấy làm buồn. Trường Giang mỉm cười không nói gì. Trường Sơn nhìn xoáy vào mắt em:

- Tài trí như em mà không ra giúp nước, phụng sự cho dân, chẳng thấy uổng phí hay sao? Trường Giang cười nhẹ:

- Gia huynh à, mỗi người có một chí hướng. Như em nửa đời bôn ba hải ngoại cũng vì tấm lòng ái quốc muốn cứu dân cứu nước. Có lý đâu ngày nay em sống ích kỷ chỉ biết lo hạnh phúc của riêng mình mà không muốn phục vụ cho dân cho nước hay sao? Nhưng em trộm nghĩ. Đâu cứ phải ra làm quan mới kể phục vụ cho dân cho nước? Nghề dạy học trò của em để nâng cao dân trí, cũng kể là phụng sự cho dân cho nước đó anh. Thấy anh chăm chú nghe mình nói, chàng chẫm rãi tiếp:

- Ngày nào toàn dân có một trình độ giáo dục không chênh lệch, đất nước sẽ an lạc. Vì mọi người ngoài việc làm còn hiểu rõ bổn phận mình, bốn điều "trung hiếu tiết nghĩa" mới vẹn giữ. Lúc ấy con người dẹp bỏ lòng ích kỷ tham lam, sẽ bớt đi sự tranh giành, tránh được chiến tranh bạo lực. Trong gia đình ngoài xã hội có kỹ cương nề nếp, thì minh quân mới dễ dàng chăn dân trị nước. Trường Sơn nghe em nói thấm thía làm thinh. Trường Giang tiếp:

- Quan niệm yêu nước và phục vụ cho quê hương của em cũng rất rộng rãi: «Không cứ phải cầm gươm ra chiến trường, không cứ phải thi đậu ra làm quan, mới là kẻ yêu nước. Một người không làm điều gì để nhục quốc thể, không ăn xén tài sản của quốc gia, không phá rối trật tự an ninh, không hãm hại đồng bào ruột thịt, cũng là người ái quốc và kể như đã góp phần xây dựng một xã hội tốt đẹp, phụng sự cho quê hương».

Thật thế! Nếu mọi người dân đều biết ái quốc như vậy thì đất nước sẽ không có chiến tranh. Dân sống trong thái bình, tự nhiên năng xuất làm việc phải tăng, sinh lợi dồi dào. Mà một khi dân giàu thì nước mạnh.

Điều quan trong là Vua và triều đình, tức là các bậc chăn dân phải biết đặt quyền lợi của dân trên hết. Làm quan mà không vì quyền lợi của riêng mình, chỉ biết lo cho dân, thì sẽ nắm được dân. Và triều đình một khi được dân ủng hộ thì đất nước làm sao rơi vào tay giặc?

Ví như nước ta sỡ dĩ rơi vào tay bọn Hồ, vì triều đình nhà Trần thối nát tham nhũng từ Vua đến các quan lớn bé trong triều và phủ, huyện khắp nơi… Những người nắm quyền cai trị chỉ là hạng sâu mọt, lúc nào cũng nghĩ đến túi riêng của họ, bất kể đến sự thiệt hại của quốc gia, không màng đến nỗi khổ đau của dân chúng! Họ có thể bán nước cho giặc mà không cần biết hậu quả ra sao! Họ có tội với nhân dân và tổ quốc mà chẳng thấy ray rứt xấu hổ...

Thưa gia huynh! Em thà làm thầy đồ trong xóm nhỏ, thầy thuốc ở thôn nghèo, còn thích thú hơn chung đụng với bọn thối tha kia.

Trường Sơn âu sầu nói:

- Hy vọng ngày Bình Định Vương thống nhất san hà, triều đình mới sẽ không có bọn thối tha ấy.

- Em cũng hy vọng như thế! Có một điều em khuyên gia huynh: «Ngày nào giang san thống nhất, anh nên treo ấn từ quan, chớ bận bịu đường công danh mà mang họa. Khi xưa Trương Lương gíup Cao tổ nhà Hán thu được thiên hạ đã biết thời thế rút lui, nên mới không bị hại như Hàn Tín và Bành Việt. Bởi vì, một khi chim muông thú rừng đã hết, thì cái cung, cái nỏ, chó săn… người ta cũng hủy, cũng giết.» [1]

Trường Sơn nghe em nói mấy lời chí lý, gục gật đầu:

- Những lời khuyên nhủ của em anh sẽ ghi khắc vào tâm. Ngày nào Bình Định Vương thu hết thiên hạ, anh sẽ treo ấn từ quan, noi gương hiền đệ về làng mở trường dạy võ nghệ, huấn luyện nhân tài, phòng khi quốc gia nguy biến có người cứu quốc.

Hai anh em bàn luận một lúc Huỳnh Như đã dọn cơm chiều.

Huỳnh Như vừa đẹp, vừa hiền, vừa đảm đang. Các món ăn nàng tự tay làm cho chồng, chớ không giao cho người bếp.

Trường Sơn khen ngon, ăn thật nhiều, bảo Huỳnh Như:

- Gia tẩu nấu ăn rất ngon, anh ngày nào cũng ăn thật nhiều. Bữa nay tới đây ăn các thứ của hiền muội nấu càng ngon đặc biệt hơn, khiến anh không ngưng được. Chỉ sợ ngày kia anh mập phì ra, bụng phệ… không còn cái dáng thanh nhã của Trời cho, lúc ấy lỗi ở hai nàng đó nhé?

Trường Giang nghe anh nhắc tới tài nấu nướng của Thúy Uyên, bỗng hồi nhớ mười năm trên đất khách nàng đã chăm sóc món ăn cho chàng không khác gì vợ hiền, lòng thấy nao nao…

Huỳnh Như đưa mắt nhìn chồng, nói giọng tình tứ:

- Đàn bà mê chồng nhờ thân hình đều đặn không bụng phệ. Hai anh rán mà giữ thân, kẻo em và gia tẩu…

Nàng nói đến đó hổ thẹn nín tuốt. Hai anh em Trường San bật cười hả hả, cùng hỏi:

- Em và gia tẩu thế nào?

- Nói đi! Thế nào?

Huỳnh Như cúi mặt cười nhỏ, không đáp.

Tối đến Trường Sơn đi ngủ sớm vì mệt mỏi về cuộc hành trình dài. Trường Giang vào thư phòng suy tính chiến lược giúp Bình Định Vương đến nửa đêm mới xong.

Sáng hôm sau Trường Sơn ra đi lúc trời còn mờ sương. Trường Giang giao mật thư cho anh căn dặn:

- Tất cả binh thư đồ trận em đều viết rõ trong mật thư này. Trận này quan trọng là chống với Liễu Thăng ở cửa Chi Lăng. Một khi giết được Liễu Thăng rồi, bọn Hoàng Phúc, Lý Khánh tự động qui hàng. Em chỉ có một điều nhờ anh xin với Bình Định Vương là nếu bắt được Hoàng Phúc xin tha tội hắn, vì em có nợ chút ân tình với lão hồi còn ở Bắc Kinh [2].

Trường Sơn gật đầu:

- Anh sẽ không quên những lời căn dặn của hiền đệ.

Chàng lên ngựa phi nước đại. Trường Giang trông theo anh qua lớp sương mây mù mịt, cho đến lúc không còn nhìn thấy bóng dáng gia huynh mới quay trở vào nhà.

Chàng vừa đặt chân lên ngưỡng cửa, chợt thấy Huỳnh Như ngồi sụm dưới đất sắc mặt tái mét, nên kinh hoảng kêu lên:

- Trời ơi, em mang thai nặng nhọc ra ngoài làm gì? Để anh tiễn đưa gia huynh được rồi!

Huỳnh Như lặng thinh, mặt nhợt nhạt, mồ hôi rịn ra. Trường Giang nhìn vợ biết đã đến giờ lâm sản, nên vội vàng dìu nàng lên giường. Chàng bảo Tiểu Nhi nấu nước sữa soạn các thứ và thông báo với bà Mụ trong làng.

Chàng đỡ đẻ cho vợ với sự phụ giúp của bà Mụ. Nhìn thấy vợ đau bụng mà nết na đầm thấm không kêu la, chỉ ứa nước mắt, chàng thương xót lắm. Chừng thấy cái đầu lú ra, chàng mừng quýnh kêu lên:

- Em ơi! khoẻ rồi! Nó đây rồi!

Một thằng bé kháu khỉnh xinh đẹp như cha mẹ nó. Chàng cắt rún băng bó, vừa giao cho bà Mụ tắm rửa, bỗng nghe tiếng Huỳnh Như kêu nhỏ:

- Anh ơi! Em còn đau bụng quá! Em sợ là… Chàng ngắt lời vợ, an ủi:

- Mới sinh xong, em còn đau một lúc sẽ hết.

Bỗng có cái đầu thứ hai lú ra cùng lúc với tiếng «oe oe». Chàng giật mình quay lại nhìn vợ, rồi chạy tới nắm đầu đứa nhỏ kéo ra, nét mặt hớn hỡ reo:

- Trời ơi song sinh! Lại thêm một thằng nhóc em ơi! Chắc em giống mẫu thân anh, sinh một lượt hai đưá rồi nghỉ.

Hai thằng nhỏ giống nhau như tạc không khác gì chàng với gia huynh, khiến chàng vô cùng khoan khoái, vừa lăng xăng với thằng bé thứ hai, vừa huýt sáo… Bỗng nghe Huỳnh Như gọi:

- Anh ơi! Còn nữa!

Chàng biến sắc quay mặt lại, vừa lúc tiếng «oa oa» thoát

ra.

Hồn phi phách tán, chàng 1uýnh quýnh giao thằng con thứ hai cho bà Mụ, rồi đón cái đầu thứ ba, miệng lẩm bẩm:

- Lạy Trời đừng cho cái đầu thứ tư lú ra, kẻo vợ con chết mất! Huỳnh Như vừa trút xong ba gánh nặng đã tỉnh táo, nghe chồng lâm râm khấn, nín cười không được:

- Ai bảo anh làm phách, tuyên bố với gia huynh, nói em sẽ sinh một lượt ba bốn đứa? Chàng không đáp lời vợ, hí hửng reo lên:

- Một tiểu thư em ơi! May quá! Phải ba thằng nhóc thì điên đầu chúng mình lắm.

Huỳnh Như nghe báo tin có con gái, mừng ra mặt, bao nhiêu đau đớn như tiêu tan hết!

Chàng lo cho vợ và con xong, Huỳnh Như ngủ yên một lúc. Bà Mụ dọn dẹp đâu vào đấy rồi cũng ra về.

Chàng ngồi yên lặng nhìn ba đứa con nằm chung trong cài giường chật hẹp, suy tính không biết có nên làm một cái giường to lớn, hay làm thêm hai giường nhỏ?

Bất thình lình ba cái miệng nhỏ xíu vụt mở toét ra, quát cùng một lúc.

Kinh tâm động phách, chàng chạy tới giường con, mặt tái mét, hỏi một mình:

- Trời ơi, vụ gì đây? Huỳnh Như đã tỉnh ngủ khi nghe con khóc, vội nói:

- Chúng đòi ăn chớ không việc gì đâu. Ba cái miệng thi đua nhau thét to kinh khủng!

Chàng cuống quýt chạy vòng vòng quanh giường... Huỳnh Như thấy thái độ của chồng, tức cười nói:

- Anh bắt lại đây một đứa để em cho bú. Chẳng lẽ để

chúng khóc hoài sao?

Chàng cố ý chờ nghe cái miệng nào thét to nhất chụp trước đem đến cho vợ.

Huỳnh Như bảo:

- Anh hãy đem thêm một đứa tới đây. Nàng bợ hai con hai bên, cho hai cái miệng "tu" cùng một lúc. Đứa thứ ba chờ lâu chưa thấy tới phiên mình, kêu gào

thật thảm thiết! Trường Giang ôm đầu nhăn mặt, không biết phải làm

sao?

Huỳnh Như trông bộ điệu của chồng không thể nhịn cười, nên trêu:

- Anh đa mưu túc trí, vậy hãy tính xem,, em chỉ có hai bầu sữa, mà ba cái miệng cùng đòi một lúc thì phải làm sao?

Chàng ngẫm nghĩ một lúc rồi nói:

- Thật tình anh tính mãi không ra! Anh nghĩ, dù cho Khổng Minh hay Trương Lương sống dậy cũng nghĩ không ra!

Huỳnh Như phì cười, trao hai con vừa bú xong cho chồng, vừa ôm đứa thứ ba vào lòng, nói:

- Em đã nghĩ ra rồi! Chàng mừng quýnh hỏi vợ:

- Em tính cách nào vậy em?

- Anh bảo bà bếp vào trong xóm tìm người có con còn bú, sức khoẻ tốt, thuê họ làm vú nuôi phụ em. Chàng gật đầu:

- Phải rồi! Từ xưa đến giờ ông bà cha mẹ chúng mình vẫn làm như thế. Tại sao anh lại không nghĩ ra vậy? Đàn ông quả thật u mê hơn đàn bà!

Mấy ngày liên tiếp chưa tìm được người vú nuôi, chàng phải làm bổn phận "chạy tới chạy lui" khi ba cái miệng đòi ăn và lần nào cũng chụp hai cái miệng quát to nhất đưa đến trước cho vợ.

Bỗng chàng lưu ý: Lần nào cũng hai tiểu công tử "ăn" trước, còn tiểu thư cứ chịu thiệt thòi!

Cho nên lần này sắp tới giờ con đòi bú, chàng đứng rình sẵn… Vừa nghe đàn con ré lên, chàng chụp con gái đem đến trước trao cho vợ, vừa cười nói:

- "Bọn lớn tiếng rộng họng" được nhiều quyền lợi ưu tiên quá! Anh phải binh vực kẻ yếu mồm yếu miệng mới được! Em cho con gái út ăn trước đi. Hai vị "công tử" biết phụ thân "chơi khâm" mình cú này, ức quá thét to muốn sập nhà! Trường Giang cười ha hả, nói với vợ:

- Hai tiểu tử thét ghê quá! Sau này anh sẽ gởi chúng ra trường võ nghệ của bá phụ học làm tướng, để mặc sức "thét ra lửa". Chàng bỗng mường tượng đến hai, ba năm sau… Khi ba con biết đi, biết phá phách, có lẽ ba sách vỡ và tranh ảnh của chàng tan tành nát bét, nên nói giọng nửa đùa nửa lo:

- Ba năm sau nhà mình có giặc! Bọn giặc này phá hoại kinh khủng hơn giặc nào khác. Huỳnh Như cho con bú vừa xong, nghe chồng nói có giặc, mặt cắt không còn chút máu, run giọng hỏi:

- Giặc nào vậy anh? Giặc Minh đuổi đi sắp xong, chẳng lẽ còn giặc nào khác tới nữa sao? Trường Giang thấy sắc mặt kinh hoàng tái mét của vợ, biết mình đùa một câu vô ý thức, nên chạy tới hôn vợ xin lỗi:

- Tha lỗi cho anh! Anh nói đùa một câu làm em lo! Anh muốn nói ba con của chúng mình khi lớn lên sẽ phá nhà. Huỳnh Như nghe chàng giải thích mặt ửng hồng trở lại, nhỏ nhẹ nói:

- Vậy mà anh làm em mất hồn! Em nghe nói giặc và chiến tranh em sợ lắm anh ơi! Chúng mình đã mất 20 năm hạnh phúc, đã hy sinh cuộc đời 20 năm, em hy vọng con cái mình không gặp cảnh khốn khổ như chúng ta. Nghe vợ nói chàng thương quá, nắm tay nàng đưa lên môi hôn, bảo:

- Anh lẩm cẩm quá, nói bậy làm em lo! À này, đâu em tính dùm anh xem, khi bọn con nít lớn lên anh phải tính kế nào cho an toàn tranh ảnh và sách vỡ của anh?

Huỳnh Như nở nụ cười tuyệt đẹp:

- Vậy khi xưa anh chạy giặc đã phải làm như thế nào?

- Khi ấy thì túm gói lại mang đi. Anh còn nhớ lúc mang sách lên thuyền , mẫu thân cằn nhằn ghê quá!

- Vậy thì ba năm sau anh cũng chạy bọn giặc này bằng cách đó!

Trường Giang nhìn kệ sách nơi thư phòng và tranh ảnh treo nhan nhản trong nhà… tưởng tượng ngày đó phải túm gói mang đi giấu nơi khác, mặt mày héo xèo nhăn nhó.

Huỳnh Như nhìn chồng, tức cười bảo:

- Nói vậy chớ em có kế giúp anh không phải túm gói mang đi nơi nào khác cho cực thân! Chàng mừng rỡ ôm vợ hôn liên tu. Nàng cười tiếp:

- Người ta nói: "chó treo, mèo đậy". Vậy đối với ba con chó con này… những bức tranh anh sợ chúng sờ mó tới thì cho lên cao. Tuy rằng tranh ảnh treo quá cao mất mỹ thuật một tí, nhưng cũng nhìn thấy và thưởng thức được. Còn sách vỡ và các thứ nơi thư phòng, anh nên kêu thợ làm chốt cửa khóa lại thì yên!

Chuyện «dễ ợt» như thế mà chàng tính mãi không ra!

Cho hay những người tài trí phi thường, những chuyện lặt vặt trong đời họ ngây ngô lắm. (Như các bác học thời nay vậy).

Chàng phục vợ sát đất, nói:

- Từ đây chắc anh phải tôn em làm quân sư cho anh.

Huỳnh Như dí dỏm bảo chồng:

- Được! Làm quân sư cho quan Đại Học Sĩ cường quốc Trung Hoa oai quá, em nhận lời!

Hai vợ chồng âu yếm nhìn nhau, mắt miệng cùng cười.

Trời bên ngoài thật đẹp…

Nắng ban mai trải trước sân nhỏ dịu dàng và ấm cúng như hạnh phúc của họ trong gian nhà này.

Trường Giang bỗng nhớ đến 19 năm vong quốc… Chàng sống trong tòa dinh thự lộng lẫy nguy nga nơi đất khách, quyền cao chức trọng, bao kẻ hầu hạ, ngựa xe bạc tiền dư dã… mà lại là khoảng đời đau khổ nhất của chàng!

Hạnh phúc của con người nào phải do vật chất và lợi danh? Vì hạnh phúc không thể mua, mà cũng không do uy quyền tạo nên.

Hạnh phúc thoát ra từ lòng đất quê hương, mênh mang tình dân tộc, mà những con người ái quốc chỉ có thể tìm thấy hạnh phúc khi sống trên đất mẹ quê cha và

"TÌNH YÊU CÓ PHÉP NHIỆM MẦU" biến mái tranh nghèo thành lâu đài của hạnh phúc.

--------------------------------

1. Nhờ lời khuyên của em, Trường Sơn treo ấn từ quan ngay ngày Bình Định Vương toàn thắng, chấm dứt cuộc chiến. Nhờ vậy sau này khi các công thần bị giết như Trần nguyên Hãn và Phạm văn Xảo v.v… không có tên chàng)

2. (Liễu Thăng tử trận tại Chi Lăng ngày 20-9 năm Đinh vị 1427. Lương Minh tử trận 25-9, Lý Khánh tự tử 28-9, Hoàng Phúc bị bắt sống, Bình Định Vương tha cho về Tàu)

Hết

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top