CHƯƠNG BA: THỬ THÁCH
Với ý định tường thuật theo thứ tự thời gian những sự việc hồi thuở ban đầu Hội Thông Thiên Học gồm cả những ngày liên hệ ban sơ giữa bà HPB với tôi, tôi thấy cần nói qua vài hiện tượng phóng bút của bà, mà tôi có ghi chép trong quyển “Người Về Từ Cõi Âm”.
Như đã nói trước đây, những hiện tượng của bà HPB dường như do tác động của một vong linh mệnh danh John King, vốn là linh hồn đã thoát xác của một tay hải tặc lừng danh khi xưa tên Henry de Morgan, đã từng được Anh Hoàng Charles II tấn phong Hiệp Sĩ, nhưng thật sự chỉ là một cái tên giả để tạm gọi những âm binh hay tinh linh dưới quyền sai khiến của bà HPB.
Trong một buổi họp nơi bà trú ngụ tại một khách sạn ở Philadelphia vào buổi tối, ngày 6 tháng 1 năm 1875, nhân dịp J. K. đang làm các hiện tượng lạ, tôi nói:
“Nếu quả thật anh là một vong linh tốt lành như anh tự nhận, anh hãy thi thố một vài quyền năng của anh cho tôi xem. Chẳng hạn, anh hãy làm ra một bổn sao của một bức thơ mà tôi đang cất trong “ bóp “ và đựng trong túi áo của tôi.”
Không ai để ý gì đến lời yêu cầu của tôi chiều hôm ấy, nhưng qua đến tối hôm thứ ba, sau đêm hôm đó hai ngày, trong khi bà HPB và tôi đang ngồi ở cạnh bàn làm việc, những tiếng gõ nhịp rất lớn vang lên. Theo tiếng nhịp, tôi liền viết ra những nguyên âm chữ cái và đọc:
“Ông vui lòng đưa cho tôi cuốn tự điển xuống dưới gầm bàn.”
Trên bàn lúc ấy có quyển tự điển Nga- Anh của bà HPB, tôi bèn cầm lấy và ĐƯA XUỐNG gầm bàn theo lời yêu cầu. (Tôi chỉ đưa, chứ không phải BỎ RƠI xuống đất, dường như đưa cho một người khuất mặt nào đó ở dưới gầm bàn cầm lấy quyển tự điển dầy cộm). Kế đó, những tiếng nhịp gõ yêu cầu tôi đưa xuống một lọ keo ( hồ ) để dán, và một con dao nhỏ chuốt viết chì. Những vật liệu này cũng được đưa xuống gầm bàn, và sau một cơn im lặng kéo dài độ một lúc, tiếng nhịp gõ báo hiệu “Đã xong!”. Chúng tôi thâu hồi cuốn tự điển, con dao và lọ keo, và nhận thấy trên một trang giấy rời trong quyển tự điển, là một phó bổn phóng bút của bức thơ nói trên. Bà HPB giải thích tác dụng của con dao như sau:
“Một phần rất nhỏ chất kim khí của lưỡi dao được giải thể thành chất hơi và dùng để phóng ra những hàng chữ màu đen. Keo hồ cũng được chuyển thành trạng thái chất hơi, và có tác dụng hàn gắn các nguyên tử chất kim khí trong cuộc thí nghiệm.”
Cái “bóp phơi” đựng bức thơ vẫn ở trong túi áo của tôi từ khi tôi đến thành phố này cho đến cái đêm làm cuộc biểu diễn. Độ nửa giờ trước đó, tôi đã đặt nó lên cái kệ phía trên lò sưởi, ở ngay trước tầm mắt của tôi mỗi khi tôi ngẩng mặt nhìn lên từ quyển sách tôi đang đọc. Bà HPB vẫn ngồi gần bên tôi ở cạnh bàn và đang chăm chú viết, ngoài ra chúng tôi không có một người nào trong gian phòng. Khi tôi so sánh bức thơ và phó bổn, bằng cách kê cả hai tờ giấy lên nhau, thì tuy rằng hai bức đều giống nhau, nhưng không phải rập theo nhau từng chi tiết, điều này lại càng làm cho hiện tượng phóng bút thêm phần thú vị.
II
Trong thời gian ở Philadelphia, bà rất bận rộn công việc viết bài vở cho các báo chí, trước hết nói về Thần Linh Học, và sau đó, về khoa Huyền Môn của Đông Phương. Việc phát hành quyển sách của tôi cũng đã đưa đến những kết quả quan trọng, là gây nên những cuộc bình luận kéo dài trong báo giới Anh-Mỹ, trong đó bà HPB và tôi đều có đóng góp bài vở và thiết lập những mối tình thân hữu thêm bền chặt với nhiều bạn Đạo: trong sự giao dịch bằng thơ từ, chúng tôi đã giải bày với họ toàn bộ các vấn đề Huyền Học Đông Phương và Tây Phương.
Không bao lâu, chúng tôi đã nhận được rất nhiều thơ tín từ khắp nơi trên thế giới, trong số đó có những người tìm hiểu nhờ giải đáp thắc mắc ; cũng có những kẻ đối nghịch gởi thơ chống bang, đả kích ; và những cảm tình viên gửi lời khen tặng và khích lệ. Ông Alexandre Aksakof, trong Hội đồng Tư Vấn của Nga Hoàng và là một nhà Thần Linh Học rất hăng say, đã yêu cầu bà HPB dịch quyển sách của tôi ra tiếng Nga, và chịu đài thọ mọi phí tổn ấn loát và phát hành. Bà nhận lời và sau đó ít lâu, đã xuất hiện tại St. Petersburg một cuốn văn thư khen tặng với lời lẽ rất khả ái của giáo sư N.A. Wagner, một chuyên gia Khoa Học thượng thặng của trường Đại Học Hoàng Gia, trong đó ông tuyên bố rằng trong công việc điều tra sưu tầm của tôi về các hiện tượng Thần Linh, tôi đã thực hiện “ĐÚNG THEO NHỮNG ĐIỀU KIỆN CẦN THIẾT CỦA MỘT CUỘC KHẢO SÁT KHOA HỌC NGHIÊM CHỈNH VÀ THẬN TRỌNG”. Đó là một chứng thư mà đương nhiên tôi cảm thấy rất lấy làm hãnh diện. Các nhà bác học William Crookes, Alfred Wallace của Anh, và Camille Flammarion của Pháp, cũng đã bày tỏ những cảm tình ưu ái rất nồng hậu và thân hữu.
Vài tháng sau đó, ông C. C.Massey, một người Anh từ Luân Đôn sang Mỹ để kiểm chứng, bằng cách đích thân quan sát tại chỗ, những lời tường thuật của tôi về các hiện tượng hồn ma hiện hình ở nông trại Eddy. Chúng tôi vẫn thường xuyên tiếp xúc với nhau, và đã thông cảm nhau đến mức nảy sinh một tình thân hữu đậm đà giữa chúng tôi, một tình bạn thâm giao vẫn kéo dài cho đến ngày nay.
Ngoài ra, tôi cũng có giao dịch bằng thơ từ và kết thân với một người bạn khác, là ông Stainton Moses, Tiến Sĩ Văn Khoa tốt nghiệp Đại Học Oxford, làm giáo sư Văn Chương và Anh Ngữ tại trường đại học Luân Đôn. Tôi có gửi cho y một quyển sách của tôi và chúng tôi đã trao đổi thơ từ qua lại hầu như hàng tuần trong nhiều năm liên tiếp. Bức thư đầu tiên của y thảo luận về những điều kiện và kết quả của những hiện tượng đồng tử trong những buổi họp đàn. Y lưu ý tôi đến sự kiện này là:
“Sự có mặt của vài hạng người trong những buổi họp đàn gây chướng ngại trầm trọng và có khi làm tê liệt các hiện tượng. Nguyên nhân không phải lỗi tại họ hay là do một thái độ tinh thần gì đó ( chẳng hạn như thiếu đức tin,.v..v…), mà là do bầu không khí chung quanh họ gây nên. Người đồng tử càng nhạy cảm bao nhiêu, thì điều đó càng rỏ rệt bấy nhiêu.”
Ông Stainton Moses viết tiếp :
“ Sự có mặt của nhiều người bạn tôi làm cho mọi hiện tượng của tôi đều ngưng trệ, điều đó làm tôi rất bực mình mà tôi không làm sao sửa đổi được.”
Bàn về hiện tượng giải thể ( biến mất xác ) của người đồng tử ( như trường hợp của bà Compton, được diễn tả trong cuộc sống của tôi ), y cho rằng đó là hiện tượng lạ kỳ nhất, mà y không thể giải thích, nhưng y tin rằng điều đó không lạ gì đối với các nhà Thuật Sĩ phương Đông. Những gì tôi đã trình bày trong một Chương trước đây về quyền năng che lấp thị giác của người khác bằng thuật thôi miên làm tê liệt các dây thần kinh trong cặp mắt họ, giải đáp được điều bí hiểm này và loại trừ nhiều sự mê tín dị đoan khác, kể cả việc cho đó là ma thuật.
Thật không uổng công lao mà viết quyển sách đó, nhờ nó mà tôi có hai người bạn tâm giao trọn đời như Stainton moses và Massey, nhưng lại còn hơn thế nữa, nó đã thay đổi cuộc đời tôi và đánh dấu một giai đoạn lịch sử. Trong thời gian ông Massey lưu trú tại Mỹ Quốc, chúng tôi đã cùng nhau viếng thăm nhiều nhà đồng tử, và ông là một trong những người đầu tiên đã theo bà HPB và tôi để thành lập Hội Thông Thiên Học Thế Giới vào khoảng cuối năm ấy ( 1875 ).
III
Trước đây tôi có nói về Sigor B. , một nghệ sĩ người Ý có phép thuật thần thông, đã có lần đến viếng bà HPB tại New York. Một buổi tối mùa thu, năm 1875, ngay sau khi thành lập Hội Thông Thiên Học tôi đã chứng kiến hiện tượng lạ lùng của y làm mưa bằng cách sai khiến những tinh linh trong không gian.
Đó là một đêm trăng tròn, bầu trời xanh biếc không có một cụm mây che. Y gọi bà HPB và tôi ra ngoài bao lơn và dặn tôi hãy bình tĩnh và hoàn toàn im lặng, dù việc gì xảy ra. Kế đó, y lấy trong túi áo và đưa về phía mặt trăng một tờ giấy cứng độ bằng khuôn khổ tập vở học trò, trên một mặt giấy có vẽ bằng màu nước một số hình vuông vức trong mỗi ô vuông có một con số dị kỳ, nhưng y không cho tôi cầm lấy hoặc xem xét. Tôi đứng gần bên ở sau lưng y, và có thể cảm thấy thân mình y cứng đơ dường như trong một cơn tập trung ý chí mãnh liệt.
Độ một lát, y chỉ vào mặt trăng và chúng tôi thấy những luồng mây đen từ vành trăng tuôn ra và bay về phía chân trời. Tôi bất giác thốt lên một tiếng kêu ngạc nhiên, nhưng nhà phù thủy nắm chặt tay tôi với một bàn tay cứng như sắt và ra hiệu cho tôi hãy im lặng. Luồng mây đen bay ra mỗi lúc càng mau, và kéo ra càng dài. Nó lan dần thành hình rẽ quạt, và trong chốc lát, những đám mây đen khác xuất hiện trên nền trời rải rác mỗi chỗ một ít, rồi hợp thành khối và di chuyển rất mau. Nền trời đã trở nên u ám vì mây đen bao phủ, mặt trăng biến mất dạng, và một cơn mưa rơi xuống khiến chúng tôi phải lui vào nhà. Không có sấm sét, cũng không có gió, mà chỉ có một cơn mưa rào được tạo nên trong vòng một khắc đồng hồ bởi con người kỳ bí ấy.
Khi chúng tôi đến gần ánh sáng của ngọn đèn, tôi nhận thấy gương mặt nhà phù thủy biểu lộ những nét rắn rỏi cương nghị như sắt thép và hai hàm răng nghiến chặt, giống như sắc thái mà người ta nhìn thấy trên gương mặt của những binh sĩ tác chiến ngoài mặt trận. Quả thật vậy, y vừa mới chiến đấu và chinh phục những đạo binh tinh linh ngũ hành, một kỳ công nó đòi hỏi sự tận dụng tất cả mọi nghị lực trong con người.
Signor B. không ở lại với chúng tôi lâu, mà hối hả cáo từ ra về, và vì đêm đã khuya, nên tôi cũng lui về phòng riêng vài phút sau đó. Nền đá trên đường lộ đã trơn ướt vì mưa, không khí lạnh và ẩm. Tôi vừa vào phòng ngồi hút thuốc thì nghe tiếng chuông reo, và khi ra mở cửa trước, tôi thấy Signor B. đứng trên ngưỡng cửa, gương mặt tái xanh và một phần đã kiệt sức. Y xin lỗi vì đã làm phiền rộn tôi và xin một ly nước uống. Tôi mời y bước vào nhà, sau khi y đã uống nước và ngồi nghỉ một lát , chúng tôi mới nói chuyện về những vấn đề huyền học và câu chuyện kéo dài trong một lúc khá lâu. Tôi nhận thấy y sẵn sàng thảo luận về các vấn đề văn chương, nghệ thuật hay khoa học, nhưng lại vô cùng dè dặt khi nói về khoa Huyền Môn và kinh nghiệm cá nhân của y trong việc phát triển tâm linh. Tuy nhiên, y giải thích rằng tất cả những giống tinh linh ngũ hành đều có thể chịu sự kiểm chế của con người khi y đã phát triển được những tiềm năng thiên phú của mình. Chừng đó, ý chí của y sẽ trở nên một sức mạnh vô địch làm cho tất cả những giống sinh vật thấp kém hơn gồm cả các loại tinh linh ngũ hành, đều phải chịu khuất phục.
Tôi không có thật sự nhìn thấy luồng khói đen từ trong vành trăng bay ra, đó chỉ là một ảo giác được tạo ra bởi sự tập trung tư tưởng của y trên mặt trăng, nhưng tôi quả thật có nhìn thấy những đám mây đen xuất hiện trên nền trời trong sáng và nhìn thấy mưa rơi. Y lưu ý tôi đến sự kiện ấy để tôi suy gẫm. Nhưng bây giờ y lại đưa cho tôi một lời khuyên nó làm cho tôi rất ngạc nhiên.
Tôi đã thấy y rất thuận thảo với bà HPB, họ đã từng nói chuyện rất cởi mở và rất thân hữu với nhau về các vấn đề thế sự cũng như về khoa học huyền môn, và cùng so tài trong việc làm các hiện tượng như hiện tượng hai con bướm trắng. Bởi vậy, tôi vô cùng ngạc nhiên khi thấy y làm ra vẻ bí mật và cảnh giác tôi hãy nên đoạn tuyệt mọi sự giao du thân mật với bà. Y nói bà là một phụ nữ độc ác rất nguy hiểm, và sẽ đem tai họa đến cho tôi nếu tôi cứ tiếp tục mối liên hệ giữa tôi với bá. Y nói y đến cảnh giác tôi điều ấy là do lệnh của một vị Chân Sư, mà tôi đã từng nghe y nhắc đến thánh danh trong những câu chuyện với bà HPB và tôi. Tôi nhìn thẳng vào mặt y để thử dò xem có một ý nghĩa ẩn dấu gì chăng trong những lời nói vô lý đó, và sau cùng tôi nói:
“Thưa ông, tôi biết rằng đấng Cao Cả mà ông vừa nhắc đến quả có thật. Sau khi đã nhìn thấy ông trổ phép thuật thần thông vừa rồi, tôi có đủ mọi lý do để ngờ rằng chắc ông có liên hệ với Ngài hay với Quần Tiên Hội. Tôi sẵn sang tuân lịnh ngài cho dù phải hy sinh tính mạng tôi. Bây giờ tôi yêu cầu ông hãy đưa ra một bằng chứng cụ thể để chứng minh một cách rõ ràng, tích cực và không thể nghi ngờ, rằng bà HPB là người yêu phụ mà ông diễn tả, và Chân Sư muốn tôi phải chấm dứt mọi sự liên hệ với bà.”
Người phù thủy Ý do dự, nói lắp bắp vài lời vô nghĩa, và đổi đề tài nói qua chuyện khác. Tuy y có thể kéo mây đen ra khỏi mặt trăng, y vẫn không thể gieo sự ngờ vực hắc ám vào lòng tôi đối với người bạn Đạo và người hướng dẫn tôi đi xuyên qua những ngõ ngách bí hiểm của khoa Huyền Môn. Sau đó, tôi có kể lại sự vệc này cho bà HPB nghe! Bà mỉm cười nói rằng tôi đã vượt qua cuộc thử thách sơ đẳng đó một cách tốt đẹp, và viết vài chữ cho Signor B. khuyên ông ta hãy “ quên đường đưa đến nhà bà”.
o-sX=v?rnd\tặc lừng danh khi xưa tên là Sir H. Morgan, và bà chỉ trợ giúp y với tư cách là một người trung gian hay phụ tá, bà HPB đã làm nhiều hiện tượng chứng tỏ là bà có một bản lĩnh cao cường về ngành Phương Thuật (Magic ).
Tôi xin kể một thí dụ, đồng thời cũng nói thêm rằng những phát minh khoa học lớn lao thường bắt nguồn từ việc tình cờ nhận xét những sự việc rất đỗi thông thường, chẳng hạn như một trái táo rụng xuống đất giúp Newton khám phá Luật Hấp Dẫn (Gravitation ); và việc nhìn thấy cái nắp thiếc nhảy dựng trên cái ấm nước đang sôi[6]
Ngày nọ, nhận thấy trong nhà thiếu khăn mặt để dùng, tôi mua vài cái khăn lớn đem về, và cắt ra làm độ một chục chiếc khăn nhỏ. Khi thấy bà HPB định lấy ra dùng ngay mà không chịu viền các cạnh khăn lại cẩn thận, tôi mới phản đối lối sống thiếu ngăn nắp đó, và bà liền lấy kim chỉ ra may. Bà chưa kịp bắt đầu bỗng nhiên bà đá một cái dưới gậm bàn và nói với một giọng giận dữ:
“Đồ láo, đi ra!”
Tôi hỏi:
“Cái gì vậy?”
Bà đáp:
“Có gì đâu! Chỉ có một tinh linh nó kéo vạt áo tôi và muốn có một việc gì làm!”
Tôi nói:
“À, hay quá! Sẵn đây, bà hãy đưa khăn cho nó may. Bà cần gì phải làm cho nhọc, vả lại bà cũng chẳng khéo tay gì cho lắm về đường kim mũi chỉ?”
Bà cười và mắng tôi chê bà may dở, nhưng cũng chưa chịu làm theo sự thỉnh cầu của kẻ khuất mặt ở dưới gậm bàn, sẵn sàng trợ giúp một tay nếu có dịp. Sau cùng, nghe lời thuyết phục của tôi, bà bảo tôi hãy để khăn mặt và kim chỉ trong một cái tủ kiếng có khóa, và che màn lụa xanh ở phía tường bên kia. Tôi làm theo và trở lại tiếp tục ngồi nói chuyện với bà về đề tài lý thú duy nhất và bất tận của chúng tôi, là vấn đề khoa học huyền bí. Sau độ mười lăm hay hai mươi phút, tôi nghe một tiếng động nhỏ giống như tiếng chuột kêu ở dưới gậm bàn, khi đó bà HPB cho tôi biết rằng “nó” đã viền xong mấy cái khăn. Tôi bèn lại mở tủ và thấy mười hai cái khăn mặt đã viền xong, tuy rằng hơi vụng về, giống như của trẻ em mới tập may trong các lớp may nhi đồng. Thế là mấy cái khăn mặt đã được viền bìa thật sự không thể nghi ngờ, trong cái tủ đã khóa kín mà bà HPB không hề bén mảng đến gần trong suốt thời gian đó. Lúc ấy, vào độ bốn giờ chiều, giữa ánh sang ban ngày. Chúng tôi chỉ có hai người trong phòng, không có người nào khác bước vào cho đến khi mọi việc đã xong.
Có lần trong khi chúng tôi đang ngồi nói chuyện ở phòng khách, bà HPB thình lình biến mất. Tôi đã từng trải nhiều kinh nghiệm về các hiện tượng huyền linh, nhưng việc này làm tôi ngạc nhiên và lo lắng. Sau khi đi lục soát khắp trong nhà mà không thấy gì, tôi trở lại phòng khách châm ống điếu hút thuốc, và thử tìm hiểu điều bí mật này. Hồi đó là năm 1875, tức là nhiều năm trước khi khoa thôi miên được thí nghiệm và phổ biến, cho nên tôi không hề biết rằng lúc ấy tôi chỉ là một đối tượng thụ cảm, và bà HPB chỉ có làm che lấp thị giác của tôi để tôi không nhìn thấy bà trong khi bà vẫn có mặt tại chỗ.
Một lúc sau bà xuất hiện trở lại nơi phòng khách, tôi mới hỏi nãy giờ bà đi đâu, thí bà cười và nói rằng vì bà có việc phải làm về phần “ vô vi ” nên bà đã tàng hình trong chốc lát. Nhưng bà tàng hình bằng cách nào thì bà không nói. Bà cũng làm phép thuật đó trước mặt tôi và những người khác nhiều lần nữa, trước và sau khi chúng tôi đi sang Ấn Độ, nhưng tất cả những lần đó đều xảy ra nhiều năm trước khi tôi được biết gì về khoa thôi miên, vốn là cái đáp số dễ dàng của thuật tàng hình. Như tôi đã có lần giải thích, thuật thôi miên của Đông Phương còn cao tay ấn hơn nhiều so với Tây Phương, vì trong trường hợp này, sự dẫn dụ để che lấp giác quan của người thụ cảm được thực hiện bằng tư tưởng trong âm thầm, chứ không phải truyền lệnh bằng giọng nói có âm thanh. Người thụ cảm không được cảnh giác để chống lại sự dẫn dụ, và sự việc xảy ra tự nhiên trong khi y không hay biết gì cả.
Bà HPB còn biểu diễn nhiều hiện tượng thần thông lạ lùng khác nữa. Tôi chỉ thuật lại vài sự việc đáng kể, nó làm thỏa mãn lý trí và óc phê bình của tôi về sự thật của khoa huyền thuật Đông Phương. Đó là thời kỳ mà tôi được biết bà HPB như một bạn đồng môn, mối liên hệ giữa bà với tôi được thiết lập trên một cương vị hoàn toàn bình đẳng và mật thiết. Nhờ đó, tôi mới có thể nhận xét bà như một người thường, trước khi bà được các bạn Đạo suy tôn gần như thần thánh, những người này không được biết gì về những sở trường, sở đoản và tính chất rất cận nhân tính của bà.
Như tôi sẽ trình bày một cách trung thực, cái hình ảnh lý tưởng đã phai mờ của tác giả các bộ sách “Vén Màn Isis” và “Giáo Lý Bí Truyền” sẽ là hình ảnh của một người bằng xương bằng thịt; một người phụ nữ thật sự tuy rằng trội hẳn về phần nam tính, sống bình thường như mọi người khi thức tỉnh, nhưng lại đi vào một thế giới khác và giao tiếp với những nhân vật cao cả hơn trong giấc ngủ hay trong khi xử dụng nhãn quang siêu phàm; một cá tính đặc biệt ngự trong một xác thân phụ nữ yếu đuối, “trong đó… một cơn giông tố luôn luôn gầm thét hầu như bất cứ lúc nào,” theo lời của một vị Chân Sư miêu tả tình trạng tâm linh và khí chất của bà. Một khí chất thật bất thường, biến đổi, đa hình đa dạng, nóng nảy, ồ ạt như giông bão, nó đòi hỏi ở kẻ đối tượng một sự nhịn nhục và tự chủ đến mức độ anh hùng nếu họ muốn sống chung và cộng tác với bà trên một tinh thần vô kỷ vị tha.
Dù rằng thế nào, người ta không thể quên bản lĩnh phương thuật cao cường và những phép thuật thần thông mà bà đã thực hiện, những bằng chứng dồn dập mà bà đã cho thấy về sự hiện diện của các đấng Chân Sư mà bà tuyệt đối phục tùng đến mức bà cảm thấy không xứng đáng để lau bụi trên bàn chân của các ngài, và công trình phụng sự hiến dâng khi mà người phụ nữ ngáo ngổ và ngang tàng ấy trở thành một bậc đạo sư phổ biến đạo lý cho đời và một nhà tiền phong cầm đuốc soi đường cho người tầm Đạo. Tất cả những điều đó, và những bộ sách Đạo mà bà để lại cho hậu thế, càng kết hợp để chứng minh tính chất vĩ đại của bà và làm cho tính khí ngang ngạnh bất thường của bà được xóa nhòa trong quên lãng, thậm chí bởi những người đã từng bị những điều ấy làm cho điêu đứng khổ sở nhiều nhất về phương diện tinh thần.
Bằng cách vạch rõ con đường Đạo cho hậu thế, bà đặt tất cả chúng ta dưới một gánh nặng nghĩa vụ đến mức người ta không thể có cảm nghĩ nào khác hơn là một sự biết ơn sâu xa đối với bà.
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top