Phần 1 + Phần 2
PHẦN 1
Tôi bắt đầu đi làm khi vừa học xong trung học trung học phổ thông. Tôi nhận công việc trông coi bảng yết giá tại một văn
phòng môi giới chứng khoán. Tôi rất nhanh nhạy với những con số. Khi còn đi học, tôi đã học hết chương trình đại số ba năm chỉ
trong có một năm. Công việc trông coi bảng yết giá của tôi là dán những con số lên một cái bảng lớn đặt trong phòng khách
hàng. Một trong số những khách hàng sẽ ngồi ở vịtrí trung tâm gần bảng tin và đọc to các mức giá, không có gì là quá nhanh với
tôi. Tôi luôn nhớ trong đầu những con số. Chẳng có gì khó khăn.
Còn có nhiều nhân viên khác trong văn phòng này. Tất nhiên là tôi có chơi với những cậu bạn khác cùng làm công việc mà
tôi đang làm ở đó. Vào những hôm thịtrường nhộn nhịp có thể khiến tôi phải bận rộn suốt từ mười giờ sáng tới ba giờ chiều, và
chẳng còn thời gian mà chuyện gẫu.
Dù văn phòng có náo nhiệt đến đâu, tôi cũng không khỏi nghĩ đến công việc mình làm. Với tôi, những con số trên bảng yết
giá không nói lên được giá cổ phiếu là bao nhiêu đô-la. Đó chỉ đơn thuần là những con số. Tất nhiên chúng cũng có ý nghĩa nào
đó. Những con số luôn thay đổi. Đó là tất cả những gì mà tôi quan tâm - những thay đổi. Tại sao chúng lại thay đổi? Tôi không
biết cũng chẳng quan tâm làm gì. Tôi không nghĩ đến điều đó. Chỉ đơn giản là tôi thấy chúng thay đổi, vậy thôi. Cái ý nghĩ rằng
những con số đó luôn thay đổi cứ ám ảnh tôi suốt 5 tiếng đồng hồ trong những ngày làm việc bình thường và 2 tiếng đồng hồ
ngày thứ Bảy.
Chính ý nghĩ ấy khiến tôi bắt đầu thấy thích thú những biến động về giá cả. Phải nói là tôi có khả năng nhớ số rất tốt. Tôi có
thể nhớ đến từng chi tiết các mức giá cổ phiếu trong ngày hôm trước, ngay cả trước khi chúng lên hay xuống. Niềm say mê cách
tính nhẩm của tôi lúc này đã tỏ ra hữu ích.
Tôi để ý và nhận ra rằng dù lên hay xuống, giá cổ phiếu cũng có xu hướng tuân theo những quy luật nhất định. Những
trường hợp như vậy thường diễn ra tạo đường hướng cho tôi. Khi đó tôi mới có 14 tuổi nhưng sau hàng trăm lần quan sát, tôi đã
tự kiểm chứng độ chính xác của những quy luật đó bằng cách so sánh giá cổ phiếu của ngày hôm nay với những hôm khác. Việc
đó xảy ra không lâu trước khi tôi dự đoán được những động thái về giá cổ phiếu. Như tôi nói, chỉ dẫn duy nhất của tôi chính là
những biến động của giá trong những ngày đã qua. Tôi lập ra những "trang thông tin chi tiết" trong đầu. Tôi tìm kiếm thu thập
thông tin về những cổ phiếu để đưa vào trang thông tin. Tôi đã ghi chép lại. Anh hiểu ý tôi chứ?
Ví dụ như anh có thể chỉ ra tại điểm nào thì mua sẽ tốt hơn chút ít so với bán. Có một trận chiến diễn ra trên thịtrường chứng
khoán và bảng niêm yết giá chính là kính viễn vọng của anh. Anh có thể dựa vào nó bảy trong số mười trường hợp.
Một bài học nữa mà tôi sớm nhận ra là trên phố Wall không có gì là mới cả. Nguyên nhân không phải là vì hình thức đầu cơ ở
đó đã xưa như trái đất. Bất kể cái gì diễn ra trên phố Wall ngày hôm nay cũng đã diễn ra trong ngày hôm qua và sẽ xảy ra trong
những ngày tiếp theo. Lúc nào tôi cũng nhớ như in điều đó. Tôi cho là mình đã rất cố gắng để nhớ được khi nào điều đó diễn ra và
diễn ra theo cách nào. Đấy chính là cách tôi thu thập vốn kinh nghiệm của mình.
Tôi quá say mê và hào hứng với việc đoán trước biến động lên xuống của giá những cổ phiếu giao dịch nên đã mua một cuốn
sổ nhỏ. Tôi ghi những quan sát của mình vào đó. Đó không phải là những ghi chép các phiên giao dịch tưởng tượng mà nhiều
người vẫn bám theo đơn thuần chỉ để kiếm lời hay thua lỗ hàng triệu đô-la mà vẫn không tỏ ra kiêu ngạo hay không phải vào trại
tế bần. Nó là ghi chép về những lần tôi tính toán sai bên cạnh đó là những dự đoán của tôi về những động thái giá cổ phiếu.
Tôi thích nhất khi kiểm tra xem liệu những gì tôi quan sát được có đúng hay không, nói cách khác là xem xem tôi dự đoán
có đúng không.
Sau khi tìm hiểu giá lên xuống trong một ngày của cổ phiếu đang giao dịch, tôi có thể đi đến kết luận rằng cổ phiếu biến động
cũng y như cũ, như khi nó 8 hay 10 điểm. Tôi viết nhanh tên và giá cổ phiếu trong ngày thứ Hai, nhớ lại biến động giá những
ngày trước rồi viết lại dự đoán của mình về những gì sẽ xảy ra tiếp theo trong ngày thứ Ba và thứ Tư. Sau đó, tôi sẽ kiểm tra độ
chính xác của những dự đoán mà mình đưa ra bằng cách so với ghi chép thực của bảng yết giá.
Tôi bắt đầu thích thông điệp mà bảng tin đem lại như vậy đấy. Tôi cho là những biến động giá cổ phiếu có mối liên hệ trước
hết là với những động thái lên và xuống. Tất nhiên là biến động giá cả luôn có nguyên nhân của nó, nhưng bản thân bảng tin
không bao giờ đề cập đến nguyên do tại sao lại có những biến động như vậy. Nó không giải thích lý do. Tôi không bao giờ đặt ra
câu hỏi với bảng tin khi tôi 14 tuổi và bây giờ khi tôi đã 40 tuổi, tôi cũng không bao giờ làm như vậy.
Hôm nay, giá cổ phiếu có thể biến động là do nguyên nhân này nhưng hai ngày, ba ngày, hàng tuần hoặc hàng tháng sau lại
do nguyên nhân khác. Nhưng như vậy có sao đâu. Anh ghi chép những gì diễn ra ở hiện tại chứ không phải trong tương lai. Có
thể gác lý do sang một bên. Nhưng anh phải hành động thật nhanh nếu không anh sẽ không theo kịp. Đã có lần tôi gặp chuyện
này rồi. Chắc anh nhớ có lần cổ phiếu Hollow Tube giảm ba điểm. Sau đó, trong một ngày khác, giá các loại còn lại trên thị
trường tăng mạnh. Đó là thực tế. Vào thứ Hai tuần sau, anh thấy đấy, các vị giám đốc đã bỏ qua số cổ tức có thể thu về từ vụ này.
Họ biết nên làm gì, họ sẽ không tự tay bán ra thậm chí cũng chẳng mua vào cổ phiếu loại này. Không có vụ mua nội bộ nào diễnra và cũng không có lý do tại sao nó lại không xuống giá.
Tôi giữ cuốn sổ tay ghi chép của mình trong khoảng sáu tháng. Trong suốt thời gian đi làm, thay vì tranh thủ về nhà, tôi say
mê ghi ghi chép chép những con số tôi cần dùng và theo dõi xem chúng biến đổi thế nào fa bao giờ tôi cũng tìm xem có biến đổi
nào lặp lại hay tương tự nhau không. Đó là cách tôi đọc thông điệp của bảng tin mặc dù thật ra mà nói thì cho đến lúc đó tôi chưa
nhận biết hết giá trịthực của nó.
Một hôm, khi tôi đang ăn trưa, một cậu bạn làm cùng văn phòng, lớn tuổi hơn tôi, lại gần và hỏi nhỏ xem tôi có tiền không.
Tôi hỏi: "Cậu biết làm gì?"
"Ồ, vừa có người khuyên tớ hay lắm, về cổ phiếu Burlington. Tớ định chơi nếu có ai chơi cùng."
"Chơi á? Cậu định chơi thế nào" Tôi hỏi. Với tôi, chỉ có khách hàng mới là những người có thể chơi cổ phiếu - những kẻ "hốt
bạc" với bao nhiêu là tiền. Phải tốn đến hàng trăm, thậm chí là hàng nghìn đô-la mà sao cậu lại định chơi cơ chứ? Chẳng khác nào
cậu sở hữu một cỗ xe ngựa và ông kéo xe đội mũ bạc trên đầu đâu."
"Đúng đấy, chơi đi. Cậu có bao nhiêu?" - cậu ta nói.
"Cậu cần bao nhiêu?"
"À tớ sẽ mua 5 cổ phiếu bằng cách đặt 5 đô-la"
"Cậu sẽ chơi thế nào?"
"Tớ sẽ mua tất cả cổ phiếu Burlington mà văn phòng cho phép với số tiền hoa hồng tớ đã nộp cho họ. Nó sẽ lên giá, chắc đấy.
Cứ như nhặt nhặt được tiền vậy. Tớ sẽ tăng gấp đôi chỗ tiền của chúng mình chỉtrong chốc lát."
"Khoan đã", tôi nói với cậu ta rồi lôi cuốn sổ nhỏ của mình ra xem. Tôi không quan tâm lắm đến chuyện khoản tiền của
mình có tăng gấp đôi hay không nhưng rõ ràng cậu này khẳng định rằng cổ phiếu Burlington sẽ tăng. Nếu như thế, cuốn sổ tay
của tôi cũng sẽ thể hiện điều đó. Tôi xem. Đúng rồi! Theo những tính toán của tôi thì cổ phiếu Burlington đang biến động giống
hệt như trước khi nó tăng giá. Tôi chưa từng mua hay bán cái gì trong đời mình, tôi cũng chưa cá cược với những cậu bạn khác
bao giờ. Nhưng đây sẽ là một cơ hội ngàn vàng để tôi kiểm chứng lại xem những gì mình đã làm bấy lâu nay như một sở thích cá
nhân liệu có chính xác hay không, và đấy mới là mục tiêu cuối cùng của tôi trong thương vụ này. Một ý nghĩ chợt loé lên trong
đầu tôi: nếu những ghi chép của tôi không có tác dụng gì thì người ta sẽ không bao giờ chú ý đến mớ lý thuyết tôi viết trong đó.
Vì thế tôi đưa cho cậu ta tất cả số tiền mình có và rồi với tất cả chỗ tiền dành dụm được của tôi, cậu ta đến một trong những công
ty chứng khoán chui gần đó để mua cổ phiếu Burlington. Hai ngày sau, tôi nhận được một khoản lãi là 3,12 đô-la.
Sau vụ làm ăn đầu tiên đó, tôi bắt đầu đầu cơ cho tài khoản của riêng mình tại những công ty chui. Tôi thường ra ngoài vào
giờ ăn trưa để mua bán cổ phiếu. Từ trước đến nay, với tôi mua hay bán cũng không có gì khác. Tôi chơi tất cả các loại, không
nhất thiết phải là cổ phiếu nóng hay cổ phiếu người ta đưa ra để cá cược. Tất cả những gì tôi biết đó là những phép tính về cổ
phiếu đó. Thực tế cho thấy cách làm của tôi là lý tưởng nhất để kinh doanh cổ phiếu trong những công ty chui như vậy. Tại thời
điểm đó, tất cả những việc mà khách hàng trong những công ty này làm là cá cược về những biến động giá cổ phiếu ghi trên bảng
tin.
Chẳng bao lâu, số tiền tôi kiếm được từ những công ty chứng khoán chui còn lớn hơn rất nhiều so với ở văn phòng môi giới.
Vì thế tôi xin nghỉ làm ở văn phòng môi giới. Bạn bè tôi phản đối nhưng họ không thể nói được gì khi chứng kiến những gì tôi
đang gây dựng nên. Tôi mới chỉ là một cậu bé và đồng lương văn phòng môi giới trả cho tôi rất ít ỏi. Tôi đã làm rất tốt bằng sức
lực của chính mình.
Khi 15 tuổi, tôi mang theo một nghìn đô-la đầu tiên về nhà và đặt trước mặt mẹ tôi - đó là tất cả số tiền tôi kiếm được từ
công ty chui cạnh số tiền tôi đã xin nhà. Mẹ tôi kêu ca phàn nàn ầm ĩ. Mẹ tôi muốn tôi gửi tiết kiệm trong ngân hàng để khỏi tiêu
xài phung phí. Bà nói chưa bao giờ nghe chuyện một cậu bé mười lăm tuổi bắt đầu với bàn tay trắng mà lại kiếm được từng ấy
tiền. Hình như mẹ tôi không dám tin đó là tiền thật. Bà hay lo lắng và tỏ ra không hài lòng với số tiền lớn như vậy. Nhưng tôi
chẳng nghĩ đến điều gì khác ngoài chuyện tiếp tục chứng minh những tính toán của tôi là đúng. Quả là thú vị nếu tôi có thể tự
mình chứng minh mình đúng. Khi mua mười cổ phiếu mà tôi tính chính xác thì khi mua một trăm cổ phiếu, độ chính xác đó phải
tăng lên mười lần. Tất cả những lợi ích mà tôi quan tâm là càng ngày tôi càng chứng minh được những tính toán của tôi là chính
xác, thậm chí là rất chính xác. Tôi có dũng cảm hơn không ư? Không! Không có gì khác cả. Nếu tôi mạo hiểm đầu tư toàn bộ số
tiền có trong tay là 10 đô-la chẳng hạn thì tôi còn dũng cảm hơn rất nhiều so với đầu tư 100 đô-la trong khi có 100 đô-la khác
gửi tiết kiệm.
Dù sao thì tôi đã có thể tự kiếm sống mà không cần dựa vào văn phòng môi giới khi mới chỉ có 15 tuổi. Tôi khởi nghiệp từ
những công ty chứng khoán chui, nơi nếu có ai mua hay bán hai mươi cổ phiếu kẹp trong một cái kẹp bằng kim loại sẽ bị nghi ngờ
là John W.Gates hay J.P. Morgan cải trang. Các công ty chứng khoán chui thời bấy giờ hiếm khi quan tâm lợi ích của kháchhàng. Thực ra họ không cần phải làm như vậy. Có nhiều cách khác để những công ty này lấy tiền từ khách hàng ngay cả khi họ
dự đoán đúng. Đó là ngành kinh doanh kiếm lời lớn. Kể từ khi những công ty kiểu chui đi vào hoạt động cho đến nay, ngành kinh
doanh này vẫn được tiến hành hợp pháp và những động thái giá lên xuống là rất nhỏ. Để thu được khoản tiền hoa hồng của 3/4
điểm là chuyện không khó. Và ai trốn nợ sẽ không được phép quay lại chơi nữa. Ở ngành khác cũng vậy.
Tôi không có một ai theo sau ủng hộ. Tôi kinh doanh cho riêng tôi. Nói gì thì nói, đó cũng là công việc của một mình tôi.
Đó là công sức của tôi, đúng không? Tôi đã tự mình tính toán mà không có ai giúp đỡ, giá cổ phiếu có khi biến đổi theo đúng
những tính toán ấy cũng có khi không, nhưng bạn bè không một ai có thể giúp tôi. Tôi không biết nên chia sẻ với người khác về
công việc của mình như thế nào. Tất nhiên là tôi cũng có bạn nhưng công việc tôi làm vốn dĩ vẫn là việc chỉ dành cho một người.
Đó là lý do tại sao tôi luôn luôn đơn thương độc mã.
Chẳng bao lâu tôi đành phải tạm dừng những thương vụ tại các công ty chứng khoán chui. Tôi phải xem xét và hạ giá biên
nhưng những công ty này không hề thay đổi. Họ nói với tôi rằng chẳng có gì phải làm cả. Thời gian đó họ gọi tôi là "tay đầu cơ trẻ
tuổi". Tôi phải liên tục thay các nhà môi giới từ công ty này sang công ty khác. Tôi làm như vậy cốt là để tạo ra danh tiếng giả.
Tôi bắt đầu với rất ít cổ phiếu, chỉ chừng hai mươi đến ba mươi cổ phiếu. Nhiều lần họ bắt đầu sinh nghi nên tôi đành phải từ bỏ
mục đích ban đầu của mình rồi sau đó mới lại tiếp tục hoạt động. Tất nhiên chẳng bao lâu sau, người ta cho rằng mức giá tôi đưa
ra là quá cao và họ yêu cầu tôi đi nơi khác và không can thiệp vào việc làm ăn của họ nữa.
Ngay sau khi phải tạm dừng công việc kinh doanh mà tôi đã duy trì trong hàng tháng trời, tôi quyết định cắt giảm đầu tư cổ
phiếu ở những công ty đó. Những công ty chui mà tôi tham gia có các chi nhánh trên khắp thành phố, trong các tiền sảnh khách
sạn, và ở các thịtrấn lân cận. Tôi đến một trong những chi nhánh ở các khách sạn và hỏi vị giám đốc một vài câu hỏi, cuối cùng
tôi bắt đầu mở kinh doanh. Nhưng ngay sau khi tôi chơi chứng khoán theo cách đặc biệt của mình, vị giám đốc này nhận được tin
nhắn từ văn phòng quản lý hỏi ai đang kinh doanh. Ông giám đốc khách sạn nói lại với tôi những gì họ hỏi. Tôi nói tôi tên là
Edward Robinson đến từ Cambridge. Vị giám đốc gọi điện và báo tin vui cho quản lý của mình. Nhưng ở đầu dây bên kia, người
ta lại muốn biết hình dáng tôi thế nào. Khi vị giám đốc nói lại với tôi, tôi bảo ông ta "hãy nói với người ta rằng tôi béo, thấp, tóc
đen và râu ria rậm rạp". Nhưng thay vì nói những gì tôi dặn, vị giám đốc tả đúng hình dáng tôi và nổi giận sau khi ông ta nghe
điện thoại, ông ta gác máy và nói với tôi hãy từ bỏ vụ làm ăn này.
"Họ đã nói với anh những gì?" - tôi lịch sự hỏi.
"Họ nói rằng "Anh ngốc quá đấy, chẳng phải chúng tôi đã nói với ông là đừng mua bán gì với Larry Livingston hay sao? Vậy
mà anh đã để anh ta hốt mất của chúng ta 700 đô-la." Ông ta không nói gì thêm.
Tôi cố gắng đến những chi nhánh ở các khách sạn khác, nhưng rồi tất thảy họ đều biết tôi là ai và tiền của tôi cũng chẳng còn
ý nghĩa gì ở những nơi như thế nữa. Thậm chí lúc nào bước chân vào những công ty chui để xem các bảng yết giá, tôi cũng đều
bắt gặp ánh mắt giễu cợt của mấy cô thư ký. Tôi cố gắng buộc họ phải để cho tôi tham gia giao dịch bằng cách luân phiên đến các
công ty chui. Nhưng cách làm đó cũng không ổn.
Cuối cùng chỉ còn lại một nơi mà tôi có thể giao dịch, đó cũng là công ty chui lớn nhất và giàu nhất - Công ty Môi giới
Chứng khoán Cosmopolitan.
Công ty Cosmopolitan được xếp hạng A1 và có quy mô lớn. Công ty có chi nhánh ở khắp các thịtrấn ở vùng New England.
Họ đồng ý nên tôi đã mua và bán, thắng và thua trong hàng tháng trời nhưng họ cũng dần quen với chuyện đó. Họ không phũ
phàng từ chối tôi như ở một số nơi người ta đã làm. Họ cho tôi kinh doanh không phải vì từ chối tôi có nghĩa là họ không thẳng
thắn mà vì họ biết rằng nếu từ chối tôi, họ sẽ mang tiếng xấu là không để cho tôi kinh doanh chỉ vì tôi không mang lại nhiều lợi
nhuận cho họ. Nhưng họ chơi không đẹp khi buộc tôi phải nâng giá biên1 3 điểm và trả mức phí là 1/2 điểm trong thời gian đầu,
sau là một điểm và cuối cùng là một điểm rưỡi. Như thế rất bất lợi cho tôi. Bất lợi thế nào ư? Thật dễ hiểu. Giả sử anh mua cổ
phiếu thép với giá bán ra là 90 đô-la. Như thường lệ, thẻ của anh là "thẻ mua 10 cổ phiếu thép Bot giá 90 1/8 ." Nếu anh nâng giá
biên lên 1 điểm có nghĩa là giá giảm 89 1/4 thì anh sẽ bị loại khỏi cuộc chơi. Tại các công ty chứng khoán chui kia, anh không
phải nâng giá biên hay buộc phải yêu cầu môi giới bán cổ phiếu ra để ít nhất thu về được một cái gì đó.
Nhưng khi công ty thêm vào khoản phí tức là họ chơi xấu tôi. Tức là thế này, nếu anh mua cổ phiếu thép giá bán ra là 90
đô-la thì thay vì ghi thẻ "thép Bot 90 8 1 " người ta sẽ thay thế bằng "Thép Bot 91 1/8 ." Tại sao sau khi tôi mua, giá cổ phiếu đó
vẫn tăng 1 1/4 và nếu tôi có kết thúc giao dịch đi chăng nữa thì tôi vẫn thua lỗ. Nếu tôi nâng giá biên lên 3 điểm ngay từ đầu thì
chắc là số lượng giao dịch của tôi sẽ giảm đi 2/3 . Nhưng dù sao đó cũng là công ty duy nhất mà tôi được giao dịch và tôi vẫn phải
chấp nhận mọi thứ, nếu không tôi sẽ phải từ bỏ vụ làm ăn.
Tất nhiên, dù có lúc lên voi xuống chó nhưng nói chung tôi thắng cuộc nhiều hơn. Người của công ty Comospolitan gây khó
dễ cho tôi bằng những việc mà họ cho là quá đủ đối với những người khác nhưng có vẻ họ vẫn chưa thỏa mãn. Họ muốn chơi hai
mặt với tôi nhưng không thể làm gì tôi. Tôi vẫn thắng được nhờ có khả năng dự đoán.
Như tôi đã nói, với tôi, công ty Comospolitan là nơi cứu cánh cuối cùng. Nó là công ty chứng khoán chui giàu có nhất ở
New England, và đã thành lệ, họ không đặt ra giới hạn cho bất cứ giao dịch nào. Tôi cho rằng mình chính là một nhà đầu tư nặng
ký nhất trong số những khách quen hàng ngày ở đó. Họ có văn phòng thật đẹp và có bảng yết giá to nhất, hoàn hảo nhất so vớitất cả những cái bảng yết giá mà tôi đã từng nhìn thấy. Tôi đi dọc theo chiều dài căn phòng và quan sát thấy những thứ được
niêm yết trên đó thật tuyệt vời. Tôi muốn nói đến những loại cổ phiếu được người ta mua bán trao đổi ở các sàn lớn như sàn giao
dịch chứng khoán New York và sàn giao dịch chứng khoán Boston - bông, lúa mỳ, thực phẩm dự trữ, kim loại - tất cả những
thứ người ta mua bán ở các thành phố lớn như New York. Chicago, Boston và Liverpool.
Tôi biết ở các công ty chui, người ta buôn bán thế nào. Anh đưa cho thư ký tiền của anh rồi nói với thư ký anh muốn mua
hay bán cái gì. Thư ký sẽ nhìn vào bảng tin hoặc bảng yết giá để đọc giá và tất nhiên là mức giá cuối cùng. Thư ký cũng sẽ ghi
thời gian trên tấm thẻ như một báo cáo thường xuyên của người môi giới, theo đó anh biết họ đã bán hay mua cho anh bao nhiêu
cổ phiếu trong số anh đã đưa ra tại mức giá ấy, ngay thời điểm trong ngày hôm ấy và họ nhận được bao nhiêu tiền từ anh. Khi anh
muốn kết thúc giao dịch, anh thông báo với thư ký đó. Anh ta sẽ lấy mức giá cuối cùng hoặc nếu cổ phiếu đó vẫn chưa được giao
dịch, anh ta sẽ đợi đến lần yết giá tiếp theo trên bảng tin. Anh ta viết giá và thời gian lên thẻ của anh, duyệt rồi đưa lại cho anh,
sau đó anh đến thủ quỹ và nhận lại bằng tiền mặt quy đổi. Tất nhiên khi thịtrường biến động không theo ý muốn, giá vượt quá
giới hạn giá biên anh đặt ra, phiên giao dịch của anh sẽ tự nó kết thúc và tấm thẻ của anh sẽ chỉ còn là một mấu giấy loại.
Ở những công ty chứng khoán chui có quy mô nhỏ hơn, người ta được phép mua hoặc bán 5 cổ phiếu, thẻ cũng nhỏ hơn có
màu sắc khác nhau cho bên mua và bán - và tại thời điểm thịtrường có giá nóng lên chẳng hạn, những công ty này sẽ chịu ảnh
hưởng rất lớn do người bán đầu cơ giá lên và họ đều dự đoán đúng. Sau đó, công ty sẽ chiết khấu tiền hoa hồng có được từ cả hai
bên mua và bán và nếu anh mua cổ phiếu giá 20, thẻ của anh sẽ được đọc lên là 20 1/4 . Do đó anh chỉ có được 3/4 điểm cho
mình.
Nhưng Comospolitan là công ty "hạng nhất" ở New England. Họ có đến hàng nghìn khách quen và thực sự tôi nghĩ là họ chỉ
sợ có mình tôi. Kể cả việc đặt mức phí chết người hay mức giá biên ba điểm như họ yêu cầu tôi tăng đều không ảnh hưởng gì đến
việc làm ăn của tôi. Tôi vẫn tiếp tục mua và bán nhiều cổ phiếu ở mức tối đa họ cho phép. Tôi giao dịch nhiều nhất là 5.000 cổ
phiếu.
Tôi sẽ kể cho anh nghe về lần tôi nắm giữ 3.500 cổ phiếu đường. Tôi có bảy tấm thẻ màu hồng cỡ lớn trị giá 500 cổ phiếu
mỗi thẻ. Công ty Comospolitan sử dụng những tấm thẻ cỡ lớn với những khoảng trống dành để viết mức giá biên bổ sung. Tất
nhiên là những công ty chui này không đòi hỏi tăng giá biên bao giờ. Với họ, mức biên càng nhỏ càng tốt đặc biệt là khi anh bị
loại khỏi cuộc chơi, họ càng có lợi. Ở những công ty nhỏ hơn, nếu anh muốn nâng giá biên giao dịch của mình, họ sẽ ghi cho anh
một tấm thẻ mới buộc anh phải nộp tiền môi giới bên mua và chỉ cho anh nắm 3/4 điểm trong mỗi lần giá giảm một điểm, có như
vậy họ mới có thể tính chính xác tiền môi giới bán như trong một phiên giao dịch mới.
Bây giờ tôi vẫn nhớ mình đã kiếm được đến hơn mười nghìn đô-la nhờ các mức giá biên.
Tôi chỉ mới hai mươi tuổi khi lần đầu tiên nắm trong tay 10 nghìn đô-la tiền mặt. Anh hẳn đã nghe kể về mẹ tôi rồi đấy. Anh
biết không, 10 nghìn đô-la tiền mặt còn nhiều hơn số tiền mà John D. kiếm được và trước đây, ngoài anh ta ra không còn ai khác
làm được như vậy. Mẹ tôi thường khuyên tôi nên thỏa mãn với số tiền lớn như vậy và chuyển sang ngành kinh doanh khác ổn
định hơn.
Tôi đã phải rất vất vả để thuyết phục bà rằng tôi không đánh bạc mà tôi kiếm tiền bằng những phép tính. Tất cả những gì mẹ
tôi nhận thấy là 10 nghìn đô-la là khoản tiền quá lớn nhưng tất cả những gì mà tôi nghĩ đến là giá biên.
Tôi đầu tư vào 3.500 cổ phiếu đường với mức giá 105 1/4 . Có một người nữa cùng phòng tôi, anh bạn Henry Williams
muốn đầu tư 2.500 cổ phiếu. Tôi hay ngồi gần bảng tin và đọc giá cho cậu bé trông coi bảng yết giá. Giá cổ phiếu biến động y như
tôi dự đoán. Giá giảm mạnh 2 điểm và dừng lại trong thời gian ngắn trước khi giảm tiếp. Nhìn chung thịtrường khá "mềm" và
dường như mọi thứ đều đầy hứa hẹn. Tôi không thích những biến động giá cổ phiếu đường vì nó tăng giảm không dứt khoát. Tôi
bắt đầu thấy không ổn. Tôi nghĩ mình nên rút lui thì hơn. Sau đó, giá bán là 103 - mức thấp trong ngày hôm đó - thay vì cảm
thấy tự tin hơn, tôi lại thấy rất hoang mang. Tôi biết có cái gì đó không ổn nhưng tôi không biết chính xác là ở đâu. Nhưng nếu có
chuyện gì không ổn mà tôi không chỉ ra là ở đâu thì chắc tôi sẽ không thể tự bảo vệ được mình. Đó chính là trường hợp mà tốt
hơn, tôi nên rút lui.
Anh biết đấy, tôi làm việc gì cũng có tính toán chứ không nhắm mắt làm liều vì tôi không thích và cũng chưa bao giờ như
vậy. Thậm chí tôi như một đứa trẻ, bao giờ cũng muốn biết mục đích của việc mình làm là gì. Nhưng lần này tôi không đưa ra
được một lý do nào cho việc làm của tôi nên tôi thấy rất bất an, đến nỗi tôi thấy không thể chịu đựng thêm được nữa. Tôi gọi điện
cho một anh bạn tên là Dave Wyman và nói với anh ấy: "Dave này, anh đến đây thay tôi nhé. Tôi muốn anh làm gì đó cho tôi.
Trước khi đọc to giá cổ phiếu đường, anh nhớ đợi một lát nhé, được chứ?"
Anh bạn nói với tôi anh sẽ làm như vậy và tôi đứng dậy, nhường chỗ cho anh ấy ở ngay gần bảng tin để anh ấy có thể đọc to
giá cho cậu bé trông coi bảng yết giá. Tôi rút bảy cổ phiếu ra khỏi túi và đi quanh quầy thu ngân, nơi thư ký ngồi để đánh dấu thẻ
khi kết thúc phiên giao dịch. Nhưng tôi thực sự không biết tại sao tôi cứ có ý nghĩ là mình phải ra khỏi sàn giao dịch nên tôi chỉ
biết đứng đó, dựa vào quầy thu ngân, số thẻ vẫn trong tay tôi nên thư ký không thể nhìn thấy chúng. Chẳng bao lâu sau, tôi nghe
thấy tiếng lách cách của máy điện báo và tôi thấy Tom Burnham, quay đầu và chú ý lắng nghe. Tôi thấy có cái gì đó như sắp vỡ
tung ra và tôi quyết định không đợi thêm nữa. Ngay sau đó, anh thư ký Dave Wyman, bắt đầu nói "đườ...ng" rồi nhanh như chớp
tôi đặt thẻ lên bàn quầy thu ngân ngay trước mặt anh thư ký và reo lên "chốt giá đường" trước khi Dave đọc to giá bán. Tất nhiênsau đó, cả văn phòng phải kết thúc chốt giá và giá cuối cùng khớp với cổ phiếu của tôi. Giá mà Dave đọc to hoá ra là 103.
Theo những ghi nhận của tôi, đến thời điểm đó, giá cổ phiếu đường là 103. Nhưng cả hệ thống hoạt không như thông lệ của
nó. Tôi có cảm giác như có cạm bẫy ở xung quanh. Sau tất cả mọi chuyện, tôi nhận ra hình như máy điện báo có vấn đề thì phải.
Tôi để ý thấy thư ký Tom Burnham không đánh dấu lên những tấm thẻ của tôi mà vẫn đặt chúng ở chỗ tôi đặt ban đầu lúc tôi còn
đang chú ý nghe tiếng lách cách của băng điện báo. Hình như anh ta đang đợi một cái gì đó. Thế nên tôi nói lớn: "Này Tom, anh
đang đợi cái quái gì đấy? Đánh dấu giá lên những cái thẻ này đi chứ - 103! Nhanh đi nào!"
Mọi người trong phòng nghe tiếng tôi và bắt đầu nhìn về phía chúng tôi và xôn xao hỏi có chuyện gì, và như anh biết đấy,
nếu công ty Comospolitan không làm như vậy thì tôi sẽ chẳng nói gì, điều hành một công ty chui như thế không khác gì điều
hành một ngân hàng cả. Nếu một khách hàng sinh nghi thì những người khác cũng sẽ như vậy. Nhìn vẻ mặt của thư ký Tom lúc
này trông tối sầm nhưng rồi anh ta cũng viết giá vào thẻ của tôi "chốt giá 103" rồi đẩy bảy tấm thẻ về phía tôi. Chắc anh ta chẳng
tử tế gì cho cam.
Từ chỗ đứng của Tom đến quầy thu ngân cách không quá hai mét rưỡi. Nhưng tôi không để cho nhân viên thu ngân cầm
tiền của mình lúc Dave Wyman đang đứng gần những tấm thẻ, miệng reo to "Trời đất! Đường 108!" Nhưng đã quá muộn vì vậy
tôi chỉ cười và nói với anh ta "Không ăn thua đâu Tom, đúng không anh bạn?"
Tất nhiên công việc của anh ta đôi khi phải như vậy. Henry William và tôi cùng đặt mua 600 cổ phiếu đường. Công ty đó đã
có giá biên của tôi và Herry. Có thể còn có nhiều người khác cũng muốn mua cổ phiếu loại này với số lượng có khả năng lên đến
tám nghìn hoặc mười nghìn cổ phiếu. Giả sử rằng có 20 nghìn cổ phiếu đang ở nhiều mức giá biên. Như vậy cũng là quá đủ để
công ty này bám sát thịtrường cổ phiếu tại Sàn giao dịch Chứng khoán New York và loại chúng tôi ra khỏi cuộc chơi. Trước đây
khi nào công ty chứng khoán chui lâm vào tình trạng quá tải do có quá nhiều đầu cơ giá lên vào cùng một loại cổ phiếu nhất
định, văn phòng môi giới thường cử chuyên gia môi giới hạ giá loại cổ phiếu đó nhằm loại một một số khách hàng đang chờ cơ hội
đầu cơ ra khỏi cuộc chơi. Công ty chẳng tốn mấy thời gian cho việc này. Họ chỉthiệt hại hơn hai điểm trong hàng vài trăm cổ
phiếu trong khi số tiền họ thu được lên đến hàng trăm đô-la.
Đó là cách mà công ty chui Comospolitan muốn thu hút tôi, Henry và những nhà đầu cơ lớn khác mua cổ phiếu từ phía họ.
Những nhà môi giới của họ tại New York nâng giá lên đến 108. Tất nhiên sau đó giá sẽ lại giảm nhưng cuối cùng thì Henry và một
số nhà kinh doanh khác cũng bị loại. Bất cứ khi nào giá cổ phiếu có xu hướng giảm mạnh mà không rõ nguyên do, và phục hồi
nhanh chóng ngay sau đó, giới báo chí thời đó sẽ gọi đó là cơ chế hoạt động theo kiểu công ty chứng khoán chui.
Điều nực cười nhất là sau khi công ty môi giới chứng khoán Comospolitan tìm cách đánh bật tôi, một anh bạn kinh doanh cổ
phiếu đến từ New York đã đẩy Comospolitan đến chỗ thua lỗ mất 70 nghìn đô-la. Anh bạn này, một thương nhân đến từ sàn giao
dịch chứng khoán New York, đã thực sự trở thành một thành viên quan trọng của thịtrường chứng khoán trong thời kỳ đó.
Trước đây anh ta đã nổi tiếng là một nhà đầu cơ cổ phiếu giá xuống trong suốt thời kỳ khủng hoảng Bryan năm 1996. Những quy
định do các sàn giao dịch chứng khoán đặt ra luôn gây khó khăn cho anh và anh phải thực hiện một số kế hoạch (mua bán cổ
phiếu) của mình thông qua một số người bạn. Một hôm, anh suy tính rằng cả sàn giao dịch lẫn các cơ quan chính sách cũng sẽ
không thể kêu ca phàn nàn gì nếu như anh chỉ ra một số việc làm bất chính của những công ty chui ở đây. Tôi nói ví dụ như anh
bạn này gửi đến những công ty này 35 người với vai trò là khách hàng. Họ tới những văn phòng chính và những chi nhánh lớn.
Vào một ngày nào đó tại một giờ đã ấn định, các đại lý sẽ mua nhiều cổ phiếu cùng loại trong giới hạn nhà quản lý cho phép. Khi
đạt được lợi nhuận ở một mức nào đó, họ sẽ nhận lệnh rút khỏi cuộc chơi. Tất nhiên những gì họ làm ở sàn giao dịch là khuyên
những người bạn tham gia đầu cơ giá lên rồi lên sàn đấu giá lên, lúc này họ đã có sự hỗ trợ từ phía các thương nhân trong sàn giao
dịch, những kẻ cứ nghĩ rằng họ chơi đẹp. Họ thận trọng lựa chọn các loại cổ phiếu để thực hiện kế hoạch của mình, lúc này, đẩy
giá lên ba hay bốn điểm không còn là việc khó. Các đại lý của anh bạn này tại các công ty như thế chỉ việc ngồi một chỗ mà thu
lợi nhuận.
Một người bạn của tôi nói rằng anh bạn đi đầu này đã kiếm ra 70 nghìn đô-la lãi trần còn các đại lý của anh ta luôn đảm báo
được các khoản chi phí cũng như việc chi trả lương. Anh ta đã chơi như thế vài lần trên khắp đất nước và lần lượt trừng trị các
công ty môi giới dưới dạng các công ty chứng khoán chui kiểu này ở New York, Boston, Philadenphia, Chicago, Cincintina và
St. Louis. Một trong những loại cổ phiếu anh bạn này yêu thích là Western Union vì đối với những loại cổ phiếu bán hoạt động
như vậy, việc tăng hay giảm giá vài điểm quả là không khó. Các đại lý của anh ta sẽ mua cổ phiếu cùng loại ở một mức giá nhất
định, bán ra hơn hai điểm lãi, sau đó mua lại với giá cao hơn 3 điểm nữa. Sau đó, tôi đọc báo mới biết anh ta qua đời trong nghèo
khổ. Nếu thời điểm đó là vào năm 1896 thì báo chí New York ít nhất cũng phải dành hẳn một cột báo trên trang nhất để bàn tán
về cái chết của anh ta. Nhưng lúc ấy, người ta chỉ dành cho anh một mẩu tin dài hai dòng.sau đó, cả văn phòng phải kết thúc chốt giá và giá cuối cùng khớp với cổ phiếu của tôi. Giá mà Dave đọc to hoá ra là 103.
Theo những ghi nhận của tôi, đến thời điểm đó, giá cổ phiếu đường là 103. Nhưng cả hệ thống hoạt không như thông lệ của
nó. Tôi có cảm giác như có cạm bẫy ở xung quanh. Sau tất cả mọi chuyện, tôi nhận ra hình như máy điện báo có vấn đề thì phải.
Tôi để ý thấy thư ký Tom Burnham không đánh dấu lên những tấm thẻ của tôi mà vẫn đặt chúng ở chỗ tôi đặt ban đầu lúc tôi còn
đang chú ý nghe tiếng lách cách của băng điện báo. Hình như anh ta đang đợi một cái gì đó. Thế nên tôi nói lớn: "Này Tom, anh
đang đợi cái quái gì đấy? Đánh dấu giá lên những cái thẻ này đi chứ - 103! Nhanh đi nào!"
Mọi người trong phòng nghe tiếng tôi và bắt đầu nhìn về phía chúng tôi và xôn xao hỏi có chuyện gì, và như anh biết đấy,
nếu công ty Comospolitan không làm như vậy thì tôi sẽ chẳng nói gì, điều hành một công ty chui như thế không khác gì điều
hành một ngân hàng cả. Nếu một khách hàng sinh nghi thì những người khác cũng sẽ như vậy. Nhìn vẻ mặt của thư ký Tom lúc
này trông tối sầm nhưng rồi anh ta cũng viết giá vào thẻ của tôi "chốt giá 103" rồi đẩy bảy tấm thẻ về phía tôi. Chắc anh ta chẳng
tử tế gì cho cam.
Từ chỗ đứng của Tom đến quầy thu ngân cách không quá hai mét rưỡi. Nhưng tôi không để cho nhân viên thu ngân cầm
tiền của mình lúc Dave Wyman đang đứng gần những tấm thẻ, miệng reo to "Trời đất! Đường 108!" Nhưng đã quá muộn vì vậy
tôi chỉ cười và nói với anh ta "Không ăn thua đâu Tom, đúng không anh bạn?"
Tất nhiên công việc của anh ta đôi khi phải như vậy. Henry William và tôi cùng đặt mua 600 cổ phiếu đường. Công ty đó đã
có giá biên của tôi và Herry. Có thể còn có nhiều người khác cũng muốn mua cổ phiếu loại này với số lượng có khả năng lên đến
tám nghìn hoặc mười nghìn cổ phiếu. Giả sử rằng có 20 nghìn cổ phiếu đang ở nhiều mức giá biên. Như vậy cũng là quá đủ để
công ty này bám sát thịtrường cổ phiếu tại Sàn giao dịch Chứng khoán New York và loại chúng tôi ra khỏi cuộc chơi. Trước đây
khi nào công ty chứng khoán chui lâm vào tình trạng quá tải do có quá nhiều đầu cơ giá lên vào cùng một loại cổ phiếu nhất
định, văn phòng môi giới thường cử chuyên gia môi giới hạ giá loại cổ phiếu đó nhằm loại một một số khách hàng đang chờ cơ hội
đầu cơ ra khỏi cuộc chơi. Công ty chẳng tốn mấy thời gian cho việc này. Họ chỉthiệt hại hơn hai điểm trong hàng vài trăm cổ
phiếu trong khi số tiền họ thu được lên đến hàng trăm đô-la.
Đó là cách mà công ty chui Comospolitan muốn thu hút tôi, Henry và những nhà đầu cơ lớn khác mua cổ phiếu từ phía họ.
Những nhà môi giới của họ tại New York nâng giá lên đến 108. Tất nhiên sau đó giá sẽ lại giảm nhưng cuối cùng thì Henry và một
số nhà kinh doanh khác cũng bị loại. Bất cứ khi nào giá cổ phiếu có xu hướng giảm mạnh mà không rõ nguyên do, và phục hồi
nhanh chóng ngay sau đó, giới báo chí thời đó sẽ gọi đó là cơ chế hoạt động theo kiểu công ty chứng khoán chui.
Điều nực cười nhất là sau khi công ty môi giới chứng khoán Comospolitan tìm cách đánh bật tôi, một anh bạn kinh doanh cổ
phiếu đến từ New York đã đẩy Comospolitan đến chỗ thua lỗ mất 70 nghìn đô-la. Anh bạn này, một thương nhân đến từ sàn giao
dịch chứng khoán New York, đã thực sự trở thành một thành viên quan trọng của thịtrường chứng khoán trong thời kỳ đó.
Trước đây anh ta đã nổi tiếng là một nhà đầu cơ cổ phiếu giá xuống trong suốt thời kỳ khủng hoảng Bryan năm 1996. Những quy
định do các sàn giao dịch chứng khoán đặt ra luôn gây khó khăn cho anh và anh phải thực hiện một số kế hoạch (mua bán cổ
phiếu) của mình thông qua một số người bạn. Một hôm, anh suy tính rằng cả sàn giao dịch lẫn các cơ quan chính sách cũng sẽ
không thể kêu ca phàn nàn gì nếu như anh chỉ ra một số việc làm bất chính của những công ty chui ở đây. Tôi nói ví dụ như anh
bạn này gửi đến những công ty này 35 người với vai trò là khách hàng. Họ tới những văn phòng chính và những chi nhánh lớn.
Vào một ngày nào đó tại một giờ đã ấn định, các đại lý sẽ mua nhiều cổ phiếu cùng loại trong giới hạn nhà quản lý cho phép. Khi
đạt được lợi nhuận ở một mức nào đó, họ sẽ nhận lệnh rút khỏi cuộc chơi. Tất nhiên những gì họ làm ở sàn giao dịch là khuyên
những người bạn tham gia đầu cơ giá lên rồi lên sàn đấu giá lên, lúc này họ đã có sự hỗ trợ từ phía các thương nhân trong sàn giao
dịch, những kẻ cứ nghĩ rằng họ chơi đẹp. Họ thận trọng lựa chọn các loại cổ phiếu để thực hiện kế hoạch của mình, lúc này, đẩy
giá lên ba hay bốn điểm không còn là việc khó. Các đại lý của anh bạn này tại các công ty như thế chỉ việc ngồi một chỗ mà thu
lợi nhuận.
Một người bạn của tôi nói rằng anh bạn đi đầu này đã kiếm ra 70 nghìn đô-la lãi trần còn các đại lý của anh ta luôn đảm báo
được các khoản chi phí cũng như việc chi trả lương. Anh ta đã chơi như thế vài lần trên khắp đất nước và lần lượt trừng trị các
công ty môi giới dưới dạng các công ty chứng khoán chui kiểu này ở New York, Boston, Philadenphia, Chicago, Cincintina và
St. Louis. Một trong những loại cổ phiếu anh bạn này yêu thích là Western Union vì đối với những loại cổ phiếu bán hoạt động
như vậy, việc tăng hay giảm giá vài điểm quả là không khó. Các đại lý của anh ta sẽ mua cổ phiếu cùng loại ở một mức giá nhất
định, bán ra hơn hai điểm lãi, sau đó mua lại với giá cao hơn 3 điểm nữa. Sau đó, tôi đọc báo mới biết anh ta qua đời trong nghèo
khổ. Nếu thời điểm đó là vào năm 1896 thì báo chí New York ít nhất cũng phải dành hẳn một cột báo trên trang nhất để bàn tán
về cái chết của anh ta. Nhưng lúc ấy, người ta chỉ dành cho anh một mẩu tin dài hai dòng.Nhưng việc này thực ra cũng gây khó dễ cho tôi. Tất nhiên là công ty chui có đủ sức để gánh chịu thua lỗ lâu dài nhưng họ
không chịu như vậy. Họ không muốn trong công ty của mình có một vị khách hàng lúc nào cũng chỉthích mình thắng.
Sau tất cả mọi chuyện tôi nhận thấy rằng không thể áp dụng những kinh nghiệm ở những công ty chứng khoán chui để kinh
doanh tại văn phòng Fulleton được. Tại văn đây, tôi mới thực sự mua và bán cổ phiếu. Giá cổ phiếu đường có thể là 105 theo như
dự đoán trong sổ ghi chép của tôi và tôi thấy nó sắp giảm ba điểm. Nói đúng ra, ngay tại thời điểm con số 105 được in lên bảng
tin, giá thực trên sàn giao dịch chỉ là 103 hoặc 104. Trước khi lệnh bán một nghìn cổ phiếu của tôi đến tay nhân viên sàn
Fulleton để khớp lệnh, giá còn có thể thấp hơn nữa. Tôi không thể nói trước một nghìn cổ phiếu của mình sẽ ở mức giá bao nhiêu
cho đến khi tôi nhận được một tin báo cáo từ tay thư ký. Nếu như ở những công ty chui, tôi biết chắc mình sẽ có ba trăm đô-la
trong một phiên giao dịch thì tại văn phòng này, tôi không kiếm được lấy một xu. Tất nhiên đấy là tôi nói đến trường hợp xấu
nhất nhưng thực tế cho thấy rằng bảng tin luôn nhắc tôi về những ngày đã qua của mình, về quá trình phát triển sự nghiệp của tôi
mà bản thân tôi sẽ không thể nhận biết được.
Cũng trong thời gian sau đó, nếu lệnh tôi đưa ra là lệnh cỡ lớn, giá trị của chúng có thể giảm nếu tôi mua hay bán trong thời
gian dài. Ở những công ty chui, tôi giao dịch dựa trên những tính toán mà không chịu ảnh hưởng của quá trình giao dịch. Tôi
thua lỗ ở New York cũng là vì đó là một sân chơi khác hoàn toàn. Người ta nói rằng tôi là một người rất có khả năng đọc bảng tin.
Nhưng đọc bảng tin như một chuyên gia thực thụ cũng không thể cứu vãn thất bại. Giá như bản thân tôi là một nhà kinh doanh,
một khách hàng quen trên sàn thì tình hình hẳn sẽ lạc quan hơn nhiều. Giữa đám đông khách hàng trên sàn giao dịch, có lẽ tôi
phải nghĩ ra cách nào đó để hệ thống của mình thích nghi với những điều kiện ở đây ngay lập tức, thậm chí hệ thống ấy phải thích
nghi trước cả tôi. Nhưng tất nhiên, nếu tôi tiếp tục kinh doanh theo quy mô như hiện tôi đang áp dụng thì hệ thống đó sẽ không
thể đem lại thành công cho tôi vì quá trình giao dịch có ảnh hưởng khá lớn đến giá cổ phiếu.
Nói ngắn gọn, tôi thực sự không hiểu hết "trò chơi" đầu cơ tích trữ. Tôi chỉ biết một phần nào đó, một phần cũng khá quan
trọng và có thể sẽ luôn hữu ích đối với tôi. Nhưng nếu với tất cả số tiền tôi có trong tay mà tôi vẫn thất bại thì đâu mới là cơ hội
chiến thắng. Nói đúng hơn, đâu mới là cơ hội đầu cơ dành cho một người không phải thành viên nội bộ của sàn với vốn kinh
nghiệm còn quá ít ỏi như tôi?
Chẳng bao lâu sau tôi nhận ra rằng có điều gì đó không ổn trong lối chơi của tôi nhưng tôi không biết chính xác nó là cái gì.
Đã từng có những lần hệ thống của tôi hoạt động khá hoàn hảo và rồi, thật không ngờ, tôi phải chịu hết thất bại này đến thất bại
khác. Tôi mới có 22 tuổi, anh hãy nhớ cho tôi điều đó, ý tôi không phải là ở tuổi đó tôi không muốn biết mình sai ở đâu mà tôi
muốn nhấn mạnh rằng các bạn đồng trang lứa với tôi, không mấy ai biết được nhiều điều như tôi.
Những người trong văn phòng Fullerton đối xử rất tử tế với tôi. Tôi không dám tự ý làm gì và nguyên nhân không phải do
những yêu cầu về mức giá biên họ đưa ra mà bởi vì ông A.R. Fullerton và những người còn lại trong công ty rất tốt với tôi. Họ đã
cho tôi vay vài trăm đô-la khi tôi đã thua lỗ và mất hết số tiền trong tay cùng với những đồng kiếm được tại văn phòng sau sáu
tháng kinh doanh ở đó.
Ở đó, tôi là một cậu bé thực sự, một cậu bé chưa bao giờ xa nhà với bàn tay trắng nhưng tôi biết bản thân tôi không có vấn
đề gì cả, chỉ có lối chơi của tôi mới có vấn đề. Tôi không biết tôi có tự biến mình thành kẻ ngốc hay không nhưng thực sự tôi chưa
bao giờ mất bình tĩnh khi chơi trong thịtrường chứng khoán. Tôi chưa bao giờ tranh luận với bảng tin. Có những bài học trên thị
trường chứng khoán dù có đau đớn cũng không đưa anh đi đến đâu.
Tôi sốt sắng muốn khôi phục lại sự nghiệp kinh doanh của mình nên tôi tiết kiệm từng phút từng giây, tôi đến gặp ông
Fullerton và nói với ông rằng: "ông A.F., hãy cho cháu vay 500 đô-la."
Ông hỏi: "Để làm gì?"
"Cháu phải có một ít tiền"
Ông hỏi lại: "Để làm gì?"
"Tất nhiên là để đặt giá biên rồi ạ"- tôi nói.
Ông nheo mày hỏi: "500 đô-la?" Cậu biết người ta chỉ cho cậu đặt 10% giá biên tức là chỉ được đặt một nghìn đôla cho một
trăm cổ phiếu. Tốt nhất là tôi cho cậu thiếu nợ"
"Không."- tôi nói -" 2 Cháu không muốn vay tín dụng.
Cháu đã nợ văn phòng rồi. Những gì cháu cần bây giờ là bác cho cháu vay 500 đô-la để cháu có thể ra ngoài làm ăn kiếm lãi
rồi cháu sẽ quay lại."
Ông A.R. hỏi: "Cháu định làm gì với số tiền này?"
Tôi nói với ông: "Cháu sẽ mua bán cổ phiếu ở công ty chứng khoán chui"."Mua bán ở đấy ư?" - ông nói.
"Không."- tôi nói - "Cháu không chắc là mình có thể kiếm được tiền ở đây nhưng ở công ty chui thì có. Ở đấy, cháu biết nên
chơi thế nào. Hình như cháu đã sai lầm khi đến đây."
Ông cho tôi vay một ít tiền và tôi ra khỏi văn phòng nơi "tên khủng bố trẻ tuổi" của những công ty chứng khoán chui, như
cái tên người ta vẫn gọi người vừa bịthua lỗ nặng nề. Tôi không thể quay về nhà vì ở đó người ta không cho tôi mua hay bán cổ
phiếu. New York không còn là mối quan tâm của tôi nữa vì khi đó ở New York cũng không mấy ai kinh doanh cổ phiếu. Người ta
nói với tôi rằng những người kinh doanh cổ phiếu tập trung nhiều ở số 90 phố Broard hay phố New. Nhưng khi tôi muốn nhờ ai
đó tham gia vào thương vụ của mình thì chẳng có ai hết. Vì vậy sau một hồi đắn đo suy nghĩ, tôi quyết định đến St. Louis. Tôi
được nghe kể về hai công ty kinh doanh lớn xuyên Trung Miền Tây. Chắc hẳn lợi nhuận của họ phải lớn lắm. Họ có văn phòng
chi nhánh ở hàng tá những thịtrấn. Người ta nói rằng nếu nói về quy mô kinh doanh thì không công ty nào ở Miền Đông có thể
so sánh được với họ. Họ hoạt động công khai và những người giỏi nhất kinh doanh ở đó mà không phải lo lắng điều gì. Thậm chí
một người bạn nói với tôi rằng chủ của một công ty trong số đó là phó chủ tịch Phòng Thương mại nên chẳng mấy khi có mặt ở
St.Louis. Bằng mọi giá, đó cũng là nơi tôi đến và mang theo 500 đô-la để hoàn vốn rồi dùng để đặt giá biên tại văn phòng của ông
A.R. Fullerton & Co., thành viên của sàn giao dịch chứng khoán New York.
Khi đến St. Louis, tôi trọ ở khách sạn. Tôi ra ngoài để tìm những công ty chứng khoán chui. Có hai công ty kiểu này là công
ty J.G.Dolan và công ty H.S.Teller & Co. Tôi biết tôi có thể đánh bại họ. Tôi quyết phải chơi hết sức thận trọng và kiên quyết.
Chỉ có một điều làm tôi sợ đó là sẽ có người nhận ra tôi và đuổi tôi đi bởi vì những công ty chui như vậy trên khắp cả nước đều đã
nghe danh tiếng của "vịthương nhân trẻ tuổi". Việc kinh doanh lần này sẽ giống như đem nhà ra đánh bạc vậy.
Công ty Dolan ở gần chỗ tôi hơn so với Teller, vì vậy tôi đến Dolan trước. Hy vọng tôi sẽ được kinh doanh vài ngày trước khi
người ta buộc tôi phải chuyển đi nơi khác. Tôi bước vào trong. Đó là một nơi cực kỳ rộng lớn và tôi đoán chắc phải có hàng trăm
người đang tham gia yết giá ở bên trong. Tôi mừng thầm vì giữa đám đông hàng bao nhiêu người như vậy, sẽ chẳng có ai có thể
nhận ra tôi. Tôi đứng quan sát tấm bảng yết giá, nhìn thật kỹ cho đến chọn ra được loại cổ phiếu cho lượt chơi đầu tiên của mình.
Tôi nhìn quanh và thấy thư ký khớp lệnh ở phía cửa sổ nơi người ta đặt tiền và nhận thẻ. Bác thư ký này nhìn tôi nên tôi đi
về phía bác và hỏi: "Có phải ở đây người ta mua bán cổ phiếu vải cốt tông và lúa mỳ không bác?"
"Đúng vậy anh bạn trẻ ạ." - bác thư ký nói.
"Tôi mua cổ phiếu được chứ?"
Bác nói: "Có thể nếu anh có tiền mặt."
Tôi nói như một cậu bé kiêu hãnh: "Tôi có, được thôi."
"Anh có thật không?" - Bác vừa nói vừa cười.
Tôi hỏi, vẻ như tức giận: "Tôi có thể mua được bao nhiêu cổ phiếu với một trăm đô-la?"
"Một trăm đô-la; cậu có thật không?"
Tôi nói với bác: "Tôi có một trăm. Hai trăm tôi cũng có."
"Chúa ơi!" - bác thốt lên.
Tôi với giọng nhấn mạnh: "Bác để tôi mua hai trăm cổ phiếu."
"Cậu nói hai trăm cái gì cơ?"- bác hỏi, lần này thì giọng rất nghiêm túc. Đây là công việc kinh doanh cơ mà.
Tôi nhìn lại bảng yết giá như là để đoán giá với ánh mắt thông minh và nói với bác thư ký: "Hai trăm" Bác nói: "Thôi được
rồi.". Bác cầm lấy tiền của tôi, đếm rồi viết lên thẻ.
"Tên cậu là gì?" - bác hỏi và tôi trả lời "Horace Kent."
Bác đưa cho tôi tấm thẻ và tôi đi ra, ngồi giữa đám đông khách hàng để đợi bức rèm cuốn được kéo lên. Tôi hành động
nhanh chóng và giao dịch đến vài lần trong ngày hôm đó. Ngày hôm sau cũng vậy. Trong vòng có hai ngày tôi đã thu về 2.800
đô-la và hy vọng người ta vẫn để tôi chơi tiếp đến hết tuần. Cứ như thế có tốt hơn không. Rồi tôi đến công ty khác và nếu may
mắn cũng lại đến với tôi như ở công ty kia thì tôi sẽ trở lại New York với cả một núi tiền và tôi có thể sẽ làm nên chuyện với số
tiền đó.
Buổi sáng ngày thứ ba, với cái vẻ như đang xấu hổ, tôi đi về phía cửa sổ để mua 500 cổ phiếu B.R.T. Bác thư ký nói với tôi"Này cậu Kent, ông chủ muốn gặp cậu." Tôi biết trò chơi sắp kết thúc. Nhưng tôi vẫn hỏi bác
"Ông ấy muốn biết gì về cháu?"
"Tôi không biết"
"Ông ấy ở đâu?"
"Trong phòng riêng. Cậu đi lối kia kìa." Rồi bác thư ký chỉ về phía cánh cửa.
Tôi bước vào. Dolan đang ngồi trên bàn. Ông ta quay lại và nói: "Ngồi xuống đi, Livingston"
Ông ta chỉ vào cái ghế. Hy vọng cuối cùng của tôi cũng vụt tắt. Tôi không biết làm thế nào mà ông ta lại biết tôi là ai, có thể
là do tôi đăng ký phòng khách sạn.
Tôi hỏi "ông muốn biết gì về tôi ?"
"Nghe này cậu bé. Tôi sẽ không làm gì để chống lại cậu đâu, hiểu chứ ? Không gì hết. Hiểu chứ?"
"Tôi không hiểu" - tôi đáp.
Ông ta đứng ra khỏi cái ghế xoay. Đó là một người đàn ông to béo vạm vỡ. Ông ta nói với tôi: "Hãy đến đây nào" và ông ta đi
ra phía cửa, mở cửa ra rồi chỉ ra đám đông khách hàng trong căn phòng lớn kia.
Ông ta hỏi: "Anh có thấy họ không?"
"Thấy gì cơ?"
"Những người đàn ông kia. Hãy nhìn họ đi. Có đến ba trăm người. Ba trăm kẻ mê mẩn với chứng khoán. Họ nuôi sống tôi và
gia đình tôi hàng ngày. Cậu thấy không ? Ba trăm người. Rồi cậu đến, và chỉtrong có hai ngày cậu đã lấy đi của tôi cả đống tiền,
nhiều hơn cả số tiền tôi kiếm được từ ba trăm con người kia trong vòng hai tuần. Như vậy không phải là kinh doanh, cậu bé ạ,
nhất là với tôi. Nhưng tôi sẽ không làm gì chống lại cậu đâu. Cậu cứ vui mừng với số tiền mà cậu đã kiếm được. Nhưng cậu đừng
có kiếm thêm nữa. Đây không phải là chỗ dành cho cậu."
"Tại sao? Tôi..."
"Tất cả chỉ có vậy. Tôi đã thấy cậu từ hôm kia và tôi không thích cậu. Nói thật là tôi không thích. Tôi đã giao cho tổng quản
để mắt đến cậu. Ý tôi là cái gã ngốc ở đằng kia kìa" - ông ta chỉ vào bác thư ký - "rồi tôi hỏi xem cậu đã làm những gì, và khi gã kể
cho tôi nghe, tôi đã nói với gã 'tôi không thích cậu ta. Cậu ta giả danh đấy. Rồi cái gã trông chẳng khác gì một mẩu pho mát ấy
nói: 'Hãy tin vào mắt tôi đi, ông chủ. Tên cậu ta là Horace Kent và cậu này chỉ chơi theo kiểu quen mui thôi. Không sao đâu.'
Tôi đã để cho gã làm theo ý mình. Và rồi tôi mất đến 2.800 đô-la với cậu. Tôi không gây khó dễ cho cậu, cậu bé của tôi ạ, nhưng
cậu không còn được an toàn ở đây nữa đâu."
Tôi bắt đầu nói "Ông nhìn đây này..."
"Cậu nhìn đây, Livingston," - ông ta nói - "Tôi đã biết tất cả về cậu. Cậu làm người ta chẳng muốn cá cược ở đây nữa. Cậu
không thuộc về nơi này. Tôi muốn chơi đẹp còn cậu thì vui mừng với những gì cậu đã lấy được từ chúng tôi. Cậu còn làm nhiều
việc khác nữa để biến tôi thành một kẻ ngốc. Bây giờ thì tôi đã biết hết cậu là ai.
Hãy đi khỏi đây, anh bạn trẻ."
Tôi rời khỏi công ty của Dolan với số tiền 2.800 đô-la vừa kiếm được. Công ty của Teller nằm ngay trong cùng khu phố. Tôi
biết Teller là một tay giàu có, cũng là một người có rất nhiều phòng giao dịch. Tôi quyết định tới công ty chứng khoán chui của
ông ta. Tôi băn khoăn không biết bắt đầu giao dịch thật khiêm tốn rồi sau đó sẽ bán một nghìn cổ phiếu hay là đánh quả liều,
cách nào khôn ngoan hơn, mà theo lý thuyết, nếu làm liều thì tôi sẽ chỉ được tham gia giao dịch trong không quá một ngày.
Sau khi thất bại, họ cũng đã đủ thông minh nhanh nhạy còn tôi lại thực sự muốn bán ra một nghìn cổ phiếu B.R.T. Tôi chắc
mình có thể thắng ăn đứt đến bốn hoặc năm điểm. Nhưng trong trường hợp họ sinh nghi hoặc có quá nhiều người cũng muốn
cùng loại cổ phiếu đó thì có thể họ sẽ không để cho tôi mua bán gì hết. Tôi nghĩ có lẽ tôi nên chia nhỏ các phiên giao dịch của
mình trước đã rồi sẽ bắt đầu giao dịch rất ít cổ phiếu.
Văn phòng ở đây không lớn như ở công ty của Dolan nhưng trang trí đẹp hơn và rõ ràng là khách hàng ở đây thuộc tầng lớp
cao hơn. Những thứ đó như hút lấy tôi nên tôi quyết định bán một nghìn cổ phiếu B.R.T. Vì thế tôi tiến đến phía cửa sổ và nói với
thư ký: "Tôi muốn bán một ít cổ phiếu B.R.T. Giới hạn là bao nhiêu?"Thư ký nói: "Không có giới hạn. Anh có thể bán tất cả nếu anh muốn - nếu anh có tiền" v"Tôi bán 1.500 cổ phiếu" Tôi nói
và rút tiền trong túi ra, còn tay thư ký bắt đầu viết thẻ.
Sau đó tôi thấy một người đàn ông đội mũ đỏ bất ngờ đẩy anh thư ký ra khỏi quầy thu ngân. Ông ta đứng chắn ngang và nói
với tôi rằng: "Này, Livingston, cậu hãy đi mà quay lại văn phòng của Dolan. Chúng tôi không muốn cậu mua bán gì ở đây hết."
"Hãy đợi tôi lấy thẻ đã" - tôi đáp - "Tôi chỉ mua một ít cổ phiếu B.R.T thôi mà."
"Cậu không được nhận một tấm thẻ nào ở đây hết." - ông ta nói. Những tay thư ký đứng sau ông ta cứ chăm chú nhìn tôi.
"Đừng bao giờ đến đây mua bán cổ phiếu nữa. Chúng tôi không muốn cậu kinh doanh ở đây. Hiểu không?"
Tôi không nổi giận cũng chẳng muốn tranh cãi nên tôi quay lại khách sạn, trả tiền phòng rồi bắt chuyến tàu sớm nhất về
New York. Thật khó nhọc. Tôi như một kẻ ham chơi trò ô chữ, chỉtranh thủ chơi trong lúc rảnh rỗi và chỉthấy thỏa mãn khi
chiến thắng. Tất nhiên tôi muốn tìm đáp án cho trò chơi đoán ô chữ của mình. Tôi cứ nghĩ mình đã chấm dứt sự nghiệp kinh
doanh ở những công ty chứng khoán chui nhưng tôi đã sai.
Hai tháng sau khi tôi quay trở về New York, một anh bạn lớn tuổi đến văn phòng của Fullerton. Anh ta biết ông A.R. Người
ta nói rằng họ đã cùng nhau sở hữu rất nhiều ngựa đua. Đó là những tháng ngày tươi đẹp. Tôi được giới thiệu cho ông McDevitt.
Ông ta đang nói với đám đông về một nhóm tội phạm đường đua ở các nước Phương Tây vừa thắng trong "skin game" ở St.
Louis. Tên cầm đầu là chủ sở hữu sàn giao dịch có tên là Teller.
"Gì Teller cơ? " - tôi hỏi ông ta.
"Hi Teller; H.S. Teller"
"Tôi biết gã này" - tôi nói
"Gã chẳng có gì là tốt đẹp cả"- McDevitt nói
"Còn tệ hơn như vậy" - tôi tiếp - "tôi còn có chuyện để giải quyết với gã."
"Nghĩa là sao?"
"Cách duy nhất mà tôi có thể chiến đấu với những kẻ chơi xấu như gã là tấn công túi tiền của chúng. Ngay bây giờ, tôi chưa
thể tiếp cận gã ở St. Louis nhưng việc đó để sau." Và tôi nói với McDevitt về nỗi bức xúc của mình.
"Ồ"- ông Mac nói "gã cố tìm cách để liên kết với New York nhưng không thể, vì vậy gã đành hoạt động ở Hoboken. Người ta
nói rằng có một cuộc chơi vô hạn ẩn dưới cái mái nhà làm bằng đá Gibraltar của gã."
"Là nơi nào vậy?" Tôi nghĩ ông Mac nói đến sàn giao dịch của Teller.
"Công ty chứng khoán chui." - ông Mac nói.
"Ông có chắc là nó mở cửa không?"
"Chắc. Tôi gặp mấy người bạn, họ nói cho tôi như vậy."
"Nhưng chỉ là lời đồn đại thôi" - tôi nói - "Ông có dám chắc là nó vẫn đang hoạt động không. Nếu có, chúng để cho khách
hàng giao dịch như thế nào?"
"Chắc chắn đấy anh bạn trẻ ạ" - ông McDevitt nói -
"Ngày mai tôi sẽ tự đi tìm hiểu rồi quay lại nói cho cậu biết."
Đúng như vậy. Dường như Teller đang kinh doanh lớn và hắn sẽ vơ vét tất cả những gì có thể. Hôm đó là vào thứ Sáu. Thị
trường chứng khoán nóng lên trong suốt cả tuần - anh nên nhớ tôi đang nói về thời điểm hai mươi năm trước - và báo cáo ngân
hàng thông báo chắc chắn về số dự trữ thặng dư giảm mạnh. Như vậy thì các nhà kinh doanh lớn càng có cơ hội nhảy vào thị
trường chứng khoán và ra sức thu lợi nhuận nhờ những tài khoản yếu của công ty môi giới (weak commission-house accounts).
Sẽ có những phản ứng bất thường vào nửa tiếng đồng hồ cuối cùng của phiên giao dịch, nhất là đối với những loại cổ phiếu dân
chúng nóng lòng mong đợi nhất. Tất nhiên, khách hàng của Teller cũng rất muốn những loại cổ phiếu như vậy và có thể công ty
sẵn sàng để họ đặt bán chúng. Tuyệt vời nhất vẫn là thâu tóm được khách hàng bằng cả hai cách và với mức giá biên một điểm thì
việc ấy sẽ dễ như trở bàn tay vậy.
Sáng thứ Bảy hôm đó, tôi tới Hoboken để tìm Teller. Căn phòng lớn dành cho khách hàng như chật cứng với một cái bảngyết giá, mấy tay thư ký, một tay cảnh sát đặc nhiệm trong bộ đồ màu xám và khoảng hai mươi lăm khách hàng.
Tôi bắt chuyện với người quản lý. Anh ta hỏi tôi liệu anh ta có thể giúp được gì cho tôi nhưng tôi chẳng nói gì. Anh ta còn
nói cho tôi hay về một anh bạn chiến hữu chỉ dựa vào những con số lẻ cũng có thể kiếm được rất nhiều tiền và còn được thả sức
cá cược bằng cả túi tiền của mình và thắng đến hàng nghìn đô-la chỉtrong phút chốc, không như nhiều người chỉ biết chờ đợi một
cách vô ích. Anh ta nói bây giờ chơi cổ phiếu trở nên an toàn hơn và khách hàng có thể kiếm được bao nhiêu tiền - anh nên nhớ
anh ta là một chuyên gia môi giới chứng khoán chuyên mua và bán cổ phiếu của anh trên sàn giao dịch - và nếu một người chỉ
mua bán đơn thuần thì tội gì anh ta phải lấy lòng tất cả mọi người. Hẳn anh ta nghĩ rằng tôi là chủ sở hữu một phòng giao dịch nào
đó. Anh ta muốn lấy tiền ra khỏi túi tôi trước khi những kẻ khác xâu xé mất, vì thế anh ta nói rằng tôi phải nhanh chân lên bởi vì
vào các ngày thứ Bảy, văn phòng sẽ đóng cửa lúc 12 giờ. Điều này càng thôi thúc tôi dành hết cả buổi chiều còn lại ngày hôm đó
cho những gì mình đang theo đuổi. Có thể túi tiền mà tôi mang theo sẽ còn đầy hơn nếu tôi lựa chọn đúng loại cổ phiếu.
Tôi tỏ vẻ không tin nên anh ta lại ra sức thuyết phục tôi. Tôi nhìn lên đồng hồ. Lúc 11 giờ 15 phút tôi nói: "Thôi được" và bắt
đầu đưa cho anh ta lệnh bán với rất nhiều cổ phiếu. Số tiền mặt của tôi tăng lên đến hai nghìn đô-la và anh ta vui vẻ nhận tiền.
Anh ta nói chắc tôi đã kiếm được rất nhiều tiền và hy vọng tôi sẽ lui tới thường xuyên.
Tôi kiếm được nhiều tiền cũng là nhờ tôi đã tính toán đúng. Các thương gia đều cố giữ những loại cổ phiếu mà họ cho là ổn
định nhất về giá nhưng chắc chắn thế nào giá cũng sẽ xuống. Tôi chỉ kết thúc thương vụ của mình ngay sau khi những vị khách
quen kia kết thúc trong năm phút cuối.
Tôi thu về được khoảng 5.100 đô-la. Tôi đem đi gửi ngân hàng.
"Tôi rất vui vì đã được thực hiện giao dịch." - tôi nói với người quản lý và đưa cho anh ta những tấm thẻ của mình.
"Này" - anh ta nói với tôi, "tôi không thể đưa tất cả số thẻ cho anh được. Tôi không ngờ anh lại đặt nhiều đến vậy. Sáng thứ
Hai tôi sẽ đưa cho anh, chắc chắn đấy."
Tôi nói: "Được đấy, nhưng hãy cứ đưa tất cả số anh có trong văn phòng này cho tôi trước đã."
"Anh phải để cho tôi tạo điều kiện cho những chiến hữu khác nữa chứ." - anh ta nói: "Tôi sẽ đưa cho anh tất cả chỗ anh yêu
cầu, và cả những gì còn lại nữa. Hãy đợi tôi đổi những tấm thẻ khác ra tiền mặt đã." Vì anh ta nói vậy nên tôi đợi cho đến khi anh
ta thương lượng với những người thắng cổ phiếu khác. Ồ, tôi thầm nghĩ số tiền của mình chắc đã được an toàn. Teller sẽ không
thất hứa với một văn phòng hoạt động kinh doanh tốt như vậy đâu. Nếu gã thất hứa, tôi phải làm gì để lấy được hết tiền gã có
đây? Tôi đã có khoản tiền 2.000 đô-la của riêng mình cộng với khoảng 800 đô-la là tất cả số tiền gã có trong cái văn phòng ấy.
Tôi nói tôi sẽ quay lại vào sáng thứ Hai. Viên quản lý hứa hẹn rằng sẽ chuẩn bị sẵn tiền để đợi tôi.
Tôi ghé qua Hoboken một lát trước 12 giờ hôm thứ Hai. Tôi thấy một anh bạn đang nói chuyện với người quản lý, tôi đã gặp
người này tại văn phòng ở St. Louis vào cái ngày mà Teller xua đuổi tôi quay trở lại văn phòng của Dolan. Tôi đoán ngay ra rằng
người quản lý đã gửi điện báo về văn phòng và người ta đã cử người đến để thám thính tình hình. Những kẻ như Teller chẳng tin
ai bao giờ.
"Tôi đến lấy thẻ như đã hẹn." - tôi nói với tay quản lý.
"Có phải người này không?" - tên đến từ St. Louis hỏi.
"Đúng" - người quản lý trả lời, và rút ra một tệp những tấm thẻ vàng từ túi sau ra.
"Dừng lại đã" tên kia nói với người quản lý rồi quay sang tôi: "Này Livingston, chẳng phải là tôi đã nói với anh rồi đấy thôi,
chúng tôi không muốn anh kinh doanh ở đây"
"Đưa tiền cho tôi trước đã" - tôi nói với người quản lý và anh ta trả cho tôi trên 2.000 đô-la, bốn đồng năm trăm đô-la và
ba đồng một nghìn đô-la.
"Các anh đã nói gì ấy nhỉ?" tôi nói với tên đến từ St. Louis.
"Chúng tôi nói rằng chúng tôi không muốn anh mua bán cổ phiếu tại các văn phòng của chúng tôi."
"Vâng", tôi nói, "đó cũng là lý do tại sao tôi đến đây."
"Đừng đến đây nữa. Hãy đi đi." - anh ta nổi cáu với tôi. Tay cảnh sát trong bộ đồ màu xám xuất hiện, vẫn như thường lệ. Gã
đến từ St.Louis vẩy tay trước mặt người quản lý và hét tướng lên: "Lẽ ra ông phải biết chứ, đồ ngốc nghếch, ông đã bị gã này xỏ
mũi rồi đấy. Gã là Livingston. Ông đã nhận lệnh rồi còn gì."
"Hãy nghe đây." - tôi nói với tay đến từ St. Louis "Đây không phải là ở St. Louis. Anh không có quyền cấm tôi chơi cổphiếu ở đây, như ông chủ của anh đã làm với cậu bé đến từ Belfast trước đây."
"Cậu ra khỏi văn phòng này ngay! Cậu không được mua bán gì ở đây hết." - hắn hét lên.
"Nếu tôi không được mua bán cổ phiếu ở đây thì không ai khác được làm như vậy." - tôi nói với gã "hãy đi khỏi đây cùng
với những thứ hay ho của anh đi"
Rồi gã từ St. Louis đổi giọng ngay lập tức "Hãy nhìn đây cậu bé" - ông ta nói và lên giọng quát nhặng xị "Để chúng tôi được
yên. Đừng có vô lý như thế. Cậu biết rồi đấy ngày nào cũng thế này thì làm sao chúng tôi chịu nổi. Ông Teller sẽ nổi khùng lên
khi biết cậu chính là người đã làm việc này. Hãy mở lòng từ bi đi, Livingston!"
"Đơn giản thôi, tôi sẽ đi" - tôi hứa.
"Hãy nghe tôi nói lý do nào, được chứ? Vì tình yêu thánh Peter, hãy đi đi. Hãy cho chúng tôi cơ hội khởi nghiệp suôn sẻ. Ở
đây chúng tôi vẫn còn lạ lẫm. Được chứ?"
"Từ nay tôi cũng chẳng muốn làm ăn với những người kiêu ngạo như các ông." - tôi nói rồi quay ra và bỏ lại gã ở lại nói
chuyện với người quản lý về số tiền một triệu đô-la chỉtrong một phút. Tôi đã kiếm được ít tiền từ văn phòng của họ theo đúng
như cách họ đã đối xử với tôi hồi còn ở St. Louis. Tôi không hề nổi nóng và cố gắng quên họ đi. Tôi trở lại văn phòng của ông
Fullerton và kể cho McDevitt những gì đã xảy ra. Rồi tôi hỏi anh ta xem anh ta có chịu đến nơi của Teller và bắt đầu mua bán hai
mươi đến ba mươi cổ phiếu ở đó, để cho họ quen với anh ta. Sau đó, khi nào tôi thấy có thể quét được một mẻ lớn, tôi sẽ gọi cho
anh ta và anh ta sẽ hành động.
Tôi đưa cho McDevitt một nghìn đô-la rồi anh ta tới Hoboken và làm như những gì tôi bảo. Anh ta trở thành một trong
những khách hàng thường xuyên của văn phòng đó. Vào một ngày nọ, tôi phát hiện ra giá sắp giảm đột ngột, tôi liền báo cho
McDevitt và anh ta bán hết tất cả số cổ phiếu trong giới hạn họ cho phép. Anh ta đã thu về được 2.800 đô-la trong ngày hôm đó.
Nhưng sau khi chia chác tiền lãi và trả một số khoản phí, tôi nghi là Mac có bỏ túi một ít tiền cược. Không đầy một tháng sau,
Teller phải đóng cửa chi nhánh của mình ở Hoboken. Cảnh sát trở nên bận rộn hơn. Dù sao thì vụ này cũng chẳng thấm tháp gì vì
tôi cũng mới chỉ kinh doanh ở đó có hai lần. Chúng tôi đổ xô vào một thịtrường cổ phiếu lên giá hỗn loạn vì không phản ứng kịp
để loại một số khách hàng ra khỏi cuộc chơi thậm chí với giá biên một điểm, và dĩ nhiên, khách hàng ở đó đều là những người đầu
cơ lên giá, họ thắng cuộc rồi lại tiếp tục chơi theo kiểu hình tháp. Những công ty chui vẫn không ngừng hoạt động trên khắp đất
nước.
Trò chơi của họ đã thay đổi. Mua bán cổ phiếu trong những công ty chứng khoán chui lỗi thời còn tốt hơn so với đầu cơ cổ
phiếu trong văn phòng của một nhà môi giới chứng khoán có tiếng tăm. Nguyên nhân là ở chỗ việc anh tự động kết thúc giao
dịch khi giá biên hạ xuống mức thấp nhất chính là loại lệnh ngừng thua lỗ (stop-loss order) tốt nhất. Anh sẽ không sợ bịthua lỗ
quá nhiều và cũng không bị buộc phải ra lệnh mua/bán theo kiểu cũ, v.v... Ở New York, những công ty chui như thế này chưa
bao giờ đối xử thoải mái đối với khách hàng như ở các nước châu Âu theo như tôi được biết. Ở đây họ thường giới hạn tiền lãi
khách hàng có thể thu được từ một loại cổ phiếu nhất định nào đó, ví dụ như đối với bóng bầu dục là 2 điểm. Đường và than đá
Tennessee cũng vậy. Dù họ có tăng lên 10 điểm trong vòng mười phút, anh cũng chỉ được phép tăng 2 điểm với mỗi tấm thẻ. Tuy
nhiên, họ biết có một khách hàng đã thu được những khoản lãi lớn và anh ta đã chịu mất một để được mười. Sau đó, có không
biết bao nhiêu lần tất cả những công ty này, trong đó có cả những công ty lớn nhất không chịu nhận lệnh mua bán đối với một số
loại cổ phiếu nhất định nào đó. Năm 1890, trước ngày bầu cử Tổng thống Mỹ mà McKinley được đánh giá là ứng cử viên sáng giá
nhất có thể nắm chắc phần thắng trong tay, không một công ty nào cho phép khách hàng mua cổ phiếu. Tỉ lệ chênh lệch phiếu
bầu là ba trên một nghiêng về McKinley. Bằng cách mua cổ phiếu của ngày thứ Hai, anh có thể tăng từ ba lên đến sáu điểm hoặc
hơn nữa. Người ta có thể đặt cược cho Bryan, mua cổ phiếu và chắc chắn anh ta sẽ kiếm ra tiền. Nhưng những công ty chứng
khoán chui lại không chịu nhận lệnh mua cổ phiếu vào cái ngày hôm đó.
Nếu vì họ chịu nhận lệnh mua của tôi hôm đó thì chắc tôi vẫn còn kinh doanh tại công ty của họ. Và rồi tôi sẽ chẳng bao giờ
vỡ vạc ra rằng còn có nhiều việc khác phải làm với trò đầu cơ cổ phiếu hơn là cá cược về những biến động lên xuống không đáng
kể của giá cổ phiếu.
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top