CHƯƠNG BA: THỬ THÁCH

Với  ý  định  tường  thuật  theo  thứ  tự  thời  gian  những  sự  việc  hồi  thuở  ban  đầu  Hội  Thông  Thiên  Học  gồm  cả  những  ngày  liên  hệ  ban  sơ  giữa  bà  HPB  với  tôi,  tôi  thấy  cần  nói  qua  vài  hiện  tượng  phóng  bút  của  bà,  mà  tôi  có  ghi  chép  trong  quyển “Người  Về  Từ  Cõi  Âm”.

          Như  đã  nói  trước  đây,  những  hiện  tượng  của  bà  HPB  dường  như  do  tác  động  của  một  vong  linh  mệnh  danh  John  King,  vốn  là  linh  hồn  đã  thoát  xác  của  một  tay  hải  tặc  lừng  danh  khi  xưa  tên  Henry  de  Morgan,  đã  từng  được  Anh  Hoàng  Charles  II  tấn  phong  Hiệp  Sĩ,  nhưng  thật  sự  chỉ  là  một  cái  tên  giả  để  tạm  gọi  những  âm  binh  hay  tinh  linh  dưới  quyền  sai  khiến  của  bà  HPB.

          Trong  một  buổi  họp  nơi  bà  trú  ngụ  tại  một  khách  sạn  ở  Philadelphia  vào  buổi  tối,  ngày  6  tháng  1  năm  1875,  nhân  dịp  J. K.  đang làm  các  hiện  tượng  lạ,  tôi  nói:

         “Nếu  quả  thật  anh  là  một  vong  linh  tốt  lành  như  anh  tự  nhận,  anh  hãy  thi  thố  một  vài  quyền  năng  của  anh  cho  tôi  xem.  Chẳng  hạn,  anh  hãy  làm  ra  một  bổn  sao  của  một  bức  thơ  mà  tôi  đang  cất  trong  “ bóp “  và  đựng  trong  túi  áo  của  tôi.”

           Không  ai  để  ý  gì  đến  lời  yêu  cầu  của  tôi  chiều  hôm  ấy,  nhưng  qua  đến  tối  hôm  thứ  ba,  sau  đêm  hôm  đó  hai  ngày,  trong  khi  bà  HPB  và  tôi  đang  ngồi  ở  cạnh  bàn  làm  việc,  những  tiếng  gõ  nhịp  rất  lớn  vang  lên.  Theo  tiếng  nhịp,  tôi  liền  viết  ra  những  nguyên  âm  chữ  cái  và  đọc:

         “Ông  vui  lòng  đưa  cho  tôi  cuốn  tự  điển  xuống  dưới  gầm  bàn.”

           Trên  bàn  lúc  ấy  có  quyển  tự  điển  Nga- Anh  của  bà  HPB,  tôi  bèn  cầm  lấy  và  ĐƯA  XUỐNG  gầm  bàn  theo  lời  yêu  cầu.  (Tôi  chỉ  đưa,  chứ  không  phải  BỎ  RƠI  xuống  đất,  dường  như  đưa  cho  một  người  khuất  mặt  nào  đó  ở  dưới  gầm  bàn  cầm  lấy  quyển  tự  điển  dầy  cộm). Kế  đó,  những  tiếng  nhịp  gõ  yêu  cầu  tôi  đưa  xuống  một  lọ  keo  ( hồ ) để  dán,  và  một  con  dao  nhỏ  chuốt  viết  chì.  Những  vật  liệu  này  cũng  được  đưa  xuống  gầm  bàn,  và  sau  một  cơn  im  lặng  kéo  dài  độ  một  lúc,  tiếng  nhịp  gõ  báo  hiệu  “Đã  xong!”. Chúng  tôi  thâu  hồi  cuốn  tự  điển,  con  dao  và  lọ  keo,  và  nhận  thấy  trên  một  trang  giấy  rời  trong  quyển  tự  điển,  là  một  phó  bổn  phóng  bút  của  bức  thơ  nói  trên.  Bà  HPB  giải  thích  tác  dụng  của  con  dao  như  sau:

           “Một  phần  rất  nhỏ  chất  kim  khí  của  lưỡi  dao  được  giải  thể  thành  chất  hơi  và  dùng  để  phóng  ra  những  hàng  chữ  màu  đen.  Keo  hồ  cũng  được  chuyển  thành  trạng  thái  chất  hơi,  và  có  tác  dụng  hàn  gắn  các  nguyên  tử  chất  kim  khí  trong  cuộc  thí  nghiệm.”

         Cái  “bóp  phơi” đựng  bức  thơ  vẫn  ở  trong  túi  áo  của  tôi  từ  khi  tôi  đến  thành  phố  này  cho  đến  cái  đêm  làm  cuộc  biểu  diễn.  Độ  nửa  giờ  trước  đó,  tôi  đã  đặt  nó  lên  cái  kệ  phía  trên  lò  sưởi,  ở  ngay  trước  tầm  mắt  của  tôi mỗi  khi  tôi  ngẩng  mặt  nhìn  lên  từ  quyển  sách  tôi  đang  đọc.  Bà  HPB  vẫn  ngồi  gần  bên  tôi  ở  cạnh  bàn  và  đang  chăm  chú  viết,  ngoài  ra  chúng  tôi  không  có  một  người  nào  trong  gian  phòng.  Khi  tôi  so  sánh  bức  thơ  và  phó  bổn,  bằng  cách  kê  cả  hai  tờ  giấy  lên  nhau,  thì  tuy  rằng  hai  bức  đều  giống  nhau,  nhưng  không  phải  rập  theo  nhau  từng  chi  tiết,  điều  này  lại  càng  làm  cho  hiện  tượng  phóng  bút  thêm  phần  thú  vị.

                                                             II

           Trong  thời  gian  ở  Philadelphia,  bà  rất  bận  rộn  công  việc  viết  bài  vở  cho  các  báo  chí,  trước  hết  nói  về  Thần  Linh  Học,  và  sau  đó,  về  khoa  Huyền  Môn  của  Đông  Phương.  Việc  phát  hành  quyển  sách  của  tôi  cũng  đã  đưa  đến  những  kết  quả  quan  trọng,  là  gây  nên  những  cuộc  bình  luận  kéo  dài  trong  báo  giới  Anh-Mỹ,  trong  đó  bà  HPB  và  tôi  đều  có  đóng  góp  bài  vở  và  thiết  lập  những  mối  tình  thân  hữu  thêm  bền  chặt  với  nhiều  bạn  Đạo:  trong  sự  giao  dịch  bằng  thơ  từ,  chúng  tôi  đã  giải  bày  với  họ  toàn  bộ  các  vấn  đề  Huyền  Học  Đông  Phương  và  Tây  Phương.

            Không  bao  lâu,  chúng  tôi  đã  nhận  được  rất  nhiều  thơ  tín  từ  khắp  nơi  trên  thế  giới,  trong  số  đó  có  những  người  tìm  hiểu  nhờ  giải  đáp  thắc  mắc ; cũng  có  những  kẻ  đối  nghịch  gởi  thơ  chống  bang,  đả  kích ; và  những  cảm  tình  viên  gửi  lời  khen  tặng  và  khích  lệ.  Ông  Alexandre Aksakof,  trong  Hội  đồng  Tư  Vấn  của  Nga  Hoàng  và  là  một  nhà  Thần  Linh  Học  rất  hăng  say,  đã  yêu  cầu  bà  HPB  dịch  quyển  sách  của  tôi  ra  tiếng  Nga,  và  chịu  đài  thọ  mọi  phí  tổn  ấn  loát  và  phát  hành.  Bà  nhận  lời  và  sau  đó  ít  lâu,  đã  xuất  hiện  tại  St. Petersburg  một  cuốn  văn  thư  khen  tặng  với  lời  lẽ  rất  khả  ái  của  giáo  sư  N.A. Wagner,  một  chuyên  gia  Khoa  Học  thượng  thặng  của  trường  Đại  Học  Hoàng  Gia,  trong  đó  ông  tuyên  bố  rằng  trong  công  việc  điều  tra  sưu  tầm  của  tôi  về  các  hiện  tượng  Thần  Linh,  tôi  đã  thực  hiện “ĐÚNG  THEO  NHỮNG  ĐIỀU  KIỆN  CẦN  THIẾT  CỦA  MỘT  CUỘC  KHẢO  SÁT  KHOA  HỌC  NGHIÊM  CHỈNH  VÀ  THẬN  TRỌNG”. Đó  là  một  chứng  thư  mà  đương  nhiên  tôi  cảm  thấy  rất  lấy  làm  hãnh  diện.  Các  nhà  bác  học  William  Crookes,  Alfred  Wallace  của  Anh,  và  Camille  Flammarion  của  Pháp,  cũng  đã  bày  tỏ  những  cảm  tình  ưu  ái  rất  nồng  hậu  và  thân  hữu.

          Vài  tháng  sau  đó, ông  C. C.Massey, một  người  Anh  từ  Luân  Đôn  sang  Mỹ  để  kiểm  chứng, bằng  cách  đích  thân  quan  sát  tại  chỗ, những lời  tường  thuật  của  tôi  về  các  hiện  tượng  hồn  ma  hiện  hình  ở  nông  trại  Eddy. Chúng  tôi  vẫn  thường  xuyên  tiếp  xúc  với  nhau, và  đã  thông  cảm  nhau  đến  mức  nảy  sinh  một  tình  thân  hữu  đậm  đà giữa  chúng tôi, một  tình  bạn  thâm  giao  vẫn  kéo  dài  cho  đến  ngày  nay.

          Ngoài  ra, tôi  cũng  có  giao  dịch  bằng  thơ  từ  và  kết  thân  với  một  người bạn  khác, là  ông  Stainton Moses, Tiến  Sĩ  Văn  Khoa  tốt  nghiệp  Đại  Học  Oxford, làm  giáo  sư  Văn  Chương  và  Anh  Ngữ  tại  trường  đại  học  Luân  Đôn. Tôi  có  gửi  cho  y  một  quyển  sách của  tôi  và  chúng  tôi  đã  trao  đổi  thơ  từ qua  lại  hầu  như  hàng  tuần  trong  nhiều  năm  liên  tiếp. Bức  thư  đầu  tiên  của  y  thảo  luận  về  những  điều  kiện  và  kết  quả  của  những hiện  tượng đồng  tử trong  những  buổi  họp  đàn. Y lưu ý tôi  đến  sự  kiện  này  là:

            “Sự  có  mặt  của  vài  hạng  người  trong  những  buổi  họp  đàn  gây  chướng  ngại  trầm  trọng  và  có  khi  làm  tê  liệt  các  hiện  tượng.  Nguyên  nhân  không  phải  lỗi  tại  họ  hay  là  do  một  thái  độ  tinh  thần  gì  đó ( chẳng  hạn  như  thiếu  đức  tin,.v..v…), mà  là  do  bầu  không  khí  chung  quanh  họ  gây  nên.  Người  đồng  tử  càng  nhạy  cảm  bao  nhiêu, thì  điều  đó càng  rỏ  rệt  bấy  nhiêu.”

           Ông Stainton Moses  viết  tiếp :

           “ Sự  có  mặt  của  nhiều  người  bạn  tôi  làm  cho  mọi  hiện  tượng  của  tôi  đều  ngưng  trệ,  điều  đó  làm  tôi  rất  bực  mình  mà  tôi  không  làm  sao  sửa  đổi  được.”

           Bàn  về  hiện  tượng  giải  thể ( biến  mất  xác ) của  người  đồng  tử ( như  trường  hợp  của  bà  Compton,  được  diễn  tả  trong  cuộc  sống  của  tôi ), y  cho  rằng  đó  là  hiện  tượng  lạ  kỳ  nhất, mà  y  không  thể  giải  thích,  nhưng  y  tin  rằng  điều  đó  không  lạ  gì  đối  với  các  nhà  Thuật  Sĩ  phương  Đông. Những  gì  tôi  đã  trình  bày  trong  một  Chương  trước  đây  về  quyền  năng  che  lấp  thị  giác  của  người  khác  bằng  thuật  thôi  miên  làm  tê  liệt  các  dây  thần  kinh  trong  cặp  mắt  họ,  giải  đáp  được  điều  bí  hiểm  này  và  loại  trừ  nhiều  sự  mê  tín  dị  đoan  khác,  kể  cả  việc  cho  đó  là  ma  thuật.

          Thật  không  uổng  công  lao  mà  viết  quyển  sách  đó,  nhờ  nó  mà  tôi  có  hai  người  bạn  tâm  giao  trọn  đời  như  Stainton moses  và  Massey,  nhưng  lại  còn  hơn  thế  nữa,  nó  đã  thay  đổi  cuộc  đời  tôi  và  đánh  dấu  một  giai  đoạn  lịch  sử.  Trong  thời  gian  ông  Massey  lưu  trú  tại  Mỹ  Quốc,  chúng  tôi  đã  cùng  nhau  viếng  thăm  nhiều  nhà  đồng  tử,  và  ông  là  một  trong  những  người  đầu  tiên  đã  theo  bà  HPB  và  tôi  để  thành  lập  Hội  Thông  Thiên  Học  Thế  Giới  vào  khoảng  cuối  năm  ấy ( 1875 ).

                                                           III

          Trước  đây  tôi  có  nói  về  Sigor B. , một  nghệ  sĩ  người  Ý  có  phép  thuật  thần  thông,  đã  có  lần  đến  viếng  bà  HPB  tại  New  York.  Một  buổi  tối  mùa  thu,  năm  1875,  ngay  sau  khi  thành  lập  Hội  Thông  Thiên  Học  tôi  đã  chứng  kiến  hiện  tượng  lạ  lùng  của  y  làm  mưa  bằng  cách  sai  khiến  những  tinh  linh  trong  không  gian.

          Đó  là  một  đêm  trăng  tròn,  bầu  trời  xanh  biếc  không  có  một  cụm  mây  che.  Y  gọi  bà  HPB  và  tôi  ra  ngoài  bao  lơn  và  dặn  tôi  hãy  bình  tĩnh  và  hoàn  toàn  im  lặng,  dù  việc  gì  xảy  ra.  Kế  đó,  y  lấy  trong  túi  áo  và  đưa  về  phía  mặt  trăng  một  tờ  giấy  cứng  độ  bằng  khuôn  khổ  tập  vở  học  trò,  trên  một  mặt  giấy  có  vẽ  bằng  màu  nước  một  số  hình  vuông  vức  trong  mỗi  ô  vuông  có  một  con  số  dị  kỳ,  nhưng  y  không  cho  tôi  cầm  lấy  hoặc  xem  xét.  Tôi  đứng  gần  bên  ở  sau  lưng  y,  và  có  thể  cảm  thấy  thân  mình  y  cứng  đơ  dường  như  trong  một  cơn  tập  trung  ý  chí  mãnh  liệt.

           Độ  một  lát,  y  chỉ  vào  mặt  trăng  và  chúng  tôi  thấy  những  luồng  mây  đen  từ  vành  trăng  tuôn  ra  và  bay  về  phía  chân  trời.  Tôi  bất  giác  thốt  lên  một  tiếng  kêu  ngạc  nhiên,  nhưng  nhà  phù  thủy  nắm  chặt  tay  tôi  với  một  bàn  tay  cứng  như  sắt  và  ra  hiệu  cho  tôi  hãy  im  lặng.  Luồng  mây  đen  bay  ra  mỗi  lúc  càng  mau,  và  kéo  ra  càng  dài.  Nó  lan  dần  thành  hình  rẽ  quạt,  và  trong  chốc  lát,  những  đám  mây  đen  khác  xuất  hiện  trên  nền  trời  rải  rác  mỗi  chỗ  một  ít,  rồi  hợp  thành  khối  và  di  chuyển  rất  mau.  Nền  trời  đã  trở  nên  u  ám  vì  mây  đen  bao  phủ,  mặt  trăng  biến  mất  dạng,  và  một  cơn  mưa  rơi  xuống  khiến  chúng  tôi  phải  lui  vào  nhà.  Không  có  sấm  sét,  cũng  không  có  gió,  mà  chỉ  có  một cơn  mưa  rào  được  tạo  nên  trong  vòng  một  khắc  đồng  hồ  bởi  con  người  kỳ  bí  ấy.

           Khi  chúng  tôi  đến  gần  ánh  sáng  của  ngọn  đèn,  tôi  nhận  thấy  gương  mặt  nhà  phù  thủy  biểu  lộ  những  nét  rắn  rỏi  cương  nghị  như  sắt  thép  và  hai  hàm  răng  nghiến  chặt,  giống  như  sắc  thái  mà  người  ta  nhìn  thấy  trên  gương  mặt  của  những  binh  sĩ  tác  chiến  ngoài  mặt  trận.  Quả  thật  vậy,  y  vừa  mới  chiến  đấu  và  chinh  phục  những  đạo  binh  tinh  linh  ngũ  hành,  một  kỳ  công  nó  đòi  hỏi  sự  tận  dụng  tất  cả  mọi  nghị  lực  trong  con  người.

            Signor B.  không  ở  lại  với  chúng  tôi  lâu,  mà  hối  hả  cáo  từ  ra  về,  và  vì  đêm  đã  khuya,  nên  tôi  cũng  lui  về  phòng  riêng  vài  phút  sau  đó.  Nền  đá  trên  đường  lộ  đã  trơn  ướt  vì  mưa,  không  khí  lạnh  và  ẩm.  Tôi  vừa  vào  phòng  ngồi  hút  thuốc  thì  nghe  tiếng  chuông  reo,  và  khi  ra  mở  cửa  trước,  tôi  thấy  Signor B.  đứng  trên  ngưỡng  cửa,  gương  mặt  tái  xanh  và  một  phần  đã  kiệt  sức.  Y  xin  lỗi  vì  đã  làm  phiền  rộn  tôi  và  xin  một  ly  nước  uống.  Tôi  mời  y  bước  vào  nhà,  sau  khi  y  đã  uống  nước  và  ngồi  nghỉ  một  lát ,  chúng  tôi  mới  nói  chuyện  về  những  vấn  đề  huyền  học  và  câu  chuyện  kéo  dài  trong  một  lúc  khá  lâu.  Tôi  nhận  thấy  y  sẵn  sàng  thảo  luận  về  các  vấn  đề  văn  chương,  nghệ  thuật  hay  khoa  học,  nhưng  lại  vô  cùng  dè  dặt  khi  nói  về  khoa  Huyền  Môn  và  kinh  nghiệm  cá  nhân  của  y  trong  việc  phát  triển  tâm  linh.  Tuy  nhiên,  y  giải  thích  rằng  tất  cả  những  giống  tinh  linh  ngũ  hành  đều  có  thể  chịu  sự  kiểm  chế  của  con  người  khi  y  đã  phát  triển  được  những  tiềm  năng  thiên  phú  của  mình.  Chừng  đó,  ý  chí  của  y  sẽ  trở  nên  một  sức  mạnh  vô  địch  làm  cho  tất  cả  những  giống  sinh  vật  thấp  kém  hơn  gồm  cả  các  loại  tinh  linh  ngũ  hành,  đều  phải  chịu  khuất  phục.

          Tôi  không  có  thật  sự  nhìn  thấy  luồng  khói  đen  từ  trong  vành  trăng  bay  ra,  đó  chỉ  là  một  ảo  giác  được  tạo  ra  bởi  sự  tập  trung  tư  tưởng  của  y  trên  mặt  trăng,  nhưng  tôi  quả  thật  có  nhìn  thấy  những  đám  mây  đen  xuất  hiện  trên  nền  trời  trong  sáng  và  nhìn  thấy  mưa  rơi.  Y  lưu  ý  tôi  đến  sự  kiện  ấy  để  tôi  suy  gẫm.  Nhưng  bây  giờ  y  lại  đưa  cho  tôi  một  lời  khuyên  nó  làm  cho  tôi  rất  ngạc  nhiên.

         Tôi  đã  thấy  y  rất  thuận  thảo  với  bà  HPB,  họ  đã  từng  nói  chuyện  rất  cởi  mở  và  rất  thân  hữu  với  nhau  về  các  vấn  đề  thế  sự  cũng  như  về  khoa  học  huyền  môn,  và  cùng  so  tài  trong  việc  làm  các  hiện  tượng  như  hiện  tượng  hai  con  bướm  trắng.  Bởi  vậy,  tôi  vô  cùng  ngạc  nhiên  khi  thấy  y  làm  ra  vẻ  bí  mật  và  cảnh  giác  tôi  hãy  nên  đoạn  tuyệt  mọi  sự  giao  du  thân  mật  với  bà.  Y  nói  bà  là  một  phụ  nữ  độc  ác  rất  nguy  hiểm,  và  sẽ  đem  tai  họa  đến  cho  tôi  nếu  tôi  cứ  tiếp  tục  mối  liên  hệ  giữa  tôi  với  bá.  Y  nói  y  đến  cảnh  giác  tôi  điều  ấy  là  do  lệnh  của  một  vị  Chân  Sư,  mà  tôi  đã  từng  nghe  y  nhắc  đến  thánh  danh  trong  những  câu  chuyện  với  bà  HPB  và  tôi.  Tôi  nhìn  thẳng  vào  mặt  y  để  thử  dò  xem  có  một  ý  nghĩa  ẩn  dấu  gì  chăng  trong  những  lời  nói  vô  lý  đó,  và  sau  cùng  tôi  nói:

         “Thưa  ông,  tôi  biết  rằng  đấng  Cao  Cả  mà  ông  vừa  nhắc  đến  quả  có  thật.  Sau  khi  đã  nhìn  thấy  ông  trổ  phép  thuật  thần  thông  vừa  rồi,  tôi  có  đủ  mọi  lý  do  để  ngờ  rằng  chắc  ông  có  liên  hệ  với  Ngài  hay  với  Quần  Tiên  Hội.  Tôi  sẵn  sang  tuân  lịnh  ngài  cho  dù  phải  hy  sinh  tính  mạng  tôi.  Bây  giờ  tôi  yêu  cầu  ông  hãy  đưa  ra  một  bằng  chứng  cụ  thể  để  chứng  minh  một  cách  rõ  ràng,  tích  cực  và  không  thể  nghi  ngờ,  rằng  bà  HPB  là  người  yêu  phụ  mà  ông  diễn  tả,  và  Chân  Sư  muốn  tôi  phải  chấm  dứt  mọi  sự  liên  hệ  với  bà.”

          Người  phù  thủy  Ý  do  dự,  nói  lắp  bắp  vài  lời  vô  nghĩa,  và  đổi  đề  tài  nói  qua  chuyện  khác.  Tuy  y  có  thể  kéo  mây  đen  ra  khỏi  mặt  trăng,  y  vẫn  không  thể  gieo  sự  ngờ  vực  hắc  ám  vào  lòng  tôi  đối với  người  bạn  Đạo  và  người  hướng  dẫn  tôi  đi  xuyên  qua  những  ngõ  ngách  bí  hiểm  của  khoa  Huyền  Môn.  Sau đó, tôi có kể lại sự vệc này cho bà HPB nghe! Bà mỉm cười nói  rằng  tôi  đã  vượt  qua  cuộc  thử  thách  sơ  đẳng  đó  một  cách  tốt  đẹp,  và  viết  vài  chữ  cho  Signor B.  khuyên  ông  ta  hãy  “ quên  đường  đưa  đến  nhà  bà”.

o-sX=v?rnd\tặc  lừng  danh  khi  xưa  tên  là  Sir  H. Morgan,  và  bà  chỉ  trợ  giúp  y  với  tư  cách  là  một  người  trung  gian  hay  phụ  tá,  bà  HPB  đã  làm  nhiều  hiện  tượng  chứng  tỏ  là  bà  có  một  bản  lĩnh  cao  cường  về  ngành  Phương  Thuật (Magic ).

            Tôi  xin  kể  một  thí  dụ,  đồng  thời  cũng  nói  thêm  rằng  những  phát  minh  khoa  học  lớn  lao  thường  bắt  nguồn  từ  việc  tình  cờ  nhận  xét  những  sự  việc  rất  đỗi  thông  thường,  chẳng  hạn  như  một  trái  táo  rụng  xuống  đất giúp  Newton  khám  phá  Luật  Hấp  Dẫn (Gravitation ); và  việc  nhìn  thấy  cái  nắp  thiếc  nhảy  dựng  trên  cái  ấm  nước  đang  sôi[6]

            Ngày  nọ,  nhận  thấy  trong  nhà  thiếu  khăn  mặt  để  dùng,  tôi  mua  vài  cái  khăn  lớn  đem  về,  và  cắt  ra  làm  độ  một  chục  chiếc  khăn  nhỏ.   Khi  thấy  bà  HPB  định  lấy  ra  dùng  ngay  mà  không  chịu  viền  các  cạnh  khăn  lại  cẩn  thận,  tôi  mới  phản  đối  lối  sống  thiếu  ngăn  nắp  đó,  và  bà  liền  lấy  kim  chỉ  ra  may.  Bà  chưa  kịp  bắt  đầu  bỗng  nhiên  bà  đá  một  cái  dưới  gậm  bàn  và  nói  với  một  giọng  giận  dữ:

          “Đồ  láo,  đi  ra!”

           Tôi hỏi:

          “Cái  gì  vậy?”

          Bà đáp:

          “Có gì  đâu!  Chỉ  có  một  tinh  linh  nó  kéo  vạt  áo  tôi  và  muốn  có  một  việc  gì  làm!”

           Tôi nói:

         “À, hay quá!  Sẵn đây, bà  hãy  đưa  khăn  cho  nó  may.  Bà  cần  gì  phải  làm  cho  nhọc,  vả  lại  bà  cũng  chẳng  khéo  tay  gì  cho  lắm  về  đường  kim  mũi  chỉ?”

           Bà  cười  và  mắng  tôi  chê  bà  may  dở,  nhưng  cũng  chưa  chịu  làm  theo  sự  thỉnh  cầu  của  kẻ  khuất  mặt  ở  dưới  gậm  bàn,  sẵn  sàng  trợ  giúp  một  tay  nếu  có  dịp.  Sau  cùng,  nghe  lời  thuyết  phục  của  tôi,  bà  bảo  tôi  hãy  để  khăn  mặt  và  kim  chỉ  trong  một  cái  tủ  kiếng  có  khóa,  và  che  màn  lụa  xanh  ở  phía  tường  bên  kia.  Tôi  làm  theo  và  trở  lại  tiếp  tục  ngồi  nói  chuyện  với  bà  về  đề  tài  lý  thú  duy  nhất  và  bất  tận  của  chúng  tôi,  là  vấn  đề  khoa  học  huyền  bí.  Sau  độ  mười  lăm  hay  hai  mươi  phút,  tôi  nghe  một  tiếng  động  nhỏ  giống  như  tiếng  chuột  kêu  ở  dưới  gậm  bàn,  khi  đó  bà  HPB  cho  tôi  biết  rằng  “nó”  đã  viền  xong  mấy  cái  khăn.  Tôi  bèn lại  mở  tủ  và  thấy  mười  hai  cái  khăn  mặt  đã  viền  xong,  tuy  rằng  hơi  vụng  về,  giống  như  của  trẻ  em  mới  tập  may  trong  các  lớp  may  nhi  đồng.  Thế  là  mấy  cái  khăn  mặt  đã  được  viền  bìa  thật  sự  không  thể  nghi  ngờ,  trong  cái  tủ  đã  khóa  kín  mà  bà  HPB  không  hề  bén  mảng đến  gần  trong  suốt  thời  gian  đó.  Lúc  ấy,  vào  độ  bốn  giờ  chiều,  giữa  ánh  sang  ban  ngày.  Chúng  tôi  chỉ  có  hai  người  trong  phòng,  không  có  người  nào  khác  bước  vào  cho  đến  khi  mọi  việc  đã  xong.

           Có  lần  trong  khi  chúng  tôi  đang  ngồi  nói  chuyện  ở  phòng  khách,  bà  HPB  thình  lình  biến  mất.  Tôi  đã  từng  trải  nhiều  kinh  nghiệm  về  các  hiện  tượng  huyền  linh,  nhưng  việc  này  làm  tôi  ngạc  nhiên  và  lo  lắng.  Sau  khi  đi  lục  soát  khắp  trong  nhà  mà  không  thấy  gì,  tôi  trở  lại  phòng  khách  châm  ống  điếu  hút  thuốc,  và  thử  tìm  hiểu  điều  bí  mật  này.  Hồi  đó  là  năm  1875,  tức  là  nhiều  năm  trước  khi  khoa  thôi  miên  được  thí  nghiệm  và  phổ  biến,  cho  nên  tôi  không  hề  biết  rằng  lúc  ấy  tôi  chỉ  là  một  đối  tượng  thụ  cảm,  và  bà  HPB  chỉ  có  làm  che  lấp  thị  giác  của  tôi  để  tôi  không  nhìn  thấy  bà  trong  khi  bà  vẫn  có  mặt  tại  chỗ.

           Một  lúc  sau  bà  xuất  hiện  trở  lại  nơi  phòng  khách,  tôi  mới  hỏi  nãy  giờ  bà  đi  đâu,  thí  bà  cười  và  nói  rằng  vì  bà  có  việc  phải  làm  về  phần  “ vô  vi ”  nên  bà  đã  tàng  hình  trong  chốc  lát.  Nhưng  bà  tàng  hình  bằng  cách  nào  thì  bà  không  nói.  Bà  cũng  làm  phép  thuật  đó  trước  mặt  tôi  và  những  người  khác  nhiều  lần  nữa, trước  và  sau  khi  chúng  tôi  đi  sang  Ấn  Độ,  nhưng  tất  cả  những  lần  đó  đều  xảy  ra  nhiều  năm  trước  khi  tôi  được  biết  gì  về  khoa  thôi  miên,  vốn  là  cái  đáp  số  dễ  dàng  của  thuật  tàng  hình.  Như  tôi  đã  có  lần  giải  thích,  thuật  thôi  miên  của  Đông  Phương  còn  cao  tay  ấn  hơn  nhiều  so  với  Tây  Phương,  vì  trong  trường  hợp  này,  sự  dẫn  dụ  để  che  lấp  giác  quan  của  người  thụ  cảm  được  thực  hiện  bằng  tư  tưởng  trong  âm  thầm,  chứ  không  phải  truyền  lệnh  bằng  giọng  nói  có  âm  thanh.  Người  thụ  cảm  không  được  cảnh  giác  để  chống  lại  sự  dẫn  dụ,  và  sự  việc  xảy  ra  tự  nhiên  trong  khi  y  không  hay  biết  gì  cả.

            Bà  HPB  còn  biểu  diễn  nhiều  hiện  tượng  thần  thông  lạ  lùng  khác  nữa.  Tôi  chỉ  thuật  lại  vài  sự  việc  đáng  kể,  nó  làm  thỏa  mãn  lý  trí  và  óc  phê  bình  của  tôi  về  sự  thật  của  khoa  huyền  thuật  Đông  Phương.  Đó  là  thời  kỳ  mà  tôi  được  biết  bà  HPB  như  một  bạn  đồng  môn,  mối  liên  hệ  giữa  bà  với tôi  được  thiết  lập  trên  một  cương  vị  hoàn  toàn  bình  đẳng  và  mật  thiết.  Nhờ  đó,  tôi  mới  có  thể  nhận  xét  bà  như  một  người  thường,  trước  khi  bà  được  các  bạn  Đạo  suy  tôn  gần  như  thần  thánh,  những  người  này  không  được  biết  gì  về  những  sở  trường,  sở  đoản  và  tính  chất  rất  cận  nhân  tính  của  bà.

            Như  tôi  sẽ  trình  bày  một  cách  trung  thực, cái  hình  ảnh  lý  tưởng  đã  phai  mờ  của  tác  giả  các  bộ  sách  “Vén  Màn  Isis” và “Giáo  Lý  Bí  Truyền” sẽ  là  hình  ảnh  của  một  người  bằng  xương  bằng  thịt;  một  người  phụ  nữ  thật  sự  tuy  rằng  trội  hẳn  về  phần  nam  tính,  sống  bình  thường  như  mọi  người  khi  thức  tỉnh,  nhưng  lại  đi  vào  một  thế  giới  khác  và  giao  tiếp  với  những  nhân  vật  cao  cả  hơn  trong  giấc  ngủ  hay  trong  khi  xử  dụng  nhãn  quang  siêu  phàm;  một  cá  tính  đặc  biệt  ngự  trong  một  xác  thân  phụ  nữ  yếu  đuối,  “trong  đó… một  cơn  giông  tố  luôn  luôn  gầm  thét  hầu  như  bất  cứ  lúc  nào,”  theo  lời  của  một  vị  Chân  Sư  miêu  tả  tình  trạng  tâm  linh  và  khí  chất  của  bà.  Một  khí  chất  thật  bất  thường,  biến  đổi,  đa  hình  đa  dạng,  nóng  nảy,  ồ  ạt  như  giông  bão,  nó  đòi  hỏi  ở  kẻ  đối  tượng  một  sự  nhịn  nhục  và  tự  chủ  đến  mức  độ  anh  hùng  nếu  họ  muốn  sống  chung  và  cộng  tác  với  bà  trên  một  tinh  thần  vô  kỷ  vị  tha.

           Dù  rằng  thế  nào,  người  ta  không  thể  quên  bản  lĩnh  phương  thuật  cao  cường  và  những  phép  thuật  thần  thông  mà  bà  đã  thực  hiện,  những  bằng  chứng  dồn  dập  mà  bà  đã  cho  thấy  về  sự  hiện  diện  của  các  đấng  Chân  Sư  mà  bà  tuyệt  đối  phục  tùng  đến  mức  bà  cảm  thấy  không  xứng  đáng  để  lau  bụi  trên  bàn  chân  của  các  ngài,  và  công  trình  phụng  sự  hiến  dâng  khi  mà  người  phụ  nữ  ngáo  ngổ  và  ngang  tàng  ấy  trở  thành  một  bậc  đạo  sư  phổ  biến  đạo  lý  cho  đời  và  một  nhà  tiền  phong  cầm  đuốc  soi  đường  cho  người  tầm  Đạo.  Tất  cả  những  điều  đó,  và  những  bộ  sách  Đạo  mà  bà  để  lại  cho  hậu  thế,  càng   kết  hợp  để  chứng  minh  tính  chất  vĩ  đại  của  bà  và  làm  cho  tính  khí  ngang  ngạnh  bất  thường  của  bà  được  xóa  nhòa  trong  quên  lãng,  thậm  chí  bởi  những  người  đã  từng  bị  những  điều  ấy  làm  cho  điêu  đứng  khổ  sở  nhiều  nhất  về  phương  diện  tinh  thần.

           Bằng  cách  vạch  rõ  con  đường  Đạo  cho  hậu  thế,  bà  đặt  tất  cả  chúng  ta  dưới  một  gánh  nặng  nghĩa  vụ  đến  mức  người  ta  không  thể  có  cảm  nghĩ  nào  khác  hơn  là  một  sự  biết  ơn  sâu  xa  đối  với  bà.

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top

Tags: