CHƯƠNG MƯỜI BA: XUẤT HỒN, XUẤT VÍA
Tất cả những lý thuyết và suy luận về tính chất lưỡng thể của con người, tức là nói rằng y có một Thể Vía ngoài ra cái Thể Xác vật chất hữu hình, đương nhiên làm cho người ta đòi hỏi phải có một bằng chứng trước khi đưa vấn đề đi xa hơn. Đối với những đầu óc duy vật, đó là một vấn đề vượt ngoài sự thường tình và khó tin đến nỗi nó hầu như bị gạt phăng đi như một việc hão huyền, thay vì được tạm chấp nhận như một giả thuyết để còn khảo sát lại.
Thật vậy, đó là thái độ của nhà bác học trung bình, và khi một nhà khảo cứu can đảm hơn người bình thường khẳng định điều đó như sự tin tưởng của y, thì y bị coi như thiếu sự dè dặt, thận trọng của nhà bác học chân chính, chưa kể đến việc y có thể bị làm trò cười như một kẻ chủ trương một lý thuyết bấp bênh, mơ hồ. Tuy nhiên, có nhiều tác phẩm rõ ràng chính xác như của D’Assier và của những tác giả khác đã được công bố vào những thời kỳ khác nhau, và trình bày những sự kiện vững chắc không thể chối cãi, dẫu rằng khó tin đến đâu. Vấn đề này hiện nay đã được chứng minh trên một quy mô rộng lớn bởi sự sưu tập hằng nghìn những hiện tượng đã được quan sát kỹ lưỡng thuộc về loại này; và nay dường như đã đến lúc mà nhà siêu hình học nào không biết đến những sự kiện đó không thể được coi như một bậc Thầy đáng tin cậy của nhân loại.
Tuy vậy, mặc dù bao nhiêu những bằng chứng dồn dập kể trên có thể làm thỏa mãn lý trí, nhưng sự thật về Thể Vía và khả năng tách rời của nó ra khỏi Thể Xác con người chỉ có thể biết được bằng một trong hai cách: hoặc nhìn thấy Thể Vía của một người khác, hoặc tự mình Xuất Vía và ngắm nhìn cái Thể Xác của mình một cách khách quan. Với một trong hai loại kinh nghiệm đó, người ta mới có thể nói rằng mình BIẾT. và khi có đủ hết cả hai, thì sự hiểu biết ấy mới thật là tuyệt đối và không thể lay chuyển. Tôi có đủ cả hai loại kinh nghiệm trên. Tôi có thể làm nhân chứng, và chứng minh sự thật để giúp đỡ cho sự hiểu biết của các bạn đồng môn của tôi.
Tôi chỉ kể sơ qua những trường hợp mà tôi đã nhìn thấy bà HPB trong thể vía trên một đường phố ở New York, trong khi cái xác phàm của bà ở tại Philadelphia. Tôi cũng nhìn thấy một người bạn khác trong trường hợp tương tự (trong Thể Vía ở New York) trong khi y đang hoạt động trong xác phàm nơi một tiểu bang dưới miền Nam, ở cách đó nhiều trăm dặm. Những lần khác, tôi nhìn thấy trong một chuyến xe lửa và trên một chiếc tàu ở Mỹ, một vị Chân Sư mà thật sự lúc ấy ngài đang ở trong xác phàm ở tận bên Châu Á. Có lần ở tại Jummu tôi nhận được một bức điện tín của bà HPB gửi cho tôi từ Madras, và do một vị Chân Sư đích thân cầm đưa cho tôi. Khi đó ngài ngụy trang trong bộ y phục của một thư tín viên sở Bưu Điện tỉnh Kashmir, và một lúc sau đó ngài đột nhiên biến mất dạng dưới ánh trăng rằm khi tôi bước ra cửa để theo dõi động tác của ngài. Một lần nữa, trên cầu Worli ở Bombay tôi được gặp một vị Chân Sư khác vào một buổi chiều nóng bức khi bà HPB, bạn Damodar và tôi đang ngồi trên xe ngựa trên bờ biển để hóng gió mát. Khi đó, tôi thấy ngài từ đằng xa đi về phía chúng tôi, ngài đến gần một bên chiếc xe, đặt bàn tay ngài trên bàn tay bà HPB, rồi quay lưng bước đi và thình lình biến mất khỏi tầm mắt chúng tôi giữa con đường lót đá, chung quanh không hề có một gốc cây, bụi rậm, hay một chướng ngại vật nào có thể làm chỗ ẩn núp hoặc có thể che khuất hình dáng của ngài.
Tôi xin thông qua những sự việc kể trên và những kinh nghiệm khác nữa, để bắt đầu kể một chuyện quan trọng xảy ra, nó đã có những ảnh hưởng quyết định đối với cuộc đời tôi. Chuyện này đã được kể lại ở nơi khác, nhưng nó cần được nhắc lại ở đây, vì nó là một trong những nguyên nhân chính đã làm cho tôi từ bỏ cuộc đời thế gian để tìm thấy quê hương tinh thần của tôi bên xứ Ấn Độ. Bởi đó, nó cũng là một trong những yếu tố chính của việc xây dựng nên Hội Thông Thiên Học Thế Giới.
Tôi không nói rằng nếu không có xảy ra việc này, thì tôi đã không đi sang Ấn Độ, vì trong thâm tâm tôi đã muốn sang đó từ lâu, kể từ khi tôi được biết về ảnh hưởng tinh thần của Ấn Độ đối với thế giới, và triển vọng tâm linh của xứ ấy trong tương lai. Một niềm mong ước cuồng nhiệt không thể dập tắt đã chiếm lấy tôi và thúc đẩy tôi đi đến giải đất lành của các Chân Sư và các vị Phật, tức là nơi Thánh Địa của mọi mối liên hệ nó trói buộc tôi với Mỹ Quốc, và do đó tôi đã có thể đình chỉ mọi kế hoạch cho đến khi có “dịp thuận tiện”, nó thường không bao giờ đến đối với người diên trì do dự và chờ đợi thời cơ.
Tuy nhiên, sự việc nói trên đã giải quyết định mệnh của tôi. Trong khoảnh khắc, mọi sự nghi ngờ đều tiêu tan như mây khói, cái viễn ảnh xuất hiện rõ ràng đã chỉ đường cho tôi, và trước khi trời rựng sáng sau một đêm không ngủ, tôi bắt đầu thảo kế hoạch và thu xếp mọi việc. Việc ấy xảy ra như sau: Công việc soạn bộ “Vén màn isis” đêm hôm ấy đã xong, tôi chúc bà HPB ngủ yên giấc và lui về phòng riêng. Tôi đóng cửa cẩn thận như thường lệ và còn ngồi xem sách đến khuya; quyển sách tôi xem, nếu tôi còn nhớ rõ, là quyển “Du lịch xứ Yucatan” của Stephens. Dầu sao, đó không phải là sách nói về chuyện Liêu Trai, hay loại sách có tác dụng khêu gợi sự tưởng tượng của độc giả cho y nhìn thấy ma quái hiện hình.
Tôi đang chăm chú đọc sách trong bầu không khí im lặng. Không có việc gì xảy ra lúc ban chiều làm cho tôi nghĩ đến việc nhìn thấy một vị Chân Sư trong Thể Vía; tôi không có mong muốn việc ấy, hoặc tưởng tượng đến nó, cũng không hề có ý trông đợi chút nào cho việc ấy xảy ra.
Thình lình, trong khi tôi vẫn đang nhìn vào quyển sách, tôi chợt thoáng thấy một ánh sáng nơi khóe mắt bên mặt của tôi. Tôi day đầu lại và làm rơi quyển sách trong sự ngạc nhiên khi tôi nhìn thấy đứng sừng sững giữa phòng,một người Đông Phương hình dung cao lớn, mình mặc áo rộng trắng, đầu bịt một cái khăn bằng lụa trắng có sọc màu vàng lợt. Một mái tóc dài và đen huyền thòng xuống dưới chiếc khăn chấm đến hai vai, một chòm râu đen chẻ hai ở phía dưới cằm theo kiểu Raijput. Đôi mắt ngài linh động và sáng ngời, cái nhìn của đôi mắt đó vừa hiền lành vừa như soi thấu tâm hồn tôi. Đó vừa là đôi mắt nghiêm nghị của một người dẫn đạo và một vị quan toà nhưng lại thoảng một nét dịu hiền và tình thương của một người cha nhìn đứa con đang cần sự hướng dẫn và khuyên bảo. Ngài có một phong độ hùng tráng oai nghi, toàn thân ngài toát ra một sức sống tâm linh cao cả và một mãnh lực huyền bí phi thường, nó làm cho tôi cảm thấy mất bình tĩnh trước mặt ngài, tôi vừa cúi đầu vừa quỳ xuống đất đảnh lễ một cách tự nhiên như người ta chiêm bái một vị thần thánh hay một đấng Thiêng Liêng cao cả.
Ngài đặt nhẹ một bàn tay trên đầu tôi, một giọng nói vừa êm dịu vừa hùng tráng bảo tôi hãy ngồi dậy, và khi tôi ngẩng mặt nhìn lên, thì ngài đã ngồi an tọa trên một chiếc ghế ở bên kia bàn. Ngài nói rằng ngài đến đây trong khi tôi đang gặp cơn khủng hoảng và cần đến ngài; rằng những việc làm của tôi đã đưa tôi đến điểm đó; rằng tôi có trọn quyền tự do quyết định việc ngài với tôi sẽ thường gặp nhau trong kiếp hiện tại để cùng hợp tác chung vì sự lợi ích cho nhân loại; rằng một công trình lớn lao vĩ đại sẽ phải được thực hiện cho nhân loại, và tôi có quyền tham dự vào công việc đó nếu tôi muốn; rằng một sợi dây nhân duyên huyền bí, mà ngài không thể giải thích cho tôi biết ngay lúc này, đã làm cho bà HPB và tôi gặp gỡ và hợp tác chặt chẽ với nhau trong kiếp này, một sợi dây nhân duyên vô cùng bền chặt không thể nào cắt đứt, dẫu cho một đôi khi nó bị căng thẳng đến mức độ nào.
Ngài nói cho tôi biết nhiều điều về bà HPB mà tôi không tiện nói ra đây, cùng những chuyện có liên hệ đến riêng tôi, nhưng không can dự gì đến người khác. Ngài ngồi đó đã bao lâu, tôi cũng không thể nói được: có thể là nửa giờ hoặc một giờ; nhưng xem dường như chỉ có một phút, trước mặt ngài, tôi đã mất cả ý thức về thời gian.
Sau cùng, ngài đứng dậy; tôi còn đang ngạc nhiên về dáng vóc cao lớn lạ thường và chiêm ngưỡng cái phong độ huy hoàng cao cả của ngài. Thình lình, một tư tưởng thoáng qua trong trí tôi:” Phải chăng đây chỉ là một ảo ảnh, hay một cơn nắng quáng đèn lòa do bà HPB dùng thuật thôi miên để đánh lừa tôi? Tôi ước mong rằng tôi nắm được một vật cụ thể nào đó để chứng tỏ rằng ngài đã thật sự đến đây, một vật mà tôi có thể cầm trên tay làm bằng chứng sau khi ngài đã đi rồi!”
Chân Sư mỉm cười một cách khoan dung, dường như ngài đã đọc được tư tưởng của tôi. Ngài bèn tháo gỡ chiếc khăn bịt trên đầu để lên bàn, chào từ giã tôi một cách dịu dàng khả ái và liền… biến mất!
Chiếc ghế bành của ngài ngồi lúc nãy đã trống trơn, bỏ tôi ngồi lại một mình với những cảm xúc của tôi! Tuy vậy, tôi không phải chỉ có một mình, vì bên cạnh tôi là chiếc khăn lụa mà Chân Sư vừa để lại trên bàn, một bằng chứng cụ thể và chắc nịch rằng tôi không phải đã bị ảo ảnh hay thôi miên, mà tôi đã gặp gỡ tận mặt một trong những bậc Anh Cả của Nhân Loại, một vị Chân Sư cao cả của hàng ngũ nhân loại còn thấp kém và vô minh như chúng ta.
Cái phản ứng tự nhiên trước hết của tôi là chạy qua đập cửa phòng bà HPB và thuật cho bà nghe cái kinh nghiệm huyền diệu của tôi. Bà rất lấy làm vui mừng mà nghe câu chuyện cũng như tôi đã rất sung sướng mà thuật lại.
Tôi trở về phòng ngồi suy nghĩ triền miên và thức luôn tới sáng. Đêm đó tôi đã suy nghĩ rất nhiều và có những quyết định quan trọng. Những tư tưởng và quyết định của tôi trong đêm đó đã đưa tôi đến những hoạt động Thông Thiên Học suốt đời tôi về sau này, với một lòng chân thành với các đấng Chân Sư đã nâng đỡ phong trào Thông Thiên Học với những bàn tay vô hình, một lòng trung kiên như sắt đá mà những sự va chạm phũ phàng và thất vọng đắng cay, đau khổ nhất cũng không bao giờ làm lung lạc được.
Từ khi đó về sau, tôi đã có diễm phúc được hội ngộ nhiều lần với đấng Chân sư trên và những vị Chân Sư khác nữa. Nhưng thật không ích gì mà lập lại những kinh nghiệm khác về loại này, tôi chỉ nêu câu chuyện trên đây như một thí dụ điển hình thôi cũng đủ. Những người khác kém may mắn hơn tôi có thể nghi ngờ chuyện này ra sao cũng được, nhưng thật sự là tôi đã …BIẾT.
Với lý tưởng thành thật trong mọi chuyện, tôi phải kể lại một sự nghi ngờ về lời khai của tôi như một nhân chứng của hiện tượng kể trên. Hồi năm 1884, tôi được mời làm nhân chứng trước một phiên họp Ủy Ban Đặc Biệt của hội Khảo Cứu Tâm Linh (Society for Psychical Research) tại Luân Đôn, và đã thuật lại câu chuyện trên trong số những sự việc khác. Một nhân viên của Ủy Ban, trong cuộc thẩm vấn, đã đưa ra câu hỏi: làm sao tôi có thể chắc rằng bà HPB đã không sử dụng một người Ấn Độ cao lớn nào đó để chơi cái trò đùa đó đối với tôi, còn những chi tiết có vẻ huyền bí khác thì biết đâu óc tưởng tượng mộng mơ của tôi đã chẳng làm cho tôi tưởng rằng sự thật! Khi đó tôi có cảm giác chán ngấy về sự nghi ngờ độc ác của họ đối với bà HPB, và sự tránh né có vẻ hèn nhát, thiếu tinh thần danh dự của họ đối với những sự kiện tâm linh hiển nhiên không thể chối cãi, khi họ núp dưới bức màn che dấu của một thái độ khôn ngoan sắc sảo giả tạo. Tôi bèn trả lời mau chóng, giữa những lý luận khác, rằng cho đến khi đó tôi chưa hề thấy một người Ấn Độ bao giờ trong đời tôi!
II
Bây giờ, tôi xin nói về những kinh nghiệm bản thân của tôi trong vấn đề Xuất Vía. Trước hết, tôi có lời cảnh giác các bạn sơ cơ trên đường Đạo: khả năng Xuất Vía ra ngoài Thể Xác không nhất thiết phải là cái bằng chứng của sự phát triển tâm linh. Phần đông, những kẻ mới chập chững bước vào đường Đạo có lẽ đã nghĩ trái lại, nhưng họ đã lầm. Một bằng chứng đầu tiên và đầy đủ là sự Xuất Vía rất thường xảy ra với những người nam và nữ không hề có thời giờ để khảo cứu về khoa Huyền Môn, không có tu luyện theo pháp môn Yoga nào, cũng không hề thử tập phép Xuất Vía và thường sợ hãi hay xấu hổ và bất bình khi bị cho là tập luyện phép ấy. Họ cũng không có chút gì trội hơn những người thường về sự tịnh khiết trong tư tưởng và trong đời sống hằng ngày, về lý tưởng tâm linh, hay về những khả năng tinh thần, mà thường là trái ngược hẳn lại.
Một mặt khác, những sử liệu của khoa Hắc Thuật (Bàn Môn Tả Đạo) có dẫy đầy những trường hợp Xuất Vía hữu hình hay vô hình bởi những kẻ sa đọa, tội lỗi dùng phép thuật ấy để hãm hại người khác; những trường hợp Phân Thân, ám ảnh những nạn nhân thù địch, biến hình thành chó sói, và những ma thuật tà đạo khác.
Ngoài ra, còn có đến hằng nghìn trường hợp Xuất Vía bởi những người thuộc đủ mọi thành phần và đủ mọi hạng, thường là những loại người bất hảo, nếu không là sa đọa, đã được Hội Khảo Cứu Tâm Linh (S.P.R.) xem xét kỹ lưỡng và ghi nhận vào hồ sơ tài liệu của họ, và hằng nghìn những trường hợp khác nữa chưa được ghi vào sổ. Tất cả những sự việc kể trên kết hợp lại đã chứng minh cho lời cảnh giác của tôi rằng khả năng Xuất Vía của một người, dù hữu thức hay vô thức, không phải là một bằng chứng chỉ rằng người ấy tốt lành hơn, khôn ngoan hơn, tiến bộ tâm linh hơn, hay có đủ tư cách làm một bậc Đạo Sư hơn mọi người thường. Nó chỉ là một dấu hiệu chỉ rằng đương sự hoặc do bẩm sinh hoặc do công phu cố gắng, đã làm tách rời Thể Vía ra khỏi cái vỏ xác thịt của nó, và như vậy, đã làm cho nó xuất ra và trở về dễ dàng, khi mà Thể Xác của y không gây chướng ngại, trong giấc ngủ tự nhiên hay trong giấc ngủ thôi miên. Về vấn đề này, độc giả sẽ nhớ lại bức họa phóng ảnh trên tấm vải lụa “satin” mô tả những trạng thái tâm linh qua Thể Vía của Stainston Moses, mà bà HPB đã thực hiện trước đây.
Vì lý do nào đó, tôi không hề có thì giờ tu luyện theo pháp môn Yoga từ khi tôi bắt đầu hoạt động thực tế trong phong trào Thông Thiên Học. Dường như không bao giờ tôi nghĩ đến việc mình có thể sở đắc phép thuật thần thông hay không, tôi không hề mong ước làm một vị đạo sư, cũng không màng đến việc tôi có thể đạt tới sự Giải Thoát hay không trong kiếp này. Đối với tôi, phụng sự nhân loại là pháp môn cao quý nhất, và nếu tôi có thể làm một ít việc nhỏ nhoi khiêm tốn nào để truyền bá Đạo Lý và làm giảm thiểu sự vô minh, thì đó cũng là một phần thưởng hậu hĩ của tôi. Trong những thuở ban đầu của Hội Thông Thiên Học, không bao giờ thoáng qua trong đầu óc tôi cài ý nghĩ rằng tôi có thể luyện mình để trở thành một nhà linh thị hay một người có phép thuật thần thông, một đạo gia hay một nhà huyền học. Tôi vẫn tiếp tục làm việc theo sự chỉ thị của Chân Sư, ngài dạy tôi rằng con đường tốt nhất để tìm các ngài là xuyên qua Hội Thông Thiên Học. Đó có lẽ là một môi trường hoạt đông khiêm tốn, nhưng thích hợp với khả năng hữu hạn của tôi, một việc làm đầy hứng thú và đồng thời cũng rất hữu ích.
Bởi vậy, khi tôi kể những chuyện Xuất Vía của tôi, đừng ai nghĩ rằng tôi có ý phô trương sự phát triển tâm linh giả tưởng của mình, hay tự hào về sự khôn ngoan của mình như một nhà thông linh lỗi lạc. Sự thật là, theo tôi nghĩ, tôi được trợ giúp cho có cái khả năng đó, cùng với nhiều kinh nghiệm huyền linh khác, để làm cái nền tảng huấn luyện cần thiết cho một người được giao phó cái công tác đặc biệt như của tôi.
Dưới đây là một trường hợp:
Một đêm nọ, sau khi bà HPB và tôi đã viết xong một Chương của bộ sách “Vén màn Isis”, và khi chia tay để lui về phòng riêng nghỉ ngơi, chúng tôi xếp chồng giấy bản thảo lên một cái khay gỗ, trang đầu ở trên hết và trang cuối ở dưới đáy. Sau khi đã ai về phòng nấy, chúng tôi mỗi người đều khóa cửa buồng riêng của mình trước khi đi ngủ để đề phòng kẻ trộm. Trong khi thay đồ để mặc quần áo ngủ, tôi mới nghĩ rằng nếu tôi thêm ba chữ nữa vào câu cuối cùng của đoạn chót, thì ý nghĩa của đoạn văn ấy sẽ được tăng thêm cường độ và trở nên súc tích hơn.
Sợ rằng nếu để đến sáng ngày mai tôi có thể quên đi việc ấy, tôi mới có ý nghĩ bông đùa là tôi hãy thử Xuất Vía đi xuống phòng ăn ở tầng dưới và viết thêm ba chữ nữa bằng cái Thể Vía của tôi. Tôi chưa từng di chuyển bằng Thể Vía một cách ý thức như vậy bao giờ, nhưng tôi biết phương pháp thực hiện điều đó, tức là tập trung ý muốn Xuất Vía một cách mãnh liệt trong trí trước khi ngủ, và tôi bèn làm như vậy. Tôi không biết gì nữa cho đến sáng hôm sau, khi đã thay y phục và ăn điểm tâm xong, tôi mới ngừng trước cửa phòng bà HPB ở tầng dưới để chào hỏi bà một câu trước khi ra đi đến văn phòng Luật của tôi. Bà nói:
“Ơ kìa! Ông hãy nói cho tôi biết ông đã làm gì ở đây đêm qua sau khi ông đã đi ngủ?.
Tôi đáp:
“Làm gì à? Bà muốn nói chi?
Bà nói tiếp:
“Tôi đang nằm trên giường còn chưa ngủ, thì bỗng nhiên tôi nhìn thấy Thể Vía của ông Đại Tá vọt ra xuyên qua vách tường! Coi ông có vẻ buồn ngủ và đờ đẫn nữa đấy! Tôi có hỏi chuyện ông, nhưng ông không trả lời. Kế đó ông bước qua buồng viết, tôi nghe tiếng động của ông lục lạo trong đống giấy tờ, rồi thế là hết. Ông làm gì vậy?”
Khi đó, tôi mới cho bà biết sự thí nghiệm của tôi. Chúng tôi bèn đi qua buồng bên kia, lật chồng giấy bản thảo xem lại, thì thấy nơi trang cuối cùng, ở câu chót của đoạn kết luận, có hai trong số ba chữ định thêm vào được viết bằng tuồng chữ của tôi, và chữ thứ ba chỉ mới bắt đầu nhưng viết chưa hết: khả năng tập trung tư tưởng dường như đã kiệt quệ, và chữ ấy chỉ viết được có nửa phần đầu, còn nửa phần sau chỉ là một vết nguệch ngoạc! Tôi đã sử dụng cây bút chì như thế nào, tôi có cầm nó trên tay không, và làm sao tôi viết được mà không cầm lấy cây viết, tôi cũng không thể nói được. Có lẽ chỉ một lần đó tôi đã phóng bút với sự trợ giúp của một trong những tinh linh có hảo ý của bà HPB, bằng cách sử dụng những nguyên tử chì trong ruột những cây bút chì để trên bàn cùng với xấp giấy bản thảo. Dù sao, đó cũng là một kinh nghiệm hữu ích cho tôi.
Độc giả hãy ghi nhận sự kiện này là sự phóng bút bằng phương pháp huyền linh của tôi bị gián đoạn ở một điểm mà, do sự thiếu kinh nghiệm, tôi đã để cho ý chí của tôi lo ra và tách rời ra khỏi cái việc đang làm. Tập trung ý chí cho vững chắc không thể lay chuyển là điều cần thiết để thành công trong những hiện tượng thuộc loại này, cũng như trong mọi việc khác trên bình diện trí năng thông thường.
Trong một bài tường thuật nhan đề “Hiện tượng phóng ảnh” của tôi đăng trên tạp chí “Theosophist tháng 7 năm 1888, tôi có giải thích mối tương quan ảnh hưởng giữa sự tập trung ý chí đã được huấn luyện thành thục, và tính chất lâu bền của những tác phẩm phóng bút, phóng ảnh, cùng những tác phẩm tương tự khác do việc sử dụng lý thú và gợi ý về vấn đề Xuất Vía và phóng bút mà ông Wilkie Collins đã diễn tả trong quyển “Hai Định Mệnh”. Đó là một quyển sách đáng đọc bởi mọi sinh viên Huyền Môn cũng như cuốn Zanoni, Một Chuyện Lạ Lùng, hay Chủng Tộc Tương Lai.
Tuy nhiên, dù có đọc sách và học hỏi kinh nghiệm của người khác nhiều đến bao nhiêu về các vấn đề này cũng không thể so sánh với một kinh nghiệm bản thân dù nhỏ bé như chuyện của tôi đã kể trên, bởi vì nó làm cho người ta nhận thức được sự thật của định luật Tư Tưởng sáng tạo Hình Thể, định luật này vẫn tác động luôn luôn trong Vũ Trụ Càn Khôn. Kinh Upanishad của Ấn Độ có đoạn viết: “Phạm Thiên (Brahma) muốn: Ta hãy sinh sôi nảy nở, Ta hãy biến thành thiên hình vạn trạng. Ta hãy tăng trưởng…Rối ngài đắm chìm trong cơn suy tư trầm lặng…Sau khi ngài đã suy tư, ngài bèn phóng xuất ra muôn nghìn sắc tướng, muôn loài vạn vật trên thế gian. Sau khi đã phóng xuất ra mọi hình thể sắc tướng, ngài bèn thể nhập vào mỗi hình sắc, mỗi sinh vật…”
Đoạn kinh ấy có ý nghĩa rất sâu xa đối với tôi. Ý nghĩa của nó còn vô cùng sâu hơn thật hơn, gợi ý hơn đối với người nào đã có tự mình suy tư, rồi sáng tạo nên một hình thể, hơn là đối với những người chỉ có đọc chữ trên những trang sách, mà không cảm nhận được sự thật vang dội từ chỗ thầm kín sâu thẳm bên trong tâm hồn.
III
Tôi còn nhớ một trường hợp Xuất Vía khác của tôi, nó giải thích một định luật gọi là”Luật Phản Dội”.Độc giả có thể tìm thấy rất nhiều tài liệu dồi dào phong phú về vấn đề này trong các sách vở nói về khoa Phù Thủy và Phương Thuật. Danh từ “Phản Dội” (Repercussion) ở đây có nghĩa là tác động phản dội lại trên thể xác của những cú đấm, vết đâm chém hay những vết thương khác gây ra trên Thể Vía trong khi nó được phóng xuất ra ngoài và di chuyển như là một thực thể cá biệt. Còn danh từ Phân Thân có nghĩa là sự xuất hiện của một người ở hai chỗ cùng một lúc; ở một chỗ là cái Thể Xác, còn Thể Vía đồng thời xuất hiện ở một nơi khác.
Trong quyển “Humanité posthume”, ông D’Assier có đề cập đến cả hai vấn đề này. Nói về việc gây thương tích cho các nạn nhân do các nhà phù thủy xuất vía để tác hại cho họ, tác giả viết:
“Bà phù thủy xuất vía đi vào nhà của một người mà bà có việc muốn trả thù, và khuấy phá y bằng đủ mọi cách. Nếu người này cương quyết tự vệ, và nếu y có sẵn một thứ khí giới nào đó, y có thể chém vài nhát vào cái bóng ma. Khi bà phù thủy tái hồi nhập xác và trở lại trạng thái bình thường, bà ta sẽ thấy xuất hiện trên Thể Xác mình những vết thương mà bà đã nhận được trong cơn xung đột bằng Thể Vía với người kia”.
Những văn khố lưu trữ của Sở Tư Pháp Anh có ghi nhận trường hợp mụ phù thủy Jane Brooks xuất vía đến khuấy phá một đứa trẻ tên Richard Jones một cách rất độc ác. Trong một dịp nọ, đứa trẻ la lên rằng bóng vía của mụ Jane đang có mặt trong nhà, và đưa ngón tay lên như chỉ vào cái bóng ấy. Lúc ấy một nhân chứng có mặt, tên Gilson, bèn phóng tới chỗ ấy và cầm dao chém đùa vào khoảng không tuy rằng y không nhìn thấy gì, mà cái bóng ma ấy chỉ có đứa trẻ nhìn thấy. Ngay lập tức, Gilson cùng với người cha đứa trẻ và một người cảnh binh đi đến nhà mụ Jane, và thấy mụ ấy đang ngồi trên ghế, một bàn tay nâng đỡ lấy cái bàn tay kia. Trước sự thẩm vấn, mụ ấy nói không có gì xảy ra, nhưng khi người ta kéo tay y ra, thì thấy cái bàn tay kia có dính đầy máu, và bị một vết chém y như đứa trẻ đã nhìn thấy lưỡi dao của Gilson chém vào bàn tay của cái bóng ma.
Rất nhiều trường hợp tương tự đã được ghi nhận, tất cả đều chứng tỏ rằng một vết thương gây trên Thể Vía đã phóng xuất ra ngoài, sẽ phản dội lại trên cái Thể Xác ở ngay chỗ bị thương. Dưới đây là kinh nghiệm cá nhân của tôi.
Trong phòng làm việc của chúng tôi tại “Lạt Ma Viện”, bên cạnh lò sưởi, có treo trên tường một cái đồng hồ lớn mà tôi có thói quen lên giây mỗi đêm trước khi đi ngủ. Một buổi sáng nọ, sau khi rửa mặt, tôi nhìn vào tấm kiếng thì thấy mắt bên phải bầm đen và tím lại, dường như tôi vừa bị một cú đấm vào mắt. Tôi không biết lý do tại sao, và càng ngạc nhiên hơn khi thấy rằng chỗ bị thương lại không đau nhức chi cả. Tôi cố nhớ lại xem việc gì đã xảy ra để tìm nguyên nhân của sự việc ấy, nhưng vẫn vô hiệu. Trong buồng ngủ của tôi, không có cột đứng, góc cạnh tường, hay chướng ngại vật nào có thể làm cho tôi va đầu vào để nhận lấy vết thương, nếu giả thiết rằng tôi đã đi trong giấc ngủ, nhưng thật ra tôi lại không có cái chứng tật đó. Lại nữa, một sự va chạm khá mạnh để làm cho mắt tôi bầm đen như vậy, đương nhiên là phải làm cho tôi thức giấc ngay tức khắc trong lúc đó, nhưng trái lại, như thường lệ tôi đã ngủ thẳng giấc suốt đêm cho tới sáng.
Thế là tôi vẫn tiếp tục hoang mang, cho đến lúc tôi ngồi lại bàn ăn điểm tâm cùng với bà HPB và một bà bạn của bà đã đến chơi từ hôm qua và ngủ lại trên giường bà HPB đêm ấy. Bà bạn này đã đem lại cái đáp số cho điều bí hiểm kia. Bà ấy nói, khi bà nhìn thấy con mắt bầm tím của tôi:
“À, ông Đại Tá, chắc ông đã đụng nhằm vật gì đêm qua khi ông xuống đây để lên giây cái đồng hồ!”
Tôi đáp:
“Lên giây đồng hồ? Bà muốn nói gì vậy? Phải chăng bà đã khóa cửa phòng cẩn thận khi tôi đi lên buồng của tôi?”
Bà ấy nói:
“Phải, chính tôi đã đích thân khóa cửa; nhưng làm sao ông có thể xuống đây? Tuy vậy, bà HPB và tôi đều nhìn thấy ông đi xuyên qua vách tường và cửa buồng chúng tôi qua phòng bên kia, và nghe tiếng động của ông lên giây đồng hồ. Tôi gọi ông, nhưng ông không trả lời, và tôi không thấy gì nữa”.
Khi ấy tôi mới nghĩ rằng nếu tôi đã đi vào phòng viết bằng Thể Vía và lên giây đồng hồ, thì có hai việc tất nhiên phải xảy ra:
a) Cái đồng hồ đã được lên giây đêm qua và không chết;
b) Từ cửa phòng đến chỗ lò sưởi bên cạnh đồng hồ, chắc phải có một chướng ngại vật nào đó đã chạm vào mắt tôi.
Chúng tôi xem xét qua một lượt và nhận thấy rằng:
1) Cái đồng hồ vẫn còn chạy, dường như nó đã được lên giây vào đúng giờ như mọi khi.
2) Gần cánh cửa phòng có một kệ sách nhỏ đóng vào tường, một góc kệ nhô ra ngoài, chiều cao vừa tầm con mắt tôi để cho tôi có thể đụng vào nếu tôi sơ ý.
Kế đó, tôi mới nhớ mang máng rằng tôi đã đi từ phía bên kia phòng đến gần cánh cửa, với bàn tay mặt đưa thẳng ra trước dường như để dò đường trong đêm tối, thình lình tôi đụng đầu vào một vật gì làm cho tôi “tá hỏa tam tinh”, “nhìn thấy ba mươi sáu ngôi sao sáng” như người ta thường nói, rồi kế đó thì…tôi không còn nhớ gì nữa cho đến sáng.
Đó là một điều rất lạ lùng; vì một cái chạm mạnh trên đầu đáng lẽ phải làm cho một người thức giấc trong trường hợp bình thường, nhưng khi nó chạm vào Thể Vía đã xuất ra, thì do hiện tượng Phản Dội, nó để lại dấu vết rõ ràng trên Thể Xác mà không làm cho tôi thức giấc. Trường hợp này còn có những khía cạnh lý thú khác nữa. Nó chỉ rằng, với những điều kiện thuận lợi để cho Thể Vía rút lui ra khỏi Thể Xác một cách nhẹ nhàng êm thấm, thì sự Xuất Vía có thể xảy ra dưới sự thúc đẩy của một ý định cố hữu, chẳng hạn như một thói quen làm một việc gì mỗi ngày vào một giờ nhất định. Còn nếu gặp những điều kiện không thuận lợi cho sự Xuất Vía, mà bị đặt dưới một loạt những điều kiện khác hẳn, thì đương sự sẽ trở nên một người “thụy du”, y sẽ đứng dậy trong giấc ngủ, rồi đi làm những việc gì còn lởn vởn trong trí y lúc đó, và trở về giường ngủ say mê li bì mà không nhớ rõ việc gì đã xảy ra.
Một trong những kinh nghiệm lý thú nhất của tôi, là gặp những người chưa hề quen biết bao giờ ở nhiều nơi khác nhau trên thế giới, họ quả quyết rằng đã nhìn thấy tôi ở những nơi công cộng, rằng tôi đã đến viếng họ bằng Thể Vía, đôi khi đã nói chuyện với họ về những vấn đề Huyền Môn, hoặc đã chữa họ khỏi bịnh, thậm chí cũng có khi cùng đi với họ lên cõi Trung Giới để viếng các đấng Chân Sư; nhưng tôi không nhớ được gì cả về những sự việc này. Tuy nhiên, nếu suy nghĩ kỹ, thì điều ấy cũng không lạ gì, xét vì một người mà trọn cuộc đời, và mỗi tư tưởng, nguyện vọng, ước mơ khi thức tỉnh trong đời sống hằng ngày đều có liên quan mật thiết đến một phong trào tâm linh vĩ đại như của chúng tôi, người ấy không có ước muốn nào khác hơn là sự thành công của nó, không có tham vọng nào khác hơn là thúc đẩy nó tiến tới mục đích tối hậu đã vạch sẵn, một người như thế đương nhiên là phải chuyển di đời sống nội tâm hữu thức của mình sang qua cõi vô thức tiềm ẩn trong giấc ngủ, và tiêu diêu phưởng phất theo những luồng sóng điện của chất Tinh Quang để quy tựu với những linh hồn cùng đồng thanh khí, theo luật đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu.
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top