Phần 16

PHẦN 16
Lời khuyên! Mọi người muốn những lời khuyên nhiều tới mức họ không chỉ khao khát nhận được mà còn khao khát cho đi
những lời khuyên. Điều này liên quan tới lòng tham, và cả lòng kiêu hãnh. Bạn sẽ ngạc nhiên khi thấy đôi khi, những người thực
sự thông minh cũng tìm kiếm lời khuyên. Và những người cho lời khuyên không hề băn khoăn lời khuyên của họ có ích hay
không, bởi những người tìm kiếm lời khuyên không chỉtìm những lời khuyên hay, họ theo đuổi tất cả. Nếu những lời đó có thể
thì tốt. Nếu không, lần sau họ sẽ may mắn hơn. Tôi đang nghĩ tới lượng khách hàng trung bình của các văn phòng môi giới trung
bình. Những người đề xướng hay những người thực hiện, đó là những người lúc nào cũng tin vào những lời khuyên. Họ coi những
luồng tin như những công việc quảng bá lý tưởng, những nguồn tin riêng tốt nhất cho nghề buôn, vì đưa ra lời khuyên đã trở
thành một hình thức quảng cáo vô tận, bởi chính những người tìm kiếm lời khuyên và những người nhận lời khuyên luôn là
những người truyền tin. Những người đề xướng cho lời khuyên luôn ảo tưởng rằng sẽ không có ai bỏ qua những lời mách nước
nếu chúng được tiết lộ theo cách hợp lý. Vậy là anh ta học được nghệ thuật tiết lộ một cách khéo léo.
Hằng ngày, tôi nhận được hàng trăm lời khuyên từ đủ loại người. Tôi muốn kể cho các bạn nghe câu chuyện về Borneo Tin.
Bạn còn nhớ lúc nào cổ phiếu của công ty này được tung ra khi nào chứ? Đó là khi thời kỳ bùng nổ đạt đến đỉnh điểm. Một tập
hợp những người đề xướng đã nghe theo lời khuyên của một ông chủ ngân hàng tài giỏi và quyết định mở một công ty mới trên thị
trường tự do thay vì tiếp tục hoạt động của nghiệp đoàn. Đó là một lời khuyên hay. Nhưng sai lầm mà những người này đã mắc
phải là do thiếu kinh nghiệm. Họ không biết thịtrường chứng khoán có thể làm gì trong giai đoạn bùng nổ dữ dội và họ cũng
không biết cách mở rộng thịtrường. Họ nhất trí với nhau rằng cần phải tăng giá cổ phiếu bán ra, nhưng họ bắt đầu công việc giao
dịch với một mức giá mà những người giao dịch và những người đầu cơ tiên phong không thể mua mà không cảm thấy nghi ngại.
Đúng ra, họ đã phải gặp rắc rối với mức giá đó, nhưng trong thịtrường đầu cơ giá lên sôi động, lòng tham của họ hoá ra lại chỉ
ở mức vừa phải. Dân chúng sẽ mua tất cả những gì họ được mách nước bằng những cách thỏa đáng. Họ không muốn có những vụ
đầu tư. Cái họ đòi hỏi là những khoản tiền có thể kiếm được dễ dàng, là những khoản lãi từ những canh bạc chắc chắn. Vàng chảy
vào đất nước này nhờ những vụ mua bán vật liệu cho chiến tranh. Người ta nói với tôi rằng, trong quá trình lập kế hoạch bán ra
cổ phiếu Borneo, những người đề xướng này đã ba lần nâng mức giá niêm yết trước khi giao dịch đầu tiên của họ được chính thức
ghi nhận là vì lợi ích của dân chúng.
Tôi cũng đã nhận được lời đề nghị gia nhập nhóm này. Tôi đã xem xét nó nhưng cuối cùng không chấp nhận gia nhập bởi
nếu có làm bất kỳ vụ làm ăn nào trên thịtrường, tôi thích tự mình làm hơn. Tôi giao dịch dựa trên những thông tin của riêng tôi
và theo cách thức của riêng tôi. Khi cổ phiếu Borneo Tin được bán ra, với những hiểu biết về tài xoay xở của tổ hợp này và
những kế hoạch của họ, cũng như khả năng của dân chúng, tôi mua mười ngàn cổ phần ngay trong giờ đầu tiên của ngày đầu tiên.
Ít nhất tới chừng mực đó, lần ra mắt của cổ phiếu này trên thịtrường đã thành công. Thực tế là, những người đề xướng đó nhận
thấy nhu cầu lớn tới mức họ cho rằng để vuột nhiều cổ phiếu sớm đến thế là một sai lầm. Cùng lúc nhận ra tôi đã có mười ngàn cổ
phiếu, họ cũng nhận thấy rằng họ vẫn có thể bán đi tất cả số cổ phiếu họ đang sở hữu nếu họ chỉtăng giá thêm hai mươi lăm hoặc
ba mươi điểm. Vậy là họ kết luận rằng khoản lãi từ mười ngàn cổ phiếu đó của tôi sẽ là một khoản quá lớn bị rút ra từ hàng triệu
đô-la mà họ cảm thấy đã nắm chắc trong tay. Và họ ngừng những hoạt động đầu cơ tăng giá của họ và cố gắng đẩy bật tôi ra.
Nhưng tôi vẫn đứng vững ở đó. Họ muốn rũ bỏ tôi như một thứ bệnh dịch nào đó chỉ bởi họ không muốn mất bất kỳ khoản tiền lãi
nào từ thịtrường. Và họ lại tăng giá, để không làm mất thêm bất kỳ cổ phiếu nào.
Họ đã thấy giá của những cổ phiếu khác tăng cao đến mức nào và họ bắt đầu nghĩ đến tiền tỷ. Và, khi giá cổ phiếu của
Borneo Tin tăng lên mức 120, tôi bán cho họ số cổ phần của tôi. Vụ đó làm ngừng việc giá tăng và những người đứng đầu tổ hợp
cũng ngừng quá trình kích giá. Trong đợt phục hồi chung tiếp theo, họ lại cố gắng tạo ra một thịtrường năng động cho cổ phiếu
này và chỉ bán ra một lượng nhỏ, nhưng với mức giá khá cao. Cuối cùng, họ cũng tăng được giá lên mức 150. Nhưng thời kỳ bùng
nổ của thịtrường đầu cơ giá lên đã qua, vì vậy, tổ hợp này buộc phải bán số cổ phiếu đang mất giá cho những người thường mua
vào sau những đợt giảm giá mạnh, với ảo tưởng rằng những cổ phiếu đã từng được bán ở mức 150 giờ đây có thể được mua rẻ ở
mức 130 hay mức giá hời 120. Đồng thời, họ cũng đưa ra những lời mách nước, đầu tiên là cho những người giao dịch trên sàn,
những người có thể tạo ra một thịtrường tạm thời, và sau đó là các công ty môi giới. Họ đã vận dụng tất cả những cách thức họ
biết và tận dụng mọi nguồn có thể giúp họ. Vấn đề là thời kỳ của cổ phiếu đầu cơ giá lên đã qua. Những con cá khờ đã đớp những
mồi câu khác. Đám người ở Borneo đã hoặc sẽ không nhận thấy điều ấy.
Khi đó tôi đang cùng vợ nghỉ ở Palm Beach. Một hôm, tôi kiếm được một khoản nhỏ ở sở Gidley. Khi về nhà, tôi đã đưa cho
vợ tôi một hối phiếu năm trăm đô-la. Thật là một sự trùng hợp kỳ lạ khi ngay trong bữa tối hôm đó, vợ tôi gặp chủ tịch công ty
Borneo Tin, một ông Wisenstein nào đó, người đã trở thành chủ tịch của tổ hợp chứng khoán đó. Mãi sau này chúng tôi mới
được biết ông Wisenstein đó đã cố ý sắp xếp để được ngồi cạnh vợ tôi vào buổi tối hôm đó.
Ông ta tỏ ra khá tử tế với vợ tôi và nói chuyện khá hấp dẫn. Cuối cùng, ông ta nói riêng với vợ tôi: “Thưa bà Livingston, tôi
sắp làm một việc tôi chưa từng làm. Tôi rất vui được làm việc này bởi bà sẽ biết chính xác nó có nghĩa là gì.” Ông ta dừng lại rồi
nhìn vợ tôi với vẻ đầy lo âu, như muốn chắc chắn cô ấy không chỉthông minh mà còn là người kín đáo. Cô ấy có thể thấy rõ điều
đó trên mặt ông ta, rõ như ban ngày vậy. Nhưng tất cả những gì cô ấy nói lại là: “Vâng?”
“Vâng, thưa bà Livingston. Tôi thật vui khi được gặp bà và chồng bà, và tôi muốn chứng minh những lời nói đó là thành thật bởi tôi còn muốn gặp lại ông bà nhiều. Tôi đảm bảo với bà rằng những điều tôi sắp nói sau đây là những tin mật!”. Rồi ông ta thì
thầm, “Nếu bà mua một ít cổ phiếu Borneo Tin, bà sẽ kiếm được một khoản lớn đấy.”
‘Ông nghĩ vậy à?” cô ấy hỏi lại.
“Ngay trước khi tôi rời khách sạn,” ông ta trả lời, “Tôi nhận được một số tin tức chắc chắn sẽ chưa được công bố rộng rãi
trong mấy ngày tới. Tôi đang định thu thập cổ phiếu Borneo Tin càng nhiều càng tốt. Nếu bà định mua một ít khi thịtrường mở
cửa ngày mai, chúng ta sẽ mua cùng lúc với cùng một mức giá. Tôi đảm bảo với bà giá cổ phiếu Borneo Tin chắc chắn sẽ tăng lên.
Bà là người duy nhất tôi tiết lộ tin này. Người duy nhất!”
Vợ tôi cảm ơn ông ta và sau đó nói rằng cô ấy không biết gì về đầu cơ chứng khoán. Nhưng ông ta lại đảm bảo với cô ấy rằng
cô ấy chỉ cần biết những gì ông ta đã nói, thế là đủ. Để chắc chắn vợ tôi đã nghe rõ, ông ta nhắc lại:
“Tất cả những gì bà phải làm là mua cổ phiếu của Borneo Tin hết mức bà muốn. Trong cuộc đời mình, tôi có thể đảm bảo bà
sẽ không mất một xu nào. Tôi chưa từng khuyên bất kỳ người phụ nữ - hay đàn ông nào — mua bất kỳ thứ gì. Nhưng tôi chắc
chắn là cổ phiếu này sẽ không dừng ở mức dưới 200 và tôi muốn bà kiếm được một khoản. Tôi không thể tự mình mua hết số cổ
phiếu đó, nếu có ai khác cũng được hưởng lợi từ đợt tăng giá này, tôi muốn người đó là bà chứ không phải là một ai khác. Đó là sự
thật. Tôi nói riêng với bà điều này vì tôi biết bà sẽ không nói cho ai khác. Thưa bà Livingston, xin bà hãy nghe lời tôi và mua cổ
phiếu Borneo Tin!”
Thái độ rất nghiêm chỉnh của ông ta đã thuyết phục được vợ tôi và cô ấy bắt đầu nghĩ rằng cô ấy đã tìm ra cách đầu tư tuyệt
vời số tiền tôi đã đưa cho cô ấy chiều hôm đó. Số tiền đó chẳng làm tôi mất gì và cũng nằm ngoài khoản trợ cấp của cô ấy. Nói
cách khác, nếu vận may quay lưng lại với cô ấy, mất đi số tiền đó cũng không thành vấn đề gì. Nhưng ông ta đã khẳng định là cô
ấy sẽ thắng. Có thể kiếm tiền theo cách riêng rồi sau đó kể lại cho tôi, đối với cô ấy đó là một điều thú vị.
Và, thưa các bạn, ngay buổi sáng hôm sau, trước khi thịtrường mở cửa, cô ấy đến văn phòng của Harding và nói với người
quản lý:
“Anh Haley, tôi muốn mua một ít cổ phiếu, nhưng tôi không muốn sử dụng tài khoản thông thường của tôi vì tôi không
muốn chồng tôi biết gì về vụ này trước khi tôi kiếm được tiền. Anh giúp tôi được không?”
Haley, người quản lý, đáp lời: “Ồ, được thôi. Chúng ta có thể tạo ra một tài khoản đặc biệt. Bà muốn mua cổ phiếu nào và
bao nhiêu?”
Vợ tôi đưa cho ông ấy tấm hối phiếu năm trăm đô-la và nói, ”Xin anh nghe kĩ cho. Tôi không muốn mất nhiều hơn số tiền
này. Nếu có mất, tôi không muốn có chút nợ nần nào với anh, và xin anh nhớ cho, tôi không muốn ông Livingston biết gì về việc
này. Anh hãy dùng toàn bộ số tiền này mua cho tôi cổ phiếu của Borneo Tin, ngay khi thịtrường mở cửa.”
Haley cầm tiền và hứa rằng sẽ không tiết lộ việc này với bất kỳ ai, và mua cho cô ấy một trăm cổ phần ngay khi thịtrường
mở cửa. Tôi nghĩ cô ấy mua được ở mức 108. Ngày hôm đó, cổ phiếu đó đã rất năng động và đóng cửa với mức tăng ba điểm. Vợ
tôi rất hài lòng với khoản đầu tư này, và lấy làm thích thú khi không nói cho tôi về nó.
Đúng lúc đó, tôi đang đầu cơ giá hạ trên thịtrường chung. Sự năng động bất thường của cổ phiếu Borneo Tin đã thu hút sự
chú ý của tôi. Tôi không nghĩ đây là thời điểm thích hợp để bất kỳ cổ phiếu nào tăng giá, với cổ phiếu này lại càng không. Tôi đã
quyết định bắt đầu các hoạt động đầu cơ giá hạ ngay ngày hôm đó, và tôi bắt đầu với việc bán mười ngàn cổ phiếu Borneo Tin.
Nếu tôi không làm thế, tôi nghĩ có lẽ giá cổ phiếu đó đã tăng lên năm hay sáu điểm chứ không phải ba.
Sang ngày hôm sau, tôi bán tiếp hai ngàn cổ phần khi thịtrường mở cửa và thêm hai ngàn nữa ngay trước khi thịtrường
đóng cửa. Giá cổ phiếu Borneotin giảm xuống còn 102.
Buổi sáng ngày thứ ba, Haley, người quản lý văn phòng chi nhánh của Harding Brother’s ở Palm Beach, đang chờ vợ tôi ghé
qua. Cô ấy thường đến đó lúc mười một giờ để xem liệu tôi đang làm gì và mọi việc được tiến hành đến đâu.
Haley kéo bà qua một bên và nói, “Bà Livingston, nếu bà muốn tôi giữ lại một trăm cổ phần của Borneo Tin cho bà, bà phải
cho tôi thêm số dư ký quỹ.”
“Nhưng tôi làm gì còn,” vợ tôi trả lời.
“Tôi có thể chuyển sang tài khoản thường dùng của bà”, ông ấy gợi ý.
“Không được,” cô ấy phản đối, “Nếu thế, chồng tôi sẽ biết về việc này mất.”
“Nhưng tài khoản đã cho thấy bà lỗ khoảng …” ông ấy bắt đầu. “Nhưng tôi đã nói rõ với anh là tôi không muốn mất nhiều hơn năm trăm đô-la. Thậm chí tôi còn chẳng muốn mất chừng đó
nữa,” vợ tôi cắt ngang.
“Tôi biết, bà Livingston, nhưng tôi không muốn bán chúng trước khi bàn bạc với bà, và bây giờ, trừ khi bà cho phép tôi giữ
chúng, nếu không tôi sẽ phải bán ra.”
“Nhưng hôm trước, khi tôi mua chúng, mọi việc đã diễn ra khá tốt đấy thôi,” cô ấy nói, “Tôi không nghĩ mọi chuyện có thể
thành ra thế này sớm đến vậy.”
“Không,” Haley trả lời, “Tôi cũng không nghĩ vậy.” Các văn phòng môi giới thường rất khéo léo trong những việc phát ngôn
kiểu này.
“Vậy là đã có chuyện gì, anh Haley?”
Haley biết là chuyện gì, nhưng anh ấy không thể nói mà không tiết lộ tôi ra, và công việc kinh doanh của một khách hàng
không thể bịtiết lộ. Vì vậy, anh ấy trả lời: “Tôi cũng không nghe được tin gì đặc biệt, bằng cách này hay cách khác. Bà thấy đó!
Giá thấp thế thì khó mà lên được!” và anh ấy chỉ vào bảng tin.
Vợ tôi nhìn chằm chằm vào con số đang giảm dần của cổ phiếu đó và thét lên: “Ôi, anh Haley! Tôi không muốn mất năm
trăm đô-la đó! Tôi phải làm gì đây?”
“Tôi không biết, bà Livingston, nhưng nếu tôi là bà, tôi sẽ đi hỏi ông Livingston.”
“Ôi, không! Ông ấy không muốn tôi đầu tư theo cách riêng của tôi. Ông ấy đã bảo tôi thế. Ông ấy sẽ mua hoặc bán cổ phiếu
cho tôi nếu tôi nói với ông ấy, nhưng tôi chưa từng làm bất kỳ vụ giao dịch nào mà ông ấy không biết. Tôi không dám nói với ông
ấy đâu.”
“Được rồi,” Haley dịu dàng an ủi, “Ông ấy là một người giao dịch tài ba và ông ấy sẽ biết phải làm gì mà.” Nhìn thấy vợ tôi lắc
đầu kịch liệt, anh ấy nói thêm, “Nếu không, bà phải đưa thêm cho tôi một hoặc hai ngàn để giữ số cổ phiếu đó.”
Cô ấy cần quyết định ngay tại đó và ngay lập tức. Cô ấy đi lại quanh phòng, nhưng khi thịtrường ngày càng yếu hơn, cô ấy
tìm đến nơi tôi đang ngồi theo dõi bảng tin và nói rằng cô ấy muốn nói chuyện riêng với tôi. Chúng tôi đến văn phòng riêng của
tôi và cô ấy kể cho tôi nghe mọi chuyện. Vậy là tôi chỉ còn biết nói, “Cô bé ngốc nghếch ơi, em phải rút lui khỏi vụ đó thôi.”
Cô ấy hứa sẽ làm thế, và tôi đưa cho cô ấy năm trăm đô-la khác, và cô ấy vui vẻ rời phòng. Lúc đó, giá cổ phiếu đó đang ở
mức danh nghĩa.
Tôi hiểu chuyện gì đã diễn ra. Ông Wisenstein đó là một người khá tinh ranh. Ông ta cho rằng vợ tôi sẽ nói với tôi những
điều cô ấy đã nghe được và tôi sẽ nghiên cứu cổ phiếu đó. Ông ta biết rằng mức năng động như thế có thể hấp dẫn tôi và người ta
đã quen với việc tôi thường xoay xở được với lượng cổ phiếu khá lớn. Tôi nghĩ ông ta cho rằng tôi sẽ mua vào mười hoặc hai mươi
ngàn cổ phần.
Đó là một trong những lời khuyên được lên kế hoạch và được đưa ra một cách khéo léo nhất tôi từng được nghe. Nhưng nó
đã đến nhầm chỗ. Và phải như vậy. Ngay hôm đó, người phụ nữ đó đã kiếm được một khoản năm trăm đô-la trời cho. Vì đang
trong tâm trạng muốn phiêu lưu hơn bình thường, cô ấy muốn tự mình kiếm được vài đồng. Với kiểu xúc động đúng của phụ nữ,
lời khuyên đó có sức hấp dẫn quá lớn, tới mức không thể cưỡng lại. Cô ấy biết tôi suy nghĩ gì về những vụ đầu tư của những người
không thông thạo, nên cô ấy không dám đề cập đến việc đó với tôi. Wisenstein đã đánh giá sai tâm lý của vợ tôi.
Ông ta cũng hoàn toàn sai lầm khi phỏng đoán tôi là kiểu người giao dịch nào. Tôi không bao giờ nghe theo những lời mách
nước và tôi đầu cơ giá hạ trên toàn bộ thịtrường. Những chiến thuật ông ta nghĩ có thể có hiệu quả nhằm lôi kéo tôi mua cổ phiếu
Borneo — đó là, mức năng động đó và ba điểm tăng giá — hóa ra lại là những gì khiến tôi chọn cổ phiếu Borneo làm điểm khởi
đầu khi tôi quyết định bán ra.
Sau khi nghe chuyện của vợ tôi, tôi lại càng muốn bán cổ phiếu của Borneo hơn bao giờ hết. Mỗi buổi sáng vào lúc thịtrường
mở cửa và mỗi buổi chiều khi thịtrường chuẩn bị đóng cửa, tôi lại đều đặn bán ra, cho đến khi tôi nhận thấy có cơ hội bù lại số
bán khống với một món lợi hậu hĩ.
Tôi cho rằng giao dịch dựa trên những lời mách nước là việc làm ngu ngốc nhất. Tôi cho rằng tôi đã không làm theo những
cách thức mà những người nghe theo lời mách nước đã làm. Đôi khi, tôi nghĩ những người tin theo những lời mách nước đó là
những người say. Có những người không thể nhịn được cơn thèm khát và lúc nào cũng trông đợi những cơn say mà họ cho rằng là
những nguồn vui không thể thiếu. Điều dễ làm nhất để được vui vẻ là nghe theo những gì được mách bảo — Đó cũng là bước đầu
tiên và dài nhất nhằm thỏa mãn những khát khao trong tim bạn. Lòng tham có thể khiến bạn say mê tới mức mờ mắt, nhưng vẫn
không bằng ảnh hưởng của hi vọng cùng thói lười suy nghĩ. Và không chỉ những người thiếu kinh nghiệm mới là những người tin theo lời mách nước. Có những người giao dịch chuyên
nghiệp trên sàn giao dịch chứng khoán New York cũng tệ như vậy. Tôi biết rõ có rất nhiều người trong số họ ấp ủ những quan
điểm sai lầm về tôi chỉ vì tôi chưa từng cho ai lời khuyên. Nếu tôi nói với một người, “Hãy bán ngay năm ngàn cổ phiếu của
Steel!”, anh ta sẽ thực hiện ngay lập tức. Nhưng nếu tôi nói với anh ta tôi đang đầu cơ giá hạ trên thịtrường và giải thích cho anh
ta những lý do của tôi, anh ta cảm thấy khó khăn khi nghe tôi nói. Sau khi tôi đã nói hết, anh ta lại nhìn tôi với ánh mắt giận dữ vì
đã lãng phí thời gian của anh ta bằng cách giải thích những quan điểm của tôi về các tình thế chung thay vì cho anh ta một lời
khuyên rõ ràng và trực tiếp, giống như những con người bác ái đang xuất hiện đầy rẫy ở phố Wall, những người thích bỏ hàng
triệu bạc vào túi những người bạn, người quen và kể cả những người hoàn toàn xa lạ.
Niềm tin vào những đìều kỳ diệu mà con người thường ấp ủ được sinh ra từ tình trạng đắm mình thái quá trong hi vọng. Có
những người thường xuyên đắm chìm trong hi vọng cũng như tất cả chúng ta đều biết họ vẫn xuất hiện trước mặt chúng ta như
những con người lạc quan mẫu mực. Tất cả bọn họ đều là những người tin theo lời mách nước.
Tôi có một người quen, một thành viên của Sở giao dịch chứng khoán New York, một trong số những người vẫn thường nghĩ
tôi là một kẻ tham lam, ích kỷ và máu lạnh bởi tôi chưa bao giờ đưa ra lời khuyên hay giúp bạn bè kiếm được chút gì. Một hôm -
khoảng vài năm trước — anh ta đang nói chuyện với một phóng viên, người tình cờ nói rằng anh ta được một nguồn tin đáng tin
cậy cho biết giá cổ phiếu G. O. H sẽ tăng lên. Anh bạn làm môi giới của tôi lập tức mua vào một ngàn cổ phần và nhận ra giá cổ
phiếu đó giảm nhanh chóng tới mức, trước khi anh ta kịp ngăn chặn những thua lỗ của mình, anh ta đã mất ba ngàn năm trăm
đô-la. Một hai ngày sau, anh ta gặp lại người bạn phóng viên, khi đó anh ta vẫn còn rất tức tối.
“Lời khuyên của cậu hay nhỉ,” anh ta càu nhàu.
“Lời khuyên nào cơ?” anh chàng phóng viên, rõ ràng là chẳng còn nhớ gì cả, hỏi lại.
“Về cổ phiếu G. O. H đó. Cậu đã nói là cậu có tin đó từ một nguồn đáng tin cậy mà.”
“Đúng là vậy mà. Một giám đốc một công ty và là thành viên một ủy ban tài chính đã nói với tôi thế mà.”
“Đấy là ai mới được chứ?”, anh chàng môi giới hậm hực hỏi.
“Nếu cậu cứ muốn biết,” anh chàng phóng viên trả lời,
“Đó chính là bố vợ cậu, ông Westlake.”
“Sao cậu không nói quách ra là ông ấy ngay từ đầu chứ?” người môi giới hét lên. “Cậu làm tôi mất ba ngàn năm trăm đô-la
rồi đấy!” Anh ta không tin vào những lời khuyên từ gia đình. Nguồn tin càng xa, lời khuyên càng đúng hơn.
Ông già Westlake là một ông chủ ngân hàng và một người đề xướng giàu có và thành đạt. Một hôm ông ta tình cờ gặp John
W. Gates. Gates hỏi ông ta xem ông ta biết điều gì. “Nếu cậu làm đúng theo những lời tôi nói, tôi sẽ cho cậu lời khuyên, còn nếu
không, tôi đỡ mất công nói,” ông già Westlake trả lời với vẻ gắt gỏng.
“Dĩ nhiên là tôi sẽ làm theo lời ông,” Gates hồ hơi hứa hẹn.
“Hãy bán cổ phiếu Reading đi! Cậu sẽ kiếm được khoảng hai mươi lăm điểm, có thể còn hơn nữa. Nhưng chắc chắn là được
hai mươi lăm điểm,”
“Cám ơn ông rất nhiều” Gate, vẻ mặt cá-với-bạn-cả- triệu-đô, siết chặt tay ông già rồi đi thẳng về hướng văn phòng môi giới
của anh ta.
Westlake chuyên về cổ phiếu Reading. Ông ta biết tất cả về công ty đó và đứng chung thuyền với những người nội bộ. Do
vậy, mọi người đều biết ông ta hiểu rất rõ về thịtrường của loại cổ phiếu này. Vậy mà giờ đây ông ta lại đang khuyên anh chàng
đầu cơ người miền Tây bán khống chúng.
Giá cổ phiếu Reading không ngừng tăng lên. Sau vài tuần, giá đã tăng thêm khoảng một trăm điểm. Một hôm, ông già
Westlake tình cờ gặp lại John W. Gates trên phố Wall, nhưng ông ta giả vờ như không quen biết anh ta và tiếp tục rảo bước. John
W. Gates đuổi theo ông ta, mỉm cười và đưa tay ra. Ông già Westlake bắt tay anh ta với vẻ sửng sốt.
“Tôi muốn cám ơn ngài vì lời khuyên của ngài về cổ phiếu Reading”, Gates nói.
“Tôi chưa từng cho cậu lời khuyên nào,” Westlake nói, với vẻ khó chịu.
“Có mà. Và đó còn là một lời khuyên tuyệt vời nữa. Nhờ ngài tôi đã kiếm được sáu mươi ngàn đô-la đấy.”
“Sáu mươi ngàn đô-la sao?”      
“Đúng vậy! Ngài không nhớ sao? Ngài đã khuyên tôi bán cổ phiếu Reading; vậy là tôi mua vào! Tôi luôn kiếm ra tiền từ lời
khuyên của ngài, thưa ngài Westlake.” John W. Gates trả lời, vẻ mặt mãn nguyện. “Lúc nào cũng vậy!”
Ông già Westlake nhìn chàng trai người miền Tây chất phác và ngay sau đó bình luận với vẻ thán phục: “Tôi mà có được bộ
óc như anh, tôi sẽ thành người giàu có đến mức nào, Gates ạ.”
Một hôm khác, tôi gặp ông W. A. Rogers, một họa sĩ vẽ biếm họa nổi tiếng, người được những người môi giới tranh ở phố
Wall rất ngưỡng mộ. Những bức biếm họa của ông trên tờ nhật báo Herald của New York đã đem lại niềm vui cho hàng ngàn
người. Và ông ta kể cho tôi nghe một câu chuyện. Đó là trước khi chúng ta tham gia cuộc chiến với Tây Ban Nha. Anh ta đã dành
một buổi tối ở nhà một người bạn làm môi giới. Khi đi ra, anh ta lấy chiếc mũ quả dưa của anh ta ra khỏi giá, ít nhất anh ta nghĩ nó
là của anh ta, bởi hình dạng của nó cũng giống chiếc mũ của anh ta và nó vừa với đầu anh ta.
Vào thời điểm đó, những suy nghĩ và những cuộc bàn tán ở phố Wall không ngoài vấn đề cuộc chiến với Tây Ban Nha. Liệu
cuộc chiến có xảy ra hay không? Nếu chiến tranh nổ ra, thịtrường chắc chắn sẽ giảm; không phải vì số cổ phiếu bán ra của chúng
tôi mà vì áp lực từ những người Châu Âu đang nắm giữ cổ phiếu của chúng tôi. Nếu không, chúng tôi chắc chắn sẽ mua cổ phiếu,
bởi trước đó đã có những đợt sụt giá đáng kể do những lời phản đối mạnh mẽ từ những bài báo giật gân. Ông Rogers kể cho tôi
nghe phần còn lại của câu chuyện như sau:
“Bạn tôi, anh chàng môi giới, người tôi đã đến nhà chơi tối hôm trước, hôm sau đến Sở mà trong lòng băn khoăn khi phải
quyết định sẽ theo phía nào của thịtrường. Anh ta đã xem xét những chi tiết thuận và chống, những vẫn không thể phân biệt đâu
là tin đồn, đâu là sự thực. Anh ta không nhận được tin tức xác thực nào có thể hướng dẫn mình. Có lúc anh ta cho rằng chiến
tranh là không thể tránh khỏi, nhưng rồi ngay sau đó, anh ta lại tự thuyết phục mình rằng việc đó không thể xảy ra. Rắc rối đó
khiến anh ta thấy bức bối, anh ta phải bỏ cái mũ quả dưa ra để làm dịu bớt cái nóng của mình. Anh ta không thể quyết định nên
bán hay nên mua.”
“Rồi đột nhiên anh ta nhìn vào trong mũ. Trong đó có hàng chữ mạ vàng WAR (chiến tranh). Đó là tất cả linh cảm anh ta
cần. Đây chẳng phải là ý trời phán truyền cho anh ta thông qua chiếc mũ của tôi sao? Vậy là anh ta bán ra với số lượng lớn, đúng
lúc chiến tranh nổ ra, và anh ta có thể bù lại lượng bán khống nhờ đợt sụt giá và bất ngờ vớ được một khoản lãi hậu hĩnh.” Và rồi
W. A. Rogers kết thúc,” Và tôi chẳng bao giờ lấy lại được chiếc mũ đó.”
Nhưng câu chuyện nổi bật nhất về những lời mách nước trời cho trong bộ sưu tập của tôi là về một trong những thành viên
nổi tiếng nhất của Sở giao dịch chứng khoán New York, ông J. T. Hood. Một hôm, một người giao dịch trên sàn khác, Bert
Walker, nói với Hood rằng anh ta vừa làm được một việc giúp cho một giám đốc xuất chúng của hãng Atlantic & Southern. Để
trả ơn, vị giám đốc đó đã khuyên anh ta mua tất cả cổ phiếu A. & S. anh ta có thể. Ban giám đốc đang dự tính một vài việc có thể
giúp giá cổ phiếu tăng ít nhất hai mươi lăm điểm. Tất cả các giám đốc không tham gia vào vụ này, nhưng phần lớn đảm bảo sẽ bỏ
phiếu thuận nếu được hỏi đến.
Bert Walker kết luận rằng tỷ lệ cổ tức sẽ tăng lên. Anh ta nói lại với người bạn của mình, Hood, và mỗi người bọn họ mua vài
ngàn cổ phần của A. & S. Cổ phiếu đó không mạnh, trước và cả sau khi họ mua, nhưng Hood nói rằng rõ ràng tình trạng đó giúp
cho quá trình tích lũy cổ phần của nhóm nội bộ do người bạn của Bert đứng đầu được dễ dàng hơn.
Sang ngày thứ Năm tiếp theo, sau khi thịtrường đóng cửa, ban giám đốc của Atlantic & Southern nhóm họp và thông qua tỷ
lệ cổ tức. Giá cổ phiếu giảm sáu điểm sau sáu phút giao dịch đầu tiên của sáng thứ Sáu.
Bert Walker tức giận không thôi. Anh ta ghé qua văn phòng của vị giám đốc đó, người cũng đang rất đau khổ vì việc đó và
đang rất ăn năn. Vị giám đốc nói rằng anh ta quên mất việc đã khuyên Walker mua số cố phiếu đó. Đó là lý do anh ta đã không
gọi báo cho Walker biết đã có sự thay đổi trong kế hoạch của nhóm đa số trong ban giám đốc. Vị giám đốc đang rất hối hận đã sốt
sắng đền bù bằng cách cho Walker một lời khuyên khác. Anh ta chân thành giải thích rằng một vài đồng nghiệp của anh ta đã
muốn có cổ phiếu giá rẻ và đã làm ngược với ý kiến của anh ta vì một công việc làm ăn không thuận lợi. Nhưng giờ đây, tất cả bọn
họ đã tích lũy đủ lượng cổ phiếu cần thiết, và không còn gì có thể ngăn cản giá cổ phiếu này tăng lên. Nếu Walker mua cổ phiếu
A. & S. lúc này, anh ta sẽ chắc thắng gấp đôi.
Bert không chỉtha thứ cho anh ta mà còn nồng nhiệt bắt tay chuyên gia tài chính cấp cao. Tất nhiên là anh ta vội vã đi tìm
người bạn của mình và cũng là đồng nạn nhân, Hood, để cho anh ta biết về tin tức đáng mừng này. Họ sắp vớ được một món hậu.
Họ đã được mách cho biết trước giá cổ phiếu sẽ tăng lên và họ bắt đầu mua vào. Nhưng giờ đây giá đã giảm xuống mười lăm điểm.
Vậy là chắc thắng rồi. Họ quyết định mua năm ngàn cổ phần, bằng tài khoản chung.
Việc làm của họ như thể một tín hiệu xuất phát, giá cổ phiếu sụt mạnh vì một nguyên nhân khá rõ ràng là việc bán ra từ nội
bộ. Hai chuyên gia hồ hởi xác nhận mối nghi ngờ đó. Hood bán ra năm ngàn cổ phần của họ. Sau khi bán xong, Bert Walker nói
với anh ta, “Nếu tên khốn đó không đến Florida từ hai ngày trước, tớ sẽ đánh cho hắn lòi ruột ra. Phải, tớ sẽ làm thế đấy. Nhưng
giờ thì đi với tớ.”
“Đi đâu đây?” Hood hỏi lại. “Đến sở điện tín. Tớ sẽ gửi cho hắn một bức điện sẽ khiến hắn không bao giờ quên được. Đi nào.” Hood đành đi theo. Bert
phăm phăm tiến vào sở điện tín. Ở đó, anh ta vẫn bị những cảm xúc chi phối — dù sao họ cũng đã lỗ nặng vì năm ngàn cổ phần đó
— và đã viết ra những lời lăng mạ có thể đạt đến tầm kiệt tác. Anh ta đọc cho Hood nghe và kết thúc: “Thế này cũng gần diễn tả
đầy đủ những gì tớ nghĩ về hắn.”
Anh ta đang chuẩn bị chuyển tờ giấy cho người nhân viên đang đợi thì Hood lên tiếng, “Từ từ đã, Bert!” “Có chuyện gì thế?”
“Nếu là tớ, tớ sẽ không gửi đi đâu,” Hood nghiêm túc gợi ý.
“Sao lại không?” Bert ngắt lời.
“Nó sẽ làm ông ta tức điên lên mất.”
Bert kinh ngạc nhìn Hood và nói, “Nhưng chẳng phải chúng ta muốn thế sao?”.
Nhưng Hood lắc đầu tỏ ý không tán thành, và nói với vẻ nghiêm trang nhất: “Nếu cậu gửi bức điện này đi, ông ta sẽ chẳng
cho chúng ta thêm lời khuyên nào đâu!”
Một người giao dịch chuyện nghiệp đã thốt ra những lời như vậy đấy. Vậy còn nói gì đến những người khờ khạo tin theo
những lời mách nước nữa? Mọi người nghe theo những lời mách nước không phải bởi họ toàn là những kẻ ngu ngốc đáng thương,
mà chỉ vì họ thích những hi vọng hão huyền mà tôi đã nói đến. Công thức kiếm tiền của ông già Baron Rothschild có thể áp dụng
cho nghề đầu cơ với hiệu quả lớn chưa từng có. Có người hỏi ông ấy liệu việc kiếm tiền từ thịtrường chứng khoán Pa-ri có phải là
một vấn đề khó khăn, và ông ta trả lời rằng, ngược lại, ông ta nghĩ đó là một việc dễ dàng.
“Đó là bởi ngài đã rất giàu,” người phỏng vấn phản đối.
“Không đâu. Tôi đã tìm được một cách rất dễ làm và tôi đã làm theo cách đó. Và tôi không còn việc gì khác ngoài kiếm ra
tiền. Nếu anh muốn, tôi có thể nói cho anh nghe bí mật đó. Đơn giản là thế này: tôi không bao giờ mua vào ở mức giá thấp nhất
và luôn bán ra rất sớm.”
Các nhà đầu tư lại là một kiểu người khác hẳn. Họ chỉ say mê với những bản kiểm kê, các số liệu thống kê tiền lãi và tất cả các
loại dữ liệu toán học, cứ như thể chúng có nghĩa là thực tế và sự chắc chắn vậy. Như thường lệ, nhân tố con người bị đánh giá
thấp. Rất ít người muốn tiến hành mua cổ phần như một công việc kinh doanh của cá nhân.
Nhưng nhà đầu tư khôn ngoan nhất tôi từng biết là một người khởi nghiệp từ một người vô danh ở Pennsylvania đến phố
Wall và đã nhiều lần gặp Russell Sage.
Đó là một người điều tra tài giỏi, một người đa nghi không mệt mỏi. Anh ta chỉtin vào việc tự mình đặt ra những câu hỏi và
tự quan sát bằng chính đôi mắt mình.
Anh ta không thích những ý kiến của người khác. Việc này đã xảy ra từ nhiều năm trước. Khi đó, anh ta đang có một ít cổ
phiếu Atchison. Rồi anh ta nghe được những báo cáo gây lo lắng về công ty này và ban giám đốc của nó. Anh ta nghe rằng ông
Reinhart, chủ tịch hội đồng quản trị, thay vì trở thành người phi thường như người ta vẫn tin, lại là một ông chủ hoang phí với
tính hấp tấp đang nhanh chóng đẩy công ty vào một tình trạng hỗn loạn. Rồi sẽ có ngày ông ta phải gánh lấy những phiền phức từ
tình trạng này.
Đó là những tin tức thuộc loại như là một điều cần thiết đối với chàng trai vô danh xứ Pennsylvania. Anh ta nhanh chóng
lao đến Boston để phỏng vấn ông Reinhart và hỏi ông ta vài câu hỏi. Những câu hỏi này bao gồm việc nói lại những lời buộc tội
anh ta đã nghe được và yêu cầu vịChủ tịch của Atchison, Topeka & Santa Fe Railroad xác nhận những lời buộc tội đó là đúng
hay sai.
Ông Reinhart không chỉ dứt khoát phủ nhận những luận điệu đó mà còn nói thêm: ông ta sẽ tiếp tục chứng minh bằng những
số liệu cho thấy những kẻ buộc tội đó là những kẻ dối trá ác tâm. Anh ta yêu cầu những thông tin chính xác và nhận được từ vị
chủ tịch những số liệu cho thấy công ty đang được vận hành và có thể đứng vững về phương diện tài chính đến mức nào, những
số liệu chi tiết đến từng xu.
Chàng trai cảm ơn Chủ tịch Reinhard, quay trở lại New York và ngay lập tức bán tất cả số cổ phần Atchison của anh ta.
Khoảng một tuần sau, anh ta sử dụng số tiền nhàn rỗi của mình để mua một lượng lớn cổ phiếu Delaware, Lackawanna &
Western.
Nhiều năm sau, khi chúng tôi đang nói chuyện về những vụ trao đổi may mắn, anh ta đã đưa ra trường hợp của chính mình.
Anh ta giải thích cho tôi nghe điều gì đã thúc đẩy anh ta làm vậy.
“Anh phải biết,” anh ta nói, “Tôi nhận thấy mỗi khi ông Reinhard viết ra những số liệu, ông ta lại lấy ra những tờ giấy viết
thư từ ngăn tủ của chiếc bàn gụ có nắp cuộn của ông ta. Đó là những tờ giấy làm bằng vải lanh mịn, nặng với phần đầu thư được in hai màu khá đẹp. Nó không chỉ đắt tiền mà tệ hơn nữa — đó là một sự xa hoa không cần thiết. Ông ta chỉ viết một vài con số để
chứng minh cho tôi thấy công ty đã kiếm được bao nhiêu ở một vài khu vực hay họ đã làm thế nào để cắt giảm phụ phí và chi phí
hoạt động, rồi ông ta vo tròn tờ giấy đắt tiền đó và vứt vào sọt rác. Ngay sau đó, ông ta lại muốn gây ấn tượng với tôi bằng sự tiết
kiệm của công ty, và ông ta lại lôi ra một tờ giấy khác. Chỉ có một vài con số - và xong, tờ giấy bị vứt vào sọt rác! Hàng đống tiền
bị lãng phí mà ông ta chẳng có chút nghĩ ngợi. Nó khiến tôi nhận thấy nếu ông chủ là kiểu người như vậy, chắc chắn ông ta chẳng
bao giờ có những người trợ lý biết tiết kiệm và thưởng cho họ. Vậy là tôi quyết định nghe theo những lời tin đồn rằng ban quản trị
là những kẻ hoang phí là đúng và bán tất cả số cổ phiếu Atchison tôi có.
“Vài ngày sau, tôi có dịp ghé qua văn phòng của hãng Delaware, Lackawanna & Western. Ông già Sam Sloan là chủ tịch của
hãng. Văn phòng của ông ta rất gần cửa ra vào và cửa phòng ông ta rộng mở. Cánh cửa đó lúc nào cũng được mở rộng. Trong
những ngày đó, không có ai bước vào văn phòng chủ tịch của D. L. & W. mà không thấy ngài chủ tịch đang ngồi ở bàn làm việc.
Bất kỳ ai cũng có thể bước vào tiến hành công việc trực tiếp với ông ta, nếu có bất kỳ công việc nào cần giải quyết. Những phóng
viên tài chính đã nói với tôi họ chưa bao giờ phải vòng vo với ông ta, mà chỉ cần đặt câu hỏi và ông ta sẽ thẳng thắn trả lời có hoặc
không, dù các giám đốc khác có đang ở trong tình trạng khẩn cấp đến đâu.
“Khi tôi bước vào, tôi thấy ông già đang bận. Lúc đầu tôi nghĩ ông ta đang mở thư, nhưng sau đó, khi đến gần bàn, tôi mới
nhận ra ông ta đang làm gì. Mãi sau, tôi mới biết đó là một thói quen thường ngày của ông ấy. Trong những khoảnh khắc thư
giãn, ông ta thường ngồi bóc những phong bì thư ra. Bằng cách đó, ông ta sẽ có hai mảnh giấy có một mặt trắng. Ông ta xếp
những mảnh giấy này lại và sau đó ông ta sẽ dùng chúng thay cho những tập giấy viết mỗi khi làm những công việc cung cấp số
liệu như Reinhard đã làm cho tôi với những tờ giấy in đầu thư. Không phí phạm đến từng chiếc phong bì rỗng và từng giây phút
nhàn rỗi. Mọi thứ đều được tận dụng.
“Tôi chợt nhận thấy nếu Chủ tịch của D. L. & W. là một người như thế, chắc chắn các phòng ban của công ty được quản lý
bằng những phương cách tiết kiệm. Ngài chủ tịch sẽ lo liệu việc đó! Dĩ nhiên là tôi biết công ty vẫn đang trả cổ tức thường lệ và tài
sản của công ty cũng khá lớn. Tôi mua tất cả số cổ phiếu D. L. & W. có thể mua được. Kể từ thời điểm đó, số vốn cổ phần của công
ty đã tăng lên gấp đôi rồi gấp bốn. Số cổ tức thường niên của tôi đã lớn ngang số vốn gốc. Tôi vẫn giữ lại cổ phiếu của D. L. & W.
và bán cổ phiếu của Atchison chỉ vài tháng sau khi tôi được thấy vị chủ tịch hãng này ném từng tờ từng tờ giấy có in đầu thư bằng
hai màu vào thùng rác chỉ vì muốn chứng minh cho tôi bằng số liệu thực thế là ông ta không hoang phí.”
Và cái hay của câu chuyện này là ở chỗ nó có thực và sau đó không có bất kỳ loại cổ phiếu nào mà anh chàng vô danh đó đã
đầu tư có thể có giá trị như cổ phiếu D. L. & W.

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top

Tags: #truyen