Hồi Thứ 7-8 TQC

Hồi Thứ Bảy

Viên Thiệu Qua Cầu Ðuổi Công Tôn Toản

Tôn Kiên Sang Sông Ðánh Lưu Cảnh Thăng

Nhắc lại Tôn Kiên đang bị quân Lưu Biểu vây ngặt, may nhờ có ba tướng Trình Phổ, Hoàng Cái, Hàn Ðương đánh phá vòng vây cứu thoát. Tôn Kiên thu góp tàn quân thấy hao hơn phân nữa, liền kéo về Giang Ðông. Và, từ đấy Tôn Kiên ôm mối hận với Lưu Biểu.

Bấy giờ, Viên Thiệu đóng quân ở Hà nội, lương thảo thiếu hụt, không tìm đâu ra để chu cấp cho binh lính.

Quan Thứ sử Ký Châu là Hàn Phúc thỉnh thoảng cho người chở lương thực đến giúp.

Mưu sĩ Phùng Kỷ thấy vậy, bảo nhỏ với Viên Thiệu:

- Ðại trượng phu phải tự mình tung hoành thiên hạ cho phỉ chí, cần gì nhờ vả kẻ cho lương? Ký Châu đất rộng dân giàu, sao Tướng quân không đem quân chiếm quách cho rồi?

Viên Thiệu nói:

- Ta cũng nghĩ thế, nhưng chưa có kế hay.

Phùng Kỷ nói:

- Nay ngầm sai người mang mật thư gởi cho Công Tôn Toản, bảo Công Tôn Toản kéo quân đánh Ký Châu, và hẹn sẽ giúp sức rồi chia đôi mảnh đất ấy. Tôi chắc thế nào Công Tôn Toản cũng hưng binh. Còn Hàn Phúc là đứa vô mưu, nếu bị Công Tôn Toản đem quân đánh, thế nào cũng mời Tướng quân đem binh vào Ký Châu giúp sức. Chừng ấy Tướng quân sẽ tự lĩnh mọi việc, rồi chỉ trở bàn tay là lấy được, có khó gì?

Viên Thiệu cả mừng, liền thảo một bức mật thư sai người đem đến cho Công Tôn Toản.

Công Tôn Toản xem thư thấy Viên Thiệu hẹn cùng đánh Hàn Phúc, và chia đất Ký Châu, lòng mừng lắm, lập tức khởi binh.

Trong lúc đó, Viên Thiệu lại ngầm sai người đến báo cho Hàn Phúc biết. Phúc hoảng sợ, triệu hai mưu sĩ là Tuân Thầm và Tân Bình vào thương nghị.

Tuân Thầm bàn:

- Công Tôn Toản thống lãnh quân hai nước Yên, Ðại, đông lắm, nếu kéo binh đến đấy, Ký Châu chúng ta ắt mất. Vả lại, Công Tôn Toản lại có ba anh em Huyền Ðức giúp sức thì chúng ta chống sao nổi? Nay có Viên Bản Sơ trí dũng hơn người, dưới trướng có nhiều danh tướng. Vậy bây giờ Tướng quân nên mời Viên Bản Sơ đến đây để cùng coi việc cai trị châu quận với ta. Ông ấy sẽ hậu đãi Tướng quân, và như thế không sợ gì Công Tôn Toản nữa.

Hàn Phúc nghe theo, liền sai viên biệt giá là Quan Thuần đi mời Viên Thiệu. Quan Trưởng sử Cảnh Vũ vội can:

- Không nên. Hiện nay Viên Thiệu là kẻ cô thế, quân lương cùng quẩn, phải nhờ đến chúng ta mà sống, chẳng khác nào đứa hài nhi trong tay, không cho bú nữa là chết. Sao chúng ta lại đem việc châu quận mà giao cho hắn? Làm như thế chẳng khác nào dẫn cọp vào chuồng dê.

Hàn Phúc nói:

- Ta vốn là môn hạ cũ của họ Viên, tài ba kém cõi, may được trấn giữ châu quận nầy. Người xưa có nói: "Lựa người tài đức mà nhường ngôi". Huống hồ, ta với Viên Bản Sơ nghĩa trọng, dẫu hai người có cai trị một châu cũng chẳng sao.

Cảnh Vũ than:

- Tướng quân đã có Ý như vậy thì Ký Châu coi như đã mất rồi.

Hay được việc ấy, trong số bộ hạ của Hàn Phúc có hơn ba mươi người bỏ đi nơi khác. Chỉ còn Cảnh Vũ với Quan Thuần ở lại, phục sẵn ngoài thành để đợi Viên Thiệu.

Vài ngày sau, Viên Thiệu dẫn quân tới. Cảnh Vũ và Quan Thuần bất thần nhảy ra, vung đao chém Viên Thiệu. Nhưng nhanh như cắt, Nhan Lương đã chém chết Cảnh Vũ, và Văn Xủ giết ngay Quan Thuần,

Viên Thiệu vào thành Ký Châu, cho Hàn Phúc làm Phấn Uy tướng quân, rồi cắt đặt cho bọn Ðiền Phong, Thư Thụ, Hứu Du, Phùng Kỷ chia nhau nắm giữ việc châu. Thế là Viên Thiệu đoạt hết quyền hành của Hàn Phúc.

Hàn Phúc hối hận thì đã muộn, bực mình, bỏ cả nhà cửa, vợ con lên ngựa sang Trần Lưu, nương nhờ Thái Thú Trương Mạc.

Công Tôn Toản hay tin Viên Thiệu đã chiếm Ký Châu, liền sai em là Công Tôn Việt sang gặp Viên Thiệu, yêu cầu chia đất cho mình như lời hứa.

Viên Thiệu bảo Công Tôn Việt:

- Hãy về mời lệnh huynh sang đây mới tính chuyện ấy được.

Công Tôn Việt ra về. Nhưng đi chưa đầy năm mươi dặm, có một toán quân phục xông ra chận đường, và hô lớn:

- Ta là gia tướng của Ðổng Thái Sư đây.

Dứt lời, quân sĩ dùng cung tên bắt như mưa. Công Tôn Việt không thoát khỏi, phải tử nạn. Những quân tùy tùng chạy thoát về báo rõ sự thể với Công Tôn Toản. Toản đùng đùng nổi giận mắng lớn:

- Thằng Viên Thiệu lừa dối, gạt ta đem binh đánh Hàn Phúc, để chiếm trọn Ký Châu. Nay lại cho người giả làm quân Ðổng Trác, hại mạng em ta nữa. Thù nầy không lẽ không báo?

Mắng rồi, liền khởi binh bản bộ đi đánh Ký Châu. Viên Thiệu được tin Công Tôn Toản kéo quân tới liền khai thành dẫn quân ra ứng chiến. Hai bên gặp nhau trên sông Bàn Hà. Viên Thiệu thì bố trận nơi đầu cầu phía Ịông, còn Công Tôn Toản thì dàn quân ở đầu phía Tây. Công Tôn Toản cỡi ngựa đứng trên cầu mắng lớn:

- Thằng bội nghĩa! Ngươi dám dối gạt ta sao?

Viên Thiệu cũng giục ngựa đến đầu cầu chỉ mặt Công Tôn Toản nói:

- Hàn Phúc là đứa bất tài, tình nguyện đem Ký Châu giao cho ta, việc ấy can hệ gì đến ngươi.

Công Tôn Toản thét lên:

- Ngày trước, ta tưởng ngươi là kẻ trung nghĩa, lại con nhà dòng dõi Tam Công nên mới bầu ngươi làm Minh chủ. Ngờ đâu bây giờ ta mới biết ngươi là đồ sài lang! Ngươi còn mặt mũi nào mà đứng trên cõi đời này nữa.

Viên Thiệu nổi giận quay lại hỏi các tướng:

- Ai dám ra bắt tên nghịch tặc ấy?

Viên Thiệu vừa dứt lời, Văn Xú đã thúc ngựa vung thương xông thẳng lên cầu. Công Tôn Toản giục ngựa tới đầu cầu giao phong chưa đầy mười hiệp đã đuối sức bỏ chạy. Văn Xú thừa thế đuổi theo. Toản chạy vào giữa trận, Xú đuổi vào tận trung quân, xung đột Ịông Tây như vào chỗ không người, khiến cho đại binh của Công Tôn Toản sợ hãi kéo nhau chạy trốn. Bốn viên tướng thủ hạ của Công Tôn Toản đổ xô ra cự chiến. Văn Xú đâm một thương khiến một tướng bị té xuống ngựa, còn ba tướng kia bỏ chạy. Xú lại đuổi theo Toản ra mãi sau trận. Toản nhìn về phía hẻm núi mà chạy, Xú thúc ngựa đuổi sát tới, nạt lớn:

- Mau xuống ngựa đầu hàng đi!

Công Tôn Toản sợ quá, chạy đến nỗi rơi hết cung tên mà không hay, cái mũ trên đầu cũng rơi xuống đất, đầu tóc tối bù, cứ phi ngựa theo chân núi mà chạy quanh. Rủi thay, con ngựa lại vấp chân ngã phục xuống, làm cho Toản lăn xuống chân núi.

Văn Xú hăm hở cầm thương tới đâm. Trong lúc tính mạng Công Tôn Toản sắp nguy, bỗng từ sau hòn đá cao có một thiếu niên dũng tướng phi ngựa ra, cầm giáo đâm Văn Xú một nhát. Văn Xú vội né mình lùi lại. Công Tôn Toản thừa dịp ấy bò lên sườn núi lánh nạn, và xem thử ai đã cứu mình.

Thì ra thiếu niên mình cao tám thước, mày rậm mắt to, uy phong lẫm liệt. Thiếu niên đánh với Văn Xú năm, sáu mươi hiệp vẫn chưa phân thắng bại. Lúc đó có quân bộ hạ của Toản kéo tới tiếp cứu. Văn Xú vội quay ngựa bỏ chạy. Thiếu niên đuổi theo truy kích, nhưng Công Tôn Toản đã gọi lại để tạ ơn, và hỏi tên họ.

Người ấy thi lễ rồi đáp:

- Tôi vốn người Chân Ịịnh, huyện Thường Sơn, họ Triệu tên Vân, tự là Tử Long, cũng là người ở địa hạt thuộc quyền Viên Thiệu, nhưng thấy Viên Thiệu không có phò vua cứu nước, nên tôi mới bỏ Thiệu đến đây tìm hầu quan Thái Thú, không ngờ lại được gặp nơi đây.

Công Tôn Toản mừng rỡ dắt Triện Vân về trại, chỉnh đốn quân ngũ, sửa sang khôi giáp. Hôm sau, Công Tôn Toản lại chia quân làm hai đội tả hữu, khí thế rất hùng mạnh như đôi cánh đại bàng. Có năm ngàn con ngựa thì quá nửa là ngựa trắng.

Nguyên trước kia, khi đánh nhau với rợ Khương, Toản lựa một đoàn kỵ binh cưỡi rặt ngựa trắng đi tiên phong, nổi tiếng là "Bạch Mã tướng quân". Sau nhiều trận bị Toản đánh bại, quân Khương cứ trông thấy ngựa trắng là bỏ chạy. Do đó, Toản có rất nhiều ngựa trắng.

Viên Thiệu hay tin, sai Nhan Lương, Văn Xú đi tiên phong, mỗi tướng dẫn một ngàn quân cung nỏ, cũng chia làm hai đội tả hữu, lại truyền lệnh rằng:

- Ðội bên tả cứ bắn cánh quân bên hữu của Toản, đội bên hữu thì bắn cánh quân bên tả của Toản.

Lại sai Cúc Nghĩa dẫn tám trăm quân cung thủ, hợp với một vạn năm ngàn bộ binh dàn ngay giữa trận. Còn Viên Thiệu thì tự dẫn vài vạn bộ binh theo sau tiếp ứng.

Công Tôn Toản mới thu nạp được Triệu Vân, chưa rõ tài sức ra sao, nên sai Triệu Vân dẫn một toán quân đi ứng hậu, rồi sai đại tướng Nghiêm Cương dẫn quân đi tiền đạo. Toản thì thống lãnh trung quân, dừng ngựa trên cầu, bên mình có trương một lá cờ đỏ rất lớn, thêu chữ "Soái" bằng chỉ vàng lóng lánh, bay trước mặt.

Công Tôn Toản truyền lệnh giục trống khiêu khích từ giờ Thìn qua đến giờ Tỵ, mà quân Viên Thiệu vẫn không tiến lại.

Tướng của Viên Thiệu là Cúc Nghĩa truyền quân cung nỏ phục xuống sau những tấm mộc che tên, dặn khi nào nghe tiếng pháo lệnh mới được bắn.

Bên kia, Nghiêm Cương sai đánh trống hò reo vang trời, rồi xông ra đánh Cúc Nghĩa. Quân của Nghiêm Cương đã kéo đến gần, mà quân của Cúc Nghĩa vẫn còn nằm yên không động.

Chở cho địch quân đến vừa tầm, Cúc Nghĩa mới đốt lên một tiếng pháo lệnh, tức thì tám trăm tên cung nỏ bắn ra một loạt.

Nghiêm Cương thất kinh quay về, nhưng Cúc Nghĩa đã tế ngựa theo, chém Cương một đao lăn xuống ngựa.

Quân Toản thua to, hai cánh kỵ binh tả hữu ra cứu ứng đều bị quân cung nỏ của Nhan Lương, Văn Xú chia nhau bắn như mưa. Quân Thiệu nhất tề đồng tiếng lên cầu.

Cúc Nghĩa phóng thẳng tới chém chết viên tướng vác cờ.

Lá cờ "Soái" của Toản đổ xuống. Toản thấy thế quay ngựa bỏ cầu mà chạy.

Cúc Nghĩa dẫn quân xông vào hậu quân của Toản thì gặp ngay Triệu Vân thúc ngựa xông ra cản lại.

Ðánh được vài hiệp, Triện Vân đã đâm Cúc Nghĩa một giáo chết lăn, rồi một mình một ngựa xông thẳng vào trung quân của Viên Thiệu, tả xung, hữu đột, chém giết như đi vào chỗ không người.

Công Tôn Toản thấy vậy cũng dẫn quân đánh quật trở lại, làm cho quân Viên Thiệu rối loạn, chạy tơi bời.

Bấy giờ, Viên Thiệu đang ở phía sau, sai quân đi dò trận thế, được thám mã về báo rằng Cúc Nghĩa đã chém tướng đoạt cờ, đang đuổi giết quân Toản.

Thiệu cả mừng, không phòng bị gì nữa, liền cùng Ðiền Phong dẫn vài trăm quân vác kích, vài chục tay mã cung, cỡi ngựa ra trước quan sát. Thiệu cười ha hả bảo Công Tôn Toản là kẻ vô dụng.

Nhưng trong lúc đang cười nói, bỗng đâu Triện Vân đã phi ngựa đến trước mặt. Quân cung thủ thất kinh vội lắp tên bắn, nhưng tên chưa kịp rời nỏ thì Triện Vân đã xông vào giết một loạt bảy, tám đứa, những tên khác khiếp vía bỏ chạy. Tiếp đó, quân Công Tôn Toản lại ùn ùn kéo đến, bao vây Viên Thiệu.

Ðiền Phong thấy thế nguy, liền bảo Viên Thiệu:

- Có bức tường đằng kia, mời Chúa công mau tạm lánh vào đó chốc lác.

Viên Thiệu đưa tay trật cái mũ đâu mâu ném xuông đất, nói lớn:

- Ðại trượng phu đã lâm trận, mong được chết giữa chiến trường, há lại chạy trốn sao?

Quân binh của Viên Thiệu thấy thế nức lòng, vác kích xông đến tử chiến. Do đó, Triệu Vân không sao xông vào được. Kế đó lại có đại quân của Thiệu vừa đến kịp, lại thêm Nhan Lương cùng kéo quân tới, hai mặt cùng đánh.

Triệu Vân phải bảo hộ Công Tôn Toản phá vòng vây, rút về bên kia đầu cầu.

Quân Viên Thiệu lại thừa thế đuổi theo làm cho quân Công Tôn Toản chen nhau qua cầu mà té xuống nước chết vô số. Viên Thiệu xông lên trước, xua quân đuổi Công Tôn Toản.

Ðuổi chưa được năm dặm đường, bỗng nghe sau lưng núi có tiếng reo hò vang dậy, rồi một đạo binh hùng hổ kéo ra, đi đầu là ba viên tướng dung mạo phi thường. Thì ra đó là ba anh em Lưu Huyền Ðức.

Số là Huyền Ðức ở tại huyện Bình nguyên, nghe tin Công Tôn Toản giao binh với Viên Thiệu, nên đến trợ chiến. Bấy giờ vừa gặp lúc, ba con ngựa phi tới, ba thứ binh khí bay lại phía quân Ký Châu, nhắm thẳng Viên Thiệu mà đánh.

Thấy ba anh em Huyền Ðức xuất hiện, Viên Thiệu sợ hãi rụng rời, hồn vía tức thì bay lên mây xanh. Cây bửu đao đang cầm trong tay rơi xuống đất lúc nào không hay. Thiệu vội quay ngựa chạy một mạch...

Ba quân liều chết hộ vệ Viên Thiệu qua cầu.

Công Tôn Toản thu binh về trại. Ba anh em Huyền Ðức vào hỏi thăm, Toản nói:

- Nếu không có Huyền Ðức từ xa tới cứu, thì tôi khốn đốn rồi.

Kế đó, Công Tôn Toản đem Triệu Vân đến giới thiệu với Huyền Ðức.

Vừa trông thấy viên tướng trẻ này, Huyền Ðức đã đem lòng yêu mến, và sau khi trao đổi tâm tình, hai người không muốn rời nhau nữa

Còn Viên Thiệu, sau khi thua trận ấy, đành cố thủ không dám ra binh. Công Tôn Toản cứ ít ngày lại đem binh khiêu chiến, nhưng thấy Viên Thiệu không đánh lại rút quân về.

Bây giờ, tại triều Ðồng Trác đã xếp đặt công việc tạm ổn, cho người ra ngoài thám thính, mới hay tin Viên Thiệu và Công Tôn Toản đánh nhau đã hơn một tháng trời.

LÝ Nhu nói với Ðổng Trác:

- Viên Thiệu và Công Tôn Toản đều là hào kiệt trên đời, nay ta mượn chiếu Thiên tử sai người đến giải hòa, như thế tất cả hai người mang ơn và phục tùng Thái Sư.

Ðổng Trác khen phải, liền sai quan Thái phó Mã Nhật Ðàn, và quan Thái bộc Triệu Kỳ đem chiếu mệnh ra đi.

Hai người nầy cùng qua Hà Bắc một lúc.

Viên Thiệu hay tin ra ngoài trăm dặm đón tiếp, lạy hai lạy mà vâng chiếu.

Ngày hôm sau, hai người lại đến dinh Công Tôn Toản để hiểu dụ.

Công Tôn Toản cũng bằng lòng, viết thư đưa sang Viên Thiệu giải hòa, rồi dâng biếu về triều tiến cử Lưu Huyền Ðức làm Bình Nguyên tướng.

Huyền Ðức phải sang Bình Nguyên trấn nhậm nên từ biệt Triệu Vân. Hai người cầm tay nhau nhỏ lệ, không nỡ rời.

Triệu Vân than rằng:

- Trước đây tôi tưởng Công Tôn Toản là anh hùng, nay xem lại thì Công Tôn Toản cũng chỉ thường tình như Viên Thiệu mà thôi.

Huyền Ðức nói:

- Thôi, Tử Long hãy chịu khó khuất thân nơi đây, chúng ta sẽ có ngày tái ngộ.

Hai người bùi ngùi giã biệt, lòng lữu luyến không nguôi.

Bấy giờ, Viên Thuật ở Nam Dương, nghe tin Viên Thiệu lấy được Ký Châu, vội sai sứ sang xin một ngàn con ngựa. Viên Thiệu không cho nên Viên Thuật oán hận, và từ đó anh em bất hòa nhau.

Viên Thuật sai sứ sang Kinh Châu vay của Lưu Biểu hai chục vạn hộc lương. Lưu Biểu cũng không cho, nên Viên Thuật căm giận ngầm sai người mang thư cho Tôn Kiên, xúi Tôn Kiên đánh Lưu Biểu.

Ðại lược lá thư ấy như sau:

Trước đây, Lưu Biểu chận đường đánh ngày, chính là do kế của anh Bản Sơ tôi. Này tôi lại nghe tin anh Bản Sơ tôi ngầm mưu với Lưu Biểu muốn cùng đánh chiếm Giang Ðông của ông đấy. Vậy ông kíp khởi binh đánh Lưu Biểu. Tôi sẽ giúp ông mà đánh chẹn Bản Sơ. Như thế sẽ báo được hai mối thù. Và, ông chiếm lấy Kinh Châu, tôi chiếm lấy Ký Châu. Xin chờ ông chại ngại...

Tôn Kiên được thư liền nói:

- Căm hận thay! Thằng Lưu Biểu trước đây dám chẹn đường về của ta. Nay không nhân cơ hội này mà rửa hận thì còn đợi đến bao giờ nữa.

Liền tập họn Trình Phổ, Hoàng Cái, Hàng Dương dưới trướng để bàn luận. Trình Phổ nói:

- Viên Thuật là đứa dối trá, không nên tin vội.

Tôn Kiên nói:

- Không cần! Ta muốn đánh Lưu Biểu một trận báo thù, dẫu Viên Thuật không giúp sức cũng được.

Bàn định xong, Tôn Kiên sai Hoàng Cái ra bến sông, sắp đặt chiến thuyền, trang bị khí giới, tích lũy lương thảo, lựa những thuyền thật lớn để chở ngựa, sắp sẵn để bất thần khởi quân.

Quân tế tác Kinh Châu hay được vội về báo với Lưu Biểu. Lưu Biểu sợ hãi triệu tập chư tướng bàn kế. Khoái Lương nói:

- Việc này không đáng lo, chỉ cần sai Hoàng Tổ đem quân phục ở Giang Hạ làm tiền khu, rồi Chúa công thân hành dẫn đại binh Kinh tương đi làm hậu viện. Chờ cho quân Tôn Kiên mới qua sông mỏi mệt, đánh cho một trận tất quân giặc phải bị thua.

Lưu Biểu nghe theo và ra lệnh cho Hoàng Tổ phòng bị ở Giang Hạ, rồi kéo đại binh sắp đặt ứng chiến...

Lại nói về Tôn Kiên vốn có bốn người con trai do Ngô phu nhân sinh ra. Con trưởng tên Sách, tự Bá Phù. Người thứ hai tên Quyền tự là Trọng Mưu. Người thứ ba tên Dực, tự là Thúc Bật. Người thứ tư tên Khuông, tự là QuÝ Tá. Còn người em gái của Ngô phu nhân lại cũng lấy anh rể, tức là vợ thứ của Tôn Kiên. Bà này sinh được một trai một gái. Trai tên là Lãng tự Tảo An, gái là Nhân. Tôn Kiên lại còn nuôi một người con trai họ Du, tên Thiều tự Công Lễ, tức là nghĩa tử Tôn Thiền vậy.

Bấy giời, người em ruột của Tôn Kiên là Tôn Tĩnh, tự Ẩu Ðài, thấy anh mình sắp xuất quân, mới dắt cả các con mình ra vái lạy trước ngựa nà can ngăn khuyên giải:

- Nay Ðổng Trác chuyên quyền, Thiên tử nhu nhược, nhân dân loạn lạc, các trấn chư hầu mỗi người làm bá một phương. Giang Ðông ta mới yên được ít lâu, theo lẽ phải củng cố binh lực, sao anh lại vì một chút giận nhỏ mà động binh? Xin anh xét lại.

Tôn Kiên bảo Tôn Tĩnh

- Thôi, em đừng ngăn cản. Anh đang muốn tung hoành khắp thiên hạ, lẽ nào một mối thù nhỏ mà không báo?

Con trưởng Tôn Kiên là Tôn Sách nói:

- Phụ thân đã quyết đi, con xin cùng đi với.

Tôn Kiên nhận lời, dẫn Tôn Sách lên thuyền kép quân đến đánh Phàn thành. Bấy giờ, Hoàng Tổ đã phục sẵn cung nỏ ở bờ sông, thấy chiến thuyền của Tôn Kiên kéo đến, liền ra lệnh bắn như mưa.

Tôn Kiên truyền cho quân sĩ không được vội động, cứ phục sát xuống thuyền, rồi cho thuyền chèo lui để dụ địch, đồng thời đánh trống thị uy ba ngày liền.

Cứ mỗi ngày thuyền Tôn Kiên lại lượn sát vào bờ, rồi lùi ra xa.

Quân của Hoàng Tổ cứ nhắm mắt bắn càn, bắn đến nỗi hết sạch cả tên.

Bấy giờ Tôn Kiên mới ra lệnh thu nhặt số tên của địch bắn dính hai bên ven thuyền, ước độ vài chục vạn mũi. Ngày hôm sau, gặp chiều gió thuận, Tôn Kiên sai bắn lên bờ như mưa.

Quân trên bờ đã hết tên, lại bị phản công bất ngờ nên ùn ùn bỏ chạy.

Tôn Kiên kéo quân lên bờ. Trình Phổ, Hoàng Cái chi ra hai đường đánh thốc vào trại Hoàng Thổ, mặt sau, Hàn Ðương cũng kéo tới nơi. Thế là ba mặt đánh dồn lại.

Hoàng Tổ thua to, đành bỏ Phàn thành chạy về Ðặng thành.

Tôn Kiên sai Hoàng Cái ở lại giữ các chiến thuyền, còn mình thì thân hành kéo quân truy kích địch.

Hoàng Tổ bị Tôn Kiên đuổi theo quá gấp, phải dùng lại bày trận giữa cách đồng, để nghênh địch.

Tôn Kiên cũng dàn quân thành trận thế, thúc ngựa ra đứng dước cờ.

Tôn Sách, toàn thân khôi giáp gọn ghẽ, cầm giáo đứng sát bên cha.

Bên kia, Hoàng Tổ dẫn hai tướng ra trận. Một tướng là Trương Hổ, người Giang Hạ; một tướng là Trần Sinh, người Tương Dương. Hoàng Tổ đứng ở giữa, tay cầm roi trỏ Tôn Kiên mắng lớn:

- Lũ chuột Giang Ðông ! Sao dám xâm phạm đất đai của bậc tôn thân nhà Hán?

Mắng rồi sai Trương Hổ ra đánh. Bên kia Hàn Ðương từ trong trận phi ngựa ra đón lại. Hai tướng đánh nhau đến ba mươi hiệp.

Trần Sinh thấy Trương Hổ có vẻ đuối sức, liền phi ngựa ra trợ chiến.

Tôn Sách thấy thế, vội cặp ngọn giáo và nách, giương cung bắn ra một mũi tên, trúng ngay giữa mặt Trần Sinh.

Trần Sinh té nhào xuống ngựa.

Trương Hổ thấy Trần Sinh bị chết một cách độc ngột như vậy, tay chân bủn rủn, bị Hàn Ðương chém một đao bay nửa cái sọ, óc văng ra ngoài.

Thắng thế, Trình Phổ vội tế ngựa sang trận địch, định bắt sống Hoàng Tổ.

Hoàng Tổ không còn tâm trí nào đề nghĩ cánh chống đỡ, vội bở bỏ mũ, bỏ luôn cả ngựa, lẫn trốn vào đám tàn quân tẩu thoát.

Tôn Kiên xua quân chém giết, đuổi đến tận bò sông Hán thủy rồi truyền lệnh gọi Hoàng Cái đem chiến thuyền lên đống ở bến Hán giang, còn Tôn Kiên thì tiếp tục đánh Kinh Tương

Hoàng Tổ thâu thập tàn quân, đến ra mắ Lưu Biểu, nói rõ thế quân của Tôn Kiên mạnh lắm, không sao cự nổi. Lưu Biểu lo sợ, cho triệu Khoái Lương vào bàn. Khoái Lương nói:

- Ta vừa bị thua một trận, quân sĩ đã nản lòng. Vậy chỉ nên đào hào sâu đáp lũy cao cố thủ để tránh mũi giặc, rồi ngầm sai người qua Ký Châu để cầu cứu Viên Bản Sơ giải vây mới được.

Thái Mạo nói:

- Khoái Tử Nhu bàn kế như vậy không xong! Quân giặc nay đã đên sát chân thành mà còn đợi quân cầu cứu, chẳng lẽ chúng ta chờ chết hay sao? Tôi tuy bất tài cũng xinh lãnh binh khai thành quyết một trận tử chiến.

Lưu Biểu thuận lời, Thái Mạo dẫn hơn một vạn quân ra khỏi thành Tương dương, kéo tới chân núi Hiệp sơn bày trận.

Tôn Kiên kéo quân đắc thắng ồ ạt tiến đến. Thấy Thái Mạo cầm quân, Tôn Kiên chỉ vào mặt Thái Mạo nói với các tướng:

- Thằng kia là anh ruột người vợ kế của Lưu Biểu đấy! Ai ra bắt nó cho ta?

Trình Phổ liền vung cây thiết quyền xà mâu đến đánh Thái Mạo.

Thái Mạo mới chỉ đánh đỡ vài hiệp đã đuối sức, quay ngựa chạy dài.

Tôn Kiên xua quân đuổi theo giết quân Kinh tương tơi bời, thây chết nằm ngổn ngang đầy đồng.

Thái Mạo chạy thoát vào thành Tương Dương đóng cửa, không dám nói đến chuyện giao binh.

Khái Lương nói với Lưu Biểu:

- Thái Mạo không nghe lời phải, khiến cho quân đại bại, nay phải chiếu quân luật mà chém đầu làm lệnh.

Lưu Biểu vì mới cưới em gái Thái Mạo, không nỡ gia hình nên bỏ qua việc ấy.

Tôn Kiên kéo quân đến Tương dươntg liền chia quân vây chặct bốn cửa thành, đánh phá dữ dội.

Trong thành cố thủ không ai dám ra đánh.

Bỗng một hôm có trận gió lốc thổi đến làm gãy ngọn cờ "Súy" ở trung quân.

Hàn Ðương thất kinh nói với Tôn Kiên:

-Gãy cờ là điềm chẳng làm, xin Chúa công hãy tạm ban sư.

Tôn Kiên nói:

- Ta đánh trận nào thắng trận ấy, thành Tương dương chỉ sớm tối về tay ta, há vì chuyện gãy cờ mà thu quân sao?

Rồi chẳng nghe lời Hàn Ðương, và thúc quân phá thành càng gấp.

Lúc ấy, ở trong thành, Khoái Lương cũng đang bàn với Lưu Biểu:

- Ðêm qua tôi xem thiên văn thấy một vì tướng tinh sắp sa xuống. Cứ theo phận dã mà đoán thì vì sao ấy ứng vào Tôn Kiên. Vậy Chúa công nên gấp rút viết thư sang cầu cứu Viên Bản Sơ đi.

Lưu Biểu theo lời viết thư sang cầu cứu Viên Thiệu. Nhưng việc phá vòng vây đem thư ra ngoài là việc khó.

Lưu Biểu hỏi các tướng:

- Ai dám xông ra vòng vây địch đem thư nầy đến Ký Châu?

Có một viên kiện tướng là Lữ Công xin lãnh việc ấy. Khoái Lương bảo Lữ Công:

- Ngươi đã có gan đi thì hãy nghe kế của tay đây: Ngươi hãy lựa năm trăm quân thiện xạ, khi ra lọt vòng vây rồi phải chạy ngay đến núi Hiện sơn mà mai phục. Quân giặc thế nào cũng đuổi theo. Ngươi chia một trăm người lên núi tìm những hòn đá dự bị trên cao, một trăm người khác cầm cung tên vào phục trong rừng. Quân giặc đuổi đến nơi, ngươi chớ chạy thẳng mà phải kéo ba trăm quân chạy quanh co, loanh quanh chân núi, để dẫn giặc vào chỗ có mai phục, cho cung tên bắn ra, đá núi tống xuống. Thắng giặc thì đốt pháo liên châu làm hiệu để trong thành đánh ra tiếp ứng. Nếu giặc không đuổi thì đừng đốt pháo, cứ việc lên đường qua Ký Châu. Ðêm nay chắc trăng không sáng lắm đâu. Ðợi lúc nhá nhem tối ngươi dẫn quân ra khỏi thành là vừa.

Lữ Công lãnh kế, sắp sẵn binh mã, chờ lúc trời sẫm tối bí mật mở cửa Ðông kéo ra. Bấy giờ Tôn Kiên đang ngồi trong trướng, bỗng nghe có tiếng quân mã di động, vội lên ngựa dẫn ba mươi tên quân kỵ ra khỏi trại để xem xét. Quân thám mã lại đến báo:

- Có một toán quân từ trong thành vừa thoát ra đang chạy thẳng về phía chân núi.

Tôn Kiên sợ bỏ lỡ cơ hội, vội vã tức tốc đuổi theo, không kịp gọi thêm tướng sĩ, chỉ đem có ba mươi tên quân kỵ có sẵn tới đấy.

Lữ Công bấy giờ đã chia quân lên núi và vào rừng mai phục... Tôn Kiên phóng ngựa chạy quá nhanh, nên chỉ chốc lát đã bỏ xa hẳn ba mươi tên quân kỵ lại phía sau. Thấy đằng trước quân giặc không còn cách bao xa, Tôn Kiên hét lớn:

- Muốn sống thì dừng lại!

Lữ Công quay ngựa lại đánh. Nhưng chỉ đánh được một hiệp, Công lại bỏ chạy, lẻn vào trong đường núi quanh co mà trốn.

Tôn Kiên cứ đuổi theo mãi, nhưng khi đến sau núi thì còn thấy Lữ Công đâu nữa. Kiên toan trèo lên núi nhìn xem thì bỗng đâu một hồi cồng nổi lên vang dậy.

Tức thì đá trên núi ném xuống như mưa và tên trong rừng bắn ra như châu chấu.

Than ôi Tôn Kiên! Thân thể bị tên, đá bắn loạn, đầu vỡ phọc óc, một người một ngựa chết ở chân núi. Năm ấy Tôn Kiên mới ba mươi bảy tuổi.

Lữ Công xuống chặn được cả ba mươi lính kỵ mã của Tôn Kiên, liền đánh giết hết, rồi nổi pháo hiệu.

Trong thành nghe tiếng pháo, Khoái Việt, Hoàng Tổ, Thái Mạo mở cửa thành, chia làm ba đạo quân đánh ra.

Quân sĩ Giang Ðông náo loạn, không biết đường nào mà chạy.

Hoàng Cái đang giữ thuyền nới mé sông, nghe tiếng quân reo vang trời dậy đất, vội dẫn quân kéo lên bờ gặp ngay Hoàng Tổ.

Mới đánh được vài hiệp, Hoàng Cái đã bắt sống được Hoàng Tổ.

Còn Trình Phổ thấy loạn liền hộ vệ tiểu chủ Tôn Sách tìm đường chạy.

Vừa ra khỏi trại gặp ngay Lữ Công, Trình Phổ tế ngựa lại đánh nhau với Công.

Cũng chỉ vài hiệp, Phổ đã đâm Công một xà mâu chết lăn xuống ngựa.

Hai bên đánh nhau đến trời sáng mới thu quân về. Quân Lưu Biểu kéo vào thành.

Còn quân Giang Ðông kéo về Hán thủy.

Bấy giờ, Tôn Sách mới biết tin cha đã chết vì loạn tên, mà thi thể bị quân Kinh châu khiêng vào thành mất. Sách bèn khóc rống lên rất thảm thiết.

Các tướng sĩ cũng đều rơi lệ. Trình Phổ đến khuyên giải, Tôn Sách gạt lệ hỏi chư tướng:

- Bây giờ biết làm cách nào để lấy được thi thể của phụ thân ta đem về cố quận?

Hoàng Cái nói:

- Tôi có bắt dược Hoàng Tổ đây, nên cho một người vào thành giảng hòa với Lưu Biểu, và hẹn đem Hoàng Tổ đổi lấy thi thể Chúa công.

Cái vừa dứt lời, thì viên Quân lại là Hoàn Khải bước ra thưa:

- Trước đây tôi có quen biết với Lưu Biểu, nay xin lãnh việc nầy đi sứ vào thành.

Tôn Sách bằng lòng. Hoàn Khải vào thành ra mắt Lưu Biểu nói rõ việc giảng hòa và trao đổi.

Lưu Biểu nói:

- Thi hài Văn Ðài ta đã cho tẩm liệm tử tế, bỏ vào áo quan rồi. Ngươi về bảo đem Hoàng Tổ đến đây, rồi hai nhà cùng bãi binh, từ nay không xâm phạm bờ cõi nhau nữa.

Hoàng Khải bái tớ ra về, nhưng vừa bước xuống thềm, bỗng có Khoái Lương chạy đến can Lưu Biểu rối rít:

- Không nên! Không nên hòa! Tôi đã có kế lấy Giang Ðông rồi. Xin hãy chém đầu Hoàn Khải trước, rồi sau hãy dụng kế của tôi.

Ðó chính là

Ðuổi địch Tôn Kiên vừa uổng mạng,

Cầu hòa Hoàn Khải lại lâm nguy.

Hồi Thứ Tám

Vương Tư Ðồ Khéo Dụng Liên Hoàn Kế.

Ðổng Thừa Tướng Náo Lộng Phượng Nghi Ðình.

Khoái Lương nói với Lưu Biểu rằng:

- Ngày nay Tôn Kiên đã chết, các con còn bé, nên thừa thế tiến quân nhanh lên, chỉ đánh một trận là lấy được Giang Ðông. Nếu chúa công trả thây Tôn Kiên và bãi binh về, để cho kẻ thù nuôi dưỡng sức khỏe, đó là cái vạ của Kinh Châu về sau vậy!

Biểu nói:

- Ta còn có Hoàng Tổ ở bên ấy, sao nỡ bỏ được?

Lương nói:

- Bỏ một anh Hoàng Tổ vô mưu, mà lấy được cả Giang Ðông, việc gì mà còn phải cân nhắc?

Biểu lại nói:

- Ta với Hoàng Tổ là bạn tâm phúc với nhau, bỏ y là trái nghĩa.

Biểu cho Hoàn Khải về, hẹn rằng hễ bên ấy tha Hoàng Tổ, thì bên nầy cho đem xác Tôn Kiên về.

Tôn Sách tha Hoàng Tổ, rồi sang rước linh cữu cha về, rút quân về Giang Ðông, táng cha ở gò Khúc A.

Việc tang xong, Tôn Sách dẫn quân về Giang Ðông với người hiền, dùng kẻ sĩ; khéo nhún mình trọng người; hào kiệt bốn phương dần dần kéo đến theo Tôn Sách cả. Trong khi ấy, Ðổng Trác ở Trường An được tin Tôn Kiên đã chết, mừng mà nói rằng:

- Ta trừ được một mối lo lớn trong lòng!

Trác hỏi con Kiên bao nhiêu tuổi, có người thưa mười bảy tuổi. Trác không cho vào đâu; từ bấy giờ lại càng kiêu căng tự xưng là thượng phụ, khi ra khi vào dùng toàn nghi vệ thiên tử. Trác lại phong em là Ðổng Mẫn làm Tả tướng quân, tước vu hầu; cháu là Ðổng Hoành làm Thị Trung, coi cả quân cấm binh. Tôn tộc họ Ðổng chẳng cử già trẻ, ai cũng được phong tước hầu cả.

Cách Trường An 250 dặm, Trác sai đắp một cái thành gọi là My , bắt hai mươi lăm vạn dân phu đắp cao, dày, theo y như kiểu thành Trường An. Trong thành lại làm những cung thất kho tàng, chứa được đủ lương ăn trong hai mươi năm; lại kéo gái thanh tân tám trăm người chứa trong ấy; vàng, ngọc, gấm, vóc, trân châu chất vào không biết bao nhiêu mà kể. Họ hàng Trác đều được đem vào cả trong thành.

Trác thì đi đi về về Trường An, khi nửa tháng một lần, khi một tháng một lần. Công khanh đưa đón thường phải đứng trực ở ngoài cửa Hoành Môn.

Trác nhiều khi đặt trướng ở dọc đường, cùng với công khanh ăn tiệc.

Một hôm Trác ra ngoài cửa Hoành Môn, các quan đi tiễn. Trác mời các quan ở lại uống rượu, đoạn cho gọi mấy trăm hàng binh vừa dụ được ở đất Bắc đến. Trác sai đem ra trước chỗ ăn tiệc, đứa thì đem chặt chân chặt tay, đứa thì đem khoét mắt xẻo mũi, đứa thì đem cắt lưỡi, đứa thì đem bỏ vạc dầu đun. Tiếng kêu khóc vang lừng trời đất.

Các quan đang ăn tiệc, thấy thế người nào người nấy đều run cầm cập, đánh rơi cả đũa. Trác vừa uống rượu vừa cười nói như không.

Lại một hôm khác, Trác ở sảnh đài, hội cả bá quan, ngồi sắp ra hai hàng. Rượu uống được độ vài tuần, thì Lữ Bố đi tắt vào, ghé vào tai Ðổng Trác nói thầm mấy câu, rồi thấy Trác cười mà nói rằng:

- Ạ ra thế!

Nói rồi sai Lữ Bố lôi quan Tư Không, tên là Trương Ôn, đang ngồi dự tiệc, đem xuống nhà dưới. Các quan không biết đầu đuôi thế nào đều thất sắc. Một lát thấy quân hầu bưng lên một cái mâm đỏ, giữa để đầu lâu Trương Ôn. Các quan đều sợ mất vía. Ðổng Trác cười nói:

- Các quan đừng sợ. Trương Ôn kết liên với Viên Thuật, toan hại ta. Nhân hai đứa gửi thư cho nhau, đưa nhầm cho con ta là Lã Ôn Hầu, nên ta mới đem chém. Các quan không có việc gì, đừng sợ.

Các quan dạ dạ rồi lui về.

Quan Tư Ðồ Vương Doãn, hôm ấy về đến phủ, nghĩ đến những việc trông thấy ở trong bữa tiệc, ngồi đứng không yên. Ðến đêm khuya, trăng sáng vằng vặc, Doãn chống gậy đi ra vườn sau, đứng bên cạnh bụi đồ mi, ngẩng mặt lên trời, mà khóc.

Chợt nghe có tiếng người thở dài ở bên cạnh đình Mẫu Ðơn. Doãn rón rén lại nhìn xem ai thì là một con hát trong phủ, tên là Ðiêu Thuyền.

Ðiêu Thuyền từ thuở nhỏ được kéo vào phủ, học múa học hát, bấy giờ mới mười sáu tuổi, đủ cả tài sắc. Doãn thương yêu như con đẻ. Doãn đứng nghe một hồi lâu, mắng rằng:

- Con này đã có tư tình gì đây?

Thuyền quỳ xuống thưa rằng:

- Lạy cha, con đâu có dám tư tình.

Doãn hỏi:

- Không có tư tình thì việc gì canh khuya lại ra đứng đây mà thở vắn than dài?

Thuyền nói:

- Lạy cha! Xin cho con bày tỏ nỗi lòng

Doãn nói:

- Con không được giấu giếm, phải nói cho thực.

Thuyền nói:

- Con nhờ ơn cha nuôi nấng, dạy bảo múa hát, lại được hậu đãi, dù thịt nát xương tan, cũng không báo được muôn một. Gần đây con thấy cha mặt thảm mày chau, tất cha có lo việc lớn gì trong nước, con vẫn không dám hỏi. Nhân chiều hôm nay con thấy cha đứng ngồi không yên, cho nên con cũng buồn rầu mà thở dài, không ngờ cha nghe thấy. Nếu cha có việc gì cần sai bảo đến con, dù chết con cũng không ngại.

Doãn đập gậy xuống đất nói rằng:

- Ai ngờ cơ đồ nhà Hán lại ở trong tay con! Hãy theo cha đến nhà gác cha bảo!

Doãn đến đó, đuổi hết tỳ thiếp ra, dắt Ðiêu Thuyền ngồi lên trên sập, rồi thụp xuống lạy.

Ðiêu Thuyền sợ hãi, cuối rạp xuống đất, thưa rằng:

- Sao cha lại làm thế?

Doãn nói:

- Con hãy thương lấy sinh linh nhà Hán!

Nói rồi khóc như nước suối chảy. Thuyền thưa:

- Vừa rồi con đã thưa, cha có việc gì sai khiến, dẫu chết con cũng không từ.

Doãn lại quỳ xuống nói:

- Hiện nay trăm họ như bị treo ngược, vua tôi ngất ngưởng như trứng chồng, thật nguy cấp, phi con không ai cứu được. Tặc thần Ðổng Trác sắp cướp ngôi vua. Văn võ trong triều không ai nghĩ được kế gì. Ðổng Trác có một đứa con nuôi là Lữ Bố, sức khỏe lạ thường. Ta xem hai tên ấy cùng là tuồng hiếu sắc. Nay ta muốn dùng một kế liên hoàn: trước đem con gả cho Lữ Bố, sau lại đem con dâng cho Ðổng Trác. Con ở trong, tùy cơ lập kế, ly gián hai bố con hắn, xui khiến thế nào cho Lữ Bố giết Ðổng Trác để trừ kẻ đại ác, giữ yên xã tắc, dựng lại giang sơn. Ðó là nhờ ở sức con, con nghĩ thế nào?

Ðiêu Thuyền thưa:

- Con xin thưa, dẫu chết con cũng không từ. Xin đem ngay con dâng cho chúng, con sẽ lập mưu ở trong.

Doãn nói:

- Việc nầy nếu tiết lộ họ nhà ta sẽ chết hết!

Thuyền thưa rằng:

- Xin cha chớ lo. Nếu con không báo đền được nghĩa lớn, con sẽ chết dưới muôn vàn ngọn giáo.

Doãn lạy tạ.

Hôm sau Doãn sai người đem ngọc minh châu, xưa nay vẫn cất kỹ một nơi, gọi thợ khéo, làm một cỗ mũ vàng, mật sai người đem biếu Lữ Bố.

Bố mừng rỡ, thân đến nhà Doãn tạ ơn.

Doãn làm sẵn của ngon vật lạ đợi Bố đến. Doãn ra cửa đón rước vào hậu đường, mời ngồi lên trên.

Bố nói:

- Tôi là một tiểu tướng ở trong phủ, Tư Ðồ là là một vị đại thần trong triều, sao lại quá tôn kính như vậy?

Doãn nói:

- Nay thiên hạ không có ai là anh hùng, tôi chỉ thấy duy có tướng quân mà thôi. Tôi tỏ lòng tôn kính, không phải là tôn kính cái chức tước của tướng quân mà là tôn kính cái tài của tướng quân đó.

Bố mừng lắm, Doãn khẩn khoản mời rượu, khen lấy khen để mãi cái đức Ðổng Thái Sư và cái tài Lữ Bố.

Bố cười vang và uống rượu thỏa thích. Bấy giờ Doãn mới đuổi đầy tạ lui ra, chỉ để vài người tỳ thiếp đứng hầu rượu. Khi Bố ngà ngà say, Doãn mới truyền rằng:

- Gọi con em nó ra đây!

Một lát hai thị tỳ đỡ Ðiêu Thuyền trang điểm thật lộng lẫy bước ra. Lữ Bố trông thấy giật mình, hỏi:

- Người nào vậy?

Doãn nói:

- Ðó là con gái nhỏ của lão, tên là Ðiêu Thuyền. Lão nay được ơn tướng quân có lòng hạ cố mà coi như chỗ chí thân, nên lão sai nó ra để chào tướng quân.

Liền sai Ðiêu Thuyền bưng chén rượu mời.

Thuyền nâng chén rượu mời Bố. Hai bên nhìn nhau, đầu mày cuối mắt.

Vương Doãn giả tảng say, nói:

- Con cố mời tướng quân uống vài chén con nhé! Cả nhà ta đều trông nhờ vào tướng quân đấy.

Bố mời Thuyền ngồi, Thuyền giả cách thẹn thùng, muốn lui vào, Doãn nói:

- Tướng quân là bạn chí thân với ta, con cứ ngồi đừng ngại.

Thuyền khép nép, ngồi bên cạnh Doãn.

Lữ Bố nhìn Thuyền chòng chọc, không chớp mắt, lại uống thêm vài chén.

Doãn mới trỏ tay vào Thuyền mà bảo Lữ Bố rằng:

- Lão vẫn có ý cho nó hầu hạ tướng quân làm tỳ thiếp, chưa biết tướng quân có bụng hạ cố thương đến không?

Bố nghe nói vội vàng đứng dậy, ra ngoài chiếu, tạ mà nói rằng:

- Nếu được như thế, tôi xin một đời làm khuyển mã để báo đáp ơn sâu.

Doãn nói:

- Nay mai xin chọn ngày lành tháng tốt, đưa nó đến phủ tướng quân.

Lữ Bố mừng hớn hở, đưa mắt nhìn Ðiêu Thuyền.

Ðiêu Thuyền cũng liếc mắt đưa tình đáp lại.

Một chốc tiệc tan, Doãn nói:

- Lão phu muốn mời tướng quân nghỉ lại đây chơi, nhưng sợ Thái Sư sinh nghi.

Bố hai ba lần tạ đi tạ lại, rồi lui về.

Ðược vài hôm, Vương Doãn ở trong triều gặp Ðổng Trác, nhân thể không có Lữ Bố ở đấy bèn thụp xuống đất lạy, nói rằng:

- Tôi muốn rước Thái Sư quá bước lại nhà tôi xơi chén rượu, nhưng không biết Thái Sư có lòng hạ cố chăng?

Trác nói:

- Ðược quan Tư Ðồ mời, tôi xin đến ngay.

Doãn lạy tạ, về nhà trang hoàng nhà cửa lịch sự, bày đủ các món sơn hào hải vị; giữa gian sảnh, kê một cái sạp : gấm vóc rải cả xuống đất, trong ngoài trướng rủ màn che.

Buổi trưa hôm sau, Ðổng Trác đến, Doãn mặc áo đại trào ra đón, lạy hai lạy rồi mời vào.

Trác xuống xe, tả hữu hơn một trăm người vác kích đi thẳng vào nhà, đứng xếp thành hai hàng. Doãn xuống dưới thềm lạy hai lạy. Trác sai người dắt Doãn lên ngồi bên cạnh.

Doãn nói:

- Công đức Thái Sư to lắm! Y Doãn, Chu Công ngày xưa cũng không bằng!

Trác mừng lắm. Doãn sai tấu nhạc và dâng rượu, rất là cung kính. Ðến chiều Trác uống rượu đã say, Doãn mời Trác vào nhà trong. Trác quát giáp sĩ lui ra. Doãn bưng một chén rượu, mừng Trác rằng:

- Chúng tôi thuở nhỏ có học thiên văn, đêm xem tượng trời, thấy khí số nhà Hán đã hết. Thái Sư công đức đã vang lừng cả thiên hạ. Ngày xưa, vua Thuấn nối ngôi vua Nghiêu, vua Vũ nối ngôi cho Thuấn. Thế là hợp lòng trời và lòng người lắm.

Trác nói:

- Ta có đâu dám mong như thế!

Doãn nói:

- Xưa nay người có đạo thay người vô đạo, người không có đức nhường người có đức, có gì là không đúng.

Trác cười và nói rằng:

- Nếu mệnh trời về ta, Tư Ðồ phải làm nguyên huân.

Doãn lại tạ.

Bấy giờ đèn nến đốt sáng choang, chỉ có mấy đứa hầu gái đứng hầu rượu và dâng đồ ăn.

Doãn nói:

- Phường nhạc không đáng đem ra cung phụng Thái Sư. Nay có một con hát của nhà, xin Thái Sư cho phép được gọi ra hầu.

Trác nói:

- Hay lắm!

Doãn mới sai kéo bức màn ra, đàn sáo vang lừng, Ðiêu Thuyền đứng ở ngoài mành lượn múa dịu dàng, ở ngoài trông vào thực là ngoạn mục.

Có bài ca khen Ðiêu Thuyền như sau:

Người ở cung Chiêu Dương đó nhỉ

Cánh hồng bay phớn phở trên tay

Ðộng Ðình chừng đã qua bay.

Lương Châu vỗ nhịp nhẹ giầy gót sen

Một cành gió tả hoa mềm

Mùi hương ngào ngạt dày thềm vẻ xuân

Lại có một bài thơ nữa khen rằng:

Én liệng la đà nhịp phách ngà,

Mây bay một áng diễu thềm hoa.

Mày ngài gợi khách sầu man mác.

Vẻ ngọc xui người dạ thiết tha,

Hồ dễ ngàn vàng mua được miệng,

Lọ cùng trăm báu xức vào da?

Rèm cao múa đoạn ai nhìn trộm

Nào biết Tương vương mấy kẻ là!

Ðiêu Thuyền múa xong. Trác gọi lại gần.

Ðiêu Thuyền ở ngoài thềm đi vào, lạy hai lạy.

Trác thấy Ðiêu Thuyền dung nhan xinh đẹp bèn hỏi Doãn:

- Con bé nầy là thế nào?

Vương Doãn thưa:

- Bẩm, nó là con hát ở phủ, tên là Ðiêu Thuyền.

Trác hỏi:

- Biết hát không?

Doãn sai Ðiêu Thuyền gõ nhịp hát một bài.

Thật là:

Môi son hé nở cánh đào tân

Ngọc trắng hai hàng nhả ánh xuân

Ðầu lưỡi đinh hương đường kiếm sắc

Rắp toan chém cổ kẻ gian thần!

Ðổng Trác khen nức nở.

Doãn sai Thuyền dâng rượu.

Trác cầm lấy chén rượu hỏi rằng:

- Xuân xanh năm nay bao nhiêu?

Thuyền thưa:

- Tuổi tiện thiếp vừa đôi tám.

Trác cười nói rằng:

- Thật là người chốn thần tiên!

Doãn đứng dậy thưa rằng:

- Chúng tôi có ý định muốn dâng lên Thái Sư, không biết Thái Sư có nhận cho không.

Ðổng Trác nói:

- Ơn ấy ta biết lấy gì báo lại.

Doãn nói:

- Nếu nó được hầu hạ Thái Sư thì thực phúc cho tôi lắm.

Trác cảm tạ hai ba lần. Doãn lập tức sai đưa Ðiêu Thuyền đến tướng phủ. Trác đứng dậy cáo từ. Doãn đi tiễn Trác đến tận phủ rồi mới về.

Doãn cưỡi ngựa về đến xấp nữa đường, trông thấy hai bên đường có đèn đỏ, ở giữa là Lữ Bố, cưỡi ngựa cầm kích đi lại. Lúc Vương Doãn đến, Bố dừng ngựa, một tay nắm lấy áo Vương Doãn rồi hỏi to rằng:

- Tư Ðồ đã gả Ðiêu Thuyền cho ta, nay lại đem Ðiêu Thuyền dâng cho Thái Sư, sao lại đùa như thế?

Doãn vội vàng ngăn Lữ Bố, nói rằng:

- Nói chuyện ở đây không tiện, xin ngài hãy quá bước lại nhà lão phu.

Bố theo Doãn về. Hai người dắt nhau vào nhà trong. Chào hỏi xong, Doãn nói:

- Sao tướng quân lại trách lão?

Bố nói:

- Có người nói vại ta rằng Tư Ðồ dùng xe đưa Ðiêu Thuyền vào tận tướng phủ, là cớ làm sao?

Doãn thưa:

- Rõ khổ, tướng quân không biết! Hôm qua ở triều, Thái Sư bảo tôi rằng:

-Ta có một việc phải đến nhà ngươi.

Vậy tôi mới sửa soạn tiệc nhỏ đón tiếp.

Trong khi uống rượu, Thái Sư hỏi:

-Ta nghe ngươi có con gái tên là Ðiêu Thuyền, đã gả cho con ta là Lã Phụng Tiên. Có thực không? Ðem con lão ra đây cho ta coi!

Tôi không dám không vâng lệnh, phải gọi Ðiêu Thuyền ra lạy bố chồng.

Thái Sư lại truyền rằng:

-Hôm nay tốt ngày, để ta đem Ðiêu Thuyền về cho Phụng Tiên!

Tướng quân thử nghĩ xem: Thái Sư thân hành đến nơi truyền bảo, lão phu sao dám gàn trở!

Lữ Bố nói:

- Quan Tư Ðồ không có lỗi gì, tôi trót nghĩ lầm, ngày mai tôi xin mang roi đến chịu tội.

Doãn lại nói:

- Con tôi có ít nhiều đồ nữ trang. Khi nào nó về phủ tướng quân, tôi sẽ mang đến.

Lữ Bố tạ, rồi về.

Sáng hôm sau, Bố ở nhà nghe ngóng, chẳng thấy tin tức gì, bèn sang tướng phủ, vào thẳng nhà trong hỏi tin những người hầu.

Một người thưa:

- Ðêm qua Thái Sư cùng nghỉ với người hầu mới, bây giờ chưa dậy.

Bố giận lắm, lẻn vào sau buồng nằm của Ðổng Trác để dò xem.

Bấy giờ Ðiêu Thuyền đã dậy rồi, đang ngồi trong cửa sổ chải đầu, chợt trông xuống ao trước cửa sổ, thấy bóng người cao lớn, đầu đội mũ bịt tóc, biết ngay là Lữ Bố, Ðiêu Thuyền cố ý chau ngay đôi mày, làm ra dáng buồn bã, tay cầm khăn thỉnh thoảng nâng lên lau nước mắt.

Lữ Bố đứng nhìn hồi lâu rồi trở ra, một lát lại vào.

Ðổng Trác ngồi ở trung đường, thấy Bố đến, hỏi rằng:

- Ở ngoài không có việc gì chứ?

Bố thưa:

- Không.

Rồi đứng hầu một bên. Trác ăn cơm, Bố liếc mắt dòm trộm, thấy trong rèm có người con gái đi đi lại lại, hơi thò nửa mặt ngoảnh ra ngoài, liếc mắt đưa tình. Bố biết là Ðiêu Thuyền, tâm thần mê mẩn.

Trác nhìn thấy dáng điệu của Bố như vậy, trong lòng nghi hoặc liền bảo rằng:

- Phụng Tiên không có việc gì, hãy lui ra!

Lữ Bố bực tức trở ra.

Trác từ khi được Ðiêu Thuyền, hơn một tháng trời không coi đến việc quan. Một bữa Trác hơi khó ở, Ðiêu Thuyền hết lòng hầu hạ, mặc áo không lúc nào cởi đai, cố ý chiều chuộng. Trác lại càng yêu quý hơn nữa.

Một hôm Lữ Bố vào hỏi thăm, gặp lúc Ðổng Trác đang ngủ, Ðiêu Thuyền đứng ở sau giường thò nửa người ra, trông thấy Bố, lấy tay trỏ vào tim mình rồi lại trỏ vào Ðổng Trác, và luôn luôn gạt nước mắt.

Bố cảm thấy ruột như nát ra.

Trác nằm, hai mắt lim dim, thấy Bố nhìn chòng chọc về phía sau chỗ mình nằm, quay lại thì thấy Ðiêu Thuyền đứng ở sau giường. Trác nổi giận mắng Bố rằng:

- Mày ghẹo vợ yêu của tao à?

Bèn sai tả hữu đuổi Lữ Bố ra và từ nay cấm vào nhà trong.

Lữ Bố tức giận trở về, đi đường gặp Lý Nho, kể lại đầu đuôi.

Nho lập tức vào ra mắt Ðổng Trác, nói rằng:

- Thái Sư muốn lấy thiên hạ, sao lại vì một việc nhỏ mọn mà trách mắng Lã Ôn Hầu. Nếu y thay lòng đổi dạ, việc lớn hỏng mất.

Trác hỏi:

- Bây giờ nên làm thế nào?

Nho nói:

- Sớm mai gọi y vào, cho vàng lụa, dùng lời ngọt ngào an ủi y, thì sẽ không có việc gì xảy ra nữa.

Trác nghe lời, hôm sau cho gọi Lữ Bố vào nhà trong bảo rằng:

- Hôm qua trong cơn đau yếu, tinh thần hoảng hốt ta có nói mấy câu, nhà ngươi đừng để bụng.

Nói rồi, sai đưa cho Lữ Bố mười cân vàng và hai mươi tấm gấm.

Bố lạy tạ rồi về, nhưng từ lúc ấy tuy đứng hầu ở bên Ðổng Trác, mà ruột gan lúc nào cũng vơ vẩn chung quanh Ðiêu Thuyền.

Khi Trác đã khỏi bệnh, vào triều bàn việc, Bố vẫn cầm kích đi theo.

Một bửa, Trác đang ngồi bàn việc với vua Hiến Ðế, Bố vác kích lẻn ra cửa sau, lên ngựa chạy đến tướng phủ, buộc ngựa ở cửa phủ, cầm kích vào thẳng hậu đường, để tìm Ðiêu Thuyền.

Thuyền bảo:

- Hãy ra vườn sau bên đình Phượng Nghi đợi thiếp!

Bố vác kích đi trước, đứng bên bao lơn ở dưới đình chờ một hồi lâu, thấy Ðiêu Thuyền rẽ hoa gạt liễu đi đến, chẳng khác gì tiên trên cung trăng.

Thuyền sụt sùi khóc bảo Bố rằng:

- Tiện thiếp tuy không phải Vương Tư Ðồ sinh ra, nhưng Tư Ðồ coi thiếp như con đẻ. Từ khi gặp tướng quân được nhận cho làm kẻ nâng khăn sửa túi thiếp đã lấy làm mãn nguyện lắm. Ngờ đâu Thái Sư đem lòng bất lương, làm ô nhục thiếp, thiếp giận không chết ngay được, chỉ vì chưa gặp được tướng quân để từ giả lần cuối cùng, cho nên còn nhịn nhục sống đến bây giờ. Nay may được gặp nhau, thế là hả rồi. Tấm thân đã nhơ nhuốc này không xứng đáng thờ người anh hùng, thiếp xin chết ở trước mặt chàng để tỏ rõ tấm lòng thiếp!

Ðiêu Thuyền nói xong, tay vịn bao lơn, mắt nhìn ra ao sen, định nhảy xuống.

Lữ Bố vội vàng ôm ngay lấy Ðiêu Thuyền, khóc nói rằng:

- Lòng nàng tôi biết đã lâu, chỉ hiềm chưa được nói với nhau đấy thôi!

Ðiêu Thuyền gạt tay Lữ Bố ra, nói rằng:

- Kiếp này thiếp không được làm vợ chàng, xin hẹn để kiếp sau!

Lữ Bố nói:

- Nếu kiếp nầy không lấy được nàng, tôi không phải là người anh hùng nữa.

Ðiêu Thuyền nói:

- Thiếp coi một ngày dài bằng một năm, xin chàng thương mà cứu vớt.

Bố nói:

- Tôi lên đến đây, sợ thằng giặc già nó nghi, tôi phải đi ngay.

Thuyền lôi vớt áo Lữ Bố lại nói rằng:

- Chàng còn sợ thằng giặc già như thế, thiếp này không còn mong có ngày nào được trông thấy trời và đất nữa!

Bố dừng lại nói rằng:

- Ðừng vội vàng, để tôi nghĩ cách đã.

Nói rồi vác kích định đi ra.

Ðiêu Thuyền níu lại nói rằng:

- Khi tôi ở chốn buồng đã được nghe tiếng tướng quân, lừng lẫy như sấm rót vào tai, tưởng rằng ở đời này chỉ có một người như thế chớ không có hai. Ai ngờ tướng quân lới chịu dưới quyền áp chế của người khác!

Nói rồi, nước mắt chảy xuống như mưa.

Lữ Bố thẹn đỏ cả mặt, dựa kích một chỗ, quay lại ôm lấy Ðiêu Thuyền, dỗ dành an ủi. Hai người quấn quấn quýt quýt không nỡ buông nhau ra.

Ðổng Trác ở trên điện, bỗng ngoảnh lại không thấy Lữ Bố trong bụng nghi ngay, vội vàng xin cáo từ lên xe về phủ. Thấy ngựa của Bố buộc trước cửa phủ. Trác bèn hỏi lính canh cửa. Lính canh nói:

- Ôn Hầu vào nhà sau.

Trác mắng quân canh cửa, đi thẳng ngay vào hậu đường, không thấy Lữ Bố, Trác gọi Ðiêu Thuyền cũng không thấy thưa. Trác hỏi người hầu gái. Người hầu gái thưa:

- Ðiêu Thuyền ở trong vườn sau ngắm hoa.

Trác vào vườn sau tìm, thấy Lữ Bố và Ðiêu Thuyền đang nói chuyện với nhau ở bên Ðình Phượng Nghi, họa kích dựng một bên.

Trác giận quát to một tiếng.

Bố thấy Trác đến, cả sợ, quay đầu chạy.

Trác vớ ngay lấy ngọn họa kích đuổi theo. Bố chạy nhanh, Trác béo phục phịch, đuổi không kịp, bèn cầm kích ném theo Lữ Bố. Bố gạt rơi xuống đất. Trác nhặt kích lại đuổi, nhưng Bố đã chạy xa. Trác đuổi ra tận cửa vườn, thì một người xăm xăm chạy đến, đâm sầm ngay vào Ðổng Trác. Trác ngã quay xuống đất.

Thế rõ thực là:

Khi căm xông thẳng trên mây tía.

Mình béo lăn kền đến đất đen.

Chưa biết người ấy là ai, xem hồi sau mới rõ.

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top

Tags: #tqc7-8