CHƯƠNG SÁU: VIỆC THÀNH LẬP HỘI THÔNG THIÊN HỌC THẾ GIỚI
Tất cả những hội viên nhiệt thành của Hội Thông Thiên Học sẽ thích thú mà được biết rằng kể từ tháng 7 năm 1875, bà HPB đã khẳng định sự hiện diện của các đấng Chân Sư, tuyên bố sự thật về Quần Tiên Hội, về kho tàng minh triết thiêng liêng do các ngài gìn giữ, và về mối liên hệ cá nhân của bà với các ngài. Bà nêu lên vấn đề quan trọng là:
“Khoa Thần Linh Học, trong tay của một Chân Sư, trở thành khoa Phương Thuật, vì ngài đã tinh thông lão luyện về bí thuật sử dụng những định luật trong Càn Khôn Vũ Trụ, mà không vi phạm một định luật nào và không hành động trái nghịch với thiên nhiên. Trong tay của một đồng tử thiếu kinh nghiệm, khoa ấy trở thành Bàn Môn Tả Đạo vô ý thức, vì y vô tình mở rộng cửa giao thông giữa thế giới hữu hình và vô hình, và giải tỏa những sức mạnh mù quáng của Thiên Nhiên cùng những loại âm binh và vong linh bất hảo.”
Kể từ nay, tư tưởng Huyền Môn đã được phát động một cách rõ rệt, và luôn luôn được nhắc đến trong những sách vở báo chí và thơ tín riêng tư của chúng tôi. Trong một bài báo nhan đề “ĐỜI SỐNG BẤT TỬ” đăng trên báo Nữu Ước Diễn Đàn ngày 28 tháng 8 năm 1875, tôi có tuyên bố rằng tôi đã từng tin nơi các hiện tượng đồng tử từ một phần tư thế kỷ nay, nhưng tôi không bao giờ tin rằng những trí lực đằng sau các hiện tượng đồng tử từ một phần tư thế kỷ nay, nhưng tôi không bao giờ tin rằng những trí lực đằng sau các hiện tượng đó quả thật là những ông nọ bà kia như họ giả danh hay mạo nhận. Tôi khẳng định sự tin tưởng của tôi về sự thật của khoa Huyền Môn thời cổ, và nói lên sự kiện rằng tôi tình cờ được giao tiếp với những người còn sống, họ đã từng thi thố ngay trước mặt tôi những pháp thuật diệu huyền xứng đáng với bản lĩnh của các nhà Phương Sĩ trứ danh thời xưa.
Khi tôi nói lên điều ấy, tôi không phải chỉ đề cập đến những hiện tượng thần thông của bà HPB, hay sự giao tiếp của tôi với các Chân Sư mà thôi, mà còn muốn nhắc đến sự việc này: đó là việc làm cho những “TINH LINH NGŨ HÀNH” xuất hiện ngay trước mắt tôi và trong phòng ngủ của tôi, do một người lạ mặt mà tôi tình cờ gặp tại New York, một ngày trước khi tôi viết bài báo trên.
Người lạ mặt đến nhà tôi do một sự hứa hẹn trước. Chúng tôi mở những cửa ngăn phòng khách với buồng ngủ, ngồi trên ghế đối diện với cửa ra vào, và thình lình, dưới ảnh hưởng của một phương pháp huyền diệu để tạo ra ảo giác (Mâya), tôi nhìn thấy phòng ngủ của tôi biến thành một khoảng không gian vuông vức. Những giường tủ, bàn ghế đã biến mất khỏi tầm mắt của tôi,và lần lần xuất hiện những cảnh trời nước mênh mông, mây mù bao phủ không gian, hang động dưới lòng đất, và một hỏa diệm sơn phun lửa. Mỗi hoạt động trong ngũ hành đều loi ngoi, những sinh vật sống động với những hình thể, những gương mặt, ẩn hiện chập chờn khi mờ khi tỏ. Vài hình thể sinh vật đó coi xinh đẹp, hiền hòa, những loại khác có hình dáng bất hảo, dữ tợn, có loại rất hung ác và coi thật rùng rợn. Chúng xuất hiện trước mắt tôi một cách nhẹ nhàng giống như những bọt nước trên một giòng suối, hoặc phóng nhanh xuyên qua không gian và biến mất, hoặc chơi giỡn nô đùa với nhau trong ánh lửa hồng hay trên giòng nước.
Một lát sau đó, một quái vật hình thù dị hợm trợn mắt nhìn tôi và phóng tới trước, dường như muốn chụp lấy tôi cũng như một con cọp bị thương chụp mồi, nhưng rồi lại biến mất khi nó vừa tới làn mức chu vi của khoảng không gian vuông vức, là nơi mà hai gian phòng nối liền với nhau. Việc ấy làm cho thần kinh tôi bị căng thẳng cực độ, nhưng sau những kinh nghiệm về hồn ma hiện hình mà tôi đã từng trải qua ở nông trại Eddy, tôi cố gắng giữ vững tinh thần lòng không rung động. Đến đây, người lạ mặt tuyên bố hài lòng về kết quả cuộc thử thách tâm linh này, và khi chia tay từ giã còn nói thêm rằng chúng tôi có thể sẽ gặp nhau trở lại. Nhưng cho đến nay chúng tôi không hề gặp nhau lại nữa. Người ấy có hình dáng giống như một người Đông Phương, màu da lợt, nhưng tôi không thể phát hiện được là quốc tịch nào, tuy hồi đó tôi nghĩ rằng có lẽ ông ta là người Ấn Độ. Người đó nói Anh Ngữ rất thông thạo cũng như tôi.
II
Sự dọn đường cho việc thành lập Hội Thông Thiên Học Thế Giới đã được chuẩn bị do sự tranh luận sôi nổi trong các giới, trước nhất về Thần Linh Học và sau đó về một vài quan niệm của Huyền Môn Đông Phương. Cuộc tranh luận vẫn tiếp diễn kể từ khi những bài tường thuật của tôi về các hiện tượng thần linh ở nông trại Eddy bắt đầu xuất hiện trên nhật báo New York Sun vào tháng 8 năm 1874. Nó càng trở nên sôi động thêm gấp mười lần từ khi tôi và bà HPB gặp nhau tại Chittenden, và sử dụng báo chí để trình bày những quan điểm lạ thường của chúng tôi. Những bài báo châm biếm của bà, những chuyện đồn đãi về những phép thuật thần thông của bà, và sự quả quyết của chúng tôi về sự hiện diện của những chủng loại sinh vật trong cõi vô hình, đã thu hút đến với chúng tôi nhiều nhân vật Đạo tâm, trí thức thông minh lỗi lạc. Trong số những người này có những nhà bác học, ngôn ngữ học, nhà văn, nhà khảo cổ, vài vị linh mục có tinh thần rộng rãi cởi mở, luật gia, y sĩ, vài nhà Thần Linh Học tên tuổi, vài nhà báo tò mò muốn kiếm đề tài hấp dẫn để viết bài.
Thật là một việc táo bạo mà dám đứng ra công khai tuyên bố nền tảng khoa học của Khoa Huyền Môn cổ xưa, bất chấp mọi dư luận thành kiến của người đời, ở vào thời đại hoài nghi của khoa học vật chất ngày nay. Chính hành động táo bạo đó đã thu hút sự chú ý của quần chúng và đưa đến cái hậu quả đương nhiên là với thời gian qua, những người cùng đồng quan điểm sẽ họp chung lại với nhau thành một Hội để khảo cứu về các vấn đề Huyền Môn. Mưu toan thành lập một Câu Lạc Bộ Huyền Linh đã thất bại vào tháng 5, năm 1875, thì nay một cơ hội khác đã đến, khi một học giả chuyên khoa Ai Cập Học là ông George Felt thuyết trình trước một nhóm bạn hữu của chúng tôi tại nhà bà HPB vào ngày 7 tháng 9 năm 1875. Đó là một sự thành công mỹ mãn: cái hột giống của một cây đại thọ bao trùm khắp thế giới đã được gieo trên mảnh đất tốt và đã nẩy mầm.
Tối hôm 7 tháng 9, ông Felt thuyết trình về đề tài: “QUY TẮC TỶ LỆ CỦA NGƯỜI CỔ AI CẬP”. Ông là một nhà kỹ nghệ họa rất tài tình, và đã vẽ một số họa đồ rất khéo để diễn tả lý thuyết của ông cho rằng những quy tắc tỷ lệ kiến trúc của người Ai Cập cũng như của các đại kiến trúc gia Hy Lạp, hiện được gìn giữ trong những chữ mật tự khắc trên các đền thờ cổ của xứ Ai Cập. Ông nói rằng bằng cách sử dụng vài loại chìa khóa bí mật, người ta có thể áp đặt một đồ hình mà người ta gọi là “NGÔI SAO TOÀN MỸ” trên vách một ngôi đền, rồi đọc trong đó toàn bộ các bí quyết của vấn đề tỷ lệ kiến trúc và hình học. Những chữ mật tự ở ngoài vòng cái đồ hình đặt lên vách chỉ là những chữ giả tạo để đánh lạc hướng những kẻ tò mò, bởi vì nếu đọc liên tục với những chữ ở trong cái đồ hình, thì đó chỉ là những câu vô nghĩa, hoặc chỉ là một câu chuyện vô vị, tầm thường.
Cái đồ hình này gồm có một vòng tròn với một hình vuông ở trong và một ở ngoài, chứa đựng một hình tam giác thường, hai hình tam giác Ai Cập và một hình năm góc. Ông Felt áp dụng cái đồ hình ấy vào những hình ảnh, tượng điêu khắc, cổng đền, hình vẽ chữ mật tự, Kim Tự Tháp, lăng tẩm và dinh thự lâu đài của xứ cổ Ai Cập, và cho thấy rằng chúng thật hoàn toàn đúng khớp với những tỷ lệ của đồ hình đến mức biểu lộ một quy tắc kiến trúc chung cho tất cả các công trình xây dựng của thời xưa. Quả thật, đó chính là cái quy tắc kiến trúc thật sự của Thiên Nhiên.
Tiến Sĩ Pancoats, một nhà Huyền Học ưu tú có mặt trong buổi họp, lúc ấy mới hỏi ông felt có thể chứng minh cụ thể sự hiểu biết của ông về những quyền năng thần bí của các nhà đạo sĩ thời xưa hay không, chẳng hạn như việc kêu gọi các vong linh khuất mặt trong cõi vô hình. Ông Felt trả lời rằng:
“Ông có thể làm cho xuất hiện hằng trăm những hình bóng các vong linh giống như hình người, nhưng ông không thấy những dấu hiệu chỉ rằng chúng có trí khôn”.
Trong buổi thuyết trình, ông Felt cho chúng tôi biết rằng trong khi khảo cứu về môn cổ học Ai Cập, ông đã phát hiện rằng những vị giáo sĩ Ai Cập thời xưa đều là những pháp sư lão luyện tinh thông về khoa Phương Thuật. Họ có quyền năng kêu gọi và sai khiến những TINH LINH NGŨ HÀNH và có để lại những chân ngôn thần chú để sử dụng âm binh. Ông sẵn lòng chỉ dẫn bí thuật này cho những người có thiện chí và hứa sẽ làm cho các loại tinh linh xuất hiện trước mắt chúng tôi trong một loạt các bài diễn thuyết.
Buổi thuyết trình vô cùng hấp dẫn và lý thú hôm đó được nối tiếp theo bằng một cuộc thảo luận sôi nổi. Trong khi cuộc bàn cãi đang tiếp diễn, tôi bỗng có ý nghĩ rằng có lẽ là một điều hay nếu một hội được thành lập để khuyến khích sự học hỏi khảo cứu về khoa Huyền Môn, và sau khi đắn đo suy nghĩ, tôi mới viết trên một mảnh giấy giòng chữ sau đây:
“PHẢI CHĂNG LÀ MỘT ĐIỀU TỐT NẾU CHÚNG TA THÀNH LẬP MỘT HỘI ĐỂ KHẢO CỨU VỀ NHỮNG VẤN ĐỀ NÀY?”
Tôi đưa mảnh giấy cho ông W. Judge, một luật sư lúc ấy đang đứng giữa tôi và bà HPB ngồi ở một ghế đối diện để nhờ ông chuyển cho bà. Bà đọc xong, liền gật đầu tỏ ý bằng lòng. Tôi bèn đứng dậy, và với vài lời mở đầu câu chuyện, tôi bèn đưa ra đề nghị trên. Vòng cử tọa lấy làm thích thú, và khi ông Felt, nhân dịp trả lời một câu hỏi, nói rằng ông sẵn lòng chỉ dẫn cho chúng tôi phương pháp kêu gọi và kiểm chế các loại TINH LINH NGŨ HÀNH, thì toàn thể hội trường đều đồng thinh chấp thuận việc thành lập Hội nói trên. Theo lời đề nghị của ông Judge, tôi được bầu làm Hội Trưởng và với đề nghị của tôi, ông Judge được bầu làm Bí Thơ buổi họp. Vì lúc ấy đêm đã khuya, buổi họp được đình lại đến tối hôm sau để có một quyết định chính thức. Những quan khách tối hôm đó được yêu cầu đem theo những bạn bè thân hữu và cảm tình viên vào đêm sau để cho họ có thể gia nhập hội nếu họ muốn.
Một tờ nhật báo ở New York có tường thuật buổi họp tối hôm đó, tóm tắt đại khái như sau:
“Một phong trào rất quan trọng vừa được khai trương tại New York dưới sự lãnh đạo của Đại Tá Henry S. Olcott trong việc thành lập một hội gọi là Hội Thông Thiên Học Thế Giới. Đề nghị khởi xướng nên công việc này là một điều hoàn toàn không có dự tính trước, và được phát động vào tối hôm mùng 7 tại phòng khách nhà bà HPB. Cử tọa gồm mười bảy vị quan khách nam và nữ trong giới thượng lưu trí thức đã hội họp để nghe ông George Henry Felt thuyết trình về một vài khía cạnh của Huyền Môn Ai Cập vô cùng lý thú và hấp dẫn….
Trong cuộc thảo luận sau đó, thừa dịp thuận tiện, Đại Tá Olcott đứng lên phát biểu ý kiến. Sau khi phác họa tình trạng của phong trào Thần Linh Học đương thời; thái độ của các nhà Duy Vật chống lại phong trào ấy; sự xung đột ý kiến giữa khoa học và tôn giáo; tính cách triết học của nền Đạo Lý cổ truyền, khả dĩ dung hòa tất cả mọi lý thuyết tương phản hiện hữu; và công trình siêu việt của ông Felt đã khám phá được bí quyết cấu tạo của Thiên Nhiên do những tàn tích cổ xưa của khoa Huyền Môn Ai Cập. Ông đề nghị thành lập một hội tinh thần để quy tụ tất cả những người có khuynh hướng tâm linh, sẵn sàng làm việc chung với nhau để sưu tập và truyền bá những kiến thức huyền môn. Chương trình của ông là tổ chức một Hội các nhà Huyền Học và bắt đầu lập ngay một thư viện, kế đó là phổ biến những giáo lý về những định luật huyền bí trong Thiên Nhiên mà người cổ Ai Cập và Trung Đông đều biết rõ, nhưng lại hoàn toàn xa lạ đối với thế giới khoa học của chúng ta hiện nay,v..v …”
Tài liệu đó cho thấy tâm trạng của tôi khi tôi đề nghị thành lập Hội Thông Thiên Học Thế Giới. Quan niệm về tình Huynh Đệ Đại Đồng trong nhân loại chưa được nêu ra và chúng tôi cũng chưa kịp nghĩ đến, bởi vì đề nghị thành lập Hội chỉ đột xuất từ cái đề tài đang thảo luận. Tuy nhiên, khi vòng ảnh hưởng của Hội nới rộng để bao gồm cả những dân tộc phương Đông cùng những tôn giáo và những chế độ xã hội của họ, thì tình Huynh Đệ Đại Đồng đã trở nên một điều cần thiết, và trên thực tế, là nền tảng cho toàn thể cơ cấu xây dựng Hội. Hội Thông Thiên Học là một công trình tuần tự phát triển và tiến hóa; chứ không phải là một sự tạo dựng có mưu tính trước (trên cõi giới hữu hình).
Khi Hội đã được chấp thuận trên nguyên tắc, một phiên họp sau được tổ chức để soạn thảo bản Điều Lệ, Nội Quy, và bầu một ban chấp hành để quản trị công việc Hội. Ngày 30 tháng 10, bản Điều Lệ và Nội Quy được chấp thuận, và một ban chấp hành được tuyên bố như sau:
HỘI TRƯỞNG…………………….HENRY S. OLCOTT
PHÓ HỘI TRƯỞNG: B.S PANCOATS và G.H.FELT
TỔNG THƯ KÝ NGOẠI VỤ: H.P. BLAVATSKY
TỔNG THƯ KÝ NỘI VỤ: JOHN S. COBB
THỦ BỔN: HENRY NEWTON
QUẢN LÝ THƯ VIỆN: CHARLES SOTHERAN
LUẬT SƯ NHIỆM CÁCH: WILLIAM Q. JUDGE
và năm vị CỐ VẤN.
Phiên họp lại tái nhóm vào ngày 17 tháng 11 năm 1875 để đọc bản Tuyên Ngôn của Hội, và để nghe vị Hội Trưởng Đại Tá Henry S. Olcott, đọc bài diễn văn khai trương. Thế là Hội Thông Thiên Học Thế Giới được chính thức thành lập vào ngày 17 tháng 11 năm 1875.
III
khi đoạn Hồi Ký này của tôi được đăng trong tạp chí “THE THEOSOPHIST” tháng 11, năm 1892, số tạp chí ấy cũng có đăng tiểu sử hay lý lịch của nhiều vị trong Ban Chấp Hành của Hội, trong số đó có một chuyện lạ về kinh nghiệm huyền linh của ông W. L. Alden.
Ông Alden hồi đó là một biên tập viên của tờ “NỮU ƯỚC THỜI BÁO”, rất nổi tiếng về những bài phê bình hài hước và sắc xảo của ông đối với những vấn đề thời sự hàng ngày. Khi chúng tôi mới quen nhau, ông ấy có gặp một chuyện khá thú vị. Lúc ấy ông viết bài xã luận cho báo Graphic, còn tôi thì viết phóng sự về các hiện tượng huyền linh ở Chittenden cũng cho tờ báo nhật báo này. Những chuyện hồn ma hiện hình ở nông trại Eddy đã hấp dẫn một số đông người hiếu kỳ hằng ngày đến tòa soạn để hỏi những chuyện bâng quơ vô lý. Họ làm quấy rầy vị Chủ Bút, ông Groly, đến mức làm cho ông này phải công bố một tấm hình lớn vẽ ông ta đứng chận cửa vào tòa soạn, với một khẩu súng lục và một cặp kéo lớn trong tay, để tự vệ chống lại sự đột nhập của những kẻ vô tích sự làm phiền nhiễu và mất thời giờ.
Một ngày nọ, có một vị trưởng lão mặc y phục theo lối Đông Phương bước vào tòa soạn, tay cầm một quyển sách hình dáng lạ kỳ, và có vẻ rất cũ. Ông ta chào các nhân viên tòa bài phóng sự của tôi, và về khoa Thần Linh Học Tây Phương và Đông Phương. Tất cả mọi người đều rời khỏi bàn viết và tề tựu chung quanh ông lão. Khi nói về Khoa Phương Thuật, ông lão lẳng lặng quay về phía ông Alden, mà cho đến khi đó không ai biết gì về những sở thích Huyền Môn của ông ta, và hỏi:
“Thưa ông, ông có tin sự thật của khoa Phương Thuật không?”
Vô cùng ngạc nhiên vì câu hỏi đột ngột, ông Alden đáp:
“À, tôi có đọc quyển ZANONI (*)[7], và nghĩ rằng trong đó có lẽ có ít nhiều sự thật.”
Đáp lời yêu cầu của vài người, ông lão đưa quyển sách dị kỳ của ông ta cho mọi người xem. Thì ra đó là một quyển cổ thư dạy về Khoa Phương Thuật, viết bằng chữ Á Rập hay một thứ chữ Đông Phương, có rất nhiều hình ảnh xen lẫn với chữ viết. Tất cả mọi người đều rất thích thú, nhất là ông Alden, và khi chia tay từ giã, ông này hỏi vị trưởng lão có thể nào họ sẽ gặp lại nhau để nói chuyện thêm. Ông lão gật đầu mỉm cười, và đưa cho ông Alden một địa chỉ. Nhưng khi ông Alden đi đến nơi, thì đó chỉ là một địa chỉ ma, một cửa hàng bán hình tượng và kinh sách Gia Tô Giáo!
Ông bạn tôi vẫn không thất vọng, và nhiều tháng sau đó, để mắt theo dõi những người mà ông tiếp xúc hay gặp gỡ ngoài đường với niềm hy vọng sẽ gặp lại ông lão bí mật. Ông Croly cho tôi biết rằng người lạ mặt cũng không hề trở lại viếng thăm tòa soạn một lần nào nữa, dường như ông ta đã biến mất vào trong ruột quả địa cầu!
Sự xuất hiện bất ngờ và thình lình biến mất của những người bí mật để đem những quyển sách quý cho người có căn duyên; hoặc để đưa những lời khuyên hữu ích, hoặc để chỉ đường dẫn lối cho người tầm Đạo giữa những khó khăn chướng ngại mà y đang cố gắng vượt qua để đi đến chân lý, vốn không phải là một kinh nghiệm lạ thường. Có nhiều trường hợp như vậy đã được ghi nhận trong lịch sử tôn giáo. Sự xuất hiện đó đôi khi xảy ra trong khi thức tỉnh, hoặc đôi khi trong những cơn linh ảnh vào những giờ ban đêm.
Sự mách bảo có khi đến như những “tia sáng” xẹt qua trong trí óc, những tia sáng trực giác (Buddhi) rọi vào cái trí suy luận (Manas) đem lại những phát minh lớn lao về khoa học, chẳng hạn như ý niệm về kiếng quang phổ (Spectroscope) xẹt qua trí óc của fraunhofer; ý niệm về tính chất của sấm sét và ống thu lôi trong trí của Franklin; ý niệm về máy điện thoại trong trí của Edison, và về hằng muôn ngàn sự việc vĩ đại hay định luật lớn lao khác nữa vẫn chiếu rọi ánh sáng vào tâm hồn những người thụ cảm sẵn sang tiếp nhận nguồn cảm hứng thiêng liêng.
Dường như là một điều quá đáng mà nói rằng mỗi người tầm Đạo đều có cơ duyên đạt tới sự hiểu biết một lần trong đời mình, nhưng tôi tin rằng số người may mắn gặp được cơ duyên đó còn gấp trăm lần nhiều hơn là người ta tưởng. Thật là một điều bất hạnh cho đương sự nếu vì quan niệm sai lầm, y tưởng rằng vị sứ giả đem cơ duyên tới cho y phải có một hình dáng hay cốt cách đặc biệt như thế nào đó, hoặc bức thông điệp gởi cho y phải đi kèm với những hiện tượng diệu huyền thuộc loại nào. Rồi với những thành kiến đó làm che ám lu mờ, có khi “y giao tiếp với một vị thiên thần mà không hề hay biết”, hoặc chạm trán với quý nhân ở ngoài đường mà không hề cảm thấy một rung động khác lạ để làm cho y phải chú ý, thay vì mải lo chăm chú nhìn cảnh vật ở chung quanh. Tôi nói những gì tôi biết.
IV
Theo chương trình đã định, tối hôm 18 tháng 9, ông George H. Felt tiếp tục cuộc thuyết trình lý thú về Huyền Môn Ai Cập và trình bày những đồ hình có màu để diễn tả những sự khám phá của ông. Vài thính giả sau đó cho biết rằng họ thấy ánh sáng chập chờn trên những đồ hình, nhưng tôi nghĩ rằng điều đó có lẽ một phần là do sự tự kỷ ám thị, còn một phần, có thể như ông Felt nói, là do những đặc tính huyền diệu của các đồ hình. Riêng tôi không nhìn thấy gì có tính chất huyền linh, cũng như những người khác trong cử tọa, trừ ra một thiểu số rất ít.
Trong buổi thuyết trình, ông felt khẳng định không chút do dự sự hiện hữu của các giới TINH LINH NGŨ HÀNH, ảnh hưởng của chúng đối với loài vật và sự liên hệ của chúng tôi đối với loài người. Trên một bài báo gởi đăng trên tạp chí “London Spiritualist” ngày 19 tháng 6 năm 1878, ông Felt viết:
“….TÔI ĐƯỢC BIẾT CHẮC CHẮN RẰNG CÁC LOẠI TINH LINH NGŨ HÀNH QUẢ CÓ THẬT NHỞ NHỮNG CUỘC SƯU TẦM CỦA TÔI VỀ MÔN KHẢO CỔ AI CẬP. TRONG KHI TÔI VẼ HỌA ĐỒ NHỮNG VÒNG HOÀNG ĐẠO AI CẬP ĐỂ CỐ GẮNG TÌM RA NHŨNG ĐIỂM TƯƠNG QUAN VỀ SỐ HỌC GIỮA CHÚNG VỚI NHAU, TÔI NHẬN THẤY DÔI KHI CÓ NHỮNG TRIỆU CHỨNG RẤT LẠ LÙNG KHÔNG THỂ GIẢI THÍCH. NGƯỜI NHÀ TÔI NHẬN THẤY RẰNG CÓ NHỮNG LÚC MÀ CON CHÓ VÀ CON MÈO CỦA TÔI, BIỂU LỘ NHỮNG CẢM ỨNG RẤT DỊ KỲ, VÀ HỌ LƯU Ý TÔI VỀ CHÚNG. CHỪNG ĐÓ, TÔI MỚI THẤY RẰNG MỖI KHI TÔI BẮT ĐẦU LÀM NHỮNG CUỘC KHẢO CỨU VỀ LOẠI NÀO ĐÓ, THÌ CON MÈO TRƯỚC HẾT LỘ VẺ BĂN KHOĂN RAY RỨT, VÀ TRONG MỘT LÚC CON CHÓ LẠI GẦN ĐỂ TRẤN AN NÓ, NHƯNG KHÔNG BAO LÂU CON CHÓ CŨNG LẠI TỎ VẺ SỢ HÃI MỘT VẬT GÌ ĐANG ĐỘT NHIÊN XUẤT HIỆN TRONG PHÒNG.
DƯỜNG NHƯ CON MÈO CÓ NHỮNG GIÁC QUAN TINH VI BÉN NHẠY HƠN, KHI ĐÓ CẢ HAI CON ĐỀU MUỐN ĐƯỢC TÔI ĐƯA RA KHỎI PHÒNG, VÀ CHÍNH CHÚNG NÓ CŨNG TỰ TÌM CÁCH THOÁT RA BẰNG CÁCH LAO ĐẦU XUYÊN QUA KIẾNG CỬA SỔ. KHI ĐÃ ĐƯỢC THẢ RA NGOÀI, CHÚNG CÒN KÊU VÀ SỦA TRỞ LẠI, DƯỜNG NHƯ MUỐN GỌI TÔI HÃY ĐI RA. CHÚNG VẪN TIẾP TỤC KÊU NHƯ THẾ MỘT HỒI LÂU, VÀ SAU CÙNG TÔI PHẢI BẮT BUỘC ĐI ĐẾN KẾT LUẬN RẰNG CHÚNG ĐÃ CẢM XÚC ĐƯỢC NHŨNG SỰ VẬT HAY ẢNH HƯỞNG VÔ HÌNH NÀO ĐÓ MÀ TÔI KHÔNG NHẬN THẤY.
THOẠT TIÊN, TÔI CHO RẰNG NHỮNG HÌNH THÙ GỚM GHIẾC ĐƯỢC VẼ TRÊN CÁC VÒNG HOÀNG ĐẠO CHỈ LÀ DO “ SỰ TƯỞNG TƯỢNG VÔ LÝ CỦA NHỮNG BỘ ÓC BỆNH HOẠN “, NHƯNG VỀ SAU TÔI MỚI NGHĨ RẰNG ĐÓ LÀ CÁCH TRÌNH BÀY NHỮNG SỰ VẬT TỰ NHIÊN THEO MỘT CÔNG THỨC NHẤT ĐỊNH. SAU KHI ĐÃ THỰC HIỆN MỘT LOẠT NHỮNG CUỘC THÍ NGHIỆM VỀ VẤN ĐỀ NÀY, TÔI MỚI BIẾT CHẮC RẰNG NHỮNG HÌNH VẼ TRÊN CÁC VÒNG HOÀNG ĐẠO VÀ CÁC NGÔI KIẾN TRÚC, DỀN ĐÀI CỔ AI CẬP LÀ SỰ MIÊU TẢ NHỮNG CHỦNG LOẠI SINH VẬT VÔ HÌNH TRONG CƠ SÁNG TẠO, ĐƯỢC TRÌNH BÀY DƯỚI NHỮNG NÉT KHÁ CHÍNH XÁC , VÀ XEN LẪN VỚI HÌNH ẢNH CỦA NHỮNG SỰ VẬT TỰ NHIÊN KHÁC. TÔI PHÁT HIỆN RẰNG NHỮNG SINH VẬT ĐÓ LÀ NHỮNG THỰC THỂ CÓ TRÍ KHÔN, VÀI LOẠI ĐÓ CÓ VẺ HUNG ÁC VÀ GÂY SỢ HÃI CHO NHỮNG THÚ NHÀ, CÒN NHỮNG LOẠI KHÁC, TRÁI LẠI, CÓ VẺ HIỀN LÀNH MÀ NHỮNG THÚ NHÀ RẤT ƯA THÍCH VÀ LẤY LÀM THỎA MÃN KHI CHÚNG XUẤT HIỆN.
TÔI TIN RẰNG CHÚNG GỒM THÀNH PHẦN NHỮNG CHỦNG LOẠI SINH VẬT TRONG MỘT HỆ THỐNG TIẾN HÓA BẮT ĐẦU TỪ NHỮNG HÌNH THỂ VÔ TRI BẤT ĐỘNG TRONG THIÊN NHIÊN, ĐI XUYÊN QUA LOÀI ĐỘNG VẬT RỒI ĐẾN CÁC CẤP ĐẲNG THIÊN THẦN LÀ TRÌNH ĐỘ PHÁT TRIỂN CAO TỘT. VÀI LOẠI KHÔN NGOAN CÓ THỂ ĐƯỢC KIỂM CHẾ KHI CON NGƯỜI LẦN LẦN CÀNG QUEN THUỘC NHIỀU HƠN VỚI CHÚNG, HAY KHI CON NGƯỜI LẦN LẦN CÀNG SINH HOẠT ĐIỀU HÒA HƠN VỚI THIÊN NHIÊN. SỰ TINH KHIẾT CỦA TÂM HỒN VÀ THỂ XÁC LÀ YẾU TỐ RẤT HỮU HIỆU, VÀ TÔI THẤY RẰNG CHÚNG ĐẶC BIỆT GHÊ TỞM SỰ HÚT THUỐC, NHAI THUỐC LÁ VÀ NHỮNG THÓI QUEN BẤT HẢO KHÁC.
TÔI NHẬN THẤY RẰNG KHI NHỮNG TINH LINH NGŨ HÀNH KHÔNG BỊ HOÀN TOÀN CHẾ NGỰ, CHÚNG TRỞ NÊN TINH QUÁI, NGUY HIỂM, VÀ CÓ THỂ GÂY THƯƠNG TỔN, TÁC HẠI CHO LOÀI NGƯỜI….”
G.H.FELT
(LONDON SPIRITUALIST, 19-6-1878)
Tuy bài diễn văn khai trương của tôi được toàn thể cử tọa vỗ tay hoan nghinh, nhưng nó hơi có vẻ dại dột sau mười bảy năm kinh nghiệm phũ phàng. Một phần lớn những kết quả tiên liệu đã được thực hiện, nhưng nhiều sự dự liệu đã biến chất.
Điều mà chúng tôi tin tưởng như cái nền tảng thực nghiệm tốt đẹp cho mọi dự tính về sau, tức là sự chứng minh của ông Felt về sự hiện hữu của các chủng loại TINH LINH NGŨ HÀNH, đã trở nên một sự thất vọng đau đớn hoàn toàn. Với tất cả những gì ông ta đã làm theo chiều hướng đó, ông ta vẫn không chỉ cho chúng tôi thấy được gì cả, chí đến cái chót đuôi của một Tinh Linh nhỏ bé nhất. Y làm cho chúng tôi trở thành cái trò cười của giới Thần Linh Học và các giới Duy Vật hoài nghi. Y là một người có những sở đắc phi thường, và đã thực hiện những khám phá đáng kể. Tôi tin rằng y đã thực hiện những gì y đã tuyên bố, và nếu y chỉ có bền chí theo đuổi đến cùng những gì y đã khởi đầu, thì có lẽ y đã vang dội tên tuổi trong số những người nổi tiếng nhất của thời đại chúng ta.
Vì đã thường thấy bà HPB sử dụng Tinh Linh Ngũ Hành để làm các hiện tượng, Signor B. cũng đã nhiều lần làm như vậy và người khách kỳ lạ làm cho chúng xuất hiện ngay trong phòng của tôi, thì tại sao tôi không tin rằng ông Felt cũng có thể làm giống như thế, nhất là khi bà HPB nói với tôi rằng y có thể ? Bởi vậy, với sự táo bạo của nhà khai sáng và sự nhiệt thành của một người lạc quan lòng đầy hứng khởi, tôi đã để cho óc tưởng tượng của tôi tự do hoạt động, và tiên liệu trong bài Diễn Văn của tôi những kết quả có thể thực hiện nếu ông Felt làm đúng như lời hứa. Vì nhu cầu tài chính, ông Felt đã yêu cầu Thủ Quỹ Newton ứng trước cho y một trăm đô la để đài thọ phí tổn trong các cuộc thí nghiệm, nhưng rốt cuộc vẫn không làm xuất hiện được Tinh Linh Ngũ Hành! Các hội viên lấy làm bất mãn; sau cùng, y ra khỏi Hội; và vì thấy không còn trông cậy được gì nữa ở nơi y, một số hội viên cũng biến mất luôn, chỉ có chúng tôi còn ở lại để nỗ lực làm việc với sức cố gắng tối đa.
Đó quả là một công việc nặng nhọc, như tất cả các hội viên hoạt động hồi thời kỳ đó đều nhớ rõ. Mục tiêu của chúng tôi là học hỏi, bằng cách thực nghiệm, bất cứ những gì có thể học được về những thành phần cấu tạo của con người, và vị trí của y trong thiên nhiên. Nhất là Trí Lực, hoạt động tích cực ở cương vị Ý CHÍ, vẫn là một sự bí hiểm lớn đối với chúng tôi. Nhà thuật sĩ của phương Đông, chí đến nhà truyền nhân điện của phương Tây đều dùng nó. Người khai triển được nó sẽ trở thành một vị anh hùng; người khác làm tê liệt nó, và trở thành một người đồng bóng. Tác dụng vô địch của nó làm cho tất cả mọi sinh vật ở các cõi giới vật chất đều phải chịu khuất phục, và khi có cả óc tưởng tượng cùng hoạt động đi kèm, thì nó SÁNG TẠO,bằng cách phóng ra ngoại giới những hình tư tưởng mới tạo nên.
Như vậy, mặc dầu ông Felt đã bội ước, và chúng tôi không thể trông cậy nơi một cuộc hành trình trên biển lặng song êm, nhưng chúng tôi vẫn còn nhiều lãnh vực cần khảo sát, và chúng tôi cũng đã thăm dò, thám hiểm những lãnh vực đó ít nhiều. Nhũng văn khố cũ cho biết rằng chúng tôi có trắc nghiệm những đồng tử, thử làm những cuộc thí nghiệm về các môn phản xạ, đọc tư tưởng, truyền nhân điện, và trao đổi thư từ với các báo chí. Nhưng chúng tôi đã tiến bước rất chậm, bởi vì mặc dầu tất cả mọi người đều đồng ý là phải giữ vững tinh thần, nhưng trong thâm tâm mỗi người đều chán nản về sự thất bại của ông Felt, và dường như không có triển vọng tìm người thay thế: Nhà phù thủy làm mưa, Signor B., đã bị bà HPB cấm cửa đến nhà sau vụ mưu toan gây sự chia rẽ giữa chúng tôi; người khách kỳ lạ đã kêu gọi âm binh xuất hiện trước mắt tôi không còn trở lại nữa; và bà HPB, mà từ nay tất cả mọi người đều trông đợi sự giúp đỡ, lại từ chối không chịu làm bất cứ một hiện tượng nhỏ nhặt nào nữa trong những buổi họp.
Thế là số hội viên cứ thưa thớt lần lần cho đến khi, độ một năm sau đó, chỉ còn sót lại tình trạng sau đây: cái hình thức của một tổ chức tốt với một chương trình hoạt động phong phú và lành mạnh; một tiếng tăm vang dội lẫy lừng; vài hội viên hững hờ tiêu cực; và một trung tâm sinh khí dồi dào bất tận trong niềm hứng khởi cuồng nhiệt của hai người bạn đồng môn, một nam một nữ. Họ không bao giờ có chút mảy may nghi ngờ, dù chỉ trong một lúc, sự hiện hữu của các đấng Chân Sư, tính cách thiêng liêng cao quý của công việc được giao phó cho họ, hay sự thành công hoàn toàn, và tối hậu của công việc ấy.
Ông Judge là một người bạn trung thành và sẵn sàng trợ giúp, nhưng lại quá non nớt về trình độ tâm linh để có thể được coi như một người thứ ba trên cương vị bình đẳng với chúng tôi. Mỗi buổi tối sau khi chúng tôi đã thiết lập Trụ Sở của Hội và ổn định nơi cư trú, khi các quan khách đã ra về, bà HPB và tôi có thói quen ngồi mạn đàm và hút thuốc nghỉ ngơi trước khi chia tay. Nhiều khi chúng tôi phải bật cười mà nghĩ rằng thật là hiếm có thay những người mà chúng tôi có thể trông cậy để cùng sát cánh hợp tác với chúng tôi qua tất cả những bước thăng trầm, chìm nổi của cuộc đời.
Điều duy nhất mà chúng tôi mỗi lúc càng cảm thấy rõ rệt hơn với thời gian qua, là hai chúng tôi tuyệt đối có thể tùy thuộc lẫn nhau vì lý tưởng phô diễn Đạo Lý, dẫu cho trời long đất lở hay đến ngày Tận Thế. Những kẻ thù nghịch đôi khi đã nói rằng khi chúng tôi từ giã Mỹ Quốc lên đường sang Ấn Độ, thì Hội Thông Thiên Học ở Mỹ cũng không còn. Điều này cũng có một phần đúng, vì do nhiều nguyên nhân, Hội không có làm gì đáng kể trong khoảng thời gian sáu năm sau đó. Cái thành phần nòng cốt, vốn luôn luôn là yếu tố hữu hiệu nhất trong những phong trào tương tự, đã bị phân tán; không ai có thể thiết lập một thành phần cốt cán mới; người ta không thể tạo nên một HPB thứ nhì; và ông Judge, lúc ấy là triển vọng tương lai duy nhất để đóng vai trò lãnh đạo và tổ chức, lại phải lên đường sang các xứ Nam Mỹ vì hoạt động nghề nghiệp.
Tuy nhiên, suốt thời gian những năm ấy, những bức thư của ông Judge gởi cho chúng tôi cho thấy rằng sự nhiệt thành của y đối với Hội Thông Thiên Học và các vấn đề Huyền Môn vẫn không suy giảm. Sự mong ước lớn nhất của y là trong tương lai có ngày y sẽ được tự do để dành hết thời giờ và sức lực vào công việc của Hội Thông Thiên Học. Nhưng, cũng ví như hột giống cây xa trục thảo bị chôn vùi sâu trong lòng đất, bắt đầu nẩy mầm khi những người đào giếng bươi nó lên khỏi mặt đất, thì hột giống mà chúng tôi gieo trong tâm hồn dân chúng Mỹ trong khoảng thời gian giữa những năm 1874 và 1878, cũng đã nẩy mầm khi thời giờ của nó đã điểm; và ông Judge là người có cơ duyên tiền định để gặt hái kết quả. Như vậy, luật Nhân Quả vẫn luôn luôn tác động âm thầm để chỉ định mỗi vai trò khai phá, gieo giống và gặt hái.
Khả năng sinh tồn của Hội Thông Thiên Học được ủy thác cho chúng tôi là những nhà sáng lập trên phương diện hữu hình, nhưng trên khía cạnh vô vi huyền diệu thì sự sống còn của Hội vốn đã định sẵn nơi cái lý tưởng căn bản của nó và nơi các đấng Cao Cả thể hiện cái lý tưởng ấy, các ngài đã giáo hóa chúng tôi và gieo vào tâm trí chúng tôi ánh sáng thiện chí của các ngài. Vì cả hai chúng tôi đã nhận thức rõ điều ấy, và vì chúng tôi được cái ân sủng làm việc cho Hội và hợp tác với các ngài, nên giữa hai chúng tôi có một sợi dây liên lạc chặt chẽ mật thiết hơn với bất cứ mối liên hệ thường tình nào của người thế gian.
Điều ấy làm cho chúng tôi dung hòa với những khuyết điểm của nhau và chịu đựng tất cả những sự va chạm khổ đau đi liền với sự cộng tác giữa hai cá tính hoàn toàn tương phản, trái ngược. Riêng phần tôi, nó làm cho tôi gạt bỏ như những vật vô giá trị tất cả những mối liên hệ trói buộc thường tình cùng những điều mong ước và tham vọng trần gian. Thật vậy, trong thâm tâm tôi cảm thấy rằng thà làm một người lao công giữ cửa, hay chí đến một vai trò ti tiện thấp kém hơn nữa trong công việc phụng sự Thiên Cơ, còn hơn là sống trên nhung lụa giữa chốn xa hoa đài các mà cuộc đời có thể cung hiến cho tôi. Bà HPB cũng chia sẻ những quan niệm của tôi và niềm hăng say phấn khởi vô tận của bà trong công việc Đạo Sự là một tấm gương khích lệ cho bất cứ người nào đến tiếp xúc với bà. Khi đã cảm nghĩ như thế, và có tư thế sẵn sàng làm tất cả mọi sự hy sinh cho lý tưởng như trường hợp của chúng tôi, thì sự phá sản của hội Thông Thiên Học chắc chắn là một điều không thể xảy ra.
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top