HỒI KÝ H.S. OLCOTT
CHƯƠNG MỘT: CUỘC GẶP GỠ ĐẦU TIÊN GIỮA HAI NHÀ SÁNG LẬP
I
Vì quyển “Hồi ký’’ này có liên quan đến lịch sử Hội Thông Thiên Học Thế Giới, nên tôi phải kể lại từ đầu, và tường thuật cuộc gặp gỡ giữa hai nhà sang lập hội.
Câu chuyện cũng rất bình thường; tôi nói mở lời: “Xin bà cho phép,’’ và quẹt một cây diêm cho bà hút thuốc để mượn dịp làm quen. Cuộc gặp gỡ của chúng tôi bắt đầu bằng một làn khói thuốc, nhưng nó đã bùng cháy lên thành một ngọn Lửa Thiêng trường cửu muôn đời.Những sự việc đưa đến cuộc gặp gỡ này cũng khá ly kỳ, như tôi sẽ trình bày sau đây.
Một ngày nọ, vào tháng 7 năm 1874, ngồi tại văn phòng Luật, tôi đang nghiên cứu một vụ kiện quan trọng, liên quan đến tòa Đô Chính thành phố Nữu Ước, tự nhiên tôi lại nghĩ rằng từ nhiều năm nay tôi không chú ý đến phong trào Thần Linh Học. tôi không hiểu tại sao trí óc tôi lại liên tưởng từ vụ kiện nọ đến phong trào này. Dù sao, tôi cũng đã bước ra phố để mua một tờ nhật báo “Banner of Light’’, trong đó tôi thấy có bài tường thuật về một hiện tượng hồn ma hiện hình xảy ra tại một nông trại ở thị trấn Chittenden, thuộc tiểu bang Vermont, cách Nữu Ước độ vài trăm dặm. Tôi liền nghĩ rằng nếu quả thật đúng là người ta có thể nhìn thấy, sờ mó, và nói chuyện được với những thân nhân đã chết nhưng đã tìm cách hiện nguyên hình để tạm thời xuất hiện trở lại thế gian, thì đây là một sự kiện tối quan trọng về khoa học vật lý hiện đại. Tôi bèn quyết định đi quan sát ngay tại chỗ.
Tôi đến tận nơi xem xét các hiện tượng, và thấy rằng câu chuyện quả có thật, tôi bèn ở lại đó thêm ba ngày. Khi trở về Nữu Ước, tôi viết một bài tường thuật những điều tôi đã nhận xét cho tờ báo New York Sun.
Bài báo của tôi được các báo trên thế giới in lại và phổ biến khắp nơi, vì tính cách hấp dẫn và quan trọng của những việc đã xảy ra. Kế đó, vị chủ nhiệm báo Daily Graphic đề nghị vối tôi hãy trở lại Chittenden để viết phóng sự với một họa sĩ cùng đi theo tôi để vẽ hình ảnh, và để mở cuộc điều tra quan sát tường tận về vấn đề này.
Việc ấy làm cho tôi thích thú đến mức tôi phải thu xếp mọi việc của văn phòng, và ngày 17 tháng 9 năm đó tôi trở lại nông trại của gia đình Eddy một lần nữa. Tôi lưu trú tại ngôi nhà bí mật đó trong mười hai tuần, và hằng ngày tôi đã thu nhập được những kinh nghiệm vô cùng kỳ dị. Trong thời gian đó, tôi viết bài đăng trên báo Daily Graphic mỗi tuần hai lần, có kèm theo những bức vẽ các hồn ma hiện hình do tôi và người họa sĩ, ông Kappes đã nhìn thấy tận cùng với độ bốn mươi quan khách đến viếng. Chính những bài tường thuật của tôi trên mặt báo đã làm cho bà Blavatsky đến Chittenden, và do đó chúng tôi mới quen biết nhau.
Tôi còn nhớ rõ cái ngày đầu tiên mà chúng tôi gặp nhau dường như chỉ mới ngày hôm qua. Đến bữa ăn trưa tại nông trại Eddy, tôi và họa sĩ Kappes vừa bước vào phòng ăn thì thấy nơi bàn ăn đã có hai người phụ nữ. Đó là bà Blavatsky và một người bạn người Gia Nã Đại. Hôm ấy bà mặc một cái áo màu đỏ, nổi bật giữa những y phục tầm thường của người chung quanh. Gương mặt vuông, có bề ngang, đôi mắt tinh anh biểu lộ một tinh thần cương dũng, đầy hào khí, trội phần nam tính hơn nữ tính, cũng làm cho bà có một phong độ, cốt cách khác thường so với những gương mặt bình dị của số đông du khách đến viếng. Những người thuộc đủ mọi thành phần luôn luôn vãng lai không ngớt để xem các hiện tượng dị kỳ. Đứng trước ngưỡng cửa, tôi nói nhỏ vào tai ông Kappes:
“Này, anh hãy nhìn xem cái bà kia, có lạ không?’’
Kế đó,tôi bèn đi thẳng lại chỗ bàn ăn, chọn một ghế ngồi đối diện với bà để có dịp thực tập về khoa tướng pháp, như tôi vẫn có thói quen nhìn xem tướng diện khi gặp những nhân vật mà tôi chú ý.
Hai bà khách lạ nói chuyện với nhau bằng tiếng Pháp. Nghe giọng nói sành âm điệu và ngôn ngữ lưu loát trôi chảy của bà, tôi đoán ngay rằng nếu bà không phải là một người Pháp chính cống ở Paris, thì ít nhất bà cũng phải là một học giả uyên thâm về môn pháp ngữ.
Buổi ăn trưa vừa xong, hai bà bước ra ngoài. Bà Blavatsky vấn một điếu thuốc lá, tôi bèn bật diêm quẹt cho bà đốt thuốc để lấy cớ mở đầu câu chuyện. Vì tôi mở lời bằng một câu tiếng Pháp: “Vous permettez, Madame,’’ nên chúng tôi liền nói chuyện với nhau bằng tiếng Pháp luôn. Bà hỏi tôi đến đây từ bao giờ, và tôi có cảm tưởng ra sao về việc này? Bà nói chính Bà cũng rất thích thú về những hiện tượng đó và đã đến Chittenden do những bài báo Bà đã đọc trong tờ Daily Graphic. Dân chúng thích những loạt bài phóng sự đó đến nỗi chỉ một giờ sau khi phát hành, báo đã bán hết sạch, và Bà đã phải trả một đô la để mua một tờ với giá chợ đen. Bà nói:
“Tôi rất do dự trước khi đến đây, vì tôi sợ sẽ gặp Đại Tá Olcott.’’
Tôi hỏi
“Thưa Bà, tại sao bà lại sợ gặp ông ta?’’
“Bởi vì tôi sợ ông ta sẽ viết về tôi trên mặt báo!’’
Tôi mới nói rằng bà hãy yên lòng về việc đó, vì tôi chắc rằng Đại Tá Olcott sẽ không nói gì đến bà trong các bài báo nếu bà không muốn như vậy. Tôi bèn tự giới thiệu. Ngay tức khắc chúng tôi đã trở nên hai người bạn thân. Mỗi người trong chúng tôi đều cảm thấy dường như chúng tôi vẫn cùng chung một thành phần xã hội, thuộc về giới tự do tư tưởng và gần gũi với nhau hơn so với những người khác trong nhóm quan khách. Đó là sự đồng thanh đồng khí về phương diện tâm linh, một sự thông cảm giữa hai linh hồn, chứ không phải là sự hấp dẫn giữa nam nữ tính. Kể từ lúc mới quen cho đến mãi về sau, không một người nào trong chúng tôi có cái ý nghĩ rằng người bạn của mình là người khác phái. Chúng tôi chỉ coi nhau như bạn, và chỉ có thế thôi, không hơn không kém. Thảng một đôi khi cũng có kẻ xấu miệng nói rằng giữa chúng tôi chắc có một cảm tình sâu đậm hơn, cũng như họ đã từng vu khống bà HPB là tình nhân của những người đàn ông khác, nhưng không một người quang minh chính đại nào có thể nghĩ như thế sau khi đã được gần gũi quen biết bà một thời gian để có dịp nhận xét tính chất và tác phong đặc biệt vô nữ tính của bà.
Sau cuộc gặp gỡ và làm quen, chúng tôi nói chuyện về những hiện tượng quái gở ở nông trại Eddy và ở những xứ khác. Tôi được biết bà đã từng đi du lịch nhiều nơi, thấy biết nhiều điều bí ẩn, diệu hiền và nhiều bậc danh sư trong giới huyền môn, nhưng lúc đầu bà không nói gì đến các Chân Sư bên Tây Tạng và những quyền năng của bà.
Bà nói về khuynh hướng duy vật của phong trào Thần Linh Học bên Mỹ, vốn quá chú trọng đến những hiện tượng vật chất hữu hình mà không biết đến những khía cạnh triết lý siêu hình. Bà có một phong độ, tư cách rất duyên dáng và hấp dãn, những sự bình phẩm chỉ trích của bà về người và vật rất độc đáo và linh hoạt. Bà tìm cách biết những ý nghĩ, quan niệm của tôi về các vấn đề tâm linh, và lấy làm thích thú mà nhận thấy rằng tôi có những tư tưởng phù hợp theo đường lối của Huyền Môn mà bà vẫn theo đuổi. Bà nói chuyện không phải với tư cách một đạo gia thấm nhuần đạo lý Đông Phương, mà với tư cách một nhà Thần Linh Học uyên bác. Về phần tôi, hồi ấy tôi chưa biết hay hầu như không biết gì cả về triết học Đông Phương, và lúc đầu bà giữ im lặng không nói gì đến vấn đề ấy.
Những buổi họp đàn của William Eddy, nhà đồng tử chính của gia đình này, diễn ra mỗi đêm trong một gian phòng rộng ở trên lầu. Ông William và người em trai là Horatia, đều là những nông dân siêng năng cần cù làm việc; người em lo việc đồng áng, còn người anh lo việc bếp núc, dọn bữa ăn cho các quan khách hàng ngày tấp nập đến từ khắp nơi trong xứ Hoa Kỳ. Họ là những nông dân nghèo, thất học, và có nhiều thành kiến, đôi khi lại cau có, gắt gỏng đối với những du khách tự nhiên không mời mà đến. Mỗi buổi chiều, đồng tử William Eddy ngồi trong phòng tối để đợi cho các hiện tượng xảy ra. Khi y vừa bước vào phòng, người ta kéo tấm màn che qua một bên, thì từ bên trong bước ra một bóng ma hiện hình một người đàn ông, đàn bà hoặc trẻ con, coi như một pho tượng biết cử động, tạm thời đông đặc và chắc nịch, nhưng trong giây phút liền tan biến mất dạng trước mắt của mọi người.
Trước ngày bà Blavatsky đến đây , những bóng ma hiện hình đều là những người Da Đỏ, người Mỹ hay người Âu, họ hàng thân thuộc của những khach đến viếng. Nhưng kể từ buổi đầu tiên khi bà vừa đến, thì những bóng ma thuộc những quốc tịch khác đã xuất hiện trước mắt chúng tôi. Trong số đó, có một thanh niên người xứ Causase; một người lái buôn Hồi Giáo ở Tiflis; một cô thôn nữ Nga, và những hình bóng khác. Tối hôm nọ , hiện hình một người kỵ mã Thổ Nhĩ Kỳ đeo gương cong, súng đoản và cầm giáo dài; một nhà phù thủy Phi Châu hình thù dị hợm, gớm ghiếc, đầu đội mũ miện cắm bốn cái sừng dê có gắn lục lạc đồng; và một người Âu dòng quý tộc mặc triều phục với phù hiệu Nữ Thánh Anna, mà bà Blavatsky nhận ra là người chú của bà.
Sự hiện hình của những vong linh ấy trong phòng họp đàn của những người nông dân nhèo và thất học, không hề có đủ tiền bạc để mua sắm những đồ y trang sân khấu, cũng không có sự hiểu biết, kinh nghiệm để sử dụng những thứ y trang đó dẫu cho họ có thể sắm được, là một bằng chứng rõ rệt trước mắt ngưới đi xem, rằng những hiện tượng ấy là có thật, đồng thời, những buổi họp đàn này cho thấy rằng sự có mặt của bà Blavatsky toát ra một sức hấp dẫn lạ lùng làm cho những nhân vật kỳ lạ xuất hiện từ cõi giới vô hình. Mãi rất lâu về sau, tôi mới được cho biết rằng bà đã sử dụng quyền năng phương thuật sai khiến tinh linh ngũ hành để tạo nên những hiện tượng đó.
Trong thời gian ở Chittenden, bà Blavatsky có kể cho tôi nghe nhiều chuyện vế cuộc đời dĩ vãng của bà, trong dó có việc bà đã từng gia nhập nhóm phụ nữ chí nguyện tùng chinh theo Garibaldi [1] trong trận đánh lưu huyết ở Mentana[2] .
Để chứng minh chuyện này, bà cho tôi xem cánh tay trái của bà bị những vết gươm chém gẫy xương ở hai chỗ, vai bên hữu có một viên đạn vẫn còn nằm nguyên trong thớ thịt, và một viên đạn nữa trong bắp chân. Bà cũng chỉ cho tôi xem một cái thẹo ngay phía dưới trái tim, do một nhát đâm bằng vũ khí nhọn. Vết thương này hơi nứt ra một ít trong khi bà ở tại Chitenden và sở dĩ bà cho tôi xem là để hỏi ý kiến tôi về cách chữa trị sao cho mau lành. Bà còn kể cho tôi nghe nhiều chuyện phiêu lưu mạo hiểm đầy thú vị khác nữa, trong số đó có chuyện nhà phù thủy Phi Châu đội mũ cắm sừng dê có gấn lục lạc đồng, mà bà đã từng gặp khi ông ta trổ tài nghệ ở miền thượng du Ai Cập đã nhiều năm về trước.
Bà Blavatsky cố gắng giải thích cho tôi hiểu rằng những hiện tượng vừa kể không phải là bằng chứng về sự kiểm chế đồng tử bởi các vong linh người chết. Bà nói rằng nếu những hiện tượng đó có thật, thì đó phải là cái Thể Vía của người đồng tử xuất ra ngoài thể xác và khoác lấy mọi hình thể đa hình đa dạng, nhưng tôi không tin như thế. Tôi lý luận rằng những hình bóng xuất hiện ra đó thật khác biệt nhau quá xa về vóc hạc, bề cao, tác phong và dáng điệu, để có thể nói đó là cái Thể Vía người đồng tử, và như vậy đó phải là những vong linh người chết hiện hình thật sự như mọi người đều thấy. Sự tranh luận của chúng tôi đôi khi rất sôi nổi, vì hồi đó, tôi chưa được biết nhiều về tính chất co giãn của Thể Vía con người để nhận thấy rõ luận điệu chính xác của bà,còn về lý thuyết Ảo Ảnh Ảo Giác (Maya) của phương Đông, thì hồi đó tôi không biết gì cả. Tuy nhiên, nhờ vậy mà bà mới biết rõ bản chất của tôi là không chấp nhận bất cứ điều gì nếu chỉ căn cứ trên niềm tin mà không có đủ lý do vững chắc. Chúng tôi càng hiểu nhau hơn với thời gian qua, và đến lúc chia tay, chúng tôi tạm biệt nhau như hai người bạn tốt sẵn sang tiếp tục tình quen biết thân hữu đã bắt đầu một cách vui vẻ tốt đẹp trong những ngày vừa qua.
II
Tháng 11 năm 1874, sau khi đã hoàn tất cuộc khảo sát về những hiện tượng thần linh ở nông trại Eddy, tôi trở về New York và đến viếng bà Blavatsky tại địa chỉ mà bà đã cho tôi trước khi chia tay tạm biệt. Tại đây, bà đã biểu diễn cho tơi xem vài hiện tượng cơ bút, gõ nhịp, xoay bàn, phần nhiều là do tác động của một vong linh khuất mặt tự xưng danh là ‘’Jonh King’’.
Đó là một cái tên quen thuộc đối với những người thường đi tham dự những buổi họp đàn hồi giữa thế kỷ trước ở khắp nơi trên thế giới. Vong linh ấy tự giới thiệu là vong hồn của Sir Henry Mogan, một nhà hiệp sĩ kiêm hải tặc sống bên Anh Quốc cách đây vài thế kỷ. Y đã hiện hình một phần cho tôi xem mặt và đầu có quấn khăn, trong khi tôi xúc tiến một cuộc điều tra về những đồng tử Holmes ở Philadelphia cùng với bà Blavatsky và vài nhân vật khác ít lâu sau đó. Y có một lối viết dị kỳ, và sử dụng lối văn Anh cổ xưa cũng rất lạ. Hồi đó, tôi không tin chắc đó là Jonh King thật, vì mọi sự đã được chứng minh rõ ràng về thành tích và con người của y. Nhưng bây giờ, sau khi đã thấy rõ quyền năng của bà Blavatsky trong việc tạo nên ảo giác và sai khiến âm binh, tôi mới biết rằng “John King’’ chỉ là một tinh linh mạo danh và phỉnh lừa, mà bà sử dụng như một hình nộm để sai khiến và dung làm một khí cụ để chỉ dẫn cho tôi học hỏi thêm về khoa Huyền Môn. Nói tóm lại, các hiện tượng đều có thật, nhưng không phải do một vong linh người chết thực hiện, mà chỉ là do sự trợ giúp của một tinh linh ngũ hành[3] .
Bà vẫn duy trì cái ảo tưởng đó đối với tôi trong vài tháng, và tôi đã chứng kiến nhiều hiện tượng huyền linh khác mệnh danh là do tác động cùa John King, chẳng hạn như toàn bộ một loạt các hiện tượng biểu diễn tại tư gia của các đồng tử Holmes và của chính bà HPB như đã kể trên. Trước hết y là một cá tính riêng biệt tên J. King, kế đó y là John King thư tín viên và thừa sai của các Chân Sư còn sống trên thế gian, và sau cùng, đó chỉ là một tinh linh do bà HPB sử dụng để làm các phép thuật lạ kỳ.
Không ai phủ nhận rằng trong thời gian đầu tiên ở Mỹ, bà HPB tự xưng là một nhà Thần Linh Học, nhiệt liệt bênh vực khoa Thần Linh Học và các đồng tử chống lại những kẻ đả kích gồm các giới độc giả nông cạn, nửa mùa. Những thư từ và bài vở của bà đăng trên các báo chí Anh và Mỹ có chứa đựng nhiều bằng chứng về việc ấy. Trong một bức thư gởi đăng trên tạp chí Spiriualist ngày 13 tháng 12 năm 1874, bà viết như sau:
“Như tình trạng hiện nay, tôi chỉ có làm việc bổn phận, trước hết đối với khoa Thần Linh Học, mà tôi bênh vực đến mức tối đa chống lại những đòn công kích xuyên tạc của các giới thiển cận đội lốt khoa học; và kế đó đối với hai nhà đồng tử cô thế bị vu khống…
Nhưng tôi phải thú nhận rằng thật sự tôi không tin là mình đã giúp ích được gì cho khoa Thần Linh Học… Tôi cảm thấy một nỗi buồn thấm thía mà nhìn nhận điều ấy, vì tôi bắt đầu nghĩ rằng nó thật là vô phương cứu vãn. Tôi đã chiến đấu cho chân lý từ trên mười lăm năm nay; vì mục đích sưu tầm và phổ biến chân lý, tôi đã đi ngao du sơn thủy từ các vùng núi non tuyết phủ của xứ Caucase đến những vùng đồng cát ở lưu vực sông Nil. Vì mục đích đó, tôi đã rời khỏi gia đình, từ bỏ cuộc đời ấm êm nhung lụa trong một xã hội văn minh để đi ta bà khắp nơi trên mặt Trái Đất, v.v…
“Hai nhà đồng tử cô thế’’ mà bà nói trong thư tức là hai ông bà Holmes, mà tôi vẫn đánh giá rất thấp về hạnh kiểm cũng như về thành tích bất hảo. tuy nhiên, trước sự có mặt của bà Blavatsky, và dưới những điều kiện thử thách gắt gao do tôi thực hiện tại nhà ông bà Holmes, tôi đã chứng kiến tận mắt một loạt những hiện tượng đồng tử thỏa đáng và chân thật nhất không thể chối cãi. Hồi đó, tôi đã ngờ rằng cái quyền năng tạo ra những hiện tượng đó là của bà HPH, chứ nếu chỉ có hai ông bà Holmes, thì có lẽ tôi đã thấy những trò giả mạo, hoặc là không có gì. Bây giờ, lục soát lại những tài liệu cũ, tôi tìm thấy bản văn kiện sau đây do chính tay bà viết và hiển nhiên là với ý định sẽ được công bố sau khi bà từ trần:
THÔNG ĐIỆP QUAN TRỌNG
Tôi rất tiếc mà nói rằng tôi phải đứng về phe các nhà Thần Linh Học trong vụ tố giác hai nhà dồng tử Holmes. Tôi phải cứu vãn tình thế, vì tôi được biệt phái từ Paris sang Mỹ để chứng minh sự thật của những hiện tượng thông linh, và vạch rõ sự sai lầm của giả thuyết cho rằng tất cả những hiện tượng thông linh chỉ là do tác động của vong hồn người chết. Nhưng tôi có thể làm gì tốt nhất? Tôi không muốn cho người ta biết rằng tôi có thể tạo ra các hiện tượng tùy ý muốn. Tôi được lịnh phải làm trái lại, tuy nhiên tôi phải duy trì đức tin nơi các hiện tượng đó trong lòng của những người từ óc duy vật để trở thành duy linh, nhưng nay vì có sự tố giác nhiều nhà đồng tử, nên họ đã quay trở về với thái độ hoài nghi của họ trước kia.
Bởi vậy, tôi đã chọn lựa vài tín hữu cùng đi với tôi đến nhà ông bà Holmes, và vối sự trợ giúp của Chân sư M. và quyền năng của ngài, tôi đã làm cho những tinh linh John King và Katie King xuất hiện từ cõi vô hình, tạo nên những hiện tượng “hiện hình’’, và làm cho các giới thông linh ở khắp nơi tưởng rằng đó là do khả năng đồng tử của bà Holmes tạo nên. Bà này đã trải qua một cơn hoảng sợ khủng khiếp, vì bà biết rằng lần này các vong linh đã hiện hình thật sự!
Tôi đã làm đúng hay sai? Thế gian chưa đủ chuẩn bị để hiểu rõ triết lý của khoa Huyền Môn; trước hết họ hãy nhận định rằng có những sinh vật trong cõi giới vô hình, dù đó là tinh linh ngũ hành hay vong linh người chết; và con người có những quyền năng ẩn tang khả dĩ làm cho họ trở thành một đấng thần tiên bất tử.
Sau khi tôi qua đời, có lẽ người ta sẽ nhận thức tấm lòng vô tư của tôi. Tôi đã phát nguyện nêu cao Chân Lý để giúp đỡ người đời trên đường tìm đạo, và tôi sẽ giữ vẹn lời nguyền. Mặc cho người thế gian vu khống và phỉ bang tôi, họ có thể gọi tôi là đồng bóng, phù thủy, bịp bợm, hay là gì tùy ý. Một ngày kia, hậu thế sẽ có dịp biết rõ tôi hơn. “Ôi! Thế gian đau khổ và tội lỗi, tôi biết làm sao hơn!’’
Toàn thể vấn đề đã được giải bày một cách rõ ràng: khoa Pháp Môn mà bà được lịnh đem truyền bá sang Mỹ để thay thế khoa Thần Linh Học Tây Phương vốn nặng nề phần hiện tượng cơ bút, là khoa Huyền Môn của Đông Phương tức là nền Minh Triết Thiêng liêng hay Brahma Vidya. Vì Tây Phương chưa sẵn sang chấp nhận khoa này, nên công việc đầu tiên được giao phó cho bà là bênh vực sự thật về các hiện tượng thông linh chống lại những thành kiến của khoa học duy vật và các giới liên hệ. Vấn đề cần thiết duy nhất của thời đại là chặn đứng đánh đổ óc hoài nghi duy vật và củng cố nền tảng tâm linh của mọi sinh hoạt tinh thần. Bởi vậy, khi bước vào vòng chiến, bà đứng về phe các nhà Thần Linh Học Mỹ, và tạm thời hãy cất ngọn cờ duy linh và nêu cao một lý tưởng chung với họ. Phải, hậu thế sẽ xét đoán bà một cách công bình.
III
Tôi còn nhớ rõ phép thuật đầu tiên mà bà đã làm bằng cách sử dụng ý chí, ngay sau khi bà bắt đầu viết bộ sách “Vén Màn Isis [4]’’. Trong số những quan khách đến viếng nhà bà, có một nghệ sĩ người Ý, tạm gọi là ông B (Signor B). Tôi đang ngồi với bà nơi phòng khách thì ông B. đến viếng. Trong câu chuyện trao đổi qua lại về các vấn đề của nước Ý, thình lình y thốt ra tên của một vị Chân Sư trong số những đấng Cao Cả nhất. Bà HPB giật mình dường như bị điện giật, nhìn thẳng vào đôi mắt người khách lạ và nói bằng tiếng Ý:
“Có việc gì vậy? Tôi sẵn sàng.’’
Người kia thản nhiên nói qua chuyện khác, và thảo luận về các vấn đề Phương Thuật, các nhà Thuật Sĩ và các đấng Chân Sư.
Khi ấy, ông B. đứng dậy mở cửa sổ, đưa tay khoát vài cái trên không khí bên ngoài, thì một con bướm trắng liền bay vào phòng và bay lượn trên trần nhà. Bà HPB cười thoải mái vui vẻ và nói:
“Khá đấy, nhưng tôi cũng làm được như vậy!’’
Bà cũng đến chỗ cửa sổ, khoát tay vài cái tương tự, thì một con bướm trắng thứ nhì cũng liền bay vào phòng. Nó bay lên trần nhà, đuổi theo con bướm kia khắp chung quanh phòng, thỉnh thoảng hai con bướm lại đùa giỡn với nhau, rồi cùng bay đến một góc phòng thì cả hai đều biến mất ngay trước mắt chúng tôi.
Tôi hỏi việc ấy nghĩa là thế nào, thì bà đáp:
“Nó có nghĩa là ông B. có thể làm cho một tinh linh biến thành một con bướm, và tôi cũng có thể làm y như vậy. Chỉ có thế thôi.’’
Thì ra, hai con bướm chỉ là những vật giả tạo chứ vốn không có thật.
Tôi cũng nhớ những hiện tượng thần thông khác của bà, do việc sử dụng khả năng sai khiến âm binh. Một đêm nọ chúng tôi làm việc soạn quyển sách của bà mãi đến khuya. Bữa cơm chiều hôm đó, tôi đã ăn vài món mặn, nên lúc một giờ khuya cảm thấy rất khát nước, tôi nói:
“ Chà! Bây giờ nếu có một chum nho tươi mà ăn thì hay quá, hả?
“ À, phải đấy. Ta hãy ăn nho đi.’’
“Nhưng các tiệm đã đóng cửa từ lâu, làm sao mua được vào giờ này?
Không sao. Chúng ta vẫn có nho ăn như thường’’
“Làm sao có, và lấy đâu ra?’’
“Rồi ông sẽ thấy. Bây giờ ông hãy vặn bấc đèn thấp xuống.’’
Tôi vặn thấp ngọn đèn hơi, nhưng lỡ tay vặn quá trớn làm đèn tắt. Bà nói:
“Ông không cần làm vậy.Tôi chỉ muốn ông vặn nhỏ lại thôi! Ông hãy thắp lại đi.’’
Tôi thắp đèn sáng trở lại và hạ bấc đèn thấp xuống chỉ còn ánh sang lờ mờ. Bà kêu lên:
“Kia kìa! Ông hãy nhìn xem!’’
Và đưa tay chỉ cái kệ đựng sách trên vách trước mặt chúng tôi. Tôi vô cùng ngạc nhiên mà thấy treo lủng lẳng nơi hai đầu cái kệ có hai chum nho tươi lớn, loại nho đen và chin, và chúng tôi lấy xuống ăn. Tôi hỏi bà đã dung phương pháp nào, thì bà nói đó là do tác động của vài loại tinh linh dưới quền sai khiến của bà.
Về sau, bà đã có dịp tái diễn phép thuật ấy hai lần khác nữa để đem trái cây về cho chúng tôi ăn giải khát giữa đêm khuya trong khi chúng tôi soạn bộ sách “Vén Màn Isis.’’
IV
Lần lần, Bavatsky nói cho tôi biết về sự hiện diện của các Chân Sư cùng những quyền năng của các ngài, và bằng vô số các hiện tượng huyền linh, bà cho tôi thấy bằng chứng về quyền năng của bà đối với những mãnh lực huyền bí trong thiên nhiên. Trước hết, như đã nói ở trên, bà gán cho âm bing “John King” vai trò tác động nên các hiện tượng ấy, và chính nhờ sự trợ giúp của y mà lần đầu tiên tôi được tiếp xúc bằng thư từ với các Chân Sư. Tôi đã gìn giữ nhiều bức thư cũa các ngài, và ghi rõ ngày tháng nhận được những bức thư ấy.
Trong nhiều năm, cho đến ngày tôi rời Nữu Ước để sang Ấn Độ, tôi được kết nạp vào hang đệ tử đặt dưới quyền chỉ đạo của phân bộ Phi Châu trong QUẦN TIÊN HỘI. Về sau, khi bà HPB có một sự biến đổi huyền diệu về tâm linh và thể chất mà tôi không tiện nói ra, và cho đến nay vẫn không ai ngờ mặc dù họ được đối xử thân mật và hoàn toàn tin cẩn của bà ( như họ vẫn tưởng ), tôi được thuyên chuyển sang phân chi Ấn Độ, dưới sự chăm sóc điều hành của một nhóm Chân sư khác.
Từ bao giờ, khắp trên thế giới luôn luôn vẫn có một tổ chức vĩ đại gồm một TẬP ĐOÀN TIÊN THÁNH chăm lo dìu dắt sự tiến hóa của nhân loại. Tổ chức ấy dược chia làm nhiều phân chi tùy theo những nhu cầu của nhân loại trong những giai đoạn tuần tự tiến hóa khác nhau. Trong một thế hệ, trung tâm điều hành của TẬP ĐOÀN TIÊN THÁNH, tức QUẦN TIÊN HỘI, được đặt ở một nơi nhất định; vào một thế hệ khác, trung tâm ấy lại được đặt ở một nơi khác. Tuy vô hình vô ảnh nhưng cần thiết cho sự tiến bộ tâm linh của nhân loại, quyền năng phối hợp của TẬP ĐOÀN TIÊN THÁNH được duy trì từ thế hệ này sang thế hệ khác để trợ giúp người hành giả chiến đấu không ngừng trên con đường Đạo xa xôi diệu vợi đưa đến Chân Lý thiêng liêng. Kẻ hoài nghi phủ nhận sự hiện diện của các đấng Tiên Thánh bởi vì họ không nhìn thấy hay nói chuyện với các ngài, cũng không hề thấy lịch sử nói về sự can thiệp hữu vi của các ngài trong những biến cố của các quốc gia. Nhưng sự hiện diện của các ngài đã được nhìn nhận bởi hang nghìn những bậc đạo gia chân tu của nhiều thế hệ lien tục, đã giải thoát khỏi sự ô nhiễm của cuộc đời thế gian để bước vào cõi giới tâm linh huyền diệu. Trong nhiều thời kỳ, các ngài đã từng giao tiếp thân mật với những người chỉ nguyện xã thân cầu Đạo, hoặc dành trọn cuộc đời phụng sự hiến dâng để đem lại hạnh phúc và tình thương trong muôn loài.
Vài người trong số đó, rất mực khiêm tốn và bề ngoài có vẻ kém hèn như chúng tôi là những người lãnh đạo phong trào THÔNG THIÊN HỌC, đã có diễm phúc được sự ưu ái và chỉ giáo của các ngài. Vài người như bà Blavatsky và sư đệ Damodar đã được nhìn thấy ngài trong những cơn linh ảnh từ khi còn nhỏ. Những người khác đã gặp các ngài dưới những hình dáng ngụy trang lạ lùng ở những nơi thật bất ngờ. Tôi được bà Blatsky giới thiệu cho các ngài xuyên qua nhân vật trung gian quen thuộc trong những kinh nghiệm trước đây: đó là vong linh mệnh danh “John King”. Y giúp tôi giao tiếp bằng phương tiện Vô Vi với bốn vị Chân Sư, trong số đó có một vị Chân Sư Ai Cập, một vị là đại diện của môn phái Alexandrie, một vị là Chân Sư Venitien, và một là hậu thân của một triết gia người Anh, tuy đã qua đời nhưng vốn bất tử.
Chân Sư Serapis (Ai Cập) là vị Sư Phụ đầu tiên của tôi, ngài có một tác phong hào hung dũng cảm và đầy vẻ cương nghị của một người trội hẳn phần nam tính.
Về sau, tôi được các Chân Sư cho biết rằng bà Blavatsky là một đệ tử trung kiên của các ngài, tuy rằng bà có những tính chất bất thường, làm cho bà khó dung hòa được với vài vị Chân Sư để có thể làm việc chung với các ngài. Điều này không lạ gì khi ta biết rằng mỗi người đều tiến hóa theo một Cung nhất định trong Thiên Cơ. Họ có sự hòa hợp tâm linh với những linh hồn đồng Cung với mình, và có thể đối nghịch với những linh hồn thuộc về một Cung khác khi khoác lấy xác phàm để hoạt động trên cõi hồng trần hạ giới. Đó có lẽ là cái lý do căn bản của mọi sự hòa hợp hay xung khắc giữa người nọ với người kia trên thế gian.
Dù sao, vài vị Chân Sư không thể làm việc chung với bà Blavatsky. Bà chỉ hợp tác được với những vị khác, mà tôi có liên hệ mật thiết trong những năm đầu của phong trào Thông Thiên Học thế giới.
Trong những chuyện tâm sự với nhau khi tôi đã đi khá sâu vào vấn đề để biết về QUẦN TIÊN HỘI và mối liên hệ của bà với cơ quan ấy, bà HPB ( tên viết tắt của bà Blavatsky )[5] nói cho tôi biết rằng bà đã đến Paris từ năm trước ( 1873) với ý định ở lại đó ít lâu dưới sự bảo trợ của một người thân quyến, nhưng một ngày nọ bà nhận được mật lệnh của Chân Sư truyền cho bà phải đi ngay sang New York để chờ lệnh mới.
Qua ngày hôm sau, bà liền vượt biển trùng dương với chỉ vừa đủ số tiền để mua vé tàu. Bà viết thư cho cha ở bên Nga yêu cầu ông gửi tiền cho bà qua Lãnh Sự Quán Nga ở New York, nhưng vì phải chờ đợi một thời gian, và vì viên Lãnh Sự Nga từ chối không cho bà mượn trước, nên bà phải tìm việc làm để sống qua ngày. Bà ở tại trong những khu phố nghèo nàn nhất là khu Madison của thành phố New York, và sống bằng nghề may thuê vá mướn cho một lão chủ tiệm tạp hóa người Do Thái rất tốt bụng. Bà luôn luôn nhắc đến người này với một lòng biết ơn. Bà sống như vậy lây lất qua ngày, nhưng vẫn chưa nhận được tin gì và tương lai hoàn toàn mờ mịt. Nhưng năm sau, tháng 10 năm 1874, bà được mật lệnh đi đến Chittenden để gặp một người đồng môn sẽ cùng cộng tác với bà trong một công việc vĩ đại trong tương lai: người ấy, ai ngờ chính lại là… tôi. Những bạn bè thân hữu của bà đều nhớ rõ câu chuyện mà bà đã kể cho họ nghe về sự lên đường ra đi bất ngờ của bà từ Paris sang New York theo mật lệnh của Chân Sư. Nhưng những người bạn thân ấy chỉ nghe bà kể lại mãi về sau mà thôi, và những kẻ thù nghịch với bà có thể nói rằng đó chỉ là một việc mà bà mới nghĩ ra sau này, một chuyện giả dối được bịa đặt ra để cho ăn khớp với cái trò đùa ngộ nghĩnh mà bà ngụy tạo ra sau đó.
Tuy nhiên, trong khi tôi viết những trang này tại Adyar thì một việc tình cờ (nếu đó là do sự tình cờ) vừa đem đến cho tôi một bằng chứng xác nhận sự việc trên.
Vừa đến lưu trú tại Adyar, có bà Anna Ballard, một nữ ký giả lão thành người Mỹ, hội viên kỳ cựu của Câu Lạc Bộ Báo Chí thành phố New York. Do hoạt động nghề nghiệp, bà này đã từng đến phỏng vấn bà Blavatsky trong tuần lễ đầu tiên sau khi bà HPB vừa đổ bộ lên đất Mỹ. Trong khi tiếp xúc với chúng tôi, bà Ballard ngẫu nhiên nói cho tôi nghe hai chuyện, mà tôi liền yêu cầu bà viết lại trên giấy trắng mực đen để làm tài liệu. Điều thứ nhất là khi bà đến viếng HPB ở một nơi nhà trọ nghèo nàn tại New York, bà HPB có nói rằng bà từ giã Paris thình lình và không có dự tính trước, do một quyết định đột xuất chỉ báo trước có một ngày; và việc kế đó là bà HPB đã từng viếng xứ Tây Tạng. Dưới đây là lời tường thuật của bà Anna Ballad:
Adyar, 17 tháng 1, 1892
Kính gởi Đại Tá Olcott,
Sự quen biết của tôi với bà Blavatsky còn lâu hơn là ông tưởng. Tôi gặp bà hồi tháng 7 năm 1873 tại New York, độ một tuần lễ sau khi bà vừa cặp bến. Hồi đó, tôi là phóng viên của nhật báo New York Sun, được chỉ định viết một bài về một đề tài Nga. Khi tôi còn đang tìm tài liệu, thì một người bạn cho tôi hay rằng có một phụ nữ Nga vừa nhập cảnh do chuyến tàu mới đến.
Tôi bèn tìm đến gặp bà, và từ đó bắt đầu một sự quen biết thân hữu kéo dài đến nhiều năm sau. Trong cuộc phỏng vấn đầu tiên của tôi, bà HPB cho tôi biết rằng bà không hề có ý định rời Paris để sang Mỹ cho đến ngày cuối cùng trước khi bà xuống tàu, nhưng vì lý do gì bà ra đi và ai thúc hối bà đi gấp như vậy, thì bà không nói.
Tôi còn nhớ rõ bà nói với một vẻ sung sướng khoái trá lộ ra mặt: “Tôi có ở bên Tây Tạng.” Hồi đó, tôi không hiểu tại sao bà lại cho đó là một vấn đề quan trọng, còn đặc biệt hơn những chuyến du hành ở Ai Cập, Ấn Độ và những nước khác mà bà đã kể chuyện cho tôi nghe, nhưng bà lại nói câu ấy với một vẻ mặt nghiêm trọng lạ thường. Bây giờ thì, lẽ tất nhiên, tôi hiểu ý bà muốn nói gì.
Ký tên: Anna Ballard.
Độc giả sẽ nhận thấy rằng những sự việc mà bà HPB đã kể cho người bạn đầu tiên này ỏ New York hồi hai mươi năm về trước, đã xác nhận đúng đắn những gì mà từ đó về sau bà cũng đã thuật lại với một số đông người, về hai vấn đề quan trọng nhất trong lịch sử lien hệ giữa bà với hội Thông Thiên Học, là:
1._ Giai đoạn chuẩn bị của bà bên xứ Tây Tạng dưới sự chăm sóc của các đấng Chân Sư; và
2._ Cuộc hành trình của bà đột xuất sang Mỹ để tìm người bạn đồng môn có nghiệp duyên cùng hợp tác với bà để phát động phong trào Thông Thiên Học trên thế giới.
Hồi năm 1871, bà đã có một lần thất bại khi mưu tính thành lập một Cơ Quan Tinh Thần tại Cairo, thủ đô Ai Cập, dựa trên nền tảng các hiện tượng thần linh. Vì không tìm được người có đủ khả năng tổ chức và lãnh đạo, nên việc ấy không thành; nó đã đem đến cho bà nhiều sự chỉ trích và bực mình. Tuy nhiên, những phép thuật thần thong mà bà đã biểu diễn với sự trợ giúp của các vị Chân Sư Ai Cập và một vị Chân Sư khác mà về sau tôi được dịp tiếp xúc, đều là những hiện tượng vô cùng độc đáo. Việc ấy có vẻ như một sự hoang phí thần lực một cách vô ích, và cho thấy công trình nầy dường như thiếu sự hướng dẫn của thiêng liêng. Tôi không thể hiểu tại sao sự việc lại xảy ra như vậy.
Nói về hội Thông Thiên Học thì mọi sự diễn biến đều chỉ rằng nó có một lịch trình tiến hóa tuần tự, và bị chi phối bởi hoàn cảnh do tác động của những sức mạnh tương phản. Khi thì sinh hoạt êm ái điều hòa, khi thì trải qua những cơn song gió ồ ạt, Hội được thịnh vượng hay bị trầm trệ tùy theo sự quản trị thông minh sáng suốt hay kém khôn ngoan của các nhà lãnh đạo. Đường lối đại cương của Hội vẫn luôn luôn được gìn giữ, phương châm hướng dẫn bao giờ cũng vẫn đồng nhất, nhưng chương trình sinh hoạt của nó đôi khi được sửa đổi, nới rộng hay cải tiến một cách linh động, uyển chuyển tùy theo kiến thức và kinh nghiệm của chúng ta. Mọi sự đều chứng minh cho tôi thấy rằng phong trào Thông Thiên Học nói chung đã được các bậc Tiên Thánh chuẩn bị từ trước, nhưng còn tất cả mọi chi tiết đều để cho chúng ta thực hiện với sự cố gắng tối đa. Nếu chúng ta thất bại thì cái cơ hội quý báu mà Nghiệp Quả đã dành cho chúng ta sẽ rơi vào tay người khác, cũng như hiện nay tôi là người thừa kế những cơ hội lỡ làng mà nhóm tín hữu của bà Blavatsky đã bỏ dở không thực hiện được tại Cairo hồi năm 1871.
Trong thưở ban đầu, tôi không hề nghe bà Blavatsky nói gì ngụ ý rằng bà đã được cho biết trước , cho đến khi bà được lịnh đi đến Chittenden để gặp tôi, về việc chúng tôi sẽ cùng cộng tác với nhau trong tương lai, hay là về việc thành lập hội Thông Thiên Học thế giới. Chúng tôi chỉ nghe bà nói, như đã kể trên, rằng bà được gởi từ Paris đi New York với mục đích truyền bá giáo lý Huyền Môn,và trước khi chúng tôi gặp nhau, bà đã từng tham dự những buổi họp đàn và tiếp xúc với các đồng tử nhưng vẫn còn ẩn mặt chứ chưa hề được công chúng biết đến.
Tháng 5 năm 1875, với sự đồng ý của bà HPB, tôi bắt tay vào việc tổ chức một nhóm thân hữu chuyên khảo cứu về Khoa Học Huyền Bí, lấy tên là Câu Lạc Bộ Huyền Linh ( Miracle Club ). Trong một đoạn ký sự về việc này, bà viết như sau:
“Đó là một mưu toan do lệnh dạy của T. B. (một vị Chân Sư), nhận được qua trung gian của P. (một tinh linh) mệnh danh John King. Được lệnh phải bắt đầu nói cho công chúng biết sự thật về các hiện tượng và các đồng tử. Thế là cuộc pháp nạn của tôi sẽ bắt đầu! Tôi sẽ gặp phải sự chống đối của các nhà Thần Linh Học, thêm vào sự thù nghịch của bên Cơ Đốc Giáo và những kẻ hoài nghi. Ôi ! Chân Sư M., ý muốn của Sư Phụ sẽ phải được thực hiện.
HPB.”
Câu lạc bộ này được dự định sẽ nhóm riêng, không thâu nhận người ngoài trừ ra những thành viên của nhóm, và họ cũng bị ngăn cấm không được tiết lộ nơi họp. Bà viết thêm:
“Tất cả những hiện tượng Thần Linh, gồm cả các sự hiện hình, đều sẽ diễn ra dưới ánh sáng, và sẽ không sử dụng một phòng tối.”
Theo lời bà nói như trên, thì dường như sẽ không có Hội Thông Thiên Học, nếu rốt cuộc người đồng tử của Nhóm Huyền Linh không hoàn toàn suy thoái rồi rút lui và tôi đành bỏ dở không thể hoàn thành công việc ấy.
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top