Hoi94den100

Chương 94 - Quần Hào Hiến Thọ - Thần Điêu Đại Hiệp - Kim Dung

--------------------------------------------------------------------------------

Chương 94 - Quần Hào Hiến Thọ

Đại Đầu Quỷ khui cái bình rượu ra, hơi thơm bốc lên ngào ngạt, làm Đại Đầu Quỷ thèm thuồng, hai tay bưng hũ rượu uống một hơi, ròi khề khà nói :

- Rượu ngon quá ! Ngon quá! Và lão bưng hũ rượu đưa ngay mỏ Thần Điêu, Thần Điêu đút mỏ vào hũ rượu uống một hơi đã cạn hũ.

Hoàng Dung thấy vậy mắng thầm :

- Tường nhi thật là quỷ quái lắm, dám đánh cả Cửu Hoa Ngọc Lộ tửu của ta mà đãi con quái điểu súc sanh, thực là phí của.

Nguyên loại Cửu hoa Ngọc lộ tửu Hoàng Dung học theo cách chế của Hoàng dược Sư , dùng toàn các chất hoa thơm và các loại trân quý dược thảo. Khi cất xong đem chôn xuống đất một năm mới đem ra dùng, không phải là bạn tốt quyết chẳng đem ra đ i.

Quách Tường cười nói :

- Điêu đại ca tửu lượng mạnh thật. Vậy chúng ta hãy ra xem đấu võ.

Nói xong 2 người 1 điêu đến đấu trường. Cả3 đi thật nhanh đến Cái Bang đại hội.

Quần hùng và Khất Bang thấy thân thể của Thần Điêu vĩ đại, hình thù rất quái gở, đều ngơ ngác, tấm tắc khen thầm.

Quách Tường dẫn Đại Đầu Quỷ và Thần Điêu đến bên đài, chọn một khoảng đất trống ngồi xuống.

Những tên Khất Bang đệ tử phụ trách việc tiếp khách, khi thất Đại Đầu Quỷ đến lập tức chạy lại hỏi tên họ để giới thiệu.

Đại Đầu Quỷ cười lanh lảnh nói :

- Ta không có tên họ thì chẳng đến dự đại hội được sao ? Quách cô nương đưa ta đến chứ ta chẳ ng tự nhiên đến đây đâu.

Bấy giờ Võ Đôn Nho, Võ Tu Văn cả hai đều đã bị hạxuống đài. Cháu của Chu Tử Liễu, ba người đệ tử của Tứ Thủ Ngư ẩn, bốn tên đệ tử của Khất Cái Bang hàng tám bị, sáu tên đệ tử bảy bị, trước sau đều thất thủ.

Trên đài chỉ có Gia Luật Tề đang thi triển Thất thập nhị lộ Không Minh chưởng của Châu Bá Thông truyền thụ, đem ra giao đấu với một gã hán tử trên bốn mươi tuổi.

Gã hán tử này tên là Lam Thiên Hòa, người Mèo trong tộc Quý Châu, thủa nhỏ đã đi theo người vào rừng Tứ Xuyên mãi võ. Trong lúc mải mê biểu diễn, rủi trật chân té xuống triền núi, may mà gặp kỳ nhân cứu sống và truyền cho nội ngoại võ công thật thâm hậu.

Những luồng chưởng phong của gã có xen lẫn tiếng sấm động ầm ì. Gia Luật Tề dùng quyền phách không, không gây tiếng đọng, mỗi cái đá chân không thấy dạng, mờ mờ ảo ảo. Hai người giao đấu, kẻ dùng cương quyền, người dùng nhu thế, trên đài chỉ thấy nhưã 2 cái bóng vờn nhau.

Họ đ biểu dương tất cả công phu. Dưới đài trên mấy trăm hảo hán đều kinh sợ. Họ thấy hai người đấu càng lúc càng kịch liệt hơn. Nhiều kẻ cũng muốn thượng đài giao đấu, nhưng lượng sức không sao bì kịp, họ thầm nghĩ :

- Người ta thi thố công lực, dù mình có tài luyện trong 1 0 năm hay 20 năm nữa, cũng không thể đấu lại những người này.

Lam Thiên Hòa chưởng lực mạnh nhưng thiếu bền bỉ, mỗi lần gã bủa song chưởng ra tiếng ồ ồ, nhưng xem cho kỹ trong chưởng phong đã kém sút hơn lúc trước nhiều. Conø Gia Luật Tề quyền chiêu mỗi lúc một mạnh và nhanh, trước sau vẫn nhẹ nhàng thư thái.

Gia Luật Tề hiểu rằ ng cuộc giao đấu hôm nay đánh bại một hoặc hai đối thủ vẫn chưa phải kết cục, nên chàng dành lại rất nhiều nội lực.

Lam Thiên Hoà càng đánh lâu càng kém sút, lòng đã bắt đầu lo ngại, nhủ thầm :

- Lúc ở Tây Nam, trên hai mươi năm dư mình chưa hề gặp được người nào đỡ nổi 30 chiêu ác liệt, thế mà hôm nay trước mặt đông đủ anh hùng, một gã thanh niên hậu bối mình lại không thắng nổi thì xấu hổ biết chừng nào.

Cho nên lão cố gắng vận dụng hết nội lực phát ra luồng kình phong tăng thêm vào song chưởng.

Hai người từ lúc giao đấu đến giờ trên dưới 20 chiêu số mà Lam Thiên Hòa không thấy đối phương sơ hở tí nào. Còn lão thì hao tổn chân lực rất nhiều. Lão buột miệng huýt lên một tiếng, bổ ra một chưởng Cửu quỳ trích tinh đánh mạnh vào bụng Gia Luật Tề.

Lão lấy làm thích thú vì đối phương mở toang hung khẩu không đề phòng, kể chắc là đã trúng.

Bình một tiếng, quả nhiên chưởng lực đánh trúng đối phương thật. Dưới đài mọi người đều kinh hãi, đứng dậy một loạt vìai cũng tưởng rằng chưởng lực đánh trúng Gia Luật Tề chẳng chế cũng bị thương.

Lương trưởng lão cũng thất sắc toan lên đài tuyên bố cuộc thỉ võ đến đây là chấm dứt nếu như chưởng phong của Lam Thiên Hòa đánh chết Gia Luật Tề thực.

Nhưng có ngờ đâu lúc Lam Thiên Hòa bổ mạnh vào bụng Gia Luật Tề một ch ởng cực kỳ nguy hiểm mà Gia Luật Tề vẫn đứng nguyên một chỗ chẳng hề nao núng, cũng không tỏ vẻ gì đau đớn cả. Lam Thiên Hòa thất kinh, g ương mặt tái nhợt, lập tức thối lui mấy bước, tay chân ê ẩm, lão lật đật vòng tay hướng vào đối phương, nói :

- Bội phục ! Bội phục !

Đoạn lão bước ra giữa đài và cất tiếng nói to :

- Gia Luật đại gia đã nương tay với bỉ phu, mà không hại đến tánh mạng, như vậy là anh hùng hào nghĩa, tôi lấy làm vui mà kính phục.

Nói xong lão phi thân xuống đài. Mọi người lấy mắt nhìn nhau mà không hiểu sự tình ra sao cả. Họ quay lại nhìn Gia Luật Tề thì thấy chàng vẫn bình yên vô sự, còn mỉm cười.

Mọi người đều nghĩ :

- Rõ ràng là Lam Thiên Hòa đánh trúng Gia Luật Tề, tại sao lại bảo là Gia Luật Tề tha cho Lam Thiên Hòa ? Nếu gã có nội công thì chỉ đỡ được chiêu chưởng thôi, chứ thắng kẻ địch làm sao được ?

Nguyên lúc Lam Thiên Hòa đánh vào Gia Luật Tề một chưởng ngay bụng, chưởng phong vừa đánh ra đột nhiên như có một bàn tay vô hình nào phá mất, lão có cảm giác đôi bàn tay lão thọc vào ao nước, và nội công của lão bị dội lại, như có một luồng dịch khí giao tế giữa đối phương.

Luồng dịch khí hư hư thực thực, từ hùng khẩu của Gia Luật Tề ập mạnh vào song chưởng của Lam Thiên Hòa làm đôi bàn tay Lam Thiên Hòa tê buốt, khí nóng chạy mạnh vào đơn điền như muốn bể tung bụng ra.

Lam Thiên Hòa cả sợ, lập tức vận kình lực chống chế và thối lui ra sau, nhưng đôi bàn tay lão hình như bị làn nước lũ cuốn đi. Tuy cách xa mấy thước mà hai cánh tay không thể nào đưa lên, giở xuống được.

Thủa trước gặp thầy truyền thụ võ công, Lam Thiên Hòa có nghe sư phụ nói về Phong Lôi chưởng pháp. Nhưng trên 30 năm giang hồ của lão chưa hội ngộ lần nào. Mặc dù sư phụ đã nói về Phong Lôi chưởng pháp là một môn võ công ảo diệu, nếu gặp đối phương sử dụng môn này thì phải đề phòng, nhưng Lam Thiên Hòa không ngờ địch thủ lợi hại đến thế. Cho nên lão kiêu ngạo và tự cho mình là kẻ có học thuật tối cao, võ nghệ tinh diệu, dù địch nhân có công lực xuất thần nhập hóa cũng chẳng làm gì được, nào ngờ hôm nay phải đối đầu với sự thật phũ phàng. Đối thủ lại là một tráng niên tuổi tác độ 30 mà có một công phu quỷ khốc thần sầu.

Bao nhiêu ý nghĩ của lão thoáng qua như một tia chớp, đôi mắt gã nhắm lại chờ chết. Bỗng nghe áp lực đã tiêu tan, bao nhiêu uất khí tại đơn điền cũng mất và ấm dịu trở lại.

Lam Thiên Hòa liền vận kình mạnh cho chạy loang khắp châu thân, quả nhiên không có tổn hại tí nào về khí lực. Chừng ấy lão mới rõ là Gia Luật Tề đã tha mạng sống cho lão. Lòng kiêu ngạo mất hết, lão đứng ra nói ít lời tri ân trước mặt quần hùng.

Lúc 2 người giao đấu mãnh liệt trên đài, mọi người đều thấy Lam Thiên Hòa chưởng lực quá uy mãnh khiến họ sợ Gia Luật Tề thât bại.

Gia Luật Tề là rể của Quách Tỉnh và Hoàng Dung, vì thế có thể nói có rất nhiều liên hệ đến Khất Cái Bang. Bốn vị đại lão và chúng đệ tử Cái Bang đều muốn cử chàng lên nhậm chức Bang chủ.

Chàng lại là đệ tử của môn phái Toàn Chân, đồ đệ của Châu Bá Thông mà các đệ tử của Đông Tà và Nam Đế đều nhường cho môn phái Toàn Chân nhiều ưu thắng.

Chỉ có một vài người không bíêt lượng sức hay thô lỗ, mới dám lên đài lãnh giáo. Đã nhiều người lên đài chịu không nổi 3 chiêu của chàng mà thảm bại.

Quách Phù thấy tài nghệ của chồng mình áp đảo cảhội trường, lòng hoan hỉ vô biên, chẳng nói ra lời. Nàng đưa mắt quan sát chung quanh thì thấy có một con chim Điêu cực lớn, hình dung xấu xí đứng bên lão lùn đầu to tại bến đò Phong Lăng dạo nọ. Lão lùn này ngồi kế bên Quách Tường, làm cho Quách Phù hồi hộp lo âu.

Lúc Quách Tường, Đại Đầu Quỷ và Thần Điêu đi đến hội trường thì gặp lúc Gia Luật Tề và Lam Thiên Hòa đang giao đấu kịch liệt.

Quách Phù mải chăm chú nhìn chồng không để ý đến. Đến khi cuộc đấu kết thúc, nàng mới sực nhớ đến quần hùng, đua mắt nhìn 4 phía thì thấy con chim Điêu đứng sừng sững từ lúc nào rồi. Nàng thất kinh nhủ thầm :

- Thần Điêu đến ắt là Dương Qua còn lẩn quất đâu đây. Nếu như gã lại đây giành chức Bang chủ thì...

Nghĩ đến đây nỗi vui mừng hóa ra sợ hãi. Nàng nhớ ngày nào với một cái tay áo mà Dương Qua đã đoạt thanh kiếm của nàng dễ như bỡn. Nàng thất kinh lẩm bẩm :

- Tề ca ca võ nghệ tuy cao cường nhưng chẳng làm thế nào chống nổi g cụt tay quái gở này. ý, con người gã từ nhỏ cốt là quỷ tinh, luôn luôn chiếu trúng mạng của ta, đến ngày giờ này ta có tránh cũng không khỏi. Nếu gã mà xuất hiện thì...

Nhưng Quách Phù đưa mắt nhìn khắp nơi vẫn không thấy tông tích của Dương Qua.

Màn đêm phủ đầy, Gia Luật Tề đã đánh thắng liên tiếp 7 người, nên không có người nào lên đài để đấu nữa.

Bấy giờ mọi người thấy Lương trưởng lão bước lên giữa đài, cất tiếng nói to :

- Gia Luật Tề đại gia, võ nghệ song toàn, trong Khất Cái Bang chúng tôi trên dưới đều ngưỡng mộ, nếu được suy cử làm bang chủ, thì chúng tôi sẽ vui lòng tiếp nhận.

Ông nói đến đây, tất cả nhữ ng người trong Khất Cái Bang đều đứng dậy một loạt, cất tiếng hoan hô vang dậy.

Lương trưởng lão nói tiếp :

- Không rõ có vị anh hùng hảo hán nào muốn lên đài để giao đấu nữa chăng ?

Ông nói từng tiếng trong 3 lần mà dưới đài im phăng phắc không có tiếng đáp lại.

Quách Phù mừng rỡ nói thầm :

- Dương Qua giờ này không đến, thì mất hết ngày giờ rồi. Tề ca ca lúc đã tiếp nhận chức Khất Cái Bang chủ rồi thì gã có đén cũng chẳng làm gì đựoc nữa.

Bấy giờ bỗng nghe có tiếng vó ngựa phi rất gấp, hai người kỵ mã phóng vào hội trường. Vẻ mặt 2 người tỏ ra có một chuyện gì cấp bách lắm.

Quách Phù cả kinh nói thầm :

- Nó đã đến !

Quách Tỉnh và Quách Phù, hai cha con đều nghĩ có 3 chữ Ûnó đã đếnÕ. Nhưng ý nghĩ khác nhau, cô con gái tính là Dương Qua, còn người cha lại cho là quân Mông Cổ.

Hai tên thám tử cách độ 1 0 trượng, đều nhảy xuống ngựa đến trước mặt Quách Tỉnh thi lễ.

Quách Tỉnh và Hoàng Dung không đợi 2 người mở miệng, nhìn thấy sắc mặt nhợt nhạt của họ đã biết ngay có chuyện nguy hiểm.

Một tên thám tử thưa :

- Bẩm Quách đại hiệp! Có trên một ngàn quân Mông Cổ kéo theo cánh hữu. Cả đội tiên phong này đổ xôvề Tân Dư .

Quách Tỉnh lẩm bẩm :

- Nguy hiểm đã đến !

Lại nghe tên thám tử khác nói tiếp :

- Quân tiên phong Mông Cổ, trên một ngàn người kéo về cánh tả, trực chỉ Đặng Châu.

Quách Tỉnh ừm một tiếng, mặt mày biến sắc và nói :

- Bắc lộ địch quân đã phân ra hai đường, chuyển vận thần tốc, phong thế vô cùng lợi hại.

Ai cũng rõ Tân Dư và Đặng Châu chỉ cách thành Tương Dương độ một trăm dặm đường, chỉ còn cách thành Tương Dương cái bờ đê Phàn Thành mà thôi. Con đường duy nhất này toàn là bình nguyên, không có núi đèo cách trở. Đạo quân thiết kỵ của Mông Cổ như gió cuộn, sóng trào. Chỉ độ một ngày nữa là tới nơi.

Lại nghe tên thám tử thứ hai nói với vẻ vui mừng :

- Bẩm Quách đại hiệp, vậy mà có 1 câu chuyện quái lạ là đoàn quân này vừa đến bên ngoài thành Đặng Châu thì bị chết sạch không còn tên nào sống sót.

Quách Tỉnh lấy làm lạ, hỏi :

- Tại sao vậy ?

Tên thám tử thứ nhất nói :

- Tiểu nhân cũng thấy như vậy ! Cả ngàn tiên quân tiên phong Mông Cổ đến thành Tân Dư đều chết sạch không còn một người. Nhưng có một chuyện hết sức lạ lùng là toàn thể quân Mông Cổ, những xác chết bị xẻo mất lỗ tai tả chẳng biết người ta cắt lấy để làm gì.

Tên thám tử cũng nói :

- Đội quân Mông Cổ chết tại Đặng Châu cũng vậy, chẳng biết người nào đã xẻo mất lỗ tai bên tả?

Quách Tỉnh và Hoàng Dung đưa mắt nhìn nhau, cả hai đều mừng lo lẫn lộn. Họ suy nghĩ :

- Hai đạo quân tiên phong của Mông Cổ dẫu chết hết, cũng không làm hỏng kế hoạch xâm lăng của chúng, vì trên trăm muôn binh mã mà thất bại hai ngàn, ngẫm cũng chẳng thấm vào đâu. Nhưng chẳng biết ai đã phục binh giết địch?.

Quách Tỉnh hỏi lớn :

- Có phải thủ quân Tân Dư và Đặng Châu công phá chăng ?

Hai tên thám tử nói :

- Hai vị trấn thủ đều bế cửa thành chẳng ra. Đại quân Mông Cổ chết bên ngoài, chúng tôi e giờ phút này 2 vị trấn thủ vẫn chưa hay.

Hoàng Dung nói :

- Hai người hãy đến bẩm báo với Lữ nguyên soái cho rõ ràng, tất nhiên nguời sẽ hoan hỉ và trọng thưởng cho các ngươi thập bội.

Hai tên thám tử cúi mọp và lui ra. Quân Mông Cổ chưa giao chiến với binh mã ở thành Tương Dương mà hai đạo quân đã bị tiêu diệt. Hoàng Dung bước lên đài tuyên bố cơ sự. Mọi người ở dưới đài hân hoan cất tiếng reo hò chấn động.

Hoàng Dung liền nói :

- Khất Cái Bang tân lập bang chủ là điều may mắn, lại diệt được hai ngàn địch quân là một đại kỳ công. Lương trưởng lão ! Hãy bày tiệc rượu mà khánh chúc sự thành công này.

Tiệc rượu đã được dự bị từ trước do Khất Cái Bang tổ chức để đãi quần hùng và để chúc hạvị Tân bang chủ. Bấy giờ chỉ còn đợi lệnh là đèn hoa đốt rực, mở tiệc quần hùng mặc sức cho mọi người cao hứng vui say một bữa.

Võ Đôn Nho và một số người rơi đài, lòng tuy mất hào hứng nhưng thấy hàng ngàn người đều vui vẻ, không lẽ không vui nên cũng ngồi vào uống rượu với mọi người.

Tất cả hành khất trong bang đều liệt hạ cả trên mặt đất. Còn quần hùng thì ngồi xung quanh bàn ghế. Tất cả đều ăn uống chuyện trò.

Tiệc rượu tuy đơn sơ vài món, nhưng rau cải, rượu thịt không thiếu.

Quần hùng đều nghĩ là Quách Tỉnh, Hoàng Dung bày kế giết địch, nên muốn đưa rượu kính dâng chúc tụng.

Quách Tỉnh lại nói là chẳng phải công lao của ông, nhưng quần hùng cho là ông khiêm nhường nên chẳng tin.

Hoàng Dung nói :

- Tỉnh ca ca ! Chuyện này lạ lùng hết sức, chẳng hiểu ai đã giết địch xẻo lấy lỗ tai làm gì?

Nguyên lúc Hoàng Dung nghe các thám tử báo cáo, bà đã rõ sự này còn nhiều uẩn khúc, nên đã phái một lượt 8 tên Khất Cái võ nghệ cao cường, chia làm 2 đạo đến do thám lại. Nhóm thì đến Tân Dư , nhóm thì đến Đăng châu.

Quách Tường, Đại Đầu Quỷ và Thần Điêu cả 3 người đều đứng dậy. Mọi người thấy vẻ xấu xí của Thần Điêu đều không ai dám ngồi gần.

Quách Tường lại hỏi :

- Đại ca tại sao chẳng lại kìa ?

Đại Đầu Quỷ nói :

- Ông ấy bảo đến, tất nhiên phải đến chứ. Chỉ chậm trong giây phút thôi.

Đại Đầu Quỷ vừa nói dút bỗng hốt hỏang kêu lên :

- Cô nương ! Có nghe tiếng gì không ?

Quách Tường nghiêng tai nghe rõ từng loạt âm thanh sư tử rống, cọp gầm, vượn hú véo von từ xa đưa lại càng lúc càng gần, nên cả mừng nói :

- Anh em họ Sử cũng lại đến à ?

Qua vài phút sau, bầy thú càng lúc càng tiến đến gần. Tất cả quần hùng và Khất Bang đều biến sắc, đứng dậy một loạt và rút binh khí ra đề phòng. Tiếng nhốn nháo trong hội trường vang lên :

- Có nhiều mãnh thú tới đây !

- Có cả sư tử, dã nhân, hùm beo !

- Hãy cẩn thận đề phòng !

- Đề phòng ác thú !

Quách Tỉnh quay sang Võ Tu Văn bảo :

- Ngươi ra ngoài thành truyền hiệu lệnh của ta điều hai ngàn cung thủ đến đây !

Võ Tu Văn đáp nhanh :

- Vâng ạ!

Vừa quay người muốn đi, bỗng nghe có tiếng hú dài từ xa đưa lại :

- Vạn Thú Sơn Trang Sử thị huynh đệ, vâng lệnh Thần Điêu Đại hiệp đến chúc thọ Quách nhị cô nương và cung hiến lễ vật.

Tiếng nói này không phải của 1 người mà là của tất cả 5 anh em họ Sử đồng hô một loạt.

Nam người này nội lực thật hùng hậu. Tuy nhiên mỗi người lại nói một giọng, ròi hú lên. Tiếng hú dài có đủ ngũ âm cung, thương, giốc, chủy, vũÕ. Âm thanh như muốn phá vỡ màng nhĩ mọi người.

Hoàng Dung hướng vào Võ Tu Văn vẫy tay, và truyền lệnh :

- Lòng người không lường đuợc, tuy anh em họ Sử nói vậy, chắc gì họ không có ý khác. Chi bằng triệu tập cung thủ, để dự phòng chế phục bọn họ là hơn.

Võ Tu Văn phòng mình lên lưng ngựa vào thành để điều động cung thủ. Chẳng bao lâu đội cung thủ thứ nhất đã tề tựu tại hội trường phục sẵn kế hoạch của Hoàng Dung.

Quách Tỉnh lúc ở tại Mông Cổ đã tập được thuật kỵ xạ, nên lấy đó huấn luyện sĩ tốt. Binh sĩ của thành Tương Dương tinh thục hơn các thành khác, do đó mới kháng cự nổi quân Mông Cổ mười mấy năm.

Những xạ thủ dàn ra một thế trận vừa xong, chợt thất một chàng dũng sĩ mình khoác áo da hổ, dắt theo sau một trrăm con mãnh hổ đến hội trường. Dũng sĩ này chính là Bạch Ngạn Sơn Quân Sử Bá Uy. Một trăm con mãnh hổ xếp từng hàng ngũ rất có trật tự, đều quỳ xuống đất. Tiếp đến là Quách Kiến Tử Sử Trọng Mãnh suất lãnh một trăm con beo gấm hay kim tiền báo. Kế là Kim Giáp Sư Vương Sử Thúc Cương suất lãnh một trăm con sư tử, và Đại Lực Thần Sử quý C ơng suất lãnh một trăm thớt voi đen huyền. Sau hết là Bát Thủ Tiêu Đầu Sử Mạnh Kiện dắt theo một trăm con dã nhân thật lớn.

Tất cảđều phân ra hàng ngũ nằm phục bên ngoài hội trường. Bầy thú tuy hung ác dữ tợn, nhưng chẳng gầm rống nữa, mà xếp thành từng loạt có đội ngũ rất chỉnh tề, không hề lộn loại hay mất trật tự.

Nơi hội trường có nhiều người kiến thức cao rộng, nhưng chưa bao giờ thấy được một bầy thú dữ như thế này, nên họ nao núng chẳng an.

Năm anh em họ Sử câm trên tay mỗi người một cái túi bằng da khá lớn. Họ đến bên Quách Tường, tỏ ra rất cung kính vòng tay mà thưa :

- Cung chúc cô nương sống lâu trăm tuổi, và hưởng đầy hạnh phúc !

Quách Tường vòng tay đáp lễ và nói :

- Đa tạ ngũ vị Sử gia thúc thúc.

Bạch Ngạch Sơn Quân Sử Bá Uy chỉ 5 chiếc túi da và nói rằng :

- Chúng tôi vâng mạng Thần Điêu Đại hiệp gửi đến món lễ vật thứ nhất trao tặng co ânương trong ngày lễ sinh nhật.

Quách Tường mỉm cười nói :

- Thât tôi không ngờ như thế ! Tôi chẳng dám nhận đâ u. Quý vị tặng món gì? ừ, tôi đoán không lầm thì mỗi chiếc túi là một con beo con, hoặc con cọp nhỏ, phải vậy chăng ?

Sử Bá Uy lắc đầu nói :

- Chẳng phải thế ! Món lễ vật này quý lắm, do Thần Điêu Đại hiệp dắt theo bảy trăm vị giang hồ hảo thủ mới tìm ra đấy ! Hao phí không biết bao nhiêu khí lực và công trình.

Nói xong Sử Bá Uy mở 5 cái túi da ra. Quách Tường xem qua đã rụng rời, kinh hãi kêu lên :

- ối chao ! Lỗ tai người !

Sử Bá Uy nói :

- Đúng rồi ! Chính là lỗ tai người Mông Cổ. Trong năm chiếc túi da có cả thảy là hai ngàn cái.

Quách Tường vẫn chưa hiểu ý nghĩa ra sao, nên kinh hãi nói :

- Làm sao xẻo được lỗ tai quân Mông Cổ nhiều thế ? Tôi chẳng hiểu gìcả.

Quách Tỉnh và Hoàng Dung nghe hai người nói đến đây đã hiểu rõ ràng câu chuyện, lập tức rời chỗ ngồi đi đến chỗ Sử Bá Uy và Quách Tường xem cho rõ mấy ngàn lỗ tai.

Hoàng Dung nói :

- Sử đại gia ! Có phải là binh sĩ Mông Cổ ở ngoài thành Tân Dư và Đặng Châu do Thần Điêu Đại hiệp đưa người ra giết chết chăng ?

Năm anh em họ Sử vòng tay bái lễ ra mắt Quách Tỉnh, Hoàng Dung. Vợ chồng Quách Tỉnh cúi đầu trả lễ.

Sử Bá Uy nói :

- Thần Điêu Đại hiệp có nói Quách nhị cô nương ở tại thành Tương Dương, thì bọn man binh Mông Cổ không có quyền đến xâm phạm, nên chẳng thể không giết chúng. Chỉ giận man binh thanh thế rất lớn, không thể giết hết một lần được. Do đó chúng tôi mới bái lãnh một nhóm hào kiệt giết bớt hai ngàn quân tiên phong của chúng.

Quách Tỉnh nói :

- Thần Điêu Đại hiệp ở đâu ? Sao không đến đây ra mắt, để bá tánh trong thành Tương Dương bái tạ tri ân ?

Vì trong 1 0 năm nay, Quách Tỉnh chỉ chuyên tâm trau dồi binh mã và củng cố thành trì cho nên câu chuyện trên giang hồ ông không biết gì cả. Còn Dương Qua thay họ đổi tên giao tiếp với tất cả mọi người tà chánh trên chốn giang hồ. Vì vậy Quách Tường không rõ Thần Điêu Đại hiệp chính là Dương Qua.

Sử Bá Uy nói :

- Thần Điêu Đại hiệp mấy ngày nay lo tìm các món lễ vật để dâng tặng lệnh ái trong buổi lễ sinh nhật, nên không thể đến ra mắt Qúach đại hiệp, Quách phu nhân. Tôi có đôi lời xin thay mặt Thần Điêu Đại hiệp mà tạ lỗi.

Bõng nhiên có một tiếng hú từ xa đưa lại, giọng nói thực rõ ràng :

- Tây Sơn Nhất Khuất Quỷ vâng lệnh Thần Điêu Đại hiệp đến chúc thọ Quách nhị cô nương và dâng hiến lễ vật.

Tiếng nói này thoạt nhỏ thoạt to, lúc ngắn lúc dài. Nhưng mọi người đều nghe thấy rất rõ ràng.

Quách Tỉnh thấy món lễ vật thứ nhất quá lớn, nên vận nội lực gọi to :

- Quách Tỉnh xin hầu đại giá !

Tiếng nói của ông rất hùng hồn và rõ rệt, vang dội thật xa, làm những người tại hội trường vô cung kinh ngạc, ai nấy đều ngóng đợi đoàn người kia đến.

Hoàng Dung và Quách Tỉnh đồng đứng sát bên nhau. Hoàng Dung hỏi Quách Tỉnh :

- Ông có biết Thần Điêu Đại hiệp là ai không ?

Quách Tỉnh đáp :

- Tôi đoán không ra !

Hoàng Dung nói :

- Thần Điêu Đại hiệp là Dương Qua đấy !

Quách Tỉnh ngây người, lòng hoan hỉ vôcùng, liền nói :

- Liệu chẳng được ! Nghĩ không ra ! Nó lập được kỳ công như thế là phước đức của nhà Tống đó.

Hoàng Dung nói :

- Ông đoán xem món lễ vật thứ hai là cái gì?

Quách Tỉnh mỉm cười đáp :

- Ta không ngờ Qua nhi tài trí trác tuyệt như vậy. Chỉ có bà may ra thắng được nó, và cũng chỉ có bà mới đoán được tâm tư của nó.

Hoàng Dung thở dài nói :

- Tôi đã đoán sai một lần rồi.

Chỉ trong phút chốc Trường Tu Quỷ Phàn Nhất Ông, dẫn đầu tám quỷ đến hội trường hướng vào vợ chồng Quách Tỉnh hành lễ, và đến bên Quách Tường vòng tay thi lễ :

- Cung chúc Quách cô nương khương ninh an lạc, phước nhuần vô tận. Thần Điêu Đại hiệp bảo chúng tôi đến dâng lễ phẩm thứ nhì.

Quách Tường nói :

- Đa tạ! Đa tạ!

Nhìn thấy Tây Sơn Nhất Khuất Quỷ đem ra mỗi người một hộp lớn. Sợ các gã này lại đem đến những lỗ mũi người thay vì những lỗ tai vừa rồi, Quách Tường hoảng nói :

- Tôi không muốn thấy lễ vật này, đừng mở ra nữa, ghêlắm !

Đại Đầu Quỷ cười lớn bảo :

- Món lễ này đẹp mắt lắm, không ghê đâ u !

Phàn Nhất Ông mở chiếc hộp lấy ra một cây Lưu tinh hỏa pháo thật lớn. Đoạn ông châm lửa vào, ném mạnh lên không trung. Ghêthay sức lực của Phàn Nhất Ông, cái ném tay đ đ a câ y pháo lên cao hơn 1 0 trượng. Khỏang giữa không trung nổ bùng một tiếng cực to, xác pháo bay ra tán loạn, tựa hồ như một trận mưa hoa. Các chất lưu tinh kết lại giữa trời thành một chữ CUNG thật lớn.

Quách Tường mừng quá, vỗ tay reo lên :

- Hoàn hảo ! Hoàn hảo !

Điếu Tử quỷ phòng lên một câ y pháp bông kế tiếp, làn khói cuộn thành một chữ CHúCÕ

Tất cả mọi người trong nhóm Tây Sơn Nhất Khuất Quỷ đều phóng ra một cây pháo kết thành một tràng chữ : Cung chúc Quách nhị co ânương đại phước đại thọÕ

Mười chữ màu sắc khác nhau, đủ loại trắng vàng xanh đỏ tím, in lơ lửng giữa trời rất lâu mà chẳng tan.

Những cây pháo lưu tinh này đều do tay thợ giỏi chế pháo ở Hán Khẩu làm ra, đẹp đẽ vô cùng, thực là hiếm có trong lúc bấy giờ.

Quách Tỉnh mỉm cười thầm nghĩ :

- Tiểu Tường nhi sẽ vui lòng lắm ! Qua nhi thật khéo tìm được người chế pháo rất hay !

Giữa lưng trời 1 0 chữ lưu tinh lần lần biến mất, thì nơi hướng Bắc bỗng nhiên một cây pháo bay lên tua tủa ra muôn ánh lưu tinh nhấp nháy.

Cây pháo này phóng lên cách đại hội trường trên mấy dặm. Hoàng Dung nói thầm :

- Cây pháo lưu tinh này là ám hiệu của nhiều đạo hắc bạch trên chốn giang hồ, trong khoảng khắc đây ánh phong hỏa này sẽ truyền ra trên trăm dặm, không hiểu Qua nhi đ oan bày kế hoạch gì đây ? Cái lễ vật thứ hai chắc chẳng phải phóng lên mấy cây pháo bông tầm thường này thôi đâu ! Có lẽ Tường nhi biết rõ mọi việc cũng nên.

Bấy giờ bà hạ lệnh cho Khất Bang đệ tử bày tiệc đãi đằ ng những người khách mới.

Sử thị huynh đệ và Tây Sơn Nhất Khuất Quỷ vừa vào tiệc, lại nghe phía Bắc truyền lại những âm thanh như sấm động, ì ầm chẳng dứt. Tuy tiếng động thực nhỏ, mà vang dội rất xa, dần dần lại hết hẳn.

Tây Sơn NHất Khuất Quỷ và Sử thị huynh đệ nghe tiếng hú như sấm động này, lập tức đứng dậy cất tiếng hoan hô:

- Đã thành công rồi ! Thành công rồi ! Tất cả quần hùng và Khất Cái Bang ngạc nhiên không rõ việc gì!

Đại Đầu Quỷ chỉ về hướng Bắc nói to rằng :

- Thật là tuyệt diệu ! Thật là tuyệt diệu !

Lúc bấy giờ bầu trời đen như mực, mà hướng Bắc xông lên một vừng lửa hồng đỏ rực.

Hoàng Dung nửa mừng nửa sợ nói :

- Nam Dương lửa dậy !

Quách Tỉnh đưa mắt nhìn chăm chú và nói :

- Thực chẳng sai ! Lửa dậy tại Nam Dương !

Hoàng Dung quay sang Phàn Nhất Ông hỏi :

- Xin cho tôi biết rõ việc này !

Phàn Nhất Ông nói :

- Đây là món lễ vật thứ hai của Thần Điêu Đại hiệp trao tặng Quách nhị co ânương, là đã thiêu hủy xong hai muơi muôn hộc lương thảo của đại quân Mông Cổ.

Hoàng Dung nghe qua, không thể ngờ câu chuyện đã xảy ra như vậy. Quách Tỉnh cả mừng và cho rằng câu chuyện này xảy ra rất đúng. Nguyên đoàn quân xâm lăng Mông Cổ kéo đến công phạt thành Tương Dương. Chúng lấy đất Nam Dương làm nơi tích thảo dồn lương. Trong mấy năm qua chúng đã xây cất kho tẩm rất nhiều, để dồn trữ quân lương, gồm có trên một trăm hộc mễ cốc và hàng muôn đống cỏ cao ngất trời, và muôn ngàn dòng nước đều chảy về Nam Dương. Vì thể mà người ta thường nói rằng :

- Muốn ra quân dẹp loạn, trước hãy nghĩ đến lương tiền. Binh sĩ đầy đủ mới dẹp giặc đuợc.

Mông Cổ từ thủa nào vẫn lấy kỵ binh làm phương tiện trong các cuộc viễn chinh, cho nên rơm cỏ không bao giờ để thiếu.

Quách Tỉnh đã mấy lần mang binh sang đánh Nam Dương, nhưng quân Mông Cổ hết lòng chống giữ, vì vậy không phá được. Không ngờ Dương Qua hôm nay đã giúp ông làm xong việc đó, mà chỉ trong khoảnh khắc đã thành công.

Quách Tỉnh thấy hướng Bắc lửa cao ngất trời, bèn quay sang Phàn Nhất Ông hỏi :

- Chư vị anh hùng hào kiệt ra tay hành sự đều bình yên cả chứ ?

Phàn Nhất Ông thưa :

- Quách đại hiệp chẳng hỏi chiến quả, mà lại hỏi đến an nguy của sĩ tốt, quả nhiên là nhân nghĩa hơn người.

Và nói thêm :

- Đa tạ Quách đại hiệp có lòng nghĩ đến, Thần Điêu Đại hiệp đã an bài xong mọi việc. Ngọn lửa phát dậy trong Nam Dương thành, do quý vị Thánh Nhân Sư thái, Lung á đầu đà, Trương Nhất Manh và Bá Thảo tiên ông, cùng các vị cao thủ khách hợp được tất cả tám mươi mốt vị cao thủ, thì những võ sĩ Mông Cổ tầm thường làm sao đả thương được ?

Quách Tỉnh đã hiểu mọi sự bèn hướng vào Hoàng Dung nói :

- Qua nhi đã tụ tập quần hùng ! Chính nó đã tạo ra kỳ công to tát nhất. Nếu không nhờ rất nhiều cao thủ võ lâm thì làm thế nào hạ hai ngàn quân Mông Cổ cho được ?

Phàn Nhất Ông nói :

- Chúng tôi đã do thám được Man binh Mông Cổ định dùng hỏa pháo công thành Tương Dương nên chúng giấu mười vạn cân thuốc nổ trong thành Nam Dương. Tám mươi mốt vị cao thủ mai phục nơi này, đợi thấy hỏa pháo lưu tinh phóng lên, tức là hiệu lịnh xông trận. Giờ đây mấy mươi muôn binh của Mông Cổ và đoan ngựa ắt phải chịu đói chết.

Quách Tỉnh và Hoàng Dung đưa mắt nhìn nhau cảm phục vô cùng. Vợ chồng Quách Tỉnh mấy năm trước có theo Thành Cát Tư Hãn đến thành Tây đã gặp nhiều lần đại quân Mông Cổ lấy thuốc nổ phá thành, thật là một loại vũ khí lợi hại. Nếu việc này chẳ ng nhờ Dương Qua phá giải đốt rụi những thuốc nổ đó, thì bá tánh trong thành Tương Dương sẽ lâm đại họa chết sạch.

Vợ chồng Quách Tỉnh lại nghĩ :

- Đã tiêu diệt địch quân trên hai ngàn binh mã , thiêu rụi số lương thảo tích trữ trong thành Nam Dương, nếu quân Mông Cổ không tiếp vận lương thải kịp thì bao nhiêu binh lính còn lại sẽ lo sợ mà rút lui, thực là một đại công đuổi quân xâm lăng cứu nước.

Quách Tỉnh và Hoàng Dung nghĩ đến đây liền hướng vào 5 anh em họ Sử và mười quỷ Tây Sơn Nhất Khuất hết lời ta ơn.

Bấy giờ từ xa văng vẳng tiếng nổ bùng bùng, có lẽ là chất thuốc nổ gặp lửa bốc chạy. Hàng loạt tiếng nổ long trời dậy đất, làm cho cả thành Tương Dương đều rúng động.

Phàn Nhất Ông mừng rỡ nói:

- Đó là tiếng nổ gặp lửa bốc cháy, nên phát ra dữ dội.

Quách Tỉnh liền gọi hai anh em họ Võ đến truyền rằng :

- Hai người mang hai ngàn quân cung thủ đến áp trợ cho Nam Dương nếu gặp lúc hàng ngũ của địch quân chỉnh tề thì không được hạ thủ, nhược bằng chúng nó loạn hàng thì mới ra tay xạ tiễn để tiêu diệt chúng.

Hai người vâng mạng lui ra. Quách Phù thấy chồng mình đã chế phục quần hùng, chức Khất Cái Bang chủ đã cầm chắc trên tay nhưng câu chuyện xảy ra làm cho nàng ái ngại. Nàng nghĩ rằng nếu Dương Qua xuất hiện thì Gia Luật Tề không hy vọng chống cự được. Nhưng khi nghe Tây Sơn Nhất Khuất quỷ và Sử thị huynh đệ nói việc giết quân Mông Cổ và đốt lương thực địch là 2 món tặng phẩm của Dương Qua trao cho tiểu muội mừng lễ sinh nhật, làm cho Quách Phù bớt lo ngại phần nào.

Lương trưởng lão, Gia Luật Tề và Quách Phù ngồi chung một chỗ thấy mọi người đều cao hứng mà vẻ mặt của Quách Phù hơi ảm đạm và trầm ngâm, liền mỉm cười nói :

- Cô gái này lạ lùng thế ! Câu chuyện hoan hỉ sao lại có kẻ buồn.

Trong lúc đó Lương trưởng lão đã phi nhanh lên đài và cất tiếng bảo rằng :

- Mời quý vị anh hùng ! Đoàn Mông Cổ xâm lăng đã bị gẫy đổ 2 lần, chúng ta nên hân hoan và vui vẻ thêm lên. Nhưng còn thêm một tin mừng nữa là Gia Luật đại gia là một bậc tinh thâm võ học, người người đều mến phục, nên chúng tôi muốn lập Gia Luật đại gia làm chức Bang chủ. Trong anh hùng thiên hạ ở đây có ai không phục, xin lên tiếng.

Ông hỏi 3 lần mà dưới đài không người nào đáp ứng. Lương trưởng lão nói tiếp :

- Như vậy xin mời Gia Luật đại gia thượng đài

Gia Luật Tề phòng mình lên đài, vòng tay thi lễ với tất cả mọi người và nói mấy lời khiêm tốn như bạc đức vô tài...

Bỗng nghe dưới đài có tiếng gọi to :

- Chậm lại, tiểu nhân có một câu hỏi muốn thỉnh giáo Gia Luật đại gia.

Gia Luật Tề nghiêng mình nhìn xem ai đã nói lời này, thì rõ ra người nói lại ở trong Cái Bang, chàng vội vã vòng tay hướng vào người nói :

- Chẳng dám ! Xin mời người chỉ giáo !

Lại thấy từ trong nhóm người hành khất có người đứng ngay lên cất tiếng nói :

- Gia Luật đại gia ! Lệnh tôn là tể tướng, cao ngời ở Mông Cổ và lệnh huynh lại làm quan cao trọng. Tuy cả hai đều chết đã lâu, nhưng Khất Cái Bang chúng tôi là kẻ thù của người Mông Cổ, Gia Luật đại gia nhậm chức Cái Bang bang chủ sao nên !

Gia Luật Tề cau mày đáp :

- Cha tôi là Gia Luật Sở Tài bị Thái hậu Mông Cổ đầu độc mà thác, còn anh tôi là Gia Luật Tấn lại bị đương kim Hoàng đế giết chết, do đó tiểu sinh đối với bạo chúa Mông Cổ có mối thù bất cộng đái thiên.

Gã hành khất cười lớn hỏi :

- Như vậy thì lệnh tôn đã chết vì bị người ha ïđộc, còn lệnh huynh chết vì mắc tội với triều đình Mông Cổ, nhưng mối thù nhà chưa trả thì làm sao trả mối cừu cho bổn bang được ?

Quách Phù nghe gã này nói vậy không chịu được liền hét lên :

- Ngươi là ai ? Sao dám cả gan ăn nói hồ đồ ? Nếu can đảm thì lên đài mà tỉ thí chứ nói ích lợi gì?

Tên ăn mày ngước lên trơì cười ngất hỏi to :

- Tốt đẹp thay ! Chức vị Tân bang chủ chưa thành, mà Khất Cái Bang chủ phu nhân đã ra oai sấm set rồi.

Lời nói vừa dứt, không thấy gã ăn mày di động mà thoắt một cái gã đ đứng yên vị trên đài rồi. Quần hùng thấy gã trổ tài khinh công, tất cảđ ều ngạc nhiên bảo nhau :

- Gã hành khất này võ công rất lợi hại, không biết tên tuổi là chi ?

Dưới đài hàng ngàn cặp mắt nhìn lên, như coi móc vào hình tướng của gã , thấy gã hành khất này mình mặc một chiếc áo đen rách, tay tả cầm một ly rượu dài, ttụa hồ như một cây gậy thiếc, đầu tóc lòe xòe, gương mặt vàng hoe, da thịt chỗ lõm chỗ lồi trông rất dễ sợ. Trên lưng đeo lủng lẳng 5 cái bị vải, chính là một đệ tử ăn mày 5 bị.

Trong Cái Bang ai cũng tuấn nhã dễ coi, duy có gãnày là người xấu xí nhất trên đời.

Toàn thể Cái Bang đều gọi gã là Hà Sư Ngã . Nhìn vào gã chẳng ai nói tiếng nào cả, vì họ đều là lục lục vô tài nên không dám bình luận.

Vì trong 1 0 năm qua Cái Bang đã khuyến dụ không nên xuất lục cho nên gã chỉ lên đến hàng đệ tử 5 bị thôi. Vả lại, võ nghệ của gã rất cao, nên trong bang ai cũng vị nể và kính trọng gã . Vì gã đến chức ăn mày năm bị là việc rất khó khăn. Gã lại có tính khiêm nhường không muốn lên cấp bậc khác.

Do đó, mọi người đều cho là gã tính dung dị ôn hòa, mà tại sao hôm nay gã lại phi thân lên đài, hướng về Gia Luật Tề mà chất vấn.

Hà Sư Ngã tuy là người có tính khí bình dị, nhưng tướng mạo rất xấu xí, dù ai thấy qua một lần cũng khó quên, và Gia Luật Tề cũng biết gã khá rõ, nên mới vòng tay thưa :

- Chẳng rõ Hà huynh có cao kiến gì xin chỉ giáo cho tiểu đệ. Hà Sư Ngã cười lanh lảnh nói :

- Hai tiếng chỉ giáo tôi thật không dám nhận, chỉ vì tiểu nhân có hai việc không rõ ràng lắm nên thượng đài hỏi qua.

Gia Luật Tề điềm đạm hỏi :

- Xin hỏi việc chi thế ?

Hà Sư Ngã nói :

- Câu chuyện thứ nhất, chức Cái Bang chủ sau trước đã bàn giao, đều lấy Đả Cẩu bổng làm khí tiết. Gia Luật đại gia hôm nay đã nhậm chức Khất Cái Bang chủ, chẳng rõ đại gia có biết vật chí bảo là Đả Cẩu bổng ở đâu chăng ? Tiểu nhân muốn nhìn thấy nó.

Lời nói này vừa dứt, tất cả Khất Cái Bang nhủ thầm :

- Câu nói quá ư độc hại !

Lại nghe Gia Luật Tề nói :

- Lỗ bang chủ bị kẻ gian ám hại, nên gậy Đả Cẩu bị kẻ gian mang theo rồi. Như vậy cũng là điều sỉ nhục của Cái Bang, vậy ai là đệ tử của Cái Bang đều có trách nhiệm tìm nó mà đoạt về.

Hà Sư Ngã nói :

- Tiểu nhân còn có câu hỏi thứ hai là xin tân bang chủ cho biết mối thù của Lỗ bang chủ phải trả hay không ? Nếu trả thù thì phải đợi dến bao giờ ?

Gia Luật Tề nói :

- Lỗ bang chủ do Toa Đô giết hại, mọi người đều rõ, tất cảhào kiệt đều căm phẫn. Vì thế phải có thời gian dò xét xem Toa Đô trốn tại đâu. Nếu gặp đuợc nó, tôi sẽ giết để báo thù cho Lỗ bang chủ.

Hà Sư Ngã cất tiếng cười dài và nói :

- Điều thứ nhất : Đả Cẩu bổng chưa tìm được; điều thứ hai : Kẻ giết chết Lỗ bang chủ lại chưa tìm ra. Hai việc đại sự bất thành, tưởng đến cố bang chủ thực làm tôi tủi lòng lắm.

Lời nói thật nghiêm chỉnh, muốn bức người. Chỉ thấy Gia Luật Tề mặt bạc hóa hồng, không tìm ra lời đối đáp.

Lương trưởng lão nói :

- Lời của Hà lão đệ thực đúng lý, nhưng bổn bang đệ tử trên muôn người, đầy dẫy trong thiên hạ, không có kẻ cầm đầu, thì lấy ai để tìm được cây gậy và giết kẻ gian. Muốn thành công chuyện lớn là phải gấp rút lập một vị Tân bang chủ trước.

Hà Sư Ngã lắc đầu nói :

- Nhưng lời nói của Lương trưởng lão thật nhầm lẫn lắm. Có thể nói lấy nhân làm quả, để mà loạn pháp.

Lương trưởng lão chính là vị đầu lĩnh lúc bấy giờ, bởi vì3 trưởng lão kia đều đã khuất núi, nên tôn ông làm đầu, và ông rất được kính trọng. Thế mà tên ăn mày 5 bị dám cả gan nói lời lộng pháp giữa mặt bang chúng, thật là một kẻ gan to bằng trời.

Lương trưởng lão cả giận nói :

- Ta nói như vậy mà lầm lẫn hay sao?

Hà Sư Ngã nói :

- Theo ý kiến đệ tử thì ai là người tìm ra Đả Cẩu bổng và ai giết được Toa Đô hòang tử để báo thù thì mới xứng đáng lên làm Bang chủ. Chứ hôm nay Kẻ nào võ nghệ cao cường thì đuợc làm bang chủ, nếu Toa Đô hoàng tử xuất hiện và đánh thắng Gia Luật Tề đại gia thì hắn cũng được làm Bang chủ hay sao?

Những lời này làm cho quần hùng xám mặt, đưa mắt nhìn nhau, ai cũng cảm thấy lời nói này hữu lý.

Quách Phù đứng dưới đài hô to :

- Đừng nói hàm hồ ! Toa Đô võ công có là bao mà thắng được Gia Luật đại ca ?

Hà Sư Ngã cười lanh lảnh nói :

- Gia Luật đại gia tuy võ công cao cường, nhưng có dám nhận là thiên hạvô địch chăng ? Tiểu nhân chỉ là một tên ăn mày 5 bị, cũng có thể đấu đuợc vài chiêu với Gia Luật đại gia.

Quách Phù nghe qua lời ấy đôi mắt lóe hàn quang, kêu to :

- Tề ca ca ! Chàng hãy ra tay dậy kẻ cuồng đồ lớn mật này !

Hà Sư Ngã nói :

- Lương trưởng lão ! Nếu như đệ tử thắng được Gia Luật đại gia, thì chức vị Bang chủ sẽ về tay đệ tử phải chăng ? Và đợi kẻ nào giết được Toa Đôvà đoạt được Đả Cẩu bổng, tôi sẽ nhường lại chức bang chủ ấy.

Lương trưởng lão thấy gã này vôlễ bèn nổi giận nói :

- Chẳng luận ai. Nếu ai chiến thắng được quần hùng đều được suy tôn làm Bang chủ. Nếu ngày sau không đủ khả năng sát cừu giết địch và đoạt lại gậy, thì sẽ không được ở ngôi Bang chủ nữa. Gia Luật đại gia nếu được làm Bang chủ thì hai việc đại sự này cũng phải đứng ra lo liệu ! Nếu như Gia Luật đại gia không thắng được Hà lão đệ, thì chức vị Khất Cái Bang chủ do Hà lão đệ đảm nhiệm.

Chương 95 - Ba Món Lễ Vật - Thần Điêu Đại Hiệp - Kim Dung

--------------------------------------------------------------------------------

Chương 95 - Ba Món Lễ Vật

Hà Sư Ngã cất tiếng nói to:

- Lời nói của Lương trưởng lão rất chí lý. Tiểu nhân sẽ lãnh giáo Gia Luật đại gia, sau sẽ tìm gậy đả cẩu, giết Toa đô hoàng tử không muộn.

Lời nói này có hàm ý như là Hà Sư Ngã đã cầm chắc thắng đến chín phần mười.

Gia Luật Tề tuy rất cẩn trọng, nhưng nghe lời nói của Hà Sư Ngã cũng phải nổi giận, nói:

- Tiểu từ trí thiển tài sơ, đã có ý chẳng giám ngồi giữa ngôi bang chủ. Hà huynh muốn chỉ giáo tiểu đệ xin ứng hầu.

Hà sư ngã cười to và nói:

- Tốt lẵm! Tốt lắm!

Liền quăng cây gậy thiết xuống sàn đấu, hô to một tiếng, đưa ra song chưởng bủa ào vào Gia Luật Tề. Chưởng lực của Hà Sư Ngã tuy không có vẻ hùng hậu, nhưng nó tỏa ra rất rộng, chiếm một vùng đất rộng trên một trượng chu vi.

Lương trưởng lão chưa kịp lùi ra, đã bị chưởng lực của gã quét nhằm mình toàn thân nghe rát buốt.

Gia Luật Tề chằng dám chậm trễ, tay tả vươn ra, sử dụng chiêu số Thâm tàng nhược hư lấy trong Thấp Lộ Không Minh chưởng để chống trả.

Hai bên chiêu số qua lại rất nhanh, và quây quần trên đài. Trong thời gian khá lâu đến giờ Tuất, trăng lặn sao thưa, nền trời đên như mực, xung quanh đài được đốt lên trên mươi ngọn đuốc sáng rực.

Hai người giao đấu với nhau, dưới đài quần hùng đều xem rất ngọan mục. Hoàng Dung xem qua trên mười chiêu thế, thấy Gia Luật Tề sút kém rõ rệt, và không nhận ra võ công của Hà Sư Ngã xuất sứ tại đâu, chỉ biết võ công của gã rất thâm hậu, phải khổ luyện ít lắm là bốn mưới năm dài, nên bà suy nghĩ:

-Trong khoảng mười năm gần đây, ta không gặp được tên này trong Khất bang đệ tử. Nhưng ta có nghe nhiều người truyền tụng võ công của gã cao diệu, và nay được nhìn tận mắt thân pháp của gã , thì ra gã này không phải mới biết võ nghệ trong hai mươi năm mà gã đã có trên ba mười năm thâm hậu? Thế mà gã ở trong hàng Khất cái đệ tử vẫn khiêm cung không để lộ ra. Không rõ do đâu hôm nay gã ra mặt?

Hai người giao đấu với nhau trên năm mươi chiêu số, Gia Luật Tề dần dần sợ hãi, dù cho chàng biến hóa cách nào, đối phương cũng biết hóa giải. Thực là thuở bình sinh đến giờ chàng chưa gặp kẻ nào lợi hại như thế.

Nhưng, đối phương lại không thừa thế hạ thủ ngay, dường như gã giữ gìn chân lực, đơi Gia Luật Tề kiệt sức đầu hàng vậy.

Trong một ngày mà Gia Luật Tề phải giao đấu không biết bao nhiêu người rồi, nhưng trừ Lâm Thiên Hòa ra, còn những đối thủ khác đều tầm thường cả, do đó không làm cho chàng hoa sút chân lực. Mắt chàng thấy Hà Sư Ngã như đi như lại, thân pháp lờ mờ bất định.

Lúc này đôi tay Gia Luật Tề chuyển hướng và đổi ra hai chưởng khác để tấn công, tay chàng sử dụng hai thế võ khác nhau, thật là môn võ ít ai học nổi.

Gia Luật Tề đã lãnh hội được tám phần mười miếng võ này, bây giờ mới đưa ra sử dụng, mắt thấy bao nhiêu ngọn lửa đều day ngọn trở ra ngoài đài cháy lập lòe, hai người chẳng ai kém ai. Chưởng phong vung ra ào ạt, cho nên mõi cây đuốc đều bị hơi gió đánh tạt ra ngoài, chỉ còn sáng có phân nửa.

Hoàng Dung quay sang hỏi Quách Tỉnh rằng:

- Tỉnh ca ca! Ông biết Hà Sư Ngã học theo môn phái nào không?

Quách Tỉnh nói:

- Ta cũng không rõ? Gã chưa chịu xuất chiêu ra chiêu thế của bổn môn, chỉ đợi lức gã kiệt lực, thì mới hiểu được. Nhưng đã qua tám mươi chiêu thế, Tề nhi vẫn chưa thắng nổi một đòn nào, thì làm sao gã để lộ chân tướng được.

Bây giờ, hai người càng đấu càng quyết liệt. Trong phút chốc, đã giao với nhau bốn năm chiêu võ. Gia Luật Tề đã đem toàn lực để hỗn đấu.

Quách Tỉnh và Hoàng Dung để ý xem Hà Sư Ngã sẽ đối phó bằng cách nào, để biết rõ môn phái, nhưng Hà Sư Ngã thoạt tiến thọat lùi mà không đổi chiêu số.

Gia Luật Tề thấy vậy càng tăng chưởng lực và đánh loạn và Hà Sư Ngã .

La ïthay, Hà Sư Ngã vẫn giữ nguyên thế cũ, chỉ đưa tay áo phất ra một luồng dịch phong, cản lại các chiều của Gia Luật Tề mà thôi.

Bên đài có mươi ngọn đuốc cách xa mười trượng, bị luồng dịch phong của Hà Sư Ngã dập tắt.

Trước mặt quần hùng một màu đen kịt. Chỉ nghe tiếng nhảy thình thịch của Gia Luật Tề và Hà Sư Ngã .

Bống nghe một trong hai người kêu a một tiếng thật lớn, và Gia Luật Tề rơi bắn xuống đài. Trên đài, Hà Sư Ngã cất tiếng cười vang dội.

Mọi người cả kinh không dám thốt tiếng nào cả. Trong cái im lặng của mọi người chỉ nghe tiếng cười đắc ý của Hà Sư Ngã mà thôi.

Lương trưởng lão gọi to:

- Đốt đuốc nhanh lên

Tức thì hơn mười người đệ tử Khất Cái Bang chực sẵn và châm lửa. Khi có ánh sáng rực mọi người nhìn thấy trên gò má trái của Gia Luật Tề máu đổ ràn rụa, bi cái cần sắt uống rượu đánh trọng thương.

Hà Sư Ngã thâu tay lại cười lanh lảnh nói:

- áo giáp sắt cứng! Nhờ áo giáp cứng!

Và đôi tay của Hà Sư Ngã cũng rớm máu đỏ ối.

Quách Tỉnh và Hoàng Dung đưa mắt nhìn nhau, biết rõ Quách Phù vì yêu chồng nên mới nhường áo giáp trúc, bởi thế chưởng phong của Hà Sư Ngã không chạm vào người chàng được.

Nhưng tại sao mặt của Gia Luật Tề bị thương, và tại sao lại rơi xuống đài? Màn đêm bao trùm không ai thấy rõ được. Mặc dù chưởng lực của Gia Luật Tề công phu và ảo diệu vô cung, song chàng đã dùng theo Xích Thủ Không chưởng. Nguyên chàng sợ kẻ địch có binh khí trong tay cho nên mới biến chiêu Đại Cầm Chưởng Thủ ý muốn đoạt cả binh khí của đối phương. Đây là theo tác phong của anh hùng mã thượng.

Chàng lại đưa ra một chiêu Xảo Thủ Bát Đả, chân tả quét mạnh vào tay cầm binh khí của địch, còn tay hữu đưa ra một chưởng phong đánh tạt quan mặt địch nhân.

Bây giờ, đuốc hoa tắt hết, màn đêm bao phủ, Hà Sư Ngã mới thối lui bước, đưa binh khí ra đỡ. Gia Luật Tề bị một đòn đau trên mặt đau buốt, lại thêm một chưởng đánh trúng vào bụng, làm cháng loạng choạng và gã rơi xuống đài.

Chàng không ngờ món binh khí này rất quái dị. Nó chia ra hai phần, phân nửa bị chàng đoạt mất, phân nửa vẫn còn trên tay đối phương, nên đối phương dùng phân nửa này để đánh vào mặt chàng.

Gã không muốn hạ độc nên chàng chỉ bị thương xoàng thôi, không đến nỗi dập xương mặt. Nếu Hà Sư Ngã quyết tình hại mạng thì chỉ một chưởng phong của gã đánh vào mặt đối phương cũng đủ chết rồi. Mặc dù Gia Luật Tề được phu nhân khoác áo trúc giáp, nhưng cũng làm sao chống lại được làn chưởng phong của Hà Sư Ngã được.

Quách Phù thấy chồng mình bị rơi xuống đài lập tức chạy đến lòng đầy uất hận.

Lương trưởng lão biết Hà Sư Ngã đã dùng ngụy kế, và chưởng phong của gã cũng lợi hại không kém. Tuy nhiên hai đối thủ kẻ rách mặt người trầy tay, cả hai đều đổ máu thì không ai trách ai cả, vì hai cọp giao tranhÕ như thế là thường.

Vả lại, cả hai đều bị thương nhẹ, và Gia Luật Tề bị rơi xuống đài lẽ tự nhiên là kém hơn Hà Sư Ngã rồi.

Quách Phù lại không phục nên nói to:

- Người ta dùng gian kế. Tề ca ca hãy thượng đài để phân thắng bại.

Gia Luật Tề lắc đầu nói:

- Không phải vậy đâu. Hà huỳnh đã lấy có lí trí mà thắng và gã đã thắng ta thực. Vả lại, Hoàng Kim Can các loại võ công ta đâu có thuần thục hết.

Bây giờ chính Quách Tỉnh và Hoàng Dung nhìn không ra bản môn chiêu số của Hà Sư Ngã chẳng biết gã đã dùng chưởng pháp gì đánh bại Gia Luật Tề.

Hoàng Dung hướng về Gia Luật Tề đưa tay vẫy gọi, và bảo đem cho bà xem món binh khí đã đoạt được.

Binh khí này, dài chứng năm tấc; bao bọc xung quanh bằng thiếc mỏng, Hoàng Dung nhủ thầm: Giới võ lâm chẳng hề thấy ai dùng món khí giới nàyÕ.

Hà Sư Ngã mặt mày còn vàng óng, đứng trên đài hiên ngang cất tiếng nói to:

- Tại hạ tuy thắng được Gia Luật Tề đại gia, nhưng chẳng giám giữ chức vị tân bang chủ, đợi khi nào tìm được đả cẩu bổngÕ và giết chết Toa Đô mới dám bàn với quí vị để định đoạt.

Mọi người cho lời nói ấy rất công binh. Tuy thấy gã đã dùng gian kế để thủ thắng, nhưng võ công của gã cũng cao cường hết sức. Sau khi nghe Hà Sư Ngã thốt như vậy, trong bang Khất Cái có nhiều kẻ hoan nghênh nhiệt liệt.

Hà Sư Ngã đứng giữa đài, vòng tay trước mặt quần hùng và Khất bang hành lễ, đoạn nói:

- Giờ đây, có vị anh hùng nào muốn lên chỉ giáo, xin tự tiện lên đài?

Gã vừa cất tiếng, bỗng nghe Bạch Ngọc Sơn Quân Sử Bá Uy kêu Ûa một tiếng, tức thì bốn bề mãnh hổ, hùng sư đều đứng dậy đồng kêu lên một lượt vang dội cả hội trường.

Một con sư tử rống hay một con cọp gồm, cũng đủ sợ rồi, huống hồ năm trăm mãnh thú kêu lên một lượt.

Thanh âm này như núi lở đá tan, khiến chung quanh hội trường, cát bụi bay mù mịt. Những ly rượu trước bàn tiệc đua nhau rơi ngã vì bị buông thanh âm động vào.

Trong khi quần thú gầm rống dữ dội , Tây Sơn Nhất Khất quỷ và Sử thị huynh đệ rút binh khí chạy đến bên đài, chiếm hết các nẻo và giơ cao mấy ngọn đuốc lên cất tiếng nói to:

- Thần Điêu Đại Hiệp đến hiến món lễ vật thứ ba, chúc Quách Tường cô nương sống lâu và hạnh phúc.

Lại thấy tám người, không rõ từ đầu tới, tiến về phía hội trường. Mỗi người đều tỏ ra những tay khinh công vào bực thượng thừa.

Bốn người đi giữa vác trên vai một cái bao quá to, có lẽ trong đó chứa lễ vật.

Tám người đến trước Quách Tường thi lễ và xưng danh làm cho quần hùng xám mặt. Những cặp mắt dồn vào tám người ấy.

Trong tám người có một lão hòa thượng, tức là Cảo Sơn Thiết Lâm tự Đạt Ma Thiền viện trưởng Vô Sắc Thiền Sư . Kế là Triệu lão chưởng, với Thanh Linh Tử, những người này đều đứng dậy vòng tay đáp lễ, cười như hoa nở và nói:

- Thực phiền cho quí vị quá sức. Vậy món lễ thứ ba là gì đó?

Những chiếc bao cực to nằm trên vai bốn người coi rất nhẹ nhàng. Khi họ để xuống đất chưa tháo mở ra, vật trong bao động đậy, và kêu rột rẹt vài tiếng. Cái bao to lớn bị rách làm bốn mảnh. Trong bao nhảy ra một người đầu trọc như nhà sư . Gã này gật đầu xuống đất và nhảy ra ngoài, thân thể mười phần tráng kiện, mặt mày của gã đầy nét giận dữ. Gã cất tiếng la lên

- Cơ ly cô cô

Không một người nào hiểu gã này nói gì. Duy có Quách Tỉnh và Hoàng Dung biết rõ gã này là đại đệ tử của Kim Luân Pháp Vương tên Đạt Nhĩ Ma. Nhưng không rõ vì đâu mà gã bị Vô Sắc thiền sư và Triệu lão Trưởng sư bắt giữ.

Quách Tường lại nghĩ món lễ vật thứ ba này phải là món lễ rất ngoạn mục, nào ngờ lại thấy một gã đầu đà thô lỗ, hình vóc rất xấu xí, Quách Tường thất vọng nói:

- Đại ca ca tặng hòa thượng cho tôi làm gì? Tôi không mang ơn tí nào cả. Tôi chỉ muốn ca ca có mặt đây thôi.

Trong số tám người mang lễ vật đến, chỉ có Thanh Linh Tử là đã ở rất lâu tại xứ Tây Tạng, cho nên biết nói tiếng này.

Thanh Linh Tử liền đến bên tai Đạt Nhĩ Ma nói mấy câu:

- Cô lô cô la

Đạt Nhĩ Ma biến sắc, rống lên một tiếng thật to, đôi mắt nhìn sững lên đài hướng vào Hà Sư Ngã .

Thanh Linh Tử liền cất tiếng nói to đùng vài câu ngạn ngữ, và đưa cho Đạt Nhĩ Ma một cây gậy Hoang Kim.

Nguyên Đạt Nhĩ Ma giao đấu với bọn người này đã dùng gậy Hoàng Kim, nhưng rủi thất cơ bị bắt và khí giới lại về tay kẻ địch.

Đạt Nhĩ Ma gật đầu tỏ ra hiểu biết rồi phi nhanh lên đài. Thanh Linh Tử nhìn Quách Tường nói:

- Quách cô nương! Hòa thượng Tây Tạng sẽ làm trò ảo thuật cho cô nương xem.

Quách Tường reo mừng vỗ tay:

- Thế à? Tôi lấy làm lạ không hiểu tại sao ca lại phí sức bắt một g hòa thượng đến làm trò như vậy?

Bấy giờ ở trên đài, Đạt Nhĩ Ma hướng vào Hà Sư Ngã nói lớn:

- Cô Ly co âlô

Mặt Hà Sư Ngã nổi giận hét to:

- Ngốc hòa thượng, ngươi nói cái gì? Ta chẳng hiểu một tiếng nào cả.

Đạt Nhĩ Ma giơ cao cây hoàng kim can, và bước mạnh đến trước một bước, hô to một tiếng rồi giáng cây gậy xuống đấu Hà Sư Ngã .

Hà Sư Ngã thối lui mấy bước. Đạt Nhĩ Ma múa nhanh cây can hoàng kim cố bức đối phương.

Hà Sư Ngã hai bàn tay bị thương, nên không đưa chưởng phong ra chống chế được, chỉ còn nước rút lui và né tránh mãi.

Đại bang Khất Cái thấy g đầu đà Tây Tạng rất hung hăng, uy hiếp tân bang chủ của họ, khiến họ tức giận vô cùng, cất tiếng hét vang trời.

Lương trưởng lão lớn tiếng nói:

- Đại hòa thượng không nên thô lỗ như thế, vị này là Tân bang chủ của Khất Cái bang.

Đạt Nhĩ Ma có hiểu gì đâu, đưa ra cây cản huỳnh kim múa như vũ lộng, tiếng kêu vu vu càng lúc càng lớn, như một luồng bão táp sắp đến.

Có sáu, bảy đệ tử của Khất Cái Bang không chịu nổi, uất hận nhẩy đến bên đài để cứu việc Hà Sư Ngã . Nhưng một việc hết sức bất ngờ là Thanh Linh Tử và bẩy người tiền bối, năm anh em họ Sứ, và mười quỷ Tây Sơ n, tất cả là hai mươi ba người chia nhau vây xung quanh đài, cản không cho một ai lên.

Tuy bang chúng Khất Cái rất đông, nhưng chẳng ai lên được. Loạn rồi ư ! Thanh Linh Tử lại tung mình lên đài, để nhặt cây gậy của Hà Sư Ngã đã rơi trên đài. Hà Sư Ngã mặt mày xám ngắt muốn rượt theo Thanh Linh Tử để cướp cây gậy, nhưng bị Đạt Nhĩ Ma bức bách dữ dội, và nhảy đến cản đầu gã .

Quách Tỉnh và Hoàng Dung không rõ sự lý ra sao, tưởng Dương- Qua kéo nguời đến đây để gây náo loạn. Nhưng tại sao gã lại tặng cho Quách Tường hai món lễ đều là "đại lợi" cho thành Tương Dương ? Còn món lễ thứ ba sao lại trở thành chuyện gây rối ?

Tuy nhiên 2 ông bà vẫn ngồi yên như tượng để quan sát mọi việc xảy ra. Gia Luật Tề tuy bị Hà Sư Ngã đánh rớt đài, nhưng chàng vẫn giữ đúng theo đệ tử Cái Bang, và chàng đã lập chí từ lâu muốn nối nghiệp nhạc mẫu, nên coi công việc của Cái Bang rất trọng, dù sinh tử cũng không nề hà.

Chàng thấy Hà Sư Ngã bị Đạt Nhĩ Ma bức bách đến nỗi phải đảo loạn cả chân tay, liền cất tiếng gọi to :

- Hà huynh đừng hốt hỏang, có đệ đến tiếp sức.

Chàng liền tung thân đến bên đài. Lại nghe có tiếng quát to từ trên góc đài vọng xuống :

- Không ai được lên đài cả.

Tiếp đó có bóng người đứng ngang cản lối không cho Gia Luật Tề lên. Gia Luật Tề giận vươn tay ra, chộp nhanh vào vai người lạ, thế võ này nguy hiểm dị thường, chiêu số này mười phần tin diệu dù cho người này có nội công giỏi, cũng không chịu nổi.

Nhưng Gia Luật Tề bỗng kinh hãi vì nhận ra người này là một trong năm anh em họ Sử, tên là Sử Thúc Cương.

Gia Luật Tề chiêu số biến liền liền, song chung quy cũng không chạm đuợc vào người Sử Thúc Cương một mảy may nào, nên lòng cả sợ và nhủ thầm :

- Chết rồi ! Gã này chỉ là thủ hạ của Thần Điêu Đại hiệp mà võ nghệ dường này. Thần Điêu Đại hiệp là ai mà hô một hiệu lịnh, có rất đông võ lâm tiền bối đến ám trợ kìa ? Ta không hiểu gã này là một kỳ nhân quái khách dạng nào ?

Thanh Linh Tử giơ cao cây gậy sắt, cất giọng nói to :

- Mời quý vị anh hùng và Khất Cái bang đệ tử xem thử vật này là chi .

Ông vừa dứt lời, đưa tay ra vuốt mạnh cây gậy sắt phát ra tiếng lách cách, và cây gậy nát vỡ tung tóe.

Xem kỹ, đó chỉ là vỏ gậy, còn cốt gậy ở trong là một đoạn trúc dài màu xanh biếc óng ánh.

Thanh Linh Tử giơ lên cao, tất cả Khất Cái bang nhìn và kêu lên :

- Đả Cẩu bổng của Bang chủ. Đả cẩu bổng đã giấu trong thiết trượng, tại sao lại lọt vào tay Hà Sư Ngã ? Tại sao gã lại cất giấu mà không nói ra ?

Mọi người chờ Thanh Linh Tử giải thích các điều nghi ngờ, mà Thanh Linh Tử lại im lặng không nói, chỉ bước xuống đài, đem cây gậy trúc đến giao tận tay Quách Tường.

Quách Tường thấy vật nhớ người, tưởng đến lời nói, tiếng cười của Lỗ Hữu Cước, trong lòng xúc động bồi hòi, nàng liền đứng dậy nâng cao cây gậy trúc đến giao tận tay mẫu thân.

Bấy giờ Đạt Nhĩ Ma càng múa cây hoàng kim can, đuổi đánh Hà Sư Ngã rất kịch liệt, nhưng Hà Sư Ngã cũng là kẻ tài ba lỗi lạc, xuyên bên tảng bên hữu, lùi qua Đông chạy qua Tây.

Sự nguy hiểm sắp kề, Khất Cái bang đệ tử đã mất hẳn lòng tin vào Hà Sư Ngã , nhứng khi trông thấy tường tận cây Đa ûcẩu bổng mà Thanh Linh Tử đưa ra thì chúng nhân đã hiểu Thanh Linh Tử mang Đạt Nhĩ Ma đến giao chiến với Hà Sư Ngã là hảo ý. Vấn đề này còn nhiều uẩn khúc bí ấn, cho nên mọi người không ai muốn lên đài tiếp cứu cho Hà Sư Ngã nữa. Mọi người đưa mắt theo dõi 1 0 chiêu nữa thì Hà Sư Ngã phải táng mạng dưới cây hoàng kim can.

Hoàng Dung bỗng khám phá ra mọt việc, nói thầm :

- Hà Sư Ngã dùng đao đả thương Tề nhi, hắn giấu binh khí trong tay áo, đến lúc nguy cấp mới đem ra sử dụng để sát hại địch thủ.

Lại thấy Đạt Nhĩ Ma cầm cây trượng vàng quét ngang chân Hà Sư Ngã . Hà Sư Ngã lập tức thối lui để tránh, Đạt Nhĩ Ma lại đưa cây gậy vàng ra sử dụng một chiêu "Hậu nghệ xạ nhật" đánh vào đối phương.

Hà Sư Ngã nhún mình lên không trung, đôi chân lướt khỏi mặt đất. Đấy là gã sử dụng một chiêu tuyệt luân khinh công. Bỗng nghe tiếng binh khí va chạm nhau, Hà Sư Ngã thối lui ra ngoài, tay rút ra một cây binh khí ngắn, không hiểu gã giấu nơi đâu. Đạt Nhĩ Ma mặt đầy sắc giận, cất tiếng quát mắng om sòm. Cây gậy hoàng kim múa loang loáng tấn công Hà Sư Ngã .

Hà Sư Ngã không chịu kém, sẵn có đỏan khí trong tay, gã múa quay cuồng, đâm trên chém dưới, thích bên tả, đả bên hữu, chiêu số vô cùng ảo diệu, so với Đạt Nhĩ Ma hai người giao đấu tưong đương.

Chu Tử Liễu trông vào các chiêu số trong giây phút bỗng ông hiểu ra mọi việc, nên quay sang Hoàng Dung bảo nhỏ :

- Quách phu nhân, tôi biết Hà Sư Ngã là ai rồi. Nhưng còn thắc mắc 1 việc.

Hoàng Dung mỉm cười nói :

- Có gì mà chẳng rõ, nó lấy sáp ong, keo nước bột mì và thạch cao chế biến ra đó.

Gia Luật Tề, Quách Phù và Quách Tường cả3 người đứng kế bên mà không rõ hai người đang nói gì. Họ không hiểu lời giải đáp quái lạnày. Do đó Quách Phù hỏi :

- Chu lão bá ! Ông cho gã là ai thế ?

Chu Tử Liễu nói :

- Tôi bảo người đả thương Gia Luật Tề là một gã giả ra Hà Sư Ngã

Quách Phù hỏi :

- Tại sao chẳng phải Hà Sư Ngã ? Thế thì Hà Sư Ngã là ai ?

Chu Tử Liễu nói :

- Ngươi hãy nhìn xem Hà Sư Ngã dùng thứ binh khí gì?

Quách Phù định thần nhìn kỹ và nói :

- Binh khí của gã dùng toàn là binh khí ngắn, nếu bảo là Nga Mi Thích hay Phán Quan Bút thì không đúng hẳ n.

Hoàng Dung nói :

- Ngươi hãy lấy óc xét đoán xem, tại sao gã không đưa ra binh khí để chống đối với địch, gặp lúc nguy hiểm lại chạy đông lách tây, lại để cho g đầu đà bức bách cảtrăm chiêu mà chẳ ng đ a ra binh khí để chống trả? Và sao gã dập tắt hết mấy ngọn đuốc mới chịu xuất binh khí để đả thương Gia Luật Tề ?

Quách Tường nói :

- Có lẽ gã sợ hội trường nhận ra binh khí và chân tướng của gã .

Chu Tử Liễu khen :

- Đúng vậy ! Quách nhị cô nương thông minh thật !

Quách Phù thấy Chu Tử Liễu khen tặng cô em, đâm ra ghen tức nên nói :

- Tại sao g lại sợ lộ chân tướng ? Gã đã chiến thắng mọi người, và đứng ràng ràng trên đài, tất cả lại chẳng trông thấy sao ?

Quách Tường suy gẫm lời nói của mẫu thân rồi nói :

- Đúng rồi, da thịt của gã chỗ lồi chỗ lõm, là do keo nước bột mì gắn lên, thoạt trông vào gương mặt giả của gã mọi người tưởng gã mắc bệnh cùi. Còn tôi thì chỉ cần nheo một mắt cũng rõ.

Hoàng Dung nói :

- Bởi vậy gã không dám để mặt thật, mới cải trang ra như vậy để mọi người thấy diện mạo hung ác, chẳng thích nhìn lâu.

Chu Tử Liễu nói :

- Gương mặt thì có thể giả được, chứ võ công và thân pháp không thể giả được vì đã luyện tập trên 1 0 năm thấm nhuần, không thể nào thay đổi được.

Quách Phù nói :

- Ngươi bảo Hà Sư Ngã là giả? Vậy chứ gã này là ai ? Muội tử, ngươi rất thông minh, hãy đoán thử xem ?

Quách Tường lắc đầu nói :

- Tôi đâu có thông minh. Về điểm này tôi chẳng biết tí nào cả.

Chu Tử Liễu mỉm cười nói :

- Đại tiểu thơ thì đã gặp gã rồi, còn nhị tiểu thơ sinh muộn thì làm thế nào mà biết mặt gã . Mười bảy năm về trước có cuộc Anh hùng đại hội như thế này, đại tiểu thơ lúc ấy cũng có mặt. Tiểu thơ nhớ lại xem, có một người giao đấu với tôi trên một trăm hiệp bất phân thắng bại, người ấy là ai ?

Quách Phù nói :

- Có phải là Toa Đô chăng ? Đúng rồi, tôi đã gặp mặt hắn. ừ ! Hắn đã dùng một cây quạt nhỏ như binh khí của Hà Sư Ngã . Đúng rồi, vì cây quạt Hà Sư Ngã xếp lại, nên không nhìn rõ mặt quạt, do đó tôi không nhận ra.

Chu Tử Liễu nói :

- Lúc trước tôi giao đấu với gã là một chuyện nguy hiểm nhất từ xưa tới nay, cho nên thân pháp và chiêu số của gã tôi nhớ rõ cả. Nếu Hà Sư Ngã chẳng phải là Toa Đô, thì khoét mắt tôi đi cũng được.

Quách Phù nghe nói vậy liền nhìn lên đài quan sát thấy Hà Sư Ngã thân pháp hùng mạnh, thân thể khang kiện, bước tới bước lui trông rất ngoạn mục. Nàng nhớ lại cuộc hội năm xưa có mặt gã là Toa Đô hoàng tử, nên cất tiếng hỏi :

- Nếu phải gã là Toa Đô, thì vị Tây Tạng hòa thượng này là sư huynh của gã mà ! Thế thì tại sao họ lại không nhận nhau mà cứ tiếp tục giao đấu ?

Hoàng Dung nói :

- Đạt Nhĩ Ma nhận ra được sư đệ chứ, nhưng g lại hận tên sư đệ này đến cùng tột, suýt làm hại đến tính mạng của gã . Nguyên do là thế này : một năm nọ tại Trùng Dương cung ở Tung Nam Sơn có xảy ra một cuộc giao chiến kịch liệt, Dương- Qua dùng cây huyền thiết trọng kiếm giao đấu với Đạt Nhĩ Ma và Toa Đô. Toa Đô thấy nguy hiểm đến nơi, liền thi hành gian kế trốn thóat bỏ sư huynh hắn lại một mình. Câu chuyện này mọi người trong phái Toàn Chân đều biết hết, ngươi không nghe người ta nói hay sao ?

Quách Phù nói :

- Vì thế mà Đạt Nhĩ Ma căm giận Toa Đô?

Quách Tường nghe mẹ nói : Dương- Qua dùng thanh huyền thiết trọng kiếm cầm giữĐạt Nhĩ Ma và Toa Đô, nàng tưởng tượng Dương- Qua thủa xưa cũng là tay kiệt liệt anh hùng, nên vẻ mặt tươi hẳn lên :

- Tại sao nó biến thành tên Khất Cái ? Và tại sao nó lại giữ Đả Cẩu bổng làm gì?

Hoàng Dung nói :

- Có gì khó hiểu đâu ! Toa Đô phản bội sư môn, tự nhiên nó phải sợ sư phụ và sư huynh của nó chứ. Vì vậy nó mới hóa trang, cải dạng, xin ra nhập Khất Cái bang, lại giả bộ khù khờ để không lộ chân tướng. Cũng đáng khen, nó chịu đựng được khổ hạnh ăn mày trong 1 0 năm mới được thăng làm đệ tử 5 bị, do đó trong Khất Cái bang không ai nghi ngờ được. Chính Kim Luân Pháp Vương ra lệnh tróc nã gã chẳng được. Gã gian ác này rất tự phụ, cho nên mới cố tìm một đời sống mới. Cơ hội đã đến với gã , gã mới lập cách ám hại Lỗ Hữu Cước để giành chức Bang chủ Khất Cái bang. Nhân lúc Lỗ Hữu Cước tuần du ngoài thành, thì gã đã âm thầm theo thi hành độc kế. Trong khi hạthủ, gã cố ý để lộ mặt thật và nói năng om sòm, để chúng đệ tử Cái Bang thấy rõ kẻ giết Lỗ Hữu Cước chính là Toa Đô. Rồi g đoạt luôn Đả Cẩu bổng, và giấu trong cái ống thép, thoạt nhìn thì cứ tưởng là cây thiết trượng. Đợi đến ngày khai đại hội, và suy cử Tân Bang chủ, gã có điều kiện trở thành một vị Tân bang chủ. Tuy nhiên, võ công của gã không áp đảo nổi quần hùng, cho nên gã mới bịa ra câu chuyện "Tìm Đả Cẩu bổng".

Đúng theo quy củ của Khất Cái bang, Đả Cẩu bổng lưu truyền từ đời này qua đời nọ, thì có ai nghi ngờ dã tâm của hắn được ? Hi hi ! Tên gian tặc Toa Đô này đã làm kế hoạch rất công phu, có thể gọi là người anh kiệt.

Chu Tử Liễu cả cười nói :

- Nếu không có Quách phu nhân tại đây, gã sẽ trổ hết chân tướng, toàn thắng quần hùng.

Hoàng Dung mỉm cười :

- Gã chung sống với toàn bang hành khất, mà không để lộ tung tích một mảy may. Nếu tôi còn giữ chức Khất Cái bang chủ, thì Toa Đô chẳng bao giờ qua mặt Hoàng Dung này đựoc.

Chu Tử Liễu nói :

- Thằng bé Dương Qua thật là tài tình, nó khám phá ra cơ mưu của Toa Đô nên mới sai người đi nhặt Đả Cẩu bổng và lật mặt nạToa Đô để làm món lễ phẩm thứ ba tặng cho Quách nhị co ânương. Tôi đoán chẳng sai đâu.

Quách Phù trề môi và nói :

- Xì, làm sao Dương- Qua có kế hoạch tinh xảo nh vậy ?

Quách Tường nhớ lại một việc liền nói :

- Toa Đô đã ở rất lâu trong Khất Cái bang và hóa trang ra một người rất xấu xí. Nếu sự này chẳng xảy ra thì trong Sử Thị huynh đệ cũng phải đi tìm hắn để rửa hận vì chính Toa Đô ngày trước đã đả thương Sử tam thúc.

Hoàng Dung gật đầu nói :

- Trong giới giang hồ ai cũng để ý và truy nã Toa Đô, nhưng có ai rõ Toa Đô đã ẩn mình trong Khất Cái bang, lấy hiệu là Hà Sư Ngã ?

Quách Phù nói :

- Mẹ, tại sao chúng ta không giết gã Toa Đô, để thiên hạ chê cười sao ?

Hoàng Dung nói :

- Ngươi chẳng cần lo điều ấy !

Quách Tường nhủ thầm : - Cái ngày ở tại miếu Dương Thái phó, ta đang tế Lỗ Hữu Cước bá bá, chắc là Dương đại ca đã nghe được lời khấn vái của ta. Chàng đã rõ tâm sự của ta, nên mới cố tâm truy ra kẻ đại nghịch để trả thù cho Lỗ lão bá. Nhưng tại sao đến giờ chàng vẫn không lại ?

Lúc bấy giờ trên đài Toa Đô và Đạt Nhĩ Ma đang giao đấu rất mãnh liệt. Hai người cùng học một thầy, nên biết rõ hết chiêu số của nhau. Đạt Nhĩ Ma thắng ở chỗ sức lớn, khí thịnh. Toa Đô lại giỏi hơn về dẻo dai và nhẹ nhàng cho nên 2 người giao chiến với nhau trên cả trăm chiêu mà vẫn bất phân thắng bại.

Bỗng Đạt Nhĩ Ma hét lên một tiếng cực lớn, ném mạnh cây Hoàng kim can vào người Hà Sư Ngã , cây can này nặng trên 30 cân, khi thoát ra khỏi tay khí thế cực kỳ hung mãnh.

Toa Đo âkêu lên một tiếng kinh hồn. Vì thủa bình sang tới giờ gã chưa thấy sư huynh sử dụng chiêu số này lần nào cho nên Toa Đo âthan thầm :

- Sư huynh giao đấu với ta lâu quá không thắng được nên trổ môn tuyệt kỹ quyết hạta rồi.

Gã thất kinh nhảy nhanh ra xa tránh cây can bổ tới. Đạt Nhĩ Ma thấy vậy, phóng đến nhặt cây hoàng kim can, rồi giơ lên cao nhằm ngay đầu đối phương bổ xuống.

Toa Đo âlật đật lùi ra mấy bước, vừa tránh vừa nghĩ :

- Trong 1 0 năm qua, sư huynh ta sát cánh với sư phụ chắc là được sư phụ truyền cho các thế võ tinh diệu. Bây giờ sư huynh đem ra sử dụng thì ta biết làm thế nào mà né tránh được ?

Nghĩ vậy nên Toa Đô cứ lùi mãi, không dám đỡ nữa. Nhưng cây hoàng kim can trên tay Đạt Nhĩ Ma càng lúc càng vũ lộng, làm cho các bó đuốc quanh đài bị ngọn gió đàn áp lúc tỏ lúc mờ.

Mọi người dưới đài trông lên ai cũng bảo sớm muộn gìToa Đô cũng chết dưới tay Đạt Nhĩ Ma.

Trong khi Toa Đo âluống cuống chống trả thìĐạt Nhĩ Ma đưa ra hằng 1 0 chiêu số khác nhau, cây hoàng kim can bay vun vút như muôn ngàn mũi tên xẹt vào người Toa Đô.

Toa Đô hết phương tránh khỏi. "Bình" một tiếng, cây hoàng kim can giáng mạnh vào bụng Toa Đô, thân mình gã lảo đảo và gã lăn xuống đài nằm bất động.

Đạt Nhĩ Ma thâu lại cây hoàng kim can, cất tiếng khóc to ba tiếng và quỳ bên xác Toa Đô, bắt đầu niệm :

- Nam mô a di bà đạ

Tụng xong bài chú vãn sanh, Đạt Nhĩ Ma mới nhảy xuống đài và đem cây hoàng kim can lại dâng lên Thanh Linh Tử, cúi đầu tỏ ra cung kính.

Thanh Linh Tử không lấy binh khí của y, mà nói tiếng Tây Tạng có nghĩa là :

- Cung hạĐạt Nhĩ Ma đã rửa đuợc mối thù mà giết thác kẻ bội sư phản huynh. Thần Điêu Đại hiệp đã tha cho ngươi, và bảo ngươi hãy trở về Tây Tạng lo việc làm ăn, không được đến Trung Nguyên nữa.

Đạt Nhĩ Ma nói :

- Đa tạThần Điêu Đại hiệp ! Tiểu tăng xin vâng theo mạng lệnh. Nói xong hắn quỳ xuống hành lễ rồi tung mình mất dạng.

Quách Phù thấy Toa Đô nằm chết trên đài, vẻ mặt và thể xác vẫn y nguyên, nàng không tin Hà Sư Ngã chính là Toa Đô giảmạo nên rút thanh trường kiếm tung mình lên đài nói :

- Tôi muốn nhìn cho tường tận mặt mũi kẻ gian nhân ra sao !

Nói xong nàng đưa đầu kiếm vào lỗ mũi Toa Đô. Toa Đô hét lên một tiếng cực to và ngồi bật dậy, song chưởng tung ra đánh vào ngực Quách Phù.

Nguyên gã bị đập một cây hoàng kim can nhưng chưa chết hẳn, chỉ bị trọng thương. Tánh tình của gã hung hăng ác nghiệt, nên cố ý nằm yên bất động, đợi chờ Đạt Nhĩ Ma đứng trước mặt xem xét, thì sẽ tung ra một chưởng cuối cùng để cả hai cùng chết.

Không ngờ Đạt Nhĩ Ma lại quỳ trên đầu gã niệm chú, chúc cho gã sớm về nơi cực lạc. Khi dứt bài trú, Đạt Nhĩ Ma lại đi mất.

Kế đó, Quách Phù lên đài đứng trước mặt gã và dùng lưỡi kiếm trỏ vào mũi. Cái chưởng phong cuối cùng của gã đã vận dụng toàn thể chân khí vì gã nghĩ không sớm thì muộn gã cũng chết.

Quách Phù thấy xác chết biến động, hoảng kinh đưa kiếm ra đỡ. Nàng có áo da nhím hộ thân, nhưng đã trao cho chồng mặc rồi. Hiện giờ nàng chỉ còn mạng không, và với chưởng phong của Toa Đô nàng làm sao tránh nổi .

Quách Tỉnh, Hoàng Dung, Gia Luật Tề lập tức đứng dậy muốn nhảy lên đài tiếp cúu, nhưng không tài nào kịp.

Trong lúc thập phần nguy hiểm bỗng có tiếng đờn "tăng tăng", té ra đó là 2 mũi ám khí. Một ám khí chống lại chưởng phong cứu Quách Phù, một ám khí nhắm ngay bụng Toa Đô bắn tới.

Hai vật ám khí này thoạt thấy như sợi tơ, mà sức mạnh phi thuờng. Toa Đo âtrúng ám khí lăn vài vòng rớt xuống đài, mửa ra một búng máu tươi, thân thể dập nát, hồn về địa phủ.

Mọi người kinh ngạc, ngước mắt nhìn xem ai đã bắn ám khí tài tình như vậy.

Không có bóng dáng người nào cả, chỉ thấy ráng tà sắp lặn, vài ngôi sao chớp lập lòe.

ám khí từ trên cao bắn xuống, tựa hồ như trên lá cờ cao chót vót bay ra. Hoàng Dung nhìn thấy ám khi xé không khí kêu "tăng tăng" thì bà đoán chắc ngoài Hoàng Dược Sư phụ thân mình, không còn ai có thuật Đàn Chỉ Thần Công ấy cả. Bà không còn nghĩ ngợi gì thêm, cất tiếng kêu to :

- Gia phụ giá lâm !

Lại nghe có tiếng người phát ra trầm trầm, từ trên chót vót ngọn cờ bên hữu nói vọng xuống :

- Dương Qua ! Người bạn nhỏ ! Chúng ta xuống chứ ?

Tại ngọn cờ bên tả có tiếng người đáp lại :

- Vâng ạ!

Hai bên ngọn cờ bỗng thấy có 2 người xuất hiện đáp từ từ xuống mặt đài, nương theo ánh sáng của bóng trăng.

Một ông lão tóc bạc như sương, râu năm chòm mặc đạo bào xanh, và một g cụt tay choàng áo màu lục. Chính là Hoàng Dược Sư và Dương- Qua. Hai người nắm tay nhau bay lơ lửng xuống mặt đài, in như câu chuyện thần tiên của đời thượng cổ.

Mọi người không nghe rõ 2 người này nói chuyện, cho nên họ tưởng hai tướng nhà trời hạ trần.

Quách Tỉnh và Hoàng Dung mừng nhảy thoắt đến bên Hoàng Dược Sư cúi đầu làm lễ.

Dương- Qua hướng vào 2 vợ chồng Quách Tỉnh lạy và nói :

- Điệt nhi Dương- Qua cúi lạy Quách bá bá và Quách bá mẫu.

Quách Tỉnh lật đật đỡ dậy và nói :

- Qua nhi ! Con đã tặng cho 3 món lễ vật rất hậu này thật là ... thật là ...

Lòng Quách Tỉnh quá cảm xúc nên ông không nói hết lời. Quách Phù lại sợ phụ thân bắt mình lạy tạ Dương- Qua đền ơn cứu mạng, nên lật đật chạy đến bên Hoàng Dược Sư nói :

- Ông ngoại, ông ngoại cho gian nhân một ám khí chết queo.

Dương- Qua biết ý Quách Phù nên mỉm cười và bước tới trước mặt Quách Tường nói rằng :

- Tiểu muội ! Ta đến có hơi chậm.

Quách Tường vui mừng quá đổi, gương mặt đỏ bừng và nói :

- Đại ca đã phí sức lo cho tôi quá nhiều, với 3 món lễ vật này thật là.. thật là khổ cực cho đại ca quá.

Dương- Qua cười nói :

- Vì ngày sanh của tiểu muội, tôi phải tạo vui vẻ náo nhiệt để vui chơi, chẳng có chi cực nhọc.

Nói xong chàng đưa tay lên vẫy mấy cái, Đại Đầu Quỷ thấy vậy hô to :

- Hãy giơ tay lên, hoan hô!

Tất cả hội trường đều giơ tay hoan hô dậy đất, thanh âm truyền đi thật xa. Vài phút sau, có một đoàn người đi vào, mỗi người trên tay đều có cầm 1 cây đèn lồng rất đẹp, và trên lưng có mang mấy cái bao thực lớn. Khi tập họp đông đủ, họ mới chia nhau mang cây ván ra ráp một cái đài tại hướng Đông của hội trường, và hướng Tây dựng lên một cột đèn màu.

Họ tiến vào trong hội trường mỗi lúc một đông, kẻ vác ván người đóng đinh, không ai nói lời nào cả. Họ làm việc cực kỳ mau lẹ. Trong phút chốc đã dựng xong cái đài và trụ cờ.

Quần hùng và Khất Cái bang thấy Dương- Qua gửi tặng 3 món lễ hậu, nên tất cả đều bội phục lắm. Bây giờ chàng lại triệu tập một số đông người lại đây, quần hùng định là còn vài chuyện lạnữa nên vẫn im lặng đón chờ.

Chỉ chốc lát, tiếng trống, kèn, đờn, địch nổi lên. Ban đại nhạc ra trình diễn với mọi người khúc nhạc "Bát tiên hạ thọ"

Tiếp đến đoàn ca vũ, trên góc đài phía Tây Bắc, kéo ra ca vũ theo khúc "Mãng Sàng Vật" Đấy là bài ca chúc thọ của Quách Tử Nghi trong ngày sinh nhật, có 7 cậu đồng nhi và 8 cô gái nhỏ ca xang và dâng lễ.

Trong khoảnh khắc, hoa pháo phóng lên bên đài rực rỡ, tiếp theo là hàng ngàn giọng ca xang múa hát, tiếng đờn tiếng địch vang trời, thật là một cuộc vui chẳng ai ngờ đuợc.

Mỗi một đài gồm các danh ca nhạc sĩ hai xứ Hồ và ba tỉnh Tương hợp diễn, thật không có người nào dám mua một dàn hát lớn thế này, và nghệ thuật của họ đến mức ảo diệu.

Quách Tường thấy Dương- Qua đối đãi với mình rất tốt thì mừng đến ứa nước mắt, không nói được tiếng nào.

Quách Phù nhớ lại lúc ở miếu Dương Thái phó, cô em gái có nói "Sẽ có một người thiếu niên hiệp sĩ đến chúc thọ", bây giờ đúng y như lời nói nên lòng ghen tức bắt đầu nổi dậy. Quách Phù nắm tay Hoàng Dược Sư hỏi đủ thứ chuyện, đối với sự náo nhiệt tưng bừng giả bộ không biết đến.

Quách Tỉnh thấy Dương- Qua đối đãi với con gái ông như vậy cũng vui lây. Ông lại nghĩ đến chàng từ thủa nhỏ đến giờ hay làm những chuyện lạ thường, nay lại giúp cho thành Tương Dương và Khất Cái bang 3 điều đại sự. Bấy nhiêu hành động của chàng làm cho ông hài lòng vuốt râu cười khề khà và không nói gì cả.

Hoàng Dung day qua hỏi phụ thân:

- Gia phụ đã ước hẹn với Qua nhi gặp nhau tại trụ cờ chăng ?

Hoàng Dược Sư cả cười nói :

- Không phải như vậy ! Có một hôm ta ở Động Đình Hồ thưởng trăng trên dòng nước bạc, bỗng nghe có tiếng người truyền lệnh giữa đêm khuya, ta đến hỏi gã thợ câu thì gã cho biết đấy là tiếng của Thần Điêu Đại hiệp bảo mọi người đến thành Tương Dương. Lời gã thợ câu nói không nhầm, và ta hoang mang cực độ, sợ gã Thần Điêu Đại hiệp này đem điều bất lợi đến cho nữ tử và nữ tế của ta, cho nên ta lần dò xem xét thì hóa ra Thần Điêu Đại hiệp lại là người bạn nhỏ Dương- Qua. Nếu ta biết sớm thì ta đâu cần phải thăm dò cho mệt xác.

Hoàng Dung thấy thân phụ tuy đang rong chơi trong chốn giang hồ mà lòng vẫn lo lắng cho con gái và con rể thì cảm động lắm, nói :

- Gia phụ ! Nếu không có câu chuyện này thì bao giờ cho mới có dịp ghé thăm con cháu, để đoàn tụ cho vui trong một vài hôm ?

Hoàng Dược Sư làm ngơ không đáp, ngó Quách Tường đưa tay vẫy gọi, nói :

- Cháu gái nhỏ ! Lại đây cho ông ngoại xem một tí.

Quách Tường từ thủa lọt lòng đến nay chưa nhìn thấy ông ngoại lần nào, nên lật đật chạy đến cúi lạy.

Hoàng Dược Sư nắm lấy tay cháu, và nhìn xem, ông gật đầu bảo nhỏ :

- Thực giống như khuôn đúc.

Hoàng Dung biết cha đang nhớ đến mẹ, nên mới nói Quách Tường giống bà ngoại như khuôn đúc.

Quách Phù vui vẻ nói :

- Ông ngoại không biết chứ nó có cái biệt hiệu là Tiểu Đông Tà đó, ông ngoại gọi nó là Tiểu Đông Tà được rồi.

Quách Tỉnh nói to :

- Phù nhi ! Ngươi không được vô phép với ông ngoại !

Hoàng Dược Sư cười to :

- Tường nhi ! Ngươi có ngoại hiệu là Tiểu Đông Tà sao ? Ngươi tự xưng như thế à ?

Quách Tường thẹn đỏ mặt ấp úng đáp :

- Cháu đâu dám thế ! Ông ngoại ! Lúc đầu tỉ tỉ gọi chơi, dần dần mọi người thấy hay hay đều gọi cháu như thế cả.

Hoàng Dược Sư cất tiếng cuời dài Bấy giờ những người trưởng lão trong Cái Bang đứng bên Dương- Qua, hết lời ca tụng và cảm tạ. Họ đều nghĩ giống nhau :

- Chàng đã đoạt được Đả Cẩu bổng và khám phá ra mưu kế của Toa Đô. Nếu chàng có ý muốn làm bang chủ Cái Bang, thì thật là điều tốt đẹp vô cùng.

Lương trưởng lão nói :

- Dương đại gia ! Tệ bang Bang chủ Lỗ Hữu Cước vừa bất hạnh tạthế ...

Dương- Qua đã rõ Lương trưởng lão muốn nói gì, chàng ngắt ngang :

- Gia Luật đại huynh văn võ song tòan, anh minh nhân nghĩa, cũng là hảo hữu của ta, thì hãy mời Gia Luật đại huynh xuất nhiệm chức vị Tân Bang chủ.

Hoàng Dược Sư hỏi Quách Tường mấy câu về võ thuật và hướng đôi mắt như ngầm bảo Dương- Qua là ông sẽ đi.

Dương- Qua quay lại đã thấy thân hình ông thấp thoáng ra khỏi hội trường, lại nghe tiếng ông vọng lại :

- Dương- Qua, người bạn nhỏ, ngươi có đi không ?

Dương- Qua gật đầu, phất mạnh tay áo. Chỉ trong nháy mắt chàng đã theo kịp Hoàng Dược Sư , rồi một già một trẻ nắm tay nhau băng mình đi trong đêm tối.

Hoàng Dung muốn than thở một vài lời tha thiết với cha, nhưng trước mặt người lạ quá đông, chưa tiện mở lời thì Hoàng Dược Sư đã đi mất. Bà cúi đầu sụt sùi khóc, rồi chẳng biết nghĩ sao bà cũng đứng dậy chạy theo.

Chương 96 - Ân Oán Ba Đời - Thần Điêu Đại Hiệp - Kim Dung

--------------------------------------------------------------------------------

Chương 96 - Ân Oán Ba Đời

Hoàng dược Sư và Dương Qua chạy tuy mau nhưng Hoàng Dung đuổi theo gần kịp chỉ còn cách chừng 10 trượng là đến ngang 2 người.

Hoàng Dung kêu to :

- Gia phụ ! Qua nhi ! Hãy trở lại nghỉ ngơi ít hôm !

Tiếng kêu vừa dứt thì Hoàng dược Sư và Dương Qua đã mất dạng, chỉ nghe tiếng của Hoàng dược Sư nói vọng lại :

- Dung nhi ! Hai ta là người thảo dã , rất sợ bó buộc. Ngươi hãy để cho chúng ta tự do tự tại là hơn.

Thanh âm nhỏ dần, cách hơn dặm đường. Hoàng Dung thở dài và biết không thể nào đuổi theo kịp nên phải quay về.

Trong đại hội trường, tiếng la, tiếng trống vang rền náo nhiệt. Bấy giờ Tây Sơn Nhất Khuất Quỷ, Sử thị huynh đệ, Thanh Linh Tử cùng với 7 vị tiền bối võ lâm, lần lượt ra về, còn đoàn nhạc lữ ở lại.

Khất Cái Bang có 4 đại trưởng lão họp nhau để thương nghị, không còn lo ngại về Toa Đô nữa, nên lập Gia Luật Tề lên chức Bang chủ.

Bang chúng theo tập tục cổ truyền mỗi người phải nhổ nước miếng vào mặt Gia Luật Tề để hành lễ. Những quần hùng ở bên ngoài, người người đều hướng vào Gia Luật Tề chúc hạ, tiếng nói thật ồn ào, náo nhiệt.

Hoàng Dung bảo quân khố xuất bạc ra tặng cho đoàn hát. Các ban hát diễn tới mặt trời sáng rực mới cảm tạ ra về.

Quách Tường thấy Dương Qua đến chỉ nói ít câu rồi mỉm cười nhìn nàng, trong giây phút đã chia tay, lòng nàng còn chưa thỏa nên nao nao buồn. Nàng lại nhìn thấy tỉ tỉ cao hứng ở bên chồng, và chen lời cảm tạ quần hùng, nàng không còn lý do gì nấn ná lại đây nữa nên đứng dậy rời khỏi hội trường về phòng riêng.

Hoàng Dung đi theo bên nàng, nắm tay nói :

- Tường nhi, chuyện gì thế ? Hôm nay chắc con vui vẻ lắm

Quách Tường nói :

- Không, con cảm thấy mệt mỏi !

Nàng chỉ nói được bấy nhiêu lời thì đã khóc òa, đôi mắt đầy lệ. Quá hổ thẹn, Quách Tường cúi đầu lầm lũi bước đi. Hoàng Dung biết rõ tâm sự của con gái, nên nói lảng qua câu chuyện khác. Bà kể lại những tuồng hát và chọc cho con gái cười phá lên. Hai mẹ con chầm chậm đi về phủ.

Hoàng Dung đưa Quách Tường về phòng riêng rồi hỏi nhỏ :

- Tường nhi ! Con có mệt không ?

Quách Tường đáp :

- Con chẳng sao cả. Mẹ đã một đêm không ngủ, cần nghỉ để dưỡng sức.

Hoàng Dung dìu con gái vào trong giường. Hai mẹ con đồng ngồi xuống. Bà lấy tay xoa đầu, vuốt tóc con và hỏi :

- Tường nhi, con có rõ cuộc đời của Dương Qua không ? Ta sẽ nói hết cho con nghe. Câu chuyện dài lắm.

Quách Tường chấn động tinh thần, hỏi :

- Mẹ kể cho con nghe câu chuyện của Dương đại ca ?

Hoàng Dung nói :

- Ta sẽ kể từ đầu, từ thời của ông nội nó về sau.

Bà lần lượt kể từ lúc Dương Thiết Tâm và Quách Khiếu Thiên kết nghĩa tại Ng u Gia Thôn ở thành Lâm An. Quách, Dương hai nhà định kết sui gia.

Nhưng sau đó Dương Khang nhận kẻ địch làm cha, bán nước cầu vinh, đến ngày sau chết chẳng toàn thây. Dương Qua được gửi tại Đào hoa đảo nuôi dưỡng. Bà cũng kể chuyện Quách Phù chặt cánh tay của Dương Qua, và sau hết Tiểu Long nữ chia tay với Dương Qua tại Tuyệt Tình Cốc. Bà kể rõ mọi việc cho Quách Tường nghe.

Sau khi nghe xong, Quách Tường kinh hãi, dang tay ôm chặt mẫu thân. Bàn tay nàng ướt đẫm mồ hôi.

Trong tâm của nàng, hình ảnh Dương đại ca không bao giờ phai mờ. Dương Qua đối với gia đình nàng có mối liên hệ uyên nguyên, không ngờ rằng cánh tay cụt của chàng cũng là do tỉ tỉ nàng chặt đứt, và cũng vì tỉ tỉ nàng mà Tiểu Long nữ phải chịu cảnh chia ly. Rồi cũng do tỉ tỉ nàng đánh Băng Phách Ngân Trâm mà Tiểu Long nữphải bị độc.

Nàng thương cho Dương Qua là một trang hiệp sĩ ưa gánh vác việc thiên hạ, và có thiện cảm với gia đình nàng nên mới tặng lễ, đáp lời như vậy, ngờ đâu trong đó lại chứa đựng một cuộc ân oán mang nặng đến 3 đời.

Quách Tường nghe mẹ nói xong, tâm thần hỗn loạn, như ngây như dại. Hoàng Dung buồn bã thở dài và nói :

- Lúc đầu ta có ý nghĩ sai lầm về Dương Qua. Ta không nghĩ nó quen biết với ngươi là có thành tín như thế này. Ta còn thua xa cha ngươi ở chỗ biết người. Dương đại ca của ngươi, tối nay đã làm 3 việc lớn lao, để chứng tỏ nó không có tà niệm, và có lẽ lòng nó không đuợc vui. Ta nghĩ đã mang ơn của nó không nhỏ., thật là cảm kích vô cùng.

Quách Tường lấy làm lạ, hỏi :

- Mẹ ! Dương đại ca tại sao không vui và tà niệm về việc gì ?

Hoàng Dung nói :

- Lúc đầu ta tưởng là nó nhớ đến cái hận lâu đời với Quách gia, tìm kế hại ngươi để báo cừu.

Quách Tường lắc đầu nói :

- Dương đại ca chắc không nghĩ như vậy. Nếu muốn giết chết con thì dễ như trở bàn tay. Như lúc tại Tây Sơn, đại ca chỉ cần búng ngón tay cũng đủ giết chế con rồi, cần gì phải phí tâm phí sức.

Hoàng Dung nói :

- Ngươi thật ngây thơ, chẳ ng hiểu gì. Dương Qua nó làm cho ngươi đau khổ và phiền muộn cả đời, như vậy còn ác hơn giết ngươi thập bội! ý ! Không cần nói ta cũng biết nó còn chứa chất trong lòng một thắc mắc. Cũng như trong tâm ta còn một chuyện lo nghĩ chẳng yên.

Quách Tường nói :

- Mẹ lo nghĩ làm gì ! Con thấy Dương đại ca nói với con rằng Long tỉ tỉ vì thọ trọng thương nên được Nam Hải Thần Ni cứu thoát đem về để chữa trị nội thương, và có hẹn ước với đại ca 1 6 năm sau hội ngộ. Vợ chồng Dương đại ca tình sâu nghĩa nặng thì làm thế nào họ cũng cố để gặp nhau.

Hoàng Dung nhíu mày nói :

- Ôi ! Khó quá !

Quách Tường lại hỏi :

- Dương đại ca có nói : Long tỉ tỉ lúc ở Đoạn Trường Nhai lấy kiếm rạch lên phiến đá một hàng chữ: Mười sáu năm sau hội ngộ tại đây. Vợ chồng nghĩa nặng, xin đừng lỗi hẹn, muôn ngàn trân trọng, cầu mong gặp mặt.

Chẳng lẽ hàng chữ này ai giả mạo ra hay sao ?

Hoàng Dung nói :

- Nét chữ thật là của Tiểu Long nữ không sai. Tiểu Long nữ yêu thương Dương Qua lắm. Do đó Dương Qua lúc nào cũng hy vọng gặp lại nàng.

Quách Tường không rõ ý nghĩa lời nói của mẹ, nên ngước mắt nhì n bà ra ý hỏi.

Hoàng Dung nói :

- Mười sáu năm về trước, vợ chồng Dương đại ca của ngươi đều bị thuơng nặng, phần Dương đại ca của ngươi có thuốc trị liệu, còn Long tỉ tỉ của ngươi thì chất độc đã ngấm vào xương tủy. Dương đại ca của ngươi thương yêu vợ của nó vô cùng, tin chắc nàng không sống được trừ phi có tiên đơn diệu dược, do đó Dương đại ca của ngươi từ chối không dùng thuốc để chữa bệnh.

Quách Tường nghe mẹ nói như vậy giật mình. Trong giây phút nàng ngập ngừng nói :

- Nếu gặp trường hợp này là con, con sẽ giả trang ra người khác, nhường cho chàng thuốc giải độc.

Hoàng Dung không ngờ con mình còn ngây thơ mà có tâm chính người lớn, liền bảo:

- Chẳng phải vậy đâu ! Ta chỉ nghĩ Tiểu Long nữ ngộ độc nặng, chớ không ngờ nàng lại bỏ Dương Qua mà đi như vậy. Nàng vạch lên đá những lời thống thiết, nào là vợ chồng nghĩa nặng, xin đừng lỗi hẹn, lại còn nói : Muôn ngàn trân trọng, mong cuộc đoàn viênÕ. Rồi nàng đột nhiên bỏ đi tuyệt tích, không ai tìm ra được.

Nàng ra đi, mục đích là để Dương đại ca của ngươi yên lòng uống thuốc, bình yên mạnh khỏe chờ đợi trong vòng 1 6 năm. Ôi ! Ta cũng nghĩ mười sáu năm qua, tưởng đâu mối tình cũ của nó đã nguôi ngoai theo ngày tháng, mặc dù Dương đại ca của ngươi đã chịu uống thuốc chữa bệnh, và không còn ý định tự tận nữa. Nhưng mối cựu tình của Dương đại ca ngươi không ngờ vẫn nóng bỏng như tự thủa nào.

Quách Tường hỏi :

- Còn việc Nam Hải Thần Ni thì sao ?

Hoàng Dung nói :

- Nam Hải Thần Ni, chính là câu chuyện do ta bịa đặt, và không hề có một người như thế bao giờ.

Quách Tường kinh hãi :

- Vậy ra không có Nam Hải Thần Ni ?

Hoàng Dung thở ra, nói :

- Ngày ở trong Tuyệt Tình Cốc tại Đoạn Trường Nhai, ta thấy Dương Qua the âlương khổ sở, làm cho lòng ta bất nhẫn, ta mới bịa đặt ra chuyện Nam Hải Thần Ni để an ủi nó, để nó yên lòng uống thuốc mà chờ đợi trong 1 6 năm cho khuây khỏa nỗi niềm. Ta nói Nam Hải Thần Ni ở Đại Trí đảo, nhưng trên thế gian này làm gì có đảo ấy. Ta lại nói Nam Hải Thần Ni dạy chưởng pháp cho ngoại tổ ngươi, để đánh tan sự nghi ngờ của nó. Dương đại ca của ngươi thông minh tuyệt đỉnh, nếu ta không vẽ rồng vẽ rắn làm sao nó chịu tin. Nếu nó không tin thì nó sẽ tự tử mất vì nó đ quá yêu Tiểu Long nữ.

Quách Tường nói :

- Mẹ nói vậy thì ra Long tỉ tỉ chết rồi sao ? Vậy là câu chuyện ước hẹn 1 6 năm không có nữa rồi.

Hoàng Dung bảo :

- Không, không hẳn thế ! Nếu Tiểu Long nữ còn sống trên đời thì đến ngày ưước hẹn, nàng và Dương Qua gặp nhau, họ sẽ vui vẻ tạ ơn trời đất. Tiểu Long nữ là đệ tử đắc ý nhất của phái Cổ Mộ, mà tổ sư của phái này là Lâm Triều Anh nữ hiệp, học vấn uyên thâm, nội ngoại thần công còn giỏi hơn nhiều môn phái khác, may ra Tiểu Long nữ có thể không chết.

Quách Tường nói :

- Con tưởng tượng nếu Dương đại ca và Long tỉ tỉ gặp nhau thì chẳng khác nào muôn hoa đua nở, còn trái lại Dương đại ca sẽ phát điên lên mất.

Hoàng Dung nói :

- Hôm nay có ông ngoại ngươi đến với nó, thì làm thế nào nó không hỏi ông ngoại ngươi, và nhờ giúp nó đến gặp Nam Hải Thần Ni.

Quách Tường buồn rầu hỏi :

- Con đã hiểu Dương đại ca và ông ngoại cùng đi chung, thế nào đại ca cũng đề cập việc Nam Hải Thần Ni. Ông ngoại không biết gì, thì chuyện này chắc là không êm đẹp phải không mẹ ?

Hoàng Dung đáp :

- Nếu như Tiểu Long nữ cùng Dương Qua đoàn tụ, thì là một việc cực tốt, mọi việc đều yên. Nếu đến kỳ hạn mà đại ca ngươi không gặp được Tiểu Long nữ thì tất nhiên tính tình nó biến đổi sinh ra náo loạn. Nó sẽ giận ta lừa nó, làm cho nó phải khổ sở chờ đợi 1 6 năm dài.

Quách Tường nói :

- Mẹ đâu có gạt Dương đại ca, mọi chuyện đều là vì Dương đại ca. Mẹ có lòng tốt cứu tính mạng cho đại ca đó chứ.

Hoàng Dung buồn bã lắc đầu :

- Tuy vậy nhưng trong khi đau khổ quá nó chẳng bao giờ nghe lời người ta khuyên bảo.

Quách Tường nói :

- Mẹ ! Cách 1 6 năm thì chắc sự thương tâm cũng nhạt phai rồi, chẳng lẽ Dương đại ca lại tự tận hay sao ?

Hoàng Dung trầm ngâm giây lát, đoạn nói :

- Có nhiều người bảo là ta đã đem đau khổ đến cho Dương đại ca ngươi. Vì vậy ta khó mà đem lời giảng giải cho nó hiểu được. Ta cũng muốn cho ngươi gặp nó, trừ phi Tiểu Long nữ còn sống thì mới có thể cảm hóa được Dương Qua.

Quách Tường ngơ ngác nói không nên lời. Hoàng Dung nói :

- Tường nhi, mẹ hết lòng thương con, nếu con không chịu nghe lời mẹ nói, sau này hối hận không kịp.

Hoàng Dung nói đến đây nhăn mặt nhíu mày, đôi mắt đỏ hoe, qua một lúc bà ôn tồn tiếp :

- Tường nhi, ta sẽ kể thêm cho ngươi 1 chuyện mà Dương Khang, phụ thân của Dương đại ca ngươi đã làm.

Đoạn bà bèn kể từ lúc Dương Thiết Tâm thâu nhận Mục Niệm Từ làm nghĩa nữ, và đến việc tỷ võ chiêu phu gặp Dương khang, đến lúc Dương Khang tạo nhiều ác nghiệp mà Mục Niệm Từ trước sau vẫn đối đãi với Dương Khang bằng mối tình sâu đậm. Rồi Mục Niệm Từ lại tự tử chết theo Dương Khang ở Dương Thiết Thuơng miếu. Tất cả đều được bà lần lượt kể lại rõ ràng. Và sau hết, Hoàng Dung tóm tắt :

- Mục Niệm Từ tỉ tỉ tài mạo song toàn, có một không hai trong những trang nữ kiệt, chỉ vì vướng phải lưới tình mà đọa lạc rất thảm thương.

Quách Tường nói :

- Mẹ ! Bà ấy không còn phương pháp gì sao ? Nếu bà làm cho Dương thúc thúc vui lòng, đâu nỡ phụ bà, mà phải hành động bi quan như vậy ?

Hoàng Dung biết con gái còn ngây thơ quá đỗi, nhủ thầm :

- Con còn nhỏ lắm, làm sao hiểu được tình trường muôn mặt.

Bà liếc nhìn thấy thần sắc của Quách Tường quá đỗi mệt nhọc, đôi mắt lim dim chứng tỏ nàng đ buồn ngủ nên bà cúi xuống cởi aó dìu Quách Tường lên giường và kéo màn phủ xuống, bảo :

- Con buồn ngủ lắm rồi, hãy nằm nghỉ để mẹ trông chừng cho.

Quách Tường vì một đêm không ngủ nên khi vừa nằm xuóng đã thở khì và trong phút chốc đã đắm chìm trong cõi mộng mê man.

Hoàng Dung nhìn thấy vẻ mặt vôt của con, lòng vui vẻ lẩm bẩm :

- Trong ba con, ta đều yêu mến như nhau, nhưng chỉ có Tường nhi tính tình chất phác nhất.

Bà nhẹ bước rời khỏi phòng trở về khách sảnh. Chiều hôm ấy, anh em họ Võ phái thám mã về phi báo. Lương thảo ở Nam Dương quả nhiên bị lửa thiêu trụi. Lúc ngọn lửa chưa tắt hẳn thì đạo quân tiên phong của Mông Cổ đã lùi ra xa trên trăm dặm, và tạm thời án binh bất động. Trong thành Tương Dương đuợc tin, ai nấy đều hoan hỷ.

Cái tên Thần Điêu Đại hiệp được truyền khẩu từ cửa miệng của bá tánh không dứt. Họ thêm dầu thêm mở cho Dương Qua là kẻ xuất quỷ nhập thần, chỉ trong 1 ngày đã lắt tai khóet mắt hai đạo quân tiên phong của Mông Cổ ở Tân Dư và Đặng Châu, lại dám đốt tiêu mấy ngàn muôn hộc lương thảo ở Nam Dương nữa.

Cũng đêm ấy, Lữ Văn Hoán triệu mời 2 vợ chồng Quách Tỉnh đến đàm đạo. Cả ba hân hoan thương nghị chuyện quân tình sáng suốt.

Theo thường lệ, mỗi sáng tinh sương các con đều phải vào thỉnh an vợ chồng Quách Tỉnh. Nhưng hôm nay, Gia Luật Tề, Quách Phù, Quách phá Lỗ tề tựu đ lâu mà Quách Tường vẫn chưa đến.

Hoàng Dung lo ngại, bèn sai người thị tì đến phòng Quách Tường. Tên nữ tì này bẩm rằng :

- Quách nhị tiểu thơ đi đâu lúc nửa đêm không có trở về phòng an nghỉ.

Hoàng Dung hốt hoảng hỏi :

- Tại sao khuya này các ngươi chẳng đến bẩm báo ?

Tên tì nữ của Quách Tường đáp :

- Chiều hôm qua khi phu nhân trở về hậu đường trong giây lát thì Nhị tiểu thơ ra đi. Tì tử chẳng dám bẩm báo, sợ nhị tiểu thơ về phòng thình lình sẽ trách mắ ng tì tử. Tì tử hết sức chờ đợi ca ûđêm mà nhị tiểu thơvẫn chưa về phòng. Hoàng Dung cúi đầu suy nghĩ, rồi thả bước đến phòng Quách Tường. Khi vào đến phòng, bà đưa mắ t quan sát thì thất quần áo và binh khí cô con gái đã mang đi tất cả. Bà chưa hết kinh hãi thì thoạt thấy có một tờ giấy trắng giắt ở một góc trên giường.

Hoàng Dung đã hiều phần nào sự việc, nên thở dài đưa tay nhặt tờ giấy lên, thấy trong ấy đề rằng :

"Kinh trình cha mẹ, Con xin ra đi để gặp Dương đại ca mà khuyên nhủ không nên đau buồn khổ sở nếu không tìm được Long tỉ tỉ. Nếu con khuyên nhủ dược đại ca xong rồi thì lập tức con trở về hầu cha mẹ.

Con Tường nhi kính bái'

Õ Hoàng Dung ngồi xuống giường, tái mặt chẳng nói nên lời, nghĩ thầm :

- Con của ta tính tình chân thật, hiền hòa, khác xa với Dương Qua. Dương Qua trên đời này nó chỉ nghe một mình Tiểu Long nữ khuyên nhủ mà thôi, ngoài ra nó đâu có chịu nghe lời ai. Nếu nó nghe lời khuyên nhủ của người khác, thì nó sẽ không còn là Dương Qua nữa.

Lòng bà lại muốn đi tìm Quách Tường nhƯng được tin hai đại tiền quân Mông Cổ kéo đến trùng trùng, hiệp lại để tấn công thành Tương Dương. Trước mắt bà là sự thịnh suy của quốc gia, bà phải lo huy động binh tình mà chống trả, đâu nỡ vì một đứa con mà bỏ cả đại cuộc nước nhà.

Nghĩ vậy bà liền viết ra 4 bức thƯ , giao cho 4 tên đệ tử Cái Bang đi bốn hướng khác nhau kiếm Quách Tường bảo phải trở về nhà lập tức.

Nguyên lúc Quách Tường nghe mẹ nói những chuyện đã qua thì ngủ thiếp đi, và nằm mơ thấy nhiều chuyện ác nghiệt, nào là Dương Qua dùng kiếm tự sát, nào là đưa kiếm lên chặt nốt cánh tay còn lại, và thấy Dương Qua từ trên cao nhào xuống vực tan nát thân mình.

Nằm mộng thấy những chuyện quá khủng khiếp như vậy, bỗng nàng giật mình, thức giấc, mồ hôi đổ ra nh tắm. Nàng suy nghĩ :

- Đại ca cho ta 3 cây trâm vàng, đã lấy lại 2 cây và tặng lại ta 3 món lễ vật. Bây giờ ta lấy ra cây trâm còn lại, đem giao cho đại ca, may ra cầu được việc. Đại ca là người nghĩa vĩ anh hào, lời nói tất rất trọng, vậy ta hãy tìm chàng xem sao.

Do đó nàng lưu lại một phong th và ra ngoài thành tìm Dương Qua.

Dương- Qua và Hoàng Dược Sư nắ m tay nhau tìm con đường vô định, khoảnh khắc hai nguời đ đến một nơi hẻo lánh xa xôi thì ai còn biết đâu mà tìm được nữa ?

Quách Tường đi trên 30 dặm, đã đói run lên, muốn tìm một ngôi nhà để xin tá túc, hoặc một tửu điếm để ăn cơm. Nhưng lúc bấy giờ ngoài thành Tương Dương trăm họ đều lo tị nạn, nhà cửa đều không có người ở, thì còn nói gì đến tửu điếm trà đình.

Quách Tường đơn thân đi trên con đường vắng tanh. Đi đuợc một đỗi xa trên 30 dặm, cũng không thấy có bóng người lai vãng. Nàng dừng lại, ngồi trên phiến đá, ôm đầu nghĩ ngợi, lòng sầu thảm vô cùng.

Được một lúc lâu, nàng nhủ thầm :

- Quán cơm, nhà ở không có, tìm đâu ra được trong khi bụng đã đói cào ?

Nàng quan sát xung quanh chỗ mình ngồi, chỉ thấy rừng cao dày mịt, không một túp lều.

Trong lúc suy nghĩ miên man, Quách Tường nghe có tiếng vó ngựa từ hướng đông xa đưa lại. Nàng đưa mắt về hướng ấy, thấy một lão tăng quắc thước, tuổi quá 70, mình mặc áo bào vàng, đầu đội chiếc mũ nỉ có cái ngù cao đang phi ngựa thật nhanh về hướng chỗ nàng ngồi.

Khi còn cách nàng trên 1 0 trượng, vị lão tăng liền gò cương dừng lại. Vẻ mặt của ông có nhiều sự kinh ngạc, nhìn nàng hỏi :

- Cô bé kia ! Ngươi là ai ? Tại sao một mình lại dám đến đây?

Quách Tường nhìn thấy đôi mắt ông sáng quắc như điện quang, oai phong lẫm lẫm, tướng mạo hùng hùng, liền nhớ lại lúc ở Hắ c Long đầm đã gặp Nhất-đăng đại sư . Nàng nghĩ rằng :

- Vẻ mặt của Nhất-đăng đại sư từ bi chí thiện, râu dài mặt trắng, đôi mắt hiền lành. Còn lão này vẻ mặt ranh mãnh, tướng tá hùng hồn, có lẽ là nguơì từng xông pha chiến trận nên gương mặt có lộ vài điểm ác căn.

Nàng đáp :

- Tôi là Quách Tường từ trong thành Tương Dương ra đây, và chỉ đi có một mình thôi.

Vị lão tăng nói :

- Ngươi đi tìm ai ?

Quách Tường nguớc mắt mỉm cười nói :

- Lão hòa thượng lo chi chuyện thiên hạ? Tôi chẳng nói cho ông nghe đâu.

Vị lão tăng nói :

- Ngươi nói ngươi đi tìm một người. Thôi, ngươi đi theo ta, ta sẽ chỉ đường đi nước bước cho ngươi.

Quách Tường nửa mừng nửa ngại, nói :

- Tôi đi tìm một người. Người đó là một chàng thanh niên cụt tay. Chàng thường dắt theo mình con đại điêu và bay đi trên những con đuờng vắng lặng.

Vị lão tăng này chính là Kim Luân Pháp Vương, khi nghe nàng nói lão hiểu ngay người đó chính là Dương- Qua, thì trong lòng rúng động, vẻ mặt hiện lên một ác ý. Lão nói :

- A, ta đã biết người này rồi, có phải người họ Dương, tên là Qua không ?

Quách Tường mừng rỡ nói :

- Đúng vậy ! Ông biết chàng sao ?

Pháp Vương cười lớn nói :

- Ai ta lại chẳng biết ! Dương- Qua chính là người bạn nhỏ của ta. Ta biết nó khi mới chào đời còn đỏ hỏn.

Quách Tường vui vẻ nói :

- Đại hòa thuợng, pháp danh của ông là gì ?

Pháp Vương nói :

- Người đời thường gọi ta là Châu Mục Lang Ma.

Nguyên Châu Mục Lang Ma là tên một hòn núi cao nhất ở biên giới Tây Tạng. Sở dĩ Kim Luân Pháp Vương nói ra như thế, là có ẩn ý tự phụ võ công của mình cao như ngọn núi đó.

Quách Tường nói :

- Thật là rắc rối ! Tên gì lại là Ma ? Theo chữ Tây Tạng là Cô la cô lô, cái tên chữ quá dài.

Kim Luân Pháp Vương nói :

- Ta bảo ta là Châu Mục Lang Ma.

Quách Tường vừa cười vừa đáp :

- Tôi có cãi đâu, ông bảo Châu Mục Lang Ma thì Châu Mục Lang Ma. Vậy đại lão hoà thượng có biết đại ca tôi ở đâu không ?

Pháp Vương nói :

- Dương- Qua là đại ca của ngươi ư ?

Quách Tường nói :

- Đúng thế, Dương- Qua là đại ca của tôi đó.

Pháp Vương nói :

- A, ngươi gọi Dương- Qua là đại ca, sao ngươi lại họ Quách ?

Quách Tường vẻ mặt ửng hồng, nói :

- Đây là người bà con, lúc nhỏ đại ca ở nhà tôi.

Kim Luân Pháp Vương bỗng nảy ra một ý nghi hoặc, giả vờ nói :

- Ta có một người bạn thâm giao, đã lâu ngày mà chưa gặp mặt, người này võ công cao cường, danh dương thiên hạ. Ông họ Quách, tên Tỉnh, chẳng biết cô nương có hiểu biết không ?

Quách Tường ngẫm nghĩ :

- Ta từ trong thành Tương Dương trốn ra đây. Theo lời lão này nói chính là bạn của phụ thân ta, nếu ta nói thật thì lão sẽ dắt ta về ngay. Thật là điều bất diệu.

Nàng đáp dối rằng :

- Ông nói người đó là Quách đại nhân phải không ? Ông ấy chính là người tộc trưởng trong họ tôi. Đại hòa thượng hãy đến thành Tương Dương mà tìm ông ấy.

Kim Luân Pháp Vương là một người tuổi tác già nua, thông hiểu thế sự nhân tình, nên nhìn sắc mặt Quách Tường đã hiểu được tâm ý của nàng rồi. Vì vậy ông giả cách than dài nói :

- Tôi và Quách đại hiệp là bạn đồng sinh tử, chỉ vì 20 năm chưa gặp mặt. Tôi thì ở phương Bắc, còn Quách đại hiệp lại ở phương Nam. Vì nghe có tin đồn Quách đại hiệp đã từ trần, làm cho lão tăng vô cùng chua xót. Do đó lão mới đi tìm. Ôi ! Vị đại anh hùng này chẳng may mai một, thật là tạo hóa bất công.

Lão nói đến đây đôi mắt ràn rụa, chứng tỏ đang bi thảm vô cùng. Kim Luân Pháp Vương là một người có nội công đến bậc thượng thừa, toàn thân ông từ da thịt, hơi thở, sắc mặt muốn rung động giờ nào, chỗ nào cũng được. Ông có thể chuyển vận tùy theo ý muốn, thì những chuyện giả khóc giả sầu đâu có khó khăn gì.

Quách Tường thấy ông than khóc quá bi thảm, tuy biết là phụ thân nàng chưa chết, nhưng tì nh phụ tử làm cho nàng không cầm lòng được, cất tiếng nói :

- Đại hòa thượng ! Không nên bi thảm như thế ! Quách đại hiệp chưa chết đâu.

Kim Luân Pháp Vương lắc đầu bảo :

- Ngươi đừng giấu ta ! Quách Tỉnh đã chết rồi. Ngươi là một đứa bé sao biết rõ việc người lớn.

Quách Tường cố cãi lại :

- Tôi ở trong thành Tương Dương ra đây, có gì mà tôi chẳng biết. Tối qua tôi đã tận mắt thấy ông ấy mà.

Bấy giờ Kim Luân Pháp Vương hết nghi ngờ, ngước mặt lên trời cười dài, nói :

- A ! Vậy ra tiểu thư là ái nữ của Quách đại hiệp.

Quách Tường ngẩn người ra. Pháp Vương lại nói tiếp :

- Chẳng phải ! Chẳng phải ! ái nữ của Quách đại hiệp có tên là Quách Phù. Ta biết cô gái này lắm, năm nay nàng ước độ ba mươi tuổi đầu.

Quách Tường sẵn dịp nói luôn không nghĩ ngợi :

- Đấy là tỉ tỉ của tôi ! Chị ấy tên là Quách Phù, tôi tên là Quách Tường.

Kim Luân Pháp Vương cả mừng, nhủ thầm :

- May quá, hôm nay thực là trời giúp vận xui khiến cho nói đến gặp ta.

Lão liền bảo Quách Tường :

- Nói như vậy là Quách đại hiệp vẫn còn mạnh khỏe ư ?

Quách Tường nhìn thấy thần sắc của lão tươi như hoa thì tưởng lầm là Pháp Vương nghe tin phụ thân nàng còn sống nên mừng rỡ như vậy. Nàng có cảm tưởng Pháp Vương là một người có lương tâm tối thiện, nên nói :

- Tôi nói là ông ấy không chết ! Vì Quách đại hiệp là cha của toi, tôi dối gạt ông làm gì ?

Kim Luân Pháp Vương nói :

- Rất tốt ! Ta tin ngươi, Quách nhị cô nương. Như vậy thì ta cũng không cần đến thành Tương Dương làm gì. Cảm phiền cô nương về thưa với lệnh tôn là Châu Mục Lang Ma kính lời thăm viếng.

Ông biết rõ thế nào Quách Tường cũng hỏi thăm tin tức Dương- Qua nên ông giả bộ đi gấp vội xốc áo nhảy lên ngựa, đôi tay nắm chặt cương kéo con tuấn mã quay đầu.

Quách Tường nói :

- úy ! Đại hòa thượng ! Còn câu chuyện ấy người không giảng nốt cho tôi nghe !

Pháp Vương nói :

- Tiểu thơ bảo giảng về chuyện gì ?

Quách Tường nói :

- Tôi đã nói cho ông nghe rõ tin tức của phụ thân tôi, bây giờ ông nên cho tôi biết tin Dương- Qua đại ca tôi hiện giờ ở đâu.

Kim Luân Pháp Vương nói :

- Hôm qua ta gặp hắn tại sơn cốc, về hướng Bắc thành Tương Dương. Ta và người bạn nhỏ của ta đang luyện kiếm ở đấy. Có lẽ lâu lắm hắn mới rời sơn cốc. Ngươi muốn đến đó ta sẽ chỉ đường cho.

Quách Tường nhíu mày đáp :

- Có rất nhiều sơn cốc thì biết đại ca ở sơn nào ? Ông cũng nên chỉ rõ ràng minh bạch.

Kim Luân Pháp Vương tỏ vẻ trầm ngâm giây lát, đoạn nói :

- Cũng được ! Sẵn dịp ta đi về hướng Bắc, ta sẽ đưa ngươi đến gặp Dương- Qua.

Quách Tường mừng rỡ nói :

- Nếu được vậy tôi mang ơn Đại hòa thượng lắm !

Pháp Vương nhảy xuống ngựa nói :

- Tiểu cônương hãy lên ngựa, còn lão tăng sẽ chạy theo sau.

Quách Tường hỏi lại :

- Làm sao Đại hòa thượng chạy theo kịp ?

Pháp Vương cười lớn nói :

- Ngựa có 4 vó thì lão tăng há chẳng có 2 chân ư ?

Quách Tường ý mốn leo lên ngựa, bỗng nàng nói to :

- Không được ! ái da ! Đại lão hoà thượng ! Tôi đói lắm rồi, phải tìm một chỗ để ăn, vậy Đại hòa thượng hãy dẫn tôi đi ăn trước đã .

Pháp Vương nghe nói liền đưa tay lấy trên lưng ra một túi lương khô. Quách Tường đang đói, bóc bỏ vào miệng nhai ngấu nghiến. Phút chốc nàng đã ăn hết nửa túi nhỏ, rồi lên ngựa giục vó ra đi.

Kim Luân Pháp Vương tà áo phất phơ, chạy thoăn thoắt bên mình ngựa. Quách Tường nhớ đến câu nói của hòa thượng : "Ngựa có 4 vó, lão tăng há chẳ ng có 2 chân ư " liền tra roi vào bụng ngựa, cười to bảo :

- ĐạI hòa thượng ! Tôi đợi ông phía trước mặt ! Lời nói chưa dứt, con tuấn mã đã phi vun vút về phía trước. Con ngựa này thuộc loại chiến mã , 4 vó ngựa chạy rất nhanh. Quách Tường chỉ thấy 2 hàng cây chạy sau lưng, bên tai gió thổi ù ù, phút chốc con tuấn mã đã đưa nàng đi trên một dặm đường.

Quách Tường quay đầu lại nói :

- Đại hòa thượng ! Tôi chạy hơn ông rồi !

Dứt lời, Quách Tường hốt hoảng vì không thấy tông tích Pháp Vương. Ông đã biến mất tự bao giờ !

Bỗng nàng nghe tiếng của ông từ khu rừng trước mặt vọng lại :

- Quách nhị cô nương ! Đôi chân tôi không chịu đi nữa. Vậy cô nương giục ngựa nhanh lên, tôi ngồi chờ ở đây.

Quách Tường lấy làm lạ:

- Tại sao lão chạy qua mặt mình lúc nào mà mình chẳng hay ?

Nghĩ thế nàng ra roi vào hông tuấn mã cho nó phi nhanh đến trước, thì thấy Pháp Vương cất bước như kẻ nhàn du, cách đầu ngựa chừng 1 0 trượng, làm cho Quách Tường quá sức kinh dị.

Nàng giục con tuấn mã chạy như bay, song thủy chung vẫn cách Kim Luân Pháp Vương chừng 1 0 trượng, không thắng nổi.

Bấy giờ 2 người đi trên đại lộ, con đường phía Bắc dẫn đến thành Tương Dương. Họ rong ruổi càng lúc càng xa, mắt trông về hướng Bình Giã, bốn vó ngựa phi nhanh làm cho đất bay mù mịt tựa khói lam hồng.

Pháp Vương thân thể như con én, đôi chân thoăn thoắt nhẹ nhàng, tựa hồ như cưỡi mây và bay trước gió.

Quách Tường lấy làm phục thầm :

- Hòa thượng khinh công giỏi như thế này, thảo nào kết bạn với gia gia ta.

Nàng tỏ ra kính trọng gọi to :

- Đại hòa thượng ! Ông là bậc tiền bối, vậy ông nên ngồi trên ngựa để tôi chạy chầm chậm theo sau.

Pháp Vương quay đầu lại nói :

- Không nên phí ngày giờ ! Ta gấp đưa ngươi đến gặp Dương- Qua. Lúc này Quách Tường buông lỏng dây cưong để con ngưạ chạy chậm, dần dần cách Pháp Vương một khoảng cách khá xa. Cũng vào lúc ấy, về phía Bắc trước mặt có tiếng vó ngựa vang lại, và có 2 người kỵ mã cưỡi ngựa như bay chạy đến.

Kim Luân Pháp Vương ho âto :

- May quá ! Có 2 con tuấn mã sắ p đến. Ta sẽ đổi lấy một con cho ngươi cưỡi.

Chẳ ng mấy chốc 2 người kỵ mã đã đến gần. Pháp Vương đưa tay ra chỉ vào 2 người ấy bảo :

- Các ngươi hãy xuống ngựa.

Hai con ngựa đã bị chưởng phong của lão quật nhẹ, chúng hoảng sợ nhảy lồng lên hí mấy tiếng, như muốn quật ngã người ngồi trên yên.

Hai người kỵ mã này là những tay kỹ thuật cao diệu, mặc dù con ngựa nhảy ngược đưa ngang, họ vẫn chễm chệ trên yên không bị rơi ngã .

Hai người cả giận thét to :

- Ai đó ? Giết chết nguời ta hay sao ?

Họ vừa nói xong chiếc yên như sắ p sửa rời khỏi lưng ngựa. Quách Tường thấy rõ 2 người đó vội kêu to :

- Đại Đầu Quỷ! Trường Tu Quỷ ! XIn đừng động thủ, đây là người quen cả!

Hai người kỵ mã này chính là người trong bọn Tây Sơn Nhất Khuất quỷ, tên là Trường Tu Quỷ và Đại Đầu Quỷ. Lúc ấy Kim Luân Pháp Vương đưa tay ra giật mạnh tựa thiên thần, cái yên ngựa tuy làm toàn bằng da trâu, nhưng Pháp Vương đã dùng sức mạnh đến trăm cân cũng không đoạt được.

Tuy vậy, đôi tay ông vẫn không chịu buông tha cho Đại Đầu Quỷ. Hai người cứ mãi trì kéo lẫn nhau.

Kim Luân Pháp Vương cười to nói :

- Tiểu tử giỏi thật !

Ông liền gia tăng thêm chưởng phong vào đôi tay, lách cách mấy tiếng, chiếc yên ngựa đã bị sức mạnh ngàn cân của Pháp Vương chấn gẫy làm 2 đoạn rơi xuống đất.

Đại Đầu Quỷ nổi giận phóng mình xuống ngựa, vươn cánh tay ngắn ngủi ra muốn giao đấu với Pháp Vương.

Trường Tu Quỷ thấy vậy hét to :

- Tam đệ, hãy chậm lại !

Ông nói thêm :

- Quách nhị tiểu thơ! Tại sao tiểu thơ lại đi chung với Kim Luân Pháp Vương ?

Trước đây có dạo Dương- Qua và Kim Luân Pháp Vương hai người đều vào Tuyệt Tình Cốc. Lúc ấy Trường Tu Quỷ Phàn Nhất Ông được dịp gặp lão Pháp Vương rồi, nên biết rõ.

Quách Tường đáp lại :

- Ông lầm người rồi ! Hòa thượng đây là Châu Mục Lang Ma, bạn thân của gia gia tôi, còn Pháp Vương là kẻ cừu địch của gia gia tôi, hai người khác xa nhau lắm.

Trường Tu Quỷ nói :

- Vậy nhị tiểu thơ gặp lão hòa thượng này nơi đâu ?

Quách Tường nói :

- Tôi đang ngồi trên phiến đá thì gặp ông ấy. Vị hòa thượng này nói gia gia tôi đã từ trần và ông còn nói nhiều chuyện rất buồn cười. Ông hứa dẫn tôi đi tìm Dương đại ca.

Đại Đầu Quỷ nói :

- Cô nương lầm rồi ! Hòa thượng này không phải người tốt! Lão gạt cô đấy.

Quách Tường bán tín bán nghi hỏi :

- Lão gạt ta sao ?

Đại Đầu Quỷ nói :

- Quách cô nương, Thần Điêu Đại hiệp ở hướng Nam mà lão lại dẫn cô nương về hướng Bắc, chẳng phải lão cố ý dối gạt hay sao ?

Kim Luân Pháp Vương mỉm cười và nói :

- Hai gã lùn đừng ăn nói hàm hồ !

Tiếng nói vừa dứt, lão đ tung ra song chường nhằm ngay hai cái đầu của Trường Tu Quỷ và Đại Đầu Quỷ giáng mạnh xuống. Chưởng lực như bài sơn đảo hải, nặng muôn ngàn cân.

Mười năm về trước ở tại Mông Cổ, Kim Luân Pháp Vương đã khổ luyện nội công theo pháp môn Long Tượng Ban Nhược công, môn pháp này chỉ mật truyền cho những người có căn cơ cao, để tùy thân hộ mệnh.

Môn pháp này là của Mật Tông chế hóa, gồm có 1 3 chiêu thế, gọi là Long Tượng Ban Nhược công. Từ xưa đến giờ ch a ai luyện được trên 1 0 chiêu.

Về thời Bắc Tống,ở biên giới Tây Tạng có một vị cao tăng khổ luyện đến 9 chiêu thì người của ông trở nên dũng mãnh phi thuờng. Khi ông luyện qua chiêu thứ 1 0 thì tâm hỏa phát khởi, trở nên điên loạn, không có phương pháp nào chữa trị được. Lão ta múa may quay cuồng suốt 7 ngày đêm để rồi đứt hết các mạch máu mà chết.

Từ xưa tới nay chỉ có Kim Luân Pháp Vương là một người kỳ tài, chẳng những luyện qua 1 0 chiêu mà còn luyện đến chiêu thứ 11 , thật là chấn cổ hang kim. Tuy không dám nói tương lai chẳng có ai được như thế, nhưng ông đã hơn được những người xưa.

Cũng vì câu chuyện ngày xưa, Kim Luân Pháp Vương đã bị đại bại dưới tay kiếm Dương- Qua và Tiểu Long nữ nên ông có cảm tưởng là mình mang đại nhục nhất trên đời. Ông gắng công luyện tập thành công, thừa lúc hoàng đế Mông Cổ ngự giá thân chinh, Pháp Vương xin đi theo với mục đích là dùng song chưởng quật chết vợ chồng Dương- Qua để rửa cái nhục năm nào.

Môn pháp Long Tượng Ban Nhược Công chia ra 1 3 chiều tầng khác nhau. Chiêu thứ nhất chỉ để dậy cho kẻ nào không biết võ công, phải trường kỳ khổ luyện trong một hoặc hai năm ròng r ã. Rồi cứ thế luyện tập mỗi chiêu tầng kế mỗi năm một chiêu, cho đến bốn năm năm sau là đã thành một tay võ công thượng thặng. Bấy giờ muốn luyện thêm nữa, phải đợi ba bốn năm sau mới có thể luyện lên tầng thứ sáu, chiêu tầng này công phu tuần tự mà tiến, dần dần mới trở thành tuyệt kỹ kinh nhân. Tuy vậy vẫn chưa có ai luyện đủ 1 3 chiêu tầng của môn pháp Mật Tông. Trừ ra người nào sống đến ngàn tuổi mới có đủ thời giờ luyện được. Nhưng kiếp sống con người chỉ có hạn, võ học thần công bao la như biển rộng sông dài. Trong phái Mật Tông có rất nhiều đạo sĩ tăng nhân tu luyện trên trăm tuổi, nhưng chỉ luyện được chín, mười tầng chiêu số là cùng.

Mọi người cứ tuần tự luyện tập không ai đi quá trớn, vì trước họ có những bậc tiền bối muốn mau tiến triển mà đi đến chỗ điên cuồng, chết chóc.

Từ xưa đến nay chỉ có Kim Luân Pháp Vương dám đứng ra hứng chịu mọi cảnh nguy nan, để luyện được 11 chiêu tầng Long Tượng Ban Nhược Công truyền lại. Mỗi chưởng tung ra tựa hồ rồng bay cọp múa.

Kim Luân Pháp Vương thấy mình luyện tập như vậy là đủ lắm rồi, không cần phải cao vọng nữa làm chi. Ông ta nghĩ rằng như thế cũng thừa đủ tung hoành trong thiên hạ rồi.

Bấy giờ trông thấy song chưởng bủa vào đầu, Đại Đầu Quỷ đưa tay ra đỡ. "Bùng bùng" hai tiếng, đôi tay của Đại Đầu Quỷ gãy văng ra xa, và có tiếng nổ ầm ầm, song chưởng bổ vào đầu Đại Đầu Quỷ bể nát óc chết ngay.

Trường Tu Quỷ Phàn Nhất Ông võ công rất thâm hậu, nhưng biết chưởng phong của Pháp Vương lợi hại, Trường Tu Quỷ vội đưa tay ra một chưởng Thác Đại Thế, chưởng này nặng trên muôn cân, trước mắt chỉ thấy một màn đêm tối dày mịt, tỏa ra khắp mặt đất.

Quách Tường thấy vây cả giận, hướng vào Pháp Vương nói to :

- Hai vị này đều là bạn hữu của tôi, sao hòa thượng lại đả thương người ?

Trường Tu Quỷ nhổ ra hai bụm máu tươi, lăn nhào xuống đất ôm chặt đôi chân Pháp Vương nói to :

- Cô nương chạy trốn mau đi !

Đôi tay của Pháp Vương đấm túi bụi vào kẻ địch, mong gỡ đôi tay của Trường Tu Quỷ ra. Pháp Vương tuy có sức mạnh hơn người, song gỡ không ra đôi tay của Trường Tu Quỷ.

Quách Tường nổi giận, tuy nàng còn nhỏ song lại có máu hiệp nữ. Nàng thấy Pháp Vương không tốt, muốn giết Trường Tu Quỷ, mà Trường Tu Quỷ lại cam chịu chết để nàng đào sanh.

Quách Tường đưa đôi tay bé nhỏ lên hét :

- ác hòa thượng ! Ngươi đừng độc dữ quá vậy ! Hãy buông tha Trường Tu Quỷ thì cô nương sẽ đi theo ngươi.

Trường Tu Quỷ bị kẹp cứng cổ nhưng cố gượng hô to :

- Quách cô nương hãy trốn cho mau, đừng nghĩ ...

Ông muốn nói "đừng nghĩ đến tôi nữa", thì đôi bàn tay của Pháp Vương đã siết chặt vào, làm cho Trường Tu Quỷ chết luôn.

Pháp Vương đạp lên mình Trường Tu Quỷ cười hăng hắc nói với Quách Tường :

- Ngươi muốn trốn tránh, sao không lên ngựa đào sanh ?

Quách Tường từ thủa nhỏ chưa thấy những điều nguy hiểm, chỉ có ngày Lỗ Hữu Cước bị thảm sát dưới tay Toa Đô thì nàng mới căm hận quyết giết chết Toa Đô trảthù. Đến sau khi Toa Đô chết thì nàng không còn cừu giận ai cả.

Bây giờ lại thấy Pháp Vương độc ác, tàn nhẫn, sự bực tức đã xé nát tâm can làm Quách Tường ứa lệ, nhưng nàng không sợ hãi chút nào.

Pháp Vương lại nói :

- Tiểu cônương ! Nguơi có sợ ta chăng ?

Quách Tường hét to :

- Ta chẳng sợ ngươi đâu. Ngươi giết ta càng tốt ! Hãy giết ta đi !

Kim Luân Pháp Vương đưa ngón tay trỏ dí vào mũi nàng, khen :

- Tốt lắ m ! Hổ phụ sanh hổ tử. Con giống hệt cha.

Quách Tường giận căm gan đưa mắ t nhì n Pháp Vương hằn học. Nhớ đến cái chết của hai người bạn làm cho nàng chua xót, bồi hồi. Nàng đến bên 2 cái xác, cúi xuống đỡ Trường Tu Quỷ và Đại Đầu Quỷ lên yên ngựa rồi buộc chặt ca û2 vào yên tử tế. Đoạn nàng vỗ vào đầu hai con tuấn mã bảo rằng :

- Mã nhi ! Hãy đưa chủ ngươi về nhà ! Ngoan nhé !

La ïthay loài ngựa này ! Khi vừa nói xong, đôi ngụa gục gặc đầu tỏ ý hiểu, rồi phóng bốn vó đi nhanh, trong phút chốc đã mất dạng.

* * *

Lại nói về Dương- Qua và Hoàng Dược Sư , hai người nắm tay nhau dùng hết tuyệt kỹ khinh công đi về hướng Nam, trong phút chốc đã xa hơn 1 0 dặm đường. Qua cuối giờ Mão họ đã đến Tuyên Thành. Hai người vào một tửu lâu gọi rượu thịt ăn uống và bàn tán chuyện nhân tình thế thái.

Hoàng Dược Sư nói về chuyện Trình Anh, Lục Vô Song 1 0 năm về trước đã ở tại Tương Châu, Lăng Hồ, họ thường làm bạn với cô ngốc. Ông lại nói đến việc 2 người ra giang hồ hành hiệp, để co ângốc ở lại thực là ngoài ý muốn của Trình Anh và Lục Vo âSong.

Dương- Qua thở dài mà không nói gì cả. Hai người uống qua vài tuần rượu, Dương- Qua bèn kính cẩn nói :

- Hoàng đảo chúa ! Muời năm trước vãn bối muốn đến thăm Hoàng đảo chúa để cầu hỏi ngài một việc, nhưng mãi đến hôm nay mới có dịp.

Hoàng Dược Sư cười lớn nói :

- Ta sức suy, trí kiệt, càng già thì càng tà dại quái gở thêm. Không biết lão đệ muốn hỏi ta điều gì ?

Dương- Qua toan trả lời, bỗng nghe có tiếng chân người từ dưới thanh lầu đi lên.

Lắng tai nghe rõ thì ra tiếng chân của 3 người. Hoàng Dược Sư và Dương- Qua nghe tiếng bước chân đã biết họ có nghệ thuật khinh công rất cao.

Dương- Qua giương mắt quan sát nhận được người thứ nhất là Tiêu Tương Tử, nguời thứ hai mặt ngăm đen chàng chưa gặp lần nào, người thứ ba chính là Doãn Khắc Tây. Bấy giờ Tiêu Tương Tử và Doãn Khắc Tây cũng nhìn thấy Dương- Qua, cả hai ngạc nhiên vô độ muốn thoái bước xuống lầu.

Chương 97 - Quái Khách Què Chân - Thần Điêu Đại Hiệp - Kim Dung

--------------------------------------------------------------------------------

Chương 97 - Quái Khách Què Chân

Dương Qua nhíu mày mỉm cười gọi:

- Cố nhân lâu ngày cách biệt hôm nay trời xui gặp lại, tại sao lại vội vã ra đi?

Doãn Khắc Tây vòng tay cười nói:

- Dương đại hiệp, thật chúng tôi vô ý quá.

Tiêu Tương Tử còn nhớ ở Chung Nam Sơn đã bị nhục với Dương Qua, dù chàng lúc đó đã bị chặt tay. Tuy cách biệt trên 1 0 năm, Doãn Khắc Tây vẫn còn có dịp nghe võ công của Dương Qua ngày càng tiến triển. Bởi vậy, gã xét mình không phải là đối thủ của Dương Qua, nên chẳng dám nấn ná lâu, chỉ nhìn sơ Dương Qua rồi rút lui xuống lầu.

Cái người mặt đen mà Dương Qua không biết ấy là tên võ sĩ của Hốt Tất Liệt. Người này rất tự phụ. Lúc bấy giờ hắn đã cùng với Doãn Khắc Tây và Tiêu Tương Tử đi do thám tình hình trong thành mà chẳng ai để ý biết được. Cái tánh tự phụ của gã võ sĩ này là thường hay nhìn người bằng nửa con mắt, đến lúc thấy hai bạn đồng hành toan rút lui xuống lầu, gã giương mắt thao láo nhìn Dương Qua rồi bảo 2 bạn :

- Tiêu Tương huynh ! Doãn Khắc huynh ! Chuyện gì mà phải dừng bước, nếu gặp khách dữ, bạn tà thì càng cao hứng chứ có sao ? Vậy nhị vị có sợ thì hãy đi trước để tiểu đệ nói chuyện với gã .

Gã võ sĩ này nói tới đây đưa ra một nắm tay thực to nhắm ngay vai Dương Qua mà thoi tới. Gã tưởng với nắm tay này chuyền nhập vào mình đối phương thì chẳng dập tay cũng gãy xương.

Dương Qua nhìn thấy trong nắm tay của gã có nhiều môn tà độc thì biết rõ người này đã luyện được Độc Sa Chưởng, nên giả cách không chú ý tới mà nghĩ thầm:

- Ta chẳng muốn hơn thua với 3 người này làm gì. Hiện ta chỉ muốn thăm dò Hoàng lão tiền bối về câu chuyện Nam Hải Thần Ni.

Đột nhiên cái nắm tay sắp chạm vào tay chàng, chàng vươn tay ra gạt một cái kêu một tiếng bình thật to.

Hoàng dược Sư trông thấy rõ ràng, ông hỏang hốt nghĩ thầm

- Chưởng phong của Dương Qua thật quá hay !

Ông không ngờ võ công của Dương Qua trác tuyệt và tiến triển tột bực như ngày nay.

Lại nghe tiếngÛbinh binh liên hồi, Tiêu, Dõan hai người trúng chưởng phong của Dương Qua tạt chạm vào vai. Dương Qua thấy Doãn Khắc Tây đã có lễ phép đối với mình nên mới dung tha cho cả bọn.

Hoàng dược Sư cả cười nói :

- Dương lão đệ ! Ngươi mới chế ra một đường chưởng pháp hay là học được của bực cao minh nào ?

Lão phu xét thấy Dương bằng hữu đã tạo được một kỳ chưởng lạ nhất trên đời, thực là một điều may mắn.

Dương Qua đáp :

- Đây là do sự truyền dạy của Hoàng tiền bối đó chớ. Bấy giờ chàng liền đem sử dụng nhữ ng chiêu số tuyệt đẹp trong ám Nhiên Tiêu Hồn Chưởng pháp cho Hoàng dược Sư xem.

Hoàng dược Sư đưa mắt thấy tay áo của Dương Qua huy động như cuồng phòng, cánh tay đưa ra như vũ bão, sử dụng một chiêu ngắn là Trì nê đái thủy rồi biến qua chiêu kế là Thần bất phủ mạo. Cả 3 người Tiêu Tương Tử, Doãn Khắc Tây và gã võ sĩ mặt đen đều bị chưởng phong vây hãm.

Thân hình 3 người này như lọt vào ngọn sóng triều dồi qua đập lại, theo sự chuyển động chưởng pháp của Dương Qua.

Cả3 vô phương chống cự, toàn thân mỗi người rung lên bần bật và chực ngã quỵ xuống sàn lầu.

Hoàng dược Sư nâng ly rượu lên uống cạn và than rằng :

- Người xưa hay ngâm thơ và uống rượu, còn lão phu hôm nay ngồi nhìn tiểu huynh đệ thi triển võ công mà uống rượu, thật là một điều hào hứng từ xưa tới nay chưa có một.

Dương Qua nói :

- Xin mời Hoàng lão tiền bối chỉ điểm cho một chiêu.

Nói xong chàng bủa ra một chưởng hướng vào Hoàng dược Sư . Hoàng dược Sư chẳng dám khinh thường, liền đưa tay trái ra đỡ và đánh tạt vào hai người Tiêu, Doãn.

Thấy gã võ sĩ mặt đen đi đến, Hoàng dược Sư lại nâng ly lên uống ngụm rượu, đưa ra một chưởng.

Dương Qua giương mắt lên nhìn thất chưởng pháp của ông tuyệt cao diệu nên nghĩ rằng :

- Nếu ta chẳng dùng hết toàn lực mà công địch thì dễ gì Hoàng dược Sư lại chịu sử dụng chuởng pháp mà ta đoán là học được của Nam Hải Thần Ni ?

Do đó chàng vận khí Thiên Cung tụ vào đơn điều, thôi thúc chưởng lực đánh vào ba người Tiêu Tương Tử, Doãn Khắc Tây và gã võ sĩ mặt đen.

Hoàng dược Sư đánh trả lại vào chưởng, thì có cảm giác chưởng phong của Dương Qua tựa hồ như làn sóng cuồng nộ đang thi nhau bủa đầu ghềnh. Không hiểu Dương Qua đã học đâu môn chưởng pháp giỏi như vậy nên ông nghĩ thầm :

- Chưởng lực của thiếu niên mà đã cao kỳ như thế, sau này ắt là kỳ nhân trong thiên hạ.

Bây giờ gã mặt đen lui tới không vững, đôi chân tựa hồ hổng trên mặt đất. Gã ngã về phía Hoàng dược Sư .

Hoàng dược Sư đưa chưởng ra chế ngự làm cho tất cả rượu trong bình trước mặt ông bay lên như sa mù.

Còn Doãn Khắc Tây và Tiêu Tương Tử chân tay rụng rời tựa hồ như bị chưởng phong của Dương Qua đánh ngã vậy.

Hoàng dược Sư ho âto :

- Tốt lắm!

Ông liền đặt ly rượu lên bàn, giơ tay hữu lên đánh trảlại một chưởng Dương Qua thích chí, la lớn :

- Tốt lắm !

Hai người thi nhau trao đổi chưởng lực, thân thể ba người Doãn Khắc Tây như một trái cầu da, lộn vòng trên không trung.

Dương Qua chỉ dùng có phân nửa thành lực ám Nhiên Tiêu Hồn chưởng, Hoàng dược Sư thì dùng Lạc Anh chưởng pháp, thân mình như một cánh bướm bay lượn.

Ông đưa mắt nhìn thấy Doãn Khắc Tây thân mình bay lượn như một mũi tên thì đã rõ gã không còn đủ sức chịu đựng hay chống trả, nên liền đưa ra một chỉ, tiếng kêu Ûtăng tăng nổi lên, một luồng dịch phong kèm theo một sức nặng trầm trầm xạ ra.

Kế đó Hoàng dược Sư phát thêm ba tiếng tích, tích, tích nữa làm cho Tiêu Tương Tử và hai người kia đều nằm im trên mặt sàn lầu.

Ngón Đàn Chỉ Thần Công này thực là một chỉ phong vô cùng ác liệt, nhưng đối với ám Nhiên Tiêu Hồn Chưởng của Dương Qua thì hai môn này tương đương, thật chẳng ai hơn ai được. Do đó họ ra hiệu hòa với nhau

Hai người vui cười hỉ hả, trở lại bàn tiếp tục ngồi uống rượu. Hoàng dược Sư nói :

- Lão đệ ! Theo sự nhận xét của ta, chưởng pháp uy dũng của ngươi chắc chắn là cao hơn Giáng Long Thập Bát chưởng của tiểu tế Quách Tỉnh và Lạc Anh chưởng pháp của ta cũng không bì kịp.

Dương Qua khiêm tốn trả lời :

- Vãn bối có nghe lão tiền bối luyện đựoc môn chưởng pháp kỳ lạ của Nam Hải Thần Ni, chẳng hay lão tiền bối có thể ban cho vãn bối xem qua một tí được chăng ?

Hoàng dược Sư lấy làm lạ hỏi :

- Nam Hải Thần Ni là ai ? Ta chưa hề nghe ai nói tới lần nào !

Dương Qua sắc mặt biến đổi, liền đứng dậy nói :

- Không lẽ trên đời này không có Nam Hải Thần Ni ?

Hoàng dược Sư thấy mặt chàng biến sắc, lòng kinh ngạc nên cất tiếng trầm trầm nói :

- Chẳng lẽ là một kỳ nhân vừa xuất hiện trong những ngày gần đây ? Lão phu chưa nghe thấy lần nào.

Dương Qua ngơ ngác ngồi yên, lòng bối rối và hồi hộp, chàng nghĩ thầm :

- Quách bá mẫu đã nói rõ ràng Long nhi đã được Nam Hải Thần Ni cứu mạng, chẳng lẽ dùng lời ma tiếng quỷ gạt người ? Không lẽ bá mẫu gạt ta ? Đúng rồi, bá mẫu đã gạt ta ! Đúng rồi !

Chàng ngước mặt lên trời kêu aÕ một tiếng, đôi mắt chảy dài hai dòng lệ thảm.

Hoàng dược Sư kinh ngạc :

- Lão đệ có chuyện gì khó xử, hãy kể cho lão nghe may ra lão phu có thể giúp đỡ.

Dương Qua rên rỉ :

- Vãn bối lòng rối như tơ vò, nên nói những lời kém suy nghĩ, xin tiền bối thứ tội.

Dương Qua nói xong, phep phẩy tay áo bước xuống lầu. Nội cái phất tay cũng pháp ra tiếng loảng xoảng. Hoàng dược Sư không rõ lý do gì, lẩm bẩm :

- Nam Hải Thần Ni là ai kìa ? * * *

Dương Qua chạy bất kể ngày đêm, suốt mấy ngày ròng rã chẳng ăn chẳng ngủ. Tâm sự đau buồn đang thi nhau cuồn cuộn. Chàng muốn tự tận nhưng ý nghĩ về Tiểu Long nữ cứ lảng vảng trong đầu óc.

Chàng cố xua đuổi không dám nghĩ nữa. Một màu đen tối bủa vây ! Chàng chạy bất kể đường lối.

Suốt 3 ngày đêm chàng đi đến một con sông thực lớn, chắn mất lối đi, lòng chàng thêm rộn r õ, vội vàng nhìn xem tứ phía, thì thấy trước mặt có một con thuyền phất phới cánh buồm nâu.

Chàng tung người nhảy xuống thuyền mà không hỏi gì cả, chỉ lấy ra 2 lượng bạc giao cho chủ thuyền và giục đi gấp.

Chàng cũng không buồn hỏi con thuyền này sẽ đi về đâu, cứ nằm ngay xuống sạp thuyền ngủ một giấc mê man.

Thuyền xuôi về Đại Giang Đông, sóng vỗ rìrào, mênh mông trời nước. Lúc Dương Qua tỉnh dậy, thì thuyền đã đỗ bến, ghé vào một chợ thương cảng rất sầm uất.

Thuyền ghé vào bờ cất hàng hóa, trong vòng 3 ngày thì xong. Thuyền lại trương buồm ra khơi.

Dương Qua như say như tỉnh, không nghĩ đến thuyền này sẽ đi về đâu, đêm đêm tay chống mạn thuyền dưới ánh trăng già thở dài rên siết, hoặc cất tiếng rú ngân dài, hoặc cười sặc sụa, làm cho những người khách thương trong thuyền lầm tưởng chàng là tay lãng tử giang hồ, không còn chú ý tới nữa.

Một ngày nọ, thuyền ghé bến Giang Âm, chủ thuyền nói với Dương Qua lời từ biệt vì thuyền sẽ xuôi Nam, xuống phủ Gia Hưng gần kinh đô Lâm An mua lụa, tơ ...

Dương Qua nghe nói 3 chữ ÛGia Hưng phủO làm cho lòng chàng chua xót nghĩ thầm :

- Thân phụ ta xưa kia bị Hoàng Dung sát hại tại Phủ Gia Hưng, miếu Dương Thiết Thuơng, không biết mộ phần xây cất tại nơi nào ? Ta là con mà không rõ hài cốt của phụ thân đã chôn cất nơi nào, thật là bất hiếu.

Chàng liền tỏ lời nài nỉ và chịu thêm vài lượng bạc để quá giang đến Gia Hưng.

Bấy giờ ở Giang Nam tuy vào tiết Trọng Đông, không có tuyết đổ, giá băng như ở Bắc phương, nhưng khí trời lạnh thấu xương.

Thuyền vừa đỗ bến, Dương Qua đã nhảy lên bờ, dầu chàng vấn cái khăn mỏng mình khoác áo tơ i bằng cật, nhắm phủ Gia Hưng đi tới.

Khi tới nội thành thì trời đã lỡ hoàng hôn, chàng liền ghé một quá rượu dùng cơ m và hỏi thăm miếu Vương Thiết Thương ở phương nào.

Mặc dù gặp lúc tối trời, gió lạnh thấu xương, chàng không kể gì đường đêm tối lạ, ra đi tìm ngôi miếu vũ.

Chàng đi đến Vương Thiết Thương miếu thì đã canh hai, gió vẫn chưa ngừng thổi, mây mù che khuất ánh trăng, làm cho bầu trời càng u ám.

Chàng đưa mắt nhìn trong màn đêm mờ mịt, chỉ hiện lờ mờ miếu xưa cũ kỹ, không người tu bổ, hai cánh cửa lâu ngày mục nát xiêu vẹo, nằm nghiêng nga ûmột bên.

Dương Qua bước vào trong miếu nhìn thấy nhện giăng cửa mốc, dĩ nhiên là ngôi miếu đường hoang vắng, không kẻ lửa hương.

Chàng ngồi trên điện, nhớ lại câu chuyện 30 năm về trước, cũng tại đây cha chàng đã bị người giết chết rất thảm thương ! Chàng không rõ mặt mũi phụ thân ra sao. Từ thủa chàng mới chào đời, đến ngày cha chàng khuất núi chẳng biết đã xảy ra bao nhiêu thảm cảnh, chàng đưa mắt lên nhìn thần tượng Vương Thiết Thương, và nghĩ một đời khai quốc công thần giờ đây không người hương khói, để cho tượng thần bị mọt ăn loang lổ, màu sắc đen mờ. Bất giác chàng thở dài ảo não, tưởng đến phụ thân lòng đau như muối xát, kim châm.

Chàng lần đi khắp miếu, đưa mắt quan sát mọi vật, dùng tâm tìm kiếm xem phụ thân chàng có để lại di tích gì không ?

Nhưng đã 30 năm qua, làm gì còn gì nữa ? Chàng đi ra sau miếu, ngó thấy 2 cây đại thọ che khuất 2 nấm mồ , trước mỗi nấm mồ có dựng một tấm mộ bia bị rêu phủ đầy.

Dương Qua đưa tay áo phất nhẹ một luồng dịch phong đánh vào mộ bia để lộ ra hai hàng chữ của mỗi tấm.

Một tấm ghi rằ ng : Dương môn liệt nữ Mục Thị chi mộÕ Còn tấm kia đề rằng : Bất tiếu đệ tử Dương Khang chi mộ

Kế đó là một hàng chữ nhỏ lờ mờ : ... bất tài nghiệt sư Kh u Xứ Cơ lập biaÕ...

Dương Qua ngơ ngẩn nghĩ thầm :

- Dương môn liệt nữ Mục Thị là ai kìa ?

Chàng lại nghĩ mà giận cho lời chú trên bia mộ của cha chàng, chàng lẩm bẩm rằng :

- Lão đạo Khưu Xứ Cơ thật tình ! Cha ta đã chết rồi, chuyện gì lập bia mộ lại phơi bày lỗi lầm của ngưòi chết ? Cha ta đã làm chuyện gì mà gọi là bất tiếuÕ ? ồ ! Lão đạo mũi trâu này thực là khó chịu. Bất tiếu cái gì? Sau này ta sẽ đến Toàn Chân giáo mà giết chúng một trận cho bõ ghét. Mối hận này khó mà tiêu được !

Sẵn cơn giận, chàng vung ra một chưởng làm vỡ nát hai tấm mộ bia. Sau khi đánh vỡ hai tấm mộ bia, bỗng nghe từ hướng Bắc truyền lại tiếng chân người đi rất nhanh và thực nhẹ như chiếc lá rụng, chứng tỏ người này là một tay khinh công thượng thặng.

Nghe cho kỹ tựa hồ như hai con thú chạy nhanh, giẫm trên đất, bên nặng bên nhẹ khác nhau, thực mà một môn pháp công kỳ lạ.

Dương Qua động tính háo kỳ, lắng tai nghe tiếng chân người này bước vào Vương Thiết Thương miếu rồi dừng lại chỗ tượng thần, trong ngôi chánh điện.

Chàng lẳng lặng bước theo xem việc gì xảy ra, hoặc là quái vật gì xuất hiện.

Trong khoảng khac, chàng dừng lại trước miếu và đứng yên vì sợ trong miếu có người mai phục.

Một lúc lâu, chàng bước nhanh vào phòng. Khi vào đến bên trong, chàng đưa mắt nhìn quan sát, bất giác chàng tức cười nôn ruột nhưng cố dằn lòng.

Tiếng chân khấp khểnh lúc nãy là tiếng của 4 người đang đứng trong đại điện. Tất cả đều què một cái chân trái. Mỗi người đều choàng qua cổ một sợi dây xích to, và cột lủng lẳng người này dính người kia, làm cho mỗi lần di động là không ai được tách rời hàng ngũ. Mỗi người đều chống một cây gậy

Người thứ nhất mặt mày nhăn nhep, mang cái chân cụt, mà bắp vế bị xẻ làm hai, đã tàn phế lại càng có vẻ tàn phế thêm.

Ngưòi thứ hai nếp trán nhăn nheo, in rõ ba vết thẹo trên gương mặt. Người thứ ba thì lùn nhỏ, mặt mày cũng dơ dáy hốc hác như 2 lão kia.

Người thứ tư là một vị hòa thượng thân hình to lớn. Dương Qua rất lạ lùng nhủ thầm :

- Mấy người này thật là quái gở, chẳng lẽ trọn đời họ chẳng rời nhau một bước ?

Một tiếng keng nổi lên, lão thứ nhất đấnh đá lấy lửa châm vào ngọn đuốc, giơ lên làm cho Dương Qua trông thấy rõ từng nguời.

Chàng nhìn kỹ 4 người này, trừ lão già thứ nhất có cặp mắt sáng quắc, còn 3 gã kia đều mù cả.

Chàng nói thầm :

- A ! Lão này là người tiên phong dẫn lộ cho ba gã kia, thực là kẻ chột làm vua xứ mù.

Lão già mắt sáng đưa cao cây đuốc đi lục soát khắp từ trước đến sau miếu. Bốn người bị chằng kéo theo sợi dây xích sắt. Mỗi người họ chỉ đứng cách nhau độ 3 bước.

Dương Qua bước nhẹ theo, quan sát từng cử động một. Ai cũng tưởng 4 người này hành động rất bất tiện, vì họ đã đui lại què. Nhưng 4 người này tai mũi đều thính, vẻ mặt đanh ác lộ trên vừng trán. Tuy nhiên, họ lại không trông thấy được chàng đứng sau tượng thần.

Bốn người đi tuần sóat một hồi, đoạn trở về đứng giữa chánh điện. Lão già mắt sáng cất tiếng bảo :

- Kha lão đầu chẳng để lộ một hành tung. Nếu lão quyết ý ra tay thì chắc còn phải ẩn núp đâu đây.

Người thứ ba nói :

- Đúng đấy ! Gã đã bằng lòng ước hẹn ắt phải đến chứ. Con người của Kha lão đầu là một hạng hiệp sĩ tự phụ. Hai chữ Ûtín nghĩaÕ coi trọng hơn Thái Sơn.

Cả 4 người đều ngồi xuống đất ngay chính điện. Lão già thứ hai liền cất tiếng bảo:

- Sa đại ca ! Đại ca có chắc là Kha lão đầu đến chăng ?

Người thứ nhất liền bảo :

- Không chắc lắm ! Tuy lão đã hứa, nhưng có ai dại gì biết cái chết mà còn dấn thân vào.

Người thứ ba vội vàng đính chính :

- Không lẽ vậy đâu ! Kha lão đầu là một vị đầu lãnh của Giang Nam Thất Quái, chính Thấp ác Kh u lão đạo còn chẳng dám làm gì thay, Kha lão đầu muôn dặm băng ngàn đến xứ Mông Cổ để truyền dạy võ công cho Quách Tỉnh là một chuyện trong giang hồ ai ai cũng đều biết rõ, một lời hứa của Giang Nam Thất Quái đáng giá ngàn vàng. Chúng ta phải phòng bị trước mới được.

Dương Qua núp sau tượng thần nghe rất rõ ràng. Chàng nhủ thầm :

- à à ! Bọn chúng đến đây cốt ý chờ đợi Kha lão công !

Người thứ hai trong bọn nói :

- Tôi dám đoán chắc là Kha lão đầu không trở lại. Bành đại ca ! Đại ca dám đánh cuộc với tôi không ?

Lời nói của lão chưa dứt, bỗng nghe có tiếng động mạnh từ xa đưa lại. Rõ ràng là tiếng chân người bước trên mặt đá, nhẹ nặng khác nhau, tựa hò như một người đang chống gậy đi lần về phía trước miếu. Dương Qua lúc còn nhỏ cùng Kha Trấn ác ở tại Đào Hoa đảo rất lâu, nghe tiếng bước chân chàng đã chắc chắn là Kha Trấn ác đến.

Người ốm thứ ba cất tiếng cười ha hả:

- Hầu lão đệ ! Kha lão đầu đ đến, đánh cuộc không đặng rồi.

Người thứ hai lẩm bẩm nói :

- Tặc tử điểu ! Quả nhiên không sợ chết, không phải là kẻ tà vậy. Tiếng lộp cộp nổi lên trên nền miếu. Phi Thiên Biển Bức Kha Trấn ác tiến vào chính điện, đứng ngay ngắn nói :

- Kha Trấn ác giữ lời hứa mà lại, tôi đã lấy được Cửu hoa ngọc lộ hoàn của Đào hoa đảo chúa, gồm 1 2 viên, mỗi vị uống 3 viên là bình phục.

Nói xong ông đưa ra một cái hộp nhỏ, giao tận tay lão già mắt sáng, ông này vui mừng tiếp lấy :

- Đa tạ! Kha Trấn ác ôn tồn bảo :

- Lão phu đã lo xong xuôi mọi việc nên lại đây để chịu chết.

Nhìn thấy râu tóc trắng phau vẻ mặt rắn rỏi, Kha Trấn ác đứng oai vệ như một thiên thần giữa chính điện, khiến mọi người đều mến cảm cái uy vũ này.

Người thứ nhì cảm thấy bồn chồn trong dạ:

- Sa đại ca ! Xin đại ca hãy nghĩ lại ! Kha lão đầu thủ tín đã mang về đây Cửu hoa ngọc lộ hòan, thì dù cho đại ca có tiền cừu hận việc gì đại ca cũng mở rộng lòng nhân mà tha thứ hay bỏ qua cho lão.

Người thứ ba cười sặc sụa, nói :

- A ! Hầu lão đệ ! Lão đệ có tấm lòng nhân của đàn bà con gái, không sợ 4 người chúng ta sau này chết chẳng đất chôn hay sao ? Hầu lão đệ ! Hôm nay tâm ý của Kha Lão đầu chưa để lộ ra, bíêt đâu ngày sau Kha lão đầu lại chẳng giữ kín cho chúng ta.

Bỗng có tiếng hét :

- Hãy động thủ một lựot ! Tức thì 4 người đứng bao quanh một vòng trong làm cho Kha Trấn ác vô phương đào tẩu.

Vị thủ lãnh của 4 người này là lão già mắt sang cất tiếng nói to :

- Kha lão đầu ! Ba mươi năm về trước chính ngươi đã thấy cái chết thê thảm của Dương Khang, tưởng hôm nay ngươi đã cao chạy xa bay rồi, nào ngờ lẽ trời báo ứng chẳng sai.

Kha Trấn ác chống gậy đứng giữa điện, nghe qua cả giận nói :

- Dương Khang nhận giặc làm cha, bán nước cầu vinh, là loại tiểu nhân đê tiện. Ta là Kha Trấn ác, đường đường là nam tử trượng phu đội trời đạp đất, tại sao ngươi dám đem tên gian tặc Dương Khang ra so sánh với ta ?

Người thứ ba là một người lùn nhỏ, cất tiếng mắng :

- Cái chết đã đến nơi, mà vẫn còn giữ giọng anh hùng hảo hán. Khi gã này nói dứt, cả 4 người đều vung ra song chưởng, như mưa sa bão táp đánh mạnh vào người Kha Trấn ác.

Kha Trấn ác đã nhận định rõ tình thế, biết không thể nào chống cự nổi 4 người này, nên ông đứng yên bất động không buồn ra chiêu chống trả.

Trong khi chưởng phong của 4 người này chưa chạm đến mình đối phương, bỗng thấy từ sau lưng Kha Trấn ác có một luồng dịch phong như vũ bão phát ra làm cho cát bụi trên trần nhà rơi xuống như mưa. Nhưng luồn chưởng quái dị này như không muốn tấn công vào ai trong 4 người.

Bốn người cảm thấy sức mạnh vô biên của chưởng lực mà chính họ cũng không chống lại nổi.

Lão già mắt sáng đưa mắt quan sát. Chính Kha Trấn ác bị vây đứng bất động, thì còn ai phát ra chưởng phong này ? Đôi mắt của lão đăm đăm nhìn thần tượng Vương Thiết Thương và đoán biết sau tượng có người núp.

Bốn người đưa bốn chưởng đánh vào não môn của thần tượng, là cho chiếc đầu của Thần tượng văng xuống đất bể từng miếng.

Trong bốn người thì hết ba đã mù lòa không còn trông thấy gì nữa. Duy có lão già mắt sáng là kẻ cầm đầu, nhưng không rõ Kha Trấn ác biến đi đâu mất. Lão cảgiận hiệp cùng ba người kia bước đến chỗ tượng thần quan sát.

Họ thấy một người thanh niên tuổi độ ba mươi, mặt đầy vẻ giận dữ, cánh tay ôm chặt cổ Kha Trấn ác giơ cao lên nói như gầm thét :

- Ngươi lấy cớ gì mà mắng nhiếc tiên phụ của ta ?

Kha Trấn ác hỏi to :

- Nguơi là ai ?

Dương Qua nói :

- Ta là con trai của Dương Khang, tên là Dương Qua. Ta với ngươi lúc ở Đào hoa đảo, ngươi còn nhớ chăng ? Tại sao trong lúc vắng mặt ta ngươi đành lòng mắng người khuất núi ?

Kha Trấn ác lạnh lùng nói :

- Chuyện đời biến đổi, hết xưa đến nay. Phàm làm điều gì cũng được muôn đời ghi chép. Có kẻ để tiếng xấu muôn đời cũng do bàn tay thiện ác của họ làm, đừng phiền trách sự đàm tiếu của kẻ thế nhân.

Dương Qua thấy Kha Trấn ác chẳng mảy may phục tùng, lại còn đem lý sự ra cãi, càng làm cho chàng thêm uất giận. Chàng giơ cao thân mình lão ném mạnh xuống đất và hét to :

- Ngươi hãy nói cho rõ vì sao cha ta phải mang tiếng xấu như vậy ?

Lão mắt sáng thấy Dương Qua oai phong lẫm liệt, chỉ trong phút chốc mà làm một chuyện kinh thiên động địa, ông không thể ngờ được. Liệu biết mình và 3 người bạn không phải là tay đối địch với Dương Qua, nên ông nhẹ nhàng cất buớc, nắm sợi xích ra hiệu cho 3 người lần lượt ra khỏi miếu đường.

Dương Qua lanh như điện chớp, vừa lắc một cái đã án ngữ tại cửa miếu và quát to :

- Hôm nay các ngươi không nói rõ ràng, tất cả đều không còn sống để ra khỏi cửa miếu.

Cả bọn không chịu kém. Họ hét to, mỗi người đẩy ra một chưởng đánh vào Dương Qua.

Dương Qua hét to :

- Vậy càng tốt !

Chàng liền đưa ra một chưởng mạnh tựa vũ bão, chạm phải chưởng lực 4 người này phát ra tiếng kêu bình bình. Hai loại chưởng chạm nhau bay vần vũ, như cơ n gió lốc có một áp lực kinh hồn. Bốn người gặp một áp lực mãnh liệt làm cho họ sững sờ, muốn ngã về phía sau. Trong nhóm 4 người có người thứ hai võ công yếu hơn, bị chưởng phong đánh vào não môn bắn ra, nằm mọp xuống đất thở hồng hộc.

Dương Qua nói :

- Bốn người là ai ? Tại sao có thân hình quái dị như thế ? Sao lại ước hẹn với Kha Trấn ác gặp mặt ?

Lão già mắt sáng bị trúng chưởng phong của Dương Qua ở bụng, lục phủ ngũ tạng như bị xáo trộn, nên vội vàng ngồi xuống vận khí lực để tránh nguy hiểm đến tính mạng, và cũng chẳng dám nói lời nào.

Bốn lão già này lai lịch như sau : Người mắt sáng là Sa Thông Thiên Người thứ hai là sư đệ của lão, có biệt hiệu là Tam đầu giao Hầu Thông Hải.

Người thứ ba là gã lùn nhỏ biệt hiệu Thiên Thủ Nhân Bành Liên Hổ. Người thứ tư là gã hòa thượng biệt hiệu Đại Thủ ấn Linh Trí Thuợng Nhân. Ba mươi năm trước 4 người này bị Lão Ngoan Đồng Châu Bá Thông bắt đem giao cho Khưu Xứ Cơ và Vương Xứ Nhất trông giữ, giam cầm tại Trung Dương Cung ở Chung Nam Sơn, để chúng hối lỗi rồi mới phóng thích.

Tuy nhiên bọn chúng tính ác khó bỏ, cả bọn tìm đủ trăm phương ngàn kế để thoát thân. Mỗi lần trốn khỏi đều bị bắt về. Đến lần thứ ba, Bành Liên Hổ, Linh Trí Thượng Nhân và Hầu Thông Hải giết chết mấy tên đệ tử của Toàn Chân phái canh gác để trốn thoát. Nhưng lần này cũng lại bị đạo sĩ phái Toàn Chân bắt được.

Mấy đạo sĩ giận quá truyền bắt hết bọn người này chặt chân khoét mắt, trừ Sa Thông Thiên không có nhúng tay vào máu nên tha không khóet mắt lão này.

Cho đến 1 6 năm sau, quân Mông Cổ bao vây Trùng Dương cung, cả bọn 4 người thừa cơ trốn thoát.

Trừ Sa Thông Thiên, cả3 người kia đều bị mùa lòa. Bành Liên Hổ lại sợ rằng lão trở lòng, phụ anh em bỏ đi mất, nên lấy dây xích sắt xâu lại thành một chuỗi người, không ai có thể tự tiện đi đâu được.

Lúc Dương Qua đang học võ ở Trùng Dương cung không hề biết được việc này vì thầy và sư huynh quá nghiêm khắc nên không đến được chỗ giam cầm, không biết mặt mũi mấy gã này ra sao.

Sa Thông Thiên từ khi rời khỏi Trùng Dương cung, đoán biết không sớm thì muộn cũng bị đạo sĩ phái Toàn Chân bắt gạp vì tai mắt của phái này đầy dẫy trong thiên hạ, mà tự xét mỗi người đều tàn tật, chắc không thể địch nổi, nên đưa tất cả bọn xuống phương Nam tìm một thôn ấp hoang vu để trốn lánh.

Một ngày họ đang đi ngoaiø đường bỗng gặp Kha Trấn ác từ miếu Thái Dương đi lại. Sa Thông Thiên sợ lão Kha tiết lộ chỗ ở của họ, bèn ra tay một lượt cầm giữ Kha Trấn ác. Kha Trấn ác võ công lại kém hơ n 4 người, nên bị chúng bắt và hạch sách đủ điều. Chúng rõ Kha Trấn ác không có ác ý gì với bọn họ cả, nhưng oán thù Kha Trấn ác rất sâu vì hai lẽ. Một là hai nẻo tà chánh không thể sống chung. Hai là sợ Kha Trấn ác chỉ chọc chỗ ẩn thân của chúng, vì vậy 4 người muốn đánh chết Kha Trấn ác cho an lòng.

Bấy giờ Kha Trấn ác mới lên tiếng năn nỉ xin cho lão đến Làng Hồ có việc cần thiết, sau khi công việc hoàn thành sẽ trở về đây chịu chết. Nếu bọn què chịu dung cho lão vài ngày thì khi đến Lăng Hồ lão sẽ lấy thuốc trị thương của Hoàng dược Sư là Cửu hoa ngọc lộ hoàn mà biếu tặng.

Bốn lão này từ khi bị chặt chân, mỗi khi có mưa bão gió tuyết về đêm là đau đớn vô cùng. Nay nghe Kha Trấn ác nói đến việc tặng linh đơn khiến cả 4 người rất hoan hỉ. Họ bảo Kha Trấn ác phải nặng lời thề thốt, một là không chỉ chỗ ẩn núp của họ, hai là không được tìm thêm hào kiệt trợ giúp và hẹn ngày gặp nhau tại miếu Vương Thiết Thương.

Sa Thông Thiên nhắc lại chuyện cũ :

- Dương công tử, lệnh ton ngày trước cư xử với chúng tôi như thượng khách, khi ông chết chúng tôi vẫn giữ mái mối tình cố cựu không quên, mong công tử tha thứ cho chúng tôi nhờ.

Mười năm về trước, Sa Thông Thiên và Bành Liên Hổ là hai tay khét tiếng giang hồ, vua không sợ thần không kinh, dù cho gươm đao kề cổ, búa rìu trước mặt cũng không tỏ ra khiếp nhược như thế này. Nhưng mấy năm dài lao lý, lại bị chặt chân khoét mắt, bao nhiêu hào khí, hùng phong nhụt dần, cho nên họ mới hướng vào Dương Qua cầu xin mạng sống.

Dương Qua xì một tiếng chẳng đáp, quay sang Kha Trấn ác hỏi :

- Kha lão công, ông đến Lăng Hồ có nghe tin tức của Trình Anh và Lục Vô Song không ?

Kha Trấn ác cất tiếng cười dài :

- Dương Qua, Dương Qua ! Chuyện nhỏ mọn đó ngươi hỏi đến làm gì?

Dương Qua hỏi :

- Tại sao vậy ?

Kha Trấn ác cất tiếng cười dài nói :

- Công việc hôm nay, ta là Phi Thiên Biển Bức nào kể đến tấm thân già nữa, nếu gặp lúc thiếu niên sức cường lực tráng thì Kha Trấn ác này cũng đâu có kinh sợ ? Võ công cao diệu chỉ có thể uy hiếp những kẻ tham sanh úy tử, chứ đối với Giang Nam Thất Quái đâu có dễ gì bức sách được ?

Dương Qua nhìn thấy lão râu tóc bạc phơ, mặt mày lẫm liệt nên sinh ra kính phục :

- Kha lão công công, ông nhìn tôi có phải Dương Qua chăng ? Chỉ vì công công chạm đến danh dự của cha tôi nên tiểu bối mới đắc tội. Kha lão công vang danh bốn biển, dự mãn càn khôn, Dương Qua tôi từ lúc trẻ vẫn khâm phục, đâu dám vô lễ với công công.

Kha Trấn ác với nụ cười cởi mở nói :

- Theo lời nói này, lão phu đã đoán được nhân phẩm của các hạ. Các hạ là người đã lập được đại công ở thành Tương Dương, thực là một vị anh hùng. Vậy ngươi đâu có thể sánh cùng một bọn với phụ thân ngươi. Nếu ta chỉ trích đến ngươi thì hóa ra ta tự chuốc nhục hay sao?

Dương Qua mịt mờ không rõ hành vi của phụ thân ra sao, nên vội vàng hỏi :

- Kha lão công, sự lầm lẫn của phụ thân tôi như thế nào, công công cho tôi được nghe rõ.

Không ngờ Dương Qua chẳng biết mảy may gì về việc này, dù chàng đã giao du với dủ mọi tầng lớp nhưng chẳng ai đề cập đến dĩ vãng của Dương Khang. Trong lúc bất ngờ, lại nghe lời nói thẳng của Kha Trấn ác, làm sao chàng chẳ ng bồi hồi cảm xúc và hỏi rõ ngọn nguồn cho được ?

Kha Trấn ác ngỡ là Dương Qua giả vờ, nhung nghe giọng nói tha thiết và thành khẩn của chàng ông mới bắt đầu kể rõ nguồn cơn từ lúc Quách Tỉnh và Dương Khang kết nghĩa, lại nói việc Dương Khang và Âu Dương Phong âm mưu hãm hại năm người trong nhóm Giang Nam Thất Quái ra sao. Và do đâu bị trúng độc từ áo da nhím của Hoàng Dung tại miếu Vuơng Thiết Thương rồi phải chết thê thảm. Sau rốt ông nói rất bi thiết :

- Những chuyện đã qua, quý vị ở đây đều thấy tận mắt. Sa Thông Thiên, Bành Liên Hổ, các vị hãy kể cho Dương công tử nghe coi lời nói của lão phu có sai sự thật không ?

Kha Trấn ác vừa dứt lời, bỗng nghe tiếng quạ, quạ kêu inh ỏi, từ trên cao bay xuống đậu ở nóc miếu 1 0 con quạ lông đen cất tiếng kêu dậy đất.

Sa Thông Thiên thở dài rên rĩ :

- Có một đêm trong năm nọ, qua ïkêu rền trời, ta đã bắt nó giao cho Dương công tử, lúc ấy Bành lão đệ thấy cơ hội đã đến bèn đi mất, ta có nghe Dương công tử bị chặt tay nhưng không ngờ còn sống đến ngày nay.

Dương Qua ôm đầu, ngồi bệt xuống đất, cảm thấy buồn tủi vô cùng. Chàng không ngờ ngày trước cha mình đã tạo ra nhữ ng chuyện tồi tệ làm di xú khiến cho mình phải mang tiếng xấu đời đời.

Giữa ngôi thần điện, sáu người ngồi yên chẳng ai nói một tiếng nào cả. Chỉ nghe tiếng quạ kêu vang trời.

Dương Qua vốn tính cực thiện, Kha Trấn ác biết vậy liền lên tiếng :

- Dương công tử lập được đại công như thế làm cho bá tánh trong thành Tương Dương vui vẻ khâm phục, mà phụ thân của công tử cũng được thơm lây. Phụ thân của công tử tuy an giấc ngàn thu nơi suối vàng, cũng mãn nguyện có được một người con chí hiếu. Ta có nghe nhị đệ nói qua, vua HạVõ là vị vua thánh đức, mà phụ thân lại là kẻ khắc bạc ác nhân

Dương Qua ôn lại sự tình từ lúc gặp mặt vợ chồng Hoàng Dung, Quách Tỉnh, và nghĩ đến Hoàng Dung luôn đề phòng, không bao giờ nhắc đến những việc đã qua liên quan đến phụ thân hay cá nhân chàng. Bấy giờ trong đầu óc chàng quả nhiên phiền não, mọi việc không hay đều do phụ thân chàng gây ra, làm cho chàng uất ức, thở dài. Chàng hỏi Kha Trấn ác :

- Lão công ! Trình Anh và Lục Vô Song hai vị này vẫn bình yên đấy chứ ?

Kha Trấn ác tươi cười bảo :

- Hai người này được tin công tử đã thiêu rụi hai ngàn hộc lương của địch ở Nam Dương và tận diệt quân tiên phong Mông Cổ làm cho họ hoan hỉ vô cùng. Họ hỏi thăm tin tức của công tử mạnh khỏe thế nào, và hỏi thăm công tử có biết tin tức gì của Tiểu Long nữ cô nương chăng ? Cả hai chị em vẫn mạnh khỏe và hằng nhớ đến công tử.

Dương Qua buồn bã nói :

- Hai vị nghĩa muội này, đã xa cách 1 0 năm mà chưa gặp mặt !

Bỗng Dương Qua quay đầu lại hỏi Sa Thông Thiên :

- Kha lão công đã bằng lòng giao ca ûtính mạng cho ngươi quyết định. Lão công đã hữa thìvẫn giữ lời. Thế mà ngươi vẫn nằng nặc đòi giết lão công, vậy ngươi hãy ra tay giết chết lão công đi, để ta giết hết bọn chúng bay trảthù cho lão công.

Sa Thông Thiên, Bành Liên Hổ đưa mắt nhìn nhau chẳng nói ra lời. Họ đứng ngây người hồi lâu, Sa Thông Thiên cất tiếng nói :

- Dương đại hiệp, chúng tôi không biết nên mạo phạm đến oai rồng của Kha lão hiệp, mong 2 vị rộng lòng bỏ qua cho chúng tôi.

Dương Qua nói như hét :

- Các ngươi không biết thì thôi. Nhưng các ngươi có lỗi rất nặng là không biết giữ tròn tín nghĩa, và muốn làm thiệt mạng lão công, các ngươi nghĩ sao đây ?

Sa Thông Thiên khom người xuống van xin :

- Chúng tôi lỗi lầm đáng chết ! Mong nhị vị thứ lỗi. Kha lão hiệp đại tín đại nghĩa, làm cho chúng tôi khâm phục vô cùng.

Dương Qua hét to :

- Hãy mau mau rời khỏi nơ i đây, ta chẳng còn muốn thấy các ngươi nữa, nếu cãi lại ta sẽ ra tay...

Sa Thông Thiên và 3 người kia như hòan hồn chẳng nói nên lời, chỉ biết khom người thi lễ và băng mình đi khỏi miếu rất nhanh.

Dương Qua vô tình đã cứu đựoc Kha Trấn ác thoát khỏi cảnh thập tử nhất sinh. Kha Trấn ác tỏ vẻ cảm kích vô cùng. Hai người đi lần ra ngoài ngồi xuống nền miếu nói chuyện.

Kha Trấn ác nói :

- Sở dĩ ta đến Lăng Hồ trấn cũng là vì Quách nhị cô nương.

Dương Qua cả kinh hỏi :

- Tiểu muội đã gặp việc gì ư ?

Kha Trấn ác nói :

- Quách Tỉnh quý hai đứa con gái như châu ngọc, mặt dù tánh mỗi đứa mỗi khác. Nhưng không biết vì đâu Quách Tường bỗng nhiên biến mất khỏi thành Tương Dương. Không ai rõ nó đi hướng nào. Vợ chồng Quách Tỉnh sốt ruột phái đủ hạng người đi khắp mọi nơi tìm kiếm, nhưng ngày qua ngày không được tin gì của cô bé cả.

Lão mù này cũng ở trong thành Tương Dương ra đi tìm côbé, nhưng bất lực không tìm được một dấu tích nào. Đông, Tây, Bắc ba ngả đều có người của Quách Tỉnh cho đi tìm, duy có ngả Giang Nam là lão quen thuộc tất cả phong thổ nhân tình cho nên lão mới đi về hướng này, và có nghe đựoc một vài tin tức.

Dương Qua vội hỏi :

- Tin tức gì vậy công công ?

Kha Trấn ác nói :

- Khi lão lần mò đến Lâm An, có nghe hai tên sứ thần Mông Cổ nói : ÛCon gái nhỏ của Quách đại hiệp ở thành Tương Dương đang bị giam cầm trong trại quân Mông Cổ.Õ

Dương Qua hỏang hốt kêu lên :

- Ôi chao ! Không rõ việc này là thật hay giả?

Kha Trấn ác vội nói :

- Hai đạo quân tiên phong hậu tập của Mông Cổ hiệp nhau công phá thành Tương Dương. Bấy giờ trong triều đình có tên đại thần mê muội bàn kế nghị hòa. Hai tên sứ thần Mông Cổ đã dối gạt được đại thần của Tống triều, ắt là cấp bậc không nhỏ. Cả hai dùng tiếng Mông Cổ trò chuyện với nhau, mà không ngờ lão Kha Biển Bức này đưở tại Mông Cổ trên mười năm, lão đã nghe và hiểu tường tận.

Dương Qua lại nói :

- Nếu đúng vậy thì câu chuyện này có thật rồi!

Kha Trấn ác nói :

- Đúng vậy ! Sau khi nghe xong, ta giận quá đánh cho hai tên sứ giả hai Ûcon văng cực độc, và tính trở về thành Tương Dương cho biết tin tức. Nào ngờ lại gặp phải bốn con ác quỷ cản đường. Lão đã suy nghĩ với tấm thân già sớm muộn gì cũng về trời, còn tin tức của Quách nhị cô nương chẳng lẽ làm im không báo, cho nên lão khẩn cầu chúng xin hoãn lại vài ngày, để lão đến Lăng Hồ trấn báo cho Trình Anh và Lục Vô Song biết mọi việc.

Khi hai vị này lên đường về thành Tương Dương thì lão phu trở lại đây để giữ trọn lời ưước hẹn mà chịu chết. Kẻo đã giữ đúng lời giao hẹn tưởng đâu bốn con ác quỷ buông tha, nào ngờ chúng bội ước, cho đến lúc sự chết gần kề chúng nó mới không dám ra tay, ha ha...

Dương Qua ngẫm nghĩ giây lâu, đoạn hỏi :

- Kha lão công đã nghe hai tên sứ thần Mông Cổ nói chuyện. Tại sao Quách nhị cô nương bị giam cầm ? Và tánh mạng có bị nguy hiểm gì không ?

Kha Trấn ác nói :

- Điều này ta chẳng nghe qua.

Dương Qua run run nói :

- Chuyện này nóng như lửa đốt. Vãn bối xin đi trước để tìm phương thế cứu Quách nhị cô nương. Còn lão công chầm chậm mà trở về.

Lúc Kha Trấn ác ở tại thành Tương Dương đã nghe thấy Dương Qua làm nên chuyện lớn, lòng vẫn thầm phục, nên ông nói tiếp :

- Dương công tử có ra đi phải cần thận cho lắm, lão sẽ trở về thành Tương Dương đợi tin mừng.

Dương Qua cất giọng ôn hòa nói :

- Kha lão công ! Vãn bối bái tạ lão công, xin ký thác cho một việc là mong tiền bối vui lòng lập lại giùm tấm mộ bia. Trên mộ bia đề rằng : OKhang chi cữu. Bất hiếu tử Dương Qua cẩn lập...Õ.

Kha Trấn ác ngây người, nhưng lãnh hội ngay lời nói của Dương Qua nên đáp :

- Đúng đấy ! Đúng đấy ! Ngươi chính là kẻ bất hiếu đối với lệnh tôn. Ngươi nhận là kẻ bất hiếu, nhưng sự bất hiếu này khác xa kẻ khác. Lão Kha sẵn lòng giúp đỡ việc này.

Dương Qua cúi đầu cảm tạ và quay người về hướng Bắc. Dương Qua đến Gia Hưng mua hai con ngựa để đi về phủ Nam Dương. Chàng đi suốt ngày đêm không nghỉ và cũng chẳng thay ngựa, phút chốc đã đến gần dinh quân Mông Cổ.

Nguyên Hoàng đế Mông Cổ ngự giá thân chinh, lúc bao vây thành Tương Dương thì tại Tân Dư và Đặng Châu bị thất thủ đại bại, nên không biết rõ quân nhà Tống thực hư thế nào. Vì thế quân Mông Cổ rút lui về Tương Dương để an dinh lập trại, án binh bất động. Chỉ thấy cờ xí rợp trời, gươm đao chơm chởm, nhìn vào dinh trông thấy vô số người qua lại.

Dương Qua chờ đến tối mới mò mẫm vào đại dinh quan sát, nhìn thấy cuộc bố phòng thật nghiêm ngặt, xung quanh ngự dinh một rừng giáo mác, không vật gì có thể lọt vào được.

Dương Qua tuy võ công uy dũng, sức lực có thừa, nhưng chàng nghĩ mãnh hổ nan địch quần hồ, hảo hán khó thể cự nổi nhiều người nên chàng im lặng theo dõi mà chẳng dám để lộ hành tung.

Đêm đến, chàng lục soát khắp Đông dinh, ngày kế là Tây dinh, lần lượt mỗi đêm đến một dinh. Qua hết bốn doanh trại lớn, chàng cũng không gặp tin tức gì của Quách Tường cả. Sau cùng chàng lập kế bắt cóc một vị tham mưu của Mông Cổ để tra hỏi. Tên này khai là trong tất cả doanh trại không có bắt co âgái nào là con của Quách Tỉnh đại hiệp ở thành Tương Dương, gã không nghe và cũng không thấy việc này. Dương Qua vẫn để lòng phòng bị, lục soát thêm vài ngày nữa cũng không thấy tin tức nào đáng chú ý. Chàng nhủ thầm :

- Hay là Quách bá bá đã cứu khỏi, hoặc hai tên sứ thần đ nghe lỏm những lời giả dỗi, rồi có dịp bàn hươu tán vượn?

Chàng đưa mắt nhìn xem cảnh vật thấy hoa nở rợp cành, báo hiệu mùa xuân sắp đến, cái kỳ hạn của Tiểu Long nữ Ûmười sáu năm đã sắp hết, làm cho lòng chàng hồi hộp, vội vã đi về hướng Bắc, theo lối cũ trở về Tuyệt Tình Cốc.

* * *

Nhắc lại việc Quách Tường và Kim Luân Pháp Vương. Nàng thấy Kim Luân Pháp Vương là tay ác độc vô cùng, đã giết chết hai người bạn Trường Tu Quỷ và Đại đầu Quỷ, lòng nàng vô cùng chua xót. Nàng nghĩ thế nào cũng phải chết dưới ma chưởng của quái lão hòa thượng, nhưng vẫn hiên ngang, ngước mặt nói :

- Ngươi muốn giết chết ta, sao còn chưa ra tay ?

Kim Luân Pháp Vương cười hô hố nói :

- Giết chết ngươi chẳng khó gì? Hôm nay ta đã giết người như vậy là tạm đủ, còn số phận ngươi ta đợi ngày nào tốt mới đem ra khai đao, và ta chẳng để ngươi chạy thoát đâu.

Quách Tường thấy rõ hoàn cảnh của mình không thể chống cự nổi với quái hòa thượng, chi bằng cứ theo lời lão rồi sẽ tính kế thoát thân sau.

Suy nghĩ xong, Quách Tường leo lên ngựa, từ từ cất vó phi chậm. Kim Luân Pháp Vương vui vẻ nghĩ thầm :

- Hoàng thượng và Hoàng đệ tìm đủ thiên phương bách kế câu thúc tính mạng của Quách Tỉnh mà không được. Hôm nay ta giữ con bé này làm con tin để bức Quách Tỉnh phải theo về phía ta. Nếu Quách Tỉnh không chịu, ta sẽ đem con gái cưng của hắn ra cửa thành Tương Dương hành hạ, làm cho vợ chồng nó tinh thần tán loạn rồi thừa dịp công thành. Như thế thật là diệu kế, lấy thành Tương Dương như trở bàn tay.

Hai người đi đến lúc trời xẩm tối, tìm chỗ trú ngụ.

Gặp được một căn nhà hoàng vắng, trống trước trống sau, không người ở đã lâu, gian nhà này trơ trọi chỉ còn 4 bức vách xiêu vẹo.

Kim Luân Pháp Vương và Quách Tường vào trong. Ông lấy lương khô chia cho Quách Tường ăn, đưa nàng vào buồng trong ngơi nghỉ, còn lão ngồi giữa nhà tĩnh tọa và vận nội lực bồi dưỡng tinh thần.

Quách Tường tâm trí rối bời, làm sao ngủ được. Nàng thao thức đến nửa đêm rồi nhẹ bước ra ngoài nhìn xem Pháp Vương đang làm gì. Nàng nhìn thấy Kim Luân Pháp Vương nằm ngoẻo đầu vào vách hơi thở đều đều, chứng tỏ ông đang chìm đắm trong giấc mộng mê man.

Quách Tường cả mừng, liền lẻn ra ngoài dẫn ngựa đi hỏi ngôi nhà độ 1 0 trượng, đoạn thót lên yên, thúc con tuấn mã phi nước đại. Phút chốc đi trên nửa dặm đường, nàng quay đầu lại chẳng thấy Kim Luân Pháp Vương đuổi theo nên mừng rỡ giục ngựa phi nhanh.

Nàng lại nghĩ khi Kim Luân Pháp Vương tỉnh dậy ắt ông đuổi theo và có lẽ ông tin rằng nàng đã trở về thành Tương Dương bằng nẻo đường phía Nam.

Vì nghĩ thế nên Quách Tường rẽ về hướng Bắc đi thật nhanh hòng đánh lạc hướng Kim Luân Pháp Vương. Dù cho ông có thuật khinh công cao đến đâu cũng không thể đuổi theo kịp.

Tuy nhiên nàng vẫn lo sợ phập phồng, cứ phút chốc lại quay đầu nhìn xem Kim Luân Pháp Vương có đuổi theo chăng. Nàng phi ngựa chạy càng lúc càng nhanh, đến khi trời vừa rựng sáng đã cách xa chỗ cũ bảy tám mươi dặm đường, bấy giờ mới yên lòng gò cương ngựa chậm lại.

Quách Tường đưa mắt nhìn về phía trước thấy một hòn núi xum xuê hoa lá, nàng lại muốn thưởng ngoạn nên giục ngựa lên sườn núi.

Càng lên cao phong cảnh càng mỹ lệ. Bỗng nghe có tiếng thở ồ ồ trước mặt, nàng vội vã giục ngựa bước tới, thấy một người nằm ngủ say sưa, gối đầu trên một phiến đá.

Quách Tường lật đật xuống ngựa bước tới bên cạnh xem xét, thìra người này đầu trọc mũi to, mặc áo đạo bào màu vàng lại chính là Kim Luân Pháp Vương. Không rõ làm sao lão lại đến trước mặt mình tài tình như vậy ?

Quách Tường cả sợ nhảy thót lên yên ngựa, giục ngựa chạy xuống núi. Nàng quay đầu nhìn lại, thấy Pháp Vương vẫn nằm yên bất động không trỗi dậy đuổi theo.

Nàng vội vàng giục ngựa chạy nhanh tới chân núi, rẽ vào một con đường hoang loang lổ. Nàng phi ngựa chạy nh bay, độ chừng thổi chín một nồi cơm thìthấy phía trước có một người khoanh tay đứng dựa vào gốc cây đại thọ, nhìn nàng cười hì hì, chính là Kim Luân Pháp Vương. Quách Tường chẳng sợ hãi chút nào mà giận dữ quát lên :

- Quái lão hòa thượng, ông cứ cản trở mãi, hết lối này đến lối khác, tại sao ông dám đùa bỡn bản cô nương !

Nói xong nàng giục ngựa đến trước và giơ cao roi ngựa đánh bổ vào mặt Kim Luân Pháp Vương.

Chương 98 - Trong Vạn Hoa Cốc - Thần Điêu Đại Hiệp - Kim Dung

--------------------------------------------------------------------------------

Chương 98 - Trong Vạn Hoa Cốc

Quách Tường vung roi ngựa đánh mạnh vào mặt Kim Luân Pháp Vương nhưng Pháp Vương vẫn đứng yên không né tránh làm cho nàng cả mừng, toan thâu roi lại đánh vào lưng lão một roi nữa. Đột nhiên có luồng gió mạnh thổi qua làm cho thân mình nàng té xuống ngựa, bay lơ lửng giữa không trung.

Nguyên lúc Kim Luân Pháp Vương thấy ngọn roi vừa đánh vào mặt, ông vội thổi nhẹ vào ngọn roi làm cho thân mình nàng bị chưởng phong dồn ép, không thể chế nự nổi mới bay long lóc như thế.

Quách Tường tuy bị bay lơ lửng nhưng tâm trí vẫn sáng suốt. Trong khi đó Pháp Vương bối rối sợ nàng té xuống đất giập xương nên vươn hai tay đỡ lấy mình nàng và bảo to:

- Hãy cẩn thận!

Quách Tường kêu lên:

- ối da!

Và rớt cách bàn tay của Pháp Vương độ năm tấc. Đột nhiên hai tiếng Ûbình bìnhÕ vang lên, Quách Tường đã vung song chưởng đánh vào bụng lão. Tuy Kim Luân Pháp Vương là người đầy cơ trí, võ thuật phi phàm nhưng trong lúc bất ngờ không thể nào chống trả kịp, chỉ kêu lên một tiếng ối daÕ lảo đảng quỵ xuống đất, nằm bất tỉnh.

Quách Tường không thể tưởng tượng chưởng pháp của mình cao diệu dường nào, chỉ một chưởng cũng đã làm ng một tay cự phách anh hào. Nàng cúi xuống nhặt một phiến đá to toan đánh ngay lên đầu Kim Luân Pháp Vương.

Nhưng, từ thuở sơ sinh đến ngày thành nhơn chi mỹ, chưa bao giờ Quách Tường nhúng tay vào một việc giết người. Tuy nàng giận Pháp Vương đánh ngã và giết thác hai người bạn quí nhưng nàng không nỡ nhẫn tâm giết người như thế. Cho nên, nàng đứng ngây người trong phút chốc rồi ném mạnh hòn đá xuống đất.

Quách Tường chỉ đưa tay ra điểm vào Thiên đỉnh Huyệt ở cổ, kế là Bình phong huyệt sau lưng, Thần phong huyệt trước bụng Thanh linh uyên huyệtÕ trên vai, và Phục hổ huyệt dưới mắt. Chỉ riêng Ûkhẩu chí huyệtÕ nàng không điểm.

Nàng điểm xong mười ba yếu huyệt trong mình Kim Luân Pháp Vương nhưng lại lo sợ Pháp Vương tỉnh dậy bất thần, nàng đi khuân bốn phiến đá, mỗi phiến nặng trên 70 cân dằn từ ngực xuống đến chân Kim Luân Pháp Vương.

Xong nàng nói:

- ác nhơn hỡi ác nhơn! Cô nương chẳng giết người hôm nay là mong ngày sau nhớ đến tự lỗi lầm mà cải hóa, đừng hại thêm người nữa!

Nàng nhảy lên yên, so cương sắp cho ngựa chạy thì Kim Luân Pháp Vương mở to đôi mắt cười ha hả nói:

- Tiểu cô nương lương tâm cực tốt, lão hòa thượng có lòng cảm mến cô nương!

Bốn phiến đá bỗng kêu bình bìnhÕ văng ra thật xa, và Kim Luân Pháp Vương từ từ đứng dậy, làm cho Quách Tường bối rối vô cùng, vì mười ba đại huyệt nàng đã phong bế cả rồi, tại sao lão đứng dậy được?

Nàng đưa mắt ngó trân quái hòa thượng mà chẳng nói ra lời. Nguyên Pháp Vương có trúng song chưởng của ngàng thực nhưng chỉ đau chút ít trước bụng mà thôi. Hai người võ công khác nhau một trời một vực. Chẳng lẽ Quách Tường hạ có hai chưởng mà đánh ngã ông ấy ư ? Đấy chẳng qua là ông giả bộ thọ thương để coi cô bé ngà giở trò gì, ông đợi phiến đá đánh vào đầu sẽ phản công không muộn, nhưng nàng ném bỏ đi, thấy vậy ông nhủ thầm:

- Con bé này thông minh lanh lợi, lại thêm có một tâm địa cực tốt. Ta có hai tên đồ đệ có sở trường, mà thiếu hai tên đồ đẹ về sở đoản.

Lòng ông muốn thâu nàng làm đồ đệ! Tuy ông đã thâu ba tên đệ tử. Tên thứ nhất văn võ toàn tài, thông minh lịch thiệp, ông sắp sửa truyền y bát thì lìa đời, tên thứ nhì là Đại Nhĩ Ma tuy giỏi về thần công nội lực, nhưng lại kém thông minh không hiểu lẽ huyền bí của võ công, tên thứ ba là Hoàng Tử Toa Đô tuy thông minh giỏi dắn, võ thuật tinh thông nhưng tánh người bộc bạc, gặp lúc nguy hiểm bỏ thầy, từ bạn.

Kim Luân Pháp Vương tuổi tác đã cao, võ nghệ siêu quần, ông tự nghĩ phải tìm một côt chất thông minh, lương tâm thuần hậu, để truyền dạy kẻo đến trăm năm sau bị mai một, không người nhắc nhở đến một tuyệt thế võ công. Mỗi lần nghĩ tời là long ông chua xót bàng hoàng.

Bấy giờ, lại gặp Quách Tường, tuy còn non dại mà tư chất thông minh, lại thêm lương tâm tốt hảo, nên ông hoan hỉ vô cùng. Thực là người hiếm có trên đời. Mặc dù cô bé này là con của kẻ thù, nhưng nó còn non dạ, tâm tánh dễ cải biến, khi truyền hết tuyệt kỹ công phu, phải qua một thời gian rất lâu, dần dần nàng quên mất dĩ vãng đã qua.

Trong giới võ lâm, đối với việc truyền dạy đệ tử rất quan trọng, vì khó mà tìm được người vừa ý để nối chí sư môn.

Kim Luân Pháp Vương muốn thâu nhận Quách Tường làm môn đệ, nên ý nghĩ bắt nàng để bức bách Quách Tỉnh không còn nữa.

Quách Tường thấy đôi mắt long lanh phát ra những tia sáng hiền hậu, nàng vội vàng nhảy xuống ngựa tới phía trước nói:

- Lão hòa thượng, võ công người cao diệu phi thưởng, mong hãy bỏ qua những việc vừa rồi.

Kim Luân Pháp Vương cười ha hả nói:

- Ngươi đã mộ võ thuật của ta, thìh y lạy tôn ta làm thầy, ta sẽ đem hết căn cơ học thuật truyền hết cho người. Ngươi bằng lòng không?

Quách Tường nói nhanh:

- úy! Không đặng đâu? ta học hết võ thuật của Hòa thượng bắt ta làm ni cô đâu được?

Kim Luân Pháp Vương cười xòa nói

- Ngươi theo ta học võ thuật là một lẽ, còn việc làm ni cô ai bắt buộc bao giờ? Ngươi đã điểm mười ba đại huyệt, ta tự hóa giải hết, ngươi lấy đá dằn lên mình ta, ta cũng vùng dậy, mấy phiến đá văng mất Ngươi lén ta cưỡi ngựa đi trốn, lại gặp ta nằm ngủ giữa đường, vậy công phu của ta ngươi đáng kinh mộ không?

Quách Tường công nhận nàng kính mộ võ thuật rất công phu của Pháp Vương, nhưng lão hòa thượng này là người ác, ton kẻ ác làm thầy sao? Vả lại, chính nàng đang nôn nóng muốn gặp Dương Qua, nàng lắc đầu:

- Lão hòa thượng võ nghệ cao cường thật! Nhưng tôi không dám lạy người ác làm thầy!

Kim Luân Pháp Vương tưởng đâu cô bé rõ thành tích của lão nên vội hỏi:

- Ngươi nói ta là người ác! Ta ác chỗ nào?

Quách Tường nói giọng hờn giận:

- Ông bảo ông không ác? Vậy chớ ai đã giết chết hai người bạn của tôi là Trường Tu Quy và Đại Đầu Quỷ. Họ không oán cừu mà ông nhẫn thâm như thế ư ?

Pháp Vương vỡ lẽ cười xòa nói:

- Cô nương nói sai rồi! Chính ta ra tay bênh cô nương. Hơn nữa cũng tại hai người này ra tay trước, chính cô nương thấy rõ chứ? Nếu ta không có bản lãnh thì đã chết nát thây dưới tay chúng nói rồi, ta đã là hòa thượng ắt lấy việc từ bi làm gốc. Cực chẳng đã mới ra tay, không bao giờ muốn làm hại đến tính mạng người!

Quách Tường không tin lời nói của lão:

- Nếu ông là người tốt, tại sao ông chẳng chịu để cho tôi đi, mà cản trở mãi vậy?

Kim Luân Pháp Vương cười nói:

- Ngươi lầm rồi! Ngươi đã cưỡi ngựa phi như bay biến, muốn qua Đông thì qua, muốn đến Tây thìđến. Gặp ta nằm ngủ giữa đường, ngươi bỏ chạy sang ngõ khác, ta có cản trở gì ngươi đâu?

Quách Tường vui vẻ nói:

- Nếu đúng như vậy thì ông hãy để tôi đi tìm Dương Qua đại ca, mà chẳng nên nhỏ to gì nữa.

Kim Luân Pháp Vương lắc đầu bảo:

- Chuyện này không được? Trước nhất ngươi hãy lạy tôn ta làm thầy, rồi ta mới truyền hết cho ngươi hai mươi năm võ nghệ của ta rồi ngươi muốn tìm ai thì tìm, hay muốn đi đâu tùy ý.

Quách Tường nhăn mặt nói:

- Lão hòa thượng thiệt không thông lý sự. Tôi không thích lạy tôn người làm sư phụ, mà hòa thượng bảo tôi miễn cưỡng làm như thế nào?

Kim Luân Pháp Vương nói:

-Ngươi chính là con bé không thông lý sự! Lạy tôn ta làm thầy mà không chịu còn đòi đi đâu? Bất luận người cúi lạy ta dù bao nhiêu đi nữa, khổ sở khẩn cầu ta cũng không nhận làm đồ đệ. Hôm nay người gặp được ta là cơ hội ngàn năm một thuở, phúc đức của ngươi rất dày mới được ta chú ý như thế!

Quách Tường nảy ra một kế:

-Không được, hòa thượng không thể làm minh sư được?

Lão thắng đứa con gái trên mười tuổi thì chẳng lấy gì làm giỏi! Lão hòa thượng không thắng nổi cha mẹ của tôi, ông ngoại của tôi. Đừng nói người ca cả, một mình Dương Qua đại ca tôi còn sợ hòa thượng còn đánh chẳng lại nữa.

Kim Luân Pháp Vương nổi cáu, quát:

-Ai bảo ngươi? Ai bảo ta thắng không nổi tên tiểu tử Dương Qua?

Quách tường dùng lời khích tướng:

-Thiên hạ anh hùng ai ai cũng nói thế. Nhân cuộc anh hùng đại yến trong Tương Dương thành, người người đều nói dù cho có ba lão Kim Luân Pháp Vương hiệp lực cũng không thắng nổi chàng cụt tay Dương Qua, tức là Thần Điêu Đại Hiệp!

Những lời nói này chẳng qua nàng bịa ra để chọc tức Pháp Vương. Nàng thừa hiểu việc anh hùng đại hội chỉ là một dịp để anh hùng hào kiệt tụ họp bàn kế phòng thủ thành trì, chống quân Mông cổ mà thôi. Nhưng Pháp Vương lại cho là nàng thực tình, nên tức bực vô cùng.

Cũng vì mười năm về trước ông bị Dương Qua đánh bại vẫn còn cừu hận trong lòng, nay nghe Quách Tường nói chư vị anh hùng bảo như thế, làm cho lửa giận bốc lên đỏ cả mặt, ông quát inh ỏi:

-Tiểu tặc. Dương Qua nếu có mặt tại đây, ta sẽ dùng Long Tượng bang khổ côngÕ cho nó biết sự lợi hại. Ngươi sẽ nhìn tận mắt xem Dương Qua và Kim Luân Pháp Vương xem ai đáng sợ hơn.

Quách Tường thấy lão trúng kế mình liền nói thêm:

-Lão hòa thượng biết rõ đại ca Dương Qua không có mặt tại đây mới dám nói thế. Ông muốn đi tìm gã để thử sức không? Ông đã có Xà trượng bang khổ công.

Kim Luân Pháp Vương hét to:

-Ta có ÛLong trượng bang khổ công có nghĩa là môn pháp mạnh như rồng bay, voi tiến, chớ không phải rắn bò, heo ọt như ngươi nói!

Quách Tường mỉm cười:

-Đ úng vậy, nếu như ông thắng được Dương Qua thì môn pháp này đáng gọi là Long trượng bang khổ côngÕ, nếu ông đánh không lại chẳng hóa ra rắn bò heo ọt hay sao? Ông mà thắng nổi Dương Qua, khỏi cần nói nửa lời, tôi cũng cúi đầu lạy tôn ông làm sư phụ, chỉ sợ ông chẳng dám gặp Dương Qua.

Kim Luân Pháp Vương tuy là tay thông minh lỗi lại nhưng không ngờ những lời này là kế khích tướng của Quách Tường.

Cũng vì từ thuở nào đến giờ ông có cái tánh tự tôn tự đại, lại bị bại một lần dưới tay Dương Qua nên chẳng luận ngày đêm, luyện cho thành môn Long trượng bang khổ côngÕ. Khổ sở suốt mười một nam ròng rã , cốt ý là tìm Dương Qua để rửa cái nhục ngày trước.

Bây giờ lại nghe Quách Tường nói khích, máu nóng sôi trào nhớ lại mọi việc đã qua, ông dằn không được nói to:

-Ta ngặt một nỗi không biết Dương Qua ở đâu? Ta chẳng gạt ngươi đâu, nếu ngươi biết Dương Qua ở chỗ nào hãy dẫn ta đến đấy. Nếu ta bại, ngươi tự do về, nếu ta đánh thắng ngươi hãy cúi đầu làm lễ bái sư , ngươi chịu không?

Quách Tường cả mừng nói thêm:

-Hay qua! Lão hòa thượng đang thổi còi kêu đích, tôi sợ Dương Qua đến thình lĩnh, ông bôi đầu vào chân chạy cũng không thoát.

Kim Luân Pháp Vương đôi mắt dựng ngược láo liên, tức giận vô cùng. Quách Tường lại nói:

-Tuy tôi không rõ Dương Qua hiện ở đâu, vì cách đây mấy tháng, tôi nghe Dương đại ca nói sẽ đến một xứ mà chỗ này tôi biết.

Pháp Vương hỏi nhanh:

-Gã đến xứ nào vậy?

Quách Tường nói:

-ông hỏi chỗ này làm chi? Ông có dám đến gặp Dương Qua không? Hay là ông vừa thấy mặt đạ chạy rồi?

Kim Luân Pháp Vương nghiến răng, trợn mắt nói;

-Ngươi nói đi, ngươi chỉ chỗ đi!

Quách Tường nói:

-Gã đến Đoạn Trường Cốc, và đang ở tại Đoạn Trường Nhai chờ gặp mặt vợ hiền là Tiểu Long Nữ. Bởi họ có hẹn với nhau trong mùa trăng tròn này. Một tiếng Dương Qua đã làm cho da thịt ông run lên, nếu thêm Tiểu Long Nữ, ý hi, lão hòa thượng ôi, Ngài khổ thân đến Đoạn Trường Nhai để nộp mạng cho chúng sao?

Mười năm về trước, Kim Luân Pháp Vương chẳng những bại nhục với Dương Qua mà còn chịu nhục khuất phục dưới môn Tố tâm kiếm phápÕ của Tiểu Long Nữ, cho nên ông cố công luyện cho được Long Tượng bang khổ công lấy một mà chống hai, để cự với đôi vợ chồng này.

Cũng vì tủi nhục này ông mới đến xứ Trung Nguyên. Nay nghe Quách Tường nói như thế, chẳng khác nào đánh mạnh vào vết thương lòng của ông, nên ông cố dằn lòng xuống cười hềnh hệch nói:

-Vậy thì ngươi hãy đưa ta đến Tuyệt Tình cốc. Nếu ta đánh bại vợ chồng Dương Qua và Tiểu Long Nữ thìngươi sẽ đối xử với ta ra sao?

Quách Tường cả cười, nói:

-Giá như ông thiệt có võ công tối diệu, đánh thắng được vợ chồng Dương Qua thì tôi sẽ cúi đầu lạy ông làm thầy. Chừng ấy tôi muốn cầu xin gì chẳ ng được! Vả lại Tuyệt Tình Cốc là nơi âm u hẻo lánh, đường xá khó khăn hiểm trở không dễ gì đến đó được!

Kim Luân Pháp Vương cả cười nói:

-Ngươi không lo điều này, ta sẽ đưa ngươi đi đến nơi vì đường sá ta thuộc lòng. Nhưng bây giờ hãy còn sớm lắm, ngươi theo ta về dinh Mông cổ, ta lo liệu một vài câu chuyện rồi đến Tuyệt Tình cốc

Quách Tường khoan khoái vô cùng, nghĩ thầm:

- Ta chỉ sợ l o không bằng lòng đến Tuyệt Tình cốc thôi. May lão bằng lòng thì ta còn sợ gì nữa? Mặc dầu lão là đại ác hòa thượng, trời giận, đất hờn, nhưng l o gặp đại ca ta, thì đại ca ta sẽ cho một trận nên thân.

Nàng không đồng ý theo Kim Luân Pháp Vương quyết tâm thâu nhận Quách Tường làm đệ tử với hy vọng làm rạng rỡ tên tuổi và võ thuật của ông. Vì với một tánh từ thiện ôn hòa, nàng sẽ là một nhơn vật cừ khôi khiệt liệt của thế hệ sau.

Trong rừng võ thuật, thầy giỏi khó cầu, nhưng lương tài đệ tử cũng khó chọn, ít có người nối trí sư môn. Trò vẫn cầu thầy, thầy vẫn chọn trò. Kim Luân Pháp Vương và Quách tường mải mê trò chuyện. Ông nhận thấy nàng thông minh tuyệt đỉnh tánh ý từ hòa nên ông hết sức hân hoan và khen thầm.

Bấy giờ tâm tư của Quách Tường chỉ nghĩ đến cái chết thê thảm của Đại Đầu Quỷ và Trường Tu Quỷ nên tỏ lời trách cứ Pháp Vương đã đối xử độc ác với hai người bạn. Do đó Pháp Vương mới đoán được tính tình thâm ân hậu nghĩa của cô bé, khác hắn với Toa Đô hoàng tử là kẻ bạc bẽo vô nghì.

Lúc Kim Luân Pháp Vương ra khỏi quân doanh, thì Dương Qua lại đây tìm không gặp, mới lên đường vè Tuyệt Tình Cốc, chàng đi như bay biến, còn Pháp Vương với Quách Tường tuy đi trước nhưng rốt cục lại ở phía sau. Ba người chỉ cách nhau độ nửa dặm, nhưng Dương Qua nóng lòng muốn chóng đến Tuyệt Tình Cốc, nên đến trước Kim Luân Pháp Vương và Quách Tường một ngày.

* *

Nói về Quách Tỉnh, Hoàng Dung từ khi Quách Tường đột ngột mất tích thì vợ chồng Quách Tỉnh lo lắng mất ca ûăn ngủ, mong ngóng đợi tin.

Mười ngày sau, những tên đệ tử Khất Bang đi do thám từ 4 phương trở về bẩm báo không rõ tin tức của Quách Tường.

Vài ngày sau nữa bỗng nhiên Trình Anh và Lục Vô Song đến thành Tương Dương, đem tin tức của Kha Trấn ác truyền về là Quách Tường đang ở trong bản doanh của quân Mông Cổ, làm Quách Tỉnh và Hoàng Dung cả kinh. Đợi đêm đến, Hoàng Dung, Trình Anh và Lục Vô Song ba người lén vào bản doanh Mông Cổ lục soát thám thính, rốt cuộc cũng như Dương Qua không tìm được gì cả.

Đến đêm thứ ba, Hoàng Dung và Trình, Lục lại vào do thám trong trại, rủi bị bọn dũng sĩ Mông Cổ bắt gặp, nên cả ba rút gươm mở vòng vây làm chết hết 40 tên dõng sĩ Mông Cổ, áo quần ướt đẫm cả máu, họ mới thoát về thành Tương Dương.

Hoàng Dung lại suy nghĩ, theo sự dò xét của bà thì Quách Tường không thể có ở trong trại quân Mông Cổ, nên đang đêm bà đến phòng Quách Tỉnh để thảo luận.

Sự việc này nhất định không phải là điềm lành cho Quách Tường. Hoàng Dung quyết định ra khỏi thành để tìm con, Quách Tỉnh ưng chịu.

Hoàng Dung dắt theo đôi chim điêu để nếu được tin tức gì nhờ nó về phi báo. Trình Anh và Lục Vô Song đi theo hộ vệ . Hoàng Dung thấy hai chị em Trình, Lục hết lòng vói mình, lấy làm vui, cả ba nhắm hướng Tây mà đi, không ghé thám thính doanh trại Mông Cổ nữa.

Đang đi trên đường, Hoàng Dung nghĩ thầm :

- Tường nhi lúc ra đi có nói đi tìm Dương Qua để khuyên nhủ. Trước đây nó đã gặp Dương Qua ở bến đò Phong Lăng, không chừng nó đi theo lỗi cũ, vậy ta hãy đến đó trước, may ra tìm ra manh mối của Tường nhi.

Ba người ra khỏi thành Tương Dương độ năm mươi dặm, khí trời mát mẻ, sắp hết tiết Xuân. Họ đi chầm chậm hầu hỏi thăm tin tức.

Khi đến bến đò Phong Lăng, vào lúc tháng hai nên tuyết tan, băng chẳng có, ghe thuyền qua lại tấp nập.

Hoàng Dung và Trình, Lục lẩn quẩn tại bến đò Phong Lăng trên nửa ngày, hỏi thăm chủ đò, chủ ghe, khách điếm, phu xe và bộ hành, cũng không ai thấy tiểu thư nào đi ngang qua đây cả.

Trình Anh thấy Hoàng Dung lộ vẻ thất vọng nên khuyên rằng :

- Sư tỉ chớ quá u sầu. Tường nhi mới sinh ra ngày thứ nhất đã bị hai tên cự phách ma đầu là Kim Luân Pháp Vương và Lý Mạc Thu đánh cướp, người thường có nói : Găp đại nạn mà không chết, ắt có phước lớn về sau. Lúc mới sơ sanh đã gặp hung hiểm còn thoát được, huống hồ ngày nay đã lớn khôn, nhắm chẳng hề gì.

Hoàng Dung thở một hơi dài, chẳng nói gì cả. Ba người liền rời bến Phong Lăng, đi về hướng Bắc dường như người thong thả nhàn du.

Ngày kế, ba người đi dưới ánh nắng dịu, chầm chậm nhìn xem phong cảnh, ngọn gió Nam ấm áp thổi. Các cành cây lá xanh um, điểm đóa hoa sớm, tỏa ra một mùi hương mát dịu ! Xuân ý vui tươi !

Trinh Anh kiếm cách giải khuây cho Hoàng Dung, nàng chỉ một cây đào đầy hoa hồng còn búp nói :

- Sư tỉ ! Đất Bắc mùa xuân đến chậm, nên sư tỉ nhìn xem, chưa có một đóa hoa đào nở. Khác hẳn cảnh sắc nơi Đảo Đào hoa, hoa xuân sớm nở lại sớm tàn.

Trình Anh miệng nói, tay với bẻ một nhành đào hoa, đưa qua đưa lại trông rất thích thú. Đoạn nàng ngâm nhỏ một câu tình ca :

- Vấn hoa, hoa bất ngữ, Vị thùy lạc ? Vị thùy khai ? Toán xuân sắc tam phân Bán tùy lưu thủy ? Bán nhập trần ai ?

Dịch :

Đào hé nhụy, dập dìu ong Đến khi rơi rụng, hết trông ai nhìn Hỏi chúa hoa, chẳng lời đáp lại, Xuân ba phần, còn mãi hay không ? Hay là nửa cuốn dòng sông ? Nửa rơi trên đất, chập chồng gió sương ?

Hoàng Dung nghe nàng ngâm nga, vội đưa mắ t nhìn thấy Trình Anh mặt mày trắng đỏ, mi thanh mắt sáng, tuy sắc đẹp còn sắc sảo mặn mà nhưng không che giấu được nét phong trần dày dạn. Đã trên 1 0 năm, mọi cô gái đài các phong lưu, cũng vì tương tư lo nghĩ mà kém đi vẻ thùy mị kín đáo trước kia.

Giữa lúc đó, bỗng nghe tiếng kêu Ûong ongÕ nổi lên, một con ong mật to bay lượn qua mặt 3 người.

Cũng vì Trình Anh đang cầm nhánh đào, trên nhánh đào có một đóa hoa vừa hé nở, con ong bất kể sự hiểm nguy đậu nhanh vào đóa hoa này hút mật.

Hoàng Dung thấy con ong ấy màu xám tro, lại lớn gấp đôi ong rừng, bất giác nhớ lại một việc, đoạn nói :

- Loại ong này là Ngọc Phong của Tiểu Long nữ nuôi, tại sao lại xuất hiện nơi đây vậy kìa ?

Lục Vô Song lại nói :

- Đúng vậy ! Ta hãy nhìn xem chúng bay hướng nào thì chủ nó ở chỗ đó chớ gì?

Con ong mật đậu trên cành hoa đào của Trình Anh, hút mật một lúc lâu, rồi bay về phía Bắc.

Ba người lầm lũi đi theo. Con ong quái dị này hễ bay vài phút là phải ngừng lại trên đóa hoa để hút mật. Bay rồi dừng, dừng rồi bay. Thời gian rất lâu, có thêm 2 con ong nữa nhập bọn. Ba người Hoàng Dung liền trổ hết thuật khinh công đuổi theo mãi.

Khi trời vừa sắp tối, ba con ong mật đưa ngươi đi đến một ngọn núi nọ, phong cảnh rất hữu tình. Muôn hoa đua nở, đỏ, trắng, tím , hồng, tô điểm cho chân núi, như một bức tranh tuyệt mỹ. Giữa sườn non có sáu bảy cây to, đầy tổ ong. Ba con ong đưa đường cũng bay vào nhập đàn.

Nhìn lên sườn non, thấy một ngôi nhà tranh chia ra ba gian. Một cặp chồn lông trắng đang đứng trước nhà, cặp mắt chúng long lanh nhìn người lạ trong giây phút rồi chạy vào trong nhà.

Bỗng nghe có tiếng "A" nổi lên, một người xuất hiện. Hoàng Dung nhìn thấy một ông lão đàu tóc bạc phơ, râu dài đến ngực, vẻ mặt còn trẻ, chính là Lão Ngoan đồng Châu- bá- Thông.

Hoàng Dung mừng rỡ kêu to :

- Châu lão Ngoan đồng ! Ông có biết ai đến đây không?

Châu- bá- Thông nhìn thấy Hoàng Dung liền cười ha hả, bước tới nghinh tiếp. Nhưng ông chỉ bước được hai bước, bỗng nhiên mặt đỏ bừng, kêu lên một tiếng "úy" rồi quay người chạy vào một ngôi nhà gần đấy và đóng sầm cánh cửa lại. Hoàng Dung lạlùng trước thái độ của lão, không rõ vì lẽ gìmà Châu- báThông hành động như vậy nên Hoàng Dung đưa tay lên vỗ vào cửa và nói to :

- Lão Ngoan đồng ! Lão Ngoan đồng ! Làm gì thấy khách xa đến thăm lại vội đóng cửa thế ?

Hoàng Dung vỗ vào cửa "bình bình" mấy tiếng, Châu- bá- Thông ở trong nói vọng ra :

- Không mở cửa ! Không mở cửa đâu !

Hoàng Dung lấy làm lạ nói :

- Ông không mở cửa, tôi lấy lửa đốt nhà, để cho ông thành con heo quay cho mà xem !

Bỗng nghe có tiếng cửa gian nhà bên trái mở ra, một người bước ra cười nói :

- Chốn hoang sơn nào ngờ gặp khách quý ! Lão hòa thượng kính mừng ! Mời quý vị vào trong nhà.

Hoàng Dung, Trình Anh, Lục Vô Song cả ba quay lại thìthấy Nhất-đăng đại sư đang vòng tay thi lễ, miệng nở một nụ cười nhân hậu

Hoàng Dung thi lễ xong, cười dài nói :

- Thật không ngờ đại sư và Lão Ngoan đồng bỗng nhiên đóng cửa từ khách. Xin đại sư cho biết lý do ?

Nhất-đăng đại sư cau đôi mày bạc, đoạn từ từ nói :

- Bần đạo biết rõ lý do ! Mời ba vị vào trong nhà dùng với bần đạo chung trà rồi nói chuyện sau.

Cả ba bước vào trong. Sau khi mọi người đã yên vị, đại sư đem đãi nước trà xanh. Hoàng Dung hỏi thăm sức khỏe của đại sư và thắc mắc mãi câu chuyện của Lão Ngoan đồng.

Nhất-đăng đại sư mỉm cười nói :

- Quách phu nhân ! Phu nhân đoán thử xem ai ở gian nhà bên hữu ?

Hoàng Dung bỗng sực nhớ lúc nãy Châu- bá- Thông đỏ mặt như có gì thẹn thùng lắm, liền hiểu ra :

- Phải rồi, ta đã hiểu ra mọi việc !

Nghĩ xong, Hoàng Dung cười xòa và nói :

- "Hiểu hàn thâm xứ xuân phong bích thảo. Tương đối tục hồng y" Nghĩa là "xứ xa buồn ấm lạnh, gió xuân lướt nhẹ trên cỏ xanh, cái phận quần hồng tương đối thế!" Có phải vậy chăng ?

Câu "Hiển hàn thâm xứ" là câu thơ của Lưu Quý phi Anh Côngày xưa đã dệt trên chiếc khăn tay tặng cho Châu- bá- Thông.

Nhất-đăng đại sư bấy giờ lòng lạnh như băng giá, không còn nghĩ đến tình tiết ngày xưa. Tâm trí của ông đã thoát tục từ lâu rồi. Khi nghe Hoàng Dung nói, ông vỗ tay cười ha hảnói :

- Quách phu nhân đóan việc như thần, ngàn việc không sai một.

Ông liền đứng dậy đi ra ngoài gọi to :

- Anh Cô, Anh Cô! Qua đây gặp mặt người bạn nhỏ hồi xưa.

Chẳ ng bao lâu, bà Anh Cô bưng ra một mâm trà quả để đãi khách. Nhìn trên mâm thấy đủ món ăn ngon, nào là trái cây, bánh mật ong, hột tùng rang, đủ loại hoa quả quý báu.

Ba người Hoàng Dung vội vã lạy mừng, bà Anh Cô vòng tay đáp lễ. Năm người ngồi quây quần bên nhau trò chuyện vui vẻ.

Nguyên câu chuyện của Nhất-đăng đại sư , Châu- bá- Thông và bà Anh Cô trên 20 năm về trước, vì ân oán chưa rõ nên cừu hận khó giải. Từ ngày Cừu Thiên Nhận chết đi, ân oán rõ ràng, cừu hận cũng tiêu tan. Do đó ba người cất nhà ở bên nhau, ẩn thân trong Bá Hoa Cốc này nuôi ong, gieo cải, cấy lúa, trồng hoa tiêu dao qua ngày tháng. Những chuyện đã qua họ không còn nhớ đến nữa.

Nhưng Châu- bá- Thông thấy mặt Hoàng Dung làm ông thẹn đỏ mặt vì hành động của ông, nên ông nhảy vào nhà đóng cửa luôn không dám ra mặt.

Tuy ông ở trong phòng, nhưng ông cũng lắng tai nghe mọi người nói chuyện. Ông nghe Hoàng Dung kể lúc Anh hùng đại yến ở thành Tương Dương gây ra nhiều việc náo nhiệt, nào là Toa Đô hoàng tử cải trang Hà Sư Ngã lên khán đài đấu võ, đến lúc này ông nghe không rõ, và không thể nhịn nổi, nên xô cửa bước qua phòng Nhất-đăng đại sư và hỏi liền :

- Toa đô Hoàng tử về sau thế nào ? Hắn có chạy thoát được chăng ?

Hoàng Dung liền kể rành rẽ cho Lão Ngoan đồng nghe. Đêm ấy Hoàng Dung và Trình, Lục về nghỉ trong phòng bà Anh Cô. Trời vừa sáng, Hoàng Dung bước ra ngoài nhà đã ngó thấy Châu- bá Thông đang cầm một con ong, tay chân múa máy tỏ ra đắc ý vô cùng.

Hoàng Dung lấy làm lạhỏi :

- Lão Ngoan đồng có chuyện gì vui vẻ vậy ?

Châu- bá- Thông cười hì hì nói :

- Bé Dung ! Bản lãnh của ta càng ngày càng cao cường, ngươi có bội phục không ?

Hoàng Dung đã rõ "bản lãnh" của ông chỉ có 2 điều mà thôi. Một là đùa giỡn, hai là võ công. Chẳng biết mười năm sau này ông ẩn cư tận chốn sơn lâm cùng cốc này có gì đổi khác mà ông lại khoe khoang như vậy. Ông đã có một môn võ cổ quái gọi là "Phân tâm nhị dụng, song thủ hỗ bác" mà Hoàng Dung lại muốn nhìn qua lối võ mới luyện của ông nên vội nói :

- Lão Ngoan đồng ! Võ công của ông lúc tôi còn nhỏ đã bội phục lắm rồi, cần gì phải hỏi ? Trong 1 0 năm sau này ông có luyện tập được món võ nào nữa không ?

Châu- bá- Thông lắc đầu nói :

- Không, không ! Mấy năm gần đây thằng bé Dương- Qua đã chế luyện được môn "ám Nhiên Tiêu Hồn Chưởng", Lão Ngoan đồng không thể bì kịp. Cho nên từ ấy đến nay câu chuyện võ học ta không đề cập đến nữa. Ta đã thua hắn, ta phục hắ n !

Hoàng Dung lấy làm lạ nói thầm :

- Qua nhi hành sự thật kỳ lạ! Nhỏ nhất là tiểu Tường nhi, già nhất là Lão Ngoan đồng, cả hai đều bị nó chế ngự. Không hiểu ám Nhiên Tiêu Hồn Chưởng nó học ở môn phái nào ?

Hoàng Dung lại hỏi :

- Ông vừa nói càng già càng cao cường, cao cường như thế nào ?

Lão Ngoan đồng vươn 2 ngón tay nắm chặt con ong, đưa lên cao vẻ dương dương tự đắc và nói :

- Đó là việc nuôi ong mật.

Hoàng Dung lại nói :

- Ong mật này là do giống Ngọc Phong của Tiểu Long nư õtặng cho ông, chứ có gì quái lạ đâu ?

Lão Ngoan đồng nói :

- Bé Dung chỉ nói đúng phần nào ! Tiểu Long nữ có cho ta giống Ngọc Phong, giống ong này mật quý báu thực. Nhưng Lão Ngoan đồng đã ra công bồi dưỡng rất khéo léo. Đến ngày nay nó là một giống ong mật có thiên công, xảo thuật. Thực không có cách nào nói cho hết. Tiểu Long nữ làm sao bì kịp.

Hoàng Dung cười to và nói :

- Thực Lão Ngoan đồng càng già càng giỡn ! Hay đánh trống thổi loa, làm vang dậy đất trời, thật ra việc này có gì đâu mà khéo hơn thiên công ?

Châu- bá- Thông tái mặt nhưng cố cười nói :

- Bé Dung, để ta hỏi ngươi, có phải con người là tin hoa hơn muôn vật không ? Trên mình người xâm chữv ẽ bông, hoặc hình rồng beo, hoặc xăm lên người chữ "Thiên hạthái bình" - Trừ con người ra, các loại thượng cầm hạ thú, côn trùng dế muỗi, có thể nào tự chúng xăm chữ lên trên mình được không ?

Hoàng Dung nói :

- Con cọp có sọc vàng đen, con beo có đốm như hoa đồng tiền, hoa trên cánh bướm, rắn độc có bông hoa, những vằn bông hoa còn đẹp hơ n xăm chữ vẽ hình thập bội.

Châu- bá- Thông nói :

- Bé Dung ! Vậy ngươi có thấy con trùng, con dế có xăm chữ và hình không ?

Hoàng Dung nói :

- Nếu chúng là vật của trời sanh, thì tôi chưa có dịp ngó thấy.

Châu- bá- Thông cười nói :

- Tốt lắm ! Vậy ta sẽ chỉ ngươi xem cho biết.

Hoàng Dung đưa mắ t theo dõi, thấy Châu- bá- Thông vươn tay ra chộp một con ong thật to, đoạn lấy hai ngón tay kẹp chặt mình con ong để đôi cánh đập nhẹ.

Hoàng Dung nhìn kỹ thấy cánh ong bên tả đề ba chữ nhỏ như sợi tơ, mỗi chữ lớn hơn hột cải.

Hoàng Dung nói lẩm bẩm :

- "Ta tại Tuyệt Tình Cốc đáy" (Tại đáy hang Tuyệt Tình) Bà nghĩ thầm : "Sáu chữnày quyết không phải do tạo hóa sinh ra, mà do bàn tay người xăm trích. Lão Ngoan đồng có tính trẻ con, nhất định là lão cố công tỉ mĩ xăm chữ vào các cánh ong này.

Suy nghĩ xong Hoàng Dung cả cười nói :

- Có gì đâu mà gọi là có một không hai, thế gian hi hữu ?

Chắc hẳn ông và bà Anh Cô dùng kim trích vào đôi cánh sáu chữ, có lý nào qua được sự nhận xét của tôi.

Châu- bá- Thông tức đỏ mặt nói :

- Vậy ngươi đi hỏi Anh Cô xem có phải là bà ấy xăm chữ vào cánh ong không ?

Hoàng Dung cười nói :

- Ông với bà ấy chỉ có một bụng thì hỏi làm gì?

Châu- bá- Thông tức bể ngực, mà cãi lý không lại với Hoàng Dung, vì Hoàng Dung miệng lưỡi lắm. Càng cãi, Châu- bá- Thông càng bực tức, nộ khí xông lên.

Mặt mày ông đỏ như trái đào. Ông vội ném mạnh con ong vào khoảng không, và nắm tay Hoàng Dung lôi đi và nói :

- Lại đây ! Lại đây ta chỉ ngươi xem tận mắt !

Ông lôi Hoàng Dung chạy đến sườn núi, ngay một tổ ong cực lớn. Đàn ong bay tấp nập, con vào ổ, con ra ngoài. Châu- bá- Thông vươn tay chộp một con ong, đưa cho Hoàng Dung coi và bảo :

- Ngươi hãy xem đây !

Hoàng Dung dương to đôi mắt nhìn không chớp. Rõ ràng trên hai cánh của con ong có xăm 6 chữ rất rõ ràng. Cánh tảxăm "Ta tại Tuyệt" cánh hữu "Tình cốc đáy".

Hoàng Dung nhủ thầm:

- Tạo hóa không bao giờ vẽ trên cánh ong. Chắc chắn là do bàn tay con người. Nhưng người nào đã tạo ra, có dụng ý gì?

Bà quay sang hỏi Lão Ngoan đồng :

- Lão Ngoan đồng, ông hãy bắt thêm vài con nữa xem.

Châu- bá- Thông liền bắt thêm 4 con ong nữa, chỉ có 2 con có chữ, còn 2 con không có.

Châu- bá- Thông thấy Hoàng Dung cúi đầu chẳng nói chẳng rằng, ông đoán là nàng đả phục rồi, nên không dám nhắc tới việc Anh Cô trích vào cánh ong nữa. Ông liền hỏi lớn :

- Nguơi còn cãi nữa không ? Hôm nay ngươi đã bội phục rồi chứ ?

Hoàng Dung chẳng đáp chỉ lẩm bẩm :

- Ta tại Tuyệt Tình Cốc đáy !

Bỗng nhiên bà tỉnh ngộ như vừa phát giác được chuyện gì, nói lớn :

- Ta ở đáy Tuyệt Tình Cốc ! Ta là ai chứ ? Không lẽ là Tường nhi ?

Đoạn Hoàng Dung quay sang hỏi Châu- bá- Thông :

- Lão Ngoan đồng ! Loại ong này của ông nuôi hay từ đâu bay đến ?

Châu- bá- Thông ngây người nói :

- Ta cũng lấy làm lạ không rõ chúng từ đâu lại

Hoàng Dung nói :

- Tại sao không biết ? Giống ong lạ này chỉ bay đến đây vài ngày mới rồi sao ?

Châu- bá- Thông cãi :

- Không đúng như thế. Loại ong mật này không biết từ đâu bay lại, cách mấy năm rồi. Lúc đầu ta không để ý, sau ta quan sát kỹ mới thấy chuyện lạ này.

Hoàng Dung trầm ngâm nói :

- Có thật là đã mấy năm rồi không ?

Châu- bá- Thông cười ha hả đáp :

- Chẳng lẽ ta đặt chuyện gạt ngươi sao ?

Hoàng Dung không tìm ra câu giải đáp, nên đứng dậy đi vào nhà. Nàng đem 6 chữ trên cánh ong để hỏi ý Nhất-đăng đại sư , Trình Anh và Lục Vô Song.

Hoàng Dung vì gấp tìm con, nên hối Trình, Lục sửa soạn từ giã mọi người để đến Tuyệt Tình Cốc thăm dò tin tức.

Nhất-đăng đại sư thấy mấy nàng bàn tán, liền nói :

- Bần tăng ở đây vô sự, nếu tiện bần tăng sẽ cùng đi, may ra giúp đỡ quý vị phần nào để tìm lệnh ái!

Hoàng Dung cả mừng cúi đầu bái tạ. Bà có một ý nghĩ vẩn vơ :

- Có lẽ đại sư liệu chắc Tường nhi lâm đại nạn, chứ không lý nào ông chịu rời thảo am an lạc này mà đi đâu.

Châu- bá- Thông có tính vui đùa, thích cảnh náo nhiệt, lẽ nào ông lại chịu ngồi nhà. Anh Cô cũng tháp tùng với 5 nguời này.

Hoàng Dung thấy lòng thư thái cực độ. Trong sáu người này, đấu trí đấu lực, quyết chẳ ng thua ai. Lại có ba võ lâm tiền bối tương trợ thì Quách Tường có sa vào hang hùm nọc rắn cũng không đến nỗi nào.

Sáu người và một điêu nhắm hướng Bắc mà đi tới.

* * *

Nói về Dương- Qua nhớ lại kỳ hẹn ưước 1 6 năm với Tiểu Long nữ, đi bất kể ngày đêm đến Tuyệt Tình Cốc.

Khi đến đây đúng là ngày mùng hai tháng ba. Theo sự ước hẹn với Tiểu Long nữ mười sáu năm về trước, thì chàng đã đến sớm năm ngày.

Sau khi vợ chồng Công Tôn Chỉ chết rồi, phong cảnh nơi hang Tuyệt Tình đìu hiu, vắng vẻ. Nhóm đệ tử lục y chỉ sửa lại vài ngôi nhà còn lại để ở, hàng ngày lo việc trồng trọt, không còn chú tâm đến võ học, trong vòng 1 6 năm nay, cứ cách vài năm Dương- Qua lại ghé đến đây một lần để nghỉ vài ngày, và cũng để tưởng tượng đến việc Nam Hải Thần Ni đại phát từ bi mang Tiểu Long nữvề Đại Trí đảo.

Tuy mỗi lần đến Tuyệt Tình Cốc cách khoảng vài năm, nhưng mỗi lần đến là mỗi lần thấy cỏ mọc hoang sơ, núi rừng rậm rạp thêm, chứng tỏ không một bóng người bén mảng đến đây. Chàng lại đến Đoạn Trường Nhai, tìm gặp vách đá có khắc đôi hàng chữ của người đã mất tích để lại :

Dương Qua lẩm nhẩm đọc : " Tiểu Long nữ gửi lại Dương lang quân, vài hàng trân trọng, hãy nhớ ngày hội ngộ". Mỗi lần đọc là mỗi lần chàng xúc động bùi ngùi.

Dương- Qua đến đây đã một ngày, lòng như ngây như dại vì hàng chữ quái ác. Tối đến, chàng kết dây buộc vào hai cây đại thọ gần đấy mà nghỉ tạm.

Sáng hôm sau, chàng cất bước đi du ngoạn. Đấy là chỗ chàng với Trình, Lục ba người đốn bỏ các cây Tình hoa. Tuyệt nhiên chúng không còn mọc nữa. Chàng nhớ đóa hoa đào mà chàng đã đặt tên là Long Nữ Hoa, làm cho chàng chua xót bồi hồi. Chàng đưa tay ngắt một đóa hoa Long nữ, đem đặt ngay lên vách đá Đoạn Trường Nhai

Chàng đã khổ sở suốt năm ngày. Hôm nay đúng là ngày mồng bảy tháng ba, là kỳ hẹn của chàng và Tiểu Long nữ. Đã hai ngày qua chàng bỏ ăn bỏ ngủ, ngày ngày không rời khỏi Đoạn Trường Nhai nửa bước.

Ngày ước hẹn đã đến, từ sáng tinh sương đến trưa, từ trưa đến tối, mỗi làn gió thổi rung động lá rừng, mỗi đóa hoa rơi là mỗi lần làm cho chàng giật mình tưởng như Tiểu Long nữ đến. Chàng rảo mắt nhìn bốn hướng cũng không thấy hình bóng của nàng.

Ráng chiều báo hiệu màn đêm sắp đến. Dương- Qua liên tưởng đến câu nói của Hoàng Dược Sư , nào là "Nam Hải Thần Ni" hay "Đại trí Đảo", đều là do Hoàng Dung bịa ra để gạt mình. Nhưung nét chữcòn sờ sở, rõ ràng bút tích của Tiểu Long nữ. Ngẫm lời Hoàng Dung, cũng có thể tin được, nhưng tại sao Tiểu Long nữ không đến hội ngộ ?

Mặt trời đã khuất núi. Dương- Qua không có một tài lực nào để có thể kềm hãm được thời gian.

Màn đêm đã bao phủ ! Dương- Qua kêu lên một tiếng "a" thảng thốt và cấp tốc chạy lên đỉnh đồi.

Chàng đứng yên như pho tượng, từ trên cao nhìn xuống chỉ thấy bốn bề vắng vẻ, rừng núi âm u. Chàng cảm thấy khí lạnh thấu xương của màn đêm muốn bức người. Trong âm u ghe ârợn, chàng đứng yên một lúc lâu.

Vầng trăng lưỡi liềm đã lên khỏi hướng Đông, độ 1 0 con sào./ Đã hết giờ Tý rồi mà Tiểu Long nữ vẫn không thấy đến. Dương- Qua đứng im như pho tượng đá không kể đến sương sa, tuyết lạnh. Cho đến lúc trời rựng sáng, ánh thái dương chớm mọc từ hướng Đông. Bốn bên triền núi, tiếng gà gáy và chim chóc ríu rít vang trời. Huơng hoa thỏang lên mùi thơ m nồng nàn bát ngát, lòng Dương- Qua bấy giờ lạnh như tuyết băng. Không một tiếng động nào có thể làm cho chàng để ý. Chàng nói một mình :

- Ta thật là ngốc ! Nàng đã chết rồi ! Mười sáu năm về trước, nàng đả trúng độc rất nặng, nên nàng mới bày kế để cho ta phục dược mà sống một kiếp sống thừa. Nàng đã vì ta mà tự vận ! Ôi ! Nàng đã dối gạt ta trong mười sáu năm trời ! Ngốc non Dương- Qua ! Mi dại khờ chi lắm vậy ? Nàng đã yêu mi đến cùng cực mà đến hôm nay mi mới biết được tâm ý của nàng.

Dương- Qua cảm thấy thể xác chàng như người sắp chết, da thịt rung động khắp mình, chỉ vì một ngày một đêm chàng không ăn uống, môi lưỡi khô khan.

Chàng liền chạy xuống một dòng suối nhỏ toan vốc nước uống, nhưng khi cúi đầu xuống dòng nước bạc, chàng nhận thấy rõ gương mặt mình in trên nước, mái tóc đã bạc trắng.

Chàng quên rằng, hiện nay chàng đã trên 36 tuổi rồi, dù cho sức lực có cường tráng mà suy nghĩ quá nhiều thì đầu vẫn bạc.

Đưa tay vuốt lên mái tóc, chàng thấy mặt nhuốm đầy bụi, gương mặt tiều tụy khiến cho chàng không còn tự nhận ra mình nữa. Nép trán lại nhăn ba làn rõ rệt.

Bấy giờ Dương- Qua có cảm tưởng như mình đã trải qua một cơn ác mộng.

Thời niên thiếu mau như bóng câu qua cửa sổ, làm cho chàng sực nhớ lại vần thờ trong bài Sở Từ, liền cất tiếng ngâm nhỏ :

Thập niên sinh tử, lưỡng mang mang Bất tư lượng, tự nan Vương ! Thiên lý cô phần, vô xứ thoạt thế cương Trúng xứ tương phùng trong bất thức ! Trần mãn diện phát như sương.

Dịch :

Đường sinh tử nẻo chia hai, Mịt mờ không biết ngắn dài là bao Không nghĩ đến sự khổ đau Mười năm rồi chịu gian lao mất kỳ. Nấm mồ hoang cỏ phủ dày Ngàn dặm hiểm trở, ai người đến đây Thắ p nén hương, tỏ lời khấn nguyện Hỡi hồn thiêng ! Bớt nỗi thê lương. Muốn gặp nhau, bặt tin nhạn cá Để mặt rám nắng, tóc như sương Ai ơi ! Cõi đời như giấc mộng huỳnh lương

Bốn câu thơ tựa rút trong bài "Sở Từ" đắc ý nhất của Tô Đông Pha. Cuộc đời của Dương- Qua chỉ chuyên về võ học, không đọc sách nhiều. Mấy năm trước, chàng đã tình cờ đọc được vần thơ này nên đọc thuộc lòng mà không biết tác giả là ai

Chàng nghĩ : Trong 1 0 năm, ta đi giữa con đường sinh tử mịt mờ, ta với Tiểu Long nữ đã ước hẹn sau 1 6 năm, có lẽ giờ này nàng nằm dưới nấm mồ hoang, hương tan ngọc nát, nhưng ta không rõ hài cốt của nàng mai táng tại đâu.

Rồi chàng lại nhớ đến đoạn kết của câu thơ mà tác giả đã nằm mộng thấy người vợ hiện ra:

Dạ lai, u mộng hoàn hương, Tiểu thiên song, chính thực nữ Tương đối vô ngôn bất ngữ Duy hữu lệ thiên hàng ! Liệu đắc niên trường đoạn xứ Minh nguyệt dạ, đoản Tòng Cung.

Dịch :

Đêm nằm mộng, thấy về quê Nhìn qua bóng sổ, thấy nàng đứng trông! Gặp nhau không nói nên lời Chỉ đôi dòng lệ thay lời tình chung Ai ngờ gặp cảnh đoạn trường Năm dài tháng ngắn nghĩa tình đoạn ly

Dương- Qua nhẩm đến đây nghe lòng rúng động, nhủ thầm :

- Chính là ta ! Chính là ta ! Ba ngày ba đêm không ngủ được cũng như giấc mộng "Đoạn tình" này.

Dương- Qua liền đứng dậy chạy đến Đoạn Trường Nhai xem lại hàng chữTiểu Long nữ đã khắc 1 6 năm về trước.

Nét chữ còn rõ ràng "Mười sáu năm sau, gặp nhau tại đây. Vợ chồng nghĩa nặng, xin đừng lỗi hẹn"

Chàng kêu lên :

- Tiểu Long nữ! Chính tay nàng khắc chữ này, và cũng chính nàng đã lỗi hẹn ! Nàng đã lỗi hẹn !

Lúc bấy giờ Dương- Qua công lực đã thâm hậu đến bực cao đẳng thượng thừa, mỗi lần kêu to lên làm cho voi quỳ hổ rống nên những lời vừa phát ra đã làm vang dội cả núi rừng.

Dương- Qua lòng như lửa đốt, ngồi đứng không yên, nghĩ rằng :

- Tiểu Long nữ chết mười sáu năm về trước mà nàng để ta sống một mình làm chi trong mười sáu năm dài vô vị ?

Chàng đưa mắt xuống phía dưới Đoạn Trường Nhai, hang sâu thăm thẳm, đi quanh năm suốt tháng không xuống tới đáy. Chính năm nào chàng đã liệng nửa bầu Tuyệt Tình đơn vào đó, chàng đã có những ý nghĩ bi quan.

Chàng cúi mặt xuống hang, cất tiếng hú lên vang dội, làm cho hoa lá xung quanh miệng hang đua nhau rơi lả tả.

Dương- Qua nói nhỏ :

- Mấy năm trước đột nhiên nàng mất tích, không rõ nàng đã đi về hướng nào ? Ta đã đi cùng sườn non, góc núi mà không thấy tăm tích, ngày nay cơ sự đã xảy ra, chắc chắn là nàng đã rớt xuống vực sâu muôn trượng, và chôn vùi thi thể suốt mười sáu năm trường. Tại sao ta không tìm nàng ?

Dương- Qua đôi mắt ràn rụa, nhìn qua màn lệ. Chàng thấy hình như có bóng Tiểu Long nữ lướt qua, tà áo trắng phất phơ, và lại nghe một tiếng nói vô hình từ hang sâu vọng lên, như là tiếng nói của Tiểu Long nữ:

- Dương lang ! Dương lang ! Chàng chớ âu sầu ! Chớ thương tâm !

Dương- Qua dụi mắt và nghiêng mình nhảy xuống hang sâu muôn trượng.

* * *

Nói về Kim Luân Pháp Vương dắt Quách Tường đến Tuyệt Tình Cốc. Pháp Vương là một bậc quái khách đương thời, lòng dạ ác độc như rắn rít, nhưng ông lại có dụng tâm thu Quách Tường làm đệ tử chính môn để sau này nối chí cho ông. Bởi vậy trên đường đi đến hang Tuyệt Tình Cốc ông chăm sóc, lo lắng cho Quách Tường như một đứa con gái thân yêu.

Quách Tường giận ông giết chết Đại Đầu Quỷ và Trường Tu Quỷ nên gương mặt luôn lạnh lùng buồn bã .

Cuộc đời của Kim Luân Pháp Vương luôn được mọi người sùng ngưỡng và kính trọng. Tại Tây Tạng, ông giữ chức Quốc sư cho Hoàng đế Mông Cổ. Chính hoàng đệ Hốt Tất Liệt cũng không dám vo âlễ với ông nửa lời. Nhưng con bé Quách Tường nói chuyện với ông dùng những lời lạnh lùng nhạt nhẽo, và dám chêvõ nghệ của ông chẳng bằng Dương- Qua, lại còn trách ông giết người một cách hàm hồ.

Đứng vào địa vị quyền uy bao trùm thiên hạ, đây là lần thứ nhất Kim Luân Pháp Vương, vị quốc sư Mông Cổ phải chịu cảnh dở khóc dở cười, vì phải dằn lòng chiều chuộng người đệ tử tương lai.

Khi hai người đi đến giữa Tuyệt Tình Cốc bỗng nghe tiếng người kêu to :

- Chính nàng đã lỗi hẹn !

Trong lời nói này hàm chứa một sự thương đau tuyệt vọng của kẻ lụy vì tình.

Chương 99 - Các Tay Cao Thủ Hợp Như Mây - Thần Điêu Đại Hiệp - Kim Dung

--------------------------------------------------------------------------------

Chương 99 - Các Tay Cao Thủ Hợp Như Mây

Quách Tường nghe bốn phía vách núi đều vang rền tiếng nói : "Nàng đã lỗi hẹn, nàng chẳng nhớ lời hẹn ưước", làm cho nàng kinh hãi nói :

- Chính là tiếng của đại ca ta ! Hãy đến tìm mau. Vừa dứt lời, nàng chạy như bay biến vào trong cốc. Kim Luân Pháp Vương thấy kẻ thù trước mặt, lòng ông lo lắng, với tay ra sau lưng lấy cây Ngũ luân đồng chùy ra cầm sẵn.

Bấy giờ tuy Kim Luân Pháp Vương đã luyện Long Tượng Bang Nhược Công được 11 chiêu tầng, nhưng đã mười sáu năm qua, không lẽ Dương- Qua và Tiểu Long nữ buông trôi ngày tháng, chẳng luyện được môn pháp nào ?

Nghĩ như vậy, ông không dám khinh thường, phải lo thủ thế trước. Quách Tường chạy gấp đến Đoạn Trường Nhai, bất chấp mọi hiểm nguy. Khi đến nơi thấy địa thế rất hiểm nghèo, nàng không dám liều mình nhảy qua gành đá, chỉ đứng từ đấy nhìn qua, thấy bông đào đỏ ối bị tiếng hú làm rơi lảtả. Còn Dương- Qua đứng trầm tư mặc tưởng trên gành đá cao. Quách Tường vội kêu thảng thốt :

- Dương đại ca ! Có tôi đến đây !

Dương- Qua trong lúc lòng rối như tơ vò không còn nghĩ đến gì nữa ! Chàng lắng hết tâm hồn trong cõi hư vô nên không nghe thấy tiếng kêu của Quách Tường.

Quách Tường đưa mắt nhìn ra xa, thấy cử chỉ của Dương- Qua rất lạ lùng vội kêu to :

- Tôi còn một cây trâm gửi đến đại ca ! Hãy nghe lời tôi nói, đừng nên tự vận, đừng nên !

Một mặt kêu lớn, một mặt nàng chạy như bay biến lên gành đá cheo leo, không còn sợ gì hiểm nguy nữa.

Quách Tường chạy lên chưa hết nửa đoạn đường, bỗng thấy Dương- Qua nhảy lên cao và rơi xuống như một hòn đá chìm vào hang sâu muôn trượng.

Quách Tường thấy Dương- Qua rơi xuống hang, thấy kinh chân đứng không vững, lảo đảo té xuống.

Kim Luân Pháp Vương đi cách nàng chừng độ 20 bước. Thấy Quách Tường sắp té, Pháp Vương vội tung mình lên trước để cứu. Thân pháp của ông nhanh như tên bắn, nếu trễ một bước là Quách Tường rơi xuống, làm cho ông chẳng kịp suy tính, vội đưa tay quày thế "Đảo quải kim câu" nghiêng mình tới trước, chộp ngay vào vai Quách Tường.

Chiêu thế này rất nguy hiểm, chỉ sơ hở một tí thì chính ông cũng bị Quách Tường lôi tuột xuống hang sâu rồi.

Chỉ nghe một tiếng "rẹt", cả cái tay áo của nàng từ trên vai trở xuống, rách đứt ra. Thân thể Quách Tường đảo tròn như một chiếc lá rời khỏi gành đá trên 10 trượng.

Miệng hang sương khí xông lên như sa mù dày mịt, không thể nào nhìn thấy đáy. Ông cố vận nhỡn quang nhìn xuống nhưng cũng không thấy tăm hơi Quách Tường đâu nữa.

Kim Luân Pháp Vương thở dài thê thảm. Đây là lần đầu tiên ông rớm lệ thương đau. Hai tay ông nâng mảnh áo rách, đôi mắt nhìn xuống hang sâu hàng giờ vẫn không nhúc nhích.

Bỗng nghe tiếng quát phía sau lưng :

- Hòa thượng hổ mang, ngươi ở đây sao ?

Pháp Vương giật mình quay lại, nhìn thấy bọn này gồm sáu người. Dứng trước là một người đầu tóc bạc phơ song mặt mũi vẫn còn trẻ, chính là Lão Ngoan đồng Châu- bá- Thông, phía sau ông này còn có ba thiếu nữ chính là Hoàng Dung, Trình Anh và Lục Vô Song. Sau nữa là một lão hòa thượng, râu tóc trắng như bông, mi dài quá mắt, ấy là Nhất-đăng đại sư . Đi sau cùng là một lão bà mặc y phục đen, là bà Anh Cô.

Pháp Vương chỉ nhận biết được 4 người, còn Nhất-đăng đại sư và Anh Cô chưa có dịp gặp mặt.

Ông biết rõ Châu- bá- Thông, một tay võ thuật siêu việt, nổi danh khắp xứ, còn Hoàng Dung, con gái của Đông Tà, sở trường môn Đả Cẩu, lại là cựu Bang chủ Khất Cái, cơ mưu biến hóa khôn lường. Hai nhân vật này cũng đủ làm cho ông ngao ngán rồi, huống chi ngoài hai người đó còn có thêm mấy người nữa, người nào dung mạo cũng đặc biệt.

Pháp Vương vừa rúng động vì cái chết thê thảm của Quách Tường, nên không coi sự nguy hiểm này vào đâu. Ông điềm nhiên trả lời :

- Quách Tường tiểu cô nương đã rơi xuống hang sâu muôn trượng ! Ôi ! Chắc là tan xác !

Mọi người nghe qua thất vía kinh hồn. Hoàng Dung có cảm giác đất lở, trời long.

Bà gắng gượng hỏi :

- Có thật vậy chăng ?

Pháp Vương buồn bã nói :

- Ta dối gạt ngưoi làm gì? Đây chẳng phải là tay áo của nó sao ?

Vừa nói ông vừa rút tay áo Quách Tường đưa ra.

Hoàng Dung nhìn thấy, rõ ràng là tay áo của con bà, bà có cảm tưởng như rơi vào một hầm tuyết giá, toàn thân run lạnh, nghẹn ngào chẳng nói ra lời.

Châu- bá- Thông cả giận hét lớn :

- ác tăng ! Ngươi đã giết hại tiểu cô nương ! Dã tâm của ngươi ai lại không rõ ?

Kim Luân Pháp Vương ức quá cãi to :

- Không ! Không ! Chẳng bao giờ ta hại nó !

Châu- bá- Thông trợn mắt quát :

- Vô lý ! Khi không mà nó bị rơi xuống hang sâu ? Nếu ngươi chẳng xông nó, thì cũng do ngươi bức nó.

Pháp Vương lắc đầu quầy quậy, nói :

- Không bao giờ có việc này ! Ta cố tâm thâu nó làm đệ tử truyền giáo cho nó, thì ta chẳng bao giờ làm chuyện gì hại đến sinh mạng nó. ức cho ta lắm.

Châu- bá- Thông phun ra một bãi nước bọt và hét to :

- Ngụy biện ! Láo toét ! Nó là cháu ngoại của Hoàng lão tà, con của Quách đại hiệp và Hoàng Dung bang chủ Khất Cái, chỉ một người trong ba người này cũng đủ xé xác ngươi ra thì việc gì nó phải lạy tôn ngươi làm thầy để ngươi truyền cho nó chén bể, áo rách của ngươi ? Như ta là Lão Ngoan đồng có vài thế võ mèo quào, cũng không nao núng trước cặp chùy đồng của ngươi đâu. Ta sẽ bẻ gãy nó ra từng mảnh vụn.

Pháp Vương vốn sợ Châu- bá- Thông nên chẳng dám phản ứng, và cũng không dám nói lời nào, chỉ kịp đưa đôi tay hộ pháp ra thủ thế.

Vừa đúng lúc Châu- bá- Thông đưa ra thế võ kỳ lạ đánh tới tấp, Pháp Vương nhảy lùi ra sau cố tránh. Châu- bá- Thông thấy Pháp Vương có vẻ sợ sệt, lão rất tự đắc, cất tiếng sang sảng bảo to :

- Có phải nó không chịu lạy tôn ngươi làm thầy mà ngươi lại muốn thâu nó làm đồ đệ không ? Phải vậy không ?

Pháp Vương gật đầu đồng ý. Châu- bá- Thông nói tiếp :

- Như vậy là đúng rồi ! Con bé nó cãi lời ngươi nên ngươi tức giận mà xô nó xuống hang sâu.

Kim Luân Pháp Vương tình ngay lý gian, chỉ biết thở dài và nói :

- Ta chẳng bao giờ hành động như vậy. Khi không nó tự vận, lão tăng chẳng rõ vì sao ?

Hoàng Dung cho là Pháp Vương ngụy biện, nói những lời vô lý, nên bà tức giận đưa cây gậy trúc ra tấn công.

Bà sử dụng chữ Phong, cây gậy trúc bay vù vù hướng vào Pháp Vương phong tỏa, chỉ còn cách lão này một bước.

Tuy môn Đả Cẩu bổng của Khất Cái bang là một chiêu võ truyền thống trải qua mấy thế kỷ, nhưng Hoàng Dung đã tìm cách chế hóa những chiêu thế đỏan trường là một thế tuyệt luân võ học.

Châu- bá- Thông cũng đưa ra môn võ tuyệt diệu đánh vào Pháp Vương. Mặc dầu đứng trên gành đá cheo leo, nhất cử nhất động đều nguy hiểm nhưng Kim Luân Pháp Vương nghĩ mình là giáo chủ một phái võ, không thể cử Ngũ Luân đồng trùy đánh với những kẻ tay không. Ông vội ném cặp trùy Ngũ Luân xuống đất, đoạn đưa ra song chưởng chống trả đôí phương, khí thế rất hùng hậu.

Hoàng Dung vội vã lui lại, dồn chưởng lực vào cây gậy trúc bỗng đánh ngay vào hậu tâm của Pháp Vương. Châu- bá- Thông vội thối lui và đưa ra một chiêu thế nữa.

Kim Luân Pháp Vương đã luyện xong 11 chiêu tầng của Long Tượng Ban Nhược công, đó là dịp may để ông có thể đem ra sử dụng với các tay cao thủ. Chưởng phong như muôn hòn núi nặng, khí thế lạ kỳ.

Kim Luân Pháp Vương đã rõ Không Minh chưởng của Châu- bá- Thông rất lợi hại. Nhưng ông tin tưởng chắc chắn là Long Tượng Ban Nhược công của mình sẽ phá đuợc Không Minh chưởng. Không ngờ Không Minh chưởng pháp của Châu- bá- Thông biến ảo lạ thường, Long Tượng Ban Nhược công không cự được chiêu đầu.

Kim Luân Pháp Vương vội đưa lên năm thành lực khiến cho chưởng phong phát ra như gió lốc thét gào.

Châu- bá- Thông cảm thấy chưởng lực của mình tiêu tan, ông vội thối lui, môn Đả Cẩu bổng của Hoàng Dung cũng bị áp đảo.

Pháp Vương liền đưa thêm mấy chiêu nữa. Ông đem hết tuyệt học ra sử dụng.

Bỗng ông nghe sau lưng có ngọn gió nổi lên, sắp điểm huyệt Linh Đài chỉ còn cách độ ba bốn tấc, lập tức quay ngược chưởng phong lại.

"Bình bình", chưởng phong đánh gãy cây gậy của Hoàng Dung. Chỉ thấy chưởng lực làm lá đổ ào ào, bụi bay đầy đất.

Hoàng Dung thất kinh hồn vía, nhảy lùi ra sau bảy tám trượng không rõ quái hòa thượng đã dùng môn pháp gì mà đánh gãy được cây gậy của mình. Không ngờ ngày nay lão đ luyện đuợc môn võ tối đẳng thượng thừa, và không rõ đó là môn pháp gì. Hoàng Dung bàng hòang ngơ ngác.

Trình Anh và Lục Vo âSong thấy thế vội vã kẻ cầm ngọc tiêu người xách trường kiếm, tả xung hữu đột công kích Pháp Vương.

Hoàng Dung sợ hãi hô to :

- Hai người hãy đề phòng !

Tiếng nói chưa dứt, bỗng nghe "bình bình" hai tiếng, chưởng lực đánh gãy ngọc tiêu và kiếm thép rớt xuống đất.

Pháp Vương thấy Quách Tường đã mất, lòng không an vội hét to :

- Hãy tránh ra xa... dang ra !

Nói xong ông vội thu hồi hai chưởng mà không tấn công nữa. Đột nhiên một bóng đen bay nhanh xuống trước mặt ông. Bóng đen này là bà Anh Cô, bà này vừa đến trước mặt Pháp Vương đã vội tung ra song chưởng đánh tới tấp. Pháp Vương vội vã cử chưởng ra chống đỡ, và đẩy một chiêu cực mạnh vào bụng bà Anh Cô.

Tuy bà Anh Cô không thắng nổi Hoàng Dung về võ thuật khinh công, song bà có một thế võ độc đáo mà bà đã khổ luyện trên 10 năm tại ao bùn, gọi là Nê thu công.

Khi thấy chưởng phong của địch ào tới, bà cảm thấy sức mạnh khôn tả, với chiêu Nê thu công mềm mại mà bà cũng chỉ có thể chống nổi mấy chiêu đầu. Kế đó Pháp Vương đưa ra một loạt mấy chưởng cực kỳ khủng khiếp. Hai người như bóng với hình. Bà Anh Cô không dám chống trả mà chỉ nhảy lùi né tránh. Bà đã đem hết sức bình sinh, nhưng thân mình bà xiêu vẹo như sắp ngã .

Châu- bá- Thông thấy vậy nhảy đến trước và ho âto :

- Đừng chạy đâu cả!

Kim Luân Pháp Vương muốn thâu hồi thế chưởng, bỗng nghe có tiếng "tinh tinh" nổi lên, một luồng lãnh khí như tuyết đổ mạnh, đánh ập vào mặt. Đó chính là ngón Nhất dương chỉ của Nhất-đăng đại sư đưa ra cản lại chưởng phong và thuận đà đẩy vào mặt Pháp Vương. Kim Luân Pháp Vương không để ý tới lão tăng mi dài, vì ông tưởng lầm lão này chỉ là một cụ già bạc nhược. Khi đã thấy nội lực của đối phương, ông cũng phải cúi đầu thán phục.

Bây giờ chưởng phong của Nhất-đăng đại sư đưa ra ấm như lò lửa giữa mùa đông, mát như nước suối cam vào mùa hạ.

Tuy Nhất dương chỉ phong độ rất thuần hòa, nhưng kiên cố hơn tường đồng vách sắt, làm bế tắc các luồng chưởng Long tượng.

Kim Luân Pháp Vương cả kinh thối lui vài bước, quan sát lại chiêu thế của đối phương. Một đằng là Cao tăng ở Nam Chiếu, một đằng là dị sĩ ở Tây Vực, hai đàng đưa chiêu chống trả lẫn nhau, họ đều biết hai bên khí thế tương đồng và không dám khinh thường đối thủ nữa.

Châu- bá- Thông đã rõ sức lực của mình không thể đem phụ họa với hai đối thủ này được, nên vội nhảy ra ngoài vòng chiến để quan sát.

Nhất-đăng đại sư và Pháp Vương chỉ còn cách nhau vài bước, kẻ đưa một chưởng, người tung một chỉ. Họ càng đánh càng hăng và dần dần lùi ra xa trên 3 trượng. Càng dang ra xa họ càng sử dụng chiêu số càng quyết liệt. Mỗi người đều đem hết bình sinh sở học của mình ra để thủ thắng nhưng khí thế vẫn tương đồng.

Nhất-đ ăng đại sư râu tóc trắng phau, bay tua tủa như muôn ánh tuyết hoa, sức già càng đánh càng hăng.

Pháp Vương liệu thế đánh không lại, sức lực càng lúc càng sút kém dần. Ông nổi giận gia tăng thêm nội lực, tấn công đối phương.

Chỉ nghe hai làn âm thanh nổ "ìầm", "lách cách", khiến Pháp Vương càng lúc càng bối rối. Đang lúc vô kế khả thì thi bỗng Pháp Vương nghe tiếng hú veo véo. Ông ta vội quay đầu lại nhìn thấy con bạch điêu, tựa như mũi tên lao xuống đầu ông rất nhanh.

Nếu gặp phải Thần Điêu của Dương- Qua thì Pháp Vương không thể nào tránh khỏi, hiềm vì bạch điêu này chỉ là một loài chim thường. Tuy có sức mạnh nhưng không thể nào truy kích đối phương nổi. Hơn nữa đối phương lại là một dị sĩ Tây Tạng.

Mặc dù đang giao chiến với Nhất-đăng đại sư nhưng Pháp Vương không bao giờ quên lưu ý đến ngoại cảnh. Khi thấy con bạch điêu lao mạnh như mũi tên xuống đầu, ông vội đưa ra một chưởng thần tốc đánh mạnh vào đôi bạch điêu. Đôi bạch điêu chịu thế chưởng này không nổi nên bay vọt lên không trung. Trong lúc đang phân tâm đánh với cặp điêu, thì Nhất-đăng đại sư đã chiếm được thượng phong, làm cho Pháp Vương kinh hãi, thôi thúc chưởng lực bao quanh mình như vách sắt tường đồng.

Cặp bạch điêu trống mái này đã được Hoàng Dung nuôi dạy từ thủa nhỏ, nên rất khôn ngoan. Bên ngoài Hoàng Dung không ngớt thôi thúc bằng tiếng huýt gió, cốt ý là Pháp Vương phân tán tinh thần.

Cặp điêu bay lượn xuống, nhưng không dám tấn công trước mặt Pháp Vương mà chỉ đáp nhanh bên tả và sau lưng thôi.

Hoàng Dung tuy buồn cho con nhưng không lúc nào bỏ ý nghĩ lung lạc ý chí chiến đấu của đối phương. Khi bà thấy Nhất-đăng đại sư càng đánh càng có vẻ yếu thế thì vội bước tới mấy bước gọi to :

- Quách Tỉnh, Dương- Qua, mau lại đây để vây bắt nó !

Kỳ thật là không có ai đến cả, mà bà chỉ dụng tâm hô hoảng lên để làm Pháp Vương sợ hãi mà thôi. Vả lại, bà rất kính thờ chồng, chẳng khi nào dám gọi tên họ mà chỉ gọi là "Tỉnh ca ca" mà thôi. Nhưng lúc này nếu gọi "Tỉnh ca ca" thì Kim Luân Pháp Vương sẽ không biết Tỉnh ca ca là ai, thì làm sao lung lạc được tinh thần Pháp Vương.

Đúng như dự đoán của bà, khi Pháp Vương nghe nhắc đến tên Quách Tỉnh và Dương- Qua, mặt lão biến sắc nhủ thầm :

- Hai tên hảo thủ này đều lại đây thì mạng sống của ta chắc hi hữu rồi.! Bấy giờ Nhất-đăng đại sư liền bước tới hai bước. Con bạch điêu trống từ trên cao đáp xuống mặt Pháp Vương, vuơn đôi móng vuốt bén như dao toan móc mắt Pháp Vương. Thấy con bạch điêu làm dữ, Kim Luân Pháp Vương cả giận quát to :

- Nghiệt súc, muốn nát thây ư ?

Và ông đưa ra một chưởng mãnh liệt đánh vào bạch điêu Thực không ngờ con bạch điêu trống này cũng biết cơ xảo. Lần tấn công vừa rồi là bạch điêu chỉ dọa đối phương chứ không tấn công thật. Khi chưởng phong vừa đưa ra thì nó đã bay vọt lên không. Còn điêu mái thừa lúc Pháp Vương đánh con trống, nó lao nhanh xuống đầu và dùng đôi vuốt nhọn hoắt bấu chặt cái ngù mão của Pháp Vương giật mạnh bay lên. Pháp Vương điếng người và tức muốn bể ngực. Ông liền tung ra một chưởng thật mạnh. Bình bình hai tiếng, chỉ thấy một mớ lông điêu bay tứ tán, con chim điêu mái đã cắp được cái ngù mão bay lên cao. Pháp Vương uất ức tung ra một chưng nữa ngay mình con điêu mái.

Con điêu mái cố bay lên cao, không ngờ trúng phải một chưng nữa làm cho nó vô phương tránh né, toàn thân đảo lộn, từ trên cao rơi xuống như một hòn đá rớt xuống hang sâu.

Hoàng Dung, Trình Anh và Lục Vô Song quá đỗi kinh sợ, đứng im như tượng chẳng nói ra lời.

Châu- bá- Thông tức giận hét lớn :

- Lão Ngoan đồng bây giờ bất chấp luật lệ giang hồ, không cần nghĩ đến một đấu với hai nữa ! Bỏ cả khí phách giang hồ ! Bỏ cả.

Nói xong ông liền đưa ra một chưởng đánh vào lưng Kim Luân Pháp Vương.

Con điêu trống thấy con điêu mái rớt xuống hang sâu, liền cất tiếng kêu dài thê thảm, và đâm đầu xuống hang. Thời gian rất lâu chẳng thấy nó bay lên nữa.

Hoàng Dung, Trình Anh, Lục Vô Song, Anh Côvà Nhất Đăng xúm lại bao phủ Pháp Vương.

Dù Pháp Vương võ công có ảo diệu đến đâu nhưng tự xét cũng khó mà chống trả với hai tay tiền bối cao thủ, nên vội đổi ra thế đánh khác. Tay trái ông thò vào bọc lấy ra hai chiếc vòng bằng bạc khua lên leng keng, tay hữu vung ra một chưởng chống trả lại.

Ông ta liệu thế khó có thể cầm cự lâu, nên vừa đánh vừa lùi dần về phía chân núi.

Châu- bá- Thông hò hét đuổi theo, Pháp Vương cũng quyết chí chạy trốn. Vì nếu không sơm rời khỏi nơi đây ắt phải bỏ thây !

Pháp Vương liếc mắt trông phía ngoài thấy trước mặt là một khu rừng dày mịt, ông vừa bước nhanh hai bước về phía ấy bỗng nghe tiếng lách cách nổi lên, một viên đá nhỏ từ trong mật lâm bắn ra. Từ khu mật lâm đến chỗ Kim Luân Pháp Vương cách xa hai, ba trăm bước, không rõ do bàn tay bí mật nào mà có thần lực kinh khiếp đến vậy. Hòn đá nhỏ như viên sỏi mà phát ra thanh âm kêu o o, đánh mạnh vào mặt Pháp Vương. Ông vội đưa cao chiếc vòng bạc lên đỡ gạt phăng hòn đá rơi xuống đất nát tan tành thành năm sáu mảnh vụn nhỏ văng tứ tung. Tuy hòn đá nhỏ bé không thể gây thương tích nhưng văng trúng mặt Pháp Vương đau đớn vô cùng.

Ông kinh sợ, nói thầm:

- Hòn đá nhỏ này từ khu mật lâm bắn ra cốt ý đánh vào người của ta. Theo nội lực kinh hồn này quyết không phải của Lão Ngoan đồng hay của lão hòa thượng mà của một cao thủ nào sắp xuất hiện đây ?

Ông đứng ngây ra nhìn vào khu rừng, thì thấy trong rừng bước ra một ông lão mặc bào xanh, mặt mày tươi nhuận, tà áo phất phơ theo dáng đi rất nhẹ nhàng chẳng khác kẻ xuất trần thóat tục.

Châu- bá- Thông cả mừng kêu to :

- Hoàng lão tà ! Hòa thượng này hại chết cháu ngoại của lão đấy, hãy tiếp sức với ta mà cầm giữ nó.

Ông già mặc bào xanh chính là Hoàng dược Sư . Từ lúc ông chia tay với Dương Qua liền đi về hướng Bắc. Ngày nọ ông đi đến một thôn hẻo lánh xa xôi, vào ngồi trong một quán nhỏ, trò chuyện với vài kẻ nông phu, bỗng thấy trên nền trời xuất hiện cặp Bạch điêu, ông biết rõ đôi điêu này cháu ngoại ông là Quách Tường và Quách Phù thường hay cưỡi đi du ngoạn, nên ông bỏ cuộc trò chuyện theo dõi hai con bạch điêu tới tận Tuyệt Tình Cốc.

Ông chưa muốn ra mặt gặp con gái nên chỉ đứng từ xa quan sát cục diện, cho đến khi thấy Nhất Đăng và Châu- bá- Thông đánh không lại địch thủ, ông cũng nhìn nhận võ thuật của Kim Luân Pháp Vương thuộc hàng thượng đẳng, lấy làm mừng rỡ vô cùng vì suốt mười năm trời mới tìm được một địch thủ vừa sức. Cho nên, ông vội đưa ra một đàn chỉ thần công ném ra một viên đá cản đường Kim Luân Pháp Vương.

Kim Luân Pháp Vương nghe lời Châu- bá- Thông hò hét liền cất tiếng như hổ gầm nói :

- Ngươi là Hoàng dược Sư Đông Tà ?

Hoàng dược Sư gật gù nói :

- Chính lão. Chẳng hay đại sư có gì chỉ giáo ?

Pháp Vương nói :

- Không ! Lúc ta còn ở Tây Vực có nghe tiếng đồn ở Trung Nguyên có Ngũ lão anh hùng là Đông Tà, Tây Độc, Nam Đế, Bắc Cái và Trung Thần Thông. Hôm nay gặp mặt quả thật danh bất h truyền. Tiếc là ta không được gặp ba người kia.

Hoàng dược Sư cả cười nói :

- Trung Thần Thông, Bắc Cái và Tây Độc cả ba đều tạ thế đã lâu ! Vị cao tăng đây là Nam Đế, còn Châu huynh đây là sư đệ của Trung Thần Thông.

Châu- bá- Thông nói :

- Nếu sư huynh ta còn tại thế, chưa chắc ngươi chống nổi mười chiêu đâu.

Kim Luân Pháp Vương nhìn thấy Hoàng dược Sư đứng bên hữu, Châu- báThông đứng bên tảvà Nhất Đăng đứng trước mặt vây ông vào giữa, bất giác Pháp Vương thở dài nói :

- Đơn thân, độc đấu, ai lại chẳng sợ ! Lão tăng xin chịu !

Châu- bá- Thông gắt gỏng nói :

- Không đúng ! Hôm nay chẳng phải ngày luận kiếm Hoa Sơn để tranh đệ nhất anh hùng, thì không thể đem chuyện đơn thân độc đấu hay mã thượng anh hùng ra nói được. Ngươi đã tạo nhiều việc ác, tự nhiên đều còn trách cứ ai ?

Kim Luân Pháp Vương nói :

- Đất Trung nguyên có ngũ lão anh hùng, hôm nay ta gặp được hai là điều hân hạnh, dù phải chết về tay ba vị cũng không đáng tiếc. Nhưng ta chỉ tiếc là môn võ Long Tượng Bang Nhược công bị mai một không nối chí đến phải thất truyền.

Nói đến đây ông liền vận hết mười thành công lực vào đôi tay, đưa lên đánh ngay đầu mình tự vận.

Châu- bá- Thông vốn chuộng võ như cơm nước, nên khi nghe đến năm chữ Long Tượng Bang Nhược công thì lấy làm thích thú, vội vã đưa ra một chưởng nh núi đổ, đánh bạt chưởng lực của Pháp Vương phá vỡ ý nghĩ tự sát và nói to :

- Hãy chậm lại !

Pháp Vương vội nói :

- Lão tăng không muốn mang nhục nên tự sát, ngươi cản trở làm chi ?

Châu- bá- Thông cả cười nói :

- Ngươi sợ môn Long Tượng Bang Nhược công thất truyền, chi bằng hãy truyền lại cho ta rồi tự vận cũng chưa muộn.

Pháp Vương chưa kịp đáp, đã thấy từ dưới hang sâu con Điêu trống tha con điêu mái bay lên. Cả hai lông cánh đều ướt, nước rơi lả tả chứng tỏ dưới hang sâu có hồ nước.

Con điêu trống đặt con điêu mái trên mặt đất, đoạn chuyển mình bay xuống hang. Một lúc lâu sau nó bay lên, trên lưng chở theo một người, nhìn ra lại là Quách Tường.

Hoàng Dung vui buồn lẫn lộn, cất tiếng kêu to :

- Tường nhi ! Tường nhi !

Đoạn bà chạy đến đỡ con gái từ trên lưng điêu xuống.

Pháp Vương thấy Quách Tường tự nhiên không xảy ra việc gì nên đứng nhìn ngây ngất.

Châu- bá- Thông đưa tay nắm chặt tay Pháp Vương rồi đưa mắt ra hiệu cho Nhất Đăng và Hoàng dược Sư .

Cả hai hội ý, cùng đưa ra một chưởng đánh tạt vào ngực và bụng Kim Luân Pháp V ương/

Tuy nhiên, không phải là họ đánh thật, vì nếu đánh thật thì Pháp Vương đã tan xác.

Đông Tà, Nam Đế chỉ đưa ra một chưởng lực làm phong bế các huyệt đạo của Kim Luân Pháp Vương mà thôi.

Với hai môn võ thuật ảo diệu nhất đời là Nhất Dương Chỉ và Đàn Chỉ Thần công, thì Kim Luân Pháp Vương làm sao chống trảnổi.

Châu- bá- Thông điểm thêm vào mu bàn tay Pháp Vương huyệt Chí Dương nữa. Nhưng Pháp Vương chỉ kêu lên một tiếng ối chà rồi hai chân xếp tròn lại, ngồi trên mặt đất, như nhà sư đang tĩnh tọa vậy.

Nhất Đăng nhìn Hoàng dược Sư và Châu- bá- Thông tỏ ý lạ lùng. Cả ba đều nghĩ :

- Hòa thượng này thực là tay phi thường. Gặp ba cao thủ điểm vào các yếu huyệt mà còn ngồi tự nhiên không ngã , nghĩ cùng lạ.

Ba người liền đi đến bên Quách Tường tìm lời hỏi thăm và an ủi. Quách Tường cất tiếng nói :

- Mẹ ! Nó ở dưới đáy ! Chàng ở dưới đáy... làm sao cứu lên ... làm sao cứu người.

Quách Tường chỉ nói mấy câu rồi mặt mày xám ngắt, toàn thân run bần bật.

Nhất Đăng liền đưa tay điểm mạch và huyệt an thần của nàng, đoạn nói :

- Con bé bị tình thần dao động nên lời nói bất thường !

Đoạn ông đưa ra hai ngón tay điểm vào các kinh phái mạch huyệt đạo. Được một lúc tinh thần của Quách Tường phấn chấn trở lại, nàng nói :

- Đại ca đã lên chưa ?

Hoàng Dung vội nói :

- Dương Qua ở dưới đáy hang ư ?

Quách Tường gật đầu đáp nhỏ:

- Đúng như vậy !

Nàng vừa nói xong nghĩ thầm :

- Nếu chàng chẳng chịu lên đây, thì ta xuống lần nữa để cứu cho được.

Hoàng Dung nhìn thấy con gái, mặt mày nhợt nhạt, quần áo ướt loi ngoi, liền hỏi :

- Dưới đáy hang có ao đầm hay sao ?

Quách Tường gật đầu không đáp. Nàng ngồi ngay ngắn nhắm mắt để ôn lại mọi việc đã xảy ra. Hoàng Dung hỏi :

- Nếu Dương Qua còn ở dưới đáy hang thì gọi chim Điêu xuống rước nó lên.

Nói xong bà liền đưa tay lên miệng huýt sáo gọi chim Điêu. Nhưng bà kêu bốn năm lần mà không thấy chim Điêu bay đến

Hoàng Dung lấy làm lạvì suốt mười năm qua không khi nào cặp Điêu này chẳng tuân theo mạng lệnh, thế mà bữa nay nó không tuân hành !

Bà đã gọi mấy lần mà bạch điêu vẫn tỏ ra không nghe thấy gì cả. Bà lại cất tiếng hú lên một hơi dài, con bạch điêu trống cất tiếng kêu oang oác ảo não lạ thường.

Hoàng Dung buột miệng than :

- Chết rồi !

Bà cất tiếng gọi to :

- Điêu nhi !

Con bạch điêu trống dường như không nghe nữa ! Nó đâm đầu xuống gành đá trước mặt, va vào phiến đá to bể sọ, đôi cánh gãy vụn.

Mọi ngưòi nhìn thấy cả kinh vội vã chạy đến xem, thấy kế bên thân thể nát bầm của con điêu trống, con điêu mái nằm chết lạnh tự thủa nào. Mọi người thấy loài cầm thú mà tiết tháo thi chung như vậy, bất giác thở dài.

Hoàng Dung đã bầu bạn với đôi bạch điêu từ thủa nhỏ, tình thương yêu làm bà nhỏ sa đôi dòng lệ.

Lục Vô Song nghe văng vẳng bên tai, tựa hồ lời sư phụ Lý Mạc Thu lúc còn sống vẫn ngân nga mấy câu thơ tuyệt vọng :

Vấn thế gian tình thị hà vật ? Trực giao sanh tử tương hứa Thiên Nam địa Bắc song phi khách? Lão tráng kỷ hồi hàn thử cách ?

Hoan lạc thú ly biệt khổ Tự trung cánh hữu si nữ nhi ! Quán ưng hữu ngữ, liêu vạn lý tầng vân, Thiên Sơn mộ tuyệt, chính ảnh hưởng thùy qui!

Dịch :

Hỏi người dưói thế tình là vật chi ? Hẹn nhau sinh tử cùng đi Ai ngờ Nam, Bắc phân ly não nùng Nỗi ấm lạnh... sức già chùng buớc Hạnh phúc đâu mà chuốc biệt ly Tựa trung là kẻ tình si ! Nam nhi tuyệt vọng, nữ nhi tuyệt tình ! Chàng có nói : Lộ trình muôn dặm ! Em hãy chờ, áo gấm hoàn hương ! Nhưng mà, núi tuyết trời sương ! Tấm thân cô quạnh biết đường nào đi ? Cho hay những kẻ tình si Chung quy kết cục cũng đi từ trần !

Lục Vo âSong lúc nhỏ theo Lý Mạc Thu học võ, trưa sớm thường nghe sư phụ ca khúc hát này.

Hôm nay chính mắt nàng trông thấy cặp chim điêu vì tình mà thảm tử, nàng nhủ thầm:

- Nếu như bạch điêu trống không chết, ắt nó phải ra đi cách biệt ngàn trùng để chôn lấp mối tình tuyệt vọng !

Cặp mắt nàng đỏ au, rướm lệ vì thương cảm những việc không đâu. Trình Anh bỗng cất tiếng phá tan sự im lặng :

- Sư phụ, sư tỉ ! Dương đại ca còn ở dưới đáy hang, theo ý tôi cần cứu lên gấp.

Hoàng Dung đưa tay lau bức màn lệ, và hỏi Quách Tường :

- Tường nhi ! Quang cảnh dưới đáy hang thế nào ?

Quách Tường đã bình phục tinh thần, chậm chạp nói :

- Khi con nhảy xuống hang thì bị rơi xuống hồ nước sâu thẳm, lòng kinh hãi chưa biết làm sao thì đã bị uống phải vài hớp nước. Rồi không biết làm gì nữa. Khi tỉnh dậy thấy Dương đại ca nắm mớ tóc mai giật mạnh, và đỡ con ngồi dậy.

Hoàng Dung nói nhanh :

- Dưới hố phải chăng có loại nham thạch, có chỗ ở chứ ?

Quách Tường đáp :

- Dưới hố có rất nhiều cây đại thọ

Hoàng Dung lại hỏi :

- Vậy vì sao ngươi lên được khỏi hang ?

Quách Tường đáp :

- Sau khi Dương đại ca đỡ con dậy không hỏi han gì đến con cả. Con lấy ra một trâm vàng trao cho đại ca và bảo :

- Xin đại ca hãy giữ lấy trâm này và bảo trọng thân thể, chẳng nên tìm lấy cái chết.

Dương đại ca ngó con trân trối mà chẳng nói gì. Trong khoảng khắc, thì con bạch điêu lại hạxuống. Con mừng rỡ bảo Dương đại ca hãy lên trước. Nhưng đại ca chẳng nói chẳng rằng, bồng con liệng lên lưng điêu và đẩy bạch điêu bay lên. Mẹ, mẹ bảo bạch điêu xuống rước Dương đại ca lên !

Hoàng Dung không dám nói chuyện song điêu đã chết, mà bà cởi áo choàng ngoài phủ lên mình Quách Tường và bảo :

- Nếu vậy thì Qua nhi không có nguy hiểm gì cho lắm. Chúng ta hãy bện dây xuống hang mà cứu nó lên.

Mọi người nghe Hoàng Dung nói thế đều gật đầu ưng thuận và xúm lại lột vỏ cây đại thọ kết dây thừng.

Trừ Pháp Vương bị điểm huyệt và Quách Tường bị khủng hoảng tinh thần, còn bảy người xúm nhau lột da cây kết dây.

Họ làm từ chiều đến tối bện được một khúc dây dài trăm trượng, nhưng chẳng thấm vào đâu. Họ lại đốt đuốc làm từ đêm suốt sáng không nghỉ ngơi một phút nào cả.

Sáng hôm sau, Quách Tường cũng phụ lực với mọi người. Trước khi thả dây xuống hang cũng phải biết tin tức gì của Dương Qua. Hoàng dược Sư liền lấy ống tiêu ngọc thổi lên những âm thanh kỳ lạ truyền xuống dưới.

Tiếng tiêu của ông vang dội đến ngàn dặm đường xa, nhưng từ dưới hang xông lên khói trắng mờ mờ, không có tiếng Dương Qua đáp lại.

Hoàng Dung cúi đầu nghĩ ngợi. Bà nảy ra một kế, lấy một mảnh ván to, dùng kiếm khắc trên mảnh ván năm chữ Bình yên không, trảlời !Õ Và ném mạnh xuống hang. Thời gian khá lâu, nhưng cũng không có tin tức gì nữa.

Mọi nguời đưa mắt nhìn nhau như hỏi ý kiến. Trình Anh nói :

- Hang núi tuy sâu nhưng sợi dây này có thể đưa tới đáy. Quý vị hãy đưa tôi xuống xem trước xem sao.

Châu- bá- Thông nói to :

- Ta xuống trước.

Không đợi mọi người đồng ý, ông đã cầm chặt sợi dây chạy đến bên miệng hang và phóng mình xuống. Trong khoảnh khắc không thấy tăm tích đâu cả.

Thời gian rất lâu, lại thấy lão kéo dây trèo lên thoăn thoắt như con vượn, râu tóc bám đầu rong rêu, mình mẩy ướt đẩm. L o lắc đầu lia lịa nói :

- Không thấy gì cả! Không thấy gì cả! Chẳng có Dương Qua.

Mọi người đưa mắ t nhìn Quách Tường tỏ vẻ nghi ngờ. Quách Tường nói :

- Dương đại ca rõ ràng còn ở dưói đáy hang, tại sao không thấy ? Dương đại ca đứng ngay bên cây đại thọ ở bờ ao dưới đáy hang.

Trình Anh chang nói gì, chạy lại miệng hang đu dây xuống. Kế đến là Lục Vô Song cũng xuống theo. Tiếp theo là Hoàng dược Sư , Châu- bá- Thông, Nhất Đăng đại sư và bà Anh Cô lần lượt đu dây xuống hang.

Mọi nguời muốn tìm Dương Qua để xem cớ sự, và do tính hiếu kỳ họ muốn xem phong cảnh dưới hang ra sao.

Chỉ còn Hoàng Dung chưa xuống. Bà quay sang Quách Tường bảo :

- Tường nhi, thân thể của con chưa được bình phục, hãy ngồi đây chờ đợi, đừng lo gì cho mẹ cả. Nếu Dương đại ca ngươi còn ở dưới đáy hang ắt có nhiều người cứu lên, con biết rõ chứ ?

Quách Tường cảm động, chỉ biết ràn rụa đôi dòng lệ mà chẳng đáp lời. Hoàng Dung đưa mắt nhìn sang chỗ Kim Luân Pháp Vương ngồi, lại nghĩ tất cả huyệt đạo bị phong bế quá một ngày đêm rồi. Vả lại nội lực của lão thâm hậu, không khéo lão hóa giải các huyệt đạo mà trốn thoát.

Vì nghĩ thế Hoàng Dung chạy đến bên mình lão Pháp Vương điểm ngay vào Linh đài huyệt, Cự khuyết, Thanh Linh Uyên. Điểm xong bà mới đu dây leo xuống hang.

Hoàng Dung càng xuống sâu càng thấy lạnh. Khi đến đáy hang bà đưa mắ t quan sát thấy Hoàng dược Sư đang đứng trên bờ hồ, dòm quanh quất. Không thấy bóng dáng Dương Qua đâu, chỉ thấy mấy cây đại thọ có trên ba chục ổ ong mật.

Đàn ong bay tua tủa, con nào cũng to lớn, toàn là giống Ngọc Phong của Tiểu Long nữ nuôi.

Hoàng Dung sực nhớ điều gì, bỗng quay hỏi Châu- bá- Thông :

- Châu đại ca, đại ca bắt thử vài con ong xem có con nào có chữ trên cánh không ?

Châu- bá- Thông vội đưa tay chộp bắt mấy con đưa lên xem và nói :

- Không có chữ nào cả.

Hoàng Dung nhìn tứ phía không thấy lối ra vào nào cả, xung quanh vách đá cao vòi vọi trên trăm trượng. Mấy cây đại thọ hình thù rất lạ, không rõ là loại cây gì. Ngước mắt nhìn lên thấy mấy cây thông vút trời, bỗng nghe Châu- bá- Thông nói :

- Có một con ong có chữ đây này!

Hoàng Dung bước qua nhìn, thấy đôi cánh con ong này có năm sáu chữ rất rõ : Tôi tại đáy Tuyệt Tình Cốc.

Trên bờ đầm gồm bảy người, duy có Hoàng Dung rất thạo về thuỷ tính, quen chịu đựng dưới nước.

Mỗi ngừoi đều bàn định nhảy xuống đầm quan sát. Hoàng dược Sư liền lẫy ra lọ thuốc Củu hoa ngọc lộ hoàn đưa cho mỗi người ngậm một viên phòng ngừa chất độc rắn rít đái vào hồ mà bị nhiễm độc. Hoàng Dung liền nhảy tùm xuống đầm lặn mất.

Trong đầm nước trong và sâu, không thể nhìn thấy đáy. Hoàng Dung cố lặn nhanh xuống đáy hồ, nhưng xuống càng sâu càng lạnh buốt.

Bà chỉ thấy rong rêu lờ mờ như rừng già, tựa hồ như một giải băng kết đặc dưới đáy đầm.

Hoàng Dung cả kinh muốn trồi lên, nhưng tánh quả quyết đã xui bà nhẫn nại và lặn xuống sâu nữ a. Càng xuống sâu sức ép của nước càng nặng làm cho bà ran cả lồng ngực.

Hoàng Dung đã vận dụng toàn lực mà vẫn không thể lặn xuống đến đáy hồ được, chỉ còn cách trồi lên mặt nước rồi toan tính cách khác.

Bà từ từ trồi lên mặt nước. Mọi người xem thấy môi miệng Hoàng Dung xám ngắt, tóc tai đã kết thành tuyết trắng, thật là kỳ lạ!

Trình Anh và Lục Vô Song bẻ một cánh cây để kéo Hoàng Dung lên bờ, đốt lửa sưởi cho ấm.

Trong lúc đó, Quách Tường thấy mẫu thân và mọi người đu dây xuống đáy hồ, nàng nghĩ thầm :

- Nếu Dương đại ca không chịu lên, thi có Ngoại tổ và mẫu thân sẽ bắt ép đại ca lên. Không lẽ đại ca tự tử, và không lẽ Tiểu Long nữ tỉ tỉ đã chết ? Dù sao chàng cũng phải chờ đợi để gặp tỉ tỉ chứ ?

Trong lúc nàng mải mê suy nghĩ, bỗng nghe Pháp Vương la lên :

- ối da ! ối da !

Nàng quay lại thấy da thịt ông run lên bần bật, mặt mày xám ngắt, chứng tỏ ông không thể chịu nổi sự đau đớn.

Quách Tường xì một tiếng và nói :

- Tại ông làm ông chịu, còn trách cứ ai ! Ai bảo ông hễ hở ra là giết.

Pháp Vương lại cất tiếng kêu ái daÕ rất thêthảm, đưa mắt nhìn nàng như tỏ lời cầu khẩn van xin.

Quách Tường tâm địa rất nhân từ, thấy người đau khổ không chịu nổi, nên buột miệng hỏi :

- Ông đau đớn ra làm sao ? Đau ở chỗ nào ?

Pháp Vương rên rỉ nói :

- Lệnh đường đã điểm trước ngực ta huyệt Linh đài và trước bụng ta huyệt Cự Khuyết. Tại sao bà ấy lại không điểm vào bụng và ót ta hai ngôi huyệt đạo trên, làm cho thân ta đau và nhột nhạt nhu muôn ngàn con kiến bò cắn ?

Quách Tường có học của mẫu thân cách giải huyệt và điểm huyệt. Nàng thừa hiểu Đản trung và Ngọc châm là hai tử huyệt, chỉ điểm vào người thì người sẽ bị thương nặng mà chết, nên nàng nói :

- Mẹ ta có lòng nhân đức không muốn hại mạng ngươi, ngươi chẳng cám ơn mà còn nói nhiều lời. Tại sao thế ?

Pháp Vương thản nhiên nói :

- Nếu lệnh đường điểm huyệt Đàn trung và Ngọc châm, bất quá ta ngồi yên như tượng gỗ, có đâu đau đớn như dường này. Ta là Pháp Vương tu hành nhiều năm, công lực thâm hậu vô cùng dễ gì mà chết mất mạng ?

Quách Tường không tin :

- Ông khéo vẽ rắn thêm chân. Mẹ tôi nói Đàn trung và Ngọc châm là hai tử huyệt, bị điểm vào sẽ chết. Ông tự hào là công lực cao thâm, hãy cố dùng nội lực chịu đựng, mà lên ngựa về đi. Hay ông đợi mẫu thân tôi lên rồi hãy nói.

Pháp Vương hỏi lại :

- Quách cô nương ! Vậy tôi đợi cô nương ở đoạn đường nào ?

Quách Tường nói :

- Tôi nói thực đấy ! Ông đợi tôi làm gì? Ông đã giết hai người bạn thân là Trường Tu Quỷ và Đại Đầu Quỷ, lại giết chết cặp chim điêu của tôi. Tôi đã bỏ qua, ông còn đợi chờ tôi làm gìchứ ?

Pháp Vương tỏ vẻ khổ sở :

- Quách co ânương, cô không nghe người ta nói ư ? Hễ giết người thì phải thường mạng. Hôm nay tôi đã giết bạn của cô nương, thì tôi phải để co giết lại tôi chứ. Co ânương hãy vì tình bạn hữu mà báo thù, đồng thời giúp cho tôi chấm dứt nỗi khổ sở này.

Quách Tường lắc đầu lia lịa nói :

- Ông bảo tôi giết ông để trả thù ư ? Không khi nào tôi làm vậy được.

Pháp Vương vội vàng nói :

- Thôi, thế này cũng được. Co ânương hãy điểm mạnh vào hai huyệt Đản trung và Ngọc châm của tôi. Nếu đợi lệnh đường lên đây, tôi cầu khẩn điểm huyệt thì lệnh đường quyết chẳng để tôi chết sớm. Nhưng cứ để tôi phải đau khổ dây dưa thì cũng tội cho tôi lắm.

Quách Tường thấy lão hòa thượng này có vẻ thành thật nên nói thầm :

- Ta cứ điểm nhẹ vào hai tử huyệt của lão xem sao?

Nghĩ xong nàng lấy tay điểm nhẹ vào Đản trung huyệt và Ngọc châm huyệt.

Pháp Vương thấy rõ sự từ tâm của nàng, nên ông tỏ ra cảm mến vô cùng và nói :

- Quách cô nương ! Hãy mạnh tay ! Tôi rất mang ơn.

Quách Tường v ơn tay ấn mạnh vào các huyệt đạo, đoạn đứng ra quan sát, thấy lão tự nhiên không tỏ chút tổn thương nào, gương mặt đang nhợt nhạt bỗng hóa ra đỏ hồng, rồi trở lại xanh nhợt, thay đổi ba lần.

Quách Tường lấy làm lạ hỏi :

- Có cần mạnh tay nữa không ?

Vừa nói nàng vừa dùng hết toàn lực điểm mạnh vào hai huyệt đạo. Pháp Vương vùng cười lớn và nói : - Tốt lắm đấy, bây giờ ta hết đau nhức rồi ! Ta nói có sai đâu, ngươi nhìn xem ta chết chưa nào ?

Ông nói xong cười lên một chuỗi dài rùng rợn. Quách Tường cả kinh nói :

- Vậy ông hãy để tôi điểm lại huyệt Ngọc châm ! Nói xong nàng đưa hai ngón tay ấn mạnh vào Ngọc châm huyệt mà nàng tưởng ông phải té ngã .

Nhưng Pháp Vương vẫn điềm nhiên nói :

- Đa tạ! Quách cô nương ! Đa ta ïcô nương giúp đỡ .

Nói xong ông nhắm mắt dưỡng thần, trong khoảnh khắc mặt mày trở nên tươi tắn. Bỗng nhiên ông đứng dậy như người vô sự và quát to như sấm :

- Cô nương hãy chạy theo ta !

Quách Tường cả kinh nói chẳng thành câu :

- Ngươi, ngươi đã ...

Pháp Vương dang tay ra, nắm chặt lấy tay Quách Tường và nói :

- Hãy đi mau ! Ta có một thế võ độc đáo nhất trên đời ! Ta có thể thay đổi cả kinh mạch huyệt đạo. Với công phu như vậy hóa giải các huyệt đạo bị phong bế không được hay sao ?

Nói xong ông lôi Quách Tường chạy về phía trước. Thật ra việc thay đổi kinh phái huyệt đạo kỳ công này không có gì lạlắ m ! Lão đã dùng theo phương pháp nội công di truyền của dị sĩ Tây tạng, khác với Tây Độc Âu Dương Phong chuyển nghịch các kinh phái bằng phương pháp ngoại lực.

Quách Tường lúc trước đã điểm trúng hai huyệt Đàn trung và Ngọc châm, nhờ đó mà ông đã hóa giải được các huyệt đạo kia.

Khi hai đại tử huyệt bị điểm trúng, máu huyết đổ dồn về tim. Nhờ nương theo đó, ông dùng nội lực đẩy ra hóa giải các huyệt đạo khác.

Vả lại, Hoàng dược Sư và hai người kia điểm các huyệt đạo đã quá một ngày nên hiệu lực đã giảm đi, nhờ đó Kim Luân Pháp Vương mới hóa giải được.

Chương 100 - Binh Lửa Dậy Tương Dương - Thần Điêu Đại Hiệp - Kim Dung

--------------------------------------------------------------------------------

Chương 100 - Binh Lửa Dậy Tương Dương

Kim Luân Pháp Vương dắt Quách Tường chạy ra ngoài mười trượng, đột nhiên phát sanh một độc kế.

Mắt ông nhìn thấy hai sợi dây thừng cột chặt vào hai cây đại thọ, ông muốn chặt đứt hai sợi dây này để cho mọi người xuống hang lúc nãy kẹt chết hết dưới hang sâu.

Suy nghĩ xong, ông quay trở lại dùng hết nội lực bứt bỏ hai sợi dây nầy. Quách Tường cả kinh chạy đến bên ông, dùng nội lực đánh vào uyên hạ duyệt của Pháp Vương thực mạnh.

Pháp Vương vừa thoát được đại nạn, không mảy may đề phòng Quách Tường, nên bị điểm trúng huyệt đạo khá nặng, làm cho toàn thân ông đã bị têbuốt, thân thể mất cả sức lực.

Quách Tường lại dùng song chưởng đánh mạnh vào lưng ông và quát to:

-Cũng tại ngươi hết cả! ác hóa thượng! Ngươi chết chẳng oán than!

Pháp Vương tuy bị trúng huyệt khá nặng, nhưng ông cố vận nội lực hóa giải và giả bộ cười to:

-Ngươi có bao nhiêu công lực mà dám kình chống ta?

Quách Tường lúc bấy giờ đã biết kính sợ Pháp Vương. Nàng biết rằng Pháp Vương chưa hóa giải hết huyệt đạo nên nàng cố vận dụng song chưởng, đánh bình, bình vào lưng Pháp Vương. Nàng lại vươn tay điểm vào mười bảy mười tám huyệt đạo, cố ý làm cho ông ta té nhào xuống hang sâu, không thể chuyển vận được kinh phái mà hóa giải cho kịp.

Nàng lại chạy ra gành đá trước mặt và quay đầu lại nói:

-Ta không như mẫu thân ta chịu chết ở đây đâu.

Nói xong nàng băng mình chạy thật xa. Pháp Vương cả kinh, hớp vài luồng chân khí để hóa giải huyệt Uyên dạtÕ, mà không kịp chặt đứt dây thừng, tung mình rượt theo Quách Tường đã chạy xuống gành núi khá xa.

Địa thế ở Đoạn trường nhai rất cổ quái, cây cối rất kỳ lại mới thấy Quách Tường từ hướng Đông, ông vừa đuổi tới đã thấy nàng qua hướng Tây.

Thân thể của Pháp Vương to lớn mà đường xá ngoằn ngoèo, ông thở hồng hộc vẫn không đuổi theo kịp Quách Tường. Nàng nhỏ mình nên len theo kẽ lá cành cây thoăn thoắt. Kẻ chạy người đuổi suốt ngày mà Pháp Vương vẫn không theo kịp Quách Tường.

Ông cả giận tung mình lên không theo môn pháp Bình sa nhạc lạc mà bay lơ lửng cản đầu Quách Tường. Khi hạ xuống bên nàng, ông đưa tay ra chộp mạnh.

Quách Tường vừa thoát ra khỏi cơn khủng hoảng tinh thần nay vừa định tỉnh đã bị Pháp Vương chộp bắt, làm cho nàng hốt hoảng kêu to:

-Mẹ ơi ! Mẹ!

Pháp Vương vội vã đưa tay bụm chặt miệng Quách Tường. Bây giờ lại nghe tiếng của Hoàng Dung từ xa đưa lại:

-Bé Quách Tường đã đi đâu?

Pháp Vương lẩm bẩm:

-Uổng ! Uổng quá ! Ta bỏ lỡ một cơ hội!

Nói xong ông điểm vào huyệt á khẩu để cho Quách Tường câm lặng, bế xốc nàng lên rồi chạy như gió.

Thực ra Pháp Vương bỏ mất cơ hội không chôn được bọn Hoàng Dung dưới đáy hang.

Lục Vô Song bước lên trước, không thấy Quách Tường đâu, nàng dáo dác đi nhìn khắp phía mà không gặp.

Tuy vậy, nàng không dám đuổi theo, vì đã một lần nguy hiểm, nàng như chim sợ ná, chỉ còn chờ đợi Hoàng Dược Sư và Nhất đăng đại sư lên mới trình bày tự sự.

Trong phút chốc Hoàng Dược Sư đã lên tới, Lục Vô Song liền thuật câu chuyện Quách Tường bị Kim Luân Pháp Vương dẫn đi.

Hoàng Dược Sư ở dưới hang quan sát rất tỉ mỉ cũng không tìm ra vết tích của Dương Qua, mọi người đều cho chàng đã gặp họa rồi, nên họ xúm lại bàn luận tính kế hoạch khác.

Lên đầu là Lục Vô Song, kế đến Trình Anh và bà Anh Cô. Trong lúc mọi người đang tiếp tục lên bờ thì nghe Trình Anh kêu réo om sòm:

-Bé Quách Tường, bé Quách Tường, ngươi ở đâu?

Hoàng Dung đ lên tới đất, nhìn thấy Quách Tường và Kim Luân Pháp Vương mất tích, bà liền đưa mắt nhìn Hoàng Dược Sư , Nhất Đăng, Châu Bá Thông, Anh Cô tỏ vẻ khẩn cầu.

Mọi người hội ý vội vã chia nhau đi lục soát khu Tuyệt Tình cốc, cũng không thấy bóng của hai người đâu cả, chỉ gặp chiếc giầy của Quách Tỉnh để rơi lại.

Trình Anh cầm chiếc giầy nói: Theo ý của tiểu muội, thì Tường nhi chẳng có sao cả, sư tỉ chớ khá lo sầu. Theo dấu tích này có lẽ Pháp Vương và nó đi về hướng nam. Tường nhi thông minh cố ý làm rơi chiếc giầy để mẫu thân an lòng mà theo dõi. Tôi dám quả quyết nó không có việc gì đến đỗi.

Hoàng Dung nghĩ lại lời nói Pháp Vương lúc nãy là ông muốn thâu nhận Quách Tường làm đồ đệ truyền y bát, thì đối với số vận Quách Tường không có gì đáng ngại, nên bà bớt đi một phần lo lắng.

Đoàn người này lên đường xuôi nam. Vừa đi vừa hỏi tin tức, nhưng Pháp Vương và Quách Tường chẳng để lộ tông tích gì hết. Đi được vài ngày, bỗng nghe lời khách qua đường đồn đại: Quân Mông Cổ kéo hai đạo quân từ hướng Bắc đến vây thành Tương Dương thật muôn phần nguy cấp.

Hoàng Dung hốt hoảng bảo:

-Quân xâm lăng Mông Cổ vây thành Tương Dương thế rất ngặt ngèo! Chúng ta hãy trở lại cứu thành! Công việc Tường nhi hãy tính sau.

Hoàng Dược Sư , Châu Bá Thông và Nhất Đăng Đại Sư là những người xuất thế, xa lánh ngoại vật, chuyện đời không còn ràng buộc tới nữa, nhưng đối với việc thành Tương Dương là ải địa đầu của giang san nhà Tống, không lẽ ngồi khoanh tay mà trông cảnh nước non bị giầy xéo, chà đạp dưới gót xâm lăng. Tất cả đều nghe theo lời thỉnh cầu của Hoàng Dung trở lại Tương Dương thành.

Hoàng Dược Sư , Nhất Đăng và Hoàng Dung đã đem hết diệu thủ khinh công chạy như bay về thành Tương Dương. Chỉ chọn một ngày, họ đã đến ngoài thành.

Mọi người đứng xa xa nhìn thấy đoàn quân Mông cổ phô trương thanh thế, họ cũng e ngại vô cùng. Hoàng Dung bình tĩnh nói:

-Địch quân tuy đông, nhưng chúng ta võ phu chí dũng không có gìđáng ngại, chúng ta hãy đến thành, thừa đêm tối sẽ tiến vào thành.

Bây giờ trong bọn bảy người, ai ai cũng lộ vẻ lo lắng, duy có Châu Bá Thông luôn luôn cười hềnh hệch. Họ rút vào rừng lên lỏi đi về hướng thành Tương Dương, đợi đêm tối hành sự.

Vào khoảng canh hai Hoàng Dung dẫn đầu, xâm nhập vào doanh trại địch quân.

Bảy người khinh công đến mức cao diệu, nhưng đoàn quân Mông Cổ trùng trùng điệp điệp, lớp đứng, lớp ngồi, họ chỉ đi được một đoạn đường dài là đồi tuần đoàn Mông Cổ trông thấy. Chúng thổi còi lên báo hiệu. Chiêng trống nổi vang dội trời đất.

Lập tức có ba trăm đội túc trực kéo ra vây hãm bảy người. Còn lính gác giữ doanh trại không thấy chúng náo loạn hay tỏ vẻ gì lo lắng cả.

Hoàng Dung cảkinh nói.

-Quân xâm lăng Mông Cổ lịnh nghiêm minh, hèn chi đánh đâu thắng đấy. Hôm nay chúng bủa vây thành, việc giải vây rất khó thập bội.

Châu Bá Thông nhanh tay chộp lấy hai thanh trường kiếm vung lên loáng loáng để mở lối tiền phong. Hoàng Dược Sư và Nhất đăng mỗi người đoạt một thanh trường thương đi đoạn hậu, còn bốn người phụ nữ đi đoạn giữa phụ lực mở lối.

Quân Mông cổ vì sợ tổn thương đến nhơn mã , nên chúng không bắn tên vào nhóm người này. Nếu chúng xạ tên thì Hoàng Dược Sư và Nhất Đăng có ba đầu sáu tay chống trả cũng không nổi. Vả lại môn cung xạ là một môn đặc biệt nhứt của giống nòi Thành Cát Tư Hãn.

Bảy người càng đánh càng tiến dần. Nhưng trước mắt họ gươi giáo chơm chởm, khí giới như rừng khó mà tiến thêm được.

Châu Bá Thông, Hoàng Dược Sư liền vung chưởng đánh gãy mấy lớp trường thương. Nhưng lệnh của quân Mông cổ rất nghiêm, tên nầy ngã , tên khác thế, vững chắc như vách đá tường đồng, không một người thối bộ.

Châu Bá Thông bỗng nhiên cười to bảo:

-Hoàng lão tà! Chúng ta hãy liều ba cái mạng này để bảo vệ cho bốn con nhãi ranh khỏi nạn, thoát khỏi vòng vây.

Bà Anh Cô hừm một tiếng to, nói:

-Người già mà ăn nói hồ đồ hỗn độn Lão Thái bà là ta mà ngươi dám bảo nhãi ranh ư ? Ta thề sẽ chết nơi đây, bảo vệ cho ba cô gái mặt hoa da ngọc.

Hoàng Dung nghe hai người nói nghĩ thầm:

- Lão Ngoan Đồng trời chẳng sợ, đất chẳng kiêng, mà hôm nay nói toàn những lời bi quan, thật là một việc đại bất thường! Tình hình thật không kém phần nguy hiểm.

Trong khi bà đang suy nghĩ thế thì đoàn quân Mông Cổ càng lúc càng đông vây hãm không còn một kẽ hở. Tất cả đều đem hết sức bình sanh ra chống trả.

Hoàng Dung vừa đánh vừa đưa mắt quan sát, bà ngó thấy phía tây có hai phía doanh trại đen huyền. Bà nhớ lại lúc đi theo Thành cát Tư hãn chinh Tây; hễ doanh trại đen là kho chứa lương thực. Nên bà nảy ra một kế, hướng vào chỗ này đánh mạnh ra. Bà lừa một tên Mông cổ cầm đuốc, giật mạnh và phá vòng vây lần đến doanh trại nầy.

Hoàng Dung tiến đến gần trại, ném bó đuốc vào nóc trại trữ lương thực. Lửa cháy phừng phừng loang cả doanh trại. Phút chốc, ánh lửa như Trùng Dương cung thu nào!

Châu Bá Thông khoái trá nhảy múa tưng bừng. Kho lương thực trong phút chốc, ngọn lửa đã cháy ngất trời. Châu bá Thông khóai chí, quăng cây trường kiếm và giật mạnh mấy bó đuốc ném túi bụi. Ông rủi vô ý quăng nhầm yên ngựa làm cho con ngựa này nhẩy lên trên mình con ngựa kia la hí vang trời. Thực là cảnh hỗn loạn.

Thừa cơ hội, họ cướp được năm con người mã cưỡi lên mình xáp chiến với địch.

Quách Tỉnh ở trong thành Tương Dương nghe ngoài thành tiếng quân reo dậy đất, lật đật leo lên thành quan sát, nhìn thấy khói bốc ngất trời ngựa hí vang dậy, quân binh Mông cổ hỗn loạn, lật đật điểm hai ngàn binh mã , phái Võ Tu Văn, Võ Đôn Nho đem quân ra ngoài thành tiếp chiến.

Hai anh em họ võ ra khỏi thành độ chừng nửa dặm, nhìn thấy bẩy người cỡi năm con ngựa. Hoàng Dược Sư đỡ Lục Vô Song nằm ngay lưng ngựa, Nhất Đăng thì đỡ Châu Bá Thông phi ngựa tới gấp.

Hai anh em họ võ lật đật xua quân bày trận thế, đem cung nỏ xạ vào địch quân, bảo vệ Hoàng Dung từ ngoài thành chạy vào.

Quách Tỉnh đứng lên thành thấy nhạc phụ và hiền thê, Nhất đăng đại sư và Châu bá thông đều đến đông đủ, lòng mừng rối rít, khiến quân binh mở rộng cửa thành nghinh tiếp.

Khi đoàn người vào trong thoạt thấy Châu Bá Thông bị trúng phải ba mũi tên sau lưng, tóc bị thiêu trụi còn Lục Vô Song trúng phải một mũi giáo dài ngang bụng. Hai người thương tích quá nặng.

Hoàng Dung, Trình Anh và Anh Cô tuy bị trúng tên độc, nhưng không trúng vào yếu huyệt.

Riêng Nhất Đăng và Hoàng Dược Sư không có vết thương nào. Hai ông là người lão thông y dược, khi xem xét vết thương của Lục Vô Song và Châu bá thông, cũng phải cau mày không nói ra lời.

Châu Bá Thông chua chát nói:

-Đoàn Hoàng Gia! Hoàng lão tà! Hai ông chẳng nên buồn cho tôi. Lão Ngoan đồng máu nóng tựa dầu sôi khó mà chết sớm được. Xin hai ông hãy để tâm lo lắng giúp đỡ và chữa trị cho được Lục Vô Song đi. Lão Đồng chẳng hệ gì đâu.

Hoàng Dược Sư nghe Châu Bá Thông nói mỉm cười, coi ông này hy hữu, ngó Nhất Đăng tỏ vẻ cầu xin và kính trọng. Trong cái kính trọng còn pha thêm sợ sệt, e dè.

Tuy Nhất Đăng xuất gia đầu Phật rất lâu, nhưng mỗi lần đến ông, lão Ngoan Đồng luôn luôn xưng hôlà Đ oàn Hoàng Gia.

Nhất Đăng và Hoàng Dược Sư thấy lão Ngoan đồng đang bị thương tích hành hạ mà vẫn không mất nụ cười nên hai ông lấy làm cảm động bồi hồi.

Còn Lục Vô Song thì hôn mê bất tỉnh. Trình Anh ngồi kế bên giường nhìn thấy thương tích quá nặng, bất giác hai dòng lệ rơi lã ch ã.

Qua ngày thứ hai, mới vừa sáng tinh sương đã nghe ngoài thành tiếng còi thúc quân càng lúc càng dồn dập.

Quan trấn thủ là Lữ Văn Hoán đốc suất quân mã tăng cường cho bốn cửa thành.

Quách Tỉnh, Hoàng Dung lên mặt thành xem xét, thấy đoàn quân Mông cổ tràn ngập núi rừng, không đoán được bao nhiêu, từng làn sóng người dồn dập kéo tới bốn cửa thành.

Quách Tỉnh là tham mưu hành quân của Mông cổ một thời khá lâu, ông biết hết chiến lược công thành của chúng, nên ông ra lệnh phòng bị đầy đủ.

Địch quân dùng cung tên, hỏa pháo đá nhọn thang mây công thành, đều bị Tống quân loại ra hết.

Hai bên giao chiến với nhau từ sáng đến chiều. Tống quân dưới sự điều khiển của Quách Tỉnh đã sát hại trên hai ngàn nhơn mã của Mông cổ. Đoàn quân Mông, bị tổn thất quá nặng, nên vội vã lui ra xa đóng doanh trại để bàn mưu lược tấn công nữa.

Trong thành Tương Dương bây giờ gần hai mươi binh sĩ còn có mười muôn bá tánh trẻ già, người người đều biết, nếu thành bị phá vỡ ắt khó tránh được cái chết thêthảm. Do đó, họ phân từng đoàn, trai tráng thì gươm đao, dao mác ra trận, còn già nua thì khuân đá nấu cơm, giúp những người trai tráng giết giặc giữ thành.

Trong thành, ngoài thành, tiếng reo hò giết giặc vang dậy cả trời đất. Quách Tỉnh tay cầm trường kiếm, làm đốc tướng chỉ huy binh mã đứng lên mặt thàh. Hoàng Dung đi theo một bên giúp ý kiến.

Bình minh đã ló dạng, báo hiệu máu sắp đổ. Ngoài thành, đoàn kị binh Mông cổ phi ngựa như bay, trùng trùng điệp điệp.

Nhìn lại Quách Tỉnh thấy ông như một vị thiên thần, mặt mày nghiêm trang lẫm liệt, binh sĩ và dân chúng đều tỏ vẻ ái mộ vô cùng.

Quách Tỉnh, Hoàng Dung đứng lên trên thành đốc quân một lượt chẳng lìa nhau.

Hôm nay bị địch quân áp bức, hai người thề trước binh sĩ một bước chẳng lùi.

Hoàng Dung nghĩ thầm. Tỉnh ca kết nghĩa vợ chồng trên ba mươi năm dài đăng đẳng, bao nhiêu tâm cơ khí huyết đều do thành Tương Dương nung nấu. Bây giờ hai người hiệp sức chống địch, dầu máu đổ thịt rơi trên mặt thành cũng không tiếc.

Bà lại quay nhìn Quách Tỉnh thấy râu tóc ông bây giờ đã ngả mầu đen bạc, bất giác bà than:

-Nếu địch quân vây mãi như vầy, thì mỗi đêm Quách Tỉnh lại bạc trắng một phần râu tóc.

Hoàng Dung đang nghĩ ngợi miên man, bỗng nghe tiếng reo hò của quân Mông cổ:

-Vạn tuế! Vạn tuế! Vạn vạn tuế!

Tiếng reo hò từ xa tiếp đến gần như sóng của đầu gành, sấm rền vang dậy, vì cảmột doàn hai mươi muôn binh đều hô một loạt.

Lại thấy một cây cờ mao chín tua giơ lên cao. Kế đó là con ngựa ô chùy, yên vàng khớp bạc. Ngồi dưới ngựa là Hoàng Đế Mông cổ. Một cây lọng vàng cực to che phụ cảngười lẫn ngựa.

Quân Mông cổ thấy nhà vua đến, vội phân đội ngũ rất chỉnh tề tiếp giá, và kịch liệt. Chúng xông vào phía cửa Bắc.

Mỗi lần Hòang đế ngự giá thân chinh, thì Hoàng đế đi trước kế đó là quốc sư và các tướng theo sau.

Đó là một dịp để cho binh sĩ trổ tài đánh giặc, chúng hăng say tử chiến.

Quách Tỉnh đưa hai tay tới trước gọi đám thân binh và đám dân chúng hô to:

-Hỡi anh em! Hôm nay Hoàng đế Mông cổ xâm lăng đến đây cốt ý xem khí phách của người trai đại tống.

Ông vận hết nội lực phát ra âm thanh nên tiếng nói, truyền đi thật xa, khiến mỗi người nghe rõ mồn một.

Binh sĩ trên thành giao chiến hơ n nửa ngày, sức lực đã mệt, nay nghe tiếng hô hào của Quách Tỉnh, làm mọi người hăng chí trở lại.

Họ quyết liều thân tử chiến Nhìn ra ngoài thành, thấy thi thể của quân Mông cổ nằm chồng chất, càng lúc càng cao. Tốp binh sĩ hậu tập tràn lên như nước vỡ bờ, giầy đạp lên những thân đồng đội, cốt ý tiến về phía trước để công thành.

Hoàng đế Mông cổ lại truyền cho đám kị binh điều động thêm binh tới truớc để công thành.

Màn đêm bao phủ, quanh cảnh chiến trường càng thêm ảm đạm thê lương.

Giữa lúc giao tranh thì trong thành ngoài nội hàng muôn bó đuốc đốt lên sáng rực cả một góc trời.

Vị sứ quân thủ thành là Lữ văn Hóan nhìn thấy thanh thế của địch mạnh như cuồng phong, thác lũ, không có một sức mạnh nào cản nổi, khiến ông thối chí bi quan cực độ.

Gương mặt xám ngắt như mẩu đất. Ông bước đến bên Quách Tỉnh nói nhỏ:

-Quách, Quách đại hiệp! Theo tôi thì không thể nào giữ được thành Tương Dương, vậy chúng ta hãy mở cửa nam mà rút quân.

Quách Tỉnh cau mày, mặt giận hầm hầm nói như quát:

-Chớ nên thốt lời như thế! Tương dương còn là chúng ta còn. Tương dương mất là chúng ta phải thác.

Hoàng Dung biết Lữ Văn Hoán bị khủng hoảng tinh thần e lão hạ lịnh thâu quân thì khốn khổ cho mọi người, làm nản lòng binh sĩ, nên bà rút thanh kiếm đưa ngay trước mặt Lữ Văn Hoán, nói:

- Nếu ông còn nói thêm một lời thối quân, thì trước nhất tôi chặt ông ra làm ba để ngăn ngừa binh sĩ.

Lữ Văn Hoán có bốn tên cận vệ bên mình, thấy Hoàng Dung vô lễ với chủ tướng, lật đật bước lên trước mặt bà cản đỡ.

Hoàng Dung quét mạnh một đá làm cho bốn tên cận vệ xiểng niểng, té lăn xuống dưói thành.

Quách Tỉnh lại nói :

- Làm trai giúp nước, là lúc nước nhà điên đảo, chứ mỗi khi thấy giặc là chùn chân, chưa đánh đã đau, đâu xứng đáng là hàng nam tử tu mi ?

Ông dùng lời khiển trách chủ tướng, và cố ý khích động tinh thần binh sĩ, nên quân sĩ đều hăng hái đổ xôlên mặt thành hết sức chống địch.

Lại nghe quan xướng ngôn của quân Mông Cổ truyền lịnh :

- Tất cả quan binh sĩ tốt hãy nghe đây ! Hoàng thượng truyền chỉ, người nào lên được thành trước tiên thì người ấy được phong làm trấn thủ thành này.

Quân Mông Cổ nghe lời truyền, đua nhau trèo lên vách tường đông như kiến cỏ. Chúng bất kể sống chết, chạy theo những vị cầm cờ đỏ xung phong lên mặt thành.

Quách Tỉnh thấy thế của giặc dữ, liền rút ngay chiếc cung ra khỏi vai, đặt lên mũi tên răng sói, nhằm ngay tướng tiên phong mà xạ một phát mãnh liệt.

Mũi tên xuyên qua cổ họng, tên tướng này ngã xuống đất giãy đành đạch. Kế đó ông nhằm ngay tên quan xướng ngôn xạ một phát ngay mặt, làm cho con mắt của viên quan này bắn ra ngoài, té xuống ngựa chết tươi.

Bao nhiêu ý chí chiến đầu của địch quân bị chùn bước hai nguời tiên phong. Qua mấy phút sau, lại có một đoàn quân cảm tử leo lên thành lần nữa

Gia Luật Tề tay cầm trường thương, chạy đến bên Quách Tỉnh cúi đầu thưa :

- Nhạc phụ ! Nhạc mẫu ! Quân Mông Cổ chẳng chịu lùi, vậy nhạc phụ cho phép tiểu tế ra ngoài thành đánh với chúng một trận.

Quách Tỉnh vui vẻ bảo :

- Được ! Ngươi hãy lĩnh ba ngàn nhân mã ra thành khai chiến, nhưng nhớ đề phòng cẩn thận.

Gia Luật Tề liền chạy xuống thành, gióng trống tập binh. Chàng mang theo một ngàn tên Khất Cái và hai ngàn binh ra thành chiến đấu.

Cửa Bắc thành Tương Dương là một trong các cửa bị tấn công rất ngặt, quân Mông Cổ đang ồ ạt công thành, bỗng thấy cửa thành mở toang, hàng ngàn dũng sĩ trào ra như nước lũ. Đám binh sĩ nhà Tống còn khỏe khắn, lại hăng say, ùa nhau giết vô số địch quân. Đoàn quân Mông Cổ cuốn vó chạy dài. Bỗng nhiên trong doanh trại nổi lên ba tiếng pháo lệnh, hai đạo binh thiết mã ào ra như thác lũ, vây hãm Gia Luật Tề và ba ngàn binh sĩ vào giữa.

Đoàn quân của Gia Luật Tề cốt cán là một ngàn Khất Cái, mỗi người đều võ nghệ tinh thông, kiêu hùng thiện chiến. Tuy bị vây hãm nhưng họ vẫn không lộ vẻ gì lo sợ, càng đánh càng say.

Quách Tỉnh, Hoàng Dung và Lữ Văn Hoán ba người đứng trên thành quan sát thế trận, thấy ba ngàn quân của Gia Luật Tề đội ngũ chỉnh tề, tới lui có trật tự, lấy một mà cự với mười, nên ba người cổ võ hoan hô vang dậy. Mỗi cây đuốc, mỗi ngọn đao loang loáng tụa như con rắn khổng lồ, đang vưon mình giao chiến.

Viện binh Mông Cổ càng lúc càng đến tiếp viện, có trên hai muơi muôn binh thiết kỵ đã bao vây Gia Luật Tề và ba ngàn quân Tống dày kịt.

Quách Tỉnh thấy Gia Luật Tề dàn binh án ngữ, cản đội quân công thành của Mông Cổ, liền nảy ra một kế, sai hai anh em họ Võ đem hai ngàn tinh binh, phục kích ngay cửa, chỗ quân Mông Cổ tiến quân lên thành, và lén sai người đến truyền lệnh cho Gia Luật Tề đánh rốc về phía trước.

Trong khoảnh khắc, quân Mông Cổ đã tấn công lên đầu thành đến hơn ngàn tên.

Lữ Văn Hoán thấy quân địch đã lên đến đầu thành, đang hùng hổ giao chiến với quân Tống, làm cho mặt của Lữ Văn Hoán như gà cắt tiết, tay chân run lập cập.

Ông cất giọng run run :

- Quách đại hiệp ! Nếu để như vậy giặc vào thành thì sao ?

Quách Tỉnh làm ngơ không đáp, chỉ đứng yên như pho tượng gỗ. Lúc ông nhìn thấy trăm ngàn binh lính Mông Cổ đã đầy dẫy trên đầu thành, mới đưa cờ vàng ra phất mạnh ba cái, tức thì từ hang hốc nhô lên vô số binh gia tướng sĩ của anh em họ Võ, kế đó có Chu Tử Liễu cùng Võ Tam Thông xuất lãnh 10 đội quân hợp với binh sĩ của Võ Tu Văn và Võ Đôn Nho bao vây thật chặt cánh quân Mông Cổ.

Bấy giờ ngòai thành thì quân Tống bị bao vây, trên đầu thành thì năm ngàn quân Mông Cổ bị kẹt.

Ba cửa thành Đông, Tây, Nam gây ra một trận đánh vô cùng khốc liệt. Những tiếng rú phát ra hãi hùng.

Hoàng đế Mông Cổ từ trên lưng tuấn mã trên một gò cao chỉ huy quân sĩ công thành.

Đoàn giáp binh Mông Cổ người chết kẻ bị thương, chỉ còn năm mươi tên máu thấm giáp sắt, tựa hồ như họ mang hồng giáp.

Hoàng đế Mông Cổ là người Vạn thắng chí tôn, thân thể rất trọng, ông đưa mắt nhìn đám quân nhà đang gục không biết bao nhiêu, khiến cho ông nơm nớp lo sợ và nghĩ:

"Nghe người ta đồn quân Nam là phường vô dụng, kỳ thật họ không phải nhu nhược, mà anh dũng vô cùng.

Bấy giờ đêm đã canh ba, vầng trăng non vừa khuất núi, để lại vòm trời một giải ngân hà và muôn ngàn vì sao lấp lánh.

Trận đại chiến kéo dài từ sáng sớm đến nửa đêm, đôi bên đều tổn hại quá nhiều, kẻ chết, người bị thuơng.

Tống quân chiếm được phần địa lợi, quân xâm lăng Mông Cổ không vì nhiều người mà háo chiến lâu.

Bỗng nghe tiếng còi thâu quân, quân Mông Cổ vừa đánh vừa thối lui, thì hai đạo quân hậu tập của Tống triều kéo đến hợp lực với đội tiên phong đuổi quân Mông Cổ về hướng gò cao chỗ hoàng đế đang ở.

Hoàng đế Mông Cổ thấy khí thế quân Nam quá mạnh, vội hạlệnh bắn đạn vào đoàn quân này, để đạo quân của ông dễ bề rút lui. Hoàng đế Mông Cổ ngồi trên ngựa cao nhìn xuống thấy trong đội hậu tập của Tống quân có một vị trung niên cưỡi ngựa to, tay cầm trường thương tảxung hữu đột, oai phong lẫm liệt như Triệu Tử Long đánh trận Đương Dương, bao nhiêu mũi lang nha tiễn bắn vào người mà không một mũi nào phạm đuợc than thể.

Hoàng đế Mông Cổ lấy làm lạ, đưa tay vẫn một tên quân già đang đánh trống hỏi :

- Ngươi có biết tên dũng tướng kia là ai không ?

Tên lính già đầu bạc hoa râm nói :

- Khải tấu bệ hạ, người này là Quách Tỉnh ! Ngày trước đức Thái tổ Cao hoàng đế phong cho gã làm Kim đao phò mã , đã từng theo Thái tổ chinh tây, lập nhiều chiến công hiển hách cho nước ta.

Hoàng đế Mông Cổ kinh ngạc :

- A ! Chính là gã sao ? Thật là dũng tướng Tống triều, tiếng đồn chẳng sai.

Những tên dũng tướng thấy nhà vua khen ngợi địch quân, làm giảm oai phong của mình, trong lòng căm tức, miệng hét vang lừng, múa đao vun vút, tiến lên giao chiến với Quách Tỉnh.

Quách Tỉnh nghe tiếng hét như sấm, tiếp thấy có 4 tên võ tướng người cao vạm vỡ, cưỡi 4 con ngựa thật to, mỗi người cầm mâu dài, giáo nhọn, tiến đến !

Ông vội thúc ngựa nghênh địch. Bốn tên dũng tướng xông ra một lượt tấn công, đứa thì xà mâu đứa thì đao bén, thương dài, mỗi người cầm một binh khí khác nhau, tấn công Quách Tỉnh tới tấp.

Quách Tỉnh ung dung chống đỡ được 10 hiệp, bỗng hét to một tiếng như sấm nổ, làm cho hai tên dũng tướng thất kinh té xuống ngựa.

Còn hai tên cố chống cự với Quách Tỉnh, bị mỗi đứa một mũi tên vào bụng. Nhờ chúng mặc giáp sắt nên khỏi lủng bụng, nhưng sức mạnh nhu thiên thần của Quách Tỉnh chúng không sao chịu nổi, cả hai ôm bụng rơi xuống ngựa.

Mấy tên thân binh cận tướng của Mông Cổ thấy 4 người võ nghệ tuyệt luân còn phải bại dưới tay Quách Tỉnh, tuy có mặt Hoàng đế, nhưng không có một cận tướng nào dám cậy tài ra đấu với Quách Tỉnh nữa.

Còn những tên xạ thủ sững sờ quên cả xạ tiễn. Quách Tỉnh liền thúc ngựa tiến lên gò, thấy vô số thương, mâu bỏ trước mặt Hoàng đế. Vì chúng đã hoảng sợ liệng khí giới mà chạy.

Quách Tỉnh bị các chướng ngại cản đường nên phi ngựa đến bên Hoàng đế không được.

Bỗng con ngựa của ông hí lên một tiếng vì trúng phải hai mũi tên lút vào bụng, nó lảo đảo ngã quỵ.

Quách Tỉnh không nao núng, nhảy xuống ngựa nhắm ngay một tên kỵ binh đâm tới một thương. Trong khi bất ý, tên này chẳng biết chống trả làm sao chỉ kịp kêu "ái" một tiếng rồi té xuống ngựa.

Quách Tỉnh cướp được ngựa, cố giết thêm mười mấy tên cận tướng của Hoàng đế Mông Cổ.

Hoàng đế Mông Cổ nhìn thấy quân mình rất đông mà không cản trở được Quách Tỉnh, bất giác nhíu mày nói to :

- Hỡi ba quân tướng sĩ ! Ai giết được Quách Tỉnh sẽ được thưởng mười ngàn lạng vàng, thăng quan ba cấp !

Nghe tiếng trọng thưởng, đoàn thân binh Mông Cổ đổ xô đến như bầy ong vỡ tổ.

Quách Tỉnh thấy tình thế nguy cấp nên đưa trường thương đánh vẹt quân Mông Cổ, đoạn giương cung, đặt tên nhắm ngay Hoàng đế Mông Cổ bắn tới.

Mũi tên bay vun vút, hai tên thân binh hộ giá thấy thế, vội nhảy đến trước chắn ngay trước mặt Hoàng đế cản tên.

"Vút" một cái, mũi tên xuyên qua ngực tên thứ nhất. "Vút" một tiếng thứ hai xuyên qua bụng tên thứ hai. Quách Tỉnh buông hai mũi lang nha tiễn kế tiếp xâu hai tên binh thành một, đứng như cột chân trước mặt Hoàng đế.

Hoàng đế thấy việc nguy, mặt mày biến sắc, lật đật thúc ngựa chạy xuống gò

Bấy giờ trong đạo binh Mông Cổ hỗn loạn, tiếng giáo mác rộn lên, binh Tống đến tiếp viện. Đi đầu là tướng trung niên tay múa đôi thiết trường kiếm, chính là Tứ Thủy Ngư ẩn đến tiếp tay với Quách Tỉnh theo lời truyền của Hoàng Dung.

Đạo quân Mông Cổ thấy Hoàng đế rút lui, nên trong lòng rối loạn, trận thế mất cả hàng ngũ, chực chạy trốn.

Hoàng Dung trên thành thấy đội ngũ giặc rối loạn liền bắc loa gọi to :

- Gia gia phát binh ra trận, đã giết chết Hoàng đế Mông Cổ rồi !

Binh sĩ nhà Tống reo hò tở mở :

- Hoàng đế Mông Cổ chết rồi, anh em ơi !

Quân trong thành Tương Dương đã cầm cự với quân Mông Cổ rất lâu, ai nấy đều học đuợc ít nhiều Mông ngữ. Bấy giờ dùng tiếng "cô lô ca la" nói vang trời dậy đất

Binh Mông Cổ nghe tiếng la hét của binh Tống, muôn mắt đổ dồn về phía Hoàng đế, thấy đức vua họ ngồi sững trên lưng ngựa, vẻ mặt như kẻ đã chết rồi. Chúng không phân biệt thực hư mà chỉ đinh ninh vua đã bỏ mạng, làm cho tất cả bọn binh sĩ Mông Cổ mất hết tinh thần chiến đấu. Không ai bảo ai, chúng ồ ạt thối lui ra sau.

Hoàng Dung hạ lệnh đuổi theo, mở toang cửa Bắc xuất ba ngàn tinh binh theo truy nã .

Ba ngàn quân của Gia Luật Tề thừa thế đánh giết không biết bao nhiêu quân Mông Cổ

Quân Mông Cổ rất thạo về chiến đấu, tuy rút lui nhưng cũng để lại mấy ngàn quân thiện chiến cản hậu. Vì thế mà Tống quân truy nã không được.

Hoàng Dung và Gia Luật Tề rút quân vào thành, kiểm điểm lại số tử thi của địch để lại trên năm ngàn ngưòi.

Hoàng Dung cho người nhặt xác đem chôn. Bốn cánh quân bao vây ở bốn cửa thành đều rút sạch. Trời rạng sáng, mọi người nhìn lại cảnh chiến trường chỉ thấy thịt rơi máu chảy, gươm dao kiếm kích còn đầy dẫy trên chiến địa rải rác trong vòng mười dặm.

Khi kiểm điểm tổn thất, quân Mông Cổ thiệt hại từ ba muôn, thành Tương Dương tổn thất một muôn ba ngàn binh sĩ và dân chúng.

Từ khi đạo quân Mông Cổ cất bước xâm lăng đến nay ít khi bị thảm bại như vậy.

Hoàng đế Mông Cổ sau khi rút quân khỏi thành Tương Dương 40 dặm mới an doanh hạ trại, nhớ lại chuyện vừa qua làm ông nửa say nửa tỉnh, ngồi thất thần trên án thư .

Hoàng đệ Hốt Tất Liệt liền đi đến ngự dinh hỏi thăm tình hình chiến sự. Hoàng đế phán :

- Ngự đệ ! Thủa trước phụ hoàng khen tặng Quách Tỉnh là anh hùng, hôm nay qủa nhân mới thấy tận mắt, thật là danh bất hư truyền.

Nguyên vua Mông Cổ và hoàng đệ Hốt Tất Liệt là con của Đà Lôi ! Lúc Quách Tỉnh ở xứ này đã kết nghĩa an đáp với Đà Lôi, 2 người đối đãi với nhau rất thân. Bấy giờ vì nhiệm vụ mà thủ thành chống địch, trên chiến trường không thể nhận mặt nhau.

Hốt Tất Liệt gật đầu không đáp, vẫy tay gọi tên thị vệ đến bảo :

- Ngươi đi triệu mời Tuyên Quốc Sư

* * *

Mặc dầu thành Tương Dương thắng trận, đẩy lui được kẻ địch, nhưng nhà nhà trong thành đều nghe tiếng khóc bi ai. Mẹ khóc con ! Vợ khóc chồng !

Quách Tỉnh, Hoàng Dung không kịp cởi áo giáp nghỉ ngơi đã lo việc đi tuần soát khắp thành, ủy lạo các binh sĩ. Vợ chồng Quách Tỉnh đến thăm Châu- bá- Thông và Lục Vô Song xem thương tích có thuyên giảm chút nào không. Khi thấy cả hai đều bình phục, vợ chồng Quách Tỉnh mới ra vườn hoa trở về phủ.

Buổi sáng hôm sau, khi mặt trời vừa mọc, thì Quách Tỉnh và Lữ Văn Hoán đang ngồi trong phủ đàm đạo mưu lược diệt trừ quân xâm lược. Bỗng một tên thám báo chạy vào nói :

- Có một đạo binh Mông Cổ trên muôn người từ hướng Bắc đến

Lữ Văn Hoán kinh hãi hỏi :

- Đạo quân Mông Cổ đã rút xa rồi kia mà ?

Quách Tỉnh xốc kiếm đứng dậy, lên mặt thành quan sát. Thấy đạo quân này cách thành khoảng 3 dặm, quân số uớc dư ba môn, đứng bày thế trận, nhưng không tấn công thành.

Trong vài giờ sau, chúng đã đốn cây cất một cái đài gỗ cao trên 10 trượng.

Bấy giờ trên mặt thành có cả Nhất-đăng đại sư , Hoàng Dược Sư , Chu Tử Liễu và Hoàng Dung đứng quan sát địch tình.

Khi thấy chúng dựng lên một cái đài cao, mọi người đều không hiểu gì cả.

Chu Tử Liễu nói :

- Quân man rợ, không biết chúng cất ngôi đài cao này để làm gì? Chẳng lẽ cất lên để quan sát tình hình trong thành. Điều này rất vô lý. Nếu chúng muốn vậy,đâu có cất xa đến thế ? Vả lại, quân ta có thể bắn tên lửa đốt đi thì xây cất làm chi cho tốn kém ?

Hoàng Dung cau mày nghĩ không ra lẽ. Không rõ dụng ý của địch quân làm gì.

Khi đài vừa dựng lên xong, thì thấy trên hàng trăm quân Mông Cổ áp tải đến đây cả một đàn ngựa cả trăm con. Mỗi con ngựa có chở trên lưng củi, chà, rơm, cỏ khô. Chúng chất đầy quanh đài. Mọi người thấy thế lấy làm lạ.

Chu Tử Liễu lại nói :

- Không lẽ bọn man di này lấy thành không được cất đài để tự thiêu ? Hay là chúng muốn bày trò quỷ mị để ếm đối chúng ta ?

Hoàng Dung lắc đầu bảo :

- Chẳng bao giờ có chuyện tà quái ấy. Tôi ở tại đất Mông Cổ rất lâu, nhưng không thấy chúng làm những chuyện dị đoan.

Trong lúc mọi người nói chuyện, thì thấy cả ngàn binh sĩ, kẻ đào người cuốc xung quanh đài thành một cái hào, bùn đất vét lên để dựa bờ hào thành bức tường thành nho nhỏ.

Hoàng Dung cả giận nói :

- Đất Tương Dương là quê hương của Gia Cát Võ Hầu đời Tam Quốc, quân rợ Mông Cổ vô lễ, trước cửa vị đại hiền mà dám bày trò khuấy rối, không coi người Tống ra sao cả.

Bấy giờ bỗng có tiếng còi thổi ba hiệp, trống to trống nhỏ đánh "bồng bồng". Hai đạo quân chia hai, mỗi đạo trấn một bên . Trước mặt đài một muôn, sau đài một muôn, tất cả bốn muôn binh vây phủ ngôi đài.

Mỗi đạo dùng mỗi khí giới khác nhau. Chúng đều cầm trường thương, giáo nhọn, siêu đao, cung tên ná lẫy, tựa hồ như có một nhân vật tối quan trọng ở bên trong.

Lại nghe một hồi còi lệnh, tiếng trống ngưng bặt, mọi người đứng yên phăng phắc.

Từ ngoài xa có hai người kỵ mã đi tới mặt đài. Cả hai đều nhảy xuống ngựa và đi tuốt lên đài. Vì cách quá xa, mọi người không nhận rõ mặt mũi hai người này, nhưng cũng rõ một người đàn ông và một thiếu nữ.

Mọi người càng ngạc nhiên không đoán đuợc sự tình. Hoàng Dung nhìn trân trối, đoạn kêu lên một tiếng "a", mặt mày bà xám lại, đầu óc choáng váng muốn té ngã . May nhờ mọi người ra tay đỡ kịp, nhưng bà ngất xỉu rất lâu.

Mọi người lo cấp cứu cho bà tỉnh dậy, hỏi dồn dập :

- Chuyện gì thế ? Tại sao thế ?

Hoàng Dung mặt mày nhợt nhạt, nghẹn ngào nói :

- Người thiếu nữ kia chính là con ta Tường nhi ! Mọi người cả kinh đưa mắt nhìn nhau.

Chu Tử Liễu lại hỏi :

- Quách phu nhân, bà có nhận đúng không ?

Hoàng Dung nghẹn ngào nói :

- Tuy ta nhìn không rõ mặt mày nó, nhưng thấy tay áo và vạt áo rách nát, thì chính là nó chẳng sai. Thật quân Mông Cổ dã man không lường đuợc. Chúng đánh không thắng nổi, mới bày ra gian kế bắt con ta làm vật hy sinh. Thật là quân xâm lược bạo tàn.

Hoàng Dược Sư , Chu Tử Liễu nghe Hoàng Dung nói họ đã hiểu cái độc kế thế nào rồi. Cả hai mặt mày biến sắc.

Quách Tỉnh ngây người không hiểu gì cả, nên hỏi :

- Tường nhi à ? Vô lý. Tường nhi đi đâu lên đài này chứ ? Còn quân Mông Cổ bày kế gì?

Hoàng Dung đứng thẳng người lên và nói :

- Tỉnh ca ca ! Tường nhi rủi lọt vào tay quân giặc nên chúng đem nó lên đài mà đốt, buộc ông phải hàng phục, nếu ông không hàng phục thì cha con vĩnh viễn lìa xa, tâm trí mờ tối, đâu có ý chí mưu lược để chống lại chúng ?

Quách Tỉnh ca ûgiận la lớn :

- Dung nhi ! Ngươi ở đâu mà lại để Tường nhi đi lọt vào tay quân giặc ?

Hoàng Dung trả lời :

- Mấy ngày qua tình thế rất ngặt nghèo, tôi sợ ông bối rối nên không dám nói cho ông nghe.

Hoàng Dung liền kể lại đầu đuôi Quách Tường bị Kim Luân Pháp Vương bắt tại Tuyệt Tình Cốc.

Quách Tỉnh nghe Dương- Qua còn ở dưới hang sâu tại Tuyệt Tình Cốc, lật đật gạn hỏi đầu đuôi tỏ ra lo lắng cho Dương- Qua còn hơn cả Quách Tường.

Võ Tam Thông, Tứ Thủy Ngư ẩn, Chu Tử Liễu ba người này gật gù khen thầm :

- Quách đại hiệp thấy con gái sắp bị thảm tử, hoàn cảnh nguy cấp hiểm nghèo, mà không nghĩ tới việc giải cứu, lại lo sự mất còn của Dương- Qua, thật là người nhân hiệp, ít ai bì kịp.

Quách Tỉnh nghe Hoàng Dung nói xong, ông nhíu mày :

- Dung nhi ! Em làm như thế là sai rồi. Qua nhi sống chết chưa biết, sao em nỡ bỏ đi ?

Quách Tỉnh là người rất kính yêu vợ, không khi nào ông nặng lời với vợ trước đám đông, hôm nay ông lỡ lời trách cứ khiến cho Hoàng Dung sượng mặt.

Nhất-đăng đại sư lên tiếng bào chữa cho Hoàng Dung :

- Quách phu nhân đã lặn xuống bờ hồ, tuyết đóng đầy mặt, lục soát khắp nơi mà không gặp Dương- Qua. Lúc Quách tiểu cônương lọt vào tay tên ác tăng, chính lão vầy đoàn với Quách phu nhân đi tìm, mà chẳng gặp. Quách đại hiệp không nên trách cứ Quách phu nhân.

Nghe Nhất-đăng đại sư nói thế, Quách Tỉnh không trách vợ nữa, thở dài nói :

- Chuyện của Quách Tường không can hệ bằ ng đại sự quốc gia. Tôi muốn để quân Mông Cổ thiêu nó thành tro cho rồi.

Hoàng Dung không nói một lời, lặng lẽ bước xuống đài, chọn một con tuấn mã phi nước đại ra ngoài cửa Bắc.

Mọi người nghe Hoàng Dung đơn thân độc m ra khỏi thành, ai cũng lo lắng.

Nhất-đăng đại sư , Hoàng Dược Sư , Quách Tỉnh, Chu Tử Liễu lật đật lên ngựa đuổi theo.

Khi họ chạy đến gần đài cao này thì nhìn thấy trên đài có hai người, một lão hòa thượng mặc áo bào vàng, và một cô bé gái còn trẻ, hai tay bị cột vào giữa đài. Đó chính là Kim Luân Pháp Vương và Quách Tường.

Quách Tỉnh tuy cho việc Quách Tường là nhỏ, nhưng phụ tử tình thâm, làm cho ông không khỏi chua xót n o nề. Ông vội vã gọi to :

- Tường nhi ! Có cha mẹ đến cứu con đây ! Nội lực của Quách Tỉnh quá sung mãn, nên tiếng nói của ông vang đi ở bên đài nghe rất rõ.

Quách Tường bị trói tại đây, vì bị tia nắng chiếu vào mặt làm lòa cả mắt. Khi nghe tiếng cha gọi, nàng vội kêu to :

- Cha mẹ ! Mau đến đây ! Cha mẹ !

Nàng bị trói trên cột trụ cao, nói vọng xuống rất nhỏ, Quách Tỉnh và Hoàng Dung không nghe được tí nào.

Kim Luân Pháp Vương đắc chí cười to :

- Quách đại hiệp ! Việc phóng thích lệnh ái rất dễ ! Không biết đại hiệp nghĩ sao ?

Quách Tỉnh càng nghĩ ngợi càng buồn ! Đứng vào hoàn cảnh này thật khó xử. Nghe Pháp Vương nói, ông tức giận vô cùng, hét :

- Pháp Vương ! Ngươi muốn đưa ra vấn đề gì, hãy nói thẳng ra !

Kim Luân Pháp Vương cười ngất, nói :

- Nếu ngươi vị tình phụ tử, muốn đem lệnh ái về thì khó khăn gì đâu, ngươi hãy lên đài trói tay vào cột trụ, một người đổi một người.

Pháp Vương biết ý Quách Tỉnh là người cang trường đại nghĩa, đâu vì đứa con nhỏ mà bỏ bá tánh trong thành Tương Dương. Do đó Pháp Vương mới dùng lời nói khích, đánh vào lòng cương dũng của Quách Tỉnh để Quách Tỉnh lọt vào mưu kế của mình.

Không ngờ Quách Tỉnh chẳng mắc mưu của lão, từ tốn trả lời :

- Không thể được. Rợ Mông ! Nếu chúng bay không sợ ta thì đâu có đem con gái ta ra để dọa nạt.

Pháp Vương cười lanh lảnh nói :

- Người ta nói Quách đại hiệp võ công trác tuyệt, kiêu dũng khôn lường, ta ngờ đâu lại là một kẻ tham sống sợ chế, nỡ bỏ con mình.

Dù cho Pháp Vương có nói khích đến mức nào, Quách Tỉnh cũng cố nhịn. Sứ mạng bảo vệ thành Tương Dương là trọng hơn, cho nên Quách Tỉnh chỉ im lặng không đáp.

Mấy lời nói xúc phạm đến danh dự của Quách Tỉnh làm cho Võ Tam Thông và Chu Tử Liễu nổi giận, kẻ song trùy, người song thương vùn vụt phi ngựa lên trước.

Quân Mông Cổ đã dàn sẵ n cung nỏi chỉ chờ hai người đến bên đài thì hàng ngàn mũi lang nha tiễn bắn ra.

Nhất-đăng đại sư thấy tình hình nguy ngập, sợ mấy người này làm hỗn mà hư việc, vội vã nhảy xuống ngựa, chạy đến trước đầu ngựa của hai người cản lại.

Ông giơ tay áo phất mạnh, hai con ngựa bị sức mạnh của luồng kình phong dừng hẳn lại. Ông quát to :

- Chúng bay hãy trở về ngay !

Võ Tam Thông và Chu Tử Liễu sẵn mang trong người bầu nhiệt huyết, họ cũng biết đến đây là không còn mạng trở về. Khi thấy sư phụ bước đến cản, hai người chẳng dám trái lời, quay ngựa trở lại.

Quan binh Mông Cổ thấy lão hòa thượng chạy đuổi kịp đôi tuấn mã , không ngớt lời ca tụng và thán phục vô cùng.

Pháp Vương nói :

- Quách đại hiệp ! Lệnh ái thông minh lanh lợi, lão rất lấy làm hoan hỉ. Thâm ý của lão muốn thu nói làm đệ tử để truyền hết võ học của mình. Nhưng thánh chỉ đã hạ lệnh nếu ta không quy hàng được Tống quân thì cho đốt lửa thiêu đài. Không phải một mình ngươi thống khổ, mà lão tăng cũng phiền muộn vô cùng.

Quách Tỉnh xì một tiếng, đưa mắt nhìn bốn bên, thấy trên mười tên dũng sĩ tay cầm đuốc đỏ rực, chỉ chờ lệnh Pháp Vương là châm vào cỏ khô. Dưới đài, bốn muôn binh mã đã dàn trận.

Quách Tỉnh đau buồn nghĩ đến khi ngọn lửa bốc cháy, biết liệu cách nào để cứu được Quách Tường?

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top

Tags: #tddh